BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VẤN ĐỀ GIÁO DỤC CON NGƢỜI
TRONG THƠ VĂN NGUYỄN TRÃI
LUẬN ÁN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
CHUYÊN NGÀNH : VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 5.0433
Người thực hiện: HUỲNH THỊ LÀNH
Người hướng dẫn khoa học: TS. ĐOÀN THỊ THU VÂN
Tp. Hồ Chí Minh tháng 02 năm 2000
BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VẤN ĐỀ GIÁO DỤC CON NGƢỜI
TRONG THƠ VĂN NGUYỄN TRÃI
LUẬN ÁN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
CHUYÊN NGÀNH : VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 5.0433
Người thực hiện: HUỲNH THỊ LÀNH
Người hướng dẫn khoa học: TS. ĐOÀN THỊ THU VÂN
Tp. Hồ Chí Minh tháng 02 năm 2000
LỜI CẢM TẠ
Tôi xin chân thành cảm tạ và tri ân sự nhiệt tình giúp đỡ của Ban Giám Hiệu Trường
Đại học sư phạm - Thành phố Hồ Chí Minh, Phòng Khoa học công nghệ - Sau đại học, tập
thể thầy, cô giáo Khoa Ngữ Văn cùng tất cả các bạn đồng học đã nhiệt tình giúp đỡ tôi hoàn
thành luận án.
Tôi xin đặc biệt tỏ lòng kính trọng Tiến sĩ Đoàn Thị Thu Vân - một cô giáo gương
mẫu đã chịu khó nhọc tận tuy hướng dẫn tôi trong quá trình nghiên cứu - học tập và hoàn
thành luận án.
Tuy chỉ được nghiên cứu trong một thời gian ngắn, nhưng với nỗ lực của bản thân và
sự giúp đỡ tận tình của quý thầy, cô, tôi đã tiếp thu được một số kiến thức vô cùng quý báu.
Kết quả này không những nói lên được sự tận tâm, tận lực của quý thầy, cô, mà còn thể hiện
được nguyện vọng và hoài bão của người nghiên cứu.
Vấn đề của đề tài đã được một số nhà nghiên cứu qua nhiều thế kỷ bàn luận và đánh
giá. Luận án đã kế thừa và phát triển những ý kiến, công trình đi trước để xây dựng một hệ
thống luận điểm tương đối hoàn chỉnh về những quan điểm và nội dung giáo dục của Nguyễn
Trãi. Nguyện vọng của người viết là mong sao truyền đạt đến người đọc một số thông điệp
cần thiết để suy ngẫm và vận dụng.
Rất mong sự góp ý chân thành của quý thầy, cô và các anh, chị, các bạn đồng học, tôi
xin ghi nhận và tiếp tục nghiên cứu.
Một lần nữa xin chân thành cảm tạ và tri ân.
Đầu Xuân, năm Canh Thìn - 02/2000
Huỳnh Thị Lành
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................................ 4
1. Lý do chọn đề tài........................................................................................................ 4
2. Nhiệm vụ của Luận án ............................................................................................... 5
3. Phạm vi Luận án ........................................................................................................ 6
5. Phƣơng pháp nghiên cứu ........................................................................................... 9
6. Kết Cấu Luận án ...................................................................................................... 10
PHẦN NỘI DUNG .................................................................................................................. 12
CHƢƠNG I : THỜI ĐẠI VÀ CON NGƢỜI NGUYỄN TRÃI........................................... 12
I. Thời đại Nguyễn Trãi ................................................................................................... 12
1. Truyền thống lịch sử - tƣ tƣởng - giáo dục từ thế kỷ X đến thế kỷ XIV ................. 12
1.1. Truyền thống lịch sử - tƣ tƣởng ........................................................................ 12
1.2. Giáo dục ............................................................................................................ 15
2. Thế kỷ XV................................................................................................................ 24
2.1. Bối cảnh xã hội ................................................................................................. 24
2.2. Thời đại thịnh trị của Nho giáo và tƣ tƣởng giáo dục của Nho gia .................. 26
2.3. Giai đoạn khôi phục kinh tế - xã hội - chính trị của đất nƣớc. Thời đại vai trò nhân dân đƣợc đề cao. .............................................................................................. 29
II. Con ngƣời Nguyễn Trãi .............................................................................................. 31
1. Cuộc đời: .................................................................................................................. 31
2. Sự nghiệp ................................................................................................................. 35
3. Nhân cách và sự tu dƣỡng nhân cách ....................................................................... 39
CHƢƠNG II : VẤN ĐỀ GIÁO DỤC CON NGƢỜI TRONG THƠ VĂN NGUYỄN TRÃI .............................................................................................................................................. 42
I. Nền tảng tƣ tƣởng giáo dục của Nguyễn Trãi .............................................................. 43
1. Nhân tố truyền thống gia đình ................................................................................. 43
2. Sự tiếp thu truyền thống tốt đẹp của dân tộc ........................................................... 48
Trang 2
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
II. Tƣ tƣởng Nguyễn Trãi về con ngƣời và quan điểm giáo dục của Nguyễn Trãi ......... 54
1. Tƣ tƣởng của Nguyễn Trãi về con ngƣời ................................................................. 54
1.1. Thực chất tƣ tƣởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi ............................................. 54
1.2. Con ngƣời ái quốc, ƣu dân, anh hùng ............................................................... 56
1.3. Con ngƣời quân tử ............................................................................................ 57
1.4. Bản sắc Việt Nam trong quan niệm về con ngƣời của Nguyễn Trãi ................ 58
2. Quan điểm giáo dục con ngƣời trong thơ văn Nguyễn Trãi .................................... 61
2.1. Một quan điểm giáo dục mang tính nhân văn ................................................... 61
2.2. Một quan điểm giáo dục tích cực thể hiện tinh thần thời đại. ........................... 67
III. Nội dung giáo dục con ngƣời trong tơ văn Nguyễn Trãi ........................................... 74
1. Đối tƣợng giáo dục .................................................................................................. 74
2. Nội dung giáo dục con ngƣời trong thơ văn Nguyễn Trãi ....................................... 75
2.1. Giáo dục con ngƣời trong đấu tranh dựng nƣớc, giữ nƣớc. .............................. 75
2.2. Giáo dục con ngƣời đời thƣờng ........................................................................ 87
2.3. Giáo dục và tự giáo dục .................................................................................. 101
CHƢƠNG III : Ý NGHĨA, TÁC DỤNG GIÁO DỤC CON NGƢỜI CỦA THƠ VĂN NGUYỄN TRÃI ĐỐI VỚI LỊCH SỬ VÀ NGÀY NAY .................................................. 109
I. Những ý nghĩa lớn ...................................................................................................... 109
II.Tác dụng đối với lịch sử ............................................................................................. 110
III. Tác dụng đối với ngày nay ....................................................................................... 115
PHẦN KẾT LUẬN ................................................................................................................ 122
PHỤ LỤC............................................................................................................................... 126
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................................... 128
Trang 3
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cùng thời, đánh giá cao về Nguyễn Trãi có Nguyễn Mộng Tuân -"Kinh bang hoa
quốc cổ vô tiền" - và Lê Thánh Tông - vị anh quân nổi tiếng vế thơ văn - "Ức Trai tâm
thƣợng quang Khuê Tảo". Vâng Nguyễn Trãi nhƣ một vầng sao Khuê lung linh tỏa sáng trên
bầu trời, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào ông cũng là linh hồn, là trụ cột của quốc gia. Chúng
ta thành kính xin đƣợc "cúi đầu ngƣỡng phục trƣớc một con ngƣời anh hùng và nghiêng tâm
hồn để cảm mến một tấm lòng cao đẹp": Nguyễn Trãi - một danh nhân văn hóa thế giới.
Thế hệ hôm nay biết đến Nguyễn Trãi không chỉ là một nhà chính trị, quân sự, ngoại
giao, nhà văn, nhà thơ... mà còn là một nhà giáo dục vĩ đại.
Giáo dục là một trong những vấn đề cơ bản nhất sau quá trình đấu tranh giành độc lập
và xây dựng đất nƣớc. Là một trong những nhân tố quan trọng, là quốc sách hàng đầu xây
dựng một quốc gia giàu đẹp và hùng mạnh. Tƣ tƣởng giáo dục của Nguyễn Trãi đã xuyên
thấm trong toàn bộ sự nghiệp thơ văn của ông, tuy có lúc đậm, lúc nhạt, nhƣng nhìn chung
vẫn là một tƣ tƣởng giáo dục mang tính toàn diện. Trong điều kiện lịch sử xã hội hết sức
phức tạp: ngoại xâm, nội loạn; tƣ tƣởng Nho giáo chiếm địa vị độc tôn, chi phối toàn bộ
những suy nghĩ và hành động của ngƣời Nho sĩ, nhƣng tƣ tƣởng của Nguyễn Trãi vô cùng
rộng mở, mang đậm tinh thần nhân văn cao đẹp. Tƣ tƣởng giáo dục của Nguyễn Trãi tuy xuất
phát từ Nho giáo chính thống với những quan niệm "Tam cƣơng, Ngũ thƣờng", "Tam tòng,
Tứ đức", giáo dục con ngƣời "Chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ", nhƣng ở ông
Nho giáo đã vƣợt ra khỏi khuôn khổ, hòa nhập với tinh thần nhân đạo và tƣ tƣởng yêu nƣớc
Việt Nam, tạo nên một sự trung dung cao độ. Những giáo điều, luân lý, những định kiến khắt
khe của Nho giáo vào thơ văn Nguyễn Trãi đã trở nên mềm mại, giáo dục con ngƣời hƣớng
Trang 4
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
đến cuộc sống hài hòa, giải phóng con ngƣời ra khỏi những sự ràng buộc chật hẹp và hòa vào
thiên nhiên tƣơi đẹp với một tâm hồn phóng khoáng. Tƣ tƣởng giáo dục của Nguyễn Trãi là
sự kết tinh chọn lọc giữa truyền thống giáo dục dân tộc và một tƣ tƣởng tiến bộ của thời đại.
Triết học biện chứng khẳng định cái mới bao giờ cũng xuất hiện và phát triển trên nền
cái cũ. Cái cũ không hề bị mất đi mà đƣợc kế thừa và phát triển cao hơn. Nền giáo dục hiện
đại đã phát triển dựa trên nền móng của giáo dục truyền thống. Điều này khẳng định rằng cái
tinh hoa trong tƣ tƣởng giáo dục của Nguyễn Trãi đã sống và trƣờng tồn qua hơn sáu thế kỷ.
Nó là viên ngọc quý mà chúng ta cần trân trọng trong quá trình kế thừa và phát triển.
Giáo dục bao giờ cũng xuất phát từ nền tảng tƣ tƣởng đạo lý dân tộc. Giáo dục nhằm
xây dựng con ngƣời phát triển toàn diện và giáo dục giúp cho con ngƣời nâng cao nhận thức
trong cuộc sống. Là một nhà kinh bang tế thế hiếm có trong lịch sử dân tộc, Nguyễn Trãi
không thể không quan tâm đến yếu tố con ngƣời khi tính đến các kế sách bảo vệ, phát triển
triều đại, quốc gia mà mình đang phụng sự. Tuy không chuyên tâm làm một nhà giáo dục,
ông không có sách lý luận, triết học giáo dục để lại, nhƣng sự nghiệp thơ văn của ông đã ẩn
chứa những bài học vô cùng thâm thúy, sâu sắc. Nguyễn Trãi đã hiểu đƣợc những suy nghĩ,
trăn trở của con ngƣời, lời văn, lời thơ giáo dục nhẹ nhàng, giản dị, mộc mạc, nhƣng lại có
sức xuyên thấm vào tâm hồn, buộc ngƣời ta phải suy nghiệm, rồi nhớ mãi. Đó là vì sao tôi
chọn đề tài "Vấn đề giáo dục con ngƣời trong thơ văn Nguyễn Trãi".
2. Nhiệm vụ của Luận án
Đi vào vấn đề vừa nêu trên, Luận án có nhiệm vụ giải quyết một số yêu cầu sau:
Tìm hiểu, trình bày một cách khái quát thời đại và con ngƣời Nguyễn Trãi; Tìm hiểu
vấn đề giáo dục con ngƣời trong thơ văn Nguyễn Trãi.
Trang 5
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
3. Phạm vi Luận án
3.1. Giới thuyết về vấn đề giáo dục
- Giáo dục đƣợc hiểu theo nghĩa rộng bao gồm: Đức dục, trí dục và mỹ dục.
Trong luận án này ngƣời viết tập trung nghiên cứu ở góc độ "đức dục" hay còn gọi là
giáo dục phẩm chất đạo đức con ngƣời.
- Đề tài nghiên cứu là khoa học ngữ văn, chính vì thế luận án chỉ giới hạn phạm vi
khảo sát là thơ văn.
- Bản thân văn học nhất là văn học Trung đại đã mang chức năng giáo dục, bởi lời
văn, lời ngƣời xƣa quan niệm "văn dĩ tải đạo".
Để việc khảo sát trong luận án đƣợc cụ thể, luận án chỉ tập trung khảo sát những bài
văn, bài thơ của Nguyễn Trãi trực tiếp nói đến vấn đề giáo dục.
Những bài văn trực tiếp mang nội dung giáo dục chủ yếu là những bài chiếu (thay vua
làm để dạy bảo thái tử, khuyên răn các quan ...) những bài thơ trực tiếp mang nội dung giáo
dục thì khá nhiều, nhất là thơ nôm và tập trung không chỉ trong chùm thơ Bảo kính cảnh giới
61 bài mà còn rải rác trong tất cả các chủ đề khác. Tín hiệu để nhận biết không chỉ là các khái
niệm đạo đức đƣợc dùng trong các bài thơ mà còn ở kết cấu ngôn ngữ của bài thơ với đặc
trƣng là loại câu cầu khiến cùng lớp từ ngữ cầu khiến nhƣ: hãy, tua, đừng, chớ, mựa, mựa
nỡ...thƣờng xuyên đƣợc sử dụng.
3.2. Luận án tìm hiểu tất cả thơ, văn chữ Hán, chữ Nôm của Nguyễn Trãi còn lại đến
nay nói về vấn đề giáo dục để thấy đƣợc sự cống hiến của Nguyễn Trãi đối với nền giáo dục
nƣớc nhà, đồng thời Luận án còn là một tƣ liệu quan trọng, giúp ích cho công tác giảng dạy
thơ văn Nguyễn Trãi.
Bằng vốn kiến thức có hạn cùng với những hạn chế của điều kiện khách quan, ngƣời
viết xin trình bày đề tài xoay quanh các vấn đề: Thời đại và con
Trang 6
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
ngƣời Nguyễn Trãi; Vấn đề giáo dục con ngƣời trong thơ văn Nguyễn Trãi; ý nghĩa, tác dụng
giáo dục Nguyễn Trãi đối với lịch sử và thời đại ngày nay. Tuy đã cố gắng nhiều trong việc
nghiên cứu và thực hiện đề tài, nhƣng Luận án cũng không tránh khỏi "lực bất tòng tâm", chỉ
mong đƣợc ghi lại đôi điều về sự nghiệp giáo dục, tƣởng niệm một nhân cách, một tâm hồn
của Ức Trai tiên sinh:
"Công giúp hồng đồ cao nửa núi
Danh ghi thanh sử sáng bằng gương "
(Thơ Hà Nhiệm Đại)
4. Lịch sử vấn đề
Nhân loại biết đến Nguyễn Trãi không chỉ ở tài năng mà còn ở nhân cách cao đẹp.
Cuộc đời của Nguyễn Trãi là cuộc đời của một nhân vật đầy những ƣu ái luôn "lo trƣớc cái lo
của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ" và nó chứng minh rằng ông là một đấng "Nam nhi
đại trƣợng phu" xứng đáng với câu" Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất
năng khuất". Ông không thể cam tâm, bình thản ngồi nhìn cơ nghiệp nhà Lê - sự nghiệp mà
ông và dân tộc đã đổ bao xƣơng máu để giành lại, tạo lập đƣợc từ tay kẻ thù xâm lƣợc, sẽ bị
bọn gian thần xu nịnh làm cho suy sụp. Nguyễn Trãi đã đem hết tâm huyết, trí tuệ, tài năng,
tình cảm của mình để cống hiến, phụng sự cho đất nƣớc, cho nhân dân, những mong xây
dựng một đất nƣớc giàu mạnh. Tiếc thay danh vọng, địa vị và quyền lực đã làm cho lòng
ngƣời đổi thay. Thảm án " Lệ Chi Viên" đã chấm dứt một cuộc đòi, kết thúc một lý tƣởng
chƣa thực hiện đƣợc trọn vẹn, vị anh hùng dân tộc đã vĩnh viễn ra đi.
Trải qua những biến cố thăng trầm của lịch sử, sự nghiệp thơ văn của Nguyễn Trãi để
lại cho chúng ta hôm nay chỉ là một phần trong toàn bộ trƣớc tác đồ sộ của ông. Đi vào
nghiên cứu tƣ tƣởng giáo dục của Nguyễn Trãi, có thể thấy rải rác các công trình nghiên cứu
cũng nhƣ một số ý kiến, nhận định về thơ văn ông:
Trang 7
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
Cùng thời Nguyễn Trãi có Nguyễn Mộng Tuân, Lý Từ Tấn, Lê Thánh Tông, Hoàng
Đức Lƣơng, Phan Phu Tiên.
Thế kỷ XVIII có Lê Quý Đôn, Nguyễn Hoàng, Vũ Miên.
Thế kỷ XIX có Dƣơng Bá Cung, Bùi Huy Bích, đặc biệt các nhà nghiên cứu nhƣ Ngô
Thế Vinh nhân định về thơ văn Nguyễn Trãi "...văn chương có đủ sức sửa sang việc đời";
"...văn chương mưu lược gắn liền với sự nghiệp kinh bang tế thế"- Phan Huy Chú; "văn
chương của Tiên sinh tinh vi thâm thúy, rộng rãi, chính đáng, cứng rắn... Tiên sinh vốn
không có ý đúc chuốc văn chương, nhưng một khi lời nói thổ lộ đều sáng sủa, đẹp đẽ, mạnh
mẽ, dồi dào, không có cái gì cố thể che lấp được... Những lời ấy đều có thể làm bài học dạy
cho đời bấy giờ và lưu truyền mãi mãi về sau" - Nguyễn Năng Tĩnh.
Đến thế kỷ XX, các công trình nghiên cứu về Nguyễn Trãi xuất hiện phong phú, đi
vào cả diện rộng lẫn chiều sâu, các vấn đề về nhân cách, tƣ tƣởng, sự nghiệp, tài năng của
Nguyễn Trãi, nhƣng điều đặc biệt quan trọng là một trong nhiều giá trị đẹp nhất của nhân
cách Nguyễn Trãi đƣợc nhiều ngƣời khám phá, thống nhất nhận định, là tài văn chƣơng của
ông, một loại văn chƣơng tải "đạo", "văn chương mạnh như vũ bảo, sắc như gươm đao".
Trong chuyên luận "Văn chƣơng Nguyễn Trãi" (Nxb. ĐH & THCN -H.1984), Bùi
Văn Nguyên đã nhận định lý tƣởng giáo dục của Nguyễn Trãi rất uyên thâm, vĩ đại và phóng
khoáng, mang đậm tinh thần nhân văn, Tiên sinh mãi mãi là tấm gƣơng sáng của bậc làm
thầy, làm cha đối với chúng ta.
Trong quyển "Nguyễn Trãi, một nhân vật vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam" (Nxb
Sử Học - H.1962), Trần Huy Liệu viết "Nguyễn Trãi tỏ ra đặc biệt chú trọng về giáo dục, ông
hy vọng và tin tƣởng sẽ đào tạo đƣợc hàng loạt nhân tài cho đất nƣớc".
Lê Trí Viễn - Đoàn Thị Thu Vân với "Học tập thơ văn Nguyễn Trãi" -(Nxb.GD 1994)
đã có những ý kiến khẳng định đóng góp của Nguyễn Trãi đối với vấn đề giáo dục con ngƣời.
Trang 8
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
Võ Xuân Đàn -"Tƣ tƣởng Nguyễn Trãi trong tiến trình lịch sử Việt Nam" -
(Nxb.VHTT - H.1996) đã đƣa ra nhận định tƣ tƣởng giáo dục của Nguyễn Trãi đã góp phần
đƣa tƣ duy của dân tộc lên một bƣớc mới, để lại nhiều bài học quý báu cho chúng ta hôm nay.
Nguyễn Tiến Doãn -"Nguyễn Trãi nhà giáo dục Việt Nam" -(Nxb.GD.1997) đã nhận
định tƣ tƣởng giáo dục của Nguyễn Trãi là đóng góp xuất sắc cho sự nghiệp giáo dục con
ngƣời Việt Nam.
Có thể nhìn một cách khái quát, công trình nghiên cứu về Nguyễn Trãi có trên 200 (kể
cả những bài tạp chí), trong số đó những công trình nêu trên đã đề cập đến những tƣ tƣởng
giáo dục của Nguyễn Trãi một cách đầy đủ và tập trung nhất. Tuy nhiên viết về vấn đề giáo
dục con ngƣời trong thơ văn Nguyễn Trãi là một việc làm từ trƣớc đến nay chƣa có một công
trình nghiên cứu nào nói đến một cách có hệ thống, Luận án đã dựa trên những ý kiến nằm rải
rác ở một số công trình nghiên cứu, đồng thời tìm tòi, sáng tạo, đóng góp thêm một số vấn đề
về giáo dục con ngƣời trong thơ văn Nguyễn Trãi. Đó là: Nền tảng tƣ tƣởng giáo dục của
Nguyễn Trãi; Tƣ tƣởng của Nguyễn Trãi về con ngƣời và quan điểm giáo dục của Nguyễn
Trãi; Nội dung giáo dục con ngƣời trong thơ văn Nguyễn Trãi, để khẳng định tài năng và giá
trị tƣ tƣởng của Nguyễn Trãi đối với nền giáo dục hiện đại.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Vận dụng phƣơng pháp luận nghiên cứu Mác xít với quan điểm lịch sử cụ thể để làm
cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu, Luận án đã sử dụng các phƣơng pháp cụ thể nhƣ sau:
Thống kê, phân loại, phân tích, hệ thống hóa, khái quát hóa và so sánh đối chiếu để đi
đến kết luận về vấn đề nghiên cứu. Tiếp thu thành tựu nghiên cứu của những ngƣời đi trƣớc,
bổ sung những luận điểm mới để khẳng định những đóng góp của Nguyễn Trãi.
Trang 9
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
6. Kết Cấu Luận án
Phần Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
2. Nhiệm vụ Luận án
3. Phạm vi Luận án
4. Lịch sử vấn đề
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
6. Kết cấu Luận án
Phần Nội dung
Chƣơng I: Thời đại và con ngƣời Nguyễn Trãi
I.Thời đại Nguyễn Trãi
1. Truyền thống lịch sử - tƣ tƣởng - giáo dục từ thế kỷ X đến thế kỷ
XIV
1.1. Truyền thống lịch sử - tƣ tƣởng
1 .2. Giáo dục
2. Thế kỷ XV
2.1. Bối cảnh xã hội
2.2. Thời đại thịnh trị của Nho giáo và tƣ tƣởng giáo dục của
Nho gia
2.3. Giai đoan khôi phục kinh tế - chính trị của đất nƣớc. Thời
đại vai trò nhân dân đƣợc đề cao
II. Con ngƣời Nguyễn Trãi
1. Cuộc đời
2. Sự nghiệp
3. Nhân cách, sự tu dƣỡng nhân cách của Nguyễn Trãi
Chƣơng II: Vấn đề giáo dục con ngƣời thơ văn Nguyễn Trãi
I. Nền tảng tƣ tƣởng giáo dục của Nguyễn Trãi
1. Nhân tố truyền thống gia đình
2. Sự tiếp thu truyền thống tốt đẹp của dân tộc
II. Tƣ tƣởng Nguyễn Trãi về con ngƣời và quan điểm giáo dục của Nguyễn
Trãi
Trang 10
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
1. Tƣ tƣởng của Nguyễn Trãi về con ngƣời
1.1. Thực chất tƣ tƣởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi
1.2. Con ngƣời ái quốc, ƣu dân, anh hùng.
1.3. Con ngƣời quân tử
1.4. Bản sắc Việt Nam trong quan niệm về con ngƣời của
Nguyễn Trãi.
2. Quan điểm giáo dục của Nguyễn Trãi
2.1. Quan điểm giáo dục phóng khoáng mang đậm tính
nhân văn.
2.2. Quan điểm giáo dục tích cực thể hiện tinh thần thời đại
III. Nội dung giáo dục con ngƣời trong thơ văn Nguyễn Trãi
1. Đối tƣợng giáo dục
2. Nội dung giáo dục con ngƣời trong thơ văn Nguyễn Trãi
2.1. Rèn luyện con ngƣời trong đấu tranh dựng nƣớc, giữ nƣớc.
2.2. Tu dƣỡng con ngƣời trong đời thƣờng
2.3. Giáo dục và tự giáo dục
Chƣơng III: Ý nghĩa, tác dụng giáo dục con ngƣời của thơ văn Nguyễn Trãi trong lịch
sử và thời đại ngày nay
I. Những ý nghĩa lớn
II. Tác dụng trong lịch sử
III. Tác dụng đối với ngày nay (vấn đề kế thừa tƣ tƣởng Nguyễn Trãi trong
giáo dục con ngƣời Việt Nam hiện đại)
Phần Kết luận
PHỤ LỤC
THƢ MỤC THAM KHẢO
-------------------
Trang 11
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG I : THỜI ĐẠI VÀ CON NGƢỜI NGUYỄN TRÃI
I. Thời đại Nguyễn Trãi
1. Truyền thống lịch sử - tƣ tƣởng - giáo dục từ thế kỷ X đến thế kỷ XIV
1.1. Truyền thống lịch sử - tư tưởng
Bắt đầu sau chiến thắng Bạch Đằng lịch sử đầu thế kỷ X, các triều đại Ngô, Đinh,
Tiền lê đặt ra những nền móng đầu tiên cho một quốc gia phong kiến độc lập, triều đại nhà
Lý thực sự mở ra một kỷ nguyên mới của nƣớc Đại Việt hùng mạnh.
Tƣ tƣởng yêu nƣớc, tinh thần dân tộc là vốn liếng quy báu không tự đánh mất của đất
nƣớc sau khi phá bỏ ách đô hộ đè nặng suốt mƣời thế kỷ của phong kiến phƣơng bắc. Những
triều đại phong kiến tự chủ ban đầu đi lên từ cơ sở vật chất nghèo nàn, yếu kém, sức dân mòn
mỏi và đời sống tinh thần chịu ảnh hƣởng nặng nề từ nền văn hóa áp đặt, một sự giao lƣu bất
bình đẳng với âm mƣu đồng hóa.
Nhiệm vụ đặt ra cho dân tộc là một mặt khôi phục lại những giá trị văn hóa truyền
thống, một mặt lấy mình làm chủ đón nhận những tinh hoa văn hóa nƣớc ngoài, chuyển hóa
nó, dung hòa với cái vốn của mình để làm thành một nền văn hóa phong phú, có bản sắc, thúc
đẩy sự phát triển của đất nƣớc.
Gần một trăm năm sau ngày giành độc lập, Đại Việt đã lớn mạnh chƣa từng thấy, dân
tộc Đại Việt đã ba lần đánh Tống, ba lần đẩy lùi Nguyên Mông -một đế chế vĩ đại đã gồm
thâu gần trọn Châu Á và nửa Châu Âu. Thế cân bằng về mặt ngoại giao giữa ta và phƣơng
bắc đã đƣợc thiết lập, ta dứt khoát từ chối những yêu sách của họ và buộc họ trả lại kỳ hết đất
đai đã chiếm dọc biên giới. Trên lĩnh vực kinh tế, văn hóa, hàng loạt ngành nghề truyền thống
nhƣ dệt, gốm,
Trang 12
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
rèn sắt, đúc đồng, in... đƣợc khôi phục và phát triển tinh xảo trên cơ sở một nền kinh tế nông
nghiệp phát triển có sự quan tâm đúng mức của Nhà nƣớc. Nhiều công trình kiến trúc, tác
phẩm điêu khắc nổi tiếng xuất hiện nhƣ "An nam tứ đại khí (tháp Báo Thiên, tƣợng Phật chùa
Quỳnh Lâm, chuông chùa Quy Điền, vạc chùa Phổ Minh). Sinh hoạt văn hóa văn nghệ dân
gian đƣợc ƣa chuộng từ vua cho đến thứ dân. Nền giáo dục và chế độ thi cử đòi hỏi ngƣời
học phải có một kiến thức sâu rộng, thiết thực và có óc sáng tạo; dám bài bác ngƣời đi trƣớc.
Những thành tựu này thuộc giai đoạn từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIV hay còn gọi là thời đại Lý -
Trần. Điểm nổi bật trong tinh thần thời đại này là hình ảnh con ngƣòi tự tin, hào hùng, phóng
khoáng và trong sáng mà đời sau khó gặp lại, dù trình độ văn minh phát triển ngày càng cao
hơn.
Dƣới thời Lý - Trần, Phật giáo chiếm địa vị quan trọng và trở thành quốc giáo, bên
cạnh có sự hòa quyện của Nho giáo và Lão giáo để trở thành tam giáo đồng nguyên đặc trƣng
Việt Nam thể hiện một sự tích hợp cao độ. Tuy nhiên sự tích cực của Phật giáo đã làm nên
tinh thần đặc trƣng của thời đại này.
Tiếp thu và chọn lọc những tinh hoa của Phật giáo Ấn độ và Trung Hoa, Phật giáo Lý
- Trần thể hiện rõ sự dung hợp Thiền, Mật và Tịnh tuy Thiền vẫn là yếu tố chủ đạo. Đó là
một Đạo Phật rất đại chúng, đã góp phẩn vào sự hƣng thịnh của các triều đại Lý - Trần, thu
phục đƣợc thổ dân các miền biên giới, dẹp yên sự quấy nhiễu ở phƣơng nam, chính trị thân
dân, kinh tế tự cƣờng, văn hóa giàu bản sắc.
Theo Đại Việt Sử Ký Toàn thƣ của Ngô Sĩ Liên thì dƣới hai triều đại này Phật giáo
rất thịnh hành, việc xây dựng chùa chiền và xuất gia tu Phật trong dân gian là một việc làm
rất phổ biến. Một tầng lớp sƣ tăng tham gia tích cực vào công cuộc cứu nƣớc và dựng nƣớc
nhƣ Sƣ Vạn Hạnh, Sƣ Không Lộ, Sƣ Mãn Giác... nhà chùa đƣợc xem là nhà trƣờng dạy học,
mặt khác cũng không ít những nhà vua, những nhà quý tộc uyên thâm về giáo lý Phật giáo.
Lê Quát một Nho sĩ dƣới đời Trần có viết "...Cố tự nội kinh thành cập ngoại châu phủ cùng
Trang 13
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
thôn tịch hạng, bất lệnh nhi tùng, bất minh nhi tín, hữu nhân gia xứ tất hữu phật tự, phế nhi
phục hưng, hoại nhi phục tu, chung cổ lâu đài, dữ nhân cư đãi bán. Kỳ hưng thậm thị, nhi tôn
sùng thậm đại dã. Dư thiếu độc thư, chi ư cổ kim, thô diệc minh thánh nhân chi đạo, dĩ hóa
tư dân, nhi tốt vị năng tín cơ nhất hương. Thường du lãnh sơn xuyên, túc tích bán thiên hạ,
cầu sở vi học cung văn miếu, vị thường nhất kiến, thử ngô sở dĩ thâm hữu quy cơ Phật thi chi
đồ viễn hĩ, triếp bộc ngô dĩ thư" (Bắc Giang Bái thôn Triệu phúc Tự bi ký)(96).
Dịch nghĩa:
"...Cho nên từ trong kinh thành cho đến ngoài châu phủ, kể cả những nơi thôn cùng
ngõ hẻm, không bảo mà người ta cứ theo, không hẹn mà người ta cứ tin; hễ nơi nào có nhà ở,
là ắt có chùa chiền, bỏ rồi lại dựng, hỏng rồi lại sửa, số chuông trống lâu đài chiếm gần một
nửa dân cư. Đạo Phật rất dễ thịnh hành và rất được người ta tôn sùng. Ta ngày còn trẻ đi
học, dốc chí vào việc cổ kim, cũng biết qua về đạo Thánh, muốn lấy đó để giáo hóa nhân dân,
nhưng rốt cục chưa có thể làm cho một hướng nào tin theo cả. Ta cũng thường dạo chơi nơi
sông núi, dấu chân đã để lại trong hầu nửa thiên hạ, thế mà chưa từng tìm thấy một trường
học hay một văn miếu nào. Chính vì vậy mà ta rất lấy làm hổ thẹn khi so sánh với tín đồ nhà
Phật. Bèn viết ra đây để giãi bày lòng ta" (Bài văn bia chùa Triệu Phúc ở thôn Bái, tỉnh Bắc
Giang)
Mặt khác, trên vũ đài chính trị, thời kỳ này cũng đã xuất hiện một lực lƣợng xã hội
mới, những Nho sĩ Khổng giáo với tôn chỉ nêu cao ngọn cờ "Tam cƣơng, Ngũ thƣờng" nhƣ
Chu An, Phạm Sƣ Mạnh, Lê Quát.. gắn trách nhiệm làm ngƣời theo tƣ tƣởng Nho gia, với
đạo trung hiếu, lẽ xuất xử, hành tàng, và cả hoài bão lập công giúp nƣớc. Sự tồn tại song song
của Khổng giáo và Phật giáo tuy trong một chừng mực nào đó có sự mâu thuẫn nhƣng chúng
đã hòa hợp với những tín ngƣỡng địa phƣơng làm nên cơ sở thế giới quan đặc thù của thời
đại.
Việc sáng tác chữ viết dân tộc - chữ Nôm - trên cơ sở chữ tƣợng hình của Trung Quốc
có ý nghĩa lớn lao đối với sự phát triển của văn học Việt Nam. Từ
Trang 14
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
thế kỷ XIII đã có những tài liệu về văn học viết bằng ngôn ngữ dân tộc. Lê Tắc, một tác giả
cuối thế kỷ XIII đầu thế kỷ XIV cho biết "ngƣời ta làm thơ, phú bằng tiếng mẹ đẻ thành ra dễ
ngâm vịnh hơn: vui, buồn đều có cả trong những dòng văn đó" (69)
Chế độ khoa cử dƣới triều đại Lý - Trần cũng đƣợc đặt ra theo quy định chặt chẽ. Đặc
biệt việc chú trọng khoa thi "Tam giáo"(Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo) dƣới hai triều đại
này, chứng tỏ Phật giáo có vai trò tích cực trong việc xây dựng nền tự chủ dân tộc, phục vụ
đất nƣớc, phục vụ nhân dân, tu dƣỡng nhân cách con ngƣời.
Có thể nói đây là một thời đại của sự phục hƣng và tinh thần nhân văn cao đẹp. Bên
cạnh nhân tố cơ bản là tƣ tƣởng yêu nƣớc, Phật giáo - trào lƣu tƣ tƣởng hƣng thịnh lúc đó
cũng nhƣ Tam giáo đồng nguyên - sản phẩm văn hóa thông minh và phù hợp với điều kiện
lịch sử phát triển của xã hội Đại Việt đã tạo nên đặc trƣng cơ bản của thời đại này.
1.2. Giáo dục
Trong điều kiện lịch sử xã hội vừa đấu tranh chống ngoại xâm, vừa xây dựng củng cố
nền độc lập tự chủ phong kiến, tƣ tƣởng Đại Việt phát triển trong điều kiện du nhập văn hóa
của các trung tâm văn hóa lớn (Ấn Độ - Trung Quốc). Mặt khác sự xuất hiện của nhiều hệ tƣ
tƣởng dƣới hai triều đại này đã tạo ra những tầng lớp tri thức khác nhau. Trong đó có những
con ngƣời phi thƣờng về nhân cách và tƣ tƣởng - vừa làm vua làm tƣớng đuổi giặc, lại vừa
làm thiền sƣ, ẩn sĩ, nhà thơ, viết hịch kêu gọi đánh giặc mà dám nêu gƣơng trung nghĩa của
nƣớc giặc, làm đến vƣơng hầu mà coi công danh nhƣ phù vân, lìa bỏ ngai vàng nhƣ trút bỏ
chiếc giầy rách...., đó là những Nho sĩ luôn chú tâm xây dựng đất nƣớc theo khuôn mẫu hệ tƣ
tƣởng Nho giáo, luôn đề cao trách nhiệm, mục đích của con ngƣời từ cách sống, việc làm cho
đến mỗi cử chỉ, thái độ.
Sự tồn tại song song giới trí thức sƣ tăng và Nho sĩ làm cho hệ tƣ tƣởng
Trang 15
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
dƣới hai triều đại này ngày càng trở nên phong phú và đa dạng. Tuy đứng trong cùng một vị
trí, nhƣng với các bậc sƣ tăng sự nhìn nhận, răn dạy về cuộc sống nhân sinh mang tinh thần
phóng khoáng "vô ngã" của Phật giáo Thiền Tông. Giáo dục con ngƣời theo khuôn mẫu Phật
giáo, nhƣng điều đáng nói là con ngƣời ở đây không phải là con ngƣời thoát ly thế tục, chỉ lo
cầu Phật, cầu Thiền... mà con ngƣời phá bỏ cái "chấp ngã" để đạt đến sự tự do tuyệt đối, thoát
khỏi mọi lệ thuộc vào giáo điều để có bản lĩnh tự tìm lấy cách sống, hành động phù hợp với
mình. Giữa thời kỳ loạn lạc cuối thế kỷ X đến đầu thế kỷ XI lời dạy của các nhà tu hành đã
gây đƣợc nhiều tiếng vang. Nét đặc sắc trong những Thiền sƣ thời đại này chính là quan niệm
về nhân sinh, về thái độ tích cực, lạc quan của các nhà sƣ trƣớc cuộc sống.
"Thân như điện ảnh hữu hoàn vô,
Vạn mộc xuân vinh thu hưu khô.
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy,
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô"
(Thị Đệ Tử - Sƣ Vạn Hạnh)
Dịch nghĩa:
"Thân như bóng chớp có rồi không,
Cây cối xuân tươi, thu não lòng.
Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi,
Kìa kìa ngọn cỏ giọt sương đông"
(Bản dịch của Ngô Tất Tố)
Hay ở nhà sƣ Mãn Giác, đó là:
"Xuân khứ bách hoa lạc,
Xuân đáo bách hoa khai.
Sự trục nhãn tiền quá,
Lão tòng đầu thượng lai.
Trang 16
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai"
(Cáo tật thị chúng - Sƣ Mãn Giác)
Dịch nghĩa:
"Xuân qua trăm hoa rụng,
Xuân tới trăm hoa nở.
Sự vật đuổi nhau qua trước mắt,
Cái già sùng sục tới trên đầu.
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết,
Đêm qua, sân trước, một nhành mai''
Có thể nói, tƣ tƣởng giáo dục Phật giáo dƣới hai triều đại Lý và đầu Trần luôn muốn
cho con ngƣời đƣợc giải thoát khỏi những cái ràng buộc hữu hạn của thế giới chính ngay ở
trần thế. Để thực hiện đƣợc mục đích, con ngƣời cần phải có một dũng khí mạnh mẽ tin vào
sức của chính mình, một "xung thiên chí” để khỏi "dẫm lại vết mòn của Như Lai" (Hƣu
hƣớng Nhƣ Lai - Quảng Nghiêm) nhƣ hoài bão của Quảng Nghiêm đời Lý, hay một lời cảnh
tỉnh ngƣời đi sau "Bảo cho anh chớ nên dựa vào cửa của người khác, một điểm sáng mùa
xuân bừng dậy là khắp nơi hoa nở'' (Thị Học - Tuệ Trung) của Tuệ Trung đời Trần.
Mặt tích cực trong cuộc sống đƣợc nhà sƣ khẳng định với một nguyên lý cứng rắn,
quyết định sự thành bại của con ngƣời, đồng thời thể hiện bản lĩnh, niềm tin và cái nhìn bao
quát toàn diện rộng lớn, phóng khoáng.
"Trạch đắc long xà địa khả cư,
Dã tình chung nhật lạc vô dư.
Hữu thời trực thượng cô phong đính,
Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư"
(Ngôn hoài - Không Lộ)
Trang 17
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
Dịch nghĩa:
"Chọn được kiểu đất long xà rất hợp có thể ở được,
Tình quê suốt ngày vui không chán.
Có lúc lên thẳng đỉnh núi trơ vơ,
Kêu dài một tiếng, lạnh cả bầu trời.''
