BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

VẤN ĐỀ GIÁO DỤC CON NGƢỜI

TRONG THƠ VĂN NGUYỄN TRÃI

LUẬN ÁN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

CHUYÊN NGÀNH : VĂN HỌC VIỆT NAM

Mã số: 5.0433

Người thực hiện: HUỲNH THỊ LÀNH

Người hướng dẫn khoa học: TS. ĐOÀN THỊ THU VÂN

Tp. Hồ Chí Minh tháng 02 năm 2000

BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

VẤN ĐỀ GIÁO DỤC CON NGƢỜI

TRONG THƠ VĂN NGUYỄN TRÃI

LUẬN ÁN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

CHUYÊN NGÀNH : VĂN HỌC VIỆT NAM

Mã số: 5.0433

Người thực hiện: HUỲNH THỊ LÀNH

Người hướng dẫn khoa học: TS. ĐOÀN THỊ THU VÂN

Tp. Hồ Chí Minh tháng 02 năm 2000

LỜI CẢM TẠ

Tôi xin chân thành cảm tạ và tri ân sự nhiệt tình giúp đỡ của Ban Giám Hiệu Trường

Đại học sư phạm - Thành phố Hồ Chí Minh, Phòng Khoa học công nghệ - Sau đại học, tập

thể thầy, cô giáo Khoa Ngữ Văn cùng tất cả các bạn đồng học đã nhiệt tình giúp đỡ tôi hoàn

thành luận án.

Tôi xin đặc biệt tỏ lòng kính trọng Tiến sĩ Đoàn Thị Thu Vân - một cô giáo gương

mẫu đã chịu khó nhọc tận tuy hướng dẫn tôi trong quá trình nghiên cứu - học tập và hoàn

thành luận án.

Tuy chỉ được nghiên cứu trong một thời gian ngắn, nhưng với nỗ lực của bản thân và

sự giúp đỡ tận tình của quý thầy, cô, tôi đã tiếp thu được một số kiến thức vô cùng quý báu.

Kết quả này không những nói lên được sự tận tâm, tận lực của quý thầy, cô, mà còn thể hiện

được nguyện vọng và hoài bão của người nghiên cứu.

Vấn đề của đề tài đã được một số nhà nghiên cứu qua nhiều thế kỷ bàn luận và đánh

giá. Luận án đã kế thừa và phát triển những ý kiến, công trình đi trước để xây dựng một hệ

thống luận điểm tương đối hoàn chỉnh về những quan điểm và nội dung giáo dục của Nguyễn

Trãi. Nguyện vọng của người viết là mong sao truyền đạt đến người đọc một số thông điệp

cần thiết để suy ngẫm và vận dụng.

Rất mong sự góp ý chân thành của quý thầy, cô và các anh, chị, các bạn đồng học, tôi

xin ghi nhận và tiếp tục nghiên cứu.

Một lần nữa xin chân thành cảm tạ và tri ân.

Đầu Xuân, năm Canh Thìn - 02/2000

Huỳnh Thị Lành

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................................ 4

1. Lý do chọn đề tài........................................................................................................ 4

2. Nhiệm vụ của Luận án ............................................................................................... 5

3. Phạm vi Luận án ........................................................................................................ 6

5. Phƣơng pháp nghiên cứu ........................................................................................... 9

6. Kết Cấu Luận án ...................................................................................................... 10

PHẦN NỘI DUNG .................................................................................................................. 12

CHƢƠNG I : THỜI ĐẠI VÀ CON NGƢỜI NGUYỄN TRÃI........................................... 12

I. Thời đại Nguyễn Trãi ................................................................................................... 12

1. Truyền thống lịch sử - tƣ tƣởng - giáo dục từ thế kỷ X đến thế kỷ XIV ................. 12

1.1. Truyền thống lịch sử - tƣ tƣởng ........................................................................ 12

1.2. Giáo dục ............................................................................................................ 15

2. Thế kỷ XV................................................................................................................ 24

2.1. Bối cảnh xã hội ................................................................................................. 24

2.2. Thời đại thịnh trị của Nho giáo và tƣ tƣởng giáo dục của Nho gia .................. 26

2.3. Giai đoạn khôi phục kinh tế - xã hội - chính trị của đất nƣớc. Thời đại vai trò nhân dân đƣợc đề cao. .............................................................................................. 29

II. Con ngƣời Nguyễn Trãi .............................................................................................. 31

1. Cuộc đời: .................................................................................................................. 31

2. Sự nghiệp ................................................................................................................. 35

3. Nhân cách và sự tu dƣỡng nhân cách ....................................................................... 39

CHƢƠNG II : VẤN ĐỀ GIÁO DỤC CON NGƢỜI TRONG THƠ VĂN NGUYỄN TRÃI .............................................................................................................................................. 42

I. Nền tảng tƣ tƣởng giáo dục của Nguyễn Trãi .............................................................. 43

1. Nhân tố truyền thống gia đình ................................................................................. 43

2. Sự tiếp thu truyền thống tốt đẹp của dân tộc ........................................................... 48

Trang 2

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

II. Tƣ tƣởng Nguyễn Trãi về con ngƣời và quan điểm giáo dục của Nguyễn Trãi ......... 54

1. Tƣ tƣởng của Nguyễn Trãi về con ngƣời ................................................................. 54

1.1. Thực chất tƣ tƣởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi ............................................. 54

1.2. Con ngƣời ái quốc, ƣu dân, anh hùng ............................................................... 56

1.3. Con ngƣời quân tử ............................................................................................ 57

1.4. Bản sắc Việt Nam trong quan niệm về con ngƣời của Nguyễn Trãi ................ 58

2. Quan điểm giáo dục con ngƣời trong thơ văn Nguyễn Trãi .................................... 61

2.1. Một quan điểm giáo dục mang tính nhân văn ................................................... 61

2.2. Một quan điểm giáo dục tích cực thể hiện tinh thần thời đại. ........................... 67

III. Nội dung giáo dục con ngƣời trong tơ văn Nguyễn Trãi ........................................... 74

1. Đối tƣợng giáo dục .................................................................................................. 74

2. Nội dung giáo dục con ngƣời trong thơ văn Nguyễn Trãi ....................................... 75

2.1. Giáo dục con ngƣời trong đấu tranh dựng nƣớc, giữ nƣớc. .............................. 75

2.2. Giáo dục con ngƣời đời thƣờng ........................................................................ 87

2.3. Giáo dục và tự giáo dục .................................................................................. 101

CHƢƠNG III : Ý NGHĨA, TÁC DỤNG GIÁO DỤC CON NGƢỜI CỦA THƠ VĂN NGUYỄN TRÃI ĐỐI VỚI LỊCH SỬ VÀ NGÀY NAY .................................................. 109

I. Những ý nghĩa lớn ...................................................................................................... 109

II.Tác dụng đối với lịch sử ............................................................................................. 110

III. Tác dụng đối với ngày nay ....................................................................................... 115

PHẦN KẾT LUẬN ................................................................................................................ 122

PHỤ LỤC............................................................................................................................... 126

TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................................... 128

Trang 3

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Cùng thời, đánh giá cao về Nguyễn Trãi có Nguyễn Mộng Tuân -"Kinh bang hoa

quốc cổ vô tiền" - và Lê Thánh Tông - vị anh quân nổi tiếng vế thơ văn - "Ức Trai tâm

thƣợng quang Khuê Tảo". Vâng Nguyễn Trãi nhƣ một vầng sao Khuê lung linh tỏa sáng trên

bầu trời, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào ông cũng là linh hồn, là trụ cột của quốc gia. Chúng

ta thành kính xin đƣợc "cúi đầu ngƣỡng phục trƣớc một con ngƣời anh hùng và nghiêng tâm

hồn để cảm mến một tấm lòng cao đẹp": Nguyễn Trãi - một danh nhân văn hóa thế giới.

Thế hệ hôm nay biết đến Nguyễn Trãi không chỉ là một nhà chính trị, quân sự, ngoại

giao, nhà văn, nhà thơ... mà còn là một nhà giáo dục vĩ đại.

Giáo dục là một trong những vấn đề cơ bản nhất sau quá trình đấu tranh giành độc lập

và xây dựng đất nƣớc. Là một trong những nhân tố quan trọng, là quốc sách hàng đầu xây

dựng một quốc gia giàu đẹp và hùng mạnh. Tƣ tƣởng giáo dục của Nguyễn Trãi đã xuyên

thấm trong toàn bộ sự nghiệp thơ văn của ông, tuy có lúc đậm, lúc nhạt, nhƣng nhìn chung

vẫn là một tƣ tƣởng giáo dục mang tính toàn diện. Trong điều kiện lịch sử xã hội hết sức

phức tạp: ngoại xâm, nội loạn; tƣ tƣởng Nho giáo chiếm địa vị độc tôn, chi phối toàn bộ

những suy nghĩ và hành động của ngƣời Nho sĩ, nhƣng tƣ tƣởng của Nguyễn Trãi vô cùng

rộng mở, mang đậm tinh thần nhân văn cao đẹp. Tƣ tƣởng giáo dục của Nguyễn Trãi tuy xuất

phát từ Nho giáo chính thống với những quan niệm "Tam cƣơng, Ngũ thƣờng", "Tam tòng,

Tứ đức", giáo dục con ngƣời "Chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ", nhƣng ở ông

Nho giáo đã vƣợt ra khỏi khuôn khổ, hòa nhập với tinh thần nhân đạo và tƣ tƣởng yêu nƣớc

Việt Nam, tạo nên một sự trung dung cao độ. Những giáo điều, luân lý, những định kiến khắt

khe của Nho giáo vào thơ văn Nguyễn Trãi đã trở nên mềm mại, giáo dục con ngƣời hƣớng

Trang 4

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

đến cuộc sống hài hòa, giải phóng con ngƣời ra khỏi những sự ràng buộc chật hẹp và hòa vào

thiên nhiên tƣơi đẹp với một tâm hồn phóng khoáng. Tƣ tƣởng giáo dục của Nguyễn Trãi là

sự kết tinh chọn lọc giữa truyền thống giáo dục dân tộc và một tƣ tƣởng tiến bộ của thời đại.

Triết học biện chứng khẳng định cái mới bao giờ cũng xuất hiện và phát triển trên nền

cái cũ. Cái cũ không hề bị mất đi mà đƣợc kế thừa và phát triển cao hơn. Nền giáo dục hiện

đại đã phát triển dựa trên nền móng của giáo dục truyền thống. Điều này khẳng định rằng cái

tinh hoa trong tƣ tƣởng giáo dục của Nguyễn Trãi đã sống và trƣờng tồn qua hơn sáu thế kỷ.

Nó là viên ngọc quý mà chúng ta cần trân trọng trong quá trình kế thừa và phát triển.

Giáo dục bao giờ cũng xuất phát từ nền tảng tƣ tƣởng đạo lý dân tộc. Giáo dục nhằm

xây dựng con ngƣời phát triển toàn diện và giáo dục giúp cho con ngƣời nâng cao nhận thức

trong cuộc sống. Là một nhà kinh bang tế thế hiếm có trong lịch sử dân tộc, Nguyễn Trãi

không thể không quan tâm đến yếu tố con ngƣời khi tính đến các kế sách bảo vệ, phát triển

triều đại, quốc gia mà mình đang phụng sự. Tuy không chuyên tâm làm một nhà giáo dục,

ông không có sách lý luận, triết học giáo dục để lại, nhƣng sự nghiệp thơ văn của ông đã ẩn

chứa những bài học vô cùng thâm thúy, sâu sắc. Nguyễn Trãi đã hiểu đƣợc những suy nghĩ,

trăn trở của con ngƣời, lời văn, lời thơ giáo dục nhẹ nhàng, giản dị, mộc mạc, nhƣng lại có

sức xuyên thấm vào tâm hồn, buộc ngƣời ta phải suy nghiệm, rồi nhớ mãi. Đó là vì sao tôi

chọn đề tài "Vấn đề giáo dục con ngƣời trong thơ văn Nguyễn Trãi".

2. Nhiệm vụ của Luận án

Đi vào vấn đề vừa nêu trên, Luận án có nhiệm vụ giải quyết một số yêu cầu sau:

Tìm hiểu, trình bày một cách khái quát thời đại và con ngƣời Nguyễn Trãi; Tìm hiểu

vấn đề giáo dục con ngƣời trong thơ văn Nguyễn Trãi.

Trang 5

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

3. Phạm vi Luận án

3.1. Giới thuyết về vấn đề giáo dục

- Giáo dục đƣợc hiểu theo nghĩa rộng bao gồm: Đức dục, trí dục và mỹ dục.

Trong luận án này ngƣời viết tập trung nghiên cứu ở góc độ "đức dục" hay còn gọi là

giáo dục phẩm chất đạo đức con ngƣời.

- Đề tài nghiên cứu là khoa học ngữ văn, chính vì thế luận án chỉ giới hạn phạm vi

khảo sát là thơ văn.

- Bản thân văn học nhất là văn học Trung đại đã mang chức năng giáo dục, bởi lời

văn, lời ngƣời xƣa quan niệm "văn dĩ tải đạo".

Để việc khảo sát trong luận án đƣợc cụ thể, luận án chỉ tập trung khảo sát những bài

văn, bài thơ của Nguyễn Trãi trực tiếp nói đến vấn đề giáo dục.

Những bài văn trực tiếp mang nội dung giáo dục chủ yếu là những bài chiếu (thay vua

làm để dạy bảo thái tử, khuyên răn các quan ...) những bài thơ trực tiếp mang nội dung giáo

dục thì khá nhiều, nhất là thơ nôm và tập trung không chỉ trong chùm thơ Bảo kính cảnh giới

61 bài mà còn rải rác trong tất cả các chủ đề khác. Tín hiệu để nhận biết không chỉ là các khái

niệm đạo đức đƣợc dùng trong các bài thơ mà còn ở kết cấu ngôn ngữ của bài thơ với đặc

trƣng là loại câu cầu khiến cùng lớp từ ngữ cầu khiến nhƣ: hãy, tua, đừng, chớ, mựa, mựa

nỡ...thƣờng xuyên đƣợc sử dụng.

3.2. Luận án tìm hiểu tất cả thơ, văn chữ Hán, chữ Nôm của Nguyễn Trãi còn lại đến

nay nói về vấn đề giáo dục để thấy đƣợc sự cống hiến của Nguyễn Trãi đối với nền giáo dục

nƣớc nhà, đồng thời Luận án còn là một tƣ liệu quan trọng, giúp ích cho công tác giảng dạy

thơ văn Nguyễn Trãi.

Bằng vốn kiến thức có hạn cùng với những hạn chế của điều kiện khách quan, ngƣời

viết xin trình bày đề tài xoay quanh các vấn đề: Thời đại và con

Trang 6

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

ngƣời Nguyễn Trãi; Vấn đề giáo dục con ngƣời trong thơ văn Nguyễn Trãi; ý nghĩa, tác dụng

giáo dục Nguyễn Trãi đối với lịch sử và thời đại ngày nay. Tuy đã cố gắng nhiều trong việc

nghiên cứu và thực hiện đề tài, nhƣng Luận án cũng không tránh khỏi "lực bất tòng tâm", chỉ

mong đƣợc ghi lại đôi điều về sự nghiệp giáo dục, tƣởng niệm một nhân cách, một tâm hồn

của Ức Trai tiên sinh:

"Công giúp hồng đồ cao nửa núi

Danh ghi thanh sử sáng bằng gương "

(Thơ Hà Nhiệm Đại)

4. Lịch sử vấn đề

Nhân loại biết đến Nguyễn Trãi không chỉ ở tài năng mà còn ở nhân cách cao đẹp.

Cuộc đời của Nguyễn Trãi là cuộc đời của một nhân vật đầy những ƣu ái luôn "lo trƣớc cái lo

của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ" và nó chứng minh rằng ông là một đấng "Nam nhi

đại trƣợng phu" xứng đáng với câu" Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất

năng khuất". Ông không thể cam tâm, bình thản ngồi nhìn cơ nghiệp nhà Lê - sự nghiệp mà

ông và dân tộc đã đổ bao xƣơng máu để giành lại, tạo lập đƣợc từ tay kẻ thù xâm lƣợc, sẽ bị

bọn gian thần xu nịnh làm cho suy sụp. Nguyễn Trãi đã đem hết tâm huyết, trí tuệ, tài năng,

tình cảm của mình để cống hiến, phụng sự cho đất nƣớc, cho nhân dân, những mong xây

dựng một đất nƣớc giàu mạnh. Tiếc thay danh vọng, địa vị và quyền lực đã làm cho lòng

ngƣời đổi thay. Thảm án " Lệ Chi Viên" đã chấm dứt một cuộc đòi, kết thúc một lý tƣởng

chƣa thực hiện đƣợc trọn vẹn, vị anh hùng dân tộc đã vĩnh viễn ra đi.

Trải qua những biến cố thăng trầm của lịch sử, sự nghiệp thơ văn của Nguyễn Trãi để

lại cho chúng ta hôm nay chỉ là một phần trong toàn bộ trƣớc tác đồ sộ của ông. Đi vào

nghiên cứu tƣ tƣởng giáo dục của Nguyễn Trãi, có thể thấy rải rác các công trình nghiên cứu

cũng nhƣ một số ý kiến, nhận định về thơ văn ông:

Trang 7

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

Cùng thời Nguyễn Trãi có Nguyễn Mộng Tuân, Lý Từ Tấn, Lê Thánh Tông, Hoàng

Đức Lƣơng, Phan Phu Tiên.

Thế kỷ XVIII có Lê Quý Đôn, Nguyễn Hoàng, Vũ Miên.

Thế kỷ XIX có Dƣơng Bá Cung, Bùi Huy Bích, đặc biệt các nhà nghiên cứu nhƣ Ngô

Thế Vinh nhân định về thơ văn Nguyễn Trãi "...văn chương có đủ sức sửa sang việc đời";

"...văn chương mưu lược gắn liền với sự nghiệp kinh bang tế thế"- Phan Huy Chú; "văn

chương của Tiên sinh tinh vi thâm thúy, rộng rãi, chính đáng, cứng rắn... Tiên sinh vốn

không có ý đúc chuốc văn chương, nhưng một khi lời nói thổ lộ đều sáng sủa, đẹp đẽ, mạnh

mẽ, dồi dào, không có cái gì cố thể che lấp được... Những lời ấy đều có thể làm bài học dạy

cho đời bấy giờ và lưu truyền mãi mãi về sau" - Nguyễn Năng Tĩnh.

Đến thế kỷ XX, các công trình nghiên cứu về Nguyễn Trãi xuất hiện phong phú, đi

vào cả diện rộng lẫn chiều sâu, các vấn đề về nhân cách, tƣ tƣởng, sự nghiệp, tài năng của

Nguyễn Trãi, nhƣng điều đặc biệt quan trọng là một trong nhiều giá trị đẹp nhất của nhân

cách Nguyễn Trãi đƣợc nhiều ngƣời khám phá, thống nhất nhận định, là tài văn chƣơng của

ông, một loại văn chƣơng tải "đạo", "văn chương mạnh như vũ bảo, sắc như gươm đao".

Trong chuyên luận "Văn chƣơng Nguyễn Trãi" (Nxb. ĐH & THCN -H.1984), Bùi

Văn Nguyên đã nhận định lý tƣởng giáo dục của Nguyễn Trãi rất uyên thâm, vĩ đại và phóng

khoáng, mang đậm tinh thần nhân văn, Tiên sinh mãi mãi là tấm gƣơng sáng của bậc làm

thầy, làm cha đối với chúng ta.

Trong quyển "Nguyễn Trãi, một nhân vật vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam" (Nxb

Sử Học - H.1962), Trần Huy Liệu viết "Nguyễn Trãi tỏ ra đặc biệt chú trọng về giáo dục, ông

hy vọng và tin tƣởng sẽ đào tạo đƣợc hàng loạt nhân tài cho đất nƣớc".

Lê Trí Viễn - Đoàn Thị Thu Vân với "Học tập thơ văn Nguyễn Trãi" -(Nxb.GD 1994)

đã có những ý kiến khẳng định đóng góp của Nguyễn Trãi đối với vấn đề giáo dục con ngƣời.

Trang 8

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

Võ Xuân Đàn -"Tƣ tƣởng Nguyễn Trãi trong tiến trình lịch sử Việt Nam" -

(Nxb.VHTT - H.1996) đã đƣa ra nhận định tƣ tƣởng giáo dục của Nguyễn Trãi đã góp phần

đƣa tƣ duy của dân tộc lên một bƣớc mới, để lại nhiều bài học quý báu cho chúng ta hôm nay.

Nguyễn Tiến Doãn -"Nguyễn Trãi nhà giáo dục Việt Nam" -(Nxb.GD.1997) đã nhận

định tƣ tƣởng giáo dục của Nguyễn Trãi là đóng góp xuất sắc cho sự nghiệp giáo dục con

ngƣời Việt Nam.

Có thể nhìn một cách khái quát, công trình nghiên cứu về Nguyễn Trãi có trên 200 (kể

cả những bài tạp chí), trong số đó những công trình nêu trên đã đề cập đến những tƣ tƣởng

giáo dục của Nguyễn Trãi một cách đầy đủ và tập trung nhất. Tuy nhiên viết về vấn đề giáo

dục con ngƣời trong thơ văn Nguyễn Trãi là một việc làm từ trƣớc đến nay chƣa có một công

trình nghiên cứu nào nói đến một cách có hệ thống, Luận án đã dựa trên những ý kiến nằm rải

rác ở một số công trình nghiên cứu, đồng thời tìm tòi, sáng tạo, đóng góp thêm một số vấn đề

về giáo dục con ngƣời trong thơ văn Nguyễn Trãi. Đó là: Nền tảng tƣ tƣởng giáo dục của

Nguyễn Trãi; Tƣ tƣởng của Nguyễn Trãi về con ngƣời và quan điểm giáo dục của Nguyễn

Trãi; Nội dung giáo dục con ngƣời trong thơ văn Nguyễn Trãi, để khẳng định tài năng và giá

trị tƣ tƣởng của Nguyễn Trãi đối với nền giáo dục hiện đại.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Vận dụng phƣơng pháp luận nghiên cứu Mác xít với quan điểm lịch sử cụ thể để làm

cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu, Luận án đã sử dụng các phƣơng pháp cụ thể nhƣ sau:

Thống kê, phân loại, phân tích, hệ thống hóa, khái quát hóa và so sánh đối chiếu để đi

đến kết luận về vấn đề nghiên cứu. Tiếp thu thành tựu nghiên cứu của những ngƣời đi trƣớc,

bổ sung những luận điểm mới để khẳng định những đóng góp của Nguyễn Trãi.

Trang 9

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

6. Kết Cấu Luận án

Phần Mở đầu

1. Lý do chọn đề tài

2. Nhiệm vụ Luận án

3. Phạm vi Luận án

4. Lịch sử vấn đề

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

6. Kết cấu Luận án

Phần Nội dung

Chƣơng I: Thời đại và con ngƣời Nguyễn Trãi

I.Thời đại Nguyễn Trãi

1. Truyền thống lịch sử - tƣ tƣởng - giáo dục từ thế kỷ X đến thế kỷ

XIV

1.1. Truyền thống lịch sử - tƣ tƣởng

1 .2. Giáo dục

2. Thế kỷ XV

2.1. Bối cảnh xã hội

2.2. Thời đại thịnh trị của Nho giáo và tƣ tƣởng giáo dục của

Nho gia

2.3. Giai đoan khôi phục kinh tế - chính trị của đất nƣớc. Thời

đại vai trò nhân dân đƣợc đề cao

II. Con ngƣời Nguyễn Trãi

1. Cuộc đời

2. Sự nghiệp

3. Nhân cách, sự tu dƣỡng nhân cách của Nguyễn Trãi

Chƣơng II: Vấn đề giáo dục con ngƣời thơ văn Nguyễn Trãi

I. Nền tảng tƣ tƣởng giáo dục của Nguyễn Trãi

1. Nhân tố truyền thống gia đình

2. Sự tiếp thu truyền thống tốt đẹp của dân tộc

II. Tƣ tƣởng Nguyễn Trãi về con ngƣời và quan điểm giáo dục của Nguyễn

Trãi

Trang 10

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

1. Tƣ tƣởng của Nguyễn Trãi về con ngƣời

1.1. Thực chất tƣ tƣởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi

1.2. Con ngƣời ái quốc, ƣu dân, anh hùng.

1.3. Con ngƣời quân tử

1.4. Bản sắc Việt Nam trong quan niệm về con ngƣời của

Nguyễn Trãi.

2. Quan điểm giáo dục của Nguyễn Trãi

2.1. Quan điểm giáo dục phóng khoáng mang đậm tính

nhân văn.

2.2. Quan điểm giáo dục tích cực thể hiện tinh thần thời đại

III. Nội dung giáo dục con ngƣời trong thơ văn Nguyễn Trãi

1. Đối tƣợng giáo dục

2. Nội dung giáo dục con ngƣời trong thơ văn Nguyễn Trãi

2.1. Rèn luyện con ngƣời trong đấu tranh dựng nƣớc, giữ nƣớc.

2.2. Tu dƣỡng con ngƣời trong đời thƣờng

2.3. Giáo dục và tự giáo dục

Chƣơng III: Ý nghĩa, tác dụng giáo dục con ngƣời của thơ văn Nguyễn Trãi trong lịch

sử và thời đại ngày nay

I. Những ý nghĩa lớn

II. Tác dụng trong lịch sử

III. Tác dụng đối với ngày nay (vấn đề kế thừa tƣ tƣởng Nguyễn Trãi trong

giáo dục con ngƣời Việt Nam hiện đại)

Phần Kết luận

PHỤ LỤC

THƢ MỤC THAM KHẢO

-------------------

Trang 11

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

PHẦN NỘI DUNG

CHƢƠNG I : THỜI ĐẠI VÀ CON NGƢỜI NGUYỄN TRÃI

I. Thời đại Nguyễn Trãi

1. Truyền thống lịch sử - tƣ tƣởng - giáo dục từ thế kỷ X đến thế kỷ XIV

1.1. Truyền thống lịch sử - tư tưởng

Bắt đầu sau chiến thắng Bạch Đằng lịch sử đầu thế kỷ X, các triều đại Ngô, Đinh,

Tiền lê đặt ra những nền móng đầu tiên cho một quốc gia phong kiến độc lập, triều đại nhà

Lý thực sự mở ra một kỷ nguyên mới của nƣớc Đại Việt hùng mạnh.

Tƣ tƣởng yêu nƣớc, tinh thần dân tộc là vốn liếng quy báu không tự đánh mất của đất

nƣớc sau khi phá bỏ ách đô hộ đè nặng suốt mƣời thế kỷ của phong kiến phƣơng bắc. Những

triều đại phong kiến tự chủ ban đầu đi lên từ cơ sở vật chất nghèo nàn, yếu kém, sức dân mòn

mỏi và đời sống tinh thần chịu ảnh hƣởng nặng nề từ nền văn hóa áp đặt, một sự giao lƣu bất

bình đẳng với âm mƣu đồng hóa.

Nhiệm vụ đặt ra cho dân tộc là một mặt khôi phục lại những giá trị văn hóa truyền

thống, một mặt lấy mình làm chủ đón nhận những tinh hoa văn hóa nƣớc ngoài, chuyển hóa

nó, dung hòa với cái vốn của mình để làm thành một nền văn hóa phong phú, có bản sắc, thúc

đẩy sự phát triển của đất nƣớc.

Gần một trăm năm sau ngày giành độc lập, Đại Việt đã lớn mạnh chƣa từng thấy, dân

tộc Đại Việt đã ba lần đánh Tống, ba lần đẩy lùi Nguyên Mông -một đế chế vĩ đại đã gồm

thâu gần trọn Châu Á và nửa Châu Âu. Thế cân bằng về mặt ngoại giao giữa ta và phƣơng

bắc đã đƣợc thiết lập, ta dứt khoát từ chối những yêu sách của họ và buộc họ trả lại kỳ hết đất

đai đã chiếm dọc biên giới. Trên lĩnh vực kinh tế, văn hóa, hàng loạt ngành nghề truyền thống

nhƣ dệt, gốm,

Trang 12

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

rèn sắt, đúc đồng, in... đƣợc khôi phục và phát triển tinh xảo trên cơ sở một nền kinh tế nông

nghiệp phát triển có sự quan tâm đúng mức của Nhà nƣớc. Nhiều công trình kiến trúc, tác

phẩm điêu khắc nổi tiếng xuất hiện nhƣ "An nam tứ đại khí (tháp Báo Thiên, tƣợng Phật chùa

Quỳnh Lâm, chuông chùa Quy Điền, vạc chùa Phổ Minh). Sinh hoạt văn hóa văn nghệ dân

gian đƣợc ƣa chuộng từ vua cho đến thứ dân. Nền giáo dục và chế độ thi cử đòi hỏi ngƣời

học phải có một kiến thức sâu rộng, thiết thực và có óc sáng tạo; dám bài bác ngƣời đi trƣớc.

Những thành tựu này thuộc giai đoạn từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIV hay còn gọi là thời đại Lý -

Trần. Điểm nổi bật trong tinh thần thời đại này là hình ảnh con ngƣòi tự tin, hào hùng, phóng

khoáng và trong sáng mà đời sau khó gặp lại, dù trình độ văn minh phát triển ngày càng cao

hơn.

Dƣới thời Lý - Trần, Phật giáo chiếm địa vị quan trọng và trở thành quốc giáo, bên

cạnh có sự hòa quyện của Nho giáo và Lão giáo để trở thành tam giáo đồng nguyên đặc trƣng

Việt Nam thể hiện một sự tích hợp cao độ. Tuy nhiên sự tích cực của Phật giáo đã làm nên

tinh thần đặc trƣng của thời đại này.

Tiếp thu và chọn lọc những tinh hoa của Phật giáo Ấn độ và Trung Hoa, Phật giáo Lý

- Trần thể hiện rõ sự dung hợp Thiền, Mật và Tịnh tuy Thiền vẫn là yếu tố chủ đạo. Đó là

một Đạo Phật rất đại chúng, đã góp phẩn vào sự hƣng thịnh của các triều đại Lý - Trần, thu

phục đƣợc thổ dân các miền biên giới, dẹp yên sự quấy nhiễu ở phƣơng nam, chính trị thân

dân, kinh tế tự cƣờng, văn hóa giàu bản sắc.

Theo Đại Việt Sử Ký Toàn thƣ của Ngô Sĩ Liên thì dƣới hai triều đại này Phật giáo

rất thịnh hành, việc xây dựng chùa chiền và xuất gia tu Phật trong dân gian là một việc làm

rất phổ biến. Một tầng lớp sƣ tăng tham gia tích cực vào công cuộc cứu nƣớc và dựng nƣớc

nhƣ Sƣ Vạn Hạnh, Sƣ Không Lộ, Sƣ Mãn Giác... nhà chùa đƣợc xem là nhà trƣờng dạy học,

mặt khác cũng không ít những nhà vua, những nhà quý tộc uyên thâm về giáo lý Phật giáo.

Lê Quát một Nho sĩ dƣới đời Trần có viết "...Cố tự nội kinh thành cập ngoại châu phủ cùng

Trang 13

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

thôn tịch hạng, bất lệnh nhi tùng, bất minh nhi tín, hữu nhân gia xứ tất hữu phật tự, phế nhi

phục hưng, hoại nhi phục tu, chung cổ lâu đài, dữ nhân cư đãi bán. Kỳ hưng thậm thị, nhi tôn

sùng thậm đại dã. Dư thiếu độc thư, chi ư cổ kim, thô diệc minh thánh nhân chi đạo, dĩ hóa

tư dân, nhi tốt vị năng tín cơ nhất hương. Thường du lãnh sơn xuyên, túc tích bán thiên hạ,

cầu sở vi học cung văn miếu, vị thường nhất kiến, thử ngô sở dĩ thâm hữu quy cơ Phật thi chi

đồ viễn hĩ, triếp bộc ngô dĩ thư" (Bắc Giang Bái thôn Triệu phúc Tự bi ký)(96).

Dịch nghĩa:

"...Cho nên từ trong kinh thành cho đến ngoài châu phủ, kể cả những nơi thôn cùng

ngõ hẻm, không bảo mà người ta cứ theo, không hẹn mà người ta cứ tin; hễ nơi nào có nhà ở,

là ắt có chùa chiền, bỏ rồi lại dựng, hỏng rồi lại sửa, số chuông trống lâu đài chiếm gần một

nửa dân cư. Đạo Phật rất dễ thịnh hành và rất được người ta tôn sùng. Ta ngày còn trẻ đi

học, dốc chí vào việc cổ kim, cũng biết qua về đạo Thánh, muốn lấy đó để giáo hóa nhân dân,

nhưng rốt cục chưa có thể làm cho một hướng nào tin theo cả. Ta cũng thường dạo chơi nơi

sông núi, dấu chân đã để lại trong hầu nửa thiên hạ, thế mà chưa từng tìm thấy một trường

học hay một văn miếu nào. Chính vì vậy mà ta rất lấy làm hổ thẹn khi so sánh với tín đồ nhà

Phật. Bèn viết ra đây để giãi bày lòng ta" (Bài văn bia chùa Triệu Phúc ở thôn Bái, tỉnh Bắc

Giang)

Mặt khác, trên vũ đài chính trị, thời kỳ này cũng đã xuất hiện một lực lƣợng xã hội

mới, những Nho sĩ Khổng giáo với tôn chỉ nêu cao ngọn cờ "Tam cƣơng, Ngũ thƣờng" nhƣ

Chu An, Phạm Sƣ Mạnh, Lê Quát.. gắn trách nhiệm làm ngƣời theo tƣ tƣởng Nho gia, với

đạo trung hiếu, lẽ xuất xử, hành tàng, và cả hoài bão lập công giúp nƣớc. Sự tồn tại song song

của Khổng giáo và Phật giáo tuy trong một chừng mực nào đó có sự mâu thuẫn nhƣng chúng

đã hòa hợp với những tín ngƣỡng địa phƣơng làm nên cơ sở thế giới quan đặc thù của thời

đại.

Việc sáng tác chữ viết dân tộc - chữ Nôm - trên cơ sở chữ tƣợng hình của Trung Quốc

có ý nghĩa lớn lao đối với sự phát triển của văn học Việt Nam. Từ

Trang 14

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

thế kỷ XIII đã có những tài liệu về văn học viết bằng ngôn ngữ dân tộc. Lê Tắc, một tác giả

cuối thế kỷ XIII đầu thế kỷ XIV cho biết "ngƣời ta làm thơ, phú bằng tiếng mẹ đẻ thành ra dễ

ngâm vịnh hơn: vui, buồn đều có cả trong những dòng văn đó" (69)

Chế độ khoa cử dƣới triều đại Lý - Trần cũng đƣợc đặt ra theo quy định chặt chẽ. Đặc

biệt việc chú trọng khoa thi "Tam giáo"(Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo) dƣới hai triều đại

này, chứng tỏ Phật giáo có vai trò tích cực trong việc xây dựng nền tự chủ dân tộc, phục vụ

đất nƣớc, phục vụ nhân dân, tu dƣỡng nhân cách con ngƣời.

Có thể nói đây là một thời đại của sự phục hƣng và tinh thần nhân văn cao đẹp. Bên

cạnh nhân tố cơ bản là tƣ tƣởng yêu nƣớc, Phật giáo - trào lƣu tƣ tƣởng hƣng thịnh lúc đó

cũng nhƣ Tam giáo đồng nguyên - sản phẩm văn hóa thông minh và phù hợp với điều kiện

lịch sử phát triển của xã hội Đại Việt đã tạo nên đặc trƣng cơ bản của thời đại này.

1.2. Giáo dục

Trong điều kiện lịch sử xã hội vừa đấu tranh chống ngoại xâm, vừa xây dựng củng cố

nền độc lập tự chủ phong kiến, tƣ tƣởng Đại Việt phát triển trong điều kiện du nhập văn hóa

của các trung tâm văn hóa lớn (Ấn Độ - Trung Quốc). Mặt khác sự xuất hiện của nhiều hệ tƣ

tƣởng dƣới hai triều đại này đã tạo ra những tầng lớp tri thức khác nhau. Trong đó có những

con ngƣời phi thƣờng về nhân cách và tƣ tƣởng - vừa làm vua làm tƣớng đuổi giặc, lại vừa

làm thiền sƣ, ẩn sĩ, nhà thơ, viết hịch kêu gọi đánh giặc mà dám nêu gƣơng trung nghĩa của

nƣớc giặc, làm đến vƣơng hầu mà coi công danh nhƣ phù vân, lìa bỏ ngai vàng nhƣ trút bỏ

chiếc giầy rách...., đó là những Nho sĩ luôn chú tâm xây dựng đất nƣớc theo khuôn mẫu hệ tƣ

tƣởng Nho giáo, luôn đề cao trách nhiệm, mục đích của con ngƣời từ cách sống, việc làm cho

đến mỗi cử chỉ, thái độ.

Sự tồn tại song song giới trí thức sƣ tăng và Nho sĩ làm cho hệ tƣ tƣởng

Trang 15

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

dƣới hai triều đại này ngày càng trở nên phong phú và đa dạng. Tuy đứng trong cùng một vị

trí, nhƣng với các bậc sƣ tăng sự nhìn nhận, răn dạy về cuộc sống nhân sinh mang tinh thần

phóng khoáng "vô ngã" của Phật giáo Thiền Tông. Giáo dục con ngƣời theo khuôn mẫu Phật

giáo, nhƣng điều đáng nói là con ngƣời ở đây không phải là con ngƣời thoát ly thế tục, chỉ lo

cầu Phật, cầu Thiền... mà con ngƣời phá bỏ cái "chấp ngã" để đạt đến sự tự do tuyệt đối, thoát

khỏi mọi lệ thuộc vào giáo điều để có bản lĩnh tự tìm lấy cách sống, hành động phù hợp với

mình. Giữa thời kỳ loạn lạc cuối thế kỷ X đến đầu thế kỷ XI lời dạy của các nhà tu hành đã

gây đƣợc nhiều tiếng vang. Nét đặc sắc trong những Thiền sƣ thời đại này chính là quan niệm

về nhân sinh, về thái độ tích cực, lạc quan của các nhà sƣ trƣớc cuộc sống.

"Thân như điện ảnh hữu hoàn vô,

Vạn mộc xuân vinh thu hưu khô.

Nhậm vận thịnh suy vô bố úy,

Thịnh suy như lộ thảo đầu phô"

(Thị Đệ Tử - Sƣ Vạn Hạnh)

Dịch nghĩa:

"Thân như bóng chớp có rồi không,

Cây cối xuân tươi, thu não lòng.

Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi,

Kìa kìa ngọn cỏ giọt sương đông"

(Bản dịch của Ngô Tất Tố)

Hay ở nhà sƣ Mãn Giác, đó là:

"Xuân khứ bách hoa lạc,

Xuân đáo bách hoa khai.

Sự trục nhãn tiền quá,

Lão tòng đầu thượng lai.

Trang 16

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,

Đình tiền tạc dạ nhất chi mai"

(Cáo tật thị chúng - Sƣ Mãn Giác)

Dịch nghĩa:

"Xuân qua trăm hoa rụng,

Xuân tới trăm hoa nở.

Sự vật đuổi nhau qua trước mắt,

Cái già sùng sục tới trên đầu.

Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết,

Đêm qua, sân trước, một nhành mai''

Có thể nói, tƣ tƣởng giáo dục Phật giáo dƣới hai triều đại Lý và đầu Trần luôn muốn

cho con ngƣời đƣợc giải thoát khỏi những cái ràng buộc hữu hạn của thế giới chính ngay ở

trần thế. Để thực hiện đƣợc mục đích, con ngƣời cần phải có một dũng khí mạnh mẽ tin vào

sức của chính mình, một "xung thiên chí” để khỏi "dẫm lại vết mòn của Như Lai" (Hƣu

hƣớng Nhƣ Lai - Quảng Nghiêm) nhƣ hoài bão của Quảng Nghiêm đời Lý, hay một lời cảnh

tỉnh ngƣời đi sau "Bảo cho anh chớ nên dựa vào cửa của người khác, một điểm sáng mùa

xuân bừng dậy là khắp nơi hoa nở'' (Thị Học - Tuệ Trung) của Tuệ Trung đời Trần.

Mặt tích cực trong cuộc sống đƣợc nhà sƣ khẳng định với một nguyên lý cứng rắn,

quyết định sự thành bại của con ngƣời, đồng thời thể hiện bản lĩnh, niềm tin và cái nhìn bao

quát toàn diện rộng lớn, phóng khoáng.

"Trạch đắc long xà địa khả cư,

Dã tình chung nhật lạc vô dư.

Hữu thời trực thượng cô phong đính,

Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư"

(Ngôn hoài - Không Lộ)

Trang 17

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

Dịch nghĩa:

"Chọn được kiểu đất long xà rất hợp có thể ở được,

Tình quê suốt ngày vui không chán.

