VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ THANH HUYỀN

TẢN VĂN VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XXI TỪ GÓC NHÌN THỂ LOẠI

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC

HÀ NỘI – 2020

VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ THANH HUYỀN

TẢN VĂN VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XXI TỪ GÓC NHÌN THỂ LOẠI

Ngành: Văn học Việt Nam

Mã số: 9 22 01 21

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC

Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS Nguyễn Thị Bích Thu

2. PGS.TS Lê Trà My

HÀ NỘI – 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận án là công trình nghiên cứu khoa học của riêng

tôi. Các kết quả nêu trong Luận án chưa được công bố trong bất kỳ công trình

khoa học nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận án đảm bảo tính

chính xác, nghiêm túc, tin cậy và trung thực.

Tác giả luận án

Nguyễn Thị Thanh Huyền

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

Chương 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU .............................................................. 7

1.1. Quan niệm về tản văn hiện đại ......................................................................... 7

1.1.1. Vấn đề thuật ngữ và bản chất thể loại tản văn ....................................... 7

1.1.2. Tản văn là một thể loại của văn xuôi hiện đại Việt Nam ..................... 12

1.1.3. Diễn trình tản văn hiện đại Việt Nam ................................................. 18

1.2. Tình hình nghiên cứu ....................................................................................... 25

1.2.1 Các công trình nghiên cứu lý thuyết tản văn ......................................... 25

1.2.2 Các công trình nghiên cứu tác giả, sáng tác tản văn Việt Nam hiện đại ..... 33

Chương 2: TẢN VĂN VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XXI TRONG DÒNG

CHẢY TẢN VĂN HIỆN ĐẠI ................................................................................ 40

2.1 Sự nở rộ của tản văn Việt Nam đầu thế kỷ XXI ............................................ 40

2.1.1 Môi trường sinh thái văn hóa – tiền đề cho sự phát triển mạnh mẽ

của tản văn Việt Nam đầu thế kỷ XXI ........................................................... 40

2.1.2 Sự thích ứng của tản văn trong môi trường sinh thái văn hóa đầu thế

kỷ XXI ............................................................................................................ 42

2.1.3 Tản văn mạng- bộ phận không tách rời của tản văn Việt Nam đầu thế

kỷ XXI ............................................................................................................ 45

2.2 Diện mạo chung của tản văn Việt Nam đầu thế kỷ XXI ............................... 47

2.2.1 Đội ngũ sáng tác .................................................................................... 47

2.2.2 Số lượng sáng tác .................................................................................. 49

2.2.3 Một số cây bút tiêu biểu ........................................................................ 51

2.3 Sự kế thừa và cách tân của tản văn Việt Nam đầu thế kỷ XXI .................... 70

2.3.1 Sự kế thừa .............................................................................................. 70

2.3.2 Những cách tân ...................................................................................... 73

Chương 3: HỆ CHỦ ĐỀ TRONG TẢN VĂN VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XXI ... 79

3.1 Tản văn về cảnh sắc vùng miền ....................................................................... 79

3.1.1 Cảnh sắc chốn làng quê ......................................................................... 79

3.1.2 Cảnh sắc nơi thành thị ........................................................................... 85

3.2 Tản văn về văn hóa, phong tục ........................................................................ 90

3.2.1 Phong tục, truyền thống ........................................................................ 90

3.2.2 Văn hóa tâm linh, tín ngưỡng ................................................................ 94

3.2.3 Tập tục, sinh hoạt .................................................................................. 96

3.3 Tản văn thế sự ................................................................................................. 101

3.3.1 Văn hóa ứng xử ................................................................................... 101

3.3.2 Các vấn đề cập nhật của đời sống đương đại ...................................... 105

3.4 Tản văn chân dung .......................................................................................... 109

3.4.1 Chân dung nghệ sĩ, danh nhân ............................................................ 109

3.4.2 Chân dung “những người sống quanh ta” ........................................... 113

Chương 4: NGUYÊN TẮC GIAO TIẾP VÀ PHƯƠNG THỨC BIỂU HIỆN

CỦA TẢN VĂN VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XXI ............................................. 119

4.1 Nguyên tắc giao tiếp ........................................................................................ 119

4.1.1 Nguyên tắc đối thoại những vấn đề của đời sống ............................... 119

4.1.2 Chiến lược khơi gợi ............................................................................. 127

4.2 Phương thức thể hiện ...................................................................................... 133

4.2.1 Đa dạng hóa ngôn ngữ ........................................................................ 133

4.2.2 Đa dạng hóa giọng điệu ....................................................................... 142

4.2.3 Đa dạng hóa phương thức thể hiện ..................................................... 148

KẾT LUẬN ............................................................................................................ 158

DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐƯỢC CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN

QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ........................................................................................ 161

TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 162

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Trong hai thập kỷ đầu thế kỷ XXI, tản văn Việt Nam là thể loại “bùng nổ” ở

nhiều phương diện. Nhìn vào thực tế thị trường phát hành sách, lượng tiêu thụ của

độc giả, sự phát triển đa dạng ở lực lượng sáng tác, sự thu hút giới nghiên cứu phê

bình … có thể nói tản văn đã và đang phát triển dồi dào, phong phú. Sự phát triển

đó đã và đang tích cực góp phần làm nên diện mạo mới của văn học Việt Nam hiện

đại. Trong bối cảnh truyền thông phát triển, tản văn được đại đa số người đọc ưa

thích, thỏa mãn nhu cầu đọc trong điều kiện quỹ thời gian hạn hẹp. Độc giả chọn

tản văn bởi đó là thể loại văn học có dung lượng ngắn, cấu tứ độc đáo, thể hiện sắc

nét cá tính người viết, nội dung tác phẩm thường bắt đầu từ sự giản dị đời thường để

dẫn tới tiếp cận trực diện các vấn đề của đời sống xã hội. Sự “bùng nổ” của thể tản

văn không chỉ thể hiện qua những cảm quan chung về người đọc và người viết, hiện

tượng này được định lượng thuyết phục hơn qua những con số được chia sẻ của các

đơn vị xuất bản sách (nhà xuất bản Trẻ, Phụ nữ, Văn học, Nhã Nam, Quảng Văn,

Liên Việt, Kim Đồng…), các đơn vị kinh doanh sách (Nhã Nam, Tiki Trading,

Vietbooks, Alpha Books, Fahasa, Phương Đông books, Gold Books…). Trong khi

sự phát triển nhanh về số lượng gợi lên sự hoài nghi về chất lượng thì thể loại tản

văn đầu thế kỷ XXI đã thuyết phục bạn đọc bằng sức hấp dẫn riêng và bắt đầu được

ghi nhận bằng những giải thưởng có uy tín của đời sống văn học trong nước (tác

phẩm của nhà văn Đỗ Chu, Nguyễn Việt Hà), thậm chí có cuộc thi sáng tác tản văn

(Chill Books với Hành trình xanh lam - Thử tài viết tản văn)…

Xuất phát từ thực tiễn đời sống văn học nói chung, thực tiễn phát triển thể

loại tản văn nói riêng, chúng tôi nhận thấy cần có một nghiên cứu hệ thống, khái

quát, chuyên sâu về tản văn nhằm đáp ứng một số đòi hỏi cấp thiết về góc độ văn

học sử, lý thuyết thể loại, tư liệu bổ trợ trong giáo dục.

Trước hết, nghiên cứu về tản văn Việt Nam đầu thế kỷ XXI nhằm cập nhật,

mô tả văn học sử. Mặc dù có lúc bị lấn lướt bởi những thể loại khác nhưng tản văn

đã song hành cùng các thể loại văn học đương đại, góp phần tạo nên diện mạo văn

học Việt Nam hiện đại. Tuy nhiên, việc nghiên cứu chưa cập nhật tốc độ phát triển

1

của thể loại tản văn. Một loạt các tuyển tập tản văn Việt Nam ra đời trong hai thập

kỷ đầu của thế kỷ XXI được bạn đọc nhiệt tình đón nhận. Sự “nở rộ” các đầu sách

tản văn kéo theo sự “nở rộ” các bài viết về thể loại, song những bài viết chỉ dừng lại

ở lời giới thiệu sách, thể hiện cảm nhận chủ quan về một tác giả hay đánh giá nội

dung, nghệ thuật một đầu sách mới xuất bản. Một trong những mục đích của luận án

là nghiên cứu khái quát tản văn Việt Nam đầu thế kỷ XXI, cập nhật sự chuyển biến

của tản văn khi đặt nó trong diễn trình thể loại. Xác định các đặc điểm nổi bật dựa

vào kết quả khảo sát, luận án sẽ bước đầu tổng kết về một giai đoạn phát triển của

thể loại tản văn Việt Nam hiện đại.

Bên cạnh đó, việc nghiên cứu thể loại tản văn ở hai thập kỷ đầu thế kỷ XXI còn

có ý nghĩa quan trọng trong việc bổ sung, phát triển lý thuyết thể loại. Thực tế sáng tác

cho thấy bản thân thể loại tản văn vẫn luôn vận động, biến đổi. Dựa trên thực tiễn tản

văn đầu thế kỉ XXI, có thể khái quát những biến động thể loại, mô tả tính chất thể loại

trong thời điểm đương đại, bổ sung cách nhìn về đặc trưng thể loại.

Thêm nữa, một nghiên cứu chuyên sâu về thể loại văn học sẽ góp phần bổ trợ

tư liệu cho giảng viên khối Cao đẳng, Đại học. Đặc biệt, lý thuyết về thể loại tản

văn Việt Nam hiện đại có ý nghĩa thiết thực với giáo viên giảng dạy Ngữ văn khối

phổ thông. Trong chương trình Ngữ văn phổ thông, xu hướng dạy tác phẩm theo

đặc trưng thể loại đòi hỏi giáo viên phải nắm vững lí thuyết thể loại, đồng thời hình

dung được sự vận động của thể loại trong lịch sử văn học.

Với những lý do căn bản nêu trên, chúng tôi chọn “Tản văn Việt Nam đầu

thế kỷ XXI từ góc nhìn thể loại” làm đề tài nghiên cứu cho luận án. Luận án mong

muốn sẽ góp phần nghiên cứu một giai đoạn phát triển của một thể loại văn học

đang càng ngày càng chứng tỏ được vị trí quan trọng trong đời sống văn học nghệ

thuật dân tộc đầu thế kỷ XXI.

2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

Thực hiện đề tài này, chúng tôi đặt ra mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu sau:

2.1 Mục đích nghiên cứu

Luận án nghiên cứu tản văn Việt Nam đầu thế kỷ XXI từ đặc trưng thể loại;

khảo sát các sáng tác nổi bật trong hai mươi năm đầu thế kỷ XXI nhằm khẳng định

2

sức sống và sự sinh tồn của thể loại tản văn trong bối cảnh đương đại. Từ đó, luận

án có cái nhìn đầy đủ và bao quát về đóng góp của thể loại tản văn đối với nền văn

xuôi Việt Nam hiện đại.

2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu

Đề tài thực hiện nhiệm vụ khái quát tình hình nghiên cứu (chủ yếu là các

nghiên cứu trong nước) về thể loại tản văn nói chung, tản văn Việt Nam đầu thế kỷ

XXI nói riêng; xác định quan niệm về thể loại nhằm hình thành các tiêu chí lựa

chọn tác giả, tác phẩm phục vụ khảo sát, nghiên cứu; khái quát diễn trình tản văn

hiện đại Việt Nam; nhận diện vị trí, đặc điểm của tản văn Việt Nam đầu thế kỷ XXI,

từ đó đánh giá sự kế thừa và những cách tân của tản văn Việt Nam ở chặng đường

này; khảo sát tác phẩm, tác giả được chọn để thấy các đặc điểm nổi bật về nội dung

và nghệ thuật, làm nên sắc diện riêng của tản văn Việt Nam trong hai thập niên đầu

thế kỷ XXI.

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

3.1 Đối tượng nghiên cứu

Luận án nghiên cứu tản văn Việt Nam những năm đầu thế kỷ XXI từ góc

nhìn thể loại, xem xét cấu trúc thể loại, sự biểu hiện cấu trúc thể loại qua thực tiễn

sáng tác, những nguyên tắc thiết lập diễn ngôn thể loại trong bối cảnh đương đại.

3.2 Phạm vi nghiên cứu

Luận án chọn khảo sát 462 tác giả cá nhân với 163 đầu sách. Trong 462 nhà

văn viết tản văn được chọn khảo sát, có những cây bút đã thành danh từ thế kỷ XX,

tới nay họ vẫn tiếp tục sáng tác (Băng Sơn, Nguyễn Quang Lập, Y Phương, Cao

Huy Thuần, Nguyễn Quang Thiều, Phan Vàng Anh, Hoàng Việt Hằng, Nguyễn

Nhật Ánh, Lê Giang, Dạ Ngân ...); có những cây bút nổi danh trên văn đàn đầu thế

kỷ XXI và được độc giả biết tới bởi sáng tác tản văn hấp dẫn, được tái bản nhiều lần

(Mai Lâm, Đỗ Phấn, Nguyễn Trương Quý, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy...); có

các cây bút mới đem tới sức sống tươi trẻ cho thể loại (Uông Triều, Mạc Thụy,

Ubee Hoàng, Anh Khang, Hamlet Trương, Iris Cao, Phan Ý Yên, Gào, Minh Nhật,

Phan Ngọc Thạch, Hạ Vũ, Dung Keil…). Không chỉ các tác giả, tác phẩm trong

nước, luận án còn chọn khảo sát một số tác phẩm của các tác giả người Việt Nam

3

hiện đang sinh sống tại nước ngoài (Cao Huy Thuần, Thái Kim Lan, Mai Lâm, Lê

Minh Hà, Hoàng Hồng – Minh v.v...).

Trong bối cảnh số lượng tản văn ra đời theo phương thức xuất bản truyền

thống hoặc đến với bạn đọc bằng con đường mạng internet tăng lên từng ngày, việc

lựa chọn ngữ liệu không đơn giản. Luận án đã căn cứ đặc trưng thể loại (dung

lượng, cấu tứ, cá tính tác giả, đề tài...) và những dấu hiệu về chất lượng nghệ thuật

(phản ứng của độc giả, giải thưởng, được quan tâm như một hiện tượng, lượt tái

bản...) nhằm xây dựng tiêu chí lựa chọn tác phẩm khảo sát.

Về nguồn tác phẩm, 163 tập tản văn được đưa vào khảo sát đều là văn bản in,

trong số đó, có một số tản văn được giới thiệu trên mạng internet trước khi tập hợp

để xuất bản dưới dạng sách in (Bạn văn của Nguyễn Quang Lập, Tạp văn của Phan

Vàng Anh, các tập tnar văn của Trang Hạ, một số bài viết của Nguyễn Quang

Thiều, Đinh Vũ Hoàng Nguyên v.v...). Có một số ít các trích dẫn được lấy từ các

bài tản văn đăng tải trên trang mạng cá nhân (trang cá nhân của nhà văn Nguyễn

Quang Lập, nhà thơ Nguyễn Bảo Sinh, tác giả Chu Văn Sơn...). Quá trình xây dựng

tổng quan nghiên cứu các sáng tác tản văn đầu thế kỷ XXI, luận án có mở rộng liên

hệ, so sánh với các thể ký khi cần thiết.

4. Phương pháp nghiên cứu

Luận án nghiên cứu tản văn từ góc độ lý thuyết thể loại, làm rõ các đặc trưng

thể loại thông qua các sáng tác tản văn Việt Nam những thập niên đầu của thế kỷ

XXI. Trên tinh thần đó, luận án sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau:

- Phương pháp lịch sử:

Vận dụng phương pháp nghiên cứu này, luận án có thể mô tả diễn trình tản

văn. Đó là sự vận động, những đặc điểm riêng của tản văn ở mỗi giai đoạn trong

dòng lịch sử. Đồng thời, cái nhìn xuyên suốt về thể loại là điều kiện để luận án xác

định những quy luật đặc thù của thể loại tản văn.

- Phương pháp loại hình học:

Phương pháp loại hình được sử dụng với mục đích xác định, khái quát những

đặc điểm chung về thể loại của tản văn; chứng minh rằng tản văn đã xuất hiện, tồn tại

với đầy đủ đặc điểm cần có của một thể loại ở thế kỷ XX và tiếp tục phát triển trong

4

lịch sử văn học đầu thế kỷ XXI. Phương pháp loại hình còn được sử dụng để lựa chọn

và phân loại các nhóm tản văn có nét tương đồng cao từ vấn đề cấu trúc tới nội dung,

từ đó xác định một số chủ đề được tản văn đầu thế kỷ XXI quan tâm khai thác.

- Phương pháp hệ thống

Luận án sử dụng phương pháp hệ thống nhằm nghiên cứu bản thân thể loại

tản văn như một hệ thống gồm các loại hình có mối liên hệ nội tại; đặt tản văn trong

hệ thống thể loại văn học Việt Nam hiện đại nhằm nhận diện các đặc trưng của tản

văn, đặc biệt là tản văn Việt Nam đầu thế kỷ XXI; xem xét vai trò của thể loại tản

văn khi đặt nó trong hệ thống giá trị văn hóa – xã hội nhằm đánh giá vị trí, số phận

của thể loại trong đời sống xã hội.

- Phương pháp so sánh, đối chiếu

So sánh, đối chiếu là phương pháp xuyên suốt luận án, nhằm nhận diện mối

liên hệ giữa các đặc điểm của tản văn khi xem xét nó với tư cách một thể loại văn

học gồm hệ thống các đặc điểm riêng. Cách nhìn nhận khái quát, có sự đối chiếu sẽ

dễ dàng chỉ ra sự thay đổi của thể loại trong mỗi chặng đường phát triển, trong đó

có những yếu tố ổn định và những yếu tố biến đổi của thể loại tản văn trong hai thập

kỷ đầu thế kỷ XXI. Bên cạnh đó, việc đối chiếu, so sánh tản văn với các thể văn gần

gũi còn làm nổi bật những đặc điểm cơ bản của thể loại, từ đó có sự định danh, định

tính chính xác cho thể loại vốn chưa tìm được sự thống nhất trong quan niệm.

- Phương pháp nghiên cứu liên ngành:

Đây là phương pháp giúp luận án tiếp cận đối tượng tản văn Việt Nam bằng

nhiều cách thức. Trong quá trình khảo sát các sáng tác tản văn đầu thế kỷ XXI,

chúng tôi nhận thấy một số vấn đề nổi bật về phương diện nội dung gần gũi với văn

hóa, có thể quy về mã văn hóa hoặc tập hợp thành những biểu tượng văn hóa; một

số đặc điểm nghệ thuật có thể cắt nghĩa dựa trên lý thuyết diễn ngôn hoặc những lý

thuyết mới (phê bình sinh thái, văn hóa truyền thông…).

5. Đóng góp của luận án

Luận án là công trình khoa học chuyên biệt đầu tiên nghiên cứu tản văn

những năm đầu thế kỷ XXI từ góc nhìn thể loại, trong sự vận động và tiếp biến.

5

Tổng quan tình hình nghiên cứu tản văn và xác định quan niệm về thể loại,

luận án đã cho thấy sự phát triển của tản văn Việt Nam đầu thế kỷ XXI ở các bình

diện tác giả và tác phẩm.

Luận án đã khẳng định thành tựu của thể loại tản văn Việt Nam nhìn từ hệ

chủ đề cùng các nguyên tắc giao tiếp và phương thức biểu hiện.

Luận án cũng đã khẳng định vị trí và đóng góp đáng kể của tản văn Việt

Nam đầu thế kỷ XXI trong đời sống thể loại nói riêng và đời sống văn học Việt

Nam đương đại nói chung.

Bên cạnh đó, việc nghiên cứu đề tài còn mở ra hướng nghiên cứu thể loại tản

văn Việt Nam trong các chặng đường kế tiếp.

6. Cấu trúc luận án

Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận án được sắp xếp thành bốn chương:

Chương 1. Tổng quan nghiên cứu

Chương 2. Tản văn Việt Nam đầu thế kỷ XXI trong dòng chảy tản văn Việt

Nam hiện đại.

Chương 3. Hệ chủ đề trong tản văn Việt Nam đầu thế kỷ XXI.

Chương 4. Nguyên tắc giao tiếp và phương thức biểu hiện của tản văn Việt

Nam đầu thế kỷ XXI.

6

Chương 1

TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU

1.1. Quan niệm về tản văn hiện đại

Cho đến nay, cả trên phương diện lý thuyết lẫn thực tiễn sáng tác, khái niệm tản

văn vẫn là một vấn đề phức tạp bởi những quan niệm khác nhau chưa dẫn tới sự thống

nhất sau cùng. Do đó, rất cần một sự giới thuyết về thể loại và xác lập lý thuyết.

Trong thực tiễn sáng tác, cách định danh trên các ấn phẩm hiện hành cũng

thiếu sự đồng nhất: Nhà văn Nguyễn Khải gọi là tạp văn; nhà văn Mạc Can,

Nguyễn Quang Lập gọi là tạp bút; nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Tuân

xem đó là nhàn đàm, tùy bút; nhà thơ Y Phương, Nguyễn Quang Thiều đề tản văn;

một số cây bút khác như Bùi Minh Quốc, Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Việt Hà khi

dùng tạp văn, khi đề tản văn…

1.1.1. Vấn đề thuật ngữ và bản chất thể loại tản văn

Trong nghiên cứu văn học Việt Nam, sự phức tạp trong định danh thể loại tản

văn đồng thời với sự phức tạp trong việc xây dựng một khái niệm về nó. Trước khi

được các nhà nghiên cứu ghi nhận như một thể văn học độc lập, khái niệm tản văn

được nhìn nhận theo ba cấp độ: tản văn theo nghĩa là văn xuôi; tản văn theo nghĩa là

những thể loại ngoài truyện, thơ, kịch và tản văn theo nghĩa là một thể loại văn học.

Đầu thế kỷ XX, tản văn vẫn được hiểu theo nghĩa là “văn xuôi”. Hầu như tất

cả các thể loại văn xuôi đều được gọi chung là “tản văn” để phân biệt với “văn vần”

(vận văn), gồm “những bài không cần phải vần, không cần phải đối nhau, cứ ý mình

thế nào thì tả ra thôi” [6/tr79]. Theo ý kiến của tác giả Bùi Kỷ, trong cuốn Quốc văn cụ

thể, ông cho rằng tản văn không chỉ là “lối văn không đối nhau và không có vần”

[22/tr118] mà tản văn còn là thể loại lớn bao gồm tựa, truyện, kí, bi, luận. Quan niệm

tản văn đồng nhất với văn xuôi cũng được thể hiện trong Văn tâm điêu long, tác giả

Lưu Hiệp chia toàn bộ thư tịch thành “văn” và “bút”, trong đó văn là “vận văn” (văn

vần), còn bút là tản văn (văn xuôi). So sánh với một số định nghĩa về tản văn sau này,

quan niệm của Lưu Hiệp gần với những đặc trưng của tản văn hiện đại. Tuy nhiên, tản

văn được dùng theo nghĩa chỉ văn xuôi nói chung không còn thông dụng, nó được xếp

vào nhóm nghĩa cổ, ít dùng do cách hiểu đó không đúng với thực tế sáng tác.

7

Bên cạnh cách hiểu tản văn là văn xuôi nói chung, ở một số từ điển đưa ra

cách hiểu tản văn là tập hợp các thể loại ngoài truyện, thơ, kịch. Bộ Đại từ điển

tiếng Việt phát hành năm 2011 tách thể tản văn khỏi truyện và dần nghiêng về phía

xác định tản văn như một thể loại đứng bên cạnh những thể loại lớn khác. Quan

niệm này ảnh hưởng từ việc văn học Trung Quốc chia tản văn thành hai loại: Tản

văn truyền thống (những sáng tác văn xuôi, là văn học chính tông xếp ngang hàng

với thơ từ) và tản văn hiện đại (một thể tài văn học cùng với thơ ca, tiểu thuyết,

kịch, bao gồm các hình thức văn kể chuyện, văn trữ tình, phóng sự, tạp văn…)

[50/tr106]. Tóm lại, mặc dù không đánh đồng tản văn với văn xuôi nói chung nhưng

cấp độ thứ hai của quan niệm về tản văn cũng bộc lộ hạn chế cơ bản: chưa chỉ ra

được những đặc trưng của thể loại, mới dừng lại ở việc nhìn nhận khái quát theo

phương pháp loại trừ để thấy tản văn gồm những thể loại không thuộc truyện, thơ,

kịch. Tuy nhiên quan niệm này lại ngầm công nhận tản văn tồn tại như một thể loại

lớn - ngang hàng với những thể loại có bề dày lịch sử trong văn học nói chung.

Như vậy, văn học Trung Quốc nhìn nhận “tản văn” với ý nghĩa bao quát

nhiều thể loại: ban đầu nó được dùng để chỉ “văn xuôi” nói chung, về sau, khái

niệm thể loại biến đổi theo hướng thu hẹp dần nội hàm, “tản văn” được hiểu là

những thể loại ngoài truyện, thơ, kịch (các thể văn xuôi còn lại như tùy bút, bút ký,

phóng sự, tạp văn… gọi chung là tản văn). Ở Việt Nam, Từ điển thuật ngữ văn học

cũng cho rằng: “trong nghĩa hẹp (tản văn) chỉ các tác phẩm văn phân biệt với kịch,

thơ”; trong văn xuôi “bao gồm một phạm vi rộng từ tiểu thuyết, truyện vừa, truyện

ngắn, ký, tiểu phẩm chính luận thì tản văn chỉ phạm vi văn xuôi hẹp hơn, không bao

gồm các loại truyện hư cấu như tiểu thuyết, truyện ngắn” [2/tr294], quan niệm này

vừa dùng phương pháp loại trừ để khu biệt tản văn với những thể loại có đầy đủ đặc

trưng cơ bản (kịch, thơ) vừa lấy tiêu chí hiện thực để phân loại nó với các thể loại

của văn xuôi.

Khi xếp tản văn vào văn xuôi nhưng là thể loại văn xuôi “không bao gồm các

loại truyện hư cấu”, có nghĩa tản văn cũng là những tác phẩm chứa đựng yếu tố

chân thực, vậy tản văn có mối quan hệ thế nào với thể ký? – một thể loại văn xuôi

có sự giao thoa giữa văn học với khu vực cận văn học (báo chí, chính luận, ghi chép

8

tư liệu…). Xem tản văn như một thể loại văn học nhưng trong văn học Việt Nam

từng có hai xu hướng quan niệm: một mặt cho rằng tản văn chỉ là một phụ lưu của

ký; mặt khác cho rằng tản văn bao hàm ký.

Về quan niệm tản văn nằm trong ký, tác giả Nguyễn Đăng Na xác định rõ về

mặt từ nguyên trong công trình giới thiệu về thể ký. Ông cho rằng, thoạt đầu ký

thuộc động từ, mang nghĩa là ghi chép. Khi được danh từ hóa, ký chỉ chính “những

sản phẩm ghi chép đó”. Nếu hiểu những văn bản được ghi chép ra là sản phẩm sau

cùng của ký thì “ký bao gồm trong nó rất nhiều loại hình ghi chép, từ thường thức

đến chức năng, khoa học rồi văn chương nghệ thuật…” [16/tr7]. Ký mang những

đặc tính cụ thể khi xét từ các phương diện. Về biểu hiện hình thức “những tác phẩm

thuộc thể ký thường mang hai yếu tố là người ghi chép và cái được ghi chép. Như

vậy, đã là ký thì phải mang dấu ấn trực tiếp của cái tôi và sự kiện can dự đến cái tôi

ấy” [16/tr7]. Trong ký, cái tôi chỉ hiện diện khi ghi chép sự kiện. Còn ở tản văn, tạp

văn hay tùy bút, cái tôi của nhà văn được thể hiện một cách tự do hơn. Điều đó lý

giải một thực tế, so với ký, tản văn thường giàu chất thơ hơn.

Ký xuất hiện sớm trong lịch sử thể loại văn học dân tộc. Trong thời kỳ văn học

trung đại, ký thực hiện nhiệm vụ ghi chép mọi phương diện đời sống. Lam Sơn thực

lục, Trung Hưng thực lục, Thượng kinh ký sự (Lê Hữu Trác viết lời tựa) đều cho

thấy ký là ghi chép sự thực mắt thấy tai nghe, mục đích là để răn dạy, nêu gương,

giáo hóa. Nhưng “thực chất, thời kỳ trung đại, người ta mới chỉ có ý thức phân loại

các thể loại chứ không phải khảo cứu lịch sử các thể loại nên những quan điểm bàn

về ranh giới phân định thể loại mang tính chủ quan, tiên nghiệm” [47/tr88]. Phải tới

đầu thế kỷ XX, ký mới được quan tâm phân loại một cách có ý thức, chia thành hai

hướng: hoặc kế thừa những hình thức ký đã có trong văn học truyền thống (ký sự nhân

vật, ký sự lịch sử) hoặc vẫn duy trì một số hình thức luận bàn (tản văn, tùy bút…). Về

cơ bản, tản văn hay tạp văn, tạp bút mang những yếu tố đặc trưng của thể ký, đó là một

thể loại cơ động, linh hoạt, nhạy bén trong việc phản ánh hiện thực ở cái thế trực tiếp

nhất, ở những nét sinh động và tươi mới nhất. Điểm đặc thù của ký là tôn trọng tính xác

thực của người và việc trong tác phẩm, sự hư cấu không được sử dụng một cách tùy

tiện ảnh hưởng đến tính xác thực của nội dung mà trái lại phải làm tăng thêm ý nghĩa

9

xã hội và giá trị nghệ thuật cho tác phẩm. Như thế tản văn sinh thành từ ký, tản văn là

một phụ lưu của ký được xem là quan điểm logic.

Khi nghiên cứu về đặc trưng của thể loại ký, tác giả Nguyễn Thị Ngọc Minh

đã làm công việc khảo sát tư liệu trên phạm vi rộng: Văn học trung đại (ký, lục, chí

tạp ký, ký sự), văn học Trung Quốc (văn học báo cáo, tạp văn, tản văn), văn học tư

liệu của Liên Xô (phóng sự, bút ký, tùy bút, nhật ký, hồi ký, du ký, truyện ký...).

Phạm vi khảo sát cho thấy quan điểm ký là “gốc” lớn của nhiều tiểu loại, trong đó

có tạp văn, tản văn hay tạp bút… Đặc biệt, tính chất ký cũng thể hiện rõ ở một loạt

tản văn xuất hiện vào đầu thế XXI, khi các tác giả là những cây bút trẻ nhưng không

né tránh phản ánh nhiều hiện tượng được cho là “nhạy cảm” của đời sống xã hội và

bộc lộ thẳng thắn quan điểm, tình cảm trước những hiện tượng đó. Sức hút của thể

văn này được tạo ra do bản lĩnh, lập trường người viết ký. Trước một hiện thực

phức tạp, đa chiều, người viết ký phải tỉnh táo để không nhầm lẫn bản chất và hiện

tượng, đồng thời cũng là người “đứng mũi chịu sào”, lên tiếng cho sự thực giữa

không ít sự bủa vây của định kiến, tiêu cực trong xã hội. Lập trường người viết ký

chính là sự mạnh dạn khẳng định bản lĩnh nhà văn trong thời đại mới, lập trường

dân chủ và bình đẳng đối thoại. Nhờ vậy, “từ một thể loại mang tính nghệ thuật, ký

đã bước sang các lĩnh vực ngoài văn học và tác động sâu sắc, tạo nên sự thức tỉnh

mạnh mẽ trong đời sống xã hội”[47/tr12]. Như vậy, giá trị thức tỉnh đời sống của ký

là một trong số những dấu hiệu chức năng để nhiều nhà nghiên cứu xếp tản văn

thuộc về thể loại này.

Tiêu biểu cho nhóm ý kiến tản văn là tiểu loại của ký, trong Năm bài giảng

về thể loại, nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến cho rằng tản văn là một tiểu loại ký

có một số đặc điểm như: ngắn gọn, hàm súc; tùy hứng của tác giả có thể bộc lộ trữ

tình hay nghị luận; lối thể hiện đời sống trong tản văn mang tính chất chấm phá;

chạm vào những hiện tượng được tái hiện ở những khía cạnh cốt yếu và bất ngờ; tất

cả những gì được thể hiện và biểu hiện trong bài tản văn đều mang đậm dấu ấn,

cách cảm nhận và cảm nghĩ rất riêng của tác. Thuật ngữ essay trong văn học

phương Tây nghiêng theo hướng này, nó được hiểu như một kết cấu văn học để nhà

văn thể hiện góc nhìn riêng của cá nhân về phương diện nào đó của một chủ đề;

10

essay thường ngắn gọn và thoải mái về phong cách, cho phép diễn tả phong phú và

triệt để những cảm nhận có liên quan đến cá nhân. Người viết essay nhằm biểu đạt

quan điểm, góc nhìn của cá nhân tác giả trước một vấn đề (chủ đề) nào đó, vấn đề

ấy xuất phát từ đời sống xã hội. Thực chất đó là sự kết hợp giữa nét riêng của tản

văn với tính chất ghi chép của thể ký nói chung. Theo đó, tạm hình dung essay là

một nhánh bắt ra từ ký.

Lý luận văn học Việt Nam hiện đại cũng cho rằng ký bao gồm cả phóng sự,

hồi ký, nhật ký, ký sự, tùy bút, tản văn, tạp bút… Như vậy, ký (nói chung) là thể loại

có tính co giãn, linh hoạt. Nguồn gốc ra đời của hình thức ký đa dạng, nó có thể là

kết quả của sự kết hợp giữa văn học và báo chí (phóng sự…); cũng có khi ký ra đời

do sự hợp lưu giữa văn học và chính luận xã hội (tạp văn, tạp bút, tản văn…). Dựa

vào phương thức biểu đạt, ký được xếp vào nhóm thiên về nghị luận hay thiên về

trữ tình hoặc tự sự… tất nhiên việc phân loại đó chỉ mang tính tương đối vì sự “xâm

nhập” thường xuyên của các tính chất, khó xác định đâu là hạt nhân cốt lõi của thể

loại. Việc nhìn nhận thể ký như trên cho thấy tản văn chỉ là một biến thể nhỏ trong

dãy dài nhiều thể cùng loại của ký nói chung.

Về quan điểm cho rằng tản văn là văn xuôi nói chung, bao hàm ký, giáo sư

Trần Đình Sử quan niệm “ký chỉ bao gồm phạm vi hẹp hơn tản văn”, nói cách khác,

ký là một kiểu/một cách ghi chép của tản văn. Các tản văn là những sáng tác văn

xuôi mang những đặc điểm của thế ký với ý nghĩa văn học thuần túy, chú trọng việc

ghi lại những gì đã trải qua, đã nghe thấy, cảm thấy, thể nghiệm liên tưởng của cái

tôi hoặc ghi lại những câu chuyện, những trạng thái cảnh vật hoặc trữ tình hoài

niệm; là loại tác phẩm văn học giàu tính trữ tình, rộng rãi về đề tài… Quan điểm

này xuất phát từ một số học giả Trung Quốc (Lưu Hiệp, Tiêu Thống, Phùng Văn

Mẫn, Tạ Sở Phát, Đàm Gia Kiện…), họ cho rằng thể tản văn có biên độ tương đối

rộng, nó bao gồm các sáng tác “ít bị câu thúc vào thể thức, có hình thức khá tự do

và đa dạng, có khả năng bộc lộ tư tưởng, tình cảm người viết một cách phong phú”

[16/tr11]. Vậy xét đến cùng, ngoài việc ghi chép đời sống thì điểm đến của ký chính

là bộc lộ tình cảm, tư tưởng của người viết. Khi “cấp” cho tản văn một nội hàm

rộng, không có những đặc tính cụ thể thì đương nhiên những thể văn xuôi khác dễ

trở thành “tập con” nằm trong nó.

11

Phạm Thành Hưng, tác giả bài viết Thuật ngữ báo chí – truyền thông cũng

cho rằng tản văn là thể loại lớn, gồm nhiều tiểu loại: “Thuật ngữ tản văn được hiểu

theo quan niệm của người Trung Quốc cận đại. Theo đó, tản văn là văn xuôi nghệ

thuật nói chung, bao gồm nhiều thể: tạp bút, tùy bút, tiểu phẩm, tiểu luận. Các tiểu

thể loại với những cách định danh khá ngẫu hứng, tự do (nhàn đàm, phiếm đàm,

thời đàm, phiếm luận, tạp trở, đoản văn) cũng được xếp vào phạm trù tản văn. Với

quan niệm này thì tản văn đã được hiểu trên một phạm vi rộng, nó là một thể loại

lớn mà trong đó bao gồm nhiều thể loại nhỏ (…)” [41/tr211]. Cách nhìn nhận tản

văn như vậy quay trở về sự đồng nhất tản văn với văn xuôi nói chung (nhằm phân

biệt với văn vần), đồng thời đánh giá thể tản văn xuất hiện với tư cách là một thể

loại lớn bao gồm nhiều tiểu loại.

Trước hai xu hướng khác nhau trong cách nhìn nhận về mối quan hệ giữa tản

văn – ký, chúng tôi cho rằng về cơ bản, tản văn (hay tạp văn, tạp bút) mang những

yếu tố đặc trưng của thể ký - một thể loại cơ động, linh hoạt, nhạy bén trong việc

phản ánh hiện thực ở cái thế trực tiếp nhất, ở những nét sinh động và tươi mới nhất.

Điểm đặc thù của ký là tôn trọng tính xác thực của người và việc trong tác phẩm, sự

hư cấu không được sử dụng một cách tùy tiện ảnh hưởng đến tính xác thực của nội

dung mà trái lại phải làm tăng thêm ý nghĩa xã hội và giá trị nghệ thuật cho tác

phẩm. Như thế tản văn sinh thành từ ký, tản văn là một phụ lưu của ký phản ánh

đúng với thực tế sáng tác.

1.1.2. Tản văn là một thể loại của văn xuôi hiện đại Việt Nam

Văn học Việt Nam hiện nay nhìn nhận “tản văn” là một thuật ngữ dùng để

chỉ một thể loại văn học xác định trong hệ thống các thể loại văn học hiện đại. Trên

thực tế, rất nhiều ấn bản đang có mặt trên thị trường sách hiện nay được đề tản văn,

tạp văn, tạp bút… Việc phân biệt tản- tạp văn không dễ vì ranh giới giữa chúng khá

mờ nhạt. Trước hết, Từ điển thuật ngữ văn học nhìn nhận “tạp văn” như một thể

loại nhỏ có đặc điểm riêng, nó “là những áng văn tiểu phẩm có nội dung chính trị,

có tác dụng chiến đấu mạnh mẽ. Đó là một thứ văn vừa có tính chính luận sắc bén,

vừa có tính nghệ thuật cô đọng, phản ánh và bình luận kịp thời các hiện tượng xã

hội “ [29/tr294]. Nếu hiểu như vậy, tạp văn có nghĩa hẹp hơn tản văn bởi tạp văn

12

chỉ là những “áng văn tiểu phẩm” thỏa mãn hai yêu cầu: nội dung chính trị, tính

chiến đấu mạnh mẽ. Song trong nghiên cứu Ký trên hành trình đổi mới, tác giả Đỗ

Hải Ninh cho rằng tản văn bao gồm cả tạp văn: “Tản văn là loại văn ngắn gọn, hàm

súc, với khả năng khám phá đời sống bất ngờ thể hiện trực tiếp tư duy, tình cảm tác

giả, bao gồm cả tạp văn, tùy bút, văn tiểu phẩm” [65/tr72]. Ngược lại, tác giả Đoàn

Lê Giang cho rằng tản văn chỉ là tên gọi thức thời của thể tạp văn trước đây: “Mươi

năm trở lại đây người ta hay gọi “tản văn” – văn ghi chép tản mạn về đời sống,

nhưng thực ra người xưa gọi nó là “tạp văn” (ví dụ tạp văn Lỗ Tấn)”, sở dĩ gọi “tản

văn” thay cho “tạp văn” là vì “nhiều người không thích bị ám ảnh bởi chữ tạp”

[43/tr5]… Dù tên gọi khác nhau song nếu so sánh các thuật ngữ và nội dung văn

bản, dễ nhận thấy những tên gọi khác nhau chỉ là cách phân lượng mức độ (đậm,

nhạt) các đặc trưng của tản văn. Mỗi cách gọi là một tín hiệu khẳng định văn bản

nghệ thuật đó chứa đặc trưng nào của tản văn đậm nét hơn. Do đó, chúng tôi thống

nhất lựa chọn khảo sát các đầu sách có dán nhãn tản văn, tạp bút, tạp văn… với điều

kiện các tập sách này thỏa mãn các đặc trưng của tản văn. Vậy, với tư cách là một

thể loại của văn xuôi hiện đại, tản văn Việt Nam có những đặc điểm gì?

Từ điển thuật ngữ văn học xác định tản văn là một thể loại văn học có đặc

trưng riêng. Trong đó, nhóm các tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc

Phi đã xác định rõ các vấn đề căn bản của thể loại [29/tr293]:

- Hình thức: Tản văn “Nghĩa đen là văn xuôi, nhưng hiện nay tản văn được

dùng để chỉ một phạm vi xác định, không hoàn toàn khớp với thuật ngữ văn xuôi”;

- Vị trí: Tản văn “là một loại hình văn học ngang với thơ, kịch, tiểu thuyết”;

- Mối quan hệ với thể kí: Tản văn “có nội hàm rộng hơn khái niệm kí, vì nội

dung chứa cả những truyện ngụ ngôn hư cấu lẫn các thể văn xuôi khác như thư, tựa,

bạt, du kí…”.

- Đặc trưng: tản văn là loại văn xuôi hàm súc; có thể trữ tình, tự sự, nghị

luận, miêu tả phong cảnh, khắc họa nhân vật; thể hiện đời sống mang tính chất

chấm phá; cấu tứ độc đáo; có giọng điệu, cốt cách cá nhân; tái hiện được nét chính

của các hiện tượng giàu ý nghĩa xã hội; bộc lộ trực tiếp tình cảm, mang đậm bản sắc

cá nhân.

13

Trong toàn bộ nghiên cứu này, chúng tôi đồng tình với định nghĩa của Từ điển thuật

ngữ văn học, thống nhất sử dụng khái niệm tản văn để chỉ loại văn ngắn gọn, hàm

súc, tự do, linh hoạt, với khả năng khám phá đời sống nhanh nhạy, mang tính chất

chấm phá, thể hiện trực tiếp tư duy, tình cảm, cảm xúc riêng của người viết. Các tập

sách được lựa chọn khảo sát trong công trình này có thể đề “tạp bút”, “tạp văn”,

“tản văn” – chúng tôi đều coi đó là ngữ liệu tản văn.

Từ sự đồng tình quan niệm về thể loại nêu trên, đối chiếu với thực tiễn sáng

tác thể loại tản văn đầu thế kỷ XX tới nay, có thể xác định tản văn Việt Nam hiện

đại mang những đặc điểm cụ thể ở các bình diện sau: dung lượng, hình tượng tác

giả, đề tài, phương thức biểu đạt, kết cấu, hành văn.

Về quy mô, dung lượng: Mặc dù tản văn là loại văn tự do, dài ngắn tùy ý

xong về cơ bản, đó là thể văn ngắn gọn, hàm súc. Dung lượng khiêm nhường nhất

co lại trong một, hai trang sách (khoảng 200 đến 400 chữ) nhưng cũng có thể lên tới

hơn 20 trang sách, trên 5000 chữ (sáng tác của nhà văn Cao Huy Thuần, Đỗ Phấn,

Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Trương Quý, Nguyễn Quang Thiều); phổ biến là những

tản văn trên dưới 1.000 chữ. So với truyện ngắn, tiểu thuyết thì tản văn có thể được

xem là thể loại dễ “bỏ túi” vì phần lớn tản văn hiện nay có dung lượng nhỏ, giúp

độc giả đón nhận trọn vẹn một tác phẩm trong những “kẽ hở” thời gian của nhịp

sống hiện đại.

Ở phương diện hình tượng tác giả: Cái tôi tác giả là điều khác biệt lớn nhất

của tản văn so với các thể loại văn xuôi khác. Cái tôi trong thể trữ tình thường

không còn nguyên vẹn là con người đời thường bởi nó phải “chuyển hóa thế giới

nội tâm vào một nhân vật có tính hư cấu – nhân vật trữ tình”. Cái tôi trong truyện

ngắn hay tiểu thuyết phải “nhờ” lăng kính, góc nhìn, tâm lý nhân vật hư cấu để gửi

gắm những suy nghĩ, thông điệp về con người và cuộc đời. Còn ở tản văn, nhà văn

tự cấp cho mình quyền được tuyên ngôn trực tiếp về những điều người viết quan

tâm và vì thế hình tượng nhân vật (thường xưng là tôi) trùng khít với tác giả, đem

đến cho người đọc cảm giác được tương tác, đối thoại trực tiếp với nhà văn về các

vấn đề của đời sống. Với đặc điểm này, người viết còn thể hiện được nhân cách,

bản lĩnh, tầm vóc tư duy, phong thái một cách chân thực vì hai lý do: nhà văn “cứ

14

nguyên hình nguyên dạng mà bước vào trang sách” [48/tr45] và có nhiều vấn đề của

đời sống sẽ không được nói ra nếu người viết thiếu bản lĩnh.

Về đề tài: Tản văn “có thể ghi chép lại một cuộc thảo luận chính thức hoặc

không chính thức; tập trung vào một chủ đề nhưng cũng có thể khai thác một loạt

các chủ đề” [97/tr12]; “theo tùy hứng tác giả có thể bộc lộ trữ tình hay nghị luận”;

“có thể tự sự, miêu tả phong cảnh, khắc họa nhân vật” [29/tr293]… Điều này có

nghĩa biên độ đề tài của tản văn thực sự rộng. Tản văn đầu thế kỷ XXI đã cho thấy

mọi vấn đề lớn – nhỏ của đời sống xã hội đều được quan tâm, suy ngẫm. Từ quá

khứ, hiện tại tới tương lai; tự nhiên và xã hội, nhân sinh; các yếu tố ngoại hiện (sự

kiện, cảnh vật, ngôn luận) đến nội cảm (tình cảm, tinh thần); từ các vấn đề khoa học

xã hội và nhân văn (lịch sử, tôn giáo, văn hóa, triết học) cho tới các vấn đề thời sự

(biển cả, môi sinh) v.v… đều có thể trở thành đề tài của tản văn. Sự năng động

trong đề tài của tản văn dường như vượt trội so với thể loại văn học khác. Đặc điểm

này có thể bắt nguồn từ những bộ phận cấu thành tản văn: bộ phận thứ nhất là các

hiện tượng đời sống xã hội; va đập vào cảm quan nhà văn làm nảy sinh bộ phận thứ

hai là quan điểm, thái độ, đánh giá chủ quan. Hiện tượng và suy ngẫm trở thành hai

bộ phận cốt lõi của một tản văn. Trong khi đó, hiện tượng đời sống là nguồn chất

liệu đa dạng muôn nghìn sắc màu, vậy không thể “kiểm soát” vấn đề trở thành cảm

hứng trong tản văn, càng không thể mặc định hay giới hạn cảm xúc, suy ngẫm xuất

phát từ hiện thực đó.

Về phương thức biểu đạt: Ngoài đặc điểm tự do, phóng túng trong ngòi bút

thì “lối thể hiện đời sống trong tản văn mang tính chất chấm phá, tuy vậy, ngòi bút

tản văn chạm vào những hiện tượng được tái hiện ở những khía cạnh cốt yếu và bất

ngờ”[25]; ưa dùng lối “chấm phá” trong cách biểu đạt, mỗi hiện tượng bình thường

của đời sống được chọn đưa vào tản văn đều là khoảnh khắc nhà văn phát hiện ra

một điều đáng suy ngẫm, gợi lên trong người đọc sự vỡ lẽ cần thiết. Khác với

truyện và tiểu thuyết, tản văn không nhất thiết đòi hỏi có cốt truyện phức tạp, nhân

vật hoàn chỉnh nhưng nó nhất định phải tái hiện được nét chính của các hiện tượng

giàu ý nghĩa xã hội, có cấu tứ độc đáo, có giọng điệu riêng. Sự đòi hỏi cao nhất và

cũng là đòi hỏi sau cùng về phương thức biểu đạt tản văn là “cái tôi” người viết. Có

15

thể viết về bất cứ câu chuyện gì, chọn dung lượng tùy thích, bắt đầu từ một khởi

điểm không khuôn phép, sử dụng đa dạng các phương thức nghệ thuật, lan tỏa

những suy ngẫm ngẫu hứng… nhưng điều quan trọng nhất là tản văn phải bộc lộ

trực tiếp tình cảm, ý nghĩ mang đậm bản sắc cá tính tác giả; thể hiện nổi bật chính

kiến người viết, đánh dấu trong trí nhớ độc giả một “cái tôi” của nhà văn. Bên cạnh

đó, tản văn còn có khả năng dung hòa các đường biên thể loại. Nhà nghiên cứu J.

Cuddon cũng nhận ra essay là “một trong những thể loại linh hoạt và dễ thích nghi

nhất trong số các thể loại văn học” [97/tr12] - sự dễ thích nghi ở đây được hiểu như

trong quá trình biểu đạt, tản văn bộc lộ khả năng giao hòa một số đặc điểm của thể

loại các thể loại khác (thơ ca, báo chí, tùy bút, bút ký …).

Về kết cấu: Được coi là chiến lược của nhà văn trong việc chuyển tải ý

tưởng tới bạn đọc, kết cấu là nhân tố quan trọng thể hiện năng lực của người viết.

Nếu lý luận về thể loại truyện và tiểu thuyết có thể định hình được một số khung kết

cấu cơ bản (kết cấu theo logic nhân quả; kết cấu đa tầng bậc); kết cấu lắp ghép; kết

cấu liên hoàn … thì với tản văn, rất khó xác định khung kết cấu ổn định, nó là hệ

quả tất yếu của phương thức biểu đạt, những suy ngẫm, liên tưởng tự do. Ở những

sáng tác có chất lượng, một tản văn có thể bắt đầu từ một “tứ”, sự chuyển động của

những suy ngẫm xuất phát từ sự kiện, hiện tượng của đời sống được nhà văn chọn;

quá trình lan tỏa có thể loang rộng nhưng cũng có thể tụ xoáy; quan trọng là sự

chuyển động đó có trật tự và thần thái, đó là trạng thái “hình tản mà thần tụ”. Những

ngẫm ngợi, liên tưởng có thể “tản” nhưng thông điệp, triết lý, lại “tụ”, chắt lọc nên

vừa thuyết phục, vừa khơi gợi những suy ngẫm ở người đọc..

Về ngôn ngữ, hành văn: Tản văn chấp nhận ngôn ngữ, lối diễn đạt năng

động, tự do để thể hiện chân thực về đời sống. Trong văn học chữ Hán, vì sự đồng

nhất tản văn với văn xuôi nên so với văn vần và văn đối, tản văn không đòi hỏi

ngôn ngữ cầu kỳ, tinh tuyển. Tới các văn nhân thời Nguyễn, khi tản văn là bi, ký, tự,

bạt, luận thuyết, ngôn ngữ cầu kỳ, dùng nhiều điển cố nên có phần trang trọng, bác

học. Càng về sau, các quan niệm về thể loại tản văn càng thống nhất hơn ở việc ghi

nhận tản văn phản chiếu đời sống rộng lớn, phải thể hiện được dấu ấn cá người viết.

Không thể dùng thứ ngôn ngữ “một màu” để thể hiện được muôn mặt đời sống sinh

16

động, càng không thể quy định ngôn ngữ tản văn “phải” đi theo một hành lang có

sẵn trong khi cá tính, cái tôi của người cầm bút cũng sinh động và phức tạp như

chính đời sống. Rốt cuộc, ngôn ngữ tản văn chưa được đề cập một cách rõ nét, cụ

thể trong các quan niệm trước đó. Nhưng đặc điểm về đề tài, kết cấu, phương thức

biểu đạt, cái tôi tác giả đã quy định ngôn ngữ của tản văn cũng năng động, tự do,

tươi mới và biến hóa như vấn đề được chọn để khai thác; đồng thời nó cần được

chọn lựa, sử dụng “vừa” với dung lượng của loại tác phẩm thiên về gợi hơn tả.

Các đặc điểm cơ bản đã khẳng định tản văn thực sự là một thể loại văn học

trong hệ thống các thể loại văn học Việt Nam hiện đại. Trong tương quan với các

thể loại văn xuôi Việt Nam hiện đại, tản văn có một vai trò đặc biệt. Một mặt, tản

văn góp phần làm phong phú diện mạo văn học dân tộc. Đặc biệt ở đầu thế kỷ XXI,

tản văn là một thanh âm đem lại sự sôi động, mới mẻ cho đời sống văn học Việt

Nam. Mặt khác, tản văn cũng là thể loại đặt ra những vấn đề quan trọng cho nghiên

cứu, lý luận văn học hiện đại bởi lẽ đặc tính giao thoa giữa các thể loại khiến cho

việc phân loại văn học gặp khó khăn. Những nét đặc trưng của tản văn về mặt lí

luận cũng như các đặc điểm hiện diện trong các sáng tác tản văn hôm nay cho thấy

bản thân thể loại vừa có dấu hiệu của văn chương hư cấu, vừa có dấu vết của thể ký,

văn chính luận; có cả trạng thái tinh thần điển hình của thể trữ tình… Tuy nhiên,

nhờ có một số đặc điểm nổi bật, nhất quán trong các sáng tác nên khi đặt tản văn

bên cạnh những thể loại văn xuôi khác, chúng ta vẫn nhận diện tản văn, xác nhận vị

trí tản văn rõ hơn. Tóm lại, việc phân loại văn học nhằm định vị tản văn trong hệ

thống thể loại văn học vẫn là một vấn đề mở và “giải quyết vấn đề này phụ thuộc

vào nhãn giới thể loại ở tầm vĩ mô (…) tìm đến một sự ghi khắc và phân lập tuyệt

đối là một điều không tưởng, mọi sự đóng khung về mặt lí luận đều không thể dung

chứa được thực tế sáng tác luôn có xu hướng phá tung mọi giới hạn” [49/tr59].

Nhận định này càng xác đáng với thể loại tản văn đầu thế XXI vì sự bổ trợ của công

nghệ, mạng xã hội đã giúp người sáng tác có những sáng tạo không ngừng về

phương thức biểu đạt. Đến một lúc nào đó, người đọc sẽ được tiếp nhận những sáng

tác tản văn có sự giao thoa rộng mở tới những thể loại văn học và các bộ môn nghệ

thuật hiện đại khác.

17

1.1.3. Diễn trình tản văn hiện đại Việt Nam

Đến nay, tản văn hiện đại Việt Nam đã đi qua hơn một thế kỷ. Cũng như

nhiều thể loại văn học khác, quá trình hình thành, tồn tại và phát triển của tản văn

gắn với các giai đoạn lịch sử của dân tộc. Đặc điểm riêng của từng giai đoạn ấy tác

động trực tiếp tới sự biến chuyển của văn học nói chung, tản văn nói riêng. Nhìn lại

hơn một trăm năm, có thể thấy sự chuyển động của tản văn qua ba giai đoạn sau:

Tản văn Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến năm 1975, sau năm 1975 đến hết thế kỷ

XX và tản văn Việt Nam hai thập kỷ đầu thế kỷ XXI.

* Từ đầu XX tới năm 1975

Tản văn Việt Nam bắt đầu xuất hiện từ thập niên thứ hai của thế kỷ XX.

“Nếu tính từ thời điểm xuất hiện những bài tản văn viết bằng chữ quốc ngữ của một

số tác giả như Nguyễn Văn Vĩnh, Tản Đà đăng trên Đông Dương tạp chí, Nam

Phong tạp chí thập kỉ thứ hai thế kỉ XX (những năm từ 1913 đến 1917)”[51]. Như

vậy, so với các thể loại văn học hiện đại khác xuất hiện từ đầu thế kỷ XX (truyện

ngắn, tiểu thuyết, thơ ca, phóng sự…), tản văn Việt Nam hiện đại ra đời muộn hơn

chừng hai mươi năm,

Từ thập niên thứ hai của thế kỷ XX đến năm 1945, tản văn Việt Nam hình

thành và phát triển trong môi sinh văn hóa có sự giao lưu với văn hóa phương Tây.

Khi phong trào viết văn xuôi bằng chữ quốc ngữ được cổ súy, tản văn được các nhà

văn, nhà báo (xuất thân từ Nho học) thử nghiệm sáng tác bằng thứ văn tự mới. Song

yếu tố cơ bản nhất ở giai đoạn này tạo điều kiện để tản văn xuất hiện chính là sự

phát triển sôi nổi của đời sống báo chí. Một mặt báo chí tạo cơ hội để người sáng

tác thể nghiệm những bài viết nhỏ bằng chữ quốc ngữ; mặt khác, báo chí là con

đường lan truyền rộng rãi có hiệu quả nhất lúc bấy giờ. Ở góc độ người viết, “sự

tiếp xúc văn minh phương Tây, mở rộng nhãn quan văn hóa, tiếp thu tư tưởng dân

chủ, đề cao ý thức cá nhân đã thôi thúc những nhu cầu biểu hiện mới của chủ thể

sáng tạo” [51], sự bộc lộ trực tiếp cá tính người viết qua hình thức biểu hiện tự do,

ngẫu hứng, phóng khoáng là một trong những nét mới nổi bật ở chủ thể sáng tạo.

Có thể nói, khi so sánh với các thể loại khác cùng thời, tản văn bộc lộ sự phong phú

về diện mạo, cá tính sáng tạo và bước đầu có những thành quả cần được ghi nhận,

18

đó là “sự đa dạng các khuynh hướng: tả thực, lãng mạn - tượng trưng, học thuật” và

“thu hút được khá đông đảo các cây bút tham gia sáng tác mà nhiều người trong số

đó là những nhà văn tên tuổi, có vị trí nổi bật trên văn đàn” [51]. Văn học Việt Nam

đầu thế kỷ XX ghi nhận vai trò khai mở, khả năng sáng tác năng động, phong cách

độc đáo của một số cây bút. Nếu Tản Đà được coi là “người mở đường đầy ngoạn

mục” thì sau đó là một loạt phong cách: “Tản văn Chế Lan Viên giàu chất suy

tưởng, triết lí, đậm màu sắc tượng trưng. Tản văn Xuân Diệu tinh tế, nồng nàn,

đượm chất thơ. Tản văn Phùng Tất Đắc đậm chất phiếm luận...” [51]. Như vậy,

chặng đường thứ nhất của tản văn ít nhiều đã có những định hướng để thể loại tiếp

tục phát triển ở giai đoạn sau.

Trong bối cảnh đời sống chiến tranh, khi văn học trở thành thứ vũ khí tư

tưởng, nhà văn thực hiện sứ mệnh bám sát và phản ánh kịp thời thành tựu của cách

mạng thì chỉ có một số thể loại văn học (truyện kí, kí sự, thơ ca…) có khả năng thích

nghi với yêu cầu của nghệ thuật. Hơn nữa, không khí xã hội ở miền Bắc trong giai

đoạn này không có nhiều điều kiện cho một thể loại có tính tự do (đặc biệt là sự tự do

về tư tưởng) khuôn mình lại để phù hợp với yêu cầu về phản ánh, cổ vũ, tuyên truyền.

Trong khi đó, không gian văn hóa xã hội thời kỳ người Mỹ chiếm đóng khu vực miền

Nam khác biệt miền Bắc do lối sống, nếp nghĩ hình thành từ sự ảnh hưởng phương tây.

Sự khác biệt cơ bản của sinh thái văn hóa dẫn tới tản văn Việt Nam giai đoạn 1945 -

1975 phân hóa thành hai xu hướng: sử thi hóa (xu hướng nổi trội của tản văn miền

Bắc) và phi sử thi (chủ yếu tập hợp một số cây bút ở miền Nam).

Xu hướng sử thi hóa trong tản văn thể hiện ở tâm thế hướng về cộng đồng,

ưu tiên cho đề tài chiến tranh cách mạng, say mê với những tình cảm lớn, những

suy tưởng về dân tộc, thời đại; là tinh thần lạc quan, niềm tin vào tương lai tốt đẹp

và ngợi ca là giọng điệu chủ đạo (Bác về quê ta của Chế Lan Viên…). Đặc điểm

của tản văn theo xu hướng sử thi hóa ở giai đoạn này là sự giao hòa với các thể loại

khác như tùy bút, bút ký, ký sự (Bay theo đường dân tộc đang bay của Chế Lan

Viên, Đường chúng ta đi của Nguyễn Trung Thành, Tre Việt Nam của Thép

Mới…). Đối tượng chính mà tản văn hướng tới lúc này là các vấn đề thuộc về đời

sống cách mạng, về chiến tranh vệ quốc, sinh mệnh dân tộc (lực lượng quần chúng,

19

anh bộ đội, lãnh tụ Hồ Chí Minh, đất nước, nhân dân…), cái tôi cá nhân của người

viết tản văn thường là cái tôi công dân, điều tác giả nói không hẳn là điều họ muốn

nói, mà đó là những gì tác giả hòa mình để cất tiếng về những điều cả dân tộc

hướng tới và “để củng cố niềm tin, giai đoạn này người ta dị ứng với những biểu

hiện có tính chất phê phán hay khơi vào những thói xấu, những sai lầm của những

con người trong hàng ngữ cách mạng. Người ta cũng né tránh nói đến những mất

mát hi sinh, hay nói đúng hơn mất mát hi sinh được nói tới là để khơi dậy niềm căm

thù” [49/ tr151]. Đặc trưng làm nên giá trị của thể loại tản văn là chính kiến độc đáo

của người viết, là cái tôi tự do trong bộc lộ cá tính sáng tác song để “hợp lực” với

các thể loại khác trong việc thực hiện các nhiệm vụ lịch sử của dân tộc, tản văn Việt

Nam đã không chứng minh được những phong cách riêng.

Xu hướng phi sử thi bao gồm các tản văn phản ánh tâm tư, tình cảm mang

tính cá thể, thường đề cập những vấn đề mang tính văn hóa, câu chuyện sinh hoạt

đời thường, sự quan tâm tới các vấn đề cá nhân… nhằm bày tỏ suy ngẫm, tâm trạng,

cảm xúc, cách nhìn, cách đánh giá riêng của người viết. Xu hướng này xuất hiện

chủ yếu trong văn học đô thị miền Nam trước năm 1975 (tạp bút, tạp luận, tùy bút

của Võ Phiến; tạp văn Gốc cây – Cục đá và Ngôi sao hay Thú chơi cây kiểng non

bộ của Sơn Nam…). Đây là cách gọi có ý đối lập với xu hướng sử thi hóa đồng thời

gợi mở sự khác biệt cơ bản về đề tài, cảm hứng, hệ giá trị của hai xu hướng sáng tác

tản văn. Trong đó, bộ phận tản văn được sáng tác trong lòng đô thị miền Nam

những năm trước 1975 khá tiêu biểu cho xu hướng phi sử thi. “Trong một hoàn

cảnh đặc biệt, tản văn là một cách để các nhà văn phát biểu những trăn trở, suy

ngẫm, hoài nghi, có khi là bế tắc, thất vọng của cá nhân con người trước sự đổi thay

của cuộc sống đô thị, trước những biến động của thời đại, nhất là trước cơn bão táp

của cuộc chiến đang đi tới hồi khốc liệt nhất” [49/ tr156]. Họ hoài niệm, chiêm

nghiệm về thân phận con người, quan niệm về nghệ thuật, có khi gợi lại truyền

thống văn hóa xưa cũ, những thú chơi, nét đẹp sinh hoạt thường ngày (Võ Phiến,

Sơn Nam, Vũ Bằng…); họ cũng đại diện cho một thế hệ bày tỏ thực trạng đời sống

tinh thần con người Việt Nam những năm trước 1975 bởi những tác động to lớn của

lịch sử, đó là nỗi chán chường, tuyệt vọng, hoang mang trước những bất an, sự vô

20

nghĩa do chiến tranh đem lại (Mai Thảo, Tạ Tỵ, Nguyễn Xuân Hoàng, Trần Thy Dã

Tràng …). Cũng như xu hướng sử thi hóa, tản văn theo xu hướng phi sử thi có khi

hòa lẫn với thể bút ký, tùy bút (Thư nhà, Ảo ảnh, Phù thế, Đất nước quê hương của

Võ Phiến; Món ngon Hà Nội, Miếng lạ miền Nam, Thương nhớ mười hai của Vũ

Bằng v.v…). Tóm lại, xu hướng phi sử thi “là một dấu hiệu tồn sinh dẫu thưa thớt

nhưng hết sức đáng quý bởi trên một phương diện nào đó nó thừa tiếp đặc điểm tản

văn giai đoạn trước năm 1945, nối tiếp vào tản văn Việt Nam giai đoạn đổi mới, tạo

thành những đặc thù của tản văn Việt Nam” [49/ tr155].

Có thể nói hai xu hướng tản văn trên đã phản ánh những đặc điểm cơ bản của

thể tản văn Việt Nam trong hơn nửa thế kỷ. Nó cho thấy mối quan hệ chặt chẽ giữa

hiện thực và văn học, giữa chính trị và văn chương thời đại cách mạng. Song chính

sự chi phối của lịch sử khiến tản văn Việt Nam giai đoạn này “thiếu sinh khí, đơn

điệu về đề tài và phương thức biểu hiện, một bộ phận rơi vào dập khuôn, thiếu đa

dạng, hạn chế những tiếng nói cá nhân độc đáo…” [49/tr160]. Nhìn chung, trong

tương quan với các thể loại khác, tản văn ít có thành tựu nên chưa có được tiếng nói

riêng trên văn đàn.

* Sau năm 1975 đến hết thế kỷ XX

Từ sau năm 1975, đặc biệt từ sau năm 1986, đất nước bước vào thời kỳ đổi

mới và hội nhập quốc tế trên mọi phương diện, trong đó có văn hóa, văn học nghệ

thuật. Sự chuyển đổi mô hình kinh tế xã hội, mở rộng giao lưu với nước ngoài, sự

đổi mới tư duy đã kiến tạo một sinh thái văn hóa phong phú – nền tảng để thể loại

tản văn Việt Nam được phát triển theo chiều hướng tích cực.

Về đề tài, văn học thời kỳ này hướng vào đạo đức, thế sự, đời tư; nhìn nhận

con người ở nhiều chiều, nhiều khía cạnh (ý chí và tâm linh, bản năng, vô thức và ý

thức…), nhiều mâu thuẫn phức tạp. Về nội dung phản ánh, các nhà văn ý thức sâu

sắc giá trị của thái độ tôn trọng sự thật và bản lĩnh cần thiết để bày tỏ thái độ, cách

nhìn nhận, đánh giá hiện thực. “Nhiều vấn đề được khẳng định tuyệt đối ở giai đoạn

trước, nay được soi nhìn lại dưới góc độ mới. Chưa có bao giờ như lúc này, bản lĩnh

cá nhận con người được đề cao, bản thể con người được coi trọng” [49/tr161]. Từ

phía độc giả, sự thay đổi toàn diện của đời sống xã hội ảnh hưởng tới sự chuyển

21

biến lớn trong thị hiếu. Độc giả quan tâm tới điều gì mới? Ngoài những tấm gương

anh hùng cách mạng của giai đoạn trước, những vấn đề lớn lao của cộng đồng, vấn

đề sinh mệnh của dân tộc v.v…, người đọc bắt đầu quan tâm tới những câu chuyện

đời thường, gần gũi, thiết thực với cuộc sống cá nhân (ăn, mặc, thú chơi, cảnh sắc

thiên nhiên xung quanh…). Đặc biệt, quá trình giao lưu với văn hóa quốc tế đã tác

động tới phía tác giả lẫn độc giả, khơi gợi những suy ngẫm về các vấn đề văn hóa

dân tộc – mảng đề tài có tính xuyên suốt của tản văn qua các giai đoạn.