Ở các nhà sƣ tinh thần giáo dục cởi mở, pha lẫn sự tự do, tự tại, nhìn cuộc đời nhƣ
áng phù vân và theo quy luật sinh diệt của vạn vật tự nhiên. Chính vì vậy việc hành đạo giúp
đòi cứu nƣớc nhƣ là một việc hành đạo chánh pháp, không vi phạm giới luật mà còn là một
giá trị biểu hiện cao đẹp của Phật giáo trong suốt thời kỳ dựng nƣớc và giữ nƣớc dƣới hai
triều đại này. Tinh thần từ bi, bác ái, hỉ xả của Phật giáo đã kết tinh những giá trị nhân văn
cao đẹp của con ngƣời Việt Nam, đó là những con ngƣời "tự do", "vô ngã", "vô ngôn"... là
con ngƣời phần nào có sự dung hòa giữa Phật và Lão.
"Cũng chẳng gây ác
Cũng chẳng làm lành
Buồn ngủ thì ngủ
Đói bụng thì ăn
Tuy nó nhiễu nhương
Mặc bay bề bộn
Xưa nay vẫn vậy
Là chủ càn khôn"
(Gửi Phổ Tuệ tôn giả, bài I - Trần Anh Tông)
Trong điều kiện lịch sử Việt Nam lúc bấy giờ, quốc gia vừa trút bỏ ách nô lệ, dân tộc
luôn phải đấu tranh chống ngoại xâm, tinh thần thần dân tộc, ý thức độc lập, dân chủ là yếu tố
chủ đạo trong việc giáo dục con ngƣời có ích cho quốc gia. Đào tạo và giáo dục ngƣời Việt
Nam lúc này, trƣớc hết là đòi hỏi phải có một lòng yêu nƣớc thiết tha, ý chí căm thù giặc sâu
sắc và ý thức độc lập, tinh
Trang 18
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
thần dân tộc cao cả mới có thể trở thành con ngƣời Đại Việt chân chính. Đó là tinh thần bài
thơ của Lý Thƣờng Kiệt:
"Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư."
(Nam quốc sơn hà)
Cũng trong không khí hoành tráng ấy, "Thiên đô chiếu" của Lý Thái Tổ là một áng
văn mang phong cách trang trọng, khẳng định sự lớn mạnh của quốc gia Đại Việt, đồng thời
toát lên cái bản lĩnh tự tin của vị hoàng đế biết nhìn xa trông rộng trong sự nghiệp bảo vệ và
xây dựng tổ quốc. Và trong cái hào khí đó "Tụng giá hoàn kinh sƣ" - Trần Quang Khải đã để
lại cho đời sau một tinh thần lạc quan, một phong thái uy nghiêm của vị tƣớng trƣớc chiến
thắng quân thù, nói lên đƣợc sức mạnh chính nghĩa của dân tộc.
"Đoạt sáo Chương Dương độ,
Cầm hồ Hàm Tử quan
Thái bình tu trí lực,
Vạn cổ thử giang san"
Tƣơng tự, thơ Phạm Ngũ Lão cũng đã khắc họa hình ảnh ngƣời thanh niên Đại Việt
hiên ngang dũng mãnh, lồng lộng giữa sông núi đất trời trong tƣ thế cầm vũ khí chiến đấu
chống giặc thù bảo vệ đất nƣớc.
"Múa giáo non sông trải mấy thâu,
Ba quân khí mạnh nuốt sao Ngưu..."
(Thuật hoài - Bùi Văn Nguyên dịch)
Tinh thần cao đẹp này đƣợc coi nhƣ kinh điển đƣa vào hồi ức lịch sử. Sự trong sáng
cao đẹp của tâm hồn Đại Việt đƣợc các nhà văn, nhà thơ diễn tả qua một số tác phẩm đáng
chú trọng nhƣ: "Bạch Đằng giang" (Trần Minh Tông),
Trang 19
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
"Qua Hàm Tử quan" (Trần Lâu)... Nhƣ vậy tinh thần yêu nƣớc, chống ngoại xâm và ý
thức dân tộc là mạch tƣ tƣởng hình thành trong quá trình đấu tranh dựng nƣớc từ thời Hùng
Vƣơng. Trải qua các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê đến Lý -Trần nó đã trở thành một trong
những tiêu chí quan trọng hàng đầu khẳng định con ngƣời Việt Nam chân chính.
Đến cuối thế kỷ XIV, triều đại Nhà Trần bắt đầu suy thoái tầng lớp Nho giáo ngày
càng lớn manh, tầng lớp này muốn cứu vãn trật tự xã hội theo tƣ tƣởng của học thuyết Nho
giáo Khổng - Mạnh, chính vì thế giáo dục chuyển dần theo tƣ tƣởng của nhà Nho, đề cập
nhiều đến trách nhiệm xã hội của ngƣời công dân. Đạo trung hiếu, lẽ xuất xử, hành tàng, hoài
bão lập công, giúp nƣớc, lo đời lo dân của một nhà Nho đƣợc đề cao. Tiêu biểu cho xu hƣớng
giáo dục theo quan niệm Nho gia lúc này là Chu An (Chu Văn An).
Trong tác phẩm còn lại của Chu An đến nay, chƣa tìm thấy bài văn, bài thơ nào trực
tiếp nói về vấn đề giáo dục. Nhƣng theo chính sử, ông lại là một nhà giáo dục đại tài với một
tƣ tƣởng trong sáng, thiết tha vì dân, vì nƣớc, vì sự sống còn của Đại Việt. Tƣ tƣởng giáo dục
của ông đƣa ra không theo một hệ thống nhất định, nhƣng hành động can vua, giúp vua trong
việc sửa sang triều nội, đối sách với các nƣớc lân bang, đó là những việc làm có ý nghĩa quan
trọng. Lịch sử chứng minh Chu An là nhà giáo dục lớn với lòng yêu dân, yêu nƣớc sâu sắc,
muốn đem sự học của mình rải khắp muôn dân, nhƣng tiếc thay ông cũng chỉ thực thi đƣợc
phần nào sở học của mình. Rời khỏi triều đình về quy ẩn nhƣng Chu An mang đầy ắp tâm sự
trƣớc cuộc sống. Đó là tâm trạng bùi ngùi, niềm tiếc nhớ vua xƣa và nỗi bất bình vì bọn tiểu
nhân khuynh loát triều đình, lấn áp ngƣời hiền.
"Ngư du cổ chiểu long hà tại?
Vân mãn không sơn, hạc bất quy.
Quế lão tuy phong hương thạch lộ,
Nộn đài trước thủy một tùng phi..."
(Miết trì - Chu Văn An)
Trang 20
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
Dịch nghĩa:
"Cá bơi ao cũ, rồng ở nơi đâu?
Mây phủ núi vắng, hạc không về.
Cây quế già theo gió đưa hương thơm ngát con đường đá,
Đám rêu non dẫm nước che lấp mất cánh cửa tùng"
Tác phẩm của ông để lại đến ngày nay chỉ là những bài thơ nói lên nỗi buồn nhớ về
triều xƣa, nhƣng chúng ta có thể hiểu đƣợc tƣ tƣởng giáo dục của ông thông qua các học trò
nhƣ Phạm Sƣ Mạnh, Lê Quát. Đó là những nhà Nho tiêu biểu với một tinh thần nhập thế, tƣ
tƣởng trung quân, ái quốc luôn xuyên thấm trong mọi thái độ cử chỉ, kể cả đi đứng hay ngắm
nhìn thiên nhiên đều gắn liền với bổn phận, trách nhiệm làm ngƣời theo lý tƣởng Nho gia.
Tuy học tập từ học thuyết Nho giáo Khổng - Mạnh, nhƣng Phạm Sƣ Mạnh và Lê Quát là
những nhà Nho rất Việt Nam, gắn liền với dân tộc, thời đại, là thƣớc đo của con ngƣời trí
thức chân chính lúc bấy giờ.
Đối với những nhà nho này, tấm lòng trung là nguồn cảm hứng bất tận:
"Duột vân ngũ sắc ủng cung vi,
Tuyên triệu Nho thần xuất điện tri.
Nhũ yến minh cưu đương ngọ hậu,
Tế chiên quảng hạ thiết hương di.
Thần tâm nhị để tam vương cổ,
Văn thể Tiên Tần Lưỡng Hán kỳ.
Trắc thính thị thần truyền nội chỉ,
Kỳ hòa đại xã định tân nghi"
(Xuân nhật ứng chế - Phạm Sƣ Mạnh)
Dịch nghĩa:
"Mây lành năm sắc phủ quanh cung cấm,
Chiếu vua truyền gọi Nho thần đến trước thềm điện.
Trang 21
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
Sau buổi trưa, chim yến, chim cưu kêu,
Dưới tua cờ nhỏ trong ngôi nhà rộng, đặt đỉnh hương.
Tấm lòng của vua như Nhị đế Tam vương khi xưa,
Văn thể của người kỳ diệu như Tiên Tần, Lưỡng Hán.
Lắng nghe thị thần truyền chiếu chỉ của nội điện,
Định nghi thức mới cho lễ đại xá cầu được mùa."
trách nhiệm của kẻ sĩ đƣợc Phạm Sƣ Mạnh nêu lên nhƣ là thƣớc đo trí tuệ, lòng thƣơng dân,
lo cho dân của những kẻ làm "phụ mẫu" của dân, nhƣng cũng không tách khỏi quan niệm
"trung quân".
"Ngã cự triều đình phỏng dân mịch,
Sản trừ đố tệ, cách gian tham."
(An Thao Giang lộ - Phạm Sƣ Mạnh)
Dịch nghĩa:
"Ta vì triều đình đến thăm hỏi sự khổ của dân,
Trừ tệ sâu mọt, diệt tận gian tham"
(Đi kinh lý Lộ Thao Giang - Phạm Sƣ Mạnh)
Hay ở đó chí khí của kẻ sĩ gắn liền với ơn "mƣa móc", tấm khăn "Nho giáo" luôn luôn
là mục đích để ngƣời trí thức trong giai đoạn này phấn đấu vƣơn lên lập thân, giúp đời, cứu
nƣớc.
"Thư xa vạn lý biên trầm tĩnh,
Vũ trụ thiên nhiên thế sự đa.
Ngã hạnh mông ân khai chế khổn,
Khu nhương đạo tặc, tức can qua."
(Hành quận - Phạm Sƣ Mạnh)
Dịch nghĩa:
"Nay muôn dặm thống nhất, bụi bặm nơi biên cương đã yên,
Vũ trụ nghìn năm, đời có nhiều thay đổi.
Trang 22
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
Ta may mắn đội ơn vua, mở nơi cõi ngoài,
Xua trừ trộm cướp, dập tắt can qua."
(Đi kinh lý trong quận - Phạm Sƣ Mạnh)
Và trong cái khí khái ấy, ngƣời Nho sĩ luôn là cánh tay đắc lực giúp vua trong việc
hƣớng dẫn cho muôn dân học hành, an cƣ lạc nghiệp, giúp vua trong việc chế định kỷ cƣơng
triều đình, phục vụ vua trung thành tuyệt đối.
"Nhất song đồng hổ cứ thành ngang,
Thủ hộ thiên hôn kỷ độ thu.
......................................................
Cáp tự trung thần tâm thiết thạch,
Uy thanh lẫm lẫm ngoa biên đầu."
(Đồng hổ - Lê Quát)
Dịch nghĩa:
"Một đôi hổ đồng ngồi ở góc thành,
Canh gác cung điện đã mấy thu.
..........................................................
Hổ hệt như kẻ trung thần, lòng sắt đá,
Uy danh lừng lẫy, nằm trấn ở chốn biên thùy."
(Con hổ bằng đồng - Lê Quát)
Nhƣ vậy, dƣới các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần thơ văn đã có tính chất triết lý giáo
dục con ngƣời về tinh thần yêu nƣớc, tƣ tƣởng nhân đạo và những hoạt động để hình thành
nhân cách con ngƣời, một nam nhi "làm trai có chí xông trời thẳm". Dƣới hai triều đại ấy có
biết bao vị vua anh minh, những anh hùng xuất chúng với những tƣ tƣởng cao cả. Nhƣng để
có một nhân vật thật sự là một nhà giáo dục - có hệ thống tƣ tƣởng giáo dục hoàn chỉnh, thì
chƣa thể khẳng định. Ở đây cần nhấn mạnh rằng đó là hệ tƣ tƣởng do một cá nhân hệ thống
lại trên cơ sở truyền thống dân tộc và thiên tài của cá nhân. Trong thời đại này có thể nói
Trang 23
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
những tƣ tƣởng ấy đã bắt đầu xuất hiện rải rác trong thơ văn của nhiều tác giả và nở rộ vào
thế kỷ thứ XV với tên tuổi bất hủ Nguyễn Trãi - một tài năng về giáo dục.
2. Thế kỷ XV
2.1. Bối cảnh xã hội
Cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV chế độ phong kiến nhà Trần bƣớc vào giai đoạn suy
thoái. Nhà Trần từ một triều đại cực kỳ hƣng thịnh, bắt đầu bƣớc vào giai đoạn khủng hoảng
với những biến động sâu sắc. Đƣờng lối thân dân, khoan dân ngày một xa rời, quyền lực
truyền thống không còn đƣợc thói quen kính trọng, nó dần dần biến thành bạo lực, quần
chúng "nổi loạn" và bị võ lực đàn áp. Rối loạn bên ngoài (khởi nghĩa nông dân, nô tỳ), rối
loạn cung đình (Dƣơng Nhật Lễ) và rối loạn toàn xã hội...
Cơ cấu kinh tế điền trang thái ấp đã trở nên lạc hậu. Kinh tế địa chủ phát triển mạnh
và có xu hƣớng thay thế kinh tế điền trang, nhằm giải phóng tầng lớp nông nô, nô tỳ. Tầng
lớp quý tộc Nhà Trần ngày càng đi vào con đƣờng suy đồi đạo đức, tăng cƣờng vơ vét bóc lột
nhân dân để hƣởng thụ, đời sống nhân dân ngày một đói khổ, khốn đốn. Ruộng đất rơi vào
tay tầng lớp quý tộc, địa chủ, nhà sƣ, nhà chùa bao chiếm.
Về mặt tƣ tƣởng đã có những biến động mạnh. Phật giáo cùng tồn tại qua hơn bốn thế
kỷ với các triều đại vốn ủng hộ Phật giáo quá mức đã dần dần bộc lộ những suy thoái. Cuộc
đấu tranh gay gắt về quyền lực giữa một giới Nho sĩ xuất thân bình dân đã lớn mạnh và giới
tăng đồ vốn đƣợc vƣơng triều Lý - Trần trọng đãi đã diễn ra. Nghịch lý cuối thế kỷ XIV là
việc đấu tranh đổi mới, nhƣng sự đề nghị đổi mới lại là xu hƣớng bắt chƣớc Trung Quốc
(Nho thần Lê Quát, Phạm Sƣ Mạnh); còn cái truyền thống thì bảo thủ mất tính năng động.
Tình hình này khiến xã hội Việt Nam vốn dĩ đã khủng hoảng lại càng không có đƣờng lối giải
quyết.
Trang 24
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
Đúng lúc đó, năm 1400, Hồ Quý Ly xuất hiện trên chính trƣờng lịch sử, truất ngôi vua
Trần, tự xƣng Hoàng đế, đổi quốc hiệu là Đại Ngu, lập ra triều Hồ (1400 - 1407). Sau khi lên
nắm quyền, Hồ Quy Ly đã mạnh dạn tiến hành cải cách nhằm giải quyết tình trạng khủng
hoảng cuối thế kỷ XIV và phục hồi, củng cố quốc gia quân chủ trung ƣơng tập quyền đang
lâm nguy. Hồ Qúy Ly vừa muốn thanh lọc Phật giáo, vừa muốn phê phán Nho giáo, nhƣng
cũng chƣa xây dựng một ý thức hệ Việt Nam làm cốt lõi cho nền văn hóa Việt Nam. Những
cải cách của Hồ Qúy Ly tuy có những mặt tiến bộ, tích cực, nhƣng chƣa đáp ứng đầy đủ nhu
cầu phát triển của xã hội. Chủ trƣơng dùng bạo lực của họ Hồ có những chỗ không thích hợp
vừa gây chia rẽ nội bộ triều đình, vừa gây chia rẽ quần chúng làm cho cơ sở xã hội không
vững chắc, nhân dân không đồng tình ủng hộ, vừa tạo kẽ hở khiến bọn phong kiến nhà Minh
có cớ can thiệp vào nƣớc ta, nhằm thực hiện mƣu đồ bành trƣớng xâm lƣợc của chúng.
Ngày 19/11/1406, nhà Minh tiến hành cuộc chiến tranh xâm lƣợc Đại Việt. Hổ Qúy
Ly đã sớm thấy nguy cơ của một cuộc tiến công xâm lƣợc lớn từ phía bắc. Cùng với việc thi
hành một số cải cách quan trọng, nhà Hồ đã ráo riết tăng cƣờng quân đội, xây thành đắp lũy,
rèn đúc vũ khí, chuẩn bị sẵn sàng cho một cuộc chiến tranh giữ nƣớc, chống giặc Minh.
Nhƣng do sai lầm, về chính trị thì mất lòng dân, về quân sự thì nặng phòng ngự, nên sau sáu
tháng cầm cự yếu ớt, cuộc kháng chiến đã nhanh chóng thất bại. Sau bốn thế kỷ độc lập, tự
chủ, với thất bại của nhà Hồ, dân tộc Đại Việt đã lâm vào tình cảnh nô lệ, tăm tối. Sự thống
trị tàn bạo của nhà Minh với tôn chỉ là triệt để đồng hóa dân tộc ta, hủy diệt nền văn hiến
nƣớc ta, xóa bỏ vĩnh viễn tên nƣớc Đại Việt, biến Đại Việt thành một quận của Đế chế Đại
Minh, đã cản trở và kìm hãm sự phát triển của xã hội Đại Việt, đe dọa nghiêm trọng vận
mệnh của dân tộc và sự sinh tồn của mọi con ngƣời.
Đứng trƣớc những mƣu đồ nham hiểm và hành động tàn bạo đó, nhân dân ta quyết
không chịu khuất phục, không chịu mất nƣớc, đã vùng lên chiến đấu
Trang 25
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
một mất, một còn với kẻ thù. Nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra liên tiếp, trong đó có cuộc khởi
nghĩa rất thanh thế của Trần Giản Định và Trần Trùng Quang - hai vua nhà hậu Trần, nhƣng
rồi cuối cùng vẫn thất bại, do họ chƣa tập hợp đƣợc lòng dân.
Vấn đề vô cùng khẩn khiết đặt ra đối với dân tộc ta là làm thế nào tìm đƣợc con
đƣờng cứu nƣớc, cứu dân đúng đắn để đƣa sự nghiệp giải phóng dân tộc đến thắng lợi hoàn
toàn. Sứ mệnh lịch sử, nhiệm vụ trọng đại ấy đã thôi thúc toàn thể dân tộc ta, thôi thúc mỗi
ngƣời dân yêu nƣớc, suy nghĩ và hành động. Với lòng yêu nƣớc nồng nàn, ý chĩ quật cƣờng
và truyền thống anh hùng, bất khuất đƣợc bồi đắp trong nhiều thế kỷ dựng nƣớc và giữ nƣớc,
biết bao anh hùng hào kiệt đƣơng thời đã đem hết tâm huyết để tìm đƣờng cứu nƣớc. Lê Lợi
và Nguyễn Trãi là những ngƣời con ƣu tú của dân tộc đã sớm tìm ra con đƣờng đúng đắn và
sáng tạo, tập hợp đƣợc toàn dân, lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Minh trong mƣời
năm (1418 - 1427) đi đến thắng lợi, giải phóng dân tộc ra khỏi ách đô hộ của nhà Minh, trở
thành một quốc gia độc lập, tự chủ.
Ngày 29/4/1428 nhà Lê đƣợc thành lập, Lê Lợi lên ngôi lấy hiệu là Lê Thái Tổ, thực
hiện nhiệm vụ mà lịch sử đầu thế kỷ XV đề ra. Triều đại này trở nên thịnh vƣợng vì nó giải
quyết những vấn đề có liên quan đến đời sống nhân dân, nhận thức đƣợc vai trò to lớn của
nhân dân trong những biến thiên của lịch sử. Xác định đƣợc việc "cố kết nhân tâm - sáng lập
công to - làm nên việc lớn" là nhân tố quyết định sự hƣng thịnh của triều đại này.
2.2. Thời đại thịnh trị của Nho giáo và tư tưởng giáo dục của Nho gia
Từ cuối đời Trần, Nho giáo bắt đầu lấn át Phật giáo và Đạo giáo. Đến đời Lê thì Nho
giáo chiếm địa vị độc tồn và trở thành quốc giáo khống chế mọi hoạt động trong guồng máy
chế độ phong kiến trung ƣơng tập quyền. Nhà Lê lấy thuyết Nho giáo của Chu Tử làm mẫu
mực cho cách cai trị của Triều đình.
Nho giáo là hệ tƣ tƣởng chính thống của giai cấp phong kiến ở Trung
Trang 26
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
Quốc. Nho giáo có từ đời Tây Chu do Chu Công sáng lập. Thời Xuân Thu xã hội loạn lạc,
Khổng Tử muốn cứu vãn trật tự xã hội nên hệ thống hóa lại và phát triển thêm tƣ tƣởng này.
Sang thời Chiến Quốc, Mạnh Tử đấu tranh với các hệ tƣ tƣởng khác để bảo vệ Nho giáo. Vì
thế Nho giáo gắn liền với tên tuổi của Khổng - Mạnh. Đến đời Hán, Đổng Trọng Thƣ thần bí
hóa Nho giáo nhằm phục vụ cho chính thể phong kiến tập quyền chuyên chế của Nhà Hán.
Đời Tống, các Nhà Nho Chu, Trình, Trƣơng, Chu (Chu Đôn Di, Chu Hy) bổ sung thêm cho
Nho giáo để nó trở thành một học thuyết bề thế, chặt chẽ hơn, đáp ứng yêu cầu thống nhất
thêm một bƣớc nữa của chính quyền Nhà Tống.
Nho giáo không phải là một tôn giáo mà là một học thuyết chính trị và đạo đức phục
vụ cho giai cấp phong kiến. Vào Việt Nam tuy phần nào đƣợc Việt hóa trên tƣ tƣởng yêu
nƣớc và tƣ tƣởng nhân đạo, nhƣng trên bình diện chung nó vẫn quan niệm theo thuyết "Tam
cƣơng, ngũ thƣờng", trong đó "trung quân" đƣợc đặt lên hàng đầu. Nội dung giáo dục chủ
yếu của Nho giáo là các sách Tứ Thƣ, Ngũ Kinh, Bát Sử, Thơ, Phú... Nho giáo đề cao việc
dạy, việc học, coi trọng việc chăm lo giáo hóa cho một quân vƣơng quan trọng ngang tầm với
việc chăm lo cho dân giàu, nƣớc mạnh. Giáo dục trong khuôn khổ Nho giáo chịu sự chế ƣớc
của nguyên tắc "Tiên học lễ, hậu học văn", mà nhiều thế hệ đã biết đến. Quá khứ lịch sử cho
biết, đƣa ra những quan niệm trên, Nho giáo nhằm tập trung đào tạo một tầng lớp quân tử, tạo
lập một đội ngũ quan lại giỏi và trung thành với chế độ quân quyền tuyệt đối. Mặt khác Nho
giáo còn đƣa ra những chuẩn mực về bổn phận và trách nhiệm của thành viên thuộc tầng lớp
dƣới hay gọi là tầng lớp "bị trị".
Nho học đã đạt đến mức cực thịnh ở thế kỷ XV, nhƣng chính sự thịnh vƣợng của lối
học cử tử đã làm cho giáo dục đời Lê dần dần kém các triều đại trƣớc. Tống Nho là học
thuyết Nho giáo chính thống ở đời Lê, nặng về từ chƣơng có tính chất câu nệ, gò bó. Lối học
bát cổ, giáo điều, kinh viện đã hạn chế tƣ tƣởng, hạn chế khả năng sáng tạo của cá nhân.
Trang 27
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
Nhà nƣớc phong kiến chính thức đề cao Nho học và hạn chế các tƣ tƣởng khác. Nho
giáo ngày càng có xu hƣớng gò bó con ngƣời vào trong những khuôn khổ và giáo điều cứng
nhắc, xa lạ với thực tiễn đời sống dân tộc. Đƣa Nho giáo lên địa vị độc tôn, nhà Lê nhằm
khống chế văn hóa tinh thần của toàn xã hội. Đề cao việc giáo dục theo hƣớng "chính tâm, tu
thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ", Nho giáo đã nâng vai trò của tầng lớp Nho sĩ lên tầm
cao mới, là lực lƣợng đứng đầu trong việc điều hành thể chế chính trị Nhà nƣớc phong kiến
và trong toàn xã hội, là lực lƣợng hƣớng dẫn và giúp đỡ các bậc cha mẹ giáo dục con cái theo
một khuôn mẫu nhất định nhằm tạo ra những đứa con có hiếu, biết phụng mệnh, trung thành
một cách vô điều kiện với chế độ tạo ra mình.
Nho giáo đã thâm nhập vào đời sống của nhân dân Việt Nam và phát triển trong sự
giao lƣu văn hóa với các hệ tƣ tƣởng khác nhƣ Phật giáo, Đạo giáo đã ảnh hƣởng sâu sắc đến
tâm lý dân tộc, trở thành một ý thức hệ tồn tại lâu bền qua bao thế kỷ cho đến tận hôm nay.
Hệ tƣ tƣởng Nho giáo chứa đựng những giáo điều hà khắc và thực hiện theo những khuôn
mẫu khô cứng trói buộc con ngƣời. Cái tôi cá nhân và ý thức cá nhân bị hạn chế trong vòng
luân lý. Thân phận ngƣời phụ nữ đã bị ý thức hệ Nho giáo tạo một thành kiến bất di bất dịch
"Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô", và trong hôn nhân bị ràng buộc vào giáo điều "Tam
tòng" (Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử). Nho giáo coi vua là thiên tử (con
trời), lệnh vua ban ra là "mệnh trời", quan hệ vua tôi xếp trên quan hệ cha con, Nho giáo thiết
kế và bắt áp dụng quan hệ vua tôi, cha con theo một khuôn khổ khắt khe và nghiệt ngã với sự
phục tùng tối thƣợng quyền lực của nhà vua, và trong gia đình là ngƣời cha.
Những nội dung mà ý thức hệ phong kiến đặt ra, nhằm thiết kế một giềng mối xã hội
theo một tôn ti nhất định, vững chắc, song phần cực đoan, tàn nhẫn cũng không thể tránh
khỏi, nó đã đè nặng lên tầng lớp nhân dân. Nhiều bất công và phẫn uất của nhân dân cũng bắt
đầu phát sinh từ đó. Nho giáo đã ảnh hƣởng và ăn sâu vào ý thức của ngƣời Việt Nam. Thế
nhƣng truyền thống cao đẹp của
Trang 28
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
tâm hồn ngƣời Việt Nam không hoàn toàn bị khuất phục bởi những giáo điều phi lý. Nhân
dân Việt Nam đã biết "gạn đục khơi trong" sàng lọc những tinh hoa nhân loại trên cơ sở tƣ
tƣởng "yêu nƣớc, nhân đạo" biến chúng thành những giá trị đạo đức phù hợp với điều kiện
lịch sử và tâm hồn dân tộc để phát huy và sử dụng.
2.3. Giai đoạn khôi phục kinh tế - xã hội - chính trị của đất nước. Thời đại vai trò
nhân dân được đề cao.
Nửa cuối thế kỷ XIV, sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội ngày một gia tăng. Làn
sóng khởi nghĩa của nông dân và nô tỳ chống lại chế độ điền trang thái ấp và sự bóc lột tàn
bạo của tầng lớp đại quý tộc, đòi "chẩn cứu cho dân nghèo", đã làm cho triều đại phong kiến
nhà Trần lung lay đến tận gốc rễ. Hồ Quy Ly chuyên quyền; Chế Bồng Nga - vua Chiêm
Thành đƣa quân ra quấy rối nƣớc ta. Chính sự nhà Trần cực kỳ rối ren, nhân cơ hội này nhà
Minh đem quân sang thôn tính nƣớc ta.
Dƣới ách đô hộ của nhà Minh, nhiều cuộc khởi nghĩa có quy mô lớn đã nổ ra dƣới sự
lãnh đạo của một số qúy tộc nhà Trần yêu nƣớc nhƣ Trần Ngỗi và Trần Quý Khoáng, tuy đã
giành đƣợc một số thắng lợi, nhƣng cuối cùng đều bị đàn áp và thất bại. Nguyên nhân thất bại
có nhiều mặt phức tạp, nhƣng chủ yếu là một sự lãnh đạo chƣa tập hợp đƣợc sự đồng tình ủng
hộ của nhân dân, không tiến hành đƣợc một cuộc chiến tranh giải phóng có tính chất nhân
dân rộng rãi. Phong trào khởi nghĩa Lam Sơn là cuộc chiến tranh yêu nƣớc và chính nghĩa, nó
đã chứng minh đƣợc sức mạnh tiềm tàng vô cùng to lớn của nhân dân là khả năng dẫn đến
thắng lợi tất yếu. Từ núi rừng Thanh Hóa, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn dần dần phát triển thành
cuộc khởi nghĩa có quy mô toàn quốc và là cuộc khởi nghĩa mang tính chất nhân dân rộng rãi,
từ "hào kiệt" cho đến tầng lớp "manh lệ" cũng đứng dƣới ngọn cờ khởi nghĩa. Thực tế lịch sử
cho thấy cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thành công đã chứng tỏ sự lựa chọn sáng suốt trong tƣ
tƣởng, và đƣờng lối lãnh đạo dựa vào dân, xây dựng lực lƣợng từ dân của Lê Lợi
Trang 29
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
và Nguyễn Trãi để phát động cả nƣớc đánh giặc. Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa tiếp tục
khẳng định tính chính nghĩa và nguyện vọng chính đáng của toàn dân và là sự kết tinh cao
đẹp của sức mạnh tinh thần và vật chất của cả dân tộc để vùng lên cứu mình, cứu nƣớc thoát
khỏi cảnh nô lệ.
Lịch sử Đại Việt thời Lý - Trần, tƣ tƣởng thân dân đã đƣợc đề cập đến, chính vì thân
dân mà nhà Lý đã giành đƣợc thắng lợi khi chống quân xâm lƣợc Tống, hun đúc ý chí "Nam
quốc sơn hà nam đế cư ". Theo đƣờng lối nới sức dân, khoan dung với ngƣời mà nhà Trần ba
lần đại thắng xâm lƣợc Nguyên -Mông, tạo dựng "hào khí Đông A", nhƣng với sự khác biệt
về hoàn cảnh lịch sử, mãi đến thế kỷ XV, tƣ tƣởng thân dân mới có điều kiện phát triển một
cách toàn diện nhất. Có thể thấy lực lƣợng nghĩa quân Lam Sơn là những "manh lệ" bốn
phƣơng, đông đảo quần chúng nô tỳ và nhân dân cùng khổ. Khẳng định đƣợc vai trò quyết
định của dân trong quá trình biến thiên của lịch sử, tính chất nhân dân của cuộc khởi nghĩa
ngày càng phát triển rộng rãi trong cả nƣớc.
Những năm đầu thế kỷ XV, nhà Hồ thực thi những cải cách tiến bộ và phòng ngự
quân sự chặt chẽ, song không tồn tại lâu bền vì nguyên nhân sâu xa là nhà Hồ không thực
hiện đƣợc đƣờng lối thân dân, không đƣợc sự đồng tình ủng hộ của nhân dân.
Thắng lợi của nghĩa quân Lam Sơn và sự thịnh trị của Triều đại nhà Lê xuất phát từ
đƣờng lối thân dân, lấy dân làm gốc trong suốt thời kỳ kháng chiến và thái bình thịnh trị. Xây
dựng đất nƣớc thì phải chăm lo cho dân, thƣơng dân, làm cho xã hội thanh bình, trong thôn
cùng xóm vắng mọi ngƣời đều an cƣ lạc nghiệp.
Thực tế lịch sử đã chứng minh dân là lực lƣợng nồng cốt sáng tạo ra của cải vật chất
cho toàn xã hội, kể cả những bổng lộc của vua quan cho đến lâu đài, cung điện...Vận nƣớc
thịnh hay suy, mất hay còn đều do sức mạnh của dân quyết định. Dân "nhƣ nƣớc" có thể "chở
thuyền" cũng có thể "lật thuyền" và "thuyền bị lật mới hay dân nhƣ nƣớc". Trải qua các triều
đại Đinh - Lê - Lý - Trần, vƣơng
Trang 30
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
triều nào, nhân vật lịch sử nào biết khoan thứ sức dân, thi hành chính sách khoan dân, thân
dân thì trên dƣới đồng lòng lập nên công to, làm nên việc lớn. Trái lại vƣơng triều nào, nhân
vật lịch sử nào đi ngƣợc lại lòng dân thì sớm muộn đều đi đến thất bại. Thế kỷ XV, giữa lúc
Nho giáo đang thời cực thịnh, tƣ tƣởng "yên dân, khoan dân" đƣợc đƣa lên đỉnh cao. Vai trò
của nhân dân đƣợc đặt vào vị trí xứng đáng. Nhân dân đã khẳng định đƣợc sứ mệnh lịch sử
của mình, là ngƣời thay thế giai cấp quý tộc cầm cờ độc lập dân tộc. .
Ách đô hộ của nhà Minh và cuộc dốc sức chiến đấu giải phóng dân tộc đã làm kiệt
quệ nền kinh tế vốn đã suy yếu trong những thập kỷ cuối đời nhà Trần. Giành đƣợc độc lập,
Nhà nƣớc và nhân dân đã cùng lòng chung sức tập hợp sức ngƣời, sức của nhanh chóng khôi
phục nền kinh tế, phục hồi sản xuất, hàn gắn vết thƣơng chiến tranh, và đƣa nền kinh tế triều
Lê phát triển lên một giai đoạn mới. Ở nữa cuối thế kỷ XV, nền kinh tế công thƣơng nghiệp
triều Lê đã phát triển một bƣớc đáng kể so với triều đại trƣớc. Quan hệ hàng hóa, tiền tệ đã có
những bƣớc chuyển tác động tích cực vào xã hội, tầng lớp vua quan, nhân dân, từng bƣớc tạo
sự đổi thay trong chế độ chính trị và sự ổn định của quốc gia.
Thế kỷ XV, nhà Lê thực hiện chính sách khôi phục đất nƣớc dựa trên quyền lợi của
nhân dân. Nông dân đƣợc chia ruộng công cày cấy sinh sống làm nghĩa vụ Nhà nƣớc và đƣợc
học hành. Đời sống nhân dân nhìn chung ổn định, thanh bình, bộ mặt nông thôn, đất nƣớc
ngày một đổi mới. Nƣớc Đại Việt độc lập thống nhất và đƣợc củng cố dƣới triều nhà Lê đã
trở thành một quốc gia cƣờng thịnh nhất của cả khu vực Nam Trung Quốc lúc bấy giờ.
II. Con ngƣời Nguyễn Trãi
1. Cuộc đời:
Nguyễn Trãi sinh năm 1380 tại Thăng Long, dƣới thời Trần Phế Đế (1377-1387), hiệu
là ức Trai. Nguyễn Trãi là kết quả của sự gặp gỡ, hòa trộn giữa dòng máu một nho sĩ nghèo
nổi tiếng hay chữ, dạy học giỏi, đƣợc nhiều ngƣời kính
Trang 31
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
mến tên là Nguyễn Ứng Long (Nguyễn Phi Khanh) với dòng máu quí tộc của mẹ là Trần Thị
Thái con gái thứ tƣ của quan tƣ đồ Trần Nguyên Đán.
Ông tổ xa xƣa của Nguyễn Trãi là Đinh Quốc Công Nguyễn Bạc, là ngƣời có công
cùng Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn 12 sứ quân thống nhất đất nƣớc. Cụ nội là Nguyễn Công
Luật, ông nội là Nguyễn Minh Du cùng các bác là Nguyễn Bác Sách, Nguyễn Hồ đều là
những công thần có công bảo vệ trật tự an ninh quốc gia, bảo vệ ngai vàng cho nhà Trần. Về
họ ngoại, Trần Nguyên Đán là cháu bốn đời của Thƣợng tƣớng Trần Quang Khải và cháu
năm đời của vua Trần Thái Tông.
Nguyễn Trãi lên năm tuổi thì mồ côi mẹ, và năm lên mƣời tuổi thì ông ngoại qua đời.
Nguyễn Trãi ở với cha và đƣợc giáo dƣỡng rất chu đáo. Mặc dù trong hoàn cảnh vô cùng khó
khăn, thiếu thốn do chiến tranh tàn phá, kinh tế đình đốn, xã hội loạn lạc, nhƣng Nguyễn Trãi
vẫn quyết chí học hành.
Vào ngày 28 tháng 2 năm Canh Thìn (1400) Hồ Quí Ly lật đổ nhà Trần, lên ngôi, đổi
tên nƣớc Đại Việt thành Đại Ngu và mở khoa thi nhằm lựa chọn anh tài để sửa sang việc
nƣớc. Nguyễn Trãi thi đỗ Thái Học Sinh (Tiến sĩ) năm ông vừa tròn hai mƣơi tuổi, đƣợc bổ
làm quan với chức Ngự Sử Đài chính chƣởng.
Thân phụ Nguyễn Trãi đổi tên thành Nguyễn Phi Khanh, đƣợc nhà Hồ vời ra làm
quan, giữ chức Đại Lý tự khanh kiêm Trung thƣ thị lang, Hàn lâm viện học sĩ, kiêm lãnh
chức Tƣ Nghiệp Quốc Tử Giám. Nhƣ vậy hai cha con đƣợc trọng dụng. Giờ đây họ có thể hy
vọng sẽ có dịp thi thố chí bình sinh, đem tài năng ra làm việc vì dân vì nƣớc.
Nhƣng Hồ Quí Ly và Hồ Hán Thƣơng không phải là nhân vật của thời cuộc. Sau bảy
năm trị vì nhà Hồ đã mất nƣớc. Quân xâm lƣợc nhà Minh sau một thời gian ngắn đã tiêu diệt
nhà Hồ và bắt một số triều thần, tƣớng lĩnh trong đó có Nguyễn Phi Khanh làm tù binh, đƣa
về Trung Quốc. Năm 1407 cùng với sự
Trang 32
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
kiện nhà Hồ mất nƣớc, Nguyễn Phi Khanh bị bắt, Nguyễn Trãi đƣợc cha khuyên về phục thù
và báo hiếu bằng con đƣờng cứu nƣớc. Lời khuyên đó có tác dụng tạo chuyển biến quan
trọng trong tƣ tƣởng Nguyễn Trãi, đƣa Nguyễn Trãi từ một ngƣời trí thức bình thƣờng lên
hàng một nhân vật cứu nƣớc vĩ đại.
Nghe lời cha, Nguyễn Trãi tìm đƣờng trở về và đến Đông Quan thì bị tƣớng giặc
Trƣơng Phụ bắt. Tổng binh Trƣơng Phụ biết ông là ngƣời tài cao, học rộng nên tìm cách dụ
dỗ ra làm quan cho nhà Minh, ông từ chối. Trƣơng Phụ định giết ông, nhƣng một tƣớng giặc
khác là Hoàng Phúc xin tha cho và buộc tội ông phải bị giam lỏng ở thành Đông Quan để
chúng dễ bề kiểm soát.
" Gốc thành nam lều một gian
No nước uống, thiếu cơm ăn
Con đòi trốn, dường ai quyến
Bà ngựa gầy, thiếu kẻ chăn''
(Thủ vĩ ngâm)
Từ 1407 - 1416, vẫn chƣa ai rõ Nguyễn Trãi đích thực sống ở đâu, làm gì. Thơ chữ
Hán của ông nhắc nhiều đến "mƣời năm phiêu dạt, nổi trôi". Có lẽ ông ẩn dật ở Đông Quan
không lâu, rồi sau đó đã thoát khỏi nơi đây để đi tìm minh chủ. Và đây là khoảng thời gian
thật sự có ý nghĩa. Đó là khoảng thời gian ông chiêm nghiệm thế sự, nhân tình, tội ác của
giặc Minh, nỗi đau của ngƣời dân mất nƣớc, tinh thần dũng cảm của nghĩa sĩ trong các cuộc
nổi dậy..., tất cả những sự thật đó đã giúp Nguyễn Trãi cân nhắc chữ "thời" trong con đƣờng
xuất xử của một sĩ phu đang nặng gánh thù nhà, nợ nƣớc và sớm tìm đƣợc một lãnh tụ sáng
suốt.
