ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
-----
PHẠM QUỐC CƯỜNG
CẢI CÁCH THỂ CHẾ KINH TẾ Ở
CÁC NƯỚC CHÂU PHI VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ QUỐC TẾ
HÀ NỘI - 2020
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
-----
PHẠM QUỐC CƯỜNG
CẢI CÁCH THỂ CHẾ KINH TẾ Ở
CÁC NƯỚC CHÂU PHI VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Chuyên ngành: Kinh tế quốc tế
Mã số: 9310106.01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ QUỐC TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. Nguyễn Mạnh Hùng
HÀ NỘI - 2020
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của riêng tôi.
Các số liệu sử dụng phân tích trong luận án có nguồn gốc rõ ràng, đã công
bố theo đúng quy định. Các kết quả nghiên cứu trong luận án do tôi tự tìm
hiểu, phân tích một cách trung thực, khách quan.
LỜI CAM ĐOAN
Phạm Quốc Cường
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN....................................................................................... ii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ........................................................... i
DANH MỤC CÁC BẢNG ..........................................................................iii
DANH MỤC HÌNH.................................................................................... v
MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ............................................................................ 10
1.1. Các nghiên cứu trên góc độ lý luận về thể chế và cải cách thể chế ............ 10
1.2. Các nghiên cứu về thể chế và cải cách thể chế kinh tế ở châu Phi ............. 13
luận án ..................................................................................................... 24
1.3. Đánh giá các công trình nghiên cứu liên quan và hướng nghiên cứu của
Tiểu kết chương 1 .................................................................................... 26
CHƯƠNG 2.CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CẢI CÁCH THỂ
CHẾ KINH TẾ ........................................................................................ 27
2.1. Các vấn đề chung về thể chế................................................................. 27
2.1.2. Quá trình hình thành và thay đổi thể chế ............................................. 29
2.2. Thể chế kinh tế và cải cách thể chế kinh tế............................................. 30
2.2.1. Quan niệm về thể chế kinh tế và cải cách thể chế kinh tế ...................... 30
2.2.2.Các yếu tố chính tác động đến cải cách thể chế kinh tế .......................... 32
2.3. Thể chế kinh tế thị trường và cải cách thể chế kinh tế thị trường .............. 41
2.3.1. Quan niệm về thể chế kinh tế thị trường và cải cách thể chế kinh tế thị trường. 41
2.3.2. Khung phân tích cải cách thể chế kinh tế thị trường ............................. 44
2.4. Cải cách thể chế kinh tế thị trường của một số nước và nhóm nước .......... 47
2.4.1. Cải cách thể chế kinh tế thị trường ở Đông Âu và Nga ......................... 47
2.4.2. Cải cách thể chế kinh tế thị trường ở Hàn Quốc ................................... 51
2.1.1. Quan niệm, phân loại và vai trò của thể chế......................................... 27
2.4.3. Cải cách thể chế kinh tế thị trường ở Trung Quốc ................................ 55
2.4.4. So sánh kinh nghiệm cải cách thể chế kinh tế thị trường của các nước và
khu vực..................................................................................................... 59
Tiểu kết chương 2 .................................................................................... 64
CHƯƠNG 3. CẢI CÁCH THỂ CHẾ KINH TẾ Ở CHÂU PHI ................. 65
3.1. Bối cảnh và nguyên nhân của cải cách thể chế kinh tế ở châu Phi............. 65
3.1.1. Tình hình phát triển kinh tế - xã hội của châu Phi ................................ 65
3.1.2. Chất lượng thể chế kinh tế của châu Phi .............................................. 69
3.1.3. Yêu cầu chuyển đổi sang cơ chế thị trường ......................................... 76
3.2. Nội dung cơ bản trong cải cách thể chế kinh tế thị trường ở châu Phi ....... 79
3.2.1. Cải cách quyền sở hữu ...................................................................... 79
3.2.3. Thúc đẩy tư nhân hoá ........................................................................ 88
3.3. Đánh giá tiến trình cải cách thể chế kinh tế thị trường của châu Phi.......... 97
3.3.1. Đặc điểm và kết quả của tiến trình cải cách ......................................... 97
3.2.2 Mở cửa nền kinh tế ............................................................................ 82
3.3.2. Các yếu tố cơ bản tác động đến tiến trình cải cách ..............................103
Tiểu kết chương 3 ...................................................................................111
CHƯƠNG 4: CẢI CÁCH THỂ CHẾ KINH TẾ Ở GUINEA XÍCH ĐẠO,
GHANA VÀ TUNISIA ............................................................................112
4.1. Cải cách thể chế kinh tế ở Guinea xích đạo ...........................................112
4.1.1. Bối cảnh cải cách thể chế kinh tế.......................................................112
4.1.2. Những vấn đề chính của cải cách thể chế kinh tế ................................114
4.1.3. Đánh giá kết quả cải cách thể chế kinh tế ...........................................116
4.2. Cải cách thể chế kinh tế ở Ghana .........................................................122
4.2.1. Bối cảnh cải cách thể chế kinh tế.......................................................122
4.2.2. Những vấn đề chính của cải cách thể chế kinh tế ................................125
4.2.3. Đánh giá kết quả cải cách thể chế kinh tế ...........................................129
4.3. Cải cách thể chế kinh tế ở Tunisia ........................................................134
4.3.1. Bối cảnh cải cách thể chế kinh tế.......................................................134
4.3.2. Những vấn đề chính của cải cách thể chế kinh tế ................................137
4.3.3. Đánh giá kết quả cải cách thể chế kinh tế ...........................................141
4.4. So sánh các trường hợp nghiên cứu ......................................................144
Tiểu kết chương 4 ...................................................................................151
CHƯƠNG 5. BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ QUÁ TRÌNH CẢI CÁCH
THỂ CHẾ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG CỦA CÁC NƯỚC CHÂU PHI ......152
5.1. Đánh giá chung và bài học kinh nghiệm ...............................................152
5.2. Một số gợi mở chính sách đối với Việt Nam .........................................161
Tiểu kết chương 5 ...................................................................................169
KẾT LUẬN ............................................................................................170
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN
LUẬN ÁN ...............................................................................................172
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................173
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viếttắt Tiếng Anh Tiếng việt
ADB Asian Development Bank Ngân hàng Phát triển châu Á
AfDB African Development Bank Ngân hàng phát triển châu Phi
ASEAN Association of Southeast Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
Asian Nation
AU African Union Liên minh châu Phi
ĐPT đang phát triển
ECB European Central Bank Ngân hàng Trung ương châu Âu
EU European Union Liên minh châu Âu
FAO
Food Agricultural
Tổ chức Nông Lương của Liên
Organization
hợp quốc
FDI
foreign direct investment
đầu tư trực tiếp nước ngoài
Eurozone Khu vực đồng tiền chung châu Âu
GDP gross domestic product tổng sản phẩm trong nước
ILO
International Labor
Tổ chức Lao động quốc tế
Organization
NDT
Nhân dân tệ
OECD
Organization of Economic
Tổ chức Hợp tác và Phát triển
Cooperation Development
kinh tế
OPEC
Organization of Petroleum
Tổ chức các nước xuất khẩu dầu
Exporting Countries
mỏ
PT
phát triển
RTA
regional trade agreement
Thỏa thuận thương mại khu vực
RCEP
Regional Comprehensive
Hiệp định đối tác kinh tế toàn
i
IMF International Monetary Fund Quỹ Tiền tệ Quốc tế
Chữ viếttắt Tiếng Anh Tiếng việt
Economic Partnership diện khu vực
DNNN doanh nghiệp nhà nước
TNC Transnational Corporation Tập đoàn đa quốc gia
UN United Nations Liên hợp quốc
UNCTAD United Nations Conference Hội nghị Liên hợp quốc về
for Trade and Development Thương mại và Phát triển
UNDP United Nations Development Chương trình Phát triển Liên hợp
Program quốc
USD United States Dollar đôla Mỹ
WTO
World Trade Organization
Tổ chức Thương mại Thế giới
XHCN
xã hội chủ nghĩa
ii
WB World Bank Ngân hàng Thế giới
DANH MỤC CÁC BẢNG
TT Tên bảng
Nội dung
Trang
Các cấu phần của trụ cột thể chế trong chỉ số cạnh
1
Bảng 1.1
7
tranh toàn cầu
2
Bảng 2.1
40
Các đặc tính cơ bản của quản trị tốt theo một số
3
45
Bảng 2.2 Cải cách thể chế kinh tế thị trường và dân chủ hoá
4
46
Bảng 2.3 Cải cách thể chế kinh tế thị trường và quản trị quốc gia
tổ chức quốc tế
5
Bảng 3.1
66
Các nước châu Phi thuộc nhóm các nước có thu
Xếp hạng các nước châu Phi Nam Sahara về mức
6
Bảng 3.2
67
độ hòa bình
Chỉ số phát triển con người của châu Phi so sánh
7
Bảng 3.3
68
với các khu vực khác
Chỉ số phát triển con người của các khu vực ở
8
Bảng 3.4
68
châu Phi
9
Bảng 3.5 Các giai đoạn phát triển của các nước châu Phi
69
Sự tương phản trong chất lượng thể chế của
10 Bảng 3.6
72
Rwanda và Chad
11 Bảng 3.7 Các nước bị xếp hạng có nền kinh tế bị hạn chế tự do
76
Sở hữu của chính phủ trong một số lĩnh vực trước
12 Bảng 3.8
93
và sau khi tư nhân hoá (1991-2002), tỷ lệ %
Sự tham gia của khu vực tư nhân vào các lĩnh vực
13 Bảng 3.9
96
dịch vụ công đầu những năm 2000
14 Bảng 3.10 Chất lượng quản trị của châu Phi năm 2014
108
15 Bảng 3.11 Chỉ số quản trị châu Phi Ibrahim 2014
109
iii
nhập thấp (năm 2016)
TT Tên bảng
Nội dung
Trang
Quan niệm của người dân về hành động chống
16 Bảng 3.12
110
tham nhũng của chính phủ
Xếp hạng thứ bậc trong quản trị tài nguyên của
17 Bảng 4.1
116
Guinea xích đạo
Xếp hạng chỉ số môi trường kinh doanh năm 2016
18 Bảng 4.2
118
của Guinea xích đạo
Chất lượng quản trị của Guinea xích đạo theo bộ
19 Bảng 4.3
119
chỉ số quản trị châu Phi Ibrahim
Chất lượng quản trị của Ghana theo bộ chỉ số quản
20 Bảng 4.4
131
trị châu Phi Ibrahim
21 Bảng 4.5 Chỉ số dân chủ của Tunisia của EIU (2010-2015)
143
iv
DANH MỤC HÌNH
TT Tên hình Trang
1 Hình 3.1 65
2 Hình 3.2 75
3 Hình 3.3 82
4 Hình 3.4 87
6
Hình 3.6
91
7
Hình 3.7
92
5 Hình 3.5 91
9
Hình 3.9
101
10 Hình 3.10
104
11 Hình 3.11
104
12 Hình 3.12
107
13 Hình 3.13
109
14 Hình 4.1
113
8 Hình 3.8 95
v
Nội dung Thu nhập bình quân đầu người của các nền kinh tế đang phát triển khu vực châu Phi nam Sahara, 2006- 2014 (USD hiện hành) Mức độ tham nhũng tại một số tổ chức và nhóm người tại châu Phi Mức độ tự do về sở hữu của châu Phi nam Saharaso với thế giới và châu Á – Thái Bình Dương Tự do hoá thương mại, đầu tư, tài chính và tiền tệ của châu Phi nam Sahara so với thế giới và châu Á – Thái Bình Dương Số trường hợp tư nhân hoá ở châu Phi nam Sahara, 1991-2002 Giá trị của các trường hợp tư nhân hoá ở châu Phi nam Sahara, 1991-2001 Số lượng trường hợp được tư nhân hoá trong các lĩnh vực (1991-2002) Tỷ trọng khu vực phi chính thức trong GDP của châu Phi so với các khu vực khác trên thế giới năm 2006 (%) Mức độ tự do hoá kinh tế của châu Phi nam Sahara so với thế giới và châu Á - Thái Bình Dương, 1995-2016 Tỷ lệ các quốc gia “không có tự do” ở châu Phi nam Sahara %) Tỷ lệ số người dân sống tại các quốc gia có tự do ở châu Phi nam Sahara 2015 (%) Chất lượng quản trị của các nước châu Phi nam Sahara Mức độ tham nhũng ở châu Phi nam Sahara so với thế giới và châu Á – Thái Bình Dương Thu nhập bình quân đầu người của Guinea xích đạo Thu nhập bình quân đầu người của Guinea xích đạo
Nội dung
TT Tên hình 15 Hình 4.2 Mức độ tự do kinh tế của Guinea xích đạo Trang 117
16 Hình 4.3 117
17 Hình 4.4 120 Mức độ tự do thương mại, tự do đầu tư và tự do tài chính của Guinea xích đạo Chất lượng quản trị của Guinea xích đạo theo bộ chỉ số quản trị toàn cầu
18 Hình 4.5 Mức độ tham nhũng của Guinea xích đạo 19 Hình 4.6 Thu nhập bình quân đầu người của Ghana 20 Hình 4.7 Mức độ tham nhũng ở Ghana 121 123 131
21 Hình 4.8 132 Chất lượng quản trị của Ghana theo bộ chỉ số quản trị toàn cầu
22 Hình 4.9 Mức độ tự do kinh tế của Ghana 133
24 Hình 4.11
135
23 Hình 4.10 134
136 137 142
Mức độ tự do thương mại, đầu tư và tài chính của Ghana Thu nhập bình quân đầu người của Tunisia (PPP, nghìn USD hiện hành) 25 Hình 4.12 Tỷ lệ thất nghiệp ở Tunisia, 2001-2010 26 Hình 4.13 Tỷ lệ đầu tư tư nhân so với GDP (%) 27 Hình 4.14 Tỷ lệ đầu tư tư nhân so với GDP (%)
29 Hình 4.16
143
30 Hình 4.17
149
28 Hình 4.15 142
160
vi
Mức độ tự do thương mại, đầu tư và tài chính của Tunisia Chất lượng quản trị của Tunisia theo bộ chỉ số quản trị toàn cầu So sánh chỉ số quản trị của Guinea xích đạo, Ghana và Tunisia (2019) 31 Hình 5.1 Bẫy phát triển và cải cách ở châu Phi
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kinh tế học thể chế cho rằng, thể chế có ảnh hưởng lớn đối với phát triển
kinh tế-xã hội của một quốc gia. Khác biệt về thể chế là nguyên nhân của phát
triển hay đói nghèo: một số dạng thể chế có thể đem lại sự phát triển, song một
số dạng thể chế có thể tạo ra những hệ lụy tai hại cho sự phồn vinh, tự do và các
giá trị con người khác, và sự xuống cấp của hệ thống quy tắc có thể dẫn tới suy
thoái kinh tế - xã hội. Khi các nguồn lực như tài nguyên thiên nhiên, lao động
giá rẻ và vốn...đã đến giới hạn hoặc không thể phát huy thì cải cách thể chế là
đòi hỏi tất yếu đối với tất cả các nước để đi xa hơn trên con đường tiến tới phồn
qua nên sa lầy trong tình trạng kém phát triển, hoặc có những nước lại tiến hành
cải cách khi đã quá muộn khiến quốc gia rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng.
Ngược lại, cũng có những nước đã chủ động tiến hành cải cách nên vượt qua
vinh. Tuy nhiên, đây cũng là thách thức nghiệt ngã mà nhiều nước chưa thể vượt
được khó khăn để vươn lên. Những bài học thất bại và thành công đó rất có giá
trị để Việt Nam tham khảo.
lượng lao động dồi dào và với sự hỗ trợ không nhỏ từ bên ngoài, châu Phi vẫn là
một châu lục kém phát triển nhất của thế giới. Xung đột vũ trang, nội chiến,
khủng bố, bất ổn chính trị, cùng với một loạt vấn đề phát triển khác như đói
nghèo, bất bình đẳng xã hội, dịch bệnh...thường xuyên hiện diện, tạo ra những
thách thức lớn cho sự phát triển của nhiều quốc gia ở châu lục này. Không ít
nước châu Phi đã bị coi là những quốc gia “thất bại” như Somalia, Sudan
v.v...nơi chính phủ trung ương hầu như không thể kiểm soát được lãnh thổ quốc
gia của mình. Nhiều nước ở khu vực Bắc Phi rơi vào vòng xoáy bất ổn kinh tế-
xã hội sau làn sóng đòi cải cách chính trị và dân chủ hoá “Mùa xuân Arab”. Tuy
nhiên, một số nước châu Phi cũng đạt được những thành tựu phát triển đáng
1
Mặc dù là một châu lục có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, lực
khâm phục, trong số đó phải kể đến Benin, Botswana, Ghana, Senegal v.v...
Phần lớn các nước Châu Phi thành lập vào những năm 1960 sau quá trình
đấu tranh giành độc lập khó khăn. Vào thời điểm đó, nhiều nhà lãnh đạo châu
Phi đã chọn cơ chế kế hoạch hoá tập trung và kiểm soát kinh tế. Về mặt ý thức
hệ, họ xem có mối liên hệ mật thiết giữa chủ nghĩa tự bản tự do với chủ nghĩa
thực dân và chủ nghĩa đế quốc. Họ tin rằng, các nước châu Phi tuy đa dạng về
sắc tộc, tôn giáo song vẫn đạt được sự thống nhất chính trị là nhờ sức mạnh của
ý thức hệ xã hội chủ nghĩa (XHCN).
Bầu không khí học thuật ở châu Phi cũng bị chi phối bởi đường lối cánh tả
và chủ nghĩa nhà nước. Các học giả lớn của châu Phi như Sekou Toure, Leopold
Senghor, Kenneth Kaunda, Julius Nyerere và Franz Fanon đều xem rằng, quản lý
phục những thất bại của thị trường – nguyên nhân gây ra nạn nghèo khổ, ngu dốt
và dịch bệnh ở châu Phi. Từ năm 1960 đến đầu những năm 1980, có ít nhất 16
nước châu Phi Nam Sahara đã theo đuổi ý thức hệ xã hội chủ nghĩa (XHCN)
theo mô hình kế hoạch hoá và chủ nghĩa xã hội hiện thực có thể dùng để khắc
hoặc phát triển theo hướng XHCN (theo mô hình Xô Viết hay Trung Quốc) như
Angola, Benin, Burkina Faso (lúc đó là Upper Volta), Congo-Brazzaville,
Senegal, Sudan, Tanzania, Zambia và Zimbabwe. Ngoài ra, nhiều nước châu Phi
khác cũng chấp nhận đường lối phát triển theo mô hình Xô Viết mặc dù không
tuyên bố chính thức. Một số nước như Kenya mặc dù tiến hành cơ chế thị trường
trên thực tế song dưới khẩu hiệu chủ nghĩa xã hội.
Kết quả của thời kỳ theo đuổi mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung đã
dẫn đến những bất ổn, méo mó của nhiều nền kinh tế châu Phi. Khó khăn kinh tế
- xã hội nghiêm trọng vào đầu những năm 1980 đã buộc nhiều chính phủ châu
Phi phải cầu cứu các định chế tài chính của Hệ thống Bretton Woods, chấp nhận
những chương trình tự do hoá để đổi lại các khoản tín dụng cứu trợ. Quỹ Tiền tệ
quốc tế (IMF) đã thiết kế các Chương trình ổn định kinh tế vĩ mô ngắn hạn và
2
Ethiopia, Ghana, Guinea-Bissau, Guinea, Madagascar, Mali, Mozambique,
Ngân hàng thế giới (WB) thiết kế các chương trình cải cách cơ cấu (SAP) trong
trung hạn để chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường cho các nước châu Phi. Mô
hình kinh tế thị trường ngày càng có chỗ đứng vững chắc ở châu Phi kể từ những
năm 1990, sau khi chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu tan rã, kéo
theo sự sụp đổ của những nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung.
Trong gần bốn thập kỷ qua, với nhiều nỗ lực chuyển đổi sang nền kinh tế
thị trường, chỉ một số quốc gia châu Phi đã phát triển thành công, song có rất
nhiều quốc gia đã thất bại, đắm chìm trong đói nghèo và những nỗ lực cải cách
thể chế thậm chí lại đẩy đất nước vào những bất ổn không ngừng. Ngay cả khi
cộng đồng các nhà tài trợ và các tổ chức quốc tế đã cố gắng thiết kế và áp đặt
cho các nước châu Phi những gì được xem là “tập quán tốt nhất” trên thế giới
Với những vấn đề nêu trên, luận án “Cải cách thể chế kinh tế ở các nước châu
Phi và bài học kinh nghiệm” sẽ phân tích vấn đề cải cách thể chế kinh tế, tập
trung vào thể chế kinh tế thị trường ở các nước châu Phi, từ đó rút ra các kinh
song rất ít nước châu Phi đã phát triển kinh tế thành công theo cách thức này.
nghiệm cho tiến trình cải cách thể chế kinh tế thị trường ở các nước đang phát
triển nói chung và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay của
Việt Nam.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Mục đích nghiên cứu
Luận án nghiên cứu vấn đề cải cách thể chế kinh tế thị trường của một số nước
châu Phi; đánh giá kết quả đạt được, làm rõ những kinh nghiệm thành công và thất
bại; từ đó rút ra một số gợi mở có giá trị tham khảo đối với tiến trình cải cách thể chế
kinh tế thị trường ở các nước đang phát triển nói chung, trong đó có tiến trình cải
cách thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích nghiên cứu trên, luận án sẽ tập trung chủ yếu vào giải quyết
các nhiệm vụ chính sau đây:
3
1. Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về cải cách thể chế kinh tế, trong
đó tập trung vào vấn đề cải cách thể chế kinh tế thị trường.
2. Phân tích khái quát quá trình cải cách thể chế kinh tế thị trường ở các
nước châu Phi; và đánh giá kết quả của quá trình cải cách này.
3. Phân tích, đánh giá sâu tiến trình cải cách thể chế kinh tế, chuyển đổi sang
nền kinh tế thị trường của một số nước châu Phi điển hình.
4. Rút ra các bài học kinh nghiệm trong tiến trình cải cách thể chế kinh tế thị
trường của các nước châu Phi và những gợi mở có giá trị tham khảo đối
với tiến trình cải cách thể chế kinh tế thị trường của các nước đang phát
triển, trong đó có Việt Nam.
3. Câu hỏi nghiên cứu
- Những nội dung chính của cải cách thể chế kinh tế thị trường ở các
nước châu Phi là gì?
- Có thể rút ra các kinh nghiệm gì từ việc nghiên cứu cải cách thể chế
- Tại sao các nước châu Phi cần chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường?
kinh tế thị trường của các nước châu Phi?
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài luận án
- Cải cách thể chế kinh tế, trọng tâm là cải cách thể chế kinh tế thị trường.
Phạm vi nghiên cứu:
- Về nội dung: tiến trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường tập trung
chủ yếu vào ba vấn đề: sở hữu, mở cửa nền kinh tế và tư nhân hoá. Đây cũng là
ba vấn đề nổi bật, phức tạp và kéo dài thường được nghiên cứu nhiều ở các nền
kinh tế chuyển đổi và là quá trình chuyển đổi thể chế kinh tế quan trọng nhất của
châu Phi kể từ những năm 1980 đến nay.
- Thời gian nghiên cứu tập trung vào giai đoạn kể từ thập niên 1980, khi
các nước châu Phi theo mô hình kế hoạch hóa tập trung tiến hành triển khai các
chương trình cơ cấu lại nền kinh tế (SAP) đến nay.
4
Đối tượng nghiên cứu:
- Nghiên cứu cải cách thể chế kinh tế thị trường ở khu vực châu Phi, chủ
yếu là châu Phi Nam Sahara.
- Nghiên cứu sâu tiến trình cải cách thể chế kinh tế của một số nước châu
Phi (Guinea xích đạo, Ghana và Tunisia).
5. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
Cách tiếp cận
- Luận án quan niệm: thể chế là các luật chơi, theo nghĩa gồm các quy tắc,
quy định, chuẩn mực chi phối cách hành xử của các chủ thể trong xã hội.
cách thể chế kinh tế ở các nước châu Phi. Theo đó, thể chế kinh tế có nhiều cấu
- Luận án sử dụng cách tiếp cận hệ thống trong nghiên cứu vấn đề cải
chính, doanh nghiệp...). Luận án chỉ tập trung nghiên cứu cải cách một số thể
chế kinh tế cơ bản và quan trọng của các nước châu Phi.
- Các nghiên cứu về cải cách thể chế kinh tế ở các nước đang phát triển
hiện nay đều tập trung vào vấn đề cải cách thể chế kinh tế thị trường. Trên thực
phần khác nhau (ví dụ: liên quan đến sở hữu, giá cả, thương mại, đầu tư, tài
tế, nói đến cải cách thể chế kinh tế ở các nước đang phát triển, kém phát triển là
quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường hiện đại. Do vậy, luận án nghiên
cứu cải cách thể chế kinh tế thị trường ở các nước châu Phi, trong đó (Chương 3)
tập trung vào vấn đề chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường hiện đại ở những
nước này.
- Có nhiều yếu tố tác động đến cải cách thể chế kinh tế (như phần tổng
quan các nghiên cứu đã chỉ ra). Tuy nhiên luận án vận dụng dụng luận điểm của
Daron Acemoglu và cộng sự (về vai trò của cải cách thể chế chính trị) và luận
điểm của Ngân hàng thế giới (về vai trò của cải cách nền quản trị quốc gia) để
phân tích các yếu tố chính tác động đến cải cách thể chế kinh tế.
Phương pháp nghiên cứu
5
nói đến cải cách thể chế kinh tế thị trường mà bản chất và mục tiêu là hoàn thiện
- Phân tích trước sau: so sánh tiến trình cải cách thể chế kinh tế trước và
sau những dấu mốc quan trọng.
- Nghiên cứu trường hợp và so sánh các trường hợp nghiên cứu. Các
trường hợp nghiên cứu sâu ba nước là: Guinea xích đạo, Ghana và Tunisia.
Các trường hợp này được lựa chọn vì những lý do sau:
+ Guinea xích đạo: là một trong những nước tính theo GDP bình quân đầu
người đứng đầu châu Phi song lại vẫn được xếp vào nhóm các nước kém phát
triển (cho đến năm 2017). Các nỗ lực cải cách kinh tế ở nước này đã không tiến
xa được. Nguyên nhân cơ bản là chất lượng quản trị quốc gia thấp kém, chính
phủ độc đoán, tình trạng bất bình đẳng xã hội nghiêm trọng (do đó, GDP bình
quân đầu người không phản ánh đúng thực tế phát triển). Guinea xích đạo là ví
cải thiện nền quản trị quốc gia.
+ Ghana: là nước có trình độ phát triển trung bình ở châu Phi, cải cách thể
chế kinh tế thị trường ở nước này là ví dụ điển hình cho những nỗ lực xây dựng
mô hình nhà nước phát triển học tập theo các nước Đông Á. Về mô hình quản
dụ điển hình cho những thất bại trên cả phương diện cải cách thể chế kinh tế và
trị: Ghana thường được biết đến với mô hình “độc tài tốt”.
làn sóng dân chủ hoá “Mùa xuân Arab” bùng nổ khi các vấn đề xã hội không
được giải quyết thấu đáo khi nền kinh tế gặp khó khăn trong quá trình điều
chỉnh. Tunisia là ví dụ điển hình cho việc cải cách thể chế kinh tế không đi kèm
với cải thiện nền quản trị quốc gia đã dẫn đến sự kiện đấu tranh dân chủ khởi
đầu cho làn sóng Mùa xuân Arab.
Các trường hợp nghiên cứu này được lựa chọn để kiểm chứng các luận
điểm của Daron Acemoglu và cộng sự và luận điểm của Ngân hàng thế giới.
Nghiên cứu, so sánh các trường hợp nói trên sẽ đem đến một bước tranh sinh
động về mối quan hệ giữa cải cách thể chế kinh tế với môi trường chính trị và
môi trường quản trị quốc gia cùng với những yếu tố đặc thù của châu Phi (như:
lịch sử, tham nhũng, xã hội...)
6
+ Tunisia: là nước có trình độ phát triển trung bình, là ví dụ điển hình cho
- Để đánh giá chất lượng thể chế kinh tế thị trường, luận án sử dụng các
chỉ số sau:
+ Chỉ số thể chế của Báo cáo chỉ số cạnh tranh toàn cầu của WEF. Báo
cáo này chia trụ cột thể chế gồm 21 cấu phần, nhóm lại thành những thể chế của
khu vực công và thể chế của khu vực tư nhân.
Bảng 1.1: Các cấu phần của trụ cột thể chế trong chỉ sốcạnh tranh toàn cầu
Các thể chế khu vực công
Các thể chế khu vực
tư nhân
Quyền
Đạo đức và
Tác tác
Hoạt động của
An ninh
Trách nhiệm
Đạo
sở hữu
tham
động
khu vực công
giải trình
đức
nhũng
không
công
phù
ty
hợp
1.
3. phân bổ
6. độc
8.
lãng phí trong
13.
chi
phí
17.
18. sức mạnh
quyền
các nguồn
lập của
chi tiêu chính phủ
kinh doanh vì
hành
của
kiểm
sở hữu
quỹ
công
tư pháp
9. gánh nặng của
các hoạt động
xử có
toán và các
2. bảo
cộng
7.
các
các quy định của
khủng bố
đạo
chuẩn mực
hộ
sở
4. tin tưởng
quyết
chính phủ
14.
chi
phí
đức
báo cáo
hữu
trí
của
công
định
10. tính hiệu quả
kinh doanh vì
của
19. hiệu
lực
tuệ
chúng
đối
mang
của khung khổ
các hoạt động
các
của hội đồng
với các nhà
tính
pháp
lý
trong
tội phạm và
công
quản trị công
chính trị
chất
giải quyết
tranh
bạo lực
ty
ty,
5.
các
thiên vị
chấp
15.
tội phạm
20. bảo vệ lợi
khoản
chi
của
11. hiệu quả của
có tổ chức
ích của các
trả
không
quan
khung khổ pháp
16. sự tin cậy
cổ đông nhỏ
thường
chức
lý trong việc xử
của lực lượng
21. bảo vệ
xuyên
và
chính
lý các quy định
công an
các nhà đầu
hối lộ
phủ
12.
sự minh
tư.
bạch
trong xây
dựng chính sách
của chính phủ
Nguồn: World Economic Forum. Global Competitiveness Report 2016-2017, Geneva,
Tr.39
7
+ Bộ chỉ số của Báo cáo Chỉ số môi trường kinh doanh (DB) của WB. Báo cáo
này đã đưa ra một bộ chỉ số gồm 10 yếu tố có tác động đến môi trường kinh
doanh gồm: khởi sự doanh nghiệp; giải quyết việc xin giấy phép xây dựng; xin
cấp điện; đăng ký tài sản; xin nhận tín dụng; mức độ bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư
nhỏ; gánh nặng thuế phải trả; hoạt động thương mại dọc & xuyên biên giới; mức
quy định về thị trường lao động song yếu tố này không được đưa vào để tính
điểm chung cho Chỉ số về môi trường kinh doanh).
độ thực thi các hợp đồng; và chấm dứt kinh doanh (Ngoài ra, còn có yếu tố các
+ Báo cáo Chỉ số tự do kinh tế của Quỹ Heritage. Báo cáo này đánh giá mức độ
tự do của một nền kinh tế theo bốn nhóm chỉ số sau: 1) Tinh thần thượng tôn
pháp luật (bảo đảm quyền sở hữu, không bị tham nhũng); 2) Hạn chế của chính
kinh doanh, tự do lao động, tự do về tiền tệ) và 4) Thị trường mở (tự do thương
mại, tự do đầu tư và tự do tài chính).
- Luận án sử dụng bộ chỉ số quản trị của Ngân hàng thế giới để đánh giá chất
lượng quản trị quốc gia. Bộ chỉ số này bao gồm 3 khía cạnh với 6 nhóm chỉ số:
phủ (tự do về tài khoá, chi tiêu của chính phủ); 3) Hiệu quả của quy định (tự do
1. Tiến trình các chính phủ được lựa chọn, giám sát và thay thế (được đo
lường bằng hai nhóm chỉ số: 1) tiếng nói và trách nhiệm giải trình; 2) ổn định
2. Năng lực của chính phủ trong việc xây dựng và thực thi các chính sách tốt
(được đo lường bằng 2 nhóm chỉ số: 3) hiệu lực của chính phủ; 4) chất lượng
của quy định)
3. Việc các công dân và nhà nước tôn trọng các thể chế điều chỉnh các quan
hệ kinh tế và xã hội giữa hai bên (được đo lường bằng 2 nhóm chỉ số: 5) công
bằng của luật pháp; và 6) kiểm soát tham nhũng.
- Nguồn dữ liệu được sử dụng là dữ liệu thứ cấp trong và ngoài nước. Nghiên
cứu cũng sử dụng bộ dữ liệu về chỉ số quản trị của Ngân hàng thế giới trong giai
đoạn kể từ năm 1996 cho đến thời điểm cập nhật nhất khi luận án hoàn thành để
đánh giá chất lượng của cải cách thể chế. Các nguồn dữ liệu khác được lấy từ cơ
sở dữ liệu Các chỉ số phát triển thế giới (WDI) của Ngân hàng thế giới. Ngoài ra,
8
chính trị và không có bạo lực)
luận án có thể tham khảo thêm các nguồn dữ liệu của một số tổ chức quốc tế
khác như IMF, ADB, AfDB, Heritage Foundation, WEF…về thể chế và quản trị
quốc gia.
6. Các đóng góp mới của luận án
Thứ nhất, luận án đã vận dụng những khuôn khổ lý thuyết mới (quan
điểm của Acemoglu và cộng sự về vai trò của cải cách thể chế chính trị và quan
điểm của Ngân hàng thế giới về vai trò của cải cách quản trị quốc gia) để phân
tích, đánh giá tiến trình và kết quả cải cách thể chế kinh tế ở châu Phi, từ đó làm
rõ hơn ý nghĩa khoa học và tính thực tiễn của các lý thuyết này.
cách thể chế kinh tế thị trường ở châu Phi, phân tích sâu thực trạng này ở các
Thứ hai, luận án đã cung cấp những phân tích, đánh giá về thực trạng cải
quốc gia (Guine xích đạo, Ghana và Tunisia) là những địa bàn ít được quan tâm
Thứ ba, luận án đã đưa ra những luận điểm khoa học mới khi nhận định,
phân tích kết quả và những nhân tố tác động đối với tiến trình cải cách thể chế
kinh tế ở châu Phi.
nghiên cứu, tìm hiểu.
Thứ tư, luận án đã có những đối chiếu, so sánh tiến trình cải cách thể chế
kinh tế ở châu Phi với một số khu vực khác trên thế giới; rút ra những gợi mở
Việt Nam.
mới về mặt chính sách đối với tiến trình cải cách thể chế kinh tế thị trường ở
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận án được chia làm 5 chương gồm:
Chương 1: Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến luận án
Chương 2: Cơ sở lý luận và thực tiễn về cải cách thể chế kinh tế
Chương 3: Cải cách thể chế kinh tế ở châu Phi
Chương 4: Cải cách thể chế kinh tế ở Guinea xích đạo, Ghana và Tunisia
Chương 5: Bài học kinh nghiệm từ quá trình cải cách thể chế kinh tế thị
trường của các nước châu Phi
9
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1.1. Các nghiên cứu trên góc độ lý luận về thể chế và cải cách thể chế
Trong khoảng 10 - 15 năm trở lại đây, đã có một cuộc tranh luận bùng lên
trong giới kinh tế về những yếu tố sâu xa nhất của phát triển: vốn vật thể, vốn
con người, công nghệ, địa lý, văn hóa, thể chế...yếu tố nào căn bản hơn? Trong
cuộc tranh luận đó, một số người tiếp tục cho rằng: thể chế đóng vai trò quan
trọng hơn trong tăng trưởng và phát triển kinh tế; sự khác biệt về thể chế đã tạo
ra sự khác biệt giữa các xã hội về tốc độ tích lũy và "cải tiến".
đã được các nhà triết học như David Hume và kinh tế học như Adam Smith đề
cập trong cuộc thảo luận về chủ nghĩa trọng thương và vai trò của thị trường. Họ
cho rằng xã hội sẽ thành công về kinh tế khi có được thể chế kinh tế tốt. Những
thể chế tốt mà nền kinh tế tư bản chủ nghĩa đòi hỏi là pháp trị (rule of law), tư
Ý tưởng về sự phồn vinh của một xã hội phụ thuộc vào các thể chế kinh tế
hữu (private property) và tự do hợp đồng (freedom to contract). Họ phê phán
sự dựa dẫm vào hoạt động kinh tế nhà nước và các liên minh quyền lực) đối với
nền kinh tế (Smith, 1776 [2008]).
Vào những thập niên đầu tiên của thế kỷ 20, những phiên bản kinh tế học
thể chế (cũ) đã xuất hiện, chủ yếu phân tích các thể chế và phản bác các lý thuyết
kinh tế cổ điển với những học giả ở cả châu Âu và Mỹ như Gustav Schmoller,
Walton H. Hamilton, Thorstein Veblen, John Commons và Wesley Mitchel. Ví
dụ, John R. Commons (1931) đã đưa ra một quan niệm rằng nền kinh tế là một
mạng lưới các mối quan hệ giữa các cá nhân có những lợi ích khác nhau; tuy
nhiên, mọi người đều muốn giải quyết các tranh chấp và chính phủ là người cầm
trịch cần phải đóng vai trò hòa giải giữa các nhóm tranh chấp với nhau.
10
những hệ lụy của chủ nghĩa trọng thương (chủ nghĩa bảo hộ thương mại tuỳ ý và
Kinh tế học thể chế đương đại (kinh tế học thể chế mới) bắt đầu với công
trình của Ronald Coase (1960) về những hệ quả của chi phí giao dịch, tiếp đó là
những tác phẩm nổi tiếng của James Buchanan, Gordon Tullock và Mancur
Olson cùng những người theo trường phái “lựa chọn công” khác, của Douglass
North (1990) về vai trò quan trọng của các thể chế qua việc phân tích quá trình
phát triển kinh tế trong quá khứ, và William Vickery (1969) về hệ quả của việc
mọi người chỉ nắm được những tri thức hạn chế, bất đối xứng. Họ chỉ ra cách
thức mà qua đó cạnh tranh giữa các cộng đồng và các hệ thống pháp lý dẫn tới
sự tiến hoá của nhiều quy tắc thân thiện hơn với người dân và doanh nghiệp,
chẳng hạn như chính phủ hữu hạn, các quyền tài sản, quy trình chuẩn mực và
pháp trị.
chế là các luật lệ của cuộc chơi trong một xã hội, hay nói một cách chính thức,
là những ràng buộc mà con người soạn thảo ra giúp định hình sự tương tác của
con người.” Còn theo Ngân hàng thế giới (1998) thì thể chế là “các quy tắc
Douglass C. North (1990: 3) đưa ra định nghĩa “thể chế” như sau: “Thể
chính thức và phi chính thức và các cơ chế đảm bảo thi hành của chúng định
hình cách hành xử của các cá nhân và các tổ chức trong một xã hội.” Thực tế là
(Buchanan), 1991 (Coase), 1993 (North) và 1996 (Vickery) đã cho thấy hoạt
động nghiên cứu kinh tế học thể chế đang ngày càng tiến triển. Trong những
năm 1980 và 1990, kinh tế học thể chế đã trở thành một lĩnh vực nghiên cứu
năng động và rộng lớn, tập trung vào vai trò then chốt của các thể chế trong việc
thúc đẩy hoạt động kinh tế.
Tuy nhiên, sẽ là một chiều nếu chỉ nhìn thấy tác động của thể chế đối với
tăng trưởng và phát triển kinh tế mà không thấy theo chiều ngược lại. Trong suốt
nửa cuối thế kỷ 20, các học giả theo trường phái “hiện đại hóa” (modernization
theory) ở phương Tây đã nỗ lực chứng minh rằng các quốc gia hiện đại hóa trên
thế giới cuối cùng sẽ tụ lại theo một mô hình chính trị - kinh tế - xã hội chung,
11
việc các tác giả trên được trao giải Nobel Kinh tế năm 1974 (Hayek), 1986
và đó là mô hình dân chủ tự do của các nước tư bản phương Tây phát triển
(Rostow, 1961; 1962). Các lý thuyết hiện đại hóa cũng nói rằng khi một đất
nước đang có chế độ độc tài ngày càng phát triển thì cấu trúc xã hội trở nên phức
tạp hơn, quá trình sản xuất đòi hỏi những người lao động phải hợp tác, giới chủ
có quyền tự chủ nhiều hơn, xã hội có nhiều thông tin hơn và tạo điều kiện cho
các nhóm xã hội xuất hiện. Bối cảnh này khiến chính quyền độc tài mất dần khả
năng kiểm soát xã hội một cách hiệu quả. Càng ngày sẽ có càng nhiều tổ chức xã
hội dân sự nổi lên và chống lại chế độc tài khiến cho nó sụp đổ (Przeworski and
Limongi, 1997: 157). Như thế, trình độ phát triển cao hơn là điều kiện để thể chế
dân chủ xuất hiện (Lipset, 1959).
Trong tác phẩm nổi tiếng “Tại sao có quốc gia thất bại?: Nguồn gốc của
(2012) đã giải thích sự thành công cũng như sự thất bại của các quốc gia khác
nhau rằng: Quốc gia phát triển lên nếu như nó xây dựng được những thể chế
kinh tế và chính trị “bao trùm”; quốc gia thất bại khi các thể chế trở thành “loại
trừ”, tập trung quyền lực và cơ hội vào tay một nhóm nhỏ. Thể chế kinh tế bao
quyền lực, thịnh vượng và nghèo đói”, Daron Acemoglu và James Robinson
trùm hỗ trợ cho thể chế chính trị bao trùm - một thể chế ủng hộ những quyết
tay một nhóm người để hỗ trợ cho việc duy trì thể chế kinh tế loại trừ.
Daron Acemoglu, Simon Johnson và James Robinson (2005) nêu rằng:
Các cá nhân có quyền lực chính trị không thể cam kết rằng họ sẽ không sử dụng
quyền lực của mình để phục vụ lợi ích của mình tốt nhất. Nói một cách khác, họ
có thể sử dụng quyền lực chính trị của mình để xây dựng và duy trì một hệ thống
thể chế kém hiệu quả hoặc không tối ưu theo nghĩa không tạo ra lợi ích tổng thể
lớn nhất cho xã hội song lại đem lại lợi ích lớn nhất cho chính họ. Với một hệ
thống thể chế tồi, vốn chỉ nhằm tạo ra lợi ích cá nhân cho thành phần tinh túy,
bất chấp việc phần lớn hơn xã hội sẽ nghèo đi thì những cải cách sẽ khó khả thi
hoặc có thể chỉ được tiến hành nửa vời. Nếu các nhóm người có quyền lực chính
trị thực tế làm "điều đúng" như tiến hành cải cách, có thể họ sẽ mất đi đặc quyền
12
sách đổi mới và sáng tạo. Ngược lại, thể chế chính trị loại trừ dồn quyền lực vào
đặc lợi. Những mô hình phát triển lạc hậu vẫn tiếp tục tồn tại hoặc thay đổi rất chậm
chỉ vì các lực lượng chính trị đầy sức mạnh tại các quốc gia nghèo khó này muốn
duy trì nó như thế để bảo vệ lợi ích của mình (Acemoglu và Robinson, 2012).
Trong những năm gần đây, xu hướng quá nhấn mạnh vào tác động của thể
chế đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế dường như đã trở thành quan điểm
mang tính áp đặt của các nước phương Tây và các tổ chức quốc tế trong nỗ lực
thúc đẩy cải cách ở các nước nghèo. Tách ra khỏi xu hướng này, một số nghiên cứu
cho rằng, có mối quan hệ nhân quả giữa một số cấu phần của phát triển đối với chất
lượng của thể chế. Ví dụ, José Antonio Alonso và Carlos Garcimartín (2009) cho
rằng trình độ phát triển (thể hiện qua các yếu tố như thu nhập bình quân đầu người,
trình độ học vấn, mức độ phân phối thu nhập) có tác động đến chất lượng thể chế
Kể từ đầu những năm 1990, những nghiên cứu mới về vai trò của thể chế
đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế đã đưa ra hàng loạt tiêu chí khác nhau
để đánh giá chất lượng thể chế. Điển hình trong số này, nghiên cứu của Stephen
Knack và Philip Keefer (1995) cho rằng chất lượng của thể chế có thể được đánh
(đo lường bởi bộ chỉ số Quản trị quốc gia của Ngân hàng thế giới).
giá qua các tiêu chí như: i) sự đảm bảo đối với quyền sở hữu tài sản; và ii) mức
(1998) lại đo lường chất lượng của thể chế qua các tiêu chí như: i) mức độ hiệu
quả của bộ máy hành chính; ii) mức độ tham nhũng; iii) mức độ bảo đảm quyền
sở hữu; và iv) công bằng của pháp luật.
Như vậy, nhìn chung các nghiên cứu đã cho thấy mối quan hệ hai chiều
giữa thể chế và phát triển kinh tế: một hệ thống thể chế tốt thường đi kèm với
một nền kinh tế phát triển cao; tuy nhiên, vẫn cần những bằng chứng thực tế để
khẳng định rằng, cái nào là nguyên nhân của cái nào.
độ đảm bảo thực thi hợp đồng. Trong khi đó, nghiên cứu của Alberto Alesina
1.2. Các nghiên cứu về thể chế và cải cách thể chế kinh tế ở châu Phi
Cải cách thể chế là tâm điểm của nhiều nghiên cứu của các tổ chức phát
triển quốc tế về các tiến trình cải cách ở châu Phi. Trong hai thập kỷ qua, các
nghiên cứu của Ngân hàng thế giới (1993, 1997, 2000) đã tập trung nhấn mạnh
13
vai trò của cải cách thể chế và quản trị, coi đó là yếu tố then chốt đối với sự phát
triển của châu Phi. Ủy ban kinh tế châu Phi của Liên hợp quốc (2003) cũng đã
tiến hành một số nghiên cứu bài bản về tiến trình cải cách thể chế trong khu vực
song tập trung chủ yếu vào khía cạnh quản lý khu vực công. Ngoài ra, một số tổ
chức khác như Quỹ tiền tệ quốc tế (2001), Chương trình phát triển Liên hợp
quốc (1997), Ngân hàng phát triển châu Phi (1999) cũng tiến hành nhiều nghiên
cứu về cải cách thể chế ở châu Phi.
Các nghiên cứu đã chỉ ra nhiều yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng thể chế
của châu Phi. Easterly và Levine (2003) lập luận rằng, chất lượng thể chế cũng
có thể bị ảnh hưởng bởi các điều kiện địa lý. Vị trí đất nước trong vùng nhiệt
đới, thiếu tiếp cận với biển hoặc độ phì nhiêu của đất có thể ảnh hưởng đến sự
nhiều quốc gia không có biển và nằm trong vùng nóng xích đạo. Châu Phi là một
châu lục có nhiều tài nguyên, nhưng nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng chính đây
lại là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng thể chế và do đó,
phát triển của thể chế mạnh. Đây là điều rất phổ biến ở lục địa châu Phi nơi có
trình độ phát triển của châu lục này. Sachs và Warner (1997), Easterly và Levine
(2003) tập trung nghiên cứu sự sẵn có của tài nguyên thiên nhiên và lập luận
lượng thể chế do điều này thúc đẩy các hoạt động khai thác tài nguyên và thay
các khoản thu thuế bởi các nguồn thu khác ít minh bạch hơn và ít chịu trách
nhiệm hơn. Về yếu tố lịch sử, châu Phi cũng bị xem là có nhiều hạn chế trong
việc thúc đẩy một hệ thống thể chế tốt. Việc buôn bán nô lệ và hệ thống thuộc
địa đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng thể chế. Đây là nguyên nhân gây
ra tình trạng di dân, không quốc tịch gây mất ổn định chính trị lâu dài, dẫn đến
suy yếu và bị chia cắt (Acemoglu và các cộng sự, 2001).
Từ những năm 1960, sau khi giành được độc lập, nhiều nước kém phát
triển ở châu Phi đã theo đuổi các chính sách can thiệp vào nền kinh tế, thực hiện
chiến lược phát triển công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu (ISI). Điều này đã
14
rằng tài nguyên thiên nhiên phong phú như dầu thô ảnh hưởng tiêu cực đến chất
dựng lên các rào cản đối với việc nhập khẩu hàng hóa nước ngoài. Kết quả là
vào cuối những năm 1970, nhiều nền kinh tế châu Phi đã bị biến dạng mạnh mẽ
do các chính sách can thiệp (Mensah, 2006; Aman và cộng sự, 2006).
Phân tích nguyên nhân và lịch sử cải cách thể chế kinh tế ở châu Phi,
nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, từ những năm 1960, sau khi giành được độc lập,
nhiều nước kém phát triển ở châu Phi đã theo đuổi các chính sách can thiệp vào
nền kinh tế, thực hiện chiến lược phát triển công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu.
Điều này đã dựng lên các rào cản đối với việc nhập khẩu hàng hóa nước ngoài.
Kết quả là, vào cuối những năm 1970, nhiều nền kinh tế châu Phi đã bị biến
dạng do các chính sách can thiệp (Mensah, 2006; Aman và cộng sự, 2006).
châu Phi. Tiêu biểu trong số đó là: Kế hoạch hành động Lagos năm 1980;
Chương trình ưu tiên kinh tế châu Phi 1986 – 1990 được Tổ chức Thống nhất
Châu Phi (OAU) thông qua năm 1985; Chương trình Liên hợp quốc bổ sung vì
sự phát triển của Châu Phi; Ủy ban kinh tế châu Phi (ECA).Ở cấp độ thực thi
Có nhiều nghiên cứu đã phân tích các sáng kiến cải cách và phát triển của
chính sách của các chính phủ, IMF và Ngân hàng Thế giới đã tài trợ cho các
với các nền kinh tế Châu Phi. Gần đây hơn, châu Phi đã triển khai sáng kiến
Quan hệ đối tác mới cho Phát triển Châu Phi (NEPAD) được thông qua vào
tháng 10 năm 2001 bởi các nguyên thủ quốc gia và chính phủ châu Phi; Cơ chế
đánh giá ngang hàng châu Phi (APRM) năm 2003 nhằm giải quyết vấn đề quản
trị của các quốc gia thành viên Liên minh châu Phi (AU). Ở một mức độ nào đó,
APRM đã gián tiếp gây áp lực cho các nước châu Phi để thực hiện quá trình phát
triển với các thể chế tốt. Nhìn chung, các nghiên cứu đều cho rằng, châu Phi bắt
đầu thực hiện các biện pháp cải cách thị trường trong điều kiện thiếu vắng những
cấu trúc và nền tảng thị trường cơ bản. Tuy nhiên, cải cách thị trường lại là điều
kiện cần thiết để vay vốn từ các tổ chức quốc tế (WB, 1989).
15
chương trình điều chỉnh cấu trúc (SAP) mang lại những tác động sâu rộng đối
Các nghiên cứu cũng đã phân tích và chỉ ra nhiều vấn đề trong việc nhất
quán thực thi các chính sách cải cách kinh tế của châu Phi. Phần lớn các cuộc cải
cách kinh tế ở châu Phi đều do bên ngoài thúc đẩy song cũng chính vì thế nhiều
chính phủ châu Phi không có một cam kết chắc chắn đối với cải cách kinh tế.
Các cam kết của chính phủ đa phần là lời hứa suông để đảm bảo rằng đất nước
của họ, thậm chí là chế độ của họ, vẫn tiếp tục nhận được các khoản tín dụng,
các khoản tài trợ ưu đãi. Tổng thống Mobutu Sese Seko của Cộng hoà dân chủ
Công gô đã rất thành thạo trong đàm phán thỏa thuận với IMF và Ngân hàng Thế
giới, mặc dù rõ ràng là ông không có bất kỳ ý định làm theo yêu cầu của các tổ
chức này (Leslie, 1987).
Nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới đã cho thấy một khoảng cách lớn
quốc gia điều chỉnh cơ cấu [ở Châu Phi] chỉ điều chỉnh tên gọi” (Mosley và
Weeks, 1993, trang 1590). Một số chính phủ thực tế chỉ thực hiện một nửa hoặc
thậm chí ít hơn những thay đổi chính sách theo các cam kết ban đầu để nhận
giữa các biện pháp và thực tế cải cách kinh tế ở châu Phi và kết luận rằng, “nhiều
khoản vay (Mosley và cộng sự, 1991, Chương 5). Những chính phủ khác ban
đầu thực hiện thỏa thuận nhưng sau đó đã đảo ngược chính sách (Zambia đại
Nigeria đã thực hiện những biện pháp khôn khéo hơn như lúc ban đầu đồng ý
với những điều kiện, nhưng sau đó lại vô hiệu hóa của những cải cách này bằng
các biện pháp khác (ví dụ: ban đầu đóng băng tiền lương của công chức, nhưng
sau đó lại tìm cách để nhiều công chức được trả lương cao hơn).
