ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

-----

PHẠM QUỐC CƯỜNG

CẢI CÁCH THỂ CHẾ KINH TẾ Ở

CÁC NƯỚC CHÂU PHI VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ QUỐC TẾ

HÀ NỘI - 2020

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

-----

PHẠM QUỐC CƯỜNG

CẢI CÁCH THỂ CHẾ KINH TẾ Ở

CÁC NƯỚC CHÂU PHI VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM

Chuyên ngành: Kinh tế quốc tế

Mã số: 9310106.01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ QUỐC TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. Nguyễn Mạnh Hùng

HÀ NỘI - 2020

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của riêng tôi.

Các số liệu sử dụng phân tích trong luận án có nguồn gốc rõ ràng, đã công

bố theo đúng quy định. Các kết quả nghiên cứu trong luận án do tôi tự tìm

hiểu, phân tích một cách trung thực, khách quan.

LỜI CAM ĐOAN

Phạm Quốc Cường

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN....................................................................................... ii

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ........................................................... i

DANH MỤC CÁC BẢNG ..........................................................................iii

DANH MỤC HÌNH.................................................................................... v

MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN

QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ............................................................................ 10

1.1. Các nghiên cứu trên góc độ lý luận về thể chế và cải cách thể chế ............ 10

1.2. Các nghiên cứu về thể chế và cải cách thể chế kinh tế ở châu Phi ............. 13

luận án ..................................................................................................... 24

1.3. Đánh giá các công trình nghiên cứu liên quan và hướng nghiên cứu của

Tiểu kết chương 1 .................................................................................... 26

CHƯƠNG 2.CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CẢI CÁCH THỂ

CHẾ KINH TẾ ........................................................................................ 27

2.1. Các vấn đề chung về thể chế................................................................. 27

2.1.2. Quá trình hình thành và thay đổi thể chế ............................................. 29

2.2. Thể chế kinh tế và cải cách thể chế kinh tế............................................. 30

2.2.1. Quan niệm về thể chế kinh tế và cải cách thể chế kinh tế ...................... 30

2.2.2.Các yếu tố chính tác động đến cải cách thể chế kinh tế .......................... 32

2.3. Thể chế kinh tế thị trường và cải cách thể chế kinh tế thị trường .............. 41

2.3.1. Quan niệm về thể chế kinh tế thị trường và cải cách thể chế kinh tế thị trường. 41

2.3.2. Khung phân tích cải cách thể chế kinh tế thị trường ............................. 44

2.4. Cải cách thể chế kinh tế thị trường của một số nước và nhóm nước .......... 47

2.4.1. Cải cách thể chế kinh tế thị trường ở Đông Âu và Nga ......................... 47

2.4.2. Cải cách thể chế kinh tế thị trường ở Hàn Quốc ................................... 51

2.1.1. Quan niệm, phân loại và vai trò của thể chế......................................... 27

2.4.3. Cải cách thể chế kinh tế thị trường ở Trung Quốc ................................ 55

2.4.4. So sánh kinh nghiệm cải cách thể chế kinh tế thị trường của các nước và

khu vực..................................................................................................... 59

Tiểu kết chương 2 .................................................................................... 64

CHƯƠNG 3. CẢI CÁCH THỂ CHẾ KINH TẾ Ở CHÂU PHI ................. 65

3.1. Bối cảnh và nguyên nhân của cải cách thể chế kinh tế ở châu Phi............. 65

3.1.1. Tình hình phát triển kinh tế - xã hội của châu Phi ................................ 65

3.1.2. Chất lượng thể chế kinh tế của châu Phi .............................................. 69

3.1.3. Yêu cầu chuyển đổi sang cơ chế thị trường ......................................... 76

3.2. Nội dung cơ bản trong cải cách thể chế kinh tế thị trường ở châu Phi ....... 79

3.2.1. Cải cách quyền sở hữu ...................................................................... 79

3.2.3. Thúc đẩy tư nhân hoá ........................................................................ 88

3.3. Đánh giá tiến trình cải cách thể chế kinh tế thị trường của châu Phi.......... 97

3.3.1. Đặc điểm và kết quả của tiến trình cải cách ......................................... 97

3.2.2 Mở cửa nền kinh tế ............................................................................ 82

3.3.2. Các yếu tố cơ bản tác động đến tiến trình cải cách ..............................103

Tiểu kết chương 3 ...................................................................................111

CHƯƠNG 4: CẢI CÁCH THỂ CHẾ KINH TẾ Ở GUINEA XÍCH ĐẠO,

GHANA VÀ TUNISIA ............................................................................112

4.1. Cải cách thể chế kinh tế ở Guinea xích đạo ...........................................112

4.1.1. Bối cảnh cải cách thể chế kinh tế.......................................................112

4.1.2. Những vấn đề chính của cải cách thể chế kinh tế ................................114

4.1.3. Đánh giá kết quả cải cách thể chế kinh tế ...........................................116

4.2. Cải cách thể chế kinh tế ở Ghana .........................................................122

4.2.1. Bối cảnh cải cách thể chế kinh tế.......................................................122

4.2.2. Những vấn đề chính của cải cách thể chế kinh tế ................................125

4.2.3. Đánh giá kết quả cải cách thể chế kinh tế ...........................................129

4.3. Cải cách thể chế kinh tế ở Tunisia ........................................................134

4.3.1. Bối cảnh cải cách thể chế kinh tế.......................................................134

4.3.2. Những vấn đề chính của cải cách thể chế kinh tế ................................137

4.3.3. Đánh giá kết quả cải cách thể chế kinh tế ...........................................141

4.4. So sánh các trường hợp nghiên cứu ......................................................144

Tiểu kết chương 4 ...................................................................................151

CHƯƠNG 5. BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ QUÁ TRÌNH CẢI CÁCH

THỂ CHẾ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG CỦA CÁC NƯỚC CHÂU PHI ......152

5.1. Đánh giá chung và bài học kinh nghiệm ...............................................152

5.2. Một số gợi mở chính sách đối với Việt Nam .........................................161

Tiểu kết chương 5 ...................................................................................169

KẾT LUẬN ............................................................................................170

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN

LUẬN ÁN ...............................................................................................172

TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................173

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viếttắt Tiếng Anh Tiếng việt

ADB Asian Development Bank Ngân hàng Phát triển châu Á

AfDB African Development Bank Ngân hàng phát triển châu Phi

ASEAN Association of Southeast Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

Asian Nation

AU African Union Liên minh châu Phi

ĐPT đang phát triển

ECB European Central Bank Ngân hàng Trung ương châu Âu

EU European Union Liên minh châu Âu

FAO

Food Agricultural

Tổ chức Nông Lương của Liên

Organization

hợp quốc

FDI

foreign direct investment

đầu tư trực tiếp nước ngoài

Eurozone Khu vực đồng tiền chung châu Âu

GDP gross domestic product tổng sản phẩm trong nước

ILO

International Labor

Tổ chức Lao động quốc tế

Organization

NDT

Nhân dân tệ

OECD

Organization of Economic

Tổ chức Hợp tác và Phát triển

Cooperation Development

kinh tế

OPEC

Organization of Petroleum

Tổ chức các nước xuất khẩu dầu

Exporting Countries

mỏ

PT

phát triển

RTA

regional trade agreement

Thỏa thuận thương mại khu vực

RCEP

Regional Comprehensive

Hiệp định đối tác kinh tế toàn

i

IMF International Monetary Fund Quỹ Tiền tệ Quốc tế

Chữ viếttắt Tiếng Anh Tiếng việt

Economic Partnership diện khu vực

DNNN doanh nghiệp nhà nước

TNC Transnational Corporation Tập đoàn đa quốc gia

UN United Nations Liên hợp quốc

UNCTAD United Nations Conference Hội nghị Liên hợp quốc về

for Trade and Development Thương mại và Phát triển

UNDP United Nations Development Chương trình Phát triển Liên hợp

Program quốc

USD United States Dollar đôla Mỹ

WTO

World Trade Organization

Tổ chức Thương mại Thế giới

XHCN

xã hội chủ nghĩa

ii

WB World Bank Ngân hàng Thế giới

DANH MỤC CÁC BẢNG

TT Tên bảng

Nội dung

Trang

Các cấu phần của trụ cột thể chế trong chỉ số cạnh

1

Bảng 1.1

7

tranh toàn cầu

2

Bảng 2.1

40

Các đặc tính cơ bản của quản trị tốt theo một số

3

45

Bảng 2.2 Cải cách thể chế kinh tế thị trường và dân chủ hoá

4

46

Bảng 2.3 Cải cách thể chế kinh tế thị trường và quản trị quốc gia

tổ chức quốc tế

5

Bảng 3.1

66

Các nước châu Phi thuộc nhóm các nước có thu

Xếp hạng các nước châu Phi Nam Sahara về mức

6

Bảng 3.2

67

độ hòa bình

Chỉ số phát triển con người của châu Phi so sánh

7

Bảng 3.3

68

với các khu vực khác

Chỉ số phát triển con người của các khu vực ở

8

Bảng 3.4

68

châu Phi

9

Bảng 3.5 Các giai đoạn phát triển của các nước châu Phi

69

Sự tương phản trong chất lượng thể chế của

10 Bảng 3.6

72

Rwanda và Chad

11 Bảng 3.7 Các nước bị xếp hạng có nền kinh tế bị hạn chế tự do

76

Sở hữu của chính phủ trong một số lĩnh vực trước

12 Bảng 3.8

93

và sau khi tư nhân hoá (1991-2002), tỷ lệ %

Sự tham gia của khu vực tư nhân vào các lĩnh vực

13 Bảng 3.9

96

dịch vụ công đầu những năm 2000

14 Bảng 3.10 Chất lượng quản trị của châu Phi năm 2014

108

15 Bảng 3.11 Chỉ số quản trị châu Phi Ibrahim 2014

109

iii

nhập thấp (năm 2016)

TT Tên bảng

Nội dung

Trang

Quan niệm của người dân về hành động chống

16 Bảng 3.12

110

tham nhũng của chính phủ

Xếp hạng thứ bậc trong quản trị tài nguyên của

17 Bảng 4.1

116

Guinea xích đạo

Xếp hạng chỉ số môi trường kinh doanh năm 2016

18 Bảng 4.2

118

của Guinea xích đạo

Chất lượng quản trị của Guinea xích đạo theo bộ

19 Bảng 4.3

119

chỉ số quản trị châu Phi Ibrahim

Chất lượng quản trị của Ghana theo bộ chỉ số quản

20 Bảng 4.4

131

trị châu Phi Ibrahim

21 Bảng 4.5 Chỉ số dân chủ của Tunisia của EIU (2010-2015)

143

iv

DANH MỤC HÌNH

TT Tên hình Trang

1 Hình 3.1 65

2 Hình 3.2 75

3 Hình 3.3 82

4 Hình 3.4 87

6

Hình 3.6

91

7

Hình 3.7

92

5 Hình 3.5 91

9

Hình 3.9

101

10 Hình 3.10

104

11 Hình 3.11

104

12 Hình 3.12

107

13 Hình 3.13

109

14 Hình 4.1

113

8 Hình 3.8 95

v

Nội dung Thu nhập bình quân đầu người của các nền kinh tế đang phát triển khu vực châu Phi nam Sahara, 2006- 2014 (USD hiện hành) Mức độ tham nhũng tại một số tổ chức và nhóm người tại châu Phi Mức độ tự do về sở hữu của châu Phi nam Saharaso với thế giới và châu Á – Thái Bình Dương Tự do hoá thương mại, đầu tư, tài chính và tiền tệ của châu Phi nam Sahara so với thế giới và châu Á – Thái Bình Dương Số trường hợp tư nhân hoá ở châu Phi nam Sahara, 1991-2002 Giá trị của các trường hợp tư nhân hoá ở châu Phi nam Sahara, 1991-2001 Số lượng trường hợp được tư nhân hoá trong các lĩnh vực (1991-2002) Tỷ trọng khu vực phi chính thức trong GDP của châu Phi so với các khu vực khác trên thế giới năm 2006 (%) Mức độ tự do hoá kinh tế của châu Phi nam Sahara so với thế giới và châu Á - Thái Bình Dương, 1995-2016 Tỷ lệ các quốc gia “không có tự do” ở châu Phi nam Sahara %) Tỷ lệ số người dân sống tại các quốc gia có tự do ở châu Phi nam Sahara 2015 (%) Chất lượng quản trị của các nước châu Phi nam Sahara Mức độ tham nhũng ở châu Phi nam Sahara so với thế giới và châu Á – Thái Bình Dương Thu nhập bình quân đầu người của Guinea xích đạo Thu nhập bình quân đầu người của Guinea xích đạo

Nội dung

TT Tên hình 15 Hình 4.2 Mức độ tự do kinh tế của Guinea xích đạo Trang 117

16 Hình 4.3 117

17 Hình 4.4 120 Mức độ tự do thương mại, tự do đầu tư và tự do tài chính của Guinea xích đạo Chất lượng quản trị của Guinea xích đạo theo bộ chỉ số quản trị toàn cầu

18 Hình 4.5 Mức độ tham nhũng của Guinea xích đạo 19 Hình 4.6 Thu nhập bình quân đầu người của Ghana 20 Hình 4.7 Mức độ tham nhũng ở Ghana 121 123 131

21 Hình 4.8 132 Chất lượng quản trị của Ghana theo bộ chỉ số quản trị toàn cầu

22 Hình 4.9 Mức độ tự do kinh tế của Ghana 133

24 Hình 4.11

135

23 Hình 4.10 134

136 137 142

Mức độ tự do thương mại, đầu tư và tài chính của Ghana Thu nhập bình quân đầu người của Tunisia (PPP, nghìn USD hiện hành) 25 Hình 4.12 Tỷ lệ thất nghiệp ở Tunisia, 2001-2010 26 Hình 4.13 Tỷ lệ đầu tư tư nhân so với GDP (%) 27 Hình 4.14 Tỷ lệ đầu tư tư nhân so với GDP (%)

29 Hình 4.16

143

30 Hình 4.17

149

28 Hình 4.15 142

160

vi

Mức độ tự do thương mại, đầu tư và tài chính của Tunisia Chất lượng quản trị của Tunisia theo bộ chỉ số quản trị toàn cầu So sánh chỉ số quản trị của Guinea xích đạo, Ghana và Tunisia (2019) 31 Hình 5.1 Bẫy phát triển và cải cách ở châu Phi

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Kinh tế học thể chế cho rằng, thể chế có ảnh hưởng lớn đối với phát triển

kinh tế-xã hội của một quốc gia. Khác biệt về thể chế là nguyên nhân của phát

triển hay đói nghèo: một số dạng thể chế có thể đem lại sự phát triển, song một

số dạng thể chế có thể tạo ra những hệ lụy tai hại cho sự phồn vinh, tự do và các

giá trị con người khác, và sự xuống cấp của hệ thống quy tắc có thể dẫn tới suy

thoái kinh tế - xã hội. Khi các nguồn lực như tài nguyên thiên nhiên, lao động

giá rẻ và vốn...đã đến giới hạn hoặc không thể phát huy thì cải cách thể chế là

đòi hỏi tất yếu đối với tất cả các nước để đi xa hơn trên con đường tiến tới phồn

qua nên sa lầy trong tình trạng kém phát triển, hoặc có những nước lại tiến hành

cải cách khi đã quá muộn khiến quốc gia rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng.

Ngược lại, cũng có những nước đã chủ động tiến hành cải cách nên vượt qua

vinh. Tuy nhiên, đây cũng là thách thức nghiệt ngã mà nhiều nước chưa thể vượt

được khó khăn để vươn lên. Những bài học thất bại và thành công đó rất có giá

trị để Việt Nam tham khảo.

lượng lao động dồi dào và với sự hỗ trợ không nhỏ từ bên ngoài, châu Phi vẫn là

một châu lục kém phát triển nhất của thế giới. Xung đột vũ trang, nội chiến,

khủng bố, bất ổn chính trị, cùng với một loạt vấn đề phát triển khác như đói

nghèo, bất bình đẳng xã hội, dịch bệnh...thường xuyên hiện diện, tạo ra những

thách thức lớn cho sự phát triển của nhiều quốc gia ở châu lục này. Không ít

nước châu Phi đã bị coi là những quốc gia “thất bại” như Somalia, Sudan

v.v...nơi chính phủ trung ương hầu như không thể kiểm soát được lãnh thổ quốc

gia của mình. Nhiều nước ở khu vực Bắc Phi rơi vào vòng xoáy bất ổn kinh tế-

xã hội sau làn sóng đòi cải cách chính trị và dân chủ hoá “Mùa xuân Arab”. Tuy

nhiên, một số nước châu Phi cũng đạt được những thành tựu phát triển đáng

1

Mặc dù là một châu lục có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, lực

khâm phục, trong số đó phải kể đến Benin, Botswana, Ghana, Senegal v.v...

Phần lớn các nước Châu Phi thành lập vào những năm 1960 sau quá trình

đấu tranh giành độc lập khó khăn. Vào thời điểm đó, nhiều nhà lãnh đạo châu

Phi đã chọn cơ chế kế hoạch hoá tập trung và kiểm soát kinh tế. Về mặt ý thức

hệ, họ xem có mối liên hệ mật thiết giữa chủ nghĩa tự bản tự do với chủ nghĩa

thực dân và chủ nghĩa đế quốc. Họ tin rằng, các nước châu Phi tuy đa dạng về

sắc tộc, tôn giáo song vẫn đạt được sự thống nhất chính trị là nhờ sức mạnh của

ý thức hệ xã hội chủ nghĩa (XHCN).

Bầu không khí học thuật ở châu Phi cũng bị chi phối bởi đường lối cánh tả

và chủ nghĩa nhà nước. Các học giả lớn của châu Phi như Sekou Toure, Leopold

Senghor, Kenneth Kaunda, Julius Nyerere và Franz Fanon đều xem rằng, quản lý

phục những thất bại của thị trường – nguyên nhân gây ra nạn nghèo khổ, ngu dốt

và dịch bệnh ở châu Phi. Từ năm 1960 đến đầu những năm 1980, có ít nhất 16

nước châu Phi Nam Sahara đã theo đuổi ý thức hệ xã hội chủ nghĩa (XHCN)

theo mô hình kế hoạch hoá và chủ nghĩa xã hội hiện thực có thể dùng để khắc

hoặc phát triển theo hướng XHCN (theo mô hình Xô Viết hay Trung Quốc) như

Angola, Benin, Burkina Faso (lúc đó là Upper Volta), Congo-Brazzaville,

Senegal, Sudan, Tanzania, Zambia và Zimbabwe. Ngoài ra, nhiều nước châu Phi

khác cũng chấp nhận đường lối phát triển theo mô hình Xô Viết mặc dù không

tuyên bố chính thức. Một số nước như Kenya mặc dù tiến hành cơ chế thị trường

trên thực tế song dưới khẩu hiệu chủ nghĩa xã hội.

Kết quả của thời kỳ theo đuổi mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung đã

dẫn đến những bất ổn, méo mó của nhiều nền kinh tế châu Phi. Khó khăn kinh tế

- xã hội nghiêm trọng vào đầu những năm 1980 đã buộc nhiều chính phủ châu

Phi phải cầu cứu các định chế tài chính của Hệ thống Bretton Woods, chấp nhận

những chương trình tự do hoá để đổi lại các khoản tín dụng cứu trợ. Quỹ Tiền tệ

quốc tế (IMF) đã thiết kế các Chương trình ổn định kinh tế vĩ mô ngắn hạn và

2

Ethiopia, Ghana, Guinea-Bissau, Guinea, Madagascar, Mali, Mozambique,

Ngân hàng thế giới (WB) thiết kế các chương trình cải cách cơ cấu (SAP) trong

trung hạn để chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường cho các nước châu Phi. Mô

hình kinh tế thị trường ngày càng có chỗ đứng vững chắc ở châu Phi kể từ những

năm 1990, sau khi chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu tan rã, kéo

theo sự sụp đổ của những nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung.

Trong gần bốn thập kỷ qua, với nhiều nỗ lực chuyển đổi sang nền kinh tế

thị trường, chỉ một số quốc gia châu Phi đã phát triển thành công, song có rất

nhiều quốc gia đã thất bại, đắm chìm trong đói nghèo và những nỗ lực cải cách

thể chế thậm chí lại đẩy đất nước vào những bất ổn không ngừng. Ngay cả khi

cộng đồng các nhà tài trợ và các tổ chức quốc tế đã cố gắng thiết kế và áp đặt

cho các nước châu Phi những gì được xem là “tập quán tốt nhất” trên thế giới

Với những vấn đề nêu trên, luận án “Cải cách thể chế kinh tế ở các nước châu

Phi và bài học kinh nghiệm” sẽ phân tích vấn đề cải cách thể chế kinh tế, tập

trung vào thể chế kinh tế thị trường ở các nước châu Phi, từ đó rút ra các kinh

song rất ít nước châu Phi đã phát triển kinh tế thành công theo cách thức này.

nghiệm cho tiến trình cải cách thể chế kinh tế thị trường ở các nước đang phát

triển nói chung và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay của

Việt Nam.

2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

Mục đích nghiên cứu

Luận án nghiên cứu vấn đề cải cách thể chế kinh tế thị trường của một số nước

châu Phi; đánh giá kết quả đạt được, làm rõ những kinh nghiệm thành công và thất

bại; từ đó rút ra một số gợi mở có giá trị tham khảo đối với tiến trình cải cách thể chế

kinh tế thị trường ở các nước đang phát triển nói chung, trong đó có tiến trình cải

cách thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Nhiệm vụ nghiên cứu

Với mục đích nghiên cứu trên, luận án sẽ tập trung chủ yếu vào giải quyết

các nhiệm vụ chính sau đây:

3

1. Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về cải cách thể chế kinh tế, trong

đó tập trung vào vấn đề cải cách thể chế kinh tế thị trường.

2. Phân tích khái quát quá trình cải cách thể chế kinh tế thị trường ở các

nước châu Phi; và đánh giá kết quả của quá trình cải cách này.

3. Phân tích, đánh giá sâu tiến trình cải cách thể chế kinh tế, chuyển đổi sang

nền kinh tế thị trường của một số nước châu Phi điển hình.

4. Rút ra các bài học kinh nghiệm trong tiến trình cải cách thể chế kinh tế thị

trường của các nước châu Phi và những gợi mở có giá trị tham khảo đối

với tiến trình cải cách thể chế kinh tế thị trường của các nước đang phát

triển, trong đó có Việt Nam.

3. Câu hỏi nghiên cứu

- Những nội dung chính của cải cách thể chế kinh tế thị trường ở các

nước châu Phi là gì?

- Có thể rút ra các kinh nghiệm gì từ việc nghiên cứu cải cách thể chế

- Tại sao các nước châu Phi cần chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường?

kinh tế thị trường của các nước châu Phi?

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài luận án

- Cải cách thể chế kinh tế, trọng tâm là cải cách thể chế kinh tế thị trường.

Phạm vi nghiên cứu:

- Về nội dung: tiến trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường tập trung

chủ yếu vào ba vấn đề: sở hữu, mở cửa nền kinh tế và tư nhân hoá. Đây cũng là

ba vấn đề nổi bật, phức tạp và kéo dài thường được nghiên cứu nhiều ở các nền

kinh tế chuyển đổi và là quá trình chuyển đổi thể chế kinh tế quan trọng nhất của

châu Phi kể từ những năm 1980 đến nay.

- Thời gian nghiên cứu tập trung vào giai đoạn kể từ thập niên 1980, khi

các nước châu Phi theo mô hình kế hoạch hóa tập trung tiến hành triển khai các

chương trình cơ cấu lại nền kinh tế (SAP) đến nay.

4

Đối tượng nghiên cứu:

- Nghiên cứu cải cách thể chế kinh tế thị trường ở khu vực châu Phi, chủ

yếu là châu Phi Nam Sahara.

- Nghiên cứu sâu tiến trình cải cách thể chế kinh tế của một số nước châu

Phi (Guinea xích đạo, Ghana và Tunisia).

5. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu

Cách tiếp cận

- Luận án quan niệm: thể chế là các luật chơi, theo nghĩa gồm các quy tắc,

quy định, chuẩn mực chi phối cách hành xử của các chủ thể trong xã hội.

cách thể chế kinh tế ở các nước châu Phi. Theo đó, thể chế kinh tế có nhiều cấu

- Luận án sử dụng cách tiếp cận hệ thống trong nghiên cứu vấn đề cải

chính, doanh nghiệp...). Luận án chỉ tập trung nghiên cứu cải cách một số thể

chế kinh tế cơ bản và quan trọng của các nước châu Phi.

- Các nghiên cứu về cải cách thể chế kinh tế ở các nước đang phát triển

hiện nay đều tập trung vào vấn đề cải cách thể chế kinh tế thị trường. Trên thực

phần khác nhau (ví dụ: liên quan đến sở hữu, giá cả, thương mại, đầu tư, tài

tế, nói đến cải cách thể chế kinh tế ở các nước đang phát triển, kém phát triển là

quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường hiện đại. Do vậy, luận án nghiên

cứu cải cách thể chế kinh tế thị trường ở các nước châu Phi, trong đó (Chương 3)

tập trung vào vấn đề chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường hiện đại ở những

nước này.

- Có nhiều yếu tố tác động đến cải cách thể chế kinh tế (như phần tổng

quan các nghiên cứu đã chỉ ra). Tuy nhiên luận án vận dụng dụng luận điểm của

Daron Acemoglu và cộng sự (về vai trò của cải cách thể chế chính trị) và luận

điểm của Ngân hàng thế giới (về vai trò của cải cách nền quản trị quốc gia) để

phân tích các yếu tố chính tác động đến cải cách thể chế kinh tế.

Phương pháp nghiên cứu

5

nói đến cải cách thể chế kinh tế thị trường mà bản chất và mục tiêu là hoàn thiện

- Phân tích trước sau: so sánh tiến trình cải cách thể chế kinh tế trước và

sau những dấu mốc quan trọng.

- Nghiên cứu trường hợp và so sánh các trường hợp nghiên cứu. Các

trường hợp nghiên cứu sâu ba nước là: Guinea xích đạo, Ghana và Tunisia.

Các trường hợp này được lựa chọn vì những lý do sau:

+ Guinea xích đạo: là một trong những nước tính theo GDP bình quân đầu

người đứng đầu châu Phi song lại vẫn được xếp vào nhóm các nước kém phát

triển (cho đến năm 2017). Các nỗ lực cải cách kinh tế ở nước này đã không tiến

xa được. Nguyên nhân cơ bản là chất lượng quản trị quốc gia thấp kém, chính

phủ độc đoán, tình trạng bất bình đẳng xã hội nghiêm trọng (do đó, GDP bình

quân đầu người không phản ánh đúng thực tế phát triển). Guinea xích đạo là ví

cải thiện nền quản trị quốc gia.

+ Ghana: là nước có trình độ phát triển trung bình ở châu Phi, cải cách thể

chế kinh tế thị trường ở nước này là ví dụ điển hình cho những nỗ lực xây dựng

mô hình nhà nước phát triển học tập theo các nước Đông Á. Về mô hình quản

dụ điển hình cho những thất bại trên cả phương diện cải cách thể chế kinh tế và

trị: Ghana thường được biết đến với mô hình “độc tài tốt”.

làn sóng dân chủ hoá “Mùa xuân Arab” bùng nổ khi các vấn đề xã hội không

được giải quyết thấu đáo khi nền kinh tế gặp khó khăn trong quá trình điều

chỉnh. Tunisia là ví dụ điển hình cho việc cải cách thể chế kinh tế không đi kèm

với cải thiện nền quản trị quốc gia đã dẫn đến sự kiện đấu tranh dân chủ khởi

đầu cho làn sóng Mùa xuân Arab.

Các trường hợp nghiên cứu này được lựa chọn để kiểm chứng các luận

điểm của Daron Acemoglu và cộng sự và luận điểm của Ngân hàng thế giới.

Nghiên cứu, so sánh các trường hợp nói trên sẽ đem đến một bước tranh sinh

động về mối quan hệ giữa cải cách thể chế kinh tế với môi trường chính trị và

môi trường quản trị quốc gia cùng với những yếu tố đặc thù của châu Phi (như:

lịch sử, tham nhũng, xã hội...)

6

+ Tunisia: là nước có trình độ phát triển trung bình, là ví dụ điển hình cho

- Để đánh giá chất lượng thể chế kinh tế thị trường, luận án sử dụng các

chỉ số sau:

+ Chỉ số thể chế của Báo cáo chỉ số cạnh tranh toàn cầu của WEF. Báo

cáo này chia trụ cột thể chế gồm 21 cấu phần, nhóm lại thành những thể chế của

khu vực công và thể chế của khu vực tư nhân.

Bảng 1.1: Các cấu phần của trụ cột thể chế trong chỉ sốcạnh tranh toàn cầu

Các thể chế khu vực công

Các thể chế khu vực

tư nhân

Quyền

Đạo đức và

Tác tác

Hoạt động của

An ninh

Trách nhiệm

Đạo

sở hữu

tham

động

khu vực công

giải trình

đức

nhũng

không

công

phù

ty

hợp

1.

3. phân bổ

6. độc

8.

lãng phí trong

13.

chi

phí

17.

18. sức mạnh

quyền

các nguồn

lập của

chi tiêu chính phủ

kinh doanh vì

hành

của

kiểm

sở hữu

quỹ

công

tư pháp

9. gánh nặng của

các hoạt động

xử có

toán và các

2. bảo

cộng

7.

các

các quy định của

khủng bố

đạo

chuẩn mực

hộ

sở

4. tin tưởng

quyết

chính phủ

14.

chi

phí

đức

báo cáo

hữu

trí

của

công

định

10. tính hiệu quả

kinh doanh vì

của

19. hiệu

lực

tuệ

chúng

đối

mang

của khung khổ

các hoạt động

các

của hội đồng

với các nhà

tính

pháp

trong

tội phạm và

công

quản trị công

chính trị

chất

giải quyết

tranh

bạo lực

ty

ty,

5.

các

thiên vị

chấp

15.

tội phạm

20. bảo vệ lợi

khoản

chi

của

11. hiệu quả của

có tổ chức

ích của các

trả

không

quan

khung khổ pháp

16. sự tin cậy

cổ đông nhỏ

thường

chức

lý trong việc xử

của lực lượng

21. bảo vệ

xuyên

chính

lý các quy định

công an

các nhà đầu

hối lộ

phủ

12.

sự minh

tư.

bạch

trong xây

dựng chính sách

của chính phủ

Nguồn: World Economic Forum. Global Competitiveness Report 2016-2017, Geneva,

Tr.39

7

+ Bộ chỉ số của Báo cáo Chỉ số môi trường kinh doanh (DB) của WB. Báo cáo

này đã đưa ra một bộ chỉ số gồm 10 yếu tố có tác động đến môi trường kinh

doanh gồm: khởi sự doanh nghiệp; giải quyết việc xin giấy phép xây dựng; xin

cấp điện; đăng ký tài sản; xin nhận tín dụng; mức độ bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư

nhỏ; gánh nặng thuế phải trả; hoạt động thương mại dọc & xuyên biên giới; mức

quy định về thị trường lao động song yếu tố này không được đưa vào để tính

điểm chung cho Chỉ số về môi trường kinh doanh).

độ thực thi các hợp đồng; và chấm dứt kinh doanh (Ngoài ra, còn có yếu tố các

+ Báo cáo Chỉ số tự do kinh tế của Quỹ Heritage. Báo cáo này đánh giá mức độ

tự do của một nền kinh tế theo bốn nhóm chỉ số sau: 1) Tinh thần thượng tôn

pháp luật (bảo đảm quyền sở hữu, không bị tham nhũng); 2) Hạn chế của chính

kinh doanh, tự do lao động, tự do về tiền tệ) và 4) Thị trường mở (tự do thương

mại, tự do đầu tư và tự do tài chính).

- Luận án sử dụng bộ chỉ số quản trị của Ngân hàng thế giới để đánh giá chất

lượng quản trị quốc gia. Bộ chỉ số này bao gồm 3 khía cạnh với 6 nhóm chỉ số:

phủ (tự do về tài khoá, chi tiêu của chính phủ); 3) Hiệu quả của quy định (tự do

1. Tiến trình các chính phủ được lựa chọn, giám sát và thay thế (được đo

lường bằng hai nhóm chỉ số: 1) tiếng nói và trách nhiệm giải trình; 2) ổn định

2. Năng lực của chính phủ trong việc xây dựng và thực thi các chính sách tốt

(được đo lường bằng 2 nhóm chỉ số: 3) hiệu lực của chính phủ; 4) chất lượng

của quy định)

3. Việc các công dân và nhà nước tôn trọng các thể chế điều chỉnh các quan

hệ kinh tế và xã hội giữa hai bên (được đo lường bằng 2 nhóm chỉ số: 5) công

bằng của luật pháp; và 6) kiểm soát tham nhũng.

- Nguồn dữ liệu được sử dụng là dữ liệu thứ cấp trong và ngoài nước. Nghiên

cứu cũng sử dụng bộ dữ liệu về chỉ số quản trị của Ngân hàng thế giới trong giai

đoạn kể từ năm 1996 cho đến thời điểm cập nhật nhất khi luận án hoàn thành để

đánh giá chất lượng của cải cách thể chế. Các nguồn dữ liệu khác được lấy từ cơ

sở dữ liệu Các chỉ số phát triển thế giới (WDI) của Ngân hàng thế giới. Ngoài ra,

8

chính trị và không có bạo lực)

luận án có thể tham khảo thêm các nguồn dữ liệu của một số tổ chức quốc tế

khác như IMF, ADB, AfDB, Heritage Foundation, WEF…về thể chế và quản trị

quốc gia.

6. Các đóng góp mới của luận án

Thứ nhất, luận án đã vận dụng những khuôn khổ lý thuyết mới (quan

điểm của Acemoglu và cộng sự về vai trò của cải cách thể chế chính trị và quan

điểm của Ngân hàng thế giới về vai trò của cải cách quản trị quốc gia) để phân

tích, đánh giá tiến trình và kết quả cải cách thể chế kinh tế ở châu Phi, từ đó làm

rõ hơn ý nghĩa khoa học và tính thực tiễn của các lý thuyết này.

cách thể chế kinh tế thị trường ở châu Phi, phân tích sâu thực trạng này ở các

Thứ hai, luận án đã cung cấp những phân tích, đánh giá về thực trạng cải

quốc gia (Guine xích đạo, Ghana và Tunisia) là những địa bàn ít được quan tâm

Thứ ba, luận án đã đưa ra những luận điểm khoa học mới khi nhận định,

phân tích kết quả và những nhân tố tác động đối với tiến trình cải cách thể chế

kinh tế ở châu Phi.

nghiên cứu, tìm hiểu.

Thứ tư, luận án đã có những đối chiếu, so sánh tiến trình cải cách thể chế

kinh tế ở châu Phi với một số khu vực khác trên thế giới; rút ra những gợi mở

Việt Nam.

mới về mặt chính sách đối với tiến trình cải cách thể chế kinh tế thị trường ở

7. Cấu trúc của luận án

Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận án được chia làm 5 chương gồm:

Chương 1: Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến luận án

Chương 2: Cơ sở lý luận và thực tiễn về cải cách thể chế kinh tế

Chương 3: Cải cách thể chế kinh tế ở châu Phi

Chương 4: Cải cách thể chế kinh tế ở Guinea xích đạo, Ghana và Tunisia

Chương 5: Bài học kinh nghiệm từ quá trình cải cách thể chế kinh tế thị

trường của các nước châu Phi

9

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN

QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1.1. Các nghiên cứu trên góc độ lý luận về thể chế và cải cách thể chế

Trong khoảng 10 - 15 năm trở lại đây, đã có một cuộc tranh luận bùng lên

trong giới kinh tế về những yếu tố sâu xa nhất của phát triển: vốn vật thể, vốn

con người, công nghệ, địa lý, văn hóa, thể chế...yếu tố nào căn bản hơn? Trong

cuộc tranh luận đó, một số người tiếp tục cho rằng: thể chế đóng vai trò quan

trọng hơn trong tăng trưởng và phát triển kinh tế; sự khác biệt về thể chế đã tạo

ra sự khác biệt giữa các xã hội về tốc độ tích lũy và "cải tiến".

đã được các nhà triết học như David Hume và kinh tế học như Adam Smith đề

cập trong cuộc thảo luận về chủ nghĩa trọng thương và vai trò của thị trường. Họ

cho rằng xã hội sẽ thành công về kinh tế khi có được thể chế kinh tế tốt. Những

thể chế tốt mà nền kinh tế tư bản chủ nghĩa đòi hỏi là pháp trị (rule of law), tư

Ý tưởng về sự phồn vinh của một xã hội phụ thuộc vào các thể chế kinh tế

hữu (private property) và tự do hợp đồng (freedom to contract). Họ phê phán

sự dựa dẫm vào hoạt động kinh tế nhà nước và các liên minh quyền lực) đối với

nền kinh tế (Smith, 1776 [2008]).

Vào những thập niên đầu tiên của thế kỷ 20, những phiên bản kinh tế học

thể chế (cũ) đã xuất hiện, chủ yếu phân tích các thể chế và phản bác các lý thuyết

kinh tế cổ điển với những học giả ở cả châu Âu và Mỹ như Gustav Schmoller,

Walton H. Hamilton, Thorstein Veblen, John Commons và Wesley Mitchel. Ví

dụ, John R. Commons (1931) đã đưa ra một quan niệm rằng nền kinh tế là một

mạng lưới các mối quan hệ giữa các cá nhân có những lợi ích khác nhau; tuy

nhiên, mọi người đều muốn giải quyết các tranh chấp và chính phủ là người cầm

trịch cần phải đóng vai trò hòa giải giữa các nhóm tranh chấp với nhau.

10

những hệ lụy của chủ nghĩa trọng thương (chủ nghĩa bảo hộ thương mại tuỳ ý và

Kinh tế học thể chế đương đại (kinh tế học thể chế mới) bắt đầu với công

trình của Ronald Coase (1960) về những hệ quả của chi phí giao dịch, tiếp đó là

những tác phẩm nổi tiếng của James Buchanan, Gordon Tullock và Mancur

Olson cùng những người theo trường phái “lựa chọn công” khác, của Douglass

North (1990) về vai trò quan trọng của các thể chế qua việc phân tích quá trình

phát triển kinh tế trong quá khứ, và William Vickery (1969) về hệ quả của việc

mọi người chỉ nắm được những tri thức hạn chế, bất đối xứng. Họ chỉ ra cách

thức mà qua đó cạnh tranh giữa các cộng đồng và các hệ thống pháp lý dẫn tới

sự tiến hoá của nhiều quy tắc thân thiện hơn với người dân và doanh nghiệp,

chẳng hạn như chính phủ hữu hạn, các quyền tài sản, quy trình chuẩn mực và

pháp trị.

chế là các luật lệ của cuộc chơi trong một xã hội, hay nói một cách chính thức,

là những ràng buộc mà con người soạn thảo ra giúp định hình sự tương tác của

con người.” Còn theo Ngân hàng thế giới (1998) thì thể chế là “các quy tắc

Douglass C. North (1990: 3) đưa ra định nghĩa “thể chế” như sau: “Thể

chính thức và phi chính thức và các cơ chế đảm bảo thi hành của chúng định

hình cách hành xử của các cá nhân và các tổ chức trong một xã hội.” Thực tế là

(Buchanan), 1991 (Coase), 1993 (North) và 1996 (Vickery) đã cho thấy hoạt

động nghiên cứu kinh tế học thể chế đang ngày càng tiến triển. Trong những

năm 1980 và 1990, kinh tế học thể chế đã trở thành một lĩnh vực nghiên cứu

năng động và rộng lớn, tập trung vào vai trò then chốt của các thể chế trong việc

thúc đẩy hoạt động kinh tế.

Tuy nhiên, sẽ là một chiều nếu chỉ nhìn thấy tác động của thể chế đối với

tăng trưởng và phát triển kinh tế mà không thấy theo chiều ngược lại. Trong suốt

nửa cuối thế kỷ 20, các học giả theo trường phái “hiện đại hóa” (modernization

theory) ở phương Tây đã nỗ lực chứng minh rằng các quốc gia hiện đại hóa trên

thế giới cuối cùng sẽ tụ lại theo một mô hình chính trị - kinh tế - xã hội chung,

11

việc các tác giả trên được trao giải Nobel Kinh tế năm 1974 (Hayek), 1986

và đó là mô hình dân chủ tự do của các nước tư bản phương Tây phát triển

(Rostow, 1961; 1962). Các lý thuyết hiện đại hóa cũng nói rằng khi một đất

nước đang có chế độ độc tài ngày càng phát triển thì cấu trúc xã hội trở nên phức

tạp hơn, quá trình sản xuất đòi hỏi những người lao động phải hợp tác, giới chủ

có quyền tự chủ nhiều hơn, xã hội có nhiều thông tin hơn và tạo điều kiện cho

các nhóm xã hội xuất hiện. Bối cảnh này khiến chính quyền độc tài mất dần khả

năng kiểm soát xã hội một cách hiệu quả. Càng ngày sẽ có càng nhiều tổ chức xã

hội dân sự nổi lên và chống lại chế độc tài khiến cho nó sụp đổ (Przeworski and

Limongi, 1997: 157). Như thế, trình độ phát triển cao hơn là điều kiện để thể chế

dân chủ xuất hiện (Lipset, 1959).

Trong tác phẩm nổi tiếng “Tại sao có quốc gia thất bại?: Nguồn gốc của

(2012) đã giải thích sự thành công cũng như sự thất bại của các quốc gia khác

nhau rằng: Quốc gia phát triển lên nếu như nó xây dựng được những thể chế

kinh tế và chính trị “bao trùm”; quốc gia thất bại khi các thể chế trở thành “loại

trừ”, tập trung quyền lực và cơ hội vào tay một nhóm nhỏ. Thể chế kinh tế bao

quyền lực, thịnh vượng và nghèo đói”, Daron Acemoglu và James Robinson

trùm hỗ trợ cho thể chế chính trị bao trùm - một thể chế ủng hộ những quyết

tay một nhóm người để hỗ trợ cho việc duy trì thể chế kinh tế loại trừ.

Daron Acemoglu, Simon Johnson và James Robinson (2005) nêu rằng:

Các cá nhân có quyền lực chính trị không thể cam kết rằng họ sẽ không sử dụng

quyền lực của mình để phục vụ lợi ích của mình tốt nhất. Nói một cách khác, họ

có thể sử dụng quyền lực chính trị của mình để xây dựng và duy trì một hệ thống

thể chế kém hiệu quả hoặc không tối ưu theo nghĩa không tạo ra lợi ích tổng thể

lớn nhất cho xã hội song lại đem lại lợi ích lớn nhất cho chính họ. Với một hệ

thống thể chế tồi, vốn chỉ nhằm tạo ra lợi ích cá nhân cho thành phần tinh túy,

bất chấp việc phần lớn hơn xã hội sẽ nghèo đi thì những cải cách sẽ khó khả thi

hoặc có thể chỉ được tiến hành nửa vời. Nếu các nhóm người có quyền lực chính

trị thực tế làm "điều đúng" như tiến hành cải cách, có thể họ sẽ mất đi đặc quyền

12

sách đổi mới và sáng tạo. Ngược lại, thể chế chính trị loại trừ dồn quyền lực vào

đặc lợi. Những mô hình phát triển lạc hậu vẫn tiếp tục tồn tại hoặc thay đổi rất chậm

chỉ vì các lực lượng chính trị đầy sức mạnh tại các quốc gia nghèo khó này muốn

duy trì nó như thế để bảo vệ lợi ích của mình (Acemoglu và Robinson, 2012).

Trong những năm gần đây, xu hướng quá nhấn mạnh vào tác động của thể

chế đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế dường như đã trở thành quan điểm

mang tính áp đặt của các nước phương Tây và các tổ chức quốc tế trong nỗ lực

thúc đẩy cải cách ở các nước nghèo. Tách ra khỏi xu hướng này, một số nghiên cứu

cho rằng, có mối quan hệ nhân quả giữa một số cấu phần của phát triển đối với chất

lượng của thể chế. Ví dụ, José Antonio Alonso và Carlos Garcimartín (2009) cho

rằng trình độ phát triển (thể hiện qua các yếu tố như thu nhập bình quân đầu người,

trình độ học vấn, mức độ phân phối thu nhập) có tác động đến chất lượng thể chế

Kể từ đầu những năm 1990, những nghiên cứu mới về vai trò của thể chế

đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế đã đưa ra hàng loạt tiêu chí khác nhau

để đánh giá chất lượng thể chế. Điển hình trong số này, nghiên cứu của Stephen

Knack và Philip Keefer (1995) cho rằng chất lượng của thể chế có thể được đánh

(đo lường bởi bộ chỉ số Quản trị quốc gia của Ngân hàng thế giới).

giá qua các tiêu chí như: i) sự đảm bảo đối với quyền sở hữu tài sản; và ii) mức

(1998) lại đo lường chất lượng của thể chế qua các tiêu chí như: i) mức độ hiệu

quả của bộ máy hành chính; ii) mức độ tham nhũng; iii) mức độ bảo đảm quyền

sở hữu; và iv) công bằng của pháp luật.

Như vậy, nhìn chung các nghiên cứu đã cho thấy mối quan hệ hai chiều

giữa thể chế và phát triển kinh tế: một hệ thống thể chế tốt thường đi kèm với

một nền kinh tế phát triển cao; tuy nhiên, vẫn cần những bằng chứng thực tế để

khẳng định rằng, cái nào là nguyên nhân của cái nào.

độ đảm bảo thực thi hợp đồng. Trong khi đó, nghiên cứu của Alberto Alesina

1.2. Các nghiên cứu về thể chế và cải cách thể chế kinh tế ở châu Phi

Cải cách thể chế là tâm điểm của nhiều nghiên cứu của các tổ chức phát

triển quốc tế về các tiến trình cải cách ở châu Phi. Trong hai thập kỷ qua, các

nghiên cứu của Ngân hàng thế giới (1993, 1997, 2000) đã tập trung nhấn mạnh

13

vai trò của cải cách thể chế và quản trị, coi đó là yếu tố then chốt đối với sự phát

triển của châu Phi. Ủy ban kinh tế châu Phi của Liên hợp quốc (2003) cũng đã

tiến hành một số nghiên cứu bài bản về tiến trình cải cách thể chế trong khu vực

song tập trung chủ yếu vào khía cạnh quản lý khu vực công. Ngoài ra, một số tổ

chức khác như Quỹ tiền tệ quốc tế (2001), Chương trình phát triển Liên hợp

quốc (1997), Ngân hàng phát triển châu Phi (1999) cũng tiến hành nhiều nghiên

cứu về cải cách thể chế ở châu Phi.

Các nghiên cứu đã chỉ ra nhiều yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng thể chế

của châu Phi. Easterly và Levine (2003) lập luận rằng, chất lượng thể chế cũng

có thể bị ảnh hưởng bởi các điều kiện địa lý. Vị trí đất nước trong vùng nhiệt

đới, thiếu tiếp cận với biển hoặc độ phì nhiêu của đất có thể ảnh hưởng đến sự

nhiều quốc gia không có biển và nằm trong vùng nóng xích đạo. Châu Phi là một

châu lục có nhiều tài nguyên, nhưng nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng chính đây

lại là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng thể chế và do đó,

phát triển của thể chế mạnh. Đây là điều rất phổ biến ở lục địa châu Phi nơi có

trình độ phát triển của châu lục này. Sachs và Warner (1997), Easterly và Levine

(2003) tập trung nghiên cứu sự sẵn có của tài nguyên thiên nhiên và lập luận

lượng thể chế do điều này thúc đẩy các hoạt động khai thác tài nguyên và thay

các khoản thu thuế bởi các nguồn thu khác ít minh bạch hơn và ít chịu trách

nhiệm hơn. Về yếu tố lịch sử, châu Phi cũng bị xem là có nhiều hạn chế trong

việc thúc đẩy một hệ thống thể chế tốt. Việc buôn bán nô lệ và hệ thống thuộc

địa đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng thể chế. Đây là nguyên nhân gây

ra tình trạng di dân, không quốc tịch gây mất ổn định chính trị lâu dài, dẫn đến

suy yếu và bị chia cắt (Acemoglu và các cộng sự, 2001).

Từ những năm 1960, sau khi giành được độc lập, nhiều nước kém phát

triển ở châu Phi đã theo đuổi các chính sách can thiệp vào nền kinh tế, thực hiện

chiến lược phát triển công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu (ISI). Điều này đã

14

rằng tài nguyên thiên nhiên phong phú như dầu thô ảnh hưởng tiêu cực đến chất

dựng lên các rào cản đối với việc nhập khẩu hàng hóa nước ngoài. Kết quả là

vào cuối những năm 1970, nhiều nền kinh tế châu Phi đã bị biến dạng mạnh mẽ

do các chính sách can thiệp (Mensah, 2006; Aman và cộng sự, 2006).

Phân tích nguyên nhân và lịch sử cải cách thể chế kinh tế ở châu Phi,

nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, từ những năm 1960, sau khi giành được độc lập,

nhiều nước kém phát triển ở châu Phi đã theo đuổi các chính sách can thiệp vào

nền kinh tế, thực hiện chiến lược phát triển công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu.

Điều này đã dựng lên các rào cản đối với việc nhập khẩu hàng hóa nước ngoài.

Kết quả là, vào cuối những năm 1970, nhiều nền kinh tế châu Phi đã bị biến

dạng do các chính sách can thiệp (Mensah, 2006; Aman và cộng sự, 2006).

châu Phi. Tiêu biểu trong số đó là: Kế hoạch hành động Lagos năm 1980;

Chương trình ưu tiên kinh tế châu Phi 1986 – 1990 được Tổ chức Thống nhất

Châu Phi (OAU) thông qua năm 1985; Chương trình Liên hợp quốc bổ sung vì

sự phát triển của Châu Phi; Ủy ban kinh tế châu Phi (ECA).Ở cấp độ thực thi

Có nhiều nghiên cứu đã phân tích các sáng kiến cải cách và phát triển của

chính sách của các chính phủ, IMF và Ngân hàng Thế giới đã tài trợ cho các

với các nền kinh tế Châu Phi. Gần đây hơn, châu Phi đã triển khai sáng kiến

Quan hệ đối tác mới cho Phát triển Châu Phi (NEPAD) được thông qua vào

tháng 10 năm 2001 bởi các nguyên thủ quốc gia và chính phủ châu Phi; Cơ chế

đánh giá ngang hàng châu Phi (APRM) năm 2003 nhằm giải quyết vấn đề quản

trị của các quốc gia thành viên Liên minh châu Phi (AU). Ở một mức độ nào đó,

APRM đã gián tiếp gây áp lực cho các nước châu Phi để thực hiện quá trình phát

triển với các thể chế tốt. Nhìn chung, các nghiên cứu đều cho rằng, châu Phi bắt

đầu thực hiện các biện pháp cải cách thị trường trong điều kiện thiếu vắng những

cấu trúc và nền tảng thị trường cơ bản. Tuy nhiên, cải cách thị trường lại là điều

kiện cần thiết để vay vốn từ các tổ chức quốc tế (WB, 1989).

15

chương trình điều chỉnh cấu trúc (SAP) mang lại những tác động sâu rộng đối

Các nghiên cứu cũng đã phân tích và chỉ ra nhiều vấn đề trong việc nhất

quán thực thi các chính sách cải cách kinh tế của châu Phi. Phần lớn các cuộc cải

cách kinh tế ở châu Phi đều do bên ngoài thúc đẩy song cũng chính vì thế nhiều

chính phủ châu Phi không có một cam kết chắc chắn đối với cải cách kinh tế.

Các cam kết của chính phủ đa phần là lời hứa suông để đảm bảo rằng đất nước

của họ, thậm chí là chế độ của họ, vẫn tiếp tục nhận được các khoản tín dụng,

các khoản tài trợ ưu đãi. Tổng thống Mobutu Sese Seko của Cộng hoà dân chủ

Công gô đã rất thành thạo trong đàm phán thỏa thuận với IMF và Ngân hàng Thế

giới, mặc dù rõ ràng là ông không có bất kỳ ý định làm theo yêu cầu của các tổ

chức này (Leslie, 1987).

Nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới đã cho thấy một khoảng cách lớn

quốc gia điều chỉnh cơ cấu [ở Châu Phi] chỉ điều chỉnh tên gọi” (Mosley và

Weeks, 1993, trang 1590). Một số chính phủ thực tế chỉ thực hiện một nửa hoặc

thậm chí ít hơn những thay đổi chính sách theo các cam kết ban đầu để nhận

giữa các biện pháp và thực tế cải cách kinh tế ở châu Phi và kết luận rằng, “nhiều

khoản vay (Mosley và cộng sự, 1991, Chương 5). Những chính phủ khác ban

đầu thực hiện thỏa thuận nhưng sau đó đã đảo ngược chính sách (Zambia đại

Nigeria đã thực hiện những biện pháp khôn khéo hơn như lúc ban đầu đồng ý

với những điều kiện, nhưng sau đó lại vô hiệu hóa của những cải cách này bằng

các biện pháp khác (ví dụ: ban đầu đóng băng tiền lương của công chức, nhưng

sau đó lại tìm cách để nhiều công chức được trả lương cao hơn).

Ngay cả Tanzania, một quốc gia được coi có kỷ cương, kỷ luật lãnh đạo ở

châu Phi cũng bị coi là: chủ nghĩa phong kiến quan liêu (Munishi, 1989, trang

153-167). Chủ nghĩa này được thể hiện qua mối quan hệ mua –bán trong hệ

thống chính trị: nhà lãnh đạo bảo trợ và đảm bảo vị trí cho những người thân tín

để đánh đổi sự trung thành của họ; các phe phái trong hệ thống chính trị chỉ quan

tâm đến lợi ích của các thành viên mà không quan tâm nhiều đến các cuộc cải

16

diện cho trường hợp cực đoan nhất ở châu Phi). Các chính phủ Zaire, Kenya và

cách kinh tế có thể mang lại nhiều lợi ích cho công chúng (Munishi, 1989, trang

166). Hệ thống thể chế của Kenya rơi vào tình trạng mắc hội chứng quan liêu

tương tự. Các dịch vụ công cộng hoạt động khá hiệu quả trong những năm 1960

và 1970. Tuy nhiên, vào những năm 1980, một thế hệ công chức mới xuất hiện

thay thế thế hệ công chức đầu tiên là những người được đào tạo tốt đã tiến hành

chuyển đổi các dịch vụ công phù hợp với cơ chế vận hành của một mô hình

mang tính bảo trợ (Cohen, 1993, tr. 456). Tại Ghana, những thành công trong

tiến trình phát triển lại nhờ vào việc áp dụng một mô hình độc đoán, áp đặt từ

trên xuống và phụ thuộc vào sự đàn áp và vi phạm nhân quyền dưới thời lãnh tụ

Rawlings (Jeffries, 1991, trang 165). Kinh nghiệm của Ghana cho thấy, một lãnh

đạo chuyên quyền và chính phủ yếu kém sẽ khó thể thúc đẩy các cuộc cải cách

Tiến trình cải cách thể chế ở các quốc gia châu Phi cũng được nghiên cứu

đánh giá dưới các góc độ khác nhau. Ví dụ, dưới góc độ kinh tế chính trị,

Bigsten, A. and S. Kayizzi-Mugerwa (2000) đã giải thích sự thất bại của chính

kinh tế (Tangri, 1992).

sách ở Zambia; Coolidge, J. và S. Rose-Ackerman (1997) đã phân tích về vấn đề

địa tô và tham nhũng trong giới lãnh đạo cấp cao ở một số nước châu Phi. Khi

năm, Lienert, I. và J. Modi (1997) cùng với Lienert, I. (1998) đã cho thấy rằng

các kết quả đạt được là không rõ ràng: có một số quốc gia thành công song cũng

có nhiều quốc gia thất bại. Nổi bật trong số nghiên cứu này, trong bài viết “Tại

sao châu Phi lại nghèo?” Daron Acemoglu và James Robinson (2010) cho rằng

nguyên nhân chủ yếu là do hệ thống thể chế chính trị và kinh tế không phù hợp.