Có lúc lên thẳng đỉnh núi trơ vơ,

Kêu dài một tiếng, lạnh cả bầu trời.''

Ở các nhà sƣ tinh thần giáo dục cởi mở, pha lẫn sự tự do, tự tại, nhìn cuộc đời nhƣ

áng phù vân và theo quy luật sinh diệt của vạn vật tự nhiên. Chính vì vậy việc hành đạo giúp

đòi cứu nƣớc nhƣ là một việc hành đạo chánh pháp, không vi phạm giới luật mà còn là một

giá trị biểu hiện cao đẹp của Phật giáo trong suốt thời kỳ dựng nƣớc và giữ nƣớc dƣới hai

triều đại này. Tinh thần từ bi, bác ái, hỉ xả của Phật giáo đã kết tinh những giá trị nhân văn

cao đẹp của con ngƣời Việt Nam, đó là những con ngƣời "tự do", "vô ngã", "vô ngôn"... là

con ngƣời phần nào có sự dung hòa giữa Phật và Lão.

"Cũng chẳng gây ác

Cũng chẳng làm lành

Buồn ngủ thì ngủ

Đói bụng thì ăn

Tuy nó nhiễu nhương

Mặc bay bề bộn

Xưa nay vẫn vậy

Là chủ càn khôn"

(Gửi Phổ Tuệ tôn giả, bài I - Trần Anh Tông)

Trong điều kiện lịch sử Việt Nam lúc bấy giờ, quốc gia vừa trút bỏ ách nô lệ, dân tộc

luôn phải đấu tranh chống ngoại xâm, tinh thần thần dân tộc, ý thức độc lập, dân chủ là yếu tố

chủ đạo trong việc giáo dục con ngƣời có ích cho quốc gia. Đào tạo và giáo dục ngƣời Việt

Nam lúc này, trƣớc hết là đòi hỏi phải có một lòng yêu nƣớc thiết tha, ý chí căm thù giặc sâu

sắc và ý thức độc lập, tinh

Trang 18

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

thần dân tộc cao cả mới có thể trở thành con ngƣời Đại Việt chân chính. Đó là tinh thần bài

thơ của Lý Thƣờng Kiệt:

"Nam quốc sơn hà Nam đế cư,

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư."

(Nam quốc sơn hà)

Cũng trong không khí hoành tráng ấy, "Thiên đô chiếu" của Lý Thái Tổ là một áng

văn mang phong cách trang trọng, khẳng định sự lớn mạnh của quốc gia Đại Việt, đồng thời

toát lên cái bản lĩnh tự tin của vị hoàng đế biết nhìn xa trông rộng trong sự nghiệp bảo vệ và

xây dựng tổ quốc. Và trong cái hào khí đó "Tụng giá hoàn kinh sƣ" - Trần Quang Khải đã để

lại cho đời sau một tinh thần lạc quan, một phong thái uy nghiêm của vị tƣớng trƣớc chiến

thắng quân thù, nói lên đƣợc sức mạnh chính nghĩa của dân tộc.

"Đoạt sáo Chương Dương độ,

Cầm hồ Hàm Tử quan

Thái bình tu trí lực,

Vạn cổ thử giang san"

Tƣơng tự, thơ Phạm Ngũ Lão cũng đã khắc họa hình ảnh ngƣời thanh niên Đại Việt

hiên ngang dũng mãnh, lồng lộng giữa sông núi đất trời trong tƣ thế cầm vũ khí chiến đấu

chống giặc thù bảo vệ đất nƣớc.

"Múa giáo non sông trải mấy thâu,

Ba quân khí mạnh nuốt sao Ngưu..."

(Thuật hoài - Bùi Văn Nguyên dịch)

Tinh thần cao đẹp này đƣợc coi nhƣ kinh điển đƣa vào hồi ức lịch sử. Sự trong sáng

cao đẹp của tâm hồn Đại Việt đƣợc các nhà văn, nhà thơ diễn tả qua một số tác phẩm đáng

chú trọng nhƣ: "Bạch Đằng giang" (Trần Minh Tông),

Trang 19

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

"Qua Hàm Tử quan" (Trần Lâu)... Nhƣ vậy tinh thần yêu nƣớc, chống ngoại xâm và ý

thức dân tộc là mạch tƣ tƣởng hình thành trong quá trình đấu tranh dựng nƣớc từ thời Hùng

Vƣơng. Trải qua các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê đến Lý -Trần nó đã trở thành một trong

những tiêu chí quan trọng hàng đầu khẳng định con ngƣời Việt Nam chân chính.

Đến cuối thế kỷ XIV, triều đại Nhà Trần bắt đầu suy thoái tầng lớp Nho giáo ngày

càng lớn manh, tầng lớp này muốn cứu vãn trật tự xã hội theo tƣ tƣởng của học thuyết Nho

giáo Khổng - Mạnh, chính vì thế giáo dục chuyển dần theo tƣ tƣởng của nhà Nho, đề cập

nhiều đến trách nhiệm xã hội của ngƣời công dân. Đạo trung hiếu, lẽ xuất xử, hành tàng, hoài

bão lập công, giúp nƣớc, lo đời lo dân của một nhà Nho đƣợc đề cao. Tiêu biểu cho xu hƣớng

giáo dục theo quan niệm Nho gia lúc này là Chu An (Chu Văn An).

Trong tác phẩm còn lại của Chu An đến nay, chƣa tìm thấy bài văn, bài thơ nào trực

tiếp nói về vấn đề giáo dục. Nhƣng theo chính sử, ông lại là một nhà giáo dục đại tài với một

tƣ tƣởng trong sáng, thiết tha vì dân, vì nƣớc, vì sự sống còn của Đại Việt. Tƣ tƣởng giáo dục

của ông đƣa ra không theo một hệ thống nhất định, nhƣng hành động can vua, giúp vua trong

việc sửa sang triều nội, đối sách với các nƣớc lân bang, đó là những việc làm có ý nghĩa quan

trọng. Lịch sử chứng minh Chu An là nhà giáo dục lớn với lòng yêu dân, yêu nƣớc sâu sắc,

muốn đem sự học của mình rải khắp muôn dân, nhƣng tiếc thay ông cũng chỉ thực thi đƣợc

phần nào sở học của mình. Rời khỏi triều đình về quy ẩn nhƣng Chu An mang đầy ắp tâm sự

trƣớc cuộc sống. Đó là tâm trạng bùi ngùi, niềm tiếc nhớ vua xƣa và nỗi bất bình vì bọn tiểu

nhân khuynh loát triều đình, lấn áp ngƣời hiền.

"Ngư du cổ chiểu long hà tại?

Vân mãn không sơn, hạc bất quy.

Quế lão tuy phong hương thạch lộ,

Nộn đài trước thủy một tùng phi..."

(Miết trì - Chu Văn An)

Trang 20

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

Dịch nghĩa:

"Cá bơi ao cũ, rồng ở nơi đâu?

Mây phủ núi vắng, hạc không về.

Cây quế già theo gió đưa hương thơm ngát con đường đá,

Đám rêu non dẫm nước che lấp mất cánh cửa tùng"

Tác phẩm của ông để lại đến ngày nay chỉ là những bài thơ nói lên nỗi buồn nhớ về

triều xƣa, nhƣng chúng ta có thể hiểu đƣợc tƣ tƣởng giáo dục của ông thông qua các học trò

nhƣ Phạm Sƣ Mạnh, Lê Quát. Đó là những nhà Nho tiêu biểu với một tinh thần nhập thế, tƣ

tƣởng trung quân, ái quốc luôn xuyên thấm trong mọi thái độ cử chỉ, kể cả đi đứng hay ngắm

nhìn thiên nhiên đều gắn liền với bổn phận, trách nhiệm làm ngƣời theo lý tƣởng Nho gia.

Tuy học tập từ học thuyết Nho giáo Khổng - Mạnh, nhƣng Phạm Sƣ Mạnh và Lê Quát là

những nhà Nho rất Việt Nam, gắn liền với dân tộc, thời đại, là thƣớc đo của con ngƣời trí

thức chân chính lúc bấy giờ.

Đối với những nhà nho này, tấm lòng trung là nguồn cảm hứng bất tận:

"Duột vân ngũ sắc ủng cung vi,

Tuyên triệu Nho thần xuất điện tri.

Nhũ yến minh cưu đương ngọ hậu,

Tế chiên quảng hạ thiết hương di.

Thần tâm nhị để tam vương cổ,

Văn thể Tiên Tần Lưỡng Hán kỳ.

Trắc thính thị thần truyền nội chỉ,

Kỳ hòa đại xã định tân nghi"

(Xuân nhật ứng chế - Phạm Sƣ Mạnh)

Dịch nghĩa:

"Mây lành năm sắc phủ quanh cung cấm,

Chiếu vua truyền gọi Nho thần đến trước thềm điện.

Trang 21

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

Sau buổi trưa, chim yến, chim cưu kêu,

Dưới tua cờ nhỏ trong ngôi nhà rộng, đặt đỉnh hương.

Tấm lòng của vua như Nhị đế Tam vương khi xưa,

Văn thể của người kỳ diệu như Tiên Tần, Lưỡng Hán.

Lắng nghe thị thần truyền chiếu chỉ của nội điện,

Định nghi thức mới cho lễ đại xá cầu được mùa."

trách nhiệm của kẻ sĩ đƣợc Phạm Sƣ Mạnh nêu lên nhƣ là thƣớc đo trí tuệ, lòng thƣơng dân,

lo cho dân của những kẻ làm "phụ mẫu" của dân, nhƣng cũng không tách khỏi quan niệm

"trung quân".

"Ngã cự triều đình phỏng dân mịch,

Sản trừ đố tệ, cách gian tham."

(An Thao Giang lộ - Phạm Sƣ Mạnh)

Dịch nghĩa:

"Ta vì triều đình đến thăm hỏi sự khổ của dân,

Trừ tệ sâu mọt, diệt tận gian tham"

(Đi kinh lý Lộ Thao Giang - Phạm Sƣ Mạnh)

Hay ở đó chí khí của kẻ sĩ gắn liền với ơn "mƣa móc", tấm khăn "Nho giáo" luôn luôn

là mục đích để ngƣời trí thức trong giai đoạn này phấn đấu vƣơn lên lập thân, giúp đời, cứu

nƣớc.

"Thư xa vạn lý biên trầm tĩnh,

Vũ trụ thiên nhiên thế sự đa.

Ngã hạnh mông ân khai chế khổn,

Khu nhương đạo tặc, tức can qua."

(Hành quận - Phạm Sƣ Mạnh)

Dịch nghĩa:

"Nay muôn dặm thống nhất, bụi bặm nơi biên cương đã yên,

Vũ trụ nghìn năm, đời có nhiều thay đổi.

Trang 22

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

Ta may mắn đội ơn vua, mở nơi cõi ngoài,

Xua trừ trộm cướp, dập tắt can qua."

(Đi kinh lý trong quận - Phạm Sƣ Mạnh)

Và trong cái khí khái ấy, ngƣời Nho sĩ luôn là cánh tay đắc lực giúp vua trong việc

hƣớng dẫn cho muôn dân học hành, an cƣ lạc nghiệp, giúp vua trong việc chế định kỷ cƣơng

triều đình, phục vụ vua trung thành tuyệt đối.

"Nhất song đồng hổ cứ thành ngang,

Thủ hộ thiên hôn kỷ độ thu.

......................................................

Cáp tự trung thần tâm thiết thạch,

Uy thanh lẫm lẫm ngoa biên đầu."

(Đồng hổ - Lê Quát)

Dịch nghĩa:

"Một đôi hổ đồng ngồi ở góc thành,

Canh gác cung điện đã mấy thu.

..........................................................

Hổ hệt như kẻ trung thần, lòng sắt đá,

Uy danh lừng lẫy, nằm trấn ở chốn biên thùy."

(Con hổ bằng đồng - Lê Quát)

Nhƣ vậy, dƣới các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần thơ văn đã có tính chất triết lý giáo

dục con ngƣời về tinh thần yêu nƣớc, tƣ tƣởng nhân đạo và những hoạt động để hình thành

nhân cách con ngƣời, một nam nhi "làm trai có chí xông trời thẳm". Dƣới hai triều đại ấy có

biết bao vị vua anh minh, những anh hùng xuất chúng với những tƣ tƣởng cao cả. Nhƣng để

có một nhân vật thật sự là một nhà giáo dục - có hệ thống tƣ tƣởng giáo dục hoàn chỉnh, thì

chƣa thể khẳng định. Ở đây cần nhấn mạnh rằng đó là hệ tƣ tƣởng do một cá nhân hệ thống

lại trên cơ sở truyền thống dân tộc và thiên tài của cá nhân. Trong thời đại này có thể nói

Trang 23

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

những tƣ tƣởng ấy đã bắt đầu xuất hiện rải rác trong thơ văn của nhiều tác giả và nở rộ vào

thế kỷ thứ XV với tên tuổi bất hủ Nguyễn Trãi - một tài năng về giáo dục.

2. Thế kỷ XV

2.1. Bối cảnh xã hội

Cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV chế độ phong kiến nhà Trần bƣớc vào giai đoạn suy

thoái. Nhà Trần từ một triều đại cực kỳ hƣng thịnh, bắt đầu bƣớc vào giai đoạn khủng hoảng

với những biến động sâu sắc. Đƣờng lối thân dân, khoan dân ngày một xa rời, quyền lực

truyền thống không còn đƣợc thói quen kính trọng, nó dần dần biến thành bạo lực, quần

chúng "nổi loạn" và bị võ lực đàn áp. Rối loạn bên ngoài (khởi nghĩa nông dân, nô tỳ), rối

loạn cung đình (Dƣơng Nhật Lễ) và rối loạn toàn xã hội...

Cơ cấu kinh tế điền trang thái ấp đã trở nên lạc hậu. Kinh tế địa chủ phát triển mạnh

và có xu hƣớng thay thế kinh tế điền trang, nhằm giải phóng tầng lớp nông nô, nô tỳ. Tầng

lớp quý tộc Nhà Trần ngày càng đi vào con đƣờng suy đồi đạo đức, tăng cƣờng vơ vét bóc lột

nhân dân để hƣởng thụ, đời sống nhân dân ngày một đói khổ, khốn đốn. Ruộng đất rơi vào

tay tầng lớp quý tộc, địa chủ, nhà sƣ, nhà chùa bao chiếm.

Về mặt tƣ tƣởng đã có những biến động mạnh. Phật giáo cùng tồn tại qua hơn bốn thế

kỷ với các triều đại vốn ủng hộ Phật giáo quá mức đã dần dần bộc lộ những suy thoái. Cuộc

đấu tranh gay gắt về quyền lực giữa một giới Nho sĩ xuất thân bình dân đã lớn mạnh và giới

tăng đồ vốn đƣợc vƣơng triều Lý - Trần trọng đãi đã diễn ra. Nghịch lý cuối thế kỷ XIV là

việc đấu tranh đổi mới, nhƣng sự đề nghị đổi mới lại là xu hƣớng bắt chƣớc Trung Quốc

(Nho thần Lê Quát, Phạm Sƣ Mạnh); còn cái truyền thống thì bảo thủ mất tính năng động.

Tình hình này khiến xã hội Việt Nam vốn dĩ đã khủng hoảng lại càng không có đƣờng lối giải

quyết.

Trang 24

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

Đúng lúc đó, năm 1400, Hồ Quý Ly xuất hiện trên chính trƣờng lịch sử, truất ngôi vua

Trần, tự xƣng Hoàng đế, đổi quốc hiệu là Đại Ngu, lập ra triều Hồ (1400 - 1407). Sau khi lên

nắm quyền, Hồ Quy Ly đã mạnh dạn tiến hành cải cách nhằm giải quyết tình trạng khủng

hoảng cuối thế kỷ XIV và phục hồi, củng cố quốc gia quân chủ trung ƣơng tập quyền đang

lâm nguy. Hồ Qúy Ly vừa muốn thanh lọc Phật giáo, vừa muốn phê phán Nho giáo, nhƣng

cũng chƣa xây dựng một ý thức hệ Việt Nam làm cốt lõi cho nền văn hóa Việt Nam. Những

cải cách của Hồ Qúy Ly tuy có những mặt tiến bộ, tích cực, nhƣng chƣa đáp ứng đầy đủ nhu

cầu phát triển của xã hội. Chủ trƣơng dùng bạo lực của họ Hồ có những chỗ không thích hợp

vừa gây chia rẽ nội bộ triều đình, vừa gây chia rẽ quần chúng làm cho cơ sở xã hội không

vững chắc, nhân dân không đồng tình ủng hộ, vừa tạo kẽ hở khiến bọn phong kiến nhà Minh

có cớ can thiệp vào nƣớc ta, nhằm thực hiện mƣu đồ bành trƣớng xâm lƣợc của chúng.

Ngày 19/11/1406, nhà Minh tiến hành cuộc chiến tranh xâm lƣợc Đại Việt. Hổ Qúy

Ly đã sớm thấy nguy cơ của một cuộc tiến công xâm lƣợc lớn từ phía bắc. Cùng với việc thi

hành một số cải cách quan trọng, nhà Hồ đã ráo riết tăng cƣờng quân đội, xây thành đắp lũy,

rèn đúc vũ khí, chuẩn bị sẵn sàng cho một cuộc chiến tranh giữ nƣớc, chống giặc Minh.

Nhƣng do sai lầm, về chính trị thì mất lòng dân, về quân sự thì nặng phòng ngự, nên sau sáu

tháng cầm cự yếu ớt, cuộc kháng chiến đã nhanh chóng thất bại. Sau bốn thế kỷ độc lập, tự

chủ, với thất bại của nhà Hồ, dân tộc Đại Việt đã lâm vào tình cảnh nô lệ, tăm tối. Sự thống

trị tàn bạo của nhà Minh với tôn chỉ là triệt để đồng hóa dân tộc ta, hủy diệt nền văn hiến

nƣớc ta, xóa bỏ vĩnh viễn tên nƣớc Đại Việt, biến Đại Việt thành một quận của Đế chế Đại

Minh, đã cản trở và kìm hãm sự phát triển của xã hội Đại Việt, đe dọa nghiêm trọng vận

mệnh của dân tộc và sự sinh tồn của mọi con ngƣời.

Đứng trƣớc những mƣu đồ nham hiểm và hành động tàn bạo đó, nhân dân ta quyết

không chịu khuất phục, không chịu mất nƣớc, đã vùng lên chiến đấu

Trang 25

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

một mất, một còn với kẻ thù. Nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra liên tiếp, trong đó có cuộc khởi

nghĩa rất thanh thế của Trần Giản Định và Trần Trùng Quang - hai vua nhà hậu Trần, nhƣng

rồi cuối cùng vẫn thất bại, do họ chƣa tập hợp đƣợc lòng dân.

Vấn đề vô cùng khẩn khiết đặt ra đối với dân tộc ta là làm thế nào tìm đƣợc con

đƣờng cứu nƣớc, cứu dân đúng đắn để đƣa sự nghiệp giải phóng dân tộc đến thắng lợi hoàn

toàn. Sứ mệnh lịch sử, nhiệm vụ trọng đại ấy đã thôi thúc toàn thể dân tộc ta, thôi thúc mỗi

ngƣời dân yêu nƣớc, suy nghĩ và hành động. Với lòng yêu nƣớc nồng nàn, ý chĩ quật cƣờng

và truyền thống anh hùng, bất khuất đƣợc bồi đắp trong nhiều thế kỷ dựng nƣớc và giữ nƣớc,

biết bao anh hùng hào kiệt đƣơng thời đã đem hết tâm huyết để tìm đƣờng cứu nƣớc. Lê Lợi

và Nguyễn Trãi là những ngƣời con ƣu tú của dân tộc đã sớm tìm ra con đƣờng đúng đắn và

sáng tạo, tập hợp đƣợc toàn dân, lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Minh trong mƣời

năm (1418 - 1427) đi đến thắng lợi, giải phóng dân tộc ra khỏi ách đô hộ của nhà Minh, trở

thành một quốc gia độc lập, tự chủ.

Ngày 29/4/1428 nhà Lê đƣợc thành lập, Lê Lợi lên ngôi lấy hiệu là Lê Thái Tổ, thực

hiện nhiệm vụ mà lịch sử đầu thế kỷ XV đề ra. Triều đại này trở nên thịnh vƣợng vì nó giải

quyết những vấn đề có liên quan đến đời sống nhân dân, nhận thức đƣợc vai trò to lớn của

nhân dân trong những biến thiên của lịch sử. Xác định đƣợc việc "cố kết nhân tâm - sáng lập

công to - làm nên việc lớn" là nhân tố quyết định sự hƣng thịnh của triều đại này.

2.2. Thời đại thịnh trị của Nho giáo và tư tưởng giáo dục của Nho gia

Từ cuối đời Trần, Nho giáo bắt đầu lấn át Phật giáo và Đạo giáo. Đến đời Lê thì Nho

giáo chiếm địa vị độc tồn và trở thành quốc giáo khống chế mọi hoạt động trong guồng máy

chế độ phong kiến trung ƣơng tập quyền. Nhà Lê lấy thuyết Nho giáo của Chu Tử làm mẫu

mực cho cách cai trị của Triều đình.

Nho giáo là hệ tƣ tƣởng chính thống của giai cấp phong kiến ở Trung

Trang 26

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

Quốc. Nho giáo có từ đời Tây Chu do Chu Công sáng lập. Thời Xuân Thu xã hội loạn lạc,

Khổng Tử muốn cứu vãn trật tự xã hội nên hệ thống hóa lại và phát triển thêm tƣ tƣởng này.

Sang thời Chiến Quốc, Mạnh Tử đấu tranh với các hệ tƣ tƣởng khác để bảo vệ Nho giáo. Vì

thế Nho giáo gắn liền với tên tuổi của Khổng - Mạnh. Đến đời Hán, Đổng Trọng Thƣ thần bí

hóa Nho giáo nhằm phục vụ cho chính thể phong kiến tập quyền chuyên chế của Nhà Hán.

Đời Tống, các Nhà Nho Chu, Trình, Trƣơng, Chu (Chu Đôn Di, Chu Hy) bổ sung thêm cho

Nho giáo để nó trở thành một học thuyết bề thế, chặt chẽ hơn, đáp ứng yêu cầu thống nhất

thêm một bƣớc nữa của chính quyền Nhà Tống.

Nho giáo không phải là một tôn giáo mà là một học thuyết chính trị và đạo đức phục

vụ cho giai cấp phong kiến. Vào Việt Nam tuy phần nào đƣợc Việt hóa trên tƣ tƣởng yêu

nƣớc và tƣ tƣởng nhân đạo, nhƣng trên bình diện chung nó vẫn quan niệm theo thuyết "Tam

cƣơng, ngũ thƣờng", trong đó "trung quân" đƣợc đặt lên hàng đầu. Nội dung giáo dục chủ

yếu của Nho giáo là các sách Tứ Thƣ, Ngũ Kinh, Bát Sử, Thơ, Phú... Nho giáo đề cao việc

dạy, việc học, coi trọng việc chăm lo giáo hóa cho một quân vƣơng quan trọng ngang tầm với

việc chăm lo cho dân giàu, nƣớc mạnh. Giáo dục trong khuôn khổ Nho giáo chịu sự chế ƣớc

của nguyên tắc "Tiên học lễ, hậu học văn", mà nhiều thế hệ đã biết đến. Quá khứ lịch sử cho

biết, đƣa ra những quan niệm trên, Nho giáo nhằm tập trung đào tạo một tầng lớp quân tử, tạo

lập một đội ngũ quan lại giỏi và trung thành với chế độ quân quyền tuyệt đối. Mặt khác Nho

giáo còn đƣa ra những chuẩn mực về bổn phận và trách nhiệm của thành viên thuộc tầng lớp

dƣới hay gọi là tầng lớp "bị trị".

Nho học đã đạt đến mức cực thịnh ở thế kỷ XV, nhƣng chính sự thịnh vƣợng của lối

học cử tử đã làm cho giáo dục đời Lê dần dần kém các triều đại trƣớc. Tống Nho là học

thuyết Nho giáo chính thống ở đời Lê, nặng về từ chƣơng có tính chất câu nệ, gò bó. Lối học

bát cổ, giáo điều, kinh viện đã hạn chế tƣ tƣởng, hạn chế khả năng sáng tạo của cá nhân.

Trang 27

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

Nhà nƣớc phong kiến chính thức đề cao Nho học và hạn chế các tƣ tƣởng khác. Nho

giáo ngày càng có xu hƣớng gò bó con ngƣời vào trong những khuôn khổ và giáo điều cứng

nhắc, xa lạ với thực tiễn đời sống dân tộc. Đƣa Nho giáo lên địa vị độc tôn, nhà Lê nhằm

khống chế văn hóa tinh thần của toàn xã hội. Đề cao việc giáo dục theo hƣớng "chính tâm, tu

thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ", Nho giáo đã nâng vai trò của tầng lớp Nho sĩ lên tầm

cao mới, là lực lƣợng đứng đầu trong việc điều hành thể chế chính trị Nhà nƣớc phong kiến

và trong toàn xã hội, là lực lƣợng hƣớng dẫn và giúp đỡ các bậc cha mẹ giáo dục con cái theo

một khuôn mẫu nhất định nhằm tạo ra những đứa con có hiếu, biết phụng mệnh, trung thành

một cách vô điều kiện với chế độ tạo ra mình.

Nho giáo đã thâm nhập vào đời sống của nhân dân Việt Nam và phát triển trong sự

giao lƣu văn hóa với các hệ tƣ tƣởng khác nhƣ Phật giáo, Đạo giáo đã ảnh hƣởng sâu sắc đến

tâm lý dân tộc, trở thành một ý thức hệ tồn tại lâu bền qua bao thế kỷ cho đến tận hôm nay.

Hệ tƣ tƣởng Nho giáo chứa đựng những giáo điều hà khắc và thực hiện theo những khuôn

mẫu khô cứng trói buộc con ngƣời. Cái tôi cá nhân và ý thức cá nhân bị hạn chế trong vòng

luân lý. Thân phận ngƣời phụ nữ đã bị ý thức hệ Nho giáo tạo một thành kiến bất di bất dịch

"Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô", và trong hôn nhân bị ràng buộc vào giáo điều "Tam

tòng" (Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử). Nho giáo coi vua là thiên tử (con

trời), lệnh vua ban ra là "mệnh trời", quan hệ vua tôi xếp trên quan hệ cha con, Nho giáo thiết

kế và bắt áp dụng quan hệ vua tôi, cha con theo một khuôn khổ khắt khe và nghiệt ngã với sự

phục tùng tối thƣợng quyền lực của nhà vua, và trong gia đình là ngƣời cha.

Những nội dung mà ý thức hệ phong kiến đặt ra, nhằm thiết kế một giềng mối xã hội

theo một tôn ti nhất định, vững chắc, song phần cực đoan, tàn nhẫn cũng không thể tránh

khỏi, nó đã đè nặng lên tầng lớp nhân dân. Nhiều bất công và phẫn uất của nhân dân cũng bắt

đầu phát sinh từ đó. Nho giáo đã ảnh hƣởng và ăn sâu vào ý thức của ngƣời Việt Nam. Thế

nhƣng truyền thống cao đẹp của

Trang 28

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

tâm hồn ngƣời Việt Nam không hoàn toàn bị khuất phục bởi những giáo điều phi lý. Nhân

dân Việt Nam đã biết "gạn đục khơi trong" sàng lọc những tinh hoa nhân loại trên cơ sở tƣ

tƣởng "yêu nƣớc, nhân đạo" biến chúng thành những giá trị đạo đức phù hợp với điều kiện

lịch sử và tâm hồn dân tộc để phát huy và sử dụng.

2.3. Giai đoạn khôi phục kinh tế - xã hội - chính trị của đất nước. Thời đại vai trò

nhân dân được đề cao.

Nửa cuối thế kỷ XIV, sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội ngày một gia tăng. Làn

sóng khởi nghĩa của nông dân và nô tỳ chống lại chế độ điền trang thái ấp và sự bóc lột tàn

bạo của tầng lớp đại quý tộc, đòi "chẩn cứu cho dân nghèo", đã làm cho triều đại phong kiến

nhà Trần lung lay đến tận gốc rễ. Hồ Quy Ly chuyên quyền; Chế Bồng Nga - vua Chiêm

Thành đƣa quân ra quấy rối nƣớc ta. Chính sự nhà Trần cực kỳ rối ren, nhân cơ hội này nhà

Minh đem quân sang thôn tính nƣớc ta.

Dƣới ách đô hộ của nhà Minh, nhiều cuộc khởi nghĩa có quy mô lớn đã nổ ra dƣới sự

lãnh đạo của một số qúy tộc nhà Trần yêu nƣớc nhƣ Trần Ngỗi và Trần Quý Khoáng, tuy đã

giành đƣợc một số thắng lợi, nhƣng cuối cùng đều bị đàn áp và thất bại. Nguyên nhân thất bại

có nhiều mặt phức tạp, nhƣng chủ yếu là một sự lãnh đạo chƣa tập hợp đƣợc sự đồng tình ủng

hộ của nhân dân, không tiến hành đƣợc một cuộc chiến tranh giải phóng có tính chất nhân

dân rộng rãi. Phong trào khởi nghĩa Lam Sơn là cuộc chiến tranh yêu nƣớc và chính nghĩa, nó

đã chứng minh đƣợc sức mạnh tiềm tàng vô cùng to lớn của nhân dân là khả năng dẫn đến

thắng lợi tất yếu. Từ núi rừng Thanh Hóa, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn dần dần phát triển thành

cuộc khởi nghĩa có quy mô toàn quốc và là cuộc khởi nghĩa mang tính chất nhân dân rộng rãi,

từ "hào kiệt" cho đến tầng lớp "manh lệ" cũng đứng dƣới ngọn cờ khởi nghĩa. Thực tế lịch sử

cho thấy cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thành công đã chứng tỏ sự lựa chọn sáng suốt trong tƣ

tƣởng, và đƣờng lối lãnh đạo dựa vào dân, xây dựng lực lƣợng từ dân của Lê Lợi

Trang 29

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

và Nguyễn Trãi để phát động cả nƣớc đánh giặc. Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa tiếp tục

khẳng định tính chính nghĩa và nguyện vọng chính đáng của toàn dân và là sự kết tinh cao

đẹp của sức mạnh tinh thần và vật chất của cả dân tộc để vùng lên cứu mình, cứu nƣớc thoát

khỏi cảnh nô lệ.

Lịch sử Đại Việt thời Lý - Trần, tƣ tƣởng thân dân đã đƣợc đề cập đến, chính vì thân

dân mà nhà Lý đã giành đƣợc thắng lợi khi chống quân xâm lƣợc Tống, hun đúc ý chí "Nam

quốc sơn hà nam đế cư ". Theo đƣờng lối nới sức dân, khoan dung với ngƣời mà nhà Trần ba

lần đại thắng xâm lƣợc Nguyên -Mông, tạo dựng "hào khí Đông A", nhƣng với sự khác biệt

về hoàn cảnh lịch sử, mãi đến thế kỷ XV, tƣ tƣởng thân dân mới có điều kiện phát triển một

cách toàn diện nhất. Có thể thấy lực lƣợng nghĩa quân Lam Sơn là những "manh lệ" bốn

phƣơng, đông đảo quần chúng nô tỳ và nhân dân cùng khổ. Khẳng định đƣợc vai trò quyết

định của dân trong quá trình biến thiên của lịch sử, tính chất nhân dân của cuộc khởi nghĩa

ngày càng phát triển rộng rãi trong cả nƣớc.

Những năm đầu thế kỷ XV, nhà Hồ thực thi những cải cách tiến bộ và phòng ngự

quân sự chặt chẽ, song không tồn tại lâu bền vì nguyên nhân sâu xa là nhà Hồ không thực

hiện đƣợc đƣờng lối thân dân, không đƣợc sự đồng tình ủng hộ của nhân dân.

Thắng lợi của nghĩa quân Lam Sơn và sự thịnh trị của Triều đại nhà Lê xuất phát từ

đƣờng lối thân dân, lấy dân làm gốc trong suốt thời kỳ kháng chiến và thái bình thịnh trị. Xây

dựng đất nƣớc thì phải chăm lo cho dân, thƣơng dân, làm cho xã hội thanh bình, trong thôn

cùng xóm vắng mọi ngƣời đều an cƣ lạc nghiệp.

Thực tế lịch sử đã chứng minh dân là lực lƣợng nồng cốt sáng tạo ra của cải vật chất

cho toàn xã hội, kể cả những bổng lộc của vua quan cho đến lâu đài, cung điện...Vận nƣớc

thịnh hay suy, mất hay còn đều do sức mạnh của dân quyết định. Dân "nhƣ nƣớc" có thể "chở

thuyền" cũng có thể "lật thuyền" và "thuyền bị lật mới hay dân nhƣ nƣớc". Trải qua các triều

đại Đinh - Lê - Lý - Trần, vƣơng

Trang 30

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

triều nào, nhân vật lịch sử nào biết khoan thứ sức dân, thi hành chính sách khoan dân, thân

dân thì trên dƣới đồng lòng lập nên công to, làm nên việc lớn. Trái lại vƣơng triều nào, nhân

vật lịch sử nào đi ngƣợc lại lòng dân thì sớm muộn đều đi đến thất bại. Thế kỷ XV, giữa lúc

Nho giáo đang thời cực thịnh, tƣ tƣởng "yên dân, khoan dân" đƣợc đƣa lên đỉnh cao. Vai trò

của nhân dân đƣợc đặt vào vị trí xứng đáng. Nhân dân đã khẳng định đƣợc sứ mệnh lịch sử

của mình, là ngƣời thay thế giai cấp quý tộc cầm cờ độc lập dân tộc. .

Ách đô hộ của nhà Minh và cuộc dốc sức chiến đấu giải phóng dân tộc đã làm kiệt

quệ nền kinh tế vốn đã suy yếu trong những thập kỷ cuối đời nhà Trần. Giành đƣợc độc lập,

Nhà nƣớc và nhân dân đã cùng lòng chung sức tập hợp sức ngƣời, sức của nhanh chóng khôi

phục nền kinh tế, phục hồi sản xuất, hàn gắn vết thƣơng chiến tranh, và đƣa nền kinh tế triều

Lê phát triển lên một giai đoạn mới. Ở nữa cuối thế kỷ XV, nền kinh tế công thƣơng nghiệp

triều Lê đã phát triển một bƣớc đáng kể so với triều đại trƣớc. Quan hệ hàng hóa, tiền tệ đã có

những bƣớc chuyển tác động tích cực vào xã hội, tầng lớp vua quan, nhân dân, từng bƣớc tạo

sự đổi thay trong chế độ chính trị và sự ổn định của quốc gia.

Thế kỷ XV, nhà Lê thực hiện chính sách khôi phục đất nƣớc dựa trên quyền lợi của

nhân dân. Nông dân đƣợc chia ruộng công cày cấy sinh sống làm nghĩa vụ Nhà nƣớc và đƣợc

học hành. Đời sống nhân dân nhìn chung ổn định, thanh bình, bộ mặt nông thôn, đất nƣớc

ngày một đổi mới. Nƣớc Đại Việt độc lập thống nhất và đƣợc củng cố dƣới triều nhà Lê đã

trở thành một quốc gia cƣờng thịnh nhất của cả khu vực Nam Trung Quốc lúc bấy giờ.

II. Con ngƣời Nguyễn Trãi

1. Cuộc đời:

Nguyễn Trãi sinh năm 1380 tại Thăng Long, dƣới thời Trần Phế Đế (1377-1387), hiệu

là ức Trai. Nguyễn Trãi là kết quả của sự gặp gỡ, hòa trộn giữa dòng máu một nho sĩ nghèo

nổi tiếng hay chữ, dạy học giỏi, đƣợc nhiều ngƣời kính

Trang 31

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

mến tên là Nguyễn Ứng Long (Nguyễn Phi Khanh) với dòng máu quí tộc của mẹ là Trần Thị

Thái con gái thứ tƣ của quan tƣ đồ Trần Nguyên Đán.

Ông tổ xa xƣa của Nguyễn Trãi là Đinh Quốc Công Nguyễn Bạc, là ngƣời có công

cùng Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn 12 sứ quân thống nhất đất nƣớc. Cụ nội là Nguyễn Công

Luật, ông nội là Nguyễn Minh Du cùng các bác là Nguyễn Bác Sách, Nguyễn Hồ đều là

những công thần có công bảo vệ trật tự an ninh quốc gia, bảo vệ ngai vàng cho nhà Trần. Về

họ ngoại, Trần Nguyên Đán là cháu bốn đời của Thƣợng tƣớng Trần Quang Khải và cháu

năm đời của vua Trần Thái Tông.

Nguyễn Trãi lên năm tuổi thì mồ côi mẹ, và năm lên mƣời tuổi thì ông ngoại qua đời.

Nguyễn Trãi ở với cha và đƣợc giáo dƣỡng rất chu đáo. Mặc dù trong hoàn cảnh vô cùng khó

khăn, thiếu thốn do chiến tranh tàn phá, kinh tế đình đốn, xã hội loạn lạc, nhƣng Nguyễn Trãi

vẫn quyết chí học hành.

Vào ngày 28 tháng 2 năm Canh Thìn (1400) Hồ Quí Ly lật đổ nhà Trần, lên ngôi, đổi

tên nƣớc Đại Việt thành Đại Ngu và mở khoa thi nhằm lựa chọn anh tài để sửa sang việc

nƣớc. Nguyễn Trãi thi đỗ Thái Học Sinh (Tiến sĩ) năm ông vừa tròn hai mƣơi tuổi, đƣợc bổ

làm quan với chức Ngự Sử Đài chính chƣởng.

Thân phụ Nguyễn Trãi đổi tên thành Nguyễn Phi Khanh, đƣợc nhà Hồ vời ra làm

quan, giữ chức Đại Lý tự khanh kiêm Trung thƣ thị lang, Hàn lâm viện học sĩ, kiêm lãnh

chức Tƣ Nghiệp Quốc Tử Giám. Nhƣ vậy hai cha con đƣợc trọng dụng. Giờ đây họ có thể hy

vọng sẽ có dịp thi thố chí bình sinh, đem tài năng ra làm việc vì dân vì nƣớc.

Nhƣng Hồ Quí Ly và Hồ Hán Thƣơng không phải là nhân vật của thời cuộc. Sau bảy

năm trị vì nhà Hồ đã mất nƣớc. Quân xâm lƣợc nhà Minh sau một thời gian ngắn đã tiêu diệt

nhà Hồ và bắt một số triều thần, tƣớng lĩnh trong đó có Nguyễn Phi Khanh làm tù binh, đƣa

về Trung Quốc. Năm 1407 cùng với sự

Trang 32

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

kiện nhà Hồ mất nƣớc, Nguyễn Phi Khanh bị bắt, Nguyễn Trãi đƣợc cha khuyên về phục thù

và báo hiếu bằng con đƣờng cứu nƣớc. Lời khuyên đó có tác dụng tạo chuyển biến quan

trọng trong tƣ tƣởng Nguyễn Trãi, đƣa Nguyễn Trãi từ một ngƣời trí thức bình thƣờng lên

hàng một nhân vật cứu nƣớc vĩ đại.

Nghe lời cha, Nguyễn Trãi tìm đƣờng trở về và đến Đông Quan thì bị tƣớng giặc

Trƣơng Phụ bắt. Tổng binh Trƣơng Phụ biết ông là ngƣời tài cao, học rộng nên tìm cách dụ

dỗ ra làm quan cho nhà Minh, ông từ chối. Trƣơng Phụ định giết ông, nhƣng một tƣớng giặc

khác là Hoàng Phúc xin tha cho và buộc tội ông phải bị giam lỏng ở thành Đông Quan để

chúng dễ bề kiểm soát.

" Gốc thành nam lều một gian

No nước uống, thiếu cơm ăn

Con đòi trốn, dường ai quyến

Bà ngựa gầy, thiếu kẻ chăn''

(Thủ vĩ ngâm)

Từ 1407 - 1416, vẫn chƣa ai rõ Nguyễn Trãi đích thực sống ở đâu, làm gì. Thơ chữ

Hán của ông nhắc nhiều đến "mƣời năm phiêu dạt, nổi trôi". Có lẽ ông ẩn dật ở Đông Quan

không lâu, rồi sau đó đã thoát khỏi nơi đây để đi tìm minh chủ. Và đây là khoảng thời gian

thật sự có ý nghĩa. Đó là khoảng thời gian ông chiêm nghiệm thế sự, nhân tình, tội ác của

giặc Minh, nỗi đau của ngƣời dân mất nƣớc, tinh thần dũng cảm của nghĩa sĩ trong các cuộc

nổi dậy..., tất cả những sự thật đó đã giúp Nguyễn Trãi cân nhắc chữ "thời" trong con đƣờng

xuất xử của một sĩ phu đang nặng gánh thù nhà, nợ nƣớc và sớm tìm đƣợc một lãnh tụ sáng

suốt.