Ngay cả Tanzania, một quốc gia được coi có kỷ cương, kỷ luật lãnh đạo ở
châu Phi cũng bị coi là: chủ nghĩa phong kiến quan liêu (Munishi, 1989, trang
153-167). Chủ nghĩa này được thể hiện qua mối quan hệ mua –bán trong hệ
thống chính trị: nhà lãnh đạo bảo trợ và đảm bảo vị trí cho những người thân tín
để đánh đổi sự trung thành của họ; các phe phái trong hệ thống chính trị chỉ quan
tâm đến lợi ích của các thành viên mà không quan tâm nhiều đến các cuộc cải
16
diện cho trường hợp cực đoan nhất ở châu Phi). Các chính phủ Zaire, Kenya và
cách kinh tế có thể mang lại nhiều lợi ích cho công chúng (Munishi, 1989, trang
166). Hệ thống thể chế của Kenya rơi vào tình trạng mắc hội chứng quan liêu
tương tự. Các dịch vụ công cộng hoạt động khá hiệu quả trong những năm 1960
và 1970. Tuy nhiên, vào những năm 1980, một thế hệ công chức mới xuất hiện
thay thế thế hệ công chức đầu tiên là những người được đào tạo tốt đã tiến hành
chuyển đổi các dịch vụ công phù hợp với cơ chế vận hành của một mô hình
mang tính bảo trợ (Cohen, 1993, tr. 456). Tại Ghana, những thành công trong
tiến trình phát triển lại nhờ vào việc áp dụng một mô hình độc đoán, áp đặt từ
trên xuống và phụ thuộc vào sự đàn áp và vi phạm nhân quyền dưới thời lãnh tụ
Rawlings (Jeffries, 1991, trang 165). Kinh nghiệm của Ghana cho thấy, một lãnh
đạo chuyên quyền và chính phủ yếu kém sẽ khó thể thúc đẩy các cuộc cải cách
Tiến trình cải cách thể chế ở các quốc gia châu Phi cũng được nghiên cứu
đánh giá dưới các góc độ khác nhau. Ví dụ, dưới góc độ kinh tế chính trị,
Bigsten, A. and S. Kayizzi-Mugerwa (2000) đã giải thích sự thất bại của chính
kinh tế (Tangri, 1992).
sách ở Zambia; Coolidge, J. và S. Rose-Ackerman (1997) đã phân tích về vấn đề
địa tô và tham nhũng trong giới lãnh đạo cấp cao ở một số nước châu Phi. Khi
năm, Lienert, I. và J. Modi (1997) cùng với Lienert, I. (1998) đã cho thấy rằng
các kết quả đạt được là không rõ ràng: có một số quốc gia thành công song cũng
có nhiều quốc gia thất bại. Nổi bật trong số nghiên cứu này, trong bài viết “Tại
sao châu Phi lại nghèo?” Daron Acemoglu và James Robinson (2010) cho rằng
nguyên nhân chủ yếu là do hệ thống thể chế chính trị và kinh tế không phù hợp.
Hệ thống thể chế hiện nay của một số nước châu Phi vẫn bị ràng buộc bởi những
yếu tố thể chế tàn dư của lịch sử vốn không phù hợp nên đã cản trở sự phát triển
đi lên của những quốc gia này. Cũng trả lời câu hỏi tương tự, theo Greg Mill
(2010), nguyên nhân là những quyết định sai lầm và yếu kém của các nhà lãnh
đạo châu Phi và môi trường thể chế gắn liền với lợi ích cá nhân, tạo điều kiện
17
nhìn lại tiến trình cải cách hệ thống hành chính của các nước châu Phi sau 10
cho tham nhũng; đồng thời kêu gọi các quốc gia châu Phi cần phải tiến hành tự
do hoá kinh tế.
Bên cạnh những mô hình thể chế được coi là thất bại, Daron Acemoglu,
Simon Johnson và James Robinson (2001) cũng chỉ ra những mô hình thể chế
thành công, điển hình là trường hợp của Botswana. Đây là quốc gia châu Phi duy
trì được tốc độ tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người cao nhất thế giới trong
suốt hơn 3 thập kỷ mặc dù có những điều kiện phát triển không mấy thuận lợi.
Botswana đã có những lựa chọn chính sách kinh tế tốt nhờ có một hệ thống thể
chế tốt, đặc biệt là sở hữu tư nhân. Tuy nhiên, các tác giả cũng nhận định, trường
hợp thành công của Botswana ở châu Phi không nhiều. Các thể chế thời trước
thuộc địa của Botswana mang tính tương đối bao trùm. Ảnh hưởng của chế độ
một nước giàu kim cương, mang lại nguồn thu lớn, khiến cho không một nhóm
lợi ích nào mong muốn thay đổi nguyên trạng. Cuối cùng, sự thành công của
Botswana còn là nhờ quyết sách đúng đắn của các thế hệ lãnh đạo quốc gia này
sau khi giành được độc lập.
thuộc địa đối với các thể chế này ở Botswana không nhiều. Botswana cũng là
Các nghiên cứu khác cũng chỉ ra mối quan hệ giữa thể chế và kết quả phát
cách kinh tế ở châu Phi (van de Walle, 1999; Stein, 1994). Van de Walle (1999)
cho rằng, làn sóng dân chủ hoá ở châu Phi trong đầu thập niên 1990 sẽ ảnh
hưởng không nhiều đến các chương trình cải cách kinh tế. Đây là kết quả của
việc các thể chế chính trị dân chủ ở châu Phi có động cơ tích cực và tiếp tục có
khả năng xử lý các vấn đề kinh tế bức xúc, duy trì cải cách chính sách kinh tế vĩ
mô. Nhìn dưới ba góc độ của thể chế là mô hình điều chỉnh cơ cấu, kinh tế học
thể chế mới và lý thuyết thể chế cũ, Howard Stein (1994) phân tích cải cách kinh
tế ở châu Phi trên các mặt: quyền tài sản, thể chế tài chính và tiền tệ, giá cả và thị
trường, doanh nghiệp và các tổ chức công nghiệp, thị trường và nhà nước. Tác
giả cho rằng, cải cách thị trường ở châu Phi cần tuân theo đơn thuốc của trường
phái kinh tế học thể chế cũ.
18
triển kinh tế, cũng như giữa cải cách thể chế, nhất là thể chế chính trị, với cải
Ngoài ra, nhiều nghiên cứu đã đánh giá kết quả của quá trình chuyển đổi
sang cơ chế thị trường thông qua các chương trình cải cách cơ cấu (SAP) ở châu
Phi, với nhiều quan điểm khác nhau, gồm cả ủng hộ lẫn phản đối. Chương trình
SAP tập trung vào một số khía cạnh chủ chốt như: mở cửa nền kinh tế, tư nhân
hóa, tự do hóa tài chính, cắt giảm trợ cấp...(Makalou, 1999; Nellis, 2005; Buchs,
2003; White và Bhatia, 1998). Những người ủng hộ SAP cho rằng, có thể SAP
chưa mang lại kết quả như mong muốn nhưng cũng đã giúp nhiều nước châu Phi
cải cách và vượt qua được những thời điểm khó khăn nhất. Những ý kiến phản
đối cho rằng, SAP được thiết kế bởi phương Tây chứ không phải bởi châu Phi.
SAP không do các nước châu Phi “sở hữu”, kiểm soát và điều hành. SAP còn
ôm đồm quá nhiều thứ, chỉ tính đến những mục tiêu ngắn hạn, thiếu các mục tiêu
“bẫy đói nghèo” (Dollar và Kraay, 2002; Manuel, Bloom, Chapellier và Saigal,
2002). Về khía cạnh xã hội, một số nghiên cứu chỉ ra rằng, quá trình tự do hóa
kinh tế ở châu Phi tác động mạnh đến những người lao động là công nhân và
phát triển dài hạn và cuối cùng không hiệu quả bởi châu Phi vẫn chưa thoát khỏi
nông dân thu nhập thấp. Do nền kinh tế - xã hội ở trình độ phát triển thấp, nông
dân và công nhân thành thị thực tế vẫn là một tầng lớp như nhau ở Châu Phi và
và giá cả leo thang hàng ngày do lạm phát (Bangura và Gibbon, 1992).
Vẫn còn nhiều thảo luận trong giải thích hiệu quả tăng trưởng kinh tế của
Châu Phi (Heidhues, 2009). Nhìn chung, kết quả tăng trưởng của Châu Phi chưa
đáp ứng yêu cầu của tiến trình xóa đói, giảm nghèo và phát triển bền vững. Một
số quốc gia châu Phi Nam Sahara đã triển khai các cuộc cải cách kinh tế khá sâu
rộng, kèm theo đó là những nỗ lực lớn để xây dựng một nền quản trị tốt nhằm
bảo vệ những thành công gặt hái được trong cải cách kinh tế. Điển hình trong số
này là các nước như: Tanzania, Rwanda và Ethiopia – những nền kinh tế đạt
được tốc độ tăng trưởng nhanh nhất châu Phi dù không có nhiều hàng hóa và tài
nguyên thiên nhiên như dầu khí. Thay vào đó, tốc độ tăng trưởng nhanh của
19
họ chịu những rủi ro như nhau về tình trạng mất việc làm, mất đất nông nghiệp
những nước này có được là do cải cách cơ cấu và quản lý kinh tế vĩ mô tốt hơn
(Collier, 2007).
Tiến trình cải cách thể chế kinh tế của một số quốc gia châu Phi cũng
nhận được nhiều mối quan tâm nghiên cứu. Nam Phi là nền kinh tế thị trường
lâu đời và phát triển của châu Phi. Tuy nhiên, đất nước này cũng đã từng trải qua
những biến động to lớn cả về chính trị, xã hội và kéo theo đó là những hệ quả về
kinh tế. Đầu thập niên 1990, chính phủ dân chủ đầu tiên của Nam Phi phải đối
mặt với những nhiệm vụ chính trị và xã hội to lớn khi phải biến Nam Phi từ một
quốc gia phân biệt chủng tộc với một hệ thống thể chế kinh tế và chính trị “loại
trừ” trở thành một xã hội dựa trên sự gắn kết. Những thách thức kinh tế cũng nan
giải không kém. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra những khó khăn vào thời điểm
ngắn hạn, những điểm yếu về cấu trúc dài hạn và di sản suy giảm tăng trưởng
kinh tế kéo dài. Bên cạnh đó là những khó khăn về hậu quả của đợt hạn hán
nghiêm trọng năm 1992, suy giảm kinh tế toàn cầu, xung đột chính trị, bất ổn vĩ
chuyển đổi này, như: môi trường kinh tế bấp bênh, kèm theo những khủng hoảng
mô (Naidoo, 2007).
Nghiên cứu của Brahim Mansouri (2017) phân tích tiến trình cải cách thể
mô và cải cách cơ cấu ban đầu được thực hiện trong giai đoạn 1983-1993; ii)
củng cố cải cách cơ cấu, chủ yếu là tư nhân hóa và cải cách khu vực tài chính,
trong giai đoạn 1993-1998, cho đến khi xuất hiện một "thay đổi chính phủ đồng
thuận" vào năm 1998. Giai đoạn này cũng được đặc trưng bởi việc ký thỏa thuận
hợp tác với Liên minh châu Âu và tuyên bố thành lập một khu vực thương mại
tự do Euro-Ma-rốc vào năm 2010; iii) giai đoạn 1998-2004, được đặc trưng bởi
sự củng cố của giai đoạn cải cách thứ hai, cụ thể là cải cách chính trị, thể chế và
xã hội. Thời kỳ này cũng được đặc trưng bởi sự gia nhập của phe đối lập chính
trị vào tháng 3 năm 1998 và sự lên ngôi của vua Mohamed VI vào tháng 7 năm
1999 sau cái chết của vua cha Hassan II. Đối với mỗi giai đoạn cải cách, nghiên
20
chế kinh tế và chính trị của Marốc theo ba giai đoạn chính: i) ổn định kinh tế vĩ
cứu phân tích nguyên nhân, các yếu tố hình thành, các bên liên quan và nhóm lợi
ích và kết quả cải cách.
Nghiên cứu của Rafael Bustos (2003) chỉ ra rằng, trái ngược với các
nghiên cứu phổ biến, trường hợp của Algeria cho thấy rằng không có mối liên hệ
tích cực nào tồn tại giữa tự do hóa kinh tế và dân chủ hóa. Qua nghiên cứu hai
giai đoạn, tác giả chứng minh rằng, trong giai đoạn 1988 - 1992, dân chủ hóa rõ
ràng là công cụ để tiến hành tự do hóa ở Algeria và điều này đã để lại những hệ
quả tiêu cực cho cả hai tiến trình cải cách. Đối với giai đoạn 1994 - 1999, tự do
hóa kinh tế và dân chủ hóa là các chiến lược bổ sung nhằm giữ gìn chế độ. Mặc
dù chính phủ Algeria đã thành công trong mục tiêu này, nhưng lại không nhất
quán thực hiện các chiến lược cải cách.
cách dân chủ, nền kinh tế Tunisia rơi vào tình trạng suy giảm và đứng trước nhiều
thách thức, khó khăn, như: thất nghiệp cao, nhu cầu công bằng xã hội không được
đáp ứng, tham nhũng gia tăng và quỹ đạo kinh tế vĩ mô không bền vững, tất cả đều
Nghiên cứu của Sáng kiến cải cách Ả rập (2009) đánh giá, sau quá trình cải
đe dọa những lợi ích chính trị gần đây. Nghiên cứu này cho rằng, trong những năm
đầu tiên chuyển sang nền dân chủ, Tunisia chủ yếu tập trung vào việc giải quyết các
bằng những thất bại về kinh tế. Do đó, một trong những thách thức chính trong giai
đoạn tới sẽ chủ yếu là kinh tế. Thất nghiệp cao, nhu cầu công bằng xã hội không
được đáp ứng, tham nhũng gia tăng và quỹ đạo kinh tế vĩ mô không bền vững đều
đe dọa làm đảo lộn những lợi ích chính trị.
Đặc biệt, các nghiên cứu của những tổ chức quốc tế như Ngân hàng thế
giới đã rất chú trọng phân tích khía cạnh quản trị ở châu Phi. Nghiên cứu “Châu
Phi nam Sahara: từ khủng hoảng cho đến tăng trưởng bền vững” năm 1989 của
WB nhấn mạnh, quản trị là một nội dung quan trọng của cải cách thể chế và gắn
liền với một khu vực công hiệu quả hơn ở các nước châu Phi nam Sahara. Các
chính sách cải cách kinh tế theo hướng thị trường ở châu Phi không thành công
21
thách thức chính trị. Tuy nhiên, những lợi ích trên mặt trận chính trị phải trả giá
vì thiếu hụt các nền tảng thể chế quản trị cơ bản. Do quyền lực không được kiểm
soát, các quan chức chính phủ có thể trục lợi mà không phải giải trình. Các cá
nhân bảo vệ mình không phải bằng pháp luật mà bằng nỗ lực xây dựng các mối
quan hệ cá nhân, do đó hình thành các quan hệ bảo kê quyền lực (WB, 1989).
Tại Việt Nam, cải cách thể chế trở thành một chủ đề nóng bỏng trong các
cuộc tranh luận học thuật và các nghiên cứu gắn liền với vấn đề cơ cấu lại nền
kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Tuy nhiên, các nghiên cứu về cải
cách thể chế ở châu Phi của Việt Nam không nhiều. Một số khía cạnh cải cách
thể chế gồm cải cách hệ thống chính trị, tiến trình dân chủ hóa, hệ thống bầu cử,
cải cách doanh nghiệp nhà nước, v.v… mới được đề cập đến trong một số tác
phẩm gần đây như “Châu Phi: Những đặc điểm chính trị chủ yếu hiện nay” của
và sự kiện nổi bật” của các tác giả Đỗ Đức Định và Nguyễn Thanh Hiền (2009);
“Cẩm nang các nước Châu Phi” của các tác giả Đỗ Đức Định và Giang Thiệu
Thanh (2010); “Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu và những vấn đề của Châu
Nguyễn Thanh Hiền (2009); “Châu Phi và Trung Đông năm 2008: những vấn đề
Phi”của Bùi Nhật Quang (2009) và “Hợp tác quốc tế giải quyết các vấn đề mang
tính toàn cầu của châu Phi” của Nguyễn Thanh Hiền (2008). Ngoài ra, các
trong hệ thống các chuyên đề và đề tài của Viện Nghiên cứu Châu Phi và Trung
Đông trong 10 năm qua (Bùi Nhật Quang, 2011; Kiều Thanh Nga, 2012).
Trong một số nghiên cứu gần đây, vấn đề về thể chế đã nhận được sự
quan tâm nghiên cứu. Ví dụ, trong bài viết “Các yếu tố ảnh hưởng đến chất
lượng quản trị ở một số nước châu Phi”, các tác giả Nguyễn Mạnh Hùng, Phạm
Anh Tuấn, Bùi Khắc Linh (2016) cho rằng, trong nhiều thập kỷ qua, mặc dù có
nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và lực lượng lao động dồi dào, châu Phi
vẫn là một châu lục kém phát triển nhất của thế giới. Các nước châu Phi đã nỗ
lực cải cách nền quản trị quốc gia của mình để có thể phát triển xa hơn nữa song
chỉ có một số nước đạt được thành công trong khi nhiều nước khác đã thất bại và
22
nghiên cứu về cải cách thể chế và phát triển của châu Phi cũng được nghiên cứu
tiếp tục bị cuốn vào tình trạng bất ổn không ngừng. Các tác giả đã chỉ ra những
nhân tố tác động đến chất lượng quản trị quốc gia ở châu Phi như trình độ phát
triển kinh tế, sự phát triển của giáo dục, độ mở thương mại, mức độ truy cập
internet và cả yếu tố lịch sử là quốc gia đó đã từng là thuộc địa của nước nào.
Kết quả nghiên cứu này cũng phù hợp với các nghiên cứu khác khi cho rằng
“trình độ phát triển” đóng vai trò tiên quyết, là cơ sở nguồn lực quan trọng để
xây dựng một thể chế và nền quản trị tốt (Chong và Zanforlinm, 2000; Islam và
Montenegro, 2002; Rigobon và Rodrik, 2004). Kết luận ảnh hưởng tích cực của
“trình độ giáo dục” đến chất lượng thể chế cũng phù hợp với nghiên cứu của A.
Alesina và R. Perotti (1996) và P. Evans và P. Rauch (2000) khi chứng minh
được mối quan hệ thuận giữa hai biến số này.
Nguyên nhân thành công và thất bại”, tác giả Nguyễn Mạnh Hùng (2015) đã
đánh giá môi trường quản trị của các nước châu Phi và cho rằng, cái vòng luẩn
quẩn giữa sự yếu kém của thể chế và sự thất bại của phát triển là ví dụ điển hình
Trong bài viết “Thể chế, quản trị và phát triển của các nước châu Phi –
của nhiều nước châu Phi. Nhìn lại vấn đề cải cách thể chế và tình hình phát triển
kinh tế ở một số nước Bắc Phi - Trung Đông sau 5 năm Mùa xuân Arab, các tác
với những thay đổi chể chế mà nó tạo ra chưa cho thấy một tương lai phát triển
tươi sáng hơn ở nhiều nước Bắc Phi - Trung Đông khi mà cuộc sống của đông
đảo người dân chưa được cải thiện. Thực tế đã cho thấy, chỉ tập trung vào cải
cách chính trị thôi là chưa đủ. Cải cách thể chế chính trị cần song hành với cải
cách kinh tế để một quốc gia có thể phát triển bền vững và để những thành quả
của cải cách thể chế có tính chất "bao trùm" và công cuộc cải cách tiếp tục nhận
được sự ủng hộ của đông đảo người dân. Nếu các thể chế mới được tạo ra nhất
quán với nhau thì sẽ tạo ra sự tin tưởng giữa mọi người, qua đó tạo ra sự ổn định
và phối hợp trong cộng đồng vì lợi ích phát triển chung. Ngoài ra, vấn đề cải
cách thể chế ở châu Phi còn được đề cập đến trong mối quan hệ so sánh với các
23
giả Nguyễn Mạnh Hùng và Hồ Khánh Duy (2016) cho rằng, “Mùa xuân Ả rập”
châu lục khác. Ví dụ, trong bài viết “Cải cách thể chế kinh tế ở các nước Á - Phi
qua một số công trình nghiên cứu”, tác giả Phạm Quốc Cường (2016) đã tổng
thuật các nghiên cứu liên quan đến mối quan hệ giữa chất lượng thể chế và tăng
trưởng kinh tế, đồng thời đánh giá mối quan hệ này qua những công trình nghiên
cứu liên quan đến châu Á và châu Phi.
1.3. Đánh giá các công trình nghiên cứu liên quan và hướng nghiên cứu của
luận án
Đến nay đã có nhiều nghiên cứu phân tích về cải cách thể chế của các
nước châu Phi, trong đó một số nghiên cứu đã tập trung phân tích, đánh giá sâu
khía cạnh chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường của các nước này. Nhìn chung,
các nghiên cứu này có quan điểm khá đồng thuận về sự tương thích giữa thể chế
ở những quốc gia có tăng trưởng và phát triển kinh tế. Nhiều nghiên cứu cho
rằng: thể chế tốt là nguyên nhân dẫn đến tăng trưởng kinh tế ở châu Phi, bởi vậy,
châu Phi cần cải cách thể chế kinh tế để phát triển. Tuy nhiên, các nghiên cứu
với tăng trưởng và phát triển kinh tế ở châu Phi: các thể chế tốt thường xuất hiện
hiện nay vẫn còn có nhiều khoảng trống:
Thứ nhất, khi đi sâu vào đánh giá kết quả của các nỗ lực cải cách thể chế
ủng hộ các chương trình chuyển đổi cơ cấu (SAP) cho rằng, có thể chúng chưa
thực sự thành công nhưng cũng đã giúp nhiều nước châu Phi vốn gần như đứng
bên bờ vực sụp đổ vượt qua được thời điểm khó khăn nhất. Các chương trình
điều chỉnh cơ cấu đã giúp hoạt động thương mại, tài chính của nhiều nền kinh tế
châu Phi thoát khỏi tình trạng bị “kiểm soát chặt chẽ”, đồng thời giúp ổn định
kinh tế vĩ mô và chuyển sang nền kinh tế thị trường tự do. Ngược lại, những ý
kiến phản đối cho rằng, SAP không tính đến các điều kiện đặc thù của châu Phi,
thậm chí không tính đến đặc thù giữa các nước châu Phi. Việc tự do hoá thương
mại, phá giá đồng tiền ở nhiều nước châu Phi đã tạo ra những tác động tiêu cực;
chính sách thúc đẩy xuất khẩu đã để lại hệ luỵ là tình trạng khai thác, bòn rút tài
24
kinh tế ở châu Phi, các quan điểm vẫn còn tương đối khác biệt. Những người
nguyên và tàn phá môi trường nghiêm trọng ở nhiều nước châu Phi. Thậm chí,
có những ý kiến còn cho rằng, châu Phi có thể sẽ phát triển tốt hơn nếu không có
tại về kết quả của cải cách thể chế kinh tế thị trường ở các nước châu Phi.
SAP. Do vậy, luận án sẽ góp phần bổ sung vào các tranh luận, đánh giá hiện
Thứ hai, nhiều nghiên cứu đã nỗ lực chỉ ra những yếu tố quan trọng tác
động đến tiến trình cải cách thể chế kinh tế của các nước châu Phi. Tuy nhiên,
không nhiều nghiên cứu có những so sánh, đối chiếu về vai trò của cải cách
chính trị và cải cách nền quản trị quốc gia đối với cải cách thể chế kinh tế ở châu
Phi. Luận án sẽ bổ sung khoảng trống này trong các nghiên cứu hiện nay.
Thứ ba, các nghiên cứu đi trước ít quan tâm đến việc lý giải vấn đề: tại
sao những chương trình cải cách thể chế kinh tế ở châu Phi lại tạo ra những kết
phát triển thành công sau quá trình chuyển đổi này song cũng có những nước
thất bại? Phải chăng, chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường là điều kiện cần
nhưng chưa đủ để các nước châu Phi phát triển? Thực tế này tiếp tục đặt ra vấn
quả khác nhau ở những nước châu Phi khác nhau? Tại sao lại có những nước đã
đề nghiên cứu: các yếu tố của phát triển và chất lượng thể chế có thể có tác động
hai chiều. Trong khi nhiều nghiên cứu nói đến việc thể chế yếu kém là nguyên
rằng: trình độ phát triển kinh tế lạc hậu là nguyên nhân dẫn đến chất lượng thể
chế tồi. Đây là những vấn đề lý luận và thực tiễn mới, là khoảng trống nghiên
cứu về cải cách thể chế kinh tế ở châu Phi mà luận án này có thể bù đắp.
Thứ tư, các bài học kinh nghiệm của châu Phi đến nay ít được chú ý vì lập
luận rằng: trình độ phát triển của châu Phi còn thấp. Các nước châu Phi như
Guinea xích đạo, Ghana và Tunisia ít được quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên,
luận án chỉ ra rằng, châu Phi cũng có những điểm sáng trong cải cách thể chế so
với những nước đang phát triển là những kinh nghiệm tốt, ngay cả đối với những
nước như Việt Nam. Luận án cũng chỉ ra những kinh nghiệm không thành công
điển hình trong cải cách thể chế kinh tế thị trường ở những nước đi sau.
25
nhân của phát triển kinh tế trì trệ, thực tế của châu Phi có thể lại chứng minh
Tiểu kết chương 1
Đến nay đã có nhiều nghiên cứu phân tích, đánh giá vấn đề cải cách thể
chế kinh tế ở châu Phi, trong đó có những nghiên cứu tập trung phân tích, đánh
giá sâu khía cạnh chuyển đổi và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường của một số
nước ở châu lục này. Các nghiên cứu hiện nay chỉ ra rằng ở châu Phi: các thể chế
tốt thường xuất hiện ở những quốc gia có tăng trưởng và phát triển kinh tế, tuy
nhiên còn nhiều tranh luận về sự thành bại của các chương trình cải cách thể chế
kinh tế. Nhiều nghiên cứu cho rằng, việc áp đặt những mô hình cải cách thể chế
kinh tế của phương Tây (như chương trình điều chỉnh cơ cấu) cho châu Phi đã
không mấy thành công khi xét về phương diện phát triển. Do vậy, luận án sẽ góp
chế kinh tế thị trường ở các nước châu Phi; phân tích các yếu tố tác động đến
tiến trình cải cách thể chế kinh tế ở các nước này. Đặc biệt, dưới góc độ quản trị,
luận án đã nêu ra cách tiếp cận cải cách thể chế có thể phù hợp với điều kiện của
phần bổ sung vào các tranh luận, đánh giá hiện tại về kết quả của cải cách thể
châu Phi. Bên cạnh những tiến trình cải cách thể chế được coi là thất bại, luận án
cũng phân tích, chỉ ra những tiến trình cải cách thể chế tương đối thành công ở
26
châu Phi là hình mẫu cho nhiều nước đang phát triển khác học tập.
CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CẢI CÁCH THỂ
CHẾ KINH TẾ
2.1. Các vấn đề chung về thể chế
2.1.1. Quan niệm, phân loại và vai trò của thể chế
Có nhiều quan niệm và định nghĩa về thể chế song tựu chung lại có hai
cách tiếp cận. Theo nghĩa hẹp, sử gia kinh tế, người đã từng đoạt giải Nobel
Douglass C. North đưa ra định nghĩa “thể chế” như sau: “Thể chế là các luật lệ
của cuộc chơi trong một xã hội, hay nói một cách chính thức, là những ràng
buộc mà con người soạn thảo ra giúp định hình sự tương tác của con người .”
[83] Theo nghĩa rộng, trong Báo cáo phát triển thế giới với chủ đề “Xây dựng thể
cơ chế thực thi và chế tài, và các tổ chức”.[125] Tổ chức là một dạng thể chế đặc
biệt, đi kèm với các quy tắc, chuẩn mực hành xử mà các chủ thể dựa vào đó để
tương tác với nhau, để thực thi các quy tắc, chuẩn mực đạt được các kết quả
chế cho thị trường”, Ngân hàng Thế giới quan niệm: “thể chế là các quy tắc, các
mong muốn. Ví dụ, nếu các quy tắc là luật về phá sản các tổ chức tương ứng sẽ
là các cơ quan thuế, toà án, các cơ quan thực thi pháp luật, v.v. Nếu quy tắc
chức tương ứng sẽ là các ngân hàng, toà trọng tài, hiệp hội kinh doanh v.v.
Thể chế khác với chính sách, tuy hai thuật ngữ này thường được dùng
song song với nhau, đôi lúc trùng với nhau. Nếu thể chế là các quy tắc, quy
định trong hành xử thì chính sách gồm mục tiêu và các kết quả mong muốn.
Các quốc gia có thể có một nền tảng thể chế giống nhau (như cùng là nền kinh
tế thị trường) song vẫn có thể triển khai các chính sách khác nhau và có các
kết quả phát triển khác nhau. Ví dụ, các quốc gia có nền kinh tế thị trường
vẫn có thể thể có các chính sách thuế hay chống lạm phát khác nhau. Chính
sách sẽ tác động đến loại thể chế cần hình thành; song thể chế sẽ tác động đến
loại chính sách cần có.
27
trong kinh doanh là “có đi có lại”, thế chấp, đền bù thiệt hại hợp đồng thì các tổ
Luận án này quan niệm thể chế là các luật chơi, theo nghĩa gồm các quy
tắc, quy định, chuẩn mực chi phối cách hành xử của các chủ thể trong xã hội.
Tuy tập trung nghiên cứu thể chế, luận án này đồng thời xem xét quá trình cải
cách/thay đổi thể chế với các quá trình thay đổi chính sách.
Có thể phân loại thể chế theo một số cách:
- Gồm thể chế công và thể chế tư: Thể chế công bao gồm toàn bộ các cơ
quan Nhà nước (các tổ chức công) với hệ thống quy định, luật pháp do Nhà nước
xác lập. Thể chế tư là toàn bộ các quy định mang tính quy phạm và các tổ chức
ngoài Nhà nước. Các thể chế tư có thể tồn tại song hành hoặc nằm trong một môi
trường thiết lập bởi các thể chế công. Ví dụ, thể chế tư là các quy tắc về thừa kế
đất đai có thể nằm trong các quy định về luật thừa kế; thể chế tư là các ngân
- Gồm thể chế chính thức và thể chế phi chính thức, chủ yếu nói về các quy
tắc chính thức và phi chính thức. Các quy tắc chính thức bao gồm hiến pháp, các bộ
luật, điều luật, hiến chương, văn bản dưới luật…Các quy tắc không chính thức là
hàng tư nhân có thể hoạt động trong môi trường luật công ty, v.v.
các chuẩn tắc xã hội bất thành văn (truyền thống, tập quán, những điều cấm kỵ…)
hay các quy tắc ửng xử nội bộ có vai trò mở rộng, chi tiết hóa hoặc chỉnh sửa các
- Gồm các loại thể chế như: thể chế kinh tế, thể chế chính trị, thể chế xã
hội, thể chế văn hoá, v.v.
Ý nghĩa then chốt của thể chế chính là việc giúp cho con người “xây dựng
các động cơ khuyến khích trong hoạt động trao đổi của con người, bất kể là
chính trị, xã hội, hay kinh tế”[83]. Thể chế giúp hạn chế bớt tình trạng thông tin
bất đối xứng trong vấn đề giao dịch và quản lý. Không có các quy định, chuẩn
mực, quy tắc để điều chỉnh các mối quan hệ, xã hội sẽ trở nên hỗn loạn, sự tương
tác xã hội trở nên quá tốn kém, sự tin tưởng và hợp tác đổ vỡ. Sự phân công lao
động, nguồn gốc chủ yếu của phồn vinh kinh tế, sẽ không còn nữa. Chức năng
then chốt của các thể chế là nhằm hỗ trợ trật tự: một cách thức tổ chức có tính hệ
28
quy tắc chính thức và điều chỉnh hành vi của các chủ thể cho phù hợp.
thống, phi ngẫu nhiên, tuân theo những quy tắc nhất định và vì thế dễ nắm bắt
các hành vi và biến cố. Trật tự tạo ra niềm tin và sự tin tưởng, giúp giảm chi phí
phối hợp. Khi có trật tự, người ta có thể đưa ra các dự đoán, có khả năng hợp tác
với người khác tốt hơn và cảm thấy tự tin khi mạo hiểm với những thử nghiệm
sáng tạo của mình. Lúc đó, người ta có thể dễ dàng tìm ra thông tin cần thiết về
đối tác và đoán định được mức độ chi phí của sự hợp tác cũng như lợi ích mà nó
mang lại. Hệ quả là nhiều tri thức hữu ích hơn sẽ được sử dụng và sáng tạo.[69]
2.1.2. Quá trình hình thành và thay đổi thể chế
Thể chế với bản chất là các quy tắc, quy định, chuẩn mực có thể hình
thành và thay đổi qua hai con đường:
Một là các thể chế được định hình bởi kinh nghiệm lâu dài của con người.
nhu cầu của mình. Những dàn xếp hữu ích sẽ trở thành truyền thống và được ghi
nhớ, nếu chúng được chấp nhận bởi một số lượng người đủ lớn, nhờ vậy chúng
được tuân thủ trong toàn cộng đồng. Khi các quy tắc dần xuất hiện và được toàn
thể cộng đồng biết tới, chúng sẽ được áp đặt và mô phỏng một cách tự phát.
Con người có thể khám phá ra những dàn xếp nhất định, để thoả mãn tốt hơn
Những dàn xếp nào không đáp ứng tốt nhu cầu của cộng đồng sẽ bị phản đối và
ngày đều phát triển qua một quá trình tiến hoá: phản hồi và điều chỉnh. Nội dung
cụ thể của các thể chế sẽ tiến hoá theo một lộ trình ổn định.
Hai là các thể chế xuất hiện do chúng được thiết kế, được định rõ trong
các bộ luật và các quy định, đồng thời được áp đặt chính thức bởi một cơ quan
quyền lực bên ngoài xã hội (như chính phủ). Khởi đầu, những quy tắc được thiết
kế và áp đặt bởi những người đại diện, vốn được tuyển chọn thông qua một quy
trình chính trị và hành động từ bên ngoài xã hội. Cuối cùng, chúng được áp đặt
bằng những phương tiện cưỡng chế đã hợp pháp hoá, chẳng hạn thông qua bộ
máy tư pháp.[69]
Như vậy, có hai dạng thể chế mà sự khác biệt giữa chúng xoay quanh
nguồn gốc của quy tắc. Các thể chế bên trong tiến hoá từ kinh nghiệm của con
29
biến mất. Vì thế, phần lớn những quy tắc có ảnh hưởng trong đời sống hàng
người và bao gồm những dàn xếp đáp ứng tốt nhất nhu cầu của cộng đồng trong
quá khứ, thí dụ: các tập quán, quy chuẩn đạo đức, lề lối tốt và quy ước thương
mại, cũng như luật tự nhiên trong xã hội Anglo-Saxon. Các thể chế bên ngoài
chịu sự áp đặt và chế tài từ trên xuống, sau khi được thiết kế và thiết lập bởi
những người đại diện, vốn được uỷ quyền thông qua một quy trình chính trị.[69]
2.2. Thể chế kinh tế và cải cách thể chế kinh tế
2.2.1. Quan niệm về thể chế kinh tế và cải cách thể chế kinh tế
Thể chế kinh tế là các chuẩn mực, luật pháp, quy tắc và quy định chi phối
sự tương tác của các chủ thể trong các giao dịch thị trường, bao gồm mua, bán
hàng hóa và dịch vụ, và sử dụng tài sản [72].Thể chế kinh tế xác định mức độ
hạn chế đối với các chủ thể trong việc tham gia vào các thỏa thuận giao dịch;
hưởng đến các hoạt động đầu tư vào vốn vật chất và nhân lực, công nghệ và tổ
chức sản xuất. Chức năng chính của thể chế kinh tế là giảm thiểu chi phí giao
dịch.Ví dụ cụ thể về các thể chế kinh tế là: Luật quyền tài sản, thỏa thuận tín
định hình các động cơ của các chủ thể kinh tế quan trọng trong xã hội; ảnh
dụng, và các quy định ảnh hưởng đến việc tiếp cận các tư liệu sản xuất và tiêu
dùng, v.v.
Các thể chế có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của các xã hội và của mọi
người, và
Mọi người và cộng đồng thường lựa chọn những thể chế nào giúp nâng
cao quyền tự do lựa chọn và sự phồn vinh kinh tế của mình.
Điều đó cũng có nghĩa, một số dạng thể chế có thể đem lại sự phát triển,
song một số dạng thể chế có thể tạo ra những hệ lụy tai hại cho sự phồn vinh, tự
do và các giá trị con người khác, và sự xuống cấp của hệ thống quy tắc có thể
dẫn tới suy thoái kinh tế - xã hội. Chính bởi vậy, sự khác biệt về thể chế kinh tế
cũng là nguyên nhân cơ bản của các nền kinh tế thị trường khác nhau. Các thể
chế kinh tế trong xã hội như cơ cấu quyền sở hữu, sự hiện diện và sự hoàn hảo
30
Giả thuyết chung của kinh tế học thể chế là:
của các thị trường có thể ảnh hưởng đến các động cơ kinh tế trong xã hội. Nếu
không có các quyền sở hữu tài sản, các cá nhân sẽ không muốn đầu tư vào vốn
nhân lực hay vật lực hay áp dụng các công nghệ hiệu quả hơn. Các thể chế kinh
tế cũng giúp phân bổ nguồn lực vào các mục đích sử dụng hiệu quả nhất vì
chúng xác định ai sẽ hưởng lợi ích sau cùng. Khi không có các thị trường hay thị
trường không được quan tâm, lợi ích từ thương mại không được khai thác và
nguồn lực có thể bị phân bổ sai [33]. Một xã hội khuyến khích mọi người đổi
mới, chấp nhận rủi ro, tiết kiệm cho tương lai, học tập, giải quyết những vấn đề
chung và cung cấp các hàng hoá công cộng…sẽ có thể đạt tới mức thu nhập cao
hơn. Một xã hội ngược lại có thể sẽ rơi vào tình cảnh nghèo đói. [27]
Các nhà kinh tế học thể chế cho rằng, bản chất của thể chế có thể được coi
trường. Tuy nhiên, trên thực tế nếu một hệ thống thể chế hiệu quả, phù hợp có
thể giúp làm giảm chi phí giao dịch, thì ngược lại khi một hệ thống thể chế yếu
kém vận hành sẽ làm nảy sinh những chi phí giao dịch. Những thể chế càng yếu
là những biến trung gian, giúp giảm chi phí giao dịch trong nền kinh tế thị
kém, càng không phù hợp sẽ khiến cho chi phí giao dịch càng cao, khiến cho
nguồn lực càng bị phân bổ méo mó, sai lệch. Dưới góc độ này, chuyển đổi mô
hành đang gây ra cho các giao dịch trong nền kinh tế thị trường.
Chí phí mà hệ thống thể chế hiện nay tạo ra cho các hoạt động trong nền
kinh tế thị trường đã trở nên quá lớn ở một số nền kinh tế ĐPT và kém phát
triển. Đặc trưng của các nền kinh tế này là tình trạng độc quyền kinh tế bởi cả
khu vực tư nhân và nhà nước, tham nhũng tràn lan, vi phạm quyền sở hữu, thiếu
dân chủ, quan liêu…đang khiến cho hệ thống thể chế trở thành một lực cản lớn
đối với quá trình tự do hóa kinh tế và phát triển của đất nước. Ngay cả ở các
nước phát triển, hệ thống thể chế cũng đã trở nên quá cồng kềnh, phản ứng chậm
chạp so với tính linh hoạt ngày càng gia tăng và những biến đổi nhanh chóng của
nền kinh tế thị trường hiện đại. Hệ thống luật pháp đã tụt lại đằng sau những
“công nghệ mới” của thị trường.
31
hình tăng trưởng chính là việc làm giảm các chi phí mà hệ thống thể chế hiện
Từ góc độ kinh tế học, cải cách kinh tế là những thay đổi trong chính sách
của chính phủ hoặc thể chế vì chính sách và thể chế hiện thành không hoạt động
tốt. Thêm nữa, cải cách đề cập đến các chính sách và thể chế thay thế tốt hơn các
chính sách và thể chế hiện hành trong việc đạt được các mục tiêu kinh tế. [71]
Cải cách thể chế kinh tế là thay đổi toàn diện và lớn nhằm mục đích giảm
tham nhũng, cải thiện chất lượng quy định, thượng tôn pháp luật, làm cho các tổ
chức tài chính và tiền tệ độc lập, tăng cường quản trị doanh nghiệp, tăng cường
tính độc lập của tư pháp và bảo vệ quyền sở hữu;những cải cách này tạo cơ hội
cho phần lớn người dân tham gia các hoạt động kinh tế.[72]
Trong lịch sử khắc phục khủng hoảng của các nền kinh tế ĐPT, rất nhiều
nền kinh tế đã phải chấp nhận các gói cứu trợ từ những tổ chức quốc tế như IMF
giá cả, cắt giảm ngân sách nhà nước, tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà
nước…vốn được các tổ chức này coi là “chuẩn mực quốc tế”. Việc tiến hành cải
cách này làm thay đổi hệ thống thể chế kinh tế đã tồn tại ở các quốc gia kể trên
kèm theo những điều khoản cải cách ngặt nghèo như xóa bỏ trợ cấp, tự do hóa
trong một thời gian dài trước khủng hoảng nên gây ra không ít xáo trộn kinh tế-
xã hội và phản đối từ phía người dân. Trong thời gian gần đây điển hình là các
Inđônêxia trong cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997-1998. Ngược lại, cũng
có những quốc gia đã tự mình cải cách thành công như Malaixia trong cuộc
khủng hoảng tài chính châu Á.
trường hợp của Mexico trong cuộc khủng hoảng nợ 1995; Hàn Quốc, Thái Lan,
2.2.2. Các yếu tố chính tác động đến cải cách thể chế kinh tế
* Luận thuyết của Daron Acemoglu
Những người theo trường phái kinh tế học thể chế tin rằng, các thể chế
dân chủ thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Thể chế dân chủ ở đây gồm
cả chế độ pháp quyền, bảo vệ quyền sở hữu, tự do cá nhân nhằm phát huy sáng
tạo năng lực hoạt động trong các ngành công nghiệp, thương mại, dịch vụ...
Trong nhiều năm, Daron Acemoglu và các cộng sự thảo luận mối quan hệ
32
giữa thể chế kinh tế và thể chế chính trị khi nghiên cứu khả năng tiếp cận các
nguồn lực trong xã hội. Họ đã minh chứng rằng, các nhóm lợi ích khác nhau sẽ
hưởng lợi khác nhau từ các thể chế kinh tế. Nếu quyền lực chính trị bị giới hạn
trong một nhóm nhỏ, các thể chế kinh tế, ví dụ quyền sở hữu có thể bị thao túng.
Ngược lại, nếu quyền lực chính trị có sự tham gia rộng rãi của dân chúng thì các
thể chế kinh tế sẽ mang lại phúc lợi cho số đông. Vì gốc rễ của vấn đề là phân
phối nguồn lực, cho nên một quốc gia muốn trở nên giàu có phải bắt đầu từ
những cải cách thể chế chính trị, đảm bảo quyền tự do của người dân được tiếp
cận hoặc giám sát các nguồn lực trong xã hội. [34]
Daron Acemoglu, Simon Johnson và James Robinson lập luận rằng [31]:
1. Các thể chế kinh tế có tác động đến tăng trưởng kinh tế vì chúng định
biệt, chúng tác động đến hoạt động đầu tư vào cơ sở vật chất, vốn con người,
công nghệ và tổ chức sản xuất. Các thể chế kinh tế không chỉ tác động đến các
kết quả của hoạt động kinh tế mà còn tác động đến việc phân phối nguồn lực
trong tương lai (phân bổ của cải, vốn vật chất hoặc vốn con người). Theo nghĩa
hình các động lực khuyến khích những nhân tố kinh tế chủ chốt của xã hội. Đặc
này, mô hình đưa ra là:
=====>
phânbổ nguồn lựct+1
2. Thể chế kinh tế do quyền lực chính trị định hình. Quyền lực chính trị có
hai dạng: i) dạng quyền lực pháp lý (de jure) và ii) dạng quyền lực thực tế (de
facto). Quyền lực pháp lý được hình thành một cách chính thức dựa trên những
thể chế chính trị trong xã hội. Quyền lực thực tế được hình thành (một cách phi
chính thức) dựa trên sự phân bổ nguồn lực trong xã hội, do một nhóm người hay
mỗi cá nhân trong xã hội có thể sử dụng nguồn lực mà mình có để tác động đến
những cá nhân hay nhóm người khác trong xã hội. Nói một cách khác, những
nhóm người có quyền lực chính trị thực tế có thể sử dụng nó để tiến hành vận
động (lobby) cho các chính sách (ngắn hạn) có lợi cho mình. Theo nghĩa này, ta
có mô hình sau:
33
Thể chế kinh tết =====> hoạt động kinhtết
Quyền lực chính trịt ==========> Thể chế kinh tết
Thể chế chính trịt ==== > Quyền lực chính trị pháp lýt
Phân bổ nguồn lựct ==== > Quyền lực chính trị thực tết
Trong tác phẩm “Tại sao có quốc gia thất bại?: Nguồn gốc của quyền lực,
thịnh vượng và nghèo đói”, Daron Acemoglu và James Robinson đã giải thích sự
thành công cũng như sự thất bại của các quốc gia rằng: Quốc gia phát triển lên
nếu như nó xây dựng được những thể chế kinh tế và chính trị “bao hàm”; quốc
gia thất bại khi các thể chế trở thành “tước đoạt”, tập trung quyền lực và cơ hội
vào tay một nhóm nhỏ. Thể chế kinh tế “bao hàm” giúp đảm bảo quyền tư hữu,
tạo ra một sân chơi bình đẳng, và khuyến khích đầu tư vào các công nghệ và kỹ
thuật mới, có lợi cho phát triển kinh tế hơn so với thể chế kinh tế “tước đoạt”
chúng vào tay thiểu số. Thể chế kinh tế bao hàm hỗ trợ cho thể chế chính trị bao
hàm - một thể chế ủng hộ những quyết sách đổi mới và sáng tạo. Ngược lại, thể
chế chính trị tước đoạt dồn quyền lực vào tay một nhóm người để hỗ trợ cho việc
vốn được xây dựng để tước đoạt nguồn lực của mọi người trong xã hội và đặt
duy trì thể chế kinh tế tước đoạt [35]. Daron Acemoglu và James Robinson đã
minh chứng rằng, các nhóm lợi ích khác nhau sẽ hưởng lợi khác nhau từ các thể
kinh tế, ví dụ quyền sở hữu, có thể bị thao túng. Ngược lại, nếu quyền lực chính
trị có sự tham gia rộng rãi của dân chúng thì các thể chế kinh tế sẽ mang lại phúc
lợi cho số đông [34]. Với lập luận này, trong bài viết “Tại sao châu Phi lại
nghèo?” Daron Acemoglu và James Robinson (2010) cho rằng, nguyên nhân chủ
yếu là do hệ thống thể chế chính trị và kinh tế không phù hợp. Hệ thống thể chế
hiện nay của một số nước châu Phi vẫn bị ràng buộc bởi những yếu tố thể chế
tàn dư của lịch sử vốn không phù hợp nên đã cản trở sự phát triển đi lên của
những quốc gia này. [32]
Daron Acemoglu, Simon Johnson và James Robinson đặc biệt nhấn mạnh
vấn đề về mặt “cam kết”. Các cá nhân có quyền lực chính trị không thể cam kết
34
chế kinh tế. Nếu quyền lực chính trị bị giới hạn trong một nhóm nhỏ, các thể chế
rằng họ sẽ không sử dụng quyền lực của mình để phục vụ lợi ích của mình tốt
nhất. Nói một cách khác, họ có thể sử dụng quyền lực chính trị của mình để xây
dựng và duy trì mộ hệ thống thể chế kém hiệu quả hoặc không tối ưu theo nghĩa
không tạo ra lợi ích tổng thể lớn nhất cho xã hội song lại đem lại lợi ích lớn nhất
cho chính họ [31]. Tương tự, Acemoglu và Robinson lập luận rằng, với một hệ
thống thể chế tồi, vốn chỉ nhằm tạo ra lợi ích cá nhân cho thành phần tinh túy,
bất chấp việc phần lớn hơn xã hội sẽ nghèo đi thì những cải cách sẽ khó khả thi
hoặc có thể chỉ được tiến hành nửa vời. Nếu các nhóm người có quyền lực chính
đặc lợi. Những mô hình phát triển lạc hậu vẫn tiếp tục tồn tại hoặc thay đổi rất
trị thực tế làm "điều đúng" như tiến hành cải cách, có thể họ sẽ mất đi đặc quyền
này muốn duy trì nó như thế để bảo vệ lợi ích của mình. [35]
Theo Amartya Sen (2000), phải có dân chủ mới có thể phát triển kinh tế
tốt [97]. Ông tuyệt đối tin tưởng ở tính phổ quát của dân chủ và không cho rằng
có những xã hội không (hoặc chưa) thích hợp với dân chủ chỉ vì xã hội ấy có
chậm chỉ vì các lực lượng chính trị đầy sức mạnh tại các quốc gia nghèo khó
một nền văn hoá đặc trưng [97]. Một quốc gia có nền dân chủ, đảm bảo sự tham
nhằm xây dựng một hệ thống thể chế và các chính sách phát triển có lợi cho
phần đông dân chúng.
Faizel Ismail (2009) cho rằng, trong một nền kinh tế đã tự do hóa, người
dân vẫn có thể thiếu tự do và bị tước đoạt những cơ hội kinh tế và những thành
quả khác mà thị trường đem đến. Nghèo đói không hoàn toàn đồng nghĩa với thu
nhập thấp mà là bị tước đoạt những năng lực cơ bản. Do vậy, các chính sách
công cần tạo ra sự bình đẳng và công lý, từ đó tạo ra sự tin tưởng và tín nhiệm để
giúp cơ chế thị trường có thể vận hành hiệu quả. Người dân cần có quyền để
tham gia xây dựng hệ thống dân chủ, từ đó có thể bảo vệ quyền lợi của mình và
đây là một yếu tố then chốt của tiến trình phát triển. [68]
35
gia và giám sát của người dân sẽ hạn chế được những lực cản đối với cải cách
Tuy nhiên, “dân chủ” là một khái niệm tương đối phức tạp và gây nhiều
tranh cãi, đặc biệt giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển, giữa
phương Tây với phương Đông và cũng được nhìn nhận dưới các góc độ khác
nhau ngay cả trong một nước. Đến nay, giới học giả phương Tây thường tiếp cận
khái niệm nền dân chủ dưới hai góc độ:
- Nền dân chủ bầu cử (eletoral democracy), theo quan niệm của Joseph
Schumpeter: phương thức dân chủ là một dàn xếp về mặt thể chế để có được các
quyết định chính trị khi và chỉ khi các cá nhân đạt được quyền lực để quyết định
thông qua nỗ lực cạnh tranh giành là phiếu của người dân. [96]
- Nền dân chủ tự do (liberal democracy), theo quan niệm của Robert Dalh,
nhấn mạnh hai trụ cột là cạnh tranh (gồm các khía cạnh như: tự do báo chí, tự
cạnh như: quyết được bỏ phiếu, công bằng trong bầu cử và quyền cho tất cả mọi
người được bỏ phiếu). [54]
Khi thảo luận vai trò của thể chế, Douglass C. North đã đưa ra ba kết
chủ của các hội đoàn, đa đảng phái) và tham dự của người dân (gồm các khía
luận: 1) thể chế dân chủ đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì một chính
sự có lợi cho phát triển kinh tế; và 3) những thành quả kinh tế đạt được to lớn
hơn là do có môi trường kinh tế tự do hơn. [83] Các kết luận này đã trở thành
quan điểm của nhiều tổ chức quốc tế như Ngân hàng thế giới, Quỹ Tiền tệ quốc
tế và Ngân hàng phát triển châu Á, Ngân hàng phát triển châu Phi v.v...khi giúp
đỡ các nước nghèo. Tuy nhiên, Douglass C. North cho rằng đối với những quốc
gia trong quá trình cải cách toàn diện, ưu tiên hàng đầu không phải là đẩy mạnh
cải cách dân chủ ngay tức thì mà phải cải cách các thể chế hỗ trợ cho tăng trưởng
kinh tế; cải cách chính trị theo hướng dân chủ phải được tiến hành đồng thời với
cải cách kinh tế để có thể thành công [83]. Nhiều nước quá vội vàng thực hiện
cải cách chính trị nên đã thất bại trong cải cách kinh tế như nước Nga vào đầu
thập niên 1990 khi ông Boris Eltsin làm tổng thống.