Hệ thống thể chế hiện nay của một số nước châu Phi vẫn bị ràng buộc bởi những

yếu tố thể chế tàn dư của lịch sử vốn không phù hợp nên đã cản trở sự phát triển

đi lên của những quốc gia này. Cũng trả lời câu hỏi tương tự, theo Greg Mill

(2010), nguyên nhân là những quyết định sai lầm và yếu kém của các nhà lãnh

đạo châu Phi và môi trường thể chế gắn liền với lợi ích cá nhân, tạo điều kiện

17

nhìn lại tiến trình cải cách hệ thống hành chính của các nước châu Phi sau 10

cho tham nhũng; đồng thời kêu gọi các quốc gia châu Phi cần phải tiến hành tự

do hoá kinh tế.

Bên cạnh những mô hình thể chế được coi là thất bại, Daron Acemoglu,

Simon Johnson và James Robinson (2001) cũng chỉ ra những mô hình thể chế

thành công, điển hình là trường hợp của Botswana. Đây là quốc gia châu Phi duy

trì được tốc độ tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người cao nhất thế giới trong

suốt hơn 3 thập kỷ mặc dù có những điều kiện phát triển không mấy thuận lợi.

Botswana đã có những lựa chọn chính sách kinh tế tốt nhờ có một hệ thống thể

chế tốt, đặc biệt là sở hữu tư nhân. Tuy nhiên, các tác giả cũng nhận định, trường

hợp thành công của Botswana ở châu Phi không nhiều. Các thể chế thời trước

thuộc địa của Botswana mang tính tương đối bao trùm. Ảnh hưởng của chế độ

một nước giàu kim cương, mang lại nguồn thu lớn, khiến cho không một nhóm

lợi ích nào mong muốn thay đổi nguyên trạng. Cuối cùng, sự thành công của

Botswana còn là nhờ quyết sách đúng đắn của các thế hệ lãnh đạo quốc gia này

sau khi giành được độc lập.

thuộc địa đối với các thể chế này ở Botswana không nhiều. Botswana cũng là

Các nghiên cứu khác cũng chỉ ra mối quan hệ giữa thể chế và kết quả phát

cách kinh tế ở châu Phi (van de Walle, 1999; Stein, 1994). Van de Walle (1999)

cho rằng, làn sóng dân chủ hoá ở châu Phi trong đầu thập niên 1990 sẽ ảnh

hưởng không nhiều đến các chương trình cải cách kinh tế. Đây là kết quả của

việc các thể chế chính trị dân chủ ở châu Phi có động cơ tích cực và tiếp tục có

khả năng xử lý các vấn đề kinh tế bức xúc, duy trì cải cách chính sách kinh tế vĩ

mô. Nhìn dưới ba góc độ của thể chế là mô hình điều chỉnh cơ cấu, kinh tế học

thể chế mới và lý thuyết thể chế cũ, Howard Stein (1994) phân tích cải cách kinh

tế ở châu Phi trên các mặt: quyền tài sản, thể chế tài chính và tiền tệ, giá cả và thị

trường, doanh nghiệp và các tổ chức công nghiệp, thị trường và nhà nước. Tác

giả cho rằng, cải cách thị trường ở châu Phi cần tuân theo đơn thuốc của trường

phái kinh tế học thể chế cũ.

18

triển kinh tế, cũng như giữa cải cách thể chế, nhất là thể chế chính trị, với cải

Ngoài ra, nhiều nghiên cứu đã đánh giá kết quả của quá trình chuyển đổi

sang cơ chế thị trường thông qua các chương trình cải cách cơ cấu (SAP) ở châu

Phi, với nhiều quan điểm khác nhau, gồm cả ủng hộ lẫn phản đối. Chương trình

SAP tập trung vào một số khía cạnh chủ chốt như: mở cửa nền kinh tế, tư nhân

hóa, tự do hóa tài chính, cắt giảm trợ cấp...(Makalou, 1999; Nellis, 2005; Buchs,

2003; White và Bhatia, 1998). Những người ủng hộ SAP cho rằng, có thể SAP

chưa mang lại kết quả như mong muốn nhưng cũng đã giúp nhiều nước châu Phi

cải cách và vượt qua được những thời điểm khó khăn nhất. Những ý kiến phản

đối cho rằng, SAP được thiết kế bởi phương Tây chứ không phải bởi châu Phi.

SAP không do các nước châu Phi “sở hữu”, kiểm soát và điều hành. SAP còn

ôm đồm quá nhiều thứ, chỉ tính đến những mục tiêu ngắn hạn, thiếu các mục tiêu

“bẫy đói nghèo” (Dollar và Kraay, 2002; Manuel, Bloom, Chapellier và Saigal,

2002). Về khía cạnh xã hội, một số nghiên cứu chỉ ra rằng, quá trình tự do hóa

kinh tế ở châu Phi tác động mạnh đến những người lao động là công nhân và

phát triển dài hạn và cuối cùng không hiệu quả bởi châu Phi vẫn chưa thoát khỏi

nông dân thu nhập thấp. Do nền kinh tế - xã hội ở trình độ phát triển thấp, nông

dân và công nhân thành thị thực tế vẫn là một tầng lớp như nhau ở Châu Phi và

và giá cả leo thang hàng ngày do lạm phát (Bangura và Gibbon, 1992).

Vẫn còn nhiều thảo luận trong giải thích hiệu quả tăng trưởng kinh tế của

Châu Phi (Heidhues, 2009). Nhìn chung, kết quả tăng trưởng của Châu Phi chưa

đáp ứng yêu cầu của tiến trình xóa đói, giảm nghèo và phát triển bền vững. Một

số quốc gia châu Phi Nam Sahara đã triển khai các cuộc cải cách kinh tế khá sâu

rộng, kèm theo đó là những nỗ lực lớn để xây dựng một nền quản trị tốt nhằm

bảo vệ những thành công gặt hái được trong cải cách kinh tế. Điển hình trong số

này là các nước như: Tanzania, Rwanda và Ethiopia – những nền kinh tế đạt

được tốc độ tăng trưởng nhanh nhất châu Phi dù không có nhiều hàng hóa và tài

nguyên thiên nhiên như dầu khí. Thay vào đó, tốc độ tăng trưởng nhanh của

19

họ chịu những rủi ro như nhau về tình trạng mất việc làm, mất đất nông nghiệp

những nước này có được là do cải cách cơ cấu và quản lý kinh tế vĩ mô tốt hơn

(Collier, 2007).

Tiến trình cải cách thể chế kinh tế của một số quốc gia châu Phi cũng

nhận được nhiều mối quan tâm nghiên cứu. Nam Phi là nền kinh tế thị trường

lâu đời và phát triển của châu Phi. Tuy nhiên, đất nước này cũng đã từng trải qua

những biến động to lớn cả về chính trị, xã hội và kéo theo đó là những hệ quả về

kinh tế. Đầu thập niên 1990, chính phủ dân chủ đầu tiên của Nam Phi phải đối

mặt với những nhiệm vụ chính trị và xã hội to lớn khi phải biến Nam Phi từ một

quốc gia phân biệt chủng tộc với một hệ thống thể chế kinh tế và chính trị “loại

trừ” trở thành một xã hội dựa trên sự gắn kết. Những thách thức kinh tế cũng nan

giải không kém. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra những khó khăn vào thời điểm

ngắn hạn, những điểm yếu về cấu trúc dài hạn và di sản suy giảm tăng trưởng

kinh tế kéo dài. Bên cạnh đó là những khó khăn về hậu quả của đợt hạn hán

nghiêm trọng năm 1992, suy giảm kinh tế toàn cầu, xung đột chính trị, bất ổn vĩ

chuyển đổi này, như: môi trường kinh tế bấp bênh, kèm theo những khủng hoảng

mô (Naidoo, 2007).

Nghiên cứu của Brahim Mansouri (2017) phân tích tiến trình cải cách thể

mô và cải cách cơ cấu ban đầu được thực hiện trong giai đoạn 1983-1993; ii)

củng cố cải cách cơ cấu, chủ yếu là tư nhân hóa và cải cách khu vực tài chính,

trong giai đoạn 1993-1998, cho đến khi xuất hiện một "thay đổi chính phủ đồng

thuận" vào năm 1998. Giai đoạn này cũng được đặc trưng bởi việc ký thỏa thuận

hợp tác với Liên minh châu Âu và tuyên bố thành lập một khu vực thương mại

tự do Euro-Ma-rốc vào năm 2010; iii) giai đoạn 1998-2004, được đặc trưng bởi

sự củng cố của giai đoạn cải cách thứ hai, cụ thể là cải cách chính trị, thể chế và

xã hội. Thời kỳ này cũng được đặc trưng bởi sự gia nhập của phe đối lập chính

trị vào tháng 3 năm 1998 và sự lên ngôi của vua Mohamed VI vào tháng 7 năm

1999 sau cái chết của vua cha Hassan II. Đối với mỗi giai đoạn cải cách, nghiên

20

chế kinh tế và chính trị của Marốc theo ba giai đoạn chính: i) ổn định kinh tế vĩ

cứu phân tích nguyên nhân, các yếu tố hình thành, các bên liên quan và nhóm lợi

ích và kết quả cải cách.

Nghiên cứu của Rafael Bustos (2003) chỉ ra rằng, trái ngược với các

nghiên cứu phổ biến, trường hợp của Algeria cho thấy rằng không có mối liên hệ

tích cực nào tồn tại giữa tự do hóa kinh tế và dân chủ hóa. Qua nghiên cứu hai

giai đoạn, tác giả chứng minh rằng, trong giai đoạn 1988 - 1992, dân chủ hóa rõ

ràng là công cụ để tiến hành tự do hóa ở Algeria và điều này đã để lại những hệ

quả tiêu cực cho cả hai tiến trình cải cách. Đối với giai đoạn 1994 - 1999, tự do

hóa kinh tế và dân chủ hóa là các chiến lược bổ sung nhằm giữ gìn chế độ. Mặc

dù chính phủ Algeria đã thành công trong mục tiêu này, nhưng lại không nhất

quán thực hiện các chiến lược cải cách.

cách dân chủ, nền kinh tế Tunisia rơi vào tình trạng suy giảm và đứng trước nhiều

thách thức, khó khăn, như: thất nghiệp cao, nhu cầu công bằng xã hội không được

đáp ứng, tham nhũng gia tăng và quỹ đạo kinh tế vĩ mô không bền vững, tất cả đều

Nghiên cứu của Sáng kiến cải cách Ả rập (2009) đánh giá, sau quá trình cải

đe dọa những lợi ích chính trị gần đây. Nghiên cứu này cho rằng, trong những năm

đầu tiên chuyển sang nền dân chủ, Tunisia chủ yếu tập trung vào việc giải quyết các

bằng những thất bại về kinh tế. Do đó, một trong những thách thức chính trong giai

đoạn tới sẽ chủ yếu là kinh tế. Thất nghiệp cao, nhu cầu công bằng xã hội không

được đáp ứng, tham nhũng gia tăng và quỹ đạo kinh tế vĩ mô không bền vững đều

đe dọa làm đảo lộn những lợi ích chính trị.

Đặc biệt, các nghiên cứu của những tổ chức quốc tế như Ngân hàng thế

giới đã rất chú trọng phân tích khía cạnh quản trị ở châu Phi. Nghiên cứu “Châu

Phi nam Sahara: từ khủng hoảng cho đến tăng trưởng bền vững” năm 1989 của

WB nhấn mạnh, quản trị là một nội dung quan trọng của cải cách thể chế và gắn

liền với một khu vực công hiệu quả hơn ở các nước châu Phi nam Sahara. Các

chính sách cải cách kinh tế theo hướng thị trường ở châu Phi không thành công

21

thách thức chính trị. Tuy nhiên, những lợi ích trên mặt trận chính trị phải trả giá

vì thiếu hụt các nền tảng thể chế quản trị cơ bản. Do quyền lực không được kiểm

soát, các quan chức chính phủ có thể trục lợi mà không phải giải trình. Các cá

nhân bảo vệ mình không phải bằng pháp luật mà bằng nỗ lực xây dựng các mối

quan hệ cá nhân, do đó hình thành các quan hệ bảo kê quyền lực (WB, 1989).

Tại Việt Nam, cải cách thể chế trở thành một chủ đề nóng bỏng trong các

cuộc tranh luận học thuật và các nghiên cứu gắn liền với vấn đề cơ cấu lại nền

kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Tuy nhiên, các nghiên cứu về cải

cách thể chế ở châu Phi của Việt Nam không nhiều. Một số khía cạnh cải cách

thể chế gồm cải cách hệ thống chính trị, tiến trình dân chủ hóa, hệ thống bầu cử,

cải cách doanh nghiệp nhà nước, v.v… mới được đề cập đến trong một số tác

phẩm gần đây như “Châu Phi: Những đặc điểm chính trị chủ yếu hiện nay” của

và sự kiện nổi bật” của các tác giả Đỗ Đức Định và Nguyễn Thanh Hiền (2009);

“Cẩm nang các nước Châu Phi” của các tác giả Đỗ Đức Định và Giang Thiệu

Thanh (2010); “Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu và những vấn đề của Châu

Nguyễn Thanh Hiền (2009); “Châu Phi và Trung Đông năm 2008: những vấn đề

Phi”của Bùi Nhật Quang (2009) và “Hợp tác quốc tế giải quyết các vấn đề mang

tính toàn cầu của châu Phi” của Nguyễn Thanh Hiền (2008). Ngoài ra, các

trong hệ thống các chuyên đề và đề tài của Viện Nghiên cứu Châu Phi và Trung

Đông trong 10 năm qua (Bùi Nhật Quang, 2011; Kiều Thanh Nga, 2012).

Trong một số nghiên cứu gần đây, vấn đề về thể chế đã nhận được sự

quan tâm nghiên cứu. Ví dụ, trong bài viết “Các yếu tố ảnh hưởng đến chất

lượng quản trị ở một số nước châu Phi”, các tác giả Nguyễn Mạnh Hùng, Phạm

Anh Tuấn, Bùi Khắc Linh (2016) cho rằng, trong nhiều thập kỷ qua, mặc dù có

nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và lực lượng lao động dồi dào, châu Phi

vẫn là một châu lục kém phát triển nhất của thế giới. Các nước châu Phi đã nỗ

lực cải cách nền quản trị quốc gia của mình để có thể phát triển xa hơn nữa song

chỉ có một số nước đạt được thành công trong khi nhiều nước khác đã thất bại và

22

nghiên cứu về cải cách thể chế và phát triển của châu Phi cũng được nghiên cứu

tiếp tục bị cuốn vào tình trạng bất ổn không ngừng. Các tác giả đã chỉ ra những

nhân tố tác động đến chất lượng quản trị quốc gia ở châu Phi như trình độ phát

triển kinh tế, sự phát triển của giáo dục, độ mở thương mại, mức độ truy cập

internet và cả yếu tố lịch sử là quốc gia đó đã từng là thuộc địa của nước nào.

Kết quả nghiên cứu này cũng phù hợp với các nghiên cứu khác khi cho rằng

“trình độ phát triển” đóng vai trò tiên quyết, là cơ sở nguồn lực quan trọng để

xây dựng một thể chế và nền quản trị tốt (Chong và Zanforlinm, 2000; Islam và

Montenegro, 2002; Rigobon và Rodrik, 2004). Kết luận ảnh hưởng tích cực của

“trình độ giáo dục” đến chất lượng thể chế cũng phù hợp với nghiên cứu của A.

Alesina và R. Perotti (1996) và P. Evans và P. Rauch (2000) khi chứng minh

được mối quan hệ thuận giữa hai biến số này.

Nguyên nhân thành công và thất bại”, tác giả Nguyễn Mạnh Hùng (2015) đã

đánh giá môi trường quản trị của các nước châu Phi và cho rằng, cái vòng luẩn

quẩn giữa sự yếu kém của thể chế và sự thất bại của phát triển là ví dụ điển hình

Trong bài viết “Thể chế, quản trị và phát triển của các nước châu Phi –

của nhiều nước châu Phi. Nhìn lại vấn đề cải cách thể chế và tình hình phát triển

kinh tế ở một số nước Bắc Phi - Trung Đông sau 5 năm Mùa xuân Arab, các tác

với những thay đổi chể chế mà nó tạo ra chưa cho thấy một tương lai phát triển

tươi sáng hơn ở nhiều nước Bắc Phi - Trung Đông khi mà cuộc sống của đông

đảo người dân chưa được cải thiện. Thực tế đã cho thấy, chỉ tập trung vào cải

cách chính trị thôi là chưa đủ. Cải cách thể chế chính trị cần song hành với cải

cách kinh tế để một quốc gia có thể phát triển bền vững và để những thành quả

của cải cách thể chế có tính chất "bao trùm" và công cuộc cải cách tiếp tục nhận

được sự ủng hộ của đông đảo người dân. Nếu các thể chế mới được tạo ra nhất

quán với nhau thì sẽ tạo ra sự tin tưởng giữa mọi người, qua đó tạo ra sự ổn định

và phối hợp trong cộng đồng vì lợi ích phát triển chung. Ngoài ra, vấn đề cải

cách thể chế ở châu Phi còn được đề cập đến trong mối quan hệ so sánh với các

23

giả Nguyễn Mạnh Hùng và Hồ Khánh Duy (2016) cho rằng, “Mùa xuân Ả rập”

châu lục khác. Ví dụ, trong bài viết “Cải cách thể chế kinh tế ở các nước Á - Phi

qua một số công trình nghiên cứu”, tác giả Phạm Quốc Cường (2016) đã tổng

thuật các nghiên cứu liên quan đến mối quan hệ giữa chất lượng thể chế và tăng

trưởng kinh tế, đồng thời đánh giá mối quan hệ này qua những công trình nghiên

cứu liên quan đến châu Á và châu Phi.

1.3. Đánh giá các công trình nghiên cứu liên quan và hướng nghiên cứu của

luận án

Đến nay đã có nhiều nghiên cứu phân tích về cải cách thể chế của các

nước châu Phi, trong đó một số nghiên cứu đã tập trung phân tích, đánh giá sâu

khía cạnh chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường của các nước này. Nhìn chung,

các nghiên cứu này có quan điểm khá đồng thuận về sự tương thích giữa thể chế

ở những quốc gia có tăng trưởng và phát triển kinh tế. Nhiều nghiên cứu cho

rằng: thể chế tốt là nguyên nhân dẫn đến tăng trưởng kinh tế ở châu Phi, bởi vậy,

châu Phi cần cải cách thể chế kinh tế để phát triển. Tuy nhiên, các nghiên cứu

với tăng trưởng và phát triển kinh tế ở châu Phi: các thể chế tốt thường xuất hiện

hiện nay vẫn còn có nhiều khoảng trống:

Thứ nhất, khi đi sâu vào đánh giá kết quả của các nỗ lực cải cách thể chế

ủng hộ các chương trình chuyển đổi cơ cấu (SAP) cho rằng, có thể chúng chưa

thực sự thành công nhưng cũng đã giúp nhiều nước châu Phi vốn gần như đứng

bên bờ vực sụp đổ vượt qua được thời điểm khó khăn nhất. Các chương trình

điều chỉnh cơ cấu đã giúp hoạt động thương mại, tài chính của nhiều nền kinh tế

châu Phi thoát khỏi tình trạng bị “kiểm soát chặt chẽ”, đồng thời giúp ổn định

kinh tế vĩ mô và chuyển sang nền kinh tế thị trường tự do. Ngược lại, những ý

kiến phản đối cho rằng, SAP không tính đến các điều kiện đặc thù của châu Phi,

thậm chí không tính đến đặc thù giữa các nước châu Phi. Việc tự do hoá thương

mại, phá giá đồng tiền ở nhiều nước châu Phi đã tạo ra những tác động tiêu cực;

chính sách thúc đẩy xuất khẩu đã để lại hệ luỵ là tình trạng khai thác, bòn rút tài

24

kinh tế ở châu Phi, các quan điểm vẫn còn tương đối khác biệt. Những người

nguyên và tàn phá môi trường nghiêm trọng ở nhiều nước châu Phi. Thậm chí,

có những ý kiến còn cho rằng, châu Phi có thể sẽ phát triển tốt hơn nếu không có

tại về kết quả của cải cách thể chế kinh tế thị trường ở các nước châu Phi.

SAP. Do vậy, luận án sẽ góp phần bổ sung vào các tranh luận, đánh giá hiện

Thứ hai, nhiều nghiên cứu đã nỗ lực chỉ ra những yếu tố quan trọng tác

động đến tiến trình cải cách thể chế kinh tế của các nước châu Phi. Tuy nhiên,

không nhiều nghiên cứu có những so sánh, đối chiếu về vai trò của cải cách

chính trị và cải cách nền quản trị quốc gia đối với cải cách thể chế kinh tế ở châu

Phi. Luận án sẽ bổ sung khoảng trống này trong các nghiên cứu hiện nay.

Thứ ba, các nghiên cứu đi trước ít quan tâm đến việc lý giải vấn đề: tại

sao những chương trình cải cách thể chế kinh tế ở châu Phi lại tạo ra những kết

phát triển thành công sau quá trình chuyển đổi này song cũng có những nước

thất bại? Phải chăng, chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường là điều kiện cần

nhưng chưa đủ để các nước châu Phi phát triển? Thực tế này tiếp tục đặt ra vấn

quả khác nhau ở những nước châu Phi khác nhau? Tại sao lại có những nước đã

đề nghiên cứu: các yếu tố của phát triển và chất lượng thể chế có thể có tác động

hai chiều. Trong khi nhiều nghiên cứu nói đến việc thể chế yếu kém là nguyên

rằng: trình độ phát triển kinh tế lạc hậu là nguyên nhân dẫn đến chất lượng thể

chế tồi. Đây là những vấn đề lý luận và thực tiễn mới, là khoảng trống nghiên

cứu về cải cách thể chế kinh tế ở châu Phi mà luận án này có thể bù đắp.

Thứ tư, các bài học kinh nghiệm của châu Phi đến nay ít được chú ý vì lập

luận rằng: trình độ phát triển của châu Phi còn thấp. Các nước châu Phi như

Guinea xích đạo, Ghana và Tunisia ít được quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên,

luận án chỉ ra rằng, châu Phi cũng có những điểm sáng trong cải cách thể chế so

với những nước đang phát triển là những kinh nghiệm tốt, ngay cả đối với những

nước như Việt Nam. Luận án cũng chỉ ra những kinh nghiệm không thành công

điển hình trong cải cách thể chế kinh tế thị trường ở những nước đi sau.

25

nhân của phát triển kinh tế trì trệ, thực tế của châu Phi có thể lại chứng minh

Tiểu kết chương 1

Đến nay đã có nhiều nghiên cứu phân tích, đánh giá vấn đề cải cách thể

chế kinh tế ở châu Phi, trong đó có những nghiên cứu tập trung phân tích, đánh

giá sâu khía cạnh chuyển đổi và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường của một số

nước ở châu lục này. Các nghiên cứu hiện nay chỉ ra rằng ở châu Phi: các thể chế

tốt thường xuất hiện ở những quốc gia có tăng trưởng và phát triển kinh tế, tuy

nhiên còn nhiều tranh luận về sự thành bại của các chương trình cải cách thể chế

kinh tế. Nhiều nghiên cứu cho rằng, việc áp đặt những mô hình cải cách thể chế

kinh tế của phương Tây (như chương trình điều chỉnh cơ cấu) cho châu Phi đã

không mấy thành công khi xét về phương diện phát triển. Do vậy, luận án sẽ góp

chế kinh tế thị trường ở các nước châu Phi; phân tích các yếu tố tác động đến

tiến trình cải cách thể chế kinh tế ở các nước này. Đặc biệt, dưới góc độ quản trị,

luận án đã nêu ra cách tiếp cận cải cách thể chế có thể phù hợp với điều kiện của

phần bổ sung vào các tranh luận, đánh giá hiện tại về kết quả của cải cách thể

châu Phi. Bên cạnh những tiến trình cải cách thể chế được coi là thất bại, luận án

cũng phân tích, chỉ ra những tiến trình cải cách thể chế tương đối thành công ở

26

châu Phi là hình mẫu cho nhiều nước đang phát triển khác học tập.

CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CẢI CÁCH THỂ

CHẾ KINH TẾ

2.1. Các vấn đề chung về thể chế

2.1.1. Quan niệm, phân loại và vai trò của thể chế

Có nhiều quan niệm và định nghĩa về thể chế song tựu chung lại có hai

cách tiếp cận. Theo nghĩa hẹp, sử gia kinh tế, người đã từng đoạt giải Nobel

Douglass C. North đưa ra định nghĩa “thể chế” như sau: “Thể chế là các luật lệ

của cuộc chơi trong một xã hội, hay nói một cách chính thức, là những ràng

buộc mà con người soạn thảo ra giúp định hình sự tương tác của con người .”

[83] Theo nghĩa rộng, trong Báo cáo phát triển thế giới với chủ đề “Xây dựng thể

cơ chế thực thi và chế tài, và các tổ chức”.[125] Tổ chức là một dạng thể chế đặc

biệt, đi kèm với các quy tắc, chuẩn mực hành xử mà các chủ thể dựa vào đó để

tương tác với nhau, để thực thi các quy tắc, chuẩn mực đạt được các kết quả

chế cho thị trường”, Ngân hàng Thế giới quan niệm: “thể chế là các quy tắc, các

mong muốn. Ví dụ, nếu các quy tắc là luật về phá sản các tổ chức tương ứng sẽ

là các cơ quan thuế, toà án, các cơ quan thực thi pháp luật, v.v. Nếu quy tắc

chức tương ứng sẽ là các ngân hàng, toà trọng tài, hiệp hội kinh doanh v.v.

Thể chế khác với chính sách, tuy hai thuật ngữ này thường được dùng

song song với nhau, đôi lúc trùng với nhau. Nếu thể chế là các quy tắc, quy

định trong hành xử thì chính sách gồm mục tiêu và các kết quả mong muốn.

Các quốc gia có thể có một nền tảng thể chế giống nhau (như cùng là nền kinh

tế thị trường) song vẫn có thể triển khai các chính sách khác nhau và có các

kết quả phát triển khác nhau. Ví dụ, các quốc gia có nền kinh tế thị trường

vẫn có thể thể có các chính sách thuế hay chống lạm phát khác nhau. Chính

sách sẽ tác động đến loại thể chế cần hình thành; song thể chế sẽ tác động đến

loại chính sách cần có.

27

trong kinh doanh là “có đi có lại”, thế chấp, đền bù thiệt hại hợp đồng thì các tổ

Luận án này quan niệm thể chế là các luật chơi, theo nghĩa gồm các quy

tắc, quy định, chuẩn mực chi phối cách hành xử của các chủ thể trong xã hội.

Tuy tập trung nghiên cứu thể chế, luận án này đồng thời xem xét quá trình cải

cách/thay đổi thể chế với các quá trình thay đổi chính sách.

Có thể phân loại thể chế theo một số cách:

- Gồm thể chế công và thể chế tư: Thể chế công bao gồm toàn bộ các cơ

quan Nhà nước (các tổ chức công) với hệ thống quy định, luật pháp do Nhà nước

xác lập. Thể chế tư là toàn bộ các quy định mang tính quy phạm và các tổ chức

ngoài Nhà nước. Các thể chế tư có thể tồn tại song hành hoặc nằm trong một môi

trường thiết lập bởi các thể chế công. Ví dụ, thể chế tư là các quy tắc về thừa kế

đất đai có thể nằm trong các quy định về luật thừa kế; thể chế tư là các ngân

- Gồm thể chế chính thức và thể chế phi chính thức, chủ yếu nói về các quy

tắc chính thức và phi chính thức. Các quy tắc chính thức bao gồm hiến pháp, các bộ

luật, điều luật, hiến chương, văn bản dưới luật…Các quy tắc không chính thức là

hàng tư nhân có thể hoạt động trong môi trường luật công ty, v.v.

các chuẩn tắc xã hội bất thành văn (truyền thống, tập quán, những điều cấm kỵ…)

hay các quy tắc ửng xử nội bộ có vai trò mở rộng, chi tiết hóa hoặc chỉnh sửa các

- Gồm các loại thể chế như: thể chế kinh tế, thể chế chính trị, thể chế xã

hội, thể chế văn hoá, v.v.

Ý nghĩa then chốt của thể chế chính là việc giúp cho con người “xây dựng

các động cơ khuyến khích trong hoạt động trao đổi của con người, bất kể là

chính trị, xã hội, hay kinh tế”[83]. Thể chế giúp hạn chế bớt tình trạng thông tin

bất đối xứng trong vấn đề giao dịch và quản lý. Không có các quy định, chuẩn

mực, quy tắc để điều chỉnh các mối quan hệ, xã hội sẽ trở nên hỗn loạn, sự tương

tác xã hội trở nên quá tốn kém, sự tin tưởng và hợp tác đổ vỡ. Sự phân công lao

động, nguồn gốc chủ yếu của phồn vinh kinh tế, sẽ không còn nữa. Chức năng

then chốt của các thể chế là nhằm hỗ trợ trật tự: một cách thức tổ chức có tính hệ

28

quy tắc chính thức và điều chỉnh hành vi của các chủ thể cho phù hợp.

thống, phi ngẫu nhiên, tuân theo những quy tắc nhất định và vì thế dễ nắm bắt

các hành vi và biến cố. Trật tự tạo ra niềm tin và sự tin tưởng, giúp giảm chi phí

phối hợp. Khi có trật tự, người ta có thể đưa ra các dự đoán, có khả năng hợp tác

với người khác tốt hơn và cảm thấy tự tin khi mạo hiểm với những thử nghiệm

sáng tạo của mình. Lúc đó, người ta có thể dễ dàng tìm ra thông tin cần thiết về

đối tác và đoán định được mức độ chi phí của sự hợp tác cũng như lợi ích mà nó

mang lại. Hệ quả là nhiều tri thức hữu ích hơn sẽ được sử dụng và sáng tạo.[69]

2.1.2. Quá trình hình thành và thay đổi thể chế

Thể chế với bản chất là các quy tắc, quy định, chuẩn mực có thể hình

thành và thay đổi qua hai con đường:

Một là các thể chế được định hình bởi kinh nghiệm lâu dài của con người.

nhu cầu của mình. Những dàn xếp hữu ích sẽ trở thành truyền thống và được ghi

nhớ, nếu chúng được chấp nhận bởi một số lượng người đủ lớn, nhờ vậy chúng

được tuân thủ trong toàn cộng đồng. Khi các quy tắc dần xuất hiện và được toàn

thể cộng đồng biết tới, chúng sẽ được áp đặt và mô phỏng một cách tự phát.

Con người có thể khám phá ra những dàn xếp nhất định, để thoả mãn tốt hơn

Những dàn xếp nào không đáp ứng tốt nhu cầu của cộng đồng sẽ bị phản đối và

ngày đều phát triển qua một quá trình tiến hoá: phản hồi và điều chỉnh. Nội dung

cụ thể của các thể chế sẽ tiến hoá theo một lộ trình ổn định.

Hai là các thể chế xuất hiện do chúng được thiết kế, được định rõ trong

các bộ luật và các quy định, đồng thời được áp đặt chính thức bởi một cơ quan

quyền lực bên ngoài xã hội (như chính phủ). Khởi đầu, những quy tắc được thiết

kế và áp đặt bởi những người đại diện, vốn được tuyển chọn thông qua một quy

trình chính trị và hành động từ bên ngoài xã hội. Cuối cùng, chúng được áp đặt

bằng những phương tiện cưỡng chế đã hợp pháp hoá, chẳng hạn thông qua bộ

máy tư pháp.[69]

Như vậy, có hai dạng thể chế mà sự khác biệt giữa chúng xoay quanh

nguồn gốc của quy tắc. Các thể chế bên trong tiến hoá từ kinh nghiệm của con

29

biến mất. Vì thế, phần lớn những quy tắc có ảnh hưởng trong đời sống hàng

người và bao gồm những dàn xếp đáp ứng tốt nhất nhu cầu của cộng đồng trong

quá khứ, thí dụ: các tập quán, quy chuẩn đạo đức, lề lối tốt và quy ước thương

mại, cũng như luật tự nhiên trong xã hội Anglo-Saxon. Các thể chế bên ngoài

chịu sự áp đặt và chế tài từ trên xuống, sau khi được thiết kế và thiết lập bởi

những người đại diện, vốn được uỷ quyền thông qua một quy trình chính trị.[69]

2.2. Thể chế kinh tế và cải cách thể chế kinh tế

2.2.1. Quan niệm về thể chế kinh tế và cải cách thể chế kinh tế

Thể chế kinh tế là các chuẩn mực, luật pháp, quy tắc và quy định chi phối

sự tương tác của các chủ thể trong các giao dịch thị trường, bao gồm mua, bán

hàng hóa và dịch vụ, và sử dụng tài sản [72].Thể chế kinh tế xác định mức độ

hạn chế đối với các chủ thể trong việc tham gia vào các thỏa thuận giao dịch;

hưởng đến các hoạt động đầu tư vào vốn vật chất và nhân lực, công nghệ và tổ

chức sản xuất. Chức năng chính của thể chế kinh tế là giảm thiểu chi phí giao

dịch.Ví dụ cụ thể về các thể chế kinh tế là: Luật quyền tài sản, thỏa thuận tín

định hình các động cơ của các chủ thể kinh tế quan trọng trong xã hội; ảnh

dụng, và các quy định ảnh hưởng đến việc tiếp cận các tư liệu sản xuất và tiêu

dùng, v.v.

 Các thể chế có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của các xã hội và của mọi

người, và

 Mọi người và cộng đồng thường lựa chọn những thể chế nào giúp nâng

cao quyền tự do lựa chọn và sự phồn vinh kinh tế của mình.

Điều đó cũng có nghĩa, một số dạng thể chế có thể đem lại sự phát triển,

song một số dạng thể chế có thể tạo ra những hệ lụy tai hại cho sự phồn vinh, tự

do và các giá trị con người khác, và sự xuống cấp của hệ thống quy tắc có thể

dẫn tới suy thoái kinh tế - xã hội. Chính bởi vậy, sự khác biệt về thể chế kinh tế

cũng là nguyên nhân cơ bản của các nền kinh tế thị trường khác nhau. Các thể

chế kinh tế trong xã hội như cơ cấu quyền sở hữu, sự hiện diện và sự hoàn hảo

30

Giả thuyết chung của kinh tế học thể chế là:

của các thị trường có thể ảnh hưởng đến các động cơ kinh tế trong xã hội. Nếu

không có các quyền sở hữu tài sản, các cá nhân sẽ không muốn đầu tư vào vốn

nhân lực hay vật lực hay áp dụng các công nghệ hiệu quả hơn. Các thể chế kinh

tế cũng giúp phân bổ nguồn lực vào các mục đích sử dụng hiệu quả nhất vì

chúng xác định ai sẽ hưởng lợi ích sau cùng. Khi không có các thị trường hay thị

trường không được quan tâm, lợi ích từ thương mại không được khai thác và

nguồn lực có thể bị phân bổ sai [33]. Một xã hội khuyến khích mọi người đổi

mới, chấp nhận rủi ro, tiết kiệm cho tương lai, học tập, giải quyết những vấn đề

chung và cung cấp các hàng hoá công cộng…sẽ có thể đạt tới mức thu nhập cao

hơn. Một xã hội ngược lại có thể sẽ rơi vào tình cảnh nghèo đói. [27]

Các nhà kinh tế học thể chế cho rằng, bản chất của thể chế có thể được coi

trường. Tuy nhiên, trên thực tế nếu một hệ thống thể chế hiệu quả, phù hợp có

thể giúp làm giảm chi phí giao dịch, thì ngược lại khi một hệ thống thể chế yếu

kém vận hành sẽ làm nảy sinh những chi phí giao dịch. Những thể chế càng yếu

là những biến trung gian, giúp giảm chi phí giao dịch trong nền kinh tế thị

kém, càng không phù hợp sẽ khiến cho chi phí giao dịch càng cao, khiến cho

nguồn lực càng bị phân bổ méo mó, sai lệch. Dưới góc độ này, chuyển đổi mô

hành đang gây ra cho các giao dịch trong nền kinh tế thị trường.

Chí phí mà hệ thống thể chế hiện nay tạo ra cho các hoạt động trong nền

kinh tế thị trường đã trở nên quá lớn ở một số nền kinh tế ĐPT và kém phát

triển. Đặc trưng của các nền kinh tế này là tình trạng độc quyền kinh tế bởi cả

khu vực tư nhân và nhà nước, tham nhũng tràn lan, vi phạm quyền sở hữu, thiếu

dân chủ, quan liêu…đang khiến cho hệ thống thể chế trở thành một lực cản lớn

đối với quá trình tự do hóa kinh tế và phát triển của đất nước. Ngay cả ở các

nước phát triển, hệ thống thể chế cũng đã trở nên quá cồng kềnh, phản ứng chậm

chạp so với tính linh hoạt ngày càng gia tăng và những biến đổi nhanh chóng của

nền kinh tế thị trường hiện đại. Hệ thống luật pháp đã tụt lại đằng sau những

“công nghệ mới” của thị trường.

31

hình tăng trưởng chính là việc làm giảm các chi phí mà hệ thống thể chế hiện

Từ góc độ kinh tế học, cải cách kinh tế là những thay đổi trong chính sách

của chính phủ hoặc thể chế vì chính sách và thể chế hiện thành không hoạt động

tốt. Thêm nữa, cải cách đề cập đến các chính sách và thể chế thay thế tốt hơn các

chính sách và thể chế hiện hành trong việc đạt được các mục tiêu kinh tế. [71]

Cải cách thể chế kinh tế là thay đổi toàn diện và lớn nhằm mục đích giảm

tham nhũng, cải thiện chất lượng quy định, thượng tôn pháp luật, làm cho các tổ

chức tài chính và tiền tệ độc lập, tăng cường quản trị doanh nghiệp, tăng cường

tính độc lập của tư pháp và bảo vệ quyền sở hữu;những cải cách này tạo cơ hội

cho phần lớn người dân tham gia các hoạt động kinh tế.[72]

Trong lịch sử khắc phục khủng hoảng của các nền kinh tế ĐPT, rất nhiều

nền kinh tế đã phải chấp nhận các gói cứu trợ từ những tổ chức quốc tế như IMF

giá cả, cắt giảm ngân sách nhà nước, tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà

nước…vốn được các tổ chức này coi là “chuẩn mực quốc tế”. Việc tiến hành cải

cách này làm thay đổi hệ thống thể chế kinh tế đã tồn tại ở các quốc gia kể trên

kèm theo những điều khoản cải cách ngặt nghèo như xóa bỏ trợ cấp, tự do hóa

trong một thời gian dài trước khủng hoảng nên gây ra không ít xáo trộn kinh tế-

xã hội và phản đối từ phía người dân. Trong thời gian gần đây điển hình là các

Inđônêxia trong cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997-1998. Ngược lại, cũng

có những quốc gia đã tự mình cải cách thành công như Malaixia trong cuộc

khủng hoảng tài chính châu Á.

trường hợp của Mexico trong cuộc khủng hoảng nợ 1995; Hàn Quốc, Thái Lan,

2.2.2. Các yếu tố chính tác động đến cải cách thể chế kinh tế

* Luận thuyết của Daron Acemoglu

Những người theo trường phái kinh tế học thể chế tin rằng, các thể chế

dân chủ thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Thể chế dân chủ ở đây gồm

cả chế độ pháp quyền, bảo vệ quyền sở hữu, tự do cá nhân nhằm phát huy sáng

tạo năng lực hoạt động trong các ngành công nghiệp, thương mại, dịch vụ...

Trong nhiều năm, Daron Acemoglu và các cộng sự thảo luận mối quan hệ

32

giữa thể chế kinh tế và thể chế chính trị khi nghiên cứu khả năng tiếp cận các

nguồn lực trong xã hội. Họ đã minh chứng rằng, các nhóm lợi ích khác nhau sẽ

hưởng lợi khác nhau từ các thể chế kinh tế. Nếu quyền lực chính trị bị giới hạn

trong một nhóm nhỏ, các thể chế kinh tế, ví dụ quyền sở hữu có thể bị thao túng.

Ngược lại, nếu quyền lực chính trị có sự tham gia rộng rãi của dân chúng thì các

thể chế kinh tế sẽ mang lại phúc lợi cho số đông. Vì gốc rễ của vấn đề là phân

phối nguồn lực, cho nên một quốc gia muốn trở nên giàu có phải bắt đầu từ

những cải cách thể chế chính trị, đảm bảo quyền tự do của người dân được tiếp

cận hoặc giám sát các nguồn lực trong xã hội. [34]

Daron Acemoglu, Simon Johnson và James Robinson lập luận rằng [31]:

1. Các thể chế kinh tế có tác động đến tăng trưởng kinh tế vì chúng định

biệt, chúng tác động đến hoạt động đầu tư vào cơ sở vật chất, vốn con người,

công nghệ và tổ chức sản xuất. Các thể chế kinh tế không chỉ tác động đến các

kết quả của hoạt động kinh tế mà còn tác động đến việc phân phối nguồn lực

trong tương lai (phân bổ của cải, vốn vật chất hoặc vốn con người). Theo nghĩa

hình các động lực khuyến khích những nhân tố kinh tế chủ chốt của xã hội. Đặc

này, mô hình đưa ra là:

=====>

phânbổ nguồn lựct+1

2. Thể chế kinh tế do quyền lực chính trị định hình. Quyền lực chính trị có

hai dạng: i) dạng quyền lực pháp lý (de jure) và ii) dạng quyền lực thực tế (de

facto). Quyền lực pháp lý được hình thành một cách chính thức dựa trên những

thể chế chính trị trong xã hội. Quyền lực thực tế được hình thành (một cách phi

chính thức) dựa trên sự phân bổ nguồn lực trong xã hội, do một nhóm người hay

mỗi cá nhân trong xã hội có thể sử dụng nguồn lực mà mình có để tác động đến

những cá nhân hay nhóm người khác trong xã hội. Nói một cách khác, những

nhóm người có quyền lực chính trị thực tế có thể sử dụng nó để tiến hành vận

động (lobby) cho các chính sách (ngắn hạn) có lợi cho mình. Theo nghĩa này, ta

có mô hình sau:

33

Thể chế kinh tết =====> hoạt động kinhtết

Quyền lực chính trịt ==========> Thể chế kinh tết

Thể chế chính trịt ==== > Quyền lực chính trị pháp lýt

Phân bổ nguồn lựct ==== > Quyền lực chính trị thực tết

Trong tác phẩm “Tại sao có quốc gia thất bại?: Nguồn gốc của quyền lực,

thịnh vượng và nghèo đói”, Daron Acemoglu và James Robinson đã giải thích sự

thành công cũng như sự thất bại của các quốc gia rằng: Quốc gia phát triển lên

nếu như nó xây dựng được những thể chế kinh tế và chính trị “bao hàm”; quốc

gia thất bại khi các thể chế trở thành “tước đoạt”, tập trung quyền lực và cơ hội

vào tay một nhóm nhỏ. Thể chế kinh tế “bao hàm” giúp đảm bảo quyền tư hữu,

tạo ra một sân chơi bình đẳng, và khuyến khích đầu tư vào các công nghệ và kỹ

thuật mới, có lợi cho phát triển kinh tế hơn so với thể chế kinh tế “tước đoạt”

chúng vào tay thiểu số. Thể chế kinh tế bao hàm hỗ trợ cho thể chế chính trị bao

hàm - một thể chế ủng hộ những quyết sách đổi mới và sáng tạo. Ngược lại, thể

chế chính trị tước đoạt dồn quyền lực vào tay một nhóm người để hỗ trợ cho việc

vốn được xây dựng để tước đoạt nguồn lực của mọi người trong xã hội và đặt

duy trì thể chế kinh tế tước đoạt [35]. Daron Acemoglu và James Robinson đã

minh chứng rằng, các nhóm lợi ích khác nhau sẽ hưởng lợi khác nhau từ các thể

kinh tế, ví dụ quyền sở hữu, có thể bị thao túng. Ngược lại, nếu quyền lực chính

trị có sự tham gia rộng rãi của dân chúng thì các thể chế kinh tế sẽ mang lại phúc

lợi cho số đông [34]. Với lập luận này, trong bài viết “Tại sao châu Phi lại

nghèo?” Daron Acemoglu và James Robinson (2010) cho rằng, nguyên nhân chủ

yếu là do hệ thống thể chế chính trị và kinh tế không phù hợp. Hệ thống thể chế

hiện nay của một số nước châu Phi vẫn bị ràng buộc bởi những yếu tố thể chế

tàn dư của lịch sử vốn không phù hợp nên đã cản trở sự phát triển đi lên của

những quốc gia này. [32]

Daron Acemoglu, Simon Johnson và James Robinson đặc biệt nhấn mạnh

vấn đề về mặt “cam kết”. Các cá nhân có quyền lực chính trị không thể cam kết

34

chế kinh tế. Nếu quyền lực chính trị bị giới hạn trong một nhóm nhỏ, các thể chế

rằng họ sẽ không sử dụng quyền lực của mình để phục vụ lợi ích của mình tốt

nhất. Nói một cách khác, họ có thể sử dụng quyền lực chính trị của mình để xây

dựng và duy trì mộ hệ thống thể chế kém hiệu quả hoặc không tối ưu theo nghĩa

không tạo ra lợi ích tổng thể lớn nhất cho xã hội song lại đem lại lợi ích lớn nhất

cho chính họ [31]. Tương tự, Acemoglu và Robinson lập luận rằng, với một hệ

thống thể chế tồi, vốn chỉ nhằm tạo ra lợi ích cá nhân cho thành phần tinh túy,

bất chấp việc phần lớn hơn xã hội sẽ nghèo đi thì những cải cách sẽ khó khả thi

hoặc có thể chỉ được tiến hành nửa vời. Nếu các nhóm người có quyền lực chính

đặc lợi. Những mô hình phát triển lạc hậu vẫn tiếp tục tồn tại hoặc thay đổi rất

trị thực tế làm "điều đúng" như tiến hành cải cách, có thể họ sẽ mất đi đặc quyền

này muốn duy trì nó như thế để bảo vệ lợi ích của mình. [35]

Theo Amartya Sen (2000), phải có dân chủ mới có thể phát triển kinh tế

tốt [97]. Ông tuyệt đối tin tưởng ở tính phổ quát của dân chủ và không cho rằng

có những xã hội không (hoặc chưa) thích hợp với dân chủ chỉ vì xã hội ấy có

chậm chỉ vì các lực lượng chính trị đầy sức mạnh tại các quốc gia nghèo khó

một nền văn hoá đặc trưng [97]. Một quốc gia có nền dân chủ, đảm bảo sự tham

nhằm xây dựng một hệ thống thể chế và các chính sách phát triển có lợi cho

phần đông dân chúng.

Faizel Ismail (2009) cho rằng, trong một nền kinh tế đã tự do hóa, người

dân vẫn có thể thiếu tự do và bị tước đoạt những cơ hội kinh tế và những thành

quả khác mà thị trường đem đến. Nghèo đói không hoàn toàn đồng nghĩa với thu

nhập thấp mà là bị tước đoạt những năng lực cơ bản. Do vậy, các chính sách

công cần tạo ra sự bình đẳng và công lý, từ đó tạo ra sự tin tưởng và tín nhiệm để

giúp cơ chế thị trường có thể vận hành hiệu quả. Người dân cần có quyền để

tham gia xây dựng hệ thống dân chủ, từ đó có thể bảo vệ quyền lợi của mình và

đây là một yếu tố then chốt của tiến trình phát triển. [68]

35

gia và giám sát của người dân sẽ hạn chế được những lực cản đối với cải cách

Tuy nhiên, “dân chủ” là một khái niệm tương đối phức tạp và gây nhiều

tranh cãi, đặc biệt giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển, giữa

phương Tây với phương Đông và cũng được nhìn nhận dưới các góc độ khác

nhau ngay cả trong một nước. Đến nay, giới học giả phương Tây thường tiếp cận

khái niệm nền dân chủ dưới hai góc độ:

- Nền dân chủ bầu cử (eletoral democracy), theo quan niệm của Joseph

Schumpeter: phương thức dân chủ là một dàn xếp về mặt thể chế để có được các

quyết định chính trị khi và chỉ khi các cá nhân đạt được quyền lực để quyết định

thông qua nỗ lực cạnh tranh giành là phiếu của người dân. [96]

- Nền dân chủ tự do (liberal democracy), theo quan niệm của Robert Dalh,

nhấn mạnh hai trụ cột là cạnh tranh (gồm các khía cạnh như: tự do báo chí, tự

cạnh như: quyết được bỏ phiếu, công bằng trong bầu cử và quyền cho tất cả mọi

người được bỏ phiếu). [54]

Khi thảo luận vai trò của thể chế, Douglass C. North đã đưa ra ba kết

chủ của các hội đoàn, đa đảng phái) và tham dự của người dân (gồm các khía

luận: 1) thể chế dân chủ đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì một chính

sự có lợi cho phát triển kinh tế; và 3) những thành quả kinh tế đạt được to lớn

hơn là do có môi trường kinh tế tự do hơn. [83] Các kết luận này đã trở thành

quan điểm của nhiều tổ chức quốc tế như Ngân hàng thế giới, Quỹ Tiền tệ quốc

tế và Ngân hàng phát triển châu Á, Ngân hàng phát triển châu Phi v.v...khi giúp

đỡ các nước nghèo. Tuy nhiên, Douglass C. North cho rằng đối với những quốc

gia trong quá trình cải cách toàn diện, ưu tiên hàng đầu không phải là đẩy mạnh

cải cách dân chủ ngay tức thì mà phải cải cách các thể chế hỗ trợ cho tăng trưởng

kinh tế; cải cách chính trị theo hướng dân chủ phải được tiến hành đồng thời với

cải cách kinh tế để có thể thành công [83]. Nhiều nước quá vội vàng thực hiện

cải cách chính trị nên đã thất bại trong cải cách kinh tế như nước Nga vào đầu

thập niên 1990 khi ông Boris Eltsin làm tổng thống.

36

quyền tốt, hạn chế tham nhũng; 2) thể chế chính trị dân chủ và quyền tự do dân

* Quan điểm của Ngân hàng thế giới

Trong hơn hai thập kỷ qua, WB cho rằng các vấn đề phát triển của châu

Phi có nguồn gốc sâu xa là cuộc khủng hoảng quản trị. Nghiên cứu “Châu Phi

nam Sahara: từ khủng hoảng cho đến tăng trưởng bền vững” năm 1989 của WB

nhấn mạnh quản trị là một nội dung quan trọng của cải cách thể chế và gắn liền

với một khu vực công hiệu quả hơn ở các nước châu Phi nam Sahara. Các chính

sách cải cách kinh tế theo hướng thị trường ở châu Phi không thành công vì thiếu

hụt các nền tảng thể chế quản trị cơ bản. Do quyền lực không được kiểm soát,

các quan chức chính phủ có thể trục lợi mà không phải giải trình. Các cá nhân

bảo vệ mình không phải bằng pháp luật mà bằng nỗ lực xây dựng các mối quan

hệ cá nhân, do đó hình thành các quan hệ bảo kê quyền lực [118].Về vấn đề này,

chính phủ hơn mà cần một chính phủ tốt hơn” [118]. Theo WB, quản trị bao

gồm những truyền thống và thể chế mà dựa vào đó thẩm quyền trong một nước

được thực thi.Theo nghĩa hẹp hơn, quản trị là việc thực thi quyền lực chính trị để

Tổng thống Senegal Abdou Diouf đã phát biểu: “Châu Phi không chỉ cần ít

quản lý, điều hành công việc của chính phủ [36]. Dưới góc độ phát triển, WB

định nghĩa: quản trị là các thức thực thi quyền lực trong việc quản lý nguồn lực

Cách tiếp cận cải cách thể chế dưới góc độ quản trị tỏ ra “phù hợp” và

“khả thi” với điều kiện của nhiều nước đang phát triển khi có nhiều chỉ trích

nhằm vào nỗ lực áp đặt mô hình dân chủ tự do. Trên thực tế, các cuộc cải

cách dân chủ không giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở các nước đang phát

triển. Nỗ lực áp đặt mô hình thể chế từ bên ngoài không mang lại kết quả tốt

do có khoảng cách giữa “hình thức” và “chức năng” của các thể chế. Tại

nhiều nước châu Phi, mặc dù các thể chế mẫu mực có thể được thiết lập

nhưng chúng lại không hoạt động theo mong muốn của các nhà tài trợ đã thiết

lập nên những thể chế này - những người đã không quan tâm đến việc xây

dựng năng lực vận hành các thể chế.

37

kinh tế và xã hội của một quốc gia vì sự phát triển. [128]

Cách tiếp cận quản trị đối với châu Phi cho rằng, việc xây dựng các mô

hình phát triển và thể chế phải dựa vào những bối cảnh đặc thù chứ không theo

phương thuốc định sẵn và tránh việc áp đặt những mô hình dân chủ phương Tây.

Tại Đông Á nơi có những chính phủ bị phương Tây coi là thiếu dân chủ lại có

vai trò quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Các nhà lãnh đạo như Paul

Kagame ở Rwanda đã thể hiện mong muốn học hỏi những kinh nghiệm phát

triển này và hy vọng đưa Rwanda trở thành ‘Singapore của châu Phi’. Tại Đông

Á, mô hình nhà nước phát triển thực sự quan trọng hơn mô hình dân chủ tự do

và Rwanda cũng đã từng đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao mà không nhất

đối với tăng trưởng kinh tế. Tương tự ở châu Phi, các nước như Angola, Ethiopia

Cũng trong gần hai thập kỷ qua, các nghiên cứu của một số tổ chức quốc

tế, đặc biệt là các nghiên cứu của WB ở các nền kinh tế đang phát triển đã nêu

cao khẩu hiệu xây dựng một nền quản trị tốt gắn liền với một hệ thống thể chế

tốt. Trong nghiên cứu “Châu Phi nam Sahara: từ khủng hoảng cho đến tăng

thiết phải theo mô hình dân chủ tự do.

trưởng bền vững” năm 1989 WB cho rằng, quản trị tốt bao gồm: “dịch vụ công

trình đối với công chúng”. Một nền quản trị tốt đồng hành với một hệ thống thể

chế có chi phí vận hành thấp. Cải cách nền quản trị của một quốc gia gắn liền

với cải cách thể chế của quốc gia đó. Ưu tiên này thể hiện rõ trong Báo cáo phát

triển thế giới năm 1997 “Nhà nước trong một thế giới thay đổi” và Báo cáo

Chiến lược “Cải cách các thể chế công và tăng cường nền quản trị” của WB

được công bố vào tháng 11/2000.

