ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -------------------------------- TRẦN XUÂN THÂN PHẢN BIỆN XÃ HỘI TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ LUẬN ÁN TIẾN SĨ BÁO CHÍ HÀ NỘI - 2017

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------------------ TRẦN XUÂN THÂN PHẢN BIỆN XÃ HỘI TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ

Chuyên ngành: Mã số:

Báo chí học 62320101

LUẬN ÁN TIẾN SĨ BÁO CHÍ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. Nguyễn Thị Minh Thái

HÀ NỘI - 2017

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi,

các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng

được ai công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Trần Xuân Thân

LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình thực hiện đề tài “Phản biện xã hội trên báo

điện tử”, tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ, tạo điều kiện của tập

thể lãnh đạo, các nhà khoa học, cán bộ, chuyên viên của Trường Đại

học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội; Ban

Chủ nhiệm Khoa Báo chí và Truyền thông, giảng viên, cán bộ các

phòng, ban chức năng Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn,

Đại học Quốc gia Hà Nội. Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành về

sự giúp đỡ đó.

Tôi bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc PGS.TS. Nguyễn Thị Minh Thái,

người trực tiếp hướng dẫn và chỉ bảo tôi hoàn thành luận án này.

Tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, cơ quan, bạn bè, đồng

nghiệp của tôi đã động viên, khích lệ, tạo điều kiện và giúp đỡ tôi

trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thành luận án này.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Trần Xuân Thân

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN

BCHTW: BC-TT: CTHCQG: CTQG: CNXH: ĐBQH: ĐHQG: GD-ĐT: GT-VT: GS: KHCN: KHKT: KHXH: KHXH&NV: KTS: LA: LATS: LS: LĐ-TB-XH: LĐ-XH: MTTQ: NB: Nxb: PBXH: VHTT: PGS: PL: PV Anket: PVS: SGK: TNĐH: TPHCM: TS: TTĐC: VH-TT-DL:

Ban Chấp hành Trung ương Báo chí - Tuyên truyền Chính trị hành chính Quốc gia Chính trị Quốc gia Chủ nghĩa xã hội Đại biểu Quốc hội Đại học Quốc gia Giáo dục và Đào tạo Giao thông vận tải Giáo sư Khoa học công nghệ Khoa học kỹ thuật Khoa học xã hội Khoa học xã hội và nhân văn Kiến trúc sư Luận án Luận án Tiến sĩ Luật sư Lao động - Thương binh - Xã hội Lao động - Xã hội Mặt trận Tổ quốc Nhà báo Nhà xuất bản Phản biện xã hội Văn hóa thông tin Phó Giáo sư Phụ lục Phỏng vấn Anket Phỏng vấn sâu Sách giáo khoa Tốt nghiệp đại học Thành phố Hồ Chí Minh Tiến sĩ Truyền thông đại chúng Văn hóa - Thể thao - Du lịch

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 3 1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................ 3 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 5 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................ 5 4. Giả thuyết nghiên cứu ................................................................................... 5 5. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................. 6 6. Đóng góp mới của luận án ............................................................................ 9 7. Ý nghĩa của luận án....................................................................................... 9 8. Kết cấu của luận án ....................................................................................... 9 Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ...................................... 10 1.1. Tình hình nghiên cứu ở nƣớc ngoài ............................................................... 10 1.1.1. Nghiên cứu vai trò của phản biện xã hội ................................................. 10 1.1.2. Nghiên cứu chức năng phản biện xã hội của báo chí .............................. 12 1.2. Nghiên cứu phản biện xã hội ở Việt Nam ..................................................... 16 1.2.1. Nghiên cứu lý luận về phản biện xã hội .................................................. 17 1.2.2. Nghiên cứu phản biện xã hội trên báo chí ............................................... 21 1.2.3. Nghiên cứu phản biện xã hội trên báo điện tử ở Việt Nam .................... 25 1.3. Đánh giá chung tình hình nghiên cứu liên quan đề tài ............................... 27 Tiểu kết Chƣơng 1 .................................................................................................. 29 Chƣơng 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN PHẢN BIỆN XÃ HỘI TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ ..... 31 2.1. Phản biện xã hội .............................................................................................. 31 2.1.1. Khái niệm và đặc điểm phản biện xã hội ................................................ 31 2.1.2. Nguyên tắc phản biện xã hội ................................................................... 40 2.1.3. Quy trình phản biện xã hội ...................................................................... 40 2.1.4. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về phản biện xã hội ......................... 42 2.2. Báo chí thực hiện chức năng phản biện xã hội ............................................. 44 2.2.1. Khái niệm báo chí và các chức năng của báo chí ................................... 44 2.2.2. Báo chí có chức năng phản biện xã hội ................................................... 46 2.2.3. Tình hình PBXH trên báo chí ở Việt Nam .............................................. 49 2.3. Báo điện tử thực hiện chức năng phản biện xã hội ...................................... 51 2.3.1. Khái niệm và đặc trưng loại hình báo điện tử ......................................... 51 2.3.2. Thế mạnh và hạn chế PBXH trên báo điện tử ......................................... 55 2.3.3. Soi chiếu PBXH trên báo điện tử qua một số lý thuyết .......................... 57 2.4. PBXH trên báo điện tử đối với xã hội Việt Nam hiện đại ........................... 62 2.4.1. Xã hội Việt Nam hiện đại cần được phản biện xã hội ............................ 62 2.4.2. Quy trình PBXH trên báo điện tử ở Việt Nam ........................................ 64 2.5. Tiêu chí đánh giá chất lƣợng phản biện xã hội trên báo điện tử................ 66 2.5.1. Tiêu chí về nội dung ................................................................................ 67 2.5.2. Tiêu chí về hình thức ............................................................................... 68 2.5.3. Tiêu chí về ảnh hưởng xã hội .................................................................. 68 Tiểu kết Chƣơng 2 .................................................................................................. 69

1

Chƣơng 3: THỰC TRẠNG PHẢN BIỆN XÃ HỘI TRÊN CÁC BÁO ĐIỆN TỬ NHÂN DÂN, VIETNAMNET, THANH NIÊN, VNEXPRESS ........................... 71 3.1. Về đối tƣợng khảo sát ..................................................................................... 71 3.2. Đặc điểm PBXH trên báo điện tử: Nhân Dân, VietNamNet, Thanh Niên,

VnExpress ........................................................................................................ 74 3.2.1. Chủ thể phản biện .................................................................................... 74 3.2.2. Đối tượng phản biện xã hội trên báo điện tử ........................................... 75 3.2.3. Khách thể phản biện ................................................................................ 76

3.3. Về nội dung, hình thức, ảnh hƣởng xã hội của phản biện xã hội trên báo

điện tử ............................................................................................................... 76 3.3.1. Nội dung PBXH ...................................................................................... 76 3.3.2. Hình thức PBXH trên báo điện tử ........................................................... 83 3.3.3. Ảnh hưởng xã hội của PBXH trên báo điện tử ....................................... 94

3.4. Đánh giá thành công, hạn chế và một số vấn đề đặt ra đối với PBXH

trên báo điện tử................................................................................................ 97 3.4.1. Thành công và hạn chế ............................................................................ 97 3.4.2. Một số vấn đề đặt ra đối với phản biện xã hội trên báo điện tử .............. 119 Tiểu kết chƣơng 3 ............................................................................................ 124

Chƣơng 4: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG PHẢN BIỆN XÃ HỘI TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM .................................................................... 126 4.1. Các nhân tố ảnh hƣởng đến chất lƣợng PBXH trên báo điện tử................ 126 4.1.1. Môi trường xã hội Việt Nam ................................................................... 126 4.1.2. Chính sách, pháp luật về phản biện xã hội .............................................. 128 4.1.3. Nhân lực phản biện ................................................................................. 128 4.1.4. Sự tiếp thu, giải trình, hợp tác của khách thể phản biện ......................... 130 4.1.5. Trình độ dân trí, điều kiện công chúng phản biện trên báo chí ............... 131 4.2. Giải pháp nâng cao chất lƣợng PBXH trên báo điện tử Việt Nam ............ 132 4.2.1. Nhóm giải pháp về môi trường xã hội vĩ mô .......................................... 132 4.2.2. Nhóm giải pháp cho tòa soạn báo điện tử ............................................... 136 Tiểu kết Chƣơng 4 .................................................................................................. 146 KẾT LUẬN ............................................................................................................... 147 DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ......................................................................................................... 152 TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 153 PHẦN PHỤ LỤC

2

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài Phản biện xã hội (PBXH) đã phát triển khá sớm ở các nền dân chủ phương Tây và trở thành một cơ chế động năng cho quá trình vận động, đổi mới của xã hội. PBXH trên tinh thần của tư duy khoa học và đối thoại để điều tiết xung đột lợi ích giữa các nhóm xã hội, tạo ra đồng thuận xã hội. PBXH trở thành một hoạt động không thể thiếu, một thành tố, điều kiện, phương thức và cũng là sản phẩm của quá trình dân chủ hóa đời sống chính trị, xã hội. Nó được coi là nguyên tắc cơ bản và tất yếu trong đời sống chính trị và hoạt động quản lý xã hội của các nước phát triển. Còn tại Việt Nam, PBXH mới thực sự được coi trọng trong những năm gần đây và đang ngày càng trở thành nhu cầu bức thiết cho quá trình lãnh đạo, điều hành đất nước. Vì trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN và hội nhập quốc tế, nhu cầu về tự do, dân chủ, tiếp nhận thông tin và được thông tin trong xã hội ngày càng tăng. Các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, những quyết định liên quan đến đời sống của nhân dân, quyền và nghĩa vụ của công dân đang đặt ra những yêu cầu mới. Hơn nữa, trong môi trường hội nhập toàn cầu diễn ra ngày càng mạnh mẽ, mở ra nhiều cơ hội nhưng cũng xuất hiện nhiều khó khăn, thách thức, bất cập trong xã hội... đòi hỏi các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị nước ta, các quan hệ đối nội, đối ngoại, hoạt động quản lý điều hành liên quan đến lợi ích quốc gia, dân tộc, nhân dân cần được điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp thời đại mới. Việc này cần được thực hiện trên cơ sở có PBXH, tức là có sự tham gia của nhân dân, của toàn xã hội vào kiến tạo và thực thi chủ trương, chính sách.

Thực tế cho thấy, trong tiến trình Đổi mới nhằm phát triển kinh tế xã hội, phát huy dân chủ được Đảng ta khởi xướng từ Đại hội VI đến nay, các thành tựu của quá trình này gắn liền với việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Nhân dân ngày càng tham gia tích cực và sâu sắc vào hoạt động tổ chức, quản lý nhà nước và xã hội đã đẩy nhanh quá trình dân chủ hóa xã hội. Đến Đại hội VIII, Đảng ta lại chỉ rõ: phải xây dựng cơ chế cụ thể để thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đối với các chủ trương, chính sách lớn của Nhà nước [19; tr.127]. Báo chí nước ta còn được Đảng, Nhà nước coi là tiếng nói của Đảng, của Nhà nước, của các tổ chức đoàn thể, là diễn đàn của quần chúng nhân dân. PBXH trên báo chí là một cách để báo chí thực hiện chức năng của mình, là một diễn đàn để nhân dân tham gia vào hoạt động tổ chức, quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Vì PBXH là thể hiện phản hồi từ phía xã hội bằng thái độ, quan điểm, lý lẽ của các lực lượng xã hội đối với những kiến tạo chính sách, thể chế... trực tiếp liên quan đến quyền lợi của các thành viên trong cộng đồng, từ đó giúp các cơ quan hữu quan điều chỉnh chủ trương, chính sách cho phù hợp với tình hình thực tiễn.

3

Hơn nữa, thời đại ngày nay, cùng phát triển của công nghệ thông tin là sự bùng nổ truyền thông, trong đó có báo chí. Báo chí ngày càng quan trọng và tác động mạnh mẽ vào đời sống xã hội. Việc xây dựng được một nền báo chí phát triển, phát huy PBXH trên báo chí để báo chí trở thành diễn đàn của đại chúng, sẽ góp sức huy động trí tuệ của xã hội vào sự nghiệp xây dựng, bảo vệ, thúc đẩy phát triển đất nước vững mạnh, hội nhập quốc tế thành công. Để làm được điều đó, bản thân báo chí phải vừa đáp ứng tốt nhu cầu thông tin của xã hội, vừa cùng xã hội giải quyết vấn đề chung, tức là báo chí phụng sự xã hội, hướng công chúng vào xu thế tích cực. Nhất là thực tế xã hội Việt Nam đang đặt ra nhiều vấn đề mới, không chỉ đòi hỏi các nhà hoạch định và thực thi chính sách của nhà nước giải quyết mà đòi hỏi báo chí tham gia vào quá trình này. Tức là chính thực tiễn thúc đẩy Đảng và Nhà nước ta có nhu cầu tham vấn ý kiến nhân dân về chủ trương, chính sách, đồng thời nhân dân cũng có nhu cầu ngày càng lớn về đóng góp ý kiến cho Đảng và Nhà nước. Đó cũng là nhu cầu chính đáng cho sự tồn tại và phát triển PBXH trên báo chí. Vì trong ý nghĩa tích cực của nó, PBXH trên báo chí không nhằm phủ định kết quả kiến tạo chính sách của cơ quan công quyền mà góp sức ngăn chặn chính sách không phù hợp, bổ khuyết cho chính sách. Từ Đại hội X của Đảng ta, vấn đề phản biện phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam chính thức được ghi vào Văn kiện của Đảng. Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng có nêu: “Coi trọng vai trò tư vấn, phản biện của các hội khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội và văn học, nghệ thuật đối với các dự án phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội”. Đến Đại hội lần thứ XI, Đảng ta đã yêu cầu báo chí cách mạng Việt Nam đảm nhận vai trò, nhiệm vụ PBXH. Nghị quyết Đại hội nêu: “Chú trọng nâng cao tính tư tưởng, phát huy mạnh mẽ chức năng thông tin, giáo dục, tổ chức và PBXH của các phương tiện thông tin đại chúng vì lợi ích của nhân dân và đất nước...”[21; tr.305]. Nhận thức này của Đảng phù hợp xu thế phát triển xã hội. Vì “nhờ có phản biện mà con người có thể loại bỏ những yếu tố sai để tiệm cận tới sự hợp lý trong các quyết định, các hành vi của mình”[10]. Trong Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Báo chí năm 1999 quy định: “Điều 2: Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí và để báo chí phát huy đúng vai trò của mình”. Đây là một căn cứ pháp lý quan trọng để phát huy PBXH trên báo chí nói chung, PBXH trên báo điện tử nói riêng. Thực tế là PBXH trên báo điện tử đang ngày càng gia tăng, xã hội có đánh giá đa chiều, trong đó có tán dương, khích lệ và cũng có băn khoăn, trăn trở. Nhưng những đánh giá đó không phải lúc nào cũng có căn cứ khoa học và thực tiễn. Điều này đặt ra vấn đề cần phải nghiên cứu nghiêm túc cả về lý luận và thực tiễn PBXH trên báo chí nói chung và báo điện tử nói riêng.