Khoảng từ 1416 - 1418, Nguyễn Trãi đã đến với Lê Lợi và Nghĩa quân Lam Sơn theo

lời kêu gọi vũ trang chống lại nhà Minh với mục đích "Mở nền thái bình muôn thuở, đặng

rửa vết nhục ngàn thu" cho đất nƣớc. Và từ đó dƣới sự lãnh đạo của Lê Lợi và Nguyễn Trãi,

cuộc kháng chiến đã mau chóng thành công, lập lại nền hòa bình cho đất nƣớc.

Trang 33

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

Năm 1428, đất nƣớc hoàn toàn giải phóng, vâng lệnh vua, Nguyễn Trãi viết "Bình

Ngô đại cáo" với niềm hứng khởi vô biên của chiến thắng oanh liệt, hào hùng lẫn đau thƣơng

suốt hai mƣơi năm trời chiến đấu.

Kháng chiến thành công, Lê Lợi xếp ông vào hàng khai quốc công thần, cho đổi sang

họ Lê, giữ chức Nhập nội hành khiển kiêm Lại bộ thƣợng thƣ, tƣớc Quan phục hầu, Nguyễn

Trãi thay vua viết nhiều chiếu chỉ để dạy bảo thái tử, khuyên răn các quan, cầu hiền tài...và

thƣ từ ngoại giao với phƣơng bắc, góp phần đắc lực vào việc xây dựng và củng cố nhà nƣớc

phong kiến Đại Việt.

Sau năm 1428, triều đình phong kiến nhà Lê vừa đƣợc thiết lập đã nhanh chóng đi vào

khủng hoảng. Những mâu thuẫn lục đục trong nội bộ giai cấp thống trị bắt đầu phát sinh và

những hiềm nghi không đâu của Lê Lợi đã ngăn cản không cho Nguyễn Trãi phát huy hết

mọi tài năng và ý nguyện "kinh bang tế thế". Do bị bọn gian thần gièm pha xúi giục, Lê Thái

Tổ bắt đầu thanh toán những vị công thần: giết Phạm Văn Xảo, bức Trần Nguyên Hãn phải tự

tử rồi bắt giam Nguyễn Trãi vì những lý do hết sức vô lý và mơ hồ. Sau đó Nguyễn Trãi đƣợc

thả ra, nhƣng không còn đƣợc tin dùng nhƣ trƣớc và kể cả trong suốt thời gian Lê Lợi còn ở

ngôi đến năm 1432 khi Lê Lợi mất, ông vẫn không đƣợc giao một việc gì quan trọng. Sau

năm 1432 tuy ở địa vị phụ chính, chuyên việc dạy dỗ vua trẻ, nhƣng vua quá nhỏ, sự tranh

chấp giữa các phe phái trong triều không thể tránh khỏi. Với lý tƣởng "nhân nghĩa", Nguyễn

Trãi có nguy cơ trở thành nạn nhân của sự tranh chấp.

Khoảng năm 1437, tình hình lũng đoạn quyền chính của các phe phái ngày càng gay

gắt, Nguyễn Trãi đã xin lui về Côn Sơn, sống thanh bạch giữa thiên nhiên cây cỏ, ôm nỗi

buồn cô đơn của một triết gia suy nghiệm về mọi lẽ hƣng vong của cuộc đời.

Đến năm 1439, Lê Thái Tông đã trƣởng thành, bắt đầu củng cố lại triều đình, giết bọn

quyền thần Lê Sát, Lê Ngân và cho vời Nguyễn Trãi về triều giao những việc quan trọng, sự

kiện này đã đƣợc Nguyễn Trãi ghi lại trong "Biểu tạ

Trang 34

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

của Gián nghị đại phu kiêm tri tam quán sự" nói lên niềm xúc động đƣợc vua tri ngộ, đồng

thời cũng kín đáo nhắc lại những oan khuất đã qua.

"Thương thần như ngựa già còn kham dong ruổi,

Cho thần như thông qua năm rét còn dạn tuyết sương.

Khiến cho suy nát,

Trỏ lại tốt tươi.

Cảm mà chảy nước mắt,

Mừng mà sợ trong lòng."

Và đây là thời gian mà Nguyễn Trãi tâm đắc và thoải mái nhất trong suốt thời kỳ làm

quan dƣới triều nhà Lê. Là thời kỳ mà những sở chí của ông đã phần nào đƣợc thi thố.

Ngày 7/9/1442, sau mấy năm tận tâm, tận lực vì dân, vì nƣớc, vì triều đại mà mình bỏ

công xây dựng, một lần nữa Nguyễn Trãi lại bị ghép vào tội "tru di tam tộc" với oan án Lệ

Chi Viên, kết thúc cuộc đời và sự nghiệp.

Có thể mƣợn lời của nhà thơ Vũ Duy Thông để nói lên nỗi xót xa của cuộc đời

Nguyễn Trãi:

"Máu khóc cho một thời,

Thấm đầm đìa cỏ rối

Thế kỷ không kham nỗi,

Con tim quá đau đời."

2. Sự nghiệp

Sự nghiệp vì dân, vì nƣớc của Nguyễn Trãi đƣợc đánh dấu từ những ngày đầu đến

với phong trào Lam Sơn bằng tất cả tâm huyết và tài năng. Nguyễn Trãi dâng lên Lê Lợi

"Bình Ngô sách" với đƣờng lối chiến đấu dựa vào sức dân và đánh vào lòng ngƣời, khơi gợi

truyền thống đấu tranh bất khuất của dân tộc. "Bình Ngô đại cáo" - "Thiên cổ hùng văn" -

"Tuyên ngôn độc lập" là một áng văn tổng kết thiên tài đanh thép và sâu sắc về nhiều mặt của

cuộc đấu tranh

Trang 35

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

chống ngoại xâm. Bài Cáo đã trở thành áng văn bất hủ, là sản phẩm tinh thần, sản phẩm văn

hóa vô cùng quý báu không chỉ riêng Việt Nam mà cho toàn nhân loại tiến bộ trên thế giới.

Trong suốt mƣời năm nếm mật nằm gai cùng Lê Lợi lãnh đạo cuộc kháng chiến

chống Minh, Nguyễn Trãi đã giúp Lê Lợi trong việc "trù hoạch" mƣu lƣợc ở nơi màn trƣớng,

đƣợc trọng dụng "nói tất nghe, kế tất theo", Nguyễn Trãi đã có công lớn trong việc thực hiện

những quyết định quan trọng, đƣa cuộc khỏi nghĩa Lam Sơn vƣợt qua gian khổ, phát triển lực

lƣợng ngày càng mạnh, càng đánh, càng thắng lợi. Trong quá trình tiến hành khởi nghĩa và

chiến tranh giải phóng, Nguyễn Trãi là ngƣời soạn thảo các thƣ từ, mệnh lệnh, viết văn, thảo

hịch phục vụ cho đấu tranh ngoại giao, binh vận. Tất cả những văn kiện ấy đƣợc đƣa vào

"Quân trung từ mệnh tập", là một mẫu mực về văn học ngoại giao, luận chiến với giặc. Có

thể nói trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc, chƣa bao giờ công tác địch vận

lại đƣợc tổ chức quy mô, rộng rãi và mang lại một kết quả to lớn đến nhƣ vậy. Với "Quân

trung từ mệnh tập" - Nguyễn Trãi đã sử dụng cây bút của mình nhƣ một mũi nhọn tiến công

sắc bén "cớ một sức mạnh hơn mười vạn hùng binh" thể hiện trí tuệ phi thƣờng, lời văn chính

luận, "cƣơng -nhu" uyển chuyển phù hợp trong mỗi hoàn cảnh và con ngƣời, làm cho quân

thù khiếp sợ và quy phục.

Nguyễn Trãi là một trong những nhà thơ trữ tình lớn trong lịch sử văn học Việt Nam

thời phong kiến. Với "Quốc âm thi tập" và "Ức Trai thi tập", Nguyễn Trãi đã nói lên tiếng nói

tình cảm cao đẹp trong tâm hồn con ngƣời Việt Nam. Tác phẩm là sự thể hiện ý thức của con

ngƣời cá nhân trong con ngƣời dân tộc một cách phong phú và đa dạng với những triết lý về

nhân sinh, đạo đức, phong tục, tập quán... của ngƣời Việt Nam.

Không chỉ thiên tài trên lĩnh vực chính trị, quân sự, văn học mà ngay trong lĩnh vực

địa lý, lịch sử - Nguyễn Trãi cũng là một ngƣời am hiểu rất tinh tế và sâu sắc. Ông đã để lại

cho đời sau tập "Dƣ địa chí" viết năm 1435 là một công

Trang 36

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

trình tổng kết khái quát về địa lý, kinh tế, tài nguyên khoáng sản, ngành nghề thủ công

nghiệp. Nó có giá trị nhƣ một đề án cơ bản làm cơ sở cho kế hoạch xây dựng đất nƣớc thời

Lê sơ. Đổng thời nó đã đặt nền móng xây dựng khoa địa lý lịch sử của dân tộc.

Nói đến những sáng tác của Nguyễn Trãi không thể không nhắc đến những tác phẩm

nhƣ "Chí Linh sơn phú", "Lam Sơn thực lục", "Văn bia Vĩnh Lăng", "Chuyện cũ về Băng Hồ

tiên sinh", là những tác phẩm vừa mang giá trị văn học vừa mang giá trị lịch sử và cả những

triết lý sâu xa trong lịch sử văn học Việt Nam thời Trung đại.

Sự nghiệp của Nguyễn Trãi gắn liền với sự tồn tại và phát triển của dân tộc. Tên tuổi

của Nguyễn Trãi đã đi vào cuộc kháng chiến trƣờng kỳ chống quân Minh xâm lƣợc. Với

đƣờng lối chính trị đúng đắn, tƣ tƣởng "thân dân" tiến bộ, mƣu lƣợc của Nguyễn Trãi đƣợc

Lê Lợi sử dụng làm kim chỉ nam trong suốt cuộc kháng chiến đó là sự "cố kết nhân tâm, làm

nên việc lớn" để cuối cùng giành độc lập quốc gia từ tay kẻ thù hiểm ác.

Sau khi đất nƣớc đƣợc giải phóng, Nguyễn Trãi tiếp tục là công thần đắc lực giúp Lê

Lợi trong việc chỉnh đốn và xây dựng quốc gia phong kiến Đại Việt hùng mạnh. Chú trọng

việc "chăn dân" với tinh thần trách nhiệm tối cao, đƣờng lối xây dựng đất nƣớc của Nguyễn

Trãi là nhằm làm cho nƣớc giàu dân mạnh đến mức "trong thôn cùng xóm vắng không có

tiếng hờn giận oán sầu". Xã hội Nguyễn Trãi muốn xây dựng là xã hội trong đó có những vua

nhƣ vua Nghiêu, vua Thuấn - luôn luôn quan tâm đến đời sống của dân, coi việc an dân là

mục đích của đời mình. Tuy điều mong muốn của Nguyễn Trãi chỉ là ảo tƣởng, nhƣng nó

xuất phát từ trái tim và lòng chân thành, tha thiết muốn xây dựng một xã hội tốt đẹp.

Lịch sử dân tộc là lịch sử truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm, xây dựng và bảo

vệ Tổ Quốc. Từ trong quá khứ đã hình thành một mạch ngầm "Chủ nghĩa yêu nƣớc - tinh

thần nhân đạo" Việt Nam độc đáo từ thời Vua Hùng. Tiếp

Trang 37

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

thu truyền thống ấy, Nguyễn Trãi đã dựa trên nền tảng cơ bản, phát triển và đóng góp đúc kết

thành nguyên lý vững chắc. Nguyễn Trãi đã khẳng định ý thức dân tộc và lòng tự hào dân

tộc. Những cống hiến của Nguyễn Trãi không chỉ có ý nghĩa lịch sử nƣớc nhà, mà còn có ý

nghĩa đối với lịch sử chính trị thế giới nửa đầu thế kỷ XV. Nguyễn Trãi đã thấy đƣợc vai trò

và sức mạnh to lớn của nhân dân "mến ngƣời có nhân là dân, mà chở thuyền và lật thuyền

cũng là dân". Nội dung tƣ tƣởng "nhân nghĩa" và "thân dân " là đặc điểm nổi bật trong toàn

bộ tƣ tƣởng của Nguyễn Trãi. Tƣ tƣởng này đã xuất hiện từ thời Lý Thái Tổ qua Trần Thái

Tông, Trần Nhân Tông, cho đến Chu An, Phạm Sƣ Mạnh. Kế thừa truyền thống tốt đẹp ấy,

Nguyễn Trãi đã vƣợt xa các nhà tƣ tƣởng trƣớc về mặt nhận thức, ông đã nâng quan điểm

"thân dân" lên mức cao hơn và coi việc chăm lo cho quyền lợi của dân là nội dung cơ bản của

chủ nghĩa yêu nƣớc.

Tƣ tƣởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là một đóng góp vô giá đối với lịch sử tƣ tƣởng

dân tộc. Tƣ tƣởng nhân nghĩa là biểu tƣợng cao đẹp cho đạo đức dân tộc, trở thành nếp sống

nhân nghĩa truyền thống.

Lấy dân làm gốc, lấy tinh thần "ƣu quốc ái dân" làm đức cả, lấy sự thái bình thịnh trị

của quốc gia và hạnh phúc của nhân dân làm mục đích là nền tảng tƣ tƣởng nhân nghĩa vững

chắc của nền chính trị hƣng thịnh. Nguyễn Trãi đã vì độc lập dân tộc, vì hạnh phúc của nhân

dân, vì hòa bình của đất nƣớc mà suy nghĩ, tận tụy quên mình để thực hiện lý tƣởng vì dân, vì

nƣớc. Vì vậy chủ nghĩa nhân đạo, chủ nghĩa yêu nƣớc của ông là đỉnh cao trong lịch sử so

với các triều đại trƣớc đó cả về mặt động cơ, nội dung, tính chất và mức độ.

Về giáo dục Nguyễn Trãi đã có sự đóng góp hết sức lớn lao về mặt giáo huấn con

ngƣời. Tƣ tƣởng giáo dục của ông tuy xuất phát từ Nho giáo nhƣng nó đã vƣợt ra ngoài

khuôn khổ, phóng khoáng và đậm tinh thần nhân văn cao đẹp. Đặt ra vấn đề giáo dục con

ngƣời toàn diện về tài và đức, tƣ tƣởng giáo dục của Nguyễn Trãi không những chỉ có giá trị

trong thế kỷ XV mà còn ảnh hƣởng tích cực đến nhiều thế kỷ sau và cho đến hôm nay. Đó là

giáo dục về đạo lý làm ngƣời, lòng yêu nƣớc, yêu dân, giáo dục nhân cách, đạo đức, lòng

nhân ái...

Trang 38

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

Những bài học quý báu về giáo dục - quan niệm vai trò của giáo dục, mục tiêu đào tạo

của giáo dục, mối quan hệ giữa đức và tài, giữa đào tạo bồi dƣỡng và sử dụng nhân tài trong

sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Trãi đã đem lại giá trị giáo dục cao, sức sống vĩnh hằng cho

tác phẩm của ông. Đó là giá trị lịch sử, giá trị thực tiễn của tƣ tƣởng giáo dục của một danh

nhân, một anh hùng và một nhà giáo ƣu tú, mẫu mực.

Với tài thao lƣợc kiệt xuất, sự nghiệp của Nguyễn Trãi là sự nghiệp " Văn chƣơng

mƣu lƣợc gắn liền với sự nghiệp kinh bang tế thế". Sự nghiệp của Nguyễn Trãi là sự nghiệp

suốt đời tận tụy hy sinh quên mình vì hai chữ "yên dân" trên tinh thần nhân nghĩa và vƣợt qua

mọi đố kỵ của bọn xiểm nịnh để thực hiện làm sao cho "trong thôn cùng xóm vắng không có

tiếng hòn giận oán sầu". Ông là con ngƣời thiên tài trên nhiều lĩnh vực, nhƣng không có cơ

hội để phát huy thực hiện lý tƣởng của mình, mặt khác lại bị bọn gian thần hãm hại. Cái chết

của Nguyễn Trãi đƣợc lịch sử phong kiến giải thích bằng một tiếng "oan" đã để lại ngàn nỗi

tiếc thƣơng cho hậu thế và cho chính triều đại Nhà Lê. Nguyễn Trãi ra đi cùng một phong

cách nhƣ Khuất Nguyên xƣa.

"Thánh hiền xưa cũng như ta

Thẳng ngay mà chết, ấy là chết trong"

(Ly tao)

3. Nhân cách và sự tu dƣỡng nhân cách

Nguyễn Trãi ra đời trong gia đình Nho học và đã đƣợc nuôi dƣỡng bằng những câu

chữ của Nhà nho từ trong sữa mẹ, cha là Nguyễn Phi Khanh đỗ tiến sĩ, ông ngoại là Trần

Nguyên Đán ngƣời đã từng đọc "vạn quyển sách". Cả hai đều là những nhà trí thức uyên bác.

Cả hai cùng để công phu dạy dỗ Nguyễn Trãi từ khi còn rất nhỏ.

Trong khi đƣợc ông, cha dạy dỗ Nguyễn Trãi đã học đƣợc ở hai vị tâm hồn cao đẹp

của một kiểu nhà Nho. Học ở ông tấm lòng thƣơng nhân dân đến bạc

Trang 39

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

đầu "Bạch đầu không phụ ái dân tâm" (Trần Nguyên Đán - Nhâm dần lục nguyệt tác). Học ở

cha trong ngày giá rét "muốn thổi cơn gió ấm vào lòng mọi người" ( Nguyên Phi Khanh -

Xuân hàn). Tiếp thu những tâm hồn cao đẹp này Nguyễn Trãi đã có một nhân cách cao đẹp,

một tầm nhìn sâu rộng về nhân dân. Luôn tâm niệm một điều ƣu quốc, ái dân.

Với quan niệm học để "trọn niềm trung hiếu" để biết "lo trước, vui sau", để giữ tâm

hồn "thanh cao trong sáng", Nguyễn Trãi đã say mê trong "vườn chư tử, bể lục kinh" và đã

sớm nổi danh trong rừng Nho "Thanh niên phương dự ái Nho lâm" (Mạn thành, 1).

Năm 20 tuổi đỗ tiến sĩ và từ đó vẫn tiếp tục học tập và nghiên cứu. Ông luôn nói đến

trách nhiệm của nhà Nho sống nhƣ thế nào cho đúng Nho phong. Làm quan thì nghĩ đến tƣ

cách của Nho thần, đƣợc ơn vua thì mừng cho chiếu nhà Nho đƣợc ấm. Nguyễn Trãi luôn

trăn trở trong cách nghĩ và hành động của ngƣời Nho sĩ, vì thế cái nhân cách cao đẹp của con

ngƣời Nguyễn Trãi là suốt đời vì dân, vì nƣớc, vì hạnh phúc của muôn dân.

Trong chiến đấu chống giặc Minh xâm lƣợc Nguyễn Trãi luôn là ngƣời đi đầu trên

mặt trận, dùng chính sách "công tâm" để đánh vào quân địch, ông là ngƣời trực tiếp dấn thân

vào nơi nguy hiểm để thuyết phục giặc ra hàng. Lấy lòng nhân nghĩa đề bàn luận chuyện hòa

bình. Nguyễn Trãi luôn cân nhắc đúng, sai trong con đƣờng xuất xử để xác định thái độ và

hành động của mình đối với dân với nƣớc. Là ngƣời trí thức chân chính, có tâm hồn thanh

cao, rộng mở, từ trong chiến trƣờng cũng nhƣ thời thái bình thịnh trị, Nguyễn Trãi luôn là

một con ngƣời ngay thẳng, chính trực, giàu nghị lực và niềm tin. Ông luôn ý thức đƣợc sự tu

dƣỡng nhân cách của một con ngƣời mẫu mực, cƣơng trực và liêm khiết. Sống vì dân, vì

nƣớc, không xa hoa, lãng phí, không bắt ép mọi ngƣời theo ý mình, không đố kỵ, không đua

chen danh lợi, không làm điều càn dỡ và càng không làm những điều hại dân, hại nƣớc. Đó là

kết quả những năm tháng trui rèn trong chiến trƣờng kháng chiến chống Minh và những năm

khốn đốn dƣới triều nhà

Trang 40

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

Lê. Nguyễn Trãi ý thức đƣợc rằng mình là con ngƣời bị cô lập giữa bọn xu nịnh, nhƣng ông

không rời bỏ triều đình, chính vì ông chính trực, liêm khiết, đơn độc chống lại bọn gian thần.

"Vườn quỳnh dù có chim hót

Cõi trần có trúc đứng canh"

(Tự thán - 40)

Ông kiên quyết theo gƣơng những ngƣời cƣơng trực khảng khái, nói hết lẽ phải không

sợ quyền thần, không sợ hôn quân.

" Ở đài các giữ lòng Bao Chửng

Nhiệm tướng khanh thìn đối Nguỵ Trưng"

(Bảo kính cảnh giới - 6)

Cùng bƣớc ra từ "cửa Khổng, sân Trình" nhƣng có ngƣời thì mơ ƣớc đỗ làm quan, đạt

tới vinh hoa, phú quý, có ngƣời mong đƣợc cai quản đất nƣớc, thống trị nhân dân, có ngƣời

hiểu rằng rèn luyện bản thân, xây dựng gia đình tốt đẹp, góp phần đem lại cuộc sống thanh

bình cho Tổ quốc, cho nhân loại..............Nguyễn Trãi là ngƣời trí thức Nho học, ông luôn cân

nhắc việc rèn luyện nhân cách và làm một điều gì ích quốc, lợi dân. Nhân cách của Nguyễn

Trãi là nhân cách của ngƣời chí sĩ mang lý tƣởng vì dân, vì nƣớc. Nguyễn Trãi không chỉ nêu

cao và truyền bá một lý tƣởng tốt đẹp, mà còn xả thân để thực hiện nó, dù phải vƣợt qua bao

gian khổ kể cả những chông chênh, hiểm nghèo của triều đình phong kiến mang đến cho ông,

nhƣng ông vẫn kiên trì làm những điều không thể làm đƣợc, khí tiết cao cả ấy ít ngƣời thấy rõ

hơn.

Trang 41

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

CHƢƠNG II : VẤN ĐỀ GIÁO DỤC CON NGƢỜI TRONG THƠ VĂN

NGUYỄN TRÃI

Giáo dục là một trong những vấn đề cơ bản nhất trong quá trình đấu tranh giành độc

lập và xây dựng nền văn hiến dân tộc. Nền văn hiến dân tộc bao gồm nhiều vấn đề, nhiều góc

cạnh của đời sống, kể cả vấn đề rèn luyện bản thân con ngƣời. Từ xƣa tới nay không phải bất

cứ ai đƣợc sinh ra cũng đều là ngƣời tốt, mà phải trải qua một quá trình tu dƣỡng và rèn luyện

thì mới trở thành ngƣời tốt. Cho nên vấn đề giáo dục đƣợc đặt ra, đó chính là tinh thần mà Hồ

Chủ Tịch nêu lên:

"Thiện ác nguyên lai vô định tính,

Đa do giáo dục đích nguyên nhân. "

(Ngục trung nhật ký)

Dịch nghĩa:

Hiền dữ không phải là tính tình sẵn có

Phần nhiều do giáo dục mà nên

(Nhật ký trong tù)

Ý nghĩa giáo dục mà Chủ Tịch Hồ Chí Minh nói là giáo dục ngƣời dữ trở thành ngƣời

hiền và ngƣời hiền thì hiền thêm, hay nói một cách khái quát là giáo dục ngƣời dở thành

ngƣời hay, ngƣời xấu thành ngƣời tốt, còn ngƣời đã hay thì hay hơn. Nói chung đó là lý

tƣởng giáo dục của xã hội loài ngƣời. Đành rằng nền giáo dục của thời đại nào gắn với chế độ

của thời đại đó, nhƣng lý tƣởng giáo dục chung của cả nhân loại đều là nhằm cảm hóa con

ngƣời để con ngƣời có thể trở thành tốt đẹp hơn. Các bộ kinh Phật, kinh Coran, kinh thánh

Cơ Đốc đều chứa đựng lý tƣởng giáo dục đó. Tuy vậy về sau giai cấp cầm quyền đã lợi dụng

Trang 42

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

tôn giáo nhằm mục đích thống trị nên trong một mức độ nào đó tôn giáo đã bị tha hóa và biến

tƣớng.

Tƣ tƣởng giáo dục của Nguyễn Trãi là lý tƣởng chung của thời đại ông, thời khởi

nghĩa Lam Sơn, nhƣng vẫn đi từ cái gốc của lý tƣởng giáo dục của xã hội loài ngƣời. Lý

tƣởng xây dựng con ngƣời tốt đẹp cho xã hội tốt đẹp trong khuôn khổ của thời đại mình.

I. Nền tảng tƣ tƣởng giáo dục của Nguyễn Trãi

1. Nhân tố truyền thống gia đình

Nguyễn Trãi đƣợc sinh ra và lớn lên trong sự giáo dục truyền thống của một dòng họ

lớn - dòng họ Nguyễn, một dòng họ nổi tiếng trong quá trình đấu tranh dựng nƣớc, giữ nƣớc

của dân tộc. Nguyễn Trãi là sự kết tinh truyền thống gia đình giữa hai dòng họ Nguyễn - Trần

với Đinh Quốc Công Nguyễn Bạc - vị khai quốc công thần đời Đinh và Thƣợng tƣớng thái sƣ

Trần Quang Khải - ngƣời anh hùng dân tộc đời Trần. Nguyễn Trãi là bậc hậu duệ của một

dòng họ hết đời này, sang đời khác tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc, bảo vệ

công lý cho đến khi phải hy sinh cả tính mạng mình, tính mạng gia đình, quả là hiếm có, đáng

trân trọng và kính phục !.

Nguyễn Trãi đã kế thừa truyền thống tốt đẹp trong gia đình, không chỉ dòng họ nội

mà ngay cả gia đình họ ngoại. Ngƣời có ảnh hƣởng lớn và trực tiếp đến tƣ tƣởng của Nguyễn

Trãi là ông ngoại - Trần Nguyên Đán. Ngay từ nhỏ, Nguyễn Trãi đã sống và đƣợc giáo dục

trong phủ Trần Nguyên Đán. Với một tƣ tƣởng nhân đạo, giàu lòng vị tha, một nhân cách cao

đẹp, một cách nhìn phóng khoáng vƣợt khuôn khổ của Trần Nguyên Đán ngay trong chuyện

kết hôn của con gái mình, ông đã truyền sang cho Nguyễn Trãi một tƣ tƣởng vô cùng quý giá.

Là một ngƣời học rộng, có tấm lòng nhân hậu, rộng mở, bao dung, tuy ngồi ở ngôi vị Tể

tƣớng sống trong dinh thự nguy nga, nhƣng Trần Nguyên Đán luôn trăn trở, suy nghĩ vê đời

sống lầm than, khốn cùng của dân đen, con đỏ. Nỗi lòng

Trang 43

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

đó đƣợc ông ghi lại nhƣ một sự giằng xé lƣơng tâm, một cái nhìn cảm thông đến vô hạn:

"Hạn rồi qua lụt đã bao phen,

Đau nỗi đồng điền lúa chẳng lên.

Ba vạn sách hoa thành giấy vụn,

Bạc đầu luống những phụ dân đen!"

Là một ngƣời có học thức uyên thâm, Trần Nguyên Đán đƣợc xem là "nòi giống thần

minh", ông đã từng đọc ba vạn cuốn sách, nhƣng chỉ là vô dụng khi ông không làm đƣợc gì

trƣớc nỗi khổ của dân:

"Ba phần tóc bạc tấc lòng son,

Muôn việc trên đời bối rối dồn."

(Thơ làm ngày tháng giêng năm Mậu Thân)

đó là một nỗi niềm suy tƣ, day dứt trong lòng, một con ngƣời đau đời, luôn canh cánh hoài

bão làm sao cho dân tình đỡ lầm than cơ cực.

Trong gia đình Nguyễn Trãi, truyền thống giáo dục đối với con ngƣời còn thể hiện ở

cha Nguyễn Trãi là Nguyễn Phi Khanh. Nguyễn Phi Khanh lúc bấy giờ nổi tiếng là danh nho

văn hay, chữ tốt, ông đã từng theo học Hồ Tông Thốc, một trạng nguyên uyên thâm đạo học.

Trong bài thơ "Nguyễn Ứng Long dâng trạng nguyên thừa chỉ Hồ Tông Thốc", ông viết "Rất

tiếc đã theo học kinh kỳ hai mươi năm, mà thi chưa đỗ". Mặt khác ông còn chịu ảnh hƣởng ở

thầy giáo Chu An, một con ngƣời có đạo đức cao nhƣ núi Thái Sơn, sáng nhƣ sao Bắc Đẩu,

Chu An là tấm gƣơng sáng cho ngƣời đời sau noi theo, mà chính Trần Nguyên Đán -ông

ngoại Nguyễn Trãi - nhạc phụ Nguyễn Phi Khanh đã từng ca ngợi với một tấm lòng trân

trọng.

''Học hải hồi lan tục tái thuần,

Thượng tường sơn đẩu đắc tư nhân''

(Hạ Tiều Ẩn Chu tiên sinh bái Quốc Tử Tƣ Nghiệp)

Trang 44

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

Dịch nghĩa:

"Biển học gợn sóng ngược xuôi, khiến cho phong tục thuần hậu,

Bởi vì nhà trường có bậc cao như Thái sơn, sáng như Bắc đẩu đến dạy"

(Mừng Tiều An Chu tiên sinh nhận chức Tƣ Nghiệp)

Tiếp thu và thừa hƣởng tƣ tƣởng cao đẹp từ hai bậc thầy giáo và nhạc phụ Trần

Nguyên Đán, Nguyễn Phi Khanh đã đƣợc ngƣời đời ca tụng và kính trọng về đạo đức và tài

học. Ông vốn là ngƣời có tính cách điềm đạm và học vấn sâu rộng. Ông rất có ý thức về việc

giáo dục con cái. Họa lại bài thơ của ngƣời bạn đồng khoa là Phạm Nhân Khanh, Nguyễn Phi

Khanh có nói đến chuyện trồng cây để liên hệ đến chuyện dạy bảo con cái (Chủng thụ khóa

nhi đồng). Tƣ tƣởng của Nguyễn Phi Khanh một phần chịu ảnh hƣởng tƣ tƣởng nhân ái của

Tể tƣớng Trần Nguyên Đán. Ông chịu sự giáo dục khá sâu sắc của nhạc phụ và truyền lại cho

con là Nguyễn Trãi. Cuộc đời của Nguyễn Phi Khanh là cuộc đời lắm nỗi gian truân, cuộc

sống của ông là những ngày tháng gần gũi nhân dân, am hiểu và cảm thông sâu sắc về nỗi

khổ của nhân dân. Tƣ tƣởng tình cảm của ông luôn chất chứa ƣu tƣ về cuộc sống của nhân

dân. Chứng kiến bao cảnh khốn cùng, cơ cực của nhân dân cuối đời nhà Trần, cũng nhƣ Trần

Nguyên Đán - Nguyễn Phi Khanh muốn xẻ chia những nỗi đau ấy, ông đã từng bộc bạch lòng

mình qua những trang thơ đầy tâm huyết:

"Liên cừ vạn tính giai ngô dữ

Tị ốc thúy gia diện diện hàn'"

(Thù Đạo Khê thái học Xuân hàn vận)

Dịch nghĩa:

"Chỉ xót thương muôn họ là đồng bào ta

Nhà ai dó chen chúc, khuôn mặt nào cũng rét buốt"

(Họa vần bài thơ Xuân hàn của quan Thái Học Đạo Khê)

Trang 45

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

Mặt khác ông còn lên án bọn quan lại tham ô, vơ vét của dân trong lúc nhân dân đang

ngày càng đi vào con đƣờng đói rét, khốn cùng:

"Đạo huề thiên lý xích như thiêu

Điền dã hưu ta ý bất liêu..!

.... Lại tư võng cố hồn đa kiệt,

Dân mệnh cao chi bán dĩ tiêu..."

(Thôn cƣ cảm sự ký trình Băng Hồ tƣớng công)

Dịch nghĩa:

"Mênh mông đồng lúa đỏ như thiêu

Khắp chốn kêu than xiết nổi sầu !

.... Lưới tham quan lại vơ hầu kiệt,

Mỡ béo dân lành hút đã hao..."

(Ở thôn quê cảm động sự đời, gửi trình tƣớng công Băng Hồ)

Trong khi bày tỏ nỗi buồn của mình đối với thực trạng xã hội phong kiến cuối Trần đã

đến lúc suy vong mục ruỗng, Nguyễn Phi Khanh vẫn không tỏ ra tuyệt vọng buồng xuôi, mà

trái lại ông đã có nghị lực phi thƣờng vƣợt qua nỗi tuyệt vọng đó đến với ý chí nhiệt huyết để

cải tạo hoàn cảnh. Đó là nguyên nhân ông đã rời bỏ nhà Trần phò nhà Hồ nhằm giúp nhân

dân thoát khỏi cảnh lầm than. Khí phách của Nguyễn Phi Khanh tiêu biểu cho một tầng lớp

trí thức yêu nƣớc lúc đƣơng thời:

"An đắc thử thân đồng thác thược,

Hòa phong hư biến cửu châu tâm"

(Xuân hàn)

Dịch nghĩa:

"Thân này ví được làm cái bể thợ rèn

Thì sẽ phát nền những trận gió thổi vào cõi lòng mọi người ở chín châu"

Trang 46

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

Nguyễn Trãi đã đƣợc nuôi dƣỡng giáo dục trong một môi trƣờng hết sức tối ƣu, vì thế

Nguyễn Trãi đã tiếp thu đƣợc tấm lòng nhân hậu từ ông ngoại -Trần Nguyên Đán, tiếp nhận

và thừa hƣởng khí phách của một trung thần, tấc lòng của một sĩ phu yêu nƣớc - Nguyên Phi

Khanh. Nguyễn Trãi đã tiếp thu những tƣ tƣởng sâu rộng uyên thâm, những tâm hổn rộng mở

của những nhà Nho mực thƣớc, sống và hành động theo lẽ phải, biết dấn thân vào sự nghiệp

vì dân, vì nƣớc. Lý tƣởng đó đã đeo đẳng theo Nguyễn Trãi trong suốt chặng đƣờng đến đích:

"Đã mấy thu nay để lệ nhà,

Duyên nào đeo đẳng khó chăng tha.

Một thân lẩn quất đường khoa mục;

Hai chữ mơ màng việc quốc gia..."

(Ngôn chí - 7)

Ức Trai tiên sinh đã thừa hƣởng truyền thống giáo dục trong gia đình, đó là tƣ tƣởng

yêu nƣớc, thƣơng dân, thấm nhuần ý nghĩa lớn nhất của lẽ trung hiếu Nho gia, là sự nghiệp

xây dựng xã hội thịnh trị, thái bình. Phát huy mặt tích cực của Nho giáo, Nguyễn Trãi rất ý

thức về phƣơng châm sửa mình, về phong cách đối nhân xử thế, để từ đó hƣớng đến tƣ tƣởng

giáo dục rộng lớn. Mục đích của ông là muốn xây dựng một xã hội tốt đẹp. Truyền thống

giáo dục đẹp đẽ của gia đình đã bồi bổ thêm kiến thức cho Nguyễn Trãi, góp phần quan trọng

vào việc hình thành quan điểm giáo dục con ngƣời một cách sâu sắc. Đó là tâm nguyện mà

trong suốt bất kỳ hoàn cảnh nào Nguyễn Trãi cũng muốn đem nó rải khắp muôn dân:

"Vừa sáu mươi dư tám chín thu,

Lưng gầy da sỉ tướng lù khù...

.... Tơ hào chẳng có đền ơn chúa,

Dạy láng giềng mấy sĩ nho."

(Ngôn chí - 14)

Trang 47

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

2. Sự tiếp thu truyền thống tốt đẹp của dân tộc

Đƣợc sinh ra và nuôi dƣỡng bằng nguồn sữa văn hóa ngọt ngào của dân tộc, Nguyễn

Trãi luôn tự hào là con ngƣời Đại Việt:

"Duy ngã Đại Việt chi quốc,

Thực vi văn hiến chi bang.

Sơn xuyên chi phong vực kỷ thù,

Nam bắc chi phong tục diệc dị."

(Bình Ngô đại cáo)

Tâm hồn ông tràn ngập tình yêu quê hƣơng đất nƣớc. Vì thế mà tƣ tƣởng giáo dục của

Nguyễn Trãi mang đậm dấu ấn tƣ tƣởng giáo dục truyền thống của dân tộc với quan niệm

"nhân ái" đƣợc đề cao. Xét về mặt lịch sử thì thời cộng đồng, trong nội bộ thị tộc hay bộ tộc,

tƣ tƣởng cộng đồng và tình cảm yêu thƣơng là ý thức chủ đạo. Tinh thần đoàn kết, tinh thần

dân chủ trong cộng đồng ấy, dƣới những dạng khác nhau đã tồn tại qua thời gian trong khuôn

khổ của cộng đồng nông thôn. Ở đó nét đẹp của cuộc đời là "lá lành đùm lá rách", "bầu ơi

thƣơng lấy bí cùng", "tối lửa tắt đèn có nhau"...Khi có Nhà nƣớc, có giai cấp thống trị, con

ngƣời có thêm tƣ cách ngƣời dân. Trong quá trình đấu tranh giữ độc lập, tự do cho nƣớc nhà

nó sẽ gắn vào tình thƣơng ngƣời, thƣơng dân, thƣơng toàn thể đông bào. Những yếu tố truyền

thống đó đã có ý nghĩa tiền đề cho những vấn đề cơ bản trong lý tƣởng giáo dục của Nguyễn

Trãi.

Chủ nghĩa yêu nƣớc truyền thống của dân tộc ta có sức sống mãnh liệt và liên tục phát

triển. Tiếp thu truyền thống ấy Nguyễn Trãi đã tạo cho mình một sức mạnh và nghị lực vƣợt

qua giới hạn của thời đại, của giai cấp và đặc biệt là vƣợt khỏi khuôn khổ của hệ tƣ tƣởng

phong kiến Nho giáo đƣơng thời. Toàn bộ các mặt hợp thành tƣ tƣởng giáo dục vĩ đại của

Nguyễn Trãi đều bắt nguồn từ cái gốc truyền thống yêu nƣớc và tinh thần nhân đạo của dân

tộc, đó là hai mạch tƣ tƣởng xuyên suốt trong quá trình đấu tranh dựng nƣớc, giữ nƣớc của

lịch sử Việt Nam.

Trang 48

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

Thế kỷ XV, là thế kỷ thịnh trị của Nho giáo. Dƣới thời đại này có mấy ai không bƣớc

qua "cửa Khổng, sân Trình", không đội trên đầu chiếc khăn Nho giáo và giƣơng cao ngọn cờ

"Tam cƣơng, Ngũ thƣờng", những giáo điều "trung, tín, lễ, nghĩa". Vấn đề là ở chỗ họ đã tiếp

nhận tƣ tƣởng ấy nhƣ thế nào? Nho giáo du nhập vào Việt Nam từ trung Quốc, ở thế kỷ XV

nó đƣợc xem nhƣ một học thuyết chính thống để cai trị nhân dân. Do đó nó có ảnh hƣởng sâu

sắc đối với quan điểm giáo dục của Đại Việt lúc bấy giờ. Điều đặc biệt quan trọng là cho dù

Nho giáo vốn có lợi cho giai cấp phong kiến, vẫn không thể không chú ý đến lẽ phải, vẫn

không thể không chú ý đến nhân dân. Bởi vậy lý tƣởng giáo dục thời phong kiến vẫn không

ngoài phạm vi: trị nƣớc, an dân. Lý tƣởng đó đã đƣợc ghi trong sách Lễ Ký của Khổng Tử

nhƣ sau:

"Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại thân dân"

Dịch ngĩa:

"Cái đạo của Đại học là phải đạt được đức sáng để có thể đổi mới đời dân"

Nguyên lý đƣa ra thì đúng nhƣng có điều giai cấp thống trị - ngƣời tiếp thu nó có làm

đƣợc nhƣ vậy không. Chính bản thân Nguyễn Trãi đã khƣớc từ những định kiến, những luân

lý khắt nghiệt của Nho giáo, tiếp thu và chọn lọc những tinh hoa tích cực của các học thuyết

Nho - Phật - Lão, biến chúng thành đạo lý truyền thống Việt Nam một cách tích cực. Tƣ

tƣởng từ bi, bác ái, cứu khổ, cứu nạn luôn hƣớng con ngƣời đến với cái thiện đã gây xúc động

lòng ngƣời và trở thành nguồn gốc sâu xa của lòng nhân ái, của chủ nghĩa nhân đạo. Từ thời

Lý -Trần tinh thần từ bi, bác ái của Phật giáo thấm đẫm từ hành động cho đến việc làm của

các bậc quân vƣơng. Vị quốc sƣ chùa Yên Tử khuyên vua Trần Thái Tông, khi vua định bỏ

ngai vàng lên chùa đó: "Phàm đã làm vua trong tiên hạ, phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý

muốn của mình, phải lấy tấm lòng của thiên hạ làm tấm lòng của mình" (Thiền tông chỉ nam

tựa của Trần Thái Tông) (96). Những yếu tố tiến bộ trong học thuyết Lão Tử nhƣ chống đối tƣ

tƣởng truyền thống và chế độ đƣơng thời, đề cao thuyết vô vi, kẻ cầm quyền phải lấy đạo để

Trang 49

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

cảm hóa dân chúng, dùng hòa bình để thu phục thiên hạ, tất cả đã đƣợc Nguyễn Trãi tiếp thu

một cách nhuần nhị và tinh tế.