Khoảng từ 1416 - 1418, Nguyễn Trãi đã đến với Lê Lợi và Nghĩa quân Lam Sơn theo
lời kêu gọi vũ trang chống lại nhà Minh với mục đích "Mở nền thái bình muôn thuở, đặng
rửa vết nhục ngàn thu" cho đất nƣớc. Và từ đó dƣới sự lãnh đạo của Lê Lợi và Nguyễn Trãi,
cuộc kháng chiến đã mau chóng thành công, lập lại nền hòa bình cho đất nƣớc.
Trang 33
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
Năm 1428, đất nƣớc hoàn toàn giải phóng, vâng lệnh vua, Nguyễn Trãi viết "Bình
Ngô đại cáo" với niềm hứng khởi vô biên của chiến thắng oanh liệt, hào hùng lẫn đau thƣơng
suốt hai mƣơi năm trời chiến đấu.
Kháng chiến thành công, Lê Lợi xếp ông vào hàng khai quốc công thần, cho đổi sang
họ Lê, giữ chức Nhập nội hành khiển kiêm Lại bộ thƣợng thƣ, tƣớc Quan phục hầu, Nguyễn
Trãi thay vua viết nhiều chiếu chỉ để dạy bảo thái tử, khuyên răn các quan, cầu hiền tài...và
thƣ từ ngoại giao với phƣơng bắc, góp phần đắc lực vào việc xây dựng và củng cố nhà nƣớc
phong kiến Đại Việt.
Sau năm 1428, triều đình phong kiến nhà Lê vừa đƣợc thiết lập đã nhanh chóng đi vào
khủng hoảng. Những mâu thuẫn lục đục trong nội bộ giai cấp thống trị bắt đầu phát sinh và
những hiềm nghi không đâu của Lê Lợi đã ngăn cản không cho Nguyễn Trãi phát huy hết
mọi tài năng và ý nguyện "kinh bang tế thế". Do bị bọn gian thần gièm pha xúi giục, Lê Thái
Tổ bắt đầu thanh toán những vị công thần: giết Phạm Văn Xảo, bức Trần Nguyên Hãn phải tự
tử rồi bắt giam Nguyễn Trãi vì những lý do hết sức vô lý và mơ hồ. Sau đó Nguyễn Trãi đƣợc
thả ra, nhƣng không còn đƣợc tin dùng nhƣ trƣớc và kể cả trong suốt thời gian Lê Lợi còn ở
ngôi đến năm 1432 khi Lê Lợi mất, ông vẫn không đƣợc giao một việc gì quan trọng. Sau
năm 1432 tuy ở địa vị phụ chính, chuyên việc dạy dỗ vua trẻ, nhƣng vua quá nhỏ, sự tranh
chấp giữa các phe phái trong triều không thể tránh khỏi. Với lý tƣởng "nhân nghĩa", Nguyễn
Trãi có nguy cơ trở thành nạn nhân của sự tranh chấp.
Khoảng năm 1437, tình hình lũng đoạn quyền chính của các phe phái ngày càng gay
gắt, Nguyễn Trãi đã xin lui về Côn Sơn, sống thanh bạch giữa thiên nhiên cây cỏ, ôm nỗi
buồn cô đơn của một triết gia suy nghiệm về mọi lẽ hƣng vong của cuộc đời.
Đến năm 1439, Lê Thái Tông đã trƣởng thành, bắt đầu củng cố lại triều đình, giết bọn
quyền thần Lê Sát, Lê Ngân và cho vời Nguyễn Trãi về triều giao những việc quan trọng, sự
kiện này đã đƣợc Nguyễn Trãi ghi lại trong "Biểu tạ
Trang 34
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
của Gián nghị đại phu kiêm tri tam quán sự" nói lên niềm xúc động đƣợc vua tri ngộ, đồng
thời cũng kín đáo nhắc lại những oan khuất đã qua.
"Thương thần như ngựa già còn kham dong ruổi,
Cho thần như thông qua năm rét còn dạn tuyết sương.
Khiến cho suy nát,
Trỏ lại tốt tươi.
Cảm mà chảy nước mắt,
Mừng mà sợ trong lòng."
Và đây là thời gian mà Nguyễn Trãi tâm đắc và thoải mái nhất trong suốt thời kỳ làm
quan dƣới triều nhà Lê. Là thời kỳ mà những sở chí của ông đã phần nào đƣợc thi thố.
Ngày 7/9/1442, sau mấy năm tận tâm, tận lực vì dân, vì nƣớc, vì triều đại mà mình bỏ
công xây dựng, một lần nữa Nguyễn Trãi lại bị ghép vào tội "tru di tam tộc" với oan án Lệ
Chi Viên, kết thúc cuộc đời và sự nghiệp.
Có thể mƣợn lời của nhà thơ Vũ Duy Thông để nói lên nỗi xót xa của cuộc đời
Nguyễn Trãi:
"Máu khóc cho một thời,
Thấm đầm đìa cỏ rối
Thế kỷ không kham nỗi,
Con tim quá đau đời."
2. Sự nghiệp
Sự nghiệp vì dân, vì nƣớc của Nguyễn Trãi đƣợc đánh dấu từ những ngày đầu đến
với phong trào Lam Sơn bằng tất cả tâm huyết và tài năng. Nguyễn Trãi dâng lên Lê Lợi
"Bình Ngô sách" với đƣờng lối chiến đấu dựa vào sức dân và đánh vào lòng ngƣời, khơi gợi
truyền thống đấu tranh bất khuất của dân tộc. "Bình Ngô đại cáo" - "Thiên cổ hùng văn" -
"Tuyên ngôn độc lập" là một áng văn tổng kết thiên tài đanh thép và sâu sắc về nhiều mặt của
cuộc đấu tranh
Trang 35
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
chống ngoại xâm. Bài Cáo đã trở thành áng văn bất hủ, là sản phẩm tinh thần, sản phẩm văn
hóa vô cùng quý báu không chỉ riêng Việt Nam mà cho toàn nhân loại tiến bộ trên thế giới.
Trong suốt mƣời năm nếm mật nằm gai cùng Lê Lợi lãnh đạo cuộc kháng chiến
chống Minh, Nguyễn Trãi đã giúp Lê Lợi trong việc "trù hoạch" mƣu lƣợc ở nơi màn trƣớng,
đƣợc trọng dụng "nói tất nghe, kế tất theo", Nguyễn Trãi đã có công lớn trong việc thực hiện
những quyết định quan trọng, đƣa cuộc khỏi nghĩa Lam Sơn vƣợt qua gian khổ, phát triển lực
lƣợng ngày càng mạnh, càng đánh, càng thắng lợi. Trong quá trình tiến hành khởi nghĩa và
chiến tranh giải phóng, Nguyễn Trãi là ngƣời soạn thảo các thƣ từ, mệnh lệnh, viết văn, thảo
hịch phục vụ cho đấu tranh ngoại giao, binh vận. Tất cả những văn kiện ấy đƣợc đƣa vào
"Quân trung từ mệnh tập", là một mẫu mực về văn học ngoại giao, luận chiến với giặc. Có
thể nói trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc, chƣa bao giờ công tác địch vận
lại đƣợc tổ chức quy mô, rộng rãi và mang lại một kết quả to lớn đến nhƣ vậy. Với "Quân
trung từ mệnh tập" - Nguyễn Trãi đã sử dụng cây bút của mình nhƣ một mũi nhọn tiến công
sắc bén "cớ một sức mạnh hơn mười vạn hùng binh" thể hiện trí tuệ phi thƣờng, lời văn chính
luận, "cƣơng -nhu" uyển chuyển phù hợp trong mỗi hoàn cảnh và con ngƣời, làm cho quân
thù khiếp sợ và quy phục.
Nguyễn Trãi là một trong những nhà thơ trữ tình lớn trong lịch sử văn học Việt Nam
thời phong kiến. Với "Quốc âm thi tập" và "Ức Trai thi tập", Nguyễn Trãi đã nói lên tiếng nói
tình cảm cao đẹp trong tâm hồn con ngƣời Việt Nam. Tác phẩm là sự thể hiện ý thức của con
ngƣời cá nhân trong con ngƣời dân tộc một cách phong phú và đa dạng với những triết lý về
nhân sinh, đạo đức, phong tục, tập quán... của ngƣời Việt Nam.
Không chỉ thiên tài trên lĩnh vực chính trị, quân sự, văn học mà ngay trong lĩnh vực
địa lý, lịch sử - Nguyễn Trãi cũng là một ngƣời am hiểu rất tinh tế và sâu sắc. Ông đã để lại
cho đời sau tập "Dƣ địa chí" viết năm 1435 là một công
Trang 36
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
trình tổng kết khái quát về địa lý, kinh tế, tài nguyên khoáng sản, ngành nghề thủ công
nghiệp. Nó có giá trị nhƣ một đề án cơ bản làm cơ sở cho kế hoạch xây dựng đất nƣớc thời
Lê sơ. Đổng thời nó đã đặt nền móng xây dựng khoa địa lý lịch sử của dân tộc.
Nói đến những sáng tác của Nguyễn Trãi không thể không nhắc đến những tác phẩm
nhƣ "Chí Linh sơn phú", "Lam Sơn thực lục", "Văn bia Vĩnh Lăng", "Chuyện cũ về Băng Hồ
tiên sinh", là những tác phẩm vừa mang giá trị văn học vừa mang giá trị lịch sử và cả những
triết lý sâu xa trong lịch sử văn học Việt Nam thời Trung đại.
Sự nghiệp của Nguyễn Trãi gắn liền với sự tồn tại và phát triển của dân tộc. Tên tuổi
của Nguyễn Trãi đã đi vào cuộc kháng chiến trƣờng kỳ chống quân Minh xâm lƣợc. Với
đƣờng lối chính trị đúng đắn, tƣ tƣởng "thân dân" tiến bộ, mƣu lƣợc của Nguyễn Trãi đƣợc
Lê Lợi sử dụng làm kim chỉ nam trong suốt cuộc kháng chiến đó là sự "cố kết nhân tâm, làm
nên việc lớn" để cuối cùng giành độc lập quốc gia từ tay kẻ thù hiểm ác.
Sau khi đất nƣớc đƣợc giải phóng, Nguyễn Trãi tiếp tục là công thần đắc lực giúp Lê
Lợi trong việc chỉnh đốn và xây dựng quốc gia phong kiến Đại Việt hùng mạnh. Chú trọng
việc "chăn dân" với tinh thần trách nhiệm tối cao, đƣờng lối xây dựng đất nƣớc của Nguyễn
Trãi là nhằm làm cho nƣớc giàu dân mạnh đến mức "trong thôn cùng xóm vắng không có
tiếng hờn giận oán sầu". Xã hội Nguyễn Trãi muốn xây dựng là xã hội trong đó có những vua
nhƣ vua Nghiêu, vua Thuấn - luôn luôn quan tâm đến đời sống của dân, coi việc an dân là
mục đích của đời mình. Tuy điều mong muốn của Nguyễn Trãi chỉ là ảo tƣởng, nhƣng nó
xuất phát từ trái tim và lòng chân thành, tha thiết muốn xây dựng một xã hội tốt đẹp.
Lịch sử dân tộc là lịch sử truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm, xây dựng và bảo
vệ Tổ Quốc. Từ trong quá khứ đã hình thành một mạch ngầm "Chủ nghĩa yêu nƣớc - tinh
thần nhân đạo" Việt Nam độc đáo từ thời Vua Hùng. Tiếp
Trang 37
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
thu truyền thống ấy, Nguyễn Trãi đã dựa trên nền tảng cơ bản, phát triển và đóng góp đúc kết
thành nguyên lý vững chắc. Nguyễn Trãi đã khẳng định ý thức dân tộc và lòng tự hào dân
tộc. Những cống hiến của Nguyễn Trãi không chỉ có ý nghĩa lịch sử nƣớc nhà, mà còn có ý
nghĩa đối với lịch sử chính trị thế giới nửa đầu thế kỷ XV. Nguyễn Trãi đã thấy đƣợc vai trò
và sức mạnh to lớn của nhân dân "mến ngƣời có nhân là dân, mà chở thuyền và lật thuyền
cũng là dân". Nội dung tƣ tƣởng "nhân nghĩa" và "thân dân " là đặc điểm nổi bật trong toàn
bộ tƣ tƣởng của Nguyễn Trãi. Tƣ tƣởng này đã xuất hiện từ thời Lý Thái Tổ qua Trần Thái
Tông, Trần Nhân Tông, cho đến Chu An, Phạm Sƣ Mạnh. Kế thừa truyền thống tốt đẹp ấy,
Nguyễn Trãi đã vƣợt xa các nhà tƣ tƣởng trƣớc về mặt nhận thức, ông đã nâng quan điểm
"thân dân" lên mức cao hơn và coi việc chăm lo cho quyền lợi của dân là nội dung cơ bản của
chủ nghĩa yêu nƣớc.
Tƣ tƣởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là một đóng góp vô giá đối với lịch sử tƣ tƣởng
dân tộc. Tƣ tƣởng nhân nghĩa là biểu tƣợng cao đẹp cho đạo đức dân tộc, trở thành nếp sống
nhân nghĩa truyền thống.
Lấy dân làm gốc, lấy tinh thần "ƣu quốc ái dân" làm đức cả, lấy sự thái bình thịnh trị
của quốc gia và hạnh phúc của nhân dân làm mục đích là nền tảng tƣ tƣởng nhân nghĩa vững
chắc của nền chính trị hƣng thịnh. Nguyễn Trãi đã vì độc lập dân tộc, vì hạnh phúc của nhân
dân, vì hòa bình của đất nƣớc mà suy nghĩ, tận tụy quên mình để thực hiện lý tƣởng vì dân, vì
nƣớc. Vì vậy chủ nghĩa nhân đạo, chủ nghĩa yêu nƣớc của ông là đỉnh cao trong lịch sử so
với các triều đại trƣớc đó cả về mặt động cơ, nội dung, tính chất và mức độ.
Về giáo dục Nguyễn Trãi đã có sự đóng góp hết sức lớn lao về mặt giáo huấn con
ngƣời. Tƣ tƣởng giáo dục của ông tuy xuất phát từ Nho giáo nhƣng nó đã vƣợt ra ngoài
khuôn khổ, phóng khoáng và đậm tinh thần nhân văn cao đẹp. Đặt ra vấn đề giáo dục con
ngƣời toàn diện về tài và đức, tƣ tƣởng giáo dục của Nguyễn Trãi không những chỉ có giá trị
trong thế kỷ XV mà còn ảnh hƣởng tích cực đến nhiều thế kỷ sau và cho đến hôm nay. Đó là
giáo dục về đạo lý làm ngƣời, lòng yêu nƣớc, yêu dân, giáo dục nhân cách, đạo đức, lòng
nhân ái...
Trang 38
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
Những bài học quý báu về giáo dục - quan niệm vai trò của giáo dục, mục tiêu đào tạo
của giáo dục, mối quan hệ giữa đức và tài, giữa đào tạo bồi dƣỡng và sử dụng nhân tài trong
sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Trãi đã đem lại giá trị giáo dục cao, sức sống vĩnh hằng cho
tác phẩm của ông. Đó là giá trị lịch sử, giá trị thực tiễn của tƣ tƣởng giáo dục của một danh
nhân, một anh hùng và một nhà giáo ƣu tú, mẫu mực.
Với tài thao lƣợc kiệt xuất, sự nghiệp của Nguyễn Trãi là sự nghiệp " Văn chƣơng
mƣu lƣợc gắn liền với sự nghiệp kinh bang tế thế". Sự nghiệp của Nguyễn Trãi là sự nghiệp
suốt đời tận tụy hy sinh quên mình vì hai chữ "yên dân" trên tinh thần nhân nghĩa và vƣợt qua
mọi đố kỵ của bọn xiểm nịnh để thực hiện làm sao cho "trong thôn cùng xóm vắng không có
tiếng hòn giận oán sầu". Ông là con ngƣời thiên tài trên nhiều lĩnh vực, nhƣng không có cơ
hội để phát huy thực hiện lý tƣởng của mình, mặt khác lại bị bọn gian thần hãm hại. Cái chết
của Nguyễn Trãi đƣợc lịch sử phong kiến giải thích bằng một tiếng "oan" đã để lại ngàn nỗi
tiếc thƣơng cho hậu thế và cho chính triều đại Nhà Lê. Nguyễn Trãi ra đi cùng một phong
cách nhƣ Khuất Nguyên xƣa.
"Thánh hiền xưa cũng như ta
Thẳng ngay mà chết, ấy là chết trong"
(Ly tao)
3. Nhân cách và sự tu dƣỡng nhân cách
Nguyễn Trãi ra đời trong gia đình Nho học và đã đƣợc nuôi dƣỡng bằng những câu
chữ của Nhà nho từ trong sữa mẹ, cha là Nguyễn Phi Khanh đỗ tiến sĩ, ông ngoại là Trần
Nguyên Đán ngƣời đã từng đọc "vạn quyển sách". Cả hai đều là những nhà trí thức uyên bác.
Cả hai cùng để công phu dạy dỗ Nguyễn Trãi từ khi còn rất nhỏ.
Trong khi đƣợc ông, cha dạy dỗ Nguyễn Trãi đã học đƣợc ở hai vị tâm hồn cao đẹp
của một kiểu nhà Nho. Học ở ông tấm lòng thƣơng nhân dân đến bạc
Trang 39
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
đầu "Bạch đầu không phụ ái dân tâm" (Trần Nguyên Đán - Nhâm dần lục nguyệt tác). Học ở
cha trong ngày giá rét "muốn thổi cơn gió ấm vào lòng mọi người" ( Nguyên Phi Khanh -
Xuân hàn). Tiếp thu những tâm hồn cao đẹp này Nguyễn Trãi đã có một nhân cách cao đẹp,
một tầm nhìn sâu rộng về nhân dân. Luôn tâm niệm một điều ƣu quốc, ái dân.
Với quan niệm học để "trọn niềm trung hiếu" để biết "lo trước, vui sau", để giữ tâm
hồn "thanh cao trong sáng", Nguyễn Trãi đã say mê trong "vườn chư tử, bể lục kinh" và đã
sớm nổi danh trong rừng Nho "Thanh niên phương dự ái Nho lâm" (Mạn thành, 1).
Năm 20 tuổi đỗ tiến sĩ và từ đó vẫn tiếp tục học tập và nghiên cứu. Ông luôn nói đến
trách nhiệm của nhà Nho sống nhƣ thế nào cho đúng Nho phong. Làm quan thì nghĩ đến tƣ
cách của Nho thần, đƣợc ơn vua thì mừng cho chiếu nhà Nho đƣợc ấm. Nguyễn Trãi luôn
trăn trở trong cách nghĩ và hành động của ngƣời Nho sĩ, vì thế cái nhân cách cao đẹp của con
ngƣời Nguyễn Trãi là suốt đời vì dân, vì nƣớc, vì hạnh phúc của muôn dân.
Trong chiến đấu chống giặc Minh xâm lƣợc Nguyễn Trãi luôn là ngƣời đi đầu trên
mặt trận, dùng chính sách "công tâm" để đánh vào quân địch, ông là ngƣời trực tiếp dấn thân
vào nơi nguy hiểm để thuyết phục giặc ra hàng. Lấy lòng nhân nghĩa đề bàn luận chuyện hòa
bình. Nguyễn Trãi luôn cân nhắc đúng, sai trong con đƣờng xuất xử để xác định thái độ và
hành động của mình đối với dân với nƣớc. Là ngƣời trí thức chân chính, có tâm hồn thanh
cao, rộng mở, từ trong chiến trƣờng cũng nhƣ thời thái bình thịnh trị, Nguyễn Trãi luôn là
một con ngƣời ngay thẳng, chính trực, giàu nghị lực và niềm tin. Ông luôn ý thức đƣợc sự tu
dƣỡng nhân cách của một con ngƣời mẫu mực, cƣơng trực và liêm khiết. Sống vì dân, vì
nƣớc, không xa hoa, lãng phí, không bắt ép mọi ngƣời theo ý mình, không đố kỵ, không đua
chen danh lợi, không làm điều càn dỡ và càng không làm những điều hại dân, hại nƣớc. Đó là
kết quả những năm tháng trui rèn trong chiến trƣờng kháng chiến chống Minh và những năm
khốn đốn dƣới triều nhà
Trang 40
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
Lê. Nguyễn Trãi ý thức đƣợc rằng mình là con ngƣời bị cô lập giữa bọn xu nịnh, nhƣng ông
không rời bỏ triều đình, chính vì ông chính trực, liêm khiết, đơn độc chống lại bọn gian thần.
"Vườn quỳnh dù có chim hót
Cõi trần có trúc đứng canh"
(Tự thán - 40)
Ông kiên quyết theo gƣơng những ngƣời cƣơng trực khảng khái, nói hết lẽ phải không
sợ quyền thần, không sợ hôn quân.
" Ở đài các giữ lòng Bao Chửng
Nhiệm tướng khanh thìn đối Nguỵ Trưng"
(Bảo kính cảnh giới - 6)
Cùng bƣớc ra từ "cửa Khổng, sân Trình" nhƣng có ngƣời thì mơ ƣớc đỗ làm quan, đạt
tới vinh hoa, phú quý, có ngƣời mong đƣợc cai quản đất nƣớc, thống trị nhân dân, có ngƣời
hiểu rằng rèn luyện bản thân, xây dựng gia đình tốt đẹp, góp phần đem lại cuộc sống thanh
bình cho Tổ quốc, cho nhân loại..............Nguyễn Trãi là ngƣời trí thức Nho học, ông luôn cân
nhắc việc rèn luyện nhân cách và làm một điều gì ích quốc, lợi dân. Nhân cách của Nguyễn
Trãi là nhân cách của ngƣời chí sĩ mang lý tƣởng vì dân, vì nƣớc. Nguyễn Trãi không chỉ nêu
cao và truyền bá một lý tƣởng tốt đẹp, mà còn xả thân để thực hiện nó, dù phải vƣợt qua bao
gian khổ kể cả những chông chênh, hiểm nghèo của triều đình phong kiến mang đến cho ông,
nhƣng ông vẫn kiên trì làm những điều không thể làm đƣợc, khí tiết cao cả ấy ít ngƣời thấy rõ
hơn.
Trang 41
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
CHƢƠNG II : VẤN ĐỀ GIÁO DỤC CON NGƢỜI TRONG THƠ VĂN
NGUYỄN TRÃI
Giáo dục là một trong những vấn đề cơ bản nhất trong quá trình đấu tranh giành độc
lập và xây dựng nền văn hiến dân tộc. Nền văn hiến dân tộc bao gồm nhiều vấn đề, nhiều góc
cạnh của đời sống, kể cả vấn đề rèn luyện bản thân con ngƣời. Từ xƣa tới nay không phải bất
cứ ai đƣợc sinh ra cũng đều là ngƣời tốt, mà phải trải qua một quá trình tu dƣỡng và rèn luyện
thì mới trở thành ngƣời tốt. Cho nên vấn đề giáo dục đƣợc đặt ra, đó chính là tinh thần mà Hồ
Chủ Tịch nêu lên:
"Thiện ác nguyên lai vô định tính,
Đa do giáo dục đích nguyên nhân. "
(Ngục trung nhật ký)
Dịch nghĩa:
Hiền dữ không phải là tính tình sẵn có
Phần nhiều do giáo dục mà nên
(Nhật ký trong tù)
Ý nghĩa giáo dục mà Chủ Tịch Hồ Chí Minh nói là giáo dục ngƣời dữ trở thành ngƣời
hiền và ngƣời hiền thì hiền thêm, hay nói một cách khái quát là giáo dục ngƣời dở thành
ngƣời hay, ngƣời xấu thành ngƣời tốt, còn ngƣời đã hay thì hay hơn. Nói chung đó là lý
tƣởng giáo dục của xã hội loài ngƣời. Đành rằng nền giáo dục của thời đại nào gắn với chế độ
của thời đại đó, nhƣng lý tƣởng giáo dục chung của cả nhân loại đều là nhằm cảm hóa con
ngƣời để con ngƣời có thể trở thành tốt đẹp hơn. Các bộ kinh Phật, kinh Coran, kinh thánh
Cơ Đốc đều chứa đựng lý tƣởng giáo dục đó. Tuy vậy về sau giai cấp cầm quyền đã lợi dụng
Trang 42
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
tôn giáo nhằm mục đích thống trị nên trong một mức độ nào đó tôn giáo đã bị tha hóa và biến
tƣớng.
Tƣ tƣởng giáo dục của Nguyễn Trãi là lý tƣởng chung của thời đại ông, thời khởi
nghĩa Lam Sơn, nhƣng vẫn đi từ cái gốc của lý tƣởng giáo dục của xã hội loài ngƣời. Lý
tƣởng xây dựng con ngƣời tốt đẹp cho xã hội tốt đẹp trong khuôn khổ của thời đại mình.
I. Nền tảng tƣ tƣởng giáo dục của Nguyễn Trãi
1. Nhân tố truyền thống gia đình
Nguyễn Trãi đƣợc sinh ra và lớn lên trong sự giáo dục truyền thống của một dòng họ
lớn - dòng họ Nguyễn, một dòng họ nổi tiếng trong quá trình đấu tranh dựng nƣớc, giữ nƣớc
của dân tộc. Nguyễn Trãi là sự kết tinh truyền thống gia đình giữa hai dòng họ Nguyễn - Trần
với Đinh Quốc Công Nguyễn Bạc - vị khai quốc công thần đời Đinh và Thƣợng tƣớng thái sƣ
Trần Quang Khải - ngƣời anh hùng dân tộc đời Trần. Nguyễn Trãi là bậc hậu duệ của một
dòng họ hết đời này, sang đời khác tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc, bảo vệ
công lý cho đến khi phải hy sinh cả tính mạng mình, tính mạng gia đình, quả là hiếm có, đáng
trân trọng và kính phục !.
Nguyễn Trãi đã kế thừa truyền thống tốt đẹp trong gia đình, không chỉ dòng họ nội
mà ngay cả gia đình họ ngoại. Ngƣời có ảnh hƣởng lớn và trực tiếp đến tƣ tƣởng của Nguyễn
Trãi là ông ngoại - Trần Nguyên Đán. Ngay từ nhỏ, Nguyễn Trãi đã sống và đƣợc giáo dục
trong phủ Trần Nguyên Đán. Với một tƣ tƣởng nhân đạo, giàu lòng vị tha, một nhân cách cao
đẹp, một cách nhìn phóng khoáng vƣợt khuôn khổ của Trần Nguyên Đán ngay trong chuyện
kết hôn của con gái mình, ông đã truyền sang cho Nguyễn Trãi một tƣ tƣởng vô cùng quý giá.
Là một ngƣời học rộng, có tấm lòng nhân hậu, rộng mở, bao dung, tuy ngồi ở ngôi vị Tể
tƣớng sống trong dinh thự nguy nga, nhƣng Trần Nguyên Đán luôn trăn trở, suy nghĩ vê đời
sống lầm than, khốn cùng của dân đen, con đỏ. Nỗi lòng
Trang 43
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
đó đƣợc ông ghi lại nhƣ một sự giằng xé lƣơng tâm, một cái nhìn cảm thông đến vô hạn:
"Hạn rồi qua lụt đã bao phen,
Đau nỗi đồng điền lúa chẳng lên.
Ba vạn sách hoa thành giấy vụn,
Bạc đầu luống những phụ dân đen!"
Là một ngƣời có học thức uyên thâm, Trần Nguyên Đán đƣợc xem là "nòi giống thần
minh", ông đã từng đọc ba vạn cuốn sách, nhƣng chỉ là vô dụng khi ông không làm đƣợc gì
trƣớc nỗi khổ của dân:
"Ba phần tóc bạc tấc lòng son,
Muôn việc trên đời bối rối dồn."
(Thơ làm ngày tháng giêng năm Mậu Thân)
đó là một nỗi niềm suy tƣ, day dứt trong lòng, một con ngƣời đau đời, luôn canh cánh hoài
bão làm sao cho dân tình đỡ lầm than cơ cực.
Trong gia đình Nguyễn Trãi, truyền thống giáo dục đối với con ngƣời còn thể hiện ở
cha Nguyễn Trãi là Nguyễn Phi Khanh. Nguyễn Phi Khanh lúc bấy giờ nổi tiếng là danh nho
văn hay, chữ tốt, ông đã từng theo học Hồ Tông Thốc, một trạng nguyên uyên thâm đạo học.
Trong bài thơ "Nguyễn Ứng Long dâng trạng nguyên thừa chỉ Hồ Tông Thốc", ông viết "Rất
tiếc đã theo học kinh kỳ hai mươi năm, mà thi chưa đỗ". Mặt khác ông còn chịu ảnh hƣởng ở
thầy giáo Chu An, một con ngƣời có đạo đức cao nhƣ núi Thái Sơn, sáng nhƣ sao Bắc Đẩu,
Chu An là tấm gƣơng sáng cho ngƣời đời sau noi theo, mà chính Trần Nguyên Đán -ông
ngoại Nguyễn Trãi - nhạc phụ Nguyễn Phi Khanh đã từng ca ngợi với một tấm lòng trân
trọng.
''Học hải hồi lan tục tái thuần,
Thượng tường sơn đẩu đắc tư nhân''
(Hạ Tiều Ẩn Chu tiên sinh bái Quốc Tử Tƣ Nghiệp)
Trang 44
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
Dịch nghĩa:
"Biển học gợn sóng ngược xuôi, khiến cho phong tục thuần hậu,
Bởi vì nhà trường có bậc cao như Thái sơn, sáng như Bắc đẩu đến dạy"
(Mừng Tiều An Chu tiên sinh nhận chức Tƣ Nghiệp)
Tiếp thu và thừa hƣởng tƣ tƣởng cao đẹp từ hai bậc thầy giáo và nhạc phụ Trần
Nguyên Đán, Nguyễn Phi Khanh đã đƣợc ngƣời đời ca tụng và kính trọng về đạo đức và tài
học. Ông vốn là ngƣời có tính cách điềm đạm và học vấn sâu rộng. Ông rất có ý thức về việc
giáo dục con cái. Họa lại bài thơ của ngƣời bạn đồng khoa là Phạm Nhân Khanh, Nguyễn Phi
Khanh có nói đến chuyện trồng cây để liên hệ đến chuyện dạy bảo con cái (Chủng thụ khóa
nhi đồng). Tƣ tƣởng của Nguyễn Phi Khanh một phần chịu ảnh hƣởng tƣ tƣởng nhân ái của
Tể tƣớng Trần Nguyên Đán. Ông chịu sự giáo dục khá sâu sắc của nhạc phụ và truyền lại cho
con là Nguyễn Trãi. Cuộc đời của Nguyễn Phi Khanh là cuộc đời lắm nỗi gian truân, cuộc
sống của ông là những ngày tháng gần gũi nhân dân, am hiểu và cảm thông sâu sắc về nỗi
khổ của nhân dân. Tƣ tƣởng tình cảm của ông luôn chất chứa ƣu tƣ về cuộc sống của nhân
dân. Chứng kiến bao cảnh khốn cùng, cơ cực của nhân dân cuối đời nhà Trần, cũng nhƣ Trần
Nguyên Đán - Nguyễn Phi Khanh muốn xẻ chia những nỗi đau ấy, ông đã từng bộc bạch lòng
mình qua những trang thơ đầy tâm huyết:
"Liên cừ vạn tính giai ngô dữ
Tị ốc thúy gia diện diện hàn'"
(Thù Đạo Khê thái học Xuân hàn vận)
Dịch nghĩa:
"Chỉ xót thương muôn họ là đồng bào ta
Nhà ai dó chen chúc, khuôn mặt nào cũng rét buốt"
(Họa vần bài thơ Xuân hàn của quan Thái Học Đạo Khê)
Trang 45
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
Mặt khác ông còn lên án bọn quan lại tham ô, vơ vét của dân trong lúc nhân dân đang
ngày càng đi vào con đƣờng đói rét, khốn cùng:
"Đạo huề thiên lý xích như thiêu
Điền dã hưu ta ý bất liêu..!
.... Lại tư võng cố hồn đa kiệt,
Dân mệnh cao chi bán dĩ tiêu..."
(Thôn cƣ cảm sự ký trình Băng Hồ tƣớng công)
Dịch nghĩa:
"Mênh mông đồng lúa đỏ như thiêu
Khắp chốn kêu than xiết nổi sầu !
.... Lưới tham quan lại vơ hầu kiệt,
Mỡ béo dân lành hút đã hao..."
(Ở thôn quê cảm động sự đời, gửi trình tƣớng công Băng Hồ)
Trong khi bày tỏ nỗi buồn của mình đối với thực trạng xã hội phong kiến cuối Trần đã
đến lúc suy vong mục ruỗng, Nguyễn Phi Khanh vẫn không tỏ ra tuyệt vọng buồng xuôi, mà
trái lại ông đã có nghị lực phi thƣờng vƣợt qua nỗi tuyệt vọng đó đến với ý chí nhiệt huyết để
cải tạo hoàn cảnh. Đó là nguyên nhân ông đã rời bỏ nhà Trần phò nhà Hồ nhằm giúp nhân
dân thoát khỏi cảnh lầm than. Khí phách của Nguyễn Phi Khanh tiêu biểu cho một tầng lớp
trí thức yêu nƣớc lúc đƣơng thời:
"An đắc thử thân đồng thác thược,
Hòa phong hư biến cửu châu tâm"
(Xuân hàn)
Dịch nghĩa:
"Thân này ví được làm cái bể thợ rèn
Thì sẽ phát nền những trận gió thổi vào cõi lòng mọi người ở chín châu"
Trang 46
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
Nguyễn Trãi đã đƣợc nuôi dƣỡng giáo dục trong một môi trƣờng hết sức tối ƣu, vì thế
Nguyễn Trãi đã tiếp thu đƣợc tấm lòng nhân hậu từ ông ngoại -Trần Nguyên Đán, tiếp nhận
và thừa hƣởng khí phách của một trung thần, tấc lòng của một sĩ phu yêu nƣớc - Nguyên Phi
Khanh. Nguyễn Trãi đã tiếp thu những tƣ tƣởng sâu rộng uyên thâm, những tâm hổn rộng mở
của những nhà Nho mực thƣớc, sống và hành động theo lẽ phải, biết dấn thân vào sự nghiệp
vì dân, vì nƣớc. Lý tƣởng đó đã đeo đẳng theo Nguyễn Trãi trong suốt chặng đƣờng đến đích:
"Đã mấy thu nay để lệ nhà,
Duyên nào đeo đẳng khó chăng tha.
Một thân lẩn quất đường khoa mục;
Hai chữ mơ màng việc quốc gia..."
(Ngôn chí - 7)
Ức Trai tiên sinh đã thừa hƣởng truyền thống giáo dục trong gia đình, đó là tƣ tƣởng
yêu nƣớc, thƣơng dân, thấm nhuần ý nghĩa lớn nhất của lẽ trung hiếu Nho gia, là sự nghiệp
xây dựng xã hội thịnh trị, thái bình. Phát huy mặt tích cực của Nho giáo, Nguyễn Trãi rất ý
thức về phƣơng châm sửa mình, về phong cách đối nhân xử thế, để từ đó hƣớng đến tƣ tƣởng
giáo dục rộng lớn. Mục đích của ông là muốn xây dựng một xã hội tốt đẹp. Truyền thống
giáo dục đẹp đẽ của gia đình đã bồi bổ thêm kiến thức cho Nguyễn Trãi, góp phần quan trọng
vào việc hình thành quan điểm giáo dục con ngƣời một cách sâu sắc. Đó là tâm nguyện mà
trong suốt bất kỳ hoàn cảnh nào Nguyễn Trãi cũng muốn đem nó rải khắp muôn dân:
"Vừa sáu mươi dư tám chín thu,
Lưng gầy da sỉ tướng lù khù...
.... Tơ hào chẳng có đền ơn chúa,
Dạy láng giềng mấy sĩ nho."
(Ngôn chí - 14)
Trang 47
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
2. Sự tiếp thu truyền thống tốt đẹp của dân tộc
Đƣợc sinh ra và nuôi dƣỡng bằng nguồn sữa văn hóa ngọt ngào của dân tộc, Nguyễn
Trãi luôn tự hào là con ngƣời Đại Việt:
"Duy ngã Đại Việt chi quốc,
Thực vi văn hiến chi bang.
Sơn xuyên chi phong vực kỷ thù,
Nam bắc chi phong tục diệc dị."
(Bình Ngô đại cáo)
Tâm hồn ông tràn ngập tình yêu quê hƣơng đất nƣớc. Vì thế mà tƣ tƣởng giáo dục của
Nguyễn Trãi mang đậm dấu ấn tƣ tƣởng giáo dục truyền thống của dân tộc với quan niệm
"nhân ái" đƣợc đề cao. Xét về mặt lịch sử thì thời cộng đồng, trong nội bộ thị tộc hay bộ tộc,
tƣ tƣởng cộng đồng và tình cảm yêu thƣơng là ý thức chủ đạo. Tinh thần đoàn kết, tinh thần
dân chủ trong cộng đồng ấy, dƣới những dạng khác nhau đã tồn tại qua thời gian trong khuôn
khổ của cộng đồng nông thôn. Ở đó nét đẹp của cuộc đời là "lá lành đùm lá rách", "bầu ơi
thƣơng lấy bí cùng", "tối lửa tắt đèn có nhau"...Khi có Nhà nƣớc, có giai cấp thống trị, con
ngƣời có thêm tƣ cách ngƣời dân. Trong quá trình đấu tranh giữ độc lập, tự do cho nƣớc nhà
nó sẽ gắn vào tình thƣơng ngƣời, thƣơng dân, thƣơng toàn thể đông bào. Những yếu tố truyền
thống đó đã có ý nghĩa tiền đề cho những vấn đề cơ bản trong lý tƣởng giáo dục của Nguyễn
Trãi.
Chủ nghĩa yêu nƣớc truyền thống của dân tộc ta có sức sống mãnh liệt và liên tục phát
triển. Tiếp thu truyền thống ấy Nguyễn Trãi đã tạo cho mình một sức mạnh và nghị lực vƣợt
qua giới hạn của thời đại, của giai cấp và đặc biệt là vƣợt khỏi khuôn khổ của hệ tƣ tƣởng
phong kiến Nho giáo đƣơng thời. Toàn bộ các mặt hợp thành tƣ tƣởng giáo dục vĩ đại của
Nguyễn Trãi đều bắt nguồn từ cái gốc truyền thống yêu nƣớc và tinh thần nhân đạo của dân
tộc, đó là hai mạch tƣ tƣởng xuyên suốt trong quá trình đấu tranh dựng nƣớc, giữ nƣớc của
lịch sử Việt Nam.
Trang 48
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
Thế kỷ XV, là thế kỷ thịnh trị của Nho giáo. Dƣới thời đại này có mấy ai không bƣớc
qua "cửa Khổng, sân Trình", không đội trên đầu chiếc khăn Nho giáo và giƣơng cao ngọn cờ
"Tam cƣơng, Ngũ thƣờng", những giáo điều "trung, tín, lễ, nghĩa". Vấn đề là ở chỗ họ đã tiếp
nhận tƣ tƣởng ấy nhƣ thế nào? Nho giáo du nhập vào Việt Nam từ trung Quốc, ở thế kỷ XV
nó đƣợc xem nhƣ một học thuyết chính thống để cai trị nhân dân. Do đó nó có ảnh hƣởng sâu
sắc đối với quan điểm giáo dục của Đại Việt lúc bấy giờ. Điều đặc biệt quan trọng là cho dù
Nho giáo vốn có lợi cho giai cấp phong kiến, vẫn không thể không chú ý đến lẽ phải, vẫn
không thể không chú ý đến nhân dân. Bởi vậy lý tƣởng giáo dục thời phong kiến vẫn không
ngoài phạm vi: trị nƣớc, an dân. Lý tƣởng đó đã đƣợc ghi trong sách Lễ Ký của Khổng Tử
nhƣ sau:
"Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại thân dân"
Dịch ngĩa:
"Cái đạo của Đại học là phải đạt được đức sáng để có thể đổi mới đời dân"
Nguyên lý đƣa ra thì đúng nhƣng có điều giai cấp thống trị - ngƣời tiếp thu nó có làm
đƣợc nhƣ vậy không. Chính bản thân Nguyễn Trãi đã khƣớc từ những định kiến, những luân
lý khắt nghiệt của Nho giáo, tiếp thu và chọn lọc những tinh hoa tích cực của các học thuyết
Nho - Phật - Lão, biến chúng thành đạo lý truyền thống Việt Nam một cách tích cực. Tƣ
tƣởng từ bi, bác ái, cứu khổ, cứu nạn luôn hƣớng con ngƣời đến với cái thiện đã gây xúc động
lòng ngƣời và trở thành nguồn gốc sâu xa của lòng nhân ái, của chủ nghĩa nhân đạo. Từ thời
Lý -Trần tinh thần từ bi, bác ái của Phật giáo thấm đẫm từ hành động cho đến việc làm của
các bậc quân vƣơng. Vị quốc sƣ chùa Yên Tử khuyên vua Trần Thái Tông, khi vua định bỏ
ngai vàng lên chùa đó: "Phàm đã làm vua trong tiên hạ, phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý
muốn của mình, phải lấy tấm lòng của thiên hạ làm tấm lòng của mình" (Thiền tông chỉ nam
tựa của Trần Thái Tông) (96). Những yếu tố tiến bộ trong học thuyết Lão Tử nhƣ chống đối tƣ
tƣởng truyền thống và chế độ đƣơng thời, đề cao thuyết vô vi, kẻ cầm quyền phải lấy đạo để
Trang 49
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
cảm hóa dân chúng, dùng hòa bình để thu phục thiên hạ, tất cả đã đƣợc Nguyễn Trãi tiếp thu
một cách nhuần nhị và tinh tế.