Từ sự cấp thiết đó, tôi chọn đề tài nghiên cứu “Phản biện xã hội trên báo điện

tử” làm Luận án tốt nghiệp bậc học Tiến sĩ chuyên ngành Báo chí - Truyền thông.

4

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích Nghiên cứu góp phần hệ thống hóa lý luận PBXH, lý luận PBXH trên báo chí và PBXH trên báo điện tử. Soi chiếu lý luận vào thực tiễn PBXH trên báo điện tử ở Việt Nam để đánh giá thực trạng chất lượng phản biện; chỉ ra thế mạnh, hạn chế PBXH trên báo điện tử; góp phần hình thành cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc đề ra các giải pháp nâng cao chất lượng PBXH trên báo điện tử ở Việt Nam.

2.2. Nhiệm vụ Một là, tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài để làm rõ những vấn đề đã được nghiên cứu (của tác giả trong và ngoài nước), làm tiền đề cho việc nghiên cứu tiếp theo của luận án này.

Hai là, hệ thống hóa và làm rõ các vấn đề lý luận về báo chí, báo điện tử,

PBXH, PBXH trên báo chí và PBXH trên báo điện tử.

Ba là, tiếp cận liên ngành khoa học về báo chí học, chính trị học và xã hội học làm cơ sở lý luận và thực tiễn cho nghiên cứu PBXH trên báo điện tử, xây dựng khung lý luận PBXH trên báo điện tử.

Bốn là, phân tích, đánh giá thực trạng PBXH trên báo điện tử qua một số trường

hợp nghiên cứu cụ thể.

Năm là, từ kết quả phân tích thực trạng, chỉ ra những vấn đề cần tiếp tục giải

quyết, đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng PBXH trên báo điện tử ở Việt Nam.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tƣợng Luận án nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn PBXH trên báo điện tử ở

Việt Nam đương đại.

3.2. Phạm vi - PBXH là một đề tài rộng, báo điện tử ở Việt Nam cũng nhiều, Luận án này chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu PBXH trên 4 báo điện tử: Nhân Dân, VietNamNet, Thanh Niên, VnExpress, thông qua 5 chủ đề: Điều 4 dự thảo Hiến pháp 2013, Phương án của Bộ GTVT với cầu Long Biên, Quy định phạt xe không chính chủ, Việt Nam đăng cai ASIAD 18, Đề xuất 34 nghìn tỷ đồng đổi mới sách giáo khoa.

- Thời gian khảo sát: từ năm 2012 đến năm 2014. 4. Giả thuyết nghiên cứu Giả thuyết 1: Thực tiễn đời sống xã hội Việt Nam đang đặt ra nhiều vấn đề bức

thiết cần được phản biện xã hội trên báo điện tử để góp phần giải quyết vấn đề đó.

Giả thuyết 2: Với đặc trưng loại hình báo chí đa phương tiện hoạt động trên

môi trường internet, phản biện xã hội trên báo điện tử có thế mạnh và hạn chế riêng.

Giả thuyết 3: Quy định có tính pháp lý cho PBXH chưa thống nhất và chưa có

chế tài cụ thể, nhưng thực tiễn vẫn diễn ra PBXH và có những hiệu quả nhất định.

Giả thuyết 4: PBXH trên báo điện tử còn mang tính tự phát, cơ quan báo chí

chưa hoàn toàn chủ động tổ chức và thực hiện PBXH.

5

Giả thuyết 5: Cùng quá trình dân chủ hóa xã hội ở nước ta, PBXH trên báo điện tử dần dịch chuyển từ tự phát sang chuyên nghiệp, chủ động và không né tránh vấn đề. Giả thuyết 6: Phản biện xã hội trên báo điện tử không phải nhằm khẳng định hoặc phủ định một chủ trương, chính sách nào đó mà thông qua lập luận với lý lẽ, dẫn chứng thuyết phục về vấn đề để tạo đồng thuận xã hội trong thực hiện chủ trương, chính sách một cách đúng đắn, hiệu quả.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở phƣơng pháp luận - Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, pháp luật của Nhà nước Việt Nam về báo chí, về thực thi quyền lực của nhân dân, vai trò PBXH vì phát triển đất nước; vận dụng lý thuyết báo chí học, lý thuyết xã hội học về truyền thông, lý thuyết chính trị học. Trong đó, luận án vận dụng một số lý thuyết cụ thể như:

- Vận dụng mô hình lý thuyết truyền thông của Claude Shannon phân tích

PBXH trên báo điện tử là quá trình truyền thông đại chúng có tương tác đa chiều.

- Vận dụng lý thuyết về “Không gian công cộng” của Jürgen Habermas để phân tích các điều kiện, tiền đề, môi trường cho PBXH. Giả định rằng, báo chí không còn là lãnh địa của giới cầm quyền và nhà truyền thông mà thuộc về đại chúng, vừa là nơi trình bày các thông tin, tri thức, vừa là diễn đàn tranh luận để hướng đến đồng thuận xã hội trong giải quyết các vấn đề chung có tính công cộng.

- Vận dụng lý thuyết “Xã hội thông tin” của Marshall McLuhan để phân tích yếu tố kỹ thuật truyền thông, công nghệ truyền thông đóng vai trò rất quan trọng, tác động chi phối tới nội dung truyền thông. Giả định rằng, đặc trưng kỹ thuật truyền thông đa phương tiện của báo điện tử đã giúp PBXH trên báo điện tử có đặc thù riêng. - Vận dụng lý thuyết “Thiết lập chương trình nghị sự” của Maxwell McCombs và D. Shaw để phân tích PBXH trên báo điện tử là một quá trình truyền thông và báo điện tử sắp đặt chương trình nghị sự để PBXH.

5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể Luận án sử dụng hệ thống phương pháp nghiên cứu chuyên ngành, liên ngành

của: Báo chí học, chính trị học, xã hội học…, với các phương pháp cụ thể như:

- Nghiên cứu tài liệu: Nghiên cứu các văn bản chính sách, pháp luật của Việt Nam về báo chí, PBXH; các công trình khoa học lý luận về: Báo chí, PBXH, PBXH trên báo chí, PBXH trên báo điện tử của các tác giả trong và ngoài nước đã công bố. Mục đích nghiên cứu tài liệu nhằm khái quát, bổ sung hệ thống lý thuyết về PBXH, PBXH trên báo chí và PBXH trên báo điện tử. Đây là những lý thuyết cơ sở cho đánh giá kết quả khảo sát thực tế và tìm những giải pháp khoa học cho vấn đề nghiên cứu.

- Phân tích văn bản: Tác giả phân tích các tác phẩm báo điện tử, và các phản hồi của công chúng với các tác phẩm đó, thuộc phạm vi khảo sát của luận án để tìm ra những đặc điểm về nội dung và hình thức tác phẩm báo chí PBXH trên báo điện tử.

6

- N hiên cứu tr n h p: Luận án nghiên cứu PBXH trên 4 báo điện tử (Nhân Dân, VietNamNet, Thanh Niên, VnExpress) qua khảo sát các tác phẩm báo điện tử có nội dung thuộc 5 chủ đề: Điều 4 dự thảo Hiến pháp 2013, Phương án của Bộ GTVT với cầu Long Biên, Quy định phạt xe không chính chủ, Việt Nam đăng cai ASIAD 18, Đề xuất 34 nghìn tỷ đồng đổi mới sách giáo khoa.

Về các trường hợp được lựa chọn vào mẫu nghiên cứu: Các báo điện tử được chọn khảo sát đều là báo lớn, có vị thế và tầm ảnh hưởng rộng rãi tại Việt Nam. Trong đó, Báo Nhân Dân điện tử là Cơ quan Trung ương của Đảng Cộng sản Việt Nam, Tiếng nói của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam. Ra đời từ 21/6/1998, Báo Nhân Dân điện tử trở thành nhật báo chính thức đầu tiên của Việt Nam lên mạng ở địa chỉ www.nhandan.org.vn và hiện nay phát hành đồng thời cả ở hai địa chỉ www.nhandan.org.vn và www.nhandan.com.vn. Báo Nhân Dân điện tử có nhiệm vụ chính trị là cổng thông tin đối nội, đối ngoại của Việt Nam, thông tin những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước đến với đông đảo quần chúng nhân dân, tới các bạn bè trên khắp năm châu. Theo xếp hạng của Alexa Rank (trong www.alexa.com1), tại thời điểm sáng 8/5/2015, Báo này ở vị trí thứ 1.284 trong số các website tại Việt Nam và 139.200 trên thế giới.

Báo VnExpress (Cơ quan chủ quản là Bộ Khoa học Công nghệ), có địa chỉ www.vnexpress.net ra đời ngày 26/2/2001 trở thành tờ báo điện tử độc lập (không có phiên bản báo in) đầu tiên của Việt Nam. Nhiều năm qua, VnExpress luôn là một trong số ít tờ báo điện tử dẫn đầu về số lượng người truy cập. Theo xếp hạng của Alexa.com, tại thời điểm sáng 8/5/2015, VnExpress ở vị trí thứ 8 trong số các website ở Việt Nam, và đứng thứ 586 trên thế giới.

Báo VietNamNet (thuộc Bộ Thông tin và Truyền thông) có địa chỉ www.vietnamnet.vn, lên mạng từ năm 1997. Đến ngày 23/01/2003, VietNamNet chính thức được cấp giấy phép hoạt động là báo điện tử. VietNamNet liên tục cập nhật tin tức thời sự ở mọi lĩnh vực của cuộc sống, đặc biệt là các vấn đề xã hội, dân sinh liên quan đến lợi ích của đông đảo người dân; tạo diễn đàn bàn luận, phản biện đa chiều đối với nhiều vấn đề nóng bỏng trong xã hội. Theo Alexa, sáng 8/5/2015, VietNamNet đứng thứ 27 tại Việt Nam, thứ 3.039 trên thế giới.

1 Alexa Rank là thước đo mức độ phổ biến của các website. Chỉ số thứ hạng của mỗi website được Alexa kết hợp đánh giá từ 2 yếu tố là số trang web người dùng xem (Page Views) và số người truy cập website (Reach). Các số liệu thống kê của Alexa dựa trên những dữ liệu thu thập từ người dùng cài đặt Alexa Toolbar. Chỉ số thứ hạng Alexa của một website cao được hiểu là website đó có đông người truy cập, phần nào đem lại cho website ấn tượng sống động và uy tín.

Báo Thanh Niên điện tử là Diễn đàn của Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam, ra đời ngày 11/12/2003, tại địa chỉ www.thanhnien.com.vn. Đây là bản điện tử để cập nhật thông tin từ báo in Thanh Niên, đồng thời cũng tổ chức sản xuất thông tin riêng theo đặc thù loại hình báo điện tử. Theo xếp hạng của Alexa, sáng 8/5/2015, tờ báo này đứng thứ 46 ở Việt Nam và 5.477 trên thế giới.

7

- 5 chủ đề nội dung khảo sát trong luận án này, mà không phải chủ đề khác, được tác giả luận án lựa chọn vì trong phạm vi khảo sát (từ năm 2012 đến năm 2014) của luận án thì đây đều là các chủ đề được đặt ra một cách nóng bỏng trên mặt báo, được PBXH trên báo chí, trong đó có báo điện tử, một cách sôi nổi và gây hiệu ứng đa chiều. Và 498 tác phẩm (thuộc 5 chủ đề) phân tích trong luận án được chọn theo tiêu chí: Một là, thông tin có thật và có tính thời sự ở Việt Nam, thu hút sự tham gia phản hồi và biện luận của cá nhân, tổ chức trong xã hội về vấn đề (thuộc quan điểm, chủ trương, phương hướng, giải pháp, hiện tượng... cụ thể) trong đời sống, nhằm bổ sung, hoàn thiện nó vì sự phát triển chung; Hai là, là vấn đề có tầm quan trọng và ảnh hưởng nhiều người trong xã hội, có tính chất quốc kế dân sinh; Ba là, các tác phẩm cùng chủ đề và được đăng trên loại hình báo điện tử và xuất hiện theo dòng thông tin về sự việc; Bốn là, các chủ đề này xuất hiện trên báo điện tử trong khoảng từ năm 2012-2014; Năm là, các chủ đề lựa chọn thể hiện có sự đa dạng về: chủ thể phản biện, đối tượng phản biện, nội dung phản biện, khách thể phản biện, hình thức phản biện, chất lượng và kết quả phản biện; Sáu là, có hiệu ứng xã hội mạnh mẽ.

- Điều tra xã hội học: + Phỏng vấn bằng bảng hỏi (Anket) để thu thập thông tin từ phía công chúng của báo điện tử ở Việt Nam về vai trò, tác dụng, hiệu quả hoạt động của báo điện tử. Chọn lọc đối tượng hỏi theo tiêu chí cụ thể (đang sống và làm việc tại Việt Nam, thường xuyên đọc báo trên mạng internet). Bảng hỏi được thiết kế bằng ứng dụng phần mềm tạo phiếu và xử lý số liệu khảo sát trực tuyến Google Docs trong Google Drive của Tập đoàn Google (của Mỹ). Trước khi thực hiện chính thức điều tra Anket, tác giả luận án có thực hiện điều tra thử với 9 người, sau đó đã điều chỉnh bảng hỏi cho phù hợp hơn và bảng hỏi này mới được sử dụng chính thức. Tổng số phiếu khảo sát gửi đi là 1.300, bằng cách gửi qua thư điện tử (Gmail, Yahoo mail) và qua mạng xã hội (mạng facebook) trong thời gian 03 tháng, kết quả thu về được 1.261 phiếu hợp lệ và phân bổ như sau: Phân bố theo địa bàn cư trú: Miền Bắc (679 phiếu, 53,8%), Miền Trung (196 phiếu, 15,5%), Miền Nam (386 phiếu, 30,6%); Theo giới tính: Nam (41,1%), Nữ (58,9%); Theo độ tuổi: Dưới 20 tuổi (6,7%), từ 21đến 40 tuổi (89%), từ 41 đến 60 tuổi (4,2%), từ 61 đến 70 tuổi (0,2%); Theo nghề nghiệp: Công nhân và lao động tự do (12,9%), Nhà khoa học (28,8%), Cán bộ công quyền (49,6%), Doanh nhân (7,6%), cán bộ hưu trí (0,6%), Theo học vấn: Cấp 1 và cấp 2 (1,1%), Cấp 3 (5,2%), Trung cấp và cao đẳng (27,7%), Đại học (56,1%), Trên đại học (9,9%).