36
quyền tốt, hạn chế tham nhũng; 2) thể chế chính trị dân chủ và quyền tự do dân
* Quan điểm của Ngân hàng thế giới
Trong hơn hai thập kỷ qua, WB cho rằng các vấn đề phát triển của châu
Phi có nguồn gốc sâu xa là cuộc khủng hoảng quản trị. Nghiên cứu “Châu Phi
nam Sahara: từ khủng hoảng cho đến tăng trưởng bền vững” năm 1989 của WB
nhấn mạnh quản trị là một nội dung quan trọng của cải cách thể chế và gắn liền
với một khu vực công hiệu quả hơn ở các nước châu Phi nam Sahara. Các chính
sách cải cách kinh tế theo hướng thị trường ở châu Phi không thành công vì thiếu
hụt các nền tảng thể chế quản trị cơ bản. Do quyền lực không được kiểm soát,
các quan chức chính phủ có thể trục lợi mà không phải giải trình. Các cá nhân
bảo vệ mình không phải bằng pháp luật mà bằng nỗ lực xây dựng các mối quan
hệ cá nhân, do đó hình thành các quan hệ bảo kê quyền lực [118].Về vấn đề này,
chính phủ hơn mà cần một chính phủ tốt hơn” [118]. Theo WB, quản trị bao
gồm những truyền thống và thể chế mà dựa vào đó thẩm quyền trong một nước
được thực thi.Theo nghĩa hẹp hơn, quản trị là việc thực thi quyền lực chính trị để
Tổng thống Senegal Abdou Diouf đã phát biểu: “Châu Phi không chỉ cần ít
quản lý, điều hành công việc của chính phủ [36]. Dưới góc độ phát triển, WB
định nghĩa: quản trị là các thức thực thi quyền lực trong việc quản lý nguồn lực
Cách tiếp cận cải cách thể chế dưới góc độ quản trị tỏ ra “phù hợp” và
“khả thi” với điều kiện của nhiều nước đang phát triển khi có nhiều chỉ trích
nhằm vào nỗ lực áp đặt mô hình dân chủ tự do. Trên thực tế, các cuộc cải
cách dân chủ không giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở các nước đang phát
triển. Nỗ lực áp đặt mô hình thể chế từ bên ngoài không mang lại kết quả tốt
do có khoảng cách giữa “hình thức” và “chức năng” của các thể chế. Tại
nhiều nước châu Phi, mặc dù các thể chế mẫu mực có thể được thiết lập
nhưng chúng lại không hoạt động theo mong muốn của các nhà tài trợ đã thiết
lập nên những thể chế này - những người đã không quan tâm đến việc xây
dựng năng lực vận hành các thể chế.
37
kinh tế và xã hội của một quốc gia vì sự phát triển. [128]
Cách tiếp cận quản trị đối với châu Phi cho rằng, việc xây dựng các mô
hình phát triển và thể chế phải dựa vào những bối cảnh đặc thù chứ không theo
phương thuốc định sẵn và tránh việc áp đặt những mô hình dân chủ phương Tây.
Tại Đông Á nơi có những chính phủ bị phương Tây coi là thiếu dân chủ lại có
vai trò quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Các nhà lãnh đạo như Paul
Kagame ở Rwanda đã thể hiện mong muốn học hỏi những kinh nghiệm phát
triển này và hy vọng đưa Rwanda trở thành ‘Singapore của châu Phi’. Tại Đông
Á, mô hình nhà nước phát triển thực sự quan trọng hơn mô hình dân chủ tự do
và Rwanda cũng đã từng đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao mà không nhất
đối với tăng trưởng kinh tế. Tương tự ở châu Phi, các nước như Angola, Ethiopia
Cũng trong gần hai thập kỷ qua, các nghiên cứu của một số tổ chức quốc
tế, đặc biệt là các nghiên cứu của WB ở các nền kinh tế đang phát triển đã nêu
cao khẩu hiệu xây dựng một nền quản trị tốt gắn liền với một hệ thống thể chế
tốt. Trong nghiên cứu “Châu Phi nam Sahara: từ khủng hoảng cho đến tăng
thiết phải theo mô hình dân chủ tự do.
trưởng bền vững” năm 1989 WB cho rằng, quản trị tốt bao gồm: “dịch vụ công
trình đối với công chúng”. Một nền quản trị tốt đồng hành với một hệ thống thể
chế có chi phí vận hành thấp. Cải cách nền quản trị của một quốc gia gắn liền
với cải cách thể chế của quốc gia đó. Ưu tiên này thể hiện rõ trong Báo cáo phát
triển thế giới năm 1997 “Nhà nước trong một thế giới thay đổi” và Báo cáo
Chiến lược “Cải cách các thể chế công và tăng cường nền quản trị” của WB
được công bố vào tháng 11/2000.
Cựu chủ tịch của WB James D.Wolfensohn đã phát biểu trước Ban Giám
đốc (28/09/1999):
“Nguyên nhân của các cuộc khủng hoảng tài chính và nghèo đói là
một và là giống nhau… Nếu như các quốc gia không có một nền
38
hiệu quả, hệ thống xét xử đáng tin cậy, bộ máy hành chính có trách nhiệm giải
quản trị tốt, nếu họ không giải quyết các vấn đề về tham nhũng,
nếu họ không có một hệ thống luật pháp hoàn chỉnh để bảo vệ nhân
quyền, quyền sở hữu và hợp đồng…[thì] sự phát triển của họ sẽ
khiếm khuyết về cơ bản và sẽ không kéo dài”
WB đưa ra 6 nhóm chỉ số để đánh giá chất lượng quản trị của một quốc gia
là: i) tiếng nói và trách nhiệm giải trình; ii) ổn định chính trị và phi bạo lực, khủng
bố; iii) hiệu lực của chính phủ; iv) chất lượng của các quy định; v) thượng tôn pháp
luật; và vi) kiểm soát tham nhũng. Cơ chế để đảm bảo quản trị tốt gồm có 3 yếu tố
lập của ngân hàng trung ương, các quy định về công chức và ngân sách…); ii) tiếng
chính: i) các quy tắc và hạn chế nội bộ (thí dụ, có các hệ thống kiểm toán, sự độc
hội…); và iii) cạnh tranh (thí dụ, có cạnh tranh trong cung cấp các dịch vụ, tham gia
của khu vực tư nhân, các cơ chế giải quyết tranh chấp,…). [121]
39
nói và đối tác (thí dụ, có các hội đồng công tư, các điều tra về phản hồi của xã
Bảng 2.1: Các đặc tính cơ bản của quản trị tốt theo một số
tổ chức quốc tế
Các tổ chức quốc tế Chương trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP)
Ngân hàng thế giới (WB)
Hiệp hội phát triển quốc tế (IDA)
Ngân hàng phát triển châu Á (ADB)
Các đặc tính cơ bản i) đảm bảo sự tham gia; ii) sự công bằng của luật pháp; iii) tính minh bạch; iv) đáp ứng mọi bên liên quan; v) hướng tới sự đồng thuận; vi) bình đẳng; vii) hiệu lực và hiệu quả; viii) trách nhiệm giải trình; và ix) tầm nhìn chiến lược. i) tiến trình hoạch định chính sách công khai và có thể dự đoán được; ii) hệ thống hành chính công quyền chuyên nghiệp; iii) bộ máy hành pháp có trách nhiệm giải trình; iv) xã hội dân sự tham gia tích cực vào các hoạt động công; và v) sự công bằng của luật pháp. i) trách nhiệm giải trình, bao gồm trách nhiệm giải trình về mặt tài chính ở cấp độ vĩ mô và trách nhiệm giải trình đối với hoạt động của tổ chức ở cấp vi mô; ii) tính minh bạch, đặc biệt là minh bạch trong tiến trình phân bổ ngân sách, mua sắm công; iii) sự công bằng của luật pháp, trong đó có tầm quan trọng của một khung khổ pháp lý công bằng, ổn định, có thể dự đoán được và được công chúng biết đến; và iv) sự tham gia, đặc biệt nhấn mạnh cơ hội tham gia của của xã hội dân sự vào việc hình thành các chiến lược phát triển có ảnh hưởng đến cộng đồng. i) trách nhiệm giải trình; ii) đảm bảo sự tham gia (của các bên liên quan trong quá trình hoạch định chính sách); iii) tính có thể dự đoán được; và iv) tính minh bạch. i) trách nhiệm giải trình; ii) tính minh bạch; iii) chống tham nhũng; iv) đảm bảo sự tham gia; v) cải cách pháp lý.
Ngân hàng phát triển châu Phi (AfDB) Nguồn:
UNDP (1997) “Governance for Sustainable Human Development” New York
WB (1994).Governance: The World Bank’s Experience. Washington DC
International Development Association, IDA (1998). Additions to IDA
Resources: Twelfth Replenishment (IDA12). 23 December 1998
Asian Development Bank, ADB (1995). “Governance: Sound Development
Management”, October 1995
International Fund for Agricultural Development, IFAD (1999). Good
Governance: Overview. Executive Board – Sixty-Seventh Session, Rome, 8-9
September 1999
40
2.3. Thể chế kinh tế thị trường và cải cách thể chế kinh tế thị trường
2.3.1. Quan niệm về thể chế kinh tế thị trường và cải cách thể chế kinh tế thị trường
Có nhiều cách diễn đạt khác nhau về kinh tế thị trường song nhìn chung
kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hóa (khi mọi sản
phẩm đều có thể trở thành hàng hóa); nó là một hệ thống kinh tế trong đó các cá
nhân và tổ chức tương tác với nhau thông qua các giao dịch mang tính chất thị
trường để phân bổ và sử dụng nguồn lực đầu vào, sản xuất và phân phối các sản
phẩm đầu ra.
Thể chế kinh tế thị trường bao gồm [1]:
1) Thể chế sở hữu tài sản: gồm các quy định, chuẩn mực đảm bảo mỗi
một tài sản đều có chủ sở hữu, và chủ sở hữu có đầy đủ các quyền sở hữu. Thu
đóng góp của các nguồn lực (vật chất, lao động, trí tuệ) mà họ sở hữu trong việc
tạo ra những giá trị mới trong khối của cải xã hội.
2) Các thể chế đảm bảo quyền tự do kinh doanh: gồm các quy định, chuẩn
nhập của mỗi người được hình thành dựa trên việc thị trường đánh giá mức độ
mực đảm bảo tính đa dạng của các chủ thể thị trường và các chủ thể này có quyền
và tự do kinh doanh. Các chủ thể tự ra quyết định, tự chịu trách nhiệm (gánh chịu
tài sản của mình để tạo ra các hàng hóa trao đổi với người khác).
3) Các thể chế đảm bảo tự do cạnh tranh: gồm các quy định, chuẩn mực
chi phối việc phân bố nguồn lực và sự lựa chọn của các chủ thể trên thị trường.
Mỗi một chủ thể đều phải đối mặt với cạnh tranh trong trao đổi với chủ thể khác
khác. Mối liên kết và tương tác giữa các chủ thể được thực hiện thông qua thị
trường, được dẫn dắt bởi động cơ lợi ích cá nhân, trên cơ sở các giao dịch tự
nguyện. Cạnh tranh là cơ chế thiết lập các mức giá hiệu quả, là phương thức gây
áp lực nhằm buộc các nhà sản xuất phải luôn luôn đổi mới, sáng tạo. Cơ chế
cạnh tranh đảm bảo cho các nguồn lực trong nền kinh tế thị trường được phân bổ
một cách hợp lý và hiệu quả.
41
chi phí, thụ hưởng lợi ích) về các quyết định của mình (như trong việc sử dụng các
4) Các thể chế đảm bảo giá cả các hàng hóa, dịch vụ và các yếu tố sản
xuất được quyết định dựa trên quan hệ cung - cầu. Trong nền kinh tế thị trường,
giá cả là tín hiệu quan trọng nhất phản ánh tính khan hiếm tương đối của nguồn
lực và hàng hóa, truyền dẫn thông tin và dẫn dắt các quyết định của người sản
xuất và tiêu dùng.
5) Nguyên tắc đào thải sáng tạo, theo nghĩa chỉ cho phép sự tồn tại của
những chủ thể phù hợp nhất và do đó trong nền kinh tế thị trường thì phá sản là
phương thức để xã hội “thu hồi” các nguồn lực nằm trong tay những người sử
dụng chúng không hiệu quả để chuyển giao chúng cho người khác.
Nền tảng của nền kinh tế thị trường là dựa trên sự xác lập, thực thi phổ
biến và bảo vệ hữu hiệu quyền sở hữu tư nhân về các tài sản. Tài sản bao gồm
hình như tri thức...là thứ đang trở thành yếu tố quyết định năng lực sáng tạo, của
cải trong nền kinh tế và thu nhập của người sở hữu. Động cơ để kinh tế thị
trường vận hành được trước hết và cơ bản nhất là nhờ hoạt động của những con
nhiều loại, từ các tài sản hữu hình như đất đai, nhà xưởng...đến các tài sản vô
người tư lợi: những người sản xuất, trao đổi trước hết vì lợi ích cá nhân của
mình. Chỉ khi quyền tư hữu được tôn trọng và bảo vệ, các cá nhân mới có thể
tiến hành các hoạt động sản xuất, trao đổi nhằm tối đa hóa các lợi ích cá nhân.
Tôn trọng và phát huy sức mạnh của lợi ích cá nhân trên cơ sở xác lập và bảo vệ
quyền tư hữu, coi đó là động lực sâu xa chi phối hành vi kinh tế của con người
làm nên sức sống năng động và sự thịnh vượng của các nền kinh tế thị trường.
Thị trường hoạt động thông qua “bàn tay vô hình” - cơ chế cạnh tranh và
sự lên xuống của giá cả - như A.Smith đã chỉ ra, là “cơ chế tuyệt diệu có thể
chuyển hóa các nỗ lực theo đuổi lợi ích riêng của các cá nhân thành các lợi ích
của toàn xã hội”. Dựa theo các tín hiệu giá cả trên cả thị trường đầu ra và đầu
vào, các nhà sản xuất sẽ quyết định đầu tư, mở rộng hay thu hẹp sản xuất, tham
gia vào một ngành mới hay rút lui khỏi ngành để từ đó các nguồn lực được phân
bổ trong nền kinh tế. Giá cả được thiết lập thông qua cạnh tranh giữa người bán
42
phát huy được các tiềm năng của mình, mới có thể tự do và độc lập trong việc
và người mua; giá vừa truyền dẫn thông tin về cung, cầu, vừa kết nối người sản
xuất và người tiêu dùng để đảm bảo cho việc sản xuất (cung) ăn khớp với các
nhu cầu (cầu) luôn biến động. Cạnh tranh buộc và khuyến khích các nhà sản xuất
triển khai các hoạt động sáng tạo – đổi mới, áp dụng các tiến bộ công nghệ, nâng
cao năng suất, tạo ra áp lực thực sự cho khoa học, công nghệ phát triển, khiến
cho nền kinh tế thị trường luôn tự tạo ra được động lực để phát triển đi lên.
Không tôn trọng và bảo vệ đầy đủ quyền sở hữu tư nhân về tài sản, không tạo
điều kiện cho khu vực tư nhân phát triển thì nền kinh tế thị trường khó có thể
phát triển bình thường và phát huy được các tiềm năng của nó trọn vẹn.
Như vậy, có thể hiểu cải cách thể chế kinh tế thị trường là các biện pháp
nhằm thay đổi các cấu phần thể chế nói trên (thể chế sở hữu tài sản, các thể chế
chế đảm bảo giá cả các hàng hóa, dịch vụ và các yếu tố sản xuất được quyết định
dựa trên quan hệ cung - cầu, nguyên tắc đào thải sáng tạo). Đối với những nền
kinh tế chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường, các cuộc
cải cách thường theo hướng:
đảm bảo quyền tự do kinh doanh, các thể chế đảm bảo tự do cạnh tranh, các thể
- Thúc đẩy việc bảo đảm quyền sở hữu tư nhân
- Đảm bảo tự do cạnh tranh
- Đảm bảo giá cả các hàng hóa, dịch vụ và các yếu tố sản xuất được quyết
định dựa trên quan hệ cung - cầu
- Đảm bảo nguyên tắc đào thải sáng tạo
Ngoài ra, cải cách thể chế kinh tế thị trường còn có thể được hiểu gồm cải
cách các thị trường yếu tố (như: thị trường đất đai, thị trường sức lao động, thị
trường tài chính, thị trường hàng hoá, thị trường khoa học - công nghệ, v.v.). Để
nền kinh tế thị trường hoạt động hiệu quả, phải bảo đảm hai yêu cầu: i) Sự hiện
diện đầy đủ của tất cả các thị trường nói trên; ii) Các thị trường phải vận hành
đồng bộ. Một trong những trọng tâm khác của cải cách thể chế kinh tế thị trường
còn là thay đổi mối quan hệ giữa nhà nước với thị trường.
43
- Thúc đẩy tự do kinh doanh
Có nhiều biện pháp để thực hiện những sự chuyển đổi nói trên. Tuỳ thuộc
vào mục tiêu trực tiếp của các cuộc cải cách, một số biện pháp có thể được chú
trọng hơn, nhất là những biện pháp có để mang lại hiệu ứng lan toả sâu rộng (ví
dụ, cải cách thể chế sở hữu, tự do cạnh tranh). Đa phần ý kiến hiện nay cho rằng,
ý nghĩa cốt lõi của cải cách kinh tế thị trường là sự tham gia và cạnh tranh của
khu vực tư nhân. Bởi vậy, việc cho phép và tạo ra sự tham gia cạnh tranh của các
chủ thể tư nhân vào một lĩnh vực, hoạt động hoặc thị trường là biện pháp cải
cách thể chế kinh tế thị trường hết sức quan trọng. Trong hầu hết các trường hợp,
điều này ngụ ý việc giảm mức độ và phạm vi tham gia hoặc can thiệp của chính
giảm thuế và loại bỏ hạn ngạch. Tuy nhiên, đôi lúc sự can thiệp của chính phủ là
phủ vào hoạt động kinh tế. Ví dụ, mở cửa thương mại quốc tế thông qua việc
cần thiết để khuyến khích cạnh tranh. Ví dụ, chính phủ có các quy định để bảo
Các nghiên cứu hiện nay và thực tế cũng cho thấy, vấn đề cải cách thể chế
kinh tế ở các nước đang phát triển và kém phát triển - những nơi có nền kinh tế
thị trường chưa hoàn thiện hoặc thậm chí chưa có một nền kinh tế thị trường
vệ quyền của chủ nợ và làm cho ngân hàng hoạt động minh bạch. [84]
theo đúng nghĩa - về bản chất là việc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường và
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường. Đối với các nước châu Phi, luận án tập
chế kinh tế thị trường.
trung phân tích vấn đề chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường và hoàn thiện thể
2.3.2. Khung phân tích cải cách thể chế kinh tế thị trường
Theo cách tiếp cận hệ thống, luận án nghiên cứu vấn đề cải cách thể chế
kinh tế thị trường trong mối quan hệ với cải cách thể chế chính trị và cải cách
nền quản trị quốc gia, theo khung phân tích gồm ba tầng:
i) - Hệ thống các nguyên tắc, chuẩn mực vận hành của nền kinh tế. Đó có
thể là những nguyên tắc, chuẩn mực của thị trường tự do (như ở các nền kinh tế
phát triển) hoặc phi thị trường (như ở các nền kinh tế kế hoạch hóa trước đây)
hoặc những nguyên tắc, chuẩn mực nửa vời, một số của thị trường tự do, một số
thì chưa (như ở các nền kinh tế đang phát triển, chuyển đổi và hội nhập) chi phối
các chiến lược và chính sách ở tầng trên của hệ thống thể chế. Xu hướng cải
44
cách hiện nay là thực hiện những nguyên tắc, chuẩn mực của nền kinh tế thị
trường tự do hiện đại, đảm bảo tạo ra một nền kinh tế “bao hàm”, thí dụ: đảm
bảo quyền sở hữu, tự do hợp đồng, tự do giá cả và tự do cạnh tranh.
Để đo lường sự thay đổi trong các tầng thể chế, chính sách này, luận án sử
dụng các bộ chỉ số:
+ Chỉ số thể chế của Báo cáo chỉ số cạnh tranh toàn cầu của WEF.
+ Bộ chỉ số của Báo cáo Chỉ số môi trường kinh doanh (DB) của WB.
+ Báo cáo Chỉ số tự do kinh tế của Quỹ Heritage.
ii) - Các hướng cải cách thể chế kinh tế thị trường mang tính chất đột phá
quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế theo hướng kế hoạch hoá tập trung hoặc còn
và quan trọng. Đối với nhiều nước châu Phi, nhất là châu Phi Nam Sahara, trong
khép kín sang cơ chế thị trường có ba vấn đề quan trọng hàng đầu nổi lên, đó là: thể
chính; và cải cách hệ thống doanh nghiệp nhà nước theo hướng tư nhân hoá.
iii) - Về các yếu tố nền tảng tác động đến quá trình cải cách thể chế kinh
tế, luận án phân tích theo hai luận điểm, được kiểm chứng thông qua việc nghiên
chế về sở hữu; mở cửa nền kinh tế theo hướng tự do hoá thương mại, đầu tư và tài
cứu trường hợp của các nước: Guine xích đạo, Ghana và Tunisia:
- Luận điểm của Acemoglu và cộng sự cho rằng: cần có cải cách thể chế
“bao trùm” để đảm bảo cho các chuẩn mực của nền kinh tế thị trường tự do hiện
đại, đảm bảo cho các chiến lược, chính sách phát triển có được sự ủng hộ của
người dân, vận hành hiệu quả và đạt được mục tiêu phát triển.
chính trị theo hướng dân chủ hoá, tạo ra cấu trúc quyền lực chính trị bình đẳng,
Bảng 2.2: Cải cách thể chế kinh tế thị trường và dân chủ hoá
Sở hữu
Các hướng cải cách đột phá, quan trọng:
Mở cửa nền kinh tế
Cải cách doanh nghiệp nhà nước
Những nguyên tắc, chuẩn mực vận hành của nền kinh tế thị trường Việc thiết lập, vận hành các nguyên tắc, chuẩn mực về nền chính trị dân chủ
Thể chế kinh tế thị trường nền tảng: Yếu tố tác động chính đối với cải cách thể chế kinh tế thị trường:
- Luận điểm của Ngân hàng thế giới nhấn mạnh yêu cầu phải tập trung
45
hoàn thiện hệ thống các nguyên tắc, chuẩn mực về quản trị nhà nước. Theo WB,
cơ chế để đảm bảo quản trị tốt gồm có 3 yếu tố chính: 1) các quy tắc và hạn chế
nội bộ (thí dụ, có các hệ thống kiểm toán, sự độc lập của ngân hàng trung ương,
các quy định về công chức và ngân sách…); 2) tiếng nói và đối tác (thí dụ, có
các hội đồng công tư, các điều tra về phản hồi của xã hội…); và 3) cạnh tranh (ví
dụ, có cạnh tranh trong cung cấp các dịch vụ, tham gia của khu vực tư nhân, các
cơ chế giải quyết tranh chấp,…). [121]
Bảng 2.3: Cải cách thể chế kinh tế thị trường và quản trị quốc gia
Sở hữu
Các hướng cải cách đột phá, quan trọng: Mở cửa nền kinh tế
Cải cách doanh nghiệp nhà nước
Những nguyên tắc, chuẩn mực vận hành của nền kinh tế thị trường Việc thiết lập, vận hành các nguyên tắc, chuẩn mực về quản trị nhà nước
Các cuộc cải cách ở mỗi tầng thể chế có tính độc lập tương đối. Không
phải quốc gia nào cũng cần tiến hành những cuộc cải cách thể chế sâu rộng (ở tất
Thể chế kinh tế thị trường nền tảng: Yếu tố tác động chính đối với cải cách thể chế kinh tế thị trường:
cả các tầng). Đối với những quốc gia có chính phủ khá vững mạnh, có nền quản
không được đặt lên hàng đầu. Ở các quốc gia dân chủ, nếu một chính phủ không
xử lý tốt các vấn đề kinh tế và để xảy ra khủng hoảng hoặc không có các giải
pháp khắc phục khủng hoảng hữu hiệu, chính phủ đó có thể bị bất tín nhiệm và
bị thất cử. Đối với những quốc gia có nền kinh tế thị trường tự do (các nguyên
tắc của kinh tế thị trường tự do được đảm bảo), vấn đề chủ yếu của các quốc gia
này là cải cách các chính sách và chiến lược kinh tế có tác động trực tiếp đến
hoạt động kinh doanh và phân bổ các nguồn lực của nền kinh tế.
Trong lịch sử, có những quốc gia ĐPT đã gặt hái được một số thành công
mà chưa cần cải cách sâu sắc thể chế kinh tế thị trường. Tuy nhiên, đối với một
nền kinh tế thị trường chưa hoàn hảo, những cuộc cải cách này cũng có giới hạn.
Một nền kinh tế sẽ không thể huy động được nguồn lực hiệu quả lâu dài (như
46
trị nhà nước tốt, nền tảng dân chủ lâu đời, vấn đề cải cách thể chế nhà nước
vốn, tài nguyên) nếu vấn đề về quyền sở hữu không được giải quyết thỏa đáng.
Một nền kinh tế sẽ không thể khuyến khích sáng tạo, giúp cho sáng tạo trở thành
động lực của tăng trưởng một cách lâu dài, nếu như những quyền sở hữu trí tuệ
không được đảm bảo. Tương tự, nguồn lực sẽ không thể được phân bổ một cách
hiệu quả trong nền kinh tế nếu như không có một cơ chế giá cả tự do .v.v…Khi
đã đến giới hạn này, nếu muốn phát triển hơn nữa, nền kinh tế tất yếu đòi hỏi
phải cải cách thể chế kinh tế thị trường.
Một khi đã được thiết lập (được xã hội thừa nhận và được ghi trong luật
pháp), các nguyên tắc, chuẩn mực của nền kinh tế thị trường sẽ khó thay đổi hơn
là các chính sách và chiến lược vốn lệ thuộc nhiều vào nhiệm kỳ chính phủ.
Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp đã được tư nhân hóa sẽ khó quốc hữu hóa
vào thị trường thế giới quay trở lại thời kỳ khép kín, hay chuyển từ một cơ chế
giá cả tự do quay trở về cơ chế giá cả độc quyền và chịu sự kiểm soát chặt chẽ
.v.v…do những nhóm lợi ích theo đuổi những nguyên tắc cũ này không còn đủ
quyền lực (trong cả hai khía cạnh pháp lý và thực tế) và ảnh hưởng như thời kỳ
trở lại, cũng giống như việc rất khó chuyển một nền kinh tế đã hội nhập sâu rộng
trước. Trong thời kỳ khủng hoảng, tuy những sự chuyển đổi ngược dòng này có
trị quốc gia vững mạnh hay một nền chính trị dân chủ sẽ giúp duy trì được các
nguyên tắc, chuẩn mực của thị trường tự do và hiệu quả của các chính sách,
chiến lược phát triển nhất là trong thời kỳ khủng hoảng, khi các trào lưu đòi hỏi
bảo hộ, khép cửa nền kinh tế có cơ hội trỗi dậy. Tiến trình cải cách ở cấp độ này
sẽ khó khăn, phức tạp hơn bởi có sự đan xen, níu kéo lẫn nhau giữa các tầng thể
chế và các nhóm quyền lực trong xã hội.
thể xảy ra song đó chỉ là những quá trình tạm thời. Việc thiết lập một nền quản
2.4. Cải cách thể chế kinh tế thị trường của một số nước và nhóm nước
2.4.1. Cải cách thể chế kinh tế thị trường ở Đông Âu và Nga
Trong thế kỷ 20, do nhận định sai lầm về quy luật quan hệ sản xuất phải
phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, nên Liên Xô và các nước
XHCN trước đây đã áp dụng cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa tập trung, thủ
47
tiêu nền kinh tế thị trường TBCN; trong lĩnh vực sở hữu, nôn nóng xóa bỏ chế
độ sở hữu tư nhân, thiết lập chế độ công hữu một cách cứng nhắc. Các nền kinh
tế kế hoạch hóa tập trung ở Liên Xô và Đông Âu có hai đặc trưng cơ bản thường
được nói đến là [16] [23] [25]:
Thứ nhất, chế độ kinh tế cơ bản dựa trên hai hình thức sở hữu là sở hữu
nhà nước và sở hữu tập thể. Các nền kinh tế này được điều hành theo cơ chế
hành chính tập trung, quan liêu bao cấp; các quan hệ thị trường như quan hệ
hàng-tiền bị thủ tiêu. Nhà nước chính thức có một quyền lực kinh tế vô cùng to
lớn: điều khiển tất cả các lĩnh vực cơ bản của nền kinh tế, quyết định sản xuất cái
gì, bao nhiêu và như thế nào, cũng như phân phối kết quả sản xuất ra sao; và hệ
thống giá cả bao gồm giá cả các mặt hàng sản xuất và tiêu dùng cũng như giá cả
kém vì không có một nhà nước nào có đủ năng lực để ra quyết định cho mọi hoạt
động của đời sống kinh tế xã hội thay cho các thực thể tham gia nền kinh tế.
Thứ hai, nền kinh tế khép kín hay “đóng cửa,” hoặc chỉ đề cao chính sách
thay thế nhập khẩu còn trao đổi hàng hóa, dịch vụ chủ yếu chỉ giới hạn trong
ngoại hối bị quản lý chặt chẽ. Điều này khiến cho hệ thống kinh tế hoạt động yếu
phạm vi các quốc gia trong cùng hệ thống XHCN. Tuy nhiên, do cùng theo đuổi
dựng được một lợi thế so sánh cần có trong hội nhập và những nước đóng vai trò
đầu tàu không có đủ sức mạnh kinh tế để hỗ trợ các nước kém phát triển hơn. Sự
trợ giúp về mặt kỹ thuật cho các nước đi sau chỉ là buộc các nước này cố gắng
sao chép lại các mô hình từ Liên Xô cũ và các nước Đông Âu.
Những sai lầm chủ quan nghiêm trọng kéo dài trên cản trở sự cải tổ, cải
cách, đổi mới đúng đắn, làm triệt tiêu động lực phát triển. Kết quả là, hệ thống
XHCN trên thế giới sau một thời gian phát triển thành công đã trở nên trì trệ,
nền kinh tế rơi vào suy thoái, khủng hoảng rồi sụp đổ.
Sau khi từ bỏ chủ nghĩa xã hội, Liên Xô và các nước Đông Âu tiến hành
cải cách, chuyển đổi. Ngoài những cải cách chính trị, về trên lĩnh vực kinh tế,
các nước này đã tiến hành hai quá trình chuyển đổi quan trọng là: quá trình tự do
48
một cách thức phát triển giống nhau, các nước trong hệ thống XHCN không xây
hóa mà bản chất là quá trình thị trường hóa; và quá trình tư nhân hóa mà bản
chất là việc chuyển đổi từ sự thống trị của sở hữu nhà nước và các hình thức sở
hữu tương tự sang sự thống trị của sở hữu tư nhân.
Quá trình tự do hóa các hành vi kinh tế cho phép hầu hết các loại giá cả
được xác định bởi các lực lượng thị trường để phân bổ nguồn lực một cách hiệu
quả. Một phần của quá trình này là tự do hóa thương mại, loại bỏ dần hàng rào
thuế quan để giá cả trên thị trường trong nước tiếp cận dần với giá cả thị trường
thế giới. Trong nước, các quốc gia này cắt giảm tiến tới xóa bỏ việc trợ cấp hàng
tiêu kế hoạch sản xuất; xóa bỏ hệ thống phân bổ nguồn lực tập trung; cho phép
hóa cho người tiêu dùng; xóa bỏ trợ giá cho người sản xuất; xóa bỏ hệ thống chỉ
kết quả hoạt động của doanh nghiệp; kèm theo đó là dỡ bỏ các qui tắc ấn định
giá cả và tự do hóa thương mại trong nước. Về ngoại thương, các nước này bãi
bỏ giấy phép và các qui định hạn chế số lượng xuất nhập khẩu; cho phép các
doanh nghiệp thuộc nhiều loại hình sở hữu khác nhau tham gia vào hoạt động
các cơ sở sản xuất được tự chủ trong kế hoạch sản xuất và tự chịu trách nhiệm về
ngoại thương đồng thời từng bước xóa bỏ độc quyền của các tổ chức ngoại thương
mại đồng thời hạ thấp hàng rào thuế quan để khuyến khích xuất nhập khẩu; thực
hiện thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Ở hầu hết các nước, chính phủ từng bước cho
phép chuyển đổi nội tệ trong tài khoản vãng lai (có nghĩa là các doanh nghiệp trong
nước có thể tự do mua và bán ngoại tệ để phục vụ mục đích hiện tại) đồng thời thực
hiện phá giá đồng nội tệ xuống bằng tỷ lệ ở chợ đen.
Quá trình tư nhân hóa nhằm cải cách các doanh nghiệp nhà nước để tạo
dựng một khu vực công ty linh hoạt và hiệu quả, tiến tới mục tiêu cuối cùng là
phân bổ và khai thác hiệu quả hơn các nguồn lực khan hiếm của nền kinh tế và
cải thiện hiệu quả sản xuất. Bên cạnh mục tiêu hiệu quả kinh tế, tư nhân hóa có
thể nhằm mục tiêu chính trị. Ở các nước chuyển đổi, có không ít quan niệm rằng
tư nhân hóa là tất cả các biện pháp góp phần vào quá trình phi nhà nước hóa các
49
nhà nước; áp dụng thuế quan như là một công cụ hữu hiệu của chính sách thương
hoạt động kinh tế. Có nghĩa là nó sẽ làm triệt tiêu sở hữu nhà nước, phá bỏ mô
hình XHCN và tạo ra một lớp các chủ doanh nghiệp và các nhà tư bản mới. Tư
nhân hóa cũng có thể nhằm mục tiêu tài chính do nó tạo ra doanh thu cho nhà
nước. Ngoài ra, vào giai đoạn đầu của quá trình chuyển đổi, các chính phủ có thể
sử dụng tư nhân hóa như một phương tiện ổn định phụ trợ bằng cách đưa tài sản
nhà nước ra bán để triệt tiêu lượng tiền dư thừa khi có nhiều khoản tiết kiệm của
dân chúng.
Tư nhân hóa được coi là nhân tố cơ bản của quá trình chuyển đổi ở các nước
Trung và Đông Âu, các nước vùng Baltics và cộng đồng các quốc gia độc lập. Ở
các quốc gia này, tư nhân hóa được tiến hành cùng với các biện pháp nhằm cấu trúc
lại nền kinh tế sau: Một là, bắt đầu tư hữu hóa và tháo gỡ độc quyền nhà nước trước
mới và thị trường lao động tự do mềm dẻo. Hai là, hình thành môi trường thị
trường tài chính lành mạnh thông qua cải tổ khu vực ngân hàng, tài chính và cải tổ
thuế. Ba là, phát triển mạng lưới an sinh xã hội thay thế hệ thống bao quát tất cả từ
“nôi cho đến mộ” trước đây, và làm giảm ảnh hưởng của các biện pháp khổ hạnh
đây; áp dụng các luật cạnh tranh tự do như tự do gia nhập thị trường của các công ty
của chuyển đổi cơ cấu. Bốn là, đề xướng chính sách công nghiệp để xác định “kẻ
hoạt động hỗ trợ và đặt ra các chính sách thích hợp như khuyến khích bằng giảm
thuế, áp dụng cơ chế thưởng xuất khẩu, dùng thuế quan bảo hộ những ngành công
nghiệp non trẻ, quan tâm đến môi trường hay giúp các doanh nghiệp hạn chế thiệt
hại do thay đổi chính sách gây ra.[23]
Thực tế cũng cho thấy, tại một số nước đã theo đường lối XHCN trước
đây, lý luận và thực tiễn đã thay đổi 180 độ: từ chỗ tôn thờ chế độ công hữu
chuyển sang tôn thờ chế độ tư hữu; từ chỗ nỗ lực phát triển khu vực nhà nước và
các xí nghiệp quốc doanh quy mô lớn chuyển sang tư nhân hóa ồ ạt; từ chỗ “cào
bằng” với mong muốn có được bình đẳng xã hội sang chỗ sẵn sàng chấp nhận
một nhóm người giàu lên nhanh chóng, tích lũy được những nguồn tài sản khổng
lồ...gây ra sự phân hóa cao trong xã hội.
50
thắng, người thua” trong các lĩnh vực công nghiệp sẽ phải tái cơ cấu, xác định các
Trong khi đó, một số nước XHCN còn lại đã kịp thời nhận ra những sai
lầm trên, tiến hành cải cách, đổi mới, xây dựng những mô hình kinh tế thị trường
phù hợp như kinh tế thị trường định hướng XHCN của Việt Nam, kinh tế thị
trường XHCN Trung Quốc; điều chỉnh các thể chế của nền kinh tế thị trường
cho phù hợp với hoàn cảnh mới trong đó có sở hữu... Quá trình cải cách kinh tế
của Trung Quốc thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ: vừa tiến hành cải cách mang
tính “thị trường” và giảm bớt vai trò của nhà nước; vừa phải đảm bảo thực hiện
mục tiêu XHCN; đặc biệt, nhà nước đóng vai trò chính yếu trong việc xây dựng
nền kinh tế thị trường. Về sở hữu, tư liệu sản xuất và các tổ chức kinh tế đầu tàu
đều thuộc sở hữu của nhà nước hoặc sở hữu hỗn hợp, nhưng nền kinh tế vẫn
được vận hành theo nguyên tắc của thị trường. Tuy vậy, quá trình cải cách, xây
và khám phá.
dựng và phát triển này vẫn đang được các nước XHCN hiện nay tiếp tục tìm tòi
2.4.2. Cải cách thể chế kinh tế thị trường ở Hàn Quốc
Kể từ khi Chiến tranh Triều Tiên kết thúc năm 1953, Hàn Quốc đã nỗ lực
tái thiết sau chiến tranh tập trung vào công nghiệp hóa, đô thị hóa, và tăng
trưởng kinh tế định hướng xuất khẩu. Hàn Quốc đã chuyển từ một quốc gia
50 năm. Tuy nhiên, trong vòng 50 năm đó, đất nước Hàn Quốc cũng đã trải qua
nhiều thăng trầm và nhiều cuộc cải cách thể chế quan trọng: Cuộc cải cách thể
chế thứ nhất là tiến trình dân chủ hóa từ cuối những năm 1970; cuộc cải cách thể
chế thứ hai diễn ra sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997-1998; còn cuộc
cải cách gần đây nhất diễn ra trong bối cảnh hậu khủng hoảng tài chính và suy
thoái kinh tế toàn cầu.
Mối liên hệ qua lại giữa ba nguyên tắc “ý thức hệ Chiến tranh lạnh”, “nhà
nước độc tài” và “phát triển kinh tế” đã chi phối sâu sắc nền kinh tế, xã hội và
chính trị Hàn Quốc dưới thời kỳ độc tài quân sự (1961 – 1987).
Kể từ năm 1962, chính quyền độc tài quân sự của ông Park Chung-Hee đã
51
thuộc “thế giới thứ ba” sang một quốc gia thuộc “thế giới thứ nhất” trong vòng
đưa ra và thực thi những kế hoạch phát triển kinh tế theo con đường tư bản chủ
nghĩa đồng thời dựa vào mô hình nhà nước chỉ đạo tăng trưởng kinh tế. Hàn
Quốc đã chuyển trọng tâm của nền công nghiệp sang sản xuất để xuất khẩu, tiến
hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa thành công và trở thành con hổ kinh tế ở
châu Á.
Tuy nhiên, trong chính sách đối nội và đối ngoại, Tổng thống Park
Chung-hee đã để lại những dấu ấn rất tiêu cực. Chế độ của ông coi đàn áp chính
trị là sách lược chính đối với những người chống đối nên rất khắc nghiệt với các
công dân của mình. Park Chung-hee đã cho ban hành nhiều sắc lệnh chống công
nhân, cấm mít tinh, biểu tình, diễu hành và đàn áp dã man các phong trào đấu
tranh chống đối chính phủ.
hoảng trầm trọng. Chính sách phản dân chủ của chính quyền Park Chung Hee đã
dấy lên phong trào chống đối chính phủ mạnh mẽ của mọi tầng lớp. Những làn
sóng biểu tình phản đối chế độ độc tài càng ngày càng lan rộng ở Hàn Quốc vì
Từ nửa sau những năm 1970, xã hội Hàn Quốc bắt đầu rơi vào khủng
có quá nhiều người dân không thể hài lòng với cách cai trị độc đoán của Park
Chunghee. Sau khi ông Park Chung-hee bị ám sát năm 1979, Hàn Quốc trải qua
Tổng thống Chun Doo-hwan trong bối cảnh chính trường Hàn Quốc dần chuyển
từ hỗn loạn sang ổn định hơn. Trong cuộc bầu cử dân chủ đầu tiên ở Hàn Quốc
năm 1987, một chính quyền dân chủ đã được thành lập sau chiến thắng của ông
Roh Tae-woo. Sau cuộc bầu cử dân chủ lần hai vào năm 1992, ông Kim Young-
sam đã trở thành tổng thống.
Tổng thống Kim Young-sam đã có nhiều cố gắng cải cách hệ thống hành
chính và nền kinh tế Hàn Quốc. Ông đã phát động các chiến dịch chống tham
nhũng quyết liệt. Đồng thời, ông cũng đã ân xá cho hàng ngàn tù nhân chính trị
[22]. Năm 1997, đảng đối lập đã chiến thắng trong cuộc bầu cử dân chủ lần thứ
ba tại Hàn Quốc và đạt được sự chuyển giao quyền lực bằng con đường hoà
52
hai đời tổng thống là ông Choi Kyu-hah và người kế nhiệm ông Choi Kyu-hah là
bình. Năm 2007, người Hàn Quốc đã kỷ niệm 20 năm nền dân chủ được thiết lập
tại nước này.[28]
Trước khủng hoảng tài chính châu Á 1997-1998, kinh tế Hàn Quốc đã tận
hưởng liên tiếp hơn 3 thập kỷ tăng trưởng ngoạn mục. Hàn Quốc chuyển đổi kỳ
diệu từ một quốc gia “nghèo khổ” thành “cơ sở công nghiệp chế tạo hùng
mạnh”. Sự “thần kỳ” này là kết quả của chiến lược công nghiệp hoá định hướng
bởi nhà nước và thực hiện các tập đoàn kinh doanh sản xuất lớn (chaebol).
Khởi đầu từ thập kỷ 1960, chủ nghĩa độc đoán phát triển bao trùm tư duy
của lãnh đạo Hàn Quốc. Chính phủ Hàn Quốc trong thời kỳ dài đã định hướng
chiến lược cho doanh nghiệp, can thiệp sâu vào các quyết định kinh doanh sản
xuất. Nhà nước sử dụng quyền lực của mình để phân bổ nguồn lực theo ý chí
đổi diện mạo của nền kinh tế Hàn Quốc song cùng với quá trình công nghiệp
hoá, chủ nghĩa độc đoán phát triển đã tạo điều kiện cho sự lan rộng của “chủ
nghĩa tư bản thân quen” vốn chứa đựng sự dễ dãi, khuyến khích triệt thoái
chính trị. Mặc dù chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu đã làm thay
nguyên tắc dân chủ và minh bạch trong kinh doanh.
Với nhiệm vụ bà đỡ cho doanh nghiệp, chính phủ Hàn Quốc dành nhiều ưu
số chaebol thuộc sở hữu gia đình với kỳ vọng họ là lực lượng chủ lực để hiệnthực
hoá chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu. Để tạo điều kiện cho các
chaebol thực thi mục tiêu kinh tế đầy tham vọng do chính phủ đặt ra, mối quan hệ
ba bên nhà nước - ngân hàng - doanh nghiệp đã được khai thác tối đa. Cùng với
thời gian, mối quan hệ này không còn có động cơ hoàn toàn “trong sáng”, nó biến
chất thành liên minh tay ba với nhiều hoạt động kinh doanh thiếu minh bạch, quản
lý công ty lỏng lẻo, quan hệ gia đình trong các chaebol chi phối các quyết định
quản trị công ty, bỏ qua trách nhiệm giải trình. Nhiều quyết định kinh doanh mắc
phải sai lầm nghiêm trọng do sự câu kết của liên minh tay ba này.
Những thành công kinh tế của Hàn Quốc đã rất ấn tượng cho đến khi khủng
53
đãi về vốn, về chính sách thuế cũng như quan thuế, về thể chế quản lý…cho một
hoảng tài chính châu Á xảy ra. Sự sụp đổ tài chính vào năm 1997-1998 của Hàn
Quốc đã buộc giới chức nước này phải thừa nhận “khuyết tật” ngay trong mô hình
vốn từng nhận được nhiều ca ngợi. Lãnh đạo Hàn Quốc đã thừa nhận sai lầm cơ
bản là: nền kinh tế thị trường được xây dựng trong môi trường thiếu minh bạch và
bỏ qua giá trị dân chủ đích thực. Khi các tập đoàn kinh tế , các công ty có vấn đề về
năng lực tài chính, về hiệu quả đầu tư, về quản trị kinh doanh, về thể chế hoạt động
hay về tính minh bạch…chúng làm suy yếu sức mạnh và làm giảm độ tín nhiệm của
nền kinh tế. Các chaebol được coi như những quả đấm thép hiện thực hoá thành
công ý chí chính trị của lãnh đạo nhà nước Hàn Quốc, nhưng đồng thời chính chúng
đã dẫn Hàn Quốc đến đổ vỡ tài chính.
Cuộc khủng hoảng tài chính châu Á đã làm bộc lộ những khiếm khuyết do
việc điều hành vĩ mô độc đoán đến lúc cần phải được thay thế bằng cách thức
điều hành dân chủ, công khai, minh bạch thông qua tái cấu trúc nền kinh tế bằng
cách cải cách thể chế kinh tế trên nền tư duy phát triển mới, theo đuổi song song
dân chủ và kinh tế thị trường. Chính phủ Hàn Quốc trong cơn bĩ cực đã phải
thực thi chủ nghĩa độc đoán phát triển tạo ra. Sau thời kỳ phát huy tính tích cực,
chấp nhận điều kiện tái cấu trúc khắc nghiệt mà IMF đưa ra để đổi lấy gói cứu
Một trong những nội dung quan trọng nhất của tái cấu trúc nền kinh tế
Hàn Quốc sau thời kỳ khủng hoảng châu Á là tái cấu trúc khu vực doanh nghiệp,
cụ thể là các chaelbo lớn vốn đóng vai trò chủ lực trong hầu hết các ngành công
nghiệp và dịch vụ của nền kinh tế quốc gia. Đồng thời với vai trò quan trọng
thúc đẩy kinh tế phát triển trong nhiều thập kỷ qua, các doanh nghiệp Hàn Quốc,
đặc biệt là những chaebol, đã áp dụng mô hình quản trị chứa đựng quá nhiều
khiếm khuyết nên thất bại là điều khó tránh khỏi. Một loạt biện pháp khắc nghiệt
đã được IMF đưa ra nhằm cải cách nền quản trị của các chaebol, như: tăng
cường sự minh bạch, nghiêm cấm các hình thức bảo lãnh chéo, tập trung vào các
lĩnh vực cốt lõi, nghiêm cấm các hình thức hối lộ, các hình thức tác động lên quá
trình ra quyết định chính sách, v.v.
54
trợ 65 tỷ đôla vào tháng 12 năm 1997.
Cuộc khủng hoảng này đã buộc lãnh đạo nhà nước và doanh nghiệp phải
cùng nhau nắn chỉnh điều hành vĩ mô cũng như vi mô vào đúng khuôn khổ. Hàn
Quốc đã đoạn tuyệt với chủ nghĩa độc đoán phát triển, nghiêm túc xoá bỏ những
yếu kém trong quản trị nhà nước cũng như quản trị công ty. Vì lợi ích lâu dài của
quốc gia, chương trình tái cấu trúc kinh tế nhằm giúp chuyển đổi nền kinh tế
Hàn Quốc từ mô hình độc đoán phát triển sang mô hình kinh tế thị trường minh
bạch và tự do tài chính nhằm thu hút đầu tư và công nghệ nước ngoài, từ đó thúc
đẩy sự lớn mạnh và thâm nhập rộng hơn của các doanh nghiệp Hàn Quốc vào thị
trường toàn cầu [17].
2.4.3. Cải cách thể chế kinh tế thị trường ở Trung Quốc
Trong một thời gian dài, chính sách đóng cửa kinh tế với bên ngoài đã hạn
tiến của thế giới vào Trung Quốc, khiến cho nền kinh tế nước này chậm phát
triển, khoảng cách về kinh tế với các nước và ngay cả với các phần lãnh thổ của
Trung Quốc như Hồng Kông, Đài Loan, Ma Cao ngày càng xa.
chế việc thu hút nguồn vốn cũng như những thành quả khoa học công nghệ tiên
Sau năm 1978, Trung Quốc tiến hành cải cách kinh tế, khởi đầu bằng việc
những thành công ban đầu của 4 đặc khu trên, để đáp ứng yêu cầu mở cửa đối
ngoại hơn nữa, Trung Quốc đã thành lập đặc khu kinh tế thứ 5 bao gồm toàn
bộ đảo Hải Nam). Trong điều kiện thực tế của Trung Quốc những năm đầu thập
kỷ 1980 thì ĐKKT là mô hình hoàn toàn mới, vừa mang tính cách tân mạnh mẽ,
vừa mang tính thử nghiệm táo bạo nhằm tạo ra bước đột phát trong phát triển
kinh tế. Với những bước đi thận trọng nhưng khẩn trương, Trung Quốc đã tạo ra
đột phá trong tiến trình mở cửa thông qua các khu kinh tế: bắt đầu từ điểm (5 đặc
khu kinh tế ) đến tuyến (14 thành phố mở cửa ven biển), đến diện (3 vùng mở
cửa ven sông, ven biển, ven biên giới); từng bước hình thành cục diện mở cửa
toàn diện, nhiều tầng nấc từ Nam đến Bắc, từ Đông sang Tây, từ ven biển vào
nội địa theo kiểu cuốn chiếu tạo nên không gian thông thoáng cho các nhà đầu
55
xây dựng những đặc khu kinh tế (ĐKKT) mở (Tháng 4/1988, dựa trên cơ sở
tư, đồng thời hoàn thành cơ bản quá trình mở cửa trong phạm vi cả nước ở
những mức độ khác nhau.
Đặc biệt, năm 2001, Trung Quốc đã gia nhập WTO, đánh dấu giai đoạn
mở cửa toàn diện của nền kinh tế nước này. Tiến trình gia nhập WTO cũng được
xem là bước ngoặt có thể tạo ra những thay đổi lớn trong hệ thống thể chế kinh
tế của Trung Quốc. Sau khi gia nhập WTO, Trung Quốc đã tiến hành nhiều biện
pháp nhằm thực hiện các cam kết nói trên như sửa đổi Hiến pháp, luật và quy
các điểm trả lời câu hỏi và cung cấp thông tin liên quan đến WTO như Trung
tâm thông báo và và cung cấp thông tin WTO của Trung Quốc; Văn phòng
WTO và Cục hội chợ thương mại và xuất nhập khẩu). Mặc dù có nhiều nỗ lực
định của các bộ, ngành cấp trung ương và địa phương (Trung Quốc đã thành lập
là một trong những thị trường kém minh bạch.Trung Quốc đã cố gắng minh bạch
hóa quá trình ra quyết định và chính sách theo cam kết với WTO song nỗ lực
này vẫn chưa được tiến hành đồng bộ. Thí dụ, Bộ Thương mại của Trung Quốc
đi đầu trong nỗ lực minh bạch hóa tiến trình soạn thảo và công bố các văn bản
cải cách nền kinh tế nhằm đáp ứng các yêu cầu của WTO, Trung Quốc vẫn còn
song các bộ, ban ngành khác của Trung Quốc vẫn còn chưa theo kịp. Ngoài ra,
“quy định” và “thương mại”[48] vì thế vẫn còn sử dụng các biện pháp không
minh bạch nhằm bóp méo thương mại (theo Cơ quan Đại diện Thương mại Hoa
Kỳ). Mặc dù Chính phủ trung ương Trung Quốc quyết tâm nghiêm túc thực thi
các cam kết với WTO thì do có các lợi ích cục bộ của mình chính quyền địa
phương nhiều nơi vẫn cố tình trì hoãn thực thi các cam kết này [74].Việc chính
phủ trung ương Trung Quốc cho phép các địa phương có những thời hạn thực thi
cam kết khác nhau cũng khiến cho việc thi hành cam kết trở nên thiếu đồng bộ.
Chính quyền địa phương ở các nơi có nhiều tự chủ về kinh tế ít muốn tuân thủ
các cam kết với WTO hơn do họ không lệ thuộc vào chính phủ trung ương mà
vào nguồn thuế đối với các công ty địa phương và luôn muốn bảo vệ lợi ích của
các công ty này [99].
56
nhiều cơ quan chính phủ của Trung Quốc cũng chưa tách bạch hai chức năng
Thực tế cho thấy, một hệ thống luật pháp - hành chính - kinh tế của Trung
Quốc vẫn còn khá phức tạp với những đặc điểm như:
- Tổ chức chính quyền bao gồm rất nhiều “kênh” thông báo và hướng
dẫn trong toàn hệ thống như qua Đảng, qua chính phủ và qua các tổ
chức địa phương [76].
- Hệ thống luật pháp thiếu các quy định chặt chẽ về mối quan hệ giữa
chính quyền trung ương và chính quyền địa phương đang có quyền
hành nhiều hơn trong quá trình phi tập trung hóa [57].
- Ngoài hệ thống luật pháp còn có một hệ thống quy định dưới luật gồm
các văn bản hành chính và các tài liệu hướng dẫn chồng chéo và nhiều
khi không được công khai hóa [57].
yếu là do thiếu thông tin, tâm lý dựa vào thói quen tập quán cũ và tồn
tại các sức ép chính trị xã hội tác động đến các quyết định kinh tế.[50]
Chính những “rào cản nội bộ” này đang cản trở tiến trình mở cửa và phát
- Hệ thống thể chế kinh tế bảo thủ và thiếu năng động. Nguyên nhân chủ
triển xa hơn của Trung Quốc. Các chính sách kinh tế méo mó, bất cập thể hiện qua
các vấn đề như: tình trạng phát triển dàn trải, thiếu vững chắc; đầu tư xây dựng cơ
cạnh tranh gay gắt trên thị trường quốc tế, mức tiêu thụ nội bộ bị hạn chế bởi giá cả
tăng cao. Tất cả những vấn đề này lộ rõ và trở nên nghiêm trọng hơn trong bối cảnh
nền kinh tế khó khăn do tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu.