Có thể thấy trong cuộc đời hoạt động của Nguyễn Trãi xuất phát từ nguyên lý Khổng
- Mạnh, nhƣng tâm tƣ của ông vốn đã thấm đƣợm tinh thần yêu nƣớc, yêu ngƣời của nhân
dân ta từ viễn cổ, cộng thêm tinh thần từ bi, bác ái của đạo Phật về sau. Sự cộng hƣởng các
yếu tố tích cực đã làm cho tƣ tƣởng của Nguyễn Trãi vƣợt xa thời đại, mặt khác nó còn chịu
ảnh hƣởng không ít qua thực tiễn chiến đấu thời khỏi nghĩa Lam Sơn, mà bản thân Nguyễn
Trãi đã từng gắn bó. Trong suốt thời gian bị giam lỏng tại Đông Quan, thời gian lƣu lạc sống
trong nhân dân chính là lúc ông đang suy nghiệm những giá trị tích cực của nền văn hóa dân
tộc, những giá trị này đã ăn sâu vào tƣ tƣởng Nguyễn Trãi, làm nên một khí phách anh hùng,
một nhà tƣ tƣởng vĩ đại thế kỷ XV.
Nền văn hóa truyền thống Việt Nam chứa đựng một giá trị giáo dục to lớn, thông qua
lời ăn tiếng nói của nhân dân. Văn học dân gian ra đời từ rất sớm, nó là cơ sở nền tảng vững
chắc cho sự phát triển của văn học viết giai đọan sau. Khi văn học viết chƣa định hình, văn
học dân gian chiếm một địa vị vô cùng quan trọng trong việc phổ biến kinh nghiệm và động
viên sản xuất, trong việc cổ vũ lòng yêu nƣớc chống ngoại xâm, chống giai cấp thống trị và
lên án những thói hƣ tật xấu của con ngƣời. Nguyễn Trãi đã tiếp thu di sản vô cùng quý báu
đó, nhất là tƣ tƣởng giáo dục từ bộ phận văn học này. Bắt đầu từ những bản anh hùng ca,
truyền thuyết, cổ tích, cho đến ca dao, tục ngữ...Những hình tƣợng nhƣ vua Hùng, Sơn Tinh,
Thủy Tinh, ông Dóng, An Tiêm... đã đƣợc lƣu truyền trong dân gian. Không chỉ là một loại
hình nghệ thuật mà văn học dân gian còn chứa đựng cả những tác dụng giáo dục nhẹ nhàng
nhƣng sâu sắc. Nguyễn Trãi đã học tập và khắc ghi triết lý nhân sinh từ những bài học ấy.
Trong sự nghiệp thơ văn của ông chúng ta thấy rằng Ức Trai đã tắm mình trong dòng sữa
truyền thống ngọt ngào của văn học dân gian cho đến văn học viết. "Nguyễn Trãi là một
trong những nhà văn ưu tú bậc nhất trong lịch sử văn học Việt Nam, một đỉnh cao của thế kỷ
Trang 50
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
XV, người kết thúc chặng đường phát triển trên năm thế kỷ văn học thành văn đầu tiên mà
nhiệm vụ là tìm về dân tộc"(40).
Nguyễn Trãi là một trong những ngƣời tiếp thu không ít ảnh hƣởng của Hán học và
cũng là một trong những ngƣời góp phần công lao xứng đáng để đồng hóa rất nhiều vào kho
từ vựng Việt Nam. Ông đã cố gắng Việt hóa những phần vay mƣợn của Hán học. Từ câu
"Quân tử cố cùng" (nghĩa là ngƣời quân tử thì bền vững ngay trong lúc khốn cùng) trong sách
Luận Ngữ, Nguyễn Trãi viết:
"Khó bền mới phải người quân tử,
Mạnh gắng thì nên kẻ trượng phu."
(Trần tình - 7)
Từ câu "Nhân tâm chi bất đồng, nhƣ kỳ diện yên" (nghĩa là lòng ngƣời khác nhau nhƣ
nét mặt của họ trong sách Tả Truyện, ông viết:
"Lòng người tựa mặt ai ai khác;
Sự thế bằng cờ bước bước nghèo."
(Mạn thuật - 10)
Trong thơ Nôm của ông, ta thƣờng bắt gặp những khẩu ngữ quen thuộc của nhân dân.
Từ câu ca dao:
"Bể sâu còn có kẻ dò,
Lòng người nham hiểm ai đo cho cùng"
Trong thơ ông, ta bắt gặp hình ảnh ấy:
"Dễ hay ruột bể sâu cạn;
Khôn biết lòng người vắn dài"
(Ngôn chí - 5)
Từ câu thành ngữ "Sảy đàn tan nghé" và câu ca dao:
" Đất bụt mà ném chim trời,
Chim thì bay mất, đất rơi xuống chùa.''
Trang 51
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
Ông viết:
"Chua đàn nẻo khỏi, tan con nghé,
Hòn đất hầu làm mất cái chim.''
(Bảo kính cảnh giới - 23)
Ảnh hƣởng của Hán học và sự vay mƣợn từ vựng của nhau giữa các nƣớc láng giềng
là yếu tố tự nhiên trong quá trình giao lƣu văn hóa. Mặt khác sự học tập thơ ca dân gian là
điều thƣờng xảy ra ở các nhà thơ. Xuân Diệu có lần đã nói "Các nhà thơ đã học tập ở ca dao,
học tập tính giai cấp trong đó, học tập lập trường của người lao động, học tập cái hiện thực
của việc đời qua mấy nghìn năm, trong đó học tập các tương quan xã hội, học cái tương
quan nam nữ trong cái chế độ cũ, học tên đất, tên nước, tên chim muông, tên hoa cỏ..., học
máu và cả mồ hôi, nước mắt và cả nụ cười của những con người, nối hẹp hơn các nhà thơ đã
học được ở ca dao'' (138). Truyền thống cao đẹp, mộc mạc, giản dị trong ca dao, dân ca quả
thật vô cùng phong phú, và trong lịch sử văn học chƣa có nhân vật nào có thể học tập và khai
thác hết những giá trị quý báu của kho tàng văn học dân gian.
Nguyễn Trãi đã tiếp thu đạo lý truyền thống của dân tộc, đó là đạo đức làm ngƣời,
nhân nghĩa, hữu ái sống vì mọi ngƣời từ tục ngữ ca dao:
"Anh em cốt nhục đồng bào
Kẻ sau người trước phải hào cho vui
Lọ là ăn thịt ăn xôi
Quý hồ ở nết tới lui bằng lòng"
(Ca dao)
Đƣa khẩu ngữ hàng ngày vào thơ ca, Nguyễn Trãi đã sử dụng một cách khá thành
thục kho văn liệu dân gian với những cảnh sắc, những hình tƣợng vốn quen thuộc trong đời
sống nhân dân, ông đã khai thác một cách khá linh hoạt những khả năng phong phú của ngôn
ngữ Việt vốn đƣợc bồi dƣỡng trong thực
Trang 52
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
tiễn dân tộc, đồng thời ông đã tận dụng khả năng của những khẩu ngữ ấy để làm chất liệu,
phƣơng tiện truyền đạt, giáo dục, khuyên răn con ngƣời một cách nhuần nhị. Ngôn ngữ văn
học của Nguyễn Trãi có một phần bắt nguồn từ ngôn ngữ văn học dân gian. Ngôn ngữ trong
văn học dân gian vốn là sản phẩm đƣợc gọt giũa trong trí tuệ tập thể và cách điệu hóa từ ngôn
ngữ hàng ngày của nhân dân. Nguyễn Trãi đã sử dụng những hình tƣợng, những kết cấu ngôn
ngữ vốn đã đƣợc cô đúc trong văn học dân gian để biểu đạt- tình ý một cách tinh tế thâm
thúy.
Nguyễn Trãi đã kết hợp nhuần nhuyễn văn học dân gian và văn học viết với vốn tri
thức và vốn sống phong phú. Không những thơ văn ông có giá trị về mặt ngôn ngữ, có giá trị
nghệ thuật cao, mà tƣ tƣởng còn mênh mông trong sáng đến lạ thƣờng, tinh thần nhân văn,
nhân đạo và đạo lý truyền thống luôn đƣợc đề cao, ông đã khai thác và đi sâu vào việc coi
trọng lao động, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống, tôn trọng tự do tín ngƣỡng,
cách đối nhân xử thế trong xã hội... Nguyễn Trãi là một trong những tác gia thể hiện tập trung
nhất và cảm động nhất giá trị nhân văn, nhân đạo trong thơ văn mình. Nhân tố truyền thống
dân tộc và gia đình là nền tảng, là cơ sở vững chắc cho tƣ tƣởng, quan niệm giáo dục con
ngƣời của Nguyễn Trãi. Ông đã kế thừa và phát huy tinh thần rộng mở đón nhận sự hòa hợp
của dân tộc để tiếp thu có chọn lọc những yếu tố tích cực của các giá trị tinh thần từ bên
ngoài vào làm cho tƣ tƣởng trở nên tiến bộ.
Trong bài thơ mừng Nguyễn Trãi nhận chức Gián Nghị Đại Phu, Phan Phu Tiên đã
nói rõ ý nguyện lớn lao của Nguyễn Trãi dù ở bất cứ cƣơng vị nào:
"Sinh tri tiên giác, giác tư dân"
Dịch nghĩa:
"Sinh ra đã tự mình biết giác ngộ trước, rồi lo giác ngộ cho dân sau"
Trang 53
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
II. Tƣ tƣởng Nguyễn Trãi về con ngƣời và quan điểm giáo dục của Nguyễn
Trãi
1. Tƣ tƣởng của Nguyễn Trãi về con ngƣời
1.1. Thực chất tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi
Nguyễn Trãi là một nhà chính trị sáng suốt, một nhà quân sự lỗi lạc, một nhà ngoại
giao thiên tài, đồng thời cũng là nhà nghiên cứu sử, địa, nhà thơ lớn và còn là nhà giáo dục vĩ
đại.
Suốt trong lịch sử nƣớc ta trƣớc thời đại khoa học, chƣa có bao giờ có một nhân vật
nào mà tƣ tƣởng chính tri lại chi phối một cách sáng suốt cả chủ trƣơng, hành động nhƣ
Nguyễn Trãi và cũng chƣa bao giờ có những tác phẩm nào mà tƣ tƣởng chính trị đó lại đóng
vai trò chỉ đạo chặt chẽ và nhất trí nhƣ trong thơ văn Nguyễn Trãi.
Tƣ tƣởng chính trị đó chủ yêu là tƣ tƣởng nhân nghĩa.
"Nhân nghĩa" vốn là khái niệm vay mƣợn của Nho giáo Trung Quốc, đƣợc hiểu theo
hai phạm trù đạo đức "nhân" và "nghĩa". Dƣới thời Khổng Tử - Mạnh Tử hai ông muốn cứu
văn trật tự xã hội nên đề cao nhân nghĩa nhằm tạo cho xã hội có tôn ti, trật tự vua ra vua, tôi
ra tôi. Vào Việt Nam nó đã bị Việt hóa trên cơ sở tƣ tƣởng yêu nƣớc và tinh thần nhân đạo,
tuy hình thức không thay đổi, nhƣng nội hàm không còn những ý nghĩa gốc theo học thuyết
Nho giáo Trung Quốc đề ra. Đối với Nguyễn Trãi "nhân nghĩa" có nội dung lịch sử cụ thể, nó
bắt nguồn từ truyền thống đấu tranh dựng nƣớc, giữ nƣớc của dân tộc Việt Nam từ thời Bà
Trƣng, Bà Triệu chống lại nhà Hán., để bảo vệ đất nƣớc, bảo vệ nhân dân.
Tƣ tƣởng chính trị, xã hội triết lý của Nguyễn Trãi là nhân nghĩa quán triệt từ đầu đến
cuối, phát triển trên cơ sở chủ nghĩa yêu nƣớc và thân dân. Nguyễn Trãi đã lấy nhân nghĩa
làm cờ giải phóng dân tộc; lấy nhân nghĩa để hun đúc tinh thần tƣớng sĩ, quân lính và dân
chúng; dùng nhân nghĩa mà đối đãi với giặc
Trang 54
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
lúc chúng bại trận; dựa trên cơ sở nhân nghĩa mà vạch đƣờng lối đối ngoại để "dập tắt chiến
tranh muôn đời". Và khi nhà nƣớc tự chủ thì việc trị nƣớc theo Nguyễn Trãi cũng phải dùng
nhân nghĩa để "an dân". Với lý tƣởng ấy, Nguyễn Trãi đã phấn đấu không mệt mỏi cho độc
lập dân tộc, cho đất nƣớc giàu mạnh, cho cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân và mong
muốn mọi quốc gia dân tộc đƣợc tồn tại trong độc lập hòa bình. Nguyễn Trãi đã kiên quyết
đập tan chiến tranh xâm lƣợc và nền đô hộ của giặc Minh là để "xã tắc bền vững", "non sông
đẹp tươi", "mở nền thái bình muôn thuở' ( Bình Ngô đại cáo) và để "không những sinh linh
nước tôi được khỏi lầm than mà binh sĩ Trung Quốc cũng khỏi nỗi khổ gươm đao" và "hai
nước thoát khỏi cái họa binh đao"(Quân trung từ mệnh tập).
Trong điều kiện lịch sử xã hội thế kỷ XV, tƣ tƣởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi rất
tiến bộ cho nên trong tác phẩm của mình Nguyễn Trãi đã nêu lên đƣợc cốt lõi của tƣ tƣởng
nhân nghĩa " Đời loạn thì dùng võ, thời bình thì dùng văn. Ngày nay định ra lễ nhạc, chính là
phải thời lắm. Song không có gốc thì không thể đứng vững, không có văn thì không thể lưu
hành. Hòa bình là gốc của nhạc, thanh âm là văn của nhạc. Thần phụng chiếu định ra âm
nhạc, không dám không gắng hết tâm lực. Song học vấn sơ sài, nông cạn, sợ trong áng thanh
luật khó làm được hài hòa. Dám mong bệ hạ rũ lòng yêu thương và chăn nuôi muôn dân,
khiến trong thôn cùng xóm vắng không có một tiếng hờn giận, oán sầu, đó tức là các gốc của
nhạc".( Lời tâu với vua Lê Thái Tông).
Thực chất và nội dung cơ bản của tƣ tƣởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi xét đến cùng
là chủ nghĩa yêu nƣớc, ý thức độc lập dân tộc kết hợp với lòng thƣơng dân, tinh thần nhân
đạo và ƣớc vọng hòa bình.
"Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân.
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo"
(Bình Ngô đại cáo)
Trang 55
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
1.2. Con người ái quốc, ưu dân, anh hùng
Chúng ta thấy rằng từ lúc sinh thời cho đến khi lìa đời Nguyễn Trãi luôn tâm niệm
một điều là bất cứ làm việc gì cũng lấy "nhân nghĩa" làm đầu "Phàm mưu việc lớn phải lấy
nhân nghĩa làm gốc, nên công to phải lấy nhân nghĩa làm đầu. Dùng nhân nghĩa gồm đủ thì
công việc mới thành đạt được" (Quân trung từ mệnh tập). Chính vì thế Nguyễn Trãi luôn ƣớc
ao xây dựng một mẫu ngƣời có nhân, có nghĩa. Xuất phát từ quan niệm trên, con ngƣời
Nguyễn Trãi ngợi ca là con ngƣời ƣu quốc, ái dân, anh hùng.
Quan niệm anh hùng, cảm quan anh hùng từ xƣa đã đƣợc ngợi ca trên những trang
văn thơ của nhiều thế hệ tác giả Việt Nam, tuy chƣa nhiều và thật đặc sắc phong phú, song đã
phản ánh đƣợc cái phần bản chất nhất, cao đẹp nhất sự nghiệp anh hùng của dân tộc trong
lịch sử. Nguyễn Trãi là một trong những nhà văn, nhà thơ viết về ngƣời anh hùng, có những
cống hiến nổi bật.
Nguyễn Trãi không có nhiều lời bàn luận về quan niệm anh hùng, nhƣng qua thơ văn
ông chúng ta thấy đƣợc những tiêu chí tƣơng đối xác định. Trong sáng tác thơ văn của mình,
Nguyễn Trãi đã dùng nhiều chỗ viết về lớp ngƣời mà ông thƣờng gọi là "anh hùng", "anh
hào", "hào kiệt", "tuấn kiệt", "nhân tài", "những kẻ trí mƣu tài thức", "nhân dân quân tử",
"những tƣớng võ dũng"... Đây là những ngƣời lãnh đạo, chỉ huy, tham mƣu trong hàng ngũ
nghĩa quân hoặc những ngƣời ƣu tú có chí lớn, tài cao đức trọng, tiêu biểu cho nền văn hiến
dân tộc, trong đó vị trí nổi bật là ngƣời anh hùng. Trong thơ văn Nguyễn Trãi hàng chục lần
xuất hiện thuật ngữ anh hùng và một số thuật ngữ từ đồng nghĩa "anh hào", "hào kiệt", "tuấn
kiệt"... Nguyễn Trãi dùng để chỉ những tính cách, phẩm chất, anh hùng hoặc là những con
ngƣời xuất chúng có ý chí, tài năng, đức độ, dám làm những việc lớn.
Trang 56
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
Quan niệm con ngƣời anh hùng của Nguyễn Trãi có những tiêu chí đòi hỏi rất cao:
"Trừ độc trừ tham trừ bạo ngược.
Có nhân có trí có anh hùng"
"Nhân" và "trí" là phẩm chất hàng đầu của ngƣời anh hùng. Ngƣời anh hùng dùng
"nhân" (đức độ), "trí" (tài năng) của mình, trong đó "nhân" là cao nhất để "khử bạo", "trừ
tham"... Nếu cho rằng "nhân nghĩa của Nguyễn Trãi thực chất là phấn đấu đến cùng chống
ngoại xâm, diệt tàn bạo, vì độc lập của đất nước, vì hạnh phúc của nhân dân" (Phạm Văn
Đồng), thì khi nói 'có nhân có trí có anh hùng", Nguyễn Trãi đã khẳng định lý tƣởng giải
phóng dân tộc - một lý tƣởng có ý nghĩa chính trị, xã hội sâu sắc của ngƣời anh hùng. Đồng
thời khẳng định lý tƣởng đấu tranh cho công lý xã hội, chống áp bức, xây dựng xã hội văn trị,
thái bình, giành quyền sống cho nhân dân. Con ngƣời anh hùng trong quan niệm của Nguyễn
Trãi có nhiều phẩm chất cao đẹp của chủ nghĩa anh hùng và nhân vật anh hùng, nó xuất phát
từ truyền thống yêu nƣớc, truyền thống anh hùng của dân tộc, từ cuộc chiến tranh giải phóng
dân tộc vĩ đại ở thời đại ông và thông qua cuộc đời anh hùng đầy nỗi xót đau, giằng xé lòng
ông. Đó là những con ngƣời nổi bật về chí lớn, tài cao trong sự nghiệp giải phóng dân tộc,
giải phóng đất nƣớc, biết giấu chí, chờ đợi thời cơ, chịu đựng gian khổ, khắc phục hiểm nguy,
quyết chiến, quyết thắng, son sắt một lòng tin tƣởng tuyệt đối vào nghĩa lớn tất thắng.
Nguyễn Trãi đã khẳng định lý tƣởng và phẩm chất ngƣời anh hùng trong dòng vận động của
thời gian và trong mối quan hệ với cuộc sống, đổng thời đã góp những quan niệm mới phù
hợp với lịch sử phát triển mẫu ngƣời anh hùng của thời đại.
1.3. Con người quân tử
Ngƣời quân tử trong quan niệm của Nguyễn Trãi là ngƣời "Phú quý bất năng dâm,
bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất", nghĩa là những con ngƣời
Trang 57
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
có khí tiết thanh cao nhƣ hoa mai nở sớm, tùng bách rụng sau, con ngƣời không màng danh
lợi, không làm điều bất nhân phi nghĩa, sống giản dị, đạm bạc để giữ tròn khí tiết.
Quan niêm về ngƣời quân tử nhƣ vậy, nên suốt đời Nguyễn Trãi tu dƣỡng bản thân
mình theo khuôn mẫu của ngƣời quân tử, sống vì dân, vì nƣớc trọn đời, trƣớc bọn quyền thần
ông không khuất phục để vƣơn lên bảo vệ công lý, chính nghĩa. Trong chiến tranh lấy lòng
quân tử để đối xử với bọn tiểu nhân, hiếu chiến, trong thời bình thì lấy lòng quân tử cảm hóa
quân vƣơng, quan lại và nhân dân. Tất cả những việc làm của Nguyễn Trãi trong chiến đấu
cũng nhƣ lúc thái bình thịnh trị đều nêu cao nhân nghĩa, tài đức vẹn toàn.
Nguyễn Trãi đã lồng con ngƣời ƣu quốc, ái dân, anh hùng vào trong con ngƣời quân
tử, một con ngƣời dù sống trong hiểm nguy gian khổ vẫn không thay lòng đổi dạ, vẫn sắc son
thủy chung nêu cao nghĩa khí chính trung, đấu tranh vì lẽ phải, chống gian tà hại dân, hại
nƣớc.
1.4. Bản sắc Việt Nam trong quan niệm về con người của Nguyễn Trãi
Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam tất yếu ngày càng dành địa vị ƣu thắng của Nho
giáo. Phật giáo, Đạo giáo dù sao cũng không phải đạo trị dân. Từ giữa đời Trần Nho sĩ bắt
đầu công kích nhà chùa. Nhƣng nhìn chung thời Lý -Trần coi trọng cả ba giáo, trên cơ sở
truyền thống yêu nƣớc và nhân ái, kết tinh những mặt sáng ngời trƣớc và sau ít thấy trong
thời phong kiến. Nó không phải là một tinh thần chiết trung hay thỏa hiệp mà là một sự tích
hợp quanh một cốt vững chắc là cốt lõi dân tộc, những nhân tố tích cực, phù hợp của ngoại
lai cho nên nó là một sự nâng cao sáng rỡ.
Nguyễn Trãi đã tiếp thu đƣợc tinh thần ấy. Hiểu Nho học, nhƣng không sách vở, mà
theo yêu cầu của đời sống Việt Nam, nên nhân nghĩa không giống
Trang 58
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
Khổng - Mạnh. Không đi tu nhƣng lại nhập điệu đạo Thiền đến độ biến ra thơ, chứ không
phải hiểu. Lên chùa Tiên Du là nhƣ ngộ đƣợc đạo theo pháp chỉ của Thiền "vô ngôn, đốn
ngộ" . Tâm sự một đêm với nhà sƣ bạn cũ, tâm đầu, ý hợp đến kỳ lạ. Cuối cùng lại nói 'Từ
biệt nhau rồi, ta cũng sẽ đi tu đạo Thượng Thừa" (Đƣa sƣ Đạo Khiêm về núi). Mặt khác
trong thơ văn Nguyễn Trãi Đạo giáo, Đạo gia cũng ảnh hƣởng vô số, từ những chuyện mê tín
không xa lạ trong thế giới quan Trung đại đã đi vào "Lam Sơn thực lục", "Văn bia Vĩnh
Lăng"....
"Tinh thần rộng mở ở Nguyễn Trãi thể hiện trong nhân sinh quan của ông là xuất thế,
nhập thế. Nho học có quan niệm hành tàng, xuất xử, nhƣng là một học thuyết nhập thế. Phật
giáo, Đạo giáo đều xuất thế. Tinh thần rộng mở từ thời Lý - Trần đã tiếp nhận nhập thế của
Phật và Đạo vốn là cái xuất thế, cái xuất của Nho đi từ cái xử. Nho giáo vốn là học thuyết
chính trị khô khan, đạo đức nghiêm khắc, thì cảnh u tịch của Phật, cảnh thoát trần thanh thoát
của Đạo hòa vào. Cái hành, cái tàng của nhà Nho bị động và cứng nhắc thì có nhập mà xuất,
có xuất mà nhập của nhà Phật, nhà Tiên bồi bổ. Giữ thăng bằng cho sự tình có về trái ngƣợc,
ấy là bản lĩnh của ngƣời Việt, bản lĩnh vững chắc mà thanh cao, yêu nƣớc thƣơng dân trên
hết, và bên cạnh cũng có thể làm Nho, làm Phật, làm tiên, mà chính Trần Thái Tông trong
"Thiền tông chỉ nam tự " đã đề cao. Đó là sự kết tinh cao đẹp tinh thần rộng mở trong con
ngƣời Nguyễn Trãi"(95).
Nguyễn Trãi quan niệm "Lâu nay xuất xử cũng tương đồng" ( Họa vần ngƣời làng...)
và " Chưa xuất gia thì hãy ở nhà" ( Hoa bài Yên hà). Hầu nhƣ đó là một quan niệm xuất hay
xử đều giống nhau, nhƣng trong cái giống nhau lại có cái khác nhau.
Tâm hồn rộng mở của Nguyễn Trãi thể hiện rất rõ, ông đã từng nói 'Tiêu sái mấy lòng
đà mạc được - Bảo chăng khứng mạc một lòng thơm" (Tự thán -27), hay "Chẳng Bụt chẳng
Tiên ắt chẳng phàm" (Tự thán - 27) và rõ hơn là:
"Dù Bụt dù Tiền ai kẻ hỏi
Ông này đã có thú ông này"
(Mạn thuật - 6)
Trang 59
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
Hoặc : "Ai hay ai chẳng hay thì chớ
Bui một ta khen ta hữu tình"
(Tự thán -13)
Và: "Vu khoát đời ta mang bệnh ấy
Chưa đành không thuật, tuổi thềm ra"
(Ngẫu nhiên làm)
Tấm lòng thơm không sao vẽ ra đƣợc, bệnh vu khoát không thuốc nào chữa đƣợc mà
càng gia tăng, cái thú riêng ông này, cái hữu tình mà ta khen ta ấy... tất cả là những nét bản
sắc truyền thống Việt Nam từ thời Lý - Trần của kẻ làm trai "tự hữu xung thiên chí'' trong đó
có cả tinh thần vô ngã, vô ngôn, vô ý.. cộng với thái độ nhập thế tích cực cua Nho giáo thịnh
hành đầu Lê đƣợc kết tinh trong con ngƣời Nguyễn Trãi.
Nguyễn Trãi không tu Phật, tu Tiên để thành Phật, thành Tiên xa lánh cõi đời, ông
không phải là "cao sĩ" giấu mình để độc thiện kỳ thân, ông là một trí thức Việt Nam yêu
nƣớc, thƣơng dân, chỉ những muốn cứu nƣớc, yên dân, nhƣng trí tuệ thật rộng mở, đón nhận
ánh sáng mọi nơi để làm giàu lòng yêu nƣớc thƣơng dân, và trong quan niệm nhân sinh, cách
sống của mình, vừa làm việc hết mình cho dân cho nƣớc, nhƣng lòng bao giờ cũng sạch, nhẹ
nhƣ kẻ xuất gia, không hề nặng danh lợi của kiếp trần, mà cũng vừa biết sống lành mạnh, vui
tƣơi giữa cuộc đời. Tinh thần rộng mở này thể hiện rất rõ ở thời đại phục hƣng dân tộc từ thế
kỷ X đến thể kỷ XIV, chủ yếu là ở hai triều đại Lý - Trần, cùng với tinh thần dân chủ tiến bộ
nó đã kết tinh thành chất Việt Nam thời Đại Việt. Do nhiều nguyên nhân Nguyễn Trãi đã
thấm nhuần chất ấy một cách sâu sắc và phát huy rạng rỡ thêm trong thực tiễn chiến tranh
giải phóng anh hùng. Có thể nói Nguyễn Trãi đã thể hiện rõ bản sắc Việt Nam trong quan
niệm về con ngƣời.
Trang 60
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
2. Quan điểm giáo dục con ngƣời trong thơ văn Nguyễn Trãi
2.1. Một quan điểm giáo dục mang tính nhân văn
Hơn sáu trăm năm qua, Nguyễn Trãi đã sống với đất nƣớc với dân tộc, với nhân dân
không chỉ ở xã hội Việt Nam thế kỷ XV, mà tên tuổi của ông mãi mãi trƣờng tồn cùng các
thế hệ ngƣời Việt Nam trong sự trân trọng, kính yêu. Cho đến hôm nay, Nguyễn Trãi đã trở
thành danh nhân văn hóa sống mãi trong lòng nhân loại.
Nghiên cứu, đánh giá về cuộc đời và sự nghiệp Nguyễn Trãi, trƣớc đây ngƣời ta vẫn
nhận định rằng Nguyễn Trãi là một nhà chính trị lỗi lạc, nhà chiến lƣợc thiên tài, nhà ngoại
giao xuất sắc, nhà tƣ tƣởng văn hóa tiêu biểu cho truyền thống cao đẹp của dân tộc Việt Nam,
một nhà văn, nhà thơ vĩ đại đã để lại những áng văn chƣơng bất hủ có sức mạnh nhƣ "mƣời
vạn hùng binh" có thể "làm vẻ vang đất nƣớc". Và cũng rất thiếu sót, bất cập khi chúng ta
quên đi một điều ghi nhận Ức Trai tiên sinh còn là một nhà giáo, một ngƣời thầy chân chính
và vĩ đại. Tƣ tƣởng giáo dục của ông là đào tạo con ngƣời tốt đẹp cho một xã hội tốt đẹp.
Nguyễn Trãi là nhà giáo dục không phải vì ông từng ngồi ở cƣơng vị là thầy dạy học,
mà ở chỗ ông luôn ý thức đƣợc việc trao truyền kinh nghiệm, điều hay lẽ phải để xây dựng
những nhân cách tốt đẹp, những tâm hồn cao thƣợng, những giá trị con ngƣời quý báu cho
mọi ngƣời xung quanh, mang đến lợi ích cho quốc gia cho triều đại mình đang phù ủng. Hiểu
đúng và thấy đƣợc ý nghĩa tác dụng to lớn của công việc đào tạo con ngƣời, Nguyễn Trãi
không muốn dừng sự nghiệp của mình lại:
"Chạnh yên hà, trải một gian,
Quét đất thiêu hương giảng ngũ kinh"
(Tức sự)
Trang 61
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
Ông muốn đƣa lý tƣởng của mình bay cao và đi xa hơn. Ông muốn xây dựng một xã
hội yên bình, thịnh trị, một xã hội có vua sáng, tôi hiền. Chính vì thế Nguyễn Trãi đã đƣa ra
một phƣơng châm sửa mình, về phong cách xử thế, và muốn xây dựng một xã hội tốt đẹp, thì
tự mình phải là hạt nhân của sự tốt đẹp đó, nhƣ ông nói là tự mình phải là "cốt lãnh hồn thanh
chân khứng hoa" (Thuật hứng - 9), hay phải có một nhân cách và tâm hồn trong sạch không
bị tha hóa. Do vậy ông đã lao động miệt mài đến quên mình, tất cả chỉ vì mong mõi một điều
"tạo phúc cho dân".
"Tơ hào chẳng cố đền ơn chua,
Dạy láng giềng mấy sĩ nho"
(Ngôn chí - 14)
Thừa hƣởng và tiếp thu tƣ tƣởng lớn nhất của ông cha là tƣ tƣởng yêu nƣớc, thƣơng
dân, thấm nhuần ý nghĩa lớn nhất của lẽ hiếu trung là sự nghiệp vì dân, vì nƣớc. Nguyễn Trãi
hiện ra trong lòng xã hội thế kỷ XV là một thầy giáo mẫu mực và tiến bộ. Xuất thân trong gia
đình có truyền thống giáo dục, Nguyễn Trãi xiết bao sung sƣớng và tự hào khi cha mình là
ngƣời thầy nổi tiếng về văn hay, chữ tốt và có tấm lòng nhân hậu, đƣợc mọi ngƣời ca tụng và
trân trọng. Nguyễn Trãi vô cùng diễm phúc khi tiếp tục sự nghiệp giáo dục của cha. Tuy
không có một bề dày về hoạt động giảng dạy, nhƣng toàn bộ sự nghiệp thơ văn của ông là
một kho tàng tƣ liệu quý báu về giáo dục con ngƣời. Nghiên cứu vấn đề này, một lần nữa các
thế hệ hậu sinh lại tiếp tục khẳng định công lao to lớn của Nguyễn Trãi, một nhà giáo dục vĩ
đại, một ngƣời thầy mẫu mực, giản dị, tài năng và nhân đức.
Sống trong khuôn khổ chế độ phong kiến thế kỷ XV, khi mà Nho giáo ở giai đoạn cực
thịnh, các nhân sĩ không còn cách gì khác là phải học tập, thi cử qua sử sách bằng chữ Hán
nhƣ "Tứ thƣ", "Ngũ kinh" của Trung Quốc. Khuôn
Trang 62
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
mẫu của đạo lý là khuôn mẫu của thánh hiền, tức đạo "Khổng Chu" (Khổng Tử, Chu Công
Đán) mà Nguyễn Trãi hay nhắc tói:
"Quân thán chưa báo lòng canh cánh;
Tình phụ ơn trời áo cha."
(Ngôn chí - 7)
Trong khuôn mẫu của sự trói buộc ấy, con ngƣời Việt Nam ở giai đoạn này rất bị hạn
chế về tài năng và tƣ tƣởng. Và đáng tự hào biết bao trong khuôn khổ ấy lại xuất hiện một trí
thức Nho học quý tộc - Nguyễn Trãi có đƣợc một tƣ tƣởng yêu nƣớc, thƣơng dân tiến bộ:
"Bui một tấc lòng ưu ái cũ,
Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông."
(Thuật hứng - 5)
Không phải bất cứ một quan lại nào trong guồng máy chế độ phong kiến, cũng có
đƣợc lòng yêu nƣớc, thƣơng dân một cách chân thành nhƣ vậy. Chỉ có những vị có phẩm chất
tốt đẹp, có chí khí thanh cao, có tâm hồn trong sáng, có cốt cách nhƣ "hoa mai nở sớm" nhƣ
"tùng bách rụng sau", mới thật sự có lòng yêu nƣớc, mƣu cầu hạnh phúc cho dân, tất nhiên
không thể thoát đƣợc khuôn khổ của thể chế phong kiến ở phƣơng đông. Trong sự nghiệp thơ
văn ông, hình ảnh ông hiện lên không phải là một vị đại thần xênh xang áo mão, võng lọng
mà là một ông đồ với một phong thái ung dung tự tại, một phong cách giản dị, mộc mạc chân
quê, nhƣng ẩn chƣa bên trong một tấm lòng cao đẹp. Tƣ tƣởng của Nguyễn Trãi luôn hƣớng
đến cái đẹp khoáng đạt, rộng mở, giải phóng con ngƣời vƣợt khỏi những định kiến khắt khe
của Nho giáo. Trí tuệ của Nguyễn Trãi là sự hòa hợp những tinh hoa của ba học thuyết Nho -
Phật - Đạo, ông là tri thức của nền giáo dục ở giai đoạn có thi "Tam giáo" cuối Trần - đầu Lê,
những quy phạm của nó buộc con ngƣời không thể tự ý vƣợt qua mà phải tuân thủ theo một
Trang 63
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
nguyên tắc chặt chẽ. Tuy nhiên, lý thuyết sách vở không phải là yếu tố duy nhất quyết định
nên nhân cách, nó chỉ là nguồn hình thành nhân cách. Cái quyết định quan trọng trong việc
hình thành nhân cách cá nhân chính là quan niệm sống là lý tƣởng sống của cá nhân ấy.
Nguyễn Trãi đƣợc ngợi ca và trân trọng bởi ông có một nhân cách cao đẹp, một lối sống hoạt
động luôn muốn tìm về cho con ngƣời những điều tốt đẹp trong cuộc sống và luôn bảo vệ
công lý.
Tƣ tƣởng giáo dục của Nguyễn Trãi, tuy bắt nguồn từ "cửa Khổng" "sân Trình" nhƣng
nó đã vƣợt lên trên những định kiến hẹp hòi, mang tinh thần khoáng đạt, rộng mở nhiều hơn
so với nội dung giáo dục của Nho giáo. Ông giáo dục con ngƣời hƣóng đến những điều tốt
đẹp. Tƣ tƣởng giáo dục của ông đã san bằng những rào cản của khuôn khổ phong kiến để xây
dựng nên một truyền thống đạo đức của dân tộc. Nguyễn Trãi quan niệm rằng con ngƣời tiếp
xúc với văn chƣơng, có văn chƣơng thì tâm hồn rộng mở, phong phú, thanh cao hơn, biết
sống đẹp hơn. Ở Nguyễn Trãi con ngƣời hành động và con ngƣời sáng tác gắn bó với nhau,
nƣơng tựa vào nhau, hỗ trợ cho nhau. Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi là một mẫu mực về sự gắn
bó giữa nhà văn và ngƣời chiến sĩ đấu tranh vì Tổ Quốc, vì nhân dân, vì con ngƣời. Vì suốt
đời ôm ấp lý tƣởng lo cho Tổ Quốc đƣợc thái bình thinh trị cho nhân dân đƣợc yên vui mà
Nguyễn Trãi đã có đƣợc hồn thơ cao cả, tứ thơ phong phú. ôm mối tiên ƣu, Nguyễn Trãi tỏ ra
rất tự hào về trách nhiệm của ngƣời cầm bút:
"Văn chương chép lây đòi câu thánh;
Sự nghiệp tua gìn phải đạo trung.
Trừ độc trừ tham trừ bạo ngược;
Có nhân cố trí có anh hùng"
(Bảo kính cảnh giới - 5)
Trang 64
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
Quan niệm về văn chƣơng nhƣ thế, Nguyễn Trãi đã hƣớng con ngƣời đến với những
giá trị cao đẹp của văn nghệ, đến với lý tƣởng thẩm mĩ trong thơ, trong nhạc:
"Cầm sách cùng nhau ngày tháng trường"
(Tức sự - 6)
Đàn và sách là hai ngƣời bạn tâm giao của ông, nhƣng không phải là những thú ham
mê tự phát, hay cảm tính, mà nó là sự kết tinh của trí tuệ, của tinh hoa nhân loại, là một kho
tàng tri thức của cuộc sống.
Có một tâm hồn phóng khoáng và rộng mở, Nguyễn Trãi đã lắng nghe và suy nghiệm
tiếng khánh đá vẳng lên trong không trung xuyên qua mây xanh, rồi dội lại nơi đạo viện thâm
u. Những lúc ấy, tâm hồn Nguyễn Trãi cũng mở rộng với cảm giác lâng lâng theo tiếng nhạc,
thoát khỏi trần gian chật hẹp, bay bổng diệu kỳ:
''Tùng hoa lạc địa kim đàn tĩnh;
Khánh hưởng xuyên vần đạo viện thâm''
(Đề Ngọc Thanh quán)
Dịch nghĩa:
"Hoa tùng rụng đất, kim đàn lặng lẽ,
Tiếng khánh thấu mây, đạo viên thẳm sâu."
Khác với quan niệm cực đoan, sai lầm của bọn hủ Nho, cho rằng trong nhà có đàn
nhạc, con cái sinh hƣ "Gia hữu cầm, nữ tắc dâm...", Nguyễn Trãi xem nhạc là một yếu tố của
"Lễ".
"Lễ nhạc nhàn chơi đạo Khổng - Chu"
Vì vậy ông không hề sợ bên cạnh sách vở trong nhà còn có cây đàn mà hủ
Trang 65
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
Nho cho là nguyên nhân hƣ hỏng con cái. Ông xem đó là một công cụ giáo dƣỡng tốt
nhất cho trẻ thơ:
"Gia hữu cầm thư nhi bối lạc"
(Mạn thành - 2)
Dịch nghĩa:
"Trong nhà có đàn, sách, bầy trẻ vui vầy"
Với quan niệm phóng khoáng, khai thác đƣợc những cung bậc của tâm hồn để đi đến
giáo dục, Nguyễn Trãi không những là một ngƣời yêu thích âm nhạc, thƣởng thức âm nhạc,
mà ông còn là một ngƣời biết sử dụng nhạc khí, một "cầm giả" thật sự, biết dùng âm nhạc
nhƣ một biện pháp tu dƣỡng tƣ tƣởng tình cảm, một phƣơng tiện giải trí tao nhã, một phƣơng
tiện ngụ ý, ký thác tâm sự, một phƣơng tiện bộc lộ tâm tƣ, ý chí và hoài bão:
"Độc bãi quần thư vô cá sự;
Lão mai song bạn lý dao cầm."