+ Phỏng vấn sâu: Để bổ sung cho phần thông tin định lượng, tác giả luận án sử dụng kỹ thuật phỏng vấn sâu (phỏng vấn cá nhân) với 22 người theo phương pháp nghiên cứu định tính xoay quanh vấn đề nghiên cứu. Đối tượng chọn phỏng vấn sâu gồm: Nhà nghiên cứu báo chí, nhà báo, lãnh đạo cơ quan báo chí, nhà quản lý báo chí và chuyên gia ở nhiều lĩnh vực khác như luật pháp, kinh tế, văn hóa, lịch sử, chính trị… Các cuộc phỏng vấn sâu được ghi âm toàn bộ và nội dung kết quả phỏng vấn sâu được mã hóa, lượng hóa thông tin nhằm đưa ra bằng chứng có tính chất thực chứng.

8

6. Đóng góp mới của luận án

- Nghiên cứu góp phần bổ sung, làm rõ thêm, phát triển lý luận về PBXH, PBXH

trên báo chí và lý thuyết hóa PBXH trên báo điện tử.

- Khảo sát thực tiễn PBXH trên báo điện tử qua các trường hợp nghiên cứu cụ thể để đánh giá khái quát thực trạng PBXH trên báo điện tử ở Việt Nam. Từ thực trạng đó, luận án nêu những vấn đề đặt ra đối với PBXH trên báo điện tử.

- Nghiên cứu chỉ ra mối quan hệ tác động giữa đặc thù loại hình báo điện tử và PBXH trên báo điện tử đối với các vấn đề thời sự cấp thiết của cuộc sống; đồng thời chỉ ra vai trò, tác dụng của PBXH trên báo điện tử đối với việc giải quyết các vấn đề cấp thiết của đời sống chính trị - xã hội.

- Luận án xây dựng mô hình quy trình PBXH trên báo điện tử, nguyên tắc PBXH trên báo điện tử và điều kiện cơ bản để nâng cao chất lượng PBXH trên báo điện tử ở Việt Nam.

7. Ý nghĩa của luận án - Làm rõ lý luận và thực tiễn PBXH của báo chí và báo điện tử, làm cơ sở khoa

học cho đổi mới nhận thức vai trò, chức năng PBXH của báo điện tử.

- Nghiên cứu và xây dựng hệ thống lý luận PBXH, lý thuyết hóa PBXH trên báo điện tử thông qua các nhân tố ảnh hưởng, tiêu chí chất lượng, điều kiện thực hiện và giải pháp nâng cao chất lượng PBXH trên báo điện tử ở Việt Nam.

- Luận án là tư liệu hữu ích cho các nhà nghiên cứu, quản lý báo chí, các nhà

báo, sinh viên báo chí và những ai quan tâm đến chủ đề này.

8. Kết cấu của luận án Ngoài Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, Luận án gồm 4 chương:

Chƣơng 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu Chƣơng 2: Cơ sở lý luận phản biện xã hội trên báo điện tử Chƣơng 3: Thực trạng phản biện xã hội trên các báo điện tử Nhân Dân,

VietNamNet, Thanh Niên, VnExpress, từ năm 2012 đến năm 2014. Chƣơng 4: Giải pháp nâng cao chất lƣợng phản biện xã hội trên báo điện tử ở

Việt Nam.

9

Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1.1. Tình hình nghiên cứu ở nƣớc ngoài Trên thế giới, nhiều nghiên cứu dù trực tiếp hay gián tiếp đề cập PBXH đều có những điểm chung là đặt nó trong mối quan hệ với xã hội dân sự, nhà nước pháp quyền, đề cao vai trò của quần chúng nhân dân tham gia giải quyết các vấn đề xã hội.

1.1.1. Nghiên cứu vai trò của phản biện xã hội C. Mác và V.I. Lênin không những là những nhà tư tưởng vĩ đại của nhân loại, lãnh tụ và người thầy của giai cấp vô sản thế giới mà còn là người đặt nền móng lý luận cho báo chí cách mạng. Dù không dùng thuật ngữ “phản biện xã hội” (như cách mà xã hội ngày nay đang dùng), nhưng trong lý luận của họ đã đề cập ý nghĩa, bản chất của PBXH khi bàn về báo chí và phát huy vai trò quần chúng nhân dân trong phát triển xã hội. Trong đó, bàn về vai trò, chức năng, nhiệm vụ của báo chí, C. Mác viết: “Báo chí quan hệ với điều kiện sinh sống của nhân dân, với tư cách là lý tính, nhưng cũng không kém phần với tư cách tình cảm. Vì vậy, báo chí không chỉ nói bằng tiếng nói lý tính của sự phê phán đang nhìn những mối quan hệ hiện tồn từ đỉnh cao của mình, mà còn nói bằng tiếng nói đầy nhiệt tình của bản thân cuộc sống, một tiếng nói mà người ta không thể-và cũng không nên- đòi hỏi ở những báo cáo chính thức”[70; tr.290-291]. Đặc biệt, C. Mác cho rằng, “xét theo sứ mệnh của nó, báo chí là người bảo vệ của xã hội, là người tố cáo không mệt mỏi những nhà cầm quyền, là con mắt ở khắp mọi nơi, là tiếng nói rộng rãi của tinh thần nhân dân đang hăng hái gìn giữ quyền tự do của mình” [67; tr.313]. Và C. Mác khẳng định mối quan hệ khăng khít giữa báo chí và chính trị: “Từ bỏ chính trị là không thể được. Chính trị của báo chí cũng là chính trị… Vấn đề là can dự vào chính trị như thế nào và đến mức nào. Điều đó tùy thuộc vào tình hình chứ không theo quy định.” [68; tr.547]. Hay khi nói về tự do báo chí, C. Mác đề cập: “Trong lĩnh vực báo chí, những người cai trị và những người bị cai trị có khả năng như nhau để phê bình những nguyên tắc và yêu cầu của nhau nhưng không phải trong khuôn khổ những quan hệ lệ thuộc, mà trên cơ sở ngang quyền với nhau, với tư cách là những công dân của nhà nước - không phải với tư cách là những cá nhân riêng lẻ, mà với tư cách là sức mạnh trí tuệ, với tư cách là những người thể hiện quan điểm hợp lý”[70; tr.290]. Còn V.I. Lênin nhấn mạnh cần phải phát huy vai trò của quần chúng nhân dân, các lực lượng xã hội tham gia xây dựng, thực hiện và giám sát các chính sách kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, các hoạt động của nhà nước và cơ quan công quyền. Trong Dự thảo Bản tuyên bố của Ban biên tập “Tia lửa” và “Bình minh”, quan điểm của V.I. Lênin thể hiện rất rõ tinh thần phải có PBXH trên báo chí: “Chúng tôi muốn biến các cơ quan báo chí của chúng tôi thành một diễn đàn mà toàn thể những người dân chủ - xã hội Nga có những quan điểm hết sức khác nhau, đều sử dụng được để tranh luận về tất cả các vấn đề” [60; tr. 418-420].

10

Những quan điểm này của C. Mác và V.I. Lênin là nền tảng nhận thức luận quan trọng về vai trò ý kiến của quần chúng nhân dân trong quá trình xây dựng và thực thi chính sách nhằm phát triển xã hội của mỗi quốc gia có dân chủ. Tức là C. Mác và V.I. Lênin đã đề cập đến bản chất của PBXH. Tất nhiên, không chỉ C. Mác và V.I. Lênin bàn đến nội dung này. Từ thời La Mã cổ đại, công dân đã được tự do góp ý, bày tỏ thái độ với các chủ trương lớn của nhà nước. Đây là một bằng chứng về mối quan hệ giữa PBXH với nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự. Nhiều tác giả như Platol, Aristotle, John Lock, Montesquieu, J. Rousseau, John Stuart Mill… đã đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp vai trò phản biện của các nhà thông thái đối với quyết sách của nhà nước. Chẳng hạn, toàn bộ triết lý của Montesquieu về bình đẳng, tự do, dân chủ chính là tư tưởng về nền dân chủ pháp trị. Trong tư tưởng về nhà nước pháp quyền của Montesquieu, “bình đẳng trong liên hệ gắn kết với luật pháp của chế độ dân chủ, có mối đan xen trực tiếp với tự do [96; tr.12]. Còn Jean Jacques Rousseau, khi đề cập đến vai trò quan trọng của dân chúng tham gia vào quá trình quản lý đất nước, trước hết là làm luật, ông viết: “Luật chỉ là những điều kiện chính thức của việc tập hợp dân sự. Dân chúng tuân theo luật phải là người làm ra luật”[98; tr.68]. Vì thế, theo Rousseau, việc xây dựng một nhà nước pháp quyền chính là xây dựng một chính thể dân chủ, với những quan hệ xã hội mang tính “thượng tôn pháp luật”, được vận hành trong cuộc sống. Và để duy trì quyền uy tối cao của luật pháp, Rousseau khẳng định: “Quyền lực tối cao không có sức mạnh nào ngoài quyền lập pháp, nên chỉ hoạt động bằng các đạo luật. Các đạo luật là hành vi hợp thức của ý chí chung. Cho nên, quyền lực tối cao chỉ có thể tác động khi dân chúng họp lại”[98; tr.132]… Trong các cuộc họp toàn dân, “dân thường đóng những vai pháp quan hơn là những công dân”. Và cách làm này đã chứng minh được tính đúng đắn, sức mạnh của ý kiến toàn dân ở nền cộng hòa La Mã, dân tộc Macedoine, dân tộc Franc... “Người ta không thể bác bỏ cách làm tốt đẹp này, nhờ nó mà giải quyết được mọi khó khăn”[98; tr.133]. Quan điểm này của Jean Jacques Rousseau, dù không trực tiếp nói PBXH, nhưng dẫn chứng thực tế hiện rõ luận điểm muốn quản trị đất nước hiệu quả, cần nhân dân tham gia vào quá trình đó, trước hết là họ có quyền góp ý, tranh luận xây dựng pháp luật làm công cụ phục vụ quá trình quản trị quốc gia, tức là cần có PBXH từ người dân.

Tác phẩm “Bàn về tự do” của John Stuart Mill chứa đựng nhiều tư tưởng liên quan đến PBXH. Trong đó, khi bàn về tự do tư tưởng và tự do thảo luận, J.S. Mill khẳng định: “Chúng ta không bao giờ chắc chắn được rằng cái ý kiến mà ta đang cố sức dập tắt là một ý kiến sai lầm; ngay cả nếu như chúng ta tin chắc đi nữa thì việc dập tắt nó vẫn là một điều xấu xa”[73; tr.52]. Đồng thời, ông còn cho rằng: “Khước từ lắng nghe một ý kiến bởi họ tin chắc ý kiến đó là sai lầm, có nghĩa là coi sự tin chắc của họ là chắc chắn tuyệt đối. Mọi sự bịt miệng trong thảo luận đều hàm ý tính bất khả sai lầm” [73; tr.52-53]. Lập luận này của J.S. Mill hiện rõ quan điểm, sẽ là tệ hại cho sự phát triển quốc gia nếu có sự áp đặt của nhà cầm quyền đối với những người có

11

tinh thần PBXH. “Khi mà người ta còn buộc phải lắng nghe cả hai phía thì vẫn còn hi vọng; còn khi người ta chỉ chăm lo tới một phía thì các sai lầm sẽ kết lại thành thiên kiến và bản thân các chân lý sẽ không còn cho hiệu quả của chân lý nữa, mà bị thổi phồng lên thành ngụy tạo”[73; tr.125]. Tư tưởng này của J.S. Mill nhận thức rằng phải PBXH vì sự phát triển của xã hội. Hiện nay, “tại các nước phát triển, việc nghiên cứu PBXH vẫn tiếp tục được quan tâm trong khuôn khổ nghiên cứu xã hội dân sự và nhà nước pháp quyền, trong mối quan hệ của trục tam giác: Nhà nước, xã hội và cá nhân. Các nhà khoa học thường nhìn nhận PBXH như là cơ chế, điều kiện để bảo vệ quyền con người, quyền công dân, quyền tự do ngôn luận...”[96; tr.14].

Rõ ràng, các nghiên cứu liên quan đến PBXH trên thế giới cho rằng, PBXH là hoạt động tất yếu và có tính chất xã hội. Ở mỗi quốc gia, tùy trình độ phát triển mà PBXH được thực thi sớm hay muộn, trực tiếp hay gián tiếp. PBXH chính là một cơ chế biểu đạt ý kiến, nguyện vọng, thái độ của mọi tầng lớp nhân dân đối với các quyết sách chính trị, xã hội do nhà nước tạo ra. Nhờ có PBXH mà mọi công dân có cơ hội tham gia vào các quá trình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội; kiểm soát nhà nước thực thi quyền lực một cách minh bạch. Tất nhiên, không có mô hình chung cho PBXH hiệu quả ở mọi quốc gia. Các nghiên cứu đi trước gợi ra vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu để xây dựng khung lý thuyết PBXH phù hợp mỗi quốc gia. Đây là một nhánh nghiên cứu sẽ được triển khai trong luận án này.

1.1.2. Nghiên cứu chức năng phản biện xã hội của báo chí Có nhiều quan điểm khác nhau về mối quan hệ giữa báo chí và phát triển xã hội, nhưng đều khẳng định đó là mối quan hệ khăng khít và được duy trì ở mọi nền báo chí. Bởi xã hội là cái nôi nuôi dưỡng báo chí phát triển, ngược lại báo chí là “tấm gương” phản chiếu xã hội. Sự phát triển của báo chí là một trong những chỉ báo quan trọng để đo lường sự phát triển và mức độ tự do, dân chủ của xã hội. Báo chí chỉ phát triển và là diễn đàn của nhân dân khi nó phản ánh đời sống và tham gia đấu tranh loại bỏ cái sai, cái xấu, lỗi thời; là trung gian kết nối và tạo cơ hội bình đẳng cho mọi người nêu quan điểm của mình về vấn đề xã hội. Nói cách khác, PBXH phải được thừa nhận là một chức năng quan trọng của báo chí và tất nhiên sẽ có PBXH trên báo chí.