Báo cáo Đại hội 18 Đảng Cộng Sản Trung Quốc năm 2011 đã vạch ra
phương hướng phát triển Trung Quốc trong thời gian tới, đi sâu cải cách thể chế
kinh tế. Cụ thể báo cáo đã đưa ra một số nội dung quan trọng. Nổi bật là “Quan
điểm phát triển khoa học” được đưa vào cương lĩnh, là tư tưởng chỉ đạo xây
dựng và phát triển Trung Quốc trong những năm tới. Trong giai đoạn phát triển
mới hiện nay, quan trọng nhất chính là Trung Quốc cần phải tăng cường động
lực mới trong phát triển kinh tế, đó chính là động lực sáng tạo, từ việc dựa quá
57
bản tăng trưởng quá nóng; đồng thời tập trung quá mức vào nền kinh tế xuất khẩu
nhiều vào lợi thế về nhân công, về đất đai phải chuyển sang dựa vào lợi thế về
sáng tạo và đi sâu cải cách để hình thành lợi thế về chế độ.
Sách xanh năm 2013 cho rằng, hiện Trung Quốc đã bước vào giai đoạn
phát triển mới cao hơn, trong ngắn hạn các biện pháp hành chính vẫn còn có hiệu
quả, nhưng tín hiệu giá cả bị méo mó, trái với quy luật giá trị, có thể khiến
những mâu thuẫn tích lũy nhiều thêm, giải quyết cũng ngày càng khó. Vì thế,về
lâu dài Chính phủ nên giảm chức năng và sự can thiệp của mình vào tất cả các
lĩnh vực mà dần dần chỉ can thiệp trong giới hạn, và cung cấp các dịch vụ công
cộng hiệu quả, để cho cơ chế thị trường, cơ chế xã hội phát huy tác dụng lớn
hơn, nhiều hơn trong việc phân bổ các nguồn lực và trật tự xã hội [29].
Hội nghị Trung ương 3 khóa XVIII Đảng Cộng sản Trung Quốc diễn ra
thay đổi chính sách “chưa từng thấy”, với một kế hoạch “cải cách toàn diện” chi
tiết nhằm chuyển đổi mô hình tăng trưởng và tái điều chỉnh cơ cấu kinh tế, tăng
gấp đôi mức sống của người dân Trung Quốc vào năm 2020. Phương hướng cải
vào tháng 11 năm 2013 là sự kiện hết sức quan trọng, được đánh giá là có những
cách của Hội nghị lần này chính là tự do hóa thị trường, khuyến khích sáng tạo
thấy, "bàn tay" của chính phủ quá dài, chính phủ quản quá nhiều, nhưng quản
không hiệu quả, lấy "phê duyệt hành chính" thay thế cơ chế thị trường, gây nên
những chướng ngại cho việc tự do hóa thị trường, biểu hiện chủ yếu trên 3
phương diện: (1) Thủ tục hành chính gây phiền hà, nảy sinh tham nhũng; (2) Các
ngành độc quyền (chủ yếu thuộc khu vực kinh tế nhà nước) gây lũng đoạn thị
trường; (3) Chủ nghĩa bảo hộ địa phương, chia cắt thị trường, hạn chế đến tự do
lưu thông. Những điều này tạo nên lợi ích nhóm cực lớn, bóp méo giá cả, chia
cắt thị trường, ảnh hưởng đến cạnh tranh, phá hoại nguyên tắc công bằng thị
trường, khiến nền kinh tế mất sức sống, doanh nghiệp mất phương hướng.
"Quyết định của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc về những vấn đề trọng
58
và cạnh tranh, tăng minh bạch chính phủ.Thực tế là lâu nay ở Trung Quốc cho
đại toàn diện đi sâu cải cách" được thông qua tại Hội nghị có nêu: "Cải cách thể
chế kinh tế là trọng điểm của toàn diện đi sâu cải cách, vấn đề cốt lõi là cần làm
rõ mối quan hệ giữa chính phủ và thị trường, cho phép thị trường đóng vai trò
quyết định trong việc phân bổ các nguồn lực và cải thiện vai trò của chính phủ".
Thực chất, thị trường quyết định phân bổ nguồn lực là quy tắc thông thường của
kinh tế thị trường, kiện toàn thể chế kinh tế thị trường XHCN cần tôn trọng quy
luật này. Đồng thời, từ nay về sau Chính phủ sẽ xác định vị trí hợp lý của mình,
thực hiện chuyển đổi chức năng của chính phủ, xây dựng pháp chế, nhà nước
trực tiếp phân bổ các nguồn lực (điều tiết vi mô). Chức năng và tác dụng của
pháp trị và chính phủ loại hình phục vụ. Giảm với mức độ lớn việc chính phủ
vụ công, đảm bảo cạnh tranh công bằng, thúc đẩy phát triển bền vững, bổ trợ đối
với những thất bại của thị trường.
"Quyết định" khẳng định chế độ công hữu là chủ thể, tuy nhiên "kinh tế
công hữu và phi công hữu đều là bộ phận cấu thành quan trọng của kinh tế thị
chính phủ chủ yếu là đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, tăng cường và ưu hóa dịch
trường XHCN, đều là cơ sở quan trọng phát triển kinh tế xã hội Trung Quốc.
loại hình sở hữu, "tài sản kinh tế quốc hữu không được xâm phạm, tài sản của
kinh tế phi công hữu cũng vậy, không được xâm phạm". Như vậy, kinh tế công
hữu và kinh tế phi công hữu được đối xử bình đẳng như nhau. Hơn nữa, đây
cũng là quy định mang tính pháp lý về bảo vệ quyền tài sản của vốn tư nhân, vốn
nước ngoài tại Trung Quốc, điều này khiến họ yên tâm khi đầu tư vào Trung
Quốc [29].
Hoàn thiện chế độ bảo vệ quyền tài sản, quyền tài sản chính là cốt lõi của các
2.4.4. So sánh kinh nghiệm cải cách thể chế kinh tế thị trường của các nước
và khu vực
Trong các cuộc cải cách thể chế kinh tế thị trường, trọng tâm nổi bật nhất
là điều chỉnh mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường. Phần lớn quá trình cải
59
cách kinh tế thực chất là những quá trình điều chỉnh sự cân bằng giữa chức năng
nhà nước - thị trường trong điều hành nền kinh tế. Điều này thể hiện rõ rệt nhất ở
những nước trong quá trình chuyển đổi từ cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung
sang cơ chế thị trường như: Đông Âu, Nga và Trung Quốc.
Tuy vậy, từ thực tiễn và lý thuyết cho thấy, vấn đề hàm lượng “thị
trường” và “nhà nước” trong mối quan hệ giữa nhà nước với thị trường vẫn còn
có nhiều tranh cãi. Nếu như nhìn lại lịch sử phát triển của CNTB, khi nền kinh tế
bị khủng hoảng thì người ta thường đề cao vai trò điều tiết của nhà nước đối với
nền kinh tế và đổ lỗi cho thị trường bị buông lỏng, thiếu giám sát, kỷ cương.
Ngược lại, khi nền kinh tế trì trệ thì người ta thường đổ lỗi chủ yếu cho việc nhà
nước can thiệp quá sâu và kéo dài vào nền kinh tế và đề cao nguyên tắc “bàn tay
Việc chuyển đổi ồ ạt sở hữu nhà nước sang sở hữu tư nhân ở các nền kinh
tế Đông Âu và Nga đã cho thấy nhiều bất cập. Thực tế ngay cả ở các nền kinh tế
thị trường tự do, tùy thuộc vào mức độ can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế
vô hình” [24].
mà mức độ sở hữu của nhà nước trong nền kinh tế quốc dân rất khác nhau: từ
mức thấp ở những nền kinh tế thị trường tự do như Mỹ (0,4% tài sản cố định và
trường xã hội như Pháp, CHLB Đức (từ 10% đến 42% cũng vào đầu những năm
1980). Tuy nhiên, mức độ sở hữu nhà nước ở các nền kinh tế thị trường đều
không cao như ở các nước XHCN trong hệ thống kinh tế kế hoạch hóa tập trung
(65% - 100% đầu những năm 1980) [21]. Mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập
trung sụp đổ đã kéo theo sự phá sản của kiểu tổ chức sản xuất dựa trên chế độ sở
hữu nhà nước mang tính độc tôn. Do vậy, vấn đề tranh luận hiện chỉ còn xoay
quanh việc sở hữu nhà nước ở mức độ nào là phù hợp, theo đó nhà nước nên can
thiệp vào nền kinh tế đến mức độ nào và như thế nào để đạt hiệu quả cao nhất. Ở
tất cả các nước tư bản, cho dù theo đuổi các mô hình kinh tế thị trường có điểm
khác nhau, từ mô hình kinh tế thị trường tự do theo kiểu Mỹ-Anh, cho đến mô
60
1,3% trong GDP đầu những năm 1980), tới mức cao ở những nền kinh tế thị
hình kinh tế thị trường xã hội của Đức và Bắc Âu, hay mô hình kinh tế thị
trường đặc thù của Đông Á, nhà nước nhiều hay ít đều can thiệp vào thị trường
để khắc phục những khuyết tật của nó; sở hữu công cộng, sở hữu nhà nước vẫn
có một vai trò quan trọng nhất định trong phát triển kinh tế-xã hội.
Sở hữu nhà nước có vai trò quan trọng hơn tại các nền kinh tế thị trường
xã hội như Đức và các nước Bắc Âu do nhà nước phải thực hiện các mục tiêu về
việc làm, duy trì phúc lợi xã hội và đáp ứng các dịch vụ công. Song gánh nặng
của các khoản trợ cấp xã hội đang tăng dần trên vai của các nhà nước phúc lợi
kiểu này. Hơn nữa, để có tiền chi cho những phúc lợi xã hội, chính phủ đã phải
đánh thuế rất cao, hành động mà những người theo trường phái tự do chủ nghĩa
cho rằng là đã xâm phạm đến quyền tự do có tài sản của mỗi cá nhân. Cuộc
hình kinh tế thị trường xã hội. Các nền kinh tế theo mô hình này cần phải bảo
đảm được sự cân bằng giữa vai trò của Nhà nước và thị trường.
Đối với các nền kinh tế thị trường phát triển ở Đông Á, nhà nước đóng vai
khủng hoảng nợ công ở châu Âu đang là một minh chứng cho sự thất bại của mô
trò quan trọng trong việc chỉ đạo, điều tiết và định hướng nền kinh tế thông qua
các công cụ chính sách của mình [119], nhờ vậy đã duy trì được tốc độ tăng
chính phủ dành nhiều ưu đãi về vốn, về chính sách thuế cũng như quan thuế, về
thể chế quản lý…cho một số chaebol thuộc sở hữu gia đình với kỳ vọng họ là
lực lượng chủ lực để hiện thực hoá chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất
khẩu. Cho đến khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997-1998, các chaebol vẫn là
niềm tự hào của Hàn Quốc. Tuy nhiên, khi xảy ra đổ vỡ tài chính, Hàn Quốc đã
khởi động chương trình tái cấu trúc để sửa chữa khuyết tật của các chaebol, từ
đó, thúc đẩy sự lớn mạnh và thâm nhập rộng hơn của các doanh nghiệp nước này
vào thị trường toàn cầu. Kinh nghiệm của Đông Á cho thấy, sự tập trung sở hữu
dù đó là sở hữu tập thể hay sở hữu tư nhân có thể là một yếu tố cản trở sự phát
triển của kinh tế thị trường. Các công ty lớn có thể trở thành một hiện tượng “too
61
trưởng cao và kinh tế vĩ mô ổn định. Tại Hàn Quốc, khởi đầu từ thập kỷ 1960,
big to fail” (quá lớn để có thể sụp đổ) và nó vi phạm đến triết lý về “sự hủy diệt
sáng tạo” của thị trường tự do: cần để cho những tổ chức kinh tế không phù hợp,
không hiệu quả bị loại thải, và mở đường cho những tổ chức kinh tế mới, hiệu
quả hơn xuất hiện. Công cuộc cải cách ở Trung Quốc phức tạp hơn, liên quan
đến các thể chế của nền kinh tế thị trường và hệ thống quản trị quốc gia, như các
vấn đề về sở hữu, tự do hóa và xóa bỏ độc quyền, vai trò can thiệp của nhà nước
đối với nền kinh tế, chống tham nhũng v.v…Đây là điều dễ nhận thấy vì Trung
Quốc có nền kinh tế thị trường chưa hoàn chỉnh và nền quản trị quốc gia còn
nhiều yếu kém.
Nếu nhìn lại lịch sử thì các cuộc cải cách hệ thống thể chế kinh tế thị trường
và cải cách nền quản trị quốc gia của Hàn Quốc đã diễn ra từ thời gian trước. Tiến
hoảng châu Á năm 1997-1998 đã làm thay đổi căn bản diện mạo nền quản trị quốc
gia và hệ thống thể chế kinh tế thị trường của Hàn Quốc. Hàn Quốc đã từ bỏ chủ
nghĩa độc đoán phát triển, phá vỡ liên minh “nhà nước-ngân hàng-doanh nghiệp”,
trình dân chủ hóa kể từ cuối những năm 1970 và quá trỉnh cải cách sau khủng
chấm dứt sự độc quyền của các chaebol, để xây dựng một nền kinh tế thị trường
minh bạch hơn. Quá trình phát triển của nền kinh tế Hàn Quốc là quá trình trải
Sự khác biệt về phương thức cải cách thể chế kinh tế có thể là một nguyên
nhân dẫn đến những kết quả khác nhau. Đối với Hàn Quốc, tiến trình dân chủ
hóa thời kỳ 1979-1987 có thể coi là nỗ lực tập trung vào việc cải cách quản trị
quốc gia. Tiến trình cải cách sau khủng hoảng tài chính châu Á có mục tiêu
chính là hoàn thiện và thực thi các chuẩn mực của nền kinh tế thị trường hiện
đại, bao trùm. Trung Quốc đã tiến hành những cuộc cải cách từ điểm cho đến
tuyến và đến diện rất thành công, thể hiện qua tiến trình hội nhập và mở cửa nền
kinh tế. Tuy nhiên, khi những nỗ lực cải cách ở phạm vi rộng lớn hơn như ở tầm
quốc gia thì lại diễn ra rất chậm. Các nền kinh tế Đông Âu và Nga thì tiến hành
chuyển đổi rất nhanh, song cũng mang lại những kết quả khác nhau mà cải cách
các doanh nghiệp nhà nước là một thí dụ điển hình.
62
nghiệm từ phát triển đến sa lầy và phát triển lại ở tầm cao hơn.
Việc cải cách thể chế toàn diện đã khá thành công ở Hàn Quốc song có
thể không phải là phương thức phù hợp với Trung Quốc. Khác với Hàn Quốc,
tiến trình cải cách quản trị quốc gia đi sau tiến trình cải cách hệ thống thể chế
kinh tế của Trung Quốc. Trên thực tế, việc cải cách hệ thống thể chế quản trị
quốc gia qua những nỗ lực như tăng cường tính minh bạch, trách nhiệm giải
trình, chống tham nhũng v.v…mới chỉ được đẩy mạnh sau khi Trung Quốc gia
nhập WTO. Điểm giống nhau giữa hai nước là nếu như tiến trình cải cách ở Hàn
Quốc sau khủng hoảng châu Á năm 1997-1998 phần lớn là do IMF thúc đẩy
thông qua những gói cứu trợ thì tiến trình cải cách của Trung Quốc trong gần 15
năm qua là do sức ép phải gia nhập và thực hiện cam kết gia nhập WTO. Bất cứ
một cuộc cải cách ở tầng nào của hệ thống thể chế ở Trung Quốc, Hàn Quốc hay
đối). Vì vậy, tăng cường tính minh bạch là yếu tố rất quan trọng trong tiến trình
cải cách thể chế.
Cuối cùng, kinh nghiệm của Hàn Quốc, Trung Quốc, Nga, các nước Đông
ở Nga và Đông Âu đều va chạm với những nhóm lợi ích (kể cả ủng hộ và phản
Âu hay bất cứ một quốc gia nào, cho thấy: để xác lập nền tảng cho sự phát triển
bền vững cần phải tiến hành cải cách ở mọi “tầng” của thể chế, trong đó cải cách
63
thể chế quản trị quốc gia và kinh tế thị trường đóng vai trò quan trọng.
Tiểu kết chương 2
Có nhiều quan điểm khác nhau về các yếu tố tác động đến sự thành bại
của cải cách thể chế kinh tế, nhất là quá trình chuyển đổi sang cơ chế thị trường
và kết quả phát triển của nó. Daron Acemoglu và các cộng sự cho rằng, cần chú
trọng cải cách cả thể chế chính trị để đảm bảo nền tảng vững chắc. Trong khi đó,
quan điểm của WB lại chú trọng đến cải thiện nền quản trị quốc gia.
Cải cách thể chế kinh tế cần dựa trên nền tảng của hệ thống chính trị dân
chủ và quản trị quốc gia tốt để thành công. Kinh nghiệm cải cách thể chế kinh tế
thị trường ở các nước trên thế giới, từ châu Mỹ Latinh, châu Á cho đến châu Âu
là những bằng chứng minh hoạ sống động cho điều này. Nga và nhiều nước
vã trong khi chưa nỗ lực đầy đủ cho việc xây dựng một nền quản trị quốc gia tốt.
Tương tự, Hàn Quốc sau nhiều năm phát triển kinh tế thị trường tự do đã phải
chú trọng đến môi trường quản trị quốc gia kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính
Đông Âu đã vội vàng thiết lập các nguyên tắc thị trường tự do một cách quá vội
châu Á. Đây là những kinh nghiệm quý báu cho các nước đi sau nghiên cứu,
64
tham khảo.
CHƯƠNG 3. CẢI CÁCH THỂ CHẾ KINH TẾ Ở CHÂU PHI
3.1. Bối cảnh và nguyên nhân của cải cách thể chế kinh tế ở châu Phi
3.1.1. Tình hình phát triển kinh tế - xã hội của châu Phi
Châu Phi đứng thứ ba trên thế giới về diện tích và dân số (sau châu Á và châu
Mỹ), chiếm khoảng 1/5 diện tích địa cầu (30.244.050 km2); đồng thời có vị trí địa lý
thuận lợi tạo điều kiện thúc đẩy giao thương với các châu lục khác trên thế giới.
Châu Phi là cũng là châu lục giàu có về tài nguyên. Trên bản đồ khoáng
sản thế giới, châu Phi có vị trí không thể bỏ qua với việc sở hữu 30% nguồn tài
nguyên khoáng sản của toàn thế giới [30]. Châu Phi chiếm 12% dự trữ khí đốt tự
nhiên và 8% lượng khai thác dầu mỏ của toàn thế giới. Về sản xuất điện năng,
dẫn các nhà đầu tư quốc tế đến châu Phi và là căn nguyên tranh giành ảnh hưởng
châu Phi của các cường quốc trên thế giới.
châu Phi có thể cung cấp tới 40% sản lượng thủy điện thế giới. Đây là lực hấp
Hình 3.1.: Thu nhập bình quân đầu người của các nền kinh tế đang phát triển
khu vực châu Phi nam Sahara, 2006-2014 (USD hiện hành)
Nguồn: WB (2016),World Development Indicator 2016.
http://data.worldbank.org/indicator/NY.GNP.PCAP.CD/countries/ZF?display=graph
Dân số châu Phi năm 2013 đạt hơn 1 tỷ người, tạo ra một thị trường
tiêu thụ hàng hóa đầy tiềm năng. Đây là châu lục có đông quốc gia nhất trên
thế giới (với 55 quốc gia độc lập) - chiếm tỷ lệ phiếu lớn trong Liên hợp quốc.
Mặc dù thu nhập bình quân đầu người liên tục tăng trong những năm gần đây,
châu Phi vẫn là châu lục nghèo nhất trên thế giới. Theo Ngân hàng thế giới
65
(WB) năm 2012, 10 quốc gia nghèo khổ nhất thế giới đều thuộc châu Phi (Tỷ
lệ người nghèo của Cộng hòa dân chủ Sao Tome và Principle là 66,2%; Cộng
hòa Sierra Leone: 66,4%; Cộng hòa Burundi: 66,9%; Cộng hòa Magagascar:
68,7%; Eritrea: 69%; Vương quốc Swaziland: 69,2%; Cộng hòa dân chủ
Congo: 71,3%; Cộng hòa Zimbabwe: 72%; Cộng hòa Guinea Xích đạo:
75,8%; Cộng hòa Haiti: 77% [10 quốc gia nghèo khổ nhất thế giới,
News.zing.vn, 19/09/2012]). Châu Phi cũng chiếm đến 27 nước trong tổng số
31 nước được WB xếp vào nhóm các nước có thu nhập thấp năm 2016. Nhắc
đến châu Phi người ta không thể không nói đến trung tâm của đại dịch
HIV/AID, dịch sốt rét, dịch ỉa chảy, thương hàn, ebola và nhiều đại dịch nguy
hiểm khác.
Benin
10
Gambia
Rwanda
1
19
Burkina Faso
11
Guinea
Senegal
2
20
Burundi
12
Guinea-Bissau
21
Sierra Leone
3
4 Cộng hoà Trung
13
22
Liberia
Somalia
Phi
Madagascar
Nam Sudan
5
Chad
14
23
Comoros
Malawi
Tanzania
6
15
24
7
16
25
Mali
Togo
Cộng hoà dân chủ Congo
8
Eritrea
17
Mozambique
Uganda
26
9
Ethiopia
18
Niger
Zimbabwe
27
Nguồn: WB (2017), Country Classification
[https://datahelpdesk.worldbank.org/knowledgebase/articles/906519-
world-bank-country-and-lending-groups]
66
Bảng 3.1: Các nước châu Phi thuộc nhóm các nước có thu nhập thấp (năm 2016)
Châu Phi còn là nơi bất ổn, thường xuyên có các cuộc xung đột, nội chiến.
Theo báo cáo năm 2007 của Saferworld, từ năm 1990 đến năm 2005, các cuộc
xung đột vũ trang đã tiêu tốn của châu Phi khoảng 300 tỷ USD - gần bằng số tiền
viện trợ mà châu lục này nhận được trong giai đoạn này. Châu Phi cũng gồm
nhiều nước đứng cuối bảng nhất trong xếp hạng về mức độ hòa bình do Viện
Kinh tế và Hòa bình công bố hàng năm với mối quan ngại rất lớn về khủng bố,
bạo lực, tội phạm có tổ chức và bất ổn chính trị.
Nước
Nước
Xếp hạng ở châu Phi nam Sahara
Xếp hạng/163 nước
Xếp hạng ở châu Phi nam Sahara
Xếp hạng/1 63 nước 23 28 38 40 43 44 45 55 58 62 63 66 68 70 72 72 79 88 90
Mauritius Botswana Madagascar Zambia Sierra Leone Ghana Malawi Namibia Tanzania Guinea xích đạo Lesotho Togo Mozambique Senegal Benin Liberia Gabon Burkina Faso Swaziland
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 15 17 18 19
101 113 114 116 118 119 121 123 126 127 128 130 131 135 136 137 138 149 152
22 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41
92
Gambia
20
157
42
98 101
Angola Uganda
21 22
Guinea Niger Cộng hòa Congo Guinea-Bissau Cote d’Ivoire Ethiopia Djibouti Mauritania Nam Phi Zimbabwe Rwanda Cameroon Kenya Eritrea Chad Mali Burundi Nigeria Cộng hòa dân chủ Congo Cộng hòa Trung Phi Somalia Nam Sudan
159 162
43 44
Nguồn: Institute of Economics and Peace (2016), Global Peace Index 2016, New York, USA, page 16, Table 1.6
Trong hai thập kỷ qua, châu Phi có tốc độ cải thiện chỉ số phát triển con
người (HDI) nhanh nhưng vẫn luôn ở mức thấp nhất so với các châu lục khác
67
Bảng 3.2: Xếp hạng các nước châu Phi Nam Sahara về mức độ hòa bình
trên thế giới. HDI của khu vực châu Phi nam Sahara năm 2013 mới chỉ bằng
khoảng 70% mức bình quân của thế giới [107]. Năm 2016, trong tổng số 44
nước bị Chương trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) xếp vào nhóm có
mức độ phát triển con người thấp có tới 36 nước châu Phi (trong tổng số 53 nước
châu Phi được xếp hạng) [108]. Mức độ phát triển con người của các vùng khác
nhau của châu Phi cũng khác nhau. Đói nghèo, dịch bệnh và xung đột khiến
nhiều nước châu Phi đã không đạt được các Mục tiêu Thiên niên kỷ (MDGs) và
cũng có ít cơ hội để hoàn thành các Mục tiêu phát triển bền vững mới (SDGs)
của Liên hợp quốc.
Khu vực
HDI trung bình năm 1990 0,516
HDI trung bình năm 2000 0,593
HDI trung bình năm 2014 0,710
Thay đổi HDI giai đoạn 1990-2014 1,34
0,651
0,665
0,748
0,58
và
0,625
0,684
0,748
0,75
và
Đông Á và Thái Bình Dương Đông Âu Trung Á Mỹ Latinh Caribe Nam Á Châu Phi
0,437 0,426
0,607 0,524
1,38 1,09
0,503 0,449 Nguồn: UNDP (2016), African Human Development Report 2016, New York,
USA, Summary, page 3, Table 1
Bảng 3.3: Chỉ số phát triển con người của châu Phi so sánh với các khu vực khác
Bảng 3.4: Chỉ số phát triển con người của các khu vực ở châu Phi
Khu vực
Bắc Phi Đông Phi Tây Phi Trung Phi Nam Phi Toàn châu Phi (trung bình)
HDI năm 1990 0,533 0,337 0,333 0,453 0,481 0,426
HDI năm 2000 0,603 0,403 0,382 0,439 0,478 0,449
HDI năm 2014 0,668 0,479 0,461 0,507 0,570 0,524
Thay đổi HDI giai đoạn 1990-2014 (%) 20,209 32,193 27,766 10,651 15,614 18,702
Nguồn: UNDP (2016), African Human Development Report 2016, New York,
USA, Summary, page 3, Table 2
68
3.1.2. Chất lượng thể chế kinh tế của châu Phi
Theo Báo cáo Chỉ số cạnh tranh toàn cầu của Diễn đàn kinh tế thế giới
(WEF), chất lượng thể chế đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với nhiều nước
châu Phi trong giai đoạn phát triển hiện nay. Trong số 12 trụ cột của năng lực
cạnh tranh quốc gia, báo cáo này cho rằng, thể chế cùng với kết cấu hạ tầng, môi
trường kinh tế vĩ mô, sức khỏe và giáo dục cơ sở là những yếu tố rất quan trọng
đối với các nước đang trong giai đoạn phát triển dựa vào khai thác nguồn lực,
chủ yếu là lao động kỹ năng thấp và tài nguyên thiên nhiên. Nâng cao chất lượng
thể chế là một trong những điều kiện tiên quyết để các nền kinh tế này chuyển
sang giai đoạn phát triển cao hơn – giai đoạn phát triển dựa vào tăng cường hiệu
quả (huy động, phân bổ và sử dụng các nguồn lực và những yếu tố phát triển
phát triển dựa vào khai thác các yếu tố nguồn lực; chỉ có 3 nước châu Phi đang
trong giai đoạn chuyển từ mô hình phát triển dựa vào khai thác nguồn lực sang
mô hình phát triển dựa vào tăng cường hiệu quả kinh tế.
khác). Báo cáo này cũng xếp 24 nước châu Phi thuộc nhóm nằm trong giai đoạn
giai Các đoạn phát triển
Giai đoạn 1: phát triển dựa vào các yếu tố nguồn lực
từ Chuyển Giai đoạn 1 sang Giai đoạn 2
từ Chuyển Giai đoạn 2 sang Giai đoạn 3
Giai đoạn 3: Phát triển dựa vào sáng tạo
< $2000
Giai đoạn 2: Phát triển dựa vào tăng hiệu cường quả $3000-8999
$9000-17000
>$17000
$2000 - $2999
11. Phức tạp của các hoạt động kinh doanh 12. Sáng tạo
GDP bình quân đầu người Các yếu tố cột) (trụ trọng quan với đối giai từng đoạn phát triển
1. Thể chế 2. Kết cấu hạ tầng 3. Môi trường vĩ mô ổn định 4. Sức khỏe và Giáo dục cơ sở
5. Giáo dục tạo và đào bậc cao 6. Hiệu quả thị của trường hàng hóa 7. Hiệu quả thị của
69
Bảng 3.5: Các giai đoạn phát triển của các nước châu Phi
lao
Mauritius
Các nước châu Phi
Botswana, Gabon, Nigeria
Phi,
trường động 8. Phát triển thị trường tài chính 9. Sẵn sàng về công nghệ 10. Quy mô thị trường Cape Verde, Ai Cập, Morroco, Namibia, Nam Tunisia
Benin, Burundi, Cameroon, Chad, Cộng hòa dân chủ Congo, Côte d'Ivoire, Ethiopia, Gambia, Ghana, Kenya, Lesotho, Liberia, Madagascar, Malawi, Mali, Mauritania, Mozambique, Rwanda, Senegal, Sierra Leone, Tanzania, Uganda, Zambia, Zimbabwe
Nguồn: World Economic Forum (2016), Global Competitiveness Report
2016-2017, Geneva, Tr.38
Báo cáo chỉ số cạnh tranh toàn cầu của WEF chia trụ cột thể chế (kinh tế)
gồm 21 cấu phần, nhóm lại thành những thể chế của khu vực công và thể chế của
khu vực tư nhân. Mauritius, Nam Phi và Rwanda được WEF coi là những nền
70
kinh tế có năng lực cạnh tranh hàng đầu châu Phi, đứng thứ 45, 47 và 52 trong
tổng số 138 nền kinh tế được xếp hạng của thế giới năm 2016. Liberia (131),
Sierra Leon (132), Mozambique (133), Malawi (134), Burudi (135), Chad (136)
và Mauritania (137) là những nền kinh tế có năng lực cạnh tranh kém nhất châu
Phi và cũng đứng gần cuối bảng xếp hạng của thế giới (chỉ hơn Yemen, đứng
thứ 138).
Rwanda được WEF coi là nước có chất lượng thể chế kinh tế tốt nhất châu
Phi, đứng thứ 13 trong tổng số 138 nền kinh tế được xếp hạng của thế giới, với
thoáng, sử dụng ngân sách của chính phủ hiệu quả, không có hoạt động tội phạm
chất lượng thể chế đặc biệt tốt ở những khía cạnh: thủ tục quy định thông
thể chế thậm chí còn cao hơn nhiều nước khác như: Anh (đứng thứ 14), Mỹ
(đứng thứ 27), Trung Quốc (đứng thứ 45) và Việt Nam (đứng thứ 82) [115].Tiến
trình cải cách thể chế và dân chủ hoá ở Rwanda trong hơn một thập kỷ qua gắn
với nỗ lực hoà hợp, hoà giải dân tộc; và điều đáng nói là nó đã thành công ngay
và khủng bố, chất lượng tốt của đội ngũ cảnh sát. Xếp hạng của Rwanda về mặt
cả sau khi nước này đã trải qua những cuộc xung đột sắc tộc đẫm máu và thảm
có chất lượng thể chế tồi nhất châu Phi, đứng thứ 136 trong tổng số 138 nền kinh
tế được xếp hạng của thế giới, đặc biệt với các vấn đề nghiêm trọng về đảm bảo
quyền sở hữu, sử dụng ngân sách nhà nước, tham nhũng, chính sách thiếu minh
bạch, nạn khủng bố, các chuẩn mực kiểm toán yếu kém và tổ chức hoạt động của
các công ty không lành mạnh, thiếu hiệu quả.
71
hoạ diệt chủng vào giữa thập niên 1990. Trong khi đó, Chad bị WEF coi là nước
Bảng 3.6: Sự tương phản trong chất lượng thể chế của Rwanda và Chad
Các thể chế công và tư
Xếp hạng
Xếp hạng
của Rwanda
của Chad
Thứ hạng về thể chế
13
136
1. quyền sở hữu
22
133
2. bảo hộ sở hữu trí tuệ
28
133
3. phân bổ các nguồn quỹ công cộng
16
137
4. tin tưởng của công chúng đối với các nhà chính trị
7
105
5. các khoản chi trả không thường xuyên và hối lộ
20
136
6. độc lập của tư pháp
25
130
7. các quyết định mang tính chất thiên vị của quan chức
9
113
chính phủ
8. lãng phí trong chi tiêu chính phủ
4
100
9. gánh nặng của các quy định của chính phủ
2
95
10. tính hiệu quả của khung khổ pháp lý trong giải quyết
11
105
tranh chấp
11. hiệu quả của khung khổ pháp lý trong việc xử lý các
14
114
quy định
12. sự minh bạch trong xây dựng chính sách của chính
9
135
phủ
13. chi phí kinh doanh vì các hoạt động khủng bố
9
136
14. chi phí kinh doanh vì các hoạt động tội phạm và bạo lực
5
123
15. tội phạm có tổ chức
6
128
16. sự tin cậy của lực lượng công an
6
124
17. hành xử có đạo đức của các công ty
21
135
18. sức mạnh của kiểm toán và các chuẩn mực báo cáo
40
136
19. hiệu lực của hội đồng quản trị công ty
27
134
20. bảo vệ lợi ích của các cổ đông nhỏ
23
130
21. bảo vệ các nhà đầu tư.
79
120
Nguồn: World Economic Forum (2016),Global Competitiveness Report 2016-
2017, Geneva, Tr.143, 309
72
Chất lượng và hiệu quả của các quy định là một trong những chỉ số quan
trọng phản ánh chất lượng của hệ thống thể chế. Các quy định có thể giúp cho
môi trường kinh doanh thêm thuận lợi và thông thoáng; khắc phục những
“khuyết tật” của thị trường; đảm bảo môi trường cạnh tranh bình đẳng. Tuy
nhiên, một hệ thống quy định chồng chéo, phức tạp cũng có thể tạo ra gánh
nặng, cản trở hoạt động kinh doanh của các công ty, nhất là các công ty nhỏ và
vừa; đồng thời đây cũng là môi trường thuận lợi cho tình trạng tham nhũng, trục
lợi nảy sinh. Ví dụ, ở Singapore để mở một công ty chỉ mất bình quân khoảng
2,5 ngày và chỉ phải tiến hành 3 thủ tục hành chính; trong khi ở Guinea xích đạo
mất đến 135 ngày và phải tiến hành tới 18 thủ tục hành chính.[126]
Báo cáo Chỉ số môi trường kinh doanh (DB) của WB đã đưa ra một bộ chỉ
nghiệp; giải quyết việc xin giấy phép xây dựng; xin cấp điện; đăng ký tài sản;
xin nhận tín dụng; mức độ bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư nhỏ; gánh nặng thuế phải
trả; hoạt động thương mại dọc & xuyên biên giới; mức độ thực thi các hợp đồng;
số gồm 10 yếu tố có tác động đến môi trường kinh doanh gồm: khởi sự doanh
lao động song yếu tố này không được đưa vào để tính điểm chung cho Chỉ số
về môi trường kinh doanh). Theo DB 2016, châu Phi là một trong những khu
vực có mức độ cải thiện môi trường kinh doanh nhanh hàng đầu thế giới trong
hơn một thập kỷ qua, chỉ đứng sau châu Âu và Trung Á. Điều này là do châu Phi
gồm nhiều nền kinh tế có xuất phát điểm thấp và mới bước đầu triển khai các cải
cách môi trường kinh doanh. Báo cáo DB 2016 chia các nền kinh tế thành bốn
nhóm: i) Những nền kinh tế có các quy định chất lượng cao và việc thực thi rất
hiệu quả; ii) Những nền kinh tế có các quy định chất lượng thấp và thực thi kém
hiệu quả – hệ thống các quy định ở đây phức tạp, tạo ra các hình thức trục lợi
thay vì cung cấp các điều kiện và dịch vụ thuận lợi cho kinh doanh; iii) Những
nền kinh tế có các thủ tục kinh doanh nhanh chóng, thuận lợi song các quy định
có chất lượng không cao - nhóm này chủ yếu gồm các nền kinh tế mới bắt đầu
73
và chấm dứt kinh doanh (Ngoài ra, còn có yếu tố các quy định về thị trường
tiến hành cải cách để cải thiện tiến trình thực thi chính sách song vẫn chưa cải
thiện được chất lượng của các quy định; và iv) Những nền kinh tế có chất lượng
của các quy định tốt song tiến trình thực thi phức tạp, kém hiệu quả. Phần lớn
các nền kinh tế trên thế giới thuộc nhóm thứ nhất và nhóm thứ ba [126], còn các
nền kinh tế châu Phi chủ yếu nằm trong nhóm thứ hai và thứ ba là những nền
kinh tế có chất lượng và hiệu quả của các quy định thấp hoặc tuy có thủ tục hành
chính thông thoáng, thuận lợi song chất lượng của các quy định lại không cao.
Các nền kinh tế được xếp hàng đầu châu Phi về môi trường kinh doanh thông
thoáng là: Mauritius (đứng thứ 32 thế giới), Rwanda (đứng thứ 62 thế giới),
Botswana (đứng thứ 72) và Nam Phi (đứng thứ 73); còn các nền kinh tế đứng
cuối bảng của châu Phi là Cộng hòa dân chủ Congo, Cộng hòa Trung Phi, Nam
189 nền kinh tế trên thế giới.[126]
Các nước châu Phi thường nổi tiếng với nạn tham nhũng song cũng có
những trường hợp ngoại lệ. Theo Báo cáo Chỉ số nhận thức về tham nhũng của
Sudan và Eritrea, lần lượt đứng thứ 184, 185, 187, 189 trong bảng xếp hạng gồm
Tổ chức minh bạch quốc tế năm 2016, Botswana là quốc gia ít tham nhũng nhất
châu Phi, đứng thứ 28 trong tổng số 168 quốc gia và vùng lãnh thổ được xếp
Đài Loan (đứng thứ 30 thế giới), Hàn Quốc (đứng thứ 37 thế giới). Đứng sau
Botswana ở châu Phi là Cape Verde (đứng thứ 40 thế giới), Seychelles (đứng thứ
40 thế giới) và Rwanda (đứng thứ 44 thế giới). Đứng cuối bảng xếp hạng của
châu Phi là các nước: Angola, Nam Sudan (đứng thứ 163 thế giới), Sudan (đứng
thứ 165 thế giới) và Somalia (167 thế giới) [103]. Tuy tình hình tham nhũng ở
một số nước có được cải thiện như Senegal, Namibia, Ai Cập, Cote
d'Ivoire...song tại nhiều nước khác nạn tham nhũng thậm chí trở nên nghiêm
trọng hơn. Trong cuộc điều tra năm 2016 của Tổ chức minh bạch quốc tế, có đến
58% số người được hỏi cho rằng tình hình tham nhũng ở nước họ đã trở nên
nghiêm trọng hơn năm trước. Những nước đứng đầu trong nhóm này là Nam Phi
74
hạng. Thứ hạng này thậm chí còn cao hơn một số quốc gia và vùng lãnh thổ như
(83% số người được hỏi), Ghana (76% số người được hỏi) và Nigeria (75% số
người được hỏi) [104]. Hoạt động tham nhũng ở châu Phi phổ biến trong ngành
Công an
Giới điều hành các công ty lớn
Quan chức chính phủ
Các bộ thuế
Toà án và cán bộ xét xử
Nghị sỹ quốc hội
Chính quyền địa phương
Văn phòng tổng thống
Các nhà lãnh đạo truyền thống
Các nhà lãnh đạo tôn giáo
công an, giới lãnh đạo điều hành các công ty lớn, thuế và toà án.
Hình 3.2: Mức độ tham nhũng tại một số tổ chức
và nhóm người tại châu Phi
Nguồn: Transprarency International (2015), Global Coruption Barometer:
People and Corruption Africa Survey 2015,author: Coralie Pring, Global
Surveys,Figure 1, page 8
Báo cáo Chỉ số tự do kinh tế của Quỹ Heritage năm 2016 đánh giá mức độ
tự do của một nền kinh tế theo bốn nhóm chỉ số sau: 1) Tinh thần thượng tôn
pháp luật (bảo đảm quyền sở hữu, không bị tham nhũng); 2) Hạn chế của chính
phủ (tự do về tài khoá, chi tiêu của chính phủ); 3) Hiệu quả của quy định (tự do
kinh doanh, tự do lao động, tự do về tiền tệ) và 4) Thị trường mở (tự do thương
mại, tự do đầu tư và tự do tài chính). Theo báo cáo này, châu Phi có 8 nền kinh
tế bị coi là bị hạn chế về mức độ tự do (trong tổng số 24 nền kinh tế của thế giới
thuộc nhóm này). Các nền kinh tế đứng cuối bảng xếp hạng gồm: Cộng hoà
Trung Phi, Guinea xích đạo, Cộng hoà Congo, Eritrea và Zimbabwe đứng thứ
168, 170, 172, 173 và 175 trong tổng số 186 nền kinh tế trên thế giới được xếp
hạng năm 2016.
75
Xếp
Xếp hạng/186
Nước
hạng/186 nền
Nước
nền kinh tế
kinh tế
Bảng 3.7: Các nước bị xếp hạng có nền kinh tế bị hạn chế tự do
167
Timor-Leste
155
Lào
168
Cộng hoà Trung phi
156
Angola
169
Argentina
157
Belarus
170
Guinea xích đạo
158
Myanmar
171
Iran
159
Ecuador
172
Cộng hoà Congo
160
Bolivia
173
Eritrea
161
Đảo Solomon
174
Turkmenistan
162
Ukraine
175
Zimbabwe
163
Cộng hoà dân chủ
Congo
176
Venezuela
164
Chad
177
Cuba
165
Kiribati
178
CHDCND Triều Tiên
166
Uzbekistan
Nguồn: Heritage Foundation (2016), 2016 Index of Economic Freedom
http://www.heritage.org/index/ranking
3.1.3. Yêu cầu chuyển đổi sang cơ chế thị trường
Phần lớn các nước châu Phi, nhất là châu Phi nam Sahara, hình thành vào
những năm 1960 sau những quá trình đấu tranh giành độc lập khó khăn. Vào
thời điểm đó, phần lớn các chính phủ châu Phi đều thừa nhận vai trò quan trọng
của khu vực công trong nền kinh tế như một thực tế tự nhiên. Các chế độ thuộc
địa sau năm 1945 đã lập ra cơ chế để can thiệp sâu rộng vào nền kinh tế như các
cơ quan kế hoạch, các công ty nhà nước hoặc nửa nhà nước nửa tư nhân và thiết
lập các biện pháp kiểm soát tiền lương, giá cả.
Các nhà lãnh đạo mới của châu Phi cũng ủng hộ việc triển khai cơ chế kế
hoạch hoá tập trung và kiểm soát kinh tế. Về mặt ý thức hệ, họ xem có mối liên
76
hệ mật thiết giữa chủ nghĩa tự bản tự do với chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế
quốc. Ngoài ra, Liên Xô và Trung Quốc đã có những tác động nhất định đến
đường lối phát triển của nhiều nước châu Phi. Nhiều nhà lãnh đạo châu Phi tin
rằng, các nước châu Phi tuy đa dạng về sắc tộc, tôn giáo song vẫn đạt được sự
thống nhất chính trị là nhờ sức mạnh của ý thức hệ xã hội chủ nghĩa. Ngay cả khi
không bị ảnh hưởng bởi ý thức hệ xã hội chủ nghĩa thì các nước châu Phi cũng
đứng trước những sức ép phải cần sự can thiệp sâu của nhà nước như: nguồn vốn
hạn chế và khu vực tư nhân yếu kém. Tại nhiều nước châu Phi, khu vực tư nhân
rất nhỏ và chủ yếu tham gia vào lĩnh vực thương mại. Doanh nhân địa phương
chủ yếu là thương nhân, người buôn bán và môi giới chứ không phải là các nhà
sản xuất công nghiệp. Các doanh nghiệp nhà nước có lợi thế để tiếp nhận chuyển
tạo nguồn nhân lực mà những doanh nghiệp nhỏ không thực hiện được. Do vậy,
khu vực này là giải pháp giúp mở rộng quy mô sản xuất và nâng cao hình ảnh,
bản sắc dân tộc.
giao công nghệ trong những lĩnh vực chiến lược, tiếp cận được tín dụng và đào
Bầu không khí học thuật ở châu Phi cũng bị chi phối bởi đường lối cánh tả
và chủ nghĩa nhà nước. Người dân châu Phi sinh sống và học tập ở châu Âu sau
cánh tả nhằm phản đối chế độ thuộc địa. Các học giả châu Phi trong những năm
1950 và 1960 ủng hộ mạnh mẽ sự can thiệp của nhà nước vào thị trường nhằm
bảo vệ lợi ích của dân chúng. Họ cũng nhấn mạnh rằng, với truyền thống và giá
trị cộng đồng sâu sắc, các nước châu Phi cần chủ nghĩa xã hội. Các học giả lớn
của châu Phi như Sekou Toure, Leopold Senghor, Kenneth Kaunda, Julius
Nyerere và Franz Fanon đều tin rằng, quản lý theo mô hình kế hoạch hoá và chủ
nghĩa xã hội có thể dùng để khắc phục những thất bại của thị trường - nguyên
nhân gây ra nạn nghèo khổ, ngu dốt và dịch bệnh ở châu Phi.
Từ năm 1960 đến đầu những năm 1980, có ít nhất 16 nước châu Phi Nam
Sahara đã theo đuổi ý thức hệ xã hội chủ nghĩa hoặc phát triển theo hướng xã hội
77
Chiến tranh thế giới lần thứ hai cũng thường tham gia các đảng phái và tổ chức
chủ nghĩa (theo mô hình Xô Viết hay Trung Quốc) như Angola, Benin, Burkina
Faso (lúc đó là Upper Volta), Congo-Brazzaville, Ethiopia, Ghana, Guinea-
Bissau, Guinea, Madagascar, Mali, Mozambique, Senegal, Sudan, Tanzania,
Zambia và Zimbabwe. Ngoài ra, nhiều nước châu Phi khác cũng chấp nhận
đường lối phát triển theo mô hình Xô Viết mặc dù không tuyên bố chính thức.
Một số nước như Kenya mặc dù tiến hành cơ chế thị trường trên thực tế song
dưới khẩu hiệu chủ nghĩa xã hội [81]. Kết quả của thời kỳ theo đuổi mô hình
kinh tế kế hoạch hóa tập trung đã dẫn đến những bất ổn, méo mó của nhiều nền
kinh tế châu Phi, đặc biệt kể từ đầu thập niên 1980.
Dấu mốc quan trọng trong tiến trình cải cách kinh tế của các nước châu
Phi là vào năm 1981 khi Elliot Berg, Khoa kinh tế, Đại học Michigan công bố
hành động”. Báo cáo này - còn gọi là báo cáo Berg, khuyến nghị triển khai các
chính sách mở cửa thông qua việc thúc đẩy xuất khẩu tài nguyên, dỡ bỏ trợ cấp
và cho phép các lực lượng thị trường xác định giá cả.
báo cáo “Đẩy nhanh sự phát triển ở châu Phi nam Sahara: Chương trình nghị sự
Cuộc khủng hoảng nợ quốc gia vào đầu những năm 1980 là tiền đề tốt để
các định chế tài chính của Hệ thống Bretton Woods mở rộng chương trình nghị
cứu trợ. Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) thiết kế các Chương trình ổn định kinh tế vĩ
mô ngắn hạn và WB thiết kế các chương trình cải cách cơ cấu (SAP) trong trung
hạn. Các chương trình này đều dựa theo nguyên lý “Đồng thuận Washington”,
cho rằng: nhà nước nên can thiệp ở mức ít nhất vào nền kinh tế, cần phải bảo vệ
sở hữu tư nhân, mở cửa và tự do hóa nền kinh tế, ổn định vĩ mô và thúc đẩy dân
chủ - coi đây là cốt yếu để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Cụ thể, nội dung chính
của các chương trình điều chỉnh cơ cấu (SAP) và ổn định kinh tế vĩ mô của WB
và IMF gồm:
-
Thực hiện biện pháp khắc khổ, giảm chi tiêu chính phủ để giảm
thâm hụt ngân sách
78
sự, áp đặt điều kiện tự do hoá cho các chính phủ để đổi lại các khoản tín dụng
- Tăng thuế doanh thu để cải thiện nguồn thu
- Kiểm soát lạm phát, chủ yếu thông qua chính sách tiền tệ (tăng lãi
suất) và thực hiện chính sách tài khoá khắc khổ
- Tư nhân hoá các ngành công nghiệp thuộc sở hữu nhà nước, nhằm
tăng nguồn thu và tăng hiệu quả của khu vực này
- Giảm kiểm soát thị trường nhằm khuyến khích cạnh tranh
- Mở cửa kinh tế và tự do hoá thương mại, dỡ bỏ các rào cản thuế
khoá và bảo hộ các ngành công nghiệp trong nước
- Chấm dứt trợ giá thực phẩm
- Phá giá đồng tiền để khôi phục lại khả năng cạnh tranh và giảm
thâm hụt tài khoản vãng lai
thành phổ biến. Tại Hội nghị các nguyên thủ quốc gia châu Phi ở La Baule năm
1990, Tổng thống Pháp đã tuyên bố ủng hộ các tiến trình dân chủ ở châu lục này.
Đồng thời, các tổ chức quốc tế và cộng đồng tài trợ bắt đầu đẩy mạnh các
Sau khi khối chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu sụp đổ, làn sóng tự do hoá trở
chương trình điều chỉnh cơ cấu đối với các nước châu Phi. Với nỗ lực chuyển
đổi sang nền kinh tế thị trường, nhiều nước châu Phi đã chú trọng thực hiện tự
kinh tế ở châu Phi trong vòng hơn 3 thập kỷ qua. Tuy nhiên, quá trình tự do hóa
kinh tế ở nhiều nước châu Phi không mang lại kết quả phát triển giống nhau mặc
dù có một mẫu số chung là nó đã giúp thiết lập nên được cơ chế thị trường. Điều
đó cho thấy, kinh tế thị trường chỉ là phương tiện, còn kết quả phát triển, sự
thịnh vượng và giàu có của các quốc gia còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác.
do hoá; khiến quá trình này là đặc điểm nổi bật và trọng tâm của cải cách thể chế
3.2. Nội dung cơ bản trong cải cách thể chế kinh tế thị trường ở châu Phi
3.2.1. Cải cách quyền sở hữu
Tự do về sở hữu là một vấn đề gai góc nhưng lại hết sức quan trọng đối
với các nước châu Phi trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường.
Ở những nền kinh tế thị trường phương Tây, các đơn vị kinh tế và xã hội
79
cơ bản là cá nhân. Tại nhiều nước xã hội chủ nghĩa theo mô hình Xô Viết ở
Đông Âu và châu Á, đơn vị kinh tế và xã hội là các tổ chức tập thể và nhà nước.
Tuy nhiên, tại châu Phi, các đơn vị kinh tế và xã hội cơ bản lại là gia đình mở
rộng, bộ tộc và bộ lạc. Nghiêm trọng hơn, cho đến tận cuối thế kỷ 20, khắp lục
địa vẫn tồn tại các chế độ phân biệt chủng tộc trên thực tế bất kể đó là giữa
người da trắng với người da đen hay giữa những người da đen với nhau song
không cùng tôn giáo, sắc tộc - nơi mà những người nắm quyền lực sử dụng
chính phủ để thúc đẩy lợi ích của họ và loại trừ tất cả những người khác, dẫn
châu Phi vào những thảm họa nhân đạo và phát triển.
Tại châu Phi, sở hữu đất đai vừa là vấn đề then chốt, vừa là vấn đề nhạy
cảm trong quá trình phát triển bởi phần lớn dân số châu Phi sống dựa vào nông
thực dân cơ cấu sở hữu đất đai bị bóp méo. Việc cướp bóc và chiếm đoạt đất đai
khiến cho phần lớn diện tích đất đai màu mỡ, có thể canh tác được thuộc về số ít
người da trắng định cư; phần còn lại chủ yếu là đất đai thuộc sở hữu cộng đồng.
nghiệp. Đất đai là tài sản và cũng là nguồn sống chính của họ. Trong thời kỳ
Về mặt lịch sử, đất đai ở châu Phi đã không bao giờ thuộc sở hữu tập thể mà
được sở hữu riêng tư bởi gia đình hoặc dòng tộc. Ví dụ, George Ayittey có viết
Châu Phi sẽ nói với bạn: “Nó thuộc về tất cả chúng tôi”, nghĩa là gia đình mở
rộng của anh ta…”[43]
Trong những năm 1980, có ba khuynh hướng cải cách đất đai ở châu lục.