Sự cộng hưởng những yếu tố đổi mới lại được tạo điều kiện bởi sự sôi động

của đời sống báo chí khiến tản văn Việt Nam ở giai đoạn này có sự phát triển đáng

kể. Nếu đầu thập niên 70 mới có 36 nhật báo ra hàng ngày thì sau 1986, có tới 706

tờ báo và tạp chí được phép xuất bản. Nhiều tờ báo có chuyên mục riêng cho thể

loại này, phải kể tới mục Nhàn đàm trên tờ Thanh Niên, mục Tạp văn Hà Nội trên

tờ Hà Nội mới cuối tuần, chuyên mục Nhàn đàm trên báo Văn Nghệ, chuyên mục

Thú chơi người Hà Nội trên báo Người Hà Nội v.v… Những số báo Tết trở thành

món ăn tinh thần đặc sắc của người đọc, trong mỗi số báo Tết, tản văn là món ăn

thực sự thú vị vì các bài viết thường tập trung trạng thái tinh thần phổ biến của con

người trước một khoảnh khắc quan trọng nhất trong một năm; phản ánh bản sắc văn

hóa phong phú, độc đáo khắp các vùng miền trên đất nước Việt Nam khi trải

nghiệm lễ hội lớn nhất trong năm của cộng đồng người Việt, nhờ đó, tản văn

thường “chạm” tới cảm xúc người đọc sâu sắc, chân thực hơn những sáng tác ở giai

đoạn trước đó. Cuối thế kỷ XX, sự xuất hiện của các trang báo điện tử và thói quen

đọc báo mạng cũng là một cú “click” để số lượng tản văn bắt đầu tăng nhanh. Có

thể nói nhờ sự truyền đạt rộng rãi của báo chí mà tản văn đến với độc giả gần gũi, tự

nhiên trở thành một nhu cầu tinh thần trong đời sống hàng ngày. Một số cây bút lớn

của văn học Việt Nam đã thành danh ở các thể loại khác, nay tiếp tục ghi dấu ấn

bằng tản văn và tiếp tục giữ vị trí vững chắc trong việc sáng tác thể loại tản văn ở

giai đoạn tiếp theo (Băng Sơn, Vương Trí Nhàn, Lý Lan, Nguyễn Quang Lập, Phan

Thị Vàng Anh, Hoàng Việt Hằng, Nguyễn Quang Thiều v.v…).

22

* Hai thập kỷ đầu thế kỷ XXI

Cuối thế kỷ XX, công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ, ảnh hưởng sâu

rộng tới đời sống xã hội. Đối với đời sống văn học nghệ thuật, công nghệ hay mạng

internet trở thành kênh xuất bản, giới thiệu tác phẩm tới bạn đọc bằng con đường

ngắn, nhanh nhất. Về phía độc giả, cũng nhờ có sự trợ giúp của công nghệ hiện đại,

họ không chỉ tiếp cận văn học và tương tác với tác giả một cách dễ dàng mà còn có

cơ hội trở thành người viết. Đó là một trong số những lý do cơ bản để tản văn, tạp

văn có điều kiện phát triển, bộc lộ được những thế mạnh của thể loại, do đó “tản

văn hồi sinh mạnh mẽ, bắt đầu có những ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống xã hội,

có sự vượt trội của số lượng sáng tác, sự mở rộng về đề tài, chủ đề, cách thức biểu

hiện” [49/tr9].

Từ “hồi sinh”, “bùng nổ”, “nở rộ” được sử dụng để mô tả sự phát triển của

thể loại tản văn trong giai đoạn này. Sau một thế kỷ tạm nép mình bên cạnh những

thể loại văn học khác, các sáng tác tản văn đầu thế kỷ XXI nhận được sự quan tâm

từ độc giả, giới nghiên cứu, phê bình văn học tới sự ưu ái của các nhà xuất bản. Đặc

biệt, tản văn trở thành thể loại có lực lượng sáng tác đông đảo và đa dạng nhất, họ

có thể là các nhà văn, làm công việc liên quan nghệ thuật (họa sĩ, nhạc sĩ, đạo

diễn…) và cả những công việc không liên quan tới nghệ thuật (bác sĩ, nhà khoa học,

sinh viên, kiến trúc sư, nhân viên văn phòng…); họ thuộc nhiều lứa tuổi khác nhau;

họ có thể là tác giả trong nước và có nhiều cây bút người Việt Nam sinh sống tai

nước ngoài. Song các nhà văn có tên tuổi chính là bộ phận sáng tác quan trọng làm

nên chất lượng nghệ thuật của tác phẩm và họ chứng minh rằng tản văn không chỉ là

thể loại “tạt ngang” hay “chiếu nghỉ” (Cao Huy Thuần, Y Phương, Nguyễn Quang

Thiều, Nguyễn Quang Lập, Nguyễn Nhật Ánh, Huỳnh Như Phương, Lý Lan, Dạ

Ngân, Hoàng Việt Hằng, Phan Thị Vàng Anh, Đỗ Phấn, Lê Minh Quốc, Đỗ Bích

Thúy, Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Trương Quý, Uông Triều…).

Việc các cây bút có kinh nghiệm sáng tác nghiêm túc đầu tư nghệ thuật cho tác

phẩm giúp vị trí của tản văn Việt Nam được “thăng hạng” đáng kể, các hội đồng

chuyên môn quan tâm xem xét đưa vào cơ cấu giải thưởng. Kết quả là giải thưởng

Bùi Xuân Phái – Vì tình yêu Hà Nội dành cho hai tập tản văn Đi ngang Hà Nội và

23

Đi dọc Hà Nội của tác giả Nguyễn Ngọc Tiến đoạt năm 2012, tạp bút A đây rồi Hà

Nội 7 món của nhà văn trần Chiến năm 2015, tập sách Thú lang thang người Hà Nội

và Thú ăn chơi người Hà Nội của nhà văn Băng Sơn vào năm 2017; tập tản văn

Tháng giêng, tháng giêng… một vòng dao quắm của nhà thơ Y Phương đạt giải B

của Hội văn học thiểu số Việt Nam năm 2014. Nếu xem Tản mạn trước đèn của nhà

văn Đỗ Chu là tạp văn thì tập sách đã được trao Giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam

năm 2005 và tới năm 2012, Tản mạn trước đèn cùng tập truyện ngắn Một loại chim

trên sóng của nhà văn Đỗ Chu tiếp tục đạt Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học –

Nghệ thuật. Ngoài ra, năm 2005, tập tản văn Nhân trường hợp của chị Thỏ bông

(Phan Thị Vàng Anh) cũng nằm trong danh sách đề cử xét giải thưởng của Hội nhà

văn Việt Nam…

Đồng thời với sự phát triển của lực lượng sáng tác là trạng thái mở rộng góc

nhìn- đề tài được phản ánh. Tản văn, tạp văn giai đoạn này không dừng lại ở vẻ đẹp

thiên nhiên, hương vị quê hương, phong tục tập quán, nét đẹp văn hóa dân tộc…

như chặng đường trước đó. Đầu thế kỷ XXI, tản văn có xu hướng phản ánh trực

diện và mạnh mẽ các vấn đề mang tính xã hội (y tế, giáo dục, môi trường), các vấn

đề của đời sống được xã hội quan tâm, các vấn đề về văn học nghệ thuật. Trong đó,

các tác giả thể hiện sự trăn trở nhiều về mặt trái của nền kinh tế thị trường, tâm lý

thực dụng, sự xói mòn những giá trị đạo đức và nhân văn tốt đẹp, đáng nói là những

biểu hiện tiêu cực đó tiềm ẩn trong văn hóa, giáo dục, y tế, môi trường sống thường

nhật của chúng ta (Bảo Ninh, Nguyễn Quang Thiều, Cao Huy Thuần, Phan Thị

Vàng Anh, Dạ Ngân, Y Phương, Huỳnh Như Phương…). Ngay cả với những đề tài

quen thuộc như cảnh sắc thiên nhiên, văn hóa phong tục – tản văn cũng mang một

sắc thái mới khi các tác giả miêu tả đối tượng nghệ thuật từ góc nhìn khách quan

nhất: cái tốt đẹp và cả những hạn chế, xấu xí; cái được và cái mất. Giá trị nội dung

đáng kể nhất của tản văn giai đoạn này là phía sau mỗi bài viết, người đọc hình

dung một đời sống phức tạp và các nhà văn đang dùng tác phẩm “bóc” trần tiêu cực,

góp phần thay đổi và xây dựng một xã hội nhân văn. Nhờ nội dung phong phú

nhưng giàu tính nhân văn và hiện thực, tản văn thu hút được độc giả hiện đại, nói

cách khác, bạn đọc hiện nay có xu hướng chọn đọc tản văn nhiều hơn giai đoạn

24

trước bởi tản văn dễ đọc, dễ cảm nhận, gần gũi với cuộc sống, có sự đồng cảm và

tương tác hiệu quả giữa tác giả với độc giả, dung lượng phù hợp quỹ thời gian của

nhịp điệu sống tốc độ.

Nắm bắt thị hiếu độc giả, nhằm thỏa mãn nhu cầu tìm kiếm tản văn, các nhà

xuất bản (đặc biệt nhà xuất bản Trẻ) liên tục phát hành các tập tản văn. Có nhà văn

sáng tác được tái bản nhiều lần, có nhà văn liên tục công bố các tập sách trong thời

gian ngắn (Nguyễn Ngọc Tư, Y Phương, Dạ Ngân, Đỗ Phấn, Nguyễn Việt Hà,

Nguyễn Trương Quý v.v…). Mục tản văn, tạp văn, tạp bút cũng được đăng tải trên

nhiều báo. Các báo như Hà Nội mới cuối tuần, Văn nghệ, Văn nghệ trẻ, Người lao

động, Thanh Niên, Giáo dục và thời đại, Đại đoàn kết, Văn nghệ Quân đội… có

riêng chuyên mục tản văn, tạp bút. Không chỉ báo viết (giấy) truyền thống, tản văn

còn đến với bạn đọc qua các trang báo điện tử, các trang cá nhân (blog,

facebook…). Có thể nói tản văn đã cho thấy đó là thể loại văn học năng động, thích

nghi nhanh chóng với môi sinh văn hóa hiện đại, nó thực sự góp phần đáng kể trong

việc xây dựng diện mạo mới cho văn học Việt Nam hiện đại.

1.2. Tình hình nghiên cứu

1.2.1 Các công trình nghiên cứu lý thuyết tản văn

Khác với sinh mệnh của những thể loại văn xuôi khác (tiểu thuyết, truyện

ngắn…), trong văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX, tản văn tồn tại mờ nhạt. Trong

một giai đoạn dài, trong ý thức sáng tạo và nghiên cứu, tản văn có vị trí bất bình

đẳng với các thể văn xuôi khác. Vì vậy, tản văn không phải đối tượng được quan

tâm của người viết, người đọc và giới nghiên cứu. Mặc dù tản văn của văn học Việt

Nam hiện đại có lịch sử trên dưới một trăm năm, nhưng lịch sử nghiên cứu về nó

mới được bắt đầu.

Về mặt lý luận, văn học Việt Nam thế kỷ XX thiếu hụt những công trình

nghiên cứu chuyên biệt về thể loại tản văn song trong một số bài nghiên cứu các thể

loại văn học nói chung, tản văn vẫn được nhắc tới như một thể loại văn học hiện

đại. Ở góc độ tổng quan, nhóm các tác giả của Từ điển thuật ngữ văn học xem xét

và định nghĩa tản văn với tư cách một thể loại độc lập mà điểm nổi bật là dấu ấn của

tác giả được thể hiện trong sáng tác; tản văn được nhìn nhận ngang hàng với thơ,

25

kịch, tiểu thuyết; có kết cấu, cách thức miêu tả, cách khắc họa nhân vật. Tuy nhiên,

việc xây dựng khái niệm về tản văn trong từ điển vẫn chưa khái quát được hết

những đặc điểm độc đáo khác của thể loại mà các tác giả, tác phẩm tản văn gần đây

bộc lộ rõ.

Năm 1999, trong công trình nghiên cứu Năm bài giảng về thể loại, tác giả

Hoàng Ngọc Hiến đặt tản văn về đúng vị trí một thể loại độc lập. Nhà nghiên cứu đề

cập tới những bài ký được gọi bằng tản văn, ông nhấn mạnh đó là một tiểu loại ký

ngắn gọn, hàm súc, có những đặc điểm riêng cụ thể: “tản văn là một tiểu loại của thể

ký. Lối thể hiện đời sống mang tính chấm phá; chạm vào những hiện tượng được tái

hiện ở những khía cạnh cốt yếu, bất ngờ; mang đậm dấu ấn, cách cảm nhận và cảm

nghĩ rất riêng của tác giả” [30]. Dù chưa đi sâu cắt nghĩa và phân tích cụ thể những đặc

điểm chuyên biệt của thể loại, nhưng việc tác giả chỉ ra những nét cơ bản trên là sự

định hướng cách nhận biết tản văn khi đặt nó bên cạnh những thể loại khác.

Trong Văn học Việt Nam hiện đại- Sáng tạo và tiếp nhận, tác giả Bích Thu

đem đến cho độc giả một cái nhìn khái quát và về văn học Việt Nam từ những thập

niên đầu thế kỷ XX tới đương đại. Các bài viết tập trung xem xét “các bình diện

sáng tạo và tiếp nhận qua các hiện tượng văn học, các vấn đề thể loại… đồng thời

người viết cũng phản ánh “những chuyển biến, ngữ cảnh sáng tạo và góp một cách

nhìn về sự vận động, phát triển của quá trình văn học” [80/tr18]. Trong đó, bài

nghiên cứu về sự giao thoa giữa truyện và ký xếp tản văn, tạp bút như một biến thể

nhỏ của ký. Tác giả cho rằng “Ký: Một loại hình văn học bên cạnh thơ, tiểu thuyết

và kịch, gồm nhiều thể, chủ yếu là văn xuôi, bút ký, hồi ký, du ký, nhật ký, phóng

sự, ký sự, tùy bút, tự truyện, tạp văn, bút ký chính luận” [29/tr35]. Tương tự, nhóm

soạn giả trong Tuyển tập Ký – Tản văn Thăng Long – Hà Nội chia Ký thành các

nhóm: có Ký văn học (màu sắc chủ quan của người viết nổi bật); Ký báo chí (bảo

đảm tối đa sự khách quan của các sự kiện) và Ký – tản văn, gồm các tác phẩm

“được viết bằng văn xuôi, vừa dành sự chú ý cho ít nhất một sự kiện được ghi chép

lại theo một chủ đề hay mục đích nhất định, vừa ít nhiều bày tỏ cái tôi của người

sáng tác như là người trực tiếp can dự đến sự kiện đó” [16/tr12]. Như vậy, thể ký

được xem là cái gốc châu tỏa thành nhiều tiểu loại, trong đó, hàm lượng hiện thực

26

khách quan và chủ quan tác giả là yếu tố quyết định màu sắc “ký” và cách gọi tên

tiểu loại, tản văn cũng chỉ là thuật ngữ định lượng sức nặng của cái tôi tác giả của

một tiểu loại ký.

Ngoài Từ điển thuật ngữ văn học xuất bản năm 2004 xây dựng khái niệm về

tản văn, phải kể tới nghiên cứu của tác giả Lê Trà My (năm 2008) - công trình đầu

tiên ở miền Bắc xem xét tản văn Việt Nam thế kỷ XX từ cái nhìn thể loại. Ở đó, tác

giả Lê Trà My cung cấp thông tin khái quát về thể loại: từ sự hình thành, đặc trưng,

vị trí của tản văn trong hệ thống thể loại tới việc xác định một số loại hình tản văn

hiện đại; bước đầu đánh giá sự phát triển của thể loại khi đặt tản văn trong diễn tiến

môi trường sinh thái văn hóa thế kỷ XX. Ở thời điểm đó, có thể xem công trình của

tác giả Lê Trà My là cơ sở lý thuyết về thể loại ít được quan tâm nghiên cứu, khởi

đầu xác lập sự tồn tại độc lập của tản văn trong một trăm năm. Sau đó, tác giả còn

cho ra đời một loạt những bài viết có tính chất bổ trợ, mở rộng các góc nhìn về tản

văn đương đại. Khảo sát sáng tác tản văn Việt Nam thuộc ba giai đoạn: đầu thế kỷ

XX đến trước thời kỳ Đổi mới; sáng tác tản văn in trên báo, tạp chí trong nước thời

kỳ từ 1986 trở lại (chủ yếu tác phẩm đăng tải trên báo Văn nghệ, Hà Nội mới,

Thanh niên hay tạp chí Văn nghệ Quân đội); các sáng tác tản văn của một số tác giả

được xuất bản từ năm 1986 trở về sau đã giúp tác giả Lê Trà My nhận diện sự biến

đổi của thể loại qua các giai đoạn. Không dừng lại ở những đánh giá ban đầu về

diện mạo của tản văn từ đầu XX tới thời kỳ Đổi mới, tác giả đồng thời chỉ ra đặc

thù của thể loại tản văn Việt Nam trong môi trường sinh thái văn hóa cuối thế kỷ

XX. Ngoài việc khái quát lịch sử tản văn thế kỷ XX, tác giả Lê Trà My còn thực

hiện tuyển tập Tản văn Việt Nam hiện đại (2011) bao gồm cả tản văn của một số tác

giả trong vùng đô thị miền Nam trước giải phóng năm 1975. Những nghiên cứu

trước đó và tuyển tập sau đó phần nào đáp ứng được sự đòi hỏi hiểu biết bao quát

về thể loại của những người sáng tác và những độc giả yêu thích tản văn. Tinh thần

của cuốn sách được Giáo sư Trần Đình Sử khẳng định: “tản văn hiện đại Việt Nam

là một thể loại có thành tựu và không thể bỏ qua” và “tập sách cho ta thấy diện mạo

tản văn Việt Nam của hơn một thế kỉ. Đất nước đã thống nhất ba mươi lăm năm

rồi” [49/tr5].

27

Chúng tôi đặc biệt quan tâm những bài viết tìm hiểu về lịch sử, sự phát triển,

cấu trúc của tản văn với tư cách một thể loại văn học độc lập. Tiêu biểu xu hướng

này là các bài viết của tác giả Lê Trà My với những thông tin khảo cứu, khái quát

lịch sử tản văn Việt Nam trong suốt thế kỷ XX và sự kết nối với tản văn của thế kỷ

tiếp theo (Tình hình nghiên cứu tản văn ở Việt Nam và Trung Quốc; Tản văn - một

thể loại của văn xuôi hiện đại; Một dòng chảy của tản văn đương đại; Tản văn Việt

hành trình một thế kỷ, Tản văn hiện đại Việt Nam – Lí thuyết và Lịch sử...). Trong

loạt bài viết nêu trên, người đọc có thể tìm thấy các thông tin về lý thuyết cấu trúc,

diễn trình lịch sử của thể loại tản văn; diện mạo riêng của tản văn Việt Nam trong

môi trường sinh thái văn hóa; những đánh giá về các yếu tố truyền thông, môi

trường văn hóa truyền thông, tính cộng sinh của thể loại tản văn với văn hóa nghệ

thuật trong môi trường văn hóa truyền thông ấy. Bên cạnh đó, đã xuất hiện những

bài viết bước đầu quan sát, đánh giá khái quát về tản văn đầu thế kỷ XXI. Những

bài viết này không tiếp cận thể loại bằng cách khảo sát tác phẩm, tác giả, mà từ góc

độ thể loại để xem xét quan niệm, sinh mệnh, sự biến đổi cấu trúc tản văn trong một

chặng đường mới (bài viết Bản sắc văn hóa trong tản văn thời đổi mới và hội nhập

của tác giả Nguyễn Bích Thu; Lỗi tại … tạp văn đăng trên trang văn hóa của trang

báo điện tử tiasang.com…). Những bài viết nhìn nhận tản văn ở giai đoạn mới đều ý

thức giải thích hiện tượng “bùng nổ” của tản văn bằng cách đặt thể loại trong không

gian văn hóa, lịch sử đương đại; xác định mức độ tương tác, ảnh hưởng của môi

trường văn hóa truyền thông, môi trường sống hiện đại tới sự phát triển của tản văn;

chỉ ra đặc trưng và khẳng định tản văn là thể loại ngang hàng với các thể loại khác,

nó đủ dấu hiệu để chứng minh ưu thế của mình trong xu hướng kiếm tìm và chọn

lựa của độc giả, đặc biệt là người đọc trẻ tuổi. Tuy nhiên, dựa trên những gì chúng

tôi thu thập được, có thể nhận thấy phần lớn sự quan tâm thể loại tản văn mới dừng

lại ở những bài viết, nghiên cứu cụ thể một tác giả, tác phẩm hay một phương diện

của thể loại, thiếu nhiều những nghiên cứu bao quát và sâu sắc về lý thuyết thể loại;

càng thiếu các nghiên cứu khái quát về thể loại từ khi hình thành cho tới đầu thế kỷ

XXI. Đó là một khó khăn cho người nghiên cứu trong việc tìm kiếm một tài liệu có

hệ thống về thể loại tản văn Việt Nam hiện đại.

28

Có thể nói ở thời điểm hiện tại, trong nghiên cứu văn học nói chung chưa có

những công trình chuyên biệt nghiên cứu về thể tản văn. Thuật ngữ, thể loại này

được đề cập như một phần nhỏ của đời sống văn học trong các tập Từ điển Văn học,

Từ điển thuật ngữ văn học, Từ điển thể loại… Để có cái nhìn rộng mở về lý thuyết

thể loại, ở phần nghiên cứu này, chúng tôi muốn kiếm tìm những thông tin về lý

thuyết thể loại trong văn học hiện đại Trung Quốc và văn học phương Tây vì thể tản

văn hiện đại Việt Nam được định hình trên thực tiễn sáng tác ở Việt Nam nhưng có

những nét tương đồng với tản văn hiện đại Trung Quốc và phần nào đó có nét tương

đồng với essay của phương Tây.

Bản thân thuật ngữ tản văn (tiếng Pháp: essai, tiếng Anh: essay; tiếng Nga:

exxe) tồn tại khá khiêm nhường trong một số từ điển văn học phương Tây và được

sử dụng với hàm nghĩa linh hoạt, các ấn phẩm có gắn “essay/essai” có thể dịch là

tiểu luận, ký, hoặc thí luận (theo cách dịch của giáo sư Đặng Thai Mai). Trong Từ

điển Penguin về các vấn đề thuật ngữ văn học, tác giả J.A.Cudden cho biết người

đầu tiên đặt ra khái niệm “essay” vào năm 1580 là nhà văn Montaigne, khi ông đặt

tiêu đề Essais cho cuốn sách xuất bản lần đầu của mình. Theo đó, tản văn là thuật

ngữ chỉ một tác phẩm thường được viết bằng văn xuôi; tự do về dung lượng, chủ đề;

đó là một thể loại “linh hoạt và dễ thích nghi nhất” trong số các thể loại văn học.

Năm 1597, nhà văn Bacon viết nhiều những tác phẩm có dung lượng vài trăm từ

theo cách thức này và ông cho rằng tản văn giống như những hạt muối nhỏ, nó

giống một thứ gia vị của cảm xúc. Ngoài Montaigne và Bacon tiên phong khai thác

thể văn xuôi này, thế kỷ XVII còn có W. Cornwallis, N. Breton, Thomas Overbury,

J.Earle, A.Cowley... sử dụng tản văn như một phương tiện diễn đạt những ngẫm

ngợi chủ quan về nhiều vấn đề của đời sống phương Tây đương thời. Cuối thế kỷ

XVII, đầu thế kỷ XVIII, hai nhà văn – nhà phê bình là A.Cowley và S.Evermond

khơi lại sự ảnh hưởng của tản văn theo phong cách Montaigne. Tiếp đó, nhà thơ

J.Dryden và các nhà văn R.Steele, R.L’Estrange, E.Ward, Tom Browne, J.Dunton...

không những duy trì lối viết của Montaigne mà còn phổ biến và đem lại màu vị mới

cho tản văn, đó là sự gia tăng chất hiện thực và tính đối thoại. Từ cuối thế kỷ XIX

trở đi, tản văn ở phương Tây được phổ biến rộng rãi song các nhà phê bình nhận

29

thấy đây là thể loại “khó kiểm soát” về đặc trưng. Nghĩa của từ “essay” đã mặc định

bản chất của phương thức sáng tác: một thể loại sáng tác vừa dễ, vừa khó. Dễ là vì

“phóng bút, tùy bút, tự do viết” nhưng chính vì tự do trong giới hạn ý thức nghệ

thuật mà trở nên khó. Đặc tính “khó kiểm soát” khiến tản văn ở phương Tây có nét

thú vị riêng nhưng vẫn không được coi là thể loại văn học chính thức và quen thuộc

(như các thể loại khác). Những lý do lịch sử khiến văn học Việt Nam có cơ hội sớm

được tiếp xúc, ảnh hưởng văn học Pháp nói riêng, văn học phương Tây nói chung.

Tuy nhiên, sự ảnh hưởng của tư duy thể loại tản văn ở phương Tây với thực tiễn

sáng tác tản văn ở Việt Nam không đáng kể.

Chúng tôi đặc biệt quan tâm tới quan niệm về tản văn của Trung Quốc bởi

đây là quốc gia tập trung nhiều nghiên cứu sâu nhất về thể tản văn. Việc xem xét

tình hình nghiên cứu tản văn ở Trung Quốc là sự đối sánh cần thiết để đi tìm những

đặc trưng của tản văn Việt Nam. Khái niệm về thể loại mà văn học Trung Quốc xác

lập có thể không trùng với thực tiễn sáng tác tản văn tại Việt Nam nhưng ở một số

giai đoạn nhất định, tản văn Trung Quốc có ảnh hưởng tới tư duy thể loại ở Việt

Nam. “Ảnh hưởng này chủ yếu rơi vào thời điểm một số tác phẩm tản văn Trung

Quốc được dịch ở Việt Nam những năm chín mươi, kèm theo đó là lời giới thiệu

ngắn gọn về thể loại” [51]. Trong văn học hiện đại Trung Quốc, mặc dù việc xây

dựng quan niệm về thể tản văn được quan tâm song quan điểm của một số nhà

nghiên cứu, phê bình, lý luận văn học tiêu biểu của Trung Quốc vẫn chưa tìm được

tiếng nói chung. Ở tập Tản văn giám thưởng nghệ thuật thám vi của tác giả Phùng

Văn Mẫn, tản văn được mô tả là những sáng tác gồm bốn đặc điểm: “Chuộng sự

chân thực về đối tượng miêu tả và cảm xúc (không phải mô phỏng thực tại một cách

máy móc); tính chất hiển lộ, biểu hiện ở khả năng thu hút quảng đại người đọc; lối

viết tự do, ý theo ngòi bút, ít bị câu thúc; ngôn ngữ sinh động” [dẫn lại, 16/tr10].

Nghiên cứu đặc trưng thể tản văn của tác giả Tạ Sở Phát cũng xem xét thể loại ở các

phương diện: nội dung phản ánh, tính chất, hành văn, ngôn từ song bốn đặc điểm

của tản văn ông nêu khác hoàn toàn Phùng Văn Mẫn: “Tính chất thực dụng; lối viết

sáng gọn, tinh giản; tính phức tạp về nội dung phản ánh; tính ổn định về mặt lý

luận” [dẫn lại, 16/tr10]. Năm 2006, tác giả Đàm Gia Kiện nghiên cứu tản văn Trung

30

Quốc cổ đại “gói” bốn đặc điểm tản văn trong tám chữ: “tính tản, thực dụng, cầu

giản, pháp cổ” [dẫn lại, 16/tr10]. Trong đó, ông cho rằng “tính tản” là đặc điểm cơ

bản nhất của tản văn: tự do; đối lập sự quy định chặt chẽ nhưng vẫn tuân thủ trật tự

do ý tưởng kết cấu nhà văn chủ động xác lập – một thứ tự do trong khuôn khổ để

“tản mà không loạn”; giống các thể loại văn học khác ở chỗ coi trọng sự tinh tế của

nghệ thuật nhưng khác các thể loại có quy phạm (thơ, từ, hí kịch, khúc…) ở sự

khước từ các khuôn mẫu kết cấu để được tự do “truy cầu sự cân chỉnh, truy cầu cái

đẹp”. Người viết “chỉ cần suy nghĩ ra sao đều có thể phóng bút mà thành”. Đàm Gia

Kiện cũng là người chia tản văn cổ đại thành bốn nhóm dựa trên tiêu chí nội dung:

- Nhóm tản văn ghi về con người và sự vật (truyện ký, bi ký…)

- Nhóm tả cảnh, tả vật (các tác phẩm du ký, tiểu phẩm…)

- Nhóm trữ tình và ngôn chí (văn tế, tự, tùy bút…)

- Nhóm thuyết lý luận đạo (tản văn nghị luận, tạp văn…).

Giới nghiên cứu văn học ở Trung Quốc những thập kỷ đầu của thế kỷ XX có

xu hướng giới định một đường biên cho tản văn, tách tản văn ra khỏi tập hợp các

sáng tác văn học ngoài tiểu thuyết, thơ và kịch. Trong phần đối chiếu tản văn Trung

Quốc với tản văn Việt Nam, tác giả Lê Trà My có nhắc đến quan niệm của Thẩm

Nghĩa Trinh, xem tản văn là một thể loại văn học có những đặc trưng riêng biệt

được “hợp lưu từ tùy bút của người Anh (essay) và văn tiểu phẩm đời Minh” [48].

Để dung hòa quan niệm có sự thay đổi qua những giai đoạn lịch sử văn học, lí luận

hiện đại của Trung Quốc chia tản văn thành hai loại: tản văn truyền thống và tản

văn hiện đại, tản văn trong văn học truyền thống của người Trung Quốc, trong đó

“chỉ những sáng tác văn xuôi, là văn học chính tông xếp ngang hàng với thơ từ”.

Còn trong văn học Trung Quốc hiện đại, tản văn được coi là “một thể tài văn học

cùng với thơ ca, tiểu thuyết, kịch, bao gồm các hình thức văn kể chuyện, văn trữ

tình, phóng sự, tạp văn v.v… để phân biệt với khái niệm “văn xuôi” cổ đại, nên

cũng gọi là văn xuôi văn học” [50/tr18]. Có thể nói, tản văn là thể loại có lịch sử lâu

đời, có vai trò quan trọng không kém các thể loại khác. Vai trò này được khẳng định

bởi ý thức xây dựng định nghĩa, khái niệm thể loại của những tên tuổi lớn trong văn

học Trung Quốc.

31

Bước vào thời kỳ văn học hiện đại, để phù hợp với xu thế phát triển chung

của đời sống văn hóa xã hội, đặc trưng tản văn của Trung Quốc có thay đổi nhiều về

hình thức thể hiện cũng như nội dung. So với các thể loại khác, tản văn chân thực

về nội dung, sinh động và gần gũi đời sống về ngôn ngữ, tự do và triệt để trong việc

bộc lộ xúc cảm của người viết, nhỏ gọn về dung lượng, thực dụng trong chức năng,

lại có sức tác động mạnh vào nhận thức và lan tỏa nhanh về xúc cảm… nên nó thỏa

mãn và hấp dẫn đông đảo độc giả trong xã hội hiện đại, vì vậy lực lượng sáng tác

cũng tăng nhanh, đời sống của báo chí dành cho mảng tản văn ở Trung Quốc tương

đối nhộn nhịp. Một số cây bút nổi bật đầu thế kỷ XX phải kể tới là: Trần Độc Tú,

Lỗ Tấn, Chu Tác Nhân. Lớp nhà văn sau đó tiếp tục tạo tiếng vang trên văn đàn thế

giới, đó là Mạc Ngôn - giải Nobel văn học danh giá vào năm 2012, Đinh Linh, Từ

Trì, Viên Ưng, Giả Bình Ao v.v… Trong phần nghiên cứu về tản văn Trung Quốc,

tác giả Lê Trà My cho rằng “gần một thế kỷ qua, song song với thực tế sáng tác vô

cùng phong phú, rất nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau về việc xác định phạm trù,

đặc trưng, về việc sáng tác và tiếp nhận tản văn đã cùng tranh biện. Cho đến nay

vẫn chưa có một cách hiểu thống nhất về tản văn…” [50/tr42]. Ở hai khuynh hướng

định nghĩa về thể loại, trong khi quan niệm tản văn truyền thống xây dựng nội hàm

gồm hầu như các thể loại văn xuôi, “bao gồm các loại ngoài tiểu thuyết, thơ ca, hý

kịch”; thì quan niệm tản văn hiện đại cho rằng đó là một thể loại độc lập, không thể

nhập vào với văn chương nói chung vì nó hoàn toàn xây dựng được một phong cách

riêng. “Xu hướng coi tản văn là một thể loại văn học độc lập được nhiều sự đồng

thuận ở Trung Quốc, đồng thời nó cũng đi sát với thực tiễn sáng tác của nhiều cây

bút lớn như Lỗ Tấn, Chu Tác Nhân, Băng Tâm, Thẩm Tùng Văn, Lương Thục Thu,

Uông Tăng Kỳ, Dư Thu Vũ, Giả Bình Ao…” [51].

Sự phân biệt khái niệm tản văn truyền thống và hiện đại trong văn học Trung

Quốc bắt đầu trở nên rạch ròi từ khi tản văn có được những thành tựu trong phong

trào Ngũ Tứ (1919) – một phong trào có ảnh hưởng sâu rộng trong lịch sử Trung

Quốc, tác động mạnh tới tiến độ phát triển khoa học, dân chủ. Tản văn ra đời thời

kỳ này thúc đẩy các học giả Trung Quốc bước đầu khái quát và xác định khái niệm

tản văn hiện đại trong thế đối lập tản văn truyền thống. Có thể hình dung đường đi

32

của việc khẳng định thể loại, xây dựng nội hàm cho tản văn trong văn học Trung

Quốc bằng một số mốc thời gian và bằng những con người cụ thể. Không thể không

nhắc tới học giả Lưu Bán Nông, người xây dựng khái niệm tản văn (hiện đại) vào

năm 1917. Tuy nhiên lúc đó “khái niệm mà Lưu Bán Nông đưa ra còn chưa phân

định rõ biên giới thể loại, tản văn vẫn bao gồm cả tiểu thuyết và các thể loại văn

xuôi khác. Năm 1921, một tác giả có bút danh Tư Sản đã xác nhận vị trí độc lập của

tản văn, chỉ ra tính nghệ thuật của nó khi cho rằng tản văn là “một loại mỹ văn”.

Sau đó Vương Thống Chiếu cũng dựa trên quan điểm này và gọi tản văn là thuần

tản văn” [51]. Bắt đầu từ đây, tản văn dần được khẳng định như một thể loại văn

học độc lập, có những tác động tích cực khiến “người đọc phát sinh mỹ cảm”- nghĩa

là nó có giá trị riêng và chức năng nghệ thuật cụ thể.

Có thể nói văn học Trung Quốc không chỉ mạnh ở phương diện sáng tác tản

văn mà còn chú trọng và phát triển mảng lý luận thể loại văn học. Từ những học giả

ở thế kỷ V như Lưu Hiệp, Tiêu Thống tới những nhà nghiên cứu hiện đại như

Phùng Văn Mẫn, Tạ Sở Phát, Đàm Gia Kiện, Lưu Bán Nông, Vương Chiêu Thống…

đều chú tâm làm công việc phân loại, xác định vị trí, phạm vi của tản văn và chỉ ra

những đặc trưng cơ bản của tản văn. Mỗi nhà nghiên cứu đều có sức thuyết phục riêng,

cho nên các quan điểm không mâu thuẫn mà chỉ có sự khác biệt. Nếu Lưu Hiệp xếp tản

văn vào nhóm văn xuôi, Tiêu Thống giới hạn lại ở những tác phẩm văn xuôi có nghệ

thuật; Phùng Văn Mẫn, Tạ Sở Phát, Đàm Gia Kiện đều lượng hóa đặc điểm tản văn từ

các phương diện nội dung, hành văn, ngôn ngữ, xúc mặc dù sự lượng hóa ở mỗi tác giả

có khác biệt. Sự phong phú trong những quan niệm khác nhau đem tới sự phức tạp

trong việc xây dựng quan niệm nhưng lại chứng tỏ rằng từ góc nhìn thể loại, tản văn đã

được xem xét như một hiện tượng văn học sử.

1.2.2 Các công trình nghiên cứu tác giả, sáng tác tản văn Việt Nam hiện đại

Thế kỷ XXI được xem là “thời của tản văn” khi các tập sách dán tem tản

văn, tạp bút, tạp văn được các nhà xuất bản ưu ái vì số lượng sách bán ra vượt trội

so với các thể loại khác. Một loạt cây bút mới xuất hiện bên cạnh những tên tuổi

quen thuộc được “hâm nóng” lại nhờ sự đón nhận nồng nhiệt của người đọc. Hệ quả

của hiện tượng tản văn “bùng nổ” là vô số những bài viết đăng tải trên các báo (báo

33

chí truyền thống, báo điện tử) đánh giá về các tập tản văn, các cây bút sáng tác tản

văn. Cũng vậy, rất nhiều bài báo, nghiên cứu phê bình văn học, đề tài khoa học,

khóa luận, luận văn trong khối khoa học xã hội chọn tản văn làm đề tài nghiên cứu.

Nhìn chung, thể loại tản văn được quan tâm nghiên cứu theo ba xu hướng sau:

Một số bài viết chỉ ra điểm đặc sắc, giá trị nội dung của tập sách cũng như

giới thiệu cá tính nghệ thuật, cái tôi tác giả. Trước hết là các bài nghiên cứu tiếp cận

những gương mặt nổi bật của thể loại ở thế kỷ XX. Tên tuổi các nhà văn xuất hiện

nổi bật là Lãng Nhân, Võ Phiến, Tản Đà, Vương Trí Nhàn, Băng Sơn, Mai Văn

Tạo, Nguyễn Khắc Phê… Ban đầu, người nghiên cứu và cả đối tượng được nghiên

cứu chưa tìm được tiếng nói chung về việc định danh thể loại. Tản văn hay tạp bút,

tùy bút, phiếm luận, nhàn đàm, ký thường được hiểu không có sự khác biệt lớn. Rất

ít người nghiên cứu và tác giả văn học khẳng định nhất quán cho sáng tác của mình

duy danh là tản văn. Bên cạnh đó, khi tìm hiểu tản văn của các cây bút nêu trên, các

bài viết mới dừng lại ở việc phân tích các tác phẩm cụ thể trên các phương diện nội

dung, hình thức mà chưa có sự khái quát những đặc điểm về thể loại. Sau đó, sự

phát triển nhanh chóng của số lượng ấn bản tản văn cho thấy thị hiếu độc giả

nghiêng về phía một số cây bút sáng tác tản văn nổi bật, kéo theo cơn “sốt” nhẹ

trong nghiên cứu. Những bài viết liên quan tới thể loại, quan tâm tới sáng tác tản

văn của các tác giả trong phạm vi hai mươi năm đầu thế kỷ XXI dần xuất hiện nhiều

hơn. Đó có thể là phần lời tựa trong những đầu sách tản văn được xuất bản hoặc tái

bản nhiều lần; những bài viết đăng tải trên mạng Internet đem lại cái nhìn khái quát

về thể tản văn thế kỷ XX. Nổi bật là một loạt bài của tác giả Lê Trà My (Tình hình

nghiên cứu tản văn ở Việt Nam và Trung Quốc; Tản văn - một thể loại của văn xuôi

hiện đại và Một dòng chảy của tản văn đương đại; Tản văn Việt hành trình một thế

kỷ…). Tương tự, có không ít bài viết khẳng định vị thế của tản văn Việt Nam hiện

đại (Tản văn hiện đại- một thể loại bị lãng quên của tác giả Trần Đình Sử; tác giả

Ngô Thục Miên với bài viết Tản văn tìm vị thế riêng; nhà thơ Y Phương và Đi tìm

thể tản văn) hoặc bày tỏ sự tin tưởng vào sự khởi sắc của tản văn ở đầu thế kỷ XXI

(Sự nở rộ thể tản văn trong văn học thời đổi mới và hội nhập của tác giả Nguyễn

Bích Thu; Tản văn từ một cái nhìn lướt của tác giả Hoài Nam…). Nhiều bài viết

34

khẳng định môi trường xã hội đương đại là thế đắc địa để tản văn phát triển và

chiếm lĩnh độc giả (Thời của tản văn của tác giả Mai Anh Tuấn; Một sự công nhận

dành cho thể loại tản văn của tác giả Tuy Hòa; Tản văn đang “hot” của tác giả

Phúc Nghệ và Nhìn thấu tâm tính người Việt qua tản văn của tác giả Ngọc Bi; Thời

của tản văn, tạp bút… của tác giả Thành Nguyên…). Một số bài viết phán đoán xu

hướng phát triển của tản văn sau đó (Tản văn nữ: Diện mạo và triển vọng của tác

giả Lê Thị Hường; Tản văn- lấp lánh sắc màu của tác giả Kim Quyên; tác giả

Hoàng Niềm với bài viết Cảm xúc từ tản văn; tác giả Thanh Nga đặt tản văn của

Phạm Mai Chiên trong dòng chảy của tản văn của các nhà văn nữ đương đại …). Sự

phát triển của đội ngũ sáng tác trẻ và sự đột phá số lượng đầu sách tản văn cũng đặt

ra vấn đề về người viết và chất lượng sáng tác (bài viết Tản văn – thể loại không

dành cho người viết trẻ của tác giả Nguyễn Hồng Nga; tác giả Đức Tiến có bài viết

Tản văn tình yêu: xuất bản nhiều nhưng thiếu chất lượng; Tản văn: dễ viết, khó hay

của tác giả Lê Thủy; tác giả Huy Huỳnh với bài viết Tại sao hiếm thấy nhà văn Việt

Nam thử mình với tiểu luận; Ai sẽ chọn tản văn cho nghiệp viết? của tác giả Hà

Anh…). Qua một số bài phỏng vấn những cây bút sáng tác tản văn tiêu biểu, người

đọc cũng thâu nhận được vài điểm đáng chú ý về đặc điểm thể loại (Nguyễn Trương

Quý: Không có giới hạn cho tản văn, bài phỏng vấn do tác giả Dương Tử Thành

thực hiện; Nguyễn Đình Tú: “Tạp tản văn không đại diện cho văn học trẻ”, tác giả

Lê Quang Đức phỏng vấn…). Điểm gặp gỡ của các bài viết trên là sự đánh giá

chung về tản văn từ một góc nhìn cụ thể: hoặc là đánh giá tình hình nghiên cứu thể

tản văn tại Việt Nam trong thời gian gần đây, hoặc cắt nghĩa sự phát triển nhanh về

số lượng tác giả, số đầu sách tản văn, vấn đề chất lượng tác phẩm; bước đầu xác

định nguyên nhân cho sự hấp dẫn đột ngột của thể tản văn với độc giả hiện đại hay

khái quát những xu hướng nội dung phản ánh trong tản văn Việt Nam đương đại.

Bên cạnh đó, có nhiều bài viết cảm nhận, đánh giá về sáng tản văn của một

cây bút nổi lên như một hiện tượng của thể loại. Tản văn của nhà văn Nguyễn Việt

Hà được quan tâm trong các bài viết: Tản văn Nguyễn Việt Hà: Phác thảo (Nguyễn

Việt Hà); Nguyễn Việt Hà – Con giai phố cổ (Dương Phương Vinh và Đỗ Hoàng

Diệu); Con giai phố cổ: Góc nhìn thẳng về Hà Nội (Nguyễn Thị Thanh Huyền);

35

Nhà văn Nguyễn Việt Hà: Đàn ông viết tạp văn (Việt Quỳnh); Nguyễn Việt Hà- “gã

giai phố cổ” nặng lòng với Hà Nội (Thụy Oanh) v.v… Tản văn của tác giả Nguyễn

Trương Quý được cảm nhận qua các bài viết tiêu biểu: Nhà văn Nguyễn Trương

Quý: Từ một kiến trúc sư đến một “thư viện sống” về Hà Nội (Phan Huy); Hà Nội

trong tản văn của Nguyễn Trương Quý; Nguyễn Trương Quý với những câu chuyện

về Hà Nội (Phi Hà); Nguyễn Trương Quý: “Gu Hà Nội” đang là thiểu số (Việt

Quỳnh) v.v… Các bài viết nhìn nhận hoặc khái quát, hoặc chi tiết một phương diện

trong tản văn của nhà thơ Y Phương, nhà văn Nguyễn Quang Lập, nhà văn Cao Huy

Thuần, nhà văn Nguyễn Quang Thiều, nhà văn Đỗ Phấn, nhà văn Huỳnh Như

Phương, nhà văn Nguyễn Ngọc Tư, nhà văn Nguyễn Vĩnh Nguyên, nhà văn Uông

Triều v.v… Sau sự ra đời của mỗi tập tản văn thu hút độc giả là sự quan tâm kịp

thời của báo chí, giới phê bình nghiên cứu văn học, do đó, khó có thể thống kê đầy

đủ mọi bài viết về các tập sách, các tác giả viết tản văn trong hai thập kỷ qua. Với

các thể loại văn xuôi khác, việc xem xét kỹ một tác giả không có gì lạ, nhưng với

tản văn, đó là điều đáng kể. Bởi việc quan tâm tới một cây bút đồng nghĩa với thái

độ ghi nhận sự tồn tại của thể loại và xu hướng sáng tác được các nhà văn lựa chọn.

Từ năm 2000 tới nay, tản văn còn được lựa chọn làm đề tài nghiên cứu trong

các cơ sở giáo dục (tiểu luận khoa học, khóa luận tốt nghiệp, luận văn, luận án). Các

nghiên cứu có xu hướng chung là tiếp cận một tác giả, khảo sát các sáng tác tản văn

của tác giả đó để định hình một gương mặt tản văn nổi bật. Quá trình nghiên cứu về

tác giả, người nghiên cứu luôn lựa chọn một vài điểm nổi trội, biểu hiện nhất quán

trong tản văn của một tác giả, từ đó người nghiên cứu cung cấp cái nhìn ấn tượng và

thuyết phục người đọc về nhà văn đó, ấn phẩm đó, thôi thúc độc giả tìm đọc. Chẳng

hạn tìm hiểu về cảm hứng nữ quyền trong tản văn của Trang Hạ; hình ảnh Hà Nội

xưa và nay trong tản văn của Đỗ Phấn, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Trương Quý, Lê

Minh Hà; cuộc sống đương đại trong cái nhìn của Cao Huy Thuần, Nguyễn Ngọc

Tư; những bức chân dung độc đáo trong tạp văn Nguyễn Quang Lập hay nỗi nhớ

đồng quê trong tản văn Nguyễn Quang Thiều, Hoàng Việt Hằng; giá trị bản sắc văn

hóa trong tản văn của Y Phương, Lê Minh Quốc; đặc điểm tạp văn của các cây bút

nữ sau 1986 (Dạ Ngân, Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Ngọc Tư, Trang Hạ…); nhiều

36

luận văn tìm hiểu sâu đặc điểm riêng trong tản văn của một cây bút (đặc điểm riêng

trong tản văn của Nguyễn Vĩnh Nguyên, đặc điểm tạp văn Nguyễn Quang Lập, đặc

điểm tạp bút của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư v.v…). Các nghiên cứu được đề cập trên

một mặt làm sáng tỏ những đóng góp mới mẻ của nhà văn về phương diện đề tài;

mặt khác họ xem xét những thủ pháp nghệ thuật nhà văn sử dụng trong tập tản văn,

từ đó, nghiên cứu bước đầu đánh giá sự đóng góp của nhà văn trong việc xây dựng

đặc trưng cơ bản của thể loại, khẳng định giá trị riêng biệt của thể tản văn hiện đại.

Tuy nhiên, hạn chế lớn nhất của các nghiên cứu này là chưa dựng được một khung lý

thuyết về thể loại; hơn nữa, không phải nghiên cứu nào cũng thuyết phục thành công

rằng tản văn cũng là thể loại có thể khẳng định vị trí người sáng tác trên văn đàn.

Một nhóm các bài viết đi theo hướng cảm nhận, bình luận về một tập tản văn

thu hút công chúng, tạo thành hiện tượng, được độc giả hào hứng kiếm tìm. Phải kể

tới tập Con giai phố cổ của nhà văn Nguyễn Việt Hà; bộ ba tản văn nén căng sự

phồn thực văn hóa Tày của nhà thơ Y Phương: Tháng Giêng, tháng Giêng- một

vòng dao quắm, Kung-fu người Co Xàu, Fừn Nèn - Củi Tết; những tập sách viết về

Hà Nội của nhà văn Nguyễn Trương Quý: Ăn phở rất thấy khó ngon, Hà Nội là Hà

Nội, Tự nhiên như người Hà Nội, Còn ai hát về Hà Nội, Mỗi góc phố một người

đang sống; kiểu tạp bút, tản văn chân dung của nhà văn Nguyễn Quang Lập: Bạn

văn (1,2), Kí ức vụn (1,2); sức hút của văn hóa Nam Bộ qua những bài viết của nhà

văn Nguyễn Ngọc Tư: Biển của mỗi người, Yêu người ngóng núi, Bánh trái mùa

xưa v.v... Nếu như trước đây, tản văn gần như không có tác giả riêng, mỗi tác phẩm

giống như khoảnh khắc ngẫu hứng chỉ chiếm một góc nhỏ trong sự nghiệp của

những người cầm bút thì gần đây, một số tác giả tập trung viết nhiều hoặc chuyên

tâm hẳn vào thể loại tản văn. Thương hiệu và độ “hot” của thể tản văn (so với các

thể loại văn xuôi khác) là cái kết quả sau cùng của sự chăm chút đó. Đồng thời với

sự xuất hiện của những cây bút, các ấn phẩm tản văn gây hiệu ứng tốt với độc giả là

một loạt bài viết khai thác hiện tượng. Những cái tên được nhắc tới nhiều trong

những bài viết liên quan thể loại này là các nhà văn Y Phương, Nguyễn Quang Lập,

Cao Huy Thuần, Bảo Ninh, Nguyễn Nhật Ánh, Nguyễn Quang Thiều, Phan Thị

Vàng Anh, Hoàng Việt Hằng, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Trương Quý, Nguyễn Vĩnh

37

Nguyên, Đỗ Phấn, Trang Hạ, Nguyễn Ngọc Tư; gần đây là các nhà văn Huỳnh Như

Phương, Uông Triều, Thái Kim Lan, Lê Minh Hà (…). Phần lớn các bài viết triển

khai kết cấu tương đối giống nhau: một phần dành để điểm danh các tản văn đã ra

mắt công chúng, một phần dành để chỉ ra điểm riêng - nét độc đáo, thế mạnh trong

tản văn của mỗi cây bút.

Có thể nói mọi bài viết nhằm mục đích khoa học khác nhau đều có được

những nhận định xác đáng về thể loại, song tính tới thời điểm hiện tại, các nghiên

cứu về thể loại tản văn còn tồn tại hai vấn đề: Một là các bài viết phê bình và nghiên

cứu gần đây chủ yếu đi sâu vào một tác giả, tác phẩm, một góc tiếp cận cụ thể, chưa

có những nghiên cứu khái quát có hệ thống về thể loại. Hai là việc khảo sát tác giả,

tác phẩm chưa cập nhật với thực tiễn sáng tác nên khó có thể khẳng định những bài

viết, nghiên cứu đã thực sự phản ánh đúng và đủ về diện mạo tản văn đương đại. Có

thể nói, sự tồn tại ít ấn tượng của tản văn trong thế kỷ XX kéo theo trạng thái ảm

đạm trong nghiên cứu về thể loại. Nhưng ngay cả khi tản văn phát triển mạnh mẽ ở

nhiều phương diện trong thế kỷ XXI thì tình hình nghiên cứu về thể loại vẫn là

những chuyển động chậm chạp. Vì thiếu những nghiên cứu thực sự về tản văn Việt

Nam hiện đại nên trong những công trình nghiên cứu tổng quan văn học Việt Nam

thế kỷ XX, người ta không tính đến nó với tư cách như một thể loại. “Các bộ tổng

tập văn học Việt Nam đồ sộ với hàng trăm tác gia, hàng ngàn tác phẩm, điểm mặt

các khuynh hướng, các trào lưu, các loại thể văn học… cũng không có chỗ cho thể

loại này (nói đúng hơn, tản văn bị hòa lẫn với những thể loại khác như kí, tùy bút)”

[33/tr12]. Kể từ đầu thế kỷ XX tới nay, nhìn lại chặng đường hơn một trăm năm,

không khó để thấy sự “lúng túng”, phức tạp trong việc phân định biên giới của tản

văn khi đặt cạnh các thể loại văn xuôi khác. Đồng thời cũng thấy rõ sự rời rạc, đơn

lẻ trong những nghiên cứu về thể loại. Cho nên tư duy thể loại tản văn vẫn là vùng

cần làm sáng rõ.

Nhận thấy chưa có sự tương thích giữa thực tiễn sáng tác với tình hình

nghiên cứu, luận án này sẽ nhìn nhận thể loại như một hiện tượng văn học sử và

khái quát đầy đủ nhất (ở mức độ có thể) những đặc điểm thể loại. Chúng tôi không

tham vọng xây dựng một định nghĩa duy nhất về thể loại vì tản văn là một thể loại

38

phóng khoáng, nội hàm khái niệm có thể “giãn nở tùy theo nhu cầu biểu hiện của

nghệ sỹ” [48/tr54]. Song bằng cách liên tục cập nhật những sáng tác mới, nghiên

cứu này cố gắng xác định đặc điểm nổi bật về nội dung và nghệ thuật của tản văn

Việt Nam đầu thế kỷ XXI, chứng minh rằng đó là một thể loại văn học có đóng góp

đáng được ghi nhận trong diễn trình văn học Việt Nam đương đại.

Tiểu kết chương 1

Trong hệ thống thể loại văn học Việt Nam, tản văn là thể loại văn xuôi có vị

thế khiêm tốn. Hơn một trăm năm tồn tại, phát triển bên cạnh các thể loại khác, việc

định vị tản văn Việt Nam vẫn là một vấn đề mở đối với giới nghiên cứu.

Khái quát tình hình nghiên cứu về tản văn cho thấy có nhiều quan niệm khác

nhau về thể loại. Khi tiến hành tìm kiếm diện mạo và vị thế tản văn trong hệ thống

thể loại mới thấy đây là thể văn có đặc điểm phức hợp, nó vừa có dấu hiệu của văn

chương hư cấu, vừa có đặc điểm của ký, văn chính luận. Trong đó, dấu vết ký tương

đối rõ nét nên có ý kiến cho rằng tản văn nằm trong ký, ý kiến khác khẳng định ký

bao gồm tản văn. Thực tế, trong quá trình chuyển động của lịch sử văn học, sự giao

thoa đặc tính của các thể loại dẫn tới sự ra đời một thể loại mới hoặc làm mới một

thể loại cũ nên nghiên cứu này không đi theo hướng cố gắng minh triết vấn đề phân

loại văn học mà luận án xác định mục đích chính là tiến hành mô tả, khái quát các

đặc trưng của một hiện tượng thể loại cụ thể: tản văn hiện đại Việt Nam

Việc khái quát các nghiên cứu cho thấy khái niệm tản văn sớm xuất hiện

trong từ điển thuật ngữ văn học hoặc từ điển thể loại của văn học phương Tây cũng

như phương Đông (Trung Quốc). Đối với văn học Việt Nam hiện đại, tản văn thực

sự là một thể loại văn xuôi có vị thế độc lập. Nó có những đặc trưng riêng về dung

lượng, cái tôi tác giả, đề tài, phương thức biểu đạt, kết cấu, ngôn ngữ và hành văn

và những đặc trưng đó cũng chính là hệ tiêu chí để luận án này lựa chọn các tác giả,

tác phẩm khảo sát.

39

Chương 2

TẢN VĂN VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XXI

TRONG DÒNG CHẢY TẢN VĂN HIỆN ĐẠI

2.1 Sự nở rộ của tản văn Việt Nam đầu thế kỷ XXI

2.1.1 Môi trường sinh thái văn hóa – tiền đề cho sự phát triển mạnh mẽ

của tản văn Việt Nam đầu thế kỷ XXI

Khái niệm “môi trường” không đơn thuần là những yếu tố có sẵn trong tự

nhiên, mà còn bao gồm cả những yếu tố nhân tạo (văn hóa, xã hội …) xung quanh

sự sống của con người, có tác động trực tiếp tới con người. Khi xem xét môi trường

sinh thái văn hóa trong quan hệ với văn học nói chung, chúng tôi hiểu “môi trường”

là điều kiện, trạng thái, hoàn cảnh, bối cảnh, thực tiễn… của văn hóa, xã hội có ảnh

hưởng trực tiếp tới thể loại, phong cách, nghiên cứu văn học. Theo giáo sư Trần

Đình Sử, đó là mối quan hệ có tính chất “cộng sinh, đáp ứng, thích nghi, lựa chọn,

biến đổi, phát triển, biến dạng theo điều kiện môi trường” [78].

Điểm nổi bật trong bức tranh văn hóa Việt Nam đầu thế kỷ XXI là sự phát

triển của thế giới công nghệ. Song song với thời đại 4.0 là sự phát triển phong phú

các kênh truyền thông, đem tới cho con người cơ hội được tiếp nhận lượng thông tin

khổng lồ mỗi ngày. Bên cạnh những kênh xuất bản truyền thống (báo in, sách in,

truyền thanh, truyền hình…) là sự xuất hiện đa dạng các kênh truyền thông hiện đại

(điện thoại thông minh, mạng internet). Trong đó, công cụ hỗ trợ hữu ích nhất kết

nối độc giả với văn học là mạng internet (ebook, báo điện tử, facebook, blog,

instagram, zalo v.v…). Giữa nhịp sống đó, chọn lựa các thể văn nhỏ gọn, có thông

điệp rõ ràng như tản văn là điều dễ hiểu. Nó thỏa mãn điều kiện từ hai phía: Người

viết tỏ bày trực tiếp suy ngẫm về những điều mắt thấy tai nghe; người đọc tận dụng

những kẽ hở thời gian tìm những đồng cảm về các vấn đề trong cuộc sống. Thay vì

di chuyển, chọn lựa, thanh toán tiền để sở hữu một cuốn sách, bây giờ, người đọc

chỉ cần một công cụ thông minh, kết nối internet đã có thể sở hữu một thư viện

trong tay. Trước đây, độc giả cần có không gian, thời gian riêng để đọc một cuốn

sách và nếu có những điều băn khoăn, họ phải độc lập, tự mình giải quyết. Bây giờ,

40

người ta có thể đọc sách ở bất cứ không gian, thời gian nào và nếu cần có thể tương

tác trực tiếp với tác giả. Như thế, kênh truyền thông hiện đại đã và đang trở thành

phương tiện đắc lực có ảnh hưởng lớn tới sự phát triển nhanh chóng của tản văn.

Công nghệ đã khiến đời sống văn hóa, văn học thay đổi và tản văn không

nằm ngoài sự tác động đó. Sự thay đổi trong tản văn đầu thế kỷ XXI bắt đầu từ cái

tôi hiện diện trong sáng tác, đó là tiếng nói riêng của một cá nhân, một thế hệ. Vì ai

cũng có thể sở hữu một phương tiện hiện đại để gửi đi (send), chia sẻ rộng rãi

(share) nên bất cứ cá nhân nào cũng có thể lên tiếng, cho ra đời một tản văn nhỏ ghi

lại khoảnh khắc cảm xúc bất chợt. Nó kéo theo sự thay đổi từ phía người tiếp nhận,

độc giả có thể nhận được một sáng tác chỉ sau vài giây bài viết xuất hiện (up), họ

đọc và đối thoại, phản biện (chat, reply, comment). Chu trình tương tác được diễn ra

không gặp trở ngại nào về không gian, thời gian.

Sự thay đổi trong đề tài, góc tiếp cận đời sống của tản văn cũng là đặc điểm

dễ thấy. Khởi nguồn từ những phần văn bản chia sẻ cảm xúc chủ quan trên những

trang mạng cá nhân, rất nhiều tản văn đã ra đời. Trước hết đó là sự phản ứng cảm

xúc tức thời của một cá nhân trước hiện trạng đời sống, sau đó có thể trở thành

những tác phẩm nếu được gia cố tính nghệ thuật. Nhờ đó, mọi câu chuyện cuộc

sống con người đều có thể trở thành vấn đề được phản ánh trong tản văn. Từ những

vấn đề bản năng, riêng tư nhất (tính dục, tâm linh) cho tới những vấn đề lớn lao của

nhân loại (văn hóa, truyền thống, môi sinh, chiến tranh…); từ những bức xúc của cá

nhân cho tới nỗi bức xúc của số đông v.v... Không gian trò chuyện của tản văn đầy

ắp chất hiện thực, thời sự. Cách tiếp cận đời sống thẳng thắn, cởi mở. Người viết

không né tránh những gì đang hiện diện, họ tự do nêu chính kiến mà không bận tâm

những câu hỏi: có được viết? có nên viết? Tuy nhiên, sự tự do đó không đồng nghĩa

sự vô trách nhiệm hay nói “văng mạng” nhằm giải tỏa những bức xúc cá nhân. Tản

văn tự do trong một định hướng rõ ràng, cho dù bắt đầu từ câu chuyện nào, dường

như người viết cũng ý thức sáng tác phải đi tới gõ cửa lương tâm, đánh thức cảm

xúc thẩm mỹ, tác động nhận thức tích cực ở người đọc và thể hiện được cá tính.

Thế giới mạng là cha đẻ của ngôn ngữ mạng xuất hiện với mật độ dày trong

sáng tác tản văn hiện nay. Cách thức liên lạc mới (thư điện tử, các dạng tin nhắn,

41

hoạt động chat…) sử dụng hệ thống ký tự trên bàn phím đã định dạng ngôn ngữ mới

– được gọi là ngôn ngữ mạng, ngôn ngữ @. Với những người gắn liền cuộc sống

hằng ngày với bàn phím, thứ ngôn ngữ này không chỉ là thói quen công việc mà còn

tiện ích trong diễn đạt và nó chứng tỏ người dùng hợp thời. Ngôn ngữ @ ban đầu

được sử dụng trong công việc có liên quan, sau đó trở thành ngôn ngữ giao tiếp của

giới trẻ, rồi nó bước vào văn chương, tồn tại trong thể tản văn tự nhiên như hơi thở

cuộc sống hiện đại. Có lúc xã hội lên tiếng phản đối bởi việc biến hình và biến

nghĩa tiếng Việt làm mất đi vẻ đẹp vốn có của tiếng Việt nhưng dần dà, một số nhà

văn đã khiến lượng ngôn ngữ mới trở nên “có duyên” khi xuất hiện đúng chỗ, đúng

ý đồ biểu đạt. Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Trương Quý, Trang Hạ, Đỗ Phấn, Uông

Triều v.v…là những cây bút như thế. Sự xuất hiện của lượng ngôn ngữ mạng vừa

đủ trong một tản văn phản ánh tinh thần cập nhật trạng thái văn hóa xã hội, hình

thức ngôn ngữ hiện hành phù hợp những câu chuyện mô tả thực tế. Ngôn ngữ phổ

thông có thể khiến tản văn nghiêng về nhóm văn chương đại chúng nhưng nó có

lượng độc giả đông đảo vượt trội so với văn học tinh hoa vốn kén người đọc.

Có thể nói sự phát triển của một thể loại văn học có được phải dựa vào nhiều

yếu tố: thời đại, sự vận động nội tại của thể loại, lực lượng sáng tác, độc giả, những

yêu cầu của đời sống xã hội đối với văn học nói chung v.v… Tuy nhiên, sự phát

triển của thể loại tản văn ở đầu thế kỷ XXI xuất phát từ sự thích hợp cao độ giữa

đặc trưng thể loại với môi trường văn hóa đương thời. Hiện tượng tản văn nở rộ ở

thời điểm này cũng giống như hạt giống có từ sớm nhưng thiếu đất gieo, phải đợi

tới đầu thế kỷ XXI, khi bối cảnh đời sống văn hóa, xã hội có nhiều thay đổi theo

hướng phù hợp đặc tính thể loại, tản văn hiện đại thực sự bùng tỏa.

2.1.2 Sự thích ứng của tản văn trong môi trường sinh thái văn hóa đầu thế

kỷ XXI

Sự phát triển của một thể loại văn học không chỉ do sự tác động của bối cảnh

xã hội, văn hóa, văn học trong một giai đoạn lịch sử cụ thể mà sự phát triển ấy còn

phụ thuộc vào sự vận động bản thân thể loại. Một trong những lý do cơ bản khiến

tản văn ở đầu thế kỷ XXI trở thành hiện tượng là sự thích ứng của thể loại với trạng

thái tinh thần con người; thích nghi với trạng thái văn hóa, xã hội đương thời.

42

Đối với văn học nghệ thuật, nguồn chất liệu hiện thực đời sống ở giai đoạn

nào cũng hết sức phong phú nhưng vì những lý do lịch sử mà không phải lúc nào

văn chương cũng được tự do phản chiếu bề rộng và chiều sâu hiện thực đó. Sự sống

cốt yếu của tản văn là cái tôi tác giả và tự do trong cấu tứ, biểu đạt. Nó chỉ có thể

sống khỏe trong môi trường, tư duy xã hội phù hợp và môi trường sinh thái văn hóa

đầu thế kỷ XXI đã “cấp” cho tản văn quyền được tự do trọn vẹn. Nếu tản văn ở thế

kỷ XX vẫn khá dè dặt khép mình trong một số đề tài mà người viết tự hạn định cho

mình thì tản văn đầu thế kỷ XXI thẳng thắn, cởi mở bày tỏ mọi cảm nhận, suy nghĩ

về mọi vấn đề của đời sống. Vẫn là cảnh sắc thiên nhiên nhưng không phải chỉ có

mỹ cảnh mới được xuất hiện mà thiên nhiên được cảm nhận đa chiều: có cảnh đẹp

(đô thị cổ, vùng cao, làng quê…) nhưng cũng có cảnh quan được mô tả chằng chịt

vết thương do đời sống hiện đại gây ra (những đô thị lớn như Đà Lạt, Sài Gòn, Huế,

Hà Nội). Cảnh quan, thiên nhiên đa chiều trong tản văn hôm nay phản ánh tương

đối đầy đủ hiện thực khách quan. Sự cập nhật và thẳng thắn trong góc nhìn khiến

bức tranh trong tản văn thời điểm này không đơn sắc. Thêm nữa, chủ nghĩa xê dịch

có từ thời Nguyễn Tuân tới nay đã trở thành trào lưu của một thế hệ. Dường như

trong mỗi cây bút tản văn đều có chút “máu phượt” nên cảnh sắc thiên nhiên trong

tản văn hôm nay đa dạng tới mức người đọc có thể làm một cuộc viễn du trong

tưởng tượng tới bất cứ vùng đất nào. Ở mỗi vùng miền, tản văn lại khám phá những

đặc trưng, nét đẹp khác nhau. Trong đó, Hà Nội và Sài Gòn là dòng cảm hứng lớn

của nhiều tản văn.

Sự thích ứng của tản văn với bối cảnh mới còn biểu hiện ở sự đáp ứng kịp

thời của thể loại với những đòi hỏi đặt ra với văn hóa dân tộc. Giữa thời đại mới,

chưa có bao giờ như bây giờ, vấn đề giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc được đặt ra riết

róng như vậy. Bởi quá trình hội nhập mạnh mẽ khiến chúng ta hoang mang giữa rất

nhiều luồng văn hóa mới được du nhập, đôi lúc, bản sắc văn hóa dân tộc bị mai một,

mờ nhòa, thậm chí chìm khuất; đồng thời, chúng ta cũng nhận thức rõ bản sắc văn

hóa dân tộc có ý nghĩa sống còn – mất văn hóa là mất đất nước. Tản văn bằng cách

đi riêng của mình, đã gợi và chạm tới các vấn đề văn hóa của dân tộc một cách giản

dị, gần gũi và đầy sức thuyết phục. Có thể là các giá trị văn hóa vật chất (ẩm thực,

43

kiến trúc, trang phục), có thể là các giá trị văn hóa tinh thần (tôn giáo, niềm tin, tín

ngưỡng, phong tục tập quán, truyền thống, đạo đức, lối sống, ứng xử, văn học nghệ

thuật …). Các giá trị văn hóa đó tiềm ẩn trong mọi vấn đề của đời sống được đề cập

trong tản văn (giáo dục, y tế, lễ tết, món ăn, cảnh sắc, lối sống, ứng xử đời thường,

kiến trúc đô thị v.v…). Ở vấn đề văn hóa, tản văn của nhà văn Y Phương thực sự là

mảng khối văn hóa độc đáo của người Tày; Băng Sơn, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn

Trương Quý, Đỗ Phấn, Lê Minh Hà am hiểu văn hóa kinh kỳ; Nguyễn Ngọc Tư

thực sự đau đáu dòng văn hóa Nam Bộ; Lê Minh Quốc với bức tranh văn hóa

Quảng Nam; riêng Cao Huy Thuần và Thích Đồng Bổn lại quan tâm tới văn hóa tôn

giáo… Nhìn chung, trong cách mà các nhà văn phản ánh các vấn đề văn hóa của

Việt Nam ở đầu thế kỷ XXI, bên cạnh giọng điệu ngợi ca, tự hào đã có thêm sự

mạnh dạn bày tỏ những lo âu, trăn trở (hàm lượng này thường nổi trội) về vấn đề

làm thế nào để giữ gìn được văn hóa truyền thống, họ lo âu khi chứng kiến sự mai

một của các giá trị truyền thống mà không thể gìn giữ.