Trong nhiều nghiên cứu chức năng PBXH của báo chí, có thể kể đến: Nhà báo và nhà nghiên cứu báo chí Arturo Escobar (Colombia)[141] từ năm 1995 đã đề cập báo chí PBXH như là tác nhân quan trọng song hành quá trình xây dựng và phát triển đất nước, trong cuốn “Encountering Development: The Making and Unmaking of the Third world”. Theo Arturo Escobar, báo chí thực hiện chức năng PBXH là động lực xây dựng đất nước, bắt nguồn từ cách tiếp cận hiện đại hóa trong chủ thuyết phát triển. “Lý thuyết phát triển hiện đại hóa cho rằng sự tăng trưởng kinh tế của các nước kém phát triển có thể được thúc đẩy thông qua quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa, thị trường hóa và hiện đại hóa văn hóa truyền thống. Trong chủ thuyết phát triển này, truyền thông đại chúng, báo chí được coi là nhân tố

12

quan trọng trong việc thúc đẩy quá trình hiện đại hóa văn hóa và lối sống. Lý thuyết hiện đại hóa khuyến khích việc sử dụng các phương tiện truyền thông đại chúng, báo chí để xây dựng một đất nước vững mạnh và thống nhất.”[96; tr.17]. Một nghiên cứu khác phân tích mối quan hệ chặt chẽ giữa truyền thông (trong đó có báo chí) và chính trị là “Four theories of Press”(Bốn học thuyết truyền thông)[100] của Siebert, Peterson và Schramm. Các tác giả đã nêu 4 lý thuyết truyền thông gồm thuyết Độc đoán, thuyết Tự do, thuyết Trách nhiệm xã hội và thuyết Cộng sản Xô viết. Trong đó, các tác giả cho rằng, các mô hình truyền thông khác nhau bắt nguồn từ sự khác biệt lớn hơn của cấu trúc chính trị và kinh tế. Do đó, một người không thể hiểu phương tiện truyền thông nếu không hiểu về bản chất của nhà nước, hệ thống chính trị và mối quan hệ giữa lợi ích chính trị, kinh tế và sự phát triển xã hội dân sự và giữa các yếu tố khác của cấu trúc xã hội. Đặc biệt, trong thuyết Tự do thể hiện quan điểm rằng, chủ nghĩa tự do với vai trò như một hệ thống xã hội và chính trị có một cơ cấu tổ chức xác định cho các cơ quan hoạt động trong quỹ đạo của nó, và báo chí cũng giống như các cơ quan khác được quy định bởi các nguyên tắc cơ bản của xã hội mà nó tồn tại. Theo quan điểm của chủ nghĩa tự do, “chức năng của truyền thông đại chúng là thông tin và giải trí, hỗ trợ kinh tế. Và về cơ bản, mục đích chính của truyền thông là giúp tìm ra sự thật, hỗ trợ trong quá trình giải quyết các vấn đề chính trị xã hội bằng cách đưa ra tất cả các căn cứ và ý kiến tạo tiền đề cho việc đưa ra quyết định. Đặc trưng thiết yếu của quá trình này là sự tự do khỏi sự kiểm soát và chi phối của chính quyền. Chính phủ cùng với các quan chức luôn là bên có lợi ích trực tiếp từ kết quả của các cuộc tranh luận” [100; tr.97]. Trên cơ sở phân tích đó, học thuyết này khẳng định rằng, vì thế mà chức năng của báo chí được nâng lên thành một tổ chức chính trị. Nó có nhiệm vụ giữ cho chính phủ không vượt qua giới hạn của mình. Báo chí đã hình thành một sự kiểm soát chính phủ mà không một tổ chức nào có thể làm được. Còn trong thuyết Trách nhiệm xã hội khẳng định báo chí có nhiệm vụ cung cấp thông tin, tổ chức bàn luận và tranh luận các vấn đề công vụ; bảo vệ các quyền của cá nhân bằng cách đóng vai trò một cơ quan giám sát chính phủ. Thuyết này cho rằng, bất kỳ ai có nhu cầu thể hiện quan điểm đều có quyền sử dụng phương tiện truyền thông và truyền thông phải có nghĩa vụ thực hiện trách nhiệm xã hội. Đặc biệt, trong thuyết này, bên cạnh các chức năng khác của báo chí, Thedore Peterson khẳng định, báo chí phục vụ hệ thống chính trị bằng cách cung cấp các thông tin, tổ chức bàn luận và tranh luận các vấn đề công vụ, báo chí như một diễn đàn để trao đổi, phê bình. “Yêu cầu đối với báo chí là phải như một diễn đàn để trao đổi, bình luận và phê bình. Yêu cầu này đòi hỏi những cơ quan truyền thông đại chúng lớn nên coi bản thân mình là những người tổ chức các cuộc tranh luận công khai dù điều này không có nghĩa là pháp luật nên bắt buộc họ phải chấp nhận tất cả các đơn yêu cầu được đăng tải hoặc quy định tần suất đăng tải”[100; tr. 158]. Như vậy, dù không nêu trực tiếp chức năng PBXH của báo chí nhưng các tác giả có đề cập vai trò, nhiệm vụ của báo chí trong việc làm

13

diễn đàn để trao đổi, bình luận và phê bình và báo chí thông tin cần tôn trọng tự do ngôn luận. Việc yêu cầu báo chí phải làm nhiệm vụ tổ chức các cuộc tranh luận trên báo chí về các vấn đề xã hội mà các tác giả đề cập trong cuốn sách này chính là đang bàn đến bản chất hoạt động PBXH trên báo chí. Những lập luận trong các lý thuyết này được tác giả luận án tham khảo vận dụng trong quá trình xây dựng hệ thống khung lý thuyết cho luận án và phân tích về PBXH trên báo chí.

Một nghiên cứu khác là công trình có tên “The Structural Transformation of the Public Sphere: An inquiry into a Category of Bougeois Society” [148] (Sự biến đổi về cấu trúc không gian công: Một cuộc điều tra xã hội tư sản) của Jürgen Habermas (một nhà xã hội học và triết học người Đức) đã nhấn mạnh vai trò của báo chí trong sự hình thành “không gian công cộng” (Public Sphere). Jürgen Habermas quan niệm không gian công là một vũ đài độc lập với chính phủ, cùng tồn tại với cơ quan công quyền và cũng mang phẩm chất tự trị xét trong quan hệ với các phe phái kinh tế cũng như chính trị, vốn sinh ra để cho những cuộc tranh luận duy lý và có tính mở hoàn toàn cho sự giám sát của công dân. Chính từ không gian công này hình thành nên dư luận xã hội. Quan điểm lý thuyết này được tác giả luận án vận dụng xây dựng khung lý thuyết cho luận án trên cơ sở vận dụng soi chiếu vào thực tiễn môi trường xã hội Việt Nam.

Tiếp nối lý thuyết về không gian công cộng này, nhiều lý thuyết khác phân tích sự tác động của truyền thông đại chúng, trong đó đặc biệt là báo chí, đến xã hội. Chẳng hạn, Richard Sennett, nhà xã hội học người Mỹ, năm 1974, cho xuất bản cuốn sách “The Fall of Public Man” (Sự sụp đổ của con người công cộng), trong đó có khẳng định rằng, các phương tiện truyền thông điện tử đã bóp nghẹt ngay chính khái niệm đời sống công cộng. Và “truyền thông đã gia tăng mạnh mẽ sự hiểu biết giữa các nhóm xã hội với nhau nhưng đồng thời cũng làm cho mọi sự tiếp xúc thực tế trở nên dư thừa”[94; tr. 392].

Cũng liên quan đến yếu tố kỹ thuật của phương tiện truyền thông, lý thuyết Xã hội thông tin của nhà lý luận truyền thông Canada là Marshall McLuhan được đề cập trong cuốn “International communication - Continuity and Change” (Truyền thông quốc tế - sự tiếp nối và thay đổi) của Daya K. Thussu [157]. Cuốn sách này trình bày nhiều lý thuyết về truyền thông chính trị. Trong đó lý thuyết Xã hội thông tin đã khẳng định “phương tiện là thông điệp” (the medium is the message). Kỹ thuật truyền thông có tác động xã hội đối với các xã hội và văn hoá khác nhau nhiều hơn là bản thân nội dung của phương tiện truyền thông. Luận điểm quan trọng trong lý thuyết xã hội thông tin của McLuhan là yếu tố kỹ thuật truyền thông, công nghệ truyền thông đóng vai trò rất quan trọng, tác động chi phối tới nội dung truyền thông. Lập luận này đã được chứng minh trong thực tiễn phát triển truyền thông, nhất là truyền thông đại chúng. Luận án sử dụng lý thuyết này để xây dựng khung lý thuyết với lập luận rằng, chính công nghệ truyền thông đa phương tiện của báo điện tử đã có tác động chi phối đến nội dung thông tin mà báo điện tử cập nhật phục vụ công chúng. Đây là một hướng tiếp cận rất quan trọng khi phân tích ưu điểm, nhược điểm của PBXH trên báo điện tử.

14

Đề cập sát hơn nữa đến chức năng PBXH của báo chí, trong cuốn “A first look at Communication theory”[147] (Một cái nhìn tổng quan về các lý thuyết truyền thông), được xuất bản bởi McGraw - Hill. Cuốn sách trình bày hơn 80 lý thuyết truyền thông, trong đó có lý thuyết “Thiết lập chương trình nghị sự” do hai chuyên gia truyền thông Maxwell McCombs và D.Shaw (của Mỹ) đưa ra. Các tác giả của lý thuyết này cho rằng, truyền thông đại chúng, trong đó có báo chí, có một chức năng sắp đặt chương trình nghị sự cho công chúng. Các bản tin và hoạt động đưa tin của cơ quan truyền thông ảnh hưởng đến sự phán đoán của công chúng tới những “chuyện đại sự” của thế giới xung quanh. Theo lý thuyết này, việc thông tin có mục đích của báo chí chính là báo chí tổ chức truyền thông qua việc sắp đặt chương trình nghị sự về một vấn đề nào đó để qua những thông tin, bàn luận đó sẽ tác động đến nhận thức và hành động của công chúng trong thực tiễn. Đây là một nội dung quan trọng sẽ được vận dụng trong quá trình xây dựng khung lý thuyết và phân tích về PBXH trên báo điện tử trong luận án này.

2 Nhà bình luận xã hội và tư tưởng chính trị Pháp sống trong thời đại Khai sáng, ông thường được biết

đến dưới tên Montesquieu. Ông nổi tiếng với lý thuyết tam quyền phân lập.

Cùng nội dung nghiên cứu có đề cập đến chức năng PBXH của báo chí, tại Nga, Vichto Aphanaxep trong cuốn “Quyền lực thứ tư và bốn đời Tổng bí thư”[7] đã đề cập chức năng PBXH của báo chí khi nêu vai trò của báo chí trong các thể chế chính trị. Theo Vichto Aphanaxep, các nhà lãnh đạo đã sử dụng báo chí vào xử lý công việc, coi báo chí làm một loại quyền lực để lãnh đạo về kinh tế, chính trị, xã hội… Ở nhiều nước trên thế giới, thể chế chính trị được xây dựng trên cơ sở học thuyết Tam quyền phân lập của Montesquieu 2. Theo đó, quyền lực nhà nước được phân bổ cho hệ thống các cơ quan: lập pháp - hành pháp - tư pháp. Và, quyền được biết của công chúng trở thành hạt nhân của triết lý báo chí tự do và định hướng cho hoạt động báo chí trong mối quan hệ với hệ thống chính trị. Còn A.A. Grabennhicop trong cuốn “Báo chí trong kinh tế thị trường”[37] khẳng định báo chí tham gia quản lý xã hội. Theo tác giả, báo chí phải phản ánh trung thực, chính xác, nhanh nhạy, phải có tinh thần đấu tranh, PBXH, và đồng thời phải luôn cảnh giác trước những cám dỗ của cuộc sống. Hay E.P. Prokhorop, trong sách “Cơ sở lý luận báo chí” [93] cho rằng, báo chí đặc biệt quan trọng trong thúc đẩy phát triển xã hội. Dù báo chí chịu sự chi phối của nhà nước, nhưng có tính độc lập tương đối, kết nối sức mạnh nhân dân qua dư luận xã hội. Bùi Phương Dung trong cuốn “Công tác tuyên truyền tư tưởng trong thời kỳ mới”[6] dẫn câu chuyện làm công tác tư tưởng của báo chí tại Trung Quốc, cho biết: báo chí có thể đưa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng vào quần chúng nhanh nhạy nhất, rộng rãi nhất. Báo chí có thể phản ánh ý kiến, nguyện vọng của quần chúng trước một chủ trương, chính sách, hoặc một vấn đề thực tiễn. Đó cũng là lúc báo chí thể hiện vai trò, chức năng PBXH đối với các vấn đề bức thiết của cuộc sống. Còn

15

Nguyễn Văn Minh [76; tr.13-14] cho biết, năm 2007, trên Tạp chí Học tập và Nghiên cứu lý luận (số 8), tác giả Điền Trung Mẫn có bài “Bàn về đổi mới công tác tư tưởng thời kỳ mới” cho rằng, báo chí là một phần quan trọng của công cuộc xây dựng xã hội hài hòa xã hội chủ nghĩa. Mở rộng dân chủ, tự do báo chí có sức mạnh nhất định, báo chí là diễn đàn quan trọng để PBXH, tăng cường tính tích cực, chủ động, sáng tạo của nhân dân tham gia xây dựng chủ trương chính sách. Báo chí Trung Quốc luôn quan tâm nâng cao chất lượng bằng việc tăng cường tính dân chủ, phản biện những vấn đề mà bạn đọc quan tâm, nhằm mở rộng dân chủ.