Cựu chủ tịch của WB James D.Wolfensohn đã phát biểu trước Ban Giám

đốc (28/09/1999):

“Nguyên nhân của các cuộc khủng hoảng tài chính và nghèo đói là

một và là giống nhau… Nếu như các quốc gia không có một nền

38

hiệu quả, hệ thống xét xử đáng tin cậy, bộ máy hành chính có trách nhiệm giải

quản trị tốt, nếu họ không giải quyết các vấn đề về tham nhũng,

nếu họ không có một hệ thống luật pháp hoàn chỉnh để bảo vệ nhân

quyền, quyền sở hữu và hợp đồng…[thì] sự phát triển của họ sẽ

khiếm khuyết về cơ bản và sẽ không kéo dài”

WB đưa ra 6 nhóm chỉ số để đánh giá chất lượng quản trị của một quốc gia

là: i) tiếng nói và trách nhiệm giải trình; ii) ổn định chính trị và phi bạo lực, khủng

bố; iii) hiệu lực của chính phủ; iv) chất lượng của các quy định; v) thượng tôn pháp

luật; và vi) kiểm soát tham nhũng. Cơ chế để đảm bảo quản trị tốt gồm có 3 yếu tố

lập của ngân hàng trung ương, các quy định về công chức và ngân sách…); ii) tiếng

chính: i) các quy tắc và hạn chế nội bộ (thí dụ, có các hệ thống kiểm toán, sự độc

hội…); và iii) cạnh tranh (thí dụ, có cạnh tranh trong cung cấp các dịch vụ, tham gia

của khu vực tư nhân, các cơ chế giải quyết tranh chấp,…). [121]

39

nói và đối tác (thí dụ, có các hội đồng công tư, các điều tra về phản hồi của xã

Bảng 2.1: Các đặc tính cơ bản của quản trị tốt theo một số

tổ chức quốc tế

Các tổ chức quốc tế Chương trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP)

Ngân hàng thế giới (WB)

Hiệp hội phát triển quốc tế (IDA)

Ngân hàng phát triển châu Á (ADB)

Các đặc tính cơ bản i) đảm bảo sự tham gia; ii) sự công bằng của luật pháp; iii) tính minh bạch; iv) đáp ứng mọi bên liên quan; v) hướng tới sự đồng thuận; vi) bình đẳng; vii) hiệu lực và hiệu quả; viii) trách nhiệm giải trình; và ix) tầm nhìn chiến lược. i) tiến trình hoạch định chính sách công khai và có thể dự đoán được; ii) hệ thống hành chính công quyền chuyên nghiệp; iii) bộ máy hành pháp có trách nhiệm giải trình; iv) xã hội dân sự tham gia tích cực vào các hoạt động công; và v) sự công bằng của luật pháp. i) trách nhiệm giải trình, bao gồm trách nhiệm giải trình về mặt tài chính ở cấp độ vĩ mô và trách nhiệm giải trình đối với hoạt động của tổ chức ở cấp vi mô; ii) tính minh bạch, đặc biệt là minh bạch trong tiến trình phân bổ ngân sách, mua sắm công; iii) sự công bằng của luật pháp, trong đó có tầm quan trọng của một khung khổ pháp lý công bằng, ổn định, có thể dự đoán được và được công chúng biết đến; và iv) sự tham gia, đặc biệt nhấn mạnh cơ hội tham gia của của xã hội dân sự vào việc hình thành các chiến lược phát triển có ảnh hưởng đến cộng đồng. i) trách nhiệm giải trình; ii) đảm bảo sự tham gia (của các bên liên quan trong quá trình hoạch định chính sách); iii) tính có thể dự đoán được; và iv) tính minh bạch. i) trách nhiệm giải trình; ii) tính minh bạch; iii) chống tham nhũng; iv) đảm bảo sự tham gia; v) cải cách pháp lý.

Ngân hàng phát triển châu Phi (AfDB) Nguồn:

UNDP (1997) “Governance for Sustainable Human Development” New York

WB (1994).Governance: The World Bank’s Experience. Washington DC

International Development Association, IDA (1998). Additions to IDA

Resources: Twelfth Replenishment (IDA12). 23 December 1998

Asian Development Bank, ADB (1995). “Governance: Sound Development

Management”, October 1995

International Fund for Agricultural Development, IFAD (1999). Good

Governance: Overview. Executive Board – Sixty-Seventh Session, Rome, 8-9

September 1999

40

2.3. Thể chế kinh tế thị trường và cải cách thể chế kinh tế thị trường

2.3.1. Quan niệm về thể chế kinh tế thị trường và cải cách thể chế kinh tế thị trường

Có nhiều cách diễn đạt khác nhau về kinh tế thị trường song nhìn chung

kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hóa (khi mọi sản

phẩm đều có thể trở thành hàng hóa); nó là một hệ thống kinh tế trong đó các cá

nhân và tổ chức tương tác với nhau thông qua các giao dịch mang tính chất thị

trường để phân bổ và sử dụng nguồn lực đầu vào, sản xuất và phân phối các sản

phẩm đầu ra.

Thể chế kinh tế thị trường bao gồm [1]:

1) Thể chế sở hữu tài sản: gồm các quy định, chuẩn mực đảm bảo mỗi

một tài sản đều có chủ sở hữu, và chủ sở hữu có đầy đủ các quyền sở hữu. Thu

đóng góp của các nguồn lực (vật chất, lao động, trí tuệ) mà họ sở hữu trong việc

tạo ra những giá trị mới trong khối của cải xã hội.

2) Các thể chế đảm bảo quyền tự do kinh doanh: gồm các quy định, chuẩn

nhập của mỗi người được hình thành dựa trên việc thị trường đánh giá mức độ

mực đảm bảo tính đa dạng của các chủ thể thị trường và các chủ thể này có quyền

và tự do kinh doanh. Các chủ thể tự ra quyết định, tự chịu trách nhiệm (gánh chịu

tài sản của mình để tạo ra các hàng hóa trao đổi với người khác).

3) Các thể chế đảm bảo tự do cạnh tranh: gồm các quy định, chuẩn mực

chi phối việc phân bố nguồn lực và sự lựa chọn của các chủ thể trên thị trường.

Mỗi một chủ thể đều phải đối mặt với cạnh tranh trong trao đổi với chủ thể khác

khác. Mối liên kết và tương tác giữa các chủ thể được thực hiện thông qua thị

trường, được dẫn dắt bởi động cơ lợi ích cá nhân, trên cơ sở các giao dịch tự

nguyện. Cạnh tranh là cơ chế thiết lập các mức giá hiệu quả, là phương thức gây

áp lực nhằm buộc các nhà sản xuất phải luôn luôn đổi mới, sáng tạo. Cơ chế

cạnh tranh đảm bảo cho các nguồn lực trong nền kinh tế thị trường được phân bổ

một cách hợp lý và hiệu quả.

41

chi phí, thụ hưởng lợi ích) về các quyết định của mình (như trong việc sử dụng các

4) Các thể chế đảm bảo giá cả các hàng hóa, dịch vụ và các yếu tố sản

xuất được quyết định dựa trên quan hệ cung - cầu. Trong nền kinh tế thị trường,

giá cả là tín hiệu quan trọng nhất phản ánh tính khan hiếm tương đối của nguồn

lực và hàng hóa, truyền dẫn thông tin và dẫn dắt các quyết định của người sản

xuất và tiêu dùng.

5) Nguyên tắc đào thải sáng tạo, theo nghĩa chỉ cho phép sự tồn tại của

những chủ thể phù hợp nhất và do đó trong nền kinh tế thị trường thì phá sản là

phương thức để xã hội “thu hồi” các nguồn lực nằm trong tay những người sử

dụng chúng không hiệu quả để chuyển giao chúng cho người khác.

Nền tảng của nền kinh tế thị trường là dựa trên sự xác lập, thực thi phổ

biến và bảo vệ hữu hiệu quyền sở hữu tư nhân về các tài sản. Tài sản bao gồm

hình như tri thức...là thứ đang trở thành yếu tố quyết định năng lực sáng tạo, của

cải trong nền kinh tế và thu nhập của người sở hữu. Động cơ để kinh tế thị

trường vận hành được trước hết và cơ bản nhất là nhờ hoạt động của những con

nhiều loại, từ các tài sản hữu hình như đất đai, nhà xưởng...đến các tài sản vô

người tư lợi: những người sản xuất, trao đổi trước hết vì lợi ích cá nhân của

mình. Chỉ khi quyền tư hữu được tôn trọng và bảo vệ, các cá nhân mới có thể

tiến hành các hoạt động sản xuất, trao đổi nhằm tối đa hóa các lợi ích cá nhân.

Tôn trọng và phát huy sức mạnh của lợi ích cá nhân trên cơ sở xác lập và bảo vệ

quyền tư hữu, coi đó là động lực sâu xa chi phối hành vi kinh tế của con người

làm nên sức sống năng động và sự thịnh vượng của các nền kinh tế thị trường.

Thị trường hoạt động thông qua “bàn tay vô hình” - cơ chế cạnh tranh và

sự lên xuống của giá cả - như A.Smith đã chỉ ra, là “cơ chế tuyệt diệu có thể

chuyển hóa các nỗ lực theo đuổi lợi ích riêng của các cá nhân thành các lợi ích

của toàn xã hội”. Dựa theo các tín hiệu giá cả trên cả thị trường đầu ra và đầu

vào, các nhà sản xuất sẽ quyết định đầu tư, mở rộng hay thu hẹp sản xuất, tham

gia vào một ngành mới hay rút lui khỏi ngành để từ đó các nguồn lực được phân

bổ trong nền kinh tế. Giá cả được thiết lập thông qua cạnh tranh giữa người bán

42

phát huy được các tiềm năng của mình, mới có thể tự do và độc lập trong việc

và người mua; giá vừa truyền dẫn thông tin về cung, cầu, vừa kết nối người sản

xuất và người tiêu dùng để đảm bảo cho việc sản xuất (cung) ăn khớp với các

nhu cầu (cầu) luôn biến động. Cạnh tranh buộc và khuyến khích các nhà sản xuất

triển khai các hoạt động sáng tạo – đổi mới, áp dụng các tiến bộ công nghệ, nâng

cao năng suất, tạo ra áp lực thực sự cho khoa học, công nghệ phát triển, khiến

cho nền kinh tế thị trường luôn tự tạo ra được động lực để phát triển đi lên.

Không tôn trọng và bảo vệ đầy đủ quyền sở hữu tư nhân về tài sản, không tạo

điều kiện cho khu vực tư nhân phát triển thì nền kinh tế thị trường khó có thể

phát triển bình thường và phát huy được các tiềm năng của nó trọn vẹn.

Như vậy, có thể hiểu cải cách thể chế kinh tế thị trường là các biện pháp

nhằm thay đổi các cấu phần thể chế nói trên (thể chế sở hữu tài sản, các thể chế

chế đảm bảo giá cả các hàng hóa, dịch vụ và các yếu tố sản xuất được quyết định

dựa trên quan hệ cung - cầu, nguyên tắc đào thải sáng tạo). Đối với những nền

kinh tế chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường, các cuộc

cải cách thường theo hướng:

đảm bảo quyền tự do kinh doanh, các thể chế đảm bảo tự do cạnh tranh, các thể

- Thúc đẩy việc bảo đảm quyền sở hữu tư nhân

- Đảm bảo tự do cạnh tranh

- Đảm bảo giá cả các hàng hóa, dịch vụ và các yếu tố sản xuất được quyết

định dựa trên quan hệ cung - cầu

- Đảm bảo nguyên tắc đào thải sáng tạo

Ngoài ra, cải cách thể chế kinh tế thị trường còn có thể được hiểu gồm cải

cách các thị trường yếu tố (như: thị trường đất đai, thị trường sức lao động, thị

trường tài chính, thị trường hàng hoá, thị trường khoa học - công nghệ, v.v.). Để

nền kinh tế thị trường hoạt động hiệu quả, phải bảo đảm hai yêu cầu: i) Sự hiện

diện đầy đủ của tất cả các thị trường nói trên; ii) Các thị trường phải vận hành

đồng bộ. Một trong những trọng tâm khác của cải cách thể chế kinh tế thị trường

còn là thay đổi mối quan hệ giữa nhà nước với thị trường.

43

- Thúc đẩy tự do kinh doanh

Có nhiều biện pháp để thực hiện những sự chuyển đổi nói trên. Tuỳ thuộc

vào mục tiêu trực tiếp của các cuộc cải cách, một số biện pháp có thể được chú

trọng hơn, nhất là những biện pháp có để mang lại hiệu ứng lan toả sâu rộng (ví

dụ, cải cách thể chế sở hữu, tự do cạnh tranh). Đa phần ý kiến hiện nay cho rằng,

ý nghĩa cốt lõi của cải cách kinh tế thị trường là sự tham gia và cạnh tranh của

khu vực tư nhân. Bởi vậy, việc cho phép và tạo ra sự tham gia cạnh tranh của các

chủ thể tư nhân vào một lĩnh vực, hoạt động hoặc thị trường là biện pháp cải

cách thể chế kinh tế thị trường hết sức quan trọng. Trong hầu hết các trường hợp,

điều này ngụ ý việc giảm mức độ và phạm vi tham gia hoặc can thiệp của chính

giảm thuế và loại bỏ hạn ngạch. Tuy nhiên, đôi lúc sự can thiệp của chính phủ là

phủ vào hoạt động kinh tế. Ví dụ, mở cửa thương mại quốc tế thông qua việc

cần thiết để khuyến khích cạnh tranh. Ví dụ, chính phủ có các quy định để bảo

Các nghiên cứu hiện nay và thực tế cũng cho thấy, vấn đề cải cách thể chế

kinh tế ở các nước đang phát triển và kém phát triển - những nơi có nền kinh tế

thị trường chưa hoàn thiện hoặc thậm chí chưa có một nền kinh tế thị trường

vệ quyền của chủ nợ và làm cho ngân hàng hoạt động minh bạch. [84]

theo đúng nghĩa - về bản chất là việc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường và

hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường. Đối với các nước châu Phi, luận án tập

chế kinh tế thị trường.

trung phân tích vấn đề chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường và hoàn thiện thể

2.3.2. Khung phân tích cải cách thể chế kinh tế thị trường

Theo cách tiếp cận hệ thống, luận án nghiên cứu vấn đề cải cách thể chế

kinh tế thị trường trong mối quan hệ với cải cách thể chế chính trị và cải cách

nền quản trị quốc gia, theo khung phân tích gồm ba tầng:

i) - Hệ thống các nguyên tắc, chuẩn mực vận hành của nền kinh tế. Đó có

thể là những nguyên tắc, chuẩn mực của thị trường tự do (như ở các nền kinh tế

phát triển) hoặc phi thị trường (như ở các nền kinh tế kế hoạch hóa trước đây)

hoặc những nguyên tắc, chuẩn mực nửa vời, một số của thị trường tự do, một số

thì chưa (như ở các nền kinh tế đang phát triển, chuyển đổi và hội nhập) chi phối

các chiến lược và chính sách ở tầng trên của hệ thống thể chế. Xu hướng cải

44

cách hiện nay là thực hiện những nguyên tắc, chuẩn mực của nền kinh tế thị

trường tự do hiện đại, đảm bảo tạo ra một nền kinh tế “bao hàm”, thí dụ: đảm

bảo quyền sở hữu, tự do hợp đồng, tự do giá cả và tự do cạnh tranh.

Để đo lường sự thay đổi trong các tầng thể chế, chính sách này, luận án sử

dụng các bộ chỉ số:

+ Chỉ số thể chế của Báo cáo chỉ số cạnh tranh toàn cầu của WEF.

+ Bộ chỉ số của Báo cáo Chỉ số môi trường kinh doanh (DB) của WB.

+ Báo cáo Chỉ số tự do kinh tế của Quỹ Heritage.

ii) - Các hướng cải cách thể chế kinh tế thị trường mang tính chất đột phá

quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế theo hướng kế hoạch hoá tập trung hoặc còn

và quan trọng. Đối với nhiều nước châu Phi, nhất là châu Phi Nam Sahara, trong

khép kín sang cơ chế thị trường có ba vấn đề quan trọng hàng đầu nổi lên, đó là: thể

chính; và cải cách hệ thống doanh nghiệp nhà nước theo hướng tư nhân hoá.

iii) - Về các yếu tố nền tảng tác động đến quá trình cải cách thể chế kinh

tế, luận án phân tích theo hai luận điểm, được kiểm chứng thông qua việc nghiên

chế về sở hữu; mở cửa nền kinh tế theo hướng tự do hoá thương mại, đầu tư và tài

cứu trường hợp của các nước: Guine xích đạo, Ghana và Tunisia:

- Luận điểm của Acemoglu và cộng sự cho rằng: cần có cải cách thể chế

“bao trùm” để đảm bảo cho các chuẩn mực của nền kinh tế thị trường tự do hiện

đại, đảm bảo cho các chiến lược, chính sách phát triển có được sự ủng hộ của

người dân, vận hành hiệu quả và đạt được mục tiêu phát triển.

chính trị theo hướng dân chủ hoá, tạo ra cấu trúc quyền lực chính trị bình đẳng,

Bảng 2.2: Cải cách thể chế kinh tế thị trường và dân chủ hoá

Sở hữu

Các hướng cải cách đột phá, quan trọng:

Mở cửa nền kinh tế

Cải cách doanh nghiệp nhà nước

Những nguyên tắc, chuẩn mực vận hành của nền kinh tế thị trường Việc thiết lập, vận hành các nguyên tắc, chuẩn mực về nền chính trị dân chủ

Thể chế kinh tế thị trường nền tảng: Yếu tố tác động chính đối với cải cách thể chế kinh tế thị trường:

- Luận điểm của Ngân hàng thế giới nhấn mạnh yêu cầu phải tập trung

45

hoàn thiện hệ thống các nguyên tắc, chuẩn mực về quản trị nhà nước. Theo WB,

cơ chế để đảm bảo quản trị tốt gồm có 3 yếu tố chính: 1) các quy tắc và hạn chế

nội bộ (thí dụ, có các hệ thống kiểm toán, sự độc lập của ngân hàng trung ương,

các quy định về công chức và ngân sách…); 2) tiếng nói và đối tác (thí dụ, có

các hội đồng công tư, các điều tra về phản hồi của xã hội…); và 3) cạnh tranh (ví

dụ, có cạnh tranh trong cung cấp các dịch vụ, tham gia của khu vực tư nhân, các

cơ chế giải quyết tranh chấp,…). [121]

Bảng 2.3: Cải cách thể chế kinh tế thị trường và quản trị quốc gia

Sở hữu

Các hướng cải cách đột phá, quan trọng: Mở cửa nền kinh tế

Cải cách doanh nghiệp nhà nước

Những nguyên tắc, chuẩn mực vận hành của nền kinh tế thị trường Việc thiết lập, vận hành các nguyên tắc, chuẩn mực về quản trị nhà nước

Các cuộc cải cách ở mỗi tầng thể chế có tính độc lập tương đối. Không

phải quốc gia nào cũng cần tiến hành những cuộc cải cách thể chế sâu rộng (ở tất

Thể chế kinh tế thị trường nền tảng: Yếu tố tác động chính đối với cải cách thể chế kinh tế thị trường:

cả các tầng). Đối với những quốc gia có chính phủ khá vững mạnh, có nền quản

không được đặt lên hàng đầu. Ở các quốc gia dân chủ, nếu một chính phủ không

xử lý tốt các vấn đề kinh tế và để xảy ra khủng hoảng hoặc không có các giải

pháp khắc phục khủng hoảng hữu hiệu, chính phủ đó có thể bị bất tín nhiệm và

bị thất cử. Đối với những quốc gia có nền kinh tế thị trường tự do (các nguyên

tắc của kinh tế thị trường tự do được đảm bảo), vấn đề chủ yếu của các quốc gia

này là cải cách các chính sách và chiến lược kinh tế có tác động trực tiếp đến

hoạt động kinh doanh và phân bổ các nguồn lực của nền kinh tế.

Trong lịch sử, có những quốc gia ĐPT đã gặt hái được một số thành công

mà chưa cần cải cách sâu sắc thể chế kinh tế thị trường. Tuy nhiên, đối với một

nền kinh tế thị trường chưa hoàn hảo, những cuộc cải cách này cũng có giới hạn.

Một nền kinh tế sẽ không thể huy động được nguồn lực hiệu quả lâu dài (như

46

trị nhà nước tốt, nền tảng dân chủ lâu đời, vấn đề cải cách thể chế nhà nước

vốn, tài nguyên) nếu vấn đề về quyền sở hữu không được giải quyết thỏa đáng.

Một nền kinh tế sẽ không thể khuyến khích sáng tạo, giúp cho sáng tạo trở thành

động lực của tăng trưởng một cách lâu dài, nếu như những quyền sở hữu trí tuệ

không được đảm bảo. Tương tự, nguồn lực sẽ không thể được phân bổ một cách

hiệu quả trong nền kinh tế nếu như không có một cơ chế giá cả tự do .v.v…Khi

đã đến giới hạn này, nếu muốn phát triển hơn nữa, nền kinh tế tất yếu đòi hỏi

phải cải cách thể chế kinh tế thị trường.

Một khi đã được thiết lập (được xã hội thừa nhận và được ghi trong luật

pháp), các nguyên tắc, chuẩn mực của nền kinh tế thị trường sẽ khó thay đổi hơn

là các chính sách và chiến lược vốn lệ thuộc nhiều vào nhiệm kỳ chính phủ.

Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp đã được tư nhân hóa sẽ khó quốc hữu hóa

vào thị trường thế giới quay trở lại thời kỳ khép kín, hay chuyển từ một cơ chế

giá cả tự do quay trở về cơ chế giá cả độc quyền và chịu sự kiểm soát chặt chẽ

.v.v…do những nhóm lợi ích theo đuổi những nguyên tắc cũ này không còn đủ

quyền lực (trong cả hai khía cạnh pháp lý và thực tế) và ảnh hưởng như thời kỳ

trở lại, cũng giống như việc rất khó chuyển một nền kinh tế đã hội nhập sâu rộng

trước. Trong thời kỳ khủng hoảng, tuy những sự chuyển đổi ngược dòng này có

trị quốc gia vững mạnh hay một nền chính trị dân chủ sẽ giúp duy trì được các

nguyên tắc, chuẩn mực của thị trường tự do và hiệu quả của các chính sách,

chiến lược phát triển nhất là trong thời kỳ khủng hoảng, khi các trào lưu đòi hỏi

bảo hộ, khép cửa nền kinh tế có cơ hội trỗi dậy. Tiến trình cải cách ở cấp độ này

sẽ khó khăn, phức tạp hơn bởi có sự đan xen, níu kéo lẫn nhau giữa các tầng thể

chế và các nhóm quyền lực trong xã hội.

thể xảy ra song đó chỉ là những quá trình tạm thời. Việc thiết lập một nền quản

2.4. Cải cách thể chế kinh tế thị trường của một số nước và nhóm nước

2.4.1. Cải cách thể chế kinh tế thị trường ở Đông Âu và Nga

Trong thế kỷ 20, do nhận định sai lầm về quy luật quan hệ sản xuất phải

phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, nên Liên Xô và các nước

XHCN trước đây đã áp dụng cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa tập trung, thủ

47

tiêu nền kinh tế thị trường TBCN; trong lĩnh vực sở hữu, nôn nóng xóa bỏ chế

độ sở hữu tư nhân, thiết lập chế độ công hữu một cách cứng nhắc. Các nền kinh

tế kế hoạch hóa tập trung ở Liên Xô và Đông Âu có hai đặc trưng cơ bản thường

được nói đến là [16] [23] [25]:

Thứ nhất, chế độ kinh tế cơ bản dựa trên hai hình thức sở hữu là sở hữu

nhà nước và sở hữu tập thể. Các nền kinh tế này được điều hành theo cơ chế

hành chính tập trung, quan liêu bao cấp; các quan hệ thị trường như quan hệ

hàng-tiền bị thủ tiêu. Nhà nước chính thức có một quyền lực kinh tế vô cùng to

lớn: điều khiển tất cả các lĩnh vực cơ bản của nền kinh tế, quyết định sản xuất cái

gì, bao nhiêu và như thế nào, cũng như phân phối kết quả sản xuất ra sao; và hệ

thống giá cả bao gồm giá cả các mặt hàng sản xuất và tiêu dùng cũng như giá cả

kém vì không có một nhà nước nào có đủ năng lực để ra quyết định cho mọi hoạt

động của đời sống kinh tế xã hội thay cho các thực thể tham gia nền kinh tế.

Thứ hai, nền kinh tế khép kín hay “đóng cửa,” hoặc chỉ đề cao chính sách

thay thế nhập khẩu còn trao đổi hàng hóa, dịch vụ chủ yếu chỉ giới hạn trong

ngoại hối bị quản lý chặt chẽ. Điều này khiến cho hệ thống kinh tế hoạt động yếu

phạm vi các quốc gia trong cùng hệ thống XHCN. Tuy nhiên, do cùng theo đuổi

dựng được một lợi thế so sánh cần có trong hội nhập và những nước đóng vai trò

đầu tàu không có đủ sức mạnh kinh tế để hỗ trợ các nước kém phát triển hơn. Sự

trợ giúp về mặt kỹ thuật cho các nước đi sau chỉ là buộc các nước này cố gắng

sao chép lại các mô hình từ Liên Xô cũ và các nước Đông Âu.

Những sai lầm chủ quan nghiêm trọng kéo dài trên cản trở sự cải tổ, cải

cách, đổi mới đúng đắn, làm triệt tiêu động lực phát triển. Kết quả là, hệ thống

XHCN trên thế giới sau một thời gian phát triển thành công đã trở nên trì trệ,

nền kinh tế rơi vào suy thoái, khủng hoảng rồi sụp đổ.

Sau khi từ bỏ chủ nghĩa xã hội, Liên Xô và các nước Đông Âu tiến hành

cải cách, chuyển đổi. Ngoài những cải cách chính trị, về trên lĩnh vực kinh tế,

các nước này đã tiến hành hai quá trình chuyển đổi quan trọng là: quá trình tự do

48

một cách thức phát triển giống nhau, các nước trong hệ thống XHCN không xây

hóa mà bản chất là quá trình thị trường hóa; và quá trình tư nhân hóa mà bản

chất là việc chuyển đổi từ sự thống trị của sở hữu nhà nước và các hình thức sở

hữu tương tự sang sự thống trị của sở hữu tư nhân.

Quá trình tự do hóa các hành vi kinh tế cho phép hầu hết các loại giá cả

được xác định bởi các lực lượng thị trường để phân bổ nguồn lực một cách hiệu

quả. Một phần của quá trình này là tự do hóa thương mại, loại bỏ dần hàng rào

thuế quan để giá cả trên thị trường trong nước tiếp cận dần với giá cả thị trường

thế giới. Trong nước, các quốc gia này cắt giảm tiến tới xóa bỏ việc trợ cấp hàng

tiêu kế hoạch sản xuất; xóa bỏ hệ thống phân bổ nguồn lực tập trung; cho phép

hóa cho người tiêu dùng; xóa bỏ trợ giá cho người sản xuất; xóa bỏ hệ thống chỉ

kết quả hoạt động của doanh nghiệp; kèm theo đó là dỡ bỏ các qui tắc ấn định

giá cả và tự do hóa thương mại trong nước. Về ngoại thương, các nước này bãi

bỏ giấy phép và các qui định hạn chế số lượng xuất nhập khẩu; cho phép các

doanh nghiệp thuộc nhiều loại hình sở hữu khác nhau tham gia vào hoạt động

các cơ sở sản xuất được tự chủ trong kế hoạch sản xuất và tự chịu trách nhiệm về

ngoại thương đồng thời từng bước xóa bỏ độc quyền của các tổ chức ngoại thương

mại đồng thời hạ thấp hàng rào thuế quan để khuyến khích xuất nhập khẩu; thực

hiện thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Ở hầu hết các nước, chính phủ từng bước cho

phép chuyển đổi nội tệ trong tài khoản vãng lai (có nghĩa là các doanh nghiệp trong

nước có thể tự do mua và bán ngoại tệ để phục vụ mục đích hiện tại) đồng thời thực

hiện phá giá đồng nội tệ xuống bằng tỷ lệ ở chợ đen.

Quá trình tư nhân hóa nhằm cải cách các doanh nghiệp nhà nước để tạo

dựng một khu vực công ty linh hoạt và hiệu quả, tiến tới mục tiêu cuối cùng là

phân bổ và khai thác hiệu quả hơn các nguồn lực khan hiếm của nền kinh tế và

cải thiện hiệu quả sản xuất. Bên cạnh mục tiêu hiệu quả kinh tế, tư nhân hóa có

thể nhằm mục tiêu chính trị. Ở các nước chuyển đổi, có không ít quan niệm rằng

tư nhân hóa là tất cả các biện pháp góp phần vào quá trình phi nhà nước hóa các

49

nhà nước; áp dụng thuế quan như là một công cụ hữu hiệu của chính sách thương

hoạt động kinh tế. Có nghĩa là nó sẽ làm triệt tiêu sở hữu nhà nước, phá bỏ mô

hình XHCN và tạo ra một lớp các chủ doanh nghiệp và các nhà tư bản mới. Tư

nhân hóa cũng có thể nhằm mục tiêu tài chính do nó tạo ra doanh thu cho nhà

nước. Ngoài ra, vào giai đoạn đầu của quá trình chuyển đổi, các chính phủ có thể

sử dụng tư nhân hóa như một phương tiện ổn định phụ trợ bằng cách đưa tài sản

nhà nước ra bán để triệt tiêu lượng tiền dư thừa khi có nhiều khoản tiết kiệm của

dân chúng.

Tư nhân hóa được coi là nhân tố cơ bản của quá trình chuyển đổi ở các nước

Trung và Đông Âu, các nước vùng Baltics và cộng đồng các quốc gia độc lập. Ở

các quốc gia này, tư nhân hóa được tiến hành cùng với các biện pháp nhằm cấu trúc

lại nền kinh tế sau: Một là, bắt đầu tư hữu hóa và tháo gỡ độc quyền nhà nước trước

mới và thị trường lao động tự do mềm dẻo. Hai là, hình thành môi trường thị

trường tài chính lành mạnh thông qua cải tổ khu vực ngân hàng, tài chính và cải tổ

thuế. Ba là, phát triển mạng lưới an sinh xã hội thay thế hệ thống bao quát tất cả từ

“nôi cho đến mộ” trước đây, và làm giảm ảnh hưởng của các biện pháp khổ hạnh

đây; áp dụng các luật cạnh tranh tự do như tự do gia nhập thị trường của các công ty

của chuyển đổi cơ cấu. Bốn là, đề xướng chính sách công nghiệp để xác định “kẻ

hoạt động hỗ trợ và đặt ra các chính sách thích hợp như khuyến khích bằng giảm

thuế, áp dụng cơ chế thưởng xuất khẩu, dùng thuế quan bảo hộ những ngành công

nghiệp non trẻ, quan tâm đến môi trường hay giúp các doanh nghiệp hạn chế thiệt

hại do thay đổi chính sách gây ra.[23]

Thực tế cũng cho thấy, tại một số nước đã theo đường lối XHCN trước

đây, lý luận và thực tiễn đã thay đổi 180 độ: từ chỗ tôn thờ chế độ công hữu

chuyển sang tôn thờ chế độ tư hữu; từ chỗ nỗ lực phát triển khu vực nhà nước và

các xí nghiệp quốc doanh quy mô lớn chuyển sang tư nhân hóa ồ ạt; từ chỗ “cào

bằng” với mong muốn có được bình đẳng xã hội sang chỗ sẵn sàng chấp nhận

một nhóm người giàu lên nhanh chóng, tích lũy được những nguồn tài sản khổng

lồ...gây ra sự phân hóa cao trong xã hội.

50

thắng, người thua” trong các lĩnh vực công nghiệp sẽ phải tái cơ cấu, xác định các

Trong khi đó, một số nước XHCN còn lại đã kịp thời nhận ra những sai

lầm trên, tiến hành cải cách, đổi mới, xây dựng những mô hình kinh tế thị trường

phù hợp như kinh tế thị trường định hướng XHCN của Việt Nam, kinh tế thị

trường XHCN Trung Quốc; điều chỉnh các thể chế của nền kinh tế thị trường

cho phù hợp với hoàn cảnh mới trong đó có sở hữu... Quá trình cải cách kinh tế

của Trung Quốc thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ: vừa tiến hành cải cách mang

tính “thị trường” và giảm bớt vai trò của nhà nước; vừa phải đảm bảo thực hiện

mục tiêu XHCN; đặc biệt, nhà nước đóng vai trò chính yếu trong việc xây dựng

nền kinh tế thị trường. Về sở hữu, tư liệu sản xuất và các tổ chức kinh tế đầu tàu

đều thuộc sở hữu của nhà nước hoặc sở hữu hỗn hợp, nhưng nền kinh tế vẫn

được vận hành theo nguyên tắc của thị trường. Tuy vậy, quá trình cải cách, xây

và khám phá.

dựng và phát triển này vẫn đang được các nước XHCN hiện nay tiếp tục tìm tòi

2.4.2. Cải cách thể chế kinh tế thị trường ở Hàn Quốc

Kể từ khi Chiến tranh Triều Tiên kết thúc năm 1953, Hàn Quốc đã nỗ lực

tái thiết sau chiến tranh tập trung vào công nghiệp hóa, đô thị hóa, và tăng

trưởng kinh tế định hướng xuất khẩu. Hàn Quốc đã chuyển từ một quốc gia

50 năm. Tuy nhiên, trong vòng 50 năm đó, đất nước Hàn Quốc cũng đã trải qua

nhiều thăng trầm và nhiều cuộc cải cách thể chế quan trọng: Cuộc cải cách thể

chế thứ nhất là tiến trình dân chủ hóa từ cuối những năm 1970; cuộc cải cách thể

chế thứ hai diễn ra sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997-1998; còn cuộc

cải cách gần đây nhất diễn ra trong bối cảnh hậu khủng hoảng tài chính và suy

thoái kinh tế toàn cầu.

Mối liên hệ qua lại giữa ba nguyên tắc “ý thức hệ Chiến tranh lạnh”, “nhà

nước độc tài” và “phát triển kinh tế” đã chi phối sâu sắc nền kinh tế, xã hội và

chính trị Hàn Quốc dưới thời kỳ độc tài quân sự (1961 – 1987).

Kể từ năm 1962, chính quyền độc tài quân sự của ông Park Chung-Hee đã

51

thuộc “thế giới thứ ba” sang một quốc gia thuộc “thế giới thứ nhất” trong vòng

đưa ra và thực thi những kế hoạch phát triển kinh tế theo con đường tư bản chủ

nghĩa đồng thời dựa vào mô hình nhà nước chỉ đạo tăng trưởng kinh tế. Hàn

Quốc đã chuyển trọng tâm của nền công nghiệp sang sản xuất để xuất khẩu, tiến

hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa thành công và trở thành con hổ kinh tế ở

châu Á.

Tuy nhiên, trong chính sách đối nội và đối ngoại, Tổng thống Park

Chung-hee đã để lại những dấu ấn rất tiêu cực. Chế độ của ông coi đàn áp chính

trị là sách lược chính đối với những người chống đối nên rất khắc nghiệt với các

công dân của mình. Park Chung-hee đã cho ban hành nhiều sắc lệnh chống công

nhân, cấm mít tinh, biểu tình, diễu hành và đàn áp dã man các phong trào đấu

tranh chống đối chính phủ.

hoảng trầm trọng. Chính sách phản dân chủ của chính quyền Park Chung Hee đã

dấy lên phong trào chống đối chính phủ mạnh mẽ của mọi tầng lớp. Những làn

sóng biểu tình phản đối chế độ độc tài càng ngày càng lan rộng ở Hàn Quốc vì

Từ nửa sau những năm 1970, xã hội Hàn Quốc bắt đầu rơi vào khủng

có quá nhiều người dân không thể hài lòng với cách cai trị độc đoán của Park

Chunghee. Sau khi ông Park Chung-hee bị ám sát năm 1979, Hàn Quốc trải qua

Tổng thống Chun Doo-hwan trong bối cảnh chính trường Hàn Quốc dần chuyển

từ hỗn loạn sang ổn định hơn. Trong cuộc bầu cử dân chủ đầu tiên ở Hàn Quốc

năm 1987, một chính quyền dân chủ đã được thành lập sau chiến thắng của ông

Roh Tae-woo. Sau cuộc bầu cử dân chủ lần hai vào năm 1992, ông Kim Young-

sam đã trở thành tổng thống.

Tổng thống Kim Young-sam đã có nhiều cố gắng cải cách hệ thống hành

chính và nền kinh tế Hàn Quốc. Ông đã phát động các chiến dịch chống tham

nhũng quyết liệt. Đồng thời, ông cũng đã ân xá cho hàng ngàn tù nhân chính trị

[22]. Năm 1997, đảng đối lập đã chiến thắng trong cuộc bầu cử dân chủ lần thứ

ba tại Hàn Quốc và đạt được sự chuyển giao quyền lực bằng con đường hoà

52

hai đời tổng thống là ông Choi Kyu-hah và người kế nhiệm ông Choi Kyu-hah là

bình. Năm 2007, người Hàn Quốc đã kỷ niệm 20 năm nền dân chủ được thiết lập

tại nước này.[28]

Trước khủng hoảng tài chính châu Á 1997-1998, kinh tế Hàn Quốc đã tận

hưởng liên tiếp hơn 3 thập kỷ tăng trưởng ngoạn mục. Hàn Quốc chuyển đổi kỳ

diệu từ một quốc gia “nghèo khổ” thành “cơ sở công nghiệp chế tạo hùng

mạnh”. Sự “thần kỳ” này là kết quả của chiến lược công nghiệp hoá định hướng

bởi nhà nước và thực hiện các tập đoàn kinh doanh sản xuất lớn (chaebol).

Khởi đầu từ thập kỷ 1960, chủ nghĩa độc đoán phát triển bao trùm tư duy

của lãnh đạo Hàn Quốc. Chính phủ Hàn Quốc trong thời kỳ dài đã định hướng

chiến lược cho doanh nghiệp, can thiệp sâu vào các quyết định kinh doanh sản

xuất. Nhà nước sử dụng quyền lực của mình để phân bổ nguồn lực theo ý chí

đổi diện mạo của nền kinh tế Hàn Quốc song cùng với quá trình công nghiệp

hoá, chủ nghĩa độc đoán phát triển đã tạo điều kiện cho sự lan rộng của “chủ

nghĩa tư bản thân quen” vốn chứa đựng sự dễ dãi, khuyến khích triệt thoái

chính trị. Mặc dù chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu đã làm thay

nguyên tắc dân chủ và minh bạch trong kinh doanh.

Với nhiệm vụ bà đỡ cho doanh nghiệp, chính phủ Hàn Quốc dành nhiều ưu

số chaebol thuộc sở hữu gia đình với kỳ vọng họ là lực lượng chủ lực để hiệnthực

hoá chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu. Để tạo điều kiện cho các

chaebol thực thi mục tiêu kinh tế đầy tham vọng do chính phủ đặt ra, mối quan hệ

ba bên nhà nước - ngân hàng - doanh nghiệp đã được khai thác tối đa. Cùng với

thời gian, mối quan hệ này không còn có động cơ hoàn toàn “trong sáng”, nó biến

chất thành liên minh tay ba với nhiều hoạt động kinh doanh thiếu minh bạch, quản

lý công ty lỏng lẻo, quan hệ gia đình trong các chaebol chi phối các quyết định

quản trị công ty, bỏ qua trách nhiệm giải trình. Nhiều quyết định kinh doanh mắc

phải sai lầm nghiêm trọng do sự câu kết của liên minh tay ba này.

Những thành công kinh tế của Hàn Quốc đã rất ấn tượng cho đến khi khủng

53

đãi về vốn, về chính sách thuế cũng như quan thuế, về thể chế quản lý…cho một

hoảng tài chính châu Á xảy ra. Sự sụp đổ tài chính vào năm 1997-1998 của Hàn

Quốc đã buộc giới chức nước này phải thừa nhận “khuyết tật” ngay trong mô hình

vốn từng nhận được nhiều ca ngợi. Lãnh đạo Hàn Quốc đã thừa nhận sai lầm cơ

bản là: nền kinh tế thị trường được xây dựng trong môi trường thiếu minh bạch và

bỏ qua giá trị dân chủ đích thực. Khi các tập đoàn kinh tế , các công ty có vấn đề về

năng lực tài chính, về hiệu quả đầu tư, về quản trị kinh doanh, về thể chế hoạt động

hay về tính minh bạch…chúng làm suy yếu sức mạnh và làm giảm độ tín nhiệm của

nền kinh tế. Các chaebol được coi như những quả đấm thép hiện thực hoá thành

công ý chí chính trị của lãnh đạo nhà nước Hàn Quốc, nhưng đồng thời chính chúng

đã dẫn Hàn Quốc đến đổ vỡ tài chính.

Cuộc khủng hoảng tài chính châu Á đã làm bộc lộ những khiếm khuyết do

việc điều hành vĩ mô độc đoán đến lúc cần phải được thay thế bằng cách thức

điều hành dân chủ, công khai, minh bạch thông qua tái cấu trúc nền kinh tế bằng

cách cải cách thể chế kinh tế trên nền tư duy phát triển mới, theo đuổi song song

dân chủ và kinh tế thị trường. Chính phủ Hàn Quốc trong cơn bĩ cực đã phải

thực thi chủ nghĩa độc đoán phát triển tạo ra. Sau thời kỳ phát huy tính tích cực,

chấp nhận điều kiện tái cấu trúc khắc nghiệt mà IMF đưa ra để đổi lấy gói cứu

Một trong những nội dung quan trọng nhất của tái cấu trúc nền kinh tế

Hàn Quốc sau thời kỳ khủng hoảng châu Á là tái cấu trúc khu vực doanh nghiệp,

cụ thể là các chaelbo lớn vốn đóng vai trò chủ lực trong hầu hết các ngành công

nghiệp và dịch vụ của nền kinh tế quốc gia. Đồng thời với vai trò quan trọng

thúc đẩy kinh tế phát triển trong nhiều thập kỷ qua, các doanh nghiệp Hàn Quốc,

đặc biệt là những chaebol, đã áp dụng mô hình quản trị chứa đựng quá nhiều

khiếm khuyết nên thất bại là điều khó tránh khỏi. Một loạt biện pháp khắc nghiệt

đã được IMF đưa ra nhằm cải cách nền quản trị của các chaebol, như: tăng

cường sự minh bạch, nghiêm cấm các hình thức bảo lãnh chéo, tập trung vào các

lĩnh vực cốt lõi, nghiêm cấm các hình thức hối lộ, các hình thức tác động lên quá

trình ra quyết định chính sách, v.v.

54

trợ 65 tỷ đôla vào tháng 12 năm 1997.

Cuộc khủng hoảng này đã buộc lãnh đạo nhà nước và doanh nghiệp phải

cùng nhau nắn chỉnh điều hành vĩ mô cũng như vi mô vào đúng khuôn khổ. Hàn

Quốc đã đoạn tuyệt với chủ nghĩa độc đoán phát triển, nghiêm túc xoá bỏ những

yếu kém trong quản trị nhà nước cũng như quản trị công ty. Vì lợi ích lâu dài của

quốc gia, chương trình tái cấu trúc kinh tế nhằm giúp chuyển đổi nền kinh tế

Hàn Quốc từ mô hình độc đoán phát triển sang mô hình kinh tế thị trường minh

bạch và tự do tài chính nhằm thu hút đầu tư và công nghệ nước ngoài, từ đó thúc

đẩy sự lớn mạnh và thâm nhập rộng hơn của các doanh nghiệp Hàn Quốc vào thị

trường toàn cầu [17].

2.4.3. Cải cách thể chế kinh tế thị trường ở Trung Quốc

Trong một thời gian dài, chính sách đóng cửa kinh tế với bên ngoài đã hạn

tiến của thế giới vào Trung Quốc, khiến cho nền kinh tế nước này chậm phát

triển, khoảng cách về kinh tế với các nước và ngay cả với các phần lãnh thổ của

Trung Quốc như Hồng Kông, Đài Loan, Ma Cao ngày càng xa.

chế việc thu hút nguồn vốn cũng như những thành quả khoa học công nghệ tiên

Sau năm 1978, Trung Quốc tiến hành cải cách kinh tế, khởi đầu bằng việc

những thành công ban đầu của 4 đặc khu trên, để đáp ứng yêu cầu mở cửa đối

ngoại hơn nữa, Trung Quốc đã thành lập đặc khu kinh tế thứ 5 bao gồm toàn

bộ đảo Hải Nam). Trong điều kiện thực tế của Trung Quốc những năm đầu thập

kỷ 1980 thì ĐKKT là mô hình hoàn toàn mới, vừa mang tính cách tân mạnh mẽ,

vừa mang tính thử nghiệm táo bạo nhằm tạo ra bước đột phát trong phát triển

kinh tế. Với những bước đi thận trọng nhưng khẩn trương, Trung Quốc đã tạo ra

đột phá trong tiến trình mở cửa thông qua các khu kinh tế: bắt đầu từ điểm (5 đặc

khu kinh tế ) đến tuyến (14 thành phố mở cửa ven biển), đến diện (3 vùng mở

cửa ven sông, ven biển, ven biên giới); từng bước hình thành cục diện mở cửa

toàn diện, nhiều tầng nấc từ Nam đến Bắc, từ Đông sang Tây, từ ven biển vào

nội địa theo kiểu cuốn chiếu tạo nên không gian thông thoáng cho các nhà đầu

55

xây dựng những đặc khu kinh tế (ĐKKT) mở (Tháng 4/1988, dựa trên cơ sở

tư, đồng thời hoàn thành cơ bản quá trình mở cửa trong phạm vi cả nước ở

những mức độ khác nhau.

Đặc biệt, năm 2001, Trung Quốc đã gia nhập WTO, đánh dấu giai đoạn

mở cửa toàn diện của nền kinh tế nước này. Tiến trình gia nhập WTO cũng được

xem là bước ngoặt có thể tạo ra những thay đổi lớn trong hệ thống thể chế kinh

tế của Trung Quốc. Sau khi gia nhập WTO, Trung Quốc đã tiến hành nhiều biện

pháp nhằm thực hiện các cam kết nói trên như sửa đổi Hiến pháp, luật và quy

các điểm trả lời câu hỏi và cung cấp thông tin liên quan đến WTO như Trung

tâm thông báo và và cung cấp thông tin WTO của Trung Quốc; Văn phòng

WTO và Cục hội chợ thương mại và xuất nhập khẩu). Mặc dù có nhiều nỗ lực

định của các bộ, ngành cấp trung ương và địa phương (Trung Quốc đã thành lập

là một trong những thị trường kém minh bạch.Trung Quốc đã cố gắng minh bạch

hóa quá trình ra quyết định và chính sách theo cam kết với WTO song nỗ lực

này vẫn chưa được tiến hành đồng bộ. Thí dụ, Bộ Thương mại của Trung Quốc

đi đầu trong nỗ lực minh bạch hóa tiến trình soạn thảo và công bố các văn bản

cải cách nền kinh tế nhằm đáp ứng các yêu cầu của WTO, Trung Quốc vẫn còn

song các bộ, ban ngành khác của Trung Quốc vẫn còn chưa theo kịp. Ngoài ra,

“quy định” và “thương mại”[48] vì thế vẫn còn sử dụng các biện pháp không

minh bạch nhằm bóp méo thương mại (theo Cơ quan Đại diện Thương mại Hoa

Kỳ). Mặc dù Chính phủ trung ương Trung Quốc quyết tâm nghiêm túc thực thi

các cam kết với WTO thì do có các lợi ích cục bộ của mình chính quyền địa

phương nhiều nơi vẫn cố tình trì hoãn thực thi các cam kết này [74].Việc chính

phủ trung ương Trung Quốc cho phép các địa phương có những thời hạn thực thi

cam kết khác nhau cũng khiến cho việc thi hành cam kết trở nên thiếu đồng bộ.

Chính quyền địa phương ở các nơi có nhiều tự chủ về kinh tế ít muốn tuân thủ

các cam kết với WTO hơn do họ không lệ thuộc vào chính phủ trung ương mà

vào nguồn thuế đối với các công ty địa phương và luôn muốn bảo vệ lợi ích của

các công ty này [99].

56

nhiều cơ quan chính phủ của Trung Quốc cũng chưa tách bạch hai chức năng

Thực tế cho thấy, một hệ thống luật pháp - hành chính - kinh tế của Trung

Quốc vẫn còn khá phức tạp với những đặc điểm như:

- Tổ chức chính quyền bao gồm rất nhiều “kênh” thông báo và hướng

dẫn trong toàn hệ thống như qua Đảng, qua chính phủ và qua các tổ

chức địa phương [76].

- Hệ thống luật pháp thiếu các quy định chặt chẽ về mối quan hệ giữa

chính quyền trung ương và chính quyền địa phương đang có quyền

hành nhiều hơn trong quá trình phi tập trung hóa [57].

- Ngoài hệ thống luật pháp còn có một hệ thống quy định dưới luật gồm

các văn bản hành chính và các tài liệu hướng dẫn chồng chéo và nhiều

khi không được công khai hóa [57].

yếu là do thiếu thông tin, tâm lý dựa vào thói quen tập quán cũ và tồn

tại các sức ép chính trị xã hội tác động đến các quyết định kinh tế.[50]

Chính những “rào cản nội bộ” này đang cản trở tiến trình mở cửa và phát

- Hệ thống thể chế kinh tế bảo thủ và thiếu năng động. Nguyên nhân chủ

triển xa hơn của Trung Quốc. Các chính sách kinh tế méo mó, bất cập thể hiện qua

các vấn đề như: tình trạng phát triển dàn trải, thiếu vững chắc; đầu tư xây dựng cơ

cạnh tranh gay gắt trên thị trường quốc tế, mức tiêu thụ nội bộ bị hạn chế bởi giá cả

tăng cao. Tất cả những vấn đề này lộ rõ và trở nên nghiêm trọng hơn trong bối cảnh

nền kinh tế khó khăn do tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu.

Báo cáo Đại hội 18 Đảng Cộng Sản Trung Quốc năm 2011 đã vạch ra

phương hướng phát triển Trung Quốc trong thời gian tới, đi sâu cải cách thể chế

kinh tế. Cụ thể báo cáo đã đưa ra một số nội dung quan trọng. Nổi bật là “Quan

điểm phát triển khoa học” được đưa vào cương lĩnh, là tư tưởng chỉ đạo xây

dựng và phát triển Trung Quốc trong những năm tới. Trong giai đoạn phát triển

mới hiện nay, quan trọng nhất chính là Trung Quốc cần phải tăng cường động

lực mới trong phát triển kinh tế, đó chính là động lực sáng tạo, từ việc dựa quá

57

bản tăng trưởng quá nóng; đồng thời tập trung quá mức vào nền kinh tế xuất khẩu

nhiều vào lợi thế về nhân công, về đất đai phải chuyển sang dựa vào lợi thế về

sáng tạo và đi sâu cải cách để hình thành lợi thế về chế độ.

Sách xanh năm 2013 cho rằng, hiện Trung Quốc đã bước vào giai đoạn

phát triển mới cao hơn, trong ngắn hạn các biện pháp hành chính vẫn còn có hiệu

quả, nhưng tín hiệu giá cả bị méo mó, trái với quy luật giá trị, có thể khiến

những mâu thuẫn tích lũy nhiều thêm, giải quyết cũng ngày càng khó. Vì thế,về

lâu dài Chính phủ nên giảm chức năng và sự can thiệp của mình vào tất cả các

lĩnh vực mà dần dần chỉ can thiệp trong giới hạn, và cung cấp các dịch vụ công

cộng hiệu quả, để cho cơ chế thị trường, cơ chế xã hội phát huy tác dụng lớn

hơn, nhiều hơn trong việc phân bổ các nguồn lực và trật tự xã hội [29].

Hội nghị Trung ương 3 khóa XVIII Đảng Cộng sản Trung Quốc diễn ra

thay đổi chính sách “chưa từng thấy”, với một kế hoạch “cải cách toàn diện” chi

tiết nhằm chuyển đổi mô hình tăng trưởng và tái điều chỉnh cơ cấu kinh tế, tăng

gấp đôi mức sống của người dân Trung Quốc vào năm 2020. Phương hướng cải

vào tháng 11 năm 2013 là sự kiện hết sức quan trọng, được đánh giá là có những

cách của Hội nghị lần này chính là tự do hóa thị trường, khuyến khích sáng tạo

thấy, "bàn tay" của chính phủ quá dài, chính phủ quản quá nhiều, nhưng quản

không hiệu quả, lấy "phê duyệt hành chính" thay thế cơ chế thị trường, gây nên

những chướng ngại cho việc tự do hóa thị trường, biểu hiện chủ yếu trên 3

phương diện: (1) Thủ tục hành chính gây phiền hà, nảy sinh tham nhũng; (2) Các

ngành độc quyền (chủ yếu thuộc khu vực kinh tế nhà nước) gây lũng đoạn thị

trường; (3) Chủ nghĩa bảo hộ địa phương, chia cắt thị trường, hạn chế đến tự do

lưu thông. Những điều này tạo nên lợi ích nhóm cực lớn, bóp méo giá cả, chia

cắt thị trường, ảnh hưởng đến cạnh tranh, phá hoại nguyên tắc công bằng thị

trường, khiến nền kinh tế mất sức sống, doanh nghiệp mất phương hướng.

"Quyết định của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc về những vấn đề trọng

58

và cạnh tranh, tăng minh bạch chính phủ.Thực tế là lâu nay ở Trung Quốc cho

đại toàn diện đi sâu cải cách" được thông qua tại Hội nghị có nêu: "Cải cách thể

chế kinh tế là trọng điểm của toàn diện đi sâu cải cách, vấn đề cốt lõi là cần làm

rõ mối quan hệ giữa chính phủ và thị trường, cho phép thị trường đóng vai trò

quyết định trong việc phân bổ các nguồn lực và cải thiện vai trò của chính phủ".

Thực chất, thị trường quyết định phân bổ nguồn lực là quy tắc thông thường của

kinh tế thị trường, kiện toàn thể chế kinh tế thị trường XHCN cần tôn trọng quy

luật này. Đồng thời, từ nay về sau Chính phủ sẽ xác định vị trí hợp lý của mình,

thực hiện chuyển đổi chức năng của chính phủ, xây dựng pháp chế, nhà nước

trực tiếp phân bổ các nguồn lực (điều tiết vi mô). Chức năng và tác dụng của

pháp trị và chính phủ loại hình phục vụ. Giảm với mức độ lớn việc chính phủ

vụ công, đảm bảo cạnh tranh công bằng, thúc đẩy phát triển bền vững, bổ trợ đối

với những thất bại của thị trường.