Có thể thấy trong cuộc đời hoạt động của Nguyễn Trãi xuất phát từ nguyên lý Khổng

- Mạnh, nhƣng tâm tƣ của ông vốn đã thấm đƣợm tinh thần yêu nƣớc, yêu ngƣời của nhân

dân ta từ viễn cổ, cộng thêm tinh thần từ bi, bác ái của đạo Phật về sau. Sự cộng hƣởng các

yếu tố tích cực đã làm cho tƣ tƣởng của Nguyễn Trãi vƣợt xa thời đại, mặt khác nó còn chịu

ảnh hƣởng không ít qua thực tiễn chiến đấu thời khỏi nghĩa Lam Sơn, mà bản thân Nguyễn

Trãi đã từng gắn bó. Trong suốt thời gian bị giam lỏng tại Đông Quan, thời gian lƣu lạc sống

trong nhân dân chính là lúc ông đang suy nghiệm những giá trị tích cực của nền văn hóa dân

tộc, những giá trị này đã ăn sâu vào tƣ tƣởng Nguyễn Trãi, làm nên một khí phách anh hùng,

một nhà tƣ tƣởng vĩ đại thế kỷ XV.

Nền văn hóa truyền thống Việt Nam chứa đựng một giá trị giáo dục to lớn, thông qua

lời ăn tiếng nói của nhân dân. Văn học dân gian ra đời từ rất sớm, nó là cơ sở nền tảng vững

chắc cho sự phát triển của văn học viết giai đọan sau. Khi văn học viết chƣa định hình, văn

học dân gian chiếm một địa vị vô cùng quan trọng trong việc phổ biến kinh nghiệm và động

viên sản xuất, trong việc cổ vũ lòng yêu nƣớc chống ngoại xâm, chống giai cấp thống trị và

lên án những thói hƣ tật xấu của con ngƣời. Nguyễn Trãi đã tiếp thu di sản vô cùng quý báu

đó, nhất là tƣ tƣởng giáo dục từ bộ phận văn học này. Bắt đầu từ những bản anh hùng ca,

truyền thuyết, cổ tích, cho đến ca dao, tục ngữ...Những hình tƣợng nhƣ vua Hùng, Sơn Tinh,

Thủy Tinh, ông Dóng, An Tiêm... đã đƣợc lƣu truyền trong dân gian. Không chỉ là một loại

hình nghệ thuật mà văn học dân gian còn chứa đựng cả những tác dụng giáo dục nhẹ nhàng

nhƣng sâu sắc. Nguyễn Trãi đã học tập và khắc ghi triết lý nhân sinh từ những bài học ấy.

Trong sự nghiệp thơ văn của ông chúng ta thấy rằng Ức Trai đã tắm mình trong dòng sữa

truyền thống ngọt ngào của văn học dân gian cho đến văn học viết. "Nguyễn Trãi là một

trong những nhà văn ưu tú bậc nhất trong lịch sử văn học Việt Nam, một đỉnh cao của thế kỷ

Trang 50

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

XV, người kết thúc chặng đường phát triển trên năm thế kỷ văn học thành văn đầu tiên mà

nhiệm vụ là tìm về dân tộc"(40).

Nguyễn Trãi là một trong những ngƣời tiếp thu không ít ảnh hƣởng của Hán học và

cũng là một trong những ngƣời góp phần công lao xứng đáng để đồng hóa rất nhiều vào kho

từ vựng Việt Nam. Ông đã cố gắng Việt hóa những phần vay mƣợn của Hán học. Từ câu

"Quân tử cố cùng" (nghĩa là ngƣời quân tử thì bền vững ngay trong lúc khốn cùng) trong sách

Luận Ngữ, Nguyễn Trãi viết:

"Khó bền mới phải người quân tử,

Mạnh gắng thì nên kẻ trượng phu."

(Trần tình - 7)

Từ câu "Nhân tâm chi bất đồng, nhƣ kỳ diện yên" (nghĩa là lòng ngƣời khác nhau nhƣ

nét mặt của họ trong sách Tả Truyện, ông viết:

"Lòng người tựa mặt ai ai khác;

Sự thế bằng cờ bước bước nghèo."

(Mạn thuật - 10)

Trong thơ Nôm của ông, ta thƣờng bắt gặp những khẩu ngữ quen thuộc của nhân dân.

Từ câu ca dao:

"Bể sâu còn có kẻ dò,

Lòng người nham hiểm ai đo cho cùng"

Trong thơ ông, ta bắt gặp hình ảnh ấy:

"Dễ hay ruột bể sâu cạn;

Khôn biết lòng người vắn dài"

(Ngôn chí - 5)

Từ câu thành ngữ "Sảy đàn tan nghé" và câu ca dao:

" Đất bụt mà ném chim trời,

Chim thì bay mất, đất rơi xuống chùa.''

Trang 51

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

Ông viết:

"Chua đàn nẻo khỏi, tan con nghé,

Hòn đất hầu làm mất cái chim.''

(Bảo kính cảnh giới - 23)

Ảnh hƣởng của Hán học và sự vay mƣợn từ vựng của nhau giữa các nƣớc láng giềng

là yếu tố tự nhiên trong quá trình giao lƣu văn hóa. Mặt khác sự học tập thơ ca dân gian là

điều thƣờng xảy ra ở các nhà thơ. Xuân Diệu có lần đã nói "Các nhà thơ đã học tập ở ca dao,

học tập tính giai cấp trong đó, học tập lập trường của người lao động, học tập cái hiện thực

của việc đời qua mấy nghìn năm, trong đó học tập các tương quan xã hội, học cái tương

quan nam nữ trong cái chế độ cũ, học tên đất, tên nước, tên chim muông, tên hoa cỏ..., học

máu và cả mồ hôi, nước mắt và cả nụ cười của những con người, nối hẹp hơn các nhà thơ đã

học được ở ca dao'' (138). Truyền thống cao đẹp, mộc mạc, giản dị trong ca dao, dân ca quả

thật vô cùng phong phú, và trong lịch sử văn học chƣa có nhân vật nào có thể học tập và khai

thác hết những giá trị quý báu của kho tàng văn học dân gian.

Nguyễn Trãi đã tiếp thu đạo lý truyền thống của dân tộc, đó là đạo đức làm ngƣời,

nhân nghĩa, hữu ái sống vì mọi ngƣời từ tục ngữ ca dao:

"Anh em cốt nhục đồng bào

Kẻ sau người trước phải hào cho vui

Lọ là ăn thịt ăn xôi

Quý hồ ở nết tới lui bằng lòng"

(Ca dao)

Đƣa khẩu ngữ hàng ngày vào thơ ca, Nguyễn Trãi đã sử dụng một cách khá thành

thục kho văn liệu dân gian với những cảnh sắc, những hình tƣợng vốn quen thuộc trong đời

sống nhân dân, ông đã khai thác một cách khá linh hoạt những khả năng phong phú của ngôn

ngữ Việt vốn đƣợc bồi dƣỡng trong thực

Trang 52

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

tiễn dân tộc, đồng thời ông đã tận dụng khả năng của những khẩu ngữ ấy để làm chất liệu,

phƣơng tiện truyền đạt, giáo dục, khuyên răn con ngƣời một cách nhuần nhị. Ngôn ngữ văn

học của Nguyễn Trãi có một phần bắt nguồn từ ngôn ngữ văn học dân gian. Ngôn ngữ trong

văn học dân gian vốn là sản phẩm đƣợc gọt giũa trong trí tuệ tập thể và cách điệu hóa từ ngôn

ngữ hàng ngày của nhân dân. Nguyễn Trãi đã sử dụng những hình tƣợng, những kết cấu ngôn

ngữ vốn đã đƣợc cô đúc trong văn học dân gian để biểu đạt- tình ý một cách tinh tế thâm

thúy.

Nguyễn Trãi đã kết hợp nhuần nhuyễn văn học dân gian và văn học viết với vốn tri

thức và vốn sống phong phú. Không những thơ văn ông có giá trị về mặt ngôn ngữ, có giá trị

nghệ thuật cao, mà tƣ tƣởng còn mênh mông trong sáng đến lạ thƣờng, tinh thần nhân văn,

nhân đạo và đạo lý truyền thống luôn đƣợc đề cao, ông đã khai thác và đi sâu vào việc coi

trọng lao động, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống, tôn trọng tự do tín ngƣỡng,

cách đối nhân xử thế trong xã hội... Nguyễn Trãi là một trong những tác gia thể hiện tập trung

nhất và cảm động nhất giá trị nhân văn, nhân đạo trong thơ văn mình. Nhân tố truyền thống

dân tộc và gia đình là nền tảng, là cơ sở vững chắc cho tƣ tƣởng, quan niệm giáo dục con

ngƣời của Nguyễn Trãi. Ông đã kế thừa và phát huy tinh thần rộng mở đón nhận sự hòa hợp

của dân tộc để tiếp thu có chọn lọc những yếu tố tích cực của các giá trị tinh thần từ bên

ngoài vào làm cho tƣ tƣởng trở nên tiến bộ.

Trong bài thơ mừng Nguyễn Trãi nhận chức Gián Nghị Đại Phu, Phan Phu Tiên đã

nói rõ ý nguyện lớn lao của Nguyễn Trãi dù ở bất cứ cƣơng vị nào:

"Sinh tri tiên giác, giác tư dân"

Dịch nghĩa:

"Sinh ra đã tự mình biết giác ngộ trước, rồi lo giác ngộ cho dân sau"

Trang 53

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

II. Tƣ tƣởng Nguyễn Trãi về con ngƣời và quan điểm giáo dục của Nguyễn

Trãi

1. Tƣ tƣởng của Nguyễn Trãi về con ngƣời

1.1. Thực chất tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi

Nguyễn Trãi là một nhà chính trị sáng suốt, một nhà quân sự lỗi lạc, một nhà ngoại

giao thiên tài, đồng thời cũng là nhà nghiên cứu sử, địa, nhà thơ lớn và còn là nhà giáo dục vĩ

đại.

Suốt trong lịch sử nƣớc ta trƣớc thời đại khoa học, chƣa có bao giờ có một nhân vật

nào mà tƣ tƣởng chính tri lại chi phối một cách sáng suốt cả chủ trƣơng, hành động nhƣ

Nguyễn Trãi và cũng chƣa bao giờ có những tác phẩm nào mà tƣ tƣởng chính trị đó lại đóng

vai trò chỉ đạo chặt chẽ và nhất trí nhƣ trong thơ văn Nguyễn Trãi.

Tƣ tƣởng chính trị đó chủ yêu là tƣ tƣởng nhân nghĩa.

"Nhân nghĩa" vốn là khái niệm vay mƣợn của Nho giáo Trung Quốc, đƣợc hiểu theo

hai phạm trù đạo đức "nhân" và "nghĩa". Dƣới thời Khổng Tử - Mạnh Tử hai ông muốn cứu

văn trật tự xã hội nên đề cao nhân nghĩa nhằm tạo cho xã hội có tôn ti, trật tự vua ra vua, tôi

ra tôi. Vào Việt Nam nó đã bị Việt hóa trên cơ sở tƣ tƣởng yêu nƣớc và tinh thần nhân đạo,

tuy hình thức không thay đổi, nhƣng nội hàm không còn những ý nghĩa gốc theo học thuyết

Nho giáo Trung Quốc đề ra. Đối với Nguyễn Trãi "nhân nghĩa" có nội dung lịch sử cụ thể, nó

bắt nguồn từ truyền thống đấu tranh dựng nƣớc, giữ nƣớc của dân tộc Việt Nam từ thời Bà

Trƣng, Bà Triệu chống lại nhà Hán., để bảo vệ đất nƣớc, bảo vệ nhân dân.

Tƣ tƣởng chính trị, xã hội triết lý của Nguyễn Trãi là nhân nghĩa quán triệt từ đầu đến

cuối, phát triển trên cơ sở chủ nghĩa yêu nƣớc và thân dân. Nguyễn Trãi đã lấy nhân nghĩa

làm cờ giải phóng dân tộc; lấy nhân nghĩa để hun đúc tinh thần tƣớng sĩ, quân lính và dân

chúng; dùng nhân nghĩa mà đối đãi với giặc

Trang 54

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

lúc chúng bại trận; dựa trên cơ sở nhân nghĩa mà vạch đƣờng lối đối ngoại để "dập tắt chiến

tranh muôn đời". Và khi nhà nƣớc tự chủ thì việc trị nƣớc theo Nguyễn Trãi cũng phải dùng

nhân nghĩa để "an dân". Với lý tƣởng ấy, Nguyễn Trãi đã phấn đấu không mệt mỏi cho độc

lập dân tộc, cho đất nƣớc giàu mạnh, cho cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân và mong

muốn mọi quốc gia dân tộc đƣợc tồn tại trong độc lập hòa bình. Nguyễn Trãi đã kiên quyết

đập tan chiến tranh xâm lƣợc và nền đô hộ của giặc Minh là để "xã tắc bền vững", "non sông

đẹp tươi", "mở nền thái bình muôn thuở' ( Bình Ngô đại cáo) và để "không những sinh linh

nước tôi được khỏi lầm than mà binh sĩ Trung Quốc cũng khỏi nỗi khổ gươm đao" và "hai

nước thoát khỏi cái họa binh đao"(Quân trung từ mệnh tập).

Trong điều kiện lịch sử xã hội thế kỷ XV, tƣ tƣởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi rất

tiến bộ cho nên trong tác phẩm của mình Nguyễn Trãi đã nêu lên đƣợc cốt lõi của tƣ tƣởng

nhân nghĩa " Đời loạn thì dùng võ, thời bình thì dùng văn. Ngày nay định ra lễ nhạc, chính là

phải thời lắm. Song không có gốc thì không thể đứng vững, không có văn thì không thể lưu

hành. Hòa bình là gốc của nhạc, thanh âm là văn của nhạc. Thần phụng chiếu định ra âm

nhạc, không dám không gắng hết tâm lực. Song học vấn sơ sài, nông cạn, sợ trong áng thanh

luật khó làm được hài hòa. Dám mong bệ hạ rũ lòng yêu thương và chăn nuôi muôn dân,

khiến trong thôn cùng xóm vắng không có một tiếng hờn giận, oán sầu, đó tức là các gốc của

nhạc".( Lời tâu với vua Lê Thái Tông).

Thực chất và nội dung cơ bản của tƣ tƣởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi xét đến cùng

là chủ nghĩa yêu nƣớc, ý thức độc lập dân tộc kết hợp với lòng thƣơng dân, tinh thần nhân

đạo và ƣớc vọng hòa bình.

"Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân.

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo"

(Bình Ngô đại cáo)

Trang 55

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

1.2. Con người ái quốc, ưu dân, anh hùng

Chúng ta thấy rằng từ lúc sinh thời cho đến khi lìa đời Nguyễn Trãi luôn tâm niệm

một điều là bất cứ làm việc gì cũng lấy "nhân nghĩa" làm đầu "Phàm mưu việc lớn phải lấy

nhân nghĩa làm gốc, nên công to phải lấy nhân nghĩa làm đầu. Dùng nhân nghĩa gồm đủ thì

công việc mới thành đạt được" (Quân trung từ mệnh tập). Chính vì thế Nguyễn Trãi luôn ƣớc

ao xây dựng một mẫu ngƣời có nhân, có nghĩa. Xuất phát từ quan niệm trên, con ngƣời

Nguyễn Trãi ngợi ca là con ngƣời ƣu quốc, ái dân, anh hùng.

Quan niệm anh hùng, cảm quan anh hùng từ xƣa đã đƣợc ngợi ca trên những trang

văn thơ của nhiều thế hệ tác giả Việt Nam, tuy chƣa nhiều và thật đặc sắc phong phú, song đã

phản ánh đƣợc cái phần bản chất nhất, cao đẹp nhất sự nghiệp anh hùng của dân tộc trong

lịch sử. Nguyễn Trãi là một trong những nhà văn, nhà thơ viết về ngƣời anh hùng, có những

cống hiến nổi bật.

Nguyễn Trãi không có nhiều lời bàn luận về quan niệm anh hùng, nhƣng qua thơ văn

ông chúng ta thấy đƣợc những tiêu chí tƣơng đối xác định. Trong sáng tác thơ văn của mình,

Nguyễn Trãi đã dùng nhiều chỗ viết về lớp ngƣời mà ông thƣờng gọi là "anh hùng", "anh

hào", "hào kiệt", "tuấn kiệt", "nhân tài", "những kẻ trí mƣu tài thức", "nhân dân quân tử",

"những tƣớng võ dũng"... Đây là những ngƣời lãnh đạo, chỉ huy, tham mƣu trong hàng ngũ

nghĩa quân hoặc những ngƣời ƣu tú có chí lớn, tài cao đức trọng, tiêu biểu cho nền văn hiến

dân tộc, trong đó vị trí nổi bật là ngƣời anh hùng. Trong thơ văn Nguyễn Trãi hàng chục lần

xuất hiện thuật ngữ anh hùng và một số thuật ngữ từ đồng nghĩa "anh hào", "hào kiệt", "tuấn

kiệt"... Nguyễn Trãi dùng để chỉ những tính cách, phẩm chất, anh hùng hoặc là những con

ngƣời xuất chúng có ý chí, tài năng, đức độ, dám làm những việc lớn.

Trang 56

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

Quan niệm con ngƣời anh hùng của Nguyễn Trãi có những tiêu chí đòi hỏi rất cao:

"Trừ độc trừ tham trừ bạo ngược.

Có nhân có trí có anh hùng"

"Nhân" và "trí" là phẩm chất hàng đầu của ngƣời anh hùng. Ngƣời anh hùng dùng

"nhân" (đức độ), "trí" (tài năng) của mình, trong đó "nhân" là cao nhất để "khử bạo", "trừ

tham"... Nếu cho rằng "nhân nghĩa của Nguyễn Trãi thực chất là phấn đấu đến cùng chống

ngoại xâm, diệt tàn bạo, vì độc lập của đất nước, vì hạnh phúc của nhân dân" (Phạm Văn

Đồng), thì khi nói 'có nhân có trí có anh hùng", Nguyễn Trãi đã khẳng định lý tƣởng giải

phóng dân tộc - một lý tƣởng có ý nghĩa chính trị, xã hội sâu sắc của ngƣời anh hùng. Đồng

thời khẳng định lý tƣởng đấu tranh cho công lý xã hội, chống áp bức, xây dựng xã hội văn trị,

thái bình, giành quyền sống cho nhân dân. Con ngƣời anh hùng trong quan niệm của Nguyễn

Trãi có nhiều phẩm chất cao đẹp của chủ nghĩa anh hùng và nhân vật anh hùng, nó xuất phát

từ truyền thống yêu nƣớc, truyền thống anh hùng của dân tộc, từ cuộc chiến tranh giải phóng

dân tộc vĩ đại ở thời đại ông và thông qua cuộc đời anh hùng đầy nỗi xót đau, giằng xé lòng

ông. Đó là những con ngƣời nổi bật về chí lớn, tài cao trong sự nghiệp giải phóng dân tộc,

giải phóng đất nƣớc, biết giấu chí, chờ đợi thời cơ, chịu đựng gian khổ, khắc phục hiểm nguy,

quyết chiến, quyết thắng, son sắt một lòng tin tƣởng tuyệt đối vào nghĩa lớn tất thắng.

Nguyễn Trãi đã khẳng định lý tƣởng và phẩm chất ngƣời anh hùng trong dòng vận động của

thời gian và trong mối quan hệ với cuộc sống, đổng thời đã góp những quan niệm mới phù

hợp với lịch sử phát triển mẫu ngƣời anh hùng của thời đại.

1.3. Con người quân tử

Ngƣời quân tử trong quan niệm của Nguyễn Trãi là ngƣời "Phú quý bất năng dâm,

bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất", nghĩa là những con ngƣời

Trang 57

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

có khí tiết thanh cao nhƣ hoa mai nở sớm, tùng bách rụng sau, con ngƣời không màng danh

lợi, không làm điều bất nhân phi nghĩa, sống giản dị, đạm bạc để giữ tròn khí tiết.

Quan niêm về ngƣời quân tử nhƣ vậy, nên suốt đời Nguyễn Trãi tu dƣỡng bản thân

mình theo khuôn mẫu của ngƣời quân tử, sống vì dân, vì nƣớc trọn đời, trƣớc bọn quyền thần

ông không khuất phục để vƣơn lên bảo vệ công lý, chính nghĩa. Trong chiến tranh lấy lòng

quân tử để đối xử với bọn tiểu nhân, hiếu chiến, trong thời bình thì lấy lòng quân tử cảm hóa

quân vƣơng, quan lại và nhân dân. Tất cả những việc làm của Nguyễn Trãi trong chiến đấu

cũng nhƣ lúc thái bình thịnh trị đều nêu cao nhân nghĩa, tài đức vẹn toàn.

Nguyễn Trãi đã lồng con ngƣời ƣu quốc, ái dân, anh hùng vào trong con ngƣời quân

tử, một con ngƣời dù sống trong hiểm nguy gian khổ vẫn không thay lòng đổi dạ, vẫn sắc son

thủy chung nêu cao nghĩa khí chính trung, đấu tranh vì lẽ phải, chống gian tà hại dân, hại

nƣớc.

1.4. Bản sắc Việt Nam trong quan niệm về con người của Nguyễn Trãi

Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam tất yếu ngày càng dành địa vị ƣu thắng của Nho

giáo. Phật giáo, Đạo giáo dù sao cũng không phải đạo trị dân. Từ giữa đời Trần Nho sĩ bắt

đầu công kích nhà chùa. Nhƣng nhìn chung thời Lý -Trần coi trọng cả ba giáo, trên cơ sở

truyền thống yêu nƣớc và nhân ái, kết tinh những mặt sáng ngời trƣớc và sau ít thấy trong

thời phong kiến. Nó không phải là một tinh thần chiết trung hay thỏa hiệp mà là một sự tích

hợp quanh một cốt vững chắc là cốt lõi dân tộc, những nhân tố tích cực, phù hợp của ngoại

lai cho nên nó là một sự nâng cao sáng rỡ.

Nguyễn Trãi đã tiếp thu đƣợc tinh thần ấy. Hiểu Nho học, nhƣng không sách vở, mà

theo yêu cầu của đời sống Việt Nam, nên nhân nghĩa không giống

Trang 58

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

Khổng - Mạnh. Không đi tu nhƣng lại nhập điệu đạo Thiền đến độ biến ra thơ, chứ không

phải hiểu. Lên chùa Tiên Du là nhƣ ngộ đƣợc đạo theo pháp chỉ của Thiền "vô ngôn, đốn

ngộ" . Tâm sự một đêm với nhà sƣ bạn cũ, tâm đầu, ý hợp đến kỳ lạ. Cuối cùng lại nói 'Từ

biệt nhau rồi, ta cũng sẽ đi tu đạo Thượng Thừa" (Đƣa sƣ Đạo Khiêm về núi). Mặt khác

trong thơ văn Nguyễn Trãi Đạo giáo, Đạo gia cũng ảnh hƣởng vô số, từ những chuyện mê tín

không xa lạ trong thế giới quan Trung đại đã đi vào "Lam Sơn thực lục", "Văn bia Vĩnh

Lăng"....

"Tinh thần rộng mở ở Nguyễn Trãi thể hiện trong nhân sinh quan của ông là xuất thế,

nhập thế. Nho học có quan niệm hành tàng, xuất xử, nhƣng là một học thuyết nhập thế. Phật

giáo, Đạo giáo đều xuất thế. Tinh thần rộng mở từ thời Lý - Trần đã tiếp nhận nhập thế của

Phật và Đạo vốn là cái xuất thế, cái xuất của Nho đi từ cái xử. Nho giáo vốn là học thuyết

chính trị khô khan, đạo đức nghiêm khắc, thì cảnh u tịch của Phật, cảnh thoát trần thanh thoát

của Đạo hòa vào. Cái hành, cái tàng của nhà Nho bị động và cứng nhắc thì có nhập mà xuất,

có xuất mà nhập của nhà Phật, nhà Tiên bồi bổ. Giữ thăng bằng cho sự tình có về trái ngƣợc,

ấy là bản lĩnh của ngƣời Việt, bản lĩnh vững chắc mà thanh cao, yêu nƣớc thƣơng dân trên

hết, và bên cạnh cũng có thể làm Nho, làm Phật, làm tiên, mà chính Trần Thái Tông trong

"Thiền tông chỉ nam tự " đã đề cao. Đó là sự kết tinh cao đẹp tinh thần rộng mở trong con

ngƣời Nguyễn Trãi"(95).

Nguyễn Trãi quan niệm "Lâu nay xuất xử cũng tương đồng" ( Họa vần ngƣời làng...)

và " Chưa xuất gia thì hãy ở nhà" ( Hoa bài Yên hà). Hầu nhƣ đó là một quan niệm xuất hay

xử đều giống nhau, nhƣng trong cái giống nhau lại có cái khác nhau.

Tâm hồn rộng mở của Nguyễn Trãi thể hiện rất rõ, ông đã từng nói 'Tiêu sái mấy lòng

đà mạc được - Bảo chăng khứng mạc một lòng thơm" (Tự thán -27), hay "Chẳng Bụt chẳng

Tiên ắt chẳng phàm" (Tự thán - 27) và rõ hơn là:

"Dù Bụt dù Tiền ai kẻ hỏi

Ông này đã có thú ông này"

(Mạn thuật - 6)

Trang 59

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

Hoặc : "Ai hay ai chẳng hay thì chớ

Bui một ta khen ta hữu tình"

(Tự thán -13)

Và: "Vu khoát đời ta mang bệnh ấy

Chưa đành không thuật, tuổi thềm ra"

(Ngẫu nhiên làm)

Tấm lòng thơm không sao vẽ ra đƣợc, bệnh vu khoát không thuốc nào chữa đƣợc mà

càng gia tăng, cái thú riêng ông này, cái hữu tình mà ta khen ta ấy... tất cả là những nét bản

sắc truyền thống Việt Nam từ thời Lý - Trần của kẻ làm trai "tự hữu xung thiên chí'' trong đó

có cả tinh thần vô ngã, vô ngôn, vô ý.. cộng với thái độ nhập thế tích cực cua Nho giáo thịnh

hành đầu Lê đƣợc kết tinh trong con ngƣời Nguyễn Trãi.

Nguyễn Trãi không tu Phật, tu Tiên để thành Phật, thành Tiên xa lánh cõi đời, ông

không phải là "cao sĩ" giấu mình để độc thiện kỳ thân, ông là một trí thức Việt Nam yêu

nƣớc, thƣơng dân, chỉ những muốn cứu nƣớc, yên dân, nhƣng trí tuệ thật rộng mở, đón nhận

ánh sáng mọi nơi để làm giàu lòng yêu nƣớc thƣơng dân, và trong quan niệm nhân sinh, cách

sống của mình, vừa làm việc hết mình cho dân cho nƣớc, nhƣng lòng bao giờ cũng sạch, nhẹ

nhƣ kẻ xuất gia, không hề nặng danh lợi của kiếp trần, mà cũng vừa biết sống lành mạnh, vui

tƣơi giữa cuộc đời. Tinh thần rộng mở này thể hiện rất rõ ở thời đại phục hƣng dân tộc từ thế

kỷ X đến thể kỷ XIV, chủ yếu là ở hai triều đại Lý - Trần, cùng với tinh thần dân chủ tiến bộ

nó đã kết tinh thành chất Việt Nam thời Đại Việt. Do nhiều nguyên nhân Nguyễn Trãi đã

thấm nhuần chất ấy một cách sâu sắc và phát huy rạng rỡ thêm trong thực tiễn chiến tranh

giải phóng anh hùng. Có thể nói Nguyễn Trãi đã thể hiện rõ bản sắc Việt Nam trong quan

niệm về con ngƣời.

Trang 60

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

2. Quan điểm giáo dục con ngƣời trong thơ văn Nguyễn Trãi

2.1. Một quan điểm giáo dục mang tính nhân văn

Hơn sáu trăm năm qua, Nguyễn Trãi đã sống với đất nƣớc với dân tộc, với nhân dân

không chỉ ở xã hội Việt Nam thế kỷ XV, mà tên tuổi của ông mãi mãi trƣờng tồn cùng các

thế hệ ngƣời Việt Nam trong sự trân trọng, kính yêu. Cho đến hôm nay, Nguyễn Trãi đã trở

thành danh nhân văn hóa sống mãi trong lòng nhân loại.

Nghiên cứu, đánh giá về cuộc đời và sự nghiệp Nguyễn Trãi, trƣớc đây ngƣời ta vẫn

nhận định rằng Nguyễn Trãi là một nhà chính trị lỗi lạc, nhà chiến lƣợc thiên tài, nhà ngoại

giao xuất sắc, nhà tƣ tƣởng văn hóa tiêu biểu cho truyền thống cao đẹp của dân tộc Việt Nam,

một nhà văn, nhà thơ vĩ đại đã để lại những áng văn chƣơng bất hủ có sức mạnh nhƣ "mƣời

vạn hùng binh" có thể "làm vẻ vang đất nƣớc". Và cũng rất thiếu sót, bất cập khi chúng ta

quên đi một điều ghi nhận Ức Trai tiên sinh còn là một nhà giáo, một ngƣời thầy chân chính

và vĩ đại. Tƣ tƣởng giáo dục của ông là đào tạo con ngƣời tốt đẹp cho một xã hội tốt đẹp.

Nguyễn Trãi là nhà giáo dục không phải vì ông từng ngồi ở cƣơng vị là thầy dạy học,

mà ở chỗ ông luôn ý thức đƣợc việc trao truyền kinh nghiệm, điều hay lẽ phải để xây dựng

những nhân cách tốt đẹp, những tâm hồn cao thƣợng, những giá trị con ngƣời quý báu cho

mọi ngƣời xung quanh, mang đến lợi ích cho quốc gia cho triều đại mình đang phù ủng. Hiểu

đúng và thấy đƣợc ý nghĩa tác dụng to lớn của công việc đào tạo con ngƣời, Nguyễn Trãi

không muốn dừng sự nghiệp của mình lại:

"Chạnh yên hà, trải một gian,

Quét đất thiêu hương giảng ngũ kinh"

(Tức sự)

Trang 61

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

Ông muốn đƣa lý tƣởng của mình bay cao và đi xa hơn. Ông muốn xây dựng một xã

hội yên bình, thịnh trị, một xã hội có vua sáng, tôi hiền. Chính vì thế Nguyễn Trãi đã đƣa ra

một phƣơng châm sửa mình, về phong cách xử thế, và muốn xây dựng một xã hội tốt đẹp, thì

tự mình phải là hạt nhân của sự tốt đẹp đó, nhƣ ông nói là tự mình phải là "cốt lãnh hồn thanh

chân khứng hoa" (Thuật hứng - 9), hay phải có một nhân cách và tâm hồn trong sạch không

bị tha hóa. Do vậy ông đã lao động miệt mài đến quên mình, tất cả chỉ vì mong mõi một điều

"tạo phúc cho dân".

"Tơ hào chẳng cố đền ơn chua,

Dạy láng giềng mấy sĩ nho"

(Ngôn chí - 14)

Thừa hƣởng và tiếp thu tƣ tƣởng lớn nhất của ông cha là tƣ tƣởng yêu nƣớc, thƣơng

dân, thấm nhuần ý nghĩa lớn nhất của lẽ hiếu trung là sự nghiệp vì dân, vì nƣớc. Nguyễn Trãi

hiện ra trong lòng xã hội thế kỷ XV là một thầy giáo mẫu mực và tiến bộ. Xuất thân trong gia

đình có truyền thống giáo dục, Nguyễn Trãi xiết bao sung sƣớng và tự hào khi cha mình là

ngƣời thầy nổi tiếng về văn hay, chữ tốt và có tấm lòng nhân hậu, đƣợc mọi ngƣời ca tụng và

trân trọng. Nguyễn Trãi vô cùng diễm phúc khi tiếp tục sự nghiệp giáo dục của cha. Tuy

không có một bề dày về hoạt động giảng dạy, nhƣng toàn bộ sự nghiệp thơ văn của ông là

một kho tàng tƣ liệu quý báu về giáo dục con ngƣời. Nghiên cứu vấn đề này, một lần nữa các

thế hệ hậu sinh lại tiếp tục khẳng định công lao to lớn của Nguyễn Trãi, một nhà giáo dục vĩ

đại, một ngƣời thầy mẫu mực, giản dị, tài năng và nhân đức.

Sống trong khuôn khổ chế độ phong kiến thế kỷ XV, khi mà Nho giáo ở giai đoạn cực

thịnh, các nhân sĩ không còn cách gì khác là phải học tập, thi cử qua sử sách bằng chữ Hán

nhƣ "Tứ thƣ", "Ngũ kinh" của Trung Quốc. Khuôn

Trang 62

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

mẫu của đạo lý là khuôn mẫu của thánh hiền, tức đạo "Khổng Chu" (Khổng Tử, Chu Công

Đán) mà Nguyễn Trãi hay nhắc tói:

"Quân thán chưa báo lòng canh cánh;

Tình phụ ơn trời áo cha."

(Ngôn chí - 7)

Trong khuôn mẫu của sự trói buộc ấy, con ngƣời Việt Nam ở giai đoạn này rất bị hạn

chế về tài năng và tƣ tƣởng. Và đáng tự hào biết bao trong khuôn khổ ấy lại xuất hiện một trí

thức Nho học quý tộc - Nguyễn Trãi có đƣợc một tƣ tƣởng yêu nƣớc, thƣơng dân tiến bộ:

"Bui một tấc lòng ưu ái cũ,

Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông."

(Thuật hứng - 5)

Không phải bất cứ một quan lại nào trong guồng máy chế độ phong kiến, cũng có

đƣợc lòng yêu nƣớc, thƣơng dân một cách chân thành nhƣ vậy. Chỉ có những vị có phẩm chất

tốt đẹp, có chí khí thanh cao, có tâm hồn trong sáng, có cốt cách nhƣ "hoa mai nở sớm" nhƣ

"tùng bách rụng sau", mới thật sự có lòng yêu nƣớc, mƣu cầu hạnh phúc cho dân, tất nhiên

không thể thoát đƣợc khuôn khổ của thể chế phong kiến ở phƣơng đông. Trong sự nghiệp thơ

văn ông, hình ảnh ông hiện lên không phải là một vị đại thần xênh xang áo mão, võng lọng

mà là một ông đồ với một phong thái ung dung tự tại, một phong cách giản dị, mộc mạc chân

quê, nhƣng ẩn chƣa bên trong một tấm lòng cao đẹp. Tƣ tƣởng của Nguyễn Trãi luôn hƣớng

đến cái đẹp khoáng đạt, rộng mở, giải phóng con ngƣời vƣợt khỏi những định kiến khắt khe

của Nho giáo. Trí tuệ của Nguyễn Trãi là sự hòa hợp những tinh hoa của ba học thuyết Nho -

Phật - Đạo, ông là tri thức của nền giáo dục ở giai đoạn có thi "Tam giáo" cuối Trần - đầu Lê,

những quy phạm của nó buộc con ngƣời không thể tự ý vƣợt qua mà phải tuân thủ theo một

Trang 63

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

nguyên tắc chặt chẽ. Tuy nhiên, lý thuyết sách vở không phải là yếu tố duy nhất quyết định

nên nhân cách, nó chỉ là nguồn hình thành nhân cách. Cái quyết định quan trọng trong việc

hình thành nhân cách cá nhân chính là quan niệm sống là lý tƣởng sống của cá nhân ấy.

Nguyễn Trãi đƣợc ngợi ca và trân trọng bởi ông có một nhân cách cao đẹp, một lối sống hoạt

động luôn muốn tìm về cho con ngƣời những điều tốt đẹp trong cuộc sống và luôn bảo vệ

công lý.

Tƣ tƣởng giáo dục của Nguyễn Trãi, tuy bắt nguồn từ "cửa Khổng" "sân Trình" nhƣng

nó đã vƣợt lên trên những định kiến hẹp hòi, mang tinh thần khoáng đạt, rộng mở nhiều hơn

so với nội dung giáo dục của Nho giáo. Ông giáo dục con ngƣời hƣóng đến những điều tốt

đẹp. Tƣ tƣởng giáo dục của ông đã san bằng những rào cản của khuôn khổ phong kiến để xây

dựng nên một truyền thống đạo đức của dân tộc. Nguyễn Trãi quan niệm rằng con ngƣời tiếp

xúc với văn chƣơng, có văn chƣơng thì tâm hồn rộng mở, phong phú, thanh cao hơn, biết

sống đẹp hơn. Ở Nguyễn Trãi con ngƣời hành động và con ngƣời sáng tác gắn bó với nhau,

nƣơng tựa vào nhau, hỗ trợ cho nhau. Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi là một mẫu mực về sự gắn

bó giữa nhà văn và ngƣời chiến sĩ đấu tranh vì Tổ Quốc, vì nhân dân, vì con ngƣời. Vì suốt

đời ôm ấp lý tƣởng lo cho Tổ Quốc đƣợc thái bình thinh trị cho nhân dân đƣợc yên vui mà

Nguyễn Trãi đã có đƣợc hồn thơ cao cả, tứ thơ phong phú. ôm mối tiên ƣu, Nguyễn Trãi tỏ ra

rất tự hào về trách nhiệm của ngƣời cầm bút:

"Văn chương chép lây đòi câu thánh;

Sự nghiệp tua gìn phải đạo trung.

Trừ độc trừ tham trừ bạo ngược;

Có nhân cố trí có anh hùng"

(Bảo kính cảnh giới - 5)

Trang 64

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

Quan niệm về văn chƣơng nhƣ thế, Nguyễn Trãi đã hƣớng con ngƣời đến với những

giá trị cao đẹp của văn nghệ, đến với lý tƣởng thẩm mĩ trong thơ, trong nhạc:

"Cầm sách cùng nhau ngày tháng trường"

(Tức sự - 6)

Đàn và sách là hai ngƣời bạn tâm giao của ông, nhƣng không phải là những thú ham

mê tự phát, hay cảm tính, mà nó là sự kết tinh của trí tuệ, của tinh hoa nhân loại, là một kho

tàng tri thức của cuộc sống.

Có một tâm hồn phóng khoáng và rộng mở, Nguyễn Trãi đã lắng nghe và suy nghiệm

tiếng khánh đá vẳng lên trong không trung xuyên qua mây xanh, rồi dội lại nơi đạo viện thâm

u. Những lúc ấy, tâm hồn Nguyễn Trãi cũng mở rộng với cảm giác lâng lâng theo tiếng nhạc,

thoát khỏi trần gian chật hẹp, bay bổng diệu kỳ:

''Tùng hoa lạc địa kim đàn tĩnh;

Khánh hưởng xuyên vần đạo viện thâm''

(Đề Ngọc Thanh quán)

Dịch nghĩa:

"Hoa tùng rụng đất, kim đàn lặng lẽ,

Tiếng khánh thấu mây, đạo viên thẳm sâu."

Khác với quan niệm cực đoan, sai lầm của bọn hủ Nho, cho rằng trong nhà có đàn

nhạc, con cái sinh hƣ "Gia hữu cầm, nữ tắc dâm...", Nguyễn Trãi xem nhạc là một yếu tố của

"Lễ".

"Lễ nhạc nhàn chơi đạo Khổng - Chu"

Vì vậy ông không hề sợ bên cạnh sách vở trong nhà còn có cây đàn mà hủ

Trang 65

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

Nho cho là nguyên nhân hƣ hỏng con cái. Ông xem đó là một công cụ giáo dƣỡng tốt

nhất cho trẻ thơ:

"Gia hữu cầm thư nhi bối lạc"

(Mạn thành - 2)

Dịch nghĩa:

"Trong nhà có đàn, sách, bầy trẻ vui vầy"

Với quan niệm phóng khoáng, khai thác đƣợc những cung bậc của tâm hồn để đi đến

giáo dục, Nguyễn Trãi không những là một ngƣời yêu thích âm nhạc, thƣởng thức âm nhạc,

mà ông còn là một ngƣời biết sử dụng nhạc khí, một "cầm giả" thật sự, biết dùng âm nhạc

nhƣ một biện pháp tu dƣỡng tƣ tƣởng tình cảm, một phƣơng tiện giải trí tao nhã, một phƣơng

tiện ngụ ý, ký thác tâm sự, một phƣơng tiện bộc lộ tâm tƣ, ý chí và hoài bão:

"Độc bãi quần thư vô cá sự;

Lão mai song bạn lý dao cầm."