Theo Luis Ramiro Beltrans, truyền thông áp đặt từ trên xuống vẫn được xem là cần thiết và quan trọng, nhưng tập trung hơn vào việc thúc đẩy luồng thông tin hai chiều mà ở đó người dân hiểu rõ về nhu cầu, lợi ích và các hoạt động của chính cộng đồng mình [152; tr.5-41]. Cách tiếp cận này nhấn mạnh quyền của mọi người dân bao gồm cả dân tộc thiểu số, những người nghèo tham gia trong việc quyết định và giải quyết những vấn đề phát triển xã hội. Cách tiếp cận này cũng nhấn mạnh sự phát triển tính tập thể hơn tính cá nhân, sự hợp tác của các nhà báo với cộng đồng hơn là sự hoạt động của báo chí vì cộng đồng [96; tr.17]. Vai trò của nhà báo, theo Gumucio Dagron, là để nâng cao nhận thức hơn là thuyết phục để tạo sự chuyển biến của xã hội [144]. Đây là luận điểm quan trọng, gợi mở cho nghiên cứu mục đích PBXH trên báo chí ở Việt Nam hiện nay. Và trong một công trình nghiên cứu, Amartya Sen [140] khẳng định, để hoạt động của chính phủ luôn có một hệ thống cảnh báo sớm các hiểm họa có thể xảy đến, rất cần báo chí đóng vai trò giữ mối liên hệ giữa chính phủ và công chúng [96; tr.20].

Rõ ràng, các nghiên cứu nêu trên đã khẳng định báo chí có chức năng PBXH, nhưng chưa chỉ ra quy trình, phương thức PBXH của báo chí nói chung và từng loại hình báo chí nói riêng. Vì mỗi nền báo chí, với mỗi loại hình báo chí thì mối quan hệ giữa báo chí và phát triển xã hội biểu hiện khác nhau. Kế thừa các nghiên cứu đã chỉ ra tầm quan trọng của báo chí khi thực hiện chức năng PBXH, từ mối quan hệ báo chí - phát triển xã hội, việc xây dựng được một mô hình, điều kiện… cho báo chí thực hiện chức năng PBXH ở Việt Nam là cấp thiết. Đây là một gợi mở hướng nghiên cứu sẽ được thực hiện trong luận án này.

1.2. Nghiên cứu phản biện xã hội ở Việt Nam Ở Việt Nam, thuật ngữ “phản biện xã hội” được sử dụng chính thức trong Báo cáo Chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam tại Đại hội X (năm 2006) của Đảng. Đảng, Nhà nước ta coi PBXH là một trong những phương thức quan trọng để lấy ý kiến tư vấn, góp ý từ nhân dân phục vụ xây dựng và thực thi chủ trương, chính sách… đúng đắn hơn, phù hợp hơn với thực tiễn. Mấy năm gần đây, không khí dân chủ ngày càng được mở ra, PBXH dần phát triển và tạo hiệu ứng xã hội mạnh mẽ. Nhiều nghiên cứu PBXH ở Việt Nam đã và đang được thực hiện. Qua khảo cứu, có một số nhóm công trình nghiên cứu PBXH ở Việt Nam như sau:

16

1.2.1. Nghiên cứu lý luận về phản biện xã hội + Một số sách về phản biện xã hội: Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, cuốn sách “Tìm hiểu một số thuật ngữ trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng” được Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội ấn hành năm 2006. Trong sách này giải thích về: phản biện, PBXH, vai trò PBXH của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Cũng trong năm 2006, Trần Đăng Tuấn [130], có thể nó là người tiên phong ở Việt Nam đặt vấn đề về PBXH một cách bài bản trong cuốn “Phản biện xã hội - những câu hỏi đặt ra từ cuộc sống”. Trần Đăng Tuấn nhấn mạnh tính tất yếu của sự tồn tại PBXH, PBXH không phải là vấn đề muốn hay không muốn. Vì thế, “ở vị trí quyền lực, coi trọng phản biện sẽ có được PBXH có tổ chức, giúp ích lớn cho ổn định và phát triển; ngược lại, tránh né PBXH, kết quả là nhận được PBXH tự phát - mảnh đất thuận lợi để hình thành tâm thế phản kháng xã hội"[130, tr.10]. Trần Đăng Tuấn đề cao vai trò công luận là một kênh rất quan trọng để tổ chức PBXH phạm vi rộng. Bởi theo ông, “các phương tiện truyền thông có khả năng giải quyết được mâu thuẫn giữa yêu cầu tiết kiệm thời gian, công sức, chi phí và yêu cầu có được phản biện xã hội chất lượng cao, phạm vi rộng, nói cách khác, ở đây ưu thế chính của công luận là tốc độ tổ chức quá trình phản biện”[130, tr.194]. Sau đó, đến năm 2009, Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam xuất bản cuốn sách “Phản biện xã hội về bảo vệ thiên nhiên và môi trường” của Nguyễn Đình Hòe có lập luận về PBXH, trong đó nhấn mạnh vị trí của PBXH trong xã hội dân sự. Tuy nhiên, các lập luận còn sơ sài, thiếu tính hệ thống, chỉ xoáy vào vai trò PBXH đối với bảo vệ thiên nhiên và môi trường. Còn trong sách “Phản biện xã hội và phát huy dân chủ pháp quyền”[109], do TS. Hồ Bá Thâm và CN. Nguyễn Tôn Thị Tường Vân đồng chủ biên năm 2010, phân tích khái niệm, bản chất, các đặc điểm của PBXH; chỉ ra chủ thể, khách thể, đối tượng, nguyên tắc và phương thức của PBXH. Song, chưa chỉ ra những ưu thế, hạn chế của những kênh PBXH phổ biến mà chỉ lập luận về vấn đề PBXH trong nền dân chủ pháp quyền ở nước ta, mối quan hệ giữa xã hội và nhà nước với PBXH.

+ Một số luận văn, luận án, đề tài khoa học… về phản biện xã hội: Một số luận văn, đề tài khoa học nghiên cứu về PBXH từ năm 2008 đến 2010 chủ yếu gắn với vai trò của MTTQ Việt Nam trong PBXH. Cụ thể, Lê Thị Hồng Diễm với đề tài “Thực hiện chức năng phản biện xã hội của MTTQVN” [23] của luận văn Luận văn Thạc sĩ Chính trị học năm 2008, trong đó nêu những luận điểm, luận cứ về thực hiện chức năng PBXH của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đồng thời, đề xuất giải pháp thực hiện chức năng PBXH của MTTQ Việt Nam. Còn đề tài khoa học 01X- 11/02-2009-01 có nhan đề: “Xây dựng cơ chế phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc thành phố Hà Nội nhằm phát triển kinh tế xã hội của Thủ đô”, do Phạm Xuân Hằng làm chủ nhiệm năm 2009, phân tích: khái niệm PBXH, phân biệt PBXH với một số hoạt động xã hội khác; khái niệm cơ chế PBXH; các nguyên tắc PBXH. Đáng chú ý,

17

theo tác giả, PBXH thực chất là phát huy năng lực sáng tạo, quyền làm chủ xã hội của nhân dân qua việc tham gia hoạch định và thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Thực hiện PBXH là mở rộng dân chủ, nhân dân tham gia PBXH với tư cách vừa là người chịu sự lãnh đạo, vừa là người làm chủ, vừa là người thực hiện, vừa là người thụ hưởng.

Nguyễn Thọ Ánh phân tích thực trạng và những vấn đề đặt ra khi thực hiện chức năng giám sát và PBXH của MTTQVN trong Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Chính trị học năm 2010 với đề tài: “Thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hiện nay” [6]. Ở công trình này, các giải pháp đưa ra bị bó hẹp trong cải thiện hoạt động PBXH của MTTQVN. Cùng năm 2010, Trịnh Đình Trung nghiên cứu “Nâng cao năng lực phản biện xã hội của các tổ chức khoa học và công nghệ thuộc Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam”[128], tập trung phân tích thực trạng PBXH của các tổ chức khoa học và công nghệ thuộc Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam. Nghiên cứu này mới dừng ở việc mô tả, minh họa sự tồn tại PBXH của một tổ chức chuyên biệt, chưa khái quát được hệ thống lý luận PBXH.

+ Một số bài viết về phản biện xã hội trên báo, tạp chí: So với các sách và công trình nghiên cứu khoa học về PBXH thì các bài viết về PBXH trên các báo, tạp chí ở nước ta xuất hiện nhiều hơn, đa dạng hơn. Có thể kể đến những công trình như: “Vai trò của xã hội dân sự ở Việt Nam hiện nay”[92] của Nguyễn Minh Phương, công bố tháng 2/2006, chỉ ra rằng xã hội dân sự có vai trò quan trọng trong việc tổ chức PBXH đối với các chủ trương, chính sách của nhà nước. Đề cập “Vấn đề phản biện xã hội với yêu cầu thực tế hiện nay”[134], tháng 4/2006, Hoàng Văn Tuệ nhấn mạnh vai trò PBXH đối với sự phát triển xã hội. Để nâng cao chất lượng, hiệu quả PBXH, theo tác giả, vừa cần cơ chế phù hợp cho PBXH, vừa phải có cơ quan chuyên trách các vấn đề về PBXH. Cũng tiếp cận từ tính cấp thiết của thực tế đòi hỏi với PBXH, Trần Thái Dương có bài “Góp phần nhận thức về phản biện xã hội ở nước ta hiện nay”[12], tháng 5/2006, cho rằng PBXH là một mô hình mới nhằm phát huy vai trò của quần chúng nhân dân và các tổ chức xã hội đối với quá trình hoạch định, tổ chức thực thi đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước đang là một nhu cầu cấp bách. Trong khi đó, dù đề cao vai trò của PBXH nhưng Trần Đăng Tuấn lưu ý rằng, không nên tuyệt đối hóa vai trò của PBXH, không nên coi PBXH là giải pháp vạn năng trong đời sống chính trị. Bởi vì PBXH chỉ là một trong các biểu hiện của cơ chế tập trung dân chủ, chỉ có ý nghĩa và giá trị khi nằm trong tổng thể cơ chế tập trung dân chủ. PBXH không thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi tình huống. Với bài “Giám sát, phản biện xã hội với cải cách hành chính”[43], tháng 1/2007, tác giả Trần Hậu cho rằng, giám sát và PBXH cần có những tiền đề và điều kiện mới có thể thực hiện tốt vai trò của nó. Tiền đề dân chủ và hệ thống pháp luật hoàn chỉnh là tiên quyết, cần có bầu không khí dân chủ trong xã hội cho việc giám sát

18

và PBXH. Không có tiền đề ấy, mọi sự giám sát và PBXH chỉ còn mang tính hình thức và hậu quả là làm mất lòng tin của nhân dân đối với công cuộc đổi mới và cải cách hành chính. Nguyễn Trần Bạt thì viết “Phản biện xã hội”[10], tháng 1/2007, đi sâu bàn về tính phản biện và PBXH dưới góc độ chính trị và triết học. Theo đó, PBXH là một hoạt động khoa học, là một công cụ không thể thiếu để tổ chức ra một xã hội dân chủ. Điều kiện để PBXH trở thành một hoạt động có chất lượng khoa học là cần phải thực thi tự do ngôn luận, đồng thời cần có sự tham gia của hai lực lượng, lực lượng thứ nhất là để nói một cách chuyên nghiệp và lực lượng thứ hai là để nghĩ một cách chuyên nghiệp. Trước khi nói phải nghĩ, nghĩ chuyên nghiệp là giới trí thức và nói chuyên nghiệp là giới báo chí.

Nguyễn Chính Tâm có 2 bài viết về PBXH là “Phản biện xã hội và sự phát triển của Việt Nam”[103], và bài “Cơ chế nào giúp khuyến khích phản biện”[104] cùng trong tháng 6/2007, bàn khá kỹ về vai trò PBXH đối với sự phát triển đất nước, văn hóa phản biện và kết luận rằng: Triển vọng của phát triển Việt Nam sẽ một phần tuỳ thuộc vào chỗ chúng ta nghiêm chỉnh phản biện và tự phản biện đến đâu. Quyền được phản biện là quyền sơ đẳng và căn bản nhất của bất kỳ thiết chế dân chủ nào.

Không lâu sau, trong bài “Xây dựng cơ chế pháp lý bảo đảm cho nhân dân tham gia hoạt động giám sát và PBXH” [39], tháng 8/2007, Trương Thị Hồng Hà, khẳng định: “Xây dựng cơ chế pháp lý bảo đảm cho nhân dân tham gia hoạt động giám sát và PBXH là một trong những giải pháp cấp thiết nhằm thực hiện quyền dân chủ, tự do của nhân dân. Hơn thế, đó còn là giải pháp quan trọng nhằm góp phần đổi mới sự lãnh đạo của Đảng, tăng cường hiệu quả quản lý, điều hành của nhà nước và nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội”. Cùng đề cao vai trò của nhân dân trong PBXH, tháng 8/2007, Đào Công Tiến [126], trong bài “Phản biện xã hội - Phản biện từ lòng dân”, khẳng định tư vấn và PBXH vừa là tác nhân vừa là sản phẩm của môi trường văn hóa, góp phần không nhỏ tạo nên những điều chỉnh cả về tư duy lý luận lẫn hành động trên thực tế về lập pháp, hành pháp và tư pháp theo hướng hợp lòng dân hơn. Song nhìn thực tế Việt Nam, ông Tiến đặt câu hỏi: “Phải chăng vẫn còn những vùng cấm đối với phản biện xã hội? Phải phản ứng, gây sức ép mạnh từ dư luận xã hội thì mới hy vọng có sự điều chỉnh, sửa đổi - tức là buộc phải chấp nhận phản biện, bất đắc dĩ phải điều chỉnh sửa chữa? Và vẫn còn không ít những chính sách được đưa ra trình dân còn xa lòng dân quá?”.

Bàn về lợi ích của PBXH, tháng 10/2007, Phương Ngọc Thạch có bài “Lợi ích của phản biện xã hội đối với chính sách nhà nước”[108] phân tích tác dụng của PBXH đối với giải quyết các vấn đề rất cụ thể như: chống tham nhũng, chính sách đất đai, ô nhiễm môi trường, giáo dục và y tế, giảm nghèo... Qua đó, đề xuất: để PBXH đi vào cuộc sống và hiệu quả, cần xây dựng cơ chế cụ thể khuyến khích sự tham gia của người dân; khi triển khai một dự án cần công khai, minh bạch thông tin; tăng cường đối thoại giữa chính quyền và người dân trong việc giải quyết những vấn đề phát sinh.

19

Phạm Duy Nghĩa nêu “Bốn đề xuất nhằm khơi thông PBXH”[79], năm 2008, trong đó nhấn mạnh giải pháp cho phản biện chính sách, như: ngân sách cho mặt trận tách biệt khỏi ngân sách địa phương; nuôi dưỡng xã hội dân sự; cơ chế kiểm duyệt báo chí công khai, ràng buộc trách nhiệm báo chí; tự do trong nghiên cứu cần phải được bảo đảm.... Nguyễn Minh Đoan tiếp cận ở góc độ năng lực chủ thể phản biện trong bài “Bàn thêm về phản biện xã hội ở Việt Nam” [25], tháng 3/2011, cho rằng so với hình thức góp ý, kiến nghị thì phản biện có tính tổ chức, tính bắt buộc cao hơn, có nội dung và quy trình chặt chẽ, khoa học hơn. Điều này đòi hỏi chủ thể phản biện phải có năng lực nhất định, có thời gian và sự chuẩn bị chu đáo, công phu mới có thể phản biện một cách chính xác, khoa học và hiệu quả.