"Quyết định" khẳng định chế độ công hữu là chủ thể, tuy nhiên "kinh tế

công hữu và phi công hữu đều là bộ phận cấu thành quan trọng của kinh tế thị

chính phủ chủ yếu là đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, tăng cường và ưu hóa dịch

trường XHCN, đều là cơ sở quan trọng phát triển kinh tế xã hội Trung Quốc.

loại hình sở hữu, "tài sản kinh tế quốc hữu không được xâm phạm, tài sản của

kinh tế phi công hữu cũng vậy, không được xâm phạm". Như vậy, kinh tế công

hữu và kinh tế phi công hữu được đối xử bình đẳng như nhau. Hơn nữa, đây

cũng là quy định mang tính pháp lý về bảo vệ quyền tài sản của vốn tư nhân, vốn

nước ngoài tại Trung Quốc, điều này khiến họ yên tâm khi đầu tư vào Trung

Quốc [29].

Hoàn thiện chế độ bảo vệ quyền tài sản, quyền tài sản chính là cốt lõi của các

2.4.4. So sánh kinh nghiệm cải cách thể chế kinh tế thị trường của các nước

và khu vực

Trong các cuộc cải cách thể chế kinh tế thị trường, trọng tâm nổi bật nhất

là điều chỉnh mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường. Phần lớn quá trình cải

59

cách kinh tế thực chất là những quá trình điều chỉnh sự cân bằng giữa chức năng

nhà nước - thị trường trong điều hành nền kinh tế. Điều này thể hiện rõ rệt nhất ở

những nước trong quá trình chuyển đổi từ cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung

sang cơ chế thị trường như: Đông Âu, Nga và Trung Quốc.

Tuy vậy, từ thực tiễn và lý thuyết cho thấy, vấn đề hàm lượng “thị

trường” và “nhà nước” trong mối quan hệ giữa nhà nước với thị trường vẫn còn

có nhiều tranh cãi. Nếu như nhìn lại lịch sử phát triển của CNTB, khi nền kinh tế

bị khủng hoảng thì người ta thường đề cao vai trò điều tiết của nhà nước đối với

nền kinh tế và đổ lỗi cho thị trường bị buông lỏng, thiếu giám sát, kỷ cương.

Ngược lại, khi nền kinh tế trì trệ thì người ta thường đổ lỗi chủ yếu cho việc nhà

nước can thiệp quá sâu và kéo dài vào nền kinh tế và đề cao nguyên tắc “bàn tay

Việc chuyển đổi ồ ạt sở hữu nhà nước sang sở hữu tư nhân ở các nền kinh

tế Đông Âu và Nga đã cho thấy nhiều bất cập. Thực tế ngay cả ở các nền kinh tế

thị trường tự do, tùy thuộc vào mức độ can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế

vô hình” [24].

mà mức độ sở hữu của nhà nước trong nền kinh tế quốc dân rất khác nhau: từ

mức thấp ở những nền kinh tế thị trường tự do như Mỹ (0,4% tài sản cố định và

trường xã hội như Pháp, CHLB Đức (từ 10% đến 42% cũng vào đầu những năm

1980). Tuy nhiên, mức độ sở hữu nhà nước ở các nền kinh tế thị trường đều

không cao như ở các nước XHCN trong hệ thống kinh tế kế hoạch hóa tập trung

(65% - 100% đầu những năm 1980) [21]. Mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập

trung sụp đổ đã kéo theo sự phá sản của kiểu tổ chức sản xuất dựa trên chế độ sở

hữu nhà nước mang tính độc tôn. Do vậy, vấn đề tranh luận hiện chỉ còn xoay

quanh việc sở hữu nhà nước ở mức độ nào là phù hợp, theo đó nhà nước nên can

thiệp vào nền kinh tế đến mức độ nào và như thế nào để đạt hiệu quả cao nhất. Ở

tất cả các nước tư bản, cho dù theo đuổi các mô hình kinh tế thị trường có điểm

khác nhau, từ mô hình kinh tế thị trường tự do theo kiểu Mỹ-Anh, cho đến mô

60

1,3% trong GDP đầu những năm 1980), tới mức cao ở những nền kinh tế thị

hình kinh tế thị trường xã hội của Đức và Bắc Âu, hay mô hình kinh tế thị

trường đặc thù của Đông Á, nhà nước nhiều hay ít đều can thiệp vào thị trường

để khắc phục những khuyết tật của nó; sở hữu công cộng, sở hữu nhà nước vẫn

có một vai trò quan trọng nhất định trong phát triển kinh tế-xã hội.

Sở hữu nhà nước có vai trò quan trọng hơn tại các nền kinh tế thị trường

xã hội như Đức và các nước Bắc Âu do nhà nước phải thực hiện các mục tiêu về

việc làm, duy trì phúc lợi xã hội và đáp ứng các dịch vụ công. Song gánh nặng

của các khoản trợ cấp xã hội đang tăng dần trên vai của các nhà nước phúc lợi

kiểu này. Hơn nữa, để có tiền chi cho những phúc lợi xã hội, chính phủ đã phải

đánh thuế rất cao, hành động mà những người theo trường phái tự do chủ nghĩa

cho rằng là đã xâm phạm đến quyền tự do có tài sản của mỗi cá nhân. Cuộc

hình kinh tế thị trường xã hội. Các nền kinh tế theo mô hình này cần phải bảo

đảm được sự cân bằng giữa vai trò của Nhà nước và thị trường.

Đối với các nền kinh tế thị trường phát triển ở Đông Á, nhà nước đóng vai

khủng hoảng nợ công ở châu Âu đang là một minh chứng cho sự thất bại của mô

trò quan trọng trong việc chỉ đạo, điều tiết và định hướng nền kinh tế thông qua

các công cụ chính sách của mình [119], nhờ vậy đã duy trì được tốc độ tăng

chính phủ dành nhiều ưu đãi về vốn, về chính sách thuế cũng như quan thuế, về

thể chế quản lý…cho một số chaebol thuộc sở hữu gia đình với kỳ vọng họ là

lực lượng chủ lực để hiện thực hoá chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất

khẩu. Cho đến khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997-1998, các chaebol vẫn là

niềm tự hào của Hàn Quốc. Tuy nhiên, khi xảy ra đổ vỡ tài chính, Hàn Quốc đã

khởi động chương trình tái cấu trúc để sửa chữa khuyết tật của các chaebol, từ

đó, thúc đẩy sự lớn mạnh và thâm nhập rộng hơn của các doanh nghiệp nước này

vào thị trường toàn cầu. Kinh nghiệm của Đông Á cho thấy, sự tập trung sở hữu

dù đó là sở hữu tập thể hay sở hữu tư nhân có thể là một yếu tố cản trở sự phát

triển của kinh tế thị trường. Các công ty lớn có thể trở thành một hiện tượng “too

61

trưởng cao và kinh tế vĩ mô ổn định. Tại Hàn Quốc, khởi đầu từ thập kỷ 1960,

big to fail” (quá lớn để có thể sụp đổ) và nó vi phạm đến triết lý về “sự hủy diệt

sáng tạo” của thị trường tự do: cần để cho những tổ chức kinh tế không phù hợp,

không hiệu quả bị loại thải, và mở đường cho những tổ chức kinh tế mới, hiệu

quả hơn xuất hiện. Công cuộc cải cách ở Trung Quốc phức tạp hơn, liên quan

đến các thể chế của nền kinh tế thị trường và hệ thống quản trị quốc gia, như các

vấn đề về sở hữu, tự do hóa và xóa bỏ độc quyền, vai trò can thiệp của nhà nước

đối với nền kinh tế, chống tham nhũng v.v…Đây là điều dễ nhận thấy vì Trung

Quốc có nền kinh tế thị trường chưa hoàn chỉnh và nền quản trị quốc gia còn

nhiều yếu kém.

Nếu nhìn lại lịch sử thì các cuộc cải cách hệ thống thể chế kinh tế thị trường

và cải cách nền quản trị quốc gia của Hàn Quốc đã diễn ra từ thời gian trước. Tiến

hoảng châu Á năm 1997-1998 đã làm thay đổi căn bản diện mạo nền quản trị quốc

gia và hệ thống thể chế kinh tế thị trường của Hàn Quốc. Hàn Quốc đã từ bỏ chủ

nghĩa độc đoán phát triển, phá vỡ liên minh “nhà nước-ngân hàng-doanh nghiệp”,

trình dân chủ hóa kể từ cuối những năm 1970 và quá trỉnh cải cách sau khủng

chấm dứt sự độc quyền của các chaebol, để xây dựng một nền kinh tế thị trường

minh bạch hơn. Quá trình phát triển của nền kinh tế Hàn Quốc là quá trình trải

Sự khác biệt về phương thức cải cách thể chế kinh tế có thể là một nguyên

nhân dẫn đến những kết quả khác nhau. Đối với Hàn Quốc, tiến trình dân chủ

hóa thời kỳ 1979-1987 có thể coi là nỗ lực tập trung vào việc cải cách quản trị

quốc gia. Tiến trình cải cách sau khủng hoảng tài chính châu Á có mục tiêu

chính là hoàn thiện và thực thi các chuẩn mực của nền kinh tế thị trường hiện

đại, bao trùm. Trung Quốc đã tiến hành những cuộc cải cách từ điểm cho đến

tuyến và đến diện rất thành công, thể hiện qua tiến trình hội nhập và mở cửa nền

kinh tế. Tuy nhiên, khi những nỗ lực cải cách ở phạm vi rộng lớn hơn như ở tầm

quốc gia thì lại diễn ra rất chậm. Các nền kinh tế Đông Âu và Nga thì tiến hành

chuyển đổi rất nhanh, song cũng mang lại những kết quả khác nhau mà cải cách

các doanh nghiệp nhà nước là một thí dụ điển hình.

62

nghiệm từ phát triển đến sa lầy và phát triển lại ở tầm cao hơn.

Việc cải cách thể chế toàn diện đã khá thành công ở Hàn Quốc song có

thể không phải là phương thức phù hợp với Trung Quốc. Khác với Hàn Quốc,

tiến trình cải cách quản trị quốc gia đi sau tiến trình cải cách hệ thống thể chế

kinh tế của Trung Quốc. Trên thực tế, việc cải cách hệ thống thể chế quản trị

quốc gia qua những nỗ lực như tăng cường tính minh bạch, trách nhiệm giải

trình, chống tham nhũng v.v…mới chỉ được đẩy mạnh sau khi Trung Quốc gia

nhập WTO. Điểm giống nhau giữa hai nước là nếu như tiến trình cải cách ở Hàn

Quốc sau khủng hoảng châu Á năm 1997-1998 phần lớn là do IMF thúc đẩy

thông qua những gói cứu trợ thì tiến trình cải cách của Trung Quốc trong gần 15

năm qua là do sức ép phải gia nhập và thực hiện cam kết gia nhập WTO. Bất cứ

một cuộc cải cách ở tầng nào của hệ thống thể chế ở Trung Quốc, Hàn Quốc hay

đối). Vì vậy, tăng cường tính minh bạch là yếu tố rất quan trọng trong tiến trình

cải cách thể chế.

Cuối cùng, kinh nghiệm của Hàn Quốc, Trung Quốc, Nga, các nước Đông

ở Nga và Đông Âu đều va chạm với những nhóm lợi ích (kể cả ủng hộ và phản

Âu hay bất cứ một quốc gia nào, cho thấy: để xác lập nền tảng cho sự phát triển

bền vững cần phải tiến hành cải cách ở mọi “tầng” của thể chế, trong đó cải cách

63

thể chế quản trị quốc gia và kinh tế thị trường đóng vai trò quan trọng.

Tiểu kết chương 2

Có nhiều quan điểm khác nhau về các yếu tố tác động đến sự thành bại

của cải cách thể chế kinh tế, nhất là quá trình chuyển đổi sang cơ chế thị trường

và kết quả phát triển của nó. Daron Acemoglu và các cộng sự cho rằng, cần chú

trọng cải cách cả thể chế chính trị để đảm bảo nền tảng vững chắc. Trong khi đó,

quan điểm của WB lại chú trọng đến cải thiện nền quản trị quốc gia.

Cải cách thể chế kinh tế cần dựa trên nền tảng của hệ thống chính trị dân

chủ và quản trị quốc gia tốt để thành công. Kinh nghiệm cải cách thể chế kinh tế

thị trường ở các nước trên thế giới, từ châu Mỹ Latinh, châu Á cho đến châu Âu

là những bằng chứng minh hoạ sống động cho điều này. Nga và nhiều nước

vã trong khi chưa nỗ lực đầy đủ cho việc xây dựng một nền quản trị quốc gia tốt.

Tương tự, Hàn Quốc sau nhiều năm phát triển kinh tế thị trường tự do đã phải

chú trọng đến môi trường quản trị quốc gia kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính

Đông Âu đã vội vàng thiết lập các nguyên tắc thị trường tự do một cách quá vội

châu Á. Đây là những kinh nghiệm quý báu cho các nước đi sau nghiên cứu,

64

tham khảo.

CHƯƠNG 3. CẢI CÁCH THỂ CHẾ KINH TẾ Ở CHÂU PHI

3.1. Bối cảnh và nguyên nhân của cải cách thể chế kinh tế ở châu Phi

3.1.1. Tình hình phát triển kinh tế - xã hội của châu Phi

Châu Phi đứng thứ ba trên thế giới về diện tích và dân số (sau châu Á và châu

Mỹ), chiếm khoảng 1/5 diện tích địa cầu (30.244.050 km2); đồng thời có vị trí địa lý

thuận lợi tạo điều kiện thúc đẩy giao thương với các châu lục khác trên thế giới.

Châu Phi là cũng là châu lục giàu có về tài nguyên. Trên bản đồ khoáng

sản thế giới, châu Phi có vị trí không thể bỏ qua với việc sở hữu 30% nguồn tài

nguyên khoáng sản của toàn thế giới [30]. Châu Phi chiếm 12% dự trữ khí đốt tự

nhiên và 8% lượng khai thác dầu mỏ của toàn thế giới. Về sản xuất điện năng,

dẫn các nhà đầu tư quốc tế đến châu Phi và là căn nguyên tranh giành ảnh hưởng

châu Phi của các cường quốc trên thế giới.

châu Phi có thể cung cấp tới 40% sản lượng thủy điện thế giới. Đây là lực hấp

Hình 3.1.: Thu nhập bình quân đầu người của các nền kinh tế đang phát triển

khu vực châu Phi nam Sahara, 2006-2014 (USD hiện hành)

Nguồn: WB (2016),World Development Indicator 2016.

http://data.worldbank.org/indicator/NY.GNP.PCAP.CD/countries/ZF?display=graph

Dân số châu Phi năm 2013 đạt hơn 1 tỷ người, tạo ra một thị trường

tiêu thụ hàng hóa đầy tiềm năng. Đây là châu lục có đông quốc gia nhất trên

thế giới (với 55 quốc gia độc lập) - chiếm tỷ lệ phiếu lớn trong Liên hợp quốc.

Mặc dù thu nhập bình quân đầu người liên tục tăng trong những năm gần đây,

châu Phi vẫn là châu lục nghèo nhất trên thế giới. Theo Ngân hàng thế giới

65

(WB) năm 2012, 10 quốc gia nghèo khổ nhất thế giới đều thuộc châu Phi (Tỷ

lệ người nghèo của Cộng hòa dân chủ Sao Tome và Principle là 66,2%; Cộng

hòa Sierra Leone: 66,4%; Cộng hòa Burundi: 66,9%; Cộng hòa Magagascar:

68,7%; Eritrea: 69%; Vương quốc Swaziland: 69,2%; Cộng hòa dân chủ

Congo: 71,3%; Cộng hòa Zimbabwe: 72%; Cộng hòa Guinea Xích đạo:

75,8%; Cộng hòa Haiti: 77% [10 quốc gia nghèo khổ nhất thế giới,

News.zing.vn, 19/09/2012]). Châu Phi cũng chiếm đến 27 nước trong tổng số

31 nước được WB xếp vào nhóm các nước có thu nhập thấp năm 2016. Nhắc

đến châu Phi người ta không thể không nói đến trung tâm của đại dịch

HIV/AID, dịch sốt rét, dịch ỉa chảy, thương hàn, ebola và nhiều đại dịch nguy

hiểm khác.

Benin

10

Gambia

Rwanda

1

19

Burkina Faso

11

Guinea

Senegal

2

20

Burundi

12

Guinea-Bissau

21

Sierra Leone

3

4 Cộng hoà Trung

13

22

Liberia

Somalia

Phi

Madagascar

Nam Sudan

5

Chad

14

23

Comoros

Malawi

Tanzania

6

15

24

7

16

25

Mali

Togo

Cộng hoà dân chủ Congo

8

Eritrea

17

Mozambique

Uganda

26

9

Ethiopia

18

Niger

Zimbabwe

27

Nguồn: WB (2017), Country Classification

[https://datahelpdesk.worldbank.org/knowledgebase/articles/906519-

world-bank-country-and-lending-groups]

66

Bảng 3.1: Các nước châu Phi thuộc nhóm các nước có thu nhập thấp (năm 2016)

Châu Phi còn là nơi bất ổn, thường xuyên có các cuộc xung đột, nội chiến.

Theo báo cáo năm 2007 của Saferworld, từ năm 1990 đến năm 2005, các cuộc

xung đột vũ trang đã tiêu tốn của châu Phi khoảng 300 tỷ USD - gần bằng số tiền

viện trợ mà châu lục này nhận được trong giai đoạn này. Châu Phi cũng gồm

nhiều nước đứng cuối bảng nhất trong xếp hạng về mức độ hòa bình do Viện

Kinh tế và Hòa bình công bố hàng năm với mối quan ngại rất lớn về khủng bố,

bạo lực, tội phạm có tổ chức và bất ổn chính trị.

Nước

Nước

Xếp hạng ở châu Phi nam Sahara

Xếp hạng/163 nước

Xếp hạng ở châu Phi nam Sahara

Xếp hạng/1 63 nước 23 28 38 40 43 44 45 55 58 62 63 66 68 70 72 72 79 88 90

Mauritius Botswana Madagascar Zambia Sierra Leone Ghana Malawi Namibia Tanzania Guinea xích đạo Lesotho Togo Mozambique Senegal Benin Liberia Gabon Burkina Faso Swaziland

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 15 17 18 19

101 113 114 116 118 119 121 123 126 127 128 130 131 135 136 137 138 149 152

22 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41

92

Gambia

20

157

42

98 101

Angola Uganda

21 22

Guinea Niger Cộng hòa Congo Guinea-Bissau Cote d’Ivoire Ethiopia Djibouti Mauritania Nam Phi Zimbabwe Rwanda Cameroon Kenya Eritrea Chad Mali Burundi Nigeria Cộng hòa dân chủ Congo Cộng hòa Trung Phi Somalia Nam Sudan

159 162

43 44

Nguồn: Institute of Economics and Peace (2016), Global Peace Index 2016, New York, USA, page 16, Table 1.6

Trong hai thập kỷ qua, châu Phi có tốc độ cải thiện chỉ số phát triển con

người (HDI) nhanh nhưng vẫn luôn ở mức thấp nhất so với các châu lục khác

67

Bảng 3.2: Xếp hạng các nước châu Phi Nam Sahara về mức độ hòa bình

trên thế giới. HDI của khu vực châu Phi nam Sahara năm 2013 mới chỉ bằng

khoảng 70% mức bình quân của thế giới [107]. Năm 2016, trong tổng số 44

nước bị Chương trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) xếp vào nhóm có

mức độ phát triển con người thấp có tới 36 nước châu Phi (trong tổng số 53 nước

châu Phi được xếp hạng) [108]. Mức độ phát triển con người của các vùng khác

nhau của châu Phi cũng khác nhau. Đói nghèo, dịch bệnh và xung đột khiến

nhiều nước châu Phi đã không đạt được các Mục tiêu Thiên niên kỷ (MDGs) và

cũng có ít cơ hội để hoàn thành các Mục tiêu phát triển bền vững mới (SDGs)

của Liên hợp quốc.

Khu vực

HDI trung bình năm 1990 0,516

HDI trung bình năm 2000 0,593

HDI trung bình năm 2014 0,710

Thay đổi HDI giai đoạn 1990-2014 1,34

0,651

0,665

0,748

0,58

0,625

0,684

0,748

0,75

Đông Á và Thái Bình Dương Đông Âu Trung Á Mỹ Latinh Caribe Nam Á Châu Phi

0,437 0,426

0,607 0,524

1,38 1,09

0,503 0,449 Nguồn: UNDP (2016), African Human Development Report 2016, New York,

USA, Summary, page 3, Table 1

Bảng 3.3: Chỉ số phát triển con người của châu Phi so sánh với các khu vực khác

Bảng 3.4: Chỉ số phát triển con người của các khu vực ở châu Phi

Khu vực

Bắc Phi Đông Phi Tây Phi Trung Phi Nam Phi Toàn châu Phi (trung bình)

HDI năm 1990 0,533 0,337 0,333 0,453 0,481 0,426

HDI năm 2000 0,603 0,403 0,382 0,439 0,478 0,449

HDI năm 2014 0,668 0,479 0,461 0,507 0,570 0,524

Thay đổi HDI giai đoạn 1990-2014 (%) 20,209 32,193 27,766 10,651 15,614 18,702

Nguồn: UNDP (2016), African Human Development Report 2016, New York,

USA, Summary, page 3, Table 2

68

3.1.2. Chất lượng thể chế kinh tế của châu Phi

Theo Báo cáo Chỉ số cạnh tranh toàn cầu của Diễn đàn kinh tế thế giới

(WEF), chất lượng thể chế đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với nhiều nước

châu Phi trong giai đoạn phát triển hiện nay. Trong số 12 trụ cột của năng lực

cạnh tranh quốc gia, báo cáo này cho rằng, thể chế cùng với kết cấu hạ tầng, môi

trường kinh tế vĩ mô, sức khỏe và giáo dục cơ sở là những yếu tố rất quan trọng

đối với các nước đang trong giai đoạn phát triển dựa vào khai thác nguồn lực,

chủ yếu là lao động kỹ năng thấp và tài nguyên thiên nhiên. Nâng cao chất lượng

thể chế là một trong những điều kiện tiên quyết để các nền kinh tế này chuyển

sang giai đoạn phát triển cao hơn – giai đoạn phát triển dựa vào tăng cường hiệu

quả (huy động, phân bổ và sử dụng các nguồn lực và những yếu tố phát triển

phát triển dựa vào khai thác các yếu tố nguồn lực; chỉ có 3 nước châu Phi đang

trong giai đoạn chuyển từ mô hình phát triển dựa vào khai thác nguồn lực sang

mô hình phát triển dựa vào tăng cường hiệu quả kinh tế.

khác). Báo cáo này cũng xếp 24 nước châu Phi thuộc nhóm nằm trong giai đoạn

giai Các đoạn phát triển

Giai đoạn 1: phát triển dựa vào các yếu tố nguồn lực

từ Chuyển Giai đoạn 1 sang Giai đoạn 2

từ Chuyển Giai đoạn 2 sang Giai đoạn 3

Giai đoạn 3: Phát triển dựa vào sáng tạo

< $2000

Giai đoạn 2: Phát triển dựa vào tăng hiệu cường quả $3000-8999

$9000-17000

>$17000

$2000 - $2999

11. Phức tạp của các hoạt động kinh doanh 12. Sáng tạo

GDP bình quân đầu người Các yếu tố cột) (trụ trọng quan với đối giai từng đoạn phát triển

1. Thể chế 2. Kết cấu hạ tầng 3. Môi trường vĩ mô ổn định 4. Sức khỏe và Giáo dục cơ sở

5. Giáo dục tạo và đào bậc cao 6. Hiệu quả thị của trường hàng hóa 7. Hiệu quả thị của

69

Bảng 3.5: Các giai đoạn phát triển của các nước châu Phi

lao

Mauritius

Các nước châu Phi

Botswana, Gabon, Nigeria

Phi,

trường động 8. Phát triển thị trường tài chính 9. Sẵn sàng về công nghệ 10. Quy mô thị trường Cape Verde, Ai Cập, Morroco, Namibia, Nam Tunisia

Benin, Burundi, Cameroon, Chad, Cộng hòa dân chủ Congo, Côte d'Ivoire, Ethiopia, Gambia, Ghana, Kenya, Lesotho, Liberia, Madagascar, Malawi, Mali, Mauritania, Mozambique, Rwanda, Senegal, Sierra Leone, Tanzania, Uganda, Zambia, Zimbabwe

Nguồn: World Economic Forum (2016), Global Competitiveness Report

2016-2017, Geneva, Tr.38

Báo cáo chỉ số cạnh tranh toàn cầu của WEF chia trụ cột thể chế (kinh tế)

gồm 21 cấu phần, nhóm lại thành những thể chế của khu vực công và thể chế của

khu vực tư nhân. Mauritius, Nam Phi và Rwanda được WEF coi là những nền

70

kinh tế có năng lực cạnh tranh hàng đầu châu Phi, đứng thứ 45, 47 và 52 trong

tổng số 138 nền kinh tế được xếp hạng của thế giới năm 2016. Liberia (131),

Sierra Leon (132), Mozambique (133), Malawi (134), Burudi (135), Chad (136)

và Mauritania (137) là những nền kinh tế có năng lực cạnh tranh kém nhất châu

Phi và cũng đứng gần cuối bảng xếp hạng của thế giới (chỉ hơn Yemen, đứng

thứ 138).

Rwanda được WEF coi là nước có chất lượng thể chế kinh tế tốt nhất châu

Phi, đứng thứ 13 trong tổng số 138 nền kinh tế được xếp hạng của thế giới, với

thoáng, sử dụng ngân sách của chính phủ hiệu quả, không có hoạt động tội phạm

chất lượng thể chế đặc biệt tốt ở những khía cạnh: thủ tục quy định thông

thể chế thậm chí còn cao hơn nhiều nước khác như: Anh (đứng thứ 14), Mỹ

(đứng thứ 27), Trung Quốc (đứng thứ 45) và Việt Nam (đứng thứ 82) [115].Tiến

trình cải cách thể chế và dân chủ hoá ở Rwanda trong hơn một thập kỷ qua gắn

với nỗ lực hoà hợp, hoà giải dân tộc; và điều đáng nói là nó đã thành công ngay

và khủng bố, chất lượng tốt của đội ngũ cảnh sát. Xếp hạng của Rwanda về mặt

cả sau khi nước này đã trải qua những cuộc xung đột sắc tộc đẫm máu và thảm

có chất lượng thể chế tồi nhất châu Phi, đứng thứ 136 trong tổng số 138 nền kinh

tế được xếp hạng của thế giới, đặc biệt với các vấn đề nghiêm trọng về đảm bảo

quyền sở hữu, sử dụng ngân sách nhà nước, tham nhũng, chính sách thiếu minh

bạch, nạn khủng bố, các chuẩn mực kiểm toán yếu kém và tổ chức hoạt động của

các công ty không lành mạnh, thiếu hiệu quả.

71

hoạ diệt chủng vào giữa thập niên 1990. Trong khi đó, Chad bị WEF coi là nước

Bảng 3.6: Sự tương phản trong chất lượng thể chế của Rwanda và Chad

Các thể chế công và tư

Xếp hạng

Xếp hạng

của Rwanda

của Chad

Thứ hạng về thể chế

13

136

1. quyền sở hữu

22

133

2. bảo hộ sở hữu trí tuệ

28

133

3. phân bổ các nguồn quỹ công cộng

16

137

4. tin tưởng của công chúng đối với các nhà chính trị

7

105

5. các khoản chi trả không thường xuyên và hối lộ

20

136

6. độc lập của tư pháp

25

130

7. các quyết định mang tính chất thiên vị của quan chức

9

113

chính phủ

8. lãng phí trong chi tiêu chính phủ

4

100

9. gánh nặng của các quy định của chính phủ

2

95

10. tính hiệu quả của khung khổ pháp lý trong giải quyết

11

105

tranh chấp

11. hiệu quả của khung khổ pháp lý trong việc xử lý các

14

114

quy định

12. sự minh bạch trong xây dựng chính sách của chính

9

135

phủ

13. chi phí kinh doanh vì các hoạt động khủng bố

9

136

14. chi phí kinh doanh vì các hoạt động tội phạm và bạo lực

5

123

15. tội phạm có tổ chức

6

128

16. sự tin cậy của lực lượng công an

6

124

17. hành xử có đạo đức của các công ty

21

135

18. sức mạnh của kiểm toán và các chuẩn mực báo cáo

40

136

19. hiệu lực của hội đồng quản trị công ty

27

134

20. bảo vệ lợi ích của các cổ đông nhỏ

23

130

21. bảo vệ các nhà đầu tư.

79

120

Nguồn: World Economic Forum (2016),Global Competitiveness Report 2016-

2017, Geneva, Tr.143, 309

72

Chất lượng và hiệu quả của các quy định là một trong những chỉ số quan

trọng phản ánh chất lượng của hệ thống thể chế. Các quy định có thể giúp cho

môi trường kinh doanh thêm thuận lợi và thông thoáng; khắc phục những

“khuyết tật” của thị trường; đảm bảo môi trường cạnh tranh bình đẳng. Tuy

nhiên, một hệ thống quy định chồng chéo, phức tạp cũng có thể tạo ra gánh

nặng, cản trở hoạt động kinh doanh của các công ty, nhất là các công ty nhỏ và

vừa; đồng thời đây cũng là môi trường thuận lợi cho tình trạng tham nhũng, trục

lợi nảy sinh. Ví dụ, ở Singapore để mở một công ty chỉ mất bình quân khoảng

2,5 ngày và chỉ phải tiến hành 3 thủ tục hành chính; trong khi ở Guinea xích đạo

mất đến 135 ngày và phải tiến hành tới 18 thủ tục hành chính.[126]

Báo cáo Chỉ số môi trường kinh doanh (DB) của WB đã đưa ra một bộ chỉ

nghiệp; giải quyết việc xin giấy phép xây dựng; xin cấp điện; đăng ký tài sản;

xin nhận tín dụng; mức độ bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư nhỏ; gánh nặng thuế phải

trả; hoạt động thương mại dọc & xuyên biên giới; mức độ thực thi các hợp đồng;

số gồm 10 yếu tố có tác động đến môi trường kinh doanh gồm: khởi sự doanh

lao động song yếu tố này không được đưa vào để tính điểm chung cho Chỉ số

về môi trường kinh doanh). Theo DB 2016, châu Phi là một trong những khu

vực có mức độ cải thiện môi trường kinh doanh nhanh hàng đầu thế giới trong

hơn một thập kỷ qua, chỉ đứng sau châu Âu và Trung Á. Điều này là do châu Phi

gồm nhiều nền kinh tế có xuất phát điểm thấp và mới bước đầu triển khai các cải

cách môi trường kinh doanh. Báo cáo DB 2016 chia các nền kinh tế thành bốn

nhóm: i) Những nền kinh tế có các quy định chất lượng cao và việc thực thi rất

hiệu quả; ii) Những nền kinh tế có các quy định chất lượng thấp và thực thi kém

hiệu quả – hệ thống các quy định ở đây phức tạp, tạo ra các hình thức trục lợi

thay vì cung cấp các điều kiện và dịch vụ thuận lợi cho kinh doanh; iii) Những

nền kinh tế có các thủ tục kinh doanh nhanh chóng, thuận lợi song các quy định

có chất lượng không cao - nhóm này chủ yếu gồm các nền kinh tế mới bắt đầu

73

và chấm dứt kinh doanh (Ngoài ra, còn có yếu tố các quy định về thị trường

tiến hành cải cách để cải thiện tiến trình thực thi chính sách song vẫn chưa cải

thiện được chất lượng của các quy định; và iv) Những nền kinh tế có chất lượng

của các quy định tốt song tiến trình thực thi phức tạp, kém hiệu quả. Phần lớn

các nền kinh tế trên thế giới thuộc nhóm thứ nhất và nhóm thứ ba [126], còn các

nền kinh tế châu Phi chủ yếu nằm trong nhóm thứ hai và thứ ba là những nền

kinh tế có chất lượng và hiệu quả của các quy định thấp hoặc tuy có thủ tục hành

chính thông thoáng, thuận lợi song chất lượng của các quy định lại không cao.

Các nền kinh tế được xếp hàng đầu châu Phi về môi trường kinh doanh thông

thoáng là: Mauritius (đứng thứ 32 thế giới), Rwanda (đứng thứ 62 thế giới),

Botswana (đứng thứ 72) và Nam Phi (đứng thứ 73); còn các nền kinh tế đứng

cuối bảng của châu Phi là Cộng hòa dân chủ Congo, Cộng hòa Trung Phi, Nam

189 nền kinh tế trên thế giới.[126]

Các nước châu Phi thường nổi tiếng với nạn tham nhũng song cũng có

những trường hợp ngoại lệ. Theo Báo cáo Chỉ số nhận thức về tham nhũng của

Sudan và Eritrea, lần lượt đứng thứ 184, 185, 187, 189 trong bảng xếp hạng gồm

Tổ chức minh bạch quốc tế năm 2016, Botswana là quốc gia ít tham nhũng nhất

châu Phi, đứng thứ 28 trong tổng số 168 quốc gia và vùng lãnh thổ được xếp

Đài Loan (đứng thứ 30 thế giới), Hàn Quốc (đứng thứ 37 thế giới). Đứng sau

Botswana ở châu Phi là Cape Verde (đứng thứ 40 thế giới), Seychelles (đứng thứ

40 thế giới) và Rwanda (đứng thứ 44 thế giới). Đứng cuối bảng xếp hạng của

châu Phi là các nước: Angola, Nam Sudan (đứng thứ 163 thế giới), Sudan (đứng

thứ 165 thế giới) và Somalia (167 thế giới) [103]. Tuy tình hình tham nhũng ở

một số nước có được cải thiện như Senegal, Namibia, Ai Cập, Cote

d'Ivoire...song tại nhiều nước khác nạn tham nhũng thậm chí trở nên nghiêm

trọng hơn. Trong cuộc điều tra năm 2016 của Tổ chức minh bạch quốc tế, có đến

58% số người được hỏi cho rằng tình hình tham nhũng ở nước họ đã trở nên

nghiêm trọng hơn năm trước. Những nước đứng đầu trong nhóm này là Nam Phi

74

hạng. Thứ hạng này thậm chí còn cao hơn một số quốc gia và vùng lãnh thổ như

(83% số người được hỏi), Ghana (76% số người được hỏi) và Nigeria (75% số

người được hỏi) [104]. Hoạt động tham nhũng ở châu Phi phổ biến trong ngành

Công an

Giới điều hành các công ty lớn

Quan chức chính phủ

Các bộ thuế

Toà án và cán bộ xét xử

Nghị sỹ quốc hội

Chính quyền địa phương

Văn phòng tổng thống

Các nhà lãnh đạo truyền thống

Các nhà lãnh đạo tôn giáo

công an, giới lãnh đạo điều hành các công ty lớn, thuế và toà án.

Hình 3.2: Mức độ tham nhũng tại một số tổ chức

và nhóm người tại châu Phi

Nguồn: Transprarency International (2015), Global Coruption Barometer:

People and Corruption Africa Survey 2015,author: Coralie Pring, Global

Surveys,Figure 1, page 8

Báo cáo Chỉ số tự do kinh tế của Quỹ Heritage năm 2016 đánh giá mức độ

tự do của một nền kinh tế theo bốn nhóm chỉ số sau: 1) Tinh thần thượng tôn

pháp luật (bảo đảm quyền sở hữu, không bị tham nhũng); 2) Hạn chế của chính

phủ (tự do về tài khoá, chi tiêu của chính phủ); 3) Hiệu quả của quy định (tự do

kinh doanh, tự do lao động, tự do về tiền tệ) và 4) Thị trường mở (tự do thương

mại, tự do đầu tư và tự do tài chính). Theo báo cáo này, châu Phi có 8 nền kinh

tế bị coi là bị hạn chế về mức độ tự do (trong tổng số 24 nền kinh tế của thế giới

thuộc nhóm này). Các nền kinh tế đứng cuối bảng xếp hạng gồm: Cộng hoà

Trung Phi, Guinea xích đạo, Cộng hoà Congo, Eritrea và Zimbabwe đứng thứ

168, 170, 172, 173 và 175 trong tổng số 186 nền kinh tế trên thế giới được xếp

hạng năm 2016.

75

Xếp

Xếp hạng/186

Nước

hạng/186 nền

Nước

nền kinh tế

kinh tế

Bảng 3.7: Các nước bị xếp hạng có nền kinh tế bị hạn chế tự do

167

Timor-Leste

155

Lào

168

Cộng hoà Trung phi

156

Angola

169

Argentina

157

Belarus

170

Guinea xích đạo

158

Myanmar

171

Iran

159

Ecuador

172

Cộng hoà Congo

160

Bolivia

173

Eritrea

161

Đảo Solomon

174

Turkmenistan

162

Ukraine

175

Zimbabwe

163

Cộng hoà dân chủ

Congo

176

Venezuela

164

Chad

177

Cuba

165

Kiribati

178

CHDCND Triều Tiên

166

Uzbekistan

Nguồn: Heritage Foundation (2016), 2016 Index of Economic Freedom

http://www.heritage.org/index/ranking

3.1.3. Yêu cầu chuyển đổi sang cơ chế thị trường

Phần lớn các nước châu Phi, nhất là châu Phi nam Sahara, hình thành vào

những năm 1960 sau những quá trình đấu tranh giành độc lập khó khăn. Vào

thời điểm đó, phần lớn các chính phủ châu Phi đều thừa nhận vai trò quan trọng

của khu vực công trong nền kinh tế như một thực tế tự nhiên. Các chế độ thuộc

địa sau năm 1945 đã lập ra cơ chế để can thiệp sâu rộng vào nền kinh tế như các

cơ quan kế hoạch, các công ty nhà nước hoặc nửa nhà nước nửa tư nhân và thiết

lập các biện pháp kiểm soát tiền lương, giá cả.

Các nhà lãnh đạo mới của châu Phi cũng ủng hộ việc triển khai cơ chế kế

hoạch hoá tập trung và kiểm soát kinh tế. Về mặt ý thức hệ, họ xem có mối liên

76

hệ mật thiết giữa chủ nghĩa tự bản tự do với chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế

quốc. Ngoài ra, Liên Xô và Trung Quốc đã có những tác động nhất định đến

đường lối phát triển của nhiều nước châu Phi. Nhiều nhà lãnh đạo châu Phi tin

rằng, các nước châu Phi tuy đa dạng về sắc tộc, tôn giáo song vẫn đạt được sự

thống nhất chính trị là nhờ sức mạnh của ý thức hệ xã hội chủ nghĩa. Ngay cả khi

không bị ảnh hưởng bởi ý thức hệ xã hội chủ nghĩa thì các nước châu Phi cũng

đứng trước những sức ép phải cần sự can thiệp sâu của nhà nước như: nguồn vốn

hạn chế và khu vực tư nhân yếu kém. Tại nhiều nước châu Phi, khu vực tư nhân

rất nhỏ và chủ yếu tham gia vào lĩnh vực thương mại. Doanh nhân địa phương

chủ yếu là thương nhân, người buôn bán và môi giới chứ không phải là các nhà

sản xuất công nghiệp. Các doanh nghiệp nhà nước có lợi thế để tiếp nhận chuyển

tạo nguồn nhân lực mà những doanh nghiệp nhỏ không thực hiện được. Do vậy,

khu vực này là giải pháp giúp mở rộng quy mô sản xuất và nâng cao hình ảnh,

bản sắc dân tộc.

giao công nghệ trong những lĩnh vực chiến lược, tiếp cận được tín dụng và đào

Bầu không khí học thuật ở châu Phi cũng bị chi phối bởi đường lối cánh tả

và chủ nghĩa nhà nước. Người dân châu Phi sinh sống và học tập ở châu Âu sau

cánh tả nhằm phản đối chế độ thuộc địa. Các học giả châu Phi trong những năm

1950 và 1960 ủng hộ mạnh mẽ sự can thiệp của nhà nước vào thị trường nhằm

bảo vệ lợi ích của dân chúng. Họ cũng nhấn mạnh rằng, với truyền thống và giá

trị cộng đồng sâu sắc, các nước châu Phi cần chủ nghĩa xã hội. Các học giả lớn

của châu Phi như Sekou Toure, Leopold Senghor, Kenneth Kaunda, Julius

Nyerere và Franz Fanon đều tin rằng, quản lý theo mô hình kế hoạch hoá và chủ

nghĩa xã hội có thể dùng để khắc phục những thất bại của thị trường - nguyên

nhân gây ra nạn nghèo khổ, ngu dốt và dịch bệnh ở châu Phi.

Từ năm 1960 đến đầu những năm 1980, có ít nhất 16 nước châu Phi Nam

Sahara đã theo đuổi ý thức hệ xã hội chủ nghĩa hoặc phát triển theo hướng xã hội

77

Chiến tranh thế giới lần thứ hai cũng thường tham gia các đảng phái và tổ chức

chủ nghĩa (theo mô hình Xô Viết hay Trung Quốc) như Angola, Benin, Burkina

Faso (lúc đó là Upper Volta), Congo-Brazzaville, Ethiopia, Ghana, Guinea-

Bissau, Guinea, Madagascar, Mali, Mozambique, Senegal, Sudan, Tanzania,

Zambia và Zimbabwe. Ngoài ra, nhiều nước châu Phi khác cũng chấp nhận

đường lối phát triển theo mô hình Xô Viết mặc dù không tuyên bố chính thức.

Một số nước như Kenya mặc dù tiến hành cơ chế thị trường trên thực tế song

dưới khẩu hiệu chủ nghĩa xã hội [81]. Kết quả của thời kỳ theo đuổi mô hình

kinh tế kế hoạch hóa tập trung đã dẫn đến những bất ổn, méo mó của nhiều nền

kinh tế châu Phi, đặc biệt kể từ đầu thập niên 1980.

Dấu mốc quan trọng trong tiến trình cải cách kinh tế của các nước châu

Phi là vào năm 1981 khi Elliot Berg, Khoa kinh tế, Đại học Michigan công bố

hành động”. Báo cáo này - còn gọi là báo cáo Berg, khuyến nghị triển khai các

chính sách mở cửa thông qua việc thúc đẩy xuất khẩu tài nguyên, dỡ bỏ trợ cấp

và cho phép các lực lượng thị trường xác định giá cả.

báo cáo “Đẩy nhanh sự phát triển ở châu Phi nam Sahara: Chương trình nghị sự

Cuộc khủng hoảng nợ quốc gia vào đầu những năm 1980 là tiền đề tốt để

các định chế tài chính của Hệ thống Bretton Woods mở rộng chương trình nghị

cứu trợ. Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) thiết kế các Chương trình ổn định kinh tế vĩ

mô ngắn hạn và WB thiết kế các chương trình cải cách cơ cấu (SAP) trong trung

hạn. Các chương trình này đều dựa theo nguyên lý “Đồng thuận Washington”,

cho rằng: nhà nước nên can thiệp ở mức ít nhất vào nền kinh tế, cần phải bảo vệ

sở hữu tư nhân, mở cửa và tự do hóa nền kinh tế, ổn định vĩ mô và thúc đẩy dân

chủ - coi đây là cốt yếu để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Cụ thể, nội dung chính

của các chương trình điều chỉnh cơ cấu (SAP) và ổn định kinh tế vĩ mô của WB

và IMF gồm:

-

Thực hiện biện pháp khắc khổ, giảm chi tiêu chính phủ để giảm

thâm hụt ngân sách

78

sự, áp đặt điều kiện tự do hoá cho các chính phủ để đổi lại các khoản tín dụng

- Tăng thuế doanh thu để cải thiện nguồn thu

- Kiểm soát lạm phát, chủ yếu thông qua chính sách tiền tệ (tăng lãi

suất) và thực hiện chính sách tài khoá khắc khổ

- Tư nhân hoá các ngành công nghiệp thuộc sở hữu nhà nước, nhằm

tăng nguồn thu và tăng hiệu quả của khu vực này

- Giảm kiểm soát thị trường nhằm khuyến khích cạnh tranh

- Mở cửa kinh tế và tự do hoá thương mại, dỡ bỏ các rào cản thuế

khoá và bảo hộ các ngành công nghiệp trong nước

- Chấm dứt trợ giá thực phẩm

- Phá giá đồng tiền để khôi phục lại khả năng cạnh tranh và giảm

thâm hụt tài khoản vãng lai

thành phổ biến. Tại Hội nghị các nguyên thủ quốc gia châu Phi ở La Baule năm

1990, Tổng thống Pháp đã tuyên bố ủng hộ các tiến trình dân chủ ở châu lục này.

Đồng thời, các tổ chức quốc tế và cộng đồng tài trợ bắt đầu đẩy mạnh các

Sau khi khối chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu sụp đổ, làn sóng tự do hoá trở

chương trình điều chỉnh cơ cấu đối với các nước châu Phi. Với nỗ lực chuyển

đổi sang nền kinh tế thị trường, nhiều nước châu Phi đã chú trọng thực hiện tự

kinh tế ở châu Phi trong vòng hơn 3 thập kỷ qua. Tuy nhiên, quá trình tự do hóa

kinh tế ở nhiều nước châu Phi không mang lại kết quả phát triển giống nhau mặc

dù có một mẫu số chung là nó đã giúp thiết lập nên được cơ chế thị trường. Điều

đó cho thấy, kinh tế thị trường chỉ là phương tiện, còn kết quả phát triển, sự

thịnh vượng và giàu có của các quốc gia còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác.

do hoá; khiến quá trình này là đặc điểm nổi bật và trọng tâm của cải cách thể chế

3.2. Nội dung cơ bản trong cải cách thể chế kinh tế thị trường ở châu Phi

3.2.1. Cải cách quyền sở hữu

Tự do về sở hữu là một vấn đề gai góc nhưng lại hết sức quan trọng đối

với các nước châu Phi trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường.

Ở những nền kinh tế thị trường phương Tây, các đơn vị kinh tế và xã hội

79

cơ bản là cá nhân. Tại nhiều nước xã hội chủ nghĩa theo mô hình Xô Viết ở

Đông Âu và châu Á, đơn vị kinh tế và xã hội là các tổ chức tập thể và nhà nước.

Tuy nhiên, tại châu Phi, các đơn vị kinh tế và xã hội cơ bản lại là gia đình mở

rộng, bộ tộc và bộ lạc. Nghiêm trọng hơn, cho đến tận cuối thế kỷ 20, khắp lục

địa vẫn tồn tại các chế độ phân biệt chủng tộc trên thực tế bất kể đó là giữa

người da trắng với người da đen hay giữa những người da đen với nhau song

không cùng tôn giáo, sắc tộc - nơi mà những người nắm quyền lực sử dụng

chính phủ để thúc đẩy lợi ích của họ và loại trừ tất cả những người khác, dẫn

châu Phi vào những thảm họa nhân đạo và phát triển.

Tại châu Phi, sở hữu đất đai vừa là vấn đề then chốt, vừa là vấn đề nhạy

cảm trong quá trình phát triển bởi phần lớn dân số châu Phi sống dựa vào nông

thực dân cơ cấu sở hữu đất đai bị bóp méo. Việc cướp bóc và chiếm đoạt đất đai

khiến cho phần lớn diện tích đất đai màu mỡ, có thể canh tác được thuộc về số ít

người da trắng định cư; phần còn lại chủ yếu là đất đai thuộc sở hữu cộng đồng.

nghiệp. Đất đai là tài sản và cũng là nguồn sống chính của họ. Trong thời kỳ

Về mặt lịch sử, đất đai ở châu Phi đã không bao giờ thuộc sở hữu tập thể mà

được sở hữu riêng tư bởi gia đình hoặc dòng tộc. Ví dụ, George Ayittey có viết

Châu Phi sẽ nói với bạn: “Nó thuộc về tất cả chúng tôi”, nghĩa là gia đình mở

rộng của anh ta…”[43]

Trong những năm 1980, có ba khuynh hướng cải cách đất đai ở châu lục.

Một là khuynh hướng “xã hội hóa” đất đai với việc hình thành các hợp tác xã và

trang trại quốc doanh (như ở Mozambique). Hai là khuynh hướng đàm phán

giữa chính phủ với các thủ lĩnh bộ lạc, bộ tộc để phân chia lại quyền sở hữu các

mảnh đất (như ở Gambia, Lesotho). Ba là khuynh hướng tư nhân hóa đất đai

(như ở Malawi, Kenya). Khi làn sóng tự do hóa bắt đầu tràn vào châu lục, thuật

ngữ “quyền sở hữu đất” bắt đầu được nhấn mạnh. Hệ thống sở hữu đất đai

truyền thống ở châu Phi khiến nguồn lực không được phân bổ và sử dụng hiệu

80

trong bài luận của mình rằng: “nếu bạn hỏi: “Mảnh đất này thuộc về ai?” Người

quả do quyền sở hữu không được xác lập đầy đủ, các cá nhân không phải gánh

chịu các chi phí song cũng không được hưởng lợi ích đầy đủ và hợp đồng không

được pháp luật đảm bảo thực thi. Tư tưởng cải cách theo hướng tự do hoá cho

rằng, điều quan trọng nhất là phải chuyển đất đai cho những người có khả năng

khai thác hiệu quả nhất và mang lại giá trị lớn nhất từ đất. Tuy trong những năm

1970 châu Phi không phải là châu lục có tình trạng “không có đất” (người nông

dân không tiếp cận được với đất đai có thể canh tác) hoặc “gần như không có

đất” (người nông dân chỉ tiếp cận được với một diện tích đất quá nhỏ để đáp ứng

nhu cầu sinh kế tối thiểu) nghiêm trọng nhất thế giới (đứng đầu là châu Mỹ

Latinh), song lại là khu vực có tỷ lệ này gia tăng nhanh nhất trong những năm

1970-1980 [129].

xếp vào nhóm những nước không có tự do về sở hữu. Theo đánh giá của Heritage

Foundation, mức độ tự do về sở hữu của khu vực châu Phi nam Sahara liên tục

giảm mạnh trong giai đoạn 1995 - 2016 xuống mức rất thấp (30 điểm trên thang

Mặc dù có nhiều nỗ lực cải cách, đa số các nước châu Phi đến nay vẫn bị

điểm tối đa là 100): mức mà các quyền sở hữu bị coi là được bảo vệ rất yếu với

hệ thống toà án không hiệu quả, tình trạng tham nhũng phổ biến, các quyền tư

tịch thu không bồi thường. Đứng cuối bảng xếp hạng năm 2016 của châu Phi về

mức độ tự do đối với quyền sở hữu là các nước: Zimbabwe, Cộng hoà Congo,

Cộng hoà dân chủ Congo, Cộng hoà Trung Phi, Guinea xích đạo, Eritrea (ở mức

10 điểm trên thang điểm tối đa là 100). Đây là mức mà quyền sở hữu hiếm khi

được bảo vệ với tình trạng hầu hết tài sản là của nhà nước, đất nước trong tình

trạng hỗn loạn nên rất khó đảm bảo các quyền tài sản, hệ thống toà án rất tham

nhũng và không giúp bảo vệ quyền sở hữu một cách hữu hiệu, thường xuyên xảy

ra tình trạng tịch thu tài sản không được bồi thường.

Tình hình bất ổn chính trị và xung đột ở nhiều quốc gia châu Phi là yếu tố

quan trọng ảnh hưởng đến việc bảo vệ quyền sở hữu. Theo báo cáo Chỉ số Hòa

81

pháp bị can thiệp bởi các nhánh quyền lực của chính phủ và các tài sản có thể bị

bình thế giới năm 2016 do Viện nghiên cứu Kinh tế và Hòa bình công bố, các

nước châu Phi đứng cuối bảng gồm 163 nước được xếp hạng là: Nam Sudan

(đứng thứ 162), Somalia (159), Cộng hòa Trung Phi (157), Sudan (155), Lybia

(154), Cộng hòa dân chủ Congo (152), Nigeria (149) [67]. Tại Nigeria,

Cameroon, Niger và Chad, hoạt động tăng cường của nhóm khủng bố Boko

Haram gần đây đã khiến cho hàng trăm nghìn người phải bỏ nhà cửa đi tỵ nạn.

Cao ủy tỵ nạn Liên hợp quốc (UNHCR) ước tính, chỉ riêng trong năm 2015 đã

có hơn 150 nghìn người Nigeria đã phải bỏ chạy sang Niger để tránh làn sóng

khủng bố Boko Haram [105].

70

60

50

40

30

20

10

0

Thế giới

Châu Phi nam Sahara

Châu Á-Thái Bình Dương

Hình 3.3: Mức độ tự do về sở hữu của châu Phi nam Saharaso với thế giới và

châu Á – Thái Bình Dương

Nguồn: Heritage Foundation (2016), 2016 Index of Economic Freedom

[http://www.heritage.org/index/ranking]

3.2.2 Mở cửa nền kinh tế

Mở cửa kinh tế, tiến hành hội nhập quốc tế, thu hút đầu tư nước ngoài và

thúc đẩy xuất khẩu là một trong những ưu tiên hàng đầu của các nền kinh tế châu

Phi theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung trong quá trình tự do hoá. Trong thời kỳ

82

kế hoạch hóa, nhiều chính phủ châu Phi đã nỗ lực thay thế mạng lưới thương

mại được hình thành trong thời kỳ thuộc địa - vốn được xem là công cụ để các

nước phương Tây bòn rút tài nguyên và bóc lột người dân, bằng một hệ thống

thương mại mới. Tuy nhiên, nỗ lực này đã không thành công; kết quả đem lại là

một nền kinh tế “ngăn sông, cấm chợ” và đóng cửa với bên ngoài hoặc bị cấm

vận kinh tế bởi tình trạng vi phạm nhân quyền, phân biệt chủng tộc. Ngay cả

giữa các nước châu Phi, rào cản thương mại vẫn tương đối cao trước khi bắt đầu

phát triển cao gấp ba lần mức thuế quan giữa các nền kinh tế phát triển đối

với hàng hoá công nghiệp chế tạo), trong khi khoảng 1/6 giá trị xuất khẩu của

tiến trình mở cửa (Tính bình quân, mức thuế quan giữa các nền kinh tế đang

các nước châu Phi là trong châu lục [123]. Nhằm dỡ bỏ các rào cản này, những

như: Thị trường chung Đông và Nam Phi (COMESA), Cộng đồng kinh tế các

nước Tây Phi (ECOWAS) và Cộng đồng phát triển miền Nam châu Phi (SADC).

Ngoài ra, châu Phi cũng tham gia tích cực vào nhóm “G77” của các nền kinh tế

nước châu Phi đã nỗ lực triển khai một số hiệp định hội nhập kinh tế khu vực,

đang phát triển trong nỗ lực hội nhập và mở cửa.