(Thu nguyệt ngẫu thành)

Dịch nghĩa:

"Đọc hết sách chẳng thấy có việc gì;

Mai già bên cửa sổ ngồi gảy đàn ngọc"

"Ngọ song thụy tỉnh hồn vô mỵ

Ẩn kỷ phần hương lý ngọc cầm"

(Tức hứng)

Dịch nghĩa:

"Bên cửa sổ ngủ tỉnh rồi không nằm nghỉ nữa

Dựa ghế đốt hương lý đàn ngọc"

Trang 66

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

Nguyễn Trãi đã truyền cho mọi ngƣời một tƣ tƣởng vô cùng rộng mở. Ông đƣa con

ngƣời vƣợt khỏi khuôn khổ hạn hẹp của chế độ phong kiến Nho giáo, nhƣng vẫn bảo tồn

đƣợc đạo đức truyền thống dân tộc. Đến với quan điểm giáo dục của Nguyễn Trãi, con ngƣời

sẽ không còn thấy cuộc sống quá nhọc nhằn với những nỗi lo toan "cơm, áo, gạo, tiền", Ông

đƣa con ngƣời đến những phút giây thanh thản tâm hồn. Chịu ảnh hƣởng tƣ tƣởng văn thơ Lý

- Trần ngay trong gia đình với bố ông - Nguyễn Phi Khanh và ông ngoại Trần Nguyên Đán,

thơ văn ông tuy có hƣơng vị của sự "tiêu tao" nhƣng không thoát ly hiện thực. Ông đã nhìn

thẳng vào hiện thực suy xét nó bằng con mắt tỉnh táo. Văn chƣơng nhạc họa là chỗ bộc bạch

tâm tình, những rung động cảm khái trƣớc cuộc đời mình và cuộc đời chung, để vui, để buồn

để răn dạy con cái, để mơ ƣớc cho ngày mai, để an ủi và nói lên chí nguyện của mình.

Tƣ tƣởng giáo dục của Nguyễn Trãi đã đạt đƣợc một bƣớc tiến bộ so với thời đại của

ông. Tƣ tƣởng ấy sẽ làm nền tảng cơ bản trong lý tƣởng giáo dục con ngƣời toàn diện đối với

các thế hệ sau.

2.2. Một quan điểm giáo dục tích cực thể hiện tinh thần thời đại.

Trƣớc thời Nguyễn Trãi, nguyên khí quốc gia Đại Việt đã tạo ra biết bao anh hùng

hào kiệt, nhiều trí giả nổi tiếng xa gần. Tuy vậy, trong số các anh hào, trí giả ấy chƣa nổi bật

lên một ngƣời am hiểu và làm giáo dục đƣợc nhƣ ông. Sự khác nhau giữa Nguyễn Trãi và các

danh nhân quá vãng, có nguồn gốc từ sự khác nhau về mặt tƣ tƣởng triết học và cái nhìn nhân

sinh của họ. Sinh ra và lớn lên trong Dinh thự Tể tƣớng Trần Nguyên Đán, tiếp thu văn hóa

truyền thống gia đình sau những lần theo cha và ông ngoại về Nhị Khê, Côn Sơn, cộng với

những kinh nghiệm trong thời gian lƣu lạc và cùng nhân dân tham gia khỏi nghĩa, Nguyễn

Trãi đã hình thành nên tƣ tƣởng tích cực trong quan niệm giáo dục con ngƣời. Trƣớc hết đó là

quan điểm nhân dân ở Nguyễn Trãi. Nhƣ chúng ta đã biết trong học thuyết Khổng Tử, ông đã

từng lƣu tâm đến vai trò của con ngƣời và quyết tâm đào tạo con ngƣời, theo Khổng Tử quan

niệm "Hữu giáo vô loại" (Dạy

Trang 67

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

không phân biệt) nhƣng con ngƣời Khổng Tử quan tâm không phải là "dân đen, con đỏ",

nhƣng Khổng Tử cũng phải công nhận sức mạnh của "nhân vọng", "nhân dục", và có khi trời

cũng chiều theo lòng ngƣời. Biết đƣợc sức mạnh của lóp "hạ ngu" trong việc làm yên ổn cho

các vƣơng triều, Nho giáo phần nào cũng đã coi trọng việc giáo hóa cho tầng lớp này. Sự an

dân không phải là một triều đại mà nó là nhân tố quan trọng trong việc quyết định sự bền

vững và phát triển của quốc gia. Chính vì thế trong học thuyết Khổng giáo cũng có nhiều

điểm tích cực:

"Dân chi sở hiếu, hiếu chi,

Dân chi sở ố, ố chi - thử chi vị dân chi phụ mẫu"

"Dân vi quy

Xã tắc thứ chi

Quân vi khinh"

Tiếp thu những tinh hoa đó, các nhà ái quốc, trung quân nhƣ Lý Thƣờng Kiệt, Trần

Quốc Tuấn đã thấy đƣợc và tận dụng khả năng to lớn của dân trong những cuộc kháng chiến

chống xâm lƣợc. Đối với Nguyễn Trãi, ông quan niệm "dân" là nhân tố quan trọng quyết định

mọi sự thắng lợi. Đấng vƣơng giả làm việc gì cũng phải đạt hai yêu cầu:

"Trên thì đáp ứng Thiên tăm"

Dưới thì thỏa theo "Nhân vọng"

thiếu một trong hai yếu tố ấy là "Bất thành đại sự". Theo Nguyễn Trãi nhân dân là sức mạnh

của dựng xây và đạp đổ, và ông phản bác lại quan niệm cho dân là loại u mê, mù quáng vì:

"Hướng về người nhân là dân

Chở hay lật thuyền cũng là dân"

(Chiếu làm bài " Hậu Tự Huấn" để răn bảo thái tử)

Trang 68

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

Mặt khác dân còn là sức mạnh tạo ra mọi của cải vật chất:

"Thường nghĩ quy mô lớn lao lộng lẫy đều là sức lao khổ cua quân dân"

(Chiếu truyền bách quan không đƣợc làm những lễ nghi khánh hạ)

Nhận định sâu sắc về dân nhƣ thế, chúng ta thấy rằng quan điểm của Nguyễn Trãi đã

vƣợt thời đại, ý nghĩa tích cực này đã đƣợc chứng minh bằng những thành tựu to lớn dƣới

thời kỳ lịch sử hƣng thịnh của triều đại nhà Lê về mặt kinh tế, văn hóa, giáo dục...

Là một "Danh nhân văn hóa" - Nguyễn Trãi đã đƣợc ngƣời đời ca tụng không những

về tƣ tƣởng tiến bộ, mà ngay cả những hành vi gƣơng mẫu, về mặt tinh thần chí cổng vô tƣ

của ông. Sức mạnh toát lên từ trong tƣ tƣởng của Nguyễn Trãi đã có sức thuyết phục, cảm

hóa mãnh liệt là lay chuyển đƣợc lòng ngƣời. Nguyễn Trãi sống trong thời gian mà Nho giáo

chiếm địa vị độc tôn, chi phối mọi quan hệ xã hội, nhƣng Nguyễn Trãi đã vƣợt ra khỏi khuôn

khổ, phát huy những mặt tích cực của Nho giáo và đề ra phƣơng châm xử thế thích đáng phù

hợp nhân tâm.

Những năm tháng sống và lớn lên cùng cha ở làng Nhị Khê và ông ngoại ở Dinh Tể

tƣớng, Nguyễn Trãi vừa học tập vừa giúp việc nhà, vừa tìm hiểu về đời sống thực tế nhân dân

qua những trăn trở của cha và ông ngoại, cả những năm tháng về sau khi phải lƣu lạc trong

nhân dân, chứng kiến trực tiếp muôn vàn nỗi khổ cực của dân, dƣới ách thống trị của bọn

cƣớp nƣớc và bán nƣớc, những vần thơ của ông nhƣ sống dậy tiếng nói cảm thƣơng đối với

nhân dân. Và cũng chính thảm cảnh đó đã làm cho ông thấm thía hơn cuộc đời lam lũ, khốn

khó của ngƣời dân hèn mọn. Cuộc sống gần gũi nhân dân, nhất là thời gian Nguyễn Trãi kề

vai, sát cánh bên họ chiến đấu với giặc càng làm cho ông nhìn ra nhiều mặt đáng quý ở họ.

Mặt khác tiếp thu tinh thần Nho học và thừa hƣởng tấm lòng nhân đạo ở cha và ông ngoại,

Nguyễn Trãi đã góp thêm một phần nhân đạo tiến bộ vào cái nhìn tha thiết yêu thƣơng trân

trọng đối với con ngƣời. Thực tế lịch sử và quá

Trang 69

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

trình lăn lộn trong chiến trƣờng kháng Minh đã giúp Nguyễn Trãi có cơ hội kiểm nghiệm

nhận thức bằng thực tế và rút ra nhiều điều lớn lao về thân phận ngƣời dân, về vai trò của họ

trong quá trình biến thiên của lịch sử, cũng nhƣ trong cuộc kháng chiến chống quân Minh lúc

bấy giờ; về quan hệ giữa dân và nƣớc, về ý thức quốc gia dân tộc.

Trƣởng thành từ nền giáo dục Nho học, thấy đƣợc những mặt hạn chế của nó, nhƣng

ông không đả kích vào những lễ giáo Nho gia. Trên cơ sở nền tảng đó, Nguyễn Trãi đã phát

huy đƣợc một nét rất tiến bộ là ông đã đề cao những luân lý, đạo đức Nho giáo gắn liền với

đạo đức dân tộc, sàng lọc những hạn chế của Nho giáo đối với con ngƣời và hƣớng con ngƣời

đến một lý tƣởng sống khoáng đạt, rộng mở.

Là một bậc trí giả của Nho giáo, tƣ tƣởng giáo dục của ông gắn liền với thời đại, ông

sở đắc với tƣ tƣởng trọng học, đề cao đạo học của các bậc thánh hiền Khổng, Mạnh...Chủ

trƣơng "Đức trị" gắn chật với giải pháp "Giáo hoa" của các bậc tiên Nho là một kinh nghiệm

quy báu của ông. Nguyễn Trãi là ngƣời kế thừa tích cực và là ngƣời xây nền, đắp móng đầu

tiên cho triều đại nhà Lê về mặt tƣ tƣởng tiến bộ. Tƣ tƣởng ấy bao giờ cũng gắn liền với thời

đại, những điều giáo huấn của ông tuy khoác áo Nho gia nhƣng bản chất đã khoáng đạt, rộng

mở hơn nhiều.

Trong quan điểm giáo dục của Nguyễn Trãi, chúng ta thấy thể hiện rõ tƣ tƣởng thời

đại. Nguyễn Trãi luôn đề cao hai chữ "yên dân" và muốn thực hiện đƣợc phải chú tâm làm

điều "nhân nghĩa". Tƣ tƣởng giáo dục của ông luôn đi cùng với cuộc sống. Xã hội Việt Nam

thế kỷ XV là thời kỳ quốc gia bƣớc vào giai đoạn khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục

kinh tế, văn hóa để xây dựng đất nƣớc. Vì vậy Nguyễn Trãi không thể không quan tâm đến

việc "trồng ngƣời". Việc giáo dƣỡng, đào tạo cực kỳ quan trọng đến mức nếu một triều đại

nào đó "không sửa sang tông miếu, không mở giảng võ đƣờng, không xây nhà học" thì sự sụp

đổ đã hiện rõ nhỡn tiền.

Trang 70

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

Tích cực trong sự nghiệp "trồng ngƣời", Nguyễn Trãi đã nghĩ đến kế sách lâu dài để

phát triển quốc gia, phát triển triều đại mà mình phụng sự. Do vậy con ngƣời đƣợc ông đào

tạo phải là con ngƣời dám dấn thân sống tích cực cho đời, hiếu hạnh, giàu lòng vị tha, chứa

chan tình ngƣời:

" Nhân nghĩa trung cần chứa tích ninh"

(Bảo kính cảnh giới - 4)

Nhận thức và khẳng định ý nghĩa chân chính của tƣ tƣởng đó, Nguyễn Trãi đã giáo

huấn mọi ngƣời rèn luyện theo phƣơng châm ấy. Đối với Nguyễn Trãi chƣa bao giờ ông nghĩ

rằng tài sản quy giá để lại cho con cháu đời sau là của cải vật chất, tâm nguyện của ông là

làm sao trao truyền kinh nghiệm, trao truyền đạo đức truyền thống từ trong gia đình cho đến

ngoài xã hội, khiến cho mọi nhà thấm nhuần tinh thần nhân nghĩa, ý thức trung cần và tạo

đƣợc nề nếp truyền thống, mang bản sắc văn hóa dân tộc. Nguyễn Trãi truyền cho đời sau cái

đạo đức làm ngƣời giữa cộng đồng, một ý thức xây dựng cuộc sống mang đậm tinh thần nhân

văn cao đẹp:

"Đản hỷ cung cơ tồn cựu nghiệp,

Truyền gia hà dụng mãn doanh kim"

(Mạn thành - 1)

Dịch nghĩa

"Còn mừng có nghiệp cũ cung cơ để lại

Chứ không cần truyền được một rương đầy vàng."

Nguyễn Trãi đã nêu lên nhiều khiá cạnh của cuộc sống từ quan hệ vua tôi, cha con,

chồng vợ, xóm giềng, đồng bào cốt nhục..., đƣa ra nhiều mặt tốt để học tập, đổng thời cũng

nêu lên những mặt xấu để con ngƣời khắc phục, sửa đổi, nhƣng phƣơng châm đạo làm ngƣời

mà ông đƣa ra vẫn là nhân nghĩa, trung cần".

''Trung cần há nở trại cân xưng

Nhiều thánh hiền xưa kiếp đã từng"

(Bảo kính cảnh giới - 61)

Trang 71

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

Tƣ tƣởng thời đại trong quan niệm giáo dục của Nguyễn Trãi còn là ý thức giáo dục

con ngƣời luôn hƣớng về cội nguồn dân tộc, hƣớng về nhân dân, những điều nhân nghĩa và

những việc làm vì đời sống an lành của nhân dân. Quan điểm giáo dục của Nguyễn Trãi là sự

tiếp thu, kế thừa và phát triển một truyền thống lớn trong lịch sử tƣ tƣởng nƣớc Đại Việt, mặt

khác lại khẳng định tinh thần của thời đại ông một cách sâu sắc.

Trong một bài thơ mừng Nguyễn Trãi làm chức Gián Nghị Đại Phu, Nguyễn Mộng

Tuân cũng nói lên ý của chính Nguyễn Trãi về lý tƣởng giáo dục của ông.

"Bạch phát chỉ nhân thiên hạ lự,

Thanh trung lưu dữ tử tôn truyền."

Dịch nghĩa:

''Tóc đã bạc mà còn bận tám lo việc chung,

Chỉ cố tấm lòng trung "trong trắng" truyền lại cho con cháu về sau"

Theo quan niệm truyền thống, ngƣời tài đức là ngƣời có nhân nghĩa. "Nhân nghĩa"

vốn là những khái niệm của Nho giáo có nội dung đạo đức gắn liền với quyền lợi của giai cấp

phong kiến. Nhƣng dƣới ngòi bút của Nguyễn Trãi, nhân nghĩa có nội dung lịch sử cụ thể, đó

là bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nhân dân, chống xâm lƣợc, chống bóc lột. Tƣ tƣởng nhân nghĩa

của Nguyễn Trãi bắt nguồn từ những giá trị đạo đức ấy:

"Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo."

(Bình Ngô đại cáo)

Tƣ tƣởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là sự kết tinh từ những tƣ tƣởng tiến bộ, những

giá trị tinh thần văn hóa cao đẹp của dân tộc từ buổi đầu dựng nƣớc và giữ nƣớc cho đến thế

kỷ XV. Tƣ tƣởng nhân nghĩa đƣợc Nguyễn Trãi vận dụng thành công và phát triển rực rỡ

trong thực tiễn chiến đấu thời khởi nghĩa Lam

Trang 72

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

Sơn giải phóng đất nƣớc mà bản thân Nguyễn Trãi đã từng gắn bó, tạo nên một bƣớc tiến mới

trong lịch sử tƣ tƣởng dân tộc. Với Nguyễn Trãi quan niệm đạo đức truyền thống đƣợc trình

bày một cách toàn diện và theo một hệ thống nhất định.

Điều đặc biệt quan trọng trong tƣ tƣởng của Nguyễn Trãi khi nói đến dân, là tấm lòng

nhân hậu của Nguyễn Trãi nhƣ rộng mở về mọi tầng lớp lao khổ, đó là những dân đen, con

đỏ đang bị "nướng trên lò bạo ngược" đang bị "hãm dưới hố tai ương", là tứ phƣơng "manh

lệ" đã về tụ nghĩa ở Lam Sơn, đã nổi dậy ở khắp nơi để hƣởng ứng, ủng hộ, hoặc trực tiếp

chiến đấu dƣới ngọn cờ của Lê Lợi. Chính nhận thức đúng vai trò của nhân dân trong đời

sống xã hội và là yếu tố quan trọng quyết định sự biến thiên của lịch sử, Nguyễn Trãi đã đặt

nhân dân ở tầm cao, trân trọng và đề cao họ đúng giá trị con ngƣời:

"Phúc chu thủy tín dân do thủy"

(Quan hải)

Dịch nghĩa:

"Lật thuyền mới rõ sức dân như nước"

Nhận thức ấy đã vƣợt lên mọi suy nghĩ về dân trƣớc kia và là một nhận định sâu sắc

trong tầm thời đại, mặt khác còn thể hiện một tinh thần dân chủ ở mức độ cao trong thời kỳ

của chế độ phong kiến lúc bấy giờ. Tƣ tƣởng về dân của Nguyễn Trãi chứa đựng một tinh

thần nhân văn cao đẹp không tách rời tinh thần nhân đạo, một nhân tố vô cùng quan trọng

trong tƣ tƣởng truyền thống dân tộc. Ông không tách rời tình cảm yêu thƣơng của mình đối

với con ngƣời và cuộc sống. Quan niệm giáo dục của Nguyễn Trãi là một phần trong hoài

bão dựng nƣớc của ông. Một ƣớc mơ có "quốc phú, binh cường", có "văn trị", một xã hội có

"vua sáng tôi hiền" và mọi phép nhà nƣớc phải thuận lòng dân để cho "trong thôn cùng xóm

vắng không có tiếng hờn giận oán sầu". Ƣớc mơ đó là hình ảnh của một xã hội lý tƣởng thời

vua Hùng theo truyền thuyết "Vua tôi cùng cày,

Trang 73

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

không đắp bờ chia ranh giới, không phân ra uy quyền, đẳng cấp, không biết giặc cướp,

không ai xâm lấn ai, mọi người gần gũi, yêu thương nhau, nền nếp ấy kéo dài mấy nghìn năm

vẫn y nguyên như một", Ƣớc mơ hay lý tƣởng của Nguyễn Trãi xuất phát từ thực trạng xã

hội, thời đại mà ông đang sống và phụng sự đã bắt đầu có những rạn nứt.

Nguyễn Trãi đã trở thành nhân vật kiệt xuất trong lịch sử Việt Nam thế kỷ XV, tuy

sống dƣới chế độ phong kiến, chịu sự chi phối mạnh mẽ của ý thức hệ tƣ tƣởng Nho giáo,

nhƣng Nguyễn Trãi đã có một bản lĩnh vững vàng, một tƣ duy độc lập, sắc sảo và nhạy bén,

ông đã biết nhận định ra lẽ phải, tìm đƣợc những giá trị "chân, thiện, mĩ" qua ý thức hệ lúc

bấy giờ. Chọn lọc những tinh hoa của các học thuyết Nho - Phật - Lão, kết hợp nhuần nhuyễn

chủ nghĩa anh hùng với chủ nghĩa nhân đạo của dân tộc, tạo ra một tƣ tƣởng rộng mở, khoan

dung thấm đƣợm tinh thần dân tộc. Mặt khác Nguyễn Trãi cũng không thể thoát ly môi

trƣờng, hoàn cảnh mình đang sống, không thể đoạn tuyệt với tất cả những khuôn khổ của chế

độ phong kiến của Nho giáo và càng không thể tách mình ra khỏi truyền thống dân tộc... Tiếp

thu, học tập và phát huy - Nguyễn Trãi đã tự khẳng định vai trò độc lập của bản thân mình

trong tiến trình phát triển của lịch sử, ông đã dần dần tìm ra lối thoát cho mình giữa những

quy phạm khắt khe của chế độ phong kiến. Đƣa ra luận điểm "nhân nghĩa" trƣớc hết phải

"yên dân" và hƣớng về dân là những "dân đen con đỏ", những "manh lệ", Nguyễn Trãi đã đạt

đến đỉnh cao của lịch sử tƣ tƣởng văn hóa Đại Việt thế kỷ XV. Tƣ tƣởng của ông luôn sống

trong lòng dân tộc, sức mạnh tinh thần nhƣ mãi vang vọng trong mỗi con ngƣời khi bắt gặp

tƣ tƣởng tiến bộ vƣợt thời đại của ông.

III. Nội dung giáo dục con ngƣời trong tơ văn Nguyễn Trãi

1. Đối tƣợng giáo dục

Giáo dục là vấn đề của con ngƣời, thì đối tƣợng trƣớc tiên chính là con ngƣời. Trong

xã hội phong kiến những con ngƣời đóng vai trò quan trọng trị

Trang 74

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

nƣớc, chăn dân là các bậc vua chúa, sau đó là hàng ngũ quan lại thừa hành. Còn ở gia đình thì

từ các bậc cha mẹ đến con cháu cũng là đối tƣợng giáo dục, tuy theo từng giai đoạn lịch sử xã

hội khác nhau. Nguyên lý giáo dục là nhằm rèn luyện tài đức cá nhân, từ việc rèn luyện đạo

đức cá nhân mỗi ngƣời tiến tới biết cách quản trị gia đình, quản trị quốc gia. Nói tóm lại

nguyên lý giáo dục là làm sao cho con ngƣời có ích cho gia đình và xã hội. Nhƣng mỗi thời

đại, mỗi tƣ tƣởng ở một góc độ nào đó đi vào xu hƣớng tích cực, phóng khoáng, thuận nhân

tâm, ích quốc gia, hoặc cũng có thể đi đến cực đoan, nguyên nhân gây trì trệ cho sự phát triển

của đất nƣớc.

Đối tƣợng giáo dục trong thơ văn Nguyễn Trãi rất phong phú bao gồm tầng lớp vua,

quan cho đến nhân dân lao động.

2. Nội dung giáo dục con ngƣời trong thơ văn Nguyễn Trãi

2.1. Giáo dục con người trong đấu tranh dựng nước, giữ nước.

Trải qua các triều đại phong kiến Việt Nam, lịch sử đã chứng minh đƣợc rằng bất cứ

dƣới triều đại nào nhân dân cũng là sức mạnh làm nên mọi biến thiên của lịch sử. Tuy nhiên

việc nhìn nhận và đánh giá đứng mức vai trò của họ chỉ đến Nguyễn Trãi mới thật sự tròn vẹn

và đạt đến đỉnh cao của thời đại. Nguyễn Trãi đã tiếp thu truyền thống dân tộc, xem dân là

thành phần hữu cơ trong mối quan hệ dân - nƣớc, nghĩa là dân gắn với nƣớc. Chính vì thế

ông muốn xây dựng một bộ máy Nhà nƣớc mà giai cấp thống trị phải biết lo cho dân; chăm lo

cho dân nhƣ chăm lo cho chính bản thân mình. Bắt nguồn từ nguyên lý giáo dục của Khổng

Tử đƣợc nêu lên trong sách Đại học "Cách vật, trí tri, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc,

bình thiên hạ"(Hiểu biết sự vật, ngay thẳng sửa mình, sắp xếp việc nhà, sửa sang việc nƣớc,

cai quản thiên hạ). Nhƣ vậy việc giáo dục quan trọng nhất là giáo dục các bậc bề trên. Nhân

dân ƣớc ao có vua sáng, tôi hiền và trƣớc hết vua sáng phải là vị vua biết tự đổi mới để tiến

bộ. Nhƣng điều quan trọng là đòi hỏi vua sáng phải có tôi hiền, bởi tôi hiền giúp cho vua rất

nhiều

Trang 75

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

trong việc trau dồi đạo đức. Một tác giả khuyết danh dƣới đời nhà Trần đã đƣa ra một nguyên

lý giáo dục các bậc bề trên bằng cách đƣa tinh thần câu nói "Cẩu nhật tân, nhật nhật tần, hưu

nhật tân" (Nếu ngày ngày đổi mới, thì ngày ngày sẽ mới và mới mãi) vào bài phú của mình.

Cùng thời Nguyễn Trãi, Nguyễn Mộng Tuân cũng làm bài thơ về "Cái Chậu Vua Thang",

trong đó ông nhắc nhở nhà vua về việc luôn luôn trau dồi đạo đức: 'Tảo đức tòng tri hưu nhật

tàn" (Có tắm đức mới biết ngày lại đổi mới), tự sửa đổi mới có tiến bộ, có tiến bộ thì dân mới

tin tƣởng ủng hộ: "Mậu chiêu tự thị dân chương tín" (Cố gắng cho đức sáng thì dân mới tin).

Trên tinh thần đó Nguyễn Trãi xem việc giáo dục vua và các quan là một việc quan

trọng có ý nghĩa và thật sự khó khăn. Trong tƣ tƣởng của Nguyễn Trãi - ông muốn xây dựng

một đất nƣớc có "vua ra vua", cũng phải có giáo dục đào tạo, rèn luyện về mặt đạo đức, bởi

vua là một ngƣời không những đại diện cho cả một quốc gia để tiếp xúc ngoại giao với các

nƣớc láng giềng, mà còn là ngƣời "biết kế thuật tạo phúc cho nhân dân". Nền tảng tƣ tƣởng

Nguyễn Trãi nêu lên bắt nguồn từ truyền thống đạo đức dân tộc đã đƣợc hình thành trong quá

trình phát triển của lịch sử, một qua trình hòa nhập, tiếp thu và chọn lọc những tinh hoa các

tƣ tƣởng triết học phƣơng Đông - Nho - Phật - Lão - và tín ngƣỡng tôn giáo bản địa. Một tƣ

tƣởng mang tính nhân đạo phóng khoáng rộng mở. Tƣ tƣởng giáo dục của Nguyễn Trãi đã

vƣợt lên trên những quy phạm của đạo đức phong kiến, tiếp cận với nền đạo đức hiện đại của

dân tộc. Đề cập đến vấn đề đạo đức của giai cấp thống trị, những kẻ quyền thế, Nguyễn Trãi

luôn nhắc nhở lòng yêu nƣớc, thƣơng dân ở họ. Ông luôn tự tìm cách khuyên răn nhà vua

một cách kín đáo:

"Vạn cổ bất ma kim giám lục"

(Thiều Châu Văn Hiến miếu)

Dịch nghĩa:

"Muôn đời chẳng mờ đục chiếc gương vàng"

Trang 76

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

Tƣ tƣởng yêu nƣớc, thƣơng dân, muốn chăm lo đời sống cho nhân dân đƣợc ấm no

hạnh phúc, Nguyễn Trãi muốn vị vua đứng đầu quốc gia phải luôn soi mình trong chiếc

gƣơng để tự thấy những điều đáng chăm lo và bỏ đi những tật xấu. Hãy vì dân, vì nƣớc mà

sửa mình. Tƣ tƣởng "trung quân, ái quốc" của ông đã vƣợt lên tầm cao mới, nó không còn là

sự "trung quân" cực đoan Nho giáo chính thống. Sự "trung quân" của Nguyễn Trãi trƣớc hết

là tình yêu thƣơng nhân dân, yêu thƣơng những kiếp ngƣời đau khổ, những "manh lệ",

"thƣơng sinh", "xích tử", những nông nô, nô tỳ, họ là "dân mọn các làng", "trong thôn cùng

xóm vắng". Thấy đƣợc nỗi khổ của họ, đồng cảm với họ, Nguyễn Trãi mới thể hiện lòng

"trung quân" là giúp vua làm sao cho nhân dân thoát khỏi cảnh "sinh linh đồ thán". Nguyễn

Trãi đã hƣớng giai cấp thống trị về lý tƣởng thân dân, rút khoảng cách giữa nhân dân và giai

cấp thống trị ngày càng ngắn lại. Ông giáo dục những kẻ cầm quyền, không đƣợc "cậy mình

giàu, mặc dân khốn khổ" mà "phải lấy điều lo của dân làm điều lo thiết kỷ" (Chiếu cấm các

quan đại thần, tổng quản tham lam lƣời biếng), khiến cho "dân giàu đủ khắp bốn phƣơng"

(Trần tình - 7). Nguyễn Trãi đã giáo dục và đòi hỏi vua và các quan phải lấy "lòng nhân

nghĩa" làm đầu.

Giáo dục giai cấp thống trị Nguyễn Trãi luôn lấy dân làm điểm tựa cho họ phấn đấu.

Theo ông dân là sức mạnh, là trung tâm của mọi hoạt động xã hội. Vì vậy muốn "bình thiên

hạ" trƣớc hết phải "lấy điều lo của sinh dân làm điều lo của mình" (Chiếu về việc làm bài

"Hậu Tự Huấn" để răn dạy Thái Tử), chăn dắt muôn dân không để mất lòng dân.

"Đem dân mựa nữa mất lòng dân"

(Bảo kính cảnh giới - 57)

Yên dân là cốt lõi trung tâm của nhân nghĩa, nhƣng nhân nghĩa cũng còn quán triệt

vào trong thái độ đối với quân thù:

Trang 77

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

"Lấy đại nghĩa thắng hung tàn

Lấy chí nhân mà thay cường bạo"

(Bình Ngô đại cáo)

Nguyễn Trãi đã tiếp thu và phát huy một nét đặc sắc trong tính cách tâm hồn Việt

Nam là chủ nghĩa anh hùng kết hợp với chủ nghĩa nhân đạo, quyết chiến, quyết thắng mà

không hiếu chiến, hiếu sát và luôn luồn thiết tha với hòa bình.

Sống vì dân, thƣơng yêu dân cũng có ý nghĩa là dẹp bỏ lợi ích cá nhân "không đến nỗi

lấy điều muốn của một người mà cưỡng ép nghìn muôn người không muốn phải theo để làm

phép hay của một đời" (Chiếu bàn về phép tiền tệ). Nguyễn Trãi đã giáo dục nhà vua sống

theo châm ngôn "Tiên thiên hạ chi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc" nghĩa là lo trƣớc cái lo

của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ.

"Chuyên đọc Điển phần, chí những muốn việc cổ nhàn đã muốn

Để tâm dân chúng, mình trước lo điều thiên hạ phải lo"

(Biểu tạ ơn)

Sống vì dân, vì nƣớc mà hành động, ông muốn triều đình không nên quá nặng nề sƣu

thuế và trừng phạt mà chỉ nên chăm lo làm sao cho dân làm tốt, học giỏi. Trƣớc cảnh đói khổ

của nhân dân, ông đã có lúc nổi giận và bảo vào mặt bọn triều thần "Sở dĩ có tai nạn ấy chính

là tự lũ các ông. Các ông chỉ là đồ thích sưu cao thuế nặng vơ vét của dân cho nhiều", Về

hình phạt, ông không đồng ý việc trừng trị bằng biện pháp cực hình, chém một lúc bảy tên mà

theo ông, nhà vua phải lấy nhân nghĩa làm chính, xây dựng pháp luật và chế độ trên cơ sở

thƣơng yêu nhân dân, nhận thức đƣợc vai trò và sức mạnh của nhân dân trong sự nghiệp kiến

quốc:

"Phúc chu thúy tín dân do thủy"

(Quan hải)

Trang 78

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

Dịch nghĩa:

"Lật thuyền mới rõ sức dân như nước"

Truyền thống giáo dục đạo đức của dân tộc từ xƣa là giáo dục con ngƣời "Uống nƣớc

nhớ nguồn", "Ăn quả nhở kẻ trồng cây", ý thức đƣợc việc ghi ơn ngƣời đã làm ra những gì tốt

đẹp cho mình, thế nên Nguyễn Trãi đã khắc sâu vào tâm trí những điều nhân nghĩa đó và

không dừng lại ở việc khuyên răn nhà vua, quan lại thƣơng yêu nhân dân mà còn phải biết

trân trọng, giữ gìn ghi ơn nhân dân và chính bản thân những vị thế tử phải hiểu đƣợc cội

nguồn của những kết quả mà mình thừa hƣởng hôm nay:

"Hưởng điều sung sướng thì nghĩ đến công tích lũy của tổ tông"

(Chiếu giáng Tƣ Tề làm quận vƣơng đặt Nguyên Long nối nghiệp)

Bên canh việc giáo dục tinh thần yêu nƣớc, thƣơng dân, lấy dân làm gốc, Nguyễn Trãi

còn giáo dục vua và các quan những giá trị đạo đức khác nữa, ấy là cƣơng trực, liêm khiết,

bình dị. Tính cƣơng trực của một ngƣời là luôn giữ lòng ngay thẳng, kẻ quyền thế không

nghe lời xu nịnh, sàm tấu của bọn tiểu nhân mà phải quyết đoán, suy xét, "trị dân phải theo

phép nƣớc công bằng"

"Tội ai cho nấy cam danh phận,

Chớ có thân sơ mới trượng phu."

(Bảo kính cảnh giới - 25)

Một vị vua anh minh thể hiện ở việc chọn "hiền tài" và coi ngƣời nhƣ chính bản thân

mình để từ đó "nghe can gián, ra một chính sách, một mệnh lệnh, phát một lời nói, một việc

làm đều giữ chính trung" (Chiếu về việc làm bài "Hậu Tự Huấn" để răn bản thái tử). Ngƣời

cƣơng trực là ngƣời biết lắng nghe và phán xét ý kiến của ngƣời khác, xem việc ngƣời khác

đóng góp ý kiến xây dựng cho mình là điều tốt. Nguyễn Trãi đã từng nhắc nhở nhà vua giữ

lòng cƣơng trực "chớ nghe sàm nịnh mà bỏ lời trung thực, chở dùng tân tiến mà bỏ cựu thần"

(Chiếu giáng Tƣ Tề làm quận vƣơng đặt Nguyên Long nối nghiệp). Và trong

Trang 79

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

suốt cuộc đời chiến đấu xây dựng quốc gia, Nguyễn Trãi bao giờ cũng mong mõi nhà vua hãy

chú ý đến sự công bằng mà đối xử:

"Ba xuân thì được chín mươi ngày.

Sinh vật lòng trời chẳng tây"

(Thơ tiếc cảnh - 11)

vì khắp gầm trời, cuối đất đâu đâu cũng dƣới quyền nhà vua:

"Đâu đâu cũng chịu lệnh đông quân,

Nào chốn nào chăng gió xuân ?"

(Thơ tiếc cảnh - 13)

Trong chốn quan trƣờng lắm điều thị phi, Nguyễn Trãi nhắc nhở nhà vua rằng trong

triều còn có những bề tôi cũ có phẩm chất đạo đức tốt, có tâm huyết với cuộc đời có thể giúp

nhà vua sửa sang việc nƣớc, giống nhƣ trong "vườn còn hoa trúc cũ" mà " trồi thức tốt lạ

mười phân".

"Huống lại vườn còn hoa trúc cũ;

Trồi thức tốt lạ mười phân."

(Thơ tiếc cảnh - 13)

Con ngƣời cƣơng trực sẽ gắn liền với lối sống liêm khiết, bình dị, Nguyễn Trãi đã

giáo dục các quan lại giữ gìn và tu dƣỡng đạo đức, phải sống thật sự là ngƣời "công bộc của

nhân dân", không đƣợc làm những việc tổn hại đến nhân dân, Nguyễn Trãi khuyên các quan

"không làm những lễ nghi khánh hạ" tổn hao tiền của công sức của nhân dần. Đạo đức cƣơng

trực nơi một vị quan là ở chỗ đối nhân xử thế ở đời "thờ vua hết trung, đối dân hết hòa, đổi

bỏ thói tham ô, sửa tệ lười biếng" (Chiếu cấm các quan đại thần, tổng quản tham lam lƣời

biếng). Đối với Nguyễn Trãi kẻ làm quan phải là ngƣời tận tụy vì dân, vì nƣớc, biết giữ khí

tiết "lƣng không uốn, lộc nên từ".

"Ăn lộc nhà quan chiu việc quan.

Chớ tham tiểu lợi phải gian nan"

(Bảo kính cảnh giới - 17)

Trang 80

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

Chứng kiến những cảnh xa hoa lãng phí của vua, quan triều đình phong kiến, với

những đền đài uy nghi tráng lệ, tổn phí sức lực của nhân dân, cạn kiệt ngân khố quốc gia,

Nguyễn Trãi đã lên tiếng khuyên răn con ngƣời hƣớng về cuộc sống bình dị, sống vì dân, vì

nƣớc. Một cuộc sống đạm bạc nhƣng chứa chan tình ngƣời.

"Bữa ăn dầu có dưa muối,

Áo mặc nài chi gấm là."

(Ngôn chí - 3)

Đời sống giản dị và chăm lo lao động là hai yếu tố quyết định nhân cách con ngƣời,

một con ngƣời giản dị nhƣng vĩ đại. Lịch sử đã chứng minh các "vua Nghiêu", "vua Thuấn"

là những ngƣời giản dị, lão thực, sống gần gũi trong nhân dân, lấy niềm vui của dân làm niềm

vui của mình, lấy cái lo của dân làm cái lo của mình. Họ sống một cuộc đời hòa lẫn với nhân

dân và thiên nhiên, và Nguyễn Trãi cũng rất có lý khi khuyên họ sống một cách giản dị hết

mực.

"Hài cỏ đẹp chân đi đủng đỉnh,

Áo bô quen cật vận xềnh xoàng."

(Tức sự - 4)

Quan niệm của Nguyễn Trãi cho rằng một vị minh quân sẽ lo cho dân có cuộc sống

thanh bình ấm no. Một xã hội công bằng thì kẻ cầm quyền phải sống liêm khiết thiết diện vô

tƣ để tạo hồng phúc cho muôn dân, và là nơi mà dân đặt trọn niềm tin yêu vào đó. Trong xã

hội phong kiến những quan niệm trên tuy có phần không tƣởng nhƣng lại xuất phát từ tấm

lòng yêu nƣớc thiết tha, một tấm lòng "thƣơng sinh tại niệm".

Giáo dục nhân cách vua và các quan, Nguyễn Trãi đã nêu ra vấn đề giới sắc để răn

dạy. Ông đƣa ra một lời cảnh tỉnh lý trí của các bậc "phụ mẫu' nhân dân:

Trang 81

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

"Sắc là giặc, đam làm chi!

Thuở trọng còn phòng có thuở suy,"

(Giới sắc)

Đã là ngƣời quân tử, một đấng chí tôn quyền cao chức trọng, vị thiên tử cần phải

chiến thắng đƣợc những ham muốn cá nhân, bỏ điều riêng tƣ mà lo vì thiên hạ:

"Tửu sắc là nơi nghiệp há chừa.

Thế sự trai yêu thiếp mọn;

Nhân tình gái nhớ chồng xưa.

Chẳng say chẳng đắm là quân tử;

Người hiểm lòng thay! hãy sá ngờ."

(Bảo kính cảnh giới - 52)

Không chỉ giáo dục kẻ thống trị đƣơng thời, Nguyễn Trãi còn chăm lo giáo dục vào

thế hệ kế tục. Ông quan niệm giáo dục con ngƣời, mà nhất là ngƣời cầm quyền, lãnh đạo thì

phải kèm cặp uốn nắn từ bé, rèn dƣỡng tạo nền tảng đạo đức tốt đẹp cho nhân cách cá nhân

phát triển sau này. Ông đƣa ra quan điểm:

"Phàm những vị vua kế vị được chăn nuôi sung sướng thường không lập chí. Nếu

không dạy từ đầu, răn từ trước khiến cho biết sợ, giữ gìn, cảm kích hăng hái, thì sao hay hết

đạo kế thuật để tạo phúc cho nhân dân"

(Chiếu về việc làm bài "Hậu Tự Huấn" để răn bảo Thái tử")

Đối với Nguyễn Trãi việc giáo dục nhân cách của các vị vua quan là một việc vồ cùng

quan trọng. Nhƣng triều đình đã đƣợc chấn chỉnh, mà biên ải không ai canh giữ thì sao? Vì

thế Nguyễn Trãi đã coi việc giáo dục tài trí ngƣời làm tƣớng biết "tuy cơ ứng biến", "thiên

biến vạn hóa" trên chiến trƣờng là một trong những quan điểm cơ bản trong sự nghiệp xây

dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ông luôn

Trang 82

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

đề cao ngƣời anh hùng phải là ngƣời nhân nghĩa, tài trí. Ông coi nhân nghĩa là gốc, tài trí là

cành. Theo ông tài trí thể hiện ở quân sự là quyền mƣu và "quyền mƣu vốn dùng để trừ gian"

ngƣời anh hùng là ngƣời:

"Bởi, biết người, biết mình, hay yếu hay mạnh,

Đợi thời cơ, chờ dịp,

Giấu sắc, giấu tài."