Một là khuynh hướng “xã hội hóa” đất đai với việc hình thành các hợp tác xã và
trang trại quốc doanh (như ở Mozambique). Hai là khuynh hướng đàm phán
giữa chính phủ với các thủ lĩnh bộ lạc, bộ tộc để phân chia lại quyền sở hữu các
mảnh đất (như ở Gambia, Lesotho). Ba là khuynh hướng tư nhân hóa đất đai
(như ở Malawi, Kenya). Khi làn sóng tự do hóa bắt đầu tràn vào châu lục, thuật
ngữ “quyền sở hữu đất” bắt đầu được nhấn mạnh. Hệ thống sở hữu đất đai
truyền thống ở châu Phi khiến nguồn lực không được phân bổ và sử dụng hiệu
80
trong bài luận của mình rằng: “nếu bạn hỏi: “Mảnh đất này thuộc về ai?” Người
quả do quyền sở hữu không được xác lập đầy đủ, các cá nhân không phải gánh
chịu các chi phí song cũng không được hưởng lợi ích đầy đủ và hợp đồng không
được pháp luật đảm bảo thực thi. Tư tưởng cải cách theo hướng tự do hoá cho
rằng, điều quan trọng nhất là phải chuyển đất đai cho những người có khả năng
khai thác hiệu quả nhất và mang lại giá trị lớn nhất từ đất. Tuy trong những năm
1970 châu Phi không phải là châu lục có tình trạng “không có đất” (người nông
dân không tiếp cận được với đất đai có thể canh tác) hoặc “gần như không có
đất” (người nông dân chỉ tiếp cận được với một diện tích đất quá nhỏ để đáp ứng
nhu cầu sinh kế tối thiểu) nghiêm trọng nhất thế giới (đứng đầu là châu Mỹ
Latinh), song lại là khu vực có tỷ lệ này gia tăng nhanh nhất trong những năm
1970-1980 [129].
xếp vào nhóm những nước không có tự do về sở hữu. Theo đánh giá của Heritage
Foundation, mức độ tự do về sở hữu của khu vực châu Phi nam Sahara liên tục
giảm mạnh trong giai đoạn 1995 - 2016 xuống mức rất thấp (30 điểm trên thang
Mặc dù có nhiều nỗ lực cải cách, đa số các nước châu Phi đến nay vẫn bị
điểm tối đa là 100): mức mà các quyền sở hữu bị coi là được bảo vệ rất yếu với
hệ thống toà án không hiệu quả, tình trạng tham nhũng phổ biến, các quyền tư
tịch thu không bồi thường. Đứng cuối bảng xếp hạng năm 2016 của châu Phi về
mức độ tự do đối với quyền sở hữu là các nước: Zimbabwe, Cộng hoà Congo,
Cộng hoà dân chủ Congo, Cộng hoà Trung Phi, Guinea xích đạo, Eritrea (ở mức
10 điểm trên thang điểm tối đa là 100). Đây là mức mà quyền sở hữu hiếm khi
được bảo vệ với tình trạng hầu hết tài sản là của nhà nước, đất nước trong tình
trạng hỗn loạn nên rất khó đảm bảo các quyền tài sản, hệ thống toà án rất tham
nhũng và không giúp bảo vệ quyền sở hữu một cách hữu hiệu, thường xuyên xảy
ra tình trạng tịch thu tài sản không được bồi thường.
Tình hình bất ổn chính trị và xung đột ở nhiều quốc gia châu Phi là yếu tố
quan trọng ảnh hưởng đến việc bảo vệ quyền sở hữu. Theo báo cáo Chỉ số Hòa
81
pháp bị can thiệp bởi các nhánh quyền lực của chính phủ và các tài sản có thể bị
bình thế giới năm 2016 do Viện nghiên cứu Kinh tế và Hòa bình công bố, các
nước châu Phi đứng cuối bảng gồm 163 nước được xếp hạng là: Nam Sudan
(đứng thứ 162), Somalia (159), Cộng hòa Trung Phi (157), Sudan (155), Lybia
(154), Cộng hòa dân chủ Congo (152), Nigeria (149) [67]. Tại Nigeria,
Cameroon, Niger và Chad, hoạt động tăng cường của nhóm khủng bố Boko
Haram gần đây đã khiến cho hàng trăm nghìn người phải bỏ nhà cửa đi tỵ nạn.
Cao ủy tỵ nạn Liên hợp quốc (UNHCR) ước tính, chỉ riêng trong năm 2015 đã
có hơn 150 nghìn người Nigeria đã phải bỏ chạy sang Niger để tránh làn sóng
khủng bố Boko Haram [105].
70
60
50
40
30
20
10
0
Thế giới
Châu Phi nam Sahara
Châu Á-Thái Bình Dương
Hình 3.3: Mức độ tự do về sở hữu của châu Phi nam Saharaso với thế giới và
châu Á – Thái Bình Dương
Nguồn: Heritage Foundation (2016), 2016 Index of Economic Freedom
[http://www.heritage.org/index/ranking]
3.2.2 Mở cửa nền kinh tế
Mở cửa kinh tế, tiến hành hội nhập quốc tế, thu hút đầu tư nước ngoài và
thúc đẩy xuất khẩu là một trong những ưu tiên hàng đầu của các nền kinh tế châu
Phi theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung trong quá trình tự do hoá. Trong thời kỳ
82
kế hoạch hóa, nhiều chính phủ châu Phi đã nỗ lực thay thế mạng lưới thương
mại được hình thành trong thời kỳ thuộc địa - vốn được xem là công cụ để các
nước phương Tây bòn rút tài nguyên và bóc lột người dân, bằng một hệ thống
thương mại mới. Tuy nhiên, nỗ lực này đã không thành công; kết quả đem lại là
một nền kinh tế “ngăn sông, cấm chợ” và đóng cửa với bên ngoài hoặc bị cấm
vận kinh tế bởi tình trạng vi phạm nhân quyền, phân biệt chủng tộc. Ngay cả
giữa các nước châu Phi, rào cản thương mại vẫn tương đối cao trước khi bắt đầu
phát triển cao gấp ba lần mức thuế quan giữa các nền kinh tế phát triển đối
với hàng hoá công nghiệp chế tạo), trong khi khoảng 1/6 giá trị xuất khẩu của
tiến trình mở cửa (Tính bình quân, mức thuế quan giữa các nền kinh tế đang
các nước châu Phi là trong châu lục [123]. Nhằm dỡ bỏ các rào cản này, những
như: Thị trường chung Đông và Nam Phi (COMESA), Cộng đồng kinh tế các
nước Tây Phi (ECOWAS) và Cộng đồng phát triển miền Nam châu Phi (SADC).
Ngoài ra, châu Phi cũng tham gia tích cực vào nhóm “G77” của các nền kinh tế
nước châu Phi đã nỗ lực triển khai một số hiệp định hội nhập kinh tế khu vực,
đang phát triển trong nỗ lực hội nhập và mở cửa.
Tự do hoá thương mại, nhất là chính sách thúc đẩy xuất khẩu, đã giúp kim
trong những năm 1980 lên 4,4% trong những năm 1990 [123]. Tuy nhiên, những
kết quả đạt được mới chỉ rất khiêm tốn. Trong giai đoạn 1980-2000, mức độ
giảm thuế quan ở châu Phi chậm hơn so với nhiều nền kinh tế đang phát triển ở
các châu lục khác: trong khi thuế quan của các nền kinh tế đang phát triển giảm
khoảng một nửa thì mức giảm này ở châu Phi chỉ khoảng 1/3. Trong giai đoạn
1980-1990, ước tính khoảng 25% tỷ lệ tăng trưởng thấp hơn của châu Phi so với
Đông Á là do độ mở cửa thấp hơn[45]. Mặc dù giá trị xuất khẩu chiếm khoảng
29% GDP của châu Phi (không thấp hơn nhiều so với mức bình quân của thế
giới là 27%), giá trị thương mại của châu Phi chỉ chiếm dưới 1% giá trị thương
mại toàn cầu. [111]
83
ngạch xuất khẩu của các nước châu Phi tăng trưởng từ mức bình quân 2,4%/năm
Các thỏa thuận thương mại khu vực cũng góp phần thúc đẩy tự do hóa thị
trường nội địa ở châu Phi. Các quốc gia châu Phi Nam Sahara có lịch sử và đặc
điểm chung là các nước thuộc địa, có nhiều sự tương đồng trong tổ chức hành
chính và pháp lý nên dễ dàng liên kết thương mại với nhau. Các khối thương mại
này cho phép di chuyển tự do các yếu tố sản xuất nông nghiệp, hàng hóa và dịch
vụ nông nghiệp. Thương mại nội khối châu Phi được mở rộng trong lĩnh vực
nông nghiệp, đóng góp cho việc cải thiện khả năng cạnh tranh và chuẩn bị cho
việc tham gia vào quá trình toàn cầu hóa.
Các chương trình tự do hóa thương mại khu vực cũng dẫn đến những thay
đổi chính sách cốt lõi liên quan đến việc loại bỏ các rào cản thủ tục đối với thương
mại tự do, ví dụ: giấy phép nhập khẩu; xóa bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan
biểu thuế chung bên ngoài theo nghĩa vụ của khu vực và WTO.
Các hiệp định khu vực đã từ những năm 1990 bao gồm: Liên minh kinh tế
và tiền tệ Tây Phi (WAEMU), Diễn đàn tạo thuận lợi hội nhập khu vực (RIFF)
đối với thương mại nội khối; xóa bỏ thuế nhập khẩu và thuế xuất khẩu; tuân thủ một
trước đây là sáng kiến xuyên biên giới (CBI), Liên minh Hải quan Nam Phi
(SACU) và Cộng đồng kinh tế và tiền tệ Trung Phi (CAEMC), Cộng đồng Phát
Phi (COMESA), Ủy ban Hợp tác Đông Phi (EAC), Ủy ban Ấn Độ Dương (IOC)
và Cộng đồng kinh tế của các quốc gia Tây Phi (ECOWAS).
Dù vậy, không phải tất cả các nước châu Phi đều sẵn sàng tham gia vào
các hiệp định thương mại khu vực và ngay cả sau khi ký các hiệp định này, thuế
quan thương mại vẫn tiếp tục được giữ ở mức cao. Mở cửa thương mại khiến
cho châu Phi ngày càng trở nên lệ thuộc vào việc xuất khẩu tài nguyên. Các nền
kinh tế công nghiệp hoá mới ở châu Á đã khởi đầu cũng bằng việc xuất khẩu tài
nguyên và các loại hàng hoá thâm dụng lao động. Tuy nhiên, họ đã biết lấy
nguồn thu xuất khẩu này để đầu tư phát triển các ngành chế tạo và nâng cao năng
suất để duy trì mức tăng trưởng kinh tế [109]. Các nước châu Phi đã không làm
84
triển Nam Phi (SAADC), Khối Thị trường chung miền đông và miền nam châu
được điều này nên khiến cho khả năng cạnh tranh của nền kinh tế ngày càng suy
giảm và mắc phải nghịch lý là: khi tăng sản lượng tài nguyên xuất khẩu sẽ dẫn
đến giá cả giảm sút.
Trong nỗ lực thúc ép các nước châu Phi cải cách, các tổ chức quốc tế cũng
nhấn mạnh vấn đề tự do hoá thị trường tài chính, để cho thị trường huy động các
nguồn lực tài chính và xác định lãi suất. Phần lớn các nước châu Phi có thị
trường tài chính rất kém phát triển, đặc biệt khả năng tiếp cận tín dụng hạn chế
đã ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của khu vực nông nghiệp, các doanh
nghiệp vừa và nhỏ. Tỷ lệ tiết kiệm ở châu Phi thường thấp (thấp hơn ở các nền
kinh tế châu Á) và điều này khiến cho việc huy động nguồn lực cho đầu tư ở
châu Phi gặp nhiều khó khăn. Tự do hoá tài chính giúp cho các hộ gia đình tiết
chuyển tới các công ty hoạt động hiệu quả nhất trên thị trường. Điều này cũng
giúp dỡ bỏ các méo mó trên một khu vực tài chính bị kiểm soát, thu hút các
nguồn lực tài chính trên phạm vi toàn cầu. Các nước châu Phi muốn thu hút
nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài đều mong muốn được các định chế quốc tế chứng
kiệm và nắm giữ các tài sản tài chính và giúp các nguồn lực khan hiếm được
nhận về tự do hoá tài chính. Kể từ đầu những năm 2000, mức độ tự do tiền tệ của
như phá giá đồng tiền, áp dụng cơ chế tỷ giá thả nổi.
Đến những năm 1990, hầu hết các nước châu Phi đã tiến hành tự do hoá
thương mại và triển khai các chính sách thu hút đầu tư nước ngoài. Kể từ đầu
những năm 2000, môi trường tự do hoá đầu tư ở châu Phi nam Sahara thậm chí
còn tốt hơn ở châu Á-Thái Bình Dương. Mức độ can thiệp của chính phủ vào
nền kinh tế đã giảm mạnh. Xét về mức độ tự do tài khoá và chi tiêu của chính
phủ, châu Phi nam Sahara được coi là các nền kinh tế có mức tương đối tự do.
Đặc biệt, nếu xét về chi tiêu của chính phủ, mức độ tự do của các nền kinh tế
châu Phi còn cao hơn mức trung bình của thế giới và ngang với các nền kinh tế
châu Á-Thái Bình Dương. Đây là kết quả của những chương trình cải cách cơ
cấu được các nhà tài trợ như WB, IMF vừa cổ vũ, vừa áp đặt.
85
các nền kinh tế châu Phi đã bắt kịp với thế giới nhờ những chính sách tự do hoá
Tự do thương mại
80
70
60
50
40
30
20
10
0
Thế giới
Châu Phi nam Sahara
Châu Á-Thái Bình Dương
Tự do đầu tư
70
60
50
40
30
20
10
0
Thế giới
Châu Phi nam Sahara
Châu Á-Thái Bình Dương
86
Tự do tài chính
60
50
40
30
20
10
0
9 9 9 1
0 0 0 2
1 0 0 2
2 0 0 2
3 0 0 2
4 0 0 2
5 0 0 2
4 1 0 2
5 1 0 2
6 1 0 2
5 9 9 1
6 9 9 1
7 9 9 1
8 9 9 1
6 0 0 2
7 0 0 2
8 0 0 2
9 0 0 2
0 1 0 2
1 1 0 2
2 1 0 2
3 1 0 2
Thế giới
Châu Phi nam Sahara
Châu Á-Thái Bình Dương
Tự do tiền tệ
90
80
70
60
50
40
30
20
10
0
7 9 9 1
8 9 9 1
9 9 9 1
0 0 0 2
4 0 0 2
5 0 0 2
6 0 0 2
7 0 0 2
2 1 0 2
3 1 0 2
4 1 0 2
5 1 0 2
5 9 9 1
6 9 9 1
1 0 0 2
2 0 0 2
3 0 0 2
8 0 0 2
9 0 0 2
0 1 0 2
1 1 0 2
6 1 0 2
Thế giới
Châu Phi nam Sahara
Châu Á-Thái Bình Dương
Hình 3.4: Tự do hoá thương mại, đầu tư, tài chính và tiền tệ của
châu Phi nam Sahara so với thế giới và châu Á – Thái Bình Dương
Nguồn: Heritage Foundation (2016), 2016 Index of Economic Freedom
[http://www.heritage.org/index/ranking]
Khác với các nền kinh tế phát triển, tự do hoá nông nghiệp là một trong
87
những ưu tiên hàng đầu của các nước châu Phi nhằm phát huy được tiềm năng
của lĩnh vực có thế mạnh này. Nhiều chính phủ châu Phi hy vọng, việc dỡ bỏ các
hạn ngạch và giảm thuế của các nền kinh tế phát triển sẽ giúp nước họ đẩy mạnh
xuất khẩu nông sản. Tuy nhiên, việc tập trung vào khu vực nông nghiệp và xuất
khẩu tài nguyên đã khiến cho ngành công nghiệp ở nhiều nước châu Phi (ngoại
trừ Nam Phi) bị suy giảm, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nền kinh tế. Tỷ trọng của ngành công nghiệp trong GDP đã
giảm từ 39% năm 1980 xuống còn 32% năm 1997. Phần lớn các mặt hàng xuất
khẩu chỉ có giá trị thấp; sản phẩm chế tạo chỉ chiếm khoảng 20% giá trị xuất
khẩu [111]. Quá trình mở cửa khiến cho nhiều ngành công nghiệp non trẻ của
châu Phi bị tác động tiêu cực và suy giảm. Ngoài ra, việc cắt giảm chi tiêu chính
những năm 1970 xuống còn khoảng 13% trong giai đoạn 2000-2006 cũng ảnh
hưởng đến việc đầu tư cho kết cấu hạ tầng phục vụ công nghiệp [100].
phủ theo các chương trình cải cách từ mức bình quân khoảng 20% GDP trong
3.2.3. Thúc đẩy tư nhân hoá
Vào những năm 1970, bình quân khu vực doanh nghiệp nhà nước (SOE)
chiếm khoảng 17% GDP của các nền kinh tế châu Phi, so với mức bình quân của
các nước trong khu vực. Một số cuộc điều tra tại châu Phi cho thấy, SOE chiếm
khoảng ¼ lực lượng lao động trong khu vực chính thức và trên 18% lao động
trong tất cả lĩnh vực phi nông nghiệp tại các nước được điều tra; SOE cũng
chiếm trên 20% đầu tư nội địa.
Mặc dù chiếm vị trí lớn trong nền kinh tế, khu vực SOE lại hoạt động rất
kém hiệu quả. Ví dụ, trong 12 nước Tây Phi được khảo sát, 62% số SOE được
khảo sát báo lỗ ròng [46]. Đến cuối những năm 1970, tổng lỗ luỹ kế của các
SOE ở Mali chiếm tới 6% GDP. Một nghiên cứu vào năm 1980 đối với 8 SOE ở
Togo cho thấy, chỉ riêng thua lỗ của nhóm công ty này chiếm tới 4% GDP. Ở
Benin, hơn 60% SOE ghi nhận lỗ ròng [82]. Bên cạnh đó, chính phủ nhiều nước
88
thế giới là 10% và của các nước OECD là 5%, tuy tỷ lệ này có khác nhau giữa
châu Phi cũng không thể giám sát được hoạt động của các SOE. Một nghiên cứu
vào năm 1988 tại Tanzania cho thấy khoảng 1/3 số SOE của nước này đã không
cung cấp các báo cáo về tài chính cơ bản [81].
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự yếu kém này song chủ yếu là hệ thống
quản trị và điều hành công ty yếu kém. Sắc luật của nhiều nước châu Phi thường
yêu cầu các bộ trưởng phải tham gia hội đồng quản trị và điều hành công ty nhà
nước. Kết quả là hội đồng này thường gồm các quan chức, trong đó rất ít người
có kinh nghiệm thực tiễn về thương mại hoặc kỹ thuật phù hợp. Thậm chí, một
quan chức có thể tham gia hội đồng điều hành của nhiều công ty khác nhau. Vị
trí thành viên trong hội đồng quản trị và điều hành thường được dùng để
“thưởng” cho những người trong phe cánh chính trị, các tướng lĩnh về hưu và đại
ích khác từ công ty song hầu như không chịu trách nhiệm gì với việc công ty
thua lỗ. Hội đồng quản trị và điều hành yếu kém dẫn đến các quyết đầu tư ban
đầu sai lầm, nhất là đối với lĩnh vực sản xuất công nghiệp và thương mại. Ví dụ,
biểu quốc hội. Những người này được hưởng các khoản thu nhập và nhiều lợi
vào thập niên 1970 quyết định đầu tư vào khai thác uranium ở Niger mà không
lường trước việc giá uranium không duy trì ở mức cao như lúc đó; hay quyết
Nigeria trước khi chính quyền nước này quyết định không nhập khẩu hàng dệt
may nữa.
Tư nhân hoá ở châu Phi đến nay được chia làm ba giai đoạn: thập niên
1980, giai đoạn 1990 - 2000 và từ năm 2000 đến nay.
Quá trình tư nhân hoá ở châu Phi bắt đầu bùng nổ từ đầu những năm
1980, dưới hai luồng sức ép: Một là sức ép ở trong nước nhằm giảm gánh nặng
ngân sách của các doanh nghiệp quốc doanh thua lỗ vốn được hình thành ồ ạt
bởi quá trình quốc hữu hoá trong thời kỳ sau khi giành được độc lập. Hai là sức
ép của các nhà tài trợ quốc tế theo các chương trình cơ cấu lại. Ngoài ra, đối với
các chính phủ châu Phi, quyết tâm tư nhân hoá còn được thôi thúc bởi các động
89
định đầu tư vào lĩnh vực dệt may ở Benin với hy vọng đẩy mạnh xuất khẩu sang
lực: tăng nguồn thu cho chính phủ; tăng hiệu quả kinh tế song cố gắng duy trì
mức độ việc làm; giảm sự can thiệp của chính phủ đối với quản lý kinh tế và mở
rộng sở hữu tư nhân; thúc đẩy cạnh tranh thông qua tự do hoá kinh tế; và phát
triển thị trường vốn quốc gia và thu hút dòng vốn từ bên ngoài và trong nước. Tư
nhân hoá bắt đầu trở thành “mốt” tại nhiều nước cùng với việc đẩy mạnh tự do
bầu cử, lớn mạnh của xã hội dân sự và các tiến trình dân chủ hoá.[80]
Năm 1979, WB bắt đầu triển khai các hoạt động cho vay “điều chỉnh cơ
cấu” đối với các nước châu Phi. Khác với những khoản cho vay trước đó tập
trung vào hỗ trợ xây dựng kết cấu hạ tầng như đường sá, sân bay, bến cảng,
trường học...các khoản cho vay mới này đưa ra điều kiện: chính phủ các nước đi
vay phải cam kết triển khai các biện pháp nhằm “điều chỉnh lại các mất cân đối”
chỉnh của các khoản vay này. Chỉ trong vòng một thập kỷ (1979-1989), WB đã
thông qua 51 dự án điều chỉnh cơ cấu trong đó có các cấu phần về cải cách SOE;
có 18 nước châu Phi nhận được 27 trong số khoản vay này [82].
của nền kinh tế. Khu vực SOE yếu kém hiển nhiên trở thành đối tượng điều
Vào thời điểm này, nhiều nước châu Phi không dùng thuật ngữ “tư nhân
hoá” (privatization) mà thay bằng thanh lý (liquidation) hoặc phục hồi
không có triển vọng cải thiện kết kinh doanh, chủ yếu trong các lĩnh vực thương
mại và chế tạo. Một số biện pháp cải cách được thử nghiệm trong giai đoạn này.
Ví dụ, cải cách SOE ở Cote d’Ivoire tập trung vào việc thiết lập các chỉ số giám
sát hiệu quả quản lý và năng suất của công ty. Cải cách SOE ở Ghana tập trung
vào việc sa thải các công nhân dư thừa nhằm cắt giảm chi phí. Chính phủ
Senegal áp dụng hìnhh thức “hợp đồng theo kế hoạch”, thuê đội ngũ cán bộ quản
lý công ty nhằm tăng tự chủ trong quản trị kinh doanh, tăng cường hiệu quả sử
dụng nguồn lực. Tuy nhiên, rất hiếm xảy ra trường hợp bán đứt các công ty cho
khu vực tư nhân.
Cho đến nửa đầu những năm 1990, tư nhân hoá ở châu Phi chủ yếu tập
90
(rehabilitation). Đối tượng được áp dụng chủ yếu là các công ty thua lỗ nặng,
trung vào các doanh nghiệp nhỏ và không đem lại những nguồn thu lớn cho
chính phủ. Từ giữa những năm 1990, hoạt động tư nhân hoá mới chuyển sang
những công ty lớn như hàng không, ngân hàng, các công ty cung ứng dịch vụ
công, viễn thông v.v... Do vậy, các nguồn thu của chính phủ tăng vọt. Trong giai
đoạn 1988-1996, tổng giá trị bán được của các công ty được tư nhân hoá ở châu
Phi Nam Sahara đạt khoảng 2,7 tỷ USD; trong khi chỉ trong năm 1997 con số
này đã đạt 2,3 tỷ USD. [60]
Hình 3.5. Số trường hợp tư nhân hoá ở châu Phi nam Sahara, 1991-2002
Nguồn: Buchs, Thierry D. (2003), Privatization in Sub-Saharan Africa: Some
Lessons from Experiences to Date, IFC, December 2003. Pg.4
Hình 3.6: Giá trị của các trường hợp tư nhân hoá ở châu Phi nam Sahara,
1991-2001
Châu Phi nam Sahara trừ Nam Phi
Nguồn: Buchs, Thierry D. (2003), Privatization in Sub-Saharan Africa: Some
Lessons from Experiences to Date, IFC, December 2003. Pg.4
91
Chế tạo và công nghiệp
NN, CN phục vụ nông nghiệp, ngư nghiệp
Dịch vụ, du lịch, bất động sản
Thương mại
Tài chính
Vận tải
Năng lượng
Nước và dịch vụ công ích
Viễn thông
Dịch vụ khác
Điện
Nguồn: Buchs, Thierry D (2003), Privatization in Sub-Saharan Africa: Some
Lessons from Experiences to Date, IFC, December 2003. Pg.7
Nhìn chung, trong giai đoạn 1990-2000, tư nhân hoá ở châu Phi bắt đầu
trở nên hiệu quả hơn và đã đi đúng hướng. Có ba nhóm doanh nghiệp trở thành
Hình 3.7: Số lượng trường hợp được tư nhân hoá trong các lĩnh vực (1991-2002)
đối tượng được tư nhân hoá: i) các doanh nghiệp chiến lược không hiệu quả; ii)
các doanh nghiệp không chiến lược nhưng vẫn hoạt động hiệu quả; và iii) các
doanh chủ yếu của các SOE như các ngành chế tạo và công nghiệp, nông nghiệp,
dịch vụ, du lịch và bất động sản…đã được tư nhân hoá tuy với số lượng không
nhiều. Sau khi tư nhân hoá, kết quả kinh doanh của các công ty trong lĩnh vực
này đã được cải thiện [47]. Tuy nhiên, các trường hợp tư nhân hoá chỉ tập trung
ở một số nước: Nam Phi chiếm phần lớn trong số vụ tư nhân hoá ở châu Phi nam
Sahara, tiếp đến là Ghana, Nigeria và Zambia.
Tiến trình tư nhân hoá đã làm giảm mạnh quy mô của khu vực công. WB
ước tính, số lượng SOE ở châu Phi nam Sahara đã giảm 33%, từ 6.069 công ty
xuống còn 4.058 công ty chỉ trong giai đoạn 1990-1995. Mặc dù quy mô nhỏ
hơn song khu vực công có tình hình tài chính tốt hơn do các công ty yếu kém đã
92
doanh nghiệp không chiến lược hoạt động không hiệu quả. Những lĩnh vực kinh
bị bán hoặc giải thể [60]. Tính bình quân, tỷ lệ sở hữu của chính phủ đối với các
lĩnh vực kinh tế đã giảm từ khoảng 89,1% trước khi tư nhân hoá xuống còn
10,3% sau khi tư nhân hoá [47].
Bảng 3.8: Sở hữu của chính phủ trong một số lĩnh vực trước và sau khi tư
Lĩnh vực
Trước khi tư
Sau khi tư
nhân hoá
nhân hoá
Chế tạo và công nghiệp
79,7
7,9
Nông nghiệp, công nghiệp
79,5
1,6
phụ vụ nông nghiệp, ngư
nghiệp
Dịch vụ, du lịch, bất động sản
70,2
14,3
Thương mại
95,3
3,3
Tài chính
86,7
8,2
Vận tải
97,6
4,9
Năng lượng
88,3
46,5
Nước
100
12,5
Viễn thông
95,8
42,8
Dịch vụ khác
63,3
10,2
Điện
100
33
Nguồn: Thierry D. Buchs (2003), Privatization in Sub-Saharan Africa: Some
Lessons from Experiences to Date, IFC, December 2003. Pg.8
nhân hoá (1991-2002), tỷ lệ %
từ đầu những năm 2000, các định chế quốc tế bắt đầu chuyển mối quan tâm từ
vấn đề tư nhân hoá sang việc thiết lập các điều kiện cơ bản hơn nhằm thúc đẩy
khu vực tư nhân phát triển, thông qua việc cải thiện môi trường kinh doanh, thúc
đẩy cạnh tranh bình đẳng và cho phép khu vực tư nhân tham gia bình đẳng vào
những lĩnh vực sản xuất, cung cấp dịch vụ công như khu vực nhà nước.
Có nhiều sức ép đòi hỏi phải phát triển khu vực kinh tế tư nhân ở châu
93
Tiến trình tư nhân hoá bắt đầu chững lại kể từ cuối những năm 1990. Kể
Phi, trong đó quan trọng nhất là yêu cầu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và giải
quyết việc làm. Châu Phi hiện có khoảng 200 triệu thanh niên thiếu việc làm;
hàng năm có khoảng 7-10 triệu thanh niên tham gia vào lực lượng lao động, 70-
80% lực lượng lao động làm việc trong khu vực phi chính thức; và dự báo đến
năm 2050, cứ trong 5 người thì có một người thuộc độ tuổi 15 đến 24 [113]. Tỷ
lệ thất nghiệp của giới trẻ ở khu vực Bắc Phi thuộc vào nhóm cao nhất thế giới,
khoảng 23,7% năm 2012. Thậm chí, tỷ lệ này còn cao hơn ở nữ giới, lên tới 37%
năm 2012 (so với nam giới là 18,3%). Do đào tạo kỹ năng không phù hợp, nhiều
nghiệp của những người có trình độ phổ thông trung học trở lên ở khu vực này
thanh niên có trình độ học vấn cao vẫn không tìm được việc làm. Tỷ lệ thất
Morocco (17,4%) năm 2010. Tỷ lệ thất nghiệp của giới trẻ ở khu vực Nam Phi
cũng rất nghiêm trọng, lên tới mức 58,9% ở Namibia năm 2008, 58,6% ở
Réunion năm 2011 và 34,4% ở Lesotho năm 2008 [62]. Đây cũng chính là
những yếu tố tiềm ẩn gây bất ổn chính trị - xã hội nếu không được giải tỏa kịp thời.
rất cao, đặc biệt ở một số nước như Algeria (21,4%), Ai Cập (18,9%) và
Hơn một thập kỷ tiến hành cải cách cơ cấu thông qua những nỗ lực tự do
đối với các nền kinh tế châu Phi. Khu vực này chiếm trên 80% sản lượng sản
xuất, 2/3 tổng đầu tư và ¾ tổng vốn tín dụng cho nền kinh tế đồng thời cung cấp
việc làm cho khoảng 90% lực lượng lao động trong giai đoạn 1996-2008 [37].
Tuy nhiên, nhìn về tổng thể thì khu vực này vẫn còn kém phát triển, chủ yếu chỉ
tồn tại ở khu vực phi chính thức (khu vực có năng suất rất thấp) của nền kinh tế.
Tại những nền kinh tế châu Phi có thu nhập thấp và bất ổn, khu vực này chiếm
đến trên 40% GDP [37].
94
hóa và cải tổ khu vực SOE đã giúp cho khu vực tư nhân đóng vai trò quan trọng
i h P u â h C
c ớ ư n c á C
u â h c T P Đ
ỹ M
c ớ ư n c á C
u â h c T P Đ
u Â
Á u â h c T P Đ
c ớ ư n c á C
h n i k n ề n c á C
i ổ đ n ể y u h c ế t
c ớ ư n c á C
D C E O
Hình 3.8: Tỷ trọng khu vực phi chính thức trong GDP của châu Phi so với
Nguồn: African Development Bank (2011), African Development
Report 2011: Private Sector Development as an Engine of Africa’s Economic
Development, Abidjan, Côte d'Ivoire, Figure 1.6, page 17
Nhiều nỗ lực cải cách thể chế nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho khu vực
các khu vực khác trên thế giới năm 2006 (%)
kinh tế tư nhân phát triển đã được tiến hành kể từ đầu những năm 2000. Tại
phép tham gia vào một số lĩnh vực thuộc vào cung cấp dịch vụ kết cấu hạ tầng
như năng lượng, viễn thông, cung cấp nước…trước đây thuộc độc quyền hoặc
bán độc quyền của nhà nước. Tuy vậy, quá trình này cũng diễn ra không đều:
nhanh và mạnh mẽ hơn tại những nước phát triển hơn như Nam Phi.
95
nhiều nước châu Phi, dưới sức ép của các nhà tài trợ khu vực tư nhân đã được
Năng lượng Viễn thông Nước và vệ sinh
- X - X X X X X X X X - - X X X X X X X - X X X X X X X X X X X X X - X X X
- - X - - X X X X X - X - - X - - - - - X - - X - - X - - X X - - - - X - -
- - - - - X - - X X - X - X X X X - - - X - X - - - X - X X X - - X - - X X
Nước Benin Botswana Burkina Faso Burundi Cameroon Cape Verde Cộng hoà Trung Phi Chad Congo Cote d’Ivoire Cộng hoà dân chủ Congo Gabon Gambia Ghana Guinea Guinea Bissau Kenya Lesotho Madagascar Malawi Mali Mauritania Mauritius Mozambique Namibia Nigeria Niger Rwanda Sao Tome & Principe Senegal Nam Phi Sudan Swaziland Tanzania Togo Uganda Zambia Zimbabwe Nguồn: Buchs, Thierry D. (2003), World Bank PPI Project Database,
African Privatization Database.
Ghi chú: X có tồn tại; - : chưa có
96
Bảng 3.9: Sự tham gia của khu vực tư nhân vào các lĩnh vực dịch vụ công đầu những năm 2000
3.3. Đánh giá tiến trình cải cách thể chế kinh tế thị trường của châu Phi
3.3.1. Đặc điểm và kết quả của tiến trình cải cách
Có thể chia tiến trình cải cách thể chế kinh tế của phần lớn các nước châu
Phi (Nam Sahara) làm hai giai đoạn chính:
i)- Giai đoạn chuyển từ nền kinh tế phi thị trường sang nền kinh tế thị trường
Cốt lõi của quá trình chuyển đổi này là việc triển khai các chương trình
cải cách cơ cấu (SAP) trong thập kỷ 1980 và đầu thập kỷ 1990. Có nhiều ý kiến
khác nhau về kết quả của SAP đối với châu Phi. Những người ủng hộ SAP cho
rằng, có thể SAP chưa mang lại kết quả như mong muốn nhưng cũng đã giúp
nhiều nước châu Phi cải cách và vượt qua được những thời điểm khó khăn nhất.
Nhiều nền kinh tế châu Phi gần như bền bờ vực sụp đổ trước khi triển khai SAP;
trong hoạt động xuất khẩu và tự do hoá thương mại, Angola đã cải thiện được lợi
thế so sánh; xuất khẩu dầu mỏ của nước này đã tăng mạnh ở mức bình quân
8%/năm. Tương tự, xuất khẩu đồng của Zambia vốn bị kìm hãm bởi các chính
và tình hình này đã được cứu vãn. Ví dụ, với chính sách tăng cường minh bạch
sách không hiệu quả và hoạt động của khu vực quốc doanh đã phục hồi mạnh mẽ
sau chính sách điều chỉnh cơ cấu. Các chương trình điều chỉnh cơ cấu đã giúp
trạng bị “kiểm soát chặt chẽ”, đồng thời giúp ổn định kinh tế vĩ mô và chuyển
sang nền kinh tế thị trường tự do.
Những ý kiến phản đối cho rằng, SAP được thiết kế bởi phương Tây mà
không tính đến các điều kiện đặc thù của châu Phi, thậm chí không tính đến đặc
thù giữa các nước châu Phi. SAP không do các nước châu Phi “sở hữu”, kiểm
soát và điều hành. SAP còn ôm đồm quá nhiều thứ, chỉ tính đến những mục tiêu
ngắn hạn, thiếu các mục tiêu phát triển dài hạn và cuối cùng không hiệu quả bởi
châu Phi vẫn chưa thoát khỏi “bẫy đói nghèo”. Việc tự do hoá thương mại, phá
giá đồng tiền ở nhiều nước châu Phi đã tạo ra những tác động tiêu cực: ví dụ,
làm tăng giá cả đầu vào của sản xuất nông nghiệp; chính sách thúc đẩy xuất khẩu
97
hoạt động thương mại, tài chính của nhiều nền kinh tế châu Phi thoát khỏi tình
đã để lại hệ luỵ là tình trạng khai thác, bòn rút tài nguyên và tàn phá môi trường
nghiêm trọng ở nhiều nước châu Phi. Thậm chí, có những ý kiến còn cho rằng,
châu Phi có thể sẽ phát triển tốt hơn nếu không có SAP.
Nhìn chung, trong giai đoạn này, cải cách thể chế kinh tế ở châu Phi là
một quá trình tự do hoá được áp đặt bởi các định chế quốc tế như WB và IMF
cùng với cộng đồng các nhà tài trợ phương Tây. Từ cải cách chế độ sở hữu, thúc
đẩy tự do hoá thương mại, tài chính và đầu tư cho tới quá trình tư nhân hoá, dỡ
bỏ dần độc quyền nhà nước, cho phép cạnh tranh bình đẳng…châu Phi đã theo lộ
trình cải cách như “đơn thuốc” Đồng thuận Washington. Điều này khiến quá
trình tự do hoá ở châu Phi bị chỉ trích là phụ thuộc quá nhiều vào các nhà tài trợ.
Ví dụ, các trường hợp tư nhân hoá hầu như gắn với việc giải ngân những khoản
thường yêu cầu đẩy nhanh tiến độ, thậm chí, còn thiết kế cả những chương trình
và kế hoạch tư nhân hoá cho các nước đi vay [116]. Tuy nhiên, ngay cả khi bị áp
đặt từ bên ngoài, kết quả của quá trình tư nhân hoá ở châu Phi vẫn không như
mong đợi. Nguyên nhân không phải là sự yếu kém về năng lực mà là do chủ đích
vay của WB và IMF. Các nhà tài trợ rất chú trọng đến số vụ tư nhân hoá và
bởi tâm lý chính trị thù ghét tư nhân hoá. Giới chính trị gia và học giả châu Phi
ích của những nhóm thiểu số và tư nhân hoá sẽ tạo điều kiện mang lại lợi ích cho
người nước ngoài hoặc tầng lớp tư bản giàu có trong nước. Các nghiệp đoàn và
người lao động ở châu Phi phản đối tư nhân hoá vì sợ rằng, điều này sẽ dẫn đến
mất việc làm. Hơn nữa, lợi ích của nhiều nhà lãnh đạo và quan chức châu lục này
gắn liền với khu vực doanh nghiệp nhà nước như các khoản biếu xén, có được các
phương tiện đi lại và nhà ở, thành viên trong hội đồng quản trị, tạo việc làm cho
người thân và các khoản lại quả từ những dự án…Khu vực tư nhân cũng trục lợi
được nhờ mối quan hệ thân quen, dựa dẫm vào các doanh nghiệp nhà nước và e
ngại rằng, những điều này sẽ bị ảnh hưởng nếu như doanh nghiệp nhà nước sau khi
tư nhân hoá sẽ bị kiểm soát bởi chủ sở hữu tư nhân - những người chắc chắn sẽ phải
nâng cao hiệu quả, chất lượng và cắt giảm chi phí của doanh nghiệp.
98
thường được đào tạo theo quan điểm rằng, khu vực công là công cụ để bảo vệ lợi
Các số liệu thực tế cho thấy, những chương trình cải cách được áp đặt bởi
hệ thống nguyên tắc Đồng thuận Washington không mấy thành công ở trên thế
giới và ở cả châu Phi. Trong thập niên 1980, các tổ chức quốc tế như WB đã chi
25 tỷ USD trong nỗ lực cải cách kinh tế ở 29 quốc gia châu Phi song có đến 23
quốc gia bị coi là đã thất bại; chỉ có 6 trong số đó được xem là khá thành công.
Năm 1993, trong số 15 nước trên thế giới được WB xem là trọng tâm của các
chương trình điều chỉnh cơ cấu chỉ có 3 nước được IMF coi là những nền kinh tế
vận hành tốt. Điều này chứng tỏ nhiều nhà lãnh đạo châu Phi đã không thực sự
quan tâm đến cải cách kinh tế bởi họ không định từ bỏ sự kiểm soát kinh tế đã
làm nên nền tảng đế chế quyền lực của mình. Khi đối mặt với áp lực quốc tế và
để có được nguồn tài trợ, nhiều nhà lãnh đạo châu Phi đã chọn một chiến thuật
dù còn nhiều hạn chế, thực tế đã chứng minh, đến đầu những năm 1990, các
chương trình điều chỉnh cơ cấu và đơn thuốc của các tổ chức quốc tế đã giúp hầu
hết các nền kinh tế châu Phi “điều chỉnh” theo hướng thị trường.
ii)- Giai đoạn hoàn thiện, củng cố nền tảng thể chế kinh tế thị trường
khôn khéo “Babangida Boogie” – tức là một bước tiến, hai bước lùi [43]. Mặc
Cốt lõi của giai đoạn này là quá trình hoàn thiện chất lượng của các thể
các thể chế chính trị) có tác động đến chất lượng phát triển và chất lượng của
tiến trình cải cách thể chế kinh tế thị trường.
Sau khi có đánh giá của WB, làn sóng cải cách thể chế ở châu Phi bắt đầu
chuyển đổi mạnh mẽ sang vấn đề quản trị quốc gia và cải cách thể chế chính trị
thông qua quá trình dân chủ hoá. Bên cạnh đó, tiến trình cải cách thể chế kinh tế
thị trường ở châu Phi đã không chỉ chú ý đến vấn đề tự do hoá, tư nhân hoá mà
đã chú trọng nhiều hơn đến vấn đề giảm nghèo. Cuối thập niên 1990, các tổ
chức quốc tế như WB đã thay thế SAP bằng Cơ chế tăng trưởng và giảm
nghèo (PRGF) và các nước châu Phi phải chuẩn bị các Chiến lược giảm
nghèo (PRSP) nhằm tiếp tục nhận được các khoản viện trợ của cộng đồng
quốc tế.
99
chế kinh tế thị trường; cải cách các nền tảng thể chế (như: nền quản trị quốc gia,
Nhìn chung, chỉ có một số nước châu Phi được hưởng lợi từ quá trình tự
do hoá. Ví dụ, mặc dù có vị trí địa lý không thuận lợi (do không giáp biển) và
xuất phát điểm thấp hơn, Uganda đã đạt được nhiều thành tựu phát triển nhanh
chóng hơn các quốc gia láng giềng nhờ quá trình tự do hoá. Trong giai đoạn
1995-2000, nền kinh tế Uganda tăng trưởng bình quân khoảng 6%/năm; tỷ lệ tiết
kiệm nội địa tăng từ mức 0,7% GDP năm 1991 lên 7,9% năm 1997[110]; trong
giai đoạn 1992-1998, tăng trưởng GDP bình quân đầu người đạt trung bình 3,8%
và tốc độ giảm nghèo nhanh gấp 6 lần phần còn lại của châu Phi [55]. Tự do hoá
cùng với các biện pháp thúc đẩy xuất khẩu và thu hút FDI cũng đã đóng góp tích
cực cho nền kinh tế của Mauritius and Mozambique - hai nước thuộc nhóm đạt
được tốc độ tăng trưởng GDP nhanh nhất thế giới vào cuối những năm
Ngược lại, tự do hoá đã không giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thậm chí
hội nhập quốc tế của những nước như Malawi. Nước này bắt đầu tiến hành
chương trình cải cách cơ cấu từ giữa những năm 1980. Tuy nhiên, ngay cả khi đã
1990.[124]
mở cửa nền kinh tế, giá trị tỷ xuất khẩu đã giảm từ mức 30% GDP năm 1994
xuống còn 27% năm năm sau đó. Các công ty nước ngoài từ chối đầu tư vì môi
thiện về kết cấu hạ tầng và phát triển nguồn nhân lực nhằm nâng cao năng suất
của nền kinh tế. Các công ty và nông dân Malawi đã không được chuẩn bị tốt
đứng trước sức ép cạnh tranh gay gắt từ bên ngoài [49]. Hơn nữa, trên thị trường
thế giới cũng diễn ra nhiều bất lợi như việc giá thuốc lá giảm đã ảnh hưởng đến
xuất khẩu của nước này (thuốc lá chiếm đến 66% giá trị xuất khẩu của Malawi.
http://www.unctad.org/en/subsites/ldcs/country/profiles/malawi.htm
[137].
Nếu Uganda và Mauritius vẫn tiếp tục bảo hộ nền sản xuất trong nước bằng
hàng rào thuế quan tương đối cao, thì những nước như Malawi hay
Zimbabwe, việc dỡ bỏ thuế quan đã khiến cho giá lương thực tăng vọt và gây
ra tình trạng nghèo khổ trầm trọng hơn.
100
trường đầu tư không minh bạch. Quá trình tự do hoá đã không đi kèm những cải
Kể từ đó đến nay, mức độ tự do kinh tế của châu Phi đã được cải thiện
đáng kể; đặc biệt trong giai đoạn 5 năm trở lại đây sau khi sụt giảm trong thời kỳ
khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên, theo Báo cáo chỉ số tự do kinh tế, mức
độ tự do kinh tế của châu Phi nam Sahara thuộc vào nhóm thấp nhất thế giới –
thấp hơn mức bình quân chung của thế giới và của khu vực châu Á – Thái Bình
Dương. Năm 2016, trên thang điểm 100 của Heritage Foundation, điểm chung
bình về mức độ tự do kinh tế của châu Phi nam Sahara là 55,5, trên đó là châu Á
- Thái Bình Dương (59 điểm), Nam Mỹ, Trung Mỹ và Caribbe (59,8), Trung
Đông-Bắc Phi (62,6), châu Âu (66,9) và Bắc Mỹ (72,9). Trong số 44 nước châu
Phi nam Sahara được xếp hạng, có 8 nước bị coi là những nước không có tự do
kinh tế, 28 nước bị coi là hầu như không có tự do kinh tế, 8 nước tương đối có tự
Botswana.
do kinh tế và chỉ có hai nước phần nhiều có tự do kinh tế là Mauritius và
62
60
58
56
54
52
50
48
46
5 9 9 1
9 9 9 1
0 0 0 2
4 0 0 2
5 0 0 2
6 0 0 2
9 0 0 2
0 1 0 2
1 1 0 2
4 1 0 2
5 1 0 2
6 1 0 2
6 9 9 1
7 9 9 1
8 9 9 1
1 0 0 2
2 0 0 2
3 0 0 2
7 0 0 2
8 0 0 2
2 1 0 2
3 1 0 2
Thế giới
Châu Phi nam Sahara
Châu Á - Thái Bình Dương
Hình 3.9: Mức độ tự do hoá kinh tế của châu Phi nam Sahara so với thế giới
và châu Á – Thái Bình Dương, 1995-2016
Nguồn: Heritage Foundation (2016),2016 Index of Economic Freedom
[http://www.heritage.org/index/ranking]
101
Kể từ đầu những năm 2000, nhiều nền kinh tế châu Phi đã đạt được tốc độ
tăng trưởng khá, chủ yếu nhờ vào việc giá cả tài nguyên gia tăng. Đây là kết quả
tích cực của việc mở cửa nền kinh tế và thúc đẩy xuất khẩu. Cùng với thành tựu
về tăng trưởng kinh tế, một số quốc gia châu Phi đã có những tiến bộ nhảy vọt
về cải thiện môi trường kinh doanh như Mauritius (đứng thứ 32 thế giới trong
bảng xếp hạng 189 nền kinh tế của DB2016), Rwanda (đứng thứ 62 thế giới) và
Botswana (đứng thứ 72). Báo cáo DB2016 cũng cho thấy, trong thời gian qua,
nhiều nước châu Phi đã tiến hành những cải cách đáng kể nhằm tạo thuận lợi
khởi nghiệp kinh doanh, đảm bảo quyền sở hữu, thúc đẩy thương mại xuyên biên
giới, tiếp cận tín dụng và sử dụng các dịch vụ công như điện, nước…
Ví dụ: năm 2007, chính phủ Zambia đã tạo thuận lợi cho việc cấp phép
phủ nước này cũng giúp việc thành lập các công ty khởi nghiệp dễ dàng hơn
bằng cách xóa bỏ yêu cầu về lượng vốn tối thiểu. Năm 2013, chính phủ Tanzania
đã xây dựng hệ thống thông tin tín dụng, từ đó hình thành một cơ sở dữ liệu tín
xây dựng bằng cách giảm thời gian yêu cầu để bắc điện, nước. Năm 2011, chính
dụng. Chính phủ nước này cũng đơn giản hóa các thủ tục, quy định rõ phần thù
lao và yêu cầu nghề nghiệp cho người tư vấn để tạo thuận lợi cho việc phá sản.
cách giảm thiểu các thủ tục, trong đó bãi bỏ yêu cầu phải có luật sư tư vấn.
Ngoài ra, chính phủ nước này cũng tạo điều kiện cho các công ty đóng thuế dễ
dàng hơn và giảm thiểu chi phí bằng cách bãi bỏ các mức thuế dịch vụ và thuế
thành lập công ty do các địa phương áp đặt. Năm 2016, Rwanda đã tạo thuận lợi
cho việc mở công ty bằng cách áp dụng thủ tục đăng ký điện tử một cửa và giảm
thiểu các quy định sau đăng ký...
Tuy nhiên, đối mặt với sức ép về tài chính, năng lực kiểm soát và cạnh
tranh, một số nước vẫn tiếp tục buộc phải đưa ra những quy định gây khó khăn
cho môi trường kinh doanh. Ví dụ, năm 2011 Uganda đã gây khó khăn cho việc
mở công ty mới bằng cách tăng phí đăng ký công ty. Zimbabwe đã yêu cầu phải
102
Năm 2008, chính phủ Nam Phi đã giảm chi phí và thời gian mở công ty bằng
có đồng ý của chánh hoặc phó thanh tra xây dựng trước khi cấp phép xây dựng
các công trình; đồng thời tăng các phí cấp phép xây dựng do lạm phát leo thang.
Nước này cũng ban hành quy định cho phép tăng phí cho người môi giới khiến
việc đăng ký tài sản tốn kém hơn. Năm 2009, Cộng hòa dân chủ Congo ban hành
các quy định gây khó dễ cho việc mở công ty bằng yêu cầu phải đăng ký với các
cơ quan như Trung tâm hành chính công ty, cơ quan thuế và bảo hiểm xã hội.
Ngoài ra, chính phủ nước này cũng tăng phí xây dựng khiến cho việc cấp phép
xây dựng trở nên tốn kém hơn...
(http://www.doingbusiness.org/reforms/overview/region/sub-saharan- africa)
Điều này khiến cho cải cách ở châu Phi không đồng đều và không phải là
một quá trình thẳng tiến.
Có hai yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng cải cách thể chế kinh
tế và kết quả phát triển ở châu Phi là: thể chế chính trị và quản trị quốc gia.
Theo Daron Acemoglu và các cộng sự, thể chế chính trị dân chủ, còn theo WB
3.3.2. Các yếu tố cơ bản tác động đến tiến trình cải cách
một nền quản trị quốc gia tốt có ảnh hưởng quyết định đến chất lượng của thể
chế kinh tế thị trường và kết quả phát triển của các quốc gia.
dựng bộ chỉ số “Tự do trên thế giới” đánh giá mức độ dân chủ của các nước
không căn cứ vào hoạt động của chính phủ mà theo mức độ các cá nhân được
hưởng các quyền và tự do. Bộ chỉ số này xếp hạng các nước trong thang bậc các
“nền dân chủ tự do” dựa vào hai khía cạnh: quyền chính trị và tự do dân sự.
Theo Freedom House, tỷ lệ các quốc gia châu Phi nam Sahara bị coi là “không
có tự do” đã giảm mạnh trong làn sóng dân chủ hoá đầu những năm 1990 cho
đến giữa những năm 2000 song lại có xu hướng tăng trong những năm gần đây.
Tuy nhiên, nếu so với những thập niên 1970 - 1980 thì xu hướng dân chủ hoá ở
khu vực này được cải thiện rõ rệt. Trong tổng số 49 nước châu Phi nam Sahara
được khảo sát năm 2015 thì chỉ có 9 nước được coi là có “tự do”, 20 nước bị coi
103
Dựa vào Tuyên bố nhân quyền của Liên hợp quốc, Freedom House đã xây
là “có tự do một phần” và 20 nước “không có tự do”. Tỷ lệ số quốc gia bị
Freedom House coi là “không có tự do” ở châu Phi nam Sahara vẫn thấp hơn
khu vực Âu-Á (Eurasia) và Bắc Phi-Trung Đông.
90
80
70
60
50
40
30
20
10
0
Châu Á-Thái Bình Dương
Châu Phi Nam Sahara
Bắc Phi-Trung Đông
Hình 3.10: Tỷ lệ các quốc gia “không có tự do” ở châu Phi nam Sahara %)
Nguồn: Freedom House (2016) Freedom in the World, Database
12
Tỷ lệ số người dân sống tại các quốc gia có tự do
39
Tỷ lệ số người dân sống tại các quốc gia có tự do một phần
49
Tỷ lệ số người dân sống tại các quốc gia không có tự do
Hình 3.11: Tỷ lệ số người dân sống tại các quốc gia có tự do ở châu Phi nam
Sahara 2015 (%)
Nguồn: Freedom House (2016), Freedom in the World, Database
Châu Phi có những quốc gia bị nhiều tổ chức xếp hạng cuối cùng thế giới
104
trong thang bậc dân chủ. Ví dụ, năm 2015 Economic Intelligent Unit xếp Chad
đứng thứ 165 trong tổng số 167 quốc gia, nơi hầu như không có bầu cử tự do và
chính phủ hầu như không hoạt động; Cộng hoà Trung Phi đứng thứ 164 và chính
phủ ở quốc gia này cũng tê liệt. Các nước như Guinea-Bissau, Cộng hoà dân chủ
Congo, Lybia, Sudan, Eritrea, Burundi…cũng bị xếp hạng rất thấp, đặc biệt
trong khía cạnh về bầu cử tự do [56]. Châu Phi cũng là khu vực bị lên án là có
nhiều chế độ độc tài, gia đình trị. Ví dụ, tại Chad, cựu Tổng thống Hissène
Habré đã bị buộc tội lạm dụng quyền lực để thực hiện tra tấn, tội ác chiến tranh
và tội ác chống lại loài người. Human Rights Watch cho rằng, trong thời gian
cầm quyền (1982-1990), ông này phải chịu trách nhiệm với cái chết của 1.208
người bị giết hoặc chết trong khi bị giam giữ và 12.321 người khác bị vi phạm
hình sự quốc tế kết án tội ác chống lại loài người trong thời gian cầm quyền của
mình (1989-2011). Tại Nigeria, có những cuộc điều tra cho rằng, từ khi giành
được độc lập năm 1960 cho đến giữa thập niên 2000, nhất là trong những năm
nhân quyền [130]. Tại Sudan, cựu Tổng thống Omar al-Bashir cũng bị Toà án
1980 và 1990 giới lãnh đạo đã biển thủ hoặc làm lãng phí tới hơn 380 tỷ USD.