(Thu nguyệt ngẫu thành)
Dịch nghĩa:
"Đọc hết sách chẳng thấy có việc gì;
Mai già bên cửa sổ ngồi gảy đàn ngọc"
"Ngọ song thụy tỉnh hồn vô mỵ
Ẩn kỷ phần hương lý ngọc cầm"
(Tức hứng)
Dịch nghĩa:
"Bên cửa sổ ngủ tỉnh rồi không nằm nghỉ nữa
Dựa ghế đốt hương lý đàn ngọc"
Trang 66
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
Nguyễn Trãi đã truyền cho mọi ngƣời một tƣ tƣởng vô cùng rộng mở. Ông đƣa con
ngƣời vƣợt khỏi khuôn khổ hạn hẹp của chế độ phong kiến Nho giáo, nhƣng vẫn bảo tồn
đƣợc đạo đức truyền thống dân tộc. Đến với quan điểm giáo dục của Nguyễn Trãi, con ngƣời
sẽ không còn thấy cuộc sống quá nhọc nhằn với những nỗi lo toan "cơm, áo, gạo, tiền", Ông
đƣa con ngƣời đến những phút giây thanh thản tâm hồn. Chịu ảnh hƣởng tƣ tƣởng văn thơ Lý
- Trần ngay trong gia đình với bố ông - Nguyễn Phi Khanh và ông ngoại Trần Nguyên Đán,
thơ văn ông tuy có hƣơng vị của sự "tiêu tao" nhƣng không thoát ly hiện thực. Ông đã nhìn
thẳng vào hiện thực suy xét nó bằng con mắt tỉnh táo. Văn chƣơng nhạc họa là chỗ bộc bạch
tâm tình, những rung động cảm khái trƣớc cuộc đời mình và cuộc đời chung, để vui, để buồn
để răn dạy con cái, để mơ ƣớc cho ngày mai, để an ủi và nói lên chí nguyện của mình.
Tƣ tƣởng giáo dục của Nguyễn Trãi đã đạt đƣợc một bƣớc tiến bộ so với thời đại của
ông. Tƣ tƣởng ấy sẽ làm nền tảng cơ bản trong lý tƣởng giáo dục con ngƣời toàn diện đối với
các thế hệ sau.
2.2. Một quan điểm giáo dục tích cực thể hiện tinh thần thời đại.
Trƣớc thời Nguyễn Trãi, nguyên khí quốc gia Đại Việt đã tạo ra biết bao anh hùng
hào kiệt, nhiều trí giả nổi tiếng xa gần. Tuy vậy, trong số các anh hào, trí giả ấy chƣa nổi bật
lên một ngƣời am hiểu và làm giáo dục đƣợc nhƣ ông. Sự khác nhau giữa Nguyễn Trãi và các
danh nhân quá vãng, có nguồn gốc từ sự khác nhau về mặt tƣ tƣởng triết học và cái nhìn nhân
sinh của họ. Sinh ra và lớn lên trong Dinh thự Tể tƣớng Trần Nguyên Đán, tiếp thu văn hóa
truyền thống gia đình sau những lần theo cha và ông ngoại về Nhị Khê, Côn Sơn, cộng với
những kinh nghiệm trong thời gian lƣu lạc và cùng nhân dân tham gia khỏi nghĩa, Nguyễn
Trãi đã hình thành nên tƣ tƣởng tích cực trong quan niệm giáo dục con ngƣời. Trƣớc hết đó là
quan điểm nhân dân ở Nguyễn Trãi. Nhƣ chúng ta đã biết trong học thuyết Khổng Tử, ông đã
từng lƣu tâm đến vai trò của con ngƣời và quyết tâm đào tạo con ngƣời, theo Khổng Tử quan
niệm "Hữu giáo vô loại" (Dạy
Trang 67
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
không phân biệt) nhƣng con ngƣời Khổng Tử quan tâm không phải là "dân đen, con đỏ",
nhƣng Khổng Tử cũng phải công nhận sức mạnh của "nhân vọng", "nhân dục", và có khi trời
cũng chiều theo lòng ngƣời. Biết đƣợc sức mạnh của lóp "hạ ngu" trong việc làm yên ổn cho
các vƣơng triều, Nho giáo phần nào cũng đã coi trọng việc giáo hóa cho tầng lớp này. Sự an
dân không phải là một triều đại mà nó là nhân tố quan trọng trong việc quyết định sự bền
vững và phát triển của quốc gia. Chính vì thế trong học thuyết Khổng giáo cũng có nhiều
điểm tích cực:
"Dân chi sở hiếu, hiếu chi,
Dân chi sở ố, ố chi - thử chi vị dân chi phụ mẫu"
"Dân vi quy
Xã tắc thứ chi
Quân vi khinh"
Tiếp thu những tinh hoa đó, các nhà ái quốc, trung quân nhƣ Lý Thƣờng Kiệt, Trần
Quốc Tuấn đã thấy đƣợc và tận dụng khả năng to lớn của dân trong những cuộc kháng chiến
chống xâm lƣợc. Đối với Nguyễn Trãi, ông quan niệm "dân" là nhân tố quan trọng quyết định
mọi sự thắng lợi. Đấng vƣơng giả làm việc gì cũng phải đạt hai yêu cầu:
"Trên thì đáp ứng Thiên tăm"
Dưới thì thỏa theo "Nhân vọng"
thiếu một trong hai yếu tố ấy là "Bất thành đại sự". Theo Nguyễn Trãi nhân dân là sức mạnh
của dựng xây và đạp đổ, và ông phản bác lại quan niệm cho dân là loại u mê, mù quáng vì:
"Hướng về người nhân là dân
Chở hay lật thuyền cũng là dân"
(Chiếu làm bài " Hậu Tự Huấn" để răn bảo thái tử)
Trang 68
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
Mặt khác dân còn là sức mạnh tạo ra mọi của cải vật chất:
"Thường nghĩ quy mô lớn lao lộng lẫy đều là sức lao khổ cua quân dân"
(Chiếu truyền bách quan không đƣợc làm những lễ nghi khánh hạ)
Nhận định sâu sắc về dân nhƣ thế, chúng ta thấy rằng quan điểm của Nguyễn Trãi đã
vƣợt thời đại, ý nghĩa tích cực này đã đƣợc chứng minh bằng những thành tựu to lớn dƣới
thời kỳ lịch sử hƣng thịnh của triều đại nhà Lê về mặt kinh tế, văn hóa, giáo dục...
Là một "Danh nhân văn hóa" - Nguyễn Trãi đã đƣợc ngƣời đời ca tụng không những
về tƣ tƣởng tiến bộ, mà ngay cả những hành vi gƣơng mẫu, về mặt tinh thần chí cổng vô tƣ
của ông. Sức mạnh toát lên từ trong tƣ tƣởng của Nguyễn Trãi đã có sức thuyết phục, cảm
hóa mãnh liệt là lay chuyển đƣợc lòng ngƣời. Nguyễn Trãi sống trong thời gian mà Nho giáo
chiếm địa vị độc tôn, chi phối mọi quan hệ xã hội, nhƣng Nguyễn Trãi đã vƣợt ra khỏi khuôn
khổ, phát huy những mặt tích cực của Nho giáo và đề ra phƣơng châm xử thế thích đáng phù
hợp nhân tâm.
Những năm tháng sống và lớn lên cùng cha ở làng Nhị Khê và ông ngoại ở Dinh Tể
tƣớng, Nguyễn Trãi vừa học tập vừa giúp việc nhà, vừa tìm hiểu về đời sống thực tế nhân dân
qua những trăn trở của cha và ông ngoại, cả những năm tháng về sau khi phải lƣu lạc trong
nhân dân, chứng kiến trực tiếp muôn vàn nỗi khổ cực của dân, dƣới ách thống trị của bọn
cƣớp nƣớc và bán nƣớc, những vần thơ của ông nhƣ sống dậy tiếng nói cảm thƣơng đối với
nhân dân. Và cũng chính thảm cảnh đó đã làm cho ông thấm thía hơn cuộc đời lam lũ, khốn
khó của ngƣời dân hèn mọn. Cuộc sống gần gũi nhân dân, nhất là thời gian Nguyễn Trãi kề
vai, sát cánh bên họ chiến đấu với giặc càng làm cho ông nhìn ra nhiều mặt đáng quý ở họ.
Mặt khác tiếp thu tinh thần Nho học và thừa hƣởng tấm lòng nhân đạo ở cha và ông ngoại,
Nguyễn Trãi đã góp thêm một phần nhân đạo tiến bộ vào cái nhìn tha thiết yêu thƣơng trân
trọng đối với con ngƣời. Thực tế lịch sử và quá
Trang 69
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
trình lăn lộn trong chiến trƣờng kháng Minh đã giúp Nguyễn Trãi có cơ hội kiểm nghiệm
nhận thức bằng thực tế và rút ra nhiều điều lớn lao về thân phận ngƣời dân, về vai trò của họ
trong quá trình biến thiên của lịch sử, cũng nhƣ trong cuộc kháng chiến chống quân Minh lúc
bấy giờ; về quan hệ giữa dân và nƣớc, về ý thức quốc gia dân tộc.
Trƣởng thành từ nền giáo dục Nho học, thấy đƣợc những mặt hạn chế của nó, nhƣng
ông không đả kích vào những lễ giáo Nho gia. Trên cơ sở nền tảng đó, Nguyễn Trãi đã phát
huy đƣợc một nét rất tiến bộ là ông đã đề cao những luân lý, đạo đức Nho giáo gắn liền với
đạo đức dân tộc, sàng lọc những hạn chế của Nho giáo đối với con ngƣời và hƣớng con ngƣời
đến một lý tƣởng sống khoáng đạt, rộng mở.
Là một bậc trí giả của Nho giáo, tƣ tƣởng giáo dục của ông gắn liền với thời đại, ông
sở đắc với tƣ tƣởng trọng học, đề cao đạo học của các bậc thánh hiền Khổng, Mạnh...Chủ
trƣơng "Đức trị" gắn chật với giải pháp "Giáo hoa" của các bậc tiên Nho là một kinh nghiệm
quy báu của ông. Nguyễn Trãi là ngƣời kế thừa tích cực và là ngƣời xây nền, đắp móng đầu
tiên cho triều đại nhà Lê về mặt tƣ tƣởng tiến bộ. Tƣ tƣởng ấy bao giờ cũng gắn liền với thời
đại, những điều giáo huấn của ông tuy khoác áo Nho gia nhƣng bản chất đã khoáng đạt, rộng
mở hơn nhiều.
Trong quan điểm giáo dục của Nguyễn Trãi, chúng ta thấy thể hiện rõ tƣ tƣởng thời
đại. Nguyễn Trãi luôn đề cao hai chữ "yên dân" và muốn thực hiện đƣợc phải chú tâm làm
điều "nhân nghĩa". Tƣ tƣởng giáo dục của ông luôn đi cùng với cuộc sống. Xã hội Việt Nam
thế kỷ XV là thời kỳ quốc gia bƣớc vào giai đoạn khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục
kinh tế, văn hóa để xây dựng đất nƣớc. Vì vậy Nguyễn Trãi không thể không quan tâm đến
việc "trồng ngƣời". Việc giáo dƣỡng, đào tạo cực kỳ quan trọng đến mức nếu một triều đại
nào đó "không sửa sang tông miếu, không mở giảng võ đƣờng, không xây nhà học" thì sự sụp
đổ đã hiện rõ nhỡn tiền.
Trang 70
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
Tích cực trong sự nghiệp "trồng ngƣời", Nguyễn Trãi đã nghĩ đến kế sách lâu dài để
phát triển quốc gia, phát triển triều đại mà mình phụng sự. Do vậy con ngƣời đƣợc ông đào
tạo phải là con ngƣời dám dấn thân sống tích cực cho đời, hiếu hạnh, giàu lòng vị tha, chứa
chan tình ngƣời:
" Nhân nghĩa trung cần chứa tích ninh"
(Bảo kính cảnh giới - 4)
Nhận thức và khẳng định ý nghĩa chân chính của tƣ tƣởng đó, Nguyễn Trãi đã giáo
huấn mọi ngƣời rèn luyện theo phƣơng châm ấy. Đối với Nguyễn Trãi chƣa bao giờ ông nghĩ
rằng tài sản quy giá để lại cho con cháu đời sau là của cải vật chất, tâm nguyện của ông là
làm sao trao truyền kinh nghiệm, trao truyền đạo đức truyền thống từ trong gia đình cho đến
ngoài xã hội, khiến cho mọi nhà thấm nhuần tinh thần nhân nghĩa, ý thức trung cần và tạo
đƣợc nề nếp truyền thống, mang bản sắc văn hóa dân tộc. Nguyễn Trãi truyền cho đời sau cái
đạo đức làm ngƣời giữa cộng đồng, một ý thức xây dựng cuộc sống mang đậm tinh thần nhân
văn cao đẹp:
"Đản hỷ cung cơ tồn cựu nghiệp,
Truyền gia hà dụng mãn doanh kim"
(Mạn thành - 1)
Dịch nghĩa
"Còn mừng có nghiệp cũ cung cơ để lại
Chứ không cần truyền được một rương đầy vàng."
Nguyễn Trãi đã nêu lên nhiều khiá cạnh của cuộc sống từ quan hệ vua tôi, cha con,
chồng vợ, xóm giềng, đồng bào cốt nhục..., đƣa ra nhiều mặt tốt để học tập, đổng thời cũng
nêu lên những mặt xấu để con ngƣời khắc phục, sửa đổi, nhƣng phƣơng châm đạo làm ngƣời
mà ông đƣa ra vẫn là nhân nghĩa, trung cần".
''Trung cần há nở trại cân xưng
Nhiều thánh hiền xưa kiếp đã từng"
(Bảo kính cảnh giới - 61)
Trang 71
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
Tƣ tƣởng thời đại trong quan niệm giáo dục của Nguyễn Trãi còn là ý thức giáo dục
con ngƣời luôn hƣớng về cội nguồn dân tộc, hƣớng về nhân dân, những điều nhân nghĩa và
những việc làm vì đời sống an lành của nhân dân. Quan điểm giáo dục của Nguyễn Trãi là sự
tiếp thu, kế thừa và phát triển một truyền thống lớn trong lịch sử tƣ tƣởng nƣớc Đại Việt, mặt
khác lại khẳng định tinh thần của thời đại ông một cách sâu sắc.
Trong một bài thơ mừng Nguyễn Trãi làm chức Gián Nghị Đại Phu, Nguyễn Mộng
Tuân cũng nói lên ý của chính Nguyễn Trãi về lý tƣởng giáo dục của ông.
"Bạch phát chỉ nhân thiên hạ lự,
Thanh trung lưu dữ tử tôn truyền."
Dịch nghĩa:
''Tóc đã bạc mà còn bận tám lo việc chung,
Chỉ cố tấm lòng trung "trong trắng" truyền lại cho con cháu về sau"
Theo quan niệm truyền thống, ngƣời tài đức là ngƣời có nhân nghĩa. "Nhân nghĩa"
vốn là những khái niệm của Nho giáo có nội dung đạo đức gắn liền với quyền lợi của giai cấp
phong kiến. Nhƣng dƣới ngòi bút của Nguyễn Trãi, nhân nghĩa có nội dung lịch sử cụ thể, đó
là bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nhân dân, chống xâm lƣợc, chống bóc lột. Tƣ tƣởng nhân nghĩa
của Nguyễn Trãi bắt nguồn từ những giá trị đạo đức ấy:
"Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo."
(Bình Ngô đại cáo)
Tƣ tƣởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là sự kết tinh từ những tƣ tƣởng tiến bộ, những
giá trị tinh thần văn hóa cao đẹp của dân tộc từ buổi đầu dựng nƣớc và giữ nƣớc cho đến thế
kỷ XV. Tƣ tƣởng nhân nghĩa đƣợc Nguyễn Trãi vận dụng thành công và phát triển rực rỡ
trong thực tiễn chiến đấu thời khởi nghĩa Lam
Trang 72
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
Sơn giải phóng đất nƣớc mà bản thân Nguyễn Trãi đã từng gắn bó, tạo nên một bƣớc tiến mới
trong lịch sử tƣ tƣởng dân tộc. Với Nguyễn Trãi quan niệm đạo đức truyền thống đƣợc trình
bày một cách toàn diện và theo một hệ thống nhất định.
Điều đặc biệt quan trọng trong tƣ tƣởng của Nguyễn Trãi khi nói đến dân, là tấm lòng
nhân hậu của Nguyễn Trãi nhƣ rộng mở về mọi tầng lớp lao khổ, đó là những dân đen, con
đỏ đang bị "nướng trên lò bạo ngược" đang bị "hãm dưới hố tai ương", là tứ phƣơng "manh
lệ" đã về tụ nghĩa ở Lam Sơn, đã nổi dậy ở khắp nơi để hƣởng ứng, ủng hộ, hoặc trực tiếp
chiến đấu dƣới ngọn cờ của Lê Lợi. Chính nhận thức đúng vai trò của nhân dân trong đời
sống xã hội và là yếu tố quan trọng quyết định sự biến thiên của lịch sử, Nguyễn Trãi đã đặt
nhân dân ở tầm cao, trân trọng và đề cao họ đúng giá trị con ngƣời:
"Phúc chu thủy tín dân do thủy"
(Quan hải)
Dịch nghĩa:
"Lật thuyền mới rõ sức dân như nước"
Nhận thức ấy đã vƣợt lên mọi suy nghĩ về dân trƣớc kia và là một nhận định sâu sắc
trong tầm thời đại, mặt khác còn thể hiện một tinh thần dân chủ ở mức độ cao trong thời kỳ
của chế độ phong kiến lúc bấy giờ. Tƣ tƣởng về dân của Nguyễn Trãi chứa đựng một tinh
thần nhân văn cao đẹp không tách rời tinh thần nhân đạo, một nhân tố vô cùng quan trọng
trong tƣ tƣởng truyền thống dân tộc. Ông không tách rời tình cảm yêu thƣơng của mình đối
với con ngƣời và cuộc sống. Quan niệm giáo dục của Nguyễn Trãi là một phần trong hoài
bão dựng nƣớc của ông. Một ƣớc mơ có "quốc phú, binh cường", có "văn trị", một xã hội có
"vua sáng tôi hiền" và mọi phép nhà nƣớc phải thuận lòng dân để cho "trong thôn cùng xóm
vắng không có tiếng hờn giận oán sầu". Ƣớc mơ đó là hình ảnh của một xã hội lý tƣởng thời
vua Hùng theo truyền thuyết "Vua tôi cùng cày,
Trang 73
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
không đắp bờ chia ranh giới, không phân ra uy quyền, đẳng cấp, không biết giặc cướp,
không ai xâm lấn ai, mọi người gần gũi, yêu thương nhau, nền nếp ấy kéo dài mấy nghìn năm
vẫn y nguyên như một", Ƣớc mơ hay lý tƣởng của Nguyễn Trãi xuất phát từ thực trạng xã
hội, thời đại mà ông đang sống và phụng sự đã bắt đầu có những rạn nứt.
Nguyễn Trãi đã trở thành nhân vật kiệt xuất trong lịch sử Việt Nam thế kỷ XV, tuy
sống dƣới chế độ phong kiến, chịu sự chi phối mạnh mẽ của ý thức hệ tƣ tƣởng Nho giáo,
nhƣng Nguyễn Trãi đã có một bản lĩnh vững vàng, một tƣ duy độc lập, sắc sảo và nhạy bén,
ông đã biết nhận định ra lẽ phải, tìm đƣợc những giá trị "chân, thiện, mĩ" qua ý thức hệ lúc
bấy giờ. Chọn lọc những tinh hoa của các học thuyết Nho - Phật - Lão, kết hợp nhuần nhuyễn
chủ nghĩa anh hùng với chủ nghĩa nhân đạo của dân tộc, tạo ra một tƣ tƣởng rộng mở, khoan
dung thấm đƣợm tinh thần dân tộc. Mặt khác Nguyễn Trãi cũng không thể thoát ly môi
trƣờng, hoàn cảnh mình đang sống, không thể đoạn tuyệt với tất cả những khuôn khổ của chế
độ phong kiến của Nho giáo và càng không thể tách mình ra khỏi truyền thống dân tộc... Tiếp
thu, học tập và phát huy - Nguyễn Trãi đã tự khẳng định vai trò độc lập của bản thân mình
trong tiến trình phát triển của lịch sử, ông đã dần dần tìm ra lối thoát cho mình giữa những
quy phạm khắt khe của chế độ phong kiến. Đƣa ra luận điểm "nhân nghĩa" trƣớc hết phải
"yên dân" và hƣớng về dân là những "dân đen con đỏ", những "manh lệ", Nguyễn Trãi đã đạt
đến đỉnh cao của lịch sử tƣ tƣởng văn hóa Đại Việt thế kỷ XV. Tƣ tƣởng của ông luôn sống
trong lòng dân tộc, sức mạnh tinh thần nhƣ mãi vang vọng trong mỗi con ngƣời khi bắt gặp
tƣ tƣởng tiến bộ vƣợt thời đại của ông.
III. Nội dung giáo dục con ngƣời trong tơ văn Nguyễn Trãi
1. Đối tƣợng giáo dục
Giáo dục là vấn đề của con ngƣời, thì đối tƣợng trƣớc tiên chính là con ngƣời. Trong
xã hội phong kiến những con ngƣời đóng vai trò quan trọng trị
Trang 74
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
nƣớc, chăn dân là các bậc vua chúa, sau đó là hàng ngũ quan lại thừa hành. Còn ở gia đình thì
từ các bậc cha mẹ đến con cháu cũng là đối tƣợng giáo dục, tuy theo từng giai đoạn lịch sử xã
hội khác nhau. Nguyên lý giáo dục là nhằm rèn luyện tài đức cá nhân, từ việc rèn luyện đạo
đức cá nhân mỗi ngƣời tiến tới biết cách quản trị gia đình, quản trị quốc gia. Nói tóm lại
nguyên lý giáo dục là làm sao cho con ngƣời có ích cho gia đình và xã hội. Nhƣng mỗi thời
đại, mỗi tƣ tƣởng ở một góc độ nào đó đi vào xu hƣớng tích cực, phóng khoáng, thuận nhân
tâm, ích quốc gia, hoặc cũng có thể đi đến cực đoan, nguyên nhân gây trì trệ cho sự phát triển
của đất nƣớc.
Đối tƣợng giáo dục trong thơ văn Nguyễn Trãi rất phong phú bao gồm tầng lớp vua,
quan cho đến nhân dân lao động.
2. Nội dung giáo dục con ngƣời trong thơ văn Nguyễn Trãi
2.1. Giáo dục con người trong đấu tranh dựng nước, giữ nước.
Trải qua các triều đại phong kiến Việt Nam, lịch sử đã chứng minh đƣợc rằng bất cứ
dƣới triều đại nào nhân dân cũng là sức mạnh làm nên mọi biến thiên của lịch sử. Tuy nhiên
việc nhìn nhận và đánh giá đứng mức vai trò của họ chỉ đến Nguyễn Trãi mới thật sự tròn vẹn
và đạt đến đỉnh cao của thời đại. Nguyễn Trãi đã tiếp thu truyền thống dân tộc, xem dân là
thành phần hữu cơ trong mối quan hệ dân - nƣớc, nghĩa là dân gắn với nƣớc. Chính vì thế
ông muốn xây dựng một bộ máy Nhà nƣớc mà giai cấp thống trị phải biết lo cho dân; chăm lo
cho dân nhƣ chăm lo cho chính bản thân mình. Bắt nguồn từ nguyên lý giáo dục của Khổng
Tử đƣợc nêu lên trong sách Đại học "Cách vật, trí tri, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc,
bình thiên hạ"(Hiểu biết sự vật, ngay thẳng sửa mình, sắp xếp việc nhà, sửa sang việc nƣớc,
cai quản thiên hạ). Nhƣ vậy việc giáo dục quan trọng nhất là giáo dục các bậc bề trên. Nhân
dân ƣớc ao có vua sáng, tôi hiền và trƣớc hết vua sáng phải là vị vua biết tự đổi mới để tiến
bộ. Nhƣng điều quan trọng là đòi hỏi vua sáng phải có tôi hiền, bởi tôi hiền giúp cho vua rất
nhiều
Trang 75
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
trong việc trau dồi đạo đức. Một tác giả khuyết danh dƣới đời nhà Trần đã đƣa ra một nguyên
lý giáo dục các bậc bề trên bằng cách đƣa tinh thần câu nói "Cẩu nhật tân, nhật nhật tần, hưu
nhật tân" (Nếu ngày ngày đổi mới, thì ngày ngày sẽ mới và mới mãi) vào bài phú của mình.
Cùng thời Nguyễn Trãi, Nguyễn Mộng Tuân cũng làm bài thơ về "Cái Chậu Vua Thang",
trong đó ông nhắc nhở nhà vua về việc luôn luôn trau dồi đạo đức: 'Tảo đức tòng tri hưu nhật
tàn" (Có tắm đức mới biết ngày lại đổi mới), tự sửa đổi mới có tiến bộ, có tiến bộ thì dân mới
tin tƣởng ủng hộ: "Mậu chiêu tự thị dân chương tín" (Cố gắng cho đức sáng thì dân mới tin).
Trên tinh thần đó Nguyễn Trãi xem việc giáo dục vua và các quan là một việc quan
trọng có ý nghĩa và thật sự khó khăn. Trong tƣ tƣởng của Nguyễn Trãi - ông muốn xây dựng
một đất nƣớc có "vua ra vua", cũng phải có giáo dục đào tạo, rèn luyện về mặt đạo đức, bởi
vua là một ngƣời không những đại diện cho cả một quốc gia để tiếp xúc ngoại giao với các
nƣớc láng giềng, mà còn là ngƣời "biết kế thuật tạo phúc cho nhân dân". Nền tảng tƣ tƣởng
Nguyễn Trãi nêu lên bắt nguồn từ truyền thống đạo đức dân tộc đã đƣợc hình thành trong quá
trình phát triển của lịch sử, một qua trình hòa nhập, tiếp thu và chọn lọc những tinh hoa các
tƣ tƣởng triết học phƣơng Đông - Nho - Phật - Lão - và tín ngƣỡng tôn giáo bản địa. Một tƣ
tƣởng mang tính nhân đạo phóng khoáng rộng mở. Tƣ tƣởng giáo dục của Nguyễn Trãi đã
vƣợt lên trên những quy phạm của đạo đức phong kiến, tiếp cận với nền đạo đức hiện đại của
dân tộc. Đề cập đến vấn đề đạo đức của giai cấp thống trị, những kẻ quyền thế, Nguyễn Trãi
luôn nhắc nhở lòng yêu nƣớc, thƣơng dân ở họ. Ông luôn tự tìm cách khuyên răn nhà vua
một cách kín đáo:
"Vạn cổ bất ma kim giám lục"
(Thiều Châu Văn Hiến miếu)
Dịch nghĩa:
"Muôn đời chẳng mờ đục chiếc gương vàng"
Trang 76
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
Tƣ tƣởng yêu nƣớc, thƣơng dân, muốn chăm lo đời sống cho nhân dân đƣợc ấm no
hạnh phúc, Nguyễn Trãi muốn vị vua đứng đầu quốc gia phải luôn soi mình trong chiếc
gƣơng để tự thấy những điều đáng chăm lo và bỏ đi những tật xấu. Hãy vì dân, vì nƣớc mà
sửa mình. Tƣ tƣởng "trung quân, ái quốc" của ông đã vƣợt lên tầm cao mới, nó không còn là
sự "trung quân" cực đoan Nho giáo chính thống. Sự "trung quân" của Nguyễn Trãi trƣớc hết
là tình yêu thƣơng nhân dân, yêu thƣơng những kiếp ngƣời đau khổ, những "manh lệ",
"thƣơng sinh", "xích tử", những nông nô, nô tỳ, họ là "dân mọn các làng", "trong thôn cùng
xóm vắng". Thấy đƣợc nỗi khổ của họ, đồng cảm với họ, Nguyễn Trãi mới thể hiện lòng
"trung quân" là giúp vua làm sao cho nhân dân thoát khỏi cảnh "sinh linh đồ thán". Nguyễn
Trãi đã hƣớng giai cấp thống trị về lý tƣởng thân dân, rút khoảng cách giữa nhân dân và giai
cấp thống trị ngày càng ngắn lại. Ông giáo dục những kẻ cầm quyền, không đƣợc "cậy mình
giàu, mặc dân khốn khổ" mà "phải lấy điều lo của dân làm điều lo thiết kỷ" (Chiếu cấm các
quan đại thần, tổng quản tham lam lƣời biếng), khiến cho "dân giàu đủ khắp bốn phƣơng"
(Trần tình - 7). Nguyễn Trãi đã giáo dục và đòi hỏi vua và các quan phải lấy "lòng nhân
nghĩa" làm đầu.
Giáo dục giai cấp thống trị Nguyễn Trãi luôn lấy dân làm điểm tựa cho họ phấn đấu.
Theo ông dân là sức mạnh, là trung tâm của mọi hoạt động xã hội. Vì vậy muốn "bình thiên
hạ" trƣớc hết phải "lấy điều lo của sinh dân làm điều lo của mình" (Chiếu về việc làm bài
"Hậu Tự Huấn" để răn dạy Thái Tử), chăn dắt muôn dân không để mất lòng dân.
"Đem dân mựa nữa mất lòng dân"
(Bảo kính cảnh giới - 57)
Yên dân là cốt lõi trung tâm của nhân nghĩa, nhƣng nhân nghĩa cũng còn quán triệt
vào trong thái độ đối với quân thù:
Trang 77
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
"Lấy đại nghĩa thắng hung tàn
Lấy chí nhân mà thay cường bạo"
(Bình Ngô đại cáo)
Nguyễn Trãi đã tiếp thu và phát huy một nét đặc sắc trong tính cách tâm hồn Việt
Nam là chủ nghĩa anh hùng kết hợp với chủ nghĩa nhân đạo, quyết chiến, quyết thắng mà
không hiếu chiến, hiếu sát và luôn luồn thiết tha với hòa bình.
Sống vì dân, thƣơng yêu dân cũng có ý nghĩa là dẹp bỏ lợi ích cá nhân "không đến nỗi
lấy điều muốn của một người mà cưỡng ép nghìn muôn người không muốn phải theo để làm
phép hay của một đời" (Chiếu bàn về phép tiền tệ). Nguyễn Trãi đã giáo dục nhà vua sống
theo châm ngôn "Tiên thiên hạ chi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc" nghĩa là lo trƣớc cái lo
của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ.
"Chuyên đọc Điển phần, chí những muốn việc cổ nhàn đã muốn
Để tâm dân chúng, mình trước lo điều thiên hạ phải lo"
(Biểu tạ ơn)
Sống vì dân, vì nƣớc mà hành động, ông muốn triều đình không nên quá nặng nề sƣu
thuế và trừng phạt mà chỉ nên chăm lo làm sao cho dân làm tốt, học giỏi. Trƣớc cảnh đói khổ
của nhân dân, ông đã có lúc nổi giận và bảo vào mặt bọn triều thần "Sở dĩ có tai nạn ấy chính
là tự lũ các ông. Các ông chỉ là đồ thích sưu cao thuế nặng vơ vét của dân cho nhiều", Về
hình phạt, ông không đồng ý việc trừng trị bằng biện pháp cực hình, chém một lúc bảy tên mà
theo ông, nhà vua phải lấy nhân nghĩa làm chính, xây dựng pháp luật và chế độ trên cơ sở
thƣơng yêu nhân dân, nhận thức đƣợc vai trò và sức mạnh của nhân dân trong sự nghiệp kiến
quốc:
"Phúc chu thúy tín dân do thủy"
(Quan hải)
Trang 78
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
Dịch nghĩa:
"Lật thuyền mới rõ sức dân như nước"
Truyền thống giáo dục đạo đức của dân tộc từ xƣa là giáo dục con ngƣời "Uống nƣớc
nhớ nguồn", "Ăn quả nhở kẻ trồng cây", ý thức đƣợc việc ghi ơn ngƣời đã làm ra những gì tốt
đẹp cho mình, thế nên Nguyễn Trãi đã khắc sâu vào tâm trí những điều nhân nghĩa đó và
không dừng lại ở việc khuyên răn nhà vua, quan lại thƣơng yêu nhân dân mà còn phải biết
trân trọng, giữ gìn ghi ơn nhân dân và chính bản thân những vị thế tử phải hiểu đƣợc cội
nguồn của những kết quả mà mình thừa hƣởng hôm nay:
"Hưởng điều sung sướng thì nghĩ đến công tích lũy của tổ tông"
(Chiếu giáng Tƣ Tề làm quận vƣơng đặt Nguyên Long nối nghiệp)
Bên canh việc giáo dục tinh thần yêu nƣớc, thƣơng dân, lấy dân làm gốc, Nguyễn Trãi
còn giáo dục vua và các quan những giá trị đạo đức khác nữa, ấy là cƣơng trực, liêm khiết,
bình dị. Tính cƣơng trực của một ngƣời là luôn giữ lòng ngay thẳng, kẻ quyền thế không
nghe lời xu nịnh, sàm tấu của bọn tiểu nhân mà phải quyết đoán, suy xét, "trị dân phải theo
phép nƣớc công bằng"
"Tội ai cho nấy cam danh phận,
Chớ có thân sơ mới trượng phu."
(Bảo kính cảnh giới - 25)
Một vị vua anh minh thể hiện ở việc chọn "hiền tài" và coi ngƣời nhƣ chính bản thân
mình để từ đó "nghe can gián, ra một chính sách, một mệnh lệnh, phát một lời nói, một việc
làm đều giữ chính trung" (Chiếu về việc làm bài "Hậu Tự Huấn" để răn bản thái tử). Ngƣời
cƣơng trực là ngƣời biết lắng nghe và phán xét ý kiến của ngƣời khác, xem việc ngƣời khác
đóng góp ý kiến xây dựng cho mình là điều tốt. Nguyễn Trãi đã từng nhắc nhở nhà vua giữ
lòng cƣơng trực "chớ nghe sàm nịnh mà bỏ lời trung thực, chở dùng tân tiến mà bỏ cựu thần"
(Chiếu giáng Tƣ Tề làm quận vƣơng đặt Nguyên Long nối nghiệp). Và trong
Trang 79
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
suốt cuộc đời chiến đấu xây dựng quốc gia, Nguyễn Trãi bao giờ cũng mong mõi nhà vua hãy
chú ý đến sự công bằng mà đối xử:
"Ba xuân thì được chín mươi ngày.
Sinh vật lòng trời chẳng tây"
(Thơ tiếc cảnh - 11)
vì khắp gầm trời, cuối đất đâu đâu cũng dƣới quyền nhà vua:
"Đâu đâu cũng chịu lệnh đông quân,
Nào chốn nào chăng gió xuân ?"
(Thơ tiếc cảnh - 13)
Trong chốn quan trƣờng lắm điều thị phi, Nguyễn Trãi nhắc nhở nhà vua rằng trong
triều còn có những bề tôi cũ có phẩm chất đạo đức tốt, có tâm huyết với cuộc đời có thể giúp
nhà vua sửa sang việc nƣớc, giống nhƣ trong "vườn còn hoa trúc cũ" mà " trồi thức tốt lạ
mười phân".
"Huống lại vườn còn hoa trúc cũ;
Trồi thức tốt lạ mười phân."
(Thơ tiếc cảnh - 13)
Con ngƣời cƣơng trực sẽ gắn liền với lối sống liêm khiết, bình dị, Nguyễn Trãi đã
giáo dục các quan lại giữ gìn và tu dƣỡng đạo đức, phải sống thật sự là ngƣời "công bộc của
nhân dân", không đƣợc làm những việc tổn hại đến nhân dân, Nguyễn Trãi khuyên các quan
"không làm những lễ nghi khánh hạ" tổn hao tiền của công sức của nhân dần. Đạo đức cƣơng
trực nơi một vị quan là ở chỗ đối nhân xử thế ở đời "thờ vua hết trung, đối dân hết hòa, đổi
bỏ thói tham ô, sửa tệ lười biếng" (Chiếu cấm các quan đại thần, tổng quản tham lam lƣời
biếng). Đối với Nguyễn Trãi kẻ làm quan phải là ngƣời tận tụy vì dân, vì nƣớc, biết giữ khí
tiết "lƣng không uốn, lộc nên từ".
"Ăn lộc nhà quan chiu việc quan.
Chớ tham tiểu lợi phải gian nan"
(Bảo kính cảnh giới - 17)
Trang 80
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
Chứng kiến những cảnh xa hoa lãng phí của vua, quan triều đình phong kiến, với
những đền đài uy nghi tráng lệ, tổn phí sức lực của nhân dân, cạn kiệt ngân khố quốc gia,
Nguyễn Trãi đã lên tiếng khuyên răn con ngƣời hƣớng về cuộc sống bình dị, sống vì dân, vì
nƣớc. Một cuộc sống đạm bạc nhƣng chứa chan tình ngƣời.
"Bữa ăn dầu có dưa muối,
Áo mặc nài chi gấm là."
(Ngôn chí - 3)
Đời sống giản dị và chăm lo lao động là hai yếu tố quyết định nhân cách con ngƣời,
một con ngƣời giản dị nhƣng vĩ đại. Lịch sử đã chứng minh các "vua Nghiêu", "vua Thuấn"
là những ngƣời giản dị, lão thực, sống gần gũi trong nhân dân, lấy niềm vui của dân làm niềm
vui của mình, lấy cái lo của dân làm cái lo của mình. Họ sống một cuộc đời hòa lẫn với nhân
dân và thiên nhiên, và Nguyễn Trãi cũng rất có lý khi khuyên họ sống một cách giản dị hết
mực.
"Hài cỏ đẹp chân đi đủng đỉnh,
Áo bô quen cật vận xềnh xoàng."
(Tức sự - 4)
Quan niệm của Nguyễn Trãi cho rằng một vị minh quân sẽ lo cho dân có cuộc sống
thanh bình ấm no. Một xã hội công bằng thì kẻ cầm quyền phải sống liêm khiết thiết diện vô
tƣ để tạo hồng phúc cho muôn dân, và là nơi mà dân đặt trọn niềm tin yêu vào đó. Trong xã
hội phong kiến những quan niệm trên tuy có phần không tƣởng nhƣng lại xuất phát từ tấm
lòng yêu nƣớc thiết tha, một tấm lòng "thƣơng sinh tại niệm".
Giáo dục nhân cách vua và các quan, Nguyễn Trãi đã nêu ra vấn đề giới sắc để răn
dạy. Ông đƣa ra một lời cảnh tỉnh lý trí của các bậc "phụ mẫu' nhân dân:
Trang 81
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
"Sắc là giặc, đam làm chi!
Thuở trọng còn phòng có thuở suy,"
(Giới sắc)
Đã là ngƣời quân tử, một đấng chí tôn quyền cao chức trọng, vị thiên tử cần phải
chiến thắng đƣợc những ham muốn cá nhân, bỏ điều riêng tƣ mà lo vì thiên hạ:
"Tửu sắc là nơi nghiệp há chừa.
Thế sự trai yêu thiếp mọn;
Nhân tình gái nhớ chồng xưa.
Chẳng say chẳng đắm là quân tử;
Người hiểm lòng thay! hãy sá ngờ."
(Bảo kính cảnh giới - 52)
Không chỉ giáo dục kẻ thống trị đƣơng thời, Nguyễn Trãi còn chăm lo giáo dục vào
thế hệ kế tục. Ông quan niệm giáo dục con ngƣời, mà nhất là ngƣời cầm quyền, lãnh đạo thì
phải kèm cặp uốn nắn từ bé, rèn dƣỡng tạo nền tảng đạo đức tốt đẹp cho nhân cách cá nhân
phát triển sau này. Ông đƣa ra quan điểm:
"Phàm những vị vua kế vị được chăn nuôi sung sướng thường không lập chí. Nếu
không dạy từ đầu, răn từ trước khiến cho biết sợ, giữ gìn, cảm kích hăng hái, thì sao hay hết
đạo kế thuật để tạo phúc cho nhân dân"
(Chiếu về việc làm bài "Hậu Tự Huấn" để răn bảo Thái tử")
Đối với Nguyễn Trãi việc giáo dục nhân cách của các vị vua quan là một việc vồ cùng
quan trọng. Nhƣng triều đình đã đƣợc chấn chỉnh, mà biên ải không ai canh giữ thì sao? Vì
thế Nguyễn Trãi đã coi việc giáo dục tài trí ngƣời làm tƣớng biết "tuy cơ ứng biến", "thiên
biến vạn hóa" trên chiến trƣờng là một trong những quan điểm cơ bản trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ông luôn
Trang 82
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
đề cao ngƣời anh hùng phải là ngƣời nhân nghĩa, tài trí. Ông coi nhân nghĩa là gốc, tài trí là
cành. Theo ông tài trí thể hiện ở quân sự là quyền mƣu và "quyền mƣu vốn dùng để trừ gian"
ngƣời anh hùng là ngƣời:
"Bởi, biết người, biết mình, hay yếu hay mạnh,
Đợi thời cơ, chờ dịp,
Giấu sắc, giấu tài."