(Phú núi Chí Linh)

và ngƣời anh hùng có nhân, có nghĩa, có tài trí thì phải biết dũng cảm đứng lên trừ bạo "trừ

độc, trừ tham, trừ bạo ngƣợc" thì mới thật sự là ngƣời anh hùng.

Giáo dục bậc thiên tử, quan lại, ngƣời anh hùng theo một lý tƣởng yêu nƣớc, thƣơng

dân, chăm lo vì hai chữ "yên dân", "trừ bạo", sống trong dân và vì dân thì mục đích cuối cùng

mà Nguyễn Trãi muốn đạt đến không phải là tạo ra nhiều "bậc thánh hiền" mà chỉ muốn

những đạo đức "thánh hiền" ấy tạo phúc cho muôn dân:

"Mới sự đã chăng còn ước nữa,

Nguyện xin một thấy thuở thăng bình"

(Tự thán - 37)

Giáo dục đạo đức cho con ngƣời đến với những giá trị nhân cách đạo đức cao đẹp. Lý

tƣởng của Nguyễn Trãi là ƣớc mơ xây dựng một xã hội thái bình thịnh trị mà " trong thôn

cùng xóm vắng không có tiếng hờn giận oán sầu". Cho nên ông chú trọng đến việc giáo dục

giai cấp thống trị, tầng lớp điều hành mọi hoạt động chính trị xã hội của quốc gia. Tƣ tƣởng

giáo dục của Nguyễn Trãi tuy bắt nguồn từ hệ tƣ tƣởng Nho giáo chính thống nhƣng rất rộng

mở, nó không phải là những khuôn khổ chật hẹp, gò bó con ngƣời nhƣ hệ thống tƣ tƣởng Nho

giáo đƣa ra. Đối với từng đối tƣợng tiếp nhận mà ông có cách khuyên bảo, giáo dục khác

nhau, nhƣng kết quả cuối cùng vẫn là phấn đấu làm cho cuộc sống

Trang 83

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

ngày một đẹp hơn, hạn chế đi những bất công, phân biệt giữa các giai cấp. Một xã hội tốt đẹp

mà Nguyễn Trãi đặt ra không chỉ do ngƣời cầm quyền, lãnh đạo, kiến thiết tài đức tạo nên,

mà còn do cả sức mạnh của bản thân mỗi con ngƣời cá nhân tồn tại trong xã hội ấy. Chính vì

thế Nguyễn Trãi đã chú trọng đến việc giáo dục cuộc sống đạo đức của nhân dân. Dạy con

không phải vì bắt buộc mà vì tình yêu thiêng liêng của mỗi gia đình, của ƣớc mong ngƣời

làm cha mẹ. Nguyễn Trãi quan niệm:"Truyền ngôi là việc lớn của quốc gia; Dạy con là chí

tình trong thiên hạ "(Chiến giáng Tƣ Tề làm quận vƣơng đặt con thứ là Nguyên Long nối

nghiệp)

Con ngƣời là trung tâm của sự sống, của những mối quan hệ xã hội, vì vậy trong

những hoàn cảnh xã hội khác nhau, ứng xử xã hội của con ngƣời sẽ thay đổi. Do đó những

mặt tốt và mặt xấu của con ngƣời sẽ đƣợc hình thành và phát triển. Chính vì thế con ngƣời

cần phải đƣợc rèn luyện và giáo dục về ý thức đạo đức, nhân cách bản thân để sống đẹp hơn

giữa cộng đồng. Sức mạnh "uốn nên hình" ấy chính là sự nuôi dƣỡng đúng, một công phu

nuôi dƣỡng có dạy bảo. Đối mặt với sự phức tạp của cuộc sống, con ngƣời phải đối phó cùng

một lúc giữa lợi, nghĩa, đƣợc, mất, mừng, thƣơng...

"Đạo đức hiền lành được mọi phương.

Tự nhiên cả muốn chúng suy nhường.

Lợi than hết lấy, nhiều thì cạnh;

Nghĩa phải đem cho, ít chẳng phường.

Sự thế sá phòng khi được mất;

Lòng người tua đoán thuở mừng thương.

"Chẳng nhàn" xưa chép lấy lời truyền bảo,

Khiến chớ cho quan một đạo thường."

(Bảo kính cảnh giới - 1)

Trang 84

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

Nêu lên nhiều khía cạnh của cuộc sống, nhiều mặt tốt cần học tập, nhiều mặt xấu cần

phải khắc phục, Nguyễn Trãi đã nhấn mạnh phƣơng hƣớng chung cần phải phấn đấu, phải đạt

đƣợc là bốn chữ "nhân, nghĩa, trung, cần"

"Nhân nghĩa trung cần chứa tích ninh"

(Bảo kính cảnh giới - 4)

Là một con ngƣời chí công vô tƣ, tấm lòng nhân ái rộng mở, Nguyễn Trãi sống một

đời sống thanh bạch, giản dị, vƣợt lên bất cứ hạng nhà Nho tầm thƣờng nào. Lòng nhân ái

của Nguyễn Trãi đã chi phối toàn bộ tƣ tƣởng giáo dục của ông. Thừa hƣởng và tiếp thu

truyền thống thân dân của những ngƣời đi trƣớc nhƣ Lý Thƣờng Kiệt, Trần Quốc Tuấn,

Nguyễn Trãi đã phát huy sức mạnh của tính nhân dân sâu sắc, đó là đạo lý làm ngƣời, lòng

nhân ái cảm thông với những ngƣời cùng khổ. Với Nguyễn Trãi muốn sửa sang việc đời

trƣớc hết phải sửa sang con ngƣời, mà trƣớc mắt là giáo dục con ngƣời ngày một đẹp hơn.

Nguyễn Trãi đã giáo dục tình yêu thƣơng con ngƣời với con ngƣời trong tinh thần cộng đồng

dân tộc.

"Đồng bào cốt nhục nghĩa càng bền,

Cành bắc cành nam một cỗi nên.''

(Bảo kính cảnh giới -15)

Truyền thống đạo lý Việt Nam từ xƣa đã đƣợc gói gọn trong những câu ca dao tục

ngữ nhƣ những dòng sữa ngọt ngào mà từ khi lọt lòng mẹ mọi ngƣời đã đƣợc thừa hƣởng:

"Nhiễu điều phủ lấy giá gương

Người trong một nước phải thương nhau cùng"

(Ca dao)

Trang 85

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

Hay:

"Bầu ơi thương lấy bí cùng

Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn"

(Ca dao)

Tiếp thu và vận dụng ý nghĩa đó, Nguyễn Trãi đã giáo dục mọi ngƣời phải đối nhân

xử thế làm sao cho hoa thuận, nhƣờng nhịn nhau, đoàn kết gắn bó với nhau. Có nhƣ vậy mới

tạo ra đƣợc sức mạnh đoàn kết trong nhân dân. Nguyễn Trãi bảo cho mọi ngƣời sự nhƣờng

nhịn xuất phát từ lòng nhân ái, vị tha.

'' Ở thế nhịn nhau muôn sự đẹp,

Cương nhu cùng biết hết hai bên"

(Bảo kính cảnh giới - 15)

Căn cứ vào mệnh đề "nhân, trí, dũng" của Nho giáo, Nguyễn Trãi đã nói lên quan

điểm của mình. Phàm là ngƣời thì việc "nhân nghĩa" trƣớc tiên phải thực hiện đƣợc, không

phải mới sinh ra đã có lòng nhân nghĩa. Nhân nghĩa theo Nguyễn Trãi là lòng thƣơng ngƣời,

thƣơng dân, có trách nhiệm với ngƣời, với dân mà trừ kẻ hung bạo làm hại dân.

Trong tƣ tƣởng giáo dục của Nguyễn Trãi, ý thức giáo dục lòng yêu nƣớc, yêu quê

hƣơng làng mạc, yêu đồng bào, lòng tự hào dân tộc với bao truyền thống rạng rỡ cũng đã

đƣợc thể hiện qua hàng loạt tác phẩm. Từ trong tập nghị luận chiến đấu "Quân trung từ mệnh

tập" qua "Dƣ địa chí", "Chí Linh sơn phú", "Chuyện cũ về Băng Hồ tiên sinh"..., tất cả điều

chứa chan ý thức chủ quyền độc lập dân tộc, lòng yêu nƣớc, thƣơng dân sâu thẳm. Những

áng văn đó đã khơi gợi lên truyền thống yêu nƣớc, thƣơng ngƣời và ý thức độc lập dân tộc

của nhân dân Việt Nam. Sức mạnh của sự hòa điệu tâm hồn, đoàn kết nhất trí để quân và dân

ta son sắt thủy chung gắn bó với nhau trong thời bình xây dựng phát triển kinh

Trang 86

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

tế, cũng nhƣ trong chiến tranh chống quân xâm lƣợc:

"Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phất phới.

Tướng sĩ một lòng phụ tử hòa nước sông chén rượu ngọt ngào"

(Bình Ngô đại cáo)

Tóm lại giáo dục truyền thống dân tộc ta là một trong những yếu tố cơ bản nhằm

khẳng định lòng tự hào dân tộc, coi trọng nguồn gốc dân tộc là cội rễ cơ bản của sự bền vững.

Giáo dục truyền thống đạo đức dân tộc, mục đích cuối cùng mà Nguyễn Trãi muốn đi đến là

xây dựng một xã hội thanh bình, một cuộc sống đẹp, mọi con ngƣời sống và làm việc trong

tình yêu thƣơng đùm bọc lẫn nhau. Và mọi con ngƣời điều đƣợc cơm no, áo ấm, đƣợc học

hành đầy đủ; sống hạnh phúc trong tình yêu thƣơng chăm lo của một đức vua anh minh,

những bề tôi hiền tài.

"Phúc thay sinh gặp thuở thăng bình.

Nấn ná qua ngày được dưỡng mình. "

(Tự thán - 29)

"Mừng thuở thái bình yêu hết tấc.

No lòng tự tại quản chi là."

(Trần tình - 3)

"Ngoài chưng phần ấy cầu đâu nữa?

Cầu một ngồi coi đời thái bình."

(Tự thán-10)

2.2. Giáo dục con người đời thường

Theo quan niệm mỹ học, cái đẹp là cuộc sống. Cuộc sống ở đây là cuộc sống có sự

hiện hữu của con ngƣời. Một sự sống hài hòa giữa thiên nhiên thơ mộng và sức lao động của

con ngƣời. Sự sống của con ngƣời đạt đến cái đẹp ở sự hài hòa, cân đối. Chúng ta có thể nhận

thấy trong quan điểm giáo dục của

Trang 87

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

Nguyễn Trãi, ngoài những bài học rèn luyện nhân cách, đạo đức con ngƣời trong đấu tranh

dựng nƣớc giữ nƣớc, ông còn chú ý giáo dục con ngƣời đời thƣờng, một cuộc sống trong tình

yêu thƣơng đồng loại.

Giáo dục con ngƣời sống vì nghĩa tình đồng loại trong cộng đồng dân tộc, Nguyễn

Trãi đã đƣa ra một phƣơng châm sửa mình tiến bộ, một ý nghĩa hết sức sâu sắc mang tầm

thời đại. Bên cạnh đó, ông cũng không quên nhắc nhở mọi ngƣời hãy sống vì mọi ngƣời,

đừng vong ân bội nghĩa, đứng sống vì tiền của mà quên nghĩa tình. Hãy sống vì nghĩa tình

làng xóm, vì tình ngƣời thiêng liêng, đừng vì danh lợi xa rời bè bạn.

"Bầu bạn cùng nhau nghĩa chớ vong,

Người kia phú quý nỡ quên lòng."

(Bảo kính cảnh giới - 51)

Tình nghĩa "Tào khang " giữa vợ chồng cũng đƣợc Nguyễn Trãi đề cập với một tinh

thần nhân văn cao đẹp. Nho giáo vẫn xem nhẹ vai trò ngƣời phụ nữ, họ bị ràng buộc bởi định

kiến khắt khe giáo điều "Tam tòng", nhƣng với Nguyễn Trãi ông đã khẳng định quan điểm

của mình một cách rạch ròi và giáo dục mọi ngƣời hãy gìn giữ đạo thủy chung:

"Kết bạn mựa quên người cố cựu;

Yên nhà nỡ phụ vợ tao khang."

(Bảo kính cảnh giới - 2)

"Chân tay dầu đứt, bề khôn nối;

Xống ảo chẳng còn mô dễ xin."

(Bảo kính cảnh giới - 15)

"Thế sự trai yêu thiếp mọn;

Nhân tình gái nhớ chồng xưa''

(Bảo kính cảnh giới - 52)

Trang 88

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

Trong cuộc sống, có những điều mà ngƣời đời tƣởng rằng nhỏ nhặt nên coi thƣờng,

dẫn tới vi phạm đạo lý. Nguyễn Trãi với tâm hồn chan chứa yêu thƣơng, trái tim giàu nhân ái,

đã lƣu ý con cháu cả những vấn đề nhỏ nhặt đó:

"Giận làm chi tổn khí hòa;

Nào từng có ích nhọc mình ta.

Nếu đua khí huyết, quên nhân nghĩa;

Hòa thất nhân tâm nát cửa nhà.

Mấy phát om thòm dường tích lịch,

Một cơn lừng lẫy tựa phong ba.

Đến khi tịt mới ăn năn lại,

Nhẫn song, thì vạn sự qua"

(Răn giận)

ngay cả trong cách nói năng, ăn mặc... thế nào là đẹp, là phù hợp với đạo lý truyền thống đến

cuộc sống hàng ngày của nhân dân Nguyễn Trãi cũng đặt ra:

"Cơm kẻ bất nhân, ăn ấy chớ,

Áo người vô nghĩa mặc, chẳng thà''

(Trần tình - 3)

Khát vọng thiết tha của Nguyễn Trãi là xây dựng một xã hội mà mọi ngƣời ai cũng

hoàn thiện về đạo đức, ai cũng là một con ngƣời sống vì xã hội, giữ đạo thủy chung, tình

nghĩa với mọi ngƣời xung quanh, giúp đỡ nhau lúc hoạn nạn, khó khăn, không làm những

việc hung ác, bất nhân, gây cho ngƣời khác sự đau khổ:

"Lấy khi đầm ấm pha khi lạnh,

Giữ thuở khô khao có thuở dào."

(Thuật hứng -21)

"Lành người đến, dữ người duồng,

Yêu xạ vì nhân mùi có hương."

(Bảo kính cảnh giới - 20)

Trang 89

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

Tâm đắc với triết lý "trung dung", Nguyễn Trãi thƣờng nhắc đi, nhắc lại:

"Văn chương chép lấy đòi câu thánh;

Sự nghiệp tua gìn phải đạo trung."

(Bảo kính cảnh giới - 5)

Đạo trung ở đây chính là đạo trung dung, một lý thuyết về cân bằng trong cuộc sống -

"Bền đạo trung dung chẳng thuở tàng" (Bảo kính cảnh giới - 12) hay "Làm ngƣời thì giữ đạo

trung dung" (Tự giới). Nêu lên nguyên lý này Nguyễn Trãi đã khắc phục đi sự "dĩ hòa di quý"

để khai thác mặt tích cực của nó, coi đạo trung dung là một biện pháp đấu tranh mềm dẻo,

nhằm đạt đƣợc mục đích tốt đẹp, thích hợp, tuy vào tình hình cụ thể của cuộc sống. Trong lý

tƣởng giáo dục của mình Nguyễn Trãi không những mong muốn mọi ngƣời đều sống với

lòng nhân nghĩa, đậm đà tinh thần nhân ái, mà còn phải luôn tâm niệm chữ "trung cần". Trải

qua một quá trình lăn lộn, bôn ba, nếm mật, nằm gai trong kháng chiến cho đến khi giành

đƣợc kết quả, Nguyễn Trãi ý thức rất sâu sắc về hai chữ "trung cần", với Nguyễn Trãi ông đã

gắn khái niệm "trung" là "hết lòng" với khái niệm "cần" là "siêng năng". Đã "trung" là phải

"cần", nói "trung" mà lại không "cần" tức hết lòng mà không hết sức, chỉ là nói suông. Phải

lấy việc làm để đánh giá bản chất con ngƣời, sự trung thực, bản lĩnh và khả năng hoạt động

xã hội giúp ích cho đời.

"Khoe tiết làu làu nơi học đạo;

Ở triều khăn khan chữ trung cần''

(Bảo kính cảnh giới - 60)

và có "trung cần" mới có điều kiện thực hiện triết lý trung dung một cách thích đáng, phát

huy những giá trị cao quý mà những bậc thánh hiền ngày trƣớc đã đƣa ra.

"Trung cần há nỡ trễ cân xưng;

Nhiều thánh hiền xưa kiếp đã từng"

(Bảo kính cảnh giới - 61)

Trang 90

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

Trong hộ thống tƣ tƣởng giáo dục của Nguyễn Trãi, ông đặc biệt lƣu ý về vấn đề lao

động. Thành công, no lành...không đi liền với lƣời nhác, trể nãi. Cái cần nhất cho mỗi con

ngƣời có thể sống tốt là phải có nghề nghiệp "cầm tay", phải thạo nghề. Ngoài ra còn cần

phải học cho "nên", cho giỏi về nghề nghiệp, và phải siêng năng làm lụng:

"Kẻ khôn thì bảo kẻ ngây phàm.

Nghề nghiệp cầm tay ở mới cam.

Nên thợ nên thầy vì có học;

No ăn, no mặc bởi hay làm"

(Bảo kính cảnh giới - 46)

Siêng năng, chăm chỉ, đó không phải là điều bắt buộc đối với ngƣời nghèo, mà còn là

điều bắt buộc đối với ngƣời quyền cao chức trọng, giàu của cải nhƣ bậc vƣơng giả. Đó là luật

sống, mà nó không có ngoại lệ cho bất cứ ai. Chăm chỉ làm ra của cải theo từng nghề nghiệp,

làm thợ, làm thầy, đến cả vua cũng là một nghề mà nhờ đó, mỗi ngƣời tạo dựng cho mình

một sự nghiệp. Nghề nào, nghiệp ấy. Muốn tạo cơ nghiệp khác, vừa, nhỏ, ngoài siêng năng,

chăm chỉ còn phải biết tiết kiệm trong tiêu dùng. "Cần" đi liền với "kiệm". Nguyễn Trãi nhấn

mạnh điều đó:

"Nhắn bảo phô bay đạo cái con,

Nghe lượm lấy, lị chi đòn.

Xa hoa lơ lãng nhiều hay hết;

Hà tiện đâu đang ít hãy còn.

Áo mặc miễn là cho cật ấm;

Cơm ân chẳng lọ kén mùi ngon.

Xưa đà có câu truyền bảo:

Làm biếng hay ăn lở non."

(Dạy con trai)

Trang 91

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

Là một vị đại thần có quyền cao chức trọng, nhƣng Nguyễn Trãi đã nói lên đƣợc tính

tích cực của việc "cần" "kiệm" trong đời sống. Một vấn đề mà trƣớc Nguyễn Trãi mấy nghìn

năm Khổng Tử đã từng răn dạy cho các môn sinh của mình:

"Xã tắc bất tốn

Kiệm tắc cố"

(Ai sống xa xỉ ắt sẽ phạm lỗi thiếu khiêm tốn.

Ai sống tiết kiệm cũng mang tiếng cổ quê)

và Khổng Tử đã chọn lối sống tiết kiệm, ông nói:

" Dữ kỳ bất tốn dã, ninh cố"

(Ta thà chịu cái cổ lậu, quê mùa chứ không chịu mang danh là ngƣời không khiêm

nhƣờng)

Sự sáng suốt và khiêm tốn của Khổng Tử đã làm tôn sự trong sáng thanh cao của ông

và cho đến tận hôm nay, ngƣời đời vẫn ca tụng ông là một vị thánh.

Tiếp tục những nét đẹp đó, Nguyễn Trãi tuy ở trong một hoàn cảnh có đủ điều kiện để

sống một cuộc sống vƣơng giả xa hoa, nhƣng ông vẫn kiên nhẫn thực hiện một lối sống cần

kiệm trọn cuộc đời, và thành tâm nhắn nhủ lớp hậu sinh:

"Cơm ăn miễn có, dầu xoa bạc;

Áo mặc âu chi, quản cũ đen"

(Bảo kính cảnh giới -13)

Trong cuộc sống muốn tồn tại và vƣơn lên con ngƣời phải luôn vật lộn với điều kiện

tự nhiên để thích nghi vào từng hoàn cảnh sống. Chính thực tế cuộc sống, ông đã đúc kết

đƣợc và luôn căn dặn, giáo dục mọi ngƣời:

" No ăn, no mặc bởi hay làm"

(Bảo kính cảnh giới -46)

Trang 92

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

Giáo dục tinh thần hăng say lao động, sống cần kiệm, giữ đƣợc lòng trong sạch thanh

cao, Nguyễn Trãi cũng không quên nhắc nhở mọi ngƣời rèn luyện cái "Tài". Ông đề cao

những giá trị của tri thức:

"Con cháu chớ hiềm sớm tối ngặt.

Thi thư thực ấy báu nghìn đời"

(Ngôn chí-9)

Ngƣời xƣa có câu " Phi trí bất hƣng" (không có trí thức không thể phát lên đƣợc).

Phát huy luận điểm đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh trong một lần nói chuyện với thanh niên đã

từng phát biểu "có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc

gì cũng khó". Với Nguyễn Trãi tri thức không những là yếu tố quyết định sự vƣơn lên của

con ngƣời trong mọi hoạt động xã hội, mà còn giúp cho con ngƣời am hiểu về những giá trị

đạo đức, ý thức đƣợc việc tu dƣỡng và rèn luyện bản thân.

"Đọc sách thì thông đòi nghĩa sách"

(Bảo kính cảnh giới - 57)

Và cũng trên cơ sở tri thức, ông đã cân nhắc:

"Tài đức thời cho lại có nhân.

Tài thì kém đức một hai phần"

(Bảo kính cảnh giới - 57)

vận dụng những yếu tố tài và đức, con ngƣời sẽ hành động đúng theo đạo lý truyền thống,

đánh đuổi kẻ thù xâm lƣợc, những thế lực hại dân, hại nƣớc.

"Trừ độc trừ tham trừ bạo ngược;

Có nhân cố trí có anh hùng."

(Bảo kính cảnh giới - 5)

Ngƣời có tài có đức là ngƣời kết hợp trong mình những hành động luôn thể hiện lòng

nhân nghĩa. Một thái độ mềm dẽo ôn hòa trong bất kỳ hoàn cảnh nào.

Trang 93

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

"Làm lành mới cậy chớ làm dữ;

Có đức thì hơn nửa cố tài"

(Tự thán -22)

Đƣa ra những quan điểm về tài và đức để khẳng định giá trị cao quí của con ngƣời,

nhƣng những yếu tố đó trở thành hiện thực đƣợc hay không, còn phụ thuộc vào một điều đặc

biệt quan trọng, mà đối với Nguyễn Trãi ông đã từng khẳng định:

"Nên thợ, nên thầy vì có học,"

(Bảo kính cảnh giới -46)

Giá trị kiến thức là sự hiểu biết để làm một con ngƣời có ích cho gia đình và xã hội.

Giá trị ấy có đƣợc là phụ thuộc vào mỗi cá nhân trong quá trình tích lũy từ cuộc sống và qua

sách vở. Kiến thức không chỉ mang đến cho con ngƣời địa vị, danh vọng mà nó còn là kim

chỉ nam dẫn dắt mỗi ngƣời hoàn thiện nhân cách. Đối với Nguyễn Trãi ngƣời thầy giáo bao

giờ cũng là tấm gƣơng để mình soi rọi vào và noi theo, công của thầy lớn lao đến nỗi ông xếp

cao hơn cả công ơn chúa thƣợng và cha mẹ:

"Có mống tự nhiên lại cố cây.

Việc làm vướng vắt ắt còn chầy.

Thủy chung mấy vật đều nhờ chúa;

Động, tĩnh nào ai chẳng bởi thầy"

(Mạn thuật -3)

Đề cao công ơn to lớn của thầy giáo, Nguyễn Trãi rất mong mỏi tạo lập một nền thái

bình thịnh trị, một quốc gia giàu mạnh.

Uyên thâm từng trãi, cho nên Nguyễn Trãi có những cảm nhận sâu sắc về cuộc đời:

Trang 94

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

"Lòng người quanh nữa nước non quanh.

Chẳng ngừa nhỏ âu nên lớn;

Nếu có sâu thì bỏ canh.

Ở thế an nhàn chăng cố sự.

Ngàn muôn tốn nhượng chớ đua tranh."

(Bảo kính cảnh giới - 9)

Quá trình vận động của một sự vật là một quá trình biện chứng triệt tiêu cái này để cái

kia tồn tại. Con ngƣời cũng là một sinh vật luôn vận động để phát triển hoàn thiện. Chính vì

thế Nguyễn Trãi đã dựa trên nguyên lý biện chứng để đƣa ra quan niêm biện chứng trong quá

trình con ngƣời tìm đến những điều tốt đẹp nhất. Tƣ tƣởng giáo dục con ngƣời của Nguyễn

Trãi là hƣớng con ngƣời đến với cuộc sống ôn hòa, không chen đua hiềm khích, không làm

những việc tàn ác, hại nhân. Những việc làm thất đức của con ngƣời chỉ mang đến những

phiền muộn trong lòng, những sự ray rứt mà đời sau phải gánh chịu. Chỉ có những việc làm

nhân ái mới mang lại sự thanh thản trong tâm hồn, nó là một kho của cải về tinh thần mà

không mấy ai thực hiện đƣợc.

"Trồng cây đức để con ăn

Được thua phú quí đầu thiên mệnh;

Chen chóc làm chi cho nhọc nhằn"

(Mạn thuật -5)

Nguyễn Trãi rất đề cao cuộc sống thanh nhàn, với ông cuộc sống thanh nhàn sẽ tạo

cho tâm hồn rộng mở và giàu lòng nhân ái. Ông kêu gọi mọi ngƣời dẹp bỏ những đố kỵ, ganh

đua mà tìm đến những niềm vui trong cuộc sống:

"Ngũ dạ bồng song thanh mộng giác

Do nghi Trường Lạc cách hoa chung"

(Thƣợng Nguyên hổ gia chu trung tác)

Trang 95

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

Dịch nghĩa:

"Canh năm bên cửa sổ thuyền chợt tỉnh mộng nhẹ

Còn ngờ nghe tiếng chuông ỏ cung Trường Lạc cách hoa"

(Làm trong thuyền hỗ giá tiết Thƣợng Nguyên)

Trong tƣ tƣởng của Nguyễn Trãi quan hệ giữa thiên nhiên và lòng ngƣời là quan hệ

rất mật thiết. Những âm thanh nhịp điệu hình ảnh có trong cuộc sống tƣơi đẹp thanh bình đã

đƣợc ông ghi nhận trong một tâm hồn rộng mở và ngây ngất giữa một không gian trong sáng.

Cảm nhận khung cảnh tuyệt diệu ấy, Nguyễn Trãi đã khuyên bảo con ngƣời thay đổi cuộc

sống, hƣớng đến cái dung dị yên lành của cuộc đời. Trong cái chất vật khốn khó của cuộc

sống thì tâm hồn con ngƣời phải nên đƣợc thanh thản giữa thiên nhiên. Tạo vật và con ngƣời

dựa vào nhau, ảnh hƣởng lẫn nhau, trao đổi tình cảm cho nhau, từ đó tâm hồn con ngƣời trở

nên cao rộng và nhân ái hơn.

Sống dƣới chế độ phong kiến Nho giáo, những ràng buộc giáo điều theo ảnh hƣởng

Tống Nho đã buộc con ngƣời vào những khuôn khổ khắt khe của "Tam cƣơng" "Ngũ thƣờng"

"Tam tòng", "Tứ đức", buộc con ngƣời vào cuộc sống chật chội, chậm tiến với những quan

niệm hẹp hòi:

"Gia hữu kỳ nam tắc suy

Gia hữu cầm nữ tắc dâm"

Trong quan niệm của bọn hũ nho "cầm", " kỳ" là hai thú vui làm cho con ngƣời mê

muội, không sáng suốt. Vì vậy việc xuất hiện của đàn, cờ trong gia đình sẽ làm cho gia đình

rối loạn, không còn thể thống. Với một quan điểm giáo dục hết sức khoáng đạt, rộng mở và

tiến bộ, Nguyễn Trãi đã mở rộng cuộc sống hƣớng con ngƣời tìm đến sự hƣởng thụ có ích,

trong sáng và lành mạnh.

" Gia hữu cầm thư nhi bối lạc"

(Mạn thành- 2)

Trang 96

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

Dịch nghĩa:

Trong nhà có sách, có đàn, bầy trẻ vui vầy

Ông không hề sợ có cây đàn ở trong nhà, bên cạnh quyển sách. Ông coi đàn và sách là

hai ngƣời bạn tâm giao của Ông.

" Cầm, sách cùng nhau ngày tháng trường"

(Tức sự-6)

" Bạn cùng phiến sách tiếng đàn cầm"

(Bảo kính cảnh giới -23)

nhƣng đó không phải là những thứ ham mê tự phát hay cảm tính, nó xuất phát từ một quan

điểm rõ ràng.

" Cầm thư nhã thú chân kham thượng"

(Thứ vận Trần thƣợng thƣ đề Nguyễn bố chánh thảo đƣờng)

Dịch nghĩa:

Cái thú đàn sách thanh nhã thật là đáng chuộng

Cách chúng ta 600 trăm năm, Nguyễn Trãi đã thấy đƣợc tác dụng lớn lao của văn

nghệ trong đời sống tự nhiên và xã hội. Âm nhạc tiếng nói của tâm hổn con ngƣời có thể lay

động cả đất trời vũ trụ:

"Ngư ca tam xướng yên hồ khoát;

Mục địch nhất thanh thiên nguyệt cao

(Chu trung ngẫu thành- 2)

Dịch nghĩa:

"Ba câu hát ông chài, hồ khói rộng,

Một tiếng sáo chú mục, trời trăng cao."

Trang 97

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

nói gì đến khả năng bồi bổ, cảm hóa của nó đối với con ngƣời. Theo lễ tiếp khách từ xƣa thì

mở đầu câu chuyện thƣờng phải là điếu thuốc, miếng trầu hoặc ấm trà.

" Mấy khi khách đến chơi nhà,

Đốt than quạt nước pha trà người xơi."

(Quan họ)

nhƣng với Nguyễn Trãi sự biểu lộ niềm vui hân hoan gặp mặt bạn quí lại không gì hơn là

đƣợc suốt ngày cùng nhau vui chơi với cây đàn.

" Giai khách tương phùng nhật bão cầm"

(Đề Trình xử sĩ Vân oa đồ)

Dịch nghĩa:

Bạn quí gặp nhau suốt ngày ôm đàn gảy;

Trong cuộc sống vấn đề làm ra của cải để phục vụ bản thân mình là một việc làm mà

mỗi con ngƣời điều phải phấn đấu. Nhƣng khi đã tạo đƣợc của cải một số ngƣời lại coi chúng

là trên hết, cứ luôn luôn ôm giữ của cải, chạy theo sức mạnh của đồng tiền. Một điều trái với

tự nhiên là họ bo bo tích của để làm giàu, nhƣng không dám ăn, không dám mặc, loại ngƣời

đó xã hội gọi là kẻ keo kiệt, bần tiện. Tâm trạng họ chẳng bao giờ đƣợc thoải mái, có một nỗi

lo luôn đè nặng trong lòng họ, kể cả trong giấc ngủ. Nguyễn Trãi đã có một sự nhìn nhận tinh

tế và chân xác khi đề cập đến những băn khoăn lo lắng của loại ngƣời này. Để giáo dục họ

thoát khỏi những ràng buộc, ức chế mà bản thân họ tự tạo ra, khắc phục những khiếm khuyết

để trở thành một ngƣời nhân ái, yêu thƣơng đồng loại. Ông đã khuyên răn giáo dục họ nhẹ

nhàng nhƣng thâm thúy.

" Tích đức cho con hơn tích của''

(Tự thán-41)

Trang 98

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

" Nô bộc ắt còn hai dặng quít,

Thất gia chẳng quản một con lều.

Miễn là tiêu sái qua ngày tháng,

Lộc được bao nhiêu ăn bấy nhiêu."

(Mạn thuật - 2)

Nguyễn Trãi không những khuyên con ngƣời đừng vì tiền mà làm mất nhân tính của

mình mà còn giáo dục con ngƣời không nên sống quá khắc kỷ với bản thân mình, mà quên đi

hạnh phúc bình dị đời thƣờng, đừng làm cho cuộc sống đời thƣờng trở nên vô nghĩa tẻ nhạt.

"Nằm có chiếu chăn, cho ấm áp;

Ăn thì canh cá, chớ khô khan "

(Bảo kính cảnh giới -7)

Không những uyên thâm về mặt giáo dục đạo đức làm ngƣời, Nguyễn Trãi còn là một

nhà tâm lý và sinh lý học đƣơng thời. Những kiến thức của ông xoay quanh những vấn đề có

liên quan về sự điều hòa cuộc sống của con ngƣời, những vấn đề rất nhỏ nhƣng liên quan rất

lớn đến việc hoạt động của một cơ thể sống. Nguyễn Trãi đã khuyên mọi ngƣời bằng tất cả

kinh nghiệm sống của mình.

"Nhọc nhằn ai chớ còn than thở,

Ăn có dừng việc có dừng."

(Bảo kính cảnh giới -54)

Hay:

"Mọi việc dừng hơn hết mọi âu''

(Bảo kính cảnh giới -32)

Truyền thống của dân tộc Việt Nam là yêu nƣớc, thƣơng ngƣời và rất siêng năng cần

cù lao động. Trong công việc họ rất nhiệt tình và cần mẫn, không quản nắng mƣa, sẵn sàng

"Bán mặt cho đất bán lưng cho trời" để mong có kết

Trang 99

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

quả tốt đẹp. Trong những nhọc nhằn ấy họ không còn thời gian để điều tiết hoạt động bản

thân. Nhận định vấn đề này, Nguyễn Trãi đã lên tiếng khuyên răn con ngƣời nên xem lại việc

làm của mình vì trong lao động cần có sự nghỉ ngơi. Có nhƣ vậy con ngƣời mới tự điều chỉnh

đƣợc mình và phát triển ngày một tốt hơn.

Sống trong xã hội thì việc va chạm, hiềm khích lẫn nhau là một điều không thể tránh

khỏi. Bởi bản chất của xã hội là tập hợp vô số những mối quan hệ khác nhau mà con ngƣời là

trung tâm của những đầu mối quan hệ đó. Trong xã hội không thể tránh khỏi "Lòng thế bạc

đen dầu nó biến" và xung đột thƣờng xảy ra khi mâu thuẫn xuất hiện, những hậu quả khôn

lƣờng sẽ để lại. Vì vậy Nguyễn Trãi đã đƣa ra bài học "Răn giận" nhằm giáo dục mọi ngƣời

hãy sống với nhau thân thiết nhƣ dân gian ta đã có câu:

"Lời nói không mất tiền mua,

Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau."

(Ca dao)

Rƣợu chè, trai gái là những thói xấu có ma lực. Ngay từ thời Khổng Tử bệnh này đã

phát. Khổng Tử đã lên án:

"Dĩ hĩ hồ ! Ngô vị kiến háo đức như háo sắc giả dã"

Dịch nghĩa:

"Thôi thì thôi ! Ta chưa thấy ai háo làm việc cố đức như háo gái vậy ".

Nguyễn Trãi đã ngăn chặn và giáo dục con ngƣời đừng quá say mê đi vào con đƣờng

tửu sắc "Tửu sắc là nơi nghiệp há chừa" (Bảo kính cảnh giới -52). Ông đã luận giải về hậu

quả của bệnh trăng hoa này:

"Sắc là giặc đàm làm chi!

Thuở trọng còn phòng có thuở suy.

Trụ mất quốc gia vì Đát Kỷ;

Ngô lìa thiên hạ bởi Tây Thi.

Trang 100

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

Bùi tan gia thất đời từng thấy;

Tổn hại tinh thần sự ích chi."

(Răn sắc)

Sự đời luôn vận động biến đổi có lúc thịnh, lúc suy, lúc lên, lúc xuống, cơ thể hay

lòng ngƣời cũng vậy thôi. Đam mê xác thịt là "tổn hại tinh thần". Khuyên răn mọi ngƣời

đừng quá sa đà mù quáng đi vào con đƣờng sắc dục, nhƣng Nguyễn Trãi không chủ trƣơng

"diệt dục" mà chỉ là "tiết dục" theo mức độ thông thƣờng "nam nữ phòng trung".

" Phu phụ đạo thường chăng được chớ,

Nối tông hòa phải một đôi khi."

(Răn sắc)

Điều độ trong vấn đề phòng dục cũng là một khía cạnh của triết lý trung dung mà

Nguyễn Trãi đã tiếp thu từ Khổng giáo. Việc thực hiện đƣợc những vấn đề ôn hòa trong cuộc

sống, điều tiết trong vấn đề sinh lý không phải bất cứ ai cũng thực hiện đƣợc mà nó đòi hỏi

con ngƣời phải có một nghị lực thật sự và có một tinh thần tu dƣỡng và rèn luyện. Phƣơng

châm giáo dục của Nguyễn Trãi khá hoàn thiện ở các mặt tinh thần và thể xác, ông đã vạch ra

con đƣờng cho mỗi ngƣời tự rèn luyện và phấn đấu.

Giáo dục con ngƣời vốn là một điều khó, đi sâu vào giáo dục từng bản thân mỗi ngƣời

lại càng khó hơn. Thế nhƣng Nguyễn Trãi đã làm và làm một cách sâu sắc điều đó. Chỉ với

Nguyễn Trãi một con ngƣời "thƣơng sinh tại niệm" có một tấm lòng rộng mở, nhân ái, yêu

thƣơng con ngƣời, cảm thông trƣớc mọi đau khổ mà con ngƣời phải gánh chịu mới có một

quan niệm, tƣ tƣởng giáo dục tinh tế đến nhƣ vậy.

2.3. Giáo dục và tự giáo dục

Những bậc vĩ nhân xƣa thƣờng là sứ giả của thời đại, văn thơ của họ thƣờng chở

những cái đạo lớn của thời đại. Bởi vậy kẻ sĩ làm thơ cốt để nói lên

Trang 101

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

cái chí của mình. Khổng Tử đã từng dạy con mình "Bất học Thi vô dĩ ngôn" (không học Kinh

Thi thì khó ăn nói ở đời) (Thiên Quí Thị - sách Luận ngữ)

Nhƣ vậy, văn chƣơng thể hiện quan hệ giữa tự nhiên và lòng ngƣời. Con ngƣời sống

trong xã hội là cả một quá trình vận động và đấu tranh không ngừng. Trải qua mấy nghìn năm

lịch sử dân tộc Việt Nam đã có bao nhiêu thế hệ ra đời, và bao nhiêu thế hệ trƣởng thành

trong nền truyền thống văn hóa đó. Những tinh hoa mà ngƣời đời trƣớc qua biết bao gian

khổ, thử nghiệm họ mới trao truyền lại cho đời sau, để cho đời sau vận dụng một cách thuận

lợi hơn và khắc phục đƣợc những mặt hạn chế thời đại của nó. Sự trao truyền kinh nghiệm là

một qui luật tự nhiên, nếu chúng ta tự bẻ gãy, cắt lìa truyền thống sẽ rơi vào một tình trạng

xấu. Bài học về rèn luyện ý chí nghị lực "Có công mài sắt, có ngày nên kim" hay "Có chí thì

nên" là những bài học đƣợc tích lũy từ thời loài ngƣời còn "Ăn lông ở lỗ". Đó là những kinh

nghiệm quí báu mà biết bao thế hệ nằm xuống mới có đƣợc. Nguyễn Trãi là bậc vĩ nhân thời

xƣa, tƣ tƣởng của ông càng rộng mở, làm thơ văn là để nói lên chí nguyện của mình. Tiếp thu

truyền thống giáo dục của dân tộc, trong tƣ tƣởng giáo dục của ông, chúng ta không lạ gì khi

gặp lại những lời giáo huấn, khuyên bảo con ngƣời rèn luyện ý chí, nghị lực để vƣợt qua mọi

khó khăn.