Còn có nhiều bài viết khác đề cập đến PBXH ở nhiều góc độ khác nhau, như: “Tổ chức và thực hiện nhiệm vụ giám sát và phản biện xã hội của nhà nước Việt Nam trong lịch sử”[107; tr. tr.14-25]; “Dư luận xã hội với tư cách là phương thức thực hiện phản biện xã hội ở nước ta hiện nay”[86; tr.3-10]; “Phản biện xã hội và vấn đề phát huy dân chủ ở nước ta hiện nay” [127; tr.45-50]; “Một số vấn đề về tham gia xã hội và phản biện xã hội”[63; tr.3-9]; “Vai trò phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam”[88; tr.41-43]; Cũng tác giả Trần Ngọc Nhẫn có bài “Tầm quan trọng của việc thu thập ý kiến phản hồi và phản biện xã hội đối với Quốc hội”[89; tr.13 - 17]; “Về điều kiện đảm bảo cho hoạt động giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam”[12; tr.38-42];“Phản biện xã hội trong quản lý sự phát triển xã hội ở Việt Nam hiện nay” [95; tr.32-39];“Phản biện xã hội - lý luận và thực tiễn”[138; tr.9-10]; “Giám sát xã hội và phản biện xã hội”[77; tr.31-35]; “PBXH trong quá trình xây dựng và phát triển TPHCM”[24; tr. 44-46]…

Nhìn chung, các bài viết có tính lý luận nêu trên hướng vào phân tích những vấn đề cơ bản của PBXH: Khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc và phương thức PBXH (như tác giả Trần Đăng Tuấn, Trịnh Duy Luân, Trần Thái Dương, Hoàng Hải, Nguyễn Trần Bạt, Hồ Bá Thâm và Nguyễn Tôn Thị Tường Vân). Ở các nghiên cứu này phân tích cơ sở khoa học, tính tất yếu, vai trò, chức năng, chủ thể, khách thể, đối tượng... của PBXH, đã phần nào luận giải về PBXH và vai trò của nó đối với đời sống chính trị - xã hội. Hầu hết các nghiên cứu khẳng định PBXH không chỉ là vấn đề được giới nghiên cứu quan tâm mà ngày càng thu hút cả giới cầm quyền, nhà quản lý và toàn dân; PBXH ngày càng trở nên cần thiết đối với quá trình dân chủ hóa đời sống chính trị - xã hội ở nước ta. Bên cạnh đánh giá những mặt tích cực của PBXH ở nước ta thời gian qua, các nghiên cứu cũng chỉ ra hạn chế cần khắc phục, cảnh báo về tính hai mặt của PBXH; đề xuất những giải pháp cụ thể để phát huy sức mạnh PBXH, trong đó có việc xây dựng nhà nước pháp quyền và thực hành xã hội dân sự.

Không những thế, nhiều nghiên cứu cũng đã bước đầu soi chiếu lý luận về PBXH vào hoạt động thực tiễn ở một số lĩnh vực. Trong đó, phổ biến là nghiên cứu về vai trò, chức năng, thực trạng, giải pháp cho PBXH gắn với chủ thể là Mặt trận Tổ

20

quốc Việt Nam (các tác giả như: Nguyễn Thọ Ánh, Trần Ngọc Nhẫn, Phạm Xuân Hằng, Nguyễn Thanh Bình, Nguyễn Thị Lan, Nguyễn Trọng Bình, Lê Đức Tiết, Đỗ Duy Thường). Các nghiên cứu này nêu những điều kiện, cơ chế cần thiết để Mặt trận Tổ quốc các cấp thực hiện chức năng PBXH của mình. Dù chỉ giới hạn vào một đối tượng nghiên cứu là một chủ thể phản biện -MTTQ- nhưng các nghiên cứu nhóm này đã chỉ ra thực tế còn khó khăn triển khai chủ trương đẩy mạnh PBXH trong thực tiễn. Đa số các nghiên cứu mới chỉ đánh giá thực trạng, chưa có những giải pháp căn cơ mà chỉ đặt vấn đề trên cơ sở suy luận lô-gic, chưa có những bằng chứng thực tiễn. Bên cạnh đó, một số hướng nghiên cứu về các chủ thể khác tham gia PBXH, như: Liên hiệp các hội khoa học kỹ thuật, nhà khoa học; quốc hội và các tổ chức chính trị xã hội khác (tác giả: Nguyễn Ngọc Điện, Hồ Uy Liêm, Trịnh Đình Trung...) mới tập trung nghiên cứu gắn với tổ chức khoa học thuộc cơ quan nhà nước, chưa xem xét ra các tổ chức, cá nhân ngoài nhà nước. Cũng có một số rất ít các nghiên cứu vai trò, chức năng, nhiệm vụ, thực trạng, giải pháp của PBXH gắn với một địa phương, lĩnh vực cụ thể (tiêu biểu như các tác giả: Nguyễn Thị Lan, Lê Hải Yến, Nguyễn Điển…).

Các nghiên cứu trên gợi mở quan trọng cho tác giả luận án kế thừa để xây dựng

trục lý luận nền tảng cho đề tài luận án “Phản biện xã hội trên báo điện tử”.

1.2.2. Nghiên cứu phản biện xã hội trên báo chí + Một số sách đề cập phản biện xã hội trên báo chí Trong sách “Báo chí và dư luận xã hội” [29], Nguyễn Văn Dững lý giải 4 vấn đề cơ bản về báo chí và dư luận xã hội, gồm: bản chất của dư luận xã hội, bản chất hoạt động báo chí, mối quan hệ báo chí và dư luận xã hội, nhà báo và dư luận xã hội. Trong đó, khẳng định dư luận xã hội tích cực có vai trò phản biện và giám sát các quyết định quản lý từ khi chuẩn bị ban hành, quá trình thực thi và đánh giá hiệu quả. Luận giải mối quan hệ báo chí và dư luận xã hội của Nguyễn Văn Dững là gợi mở quan trọng cho Luận án trong việc xây dựng lý luận về PBXH trên báo điện tử. Trong đó, muốn minh định hệ thống thuật ngữ, khái niệm, đặc trưng, phương pháp… PBXH, trước hết phải phân biệt được PBXH và dư luận xã hội và quan hệ giữa chúng.

Sách “Phản biện xã hội của tác phẩm báo chí Việt Nam qua một số sự kiện nổi bật”[55] của Phan Văn Kiền trình bày một số vấn đề chung về PBXH của báo chí - truyền thông Việt Nam hiện đại. Qua khảo sát một số sự kiện nổi bật, tác giả cho rằng: Báo chí có chức năng PBXH và PBXH trong báo chí hiện đại đã tạo ra thảo luận xã hội một cách chuyên nghiệp; tạo ra thảo luận và thỏa thuận thông qua đối thoại; có nghệ thuật phản biện trong tác phẩm báo chí. Còn trong sách “Tác nghiệp báo chí trong môi trường truyền thông hiện đại”[61] Nguyễn Thành Lợi trình bày một số học thuyết truyền thông và luận giải việc ứng dụng chúng vào hoạt động báo chí. Trong đó, lý thuyết “thiết lập chương trình nghị sự” khẳng định báo chí có chức năng thiết lập chương trình nghị sự cho công chúng. Vận dụng lý thuyết này sẽ thấy bản chất PBXH trên báo chí là quá trình thiết lập chương trình nghị sự bằng tin tức.

21

+ Một số luận văn, luận án, đề tài khoa học nghiên cứu báo chí PBXH Mấy năm gần đây, nhiều luận văn và khóa luận tốt nghiệp đại học, cao học... đã chọn PBXH làm đề tài nghiên cứu. Với đề tài“Đội ngũ nhà báo Việt Nam trong công cuộc đổi mới theo định hướng XHCN”[121], năm 2000, Luận án Tiến sĩ của Chu Thái Thành trình bày nhiều nội dung có tính lý luận liên quan đến vị trí, vai trò, chức năng của báo chí. Tác giả cho rằng, kiến thức thực tiễn, kinh nghiệm và lý luận là tài sản quan trọng của nhà báo. Đó cũng là cơ sở, thế mạnh để nhà báo PBXH.

Sau đó, một loạt các nghiên cứu đề cập trực diện đến mối quan hệ báo chí và PBXH như: Đề tài “Vấn đề PBXH trên báo chí”, Khóa luận TNĐH của Đồng Thị Thùy [125], năm 2009, bước đầu lập luận về PBXH qua khảo sát thực tiễn trên 2 loại hình là báo in và báo điện tử, nhưng mới dừng ở việc miêu tả rất sơ sài, kết luận chưa có tính khái quát hóa. Nghiên cứu “Báo chí với phản biện xã hội”[85] của Tạ Thị Nguyệt, năm 2009, cũng chỉ nêu và phân tích sơ sài về khái niệm, vai trò phản biện và PBXH; vai trò của báo chí đối với PBXH. Còn đề tài khóa luận về “Ý nghĩa PBXH của bài bình luận ngắn trên trang nhất báo Thanh Niên, Tuổi trẻ” của Hà Lệ Giang [35] đã phân tích ý nghĩa PBXH của báo in qua một thể loại báo chí cụ thể. Song, kết quả nghiên cứu cũng thiên về liệt kê, mô tả, chưa xây dựng được hệ thống lý thuyết cho vấn đề. Và với đề tài “Tính PBXH của tác phẩm báo chí Việt Nam” [16], năm 2010, Luận văn Thạc sĩ Báo chí của Hoàng Thủy Chung bước đầu phác họa tính PBXH của tác phẩm báo chí thông qua khảo sát thực tiễn tại 2 tờ báo in Thanh Niên và Tuổi trẻ. Song luận văn này mới chỉ phân tích những PBXH trong cuộc cạnh tranh về thương hiệu giữa hai tờ báo. Một tác giả khác là Phan Văn Kiền đã có nhiều nghiên cứu về PBXH, như: Đề tài “Tính PBXH của tác phẩm báo chí thông qua loạt bài “Đêm trước đổi mới” trên báo Tuổi trẻ, năm 2005”( Khóa luận TNĐH, năm 2005). Rồi năm 2010, tiếp tục hướng nghiên cứu này, Phan Văn Kiền làm Luận văn Thạc sĩ Báo chí với đề tài: “PBXH của báo trực tuyến qua một số sự kiện tiêu biểu (khảo sát sự kiện mưa lũ ở Hà Nội năm 2008 và Dự án đường sắt cao tốc năm 2010 trên VnExpress.net và Tienphong.vn)”. Phan Văn Kiền phân tích quá trình truyền thông trực tuyến về trận mưa lũ tại Hà Nội và Dự án đường sắt cao tốc là PBXH của Tienphong.vn và VnExpress.net.

Nguyễn Thành Chung [15] nghiên cứu PBXH trên báo chí qua đề tài “Ý nghĩa PBXH của thể loại phóng sự trên báo Thanh Niên thông qua hai chùm phóng sự “Bát nháo chương trình liên kết” và “Không để tại chức thành thứ phẩm” trên báo Thanh Niên tháng 11 và tháng 12/2010”.

Nghiên cứu về PBXH trên báo chí còn có 2 Khóa luận TNĐH là: “Tính phản biện xã hội trong chuyên mục “nóng” trên báo Lao Động, Tuổi trẻ và Người Hà Nội”[82] của Phạm Bá Ngọc, K46HN; và “Tham nhũng - vấn đề nóng trên báo Tuổi trẻ”[62] của Nguyễn Xuân Long, K45HN. Hai nghiên cứu này mới bước đầu mô tả, phân tích PBXH trên một số tờ báo in. Và năm 2011, Huỳnh Thị Xuân Hạnh [42] có nghiên cứu “PBXH trên báo chí thành phố Hồ Chí Minh thập kỷ đầu thế kỷ XXI”.

22

Nghiên cứu này cũng chỉ liệt kê và phân tích một số vấn đề lý luận và thực tiễn về PBXH và PBXH trên báo chí TP HCM thập kỷ đầu thế kỷ XXI qua khảo sát 4 tờ báo in: Sài Gòn Giải Phóng, Tuổi trẻ, Người Lao động, Pháp luật TPHCM. Nhưng tác giả cũng chưa chỉ ra được bản chất, quy trình, phương pháp và những nhân tố nào tác động đến chất lượng, hiệu quả của PBXH trên báo chí.

Phạm Thu Hương [50] nghiên cứu về “Thực hiện chức năng giám sát và PBXH trên báo An ninh Thủ đô” (năm 2013), chỉ ra một số vấn đề lý luận về chức năng giám sát và PBXH của báo chí. Đồng thời, phân tích thực trạng giám sát và PBXH trên Báo An ninh Thủ đô. Từ đó, tác giả có đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng giám sát và PBXH của Báo An ninh Thủ đô. Tuy nhiên, luận văn này mới chỉ liệt kê những nội dung mà Báo An ninh Thủ đô giám sát xã hội, còn mờ nhạt trong nội dung về PBXH, nhất là kết luận về PBXH còn thiếu thuyết phục vì được rút ra sau liệt kê 2 tác phẩm PBXH trên Báo An ninh Thủ đô.

Nghiên cứu “Vai trò giám sát, PBXH của báo chí TPHCM đối với công tác cải cách hành chính cấp phường, xã” của Nguyễn Anh Tuấn [131] năm 2014, với trường hợp khảo sát trên Báo Sài Gòn Giải Phóng, Tuổi trẻ TP HCM, Đài Tiếng nói Nhân dân TP HCM, Đài Truyền hình TP HCM, luận văn mới chỉ thống kê ít ỏi lượng tin, bài có tính chất giám sát và PBXH, dẫn chứng minh họa nội dung thông điệp. Từ đó, đánh giá ưu điểm, nhược điểm thực hiện vai trò giám sát, PBXH của báo chí TPHCM đối với công tác cải cách hành chính cấp phường, xã. Các kết luận chưa thuyết phục vì hệ thống luận cứ không minh định được mối quan hệ báo chí với PBXH.