Trong nghiên cứu phê bình sinh thái, giáo sư Trần Đình Sử nhấn mạnh sự

tác động quan trọng của trạng thái tinh thần xã hội tới văn học, ông cho rằng “tinh

thần như một yếu tố quan trọng hàng đầu trong toàn bộ hệ thống sinh thái xã hội,

trong đó tinh thần vừa là môi trường nuôi dưỡng mọi sáng tạo vật chất và tinh thần,

lại vừa là sản phẩm của chính môi trường văn hóa tinh thần do con người tạo ra.

Trên cơ sở đó rà soát các hệ thống giá trị nội tại của con người, sự xung đột của các

giá trị truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế, các giá trị thật và giả tạo, cao cả

và tầm thường, chân thực và hư ảo”[77]. Rất nhiều tản văn đầu thế kỷ XXI xoáy

vào sự hỗn mang của đời sống tinh thần con người hiện đại song hầu như nhà văn

nào cũng viết về nỗi nhớ: người trẻ quay đầu về phía ấu thơ, người già ngoảnh lại

nhớ thời thanh xuân, người xa xứ nhớ về quê nhà, người còn sống nhớ người đã

khuất, con cái đi xa nhớ cha mẹ… và nỗi nhớ thường được đọng kết trong hương vị

những món ăn quen thuộc; một hình ảnh, một chi tiết bé nhỏ nào đó thấm đẫm dư vị

đời sống thường nhật. Nên tản văn đầu thế kỷ XXI có một motip khá phổ biến: ẩm

thực không chỉ đánh thức vị giác mà còn đánh thức ký ức, các chi tiết bé nhỏ cũng

có khả năng tương tự. Phải chăng đời sống hiện đại là guồng máy vội vã, ồn ào, vô

44

cảm khiến con người khát khao tìm kiếm những điều ấm áp, đẹp đẽ, đầy nhân tính

đã mất, chỉ còn đọng lại trong ký ức? Tản văn là lát cắt của cảm xúc tức thời, nó

thỏa mãn những khoảnh khắc kiếm tìm trong nỗi nhớ. Vì thế, tản văn đầu thế kỷ

XXI dễ tìm được sự đồng cảm và chạm tới tâm hồn của nhiều đối tượng độc giả

khác nhau hơn so với tản văn ở thế kỷ trước.

Chiếm lĩnh ưu thế trong xuất bản và cạnh tranh thành công (nhìn từ công

chúng tiếp nhận) không chỉ là sự may mắn của tản văn ở đầu thế kỷ XXI, mà là kết

quả của một số nguyên nhân, trong đó, yếu tố quan trọng nhất là sự thích ứng của

thể loại tản văn (các đặc trưng của nó) với môi trường sinh thái văn hóa đương đại.

Nhờ sự thích ứng đó, đầu thế kỷ XXI được xem là “thời của tản văn”. Không thể

nói trước về tương lai thể loại nhưng chắc chắn ở thời điểm này, tản văn Việt Nam

hiện đại đã chứng tỏ được vị thế trên văn đàn Việt Nam.

2.1.3 Tản văn mạng- bộ phận không tách rời của tản văn Việt Nam đầu

thế kỷ XXI

Mạng internet là công cụ hữu ích nhất của môi trường văn hóa truyền thông

cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI. Sự xuất hiện của internet và các sản phẩm công

nghệ thông minh đem lại cho con người một cuộc sống nhiều tiện ích: con người có

“cả thế giới trong tầm tay”, tương tác nhanh chóng, xóa mọi khoảng cách không

gian và công nghệ đã tạo ra cuộc cách mạng lớn trong đời sống văn học. Riêng với

tản văn, nhờ mạng công nghệ mà thể loại có sự phát triển mạnh mẽ ở nhiều phương

diện, theo đó, tản văn (trên) mạng trở thành phần quan trọng góp phần làm nên diện

mạo và là bộ phận quan trọng của tản văn Việt Nam đầu thế kỷ XXI.

Ở góc độ sáng tác và tiếp nhận, công nghệ giúp người viết có thể sáng tác

trong thời gian ngắn, chia sẻ tác phẩm trên mạng ở bất cứ không gian, thời gian nào

mà không gặp nhiều rào cản như hình thức sáng tác và xuất bản truyền thống trước

đó. Bằng công nghệ hiện đại, cách mà độc giả tiếp nhận một tác phẩm cũng nhanh

như việc người viết chia sẻ một sáng tác. Hơn nữa, sự tương tác giữa hai bên diễn ra

nhanh chóng, dễ dàng. Những bình luận (comment), trao đổi (chat) dưới dạng một

tin nhắn (messenger) thường diễn ra trong khoảng thời gian ngắn, phản ánh đúng

tốc độ đời sống của thế giới hiện đại. Thực tế cho thấy trong 10 năm đầu thế kỷ

45

XXI, khi mạng xã hội trở nên phổ biến, nhiều cây bút được độc giả biết đến qua

những bài viết đăng tải thường xuyên trên trang cá nhân trước khi in sách xuất bản;

hoặc nhiều nhà văn đã nổi tiếng trong xuất bản truyền thống lại tìm tới sự hỗ trợ của

công cụ tiện ích (ebook, facebook, blog). Người viết biết chính xác có bao nhiêu

bạn đọc theo dõi (follow) thường xuyên, bao nhiêu lượt bạn đọc (view) sáng tác,

những vấn đề được phản hồi trực tiếp (comment)… tất cả trở thành động lực, những

“ràng buộc mềm” để người viết lựa chọn vấn đề, lựa chọn hình thức, thể loại cho

những thông điệp trao đi.

Tản văn mạng trước hết được “xuất bản” từ một số blog, facebook cá nhân

của nhà văn chuyên nghiệp (Nguyễn Quang Lập, Nguyễn Quang Thiều, Phan Thị

Vàng Anh, Trang Hạ, Đinh Vũ Hoàng Nguyên, Lê Minh Quốc, Phong Điệp, Trần

Nhương…) cho tới rất nhiều tác giả không chuyên về sáng tác văn học nghệ thuật

(Chu Văn Sơn, Ngô Văn Giá, Hoàng Lê Nguyên Vũ v.v…). Sau thời của yahoo và

blog, đến thời facebook thay thế. Dạo quanh một vòng trang facebook cá nhân của

các văn nghệ sĩ, người hâm mộ thường xuyên được đón đọc những tản văn nhỏ

được sinh thành từ một tứ văn đời thường bất chợt đem lại. Từ những bài viết tản

mát, nhiều tuyển tập tản văn được xuất bản sách sau đó và sáng tác không chỉ treo

trên không gian mạng mà còn nằm trên kệ sách, phục vụ bạn đọc truyền thống. Đó

là trường hợp các tập tản văn Nhân trường hợp của chị thỏ bông (Phan Thị Vàng

Anh), Tự tình cùng cái đẹp (Chu Văn Sơn), Ngày mới nhẹ nhàng (Dạ Ngân), Năm

phút ở ga xép (Việt Linh), Có một phố vừa đi qua phố (Đinh Vũ Hoàng Nguyên)…

Tuyển tập được xuất bản sau rất nhiều bài viết nhỏ từng được trình làng bạn đọc

trên mạng. Ngược lại, nhiều tập tản văn sau khi được in ấn xuất bản, tiếp tục chuyển

sang dạng sách điện tử (ebook) nên sách sẽ được đến tay bạn đọc rộng rãi hơn. Bên

cạnh đó, ở thời đại công nghệ vận hành đời sống, báo chí mạng không chỉ đồng

hành mà còn có phần lấn lướt báo in. Rất nhiều báo online dành riêng chuyên mục

cho tản văn, tạp bút (quehuongonline, tapchisonghuong, vnexpress,

vannghequandoi,vannghe, dantri, tienphongonline, vanvn, vietnamthuquan v.v…).

Ở một góc độ khác, khi đời sống công nghệ phát triển, việc độc giả sở hữu sách

nhanh chóng là lợi thế chung đối với việc xuất bản. Nhưng riêng với tản văn, chỉ

46

làm một phép so sánh nhanh dựa trên số lượng bán ra trên một số trang mạng cung

cấp sách quy mô rộng như tiki.sach, vinabooks, phuongnambooks, nhanambooks,

fahasa story books dễ thấy số lượng các tập tản văn, tạp văn, tạp bút, truyện ngắn

được bán ra. Chẳng hạn trong năm 2019, trang fahasa story books bán ra 1698 đầu

sách tiểu thuyết, 345 đầu sách khoa học, 912 tập tản - tạp văn. Ngoài ra không thể

thống kê chính xác những bài tản văn nhỏ vẫn ra đời trên mạng hàng giờ. Sự thật là

càng ngày, bạn đọc thế kỷ XXI đã quen và ưa chuộng hình thức đọc văn học trên

mạng. Sự phát triển tản văn mạng một mặt tạo thành sự sôi động thị trường sách hiện

nay, mặt khác, tản văn dần khẳng định vị trí chắc chắn bên cạnh những thể loại khác.

2.2 Diện mạo chung của tản văn Việt Nam đầu thế kỷ XXI

2.2.1 Đội ngũ sáng tác

Đầu thế kỷ XXI, tản văn có một lực lượng sáng tác hùng hậu và đa dạng: Họ

đa dạng từ lứa tuổi tới nghề nghiệp; họ trưởng thành từ những vùng miền văn hóa

khác nhau; họ viết tản văn khi sinh sống ở những không gian địa lý khác nhau… Có

những cây bút thuộc thế hệ 3x (Lê Giang, Băng Sơn); 4x (Cao Huy Thuần, Thái

Kim Lan, Y Phương); đông đảo các tác giả thuộc thế hệ 5x (Huỳnh Như Phương,

Trần Chiến, Nguyễn Nhật Ánh, Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Ngọc Hà, Trần Tiến

Dũng, Hoàng Việt Hằng, Nguyễn Thị Hậu, Lê Minh Quốc, Nguyễn Quang Lập, Dạ

Ngân, Lê Văn Nghĩa, Bảo Ninh, Đỗ Phấn…); thế hệ 6x (Phan Thị Vàng Anh, Y

Ban, Lữ Thế Cường, Lê Minh Hà, Nguyễn Việt Hà, Trần Thùy Linh); thế hệ 7x

(Hoàng Hồng Minh, Nguyễn Trương Quý, Nguyễn Vĩnh Nguyên, Trần Nhã Thụy,

Nguyễn Ngọc Tư, Đinh Vũ Hoãng Nguyên, Uông Triều) và thế hệ 8x (Phan An,

Khải Đơn, Hamlet Trương, Đặng Thiên Sơn…). Mỗi thế hệ một góc nhìn, một thế

mạnh trong cách viết và câu chuyện được viết trong tản văn. Họ có thể là nhà văn

nhưng cũng có thể là một nhà lí luận phê bình văn học (Huỳnh Như Phương); một

nhà khảo cổ học (Nguyễn Thị Hậu); một giáo sư triết học (Thái Kim Lan); một nhạc

sĩ (Dương Thụ); MC nổi danh (Trác Thúy Miêu); một đạo diễn điện ảnh (Lê Hoàng,

Việt Linh); họ cũng có thể là những họa sĩ – kiến trúc sư (Đỗ Phấn, Nguyễn Trương

Quý, Đinh Vũ Hoàng Nguyên…); rất nhiều nhà báo viết tản văn (Khải Đơn,

Nguyễn Vĩnh Nguyên, Ngữ Yên, Trang Hạ); nhiều nhà thơ lựa chọn sáng tác tản

47

văn như sự thể nghiệm dạng thức biến thể của thi ca (Đặng Thiên Sơn, Phan Vàng

Anh, Nguyễn Quang Thiều, Y Phương, Lê Minh Quốc, Lê Giang, Hoàng Việt

Hằng…); nhà văn trào phúng là Lê Văn Nghĩa cũng viết tản văn… Người viết tản

văn trong nước đông đảo, song cũng có nhiều nhà văn hiện đang sinh sống và làm

việc tại nước ngoài lựa chọn tản văn như hình thức sẻ chia ký ức (Lữ Thế Cường ở

Hà Lan; Hoàng Hồng Minh, Việt Linh, Cao Huy Thuần ở Pháp; Thái Kim Lan,

Trần Thùy Linh, Mai Lâm, Lê Minh Hà … ở Đức).

Nhìn chung, có thể xếp lực lượng sáng tác tản văn ở giai đoạn này vào hai

nhóm chính: những cây bút có ý thức chuyên nghiệp, được xác định là tác giả tản

văn (hầu hết là những nhà văn đã thành danh, tên tuổi quen thuộc với độc giả: Băng

Sơn, Y Phương, Nguyễn Nhật Ánh, Nguyễn Quang Thiều, Hoàng Việt Hằng,

Nguyễn Quang Lập, Dạ Ngân, Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Ngọc

Tư v.v…); những cây bút nghiệp dư và sáng tác tản văn chỉ là một bộ phận nhỏ

(phần lớn là những cá nhân có sự ảnh hưởng rộng ở lĩnh vực ngoài văn học, viết tản

văn không phải là hoạt động thường xuyên như: Cao Huy Thuần, Nguyễn Thị Hậu,

Thái Kim Lan, Lê Minh Quốc, Dương Thụ, Lê Hoàng …).

Đội ngũ sáng tác ngày càng đông đảo vừa là ưu điểm, vừa là hạn chế của tản

văn. Một mặt, mở rộng phạm vi người viết cho thấy tinh thần dân chủ của các thể

loại văn học. Lợi thế của tản văn là tính tự do trong bộc lộ xúc cảm. Khi gỡ bỏ dần

những trói buộc của văn nghệ đường lối sẽ khích lệ người viết thể hiện cá tính, suy

nghĩ cá nhân, những đối thoại và đề xuất một cách thoải mái – điều này hoàn toàn

phù hợp với tản văn. Tính dân chủ ở đây được hiểu là sự bình đẳng trong nhu cầu

được thể hiện và bộc lộ cho nên bất cứ ai – là nhà văn chuyên nghiệp hay không

chuyên đều có quyền cất lên tiếng nói của riêng mình. Tính dân chủ còn thể hiện ở

nội dung tư tưởng trong tác phẩm, tản văn dường như không hạn chế câu chuyện,

vấn đề nào của đời sống xã hội, con người… Tuy nhiên, chính vì đội ngũ sáng tác

có vẻ hơi ồ ạt nên chất lượng tản văn là một vấn đề. Ở hạn chế này, chúng tôi đồng

tình với cái nhìn của tác giả Mai Anh Tuấn khi mổ xẻ sự bùng nổ của tản văn đầu

thế kỷ XXI: “Thoạt nhìn, viết tản văn dễ đến mức như là công việc xảy ra trong lúc

nhàn rỗi, trong lúc chờ đợi cái gọi là “tác phẩm lớn” của người viết. Trên thực tế,

48

không hiếm những cuốn tản văn đã làm chật và chướng giá sách bởi sự xông xáo

quá đà của giới xuất bản. Xin nói ngay rằng, với tôi, việc đọc những tản văn chỉ

quanh quẩn ở nhớ nhung kỉ niệm hoặc lật trang nào cũng vấp phải vài màn than

nghèo kể khổ và được kịch tính hóa bằng cách đổ lỗi cho số phận là việc bất đắc dĩ

(…). Tản văn, vì bị coi là thức quà ăn nhanh, cũng rặt bóng dáng nhiều đầu bếp

vụng về” [80]. Chính vì thế, tản văn ở giai đoạn này phát triển mạnh mẽ nhưng vẫn

thiếu sự kết tinh, có giải thưởng nhưng hiếm hoi. Nghiên cứu sự “bùng nổ” của tản

văn nhưng chúng tôi không ảo tưởng sức mạnh của thể loại mà rất khách quan để

thấy “muốn nâng tản văn như là một lao động thể loại, (…) vẫn cứ phải kí kết với

những cây bút thuần thục kinh nghiệm. Ở đó, một tản văn hay bao giờ cũng nảy lên

một giọng điệu, lớp ngôn ngữ riêng, một ý tưởng và chủ kiến cá nhân, một quan sát

và tái hiện độc đáo. Một tản văn hay sẽ biết ra đòn hấp dẫn và dừng lại đúng

lúc”[85]. Điều đó thêm một lần nhắc nhở người viết và cả người đọc tiết chế sự ưu

ái, dễ dãi với thể loại bởi vì sự ra đời có vẻ dễ dàng dễ bị nhầm tưởng với thể văn

xoàng xĩnh, có phần “bình dân” trong khi đó, “tản văn đã chứng thực là một thể loại

khó viết chứ không phải là cuốn lịch để ghi vội vài dòng tản mạn tùy thời tiết, tâm

trạng”[85]. Tản văn cũng đòi hỏi triển khai một tứ với tâm thế một người giàu trải

nghiệm, thậm chí viết với tâm thế của một người nghiên cứu tinh thần con người,

trạng thái xã hội.

2.2.2 Số lượng sáng tác

Nhìn nhận đời sống tản văn đầu thế kỉ XXI chưa nói hết được sự phát triển

sôi nổi của thể loại nhưng nếu có một con số thống kê chính xác số lượng tác phẩm

ra đời và được xuất bản thì đó sẽ là con số ấn tượng mà rất nhiều thể loại văn học

khác phải “ghen tị”, nhất là trong bối cảnh các nhà xuất bản phải cân nhắc lựa chọn

đầu sách đảm bảo doanh thu. Hai thập kỉ đầu tiên của thế kỉ XXI chỉ là chặng khởi

động và vẫn còn chặng đường rất dài phía trước để tản văn tiếp tục khẳng định vị

thế trong đời sống văn hóa, văn học.

Để làm một con số thống kê chính thức về số lượng tản văn thực sự khó vì

hàng ngày, hàng giờ, những tản văn vẫn được ra đời và được đón nhận. Song số tản

văn được khảo sát cho luận án này cũng là những con số biết nói: 163 tập tản văn

49

của 462 tác giả, gồm 6.602 bài tản văn. Chỉ cần nhìn vào một số cây bút đều tay

xuất bản tuyển tập tản văn và số lần tái bản, số sách mỗi lần tái bản cũng đủ thuyết

phục về sự lan tỏa mạnh mẽ của tản văn hiện nay. Chẳng hạn trường hợp nhà thơ Y

Phương quay sang tản văn bắt đầu bằng những bài viết nhỏ đăng trên chuyên mục

văn hóa của một tạp chí và sau đó xuất bản liền ba tập tản văn gồm 107 bài viết; nhà

văn Nguyễn Việt Hà tung ra bốn cuốn tuyển tập tản văn gồm 248 bài tản văn; nhà

văn Nguyễn Trương Quý có 177 bài viết nằm trong sáu tập tản văn về Hà Nội; cũng

lấy Hà Nội làm trung tâm cảm hứng, nhà văn Băng Sơn có lẽ giữ kỷ lục về sức viết

khi ông có bảy tập tạp văn (tái bản nhiều lần) gồm 363 bài viết; nhà văn Nguyễn

Ngọc Tư cũng không ngơi nghỉ khi vừa viết truyện ngắn, truyện dài, vừa “dạo” qua

tản văn cũng kịp xuất bản tám tập tạp văn gồm 260 bài viết, trong đó riêng cuốn

Tạp văn Nguyễn Ngọc Tư được tái bản lần thứ 20 và nằm trong nhóm sách bán

được trên 20.000 bản… Những tác giả trên đều thuộc nhóm “tem bảo đảm” cho các

nhà xuất bản và các tập sách nêu trên đều trong tình trạng “khốn đốn” vì hiện tượng

sách lậu, nhìn một cách tích cực thì đó là do cầu tăng đột biến so với cung.

Tín hiệu đáng mừng khác về văn hóa đọc của giới trẻ và sự sống mạnh mẽ

của tản văn là hiện tượng tuyển tập tản văn của những cây bút trẻ được tái bản trong

đón đợi nhiệt thành của công chúng. Tập sách Ngày trôi về phía cũ của tác giả Anh

Khang sau một năm phát hành, tới tháng 9/2013 đã tái bản lần thứ tư với 20.000

cuốn được bán. Trong Top 10 cuốn sách bán chạy năm 2013 của Tiki – đơn vị phát

hành sách lớn trên mạng, cuốn tản văn Thương nhau để đó đứng ở vị trí thứ ba, còn

Ngày trôi về phía cũ đứng thứ chín. Ngày 18/1/2014, tác giả Iris Cao phát hành tập

tản văn Người yêu cũ có người yêu mới. Ngay lập tức sách đã đứng số một trong

danh sách “Sách bán chạy nhất tháng” của Vinabook. Cũng có trường hợp tản văn

của cây bút lớn chưa được nhiều bạn đọc biết tới thì hôm nay, sách được tái bản

giới thiệu tới công chúng một cách rộng rãi. Đó là trường hợp nhà văn Võ Phiến

(Tràng Thiên) được ví như một Nguyễn Tuân của miền Nam, nhưng không nhiều

người được biết và đọc tác phẩm tản văn của ông. Cuối năm 2012, cuốn sách Quê

hương tôi và giữa năm 2013 là tập Tạp văn Tràng Thiên được Nhã Nam và nhà xuất

50

bản Thời đại phát hành thì độc giả mới được thưởng thức những trang tạp văn của

một cây bút có tên tuổi của văn học đô thị miền Nam trước năm 1975.

Tuy nhiên, nhìn từ giá trị sáng tác, sự phát triển quá nhanh về mặt số lượng

của tản văn cũng có hai mặt. Một mặt, nó chứng minh rằng không phải những thể

loại văn xuôi có lịch sử sinh mệnh bề thế lúc nào cũng ngồi “chiếu trên”. Trong

định kiến về thể loại, tản văn là thứ lép vế trên văn đàn vì chẳng nói được điều gì

lớn lao, song “sự đảo chiều trong thời đại thông tin, nơi cái nhanh gọn, dễ nắm bắt,

dễ triển khai là qui tắc hàng đầu của mọi kênh phát và nhận, nên tản văn có cơ hội

giành lấy vị thế mới”[85]. Vị thế mới ấy là gì? tản văn viết những câu chuyện đời

thường đem lại cho độc giả cảm giác quen thuộc, được sẻ chia và cảm thông nhờ đó

chiếm lĩnh số lượng lớn người đọc phổ quát, dần dần xác lập giá trị. Mặt khác, sự

phát triển nhanh chóng về số lượng cũng bộc lộ những hạn chế nhất định, đó là cảm

giác tản văn hôm nay chẳng khác gì “một cửa hàng bách hóa tổng hợp” chiều khách

đến – vừa lòng khách đi. Bởi nó “bày biện tất thảy các loại gia vị, từ vui vẻ, bông

đùa, giễu cợt đến nghiêm ngắn, thiết tha, “tải đạo” và không hiếm trường hợp là lảm

nhảm trữ tình” [85]. Người đọc kĩ tính hoa mắt trước kệ sách tản văn, tạp văn và

cũng cần một thái độ công bằng gạn lọc để thấy có những thứ thú vị, nhưng cũng có

nhiều thứ “nhảm”. Nếu kéo dài tình trạng “ào ào” vàng- thau lẫn lộn như đã và đang

diễn ra ở đầu thế kỷ XXI, sợ rằng thể loại sẽ nhanh thắm mau phai vì “một thể loại

gặp thời không có nghĩa là trường thọ” [85].

2.2.3 Một số cây bút tiêu biểu

Khi lựa chọn những cây bút nổi bật của tản văn Việt Nam trong hai thập kỷ

đầu thế kỷ XXI, chúng tôi xây dựng một số tiêu chí căn bản.

Trước hết, sáng tác của cây bút được lựa chọn phải mang những đặc trưng cơ

bản của thể loại, đồng nghĩa người sáng tác vừa am hiểu và tuân thủ nghiêm ngặt

đặc điểm thể loại lại vừa đóng góp để đặc điểm thể tùy bút phát triển theo hướng

ngày càng sắc nét. Tiêu chí thứ hai là sự hình thành một phong cách độc đáo ở thể

loại tản văn (điều này thì thường có ở những cây bút đã thuần thục kinh nghiệm

sáng tác ở những thể loại khác đã khẳng định được vị trí của mình). Thứ ba, một tác

giả tiêu biểu còn là nhà văn có số lượng sáng tác tản văn trong hai thập kỷ đầu thế

51

kỷ XXI tương đối lớn song số lượng phải đồng hành chất lượng, giải thưởng cũng là

một yếu tố quan trọng để đánh giá… Căn cứ vào những dấu hiệu nổi bật đó, chúng

tôi lựa chọn giới thiệu bốn cây bút tản văn được bạn đọc yêu thích và phê bình,

nghiên cứu văn học quan tâm, đó là: Y Phương, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Ngọc Tư

và Trang Hạ - một mặt, họ là những cá tính sáng tạo độc đáo, mặt khác, những tác

giả này đã tích cực góp phần làm cho tản văn Việt Nam phong phú về đề tài, đa

dạng về cảm hứng và phương thức sáng tác, thể hiện rõ đặc trưng thể loại, khẳng

định vị trí của tản văn trong hệ thống thể loại văn học hiện hữu.

2.2.3.1 Tản văn của Y Phương

Nhà thơ Y Phương tên thật là Hứa Vĩnh Sước, sinh năm 1947 tại Trùng

Khánh, Cao Bằng). Ông là gương mặt thơ tiêu biểu, xuất sắc của văn học Việt Nam

hiện đại. Những sáng tác của Y Phương mang phong cách độc đáo, vừa đậm đà bản

sắc “người đồng mình” (văn hóa Tày), vừa rộng mở, giao hòa với vùng văn hóa

rộng lớn để hợp lưu thành dòng thi ca trong văn học Việt Nam. Nhưng không chỉ là

một nhà thơ người Tày danh tiếng, Y Phương còn là cây bút tản văn góp phần quan

trọng trong việc khẳng định vị trí của thể loại văn học này trong văn xuôi Việt Nam

đương đại. Từ năm 2010 tới 2016, ông đem tới cho độc giả ba tập tản văn: Tháng

Giêng- tháng Giêng một vòng dao quắm (2009), Kungfu người Co Xàu (2011), Fừn

nèn (Củi tết) (2016). Trong đó, tập tản văn Kungfu người Co Xàu đạt giải thưởng

Hội văn học, nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam năm 2011, tập Tháng Giêng

– tháng Giêng một vòng dao quắm được tặng Bằng khen của Hội Nhà văn Việt

Nam năm 2010.

Đến với thể loại tản văn, Y Phương chia sẻ: “Tôi viết như gieo một loài

giống mới trên cánh đồng trinh nguyên… Tôi trông chờ sản phẩm “ra lò” là một thể

loại nào đó của văn xuôi. Mọi người gọi là tản văn. Ừ thì tản văn. Nó không giống

tùy bút. Càng không như phóng sự. Nó là nó. Nhưng tôi lén coi tản văn với thơ như

hai anh em con dì con già. Viết tản văn phải có chất thơ. Nghĩa là nó biêng biêng

trên nền tảng hiện thực. Nó bám hiện thực, nhưng rồi đến khi có đà, nó bay lên trên

hiện thực” [30].

52

Đúng như Y Phương quan niệm về sự bắt rễ hiện thực của tản văn, ba tập tản

văn Tháng giêng, tháng giêng một vòng dao quắm, Kungfu người Co Xàu, Fừn nèn

(Củi tết) bám sát những vấn đề thiết yếu của đời sống. Đó là những lát cắt muôn

màu về bức tranh toàn cảnh văn hóa (xưa và nay) của người Tày nói riêng, người

vùng cao nói chung. Tình yêu thiết tha ông dành cho ngôi làng Hiếu Lễ (Cao Bằng)

khiến mỗi tản văn như “rứt” ra từ máu thịt một người Tày mang theo văn hóa

“người đồng mình” trong từng tế bào. Từ đây, tản văn của Y Phương mở rộng dần

biên độ, đề tài và những vấn đề được phản ánh trở nên phong phú, tình yêu văn hóa

quê hương trở thành tình cảm với văn hóa dân tộc. Nhưng “Y Phương không yêu

dân tộc mình ở đầu lưỡi, lạm dụng chất dân tộc. Qua tất cả những cảnh huống sinh

hoạt vật chất và tinh thần hiện thực, những đam mê và đau khổ trần trụi, những

chìm lặng không sao nói hết và những sự thật cuộc đời… Y Phương tiếp tục phát

hiện về dân tộc mình” [7/tr278]

Giữa rất nhiều cây bút viết tản văn, giữa vô số những tập tản văn được giới

thiệu với bạn đọc trong 20 năm qua, sáng tác của Y Phương là mảng màu riêng tạo

nên bởi hai yếu tố: cảnh sắc thiên nhiên vùng cao và cuộc sống con người vùng cao

gắn liền với phong tục tập quán, truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc.

Cảnh sắc thiên nhiên trong tản văn của Y Phương được gợi, dựng từ những

chất liệu quen thuộc của quê hương, đó là dòng sông, dáng núi, cây tre, cây trúc,

quả trám, hạt dẻ… chúng sinh động và tươi nguyên sự sống mặc dù xuất hiện trong

hiện tại hay trở về ký ức. Y Phương say mê trước cảnh hoàng hôn quê hương:

“Chiều quê tôi sánh vàng như mật. Đấy là thời khắc ve ran như sôi. Lá rừng thiêm

thiếp” (Về Trùng Khánh mà nghe hạt dẻ); ông dẫn dụ người đọc hình dung ra cả

không gian núi rừng xanh ngắt chỉ với tấm chiếu trúc: “Đi hết cuộc đời người cha,

sang cuộc đời con đến cuộc đời cháu, chắt, chút, chít… vẫn quẩn quanh núi trúc…

Chỉ cần nghe lá trúc reo, là hổ báo với lợn rừng tự mình mềm oặt…” (Chiếu trúc

nhìn ta). Ở thành phố, không nguôi nỗi nhớ sông Bắc Vọng, Quây Sơn, con sông

“…quanh năm trong xanh ngăn ngắt. Ngay cả đến những ngày bão lũ, nước chỉ

đùng đục có vài ba giờ. Sao đó trở lại màu xanh rêu vốn có. Cái màu xanh rêu như

trời dưới đáy sông, đã làm cho tôi sợ từ hồi còn nhỏ, đến bây giờ. Bà nội tôi bảo

53

dưới đấy là Thủy cung” (Sông bơi). Cánh đồng lúa trong tản văn của ông trở thành

một sinh thể thú vị, những cây lúa non “như những đứa trẻ sơ sinh hãy còn loe hoe

lông măng. Tã óm lỏng lẻo hở cả rốn ra ngoài… Lúc nào lá cũng đạp nọc nạch, tung

tinh rối rít… Sao có người bảo đây chính là tiếng ếch ộp gọi bạn tình. Chắc phải

như thế rồi. Thảo nào gió cứ lay nhay sung sướng. Nó mang theo mùi bùn non. Bùn

non sánh như sữa đặc… Ngày cũng như đêm, khi đi ngang qua cánh đồng, tôi đều

nghe tiếng lúa non chóp chép. Lúa non bú ruộng” (Còn có một cái Tết Vía trâu)…

Nhưng có lẽ phần “Y Phương nhất” là bản sắc văn hóa phong phú, độc đáo,

giàu ý nghĩa nhân văn của người Tày được giới thiệu tới bạn đọc qua từng tản văn.

Đó là cảnh rước dâu độc đáo của người Tày “bằng đôi chân pằm pặp của đoàn

người đi bộ. Cảnh gồng gồng gánh gánh, bánh dày tròn, bánh chưng vuông với chú

lợn cưới. Chú lợn cưới cười không nhìn thấy mắt. Nó cứ ti hí lờn lợt... Cả đám quà

cưới cồng kềnh xanh đỏ theo cô dâu về nhà chồng” (Áo tân thời bước vào võng

cửa). Là phong tục tang ma của người Tày được khái quát qua đám tang người cha

của nhà văn: “Ngày cha tôi mất, khắp cánh đồng Bo Păn trước nhà, rợp một màu

khăn tang trắng xóa. Người gánh gạo. Người gánh rượu. Người vác củi… nườm

nượp mang đến giúp cho nhà tôi làm lễ tang cha… Có ba ông thày tào. Sáu bà bụt

luông. Họ đều là những học trò xuất sắc và tin cẩn của cha tôi. Ba ngày bốn đêm,

tưng bừng ngảy múa và ca hát. Trống chiêng não bạt ầm vang. Tiếng sóoc nhạc.

Tiếng pí lè. Tiếng con ốc cạn. Tiếng sừng trâu út út vọng vào vách núi, không lúc

nào ngưng nghỉ. Làm át đi tiếng khóc thương cha, thống thiết não nùng”. Là Cao

Bằng - vùng đất của lễ hội bốn mùa, những tên gọi của ngày lễ đủ sức gợi tò mò:

“Tết cả”, “Tết thanh minh”, “Tết Slip Sli thịt vịt”, “Tết Hạ chí”, “Tết trâu”, “Tết

cốm” và nhiều lễ nghi thuộc vùng văn hóa tâm linh (Dọa ma, Con ma gà...). Lễ, Tết

đồng nghĩa với nghi lễ và ẩm thực. Vì “tết tháng Giêng hẹn từ tháng Bảy” nên “từ

sau rằm tháng Bảy, lá gói bánh gai chưa kịp héo, họ đã lên kế hoạch cho từng

tháng... Tháng Chín, tháng Mười vào rừng kiếm củi, đun nồi bánh chưng, cất lô

rượu gạo. Tháng Một bện rơm lót giường, làm ghế cho khách ngồi. Tháng Chạp ủ

muối cỏ khô, rơm khô dành cho trâu bò ăn…” (Tết cả), trong đó có lễ “pây tái” (đi

lễ bố mẹ vợ) rất độc đáo vùng văn hóa Tày, “các chàng rể phải sắm đôi vịt béo để

54

mang đến nhà, biếu ông bà ngoại” (Tết Slip Sli thịt vịt). Ngày Tết, người Tày không

kiêng cữ đàn bà mà trái lại họ - đàn bà đã mang đến vận may: “Nhà ai có khách là

đàn bà con gái đến chúc tết đầu tiên, năm ấy sẽ ăn nên làm ra, mua một bán mười.

Bởi đàn bà con gái là giống má. Là mùa màng. Là no ấm. Mùa màng đến xông đất

thì còn gì may mắn bằng…” (Tết anh cả).

Y Phương có sở trường trong việc tái hiện văn hóa ẩm thực ấn tượng của

người vùng cao. Nhờ tản văn của ông, người ta biết những dịp lễ tết, người Tày

khéo léo chế biến nhiều loại món ăn độc đáo: xôi ngũ vị, bánh trứng kiến cho ngày

mùng 3 tháng 3; pẻng tải, bánh gai, bánh dợm, thịt vịt quay cho rằm tháng Bảy…

Trong mâm cúng rằm tháng Bảy của người Tày, thịt vịt là món không thể thiếu vì

theo truyền thuyết, con vịt được coi là con vật thiêng trong tâm linh của người Tày,

là sứ giả của mường trần gian với Mường Trời, có công cõng gà trống vượt biển

(Khảm hải) đi cống sứ Mường Trời nên vào rằm tháng Bảy, người Tày sẽ “chọn

những con vịt béo nhất đàn. Một con dành để cúng tổ tiên. Một con cúng hồn ruộng

lúa. Một con cúng vía trâu bò. Một con dành hẳn cho trẻ chăn trâu, mang theo ra

đồng cỏ. Đứa nào cũng phải ăn bằng hết. Nếu để thịt vịt thừa, hồn sẽ bắt trâu bị lở

mồm long móng. Phần vịt để tiếp khách, thì cứ mỗi mâm ba chú. Một chú luộc. Một

chú xáo măng. Một chú quay. Tiết canh hãm bằng rượu ngâm mật gấu” (Tết Slip Sli

thịt vịt). Trong tản văn Bánh xì chen chạy lung tung, người viết huy động tối đa các

giác quan để thưởng thức ẩm thực của người Tày giữa cái lạnh vùng cao, thực

khách “mồm miệng luôn xuýt xoa vì cảm giác nóng bỏng trên răng dưới lưỡi. Nào

bánh cuốn ăn với giò lụa. Nào cóng phù chan nước gừng mật mía. Nào bánh áp

chao nhân đùi vịt. Nào phở lạp sườn xá xíu tổng hợp. Nào bánh bao nhân trứng

chim. Nào xôi trám đen, xôi trứng kiến, xôi ngũ sắc... Cái ăn đã vào tới bụng. Cái

ăn còn òng ọc sôi thêm một lần nữa ở trong người, được như thế càng sướng. Ăn

như vậy nó mới khác người” (Bánh xì chen chạy lung tung).

Tản văn của Y Phương cũng viết nhiều về quan niệm, thói quen ứng xử của

người Tày trong quan hệ giữa con người với con người, con người với trời đất, cỏ

cây, con vật… Ở đó, người dân quê ông xuất hiện với dáng vẻ mộc mạc, giàu tình

cảm, đôn hậu, trọng nghĩa tình, bản lĩnh, ý chí như đá núi, thường trực ý thức giữ

55

gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Đó là chú Phin với “bài thơ mà chú viết dán lên cây, là

lời người biết ơn loài thảo mộc” (Dân tộc: Người), thầy Slay Khuy, các võ sĩ Phja

Fủ anh dũng chống lại bọn giặc cờ đen cờ vàng (Kung fu người Co Xàu), ông

Thoòng làm nghề vá chảo hàn nồi, lão Mòn từng tham gia đánh Pháp (Lão Mòn đi

đâu rồi), dượng Tý (Ông dzang tâng hương đèn)... Nhất là với người phụ nữ Tày, Y

Phương luôn thể hiện sự trân trọng, coi họ như những viên ngọc sáng, những người

không chỉ có vẻ đẹp hình thức, “đẹp từ dép đẹp lên. Đẹp từ tóc chải lệch ngôi đẹp

xuống…” (Tết anh cả), mà còn là vẻ đẹp tâm hồn đôn hậu, phẩm chất ngời sáng,

mang cốt cách người phụ nữ vùng cao. Với những người thân trong gia đình, những

trang tản văn của Y Phương ăm ắp tình yêu thương dành cho bà nội, người “hay

ngồi trên chiếc ghế rơm, lưng tựa cửa, mắt nhìn ra cánh đồng làng hàng giờ. Tôi

trông bà như bức tượng bằng đá đen nguyên khối. Bà ngồi ngóng đợi lúa mùa. Còn

lúa mùa thì quạt mát, quạt xanh rười rượi lên mái tóc trắng xóa cho bà”; sự tôn kính

với người cha “không chữa bệnh bằng thuốc mà bằng trái tim. Trái tim yêu thương

con người” (Bí mật về chai nước trong); lòng hiếu đễ với người mẹ của làng Hiếu

Lễ: “Bà đã dành cả một năm trời chăm bẵm đàn gà vịt ngan ngỗng và lũ lợn…Bà

bảo rằng tôi nuôi những cái này là để đón cháu. Bất kể trai hay gái. Nhưng cháu gái

thì càng mừng hơn. Người Kinh có câu “ruộng sâu trâu nái không bằng con gái đầu

lòng” là gì”. Nghe đâu người Tày mình cũng có câu “lục slao cốc gjộc khẩu têm”

con gái đầu cối gạo đầy đó sao; tình thương mến với người chị gái “ ngồi ngay

trước mặt, nhìn tôi như nuốt lấy từng lời. Tay phải chị cầm quạt, tay trái cầm khăn

lau từng giọt mồ hôi trên người cho tôi” (Chị tôi); cảm xúc trong bài thơ nổi tiếng

Nói với con còn vẹn nguyên khi ông viết về cô con gái với “đôi chân nhỏ xíu bước

hịt bước hều. Nhưng cái mặt nó luôn cười tươi làm như nhà ta chẳng hề đói rách”

(Tiếng ve cay đắng); cả niềm say mê bất tận với trẻ thơ khi Y Phương viết về những

đứa cháu: “Lim dim đôi mắt lay láy đen, Kiu đang lơ mơ cười… Sa hăng hái thò

ngón tay nhỏ xíu tắt đèn” trước ngày được về quê để được nói tiếng Tày trong (Núi

non chất ngất)…

Song tản văn của Y Phương không chỉ phản ánh văn hóa phong tục tập quán

và cảnh sắc thiên nhiên quê hương của ông, sau mỗi trang viết, người ta luôn nhận

56

thấy những đau đáu trăn trở về vấn đề giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Hai tập tản

văn Tháng giêng tháng giêng một vòng dao quắm và Kungfu người Co Xàu của Y

Phương chất chứa những nỗi đau hiện sinh. Đó là sự xâm nhập của thuốc phiện phá

vỡ đời sống bình yên và thuần khiết của vùng cao, “khói thuốc phiện sẵn sàng nhấc

bổng cả ngôi nhà sàn ba gian, nhẹ như lông chim. Ngôi nhà bề thế bưng ván gỗ mạy

chuông đen bóng, nó sẽ sang tay người khác tắp lự. Chỉ cần chủ nhân đêm đó lên

cơn thèm. Khi lên cơn, người ta sẵn sàng bán cả thế giới” (Nhà thơ nghỉ khỏe); nỗi

đau vì người làng ngu ngơ bán quặng cho Trung Quốc lấy tiền ăn chơi: “Mươi năm

nay, quặng Tốc Tát, Khuổi Ki, Hiếu Lễ, Tà Than, Thông Huề... kìn kìn vượt biên

bán sang Trung Quốc. Ruộng rẫy bị bốc dỡ, đào bới. Đất đai nham nhở, lở lói như

trên Mặt trăng” (Mũi kim tiêm phơi trắng nương ngô); những nghề truyền thống của

dân tộc không còn nữa: “Trông kìa, ở đáy giếng, nước đọng đỏ hoe như khóc.

Giếng chàm ơi!” (Giếng chàm)…

Về phương diện nghệ thuật, ngôn ngữ là phần đặc sắc nhất trong tản văn của

Y Phương. Ông là trường hợp đặc biệt vì sử dụng thành công loại ngôn ngữ hỗn

hợp giữa Kinh và Tày. Lượng lớn từ ngữ sóng đôi Kinh – Tày, từ láy, từ tượng

thanh được chọn lựa cẩn trọng và sử dụng tự nhiên làm cho ý nghĩa của Tiếng Việt

khái quát, mở rộng hơn, vượt qua ý nghĩa ban đầu bởi ngôn ngữ đã “thổi” vào đó tâm

hồn Tày, văn hóa Tày, khẩu khí của người Tày. Những “Phúng xàng lủng lẳng”, “Dân

Co Xàu hát Wàng Dà”, “Tết slip sli ăn thịt vịt”, “Ngồi ghế rơm uống trà khỉ nộc”,

“Biêng biêng lày cỏ”, “Ông Zdang tâng hương đèn”, “Cơm nhan”, “Người trông coi

ngọn lửa Dá hai”, “Lượn ơi em ở đâu”, “Nhào nhào con ma xay thóc”...

Tản văn của Y Phương trước hết bày tỏ tiếng nói của một người trong cuộc,

diễn giải rõ hơn các phong tục, văn hóa Tày và từ đó, trao tặng cơ hội thông hiểu

tộc người này cho độc giả. Sau đó, sáng tác của ông tự bộc lộ một bức chân dung

tinh thần của người trai Tày yêu thiết tha văn hóa dân tộc mình. Trạng thái viết của

ông là trạng thái của người tìm sự giải tỏa những ẩn ức sâu xa về văn hóa “người

đồng mình” ở thời điểm bị đời sống hiện tại chi phối, can thiệp đến mức xô lệch,

mai một: “Giống như cái thùng tôn nhẵn gạo, tôi cứ bô lô, ba loa. Có gì ngứa ngáy

trong ruột gan, tôi xả ra bằng hết…" và "Tôi coi cái làng Tày như da bọc lấy người

57

tôi. Nó nghi ngút khói lửa cay đắng trong hồn tôi. Ngôi làng ấy biến nước lã thành

máu, chảy thấm qua và nuôi hàng trăm nghìn vạn tế bào quanh thân xác tôi" (Tháng

Giêng Tháng Giêng - Một Vòng Dao Quắm).

2.2.3.2 Tản văn của Nguyễn Việt Hà

Trước khi trở thành một cây bút tản văn có tiếng, Nguyễn Việt Hà đã thành

danh với thể loại tiểu thuyết và truyện ngắn. Sự ra đời của tiểu thuyết Cơ hội của

Chúa (1999), Khải huyền muộn (2003), Ba ngôi của người (2014) và Thị dân tiểu

thuyết (Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2019) giúp Nguyễn Việt Hà được

xem là một trong số ít những nhà văn nỗ lực, thành công trong cách tân tiểu thuyết.

Với thể loại tản văn, Nguyễn Việt Hà giới thiệu tới độc giả năm tập sách: Nhà văn

thì chơi với ai (2007), Mặt của đàn ông (2008), Đàn bà uống rượu (2010), Tạp văn

tuyển chọn (2011), Con giai phố cổ (2013).

Ở tập tản văn đầu tiên, Nguyễn Việt Hà dựng chân dung đủ tạng người ở

quanh ta (Ẩn sĩ và ẩn nhân, Bình luận gia, giới công chức, Cave, Chồng của hoa

hậu, Giang hồ vặt, đến người đọc và cả nhân vật lớp trưởng trong hồi ức, người Hà

Nội, quái nhân, sinh viên…) và vô số những câu chuyện đời thường, câu chuyện

sáng tác bủa vây xung quanh những con người đó (Chìm và nổi, Chuyện trên giời,

Chữ Nhẫn, Chữ ngày xuân, Khai bút, Giáng sinh ở phố, Hỏi đường, Cảm xúc người

đọc, Lối rẽ của văn, Mượn văn và văn mượn, Ô tô và văn chương, Thể loại, Văn

học trẻ bị phê bình có đau không? ...) rốt cuộc chỉ để trả lời câu hỏi: Nhà văn thì

chơi với ai? Đúng với bản chất thể loại, tản văn của Nguyễn Việt Hà thường bắt đầu

từ những chuyện “vặt” rồi lôi kéo những suy nghĩ tỏa lan để đi đến một cái kết

“chất lừ”, bộc lộ rõ cái “tạng” đầy cá tính. Cuối cùng thì trong bao nhiêu kiểu

người, hạng người ngoài kia, nhà văn chơi với ai? “Nhà văn chơi với nhà văn

thường bền, đơn giản hầu hết không biết nói đến chuyện buôn, lại càng ngu khi nói

đến chuyện bán. Ngồi với thương gia thì tủi thân, ngồi với quan chức thì tự ti, thôi

thì rụt rè mà về ngồi với nhau. Có phải vì thế mà đại hội nhà văn lần nào cũng thành

công như cũ, vì nếu Hội nhà văn mà tan thì biết bao nhiêu người viết tử tế biết đi tới

chỗ nào mới thấy được bạn” (Nhà văn thì chơi với ai).

58

Nguyễn Việt Hà cũng là một trong số các cây bút tản văn tích cực viết về đề

tài văn hóa Hà Nội, với anh, đó là một cách bảo lưu các giá trị xưa và nay của một

vùng văn hóa đặc biệt. Hơn hai thập niên giao thời của hai thế kỷ, anh kiên nhẫn

dựng nên chân dung con người, diện mạo thành phố mình đang sống. Đặc biệt, với

bao lớp người, kiểu người Hà Nội đã – đang và sẽ tiếp tục tồn tại ở vùng đất này,

Nguyễn Việt Hà cố gắng nhận diện họ trong thời điểm xã hội đòi hỏi khẳng định

bản sắc để biết cần giữ lại điều gì, tiếp tục phát huy giá trị nào, loại bỏ những gì?

Mặt của đàn ông, Đàn bà uống rượu, Con giai phố cổ - ba tập tản văn phác thảo

sống động, đa dạng chân dung người Hà Nội từ góc nhìn của người trong cuộc. Tập

Mặt của đàn ông xoay quanh mấy từ khóa cơ bản: “đàn ông”, “phố cũ”, “sách xưa”,

“rượu ngon”, “người đẹp”… mà đủ thứ chuyện để nói, để nghĩ. Anh phát hiện “đàn

ông Việt hay tươi cười” mà “khi bàn về cười, đôi khi con người ta cũng phải mếu

máo cay đắng đùa”; nhà văn cũng thấy đàn ông kẻ chợ thỉnh thoảng “nảy” ra một cô

đồng nhưng không hề lạ, ngược lại, nó làm thành màu sắc riêng ở khu chợ nổi tiếng.

Đây là chân dung “Phương cô đồng” bán bánh ở khu chợ Đồng Xuân: “Anh ta đầu

đội thúng, mồm và mông dẻo nguây nguẩy, nói tục như ranh. Bánh dày giò của

Phương đồng cô tinh tế khó tả, một thứ quà tuyệt phẩm của chợ” (Đàn ông ngồi

chợ). Phải tới tập tạp văn Con giai phố cổ, Nguyễn Việt Hà mới “ngó nghiêng”,

ngắm nghĩa kĩ từng gương mặt đám đàn ông sinh tồn làm nên sắc diện của Hà

thành. Trong tập sách có đủ thành phần, từ đám đàn ông, những gã khờ và mưu sĩ,

rồi những nàng thơ của họ, đến những chuyện tình ái đọc lên sực nức đùa giễu. Đó

là những người mà trong cảm nhận của nhà văn thì “bọn họ thong thả ăn, tinh tế

mặc, chầm chậm sống. Có bọn họ, Hà Nội hôm nay mới có nổi dăm bảy hàng phở

ngon, vài ba quán cà phê thị dân sâu lắng. Bọn họ chẳng chịu là gì, sống bạc nhược

nghệ sĩ nửa mùa, rồi trả ơn Hà Nội bằng cách quyết liệt tự nuôi cho mình những

thói quen của bao đời Hà Nội.” Nguyễn Việt Hà vừa bảo, đó là “linh hồn” của thành

phố này, vừa giễu “thăm thẳm mơ màng rêu phong tạo riêng một bản sắc” (Con giai

phố cổ). Thỉnh thoảng, viết về giới nhưng Nguyễn Việt Hà có những tản văn chân

dung một vài người bạn văn nghệ, đó là họa sĩ Lê Thiết Cương, nhà thơ Nguyễn

Quang Thiều, nhà thơ Đồng Đức Bốn, nhà văn Đỗ Phấn, nhà văn Nguyễn Nhật

59

Ánh… Có ý kiến cho rằng tạp văn của Nguyễn Việt Hà có một số lượng lớn xuất xứ

từ chuyên mục viết về đàn ông, nên dễ hiểu là anh có điều kiện thâm canh mảng đề

tài về nam giới thành thị.

Tuy nhiên, mỗi con người Hà Nội – không kể giới tính, trong cảm quan nhà

văn đều là những “di sản sống” của văn hóa Hà Nội. Nên không chỉ đàn ông, phụ

nữ Hà thành cũng bước vào tản văn của Nguyễn Việt Hà đông đảo, đa dạng trong

tập Đàn bà uống rượu. Vẫn sử dụng thế mạnh của lối viết hài hước sâu cay, ngôn từ

tung tẩy đi từ Đồng Xuân qua chợ Hôm xuống chợ Đuổi, những địa danh buôn bán

nổi tiếng của Hà Nội, ngoài những chuyện nóng hổi của phố xá, những chuyện xảy

ra với những người đô thị ở thập niên đầu thế kỷ 21, tập sách một mặt “kể” cho độc

giả nghe từ chuyện phụ nữ rắp tâm tranh đoạt lấy quyền cầm cương uống rượu đến

việc lựa chọn tình yêu cho mình, chuyện những người đàn ông vật lộn với việc

khẳng định tư cách nam nhi trong con mắt đám phụ nữ sắc sảo giữa một đô thị

đang làm mờ nhòe đi mất những cá tính. Mặt khác, tập tản văn cũng dành đất ưu ái

cho những khoảng lịch lãm của người Hà Nội, trân trọng kiến thức, cốt cách truyền

đời chảy trong huyết quản mỗi cá thể. “Vỉa hè dọc phố Nhà Chung như ấm hơn khi

có hai mẹ con đi lễ. Bà mẹ lưng còng nhưng dáng thẳng, áo dài nhung đen, khoác

ngoài áo bông nền nã chần chữ ‘hỉ” chìm. Bà cụ quàng hờ khăn nhung the kiểu xưa

cũ, quý tộc lộ mái tóc bạc trắng tuyền như cước, phảng phất mùi hương nhu. Người

già mà thơm đều là những người ngoan đạo”. Sự xuất hiện của những con người Hà

Nội nền nã, lịch thiệp, thong thả giữa phố xá “gió trong mưa sạch”, cư dân nơi đô

thị vãn bớt làm lộ ra những khoảng của mái ngói rêu phủ, thềm lá vàng, nhạc không

lời và tiếng chuông nhà thờ khiến nhà văn nhận ra: “Mùa xuân đã trả lại cho phố

phường những người Hà Nội thật. Phải chăng, chỉ có không gian thật Hà Nội thì

may ra mới còn người Hà Nội” nên hạ kết tản văn là mong ước vừa chính đáng vừa

hài hước: “Cúi lạy trời đất, xin ban cho thành phố của chúng con ngày nào cũng

Tết” (Tết ở Hà Nội)

Phần hấp dẫn, nhất quán trong các tập tản văn của Nguyễn Việt Hà nằm ở

góc nhìn thẳng về Hà Nội với mọi vấn đề vây tỏa quanh nó. Trong khi Hà Nội biến

đổi từng ngày, vấn đề bản sắc trở đi trở lại đến mức ám ảnh trong tâm lý của hệ

60

thống truyền thông, Nguyễn Việt Hà luôn giữ nguyên quan điểm cá nhân rằng ký ức

về những hành vi văn hóa của thị dân là thứ có khả năng truyền giữ lâu nhất, khối

ký ức sâu sắc và phong phú đó được nhà văn ký thác vào sáng tác của mình, nếu

không phải tiểu thuyết, truyện ngắn thì đó sẽ là tản văn. Nhưng nếu không có một

cách đối thoại ấn tượng thì những gì Nguyễn Việt Hà muốn nói cũng chỉ là chuyện

“biết rồi, khổ lắm, nói mãi!”. Nhà văn đã chọn cách chia sẻ vói tâm thế bình thản,

một vựa ngôn ngữ mặn mòi và sự am hiểu sâu sắc về đối tượng nghệ thuật. Các sự

kiện, vấn đề liên quan tới muôn mặt đời thường trong cuộc sống đô thị nhốn nháo

với không ít nghịch lý, phàm tục; các nhân vật dù là đàn ông - đàn bà, thương gia,

văn sĩ, diễn viên... hiện diện trong tạp văn của Nguyễn Việt Hà đều được mổ xẻ,

bình luận với giọng văn hài hước, có khi giễu cợt và sau cùng thường là một chiêm

nghiệm, triết lý. Dù tràn ngập giọng điệu bỡn cợt, giễu nhạo, người đọc vẫn thấy

cay khóe mắt khi gặp những hồi ức, những cuộc tái ngộ: “Gặp lớp cũ vui nhất là

gặp đám bạn từ thời phổ thông, nếu từ hồi mẫu giáo ỉa bô lại càng cảm động. Bởi

bạn cũ lâu ngày không gặp luôn làm nhiều bất ngờ rưng rưng... Hoàn cảnh nào cũng

ngạc nhiên hay. Có chức có tiền thì làm bạn thấy sang. Có nghèo có khó thì làm bạn

nghẹn ngào chia sẻ”. Khi tàn cuộc cũng là lúc “phố xá mệt mỏi lên đèn. Cả lớp phổ

thông như chợt tỉnh bàng hoàng nhìn nhau. Thế là đã thật hết Tết. Thế là tuổi thơ

vĩnh viễn qua rồi” (Bạn học phổ thông).

Hướng về Hà Nội, có xu hướng ngợi ca những giá trị văn hóa một thời bên

cạnh xu hướng “nghiện” nói về sự biến mất của cốt cách Hà Nội. Cũng ngẫm ngợi

về phố phường ở thời điểm hiện tại, Nguyễn Việt Hà viết những tản văn chứa đựng

sự dung hòa của hai xu hướng. Sự dung hòa ấy là kết quả của cái nhìn khách quan,

thẳng thắn, sắc sảo, thể hiện rõ quan điểm cá nhân trước những vấn đề hiện thực của

đời sống. Nhờ đó, người đọc nhận ra một Hà Nội loay hoay định nghĩa bản sắc, một

Hà Nội hiện tại bị “mắc kẹt” giữa một không gian phố phường đầy “nông nổi”

nhưng không kém phần “siêu hình da diết tinh tế cụ thể”. Hơn thế, vượt ra khỏi biên

độ nhịp đời của một thành phố, tản văn Nguyễn Việt Hà giữ chân người đọc lâu

hơn, bắt họ nghĩ sâu hơn về đạo đức, về sự sinh tồn của mỗi cá thể trong cộng đồng,

về sự tác động của xã hội đương thời đến những vỉa tầng văn hóa tiềm ẩn sâu trong

61

mỗi cá nhân, về giá trị tích cực và tiêu cực hiện diện trong đời sống, về cái còn lại

và mất đi của bản sắc văn hóa. Và như vậy, Nguyễn Việt Hà trở thành một trong

những cây bút tản văn kiểu mẫu, góp phần khẳng định chất lượng nghệ thuật và tư

tưởng của thể loại tản văn Việt Nam hiện đại.

2.2.3.3 Tản văn của Nguyễn Ngọc Tư

Mỗi nhà văn thường chọn cho mình một địa hạt để khai thác và tạo nên mảng

màu của riêng mình. Với Y Phương là núi non Cao Bằng và văn hóa Tày, Nguyễn

Việt Hà chọn Hà Nội, Nguyễn Ngọc Tư viết không mỏi mệt về Cà Mau. Chị được

xem là nhà văn tiêu biểu thuộc thế hệ sau tiếp nối xuất sắc các nhà văn danh tiếng

thế hệ trước như Hồ Biểu Chánh, Sơn Nam, Đoàn Giỏi… trong việc duy trì và sáng

tạo dòng cảm hứng về vùng đất cực Nam của tổ quốc.

Nguyễn Ngọc Tư đặt chân vào làng văn chương Việt Nam bắt đầu bằng thể

loại truyện ngắn và nhanh chóng xác lập, khẳng định phong cách độc đáo qua một

loạt các tập: Ngọn đèn không tắt (2000, giải I trong Cuộc vận động sáng tác Văn

học tuổi 20 lần II, giải Mai vàng cho Nhà văn xuất sắc năm 2000, giải B ở Hội nhà

văn Việt Nam năm 2001), Ông ngoại (2001), Biển người mênh mông (2003), Giao

thừa (2003), Nước chảy mây trôi (2004), Đau gì như thể (giải Ba cuộc thi truyện

ngắn của báo văn nghệ năm 2004-2005), Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư ( 2005),

Cánh đồng bất tận (2005, giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam năm 2006, giải thưởng

LiBeraturpreis 2018 do Hiệp hội Quảng bá văn học châu Á, châu Phi, Mỹ Latin tại

Đức bình chọn) v.v… Từ 2005 trở đi, Nguyễn Ngọc Tư dành sự quan tâm đặc biệt

cho thể loại tản văn, tạp bút. Chị cho rằng đó là thể loại thể hiện được sự đa dạng

chiều kích cảm xúc. Từ đó tới 2019, gia tài tản văn, tạp bút của Nguyễn Ngọc Tư

phong phú không kém số lượng các tập truyện ngắn được trình làng. Đó là Sống

chậm thời @ (2006, in chung Lê Thiếu Nhơn), Ngày mai của những ngày mai

(2007), Biển của mỗi người (2008), Yêu người ngóng núi (2009), Gáy người thì

lạnh và Bánh trái mùa xưa (2012), Đong tấm lòng (2015), Hành lý hư vô (2019).

Riêng Tạp văn Nguyễn Ngọc Tư ra đời năm 2005, tháng 8 năm 2020 tái bản lần thứ

20, thuộc nhóm sách bán hơn 20.000 bản – đủ khẳng định sức hút từ tản văn của

Nguyễn Ngọc Tư. Không chỉ thành công ở truyện ngắn và tản văn, Nguyễn Ngọc

62

Tư còn thử sức với tiểu thuyết và thơ, xuất bản hai tác phẩm Sông (tiểu thuyết) và

Chấm (thơ). Bền bỉ lặng lẽ sáng tác, không ồn ào chiêu trò, Nguyễn Ngọc Tư được

tạp chí Forbes bình chọn là một trong số 50 người phụ nữ có ảnh hưởng nhất tại

Việt Nam năm 2018.

Tản văn của Nguyễn Ngọc Tư là những câu chuyện nhỏ xoay quanh một trụ

cảm hứng duy nhất: Cà Mau. Đó là cảnh sắc sông nước Cà Mau, những trăn trở về

cuộc đời những con người Cà Mau, ký ức về bao mảnh đời và những chân dung

trong cuộc đời nữ nhà văn cũng là những con người và phong tục tập quán thuộc về

Cà Mau… Nguyễn Ngọc Tư kể về miền quê Đất Mũi: "... Gió mùa phây phẩy, gió

đưa trời lộng lên cao, phù sa bắt đầu nôn nả lấn biển rồi không lâu lắm đâu, từ bãi

bồi, đất sẽ cồn lên, một rừng mắm xanh non rào rạt tiến về phía trước giữ đất lại cho

người...", ở đó có “lô xô những ngôi nhà tạm bợ mọc lên chen nhau bạt trống huơ cả

mấy khoảng rừng. Thiên nhiên bắt đầu nghèo nàn, rách rưới, mà đất vẫn hiền như

mẹ, dẫu con lầm lỗi vẫn ôm vào tấm lòng” (Đất Mũi mù xa). Và chỉ ở vùng đất Mũi

mới có mùa gió chướng in đậm ký ức con người từ ấu thơ tới khi trưởng thành chỉ

vì “gió chướng vào mùa thì lúa cũng vừa chín tới, hy vọng rực lên theo màu lúa.

Mùi rơm thơm ràn rụa thổi ngang đồng, nỗi buồn lo của má tan không thành tiếng,

tan mau như sương. Đáng chờ đợi lắm, vì mùa gió chướng cũng là mùa thu hoạch.

Gió thổi tạnh ráo những đôi chân suốt một mùa đầm đìa trên đồng bãi. Liếp mía đặt

từ hồi tháng hai, tháng ba, đợi gió mới chịu già, nước ngọt và trĩu, cầm khúc mía

trên tay, nghe nặng trịch. Vú sữa chín cây lúc lỉu, căng bóng, màu vàng lan dần từ

đít những trái xanh, trái tím càng tím lịm, nửa đêm dơi ăn rớt lịch bịch ngoài hè.

Còn dưa hấu nữa, ui chao...” (Gió mùa).

Nhà văn Nguyễn Thành Phong kể: Tôi nhắn tin cho Nguyễn Ngọc Tư: “Em

gửi cho anh cái gì đó viết về tình người cuộc sống lao động vùng Nam bộ để giới

thiệu với bạn đọc Lao động và Xã hội nhé”. Cô gửi mail cho tôi một chùm bài viết

kèm lời nhắn: “Coi lại thì em không viết gì về cuộc sống lao động mà toàn là cuộc

sống quê mùa. Anh đọc thử xem có chọn được món nào, không thì cũng không

sao”. Tôi đọc xong, trả lời: “Đây chả là tình người cuộc sống thì là gì?”. Vậy đó, cái

mà nhà văn cho là “cuộc sống quê mùa” chính là tình người, cuộc sống. Đề tài trong

63

tản văn của chị không mới, chỉ là những câu chuyện đời thường của những người

nông dân bình dị, quê mùa nhưng lại lôi cuốn người đọc bởi cái nhìn đầy chân thật

và nhân hậu. Những nhân vật trong trang văn của chị hầu hết là những người nông

dân hồn hậu, chất phác của thôn quê, qua đó, nhà văn tái hiện một dải đồng bằng

với những tỉnh lẻ, ruộng vườn, sông nước (Xa đầm Thị Tường, Tháng Chạp ở rạch

Bộ Tời, Chợ bên đường, Tản mạn quanh… cái cổng, Đi qua những cơn bão khô,

Chờ đợi những mùa tôm, Chút tình thuwong nhớ, Gió mùa thao thức, Ngơ ngác

mùa dưa, Chợ của má, Ngủ ở mũi, Mơ thấy mùa đang tới…).

Đọc sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư, độc giả tưởng như tác giả chưa bao giờ

đi xa khỏi vùng đất quê hương mình nhưng không bao giờ thấy chán, thấy hết cảm

hứng về nơi này. Hằng ngày, hằng giờ, Nguyễn Ngọc Tư vẫn đối diện, quan sát,

nghĩ ngợi, lặn ngụp, ngắm nghĩa mọi điều diễn quanh cuộc sống của mình rồi hồ

hởi bắt tay vào viết, truyện ngắn hay tản văn, nghĩ gần hay xa, chuyện nhỏ như

chuyện món ăn hằng ngày tới chuyện lớn tầm quốc gia – vẫn khởi sự từ thứ gì đó

thuộc về vùng đất cực nam của tổ quốc… Đọc, để thương Cà Mau và những vùng

nông thôn Việt Nam nhiều hơn, để sẻ chia gánh nặng của bà con. Nhiều người cho

rằng Nguyễn Ngọc Tư hấp dẫn bởi chất liệu nghệ thuật đậm sắc văn hóa vùng miền,

song có lẽ các giải thưởng dành cho chị đề cao năng lực ở một nhà văn trẻ có thể

khơi dẫn những vấn đề thời sự có tầm vóc từ những chuyện nhỏ xíu, thậm chí là

tầm thường. Chỉ là câu chuyện không đầu không cuối của bà giúp việc, cô nhà văn

nghĩ về giáo dục trẻ nhỏ, mà cách bà dạy bảo thằng bé đúng là khẩu khí của người

đàn bà bếp núc: “Bà giúp việc từng làm bạn giật mình khi dạy thằng con bạn khi nó

bị ức hiếp ở trường, “bị đánh là phải kêu đau, la cho thiệt lớn, la hoài huỷ, rồi sẽ có

người nghe. Không kêu thì ai biết đâu mà giúp”. Bà nói cá kèo bị nhốt muối còn

giãy đành đạch tới lúc cuối cùng”; một bà giúp việc nói về chuyện chủ quyền biển

đảo Tư Chính, mặc dù cái “bà thu nhặt được biết đâu chỉ là tin giả, nhưng quan

trọng gì, bà nhớ tới vùng biển đảo đó, và không bỏ rơi nó”. Người đàn bà làm thuê

có khi nói xong bỏ đó nhưng lại khiến cô nhà văn phải ngẫm nghĩ mà len lén bẽ

bàng: “Giờ nhớ lại lời bà bữa đó, bạn nghĩ tới mình. Những nửa đêm kể từ cuộc

xâm phạm ngạo ngược nọ, bao lần tỉnh giấc bởi mưa khuya, bao lượt lăn trở mà vẫn

64

chưa ngủ lại được, bạn không một lần sực nhớ quê hương còn mất” (Lạc). Những

tản văn lan man kéo từ chuyện nhỏ tới vấn đề lớn như thế thường “pha” giọng điệu

chính luận hài hòa giọng tự sự trữ tình - nét mới lạ nổi bật trong tập tạp văn của

Nguyễn Ngọc Tư. Giọng điệu riêng đó được bộc lộ khi bàn về những vấn đề thiết

thực, sát sườn với quê mình. Đó là Ngậm ngùi Hưng Mỹ với tôm chết, hệ thống

thủy lợi trục trặc, nợ ngân hàng chất chồng lên vai người nông dân. Tính chính luận

đó thể hiện nhẹ nhàng mà có phần nghiêm khắc trong Kính thưa anh nhà báo, đoản

khúc “kính thưa" này có thể làm giật mình nhiều nhà báo/nhiều tờ báo khi chị "nhắc

nhở" rằng xin anh nhà báo đừng chỉ viết toàn tiêu cực về một vùng đất bởi vì vẫn

còn đó những tấm lòng, những con người tốt đẹp đang vun đắp xây dựng: “Anh nhà

báo ơi, đất Cà Mau chúng tôi còn hàng triệu chân dung người tử tế, hàng trăm câu

chuyện ấm lòng như thế nhưng anh không nhắc tới, nhắc ít, hoặc vả nhét vô tuốt

trong ngách nào đó của tờ báo nào đó, tít nhỏ, chữ cũng nhỏ (còn chuyện lu bu anh

bày ngang trang đầu, đập vào mắt người ta những con chữ thật kêu, cực kỳ ấn

tượng). Vậy là anh không công bằng rồi (…)” (Kính thưa anh nhà báo). Dù hàm ý

ngôn từ gay gắt, nghiêm khắc nhưng vẫn được truyền đi bằng giọng điệu thủ thỉ tâm

tình mà ẩn sau giọng nói trong trẻo, duyên dáng của một cô gái miền Tây là sự trải

nghiệm về thời cuộc, đời sống dân dã và tình yêu thiết tha dành cho đồng đất, con

người, văn hoá của vùng đất cực Nam Tổ quốc...