Tự do hoá thương mại, nhất là chính sách thúc đẩy xuất khẩu, đã giúp kim

trong những năm 1980 lên 4,4% trong những năm 1990 [123]. Tuy nhiên, những

kết quả đạt được mới chỉ rất khiêm tốn. Trong giai đoạn 1980-2000, mức độ

giảm thuế quan ở châu Phi chậm hơn so với nhiều nền kinh tế đang phát triển ở

các châu lục khác: trong khi thuế quan của các nền kinh tế đang phát triển giảm

khoảng một nửa thì mức giảm này ở châu Phi chỉ khoảng 1/3. Trong giai đoạn

1980-1990, ước tính khoảng 25% tỷ lệ tăng trưởng thấp hơn của châu Phi so với

Đông Á là do độ mở cửa thấp hơn[45]. Mặc dù giá trị xuất khẩu chiếm khoảng

29% GDP của châu Phi (không thấp hơn nhiều so với mức bình quân của thế

giới là 27%), giá trị thương mại của châu Phi chỉ chiếm dưới 1% giá trị thương

mại toàn cầu. [111]

83

ngạch xuất khẩu của các nước châu Phi tăng trưởng từ mức bình quân 2,4%/năm

Các thỏa thuận thương mại khu vực cũng góp phần thúc đẩy tự do hóa thị

trường nội địa ở châu Phi. Các quốc gia châu Phi Nam Sahara có lịch sử và đặc

điểm chung là các nước thuộc địa, có nhiều sự tương đồng trong tổ chức hành

chính và pháp lý nên dễ dàng liên kết thương mại với nhau. Các khối thương mại

này cho phép di chuyển tự do các yếu tố sản xuất nông nghiệp, hàng hóa và dịch

vụ nông nghiệp. Thương mại nội khối châu Phi được mở rộng trong lĩnh vực

nông nghiệp, đóng góp cho việc cải thiện khả năng cạnh tranh và chuẩn bị cho

việc tham gia vào quá trình toàn cầu hóa.

Các chương trình tự do hóa thương mại khu vực cũng dẫn đến những thay

đổi chính sách cốt lõi liên quan đến việc loại bỏ các rào cản thủ tục đối với thương

mại tự do, ví dụ: giấy phép nhập khẩu; xóa bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan

biểu thuế chung bên ngoài theo nghĩa vụ của khu vực và WTO.

Các hiệp định khu vực đã từ những năm 1990 bao gồm: Liên minh kinh tế

và tiền tệ Tây Phi (WAEMU), Diễn đàn tạo thuận lợi hội nhập khu vực (RIFF)

đối với thương mại nội khối; xóa bỏ thuế nhập khẩu và thuế xuất khẩu; tuân thủ một

trước đây là sáng kiến xuyên biên giới (CBI), Liên minh Hải quan Nam Phi

(SACU) và Cộng đồng kinh tế và tiền tệ Trung Phi (CAEMC), Cộng đồng Phát

Phi (COMESA), Ủy ban Hợp tác Đông Phi (EAC), Ủy ban Ấn Độ Dương (IOC)

và Cộng đồng kinh tế của các quốc gia Tây Phi (ECOWAS).

Dù vậy, không phải tất cả các nước châu Phi đều sẵn sàng tham gia vào

các hiệp định thương mại khu vực và ngay cả sau khi ký các hiệp định này, thuế

quan thương mại vẫn tiếp tục được giữ ở mức cao. Mở cửa thương mại khiến

cho châu Phi ngày càng trở nên lệ thuộc vào việc xuất khẩu tài nguyên. Các nền

kinh tế công nghiệp hoá mới ở châu Á đã khởi đầu cũng bằng việc xuất khẩu tài

nguyên và các loại hàng hoá thâm dụng lao động. Tuy nhiên, họ đã biết lấy

nguồn thu xuất khẩu này để đầu tư phát triển các ngành chế tạo và nâng cao năng

suất để duy trì mức tăng trưởng kinh tế [109]. Các nước châu Phi đã không làm

84

triển Nam Phi (SAADC), Khối Thị trường chung miền đông và miền nam châu

được điều này nên khiến cho khả năng cạnh tranh của nền kinh tế ngày càng suy

giảm và mắc phải nghịch lý là: khi tăng sản lượng tài nguyên xuất khẩu sẽ dẫn

đến giá cả giảm sút.

Trong nỗ lực thúc ép các nước châu Phi cải cách, các tổ chức quốc tế cũng

nhấn mạnh vấn đề tự do hoá thị trường tài chính, để cho thị trường huy động các

nguồn lực tài chính và xác định lãi suất. Phần lớn các nước châu Phi có thị

trường tài chính rất kém phát triển, đặc biệt khả năng tiếp cận tín dụng hạn chế

đã ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của khu vực nông nghiệp, các doanh

nghiệp vừa và nhỏ. Tỷ lệ tiết kiệm ở châu Phi thường thấp (thấp hơn ở các nền

kinh tế châu Á) và điều này khiến cho việc huy động nguồn lực cho đầu tư ở

châu Phi gặp nhiều khó khăn. Tự do hoá tài chính giúp cho các hộ gia đình tiết

chuyển tới các công ty hoạt động hiệu quả nhất trên thị trường. Điều này cũng

giúp dỡ bỏ các méo mó trên một khu vực tài chính bị kiểm soát, thu hút các

nguồn lực tài chính trên phạm vi toàn cầu. Các nước châu Phi muốn thu hút

nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài đều mong muốn được các định chế quốc tế chứng

kiệm và nắm giữ các tài sản tài chính và giúp các nguồn lực khan hiếm được

nhận về tự do hoá tài chính. Kể từ đầu những năm 2000, mức độ tự do tiền tệ của

như phá giá đồng tiền, áp dụng cơ chế tỷ giá thả nổi.

Đến những năm 1990, hầu hết các nước châu Phi đã tiến hành tự do hoá

thương mại và triển khai các chính sách thu hút đầu tư nước ngoài. Kể từ đầu

những năm 2000, môi trường tự do hoá đầu tư ở châu Phi nam Sahara thậm chí

còn tốt hơn ở châu Á-Thái Bình Dương. Mức độ can thiệp của chính phủ vào

nền kinh tế đã giảm mạnh. Xét về mức độ tự do tài khoá và chi tiêu của chính

phủ, châu Phi nam Sahara được coi là các nền kinh tế có mức tương đối tự do.

Đặc biệt, nếu xét về chi tiêu của chính phủ, mức độ tự do của các nền kinh tế

châu Phi còn cao hơn mức trung bình của thế giới và ngang với các nền kinh tế

châu Á-Thái Bình Dương. Đây là kết quả của những chương trình cải cách cơ

cấu được các nhà tài trợ như WB, IMF vừa cổ vũ, vừa áp đặt.

85

các nền kinh tế châu Phi đã bắt kịp với thế giới nhờ những chính sách tự do hoá

Tự do thương mại

80

70

60

50

40

30

20

10

0

Thế giới

Châu Phi nam Sahara

Châu Á-Thái Bình Dương

Tự do đầu tư

70

60

50

40

30

20

10

0

Thế giới

Châu Phi nam Sahara

Châu Á-Thái Bình Dương

86

Tự do tài chính

60

50

40

30

20

10

0

9 9 9 1

0 0 0 2

1 0 0 2

2 0 0 2

3 0 0 2

4 0 0 2

5 0 0 2

4 1 0 2

5 1 0 2

6 1 0 2

5 9 9 1

6 9 9 1

7 9 9 1

8 9 9 1

6 0 0 2

7 0 0 2

8 0 0 2

9 0 0 2

0 1 0 2

1 1 0 2

2 1 0 2

3 1 0 2

Thế giới

Châu Phi nam Sahara

Châu Á-Thái Bình Dương

Tự do tiền tệ

90

80

70

60

50

40

30

20

10

0

7 9 9 1

8 9 9 1

9 9 9 1

0 0 0 2

4 0 0 2

5 0 0 2

6 0 0 2

7 0 0 2

2 1 0 2

3 1 0 2

4 1 0 2

5 1 0 2

5 9 9 1

6 9 9 1

1 0 0 2

2 0 0 2

3 0 0 2

8 0 0 2

9 0 0 2

0 1 0 2

1 1 0 2

6 1 0 2

Thế giới

Châu Phi nam Sahara

Châu Á-Thái Bình Dương

Hình 3.4: Tự do hoá thương mại, đầu tư, tài chính và tiền tệ của

châu Phi nam Sahara so với thế giới và châu Á – Thái Bình Dương

Nguồn: Heritage Foundation (2016), 2016 Index of Economic Freedom

[http://www.heritage.org/index/ranking]

Khác với các nền kinh tế phát triển, tự do hoá nông nghiệp là một trong

87

những ưu tiên hàng đầu của các nước châu Phi nhằm phát huy được tiềm năng

của lĩnh vực có thế mạnh này. Nhiều chính phủ châu Phi hy vọng, việc dỡ bỏ các

hạn ngạch và giảm thuế của các nền kinh tế phát triển sẽ giúp nước họ đẩy mạnh

xuất khẩu nông sản. Tuy nhiên, việc tập trung vào khu vực nông nghiệp và xuất

khẩu tài nguyên đã khiến cho ngành công nghiệp ở nhiều nước châu Phi (ngoại

trừ Nam Phi) bị suy giảm, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quá trình công nghiệp

hoá, hiện đại hoá nền kinh tế. Tỷ trọng của ngành công nghiệp trong GDP đã

giảm từ 39% năm 1980 xuống còn 32% năm 1997. Phần lớn các mặt hàng xuất

khẩu chỉ có giá trị thấp; sản phẩm chế tạo chỉ chiếm khoảng 20% giá trị xuất

khẩu [111]. Quá trình mở cửa khiến cho nhiều ngành công nghiệp non trẻ của

châu Phi bị tác động tiêu cực và suy giảm. Ngoài ra, việc cắt giảm chi tiêu chính

những năm 1970 xuống còn khoảng 13% trong giai đoạn 2000-2006 cũng ảnh

hưởng đến việc đầu tư cho kết cấu hạ tầng phục vụ công nghiệp [100].

phủ theo các chương trình cải cách từ mức bình quân khoảng 20% GDP trong

3.2.3. Thúc đẩy tư nhân hoá

Vào những năm 1970, bình quân khu vực doanh nghiệp nhà nước (SOE)

chiếm khoảng 17% GDP của các nền kinh tế châu Phi, so với mức bình quân của

các nước trong khu vực. Một số cuộc điều tra tại châu Phi cho thấy, SOE chiếm

khoảng ¼ lực lượng lao động trong khu vực chính thức và trên 18% lao động

trong tất cả lĩnh vực phi nông nghiệp tại các nước được điều tra; SOE cũng

chiếm trên 20% đầu tư nội địa.

Mặc dù chiếm vị trí lớn trong nền kinh tế, khu vực SOE lại hoạt động rất

kém hiệu quả. Ví dụ, trong 12 nước Tây Phi được khảo sát, 62% số SOE được

khảo sát báo lỗ ròng [46]. Đến cuối những năm 1970, tổng lỗ luỹ kế của các

SOE ở Mali chiếm tới 6% GDP. Một nghiên cứu vào năm 1980 đối với 8 SOE ở

Togo cho thấy, chỉ riêng thua lỗ của nhóm công ty này chiếm tới 4% GDP. Ở

Benin, hơn 60% SOE ghi nhận lỗ ròng [82]. Bên cạnh đó, chính phủ nhiều nước

88

thế giới là 10% và của các nước OECD là 5%, tuy tỷ lệ này có khác nhau giữa

châu Phi cũng không thể giám sát được hoạt động của các SOE. Một nghiên cứu

vào năm 1988 tại Tanzania cho thấy khoảng 1/3 số SOE của nước này đã không

cung cấp các báo cáo về tài chính cơ bản [81].

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự yếu kém này song chủ yếu là hệ thống

quản trị và điều hành công ty yếu kém. Sắc luật của nhiều nước châu Phi thường

yêu cầu các bộ trưởng phải tham gia hội đồng quản trị và điều hành công ty nhà

nước. Kết quả là hội đồng này thường gồm các quan chức, trong đó rất ít người

có kinh nghiệm thực tiễn về thương mại hoặc kỹ thuật phù hợp. Thậm chí, một

quan chức có thể tham gia hội đồng điều hành của nhiều công ty khác nhau. Vị

trí thành viên trong hội đồng quản trị và điều hành thường được dùng để

“thưởng” cho những người trong phe cánh chính trị, các tướng lĩnh về hưu và đại

ích khác từ công ty song hầu như không chịu trách nhiệm gì với việc công ty

thua lỗ. Hội đồng quản trị và điều hành yếu kém dẫn đến các quyết đầu tư ban

đầu sai lầm, nhất là đối với lĩnh vực sản xuất công nghiệp và thương mại. Ví dụ,

biểu quốc hội. Những người này được hưởng các khoản thu nhập và nhiều lợi

vào thập niên 1970 quyết định đầu tư vào khai thác uranium ở Niger mà không

lường trước việc giá uranium không duy trì ở mức cao như lúc đó; hay quyết

Nigeria trước khi chính quyền nước này quyết định không nhập khẩu hàng dệt

may nữa.

Tư nhân hoá ở châu Phi đến nay được chia làm ba giai đoạn: thập niên

1980, giai đoạn 1990 - 2000 và từ năm 2000 đến nay.

Quá trình tư nhân hoá ở châu Phi bắt đầu bùng nổ từ đầu những năm

1980, dưới hai luồng sức ép: Một là sức ép ở trong nước nhằm giảm gánh nặng

ngân sách của các doanh nghiệp quốc doanh thua lỗ vốn được hình thành ồ ạt

bởi quá trình quốc hữu hoá trong thời kỳ sau khi giành được độc lập. Hai là sức

ép của các nhà tài trợ quốc tế theo các chương trình cơ cấu lại. Ngoài ra, đối với

các chính phủ châu Phi, quyết tâm tư nhân hoá còn được thôi thúc bởi các động

89

định đầu tư vào lĩnh vực dệt may ở Benin với hy vọng đẩy mạnh xuất khẩu sang

lực: tăng nguồn thu cho chính phủ; tăng hiệu quả kinh tế song cố gắng duy trì

mức độ việc làm; giảm sự can thiệp của chính phủ đối với quản lý kinh tế và mở

rộng sở hữu tư nhân; thúc đẩy cạnh tranh thông qua tự do hoá kinh tế; và phát

triển thị trường vốn quốc gia và thu hút dòng vốn từ bên ngoài và trong nước. Tư

nhân hoá bắt đầu trở thành “mốt” tại nhiều nước cùng với việc đẩy mạnh tự do

bầu cử, lớn mạnh của xã hội dân sự và các tiến trình dân chủ hoá.[80]

Năm 1979, WB bắt đầu triển khai các hoạt động cho vay “điều chỉnh cơ

cấu” đối với các nước châu Phi. Khác với những khoản cho vay trước đó tập

trung vào hỗ trợ xây dựng kết cấu hạ tầng như đường sá, sân bay, bến cảng,

trường học...các khoản cho vay mới này đưa ra điều kiện: chính phủ các nước đi

vay phải cam kết triển khai các biện pháp nhằm “điều chỉnh lại các mất cân đối”

chỉnh của các khoản vay này. Chỉ trong vòng một thập kỷ (1979-1989), WB đã

thông qua 51 dự án điều chỉnh cơ cấu trong đó có các cấu phần về cải cách SOE;

có 18 nước châu Phi nhận được 27 trong số khoản vay này [82].

của nền kinh tế. Khu vực SOE yếu kém hiển nhiên trở thành đối tượng điều

Vào thời điểm này, nhiều nước châu Phi không dùng thuật ngữ “tư nhân

hoá” (privatization) mà thay bằng thanh lý (liquidation) hoặc phục hồi

không có triển vọng cải thiện kết kinh doanh, chủ yếu trong các lĩnh vực thương

mại và chế tạo. Một số biện pháp cải cách được thử nghiệm trong giai đoạn này.

Ví dụ, cải cách SOE ở Cote d’Ivoire tập trung vào việc thiết lập các chỉ số giám

sát hiệu quả quản lý và năng suất của công ty. Cải cách SOE ở Ghana tập trung

vào việc sa thải các công nhân dư thừa nhằm cắt giảm chi phí. Chính phủ

Senegal áp dụng hìnhh thức “hợp đồng theo kế hoạch”, thuê đội ngũ cán bộ quản

lý công ty nhằm tăng tự chủ trong quản trị kinh doanh, tăng cường hiệu quả sử

dụng nguồn lực. Tuy nhiên, rất hiếm xảy ra trường hợp bán đứt các công ty cho

khu vực tư nhân.

Cho đến nửa đầu những năm 1990, tư nhân hoá ở châu Phi chủ yếu tập

90

(rehabilitation). Đối tượng được áp dụng chủ yếu là các công ty thua lỗ nặng,

trung vào các doanh nghiệp nhỏ và không đem lại những nguồn thu lớn cho

chính phủ. Từ giữa những năm 1990, hoạt động tư nhân hoá mới chuyển sang

những công ty lớn như hàng không, ngân hàng, các công ty cung ứng dịch vụ

công, viễn thông v.v... Do vậy, các nguồn thu của chính phủ tăng vọt. Trong giai

đoạn 1988-1996, tổng giá trị bán được của các công ty được tư nhân hoá ở châu

Phi Nam Sahara đạt khoảng 2,7 tỷ USD; trong khi chỉ trong năm 1997 con số

này đã đạt 2,3 tỷ USD. [60]

Hình 3.5. Số trường hợp tư nhân hoá ở châu Phi nam Sahara, 1991-2002

Nguồn: Buchs, Thierry D. (2003), Privatization in Sub-Saharan Africa: Some

Lessons from Experiences to Date, IFC, December 2003. Pg.4

Hình 3.6: Giá trị của các trường hợp tư nhân hoá ở châu Phi nam Sahara,

1991-2001

Châu Phi nam Sahara trừ Nam Phi

Nguồn: Buchs, Thierry D. (2003), Privatization in Sub-Saharan Africa: Some

Lessons from Experiences to Date, IFC, December 2003. Pg.4

91

Chế tạo và công nghiệp

NN, CN phục vụ nông nghiệp, ngư nghiệp

Dịch vụ, du lịch, bất động sản

Thương mại

Tài chính

Vận tải

Năng lượng

Nước và dịch vụ công ích

Viễn thông

Dịch vụ khác

Điện

Nguồn: Buchs, Thierry D (2003), Privatization in Sub-Saharan Africa: Some

Lessons from Experiences to Date, IFC, December 2003. Pg.7

Nhìn chung, trong giai đoạn 1990-2000, tư nhân hoá ở châu Phi bắt đầu

trở nên hiệu quả hơn và đã đi đúng hướng. Có ba nhóm doanh nghiệp trở thành

Hình 3.7: Số lượng trường hợp được tư nhân hoá trong các lĩnh vực (1991-2002)

đối tượng được tư nhân hoá: i) các doanh nghiệp chiến lược không hiệu quả; ii)

các doanh nghiệp không chiến lược nhưng vẫn hoạt động hiệu quả; và iii) các

doanh chủ yếu của các SOE như các ngành chế tạo và công nghiệp, nông nghiệp,

dịch vụ, du lịch và bất động sản…đã được tư nhân hoá tuy với số lượng không

nhiều. Sau khi tư nhân hoá, kết quả kinh doanh của các công ty trong lĩnh vực

này đã được cải thiện [47]. Tuy nhiên, các trường hợp tư nhân hoá chỉ tập trung

ở một số nước: Nam Phi chiếm phần lớn trong số vụ tư nhân hoá ở châu Phi nam

Sahara, tiếp đến là Ghana, Nigeria và Zambia.

Tiến trình tư nhân hoá đã làm giảm mạnh quy mô của khu vực công. WB

ước tính, số lượng SOE ở châu Phi nam Sahara đã giảm 33%, từ 6.069 công ty

xuống còn 4.058 công ty chỉ trong giai đoạn 1990-1995. Mặc dù quy mô nhỏ

hơn song khu vực công có tình hình tài chính tốt hơn do các công ty yếu kém đã

92

doanh nghiệp không chiến lược hoạt động không hiệu quả. Những lĩnh vực kinh

bị bán hoặc giải thể [60]. Tính bình quân, tỷ lệ sở hữu của chính phủ đối với các

lĩnh vực kinh tế đã giảm từ khoảng 89,1% trước khi tư nhân hoá xuống còn

10,3% sau khi tư nhân hoá [47].

Bảng 3.8: Sở hữu của chính phủ trong một số lĩnh vực trước và sau khi tư

Lĩnh vực

Trước khi tư

Sau khi tư

nhân hoá

nhân hoá

Chế tạo và công nghiệp

79,7

7,9

Nông nghiệp, công nghiệp

79,5

1,6

phụ vụ nông nghiệp, ngư

nghiệp

Dịch vụ, du lịch, bất động sản

70,2

14,3

Thương mại

95,3

3,3

Tài chính

86,7

8,2

Vận tải

97,6

4,9

Năng lượng

88,3

46,5

Nước

100

12,5

Viễn thông

95,8

42,8

Dịch vụ khác

63,3

10,2

Điện

100

33

Nguồn: Thierry D. Buchs (2003), Privatization in Sub-Saharan Africa: Some

Lessons from Experiences to Date, IFC, December 2003. Pg.8

nhân hoá (1991-2002), tỷ lệ %

từ đầu những năm 2000, các định chế quốc tế bắt đầu chuyển mối quan tâm từ

vấn đề tư nhân hoá sang việc thiết lập các điều kiện cơ bản hơn nhằm thúc đẩy

khu vực tư nhân phát triển, thông qua việc cải thiện môi trường kinh doanh, thúc

đẩy cạnh tranh bình đẳng và cho phép khu vực tư nhân tham gia bình đẳng vào

những lĩnh vực sản xuất, cung cấp dịch vụ công như khu vực nhà nước.

Có nhiều sức ép đòi hỏi phải phát triển khu vực kinh tế tư nhân ở châu

93

Tiến trình tư nhân hoá bắt đầu chững lại kể từ cuối những năm 1990. Kể

Phi, trong đó quan trọng nhất là yêu cầu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và giải

quyết việc làm. Châu Phi hiện có khoảng 200 triệu thanh niên thiếu việc làm;

hàng năm có khoảng 7-10 triệu thanh niên tham gia vào lực lượng lao động, 70-

80% lực lượng lao động làm việc trong khu vực phi chính thức; và dự báo đến

năm 2050, cứ trong 5 người thì có một người thuộc độ tuổi 15 đến 24 [113]. Tỷ

lệ thất nghiệp của giới trẻ ở khu vực Bắc Phi thuộc vào nhóm cao nhất thế giới,

khoảng 23,7% năm 2012. Thậm chí, tỷ lệ này còn cao hơn ở nữ giới, lên tới 37%

năm 2012 (so với nam giới là 18,3%). Do đào tạo kỹ năng không phù hợp, nhiều

nghiệp của những người có trình độ phổ thông trung học trở lên ở khu vực này

thanh niên có trình độ học vấn cao vẫn không tìm được việc làm. Tỷ lệ thất

Morocco (17,4%) năm 2010. Tỷ lệ thất nghiệp của giới trẻ ở khu vực Nam Phi

cũng rất nghiêm trọng, lên tới mức 58,9% ở Namibia năm 2008, 58,6% ở

Réunion năm 2011 và 34,4% ở Lesotho năm 2008 [62]. Đây cũng chính là

những yếu tố tiềm ẩn gây bất ổn chính trị - xã hội nếu không được giải tỏa kịp thời.

rất cao, đặc biệt ở một số nước như Algeria (21,4%), Ai Cập (18,9%) và

Hơn một thập kỷ tiến hành cải cách cơ cấu thông qua những nỗ lực tự do

đối với các nền kinh tế châu Phi. Khu vực này chiếm trên 80% sản lượng sản

xuất, 2/3 tổng đầu tư và ¾ tổng vốn tín dụng cho nền kinh tế đồng thời cung cấp

việc làm cho khoảng 90% lực lượng lao động trong giai đoạn 1996-2008 [37].

Tuy nhiên, nhìn về tổng thể thì khu vực này vẫn còn kém phát triển, chủ yếu chỉ

tồn tại ở khu vực phi chính thức (khu vực có năng suất rất thấp) của nền kinh tế.

Tại những nền kinh tế châu Phi có thu nhập thấp và bất ổn, khu vực này chiếm

đến trên 40% GDP [37].

94

hóa và cải tổ khu vực SOE đã giúp cho khu vực tư nhân đóng vai trò quan trọng

i h P u â h C

c ớ ư n c á C

u â h c T P Đ

ỹ M

c ớ ư n c á C

u â h c T P Đ

u Â

Á u â h c T P Đ

c ớ ư n c á C

h n i k n ề n c á C

i ổ đ n ể y u h c ế t

c ớ ư n c á C

D C E O

Hình 3.8: Tỷ trọng khu vực phi chính thức trong GDP của châu Phi so với

Nguồn: African Development Bank (2011), African Development

Report 2011: Private Sector Development as an Engine of Africa’s Economic

Development, Abidjan, Côte d'Ivoire, Figure 1.6, page 17

Nhiều nỗ lực cải cách thể chế nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho khu vực

các khu vực khác trên thế giới năm 2006 (%)

kinh tế tư nhân phát triển đã được tiến hành kể từ đầu những năm 2000. Tại

phép tham gia vào một số lĩnh vực thuộc vào cung cấp dịch vụ kết cấu hạ tầng

như năng lượng, viễn thông, cung cấp nước…trước đây thuộc độc quyền hoặc

bán độc quyền của nhà nước. Tuy vậy, quá trình này cũng diễn ra không đều:

nhanh và mạnh mẽ hơn tại những nước phát triển hơn như Nam Phi.

95

nhiều nước châu Phi, dưới sức ép của các nhà tài trợ khu vực tư nhân đã được

Năng lượng Viễn thông Nước và vệ sinh

- X - X X X X X X X X - - X X X X X X X - X X X X X X X X X X X X X - X X X

- - X - - X X X X X - X - - X - - - - - X - - X - - X - - X X - - - - X - -

- - - - - X - - X X - X - X X X X - - - X - X - - - X - X X X - - X - - X X

Nước Benin Botswana Burkina Faso Burundi Cameroon Cape Verde Cộng hoà Trung Phi Chad Congo Cote d’Ivoire Cộng hoà dân chủ Congo Gabon Gambia Ghana Guinea Guinea Bissau Kenya Lesotho Madagascar Malawi Mali Mauritania Mauritius Mozambique Namibia Nigeria Niger Rwanda Sao Tome & Principe Senegal Nam Phi Sudan Swaziland Tanzania Togo Uganda Zambia Zimbabwe Nguồn: Buchs, Thierry D. (2003), World Bank PPI Project Database,

African Privatization Database.

Ghi chú: X có tồn tại; - : chưa có

96

Bảng 3.9: Sự tham gia của khu vực tư nhân vào các lĩnh vực dịch vụ công đầu những năm 2000

3.3. Đánh giá tiến trình cải cách thể chế kinh tế thị trường của châu Phi

3.3.1. Đặc điểm và kết quả của tiến trình cải cách

Có thể chia tiến trình cải cách thể chế kinh tế của phần lớn các nước châu

Phi (Nam Sahara) làm hai giai đoạn chính:

i)- Giai đoạn chuyển từ nền kinh tế phi thị trường sang nền kinh tế thị trường

Cốt lõi của quá trình chuyển đổi này là việc triển khai các chương trình

cải cách cơ cấu (SAP) trong thập kỷ 1980 và đầu thập kỷ 1990. Có nhiều ý kiến

khác nhau về kết quả của SAP đối với châu Phi. Những người ủng hộ SAP cho

rằng, có thể SAP chưa mang lại kết quả như mong muốn nhưng cũng đã giúp

nhiều nước châu Phi cải cách và vượt qua được những thời điểm khó khăn nhất.

Nhiều nền kinh tế châu Phi gần như bền bờ vực sụp đổ trước khi triển khai SAP;

trong hoạt động xuất khẩu và tự do hoá thương mại, Angola đã cải thiện được lợi

thế so sánh; xuất khẩu dầu mỏ của nước này đã tăng mạnh ở mức bình quân

8%/năm. Tương tự, xuất khẩu đồng của Zambia vốn bị kìm hãm bởi các chính

và tình hình này đã được cứu vãn. Ví dụ, với chính sách tăng cường minh bạch

sách không hiệu quả và hoạt động của khu vực quốc doanh đã phục hồi mạnh mẽ

sau chính sách điều chỉnh cơ cấu. Các chương trình điều chỉnh cơ cấu đã giúp

trạng bị “kiểm soát chặt chẽ”, đồng thời giúp ổn định kinh tế vĩ mô và chuyển

sang nền kinh tế thị trường tự do.

Những ý kiến phản đối cho rằng, SAP được thiết kế bởi phương Tây mà

không tính đến các điều kiện đặc thù của châu Phi, thậm chí không tính đến đặc

thù giữa các nước châu Phi. SAP không do các nước châu Phi “sở hữu”, kiểm

soát và điều hành. SAP còn ôm đồm quá nhiều thứ, chỉ tính đến những mục tiêu

ngắn hạn, thiếu các mục tiêu phát triển dài hạn và cuối cùng không hiệu quả bởi

châu Phi vẫn chưa thoát khỏi “bẫy đói nghèo”. Việc tự do hoá thương mại, phá

giá đồng tiền ở nhiều nước châu Phi đã tạo ra những tác động tiêu cực: ví dụ,

làm tăng giá cả đầu vào của sản xuất nông nghiệp; chính sách thúc đẩy xuất khẩu

97

hoạt động thương mại, tài chính của nhiều nền kinh tế châu Phi thoát khỏi tình

đã để lại hệ luỵ là tình trạng khai thác, bòn rút tài nguyên và tàn phá môi trường

nghiêm trọng ở nhiều nước châu Phi. Thậm chí, có những ý kiến còn cho rằng,

châu Phi có thể sẽ phát triển tốt hơn nếu không có SAP.

Nhìn chung, trong giai đoạn này, cải cách thể chế kinh tế ở châu Phi là

một quá trình tự do hoá được áp đặt bởi các định chế quốc tế như WB và IMF

cùng với cộng đồng các nhà tài trợ phương Tây. Từ cải cách chế độ sở hữu, thúc

đẩy tự do hoá thương mại, tài chính và đầu tư cho tới quá trình tư nhân hoá, dỡ

bỏ dần độc quyền nhà nước, cho phép cạnh tranh bình đẳng…châu Phi đã theo lộ

trình cải cách như “đơn thuốc” Đồng thuận Washington. Điều này khiến quá

trình tự do hoá ở châu Phi bị chỉ trích là phụ thuộc quá nhiều vào các nhà tài trợ.

Ví dụ, các trường hợp tư nhân hoá hầu như gắn với việc giải ngân những khoản

thường yêu cầu đẩy nhanh tiến độ, thậm chí, còn thiết kế cả những chương trình

và kế hoạch tư nhân hoá cho các nước đi vay [116]. Tuy nhiên, ngay cả khi bị áp

đặt từ bên ngoài, kết quả của quá trình tư nhân hoá ở châu Phi vẫn không như

mong đợi. Nguyên nhân không phải là sự yếu kém về năng lực mà là do chủ đích

vay của WB và IMF. Các nhà tài trợ rất chú trọng đến số vụ tư nhân hoá và

bởi tâm lý chính trị thù ghét tư nhân hoá. Giới chính trị gia và học giả châu Phi

ích của những nhóm thiểu số và tư nhân hoá sẽ tạo điều kiện mang lại lợi ích cho

người nước ngoài hoặc tầng lớp tư bản giàu có trong nước. Các nghiệp đoàn và

người lao động ở châu Phi phản đối tư nhân hoá vì sợ rằng, điều này sẽ dẫn đến

mất việc làm. Hơn nữa, lợi ích của nhiều nhà lãnh đạo và quan chức châu lục này

gắn liền với khu vực doanh nghiệp nhà nước như các khoản biếu xén, có được các

phương tiện đi lại và nhà ở, thành viên trong hội đồng quản trị, tạo việc làm cho

người thân và các khoản lại quả từ những dự án…Khu vực tư nhân cũng trục lợi

được nhờ mối quan hệ thân quen, dựa dẫm vào các doanh nghiệp nhà nước và e

ngại rằng, những điều này sẽ bị ảnh hưởng nếu như doanh nghiệp nhà nước sau khi

tư nhân hoá sẽ bị kiểm soát bởi chủ sở hữu tư nhân - những người chắc chắn sẽ phải

nâng cao hiệu quả, chất lượng và cắt giảm chi phí của doanh nghiệp.

98

thường được đào tạo theo quan điểm rằng, khu vực công là công cụ để bảo vệ lợi

Các số liệu thực tế cho thấy, những chương trình cải cách được áp đặt bởi

hệ thống nguyên tắc Đồng thuận Washington không mấy thành công ở trên thế

giới và ở cả châu Phi. Trong thập niên 1980, các tổ chức quốc tế như WB đã chi

25 tỷ USD trong nỗ lực cải cách kinh tế ở 29 quốc gia châu Phi song có đến 23

quốc gia bị coi là đã thất bại; chỉ có 6 trong số đó được xem là khá thành công.

Năm 1993, trong số 15 nước trên thế giới được WB xem là trọng tâm của các

chương trình điều chỉnh cơ cấu chỉ có 3 nước được IMF coi là những nền kinh tế

vận hành tốt. Điều này chứng tỏ nhiều nhà lãnh đạo châu Phi đã không thực sự

quan tâm đến cải cách kinh tế bởi họ không định từ bỏ sự kiểm soát kinh tế đã

làm nên nền tảng đế chế quyền lực của mình. Khi đối mặt với áp lực quốc tế và

để có được nguồn tài trợ, nhiều nhà lãnh đạo châu Phi đã chọn một chiến thuật

dù còn nhiều hạn chế, thực tế đã chứng minh, đến đầu những năm 1990, các

chương trình điều chỉnh cơ cấu và đơn thuốc của các tổ chức quốc tế đã giúp hầu

hết các nền kinh tế châu Phi “điều chỉnh” theo hướng thị trường.

ii)- Giai đoạn hoàn thiện, củng cố nền tảng thể chế kinh tế thị trường

khôn khéo “Babangida Boogie” – tức là một bước tiến, hai bước lùi [43]. Mặc

Cốt lõi của giai đoạn này là quá trình hoàn thiện chất lượng của các thể

các thể chế chính trị) có tác động đến chất lượng phát triển và chất lượng của

tiến trình cải cách thể chế kinh tế thị trường.

Sau khi có đánh giá của WB, làn sóng cải cách thể chế ở châu Phi bắt đầu

chuyển đổi mạnh mẽ sang vấn đề quản trị quốc gia và cải cách thể chế chính trị

thông qua quá trình dân chủ hoá. Bên cạnh đó, tiến trình cải cách thể chế kinh tế

thị trường ở châu Phi đã không chỉ chú ý đến vấn đề tự do hoá, tư nhân hoá mà

đã chú trọng nhiều hơn đến vấn đề giảm nghèo. Cuối thập niên 1990, các tổ

chức quốc tế như WB đã thay thế SAP bằng Cơ chế tăng trưởng và giảm

nghèo (PRGF) và các nước châu Phi phải chuẩn bị các Chiến lược giảm

nghèo (PRSP) nhằm tiếp tục nhận được các khoản viện trợ của cộng đồng

quốc tế.

99

chế kinh tế thị trường; cải cách các nền tảng thể chế (như: nền quản trị quốc gia,

Nhìn chung, chỉ có một số nước châu Phi được hưởng lợi từ quá trình tự

do hoá. Ví dụ, mặc dù có vị trí địa lý không thuận lợi (do không giáp biển) và

xuất phát điểm thấp hơn, Uganda đã đạt được nhiều thành tựu phát triển nhanh

chóng hơn các quốc gia láng giềng nhờ quá trình tự do hoá. Trong giai đoạn

1995-2000, nền kinh tế Uganda tăng trưởng bình quân khoảng 6%/năm; tỷ lệ tiết

kiệm nội địa tăng từ mức 0,7% GDP năm 1991 lên 7,9% năm 1997[110]; trong

giai đoạn 1992-1998, tăng trưởng GDP bình quân đầu người đạt trung bình 3,8%

và tốc độ giảm nghèo nhanh gấp 6 lần phần còn lại của châu Phi [55]. Tự do hoá

cùng với các biện pháp thúc đẩy xuất khẩu và thu hút FDI cũng đã đóng góp tích

cực cho nền kinh tế của Mauritius and Mozambique - hai nước thuộc nhóm đạt

được tốc độ tăng trưởng GDP nhanh nhất thế giới vào cuối những năm

Ngược lại, tự do hoá đã không giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thậm chí

hội nhập quốc tế của những nước như Malawi. Nước này bắt đầu tiến hành

chương trình cải cách cơ cấu từ giữa những năm 1980. Tuy nhiên, ngay cả khi đã

1990.[124]

mở cửa nền kinh tế, giá trị tỷ xuất khẩu đã giảm từ mức 30% GDP năm 1994

xuống còn 27% năm năm sau đó. Các công ty nước ngoài từ chối đầu tư vì môi

thiện về kết cấu hạ tầng và phát triển nguồn nhân lực nhằm nâng cao năng suất

của nền kinh tế. Các công ty và nông dân Malawi đã không được chuẩn bị tốt

đứng trước sức ép cạnh tranh gay gắt từ bên ngoài [49]. Hơn nữa, trên thị trường

thế giới cũng diễn ra nhiều bất lợi như việc giá thuốc lá giảm đã ảnh hưởng đến

xuất khẩu của nước này (thuốc lá chiếm đến 66% giá trị xuất khẩu của Malawi.

http://www.unctad.org/en/subsites/ldcs/country/profiles/malawi.htm

[137].

Nếu Uganda và Mauritius vẫn tiếp tục bảo hộ nền sản xuất trong nước bằng

hàng rào thuế quan tương đối cao, thì những nước như Malawi hay

Zimbabwe, việc dỡ bỏ thuế quan đã khiến cho giá lương thực tăng vọt và gây

ra tình trạng nghèo khổ trầm trọng hơn.

100

trường đầu tư không minh bạch. Quá trình tự do hoá đã không đi kèm những cải

Kể từ đó đến nay, mức độ tự do kinh tế của châu Phi đã được cải thiện

đáng kể; đặc biệt trong giai đoạn 5 năm trở lại đây sau khi sụt giảm trong thời kỳ

khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên, theo Báo cáo chỉ số tự do kinh tế, mức

độ tự do kinh tế của châu Phi nam Sahara thuộc vào nhóm thấp nhất thế giới –

thấp hơn mức bình quân chung của thế giới và của khu vực châu Á – Thái Bình

Dương. Năm 2016, trên thang điểm 100 của Heritage Foundation, điểm chung

bình về mức độ tự do kinh tế của châu Phi nam Sahara là 55,5, trên đó là châu Á

- Thái Bình Dương (59 điểm), Nam Mỹ, Trung Mỹ và Caribbe (59,8), Trung

Đông-Bắc Phi (62,6), châu Âu (66,9) và Bắc Mỹ (72,9). Trong số 44 nước châu

Phi nam Sahara được xếp hạng, có 8 nước bị coi là những nước không có tự do

kinh tế, 28 nước bị coi là hầu như không có tự do kinh tế, 8 nước tương đối có tự

Botswana.

do kinh tế và chỉ có hai nước phần nhiều có tự do kinh tế là Mauritius và

62

60

58

56

54

52

50

48

46

5 9 9 1

9 9 9 1

0 0 0 2

4 0 0 2

5 0 0 2

6 0 0 2

9 0 0 2

0 1 0 2

1 1 0 2

4 1 0 2

5 1 0 2

6 1 0 2

6 9 9 1

7 9 9 1

8 9 9 1

1 0 0 2

2 0 0 2

3 0 0 2

7 0 0 2

8 0 0 2

2 1 0 2

3 1 0 2

Thế giới

Châu Phi nam Sahara

Châu Á - Thái Bình Dương

Hình 3.9: Mức độ tự do hoá kinh tế của châu Phi nam Sahara so với thế giới

và châu Á – Thái Bình Dương, 1995-2016

Nguồn: Heritage Foundation (2016),2016 Index of Economic Freedom

[http://www.heritage.org/index/ranking]

101

Kể từ đầu những năm 2000, nhiều nền kinh tế châu Phi đã đạt được tốc độ

tăng trưởng khá, chủ yếu nhờ vào việc giá cả tài nguyên gia tăng. Đây là kết quả

tích cực của việc mở cửa nền kinh tế và thúc đẩy xuất khẩu. Cùng với thành tựu

về tăng trưởng kinh tế, một số quốc gia châu Phi đã có những tiến bộ nhảy vọt

về cải thiện môi trường kinh doanh như Mauritius (đứng thứ 32 thế giới trong

bảng xếp hạng 189 nền kinh tế của DB2016), Rwanda (đứng thứ 62 thế giới) và

Botswana (đứng thứ 72). Báo cáo DB2016 cũng cho thấy, trong thời gian qua,

nhiều nước châu Phi đã tiến hành những cải cách đáng kể nhằm tạo thuận lợi

khởi nghiệp kinh doanh, đảm bảo quyền sở hữu, thúc đẩy thương mại xuyên biên

giới, tiếp cận tín dụng và sử dụng các dịch vụ công như điện, nước…

Ví dụ: năm 2007, chính phủ Zambia đã tạo thuận lợi cho việc cấp phép

phủ nước này cũng giúp việc thành lập các công ty khởi nghiệp dễ dàng hơn

bằng cách xóa bỏ yêu cầu về lượng vốn tối thiểu. Năm 2013, chính phủ Tanzania

đã xây dựng hệ thống thông tin tín dụng, từ đó hình thành một cơ sở dữ liệu tín

xây dựng bằng cách giảm thời gian yêu cầu để bắc điện, nước. Năm 2011, chính

dụng. Chính phủ nước này cũng đơn giản hóa các thủ tục, quy định rõ phần thù

lao và yêu cầu nghề nghiệp cho người tư vấn để tạo thuận lợi cho việc phá sản.

cách giảm thiểu các thủ tục, trong đó bãi bỏ yêu cầu phải có luật sư tư vấn.

Ngoài ra, chính phủ nước này cũng tạo điều kiện cho các công ty đóng thuế dễ

dàng hơn và giảm thiểu chi phí bằng cách bãi bỏ các mức thuế dịch vụ và thuế

thành lập công ty do các địa phương áp đặt. Năm 2016, Rwanda đã tạo thuận lợi

cho việc mở công ty bằng cách áp dụng thủ tục đăng ký điện tử một cửa và giảm

thiểu các quy định sau đăng ký...

Tuy nhiên, đối mặt với sức ép về tài chính, năng lực kiểm soát và cạnh

tranh, một số nước vẫn tiếp tục buộc phải đưa ra những quy định gây khó khăn

cho môi trường kinh doanh. Ví dụ, năm 2011 Uganda đã gây khó khăn cho việc

mở công ty mới bằng cách tăng phí đăng ký công ty. Zimbabwe đã yêu cầu phải

102

Năm 2008, chính phủ Nam Phi đã giảm chi phí và thời gian mở công ty bằng

có đồng ý của chánh hoặc phó thanh tra xây dựng trước khi cấp phép xây dựng

các công trình; đồng thời tăng các phí cấp phép xây dựng do lạm phát leo thang.

Nước này cũng ban hành quy định cho phép tăng phí cho người môi giới khiến

việc đăng ký tài sản tốn kém hơn. Năm 2009, Cộng hòa dân chủ Congo ban hành

các quy định gây khó dễ cho việc mở công ty bằng yêu cầu phải đăng ký với các

cơ quan như Trung tâm hành chính công ty, cơ quan thuế và bảo hiểm xã hội.

Ngoài ra, chính phủ nước này cũng tăng phí xây dựng khiến cho việc cấp phép

xây dựng trở nên tốn kém hơn...

(http://www.doingbusiness.org/reforms/overview/region/sub-saharan- africa)

Điều này khiến cho cải cách ở châu Phi không đồng đều và không phải là

một quá trình thẳng tiến.

Có hai yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng cải cách thể chế kinh

tế và kết quả phát triển ở châu Phi là: thể chế chính trị và quản trị quốc gia.

Theo Daron Acemoglu và các cộng sự, thể chế chính trị dân chủ, còn theo WB

3.3.2. Các yếu tố cơ bản tác động đến tiến trình cải cách

một nền quản trị quốc gia tốt có ảnh hưởng quyết định đến chất lượng của thể

chế kinh tế thị trường và kết quả phát triển của các quốc gia.

dựng bộ chỉ số “Tự do trên thế giới” đánh giá mức độ dân chủ của các nước

không căn cứ vào hoạt động của chính phủ mà theo mức độ các cá nhân được

hưởng các quyền và tự do. Bộ chỉ số này xếp hạng các nước trong thang bậc các

“nền dân chủ tự do” dựa vào hai khía cạnh: quyền chính trị và tự do dân sự.

Theo Freedom House, tỷ lệ các quốc gia châu Phi nam Sahara bị coi là “không

có tự do” đã giảm mạnh trong làn sóng dân chủ hoá đầu những năm 1990 cho

đến giữa những năm 2000 song lại có xu hướng tăng trong những năm gần đây.

Tuy nhiên, nếu so với những thập niên 1970 - 1980 thì xu hướng dân chủ hoá ở

khu vực này được cải thiện rõ rệt. Trong tổng số 49 nước châu Phi nam Sahara

được khảo sát năm 2015 thì chỉ có 9 nước được coi là có “tự do”, 20 nước bị coi

103

Dựa vào Tuyên bố nhân quyền của Liên hợp quốc, Freedom House đã xây

là “có tự do một phần” và 20 nước “không có tự do”. Tỷ lệ số quốc gia bị

Freedom House coi là “không có tự do” ở châu Phi nam Sahara vẫn thấp hơn

khu vực Âu-Á (Eurasia) và Bắc Phi-Trung Đông.

90

80

70

60

50

40

30

20

10

0

Châu Á-Thái Bình Dương

Châu Phi Nam Sahara

Bắc Phi-Trung Đông

Hình 3.10: Tỷ lệ các quốc gia “không có tự do” ở châu Phi nam Sahara %)

Nguồn: Freedom House (2016) Freedom in the World, Database

12

Tỷ lệ số người dân sống tại các quốc gia có tự do

39

Tỷ lệ số người dân sống tại các quốc gia có tự do một phần

49

Tỷ lệ số người dân sống tại các quốc gia không có tự do

Hình 3.11: Tỷ lệ số người dân sống tại các quốc gia có tự do ở châu Phi nam

Sahara 2015 (%)

Nguồn: Freedom House (2016), Freedom in the World, Database

Châu Phi có những quốc gia bị nhiều tổ chức xếp hạng cuối cùng thế giới

104

trong thang bậc dân chủ. Ví dụ, năm 2015 Economic Intelligent Unit xếp Chad

đứng thứ 165 trong tổng số 167 quốc gia, nơi hầu như không có bầu cử tự do và

chính phủ hầu như không hoạt động; Cộng hoà Trung Phi đứng thứ 164 và chính

phủ ở quốc gia này cũng tê liệt. Các nước như Guinea-Bissau, Cộng hoà dân chủ

Congo, Lybia, Sudan, Eritrea, Burundi…cũng bị xếp hạng rất thấp, đặc biệt

trong khía cạnh về bầu cử tự do [56]. Châu Phi cũng là khu vực bị lên án là có

nhiều chế độ độc tài, gia đình trị. Ví dụ, tại Chad, cựu Tổng thống Hissène

Habré đã bị buộc tội lạm dụng quyền lực để thực hiện tra tấn, tội ác chiến tranh

và tội ác chống lại loài người. Human Rights Watch cho rằng, trong thời gian

cầm quyền (1982-1990), ông này phải chịu trách nhiệm với cái chết của 1.208

người bị giết hoặc chết trong khi bị giam giữ và 12.321 người khác bị vi phạm

hình sự quốc tế kết án tội ác chống lại loài người trong thời gian cầm quyền của

mình (1989-2011). Tại Nigeria, có những cuộc điều tra cho rằng, từ khi giành

được độc lập năm 1960 cho đến giữa thập niên 2000, nhất là trong những năm

nhân quyền [130]. Tại Sudan, cựu Tổng thống Omar al-Bashir cũng bị Toà án

1980 và 1990 giới lãnh đạo đã biển thủ hoặc làm lãng phí tới hơn 380 tỷ USD.

Số tiền này có thể mua được 225 tàu vũ trụ hoặc 795.115 xe Rolls Royce

học hoặc 3,8 tấn gạo cho mỗi người dân Nigeria [131]. Tổng thống Mobutu Sese

Seko – người đã từng “cai trị” Cộng hòa dân chủ Congo [được đổi tên thành

Zaire vào năm 1971] trong 30 năm, đã tích lũy một khối tài sản trị giá 10 tỷ

USD. Với số tiền này, ông đã có thể trả hết toàn bộ nợ nước ngoài của nước ông

- chỉ có 7 tỉ USD. Tổng thống Nigeria Olusegun Obasanjo từng tuyên bố: các

nhà lãnh đạo châu Phi đã đánh cắp 142 tỷ USD từ người dân của họ từ khi châu

lục này giành được độc lập [132].

Các chính phủ chuyên chế, độc tài ở nhiều nước châu Phi là rào cản rất

lớn đối với quá trình cải cách kinh tế theo hướng thị trường, bởi những cải cách

này có thể làm lung lay cơ chế “phân phát lợi ích” dựa trên quan hệ - là nền tảng

105

Phantoms hoặc 400 triệu máy tính hoặc xây được 32 triệu phòng học cấp tiểu

quyền lực của họ. Do vậy, quyền lực kinh tế và quyền lực chính trị gắn bó mật

thiết với nhau. Trong thời gian cầm quyền (1981-2011), Tổng thống Hosni

Mubarak của Ai Cập đã thiết lập một mạng lưới gồm những cộng sự thân tín và

người thân trong gia đình nắm giữ những chức vụ chính quyền và kiểm soát

những ngành kinh tế quan trọng của đất nước. Đa phần giới doanh nhân kiểm

soát việc khai thác các nguồn tài nguyên giàu có – nguồn lực phát triển quan

trọng tại nhiều nước châu Phi là những người thân của chính phủ và đều không

muốn quyền kiểm soát này bị rơi vào tay người khác. Điều này chính là lực cản

cho các nỗ lực tự do hoá thương mại, dỡ bỏ độc quyền nhà nước và tư nhân hoá.

Bởi vậy, các nhà tài trợ và các tổ chức phát triển, thậm chí một số cơ quan của

Liên hợp quốc như UNDP, đã thúc đẩy các chương trình nghị sự về dân chủ hoá

Điển hình là sau một thời gian dài nội chiến, do lịch sử tham nhũng kéo dài

chính quyền Angola đã không thể đáp ứng được các điều kiện mà nhiều nhà tài

trợ quốc tế đặt ra để có được các khoản vay nhằm tái thiết đất nước. Tuy nhiên,

ở châu Phi, gắn quá trình dân chủ hoá với việc xây dựng một nền quản trị tốt.

cũng vì điều này, nhiều khoản viện trợ thường xuyên bị chỉ trích là kèm theo các

điều kiện chính trị, can thiệp vào công việc nội bộ và áp đặt mô hình dân chủ

Các tổ chức quốc tế đều đánh giá rằng, các quốc gia châu Phi có chất

lượng thể chế và quản trị thuộc vào nhóm thấp nhất thế giới mặc dù mức độ cao

thấp và sự lạc quan của các đánh giá có thể khác nhau. Theo WB, chất lượng

quản trị của các nước châu Phi Nam Sahara thấp hơn hẳn so với nhiều khu vực

khác trên thế giới (như châu Mỹ La tinh và vùng Caribe, Nam Á, châu Á – Thái

Bình Dương); điểm số của 6 nhóm chỉ số đo lường chất lượng quản trị của khu

vực này đều ở dưới mức trung bình (dưới 50 điểm so với điểm tối đa là 100).6

nhóm yếu tố là: i) tiếng nói và trách nhiệm giải trình; ii) ổn định chính trị và

phi bạo lực/khủng bố; iii) hiệu lực của chính phủ; iv) chất lượng của các quy

định; v) thượng tôn pháp luật; vi) kiểm soát tham nhũng.

106

phương Tây cho các nước châu Phi.

Chất lượng quản trị của các nước ở Bắc Phi cao hơn so với các nước châu

Phi nam Sahara, mặc dù một số nhóm chỉ số trong giai đoạn gần đây có sa sút do

hệ lụy của làn sóng “Mùa xuân Ả rập” (như: ổn định chính trị và phi bạo lực,

hiệu lực của chính phủ, thượng tôn pháp luật và kiểm soát tham nhũng). Tuy

nhiên, liên quan đến nhóm chỉ số về tiếng nói và trách nhiệm giải trình, chất

Tiếng nói và trách nhiệm giải trình

Ổn định chính trị và phi bạo lực/khủng bố

Hiệu lực của chính phủ

Chất lượng của các quy định

Thượng tôn pháp luật

Kiểm soát tham nhũng

lượng quản trị của các nước Bắc Phi vẫn thường xuyên ở mức thấp.

Hình 3.12: Chất lượng quản trị của các nước châu Phi nam Sahara

Nguồn: World Bank, 2014.

[http://info.worldbank.org/governance/wgi/index.aspx#reports]

Các đánh giá về chất lượng thể chế và quản trị của các nước châu Phi do

những tổ chức quốc tế của chính châu lục này công bố có phần lạc quan hơn.

Báo cáo “Xếp loại quản trị quốc gia” năm 2014 của Ngân hàng phát triển châu

Phi (AfDB) đánh giá chất lượng quản trị của 40 quốc gia châu Phi qua 5 nhóm

chỉ số gồm: i) quyền tài sản và quản trị dựa vào pháp luật; ii) chất lượng ngân

107

sách và quản lý tài chính; iii) hiệu quả của huy động nguồn thu ngân sách nhà

nước; iv) chất lượng của hành chính công; và v) mức độ minh bạch, trách nhiệm

giải trình và tham nhũng ở khu vực công). Theo báo cáo này, chất lượng quản trị

của các nước trên chỉ ở mức trung bình với điểm trung bình của cả 5 nhóm chỉ

số đạt 3,3 (so với mức tối đa là 6 điểm và tối thiểu là 1 điểm) năm 2013. Đứng

đầu trong số 40 nước được xếp loại là Rwanda (điểm quản trị bình quân của cả 5

nhóm chỉ số đạt 4,6) và Cape Verde (điểm quản trị bình quân đạt 4,5); còn đứng

cuối là Somalia (điểm quản trị bình quân là 1 – mức thấp nhất trên thang điểm

xếp hạng) và Eritrea (điểm quản trị bình quân là 1,85).

Chất lượng của hành chính công

Bảng 3.10: Chất lượng quản trị của châu Phi năm 2014

Quyền tài sản và quản trị dựa vào pháp luật 3,1

Chất lượng ngân sách và quản lý tài chính 3,7

Hiệu quả của huy động nguồn thu 3,1

3,5

Minh bạch, trách nhiệm giải trình và tham nhũng ở khu vực công 3,1

Nguồn: AfDB (2014). Country Governance Rating. Governance Rating:

Public Sector Management and Institutions. 2013

Ghi chú: điểm cao nhất = 6 (thể hiện mức độ đáp ứng yêu cầu rất cao); điểm

thấp nhất = 1 (thể hiện mức độ đáp ứng yêu cầu rất thấp)

Bộ chỉ số quản trị châu Phi Ibrahim (IIAG) năm 2014 đánh giá chất lượng

quản trị của 52 quốc gia châu Phi theo 4 nhóm chỉ số: i) an toàn và thượng tôn

pháp luật; ii) tham dự và quyền con người; iii) các cơ hội kinh tế bền vững; và

iv) phát triển con người, cũng đạt mức trung bình. Theo đó, điểm bình quân của

cả 4 nhóm chỉ số quản trị của các nước này đạt 51,5 điểm (mức tối đa là 100

điểm). Đứng đầu danh sách về chất lượng quản trị là Mauritius (đạt 81,7 điểm)

và Cape Verde (76,6 điểm); đứng cuối danh sách là Somalia (8,6 điểm) và Cộng

hòa Trung Phi (đạt 24,8 điểm).