+ Một số bài viết trên báo, tạp chí về phản biện xã hội trên báo chí Bài viết “Phản biện xã hội trên báo chí” của Đỗ Minh Tuấn trên Báo Công an Nhân dân (ngày 18/5/2008) khẳng định: Báo chí đóng vai trò lương tri xã hội với biết bao phản biện nhanh nhạy, sắc sảo và đầy dũng khí. Song, những phản biện văn hóa, xã hội trên báo chí cũng đầy rẫy những điều thái quá hay bất cập, thậm chí có lúc trở thành con ngựa thành Troy của những chiến dịch phản thông tin. Tác giả nhấn mạnh: Những năm gần đây, PBXH trên báo chí đã có những hơi hướng của marketing chính trị và kinh tế một cách gián tiếp. Bài viết này còn phiến diện khi nói những bất cập PBXH trên báo chí Việt Nam.

Trong bài “Báo chí thể hiện bản lĩnh trong PBXH” (21/6/2009), trả lời phỏng vấn của Báo VnExpress, Bộ trưởng Bộ Thông tin - Truyền thông Lê Doãn Hợp nói: Gần đây, báo chí đã thể hiện bản lĩnh trong phản biện, trong tranh luận có lý lẽ, khoa học và giàu tinh thần xây dựng. Bài “Làm thất bại chiến lược “Diễn biến hoà bình”: Nhận thức đúng về PBXH trên báo chí” của Thiện Văn (Báo Quân đội Nhân dân (ngày 20/6/2010), khẳng định: Báo chí cách mạng Việt Nam có chức năng tham gia PBXH. Chưa bao giờ báo chí được phát huy quyền dân chủ cởi mở, thông thoáng, rộng rãi như những năm qua để chủ động tham gia PBXH, đóng góp tích cực vào việc hoạch định đường lối, chính sách của Đảng, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Chính phủ và đấu tranh,

23

phản bác các luận điệu thù địch, sai trái, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và các tệ nạn xã hội đang cản trở phát triển đất nước. Rồi Nguyễn Quang A, trong bài “Báo chí với phản biện”( Báo Tiền Phong, ngày 22/6/2010) nhận định: Sở dĩ báo chí là một kênh quan trọng bởi vì tính công khai của nó. Ý kiến trên báo chí có thể được nhiều người thảo luận, bàn cãi từ nhiều góc độ khác nhau. Báo chí là kênh rất hiệu quả cho lập luận công, thảo luận công về các vấn đề liên quan đến nhiều người. Luận điểm này của Nguyễn Quang A hàm ý: PBXH cần báo chí là kênh quan trọng để thực hiện.

Hoặc trong bài “Phản biện xã hội - một nhiệm vụ tất yếu của báo chí” (Tạp chí Kiểm sát, ngày 01/6/2011), Nguyễn Thanh Đạm khẳng định: Chức năng của báo chí là người định hướng dư luận, “hướng đạo” xã hội. Chính vì vậy, vai trò PBXH của báo chí ngày càng được độc giả đòi hỏi và yêu cầu cao. Còn ông Hà Minh Huệ, Phó Chủ tịch thường trực Hội Nhà báo Việt Nam, khẳng định “Vai trò phản biện của báo chí là rất quan trọng” (Báo Đầu tư Chứng khoán, ngày 20/6/2012) khi trả lời phỏng vấn của Minh Nhật. Ông Hà Minh Huệ đề cao vai trò phản biện của báo chí: Báo chí có chức năng PBXH phục vụ sự phát triển đất nước. Báo chí có thể tham gia từ khâu thông tin về chủ trương, nội dung đề án, giới thiệu sâu rộng tới mọi thành phần xã hội để tạo sự đồng thuận xã hội trong thực hiện chủ trương này, đồng thời chuyển tải các ý kiến của công chúng, chuyên gia để cung cấp đầy đủ thông tin nhiều chiều cho Chính phủ, cơ quan thực hiện có hiệu quả.

Nguyễn Anh Tuấn thì nhấn mạnh việc tham gia phản biện những vấn đề quốc kế dân sinh và nhiều lĩnh vực mà xã hội quan tâm là công việc được tất cả các cơ quan báo chí quan tâm, bởi vừa là thực hiện nhiệm vụ Đảng giao, vừa là đòi hỏi và sự trông chờ của nhân dân, trong bài “PBXH trên báo chí, nhiệm vụ Đảng giao, dân trông chờ” (Báo Kinh tế Nông thôn, ngày 18/6/2012).

Huỳnh Tấn có lưu ý trong bài “Khi PBXH được sử dụng như một "chiêu bài"!” (Báo Nhân Dân, ngày 12/3/2013) rằng: Ðể thực hành PBXH với các ý nghĩa tích cực, trước hết có một nguyên tắc cần tuân thủ là phải dựa trên nền tảng tri thức, thái độ khách quan, lấy lợi ích của cộng đồng làm mục đích... Nếu không, PBXH chủ quan, cảm tính và phiến diện, thậm chí cực đoan, cản trở tiến trình phát triển xã hội.

Cho rằng muốn PBXH trên báo chí có tác dụng thì cần phải đặt lợi ích chung của dân tộc, đất nước, cộng đồng lên hàng đầu, trong bài “PBXH phải vì lợi ích chung” (Báo Nhân Dân, ngày 11/6/2013) viết: PBXH trên báo chí tạo ra những hiệu quả quan trọng trong phát huy dân chủ xã hội, đóng góp vào việc hình thành, điều chỉnh chính sách vì lợi ích cộng đồng, xã hội, đất nước. Bên cạnh những mặt tích cực, không phải lúc nào phản biện cũng thực sự là tiếng nói khoa học với hàm lượng trí tuệ cao, với thái độ ứng xử văn hóa và tinh thần xây dựng…

Hạnh Nguyên khuyến nghị “Cần luật hóa chức năng giám sát, PBXH của báo chí” (Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, tháng 11/2014). Bài viết chỉ ra bất cập là Luật Báo chí hiện hành quy định 6 nhiệm vụ và quyền hạn của báo chí, nhưng chưa đề

24

cập đến nhiệm vụ giám sát và PBXH. Trong khi đó, quan điểm của Đảng có khẳng định chức năng giám sát, PBXH của báo chí.

Bên cạnh đó, nhiều tác phẩm khác đề cập PBXH trên báo chí như: “Phản biện xã hội trên báo chí, nhiệm vụ Đảng giao, dân trông chờ” (Nguyễn Anh Tuấn, Báo Kinh tế Nông thôn, 18/6/2012); “Vai trò giám sát và phản biện xã hội của báo chí đối với vấn đề quyền trẻ em” (Minh Phong, www.treemviet.vn, 6/9/2014); “Báo chí - Phản biện xã hội và xây dựng niềm tin” (Thu Quỳnh - Diệu Linh, Báo Xây dựng 30/6/2014); “Nâng cao kỹ năng phản biện xã hội trong hệ thống báo chí” (Lý Thanh Hương, Báo Vietnamplus.vn, 25/11/2014); “Phản biện xã hội của báo chí” (Hoàng Trọng Thủy, Báo Dân Việt, 21/6/2014); “Phản biện xã hội và sứ mệnh của nhà báo chân chính” (Tương Lai, VietNamNet, 21/6/2014)...

Nhìn chung, các bài viết nêu trên bước đầu chứng minh báo chí có chức năng PBXH, nhưng chưa phân tích rõ PBXH trên từng loại hình báo chí. Đặc biệt, dù có bóc tách nghiên cứu mặt này mặt kia, nhưng chủ yếu suy luận, thiếu thực chứng. Vấn đề đặt ra là cần có những nghiên cứu sâu hơn, hệ thống hóa PBXH trên báo chí nói chung, trên từng loại hình báo chí nói riêng để đưa ra giải pháp sát thực tế hơn. Đây là một nhiệm vụ quan trọng mà luận án này giải quyết.

1.2.3. Nghiên cứu phản biện xã hội trên báo điện tử ở Việt Nam Đến nay, công trình nghiên cứu về PBXH trên báo điện tử chưa nhiều. Khảo sát cho thấy, sách chuyên biệt chưa có; luận văn, luận án rất ít, và hiếm bài báo khoa học trên tạp chí đề cập PBXH trên báo điện tử. Trong số ít những nghiên cứu đó, có thể kể ra các công trình sau đây:

Tác giả Phan Văn Kiền nghiên cứu đề tài: “Phản biện xã hội của báo trực tuyến qua một số sự kiện tiêu biểu (khảo sát sự kiện mưa lũ ở Hà Nội năm 2008 và Dự án đường sắt cao tốc năm 2010 trên VnEpress.net và Tienphong.vn)(trong Luận văn Thạc sĩ Báo chí học tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội, năm 2011). Luận văn này phân tích quá trình truyền thông trực tuyến về trận mưa lũ tại Hà Nội và Dự án đường sắt cao tốc là quá trình PBXH của Tienphong.vn và VnExpress.net. Luận văn đã rút ra được một số nội dung nổi bật gắn với PBXH trên báo điện tử về: Ngôn ngữ hình ảnh trực tuyến; tính thời sự phi định kỳ, tính đa phương tiện, tính tương tác... trong các phản biện. Đặc biệt là luận văn đã chỉ ra được nghệ thuật “Việt Nam hóa” lý thuyết “Hành động lý tính” và “Truyền thông điệp cho đối tượng” trong PBXH qua tình huống truyền thông cụ thể.

Nghiên cứu sinh Đỗ Văn Quân thực hiện đề tài “Phản biện xã hội qua báo chí ở Việt Nam hiện nay (nghiên cứu trường hợp tờ báo điện tử VietNamNet.vn) trong Luận án Tiến sĩ Xã hội học (tại Học viện CTHCQG Hồ Chí Minh, năm 2012). Điểm mới của Luận án này là chỉ ra PBXH qua báo chí ở Việt Nam hiện nay được thực hiện bởi các nhà báo, trí thức, nhân sĩ, lão thành cách mạng... thông qua diễn đàn báo chí; Hoạt động PBXH qua báo chí là quá trình giải quyết vấn đề của xã hội bằng đối thoại giữa

25

các cá nhân, nhóm, tổ chức thể hiện qua các ý kiến, các thông điệp rất phong phú, đa dạng, linh hoạt có khả năng lan tỏa nhanh và sâu rộng tới các nhóm công chúng và tầng lớp xã hội. Ở đây vai trò của công nghệ truyền thông hiện đại - Internet là rất quan trọng và cần thiết để PBXH qua báo chí, nhất là báo điện tử phát huy tác dụng PBXH đối với tất cả những vấn đề nảy sinh trong xã hội. Luận án này còn chỉ ra nội dung PBXH qua báo chí; chất lượng, kết quả của PBXH qua báo chí; xử lý, tiếp thu kết quả PBXH qua báo chí của các cơ quan công quyền được/bị PBXH cũng là một nội dung của PBXH. Tuy nhiên, công trình nghiên cứu này phân tích ở góc độ xã hội học báo chí. Cho nên, những luận giải chủ yếu từ góc nhìn xã hội học soi rọi vào hoạt động báo chí. Mặc dù những kết luận rút ra từ nghiên cứu về PBXH trên báo chí ở Việt Nam trong nghiên cứu này khá chi tiết với những số liệu phân tích thực tế trong trường hợp cụ thể. Nhưng công trình này chưa chỉ ra được đặc trưng khu biệt, những ưu điểm, hạn chế của PBXH qua báo chí ở Việt Nam hiện nay. Phân tích chi tiết nội dung luận án này lại thấy tác giả nhầm lẫn giữa đối tượng phản biện với khách thể phản biện; có phân tích chất lượng phản biện qua báo điện tử nhưng không phân tích thông điệp. Hơn nữa, luận án chỉ khảo sát 4 chủ đề trên 1 tờ báo điện tử nhưng lại kết luận chung về PBXH trên báo chí Việt Nam, như thế là chủ quan, thiếu thuyết phục.

Trần Quý Thuân nghiên cứu “Phản biện xã hội của báo điện tử Việt Nam hiện nay” trong Luận văn Thạc sĩ Báo chí học, năm 2014. Luận văn này liệt kê các khái niệm, đặc điểm, nội dung và phương thức PBXH trên báo mạng điện tử; chỉ ra thực trạng PBXH trên báo mạng điện tử ở Việt Nam hiện nay thông qua khảo sát 3 tờ báo. Hạn chế lớn nhất của luận văn này là mới chỉ đặt vấn đề và liệt kê, minh họa chứ chưa tiêu chí hóa được thông điệp PBXH trên báo điện tử, chưa hệ thống hóa lý luận, mô hình hóa quy trình PBXH trên báo điện tử. Đây cũng là một khoảng trống nghiên cứu mà luận án “Phản biện xã hội trên báo điện tử” sẽ tiếp cận và hoàn thiện.

Bài viết “Phản biện xã hội trên báo điện tử: Cảnh giác với tính hai mặt của truyền thông online” (Tạp chí Người làm báo, tháng 11/2014) của Trần Xuân Thân khẳng định báo điện tử có chức năng PBXH; phân tích thực trạng PBXH của báo điện tử qua thông điệp về Việt Nam đăng cai ASIAD 18 và Phương án của Bộ GTVT với cầu Long Biên, trên báo VietNamNet và VnExpress. Tác giả cho rằng, dù hai trường hợp này chưa đủ đại diện để đánh giá hiệu quả cả hệ thống báo chí, báo điện tử khi PBXH ở Việt Nam, song khảo sát cho thấy PBXH trên báo điện tử có hiệu quả bước đầu; các cấp, ngành, giới... trong xã hội sẵn sàng tham gia PBXH nếu có một đơn vị trung gian đứng ra tổ chức phản biện.... Đồng thời, tác giả cảnh báo: mỗi tác giả phản biện cần đặt lợi ích quốc gia, nhân dân lên trên hết, tránh hiện tượng lạm dụng phản biện để đánh bóng tên tuổi, thiên lệch theo lợi ích nhóm. Nếu không, tính hai mặt của truyền thông online sẽ biến PBXH thành “lợi bất cập hại”.

Cũng tác giả Trần Xuân Thân, tháng 12/2014 có bài “Phản biện xã hội trên báo điện tử: Một số vấn đề về quy trình và nguồn tin” trên Tạp chí Người làm báo. Tác giả

26

khẳng định báo điện tử lợi thế nổi trội khi phản biện chính sách nhờ đặc trưng loại hình, tạo được những diễn đàn nóng hổi có sự tham gia của nhiều công chúng bàn về cùng vấn đề đặt ra từ một chính sách nào đó. Đặc biệt, bài viết này đã sơ đồ hóa được quy trình phản biện trên báo điện tử diễn ra qua 6 bước và tiêu chí thông điệp phản biện... Qua khảo sát một số trường hợp cụ thể, tác giả kết luận: “PBXH trên báo điện tử cần một quy trình nghiêm ngặt, các thành viên tham gia quá trình phải đủ tâm và tầm mới có thể chọn được nguồn tin tốt, xây dựng thông điệp tốt và lan tỏa được hiệu quả cho xã hội, đặc biệt khi những chính sách được phản biện sẽ tác động đến nhiều người, ảnh hưởng đến quốc kế dân sinh”.