Nguyễn Ngọc Tư viết tản văn, tạp văn bởi nhu cầu bày tỏ thôi thúc tự bên

trong con người nên không quá kỳ công nghệ thuật. Đôi lúc, sự sắp đặt tỉ mẩn công

phu sẽ làm mất đi nguyên vẹn rườm rà sự sống. Hành văn của chị tự nhiên và giản

dị đến thô mộc, mật độ phương ngữ xuất hiện dày đặc và gần như rộng khắp trong

mỗi sáng tác, nó là thứ từ vựng dân dã bắt nguồn từ chính cuộc sống đời thường:

“…ông nói như chỉ nói với mình: - Mai mốt mình đi nữa hen Cộc? Con vịt cạp mắt

cá chân ông, đi thì đi chớ gì. - Mày đi hoài, mầy mệt không? Nó há mỏm đốm đen

cạp ngón cái chân ông, thì mệt chớ. Tao đốn tràm, làm nhà lại, ở luôn nghen” (Cái

nhìn khắc khoải). Chất Nam Bộ trong tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư còn bộc lộ

qua hàng loạt các từ ngữ chỉ các loại cây dân dã, những kinh, rạch như Thị Tường,

Rạch Mồ Côi, Rạch Ổ Ó; các bến sông như (Đậu Đỏ, Cầu Chùa, Rạch Rập); những

65

vùng đất (Tân Phong, Đất Cháy)… nhân vật trong tác phẩm của chị là những con

người Nam Bộ với những cái tên cũng chân chất kiểu Nam Bộ, những Bảy, Hai,

Mười; họ xưng gọi nhau bằng bây, má, tía, qua, chế… những từ chỉ địa hình, sản

vật gắn với một vùng sông nước: bình bát, bông, hột, bông súng, bông trang, mồng

gà, ô rô, cây tra, lồng đèn, sạp ghe, tủ kiếng, cải lương, vọng cổ… Và một loạt

những từ biến âm và biến âm có rút gọn: bi nhiêu, hổng dè, thiệt, thí mồ, ảnh, trển,

ổng, phải hôn (…); thói quen diễn đạt kiểu Nam Bộ: mùi ác liệt, mệt gì đâu, mắc

mớ, mùi rụng rún, mần chi, ngắc ngứ hoài, coi đâu có được, cực trần ai khoai củ,

như vầy nè, lãng òm, dữ ôn vậy không biết, mắc cười muốn chết (…); những tình

thái từ như: nghen, hén, chèn ơi... Có thể nói, phương ngữ Nam Bộ trong tản văn

nói riêng của Nguyễn Ngọc Tư đã được sử dụng hiệu quả, nó giúp chị trở thành một

trong số ít những nhà văn trẻ còn tiếp nối và lưu giữ được hồn cốt Nam Bộ vốn

được kiến tạo bởi lớp nhà văn cha, ông

ở đầu thế kỉ XX.

2.2.3.4 Tản văn của Trang Hạ

Thực sự khó khăn khi cần lựa chọn để giới thiệu những cây bút tản văn Việt

Nam tiêu biểu ở đầu thế kỷ XXI bởi lực lượng sáng tác tản văn đông đảo và số

lượng người viết thành công không nhỏ. Nhưng chúng tôi chọn giới thiệu nhà văn

Trang Hạ bởi chị thuộc số ít các nhà văn sáng tác thành công trên mạng và thuyết

phục được bạn đọc đa dạng trên thế giới mạng.

Những năm đầu của thập niên 90, Trang Hạ đã là cây bút nổi tiếng, trưởng

thành từ thế hệ đầu của Hội bút Hương đầu mùa (Báo Hoa học trò). Năm 2002, làm

việc tại Đài Loan, chị bắt đầu sử dụng blog (nhật ký điện tử) chia sẻ trên mạng

những bài viết nhỏ và giới thiệu các tác phẩm văn học Trung Quốc được chị dịch,

nhờ đó, Trang Hạ trở thành một nhà văn - blogger nổi tiếng. Có thể nói, ở thời

điểm những năm đầu của thế kỷ XXI, Trang Hạ là một hiện tượng bởi chị có một

lượng độc giả lớn trông đợi bài viết của chị trên mạng mỗi ngày.

Với thể loại tản văn, Trang Hạ đã xuất bản các tập: Đàn bà ba mươi (2010),

Đàn ông không đọc Trang Hạ (2012), Rãnh ngực và tiệc đêm (2012), Tình nhân

không bao giờ đòi cưới (2014). Trong đó, Đàn bà ba mươi, Rãnh ngực và tiệc đêm,

66

Tình nhân không bao giờ đòi cưới được tái bản nhiều lần. Bên cạnh những tập sách

đã xuất bản, Trang Hạ vẫn viết đều đặn và đem tác phẩm đến với bạn đọc yêu thích

chị bằng con đường khác với số đông các nhà văn – mạng internet nên không có

con số cụ thể cho tản văn của chị. Cũng cần nói thêm rằng những tập tản văn của

Trang Hạ được xuất bản bằng cách tập hợp các bài viết (entry) đăng tải trên blog cá

nhân, nghĩa là trước khi đến với độc giả theo hình thức đọc sách in truyền thống,

các tản văn của chị đã có một đời sống riêng trên mạng, được độc giả đón nhận, bày

tỏ cảm nhận trực tiếp, được tương tác với tác giả. Ở tập tản văn Đàn bà ba mươi,

Trang Hạ nhận được sự tán thưởng của độc giả – đặc biệt bạn đọc phái nữ về những

chiêm nghiệm ngưỡng tuổi tuyệt nhất của người đàn bà - tuổi 30, “khi những sân si

đã lùi bớt, người phụ nữ chợt nhận ra tuổi trẻ ngồn ngộn sức sống đấy, nhưng cái

mặn mà, sắc sảo và tinh tế mới là nét đẹp lâu dài. Có lẽ bởi thế, đàn bà bình tĩnh

hơn để không quá say trong khói thuốc, vật vờ trước hũ rượu và biến cô đơn, im

lặng thành thứ trang sức quý giá nhất. Họ chẳng cần mặc những bộ váy hở hang để

đàn ông nhìn vào, không e lệ sau tay lái người bạn đời mà sẵn sàng lao trên khung

đường bằng chiếc xế hộp bốn bánh do chính họ tự mua. Quan trọng hơn cả, họ đã

bắt đầu hiểu và yêu cái chất “nữ” thật sự trong bản ngã của tâm hồn đàn bà trưởng

thành”. Trong khi đó, tập tản văn Đàn ông không đọc Trang Hạ là những mẩu

chuyện nhỏ về những chủ đề xoay quanh: Đàn ông nhưng đằng sau mỗi câu chuyện,

vẫn thấp thoáng bóng dáng của “một người đàn bà” từng trải và hiểu thấu đáo bản

tính đàn ông. Tập sách Rãnh ngực và tiệc đêm lại giống như sợi dây kết nối đàn ông

và đàn bà với nhau. Đó là sự trải lòng hồn nhiên nhưng không kém phần tinh tế, sâu

sắc qua lăng kính của một phụ nữ tuổi ba mươi. Những câu chuyện trong tập tản

văn này đậm muối mặn của đời những câu chuyện tản mạn thường ngày mà chị em

phụ nữ vẫn hay "buôn" với nhau, nó chân thực tới mức Trang Hạ không ngại ngần

viết: “Thói thường, đàn ông thường phát điên bởi khoảng hẹp giữa hai bầu vú người

đẹp, nửa khoe nửa bẽn lẽn trong chiếc đầm tiệc tối. Nên phụ nữ thường rất mâu

thuẫn, vừa muốn giảm cân để có cái vòng eo thon và cặp đùi gầy – nàng tin rằng eo

thon gợi tình, chân dài gợi cảm – vừa muốn giữ nguyên bầu ngực đầy đặn của một

phụ nữ tràn đầy sức sống, có được một size áo lót của người phụ nữ có lẽ phải béo

67

hơn nàng tới 10kg”, nhà văn không đồng tình với câu chuyện chị em nỗ lực giảm

cân tìm sự quyến rũ vì “béo không có nghĩa là hết cơ hội hạnh phúc. Không có

chiếc thước dây nào quyết định được hạnh vận của một người phụ nữ” (Rãnh ngực

và tiệc đêm). Tình nhân không bao giờ đòi cưới là tập sách tản văn gần đây nhất của

Trang Hạ, tập hợp 75 bài viết tâm tình, chia sẻ của nhà văn cùng những người trẻ và

những người không còn trẻ. Những chia sẻ của người đàn bà trải nghiệm đi xa tuổi

30 thường sâu sắc như một triết lý: bạn hạnh phúc vì bạn dám tự quyết định cuộc

đời mình; vì ta chẳng thay đổi được cuộc sống này, nhưng ta có thể thay đổi cách

sống và cách nhìn nhận; vì yêu nên thấy có nhau trong đời là đủ (…), đó hoàn toàn

là những chia sẻ tích cực của một người có thấu hiểu về tâm lý đời sống con người.

Vẫn là sự ưu ái của Trang Hạ dành cho phụ nữ. Vẫn là những bài viết lấy chủ đề về

tình yêu, hôn nhân, hạnh phúc quen thuộc nhưng đó không chỉ là sự ưu ái, thương

cảm thân phận của người phụ nữ mà Trang Hạ còn giúp mỗi người phụ nữ biết nâng

niu bản thân mình, biết yêu thương, tha thứ, trân trọng từng phút giây của cuộc sống

và luôn biết tự nắm giữ hạnh phúc của mình, tích cực hơn trong suy nghĩ và hành

động. Những trang viết của chị muốn nhắn nhủ bạn trẻ đừng bao giờ lấy hôn nhân

để ràng buộc tình yêu; đừng bao giờ nâng lên đặt xuống người đàn ông của mình

mà hãy thay đổi bản thân để xứng đáng được hưởng hạnh phúc; tình yêu không chỉ

là nhìn thấy những điều tốt đẹp ở nhau mà còn là chấp nhận những điểm khiếm

khuyết của nhau và cùng mong muốn điều chỉnh để hạnh phúc; đừng bao giờ buông

bỏ và tuyệt vọng vì cuộc sống rất đáng trân trọng… Còn nếu không học được cách

thay đổi để hạnh phúc, thì cũng đừng đặt nặng câu chuyện hôn nhân, hãy coi nhau

“là những tình nhân trọn đời không bao giờ đợi cưới! Nên đã từng là tình nhân, sau

này, cứ coi nhau như một nửa bạn bè một nửa người thân, hoặc hơn một người bạn

thân! Để chút tình còn lại dành cho người yêu đang tới. Vì người con gái luôn yêu

như đây là mối tình đầu. Còn người con trai luôn yêu như đây là mối tình cuối cùng

trong đời. Cho nên, bằng cách này hay cách khác, rồi chúng ta cũng sẽ hạnh phúc.

Chỉ là, rồi chúng ta sẽ vắng mặt trong hạnh phúc của nhau” (Tình nhân không bao

giờ đòi cưới).

68

Sau khi trào lưu sử dụng blog tạm lắng, xu hướng sử dụng trang facebook cá

nhân thịnh hành, Trang Hạ tiếp tục thích nghi hoàn cảnh mới bằng việc xây dựng và

sáng tác trên Facebook Trang Hạ song song với việc lưu giữ Blog Trang Hạ. Tới

thời điểm hiện tại, trang facebook cá nhân của chị có 474.907 người theo dõi, đồng

nghĩa với mỗi dòng trạng thái, bài viết được chia sẻ, sẽ có số người quan tâm lên tới

hàng trăm nghìn. Và thực tế cho thấy, mỗi bài viết của Trang Hạ được chia sẻ trên

trang cá nhân, số lượt yêu thích (like), số người tương tác bình luận /đối thoại/ bày

tỏ (comments), số lượt chia sẻ tới các trang cá nhân khác (share) lên tới con số hàng

nghìn. Chẳng hạn ở bài viết đăng tải ngày 5/9/2020 có nhan đề Kỳ thị vùng miền đã

nhận được 2.500 lượt yêu thích (like), 256 bình luận phản hồi (comment) và 210

lượt chia sẻ (share).

Điều gì ở các bài viết tản mạn của Trang Hạ tạo ra sức hấp dẫn đông đảo

cộng đồng mạng đến vậy? Thời blog Trang Hạ “hot”, các entry ra đời có xu hướng

đề cao giá trị nhân cách của người phụ nữ, sự quan tâm tỉ mỉ tới trạng thái đời sống

tinh thần của nữ giới giữa đời thường, đặc biệt là thái độ bênh vực mạnh mẽ số phận

những phụ nữ bất hạnh. Đâu đó có ý kiến tản văn của Trang Hạ khác biệt bởi tinh

thần đấu tranh khẳng định nữ quyền mạnh mẽ. Sang đến facebook Trang Hạ, “nữ

quyền” hay sự quan tâm của nhà văn dành cho phái nữ không còn là đề tài duy nhất,

biên độ của đời sống được mở rộng tối đa, mọi câu chuyện của đời đều trở thành

một vấn đề để nhà văn mô tả và bày tỏ suy ngẫm. Chị viết về hôn nhân (Vì sao

chúng ta lại lấy chồng, Bạn chẳng bỏ qua đàn ông tốt nhưng đàn ông tốt bỏ qua

bạn), về giáo dục (Làm thế nào hứng một đứa trẻ đang rơi?, Team giải đề hay team

giải đố, Chọn trường Đại học), về văn hóa ứng xử cộng đồng (Kỳ thị vùng miền,

Thời khó)… Tất nhiên những sáng tác sinh thành trên bàn phím vẫn giữ được những

đặc điểm cơ bản của tản văn (dung lượng, đề tài, kết cấu, các thủ pháp nghệ thuật,

cái tôi tác giả…) xong ngôn ngữ mạng đem lại cho những sáng tác một sắc diện

riêng, đặc biệt. Chẳng hạn cách sử dụng ngôn ngữ theo trào lưu trên mạng xã hội

(không dấu, Anh- Việt, viết tắt đồng hiện) hòng tạo ra những cách hiểu khác nhau:

“Team vợ giỏi vs Team vợ đảm - Không thể không dam dang?”; sử dụng nhiều khẩu

ngữ, ngôn từ biếu đạt xúc cảm trực tiếp: “Giỏi hay đảm chỉ khác nhau ở đó! Mà vẫn

69

có thể, vừa đảm, vừa giỏi! Là do mình, do mình tự chọn cách mình trở thành ai đấy,

các mẹ ạ! Các mẹ có biết không, hi hi…” hoặc gay gắt, gai góc đến mức đốp chát,

bộc lộ trọn vẹn cá tính ngôn ngữ: “Vậy vấn đề của em hoàn toàn không phải là làm

sao TRÁNH được sự kỳ thị xuất thân, mà là CHIẾN lại nó, bằng sự giỏi giang, giàu

có, tử tế của em! Cách duy nhất chống lại sự tồi tệ online chính là, hãy trao cho bản

thân quyền tiếp tục sống tử tế!

Mặc mẹ những kẻ côn đồ, chúng có xuất xứ hoàn hảo, được bố mẹ trao cho vẻ đẹp

ngoại hình nhưng lại dùng điều đó để đi body shaming người khác, được sinh ra ở

đô thị vẻ vang nhưng nhờ thế sở hữu quan điểm sống hẹp hòi. Vậy xuất xứ cao sang

không cứu vãn được sự khốn nạn trong tâm trí!” (Kỳ thị vùng miền) (…).

Ngoài những gương mặt nổi bật nêu trên, rất nhiều tác giả sáng tác tản văn

gây ấn tượng với độc giả bởi một khía cạnh, một đặc điểm nào đó. Chẳng hạn tác

giả Phan Thị Vàng Anh thể hiện rõ cá tính mạnh khi chọn cách đặt vấn đề gay gắt

về muôn chuyện đời thường; nhà văn Nguyễn Nhật Ánh và nỗi nhớ giàu rung cảm

về mảnh đất Quảng Nam qua văn hóa ẩm thực và cảnh sắc quê hương; một Lê Minh

Hà “đồng sàng dị mộng” khi thân ở Châu Âu nhưng tâm là Hà Nội của những ngày

thơ ấu; nhà thơ Hoàng Việt Hằng với những tản văn nhẹ nhàng, giàu tính nữ, người

góp nhặt ký ức bé nhỏ để vá víu những mất mát trong cuộc đời người đàn bà ở tuổi

xế chiều; các tác giả Cao Huy Thuần, Nguyễn Quang Thiều, Dạ Ngân, Nguyễn

Vĩnh Nguyên, Đỗ Bích Thúy, Uông Triều v.v… Người trình làng số lượng tản văn

đáng ghen tị, người mới góp mặt bằng một tuyển tập nhưng tất cả những tác giả này

đều thể hiện đậm nét cái tôi cá nhân – từ thế giới suy tư sâu ẩn tới năng lực nghệ

thuật. Họ vừa góp phần làm nên sự sôi động của đời sống văn học nghệ thuật trong

nước, vừa tạo nên diện mạo mới cho thể loại tản văn, nhờ đó, thể loại vốn bị xếp

“chiếu dưới” được thăng hạng trong hệ thống thể loại.

2.3 Sự kế thừa và cách tân của tản văn Việt Nam đầu thế kỷ XXI

2.3.1 Sự kế thừa

Đặt trong mối quan hệ nối tiếp tản văn thế kỷ XX, tản văn Việt Nam đầu thế

kỷ XXI đã thể hiện rõ tính ổn định trong những giá trị được kế thừa và nhiều biến

đổi, sáng tạo, phản ánh sự vận động không ngừng của thể loại.

70

Tản văn XXI tiếp nối những gì từ tản văn XX? Có ba yếu tố tương đối ổn

định được tản văn đầu thế kỷ XXI bảo lưu: đề tài; một số đặc trưng về nghệ thuật;

hình tượng cái tôi tác giả trong tản văn.

Ở phương diện đề tài, dễ nhận thấy một mạch nguồn chảy bền bỉ trong tản

văn qua hai thế kỉ: truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc. Đầu thế kỉ XXI, giới hạn

đề tài được mở rộng tới mức gần như chẳng có chuyện gì không xuất hiện trong tản

văn nhưng trong số những tập tản văn được chọn khảo sát, chúng tôi nhận thấy mọi

rung động trong khoảnh khắc của người nghệ sĩ trước đời sống cuối cùng vẫn trở về

với câu chuyện văn hóa dân tộc. Chỉ có điều, hiện thực cuộc sống vận động không

ngừng khiến diện mạo văn hóa cũng thay đổi, góc tiếp cận và những xung động tình

cảm của người viết về văn hóa cũng theo đó thay đổi. Điều quan trọng, đích tới cuối

cùng của những người viết là ý thức bảo tồn các giá trị thuộc về bản sắc văn hóa

dân tộc vẫn được duy trì ổn định trong tản văn thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI. Ở

mảng nội dung về văn hóa dân tộc, những tản văn có tính khảo cứu về văn hóa địa

phương nói riêng, văn hóa dân tộc nói chung tiếp tục ra đời và đến với công chúng,

đủ sức thức gợi nhu cầu tìm hiểu văn hóa ở người đọc. Đó là những tập ghi chép

khảo cứu dày dặn của Nguyễn Ngọc Tư về văn hóa Nam Bộ; Y Phương, Đỗ Bích

Thúy với những khảo cứu chi tiết về văn hóa vùng cao, đặc biệt là văn hóa Tày; Lê

Minh Quốc với những tìm tòi về vai trò của người Quảng Nam trong tiến trình lịch

sử dân tộc; Băng Sơn, Nguyễn Ngọc Tiến, Nguyễn Trương Quý, Lê Minh Hà, Đỗ

Phấn, Uông Triều với hành trình khảo cứu, mô tả hồi ức đặc biệt về Hà Nội; Đàm

Hà Phú, Khải Đơn, Nguyễn Duy Quyền, Trần Nhã Thụy, Trác Thúy Miêu với văn

hóa Sài Gòn; Cao Huy Thuần, Trần Đức Tiến quan tâm đặc biệt tới văn hóa tôn

giáo v.v…

Xét từ phương diện nghệ thuật, tản văn đầu thế kỷ XXI vẫn duy trì sự linh

hoạt trong việc tương tác, cộng hưởng giữa các thủ pháp văn học với các đặc trưng

loại hình nghệ thuật khác; tính tự do trong cách biểu hiện; giọng điệu phong phú

nhưng đậm cá tính. Trước hết, tản văn thế kỷ XX đã có những thành công bước đầu

trong việc kết hợp giữa các thủ pháp của văn học với tố chất của nhiều thể loại văn

học khác (kí, thơ ca, kịch…) và loại hình nghệ thuật khác (hội họa, điện ảnh, sân

71

khấu…). Đầu thế kỉ XXI, tản văn tiếp tục phát huy cách viết sáng tạo đó mà nhà

văn – nhà thơ Nguyễn Quang Thiều là trường hợp tiêu biểu. Tập tản văn Người kể

chuyện lúc nửa đêm và những giấc gồm 25 tản văn, được chia làm bốn phần, được

ví như bốn giấc mộng có sự kết nối với nhau. Bên cạnh mỗi bài viết là một bài thơ,

tồn tại như một kết nối đầy cảm xúc. Mỗi bài viết là một câu chuyện, chứa đựng

những suy nghĩ và trăn trở rất riêng của nhà văn những được diễn đạt hỗ trợ bằng

bài thơ chứa đựng triết lý khiến người đọc se sắt lòng bởi những trăn trở về cái hữu

hạn của kiếp người… Phần lớn, tản văn mang trong mình dáng dấp của truyện ngắn,

có khởi đầu, tình huống thắt nút, kết thúc; có nhân vật và sự hình dung tương đối

đầy đủ về một chân dung được tái hiện. Một nhóm tản văn khác thể hiện tính gắn

kết với bút kí hoặc tùy bút v.v… Sự giao lưu của tản văn với các thể loại văn học,

các loại hình nghệ thuật khác khiến nó trở thành thể văn năng động, thích hợp với

trạng thái của đời sống hôm nay.

Cách biểu hiện đa dạng, phóng khoáng cũng là đặc điểm ổn định từ tản văn

thế kỉ XX tới tản văn đầu thế kỉ XXI. Hai thập kỷ trôi qua, đặc tính phóng khoáng

của một thế kỷ trước đó không chỉ được duy trì mà còn phát triển sắc nét hơn. Tản

văn hôm nay không bận bịu với băn khoăn được viết và không được về điều gì?

được viết và không được viết thế nào? những ai được viết và ai không được viết?

Không chỉ xóa bỏ các vùng cấm nội dung, đề tài của tản văn hôm nay còn vượt qua

tất cả các thể loại văn học khác, do đó người ta gọi tản văn là “viện bảo tàng của

cuộc sống” vì nó được ra đời bởi lực lượng sáng tác đa dạng, trải nghiệm sống

phong phú.

Sau cùng, đặc trưng giọng điệu tản văn XX tiếp tục được duy trì trong

những tản văn XXI. Mục đích của tản văn là bày tỏ quan điểm, cảm xúc cá nhân

thông qua một hoặc một vài sự kiện của đời sống. Mục đích đó đòi hỏi người viết

cần phả vào con chữ giọng điệu trò chuyện chân thành, giọng chia sẻ có phần nhỏ

nhẹ, tạo sức lay động thực sự. Viết những hồi ức về Đà Lạt như Nguyễn Vĩnh

Nguyên khiến người đọc tưởng tim mình có thể tan chảy với giọng văn mong manh

nhẹ như sương khói; giọng điệu chầm chậm kể nỗi buồn đau thân phận con người

trong tản văn của Nguyễn Ngọc Tư khiến người đọc chảy tràn nước mắt; Hoàng

72

Việt Hằng ngậm ngùi khi nhớ về bóng mẹ quanh nếp nhà xưa; Nguyễn Quang Lập

hay Nguyễn Việt Hà dù có hóm hỉnh tới đâu cũng vẫn không giấu được những băn

khoăn, tiếc nuối mơ hồ… không thể kể hết nét riêng trong giọng điệu của mỗi người

viết nhưng chắc chắn trong số vô vàn dòng chảy vẫn có sự nhập cuộc chung, đó là

giọng điệu sẻ chia – đối thoại thật gần gũi giữa người viết với người đọc. Nếu mất

đi điều này, hẳn tản văn không phải là lựa chọn của những độc giả đòi hỏi sự trung

thực trong cách nhìn cuộc sống và những chia sẻ, cảm thông.

Nếu đặc trưng của tản văn thế kỷ XX được định hình qua một số phong cách

cá nhân thì sang đầu thế kỷ XXI, sự hình thành các phong cách cá nhân tiếp tục

khẳng định tản văn thực sự là vùng đất màu mỡ để người viết thể hiện cái tôi nghệ

thuật. Một Phan Thị Vàng Anh duyên dáng, hóm hỉnh, sắc sảo khi thể hiện tinh thần

công dân xây dựng, dân chủ và thẳng thắn; tản văn Nguyễn Ngọc Tư nhẹ nhàng mà

gai góc, có khả năng làm tổn thương ngay cả những trái tim lạnh; phong thái tản

văn Nguyễn Việt Hà giống như sự “nén file” những trăn trở trong giọng điệu tưng

tửng, hài hước; Y Phương lại lặng lẽ bước vào chiếu tản văn bằng trang phục, dáng

vẻ, ngôn ngữ, thói quen, bản tính con người đậm chất văn hóa vùng cao; một

Nguyễn Quang Lập – nói theo cách người Nam, thật “sắc xéo”… 163 tuyển tập tản

văn là sự lựa chọn phong cách của 462 tác giả, trong đó, đề tài và tư tưởng là sự trở

đi trở lại tạo thành các loại hình nội dung tương đối ổn định của thể loại nhưng cái

tôi tác giả và phương thức biểu đạt lại đem tới sự đa dạng về phong cách, đem tới

sự sống phong phú cho văn học dân tộc ở đầu thế kỷ XXI.

2.3.2 Những cách tân

Sự đa dạng của lực lượng sáng tác là điều quan trọng trong quá trình cách tân

của thể tản văn. Sáng tác đặt ra những chủ đề liên quan đến con người trong tính mở

nhiều hơn vì sự mở rộng giới hạn trong đội ngũ tác giả cũng giống như việc mở

rộng thế giới được phản ánh trong mỗi tản văn. Đầu thế kỷ XXI, sự cởi mở trong

việc dung nạp những cây bút không chuyên vào đội ngũ nhà văn đã khiến quan

niệm về nhà văn trở nên linh hoạt; cũng vậy, việc nhà văn xuất hiện trong sáng tác

như người bạn đồng hành cùng độc giả trong đời sống thường nhật đã làm thay đổi

mối quan hệ hai bên. Người sáng tác tản văn thuộc nhiều ngành nghề, độ tuổi,

73

không gian địa lý khác nhau. Ngoài những cây bút chuyên nghiệp còn có nhiều tác

giả xuất phát điểm từ công việc xa lạ với văn chương (nhà văn hóa, nhà sưu tầm đồ

cổ, tiến sĩ khảo cổ học, kĩ sư công nghệ, kiến trúc sư…); một số nhà báo, nhà thơ,

nhạc sĩ, đạo diễn, họa sĩ rẽ ngang sang chiếu tản; bên cạnh các bậc cao niên trên văn

đàn (Băng Sơn, Nguyễn Quang Lập, Y Phương, Cao Huy Thuần, Nguyễn Quang

Thiều, Phan Vàng Anh, Hoàng Việt Hằng, Nguyễn Nhật Ánh, Lê Giang, Dạ

Ngân…) còn có lớp trung niên sung sức (Mai Lâm, Đỗ Phấn, Nguyễn Trương Quý,

Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy, Hoàng Hồng Minh, Uông Triều …), có những

cây bút rất trẻ đại diện cho tiếng nói của những người ở độ tuổi 20 (Mạc Thụy,

Ubee Hoàng, Anh Khang, Hamlet Trương, Iris Cao, Phan Ý Yên, Gào, Minh Nhật,

Phan Ngọc Thạch, Hạ Vũ, Dung Keii…). Bên cạnh nhưng cây bút trong nước,

lượng tác giả là người Việt Nam sinh sống tại nước ngoài cũng trình làng số lượng

tản văn lớn. Đặc biệt là sự xuất hiện của thế hệ công dân toàn cầu đã xuất hiện ở

cuối thế kỷ XX và ngày càng nhiều ở đầu thế kỷ XXI. Ai cũng có thể tham gia cuộc

chơi và sẽ trụ lại trong lòng độc giả nếu thỏa mãn hai tiêu chí căn bản: câu chuyện

cuộc sống được nhiều người đồng cảm và những vẫn đề có giá trị được gợi mở sau

đó. Như vậy, nếu nhìn từ góc độ thể loại, quan niệm về một người sáng tác tản văn

đã bớt phần khắt khe. Đội ngũ sáng tác đông đảo, đa dạng trở thành điểm mạnh của

tản văn đầu thế kỷ XXI song cũng chính vì thế mà tản văn dễ bộc lộ nhược điểm về

chất lượng nghệ thuật, có lúc tản văn được liên tưởng tới fastfood (món ăn nhanh,

tiện ích) và đứng ở nhóm văn học bình dân do chưa có sự kết tinh thực sự.

Ở giai đoạn nào, tản văn cũng thể hiện cái tôi tác giả đậm nét. Tuy nhiên, tản

văn đầu thế kỷ XXI có sự trùng khít giữa cái tôi đời thường với cái tôi trong sáng

tác. Trong tản văn ở thế kỷ XX, ấn tượng về cái tôi nhà văn là sự uyên bác. Đề tài

sở trường của tản văn thế kỷ XX là vẻ đẹp quê hương đất nước gắn liền với văn hóa

truyền thống dân tộc. Ở đó, người viết huy động vốn văn hóa, trải nghiệm phong

phú để biểu đạt cảm nhận cá nhân, từ đó hình thành cái tôi ngẫm ngợi, uyên bác.

Đầu thế kỷ XXI, cái tôi hiền triết chỉ còn thu lại trong những tản văn nghiêng về

khảo cứu, cái tôi đời thường chiếm ưu thế. Người viết đem bản mộc của những suy

ngẫm vào trang viết, không đòi hỏi chỉnh sửa, không bị ràng buộc bởi những hình

74

dung về phản ứng của người đọc. Cách đặt vấn đề tự nhiên như những cuộc trò

chuyện giữa hai người bình thường; không còn khoảng cách trong tâm thế của

người truyền đạt với người tiếp nhận; giọng điệu trò chuyện, chia sẻ thành thực của

tác giả thường giành được thiện cảm từ phía độc giả. Việc không ngại ngần kể lại

những trải nghiệm trong đời mình (từ đẹp đẽ tới thô nhám) mới thực sự phác họa

chân dung cái tôi người viết đậm nét nhất trong tản văn hôm nay, làm nên sự khác

biệt căn bản giữa tản văn XX và đầu thế kỷ XXI. Các sáng tác của Băng Sơn,

Nguyễn Quang Lập, Nguyễn Vĩnh Nguyên, Hoàng Việt Hằng, Nguyễn Ngọc Tư, Y

Phương, Nguyễn Quang Thiều, Đỗ Bích Thúy v.v… giống như những mảnh vụn ký

ức được bày ra trong tập sách. Chất đời nằm ở những câu chuyện nhỏ của chính nhà

văn nhưng rất có thể người đọc cũng từng trải, nó khiến người ta vừa cười vừa khóc

vì hồi ức không phải lúc nào cũng đẹp cho dù nó rất đáng quý. Chất văn thể hiện ở

cách mà người viết khơi gợi, diễn đạt và biến câu chuyện nhỏ trong đời mình thành

vấn đề của thời đại, đem theo những thông điệp nhân văn. Như vậy, sự trùng khít

giữa cái tôi đời thường với cái tôi nghệ thuật của nhà văn không đơn giản là sự việc

nói quá nhiều về cái tôi cá nhân như một người độc thoại ích kỷ. Thực chất, trải

nghiệm cá nhân chỉ là cái cớ để nhà văn cùng người đọc nghĩ về những điều lớn

hơn, sâu sắc hơn của cuộc đời.

Một nét mới nữa ở tản văn đầu thế kỷ XXI là sự đa dạng trong cảm quan sáng

tác. Chúng tôi muốn nói tới kiểu cảm nhận đời sống, trạng thái tinh thần mang nét riêng

của người viết tản văn hiện đại và nhận thấy phần lớn các tản văn đầu thế kỷ XXI

“chụm” lại ở cảm quan thế sự, hồi ức và triết luận. Thực tế, cảm hứng thế sự đã có ở

thế kỷ XX nhưng ở thời điểm này, sự cảm nhận và thể hiện nhân tình thế thái với mật

độ dày đã thành hình rõ nét dòng cảm quan thời cuộc. Người viết dòng tản văn này có

góc nhìn trực tiếp đời sống thực tại nên sáng tác phản ánh trọn vẹn nhịp sống đương

thời. Nguyễn Trương Quý là nhà văn tiêu biểu, anh viết nhiều tản văn như bản tin của

chuyên mục chuyển động 24h, mọi hình ảnh đời sống và con người thành thị diễu qua

trước mắt nhà văn đều có thể nảy bật những vấn đề bức xúc cần phải viết ra, lúc này

tản văn rất gần với báo chí nhưng hấp dẫn hơn vì những thông tin vốn có của báo chí

đã được chuyển thành thông tin nghệ thuật giàu cảm xúc.

75

Cảm quan triết luận là đặc điểm nổi bật đầu thế kỷ XXI, bộc lộ cảm nhận

chủ quan của tác giả về thế giới khách quan. Người viết thường bắt đầu bằng những

vấn đề nhỏ trong đời sống, triển khai bằng logic lập luận rồi khép lại bằng triết lý.

Giọng điệu những tản văn này thường mang tính trào lộng, châm biếm. Thường thì

phần đầu diễn ra chậm nhưng bất ngờ như một cú đánh lái gấp, phía cuối sáng tác là

một triết lý hài hước. Cảm quan này thể hiện rõ trong tản văn của Trang Hạ,

Nguyễn Việt Hà, Phan Thị Vàng Anh v.v…

Nhưng phần đánh thức những xúc cảm mơ hồ, giàu nhân văn phải kể tới xu

hướng cảm quan hồi ức, hoài niệm. Nhiều nhà văn xa xứ vọng về phía quê hương

nhớ ngày cũ; nhiều người đi quá nửa cuộc đời trở lại nhớ tuổi ấu thơ; hầu hết mọi

người ở nhiều lứa tuổi đến một lúc nào đó đều có nhu cầu khơi gợi lại kỷ niệm cất

giữ trong ký ức. Sự hồi ức có khi bắt đầu từ những điều thật ngẫu nhiên, bé nhỏ,

thân thuộc. Một âm thanh, một hình ảnh, một bóng dáng, món ăn, nụ cười, mùi

hương đều có thể khơi thành sáng tác nhỏ chứa chan xúc cảm. Câu chuyện trong

những tản văn thể hiện cảm quan hồi ức phần lớn có sự gắn bó chặt chẽ cuộc đời

thực của người viết. Dòng hồi ức được viết ra thể hiện rõ nhất chất tản mạn của thể

loại và dễ có được sự đồng cảm từ người đọc.

Tuy nhiên tăng cường tính chất đối thoại mới thực sự là điểm cách tân có ý

nghĩa nhất của tản văn Việt Nam đầu thế kỷ XXI. Sự khơi gợi nhu cầu tranh biện,

cộng hưởng cảm xúc giữa nhà văn và người đọc chỉ có ở tản văn thời đoạn này,

điều mà ở giai đoạn trước chưa làm được. Trong văn học, đối thoại không đơn giản

là hội thoại của ngôn ngữ mà được hiểu là trạng thái của tư tưởng, biểu hiện qua sự

đồng tình hoặc bất đồng. Tính đối thoại ấy được tạo ra từ chính vấn đề tác phẩm

khơi gợi. Sự phát triển của mạng internet, những hình thức truyền thông như email,

blog, tính năng chat, các giao diện cá nhân (facebook, instargram…) thỏa mãn nhu

cầu tương tác (giao tiếp, chia sẻ) nhằm thể hiện tiếng nói cá nhân và tìm kiếm sự

đồng cảm trong thế giới con người. Để tạo ra những “cú hích” tranh biện, người viết

phải thực sự thấu hiểu người đọc khi đứng trước những vấn đề của đời sống xã hội

được quan tâm và có tầm ảnh hưởng sâu sắc tới cuộc sống con người; người viết

cũng cần thẳng thắn, chân thực, khách quan khi nhìn nhận một vấn đề, có như vậy

mới diễn ra sự tương tác, sự tranh biện từ hai phía – đó chính là sự sống sôi nổi của

76

tản văn hiện đại. Như vậy, so với cách tiếp nhận truyền thống, việc tản văn đến với

người đọc trên không gian mạng và cho họ cơ hội đối thoại trực tiếp với tác giả đã

cho thấy vai trò quan trọng của bạn đọc trong việc khẳng định giá trị tác phẩm..

Với mọi thể loại văn học, người cầm bút ở giai đoạn nào cũng ý thức rõ tầm

quan trọng của ngôn ngữ nghệ thuật đối với sự sống còn của tác phẩm. Tuy nhiên,

so với các thể loại khác, ngôn ngữ trong tản văn đề cao thứ ngôn ngữ còn nguyên

chất, vị đời sống hơn là ngôn ngữ trau chuốt tỉ mỉ. Nếu tản văn thế kỷ XX thiên về

thứ văn chương uyên bác, ngôn ngữ tài hoa thì đầu thế kỷ XXI, phần ngôn ngữ bác

học thu gọn lại ở số ít cây bút thuộc thế hệ gạo cội, thay vào đó là kiểu ngôn ngữ

đậm chất đời thường, phản ánh thói quen và trào lưu ngôn ngữ hiện thời như một

cách thể hiện sinh động nhất mọi hiện tượng, cảm nhận đời sống. Cập nhật trào lưu

ngôn ngữ đương thời, nhiều nhà văn sử dụng ngôn ngữ thông dụng trên mạng

internet, tạo thành lớp ngôn ngữ độc đáo và thú vị của tản văn đầu XXI. Đồng thời,

ngôn ngữ của tản văn lúc này có sự thẩm thấu, giao hòa cùng lúc nhiều tính chất

(dân dã và triết lý, văn chương và báo chí, dân tộc và tính chất toàn cầu…). Các nhà

văn cũng không ngần ngại khi sử dụng khẩu ngữ thông dụng, các tiếng lóng, kí hiệu

chat của thế hệ @ - những ngôn ngữ có xu hướng thoát khỏi quy chuẩn ngữ pháp

thông thường. Thêm nữa, rất nhiều nhà văn ưa sử dụng lời nói có chêm xen ngoại

ngữ (Nguyễn Việt Hà, Trang Hạ, Nguyễn Trương Quý, Phạm Ngọc Tiến, Uông

Triều) hoặc có hứng thú với việc sử dụng từ ngữ mang tính thông tục biểu lộ sắc

thái tình cảm một cách độc đáo. Ở điểm này, Nguyễn Quang Lập là nhà văn tiêu

biểu, ông dùng ngôn ngữ thông tục như mạch chảy tự nhiên, nó khiến người đọc

vừa cười vừa khóc trước những câu chuyện đời thường nhà văn kể. Bên cạnh đó,

một số nhà văn sử dụng phương ngữ như dấu hiệu xác tín vùng văn hóa bản địa. Lời

ăn tiếng nói của người Tày Nùng trong tản văn của Y Phương; dáng dấp con người

Hà Giang trong tản văn của Đỗ Bích Thúy; lời ăn tiếng nói người Nam Bộ đậm đặc

trong tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư, Ngô Kế Tựu, Lê Minh Nghĩa, Nhã Thụy;

Nguyễn Quang Lập rất Quảng Bình và Lê Minh Quốc thực Quảng Nam… Có thể

nói, tính chất cập nhật thời cuộc, ngôn ngữ văn chương hòa tan trong ngôn ngữ đời

sống, ngôn ngữ nghệ thuật gắn liền với ngôn ngữ địa phương thể hiện rõ chất tản

trong văn. Người viết không đặt mình vào vị thế người kể chuyện trải nghiệm và

triết lý để đứng cao hơn người đọc, mà họ đứng ở vị trí đối diện, ngang hàng, nói

77

một câu chuyện nhỏ bằng giọng tán gẫu, lúc gần gũi thân mật, lúc dễ dãi, hài hước,

có khi lời thô nhám nhưng thành thực. Và hình như, điểm hấp dẫn của tản văn XXI

bắt đầu từ phương tiện giao tiếp thú vị đó.

Tiểu kết chương 2

Tản văn Việt Nam từ khi được hình thành cho tới nay được nuôi dưỡng,

trưởng thành trong những môi sinh văn hóa khác nhau. Dưỡng chất văn hóa tác

động khiến tản văn buộc phải biến đổi để thích nghi. Đầu thế kỷ XXI, sự phát triển

của công nghệ thông tin đã đem lại bước chuyển biến mạnh mẽ ở nhiều phương

diện, đặc biệt là sự đột phá trong khâu xuất bản tác phẩm; rút ngắn khoảng cách con

đường tác phẩm đến với bạn đọc; tăng cường tính tương tác giữa người viết và

người đọc; đánh thức tiềm năng sáng tác ở nhiều cá nhân; tạo sự sôi động hiếm có

cho đời sống của thể tản văn… Việc khảo sát tản văn Việt Nam hai thập kỷ đầu thế

kỷ XXI cho thấy sự phát triển tích cực của thể loại thể hiện rõ nét ở đội ngũ sáng tác

đông đảo, số lượng tác phẩm đáng kể và đặc trưng thể loại được “chưng cất” thông

qua một loạt cá tính sáng tạo độc đáo.

Lịch sử hơn một trăm năm cho thấy tản văn bền bỉ khẳng định những đặc

trưng thể loại trong suốt thế kỷ XX (đề tài, nội dung tư tưởng, phương thức nghệ

thuật, cá tính tác giả…) và đầu thế kỷ XXI nó tiếp tục kế thừa, biến đổi, thích nghi

với thời đại đầu (ngôn ngữ, hàm lượng hiện thực của đời sống, quan niệm về nhà

văn, mối quan hệ giữa nhà văn với độc giả…). Có thể nói sự tương tác giữa tản văn

với các môi sinh văn hóa đầu thế kỷ XXI đã đem tới sự vận động và biến đổi cấu

trúc thể loại. Sự biến đổi có ý nghĩa nhất là tăng cường tính đối thoại, khơi gợi sự

tranh luận và kích thích phản hồi từ độc giả. Điều này khiến tản văn một mặt chứng

tỏ độ mở trong tư duy sáng tạo, mặt khác nó trở nên gần gũi với với cuộc đời, dễ

tìm sự đồng cảm và khơi gợi ở người đọc. Như vậy, trong dòng chảy của tản văn

Việt Nam hiện đại, tản văn đầu thế kỷ XXI có những thay đổi lớn về diện mạo và vị

trí thể loại, hứa hẹn sự phát triển theo hướng tích cực. Vấn đề đặt ra với thể loại lúc

này chỉ còn là chờ đợi những kết tinh mới, những thành tựu bền vững để tản văn

tiếp tục thuyết phục sự ghi nhận của độc giả và giới nghiên cứu văn học.

78

Chương 3

HỆ CHỦ ĐỀ TRONG TẢN VĂN VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XXI

Khảo sát hơn 100 tập tản văn, chúng tôi nhận thấy nội dung của tản văn đầu

thế kỷ XXI tập trung vào bốn chủ đề lớn: cảnh sắc các vùng miền; văn hóa, phong

tục; các vấn đề thế sự và tản văn chân dung.

3.1 Tản văn về cảnh sắc vùng miền

Cảnh sắc thiên nhiên trên mọi miền tổ quốc là dòng cảm hứng chủ đạo của

tản văn thế kỷ XX. Đầu thế kỷ XXI, đề tài này tiếp tục được tản văn khai thác

nhưng có những mới mẻ nổi bật so với trước đó. Nếu như ở thế kỷ XX, những trang

tản văn dừng lại ở việc miêu tả vẻ đẹp tự nhiên của cảnh sắc thì đầu thế kỷ XXI,

cảnh quan được miêu tả với đầy đủ sự phức tạp của trạng thái cảnh quan. Khái niệm

quê hương, đất nước trong mỗi con người gắn liền với không gian sinh sống nên

nhiều tập tản văn đầu thế kỷ XXI mở rộng góc quan sát, nhìn nhận không gian tự

nhiên với tư cách môi trường sống hiện thực của con người, có những điều tốt đẹp

bên cạnh những hạn chế, gợi những trăn trở.

3.1.1 Cảnh sắc chốn làng quê

“Ở mỗi chúng ta đều có một người nhà quê” (Hoài Thanh) bởi ẩn ức làng

quê hiện hữu tự nhiên trong mỗi người, nó gắn với cảm giác thanh sơ, bình yên.

Trong tản văn của Nguyễn Quang Thiều, người đọc được sống trong không gian

xanh của một vùng quê điển hình cho những làng quê Bắc Bộ. Những cánh đồng

hoa cải trắng, không khí sớm mai trong vắt, màu xanh ngợp mắt của vườn tược

đồng áng. Nhất là khoảnh khắc “làng quê yên tĩnh trong đêm. Chỉ có tiếng gió xào

xạc thổi qua những vòm lá trong vườn và tiếng chó sủa rấm rứt (…) tiếng một con

dế kêu âm ỉ trong một bụi cỏ đâu đấy” (Có một kẻ rời bỏ thành phố ) Trong nhiều

tản văn, cánh đồng, thảm cỏ trở thành biểu tượng cho tiếng nói riêng của đồng

ruộng màu mỡ, chất phác; là sự biểu đạt không gian đất trời phóng khoáng; là sự

bình yên và thơ mộng; là trong trẻo không vướng bụi bặm chốn đô thị. Sau bấy

nhiêu cảm giác bị đọa đày nơi phố phường, nhân vật tôi trong Có một kẻ rời bỏ

thành phố (Nguyễn Quang Thiều) để men theo “một con đường chạy thẳng ra cánh

79

đồng… một cánh đồng liền với chân trời”. Con người khác biệt đó “ra đi như một

kẻ cô độc tìm đến một chia sẻ, một vị tha và một đức tin”, rời bỏ thành phố về làng

quê hòng tìm kiếm Mùi của ký ức. Những điều tốt đẹp đó nằm ở phía cuối con

đường, một ngôi làng nhỏ đứng trên “đất đai nâu thẫm” và được bao quanh bởi cánh

đồng “ngũ cốc vàng ấm”, quanh năm có “ngọn gió chứa trong nó mọi hương thơm”

của cỏ cây hoa lá đất đai, ngôi làng bồng bềnh giữa “một bản thánh ca của thiên

nhiên kỳ vĩ”, phía trên cao là “ những đám mây tinh khiết của mùa thu trôi lộng lẫy

và vĩnh hằng”, dưới đôi chân trần là những vạt cỏ xanh “dịu dàng thẳm sâu”…

Cũng sinh ra ở một vùng quê trung du Bắc Bộ, tập tản văn Ngọn khói quê nghèo của

tác giả Đức Dũng cho người đọc cảm giác êm đềm mặc dù cuộc sống người dân quê

thật nghèo. Tiếng chim tu hú, đom đóm như muôn vàn ngôi sao nhấp nháy khắp sân

vườn, hoa gạo rắc đỏ nương đồi, mùa hoa phượng, mùa lá rụng, làng quê trung du

với những rừng cọ, đồi chè lúp xúp, những nương ngô, bãi sắn, với cả những “sóng

lúa mênh mông cuộn đổ về”. Trên nền cảnh buồn và đẹp ấy là những mảnh đời leo

lét như ngọn Đèn quê, họ nhỏ bé đổ bóng trên Đường quê những ngày đông hay

trên những Mảnh sân quê ngày nắng, họ lặng lẽ như ngọn khói vương những nếp

nhà vào lúc chiều buông …

Tập tản văn Sương khói quê nhà của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh lại xây

dựng cảnh sắc vùng đất Quảng Nam trong nỗi nhớ của người con ngóng vọng về

quê nhà từ mảnh đất Sài Gòn sôi động như sự tìm kiếm tĩnh lặng trong những

thước phim đen trắng của hồi ức. Quảng Nam trong tim Nguyễn Nhật Ánh là một

vùng quê với không khí trong lành, mát mẻ, mùi thơm trái thị, những cơn mưa bất

chợt và cả những con thuyền giấy trôi lững lờ theo dòng nước. Ở đó còn có những

người bạn cũ: bạn học, bạn chơi, bạn văn, bạn thơ... đang vui đùa cùng nhau.

Hành trình vui vẻ đó chỉ còn trong ký ức. Tập sách đem lại cảm giác thân quen

ngay cả với những bạn đọc xứ Bắc hay Nam, bởi không cứ gì ở Quảng Nam, ở

làng quê nào trên đất nước này chẳng có những cánh đồng lúa xanh, thảm có xanh,

những thân dừa thân cau vươn mình quần quật trước gió chiều và từ xa, chỉ cần

nhìn thấy khói bay lên từ mỗi vuông nhà đã thấy lòng thắt lại vì yêu và thương,

nhớ quê nhà vô cùng.

80

Trong tản văn của Nguyễn Ngọc Tư, toàn cảnh miền đất phía Tây Nam Bộ

được lưu lại vẹn nguyên. Chỉ cần đọc tản văn của chị, gấp sách lại rồi hình dung là

độc giả đã rời phố tấp nập để về vùng sông nước chằng chịt, rừng rậm hoang sơ,

đẹp và nghèo. Những cánh đồng tít tắp, dòng kênh xanh chảy chậm, lục bình trôi

cũng chậm, hoa ô môi bông đỏ, tiếng bìm bịp “hui hút” trong những bụi dừa nước

ven sông … Dáng dấp đất Cà Mau nằm ở những con đường luôn có sông hoặc con

kinh “rượt đuổi, trông theo mình”. Với Nguyễn Ngọc Tư, Cà Mau là “một vùng đất

mới khai phá, không có cái nền văn hóa dày và sâu, nằm xa những trung tâm văn

hóa, kinh tế lớn” nhưng có lẽ vì thế mà vùng đất đó còn lưu lại dấu vết nguyên bản

thời nồng nàn hoang dại. Nên cảnh trí trong tản văn của chị vừa bình dị lại vừa nên

thơ bởi sự nguyên sơ như thuở thoát thai, chỉ là “một cái xóm nhỏ ngó ra con kinh

nghiêng chắt nước lên đồng. Không gian sống động đến nỗi có thể ngửi được mùi

hương của bông súng nở trong đìa, tiếng con chim tu hú bọi bầy tao tác, cá quẫy

dưới váng bèo. Trên bờ vườn, dưới ao, mấy bầy gà, bầy vịt ta thong dong bới tìm

mồi trong rào sậy” (Yêu người ngóng núi). Chằng chịt kênh rạch, bông súng bông

lau cá linh vào mùa nước lớn; bầy tu hú, gà, vịt; những rơm rạ xôn xao ngày mùa;

những lau sậy “vươn cao óng mượt, trắng muốt giữa ngút ngàn bông sậy bạc đầu,

chảy thành dòng sông rập rờn trong gió” (Bánh trái mùa xưa). Quê cũng không

thiếu “những ngôi nhà in sẫm buổi sớm mai” mà chỉ cần nhìn ra phía trước sân nhà

thấy hoa mồng gà, hoa cúc vạn thọ cũng đủ thấy lòng bình yên.

Làng quê ở bất cứ vùng miền nào cũng giống nhau ở không gian thiên nhiên

có sự sống trong lành, con người chất phác, đời sống giản dị. Làng quê không chỉ

đóng vai trò quan trọng như đất đai gốc gác máu mủ, đẹp như mơ và trong veo như

sương sớm mai treo đầu ngọn cỏ, mà hơn hết, làng là cõi đi về để mỗi người đều

tìm thấy sự ấm nồng của thân thiện, gắn bó. Người trong một làng gắn bó với nhau

tới mức “sự thật là mỗi khi có một người làng bỏ quê đi lâu quá trở về thì cả làng

mừng như người đó chết rồi nay đột ngột sống lại”. Con người làng quê còn đẹp, vẻ

đẹp lấm láp và ám khói rơm rạ, vì họ sống chung với vất vả mưu sinh trên đồng

ruộng nên với tác giả Đức Dũng, thật khó để quên hình ảnh “trên mảnh sân quê

này… Giữa trưa hè nắng chói chang, bàn chân thô ráp của người nông dân luồn sâu

81

vào từng lớp lúa hột, từ ấm nóng đến bỏng rát. Sân quê vì thế còn phơi cả nỗi nhọc

nhằn, thấm đẫm những giọt mồ hôi mặn chát của mẹ cha ta, anh chị ta, của cả chính

ta thời ấu thơ, đèn sách và bao bóng hình thế hệ sau nối tiếp” (Mảnh sân quê).

Đặt không gian đời sống làng quê bên cạnh không gian thành thị mới hiểu vì

sao nhiều người có xu hướng vượt thoát khỏi thành phố giống nhân vật tôi trong Có

một kẻ rời bỏ thành phố (Nguyễn Quang Thiều). Nhà văn viết về làng, nhưng thực

chất nhà văn đang viết về những giấc mơ của đời người. Con người khi đủ trưởng

thành để nhận biết, để nhìn thấy sự thoảng qua của cái đẹp, sự hữu hạn của đời

sống, họ càng muốn tìm lại những giấc mơ đã mất. Làng chính là nơi một người có

thể tìm lại những giấc mơ của mình. Họ thấy mình cả trong quá khứ và cả trong

tương lai. Điều đáng tiếc là không gian làng quê cũng không hẳn giữ được vẹn

nguyên sự bình yên và trong lành. Có sự xâm lăng của đô thị khiến làng quê bị mai

một các giá trị văn hóa cổ truyền. Sự mai một diễn ra lặng lẽ nhưng bền bỉ và mạnh.

Bắt đầu từ sự khai tử đầm sen ở làng, không còn những đêm người làng ngồi trên

sân để đón những ngọn gió từ đầm sen ướp đầy hương thơm thổi về và nói những

câu chuyện xúc động về làng mình, về người làng mình. Và “nông thôn giờ khó

kiếm được góc máy nào không bị vướng dây điện với nhà mái bằng”. Tình trạng

phổ biến ở các làng thời công nghiệp hóa là đàn ông, thanh niên rời làng lên phố đi

làm thuê; làng còn lại toàn người già và trẻ con trông nhau; nhà nào cũng ‘trống

toang”; đàn bà làm mọi việc từ cấy hái cho tới lo toan nội – ngoại giao. Đất quê chỉ

“cho đủ ăn, chứ không thỏa mãn được những giấc mơ ngày càng phức tạp, cao vợi”

thế nên nhiều người ở làng quê ôm giấc mộng đổi đời, rời khỏi làng về phố thị, có

người đổi đời thành công thâm nhập vào đô thị nhưng phần lớn họ lại lầm lũi trở về

quê với nhàu nhĩ tuyệt vọng. Tản văn hôm nay viết về giấc mơ hồi hương không có

nghĩa là vec- tơ tinh thần chỉ có một chiều: rời phố thị - về làng quê; có điều, tản

văn viết về giấc mơ lên phố không nhiều. Phải chăng mơ về vùng quê bình yên là

dược pháp của con người hiện đại?

Tản văn hiện đại không chỉ nói về cảnh sắc những ngôi làng nhỏ đồng bằng,

mà còn có một mảng tản văn gợi lên cảnh sắc của những bản, làng vùng cao. Các

tập tản văn của nhà thơ Y Phương, nhà văn Đỗ Bích Thúy đều có những dòng văn

82

thật buồn ngay cả khi miêu tả vẻ đẹp tự nhiên của vùng cao phía Đông Bắc Bộ.

Trùng Khánh, Cao Bằng trong tản văn Y Phương là vẻ đẹp núi rừng xanh mướt

trong những mùa khác nhau; vẻ đẹp kiên cường, rắn rỏi của núi đá; màu xám lạnh

bình thản trước mọi biến động của đời sống; màu xanh nước chàm nhuộm vải trong

những giếng cổ của người Tày; thứ hương lạ lùng của hoa lá cỏ cây bao bọc căn nhà

cũ mỗi sớm mai; ánh nắng chiếu xuyên một ô thủng nhỏ trên căn gác gỗ; tiếng bầy

chim ráo rốt quanh nhà; những vạt cỏ đẫm sương đêm… Trùng Khánh lấp lánh đá

thô, đẹp tựa tranh thủy mặc với thác Bản Giốc, động Ngườm Ngao, sông Quây Sơn,

những đồng lúa như con sóng đuổi dập dờn dưới chân núi cao ngất. Tất cả làm

thành một bản hợp ca trong vắt của rừng núi khiến người viết thân ở phố thị mà hồn

đã lưu lại ở Trùng Khánh, mỗi ngày đi qua là mỗi ngày bồi đắp thêm khát khao về ở

căn nhà của ông bà cha mẹ… Ba tập tản văn của Đỗ Bích Thúy là những bước chân

kiên nhẫn qua những phố cổ Đồng Văn, cao nguyên đá Đồng Văn, đèo Mã Pì Lèng,

huyện nhỏ Hoàng Su Phì, những phiên chợ tình nổi tiếng của người vùng đá như

chợ tình Khau Vai. Qua lăng kính nhỏ của cô bé người vùng xuôi ngắm nhìn rừng

núi từ căn gác áp mái, “cả một triền núi cao, dài dặc ven sông được nhuộm kín một

màu vàng ươm, dường như ngửi thấy cả mùi lúa nương rất đặc trưng, và sau đó nữa

là mùi cơm gạo mới ngọt lịm, đặc quánh. Triền núi ấy của người Dao Thúng

Khiếng” (Trên căn gác áp mái). Vẻ đẹp thiên nhiên ở xóm Há Tủa Sò – xóm toàn

người Mông “có những cây mận đang trổ hoa trắng muốt. Trời càng lạnh, sương mù

càng dày thì cánh hoa càng trắng, trắng xanh, vài nhánh lá đang le lói đâm ra. Mùa

hè, mận chín rụng đầy đường (…) hoa mận ở đây dường như đã trắng đến tột bậc,

cánh hoa dày và khỏe khoắn, bọc kín các đầu cành mảnh mai” (Hoa vàng mấy độ).

Những cung đường quanh co lưng chừng trời, bản làng bốn mùa chìm trong mây,

núi non nối nhau trùng điệp, kỳ vĩ. Hà Giang nổi tiếng với những triền đá tai mèo

trùng điệp, với những con đường hiểm trở; khí hậu của Hà Giang tương đối khắc

nghiệt nhưng Hà Giang có rừng thông Yên Minh xanh mướt, những cây thông cao

vút, rì rào trong gió núi; những ngôi nhà trình tường cổ kính của người Mông nằm

yên bình giữa những thửa ruộng ngập tràn hoa tam giác mạch. Thung lũng Sủng Là

trong Chuyện của Pao là “bông hoa giữa cao nguyên đá”, Sủng Là còn lưu giữ rất

83

nhiều phong tục, văn hóa, nếp sống truyền thống của nhiều dân tộc như Lô Lô,

Mông, Dao... Những người sống nơi thành thị khi không còn thiết tha với phố thị

hay đồng bằng, Hoàng Việt Hằng theo chân họ ngược lên núi, “chạm vào những

miền văn hóa ẩm trong sương mù, bờ lau, hoa cúc quỳ, và đá xám. Hồn tôi không bị

dây dợ, khói xe máy và những biệt thự cao tầng khóa tới kín vài lần cửa, chạm mặt

vào đâu cũng thấy khóa. Lên Tây Bắc để đến các bản vùng cao Sìn Hồ, Tả Fình,

Phong Thổ, để mắt chạm vào thiên nhiên, không vướng bận một barie nào” (Bóng

đổ nơi chân sóng). Xa nơi đô thị phồn hoa để được rơi vào một không gian sống của

con người vùng cao mà căn nhà họ ở bình yên, thong thả quá, “căn bếp của nhà Lý

Minh Sẻo còn phơi một dây phơi đậu khô, một bồ thóc nếp để gần cối đá giã gạo,

phía trái gian bếp là những chai mật ong phấn hoa, một vò rượu ngô lắc lên sủi tăm

mời khách. Cây đào ở ngõ ra hoa sớm đỏ rực, thi màu đỏ của đào bích với màu đỏ

của mào gà. Kia, một đàn gà trống hoa đang gáy le te ở cuối vườn bắp cải” (Bóng

đổ nơi chân sóng). Rồi bị mê hoặc vì những chiếc váy thêu, những vòng bạc sáng rỡ

tôn vinh nụ cười thuần phác của người phụ nữ vùng cao, đẹp nhất là “mùa xuân, trai

gái H’Mông hay mua quần áo khăn thêu, những vuông vải lanh dùng làm cạp váy,

những chiếc khăn choàng không giống ai”. Bỏ những building để đến nơi tưởng

như “giơ tay có thể đụng tới mặt trời, vớt hoàng hôn lên (…) nhiều bản làng vẫn

còn nguyên sơ, những ngôi nhà đất thó đặc quánh, bếp nhà nào cũng luôn đỏ lửa”

rồi lặng thinh xúc động chỉ vì “tràn vào trái tim lữ khách lên vùng Pù Luông là thiên

nhiên hùng vĩ, là những bản người Thái người H’mông chênh vênh bên núi, bên đồi

nương. Bên những bếp lửa mà bếp là nhà sàn ngăn nắp, bếp còn là đất tường trình,

mùa đông thì ấm áp mà mùa hè thì mát” (Bóng đổ nơi chân sóng). Cho nên một

người yêu rừng như Đỗ Bích Thúy luôn có cảm giác “tôi rất sợ những buổi chiều ở

thành phố. Nó gợi lên nỗi nhớ nhà quay quắt. Nơi đây không có cơn gió lành lạnh

phả từ trong khe núi ra, mang theo hương say nồng của sa nhân mới nảy mầm;

không có thứ ánh sáng lam tím của mặt trời phản xạ từ những đụn mây bao phủ trên

chóp núi; và không có tiếng của dòng sông trôi dịu dàng…” (Tôi đã trở về trên núi

cao). Cô cảm thấy mình là một nhà văn hạnh phúc và may mắn khi có một mảng đề

84

tài, một mảnh đất, một vùng văn hóa để nhớ thương, yêu mến và tha thiết với nó;

hạnh phúc vì được sống gần thiên nhiên thấm đẫm tinh thần “tối giản”.

Tản văn cho phép người viết được tự do lựa chọn cách tản hoặc tụ một tứ.

Mà tứ trong tản văn thường bắt đầu từ những chi tiết bé nhỏ, nó có thể kéo những suy

tưởng của người viết. Từ dòng sông, cánh đồng, bầu trời… nhà văn nghĩ về sự phá hủy

môi trường sống; từ tình quê họ nghĩ về sự lở lói trong ứng xử giữa người với người; từ

khát khao được trở về làng, họ phủ nhận phố thị. Sự ngẫm ngợi, liên tưởng làm tăng

giá trị thời sự của những tản văn viết về cảnh quan làng quê hôm nay.

3.1.2 Cảnh sắc nơi thành thị

Nhiều tản văn đầu thế kỷ XXI gần gũi với du ký và tùy bút mà người viết tản

văn là những người ít nhiều mang trong mình nhiệt huyết của chủ nghĩa xê dịch.

Mỗi tập tản văn viết về một thành phố là một mảnh ghép, tỉ mỉ ngồi ghép các tập

tản văn lại cũng được Thành phố những thước phim quay chậm (Huỳnh Như

Phương); để thấy đất nước mình thật đẹp cho dù có lúc sự nhốn nháo của một thành

phố đang phát triển làm người ta không hẳn hài lòng và yêu thích..

Trong tập Thả hy vọng (Trần Đức Tiến), nhà văn kể về chuyến đi của hai

cha con từ phương Nam trở ra vùng quê đất Bắc: “Con tàu chở hai cha con băng

băng qua những vùng quê. Đây Biên Hòa, thành phố của những khu công nghiệp.

Đây Phan Thiết mặn mòi cá mắm. Tháp Chàm trầm mặc Phan Rang. Nha Trang “ơi

mùa thu lại về”. Bình Định xứ dừa đất võ. Đà Nẵng sừng sững Ngũ Hành Sơn. Hải

Vân Quan trập trùng mây phủ. Huế- Trường Tiền nón trắng và áo tím. Cầu Hiền

Lương chia đôi đất nước thuở nào…”. Một chuyến đi dài của chú bé được cha đưa

đi qua những địa danh trải dọc cung đường từ Nam ra Bắc, mỗi vùng đất là một ấn

tượng gợi lên tình cảm mến thương, tự hào trong lòng người viết.