Số tiền này có thể mua được 225 tàu vũ trụ hoặc 795.115 xe Rolls Royce
học hoặc 3,8 tấn gạo cho mỗi người dân Nigeria [131]. Tổng thống Mobutu Sese
Seko – người đã từng “cai trị” Cộng hòa dân chủ Congo [được đổi tên thành
Zaire vào năm 1971] trong 30 năm, đã tích lũy một khối tài sản trị giá 10 tỷ
USD. Với số tiền này, ông đã có thể trả hết toàn bộ nợ nước ngoài của nước ông
- chỉ có 7 tỉ USD. Tổng thống Nigeria Olusegun Obasanjo từng tuyên bố: các
nhà lãnh đạo châu Phi đã đánh cắp 142 tỷ USD từ người dân của họ từ khi châu
lục này giành được độc lập [132].
Các chính phủ chuyên chế, độc tài ở nhiều nước châu Phi là rào cản rất
lớn đối với quá trình cải cách kinh tế theo hướng thị trường, bởi những cải cách
này có thể làm lung lay cơ chế “phân phát lợi ích” dựa trên quan hệ - là nền tảng
105
Phantoms hoặc 400 triệu máy tính hoặc xây được 32 triệu phòng học cấp tiểu
quyền lực của họ. Do vậy, quyền lực kinh tế và quyền lực chính trị gắn bó mật
thiết với nhau. Trong thời gian cầm quyền (1981-2011), Tổng thống Hosni
Mubarak của Ai Cập đã thiết lập một mạng lưới gồm những cộng sự thân tín và
người thân trong gia đình nắm giữ những chức vụ chính quyền và kiểm soát
những ngành kinh tế quan trọng của đất nước. Đa phần giới doanh nhân kiểm
soát việc khai thác các nguồn tài nguyên giàu có – nguồn lực phát triển quan
trọng tại nhiều nước châu Phi là những người thân của chính phủ và đều không
muốn quyền kiểm soát này bị rơi vào tay người khác. Điều này chính là lực cản
cho các nỗ lực tự do hoá thương mại, dỡ bỏ độc quyền nhà nước và tư nhân hoá.
Bởi vậy, các nhà tài trợ và các tổ chức phát triển, thậm chí một số cơ quan của
Liên hợp quốc như UNDP, đã thúc đẩy các chương trình nghị sự về dân chủ hoá
Điển hình là sau một thời gian dài nội chiến, do lịch sử tham nhũng kéo dài
chính quyền Angola đã không thể đáp ứng được các điều kiện mà nhiều nhà tài
trợ quốc tế đặt ra để có được các khoản vay nhằm tái thiết đất nước. Tuy nhiên,
ở châu Phi, gắn quá trình dân chủ hoá với việc xây dựng một nền quản trị tốt.
cũng vì điều này, nhiều khoản viện trợ thường xuyên bị chỉ trích là kèm theo các
điều kiện chính trị, can thiệp vào công việc nội bộ và áp đặt mô hình dân chủ
Các tổ chức quốc tế đều đánh giá rằng, các quốc gia châu Phi có chất
lượng thể chế và quản trị thuộc vào nhóm thấp nhất thế giới mặc dù mức độ cao
thấp và sự lạc quan của các đánh giá có thể khác nhau. Theo WB, chất lượng
quản trị của các nước châu Phi Nam Sahara thấp hơn hẳn so với nhiều khu vực
khác trên thế giới (như châu Mỹ La tinh và vùng Caribe, Nam Á, châu Á – Thái
Bình Dương); điểm số của 6 nhóm chỉ số đo lường chất lượng quản trị của khu
vực này đều ở dưới mức trung bình (dưới 50 điểm so với điểm tối đa là 100).6
nhóm yếu tố là: i) tiếng nói và trách nhiệm giải trình; ii) ổn định chính trị và
phi bạo lực/khủng bố; iii) hiệu lực của chính phủ; iv) chất lượng của các quy
định; v) thượng tôn pháp luật; vi) kiểm soát tham nhũng.
106
phương Tây cho các nước châu Phi.
Chất lượng quản trị của các nước ở Bắc Phi cao hơn so với các nước châu
Phi nam Sahara, mặc dù một số nhóm chỉ số trong giai đoạn gần đây có sa sút do
hệ lụy của làn sóng “Mùa xuân Ả rập” (như: ổn định chính trị và phi bạo lực,
hiệu lực của chính phủ, thượng tôn pháp luật và kiểm soát tham nhũng). Tuy
nhiên, liên quan đến nhóm chỉ số về tiếng nói và trách nhiệm giải trình, chất
Tiếng nói và trách nhiệm giải trình
Ổn định chính trị và phi bạo lực/khủng bố
Hiệu lực của chính phủ
Chất lượng của các quy định
Thượng tôn pháp luật
Kiểm soát tham nhũng
lượng quản trị của các nước Bắc Phi vẫn thường xuyên ở mức thấp.
Hình 3.12: Chất lượng quản trị của các nước châu Phi nam Sahara
Nguồn: World Bank, 2014.
[http://info.worldbank.org/governance/wgi/index.aspx#reports]
Các đánh giá về chất lượng thể chế và quản trị của các nước châu Phi do
những tổ chức quốc tế của chính châu lục này công bố có phần lạc quan hơn.
Báo cáo “Xếp loại quản trị quốc gia” năm 2014 của Ngân hàng phát triển châu
Phi (AfDB) đánh giá chất lượng quản trị của 40 quốc gia châu Phi qua 5 nhóm
chỉ số gồm: i) quyền tài sản và quản trị dựa vào pháp luật; ii) chất lượng ngân
107
sách và quản lý tài chính; iii) hiệu quả của huy động nguồn thu ngân sách nhà
nước; iv) chất lượng của hành chính công; và v) mức độ minh bạch, trách nhiệm
giải trình và tham nhũng ở khu vực công). Theo báo cáo này, chất lượng quản trị
của các nước trên chỉ ở mức trung bình với điểm trung bình của cả 5 nhóm chỉ
số đạt 3,3 (so với mức tối đa là 6 điểm và tối thiểu là 1 điểm) năm 2013. Đứng
đầu trong số 40 nước được xếp loại là Rwanda (điểm quản trị bình quân của cả 5
nhóm chỉ số đạt 4,6) và Cape Verde (điểm quản trị bình quân đạt 4,5); còn đứng
cuối là Somalia (điểm quản trị bình quân là 1 – mức thấp nhất trên thang điểm
xếp hạng) và Eritrea (điểm quản trị bình quân là 1,85).
Chất lượng của hành chính công
Bảng 3.10: Chất lượng quản trị của châu Phi năm 2014
Quyền tài sản và quản trị dựa vào pháp luật 3,1
Chất lượng ngân sách và quản lý tài chính 3,7
Hiệu quả của huy động nguồn thu 3,1
3,5
Minh bạch, trách nhiệm giải trình và tham nhũng ở khu vực công 3,1
Nguồn: AfDB (2014). Country Governance Rating. Governance Rating:
Public Sector Management and Institutions. 2013
Ghi chú: điểm cao nhất = 6 (thể hiện mức độ đáp ứng yêu cầu rất cao); điểm
thấp nhất = 1 (thể hiện mức độ đáp ứng yêu cầu rất thấp)
Bộ chỉ số quản trị châu Phi Ibrahim (IIAG) năm 2014 đánh giá chất lượng
quản trị của 52 quốc gia châu Phi theo 4 nhóm chỉ số: i) an toàn và thượng tôn
pháp luật; ii) tham dự và quyền con người; iii) các cơ hội kinh tế bền vững; và
iv) phát triển con người, cũng đạt mức trung bình. Theo đó, điểm bình quân của
cả 4 nhóm chỉ số quản trị của các nước này đạt 51,5 điểm (mức tối đa là 100
điểm). Đứng đầu danh sách về chất lượng quản trị là Mauritius (đạt 81,7 điểm)
và Cape Verde (76,6 điểm); đứng cuối danh sách là Somalia (8,6 điểm) và Cộng
hòa Trung Phi (đạt 24,8 điểm).
108
Phát triển con người
An toàn và thượng tôn pháp luật
Tham dự và quyền con người
Các cơ hội kinh tế bền vững
51,7
45,6
49,9
58,7 Nguồn:2014 Ibrahim Index of African Governance (IIAG).
[http://www.moibrahimfoundation.org/interact/]
Bảng 3.11: Chỉ số quản trị châu Phi Ibrahim 2014
Tham nhũng là một vấn nạn ở châu Phi và nó thường gắn với những chính
phủ độc tài, gia đình trị. Đây là điểm khác biệt cơ bản giữa châu Phi và Đông Á,
đồng thời cũng là yếu tố giải thích vì sao mô hình nhà nước phát triển có thể
thành công ở Đông Á song lại có thể trở thành một vỏ bọc cho những yếu kém
về mặt thể chế của nhiều nước châu Phi trước những can thiệp từ bên ngoài.
cải thiện rất ít trong hơn 20 năm qua (1995-2016) và ở mức khá nghiêm trọng.
Theo Heritage Foundation, mức độ tham nhũng ở châu Phi nam Sahara chỉ được
50
45
40
35
30
25
20
15
10
5
0
Thế giới
Châu Phi nam Sahara
Châu Á-Thái Bình Dương
Hình 3.13: Mức độ tham nhũng ở châu Phi nam Sahara so với thế giới và
châu Á – Thái Bình Dương
Nguồn: Heritage Foundation (2016), 2016 Index of Economic Freedom
[http://www.heritage.org/index/ranking]
109
Điều đáng nói là, tham nhũng đã trở thành một thói quen trong xã hội và
không nhiều người tin rằng, thực trạng này có thể thay đổi một sớm một chiều.
Đồng thời, cũng ít người dân châu Phi cho rằng, chính phủ có thể làm tốt việc
chống tham nhũng.
Bảng 3.12: Quan niệm của người dân về hành động chống tham nhũng của
Nước
Tỷ lệ số người cho rằng chính phủ làm tốt (%) 9 18 17 19 20 22 25 25 27 28 19 26 29 34 32 23 33 31 37 37 43 44 45 48 46 47 54 47
Madagascar Liberia Zimbabwe Benin Nam Phi Nigeria Ghana Mauritius Kenya Malawi Sierra Leone Uganda Burudi Namibia Zambia Cape Verde Guinea Togo Tanzania Camoroon Mali Cote d’Ivore Burkina Faso Swaziland Niger Senegal Botswana Lesotho
Tỷ lệ số người cho rằng chính phủ làm chưa tốt (%) 90 81 80 79 79 78 71 71 70 69 69 69 68 65 62 61 61 61 58 57 56 53 49 48 47 46 42 41 Nguồn: Transparency International (2015), Global Coruption Barometer,
People and Corruption Africa Survey 2015, Figure 2, Tr.11
110
chính phủ
Tiểu kết chương 3
Phần lớn các nước châu Phi, nhất là châu Phi nam Sahara, hình thành vào
những năm 1960 sau những quá trình đấu tranh giành độc lập khó khăn. Với
mục tiêu hàng đầu là xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ, vào thời điểm
đó, nhiều chính phủ châu Phi đều thừa nhận vai trò quan trọng của khu vực công
trong nền kinh tế như một thực tế tự nhiên và theo đuổi mô hình kinh tế kế hoạch
hoá tập trung. Những cuộc khủng hoảng liên tiếp kể từ cuối thập niên 1970 đã
buộc các nước châu Phi phải chuyển đổi sang cơ chế thị trường theo đơn thuốc
của các định chế quốc tế như IMF và WB.
Các nội dung chính của cải cách thể chế kinh tế thị trường ở châu Phi là:
đầu tư nước ngoài và thúc đẩy xuất khẩu; và cải cách doanh nghiệp nhà nước
thông qua con đường tư nhân hoá. Đến đầu những năm 1990, hầu hết các nền
kinh tế châu Phi đã được “điều chỉnh” theo hướng thị trường. Nhìn chung, cải
cách thể chế kinh tế ở châu Phi là một quá trình tự do hoá được áp đặt bởi các
Cải cách quyền sở hữu; Mở cửa nền kinh tế, tiến hành hội nhập quốc tế, thu hút
định chế quốc tế như WB và IMF cùng với cộng đồng các nhà tài trợ phương
Tây. Quá trình này bị chỉ trích là phụ thuộc quá nhiều vào các nhà tài trợ. Những
phương Tây mà không tính đến các điều kiện đặc thù của châu Phi, thậm chí
không tính đến đặc thù giữa các nước châu Phi, không do các nước châu Phi “sở
hữu”, kiểm soát và điều hành. Các chương trình này ôm đồm quá nhiều thứ, chỉ
tính đến những mục tiêu ngắn hạn, thiếu các mục tiêu phát triển dài hạn và cuối
cùng không hiệu quả bởi châu Phi vẫn chưa thoát khỏi “bẫy đói nghèo”. Tuy
nhiên, dưới góc độ về chính trị và quản trị quốc gia, nhiều nhà lãnh đạo châu Phi
đã không thực sự quan tâm đến cải cách kinh tế bởi họ không định từ bỏ sự kiểm
soát kinh tế đã làm nên nền tảng đế chế quyền lực của mình. Khi đối mặt với áp
lực quốc tế và để có được nguồn tài trợ, phải chăng nhiều nhà lãnh đạo châu Phi
đã chọn một chiến thuật khôn khéo mà nhiều người gọi là “Babangida Boogie” –
tức là một bước tiến, hai bước lùi.
111
ý kiến phản đối cho rằng, các chương trình cải cách cơ cấu được thiết kế bởi
CHƯƠNG 4: CẢI CÁCH THỂ CHẾ KINH TẾ Ở GUINEA XÍCH ĐẠO,
GHANA VÀ TUNISIA
4.1. Cải cách thể chế kinh tế ở Guinea xích đạo
4.1.1. Bối cảnh vấn đề cải cách thể chế kinh tế
Guinea xích đạo chính thức giành được độc lập từ Tây Ban Nha năm
1968. Từ đó đến nay, nước này chỉ có hai vị tổng thống duy nhất là: Tổng thống
Francisco Macias Nguema, người từng là thị trưởng thành phố Mongomo dưới
chế độ thực dân Tây Ban Nha và Tổng thống Teodoro Obiang Nguema, người đã
lên nắm quyền lãnh đạo Guinea xích đạo kể từ năm 1979 đến nay sau cuộc đảo
chính lật đổ ông Francisco Macias Nguema.
phủ độc tài Francisco Macias Nguema, Guinea xích đạo theo đuổi mô hình kinh
tế kế hoạch hoá tập trung kiểu Xô Viết. Nhiều công ty bị quốc hữu hoá; khu vực
kinh tế tư nhân bị bóp kìm hãm; công nghiệp được ưu tiên phát triển. Kết quả là
nền kinh tế Guinea xích đạo đã bị ảnh hưởng tiêu cực nặng nề: GNP bình quân
Trong giai đoạn 11 năm sau khi giành được độc lập dưới thời của chính
đầu người đã sụt giảm từ mức 170 USD năm 1967 xuống còn 70 USD năm
tấn năm 1976; sản lượng cà phê cũng giảm từ mức 8.500 tấn xuống còn 5000 tấn
trong giai đoạn 1968-1976. (Theo UNDP (1988), Second round table of donors
for economic and social development of Equatorial Guinea. UNDP-RGE)
Sau khi lên nắm quyền, Tổng thống Teodoro Obiang Nguema tuyên bố
Guinea xích đạo bước sang một giai đoạn phát triển mới Una Guinea Mejor
(Guinea tốt đẹp hơn). Kể từ đầu thập niên 1980, theo trào lưu chung của châu
Phi, Guinea xích đạo cũng tiến hành cải cách theo chương trình điều chỉnh cơ
cấu của WB. Các công ty được tư nhân hoá; kết cấu hạ tầng như đường giao
thông, trường học và bệnh viện được chú trọng đầu tư phát triển hơn so với thời
gian trước đó. Tuy nhiên, những kết quả mang lại rất hạn chế, chủ yếu vì thiếu
nguồn lực phát triển và hạn chế về năng lực điều hành cải cách kinh tế.
112
1975; sản lượng cacao sụt giảm từ mức 34.000 tấn năm 1968 xuống còn 8,000
Kể từ giữa thập niên 1990, Guinea xích đạo nổi lên trở thành một trong
những nước xuất khẩu dầu mỏ hàng đầu của khu vực châu Phi nam Sahara. Trữ
lượng dầu mỏ của nước này đứng thứ 3 của vùng châu Phi nam Sahara, chỉ sau
Nigeria và Angola. Hoạt động khai thác và xuất khẩu dầu mỏ đã giúp tốc độ tăng
trưởng kinh tế của Guinea xích đạo trong giai đoạn 1990 - 1999 lên tới 20%/năm
và 24%/năm trong giai đoạn 2000 - 2004. Nguồn thu từ dầu mỏ đã tăng từ 3
triệu USD năm 1993 lên 190 triệu USD năm 2000 và 4,8 tỷ USD năm 2007. Với
số dân chỉ trên 700.000 người, nguồn thu lớn từ dầu mỏ đã giúp quốc gia này có
mức GDP bình quân đầu người cao nhất châu Phi. Tuy nhiên, sự giàu có này
không được phân chia đồng đều cho tất cả mọi người mà chủ yếu tập trung trong
tay một nhóm nhỏ. Năm 2013, mặc dù có GDP bình quân đầu người ở mức cao,
thang bậc chỉ số phát triển con người.
Guinea xích đạo chỉ được UNDP xếp thứ 144 trong tổng số 187 nước trong
Hình 4.1: Thu nhập bình quân đầu người của Guinea xích đạo
(PPP, nghìn USD hiện hành)
Nguồn: World Bank, database
Do lệ thuộc vào dầu mỏ (chiếm 90% GDP, 87% thu ngân sách và 89%
xuất khẩu), kinh tế của Guinea xích đạo bị tác động nặng nề bởi giá dầu sụt
giảm. Tăng trưởng GDP giảm 10,2% trong năm 2015 và 8% trong năm 2016. Do
thâm hụt ngân sách nặng nề, chính phủ đã giảm đầu tư công một nửa và giảm
mạnh chi phí hoạt động của chính phủ. Dự kiến, kinh tế nước này sẽ tiếp tục sụt
giảm trong giai đoạn tới năm 2020 trong bối cảnh giá dầu thế giới ở mức thấp.
113
4.1.2. Những nội dung chính của cải cách thể chế kinh tế
Kể từ sau khi giành được độc lập, Guinea xích đạo tỏ ra là một trong
những đất nước tiến hành ít cải cách nhất châu Phi. Trong thập kỷ 1980, đất
nước này đã có một số cải cách kinh tế mà tiêu biểu nhất là việc chuyển đổi sang
sử dụng đồng tiền mới. Guinea xích đạo không phải là đối tượng ưu tiên của các
chương trình điều chỉnh cơ cấu theo hướng chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập
trung sang cơ chế thị trường, tự do hoá và mở cửa do nền kinh tế nước này
không chịu ảnh hưởng nhiều của cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Trong thập kỷ
cơ cấu (1980-1982; 1985-1986; 1988-1991).
1980, IMF đã hỗ trợ nước này ba khoản vay nhỏ trong chương trình điều chỉnh
kỷ 1990, nước này đã tiến hành tự do hoá thương mại, mở cửa nền kinh tế mạnh
mẽ, tiến hành cải cách thuế quan và giảm các hàng rào phi thuế quan. Năm 1999,
Guinea xích đạo tham gia và trở thành thành viên sáng lập của Cộng đồng kinh
tế và tiền tệ Trung Phi.
Guinea xích đạo là một nền kinh tế mở, hướng ra xuất khẩu. Vào đầu thập
Trong giai đoạn 2000 - 2007, khi nền kinh tế tăng trưởng nhanh, nước này
được nguồn thu dồi dào. Năm 2008, Chính phủ Guinea xích đạo ban hành Kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội quốc gia (PNDES) “Guinea xích đạo 2020:
Chương trình nghị sự đa dạng hoá nguồn lực tăng trưởng”. Trong giai đoạn đầu
(2008-2012), PNDES tập trung vào việc thiết lập các thể chế, chính sách củng cố
nền tảng tăng trưởng kinh tế, đa dạng hoá các nguồn lực phát triển và đa dạng
hoá cơ cấu nền kinh tế, tránh bị lệ thuộc vào dầu mỏ. Chính phủ đã đề ra rất
nhiều mục tiêu tham vọng về khôi phục các hệ thống kết cấu hạ tầng chủ chốt
như đường, bến cảng, sân bay, các dự án xây dựng nhà ở và công sở…trong đó
có cả những dự án rất lớn như xây dựng thành phố Djibloho ở trong rừng. Chính
phủ mong muốn sử dụng nguồn thu từ dầu mỏ để đầu tư phát triển nền kinh tế,
114
đã tiến hành một số cải cách, nhất là trong lĩnh vực tự do hóa tài chính do có
tạo điều kiện hiện đại hoá kết cấu hạ tầng để thúc đẩy các lĩnh vực khác như
nông nghiệp, ngư nghiệp, dịch vụ, vận tải, chế tạo…đồng thời nâng cao chất
lượng cuộc sống của người dân qua việc mở rộng khả năng tiếp cận điện, nước,
dịch vụ y tế, giáo dục…
Đặc biệt, các chương trình cải cách kinh tế nói chung trong giai đoạn này
cũng hướng tới việc thiết lập các thể chế, chính sách để thúc đẩy khu vực tư
nhân phát triển, làm nền tảng cho việc đa dạng hoá cơ cấu kinh tế; thúc đẩy cải
cách khu vực công, hoàn thiện nền hành chính công.
hoá nền kinh tế thông qua thúc đẩy các lĩnh vực mang lại nhiều việc làm và khai
Trong giai đoạn thứ hai (2013-2020), PNDES (2013-2020) nhằm đa dạng
nhóm các nước kém phát triển vào năm 2017.
Tháng 7/2013, Ngân hàng phát triển châu Phi đã thông qua Chiến lược
quốc gia của Guinea xích đạo, hỗ trợ nước này tiến hành chương trình cải cách
theo chủ đề: Thúc đẩy phát triển vốn con người và Nâng cao năng lực cho
thác hệ thống kết cấu hạ tầng hiện đại. Guinea xích đạo đặt mục tiêu thoát khỏi
chuyển đổi kinh tế, trong giai đoạn 2013-2017. Tuy nhiên, chương trình cải cách
Nhìn chung, tốc độ cải cách đã chững lại trong những năm gần đây khi
nền kinh tế đi xuống. Cải cách thể chế ở các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế
quốc gia không tiến triển nhiều. Khu vực dầu khí của Guinea xích đạo - nơi có
đặc quyền của chính phủ và các quan chức gần như nằm ngoài các chuẩn mực
cải cách và tự do hóa. Viện Quản trị tài nguyên xếp Guinea xích đạo đứng thứ 56
trong tổng số 58 quốc gia được xếp hạng năm 2013 - bị coi là nước thất bại trong
việc quản trị các nguồn tài nguyên dầu khí. Luật dầu khí năm 2006 của nước này
không đưa ra các nguyên tắc cụ thể về tài chính và công khai hóa. Bộ Tài chính
nhận tiền từ các công ty dầu mỏ và gửi một phần vào Ngân hàng Trung Phi song
phần còn lại vào nhiều ngân hàng thương mại khác nhau ở trong và ngoài nước
115
này đã không được triển khai nghiêm túc mà mang lại những kết quả đáng kể.
nên rất khó kiểm soát việc quản lý các nguồn thu này. Guinea xích đạo thậm chí
không có những dữ liệu toàn diện về khu vực dầu khí, không công bố thông tin
về các hợp đồng và cũng không công khai các khoản thu từ dầu khí. Các công ty
dầu khí nhà nước như GE Petrol không có trách nhiệm phải công khai tài chính,
thậm chí không bị kiểm toán. Các quan chức chính phủ cũng không bị yêu cầu
giải trình về lợi ích tài chính đối với lĩnh vực kinh tế mà họ giám sát.
Môi trường thể chế
Thủ tục báo cáo
Kiểm soát chất
Môi trường thuận
và pháp luật
lượng và bảo đảm
lợi cho kinh doanh
53
55
56
56
Nguồn: The Natural Resource Governance Institute (NRGI), The 2013
Resource Governance Index, New York
Bảng 4.1: Xếp hạng thứ bậc trong quản trị tài nguyên của Guinea xích đạo
4.1.3. Đánh giá kết quả cải cách thể chế kinh tế
Guinea xích đạo đã không đạt được những thành tựu đáng kể trong tiến
trình cải cách kinh tế.
Đất nước này hiện vẫn bị xem là có môi trường đầu tư kém hấp dẫn nhất
thế giới mặc dù có nguồn tài nguyên dầu mỏ. Năm 2016, WB chỉ xếp Guinea
Các vấn đề về khởi nghiệp kinh doanh, thuế khóa và việc giải quyết các thủ tục
liên quan đến phá sản, vi phạm hợp đồng…rất khó khăn.
Heritage Foundation đánh giá chỉ số về tự do hóa kinh tế của Guinea xích
đạo ở mức dưới 50 điểm - ngưỡng bị xem là không có tự do kinh tế.
116
xích đạo đứng thứ 178 trong tổng số 190 nền kinh tế về môi trường kinh doanh.
60
50
40
30
20
10
0
9 9 9 1
4 0 0 2
5 0 0 2
6 0 0 2
7 0 0 2
8 0 0 2
9 0 0 2
4 1 0 2
5 1 0 2
6 1 0 2
7 1 0 2
0 0 0 2
1 0 0 2
2 0 0 2
3 0 0 2
0 1 0 2
1 1 0 2
2 1 0 2
3 1 0 2
Nguồn: Heritage Foundation (2017), 2017 Index of Economic Freedom
[http://www.heritage.org/index/ranking]
Hình 4.2: Mức độ tự do kinh tế của Guinea xích đạo
70
60
50
40
30
20
10
0
Thương mại
Đầu tư
Tài chính
Hình 4.3: Mức độ tự do thương mại, tự do đầu tư và tự do tài chính của
Guinea xích đạo
Nguồn: Heritage Foundation (2017), 2017 Index of Economic Freedom
[http://www.heritage.org/index/ranking]
117
Xử lý vấn đề liên quan đến xây dựng
M ôi trường kinh doanh 178
Khởi nghiệp kinh doanh 187
Sử dụng điện 160 143
Thương mại xuyên biên giới 174
Bảo vệ các nhà đầu tư nhỏ 137
Tiếp cận tín dụng 118
Đăng ký tài sản 160
Đóng thuế 179
Giải quyết phá sản 169
Thực thi hợp đồng 103 Nguồn: WB, Ease of Doing Business 2016, Washington DC
Ghi chú: Xếp hạng trong tổng số 190 nền kinh tế
Bảng 4.2: Xếp hạng chỉ số môi trường kinh doanh năm 2016 của Guinea xích đạo
Trên thực tế, Guinea xích đạo đã không tận dụng được hết lợi thế từ
nguồn thu lớn từ dầu mỏ để tiến hành những cải cách cần thiết nhằm đem lại sự
phát triển kinh tế bền vững. Các tổ chức quốc tế đánh giá, những chiến lược cải
cách kinh tế nói chung, cải cách thể chế kinh tế nói riêng gần đây của Guinea
xích đạo đã ôm đồm quá nhiều vấn đề nên không đạt được mục tiêu mong muốn.
xích đạo trong giai đoạn 2018 - 2022 đã được điều chỉnh và chỉ tập trung vào hai
chủ đề cụ thể: i) hỗ trợ chuyển đổi của khu vực nông nghiệp nhằm đa dạng hoá
kinh tế; và ii) nâng cao năng lực trong việc xây dựng và thực thi chính sách.
Guinea xích đạo là trường hợp rõ rệt nhất ở châu Phi phản ánh lực cản của
Do vậy, chiến lược quốc gia của Ngân hàng phát triển châu Phi đối với Guinea
các vấn đề về thể chế chính trị và quản trị quốc gia đối với tiến trình cải cách thể
Về mặt chính trị, ở châu Phi, sau khi Tổng thống Muammar Gaddafi của
Lybia bị lật đổ năm 2011 thì ông Teodoro Obiang Nguema là nguyên thủ quốc
gia (thế tục) tại nhiệm lâu nhất. Mặc dù về mặt hình thức, Guinea xích đạo có hệ
thống chính trị đa đảng phái song quyền lực thực tế vẫn thuộc về Tổng thống
Teodoro Obiang Nguema và phe cánh của ông. Mặc dù thu nhập bình quân đầu
người ở mức khá cao song khoảng ¾ dân số Guinea xích đạo vẫn sống dưới mức
nghèo khổ của WB. Chi tiêu của chính phủ cho giáo dục và y tế dưới mức trung
bình của khu vực châu Phi nam Sahara. Một số người cho rằng, chính phủ thực
hiện các khoản đầu tư không hiệu quả như dự án xây dựng thành phố mới Oyala
ở trong rừng nhằm mục tiêu chuyển thủ đô về đây, chủ yếu là để tránh các âm
118
chế kinh tế.
mưu đảo chính đổ bộ từ biển [133]. Mặc dù có nhiều nỗ lực nhằm cải thiện hình
ảnh của mình gần đây tại châu Phi và trên các diễn đàn quốc tế, Guinea xích đạo
vẫn bị các nước phương Tây xếp vào nhóm quốc gia không dân chủ với nhiều
cáo buộc tham nhũng và chuyên quyền đối với chính quyền của Tổng thống
Teodoro Obiang Nguema. Kết quả điều tra về Nhận thức tham nhũng năm 2013
của Tổ chức minh bạch quốc tế đã xếp Guinea xích đạo đứng thứ 163 trong tổng
số 177 nước về mức độ tham nhũng [134]. Nước này cũng bị Economic
Intelligent Unit xếp đứng thứ 163 trong tổng số 167 quốc gia trong bộ Chỉ số
dân chủ năm 2015 - là nước kém dân chủ thứ hai châu Phi, chỉ trên Chad.
Guinea xích đạo cũng là một trong những quốc gia có chất lượng quản trị
thấp nhất thế giới. Nước này đứng thứ 45 trong tổng số 52 quốc gia châu Phi
được xếp hạng trong Bộ chỉ số quản trị châu Phi Ibrahim (năm 2013).
Bảng 4.3: Chất lượng quản trị của Guinea xích đạo theo bộ chỉ số quản trị
châu Phi Ibrahim
Xếp hạng
Phát triển con người
Điểm bình quân
An toàn và thượng tôn pháp luật 41,5
Tham dự và quyền con người 25,9
Các cơ hội kinh tế bền vững 28,4
57,9
38,4
45
Nguồn:2014 Ibrahim Index of African Governance (IIAG).
[http://www.moibrahimfoundation.org/interact/]
Ngân hàng thế giới cũng đánh giá chất lượng quản trị của Guinea xích
đạo ở mức rất thấp trong Bộ chỉ số quản trị toàn cầu, đặc biệt ở những khía
cạnh: tiếng nói và trách nhiệm giải trình, hiệu lực của chính phủ, chất lượng
của các quy định, thượng tôn pháp luật và kiểm soát tham nhũng. Đặc biệt,
những khía cạnh quản trị này của Guinea xích đạo hầu như không thay đổi
trong nhiều năm nay.
119
Tiếng nói và trách nhiệm giải trình
Ổn định chính trị và phi bạo lực/khủng bố
Hiệu lực của chính phủ
Chất lượng của các quy định
Thượng tôn pháp luật
Kiểm soát tham nhũng
Hình 4.4: Chất lượng quản trị của Guinea xích đạo theo bộ
chỉ số quản trị toàn cầu
Nguồn: Global Governnance Indicator, 2019,
https://info.worldbank.org/governance/wgi/Home/Reports
Tham nhũng là một vấn nạn nghiêm trọng đối với Guinea xích đạo. Trong
thập niên 2000, tự do hóa môi trường đầu tư và tài chính đã giúp Guinea xích
phát triển mạnh ngành dầu khí. Các công ty của Mỹ và phương Tây như
ExxonMobil, Hess, Marathon, Chevron Corporation và Vanco Energy
Corporation là những nhà đầu tư chiến lược vào lĩnh vực dầu mỏ của Guinea
xích đạo. Nước này là đối tác nhận đầu tư lớn thứ tư của Mỹ vào châu Phi nam
Sahara, chỉ sau Nam Phi, Angola và Nigeria. Tuy nhiên, trong lúc chính phủ Mỹ
và phương Tây lên án Tổng thống Teodoro Obiang Nguema vi phạm nhân quyền
thì chính các công ty phương Tây cung cấp nguồn tiền cho chính phủ Guinea
xích đạo để duy trì nền chuyên chế, độc tài và thực hiện các vi phạm đó. Các
công ty xuyên quốc gia thường xuyên hối lộ, lại quả cho các quan chức chính
phủ Guinea xích đạo và người thân của họ để đổi lại có được những hợp đồng
liên doanh và khai thác dầu mỏ.
120
đạo thu hút được nguồn vốn đầu tư khổng lồ của các công ty nước ngoài nhằm
Năm 2002, Human Rights Watch phát hiện hàng trăm triệu USD từ nguồn
thu dầu mỏ của Guinea xích đạo được giữ trong một tài khoản bí mật của chính
phủ tại ngân hàng Riggs Bank ở Washington, DC (trong giai đoạn 1995-2004,
tổng trị giá các khoản giao dịch lên tới 700 triệu USD). Tổng thống Teodoro
Obiang Nguema là chủ tài khoản, trực tiếp ký và toàn quyền định đoạt các giao
dịch liên quan đến tài khoản này. Tháng 1/2005, Riggs Bank đã bị kết tội vi
phạm Đạo luật Bí mật ngân hàng của Mỹ vì che dấu hàng triệu USD cho các
quan chức cấp cao của Guinea xích đạo và ngân quỹ của chính phủ độc tài
Tổng thống Teodoro Obiang Nguema và các quan chức trong chính phủ đã biển
Augusto Pinochet của Chile. Năm 2008, Human Rights Watch lại tiếp tục lên án,
Asturias, and quần đảo Canary. Mức độ tham nhũng của Guinea xích đạo bị
Heritage Foundation đánh giá ở mức rất nghiêm trọng (dưới 20 điểm trong thang
bậc 100 điểm).
thủ 26 triệu USD từ một công ty dầu khí của chính phủ để mua nhà ở Madrid,
30
25
20
15
10
5
0
Hình 4.5: Mức độ tham nhũng của Guinea xích đạo
Nguồn: Heritage Foundation (2017), 2017 Index of Economic Freedom
[http://www.heritage.org/index/ranking]
121
Nhìn chung, chất lượng quản trị yếu kém và hệ thống chính trị thiếu dân
chủ là lực cản lớn đối với tiến trình cải cách thể chế kinh tế ở Guinea xích đạo.
Các nhóm lợi ích ở đất nước này gắn chặt với những thể chế cũ, đặc biệt trong
việc phân chia lợi ích từ các nguồn lợi kinh tế (nguồn tài nguyên dầu mỏ) của đất
nước. Điều đó làm cho tiến trình cải cách hệ thống thể chế về quản lý tài nguyên;
thể chế tài chính và hệ thống ngân hàng; ngân sách và các nguồn vồn đầu tư của
nhà nước; các hoạt động của khu vực công, v.v. dường như rất khó đi xa.
Các nhà lãnh đạo của Guinea xích đạo dường như chỉ tiến hành những đợt
cải cách mang tính đối phó, ở bề ngoài, để giải quyết khó khăn tạm thời của nền
kinh tế mà không muốn làm thay đổi những tầng sâu của hệ thống thể chế kinh
tế để thúc đẩy đất nước phát triển bền vững và bao trùm.
4.2. Cải cách thể chế kinh tế ở Ghana
4.2.1. Bối cảnh cải cách thể chế kinh tế
Ghana là một trong những quốc gia châu Phi đầu tiên giành được độc lập
từ Anh vào năm 1957. Ông Kwame Nkrumah là thủ tướng và tổng thống đầu
tiên của Ghana; ông cũng là người theo chủ nghĩa Liên Phi (Pan-Africanism) và
ủng hộ mô hình chủ nghĩa xã hội theo kiểu Xô Viết trong thời gian nắm quyền.
Rawlings - người đứng đầu Hội đồng các lực lượng vũ trang cách mạng đã lật đổ
chính phủ dân cử, lập ra Hội đồng phòng vệ quốc gia (PNDC) nắm quyền điều
hành ở Ghanavào năm 1981. (Năm 1979, Jerry John Rawlings đã tiến hành
cuộc đảo chính lần đầu tiên lật đổ chính quyền của Tướng Fred Akuffo -
người trước đó cũng đảo chính lật đổ Tướng I.K. Acheampong. Sau cuộc đảo
chính năm 1979, một chính phủ dân cử được thành lập cho đến khi bị giải
tán). Ông Rawlings thực hiện chế độ cai trị độc đoán và cấm các đảng chính trị.
Sau khi phê chuẩn hiến pháp mới và khôi phục chính trị đa đảng vào năm 1992,
ông Rawlings đã giành chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống vào năm 1992.
Sau cuộc bầu cử năm 1992, Đảng Dân chủ quốc đại của ông Rawlings vẫn thắng
122
Ghana trải qua một loạt cuộc đảo chính trước khi Trung úy Jerry John
cử vào năm 1996 và giúp ông này tại vị cho đến năm 2000 khi ông bị Hiến pháp
không cho phép tranh cử nhiệm kỳ tiếp.
Ông John Kufuor của Đảng đối lập mới (NPP) đã giành chiến thắng trong
cuộc bầu cử 2004. Ông John Atta Mills của Đảng Dân chủ Quốc gia đã giành
chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2008. Sau khi ông Mills qua đời
vào giữa năm 2012 và người kế tục ông theo hiến pháp là John Dramani
Mahama. Ông này sau đó đã giành chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống
tháng 12 năm 2012. Năm 2016, ông Nana Addo Dankwa Akufo-Addo của NPP
đã đánh bại Mahama, đánh dấu lần thứ ba - Ghana có sự thay đổi nguyên thủ
quốc gia kể từ khi trở lại chế độ dân chủ.
Ghana thuộc nhóm nước có mức thu nhập trung bình thấp, GDP bình
cao của châu lục (68,2 điểm và đứng thứ 7 trong tổng số 52 nước được xếp hạng
của bộ chỉ số quản trị châu Phi Ibrahim). Với tổng số dân khoảng 26,4 triệu
người năm 2013, gấp 37 lần dân số của Guinea xích đạo và GDP bình quân đầu
quân đầu người chỉ đạt 1850 USD năm 2013, song điểm xếp hạng quản trị khá
người chưa bằng 1/10 mức của Guinea xích đạo, Ghana được UNDP xếp thứ
138 trong tổng số 187 nước về mức độ phát triển con người, cao hơn Guinea
xích đạo 5 bậc.
Hình 4.6: Thu nhập bình quân đầu người của Ghana
(PPP, nghìn USD hiện hành)
Nguồn: WB (2016), database
123
Ghana có nền kinh tế thị trường với tương đối ít rào cản chính sách đối
với thương mại và đầu tư so với các quốc gia khác trong khu vực. Nền kinh tế
thị trường ở Ghana có nền tảng được xây dựng qua một phần tư thế kỷ quản
lý tương đối lành mạnh; xây dựng môi trường kinh doanh cạnh tranh và thực
hiện giảm nghèo. Tuy nhiên, trong những năm gần đây Ghana đã phải chịu
hậu quả của chính sách tài khóa lỏng lẻo, thâm hụt ngân sách và tài khoản
vãng lai và tiền tệ mất giá.
Ghana có nguồn tài nguyên thiên nhiên tương đối phong phú.Nông
nghiệp chiếm khoảng 20% GDP và sử dụng hơn một nửa lực lượng lao động,
chủ yếu là các chủ đất nhỏ. Xuất khẩu vàng, dầu, và ca cao, và kiều hối là
những nguồn thu ngoại hối chính. Kể từ đầu những năm 2010, tăng trưởng
kinh tế của Ghana được thúc đẩy bởi sự phát triển của ngành công nghiệp dầu
khí. Từ giữa tháng 12 năm 2010, Jubilee, mỏ dầu thương mại ngoài khơi đầu
tiên của Ghana, bắt đầu được khai thác. Nhà máy xử lý khí đầu tiên của đất
nước tại Atuabo cũng đang sản xuất khí đốt tự nhiên từ mỏ Jubilee, cung cấp
năng lượng cho một số nhà máy nhiệt điện Ghana.Tuy nhiên, giá dầu giảm kể
từ năm 2015 đã giảm một nửa doanh thu từ dầu Ghana
Ghana bắt đầu phải đối mặt với nhiều khó khăn trong các vấn đề như:
thiếu điện, thâm hụt thu ngân sách nội địa và gánh nặng nợ cao.Chính quyền
của Tổng thống Akufo-Addo đã tiến hành một số cải cách như hợp nhất tài
khóa. Ghana đã ký một hiệp định tín dụng mở rộng trị giá 920 triệu USD với
IMF vào tháng 4 năm 2015 để giải quyết cuộc khủng hoảng kinh tế đang gia
tăng. IMF yêu cầu Ghana giảm thâm hụt bằng cách cắt giảm trợ cấp, giảm
hóa đơn tiền lương của khu vực công, tăng cường quản lý doanh thu, tăng thu
thuế và cải thiện ngành ngân hàng. Chính quyền của Tổng thống Akufo-Addo
đặt ra mục tiêu ưu tiên bao gồm sắp xếp lại khoản nợ 31 tỷ USD, kích thích
tăng trưởng kinh tế, giảm lạm phát và ổn định tiền tệ.
124
4.2.2. Những vấn đề chính của cải cách thể chế kinh tế
Ghana là một trong những nước châu Phi nam Sahara đầu tiên tiến hành
chương trình cải cách cơ cấu (SAP) năm 1983 theo đề nghị của WB và IMF
nhằm điều chỉnh những méo mó đã gây ra sự trì trệ của nền kinh tế vào thập niên
1970 và đầu những năm 1980.
Phần lớn chính sách điều chỉnh cơ cấu liên quan đến thương mại và nông
nghiệp - do nông nghiệp là lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế. Các cuộc cải
cách tập trung vào tự do hóa thương mại, xóa bỏ sự méo mó về tỷ giá, dỡ bỏ các
trợ cấp ảnh hưởng đến giá cả nông sản gồm cả trợ cấp đối với đầu vào như phân
bón và tư nhân hóa. Nỗ lực tự do hóa cơ chế thương mại bao gồm việc từng
bước giảm hàng rào thuế quan và điều chỉnh cơ cấu thuế. Trong giai đoạn 1992 -
Ghana còn đưa ra các biện pháp khuyến khích xuất khẩu như dỡ bỏ hạn ngạch
xuất khẩu, giấy phép xuất khẩu và đơn giản hóa các thủ tục xuất khẩu. Nhờ vậy,
độ mở của nền kinh tế đã tăng đáng kể trong thập kỷ 1990. (Nguồn: Ackah,
1999, mức thuế quan bình quân đã giảm từ 17% xuống còn 8,5%. Ngoài ra,
Charles (2006),Who Gained from Trade Liberalisation in Ghana? Unskilled vs.
Skilled Households, Centre for Research in Economic Development and
Một trong những điểm nhấn nổi bật trong tiến trình cải cách thể chế kinh
tế ở thời điểm này là mức độ tập trung vào các vấn đề xã hội và xoá đói giảm
nghèo. Tháng 1 năm 1989, chính phủ đã xây dựng Chương trình hành động để
giảm thiểu chi phí điều chỉnh xã hội (PAMSCAD) - một mạng lưới an toàn cho
các nhóm dân cư dễ bị ảnh hưởng bởi cải cách kinh tế. PAMSCAD áp dụng cách
tiếp cận có sự tham gia vào việc ra quyết định về chính sách kinh tế. Chương
trình ban đầu được áp dụng với một loạt các dự án quy mô nhỏ ở cấp địa
phương. Ví dụ, người dân được yêu cầu xác định nhu cầu của họ, như sửa chữa
và phục hồi các trường tiểu học hoặc xây dựng các phòng khám y tế mới.
Năm 1990, chính phủ đã thành lập Ủy ban Kế hoạch Phát triển Quốc gia
125
International Trade, School of Economics, University of Nottingham)
(NDPC), chịu trách nhiệm xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế
nâng cao nhằm củng cố những thành tựu đạt được của Chương trình Cải cách
Kinh tế (ERP), đặt nền móng cho tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo đói. NDPC
đã đánh giá nghiêm túc các chính sách kinh tế và hướng chúng vào mục tiêu
chung là nâng cao mức sống và giảm nghèo. Trong nửa đầu thập niên 1990,
NDPC đã thành lập các nhóm làm việc gồm các học giả, chuyên gia tư vấn, tổ
chức phi chính phủ (NGO), các nhà nghiên cứu từ khu vực công và tư nhân để
xây dựng Tầm nhìn chiến lược Ghana - 2020.
Kể từ thập kỷ 1990, cải cách doanh nghiệp quốc doanh và tư nhân hóa là
một trong những nội dung quan trọng trong chương trình cải cách kinh tế của
Ghana. Sự thống trị của các doanh nghiệp quốc doanh khởi nguồn từ chính sách
chính phủ phải đóng vai trò quan trọng thúc đẩy kinh tế phát triển. Trong đầu
thập niên 1960, Ghana đã thành lập nhiều doanh nghiệp quốc doanh lớn; nhà
nước độc quyền kiểm soát lĩnh vực sản xuất cacao và khai thác mỏ; còn các
sau khi nước này giành được độc lập năm 1957. Quan niệm phổ biến lúc đó là:
doanh nghiệp quốc doanh còn thống trị lĩnh vực tài chính và bảo hiểm. Việc
thành lập các doanh nghiệp quốc doanh còn xuất phát từ động cơ chính trị.
chế thị trường tự do thuần túy, các đối thủ chính trị có thể sẽ có nhiều nguồn lực
và mạnh mẽ hơn; do đó, cần phải đầu tư thành lập các doanh nghiệp quốc doanh
để tăng cường kiểm soát của cải quốc gia và củng cố quyền lực. Số lượng doanh
nghiệp quốc doanh tăng mạnh còn do chính phủ Ghana triển khai chính sách
công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu. Tuy nhiên, chính sách này đã không thể tạo
dựng một nền tảng công nghiệp vững chắc như Liên Xô, Braxin hay Nam Phi đã
từng tiến hành thành công, chủ yếu bởi nó không tập trung vào các lĩnh vực công
nghiệp nặng.
Kết quả là chỉ trong vòng một thập kỷ sau khi giành được độc lập (1957 -
1966), quy mô của khu vực doanh nghiệp quốc doanh tại Ghana đã phát triển hết
126
Chính phủ của Tổng thống Kwame Nkrumah (1957-1966) tin rằng, nếu để cơ
sức nhanh chóng. Lao động trong khu vực này đã tăng 10 lần, từ 11,052 người
năm 1957 lên 115,826 người năm 1966. Vào cuối thời kỳ cầm quyền của Tổng
thống Kwame Nkrumah, Ghana có 53 doanh nghiệp quốc doanh và 12 công ty
liên doanh công - tư hoạt động trong hầu hết lĩnh vực của nền kinh tế, từ dược,
xây dựng, khai thác mỏ, chế tạo cho đến sản xuất bánh ngọt và giặt là.
Thời gian sau đó (1966-1972), chính phủ bắt đầu chuyển sang khuyến
khích khu vực tư nhân phát triển. Trong giai đoạn này, một số dịch vụ công cũng
được tách ra khỏi các bộ quản lý hành chính (như Cục Bưu chính và Viễn thông
ra. Tuy nhiên, nỗ lực này bị đảo ngược dưới thời kỳ chính phủ độc tài quân sự
và Tổng công ty điện) song khu vực doanh nghiệp quốc doanh tiếp tục phình to
“tăng cường kiểm soát nền kinh tế”, với những biện pháp hạn chế đầu tư nước
ngoài. Thậm chí, chính phủ còn tịch thu một số công ty tư nhân lớn vì lý do lừa
đảo. Vào thập kỷ 1980, doanh nghiệp quốc doanh thống trị các lĩnh vực như khai
thác mỏ, năng lượng, dịch vụ công, các dịch vụ tài chính và kinh doanh. Năm
Ignatius Kutu Acheampong (1972-1978) khi Ghana lại chuyển sang chính sách
1984, khu vực SOE tuyển dụng khoảng 240 nghìn lao động; gần 60 nghìn lao
quốc doanh đã lộ rõ yếu kém, chủ yếu là do quản trị kém, thừa nhân lực, thiếu
vốn và các chính sách giá không phù hợp…
Ghana đã đưa ra Chương trình phục hồi kinh tế năm 1983, trong đó cải
cách SOE là một nội dung quan trọng. Chương trình tinh giảm doanh nghiệp
quốc doanh (1987-1993) nhằm làm giảm gánh nặng tài chính mà các doanh
nghiệp quốc doanh tạo ra cho chính phủ (chiếm đến 12% chi tiêu ngân sách năm
1983). Các định chế tài chính quốc tế như WB và IMF yêu cầu chuyển đổi sở
hữu của các doanh nghiệp quốc doanh cho các nhà đầu tư nước ngoài và khuyến
khích sự tham gia của khu vực tư nhân vào những lĩnh vực vốn thuộc độc quyền
nhà nước.
127
động làm việc trong lĩnh vực trồng cacao. Tuy nhiên, khu vực doanh nghiệp
Các biện pháp “tinh giảm” gồm cả tư nhân hóa và giải thể gồm: i) đảm
bảo rằng các doanh nghiệp quốc doanh hoạt động trên nền tảng thương mại hóa
bằng cách dỡ bỏ kiểm soát giá cả, tăng cường cạnh tranh, hạn chế việc thành lập
các SOE mới…; ii) cải cách hệ thống pháp luật để đảm bảo ban giám đốc các
doanh nghiệp quốc doanh có quyền tự chủ trong hoạt động hàng ngày của công
ty, tăng cường trách nhiệm giải trình trước chính phủ; iii) bán, sáp nhập hoặc
thanh lý các doanh nghiệp quốc doanh thua lỗ nhằm giảm gánh nặng tài chính
cho chính phủ; iv) phục hồi các doanh nghiệp quốc doanh hoạt động trong
những lĩnh vực ưu tiên và có khả năng tiếp tục kinh doanh thành công; và v)
tăng cường hiệu quả của doanh nghiệp quốc doanh thông qua giảm nhân lực, tiến
hành đào tạo nhân sự, triển khai các chuẩn mực kinh doanh và kiểm toán, chấn
Chính phủ Ghana đã thành lập một cơ quan thực hiện quá trình thoái vốn
là Uỷ ban thực hiện thoái vốn (DIC). Giai đoạn đầu tiên trong quá trình thoái
vốn là để xác định và lên danh sách các công ty sẽ được thoái vốn; thu thập
thông tin và tài liệu về mỗi công ty sẽ được thoái vốn. Sau đó, DIC sẽ quyết định
chỉnh các chuẩn mực về tài chính, nợ nần.
được đưa ra mức độ thoái vốn hợp lý.
lập công ty liên doanhgiữa nhà nước và nhà đầu tư tư nhân, mà nhà nước là cổ
đông thiểu số trong khi vẫn còn giữ khả năng kiểm soát quản lý với chủ đầu tưtư
nhân; ii) bán cho một nhà đầu tư tư nhân hoặc liên doanh các tài sản của doanh
nghiệp; iii) cho thuê nhà máy và thiết bị, nơi nhà đầu tư thực hiện đầu tư để nâng
cấp và cải thiện phương thức quản lý các nhà máy và thiết bị này trong một
khoảng thời gian nhất định; iv) các nhà đầu tư tư nhân mua toàn bộ cổ phần còn
chính phủ sẽ phải trả các khoản nợ của công ty.
Nhìn chung, tuy còn gặp nhiều khó khăn và đang tiếp tục, các cuộc cải
cách doanh nghiệp nhà nước theo hướng tư nhân hoá ở Ghana là một cấu phần
quan trọng, góp phần ổn định cán cân vĩ mô, giảm thâm hụt ngân sách trong
chiến lược cải cách kinh tế ở Ghana.