108

Phát triển con người

An toàn và thượng tôn pháp luật

Tham dự và quyền con người

Các cơ hội kinh tế bền vững

51,7

45,6

49,9

58,7 Nguồn:2014 Ibrahim Index of African Governance (IIAG).

[http://www.moibrahimfoundation.org/interact/]

Bảng 3.11: Chỉ số quản trị châu Phi Ibrahim 2014

Tham nhũng là một vấn nạn ở châu Phi và nó thường gắn với những chính

phủ độc tài, gia đình trị. Đây là điểm khác biệt cơ bản giữa châu Phi và Đông Á,

đồng thời cũng là yếu tố giải thích vì sao mô hình nhà nước phát triển có thể

thành công ở Đông Á song lại có thể trở thành một vỏ bọc cho những yếu kém

về mặt thể chế của nhiều nước châu Phi trước những can thiệp từ bên ngoài.

cải thiện rất ít trong hơn 20 năm qua (1995-2016) và ở mức khá nghiêm trọng.

Theo Heritage Foundation, mức độ tham nhũng ở châu Phi nam Sahara chỉ được

50

45

40

35

30

25

20

15

10

5

0

Thế giới

Châu Phi nam Sahara

Châu Á-Thái Bình Dương

Hình 3.13: Mức độ tham nhũng ở châu Phi nam Sahara so với thế giới và

châu Á – Thái Bình Dương

Nguồn: Heritage Foundation (2016), 2016 Index of Economic Freedom

[http://www.heritage.org/index/ranking]

109

Điều đáng nói là, tham nhũng đã trở thành một thói quen trong xã hội và

không nhiều người tin rằng, thực trạng này có thể thay đổi một sớm một chiều.

Đồng thời, cũng ít người dân châu Phi cho rằng, chính phủ có thể làm tốt việc

chống tham nhũng.

Bảng 3.12: Quan niệm của người dân về hành động chống tham nhũng của

Nước

Tỷ lệ số người cho rằng chính phủ làm tốt (%) 9 18 17 19 20 22 25 25 27 28 19 26 29 34 32 23 33 31 37 37 43 44 45 48 46 47 54 47

Madagascar Liberia Zimbabwe Benin Nam Phi Nigeria Ghana Mauritius Kenya Malawi Sierra Leone Uganda Burudi Namibia Zambia Cape Verde Guinea Togo Tanzania Camoroon Mali Cote d’Ivore Burkina Faso Swaziland Niger Senegal Botswana Lesotho

Tỷ lệ số người cho rằng chính phủ làm chưa tốt (%) 90 81 80 79 79 78 71 71 70 69 69 69 68 65 62 61 61 61 58 57 56 53 49 48 47 46 42 41 Nguồn: Transparency International (2015), Global Coruption Barometer,

People and Corruption Africa Survey 2015, Figure 2, Tr.11

110

chính phủ

Tiểu kết chương 3

Phần lớn các nước châu Phi, nhất là châu Phi nam Sahara, hình thành vào

những năm 1960 sau những quá trình đấu tranh giành độc lập khó khăn. Với

mục tiêu hàng đầu là xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ, vào thời điểm

đó, nhiều chính phủ châu Phi đều thừa nhận vai trò quan trọng của khu vực công

trong nền kinh tế như một thực tế tự nhiên và theo đuổi mô hình kinh tế kế hoạch

hoá tập trung. Những cuộc khủng hoảng liên tiếp kể từ cuối thập niên 1970 đã

buộc các nước châu Phi phải chuyển đổi sang cơ chế thị trường theo đơn thuốc

của các định chế quốc tế như IMF và WB.

Các nội dung chính của cải cách thể chế kinh tế thị trường ở châu Phi là:

đầu tư nước ngoài và thúc đẩy xuất khẩu; và cải cách doanh nghiệp nhà nước

thông qua con đường tư nhân hoá. Đến đầu những năm 1990, hầu hết các nền

kinh tế châu Phi đã được “điều chỉnh” theo hướng thị trường. Nhìn chung, cải

cách thể chế kinh tế ở châu Phi là một quá trình tự do hoá được áp đặt bởi các

Cải cách quyền sở hữu; Mở cửa nền kinh tế, tiến hành hội nhập quốc tế, thu hút

định chế quốc tế như WB và IMF cùng với cộng đồng các nhà tài trợ phương

Tây. Quá trình này bị chỉ trích là phụ thuộc quá nhiều vào các nhà tài trợ. Những

phương Tây mà không tính đến các điều kiện đặc thù của châu Phi, thậm chí

không tính đến đặc thù giữa các nước châu Phi, không do các nước châu Phi “sở

hữu”, kiểm soát và điều hành. Các chương trình này ôm đồm quá nhiều thứ, chỉ

tính đến những mục tiêu ngắn hạn, thiếu các mục tiêu phát triển dài hạn và cuối

cùng không hiệu quả bởi châu Phi vẫn chưa thoát khỏi “bẫy đói nghèo”. Tuy

nhiên, dưới góc độ về chính trị và quản trị quốc gia, nhiều nhà lãnh đạo châu Phi

đã không thực sự quan tâm đến cải cách kinh tế bởi họ không định từ bỏ sự kiểm

soát kinh tế đã làm nên nền tảng đế chế quyền lực của mình. Khi đối mặt với áp

lực quốc tế và để có được nguồn tài trợ, phải chăng nhiều nhà lãnh đạo châu Phi

đã chọn một chiến thuật khôn khéo mà nhiều người gọi là “Babangida Boogie” –

tức là một bước tiến, hai bước lùi.

111

ý kiến phản đối cho rằng, các chương trình cải cách cơ cấu được thiết kế bởi

CHƯƠNG 4: CẢI CÁCH THỂ CHẾ KINH TẾ Ở GUINEA XÍCH ĐẠO,

GHANA VÀ TUNISIA

4.1. Cải cách thể chế kinh tế ở Guinea xích đạo

4.1.1. Bối cảnh vấn đề cải cách thể chế kinh tế

Guinea xích đạo chính thức giành được độc lập từ Tây Ban Nha năm

1968. Từ đó đến nay, nước này chỉ có hai vị tổng thống duy nhất là: Tổng thống

Francisco Macias Nguema, người từng là thị trưởng thành phố Mongomo dưới

chế độ thực dân Tây Ban Nha và Tổng thống Teodoro Obiang Nguema, người đã

lên nắm quyền lãnh đạo Guinea xích đạo kể từ năm 1979 đến nay sau cuộc đảo

chính lật đổ ông Francisco Macias Nguema.

phủ độc tài Francisco Macias Nguema, Guinea xích đạo theo đuổi mô hình kinh

tế kế hoạch hoá tập trung kiểu Xô Viết. Nhiều công ty bị quốc hữu hoá; khu vực

kinh tế tư nhân bị bóp kìm hãm; công nghiệp được ưu tiên phát triển. Kết quả là

nền kinh tế Guinea xích đạo đã bị ảnh hưởng tiêu cực nặng nề: GNP bình quân

Trong giai đoạn 11 năm sau khi giành được độc lập dưới thời của chính

đầu người đã sụt giảm từ mức 170 USD năm 1967 xuống còn 70 USD năm

tấn năm 1976; sản lượng cà phê cũng giảm từ mức 8.500 tấn xuống còn 5000 tấn

trong giai đoạn 1968-1976. (Theo UNDP (1988), Second round table of donors

for economic and social development of Equatorial Guinea. UNDP-RGE)

Sau khi lên nắm quyền, Tổng thống Teodoro Obiang Nguema tuyên bố

Guinea xích đạo bước sang một giai đoạn phát triển mới Una Guinea Mejor

(Guinea tốt đẹp hơn). Kể từ đầu thập niên 1980, theo trào lưu chung của châu

Phi, Guinea xích đạo cũng tiến hành cải cách theo chương trình điều chỉnh cơ

cấu của WB. Các công ty được tư nhân hoá; kết cấu hạ tầng như đường giao

thông, trường học và bệnh viện được chú trọng đầu tư phát triển hơn so với thời

gian trước đó. Tuy nhiên, những kết quả mang lại rất hạn chế, chủ yếu vì thiếu

nguồn lực phát triển và hạn chế về năng lực điều hành cải cách kinh tế.

112

1975; sản lượng cacao sụt giảm từ mức 34.000 tấn năm 1968 xuống còn 8,000

Kể từ giữa thập niên 1990, Guinea xích đạo nổi lên trở thành một trong

những nước xuất khẩu dầu mỏ hàng đầu của khu vực châu Phi nam Sahara. Trữ

lượng dầu mỏ của nước này đứng thứ 3 của vùng châu Phi nam Sahara, chỉ sau

Nigeria và Angola. Hoạt động khai thác và xuất khẩu dầu mỏ đã giúp tốc độ tăng

trưởng kinh tế của Guinea xích đạo trong giai đoạn 1990 - 1999 lên tới 20%/năm

và 24%/năm trong giai đoạn 2000 - 2004. Nguồn thu từ dầu mỏ đã tăng từ 3

triệu USD năm 1993 lên 190 triệu USD năm 2000 và 4,8 tỷ USD năm 2007. Với

số dân chỉ trên 700.000 người, nguồn thu lớn từ dầu mỏ đã giúp quốc gia này có

mức GDP bình quân đầu người cao nhất châu Phi. Tuy nhiên, sự giàu có này

không được phân chia đồng đều cho tất cả mọi người mà chủ yếu tập trung trong

tay một nhóm nhỏ. Năm 2013, mặc dù có GDP bình quân đầu người ở mức cao,

thang bậc chỉ số phát triển con người.

Guinea xích đạo chỉ được UNDP xếp thứ 144 trong tổng số 187 nước trong

Hình 4.1: Thu nhập bình quân đầu người của Guinea xích đạo

(PPP, nghìn USD hiện hành)

Nguồn: World Bank, database

Do lệ thuộc vào dầu mỏ (chiếm 90% GDP, 87% thu ngân sách và 89%

xuất khẩu), kinh tế của Guinea xích đạo bị tác động nặng nề bởi giá dầu sụt

giảm. Tăng trưởng GDP giảm 10,2% trong năm 2015 và 8% trong năm 2016. Do

thâm hụt ngân sách nặng nề, chính phủ đã giảm đầu tư công một nửa và giảm

mạnh chi phí hoạt động của chính phủ. Dự kiến, kinh tế nước này sẽ tiếp tục sụt

giảm trong giai đoạn tới năm 2020 trong bối cảnh giá dầu thế giới ở mức thấp.

113

4.1.2. Những nội dung chính của cải cách thể chế kinh tế

Kể từ sau khi giành được độc lập, Guinea xích đạo tỏ ra là một trong

những đất nước tiến hành ít cải cách nhất châu Phi. Trong thập kỷ 1980, đất

nước này đã có một số cải cách kinh tế mà tiêu biểu nhất là việc chuyển đổi sang

sử dụng đồng tiền mới. Guinea xích đạo không phải là đối tượng ưu tiên của các

chương trình điều chỉnh cơ cấu theo hướng chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập

trung sang cơ chế thị trường, tự do hoá và mở cửa do nền kinh tế nước này

không chịu ảnh hưởng nhiều của cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Trong thập kỷ

cơ cấu (1980-1982; 1985-1986; 1988-1991).

1980, IMF đã hỗ trợ nước này ba khoản vay nhỏ trong chương trình điều chỉnh

kỷ 1990, nước này đã tiến hành tự do hoá thương mại, mở cửa nền kinh tế mạnh

mẽ, tiến hành cải cách thuế quan và giảm các hàng rào phi thuế quan. Năm 1999,

Guinea xích đạo tham gia và trở thành thành viên sáng lập của Cộng đồng kinh

tế và tiền tệ Trung Phi.

Guinea xích đạo là một nền kinh tế mở, hướng ra xuất khẩu. Vào đầu thập

Trong giai đoạn 2000 - 2007, khi nền kinh tế tăng trưởng nhanh, nước này

được nguồn thu dồi dào. Năm 2008, Chính phủ Guinea xích đạo ban hành Kế

hoạch phát triển kinh tế - xã hội quốc gia (PNDES) “Guinea xích đạo 2020:

Chương trình nghị sự đa dạng hoá nguồn lực tăng trưởng”. Trong giai đoạn đầu

(2008-2012), PNDES tập trung vào việc thiết lập các thể chế, chính sách củng cố

nền tảng tăng trưởng kinh tế, đa dạng hoá các nguồn lực phát triển và đa dạng

hoá cơ cấu nền kinh tế, tránh bị lệ thuộc vào dầu mỏ. Chính phủ đã đề ra rất

nhiều mục tiêu tham vọng về khôi phục các hệ thống kết cấu hạ tầng chủ chốt

như đường, bến cảng, sân bay, các dự án xây dựng nhà ở và công sở…trong đó

có cả những dự án rất lớn như xây dựng thành phố Djibloho ở trong rừng. Chính

phủ mong muốn sử dụng nguồn thu từ dầu mỏ để đầu tư phát triển nền kinh tế,

114

đã tiến hành một số cải cách, nhất là trong lĩnh vực tự do hóa tài chính do có

tạo điều kiện hiện đại hoá kết cấu hạ tầng để thúc đẩy các lĩnh vực khác như

nông nghiệp, ngư nghiệp, dịch vụ, vận tải, chế tạo…đồng thời nâng cao chất

lượng cuộc sống của người dân qua việc mở rộng khả năng tiếp cận điện, nước,

dịch vụ y tế, giáo dục…

Đặc biệt, các chương trình cải cách kinh tế nói chung trong giai đoạn này

cũng hướng tới việc thiết lập các thể chế, chính sách để thúc đẩy khu vực tư

nhân phát triển, làm nền tảng cho việc đa dạng hoá cơ cấu kinh tế; thúc đẩy cải

cách khu vực công, hoàn thiện nền hành chính công.

hoá nền kinh tế thông qua thúc đẩy các lĩnh vực mang lại nhiều việc làm và khai

Trong giai đoạn thứ hai (2013-2020), PNDES (2013-2020) nhằm đa dạng

nhóm các nước kém phát triển vào năm 2017.

Tháng 7/2013, Ngân hàng phát triển châu Phi đã thông qua Chiến lược

quốc gia của Guinea xích đạo, hỗ trợ nước này tiến hành chương trình cải cách

theo chủ đề: Thúc đẩy phát triển vốn con người và Nâng cao năng lực cho

thác hệ thống kết cấu hạ tầng hiện đại. Guinea xích đạo đặt mục tiêu thoát khỏi

chuyển đổi kinh tế, trong giai đoạn 2013-2017. Tuy nhiên, chương trình cải cách

Nhìn chung, tốc độ cải cách đã chững lại trong những năm gần đây khi

nền kinh tế đi xuống. Cải cách thể chế ở các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế

quốc gia không tiến triển nhiều. Khu vực dầu khí của Guinea xích đạo - nơi có

đặc quyền của chính phủ và các quan chức gần như nằm ngoài các chuẩn mực

cải cách và tự do hóa. Viện Quản trị tài nguyên xếp Guinea xích đạo đứng thứ 56

trong tổng số 58 quốc gia được xếp hạng năm 2013 - bị coi là nước thất bại trong

việc quản trị các nguồn tài nguyên dầu khí. Luật dầu khí năm 2006 của nước này

không đưa ra các nguyên tắc cụ thể về tài chính và công khai hóa. Bộ Tài chính

nhận tiền từ các công ty dầu mỏ và gửi một phần vào Ngân hàng Trung Phi song

phần còn lại vào nhiều ngân hàng thương mại khác nhau ở trong và ngoài nước

115

này đã không được triển khai nghiêm túc mà mang lại những kết quả đáng kể.

nên rất khó kiểm soát việc quản lý các nguồn thu này. Guinea xích đạo thậm chí

không có những dữ liệu toàn diện về khu vực dầu khí, không công bố thông tin

về các hợp đồng và cũng không công khai các khoản thu từ dầu khí. Các công ty

dầu khí nhà nước như GE Petrol không có trách nhiệm phải công khai tài chính,

thậm chí không bị kiểm toán. Các quan chức chính phủ cũng không bị yêu cầu

giải trình về lợi ích tài chính đối với lĩnh vực kinh tế mà họ giám sát.

Môi trường thể chế

Thủ tục báo cáo

Kiểm soát chất

Môi trường thuận

và pháp luật

lượng và bảo đảm

lợi cho kinh doanh

53

55

56

56

Nguồn: The Natural Resource Governance Institute (NRGI), The 2013

Resource Governance Index, New York

Bảng 4.1: Xếp hạng thứ bậc trong quản trị tài nguyên của Guinea xích đạo

4.1.3. Đánh giá kết quả cải cách thể chế kinh tế

Guinea xích đạo đã không đạt được những thành tựu đáng kể trong tiến

trình cải cách kinh tế.

Đất nước này hiện vẫn bị xem là có môi trường đầu tư kém hấp dẫn nhất

thế giới mặc dù có nguồn tài nguyên dầu mỏ. Năm 2016, WB chỉ xếp Guinea

Các vấn đề về khởi nghiệp kinh doanh, thuế khóa và việc giải quyết các thủ tục

liên quan đến phá sản, vi phạm hợp đồng…rất khó khăn.

Heritage Foundation đánh giá chỉ số về tự do hóa kinh tế của Guinea xích

đạo ở mức dưới 50 điểm - ngưỡng bị xem là không có tự do kinh tế.

116

xích đạo đứng thứ 178 trong tổng số 190 nền kinh tế về môi trường kinh doanh.

60

50

40

30

20

10

0

9 9 9 1

4 0 0 2

5 0 0 2

6 0 0 2

7 0 0 2

8 0 0 2

9 0 0 2

4 1 0 2

5 1 0 2

6 1 0 2

7 1 0 2

0 0 0 2

1 0 0 2

2 0 0 2

3 0 0 2

0 1 0 2

1 1 0 2

2 1 0 2

3 1 0 2

Nguồn: Heritage Foundation (2017), 2017 Index of Economic Freedom

[http://www.heritage.org/index/ranking]

Hình 4.2: Mức độ tự do kinh tế của Guinea xích đạo

70

60

50

40

30

20

10

0

Thương mại

Đầu tư

Tài chính

Hình 4.3: Mức độ tự do thương mại, tự do đầu tư và tự do tài chính của

Guinea xích đạo

Nguồn: Heritage Foundation (2017), 2017 Index of Economic Freedom

[http://www.heritage.org/index/ranking]

117

Xử lý vấn đề liên quan đến xây dựng

M ôi trường kinh doanh 178

Khởi nghiệp kinh doanh 187

Sử dụng điện 160 143

Thương mại xuyên biên giới 174

Bảo vệ các nhà đầu tư nhỏ 137

Tiếp cận tín dụng 118

Đăng ký tài sản 160

Đóng thuế 179

Giải quyết phá sản 169

Thực thi hợp đồng 103 Nguồn: WB, Ease of Doing Business 2016, Washington DC

Ghi chú: Xếp hạng trong tổng số 190 nền kinh tế

Bảng 4.2: Xếp hạng chỉ số môi trường kinh doanh năm 2016 của Guinea xích đạo

Trên thực tế, Guinea xích đạo đã không tận dụng được hết lợi thế từ

nguồn thu lớn từ dầu mỏ để tiến hành những cải cách cần thiết nhằm đem lại sự

phát triển kinh tế bền vững. Các tổ chức quốc tế đánh giá, những chiến lược cải

cách kinh tế nói chung, cải cách thể chế kinh tế nói riêng gần đây của Guinea

xích đạo đã ôm đồm quá nhiều vấn đề nên không đạt được mục tiêu mong muốn.

xích đạo trong giai đoạn 2018 - 2022 đã được điều chỉnh và chỉ tập trung vào hai

chủ đề cụ thể: i) hỗ trợ chuyển đổi của khu vực nông nghiệp nhằm đa dạng hoá

kinh tế; và ii) nâng cao năng lực trong việc xây dựng và thực thi chính sách.

Guinea xích đạo là trường hợp rõ rệt nhất ở châu Phi phản ánh lực cản của

Do vậy, chiến lược quốc gia của Ngân hàng phát triển châu Phi đối với Guinea

các vấn đề về thể chế chính trị và quản trị quốc gia đối với tiến trình cải cách thể

Về mặt chính trị, ở châu Phi, sau khi Tổng thống Muammar Gaddafi của

Lybia bị lật đổ năm 2011 thì ông Teodoro Obiang Nguema là nguyên thủ quốc

gia (thế tục) tại nhiệm lâu nhất. Mặc dù về mặt hình thức, Guinea xích đạo có hệ

thống chính trị đa đảng phái song quyền lực thực tế vẫn thuộc về Tổng thống

Teodoro Obiang Nguema và phe cánh của ông. Mặc dù thu nhập bình quân đầu

người ở mức khá cao song khoảng ¾ dân số Guinea xích đạo vẫn sống dưới mức

nghèo khổ của WB. Chi tiêu của chính phủ cho giáo dục và y tế dưới mức trung

bình của khu vực châu Phi nam Sahara. Một số người cho rằng, chính phủ thực

hiện các khoản đầu tư không hiệu quả như dự án xây dựng thành phố mới Oyala

ở trong rừng nhằm mục tiêu chuyển thủ đô về đây, chủ yếu là để tránh các âm

118

chế kinh tế.

mưu đảo chính đổ bộ từ biển [133]. Mặc dù có nhiều nỗ lực nhằm cải thiện hình

ảnh của mình gần đây tại châu Phi và trên các diễn đàn quốc tế, Guinea xích đạo

vẫn bị các nước phương Tây xếp vào nhóm quốc gia không dân chủ với nhiều

cáo buộc tham nhũng và chuyên quyền đối với chính quyền của Tổng thống

Teodoro Obiang Nguema. Kết quả điều tra về Nhận thức tham nhũng năm 2013

của Tổ chức minh bạch quốc tế đã xếp Guinea xích đạo đứng thứ 163 trong tổng

số 177 nước về mức độ tham nhũng [134]. Nước này cũng bị Economic

Intelligent Unit xếp đứng thứ 163 trong tổng số 167 quốc gia trong bộ Chỉ số

dân chủ năm 2015 - là nước kém dân chủ thứ hai châu Phi, chỉ trên Chad.

Guinea xích đạo cũng là một trong những quốc gia có chất lượng quản trị

thấp nhất thế giới. Nước này đứng thứ 45 trong tổng số 52 quốc gia châu Phi

được xếp hạng trong Bộ chỉ số quản trị châu Phi Ibrahim (năm 2013).

Bảng 4.3: Chất lượng quản trị của Guinea xích đạo theo bộ chỉ số quản trị

châu Phi Ibrahim

Xếp hạng

Phát triển con người

Điểm bình quân

An toàn và thượng tôn pháp luật 41,5

Tham dự và quyền con người 25,9

Các cơ hội kinh tế bền vững 28,4

57,9

38,4

45

Nguồn:2014 Ibrahim Index of African Governance (IIAG).

[http://www.moibrahimfoundation.org/interact/]

Ngân hàng thế giới cũng đánh giá chất lượng quản trị của Guinea xích

đạo ở mức rất thấp trong Bộ chỉ số quản trị toàn cầu, đặc biệt ở những khía

cạnh: tiếng nói và trách nhiệm giải trình, hiệu lực của chính phủ, chất lượng

của các quy định, thượng tôn pháp luật và kiểm soát tham nhũng. Đặc biệt,

những khía cạnh quản trị này của Guinea xích đạo hầu như không thay đổi

trong nhiều năm nay.

119

Tiếng nói và trách nhiệm giải trình

Ổn định chính trị và phi bạo lực/khủng bố

Hiệu lực của chính phủ

Chất lượng của các quy định

Thượng tôn pháp luật

Kiểm soát tham nhũng

Hình 4.4: Chất lượng quản trị của Guinea xích đạo theo bộ

chỉ số quản trị toàn cầu

Nguồn: Global Governnance Indicator, 2019,

https://info.worldbank.org/governance/wgi/Home/Reports

Tham nhũng là một vấn nạn nghiêm trọng đối với Guinea xích đạo. Trong

thập niên 2000, tự do hóa môi trường đầu tư và tài chính đã giúp Guinea xích

phát triển mạnh ngành dầu khí. Các công ty của Mỹ và phương Tây như

ExxonMobil, Hess, Marathon, Chevron Corporation và Vanco Energy

Corporation là những nhà đầu tư chiến lược vào lĩnh vực dầu mỏ của Guinea

xích đạo. Nước này là đối tác nhận đầu tư lớn thứ tư của Mỹ vào châu Phi nam

Sahara, chỉ sau Nam Phi, Angola và Nigeria. Tuy nhiên, trong lúc chính phủ Mỹ

và phương Tây lên án Tổng thống Teodoro Obiang Nguema vi phạm nhân quyền

thì chính các công ty phương Tây cung cấp nguồn tiền cho chính phủ Guinea

xích đạo để duy trì nền chuyên chế, độc tài và thực hiện các vi phạm đó. Các

công ty xuyên quốc gia thường xuyên hối lộ, lại quả cho các quan chức chính

phủ Guinea xích đạo và người thân của họ để đổi lại có được những hợp đồng

liên doanh và khai thác dầu mỏ.

120

đạo thu hút được nguồn vốn đầu tư khổng lồ của các công ty nước ngoài nhằm

Năm 2002, Human Rights Watch phát hiện hàng trăm triệu USD từ nguồn

thu dầu mỏ của Guinea xích đạo được giữ trong một tài khoản bí mật của chính

phủ tại ngân hàng Riggs Bank ở Washington, DC (trong giai đoạn 1995-2004,

tổng trị giá các khoản giao dịch lên tới 700 triệu USD). Tổng thống Teodoro

Obiang Nguema là chủ tài khoản, trực tiếp ký và toàn quyền định đoạt các giao

dịch liên quan đến tài khoản này. Tháng 1/2005, Riggs Bank đã bị kết tội vi

phạm Đạo luật Bí mật ngân hàng của Mỹ vì che dấu hàng triệu USD cho các

quan chức cấp cao của Guinea xích đạo và ngân quỹ của chính phủ độc tài

Tổng thống Teodoro Obiang Nguema và các quan chức trong chính phủ đã biển

Augusto Pinochet của Chile. Năm 2008, Human Rights Watch lại tiếp tục lên án,

Asturias, and quần đảo Canary. Mức độ tham nhũng của Guinea xích đạo bị

Heritage Foundation đánh giá ở mức rất nghiêm trọng (dưới 20 điểm trong thang

bậc 100 điểm).

thủ 26 triệu USD từ một công ty dầu khí của chính phủ để mua nhà ở Madrid,

30

25

20

15

10

5

0

Hình 4.5: Mức độ tham nhũng của Guinea xích đạo

Nguồn: Heritage Foundation (2017), 2017 Index of Economic Freedom

[http://www.heritage.org/index/ranking]

121

Nhìn chung, chất lượng quản trị yếu kém và hệ thống chính trị thiếu dân

chủ là lực cản lớn đối với tiến trình cải cách thể chế kinh tế ở Guinea xích đạo.

Các nhóm lợi ích ở đất nước này gắn chặt với những thể chế cũ, đặc biệt trong

việc phân chia lợi ích từ các nguồn lợi kinh tế (nguồn tài nguyên dầu mỏ) của đất

nước. Điều đó làm cho tiến trình cải cách hệ thống thể chế về quản lý tài nguyên;

thể chế tài chính và hệ thống ngân hàng; ngân sách và các nguồn vồn đầu tư của

nhà nước; các hoạt động của khu vực công, v.v. dường như rất khó đi xa.

Các nhà lãnh đạo của Guinea xích đạo dường như chỉ tiến hành những đợt

cải cách mang tính đối phó, ở bề ngoài, để giải quyết khó khăn tạm thời của nền

kinh tế mà không muốn làm thay đổi những tầng sâu của hệ thống thể chế kinh

tế để thúc đẩy đất nước phát triển bền vững và bao trùm.

4.2. Cải cách thể chế kinh tế ở Ghana

4.2.1. Bối cảnh cải cách thể chế kinh tế

Ghana là một trong những quốc gia châu Phi đầu tiên giành được độc lập

từ Anh vào năm 1957. Ông Kwame Nkrumah là thủ tướng và tổng thống đầu

tiên của Ghana; ông cũng là người theo chủ nghĩa Liên Phi (Pan-Africanism) và

ủng hộ mô hình chủ nghĩa xã hội theo kiểu Xô Viết trong thời gian nắm quyền.

Rawlings - người đứng đầu Hội đồng các lực lượng vũ trang cách mạng đã lật đổ

chính phủ dân cử, lập ra Hội đồng phòng vệ quốc gia (PNDC) nắm quyền điều

hành ở Ghanavào năm 1981. (Năm 1979, Jerry John Rawlings đã tiến hành

cuộc đảo chính lần đầu tiên lật đổ chính quyền của Tướng Fred Akuffo -

người trước đó cũng đảo chính lật đổ Tướng I.K. Acheampong. Sau cuộc đảo

chính năm 1979, một chính phủ dân cử được thành lập cho đến khi bị giải

tán). Ông Rawlings thực hiện chế độ cai trị độc đoán và cấm các đảng chính trị.

Sau khi phê chuẩn hiến pháp mới và khôi phục chính trị đa đảng vào năm 1992,

ông Rawlings đã giành chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống vào năm 1992.

Sau cuộc bầu cử năm 1992, Đảng Dân chủ quốc đại của ông Rawlings vẫn thắng

122

Ghana trải qua một loạt cuộc đảo chính trước khi Trung úy Jerry John

cử vào năm 1996 và giúp ông này tại vị cho đến năm 2000 khi ông bị Hiến pháp

không cho phép tranh cử nhiệm kỳ tiếp.

Ông John Kufuor của Đảng đối lập mới (NPP) đã giành chiến thắng trong

cuộc bầu cử 2004. Ông John Atta Mills của Đảng Dân chủ Quốc gia đã giành

chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2008. Sau khi ông Mills qua đời

vào giữa năm 2012 và người kế tục ông theo hiến pháp là John Dramani

Mahama. Ông này sau đó đã giành chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống

tháng 12 năm 2012. Năm 2016, ông Nana Addo Dankwa Akufo-Addo của NPP

đã đánh bại Mahama, đánh dấu lần thứ ba - Ghana có sự thay đổi nguyên thủ

quốc gia kể từ khi trở lại chế độ dân chủ.

Ghana thuộc nhóm nước có mức thu nhập trung bình thấp, GDP bình

cao của châu lục (68,2 điểm và đứng thứ 7 trong tổng số 52 nước được xếp hạng

của bộ chỉ số quản trị châu Phi Ibrahim). Với tổng số dân khoảng 26,4 triệu

người năm 2013, gấp 37 lần dân số của Guinea xích đạo và GDP bình quân đầu

quân đầu người chỉ đạt 1850 USD năm 2013, song điểm xếp hạng quản trị khá

người chưa bằng 1/10 mức của Guinea xích đạo, Ghana được UNDP xếp thứ

138 trong tổng số 187 nước về mức độ phát triển con người, cao hơn Guinea

xích đạo 5 bậc.

Hình 4.6: Thu nhập bình quân đầu người của Ghana

(PPP, nghìn USD hiện hành)

Nguồn: WB (2016), database

123

Ghana có nền kinh tế thị trường với tương đối ít rào cản chính sách đối

với thương mại và đầu tư so với các quốc gia khác trong khu vực. Nền kinh tế

thị trường ở Ghana có nền tảng được xây dựng qua một phần tư thế kỷ quản

lý tương đối lành mạnh; xây dựng môi trường kinh doanh cạnh tranh và thực

hiện giảm nghèo. Tuy nhiên, trong những năm gần đây Ghana đã phải chịu

hậu quả của chính sách tài khóa lỏng lẻo, thâm hụt ngân sách và tài khoản

vãng lai và tiền tệ mất giá.

Ghana có nguồn tài nguyên thiên nhiên tương đối phong phú.Nông

nghiệp chiếm khoảng 20% GDP và sử dụng hơn một nửa lực lượng lao động,

chủ yếu là các chủ đất nhỏ. Xuất khẩu vàng, dầu, và ca cao, và kiều hối là

những nguồn thu ngoại hối chính. Kể từ đầu những năm 2010, tăng trưởng

kinh tế của Ghana được thúc đẩy bởi sự phát triển của ngành công nghiệp dầu

khí. Từ giữa tháng 12 năm 2010, Jubilee, mỏ dầu thương mại ngoài khơi đầu

tiên của Ghana, bắt đầu được khai thác. Nhà máy xử lý khí đầu tiên của đất

nước tại Atuabo cũng đang sản xuất khí đốt tự nhiên từ mỏ Jubilee, cung cấp

năng lượng cho một số nhà máy nhiệt điện Ghana.Tuy nhiên, giá dầu giảm kể

từ năm 2015 đã giảm một nửa doanh thu từ dầu Ghana

Ghana bắt đầu phải đối mặt với nhiều khó khăn trong các vấn đề như:

thiếu điện, thâm hụt thu ngân sách nội địa và gánh nặng nợ cao.Chính quyền

của Tổng thống Akufo-Addo đã tiến hành một số cải cách như hợp nhất tài

khóa. Ghana đã ký một hiệp định tín dụng mở rộng trị giá 920 triệu USD với

IMF vào tháng 4 năm 2015 để giải quyết cuộc khủng hoảng kinh tế đang gia

tăng. IMF yêu cầu Ghana giảm thâm hụt bằng cách cắt giảm trợ cấp, giảm

hóa đơn tiền lương của khu vực công, tăng cường quản lý doanh thu, tăng thu

thuế và cải thiện ngành ngân hàng. Chính quyền của Tổng thống Akufo-Addo

đặt ra mục tiêu ưu tiên bao gồm sắp xếp lại khoản nợ 31 tỷ USD, kích thích

tăng trưởng kinh tế, giảm lạm phát và ổn định tiền tệ.

124

4.2.2. Những vấn đề chính của cải cách thể chế kinh tế

Ghana là một trong những nước châu Phi nam Sahara đầu tiên tiến hành

chương trình cải cách cơ cấu (SAP) năm 1983 theo đề nghị của WB và IMF

nhằm điều chỉnh những méo mó đã gây ra sự trì trệ của nền kinh tế vào thập niên

1970 và đầu những năm 1980.

Phần lớn chính sách điều chỉnh cơ cấu liên quan đến thương mại và nông

nghiệp - do nông nghiệp là lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế. Các cuộc cải

cách tập trung vào tự do hóa thương mại, xóa bỏ sự méo mó về tỷ giá, dỡ bỏ các

trợ cấp ảnh hưởng đến giá cả nông sản gồm cả trợ cấp đối với đầu vào như phân

bón và tư nhân hóa. Nỗ lực tự do hóa cơ chế thương mại bao gồm việc từng

bước giảm hàng rào thuế quan và điều chỉnh cơ cấu thuế. Trong giai đoạn 1992 -

Ghana còn đưa ra các biện pháp khuyến khích xuất khẩu như dỡ bỏ hạn ngạch

xuất khẩu, giấy phép xuất khẩu và đơn giản hóa các thủ tục xuất khẩu. Nhờ vậy,

độ mở của nền kinh tế đã tăng đáng kể trong thập kỷ 1990. (Nguồn: Ackah,

1999, mức thuế quan bình quân đã giảm từ 17% xuống còn 8,5%. Ngoài ra,

Charles (2006),Who Gained from Trade Liberalisation in Ghana? Unskilled vs.

Skilled Households, Centre for Research in Economic Development and

Một trong những điểm nhấn nổi bật trong tiến trình cải cách thể chế kinh

tế ở thời điểm này là mức độ tập trung vào các vấn đề xã hội và xoá đói giảm

nghèo. Tháng 1 năm 1989, chính phủ đã xây dựng Chương trình hành động để

giảm thiểu chi phí điều chỉnh xã hội (PAMSCAD) - một mạng lưới an toàn cho

các nhóm dân cư dễ bị ảnh hưởng bởi cải cách kinh tế. PAMSCAD áp dụng cách

tiếp cận có sự tham gia vào việc ra quyết định về chính sách kinh tế. Chương

trình ban đầu được áp dụng với một loạt các dự án quy mô nhỏ ở cấp địa

phương. Ví dụ, người dân được yêu cầu xác định nhu cầu của họ, như sửa chữa

và phục hồi các trường tiểu học hoặc xây dựng các phòng khám y tế mới.

Năm 1990, chính phủ đã thành lập Ủy ban Kế hoạch Phát triển Quốc gia

125

International Trade, School of Economics, University of Nottingham)

(NDPC), chịu trách nhiệm xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế

nâng cao nhằm củng cố những thành tựu đạt được của Chương trình Cải cách

Kinh tế (ERP), đặt nền móng cho tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo đói. NDPC

đã đánh giá nghiêm túc các chính sách kinh tế và hướng chúng vào mục tiêu

chung là nâng cao mức sống và giảm nghèo. Trong nửa đầu thập niên 1990,

NDPC đã thành lập các nhóm làm việc gồm các học giả, chuyên gia tư vấn, tổ

chức phi chính phủ (NGO), các nhà nghiên cứu từ khu vực công và tư nhân để

xây dựng Tầm nhìn chiến lược Ghana - 2020.

Kể từ thập kỷ 1990, cải cách doanh nghiệp quốc doanh và tư nhân hóa là

một trong những nội dung quan trọng trong chương trình cải cách kinh tế của

Ghana. Sự thống trị của các doanh nghiệp quốc doanh khởi nguồn từ chính sách

chính phủ phải đóng vai trò quan trọng thúc đẩy kinh tế phát triển. Trong đầu

thập niên 1960, Ghana đã thành lập nhiều doanh nghiệp quốc doanh lớn; nhà

nước độc quyền kiểm soát lĩnh vực sản xuất cacao và khai thác mỏ; còn các

sau khi nước này giành được độc lập năm 1957. Quan niệm phổ biến lúc đó là:

doanh nghiệp quốc doanh còn thống trị lĩnh vực tài chính và bảo hiểm. Việc

thành lập các doanh nghiệp quốc doanh còn xuất phát từ động cơ chính trị.

chế thị trường tự do thuần túy, các đối thủ chính trị có thể sẽ có nhiều nguồn lực

và mạnh mẽ hơn; do đó, cần phải đầu tư thành lập các doanh nghiệp quốc doanh

để tăng cường kiểm soát của cải quốc gia và củng cố quyền lực. Số lượng doanh

nghiệp quốc doanh tăng mạnh còn do chính phủ Ghana triển khai chính sách

công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu. Tuy nhiên, chính sách này đã không thể tạo

dựng một nền tảng công nghiệp vững chắc như Liên Xô, Braxin hay Nam Phi đã

từng tiến hành thành công, chủ yếu bởi nó không tập trung vào các lĩnh vực công

nghiệp nặng.

Kết quả là chỉ trong vòng một thập kỷ sau khi giành được độc lập (1957 -

1966), quy mô của khu vực doanh nghiệp quốc doanh tại Ghana đã phát triển hết

126

Chính phủ của Tổng thống Kwame Nkrumah (1957-1966) tin rằng, nếu để cơ

sức nhanh chóng. Lao động trong khu vực này đã tăng 10 lần, từ 11,052 người

năm 1957 lên 115,826 người năm 1966. Vào cuối thời kỳ cầm quyền của Tổng

thống Kwame Nkrumah, Ghana có 53 doanh nghiệp quốc doanh và 12 công ty

liên doanh công - tư hoạt động trong hầu hết lĩnh vực của nền kinh tế, từ dược,

xây dựng, khai thác mỏ, chế tạo cho đến sản xuất bánh ngọt và giặt là.

Thời gian sau đó (1966-1972), chính phủ bắt đầu chuyển sang khuyến

khích khu vực tư nhân phát triển. Trong giai đoạn này, một số dịch vụ công cũng

được tách ra khỏi các bộ quản lý hành chính (như Cục Bưu chính và Viễn thông

ra. Tuy nhiên, nỗ lực này bị đảo ngược dưới thời kỳ chính phủ độc tài quân sự

và Tổng công ty điện) song khu vực doanh nghiệp quốc doanh tiếp tục phình to

“tăng cường kiểm soát nền kinh tế”, với những biện pháp hạn chế đầu tư nước

ngoài. Thậm chí, chính phủ còn tịch thu một số công ty tư nhân lớn vì lý do lừa

đảo. Vào thập kỷ 1980, doanh nghiệp quốc doanh thống trị các lĩnh vực như khai

thác mỏ, năng lượng, dịch vụ công, các dịch vụ tài chính và kinh doanh. Năm

Ignatius Kutu Acheampong (1972-1978) khi Ghana lại chuyển sang chính sách

1984, khu vực SOE tuyển dụng khoảng 240 nghìn lao động; gần 60 nghìn lao

quốc doanh đã lộ rõ yếu kém, chủ yếu là do quản trị kém, thừa nhân lực, thiếu

vốn và các chính sách giá không phù hợp…

Ghana đã đưa ra Chương trình phục hồi kinh tế năm 1983, trong đó cải

cách SOE là một nội dung quan trọng. Chương trình tinh giảm doanh nghiệp

quốc doanh (1987-1993) nhằm làm giảm gánh nặng tài chính mà các doanh

nghiệp quốc doanh tạo ra cho chính phủ (chiếm đến 12% chi tiêu ngân sách năm

1983). Các định chế tài chính quốc tế như WB và IMF yêu cầu chuyển đổi sở

hữu của các doanh nghiệp quốc doanh cho các nhà đầu tư nước ngoài và khuyến

khích sự tham gia của khu vực tư nhân vào những lĩnh vực vốn thuộc độc quyền

nhà nước.

127

động làm việc trong lĩnh vực trồng cacao. Tuy nhiên, khu vực doanh nghiệp

Các biện pháp “tinh giảm” gồm cả tư nhân hóa và giải thể gồm: i) đảm

bảo rằng các doanh nghiệp quốc doanh hoạt động trên nền tảng thương mại hóa

bằng cách dỡ bỏ kiểm soát giá cả, tăng cường cạnh tranh, hạn chế việc thành lập

các SOE mới…; ii) cải cách hệ thống pháp luật để đảm bảo ban giám đốc các

doanh nghiệp quốc doanh có quyền tự chủ trong hoạt động hàng ngày của công

ty, tăng cường trách nhiệm giải trình trước chính phủ; iii) bán, sáp nhập hoặc

thanh lý các doanh nghiệp quốc doanh thua lỗ nhằm giảm gánh nặng tài chính

cho chính phủ; iv) phục hồi các doanh nghiệp quốc doanh hoạt động trong

những lĩnh vực ưu tiên và có khả năng tiếp tục kinh doanh thành công; và v)

tăng cường hiệu quả của doanh nghiệp quốc doanh thông qua giảm nhân lực, tiến

hành đào tạo nhân sự, triển khai các chuẩn mực kinh doanh và kiểm toán, chấn

Chính phủ Ghana đã thành lập một cơ quan thực hiện quá trình thoái vốn

là Uỷ ban thực hiện thoái vốn (DIC). Giai đoạn đầu tiên trong quá trình thoái

vốn là để xác định và lên danh sách các công ty sẽ được thoái vốn; thu thập

thông tin và tài liệu về mỗi công ty sẽ được thoái vốn. Sau đó, DIC sẽ quyết định

chỉnh các chuẩn mực về tài chính, nợ nần.

được đưa ra mức độ thoái vốn hợp lý.

lập công ty liên doanhgiữa nhà nước và nhà đầu tư tư nhân, mà nhà nước là cổ

đông thiểu số trong khi vẫn còn giữ khả năng kiểm soát quản lý với chủ đầu tưtư

nhân; ii) bán cho một nhà đầu tư tư nhân hoặc liên doanh các tài sản của doanh

nghiệp; iii) cho thuê nhà máy và thiết bị, nơi nhà đầu tư thực hiện đầu tư để nâng

cấp và cải thiện phương thức quản lý các nhà máy và thiết bị này trong một

khoảng thời gian nhất định; iv) các nhà đầu tư tư nhân mua toàn bộ cổ phần còn

chính phủ sẽ phải trả các khoản nợ của công ty.

Nhìn chung, tuy còn gặp nhiều khó khăn và đang tiếp tục, các cuộc cải

cách doanh nghiệp nhà nước theo hướng tư nhân hoá ở Ghana là một cấu phần

quan trọng, góp phần ổn định cán cân vĩ mô, giảm thâm hụt ngân sách trong

chiến lược cải cách kinh tế ở Ghana.

128

DIC áp dụng các phương thức thoái vốn khác nhau, bao gồm các: i) thành

Mặc dù gặp phải sự phản đối từ phía các nghiệp đoàn và tổ chức phi chính

phủ, quá trình tư nhân hoá ở Ghana đã góp phần tạo ra nhiều việc làm hơn. Theo

Ngân hàng Ghana, tư nhân hóa đã làm tăng số lượng việc làm tới 59% (Nguồn:

Bank of Ghana). Các kết quả điều tra cho thấy, người lao động cũng cảm thấy

hài lòng hơn khi làm việc tại những công ty đã được tư nhân hóa. Tuy tư nhân

hóa không đem lại nguồn thu cho chính phủ song rõ ràng đã làm giảm gánh nặng

tài chính do chính phủ không còn phải trợ cấp cho các doanh nghiệp quốc doanh,

thậm chí đã có thể đánh thuế các công ty đã thuộc về sở hữu tư nhân. Việc thoái

vốn còn mang lại lợi ích phi tài chính quan trọng khác là chính phủ không còn

phải quan tâm đến gánh nặng quản lý và giám sát các doanh nghiệp nhà nước

nữa. Nhìn chung, tuy không phải thành công mỹ mãn, quá trình tư nhân hóa ở

châu Phi khác trong quá trình cải cách theo hướng kinh tế thị trường.

Ghana đã đem lại những kết quả đáng khích lệ và là bài học cho những nước

4.2.3. Đánh giá kết quả cải cách thể chế kinh tế

Tiến trình cải cách thể chế kinh tế thị trường ở Ghana diễn ra trong hai

giai đoạn quan trọng.

Giai đoạn chuyển từ nền kinh tế mang nặng tính chất kế hoạch hoá sang

theo tiêu chí của phương Tây bị coi là “độc tài quân sự”.

Khác với nhiều nhà lãnh đạo chuyên chế độc tài ở châu Phi, Jerry John

Rawlings được nhiều người coi là một nhà “độc tài tốt”. Ông đã lãnh đạo Ghana

vượt qua những năm tháng khó khăn kinh tế, tiến hành cải cách và đạt được

nhiều thành tựu phát triển. Nếu như không có quyết tâm, thậm chí cả sự cứng rắn

của ông, một số người cho rằng, Ghana sẽ khó thể tiến hành Chương trình phục

hồi kinh tế trong những năm 1980 (Nguồn: Chazan, N (1983), An Anatomy of

Ghanaian Politics: Managing Political Recession, 1969-1982. Boulder, CO:

Westview Press). Những chương trình cải cách khó khăn như tư nhân hóa thành

công một phần là do tính chất của chính quyền độc tài quân sự: vừa không phải

lo phản ứng của đông đảo dân chúng (như sự phản đối của các nghiệp đoàn, các

129

nền kinh tế thị trường ở Ghana diễn ra trong thời kỳ với một chính quyền mà

tổ chức xã hội dân sự) như các chính thể dân chủ; song cũng không có những lợi

ích gắn quá chặt với hệ thống kinh tế hiện hành như các chính thể độc tài khác.

PNDC về bản chất là một chính quyền độc tài quân sự song phần lớn thành viên

là dân sự, đồng thời theo đuổi chính sách thực dụng trong đó có đường lối kinh

tế thị trường với chủ thuyết thay vì để chính phủ cung cấp, cần khuyến khích

mọi người dân tham gia tích cực hơn vào phát triển kinh tế. Với nỗ lực tự do hóa

kinh tế, PNDC đã thay đổi khẩu hiệu trước đó vốn nhấn mạnh vào việc phân

phối lại nhằm đảm bảo sự bình đẳng cho những người có thu nhập thấp. Các nhà

lãnh đạo độc tài như Rawlings coi sứ mệnh lãnh đạo là người bảo vệ cho dân

chúng và đối phó với những vấn đề về yếu kém năng lực, bất công và nạn tham

nhũng ở Ghana.

diễn ra cùng với quá trình dân chủ hóa và có ngoặt lớn vào năm 2000 sau khi

đảng đối lập giành thắng lợi trong bầu cử. Cùng với nỗ lực cải cách kinh tế và

chống tham nhũng, chính phủ Ghana đã biết tận dụng nguồn thu từ dầu mỏ và

Giai đoạn hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường kể từ đầu những năm 1990

các nguồn tài nguyên để đầu tư vào phát triển con người, xoá đói giảm nghèo, đa

dạng hóa cơ cấu kinh tế và từng bước đưa nền kinh tế thoát ra khỏi khó khăn

một trong số nước châu Phi ít tham nhũng nhất. Kết quả điều tra về Nhận thức

tham nhũng năm 2013 của Tổ chức minh bạch quốc tế xếp Ghana đứng thứ 63

trong tổng số 177 nước về mức độ tham nhũng. Ghana cũng được xếp thứ 53

trong tổng số 167 nước được EIU xếp hạng về mức độ dân chủ năm 2015.

130

trong giai đoạn trước đó đi vào giai đoạn phát triển tương đối ổn định. Ghana là

80

70

60

50

40

30

20

10

0

5 9 9 1

7 9 9 1

9 9 9 1

1 0 0 2

2 0 0 2

3 0 0 2

4 0 0 2

6 0 0 2

8 0 0 2

0 1 0 2

2 1 0 2

3 1 0 2

5 1 0 2

7 1 0 2

6 9 9 1

8 9 9 1

0 0 0 2

5 0 0 2

7 0 0 2

9 0 0 2

1 1 0 2

4 1 0 2

6 1 0 2

Nguồn: Heritage Foundation (2017), 2017 Index of Economic Freedom

[http://www.heritage.org/index/ranking]

Hình 4.7: Mức độ tham nhũng ở Ghana

Bảng 4.4: Chất lượng quản trị của Ghana theo bộ chỉ số quản trị châu Phi

Nước

An toàn và

Tham dự

Các cơ hội

Phát triển

Điểm bình

Xếp hạng

thượng tôn

và quyền

kinh tế bền

con người

quân

pháp luật

con người

vững

Ghana

69,9

73,6

75,5

68,2

7

53,6

Nguồn:2014 Ibrahim Index of African Governance (IIAG).

[http://www.moibrahimfoundation.org/interact/]

131

Ibrahim

Tiếng nói và trách nhiệm

giải trình

Ổn định chính trị và phi bạo

lực/khủng bố

Hiệu lực của chính phủ

Chất lượng của các quy

định

Thượng tôn pháp luật

Kiểm soát tham nhũng

Hình 4.8: Chất lượng quản trị của Ghana theo bộ chỉ số quản trị toàn cầu

https://info.worldbank.org/governance/wgi/Home/Reports

Có thể thấy rằng, so với nhiều nước châu Phi nam Sahara khác, những

thành quả tương đối vững chắc của tiến trình cải cách thể chế kinh tế thị

trường ở Ghana được thiết lập trên nền tảng của một môi trường chính trị dân

chủ và một nền quản trị quốc gia khá lành mạnh. Đây là điều kiện để Ghana

tiếp tục đẩy mạnh quá trình tự do hoá nền kinh tế.

Đặc biệt, cùng với tiến trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường,

Ghana đã đặt trọng tâm vào việc khắc phục các thất bại của thị trường thông

quá việc triển khai các chương trình giảm nghèo, coi trọng sự tham gia của

người dân vào quá trình hoạch định và thực thi chính sách phát triển kinh tế-

xã hội. Mặc dù môi trường kinh tế vĩ mô hiện nay của Ghana còn gặp nhiều

khó khăn (như vấn đề thâm hụt ngân sách, nguy cơ lạm phát cao, v.v. có thể

132

Nguồn: Global Governance Indicator, 2019,

nói rằng, những thành công trong tiến trình cải cách thể chế kinh tế, chính trị

và cải thiện nền quản trị quốc gia ở Ghana là điểm sáng cho nhiều quốc gia

châu Phi học tập.

Theo đánh giá của Heritage Foundation, mức độ tự do hóa kinh tế của

Ghana có xu hướng được cải thiện trong giai đoạn 2006-2016, trước khi sụt

giảm trong thời gian gần đây do những bất ổn kinh tế vĩ mô và tác động tiêu

cực của suy giảm kinh tế toàn cầu. Tự do hóa trong lĩnh vực thương mại và

đầu tư trong thời gian gần đây cũng biến động theo chiều hướng không ổn

định của nền kinh tế. Tuy nhiên, với một nền tảng thể chế vững chắc, nền

kinh tế Ghana có những điều kiện để phục hồi khi nền kinh tế toàn cầu đi vào

quỹ đạo ổn định.

66

64

62

60

58

56

54

52

50

8 9 9 1

9 9 9 1

0 0 0 2

1 0 0 2

2 0 0 2

3 0 0 2

4 0 0 2

5 0 0 2

6 0 0 2

7 0 0 2

8 0 0 2

9 0 0 2

0 1 0 2

1 1 0 2

2 1 0 2

3 1 0 2

4 1 0 2

5 1 0 2

6 1 0 2

7 1 0 2

5 9 9 1

6 9 9 1

7 9 9 1

Hình 4.9: Mức độ tự do kinh tế của Ghana

Nguồn: Heritage Foundation, 2017, 2017 Index of Economic Freedom

http://www.heritage.org/index/ranking

133

80

70

60

50

40

30

20

10

0

1995 1997 1999 2001 2003 2005 2007 2009 2011 2013 2015 2017

Tài chính

Thương mại

Đầu tư

Nguồn: Heritage Foundation (2017), 2017 Index of Economic Freedom

http://www.heritage.org/index/ranking

Hình 4.10: Mức độ tự do thương mại, đầu tư và tài chính của Ghana

4.3. Cải cách thể chế kinh tế ở Tunisia

4.3.1. Bối cảnh cải cách thể chế kinh tế

Tunisia giành được độc lập từ Pháp vào năm 1956. Từ năm 1987 cho đến

trước khi cuộc cách mạng hoa nhài diễn ra vào năm 2011, Tunisia nằm dưới chế

tế, ông Ben Ali đã thiết lập nên một hệ thống chính quyền gồm những người

thân trong gia đình và cộng sự thân tín ở Tunisia, biến nước này trở thành một

trong những nước Arab hiện đại song cũng có hệ thống chính trị hà khắc nhất.

Chính quyền Ben Ali đã bị nhiều cáo buộc, trong đó có những vấn đề về tham

nhũng, lạm quyền và đàn áp chính trị.

Tunisia là khởi đầu của làn sóng “Mùa xuân Ả rập” trước khi lan rộng ra

khu vực Bắc Phi - Trung Đông. Tháng 1/2011, một cuộc biểu tình của đông đảo

người lao động đã bùng nổ ở Tunisia vào nhằm bày tỏ sự đoàn kết và cảm thông

với một thanh niên đã tự thiêu vì tuyệt vọng trước chế độ mà anh ta đang sống.