Hà Nội là thành phố xuất hiện với mật độ đáng kể trong tản văn. Nói như nhà

văn Nguyễn Trương Quý thì trong tản văn hôm nay hiện diện một “trường phái mỹ

cảm có tên Hà Nội”. Đúng là cảnh sắc tự nhiên của Hà Nội mang một vẻ đẹp không

trùng lặp với bất cứ thành phố nào khác trên đất nước. Những nhà văn gắn bó máu

thịt với Hà Nội (Nguyễn Ngọc Tiến, Đỗ Phấn, Mai Lâm, Hoàng Việt Hằng, Lê

Minh Hà, Nguyễn Việt Hà…) viết về Hà Nội bằng thứ tình yêu “đọng thành vũng”

85

trong tim và thành phố được xuất hiện trong trang văn với tư cách một giá trị văn

hóa độc đáo của dân tộc. Nguyễn Trương Quý tái hiện Hà Nội thời Pháp thuộc,

thành phố nhỏ khoác lên mình vẻ đẹp lãng mạn đến từ phương Tây, đó là khoảnh

khắc bình yên của những phố cổ thong dong xe điện. Theo thời gian, Hà Nội đi vào

tâm trí của những ai yêu mến nơi này bằng những ấn tượng về một Hà Nội ngày

xưa đẹp, bình yên và “Hà Nội có những cô gái áo tân thời xinh xinh, Hà Nội thành

phố thuộc địa hợp gu hội họa ấn tượng Đông Dương và tân nhạc” (Hà Nội là Hà

Nội). Vẻ đẹp một thời của Hà Nội khiến người tha hương “nhớ phố cây Hà Nội vô

cùng. Hà Nội mùa nào cũng có vị cây để nhớ. Đang tháng Mười cây trên phố Bà

Triệu, Thể Giao lúc lắc hoa sữa trắng từng chùm đổ trên đầu, thơm ngào ngạt chiều

muộn, mùa đông trên phố Phan Đình Phùng, lá vàng đổ sẫm dưới hè đường, còn

nguyên vị tháng Năm mùi quả sấu chua non trong cốc nước sấu đá, vị của phố Hà

Nội. Còn tháng ba mùa xuân là mùa hoa ban tàn thì chạm đến mùa hoa sưa” (Tiêu

gì cho thời gian để sống). Giống như sông Hàn của Đà Nẵng, sông Hương của Huế,

Hà Nội cũng gắn liền đời mình với sông Hồng và những hồ nước tự nhiên: Hồ Tây,

Quảng Bá, Trúc Bạch, Bảy mẫu, Ba mẫu, Hoàng Cầu, Thành Công, Giảng Võ,

Ngọc Khánh, Thủ Lệ, Linh Đàm v.v… Song linh hồn Hà Nội có lẽ tụ lại ở Hồ

Gươm huyền thoại. Hồ Gươm là nơi có “dấu ấn của những văn nhân tài tử, những

giá trị tinh thần đọng lại, những tinh hoa “lắng hồn núi sông”. Có lẽ vì ấn tượng sâu

sắc với Hồ Gươm mà nhà văn Uông Triều giành nhiều thời gian để nghiên cứu và

miêu tả vẻ đẹp của nó, anh cho rằng người Hà Nội có Hồ Gươm giống như “chúng

ta đang sở hữu một gia tài vô giá”, nó đẹp hơn nhiều nhờ cây xanh bao bọc, Hà Nội

còn thơ mộng và mát lành bởi có Hồ Tây, Hồ Trúc Bạch. Sóng nước Hồ Tây vẫn

thường “vọng lên trong tâm tưởng người Hà Nội như một nơi lưu giữ những kỉ

niệm (…). Một khoảng lặng mênh mang, thơ mộng và đằm sâu văn hóa. Hồ Tây là

thiên nhiên hoa cỏ, là cá tôm chim trời, là cuộc sống muôn màu trong lòng thành

phố có nghìn năm tuổi…” (Hà Nội quán xá phố phường). Trong khi đó, “Trúc Bạch

một mình cũng đủ các cung bậc lãng mạn, hào hoa của một vùng hồ nước thơ mộng

bậc nhất đất kinh kỳ”. Đường Thanh Niên chia Hồ Tây và Hồ Trúc Bạch ra làm hai,

“con đường được trồng nhiều hoa phượng, bằng lăng. Mùa hè hoa phượng đỏ thắm

86

và đến tận mùa đông, những quả phượng vẫn còn lúc lỉu như những thanh gươm đu

đưa trong gió là những hình ảnh đáng nhớ về con đường”.

Tản văn viết về miền Trung không thể làm ngơ cố đô Huế. Vẻ đẹp của kinh

thành Phú Xuân được mở ra mênh mang trong hai tập tản văn của nhiều tác giả

giành riêng cho Huế: Áo bay khép mở nhiều tâm sự, Mộng mơ và ăn cay nói nặng.

Đúng tinh thần nhan đề, hai tập sách mô tả đầy đủ nhất linh hồn của xứ Huế- từ ăn,

nói tới ứng xử; từ cảnh sắc thiên nhiên tới câu chuyện con người. Theo bước chân

trường tồn của đôi bờ sông Hương, mái chùa Thiên Mụ, tà áo dài Huế cùng chiếc

nón bài thơ đã trở thành một biểu tượng đẹp của xứ mộng mơ. Những tà áo tím bên

dòng Hương Giang hay những tà áo trắng của nữ sinh Đồng Khánh qua bến đò

Thừa Phủ, qua cầu Trường Tiền... tím buồn và trắng vui, khép mở bao niềm tâm sự.

Từ góc độ cảnh sắc, tập tản văn có nhiều bài viết gợi hình dung sông Hương hiền

hòa, thông trên núi Ngự reo vi vu giữa trời xanh. Huế có Kinh thành, nơi chứng kiến

biết bao sự đổi thay quyền cai trị đất nước, lúc thịnh lúc suy; có lăng tẩm đền đài lưu

dấu ngàn thu của các bậc Vua chúa; có Từ Đàm, ngôi Phạm Vũ như chứng nhân bao

biến động thăng trầm hào hùng của lịch sử nước nhà; có Thiên Mụ, ngôi cổ tự hùng

thiêng trải qua bao thế hệ mà tiếng chuông Thiên Mụ còn mãi ngân vang từ ngàn xưa

cho tới tận ngàn đời sau; có tháp Phước Duyên vời vợi giữa chốn Kinh kỳ, như thâu

gọn hồn thiêng của Tổ quốc. Nơi nào ở Huế cũng có màu xanh êm đềm của cỏ cây, hoa

lá, của đồi núi, sông hồ, mà nhà vườn là mảng xanh lớn nhất do con người tạo ra suốt

hàng trăm năm nay. Những khu nhà vườn nổi tiếng, yên bình và quyến rũ; sông

Hương, lặng lẽ, bao dung, hiền hòa êm ả... Cứ như thế, những ký họa về Huế lần lượt

hiện ra trên trang sách, rêu phong và sống động. Những câu chuyện đời, chuyện người

trên vùng đất kinh thành xưa cũ làm xao xuyến người đọc, nhưng trước hết nó phải là

những rung động trong lòng người viết.

Khác với Hà Nội và Huế, Sài Gòn không phải là thành phố được nhớ tới với

cảnh sắc thiên nhiên rêu phong hay lãng mạn. Trong mấy trăm năm lịch sử, Sài Gòn

được mệnh danh là thành phố hoa lệ, thành phố không bao giờ ngủ, thành phố của

sự sôi động, ồn ào, náo nhiệt vui và bây giờ, Sài Gòn là đô thị của năng động, phát

triển. Trong tập Thành phố những thước phim quay chậm, tác giả Huỳnh Như

87

Phương thẳng thắn: “Văn chương không nên tìm cách bóp méo chân dung Sài Gòn

mà cũng không cần gieo rắc ảo tưởng về một Sài Gòn hoàn mỹ. Chiến tranh như

thế, nghèo đói như thế, Sài Gòn chỉ cần gắng sức tồn tại mà không đánh mất mình

đã là đáng quý”. Tập tản văn Sài Gòn những mùa yêu của nữ nhà văn Trần Thùy

Linh chỉ ra một Sài Gòn “mega city” (đại đô thị) xộc xệch, chộn rộn và khốc liệt

vậy, nhưng may mắn thay, lại đẹp lung linh trong mắt tác giả - một người nhập cư.

Tác giả là một họa sĩ, nên cách nhìn Sài Gòn của chị đa sắc và ít nhiều duy mỹ. Cái

duy mỹ ấy có được sau khi đã thật sự trải nghiệm, chấp nhận, hòa nhập để cho “Sài

Gòn hóa” chính mình. Nhà văn tự thú: “Tôi là dân nhập cư, như hàng triệu cư dân

trong thành phố này. Nhưng thời gian sống ở đây nhiều hơn thời gian tôi sinh ra”

nên nếu có ai đó hỏi “Bạn đến từ đâu?”, Linh sẽ trả lời rằng: “Từ Sài Gòn” vì “đã ở

đây rồi, thì là vậy. Giản dị như người Sài Gòn”. Nhập cư, nhà văn trải nghiệm Sài

Gòn để nhận ra sự khác biệt của đô thị này: “Thành phố này khác hẳn với Hà Nội,

nơi phố và người thong dong sống, mùa thong thả trôi và vẻ trầm mặc cổ kính vẫn

lan trên các mái nhà, mặc cho sự định hướng phát triển thành một đại đô thị. Khác

hẳn với sự uy nghiêm, tinh túy, nhuốm màu tâm linh ngàn đời không đổi của cố đô

Huế xưa. Khác luôn cả một Đà Lạt mộng mơ hay một Đà Nẵng ngày càng trở nên

rộng lớn với những đại lộ hoành tráng và khách sạn năm sao lộng lẫy”. Thần thái

của thành phố này tồn tại trong những cảm giác mâu thuẫn, “cũ và mới, đơn giản và

cầu kỳ, thực tế và bay bổng, hồn nhiên và sắc sảo”. Đứng trước sự chuyển mình để

thay đổi trong ngày mới của Sài Gòn, thế hệ trải nghiệm như Huỳnh Như Phương

“tập điềm tĩnh, thanh thản nhìn thời gian cuốn trôi đi những dấu tích của ngày hôm

qua. Trăn trở, bức xúc, trách móc bao nhiêu cũng không cứu được hình hài của

thương xá Tax hay hàng cây cổ thụ trên đường Tôn Đức Thắng” bởi ông hiểu

“mình cũng không phải là cái máy hát quay mãi những vòng hoài niệm. Là người

cầm bút, chúng tôi chỉ có tiếng nói. Và tiếng nói của mỗi người rồi sẽ được vọng

âm và hồi đáp của những ai không hề thấy phí công khi đi tìm trong chữ nghĩa chút

công bằng với lịch sử” (Thành phố những thước phim quay chậm).

Trong số các thành phố của Việt Nam, Đà Lạt là một thành phố đặc biệt –

thành phố nằm trên cao nguyên Lâm Viên (Lâm Đồng). Địa hình là núi nhưng bản

88

chất đời sống là đô thị nên vẻ đẹp đặc biệt của thành phố ấy không điển hình cho

phố mà mang vẻ đẹp riêng của vùng cao. Màn sương dày bao phủ, sự tĩnh lặng,

những đồi hoa và rừng thông, vẻ buồn dịu dàng… thành phố đó chỉ đứng yên giữa

đất trời đã là một nguồn hứng khởi bất tận với người nghệ sĩ. “Một thành phố lạnh

lẽo đã làm tròn chức phận của nó, đem lại sự quyến rũ bay bổng đến tận cùng

nhưng cũng trao tặng những ngày tháng u uẩn đến tận đáy” (Với Đà Lạt ai cũng là

du khách). Nguyễn Vĩnh Nguyên, người tự nhận mình là kẻ cuồng si Đà Lạt đã nói

về Đà Lạt như thế. Và quả nhiên, trong tản văn Nguyễn Vĩnh Nguyên, Đà Lạt mộng

mơ, đầy ma lực hấp dẫn. Đó là nơi hình bóng một tu viện cũ kỹ vọng cái nhìn u

hoài, lưỡng lự mắc kẹt giữa hiện tại, tương lai và quá khứ; nơi của mái ngói xưa,

của bụi mưa trong gió, của con dốc hun hút, của cà phê Tùng mờ khói thuốc và lãng

đãng hơi sương, của cỏ cây, đồi núi, rừng thông, những bậc thềm nhà lác đác lá và

hoa, của những con đường có hàng cây chìm trong sương đêm và từng hạt bụi

không khí của Đà Lạt được ướp vào chất thi vị, nhẹ nhàng. Không khí ẩm ướt của

Đà Lạt ăn sâu vào tâm hồn tác giả như một ám ảnh. Chỉ có Đà Lạt mới thấy “nhờ

ẩm mốc mà nhận ra hơi thở mang màu xanh rêu”, thấy “những chiều nắng lạnh, trời

khô và hai bên đường, hoa quỳ nở rộn ràng”, căn nhà gỗ rất nhỏ ở thị tứ Dran buồn

hiu hắt, “một bóng chim ngơ ngác đậu vào song thép lạnh trên vòm tháp chuông”,

có mẫu con người như thơ, sống giữa sương khói hoa cỏ đẹp như mơ.

Cảnh sắc thành thị trong tản văn hôm nay thực sự là chủ đề lớn bởi số lượng

lớn tản văn viết về các thành phố trải dài từ Bắc vào Nam. Phần lớn người viết hoặc

đang sinh sống ở một thành phố hoặc có cơ hội trải nghiệm qua nhiều thành phố, họ

viết về không gian, đời sống thị thành bằng một thứ cảm xúc đầy mâu thuẫn: vừa

thương nhớ vừa ghét bỏ, vừa bị ma lực thành thị hấp dẫn vừa muốn lánh xa, yêu

nhịp sống ồn ào và đau đớn khi phát hiện những giá trị một thời đang dần biến mất.

Song có một điều không thể phủ nhận đó là những tản văn viết về cảnh quan thành

thị đã truyền đạt chân thực không khí sôi động của sự phát triển. Mặc dù để lột xác

thành công, một thành phố phải trải qua những nghiệt ngã mà con người sống trong

đó phải gánh chịu. Người viết tản văn một mặt phác họa diện mạo phố, mặt khác,

89

họ bộc lộ những cảm xúc, trăn trở của mình trước chuyển động sống của phố thị

qua mỗi ngày.

3.2 Tản văn về văn hóa, phong tục

Viết về các giá trị văn hóa truyền thống của một vùng miền dọc chiều dài

đất nước là dòng cảm hứng đã có trong những sáng tác đầu thế kỷ XX tới nay. Chỉ

có điều, văn hóa phong tục của một vùng đất trong tản văn thế kỷ XX được các nhà

văn viết trong tâm thế người nghệ sĩ trải nghiệm nên chất liệu được lọc lựa, văn

phong chăm chút, tản văn lúc đó tựa như những phim ngắn giàu thẩm mỹ từ hình

ảnh tới xúc cảm. Đầu thế kỷ XXI, nhà văn viết trong tâm thế quan sát, suy ngẫm,

phản ánh trung thực nên tái hiện được từng góc nhỏ của đời sống trong bộn bề,

mang đậm sắc thái địa văn hóa.

3.2.1 Phong tục, truyền thống

Những năm đầu thế kỷ XXI, đời sống sinh hoạt tinh thần của con người Việt

Nam sôi động hẳn lên bởi nhu cầu được đi và trải nghiệm những vùng văn hóa

ngoài không gian sống quen thuộc của mỗi người. Xu hướng khám phá văn hóa

vùng cao khiến văn hóa du lịch phát triển, kéo theo là hội họa, nhiếp ảnh, âm nhạc,

tản văn về bức tranh cảnh sắc thiên nhiên và văn hóa phong tục miền núi có dịp

bừng nở. Đỗ Bích Thúy là cây bút cần mẫn tái hiện văn hóa vùng núi đá Hà Giang

trong văn chương. Từ căn nhà có gác áp mái, Đỗ Bích Thúy ngắm nhìn được nhiều

thứ để sau này “vẫn tự hào nói với bạn văn rằng, Hà Giang là một trong số rất ít

vùng đất còn giữ được gần như nguyên vẹn hồn vía, sự mất đi của hồn vía mặc dù

không thể tránh khỏi trong cơ chế thị trường, nhưng ít nhất cũng không làm du

khách thất vọng” (Trên căn gác áp mái). Lễ cúng tạ ơn trời đất cho mùa màng tươi

tốt trong những dịp lễ lớn vốn là phong tục đẹp của người vùng cao, vào ngày Rằm

tháng Bảy, “khi đã có hạt lúa mới về nhà, người Dao bắt đầu làm bánh dày bằng

cum lúa nếp đầu tiên vừa mang từ bên kia song về. Nếp nương làm bánh dày phả ra

mùi hương thơm đặc quánh, ngọt lịm. Sau một đêm thùm thụp tiếng chày giã bánh,

sang sớm, các nhà người Tày dưới thung lũng mở cửa ra thế nào cũng thấy một hai

chục bánh dày, gói trong lá dong, treo ngay trên cánh cổng. Không biết ai cho và

cũng không biết túi bánh treo ở đấy từ lúc nào, nhưng bánh vẫn còn mềm, trắng

90

muốt trong lá gói xanh biếc” (Kungfu người Co Xàu). Thành kính và rộng lượng,

bao dung những người từ vùng đất khác tới lập nghiệp đã đem tới bản sắc văn hóa

đa sắc của Hà Giang. “Ở đây, người Tày trồng ngô, lúa sát triền sông, trên ruộng

bậc thang; người Dao trồng sắn, lúa nương trên mấy sườn đồi đất đỏ như gấc; người

Kinh từ Nam Định, Thái Bình lên trồng hoa màu, cam quýt ở những mảnh vườn sát

chân núi” (Tôi đã trở về trên núi cao)… Với cư dân đồng bằng, tản văn của Đỗ

Bích Thúy kể những điều mới lạ, bức tranh văn hóa của người vùng cao được bày

ra, mời chào người đọc đến mức chỉ nghe nhắc những địa danh đã gợi háo hức lên

đường: Mã Pì Lèng, Mèo Vạc, sông Nho Quế, cao nguyên đá Đồng Văn, Xìn Cái

lên đến chợ tình Khau Vai; những tập tục cưới dừng chân giữa đường để bày ra ăn

uống, cô dâu thay váy mới trước khi về tới nhà chồng; rượu ngô, thịt bọc trong lá,

chợ tình, bánh ngô, quẩy tấu đầy bánh nếp; bài dân ca cổ của người Mông.

Tản văn hiện đại viết về lễ hội (cả truyền thống lẫn hiện đại), khơi lại vẻ đẹp

của những lễ nghi truyền thống như một cách thức dậy tinh thần tôn trọng văn hóa

dân tộc; đồng thời người viết cũng không né tránh thực tế các giá trị văn hóa truyền

thống ở các lễ hội đang dần bị mai một, cách mà hiện tại đang thực hành nghi lễ quá

xa mẫu gốc, khiến tư tưởng, quan niệm hạt nhân nguyên thủy còn lại không đáng

kể. Khó có người nào vượt qua được nhà văn Y Phương ở khả năng thức dậy tinh

thần ngày Tết rực rỡ màu sắc của đồng bào vùng cao. Tháng giêng- Tháng giêng…

một vòng dao quắm, Fừn Nèn – Củi tết, Kungfu người Co Xàu – bộ ba tản văn đặc

sánh không khí văn hóa Tày Nùng của Y Phương có vô cùng nhiều ký ức được đặt

vào các tản văn mô tả bức tranh văn hóa Ngày Tết anh cả (Tết Nguyên Đán) đậm

nét sắc màu vùng cao: mâm quả Còn nhiều màu sắc; các phiên chợ Co Xàu, Thông

Huề, Pò Tấu, Pác gà, Tà Lịnh… chỉ nghe tên đã đủ kích thích sự tò mò háo hức

được trải nghiệm; những chum rượu gạo, rượu ngô “phình phàng ngất ngưởng” bày

từ sáng sớm đến chiều tà với “cả tá lão ông, lão bà nhão nhoét như bùn” vì say

mèm; tiếng lợn eng éc bị mổ giữa một màu khói trắng; những nàng dâu mới (pỉ lùa,

pỉ nàng). Người đồng bằng có lệ đêm Giao thừa tắm nước lá mùi già thơm tẩy bụi

trần để sẵn sàng một sự thơm tho sạch sẽ đón chào năm mới thì ở đây, người Tày

Nùng trên đất Cao Bằng lại có lệ sáng mùng một, nhà nào cũng cắm cành bưởi lên

91

hai bên cánh cửa để trừ tà. Đun một nồi nước lá thơm, xông hương ban thờ. Nét độc

đáo của văn hóa Tày nằm ngay trong những khái niệm: nèn chiêng (ngày đầu năm

mới), kin nèn (ăn tết); cuổi vàng (chuối trâu); các loại bánh khẩu sli, pẻng phạ, lau

cau; khau lồm (lá dùng để tắm); người ta chúc người già slổnglàu chau ké; những

mu ót (lợn ỷ) hay mu sláy (lợn bột), nựa lạp (thịt hun khói), phúng xàng (lạp

xưởng), lăng goòng (bánh sấm). Những trang văn miêu tả lễ hội từ mùa Xuân tới

mùa Thu, vắt qua mùa Đông và kéo sang mùa Hạ phong phú vô cùng: Tết cả, Tết

thanh minh, Tết Slip Sli thịt vịt, Tết Hạ chí, Tết trâu, Tết cốm...

Bên cạnh Y Phương, nhiều tác giả dành một góc nhỏ cho hồi ức về Tết của

những năm tháng đã qua. Nhà văn Hoàng Hồng Minh sống ở Pháp nhưng chưa khi

nào nguôi nỗi nhớ về buổi sớm tinh sương, thanh thoát của ngày đầu năm mới chỉ

có ở khung cảnh làng quê yên tĩnh: "Ngọn gió Giao thừa lặng lẽ ùa về trên đầu ngọn

tre ngoài ngõ. Nhìn quanh, cái gì cũng cũ. Nhưng lòng mình chợt thoáng tươi mới

lạ, không nhiều, chút ít, vẫn có. Vẫn thế. Sáng mồng Một, lặng lẽ, tinh tươm. Mùi

rơm ẩm sương ở góc vườn quyện đọng hơn, thân thương hơn ngày thường. Như tờ

giấy trắng được mở ra, chẳng nỡ viết gì phiền muộn. Nhưng lời trong lòng vẫn kéo

tới, “Hợm cái đã nào.../ Con gà gáy báo Năm Ta/ Siêu nước dưới nhà đã giục trà

Ta/ Bồi hồi bóc tờ lịch Ta" (Tết Tây Tết Ta, lịch Tây lịch Ta) [154/tr18]

Trong tâm trí nhà văn Hoàng Việt Hằng thường trực nhớ hình ảnh mẹ tất bật

mỗi ngày trước tết và mâm cỗ truyền thống đầy đặn trong mỗi món ăn mẹ nấu vào

ngày Tết. Tản văn của bà có thể khiến người xa xứ lén lau nước mắt khi tái hiện lại

nguyên trạng Tết theo phong cách thuần truyền thống. Có tranh Đông Hồ vẽ hình

con vật biểu tượng theo năm, có ông nội nhà văn - một cụ đồ Nho không thỏa mãn

với lịch in chữ quốc ngữ bán ngoài chợ nên thường tự mình viết lịch; đêm Giao

thừa ấm sực củi lửa đun nồi bánh chưng sôi lục bục; tiếng pháo, xác pháo, mùi

thơm kỳ lạ của pháo “gây cảm giác hưng phấn náo nức” và “từ đây người ta chỉ còn

mê đi trong cái khoảnh khắc thiêng liêng nhất của thời gian”, nhâm nhi miếng bánh

chưng vuông có lượt áo ngoài màu xanh để thấy bao cầu nguyện năm mới an lành

tan trong miệng. “Nhân thịt lợn đỗ xanh béo ngậy. Sắc lá dong xanh ngấm vào gạo

trắng lên màu cốm. Ăn miếng bánh chưng đêm giao thừa trong phút giây đầy nhiệm

92

màu của năm mới như thực hiện một nghi lễ. Đưa miếng bánh lên môi cảm nhận

được hương vị đất đai, nắng gió quê nhà” (Tiếng dẻ cùi phía cây cơm vàng). Chậu

hoa cúc, vạn thọ, vườn đào và quất trước thềm nhà, phong tục lì xì, chúc tết, du

xuân, hội làng xuất hiện trên trang văn làm sống dậy xôn xao không khí đoàn viên

đáng trông đợi nhất trong năm.

Thực tế không phải phong tục tập quán nào cũng mang những giá trị tích

cực. Ở vùng cao, nhiều thứ bị xếp vào hủ tục cần phải thay thế để cuộc sống con

người tốt lên. Tản văn không viết nhiều về mảng tối của tập quán mà hầu hết đều

viết về những giá trị văn hóa tốt đẹp, từ trong cái tốt đẹp ngày cũ đã chớm mở

những trăn trở, lo âu về sự mai một của văn hóa giữa đời sống hiện đại. Nhà văn Đỗ

Bích Thúy đau đáu đi tìm cái đã mất. Tìm các giá trị đó ở đâu? “Làm sao có lại

được cái tết của ông, của cha mẹ con ngày xưa, hở ông? Tại sao người trẻ như con

lại cứ phải tìm đến những người như ông mới mong thấy được?” – Ông bảo: “Tìm ở

trong mình ấy. Tổ tiên đồng đất có còn ở trong mình không? Còn chứ gì, vậy là

không phải lo đi tìm ở đâu cả. Tất cả cứ sáng rờ rỡ ra như thế là bởi cảm được nó

trong khi những cái khác chen lấn đi đó thôi” (Tôi đã trở về trên núi cao). Mỗi con

người là một di sản văn hóa sống, con người thay đổi, văn hóa cũng thay đổi. Khi

các cô gái Mông bắt đầu bập bẹ tiếng Anh. Và đá, thứ làm nên một cao nguyên có

một không hai trên vùng núi phía Bắc cũng đang bắt đầu bị khai thác, các di tích bị

hiện đại hóa một cách vô trách nhiệm và thiếu kiến thức, người ta dần rời đất để đi,

mang theo phong tục tới một vùng đất mới và hứa hẹn những đổi thay, mất mát

trước mắt. Giá như sự thay đổi theo chiều hướng tốt lên thì phong tục trong mỗi

người- mỗi vùng đã được trân trọng, hòa hợp, thích nghi. Không may là văn hóa

phong tục bị mất đi phần hồn và chỉ lưu giữ dấu vết. Điều này còn buồn hơn khi

nhìn dấu vết văn hóa, ta hiểu đã mất một thứ vô hình không bao giờ lấy lại được.

“Có bao giờ bạn nghĩ, rằng bạn trở về nhà bạn, bước chân qua ngưỡng cửa mà bỗng

dưng cái ngưỡng cửa ấy không còn là ngưỡng cửa của mình dù vết dao băm lên

ngưỡng cửa lúc mình còn thơ bé vẫn hiện hữu ở đó? Thì bạn có buồn không? Bạn

có thấy mình đang mất đi một thứ quý giá đến nỗi không thể cầm nắm được

không?” (Hoa vàng mấy độ). Một tản văn trong Thành phố những thước phim quay

93

chậm (Huỳnh Như Phương) kể về sự hụt hẫng khi cảm nhận mất mát những giá trị

đẹp đẽ trong ký ức. Hình ảnh người bà là linh hồn của quê cũ, nên khi bà khuất

bóng, quê hương trong ký ức cũng mất dấu. Một người cháu của bà định cư ở Mỹ,

có lần viết thư về “ước gì năm nay em được về làng mình ăn tết”. Người anh là nhà

giáo trả lời em bằng bài thơ: “Bây giờ mà có về quê/ Cũng như Lưu Nguyễn xưa về

trần gian/ Vườn xưa nhà cũ hoang tàn / Phôi pha kỷ niệm, ngỡ ngàng bước chân/

Đâu còn bóng mẹ đầu sân/ Chờ con về tết mỗi lần xuân sang” (Thành phố những

thước phim quay chậm).

Tuy nhiên văn hóa phong tục không phải yếu tố bất biến nên nếu như có sự

thay đổi, mất mát thì đó cũng là quy luật. Nhưng trách nhiệm của mỗi người bắt đầu

từ nhận thức sau đó tới hành động giữ gìn, bảo vệ, phát triển hoặc kiếm tìm giá trị

tích cực hơn để thay thế. Tản văn đang làm công việc đánh thức nhận thức. Phần

hành động là hệ quả tác động của người độc giả. Nếu chỉ viết để than, chỉ đọc để

thấy mà không hành động thì đến một lúc chúng ta vì mải miết mở cửa, hội nhập

mà đánh mất bản sắc.

3.2.2 Văn hóa tâm linh, tín ngưỡng

Ở Việt Nam, lễ hội, tết, tín ngưỡng và tôn giáo có mối quan hệ gắn bó, giao

hòa với nhau. Văn hóa tâm linh, tín ngưỡng của người Việt là đức tin chân thành

đối với người đã khuất. Người vùng xuôi cũng như vùng cao, chọn Tết tảo mộ làm

dịp thể hiện tưởng nhớ của người sống với người đã khuất. Với người Tày, “đó là

ngày mở cửa mồ. Người dương gặp lại người âm, trong niềm nhớ thương vô hạn.

Người âm hiện hồn lên phù hộ độ trì, ban bố phúc lộc cho người dương”. Viết về

văn hóa tâm linh, tản văn Y Phương thường sử dụng những hình ảnh mang tính

huyền thoại hoặc được giải thích với sắc màu thần thoại của người dân tộc thiểu số

(chân dung Bà Phò…). Ông cũng có những tản văn giới thiệu tín ngưỡng thú vị của

người Tày. Chẳng hạn Tết vía trâu - cái tết thể hiện lòng biết ơn của con người đối

với con vật: “Người Tày Nùng vốn coi trọng nghĩa tình. Ăn lộc của ai phải biết ơn

người ấy. Ăn lộc từ thiên nhiên người phải biết ơn cây cỏ. Huống chi trâu là bạn

nhà nông. Nên bà con dành hẳn cho trâu một cái tết” (Fừn nèn - Củi tết). Đó hẳn là

một niềm tin mang đậm dấu ấn văn hóa nông nghiệp mà ý nghĩa của cái tết phản

94

ánh lối sống trọn vẹn, tính cách hiền lành, chất phác của người Tày. Những tản văn

của Y Phương không chỉ dừng lại ở sự hồi cố về văn hóa xứ mình như một nỗ lực

lưu giữ bản sắc văn hóa của “người đồng mình”. Sau mỗi ký ức, ẩn hiện những băn

khoăn về sự mất mát dần sự tồn tại của những lễ nghi nguyên thủy. Ông đau xót

nhớ về lễ tế Thần Nông linh đình của hai làng Hiếu Lễ, Tà Thanh vài ba chục năm về

trước những cũng ý thức một ngày không xa, sẽ không còn ngày tế Thần Nông bên

nhau ăn uống vui vẻ. Như thế, một lễ tế mang ý nghĩa tốt đẹp có từ bao đời sẽ bị cuộc

sống mới nhấn chìm vào biển lãng quên, để lại bao ngơ ngác cho lớp người từng được

trải nghiệm không gian sinh hoạt văn hóa hồn nhiên và chứa chan hy vọng.

Trong tản văn đầu thế kỷ XXI, có một dòng cảm hứng mới được khơi nguồn.

Ở đó, người viết bày tỏ sự quan tâm sâu sắc tới trạng thái tinh thần con người Việt

Nam đương đại. Năm 2011, tác giả Thích Đổng Sơn ra mắt độc giả tập Phật giáo và

những tản văn. Đây là một trong những tư liệu về Phật giáo mà tác giả (các bậc Đại

lão Hòa thượng) đã trình bày để đưa những hình ảnh thực tế trong Phật giáo đến với

bạn đọc. Độc giả sẽ gặp một Khuất Nguyên trong cụ Thiều Chửu, một thiền phái

Trúc Lâm trong thuyết Tam hợp, một hoài bão nhân gian Phật giáo trong lòng Hòa

thượng Thích Trí Hải, một tấm lòng nặng trĩu của tác giả đối với Phật giáo… Một

tập sách khác, Thiên thần của sự sống (Lữ thế Cường) gồm 36 bài viết của cây bút

thế hệ 6x đang sinh sống tại Hà Lan lại là những câu chuyện rất thiền vị từ kinh

nghiệm thực tế, từ sự thực tập và góc nhìn của một người hoạt động trong lĩnh vực

xã hội học đã làm cho tản văn thật sự sống động và đầy sức sống. Tác giả cho người

đọc nhận ra những suy nghĩ tích cực có ý vị triết lý Phật giáo, có những lúc ở những

nơi tưởng chừng đau khổ nhưng lại là nơi nảy mầm hạnh phúc khi nhận diện được

niềm vui, hạnh phúc và đừng phê phán hay từ chối cuộc sống vì sống là một niềm

vui. Mọi triết lý rút ra từ những suy ngẫm của một người tôn trọng sự cân bằng tinh

thần trong Phật giáo cuối cùng quy về tinh thần hạt nhân của tôn giáo này: tình

thương. Đó thực sự là một vị thuốc bổ dưỡng tinh thần thời đại mà một số độc giả

hôm nay kiếm tìm. Nhà văn Cao Huy Thuần lại khai thác Phật giáo ở chiều sâu ảnh

hưởng văn hóa dân tộc. Hai tập tản văn Chuyện trò, Sợi tơ nhện chứa đầy đủ những

mẩu chuyện nhỏ giáo dục con người theo triết lý Phật giáo. Những câu chuyện thần

95

thoại gợi liên tưởng đến những câu chuyện đời thực, buộc người đọc suy ngẫm và

tự rút ra bài học ứng xử trong nhiều tình huống. Trở đi trở lại trong Sợi tơ nhện, ông

thường đề cập đến một nguyên tắc đạo đức quan trọng: không nói dối, và trước tiên

phải thật với mình thì mới không dối với người. Nhà văn Cao Huy Thuần cũng bất

bình với chứng bệnh hời hợt, hiểu biết nông nổi dẫn tới việc hành pháp hình thức,

có phần mù quáng. Ở thời điểm các giá trị tốt đẹp của con người trở nên khan hiếm,

lòng tin vào con người, cuộc đời mờ nhạt thì tín ngưỡng lên ngôi nhưng “con người

dưới xuôi, khấn vái xong là vào quán ăn nhậu hỉ hả. Mua sắm đồ lưu niệm nhà Phật

mà chỗ nào cũng lời Phật dạy con dân thì không nhớ” (Trò chuyện).

Nếu nói tản văn chỉ ưa những câu chuyện nhỏ vụn vặt thì ở mảng văn hóa

này, tản văn đã bộc lộ điểm mạnh của thể loại “nhỏ mà có võ”. Câu chuyện nhiều

khi chỉ bắt đầu từ một tình huống đời sống (nấu một món ăn, cắt vài bông hoa tươi

đặt lên ban thờ gia tiên, lên Chùa cầu an, uống trà v.v…) nhưng gợi những vấn đề

lớn lao về văn hóa. Có thể bởi lực lượng sáng tác đa dạng và đông đảo nên trải

nghiệm và sự am hiểu văn hóa được trình bày trong tản văn hiện nay cũng đa dạng.

Mẫu số chung trong cảm nhận của người viết về văn hóa tín ngưỡng, lễ hội của

người Việt Nam có hai vấn đề: tự hào và âu lo. Tự hào bởi Việt Nam là đất nước

của lễ hội truyền thống, mỗi vùng đất là một mảng màu văn hóa, được tạo nên bởi

văn hóa lễ hội độc đáo thuộc sở hữu của vùng đất; tư hào bởi tín ngưỡng mang bản

sắc thuần Việt là thứ tín ngưỡng chân chính, nó đem lại sự bình an cho cộng đồng

dân tộc. Người viết cũng gợi ra những lo âu thường trực về thực trạng một số lễ hội

truyền thống đang dần trở nên méo mó do những quan niệm ấu trĩ chi phối. Trần

tục, quan phương, thực dụng, thương mại và đơn điệu hóa lễ hội là những vấn đề

các tác giả gợi lên trong trang viết. Cao Huy Thuần không phân tích như nhà nghiên

cứu văn hóa nhưng bằng một vài chi tiết ấn tượng cũng đủ khơi gợi để người đọc

suy ngẫm thêm về vùng văn hóa quanh mình.

3.2.3 Tập tục, sinh hoạt

Nói về tập tục sinh hoạt thực chất nói về câu chuyện cái ăn, cái mặc, thú

chơi. Chẳng đợi tới tản văn hôm nay, rất nhiều tác phẩm văn học trước đó đã viết về

nhu cầu muôn thuở, căn bản của con người. Nhưng tản văn đầu thế kỷ XXI chọn

96

cách tiếp cận riêng. Một món ngon, một thú chơi, thói quen trang phục… chỉ là một

tứ, là cách đặt vấn đề để người viết dẫn người đọc ngược về quá khứ hoặc xuôi tới

tương lai, sống trong cảm xúc của nỗi nhớ thiết tha hoặc bồn chồn lo âu về sự biến

mất. Cuối cùng vẫn trở về vấn đề văn hóa, bản sắc văn hóa, ý thức trách nhiệm

trong việc gìn giữ và cách tân văn hóa.

Bàn về thú chơi và trang phục có thể tìm tới những tập tản văn của Đỗ Phấn

(thú ăn, chơi thời bao cấp), Nguyễn Trương Quý (thị hiếu giới trẻ thành thị) hay

Ngô Kế Tự (thú chơi xe của người Sài Gòn) v.v… Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy

văn hóa ẩm thực trong tản văn Việt Nam hôm nay xuất hiện như một chủ đề chính,

đó là mảng văn hóa sôi động nhất, đồng thời là phần tạo sức hấp dẫn mạnh mẽ với

người đọc nhiều độ tuổi. Các món ăn của ba miền xuất hiện dày đặc trong mỗi trang

văn là dấu hiệu thuyết phục văn hóa xưa và nay.

Nhà thơ Y Phương giới thiệu văn hóa ẩm thực vùng cao như một “vị đại sứ”

của văn hóa Tày. Nhà văn Đỗ Bích Thúy điền thêm một món của người Tày: ngóe

ôm măng. Đọc rồi tưởng tượng, thấy mình đang lạc vào phiên chợ ẩm thực sừng sực

khói của người vùng cao. Người viết tản văn khác, họ không đơn thuần mô tả mà

còn gửi gắm những đau đáu thương nhớ vào các phong tục độc đáo, nhất là ngày tết

và ở đó người đọc nhận ra những khát vọng bảo tồn những giá trị tốt đẹp của văn

hóa độc đáo của người vùng cao trong thời kỳ hội nhập và giao lưu quốc tế.

Ẩm thực Hà Nội trong tản văn của Hoàng Việt Hằng, từ ký ức về trà ướp

sen của bà cụ sống gần Tây Hồ tới những món ăn bà mẹ “đặc truyền thống” tỉ mỉ

dạy con gái chuẩn bị những ngày Tết đủ thấy tính chất thanh lịch của người Hà

thành. Hà Nội xưa còn nổi tiếng ở sự sành ăn. Sự sành ấy có từ thời các nhà văn

Thạch Lam, Nguyễn Tuân, Tô Hoài viết về Hà Nội cũ. Đến giờ sự am hiểu, khe

khắt trong thưởng thức vẫn được duy trì. Cũng viết về phở, nhà văn Băng Sơn chú ý

tới một dụng cụ chỉ là một ống tre, một đầu có mấu kín, đầu kia nút kín bằng lá

chuối khô dùng để chứa tiêu hạt. Sành không chỉ là sự hiểu trong cách lựa chọn,

dùng món mà sành còn đồng nghĩa với am hiểu tường tận. Ở tuyển tập Hà Nội tản

văn: làng, ngõ, vỉa hè của nhiều tác giả, người đọc có cơ hội khám phá ẩm thực tận

cùng ngõ ngách Hà Nội. Các bài viết của nhà văn Lê Minh Hà, Võ Thúc Loan, Trần

97

Khôi Việt, Uông Triều mách nhỏ với độc giả những nơi ngon nhất thường là những

gánh hàng rong ở quanh mấy phố cũ. Gần đây nhà văn Uông Triều được nhắc tới

nhiều bởi tập Hà Nội quán xá, phố phường ra mắt bạn đọc và thuyết phục những

người kỹ tính nhất bởi sự am hiểu ngọn nguồn ẩm thực Hà Nội kỹ như người Hà

Nội gốc “biết tuốt” mọi góc nhỏ của thành phố. Những quán cà phê phố cổ Hà Nội

được điểm danh, chỉ dẫn tỉ mỉ từ lai lịch xuất xứ cho tới vị trí và cái thú riêng chỉ có

ở từng quán; những quán trà đá vỉa hè thong thả bán, thong thả mua và uống, người

thưởng trà an tọa trên chiếc ghế mây nhỏ xíu bình thản ngắm phố phường bận rộn

xuôi ngược và bàn chuyện trên trời. Uông Triều cho thấy mình là nhà văn sành món

ăn vặt của Hà Nội khi viết đầy đủ thông tin những món quà của người Hà Nội như

bánh rán, phở, bún, mì, gia vị. Nể nhất ở chỗ mỗi món giống như một file nén, mở

ra thấy vô số tệp con, hàng chục loại bánh rán, hàng chục phiên bản bún, hàng chục

kiểu mì…

Dịch chuyển từ miền Bắc vào miền Trung là cả một sự dịch chuyển của

nguyên vật liệu, khẩu vị, kĩ thuật chế biến và cách thức trải nghiệm. Huế ăn cay nói

nặng là tập tản văn tập hợp của nhiều tác giả mà ngay từ nhan đề đã gọi trúng đặc

điểm ẩm thực của người Huế. Những bài viết Cơm Âm Phủ ở Huế xưa và nay, Tôm

chua xứ Huế, Ăn theo lối Huế đã đánh thức vị giác của người đọc. Có lẽ do thời tiết

và khẩu vị thân quen bao đời nên ở Huế ăn món gì cũng phải cay. Cũng đặt ẩm thực

trong cái nhìn soi chiếu tính cách con người, nhà thơ Lê Minh Quốc viết Người

Quảng Nam không chỉ bàn chuyện xây dựng chân dung điển hình con người xứ

Quảng mà ông bàn về chuyện ẩm thực như một phần hấp dẫn trong tính cách và

khẩu vị phóng khoáng mà tinh tế của con người Quảng Nam. Nhưng tiếc là tác giả

dành cho chuyện ăn uống một phần nhỏ trong cuốn sách nên đọc xong vẫn còn thấy

thòm thèm vì "chưa đã". Những "Ốc bươu nấu với măng chèo/ Rau trai, rau dịu lại

đèo rau lang"; con cá nục cuốn bánh tráng, rau muống chấm nước mắm nguyên

chất; chiếc bánh bèo con con mà mát miệng; món mì Quảng sợi mì vàng óng ánh;

chiếc bánh đa tráng công dụng ngay cả khi nhúng nước nước mắm để ăn hay dùng

trong bàn tiệc sang trọng… Những món ăn từ dân dã đến cầu kỳ mà từ cách ăn đến

98

cách chế biến cũng như tính cách người Quảng: cần kiệm, dè sẻn mà lại phóng

khoáng, vui tươi; mộc mạc, nguyên vị đồng đất, sông nước quảng Nam.

Nhà văn Trần Đức Tiến viết tản văn Thả hy vọng có chút khác biệt với các

nhà văn khác, sinh ra ở Hà Nam nhưng sống ở Vũng Tàu, bản thân nhà văn trải

nghiệm vùng ẩm thực khác biệt. Trong mỗi bữa cơm, mỗi món ăn, nhà văn luôn

thấy đồng hiện một thứ hiện hữu trên mâm cơm- trước mắt với một thứ hiện hữu

trong ký ức. Sự đồng hiện làm nảy sinh những so sánh, đối chiếu. Hẳn là câu

chuyện này diễn ra nhiều lần trong bữa cơm nên đứa con của nhà văn đã tổng kết

rằng: “Củ hành quê bố thơm hơn. Đĩa rau muống quê bố cũng xanh hơn. Đến con cá

sống ngoài biển mà bố cũng bảo thịt nó ngọt bùi hơn những con cá biển ở nơi khác

thì…thôi rồi! Hồn quê ngấm sâu cỡ đó, “cãi” làm sao lại?” và “anh, cứ sau mỗi lần

“bênh” quê, lại lẩn thẩn tự hỏi mình: Có thật thế không, có thật mọi thứ ở quê mình

đều quý, đều xịn”. Miếng ăn đâu chỉ là sự tận hưởng cảm giác vật chất đem lạ mà

còn là tinh thần của người ăn đã “ngấm” hồn quê tới từng tế bào, nên xa xứ, chẳng

nhận thấy món nào ngon bằng các thức ở quê.

Có một điều thú vị là buổi đầu bước vào không gian tản văn, ngỡ lạc vào mê

cung những sáng tác lấy cảm hứng từ Hà Nội. Nhưng càng tìm kiếm lại càng thấy

mảng tản văn viết về Sài Gòn xưa và nay phong phú không kém. Chỉ riêng cuối

năm 2013 và những tháng đầu năm 2014 đã có bộ ba cuốn mang tên chung Sài Gòn

Tạp văn bao gồm các phần: Sài Gòn sau màn bụi, Ngon vì nhớ, Hẻm phố thông ra

thế giới. Kể từ đó tới nay, có thêm nhiều tập tản văn của những tác giả cũ và mới

tiếp tục khai thác đời sống ở một thành phố mà những cư dân sống tới quá nửa đời

mình có khi vẫn chưa biết hết những điều thú vị nhỏ bé. Không chỉ là câu chuyện về

món ăn, thức uống, một chỗ ngồi, một con phố, tên người... tạp văn về Sài Gòn diễn

dịch lại một thành phố dung nạp nhiều dòng văn hóa. Có những cây bút không phải

là cái tên quen thuộc với bạn đọc nhưng viết về Sài Gòn đầy đủ và hấp dẫn, Trần

Tiến Dũng là cây bút như thế. Món ngon và gia vị cảm xúc, Không gian gia vị Sài

Gòn - hai tập tản văn đặc quánh mùi vị Sài Gòn, hơn thế, nó chứa chan những suy

ngẫm của người đàn ông trưởng thành về văn hóa sinh thành trong những căn bếp

nhỏ của mẹ. Vì thế, Trần Tiến Dũng không kể chuyện nguyên liệu thực phẩm, cách

99

chế biến hay cách ăn. Xuất thân từ Sài Gòn náo nhiệt, ẩm thực trong tản văn của

anh đủ mặt từ những món quen với người Sài Gòn tới những món ngoại lai mà lâu

dần cũng thành hương vị riêng của Sài Gòn. Những hủ tiếu gõ, bánh giò, bò bía,

nước mía, sinh tố, kem cây, chưa kể những món ăn của người Hoa tồn tại giữa đất

Sài Gòn đến cả trăm năm… Ngoài Trần Tiến Dũng, tản văn của Ngô Kế Tựu, Ngữ

Yên và nhiều cây bút trẻ khác cũng đem tới cho bạn đọc sự đa dạng trong cảm nhận

ẩm thực phương Nam. Nhà văn Ngữ Yên viết về những món ăn gắn liền với người

Sài Gòn: bánh canh, bún bắp nẫu, các món mắm, gà tiềm, cá sọc dưa, chả giò kiểu

Sài Gòn; những món ăn từ phương khác tới tề tựu ở Sài Gòn: bún cá, bánh tráng

cuốn, bún tàu và miến, ba ba, gà kiến, cá nục kho, cá bống tép riu cuốn rau rừng.

Tản văn của nhà văn Ngữ Yên đặc biệt thú vị bởi nhiều món ăn lạ lùng với người

miền khác, thêm nữa, tác giả có biệt tài đặt nhan đề cho bài viết đủ gợi một ấn

tượng từ món ăn đơn giản: Cá ong căng và cái ngon buồn, Một tập tin mang tên:

canhkhoaitừ.nhớ, Mùi thủm quý phái từ con tra phồng v.v… Khác hẳn những hồi

ức món ăn thường phảng phất dư vị buồn, Sài Gòn quán xá yêu thương của cặp đôi

Quang Minh – Khánh Ngân lại sôi động, đa dạng như chính thành phố không bao

giờ ngủ. Ngoài những món ruột có thâm niên của Sài Gòn như phá lấu, bánh canh,

sủi cảo, bún bò… đôi bạn trẻ mô tả khá nhiều những món ăn thời thượng của giới

trẻ Sài Gòn như dừa tắc, hồng trà tắc, café, trà đào dầm...

Văn hóa Tây Nam Bộ được tái hiện như thể vùng đất được ngắm nhìn qua

lăng kính vạn hoa, mỗi nhà văn là một góc nhìn – một cảm nhận khác nhau dù đối

tượng nghệ thuật chỉ có một. Tản văn Nguyễn Ngọc Tư mời mọc người ta tứa nước

miếng khi hình dung những món ăn dân dã chỉ có ở đất Mũi: cơm nguội với ghẹm

muối, hàu tái chanh, cá thòi lòi kho dừa, vọp nướng, cá lóc nướng rơm, ốc lác luộc

với lá sả, lá ổi chấm cơm mẻ, hàu nướng, sò nướng chấm muối tiêu chanh… Trong

tản văn của chị, người đọc được can dự vào những phiên chợ ấp nhóm lên vào lúc

chiều muộn nằm ngay bên đường, cả người mua lẫn người bán đều chất phác hay

hình ảnh quen thuộc với những xóm nhỏ ăn loang ra đôi bờ sông có chợ nổi với

hàng trăm chiếc ghe to, nhỏ đậu sát vào nhau thành một dãy dài chùng chình trên

mặt nước... Cứ thế miền Tây hiện ra gần gũi tưởng như có thể chạm tới để cảm

100

nhận cách sống, con người phóng khoáng nơi sông nước chứa chan tình cảm. Bên

cạnh Nguyễn Ngọc Tư, còn có Dạ Ngân - nữ nhà văn của đồng bằng sông Cửu

Long. Dạ Ngân từng gắn bó và từng chia xa nơi này nên thấu hiểu và trân trọng mỗi

sản vật đặc thù của vùng đất quê hương.

Văn hóa ẩm thực Việt Nam phong phú bởi nó là sự cộng hưởng của nét riêng

độc đáo ẩm thực nhiều vùng miền, có thể cảm nhận sự phong phú đó trong tản văn

hôm nay. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đó, tản văn chẳng khác những bài tùy bút, bút

ký hay phóng sự ẩm thực đường phố và nó cũng chỉ là phần lời thuyết minh cho

một video quảng bá cho món ăn mà chúng ta bắt gặp vô số trên mạng xã hội. Tản

văn có lượng độc giả trung thành một phần vì những món ăn trong mỗi trang văn

chỉ là điểm tựa để đẩy bật lượng cảm xúc nhân văn của người viết, sau đó là sự lan

tỏa cảm xúc đến người đọc. Người đọc vừa nhận lấy những thông tin vị giác vừa

tràn ngập xúc cảm. Vẻ đẹp của đề tài về văn hóa ẩm thực trong tản văn đầu thế kỷ

XXI đã thoát khỏi giới hạn miêu tả thông thường khiến người đọc thấy thêm yêu

cuộc sống, biết trân quý những điều bình dị và thêm tự hào về văn hóa dân tộc.

Thực chất, khi bàn về mảng tản văn cảnh sắc thiên nhiên hay văn hóa, phong

3.3 Tản văn thế sự

tục đã bao hàm các vấn đề về văn hóa ứng xử, các vấn đề tồn tại của đời sống

đương đại. Song trong quá trình khảo sát các sáng tác tản văn, chúng tôi nhận thấy

có một dòng tản văn thiên về những trăn trở của người viết trước các vấn đề tiêu

cực, hạn chế của đời sống ở nhiều phương diện. Những vấn đề đó được phản ánh cụ

thể, chân thực trong mỗi sáng tác. Việc quan sát và phản ánh các vấn đề thế sự vừa

thể hiện tính cập nhật của tản văn vừa riết róng đặt ra những câu hỏi lớn với cộng

đồng, xã hội, nó bộc lộ rõ cá tính, bản lĩnh và ý thức trách nhiệm của mỗi nhà văn

với cuộc đời, với xã hội.

3.3.1 Văn hóa ứng xử

Trong những năm gần đây, văn hóa ứng xử (giữa con người với con người,

giữa con người với tự nhiên) được đặt ra như một vấn đề lớn, có ảnh hưởng quan

trọng tới diện mạo phát triển chung của một cộng đồng, dân tộc. Có một nghịch lý

đang tồn tại trong cuộc sống của chúng ta: quá trình hiện đại hóa tỉ lệ nghịch với

101

văn hóa ứng xử. So với những thể loại văn học khác viết về vấn đề này, tản văn

chiếm ưu thế bởi đặc tính phản xạ nhanh theo cơ chế: thu nhận- ngẫm ngợi - phản

ánh. Một mặt, tản văn “bắt” lấy những biểu hiện cụ thể của thực trạng văn hóa ứng

xử; mặt khác, tản văn khơi gợi những ngẫm nghĩ của độc giả để họ tự nhận lấy cho

mình một điều ý nghĩa.

Trước hết là những tản văn đầu thế kỷ XXI thể hiện quan ngại về cách con

người ứng xử với thiên nhiên. Trong số hơn 100 tập tản văn được chọn khảo sát, có

nhiều tản văn viết về vấn đề môi trường sống của người Việt Nam ngày nay. Nếu

xem các từ khóa giống như một loại phù hiệu ngôn ngữ của đời sống tự nhiên,

chúng ta bắt gặp nhiều lần các từ khóa: “cây xanh”, “chim muông”, “hồ nước”,

“cánh đồng lúa”, “thảm cỏ”, “biển cả”, “núi non”, “rừng cây” v.v… Các từ khóa

này có giá trị như những biểu tượng cho môi sinh của con người ở nhiều vùng miền

khác nhau. Dù viết về không gian tự nhiên nào, các tản văn đều có xu hướng sử

dụng các biểu tượng của đời sống tự nhiên đặt trong mối quan hệ với thế giới con

người thời hiện đại. Trong mối quan hệ ấy, hầu hết các tác giả nhận thấy một thứ

hiện trạng tiêu cực. Khi các nhà văn lên tiếng nói về các vấn đề của môi trường

sống hôm nay thì đó là lúc họ muốn giải phóng những bức xúc cá nhân trước những

vết thương lớn mà con người đang gây ra đối với Mẹ thiên nhiên.

Không gian xanh là biểu tượng thứ nhất cho sự sống của một đô thị. Cảm

thức về giá trị của màu xanh tươi giữa lòng đô thị xuất hiện phần lớn trong tản văn

Hà Nội quán xá phố phường của nhà văn Uông Triều. Những con phố rợp cây xanh

như Phan Đình Phùng, Trần Phú, Trần Hưng Đạo, Hoàng Diệu, Láng, Bưởi, Hoàng

Hoa Thám, phố Lò Đúc, Lý Thường Kiệt, Hoàng Quốc Việt, Nguyễn Khánh

Toàn… Xét về mặt khoa học, cây xanh là tiêu chí để Hà Nội được xếp vào nhóm

những thành phố thân thiện trên thế giới. Nhưng nhiều tản văn đã “chớp” lưu lại

một hiện thực: hôm nay nhiều hàng cây đã bị đốn gục. Năm 2015, dư luận nổi sóng

bởi hơn sáu nghìn cây xanh có tuổi đời tới trăm năm trên những cung đường lớn của

thủ đô bị chặt hạ nhanh chóng. Sự dậy sóng trong dư luận lan tỏa vào đời sống văn

học, tản văn là khung hình thích hợp để phản chiếu thực tế nên rất nhiều bài viết thể

hiện tiếng nói, thái độ của nhà văn về sự kiện này. Ở tản văn Chuyện hài hước từ

102

những cái cây ở ban công và Trò chuyện về những cái cây đã chết, nhà văn Nguyễn

Quang Thiều nhận ra một “sự thật nực cười và thật tồi tệ”, “trong khi chúng ta chăm

sóc thái quá những cái cây trên ban công nhà mình thì chúng ta lại thi nhau tàn phá

những cái cây khác”, sự tàn phá từ những cây có trăm năm tuổi rợp bóng thành phố

cho tới “những khu rừng nguyên sinh hàng ngàn héc ta”. Người chặt cây có lý do:

Tránh bão làm đổ cây gây thiệt hại cho dân. Nhà văn phản biện: Vì sao không

chống bão cho những cái cây cổ thụ? Rất nhiều thành phố trên thế giới đã làm việc

này từ lâu! Người chặt cây nói: Có thể trồng cây khác thay thế. Nhà văn đau đớn:

“Khi một cái cây biến mất thì nó để lại nơi đó một lỗ thủng, một sự trống rỗng

không bù đắp được. Một ngôi nhà bị đổ có thể xây lại trong hai, ba năm. Nhưng

một cái cây 100 năm tuổi biến mất chúng ta phải đợi 100 năm nữa mới được nhìn

thấy”. Trong lòng phố, cây xanh không phải thứ duy nhất bị hạ gục. Chim chóc -

một hình ảnh nhỏ bé về sự giao hòa bình yên giữa đời sống con người với đời sống

tự nhiên; nét chấm phá cho bức tranh đời sống đẫm chất thơ cũng bị người phố săn

đuổi ráo riết. Nguyễn Quang Thiều đi tìm những sát thủ gây ra “cái chết của những

con sẻ nâu bé bỏng”. Đó là những kẻ giàu có (sở hữu những khẩu súng hơi của Đức

rất đắt tiền) và hầu hết họ “không phải những người ít được giáo dục”, họ đi Dylan

hoặc SH, mặc sooc trắng, áo pull hàng hiệu, giày adidas… Chiến lợi phẩm của họ là

“dây chim sẻ nâu dài”, cung cấp cho nhu cầu của những vị khách béo tốt, ăn mặc

sang trọng “nhai rau ráu những con sẻ nâu chiên vàng làm mỡ tứa ra hai bên mép

họ”. Câu chuyện sẽ “bé bằng hạt tấm” đối với các nhà quản lý thành phố đang bận

biết bao việc lớn cho tới khi nhà văn kết luận rằng “việc hành xử với những con sẻ

nâu bé bỏng kia đã để lại một lỗ thủng không nhỏ trong tâm hồn con người và trong

đời sống văn hóa của chúng ta”.

Hà Nội gắn liền đời mình với những sông, hồ nước tự nhiên (Hồ Tây, Quảng

Bá, Trúc Bạch, Bảy mẫu, Ba mẫu, Hoàng Cầu, Thành Công, Giảng Võ, Ngọc

Khánh, Thủ Lệ, Linh Đàm v.v…). Song những hồ nước nỗ lực bao nhiêu trong việc

đem lại một không gian sống hài hòa của cư dân thành phố cũng không làm nguôi

cơn điên cuồng hành hạ của chính cư dân nơi đây: họ lấn lướt, họ làm vấy bẩn ô

nhiễm trầm trọng, thậm chí họ có ý định lấp một cái hồ lớn nổi tiếng để xây nhà tái

103

định cư, và các dự án đô thị hóa là thử thách khắc nghiệt với dòng sông và cư dân

đôi bờ”. Trong tản văn của Nguyễn Trương Quý, Nguyễn Quang Thiều, Uông Triều

đều có tiếng nói bất bình trước hiện tượng ô nhiễm nặng nề của sông, hồ trong

thành phố. Uông Triều viết: “Khi nào sông Tô Lịch sẽ được hồi sinh? Những người

yêu Hà Nội luôn có một nỗi khắc khoải, chờ mong con sông của lịch sử, của truyền

thuyết sẽ trở lại thành dải lụa mộng mơ giữa thành phố nghìn năm tuổi”

Có một mảng tản văn chiếm thiết diện lớn viết về trạng thái tinh thần của xã

hội. Trong đó, văn hóa ứng xử giữa con người với con người được nhìn nhận chân

thực. Lấy Hà Nội làm chuẩn mực cho văn hóa ứng xử thì trong rất nhiều tập tản

văn, các từ khóa “thanh lịch”, “tao nhã”, “di sản văn hóa tinh thần”, “xô bồ”, “mai

một”, “lo âu”, “hoài nghi”… đủ diễn đạt sự vận động của văn hóa tinh thần Hà Nội

từ quá khứ tới hiện tại đồng thời, đó là những trạng thái cảm xúc của các nhà văn

khi viết về Hà Nội. Các tập Tự nhiên như người Hà Nội, Hà Nội là Hà Nội, Còn ai

hát về Hà Nội, Mỗi góc phố một người đang sống của nhà văn Nguyễn Trương Quý

viết về văn hóa ứng xử của những con người sống trên vùng đất Hà Nội hôm nay.

Các tản văn của anh bám sát đời sống hôm nay để phản ánh lại dư luận xã hội phàn

nàn nhiều về những cái tệ của Hà Nội trong cách ứng xử: sự tồi tệ trong ứng xử từ

nhà ra phố, từ riêng tư tới nơi công cộng… Nhà văn đi tìm nguyên nhân, tự giải

thích, đâu phải những người đang sinh sống ở Hà Nội đều là người Hà Nội? Ai

cũng biết, bao quanh và làm nên Hà Nội là tứ trấn, là những khu ba, khu bốn. Nếu

“đầu vào” của một thành phố gồm thực phẩm, hàng hóa và con người – kèm theo là

lối sống của họ thì không thể buộc Hà Nội phải là một “cái phễu lọc” đòi cho ra tinh

hoa thanh lịch. Nhiều người phàn nàn về một Hà Nội đã bị “biến dạng”, tuy nhiên sự

biến dạng chỉ được nhận ra dựa trên lời thở than khi người ta chọn hệ quy chiếu là Hà

Nội trong quá khứ. Nhà văn cho rằng sự thay đổi của người Hà Nội là diễn biến tất yếu

của lịch sử. Hiển nhiên một thành phố hiện đại của tương lai sẽ không dung nạp những

con người quay trở về nhịp sống chậm cho đúng tinh thần Hà Nội xưa.

Bên cạnh những tập tản văn khai thác đời sống tinh thần đương đại của con

người ở những thành phố lớn như Hà Nội, rất nhiều sáng tác thể hiện những suy tư

về một số căn bệnh nan y của tinh thần con người. Cô đơn là trạng thái tinh thần đã

104

dần trở thành phổ biến của con người giữa thế giới vật chất trong một xã hội phát

triển. Nỗi cô đơn cắt lìa mối quan hệ giữa cha mẹ với con, cháu trong gia đình. Tìm

nơi sống gửi thác về của nhà văn Hoàng Việt Hằng chạm vào cảm giác tủi thân khi

người ta hình dung cuộc đời mình đoạn sau giống những người già sống ở trung tâm

dưỡng lão – những người từ chối hân hoan đón Tết Nguyên Đán vì Tết thường buồn

hiu. Tản văn hôm nay cũng nhận ra sự rệu rã trong tinh thần con người hiện đại, viết

nhiều về cảnh sắc thiên nhiên hoang sơ mời gọi là một cách phản kháng sức nặng

ngột ngạt của đời sống hiện đại, mời gọi con người trở về bản thể tự do để được

sống như phần lớn người vùng cao, giữa một không gian khoáng đạt và yên ắng,

trong trẻo, con người không bị vướng bận những lo âu thường trực.

Chúng ta đang trải nghiệm những thay đổi lớn về cuộc sống song đồng hành

với đời sống hiện đại là vấn đề môi trường thiên nhiên đang bị hủy hoại nghiêm

trọng và sự mai một các giá trị tinh thần tốt đẹp. Văn học nói chung, tản văn nói

riêng không thờ ơ trước thực trạng văn hóa đó. Các tác giả bằng cảm quan nhạy

cảm đã gửi đi thông điệp về thái độ trân trọng và ứng xử đúng đắn với thiên nhiên;

nhắc nhở người đọc về thực trạng văn hóa ứng xử để thấy mỗi người đều có trách

nhiệm gìn giữ, thậm chí thay đổi từ trong mỗi cá nhân để di dưỡng tâm hồn – phần

đời sống tinh thần vốn quan trọng đối với sự phát triển của một cộng đồng, dân tộc.

3.3.2 Các vấn đề cập nhật của đời sống đương đại

Tập tản văn Thiên thần đã về trời mang đến cho độc giả những suy nghĩ,

những góc nhìn độc đáo của nhiều cây bút từ các miền đất nước. Bên cạnh các nhà

văn, các nhà báo, còn có các chuyên gia trong các lĩnh vực khác. Mỗi tác giả, tùy sở

trường và cách tiếp cận, sẽ có cách diễn đạt riêng: hoặc phân tích sắc sảo, luận bàn

chặt chẽ, hoặc mô tả giàu hình ảnh, cảm xúc hoặc kết hợp cả hai. Tuy vậy, tất cả

hầu như đều gặp nhau ở chỗ các nhà văn quan ngại trước nhiều vấn đề của đời sống

đương đại, từ những vấn đề hữu hình (môi trường, kiến trúc đô thị, hệ thống giao

thông…) đến những vấn đề vô hình nhưng để lại dư chấn nghiêm trọng (những xáo

trộn biến dạng, thậm chí là sự xuống cấp trong lối sống, giáo dục đạo đức…). Thực

trạng ấy đòi hỏi mỗi cá nhân phải có một cái nhìn đúng đắn về mối quan hệ giữa

tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa - xã hội. Hầu hết các bài tạp văn đề cập

105

đến hai mảng chính: thứ nhất là những cái dở, những “tật xấu” thường gặp trong xã

hội trước nay và những sự kiện văn hóa - xã hội đang “nóng”, khiến cho dư luận

bức xúc để phân tích, tìm hiểu những nguyên nhân, động lực đằng sau những sự

kiện ấy (tệ nạn “buôn thần bán thánh” trong các kỳ lễ hội hỗn tạp; tệ nạn bằng giả;

sự lan tràn của cái ác; những tác hại do sự tàn phá thiên nhiên; nguy cơ biến đổi khí

hậu… cho đến thói quen xả rác bừa bãi, làm việc qua quít thiếu lương tâm nghề

nghiệp, bệnh hô khẩu hiệu…); thứ hai là những bài viết ghi nhận những nét đẹp,

những mặt tích cực, những câu chuyện cảm động trong đời sống văn hóa, xã hội.

Các tản văn gần đây hầu như ít nhiều đều chạm khơi các vấn đề của đời sống

hôm nay. Kiến trúc đô thị thiếu quy hoạch đồng bộ, kiến trúc vùng nông thôn lại rơi

vào tình trạng “dở ông dở thằng”, đó là khi đô thị hóa chưa hoàn tất khiến những

vùng quê trước đây ở tình trạng “dở ông dở thằng”. Nếu Nguyễn Quang Thiều định

nghĩa sự phá vỡ các giá trị đẹp đẽ của thành thị trong quá trình phát triển là “những

vết thương đô thị”, thì cũng có thể gọi các vấn đề tiêu cực nổi bật của cuộc sống

hôm nay là “những vết thương” thời đại. Vết thương thứ nhất trong kiến trúc đô thị

hôm nay chính là sự xâm phạm tùy tiện tới những không gian có giá trị của Hà Nội

nhiều thế kỷ trước. Bằng cặp mắt nhà nghề của một kiến trúc sư, Nguyễn Trương

Quý chỉ ra những vi phạm kiến trúc cảnh quan ở Hồ Tây “thật sự nghiêm trọng”.

Ngôi chùa đẹp nhất Hà Nội là chùa Kim Liên bị một khách sạn án ngữ trước tam

quan, phủ Tây Hồ chỉ còn kiến trúc bê tông giả cổ, chùa Trấn Quốc hình thức trung

bình lại xây thêm rất nhiều tháp, cũng bị làm hàng xóm với các nhà thuyền san sát.

Đền Quán Thánh thì quá nhỏ và khuất, không thể đủ để chế ngự không gian hồ. Một

loạt những “dự án”, “chủ trương quy hoạch”, sáng kiến được đưa ra nhằm bảo tồn

vẻ đẹp vốn cổ kính của Hà thành song ý tưởng nhân văn ban đầu dần văng khỏi tâm

điểm khi nó được triển khai trong thực tế. Ý tưởng “cài cắm kiến trúc mới bên cạnh

việc bảo tồn nguyên trạng những kiến trúc cũ còn giá trị” sợ rằng sẽ tạo ra những

sản phẩm “giống như chiếc răng bịt vàng trong một nụ cười mùa thu tỏa nắng”?.

Những chủ trương về quy hoạch kiến trúc đô thị thực sự cần thiết và đòi hỏi tư duy

có tầm nhìn xa cho tương lai thành phố song nhà văn thẳng thắn chỉ ra hệ lụy của

kiểu tư duy “ăn xổi ở thì” là cách làm đối phó. Các ban ngành yêu cầu thế nào họ

106

làm đúng thế nhưng trang trí nội thất bên trong là việc của họ. Nên bên trong là

“tường lát gạch men kính lộng lẫy, toa let thơm tho, phòng ốc đâu ra đấy” xong bên

ngoài lại “liêu xiêu với xô nghiêng chỉ để làm dáng cho các bác học sĩ và nhạc sĩ

tìm bút hứng” (Hà Nội là Hà Nội). Những câu chuyện làm mới trên tinh thần “cài

cắm” khiến Hà Nội trở nên khập khiễng, khó thoát khỏi vẻ quê kệch của tỉnh lẻ.