Kinh nghiệm thực tế sống và chiến đấu của Nguyễn Trãi suốt hai mƣơi năm " Nếm

mật nằm gai" nơi rừng sâu núi thẳm đã giúp ông đúc kết đƣợc những kinh nghiệm vô cùng

quí báu trong cuộc đời. Là ngƣời chí sĩ hay kẻ đại trƣợng phu thì tinh thần, nghị lực ý chí

trong mọi hoàn cảnh phải vững nhƣ bàn thạch, xem cái chết nhẹ tựa lông hồng. "Dù gặp giàu

cũng không mê muội, gặp nghèo khổ cũng không dao động, gặp sự uy hiếp bằng thế lực cũng

không chịu khuất phục" (Sách Mạnh Tử). Tiếp thu những quan điểm đó Nguyễn Trãi đã đƣa

ra các bài học về tu dƣỡng đạo đức, lòng vị tha, nhân ái, hƣớng con ngƣời đến sự hoàn thiện

toàn diện về nhân cách. Song trong cuộc sống có biết bao nhiêu chồng gai mà ngƣời đời cần

phải bỏ công sức ra chinh phục để tạo nên những con đƣờng

Trang 102

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

bằng phẳng cho mình bƣớc đi trên nó. Sự khó khăn gian khổ của cuộc đời ví nhƣ những thử

thách để mọi cá nhân tự rèn luyện khắc phục, tu dƣỡng bản thân để tự vƣơn lên. Trong những

hoàn cảnh khó khăn gian khổ nhất, mới thấy đƣợc nét cao quí của ngƣời anh hùng:

"Khó bền mới phải người quân tử;

Mạnh gắng thì nên kẻ trượng phu"''

(Trần tình -7)

Khổng Tử, nhà giáo dục lớn của Trung Hoa phong kiến, đã từng khuyên bảo các học

trò của mình rằng "người ta dụng công một mà không được thì phải cố gắng gấp trăm, người

ta dụng công mười mà không được thì phải cố gắng gấp nghìn, để đến kỳ được mới thôi".

Thế kỷ XV, Đại Việt cũng có Nguyễn Trãi -một bậc vĩ nhân về tƣ tƣởng, nhà chính trị, quân

sự lỗi lạc, nhà văn, nhà thơ đại tài... và là nhà giáo dục tinh tế, sác bén. Ông muốn truyền đạt

lý tƣởng giáo dục của mình đến mọi ngƣời dân. Sự nhìn nhận tinh tƣờng của ông về quá trình

giáo dục, cho thấy Nguyễn Trãi đã chú trọng rất nhiều về mặt giáo dục đào tạo của quốc gia.

Theo ông giáo dục là một trong những nguồn gốc tạo ra sức mạnh, tạo ra vật chất, của cải, tạo

ra thợ giỏi, thầy giỏi, tạo ra đƣợc cả vua hiền minh, bởi giáo dục có thần lực lớn uốn nắn

đƣợc phần quan yếu nhất và khó tác động nhất ở con ngƣời là tính nết, tƣ tƣởng. Nguyễn Trãi

đã tâm đắc với quan niệm trọng học của Khổng giáo. Tâm hồn của ông luôn hƣớng về nhân

dân, nguyện suốt đời phục vụ cho cuộc sống của nhân dân. Ông giáo dục mọi ngƣời phải rèn

luyện ý chí, nghị lực, phải đứng vững trụ gan mới mong tích đƣợc đức, thực hiên đƣợc tâm

huyết, mới có đầy đủ niềm tin, ý chí và lòng nhân ái. Trong mọi hoàn cảnh, Nguyễn Trãi luôn

giáo dục mọi ngƣời phải vững chí bền lòng:

"Khó khăn thì mặc cố màng bao.

Càng khó bao nhiêu chí mới hào.'"

(Thuật hứng -21)

và bản lĩnh của mọi ngƣời càng đƣợc thể hiện rõ nét hơn.

Trang 103

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

"Quân tử hãy lăm bền chí cũ;

Chẳng âu ngặt chẳng âu già."

(Ngôn chí - 17)

Sinh ra và lớn lên, cuối triều nhà Trần, khi chế độ phong kiến ở vào giai đoạn cực kỳ

suy thoái, đời sống ngƣời dân lầm than cơ cực, các thế lực trong nội các triều đình thanh toán

lẫn nhau, giặc Minh thừa cơ xâm lƣợc, Nguyễn Trãi đã cảm thông với những kiếp ngƣời nạn

nhân xã hội. Ông đã tận mắt chứng kiến cảnh đao binh, chết chóc... quan lại sách nhiễu, đục

khoét vơ vét của cải nhân dân. Con ngƣời, nhất là nhân dân lao động cùng khổ phải luôn chịu

bao điều cay đắng tủi nhục. Cuộc đời họ luôn bị chèn ép và vấp phải những lực cản vô cùng

lớn lao khiến họ khó tiến lên đƣợc. Trong hoàn cảnh khắc nghiệt đó, Nguyễn Trãi đã động

viên, khích lệ con ngƣời rèn luyện nghị lực, không nhụt chí trƣớc gian lao, không nản lòng

trƣớc thử thách:

"Khó ngặt hãy bền lòng khó ngặt,

Chê khen mựa ngại tiếng chê khen.'"

(Bảo kính cảnh giới -13)

Và để khẳng định nhân cách của mình, con ngƣời cần phải biết dấn thân, dám đối đầu

với những cam go trong cuộc sống, phải có bản lĩnh vững vàng, chẳng những không sợ hãi

mà còn coi những khó khăn, gai góc trong cuộc sống là những thử thách cần thiết để tự tôi

luyện bản thân mình, là thƣớc đo để đánh giá kết quả mà mình thực hiện.

"Khó khăn phải đạo cháo càng ngon"

(Bảo kính cảnh giới -22)

Trong những đục trong của cuộc đời mới biết đâu là chân giá trị cuộc sống " Ưa mi vì

tiết sạch hơn người ”(Mai) "Chuốt lòng đơn, chẳng bén tục - Bền tiết ngọc, kể chi sương"

(Cúc đỏ) hay "Lầm nhơ chẳng bén, tốt hòa thanh" (Hoa Sen). Giữ đƣợc tấm lòng trong sạch,

không vẫn đục bởi bụi đời đó là điều mà

Trang 104

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

Nguyễn Trãi mong muốn mọi ngƣời hãy thông suốt và bền lòng thực hiện. Cho dù bất cứ nơi

đâu, con ngƣời cần phải trau dồi đạo đức theo quan niệm.

"Giàu mặc phận, nguôi lòng ước;

Chật yên bần, ấy cổ lề."

(Tự thán-18)

"Chĩnh vàng chẳng tiếc danh thì tiếc,

Bia đá hay mòn nghĩa chẳng mòn."

(Tự thán-17)

và phải rắn rỏi tự tin, giàu nghị lực, đứng sừng sững giữa trời nhƣ núi Nam Nhạc cùng các vị

sao Bắc đẩu:

"Đại địa dày, Nam nhạc khỏe;

Cửu tiêu vắng, Bắc thần cao"

(Thuật hứng - 21)

Ý chí và nghị lực luôn là yếu tố tiềm ẩn trong mỗi con ngƣời. Tạo hóa sinh ra con

ngƣời và ban tặng những điều kỳ lạ nhất cho sinh vật này. Con ngƣời là một sinh vật có ý

thức, biết vƣơn lên và chinh phục tự nhiên, sức mạnh tinh thần của con ngƣời là sức mạnh vô

địch mà trong hoàn cảnh khó khăn hiểm nghèo nhất nó mới bộc phát. Nguyễn Trãi nhận thức

rất rõ điều này, ông giáo dục mọi ngƣời theo nguyên tắc là phải luôn luôn tự rèn luyện, phải

có niềm tin vào công việc mà mình thực hiện, phải bền lòng, bền chí.

Nguyễn Trãi cứ canh cánh bên lòng lo cho đời sống của dân đen con đỏ, còn mình thì

vẫn "quan thanh lạnh nửa đèn".

" Niềm cũ sinh linh đeo ắt nặng,''

(Tự thán -2)

" Bằng tôi nào thuở ích chưng dân"

(Trần tình - 1)

Trang 105

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

Với mong muốn chấn chỉnh triều đình đi vào nề nếp, dẹp ngay những bọn Xiểm nịnh

hại dân hại nƣớc, Nguyễn Trãi đã trở nên một ngƣời sống lạc lõng giữa hàng ngũ bọn quan

lại triều đình lúc bấy giờ, tuy ông vẫn biết rõ những hiểm hóc chốn quan trƣờng.

" Đã biết cửa quyền nhiều hiểm hóc;

Cho hay đường lợi cực quanh co."

(Ngôn chí - 19)

"Rộng khơi ngại vượt bể triều quan"

(Bảo kính cảnh giới -33)

Nguyễn Trãi chỉ ra rằng tìm cho đƣợc chính đạo đã khó, nhƣng thực hiện đƣợc chính

đạo lại là chuyện khó khác, và có khi không làm đƣợc.

"Biển học trường văn hằng nhặt bới

Đường, danh lối lợi hiểm khôn tìm"

(Bảo kính cảnh giới -23)

Biết rằng cái che khuất chính đạo, cản trở sự thực hiện chính đạo là "danh lợi", nhƣng

Nguyễn Trãi nhất mực không từ bỏ hoài bão to lớn của mình, một lòng kiên trì đấu tranh giữ

vững tấm lòng son luôn rực cháy lửa hồng cho đến khi tuổi già xế bóng.

"Nhất phiến đơn tâm chân hống hỏa.

Thập niên thanh chức ngọc hồ băng"

(Mạn hứng -2)

Dịch nghĩa:

"Một tấm lòng son, nóng hừng như lò lửa luyện đơn

Mười năm chức mỏng, lòng trắng như băng trong bầu ngọc"

Trong tâm hồn Nguyễn Trãi, bao giờ ông cũng nghĩ đến trách nhiệm của

Trang 106

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

mình, của ngƣời trƣợng phu, đó là trách nhiệm của một tấm lòng thƣơng dân, lo cho dân

không bao giờ thay đổi:

"Còn có một lòng âu việc nước,

Đêm đêm thức nhẵn nẻo sơ chung."

(Thuật hứng -23)

"Bui một tấc lòng ưu ái cũ,

Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông."

(Thuật hứng -5)

Bao năm lận đận chiến đấu gian khổ quên mình trên chiến trƣờng, bao nỗi xót xa phải

tận mắt chứng kiến ngƣời cùng mình đồng cam cộng khổ nơi sa trƣờng khi đã leo lên tột đỉnh

vinh quang lại thay lòng đổi dạ, cộng với bao nỗi bất bình mà trong suốt cuộc đời làm quan

ông đã từng chứng kiến, Nguyễn Trãi đã hiểu rất rõ muốn tu dƣỡng thành một con ngƣời có

nhân cách thực sự cao đẹp, sống hòa đồng, nhân ái với mọi ngƣời, trung cần liêm khiết, vấn

đề quan trọng hàng đầu là sự tự lực của bản thân. Mỗi cá nhân phải ra sức phấn đấu, phải rèn

luyện tu dƣỡng mới mong đạt đƣợc kết quả, bởi cuộc sống xã hội có vô vàn cạm bẫy đang

chờ đợi con ngƣời mà nếu ai không có lòng tự tin và nghị lực sẽ bị vấp ngã.

" Chí cũ ta liều nhiều sự hóc'''

(Thuật hứng - 4)

" Khố ngặt qua ngày xin sống"

(Tự thán - 28)

Nguyễn Trãi đã tiếp thu tƣ tƣởng dân tộc, ông đƣa vào lý tƣởng giáo dục của mình nội

dung giáo dục tinh thần nghị lực, rèn luyện ý chí, bởi lẽ cuộc sống có vô vàn những khó

khăn, mà con ngƣời là một sinh vật nhạy cảm, vì vậy con

Trang 107

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

ngƣời cần phải đƣợc rèn luyện nghị lực. Có nghị lực, con ngƣời mới vƣợt qua thử thách và đi

đến thành công. Trong suốt thời gian cực khổ trên chiến trƣờng và sự lận đận trong cuộc đời

quan trƣờng, Nguyễn Trãi đã rèn luyện đƣợc nghị lực siêu phàm của một kẻ trƣợng phu thức

thời để đạt đƣợc một tấm lòng rộng mở nhân ái vị tha, ôn hòa bình dị.

Vấn đề giáo dục con ngƣời tu dƣỡng bản thân, giữ vững lập trƣờng, bền lòng, chặt dạ,

vững chí luôn đƣợc nhân dân ta từ ngàn xƣa truyền tụng và trân trọng. Trong cuộc sống lấy gì

để giữ vững lòng tin, đó là nghị lực bản thân, một thử thách buộc con ngƣời phải tôi luyện

tinh thần:

" Dù ai nói ngã nói nghiêng

Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân"

(Ca dao)

Đó là chân lý, là kinh nghiệm sống, chiến đấu, lao động, học tập trong suốt mấy chục

năm bản thân Nguyễn Trãi đã tự giáo dục mình trở thành một nhân cách sáng chói trong lịch

sử dân tộc.

Nghiên cứu vấn đề giáo dục con ngƣời trong thơ văn Nguyễn Trãi, ta nhƣ bƣớc vào

từng bậc thang của một tòa tháp uy nghiêm mà mỗi bậc chứa đựng từng nội dung cụ thể, giúp

cho chúng ta am hiểu về tình ngƣời, tình đời, cách đối nhân xử thế, phƣơng pháp tu dƣỡng

rèn luyện bản thân. Ở đó đạo đức công dân luôn đƣợc đề cao, quyền và lợi ích của con ngƣời

luôn là ý thức trách nhiệm. Trong thơ văn của mình, Nguyễn Trãi đã luồn nhắc nhở đến hai

chữ "yên dân". Vì dân, vì nƣớc mà suốt cuộc đời Nguyễn Trãi đã đỗ bao nhiêu tâm huyết để

xây dựng một nền "thái bình muôn thuở" mọi ngƣời sống hòa thuận bên nhau.

Trang 108

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

CHƢƠNG III : Ý NGHĨA, TÁC DỤNG GIÁO DỤC CON NGƢỜI CỦA THƠ

VĂN NGUYỄN TRÃI ĐỐI VỚI LỊCH SỬ VÀ NGÀY NAY

Trong lịch sử nghiên cứu nền giáo dục Việt Nam, khi đề cập đến những nhà giáo dục

có tên tuổi của dân tộc nhƣ Chu Văn An, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Võ Trƣờng Toản, Nguyễn

Đình Chiểu...cho đến Chủ tịch Hồ Chí Minh, thì có mấy ai trong những nhà nghiên cứu đề

cập đến Nguyễn Trãi nhƣ một nhà giáo dục. Ông chỉ đƣợc nghiên cứu đánh giá trên các lĩnh

vực quân sự, chính trị, ngoại giao, văn hóa tƣ tƣởng..., còn trên lĩnh vực giáo dục ông rất ít

đƣợc ngƣời để ý đến. Qua quá trình nghiên cứu và tìm hiểu về thơ văn Nguyễn Trãi chúng ta

thấy rằng thơ văn của ông chứa đựng một nội dung giáo dục rộng lớn và phong phú.

Ông là hiện thân của một ngƣời thầy, một nhà giáo ƣu tú, một nhà giáo dục vĩ đại.

Những vấn đề giáo dục con ngƣời trong thơ văn của ông không chỉ có ý nghĩa, tác

dụng đối với lịch sử mà nó còn có tác dụng cho đến thời đại ngày nay.

I. Những ý nghĩa lớn

Nghiên cứu những sáng tác của Nguyễn Trãi còn lại đến ngày nay, ta thấy ở ông một

trí tuệ, một tâm hồn lớn tiêu biểu cho suy nghĩ và tình cảm của một thời đại lịch sử đầy gian

nan, thử thách, mà cũng thật oanh liệt hào hùng.

Qua thơ văn Nguyễn Trãi chúng ta càng hiểu thêm những giá trị tinh thần văn hóa mà

dân tộc ta rèn đúc nên, càng thêm lòng tự hào, tình yêu đối với đất nƣớc, con ngƣời Việt Nam

và tiếp thêm nghị lực, quyết tâm hoàn thành những nhiệm vụ lịch sử đặt ra cho đất nƣớc hôm

nay.

Trang 109

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

Trƣớc hết Nguyễn Trãi đã kế thừa và phát huy lên một đỉnh cao mới ý thức của dân

tộc Việt Nam về độc lập chủ quyền dân tộc, từ đó đã nêu lên một quan điểm khá toàn diện,

hoàn chỉnh về vấn đề dân tộc, nó không chỉ có tầm vóc dân tộc mà cũng là một đóng góp đặc

sắc cho lịch sử tƣ tƣởng chính trị thế giới vào nửa đầu thế kỷ XV.

Thơ văn Nguyễn Trãi đã tiếp thu và phát huy nét đặc sắc trong tính cách và tâm hồn

ngƣời Việt Nam là chủ nghĩa anh hùng kết hợp với chủ nghĩa nhân đạo, quyết chiến, quyết

thắng mà không hiếu sát và luôn tha thiết với hòa bình.

Thơ văn Nguyễn Trãi là tiếng nói đề cao vai trò to lớn của nhân dân trong sự nghiệp

đấu tranh dựng nƣớc, giữ nƣớc, là tiếng nói cảm thông sâu sắc những nổi khổ của nhân dân,

đồng thời là những lời khuyên ân cần chí thiết mong đem lại cho mọi ngƣời một đời sống hài

hòa, hợp đạo nghĩa và hạnh phúc.

Thơ văn Nguyễn Trãi còn là ý chí, nghị lực vƣợt qua những khó khăn thử thách để

vƣơn lên trong cuộc sống. Mặt khác còn là những cung bậc tâm hồn của một triết gia uyên

thâm về "Tam giáo".

II.Tác dụng đối với lịch sử

Chúng ta đã điểm qua một số nội dung về vấn đề giáo dục con ngƣời trong thơ văn

Nguyễn Trãi. Từ trong chiến trƣờng đầy máu và nƣớc mắt cho đến lúc thái bình thịnh trị, suốt

quá trình đó, cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi là cả một chuỗi dài những băn khoăn,

những bi kịch của ngƣời trí thức, đau đời với những ƣớc muốn vì dân vì nƣớc, vì hạnh phúc

của con ngƣời. Trong thơ văn ông chứa đựng những giá trị nhân bản của kẻ sĩ có cái nhìn sâu

rộng.

Trong chiến đấu, thơ văn ông là những lời thuyết phục cảm hóa đầy hiệu lực, đánh

thẳng vào lòng ngƣời, buộc đối phƣơng phải quy phục. Và trong thời

Trang 110

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

bình, trong nội các triều đình nhà Lê, Nguyễn Trãi vẫn luôn là ngƣời thầy răn dạy từ bậc vua

chúa, quan lại đến những ngƣời "dân đen con đỏ".

Thơ văn ông thấm đẫm tƣ tƣởng nhân nghĩa. Sự nghiệp của ông là sự nghiệp của một

hoài bão xây dựng đất nƣớc thành một quốc gia giàu mạnh có "văn trị", "quốc phú binh

cƣờng", một xã hội có "vua sáng", "tôi hiền", mọi phép của Nhà nƣớc phải "thuận lòng dân",

ông lên án bọn quan lại tham nhũng "thích sƣu cao thuế nặng, vơ vét của dân cho nhiều" và

khinh bỉ bọn "hào phú", "bất nhân", "vô nghĩa", Ông lo đời sống của dân chúng và mong ƣớc

mọi ngƣời đều đƣợc an cƣ lạc nghiệp.

Nguyễn Trãi đã dồn hết tâm huyết của mình và khí phách anh hùng của dân tộc vào

đầu ngọn bút để "vệ Nam" - bảo vệ tổ quốc, và "điện Bắc" - dẹp yên giặc Bắc xâm lƣợc. Ông

đã dùng văn chƣơng của mình để góp phần vào sự nghiệp xây dựng Tổ quốc, xây dựng nhân

cách con ngƣời, tâm hồn và cốt cách dân tộc, xây dựng nền văn hóa Đại Việt.

Với tấm lòng yêu nƣớc, thƣơng dân, lòng nhân ái rộng lớn, chủ nghĩa nhân đạo cao

cả, thơ văn Nguyễn Trãi chứa đựng chất giáo dục sâu sắc về tình yêu thƣơng đồng bào cốt

nhục, cuộc sống tốt đẹp yên vui, chống lại sự chà đạp lên nhân phẩm con ngƣời và những

hành động bất nhân, bất nghĩa. Thơ văn của ông chiến đấu vì chân lý vì lẽ phải, vì đời sống

ấm no hạnh phúc của nhân dân, vì thái bình muôn thuở, vì sự hòa hiếu giữa các dân tộc.

Tính chất giáo dục trong thơ văn ông mang sức mạnh chiến đấu, năng lực của sự sáng

tạo và nguồn cảm hứng trong mọi hoàn cảnh của thiên nhiên, trong thực tiễn xã hội và đòi

sống của nhân dân.

Vì thế thơ văn của ông "có sức mạnh nhƣ mƣời vạn hùng binh" thơ của ông mang khí

phách của "thi tƣớng" trên chiến trận "tao đàn".

Trang 111

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

Suốt đời ôm mối "tiên ƣu", lo trƣớc thiên hạ, vui sau thiên hạ, Nguyễn Trãi thƣờng

nhắc lời của Tô Đông Pha.

"Nhân sinh thức tự đa ưu hoạn,

Pha lão tằng vân ngã diệc vân."

(Mạn hứng- 1)

Đó là niềm tự hào, là ý thức trách nhiệm của ngƣời trí thức chân chính mà Nguyễn

Trãi đã tìm thấy ở ngƣời cầm bút và gửi gắm cho con cháu đời sau:

"Văn chương chép lấy đòi câu thánh,

Sự nghiệp tua gìn, phải đạo trung.

Trừ độc trừ tham trừ bạo ngược,

Có nhân có trí, có anh hùng"

(Bảo kính cảnh giới -5)

Và ông đã nói về ý nghĩa chiến đấu của văn chƣơng khi nhắc đến các bức thƣ gửi giặc

Minh.

"Đao bút đã dùng tài đã vẹn,

Chỉ thư nấy chép việc càng chuyên.

Vệ Nam mãi mãi ra tay thước,

Điện Bắc đà đà yên phân tiên"

(Bảo kính cảnh giới -56)

Trong thơ văn của mình, Nguyễn Trãi luôn có cái nhìn xa rộng, cái nhìn thấu đáo và

sâu sắc đối với cuộc sống của đất nƣớc của nhân dân. Chính vì nhận định đƣợc nhân dân là

ngƣời làm biến thiên lịch sử cho nên quan điểm giáo dục của Nguyễn Trãi rất đề cao tƣ tƣởng

thân dân. Và đối tƣợng giáo dục của Nguyễn Trãi lúc bấy giờ không chỉ là quần chúng nhân

dân mà còn là những kẻ quyền cao, chức trọng, kể cả vua.

Trang 112

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

Đối với những ngƣời cầm quyền, lãnh đạo quốc gia, vấn đề đặt ra đầu tiên và trên hết

chính là việc nhận định đúng đắn về vai trò và sức mạnh của nhân dân. Muốn tạo đƣợc một

quốc gia vững mạnh phải dựa vào dân. Và muốn lòng dân quy phục, theo về ngƣời lãnh đạo

phải có trách nhiệm đối với việc chăm lo cho dân. Dân đƣợc no ấm, an cƣ, lạc nghiệp thì xã

hội mới ổn định và quốc gia mới cƣờng thịnh. Vì vậy việc khuyên răn những ngƣời có quyền

thế phải hiểu về việc quản trị đất nƣớc, am hiểu về phép tri nƣớc là việc mà Nguyễn Trãi phải

quan tâm hàng đầu. Tác dụng giáo dục trong thơ văn của Nguyễn Trãi đối với những ngƣời

cầm quyền là ông đã đƣa đức trị gắn với việc giáo hóa, phải lấy việc nhân nghĩa mà trị nƣớc.

Phải hiểu phƣơng pháp lãnh đạo thế nào là hợp lòng dân, có lợi cho cuộc sống của nhân dân,

để từ đó xây dựng và phát triển đất nƣớc một cách vững bền. Kết quả những việc làm của

Nguyễn Trãi cho thấy bộ máy cai trị dƣới triều đại nhà Lê, nhất là Lê Thái Tông đã có sức lay

chuyển đáng kể. Nhà vua sau khi trƣởng thành đã nhận định đƣợc sự việc, hiểu ra những điều

hay lẽ phải, chấn chỉnh triều nội, trừng trị bọn gian thần hại dân hại nƣớc và vời Nguyễn Trãi

tham gia việc triều chính, chú trọng đời sống nhân dân. Tất cả những kết quả đó đã chứng

minh đƣợc rằng sức mạnh giáo dục của Nguyễn Trãi đã có ảnh hƣởng không nhỏ đến những

hoạt động xã hội lúc bấy giờ. Lý tƣởng an dân của Nguyễn Trãi đã đƣợc thực hiện phần nào,

nhƣng thật đắng cay cho cuộc đời Nguyễn Trãi, một cuộc đời luôn lo cho dân cho nƣớc,

muốn xây dựng triều đình mà mình phụng sự thành một triều đại thịnh trị, thì lại bị thảm sát

dƣới lƣỡi gƣơm của triều đại do chính mình vun bồi. Cái chết của Nguyễn Trãi đã làm đảo

ngƣợc tất cả, lý tƣởng xây dựng một xã hội thái bình có "văn trị" bị vùi chôn vào quá khứ

cùng với thảm án của ông.

Sống trong chế độ phong kiến khi mà giai cấp thống trị chỉ coi nhân dân là lớp ngƣời

bị trị, thì Nguyễn Trãi đã xác định đƣợc vị trí vô cùng quan trọng của nhân dân trong việc bảo

vệ và xây dựng đất nƣớc. Chính vì lẽ đó công việc chăn

Trang 113

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

dắt và giáo dục tầng lớp quần chúng là vấn đề mà Nguyễn Trãi đã từng đặt ra. Ý nghĩa và

mục đích giáo dục của Nguyễn Trãi đối với nhân dân chính là nâng cao nhận thức về cuộc

sống, về vị trí vai trò của mình trong xã hội để rồi ý thức trách nhiệm đối với vận mệnh và

công cuộc xây dựng đất nƣớc. Tác dụng giáo dục của thơ văn Nguyễn Trãi là làm cho quần

chúng nhân dân chuyển biến về nhận thức, biết nhận ra nghĩa vụ của mỗi công dân đối với

cộng đồng, góp sức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày càng giàu đẹp. Hơn thế nữa Nguyễn

Trãi còn giáo dục mỗi con ngƣời phải có trách nhiêm đối với gia đình và chính bản thân

mình. Có nhƣ thế con ngƣời mới có thể trở thành ngƣời tốt. Nguyễn Trãi chỉ ra những điểm

yếu trong bản thân mỗi con ngƣời thƣờng mắc phải để rồi sáu đó đƣa ra phƣơng pháp khắc

phục, hƣớng con ngƣời đến chỗ tự mình có thể sửa chữa đƣợc những sai lầm do mình tạo ra

để hoàn thiện nhân cách ngày một tốt hơn. Ý nghĩa giáo dục của Nguyễn Trãi là tạo cho con

ngƣời một phong cách sống hòa nhã, sống với nhau trong tình yêu đồng loại, sống đúng, sống

đẹp theo đạo đức truyền thống, làm cho con ngƣời đạt đƣợc những hạnh phúc giản dị bình

thƣờng nhất mà cao quý nhất. Với những ý nghĩa đó giá trị con ngƣời ngày càng đƣợc đề cao.

Giữa lúc ý thức hệ Nho giáo phong kiến đang thống trị hệ tƣ tƣởng xã hội với bao

nhiêu định kiến khắt khe, chật hẹp, Nguyễn Trãi với lý tƣởng giáo dục của mình nhƣ một

mầm măng chọc thủng đất vƣơn lên tỏa sinh lực tràn đầy vào nền luân lý ấy. Ý nghĩa to lớn

nhất của tƣ tƣởng giáo dục con ngƣời mà Nguyễn Trãi đem đến cho dân tộc chính là giá trị

nhân văn, nhân đạo cao cả, mang lại cho tâm hồn con ngƣời sự trong sáng, cao đẹp, biết trân

trọng giữ gìn những cái đáng quý, tôn vị trí con ngƣời lên đỉnh cao tuyệt vời của những ý chí

và nghị lực phi thƣờng.

Đạo đức cao quý mà ngƣời đời dành lời ngợi ca về Nguyễn Trãi là ông luôn chăm lo

đến đời sống của nhân dân, biết sửa sang phép nƣớc để tạo nền thái

Trang 114

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

bình muôn thuở. Một con ngƣời có tầm nhìn sâu rộng, biết đặt vai trò quan trọng của nhân

dân lên hàng đầu, biết dựa vào dân để phát triển kinh tế văn hóa đất nƣớc. Tác dụng của thơ

văn Nguyễn Trãi đã làm cho tầng lớp quan lại xã hội lúc bấy giờ chuyển biến về nhận thức

trong việc cai trị nhân dân, nói rộng một số chính sách sƣu thuế đối với dân chúng. Còn trong

chiến tranh chống giặc Minh xâm lƣợc, thơ văn ông đã phát huy sức mạnh của "mƣời vạn

hùng binh", dùng lời lẽ để thuyết phục kẻ thù, đánh vào lòng ngƣời, buộc địch phải tâm phục

khẩu phục mà quy hàng giảng hòa. Nhƣ vậy trong kháng chiến chống ngoại xâm cho đến khi

đất nƣớc lập lại nền thái bình, Nguyễn Trãi cùng với thơ văn của mình nhƣ một ánh hào

quang tỏa sáng vào khắp mọi nơi, đánh thức tâm hồn con ngƣời, làm sống dậy bao nhiêu điều

tốt đẹp, góp phần làm phồn vinh cho nền đạo đức dân tộc.

Ý nghĩa, tác dụng của thơ văn Nguyễn Trãi trong việc giáo dục con ngƣời ở thế kỷ

thứ XV là tạo cho con ngƣời có đƣợc ý thức phấn đấu xây dựng những giá trị nhân cách đẹp

và cuộc sống đẹp cho mình và cộng đồng. Tinh thần nhân văn, nhân đạo đã đƣợc Nguyễn

Trãi đƣa vào trong thơ văn mình, giáo dục mọi ngƣời hƣớng đến những điều chí thiện, trong

sáng, vui tƣơi, tạo phúc cho muôn dân. Sức mạnh của thơ văn Nguyễn Trãi đã đào tạo và rèn

luyện nên một thế hệ Nho sĩ biết ý thức vận mệnh dân tộc, vận mệnh quốc gia. Trong điều

kiện chật hẹp của chế độ phong kiến nó đã đạt đƣợc một số thành tựu khá quan trọng ở thời

Lê Thánh Tông - một thời đại hoàng kim của chế độ phong kiến Việt Nam. Những tƣ tƣởng

giáo dục uyên thâm của Nguyễn Trãi làm nên tinh thần của giai đoạn lịch sử này.

III. Tác dụng đối với ngày nay

Cho đến nay, ở những năm cuối cùng của thế kỷ XX và chuẩn bị bƣớc vào thế kỷ

XXI, Nguyễn Trãi dù đứng ở bất cứ lĩnh vực nào cũng luôn là tấm gƣơng

Trang 115

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

tỏa sáng của bậc làm cha, làm thầy. Đối với chúng ta hôm nay, lý tƣởng giáo dục của ông vẫn

tiếp tục đƣợc tiếp thu và phát huy tích cực trong đời sống xã hội, khơi gợi cho chúng ta nhiều

điều quý báu về đạo đức truyền thống làm ngƣời.

Kế thừa và phát huy truyền thống cao đẹp của dân tộc qua bao thế kỷ. Nguyễn Trãi

không những là nhà quân sự, chính trị, ngoại giao lỗi lạc mà ông còn là một nhà "Kinh bang

hoa quốc cổ vô tiền". Chính vì thế những áng thơ văn tuyệt tác của ông để lại cho đời sau

mang nội dung tƣ tƣởng rất tiến bộ. Ông là ngƣời luôn biết "Vui cái vui của dân, lo cái lo của

dân ".

"Nụy ốc thê thân kham độ lão;

Thương sinh tại niệm độc tiên ưu"

(Mạn hứng - 2)

Dịch nghĩa:

"Lúc nhỏ nương thân có thể qua tuổi già.

Lúc nào cũng nghĩ đến dân, riêng ôm mối tiên ưu"

Hay:

'Thánh tâm dục dữ dân hưu tức,

Văn trị chung tu trí thái bình"

(Quan duyệt thủy trị)

Dịch nghĩa:

"Lòng vua muốn để dân ngơi nghỉ

Văn trị nên xây dựng thái bình'"

Chúng ta có thể nhận thấy rằng xuyên suốt trong thơ văn Nguyễn Trãi là tƣ tƣởng

nhân nghĩa, thƣơng dân, trọng dân, ý chí vì dân là nội dung chủ đạo. Chính vì lo cho dân nên

ông muốn giáo dục mọi ngƣời đều trở thành ngƣời tốt sống hòa thuận êm ái bên nhau. Có lực

lƣợng dân tình hùng hậu và ổn định thì quốc gia mới cƣờng thịnh. Chính vì biết dựa vào dân

mà thế hệ hôm nay đã tiếp

Trang 116

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

thu triệt để tƣ tƣởng giáo dục của Nguyễn Trãi. Qua hai mƣơi thế kỷ, bài học thân dân, dựng

nƣớc, giữ nƣớc của Nguyễn Trãi đã đƣợc Hồ Chí Minh áp dụng trong hai cuộc kháng chiến

trƣờng kỳ anh dũng của quân và dân ta để đánh đuổi thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Trong hai

cuộc kháng chiến ấy, Hồ Chủ Tịch đã đặt nền móng cơ bản đầu tiên là "dân" để đi lên giành

thắng lợi. Tƣ tƣởng ấy đƣợc Hồ Chủ Tịch khẳng định với một tinh thần lạc quan cao đẹp:

"Xây đài thắng lợi trên nền lòng dân"

Dân là gốc, có dân mới có nƣớc, chính vì vậy mà trong suốt quá trình lãnh đạo cách

mạng, lãnh đạo kháng chiến tất cả những căn cứ địa quan trọng đều xuất phát từ dân. Dân là

hậu phƣơng vững chắc quyết định quan trọng sự thắng lợi của tiền tuyến.

Từ việc khẳng định ý thức dân tộc, đề cao tƣ tƣởng thân dân, những quan điểm về

giáo dục trong thơ văn Nguyễn Trãi đã có ảnh hƣởng sâu sắc đến công tác giáo dục trong giai

đoạn hiện nay. Thoát khỏi vỏ bọc Nho giáo, nội dung giáo dục, đào tạo hiện nay vẫn mang

những nét truyền thống cơ bản và bổ sung một số yếu tố để phù hợp với điều kiện xã hội của

từng thời kỳ. Trong điều kiện quốc gia hiện nay đang tập trung ổn định chính trị, phát triển

kinh tế, thì về mặt văn hóa từng lúc từng nơi chƣa theo kịp kinh tế, tuy nguồn ngân sách tập

trung cho công tác giáo dục đào tạo rất lớn. Mặt khác tác động mặt trái nền kinh tế thị trƣờng,

đã gây không ít những phát sinh tệ nạn xã hội phức tạp cho Việt Nam nhƣ: cờ bạc, mại dâm,

ma túy, làm ăn phi pháp, tham nhũng, hối lộ...đã làm tha hóa không ít một tầng lớp nhân dân,

trong đó có cả những cán bộ chủ chốt. Trƣớc tình hình đó, Ban chấp hành Trung Ƣơng Đảng

đã ban hành Nghị quyết TW 5 (Khóa VIII) về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm

đà bản sắc dân tộc, nhằm phục hồi và cải tiến những giá trị văn hóa truyền thống cao quý

Trang 117

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

mà hơn mấy nghìn năm dân tộc ta đã tạo nên và đấu tranh để gìn giữ nó. Đƣa ra vấn đề này

để chúng ta thấy đƣợc rằng, những vấn đề giáo dục mà Nguyễn Trãi đặt ra, một mặt nó có giá

trị ngay từ thời đại ông, mặt khác nó đã có giá trị vƣợt thời đại cho đến tận hôm nay. Nguyễn

Trãi đã lên án và suốt đời đấu tranh chống bọn quan liêu, cƣờng quyền, tham nhũng, vơ vét

của dân, bọn bất nhân vô lƣơng thì ngày nay chúng ta cũng tiếp tục con đƣờng ấy bằng những

pháp lệnh chống tham nhũng, chống lãng phí, thực hành tiết kiệm, quy chế dân chủ cơ sở,

quy chế dân chủ cơ quan..., hàng loạt các Nghị định, Chỉ thị, Thông tƣ của Chính Phủ ra đời

và nó có hiệu lực thực thi nhằm đƣa nhân dân vào cuộc sống "sống và làm việc theo hiến

pháp và pháp luật". Dƣới mọi hình thức thực hiện, chúng ta luôn giáo dục mọi ngƣời về lối

sống đẹp giữa cộng đồng, lòng nhân ái, yêu nƣớc, yêu dân, đạo thủy chung... tất cả là những

điều mà nền giáo dục hôm nay đang quan tâm và mong muốn phát huy một cách triệt để.

Giáo dục bao giờ cũng xuất phát trên quan điểm đạo lý, những giá trị đạo đức truyền

thống dân tộc. Tƣ tƣởng giáo dục của Nguyễn Trãi chịu sự chi phối trực tiếp của nền văn hiến

dân tộc qua mấy nghìn năm. Những giá trị đƣợc Nguyễn Trãi đúc kết trong tƣ tƣởng giáo dục

của mình hoàn toàn có ý nghĩa tích cực đối với nền giáo dục ngày nay. Nhân tố tích cực trong

tƣ tƣởng giáo dục của Nguyễn Trãi là tiếp cận với tƣ tƣởng tiến bộ của chúng ta ngày nay, là

những nhân tố truyền thống tinh thần yêu nƣớc, tinh thần nhân văn, nhân đạo cao đẹp mà cụ

thể hóa là tấm lòng yêu nƣớc chống ngoại xâm, vì dân mà phục vụ quên mình của tổ tiên ta.

Tiếp thu tinh thần đó, Hồ Chủ Tịch đã từng mơ ƣớc "Tôi có một ham muốn, ham muốn tột

bậc là đất nước ta được hoàn toàn giải phóng, đồng bào ai cũng cố cơm ăn áo mặc, ai cũng

được học hành" và cái mục đích cao cả đáng quý nhất của mọi con ngƣời chúng ta trƣớc sau

vẫn là " hết lòng hết sức phụng sự nhân dân, phụng sự Tổ quốc ".

Trang 118

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

Đối với Nguyễn Trãi, mặc dù sống trong chế độ phong kiến, về mặt tƣ tƣởng còn hạn

hẹp nhƣng ông đã nhìn nhận sâu sắc vấn đề giáo dục. Ông coi giáo dục là con đƣờng và là

một trong những nguồn lực cơ bản tạo ra của cải, vật chất, tạo ra thợ giỏi, thầy giỏi và tạo ra

đƣợc cả vua hiền minh, bởi giáo dục có thần lực uốn nắn đƣợc phần quan yếu nhất và khó tác

động nhất ở con ngƣời là tính nết, tƣ tƣởng và nghị lực. Đƣa ra quan điểm này Nguyễn Trãi

đã đề cao "kiến thức", vì kiến thức luôn là sự cần thiết chò mỗi cá nhân tồn tại trong xã hội, là

điều kiện để con ngƣời bƣớc lên thang danh vọng, những bậc phụ mẫu của chế độ đƣơng

thời. "Kiến thức" đối với thời đại hôm nay là phƣơng tiện dẫn dắt con ngƣời hội nhập với sự

bùng nổ thống tin thế giới, là sự khẳng định vƣơn lên của chính bản thân mỗi ngƣời. Sự tiến

bộ trong tƣ tƣởng của Nguyễn Trãi đã có giá trị tích cực, tác động mạnh mẽ đến nền giáo dục

hiện đại. Nguyễn Trãi đã vạch ra một phƣơng pháp giáo dục toàn diện kể cả hai mặt học và

hành, chú trọng giáo dục "đức dục" một vấn đề cực kỳ quan trọng mà thời đại hôm nay chúng

ta đang từng bƣớc tập trung thực hiện. Bất cứ trong xã hội nào đạo đức vẫn là vấn đề quan

trọng thiết lập sự bền vững, ổn định của xã hội. Khi sự rạn nứt về mặt đạo đức diễn ra sẽ gây

không ít những khó khăn cho việc phát triển đất nƣớc. Những giá trị đạo đức mà Nguyễn Trãi

nhấn mạnh và cố công thực hiện suốt đời là làm sao đào tạo đƣợc những con ngƣời Việt Nam

ƣu tú yêu nƣớc, thƣơng dân, tận tụy phục vụ nhân dân. Tuy bƣớc ra từ "cửa Khổng, sân

Trình" nhƣng tƣ tƣởng ông đã khúc xạ bởi trí tuệ Việt Nam. Sự tiến bộ trong tƣ tƣởng và tiếp

thu có chọn lọc là một vấn đề quan trọng hàng đầu nâng Nguyễn Trãi lên tầm cao so với các

nho sĩ đƣơng thời.