(Phú núi Chí Linh)
và ngƣời anh hùng có nhân, có nghĩa, có tài trí thì phải biết dũng cảm đứng lên trừ bạo "trừ
độc, trừ tham, trừ bạo ngƣợc" thì mới thật sự là ngƣời anh hùng.
Giáo dục bậc thiên tử, quan lại, ngƣời anh hùng theo một lý tƣởng yêu nƣớc, thƣơng
dân, chăm lo vì hai chữ "yên dân", "trừ bạo", sống trong dân và vì dân thì mục đích cuối cùng
mà Nguyễn Trãi muốn đạt đến không phải là tạo ra nhiều "bậc thánh hiền" mà chỉ muốn
những đạo đức "thánh hiền" ấy tạo phúc cho muôn dân:
"Mới sự đã chăng còn ước nữa,
Nguyện xin một thấy thuở thăng bình"
(Tự thán - 37)
Giáo dục đạo đức cho con ngƣời đến với những giá trị nhân cách đạo đức cao đẹp. Lý
tƣởng của Nguyễn Trãi là ƣớc mơ xây dựng một xã hội thái bình thịnh trị mà " trong thôn
cùng xóm vắng không có tiếng hờn giận oán sầu". Cho nên ông chú trọng đến việc giáo dục
giai cấp thống trị, tầng lớp điều hành mọi hoạt động chính trị xã hội của quốc gia. Tƣ tƣởng
giáo dục của Nguyễn Trãi tuy bắt nguồn từ hệ tƣ tƣởng Nho giáo chính thống nhƣng rất rộng
mở, nó không phải là những khuôn khổ chật hẹp, gò bó con ngƣời nhƣ hệ thống tƣ tƣởng Nho
giáo đƣa ra. Đối với từng đối tƣợng tiếp nhận mà ông có cách khuyên bảo, giáo dục khác
nhau, nhƣng kết quả cuối cùng vẫn là phấn đấu làm cho cuộc sống
Trang 83
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
ngày một đẹp hơn, hạn chế đi những bất công, phân biệt giữa các giai cấp. Một xã hội tốt đẹp
mà Nguyễn Trãi đặt ra không chỉ do ngƣời cầm quyền, lãnh đạo, kiến thiết tài đức tạo nên,
mà còn do cả sức mạnh của bản thân mỗi con ngƣời cá nhân tồn tại trong xã hội ấy. Chính vì
thế Nguyễn Trãi đã chú trọng đến việc giáo dục cuộc sống đạo đức của nhân dân. Dạy con
không phải vì bắt buộc mà vì tình yêu thiêng liêng của mỗi gia đình, của ƣớc mong ngƣời
làm cha mẹ. Nguyễn Trãi quan niệm:"Truyền ngôi là việc lớn của quốc gia; Dạy con là chí
tình trong thiên hạ "(Chiến giáng Tƣ Tề làm quận vƣơng đặt con thứ là Nguyên Long nối
nghiệp)
Con ngƣời là trung tâm của sự sống, của những mối quan hệ xã hội, vì vậy trong
những hoàn cảnh xã hội khác nhau, ứng xử xã hội của con ngƣời sẽ thay đổi. Do đó những
mặt tốt và mặt xấu của con ngƣời sẽ đƣợc hình thành và phát triển. Chính vì thế con ngƣời
cần phải đƣợc rèn luyện và giáo dục về ý thức đạo đức, nhân cách bản thân để sống đẹp hơn
giữa cộng đồng. Sức mạnh "uốn nên hình" ấy chính là sự nuôi dƣỡng đúng, một công phu
nuôi dƣỡng có dạy bảo. Đối mặt với sự phức tạp của cuộc sống, con ngƣời phải đối phó cùng
một lúc giữa lợi, nghĩa, đƣợc, mất, mừng, thƣơng...
"Đạo đức hiền lành được mọi phương.
Tự nhiên cả muốn chúng suy nhường.
Lợi than hết lấy, nhiều thì cạnh;
Nghĩa phải đem cho, ít chẳng phường.
Sự thế sá phòng khi được mất;
Lòng người tua đoán thuở mừng thương.
"Chẳng nhàn" xưa chép lấy lời truyền bảo,
Khiến chớ cho quan một đạo thường."
(Bảo kính cảnh giới - 1)
Trang 84
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
Nêu lên nhiều khía cạnh của cuộc sống, nhiều mặt tốt cần học tập, nhiều mặt xấu cần
phải khắc phục, Nguyễn Trãi đã nhấn mạnh phƣơng hƣớng chung cần phải phấn đấu, phải đạt
đƣợc là bốn chữ "nhân, nghĩa, trung, cần"
"Nhân nghĩa trung cần chứa tích ninh"
(Bảo kính cảnh giới - 4)
Là một con ngƣời chí công vô tƣ, tấm lòng nhân ái rộng mở, Nguyễn Trãi sống một
đời sống thanh bạch, giản dị, vƣợt lên bất cứ hạng nhà Nho tầm thƣờng nào. Lòng nhân ái
của Nguyễn Trãi đã chi phối toàn bộ tƣ tƣởng giáo dục của ông. Thừa hƣởng và tiếp thu
truyền thống thân dân của những ngƣời đi trƣớc nhƣ Lý Thƣờng Kiệt, Trần Quốc Tuấn,
Nguyễn Trãi đã phát huy sức mạnh của tính nhân dân sâu sắc, đó là đạo lý làm ngƣời, lòng
nhân ái cảm thông với những ngƣời cùng khổ. Với Nguyễn Trãi muốn sửa sang việc đời
trƣớc hết phải sửa sang con ngƣời, mà trƣớc mắt là giáo dục con ngƣời ngày một đẹp hơn.
Nguyễn Trãi đã giáo dục tình yêu thƣơng con ngƣời với con ngƣời trong tinh thần cộng đồng
dân tộc.
"Đồng bào cốt nhục nghĩa càng bền,
Cành bắc cành nam một cỗi nên.''
(Bảo kính cảnh giới -15)
Truyền thống đạo lý Việt Nam từ xƣa đã đƣợc gói gọn trong những câu ca dao tục
ngữ nhƣ những dòng sữa ngọt ngào mà từ khi lọt lòng mẹ mọi ngƣời đã đƣợc thừa hƣởng:
"Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng"
(Ca dao)
Trang 85
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
Hay:
"Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn"
(Ca dao)
Tiếp thu và vận dụng ý nghĩa đó, Nguyễn Trãi đã giáo dục mọi ngƣời phải đối nhân
xử thế làm sao cho hoa thuận, nhƣờng nhịn nhau, đoàn kết gắn bó với nhau. Có nhƣ vậy mới
tạo ra đƣợc sức mạnh đoàn kết trong nhân dân. Nguyễn Trãi bảo cho mọi ngƣời sự nhƣờng
nhịn xuất phát từ lòng nhân ái, vị tha.
'' Ở thế nhịn nhau muôn sự đẹp,
Cương nhu cùng biết hết hai bên"
(Bảo kính cảnh giới - 15)
Căn cứ vào mệnh đề "nhân, trí, dũng" của Nho giáo, Nguyễn Trãi đã nói lên quan
điểm của mình. Phàm là ngƣời thì việc "nhân nghĩa" trƣớc tiên phải thực hiện đƣợc, không
phải mới sinh ra đã có lòng nhân nghĩa. Nhân nghĩa theo Nguyễn Trãi là lòng thƣơng ngƣời,
thƣơng dân, có trách nhiệm với ngƣời, với dân mà trừ kẻ hung bạo làm hại dân.
Trong tƣ tƣởng giáo dục của Nguyễn Trãi, ý thức giáo dục lòng yêu nƣớc, yêu quê
hƣơng làng mạc, yêu đồng bào, lòng tự hào dân tộc với bao truyền thống rạng rỡ cũng đã
đƣợc thể hiện qua hàng loạt tác phẩm. Từ trong tập nghị luận chiến đấu "Quân trung từ mệnh
tập" qua "Dƣ địa chí", "Chí Linh sơn phú", "Chuyện cũ về Băng Hồ tiên sinh"..., tất cả điều
chứa chan ý thức chủ quyền độc lập dân tộc, lòng yêu nƣớc, thƣơng dân sâu thẳm. Những
áng văn đó đã khơi gợi lên truyền thống yêu nƣớc, thƣơng ngƣời và ý thức độc lập dân tộc
của nhân dân Việt Nam. Sức mạnh của sự hòa điệu tâm hồn, đoàn kết nhất trí để quân và dân
ta son sắt thủy chung gắn bó với nhau trong thời bình xây dựng phát triển kinh
Trang 86
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
tế, cũng nhƣ trong chiến tranh chống quân xâm lƣợc:
"Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phất phới.
Tướng sĩ một lòng phụ tử hòa nước sông chén rượu ngọt ngào"
(Bình Ngô đại cáo)
Tóm lại giáo dục truyền thống dân tộc ta là một trong những yếu tố cơ bản nhằm
khẳng định lòng tự hào dân tộc, coi trọng nguồn gốc dân tộc là cội rễ cơ bản của sự bền vững.
Giáo dục truyền thống đạo đức dân tộc, mục đích cuối cùng mà Nguyễn Trãi muốn đi đến là
xây dựng một xã hội thanh bình, một cuộc sống đẹp, mọi con ngƣời sống và làm việc trong
tình yêu thƣơng đùm bọc lẫn nhau. Và mọi con ngƣời điều đƣợc cơm no, áo ấm, đƣợc học
hành đầy đủ; sống hạnh phúc trong tình yêu thƣơng chăm lo của một đức vua anh minh,
những bề tôi hiền tài.
"Phúc thay sinh gặp thuở thăng bình.
Nấn ná qua ngày được dưỡng mình. "
(Tự thán - 29)
"Mừng thuở thái bình yêu hết tấc.
No lòng tự tại quản chi là."
(Trần tình - 3)
"Ngoài chưng phần ấy cầu đâu nữa?
Cầu một ngồi coi đời thái bình."
(Tự thán-10)
2.2. Giáo dục con người đời thường
Theo quan niệm mỹ học, cái đẹp là cuộc sống. Cuộc sống ở đây là cuộc sống có sự
hiện hữu của con ngƣời. Một sự sống hài hòa giữa thiên nhiên thơ mộng và sức lao động của
con ngƣời. Sự sống của con ngƣời đạt đến cái đẹp ở sự hài hòa, cân đối. Chúng ta có thể nhận
thấy trong quan điểm giáo dục của
Trang 87
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
Nguyễn Trãi, ngoài những bài học rèn luyện nhân cách, đạo đức con ngƣời trong đấu tranh
dựng nƣớc giữ nƣớc, ông còn chú ý giáo dục con ngƣời đời thƣờng, một cuộc sống trong tình
yêu thƣơng đồng loại.
Giáo dục con ngƣời sống vì nghĩa tình đồng loại trong cộng đồng dân tộc, Nguyễn
Trãi đã đƣa ra một phƣơng châm sửa mình tiến bộ, một ý nghĩa hết sức sâu sắc mang tầm
thời đại. Bên cạnh đó, ông cũng không quên nhắc nhở mọi ngƣời hãy sống vì mọi ngƣời,
đừng vong ân bội nghĩa, đứng sống vì tiền của mà quên nghĩa tình. Hãy sống vì nghĩa tình
làng xóm, vì tình ngƣời thiêng liêng, đừng vì danh lợi xa rời bè bạn.
"Bầu bạn cùng nhau nghĩa chớ vong,
Người kia phú quý nỡ quên lòng."
(Bảo kính cảnh giới - 51)
Tình nghĩa "Tào khang " giữa vợ chồng cũng đƣợc Nguyễn Trãi đề cập với một tinh
thần nhân văn cao đẹp. Nho giáo vẫn xem nhẹ vai trò ngƣời phụ nữ, họ bị ràng buộc bởi định
kiến khắt khe giáo điều "Tam tòng", nhƣng với Nguyễn Trãi ông đã khẳng định quan điểm
của mình một cách rạch ròi và giáo dục mọi ngƣời hãy gìn giữ đạo thủy chung:
"Kết bạn mựa quên người cố cựu;
Yên nhà nỡ phụ vợ tao khang."
(Bảo kính cảnh giới - 2)
"Chân tay dầu đứt, bề khôn nối;
Xống ảo chẳng còn mô dễ xin."
(Bảo kính cảnh giới - 15)
"Thế sự trai yêu thiếp mọn;
Nhân tình gái nhớ chồng xưa''
(Bảo kính cảnh giới - 52)
Trang 88
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
Trong cuộc sống, có những điều mà ngƣời đời tƣởng rằng nhỏ nhặt nên coi thƣờng,
dẫn tới vi phạm đạo lý. Nguyễn Trãi với tâm hồn chan chứa yêu thƣơng, trái tim giàu nhân ái,
đã lƣu ý con cháu cả những vấn đề nhỏ nhặt đó:
"Giận làm chi tổn khí hòa;
Nào từng có ích nhọc mình ta.
Nếu đua khí huyết, quên nhân nghĩa;
Hòa thất nhân tâm nát cửa nhà.
Mấy phát om thòm dường tích lịch,
Một cơn lừng lẫy tựa phong ba.
Đến khi tịt mới ăn năn lại,
Nhẫn song, thì vạn sự qua"
(Răn giận)
ngay cả trong cách nói năng, ăn mặc... thế nào là đẹp, là phù hợp với đạo lý truyền thống đến
cuộc sống hàng ngày của nhân dân Nguyễn Trãi cũng đặt ra:
"Cơm kẻ bất nhân, ăn ấy chớ,
Áo người vô nghĩa mặc, chẳng thà''
(Trần tình - 3)
Khát vọng thiết tha của Nguyễn Trãi là xây dựng một xã hội mà mọi ngƣời ai cũng
hoàn thiện về đạo đức, ai cũng là một con ngƣời sống vì xã hội, giữ đạo thủy chung, tình
nghĩa với mọi ngƣời xung quanh, giúp đỡ nhau lúc hoạn nạn, khó khăn, không làm những
việc hung ác, bất nhân, gây cho ngƣời khác sự đau khổ:
"Lấy khi đầm ấm pha khi lạnh,
Giữ thuở khô khao có thuở dào."
(Thuật hứng -21)
"Lành người đến, dữ người duồng,
Yêu xạ vì nhân mùi có hương."
(Bảo kính cảnh giới - 20)
Trang 89
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
Tâm đắc với triết lý "trung dung", Nguyễn Trãi thƣờng nhắc đi, nhắc lại:
"Văn chương chép lấy đòi câu thánh;
Sự nghiệp tua gìn phải đạo trung."
(Bảo kính cảnh giới - 5)
Đạo trung ở đây chính là đạo trung dung, một lý thuyết về cân bằng trong cuộc sống -
"Bền đạo trung dung chẳng thuở tàng" (Bảo kính cảnh giới - 12) hay "Làm ngƣời thì giữ đạo
trung dung" (Tự giới). Nêu lên nguyên lý này Nguyễn Trãi đã khắc phục đi sự "dĩ hòa di quý"
để khai thác mặt tích cực của nó, coi đạo trung dung là một biện pháp đấu tranh mềm dẻo,
nhằm đạt đƣợc mục đích tốt đẹp, thích hợp, tuy vào tình hình cụ thể của cuộc sống. Trong lý
tƣởng giáo dục của mình Nguyễn Trãi không những mong muốn mọi ngƣời đều sống với
lòng nhân nghĩa, đậm đà tinh thần nhân ái, mà còn phải luôn tâm niệm chữ "trung cần". Trải
qua một quá trình lăn lộn, bôn ba, nếm mật, nằm gai trong kháng chiến cho đến khi giành
đƣợc kết quả, Nguyễn Trãi ý thức rất sâu sắc về hai chữ "trung cần", với Nguyễn Trãi ông đã
gắn khái niệm "trung" là "hết lòng" với khái niệm "cần" là "siêng năng". Đã "trung" là phải
"cần", nói "trung" mà lại không "cần" tức hết lòng mà không hết sức, chỉ là nói suông. Phải
lấy việc làm để đánh giá bản chất con ngƣời, sự trung thực, bản lĩnh và khả năng hoạt động
xã hội giúp ích cho đời.
"Khoe tiết làu làu nơi học đạo;
Ở triều khăn khan chữ trung cần''
(Bảo kính cảnh giới - 60)
và có "trung cần" mới có điều kiện thực hiện triết lý trung dung một cách thích đáng, phát
huy những giá trị cao quý mà những bậc thánh hiền ngày trƣớc đã đƣa ra.
"Trung cần há nỡ trễ cân xưng;
Nhiều thánh hiền xưa kiếp đã từng"
(Bảo kính cảnh giới - 61)
Trang 90
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
Trong hộ thống tƣ tƣởng giáo dục của Nguyễn Trãi, ông đặc biệt lƣu ý về vấn đề lao
động. Thành công, no lành...không đi liền với lƣời nhác, trể nãi. Cái cần nhất cho mỗi con
ngƣời có thể sống tốt là phải có nghề nghiệp "cầm tay", phải thạo nghề. Ngoài ra còn cần
phải học cho "nên", cho giỏi về nghề nghiệp, và phải siêng năng làm lụng:
"Kẻ khôn thì bảo kẻ ngây phàm.
Nghề nghiệp cầm tay ở mới cam.
Nên thợ nên thầy vì có học;
No ăn, no mặc bởi hay làm"
(Bảo kính cảnh giới - 46)
Siêng năng, chăm chỉ, đó không phải là điều bắt buộc đối với ngƣời nghèo, mà còn là
điều bắt buộc đối với ngƣời quyền cao chức trọng, giàu của cải nhƣ bậc vƣơng giả. Đó là luật
sống, mà nó không có ngoại lệ cho bất cứ ai. Chăm chỉ làm ra của cải theo từng nghề nghiệp,
làm thợ, làm thầy, đến cả vua cũng là một nghề mà nhờ đó, mỗi ngƣời tạo dựng cho mình
một sự nghiệp. Nghề nào, nghiệp ấy. Muốn tạo cơ nghiệp khác, vừa, nhỏ, ngoài siêng năng,
chăm chỉ còn phải biết tiết kiệm trong tiêu dùng. "Cần" đi liền với "kiệm". Nguyễn Trãi nhấn
mạnh điều đó:
"Nhắn bảo phô bay đạo cái con,
Nghe lượm lấy, lị chi đòn.
Xa hoa lơ lãng nhiều hay hết;
Hà tiện đâu đang ít hãy còn.
Áo mặc miễn là cho cật ấm;
Cơm ân chẳng lọ kén mùi ngon.
Xưa đà có câu truyền bảo:
Làm biếng hay ăn lở non."
(Dạy con trai)
Trang 91
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
Là một vị đại thần có quyền cao chức trọng, nhƣng Nguyễn Trãi đã nói lên đƣợc tính
tích cực của việc "cần" "kiệm" trong đời sống. Một vấn đề mà trƣớc Nguyễn Trãi mấy nghìn
năm Khổng Tử đã từng răn dạy cho các môn sinh của mình:
"Xã tắc bất tốn
Kiệm tắc cố"
(Ai sống xa xỉ ắt sẽ phạm lỗi thiếu khiêm tốn.
Ai sống tiết kiệm cũng mang tiếng cổ quê)
và Khổng Tử đã chọn lối sống tiết kiệm, ông nói:
" Dữ kỳ bất tốn dã, ninh cố"
(Ta thà chịu cái cổ lậu, quê mùa chứ không chịu mang danh là ngƣời không khiêm
nhƣờng)
Sự sáng suốt và khiêm tốn của Khổng Tử đã làm tôn sự trong sáng thanh cao của ông
và cho đến tận hôm nay, ngƣời đời vẫn ca tụng ông là một vị thánh.
Tiếp tục những nét đẹp đó, Nguyễn Trãi tuy ở trong một hoàn cảnh có đủ điều kiện để
sống một cuộc sống vƣơng giả xa hoa, nhƣng ông vẫn kiên nhẫn thực hiện một lối sống cần
kiệm trọn cuộc đời, và thành tâm nhắn nhủ lớp hậu sinh:
"Cơm ăn miễn có, dầu xoa bạc;
Áo mặc âu chi, quản cũ đen"
(Bảo kính cảnh giới -13)
Trong cuộc sống muốn tồn tại và vƣơn lên con ngƣời phải luôn vật lộn với điều kiện
tự nhiên để thích nghi vào từng hoàn cảnh sống. Chính thực tế cuộc sống, ông đã đúc kết
đƣợc và luôn căn dặn, giáo dục mọi ngƣời:
" No ăn, no mặc bởi hay làm"
(Bảo kính cảnh giới -46)
Trang 92
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
Giáo dục tinh thần hăng say lao động, sống cần kiệm, giữ đƣợc lòng trong sạch thanh
cao, Nguyễn Trãi cũng không quên nhắc nhở mọi ngƣời rèn luyện cái "Tài". Ông đề cao
những giá trị của tri thức:
"Con cháu chớ hiềm sớm tối ngặt.
Thi thư thực ấy báu nghìn đời"
(Ngôn chí-9)
Ngƣời xƣa có câu " Phi trí bất hƣng" (không có trí thức không thể phát lên đƣợc).
Phát huy luận điểm đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh trong một lần nói chuyện với thanh niên đã
từng phát biểu "có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc
gì cũng khó". Với Nguyễn Trãi tri thức không những là yếu tố quyết định sự vƣơn lên của
con ngƣời trong mọi hoạt động xã hội, mà còn giúp cho con ngƣời am hiểu về những giá trị
đạo đức, ý thức đƣợc việc tu dƣỡng và rèn luyện bản thân.
"Đọc sách thì thông đòi nghĩa sách"
(Bảo kính cảnh giới - 57)
Và cũng trên cơ sở tri thức, ông đã cân nhắc:
"Tài đức thời cho lại có nhân.
Tài thì kém đức một hai phần"
(Bảo kính cảnh giới - 57)
vận dụng những yếu tố tài và đức, con ngƣời sẽ hành động đúng theo đạo lý truyền thống,
đánh đuổi kẻ thù xâm lƣợc, những thế lực hại dân, hại nƣớc.
"Trừ độc trừ tham trừ bạo ngược;
Có nhân cố trí có anh hùng."
(Bảo kính cảnh giới - 5)
Ngƣời có tài có đức là ngƣời kết hợp trong mình những hành động luôn thể hiện lòng
nhân nghĩa. Một thái độ mềm dẽo ôn hòa trong bất kỳ hoàn cảnh nào.
Trang 93
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
"Làm lành mới cậy chớ làm dữ;
Có đức thì hơn nửa cố tài"
(Tự thán -22)
Đƣa ra những quan điểm về tài và đức để khẳng định giá trị cao quí của con ngƣời,
nhƣng những yếu tố đó trở thành hiện thực đƣợc hay không, còn phụ thuộc vào một điều đặc
biệt quan trọng, mà đối với Nguyễn Trãi ông đã từng khẳng định:
"Nên thợ, nên thầy vì có học,"
(Bảo kính cảnh giới -46)
Giá trị kiến thức là sự hiểu biết để làm một con ngƣời có ích cho gia đình và xã hội.
Giá trị ấy có đƣợc là phụ thuộc vào mỗi cá nhân trong quá trình tích lũy từ cuộc sống và qua
sách vở. Kiến thức không chỉ mang đến cho con ngƣời địa vị, danh vọng mà nó còn là kim
chỉ nam dẫn dắt mỗi ngƣời hoàn thiện nhân cách. Đối với Nguyễn Trãi ngƣời thầy giáo bao
giờ cũng là tấm gƣơng để mình soi rọi vào và noi theo, công của thầy lớn lao đến nỗi ông xếp
cao hơn cả công ơn chúa thƣợng và cha mẹ:
"Có mống tự nhiên lại cố cây.
Việc làm vướng vắt ắt còn chầy.
Thủy chung mấy vật đều nhờ chúa;
Động, tĩnh nào ai chẳng bởi thầy"
(Mạn thuật -3)
Đề cao công ơn to lớn của thầy giáo, Nguyễn Trãi rất mong mỏi tạo lập một nền thái
bình thịnh trị, một quốc gia giàu mạnh.
Uyên thâm từng trãi, cho nên Nguyễn Trãi có những cảm nhận sâu sắc về cuộc đời:
Trang 94
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
"Lòng người quanh nữa nước non quanh.
Chẳng ngừa nhỏ âu nên lớn;
Nếu có sâu thì bỏ canh.
Ở thế an nhàn chăng cố sự.
Ngàn muôn tốn nhượng chớ đua tranh."
(Bảo kính cảnh giới - 9)
Quá trình vận động của một sự vật là một quá trình biện chứng triệt tiêu cái này để cái
kia tồn tại. Con ngƣời cũng là một sinh vật luôn vận động để phát triển hoàn thiện. Chính vì
thế Nguyễn Trãi đã dựa trên nguyên lý biện chứng để đƣa ra quan niêm biện chứng trong quá
trình con ngƣời tìm đến những điều tốt đẹp nhất. Tƣ tƣởng giáo dục con ngƣời của Nguyễn
Trãi là hƣớng con ngƣời đến với cuộc sống ôn hòa, không chen đua hiềm khích, không làm
những việc tàn ác, hại nhân. Những việc làm thất đức của con ngƣời chỉ mang đến những
phiền muộn trong lòng, những sự ray rứt mà đời sau phải gánh chịu. Chỉ có những việc làm
nhân ái mới mang lại sự thanh thản trong tâm hồn, nó là một kho của cải về tinh thần mà
không mấy ai thực hiện đƣợc.
"Trồng cây đức để con ăn
Được thua phú quí đầu thiên mệnh;
Chen chóc làm chi cho nhọc nhằn"
(Mạn thuật -5)
Nguyễn Trãi rất đề cao cuộc sống thanh nhàn, với ông cuộc sống thanh nhàn sẽ tạo
cho tâm hồn rộng mở và giàu lòng nhân ái. Ông kêu gọi mọi ngƣời dẹp bỏ những đố kỵ, ganh
đua mà tìm đến những niềm vui trong cuộc sống:
"Ngũ dạ bồng song thanh mộng giác
Do nghi Trường Lạc cách hoa chung"
(Thƣợng Nguyên hổ gia chu trung tác)
Trang 95
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
Dịch nghĩa:
"Canh năm bên cửa sổ thuyền chợt tỉnh mộng nhẹ
Còn ngờ nghe tiếng chuông ỏ cung Trường Lạc cách hoa"
(Làm trong thuyền hỗ giá tiết Thƣợng Nguyên)
Trong tƣ tƣởng của Nguyễn Trãi quan hệ giữa thiên nhiên và lòng ngƣời là quan hệ
rất mật thiết. Những âm thanh nhịp điệu hình ảnh có trong cuộc sống tƣơi đẹp thanh bình đã
đƣợc ông ghi nhận trong một tâm hồn rộng mở và ngây ngất giữa một không gian trong sáng.
Cảm nhận khung cảnh tuyệt diệu ấy, Nguyễn Trãi đã khuyên bảo con ngƣời thay đổi cuộc
sống, hƣớng đến cái dung dị yên lành của cuộc đời. Trong cái chất vật khốn khó của cuộc
sống thì tâm hồn con ngƣời phải nên đƣợc thanh thản giữa thiên nhiên. Tạo vật và con ngƣời
dựa vào nhau, ảnh hƣởng lẫn nhau, trao đổi tình cảm cho nhau, từ đó tâm hồn con ngƣời trở
nên cao rộng và nhân ái hơn.
Sống dƣới chế độ phong kiến Nho giáo, những ràng buộc giáo điều theo ảnh hƣởng
Tống Nho đã buộc con ngƣời vào những khuôn khổ khắt khe của "Tam cƣơng" "Ngũ thƣờng"
"Tam tòng", "Tứ đức", buộc con ngƣời vào cuộc sống chật chội, chậm tiến với những quan
niệm hẹp hòi:
"Gia hữu kỳ nam tắc suy
Gia hữu cầm nữ tắc dâm"
Trong quan niệm của bọn hũ nho "cầm", " kỳ" là hai thú vui làm cho con ngƣời mê
muội, không sáng suốt. Vì vậy việc xuất hiện của đàn, cờ trong gia đình sẽ làm cho gia đình
rối loạn, không còn thể thống. Với một quan điểm giáo dục hết sức khoáng đạt, rộng mở và
tiến bộ, Nguyễn Trãi đã mở rộng cuộc sống hƣớng con ngƣời tìm đến sự hƣởng thụ có ích,
trong sáng và lành mạnh.
" Gia hữu cầm thư nhi bối lạc"
(Mạn thành- 2)
Trang 96
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
Dịch nghĩa:
Trong nhà có sách, có đàn, bầy trẻ vui vầy
Ông không hề sợ có cây đàn ở trong nhà, bên cạnh quyển sách. Ông coi đàn và sách là
hai ngƣời bạn tâm giao của Ông.
" Cầm, sách cùng nhau ngày tháng trường"
(Tức sự-6)
" Bạn cùng phiến sách tiếng đàn cầm"
(Bảo kính cảnh giới -23)
nhƣng đó không phải là những thứ ham mê tự phát hay cảm tính, nó xuất phát từ một quan
điểm rõ ràng.
" Cầm thư nhã thú chân kham thượng"
(Thứ vận Trần thƣợng thƣ đề Nguyễn bố chánh thảo đƣờng)
Dịch nghĩa:
Cái thú đàn sách thanh nhã thật là đáng chuộng
Cách chúng ta 600 trăm năm, Nguyễn Trãi đã thấy đƣợc tác dụng lớn lao của văn
nghệ trong đời sống tự nhiên và xã hội. Âm nhạc tiếng nói của tâm hổn con ngƣời có thể lay
động cả đất trời vũ trụ:
"Ngư ca tam xướng yên hồ khoát;
Mục địch nhất thanh thiên nguyệt cao
(Chu trung ngẫu thành- 2)
Dịch nghĩa:
"Ba câu hát ông chài, hồ khói rộng,
Một tiếng sáo chú mục, trời trăng cao."
Trang 97
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
nói gì đến khả năng bồi bổ, cảm hóa của nó đối với con ngƣời. Theo lễ tiếp khách từ xƣa thì
mở đầu câu chuyện thƣờng phải là điếu thuốc, miếng trầu hoặc ấm trà.
" Mấy khi khách đến chơi nhà,
Đốt than quạt nước pha trà người xơi."
(Quan họ)
nhƣng với Nguyễn Trãi sự biểu lộ niềm vui hân hoan gặp mặt bạn quí lại không gì hơn là
đƣợc suốt ngày cùng nhau vui chơi với cây đàn.
" Giai khách tương phùng nhật bão cầm"
(Đề Trình xử sĩ Vân oa đồ)
Dịch nghĩa:
Bạn quí gặp nhau suốt ngày ôm đàn gảy;
Trong cuộc sống vấn đề làm ra của cải để phục vụ bản thân mình là một việc làm mà
mỗi con ngƣời điều phải phấn đấu. Nhƣng khi đã tạo đƣợc của cải một số ngƣời lại coi chúng
là trên hết, cứ luôn luôn ôm giữ của cải, chạy theo sức mạnh của đồng tiền. Một điều trái với
tự nhiên là họ bo bo tích của để làm giàu, nhƣng không dám ăn, không dám mặc, loại ngƣời
đó xã hội gọi là kẻ keo kiệt, bần tiện. Tâm trạng họ chẳng bao giờ đƣợc thoải mái, có một nỗi
lo luôn đè nặng trong lòng họ, kể cả trong giấc ngủ. Nguyễn Trãi đã có một sự nhìn nhận tinh
tế và chân xác khi đề cập đến những băn khoăn lo lắng của loại ngƣời này. Để giáo dục họ
thoát khỏi những ràng buộc, ức chế mà bản thân họ tự tạo ra, khắc phục những khiếm khuyết
để trở thành một ngƣời nhân ái, yêu thƣơng đồng loại. Ông đã khuyên răn giáo dục họ nhẹ
nhàng nhƣng thâm thúy.
" Tích đức cho con hơn tích của''
(Tự thán-41)
Trang 98
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
" Nô bộc ắt còn hai dặng quít,
Thất gia chẳng quản một con lều.
Miễn là tiêu sái qua ngày tháng,
Lộc được bao nhiêu ăn bấy nhiêu."
(Mạn thuật - 2)
Nguyễn Trãi không những khuyên con ngƣời đừng vì tiền mà làm mất nhân tính của
mình mà còn giáo dục con ngƣời không nên sống quá khắc kỷ với bản thân mình, mà quên đi
hạnh phúc bình dị đời thƣờng, đừng làm cho cuộc sống đời thƣờng trở nên vô nghĩa tẻ nhạt.
"Nằm có chiếu chăn, cho ấm áp;
Ăn thì canh cá, chớ khô khan "
(Bảo kính cảnh giới -7)
Không những uyên thâm về mặt giáo dục đạo đức làm ngƣời, Nguyễn Trãi còn là một
nhà tâm lý và sinh lý học đƣơng thời. Những kiến thức của ông xoay quanh những vấn đề có
liên quan về sự điều hòa cuộc sống của con ngƣời, những vấn đề rất nhỏ nhƣng liên quan rất
lớn đến việc hoạt động của một cơ thể sống. Nguyễn Trãi đã khuyên mọi ngƣời bằng tất cả
kinh nghiệm sống của mình.
"Nhọc nhằn ai chớ còn than thở,
Ăn có dừng việc có dừng."
(Bảo kính cảnh giới -54)
Hay:
"Mọi việc dừng hơn hết mọi âu''
(Bảo kính cảnh giới -32)
Truyền thống của dân tộc Việt Nam là yêu nƣớc, thƣơng ngƣời và rất siêng năng cần
cù lao động. Trong công việc họ rất nhiệt tình và cần mẫn, không quản nắng mƣa, sẵn sàng
"Bán mặt cho đất bán lưng cho trời" để mong có kết
Trang 99
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
quả tốt đẹp. Trong những nhọc nhằn ấy họ không còn thời gian để điều tiết hoạt động bản
thân. Nhận định vấn đề này, Nguyễn Trãi đã lên tiếng khuyên răn con ngƣời nên xem lại việc
làm của mình vì trong lao động cần có sự nghỉ ngơi. Có nhƣ vậy con ngƣời mới tự điều chỉnh
đƣợc mình và phát triển ngày một tốt hơn.
Sống trong xã hội thì việc va chạm, hiềm khích lẫn nhau là một điều không thể tránh
khỏi. Bởi bản chất của xã hội là tập hợp vô số những mối quan hệ khác nhau mà con ngƣời là
trung tâm của những đầu mối quan hệ đó. Trong xã hội không thể tránh khỏi "Lòng thế bạc
đen dầu nó biến" và xung đột thƣờng xảy ra khi mâu thuẫn xuất hiện, những hậu quả khôn
lƣờng sẽ để lại. Vì vậy Nguyễn Trãi đã đƣa ra bài học "Răn giận" nhằm giáo dục mọi ngƣời
hãy sống với nhau thân thiết nhƣ dân gian ta đã có câu:
"Lời nói không mất tiền mua,
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau."
(Ca dao)
Rƣợu chè, trai gái là những thói xấu có ma lực. Ngay từ thời Khổng Tử bệnh này đã
phát. Khổng Tử đã lên án:
"Dĩ hĩ hồ ! Ngô vị kiến háo đức như háo sắc giả dã"
Dịch nghĩa:
"Thôi thì thôi ! Ta chưa thấy ai háo làm việc cố đức như háo gái vậy ".
Nguyễn Trãi đã ngăn chặn và giáo dục con ngƣời đừng quá say mê đi vào con đƣờng
tửu sắc "Tửu sắc là nơi nghiệp há chừa" (Bảo kính cảnh giới -52). Ông đã luận giải về hậu
quả của bệnh trăng hoa này:
"Sắc là giặc đàm làm chi!
Thuở trọng còn phòng có thuở suy.
Trụ mất quốc gia vì Đát Kỷ;
Ngô lìa thiên hạ bởi Tây Thi.
Trang 100
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
Bùi tan gia thất đời từng thấy;
Tổn hại tinh thần sự ích chi."
(Răn sắc)
Sự đời luôn vận động biến đổi có lúc thịnh, lúc suy, lúc lên, lúc xuống, cơ thể hay
lòng ngƣời cũng vậy thôi. Đam mê xác thịt là "tổn hại tinh thần". Khuyên răn mọi ngƣời
đừng quá sa đà mù quáng đi vào con đƣờng sắc dục, nhƣng Nguyễn Trãi không chủ trƣơng
"diệt dục" mà chỉ là "tiết dục" theo mức độ thông thƣờng "nam nữ phòng trung".
" Phu phụ đạo thường chăng được chớ,
Nối tông hòa phải một đôi khi."
(Răn sắc)
Điều độ trong vấn đề phòng dục cũng là một khía cạnh của triết lý trung dung mà
Nguyễn Trãi đã tiếp thu từ Khổng giáo. Việc thực hiện đƣợc những vấn đề ôn hòa trong cuộc
sống, điều tiết trong vấn đề sinh lý không phải bất cứ ai cũng thực hiện đƣợc mà nó đòi hỏi
con ngƣời phải có một nghị lực thật sự và có một tinh thần tu dƣỡng và rèn luyện. Phƣơng
châm giáo dục của Nguyễn Trãi khá hoàn thiện ở các mặt tinh thần và thể xác, ông đã vạch ra
con đƣờng cho mỗi ngƣời tự rèn luyện và phấn đấu.
Giáo dục con ngƣời vốn là một điều khó, đi sâu vào giáo dục từng bản thân mỗi ngƣời
lại càng khó hơn. Thế nhƣng Nguyễn Trãi đã làm và làm một cách sâu sắc điều đó. Chỉ với
Nguyễn Trãi một con ngƣời "thƣơng sinh tại niệm" có một tấm lòng rộng mở, nhân ái, yêu
thƣơng con ngƣời, cảm thông trƣớc mọi đau khổ mà con ngƣời phải gánh chịu mới có một
quan niệm, tƣ tƣởng giáo dục tinh tế đến nhƣ vậy.
2.3. Giáo dục và tự giáo dục
Những bậc vĩ nhân xƣa thƣờng là sứ giả của thời đại, văn thơ của họ thƣờng chở
những cái đạo lớn của thời đại. Bởi vậy kẻ sĩ làm thơ cốt để nói lên
Trang 101
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
cái chí của mình. Khổng Tử đã từng dạy con mình "Bất học Thi vô dĩ ngôn" (không học Kinh
Thi thì khó ăn nói ở đời) (Thiên Quí Thị - sách Luận ngữ)
Nhƣ vậy, văn chƣơng thể hiện quan hệ giữa tự nhiên và lòng ngƣời. Con ngƣời sống
trong xã hội là cả một quá trình vận động và đấu tranh không ngừng. Trải qua mấy nghìn năm
lịch sử dân tộc Việt Nam đã có bao nhiêu thế hệ ra đời, và bao nhiêu thế hệ trƣởng thành
trong nền truyền thống văn hóa đó. Những tinh hoa mà ngƣời đời trƣớc qua biết bao gian
khổ, thử nghiệm họ mới trao truyền lại cho đời sau, để cho đời sau vận dụng một cách thuận
lợi hơn và khắc phục đƣợc những mặt hạn chế thời đại của nó. Sự trao truyền kinh nghiệm là
một qui luật tự nhiên, nếu chúng ta tự bẻ gãy, cắt lìa truyền thống sẽ rơi vào một tình trạng
xấu. Bài học về rèn luyện ý chí nghị lực "Có công mài sắt, có ngày nên kim" hay "Có chí thì
nên" là những bài học đƣợc tích lũy từ thời loài ngƣời còn "Ăn lông ở lỗ". Đó là những kinh
nghiệm quí báu mà biết bao thế hệ nằm xuống mới có đƣợc. Nguyễn Trãi là bậc vĩ nhân thời
xƣa, tƣ tƣởng của ông càng rộng mở, làm thơ văn là để nói lên chí nguyện của mình. Tiếp thu
truyền thống giáo dục của dân tộc, trong tƣ tƣởng giáo dục của ông, chúng ta không lạ gì khi
gặp lại những lời giáo huấn, khuyên bảo con ngƣời rèn luyện ý chí, nghị lực để vƣợt qua mọi
khó khăn.