Câu chuyện kiến trúc còn liên quan tới vết thương khác của thành thị. Bài toán bảo

tồn có cách giải rất đơn giản nhưng họ (quản lý các cấp) đã chọn những cách khác

vì lợi ích kinh tế. Người viết nói trúng thực tế: những lợi ích kinh tế thắng thế

những giá trị tinh thần. Giao thông đô thị là một vết lở khác mà thành phố hôm

đang nay cố gắng đắp đổi, vá víu. Tắc đường chính là đặc sản của thành phố, là nỗi

kinh hoàng với du khách ngoại quốc, là ám ảnh thường trực với dân cư đô thị. Một

du khách ngoại quốc tới Hà Nội thấy trật tự lưu thông tại thành phố này là “một

cảnh tượng thật kỳ diệu và lạ lùng”, “thật kinh ngạc và choáng váng”, “một thành

phố hoang dã, xe đạp chạy trước ô tô”. Nhưng chuyện tắc đường cũng trở nên

“thường thôi” bởi người Hà Nội của thế kỷ XXI đã quen và thấm thía cái cảnh ngày

nắng không gì khổ bằng tắc đường, ngày mưa, không gì khổ bằng ngập. Những cơn

mưa lớn đã để lộ ra “một thủ đô già nua mà kém sức đề kháng”, lộ ra những chán

chường bực bội.

Những âu lo về văn hóa thể hiện ở những câu chuyện nghe ra thật bình

thường – chuyện về in sách, đọc sách. Sự mai một của văn hóa đọc, sách in lậu tràn

lan cũng được nhiều nhà văn quan tâm như Uông Triều, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn

Trương Quý… Sự kết tinh các giá trị văn hóa thuộc về mỗi con người Hà Nội –

những cá thể hấp thu và lựa chọn để định hình đời sống tinh thần giàu có, phong

thái cốt cách lịch thiệp và luôn coi trọng những chuẩn mực ứng xử. Phần trí tuệ

người Hà Nội hiển thị ở văn hóa đọc dù nhiều ý kiến cho rằng “người Việt không có

văn hóa đọc”. Phố Đinh Lễ, Nguyễn Xí thành những “phố sách tiện lợi”, tiện như

những chiếc tủ lạnh bán nước giải khát, tiện tới mức “các hiệu sách thâm niên giờ

phải chào thua hai phố sách, như siêu thị thua chợ xanh ngay sát nách”, sách lậu

chưa bao giờ sẵn đến thế, một quyển sách được xem là “hiện tượng” thì y như rằng

107

số lượng cầu bao nhiêu cũng có cung ứng; nhà xuất bản tên tuổi có thể lừ đừ chết

lâm sàng nhưng những nhà xuất bản tư nhân vẫn ầm ầm mở ra; nhà văn gọi “bọn

bán sách”, “bọn bán hàng Xí- Lễ”, “bọn bán sách ở đây”, “bọn này” – cách người ta

gọi con buôn sẵn sàng lật mặt lạnh tanh trả lời cộc lốc nếu người mua sách hỏi

những thứ sách “giời ơi đất hỡi”. Nhà văn Nguyễn Việt Hà từng bực bội trước

những “bọn” bán sách “không phân biệt nổi văn thơm với văn thối, mà ném sách y

xì như đồ tể ném thịt”, ngữ đó “thì đi bán sách để làm gì hả giời” (Bán sách rong).

Công bằng mà nói thì người đọc hôm nay để thỏa mãn cơn khát tinh thần nên xô bồ

chọn sách, người viết cũng nhiều phường còn người bán thì chỉ một mục tiêu duy nhất

là lợi nhuận… Những chuyện buồn trong giáo dục, nạn ấu dâm, nghiện hút, chặt chém

khách du lịch, bún mắng cháo chửi… cái gì hôm qua ồn ào trên mặt báo thì ngay sau

đó sẽ có trong tản văn. Rồi chuyện viết lách, sáng tác, giáo dục, truyền thông, giải trí,

tham nhũng, chuyện hạnh phúc gia đình v.v… Ghi chép nhỏ của người cưỡi ngựa

(Phan Thị Vàng Anh) gồm 19 tản văn thực sự là những chuyện bé xíu cóp nhặt từ bản

thân, từ những người xung quanh, từ tin tức hằng ngày trên bản tin ti vi. Người viết

thường bắt đầu bằng những câu chuyện cụ thể, đôi khi tầm phào và lý giải nó dưới mắt

nhìn, sự chiêm nghiệm của bản thân, từ chuyện gói bánh chưng, nuôi người già,

chuyện đưa trẻ con vào bảo tàng cho tới chuyện rất thời sự là thực phẩm bẩn. Nhưng

tinh ý sẽ thấy tác giả đặt những vặt vãnh, nhỏ nhặt ấy trong một khuôn dáng đời sống

đang mất dần đi nhiều ý nghĩa. Năm năm sau, Tạp văn Phan Thị Vàng Anh ra mắt công

chúng. Cuốn sách tập hợp các bài viết đề cập đến các vấn đề về đất nước, con người

Việt Nam với cái nhìn của một công dân có trách nhiệm, từ chuyện tiểu tiết đến các

vấn đề thời sự nóng hổi, từ chuyện vĩ mô đến chuyện vi mô.

Dù viết về vấn đề gì thì sau mỗi bài viết đều đọng lại trong lòng người đọc

những câu hỏi dạng câu lớn về một nghịch lý trong xã hội, về sự ồn ào, dễ thỏa hiệp

của đám đông. Có thể nói, tản văn vừa cập nhật như báo chí lại vừa chở đầy tinh

thần nghệ thuật bởi cách thức gợi mở vấn đề, cái tôi bản lĩnh của người viết trước

những bức bối về đời sống xã hội.

108

3.4 Tản văn chân dung

3.4.1 Chân dung nghệ sĩ, danh nhân

Những năm sau 1986, sự phát triển của dòng văn học chân dung và chân

dung văn học (“chân dung” cần được hiểu theo cả hai nghĩa: ngoại hiện và nội tâm,

tinh thần) được xem là hướng đi mới trong cách tiếp cận diện mạo văn học đương

thời. Các văn nhân như Tô Hoài, Trần Đăng Khoa, Vân Long, Vương Trí Nhàn,

Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Quang Lập, Phạm Xuân Nguyên, Nguyễn Tham Thiện

Kế, Hồ Huy Sơn v.v… Họ đặt những nhân vật của mình trong bối cảnh văn học lúc

bấy giờ, trong mọi mối quan hệ xã hội để thấy chân dung một người cầm bút ở

trạng thái sống động, đủ đầy, khác biệt hoàn toàn những chân dung “thô cứng” được

giới thiệu trong các cuốn sách giáo khoa. Đó là lúc thể loại ký chân dung, bút ký,

tùy bút, chân dung văn học, tiểu luận, biên khảo, phê bình… có phần lấn lướt tản

văn. Đầu thế kỷ XXI, tản văn viết về chân dung các nghệ sĩ, những người nổi tiếng

trong đời sống xã hội xuất hiện. Nó không phải tiếng nổ lớn nhưng chắc chắn tạo

được hiệu ứng thích thú lớn, ấn tượng sâu. Những tập sách của nhà văn Nguyễn

Quang Lập, Nguyễn Huy Thiệp, Lê Hoàng… đã chứng minh điều đó.

Trong thế giới chân dung tản văn, một loạt tên tuổi của nhiều giai đoạn văn

nghệ được “triệu hồi” không theo trật tự thời gian. Bạn văn 1,2 của nhà văn Nguyễn

Quang Lập gầy dựng không gian văn nghệ sôi động suốt mấy chục năm qua một

loạt những tên tuổi các văn nghệ sĩ tầm cỡ: Trần Dần, Đỗ Trung Quân, Nguyễn

Khắc Phê, Trọng Đài, Nguyễn Khải, Trần Vàng Sao, Nguyễn Trọng Tạo, Xuân

Diệu, Trần Đăng Khoa, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Minh Châu, Bảo Ninh,

Nguyễn Xuân Sách, Quốc Trọng, Huy Đức, Phạm Ngọc Tiến, Trung Trung Đỉnh,

Nguyễn Thành Phong, Trần Tiến, Hải Kỳ, Phùng Quán và Bội Trâm phu nhân, Tố

Hữu, Đỗ Chu, Nguyễn Quang Vinh… phải dùng từ “thất kinh” trước trí nhớ và óc

quan sát tuyệt vời của một nhà văn có biệt tài làm sống dậy phương ngữ. Tập Sao

trong Mắt Lê Hoàng là 25 chân dung người nổi ở mọi lĩnh vực liên quan tới đời

sống nghệ thuật trong nước như ca sĩ (Đàm Vĩnh Hưng, Thuỷ Tiên, Mai Khôi,

Thanh Thủy, Đơn Dương, Phương Thanh, Hiền Thục); diễn viên (Lê Khanh, Quyền

Linh, Minh Nhí, Đại Nghĩa, Việt Trinh, Mi Du, Huy Khánh, Hiếu Hiền); người mẫu

109

(Xuân Lan, Ngọc Trinh, Phi Thanh Vân, Đinh Ngọc Diệp); nhạc sĩ (Phú Quang, Lê

Minh Sơn, Lê Cát Trọng Lý); vũ công (Khánh Thi); họa sĩ (Tùng điên); nhà văn

(Phan Thị Vàng Anh) v.v…

Cùng khởi chuyển từ cảm hứng về cuộc đời, sự nghiệp một số nghệ sĩ, danh

nhân nhưng mỗi cây bút có một cách khẳng định cá tính, góc tiếp cận chân dung

riêng, tạo những ấn tượng khác biệt nhưng nhìn chung đều là những ấn tượng mạnh,

hấp dẫn, thu hút ngay cả khi sự thu hút đó giống người ta ăn phải một món ăn rất

đắng mà vẫn thấy ngon vì dư vị sau cùng trong cổ họng. Tạp bút chân dung của đạo

diễn điện ảnh Lê Hoàng “ưu tiên” cho những gương mặt nghệ sĩ, danh nhân hoạt

động ở lĩnh vực văn hóa giải trí trong nước - giới showbiz Việt, những người được

tác giả gọi là “sao”. Trong sự quan sát của Lê Hoàng, mỗi cái tên được gắn với một

nét tính cách nổi bật, phản ánh cảm nhận chủ quan thẳng thắn của nhà văn, nét tính

cách ấy nằm ngay ở nhan đề, xui khiến người đọc phải mau chóng lật giở mà đọc để

hiểu được vì sao nhân vật đó có cái tên đó? Kiểu như “Mai Khôi - Người đàn bà trẻ

con”, “Thủy Tiên – Cô nàng lạnh lùng”, “Phú Quang – Kẻ bán Hà Nội”, “Phan Thị

Vàng Anh- Kẻ duy nhất trên đời có hai giới tính” v.v… Cá tính của các nhân vật

được Lê Hoàng ‘điểm huyệt” và mô tả, vừa cấp tin mới, vừa cắt nghĩa tin cũ – sự

cắt nghĩa chủ quan nhưng đầy sức thuyết phục vì nó ngang hàng với triết lý. Chẳng

hạn trong showbiz Việt, nhiều người cảm thấy khó chịu với những phát ngôn được

cho là “nông cạn”, “thực dụng”, “hời hợt” của người mẫu Ngọc Trinh khi cô ấy là

chủ thể phát ngôn: “tôi đẹp, tôi có quyền”, “có tiền cạp đất mà ăn”, “khi chị giỏi,

chị sẽ không gặp được người đàn ông lo lắng cho mình” v.v… Trong khi nhiều

người “ném đá” Ngọc Trinh gái xinh nhưng ngốc thì Lê Hoàng chứng minh rằng cô

ấy chính là mẫu người mà Xuân Diệu từng viết: “Chỉ biết yêu thôi, chả biết gì”. Gái

xinh chả biết gì chính là “gái ngốc” nhưng chính vì nàng ngốc mà nàng có nhiều thứ

những cô gái khác không có được. Không thể đánh giá thấp một người tưởng ngốc

nhưng có tất cả vì Lê Hoàng cho rằng cái sự ngốc đó là một tính toán của người cực

kỳ thông minh, biết giấu mình, trên đời làm gì có kiểu người ngốc nghếch nhưng

giàu có vì may mắn? “thực ra, kẻ có trí tuệ chính là kẻ tỏ ra ngốc một cách sâu sắc

và toàn diện” [132/tr8]. Khi Lê Hoàng xuất hiện trên các show truyền hình, người ta

110

chỉ nhớ một người đàn ông ăn mặc đơn giản, lịch thiệp, giọng “the thé như bóng”,

dùng từ và cách đặt vấn đề đanh đá, khắc nghiệt, có phần sỗ sàng nhưng viết tạp văn

chân dung, Lê Hoàng bộc lộ sở trường giọng điệu hài hước, thương mến, cách đưa

đẩy tung tẩy chi tiết ưu điểm hay nhược điểm đều rất duyên. Trong mắt lê Hoàng,

Mi Du là cô gái kỳ có thể “hấp dẫn được cả con trai lẫn con gái. Trai mê nàng thì ai

cũng thấy, xếp hàng dài từ chợ Bến Thành đến cầu Bình Lợi, đã thế còn xếp hàng

đôi. Nhưng hầu như một nửa con gái Sài Gòn yêu Mi Du” [132/tr12]. Còn nhạc sĩ

trẻ Lê cát Trọng Lý là một “gu” lạ lùng. “Gu” là thứ nhiều nghệ sĩ đến chết cũng

không có, nhưng Lê Cát Trọng Lý hình như sinh ra đã đeo nó bên mình. Mỏng

manh như một cánh chuồn chuồn, cô bay lơ lửng trên bầu trời đầy ô nhiễm của

thành phố, giương con mắt to đùng (thứ to nhất trên người cô) mà chả thấy gì ngoài

các nhạc cụ”[132/tr18]. Và Nghệ sĩ Minh Nhí – trong thân hình với chiều cao khiêm

tốn “đâu chỉ có một con người. Nó gồm rất nhiều loại pha tạp với nhau. Một nghệ

sĩ, một chàng ngốc, một kẻ khó chịu, một tên bặm trợn, một gã ngây thơ, một ông

già, một chàng trai trẻ…”[132/tr24].

Nguyễn Quang Lập là một trong số không nhiều những nhà văn sớm nhập

cuộc chơi văn chương trên mạng internet. Blog Quechoa một thời của Bọ Lập thuộc

hàng hiếm khi lượt truy cập, theo dõi tăng lên hằng ngày. Sức hút của blog bắt đầu

từ những bài viết ngắn dựng chân dung văn nghệ sĩ vốn là thân bằng cố hữu của nhà

văn. Người nào đọc một bài sẽ như bị nghiện, ngày vài lần mở blog của Bọ ra xem

có bình luận nào mới, bài viết mới. Sau này những bài viết được tập hợp tạp văn

Bạn văn 1, 2. Ở đó, bạn đọc được gặp gỡ nhiều nhân vật nổi tiếng trong nghệ thuật-

những người lắm tài mà cũng nhiều tật. Ông quan sát tinh tường, chọn lấy một chi

tiết “đắt” nhất để khắc họa ấn tượng chân dung và thường đặt các nhân vật của mình

vào những “tình huống tréo ngoe”, khiến cả nhân vật và độc giả nhập cuộc phải dở

khóc dở cười. Nhà văn cũng không quan tâm tới yếu tố tiểu sử mà chỉ phóng đại

một số nét tính cách nổi bật của bạn theo lối biếm hoạ/hí họa. Có thể nói việc dựng

chân dung bằng bút pháp hí họa là lối đi riêng, độc đáo của nhà văn Nguyễn Quang

Lập. Nhờ đó, bên cạnh cái hài hước còn là những phát hiện thú vị về các nhân vật

trong giới văn nghệ, về cá nhân nhà văn. Lối đi ấy không phải bao giờ cũng có được

111

đồng tình từ phía độc giả nhưng nhà văn giữ vững quan điểm xây dựng chân dung

bạn bè theo góc riêng, bằng cái nhìn hài hước, thân thiện trên cơ sở sự thật. Ông

kiên quyết không viết theo lối tụng ca vì “ghét” mọi sự thánh hóa. Nhà thơ Nguyễn

Trọng Tạo khi viết lời bàn cho tập sách của Nguyễn Quang Lập cho rằng: “đọc chân

dung bạn văn của Lập, theo tôi bạn đọc không nên "cả tin" quá mà dễ thất vọng về

một ai đó. Cần phải hiểu những gì Lập viết trong không gian, từ trường của văn

học, chứ không phải sự thật đời thường. Nghĩa là phải biết đi qua cái thật của bề

ngoài để đến được cái thật bề trong của từng nhân vật. Đọc được như vậy thì sẽ

thấy, Lập viết hay”.

Sự ảnh hưởng của đặc điểm thể loại khiến tản văn có cách xây dựng chân

dung khác biệt với các thể loại văn học khác, đó là sự tiết chế, những giới hạn của

chi tiết bám vây quanh chân dung một con người thực, việc thực. Trong khi các thể

văn khác (chân dung văn học, ký chân dung, tiểu luận, biên khảo, tùy bút, bút ký…)

đi theo hướng đặt người nghệ sĩ trong bầu không khí nghệ thuật nhằm cắt nghĩa sự

nghiệp của họ, phản ánh đời sống nghệ thuật đương thời, có lọc lựa những chi tiết

“không làm mất mặt” nhân vật, tiết chế những chi tiết đời thường, nếu có những chi

tiết thường nhật thì đó cũng là những yếu tố có ảnh hưởng tới tác phẩm của họ và

thường thì hành văn của các thể văn này trong “vùng an toàn”, có phần nghiêng về

học thuật. Do đó, chân dung có thể hiển thị rõ nhưng cá tính người viết được bộc lộ

ở mức vừa phải. Những tác phẩm gấy hấn bởi giọng văn tưng tửng như Chân dung

và đối thoại của nhà thơ Trần Đăng Khoa không nhiều. Tản văn phá vỡ những giới

hạn các thể văn khác đặt ra trong việc xây dựng chân dung, nó “tả xung hữu đột”

giữa vô số chi tiết và xúc cảm, nó đột nhập cả vào những chuyện riêng tư nhất của

nhân vật. Kiểu như nhà văn Nguyễn Quang Lập hỏi nhà văn Hoàng Phủ Ngọc

Tường: “về chuyện gái gẩm của anh Sơn nhưng anh không nói.. Mình hỏi nhỏ anh

Tường liệu anh Sơn có làm ăn được gì không, anh nói thì cũng rứa thôi. Chẳng hiểu

thế nào trong cái thì cũng rứa thôi ấy” (Chuyện nhỏ hai người bạn). Những chi tiết

“thâm cung bí sử” tương tự trong Bạn văn 1, 2 của Nguyễn Quang Lập có nhiều. Nó

khiến người viết thỏa mãn trong cao độ khoe bày hiểu biết, người được viết nhiều

khi nhăn mặt bực bội. Riêng người đọc vừa khóc vừa cười, họ rơi vào tình trạng

112

hoặc yêu hơn nhân vật của mình, hoặc một thần tượng bị sụp đổ tan tành. Thật ra,

viết như thế không có nghĩa tản văn là người đàn bà nhiều chuyện ra giữa chợ lấy

chuyện riêng người khác làm quà, bất chấp thái độ phản ứng của người được nhắc

tới. Những chi tiết có tính “cà khịa” hay “xắt xéo” là sự tính toán của nhà văn dưới

cái vẻ như vô tình chợt nhớ ra kể lại, đủ để xóa bỏ khoảng cách giữa một nghệ sĩ,

danh nhân với người đọc trong một thế giới phẳng; xóa bỏ định kiến rằng văn

chương là ngôi Đền thiêng và người nghệ sĩ là Thánh nhân trong đó; chứng minh

rằng nghệ sĩ, danh nhân là những con người đời thường nhất với đủ mọi cung bậc

trải nghiệm ái ố hỉ nộ, không thế sao họ diễn sâu, viết sâu được?

3.4.2 Chân dung “những người sống quanh ta”

Những người sống quanh ta, sống trong ta là cha mẹ, anh em, bạn bè, người

trong phố, người trong làng xóm… Nhưng điều đẹp đẽ nhất, giàu sức rung cảm nhất

trong tản văn Việt Nam đầu thế kỷ XXI đó là sự xuất hiện hình tượng Mẹ xuất hiện

trong hầu hết ký ức của những người viết tản văn.

Dù viết về những vấn đề nhỏ hay lớn, trừu tượng như giấc mơ hay cụ thể

như mâm cơm chiều của mẹ, chuyện của ngày hôm qua hay hôm nay… vẫn thấy

bóng dáng của mẹ xuất hiện đầy ắp cảm xúc. Mẹ trong tản văn thường xuất hiện

giữa hồi ức vì phần lớn người viết đã đi một hành trình dài trong cuộc đời, sự

trưởng thành của con tỉ lệ thuận với tuổi của mẹ, khi nhà văn cầm bút viết về mẹ thì

mẹ và những điều đẹp nhất đã trở thành quá khứ nên càng nhớ, càng thương, càng

nhiều hối hận. Kỳ diệu thay trong khoảng cách xa xôi của thời gian, người ta nhớ về

Mẹ gắn với các chi tiết nhỏ đời thường, gần gũi với mỗi người. Nhà thơ Lê Minh

Quốc viết Mẹ đã đi chợ về trong hồi ức thấm tràn nước mắt. Những kỷ niệm với mẹ

và gia đình chân thực đến từng chi tiết, nhớ "những đêm mẹ lặng lẽ ngồi bên ngọn

đèn dầu leo lét khâu, vá lại chiếc áo của anh Hai cho em. Chỉ tiếc trên túi áo một vết

mực tím đã loang, mẹ giặt mãi vẫn không sạch. Mẹ lại bảo: "Anh Hai con học giỏi,

con mặc áo anh Hai thì chắc là hên lắm đây…". Thành người đàn ông trung niên,

vẫn muốn gần gũi với mẹ vì "được ở chung nhà với mẹ, nghe những câu chuyện kể

với y cực kỳ lý thú, bởi lẽ cũng là một gợi mở để tìm hiểu về phép ứng xử của

người Việt ngày trước " [178/tr32]. Viết về Mẹ, Lê Minh Quốc lấy nhiều nước mắt

113

của bạn đọc vì ai đó gặp lại mình, số khác lại hình dung thấy mình trong mai sau:

"Rồi sáng ngày cuối cùng tiễn mẹ về nghĩa trang Hòa Sơn, lúc dừng lại làm lễ Tế

đầu trung, anh em y thắp nén nhang. Khói nghi ngút bay… Lúc ấy đột nhiên lại thấy

một con chuồn chuồn bay là đà ngay trước mắt, buột miệng kêu lên: Mẹ đã về"

[178/tr40].

Trong tản văn Mẹ vẫn ngồi ở phía sân sau, nhà thơ Hoàng Việt Hằng lại nhớ

về người mẹ đặc biệt của bà bởi những bài học nhỏ đầu tiên trong đời về cách sống:

“Mẹ gọi con gái từ lúc còn học lớp Một, việc đầu tiên mẹ dạy cách ngồi khép chân

lại bất cứ ngồi ở đâu cũng để ý cách con ngồi(…). Khi nhai nhớ ngậm miệng không

để phát ra tiếng kêu (…) mẹ không nói về sự học ăn, học uống, mà lặng lẽ gọi con

gái ngồi xem. Hai mươi năm sau khi lập gia đình, tề gia vén khéo. Khi mẹ đã yên

nghỉ dưới cỏ. Mỗi khi ngồi nấu ăn, con gái bỗng nhớ mẹ những món ăn vẫn hiện ra

theo mùa” [130/tr36]. Nhớ mẹ tất tả trong những ngày lo toan cái tết của gia đình,

sự bận rộn đảm đang bắt đầu từ sau ngày 23 tháng Chạp. Nỗi nhớ thường trực nên

chỉ một cọng khói mềm cũng gợi lên nỗi thương mẹ: “Qua khói, tôi đã nhìn ra và

nhớ lại cả cuộc đời vất vả của mẹ nuôi. Tôi cũng hi vọng qua ngọn khói nhà quê sau

này cháu cũng nhìn nhận được cuộc đời đầy những nỗi đau và sự can đảm mà mẹ

nó đã phải chèo chống để nuôi nó thành người, khi mà tôi, sau này cũng chỉ là ngọn

khói” [130/tr38]. Sự trông đợi đầy ảo ảnh rằng ngày nào đó mẹ lại sẽ xuất hiện ở

phía sân sau như một ẩn dụ về sự lặng lẽ của vai trò người giữ lửa ấm trong bếp

nhà, nhớ mẹ như “món ngon mà tôi nhớ, như phía sân sau ngôi nhà vẫn bồi hồi

bóng mẹ” [130/tr39].

Càng xa quê, càng nhớ nhiều. Nỗi nhớ dai dẳng nhất và đáng thương nhất là

nhớ về mẹ, cho dù người còn hay đã khuất. Nhà văn Mai Lâm, Lê Minh Hà đã định

cư ở Đức mấy mươi năm vẫn luôn có cảm giác như “mình như một người ăn nhờ ở

đậu” xứ người, không thể hòa nhập vì toàn bộ tâm trí của họ hướng về đất nhà nơi

có mẹ. Nhà văn Mai Lâm viết về mẹ trong trạng thái tràn ngập sự hối hận: “Hối

hận. Đó là hai chữ từ hôm mẹ mất hiện ra ngay lập tức mỗi khi tôi nhớ về mẹ. Hối

hận vì thường mỗi lần tôi về tới sáu tuần mà mẹ đếm được mình ăn cùng mẹ mấy

bữa cơm. Hối hận vì mình đã không có tiền để mẹ còn phải lo lắng cho con trai dù

114

nó đang ở nước ngoài. Hối hận vì đã đi giầy ngoài sân thật khẽ để mẹ khỏi gọi vào

phòng “sai vặt”. Hối hận vì không biết tối nay đi ngủ mà không biết rằng sáng mai

dậy không còn mẹ nữa để mà phụng dưỡng, mà bóp chân cho mẹ thêm lần nữa”

[138/tr48]. Có những cây bút trẻ, thuộc thế hệ 9X cũng viết về mẹ trong niềm cảm

khái không kém những cây bút trải nghiệm. Mùa sương thương mẹ là tập tản văn

của tác giả 9X Phan Đức Lộc, Bình yên bóng mẹ của tác Vũ Thị Huyền Trang.

Những người trẻ xa quê lập nghiệp nhưng xa quê còn để thấy rõ hơn mong mỏi bình

dị: “Để thi thoảng con lại thèm được lên tàu, ngược về với quê mình, trên cánh

đồng có bóng mẹ cặm cụi cấy nên những vụ mùa tươi tốt. Về để được ăn một bữa

cơm mẹ nấu bếp rơm, nhổ hết những chiếc tóc trắng đã bắt đầu có trên đầu mẹ. Để

bảo mẹ rằng “mẹ vẫn trẻ lắm, tóc còn đen mượt hơn cả tóc con” mà thấy mắt mình

cay… Để thấy mẹ mãi mãi là bóng cả bình yên nhất” [230/tr20]…

Có thể nói, lượng tác giả viết về mẹ không kể xiết nhưng người sở hữu

những trang viết thể hiện tình yêu đến độ ám ảnh, mộng mị, đau đớn, thậm chí là

khóc ròng trong những giấc mơ thì chỉ có Nguyễn Quang Thiều. Đối với ông, người

mẹ có một sức ảnh hưởng đặc biệt quan trọng đến sự hình thành nhân cách, một đời

cầm bút, mặc dù người mẹ quê ấy chỉ là một bà giáo trường làng, cả đời không

bước ra khỏi lũy tre, cánh đồng và ngôi nhà ở làng Chùa quê ông. Nhà văn nhận

mình ảnh hưởng từ giọng nói, ẩm thực cho tới tình cảm và thái độ của mẹ truyền

vào cá nhân, ảnh hưởng sâu sắc tới lối sống, hành vi và các sáng tác… Không thể

điểm danh hết những trang tản văn giàu xúc cảm về mẹ vì mỗi nhà văn đều rất tự

nhiên quay trở về câu chuyện của mẹ. Hình tượng đó xuất phát từ những xúc cảm

bền bỉ trong mối quan hệ kỳ diệu giữa người tạo sinh và những đứa con. Biểu hiện

sinh động cho tinh thần tôn kính và ngưỡng vọng Mẹ chính là tín ngưỡng thờ Mẫu

tồn tại lâu đời trong văn hóa dân gian của người Việt. Từ vai trò, chức phận của

những cá nhân cụ thể, Mẹ trở thành một biểu tượng, một quan niệm có ý nghĩa nhân

văn, Mẹ đồng nghĩa với nhân hậu, bao dung, che chở, ước nguyện chân thành về

điều tốt đẹp sẽ đến với những đứa con của mình.

Những người sống quanh ta còn là “bà ngoại tôi” trong tản văn của Huỳnh

Như Phương - người đàn bà quê ở Quảng Ngãi. Phận gái không học hành. Đẻ con,

115

gánh vác gia đình, chỉn chu mọi việc khi chồng và con lớn ra trận. “Suốt năm tất bật

với ruộng vườn heo gà, nhưng ngày giỗ, ngày Tết bao giờ bà tôi cũng gác lại công

việc để về quê thắp hương cho cha mẹ và thăm anh chị…” [169/tr16]; là “bà cô tôi”

ở một mình, kỹ tính, bướng bỉnh đến gan góc, thế nào mà giữ được cả số nhà

nguyên vẹn trong cơn bão tố cải tạo (…). Ngày kỹ cô tôi nấu những món đặc phong

kiến tinh xảo không thể tưởng” [169/tr84]; là bạn bè thân thiết của “tôi”. Ở thể tạp

văn, tạp bút, khó có ai vượt được kỷ lục ấn tượng của nhà văn Nguyễn Quang Lập

trong việc xây dựng chân dung từ văn nghệ sĩ, danh nhân tới những người đời

thường xung quanh cuộc sống nhà văn. Đó có thể là chân dung một ông sếp tổng

công ty Nhà nước mù công nghệ nhưng giấu dốt, hùa theo đám đông cho hợp thời,

hỏi: “Nghe chúng nó bảo mày có cái blog hay lắm à, gửi cho anh đọc đi”. Nhà văn

chỉ dẫn “anh vào Guk gồ gõ là ra ngay thôi”. Cụ sếp tổng nói: “Guk gồ guk gheo

làm gì cho phức tạp, dạo này anh bận lắm. Mày chịu khó ra bưu điện gửi cho anh”

(Chuyện mạng méo thời nay). Hay một chị gái quê nhờ bán than mà lột xác thành

quý bà sang trọng, mấy chục năm sau gặp lại “chị cười to, nói thằng ni khinh chị

rứa bay. Tau bây chừ quan hệ tuyền ông to bà nậy, phải đổi giọng bọ ra giọng Bắc

cho nó sang, thỉnh thoảng nhả ra mấy tiếng Ing Liền cho người ta nể”. Chân dung

anh Hờ Hờ - một cộng tác viên yêu thơ nhà tận Sơn Tây mà ngày nào cũng vượt

bốn chục cây số về “đánh đu với văn sĩ Hà Thành”. Gọi là anh Hờ Hờ vì “anh này

hay cười hờ hờ, nói gì cũng cười hờ hờ rồi mới nói. Đầu câu cười hờ hờ, cuối câu

cười hờ hờ, rất vui”. Đi cùng anh Hờ Hờ háo danh, háo thơ là một người vợ già đau

khổ vì từ ngày chồng “đổ đốn vào thơ khiến khuynh gia bại sản”; một cô gái trẻ

chưa ráo bùn đất hâm mộ một nhà thơ nửa mùa nên “một trăm mười chín bài thơ

của anh ấy em thuộc nòng, đọc bài lào em cũng thấy nâng nâng”. Những gương mặt

ấy, câu chuyện đời như thế quen lắm, quen đến mức thấy bình thường nhưng vẫn

bật cười khi nó được phản chiếu bởi một nhà văn có biệt tài kể chuyện duyên dáng

và hóm hỉnh. Hình ảnh những con người nằm lại trong kí ức nhà văn bỗng trở dậy

khi ông đã ở bên kia dốc cuộc đời, vậy mà những Con ù mọi, anh cu Đom, anh cu

Hời, thằng Thọt, cu Bợp, anh Hờ Hờ, anh Cu Bịp, mụ Cà… nỗi nhớ Ba, nhớ

Thầy… cứ tuần tự trở lại trong tập sách như những thước phim đen trắng sống

116

động, khiến người đọc vừa cười vừa khóc. Ai dám chắc khi dựng lại những chân

dung thân thuộc trong kí ức, nhà văn không rưng rưng trước trang giấy?

Nguyễn Việt Hà cũng có biệt tài xây dựng chân dung, nhưng đó là những

chân dung điển hình cho giới. Những là chân dung đám nhà văn đúng tinh thần

“nhà văn thì chơi với ai”, chân dung “đàn bà uống rượu”, rồi “mặt của đàn ông”,

chân dung nào cũng được xây dựng cẩn thận, chi tiết bằng loại chất liệu hài hước

nhất quán từ đầu tới cuối tác phẩm. Chỉ riêng “con giai phố cổ” cũng khiến người

đọc tò mò và bội thực thông tin thú vị về những di sản phố cổ đóng dấu giới tính

‘giai”! Đối tượng đầu tiên được nhà văn chọn vào trang viết là những tay “cao bồi

già”, cạnh đó là một loạt mẫu nam được nhà văn gọi ra bằng cách định vị (con giai

phố cổ), mô tả hoạt động (đàn ông ăn sáng, bán sách rong) hay hư danh (đàn ông hư

danh, hớt ngọn)… Khó mà tách bạch cái hay cái dở của nhân vật, nhưng có một sự

thực là nhà văn xây dựng chân dung các mẫu nam với đầy đủ những nét đẹp đáng

trân trọng và những khiếm khuyết độc đáo. Tất cả đều “rất Hà Nội”. Đó là phẩm

chất hào hoa trộn lẫn sự lọc lõi, ở sự trộn lẫn giữa đặc điểm sản phẩm thời thế ma

mãnh và phớt đời với nguồn gốc nền nếp của gia đình… Về cơ bản, trong mỗi tản

văn đều có hai hình tượng xuất hiện: hình tượng cái tôi tác giả và hình tượng nhân

vật được tác giả nhắc tới. Nhiều khi người nói và người được nói tới là một. Cái tôi

tác giả và chân dung con người thực ngoài đời có thể phải bước qua khung kính

dụng ý nghệ thuật mà nhà văn sắp đặt nhưng về cơ bản họ vẫn giữ được những nét

riêng của mình để không trở nên khác lạ quá xa phiên bản đời thực như một cô gái

thích sử dụng phần mềm chỉnh sửa ta thường gặp.

Tiểu kết chương 3

Nội dung trong tản văn Việt Nam đầu thế kỷ XXI cho thấy sự khám phá đời

sống vừa rộng về diện vừa sâu về chi tiết. So với tiểu thuyết, tản văn có thể không

khái quát được diện rộng đời sống xã hội bởi dung lượng tiết chế nhân vật, sự kiện

nhưng tính cập nhật đời sống của nó có phần vượt trội.

Luận án nhận thấy trong 143 tập tản văn của gần 80 tác giả được chọn khảo

sát, nổi lên bốn chủ đề (tản văn viết về cảnh sắc vùng miền, văn hóa phong tục, các

117

vấn đề thế sự và tản văn chân dung). Điểm chung của các sáng tác là dù viết về chủ

đề nào thì chất liệu đời sống, con người, sự việc, hiện tượng được chọn đưa vào tác

phẩm cũng chỉ đóng vai trò làm điểm tựa nảy bật những suy ngẫm ở người viết,

khơi gợi xúc cảm ở người đọc.

Trong thực tế, sáng tác tản văn hôm nay đang diễn ra đa dạng, phong phú

hơn những con số tác giả, tác phẩm, chủ đề được nêu trên vì tản văn là thể loại văn

học năng động. dễ thích nghi và cập nhật đời sống con người, xã hội. Các tác giả

viết tản văn thực sự giữ được thăng bằng giữa những đòi hỏi gần như mâu thuẫn của

thể loại: chi tiết nhỏ, ý nghĩa lớn; điểm diện và khái quát các hiện tượng giàu ý

nghĩa xã hội. Ở những sáng tác có chất lượng nghệ thuật, nội dung của tản văn có

thể xuất phát mang tính ngẫu hứng nhưng cuối cùng đọng kết lại một triết lý, một

nhận thức, một bài học, một chính kiến. Và trên hết, dù viết về bất cứ chủ đề nào,

người viết tản văn hôm nay đã “giữ” được chân người đọc khi họ thể hiện rõ cái tôi

cá nhân, thể hiện rõ bản lĩnh và trạng thái nhập cuộc các vấn đề của đời sống được

xã hội quan tâm.

118

Chương 4

NGUYÊN TẮC GIAO TIẾP VÀ PHƯƠNG THỨC BIỂU HIỆN

CỦA TẢN VĂN VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XXI

4.1 Nguyên tắc giao tiếp

4.1.1 Nguyên tắc đối thoại những vấn đề của đời sống

Ở phần trên, khi trình bày về những biến đổi của tản văn đầu thế kỷ XXI,

chúng tôi có đề cập tính đối thoại và khả năng kích thích sự phản biện như một ưu

điểm của thể loại so với tản văn thế kỷ XX vẫn khép mình trong chừng mực biểu

hiện. Tính chất đó là hệ quả của nguyên tắc đối thoại mở mà những cây bút sáng tác

ở thời kỳ này tự cho mình quyền được chất vấn thời đại và tạo cơ hội cho độc giả sử

dụng quyền phản biện. Tính đối thoại được mở ra từ nhiều phía, tạo ra sự cân bằng

của các phương diện trong thẩm quyền diễn ngôn, nó khiến cả tác giả lẫn độc giả có

cảm giác mình được tự do trong suy ngẫm – dấu hiệu của bình đẳng, dân chủ trong

văn học.

Định nghĩa về diễn ngôn, Julia Kristeva cho rằng: “Nguyên tắc đối thoại bao

giờ cũng đi đôi với các cấu trúc chiều sâu của diễn ngôn… Nguyên tắc đối thoại là

nguyên tắc của mọi phát ngôn”[12], chỉ có điều diễn ngôn của từng thể loại sẽ quyết

định lựa chọn chiến lược phát ngôn theo nguyên tắc độc thoại đóng kín hay đối

thoại mở. Tản văn ngay từ đầu tự thân thể loại đã chứa đựng nguyên tắc đối thoại

vốn có của một diễn ngôn. Tính chất đối thoại được thể hiện rõ hơn bao giờ hết

trong tản văn đầu thế kỷ XXI khi nó được ra đời theo xu hướng chủ đạo: sự cân

bằng giữa các yếu tố khách thể (cái thông báo) – bản thân thủ thể (sự biểu cảm) –

người tiếp nhận (tính mục đích). Trong diễn ngôn, đó là sự cân bằng của các

phương diện: thẩm quyền của cái được tham chiếu – thẩm quyền sáng tạo và thẩm

quyền tiếp nhận, nghĩa là quan hệ đẳng cấp giữa những người tham gia sự kiện giao

tiếp có tính chất bình đẳng. Mặc dù ba bình diện của thẩm quyền diễn ngôn có vai

trò ngang hàng nhưng chiến lược giao tiếp theo hướng đối thoại lại mở rộng diễn

ngôn của các thẩm quyền: bắt đầu từ cái nhỏ bé, nhân danh cá nhân để mở rộng nói

về thế giới chung, nói với mọi người, một biểu hiện nhỏ trong đời sống cũng có thể

119

trở thành tản văn đề cập tới những vấn đề lớn của xã hội thậm chí là nhân loại (như

vấn đề môi sinh…). Vì tính chất đối thoại mở, các yếu tố tham dự diễn ngôn bình

đẳng mà trong tản văn hiện đại, chủ thể và người tiếp nhận nhập vào làm một trong

trường tham chiếu của diễn ngôn, điều đó được hiểu như sự đồng cảm, đồng điệu

cao nhất từ hai phía khi cùng thông hiểu một sáng tác.

Giá trị ngang hàng và sự đồng nhất giữa các yếu tố khách thể (cái thông

báo) – bản thân thủ thể (sự biểu cảm) – người tiếp nhận (tính mục đích) chỉ xảy ra

khi “diễn ngôn cần được đọc bằng văn phạm giai cấp, giọng điệu của các giai cấp,

trong mâu thuẫn xuất hiện giữa cá nhân và vị thế xã hội của nó, hoặc giữa nhóm và

vị thế xã hội của nhóm, trong những mâu thuẫn được thốt lên ở chính diễn ngôn của

các đối tượng” (Jean Baudrillard) [11]. Tản văn đầu thế kỷ XXI phản ánh đặc trưng

chủ trương trao đổi, đối thoại của thẩm quyền sáng tạo. Trong môi trường truyền

thông, khi tác giả sáng tác một tản văn và lập tức công bố lên các phương tiện

truyền thông thì ngay lập tức có độc giả tiếp nhận – thể hiện cảm xúc – phản hồi

trực tiếp với tác giả, tạo ra những tương tác tức thời. Tính chất tương tác đó thực

chất là cuộc đối thoại vừa có thông tin vừa có xúc cảm – điều mà văn chương xuất

bản theo hình thức truyền thống không bao giờ có. Trên trang cá nhân của nhà phê

bình Chu Văn Sơn có bài viết Chủ nghĩa xà xẻo (facebook, ngày 28 tháng 12 năm

2018) bàn về vấn đề tham nhũng, “tham nhũng vặt”, “xà xẻo, bớt xén”, tác giả bày

tỏ quan điểm cá nhân: “Chủ nghĩa xà xẻo không chỉ đợi đến lúc có chuyện tự diễn

biến tự chuyển hoá mới phát sinh, mà nó là con đẻ của một thể chế thiếu minh bạch,

thiếu công bằng, thiếu dân chủ, thiếu khả năng kiểm soát quyền lực, thiếu tôn trọng

nhân quyền và phẩm giá người. Đây là thứ chủ nghĩa nội sinh, còn mô hình thể chế

này thì còn chủ nghĩa ấy”. Bài viết thu hút hơn 300 lượt theo dõi, đồng nghĩa với

hơn 300 bạn đọc trên mạng, 34 lượt chia sẻ tương ứng với 34 lần bài viết được xuất

bản. Tính đối thoại xảy ra khi những người bạn trên trang cá nhân của nhà văn để

lại những bình luận tức thời: “Xà xẻo là điều kiện của tồn tại”, “khái quát cực kỳ

chính xác về những quái thai đang hoành hành/ gặm nát bức dư đồ vốn đã tả tơi sau

mấy cuộc tang thương”, “Chỉ kích hoạt phần tiêu cực – thấu cảm điều này”, “To

xẻo to, nhỏ xẻo nhỏ. Đất nước này rồi sẽ đi về đâu?”, “Xà xẻo thời gian cũng rất

120

quan trọng”, “Chủ nghĩa xà xẻo ư? Không! Hành vi xà xẻo đương nhiên sinh ra

trong cơ chế hiện hành. Bởi vì hành vi xà xẻo có tính lan truyền từ trên xuống dưới

với siêu tốc độ. Nó vượt qua liêm sỉ, danh dự và sự xấu hổ” v.v… Ở bài viết khác

có nha đề Hiệu trưởng trong thể chế quan chủ (ngày 21 tháng 12 năm 2018), tác giả

Chu Văn Sơn đề cập sự việc một hiệu trưởng xâm hại tình dục các nam sinh. Bài

viết thu hút hơn 600 view, 139 comment, 89 lượt share. Nhiều bình luận bày tỏ

quan ngại về thể chế, giáo dục, đạo đức, nhân cách: “Ở Việt Nam chưa bao giờ xã

hội nhố nhăng, giáo dục đốn mạt, thầy giáo tha hóa như vài năm trở lại đây…”,

“hoan nghênh bạn, TS Chu Văn Sơn đã phê phán thẳng thắn vào những khuyết tật

xã hội mà không quản ngại ảnh hưởng đến danh lợi cá nhân. Tôi cảm phục bạn!”,

“Thật đau lòng cho những đứa trẻ, cho tất cả”, “Giáo dục là tấm gương phản ánh

trung thực đời sống xã hội” v.v… Lượt chia sẻ lại bài viết (share), lượt bình luận

(comment) cho thấy tính tương tác chặt chẽ giữa người viết và người đọc. Quá trình

bình luận và hồi đáp là hình thức đối thoại hiểu theo nghĩa đơn giản nhất, ở tầng

nghĩa hàm ẩn, chất đối thoại nằm ở việc thảo luận (mở rộng, xoáy sâu, đồng tình

hoặc bất đồng) nhằm nhận diện vấn đề.

Trước hết, tính đối thoại hay cộng cảm (trạng thái cộng hưởng xúc cảm từ

phía người viết và người đọc) của tản văn thể hiện ở khả năng nhà văn chọn vấn đề

để kéo người đọc nhập cuộc đối thoại. Y Phương là người viết tản văn có khả năng

kéo được người đọc nhập cuộc đối thoại về các giá trị văn hóa vô cùng mạnh mẽ.

Mặc dù nhà thơ có chia sẻ cơ duyên viết tản văn trước tiên là đáp ứng đơn đặt hàng

của chuyên mục Văn hóa trong một đầu báo. Những bài viết nhỏ khởi đầu giới thiệu

về món ăn, phong tục văn hóa của người Tày. Nhưng sau đó, sự xuất hiện dày đặc

trong tâm trí nhà thơ những ký ức về vùng văn hóa, đồng đất nơi mình sinh thành đã

“đẩy” ông đi tới những trăn trở lớn về sự được – mất của văn hóa Tày. Sự ra đời của

ba tập tản văn đoạt giải của Y Phương thực chất là việc “ghép” lại thành công

những mảnh vụn ký ức khiến người đọc vừa thích thú chiêm ngưỡng vẻ đẹp văn

hóa vùng cao vừa hoang mang lo lắng những giá trị đó một mai sẽ không còn.

Thuốc phiện, khai thác quặng, dấu vết mong manh của những làng nghề truyền

thống… đều ăm ắp nỗi đau hiện sinh, người viết không giấu nổi lo âu khi ông đang

121

buộc phải chứng kiến tốc độ đô thị hóa quá nhanh, mà đi kèm với nó là sự mất mát

phong tục cổ truyền, giá trị truyền thống. Trong những tác phẩm của ông luôn tiềm

ẩn một trục đối lập mang tính so sánh giữa các không gian: sự đối chiếu giữa quê

hương với nơi đất khách, ngày xưa với hôm nay, quá khứ và hiện tại để từ đó người

viết tìm sự đồng điệu của công chúng thời đại. Với ông, toàn cầu hóa không thể là

sự “cào bằng” bản sắc, khó chấp nhận một lối sống hời hợt, lai căng hay mù quáng

quả ấy là tập tạp văn đề cập hàng loạt vấn đề thuộc đời sống văn hóa xã hội của Việt

chạy theo các giá trị vật chất mà bỏ quên những giá trị tinh thần cao đẹp. Nhân nào

Nam đương đại. Nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn mạnh dạn lật xới hàng loạt những

chuyện bất toàn trong xã hội Việt Nam, từ những vấn đề quan yếu trong văn hóa

giáo dục như Thừa thầy thiếu thợ, Mạnh ai nấy sống, Kiếm sống bằng bất cứ giá

nào, Bảy bước tới tha hóa... đến những câu chuyện về Câu chuyện nhân tài trong

lịch sử, Làm sao vượt lên tình trạng tự phát và manh mún. Các chủ đề “nông thôn

không còn đô thị chưa tới”, “di sản và lễ hội” là những nội dung vẫn đang thời sự và

chắc hẳn sẽ còn được quan tâm trong nhiều năm sau nữa. Nhiều bài viết của

Nguyễn Trương Quý, Đỗ Phấn đặt ra những vấn đề tồn tại nhức nhối của Hà Nội

trong thời đổi mới: người lao động nhập cư, môi trường đô thị, quy hoạch và bảo

tồn phố cổ… khoảng cách địa lý giữa thành thị với nông thôn gần lại, nhưng cái hố

sâu về mức sống, văn hóa, tập quán lại “toang hoác ra”; “nông thôn đang không giữ

được người”, thương Hà Nội vì sự nông thôn hóa ngược lại, dân nhập cư hồn nhiên

vứt rác, hồn nhiên đứng giữa đường nói chuyện gây ách tắc giao thông; “một người

trở nên thanh lịch thì thêm hai, ba người về nhà không đóng cửa, ăn nói mở đài cứ

oang oang” cho nên “cái tuổi của một đô thị không nói hết được trình độ đô thị hóa

của nó” (Hà Nội thì không có tuyết).

Ngoài ra, tính đối thoại hay cộng cảm còn thể hiện ở cách nhà văn chọn vấn

đề, gợi mở để hai bên: người viết- người đọc cùng nhập cuộc tranh biện một cách

bình đẳng, khác với cách đặt vấn đề có định hướng từ phía người viết. Những vấn

đề được khơi gợi trong tản văn của Cao Huy Thuần thể hiện rõ chủ định trao đổi,

đối thoại giữa hai phía chủ thể sáng tạo và chủ thể tiếp nhận về những vấn đề văn

hóa nổi bật trong đời sống xã hội. Trở đi trở lại trong nhiều tản văn, đặc biệt trong

122

Sợi tơ nhện, ông thường đề cập đến một nguyên tắc đạo đức quan trọng: không nói

dối, và trước tiên phải thật với mình thì mới không dối với người. Câu chuyện có

thể bắt nguồn từ căn bệnh nói dối tràn lan hiện nay dẫn tới những hệ lụy trầm trọng

ở nhiều phương diện của đời sống. Tập tản văn này còn có nhiều những chuyện

giản dị, nhiều chuyện tưởng là đùa mà thật thâm thúy, cuộc sống trong những tản

văn của ông nhẹ nhàng nhưng có sức tỏa sáng lương tri, giúp “thắp sáng” trí óc

người thật sự lắng nghe câu chuyện khiến người đọc thêm trân quý đời sống. Nói

như nhà văn Bùi Văn Sơn Nam sau khi đọc tản văn Chuyện trò: “Chữ nghĩa không

phải là than vậy mà cũng làm nóng người” chỉ vì “Chưa có ở đâu Cao Huy Thuần

đặt ra một loạt những vấn đề luân lý đạo đức một cách rốt ráo, sâu thẳm đến vậy

dưới dạng những câu chuyện vô cùng hấp dẫn: nói dối, hổ thẹn, đam mê, tình yêu,

chung thuỷ, chiếm hữu, mặc cảm, tự tin, bổn phận, nguyên tắc”. Nhưng dù chọn câu

chuyện gì để khai mở, Cao Huy Thuần cũng dẫn người đọc trở về những vấn đề có

tính bất biến: chuyện tình yêu- văn hóa- giáo dục và tôn giáo. Trong khi đó, nhà văn

Lê Minh Hà cóp nhặt những ký ức nhỏ bé, xinh đẹp thời thanh xuân để viết Này

bọn mình rất đẹp, Còn nhớ nhau không, Thương thế ngày xưa.... Những nữ sinh áo

trắng trên những nẻo phố phường bình yên, phố vẫn là phố, sông vẫn là sông, hồ

nước bát ngát làm nên một không gian dìu dịu của thành phố nhỏ, mấy món ăn vặt

nhâm nhi khoái chỉ; chị cóp nhặt cả những chi tiết bé xíu trong bữa cơm gia đình

thời bao cấp, món canh riêu giã cua mỏi tay, mâm cơm có cả nhà ngồi quanh, trong

cái nắng hè không điện đóm, bà ngồi ăn mà cầm chiếc quạt, quạt vòng cho mọi

người, ai cũng mồ hôi nhễ nhại mà canh cua cà muối ngon nhớ tới cuối đời. Nguyễn

Duy Quyền viết Quên được cứ quên trong khi tập tản văn đầy ắp nỗi nhỡ thức dậy

ký ức buồn đau… Khi đọc những tản văn đó, ai cũng thấy bóng dáng cuộc đời mình

trong đó và lạ thay nhưng chi tiết bé xíu lại khiến ta lén rơi nước mắt. Những tản

văn như thế mở ra không gian không thanh âm để cảm xúc người đọc giao hòa với

người viết một cách bình đẳng và gần gũi, thân thiện.

Điểm nổi bật của tản văn hôm nay còn là sự kích thích đối thoại, gia tăng

tính tương tác giữa người viết- người đọc. Để tạo những cuộc tranh biện gián tiếp

trong tâm tưởng hay đối thoại trực tiếp trên không gian mạng, nhiều tản văn đề cập

123

các vấn đề xã hội nhức nhối, ở đó, người viết không ngại ngần “bình luận, phê

phán, lật xới phơi bày những góc khuất, mặt tối của hiện tồn” [54]. Tiêu biểu cho xu

hướng phê phán là Thảo Hảo – bút danh của nữ nhà văn Phan Thị Vàng Anh. Trong

tập sách Nhân trường hợp của chị Thỏ Bông, người đọc bị lôi cuốn mặc dù rất sốc

khi đọc những bài viết kiểu Tôi cũng muốn ăn cắp, Có đức mà không có tài, Ai

khiến mày lạ?, Ai cho mày chê con tao xấu?... vì Thảo Hảo luôn dùng ngôn từ sắc

lạnh, cách đề cập vấn đề có tính gây hấn, như thể người đàn bà đó muốn bùng nổ

mọi bất bình với diễn biến tiêu cực xung quanh mình. Tập sách thành hiện tượng vì

độc giả như được tham gia một cuộc thảo luận thẳng thắn về các vấn đề thường nhật

của đời sống. Trong tản văn cùng tên tập sách nhà văn “tung” vấn đề nữ quyền và

bình đẳng giới để người đọc (là nam hay nữ) đều có cảm giác “nóng mặt” muốn cãi

tay đôi với tác giả. Trong khi độc giả năm người mười hướng nghĩ thì một mình nhà

văn đi một đường lập luận, con đường ấy rắc rối đúng kiểu “nghĩ một đằng, làm

một nẻo”, phần đầu giục giã nữ giới chọn cách làm “hoa dại” để có sức quyến rũ,

nhưng hạ kết lại tự thú: “Tôi nghĩ kỹ rồi, tôi chỉ hung hăng thế thôi. Để không mất

anh ấy, tôi sẽ làm hoa nhựa” (Nhân trường hợp của chị Thỏ bông). So với phụ nữ

phương Tây, cách nhìn của tác giả về nữ quyền không mới nhưng trong bối cảnh xã

hội đề cao đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt Nam thì sự cổ vũ “hành vi phiêu

lưu đậm chất cách mạng giới tính” của nhà văn thật táo bạo, tạo sự tranh luận về

giới và về phẩm giá một cách sôi nổi. Từ tập Nhân trường hợp của chị Thỏ Bông tới

Ghi chép nhỏ của người cưỡi ngựa của nhà văn Phan Thị Vàng Anh đã giảm đi

phần nào lối viết đẩy mạnh người đọc vào các vấn đề nhức nhối nhưng vẫn giữ

được sự kích thích đối thoại từ hai phía. Nhan đề tập sách hàm ý tản văn chỉ là ghi

chép nhỏ, đúng với tinh thần mỗi tản văn thường bắt đầu bằng những câu chuyện cụ

thể, đôi khi tầm phào và lý giải nó dưới mắt nhìn, sự chiêm nghiệm của bản thân, từ

chuyện gói bánh chưng, nuôi người già, chuyện đưa trẻ con vào bảo tàng cho tới

chuyện rất thời sự là thực phẩm bẩn, chuyện đi tàu năm sao, chuyện một cô giáo bắt

phạt 47 học sinh bằng cách bắt chúng liếm ghế của cô… nhưng tinh ý sẽ thấy tác

giả đặt những vặt vãnh, nhỏ nhặt ấy trong tốc độ đời sống đang trôi nhanh, môi

trường bị ô nhiễm, giá cả leo thang, dòng người nhập cư làm tăng áp lực của đô thị;

124

là cuộc chạy đua về hình thức; câu chuyện bản sắc, cội nguồn; thời đại công nghệ số

lên ngôi, thời của Facebook, lắm lúc vô hồn, trống rỗng; trẻ con thờ ơ với lịch sử,

những bảo tàng âm u mà nhân viên trực không còn buồn nhìn khách… Nếu những

chuyện như vậy không gây tranh cãi thì cũng luôn tạo được sự tương tác, đồng cảm

sâu sắc với bạn đọc vì “những điều mắt thấy tai nghe” ấy đâu chỉ có một mình nhà

văn thấy?. Chính đặc trưng tự do trong đề tài của tản văn đã tạo cơ hội cho người

viết được quyền nói về mọi điều họ muốn nói, viết ra mọi suy ngẫm và cảm xúc nảy

bật từ sự va đập với đời sống.

Gánh vác chức năng chủ thể sáng tạo và khơi dậy những vấn đề có tính đối

thoại mở trong tản văn đầu thế kỷ XXI là những cây bút đầy bản lĩnh, dám nghĩ,

dám viết quyết liệt về những vấn đề bức xúc trong xã hội hiện tại. Trần Đình Sử gọi

đó là “tiếng nói của một chủ thể quyền lực trong xã hội”[77]. Đánh giá tạp văn

Nguyễn Quang Lập, nhiều người ca ngợi ông ở khẩu khí và khẩu ngữ được sử dụng

điêu luyện, thực tế, óc những độc giả am tường nhận ra ngôn ngữ chỉ là phần nổi,

phần giá trị cốt lõi thực sự nằm trong những sáng tác của bọ lập là tinh thần phản

tỉnh. Có thể nói ẩn sau những “câu chuyện đời vớ vẩn”, ẩn sau sự hoạt khẩu gây

cười là một cái nhìn rất sâu sắc nhằm cảnh báo về những nhầm lẫn, ấu trĩ, tệ hại,

xấu xa, đê tiện… của con người trong cuộc sống. Thậm chí, như đã nói, Nguyễn

Quang Lập còn mang cả bạn bè và ngay bản thân mình ra để “trăn qua trở lại” xem

coi có xứng đáng với chức phận của người cầm bút viết văn hay không. Sau cái vẻ

cười cười những chuyện vụn vặt, giá trị sau cùng trong sáng tác của ông là thái độ

và sự chân tình tự phản tỉnh về tất cả các vấn đề đời sống; về tất cả cái gì thuộc về

con người nhằm đấu tranh cho cái“lương tâm của xã hội, của thời đại” hôm nay

trước nguy bị mất mát, lở lói. Cũng vậy, Nguyễn Vĩnh Nguyên thể hiện ý thức phản

tỉnh khi anh tự trào về nghề báo mà chính mình đang ngụp lặn trong đó, nhà văn

viết: "Báo chí chỉ là những tờ giấy, dù đứng dưới bất kỳ một măng-set nào. Điều tôi

viết lên tờ giấy hẳn quan trọng hơn tờ giấy, nhưng điều tôi không muốn viết lên tờ

giấy còn quan trọng hơn cả những gì đã viết lên tờ giấy". Trong một xã hội thừa

mứa thông tin bề mặt ở đây, những nhà văn, nhà báo, những người vắt sức lao động

thực sự bị rơi vào sự lưu đày cô đơn, họ bị lấn át trước sự chèn ép của toan tính phù

125

phiếm, và thật ít người có thể nói không để không thỏa hiệp dễ dàng với đời sống

kia. Tác giả nói: "Chưa bao giờ bạn cần đến một sự chậm rãi, một độ lùi trước

những cánh rừng thông tin sốt dẻo lao xao bất chấp sự chính xác như lúc này". Mà

rốt cuộc Nguyễn Quang Lập là ai? Nguyễn Vĩnh Nguyên là ai? Họ là những nhà

văn bình thường, những trí thức bình thường sống ngoài đời hiền lành ngược hẳn

với văn chương nhiều dằn vặt và gay gắt nhưng không vì những trở ngại của vị trí ở

khía cạnh chính trị xã hội mà không dám sống là người tử tế, chân chính – thứ

quyền lực mềm của tư tưởng và ngôn ngữ này thuyết phục số đông hơn là dùng

quyền lực chính trị lãnh đạo.

Như vậy, quyền lực của chủ thể diễn ngôn trong quan niệm của nhà nghiên

cứu không đơn thuần có tính chính trị hay ám chỉ người có quyền lực, vị trí quan

trọng của một thể chế, đây là thứ quyền lực tư tưởng. Mặc dù Karl Marx khẳng định

tư tưởng thống trị trong một xã hội là tư tưởng của giai cấp thống trị, diễn ngôn là

ngôn ngữ của kẻ chiếm địa vị thống trị về tư tưởng nhưng trong một môi trường văn

hóa cởi mở như ngày nay, chủ thể diễn ngôn có quyền lực nhất thường không xuất

phát từ địa vị thống trị. Chủ thể diễn ngôn ở tản văn có địa vị khác nhau, xác lập trật

tự diễn ngôn khác nhau, sử dụng chiến lược diễn ngôn khác nhau, có thể họ trình

bày, diễn giải quan điểm của mình nhưng nổi bật là xu hướng đối thoại, trao đổi …

Như thế giá trị thực sự trong diễn ngôn tản văn phụ thuộc nhiều vào các chủ thể xã

hội đứng đằng sau diễn ngôn, xem đó là tiếng nói của ai, vào thời điểm nào. Tính

đối thoại thực chất là hệ quả của sự tương tác mật thiết giữa bạn đọc với nhà văn.

Đây chính là sự biến đổi theo chiều hướng tích cực của tản văn đầu thế kỷ XXI. Sự

thay đổi trong đội ngũ sáng tác có ảnh hưởng tới sự thay đổi trong mối quan hệ,

tương tác giữa nhà văn với bạn đọc. Khi người viết từ đền đài nghiêm trang của văn

học nghệ thuật bước xuống mặt đất cuộc đời, trò chuyện với người đọc về câu

chuyện hiện thời, bộc bạch những bức xúc cả hai bên đều thấy, cùng sẻ chia những

ngẫm ngợi về giá trị chung thì mối quan hệ giữa nhà văn và độc giả thay đổi theo

chiều hướng từ độc thoại chuyển sang đối thoại, nhà văn từ vị thế trên cao chuyển

sang vị thế ngang hàng với độc giả, từ vai truyền đạt quan điểm và triết lý sang chia

sẻ, phản biện. Điểm xuất phát của người viết lại vô cùng đa dạng, đem đến cho độc

126

giả những góc nhìn đặc thù, những trải nghiệm phong phú, những thông tin cập nhật

về đời sống. Nhờ đó, văn chương nghệ thuật có thể bị giải thiêng ở góc nào đó

nhưng phần đời thật nhất, con người phức tạp nhất lại hiện diện đầy đủ, sống động

trong tản văn. Sự điểm diện trên có thể chưa đầy đủ bởi tản văn vẫn đang được xuất

bản, xuất hiện, đến với độc giả hàng ngày bằng nhiều con đường – công cụ tiện ích.

Tuy nhiên, lịch sử hơn một trăm năm với hai chặng đường cho thấy thể loại không

chỉ bền bỉ khẳng định những đặc trưng thể loại trong suốt thế kỷ XX (đề tài, nội

dung tư tưởng, phương thức nghệ thuật, cá tính tác giả…) mà còn tiếp tục kế thừa,

thay đổi, phát triển mạnh mẽ để chứng tỏ sự thích nghi nhanh chóng với thời đại ở

đầu thế kỷ XXI (ngôn ngữ, hàm lượng hiện thực của đời sống, quan niệm về nhà

văn, mối quan hệ giữa nhà văn với độc giả…).

4.1.2 Chiến lược khơi gợi

Muốn tạo tính đối thoại, nhà văn không bao giờ nói lời kết luận sau cùng,

bao giờ họ cũng bỏ ngỏ một khoảng để người đọc cùng họ sáng tạo, suy tưởng,

ngẫm ngợi tiếp. Đáp án của tác giả và độc giả có trùng nhau không? Không quan

trọng. Đáp án có giá trị với mỗi người nên trong tản văn, sau dấu ba chấm, không có

chuyện đúng – sai. Một trong những chiến lược mà tản văn đầu thế kỷ XXI sử dụng

nhằm khơi gợi suy tưởng, cảm nhận ở người đọc mà vẫn đảm bảo được tính chân

thật của câu chuyện đó là không sử dụng ngôn ngữ “đóng đinh” ý tưởng, mà dùng

biểu tượng để gợi mở những liên tưởng, ngẫm ngợi. Kể cả các nhân vật (trong chân

dung) thì nhà văn cũng không xây dựng chân dung hoàn chỉnh, chỉ chấm phá vài

nét, đặt vào tản văn một vài mảnh vỡ để người đọc tự hoàn chỉnh sản phẩm và kết

luận, đánh giá.

Không phải tới lúc này, tính biểu tượng mới được nhắc tới như dấu hiệu

quan trọng về nghệ thuật của tản văn đầu thế kỷ XXI. Ở phần bàn về mã văn hóa,

chúng tôi đã xem xét biểu tượng như phương tiện đặc biệt quan trọng trong việc

biểu đạt (một cách khái quát) những giá trị văn hóa có mặt trong tản văn Việt Nam

đầu thế kỷ XXI. Ở phần này, chúng tôi xem biểu tượng với tư cách một phương

thức tu từ quan trọng của chiến lược giao tiếp. Phương thức tu từ bằng biểu tượng

được xây dựng trên cơ sở của trí tưởng kết tinh từ trải nghiệm của chủ thể sáng tác

127

đồng thời được tiếp nhận bằng trí tưởng tượng của chủ thể tiếp nhận. Thực tiễn văn

học cho thấy việc đem tới cho độc giả những sự thật và chân lý bằng hệ thống biểu

tượng là phương thức tu từ truyền thống nhất và chưa bao giờ lỗi mốt. Câu trả lời

đơn giản là cuộc sống quá phức tạp, con người đa dạng, sự tiếp nhận phong phú nên

cần một thứ văn học gồm nhiều tầng vỉa để đến với nhiều kiểu độc giả mà đạt được

hiệu quả cao nhất trong việc truyền đi thông điệp, chân lý. Tản văn gọn về dung

lượng, điều đó không có nghĩa là không đủ chỗ đứng cho một biểu tượng. Chỉ khác

với những thể loại có dung lượng lớn ở chỗ thường xây dựng một hệ thống biểu

tượng với sự dày dặn của những lớp nghĩa, tản văn vì chọn một điểm trong đời sống

để công phá nên thường chọn một biểu tượng nhỏ nhưng vẫn mang ý nghĩa biểu

trưng có sức lay cảm mạnh.

Đọc tản văn Y Phương sẽ bắt gặp nhiều lần biểu tượng núi đá. Xét về ý tứ

sâu xa, nhà văn ở miền núi, gắn kết, ruột rà với núi đá quả thật là một đời sống kỳ

thú. Núi luôn là trang sách mở. Nhà văn ở miền núi thường mang mạch nguồn cảm

hứng tỏa ra từ tâm hồn của đá, lửa và sương trời. Đó là những chất liệu để mơ, là

vật chất của trí tưởng tượng, là hồn cốt, là khởi đầu bản mệnh của thi nhân, văn

nhân nơi đây. Đá thâm trầm, tĩnh lặng ngũ sắc, kết tụ âm dương. Lửa hóa thân, nâng

đỡ, giữ gìn, là mũi tên chọc thẳng lên trời, định hình nhân cách, nóng ấm ngay cả

khi gió bạt, “không nói lời cong” ngay cả khi gió bạt. Sương trời bảng lảng bao bọc

những quãng lặng, giữ gìn những quãng lặng, sẽ bay bổng cùng hiện thực thăng

hoa. Hai tập tản văn đều đầy ắp nỗi đau, nó luôn quay về, luôn đau đáu trong cuộc

hành hương tinh thần mang tính định mệnh. Cây đàn tính cũng là một biểu tượng:

Bản thân tác giả có lần đã tự so sánh mình với cây đàn tính của dân tộc Tày: “Cây

đàn này đâu phải cây đàn/ Bầu nước mắt trăm năm cười khóc/ Cây đàn này đâu phải

cây đàn/ Bọc sinh nở lời chào li biệt/ Vụt đứng lên cây đàn dìu dặt/ Đi như thế cho

đến ngày nhắm mắt/ Ngôn ngữ cổ còn vài câu tích tịch/ Hãy gẩy lên ở bất cứ nơi

nào” (Đàn tính). Ngòi bút của ông cũng là một cây đàn trong ý nghĩa biểu tượng

của nó. Đó là cây đàn bao giờ cũng cất lên những thanh âm thành thật, gan ruột từ

tận đáy lòng. Và người đọc sẽ được lắng nghe từ đó những lời tâm tình thủ thỉ ngọt

ngào về tình yêu đôi lứa, tình cảm gia đình, tình đất tình người đằm thắm mặn mà.