Dù những nghiên cứu về PBXH trên báo điện tử chưa nhiều, nhưng cách tiếp cận PBXH trên một loại hình báo điện tử là một hướng tiếp cận hợp lý. Bởi vì báo điện tử đang là một xu thế phát triển của báo chí hiện đại. Hơn nữa, PBXH trên báo điện tử ngày càng nhiều và gây ra những phản ứng đa chiều trong xã hội khi đánh giá về vai trò, chức năng, chất lượng của PBXH trên báo điện tử.

Báo điện tử ở Việt Nam đang phát triển mạnh và đặt ra vấn đề cấp thiết cần nghiên cứu tìm giải pháp gia tăng tác động tích cực của thông tin trên báo điện tử đối với đời sống xã hội, trong đó có chất lượng PBXH trên báo điện tử. Mặc dù vậy, trong các nghiên cứu được khảo sát, tính hệ thống lý luận chưa cao; khả năng khái quát hóa lý luận, xây dựng mô hình quy trình PBXH của báo điện tử chưa rõ ràng. Đặc biệt, các cơ chế, điều kiện của PBXH trên báo điện tử chưa được chỉ rõ. Luận án “Phản biện xã hội trên báo điện tử” khắc phục những khiếm khuyết đó.

1.3. Đánh giá chung tình hình nghiên cứu liên quan đề tài luận án PBXH được các nhà nghiên cứu ở lĩnh vực triết học, chính trị học, luật học, xã hội học, báo chí học, truyền thông đại chúng học đề cập từ khá sớm. PBXH không chỉ được đặt trong mối quan hệ với nhà nước pháp quyền, xã hội dân sự, mà còn đặt trong mối quan hệ giữa báo chí và phát triển... Đồng thời, PBXH được nghiên cứu ở góc độ lý luận cơ bản, nghiên cứu cụ thể với một số chủ thể PBXH; nghiên cứu về tác động của PBXH đối với địa phương, ngành, lĩnh vực cụ thể..., cả nghiên cứu xã hội học về PBXH. PBXH không chỉ được các nhà khai sáng quan tâm nghiên cứu, mà còn có các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin. Mặc dù liều lượng quan tâm, cách thức tiếp cận và mục tiêu nghiên cứu có thể có những khác biệt nhất định... Đặc biệt, nghiên cứu PBXH gắn với thực tế xã hội Việt Nam cho thấy, PBXH có xu hướng phát triển trên cơ sở luật pháp được xây dựng chặt chẽ, thực thi nghiêm minh vì một xã hội phát triển lành mạnh. PBXH là một nhiệm vụ cần được coi trọng và phát huy không chỉ của cơ quan công quyền, các tổ chức phi chính phủ mà của mỗi công dân có trách nhiệm với xã hội, với Tổ quốc. Cụ thể:

+ PBXH đan là một đề tài nghiên cứu có tính th i sự ở Việt Nam, nh n ch a có kết quả đột phá: Thừa nhận vai trò của PBXH đối với phát triển xã hội, khái niệm PBXH đã được nêu trong Văn kiện Đại hội Đảng. PBXH ngày càng cần thiết đối

27

với quá trình dân chủ hóa đời sống chính trị - xã hội. Nhưng chế tài của Nhà nước để thực thi PBXH ở Việt Nam chưa cụ thể. Nhiều nghiên cứu đề xuất những giải pháp để phát huy sức mạnh PBXH, trong đó có xây dựng nhà nước pháp quyền, thực hành xã hội dân sự, nhưng còn dè dặt.

+ PBXH đan đ c nghiên cứu và hoàn thiện hệ thống khái niệm, đặc tr n , n uyên tắc, ph ơn thức, nh n còn phiến diện: Nhiều nghiên cứu đã phân tích cơ sở khoa học, tính tất yếu, vai trò, chức năng, chủ thể, khách thể, đối tượng... của PBXH. Tuy nhiên, phần lớn các nghiên cứu này công bố dưới dạng bài báo, sách chuyên khảo, luận văn, luận án khoa học chuyên biệt. Đa số chỉ mới tiếp cận nghiên cứu ở dạng phân tích khái niệm, vai trò, tác dụng của PBXH..., chưa nhiều khảo sát thực chứng về PBXH ở nước ta. Một số nghiên cứu bước đầu soi chiếu lý luận PBXH vào thực tiễn ở một số lĩnh vực, nhưng còn nặng suy luận và đánh giá chủ quan, nhìn vào hiện tượng, thiếu căn cứ thực chứng. Do đó, những kết luận thường chủ quan nhờ suy luận nhiều hơn là từ thực tiễn số liệu khảo sát. Chưa có các nghiên cứu mang tính chất lý thuyết hóa, bao quát các chiều cạnh lý luận về PBXH, mới chỉ tập trung vào một khía cạnh nào đó của PBXH.

+ Các nghiên cứu về PBXH trên báo chí đan tiếp tục xuất hiện: Các nghiên cứu đã bước đầu chỉ ra khá đầy đủ về vai trò, chức năng quan trọng của báo chí trong hoạt động PBXH. Các nghiên cứu này gắn việc soi rọi lý luận về phản biện, PBXH vào hoạt động báo chí. Bước đầu đã có nghiên cứu chứng minh báo chí có chức năng PBXH. Mỗi loại hình báo chí có đặc trưng riêng, thế mạnh, hạn chế riêng khi PBXH. Tuy nhiên, việc hệ thống hóa một cách toàn diện về PBXH trên báo chí nói chung và PBXH trên từng loại hình báo chí nói riêng thì chưa làm được. Việc nghiên cứu đo lường cụ thể về nhu cầu, khả năng của báo chí, của công chúng tham gia PBXH trên báo chí chưa nhiều, thậm chí những cái có thì cũng rất sơ sài.

+ Nghiên cứu về PBXH trên báo điện tử còn ít, ch a tiếp cận liên ngành: báo chí học, chính trị học và xã hội học để chỉ ra bản chất, nguyên tắc, điều kiện PBXH trên báo điện tử: Các nghiên cứu về PBXH của báo điện tử, tính luận lý hệ thống còn chưa cao. Khả năng khái quát hóa lý luận, xây dựng mô hình quy trình PBXH của báo điện tử chưa rõ ràng. Các cơ chế, điều kiện của PBXH trên báo điện tử chưa được chỉ ra một cách thuyết phục gắn với thực tế Việt Nam, trong đó những yếu tố như: thể chế, văn hóa, luật pháp, chế tài, nhân lực, môi trường truyền thông....

28

Tiểu kết Chƣơng 1

PBXH không phải là vấn đề mới mà đã phổ biến trên thế giới. Từ lâu, ở các nước phát triển, các nền dân chủ, văn minh trên thế giới đã coi PBXH là một trong các hành động đương nhiên để thể hiện xã hội dân chủ và thực hành nhà nước pháp quyền. PBXH trở thành một hoạt động không thể thiếu, một thành tố, điều kiện, phương thức và cũng là sản phẩm của quá trình dân chủ hóa đời sống chính trị, là đặc trưng tiêu biểu của xã hội văn minh, hiện đại. PBXH được coi là nguyên tắc cơ bản và tất yếu trong đời sống chính trị và hoạt động quản lý xã hội của các nước phát triển. Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lê nin chưa dùng thuật ngữ “phản biện xã hội”, nhưng khi bàn về tự do báo chí và phát huy vai trò quần chúng nhân dân trong phát triển xã hội là đã đề cập ý nghĩa, bản chất của PBXH. Đây là nền tảng nhận thức luận quan trọng về vai trò ý kiến quần chúng nhân dân trong quá trình xây dựng và thực thi chính sách nhằm phát triển xã hội của mỗi quốc gia. Nói cách khác, dân chủ hóa xã hội trong thảo luận chính sách, trong giải quyết vấn đề chung của xã hội là yêu cầu bức thiết và là xu thế tất yếu xã hội. PBXH chính là một cơ chế biểu đạt ý kiến, nguyện vọng, thái độ của mọi tầng lớp nhân dân đối với các quyết sách chính trị, xã hội do Nhà nước tạo ra. Đặc biệt, do môi trường văn hóa, thể chế chính trị, trình độ dân chủ ở mỗi quốc gia khác nhau thì thực hành dân chủ xã hội và PBXH sẽ có phần khác nhau. Do đó, không có mô hình chung cho PBXH hiệu quả ở mọi quốc gia. Đây chính là một gợi ý về hướng nghiên cứu để xây dựng khung lý thuyết PBXH phù hợp ở mỗi quốc gia. Luận án này sẽ tiếp cận trên cơ sở nhận thức đó gắn với thực tiễn Việt Nam.

Khảo cứu cũng đã cho thấy, các chính trị gia, các nhà nghiên cứu truyền thông, các nhà báo trên thế giới chỉ ra mối quan hệ khăng khít giữa báo chí và phát triển xã hội và nó được duy trì ở mọi nền báo chí. Các nghiên cứu đã chứng minh PBXH là một chức năng quan trọng của báo chí, tuy nhiên chưa chỉ ra được quy trình, phương thức PBXH trên báo chí nói chung và trên từng loại hình báo chí nói riêng. Điểm khuyết này sẽ được Luận án làm sáng tỏ qua trường hợp PBXH trên báo điện tử ở Việt Nam.

Đối với Việt Nam, PBXH là vấn đề còn khá mới, cho dù những hình thức phản biện đã xuất hiện trong xã hội ta từ lâu, nhưng chưa được gọi tên cụ thể và chưa phổ biến trong xã hội, chưa được coi là một cách để thực hành dân chủ xã hội. Chính vì thế, những hành động PBXH có lúc, có chỗ còn chưa được đối xử công bằng, chưa coi trọng, thậm chí có tình trạng cán bộ công quyền né tránh PBXH, còn đa số người dân cũng coi PBXH là việc của ai đó, ở đâu đó chứ không phải quyền lợi và trách nhiệm của bản thân mình. Mấy năm gần đây, cùng với quá trình dân chủ hóa đời sống xã hội, PBXH ngày càng phát huy tác dụng, hiệu quả đối với PBXH, nhiều phương thức thực hành PBXH cũng ngày càng được quan tâm thúc đẩy. Ngay trong nhận thức và hành động của Đảng, Nhà nước ta cũng đã có những sự đổi mới nhất định, trong đó hiện rõ việc ngày càng coi trọng hơn đến PBXH. Điều này được thể hiện qua việc Đảng ta đưa

29

khái niệm PBXH vào Văn kiện Đại hội của Đảng, đồng thời Nhà nước cũng đã có những quy định, quy chế về PBXH. Mặc dù hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật này còn phân tán nhiều nơi, chưa thống chất và chế tài chưa rõ ràng, song hoạt động PBXH đã diễn ra với nhiều phương thức khác nhau, trong đó có PBXH trên báo điện tử. Hoạt động này đã bắt đầu được giới nghiên cứu khoa học quan tâm tiếp cận ở nhiều cấp độ, góc độ khác nhau. Khảo cứu cho thấy, các nghiên cứu mới chỉ chủ yếu dừng ở việc lập luận sơ sài, thiếu tính hệ thống về những nội dung như khái niệm, đặc điểm, vai trò, cơ chế, nguyên tắc, chủ thể, khách thể, đối tượng… của PBXH, đặc biệt là thiếu tính thực chứng mà chỉ mô tả, minh họa sự tồn tại PBXH của một tổ chức chuyên biệt nào đó, hay một kênh nào đó, chưa chỉ ra ưu thế và hạn chế của những kênh PBXH khác nhau… Tuy nhiên, chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu, hệ thống hóa từ lý luận đến thực tiễn PBXH trên báo điện tử ở Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ XXI, nhất là nghiên cứu chỉ ra tác động giữa đặc trưng loại hình báo điện tử với chất lượng, hiệu quả PBXH trên báo điện tử. Đặc biệt, những câu hỏi nghiên cứu cấp thiết vẫn chưa được giải quyết, như: Thông điệp PBXH trên báo điện tử có thực sự trở nên quan trọng trong đời sống xã hội? Đặc trưng loại hình báo điện tử có thế mạnh, hạn chế PBXH như thế nào? PBXH trên báo điện tử còn mang tính tự phát hay đã được định hướng chiến lược? Đang có sự dịch chuyển từ phản biện mang tính tự phát thành phản biện chuyên nghiệp, chủ động và không né tránh vấn đề? Có cần thiết lý thuyết hóa, mô hình hóa quy trình PBXH của báo điện tử? Báo điện tử cần điều kiện cơ bản nào để PBXH hiệu quả?

Rõ ràng, đời sống xã hội đang đặt ra nhiều vấn đề bức thiết cần được phản biện. Song thực tế tính chuyên nghiệp trong PBXH chưa cao, còn tự phát, sử dụng kênh phản biện cũng còn nhiều vấn đề. Do đó, để PBXH có chất lượng, cần những nghiên cứu có định lượng và định tính với từng yếu tố tham gia quá trình PBXH. Đó sẽ là cơ sở để xây dựng và phát triển hệ thống lý luận về PBXH, phương pháp phản biện đối với từng chủ thể, từng kênh phản biện, từng thời điểm phản biện…. Những khiếm khuyết cơ bản trong các nghiên cứu trước đây về PBXH và PBXH trên báo điện tử là một khoảng trống trong nghiên cứu khoa học. Luận án “Phản biện xã hội trên báo điện tử” sẽ cố gắng khắc phục những nhược điểm nêu trên. Trong đó, Luận án nghiên cứu và hệ thống hóa lý luận về phản biện, PBXH và PBXH trên báo điện tử; phân tích thực tiễn PBXH của báo điện tử thông qua một số trường hợp cụ thể; Qua phân tích thực trạng, Luận án chỉ ra những bài học kinh nghiệm, những vấn đề cần tiếp tục giải quyết. Từ đó, Luận án đề xuất giải pháp đổi mới tổ chức và thực hiện nhằm nâng cao chất lượng PBXH trên báo điện tử ở Việt Nam. Đây vừa là nhiệm vụ quan trọng cần giải quyết và cũng là điểm mới của Luận án này.

30