128
DIC áp dụng các phương thức thoái vốn khác nhau, bao gồm các: i) thành
Mặc dù gặp phải sự phản đối từ phía các nghiệp đoàn và tổ chức phi chính
phủ, quá trình tư nhân hoá ở Ghana đã góp phần tạo ra nhiều việc làm hơn. Theo
Ngân hàng Ghana, tư nhân hóa đã làm tăng số lượng việc làm tới 59% (Nguồn:
Bank of Ghana). Các kết quả điều tra cho thấy, người lao động cũng cảm thấy
hài lòng hơn khi làm việc tại những công ty đã được tư nhân hóa. Tuy tư nhân
hóa không đem lại nguồn thu cho chính phủ song rõ ràng đã làm giảm gánh nặng
tài chính do chính phủ không còn phải trợ cấp cho các doanh nghiệp quốc doanh,
thậm chí đã có thể đánh thuế các công ty đã thuộc về sở hữu tư nhân. Việc thoái
vốn còn mang lại lợi ích phi tài chính quan trọng khác là chính phủ không còn
phải quan tâm đến gánh nặng quản lý và giám sát các doanh nghiệp nhà nước
nữa. Nhìn chung, tuy không phải thành công mỹ mãn, quá trình tư nhân hóa ở
châu Phi khác trong quá trình cải cách theo hướng kinh tế thị trường.
Ghana đã đem lại những kết quả đáng khích lệ và là bài học cho những nước
4.2.3. Đánh giá kết quả cải cách thể chế kinh tế
Tiến trình cải cách thể chế kinh tế thị trường ở Ghana diễn ra trong hai
giai đoạn quan trọng.
Giai đoạn chuyển từ nền kinh tế mang nặng tính chất kế hoạch hoá sang
theo tiêu chí của phương Tây bị coi là “độc tài quân sự”.
Khác với nhiều nhà lãnh đạo chuyên chế độc tài ở châu Phi, Jerry John
Rawlings được nhiều người coi là một nhà “độc tài tốt”. Ông đã lãnh đạo Ghana
vượt qua những năm tháng khó khăn kinh tế, tiến hành cải cách và đạt được
nhiều thành tựu phát triển. Nếu như không có quyết tâm, thậm chí cả sự cứng rắn
của ông, một số người cho rằng, Ghana sẽ khó thể tiến hành Chương trình phục
hồi kinh tế trong những năm 1980 (Nguồn: Chazan, N (1983), An Anatomy of
Ghanaian Politics: Managing Political Recession, 1969-1982. Boulder, CO:
Westview Press). Những chương trình cải cách khó khăn như tư nhân hóa thành
công một phần là do tính chất của chính quyền độc tài quân sự: vừa không phải
lo phản ứng của đông đảo dân chúng (như sự phản đối của các nghiệp đoàn, các
129
nền kinh tế thị trường ở Ghana diễn ra trong thời kỳ với một chính quyền mà
tổ chức xã hội dân sự) như các chính thể dân chủ; song cũng không có những lợi
ích gắn quá chặt với hệ thống kinh tế hiện hành như các chính thể độc tài khác.
PNDC về bản chất là một chính quyền độc tài quân sự song phần lớn thành viên
là dân sự, đồng thời theo đuổi chính sách thực dụng trong đó có đường lối kinh
tế thị trường với chủ thuyết thay vì để chính phủ cung cấp, cần khuyến khích
mọi người dân tham gia tích cực hơn vào phát triển kinh tế. Với nỗ lực tự do hóa
kinh tế, PNDC đã thay đổi khẩu hiệu trước đó vốn nhấn mạnh vào việc phân
phối lại nhằm đảm bảo sự bình đẳng cho những người có thu nhập thấp. Các nhà
lãnh đạo độc tài như Rawlings coi sứ mệnh lãnh đạo là người bảo vệ cho dân
chúng và đối phó với những vấn đề về yếu kém năng lực, bất công và nạn tham
nhũng ở Ghana.
diễn ra cùng với quá trình dân chủ hóa và có ngoặt lớn vào năm 2000 sau khi
đảng đối lập giành thắng lợi trong bầu cử. Cùng với nỗ lực cải cách kinh tế và
chống tham nhũng, chính phủ Ghana đã biết tận dụng nguồn thu từ dầu mỏ và
Giai đoạn hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường kể từ đầu những năm 1990
các nguồn tài nguyên để đầu tư vào phát triển con người, xoá đói giảm nghèo, đa
dạng hóa cơ cấu kinh tế và từng bước đưa nền kinh tế thoát ra khỏi khó khăn
một trong số nước châu Phi ít tham nhũng nhất. Kết quả điều tra về Nhận thức
tham nhũng năm 2013 của Tổ chức minh bạch quốc tế xếp Ghana đứng thứ 63
trong tổng số 177 nước về mức độ tham nhũng. Ghana cũng được xếp thứ 53
trong tổng số 167 nước được EIU xếp hạng về mức độ dân chủ năm 2015.
130
trong giai đoạn trước đó đi vào giai đoạn phát triển tương đối ổn định. Ghana là
80
70
60
50
40
30
20
10
0
5 9 9 1
7 9 9 1
9 9 9 1
1 0 0 2
2 0 0 2
3 0 0 2
4 0 0 2
6 0 0 2
8 0 0 2
0 1 0 2
2 1 0 2
3 1 0 2
5 1 0 2
7 1 0 2
6 9 9 1
8 9 9 1
0 0 0 2
5 0 0 2
7 0 0 2
9 0 0 2
1 1 0 2
4 1 0 2
6 1 0 2
Nguồn: Heritage Foundation (2017), 2017 Index of Economic Freedom
[http://www.heritage.org/index/ranking]
Hình 4.7: Mức độ tham nhũng ở Ghana
Bảng 4.4: Chất lượng quản trị của Ghana theo bộ chỉ số quản trị châu Phi
Nước
An toàn và
Tham dự
Các cơ hội
Phát triển
Điểm bình
Xếp hạng
thượng tôn
và quyền
kinh tế bền
con người
quân
pháp luật
con người
vững
Ghana
69,9
73,6
75,5
68,2
7
53,6
Nguồn:2014 Ibrahim Index of African Governance (IIAG).
[http://www.moibrahimfoundation.org/interact/]
131
Ibrahim
Tiếng nói và trách nhiệm
giải trình
Ổn định chính trị và phi bạo
lực/khủng bố
Hiệu lực của chính phủ
Chất lượng của các quy
định
Thượng tôn pháp luật
Kiểm soát tham nhũng
Hình 4.8: Chất lượng quản trị của Ghana theo bộ chỉ số quản trị toàn cầu
https://info.worldbank.org/governance/wgi/Home/Reports
Có thể thấy rằng, so với nhiều nước châu Phi nam Sahara khác, những
thành quả tương đối vững chắc của tiến trình cải cách thể chế kinh tế thị
trường ở Ghana được thiết lập trên nền tảng của một môi trường chính trị dân
chủ và một nền quản trị quốc gia khá lành mạnh. Đây là điều kiện để Ghana
tiếp tục đẩy mạnh quá trình tự do hoá nền kinh tế.
Đặc biệt, cùng với tiến trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường,
Ghana đã đặt trọng tâm vào việc khắc phục các thất bại của thị trường thông
quá việc triển khai các chương trình giảm nghèo, coi trọng sự tham gia của
người dân vào quá trình hoạch định và thực thi chính sách phát triển kinh tế-
xã hội. Mặc dù môi trường kinh tế vĩ mô hiện nay của Ghana còn gặp nhiều
khó khăn (như vấn đề thâm hụt ngân sách, nguy cơ lạm phát cao, v.v. có thể
132
Nguồn: Global Governance Indicator, 2019,
nói rằng, những thành công trong tiến trình cải cách thể chế kinh tế, chính trị
và cải thiện nền quản trị quốc gia ở Ghana là điểm sáng cho nhiều quốc gia
châu Phi học tập.
Theo đánh giá của Heritage Foundation, mức độ tự do hóa kinh tế của
Ghana có xu hướng được cải thiện trong giai đoạn 2006-2016, trước khi sụt
giảm trong thời gian gần đây do những bất ổn kinh tế vĩ mô và tác động tiêu
cực của suy giảm kinh tế toàn cầu. Tự do hóa trong lĩnh vực thương mại và
đầu tư trong thời gian gần đây cũng biến động theo chiều hướng không ổn
định của nền kinh tế. Tuy nhiên, với một nền tảng thể chế vững chắc, nền
kinh tế Ghana có những điều kiện để phục hồi khi nền kinh tế toàn cầu đi vào
quỹ đạo ổn định.
66
64
62
60
58
56
54
52
50
8 9 9 1
9 9 9 1
0 0 0 2
1 0 0 2
2 0 0 2
3 0 0 2
4 0 0 2
5 0 0 2
6 0 0 2
7 0 0 2
8 0 0 2
9 0 0 2
0 1 0 2
1 1 0 2
2 1 0 2
3 1 0 2
4 1 0 2
5 1 0 2
6 1 0 2
7 1 0 2
5 9 9 1
6 9 9 1
7 9 9 1
Hình 4.9: Mức độ tự do kinh tế của Ghana
Nguồn: Heritage Foundation, 2017, 2017 Index of Economic Freedom
http://www.heritage.org/index/ranking
133
80
70
60
50
40
30
20
10
0
1995 1997 1999 2001 2003 2005 2007 2009 2011 2013 2015 2017
Tài chính
Thương mại
Đầu tư
Nguồn: Heritage Foundation (2017), 2017 Index of Economic Freedom
http://www.heritage.org/index/ranking
Hình 4.10: Mức độ tự do thương mại, đầu tư và tài chính của Ghana
4.3. Cải cách thể chế kinh tế ở Tunisia
4.3.1. Bối cảnh cải cách thể chế kinh tế
Tunisia giành được độc lập từ Pháp vào năm 1956. Từ năm 1987 cho đến
trước khi cuộc cách mạng hoa nhài diễn ra vào năm 2011, Tunisia nằm dưới chế
tế, ông Ben Ali đã thiết lập nên một hệ thống chính quyền gồm những người
thân trong gia đình và cộng sự thân tín ở Tunisia, biến nước này trở thành một
trong những nước Arab hiện đại song cũng có hệ thống chính trị hà khắc nhất.
Chính quyền Ben Ali đã bị nhiều cáo buộc, trong đó có những vấn đề về tham
nhũng, lạm quyền và đàn áp chính trị.
Tunisia là khởi đầu của làn sóng “Mùa xuân Ả rập” trước khi lan rộng ra
khu vực Bắc Phi - Trung Đông. Tháng 1/2011, một cuộc biểu tình của đông đảo
người lao động đã bùng nổ ở Tunisia vào nhằm bày tỏ sự đoàn kết và cảm thông
với một thanh niên đã tự thiêu vì tuyệt vọng trước chế độ mà anh ta đang sống.
Làn sóng phản kháng đã nhanh chóng lan khắp khu vực, kéo theo sự lung lay,
134
độ độc tài Zine El Abidine Ben Ali. Mặc dù đã có những nỗ lực phát triển kinh
thậm chí sụp đổ của những chính thể đã tồn tại nhiều năm ở Tunisia, Ai Cập,
Yemen, Jordan, Bahrain, Mauritania, Oman, Sudan, Syria, Iraq, Libya…Kể từ
cuộc cách mạng châu Âu năm 1848, thế giới ít chứng kiến một phong trào nổi
dậy nào lan rộng với tốc độ nhanh chóng như thế.
Trước khi cuộc Cách mạng hoa nhài bùng nổ, tình hình kinh tế của
Tunisia không quá tồi tệ. Nước này không phải là một kỳ tích phát triển song
nhìn chung đã đạt được nhiều thành tựu hơn một số nước láng giềng. Trong thập
kỷ 2000, tăng trưởng kinh tế của Tunisia đạt khoảng 5%/năm, cao hơn nhiều
nước Bắc Phi - Trung Đông và mức bình quân của nhóm nước có thu nhập trung
bình thấp. Thu nhập bình quân đầu người đã tăng từ 2.713 USD năm 2005 lên
3.720 năm 2010. Kinh tế Tunisia cũng khá đa dạng với tỷ trọng của khu vực dịch
Lahcen Achy (2011). Tunisia’s Economic Challenges, Canergie Papers,
December 2011).
vụ trong GDP trên 60%, tỷ trọng của ngành nông nghiệp dưới 10% (Nguồn:
Hình 4.11: Thu nhập bình quân đầu người của Tunisia
(PPP, nghìn USD hiện hành)
Nguồn: WB, database
Tuy nhiên, về mặt kinh tế, các chính sách của chính phủ đã không tạo
ra đủ công ăn việc làm cho người dân, gây ra những bất bình ngày càng tăng
trong xã hội, đặc biệt trong giới trẻ. Năm 2010, khoảng 70% số người thất
135
nghiệp là dưới 30 tuổi; cứ bốn người tốt nghiệp đại học thì có một người
không tìm được việc làm. Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng
gây ra sự bất bình trong xã hội và làn sóng ngầm phản kháng chính phủ chỉ
chờ cơ hội để bùng dậy ở Tunisia.
Tỷ lệ ở nhóm giáo dục bậc cao Tỷ lệ chung Tỷ lệ ở nhóm giáo dục bậc thấp
Nguồn: Lahcen Achy (2011). Tunisia’s Economic Challenges,
Canergie Papers, December 2011, Tr.8
Một trong những nguyên nhân quan trọng khiến tỷ lệ thất nghiệp cao là do
sự yếu kém của khu vực tư nhân – nơi có thể đem lại rất nhiều việc làm ở những
Hình 4.12: Tỷ lệ thất nghiệp ở Tunisia, 2001-2010
quốc gia khác. Mặc dù, Tunisia đã có những cải cách theo hướng thị trường từ
vẫn bị hạn chế. Chính phủ vẫn kiểm soát nhiều lĩnh vực quan trọng của nền kinh
tế như viễn thông, năng lượng, tài chính, phân bón, khai thác mỏ và vật liệu xây
dựng. Khu vực tư nhân chỉ có thể tham gia vào được một số ít ngành như du lịch
song với tình trạng hết sức manh mún, nhỏ lẻ. Đầu tư nước ngoài cũng bị hạn
chế, đặc biệt trong các lĩnh vực dịch vụ - lĩnh vực thường ưu tiên cho các nhà
đầu tư trong nước. Trong những lĩnh vực khác, các nhà đầu tư phải tiến hành
những thủ tục xin phép hết sức phiền hà nếu như muốn kiểm soát hơn 50% cổ
phần của công ty. Nhìn chung, rất ít nỗ lực cải cách thể chế nhằm vào việc thúc
đẩy khu vực tư nhân phát triển ở Tunisia trong nhiều năm. Đây chính là một
trong những lỗ hổng chính sách tạo việc làm, nâng cao thu nhập, thu hẹp sự bất
bình đẳng và giảm nghèo bền vững ở Tunisia.
136
thập niên 1980. Hoạt động thương mại đã được tự do hóa đáng kể song đầu tư
Nguồn: Ngân hàng trung ương Tunisia, 2008
Hình 4.13: Tỷ lệ đầu tư tư nhân so với GDP (%)
4.3.2. Những vấn đề chính của cải cách thể chế kinh tế
Năm 1986, Tunisia bắt đầu thực hiện chương trình điều chỉnh cơ cấu
từ khi nước này giành được độc lập. SAP đã đưa ra các định hướng chiến lược
chính cho nền kinh tế Tunisia cho đến khi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu
nổ ra vào năm 2008. Chương trình này nhằm mục đích: (i) duy trì sự ổn định
kinh tế vĩ mô và cân đối tài chính; (ii) mở cửa và tích hợp Tunisia vào nền kinh
(SAP), mở ra một bước ngoặt trong hoạch định chính sách kinh tế ở Tunisia kể
tếthế giới; (iii) phân phối lại thu nhập bằng cách điều hòa các chính sách xã hội
sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế sẽ giảm xuống theo hướng có lợi cho dân chúng,
để cải thiệnmức thu nhập và việc làm.
Đặc biệt, một trụ cột chính của SAP là tăng cường sự hội nhập của nền
và kinh tế; và (iv) mở rộng tầng lớp trung lưu và giảm nghèo. Cải cách dự kiến
gia nhập vàoWTO năm 1995 và tham gia một số hiệp định thương mại tự do
(FTA) với các đối tác chính, như: FTA với Liên minh châu Âu (bắt đầu được
thực hiện đầy đủ vào năm 2008). Cùng với SAP, các FTA và nhiều chương trình
cải cách thể chế khác đã giúp Tunisia từng bước cải cách luật pháp; bãi bỏ nhiều
quy định về hạn chế đầu tư, mở rộng thương mại và tự do giá cả; tái cân bằng vai
trò của khu vực công và tư nhân; hiện đại hóa trong quản trị hệ thống tài chính
137
kinh tế Tunisia vào nền kinh tế thế giới. Điều này đã được thực hiện khi Tunisia
ngân hàng; cải thiện kết cấu hạ tầng; phát triển nguồn nhân lực; và nâng cấp các
công ty và các lĩnh vực sản xuất.
Tunisia cũng theo đuổi chính sách thúc đẩy xuất khẩu. Các lĩnh vực xuất
khẩu nhận được nhiều ưu đãi của chính phủ, như: được hưởng chế độ miễn thuế
đặc biệt đối với đầu vào nhập khẩu cũng như miễn một phần thuế thu nhập.
Chính phủ cũng áp dụng các biện pháp bảo vệ các hoạt động sản xuất trong nước
thông qua việc đánh thuế cao hàng nhập khẩu và thiết lập một hệ thống rào cản
phi thuế quan phức tạp.
Trong một thời gian dài, các nỗ lực cải cách thể chế kinh tế của Tunisia đã
nhắm mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng cùng với việc xóa đói giảm nghèo. Ví dụ,
chính phủ đã quan tâm tới các chính sách, chương trình phát triển nông thôn; các
nghiệp; đầu tư cho chương trình giáo dục, y tế và kiểm soát sinh sản giúp nâng
cao chất lượng phát triển con ngườicả ở nông thôn và thành thị. Việc chính phủ
đẩy mạnh phát triển công nghiệp nhẹ, thúc đẩy xuất khẩu và phát triển du lịch
chính sách tạo thuận lợi cho việc xây dựng hạ tầng cần thiết cho phát triển nông
cũng tạo ra nhiều việc làm, đặc biệt là cho những người lao động có tay nghề
thấp. Các cuộc điều tra chi tiêu hộ gia đình đã được thực hiện ở Tunisia cứ năm
kết quả phát triển trong lĩnh vực nông nghiệp đã giúp giảm tỷ lệ nghèo đói ở
Tunisia. Cụ thể:
- Trong giai đoạn 1980-1985, quản lý kinh tế kém và các dự án đầu tư
không hiệu quả được thực hiện bởi khu vực công dẫn đến hiệu quả kinh tế thấp
hơn so với những năm 1970. Tuy nhiên, tỷ lệ nghèo đói giảm mạnh do ngành
nông nghiệp đạt được mức tăng trưởng cao và do chính phủ tăng lương, bao gồm
cả mức lương tối thiểu cho công nhân nông trại và tiến hành trợcấp thực phẩm.
- Tỷ lệ nghèo tiếp tục giảm mạnh trong giai đoạn1985-1990 khi các chính
sách SAP được triển khai. Cũng trong giai đoạn này, giá trị gia tăng nông nghiệp
tiếp tục được cải thiện, mặc dù có sự sụt giảm về đầu tư.
138
năm một lần kể từ năm 1980 đến năm 2010 cho thấy, tăng trưởng kinh tế, nhất là
- Giai đoạn 1990-1995 chứng kiến tỷ lệ nghèo đói ở nông thôn tăng lên
trong khi nghèo thành thị giảm nhẹ. Mặc dù GDP tăng trưởng nhanh hơn so với
giai đoạn trước, nhưng sản lượng nông nghiệp bị giảm do hạn hán liên tiếp khiến
nghèo đói ở nông thôn gia tăng.
- Giai đoạn 1995-2000, nghèo đói ở nông thôn giảm đáng kể khi sản
lượng nông nghiệp tăng và tăng trưởng tăng tốc với tốc độ nhanh nhất được thấy
từ cuối những năm 1970.
- Trong giai đoạn 2000-05,tỷ lệ nghèo đói tiếp tục giảm mặc dù tình trạng
bất bình đẳng lại gia tăng. Trong thời kỳ này, các hộ gia đình nông thôn bị ảnh
hưởng tiêu cực nhất bởi sự suy giảm giá cả sản xuất. Sự bất bình đẳng ngày càng
gia tăng đã trở thành rủi ro lớn - nguyên nhân gây ra sự bất ổn chính trị-xã hội
Sau khi cuộc cách mạng diễn ra vào tháng 1 năm 2011, IMF đã tái lập các
chương trình hỗ trợ cải cách kinh tế cho Tunisia. Tháng 9 năm 2012, nhân viên
IMF đã tư vấn cho chính phủ Tunisia về một loạt cải cách toàn diện để đạt được
vào những năm sau.
tăng trưởng cao hơn, toàn diện hơn và giảm thất nghiệp trong một cách bền
vững. Điều này cũng được ông David Lipton, phó giám đốc thứ nhất của IMF,
11 năm 2012. Theo điều IV của IMF, các cuộc cải cách được Quỹ này hỗ trợ
nhằm vào cải thiện môi trường kinh doanh, cải thiện thị trường lao động và khu
vực tài chính. Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng, các tổ chức quốc tế như IMF
cần phải thay đổi trong cách tiếp cận về cải cách thể chế kinh tế đối với Tunisia.
Theo IMF, những thách thức chính mà Tunisia phải đối mặt bao gồm
kiểm soát hóa đơn tiền lương, giảm trợ cấp và thay thế bằng mạng lưới an sinh
xã hội, thúc đẩy khu vực tư nhân phát triển, bao gồm cải cách thuế doanh
nghiệp. Tháng 6 năm 2013, IMF đã phê duyệt Hiệp định dự phòng (SBA) trị giá
1,74 tỷ đô lacho Tunisia trong vòng 24 tháng, đưa nước này trở thành nước thứ
tư trong khu vực Bắc Phi nhận được sự giúp đỡ của IMF từ năm 2011, sau
139
phát biểu ủng hộ tại một cuộc họp báo trong chuyến thăm tới Tunisia vào tháng
Yemen, Jordan và Morocco. Các đề xuất chính sách do IMF đưa ra bao gồm: i)
cam kết giảm thuế cho khu vực doanh nghiệp; ii) tăng thuế cho người tiêu dùng
(trong đó, bao gồm cả những quy định gây tranh cãi như: tăng thuế xe); iii) cải
cách doanh nghiệp quốc doanh và hệ thống hưu trí; iv) tự do hóa môi trường đầu
tư thông qua việc cung cấp các ưu đãi cho khu vực tư nhân; v) cắt giảm trợ cấp
liên quan đến giá điện, khí đốt và nhiên liệu; vi) phân cấp hành chính công cho
địa phương; vii) bãi bỏ các quy định hạn chế tự do hoá thị trường lao động; viii)
giảm tiền lương công vụ; và ix) bước đầu thực hiện tự do hoá các ngân hàng
doanh nghiệp quốc doanh.
quốc doanh thông qua việc loại trừ các ngân hàng này khỏi luật điều chỉnh các
2013 trong bối cảnh chi phí sinh hoạt ngày càng tăng, áp dụng ngày càng nhiều
các khoản phí và thuế mới và cắt giảm đến mức trợ cấp. Mức lạm phát trong giai
đoạn này đã lên ngang bằng với lạm phát trong giai đoạn 2008 - 2010, trước khi
vụ lật đổ Tổng thống Ben Ali. Tuy nhiên, bất chấp các cuộc biểu tình đang diễn
Việc thực hiện các chính sách này đã gây ra các cuộc biểu tình vào năm
ra, chính phủ lâm thời vẫn quyết định thực hiện các biện pháp của IMF bằng
pháp này đặc biệt ảnh hưởng đến tài xế taxi và nông dân).
Về cơ bản, IMF tiếp tục tài trợ cho các chính sách tương tự mà họ đã thúc
đẩy trong chế độ Ben Ali như: tư nhân hóa các nguồn lực của nhà nước, xây
dựng thị trường vốn mở, ổn định tiền tệ, cắt giảm tiền lương, cắt giảm chi tiêu
của chính phủ cho các chương trình xã hội; thúc đẩy quan hệ đối tác công tư
(PPP), cũng như thiết lập một thị trường lao động ‘linh hoạt và tự do hóa phù
hợp với Khung đồng thuận Washington. Mặc dù có sự thay đổi về tên gọi, các
biện pháp cải cách thể chế kinh tế ở Tunisia do các tổ chức quốc tế như IMF áp
đặt vẫn tương đối không thay đổi và có rất ít tác dụng trong việc giải quyết các
vấn đề kinh tế và xã hội từng dẫn đến cuộc nổi dậy.
140
cách tăng giá điện và gas; tăng thuế đối với các phương tiện giao thông (biện
4.3.3. Đánh giá kết quả cải cách thể chế kinh tế
Theo cách tiếp cận của các tổ chức quốc tế như WB, IMF theo Đồng
thuận Washington, việc thực hiện SAP kể từ giữa thập kỷ 1980 nhằm cải tổ nền
kinh tế Tunisia theo hướng tự do hóa và tư nhân hóa sẽ thúc đẩy sự nghiệp dân
chủ hoá ở đất nước này. Thực tế ở Tunisia cho thấy, quá trình dân chủ hoá có vẻ
được liên kết hữu cơ với nền kinh tế thị trường và sự xuất hiện của tầng lớp
trung lưu. 24 năm sau khi triển khai SAP và 15 năm sau khi ký Hiệp định thương
mại tự do với Liên minh châu Âu, quá trình dân chủ hóa đời sống chính trị đã
xuất hiện thông qua một cuộc cách mạng lật đổ chế độ độc tài của Tổng thống
Ben Ali.
Tuy nhiên, bất ổn chính trị - xã hội ở Tunisia lại được gây ra bởi những
cách thể chế nói chung theo chương trình điều chỉnh cơ cấu. Quá trình tự do hóa
thương mại và cắt giảm trợ cấp đã ảnh hưởng tiêu cực đến việc làm và chất
lượng cuộc sống của người dân ở Tunisia. Quá trình tự do hoá tài chính, cắt
tác động tiêu cực về mặt xã hội của các cuộc cải cách kinh tế nói chung và cải
giảm trợ cấp và chi tiêu của chính phủ vẫn không thể giảm mạnh nợ công trong
khi tỷ lệ thất nghiệp vẫn ở mức cao. Một trong những nguyên nhân khác gây bất
những những người giàu ngay trong các đô thị lớn; giữa khu vực nông thôn và
khu vực thành thị.
Theo đánh giá của Heritage Foundation, quá trình tự do hóa tổng thể của
nền kinh tế Tunisia sau cuộc cách mạng 2011 chưa đạt yêu cầu và dường như đã
chậm lại. Chỉ số tự do hóa kinh tế của Tunisia đã có xu hướng sụt giảm trong
những năm gần đây. Ngoại trừ xu hướng tự do hóa trong lĩnh vực thương mại có
chiều hướng cải thiện rõ nét, tự do hóa trong lĩnh vực đầu tư cải thiện chậm và tự
do hóa tài chính hầu như không thay đổi.
141
bình trong xã hội là chênh lệch giàu nghèo: giữa tầng lớp lao động nghèo và
66 64 62 60 58 56 54 52 50
Nguồn: Heritage Foundation, 2020, 2020 Index of Economic Freedom
Hình 4.14: Mức độ tự do kinh tế của Tunisia
90
80
70
60
50
40
30
20
10
0
8 9 9 1
9 9 9 1
0 0 0 2
1 0 0 2
2 0 0 2
3 0 0 2
4 0 0 2
1 1 0 2
2 1 0 2
3 1 0 2
4 1 0 2
5 1 0 2
6 1 0 2
5 9 9 1
6 9 9 1
7 9 9 1
5 0 0 2
6 0 0 2
7 0 0 2
8 0 0 2
9 0 0 2
0 1 0 2
7 1 0 2
8 1 0 2
9 1 0 2
0 2 0 2
Thương mại
Đầu tư
Tài chính
Hình 4.15: Mức độ tự do thương mại, đầu tư và tài chính của Tunisia
Nguồn: Heritage Foundation, 2020, 2020 Index of Economic Freedom
Có thể nhận định rằng, Tunisia đã bắt đầu đặt chân trên chặng đường dân
chủ hóa về mặt chính trị và đây là bước cải cách thể chế thiết yếu cho phát triển
kinh tế - xã hội trong giai đoạn tiếp theo. EIU xếp nền dân chủ ở Tunisia đứng
thứ 57 trong tổng số 167 quốc gia. Freedom House cũng coi Tunisia nằm trong
số ít các nước châu Phi "có tự do" [59]. Tuy nhiên, quá trình này vẫn còn rất
chông gai và trắc trở. Báo cáo "Chỉ số các quốc gia yếu kém" của Quỹ vì hòa
bình xếp Tunisia nằm trong số những quốc gia bất ổn nhất trong số 178 quốc gia
được đánh giá, với cảnh báo về tình hình ở các quốc gia này rất nghiêm trọng
142
trong giai đoạn 2006-2015 [58]. Theo Bộ chỉ số quản trị quốc gia của Ngân hàng
thế giới, các chỉ số về Phi bạo lực và ổn định chính trị, Hiệu lực của chính phủ,
Chất lượng của các quy định và Công bằng của luật pháp ở Tunisia sụt giảm
nghiêm trọng trong giai đoạn 2006-2014 [121]; và tiếp tục kéo dài cho đến hiện
nay. Sáu chính phủ đã được thành lập cho đến nay sau khi chính quyền độc tài bị
lật đổ. Môi trường chính trị - xã hội bất ổn là điều kiện để cho những nhóm
khủng bố như Lực lượng Nhà nước Hồi giáo tự xưng (IS) phát triển mạnh và
làm dấy lên mối lo ngại về làn sóng Hồi giáo cực đoan.
2010 2,79
2011 5,53
2012 5,67
2013 5,76
2014 6,31
2015 6,72
Nguồn: Economic Intelligent Unit, Democracy Index 2015,
Ghi chú: thang điểm 0 (kém dân chủ nhất)-10 (dân chủ nhất)
Bảng 4.5: Chỉ số dân chủ của Tunisia của EIU (2010-2015)
Tiếng nói và trách nhiệm
giải trình
Ổn định chính trị và phi bạo
lực/khủng bố
Hiệu lực của chính phủ
Chất lượng của các quy định
Thượng tôn pháp luật
Kiểm soát tham nhũng
Nguồn: Global Governance Indicator, 2019,
https://info.worldbank.org/governance/wgi/Home/Reports
143
Hình 4.16: Chất lượng quản trị của Tunisia theo bộ chỉ số quản trị toàn cầu
Có thể thấy rằng, trong thời kỳ "hậu Mùa xuân Ả rập" chính quyền
Tunisia hiện vẫn chỉ mải mê tập trung vào vấn đề ổn định chính trị trong một bối
cảnh tiếp tục rối ren, mà chưa dành sự quan tâm đúng mực cho cải cách kinh tế
và xử lý các vấn đề xã hội và phát triển con người. Thực tế cho thấy, cuộc sống
của người dân ở các quốc gia từng được xem là thực hiện thành công “cuộc cách
mạng” sau khi lật đổ được chế độ cũ như Tunisia có vẻ còn khó khăn hơn trước.
Tại Tunisia, nghèo đói và thất nghiệp vẫn bao trùm, thậm chí còn có xu hướng
gia tăng, trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân trong giai đoạn 2011-
2015 đã giảm xuống chỉ còn khoảng 1/3 so với thời kỳ trước cách mạng (2006-
2010). Xếp hạng về Chỉ số phát triển con người (HDI) của Tunisia tụt 1 bậc
trong giai đoạn 2009-2014. [112]
Tunisia vẫn chưa đạt được. Quá trình cải cách thể chế ở các nước này vẫn đang
dang dở. Mặc dù chế độ độc tài bị lật đổ, song những yêu cầu dân sinh cơ bản
chưa được đáp ứng, nhất là vấn đề việc làm và thu nhập, khiến cho đời sống
Cho đến nay, kết quả như mong đợi ban đầu sau làn sóng dân chủ hóa ở
người dân tiếp tục khó khăn. Các chính quyền mới thiếu năng lực giải quyết
những vấn đề kinh tế, xã hội và bảo đảm an ninh nên các thành quả về dân chủ
giá dựa trên những thay đổi chính trị nhất thời mà cần phải dựa trên việc khi
người dân không còn đói nghèo và thiếu thốn, khi những bất ổn xã hội được đẩy
lùi và cải cách kinh tế được thực hiện. [8]
rất mong manh. Vì vậy, sự thành công của "dân chủ hóa" không thể được đánh
4.4. So sánh các trường hợp nghiên cứu
Guinea xích đạo, Ghana và Tunisia đã cho thấy ba trường hợp khác biệt,
mang những đặc thù của châu Phi trong quá trình cải cách kinh tế và chuyển đổi
sang nền kinh tế thị trường. Xếp theo thu nhập bình quân đầu người, ba nước
này thuộc vào ba nhóm khác nhau: cao nhất là Guinea xích đạo thuộc vào nhóm
nước có thu nhập bình quân đầu người ở mức trung bình cao (trên 15.000 USD,
PPP) song cho đến năm 2017 vẫn bị coi là nước kém phát triển theo phân loại
144
của Liên hợp quốc bởi các yếu tố về rủi ro kinh tế, phát triển con người, bất bình
đẳng xã hội; tiếp đến là Tunisia, thuộc nhóm nước có mức thu nhập trung bình
(11.000 USD, PPP); cuối cùng là Ghana - nước có mức thu nhập trung bình thấp
(4000 USD, PPP).
Trong một thời gian khá dài, Guinea xích đạo đã phát triển nhanh nhờ lợi
thế nguồn tài nguyên phong phú. Tuy nhiên, rất ít nỗ lực cải cách kinh tế mạnh
mẽ và thực chất đã được tiến hành. Ngoại trừ việc ban hành một số chiến lược
và chính sách phát triển, Guinea xích đạo đã không thực sự nỗ lực tiến hành cải
cách tầng thứ nhất của thể chế kinh tế: xây dựng một nền kinh tế thị trường thực
sự, cải thiện nền quản trị quốc gia và kiến tạo môi trường chính trị dân chủ.
Guinea xích đạo cũng như nhiều nước châu Phi khác đã bị vướng vào thứ mà
rằng: hầu hết quốc gia giàu tài nguyên đã không thể tận dụng lợi thế này để phát
triển thành công mà thậm chí còn hoạt động kém hiệu quả hơn các nước khác
mà thiên nhiên kém ưu đãi.
Richard Auty và nhiều người khác gọi là "lời nguyên tài nguyên" với hàm ý
Nhiều nghiên cứu thực tế đã cho thấy, hiện tượng bùng nổ khai thác tài
nguyên có thể gây ra các hậu quả tiêu cực tới tăng trưởng kinh tế và phát triển
lập luận rằng, việc khai thác tài nguyên thiên nhiên tạo ra khuynh hướng một
đường cung địa tô cao (được đo bằng tỷ lệ của nguồn thu trên tổng đầu tư) và
điều này sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng các thể chế kinh tế và chính trị.
Ví dụ, nó sẽ ảnh hưởng các chính sách tái phân bổ địa tô bằng các quyết định
chính trị hơn là các quyết định kinh tế dựa trên sự tính toán về hiệu quả; do đó
tạo ra tình trạng thiếu công bằng. Trái lại, một cung đường địa tô thấp như trong
ngành sản xuất, chế tạo sẽ khuyến khích một môi trường kinh tế cạnh tranh, có
khả năng giải quyết vấn đề lao động nông thôn dư thừa, tạo ra bình đẳng xã hội
và mang lại một lượng tiết kiệm thực cao hơn [41]. Việc khai thác tài nguyên
cũng có thể tạo ra "hiệu ứng tham lam" ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng công
145
con người trong giai đoạn dài nếu không có một nền quản trị tốt. Richard Auty
quyền và thể chế bởi nó cổ vũ cho thói quan liêu và tìm kiếm địa tô tham lam,
những thứ thường xuyên liên quan đến các mối quan hệ bảo kê hoặc tham nhũng
[94]. Địa tô cao dẫn tới tình trạng chính phủ chi tiêu lãng phí và dễ dàng cho
việc mở rộng bộ máy chính phủ và xây dựng cơ sở hạ tầng – hai lĩnh vực thường
xảy ra nhiều tham nhũng. Việc chủ yếu dựa vào nguồn thu từ khai thác tài
nguyên thiên nhiên hơn là thuế thu nhập cũng làm suy yếu động cơ thực hiện
trách nhiệm giải trình của các chính phủ. Hơn nữa, nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng,
với nguồn thu nhiều từ dầu mỏ và khoáng sản, các chính phủ đầu tư nhiều hơn
vào an ninh nội địa và các lực lượng này luôn sẵn sàng để bảo vệ lợi ích của
chính phủ.[91]
Cải cách thể chế kinh tế của Guinea xích đạo còn là một thất bại điển hình
Boogie” dưới sức ép của cộng đồng tài trợ quốc tế. Đồng thời, đây cũng là thất
bại trong chính sách “thực hiện phát triển khác đi” của các nhà tài trợ nhấn mạnh
tính tự chủ, tự quyết của các nước tiếp nhận với mong muốn đưa ra được những
ở châu Phi nơi nhiều chính phủ sẵn sàng triển khai chiến thuật “Babangida
chương trình cải cách phù hợp, khả thi, nhận được sự ủng hộ của chính phủ các
nước tiếp nhận và do đó đạt được mục tiêu nhanh chóng hơn.
cải cách kinh tế thành công, mang tính chất “bao trùm“, dứt khoát cần một nền
dân chủ. Guinea xích đạo cũng là minh chứng cho lập luận của Acemoglu và các
cộng sự của ông rằng, khi lên nắm quyền, các đại diện chính trị đã không hành
động vì lợi ích của nhân dân, mà mong muốn thiết lập và áp đặt các quy tắc
nhằm bảo vệ lợi ích cá nhân do đó đã bóp méo những mục tiêu cải cách. Cho dù
mô hình dân chủ hoá của phương Tây có hấp dẫn đến đâu thì một bộ phận của
tầng lớp tinh hoa trong xã hội ở nhiều nước châu Phi vẫn cố gắng bảo vệ lợi ích
kinh tế vốn đi kèm với và quyền lực chính trị riêng của họ. Điều này khiến cho
xã hội bị phân hoá và là nguyên nhân làm cho quá trình chuyển đổi, cải cách kéo
dài với các hệ luỵ phức tạp.
146
Trường hợp của Guinea xích đạo đã chứng minh cho giả thuyết rằng, để
Trường hợp Ghana lại chứng tỏ rằng, cải cách kinh tế cũng có thể thành
công nếu được thực hiện bởi một chính quyền độc đoán hay một nhà lãnh đạo
“độc tài tốt“. Trên thực tế, đây cũng là mô hình của nhiều nền kinh tế Đông Á
như Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore và Malaysia. Dù vậy, cuối cùng thì quá
trình dân chủ hoá ở Ghana vẫn diễn ra và mang lại những kết quả tích cực. Xét
trên các nhóm chỉ số quản trị của WB (như: tiếng nói và trách nhiệm giải trình,
hiệu lực chính phủ, chất lượng của các quy định, thượng tôn pháp luật và kiểm
soát tham nhũng) và của Quỹ Mo Ibrahim (như: tham dự và quyền con người,
các cơ hội kinh tế bền vững), Ghana đều vượt qua Guinea xích đạo một khoảng
chính trị của Ghana có thể được xem như là bản sao ở châu Phi của một số nền
cách khá xa. Mặc dù xuất phát điểm về mặt kinh tế còn thấp, lộ trình cải cách
kinh tế Đông Á như Hàn Quốc và Đài Loan - những nước cũng đã diễn ra quá
Tuy nhiên, cũng giống như nhiều nền kinh tế đang phát triển khác, Ghana
vẫn đang đứng trước nhiều vấn đề phát triển kinh tế - xã hội. Giá dầu mỏ và các
loại tài nguyên thiên nhiên sụt giảm đã tác động mạnh đến nền kinh tế nước này
trình dân chủ hoá sau một thời gian đạt được nhiều thành tựu phát triển.
trong thời gian gần đây, khiến cho nguồn thu giảm mạnh, kéo theo đồng nội tệ
mất giá (khoảng 60% trong vòng hai năm gần đây) và tỷ lệ lạm phát cao (lên tới
giảm từ 8% năm 2012 xuống còn 3,5% năm 2015 [135];và vẫn đang trong vòng
xoáy của tăng trưởng thấp. Ghana cũng đứng trước nhiều thách thức như tỷ lệ
thất nghiệp cao, một tỷ lệ lớn lực lượng lao động (trên 80%) làm trong khu vực
phi chính thức có năng suất rất thấp [136]. Khoảng 60% dân số Ghana làm nông
nghiệp; Ghana là nước sản xuất cacao lớn thứ hai thế giới (chỉ sau Côte d’Ivoire)
và nông dân nước này gặp rất nhiều khó khăn trước những biến động về giá
cacao trên thị trường thế giới. Ngoài ra, Ghana cũng đứng trước điểm nghẽn phát
triển rất lớn là hệ thống kết cấu hạ tầng lạc hậu. Những khó khăn dai dẳng của
Ghana cho thấy, ngay cả với những “nhà độc tài tốt” như Jerry John Rawlings
hay những người được thế giới ca ngợi về tinh thần hoà bình và dân chủ như cố
Tổng thống John Evans Atta Mills vẫn chưa đủ để mang lại những thành tựu
147
gần 20% trong vòng hai năm gần đây). Tăng trưởng kinh tế của nước này đã
phát triển kinh tế nhanh chóng. Ghana cần một hệ thống chiến lược và chính
sách tốt hơn để đẩy nhanh tiến trình phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, những
gì nước này đang làm cho đến hiện nay là đúng hướng.
Trường hợp Tunisia lại chứng tỏ rằng, nếu quá chú trọng vào cải cách chính trị
sẽ khó thể phát triển thành công. Trong “Mùa xuân Arab“ tại các nước mà làn
sóng dân chủ quét qua, mặc dù mức sống của tầng lớp tinh hoa khá cao song
cũng không thể xóa bỏ được tình trạng thất nghiệp, mù chữ, tội phạm và tệ nạn
xã hội gia tăng, khoảng cách giàu nghèo ngày càng bị khoét sâu, tạo nên mâu
thuẫn xã hội sâu sắc. Ngay cả những nước giàu có như Tunisia, một bộ phận
đó, giới cầm quyền tham nhũng và chi tiêu công quỹ vô tội vạ không phục vụ
người lao động vẫn phải sống trong tình cảnh thất nghiệp, nghèo khổ. Trong khi
quốc kế dân sinh, khoét sâu thêm bất công xã hội và mâu thuẫn đối kháng [12].
cho giới tinh hoa và chi trả cho những trợ cấp thái quá trong xã hội như một
hình thức mua chuộc sự ủng hộ của dân chúng, đặc biệt là tầng lớp trung lưu.
Khi nền kinh tế rơi vào khủng hoảng, khiến cho ngân sách quốc gia bị ảnh
Chính quyền dựa vào xuất khẩu tài nguyên làm nguồn thu ngân sách, làm giàu
hưởng nghiêm trọng, các khoản trợ cấp bị cắt giảm mạnh và cuộc sống của
người dân khó khăn. Chính phủ của các nước này không thể đưa ra được những
lực yếu kém của giới lãnh đạo cộng với nạn tham nhũng và thiếu tính minh bạch
nên các khoản cứu trợ của chính phủ không đến được tay người dân làm tăng
thêm sự bất bình trong xã hội. Hơn nữa, những quốc gia như Tunisia có chế độ
cai trị độc đoán, chuyên quyền; thậm chí, các nguyên thủ quốc gia bị lật đổ như
Zine El-Abidine Ben Ali đều có tham vọng "cha truyền con nối" (Ben Ali cầm
quyền ở Tunisia từ năm 1987. Hosni Mubarak làm tổng thống Ai Cập từ 1981.
Muama'r Qaddafi làm lãnh tụ Libya từ 1969. Chính quyền al-Assad cai trị Syria
từ 1970. (Basha'r al-Assad làm tổng thống từ năm 2000, do "kế vị" cha là Hafeiz
al-Assad). Ali Saleh cầm quyền tại Cộng hoà (Bắc) Yemen từ 1979 và làm tổng
thống Yemen sau khi hai nước Yemen thống nhất đầu thập niên 90 thế kỷ trước
tới nay). Những mâu thuẫn này chỉ chờ thời cơ thích hợp để bùng nổ thành
148
giải pháp kịp thời nhằm tháo gỡ những khó khăn của khủng hoảng kinh tế. Năng
những hành động phản kháng, chống đối, đòi cải tổ, đòi thay đổi chính quyền.
Do vậy, khi các đảng phái đối lập giương chiêu bài "dân chủ", "chống tham nhũng",
"chống độc quyền, gia đình trị"..., đã tranh thủ được sự ủng hộ của một bộ phận lớn
người dân. Tuy nhiên, trường hợp Tunisia cũng cho thấy, sau bước khởi đầu thành
công khi lật đổ các chính quyền độc tài ở nhiều nước, "Mùa xuân Ả rập" dường như
không còn duy trì được những cách thức và phương hướng đề ra như ban đầu là
theo đuổi các giá trị: dân chủ, tự do, công bằng và phát triển kinh tế - xã hội. Thay
vào đó, nó dần bị biến đổi theo nhiều cách khác nhau, thậm chí trở thành cuộc tranh
giành quyền lực giữa các nhóm chính trị nhân danh cách mạng và dân chúng.
thực tế của người dân vốn luôn mong muốn có việc làm và thu nhập.
Tiếng nói và trách nhiệm
Guinea xích đạo
giải trình
Ghana
Tunisia
Ổn định chính trị và phi
Guinea xích đạo
bạo lực/khủng bố
Ghana
Tunisia
Hiệu lực của chính phủ Guinea xích đạo
Ghana
Tunisia
Chất lượng của các quy
Guinea xích đạo
định
Ghana
Tunisia
Thượng tôn pháp luật Guinea xích đạo
Ghana
Tunisia
Kiểm soát tham nhũng Guinea xích đạo
Ghana
Tunisia
Những cuộc đấu tranh này tiếp tục gây bất ổn và chia rẽ dân tộc mà bỏ qua lợi ích
Hình 4.17: So sánh chỉ số quản trị của Guinea xích đạo, Ghana và Tunisia (2019)
Nguồn: Global Governance Indicator, 2019,
https://info.worldbank.org/governance/wgi/Home/Reports
149
Bài học cải cách từ Guinea xích đạo, Ghana và Tunisia cho thấy, chất
lượng của cải cách không phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế mà nó cơ bản
phụ thuộc vào quyết tâm chính trị của giới lãnh đạo quốc gia. Thậm chí, quyết
tâm và nỗ lực cải cách còn lớn hơn ở những quốc gia có trình độ phát triển thấp
hơn (thể hiện qua mức thu nhập bình quân đầu người thấp hơn) và nghèo tài
nguyên hơn như Ghana nhằm đưa đất nước phát triển, thoát khỏi tình trạng
150
nghèo đói và bất ổn.
Tiểu kết chương 4
Guinea xích đạo, Ghana và Tunisia đã cho thấy ba trường hợp khác biệt,
mang những đặc thù của châu Phi trong quá trình cải cách kinh tế và chuyển đổi
sang nền kinh tế thị trường. Đây cũng là những trường hợp phản ánh tính đa
dạng và phức tạp của các thể chế kinh tế, chính trị và xã hội ở châu Phi. Nó cho
thấy, những thể chế chính trị độc đoán có thể mang lại sự chia rẽ sâu sắc về mặt
xã hội khi phân chia các thành quả phát triển kinh tế không đều.
Tuy nhiên, cho dù mô hình dân chủ hoá của phương Tây có hấp dẫn đến
đâu thì một bộ phận của tầng lớp tinh hoa trong xã hội ở nhiều nước châu Phi
vẫn cố gắng bảo vệ lợi ích kinh tế vốn đi kèm với và quyền lực chính trị riêng
phức tạp. Các nước châu Phi cũng có thể tìm kiếm một mô hình phát triển và con
đường cải cách của riêng mình. Cuối cùng, thực tế cho thấy, yếu tố quan trọng
vẫn là sự quyết tâm của các nhà lãnh đạo chính trị ở châu Phi trong tiến trình
của họ. Điều này khiến cho quá trình chuyển đổi, cải cách kéo dài với các hệ luỵ
151
thực hiện cải cách.
CHƯƠNG 5.
BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ QUÁ TRÌNH CẢI CÁCH THỂ CHẾ KINH
TẾ THỊ TRƯỜNG CỦA CÁC NƯỚC CHÂU PHI
5.1. Đánh giá chung và bài học kinh nghiệm
Châu Phi nghèo vì hệ thống thể chế yếu kém và những nỗ lực cải cách thể
chế, trong đó có thể chế kinh tế, suốt mấy chục năm qua đã không mấy thành
công hoặc chỉ thành công nửa vời. Cải cách thể chế, nhất là ở những tầng sâu, là
một quá trình cam go, phức tạp, đòi hỏi quyết tâm chính trị rất lớn. Trong lịch sử
phát triển của thế giới và châu Phi, nhiều nước đã vượt qua được những khó
khăn này và tiến hành cải cách thể chế thành công song cũng có nhiều nước đã
đất nước rơi vào bất ổn và phát triển thụt lùi. Có nhiều nguyên nhân và bài học
rút ra từ những thành bại của các quá trình cải cách đó:
Thứ nhất, chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường là vấn đề đầu tiên và
quan trọng hàng đầu của quá trình cải cách thể chế kinh tế của nhiều nước châu
không thể vượt qua hoặc tiến hành cải cách thể chế khi đã quá muộn khiến cho
Phi, đặc biệt là những nước trước đây đã từng đi theo mô hình kinh tế kế hoạch
theo đuổi mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, tiến trình chuyển đổi sang nền
kinh tế thị trường của các nước châu Phi diễn ra khá sớm, ngay từ đầu thập kỷ
1980. Có hai luồng sức ép đối với tiến trình cải cách này: i) những yếu kém tích
tụ của nền kinh tế trong nước sau một thời gian theo đuổi mô hình kế hoạch hóa
tập trung; và ii) sức ép của các nhà tài trợ quốc tế, đòi hỏi các nước châu Phi
phải tiến hành cải cách. Hơn nữa, sức ép và ảnh hưởng về mặt ý thức hệ xã hội
chủ nghĩa theo mô hình Xô Viết đối với châu Phi cũng không lớn như đối với
các nước Đông Âu.
Thực tiễn cải cách thể chế kinh tế thị trường ở các nước châu Phi tiếp tục
minh chứng rằng: thị trường và nhà nước đều là những cơ chế phân bổ nguồn lực
có những điểm mạnh và điểm yếu riêng; do đó, chúng cần được bổ sung cho
152
hoá tập trung kiểu Xô Viết. So với các nước thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa
nhau hơn là loại trừ nhau. Bài học rút ra là:Nhà nước chỉ nên là sửa chữa các
thất bại thị trường và không làm hơn điều đó. Nhà nước không nên làm thay thị
trường ở những chỗ mà nó có thể vận hành tốt. Mục tiêu mà sự can thiệp của nhà
nước hướng tới là: đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động hiệu quả, ổn định hơn,
phân phối công bằng hơn. Theo nghĩa này, nhà nước thường có chức năng cơ
bản sau:
1. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo ra một khung pháp lý
để các thị trường vận hành, trong đó nền tảng là xây dựng và thực thi các luật về
quyền sở hữu tài sản, luật hợp đồng, luật cạnh tranh…
2. Cung cấp các hàng hóa và dịch vụ công, trong đó chú trọng trước hết
các hàng hóa công tối thiểu như quốc phòng, an ninh, hành chính công, kết cấu
3. Điều tiết nền kinh tế nhằm khắc phục các thất bại thị trường như:tình
trạng độc quyền, hạn chế ngoại ứng tiêu cực (như kiểm soát ô nhiễm môi
trường), khắc phục tình trạng thông tin không hoàn hảo trên thị trường, ổn định
hóa kinh tế vĩ mô và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững.
hạ tầng cơ bản…mà tư nhân không thể đảm nhận.
4. Phân phối lại thu nhập và tài sản nhằm bảo đảm mục tiêu công bằng xã
đó tạo động lực cho mọi chủ thể phát huy tiềm năng, khả năng sáng tạo vì lợi ích
của họ và đóng góp cho xã hội; còn nhà nước chỉ thực hiện phân phối lần thứ hai
để đảm bảo tiến bộ, công bằng xã hội.
Nhiều nước châu Phi đã lạm dụng sức mạnh và các công cụ của nhà nước
như các quy định có tính cưỡng chế, cấm đoán, trừng phạt. Sự cưỡng chế này có
thể tạo ra được những phân bổ nguồn lực vào những ngành, những lĩnh vực mà
thị trường không làm một cách tự nguyện hoặc không làm được. Tuy nhiên, việc
áp dụng các công cụ này có thể trở thành lực cản đối với sự phát triển nếu bị lạm
dụng. Trong rất nhiều trường hợp, các chính phủ châu Phi sử dụng doanh nghiệp
nhà nướcnhư một công cụ đặc biệt để nhà nước thực thi chức năng của mình,
bao gồm cả việc duy trì quyền lực. Việc sử dụng DNNN cho các mục tiêu kinh
153
hội. Tuy nhiên, thị trường mới là cơ chế để thực hiện phân phối lần thứ nhất qua
doanh dễ dẫn đến phân biệt đối xử, cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường
tự do và thường không hiệu quả do các DNNN hoạt động trên cơ sở tài sản công,
nên người quản lý hoặc người đại diện chủ sở hữu nhà nước thiếu động cơ để
khai thác các tài sản này hiệu quả.