128

Cũng có khi, người ta lắng lòng nghe thấy những thanh âm mộc mạc trầm đục như

bước chân chắc chắn, như nhịp lao động lành hiền của những người đồng rừng. Đôi khi

lại là những luyến láy mượt mà của điệu hát Woàng dzà hay điệu thơ Phong slư...

Tập tạp văn Ti vi, xe máy, nhạc chế, chày cối, karaoke, tăm xỉa răng và

những thứ khác cho thấy bản lĩnh, sự độc lập của nhà văn Nguyễn Vĩnh Nguyên

trong việc chọn lựa điểm nhìn, phương pháp khảo sát, kiến giải về tâm tính của

người Việt Nam đương đại thông qua quan niệm, cách thức sử dụng, thói quen hành

xử với những đồ vật quen thuộc thường ngày. Qua những câu văn sắc sảo, nhiều

hàm ý, độc giả sẽ bất ngờ nhận thấy ở những vật dụng - từ cái tăm xỉa răng đến

thanh bookmark, từ cái tivi đến con xe máy, từ chén nước mắm trên mâm cơm đến

vườn tược, nhà cửa, v.v đâu đâu cũng là những điểm “mã hóa” câu chuyện về lịch

sử, văn hóa, tâm thức, tập tính con người. Những đồ vật tầm thường không vô tri

mà có hồn vía, sống động, là những biểu tượng cần được chiếu rọi bằng nhãn quan

mới, cần được nắm bắt, giải mã, làm sáng thực tại nhiều bất cập giữa một thời đại

mà sự biến đổi diễn ra quá sức nhanh chóng. Đối với các hiện tượng xã hội (nhạc

chế, sự lạc quan hão, cà phê cóc vỉa hè…), Nguyễn Vĩnh Nguyên lại thể hiện thái

độ bao dung, tự tại, đôi khi với giọng điệu đầy hài hước, truyền tải được những dữ

liệu cho thấy sự tồn tại phi lý nhưng tất yếu của chúng trong đời sống. Tản văn của

Nguyên còn có biểu tượng khác: Đà Lạt. Trong tập tản văn Với Đà Lạt ai cũng là lữ

khách, bản thân Đà Lạt là một biểu tượng cho sự khát khao tìm kiếm một đời người

nhưng mãi mãi không được chấp nhận để gắn bó. Như một nhận định chủ quan mà

đầy tự tin của nhà văn Nguyễn Vĩnh Nguyên về cao nguyên nồng hậu, nghĩa tình,

luôn mở rộng những con đường hoa thấm đẫm sương chào đón con người mọi nẻo

đường đến với nơi này, nhà văn cho rằng: Với Đà Lạt, ai cũng là lữ khách! Trong

mỗi trang viết, Nguyễn Vĩnh Nguyên cho thấy mặc dù mình chủ quan khi chọn cho

tập sách nhan đề tập sách nhưng đó là sự chủ quan có lý. Bản thân anh yêu Đà Lạt

đến đau đớn nhưng không thể sở hữu người tình sương khói đó. Nhiều lần trong tản

văn, nhà văn tự nhận mình là một khách tình si tự đặt mình trong từng tiết điệu của

Đà Lạt. Bên bạn bè những năm tháng tuổi trẻ nhiều khó khăn, chưa bao giờ Nguyễn

Vĩnh Nguyên buông lơi tình yêu của mình với Đà Lạt, si mê Đà lạt trong từng

129

khoảnh khắc dù trời đất có nhạt nhòa mưa hay sương, ẩm ướt và vắng vẻ, cũ kỹ và

mốc thếch. Khác với thứ tình đôi lứa, có cao trào và thoái trào, tình của Nguyên với

Đà Lạt là thứ “men ngày nào đã ngưng tụ trong suy nghĩ và ngôn từ”. Trong chuỗi

ngôn từ thổn thức nỗi nhớ, Đà Lạt trở thành biểu tượng cho một tình yêu không bao

giờ mình có thể sở hữu và vì người tình thờ ơ với mình một cách chừng mực nên

mình càng có khát khao được sở hữu. Đó là thứ tình yêu tuyệt vọng và đau đớn nhất.

Viết về Hà Nội, Nguyễn Việt Hà chạm tới nhiều biểu tượng đã thành quen

thuộc với người Hà Nội. Trong đó có Hồ - những địa danh đã thành một dòng chảy

trong văn chương Việt như Hồ Tây, Hồ Hoàn Kiếm. Nhưng nhà văn từng thú nhận

mình chỉ loanh quanh Hồ Gươm, có phải vì thế mà với Việt Hà, "quê hương với

mọi người là sông. Nhưng Hà Nội của tôi là một cái hồ". Nguyễn Việt Hà nói và

chia sẻ anh gắn bó với hồ Gươm tới mức "một cái hồ thân thiết mà bị dung tục đi thì

mình rất xót xa. Hồ Gươm như bây giờ cũng được, nhưng nếu có gì đó xảy ra thì tôi

rất đau lòng". Hồ thành biểu tượng sinh thái tinh thần của người ở phố, sông quê sẽ

thành biểu tượng ký ức với người nơi chốn ruộng đồng và Nguyễn Quang Thiều

hay Hoàng Việt Hằng đều say sưa viết về sông quê như biểu tượng thời gian ký ức

tuổi thơ một đi không trở lại. Giọt người ở mấy chân mây của Hoàng Việt Hằng có

những đoạn ngậm ngùi: "Đi qua bao nhiêu con đường của trái đất, tôi cũng vẫn tìm

trở về tuổi thơ, vì ai cũng có một tuổi thơ dù đó là chuyện vui hay chuyện buồn.

Quỹ thời gian của đời người càng hẹp lại, bạn sẽ hay nhìn về kí ức, nơi có dòng

sông ấu thơ ta đã lội ngược dòng. Nếu như không có những ngày sơ tán ấy, nếu

không có ngày chạy bom B52, rời thành phố, làm sao tôi biết làng quê, biết xay lúa,

giã gạo, giần sàng. Biết đi bộ đường dài dọc sông Hằng, qua sa mạc Nội Mông,

nhìn cỏ, nhìn những dòng sông lớn trên thế giới, lại khao khát trở lại dòng sông

không gì sánh nổi: dòng sông tuổi thơ quê mình". Nguyễn Việt Hà cũng mang cảm

xúc tương tự thế. Đối với anh, Hà Nội không chỉ là nơi gắn bó về mặt địa lý, mà

còn là nơi gắn chặt tâm hồn, đi xa thì nhớ, nhận ra con người Hà Nội có những đặc

điểm riêng thú vị. Trong các tản văn của Nguyễn Việt Hà, đàn ông phố cổ cũng

thành một biểu tượng – một di sản sống không dễ gì biến mất mặc dù thực tế thì

chất Hà Nội trong mỗi con người ở đây đang bốc khi tan biến mất dần. Ở tiểu thuyết

130

Ba ngôi của người của Nguyễn Việt Hà, Hà Nội hiện lên xấu xí, nhốn nháo. Tác giả

viết: "Nhà nghỉ nhiều nhan nhản đã làm cho Hà Nội trở nên một con đĩ thập thành";

"Hà Nội bây giờ thì buồn quá, nó không quá nghèo nhưng vô đạo và ít học"; hay

"Thành phố đang loay hoay tha hóa". Viết vậy bởi Nguyễn Việt Hà - một người

thuộc thế hệ 6X của phố cổ - đã quá gắn bó với mảnh đất này. Họ, những người

“con giai phố cổ”, ngồi cạnh bên nhau trong chính con phố đã cùng họ lớn lên, cùng

họ chứng kiến biết bao đổi thay của dân tộc, chia sẻ vài mẩu tin trên tờ báo sớm, nói

với nhau vài ba câu chuyện người, chuyện đời, hay chỉ đơn thuần hoài niệm vị ngon

một món ăn đã lâu rồi chưa tìm lại được đúng “chất Hà Nội” của nó. Với vài chiếc

ghế nhựa, một ấm trà, họ ngồi đó, trò chuyện như một thói quen, một thú vui

thường nhật, ấy thế mà lại có thể làm sống dậy cả một phần Hà Nội tinh túy nhất.

Được hưởng nếp giáo dục thuần túy xưa, cuộc sống cũng không bị ảnh hưởng bởi

quá nhiều phân hóa, không nhiều cái mới, cái lạ xâm nhập, con người phố cổ dường

như gắn bó hơn, gần gũi hơn, dù không ngày ngày trò chuyện, nhưng mỗi lần gặp

gỡ vẫn luôn thân thuộc như cố nhân với cố nhân. Chẳng riêng gì con trai phố cổ,

người phố cổ nói chung đều mang trong mình những nét đặc trưng mà người ta vẫn

gọi là bản sắc – thứ bản sắc Hà Nội, bản sắc Việt Nam đang cần được lưu truyền.

Đó là lối ăn, lối mặc đầy tính thưởng thức, là lối nói chuyện lịch sự, tinh tế, là nét

sinh hoạt gia đình gắn bó hay lối sống nghĩa tình, là những sở thích, những thú vui

dù chẳng cao sang, nhưng vô cùng trang nhã và thanh lịch… Những câu chuyện về

người và đất Hà Nội trong tản văn của Nguyễn Việt Hà tưởng chỉ là những câu

chuyện trà đá vỉa hè mỗi lúc chiều buông, không đầu không cuối song thực chất lại

bộc lộ và khơi gợi bao trăn trở về vấn đề lớn hơn thế: câu chuyện bảo lưu giá trị,

bản sắc Hà Nội xưa và nay.

Cũng ngẫm ngợi về Hà Nội, giống như Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Trương

Quý, Mai Lâm và một số cây bút khác, nhưng tản văn của Đỗ Phấn lại chọn những

biểu tượng khác cho cố đô. Với nhà văn – họa sĩ này, một phiến đá lát dưới đường,

âm thanh tàu điện leng keng, những món ăn quen thuộc với người Hà Nội cũng là

biểu tượng cho các giá trị văn hóa Hà thành một thời vang bóng. Kể cả những người

sinh ra, lớn lên, gắn bó với Hà Nội cũng thấy thú vị với thông tin nhà văn cung cấp

131

trong Thương nhớ vỉa hè rằng: “Những năm 60 của thế kỷ trước, vỉa hè Hà Nội

được chia ra làm ba loại rõ ràng. Những tuyến phố cũ trước hòa bình lát gạch chỉ

khía vạch chéo chống trơn đỏ au sau mỗi trận mưa rào. Bờ hè được cạp bằng đá

xanh…Những tuyến phố được lát gạch vỉa hè sau hòa bình không nhiều. Đa số nằm

trên những con đường lớn kéo dài từ trong trung tâm mà ra. Gạch xi măng vuông ba

mươi phân xám xịt một màu lổn nhổn những viên sỏi trắng. Phần hè phố còn lại của

Hà Nội là nền đất bó vỉa bằng bê tông không cốt sắt đúc sẵn theo hình vỉa đá”. Đó

là nơi diễn ra đời sống sôi động, cái vỉa hè chứng minh được sự đa năng nhất mức

có thể: một quán cóc, chỗ chạy nhảy và chơi đủ trò của đám trẻ, bác thợ sửa xe tận

dụng kiếm thêm đồng bạc lẻ, nơi mà “tối mùa hè cắt điện oi bức trải chiếu ra ngoài

vỉa hè (..) nhưng rồi cũng giống như mọi giá trị của nếp sống Hà Nội xưa mất dần,

để lại phần hụt hẫng cho những ai đã quen với Hà Nội bình thản, nhẹ nhàng, nhà

văm bâng khuâng nhận ra “hình hài cái vỉa hè đã muôn phần đổi khác”. Đọc Leng

keng tàu điện, thấy yêu quá Hà Nội một thuở thanh bình với năm tuyến đường xe

điện Chợ Mơ, Bệnh viện Bạch Mai, Hà Đông, Cầu Giấy, Yên Phụ đều tập kết về ga

chính Bờ Hồ Hoàn Kiếm, cạnh nhà Thủy Tạ. Thế rồi tàu điện bị xóa bỏ một cách

không thương tiếc, bây giờ nó chỉ còn lại trong kí ức xa xăm: “Tàu điện vắng mặt

đã hai mươi năm (…). Thế nhưng dư âm của tiếng chuông leng keng tàu điện hình

như vẫn còn vang vọng trong tâm thức của những người thành phố trạc năm sáu

mươi tuổi bây giờ. Cùng với nó là hình ảnh thanh bình của một Hà Nội vài mươi

năm trước cũng chợt hiện lên vời vợi nhớ thương...”. Rất nhiều bài tản văn của Đỗ

Phấn tái hiện lại một thời như thế. Đó cũng chính là một trong những lí do tạo nên

sức hấp dẫn từ những trang viết của nhà văn – người có ưu thế trong việc khơi gợi,

tạo sự liên tưởng và khả năng đồng sáng tạo nơi người đọc.

Không dễ nắm bắt nghĩa biểu tượng trong văn học mặc dù việc xác định

biểu tượng không khó. Tính chất đa nghĩa, trừu tượng, thậm chí là mơ hồ của các

biểu tượng khiến cho việc phân tích và giải mã biểu tượng trong các tác phẩm văn

học không dễ dàng, đôi khi lâm vào tình trạng bế tắc, tạo nên những “cuộc tranh

luận liên miên về ý nghĩa của những biểu tượng” (Raymond Firth). Nhưng với tản

văn Việt Nam ở đầu thế kỷ XXI, ý nghĩa biểu tượng trong đó được người đọc hiểu

132

trong chừng mực trải nghiệm của cá nhân vì vậy mới có sự thích thú đón nhận hào

hứng thể loại như chục năm trở lại đây đang bộc lộ. Vì sao? Vì biểu tượng trong tản

văn Việt Nam thường xuất phát từ những yếu tố bé nhỏ, quen thuộc của đời sống

nhưng có khả năng dễ dàng khơi gợi cảm xúc đời thường từ phía người đọc. Có đôi

khi vì choáng váng trước những biểu tượng chồng chéo ý nghĩa biểu trưng mà

người ta rời khỏi tác phẩm nghệ thuật giống như những người thiếu kinh nghiệm, tri

thức và thời gian dành cho nghệ thuật không cố gắng để hiểu một bức tranh trừu

tượng quá phức tạp. Ngược lại, đôi khi những chi tiết bé nhỏ nhưng đánh thức góc

nào đó trong ký ức mà họ bị cuốn vào trang văn. Dung lượng nhỏ quy định tản văn

không nên rườm rà, dễ dãi trong chi tiết, hệ thống hình ảnh trong tản văn phải được

sử dụng tinh lọc, súc tích và giữa các chi tiết phải có sự liên kết chặt chẽ nhằm bộc

lộ mạch lạc thông điệp người viết muốn truyền đi. Do đó tản văn thường tự hình

thành một số biểu. Biểu tượng trong tản văn có thể là những kí hiệu văn hóa khiêm

nhường, nó dễ dẫn tới định kiến về sự xếp đặt vị trí thể loại nhưng chính vì những

chi tiết, biểu tượng, câu chuyện không phô trương, ồn ào lại là ưu điểm khi tản văn

đến với số đông độc giả trong đời thường, thực hiện tốt chức năng trò chuyện đồng

hành cùng tinh thần đương đại một cách gần gũi.

4.2 Phương thức thể hiện

4.2.1 Đa dạng hóa ngôn ngữ

4.2.1.1 Khẩu ngữ - ngôn ngữ tự do

“Khẩu ngữ” được hiểu là ngôn ngữ nói thông thường, được sử dụng để trao

đổi thông tin, tình cảm, tư tưởng trong đời sống hàng ngày, tồn tại ở dạng nói.

Trong văn học, khẩu ngữ được dùng như một dạng chất liệu ngôn ngữ đặc biệt. Về

mặt hình thức, có vẻ như khẩu ngữ đối lập ngôn ngữ nghệ thuật vì nhà văn chủ

động sử dụng nhiều phương ngữ, các thán từ, trợ từ đưa đẩy, các hình thức tỉnh lược

câu, những kiểu ngôn ngữ phát sinh trong đời sống đương thời… thực chất, việc sử

dụng khẩu ngữ cũng là một lựa chọn có cân nhắc của người viết vì sử dụng đắc địa

lớp ngôn ngữ này, nhà văn sẽ cùng lúc đạt được nhiều mục đích: rút ngắn khoảng

cách giữa văn học với đời sống; bộc lộ rõ cá tính, phong cách; khẳng định năng lực

nghệ thuật bởi khẩu ngữ là con dao hai lưỡi – một mặt nó sẽ tái hiện sự sống tươi

133

rói, mặt khác, nó dễ biến thành thứ suồng sã, thô lậu, giản đơn vì thế không phải

nhà văn nào cũng dám lạm dụng khẩu ngữ và không phải nhà văn nào sử dụng khẩu

ngữ cũng thành công. Biểu hiện dễ thấy của lớp ngôn ngữ này là sự xuất hiện của từ

ngữ dân giã, tự nhiên; mật độ dày đặc phương ngữ, phản ánh thói quen ăn nói của

một vùng, miền nào đó; ngôn ngữ “vỉa hè” hay ngôn ngữ được sử dụng trên mạng

internet, những câu nói viral (có hiệu ứng lan truyền nhanh) hoặc cách diễn đạt đã

thành hot trend (xu hướng thịnh hành được nhiều người quan tâm và bắt chước diễn

đạt lại trong các cảnh huống khác của đời sống)…

Ngoài việc tiếp thu và sử dụng thứ ngôn ngữ uyên bác, giàu thẩm mỹ của tản

văn thế kỷ XX, tản văn thế kỷ XXI còn tự làm mới mình bằng việc đẩy mạnh việc

sử dụng ngôn ngữ đời thường, tự do, đậm chất khẩu ngữ nhằm thỏa mãn đòi hỏi gần

gũi, dễ hiểu hơn của văn chương giữa bối cảnh mới. Tản văn Việt Nam đầu thế kỷ

XXI sử dụng khẩu ngữ như một chiến lược giao tiếp nhằm về gần độc giả nhất mức

có thể, nghĩa là thể loại chọn “tính đồng đại của sự tiếp xúc giao tiếp”. Xu hướng

này bao gồm hai bình diện cơ bản của một diễn ngôn: ngữ cảnh và tâm lý. Ở bình

diện ngữ cảnh, khẩu ngữ được chấp nhận khi nó “mở rộng trường nghĩa trên cơ sở

ngữ cảnh văn hoá xã hội, lịch sử và các ngữ cảnh khác”[9] thuộc môi trường văn

hóa, văn học đầu thế kỷ XXI; còn nhìn từ bình diện tâm lý, khẩu ngữ đặt đúng vị trí

sẽ thoát khỏi tính dung tục, thô nhám trong đời thường để trở thành nơi “dự trữ tình

cảm, nghị lực chứa đựng trong diễn ngôn và cung cấp cho nó sức mạnh khơi

gợi”[11]. Cần nhớ chiến lược giao tiếp chỉ là chủ định của cấu trúc diễn ngôn, trong

khi “diễn ngôn là cách nói năng, phương thức biểu đạt về con người, thế giới,về các

sự việc trong đời sống. Nhưng diễn ngôn không phải là cách nói thế nào trong

tương quan với nói cái gì, không phải là hình thức. Diễn ngôn là hiện tượng tư

tưởng [12]. Điều này có nghĩa diễn ngôn không phải là công cụ diễn đạt, mà là bản

thể tư tưởng, bản thân tư tưởng, mọi tư tưởng đều biểu hiện thành diễn ngôn, như

vậy tản văn chọn chiến lược khẩu ngữ không đồng nghĩa với việc tản văn sử dụng

đơn vị ngôn ngữ sinh hoạt đời thường một cách suồng sã, ngẫu hứng - mà bản thân

khẩu ngữ đã mang tính tư tưởng, đó là lúc khẩu ngữ trở thành văn khẩu.

134

Nếu làm một cuộc bình chọn nhanh cho giải thưởng người sử dụng khẩu

ngữ ấn tượng nhất trong tản văn, có lẽ người được nhớ đầu tiên không ai khác là

nhà văn Nguyễn Quang Lập. Tản văn của ông sử dụng khẩu văn với mật độ dày

đặc. Trước ông, nhiều nhà văn tên tuổi từng sử dụng khẩu văn để tái hiện bức tranh

đời “nhưng phải đến Nguyễn Quang Lập mới trở thành một hình thức văn lạ, một

loại ngôn ngữ văn xuôi mới (…). Khẩu văn Nguyễn Quang Lập có sự pha trộn của

lối nói dân gian tự nhiên, sinh động với thể văn hồi kí phóng túng, đầy cảm hứng.

Khẩu văn Nguyễn Quang Lập là viết theo lối nói, như tác giả đang nói/trò chuyện

trực tiếp với người đọc, do đó, đọc Kí ức vụn, ta khoái cảm như nghe những dòng

âm thanh đang chạy rần rật, “như thấy những con chữ đang cựa quậy trên trang

giấy”. Chẳng riêng gì Kí ức vụn (1,2) mà trong Bạn văn (1,2) xuất hiện dày đặc các

lớp từ ngữ gồm từ khẩu ngữ, từ địa phương và từ thông tục, biến chúng thành

những mã thẩm mĩ có sức ám gợi người đọc, tạo nên nét cá tính khẩu văn. Sử dụng

thường xuyên nhưng có chọn lọc, phù hợp với từng đối tượng cụ thể, gắn với những

ngữ cảnh nhất định. Lớp từ khẩu ngữ đã thực sự tạo được những liên tưởng bất ngờ,

những hàm nghĩa tinh tế, sinh động, có tác dụng trong việc làm cho đối tượng, sự

việc được miêu tả thực hơn, tạo nên những nhận thức mới. Mỗi người đọc, dù khác

nhau về tuổi tác, trình độ nhưng khi đọc Kí ức vụn của Nguyễn Quang Lập đều có

cảm giác như đang tiếp xúc với những lời nói quen thuộc hàng ngày, tự nhiên, sinh

động. Đó là những từ ngữ dùng để xưng hô thằng, con, mụ, mẹt, thằng cu, anh cu,

ông cu,... và cách xưng gọi thằng Á, thằng Tuỵ, thằng Du, thằng Nguyên (Phạm

Xuân Nguyên), con Hà, con Sử, con Thuỷ, mụ Cà, mẹt Lạm, cu Cá, cu Đô, thằng cu

Hói, anh cu Luật, ông cu Hoi,... một cách bỗ bã, suồng sã nhưng gần gũi thân mật.

Cái duyên hấp dẫn người đọc nhất của Nguyễn Quang Lập là việc sử dụng các tổ

hợp từ khẩu ngữ hết sức tự nhiên, tần số cao như: chán ốm, mừng húm, sướng rêm,

cười ré, khoẻ re, giỏi cực, hay hè, sướng râm ran, chán mớ đời, trắng gớm hè, trật

chỏng vó, sợ bằng chết, nảy đom đóm, hăng máu vịt, mừng tha dép, câm miệng hến,

trơ mắt ếch, khoẻ như tru, đập một phát, mặt xanh như đít nhái,... Những kiểu nói

lặp từ, những kiểu cấu tạo từ chỉ dùng trong khẩu ngữ hàng ngày xuất hiện dày đặc

trong văn Nguyễn Quang Lập: giỏi hè giỏi hè, ừ đo ừ đo, phi công phi keo, sướng

135

cuống cà kê, mừng nha mừng nha, rứa a rứa a, quẹt quẹt ẻ ẻ, thở vô thở ra, trẻ hè

trẻ hè, (cười) tít ta tít tít, ê ê trật trật, sai sai ngu ngu, đổi mới đổi méo, bờ lốc bờ

leo, cười cái liếc cái, văn nghệ văn gừng, viết sách viết siếc, thủ trưởng thủ triếc,

tào lao chi khươn, giới hạn giới heo,... Rồi người ta luôn nhớ blog có tên Quê Choa,

nhớ Bọ Lập hơn là tên đầy đủ (Nguyễn Quang Lập) chỉ vì những nick đó có đính

thương hiệu Quảng Bình, phương ngữ Quảng Bình. Tương tự vậy, nhà văn quen gọi

em trai mình – nhà văn Nguyễn Quang Vinh là “cu Vinh”, ở mọi mặt trận dù

nghiêm túc hay dân dã, khi nhắc tới em, Bọ Lập vẫn gọi “cu Vinh”. Cũng vậy, trong

Kí ức vụn còn có sự góp mặt của lớp từ địa phương giàu màu sắc biểu cảm - cảm

xúc, có tác dụng làm tinh tế hoá ý nghĩa cho câu văn. Các từ ngữ địa phương thuộc

phương ngữ Quảng Bình nói riêng, vùng phương ngữ Bắc Trung Bộ nói chung

được sử dụng với số lượng lớn, tần số cao như: bọ, mạ, y chang, rứa, răng, mần,

mần răng, chi, nha, con bạ men, ui ui, ui xời, ẻ vô ẻ vô… các từ ngữ địa phương

được sử dụng hết sức tự nhiên như chính lời ăn tiếng nói hàng ngày của người dân

quê ông nhằm bộc lộ cách nghĩ, cách cảm của quê choa, “định hình một thương

hiệu bọ Lập”, thậm chí là những cụm từ độc quyền của nhà văn gốc Quảng Bình

(hehe, thất kinh, ẻ vô...). Dùng từ thông tục, Nguyễn Quang Lập như tự sự với đời,

muốn làm người trong cuộc mượn cái tục để chuyển tải những vấn đề bức xúc rất

thực, rất đời. Sự thông tục đó không chiếm diện tích hết phần ngôn ngữ trong tạp

văn của ông, nhà văn tiết chế và sử dụng cái tục - cái thanh hoà làm một. Cái tục

được sử dụng không phải để tạo cảm giác, gây ấn tượng mà chủ ý của tác giả là tạo

cảm xúc thẩm mĩ, gợi cho người đọc những suy nghĩ, triết lí sâu sắc về phận người,

kiếp người trong cuộc mưu sinh dâu bể. Cái tục trong văn Nguyễn Quang Lập đã

tạo được những phản ứng thẩm mĩ nơi người đọc.

Về mặt ngôn ngữ học, Y Phương là trường hợp đặc biệt sử dụng loại ngôn

ngữ hỗn hợp giữa Kinh và Tày, có lẽ sau Nguyễn Tuân, ông là nhà văn dùng nhiều

từ láy, nhiều từ tượng thanh đạt đến mức tinh tế, gợi được sự sống xôn xao chỉ qua

ngôn hình đơn sắc. Nhà thơ Y Phương miêu tả bánh cuốn nướng, đặc sản của Cao

Bằng: “Hãy lắng nghe. Hình như có tiếng ban mai róc rách trong miệng nồi. Nước

đang âm ỉ sôi và xương ống đang khe khẽ nát. Lát nữa, bánh sẽ tưới tắm trong bát

136

nước canh. Rắc lên trên một chút mùi tàu thái chỉ. Bạn lắng nghe nhé. Cả lũ bánh

đang bì bõm sướng”… Bao trùm tập tản văn Tháng giêng, tháng Giêng một vòng

dao quắm là trái tim khẽ khàng của tác giả muốn được bâng khuâng cùng cốt cách

người Tày thắp lửa truyền đời được diễn giải qua phương ngữ chỉ đọc lên đã thấy

hình ảnh người Tày không thể lẫn: "Nhà rách, vách nát, áo ngắn, quần vá, nhưng

chủ nhân lại đầy một bụng chữ. Chữ nào cũng lành lặn. Chữ nào cũng núc ních béo

tròn phúc hậu. Những con chữ đưa tay ra cứu vớt người".

Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư lại có sở trường bứng nguyên ngôn ngữ quê mình

vào trang viết. “Cái đầu tiên làm người đọc choáng váng (cách thích thú), là nồng

độ phương ngữ miền Nam trong truyện của Nguyễn Ngọc Tư” (Trần Hữu Dũng).

Đó là thứ ngôn ngữ không chạy qua màng lọc của sự cắt tỉa, mà nó đi thẳng từ đồng

ruộng sông nước mênh mông vào tác phẩm, khiến bất cứ ai sinh ra từ nơi này đều

tưởng Ngọc Tư viết về mái nhà của mình, tuổi thơ của mình. Trong tản văn của chị,

có rất nhiều từ ngữ phản ánh đặc trưng của một vùng quê Nam Bộ. Đó là những từ

chỉ địa hình, sản vật gắn với một vùng sông nước: bình bát, bông, hột, bông súng,

bông trang, mồng gà, ô rô, cây tra, lồng đèn, sạp ghe, tủ kiếng, cải lương, vọng

cổ,… cách xưng gọi mang sắc thái Nam Bộ: bây, má, tía, qua, chế… Đó là những

từ biến âm và biến âm có rút gọn: bi nhiêu, hổng dè, thiệt, thí mồ, ảnh, trển, ổng,

phải hôn… Đó là cách diễn đạt kiểu Nam Bộ: mùi ác liệt, mệt gì đâu, mắc mớ, mùi

rụng rún, mần chi, ngắc ngứ hoài, coi đâu có được, cực trần ai khoai củ, như vầy

nè, lãng òm, dữ ôn vậy không biết, mắc cười muốn chết (…). Những tình thái từ

như: nghen, hén, chèn ơi... Một hệ thống những từ ngữ biểu cảm, giàu hình ảnh mà

khoe được tính cách hồn nhiên của con người Nam Bộ: nhảy cà tưng, tỉnh bơ ba

khía, héo queo héo quắt, cà xình cà xàng, búa lua xua, lửng ta lửng tửng, tí ta tí

tởn, chết ngoẻo cù nèo, nhát hít, mắc dịch,trống hơ trống hốc, sướng thấy mồ, hổng

dè, đã thiệt, mát trời ông địa, bảnh thiệt, mắc mớ, mần chi, coi cẳng, coi giò,… Đọc

tản văn của Nguyễn Ngọc Tư tưởng như đó không phải văn mà là ghi chép ngẫu

hứng về mấy má, mấy chị vừa bơi xuồng vừa nói qua nói lại chuyện này chuyện nọ,

lời vừa tự nhiên gần gũi vừa duyên dáng và không thiếu chất nghệ thuật.

137

Văn phong của nhà văn Trần Chiến thể hiện trong A đây rồi Hà Nội bảy món

cũng rất ấn tượng bởi cách sử dụng từ ngữ mạnh: “Thiêng liêng nhất là gian thờ (…)

mở ra, mùi nhang đen, hoa huệ và bưởi đột kích vào mũi gây cảm giác rất lạ”; đôi

phố trở thành “khu thương nghiệp phừng phừng sức sống”; rất cần làm “đông cứng”

phố cũ Hà Nội để còn giữ lại chút gì đó giống như bản sắc để làm du lịch; “biệt thự

đang trèo ra ngoại thành(…) đó là không gian cho người thích thanh tâm”… Sự cập

nhật thứ ngôn ngữ đường phố của thời mới cũng được Trần Chiến sử dụng nhiều lần:

những “nhà công ten nơ”, “bao diêm có mái”; thành ngữ đời mới “nhà mặt phố bố

làm to”, những “tay lái lụa” mới len lách được qua tầng tầng lớp lớp những quán mọc

lên vỉa hè hoặc “đánh võng “ trên các phố đi bộ; thiếu nữ Hà Nội nhờ phố ẩm thực

mà đâu đâu cũng thấy “eo bánh mì”…

Khẩu ngữ là ngôn ngữ tồn tại chủ yếu ở dạng nói, được sử dụng để trao đổi

tư tưởng, tình cảm trong sinh hoạt hằng ngày. Đặc trưng của khẩu ngữ là hình thức

đối thoại, phát ngôn giản lược ngắn gọn, đơn giản về cấu trúc, thiên về sắc thái cảm

xúc và nhiều biến thể phát âm. Sử dụng khẩu ngữ như một chiến lược trong giao

tiếp của tản văn khiến thể loại một mặt khoe được khả năng sáng tạo ngôn ngữ từ

phía chủ thể sáng tác, mặt khác thể hiện đặc trưng tự do, linh hoạt trong diễn đạt;

tính thời sự, cập nhật đời sống và cái tôi cá tính của người sáng tác trong cách thể

hiện quan điểm về đời sống. Bên cạnh đó, chiến lược khẩu ngữ trong tản văn còn

liên quan mật thiết tới nguyên tắc đối thoại đã nêu trên.

4.2.1.2 Ngôn ngữ mạng

Ngôn ngữ tự do, khẩu ngữ có thể xóa khoảng cách giữa tác giả và độc giả

nhưng ngôn ngữ mạng mới thực sự là yếu tố làm những người trẻ phải tìm đọc tản

văn vì sự thú vị của ngôn ngữ họ ưa dùng. Hiểu đơn giản, “ngôn ngữ mạng” là lớp

từ vựng phổ biến trên mạng internet hoặc những thuật ngữ phát sinh trong thời đại

công nghệ được sử dụng trong các sáng tác văn học như một dấu hiệu cho thấy sự

cập nhật thời đại của văn chương. Đặc tính ngôn ngữ mạng ở Việt Nam là sự biến

thể so với chuẩn mực tiếng Việt. Nó không chỉ đơn giản hóa cấu trúc ngữ pháp và

từ ngữ để sử dụng nhanh gọn mà còn sử dụng các ký hiệu, biểu tượng vừa biểu đạt

thông tin vừa làm cho ngôn ngữ trở nên sinh động. Ngôn ngữ mạng mang tính cởi

138

mở bởi nó là ngôn ngữ của giới trẻ với tâm lý muốn sáng tạo trào lưu, tạo một thứ

ngôn ngữ riêng của thế hệ nhằm khẳng bản thân, vì thế, mặc dù khá trí tuệ, hiện đại,

hài hước, giàu hình ảnh nhưng đôi khi ngôn ngữ mạng có phần suồng sã, dung tục.

Nhà văn Nguyễn Quang Lập thừa nhận rằng nhờ có mạng internet ông được

bạn đọc biết đến nhiều hơn, sáng tác “khỏe” hơn ngay cả khi đã “thành phế nhân”,

chỉ ở trong nhà với một chiếc máy vi tính. Phải công rằng sự phát triển của các kênh

truyền thông, đặc biệt là mạng internet đã tạo ra thứ ngôn ngữ chuyên biệt và phổ

biến tới mức nếu bạn ra đường không hiểu được ý nghĩa của thứ ngôn ngữ đó,

không bật cười trước ngôn ngữ đó khi nó xuất hiện trong văn học, trên phim ảnh…

thì rõ ràng bạn được xếp vào nhóm “những người tối cổ” (ngôn ngữ mạng), tức

những người thuộc thế hệ già cỗi, không cập nhật internet. Khi thứ ngôn ngữ này

bước thẳng vào trang viết tản văn thì cùng lúc nó biểu hiện được các yêu cầu của

thể loại: bộc lộ tính cập nhật cực nhanh của ngôn ngữ và đời sống; thể hiện được cá

tính của người viết; tạo sức hấp dẫn với đối tượng độc giả mới – ít nhất là những

độc giả của thời đại truyền thông, công nghệ; tính giải trí của ngôn ngữ này tương

đối cao…

Ngôn ngữ mạng trong tản văn Việt Nam đầu thế kỷ XXI vừa mang tính đời

thường, vừa giàu tính triết luận; nó là sự kết hợp linh hoạt với ngôn ngữ báo chí;

đồng thời mang tính chất toàn cầu hóa. Đặc điểm nổi bật nhất của ngôn ngữ mạng

chính là đời thường hóa thuật ngữ công nghệ hoặc thuật ngữ hóa khẩu ngữ thông

dụng, cho nó một lớp nghĩa mới. Thay vì “thế hệ thành thạo công nghệ” người ta

gọi “thế hệ @”; thay vì “chạy đi, thoát đi, biến đi” sẽ dùng “cancel”; thay vì “họp

lớp, họp nhóm, tụ tập” sẽ dùng “off lớp”, “off team”; thay vì nói “trình độ nâng

cao” sẽ thành “lên level” v.v… Song thuật ngữ thuộc về công nghệ là lượng từ giới

hạn, còn lớp ngôn ngữ chệch chuẩn từ phát âm đến chữ viết được thế hệ trẻ cách tân

nhằm thể hiện cái tôi sáng tạo, hài hước, hiện đại thì vô hạn. Ví dụ: “mùng mood

(một)”, thứ high (hai) là ngày đầu tuần/ thứ bar (ba)…”, “tình phôi fine” (phai), “#

(thăng) hoa”, “pà kon”, “con vk” (vợ), “anh ck” (chồng), “lun lun” (luôn luôn), “mãi

iu” (yêu); những cách viết tắt mà muốn hiểu được nghĩa phải “thâm nhập” vào đời

sống giới trẻ mới hiểu hết được (cml, cmlr, vcc, klq, cdsht…); những thuật ngữ mà

139

chỉ người trẻ mới hiểu được như mật ngữ của thế hệ trẻ trâu/ sửu nhi (xếp hình, hấp

diêm, đi bay…). Nhiều phát ngôn từ một người nổi tiếng hoặc hoàn cảnh đặc biệt đã

khiến một từ, một câu trở thành viral, hot trend thời gian gần đây: “thần linh ơi”,

“vãi”, “toang rồi ông giáo”, “đi đu đưa đi”, “sương sương” v.v… Sở dĩ tiếng loóng

và kí hiệu chat đã đi vào văn mạng với số lượng lớn bởi thói quen sử dụng chúng

trong giao tiếp hằng ngày của lứa tuổi thuộc thế hệ @. Hoặc một số khác chọn lối

phá cách ngôn ngữ quen thuộc, phá vỡ quy chuẩn ngữ pháp thông thường với một

hệ thống kí hiệu chat hiện đại làm bạn đọc mạng thích thú.

Một tác giả trên mạng gây ấn tượng với độc giả Việt Nam là Joseph Joe với

lối viết hóm hỉnh và trí tuệ. Hệ thống tiếng lóng được sử dụng khá thường xuyên và

có chọn lọc trên blog cá nhân khiến cho văn chương của Joe rất Việt Nam và đời

thường, có lẽ anh chàng có biệt danh “Dâu” này là tác giả của những ngôn từ mới

kiểu “thanh – kiu – vinamiu”, “tinh vi sờ ti con gà ri”, “chuyện nhỏ như con thỏ”…

Còn trong tản văn, Nguyễn Trương Quý, Trang Hạ, Hoàng Hồng – Minh, Khải

Đơn, Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Quang Lập, Y Phương… là những nhà văn

thường xuyên sử dụng giao diện cá nhân để tương tác với bạn đọc và người đọc có

thể thường xuyên cập nhật những entry, status, caption …hằng ngày bộc lộ phần

tính cách trên mạng. Thảng khi bắt gặp những bài viết nhỏ cũng khá thú vị. Tuy

nhiên có một số nhà văn đưa ngôn ngữ mạng vào sáng tác của mình đều đặn thành

một thứ ngôn ngữ cá nhân. Nguyễn Việt Hà hẳn là nhà văn có sự đóng góp cực sôi

nổi cho tản văn lượng ngôn ngữ đường phố của thời đại công nghệ, đóng góp về

mặt ngôn ngữ, tự hình thành và duy trì một phong cách khó bắt chước bởi cách tư

duy và diễn đạt. Tập Con giai phố cổ của Nguyễn Việt Hà dùng nhiều lần lối liên

tưởng nhùng nhằng dây rợ kéo theo thế này: “Theo ca dao Việt, cái gọi là tâm hồn

hay đáy lòng của phụ nữ vốn hơi nông. Đàn ông nông nổi giếng khơi. Đàn bà sâu

sắc như cơi đựng trầu, từ ngàn xưa bọn đàn ông vẫn chắc mẩm là vậy. Chao ôi, đã

ngu còn tỏ ra nguy hiểm. Bởi tuy không sâu nhưng đì zai của cơi trầu cổ luôn có

nhiều ngăn”. Phần kết tản văn Tình hèn buông thõng một câu: “hèn bỏ mẹ”. Hoặc:

“Mới vài tháng trước đây thôi khi còn đang đồng sàng thì không đêm nào các nàng

không khát khao mơ thấy cảnh dùng xăng tẩm đứa nằm cạnh thành món bác- bờ-

140

ciu”, ai cũng buột rơi tiếng cười khi đọc: “Đâu rồi tiếng thét thất thanh của Thúy

Kiều để cho để thiếp bán mình chuộc cha mà chỉ thấy người đẹp nghẹn ngào nức nở

xê ra để thiếp bán mình chuộc xe”. Phải lòng nhau của Trang Hạ là một loạt những

ký hiệu phi ngôn ngữ như số đếm, trái tim, biểu tượng mặt cười; Nguyễn Quang

Lập là người tạo ra trào lưu “hihi”, “hehe” hay giới trẻ đã khiến nhà văn ảnh hưởng

điệu cười khoái chá?

Ngoài ngôn ngữ mạng còn có những tản văn sinh thành trên mạng xã hội và

các sáng tác này khai thác triệt để những hiệu ứng thị giác mà kho dữ liệu miễn phí

khổng lồ của internet hào phóng tặng tác giả. Sáng tác ra đời trên màn hình vi tính

được trình bày theo phương thức hoàn toàn khác biệt với văn học viết. Không giống

các tác phẩm được in trên sách giấy đã bị đóng khung trong khuôn khổ của những

quy chuẩn về size, khổ, số lượng chữ, các quy tắc chính tả, văn phạm, mỗi bài đăng

trên mạng là sự phá cách và sáng tạo độc đáo của tác giả trong hình thức thể hiện.

Người đăng tải tác phẩm trên mạng có thể thoải mái lựa chọn cho mình kiểu chữ,

màu chữ, các bảng biểu, sơ đồ, hình ảnh minh họa đi kèm, thậm chí cả các âm thanh

phù hợp với bài đăng. Chính vì vậy, các tác phẩm khi được post lên mạng luôn tạo

ra sự thích thú cho độc giả không chỉ bởi nội dung gần gũi với đời sống mà còn ở

tính tương tác rất cao trong hình thức cấu trúc tác phẩm. Chẳng hạn đọc tản văn của

Nguyễn Quang Thiều, Trang Hạ, Hoàng Lê Nguyên Vũ, Khải Đơn v.v…trên trang

cá nhân sẽ hấp dẫn hơn rất nhiều với tác phẩm in bởi hình ảnh minh họa, đôi khi là

những hình ảnh nhà văn tự minh họa cho tác phẩm của mình; màu nền, ảnh chữ,

phá cách trong bố cục, các ký hiệu cảm xúc, hiệu ứng chữ- hình song hành, tất cả

đập mạnh vào thị giác và trí não, gây cảm nhận sâu hơn bình thường.

Một vài dẫn dụ chưa thể điểm hết những cây bút có thế mạnh trong việc đưa

ngôn ngữ của đời sống vào thẳng văn học theo cách tu từ mà như không tu từ, đời

sống dựng lên tự nhiên như vốn thế song vẫn chứa đựng nhưng thông điệp, triết lý

của nhà văn một cách rõ nét. Những biểu hiện ở sáng tác có tiếng những năm gần

đây đã chứng tỏ tản văn đầu thế kỷ XXI nghiêng về phía theo nguyên tắc đồng đại

của tiếp xúc giao tiếp trong diễn ngôn.

141

4.2.2 Đa dạng hóa giọng điệu

Giọng điệu là một trong số các yếu tố quan trọng xác nhận cái tôi tác giả rõ

rệt. Trong các đặc trưng của thể loại tản văn, hình tượng cái tôi tác giả là điều tiên

quyết phân biệt thể loại này với những biến thể khác của ghi chép. Nếu bóc tách đi

cái tôi nhà văn trong các sáng tác tản văn thì tản văn chỉ còn là ký nói chung, nằm

lẫn với những sáng tác văn xuôi phi hư cấu. Như vậy, việc xác lập cái tôi – cá tính

của mình trong sáng tác không chỉ quan trọng đối với một nhà văn trong việc khẳng

định vị trí (nói chung) mà còn quan trọng trong việc xác định đặc trưng thể loại tản

văn (nói riêng). “Chân dung cái tôi tác giả” được hiểu là cá tính nghệ thuật, một

gương mặt riêng – độc đáo để phân biệt giữa nhà văn này với những nhà văn khác.

Cái tôi tác giả trong tản văn thời điểm này sẽ phá vỡ tính đơn sắc để trở nên phức

tạp, nhiều nghi vấn, đa chiều trong suy tư; góp một tiếng nói riêng, phong cách nghệ

thuật riêng làm phong phú văn học dân tộc. Cái tôi tác giả chỉ hình thành khi có sự

hợp nhất của nhiều yếu tố trong sáng tác, các yếu tố này có tính ổn định, nhất quán,

trở đi trở lại nhiều lần trong sáng tác của chính nhà văn ấy. Giọng điệu là một trong

số các yếu tố đó.

Những cây bút như Hoàng Việt Hà, Lê Giang, Dạ Ngân, Trần Thùy Linh,

Lê Minh Hà, Nguyễn Nhật Ánh, Lê Minh Quốc, Cao Huy Thuần… duy trì giọng

điệu chừng mực, ngôn ngữ văn chương giàu tính thẩm mỹ của tản văn thế kỷ XX.

Song đầu thế kỷ XXI này, giọng điệu trong tản văn đã được đa dạng hóa theo

hướng tăng cường triết lý, chất giễu nhại, hồi tưởng. Những sắc điệu đó bỗng tăng

đột biến, trở thành giọng điệu riêng của tản văn hai mươi năm đầu thế kỷ này. Trên

căn gác áp mái của nhà văn Đỗ Bích Thúy chứa đựng bao hồi ức mà đêm nằm mơ

nhà văn luôn tìm thấy mình ngày thơ bé ở đó. Lý do của những niềm hoài cổ là vì

“tuổi thơ là quãng thời gian đẹp nhất đời người. Chưa biết lo toan, đau buồn, chưa

biết đến những nỗi sợ kinh hồn, hồn nhiên sống và luôn được thỏa mãn theo cách

riêng của mình. Tôi vẫn tin rằng, ai có tuổi thơ đẹp thì ký ức về nó sẽ làm phong

phú đời sống tinh thần của họ khi trưởng thành. Có người nghĩ về tuổi thơ thì chỉ

ước gì được quay lại, cũng không hiếm người, cứ nghĩ về những năm tháng đó lại

thảng thốt, bất an. Nhưng dù yêu thương hay oán hận thì cũng không ai có thể làm

142

lại cho mình một tuổi thơ khác”. Trong khi đó, tản văn của Huỳnh Như Phương lại

chứa đựng dày đặc hồi ức xót xa về thời bao cấp, những chuyến tàu thời đó có lẽ “là

một trong những nơi tốt nhất rèn cho người ta sự nhẫn nhục (…) Hình như lâu dần

thành thói quen, có chờ đợi, chen lấn thì mới ra đi tàu” nhớ Hà Nội phố của những

năm vừa hòa bình: “phố phường Hà Nội êm đềm (..) những con đường rợp bóng

cây xanh mà tôi ngỡ như chỉ cần đưa tay ra khỏi ô cửa là chạm được những cành

lá”; Hà Nội với quán cóc bán nước chè vỉa hè – “một loại ăng-ten thu phát thông tin

xã hội thời hậu chiến, thay cho những quán cà-phê vỉa hè Sài Gòn”, nhớ hương vị

của Hà Nội ngày cũ chỉ là “gói cốm làng Vòng bọc trong lá sen, quả hồng ngâm dòn

ta, ly cà-phê lâm bốc khói, những que kem Tràng Tiền cắn ngập răng tê buốt…”.

Nhớ rằng ngày hôm qua còn là giếng nước, vườn cây nhà ngoại – nơi cất giữ tuổi

thơ khiến con người quay trở về khi đầu đã bạc mang theo niềm tiếc nhớ khôn

nguôi. “Tuổi thơ tôi giờ ở bên kia hàng rào, nơi ngày xưa là góc vườn nhà ngoại”.

Hôm qua còn là cây mai trước sân nhà ông bà nội mà ngày ông từ Bắc tập kết trở về

Nam, một con trai đã hi sinh, một con trai bị trọng bệnh nằm lại đất Bắc, cây mai

“trồng lại trên đất cằn đã không lớn nổi”. Rồi người cũ lần lượt qua đời. Nhân vật

“tôi” sau bao nhiêu năm mới trở về, dựng lại ngôi nhà trên nền nhà ngày xưa của

ông bà. “Nhà xây xong, (..) tôi dặn các em nhớ trồng một cây mai ở ngay đầu ngõ

như lòng mong mỏi của ông bà tôi, để một mai chúng tôi đưa các con về quê ăn tết,

chân bước đến bờ kênh đầu xóm sẽ thấy hoa vàng nở rực cả một khoảng sân như tết

những năm nào”. Hành trình hồi tưởng nhiều khi ráo rốt như một cuộc truy vấn ký

ức khiến giọng điệu trong tập tản văn xô đẩy những xúc cảm nức nở. Đó là cảm

giác rất thực khi đọc tập Sài Gòn còn chút gì để nhớ của tác giả Ngô Kế Tựu. Bao

nhiêu mẩu tản văn là bấy nhiêu nỗi nhớ: Nhớ về trận cháy chợ Cầu Ông Lãnh;

Thuở Sài Gòn xài nước Phông- Tên; Thời tàn lụi của lu khạp; Nhớ thời tiểu học ở

Chí Hòa; Ký ức khu chợ cũ Sài Gòn; Cách ăn vận của người Sài Gòn xưa; Một thời

tiệm may Sài Gòn v.v…

Giọng điệu giễu nhại là thế mạnh hấp dẫn của nhiều cây bút, trong đó phải

kể tới nhà văn Nguyễn Quang Lập, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Trương Quý, Nguyễn

Vĩnh Nguyên... Nguyễn Quang Lập là một cái tôi đầy cá tính, “phi chính thống”

143

trong nhìn nhận và tư duy thích phản biện, lập ngôn mạnh bạo, trào lộng. Cảm quan

phi chính thống trong tản văn của ông thể hiện ở lối nghĩ, cách cắt nghĩa ngược

(với) đời (thường). Những gì từ trước tới nay được số đông tán tụng ngợi ca thì ông

cắt nghĩa theo cách riêng đầy châm biếm, hài hước. Chẳng hạn Nguyễn Quang Lập

đem sự giỏi giang vật lý của mình ra để tính toán vận tốc khẩu pháo tụt dốc, sau đó

kết luận xanh rờn rằng nhân vật anh hùng bấy lâu được ngợi ca bởi lấy thân mình

chèn pháo chẳng qua là “chạy không kịp, bị pháo chèn vào người”. Câu chuyện chị

Lý vợ anh Thỉ nghe tin chồng hi sinh ở thành cổ Quảng Trị đã lặn lội từ Thanh Hóa

vào Quảng Trị tìm hài cốt chồng. Đến khi tìm được rồi, lại thấy cạnh hài cốt chồng

có hài cốt nữ. Mấy người đi đào tìm hài cốt bình luận: “è he, hai đứa rủ nhau ra đây

vân vân, trúng bom chết thôi, đánh đấm chi mô (…)” (Ký ức vụn 1). Chuyện nhà

văn tự giễu cợt mình vì tin vào liệu pháp chữa bệnh bằng cách uống nước tiểu của

chính mình, tin tới mức “sáng mai chồng đái, vợ đái, nâng niu cái ca nước đái còn

quá nước sâm” rồi nhắm mắt nhắm mũi uống cho hết ca thuốc tiên. Vợ nôn thốc

nôn tháo còn chồng cố giữ tấm gương quyết tâm chữa bệnh làm mẫu cho vợ…”.

Anh hùng, bộ đội cụ Hồ, bản thân nghệ sĩ nổi tiếng rồi cũng thành trò cười hề hước

trong cái nhìn của Nguyễn Quang Lập. Nhưng không phải lúc nào ông cũng đem

cái giọng tưng tửng ra để giải thiêng những thứ tưởng thiêng, mà trong nhiều tản

văn của mình, Nguyễn Quang Lập thể hiện tư duy phản biện rõ ràng, quyết liệt. Ai

theo dõi blog Quechoa đình đám một thời của Nguyễn Quang Lập đều thấy rõ cách

nhìn nhận mặt khuất của các vấn đề xã hội ở nhà văn này thực sự sắc nhọn, sự nhìn

nhận có phần “thâm hậu” ấy thường được tác giả châm biếm, hài hước, tạo thành

một mảng màu riêng.

Đọc văn của Nguyễn Việt Hà, đặc biệt là tản văn, chắc chắn nhiều bạn đọc

sẽ phải bật cười, nhưng sau đó bạn sẽ phải suy nghĩ xem mình vừa cười vì điều gì.

Giễu cợt một cách thâm thúy, đó là một đặc điểm riêng tạo nên cá tính trong văn

phong của tác giả Khải huyền muộn. Nguyễn Việt Hà giễu nhại đời sống nhưng

không phải để cười, trong sự giễu nhại đó là sự đau đớn, xót xa trước hiện thực. Đặc

biệt là sự chuyển mình nhanh đến chóng mặt của Hà Nội trong thời mở cửa. Thành

phố nghìn năm tuổi mất đi cái duyên ngầm từ ngàn đời, thay vào đó là sự nhốn

144

nháo, lai căng, xô bồ khiến nhà văn đau xót. Nguyễn Việt Hà là nhà văn có giọng

điệu hài hước – một thứ thiếu hẳn trong văn học Việt Nam đương đại. Nói chung đó

là một cá tính khó lẫn. Nguyễn Việt Hà cũng tự nhận mình là tay "tán nhảm lắm

mồm", nhưng cái sự lảm nhảm của tác giả, từ tập Mặt của đàn ông đến Ðàn bà

uống rượu thấy chưa nhạt đi mà đậm hơn sâu sắc nước đời hơn, giễu cợt hơn và đọc

được nhiều hơn. Nhân vật nhìn chung vẫn gồm: đàn ông và đàn bà, diễn viên, văn

sĩ, thương gia, thầy giáo..., với không gian đô thị, với thời gian bây giờ, mỗi loại lại

chứa nhiều "tập con" hành xử của đàn ông - đàn bà với mình, với người, với thiên

nhiên mưa gió bốn mùa. Từ đó bày ra một bề mặt đô thị nhốn nháo, ngược xuôi giá

trị, nhiều nghịch lý, ê hề cái phàm tục, dấp dính cả vào cái cao thượng ít ỏi. Trong

cái dung dịch phàm tục đó, cuốn trước, tác giả thả những tranh vẽ "mặt của đàn

ông", cuốn sau lại phơi một loạt thiếu nữ, thiếu phụ. Nguyễn Việt Hà xoay, dựng,

ngắm nghía... chuyện người, chuyện mình, với cái nhìn từ bên ngoài, chứ không tự

ru mình, không day dứt dằn vặt, không bày đủ hỉ nộ ái ố riêng tư, không ngao ngán

đạo mạo. Nếu ai đó phê bình Con giai phố cổ châm biếm Hà Nội “nặng lời” thì xin

nhớ rằng sự chuyển mình nhanh đến chóng mặt của Hà Nội trong thời mở cửa,

thành phố nghìn năm tuổi mất đi cái duyên ngầm từ ngàn đời, thay vào đó là sự

nhốn nháo, lai căng, xô bồ khiến nhà văn đau xót. Nguyễn Việt Hà giễu nhại đời

sống nhưng không phải để cười, trong sự giễu nhại đó là sự đau đớn, xót xa trước

hiện thực. Cái giọng giễu cợt đặc trưng qua cách dùng từ ngữ lung linh hoa mỹ cố

tình, gieo vần, đảo tính từ nhấn mạnh, cách khóa bằng câu kết - nhiều câu "nhớ

đời", một kiểu khẩu văn lai thơ đậm đặc chất dân gian đương đại.

Giọng điệu tưng tửng, có chút châm biếm là của Nguyễn Trương Quý, sự

phá phách pha chút ngang tàng nằm trong cái nhìn tinh nghịch mà đúng quá về một

địa danh đã nổi tiếng về sự chuẩn mực, cốt cách tao nhã, thanh lịch. Tạm hình dung

những tay nhà văn viết tản văn về thành phố trong xu thế giải thiêng Hà Nội bằng

cách lội ngược dòng cảm nhận. Ngay ở cách đặt tựa Trương Quý đã đứng riêng ra

với các nhà văn trước đó và phần lớn nhà văn cùng thời khi viết về Hà Nội. Mỗi

nhan đề tuyển tập tản văn là một khám phá, rất thời sự, có tính gây hấn nhưng

không thiếu chất lãng mạn của văn chương: Tự Nhiên như người Hà Nội, Hà Nội là

145

Hà Nội, và Ăn phở rất khó thấy ngon, Xe máy tiếu ngạo, Còn ai hát về Hà Nội, Mỗi

góc phố một người đang sống. Giải thiêng về đề tài vốn khá thiêng bắt đầu bằng

giọng điệu trần trụi và dí dỏm. Đằng sau những cái liếc mắt nghịch ngợm đó là

những bần thần khó chịu về không gian ngày một nhỏ đi của Hà Nội, điều mà

Trương Quý gọi là chợ búa che hết phố phường ngày xưa. Trương Quý viết: “Người

Hà Nội đi đến đâu cũng thành ra "đại sứ văn hoá" và những bà con ngoại tỉnh chân

đất mắt toét trông vào đó mà bảo "Hà Nội là thế đấy". Nhưng cũng như hoa hậu có

lúc bị "thủng phông văn hoá" hay "ứng xử hụt hơi", thì trước trường hợp kết quả

xấu, người ta phản ứng theo các cách: Người Hà Nội họ sống khó khăn lắm (nghĩa

là không phải sống khổ sở mà kiểu khó chơi), mình "kính nhi viễn chi" thôi. Người

Hà Nội bây giờ cư xử chả ra sao, không như ngày xưa. (Nhưng "ngày xưa" nào:

thời bao cấp tem phiếu đi vắng nhờ hàng xóm giữ chìa khoá nhà hộ? Thời "tiền

chiến" lãng mạn tóc thề thả gió lê thê? Hay thời toàn quốc kháng chiến "quyết tử

cho Tổ quốc quyết sinh"?). Lãng mạn vẫn còn thì tự nhủ: "Chắc họ không phải

người Hà Nội gốc, người Hà Nội thì khác…"(Người Hà Nội thì khác). Một phim

ngắn về Hà Nội được nhà văn tái hiện qua chuỗi quan sát – lắng nghe – tự vấn – rồi

chép miệng! bộc lộ một góc nhìn bấp bênh về Hà Nội trong sự đối sánh với thời

gian (xưa) và không gian (vùng ngoài Hà Nội).

Riêng Nguyễn Vĩnh Nguyên luôn đem lại cảm giác về một cái tôi sắc bén,

hài hước trong lập ngôn. Ngay từ cách đặt tập tản văn có cái tên phụ đến là dài: Ti

vi, xe máy, nhạc chế, chày cối, karaoke, tăm xỉa răng và những thứ khác. 30 tản văn

đầy mùi phố xá được ra mắt. Đủ thứ mà anh nhân chuyện có vẻ rất tào lao: Ti vi, xe

máy, nhạc chế, chày cối, karaoke, tăm xỉa răng và những thứ khác, anh bắc cầu nói

về suy nghĩ cá nhân nhiều khi mang đủ thứ “luận lý”: từ thói quen tâm thức người

Việt, phương cách tư duy, các kiểu “đăng ký sở hữu trí tuệ”, văn minh sách giấy…

Nếu truyện ngắn của anh luôn mang sự mạch lạc, rõ ràng trong hệ thống các câu

văn đầy tính ảo giác, trừu tượng. Còn tản văn thì nhẹ nhàng lẫn ngẫm ngợi, và dĩ

nhiên, viết ra để người đọc có thể hiểu: “Mọi cặp đùi, đơn giản, đều có thể

dài” (Ngồi cóc, cà phê); “ Thuốc độc và giá treo cổ, cũng không phải là thiếu. Đơn

giản là người ta thích làm tổn thương nhau hơn là chọn chúng” (Khổ dâm hay bạo

146

dâm). Khi viết lời giới thiệu cuốn tản văn này, dịch giả Lâm Vũ Thao, đã có lựa

chọn hay, khi nói đây là “tản văn của một người đọc sách”. Nguyễn Vĩnh Nguyên là

một trong số hiếm hoi nhà báo ham đọc sách, nhờ thế, anh luôn có những bài điểm

sách sắc sảo. Cũng bởi vậy, trong tập tản văn, nhiều tên bài dường như được

anh mượn nhịp từ những cuốn sách: Vườn ơi là vườn (Tình ơi là tình – Elfriede

Jelinek), Vì sao “sát thủ” thì “đầu mưng mủ”? (Sát thủ đầu mưng mủ - Thành

Phong), Mình nói gì khi mình nói? (Mình nói gì khi mình nói chuyện tình -

Raymond Carver), Cho tôi mua một vé đi… chết thử (Cho tôi mua một vé đi tuổi

thơ - Nguyễn Nhật Ánh)…

Một Nguyễn Trương Quý bộc trực và nhiều trăn trở, tìm tòi, “quẫy đạp”, giải

thiêng những giá trị vốn bền vững. Nói cách khác, cái tôi của anh là cái tôi thích đi

ngược đám đông như sự phản biện các giá trị hiện hữu trong thời đại anh đang

sống; Một Cao Huy Thuần điềm tĩnh, ưa dùng lối chuyển hóa những trải nghiệm cá

nhân thành đối thoại thời cuộc, ông từng viết: “… Ai đánh thức, không cho xã hội

ngủ, người ấy là trí thức, bất kể họ là ai. Bởi vì trí thức không có vai trò nào khác:

họ là, và chỉ là, lương tâm của thời đại” (Giữa trời và đất). Cao Huy Thuần đã rút

những lời gan ruột về chức phận của người trí thức giữa thời đại mình như thế.

Những tản văn trong Chuyện trò của ông đã thể hiện nhất quán tinh thần “đánh

thức” và “không cho xã hội ngủ”, phản chiếu sâu sắc một “lương tâm của thời đại”.

Nếu Nguyễn Tuân được coi là “Một định nghĩa về người cầm bút” (Vương Trí

Nhàn) thì Cao Huy Thuần cũng xứng đáng được coi là một định nghĩa về người trí

thức của thời đại; Một Nguyễn Vĩnh Nguyên lãng tử mà không thiếu sắc bén, nhạy

cảm, thích luận lý; Một Huỳnh Như Phương nhiều ngẫm ngợi trăn trở; Hoàng Việt

Hằng, Lê Minh Hà chừng mực, sâu sắc v.v… Mỗi tác giả được lựa chọn là một cái

tôi đã được định hình, nhận diện trong đường đua thể loại. Còn rất nhiều chân dung

cái tôi tác giả khác thể hiện sắc nét, ấn tượng trong tản văn và chắc chắn những cây

bút đã tạo dựng cho mình một gương mặt – một dấu vân tay trong sáng tác sẽ đi

được xa và bền sức, làm nên sự phong phú cho diện mạo chung của thể loại.

Tản văn có một lợi thế là cho phép người viết tung tẩy, tự do như đi trên một

trục đường chính nhưng người viết có thể tùy nghi rẽ quẹo vào những con hẻm, ngõ

147

ghi ghi chép chép cái mà họ quan sát được, họ có quyền bình luận, bày tỏ quan

điểm cá nhân… rồi lại trở về lộ trình chính. Điều này có tác dụng khơi mở người

đọc, có thể nói Đông nói Tây nhưng thu gom lại thì qua kiến thức mà họ thu nhận từ

cuộc sống. Và để có thể thoải mái nói Đông nói Tây, rẽ phải quẹo trái trong mê lộ

cảm nhận thì rất khó nhốt luồng suy nghĩ của mỗi người viết phải đi theo một hành

lang quy định sẵn. Thể loại không những tạo cơ hội mà khuyến khích, là yêu cầu tự

thân đối với khả năng sáng tạo trong diễn đạt của người viết tản văn. Nhờ đó mà

cùng một chất liệu hiện thực của đời sống, người đọc tản văn được tiếp nhận những

góc nhìn khác nhau, giọng điệu và ngẫm ngợi khác nhau.

4.2.3 Đa dạng hóa phương thức thể hiện

Tản văn Việt Nam thế kỷ XX tương đối ổn định với phương thức tự sự, miêu

tả, biểu cảm truyền thống. Đầu thế kỷ XXI, để thể hiện dung lượng hiện thực phong

phú và cập nhật sự đa dạng của các phương thức thể hiện, tản văn đã lựa chọn

hướng đa dạng hóa phương thức thể hiện nhằm khai thác tối ưu mọi con đường tiếp

cận độc giả, dẫn dắt độc giả hòa vào câu chuyện mình kể và tìm kiếm sự cộng cảm.

Chỉ có trong thời đại công nghệ, khi sáng tác văn chương diễn ra trên bàn

phím nhiều hơn lối viết tay truyền thống, hình thức tác phẩm văn học nói chung, tản

văn nói riêng mới có những phương thức thể hiện thực sự tiện ích, hiện đại, sinh

động. Khi nhà văn đưa (up, tải) một sáng tác lên màn hình máy tính, họ có thể sử

dụng tranh vẽ hoặc hình ảnh minh họa (trường hợp nhà phê bình Chu Văn Sơn,

Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Quang Lập…); sử dụng vô số những biểu tượng cảm

xúc (mặt cười, khóc, buồn, hớn hở); những ký tự trên bàn phím, bộc lộ thái độ

(phím sao, thăng, các con số, ký hiệu toán học); những tính năng mặc định giới

thiệu trạng thái (cảm thấy hạnh phúc, cảm thấy hi vọng, cảm thấy cô độc, cảm thấy

sợ hãi, cảm thấy lo âu …); sử dụng có mục đích các phông chữ, kiểu chữ khác nhau

(trang facebook cá nhân một số văn nghệ sĩ thể hiện rõ đặc điểm này). Rõ ràng cách

thể hiện sáng tác truyền thống bất khả thi phương thức nêu trên cho nên sách in kén

chọn độc giả, sách điện tử và những sáng tác trên mạng thì không. Sự tác động thị

giác rất quan trọng trong việc định hướng tiếp nhận. Nếu như người viết đính kèm

một trạng thái tinh thần, sử dụng biểu tượng xúc cảm, đính kèm hình ảnh minh họa

148

thì việc tiếp nhận ngôn ngữ sẽ có hiệu ứng thấu triệt gấp nhiều lần nhờ sự vận động

của cơ chế liên tưởng, kết nối các yếu tố với nhau.

Nói về sự đa dạng trong phương thức thể hiện của tản văn hiện đại không thể

không nhắc tới cách mà Iris Cao, Anh Khang và Hamlet Trương phát hành sách dựa

trên sức mạnh truyền thông. Cả ba người trẻ đều đa tài, hoạt động sôi nổi trong lĩnh

vực nghệ thuật (âm nhạc, hội họa, văn học, điện ảnh…), được đào tạo truyền thông

một cách bài bản. Dựa vào lợi thế của những facebooker có lượng người hâm mộ

lớn, những tác giả này thường tự mình gánh vác trọn vẹn chu trình: sáng tác - vẽ

tranh minh họa – chụp hình minh họa – chuyển thể tản văn thành nhạc phẩm – xuất

bản tác phẩm bằng hình thức radio, tự giới thiệu sách trên trang cá nhân, ký tặng

sách, hát nhạc phẩm có trong sách, tương tác với độc giả trực tiếp và gián tiếp v.v…

Nguồn năng lượng hoạt động tích cực của họ điển hình cho một thế hệ cầm bút hiện

đại, năng động và sáng tạo vô hạn. Từ góc độ thể loại, cách làm việc của nhóm ba

tác giả cho thấy rõ nhất sự năng động của thể loại tản văn, nó dễ dàng bắt nhịp với

hội họa, âm nhạc và các hình thức nghệ thuật đương thời khác.