Làn sóng phản kháng đã nhanh chóng lan khắp khu vực, kéo theo sự lung lay,

134

độ độc tài Zine El Abidine Ben Ali. Mặc dù đã có những nỗ lực phát triển kinh

thậm chí sụp đổ của những chính thể đã tồn tại nhiều năm ở Tunisia, Ai Cập,

Yemen, Jordan, Bahrain, Mauritania, Oman, Sudan, Syria, Iraq, Libya…Kể từ

cuộc cách mạng châu Âu năm 1848, thế giới ít chứng kiến một phong trào nổi

dậy nào lan rộng với tốc độ nhanh chóng như thế.

Trước khi cuộc Cách mạng hoa nhài bùng nổ, tình hình kinh tế của

Tunisia không quá tồi tệ. Nước này không phải là một kỳ tích phát triển song

nhìn chung đã đạt được nhiều thành tựu hơn một số nước láng giềng. Trong thập

kỷ 2000, tăng trưởng kinh tế của Tunisia đạt khoảng 5%/năm, cao hơn nhiều

nước Bắc Phi - Trung Đông và mức bình quân của nhóm nước có thu nhập trung

bình thấp. Thu nhập bình quân đầu người đã tăng từ 2.713 USD năm 2005 lên

3.720 năm 2010. Kinh tế Tunisia cũng khá đa dạng với tỷ trọng của khu vực dịch

Lahcen Achy (2011). Tunisia’s Economic Challenges, Canergie Papers,

December 2011).

vụ trong GDP trên 60%, tỷ trọng của ngành nông nghiệp dưới 10% (Nguồn:

Hình 4.11: Thu nhập bình quân đầu người của Tunisia

(PPP, nghìn USD hiện hành)

Nguồn: WB, database

Tuy nhiên, về mặt kinh tế, các chính sách của chính phủ đã không tạo

ra đủ công ăn việc làm cho người dân, gây ra những bất bình ngày càng tăng

trong xã hội, đặc biệt trong giới trẻ. Năm 2010, khoảng 70% số người thất

135

nghiệp là dưới 30 tuổi; cứ bốn người tốt nghiệp đại học thì có một người

không tìm được việc làm. Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng

gây ra sự bất bình trong xã hội và làn sóng ngầm phản kháng chính phủ chỉ

chờ cơ hội để bùng dậy ở Tunisia.

Tỷ lệ ở nhóm giáo dục bậc cao Tỷ lệ chung Tỷ lệ ở nhóm giáo dục bậc thấp

Nguồn: Lahcen Achy (2011). Tunisia’s Economic Challenges,

Canergie Papers, December 2011, Tr.8

Một trong những nguyên nhân quan trọng khiến tỷ lệ thất nghiệp cao là do

sự yếu kém của khu vực tư nhân – nơi có thể đem lại rất nhiều việc làm ở những

Hình 4.12: Tỷ lệ thất nghiệp ở Tunisia, 2001-2010

quốc gia khác. Mặc dù, Tunisia đã có những cải cách theo hướng thị trường từ

vẫn bị hạn chế. Chính phủ vẫn kiểm soát nhiều lĩnh vực quan trọng của nền kinh

tế như viễn thông, năng lượng, tài chính, phân bón, khai thác mỏ và vật liệu xây

dựng. Khu vực tư nhân chỉ có thể tham gia vào được một số ít ngành như du lịch

song với tình trạng hết sức manh mún, nhỏ lẻ. Đầu tư nước ngoài cũng bị hạn

chế, đặc biệt trong các lĩnh vực dịch vụ - lĩnh vực thường ưu tiên cho các nhà

đầu tư trong nước. Trong những lĩnh vực khác, các nhà đầu tư phải tiến hành

những thủ tục xin phép hết sức phiền hà nếu như muốn kiểm soát hơn 50% cổ

phần của công ty. Nhìn chung, rất ít nỗ lực cải cách thể chế nhằm vào việc thúc

đẩy khu vực tư nhân phát triển ở Tunisia trong nhiều năm. Đây chính là một

trong những lỗ hổng chính sách tạo việc làm, nâng cao thu nhập, thu hẹp sự bất

bình đẳng và giảm nghèo bền vững ở Tunisia.

136

thập niên 1980. Hoạt động thương mại đã được tự do hóa đáng kể song đầu tư

Nguồn: Ngân hàng trung ương Tunisia, 2008

Hình 4.13: Tỷ lệ đầu tư tư nhân so với GDP (%)

4.3.2. Những vấn đề chính của cải cách thể chế kinh tế

Năm 1986, Tunisia bắt đầu thực hiện chương trình điều chỉnh cơ cấu

từ khi nước này giành được độc lập. SAP đã đưa ra các định hướng chiến lược

chính cho nền kinh tế Tunisia cho đến khi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu

nổ ra vào năm 2008. Chương trình này nhằm mục đích: (i) duy trì sự ổn định

kinh tế vĩ mô và cân đối tài chính; (ii) mở cửa và tích hợp Tunisia vào nền kinh

(SAP), mở ra một bước ngoặt trong hoạch định chính sách kinh tế ở Tunisia kể

tếthế giới; (iii) phân phối lại thu nhập bằng cách điều hòa các chính sách xã hội

sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế sẽ giảm xuống theo hướng có lợi cho dân chúng,

để cải thiệnmức thu nhập và việc làm.

Đặc biệt, một trụ cột chính của SAP là tăng cường sự hội nhập của nền

và kinh tế; và (iv) mở rộng tầng lớp trung lưu và giảm nghèo. Cải cách dự kiến

gia nhập vàoWTO năm 1995 và tham gia một số hiệp định thương mại tự do

(FTA) với các đối tác chính, như: FTA với Liên minh châu Âu (bắt đầu được

thực hiện đầy đủ vào năm 2008). Cùng với SAP, các FTA và nhiều chương trình

cải cách thể chế khác đã giúp Tunisia từng bước cải cách luật pháp; bãi bỏ nhiều

quy định về hạn chế đầu tư, mở rộng thương mại và tự do giá cả; tái cân bằng vai

trò của khu vực công và tư nhân; hiện đại hóa trong quản trị hệ thống tài chính

137

kinh tế Tunisia vào nền kinh tế thế giới. Điều này đã được thực hiện khi Tunisia

ngân hàng; cải thiện kết cấu hạ tầng; phát triển nguồn nhân lực; và nâng cấp các

công ty và các lĩnh vực sản xuất.

Tunisia cũng theo đuổi chính sách thúc đẩy xuất khẩu. Các lĩnh vực xuất

khẩu nhận được nhiều ưu đãi của chính phủ, như: được hưởng chế độ miễn thuế

đặc biệt đối với đầu vào nhập khẩu cũng như miễn một phần thuế thu nhập.

Chính phủ cũng áp dụng các biện pháp bảo vệ các hoạt động sản xuất trong nước

thông qua việc đánh thuế cao hàng nhập khẩu và thiết lập một hệ thống rào cản

phi thuế quan phức tạp.

Trong một thời gian dài, các nỗ lực cải cách thể chế kinh tế của Tunisia đã

nhắm mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng cùng với việc xóa đói giảm nghèo. Ví dụ,

chính phủ đã quan tâm tới các chính sách, chương trình phát triển nông thôn; các

nghiệp; đầu tư cho chương trình giáo dục, y tế và kiểm soát sinh sản giúp nâng

cao chất lượng phát triển con ngườicả ở nông thôn và thành thị. Việc chính phủ

đẩy mạnh phát triển công nghiệp nhẹ, thúc đẩy xuất khẩu và phát triển du lịch

chính sách tạo thuận lợi cho việc xây dựng hạ tầng cần thiết cho phát triển nông

cũng tạo ra nhiều việc làm, đặc biệt là cho những người lao động có tay nghề

thấp. Các cuộc điều tra chi tiêu hộ gia đình đã được thực hiện ở Tunisia cứ năm

kết quả phát triển trong lĩnh vực nông nghiệp đã giúp giảm tỷ lệ nghèo đói ở

Tunisia. Cụ thể:

- Trong giai đoạn 1980-1985, quản lý kinh tế kém và các dự án đầu tư

không hiệu quả được thực hiện bởi khu vực công dẫn đến hiệu quả kinh tế thấp

hơn so với những năm 1970. Tuy nhiên, tỷ lệ nghèo đói giảm mạnh do ngành

nông nghiệp đạt được mức tăng trưởng cao và do chính phủ tăng lương, bao gồm

cả mức lương tối thiểu cho công nhân nông trại và tiến hành trợcấp thực phẩm.

- Tỷ lệ nghèo tiếp tục giảm mạnh trong giai đoạn1985-1990 khi các chính

sách SAP được triển khai. Cũng trong giai đoạn này, giá trị gia tăng nông nghiệp

tiếp tục được cải thiện, mặc dù có sự sụt giảm về đầu tư.

138

năm một lần kể từ năm 1980 đến năm 2010 cho thấy, tăng trưởng kinh tế, nhất là

- Giai đoạn 1990-1995 chứng kiến tỷ lệ nghèo đói ở nông thôn tăng lên

trong khi nghèo thành thị giảm nhẹ. Mặc dù GDP tăng trưởng nhanh hơn so với

giai đoạn trước, nhưng sản lượng nông nghiệp bị giảm do hạn hán liên tiếp khiến

nghèo đói ở nông thôn gia tăng.

- Giai đoạn 1995-2000, nghèo đói ở nông thôn giảm đáng kể khi sản

lượng nông nghiệp tăng và tăng trưởng tăng tốc với tốc độ nhanh nhất được thấy

từ cuối những năm 1970.

- Trong giai đoạn 2000-05,tỷ lệ nghèo đói tiếp tục giảm mặc dù tình trạng

bất bình đẳng lại gia tăng. Trong thời kỳ này, các hộ gia đình nông thôn bị ảnh

hưởng tiêu cực nhất bởi sự suy giảm giá cả sản xuất. Sự bất bình đẳng ngày càng

gia tăng đã trở thành rủi ro lớn - nguyên nhân gây ra sự bất ổn chính trị-xã hội

Sau khi cuộc cách mạng diễn ra vào tháng 1 năm 2011, IMF đã tái lập các

chương trình hỗ trợ cải cách kinh tế cho Tunisia. Tháng 9 năm 2012, nhân viên

IMF đã tư vấn cho chính phủ Tunisia về một loạt cải cách toàn diện để đạt được

vào những năm sau.

tăng trưởng cao hơn, toàn diện hơn và giảm thất nghiệp trong một cách bền

vững. Điều này cũng được ông David Lipton, phó giám đốc thứ nhất của IMF,

11 năm 2012. Theo điều IV của IMF, các cuộc cải cách được Quỹ này hỗ trợ

nhằm vào cải thiện môi trường kinh doanh, cải thiện thị trường lao động và khu

vực tài chính. Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng, các tổ chức quốc tế như IMF

cần phải thay đổi trong cách tiếp cận về cải cách thể chế kinh tế đối với Tunisia.

Theo IMF, những thách thức chính mà Tunisia phải đối mặt bao gồm

kiểm soát hóa đơn tiền lương, giảm trợ cấp và thay thế bằng mạng lưới an sinh

xã hội, thúc đẩy khu vực tư nhân phát triển, bao gồm cải cách thuế doanh

nghiệp. Tháng 6 năm 2013, IMF đã phê duyệt Hiệp định dự phòng (SBA) trị giá

1,74 tỷ đô lacho Tunisia trong vòng 24 tháng, đưa nước này trở thành nước thứ

tư trong khu vực Bắc Phi nhận được sự giúp đỡ của IMF từ năm 2011, sau

139

phát biểu ủng hộ tại một cuộc họp báo trong chuyến thăm tới Tunisia vào tháng

Yemen, Jordan và Morocco. Các đề xuất chính sách do IMF đưa ra bao gồm: i)

cam kết giảm thuế cho khu vực doanh nghiệp; ii) tăng thuế cho người tiêu dùng

(trong đó, bao gồm cả những quy định gây tranh cãi như: tăng thuế xe); iii) cải

cách doanh nghiệp quốc doanh và hệ thống hưu trí; iv) tự do hóa môi trường đầu

tư thông qua việc cung cấp các ưu đãi cho khu vực tư nhân; v) cắt giảm trợ cấp

liên quan đến giá điện, khí đốt và nhiên liệu; vi) phân cấp hành chính công cho

địa phương; vii) bãi bỏ các quy định hạn chế tự do hoá thị trường lao động; viii)

giảm tiền lương công vụ; và ix) bước đầu thực hiện tự do hoá các ngân hàng

doanh nghiệp quốc doanh.

quốc doanh thông qua việc loại trừ các ngân hàng này khỏi luật điều chỉnh các

2013 trong bối cảnh chi phí sinh hoạt ngày càng tăng, áp dụng ngày càng nhiều

các khoản phí và thuế mới và cắt giảm đến mức trợ cấp. Mức lạm phát trong giai

đoạn này đã lên ngang bằng với lạm phát trong giai đoạn 2008 - 2010, trước khi

vụ lật đổ Tổng thống Ben Ali. Tuy nhiên, bất chấp các cuộc biểu tình đang diễn

Việc thực hiện các chính sách này đã gây ra các cuộc biểu tình vào năm

ra, chính phủ lâm thời vẫn quyết định thực hiện các biện pháp của IMF bằng

pháp này đặc biệt ảnh hưởng đến tài xế taxi và nông dân).

Về cơ bản, IMF tiếp tục tài trợ cho các chính sách tương tự mà họ đã thúc

đẩy trong chế độ Ben Ali như: tư nhân hóa các nguồn lực của nhà nước, xây

dựng thị trường vốn mở, ổn định tiền tệ, cắt giảm tiền lương, cắt giảm chi tiêu

của chính phủ cho các chương trình xã hội; thúc đẩy quan hệ đối tác công tư

(PPP), cũng như thiết lập một thị trường lao động ‘linh hoạt và tự do hóa phù

hợp với Khung đồng thuận Washington. Mặc dù có sự thay đổi về tên gọi, các

biện pháp cải cách thể chế kinh tế ở Tunisia do các tổ chức quốc tế như IMF áp

đặt vẫn tương đối không thay đổi và có rất ít tác dụng trong việc giải quyết các

vấn đề kinh tế và xã hội từng dẫn đến cuộc nổi dậy.

140

cách tăng giá điện và gas; tăng thuế đối với các phương tiện giao thông (biện

4.3.3. Đánh giá kết quả cải cách thể chế kinh tế

Theo cách tiếp cận của các tổ chức quốc tế như WB, IMF theo Đồng

thuận Washington, việc thực hiện SAP kể từ giữa thập kỷ 1980 nhằm cải tổ nền

kinh tế Tunisia theo hướng tự do hóa và tư nhân hóa sẽ thúc đẩy sự nghiệp dân

chủ hoá ở đất nước này. Thực tế ở Tunisia cho thấy, quá trình dân chủ hoá có vẻ

được liên kết hữu cơ với nền kinh tế thị trường và sự xuất hiện của tầng lớp

trung lưu. 24 năm sau khi triển khai SAP và 15 năm sau khi ký Hiệp định thương

mại tự do với Liên minh châu Âu, quá trình dân chủ hóa đời sống chính trị đã

xuất hiện thông qua một cuộc cách mạng lật đổ chế độ độc tài của Tổng thống

Ben Ali.

Tuy nhiên, bất ổn chính trị - xã hội ở Tunisia lại được gây ra bởi những

cách thể chế nói chung theo chương trình điều chỉnh cơ cấu. Quá trình tự do hóa

thương mại và cắt giảm trợ cấp đã ảnh hưởng tiêu cực đến việc làm và chất

lượng cuộc sống của người dân ở Tunisia. Quá trình tự do hoá tài chính, cắt

tác động tiêu cực về mặt xã hội của các cuộc cải cách kinh tế nói chung và cải

giảm trợ cấp và chi tiêu của chính phủ vẫn không thể giảm mạnh nợ công trong

khi tỷ lệ thất nghiệp vẫn ở mức cao. Một trong những nguyên nhân khác gây bất

những những người giàu ngay trong các đô thị lớn; giữa khu vực nông thôn và

khu vực thành thị.

Theo đánh giá của Heritage Foundation, quá trình tự do hóa tổng thể của

nền kinh tế Tunisia sau cuộc cách mạng 2011 chưa đạt yêu cầu và dường như đã

chậm lại. Chỉ số tự do hóa kinh tế của Tunisia đã có xu hướng sụt giảm trong

những năm gần đây. Ngoại trừ xu hướng tự do hóa trong lĩnh vực thương mại có

chiều hướng cải thiện rõ nét, tự do hóa trong lĩnh vực đầu tư cải thiện chậm và tự

do hóa tài chính hầu như không thay đổi.

141

bình trong xã hội là chênh lệch giàu nghèo: giữa tầng lớp lao động nghèo và

66 64 62 60 58 56 54 52 50

Nguồn: Heritage Foundation, 2020, 2020 Index of Economic Freedom

Hình 4.14: Mức độ tự do kinh tế của Tunisia

90

80

70

60

50

40

30

20

10

0

8 9 9 1

9 9 9 1

0 0 0 2

1 0 0 2

2 0 0 2

3 0 0 2

4 0 0 2

1 1 0 2

2 1 0 2

3 1 0 2

4 1 0 2

5 1 0 2

6 1 0 2

5 9 9 1

6 9 9 1

7 9 9 1

5 0 0 2

6 0 0 2

7 0 0 2

8 0 0 2

9 0 0 2

0 1 0 2

7 1 0 2

8 1 0 2

9 1 0 2

0 2 0 2

Thương mại

Đầu tư

Tài chính

Hình 4.15: Mức độ tự do thương mại, đầu tư và tài chính của Tunisia

Nguồn: Heritage Foundation, 2020, 2020 Index of Economic Freedom

Có thể nhận định rằng, Tunisia đã bắt đầu đặt chân trên chặng đường dân

chủ hóa về mặt chính trị và đây là bước cải cách thể chế thiết yếu cho phát triển

kinh tế - xã hội trong giai đoạn tiếp theo. EIU xếp nền dân chủ ở Tunisia đứng

thứ 57 trong tổng số 167 quốc gia. Freedom House cũng coi Tunisia nằm trong

số ít các nước châu Phi "có tự do" [59]. Tuy nhiên, quá trình này vẫn còn rất

chông gai và trắc trở. Báo cáo "Chỉ số các quốc gia yếu kém" của Quỹ vì hòa

bình xếp Tunisia nằm trong số những quốc gia bất ổn nhất trong số 178 quốc gia

được đánh giá, với cảnh báo về tình hình ở các quốc gia này rất nghiêm trọng

142

trong giai đoạn 2006-2015 [58]. Theo Bộ chỉ số quản trị quốc gia của Ngân hàng

thế giới, các chỉ số về Phi bạo lực và ổn định chính trị, Hiệu lực của chính phủ,

Chất lượng của các quy định và Công bằng của luật pháp ở Tunisia sụt giảm

nghiêm trọng trong giai đoạn 2006-2014 [121]; và tiếp tục kéo dài cho đến hiện

nay. Sáu chính phủ đã được thành lập cho đến nay sau khi chính quyền độc tài bị

lật đổ. Môi trường chính trị - xã hội bất ổn là điều kiện để cho những nhóm

khủng bố như Lực lượng Nhà nước Hồi giáo tự xưng (IS) phát triển mạnh và

làm dấy lên mối lo ngại về làn sóng Hồi giáo cực đoan.

2010 2,79

2011 5,53

2012 5,67

2013 5,76

2014 6,31

2015 6,72

Nguồn: Economic Intelligent Unit, Democracy Index 2015,

Ghi chú: thang điểm 0 (kém dân chủ nhất)-10 (dân chủ nhất)

Bảng 4.5: Chỉ số dân chủ của Tunisia của EIU (2010-2015)

Tiếng nói và trách nhiệm

giải trình

Ổn định chính trị và phi bạo

lực/khủng bố

Hiệu lực của chính phủ

Chất lượng của các quy định

Thượng tôn pháp luật

Kiểm soát tham nhũng

Nguồn: Global Governance Indicator, 2019,

https://info.worldbank.org/governance/wgi/Home/Reports

143

Hình 4.16: Chất lượng quản trị của Tunisia theo bộ chỉ số quản trị toàn cầu

Có thể thấy rằng, trong thời kỳ "hậu Mùa xuân Ả rập" chính quyền

Tunisia hiện vẫn chỉ mải mê tập trung vào vấn đề ổn định chính trị trong một bối

cảnh tiếp tục rối ren, mà chưa dành sự quan tâm đúng mực cho cải cách kinh tế

và xử lý các vấn đề xã hội và phát triển con người. Thực tế cho thấy, cuộc sống

của người dân ở các quốc gia từng được xem là thực hiện thành công “cuộc cách

mạng” sau khi lật đổ được chế độ cũ như Tunisia có vẻ còn khó khăn hơn trước.

Tại Tunisia, nghèo đói và thất nghiệp vẫn bao trùm, thậm chí còn có xu hướng

gia tăng, trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân trong giai đoạn 2011-

2015 đã giảm xuống chỉ còn khoảng 1/3 so với thời kỳ trước cách mạng (2006-

2010). Xếp hạng về Chỉ số phát triển con người (HDI) của Tunisia tụt 1 bậc

trong giai đoạn 2009-2014. [112]

Tunisia vẫn chưa đạt được. Quá trình cải cách thể chế ở các nước này vẫn đang

dang dở. Mặc dù chế độ độc tài bị lật đổ, song những yêu cầu dân sinh cơ bản

chưa được đáp ứng, nhất là vấn đề việc làm và thu nhập, khiến cho đời sống

Cho đến nay, kết quả như mong đợi ban đầu sau làn sóng dân chủ hóa ở

người dân tiếp tục khó khăn. Các chính quyền mới thiếu năng lực giải quyết

những vấn đề kinh tế, xã hội và bảo đảm an ninh nên các thành quả về dân chủ

giá dựa trên những thay đổi chính trị nhất thời mà cần phải dựa trên việc khi

người dân không còn đói nghèo và thiếu thốn, khi những bất ổn xã hội được đẩy

lùi và cải cách kinh tế được thực hiện. [8]

rất mong manh. Vì vậy, sự thành công của "dân chủ hóa" không thể được đánh

4.4. So sánh các trường hợp nghiên cứu

Guinea xích đạo, Ghana và Tunisia đã cho thấy ba trường hợp khác biệt,

mang những đặc thù của châu Phi trong quá trình cải cách kinh tế và chuyển đổi

sang nền kinh tế thị trường. Xếp theo thu nhập bình quân đầu người, ba nước

này thuộc vào ba nhóm khác nhau: cao nhất là Guinea xích đạo thuộc vào nhóm

nước có thu nhập bình quân đầu người ở mức trung bình cao (trên 15.000 USD,

PPP) song cho đến năm 2017 vẫn bị coi là nước kém phát triển theo phân loại

144

của Liên hợp quốc bởi các yếu tố về rủi ro kinh tế, phát triển con người, bất bình

đẳng xã hội; tiếp đến là Tunisia, thuộc nhóm nước có mức thu nhập trung bình

(11.000 USD, PPP); cuối cùng là Ghana - nước có mức thu nhập trung bình thấp

(4000 USD, PPP).

Trong một thời gian khá dài, Guinea xích đạo đã phát triển nhanh nhờ lợi

thế nguồn tài nguyên phong phú. Tuy nhiên, rất ít nỗ lực cải cách kinh tế mạnh

mẽ và thực chất đã được tiến hành. Ngoại trừ việc ban hành một số chiến lược

và chính sách phát triển, Guinea xích đạo đã không thực sự nỗ lực tiến hành cải

cách tầng thứ nhất của thể chế kinh tế: xây dựng một nền kinh tế thị trường thực

sự, cải thiện nền quản trị quốc gia và kiến tạo môi trường chính trị dân chủ.

Guinea xích đạo cũng như nhiều nước châu Phi khác đã bị vướng vào thứ mà

rằng: hầu hết quốc gia giàu tài nguyên đã không thể tận dụng lợi thế này để phát

triển thành công mà thậm chí còn hoạt động kém hiệu quả hơn các nước khác

mà thiên nhiên kém ưu đãi.

Richard Auty và nhiều người khác gọi là "lời nguyên tài nguyên" với hàm ý

Nhiều nghiên cứu thực tế đã cho thấy, hiện tượng bùng nổ khai thác tài

nguyên có thể gây ra các hậu quả tiêu cực tới tăng trưởng kinh tế và phát triển

lập luận rằng, việc khai thác tài nguyên thiên nhiên tạo ra khuynh hướng một

đường cung địa tô cao (được đo bằng tỷ lệ của nguồn thu trên tổng đầu tư) và

điều này sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng các thể chế kinh tế và chính trị.

Ví dụ, nó sẽ ảnh hưởng các chính sách tái phân bổ địa tô bằng các quyết định

chính trị hơn là các quyết định kinh tế dựa trên sự tính toán về hiệu quả; do đó

tạo ra tình trạng thiếu công bằng. Trái lại, một cung đường địa tô thấp như trong

ngành sản xuất, chế tạo sẽ khuyến khích một môi trường kinh tế cạnh tranh, có

khả năng giải quyết vấn đề lao động nông thôn dư thừa, tạo ra bình đẳng xã hội

và mang lại một lượng tiết kiệm thực cao hơn [41]. Việc khai thác tài nguyên

cũng có thể tạo ra "hiệu ứng tham lam" ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng công

145

con người trong giai đoạn dài nếu không có một nền quản trị tốt. Richard Auty

quyền và thể chế bởi nó cổ vũ cho thói quan liêu và tìm kiếm địa tô tham lam,

những thứ thường xuyên liên quan đến các mối quan hệ bảo kê hoặc tham nhũng

[94]. Địa tô cao dẫn tới tình trạng chính phủ chi tiêu lãng phí và dễ dàng cho

việc mở rộng bộ máy chính phủ và xây dựng cơ sở hạ tầng – hai lĩnh vực thường

xảy ra nhiều tham nhũng. Việc chủ yếu dựa vào nguồn thu từ khai thác tài

nguyên thiên nhiên hơn là thuế thu nhập cũng làm suy yếu động cơ thực hiện

trách nhiệm giải trình của các chính phủ. Hơn nữa, nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng,

với nguồn thu nhiều từ dầu mỏ và khoáng sản, các chính phủ đầu tư nhiều hơn

vào an ninh nội địa và các lực lượng này luôn sẵn sàng để bảo vệ lợi ích của

chính phủ.[91]

Cải cách thể chế kinh tế của Guinea xích đạo còn là một thất bại điển hình

Boogie” dưới sức ép của cộng đồng tài trợ quốc tế. Đồng thời, đây cũng là thất

bại trong chính sách “thực hiện phát triển khác đi” của các nhà tài trợ nhấn mạnh

tính tự chủ, tự quyết của các nước tiếp nhận với mong muốn đưa ra được những

ở châu Phi nơi nhiều chính phủ sẵn sàng triển khai chiến thuật “Babangida

chương trình cải cách phù hợp, khả thi, nhận được sự ủng hộ của chính phủ các

nước tiếp nhận và do đó đạt được mục tiêu nhanh chóng hơn.

cải cách kinh tế thành công, mang tính chất “bao trùm“, dứt khoát cần một nền

dân chủ. Guinea xích đạo cũng là minh chứng cho lập luận của Acemoglu và các

cộng sự của ông rằng, khi lên nắm quyền, các đại diện chính trị đã không hành

động vì lợi ích của nhân dân, mà mong muốn thiết lập và áp đặt các quy tắc

nhằm bảo vệ lợi ích cá nhân do đó đã bóp méo những mục tiêu cải cách. Cho dù

mô hình dân chủ hoá của phương Tây có hấp dẫn đến đâu thì một bộ phận của

tầng lớp tinh hoa trong xã hội ở nhiều nước châu Phi vẫn cố gắng bảo vệ lợi ích

kinh tế vốn đi kèm với và quyền lực chính trị riêng của họ. Điều này khiến cho

xã hội bị phân hoá và là nguyên nhân làm cho quá trình chuyển đổi, cải cách kéo

dài với các hệ luỵ phức tạp.

146

Trường hợp của Guinea xích đạo đã chứng minh cho giả thuyết rằng, để

Trường hợp Ghana lại chứng tỏ rằng, cải cách kinh tế cũng có thể thành

công nếu được thực hiện bởi một chính quyền độc đoán hay một nhà lãnh đạo

“độc tài tốt“. Trên thực tế, đây cũng là mô hình của nhiều nền kinh tế Đông Á

như Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore và Malaysia. Dù vậy, cuối cùng thì quá

trình dân chủ hoá ở Ghana vẫn diễn ra và mang lại những kết quả tích cực. Xét

trên các nhóm chỉ số quản trị của WB (như: tiếng nói và trách nhiệm giải trình,

hiệu lực chính phủ, chất lượng của các quy định, thượng tôn pháp luật và kiểm

soát tham nhũng) và của Quỹ Mo Ibrahim (như: tham dự và quyền con người,

các cơ hội kinh tế bền vững), Ghana đều vượt qua Guinea xích đạo một khoảng

chính trị của Ghana có thể được xem như là bản sao ở châu Phi của một số nền

cách khá xa. Mặc dù xuất phát điểm về mặt kinh tế còn thấp, lộ trình cải cách

kinh tế Đông Á như Hàn Quốc và Đài Loan - những nước cũng đã diễn ra quá

Tuy nhiên, cũng giống như nhiều nền kinh tế đang phát triển khác, Ghana

vẫn đang đứng trước nhiều vấn đề phát triển kinh tế - xã hội. Giá dầu mỏ và các

loại tài nguyên thiên nhiên sụt giảm đã tác động mạnh đến nền kinh tế nước này

trình dân chủ hoá sau một thời gian đạt được nhiều thành tựu phát triển.

trong thời gian gần đây, khiến cho nguồn thu giảm mạnh, kéo theo đồng nội tệ

mất giá (khoảng 60% trong vòng hai năm gần đây) và tỷ lệ lạm phát cao (lên tới

giảm từ 8% năm 2012 xuống còn 3,5% năm 2015 [135];và vẫn đang trong vòng

xoáy của tăng trưởng thấp. Ghana cũng đứng trước nhiều thách thức như tỷ lệ

thất nghiệp cao, một tỷ lệ lớn lực lượng lao động (trên 80%) làm trong khu vực

phi chính thức có năng suất rất thấp [136]. Khoảng 60% dân số Ghana làm nông

nghiệp; Ghana là nước sản xuất cacao lớn thứ hai thế giới (chỉ sau Côte d’Ivoire)

và nông dân nước này gặp rất nhiều khó khăn trước những biến động về giá

cacao trên thị trường thế giới. Ngoài ra, Ghana cũng đứng trước điểm nghẽn phát

triển rất lớn là hệ thống kết cấu hạ tầng lạc hậu. Những khó khăn dai dẳng của

Ghana cho thấy, ngay cả với những “nhà độc tài tốt” như Jerry John Rawlings

hay những người được thế giới ca ngợi về tinh thần hoà bình và dân chủ như cố

Tổng thống John Evans Atta Mills vẫn chưa đủ để mang lại những thành tựu

147

gần 20% trong vòng hai năm gần đây). Tăng trưởng kinh tế của nước này đã

phát triển kinh tế nhanh chóng. Ghana cần một hệ thống chiến lược và chính

sách tốt hơn để đẩy nhanh tiến trình phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, những

gì nước này đang làm cho đến hiện nay là đúng hướng.

Trường hợp Tunisia lại chứng tỏ rằng, nếu quá chú trọng vào cải cách chính trị

sẽ khó thể phát triển thành công. Trong “Mùa xuân Arab“ tại các nước mà làn

sóng dân chủ quét qua, mặc dù mức sống của tầng lớp tinh hoa khá cao song

cũng không thể xóa bỏ được tình trạng thất nghiệp, mù chữ, tội phạm và tệ nạn

xã hội gia tăng, khoảng cách giàu nghèo ngày càng bị khoét sâu, tạo nên mâu

thuẫn xã hội sâu sắc. Ngay cả những nước giàu có như Tunisia, một bộ phận

đó, giới cầm quyền tham nhũng và chi tiêu công quỹ vô tội vạ không phục vụ

người lao động vẫn phải sống trong tình cảnh thất nghiệp, nghèo khổ. Trong khi

quốc kế dân sinh, khoét sâu thêm bất công xã hội và mâu thuẫn đối kháng [12].

cho giới tinh hoa và chi trả cho những trợ cấp thái quá trong xã hội như một

hình thức mua chuộc sự ủng hộ của dân chúng, đặc biệt là tầng lớp trung lưu.

Khi nền kinh tế rơi vào khủng hoảng, khiến cho ngân sách quốc gia bị ảnh

Chính quyền dựa vào xuất khẩu tài nguyên làm nguồn thu ngân sách, làm giàu

hưởng nghiêm trọng, các khoản trợ cấp bị cắt giảm mạnh và cuộc sống của

người dân khó khăn. Chính phủ của các nước này không thể đưa ra được những

lực yếu kém của giới lãnh đạo cộng với nạn tham nhũng và thiếu tính minh bạch

nên các khoản cứu trợ của chính phủ không đến được tay người dân làm tăng

thêm sự bất bình trong xã hội. Hơn nữa, những quốc gia như Tunisia có chế độ

cai trị độc đoán, chuyên quyền; thậm chí, các nguyên thủ quốc gia bị lật đổ như

Zine El-Abidine Ben Ali đều có tham vọng "cha truyền con nối" (Ben Ali cầm

quyền ở Tunisia từ năm 1987. Hosni Mubarak làm tổng thống Ai Cập từ 1981.

Muama'r Qaddafi làm lãnh tụ Libya từ 1969. Chính quyền al-Assad cai trị Syria

từ 1970. (Basha'r al-Assad làm tổng thống từ năm 2000, do "kế vị" cha là Hafeiz

al-Assad). Ali Saleh cầm quyền tại Cộng hoà (Bắc) Yemen từ 1979 và làm tổng

thống Yemen sau khi hai nước Yemen thống nhất đầu thập niên 90 thế kỷ trước

tới nay). Những mâu thuẫn này chỉ chờ thời cơ thích hợp để bùng nổ thành

148

giải pháp kịp thời nhằm tháo gỡ những khó khăn của khủng hoảng kinh tế. Năng

những hành động phản kháng, chống đối, đòi cải tổ, đòi thay đổi chính quyền.

Do vậy, khi các đảng phái đối lập giương chiêu bài "dân chủ", "chống tham nhũng",

"chống độc quyền, gia đình trị"..., đã tranh thủ được sự ủng hộ của một bộ phận lớn

người dân. Tuy nhiên, trường hợp Tunisia cũng cho thấy, sau bước khởi đầu thành

công khi lật đổ các chính quyền độc tài ở nhiều nước, "Mùa xuân Ả rập" dường như

không còn duy trì được những cách thức và phương hướng đề ra như ban đầu là

theo đuổi các giá trị: dân chủ, tự do, công bằng và phát triển kinh tế - xã hội. Thay

vào đó, nó dần bị biến đổi theo nhiều cách khác nhau, thậm chí trở thành cuộc tranh

giành quyền lực giữa các nhóm chính trị nhân danh cách mạng và dân chúng.

thực tế của người dân vốn luôn mong muốn có việc làm và thu nhập.

Tiếng nói và trách nhiệm

Guinea xích đạo

giải trình

Ghana

Tunisia

Ổn định chính trị và phi

Guinea xích đạo

bạo lực/khủng bố

Ghana

Tunisia

Hiệu lực của chính phủ Guinea xích đạo

Ghana

Tunisia

Chất lượng của các quy

Guinea xích đạo

định

Ghana

Tunisia

Thượng tôn pháp luật Guinea xích đạo

Ghana

Tunisia

Kiểm soát tham nhũng Guinea xích đạo

Ghana

Tunisia

Những cuộc đấu tranh này tiếp tục gây bất ổn và chia rẽ dân tộc mà bỏ qua lợi ích

Hình 4.17: So sánh chỉ số quản trị của Guinea xích đạo, Ghana và Tunisia (2019)

Nguồn: Global Governance Indicator, 2019,

https://info.worldbank.org/governance/wgi/Home/Reports

149

Bài học cải cách từ Guinea xích đạo, Ghana và Tunisia cho thấy, chất

lượng của cải cách không phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế mà nó cơ bản

phụ thuộc vào quyết tâm chính trị của giới lãnh đạo quốc gia. Thậm chí, quyết

tâm và nỗ lực cải cách còn lớn hơn ở những quốc gia có trình độ phát triển thấp

hơn (thể hiện qua mức thu nhập bình quân đầu người thấp hơn) và nghèo tài

nguyên hơn như Ghana nhằm đưa đất nước phát triển, thoát khỏi tình trạng

150

nghèo đói và bất ổn.

Tiểu kết chương 4

Guinea xích đạo, Ghana và Tunisia đã cho thấy ba trường hợp khác biệt,

mang những đặc thù của châu Phi trong quá trình cải cách kinh tế và chuyển đổi

sang nền kinh tế thị trường. Đây cũng là những trường hợp phản ánh tính đa

dạng và phức tạp của các thể chế kinh tế, chính trị và xã hội ở châu Phi. Nó cho

thấy, những thể chế chính trị độc đoán có thể mang lại sự chia rẽ sâu sắc về mặt

xã hội khi phân chia các thành quả phát triển kinh tế không đều.

Tuy nhiên, cho dù mô hình dân chủ hoá của phương Tây có hấp dẫn đến

đâu thì một bộ phận của tầng lớp tinh hoa trong xã hội ở nhiều nước châu Phi

vẫn cố gắng bảo vệ lợi ích kinh tế vốn đi kèm với và quyền lực chính trị riêng

phức tạp. Các nước châu Phi cũng có thể tìm kiếm một mô hình phát triển và con

đường cải cách của riêng mình. Cuối cùng, thực tế cho thấy, yếu tố quan trọng

vẫn là sự quyết tâm của các nhà lãnh đạo chính trị ở châu Phi trong tiến trình

của họ. Điều này khiến cho quá trình chuyển đổi, cải cách kéo dài với các hệ luỵ

151

thực hiện cải cách.

CHƯƠNG 5.

BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ QUÁ TRÌNH CẢI CÁCH THỂ CHẾ KINH

TẾ THỊ TRƯỜNG CỦA CÁC NƯỚC CHÂU PHI

5.1. Đánh giá chung và bài học kinh nghiệm

Châu Phi nghèo vì hệ thống thể chế yếu kém và những nỗ lực cải cách thể

chế, trong đó có thể chế kinh tế, suốt mấy chục năm qua đã không mấy thành

công hoặc chỉ thành công nửa vời. Cải cách thể chế, nhất là ở những tầng sâu, là

một quá trình cam go, phức tạp, đòi hỏi quyết tâm chính trị rất lớn. Trong lịch sử

phát triển của thế giới và châu Phi, nhiều nước đã vượt qua được những khó

khăn này và tiến hành cải cách thể chế thành công song cũng có nhiều nước đã

đất nước rơi vào bất ổn và phát triển thụt lùi. Có nhiều nguyên nhân và bài học

rút ra từ những thành bại của các quá trình cải cách đó:

Thứ nhất, chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường là vấn đề đầu tiên và

quan trọng hàng đầu của quá trình cải cách thể chế kinh tế của nhiều nước châu

không thể vượt qua hoặc tiến hành cải cách thể chế khi đã quá muộn khiến cho

Phi, đặc biệt là những nước trước đây đã từng đi theo mô hình kinh tế kế hoạch

theo đuổi mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, tiến trình chuyển đổi sang nền

kinh tế thị trường của các nước châu Phi diễn ra khá sớm, ngay từ đầu thập kỷ

1980. Có hai luồng sức ép đối với tiến trình cải cách này: i) những yếu kém tích

tụ của nền kinh tế trong nước sau một thời gian theo đuổi mô hình kế hoạch hóa

tập trung; và ii) sức ép của các nhà tài trợ quốc tế, đòi hỏi các nước châu Phi

phải tiến hành cải cách. Hơn nữa, sức ép và ảnh hưởng về mặt ý thức hệ xã hội

chủ nghĩa theo mô hình Xô Viết đối với châu Phi cũng không lớn như đối với

các nước Đông Âu.

Thực tiễn cải cách thể chế kinh tế thị trường ở các nước châu Phi tiếp tục

minh chứng rằng: thị trường và nhà nước đều là những cơ chế phân bổ nguồn lực

có những điểm mạnh và điểm yếu riêng; do đó, chúng cần được bổ sung cho

152

hoá tập trung kiểu Xô Viết. So với các nước thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa

nhau hơn là loại trừ nhau. Bài học rút ra là:Nhà nước chỉ nên là sửa chữa các

thất bại thị trường và không làm hơn điều đó. Nhà nước không nên làm thay thị

trường ở những chỗ mà nó có thể vận hành tốt. Mục tiêu mà sự can thiệp của nhà

nước hướng tới là: đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động hiệu quả, ổn định hơn,

phân phối công bằng hơn. Theo nghĩa này, nhà nước thường có chức năng cơ

bản sau:

1. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo ra một khung pháp lý

để các thị trường vận hành, trong đó nền tảng là xây dựng và thực thi các luật về

quyền sở hữu tài sản, luật hợp đồng, luật cạnh tranh…

2. Cung cấp các hàng hóa và dịch vụ công, trong đó chú trọng trước hết

các hàng hóa công tối thiểu như quốc phòng, an ninh, hành chính công, kết cấu

3. Điều tiết nền kinh tế nhằm khắc phục các thất bại thị trường như:tình

trạng độc quyền, hạn chế ngoại ứng tiêu cực (như kiểm soát ô nhiễm môi

trường), khắc phục tình trạng thông tin không hoàn hảo trên thị trường, ổn định

hóa kinh tế vĩ mô và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững.

hạ tầng cơ bản…mà tư nhân không thể đảm nhận.

4. Phân phối lại thu nhập và tài sản nhằm bảo đảm mục tiêu công bằng xã

đó tạo động lực cho mọi chủ thể phát huy tiềm năng, khả năng sáng tạo vì lợi ích

của họ và đóng góp cho xã hội; còn nhà nước chỉ thực hiện phân phối lần thứ hai

để đảm bảo tiến bộ, công bằng xã hội.

Nhiều nước châu Phi đã lạm dụng sức mạnh và các công cụ của nhà nước

như các quy định có tính cưỡng chế, cấm đoán, trừng phạt. Sự cưỡng chế này có

thể tạo ra được những phân bổ nguồn lực vào những ngành, những lĩnh vực mà

thị trường không làm một cách tự nguyện hoặc không làm được. Tuy nhiên, việc

áp dụng các công cụ này có thể trở thành lực cản đối với sự phát triển nếu bị lạm

dụng. Trong rất nhiều trường hợp, các chính phủ châu Phi sử dụng doanh nghiệp

nhà nướcnhư một công cụ đặc biệt để nhà nước thực thi chức năng của mình,

bao gồm cả việc duy trì quyền lực. Việc sử dụng DNNN cho các mục tiêu kinh

153

hội. Tuy nhiên, thị trường mới là cơ chế để thực hiện phân phối lần thứ nhất qua

doanh dễ dẫn đến phân biệt đối xử, cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường

tự do và thường không hiệu quả do các DNNN hoạt động trên cơ sở tài sản công,

nên người quản lý hoặc người đại diện chủ sở hữu nhà nước thiếu động cơ để

khai thác các tài sản này hiệu quả.

Tại các nền kinh tế chuyển đổi Đông Âu, quá trình chuyển đổi sang nền

kinh tế thị trường thường suôn sẻ và diễn tiến nhanh hơn nếu được thi hành theo

một lộ trình cải cách được thiết kế từ trước để tránh việc chuyển đổi một cách

ngẫu hứng, diễn biến phụ thuộc vào các tình huống khó đoán định [75]. Đa phần

quá trình cải cách thể chế kinh tế ở châu Phi cũng theo những lộ trình đã định

sẵn. Cộng đồng các nhà tài trợ và các tổ chức quốc tế như WB thông qua các

chương trình như điều chỉnh cơ cấu (SAP) đã cố gắng áp đặt cho các nước châu

hình “Đồng thuận Washington.” Tuy nhiên, khác với Đông Âu, rất ít nước châu

Phi đã cải cách thể chế kinh tế thành công theo phương thức này.

Dưới góc độ chính trị, về cơ bản những mô hình phát triển và tự do hoá

do các nước phương Tây áp đặt có vẻ không phù hợp với những điều kiện đặc

Phi những gì được xem là “tập quán tốt nhất” trên thế giới mà về cơ bản là mô

thù của nhiều nước châu Phi bởi nó đòi hỏi phải lật đổ nhanh chóng hệ thống

Tại nhiều nước châu Phi, có những chế độ độc tài được thiết lập sau khi giành

được độc lập và nguồn lực kinh tế được dùng để mua chuộc sự ủng hộ chính trị.

Do đó, bộ máy cầm quyền cùng với tầng lớp tinh hoa ở đây không dễ dàng từ bỏ

các đặc quyền, đặc lợi của mình để cải cách kinh tế thực sự. Xét dưới góc độ

này, Daron Acemoglu và các cộng sự của ông đã đúng khi cho rằng, những mô

hình phát triển lạc hậu vẫn tiếp tục tồn tại hoặc thay đổi rất chậm tại các quốc

gia châu Phi nghèo khó vì các lực lượng chính trị nắm quyền lực tại đây muốn

duy trì nó như thế để bảo vệ lợi ích của mình[35]. Ví dụ điển hình là, một số nhà

lãnh đạo châu Phi còn suy nghĩ rằng, việc duy trì cơ chế kế hoạch hóa tập trung

và một khu vực công lớn sẽ giúp họ kiểm soát nguồn lực quốc gia tốt hơn các

đối thủ chính trị của mình. Bởi vậy, chính phủ nhiều nước châu Phi đã áp dụng

154

hiện thời và xáo trộn lợi ích của tầng lớp tinh hoa nên đã vấp phải nhiều rào cản.

chiến thuật “Babangida Boogie” (một bước tiến, hai bước lùi) để đối phó với sức

ép cải cách trong nước và từ cộng đồng tài trợ quốc tế. Tuy nhiên, xu thế chuyển

đổi sang nền kinh tế thị trường là không thể đảo ngược, nhất là sau khi Liên Xô

và hệ thống chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Đông Âu tan rã cùng với sự thất bại

của mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Dù với những tiến độ và ở các mức

độ khác nhau, sau một thời gian hầu hết các nước châu Phi cũng đã chuyển đổi

thành công sang nền kinh tế thị trường. Quyết tâm chính trị ảnh hưởng rất lớn

đến sự thành công của quá trình chuyển đổi này. Ở những quốc gia châu Phi nào

nơi giới lãnh đạo chính trị mang quyết tâm cải cách kinh tế cao hơn đã thực hiện

được những biện pháp cải cách mạnh mẽ hơn trong bước chuyển đổi sang cơ chế

thị trường và đã gặt hái được nhiều thành công hơn trong phát triển kinh tế-xã

châu Phi cũng nổi lên những điểm sáng phát triển như Mauritius, Ghana,

Tanzania…với chất lượng thể chế và quản trị được cộng đồng quốc tế đánh giá

rất cao, thậm chí còn hơn nhiều nước Đông Nam Á. Một số quốc gia khác nổi

hội. Thực tế cho thấy, bên cạnh rất nhiều quốc gia chìm đắm trong đói nghèo,

lên sau thời kỳ nội chiến như Ethiopia, Rwanda…cũng được cộng đồng quốc tế

đánh giá cao về sự tiến bộ về chất lượng thể chế và quản trị nhanh chóng trong

Thứ hai, một bài học quan trọng nữa rút ra trong quá trình cải cách là phải

hết sức linh hoạt. Do thất vọng với mô hình cải cách kinh tế và những điều kiện

về dân chủ, nhân quyền mà phương Tây áp đặt, nhiều nước châu Phi đã tìm kiếm

những mô hình thay thế như mô hình nhà nước phát triển Đông Á thậm chí một

mô hình mới nổi lên gần đây là “Đồng thuận Bắc Kinh”. Các mô hình phát triển

này nhấn mạnh vai trò chủ động hơn của nhà nước can thiệp và định hướng, điều

tiết thị trường; đồng thời cũng đề cao các hình thức sở hữu hỗn hợp, sở hữu nhà

nước, sở hữu hỗn hợp; và sự thử nghiệm các định chế khác nhau trong thúc đẩy

tăng trưởng kinh tế [89]. Một số người cho rằng “Đồng thuận Bắc Kinh” có thể

sẽ thay thế “Đồng thuận Washington” để định hình con đường phát triển của thế

155

thời gian gần đây.

giới, hoặc ít nhất là con đường phát triển của các nền kinh tế mới nổi ở châu Á,

châu Phi và Mỹ Latinh.

Kể từ những năm 1960, mô hình nhà nước phát triển đã bắt đầu manh nha

xuất hiện ở châu Phi. Ngay sau khi giành được độc lập, khác với sự lựa chọn phổ

biến của nhiều nước châu Phi nam Sahara đối với mô hình kế hoạch hóa tập

trung kiểu Xô Viết, Botswana và Mauritius đã không theo con đường này, đồng

thời cũng không theo mô hình kinh tế thị trường tự do phương Tây mà đã chọn

con đường thứ ba là mô hình của các nhà nước Đông Á. Mô hình này cũng được

nhiều nhà lãnh đạo như Kenneth Kaunda của Zambia, Julius Nyerere của

Tanzania và Kwame Nkrumah của Ghana ca ngợi. Vào đầu những năm 2000,

với đường lối cánh tả của Đảng đại hội dân tộc Phi (ANC), Nam Phi cũng bắt

khác như Rwanda, Ethiopia. Việc Botswana và Mauritius đều là những nền kinh

tế phát triển hàng đầu châu Phi nam Sahara đã chứng tỏ sự thành công của mô

hình nhà nước phát triển ở châu lục này nếu được thực hiện đúng cách.

Tuy nhiên, sự thành công của việc vận dụng mô hình nhà nước phát triển ở

đầu ngả theo xu hướng mô hình nhà nước phát triển; tiếp theo đó là nhiều nước

châu Phi rõ ràng rằng vẫn thua xa so với các nước Đông Á. Có nhiều lý do dẫn đến

Khổng giáo ở Đông Á); năng lực cao hơn của bộ máy nhà nước Đông Á... Hơn nữa,

cũng giống như ở nhiều nước Đông Á, những nhà lãnh đạo mang tư tưởng “nhà nước

phát triển” ở châu Phi vẫn thường bị lên án là đã thiết lập ra những chế độ độc tài,

mất dân chủ. Điều này đã ảnh hưởng đến chất lượng quản trị, khuyến khích tham

nhũng, làm méo mó ngay chính mô hình nhà nước phát triển và trở thành lực cản cho

quá trình cải cách kinh tế ở châu Phi. Bởi vậy, một số quan điểm cho rằng châu Phi

cần những mô hình “nhà nước phát triển dân chủ.” [88]

Thứ ba, để có thể đảm bảo tiến trình cải cách theo hướng thị trường thành

công cần những cuộc cải cách đến hoàn thiện nền dân chủ và xây dựng một nền

quản trị tốt. Đây là yếu tố để đảm bảo có một hệ thống thể chế chính trị vững

mạnh và cấu trúc quyền lực chính trị bình đẳng, “bao trùm”, đảm bảo cho các

156

sự hạn chế này như điều kiện đặc thù của Đông Á khác với châu Phi (ví dụ: tư tưởng

chuẩn mực của nền kinh tế thị trường tự do hiện đại, đảm bảo cho các chiến

lược, chính sách phát triển có được sự ủng hộ của người dân, vận hành hiệu quả

và đạt được mục tiêu.

Những người theo quan điểm coi cải cách chính trị, nhất là thúc đẩy tiến

trình dân chủ hoá, là tiền đề để cải cách kinh tế dễ sa vào tư tưởng cực đoan, coi

dân chủ là chìa khoá vạn năng dẫn đến thành công của mọi cải cách, trong đó có

cải cách kinh tế theo hướng thị trường. Họ dễ coi rằng, mất dân chủ là nguyên

nhân của mọi yếu kém ở châu Phi: từ tình trạng tham nhũng, kém phát triển cho

đến sự chậm trễ và trì hoãn cải cách kinh tế. Tuy nhiên, thực tế không phải lúc

nào cũng như vậy. Khi khủng hoảng kinh tế đặt ra yêu cầu phải cải cách, có

những lập luận rằng các chế độ chuyên quyền (theo nghĩa bỏ qua sự tham gia,

cao, mọi quyết định đều có thể được tiến hành nhanh chóng; mọi phương tiện có

thể được huy động đến mức tối đa; vai trò của các nghiệp đoàn bị hạn chế

nghiêm ngặt và điều này sẽ phù hợp khi chính phủ phải tiến hành những chính

sách thắt lưng buộc bụng để hạn chế thâm hụt ngân sách, khôi phục lại niềm tin

giám sát của người dân) tỏ ra có ưu điểm riêng. Ví dụ, với sự tập trung quyền lực

của các nhà đầu tư nước ngoài, v.v...Trong khi đó, dân chủ đòi hỏi sự đồng

nên mọi chuyện có thể bị chậm trễ. Dân chủ dẫn đến tình trạng bất ổn xã hội tại

nhiều nước trong thời kỳ kinh tế khó khăn. Ấn Độ là một trong những ví dụ tốt

về những hạn chế của dân chủ, khi những quyết định phát triển rất khó được

thông qua. Những bất ổn của tình hình chính trị - xã hội ở Bắc Phi - Trung Đông

hay Thái Lan trong thời gian gần đây cũng cho thấy hạn chế của tiến trình dân

chủ hóa. Trong khi đó, không phải chính quyền mà các học giả phương Tây vẫn

thường coi là “chuyên quyền, độc đoán” nào cũng là lực cản của cải cách và phát

triển kinh tế. Ngược lại, có những chính quyền đã nỗ lực hết sức mình để phát

triển kinh tế đất nước và thành công, mà Xingapo là một ví dụ điển hình. Châu Phi

cũng đã có những mô hình “độc tài tốt” như Ghana trong thập niên 1980-1990.

Cách tiếp cận quản trị đối với châu Phi cho rằng, việc xây dựng các mô

157

thuận; mà để có được đồng thuận thì cần rất nhiều thời gian và rất dễ bị lợi dụng

hình phát triển và thể chế phải dựa vào những bối cảnh đặc thù chứ không theo

phương thuốc định sẵn và tránh việc áp đặt những mô hình dân chủ phương Tây.

Tại Đông Á nơi có những chính phủ bị phương Tây coi là thiếu dân chủ lại có

vai trò quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Các nhà lãnh đạo như Paul

Kagame ở Rwanda đã thể hiện mong muốn học hỏi những kinh nghiệm phát

triển này và hy vọng đưa Rwanda trở thành ‘Singapore của châu Phi’. Tại Đông

Á, mô hình nhà nước phát triển thực sự quan trọng hơn mô hình dân chủ tự do

đối với tăng trưởng kinh tế. Tương tự ở châu Phi, các nước như Angola, Ethiopia

và Rwanda cũng đã từng đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao mà không nhất

thiết phải theo mô hình dân chủ tự do.