Nguyễn Trãi đã đóng góp một cách tích cực và không mệt mỏi vào việc hệ thống và

nâng cấp những giá trị giáo dục con ngƣời lên tầm cao mới, biến nó thành những giá trị giáo

huấn phù hợp với mọi thời đại, mọi xã hội. Nguyễn Trãi đã đặt niềm tin mãnh liệt vào sự

nghiệp giáo dục mà mình đƣa ra. Ông tin tƣởng

Trang 119

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

rằng giáo dục sẽ là nguồn đào tạo nhân lực dồi dào cho quốc gia, là nguồn cung cấp những

nhân tài đứng ở vị trí hàng đầu xây dựng một đất nƣớc cƣờng thịnh. Sự tin tƣởng mãnh liệt

đó đã chứng minh đƣợc rằng nền giáo dục thời Lê sơ đã phát triển rực rỡ và là giai đoạn giáo

dục thịnh đạt nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam.

Ngày nay giáo dục đào tạo là nguồn cung cấp nhân tài cho đất nƣớc, hàng loạt những

nhà trí thức giỏi đƣợc đào tạo trong tƣ tƣởng giáo dục của Nguyễn Trãi. Một tƣ tƣởng giáo

dục tiên tiến và toàn diện. Có thể khẳng định rằng tƣ tƣởng giáo dục của Nguyễn Trãi là nền

móng cho sự nghiệp giáo dục ngày nay khi mà chúng ta đang tập trung mọi nguồn lực để đào

tạo các trí thức trẻ với một nhân cách toàn diện.

Tƣ tƣởng giáo dục không cao xa, khó hiểu, Nguyễn Trãi đã gieo vào lòng ngƣời

những lời giáo huấn thật nhẹ nhàng, dễ đi sâu vào tâm hồn mọi ngƣời. Ngƣời có chữ hiểu sâu

sắc, liên hệ với mình cũng có căn cứ. Ngƣời ít học cũng tìm ra sau những chữ, câu đơn giản

mộc mạc ấy một sự đồng cảm với mình, nói hộ mình một điều gì đó về nhận thức, về ƣớc

mơ, vì những đạo lý mà ông đƣa ra nó gần gũi, thiết thực với nhân dân trong quá trình sống,

chiến đấu, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Những giá trị đạo đức chung mà dân ta đạt đƣợc và

cần trao truyền cho lớp con cháu đời sau là sống nhân hậu, tình nghĩa, có trƣớc có sau trong

quan hệ giữa ngƣời với ngƣời, nhƣờng nhịn trong gia đình, làm quan chức phải biết tạo thói

quen sống cần kiệm liêm chính...Đó là nội dung đức dục từng tồn tại lâu dài trong công việc

đào tạo con ngƣời ở đất nƣớc ta.

Tiếp thu và phát huy những giá trị đạo đức mà Nguyễn Trãi đã nhấn mạnh và thực

hiện suốt đời - Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngƣời Việt Nam ƣu tú đã nhiều lần dạy con cháu, đồng

bào, đồng chí về những đức tính ấy. Đó là một trong những tiêu chuẩn mà nhân loại tìm thấy

và tôn vinh Nguyễn Trãi, Hổ Chí Minh

Trang 120

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

là "Danh nhân văn hóa" thế giới. Chúng ta, hiện đang sống trong thời kỳ đất nƣớc có những

chuyển biến tốt về mặt kinh tế, sự hội nhập kinh tế khu vực và kinh tế thế giới là một trong

những nhân tố khẳng định sự lớn mạnh của Việt Nam. Nhƣng chúng ta cũng đang sống ở thời

điểm mà đạo đức xã hội đang có nhiều điều đáng lo ngại. Vì vậy cần phải có những giải pháp

tốt để ngăn chặn sự xuống cấp của giáo dục. Trƣớc mắt là tập trung phát triển giáo dục đạo

đức trong sự phối hợp đồng bộ theo nguyên lý gia đình - nhà trƣờng và xã hội để từng bƣớc

đƣa giáo dục vào nề nếp đào tạo con ngƣời hoàn thiện ƣu tú.

Vấn đề giáo dục luôn là nhân tố quyết định sự vững mạnh của mỗi xã hội. Vì vậy sau

khi các triều đại hay xã hội đƣợc thành lập đều thiết lập hệ thống giáo dục riêng cho triều đại

và xã hội mình. Nhƣng vấn đề cơ bản là đào tạo một con ngƣời có ích cho gia đình và xã hội.

Đứng ở hệ tƣ tƣởng phong kiến Nho giáo thế kỷ XV, Nguyễn Trãi đã tìm ra những tƣ tƣởng

tiến bộ tích cực, phục vụ cho việc giáo hóa con ngƣời và có ảnh hƣởng mạnh mẽ đến nền

giáo dục hiện đại. Nghiên cứu, đánh giá, nhận định Nguyễn Trãi trên góc độ một ngƣời làm

giáo dục, chúng ta có thể khẳng định rằng: Nguyễn Trãi là một nhà giáo dục Việt Nam đã có

nhiều ý kiến đóng góp quan trọng trong việc giáo dục con ngƣời đƣơng thời và nền giáo dục

hiện đại.

Trang 121

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

PHẦN KẾT LUẬN

Nguyễn Trãi là nhân vật lịch sử yêu nƣớc nồng nàn, là nhà kinh bang tế thế rất hiếm

có của dân tộc Việt Nam trong thời phong kiến, là nhà chính trị, quân sự, ngoại giao sáng

suốt và thao lƣợc, một tài năng văn chƣơng sáng chói, đặc biệt còn là một nhà giáo dục đặc

sắc của thời đại, ông đã phát huy sâu rộng lý tƣởng giáo dục của mình để tạo thành những

đóng góp quý báu đáng ghi nhận.

Xuất thân từ gia đình có truyền thống giáo dục từ "cửa Khổng, sân Trình", Nguyễn

Trãi đã làm giàu trí tuệ bằng cách học tập nghiên cứu kỹ phƣơng thức giải quyết việc đời,

việc ngƣời, việc xã hội...từ các học thuyết khác nhau, từ các quốc gia khác nhau du nhập vào

Việt Nam từ nhiều thế kỷ trƣớc đó. Đó là sự du nhập trên tinh thần tiếp nhận có chọn lọc của

dân tộc Việt Nam. Sự du nhập diễn ra trong tình trạng giao lƣu áp đặt và bất bình đẳng. Tuy

nhiên với tinh thần yêu nƣớc, tinh thần nhân đạo, dân tộc Việt Nam đã chắt lọc những tinh

hoa, hòa nhập vào văn hóa bản địa làm thành tƣ tƣởng của Đại Việt. Tiếp thu những giá trị

truyền thống ấy, Nguyễn Trãi đã sáng tạo cao hơn, quan niệm của ông tinh tế hơn, tiến xa

hơn ở một số lĩnh vực của cuộc sống, trong đó có lĩnh vực giáo hóa con ngƣời. Điều này giúp

chúng ta khẳng định rằng tổ tiên ta đã có triết lý sống của mình, dân tộc ta từ xa xƣa đã có

đạo lý của riêng mình. Đó là sự khẳng định sức mạnh của tƣ tƣởng Việt Nam trong quá trình

chống lại Hán hóa của phong kiến phƣơng bắc. Những học thuyết Nho giáo, Phật giáo, Đạo

giáo khi vào Việt Nam đã gặp phải những cở sở tƣ tƣởng vững chắc vốn có từ lâu - tƣ tƣởng

yêu nƣớc và tƣ tƣởng nhân đạo - nó đã phải biến đổi cho phù hợp nhằm phục vụ yêu cầu của

cuộc sống Việt Nam, chống lại sự đồng hóa của ngoại tộc.

Trang 122

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

Lịch sử chứng minh rằng những nhà chính trị lỗi lạc thƣờng rất am hiểu về lịch sử dân

tộc mình cũng nhƣ các dân tộc khác. Nguyễn Trãi cũng là một nhà chính trị tài ba, ông rất am

hiểu về cục diện chính trị các nƣớc trong khu vực và tình hình xã hội Việt Nam qua các triều

đại phong kiến trƣớc đó. Những quan niệm, ý kiến đúng đắn của ông về công tác giáo dục

đào tạo con ngƣời đƣợc rút ra từ các học thuyết Khổng - Mạnh trong sự chọn lọc tinh tế của

tƣ tƣởng Việt Nam đã góp phần tạo nên sự phát triển rực rỡ của nền giáo dục đƣơng thời, một

thời kỳ giáo dục phát triển nhất trong lịch sử xã hội phong kiến Việt Nam.

Nguyên khí quốc gia Đại Việt đã sản sinh ra Nguyễn Trãi, một nhân vật lịch sử vĩ đại,

nhƣng rất ƣ gần gũi. Nguyễn Trãi nổi bật lên nhƣ ngồi sao Khuê tỏa sáng giữa bầu trời bao la

rộng lớn. Tƣ tƣởng và sự nghiệp của Nguyễn Trãi mãi mãi khắc ghi trong tâm khảm mọi

ngƣời dân đất Việt. Nguyễn Trãi suốt đời không yên nghỉ, cứ mãi trăn trở về cuộc sống của

nhân dân. Tâm sự ấy đƣợc thể hiện trên những vần thơ đầy tâm huyết và có sức sống vƣợt

thời gian. Sáu trăm năm đã đi qua chí khí, nghị lực, tấm lòng ƣu ái của Nguyễn Trãi cứ mãi

mãi đi vào lòng ngƣời, khắc ghi cho đời những bài học về xây dựng đất nƣớc, xây dựng con

ngƣời một cách toàn diện. Tƣ tƣởng giáo dục của Nguyễn Trãi là sự khẳng định di sản văn

hóa quí báu của dân tộc Việt Nam.

Nhà trƣờng nho học và nền nếp giáo dục từ trong gia đình đã có tác dụng vào sự hình

thành nền văn hóa Việt Nam. Bƣớc ra từ những giáo điều của nền Nho học tồn tại vững bền

trong lịch sử phong kiến phƣơng Đông, Nguyễn Trãi đã có những tƣ tƣởng hết sức khoáng

đạt và rộng mở, vƣợt ra khỏi những giáo điều khắt khe hạn hẹp của ý thức hệ Nho gia đang

thời cực thịnh. Nguyễn Trãi không làm thao tác tổng kết lịch sử giáo dục của dân tộc có trƣớc

thời đại ông, nhƣng những ý kiến, quan niệm sáng suốt của ông về giáo dục đã đề cập đến các

phạm trù chính của giáo dục, và đƣờng lối làm giáo dục của một nhà nƣớc.

Trang 123

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

Trong đó ông chỉ ra rằng: Giáo dục là động lực phát triển xã hội; giáo dục tài đi đôi với đức;

chỉ ra chính sách trọng dụng nhân tài, cải tạo con ngƣời, cải tạo xã hội, giáo dục tầng lớp có

quyền lực và uy tín trong xã hội phải sống đẹp, làm gƣơng cho thế hệ trẻ, để có ngƣời tài giỏi

thì phải có chính sách đào tạo căn cơ, phải dạy dỗ tử tế từ trong gia đình... Đó là những nội

dung giáo dục đã tồn tại từ xa xƣa đƣợc Nguyễn Trãi tổng kết và phát huy lên một tầm cao

mới, với những quan điểm hết sức tiến bộ.

Nguyễn Trãi giáo dục con ngƣời bằng những câu chữ vồ cùng giản dị, mộc mạc, bằng

tấm lòng chân thành tha thiết. Với chí khí và nghị lực bền bỉ Nguyễn Trãi đã không mệt mỏi

suốt hơn sáu mƣơi năm tâm huyết xây dựng một đất nƣớc hùng mạnh, dùng "Văn trị". Ông

đã cố công thực hiện lý tƣởng của mình, hƣớng con ngƣời đến với những giá trị đạo đức

truyền thống dân tộc. Đối tƣợng giáo dục của ông rộng rãi từ vua quan cho đến "thƣơng sinh"

"xích tử". Ông giáo dục mọi ngƣời không phải bằng lời thơ, câu văn mà ông còn giáo dục

bằng chính bản thân cuộc sống của mình từ lúc chào đời cho đến khi ngồi ở địa vị cao sang.

Nguyễn Trãi giáo dục con ngƣời về tinh thần rèn luyện nghị lực, ý chí để đạt đƣợc

nhân cách cao quý. Điểm tiến bộ trong tƣ tƣởng giáo dục của ông so với trƣớc và sau thời đại

ông là Nguyễn Trãi đã đƣa vấn đề giáo dục lối sống hài hòa cân đối vào trong quan điểm giáo

dục, thể hiện một sự trung dung tích cực. Giáo dục con ngƣời, ông mong muốn họ đƣợc giải

phóng cả về tƣ tƣởng lẫn tâm hồn. Đƣa ra những quan niệm phóng khoáng về giáo dục

Nguyễn Trãi muốn đƣa con ngƣời thoát khỏi những quy định khắt khe, những điều mà lâu

dần sẽ làm triệt tiêu bản lĩnh và cá tính sáng tạo của mỗi con ngƣời.

Hơn sáu trăm năm đã đi qua, tên tuổi của Ức Trai tiên sinh không hề bị phai mờ mà

dƣờng nhƣ mỗi ngày lại đƣợc điểm tô thêm bởi những cống hiến to

Trang 124

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

lớn của ông trên lĩnh vực giáo dục. Ông đã đóng góp tích cực vào việc hoàn thiện Sự nghiệp

giáo dục hôm nay, đành rằng xã hội nào giáo dục ấy, nhƣng những ảnh hƣớng tích cực trong

tƣ tƣởng giáo dục của Nguyễn Trãi đối với nền giáo dục hiên đại là điều tất yếu trong lịch sử

tƣ tƣởng giáo dục Việt Nam.

"Nguyễn Trãi là một trong những nhà văn ƣu tú bậc nhất của lịch sử văn học Việt

Nam, một đỉnh cao của thế kỷ XV, ngƣời kết thúc chặng đƣờng phát triển trên năm thế kỷ

văn học thành văn đầu tiên mà nhiệm vụ trung tâm là tìm về dân tộc" (40). Đặt ra vấn đề giáo

dục con ngƣời, Nguyễn Trãi thật đáng đƣợc tôn vinh làm bậc thầy trong sự nghiệp giáo dục,

cải tạo con ngƣời. Một vinh dự rất cao quý cho những ai đƣợc xem là học trò của Tiên sinh.

Một niềm tự hào cho dân tộc Việt Nam khi gọi tên Nguyễn Trãi - ngƣời "Danh nhân văn hóa"

thế giới. Một thân Tùng, thân Bách sừng sững hiên ngang giữa bầu trời, mặc cho tuyết phủ,

mƣa giông, nắng hạn.

"Cội rễ bền dời chẳng động

Tuyết sương thấy đã đặng nhiều ngày."

(Tùng)

lòng vẫn tỏa sáng nhƣ ánh sao Khuê. Xin đƣợc mƣợn lời của vua Lê Thánh Tông, thành kính

nghiêng mình trân trọng gỏi đến tiền nhân một lời ngợi ca bất diệt.

"Ức Trai tám thượng quang Khuê Tảo".

--------------------------

Trang 125

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

PHỤ LỤC

TÌNH HÌNH VĂN BẢN THƠ NGUYỄN TRÃI

Nghĩa lớn, vì dân, vì nƣớc, vì cả mọi ngƣời.Nguyễn Trãi đã trở thành một nhà văn

chiến đấu thiên tài, một nhà thơ trữ tình sâu sắc. Nguyễn Trãi luôn ƣớc mơ cho non nƣớc

thanh bình, đất trời phẳng lặng, để mình đƣợc trở về với chính bản thân mình, mình làm chủ

mình, tìm "thú mầu" trong thơ và mộng của "một khách văn chƣơng".

Đối với Nguyễn Trãi, sự nghiệp thơ văn của ông để lại cho thế hệ sau một khối lƣợng

rất đồ sộ. Nhƣng vụ án "Lệ Chi Viên" với án "tru di tam tộc" đã làm cho tác phẩm của

Nguyễn Trãi bị mất mác và thất lạc.

Sau khi Lê Thánh Tông lên ngôi, ông xuống chiếu rửa oan cho Nguyễn Trãi và cho

khôi phục lại toàn bộ sự nghiệp thơ văn của ông. Nhƣng việc tìm kiếm và thu thập tác phẩm

của Nguyễn Trãi gặp rất nhiều khó khăn. Theo một số nhà nghiên cứu trong tổng số 254 bài

thơ Quốc âm của Nguyễn Trãi có 33 bài trùng với 33 bài trong tổng số 178 bài thơ Quốc âm

của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tuy nhiên trong tổng số 33 bài thơ trùng nhau giữa Nguyễn Trãi và

Nguyễn Bỉnh Khiêm có 24 bài trùng cả 8 câu, còn lại 9 bài chỉ trùng từ 1 đến 7 câu.

Trong phạm vi đề tài của Luận án, ngƣời viết xin đƣợc thống kê những tác phẩm của

Nguyễn Trãi mà ngƣời viết sử dụng làm tƣ liệu trong Luận án có sự trùng lặp với thơ văn

Nguyên Bỉnh Khiêm.

I. NHỮNG BÀI TRÙNG TỪ 1 ĐẾN 7 CÂU

1. Ngôn chí 19 trùng 2 câu đầu với 2 câu đầu bài 81 của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Trang 126

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

2. Tự thán 18, trùng 4 câu đầu với 4 câu cuối bài 22 của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

3. Bảo kính cảnh giới 26, trùng 6 câu với 6 câu bài 125 (chỉ trừ câu 5 và câu 6 là

không trùng) của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

4. Bảo kính cảnh giới 20, trùng câu 2 và câu 4 với bài 83 của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

II. NHỮNG BÀI TRÙNG CẢ 8 CÂU, TRỪ MỘT SỐ CHỮ SAI BIỆT KHÔNG

ĐÁNG KỂ

1. Mạn thuật 2, trùng với bài 51 của Nguyễn Bỉnh Khiêm

2. Mạn thuật 5, trùng với bài 94 của Nguyễn Bỉnh Khiêm

3. Trần tình 2, trùng với bài 61 của Nguyễn Bỉnh Khiêm

4. Mạn thuật 21, trùng với bài 47 của Nguyễn Bỉnh Khiêm

5. Thuật hứng 24, trùng với bài 137 của Nguyễn Bỉnh Khiêm

6. Tự thán 10, trùng với bài 138 của Nguyễn Bỉnh Khiêm

7. Bảo kính cảnh giới 6, trùng với bài 69 của Nguyễn Bỉnh Khiêm

Sự thống kê trên chỉ là một số thông tin góp nhặt từ các công trình nghiên cứu của

một số tác giả đi trƣớc, nhằm làm rõ thêm nội dung thơ văn của Nguyễn Trãi.

-----------------------

Trang 127

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đỗ Văn Hỷ - Tính hàm súc trong thơ Ức Trai, H, Tạp chí văn học, số 4, 1981.

2. Đặng Thai Mai - Mối quan hệ lâu đời và mật thiết giữa văn học Việt Nam và văn học

Trung Quốc //NCVH, 1961, số 7, tr. 1.

3. Đặng Thai Mai - Nguyễn Trãi (1380 - 1442V//TCVH, 1976, số 6, tr.123.

4. Đặng Thanh Lê - Nghiên cứu văn học cổ trung đại Việt Nam trong mối quan hệ khu vực

//TCVH, 1992, số 1, tr.2.

5. Đặng Thanh Lê - Một nhân cách lịch sử và sự phản ánh giai đoạn trƣởng thành của ý thức

dân tộc thời kỳ Trung đại // TCVH, 1984, Số6,tr.21.

6. Đặng Thanh Lê - Nghiên cứu văn học Cổ Trung đại Việt Nam trong mối quan hệ khu vực

- Tạp chí văn học, Số 1, 1992

7. Đặng Thanh Lê - Từ một kiệt tác văn học - Suy nghĩ về mối quan hệ ảnh hƣởng giữa văn

học dân gian và văn học viết // TCVH, 1982, số l,tr.47.

8. Đặng Thanh Lê - Từ một phạm trù triết học về một quan điểm đạo đức Nho gia đến cảm

hứng nghệ thuật "thế sự" trong thơ Nôm Nguyên Bỉnh Khiêm // TCVH, 1986, số 4, tr.

111.

9. Đặng Thị Hảo - Tìm hiểu phƣơng pháp lập luận của Nguyễn Trãi trong Quân Trung Từ

Mệnh tập //TCVH, 1980, số 2, tr.47.

10. Đỗ Văn Hỷ - Tính chiến đấu của tập Quân trung từ mệnh tập //TCVH, 1967, số 9, tr.72.

11. Đỗ Văn Hỷ - Tính hàm súc trong thơ Ức Trai // TCVH, 1979, số 2, tr.55.

12. Đinh Gia Khánh - Đọc lại Cáo Bình Ngô // TCVH, 1979, số 3, tr.103.

Trang 128

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

13. Đinh Gia Khánh - Về nghiên cứu lịch sử tƣ tƣởng //TCVH, 1975, số 6, tr.30.

14. Đinh Gia Khánh - Tân, Bùi Duy - Chƣơng, Cao Mai - Văn học Việt Nam thế kỷ X đến

nửa đầu thế kỷ XVIII - tập 1 - Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, H, 1978.

15. Đinh Gia Khánh - Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm - Nxb.VH, H, 1983.

16. Đinh Gia Khánh - Từ tầm cao lịch sử nhìn lại văn học quá khứ // TCVH, 1976,số 5,tr.32.

17. Đinh Gia Khánh (chủ biên) - Điển cố văn học - Nxb. Khoa học xã hội, 1977.

18. Amadou - Nahtarmow- sự thực hiện trọn vẹn của Nguyễn Trãi, H, Tạp chí văn học, số 4,

1980.

19. Băng Thanh Ngọc Lan - Chu Văn An - Con ngƣời và thơ //TCVH - 1993 - Số 1.

20. Bùi Công Hùng - Vấn đề phong cách trong sáng tác văn học // TCVH, 1983,số2,tr.12.

21. Bùi Duy Tân - Bàn thêm về văn bản và tác giả bài thơ Nam Quốc Sơn Hà // TCVH,

1986, số 10, tr.29.

22. Bùi Duy Tân - Nguyễn Trãi - nhà văn chính luận kiệt xuất //TCVH, 1980, số 4, tr 59.

23. Bùi Duy Tân - Những năm ra hoạt động và về ở ẩn của Nguyễn Bỉnh Khiêm // TCVH,

1975, số 2, tr.77.

24. Bùi Văn Nguyên - Bàn thêm về tƣ tƣởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi //TCVH, 1964, số

3, tr.53.

25. Bùi Duy Tân - Nguyễn Trãi , nhà văn chính luận kiệt xuất, H, Tạp chí văn học, số 4,

1980.

26. Bùi Văn Nguyên - Chủ nghĩa yêu nƣớc trong văn học thời khởi nghĩa Lam Sơn . Nxb.

Khoa học xã hội, H, 1980.

Trang 129

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

27. Bùi Văn Nguyên - Lịch sử Văn học Việt Nam tập II - Nxb.Giáo dục, H, 1978.

28. Bùi Văn Nguyên - Nguyễn Trãi. Nxb. Văn hóa, H, 1980.

29. Bùi Văn Nguyên - Tƣ liệu tham khảo văn học Việt Nam, Nxb.Giáo dục, H, 1979.

30. Bùi Văn Nguyên - Văn chƣơng Nguyễn Trãi - Nxb. ĐH & THCN, H, 1984.

31. Cao Xuân Huy -Tƣ tƣởng phƣơng Đông gợi những điểm nhìn tham chiếu - Nxb.VH, H,

1995

32. Chương Thâu - Trên đƣờng tìm hiểu sự nghiệp thơ văn Nguyễn Trãi - Nxb.VH, 1980.

33. Chu Quang Tiềm - Tâm lý văn nghệ - Khổng Đức, Đinh Tấn Dung dịch -Nxb.Tp.HCM,

1991

34. Chu Văn Sơn - Về bản sắc dân tộc và một hƣớng kiếm tìm trong thơ // TCVH, 1994, số

11, tr.40.

35. Dương Quảng Hàm - Việt Nam văn học sử yếu - Bộ giáo dục trung tâm học liệu, 1968.

36. Dương Vũ Ninh - Lịch sử văn minh thế giới - Nxb. Giáo dục, H, 1999.

37. Đoàn Thị Thu Vân - Khảo sát đặc trƣng nghệ thuật của Thơ Thiền Việt Nam thế kỷ X -

XIV - Trung tâm nghiên cứu Quốc học & Nxb. VH, 1996.

38. Gulaivich A.J - Các phạm trù văn hóa trung cổ - Hoàng Ngọc Hiến dịch - Nxb. Giáo dục,

H, 1996.

39. Hà Minh Đức (chủ biên) - Lý luận văn học- Nxb.Giáo dục, H, 1995.

40. Hồ Sĩ Hiệp - Nguyễn Trãi - Nxb. Văn nghệ, Tp. HCM, 1997.

41. Hoài Lam -Về biện chứng của đời sống thẩm mỹ và nghệ thuật -Nxb. Thông tin và Nxb

Trẻ Tp.Hồ Chí Minh, 1991

Trang 130

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

42. Hoàng Hữu Yên - Thơ văn Nguyễn Khuyến - Nxb.Giáo dục, H, 1984.

43. Hoàng Lê - Thơ Phạm Sƣ Mạnh // TCVH, 1973, số 2, tr.23.

44. Hoàng Ngọc Hiến - Năm bài giảng về phƣơng pháp luận nghiên cứu văn học - Tài liêu

lƣu hành nội bộ - Đại học Huế, 1996.

45. Huyền Giang - Có những quan niệm về con ngƣời cá nhân ở phƣơng Đông không? // TC

VH, 1995., số 6, tr.1.

46. I.S.Lisevich - Tƣ tƣởng văn học Trung Quốc cổ xƣa - Trần Đình Sử . dịch - Trƣờng

ĐHSP.Tp.HCM, 1993.

47. Khang Trạc - Nói chuyện về sáng tác -Tâm Hƣơng dịch - Nxb.VH, H,1959

48. Kiều Thu Hoạch - Tìm hiểu thơ văn của các Thiền Sƣ Lý - Trần. TCVH, số 6,1965.

49. Kiều Thu Hoạch -Truyện nôm, nguồn gốc và bản chất thể loại -Khoa ngữ văn trƣờng đại

học Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh, 1994.

50. Konrat (N.I) - Giao lƣu văn học thời trung thế kỷ // TCVH, 1986, số 5, tr.43.

51. Kravchenco M.B - Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn học - Lê Sơn,

Nguyễn Minh dịch - Nxb tác phẩm mới, 1978

52. Kravchenco M.B - Sáng tạo nghệ thuật, hiện thực, con ngƣời - nhiều ngƣời dịch - Nxb.

Khoa học xã hội, H, 1984.

53. Lương Ninh ( chủ biên) - Lịch sử văn hóa thế giới - Nxb. Giáo dục, H, 1999.

54. Lương Ninh (chủ biên) - Lịch sử văn hóa thế giới cổ trung đại -Nxb Giáo dục, H, 1998.

55. Lại Nguyền Ân - đọc lại ngƣời trƣớc, đọc lại ngƣời xƣa - Nxb. Hội nhà văn, 1998.

56. Lê Đình Kỵ -Trên đƣờng văn học - 2 tập - Nxb. VH, H, 1995.

57. Lê Bá Hán - Trần Đình sử - Nguyễn Khắc Phi - Từ điển thuật ngữ văn học - Nxb.Giáo

dục, H, 1992.

Trang 131

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

58. Lê Trí Viễn - Đặc điểm có tính qui luật của lịch sử văn học Việt Nam - Nxb. Tp.HCM,

1998.

59. Lê Trí Viễn - Đặc trƣng văn học Trung đại Việt Nam - Nxb. Khoa học xã hội, H, 1996.

60. Lê Trí Viễn - Giáo trình tổng quan văn chƣơng Việt Nam, TTĐTTX. Đại học Huế, 1995.

61. Lê Trí Viễn - Lịch sử văn học Việt Nam (Văn học viết thời quốc gia phong kiến độc lập)

- Trƣờng Đại học sƣ phạm, 1985.

62. Lê Trí Viễn - Một đời với văn - 2 tập - Nxb Giáo dục và Trƣờng Đại học sƣ phạm

Tp.HCM, 1989.

63. Lê Trí Viễn - Những bài giảng văn ở Đại học - Nxb.Giáo dục, H, 1982.

64. Lê Trí Viễn - Vân, Đoàn Thu - Học tập thơ văn Nguyễn Trãi - Nxb.GD, H, 1983.

65. Lê Trí Viễn (chủ biên) - Văn học trung đại Việt Nam - Giáo trình lƣu hành nội bộ -

Trƣờng đại học sƣ phạm Tp. HCM, 1997.

66. Mai Thị Ngọc Chúc - Một nữ nghĩa quân Lam Sơn dƣới ngòi bút Nguyễn Trãi// TCVH,

1981, số 2, tr.18.

67. Minh Chi -Góp phần tổng kết Phật giáo đời Trần //TCVH, 1992, số 4, tr.27.

68. Miễn Trai - Vài suy nghĩ thêm về thơ văn Nguyễn Trãi // TCVH, 1969,số 2,tr.52.

69. N I.Nhi KuLin - Văn học Việt Nam - Nxb. Khoa học Macxcơva, 1971- Tài liệu giảng

dạy sau đại học - Phòng NCKH- SĐH. Trƣờng Đại học sƣ phạm TP.HCM, 1988.

70. Nguyễn Đăng Thục - Lịch sử triết học phƣơng Đông - 5 tập - Nxb. Tp.HCM, 1971.

71. Nguyễn Đình Đầu - Việt Nam quốc hiệu và cƣơng vực qua các thời đại - Nxb. Trẻ.

Tp.HCM, 1999.

Trang 132

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

72. Nguyễn Gia Phu - Lịch sử các nƣớc phƣơng Đông trƣớc thế kỷ XIX - 2 tập - Đại học

Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh, 1983 (Giáo trình đánh máy)

73. Nguyễn Hữu Sơn - Con ngƣời cá nhân trong thơ Nguyễn Trãi, H, Tạp chí văn học, số

9,1995.

74. Nguyễn Huệ Chi - Các yếu tố Phật, Nho, Đạo đƣợc tiếp thu và chuyển hoa nhƣ thế nào

trong đời sống tƣ tƣởng và văn học thời đại Lý - Trần // TCVH, 1978, số 6, tr.76. .

75. Nguyễn Huệ Chi - Mấy vẻ mặt thi ca Việt Nam - Nxb. Tác phẩm mới, H, 1983.

76. Nguyễn Lộc - Văn học Việt Nam cuối thế kỷ XVIII nửa đầu thế kỷ XIX - 2 tập - Nxb.

Đại học và Trung học chuyên nghiệp, H, 1992.

77. Nguyễn Tài Cẩn - Thử tìm cách xác định tác giả một số bài thơ hiện chƣa rõ của Nguyễn

Trãi hay Nguyễn Bỉnh Khiêm // TCVH, 1986, số 3,tr.76.

78. Nguyễn Tài Cẩn - Thử tìm hiểu thêm về bài thơ Nam Quốc Sơn Hà của Lý Thƣờng Kiệt

//TCVH, 1979, số 4, tr.6.

79. Nguyễn Thị Dư Khánh - Phân tích tác phẩm văn học từ góc độ thi pháp - Nxb. Giáo dục,

H, 1995.

80. Nguyễn Tiến Doãn - Nguyễn Trãi nhà giáo dục Việt Nam - Nxb. GD, H, 1997.

81. Nguyễn Văn Hạnh - Huỳnh Như Phương - Lý luận văn học, vấn đề và suy nghĩ - Nxb.

Giáo dục, 1995.

82. Nguyễn Văn Hồng - Vũ Dương Ninh - Võ Mai Bạch Tuyết - Lịch sử thế giới cận đại - 3

tập - Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, 1985,1986,1987.

83. Nguyễn Văn Hoàn - Địa vị của Nguyễn Trãi trong quá trình phát triển của lịch sử văn

học Việt Nam // TCVH, 1980, số 4, tr.17.

84. Nguyễn Văn Hoàn - Thơ văn Lý - Trần và hào khí của một thời đại anh hùng // TCVH,

1975, số 1, tr.2.

Trang 133

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

85. Nguyễn Xuân Xính - Tiếp xúc và tiếp biến văn hóa - Tạp chí văn hóa nghệ thuật - Số 12.

1998

86. Nhiều tác giả - Một số vấn đề văn bản học Hán Nôm - Nxb. Khoa học xã hội, H, 1983.

87. Nhiều tác giả - Những kiệt tác văn chƣơng thế giới - 2 tập - Nxb. Thanh Niên,H, 1991.

88. Nhiều tác giả - Thơ Đƣờng - nhiều ngƣời dịch - 2 tập - Nxb. VH, H,1987.

89. Nhiều tác giả - Thơ Đƣờng - Trần Trọng San dịch - 3 tập - Bắc Đẩu, Sài Gòn, 1970

90. Nhiều tác giả - Từ điển văn học - 2 tập - Nxb. Khoa học xã hội, H, 1983,1984.

91. Nhiều tác giả - Từ trong di sản - Nxb. Tác phẩm mới, H, 1981.

92. Nhiều tác giả - Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX - Giáo

trình Đại học sƣ phạm - Nxb. Giáo dục, 1990.

93. Nhiều tác giả - về con ngƣời cá nhân trong văn học cổ Việt Nam -Nxb. Giáo dục, 1997

94. Ủy ban khoa học xã hội - Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý -Trần - Nxb. Khoa học xã

hội, H, 1981.

95. Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam - Kỷ niệm 600 năm ngày sinh Nguyễn Trãi - Nxb.

Khoa học xã hội, H, 1982.

96. Ủy ban khoa học xã hội, Viện văn học - Thơ văn Lý - Trần - 3 tập - Nxb. Khoa học xã

hội, H, 1977.

97. Phương Lựu - Về quan niệm văn chƣơng cổ Viện Nam - Nxb. Giáo dục, 1985.

98. Phan Khải (chủ biên) - Đƣờng lối văn hóa văn nghệ của Đảng cộng sản Việt Nam - Nxb.

Văn hóa thông tin, H, 1995.

99. Phan Sĩ Tấn - Trần Thanh Đạm- Thơ văn Nguyễn Trãi - Nxb. Giáo dục, 1980.

Trang 134

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

100. Phúc, Vũ Đức - Tƣ tƣởng chính trị và xã hội của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua thơ văn của

ông // TCVH, 1986, số 4, tr.98

101. Quang Đạm - Nho giáo xƣa và nay - Nxb. Văn hóa, H, 1994. Nhâm, Phùng Quý - Vinh,

Lâm - Tiếp cận văn học - Trƣờng đại học sƣ phạm Tp.HCM, 1994.

102. Tạ Ngọc Liễn - Về tính dân tộc trong thơ cổ Trung Đại Việt Nam // Tạp chí văn học, số

11,1994.

103. Tầm Vu - Nguyễn Trãi, ngƣời đứng đầu một văn phái yêu nƣớc thân dân, có lý tƣởng xã

hội cao cả // TCVH, 1967, số 9, tr.57.

104. Tầm Vu - Tìm hiểu đặc điểm của tƣ tƣởng Phật giáo Việt Nam trong thời đại Lý - Trần

qua các tác phẩm văn học // TCVH, 1972, số 9,tr57.

105. Timofeev L.I - Nguyên lý lý luận văn học - Nhiều ngƣời dịch - 2 tập - Nxb. Văn hóa -

Viện văn học , 1962

106. Từ điển văn học - 2 tập - Nxb. Khoa học xã hội, H, 1983, 1984.

107. Trần Đình Hượu - Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận - Nxb. Văn hóa thông tin,

H, 1995.

108. Trần Đình Hượu - Về ảnh hƣởng nhiều mặt của Nho giáo trong văn học Việt Nam cổ

cận đại // TCVH, 1991, số 3, tr.18.

109. Trần Ngọc Thêm - Cơ sở văn hóa Việt Nam - Trƣờng đại học Tổng hợp Tp.HCM,

1995.

110. Trần Ngọc Vương - Nhà nho tài tử và văn học Việt Nam - Nxb. Giáo dục, 1995.

111. Trần Ngọc Vương - Văn học Việt Nam, dòng riêng giữa nguồn chung - Nxb. Giáo

dục,1998.

112. Trần Thanh Mại - Vài nét về tƣ tƣởng của Nguyễn Trãi qua thơ văn ông//TCVH, 1962,

số,tr.1.

113. Trần Văn Giàu - Sự phát triển tƣ tƣởng ở Việt Nam - Tập I hệ ý thức phong kiến - Nxb.

Khoa học xã hội, H, 1963.

Trang 135

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

114. Trần Văn Giàu -Vì sao tôi thích đọc Nguyễn Đình Chiểu // TCVH, 1963,số 7,tr.ll.

115. Vân Trình - Tìm hiểu nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm //TCVH

116. Vương Hồng Sến - Thêm một bản Văn Tế nghĩa sĩ cần guộc mới sƣu tầm đƣợc //

TCVH, 1979, số 2, tr.81.

117. Võ Xuân Đàn - Tƣ tƣởng Nguyễn Trãi trong tiến trình lịch sử Việt Nam - Nxb. Văn hóa

- Thông tin, H, .1996.

118. Viện Khoa học xã hội Việt Nam - Đại Việt sử ký toàn thƣ - 4 tập -Nxb. Khoa học xã

hội, H, 1998.

119. Viện sử học - Nguyễn Trãi - Thân thế và sự nghiệp - Nxb. Khoa học xã hội, H, 1980.

120. Viện sử học - Nguyễn Trãi toàn tập - Nxb. Khoa học xã hội, H, 1976.

121. Viện sử học, Ủy ban khoa học xã hội - Lịch sử văn học Việt Nam -Nxb. Khoa học xã

hội, H, 1980.

122. Viện văn học - Nguyễn Trãi - Khí phách và tinh hoa của dân tộc -Nxb. Khoa học xã hội,

H, 1980.

123. Viện văn học - Văn học Việt Nam giai đoạn thế kỷ X- XIX - Nxb. ĐH&THCN.

124. Viện văn học - Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến giữa thế kỷ XVIII. Nxb.Giáo dục, H,

1989.

125. Viện văn học - Việt Nam trên những chặng đƣờng chống phong kiến Trung Quốc xâm

lƣợc - Nxb. Đại học và THCN, H, 1981.

126. Vũ Đình Liên - Từ nhân sinh quan đến thẩm mỹ quan của Nguyễn Đình Chiểu //

TCVH, 1972, số 4, tr.79.

127. Vũ Đức Phúc - Tìm hiểu tâm sự bão táp của Nguyễn Trãi qua thơ văn ông // TCVH,

1973, số 4, tr.2.

128.Vũ Đức Phúc - Đạo Nho và các nhân vật trí thức trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu

// TCVH, 1982, số 4, tr.30.

Trang 136

Vấn đề giáo dục con người trong thơ văn Nguyễn Trãi

129. Vũ Đức Phúc - Tìm hiểu tâm sự bão táp của Nguyễn Trãi qua thơ văn ông, H, Tạp chí

văn học, số 5, 1980.

130. Vũ Khiêu - Ngƣời trí thức Việt Nam qua các chặng đƣờng lịch sử - Nxb. Tp. HCM,

1987

131. Vũ Khiêu - Nguyễn Đổng Chi - Thơ văn Nguyễn Trãi, Nxb. VH, H, 1980.

132. Vũ Khiêu - Nho giáo và phát triển ở Việt Nam - Nxb. Khoa học xã hội, H, 1977.

133. Vũ Ngọc Khánh - Triệu Dương - Đọc thơ văn yêu nƣớc Nam bộ cuối thế kỷ XIX //

TCVH, 1964, số 12, tr.47.

134. Vũ Tiến Quỳnh - Bình luận văn học - Nxb. Tổng hợp Khánh Hòa, 1991.

135. Vũ Tiến Quỳnh - Nguyễn Trãi - Nxb .Tổng hợp Khánh Hòa, 1993.

136. Vũ Văn Kính - Mấy ý kiến về việc hiệu đính văn bản văn tế thập loại chúng sinh //

TCVH, 1978, số 4, tr.96.

137. Vũ Văn Kính - Thêm một bản Nôm Dƣơng Từ Hà Mậu mới phát hiện // TCVH, 1978,

số 2, tr.81.

138. Xuân Diệu - Các nhà thơ cổ điển Việt Nam - Nxb.VH, H, 1981.

Trang 137