Một trong số những phương thức thể hiện được nhiều nhà văn sử dụng đó là

thể hiện con người tinh thần qua những giấc mơ, hình ảnh kỳ ảo. Ở góc độ khoa học

tâm lý, giấc mơ là sự hiện thực hóa mong muốn chưa đạt được của mỗi người xảy

ra trong giấc ngủ. Nói cách khác, giấc mơ sẽ hoàn thành những gì chúng ta mong

muốn (điều tốt đẹp) hoặc nghĩ tới (những điều đáng sợ) khi còn thức, vì thế có

những giấc mơ thật đẹp và có cả những ác mộng. Các nhà nghiên cứu tâm lý khẳng

định bất kỳ một trải nghiệm nào trong giấc mơ cũng gắn liền với cảm xúc và những

sự kiện trong đời sống thực. Do đó càng nhiều vấn đề và cảm xúc, giấc mơ càng

nhiều, phức tạp hơn. Như vậy, giấc mơ chỉ đơn thuần là một kết nối được tạo nên để

liên kết và tái cấu trúc những cảm xúc của mình. “Có thể đây là một sự tiến hóa của

tổ tiên loài người nhằm đối phó với những chấn thương về mặt tinh thần mà họ

không tài nào giải quyết được”[26]. Những giấc mơ được nhắc tới trong tản văn

hiện đại đi theo chiều hướng chữa căn bệnh tinh thần cho những con người hiện đại

khi nỗ lực trở về quá khứ hoặc thay đổi hiện tại trở nên vô vọng. Một số mơ được

quay trở về thời thơ ấu để được cuộn tròn trong lòng mẹ, ấm áp và vô ưu tư như

149

những chiếc nhau thai cuộn mình trong nuôi dưỡng bao dung vô bờ của mẹ; một số

mơ được rời bỏ nơi nguội lạnh tình người để trở về nhà ăn những món ăn dân dã, hít

hà mùi đồng đất quê nhà, nhận lấy sự nồng ấm chân tình ở nơi mình chôn nhau cắt

rốn; một số khác sống xa xứ vào lúc cuối đời lại có giấc mơ vượt không gian nghìn

trùng để về nơi có nắm đất, nắm tro cốt của ông bà tổ tiên; không nhiều người tự ru

mình vào giấc ngủ để được đi lang thang trong giấc mơ về một vùng đất mà dấu vết

xưa cũ chỉ còn vương lại như sợi khói mỏng, mở mắt ra là ngày xưa vụt biến mất;

lại có những giấc mộng hãi hùng mà con người trong đó thấy mình bị chết chìm

trong những hỗn mang của thế giới đồ vật… Mẫu số chung của mọi giấc mơ đó là

những ẩn ức nằm ngủ sâu tiềm thức mà giữa nhịp sống đời thường, sự ồn ào rộn rã

đã khỏa lấp nó, chỉ đến khi con người rơi vào trạng thái vô thức của giấc ngủ trong

tĩnh lặng, những ẩn ức đó khẽ trở mình dậy, bay bổng dệt lại thành giấc mơ. Thành

thử quy luật của những giấc mơ là nó diễn ra chẳng theo quy luật nào vì “trí nhớ

con người thật kỳ lạ. Người ta có thể nhớ những kỷ niệm đặc sắc nhưng người ta

cũng có thể nhớ rành rọt một chuyện vu vơ, dù đã xảy ra cách đó cả chục năm

nhưng tiếng những chiếc lá khô giòn vì lạnh cóng lập cập chạy trên vỉa hè năm ấy

vẫn còn xào xạc vọng về” (Chuyện vu vơ), nó vọng dài vào cả trong mộng mị về

đêm. Với nhà văn, nhà có mẹ, đó là nơi để khi mình yếu đuối, phiền muộn, thất bại

sẽ quay trở về. Trong tập tản văn gần đây nhất của Nguyễn Quang Thiều có tên

Người kể chuyện nửa đêm và những giấc mộng, sau mỗi tản văn đều có phần thơ

thay cho lời kết trữ tình và đây là những dòng thơ viết về mẹ trong giấc ngủ: "Con

chỉ vừa chợp mắt/ Đã trở về trên cánh đồng mùa thu/ Đất dưới chân con thơm như

mật/ Mây trên đầu con thơm như hoa/ Mẹ bước tới giữa hai triền cỏ biếc/ Câu

chuyện buồn 26 năm qua/ Con đã giấu ngăn cuối cùng ký ức/ Nhưng trưa nay, một

trưa như ngọc/ Con lỡ tay mở ra... gió lốc bụi thay mùa...” (Giấc mộng trưa). Đời

người phải trải qua bao giấc mơ mới trưởng thành, có ác mộng và có những giấc mơ

đẹp đẽ, tất thảy đều là phần tiềm thức cất chứa những thông tin trong đời thực. Nên

những giấc mơ thực chất là vĩ thanh, phần ẩn ức của đời sống thường ngày. Nhiều

tản văn viết về những giấc mơ chính là viết về những ẩn ức ấy. Nguyễn Quang

Thiều cũng vậy, cả đời mang một ý nghĩa mình chính là đứa trẻ vừa gọi mẹ vừa lớn

150

lên trong những giấc mơ dài: "Nhớ mãi giấc mơ xa xôi/ Những ngày mẹ còn sống/

Tuổi thơ hoang hoang trên cánh đồng/ Cậu bé đứng im lặng/ Thời gian cũng ngừng

trôi/ Bông cúc vạn thọ lay nhẹ/ Nghĩa địa vọng giọng người xưa/ Mẹ lau nước mắt

cho con/trên biên giới của mùa thu mây trắng/ Có một đứa trẻ vừa gọi mẹ vừa lớn/

Chợt già đi trong những cúc thẫm chiều..." (Mưa gần sáng).

Đặc điểm đang kể nhất trong nỗ lực biến đổi phương thức thể hiện của tản

văn đầu thế kỷ XXI đó là sự tương tác trong diễn ngôn. Có thể nói, tản văn đương

đại đã có được sự tương tác của nhiều yếu tố trong một bản thể nhỏ gọn. Nếu tản

văn cũng là một diễn ngôn thì nói như Muara Chimombo và Robert L.Rozberi, nó là

diễn ngôn có “tiến trình phức hợp đặc biệt bao gồm vô số thành phần phụ thuộc lẫn

nhau. Nó phát sinh từ những tiến trình tinh thần giao cắt với các bình diện, ví như,

tâm lí, xã hội, văn hoá và những khía cạnh khác của đời sống” [9]. Xem xét từ góc

độ này, có thể nói chiến lược giao tiếp trong tản văn là sự hòa kết của nhiều thể loại

gần gũi với nó (tạp bút, tùy bút, bút kí…); nhiều thể loại trong hệ thống văn học

(văn xuôi tự sự, thơ ca trữ tình); nhiều hình thức nghệ thuật (âm nhạc, hội họa, sân

khấu, điện ảnh…).

Trong cái nhìn cởi mở và đồng điệu của bạn đọc, tản văn gần gũi với báo chí

hơn văn chương. Xét về thẩm mỹ, tản văn đứng giữa thơ và truyện ngắn. Tản văn

không kén độc giả, vì tản văn không đòi hỏi ở người tiếp nhận khả năng tách bóc

ngôn ngữ như đọc thơ, và cũng không đòi hỏi ở người tiếp nhận khả năng lý giải

tình tiết như đọc truyện ngắn. Có thể vì thế mà các tác giả có thể tự do tung tẩy đi

về giữa các vùng giao thoa, dễ thấy nhất là những tản văn luôn bật chế độ chấp nhận

sự sáp nhập của thơ ca. Trước khi được gọi là nhà văn, Y Phương đã là một nhà thơ

nổi danh với nhiều giải thưởng đáng trân trọng. Đọc tập tản văn Tháng giêng -

Tháng giêng, một vòng dao quắm của nhà thơ Y Phương, người đọc bị hấp dẫn bởi

nhiều lẽ. Cách nhìn, cách cảm, cách nói của một nhà thơ tài hoa làm toát lên cái

lung linh, kì diệu của ngôn từ; cái ấm áp nồng nàn của tình người, cái long lanh của

cuộc đời muôn mặt. Là một nhà thơ Tày thành danh, Y Phương từng nhận được

Giải thưởng nhà nước với những câu thơ xao xuyến viết về vẻ đẹp người miền

ngược: “Bàn tay mềm ra suối mọc thành cây/ Cầm ngọn khói dựng lên trời thẳng

151

tắp”. Rời núi về phố sinh sống, Y Phương như một cánh chim khắc khoải đêm ngày

nhớ nhung đại ngàn gió chuyển mây bay. Thi ca trầm bổng vần điệu không thể giúp

ông mở lòng mở dạ với nơi chôn nhau cắt rốn. Y Phương chọn tản văn để chia sớt

thao thức của mình. Và thật sự, tập tản văn Tháng giêng, tháng giêng một vòng dao

quắm không khác gì những bài thơ mà Y Phương từng tin cậy: “Câu hát thiêng

liêng lắm chứ/ Hát bây giờ còn để hát mai sau”. Có lúc Y Phương cao hứng, tung

tẩy ý tứ theo bút pháp nhà thơ: “Thời gian được làm bằng tóc của người. Thời gian

được làm bằng mùi hương của cây trong vườn, ngoài rừng. Thời gian được làm

bằng đôi chân của nắng, mưa, sương, gió. Bằng đôi mắt, đôi tai của núi cao sông

dài. Bằng những luống cày lật đất thơm cho đồng ruộng. Thời gian âm thầm chảy

như nước. Không thể lấy bất cứ cái gì ngăn chặn… Nhưng, những người dân quê

tôi biết làm chậm thời gian lại bằng nhiều cách. Cách phổ thông nhất là vùi đầu vào

trong chăn bông vải chàm mà ngủ… Người Tày cổ xưa có câu khuyến dụ "slíp ám

nựa cáy ton bấu tấng đua nòn rẳp rủng”(mười miếng thịt gà thiến không bằng giấc

ngủ)”. Nhà văn Nguyễn Quang Thiều luôn cho mình những sự thể nghiệm khác

nhau. Chưa bao giờ anh chịu bó mình trong một thể loại nhất định. Chính điều này

đã tạo nên cho văn chương đương đại một cây bút đa dạng. Từ thơ, truyện ngắn,

tiểu thuyết, chân dung văn học, ở sân chơi nào Nguyễn Quang Thiều cũng định vị

được cho mình một cá tính riêng. Trong ông không chỉ có con người bay bổng, ưu

tư với những phiền muộn thi ca, mà còn có một nhà báo linh hoạt và nhạy bén.

Người kể chuyện lúc nửa đêm và những giấc mộng của Nguyễn Quang Thiều là tập

hợp 25 tản văn, được chia làm bốn phần, được ví như bốn giấc mộng có sự kết nối

với nhau. Bên cạnh mỗi bài viết là một bài thơ, tồn tại như một kết nối đầy cảm xúc.

Trước đó, Nguyễn Quang Thiều được đánh giá cao ở thể nghiệm thơ văn xuôi vốn

kén người đọc, bây giờ, cũng có thể xem ông là người thể nghiệm biến thể khác của

tản văn: tản văn trữ tình. Tập Giăng lưới bắt chim của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp

là tập hợp gồm các bài tạp văn, tiểu luận, phê bình, giới thiệu và ghi chú. Trong đó

có một số bài viết gần với kết cấu tản văn của nhà văn Nguyễn Quang Thiều: chân

dung một nhà thơ được phác họa bằng hai phần, phần nói về đặc điểm riêng của con

người và sáng tác; phần sau cùng bao giờ cũng cẩn thận đính kèm thơ để chứng

152

minh rằng cái chân dung tôi dựng trên hoàn toàn chính xác như thơ ông ấy/ cô ấy

(nhà thơ Lê Kim Giao, Trần Đăng Khoa, Nguyễn Bảo Sinh, Đồng Đức Bốn, Phan

Huyền Thư, Vi Thùy Linh đều được giới thiệu như vậy). Chỉ có điều Nguyễn

Quang Thiều tự sáng tác thơ minh họa cho tác phẩm của mình, Nguyễn Huy Thiệp

thì chọn thơ của nhân vật để minh họa cho nhân vật. Và cùng tạo ra một kiểu tản

văn/tạp văn đậm chất trữ tình.

Nhà văn Cao Huy Thuần viết Sợi tơ nhện, Chuyện trò, mới đây là tập Người

khuân đá – trong cảm hứng của sự giao hòa giữa tản văn với triết học, tôn giáo Phật

giáo nhuyễn đến mức người đọc như sa chân vào tự sự triết học, tôn giáo. Như Lai,

Phật Pháp tới nhà thơ Aragon; nhà văn phi lý Camus tới các triết gia lừng danh

Platon, Aristote, Spinoza, Nietzsche; thuyết phân tâm học của S. Freud v.v… nhưng

sau cùng, vượt qua những tri thức lớn lao của nhân loại được dồn căng trong mỗi

tản văn là tình yêu và cuộc sống trong đạo lý ở đời, mở rộng giao lộ liên tưởng với

nhiều chiều kích mới mẻ và thấu đáo: “đạo đức Phật giáo không đặt trên tiêu chuẩn

Thiện Ác, mà đặt trên an vui và đau khổ (...) Lựa chọn ít đau khổ hơn là đạo đức.

Nhiều an vui hơn, là đạo đức”. Với ông, đạo Phật không phải triết lý mà là thực

hành, tâm nguyện làm theo những gì Đức Phật dạy, con người sẽ thoát khỏi những

nỗi khổ cứ quẩn quanh làm đau đớn tâm kiếp đời. Cảm nhận sau khi đọc tản văn

của giáo sư, những người muốn biết đến đạo Phật sẽ được tiếp nhận bắt đầu từ nhận

thức sơ đẳng rồi dần học cách sống tự do an tĩnh trước cõi đời – bể khổ. Cho nên,

nếu Sợi tơ nhện và Người khuân đá là sự giao thoa giữa văn học với văn hóa, tôn

giáo thì Chuyện trò là sự sự liên đới giữa chức năng sáng tạo với chức năng giáo

dục luân lý, vì vậy với nhiều người, “Chuyện trò là một cuốn Quốc văn giáo khoa

thư của thời đại, và cả Luân lý giáo khoa thư” (nhà văn Bùi Văn Nam Sơn viết lời

bàn). Bên cạnh đó còn có tập Phật giáo và tản văn của tác giả TK. Thích Đồng Bổn

xuất bản năm 2011 – một cuốn sách lấy Phật giáo làm hạt nhân, tản văn làm hình

thức nhằm mục đích “chia sẻ với bạn đọc một tấm chân tình, một tầm nhìn bao quát

nhưng sâu sắc đối với nền văn hóa Phật giáo Việt Nam” như lời tác giả viết.

Tản văn còn có thể mang trong mình phẩm chất, kiến thức của nhiều thể loại

văn học và nghệ thuật khác (hội họa, âm nhạc, kiến trúc, kịch bản điện ảnh, phim tài

153

liệu…) vì người viết vốn hoạt động trong nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Lúc ghi lại cảm

xúc trước một hiện tượng đời sống, họ mang “bệnh nghề nghiệp” phả vào con chữ

khiến đứa con tinh thần của họ là một đứa con lai chọn được nhiều gen trội của các

dòng máu khác. Hiếm có nữ nhà văn nào giống như Phan Thị Vàng Anh – một nghệ

sĩ sở hữu nhiều mặt tính cách: con người của thơ, của truyện, của kịch bản phim,

biên tập sách, tiểu phẩm, biên kịch phim tài liệu hiện đại… Dù thực hiện vai người

kiến tạo ở thể loại nào, nữ nhà văn luôn chứng tỏ phẩm chất của một cây bút sắc

sảo, tinh tế và đầy tinh thần đương đại. Thảo Hảo- Phan Thị Vàng Anh viết tản văn,

tạp văn trên một tinh thần như vậy và rất tự nhiên, những bài viết nhỏ có sự giao

hòa nhẹ nhàng của những thể loại văn học, loại hình nghệ thuật khác nhau. Ghi

chép nhỏ của người cưỡi ngựa tiếng là tản văn nhưng nhiều trang thiên về ký. Thứ

tản văn tư liệu, xen lẫn những góc nhìn sâu sắc về đời sống – văn hóa. Chất tư liệu

làm nên sức nặng của cuốn sách, khiến những câu chuyện vặt vãnh của một người

“cưỡi ngựa” không dễ dàng bị trôi đi mà neo lại trong người đọc. Trong khi đó, Đỗ

Phấn xuất phát từ vị trí một họa sĩ, am hiểu như một nhà Hà Nội học và tài hoa như

một nhà thơ nên trong mỗi sáng tác đầy ắp cảm giác, thông tin của nhiều góc nhìn:

vừa hòa trộn những tri thức về kiến trúc, hội họa, lịch sử, văn chương…vừa bát ngát

một tâm hồn nghệ sĩ. Nhưng trên hết, sức thuyết phục vẫn là sự trải nghiệm, anh

nhìn và nghĩ về Tháp Rùa như một chứng nhân: “Ngày nhỏ, tôi theo lũ bạn bơi từ

phía đường Lê Thái Tổ ra chân tháp nhặt được rất nhiều trứng rùa ở đấy. Mang về

nhà cho vào ấm tích đổ cát ẩm lên để ấp. Nở ra những con vật bụng hoa đỏ nhí

nhoáy bò”. Có lẽ vì thế, anh đã gọi ra được hồn cốt của vẻ đẹp Tháp Rùa. Bản thân

là một kiến trúc sư, nhưng Nguyễn Trương Quý như bị văn chương ám, bản vẽ cảm

xúc và quy hoạch cảm xúc nhiều hơn thiết kế công trình và quy hoạch không gian

sống. Bắt tay viết tản văn, nhà văn quan tâm nhiều tới tố chất của báo chí và nhất là

sự tương tác với thế giới ảo như bất cứ người trẻ nào sành sỏi. Theo Trương Quý thì

tản văn có cái chất báo chí, thậm chí cả chất thơ khi cần quyến rũ mê hoặc người

đọc mà các thể loại truyện khác không có.

Giống như phần lớn những cây bút viết tản văn thường có điểm tựa thể loại

khác, Hoàng Việt Hằng xuất hiện trên văn đàn hơn 10 năm nay trước hết với tư

154

cách một cây bút truyện ngắn, sau đó là sáng tác thơ. Sẵn có nền tảng như vậy, khi

bước sang tản văn, tác giả nhanh chóng tạo được dấu ấn riêng. Nếu Mã Giang Lân

nhận thấy “Hoàng Việt Hằng cố gắng đưa cuộc sống vào thơ” thì trong tản văn, nhà

văn đưa chất thơ vào từng trang viết. Chất thơ bật lên ngay từ nhan đề những tập tản

văn hay những bài viết riêng lẻ: Tiêu gì cho thời gian để sống, Tiếng dẻ cùi phía cây

cơm vàng, Bóng đổ nơi chân sóng, Giọt người ở mấy vũng mây v.v… nhiều bài viết

thực chất là thơ văn xuôi: “Tôi chỉ thuộc về phía những người cùng khổ. Trái tim tôi

thuộc về họ. Còn những thứ xa hoa và nhiều thứ khác hấp dẫn hơn hình như cuộc

đời không dành cho tôi. Và nó đứng ngoài suy nghĩ của tôi” [128/tr3] Cảm xúc tinh

tế, tư duy thơ giúp văn Hoàng Việt Hằng bay bổng và dạt dào. Bài Chảy đi những

dòng sông quê kết lại xao xuyến: "Những thứ hoa mía, hoa cải không cắm trong lọ

trong bình, nhưng cắm mãi trong tim con người, dù đi đâu cũng tìm về sông quê".

Đặc biệt, từ chính cuộc đời gian truân và lận đận của mình, Hoàng Việt Hằng có

được không ít văn cảnh rung động về lòng nhân ái. Trong Đời người gió thổi mây

bay, Hoàng Việt Hằng kể lại câu chuyện bà Thái - một người hàng xóm tốt bụng đã

cưu mang và giúp đỡ những ngày khốn khó, mà ấn tượng xao xác nhất là câu an ủi

nỗi đơn côi: "Về nhà lúc sấp bóng hãy nhìn lên tường. Nếu thấy bóng mình cũng là

thấy mẹ, thấy em cháu về. Thôi thì phận mỏng, ít ra mình còn có người thân ở trên

tường kia, trên ban thờ kia". Không chỉ thấm đẫm chất thơ, tản văn của bà còn

mang tính chất phiêu lãng của một nhà du ký. Tiếng dẻ cùi phía cây cơm vàng định

danh thể loại tạp văn nhưng lại mang màu sắc ký sự. Phần lớn 31 tạp văn trong đó

đều được khởi hứng bởi một địa danh nào đó: từ sông quê tới sông Hằng của Ấn

Độ; từ đường đồng bằng đến những rẻo cao chót vót đi mỏi chân mới gặp một bóng

người, từ núi đá xuống biển khơi tung . Cảm giác thèm được xách balo lên mà đi

mỗi lần đọc các tản văn Cúi xuống Tây Côn Lĩnh, Ra đảo Dấu không chỉ nhìn sóng,

Mây thẫm ở Ngọa Vân, Sìn Hồ bắt đầu từ cây số không, Ba lần trở lại bến Gót,

Thác vẫn đổ chân núi Cô Muông… Tuy nhiên, cách đi của Hoàng Việt Hằng không

giống các nhà báo, đi không hẳn để tìm tư liệu mà cốt đánh thức rung động chính

mình. Vì vậy, nếu lượng thông tin đủ người khác triển khai một bút ký vài nghìn

chữ thì Hoàng Việt Hằng chỉ gói ghém trong tạp văn vài trăm chữ. Lối viết của nhà

155

thơ: “đã níu vào vệt cải trắng, vệt đào phai mà đi” cũng có cái thú vị riêng đối với

người đọc. Chính những người bạn thân thiết trong văn chương của bà cũng thấy với

Hoàng Việt Hằng, nghiệp viết gắn liền sở thích xê dịch – thứ chủ nghĩa không phải

đặc trưng của tính nữ. Nhưng hễ có cơ hội thì lập tức con người ấy tìm cách thoát

khỏi phố phường chật chội phiêu lãng tầm mắt và phiêu lãng tâm hồn qua những

vùng đất, những số phận mà bản thân luôn khao khát khám phá.

Không thể kể hết dấu hiệu tương tác giữa thể tản văn với đặc điểm các thể

loại văn học và các loại hình nghệ thuật khác, thậm chí là sự tương tác với đời sống

hiện đại trong một chuyên đề. Nếu viết về tính chất giao thoa của tản văn có lẽ cần

có một đề tài chuyên biệt. Song đọc tản văn, tự độc giả cũng nhận ra dễ dàng sự hòa

kết của nhiều dấu vết nghệ thuật khác trong tác phẩm văn xuôi có quy mô nhỏ.

Chiến lược giao tiếp này đã lặng lẽ chứng minh tản văn là thể loại năng động trong

diễn ngôn. Nhờ vậy, nó làm vừa lòng độc giả ở diện phổ quát, từ người bình dân

đến trí thức khó tính, từ người am hiểu lĩnh vực này tới những người chuyên môn

cao lĩnh vực khác, người trải nghiệm ưa đọc thứ văn nhẩn nha chậm rãi đến lớp trẻ

ưa dùng ngôn ngữ trên thế giới ảo của riêng họ, luôn thích ứng với cộng đồng tiếp

nhận đương đại. Đó cũng là lý do để tản văn có lực hấp dẫn lớn đối với người viết

cũng như người đọc.

Tiểu kết chương 4

Từ góc nhìn thể loại, tản văn đầu thế kỷ XXI đã có những thay đổi đáng kể

so với tản văn thế kỷ XX. Sự thay đổi ấy thể hiện rõ ở những biến đổi trong nguyên

tắc giao tiếp và phương thức thể hiện.

Vận động trong môi trường văn hóa truyền thông đầu thế kỷ XXI, cấu trúc

thể loại tản văn phát triển theo hướng tăng cường tính đối thoại trước những vấn đề

của đời sống; độc thoại hóa những trải nghiệm riêng; sử dụng triệt để chiến lược

khơi gợi. Các đặc điểm này cho thấy tản văn đầu thế kỷ XXI đã hình thành nguyên

tắc giao tiếp thể hiện rõ tinh thần bình đẳng trong luận bàn các vấn đề của đời sống

– điều mà tản văn trước đó chưa có được.

156

Nguyên tắc giao tiếp của tản văn chi phối cấu trúc và phương thức thể hiện

của thể loại. Khác với những sáng tác ở thế kỷ trước, phương thức thể hiện tản văn

thời kỳ này có đặc tính vừa hiện đại vừa năng động. Tính hiện đại thể hiện ở việc nỗ

lực tạo ấn tượng với bạn đọc bằng cách sử dụng nghệ thuật, logic, hài hòa ngôn ngữ

tự do và ngôn ngữ mạng. Tính năng động một mặt thể hiện ở cách tản văn thích

nghi nhanh chóng với đời sống sinh động mà công nghệ, mạng internet đem lại; mặt

khác thể hiện ở sự đa dạng hóa giọng điệu, đa dạng hóa phương thức thể hiện của

tản văn nhằm tạo ấn tượng mạnh mẽ với độc giả.

Việc nhìn nhận một số nguyên tắc giao tiếp và phương thức thể hiện chưa thể

cung cấp cái nhìn toàn diện và chi tiết về mọi yếu tố trong cấu trúc thể loại tản văn

hôm nay nhưng đủ cơ sở để khẳng định và lý giải sức hấp dẫn của tản văn đầu thế

kỷ XXI. Chúng tôi coi những yếu tố nghệ thuật mới của thể loại đang trong quá

trình hình thành và ổn định chưa được đề cập trong phần nghiên cứu này là một sự

gợi mở cho những nghiên cứu tiếp theo về thể loại .

157

KẾT LUẬN

1. Xuất hiện trong hệ thống văn xuôi Việt Nam từ đầu thế kỷ XX, tản văn

được xem là thể loại mới. Nhưng thực tế, ngay cả việc ghi nhận tản văn như một thể

văn xuôi non trẻ cũng khó khăn đối với giới nghiên cứu. Khái quát tình hình nghiên

cứu về thể loại tản văn cho thấy có nhiều quan niệm khác nhau về tản văn, dẫn tới

khó khăn trong định vị thể loại. Quy luật phát triển thể loại văn học cho thấy sự giao

thoa đặc tính của các thể loại dẫn tới sự ra đời một thể loại mới hoặc làm mới một

thể loại cũ. Tản văn là trường hợp như vậy, nó là kết quả sau cùng của sự xâm nhập

thường xuyên giữa các phương thức thể hiện khác nhau của văn xuôi tự sự. Sau hơn

một trăm năm hình thành và phát triển, tản văn hiện đại Việt Nam đã khẳng định vị

thế độc lập của thể loại trong văn học dân tộc với những đặc trưng riêng: quy mô

ngắn gọn; cái tôi tác giả trực diện, bản lĩnh, hiện diện ấn tượng; đề tài năng động và

cởi mở vượt trội so với những thể văn xuôi khác; phương thức biểu đạt tự do, chỉ

cần đảm bảo bộc lộ trực tiếp tình cảm, ý nghĩ; cá tính tác giả; kết cấu phụ thuộc vào

nguyên tắc, chiến lược mà nhà văn tạo dựng, ít bị chi phối bởi những lý thuyết

khuôn mẫu; ngôn ngữ và hành văn tự do nhằm cập nhật, thể hiện sinh động, đủ đầy

nhất về muôn mặt đời sống…

2. Trong quá trình trưởng thành, tản văn Việt Nam được nuôi dưỡng bởi

những môi sinh văn hóa khác nhau. Dưỡng chất văn hóa hiện đại tác động khiến tản

văn buộc phải biến đổi để thích nghi. Đầu thế kỷ XXI, sự phát triển mạnh mẽ của

công nghệ thông tin đã đem lại bước chuyển biến mạnh mẽ ở nhiều phương diện,

đặc biệt là sự đột phá trong khâu xuất bản tác phẩm; rút ngắn khoảng cách con

đường tác phẩm đến với bạn đọc; tăng cường tính tương tác giữa người viết và

người đọc; đánh thức tiềm năng sáng tác ở nhiều cá nhân; tạo sự sôi động hiếm có

cho đời sống của thể tản văn. Việc khảo sát tản văn Việt Nam hai thập kỷ đầu thế kỷ

XXI cho thấy sự phát triển tích cực của thể loại thể hiện rõ nét ở đội ngũ sáng tác

đông đảo, số lượng lớn tác phẩm và đặc trưng thể loại được “chưng cất” thông qua

một loạt cá tính sáng tạo độc đáo. Một mặt, tản văn duy trì đặc trưng thể loại trong

suốt thế kỷ XX (đề tài, nội dung tư tưởng, phương thức nghệ thuật, cá tính tác

giả…), mặt khác, nó còn tiếp tục kế thừa, biến đổi, phát triển mạnh mẽ để chứng tỏ

158

sự thích nghi nhanh chóng của tản văn với thời đại mới (ngôn ngữ, hàm lượng hiện

thực của đời sống, quan niệm về nhà văn, mối quan hệ giữa nhà văn với độc giả…).

Có thể nói sự tương tác giữa tản văn với các môi sinh văn hóa đầu thế kỷ XXI đã

đem tới sự vận động và biến đổi cấu trúc thể loại. Sự biến đổi có ý nghĩa nhất là

tăng cường tính đối thoại vốn có của tản văn, khơi gợi sự tranh luận hay kích thích

phản hồi từ độc giả. Điều này khiến tản văn vừa chứng tỏ độ mở trong tư duy sáng

tạo lại vừa trở nên gần gũi với với cuộc đời, dễ tìm sự đồng cảm, khơi gợi cảm xúc

và suy ngẫm ở người đọc.

3. Nhìn từ đặc trưng thể loại, so với tiểu thuyết và truyện ngắn, nội dung tản

văn hôm nay cho thấy cách nó khám phá đời sống vừa rộng về diện vừa sâu về chi

tiết và luôn ở trạng thái cập nhật đời sống. Vì thế, độc giả có thể tìm thấy ở tản văn

mọi vấn đề của đời sống và con người đương đại, song nhìn chung, tản văn hôm

nay tập trung bốn chủ đề chính: cảnh sắc các vùng miền, văn hóa và phong tục, tản

văn thế sự, tản văn chân dung. Chính tinh thần dân chủ và sự cởi mở của văn học

nghệ thuật trong bối cảnh mới đã tạo điều kiện để các tác giả thể hiện bản lĩnh, cá

tính và trách nhiệm của một nhà văn đối với xã hội. Cho nên dù viết về chủ đề nào,

tản văn Việt Nam đầu thế kỷ XXI luôn đạt được trạng thái cân bằng trong sự nhìn

nhận: mặt tích cực và tiêu cực; mảng sáng và khuất tối; ngợi ca và phản tỉnh; mong

gìn giữ, bảo lưu, tiếp nhận các giá trị văn hóa tiến bộ trong bối cảnh hội nhập toàn

cầu hóa. Với tinh thần thẳng thắn trong nhìn nhận và phản ánh, tản văn đã rút ngắn

khoảng cách giữa văn học và cuộc đời.

4. Về phương diện nghệ thuật, nguyên tắc giao tiếp và phương thức thể hiện

tạo ra sự khác biệt, sức hấp dẫn của thể loại tản văn Việt Nam đầu thế kỷ XXI. Nếu

tản văn Việt Nam ở thế kỷ XX phát đi đơn hướng những thông điệp và cảm thức từ

phía nhà văn thì tản văn Việt Nam đầu thế kỷ XXI phát triển theo hướng tăng cường

tính đối thoại, độc thoại hóa những trải nghiệm riêng và sử dụng triệt để chiến lược

khơi gợi. Các đặc điểm này cho thấy tính bình đẳng, tự do trong luận bàn của tản

văn đầu thế kỷ XXI – điều thật sự cần thiết cho văn học nói chung trong bối cảnh

mới. Phương thức thể hiện của tản văn thời kỳ này cũng là một điểm nhấn nghệ

thuật tạo sự khác biệt cho tản văn đầu thế kỷ XXI. Đó là cách biểu đạt hiện đại,

159

năng động, đa dạng và có khả năng thích nghi nhanh với những đòi hỏi của thị hiếu.

Có thể nói xu hướng vận động của tản văn đầu thế kỷ XXI đang cho thấy thể loại

phù hợp cao độ với xu thế phát triển của đời sống hiện đại, vì vậy, sự “bùng nổ” của

tản văn ở giai đoạn này là tất yếu.

5. Từ góc nhìn thể loại, tản văn Việt Nam hiện đại là đối tượng nghiên cứu

phức tạp vì cùng lúc tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về việc định danh, xác định

phạm trù, các đặc trưng, về sáng tác và tiếp nhận. Trong nghiên cứu này, chúng tôi

đã tiến hành sắp xếp, so sánh các quan niệm về tản văn, từ đó chọn cho công trình

một quan niệm về thể loại có tính trụ cột, trên cơ sở đó xây dựng các tiêu chí cơ bản

để lựa chọn tác phẩm, tác giả cho việc khảo. Tuy nhiên, các sáng tác tản văn hiện

đại Việt Nam vẫn đang đến với bạn đọc bằng nhiều phương thức, việc khảo sát

nhằm xác định các đặc trưng thể loại chưa thể bắt kịp đời sống sáng tác và cập nhật

những biến đổi thể loại. Như vậy, nghiên cứu này chưa thể là đáp án cuối cùng và

giới thiệu được đầy đủ nhất đặc trưng thể loại. Thực chất, công trình là sự nỗ lực

tìm hiểu tản văn với tư cách một thể loại văn học của văn xuôi Việt Nam hiện đại ở

hai thập kỷ đầu thế kỷ XXI. Những diễn biến về phương diện nội dung và nghệ

thuật của thể loại tản văn trong nhưng chặng đường phát triển tiếp theo là hướng mở

cần được tiếp tục quan tâm, nghiên cứu để làm đầy những vấn đề lý luận về thể loại

tản văn hiện đại ở Việt Nam./.

160

DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐƯỢC CÔNG BỐ

CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Nguyễn Thị Thanh Huyền (2016), “Con giai phố cổ của Nguyễn Việt Hà – Một

góc nhìn thẳng về Hà Nội”, Tạp chí Khoa học ĐH Thủ Đô Hà Nội, số 5, tháng 5

năm 2016.

2. Nguyễn Thị Thanh Huyền (2018), “Cao Huy Thuần – Người đánh thức lương

tâm của thời đại”, Tạp chí Khoa học ĐH Thủ Đô Hà Nội, số 25, tháng 8 năm

2018.

3. Nguyễn Thị Thanh Huyền (2018), “Nguyễn Quang Thiều: Làng quê là một cõi đi

về”, Tạp chí Khoa học ĐH Thủ Đô Hà Nội, số 26, tháng 10 năm 2018.

4. Nguyễn Thị Thanh Huyền (2019), “Hà Nội trong tản văn của Nguyễn Trương

Quý”, Tạp chí Nhân lực HKXH, số 69, tháng 02 năm 2019.

161

TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. TIẾNG VIỆT

1. Hà Anh (2015), Ai sẽ chọn tản văn cho nghiệp viết?, http://toquoc.vn.

2. Lại Nguyên Ân (2004), 150 Thuật ngữ văn học, Nxb ĐH Quốc gia Hà Nội.

3. Trần Lê Bảo (2011), Giải mã văn hóa từ văn hóa học, Nxb ĐH Quốc gia Hà Nội.

4. Trần Lê Bảo (2016), Giải mã tác phẩm "Người đẹp say ngủ" của Y.Kawabata

(Từ chủ đề cứu thế), http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn.

5. Ngọc Bi (2013), Nhìn thấu tâm tính người Việt qua… tản văn, https://thanhnien.vn.

6. Phan Kế Bính (1970), Việt Hán văn khảo, Nxb Mặc Lâm.

7. Nguyễn Huy Bỉnh, Lê Thị Bích Hồng, Đỗ Thị Thu Huyền (2017), Y Phương -

Sáng tạo văn chương từ nguồn cội, Nxb Hội nhà văn.

8. Lê Nguyên Cẩn (2014), Tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hóa, Nxb ĐHQG Hà

Nội.

9. Phạm Tú Châu (1997), Giả bình Ao, nhà văn đặc sắc của Trung Quốc đương đại.

Tạp chí

VHNN, số 5/1997.

10. Nguyễn Linh Chi (CNĐT) (2018), Tiếp cận tiểu thuyết của James Joyce từ các

bộ mã

văn hóa Phương Tây, Đề tài KH&CN cấp Bộ, ĐHSP Hà Nội.

11. Chiupa V.I (2008), Chiến lược giao tiếp (Lã Nguyên dịch),

http://nguvan.hnue.edu.vn

12. Chiupa V.I (2008), Thẩm quyền diễn ngôn, Lã Nguyên (dịch),

http://nguvan.hnue.edu.vn

13. Phạm Vĩnh Cư (2012), M.Bakhtin với lý luận tiểu thuyết,

http://phebinhvanhoc.com.vn.

14. Đinh Trí Dũng - Lê Thanh Nga (2017), Cảm quan sinh thái trong tản văn của

một số nhà

văn Việt Nam đương đại, Kỉ yếu Hội thảo Quốc tế “Phê bình sinh thái - tiếng nói

bản địa,

162

tiếng nói toàn cầu”, Nxb KHXH, Hà Nội.

15. Đinh Trí Dũng (Chủ biên), Ký Việt Nam đương đại, Nxb ĐH Vinh.

16. Nguyễn Đăng Điệp (chủ trì, 2010), Tuyển tập Ký- tản văn Thăng Long – Hà Nội

(tập 1),

Nxb Hà Nội.

17. Nguyễn Đăng Điệp (chủ trì, 2010), Tuyển tập Ký- tản văn Thăng Long – Hà Nội

(tập 2),

Nxb Hà Nội.

18. Nguyễn Đăng Điệp (chủ trì, 2010), Tuyển tập Ký- tản văn Thăng Long – Hà Nội

(tập 3),

Nxb Hà Nội.

19. Nguyễn Đăng Điệp (2014), Thơ mới từ góc nhìn sinh thái học văn hóa,

http://vannghequandoi.com.vn.

20. Lê Quang Đức (2016), Nguyễn Đình Tú: “Tạp tản văn không đại diện cho văn

học trẻ”,

https://zingnews.vn.

21. Nguyễn Mộng Giác (1999), “Giới thiệu tập tùy bút Đó đây của Trúc Chi”, Tạp

chí Văn

học, số 164.

22. Bùi Kỷ (1950), Quốc văn cụ thể, Nxb Mặc Lâm.

23. Thu Hà (2014), Nhà văn Nguyễn Việt Hà: Đã là văn chương thì không có biên

giới,

https://www.sggp.org.vn.

24. Phi Hà (2019), Nguyễn Trương Quý với những câu chuyện về Hà Nội,

https://vovworld.vn.

25. Nguyễn Việt Hà (2018), Tản văn Nguyễn Việt Hà: Phác thảo,

https://nguoidothi.net.vn.

26. Nguyễn Thị Bích Hà (2008), Mã và mã văn hóa, http://vanhoahoc.vn.

27. Nguyễn Thị Bích Hà (2014), Nghiên cứu Văn học dân gian từ mã văn hóa dân

gian, Nxb

163

ĐHSP.

28. Lê Ngọc Hà (2015), Luận văn thạc sĩ, Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của

các nhà

văn Hà Nội (qua sáng tác của Nguyễn Việt Hà, Đỗ Phấn, Nguyễn Trương Quý..),

ĐH Quốc

Gia Hà Nội, Trường KHXH&NV.

29. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2007), Từ điển thuật ngữ văn học,

Nxb

Giáo dục.

30. Lê Thị Bích Hồng (2017), Nhà thơ viết phê bình, http://baocaobang.vn.

31. Hoàng Ngọc Hiến (1999), Năm bài giảng về thể loại, Nxb Giáo dục. Hà Nội.

32. Đỗ Văn Hiểu (2016), Phê bình sinh thái – Cội nguồn và sự phát triển,

http://nguvan.hnue.edu.vn.

33. Phạm Huy (2019), Nhà văn Nguyễn Trương Quý: Từ một kiến trúc sư đến một

“thư viện

sống” về Hà Nội, https://thethaovanhoa.vn.

34. Nguyễn Quang Huy (2012), “Thử dẫn vào nghiên cứu văn học từ góc nhìn cổ

mẫu

(arche’type)”, Tạp chí Sông Hương – Diễn đàn Liên hiệp các Hội văn học Nghệ

thuật Thừa

thiên Huế, số 281, tháng 7/2012.

35. Nguyễn Văn Huyên (2013), “Những vấn đề về văn hóa sinh thái hiện nay”, Tạp

chí Khoa

học xã hội Việt Nam, số 11 (72).

36. Nguyễn Thị Thanh Huyền (2016), “Con giai phố cổ” của Nguyễn Việt Hà – Một

góc

nhìn thẳng về Hà Nội”, Tạp chí Khoa học ĐH Thủ Đô Hà Nội, số 5.

37. Nguyễn Thị Thanh Huyền (2018), “Cao Huy Thuần – Người đánh thức lương

tâm của

thời đại”, Tạp chí Khoa học ĐH Thủ Đô Hà Nội, số 25.

164

38. Nguyễn Thị Thanh Huyền (2018), “Nguyễn Quang Thiều: Làng quê là một cõi

đi về”,

Tạp chí Khoa học ĐH Thủ Đô Hà Nội, số 26.

39. Nguyễn Thị Thanh Huyền (2019), “Hà Nội trong tản văn của Nguyễn Trương

Quý”, Tạp

chí Nhân lực HKXH, số 69.

40. Huy Huỳnh (2018), Tại sao hiếm thấy nhà văn Việt Nam thử mình với tiểu luận,

https://www.nxbtre.com.vn.

41. Phạm Thành Hưng (2007), Thuật ngữ báo chí- truyền thông, Nxb ĐHQG HN.

42. Đoàn Lê Giang (2018), Lời tựa – tập đoản văn về văn chương, văn hóa, Ngày

qua bóng

ngày, Nxb Tổng hợp TP Hồ Chí Minh.

43. Nguyễn Bùi Khiêm (2018), Một số thuật ngữ báo chí, http://bacninhtv.vn.

44. Bùi Kỷ (1950), Quốc văn cụ thể, Nxb Tân Việt Ký, https://vi.wikipedia.org.

45. Ngô Thục Miên (2017), Tản văn tìm vị thế riêng, https://thoibaonganhang.vn.

46. Nguyễn Thị Ngọc Minh (2012), Ba cách tiếp cận khái niệm diễn ngôn,

https://phebinhvanhoc.com.vn.

47. Nguyễn Thị Ngọc Minh (2016), Kí - những vấn đề đặc trưng thể loại, Luận án

tiến sĩ

Ngữ văn, ĐHSP.

48. Lê Trà My (2008), Tản văn Việt Nam thế kỷ XX (từ cái nhìn thể loại), Luận án

tiến sĩ Ngữ

văn, ĐHSP.

49. Lê Trà My (2011), Tản văn hiện đại Việt Nam, Nxb Hải Phòng.

50. Lê Trà My (2014), Tản văn hiện đại Việt Nam – Lí thuyết và Lịch sử, Nxb

ĐHQG HN.

51. Lê Trà My (2017), Thể loại tản văn trong các môi sinh văn hóa qua lịch sử một

trăm

năm, tạp chí Nghiên cứu văn học, số tháng 7/2017, tr 103 – 111.

52. Hoài Nam (2015), Tản văn từ một cái nhìn lướt, http://antgct.cand.com.vn.

165

53. Nguyễn Hồng Nga (2012), Tản văn – thể loại không dành cho người viết trẻ?

http://www.sachhay.org/diem-sach.

54. Thanh Nga (2018), Tản văn Mai Chiên trong dòng chảy tản văn của nhà văn nữ

đương

đại, http://vhna.edu.vn.

55. Phúc Nghệ (2016), Tản văn đang “hot”, http://baovanhoa.vn.

56. Lã Nguyên (2012), Vấn đề thể loại lời nói (phần 1), Lời dẫn,

https://languyensp.wordpress.com.

57. Nguyễn Hoài Nguyên (2012), “Ngôn từ qua khẩu văn Nguyễn Quang Lập”, Tạp

chí Từ

điển học & Bách khoa thư, Số 4 (18), tháng 7/2012.

58. Thành Nguyên (2015), Thời của tản văn, tạp bút…, https://baokhanhhoa.vn.

59. Trần Thị Ánh Nguyệt (2018), Phê bình sinh thái – vài nét phác thảo,

http://tapchisonghuong.com.vn.

60. Trần Hoàng Nhân (2006), Thời của tản văn, tạp bút, http://nld.com.vn

61. Nhiều tác giả (2000), Khái yếu lịch sử văn học Trung Quốc (tập 2), Bùi Hữu

Hồng dịch,

Nxb Thế giới, Hà Nội.

62. Vũ Nho (2018), Tản văn của một cây bút chuyên thể ký,

http://nguoihanoi.com.vn.

63. Vũ Nho (2019), Hà Nội trong tản văn của Đỗ Phấn, http://nguoihanoi.com.vn.

64. Cao Thị Thùy Nhung (2015), Luận văn thạc sĩ, Đặc điểm tản văn, tạp văn của

Nguyễn

Vĩnh Nguyên, ĐH Vinh.

65. Đỗ Hải Ninh (2016), Ký trên hành trình đổi mới, Nghiên cứu VH, số 11/2016,

tr.70- 80.

66. Hoàng Niềm (2017), Cảm xúc từ tản văn, https://baotuyenquang.com.vn.

67. Thụy Oanh (2016), Nguyễn Việt Hà- “gã giai phố cổ” nặng lòng với Hà Nội,

https://zingnews.vn.

166

68. Thụy Oanh (2018), Mùa Hà Nội và những giọng văn mới,

https://thoibaonganhang.vn.

69. Y Phương (2017), “Đi tìm thể tản văn”, Tạp chí Cửa Việt, số 270.

70. Việt Quỳnh (2010), Nguyễn Trương Quý: “Gu Hà Nội” đang là thiểu số,

https://thethaovanhoa.vn.

71. Việt Quỳnh (2013), Nhà văn Nguyễn Việt Hà: Đàn ông viết tạp văn,

https://thethaovanhoa.vn.

72. Trần Đình Sử chủ biên (2008), Ký văn học, Lý luận văn học, tập 2, Nxb ĐH Sư

phạm.

73. Trần Đình Sử (2012), Khái niệm diễn ngôn trong nghiên cứu văn học hôm nay,

https://trandinhsu.wordpress.com.

74. Trần Đình Sử (2012) (dịch từ bản tiếng Nga, trong sách: Ju. M. Lotman. Bài báo

chọn

lọc, Tập I, Tallinn, 1992, tr.191-199), Biểu tượng trong hệ thống văn hóa,

http://tapchisonghuong.com.vn.

75. Trần Đình Sử (2013), Con người cá nhân trong văn học Việt Nam thế kỷ XVIII,

https://trandinhsu.wordpress.com.

76. Trần Đình Sử (2015), Khái niệm diễn ngôn, https://trandinhsu.wordpress.com.

77. Trần Đình Sử (2015), Phê bình sinh thái tinh thần trong nghiên cứu văn học

hiện nay,

https://trandinhsu.wordpress.com.

78. Trần Đình Sử (2013), Tản văn Việt Nam hiện đại – thể loại bị lãng quên,

https://trandinhsu.wordpress.com.

79. Dương Tử Thành (2012), Nguyễn Trương Quý: Không có giới hạn cho tản văn,

https://vnexpress.net.

80. Bích Thu (2015), Văn học Việt Nam hiện đại – Sáng tạo và tiếp nhận, Nxb Văn

học.

81. Bích Thu (2015), Bản sắc văn hóa trong tản văn thời đổi mới và hội nhập,

https://www.qdnd.vn.

82. Lê Thủy (2015), Tản văn: dễ viết, khó hay, http://daibieunhandan.vn.

167

83. Đức Tiến (2018), Tản văn tình yêu: xuất bản nhiều nhưng thiếu chất lượng,

http://www.chatluongvacuocsong.vn.

84. Lê Dục Tú (chủ biên, 2018), Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt Nam từ năm 2000,

Nxb

Khoa học Xã hội.

85. Mai Anh Tuấn (2019), Thời của tản văn, http://vannghethainguyen.vn.

86. Hoàng Phủ Ngọc Tường (2005), Tôi viết nhàn đàm, http://vietbao.vn.

87. Anh Vân (2006), Mạc Can tạp bút, https://giaitri.vnexpress.net.

88. Dương Phương Vinh, Đỗ Hoàng Diệu (2013), Nguyễn Việt Hà – Con giai phố

cổ,

https://www.tienphong.vn

89. Nguyễn Thị Thanh Xuân (2010), Chữ quốc ngữ, báo chí, công chúng và văn

học Nam Bộ

đầu thế kỉ XX, ĐH KHXH & NV Hồ Chí Minh, http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn.

90. Nguyễn Thị Thanh Xuân (2009), Đi tìm cổ mẫu trong văn học Việt Nam,

http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn.

91. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (2001), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa thông

tin, Hà Nội.

Nhiều tác giả (2004), Từ điển văn học bộ mới, Nxb Thế giới.

92. Nhiều tác giả (2000), Khái yếu lịch sử văn học Trung Quốc, tập 2, Bùi Hữu

Hồng dịch,

Nxb Thế giới.

II. TIẾNG ANH

93. Michael Ferber (2010), A dictionary of Literary Symbols, Cambridge University

Press,

UK, p.1.

94. Mark O’Connell & Raje Airey (2009), Sign & Symbols, Hermes House,

London, p.6.

95. M. H. Abrams (2012), Geoffrey Galt Harpham, A Glossary of Literary Terms,

10th

168

edition, Cengage Learning, USA, p.394.

96. Jean Chevalier, Alain Gheerbrant (1997), Dictionary of symbols,

https://readisthe.best.

97. J.A.Cuddon (1991), The Penguin dictionary of literary Terms and Literary

Theory (third

edition), Published in Penguin Books in the USA by arrangament with Dobleday &

Company, Inc.

98. Rahilya Geybullayeva (2012), Archetype in Literature and Cultures, Peter Lang,

Internationaler Verlag der Wissenschaften, Frankfurt, p.13.

169

PHỤ LỤC

(Các tập tản văn khảo sát trong hai thập kỷ đầu thế kỷ XXI)

1. Phan An (2011), Quẩn quanh trong tổ, Nxb Thời đại.

2. Phan An (2013), Trời hôm ấy không có gì đặc biệt, Hxb Hội nhà văn.

3. Phan Thị Vàng Anh (2006), Nhân trường hợp chị thỏ bông, Nxb Hội nhà văn.

4. Phan Thị Vàng Anh (2011), Tạp văn Phan Thị Vàng Anh, Nxb Trẻ.

5. Phan Thị Vàng Anh (2016), Ghi chép nhỏ của người cưỡi ngựa, Nxb Trẻ.

6. Nguyễn Nhật Ánh (2014), Người Quảng đi ăn mỳ Quảng, Nxb Trẻ.

7. Nguyễn Nhật Ánh (2014), Sương khói quê nhà, Nxb Trẻ.

8. Phạm Lữ Ân (2018), Nếu biết trăm năm là hữu hạn (tái bản), Nxb Hội Nhà văn.

9. Y Ban (2014), Người đàn bà và những giấc mơ, Nxb Thời đại.

10. Thích Đồng Bổn (2011), Phật giáo và những tản văn, Nxb Tôn giáo.

11. Trần Chiến (2014), A đây rồi Hà Nội 7 món, Nxb Hội nhà văn.

12. Lữ (2009), Tôi ươm ánh mặt trời, Nxb Trẻ.

13. Lữ (2016), Cái sân vuông và nơi thờ Phật, Nxb Trẻ.

14. Lữ (2017), Thiên thần của sự sống, Nxb Trẻ.

15. Hạ Dung (2016, tái bản), Sài Gòn mãi gọi nhau bằng cưng, Nxb Trẻ.

16. Hoàng Trọng Dũng (2014), Gạo, nước mắm, rau muống… Câu chuyện ẩm thực

Việt, Nxb Trẻ.

17. Trần Tiến Dũng (2018), Món ngon và gia vị cảm xúc, Nxb Thế giới.

18. Trần Tiến Dũng (2018), Không gian gia vị Sài Gòn, Nxb Lao động.

19. Nguyễn Thị Anh Đào (2019), Mùa đi trên những mái rêu, Nxb Kim Đồng.

20. Khải Đơn (2015), Đừng tháo xuống nụ cười, Nxb Thanh Niên.

21. Khải Đơn (2016), Sài Gòn – Thị thành hoang dại, Nxb Thanh Niên.

22. Khải Đơn (2017), Ta có bi quan không?, Nxb Thanh Niên.

23. Lê Giang (2012), Ừa, chỉ có vậy thôi, Nxb Trẻ

24. Lê Giang (2018), Bỏ qua rất uổng, Nxb Trẻ

25. Lê Vũ Trường Giang (2019), Căn cước xứ mưa, Nxb Kim Đồng

26. Nguyễn Ngọc Hà (2017), Sài Gòn đi và nhớ , (tập 1, 2), Nxb Văn học.

27. Nguyễn Ngọc Hà (2017), Sài Gòn tình yêu của tôi, Nxb Văn học.

170

28. Nguyễn Ngọc Hà (2017), Sài Gòn – Ký ức vượt thời gian, Nxb Văn học.

29. Nguyễn Ngọc Hà (2017), Nốt trầm Sư phạm, Nxb Tổng hợp TP. HCM.

30. Nguyễn Ngọc Hà (2018), Sài Gòn thương và nhớ, Nxb Văn học.

31. Lê Minh Hà (2015), Này bọn mình rất đẹp, Nxb Phụ nữ.

32. Lê Minh Hà (2015), Còn nhớ nhau không, Nxb Trẻ.

33. Lê Minh Hà (2016), Thương thế ngày xưa, Nxb Kim Đồng.

34. Lê Minh Hà (2018), Những triền xưa ai đi, Nxb Trẻ.

35. Nguyễn Việt Hà (2007), nhà văn thì chơi với ai, Nxb Văn học.

36. Nguyễn Việt Hà (tái bản, 2013), Đàn bà uống rượu, Nxb Trẻ.

37. Nguyễn Việt Hà (tái bản, 2015), Mặt của đàn ông, Nxb Trẻ.

38. Nguyễn Việt Hà (tái bản, 2017), Con giai phố cổ, Nxb Trẻ.

39. Việt Hà (2017), Đàn bà nước lọc, Nxb Lao động

40. Trang Hạ (2009), Đàn bà ba mươi, Nxb Văn học.

41. Trang Hạ (2012), Đàn ông không đọc Trang Hạ, Nxb Văn học

42. Trang Hạ (2012), Rãnh ngực và tiệc đêm, Nxb Thời Đại

43. Trang Hạ (2014), Tình nhân không bao giờ đòi cưới, Nxb Phụ Nữ

44. Trang Hạ (2017), Giang hồ chỉ vừa đủ xài, Nxb Trẻ.

45. Hoàng Hải Nguyễn (2016), Cuộc sống rất giống cuộc đời, Nxb Thế giới

46. Hoàng Hải Nguyễn (2020), Cuộc sống đếch giống cuộc đời, Nxb Người Trẻ Việt

47. Hoàng Việt Hằng (2013), Tiếng dẻ cùi phía cây cơm vàng, Nxb Phụ nữ.

48. Hoàng Việt Hằng (2014), Tiêu gì cho thời gian để sống, Nxb Trẻ.

49. Hoàng Việt Hằng (2015), Bóng đổ nơi chân sóng, Nxb Quân đội.

50. Nguyễn Thị Hậu (2017), Nghĩ ngợi đường xa, Nxb VHVN TP Hồ Chí Minh.

51. Hiền Hòa (2016), Sài Gòn ve chai, Nxb Văn học

52. Lê Hoàng (2014), Sao trong mắt Lê Hoàng (tái bản), Nxb Hội nhà văn.

53. Hoài Hương (2020), Hà Nội hoa tình, Nxb Hội nhà văn.

54. Lê Giang (2012), Ừa chỉ có vậy thôi, Nxb Trẻ.

55. Lê Giang (2018), Bỏ qua rất uổng, Nxb Trẻ.

56. Lê Vũ Trường Giang (2019), Căn cước xứ mưa, Nxb Kim Đồng.

57. Thái Kim Lan (2019), Mai rồi mưa tạnh trong xuân, Nxb Kim Đồng.

171

58. Mai Lâm (2014), Từ xa Hà Nội, Nxb Văn học.

59. Mai Lâm (2015), Xa rồi ngày xanh, Nxb Văn học.

60. Mai Lâm (2016), Chỉ còn tuyết trắng, Nxb Văn học.

61. Mai Lâm (2017), Bồng bềnh như có thể, Nxb Văn học.

62. Mai Lâm (2018), Tên một giấc mơ, Nxb Văn học.

63. Nguyễn Quang Lập (2011), Chuyện đời vớ vẩn, Nxb Hội nhà văn

64. Nguyễn Quang Lập (2013), Kí ức vụn 2, Nxb Văn học.

65. Nguyễn Quang Lập (2014), Bạn văn 2, Nxb Hội nhà văn.

66. Nguyễn Quang Lập (2015, tái bản), Kí ức vụn 1, Nxb Văn học.

67. Nguyễn Quang Lập (2016, tái bản), Bạn văn 1, Nxb Hội nhà văn.

68. Việt Linh, Chuyện và truyện (2012), Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.

69. Trần Thùy Linh (2017), Sài Gòn những mùa yêu, Nxb Văn hóa văn nghệ.

70. Phạm Đức Lộc (2017), Mùa sương thương mẹ, Nxb Kim Đồng.

71. Nguyễn Hạnh Hà Mi (2019), Đi giữa mùa mây, Nxb Kim Đồng.

72. Hoàng Hồng – Minh (2014), Lòng người mênh mang (quyển 1), Nxb Văn học.

73. Hoàng Hồng – Minh (2015), Lòng người mênh mang (quyển 2), Nxb Lao động.

74. Hoàng Hồng – Minh (2020), Trò chuyện những người Huế thú vị, NXB Hội

Nhà Văn.

75. Lưu Quang Minh, Trần Khánh Ngân (2017), Sài Gòn quán xá yêu thương, Nxb

Văn học.

76. Dạ Ngân (2010), Gánh đàn bà, Nxb Thanh niên.

77. Dạ Ngân (2010), Phố của làng, Nxb Thanh niên.

78. Dạ Ngân (2015), Hoa ở trong lòng, Nxb Hội nhà văn.

79. Bích Ngân (2015), Ngày mới nhẹ nhàng, Nxb Trẻ.

80. Bích Ngân (2019), Tiếng gọi bến bờ, Nxb Tổng hợp TP Hồ Chí Minh.

81. Lê Văn Nghĩa (2018), Sài Gòn khâu lại mảnh thời gian, Nxb Trẻ.

82. Nguyễn Vĩnh Nguyên (2012) , Tản văn Nguyễn Vĩnh Nguyên, Nxb Lao động.

83. Nguyễn Vĩnh Nguyên (2015), Với Đà Lạt, ai cũng là lữ khách, Nxb Trẻ.

84. Đinh Vũ Hoàng Nguyên (2014), Có một phố vừa đi qua phố, Nxb Hội Nhà Văn.

85. Bảo Ninh (2015), Tạp bút Bảo Ninh, Nxb Trẻ.

172

86. Đỗ Phấn (2013), Hà Nội thì không có tuyết, Nxb Trẻ.

87. Đỗ Phấn (2015), Ngồi lê đôi mách với Hà Nội, Nxb Trẻ.

88. Đỗ Phấn (2016), Ngẫm ngợi phố phường, Nxb Trẻ.

89. Đỗ Phấn (2018), Bâng quơ một thời Hà Nội, Nxb Trẻ.

90. Đỗ Phấn (2018), Đi chơi Bờ Hồ, Nxb Trẻ.

91. Huỳnh Như Phương (2018), Thành phố - Những thước phim quay chậm, Nxb Trẻ.

92. Y Phương (2009) , Tháng giêng- Tháng giêng… một vòng dao quắm, Nxb Phụ nữ.

93. Y Phương (2010), Kungfu người Co Xàu, Nxb Phụ nữ.

94. Y Phương (2016), Fừn Nèn – Củi tết, Nxb Phụ nữ.

95. Nguyễn Duy Quyền (2016), Quên được cứ quên, Nxb Văn hóa – Văn nghệ.

96. Nguyễn Duy Quyền (2017), Sài Gòn trong Sài Gòn, Nxb Văn hóa- Văn nghệ.

97. Lê Minh Quốc (2015), Ngày trong nếp ngày, Nxb Hội nhà văn.

98. Lê Minh Quốc (2017), Ngày đi trên chữ, Nxb Hội nhà văn.

99. Lê Minh Quốc (2018), Người Quảng Nam, Nxb Trẻ.

100. Lê Minh Quốc (2018), Mẹ đã đi chợ về, Nxb. Trẻ.

101. Nguyễn Trương Quý (2004), Tự nhiên như người Hà Nội, Nxb Trẻ.

102. Nguyễn Trương Quý (2012), Xe máy tiếu ngạo, Nxb Trẻ.

103. Nguyễn Trương Quý (2012), Hà Nội là Hà Nội, Nxb Trẻ.

104. Nguyễn Trương Quý (2013), Ăn phở rất thấy khó ngon, Nxb Trẻ.

105. Nguyễn Trương Quý(2013), Còn ai hát về Hà Nội, Nxb Trẻ.

106. Nguyễn Trương Quý (2015), Mỗi góc phố một người đang sống, Nxb Trẻ.

107. Băng Sơn (2001), Trời đang mưa, Nxb Thanh Niên.

108. Băng Sơn (2005), Nhịp sống Hà Nội, Nxb Văn hóa thông tin.

109. Băng Sơn (2013), Hà Nội rong ruổi quẩn quanh, Nxb Kim Đồng.

110. Băng Sơn (2014, tái bản), Người Việt …Từ nhà ra đường, Nxb Thanh niên.

111. Băng Sơn (2017, tái bản), Thú lang thang người Hà Nội, Nxb Hà Nội.

112. Băng Sơn (2017, tái bản), Thú ăn chơi người Hà Nội 1, Nxb Hà Nội.

113. Băng Sơn (2017, tái bản), Thú ăn chơi người Hà Nội 2, Nxb Hà Nội.

114. Đặng Thiên Sơn (2014), Đường về xa lắm, Nxb Văn học.

115. Đặng Thiên Sơn (2016), Ngồi chơi với phố, Nxb Hội nhà văn.

173

116. Vũ Thế Thành (2016), Những thằng già ngồi nhớ Mẹ, Nxb Hội Nhà văn.

117. Đỗ Xuân Thảo (2017), Giữa đôi bờ thương nhớ, Nxb Lao động.

118. Đỗ Xuân Thảo (2017), Hoa vàng dọc bờ suối, Nxb Lao động.

119. Nguyễn Quang Thiều (2012), Có một kẻ rời bỏ thành phố, Nxb Hội nhà văn.

120. Nguyễn Quang Thiều (2017), Mùi của ký ức, Nxb Trẻ.

121. Dương Thụ (2010), Cà phê…Mưa, Nxb Hội nhà văn.

122. Cao Huy Thuần (2012), Chuyện trò, Nxb Trẻ.

123. Cao Huy Thuần (2015), Sợi tơ nhện, Nxb Trẻ.

124. Cao Huy Thuần (2018), Người khuân đá, Nxb Trẻ.

125. Đỗ Bích Thúy (2011), Trên căn gác áp mái, Nxb Phụ nữ.

126. Đỗ Bích Thúy (2013), Đến độ hoa vàng, Nxb Văn học.

127. Đỗ Bích Thúy (2018), Tôi đã trở về trên núi cao, Nxb Hội Nhà văn.

128. Mạc Thụy, Ubee Hoàng (2015), Sài Gòn vẫn hát, Nxb Lao động.

129. Trần Nhã Thụy (2000), Gối đầu trên mây, Nxb Trẻ.

130. Trần Nhã Thụy (2010), Cuộc đời vui quá, không buồn được, Nxb Phụ nữ.

131. Trần Nhã Thụy (2012), Mùi, Nxb Hội Nhà văn.

132. Trần Nhã Thụy (2014), Triều cường, chân ngắn và rau sạch, Nxb Trẻ.

133. Nguyễn Ngọc Tiến (2012), Đi dọc Hà Nội, Nxb Thời đại.

134. Nguyễn Ngọc Tiến (2012), Đi ngang Hà Nội, Nxb Văn học.

135. Nguyễn Ngọc Tiến (2015), Đi xuyên Hà Nội, Nxb Trẻ.

136. Nguyễn Ngọc Tiến (2015), 5678 bước chân quanh Hồ Gươm, Nxb Trẻ.

137. Phạm Ngọc Tiến (2018), Phố Phở phố có nhà to, Nxb Trẻ.

138. Trác Thúy Miêu (2019), Vọng Sài Gòn, Nxb Hội nhà văn.

139. Trần Đức Tiến (2015), Thả hi vọng, Nxb Trẻ.

140. Trần Đức Tiến (2018), Chờ bay, Nxb Trẻ.

141. Nguyễn Ngọc Tư (2008), Biển của mỗi người, Nxb Văn hóa Sài Gòn.

142. Nguyễn Ngọc Tư (2009), Ngày mai của những ngày mai, Nxb Trẻ.

143. Nguyễn Ngọc Tư (2014), Yêu người ngóng núi, Nxb Trẻ.

144. Nguyễn Ngọc Tư (20145), Đong tấm lòng, Nxb Trẻ

145. Nguyễn Ngọc Tư (2016), Bánh trái mùa xưa, Nxb Hội Nhà văn.

174

146. Nguyễn Ngọc Tư (2017, tái bản lần 16), Tạp văn Nguyễn Ngọc Tư, Nxb Trẻ.

147. Nguyễn Ngọc Tư (2017), Gáy người thì lạnh, Nxb Trẻ.

148. Nguyễn Ngọc Tư (2019), Hành lý hư vô, Nxb Trẻ.

149. Ngô Kế Tựu (2017), Nhớ sao xe cộ Sài Gòn, Nxb Văn hóa – Văn nghệ.

150. Ngô Kế Tựu (2017), Sài Gòn còn chút gì để nhớ, Nxb Văn hóa - Văn Nghệ.

151. Vũ Thị Huyền Trang (2018), Bình yên bên mẹ, Nxb Kim Đồng.

152. Uông Triều (2018), Hà Nội quán xá phố phường , Nxb Văn học.

153. Nguyễn Quốc Vương (2018), Mùi của cố hương, Nxb Phụ nữ.

154. Ngữ Yên (2017), Sài Gòn chở cơm đi ăn phở, Nxb Tổng hợp TP.HCM.

155. Ngữ Yên (2017), Sài Gòn, ồ bỗng ngon ghê, Nxb Tổng hợp TP.HCM.

156. Nhiều tác giả (2011), Sài Gòn tản văn: Sài Gòn sau màn bụi, Hẻm thông ra thế giới,

Ngon vì nhớ, Nxb Hội nhà văn và Phương Nam book.

157. Nhiều tác giả (2011), Tuyển tập tạp văn trên Thời báo Kinh tế Sài Gòn, Thiên

thần đã về trời, Nxb Tổng hợp TP.HCM.

158. Nhiều tác giả (2012), Hà Nội tản văn, Làng- Ngõ, vỉa hè, Nxb Hội Nhà văn

159. Nhiều tác giả (2012), Hà Nội tản văn, Hàng rong phố cổ, Nxb Hội Nhà văn

160. Nhiều tác giả (2012), Huế tản văn, Mộng mơ và ăn cay nói nặng, Nxb Hội nhà văn.

161. Nhiều tác giả (2016), Huế tản văn, Áo bay khép mở nhiều tâm sự, Nxb Phụ nữ.

162. Nhiều tác giả (2017), Phố chất đầy năm tháng, Nxb Văn hóa- Văn nghệ TP. HCM

163. Nhiều tác giả (2018), Nơi ta đã qua, người ta đã gặp, Nxb Hội Nhà văn.

175