Mặc dù, thực tế đã chứng minh dân chủ và quản trị tốt không phải lúc nào

chính trị đa đảng phái, bầu cử tự do và bình đẳng, không phải lúc nào cũng tạo ra

một nền quản trị tốt. Hơn nữa, dân chủ không phải lúc nào cũng giúp tăng cường

hiệu lực và hiệu quả của chính sách - những yếu tố quan trọng của quản trị tốt.

Chất lượng quản trị đã tác động tích cực đến kết quả phát triển của quá

cũng song hành với nhau. Nền dân chủ tự do chủ yếu dựa trên nền tảng hệ thống

trình tự do hoá kinh tế. Sở dĩ tự do hoá lại có thể mang lại các thành quả phát

tế quốc gia ở Malawi thua kém nhiều Uganda. Tại Malawi, các nỗ lực cải cách

nền quản trị chậm chạp và tự do hoá tiếp tục bị ảnh hưởng bởi sự can thiệp của

nhà nước. Tự do hoá ở Uganda đi kèm với các nỗ lực ổn định nền kinh tế và thúc

đẩy xuất khẩu. Chính phủ Ugandan tiến hành cải cách từ năm 1987 và luôn cam

kết duy trì ổn định kinh tế vĩ mô. Với nhiều nỗ lực, Uganda đã chặn đứng được

lạm phát, tiến hành tư nhân hoá các công ty cung ứng dịch vụ công và tiến hành

thả nổi tỷ giá. Chính phủ cũng tiến hành cải cách khu vực công bằng cách tăng

lương cho cán bộ, viên chức nhà nước và giảm nạn tham nhũng; nâng cấp hệ

thống kết cấu hạ tầng, đặc biệt là khu vực năng lượng và vận tải [122]. Trong khi

đó, tại Malawi lạm phát và lãi suất thực tế tiếp tục ở mức cao trong tiến trình tự

do hoá. Môi trường vĩ mô bất ổn gây e ngại cho các nhà đầu tư. Tiến trình tư

158

triển kinh tế - xã hội tích cực ở Uganda hơn là ở Malawi là bởi quản trị nền kinh

nhân hoá chậm; các doanh nghiệp quốc doanh trong lĩnh vực viễn thông và năng

lượng hoạt động kém hiệu quả, cản trở việc nâng cao năng suất và tạo thuận lợi

hoá thương mại. Mặc dù thuế quan giảm song các hàng rào phi thuế quan tiếp

tục tồn tại, nạn tham nhũng và kết cấu hạ tầng kém phát triển đã khiến cho chi

phí sản xuất ở nước này tăng cao.

Tuy nhiên, ngay cả một khi đã chuyển sang cách tiếp cận quản trị thì các

nhà tài trợ cũng gặp rất nhiều khó khăn và không mấy thành công để xây dựng

một nền quản trị tốt ở châu Phi. Cải cách nền quản trị quốc gia ở châu Phi với

logic “theo những tập quán tốt nhất” cuối cùng lại rơi vào những khuôn mẫu

định sẵn của các nước phương Tây như việc thúc đẩy các vấn đề nhân quyền và

dân chủ. Bởi vậy, với khẩu hiệu “thúc đẩy phát triển theo một cách khác”, nhấn

châu Phi đã nhận thấy sự cần thiết phải đồng hành và thích ứng với môi trường

kinh tế chính trị đặc thù của châu lục. Điều đó có nghĩa rằng, họ chấp nhận hỗ

trợ những sáng kiến của tầng lớp tinh hoa thay vì áp đặt những mô hình cải cách

từ bên ngoài với mong muốn làm thay đổi nhanh chóng nguyên trạng và cấu trúc

mạnh các yếu tố như “tính chủ động”, “quyền làm chủ” cộng đồng tài trợ cho

quyền lực chính trị tại các nước châu Phi. Các khoản viện trợ sẽ đạt được mục

chính trị tại nước tiếp nhận. Tuy nhiên, nếu như các nhà tài trợ chỉ làm việc với

chính phủ nước tiếp nhận, họ sẽ không thể lắng nghe được ý kiến của người dân

và các cộng đồng yếu thế. Hơn thế nữa, nếu như các khoản viện trợ không động

chạm đến những vấn đề “tế nhị”, dễ bị chính phủ các nước tiếp nhận phản đối

như cải cách chính trị, chúng sẽ khó thể giải quyết triệt để gốc gác của những

yếu kém phát triển nhất là với truyền thống tham nhũng ở nhiều nước châu Phi.

Châu Phi nghèo vì hệ thống thể chế yếu kém và những nỗ lực cải cách

thể chế kinh tế, suốt mấy chục năm qua đã không mấy thành công hoặc chỉ thành

công nửa vời. Cải cách thể chế, nhất là ở những tầng sâu, là một quá trình cam

go, phức tạp, đòi hỏi quyết tâm chính trị rất lớn. Ở những quốc gia châu Phi nào

nơi giới lãnh đạo chính trị mang quyết tâm cải cách kinh tế cao hơn đã thực hiện

159

tiêu dễ dàng hơn nếu chúng nhận được sự ủng hộ của những người có quyền lực

được những biện pháp cải cách mạnh mẽ hơn trong bước chuyển đổi sang cơ chế

thị trường và đã gặt hái được nhiều thành công hơn trong phát triển kinh tế - xã

hội. Thực tế cho thấy, bên cạnh rất nhiều quốc gia chìm đắm trong đói nghèo,

châu Phi cũng nổi lên những điểm sáng phát triển như Mauritius, Ghana,

Tanzania…với chất lượng thể chế và quản trị được cộng đồng quốc tế đánh giá

rất cao, thậm chí còn hơn nhiều nước Đông Nam Á. Một số quốc gia khác nổi

lên sau thời kỳ nội chiến như Ethiopia, Rwanda…cũng được cộng đồng quốc tế

đánh giá cao về sự tiến bộ về chất lượng thể chế và quản trị nhanh chóng trong

thời gian gần đây.

Nhiều cuộc cải cách thể chế kinh tế ở châu Phi chỉ được thực hiện nửa

vời, không thể tiến xa hơn vì không vượt qua được bức trần về chất lượng thể

chính trị, văn hoá, lịch sử và trình độ phát triển. Thực tế là nhiều nước châu Phi

hiện đang mắc vào vòng tròn luẩn quẩn: cải cách thể chế kinh tế chậm chạp

hoặc không thành công khiến nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, tăng trưởng giảm

sút, đất nước đắm chìm trong tình trạng kém phát triển; đến lượt nó, tình trạng

chế. Bức trần này được tạo ra bởi một loạt hệ thống rào cản gồm các yếu tố về

kém phát triển kìm hãm những nỗ lực thúc đẩy một nền quản trị tốt và kiến tạo

chủ lại tạo ra lực cản đối với những nỗ lực cải cách kinh tế mạnh mẽ hơn.

Cải cách thể chế kinh tế chậm

Tình trạng kém phát triển

Nền quản trị và dân chủ yếu kém chậm

môi trường dân chủ; đến lượt nó, nền quản trị yếu kém và tình trạng thiếu dân

Hình 5.1: Bẫy phát triển và cải cách ở châu Phi

160

5.2. Một số gợi mở chính sách đối với Việt Nam

Ở Việt Nam, quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung

sang nền kinh tế thị trường được chính thức bắt đầu từ Nghị quyết Hội nghị lần

thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IV (8/1979) với chủ trương động

viên, khuyến khích mọi người lao động, mọi năng lực sản xuất và thành phần

kinh tế. Chỉ thị số 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng ngày 13/1/1981 về

khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp đã

tạo ra bước phát triển to lớn trong sản xuất nông nghiệp.

Việt Nam đã nỗ lực thiết kế một mô hình kinh tế thị trường riêng - mô

hình kinh tế thị trường định hướng XHCN, phù hợp với trình độ phát triển,

đường lối chính trị và những đặc thù của đất nước. Tuy nhiên, việc phát triển

Nam, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một mô hình hoàn toàn

mới, chưa có tiền lệ và thời gian phát triển còn rất ngắn. Vì vậy, trong quá trình

xây dựng, phát triển và hoàn thiện mô hình này, Việt Nam gặp không ít trở ngại,

khó khăn; trong đó, rất cần được làm rõ những vướng mắc trong nhận thức và lý

kinh tế thị trường đã có lịch sử hàng mấy trăm năm ở trên thế giới; còn ở Việt

luận nhằm tạo ra động lực cho công cuộc tiếp tục đổi mới và phát triển đất nước.

Đất đai năm 1987 và Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987. Trong

những năm 1988 - 1990, Đảng và Nhà nước đã tiến hành đổi mới có hệ thống,

tương đối đồng bộ và triệt để toàn bộ nền kinh tế [10]. Hiến pháp năm 1992

được Quốc hội thông qua, thừa nhận nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần.

Nhiều văn bản pháp lý là nền tảng cho sự xuất hiện của các loại thị trường lần

lượt được ban hành. Từ năm 1992, một số văn bản về thị trường hàng hóa, dịch

vụđã lần lượt xuất hiện, trong đó có Bộ luật Dân sự năm 1995, Luật Thương mại

năm 1997, Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật Các tổ chức tín dụng năm

1997…Từ năm 1996 - 2000, nhiều văn bản được ban hành như Luật Thương

mại năm 1997, Luật Doanh nghiệp năm 1999, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt

Nam (sửa đổi năm 2000)…Từ năm 2000 - 2005, lần lượt Luật Doanh nghiệp

161

Dấu ấn đầu tiên trong việc hình thành pháp luật thời kỳ đổi mới là Luật

Nhà nước (2003), Luật Cạnh tranh (2004), Bộ luật Dân sự (2005), Luật Thương

mại (2005), Luật Đầu tư(2005), Luật Sở hữu trí tuệ (2005), Luật Chứng khoán

(2006), Bộ luật Lao động năm 2012. [10]

Qua gần 35 năm đổi mới, đất nước đã đạt những thành tựu rất quan trọng

về hoàn thiện thể chế, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa (XHCN). Tại Đại hội IX (4-2001), khái niệm kinh tế thị trường định

hướng XHCN mới được chính thức sử dụng trong các văn kiện của Đảng. Và

cũng từ Đại hội này, Đảng xác định nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là

mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH. Tư

tưởng, đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN được thể chế

hóa thành pháp luật, tạo hành lang pháp lý cho nền kinh tế vận hành có hiệu quả.

hành hơn 150 bộ luật và luật, hơn 70 pháp lệnh. Quốc hội đã thông qua Hiến

pháp 2013 và hàng loạt bộ luật để thể chế hóa Hiến pháp 2013, cơ bản tạo cơ sở

pháp lý hình thành và thúc đẩy việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định

hướng XHCN. Đó là khẳng định nguyên tắc nền kinh tế có chế độ đa sở hữu, đa

Trong 30 năm đổi mới, đã ba lần sửa đổi và ban hành Hiến pháp, sửa đổi và ban

thành phần, nhiều hình thức phân phối; phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường

các nguyên tắc của cơ chế thị trường; bảo đảm thực hiện tiến bộ và công bằng xã

hội trong từng bước, từng chính sách phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi

trường; mở cửa, hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới [11]. Đến nay, thể chế

kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế của Việt

Nam đã được hình thành về đại thể. Đại hội XII đã xác định rõ: Nền kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ,

đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng

xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền

kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu

"dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Thị trường đóng vai trò

162

và vận hành thông suốt các loại thị trường; Nhà nước quản lý nền kinh tế theo

chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực, là động lực chủ

yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến

lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường. [3]

Những thành tựu to lớn mà Việt Nam đã đạt được trong suốt thời kỳ đổi

mới đến nay đều đã bắt nguồn từ đổi mới thể chế. Sau gần 35 năm Đổi Mới, Việt

Nam đã có sự chuyển biến mạnh mẽ từ một nước nghèo nàn, lạc hậu, mức sống

thấp đã trở thành nước đang phát triển, có mức thu nhập trung bình. Nền kinh tế

tăng trưởng khá so với các nước, ngay cả những giai đoạn kinh tế khu vực và

toàn cầu gặp khó khăn. Đất nước đã đạt được những thành tựu được cộng đồng

quốc tế công nhận và đánh giá cao trong lĩnh vực xóa đói, giảm nghèo. Nền kinh

tế ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và toàn cầu.

được nhấn mạnh trong Văn kiện của Đại hội lần thứ XII như là vấn đề căn cốt

của quá trình cải cách thể chế kinh tế, giúp đem lại động lực phát triển mới của

Việt Nam trong giai đoạn tới. Việt Nam đã cam kết thực hiện và đáp ứng các

tiêu chí để được công nhận là nền kinh tế thị trường đầy đủ; trong số đó, có

Hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN đã

những tiêu chí phổ biến của một nền kinh tế thị trường hiện đại như: không phân

sách...Tiến trình cải cách kinh tế trong nước phải nhằm đảm bảo những tiêu chí

này để đồng bộ với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. [24]

Bên cạnh những thành quả rất ấn tượng trong gần 35 năm Đổi Mới, nền

kinh tế Việt Nam cũng đang phải đối mặt với nhiều thách thức và những khó

khăn. Đặc biệt, sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam vẫn còn tồn tại ba “nút

thắt” cơ bản đã nhiều năm chưa thể tháo gỡ là: cơ sở hạ tầng lạc hậu, nguồn nhân

lực chất lượng thấp và hệ thống thể chế kinh tế còn nhiều bất cập. Việc giải

quyết vấn đề yếu kém của thể chế cần sự thay đổi tư duy và cải cách đồng bộ,

mạnh dạn và triệt để.

Về giải quyết một số điểm nghẽn, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường

Để có thể tiến xa hơn trên con đường cải cách thể chế, Việt Nam cần phải

163

biệt đối xử; đảm bảo cạnh tranh lành mạnh; thực hiện minh bạch trong chính

tiến hành những cải cách đối với nền kinh tế thị trường theo hướng tự do và

thông thoáng; xây dựng và áp dụng những chuẩn mực của nền kinh tế thị trường

hiện đại trên thế giới.

Ở tầng thể chế nền tảng của kinh tế thị trường, thực tiễn thế giới cho thấy,

trong phát triển kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại và hội nhập, cần thực sự xác

lập, thực thi phổ biến và bảo vệ hữu hiệu quyền sở hữu tư nhân về tài sản. Chỉ

khi quyền sở hữu tư nhân được tôn trọng và bảo vệ, các cá nhân mới có thể phát

huy được các tiềm năng của mình, mới có thể tự do và độc lập trong việc tiến

hành các hoạt động sản xuất, trao đổi nhằm tối đa hóa các lợi ích cá nhân. Tôn

trọng và phát huy sức mạnh của lợi ích cá nhân trên cơ sở xác lập và bảo vệ

quyền sở hữu tư nhân làm nên sức sống năng động và sự thịnh vượng của các

kinh tế hiện còn nhiều vấn đề chưa thật phù hợp với nền kinh tế thị trường hiện

đại (Nước ta khẳng định có ba chế độ sở hữu: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể

và sở hữu tư nhân. Trong khi đó về lý luận, cũng như về thực tiễn thế giới chỉ

có hai chế độ sở hữu là công hữu và tư hữu, tồn tại với nhiều hình thức khác

nhau). Cách phân chia “thành phần kinh tế” mang nặng tư duy phân biệt đối xử

nền kinh tế thị trường. Ở Việt Nam, nhận thức về chế độ sở hữu và thành phần

thực tiễn, trong chính sách quản lý và điều hành nền kinh tế và với tiến trình hội

nhập quốc tế của đất nước ta.

Ở khía cạnh mở cửa và hội nhập, trên bình diện khu vực và thế giới, Việt

Nam đã có sự hội nhập sâu và rộng hơn trên tất cả các lĩnh vực. Đặc biệt, với

việc trở thành thành viên thứ 150 của WTO vào tháng 11/2006, nền kinh tế Việt

Nam được xem như đã hội nhập đầy đủ vào nền kinh tế toàn cầu. Các cam kết

với WTO là khuôn khổ chung để Việt Nam xây dựng lộ trình hội nhập tổng thể

của nền kinh tế đất nước vào khu vực và thế giới. Sự chủ động và tích cực hội

nhập được đẩy lên một bước dài. Hiện nay, Việt Nam đã trở thành thành viên

của nhiều FTA thế hệ mới, với các cam kết phải thực hiện nhiều quy định về tự

164

và ý thức hệ của thời kỳ kế hoạch hoá tập trung đã tỏ ra không còn phù hợp với

do hóa kinh tế ở trình độ cao, đáp ứng những chuẩn mực cao về lao động, môi

trường và nhiều vấn đề xã hội, v.v. Điều đó đặt ra yêu cầu ngày càng cao về cải

cách thể chế trong nước đồng bộ với các cam kết quốc tế.

Ở khía cạnh huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cho phát

triển kinh tế, bên cạnh việc đẩy mạnh tiến trình hội nhập để khai thác các nguồn

lực bên ngoài, Việt Nam còn cần hoàn thiện thể chế trong nước để khai thác và

huy động có hiệu quả nguồn lực của khu vực tư nhân. Mặc dù quy mô của khu

vực tư nhân có thể khác nhau trong các mô hình kinh tế thị trường khác nhau

song có một điều chắc chắn rằng, nếu không có khu vực kinh tế tư nhân thì sẽ

không có nền kinh tế thị trường theo đúng nghĩa của nó. Một trong những yêu

cầu quan trọng của tiến trình cải cách thể chế trong lĩnh vực này là tạo một sân

doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

Cải cách doanh nghiệp nhà nước là một trong tuyến cải cách thể chế then

chốt, cũng là một trong những trọng tâm và lĩnh vực cải cách nhạy cảm, khó

chơi bình đẳng giữa khu vực tư nhân trong nước với khu vực doanh nghiệp quốc

khăn nhất của quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang

kinh tế thị trường ở Việt Nam. Thực tế cho thấy, cải cách doanh nghiệp nhà

nhà nước, bao gồm cả số lượng các doanh nghiệp; và 2) cải cách nhằm nâng cao

hiệu quả sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp và nâng cao hiệu quả

hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước còn lại. Cải cách doanh nghiệp nhà

nước có hai cách tiếp cận: 1) tư nhân hoá nhanh chóng hầu hết các doanh nghiệp

nhà nước, chỉ giữ lại một số doanh nghiệp hoạt động công ích (liệu pháp “sốc”);

và 2) vừa tiến hành từng bước cổ phần hoá, đa dạng hoá sở hữu, vừa chuyển các

doanh nghiệp nhà nước sang hoạt động theo chế độ công ty hiện đại (liệu pháp

“thận trọng”).

Việt Nam hiện đang thực hiện cải cách doanh nghiệp nhà nước theo cách

tiếp cận thứ hai. Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện sắp xếp lại, cổ phần hoá, đa

165

nước thường có hai nội dung chủ yếu là: 1) giảm quy mô khu vực doanh nghiệp

dạng hoá sở hữu doanh nghiệp nhà nước trong thời gian qua còn chậm. Việc thử

nghiệm hình thành tập đoàn kinh tế đã không đem lại kết quả như mong đợi.

Một trong những trở ngại lớn đối với việc cổ phần hóa là các ngành, các cấp vẫn

có tư tưởng giữ lại nhiều doanh nghiệp 100% vốn nhà nước hoặc có cổ phần chi

phối của nhà nước vì lợi ích cục bộ. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, nguyên tắc

giải quyết vấn đề này là nguyên tắc bình đẳng giữa doanh nghiệp nhà nước và

doanh nghiệp tư nhân. Một cuộc cải cách doanh nghiệp nhà nước thành công sẽ

có tác động lan tỏa đến các lĩnh vực khác ở tầng thể chế thứ hai (như tự do giá

cả, cạnh tranh, độc quyền), đồng thời tác động đến cải cách ở tầng thế chế thứ

nhất qua việc thúc đẩy các nguyên tắc minh bạch, nâng cao trách nhiệm giải

trình và chống tham nhũng... là những vấn đề nổi cộm hiện nay trong hệ thống

Về giữ vững ổn định chính trị-xã hội trong quá trình cải cách

Biến động chính trị - xã hội như ở Tunisia bùng nổ không phải khi nền

kinh tế nước này rơi vào cảnh khó khăn nhất mà khi người dân, đặc biệt là giới

doanh nghiệp nhà nước.

trẻ không có đủ việc làm. Tình trạng thiếu việc làm hiện đang trở thành vấn đề

ngày càng nghiêm trọng ở Việt Nam. Tuy nhiên, khác với nhiều nước châu Phi,

thôn hơn là thành thị. Trong khoảng 10 năm qua chúng ta đã không giải quyết

một cách hiệu quả lao động dư thừa trong khu vực nông nghiệp và nông thôn.

Số lao động dư thừa đang tăng nhanh bởi tình trạng mất đất của nông dân, thu

hồi đất cho đô thị hoá, công nghiệp hoá. Sức hấp dẫn của đô thị chỉ lôi kéo lao

động nông thôn (chủ yếu là những người thuần nông) ra thành thị mang tính chất

thời vụ, chưa thể hoá thân thành lao động phi nông nghiệp đích thực. Việc giải

quyết lao động trong ngành nông nghiệp chưa đạt hiệu quả mong muốn mà

nguyên nhân chủ yếu là sự phát triển của lực lượng doanh nghiệp ở nông thôn

không đủ mạnh nên chưa thúc đẩy chuyển dịch nhanh lao động nông nghiệp

sang lao động phi nông nghiệp.

166

nguy cơ bất ổn xã hội ở Việt Nam hiện đang tập trung chủ yếu ở khu vực nông

Với khoảng 65% dân số sống ở nông thôn và 42% lực lượng lao động

trong nông nghiệp [26], khu vực nông nghiệp, nông thôn đóng vai trò hết sức

quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam song phát triển nông

nghiệp, nông thôn đang bộc lộ nhiều điểm nghẽn, tiềm ẩn những vấn đề chính

trị-xã hội phức tạp. Nhiều chính sách “cởi trói” giúp nông nghiệp, nông thôn

phát triển trong thời kỳ sau đổi mới đã tới giới hạn. Mô hình kinh tế hộ truyền

thống tồn tại lâu nay ở nông thôn không còn phù hợp với điều kiện mới, trong

khi việc triển khai những mô hình hiện đại như kinh tế trang trại quy mô lớn,

liên kết nông dân với doanh nghiệp… vẫn gặp nhiều rào cản. Bởi vậy, phát triển

mạnh các doanh nghiệp trong nông nghiệp và ở vùng nông thôn trong nhiều lĩnh

vực ngành nghề, qua đó tạo việc làm cho người nông dân là một trong những

dân đối với tiến trình cải cách.

Thực hiện chính phủ liêm chính, kiến tạo và phục vụ phát triển

Để có một nền quản trị quốc gia tốt, yêu cầu hàng đầu hiện nay đối với

Việt Nam là thực hiện chính phủ liêm chính, kiến tạo và phục vụ phát triển.

yêu cầu cấp bách hiện nay nhằm giữ vững ổn định xã hội và niềm tin của người

Chính phủ liêm chính là chính phủ nói không với tham nhũng; có các quy định

người; từ đó thực sự tạo được niềm tin của người dân, của doanh nghiệp vào vai

trò của Chính phủ trong điều hành đất nước. Chính phủ phải ngăn chặn lợi ích

nhóm, lợi ích chính sách, cục bộ chính sách ngay từ khi khởi xướng. Trước hết,

phải xử lý nạn tham nhũng, quan liêu một cách quyết liệt - rào cản và gánh nặng

chi phí đối với phát triển của khu vực kinh tế tư nhân; củng cố, xây dựng bộ

máy, tuyển dụng người tài, rà lại chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan để tránh

chồng chéo, mâu thuẫn gắn với cải cách hành chính. Trong bối cảnh của cuộc

cách mạng công nghiệp lần thứ 4, cần áp dụng mạnh mẽ chính phủ số ở mọi lĩnh

vực để giảm thiểu và hiện đại hóa thủ tục hành chính, hạn chế tham nhũng, tăng

cường tính minh bạch trong quá trình xây dựng và thực hiện chính sách. Đây

cũng là những biện pháp góp phần đẩy nhanh quá trình chính thức hoá nền kinh

167

thưởng phạt nghiêm minh, và đề cao ý thức thượng tôn pháp luật cho tất cả mọi

tế và thị trường lao động. Cần duy trì và nhân rộng các nỗ lực đó trên toàn quốc,

đặc biệt ở những tỉnh nằm ngoài ‘cực tăng trưởng’ và giúp trung hoà xu hướng

doanh nghiệp thường tập trung ở những vùng trọng điểm.

Yêu cầu chính phủ phục vụ doanh nghiệp gần đây được nêu nhiều trong

các diễn đàn chính sách như là một định hướng cải cách thể chế và chính sách

nhằm đưa nền kinh tế trở lại quỹ đạo tăng trưởng nhanh, bền vững và mang tính

bao trùm. Chính phủ kiến tạo và phục vụ phát triển là chính phủ mà hoạt động

quản lý, điều hành của nó hướng tới việc tạo môi trường thuận lợi nhất cho các

là bước đi cần thiết và phù hợp với xu hướng chung của thế giới, đồng thời

đảm bảo tính đồng bộ của chính sách). Chính phủ phải chủ động khởi xướng

doanh nghiệp hoạt động (Việc xây dựng Luật hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ

thế mạnh để tập trung đầu tư để dẫn đường cho các quan hệ kinh tế xã hội phát

triển. Định hướng cải cách thời gian tới là chính phủ phải chuyển mạnh từ vai

trò can thiệp trực tiếp sang quản lý và phục vụ phát triển[4], trong đó chú trọng

chính sách giải phóng nguồn lực xã hội, đồng thời có lựa chọn lĩnh vực ưu tiên,

bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, tạo lập các cơ hội kinh doanh và khởi nghiệp;

thiết lập khuôn khổ pháp luật, chính sách và bộ máy thực thi nhằm đảm bảo các

nước phải theo các tín hiệu tích cực của thị trường, đảm bảo sự minh bạch và có

hiệu quả; đoạn tuyệt dứt khoát với cơ chế “xin-cho”. Chính phủ liêm chính, kiến

tạo và phục vụ phát triển phải là cốt lõi trong việc xây dựng và hoàn thiện Nhà

nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam.

168

loại thị trường liên tục được hoàn thiện. Việc phân bổ các nguồn lực của Nhà

Tiểu kết chương 5

Qua gần 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, Việt Nam đã đạt những

thành tựu rất quan trọng về hoàn thiện thể chế, phát triển nền kinh tế thị trường

định hướng xã hội chủ nghĩa. Hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường

định hướng XHCN đã được nhấn mạnh trong Văn kiện của Đại hội lần thứ XII

như là vấn đề căn cốt của quá trình cải cách thể chế kinh tế, giúp đem lại động

lực phát triển mới của Việt Nam trong giai đoạn tới. Việt Nam đã cam kết thực

hiện và đáp ứng các tiêu chí để được công nhận là nền kinh tế thị trường đầy đủ,

đồng thời hướng đến mô hình kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại và hội nhập.

Tuy nhiên, việc phát triển kinh tế thị trường đã có lịch sử hàng mấy trăm năm ở

một mô hình hoàn toàn mới, chưa có tiền lệ và thời gian phát triển còn rất ngắn.

Vì vậy, trong quá trình xây dựng, phát triển và hoàn thiện mô hình này, Việt

Nam gặp không ít trở ngại, khó khăn; trong đó, rất cần được làm rõ những

trên thế giới; còn ở Việt Nam, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là

vướng mắc trong nhận thức và lý luận nhằm tạo ra động lực cho công cuộc tiếp

tục đổi mới và phát triển đất nước. Bài học kinh nghiệm từ thế giới cho thấy,

thiện nền quản trị quốc gia, trong đó chú trọng thực hiện chính phủ liêm chính,

kiến tạo và phục vụ phát triển. Điểm mấu chốt trong các cuộc cải cách nhằm

hoàn thiện nền quản trị quốc gia là cải cách bộ máy quản trị nhà nước để loại bỏ

tham nhũng, xây dựng và áp dụng các nguyên tắc minh bạch, thượng tôn của

pháp luật và trách nhiệm giải trình .v.v.

169

trong quá trình cải cách cần giữ vững ổn định chính trị - xã hội và chú trọng cải

KẾT LUẬN

Nhìn chung, các nỗ lực cải cách thể chế kinh tế ở nhiều nước châu Phi đều

chịu cả hai luồng sức ép từ bên trong lẫn bên ngoài. Sức ép bên trong xuất phát

từ yêu cầu nhằm khắc phục những khiếm khuyết, yếu kém nghiêm trọng của mô

hình phát triển kinh tế, như yêu cầu giảm thiểu gánh nặng cho ngân sách nhà

nước mà khu vực công gây ra. Sức ép bên ngoài là yêu cầu của các định chế tài

chính quốc tế như WB và IMF trong các chương trình điều chỉnh cơ cấu để đổi

lại những khoản viện trợ. Tuy nhiên, cải cách kinh tế ở châu Phi phần lớn bị áp

đặt từ bên ngoài.

Cải cách chế độ sở hữu, nhất là sở hữu đất đai; mở cửa nền kinh tế và đẩy

theo hướng tư nhân hóa là ba cấu phần cải cách thể chế trọng tâm của nhiều nước

châu Phi trong quá trình chuyển đổi sang cơ chế thị trường. Tuy nhiên, đây là

những tiến trình cải cách đầy chông gai và kéo dài, bởi chúng gắn liền với những

thể chế nền tảng của kinh tế thị trường, hệ thống chính trị và nền quản trị quốc gia.

mạnh hội nhập quốc tế; và cải cách khu vực doanh nghiệp quốc doanh, chủ yếu

Các quan điểm hiện nay chưa thống nhất về đánh giá xem những cuộc cải

xét dưới góc độ chuyển đổi sang những thể chế cơ bản của kinh tế thị trường,

châu Phi đã đạt được mục đích, mặc dù còn ở những mức độ khác nhau. Mục

tiêu cuối cùng của cải cách kinh tế là phát triển thì vẫn chưa đạt được bởi đa số

các nước châu Phi vẫn nghèo, lạc hậu và chất lượng thể chế kinh tế còn thấp. Từ

việc nghiên cứu tiến trình cải cách thể chế kinh tế ở Guinea xích đạo, Ghana và

Tunisia, luận án cho rằng quyết tâm chính trị của nhà lãnh đạo đóng vai trò hết

sức quan trọng đối với việc thúc đẩy quá trình cải cách. Nhiều cuộc cải cách thể

chế kinh tế ở các nước châu Phi không tiến được xa bởi chính phủ các nước này

đã có các chiến thuật “một bước tiến, hai bước lùi” để đối phó với sức ép của các

nhà tài trợ và cộng đồng quốc tế.

170

cách thể chế kinh tế ở châu Phi là thành công hay thất bại hoàn toàn. Tuy nhiên,

Về mặt lý thuyết và từ thực tiễn quá trình cải cách thể chế kinh tế ở châu

phi đã tiếp tục khẳng định rằng: cải cách thể chế kinh tế nên đồng hành với cải

cách thể chế chính trị và nền quản trị quốc gia. Kinh tế thị trường, nền chính trị

dân chủ và quản trị tốt là ba trụ cột đem lại sự phát triển toàn diện của một quốc

gia. Một quốc gia có dựa trên nền tảng chính trị dân chủ để phát triển kinh tế thị

trường có thể không chắc chắn thành công, song một quốc gia không dựa trên

nền dân chủ chắc chắn sẽ thất bại trong dài hạn. Tuy nhiên, khái niệm dân chủ

thường bị lợi dụng vì nhiều mục đích chính trị trong các sức ép cải cách từ bên

ngoài. Do vậy, luận án này cho rằng, cách tiếp cận quản trị khá phù hợp hơn đối

với các vấn đề phát triển vì cải cách nền quản trị quốc gia bao hàm cả những

khía cạnh của cải cách kinh tế và cải cách chính trị. Đặc biệt, luận án cho rằng,

là một yếu tố hết sức quan trọng nhằm đảm bảo thành quả của cải cách và giữ

vững ổn định chính trị - xã hội.

Luận án chỉ ra rằng, nhiều cuộc cải cách thể chế kinh tế ở châu Phi chỉ

chú trọng đến các khía cạnh xã hội như giảm nghèo và giảm thiểu bất bình đẳng

được thực hiện nửa vời, không thể tiến xa hơn bởi mắc vào vòng tròn luẩn quẩn:

cải cách thể chế kinh tế chậm chạp hoặc không thành công khiến nền kinh tế gặp

phát triển; đến lượt nó, tình trạng kém phát triển kìm hãm những nỗ lực thúc đẩy

một nền quản trị tốt và kiến tạo môi trường dân chủ; đến lượt nó, nền quản trị

yếu kém và tình trạng thiếu dân chủ lại tạo ra lực cản đối với những nỗ lực cải

cách kinh tế mạnh mẽ hơn.

171

nhiều khó khăn, tăng trưởng giảm sút, đất nước đắm chìm trong tình trạng kém

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH

1. Phạm Quốc Cường (2016), “Cải cách thể chế kinh tế ở các nước Á -

Phi qua một số công trình nghiên cứu”, Tạp chí Kinh tế Châu Á - Thái Bình

Dương, số 467, tháng 4/2016, trang 30-32.

2. Phạm Quốc Cường (2017), “Một số bài học kinh nghiệm và gợi mở

chính sách cho Việt Nam”, Trong Nguyễn Mạnh Hùng, Nguyễn Thị Hằng,

Nguyễn Xuân Bách (đồng chủ biên); Quan hệ Trung Quốc - Châu Phi những

năm đầu thế kỉ XXI, NXB Khoa học Xã hội.

3. Nguyễn Mạnh Hùng, Phạm Quốc Cường (2018), Cải cách thể chế

kinh tế ở Châu Phi: Những nguyên nhân thất bại, NXB Khoa học Xã hội.

4. Phạm Quốc Cường (2019), “Cải cách kinh tế và thể chế quản trị ở

Ghana”, Tạp chí Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương, số 553, tháng 12/2019, trang

07-09.

5. Phạm Quốc Cường (2020), “Cải cách kinh tế kinh tế thị trường ở Châu

Phi”, Tạp chí Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương, số cuối tháng 02/2020, trang

04-06.

172

ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tiếng Việt

1.

Nguyễn Đình Cung, 2014. Thử nhận diện một số vấn đề của thể chế

kinh tế Việt Nam hiện nay. Kỷ yếu Hội thảo “Một số vấn đề lý luận – thực tiễn

về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, Hội đồng lý luận Trung

ương, TP. Hồ Chí Minh, tháng 3/2014

2.

Phạm Quốc Cường ,2016. Cải cách thể chế kinh tế ở một số nước Á-

Phi qua một số công trình nghiên cứu, Tạp chí Kinh tế châu Á-Thái Bình

Dương, số 467, tháng 4/2016

3.

Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung

ương Đảng khóa XI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng,

2016, Văn phòng trung ương Đảng, Hà Nội

4.

Đảng Cộng Sản Việt Nam (2016). Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành

trung ương, Nghị quyết số 05-NQ/TW

5.

Đỗ Đức Định và Nguyễn Thanh Hiền, 2008. Châu Phi và Trung Đông

năm 2008: những vấn đề và sự kiện nổi bật, Hà Nội: NXB Khoa học xã hội,

6.

Đỗ Đức Định và Giang Thiệu Thanh, 2010. Cẩm nang các nước Châu

Phi, Hà Nội: NXB Từ điển bách khoa,

7.

Đỗ Đức Định, 2008. Trung Đông – những vấn đề và xu hướng kinh tế ,

chính trị trong bối cảnh quốc tế mới, Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội.

8.

Nguyễn Thanh Hiền và Nguyễn Mạnh Hùng, 2014. Tình hình chính trị

– an ninh của khu vực Bắc Phi –Trung Đông hiện nay: nhìn từ góc độ một số

cuộc khủng hoảng lớn,Tạp chí nghiên cứu châu Phi và Trung Đông, số

9(109), tháng 9/2014

9.

Nguyễn Thanh Hiền, 2008. Hợp tác quốc tế giải quyết các vấn đề

mang tính toàn cầu của châu Phi, NXB Khoa học xã hội

10. Nguyễn Vũ Hoàng, 2016. Những đặc điểm cơ bản của pháp luật về

173

kinh tế Việt Nam trong 30 năm đổi mới, Tạp chí Cộng sản, ngày 28/9/2016

11. Vương Đình Huệ, 2016. Nhìn lại 30 năm đổi mới: Những thành tựu nổi

bật trong phát triển kinh tế, Báo Nhân dân điện tử, ngày 4/1/2016

12. Nguyễn Ngọc Hùng, 2012. Mùa xuân Ả rập sau một năm nhìn

lại.[http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2012-02-07-mua-xuan-arab-sau-mot-

nam-nhin-lai]

13. Nguyễn Mạnh Hùng và Phạm Anh Tuấn và Bùi Khắc Linh, 2016. Các

yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng quản trị ở một số nước châu Phi,Tạp chí

nghiên cứu Châu Phi và Trung Đông, số 08(132), 2016

14. Nguyễn Mạnh Hùng và Hồ Khánh Duy, 2016. Vấn đề cải cách thể chế và

tình hình phát triển kinh tế ở một số nước Bắc Phi-Trung Đông sau 5 năm Mùa

xuân Arab, Tạp chí nghiên cứu Châu Phi và Trung Đông, số 02(126), 2016

15. Nguyễn Mạnh Hùng, 2015.Thể chế, quản trị và phát triển của các nước

châu Phi – Nguyên nhân thành công và thất bại, Tạp chí nghiên cứu Châu Phi

và Trung Đông, số 03(115), 2015

16. Nguyễn Thị Luyến, 1998.“Các Nền Kinh Tế Chuyển Đổi: Lí Luận và

Thực Tiễn”, Trung Tâm Khoa Học và Nhân Văn Quốc Gia, Viện Thông Tin

Khoa Học Xã Hội.

17. Hoàng Thị Thanh Nhàn, 2011. Tái cấu trúc nền kinh tế Hàn Quốc nhìn

từ góc độ cải cách doanh nghiệp.Báo cáo chuyên đề, Hà Nội.

18. Kiều Thanh Nga, 2013. Một số sự kiện kinh tế - chính trị nổi bật của

Châu Phi và Trung Đông năm 2012, Hà Nội : Nhà xuất bản Từ điển Bách Khoa,

19. Bùi Nhật, 2011. Một số vấn đề kinh tế, chính trị nổi bật của Trung

Đông và xu hướng đến năm 2020,Hà Nội:NXB Khoa học Xã hội,

20. Bùi Nhật Quang, 2009. Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu và những

vấn đề của Châu Phi, Tạp chí nghiên cứu Châu Phi và Trung Đông, số 7(47),

21. Nguyễn Ngọc Quang, 1996. Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước – Cơ

sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn, Hà Nội: Nxb. KHXH, tr. 52.

174

22. Duy Thành và Phan Hướng, Các đời Tổng thống ở Hàn Quốc ghế luôn

luôn nóng, http://antgct.cand.com.vn/vi-vn/sotay/2013/1/56469.cand

23. Nguyễn Hồng Sơn và Nguyễn Mạnh Hùng. “Phát triển ngành dịch vụ ở

các nền kinh tế đang chuyển đổi và hội nhập.” Những vấn đề kinh tế và chính

trị thế giới, số 4(156), tháng 4 năm 2009

24. Nguyễn Xuân Thắng, 2016. Một số luận điểm mới về phát triển nền

kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Tạp chí

Kinh tế và Quản lý số 19, tháng 9/2016.

25. Tô Thị Thanh Toàn,1999. Quá Trình Chuyển Đổi Từ Nền Kinh Tế Kế

Hoạch Hóa Tập Trung Sang Nền Kinh Tế Thị Trường ở Các Quốc Gia

Trung-Đông Âu,Xã Hội:NXB Khoa Học .

26. Tổng Cục thống kê , 2016. Báo cáo Tình hình kinh tế - xã hội 6 tháng

đầu năm 2016, Hà Nội

27. Trần Văn Tùng, 2011. Thể chế với sự thịnh vượng của quốc gia. Báo

Tia sáng, ngày 13/12/2011

28. Xã hội dân sự và kinh tế thị trường ở Hàn Quốc, nguyên lý “công tính”

trong bối cảnh chủ nghĩa tự do mới.Tạp chí Triết học số 4 (215), năm 2009

29. Viện nghiên cứu Trung Quốc, 2012 .Báo cáo kinh tế Trung Quốc tháng

11/2012. Hà Nội

30. Doanh nhân Sài Gòn online, Châu Phi hy vọng đổi đời nhờ khai

khoáng, 02/02/2013, [http://vinacomin.vn/tin-quoc-te/chau-phi-hy-vong-doi-

doi-nho-khai-khoang-4124.htm]

Tài liệu tiếng Anh (tiếp theo tài liệu tiếng Việt)

31. Acemoglu, Daron, Simon Johnson and James Robinson (2005)

Institutions as Fundamental Cause of Long run Growth.Handbook of

Economic Growth, Volume IA. Edited by Philippe Aghion and Steven

N. Durlauf. Elsevier B.V.

175

32. Acemoglu, Daron and James Robinson (2010), Why Africa is poor?

Economic history of developing region, Economic history society of

South Africa. Vol 25 (1).

33. Acemoglu, Daron, and Simon Johnson (2003), Unbundling Institutions,

NBER, Cambridge, MA. Working Paper no. 9934.

34. Acemoglu, Daron; Simon Johnson and James A. Robinson (2001), The

Colonial Origins of Comparative Development: An Empirical

Investigation, The American Economic Review Vol. 91, No.5 (Dec.

2001).

35. Acemoglu, Daron and James Robinson (2012), Why Nations Fail: The

Origins of Power, Prosperity, and Poverty, Random House.

36. Adejumobi, Said (2000), Africa and the Challenges of Democracy and

Good Governance in the 21st Century, Addis Ababa, P.3

37. African Development Bank (2011), African Development Report 2011:

Private Sector Development as an Engine of Africa’s Economic

Development, Abidjan, Côte d'Ivoire, Figure 1.6, Tr.21

38. Alesina, A. (1998), The Political Economy of High and Low Growth,

Annual World

Bank

Conference

on

Development

Economics,Washington DC: World Bank.

39. Alonso,

José Antonio and Carlos Garcimartín

(2009), The

Determinants of Institutional Quality: More on the Debate, World

Bank policy paper 03/09.

40. Asian Development Bank, ADB

(1995), Governance: Sound

Development Management, October, ADB.

41. Auty, Richard M. (1993), Sustaining Development in Mineral

Economies: The Resource Curse Thesis, London: Routledge.

42. Auty, Richard; & de Soysa, Indra (2006) Energy, Wealth and

176

Governance in the Caspian Sea Region. Lessons Not Learned. : Central

Asia Research Forum.

43. Ayittey George (2008), Betrayal: Why Socialism failed in Africa,

Foundation for Economic Education

44. Bigsten, A. and S. Kayizzi-Mugerwa (2000), The Political Economy of

Policy Failure in Zambia, Working Papers in Economics No. 23,

Goteborg University, Department of Economics.

45. Bloom, David and Jeffrey Sachs (1998), Geography, Demography, and

Economic Growth in Africa, Brookings Papers on Economic Activity,

1998, vol. 2, 207–295.

46. Bovet, David (1985), “Financial Aspects of Public Enterprises in Sub-

Saharan Africa.” Unpublished paper submitted to the World Bank.

47. Buchs, Thierry D (2003), Privatization in Sub-Saharan Africa: Some

Lessons from Experiences to Date, IFC, December 2003, pg.16

48. Brilliant, Myron A. and Jeremie Waterman. 2004. China’s WTO

Implementation: A Three-Year Assessment.U.S. Chamber of

Commerce. September, 2004

49. Chipeta, Chinyamata, Mjedo Mkandawire and Haile Taye (2002),

Malawi: Globalization, Liberalization and Sustainable Human

Development. In “Making Global Integration Work for People” Edited

by Manuel Agosin, David Bloom, Georges Chapellier and Jagdish

Saigal (2002), UNCTAD

50. Chow, Gregory. 2000. “China's Economic Reform and Policies at the

Beginning of the 21st Century.” Perspective.Vol. 2. No.1 August,

2000.

51. Coase, Ronald (1960), The Problem of Social Cost, Journal of Law and

Economics3 (1).

177

52. Commons, John R. (1931), Institutional Economics, American

Economic Review Vol. 21.

53. Coolidge, J. and S. Rose-Ackerman (1997), High Level Rent Seeking

and Corruption in African Regimes: Theory and Causes, World Bank

Working Paper No. 1780, World Bank, Washington, DC.

54. Dahl, Robert (1956) [2006], A Preface to Democratic Theory,

University Of Chicago Press

55. Dollar, David and Aart Kraay (2002), “Spreading the Wealth”, Foreign

Affairs, January/February 2002

56. EIU (2015),The Economist Intelligence Unit’s Democracy Index

2015:Democracy in an age of anxiety

57. Farah, Paolo D. 2006. “Five Years of China’s WTO Membership: EU

and US Perspectives on China’s Compliance with Transparency

Commitments and the Transitional Review Mechanism.” Legal Issues

of Economic Integration 33(3): 263–304, 2006. Tr. 266

58. Fund for Peace, The (2016), Fragile State Index 2016, Washington DC

59. Freedom House (2016), Freedom in the World 2016, Anxious

Dictators, Wavering Democracies: Global Freedom under Pressure,

Freedom House Report.

60. Harsch, Ernest (2000), “Privatization shifts gears in Africa,” Africa

Recovery, April 2000, page 9

61. Heijden, H. van der (2000), The Effectiveness of Economic Policy

Reform, Foreign Aid and External Debt Relief in Zambia, Swedish

Agency for International Development Cooperation, Stockholm.

62.

ILO (2013), Global Employment Trend for Youth 2013: A generation

at risk, Geneva. Tr.20

63.

IMF (2020) IMF Survey : Ghana: The Bumpy Road To Economic

Recovery. [online] Available

at:

178

64.

Internations.org (2020. Working And Getting A Job In Ghana |

Internations GO!. [online] Available at:

15778/ghana-economic-challenges-2>

65.

International Development Association. IDA (1998), Additions to IDA

Resources: Twelfth Replenishment, (IDA12). 23 December 1998.

66.

International Fund for Agricultural Development, IFAD (1999), Good

Governance: Overview. Executive Board – Sixty-Seventh Session,

Rome, 8-9 September 1999

67.

Institute of Economics and Peace (2016), Global Peace Index 2016,

New York, USA.

68.

Ismail, Faizel (2009), “Reforming the World Trade Organization”,

World Economics, Vol. 10, No 4, October-December 2009.

69. Kasper, Wolfgang and Manfred E Streit (1999),

Institutional

Economics: Social Order and Public Policy, Edward Elgar.

70. Kayizzi-Mugerwa, S. (2001), Africa and the Donor Community: In

Search of a Partnership for Development, in L. Rikkila¨ and K. Sehm-

Patoma¨ ki (eds.) Democracy and Globalization. Promoting a North

South Dialogue, Department

for

International Development

Cooperation, Ministry of Foreign Affairs: Helsinki.

71. Khemani S, 2017. Political Economy of Reform, Policy research

working paper, No.8224, the World Bank, page 1

72. Kilishi A.A. (2017), Institutional Reforms and Economic Outcomes in

Africa, Working Paper Series N° 264, African Development Bank,

Abidjan, Côte d’Ivoire. Page 3

73. Knack, Stephen and Philip Keefer (1995), Institutions and Economic

179

Performance: Cross-Country Tests Using Alternative Institutional

Indicators, Published in: Economics and Politics, Vol. 7, No. 3.

74. Koehn, Peter H. 2002. “The Shanghai Outlook on the WTO: Local

Bureaucrats and Accession-Related Reforms,” Pacific Affairs, Vol. 75

75. Kolodko, Grzegorz W. 1998. Ten Years of Postsocialist Transition: the

Lessons for Policy Reforms. The World Bank Development Economics

Research Group Washington, D.C.

76. Lieberthal, Kenneth. 2004. Governing China: From Revolution through

Reform (W.W. Norton & Co., New York). Tr.169

77. Lienert, I. (1998), Civil Service Reform in Africa: Mixed Results after

10 Years, Finance and Development 35(2).

78. Lienert, I. and J. Modi (1997), A Decade of Civil Service Reform in

Sub-Saharan Africa, IMF Working Paper 97/179.

79. Lipset, Seymour. M. 1959, Some Social Requisites of Democracy:

Economic Development and Political Legitimacy, American Political

Science Review. Vol. 53.

80. Makalou, Oumar (1999), “Privatisation in Africa:
A Critical Analysis”,

The 9th International Anti-Corruption Conference, 1999, Durban South

Africa

81. Nellis, John. (1988), The Institutional Framework: Organization,

Management and Supervision of Tanzanian Parastatals, Unpublished

chapter in World Bank report on Tanzanian public enterprises.

82. Nellis, John (2005), The Evolution of Enterprise Reform in Africa:

From State-owned Enterprises

to Private Participation

In

Infrastructure and Back ?, The Joint UNDP/World Bank Energy Sector

Management Assistance Program (ESMAP), World Bank.

83. North D. (1990), Institutions, Institutional Change and Economic

Performance, Cambridge and New York: Cambridge University Press.

180

84. Norman Loayza Raimundo Soto, (2003),Market – Oriented Reforms:

Definitions and Measurement, Catholic University of Chile.

85. North, Douglas and Robert Thomas, The Rise of the Western World: A

New Economic History. Cambridge University Press, 1973

86. Olowu, D., E. Otobo and M. Okotoni (1997), The Role of the Civil

Service in Enhancing Development and Democracy: An Evaluation of

the Nigerian Experience, School of Public and Environmental Affairs,

Indiana University.

87. Przeworski, Adam and Limongi, Fernando (1997),Modernization:

Theories and Facts, World Politics.Vol. 49.

88. Peter Meyns and Charity Musamba (eds.), 2010, The Developmental

State in Africa Problems and Prospects, Institute for Development and

Peace (INEF), University of Duisburg-Essen, Germany

89. Ramo, Joshua Cooper, The Beijing Consensus, The Foreign Policy

Centre, London, May 2004

90. Rose-Ackerman, S. (1986), Reforming Public Bureaucracy through

Economic Incentives ?, Journal of Law, Economics and Organization

2(1):131–61.

91. Ross ML,(2001), Does oil hinder democracy?, World Polit. 53:325–61

92. Rostow, Walt. W, and Millikan, Max (1961), The Emerging Nations:

Their Growth and United States Policy, Boston: Little Brown.

93. Rostow, Walt. W. (1962), The Process of Economic Growth: Second

Edition, New York: W.W. Norton.

94. Sachs, Jeffrey D., and Andrew M. Warner. (1995), Natural resource

abundance and economic growth, National Bureau of Economic

Research, Working Paper 5398.

95. Schiavo-Campo, S. (1996), Reforming the Civil Service, Finance and

Development 33(3).

181

96. Schumpeter, Joseph (1943) [2008], Capitalism, Socialism and

Democracy, Third Edition, Harper Perennial Modern Classics, USA

97. Sen, Amartya (2000), Development as freedom: taking economics

beyond commodities - the cautious boldness of Amartya Sen, Journal of

International Development.

98. Smith, Adam. (2008), An Inquiry into the Nature and Causes of the

Wealth of Nations: A Selected Edition, Kathryn Sutherland, Oxford

UK.

99. Subrahmanyan, Arjun. 2005. “China and the WTO: Perspective on a

Changing Environment,” (February 2005) China Law and Practice

100. Sundaram, Jomo Kwame and Rudiger von Arnim (2008),Economic

Liberalization and Constraints to Development in Sub-Saharan Africa,

United Nations
Department of Economic and Social Affairs, page.13

101. Tullock, Gordon (2008), The New Palgrave Dictionary of Economics,

Steven N. Durlauf and Lawrence E. Blume.

102. Transparency International (2015), Corruption Perception Index 2015

103. Transparency International (2016), Corruption Perception Index 2015,

[www.transparency.org/cpi]

104. Transprarency International (2016), Global Coruption Barometer:

People and Corruption Africa Survey 2016, author: Coralie Pring,

Global Surveys, page 6.

105. The Fund for Peace (2016), Fragile State Index 2016, Washington DC,

Pg.17.

106. United Nations Development Programme, UNDP (1997), Governance

for Sustainable Human Development, New York, NY 10017 USA.

107. UNDP (2014), Human Development Report, Sustaining Human

Progress, New York.

182

108. UNDP (2016) African Human Development Report 2016, New York,

USA, Summary, Tr.3

109. UNCTAD (1998), Trade and Development Report 1998. Geneva, page

190

110. UNCTAD (1999), Investment Policy review: Uganda. UNCTAD.

111. UNCTAD (2001), Economic Development in Africa: Performance,

Prospects and Policy Issues, UNCTAD. Geneva: 27.

112. UNDP (2015), Human Development Report 2015, New York: UN.

113. Uy, Marilou (2010), “Africa’s Private Sector: A Catalyst for Growth”,

Africa Financial and Private Sector Development - The World Bank

Conference on “Entrepreneurship in Africa”, Whitman School of

Management, Syracuse University April 1-3, 2010

114. Vickery, William

(1969), Congestion Theory and Transport

Investment, 1969, AER.

115. WEF (2016), Global Competitiveness Report 2016-2017, Geneva

116. White, Campbell and O. Bhatia (1998), Privatization in Africa, The

World Bank, Washington DC

117. Wolfensohn, James (1999), Address to the Board of Governors

(September 28, 1999), World Bank, Washington DC.

118. World Bank (1989), Sub-Saharan Africa: From Crisis to Sustainable

Growth, Washington DC

119. World Bank (1993), The East Asian miracle: Economic growth and

public policy, Washington DC

120. World Bank (1994), Governance: The World Bank’s Experience,

Washington DC.

121. World Bank (1997),World Development Report 1997, Washington DC.

122. World Bank (2000), Country brief: Uganda, Washington DC

183

123. World Bank (2000), Can Africa Claim the 21st Century, World Bank,

Washington DC.

124. World Trade Organization (2001), Mozambique Trade Policy Review.

WTO, Geneva. January 2001

125. World Bank (2002),World Development Report, Tr.6, Building

Institution for the Market, Washington DC

126. World Bank (2016), Ease of Doing Business 2016, Washington DC

127. World Trade Organization (2002), Malawi Trade Policy Review. WTO,

Geneva. February

128. World Bank 1992, Governance and Development p. 1.

129. WCARRD (1988), The Impact of Development Stratégies on thé Rural

Poor, World Conférence on Agrarian Reform and Rural Development,

1979-1989, 10 years of follow up, FAO, Rome.

130. https://www.hrw.org/news/2016/05/30/chads-ex-dictator-convicted-

atrocities

131. http://news.bbc.co.uk/2/hi/africa/6069230.stm

132. http://news.bbc.co.uk/2/hi/business/2043403.stm

133. http://www.economist.com/news/middle-east-and-africa/21694543-

ordinary-folk-see-none-their-countrys-riches-palace-jungle

134. http://www.transparency.org/cpi2013/results

135. https://www.imf.org/en/News/Articles/2015/09/28/04/53/socar012016a

136. https://www.internations.org/ghana-expats/guide/working-in-ghana-

15778/ghana-economic-challenges-2

137. http://www.unctad.org/en/subsites/ldcs/country/profiles/malawi.htm].

184