Kinh nghiệm thực tế sống và chiến đấu của Nguyễn Trãi suốt hai mƣơi năm " Nếm
mật nằm gai" nơi rừng sâu núi thẳm đã giúp ông đúc kết đƣợc những kinh nghiệm vô cùng
quí báu trong cuộc đời. Là ngƣời chí sĩ hay kẻ đại trƣợng phu thì tinh thần, nghị lực ý chí
trong mọi hoàn cảnh phải vững nhƣ bàn thạch, xem cái chết nhẹ tựa lông hồng. "Dù gặp giàu
cũng không mê muội, gặp nghèo khổ cũng không dao động, gặp sự uy hiếp bằng thế lực cũng
không chịu khuất phục" (Sách Mạnh Tử). Tiếp thu những quan điểm đó Nguyễn Trãi đã đƣa
ra các bài học về tu dƣỡng đạo đức, lòng vị tha, nhân ái, hƣớng con ngƣời đến sự hoàn thiện
toàn diện về nhân cách. Song trong cuộc sống có biết bao nhiêu chồng gai mà ngƣời đời cần
phải bỏ công sức ra chinh phục để tạo nên những con đƣờng
Trang 102
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
bằng phẳng cho mình bƣớc đi trên nó. Sự khó khăn gian khổ của cuộc đời ví nhƣ những thử
thách để mọi cá nhân tự rèn luyện khắc phục, tu dƣỡng bản thân để tự vƣơn lên. Trong những
hoàn cảnh khó khăn gian khổ nhất, mới thấy đƣợc nét cao quí của ngƣời anh hùng:
"Khó bền mới phải người quân tử;
Mạnh gắng thì nên kẻ trượng phu"''
(Trần tình -7)
Khổng Tử, nhà giáo dục lớn của Trung Hoa phong kiến, đã từng khuyên bảo các học
trò của mình rằng "người ta dụng công một mà không được thì phải cố gắng gấp trăm, người
ta dụng công mười mà không được thì phải cố gắng gấp nghìn, để đến kỳ được mới thôi".
Thế kỷ XV, Đại Việt cũng có Nguyễn Trãi -một bậc vĩ nhân về tƣ tƣởng, nhà chính trị, quân
sự lỗi lạc, nhà văn, nhà thơ đại tài... và là nhà giáo dục tinh tế, sác bén. Ông muốn truyền đạt
lý tƣởng giáo dục của mình đến mọi ngƣời dân. Sự nhìn nhận tinh tƣờng của ông về quá trình
giáo dục, cho thấy Nguyễn Trãi đã chú trọng rất nhiều về mặt giáo dục đào tạo của quốc gia.
Theo ông giáo dục là một trong những nguồn gốc tạo ra sức mạnh, tạo ra vật chất, của cải, tạo
ra thợ giỏi, thầy giỏi, tạo ra đƣợc cả vua hiền minh, bởi giáo dục có thần lực lớn uốn nắn
đƣợc phần quan yếu nhất và khó tác động nhất ở con ngƣời là tính nết, tƣ tƣởng. Nguyễn Trãi
đã tâm đắc với quan niệm trọng học của Khổng giáo. Tâm hồn của ông luôn hƣớng về nhân
dân, nguyện suốt đời phục vụ cho cuộc sống của nhân dân. Ông giáo dục mọi ngƣời phải rèn
luyện ý chí, nghị lực, phải đứng vững trụ gan mới mong tích đƣợc đức, thực hiên đƣợc tâm
huyết, mới có đầy đủ niềm tin, ý chí và lòng nhân ái. Trong mọi hoàn cảnh, Nguyễn Trãi luôn
giáo dục mọi ngƣời phải vững chí bền lòng:
"Khó khăn thì mặc cố màng bao.
Càng khó bao nhiêu chí mới hào.'"
(Thuật hứng -21)
và bản lĩnh của mọi ngƣời càng đƣợc thể hiện rõ nét hơn.
Trang 103
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
"Quân tử hãy lăm bền chí cũ;
Chẳng âu ngặt chẳng âu già."
(Ngôn chí - 17)
Sinh ra và lớn lên, cuối triều nhà Trần, khi chế độ phong kiến ở vào giai đoạn cực kỳ
suy thoái, đời sống ngƣời dân lầm than cơ cực, các thế lực trong nội các triều đình thanh toán
lẫn nhau, giặc Minh thừa cơ xâm lƣợc, Nguyễn Trãi đã cảm thông với những kiếp ngƣời nạn
nhân xã hội. Ông đã tận mắt chứng kiến cảnh đao binh, chết chóc... quan lại sách nhiễu, đục
khoét vơ vét của cải nhân dân. Con ngƣời, nhất là nhân dân lao động cùng khổ phải luôn chịu
bao điều cay đắng tủi nhục. Cuộc đời họ luôn bị chèn ép và vấp phải những lực cản vô cùng
lớn lao khiến họ khó tiến lên đƣợc. Trong hoàn cảnh khắc nghiệt đó, Nguyễn Trãi đã động
viên, khích lệ con ngƣời rèn luyện nghị lực, không nhụt chí trƣớc gian lao, không nản lòng
trƣớc thử thách:
"Khó ngặt hãy bền lòng khó ngặt,
Chê khen mựa ngại tiếng chê khen.'"
(Bảo kính cảnh giới -13)
Và để khẳng định nhân cách của mình, con ngƣời cần phải biết dấn thân, dám đối đầu
với những cam go trong cuộc sống, phải có bản lĩnh vững vàng, chẳng những không sợ hãi
mà còn coi những khó khăn, gai góc trong cuộc sống là những thử thách cần thiết để tự tôi
luyện bản thân mình, là thƣớc đo để đánh giá kết quả mà mình thực hiện.
"Khó khăn phải đạo cháo càng ngon"
(Bảo kính cảnh giới -22)
Trong những đục trong của cuộc đời mới biết đâu là chân giá trị cuộc sống " Ưa mi vì
tiết sạch hơn người ”(Mai) "Chuốt lòng đơn, chẳng bén tục - Bền tiết ngọc, kể chi sương"
(Cúc đỏ) hay "Lầm nhơ chẳng bén, tốt hòa thanh" (Hoa Sen). Giữ đƣợc tấm lòng trong sạch,
không vẫn đục bởi bụi đời đó là điều mà
Trang 104
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
Nguyễn Trãi mong muốn mọi ngƣời hãy thông suốt và bền lòng thực hiện. Cho dù bất cứ nơi
đâu, con ngƣời cần phải trau dồi đạo đức theo quan niệm.
"Giàu mặc phận, nguôi lòng ước;
Chật yên bần, ấy cổ lề."
(Tự thán-18)
"Chĩnh vàng chẳng tiếc danh thì tiếc,
Bia đá hay mòn nghĩa chẳng mòn."
(Tự thán-17)
và phải rắn rỏi tự tin, giàu nghị lực, đứng sừng sững giữa trời nhƣ núi Nam Nhạc cùng các vị
sao Bắc đẩu:
"Đại địa dày, Nam nhạc khỏe;
Cửu tiêu vắng, Bắc thần cao"
(Thuật hứng - 21)
Ý chí và nghị lực luôn là yếu tố tiềm ẩn trong mỗi con ngƣời. Tạo hóa sinh ra con
ngƣời và ban tặng những điều kỳ lạ nhất cho sinh vật này. Con ngƣời là một sinh vật có ý
thức, biết vƣơn lên và chinh phục tự nhiên, sức mạnh tinh thần của con ngƣời là sức mạnh vô
địch mà trong hoàn cảnh khó khăn hiểm nghèo nhất nó mới bộc phát. Nguyễn Trãi nhận thức
rất rõ điều này, ông giáo dục mọi ngƣời theo nguyên tắc là phải luôn luôn tự rèn luyện, phải
có niềm tin vào công việc mà mình thực hiện, phải bền lòng, bền chí.
Nguyễn Trãi cứ canh cánh bên lòng lo cho đời sống của dân đen con đỏ, còn mình thì
vẫn "quan thanh lạnh nửa đèn".
" Niềm cũ sinh linh đeo ắt nặng,''
(Tự thán -2)
" Bằng tôi nào thuở ích chưng dân"
(Trần tình - 1)
Trang 105
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
Với mong muốn chấn chỉnh triều đình đi vào nề nếp, dẹp ngay những bọn Xiểm nịnh
hại dân hại nƣớc, Nguyễn Trãi đã trở nên một ngƣời sống lạc lõng giữa hàng ngũ bọn quan
lại triều đình lúc bấy giờ, tuy ông vẫn biết rõ những hiểm hóc chốn quan trƣờng.
" Đã biết cửa quyền nhiều hiểm hóc;
Cho hay đường lợi cực quanh co."
(Ngôn chí - 19)
"Rộng khơi ngại vượt bể triều quan"
(Bảo kính cảnh giới -33)
Nguyễn Trãi chỉ ra rằng tìm cho đƣợc chính đạo đã khó, nhƣng thực hiện đƣợc chính
đạo lại là chuyện khó khác, và có khi không làm đƣợc.
"Biển học trường văn hằng nhặt bới
Đường, danh lối lợi hiểm khôn tìm"
(Bảo kính cảnh giới -23)
Biết rằng cái che khuất chính đạo, cản trở sự thực hiện chính đạo là "danh lợi", nhƣng
Nguyễn Trãi nhất mực không từ bỏ hoài bão to lớn của mình, một lòng kiên trì đấu tranh giữ
vững tấm lòng son luôn rực cháy lửa hồng cho đến khi tuổi già xế bóng.
"Nhất phiến đơn tâm chân hống hỏa.
Thập niên thanh chức ngọc hồ băng"
(Mạn hứng -2)
Dịch nghĩa:
"Một tấm lòng son, nóng hừng như lò lửa luyện đơn
Mười năm chức mỏng, lòng trắng như băng trong bầu ngọc"
Trong tâm hồn Nguyễn Trãi, bao giờ ông cũng nghĩ đến trách nhiệm của
Trang 106
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
mình, của ngƣời trƣợng phu, đó là trách nhiệm của một tấm lòng thƣơng dân, lo cho dân
không bao giờ thay đổi:
"Còn có một lòng âu việc nước,
Đêm đêm thức nhẵn nẻo sơ chung."
(Thuật hứng -23)
"Bui một tấc lòng ưu ái cũ,
Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông."
(Thuật hứng -5)
Bao năm lận đận chiến đấu gian khổ quên mình trên chiến trƣờng, bao nỗi xót xa phải
tận mắt chứng kiến ngƣời cùng mình đồng cam cộng khổ nơi sa trƣờng khi đã leo lên tột đỉnh
vinh quang lại thay lòng đổi dạ, cộng với bao nỗi bất bình mà trong suốt cuộc đời làm quan
ông đã từng chứng kiến, Nguyễn Trãi đã hiểu rất rõ muốn tu dƣỡng thành một con ngƣời có
nhân cách thực sự cao đẹp, sống hòa đồng, nhân ái với mọi ngƣời, trung cần liêm khiết, vấn
đề quan trọng hàng đầu là sự tự lực của bản thân. Mỗi cá nhân phải ra sức phấn đấu, phải rèn
luyện tu dƣỡng mới mong đạt đƣợc kết quả, bởi cuộc sống xã hội có vô vàn cạm bẫy đang
chờ đợi con ngƣời mà nếu ai không có lòng tự tin và nghị lực sẽ bị vấp ngã.
" Chí cũ ta liều nhiều sự hóc'''
(Thuật hứng - 4)
" Khố ngặt qua ngày xin sống"
(Tự thán - 28)
Nguyễn Trãi đã tiếp thu tƣ tƣởng dân tộc, ông đƣa vào lý tƣởng giáo dục của mình nội
dung giáo dục tinh thần nghị lực, rèn luyện ý chí, bởi lẽ cuộc sống có vô vàn những khó
khăn, mà con ngƣời là một sinh vật nhạy cảm, vì vậy con
Trang 107
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
ngƣời cần phải đƣợc rèn luyện nghị lực. Có nghị lực, con ngƣời mới vƣợt qua thử thách và đi
đến thành công. Trong suốt thời gian cực khổ trên chiến trƣờng và sự lận đận trong cuộc đời
quan trƣờng, Nguyễn Trãi đã rèn luyện đƣợc nghị lực siêu phàm của một kẻ trƣợng phu thức
thời để đạt đƣợc một tấm lòng rộng mở nhân ái vị tha, ôn hòa bình dị.
Vấn đề giáo dục con ngƣời tu dƣỡng bản thân, giữ vững lập trƣờng, bền lòng, chặt dạ,
vững chí luôn đƣợc nhân dân ta từ ngàn xƣa truyền tụng và trân trọng. Trong cuộc sống lấy gì
để giữ vững lòng tin, đó là nghị lực bản thân, một thử thách buộc con ngƣời phải tôi luyện
tinh thần:
" Dù ai nói ngã nói nghiêng
Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân"
(Ca dao)
Đó là chân lý, là kinh nghiệm sống, chiến đấu, lao động, học tập trong suốt mấy chục
năm bản thân Nguyễn Trãi đã tự giáo dục mình trở thành một nhân cách sáng chói trong lịch
sử dân tộc.
Nghiên cứu vấn đề giáo dục con ngƣời trong thơ văn Nguyễn Trãi, ta nhƣ bƣớc vào
từng bậc thang của một tòa tháp uy nghiêm mà mỗi bậc chứa đựng từng nội dung cụ thể, giúp
cho chúng ta am hiểu về tình ngƣời, tình đời, cách đối nhân xử thế, phƣơng pháp tu dƣỡng
rèn luyện bản thân. Ở đó đạo đức công dân luôn đƣợc đề cao, quyền và lợi ích của con ngƣời
luôn là ý thức trách nhiệm. Trong thơ văn của mình, Nguyễn Trãi đã luồn nhắc nhở đến hai
chữ "yên dân". Vì dân, vì nƣớc mà suốt cuộc đời Nguyễn Trãi đã đỗ bao nhiêu tâm huyết để
xây dựng một nền "thái bình muôn thuở" mọi ngƣời sống hòa thuận bên nhau.
Trang 108
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
CHƢƠNG III : Ý NGHĨA, TÁC DỤNG GIÁO DỤC CON NGƢỜI CỦA THƠ
VĂN NGUYỄN TRÃI ĐỐI VỚI LỊCH SỬ VÀ NGÀY NAY
Trong lịch sử nghiên cứu nền giáo dục Việt Nam, khi đề cập đến những nhà giáo dục
có tên tuổi của dân tộc nhƣ Chu Văn An, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Võ Trƣờng Toản, Nguyễn
Đình Chiểu...cho đến Chủ tịch Hồ Chí Minh, thì có mấy ai trong những nhà nghiên cứu đề
cập đến Nguyễn Trãi nhƣ một nhà giáo dục. Ông chỉ đƣợc nghiên cứu đánh giá trên các lĩnh
vực quân sự, chính trị, ngoại giao, văn hóa tƣ tƣởng..., còn trên lĩnh vực giáo dục ông rất ít
đƣợc ngƣời để ý đến. Qua quá trình nghiên cứu và tìm hiểu về thơ văn Nguyễn Trãi chúng ta
thấy rằng thơ văn của ông chứa đựng một nội dung giáo dục rộng lớn và phong phú.
Ông là hiện thân của một ngƣời thầy, một nhà giáo ƣu tú, một nhà giáo dục vĩ đại.
Những vấn đề giáo dục con ngƣời trong thơ văn của ông không chỉ có ý nghĩa, tác
dụng đối với lịch sử mà nó còn có tác dụng cho đến thời đại ngày nay.
I. Những ý nghĩa lớn
Nghiên cứu những sáng tác của Nguyễn Trãi còn lại đến ngày nay, ta thấy ở ông một
trí tuệ, một tâm hồn lớn tiêu biểu cho suy nghĩ và tình cảm của một thời đại lịch sử đầy gian
nan, thử thách, mà cũng thật oanh liệt hào hùng.
Qua thơ văn Nguyễn Trãi chúng ta càng hiểu thêm những giá trị tinh thần văn hóa mà
dân tộc ta rèn đúc nên, càng thêm lòng tự hào, tình yêu đối với đất nƣớc, con ngƣời Việt Nam
và tiếp thêm nghị lực, quyết tâm hoàn thành những nhiệm vụ lịch sử đặt ra cho đất nƣớc hôm
nay.
Trang 109
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
Trƣớc hết Nguyễn Trãi đã kế thừa và phát huy lên một đỉnh cao mới ý thức của dân
tộc Việt Nam về độc lập chủ quyền dân tộc, từ đó đã nêu lên một quan điểm khá toàn diện,
hoàn chỉnh về vấn đề dân tộc, nó không chỉ có tầm vóc dân tộc mà cũng là một đóng góp đặc
sắc cho lịch sử tƣ tƣởng chính trị thế giới vào nửa đầu thế kỷ XV.
Thơ văn Nguyễn Trãi đã tiếp thu và phát huy nét đặc sắc trong tính cách và tâm hồn
ngƣời Việt Nam là chủ nghĩa anh hùng kết hợp với chủ nghĩa nhân đạo, quyết chiến, quyết
thắng mà không hiếu sát và luôn tha thiết với hòa bình.
Thơ văn Nguyễn Trãi là tiếng nói đề cao vai trò to lớn của nhân dân trong sự nghiệp
đấu tranh dựng nƣớc, giữ nƣớc, là tiếng nói cảm thông sâu sắc những nổi khổ của nhân dân,
đồng thời là những lời khuyên ân cần chí thiết mong đem lại cho mọi ngƣời một đời sống hài
hòa, hợp đạo nghĩa và hạnh phúc.
Thơ văn Nguyễn Trãi còn là ý chí, nghị lực vƣợt qua những khó khăn thử thách để
vƣơn lên trong cuộc sống. Mặt khác còn là những cung bậc tâm hồn của một triết gia uyên
thâm về "Tam giáo".
II.Tác dụng đối với lịch sử
Chúng ta đã điểm qua một số nội dung về vấn đề giáo dục con ngƣời trong thơ văn
Nguyễn Trãi. Từ trong chiến trƣờng đầy máu và nƣớc mắt cho đến lúc thái bình thịnh trị, suốt
quá trình đó, cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi là cả một chuỗi dài những băn khoăn,
những bi kịch của ngƣời trí thức, đau đời với những ƣớc muốn vì dân vì nƣớc, vì hạnh phúc
của con ngƣời. Trong thơ văn ông chứa đựng những giá trị nhân bản của kẻ sĩ có cái nhìn sâu
rộng.
Trong chiến đấu, thơ văn ông là những lời thuyết phục cảm hóa đầy hiệu lực, đánh
thẳng vào lòng ngƣời, buộc đối phƣơng phải quy phục. Và trong thời
Trang 110
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
bình, trong nội các triều đình nhà Lê, Nguyễn Trãi vẫn luôn là ngƣời thầy răn dạy từ bậc vua
chúa, quan lại đến những ngƣời "dân đen con đỏ".
Thơ văn ông thấm đẫm tƣ tƣởng nhân nghĩa. Sự nghiệp của ông là sự nghiệp của một
hoài bão xây dựng đất nƣớc thành một quốc gia giàu mạnh có "văn trị", "quốc phú binh
cƣờng", một xã hội có "vua sáng", "tôi hiền", mọi phép của Nhà nƣớc phải "thuận lòng dân",
ông lên án bọn quan lại tham nhũng "thích sƣu cao thuế nặng, vơ vét của dân cho nhiều" và
khinh bỉ bọn "hào phú", "bất nhân", "vô nghĩa", Ông lo đời sống của dân chúng và mong ƣớc
mọi ngƣời đều đƣợc an cƣ lạc nghiệp.
Nguyễn Trãi đã dồn hết tâm huyết của mình và khí phách anh hùng của dân tộc vào
đầu ngọn bút để "vệ Nam" - bảo vệ tổ quốc, và "điện Bắc" - dẹp yên giặc Bắc xâm lƣợc. Ông
đã dùng văn chƣơng của mình để góp phần vào sự nghiệp xây dựng Tổ quốc, xây dựng nhân
cách con ngƣời, tâm hồn và cốt cách dân tộc, xây dựng nền văn hóa Đại Việt.
Với tấm lòng yêu nƣớc, thƣơng dân, lòng nhân ái rộng lớn, chủ nghĩa nhân đạo cao
cả, thơ văn Nguyễn Trãi chứa đựng chất giáo dục sâu sắc về tình yêu thƣơng đồng bào cốt
nhục, cuộc sống tốt đẹp yên vui, chống lại sự chà đạp lên nhân phẩm con ngƣời và những
hành động bất nhân, bất nghĩa. Thơ văn của ông chiến đấu vì chân lý vì lẽ phải, vì đời sống
ấm no hạnh phúc của nhân dân, vì thái bình muôn thuở, vì sự hòa hiếu giữa các dân tộc.
Tính chất giáo dục trong thơ văn ông mang sức mạnh chiến đấu, năng lực của sự sáng
tạo và nguồn cảm hứng trong mọi hoàn cảnh của thiên nhiên, trong thực tiễn xã hội và đòi
sống của nhân dân.
Vì thế thơ văn của ông "có sức mạnh nhƣ mƣời vạn hùng binh" thơ của ông mang khí
phách của "thi tƣớng" trên chiến trận "tao đàn".
Trang 111
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
Suốt đời ôm mối "tiên ƣu", lo trƣớc thiên hạ, vui sau thiên hạ, Nguyễn Trãi thƣờng
nhắc lời của Tô Đông Pha.
"Nhân sinh thức tự đa ưu hoạn,
Pha lão tằng vân ngã diệc vân."
(Mạn hứng- 1)
Đó là niềm tự hào, là ý thức trách nhiệm của ngƣời trí thức chân chính mà Nguyễn
Trãi đã tìm thấy ở ngƣời cầm bút và gửi gắm cho con cháu đời sau:
"Văn chương chép lấy đòi câu thánh,
Sự nghiệp tua gìn, phải đạo trung.
Trừ độc trừ tham trừ bạo ngược,
Có nhân có trí, có anh hùng"
(Bảo kính cảnh giới -5)
Và ông đã nói về ý nghĩa chiến đấu của văn chƣơng khi nhắc đến các bức thƣ gửi giặc
Minh.
"Đao bút đã dùng tài đã vẹn,
Chỉ thư nấy chép việc càng chuyên.
Vệ Nam mãi mãi ra tay thước,
Điện Bắc đà đà yên phân tiên"
(Bảo kính cảnh giới -56)
Trong thơ văn của mình, Nguyễn Trãi luôn có cái nhìn xa rộng, cái nhìn thấu đáo và
sâu sắc đối với cuộc sống của đất nƣớc của nhân dân. Chính vì nhận định đƣợc nhân dân là
ngƣời làm biến thiên lịch sử cho nên quan điểm giáo dục của Nguyễn Trãi rất đề cao tƣ tƣởng
thân dân. Và đối tƣợng giáo dục của Nguyễn Trãi lúc bấy giờ không chỉ là quần chúng nhân
dân mà còn là những kẻ quyền cao, chức trọng, kể cả vua.
Trang 112
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
Đối với những ngƣời cầm quyền, lãnh đạo quốc gia, vấn đề đặt ra đầu tiên và trên hết
chính là việc nhận định đúng đắn về vai trò và sức mạnh của nhân dân. Muốn tạo đƣợc một
quốc gia vững mạnh phải dựa vào dân. Và muốn lòng dân quy phục, theo về ngƣời lãnh đạo
phải có trách nhiệm đối với việc chăm lo cho dân. Dân đƣợc no ấm, an cƣ, lạc nghiệp thì xã
hội mới ổn định và quốc gia mới cƣờng thịnh. Vì vậy việc khuyên răn những ngƣời có quyền
thế phải hiểu về việc quản trị đất nƣớc, am hiểu về phép tri nƣớc là việc mà Nguyễn Trãi phải
quan tâm hàng đầu. Tác dụng giáo dục trong thơ văn của Nguyễn Trãi đối với những ngƣời
cầm quyền là ông đã đƣa đức trị gắn với việc giáo hóa, phải lấy việc nhân nghĩa mà trị nƣớc.
Phải hiểu phƣơng pháp lãnh đạo thế nào là hợp lòng dân, có lợi cho cuộc sống của nhân dân,
để từ đó xây dựng và phát triển đất nƣớc một cách vững bền. Kết quả những việc làm của
Nguyễn Trãi cho thấy bộ máy cai trị dƣới triều đại nhà Lê, nhất là Lê Thái Tông đã có sức lay
chuyển đáng kể. Nhà vua sau khi trƣởng thành đã nhận định đƣợc sự việc, hiểu ra những điều
hay lẽ phải, chấn chỉnh triều nội, trừng trị bọn gian thần hại dân hại nƣớc và vời Nguyễn Trãi
tham gia việc triều chính, chú trọng đời sống nhân dân. Tất cả những kết quả đó đã chứng
minh đƣợc rằng sức mạnh giáo dục của Nguyễn Trãi đã có ảnh hƣởng không nhỏ đến những
hoạt động xã hội lúc bấy giờ. Lý tƣởng an dân của Nguyễn Trãi đã đƣợc thực hiện phần nào,
nhƣng thật đắng cay cho cuộc đời Nguyễn Trãi, một cuộc đời luôn lo cho dân cho nƣớc,
muốn xây dựng triều đình mà mình phụng sự thành một triều đại thịnh trị, thì lại bị thảm sát
dƣới lƣỡi gƣơm của triều đại do chính mình vun bồi. Cái chết của Nguyễn Trãi đã làm đảo
ngƣợc tất cả, lý tƣởng xây dựng một xã hội thái bình có "văn trị" bị vùi chôn vào quá khứ
cùng với thảm án của ông.
Sống trong chế độ phong kiến khi mà giai cấp thống trị chỉ coi nhân dân là lớp ngƣời
bị trị, thì Nguyễn Trãi đã xác định đƣợc vị trí vô cùng quan trọng của nhân dân trong việc bảo
vệ và xây dựng đất nƣớc. Chính vì lẽ đó công việc chăn
Trang 113
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
dắt và giáo dục tầng lớp quần chúng là vấn đề mà Nguyễn Trãi đã từng đặt ra. Ý nghĩa và
mục đích giáo dục của Nguyễn Trãi đối với nhân dân chính là nâng cao nhận thức về cuộc
sống, về vị trí vai trò của mình trong xã hội để rồi ý thức trách nhiệm đối với vận mệnh và
công cuộc xây dựng đất nƣớc. Tác dụng giáo dục của thơ văn Nguyễn Trãi là làm cho quần
chúng nhân dân chuyển biến về nhận thức, biết nhận ra nghĩa vụ của mỗi công dân đối với
cộng đồng, góp sức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày càng giàu đẹp. Hơn thế nữa Nguyễn
Trãi còn giáo dục mỗi con ngƣời phải có trách nhiêm đối với gia đình và chính bản thân
mình. Có nhƣ thế con ngƣời mới có thể trở thành ngƣời tốt. Nguyễn Trãi chỉ ra những điểm
yếu trong bản thân mỗi con ngƣời thƣờng mắc phải để rồi sáu đó đƣa ra phƣơng pháp khắc
phục, hƣớng con ngƣời đến chỗ tự mình có thể sửa chữa đƣợc những sai lầm do mình tạo ra
để hoàn thiện nhân cách ngày một tốt hơn. Ý nghĩa giáo dục của Nguyễn Trãi là tạo cho con
ngƣời một phong cách sống hòa nhã, sống với nhau trong tình yêu đồng loại, sống đúng, sống
đẹp theo đạo đức truyền thống, làm cho con ngƣời đạt đƣợc những hạnh phúc giản dị bình
thƣờng nhất mà cao quý nhất. Với những ý nghĩa đó giá trị con ngƣời ngày càng đƣợc đề cao.
Giữa lúc ý thức hệ Nho giáo phong kiến đang thống trị hệ tƣ tƣởng xã hội với bao
nhiêu định kiến khắt khe, chật hẹp, Nguyễn Trãi với lý tƣởng giáo dục của mình nhƣ một
mầm măng chọc thủng đất vƣơn lên tỏa sinh lực tràn đầy vào nền luân lý ấy. Ý nghĩa to lớn
nhất của tƣ tƣởng giáo dục con ngƣời mà Nguyễn Trãi đem đến cho dân tộc chính là giá trị
nhân văn, nhân đạo cao cả, mang lại cho tâm hồn con ngƣời sự trong sáng, cao đẹp, biết trân
trọng giữ gìn những cái đáng quý, tôn vị trí con ngƣời lên đỉnh cao tuyệt vời của những ý chí
và nghị lực phi thƣờng.
Đạo đức cao quý mà ngƣời đời dành lời ngợi ca về Nguyễn Trãi là ông luôn chăm lo
đến đời sống của nhân dân, biết sửa sang phép nƣớc để tạo nền thái
Trang 114
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
bình muôn thuở. Một con ngƣời có tầm nhìn sâu rộng, biết đặt vai trò quan trọng của nhân
dân lên hàng đầu, biết dựa vào dân để phát triển kinh tế văn hóa đất nƣớc. Tác dụng của thơ
văn Nguyễn Trãi đã làm cho tầng lớp quan lại xã hội lúc bấy giờ chuyển biến về nhận thức
trong việc cai trị nhân dân, nói rộng một số chính sách sƣu thuế đối với dân chúng. Còn trong
chiến tranh chống giặc Minh xâm lƣợc, thơ văn ông đã phát huy sức mạnh của "mƣời vạn
hùng binh", dùng lời lẽ để thuyết phục kẻ thù, đánh vào lòng ngƣời, buộc địch phải tâm phục
khẩu phục mà quy hàng giảng hòa. Nhƣ vậy trong kháng chiến chống ngoại xâm cho đến khi
đất nƣớc lập lại nền thái bình, Nguyễn Trãi cùng với thơ văn của mình nhƣ một ánh hào
quang tỏa sáng vào khắp mọi nơi, đánh thức tâm hồn con ngƣời, làm sống dậy bao nhiêu điều
tốt đẹp, góp phần làm phồn vinh cho nền đạo đức dân tộc.
Ý nghĩa, tác dụng của thơ văn Nguyễn Trãi trong việc giáo dục con ngƣời ở thế kỷ
thứ XV là tạo cho con ngƣời có đƣợc ý thức phấn đấu xây dựng những giá trị nhân cách đẹp
và cuộc sống đẹp cho mình và cộng đồng. Tinh thần nhân văn, nhân đạo đã đƣợc Nguyễn
Trãi đƣa vào trong thơ văn mình, giáo dục mọi ngƣời hƣớng đến những điều chí thiện, trong
sáng, vui tƣơi, tạo phúc cho muôn dân. Sức mạnh của thơ văn Nguyễn Trãi đã đào tạo và rèn
luyện nên một thế hệ Nho sĩ biết ý thức vận mệnh dân tộc, vận mệnh quốc gia. Trong điều
kiện chật hẹp của chế độ phong kiến nó đã đạt đƣợc một số thành tựu khá quan trọng ở thời
Lê Thánh Tông - một thời đại hoàng kim của chế độ phong kiến Việt Nam. Những tƣ tƣởng
giáo dục uyên thâm của Nguyễn Trãi làm nên tinh thần của giai đoạn lịch sử này.
III. Tác dụng đối với ngày nay
Cho đến nay, ở những năm cuối cùng của thế kỷ XX và chuẩn bị bƣớc vào thế kỷ
XXI, Nguyễn Trãi dù đứng ở bất cứ lĩnh vực nào cũng luôn là tấm gƣơng
Trang 115
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
tỏa sáng của bậc làm cha, làm thầy. Đối với chúng ta hôm nay, lý tƣởng giáo dục của ông vẫn
tiếp tục đƣợc tiếp thu và phát huy tích cực trong đời sống xã hội, khơi gợi cho chúng ta nhiều
điều quý báu về đạo đức truyền thống làm ngƣời.
Kế thừa và phát huy truyền thống cao đẹp của dân tộc qua bao thế kỷ. Nguyễn Trãi
không những là nhà quân sự, chính trị, ngoại giao lỗi lạc mà ông còn là một nhà "Kinh bang
hoa quốc cổ vô tiền". Chính vì thế những áng thơ văn tuyệt tác của ông để lại cho đời sau
mang nội dung tƣ tƣởng rất tiến bộ. Ông là ngƣời luôn biết "Vui cái vui của dân, lo cái lo của
dân ".
"Nụy ốc thê thân kham độ lão;
Thương sinh tại niệm độc tiên ưu"
(Mạn hứng - 2)
Dịch nghĩa:
"Lúc nhỏ nương thân có thể qua tuổi già.
Lúc nào cũng nghĩ đến dân, riêng ôm mối tiên ưu"
Hay:
'Thánh tâm dục dữ dân hưu tức,
Văn trị chung tu trí thái bình"
(Quan duyệt thủy trị)
Dịch nghĩa:
"Lòng vua muốn để dân ngơi nghỉ
Văn trị nên xây dựng thái bình'"
Chúng ta có thể nhận thấy rằng xuyên suốt trong thơ văn Nguyễn Trãi là tƣ tƣởng
nhân nghĩa, thƣơng dân, trọng dân, ý chí vì dân là nội dung chủ đạo. Chính vì lo cho dân nên
ông muốn giáo dục mọi ngƣời đều trở thành ngƣời tốt sống hòa thuận êm ái bên nhau. Có lực
lƣợng dân tình hùng hậu và ổn định thì quốc gia mới cƣờng thịnh. Chính vì biết dựa vào dân
mà thế hệ hôm nay đã tiếp
Trang 116
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
thu triệt để tƣ tƣởng giáo dục của Nguyễn Trãi. Qua hai mƣơi thế kỷ, bài học thân dân, dựng
nƣớc, giữ nƣớc của Nguyễn Trãi đã đƣợc Hồ Chí Minh áp dụng trong hai cuộc kháng chiến
trƣờng kỳ anh dũng của quân và dân ta để đánh đuổi thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Trong hai
cuộc kháng chiến ấy, Hồ Chủ Tịch đã đặt nền móng cơ bản đầu tiên là "dân" để đi lên giành
thắng lợi. Tƣ tƣởng ấy đƣợc Hồ Chủ Tịch khẳng định với một tinh thần lạc quan cao đẹp:
"Xây đài thắng lợi trên nền lòng dân"
Dân là gốc, có dân mới có nƣớc, chính vì vậy mà trong suốt quá trình lãnh đạo cách
mạng, lãnh đạo kháng chiến tất cả những căn cứ địa quan trọng đều xuất phát từ dân. Dân là
hậu phƣơng vững chắc quyết định quan trọng sự thắng lợi của tiền tuyến.
Từ việc khẳng định ý thức dân tộc, đề cao tƣ tƣởng thân dân, những quan điểm về
giáo dục trong thơ văn Nguyễn Trãi đã có ảnh hƣởng sâu sắc đến công tác giáo dục trong giai
đoạn hiện nay. Thoát khỏi vỏ bọc Nho giáo, nội dung giáo dục, đào tạo hiện nay vẫn mang
những nét truyền thống cơ bản và bổ sung một số yếu tố để phù hợp với điều kiện xã hội của
từng thời kỳ. Trong điều kiện quốc gia hiện nay đang tập trung ổn định chính trị, phát triển
kinh tế, thì về mặt văn hóa từng lúc từng nơi chƣa theo kịp kinh tế, tuy nguồn ngân sách tập
trung cho công tác giáo dục đào tạo rất lớn. Mặt khác tác động mặt trái nền kinh tế thị trƣờng,
đã gây không ít những phát sinh tệ nạn xã hội phức tạp cho Việt Nam nhƣ: cờ bạc, mại dâm,
ma túy, làm ăn phi pháp, tham nhũng, hối lộ...đã làm tha hóa không ít một tầng lớp nhân dân,
trong đó có cả những cán bộ chủ chốt. Trƣớc tình hình đó, Ban chấp hành Trung Ƣơng Đảng
đã ban hành Nghị quyết TW 5 (Khóa VIII) về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm
đà bản sắc dân tộc, nhằm phục hồi và cải tiến những giá trị văn hóa truyền thống cao quý
Trang 117
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
mà hơn mấy nghìn năm dân tộc ta đã tạo nên và đấu tranh để gìn giữ nó. Đƣa ra vấn đề này
để chúng ta thấy đƣợc rằng, những vấn đề giáo dục mà Nguyễn Trãi đặt ra, một mặt nó có giá
trị ngay từ thời đại ông, mặt khác nó đã có giá trị vƣợt thời đại cho đến tận hôm nay. Nguyễn
Trãi đã lên án và suốt đời đấu tranh chống bọn quan liêu, cƣờng quyền, tham nhũng, vơ vét
của dân, bọn bất nhân vô lƣơng thì ngày nay chúng ta cũng tiếp tục con đƣờng ấy bằng những
pháp lệnh chống tham nhũng, chống lãng phí, thực hành tiết kiệm, quy chế dân chủ cơ sở,
quy chế dân chủ cơ quan..., hàng loạt các Nghị định, Chỉ thị, Thông tƣ của Chính Phủ ra đời
và nó có hiệu lực thực thi nhằm đƣa nhân dân vào cuộc sống "sống và làm việc theo hiến
pháp và pháp luật". Dƣới mọi hình thức thực hiện, chúng ta luôn giáo dục mọi ngƣời về lối
sống đẹp giữa cộng đồng, lòng nhân ái, yêu nƣớc, yêu dân, đạo thủy chung... tất cả là những
điều mà nền giáo dục hôm nay đang quan tâm và mong muốn phát huy một cách triệt để.
Giáo dục bao giờ cũng xuất phát trên quan điểm đạo lý, những giá trị đạo đức truyền
thống dân tộc. Tƣ tƣởng giáo dục của Nguyễn Trãi chịu sự chi phối trực tiếp của nền văn hiến
dân tộc qua mấy nghìn năm. Những giá trị đƣợc Nguyễn Trãi đúc kết trong tƣ tƣởng giáo dục
của mình hoàn toàn có ý nghĩa tích cực đối với nền giáo dục ngày nay. Nhân tố tích cực trong
tƣ tƣởng giáo dục của Nguyễn Trãi là tiếp cận với tƣ tƣởng tiến bộ của chúng ta ngày nay, là
những nhân tố truyền thống tinh thần yêu nƣớc, tinh thần nhân văn, nhân đạo cao đẹp mà cụ
thể hóa là tấm lòng yêu nƣớc chống ngoại xâm, vì dân mà phục vụ quên mình của tổ tiên ta.
Tiếp thu tinh thần đó, Hồ Chủ Tịch đã từng mơ ƣớc "Tôi có một ham muốn, ham muốn tột
bậc là đất nước ta được hoàn toàn giải phóng, đồng bào ai cũng cố cơm ăn áo mặc, ai cũng
được học hành" và cái mục đích cao cả đáng quý nhất của mọi con ngƣời chúng ta trƣớc sau
vẫn là " hết lòng hết sức phụng sự nhân dân, phụng sự Tổ quốc ".
Trang 118
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
Đối với Nguyễn Trãi, mặc dù sống trong chế độ phong kiến, về mặt tƣ tƣởng còn hạn
hẹp nhƣng ông đã nhìn nhận sâu sắc vấn đề giáo dục. Ông coi giáo dục là con đƣờng và là
một trong những nguồn lực cơ bản tạo ra của cải, vật chất, tạo ra thợ giỏi, thầy giỏi và tạo ra
đƣợc cả vua hiền minh, bởi giáo dục có thần lực uốn nắn đƣợc phần quan yếu nhất và khó tác
động nhất ở con ngƣời là tính nết, tƣ tƣởng và nghị lực. Đƣa ra quan điểm này Nguyễn Trãi
đã đề cao "kiến thức", vì kiến thức luôn là sự cần thiết chò mỗi cá nhân tồn tại trong xã hội, là
điều kiện để con ngƣời bƣớc lên thang danh vọng, những bậc phụ mẫu của chế độ đƣơng
thời. "Kiến thức" đối với thời đại hôm nay là phƣơng tiện dẫn dắt con ngƣời hội nhập với sự
bùng nổ thống tin thế giới, là sự khẳng định vƣơn lên của chính bản thân mỗi ngƣời. Sự tiến
bộ trong tƣ tƣởng của Nguyễn Trãi đã có giá trị tích cực, tác động mạnh mẽ đến nền giáo dục
hiện đại. Nguyễn Trãi đã vạch ra một phƣơng pháp giáo dục toàn diện kể cả hai mặt học và
hành, chú trọng giáo dục "đức dục" một vấn đề cực kỳ quan trọng mà thời đại hôm nay chúng
ta đang từng bƣớc tập trung thực hiện. Bất cứ trong xã hội nào đạo đức vẫn là vấn đề quan
trọng thiết lập sự bền vững, ổn định của xã hội. Khi sự rạn nứt về mặt đạo đức diễn ra sẽ gây
không ít những khó khăn cho việc phát triển đất nƣớc. Những giá trị đạo đức mà Nguyễn Trãi
nhấn mạnh và cố công thực hiện suốt đời là làm sao đào tạo đƣợc những con ngƣời Việt Nam
ƣu tú yêu nƣớc, thƣơng dân, tận tụy phục vụ nhân dân. Tuy bƣớc ra từ "cửa Khổng, sân
Trình" nhƣng tƣ tƣởng ông đã khúc xạ bởi trí tuệ Việt Nam. Sự tiến bộ trong tƣ tƣởng và tiếp
thu có chọn lọc là một vấn đề quan trọng hàng đầu nâng Nguyễn Trãi lên tầm cao so với các
nho sĩ đƣơng thời.
Nguyễn Trãi đã đóng góp một cách tích cực và không mệt mỏi vào việc hệ thống và
nâng cấp những giá trị giáo dục con ngƣời lên tầm cao mới, biến nó thành những giá trị giáo
huấn phù hợp với mọi thời đại, mọi xã hội. Nguyễn Trãi đã đặt niềm tin mãnh liệt vào sự
nghiệp giáo dục mà mình đƣa ra. Ông tin tƣởng
Trang 119
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
rằng giáo dục sẽ là nguồn đào tạo nhân lực dồi dào cho quốc gia, là nguồn cung cấp những
nhân tài đứng ở vị trí hàng đầu xây dựng một đất nƣớc cƣờng thịnh. Sự tin tƣởng mãnh liệt
đó đã chứng minh đƣợc rằng nền giáo dục thời Lê sơ đã phát triển rực rỡ và là giai đoạn giáo
dục thịnh đạt nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam.
Ngày nay giáo dục đào tạo là nguồn cung cấp nhân tài cho đất nƣớc, hàng loạt những
nhà trí thức giỏi đƣợc đào tạo trong tƣ tƣởng giáo dục của Nguyễn Trãi. Một tƣ tƣởng giáo
dục tiên tiến và toàn diện. Có thể khẳng định rằng tƣ tƣởng giáo dục của Nguyễn Trãi là nền
móng cho sự nghiệp giáo dục ngày nay khi mà chúng ta đang tập trung mọi nguồn lực để đào
tạo các trí thức trẻ với một nhân cách toàn diện.
Tƣ tƣởng giáo dục không cao xa, khó hiểu, Nguyễn Trãi đã gieo vào lòng ngƣời
những lời giáo huấn thật nhẹ nhàng, dễ đi sâu vào tâm hồn mọi ngƣời. Ngƣời có chữ hiểu sâu
sắc, liên hệ với mình cũng có căn cứ. Ngƣời ít học cũng tìm ra sau những chữ, câu đơn giản
mộc mạc ấy một sự đồng cảm với mình, nói hộ mình một điều gì đó về nhận thức, về ƣớc
mơ, vì những đạo lý mà ông đƣa ra nó gần gũi, thiết thực với nhân dân trong quá trình sống,
chiến đấu, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Những giá trị đạo đức chung mà dân ta đạt đƣợc và
cần trao truyền cho lớp con cháu đời sau là sống nhân hậu, tình nghĩa, có trƣớc có sau trong
quan hệ giữa ngƣời với ngƣời, nhƣờng nhịn trong gia đình, làm quan chức phải biết tạo thói
quen sống cần kiệm liêm chính...Đó là nội dung đức dục từng tồn tại lâu dài trong công việc
đào tạo con ngƣời ở đất nƣớc ta.
Tiếp thu và phát huy những giá trị đạo đức mà Nguyễn Trãi đã nhấn mạnh và thực
hiện suốt đời - Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngƣời Việt Nam ƣu tú đã nhiều lần dạy con cháu, đồng
bào, đồng chí về những đức tính ấy. Đó là một trong những tiêu chuẩn mà nhân loại tìm thấy
và tôn vinh Nguyễn Trãi, Hổ Chí Minh
Trang 120
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
là "Danh nhân văn hóa" thế giới. Chúng ta, hiện đang sống trong thời kỳ đất nƣớc có những
chuyển biến tốt về mặt kinh tế, sự hội nhập kinh tế khu vực và kinh tế thế giới là một trong
những nhân tố khẳng định sự lớn mạnh của Việt Nam. Nhƣng chúng ta cũng đang sống ở thời
điểm mà đạo đức xã hội đang có nhiều điều đáng lo ngại. Vì vậy cần phải có những giải pháp
tốt để ngăn chặn sự xuống cấp của giáo dục. Trƣớc mắt là tập trung phát triển giáo dục đạo
đức trong sự phối hợp đồng bộ theo nguyên lý gia đình - nhà trƣờng và xã hội để từng bƣớc
đƣa giáo dục vào nề nếp đào tạo con ngƣời hoàn thiện ƣu tú.
Vấn đề giáo dục luôn là nhân tố quyết định sự vững mạnh của mỗi xã hội. Vì vậy sau
khi các triều đại hay xã hội đƣợc thành lập đều thiết lập hệ thống giáo dục riêng cho triều đại
và xã hội mình. Nhƣng vấn đề cơ bản là đào tạo một con ngƣời có ích cho gia đình và xã hội.
Đứng ở hệ tƣ tƣởng phong kiến Nho giáo thế kỷ XV, Nguyễn Trãi đã tìm ra những tƣ tƣởng
tiến bộ tích cực, phục vụ cho việc giáo hóa con ngƣời và có ảnh hƣởng mạnh mẽ đến nền
giáo dục hiện đại. Nghiên cứu, đánh giá, nhận định Nguyễn Trãi trên góc độ một ngƣời làm
giáo dục, chúng ta có thể khẳng định rằng: Nguyễn Trãi là một nhà giáo dục Việt Nam đã có
nhiều ý kiến đóng góp quan trọng trong việc giáo dục con ngƣời đƣơng thời và nền giáo dục
hiện đại.
Trang 121
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
PHẦN KẾT LUẬN
Nguyễn Trãi là nhân vật lịch sử yêu nƣớc nồng nàn, là nhà kinh bang tế thế rất hiếm
có của dân tộc Việt Nam trong thời phong kiến, là nhà chính trị, quân sự, ngoại giao sáng
suốt và thao lƣợc, một tài năng văn chƣơng sáng chói, đặc biệt còn là một nhà giáo dục đặc
sắc của thời đại, ông đã phát huy sâu rộng lý tƣởng giáo dục của mình để tạo thành những
đóng góp quý báu đáng ghi nhận.
Xuất thân từ gia đình có truyền thống giáo dục từ "cửa Khổng, sân Trình", Nguyễn
Trãi đã làm giàu trí tuệ bằng cách học tập nghiên cứu kỹ phƣơng thức giải quyết việc đời,
việc ngƣời, việc xã hội...từ các học thuyết khác nhau, từ các quốc gia khác nhau du nhập vào
Việt Nam từ nhiều thế kỷ trƣớc đó. Đó là sự du nhập trên tinh thần tiếp nhận có chọn lọc của
dân tộc Việt Nam. Sự du nhập diễn ra trong tình trạng giao lƣu áp đặt và bất bình đẳng. Tuy
nhiên với tinh thần yêu nƣớc, tinh thần nhân đạo, dân tộc Việt Nam đã chắt lọc những tinh
hoa, hòa nhập vào văn hóa bản địa làm thành tƣ tƣởng của Đại Việt. Tiếp thu những giá trị
truyền thống ấy, Nguyễn Trãi đã sáng tạo cao hơn, quan niệm của ông tinh tế hơn, tiến xa
hơn ở một số lĩnh vực của cuộc sống, trong đó có lĩnh vực giáo hóa con ngƣời. Điều này giúp
chúng ta khẳng định rằng tổ tiên ta đã có triết lý sống của mình, dân tộc ta từ xa xƣa đã có
đạo lý của riêng mình. Đó là sự khẳng định sức mạnh của tƣ tƣởng Việt Nam trong quá trình
chống lại Hán hóa của phong kiến phƣơng bắc. Những học thuyết Nho giáo, Phật giáo, Đạo
giáo khi vào Việt Nam đã gặp phải những cở sở tƣ tƣởng vững chắc vốn có từ lâu - tƣ tƣởng
yêu nƣớc và tƣ tƣởng nhân đạo - nó đã phải biến đổi cho phù hợp nhằm phục vụ yêu cầu của
cuộc sống Việt Nam, chống lại sự đồng hóa của ngoại tộc.
Trang 122
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
Lịch sử chứng minh rằng những nhà chính trị lỗi lạc thƣờng rất am hiểu về lịch sử dân
tộc mình cũng nhƣ các dân tộc khác. Nguyễn Trãi cũng là một nhà chính trị tài ba, ông rất am
hiểu về cục diện chính trị các nƣớc trong khu vực và tình hình xã hội Việt Nam qua các triều
đại phong kiến trƣớc đó. Những quan niệm, ý kiến đúng đắn của ông về công tác giáo dục
đào tạo con ngƣời đƣợc rút ra từ các học thuyết Khổng - Mạnh trong sự chọn lọc tinh tế của
tƣ tƣởng Việt Nam đã góp phần tạo nên sự phát triển rực rỡ của nền giáo dục đƣơng thời, một
thời kỳ giáo dục phát triển nhất trong lịch sử xã hội phong kiến Việt Nam.
Nguyên khí quốc gia Đại Việt đã sản sinh ra Nguyễn Trãi, một nhân vật lịch sử vĩ đại,
nhƣng rất ƣ gần gũi. Nguyễn Trãi nổi bật lên nhƣ ngồi sao Khuê tỏa sáng giữa bầu trời bao la
rộng lớn. Tƣ tƣởng và sự nghiệp của Nguyễn Trãi mãi mãi khắc ghi trong tâm khảm mọi
ngƣời dân đất Việt. Nguyễn Trãi suốt đời không yên nghỉ, cứ mãi trăn trở về cuộc sống của
nhân dân. Tâm sự ấy đƣợc thể hiện trên những vần thơ đầy tâm huyết và có sức sống vƣợt
thời gian. Sáu trăm năm đã đi qua chí khí, nghị lực, tấm lòng ƣu ái của Nguyễn Trãi cứ mãi
mãi đi vào lòng ngƣời, khắc ghi cho đời những bài học về xây dựng đất nƣớc, xây dựng con
ngƣời một cách toàn diện. Tƣ tƣởng giáo dục của Nguyễn Trãi là sự khẳng định di sản văn
hóa quí báu của dân tộc Việt Nam.
Nhà trƣờng nho học và nền nếp giáo dục từ trong gia đình đã có tác dụng vào sự hình
thành nền văn hóa Việt Nam. Bƣớc ra từ những giáo điều của nền Nho học tồn tại vững bền
trong lịch sử phong kiến phƣơng Đông, Nguyễn Trãi đã có những tƣ tƣởng hết sức khoáng
đạt và rộng mở, vƣợt ra khỏi những giáo điều khắt khe hạn hẹp của ý thức hệ Nho gia đang
thời cực thịnh. Nguyễn Trãi không làm thao tác tổng kết lịch sử giáo dục của dân tộc có trƣớc
thời đại ông, nhƣng những ý kiến, quan niệm sáng suốt của ông về giáo dục đã đề cập đến các
phạm trù chính của giáo dục, và đƣờng lối làm giáo dục của một nhà nƣớc.
Trang 123
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
Trong đó ông chỉ ra rằng: Giáo dục là động lực phát triển xã hội; giáo dục tài đi đôi với đức;
chỉ ra chính sách trọng dụng nhân tài, cải tạo con ngƣời, cải tạo xã hội, giáo dục tầng lớp có
quyền lực và uy tín trong xã hội phải sống đẹp, làm gƣơng cho thế hệ trẻ, để có ngƣời tài giỏi
thì phải có chính sách đào tạo căn cơ, phải dạy dỗ tử tế từ trong gia đình... Đó là những nội
dung giáo dục đã tồn tại từ xa xƣa đƣợc Nguyễn Trãi tổng kết và phát huy lên một tầm cao
mới, với những quan điểm hết sức tiến bộ.
Nguyễn Trãi giáo dục con ngƣời bằng những câu chữ vồ cùng giản dị, mộc mạc, bằng
tấm lòng chân thành tha thiết. Với chí khí và nghị lực bền bỉ Nguyễn Trãi đã không mệt mỏi
suốt hơn sáu mƣơi năm tâm huyết xây dựng một đất nƣớc hùng mạnh, dùng "Văn trị". Ông
đã cố công thực hiện lý tƣởng của mình, hƣớng con ngƣời đến với những giá trị đạo đức
truyền thống dân tộc. Đối tƣợng giáo dục của ông rộng rãi từ vua quan cho đến "thƣơng sinh"
"xích tử". Ông giáo dục mọi ngƣời không phải bằng lời thơ, câu văn mà ông còn giáo dục
bằng chính bản thân cuộc sống của mình từ lúc chào đời cho đến khi ngồi ở địa vị cao sang.
Nguyễn Trãi giáo dục con ngƣời về tinh thần rèn luyện nghị lực, ý chí để đạt đƣợc
nhân cách cao quý. Điểm tiến bộ trong tƣ tƣởng giáo dục của ông so với trƣớc và sau thời đại
ông là Nguyễn Trãi đã đƣa vấn đề giáo dục lối sống hài hòa cân đối vào trong quan điểm giáo
dục, thể hiện một sự trung dung tích cực. Giáo dục con ngƣời, ông mong muốn họ đƣợc giải
phóng cả về tƣ tƣởng lẫn tâm hồn. Đƣa ra những quan niệm phóng khoáng về giáo dục
Nguyễn Trãi muốn đƣa con ngƣời thoát khỏi những quy định khắt khe, những điều mà lâu
dần sẽ làm triệt tiêu bản lĩnh và cá tính sáng tạo của mỗi con ngƣời.
Hơn sáu trăm năm đã đi qua, tên tuổi của Ức Trai tiên sinh không hề bị phai mờ mà
dƣờng nhƣ mỗi ngày lại đƣợc điểm tô thêm bởi những cống hiến to
Trang 124
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
lớn của ông trên lĩnh vực giáo dục. Ông đã đóng góp tích cực vào việc hoàn thiện Sự nghiệp
giáo dục hôm nay, đành rằng xã hội nào giáo dục ấy, nhƣng những ảnh hƣớng tích cực trong
tƣ tƣởng giáo dục của Nguyễn Trãi đối với nền giáo dục hiên đại là điều tất yếu trong lịch sử
tƣ tƣởng giáo dục Việt Nam.
"Nguyễn Trãi là một trong những nhà văn ƣu tú bậc nhất của lịch sử văn học Việt
Nam, một đỉnh cao của thế kỷ XV, ngƣời kết thúc chặng đƣờng phát triển trên năm thế kỷ
văn học thành văn đầu tiên mà nhiệm vụ trung tâm là tìm về dân tộc" (40). Đặt ra vấn đề giáo
dục con ngƣời, Nguyễn Trãi thật đáng đƣợc tôn vinh làm bậc thầy trong sự nghiệp giáo dục,
cải tạo con ngƣời. Một vinh dự rất cao quý cho những ai đƣợc xem là học trò của Tiên sinh.
Một niềm tự hào cho dân tộc Việt Nam khi gọi tên Nguyễn Trãi - ngƣời "Danh nhân văn hóa"
thế giới. Một thân Tùng, thân Bách sừng sững hiên ngang giữa bầu trời, mặc cho tuyết phủ,
mƣa giông, nắng hạn.
"Cội rễ bền dời chẳng động
Tuyết sương thấy đã đặng nhiều ngày."
(Tùng)
lòng vẫn tỏa sáng nhƣ ánh sao Khuê. Xin đƣợc mƣợn lời của vua Lê Thánh Tông, thành kính
nghiêng mình trân trọng gỏi đến tiền nhân một lời ngợi ca bất diệt.
"Ức Trai tám thượng quang Khuê Tảo".
--------------------------
Trang 125
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
PHỤ LỤC
TÌNH HÌNH VĂN BẢN THƠ NGUYỄN TRÃI
Nghĩa lớn, vì dân, vì nƣớc, vì cả mọi ngƣời.Nguyễn Trãi đã trở thành một nhà văn
chiến đấu thiên tài, một nhà thơ trữ tình sâu sắc. Nguyễn Trãi luôn ƣớc mơ cho non nƣớc
thanh bình, đất trời phẳng lặng, để mình đƣợc trở về với chính bản thân mình, mình làm chủ
mình, tìm "thú mầu" trong thơ và mộng của "một khách văn chƣơng".
Đối với Nguyễn Trãi, sự nghiệp thơ văn của ông để lại cho thế hệ sau một khối lƣợng
rất đồ sộ. Nhƣng vụ án "Lệ Chi Viên" với án "tru di tam tộc" đã làm cho tác phẩm của
Nguyễn Trãi bị mất mác và thất lạc.
Sau khi Lê Thánh Tông lên ngôi, ông xuống chiếu rửa oan cho Nguyễn Trãi và cho
khôi phục lại toàn bộ sự nghiệp thơ văn của ông. Nhƣng việc tìm kiếm và thu thập tác phẩm
của Nguyễn Trãi gặp rất nhiều khó khăn. Theo một số nhà nghiên cứu trong tổng số 254 bài
thơ Quốc âm của Nguyễn Trãi có 33 bài trùng với 33 bài trong tổng số 178 bài thơ Quốc âm
của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tuy nhiên trong tổng số 33 bài thơ trùng nhau giữa Nguyễn Trãi và
Nguyễn Bỉnh Khiêm có 24 bài trùng cả 8 câu, còn lại 9 bài chỉ trùng từ 1 đến 7 câu.
Trong phạm vi đề tài của Luận án, ngƣời viết xin đƣợc thống kê những tác phẩm của
Nguyễn Trãi mà ngƣời viết sử dụng làm tƣ liệu trong Luận án có sự trùng lặp với thơ văn
Nguyên Bỉnh Khiêm.
I. NHỮNG BÀI TRÙNG TỪ 1 ĐẾN 7 CÂU
1. Ngôn chí 19 trùng 2 câu đầu với 2 câu đầu bài 81 của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Trang 126
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
2. Tự thán 18, trùng 4 câu đầu với 4 câu cuối bài 22 của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
3. Bảo kính cảnh giới 26, trùng 6 câu với 6 câu bài 125 (chỉ trừ câu 5 và câu 6 là
không trùng) của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
4. Bảo kính cảnh giới 20, trùng câu 2 và câu 4 với bài 83 của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
II. NHỮNG BÀI TRÙNG CẢ 8 CÂU, TRỪ MỘT SỐ CHỮ SAI BIỆT KHÔNG
ĐÁNG KỂ
1. Mạn thuật 2, trùng với bài 51 của Nguyễn Bỉnh Khiêm
2. Mạn thuật 5, trùng với bài 94 của Nguyễn Bỉnh Khiêm
3. Trần tình 2, trùng với bài 61 của Nguyễn Bỉnh Khiêm
4. Mạn thuật 21, trùng với bài 47 của Nguyễn Bỉnh Khiêm
5. Thuật hứng 24, trùng với bài 137 của Nguyễn Bỉnh Khiêm
6. Tự thán 10, trùng với bài 138 của Nguyễn Bỉnh Khiêm
7. Bảo kính cảnh giới 6, trùng với bài 69 của Nguyễn Bỉnh Khiêm
Sự thống kê trên chỉ là một số thông tin góp nhặt từ các công trình nghiên cứu của
một số tác giả đi trƣớc, nhằm làm rõ thêm nội dung thơ văn của Nguyễn Trãi.
-----------------------
Trang 127
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đỗ Văn Hỷ - Tính hàm súc trong thơ Ức Trai, H, Tạp chí văn học, số 4, 1981.
2. Đặng Thai Mai - Mối quan hệ lâu đời và mật thiết giữa văn học Việt Nam và văn học
Trung Quốc //NCVH, 1961, số 7, tr. 1.
3. Đặng Thai Mai - Nguyễn Trãi (1380 - 1442V//TCVH, 1976, số 6, tr.123.
4. Đặng Thanh Lê - Nghiên cứu văn học cổ trung đại Việt Nam trong mối quan hệ khu vực
//TCVH, 1992, số 1, tr.2.
5. Đặng Thanh Lê - Một nhân cách lịch sử và sự phản ánh giai đoạn trƣởng thành của ý thức
dân tộc thời kỳ Trung đại // TCVH, 1984, Số6,tr.21.
6. Đặng Thanh Lê - Nghiên cứu văn học Cổ Trung đại Việt Nam trong mối quan hệ khu vực
- Tạp chí văn học, Số 1, 1992
7. Đặng Thanh Lê - Từ một kiệt tác văn học - Suy nghĩ về mối quan hệ ảnh hƣởng giữa văn
học dân gian và văn học viết // TCVH, 1982, số l,tr.47.
8. Đặng Thanh Lê - Từ một phạm trù triết học về một quan điểm đạo đức Nho gia đến cảm
hứng nghệ thuật "thế sự" trong thơ Nôm Nguyên Bỉnh Khiêm // TCVH, 1986, số 4, tr.
111.
9. Đặng Thị Hảo - Tìm hiểu phƣơng pháp lập luận của Nguyễn Trãi trong Quân Trung Từ
Mệnh tập //TCVH, 1980, số 2, tr.47.
10. Đỗ Văn Hỷ - Tính chiến đấu của tập Quân trung từ mệnh tập //TCVH, 1967, số 9, tr.72.
11. Đỗ Văn Hỷ - Tính hàm súc trong thơ Ức Trai // TCVH, 1979, số 2, tr.55.
12. Đinh Gia Khánh - Đọc lại Cáo Bình Ngô // TCVH, 1979, số 3, tr.103.
Trang 128
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
13. Đinh Gia Khánh - Về nghiên cứu lịch sử tƣ tƣởng //TCVH, 1975, số 6, tr.30.
14. Đinh Gia Khánh - Tân, Bùi Duy - Chƣơng, Cao Mai - Văn học Việt Nam thế kỷ X đến
nửa đầu thế kỷ XVIII - tập 1 - Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, H, 1978.
15. Đinh Gia Khánh - Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm - Nxb.VH, H, 1983.
16. Đinh Gia Khánh - Từ tầm cao lịch sử nhìn lại văn học quá khứ // TCVH, 1976,số 5,tr.32.
17. Đinh Gia Khánh (chủ biên) - Điển cố văn học - Nxb. Khoa học xã hội, 1977.
18. Amadou - Nahtarmow- sự thực hiện trọn vẹn của Nguyễn Trãi, H, Tạp chí văn học, số 4,
1980.
19. Băng Thanh Ngọc Lan - Chu Văn An - Con ngƣời và thơ //TCVH - 1993 - Số 1.
20. Bùi Công Hùng - Vấn đề phong cách trong sáng tác văn học // TCVH, 1983,số2,tr.12.
21. Bùi Duy Tân - Bàn thêm về văn bản và tác giả bài thơ Nam Quốc Sơn Hà // TCVH,
1986, số 10, tr.29.
22. Bùi Duy Tân - Nguyễn Trãi - nhà văn chính luận kiệt xuất //TCVH, 1980, số 4, tr 59.
23. Bùi Duy Tân - Những năm ra hoạt động và về ở ẩn của Nguyễn Bỉnh Khiêm // TCVH,
1975, số 2, tr.77.
24. Bùi Văn Nguyên - Bàn thêm về tƣ tƣởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi //TCVH, 1964, số
3, tr.53.
25. Bùi Duy Tân - Nguyễn Trãi , nhà văn chính luận kiệt xuất, H, Tạp chí văn học, số 4,
1980.
26. Bùi Văn Nguyên - Chủ nghĩa yêu nƣớc trong văn học thời khởi nghĩa Lam Sơn . Nxb.
Khoa học xã hội, H, 1980.
Trang 129
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
27. Bùi Văn Nguyên - Lịch sử Văn học Việt Nam tập II - Nxb.Giáo dục, H, 1978.
28. Bùi Văn Nguyên - Nguyễn Trãi. Nxb. Văn hóa, H, 1980.
29. Bùi Văn Nguyên - Tƣ liệu tham khảo văn học Việt Nam, Nxb.Giáo dục, H, 1979.
30. Bùi Văn Nguyên - Văn chƣơng Nguyễn Trãi - Nxb. ĐH & THCN, H, 1984.
31. Cao Xuân Huy -Tƣ tƣởng phƣơng Đông gợi những điểm nhìn tham chiếu - Nxb.VH, H,
1995
32. Chương Thâu - Trên đƣờng tìm hiểu sự nghiệp thơ văn Nguyễn Trãi - Nxb.VH, 1980.
33. Chu Quang Tiềm - Tâm lý văn nghệ - Khổng Đức, Đinh Tấn Dung dịch -Nxb.Tp.HCM,
1991
34. Chu Văn Sơn - Về bản sắc dân tộc và một hƣớng kiếm tìm trong thơ // TCVH, 1994, số
11, tr.40.
35. Dương Quảng Hàm - Việt Nam văn học sử yếu - Bộ giáo dục trung tâm học liệu, 1968.
36. Dương Vũ Ninh - Lịch sử văn minh thế giới - Nxb. Giáo dục, H, 1999.
37. Đoàn Thị Thu Vân - Khảo sát đặc trƣng nghệ thuật của Thơ Thiền Việt Nam thế kỷ X -
XIV - Trung tâm nghiên cứu Quốc học & Nxb. VH, 1996.
38. Gulaivich A.J - Các phạm trù văn hóa trung cổ - Hoàng Ngọc Hiến dịch - Nxb. Giáo dục,
H, 1996.
39. Hà Minh Đức (chủ biên) - Lý luận văn học- Nxb.Giáo dục, H, 1995.
40. Hồ Sĩ Hiệp - Nguyễn Trãi - Nxb. Văn nghệ, Tp. HCM, 1997.
41. Hoài Lam -Về biện chứng của đời sống thẩm mỹ và nghệ thuật -Nxb. Thông tin và Nxb
Trẻ Tp.Hồ Chí Minh, 1991
Trang 130
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
42. Hoàng Hữu Yên - Thơ văn Nguyễn Khuyến - Nxb.Giáo dục, H, 1984.
43. Hoàng Lê - Thơ Phạm Sƣ Mạnh // TCVH, 1973, số 2, tr.23.
44. Hoàng Ngọc Hiến - Năm bài giảng về phƣơng pháp luận nghiên cứu văn học - Tài liêu
lƣu hành nội bộ - Đại học Huế, 1996.
45. Huyền Giang - Có những quan niệm về con ngƣời cá nhân ở phƣơng Đông không? // TC
VH, 1995., số 6, tr.1.
46. I.S.Lisevich - Tƣ tƣởng văn học Trung Quốc cổ xƣa - Trần Đình Sử . dịch - Trƣờng
ĐHSP.Tp.HCM, 1993.
47. Khang Trạc - Nói chuyện về sáng tác -Tâm Hƣơng dịch - Nxb.VH, H,1959
48. Kiều Thu Hoạch - Tìm hiểu thơ văn của các Thiền Sƣ Lý - Trần. TCVH, số 6,1965.
49. Kiều Thu Hoạch -Truyện nôm, nguồn gốc và bản chất thể loại -Khoa ngữ văn trƣờng đại
học Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh, 1994.
50. Konrat (N.I) - Giao lƣu văn học thời trung thế kỷ // TCVH, 1986, số 5, tr.43.
51. Kravchenco M.B - Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn học - Lê Sơn,
Nguyễn Minh dịch - Nxb tác phẩm mới, 1978
52. Kravchenco M.B - Sáng tạo nghệ thuật, hiện thực, con ngƣời - nhiều ngƣời dịch - Nxb.
Khoa học xã hội, H, 1984.
53. Lương Ninh ( chủ biên) - Lịch sử văn hóa thế giới - Nxb. Giáo dục, H, 1999.
54. Lương Ninh (chủ biên) - Lịch sử văn hóa thế giới cổ trung đại -Nxb Giáo dục, H, 1998.
55. Lại Nguyền Ân - đọc lại ngƣời trƣớc, đọc lại ngƣời xƣa - Nxb. Hội nhà văn, 1998.
56. Lê Đình Kỵ -Trên đƣờng văn học - 2 tập - Nxb. VH, H, 1995.
57. Lê Bá Hán - Trần Đình sử - Nguyễn Khắc Phi - Từ điển thuật ngữ văn học - Nxb.Giáo
dục, H, 1992.
Trang 131
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
58. Lê Trí Viễn - Đặc điểm có tính qui luật của lịch sử văn học Việt Nam - Nxb. Tp.HCM,
1998.
59. Lê Trí Viễn - Đặc trƣng văn học Trung đại Việt Nam - Nxb. Khoa học xã hội, H, 1996.
60. Lê Trí Viễn - Giáo trình tổng quan văn chƣơng Việt Nam, TTĐTTX. Đại học Huế, 1995.
61. Lê Trí Viễn - Lịch sử văn học Việt Nam (Văn học viết thời quốc gia phong kiến độc lập)
- Trƣờng Đại học sƣ phạm, 1985.
62. Lê Trí Viễn - Một đời với văn - 2 tập - Nxb Giáo dục và Trƣờng Đại học sƣ phạm
Tp.HCM, 1989.
63. Lê Trí Viễn - Những bài giảng văn ở Đại học - Nxb.Giáo dục, H, 1982.
64. Lê Trí Viễn - Vân, Đoàn Thu - Học tập thơ văn Nguyễn Trãi - Nxb.GD, H, 1983.
65. Lê Trí Viễn (chủ biên) - Văn học trung đại Việt Nam - Giáo trình lƣu hành nội bộ -
Trƣờng đại học sƣ phạm Tp. HCM, 1997.
66. Mai Thị Ngọc Chúc - Một nữ nghĩa quân Lam Sơn dƣới ngòi bút Nguyễn Trãi// TCVH,
1981, số 2, tr.18.
67. Minh Chi -Góp phần tổng kết Phật giáo đời Trần //TCVH, 1992, số 4, tr.27.
68. Miễn Trai - Vài suy nghĩ thêm về thơ văn Nguyễn Trãi // TCVH, 1969,số 2,tr.52.
69. N I.Nhi KuLin - Văn học Việt Nam - Nxb. Khoa học Macxcơva, 1971- Tài liệu giảng
dạy sau đại học - Phòng NCKH- SĐH. Trƣờng Đại học sƣ phạm TP.HCM, 1988.
70. Nguyễn Đăng Thục - Lịch sử triết học phƣơng Đông - 5 tập - Nxb. Tp.HCM, 1971.
71. Nguyễn Đình Đầu - Việt Nam quốc hiệu và cƣơng vực qua các thời đại - Nxb. Trẻ.
Tp.HCM, 1999.
Trang 132
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
72. Nguyễn Gia Phu - Lịch sử các nƣớc phƣơng Đông trƣớc thế kỷ XIX - 2 tập - Đại học
Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh, 1983 (Giáo trình đánh máy)
73. Nguyễn Hữu Sơn - Con ngƣời cá nhân trong thơ Nguyễn Trãi, H, Tạp chí văn học, số
9,1995.
74. Nguyễn Huệ Chi - Các yếu tố Phật, Nho, Đạo đƣợc tiếp thu và chuyển hoa nhƣ thế nào
trong đời sống tƣ tƣởng và văn học thời đại Lý - Trần // TCVH, 1978, số 6, tr.76. .
75. Nguyễn Huệ Chi - Mấy vẻ mặt thi ca Việt Nam - Nxb. Tác phẩm mới, H, 1983.
76. Nguyễn Lộc - Văn học Việt Nam cuối thế kỷ XVIII nửa đầu thế kỷ XIX - 2 tập - Nxb.
Đại học và Trung học chuyên nghiệp, H, 1992.
77. Nguyễn Tài Cẩn - Thử tìm cách xác định tác giả một số bài thơ hiện chƣa rõ của Nguyễn
Trãi hay Nguyễn Bỉnh Khiêm // TCVH, 1986, số 3,tr.76.
78. Nguyễn Tài Cẩn - Thử tìm hiểu thêm về bài thơ Nam Quốc Sơn Hà của Lý Thƣờng Kiệt
//TCVH, 1979, số 4, tr.6.
79. Nguyễn Thị Dư Khánh - Phân tích tác phẩm văn học từ góc độ thi pháp - Nxb. Giáo dục,
H, 1995.
80. Nguyễn Tiến Doãn - Nguyễn Trãi nhà giáo dục Việt Nam - Nxb. GD, H, 1997.
81. Nguyễn Văn Hạnh - Huỳnh Như Phương - Lý luận văn học, vấn đề và suy nghĩ - Nxb.
Giáo dục, 1995.
82. Nguyễn Văn Hồng - Vũ Dương Ninh - Võ Mai Bạch Tuyết - Lịch sử thế giới cận đại - 3
tập - Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, 1985,1986,1987.
83. Nguyễn Văn Hoàn - Địa vị của Nguyễn Trãi trong quá trình phát triển của lịch sử văn
học Việt Nam // TCVH, 1980, số 4, tr.17.
84. Nguyễn Văn Hoàn - Thơ văn Lý - Trần và hào khí của một thời đại anh hùng // TCVH,
1975, số 1, tr.2.
Trang 133
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
85. Nguyễn Xuân Xính - Tiếp xúc và tiếp biến văn hóa - Tạp chí văn hóa nghệ thuật - Số 12.
1998
86. Nhiều tác giả - Một số vấn đề văn bản học Hán Nôm - Nxb. Khoa học xã hội, H, 1983.
87. Nhiều tác giả - Những kiệt tác văn chƣơng thế giới - 2 tập - Nxb. Thanh Niên,H, 1991.
88. Nhiều tác giả - Thơ Đƣờng - nhiều ngƣời dịch - 2 tập - Nxb. VH, H,1987.
89. Nhiều tác giả - Thơ Đƣờng - Trần Trọng San dịch - 3 tập - Bắc Đẩu, Sài Gòn, 1970
90. Nhiều tác giả - Từ điển văn học - 2 tập - Nxb. Khoa học xã hội, H, 1983,1984.
91. Nhiều tác giả - Từ trong di sản - Nxb. Tác phẩm mới, H, 1981.
92. Nhiều tác giả - Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX - Giáo
trình Đại học sƣ phạm - Nxb. Giáo dục, 1990.
93. Nhiều tác giả - về con ngƣời cá nhân trong văn học cổ Việt Nam -Nxb. Giáo dục, 1997
94. Ủy ban khoa học xã hội - Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý -Trần - Nxb. Khoa học xã
hội, H, 1981.
95. Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam - Kỷ niệm 600 năm ngày sinh Nguyễn Trãi - Nxb.
Khoa học xã hội, H, 1982.
96. Ủy ban khoa học xã hội, Viện văn học - Thơ văn Lý - Trần - 3 tập - Nxb. Khoa học xã
hội, H, 1977.
97. Phương Lựu - Về quan niệm văn chƣơng cổ Viện Nam - Nxb. Giáo dục, 1985.
98. Phan Khải (chủ biên) - Đƣờng lối văn hóa văn nghệ của Đảng cộng sản Việt Nam - Nxb.
Văn hóa thông tin, H, 1995.
99. Phan Sĩ Tấn - Trần Thanh Đạm- Thơ văn Nguyễn Trãi - Nxb. Giáo dục, 1980.
Trang 134
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
100. Phúc, Vũ Đức - Tƣ tƣởng chính trị và xã hội của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua thơ văn của
ông // TCVH, 1986, số 4, tr.98
101. Quang Đạm - Nho giáo xƣa và nay - Nxb. Văn hóa, H, 1994. Nhâm, Phùng Quý - Vinh,
Lâm - Tiếp cận văn học - Trƣờng đại học sƣ phạm Tp.HCM, 1994.
102. Tạ Ngọc Liễn - Về tính dân tộc trong thơ cổ Trung Đại Việt Nam // Tạp chí văn học, số
11,1994.
103. Tầm Vu - Nguyễn Trãi, ngƣời đứng đầu một văn phái yêu nƣớc thân dân, có lý tƣởng xã
hội cao cả // TCVH, 1967, số 9, tr.57.
104. Tầm Vu - Tìm hiểu đặc điểm của tƣ tƣởng Phật giáo Việt Nam trong thời đại Lý - Trần
qua các tác phẩm văn học // TCVH, 1972, số 9,tr57.
105. Timofeev L.I - Nguyên lý lý luận văn học - Nhiều ngƣời dịch - 2 tập - Nxb. Văn hóa -
Viện văn học , 1962
106. Từ điển văn học - 2 tập - Nxb. Khoa học xã hội, H, 1983, 1984.
107. Trần Đình Hượu - Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận - Nxb. Văn hóa thông tin,
H, 1995.
108. Trần Đình Hượu - Về ảnh hƣởng nhiều mặt của Nho giáo trong văn học Việt Nam cổ
cận đại // TCVH, 1991, số 3, tr.18.
109. Trần Ngọc Thêm - Cơ sở văn hóa Việt Nam - Trƣờng đại học Tổng hợp Tp.HCM,
1995.
110. Trần Ngọc Vương - Nhà nho tài tử và văn học Việt Nam - Nxb. Giáo dục, 1995.
111. Trần Ngọc Vương - Văn học Việt Nam, dòng riêng giữa nguồn chung - Nxb. Giáo
dục,1998.
112. Trần Thanh Mại - Vài nét về tƣ tƣởng của Nguyễn Trãi qua thơ văn ông//TCVH, 1962,
số,tr.1.
113. Trần Văn Giàu - Sự phát triển tƣ tƣởng ở Việt Nam - Tập I hệ ý thức phong kiến - Nxb.
Khoa học xã hội, H, 1963.
Trang 135
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
114. Trần Văn Giàu -Vì sao tôi thích đọc Nguyễn Đình Chiểu // TCVH, 1963,số 7,tr.ll.
115. Vân Trình - Tìm hiểu nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm //TCVH
116. Vương Hồng Sến - Thêm một bản Văn Tế nghĩa sĩ cần guộc mới sƣu tầm đƣợc //
TCVH, 1979, số 2, tr.81.
117. Võ Xuân Đàn - Tƣ tƣởng Nguyễn Trãi trong tiến trình lịch sử Việt Nam - Nxb. Văn hóa
- Thông tin, H, .1996.
118. Viện Khoa học xã hội Việt Nam - Đại Việt sử ký toàn thƣ - 4 tập -Nxb. Khoa học xã
hội, H, 1998.
119. Viện sử học - Nguyễn Trãi - Thân thế và sự nghiệp - Nxb. Khoa học xã hội, H, 1980.
120. Viện sử học - Nguyễn Trãi toàn tập - Nxb. Khoa học xã hội, H, 1976.
121. Viện sử học, Ủy ban khoa học xã hội - Lịch sử văn học Việt Nam -Nxb. Khoa học xã
hội, H, 1980.
122. Viện văn học - Nguyễn Trãi - Khí phách và tinh hoa của dân tộc -Nxb. Khoa học xã hội,
H, 1980.
123. Viện văn học - Văn học Việt Nam giai đoạn thế kỷ X- XIX - Nxb. ĐH&THCN.
124. Viện văn học - Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến giữa thế kỷ XVIII. Nxb.Giáo dục, H,
1989.
125. Viện văn học - Việt Nam trên những chặng đƣờng chống phong kiến Trung Quốc xâm
lƣợc - Nxb. Đại học và THCN, H, 1981.
126. Vũ Đình Liên - Từ nhân sinh quan đến thẩm mỹ quan của Nguyễn Đình Chiểu //
TCVH, 1972, số 4, tr.79.
127. Vũ Đức Phúc - Tìm hiểu tâm sự bão táp của Nguyễn Trãi qua thơ văn ông // TCVH,
1973, số 4, tr.2.
128.Vũ Đức Phúc - Đạo Nho và các nhân vật trí thức trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu
// TCVH, 1982, số 4, tr.30.
Trang 136
Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi
129. Vũ Đức Phúc - Tìm hiểu tâm sự bão táp của Nguyễn Trãi qua thơ văn ông, H, Tạp chí
văn học, số 5, 1980.
130. Vũ Khiêu - Ngƣời trí thức Việt Nam qua các chặng đƣờng lịch sử - Nxb. Tp. HCM,
1987
131. Vũ Khiêu - Nguyễn Đổng Chi - Thơ văn Nguyễn Trãi, Nxb. VH, H, 1980.
132. Vũ Khiêu - Nho giáo và phát triển ở Việt Nam - Nxb. Khoa học xã hội, H, 1977.
133. Vũ Ngọc Khánh - Triệu Dương - Đọc thơ văn yêu nƣớc Nam bộ cuối thế kỷ XIX //
TCVH, 1964, số 12, tr.47.
134. Vũ Tiến Quỳnh - Bình luận văn học - Nxb. Tổng hợp Khánh Hòa, 1991.
135. Vũ Tiến Quỳnh - Nguyễn Trãi - Nxb .Tổng hợp Khánh Hòa, 1993.
136. Vũ Văn Kính - Mấy ý kiến về việc hiệu đính văn bản văn tế thập loại chúng sinh //
TCVH, 1978, số 4, tr.96.
137. Vũ Văn Kính - Thêm một bản Nôm Dƣơng Từ Hà Mậu mới phát hiện // TCVH, 1978,
số 2, tr.81.
138. Xuân Diệu - Các nhà thơ cổ điển Việt Nam - Nxb.VH, H, 1981.
Trang 137