Tại các nền kinh tế chuyển đổi Đông Âu, quá trình chuyển đổi sang nền
kinh tế thị trường thường suôn sẻ và diễn tiến nhanh hơn nếu được thi hành theo
một lộ trình cải cách được thiết kế từ trước để tránh việc chuyển đổi một cách
ngẫu hứng, diễn biến phụ thuộc vào các tình huống khó đoán định [75]. Đa phần
quá trình cải cách thể chế kinh tế ở châu Phi cũng theo những lộ trình đã định
sẵn. Cộng đồng các nhà tài trợ và các tổ chức quốc tế như WB thông qua các
chương trình như điều chỉnh cơ cấu (SAP) đã cố gắng áp đặt cho các nước châu
hình “Đồng thuận Washington.” Tuy nhiên, khác với Đông Âu, rất ít nước châu
Phi đã cải cách thể chế kinh tế thành công theo phương thức này.
Dưới góc độ chính trị, về cơ bản những mô hình phát triển và tự do hoá
do các nước phương Tây áp đặt có vẻ không phù hợp với những điều kiện đặc
Phi những gì được xem là “tập quán tốt nhất” trên thế giới mà về cơ bản là mô
thù của nhiều nước châu Phi bởi nó đòi hỏi phải lật đổ nhanh chóng hệ thống
Tại nhiều nước châu Phi, có những chế độ độc tài được thiết lập sau khi giành
được độc lập và nguồn lực kinh tế được dùng để mua chuộc sự ủng hộ chính trị.
Do đó, bộ máy cầm quyền cùng với tầng lớp tinh hoa ở đây không dễ dàng từ bỏ
các đặc quyền, đặc lợi của mình để cải cách kinh tế thực sự. Xét dưới góc độ
này, Daron Acemoglu và các cộng sự của ông đã đúng khi cho rằng, những mô
hình phát triển lạc hậu vẫn tiếp tục tồn tại hoặc thay đổi rất chậm tại các quốc
gia châu Phi nghèo khó vì các lực lượng chính trị nắm quyền lực tại đây muốn
duy trì nó như thế để bảo vệ lợi ích của mình[35]. Ví dụ điển hình là, một số nhà
lãnh đạo châu Phi còn suy nghĩ rằng, việc duy trì cơ chế kế hoạch hóa tập trung
và một khu vực công lớn sẽ giúp họ kiểm soát nguồn lực quốc gia tốt hơn các
đối thủ chính trị của mình. Bởi vậy, chính phủ nhiều nước châu Phi đã áp dụng
154
hiện thời và xáo trộn lợi ích của tầng lớp tinh hoa nên đã vấp phải nhiều rào cản.
chiến thuật “Babangida Boogie” (một bước tiến, hai bước lùi) để đối phó với sức
ép cải cách trong nước và từ cộng đồng tài trợ quốc tế. Tuy nhiên, xu thế chuyển
đổi sang nền kinh tế thị trường là không thể đảo ngược, nhất là sau khi Liên Xô
và hệ thống chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Đông Âu tan rã cùng với sự thất bại
của mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Dù với những tiến độ và ở các mức
độ khác nhau, sau một thời gian hầu hết các nước châu Phi cũng đã chuyển đổi
thành công sang nền kinh tế thị trường. Quyết tâm chính trị ảnh hưởng rất lớn
đến sự thành công của quá trình chuyển đổi này. Ở những quốc gia châu Phi nào
nơi giới lãnh đạo chính trị mang quyết tâm cải cách kinh tế cao hơn đã thực hiện
được những biện pháp cải cách mạnh mẽ hơn trong bước chuyển đổi sang cơ chế
thị trường và đã gặt hái được nhiều thành công hơn trong phát triển kinh tế-xã
châu Phi cũng nổi lên những điểm sáng phát triển như Mauritius, Ghana,
Tanzania…với chất lượng thể chế và quản trị được cộng đồng quốc tế đánh giá
rất cao, thậm chí còn hơn nhiều nước Đông Nam Á. Một số quốc gia khác nổi
hội. Thực tế cho thấy, bên cạnh rất nhiều quốc gia chìm đắm trong đói nghèo,
lên sau thời kỳ nội chiến như Ethiopia, Rwanda…cũng được cộng đồng quốc tế
đánh giá cao về sự tiến bộ về chất lượng thể chế và quản trị nhanh chóng trong
Thứ hai, một bài học quan trọng nữa rút ra trong quá trình cải cách là phải
hết sức linh hoạt. Do thất vọng với mô hình cải cách kinh tế và những điều kiện
về dân chủ, nhân quyền mà phương Tây áp đặt, nhiều nước châu Phi đã tìm kiếm
những mô hình thay thế như mô hình nhà nước phát triển Đông Á thậm chí một
mô hình mới nổi lên gần đây là “Đồng thuận Bắc Kinh”. Các mô hình phát triển
này nhấn mạnh vai trò chủ động hơn của nhà nước can thiệp và định hướng, điều
tiết thị trường; đồng thời cũng đề cao các hình thức sở hữu hỗn hợp, sở hữu nhà
nước, sở hữu hỗn hợp; và sự thử nghiệm các định chế khác nhau trong thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế [89]. Một số người cho rằng “Đồng thuận Bắc Kinh” có thể
sẽ thay thế “Đồng thuận Washington” để định hình con đường phát triển của thế
155
thời gian gần đây.
giới, hoặc ít nhất là con đường phát triển của các nền kinh tế mới nổi ở châu Á,
châu Phi và Mỹ Latinh.
Kể từ những năm 1960, mô hình nhà nước phát triển đã bắt đầu manh nha
xuất hiện ở châu Phi. Ngay sau khi giành được độc lập, khác với sự lựa chọn phổ
biến của nhiều nước châu Phi nam Sahara đối với mô hình kế hoạch hóa tập
trung kiểu Xô Viết, Botswana và Mauritius đã không theo con đường này, đồng
thời cũng không theo mô hình kinh tế thị trường tự do phương Tây mà đã chọn
con đường thứ ba là mô hình của các nhà nước Đông Á. Mô hình này cũng được
nhiều nhà lãnh đạo như Kenneth Kaunda của Zambia, Julius Nyerere của
Tanzania và Kwame Nkrumah của Ghana ca ngợi. Vào đầu những năm 2000,
với đường lối cánh tả của Đảng đại hội dân tộc Phi (ANC), Nam Phi cũng bắt
khác như Rwanda, Ethiopia. Việc Botswana và Mauritius đều là những nền kinh
tế phát triển hàng đầu châu Phi nam Sahara đã chứng tỏ sự thành công của mô
hình nhà nước phát triển ở châu lục này nếu được thực hiện đúng cách.
Tuy nhiên, sự thành công của việc vận dụng mô hình nhà nước phát triển ở
đầu ngả theo xu hướng mô hình nhà nước phát triển; tiếp theo đó là nhiều nước
châu Phi rõ ràng rằng vẫn thua xa so với các nước Đông Á. Có nhiều lý do dẫn đến
Khổng giáo ở Đông Á); năng lực cao hơn của bộ máy nhà nước Đông Á... Hơn nữa,
cũng giống như ở nhiều nước Đông Á, những nhà lãnh đạo mang tư tưởng “nhà nước
phát triển” ở châu Phi vẫn thường bị lên án là đã thiết lập ra những chế độ độc tài,
mất dân chủ. Điều này đã ảnh hưởng đến chất lượng quản trị, khuyến khích tham
nhũng, làm méo mó ngay chính mô hình nhà nước phát triển và trở thành lực cản cho
quá trình cải cách kinh tế ở châu Phi. Bởi vậy, một số quan điểm cho rằng châu Phi
cần những mô hình “nhà nước phát triển dân chủ.” [88]
Thứ ba, để có thể đảm bảo tiến trình cải cách theo hướng thị trường thành
công cần những cuộc cải cách đến hoàn thiện nền dân chủ và xây dựng một nền
quản trị tốt. Đây là yếu tố để đảm bảo có một hệ thống thể chế chính trị vững
mạnh và cấu trúc quyền lực chính trị bình đẳng, “bao trùm”, đảm bảo cho các
156
sự hạn chế này như điều kiện đặc thù của Đông Á khác với châu Phi (ví dụ: tư tưởng
chuẩn mực của nền kinh tế thị trường tự do hiện đại, đảm bảo cho các chiến
lược, chính sách phát triển có được sự ủng hộ của người dân, vận hành hiệu quả
và đạt được mục tiêu.
Những người theo quan điểm coi cải cách chính trị, nhất là thúc đẩy tiến
trình dân chủ hoá, là tiền đề để cải cách kinh tế dễ sa vào tư tưởng cực đoan, coi
dân chủ là chìa khoá vạn năng dẫn đến thành công của mọi cải cách, trong đó có
cải cách kinh tế theo hướng thị trường. Họ dễ coi rằng, mất dân chủ là nguyên
nhân của mọi yếu kém ở châu Phi: từ tình trạng tham nhũng, kém phát triển cho
đến sự chậm trễ và trì hoãn cải cách kinh tế. Tuy nhiên, thực tế không phải lúc
nào cũng như vậy. Khi khủng hoảng kinh tế đặt ra yêu cầu phải cải cách, có
những lập luận rằng các chế độ chuyên quyền (theo nghĩa bỏ qua sự tham gia,
cao, mọi quyết định đều có thể được tiến hành nhanh chóng; mọi phương tiện có
thể được huy động đến mức tối đa; vai trò của các nghiệp đoàn bị hạn chế
nghiêm ngặt và điều này sẽ phù hợp khi chính phủ phải tiến hành những chính
sách thắt lưng buộc bụng để hạn chế thâm hụt ngân sách, khôi phục lại niềm tin
giám sát của người dân) tỏ ra có ưu điểm riêng. Ví dụ, với sự tập trung quyền lực
của các nhà đầu tư nước ngoài, v.v...Trong khi đó, dân chủ đòi hỏi sự đồng
nên mọi chuyện có thể bị chậm trễ. Dân chủ dẫn đến tình trạng bất ổn xã hội tại
nhiều nước trong thời kỳ kinh tế khó khăn. Ấn Độ là một trong những ví dụ tốt
về những hạn chế của dân chủ, khi những quyết định phát triển rất khó được
thông qua. Những bất ổn của tình hình chính trị - xã hội ở Bắc Phi - Trung Đông
hay Thái Lan trong thời gian gần đây cũng cho thấy hạn chế của tiến trình dân
chủ hóa. Trong khi đó, không phải chính quyền mà các học giả phương Tây vẫn
thường coi là “chuyên quyền, độc đoán” nào cũng là lực cản của cải cách và phát
triển kinh tế. Ngược lại, có những chính quyền đã nỗ lực hết sức mình để phát
triển kinh tế đất nước và thành công, mà Xingapo là một ví dụ điển hình. Châu Phi
cũng đã có những mô hình “độc tài tốt” như Ghana trong thập niên 1980-1990.
Cách tiếp cận quản trị đối với châu Phi cho rằng, việc xây dựng các mô
157
thuận; mà để có được đồng thuận thì cần rất nhiều thời gian và rất dễ bị lợi dụng
hình phát triển và thể chế phải dựa vào những bối cảnh đặc thù chứ không theo
phương thuốc định sẵn và tránh việc áp đặt những mô hình dân chủ phương Tây.
Tại Đông Á nơi có những chính phủ bị phương Tây coi là thiếu dân chủ lại có
vai trò quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Các nhà lãnh đạo như Paul
Kagame ở Rwanda đã thể hiện mong muốn học hỏi những kinh nghiệm phát
triển này và hy vọng đưa Rwanda trở thành ‘Singapore của châu Phi’. Tại Đông
Á, mô hình nhà nước phát triển thực sự quan trọng hơn mô hình dân chủ tự do
đối với tăng trưởng kinh tế. Tương tự ở châu Phi, các nước như Angola, Ethiopia
và Rwanda cũng đã từng đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao mà không nhất
thiết phải theo mô hình dân chủ tự do.
Mặc dù, thực tế đã chứng minh dân chủ và quản trị tốt không phải lúc nào
chính trị đa đảng phái, bầu cử tự do và bình đẳng, không phải lúc nào cũng tạo ra
một nền quản trị tốt. Hơn nữa, dân chủ không phải lúc nào cũng giúp tăng cường
hiệu lực và hiệu quả của chính sách - những yếu tố quan trọng của quản trị tốt.
Chất lượng quản trị đã tác động tích cực đến kết quả phát triển của quá
cũng song hành với nhau. Nền dân chủ tự do chủ yếu dựa trên nền tảng hệ thống
trình tự do hoá kinh tế. Sở dĩ tự do hoá lại có thể mang lại các thành quả phát
tế quốc gia ở Malawi thua kém nhiều Uganda. Tại Malawi, các nỗ lực cải cách
nền quản trị chậm chạp và tự do hoá tiếp tục bị ảnh hưởng bởi sự can thiệp của
nhà nước. Tự do hoá ở Uganda đi kèm với các nỗ lực ổn định nền kinh tế và thúc
đẩy xuất khẩu. Chính phủ Ugandan tiến hành cải cách từ năm 1987 và luôn cam
kết duy trì ổn định kinh tế vĩ mô. Với nhiều nỗ lực, Uganda đã chặn đứng được
lạm phát, tiến hành tư nhân hoá các công ty cung ứng dịch vụ công và tiến hành
thả nổi tỷ giá. Chính phủ cũng tiến hành cải cách khu vực công bằng cách tăng
lương cho cán bộ, viên chức nhà nước và giảm nạn tham nhũng; nâng cấp hệ
thống kết cấu hạ tầng, đặc biệt là khu vực năng lượng và vận tải [122]. Trong khi
đó, tại Malawi lạm phát và lãi suất thực tế tiếp tục ở mức cao trong tiến trình tự
do hoá. Môi trường vĩ mô bất ổn gây e ngại cho các nhà đầu tư. Tiến trình tư
158
triển kinh tế - xã hội tích cực ở Uganda hơn là ở Malawi là bởi quản trị nền kinh
nhân hoá chậm; các doanh nghiệp quốc doanh trong lĩnh vực viễn thông và năng
lượng hoạt động kém hiệu quả, cản trở việc nâng cao năng suất và tạo thuận lợi
hoá thương mại. Mặc dù thuế quan giảm song các hàng rào phi thuế quan tiếp
tục tồn tại, nạn tham nhũng và kết cấu hạ tầng kém phát triển đã khiến cho chi
phí sản xuất ở nước này tăng cao.
Tuy nhiên, ngay cả một khi đã chuyển sang cách tiếp cận quản trị thì các
nhà tài trợ cũng gặp rất nhiều khó khăn và không mấy thành công để xây dựng
một nền quản trị tốt ở châu Phi. Cải cách nền quản trị quốc gia ở châu Phi với
logic “theo những tập quán tốt nhất” cuối cùng lại rơi vào những khuôn mẫu
định sẵn của các nước phương Tây như việc thúc đẩy các vấn đề nhân quyền và
dân chủ. Bởi vậy, với khẩu hiệu “thúc đẩy phát triển theo một cách khác”, nhấn
châu Phi đã nhận thấy sự cần thiết phải đồng hành và thích ứng với môi trường
kinh tế chính trị đặc thù của châu lục. Điều đó có nghĩa rằng, họ chấp nhận hỗ
trợ những sáng kiến của tầng lớp tinh hoa thay vì áp đặt những mô hình cải cách
từ bên ngoài với mong muốn làm thay đổi nhanh chóng nguyên trạng và cấu trúc
mạnh các yếu tố như “tính chủ động”, “quyền làm chủ” cộng đồng tài trợ cho
quyền lực chính trị tại các nước châu Phi. Các khoản viện trợ sẽ đạt được mục
chính trị tại nước tiếp nhận. Tuy nhiên, nếu như các nhà tài trợ chỉ làm việc với
chính phủ nước tiếp nhận, họ sẽ không thể lắng nghe được ý kiến của người dân
và các cộng đồng yếu thế. Hơn thế nữa, nếu như các khoản viện trợ không động
chạm đến những vấn đề “tế nhị”, dễ bị chính phủ các nước tiếp nhận phản đối
như cải cách chính trị, chúng sẽ khó thể giải quyết triệt để gốc gác của những
yếu kém phát triển nhất là với truyền thống tham nhũng ở nhiều nước châu Phi.
Châu Phi nghèo vì hệ thống thể chế yếu kém và những nỗ lực cải cách
thể chế kinh tế, suốt mấy chục năm qua đã không mấy thành công hoặc chỉ thành
công nửa vời. Cải cách thể chế, nhất là ở những tầng sâu, là một quá trình cam
go, phức tạp, đòi hỏi quyết tâm chính trị rất lớn. Ở những quốc gia châu Phi nào
nơi giới lãnh đạo chính trị mang quyết tâm cải cách kinh tế cao hơn đã thực hiện
159
tiêu dễ dàng hơn nếu chúng nhận được sự ủng hộ của những người có quyền lực
được những biện pháp cải cách mạnh mẽ hơn trong bước chuyển đổi sang cơ chế
thị trường và đã gặt hái được nhiều thành công hơn trong phát triển kinh tế - xã
hội. Thực tế cho thấy, bên cạnh rất nhiều quốc gia chìm đắm trong đói nghèo,
châu Phi cũng nổi lên những điểm sáng phát triển như Mauritius, Ghana,
Tanzania…với chất lượng thể chế và quản trị được cộng đồng quốc tế đánh giá
rất cao, thậm chí còn hơn nhiều nước Đông Nam Á. Một số quốc gia khác nổi
lên sau thời kỳ nội chiến như Ethiopia, Rwanda…cũng được cộng đồng quốc tế
đánh giá cao về sự tiến bộ về chất lượng thể chế và quản trị nhanh chóng trong
thời gian gần đây.
Nhiều cuộc cải cách thể chế kinh tế ở châu Phi chỉ được thực hiện nửa
vời, không thể tiến xa hơn vì không vượt qua được bức trần về chất lượng thể
chính trị, văn hoá, lịch sử và trình độ phát triển. Thực tế là nhiều nước châu Phi
hiện đang mắc vào vòng tròn luẩn quẩn: cải cách thể chế kinh tế chậm chạp
hoặc không thành công khiến nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, tăng trưởng giảm
sút, đất nước đắm chìm trong tình trạng kém phát triển; đến lượt nó, tình trạng
chế. Bức trần này được tạo ra bởi một loạt hệ thống rào cản gồm các yếu tố về
kém phát triển kìm hãm những nỗ lực thúc đẩy một nền quản trị tốt và kiến tạo
chủ lại tạo ra lực cản đối với những nỗ lực cải cách kinh tế mạnh mẽ hơn.
Cải cách thể chế kinh tế chậm
Tình trạng kém phát triển
Nền quản trị và dân chủ yếu kém chậm
môi trường dân chủ; đến lượt nó, nền quản trị yếu kém và tình trạng thiếu dân
Hình 5.1: Bẫy phát triển và cải cách ở châu Phi
160
5.2. Một số gợi mở chính sách đối với Việt Nam
Ở Việt Nam, quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung
sang nền kinh tế thị trường được chính thức bắt đầu từ Nghị quyết Hội nghị lần
thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IV (8/1979) với chủ trương động
viên, khuyến khích mọi người lao động, mọi năng lực sản xuất và thành phần
kinh tế. Chỉ thị số 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng ngày 13/1/1981 về
khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp đã
tạo ra bước phát triển to lớn trong sản xuất nông nghiệp.
Việt Nam đã nỗ lực thiết kế một mô hình kinh tế thị trường riêng - mô
hình kinh tế thị trường định hướng XHCN, phù hợp với trình độ phát triển,
đường lối chính trị và những đặc thù của đất nước. Tuy nhiên, việc phát triển
Nam, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một mô hình hoàn toàn
mới, chưa có tiền lệ và thời gian phát triển còn rất ngắn. Vì vậy, trong quá trình
xây dựng, phát triển và hoàn thiện mô hình này, Việt Nam gặp không ít trở ngại,
khó khăn; trong đó, rất cần được làm rõ những vướng mắc trong nhận thức và lý
kinh tế thị trường đã có lịch sử hàng mấy trăm năm ở trên thế giới; còn ở Việt
luận nhằm tạo ra động lực cho công cuộc tiếp tục đổi mới và phát triển đất nước.
Đất đai năm 1987 và Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987. Trong
những năm 1988 - 1990, Đảng và Nhà nước đã tiến hành đổi mới có hệ thống,
tương đối đồng bộ và triệt để toàn bộ nền kinh tế [10]. Hiến pháp năm 1992
được Quốc hội thông qua, thừa nhận nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần.
Nhiều văn bản pháp lý là nền tảng cho sự xuất hiện của các loại thị trường lần
lượt được ban hành. Từ năm 1992, một số văn bản về thị trường hàng hóa, dịch
vụđã lần lượt xuất hiện, trong đó có Bộ luật Dân sự năm 1995, Luật Thương mại
năm 1997, Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật Các tổ chức tín dụng năm
1997…Từ năm 1996 - 2000, nhiều văn bản được ban hành như Luật Thương
mại năm 1997, Luật Doanh nghiệp năm 1999, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam (sửa đổi năm 2000)…Từ năm 2000 - 2005, lần lượt Luật Doanh nghiệp
161
Dấu ấn đầu tiên trong việc hình thành pháp luật thời kỳ đổi mới là Luật
Nhà nước (2003), Luật Cạnh tranh (2004), Bộ luật Dân sự (2005), Luật Thương
mại (2005), Luật Đầu tư(2005), Luật Sở hữu trí tuệ (2005), Luật Chứng khoán
(2006), Bộ luật Lao động năm 2012. [10]
Qua gần 35 năm đổi mới, đất nước đã đạt những thành tựu rất quan trọng
về hoàn thiện thể chế, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa (XHCN). Tại Đại hội IX (4-2001), khái niệm kinh tế thị trường định
hướng XHCN mới được chính thức sử dụng trong các văn kiện của Đảng. Và
cũng từ Đại hội này, Đảng xác định nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là
mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH. Tư
tưởng, đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN được thể chế
hóa thành pháp luật, tạo hành lang pháp lý cho nền kinh tế vận hành có hiệu quả.
hành hơn 150 bộ luật và luật, hơn 70 pháp lệnh. Quốc hội đã thông qua Hiến
pháp 2013 và hàng loạt bộ luật để thể chế hóa Hiến pháp 2013, cơ bản tạo cơ sở
pháp lý hình thành và thúc đẩy việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng XHCN. Đó là khẳng định nguyên tắc nền kinh tế có chế độ đa sở hữu, đa
Trong 30 năm đổi mới, đã ba lần sửa đổi và ban hành Hiến pháp, sửa đổi và ban
thành phần, nhiều hình thức phân phối; phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường
các nguyên tắc của cơ chế thị trường; bảo đảm thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội trong từng bước, từng chính sách phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi
trường; mở cửa, hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới [11]. Đến nay, thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế của Việt
Nam đã được hình thành về đại thể. Đại hội XII đã xác định rõ: Nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ,
đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng
xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền
kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu
"dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Thị trường đóng vai trò
162
và vận hành thông suốt các loại thị trường; Nhà nước quản lý nền kinh tế theo
chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực, là động lực chủ
yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường. [3]
Những thành tựu to lớn mà Việt Nam đã đạt được trong suốt thời kỳ đổi
mới đến nay đều đã bắt nguồn từ đổi mới thể chế. Sau gần 35 năm Đổi Mới, Việt
Nam đã có sự chuyển biến mạnh mẽ từ một nước nghèo nàn, lạc hậu, mức sống
thấp đã trở thành nước đang phát triển, có mức thu nhập trung bình. Nền kinh tế
tăng trưởng khá so với các nước, ngay cả những giai đoạn kinh tế khu vực và
toàn cầu gặp khó khăn. Đất nước đã đạt được những thành tựu được cộng đồng
quốc tế công nhận và đánh giá cao trong lĩnh vực xóa đói, giảm nghèo. Nền kinh
tế ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và toàn cầu.
được nhấn mạnh trong Văn kiện của Đại hội lần thứ XII như là vấn đề căn cốt
của quá trình cải cách thể chế kinh tế, giúp đem lại động lực phát triển mới của
Việt Nam trong giai đoạn tới. Việt Nam đã cam kết thực hiện và đáp ứng các
tiêu chí để được công nhận là nền kinh tế thị trường đầy đủ; trong số đó, có
Hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN đã
những tiêu chí phổ biến của một nền kinh tế thị trường hiện đại như: không phân
sách...Tiến trình cải cách kinh tế trong nước phải nhằm đảm bảo những tiêu chí
này để đồng bộ với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. [24]
Bên cạnh những thành quả rất ấn tượng trong gần 35 năm Đổi Mới, nền
kinh tế Việt Nam cũng đang phải đối mặt với nhiều thách thức và những khó
khăn. Đặc biệt, sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam vẫn còn tồn tại ba “nút
thắt” cơ bản đã nhiều năm chưa thể tháo gỡ là: cơ sở hạ tầng lạc hậu, nguồn nhân
lực chất lượng thấp và hệ thống thể chế kinh tế còn nhiều bất cập. Việc giải
quyết vấn đề yếu kém của thể chế cần sự thay đổi tư duy và cải cách đồng bộ,
mạnh dạn và triệt để.
Về giải quyết một số điểm nghẽn, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
Để có thể tiến xa hơn trên con đường cải cách thể chế, Việt Nam cần phải
163
biệt đối xử; đảm bảo cạnh tranh lành mạnh; thực hiện minh bạch trong chính
tiến hành những cải cách đối với nền kinh tế thị trường theo hướng tự do và
thông thoáng; xây dựng và áp dụng những chuẩn mực của nền kinh tế thị trường
hiện đại trên thế giới.
Ở tầng thể chế nền tảng của kinh tế thị trường, thực tiễn thế giới cho thấy,
trong phát triển kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại và hội nhập, cần thực sự xác
lập, thực thi phổ biến và bảo vệ hữu hiệu quyền sở hữu tư nhân về tài sản. Chỉ
khi quyền sở hữu tư nhân được tôn trọng và bảo vệ, các cá nhân mới có thể phát
huy được các tiềm năng của mình, mới có thể tự do và độc lập trong việc tiến
hành các hoạt động sản xuất, trao đổi nhằm tối đa hóa các lợi ích cá nhân. Tôn
trọng và phát huy sức mạnh của lợi ích cá nhân trên cơ sở xác lập và bảo vệ
quyền sở hữu tư nhân làm nên sức sống năng động và sự thịnh vượng của các
kinh tế hiện còn nhiều vấn đề chưa thật phù hợp với nền kinh tế thị trường hiện
đại (Nước ta khẳng định có ba chế độ sở hữu: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể
và sở hữu tư nhân. Trong khi đó về lý luận, cũng như về thực tiễn thế giới chỉ
có hai chế độ sở hữu là công hữu và tư hữu, tồn tại với nhiều hình thức khác
nhau). Cách phân chia “thành phần kinh tế” mang nặng tư duy phân biệt đối xử
nền kinh tế thị trường. Ở Việt Nam, nhận thức về chế độ sở hữu và thành phần
thực tiễn, trong chính sách quản lý và điều hành nền kinh tế và với tiến trình hội
nhập quốc tế của đất nước ta.
Ở khía cạnh mở cửa và hội nhập, trên bình diện khu vực và thế giới, Việt
Nam đã có sự hội nhập sâu và rộng hơn trên tất cả các lĩnh vực. Đặc biệt, với
việc trở thành thành viên thứ 150 của WTO vào tháng 11/2006, nền kinh tế Việt
Nam được xem như đã hội nhập đầy đủ vào nền kinh tế toàn cầu. Các cam kết
với WTO là khuôn khổ chung để Việt Nam xây dựng lộ trình hội nhập tổng thể
của nền kinh tế đất nước vào khu vực và thế giới. Sự chủ động và tích cực hội
nhập được đẩy lên một bước dài. Hiện nay, Việt Nam đã trở thành thành viên
của nhiều FTA thế hệ mới, với các cam kết phải thực hiện nhiều quy định về tự
164
và ý thức hệ của thời kỳ kế hoạch hoá tập trung đã tỏ ra không còn phù hợp với
do hóa kinh tế ở trình độ cao, đáp ứng những chuẩn mực cao về lao động, môi
trường và nhiều vấn đề xã hội, v.v. Điều đó đặt ra yêu cầu ngày càng cao về cải
cách thể chế trong nước đồng bộ với các cam kết quốc tế.
Ở khía cạnh huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cho phát
triển kinh tế, bên cạnh việc đẩy mạnh tiến trình hội nhập để khai thác các nguồn
lực bên ngoài, Việt Nam còn cần hoàn thiện thể chế trong nước để khai thác và
huy động có hiệu quả nguồn lực của khu vực tư nhân. Mặc dù quy mô của khu
vực tư nhân có thể khác nhau trong các mô hình kinh tế thị trường khác nhau
song có một điều chắc chắn rằng, nếu không có khu vực kinh tế tư nhân thì sẽ
không có nền kinh tế thị trường theo đúng nghĩa của nó. Một trong những yêu
cầu quan trọng của tiến trình cải cách thể chế trong lĩnh vực này là tạo một sân
doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Cải cách doanh nghiệp nhà nước là một trong tuyến cải cách thể chế then
chốt, cũng là một trong những trọng tâm và lĩnh vực cải cách nhạy cảm, khó
chơi bình đẳng giữa khu vực tư nhân trong nước với khu vực doanh nghiệp quốc
khăn nhất của quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang
kinh tế thị trường ở Việt Nam. Thực tế cho thấy, cải cách doanh nghiệp nhà
nhà nước, bao gồm cả số lượng các doanh nghiệp; và 2) cải cách nhằm nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp và nâng cao hiệu quả
hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước còn lại. Cải cách doanh nghiệp nhà
nước có hai cách tiếp cận: 1) tư nhân hoá nhanh chóng hầu hết các doanh nghiệp
nhà nước, chỉ giữ lại một số doanh nghiệp hoạt động công ích (liệu pháp “sốc”);
và 2) vừa tiến hành từng bước cổ phần hoá, đa dạng hoá sở hữu, vừa chuyển các
doanh nghiệp nhà nước sang hoạt động theo chế độ công ty hiện đại (liệu pháp
“thận trọng”).
Việt Nam hiện đang thực hiện cải cách doanh nghiệp nhà nước theo cách
tiếp cận thứ hai. Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện sắp xếp lại, cổ phần hoá, đa
165
nước thường có hai nội dung chủ yếu là: 1) giảm quy mô khu vực doanh nghiệp
dạng hoá sở hữu doanh nghiệp nhà nước trong thời gian qua còn chậm. Việc thử
nghiệm hình thành tập đoàn kinh tế đã không đem lại kết quả như mong đợi.
Một trong những trở ngại lớn đối với việc cổ phần hóa là các ngành, các cấp vẫn
có tư tưởng giữ lại nhiều doanh nghiệp 100% vốn nhà nước hoặc có cổ phần chi
phối của nhà nước vì lợi ích cục bộ. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, nguyên tắc
giải quyết vấn đề này là nguyên tắc bình đẳng giữa doanh nghiệp nhà nước và
doanh nghiệp tư nhân. Một cuộc cải cách doanh nghiệp nhà nước thành công sẽ
có tác động lan tỏa đến các lĩnh vực khác ở tầng thể chế thứ hai (như tự do giá
cả, cạnh tranh, độc quyền), đồng thời tác động đến cải cách ở tầng thế chế thứ
nhất qua việc thúc đẩy các nguyên tắc minh bạch, nâng cao trách nhiệm giải
trình và chống tham nhũng... là những vấn đề nổi cộm hiện nay trong hệ thống
Về giữ vững ổn định chính trị-xã hội trong quá trình cải cách
Biến động chính trị - xã hội như ở Tunisia bùng nổ không phải khi nền
kinh tế nước này rơi vào cảnh khó khăn nhất mà khi người dân, đặc biệt là giới
doanh nghiệp nhà nước.
trẻ không có đủ việc làm. Tình trạng thiếu việc làm hiện đang trở thành vấn đề
ngày càng nghiêm trọng ở Việt Nam. Tuy nhiên, khác với nhiều nước châu Phi,
thôn hơn là thành thị. Trong khoảng 10 năm qua chúng ta đã không giải quyết
một cách hiệu quả lao động dư thừa trong khu vực nông nghiệp và nông thôn.
Số lao động dư thừa đang tăng nhanh bởi tình trạng mất đất của nông dân, thu
hồi đất cho đô thị hoá, công nghiệp hoá. Sức hấp dẫn của đô thị chỉ lôi kéo lao
động nông thôn (chủ yếu là những người thuần nông) ra thành thị mang tính chất
thời vụ, chưa thể hoá thân thành lao động phi nông nghiệp đích thực. Việc giải
quyết lao động trong ngành nông nghiệp chưa đạt hiệu quả mong muốn mà
nguyên nhân chủ yếu là sự phát triển của lực lượng doanh nghiệp ở nông thôn
không đủ mạnh nên chưa thúc đẩy chuyển dịch nhanh lao động nông nghiệp
sang lao động phi nông nghiệp.
166
nguy cơ bất ổn xã hội ở Việt Nam hiện đang tập trung chủ yếu ở khu vực nông
Với khoảng 65% dân số sống ở nông thôn và 42% lực lượng lao động
trong nông nghiệp [26], khu vực nông nghiệp, nông thôn đóng vai trò hết sức
quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam song phát triển nông
nghiệp, nông thôn đang bộc lộ nhiều điểm nghẽn, tiềm ẩn những vấn đề chính
trị-xã hội phức tạp. Nhiều chính sách “cởi trói” giúp nông nghiệp, nông thôn
phát triển trong thời kỳ sau đổi mới đã tới giới hạn. Mô hình kinh tế hộ truyền
thống tồn tại lâu nay ở nông thôn không còn phù hợp với điều kiện mới, trong
khi việc triển khai những mô hình hiện đại như kinh tế trang trại quy mô lớn,
liên kết nông dân với doanh nghiệp… vẫn gặp nhiều rào cản. Bởi vậy, phát triển
mạnh các doanh nghiệp trong nông nghiệp và ở vùng nông thôn trong nhiều lĩnh
vực ngành nghề, qua đó tạo việc làm cho người nông dân là một trong những
dân đối với tiến trình cải cách.
Thực hiện chính phủ liêm chính, kiến tạo và phục vụ phát triển
Để có một nền quản trị quốc gia tốt, yêu cầu hàng đầu hiện nay đối với
Việt Nam là thực hiện chính phủ liêm chính, kiến tạo và phục vụ phát triển.
yêu cầu cấp bách hiện nay nhằm giữ vững ổn định xã hội và niềm tin của người
Chính phủ liêm chính là chính phủ nói không với tham nhũng; có các quy định
người; từ đó thực sự tạo được niềm tin của người dân, của doanh nghiệp vào vai
trò của Chính phủ trong điều hành đất nước. Chính phủ phải ngăn chặn lợi ích
nhóm, lợi ích chính sách, cục bộ chính sách ngay từ khi khởi xướng. Trước hết,
phải xử lý nạn tham nhũng, quan liêu một cách quyết liệt - rào cản và gánh nặng
chi phí đối với phát triển của khu vực kinh tế tư nhân; củng cố, xây dựng bộ
máy, tuyển dụng người tài, rà lại chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan để tránh
chồng chéo, mâu thuẫn gắn với cải cách hành chính. Trong bối cảnh của cuộc
cách mạng công nghiệp lần thứ 4, cần áp dụng mạnh mẽ chính phủ số ở mọi lĩnh
vực để giảm thiểu và hiện đại hóa thủ tục hành chính, hạn chế tham nhũng, tăng
cường tính minh bạch trong quá trình xây dựng và thực hiện chính sách. Đây
cũng là những biện pháp góp phần đẩy nhanh quá trình chính thức hoá nền kinh
167
thưởng phạt nghiêm minh, và đề cao ý thức thượng tôn pháp luật cho tất cả mọi
tế và thị trường lao động. Cần duy trì và nhân rộng các nỗ lực đó trên toàn quốc,
đặc biệt ở những tỉnh nằm ngoài ‘cực tăng trưởng’ và giúp trung hoà xu hướng
doanh nghiệp thường tập trung ở những vùng trọng điểm.
Yêu cầu chính phủ phục vụ doanh nghiệp gần đây được nêu nhiều trong
các diễn đàn chính sách như là một định hướng cải cách thể chế và chính sách
nhằm đưa nền kinh tế trở lại quỹ đạo tăng trưởng nhanh, bền vững và mang tính
bao trùm. Chính phủ kiến tạo và phục vụ phát triển là chính phủ mà hoạt động
quản lý, điều hành của nó hướng tới việc tạo môi trường thuận lợi nhất cho các
là bước đi cần thiết và phù hợp với xu hướng chung của thế giới, đồng thời
đảm bảo tính đồng bộ của chính sách). Chính phủ phải chủ động khởi xướng
doanh nghiệp hoạt động (Việc xây dựng Luật hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ
thế mạnh để tập trung đầu tư để dẫn đường cho các quan hệ kinh tế xã hội phát
triển. Định hướng cải cách thời gian tới là chính phủ phải chuyển mạnh từ vai
trò can thiệp trực tiếp sang quản lý và phục vụ phát triển[4], trong đó chú trọng
chính sách giải phóng nguồn lực xã hội, đồng thời có lựa chọn lĩnh vực ưu tiên,
bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, tạo lập các cơ hội kinh doanh và khởi nghiệp;
thiết lập khuôn khổ pháp luật, chính sách và bộ máy thực thi nhằm đảm bảo các
nước phải theo các tín hiệu tích cực của thị trường, đảm bảo sự minh bạch và có
hiệu quả; đoạn tuyệt dứt khoát với cơ chế “xin-cho”. Chính phủ liêm chính, kiến
tạo và phục vụ phát triển phải là cốt lõi trong việc xây dựng và hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam.
168
loại thị trường liên tục được hoàn thiện. Việc phân bổ các nguồn lực của Nhà
Tiểu kết chương 5
Qua gần 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, Việt Nam đã đạt những
thành tựu rất quan trọng về hoàn thiện thể chế, phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường
định hướng XHCN đã được nhấn mạnh trong Văn kiện của Đại hội lần thứ XII
như là vấn đề căn cốt của quá trình cải cách thể chế kinh tế, giúp đem lại động
lực phát triển mới của Việt Nam trong giai đoạn tới. Việt Nam đã cam kết thực
hiện và đáp ứng các tiêu chí để được công nhận là nền kinh tế thị trường đầy đủ,
đồng thời hướng đến mô hình kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại và hội nhập.
Tuy nhiên, việc phát triển kinh tế thị trường đã có lịch sử hàng mấy trăm năm ở
một mô hình hoàn toàn mới, chưa có tiền lệ và thời gian phát triển còn rất ngắn.
Vì vậy, trong quá trình xây dựng, phát triển và hoàn thiện mô hình này, Việt
Nam gặp không ít trở ngại, khó khăn; trong đó, rất cần được làm rõ những
trên thế giới; còn ở Việt Nam, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là
vướng mắc trong nhận thức và lý luận nhằm tạo ra động lực cho công cuộc tiếp
tục đổi mới và phát triển đất nước. Bài học kinh nghiệm từ thế giới cho thấy,
thiện nền quản trị quốc gia, trong đó chú trọng thực hiện chính phủ liêm chính,
kiến tạo và phục vụ phát triển. Điểm mấu chốt trong các cuộc cải cách nhằm
hoàn thiện nền quản trị quốc gia là cải cách bộ máy quản trị nhà nước để loại bỏ
tham nhũng, xây dựng và áp dụng các nguyên tắc minh bạch, thượng tôn của
pháp luật và trách nhiệm giải trình .v.v.
169
trong quá trình cải cách cần giữ vững ổn định chính trị - xã hội và chú trọng cải
KẾT LUẬN
Nhìn chung, các nỗ lực cải cách thể chế kinh tế ở nhiều nước châu Phi đều
chịu cả hai luồng sức ép từ bên trong lẫn bên ngoài. Sức ép bên trong xuất phát
từ yêu cầu nhằm khắc phục những khiếm khuyết, yếu kém nghiêm trọng của mô
hình phát triển kinh tế, như yêu cầu giảm thiểu gánh nặng cho ngân sách nhà
nước mà khu vực công gây ra. Sức ép bên ngoài là yêu cầu của các định chế tài
chính quốc tế như WB và IMF trong các chương trình điều chỉnh cơ cấu để đổi
lại những khoản viện trợ. Tuy nhiên, cải cách kinh tế ở châu Phi phần lớn bị áp
đặt từ bên ngoài.
Cải cách chế độ sở hữu, nhất là sở hữu đất đai; mở cửa nền kinh tế và đẩy
theo hướng tư nhân hóa là ba cấu phần cải cách thể chế trọng tâm của nhiều nước
châu Phi trong quá trình chuyển đổi sang cơ chế thị trường. Tuy nhiên, đây là
những tiến trình cải cách đầy chông gai và kéo dài, bởi chúng gắn liền với những
thể chế nền tảng của kinh tế thị trường, hệ thống chính trị và nền quản trị quốc gia.
mạnh hội nhập quốc tế; và cải cách khu vực doanh nghiệp quốc doanh, chủ yếu
Các quan điểm hiện nay chưa thống nhất về đánh giá xem những cuộc cải
xét dưới góc độ chuyển đổi sang những thể chế cơ bản của kinh tế thị trường,
châu Phi đã đạt được mục đích, mặc dù còn ở những mức độ khác nhau. Mục
tiêu cuối cùng của cải cách kinh tế là phát triển thì vẫn chưa đạt được bởi đa số
các nước châu Phi vẫn nghèo, lạc hậu và chất lượng thể chế kinh tế còn thấp. Từ
việc nghiên cứu tiến trình cải cách thể chế kinh tế ở Guinea xích đạo, Ghana và
Tunisia, luận án cho rằng quyết tâm chính trị của nhà lãnh đạo đóng vai trò hết
sức quan trọng đối với việc thúc đẩy quá trình cải cách. Nhiều cuộc cải cách thể
chế kinh tế ở các nước châu Phi không tiến được xa bởi chính phủ các nước này
đã có các chiến thuật “một bước tiến, hai bước lùi” để đối phó với sức ép của các
nhà tài trợ và cộng đồng quốc tế.
170
cách thể chế kinh tế ở châu Phi là thành công hay thất bại hoàn toàn. Tuy nhiên,
Về mặt lý thuyết và từ thực tiễn quá trình cải cách thể chế kinh tế ở châu
phi đã tiếp tục khẳng định rằng: cải cách thể chế kinh tế nên đồng hành với cải
cách thể chế chính trị và nền quản trị quốc gia. Kinh tế thị trường, nền chính trị
dân chủ và quản trị tốt là ba trụ cột đem lại sự phát triển toàn diện của một quốc
gia. Một quốc gia có dựa trên nền tảng chính trị dân chủ để phát triển kinh tế thị
trường có thể không chắc chắn thành công, song một quốc gia không dựa trên
nền dân chủ chắc chắn sẽ thất bại trong dài hạn. Tuy nhiên, khái niệm dân chủ
thường bị lợi dụng vì nhiều mục đích chính trị trong các sức ép cải cách từ bên
ngoài. Do vậy, luận án này cho rằng, cách tiếp cận quản trị khá phù hợp hơn đối
với các vấn đề phát triển vì cải cách nền quản trị quốc gia bao hàm cả những
khía cạnh của cải cách kinh tế và cải cách chính trị. Đặc biệt, luận án cho rằng,
là một yếu tố hết sức quan trọng nhằm đảm bảo thành quả của cải cách và giữ
vững ổn định chính trị - xã hội.
Luận án chỉ ra rằng, nhiều cuộc cải cách thể chế kinh tế ở châu Phi chỉ
chú trọng đến các khía cạnh xã hội như giảm nghèo và giảm thiểu bất bình đẳng
được thực hiện nửa vời, không thể tiến xa hơn bởi mắc vào vòng tròn luẩn quẩn:
cải cách thể chế kinh tế chậm chạp hoặc không thành công khiến nền kinh tế gặp
phát triển; đến lượt nó, tình trạng kém phát triển kìm hãm những nỗ lực thúc đẩy
một nền quản trị tốt và kiến tạo môi trường dân chủ; đến lượt nó, nền quản trị
yếu kém và tình trạng thiếu dân chủ lại tạo ra lực cản đối với những nỗ lực cải
cách kinh tế mạnh mẽ hơn.
171
nhiều khó khăn, tăng trưởng giảm sút, đất nước đắm chìm trong tình trạng kém
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH
1. Phạm Quốc Cường (2016), “Cải cách thể chế kinh tế ở các nước Á -
Phi qua một số công trình nghiên cứu”, Tạp chí Kinh tế Châu Á - Thái Bình
Dương, số 467, tháng 4/2016, trang 30-32.
2. Phạm Quốc Cường (2017), “Một số bài học kinh nghiệm và gợi mở
chính sách cho Việt Nam”, Trong Nguyễn Mạnh Hùng, Nguyễn Thị Hằng,
Nguyễn Xuân Bách (đồng chủ biên); Quan hệ Trung Quốc - Châu Phi những
năm đầu thế kỉ XXI, NXB Khoa học Xã hội.
3. Nguyễn Mạnh Hùng, Phạm Quốc Cường (2018), Cải cách thể chế
kinh tế ở Châu Phi: Những nguyên nhân thất bại, NXB Khoa học Xã hội.
4. Phạm Quốc Cường (2019), “Cải cách kinh tế và thể chế quản trị ở
Ghana”, Tạp chí Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương, số 553, tháng 12/2019, trang
07-09.
5. Phạm Quốc Cường (2020), “Cải cách kinh tế kinh tế thị trường ở Châu
Phi”, Tạp chí Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương, số cuối tháng 02/2020, trang
04-06.
172
ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1.
Nguyễn Đình Cung, 2014. Thử nhận diện một số vấn đề của thể chế
kinh tế Việt Nam hiện nay. Kỷ yếu Hội thảo “Một số vấn đề lý luận – thực tiễn
về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, Hội đồng lý luận Trung
ương, TP. Hồ Chí Minh, tháng 3/2014
2.
Phạm Quốc Cường ,2016. Cải cách thể chế kinh tế ở một số nước Á-
Phi qua một số công trình nghiên cứu, Tạp chí Kinh tế châu Á-Thái Bình
Dương, số 467, tháng 4/2016
3.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa XI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng,
2016, Văn phòng trung ương Đảng, Hà Nội
4.
Đảng Cộng Sản Việt Nam (2016). Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành
trung ương, Nghị quyết số 05-NQ/TW
5.
Đỗ Đức Định và Nguyễn Thanh Hiền, 2008. Châu Phi và Trung Đông
năm 2008: những vấn đề và sự kiện nổi bật, Hà Nội: NXB Khoa học xã hội,
6.
Đỗ Đức Định và Giang Thiệu Thanh, 2010. Cẩm nang các nước Châu
Phi, Hà Nội: NXB Từ điển bách khoa,
7.
Đỗ Đức Định, 2008. Trung Đông – những vấn đề và xu hướng kinh tế ,
chính trị trong bối cảnh quốc tế mới, Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội.
8.
Nguyễn Thanh Hiền và Nguyễn Mạnh Hùng, 2014. Tình hình chính trị
– an ninh của khu vực Bắc Phi –Trung Đông hiện nay: nhìn từ góc độ một số
cuộc khủng hoảng lớn,Tạp chí nghiên cứu châu Phi và Trung Đông, số
9(109), tháng 9/2014
9.
Nguyễn Thanh Hiền, 2008. Hợp tác quốc tế giải quyết các vấn đề
mang tính toàn cầu của châu Phi, NXB Khoa học xã hội
10. Nguyễn Vũ Hoàng, 2016. Những đặc điểm cơ bản của pháp luật về
173
kinh tế Việt Nam trong 30 năm đổi mới, Tạp chí Cộng sản, ngày 28/9/2016
11. Vương Đình Huệ, 2016. Nhìn lại 30 năm đổi mới: Những thành tựu nổi
bật trong phát triển kinh tế, Báo Nhân dân điện tử, ngày 4/1/2016
12. Nguyễn Ngọc Hùng, 2012. Mùa xuân Ả rập sau một năm nhìn
lại.[http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2012-02-07-mua-xuan-arab-sau-mot-
nam-nhin-lai]
13. Nguyễn Mạnh Hùng và Phạm Anh Tuấn và Bùi Khắc Linh, 2016. Các
yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng quản trị ở một số nước châu Phi,Tạp chí
nghiên cứu Châu Phi và Trung Đông, số 08(132), 2016
14. Nguyễn Mạnh Hùng và Hồ Khánh Duy, 2016. Vấn đề cải cách thể chế và
tình hình phát triển kinh tế ở một số nước Bắc Phi-Trung Đông sau 5 năm Mùa
xuân Arab, Tạp chí nghiên cứu Châu Phi và Trung Đông, số 02(126), 2016
15. Nguyễn Mạnh Hùng, 2015.Thể chế, quản trị và phát triển của các nước
châu Phi – Nguyên nhân thành công và thất bại, Tạp chí nghiên cứu Châu Phi
và Trung Đông, số 03(115), 2015
16. Nguyễn Thị Luyến, 1998.“Các Nền Kinh Tế Chuyển Đổi: Lí Luận và
Thực Tiễn”, Trung Tâm Khoa Học và Nhân Văn Quốc Gia, Viện Thông Tin
Khoa Học Xã Hội.
17. Hoàng Thị Thanh Nhàn, 2011. Tái cấu trúc nền kinh tế Hàn Quốc nhìn
từ góc độ cải cách doanh nghiệp.Báo cáo chuyên đề, Hà Nội.
18. Kiều Thanh Nga, 2013. Một số sự kiện kinh tế - chính trị nổi bật của
Châu Phi và Trung Đông năm 2012, Hà Nội : Nhà xuất bản Từ điển Bách Khoa,
19. Bùi Nhật, 2011. Một số vấn đề kinh tế, chính trị nổi bật của Trung
Đông và xu hướng đến năm 2020,Hà Nội:NXB Khoa học Xã hội,
20. Bùi Nhật Quang, 2009. Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu và những
vấn đề của Châu Phi, Tạp chí nghiên cứu Châu Phi và Trung Đông, số 7(47),
21. Nguyễn Ngọc Quang, 1996. Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước – Cơ
sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn, Hà Nội: Nxb. KHXH, tr. 52.
174
22. Duy Thành và Phan Hướng, Các đời Tổng thống ở Hàn Quốc ghế luôn
luôn nóng, http://antgct.cand.com.vn/vi-vn/sotay/2013/1/56469.cand
23. Nguyễn Hồng Sơn và Nguyễn Mạnh Hùng. “Phát triển ngành dịch vụ ở
các nền kinh tế đang chuyển đổi và hội nhập.” Những vấn đề kinh tế và chính
trị thế giới, số 4(156), tháng 4 năm 2009
24. Nguyễn Xuân Thắng, 2016. Một số luận điểm mới về phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Tạp chí
Kinh tế và Quản lý số 19, tháng 9/2016.
25. Tô Thị Thanh Toàn,1999. Quá Trình Chuyển Đổi Từ Nền Kinh Tế Kế
Hoạch Hóa Tập Trung Sang Nền Kinh Tế Thị Trường ở Các Quốc Gia
Trung-Đông Âu,Xã Hội:NXB Khoa Học .
26. Tổng Cục thống kê , 2016. Báo cáo Tình hình kinh tế - xã hội 6 tháng
đầu năm 2016, Hà Nội
27. Trần Văn Tùng, 2011. Thể chế với sự thịnh vượng của quốc gia. Báo
Tia sáng, ngày 13/12/2011
28. Xã hội dân sự và kinh tế thị trường ở Hàn Quốc, nguyên lý “công tính”
trong bối cảnh chủ nghĩa tự do mới.Tạp chí Triết học số 4 (215), năm 2009
29. Viện nghiên cứu Trung Quốc, 2012 .Báo cáo kinh tế Trung Quốc tháng
11/2012. Hà Nội
30. Doanh nhân Sài Gòn online, Châu Phi hy vọng đổi đời nhờ khai
khoáng, 02/02/2013, [http://vinacomin.vn/tin-quoc-te/chau-phi-hy-vong-doi-
doi-nho-khai-khoang-4124.htm]
Tài liệu tiếng Anh (tiếp theo tài liệu tiếng Việt)
31. Acemoglu, Daron, Simon Johnson and James Robinson (2005)
Institutions as Fundamental Cause of Long run Growth.Handbook of
Economic Growth, Volume IA. Edited by Philippe Aghion and Steven
N. Durlauf. Elsevier B.V.
175
32. Acemoglu, Daron and James Robinson (2010), Why Africa is poor?
Economic history of developing region, Economic history society of
South Africa. Vol 25 (1).
33. Acemoglu, Daron, and Simon Johnson (2003), Unbundling Institutions,
NBER, Cambridge, MA. Working Paper no. 9934.
34. Acemoglu, Daron; Simon Johnson and James A. Robinson (2001), The
Colonial Origins of Comparative Development: An Empirical
Investigation, The American Economic Review Vol. 91, No.5 (Dec.
2001).
35. Acemoglu, Daron and James Robinson (2012), Why Nations Fail: The
Origins of Power, Prosperity, and Poverty, Random House.
36. Adejumobi, Said (2000), Africa and the Challenges of Democracy and
Good Governance in the 21st Century, Addis Ababa, P.3
37. African Development Bank (2011), African Development Report 2011:
Private Sector Development as an Engine of Africa’s Economic
Development, Abidjan, Côte d'Ivoire, Figure 1.6, Tr.21
38. Alesina, A. (1998), The Political Economy of High and Low Growth,
Annual World
Bank
Conference
on
Development
Economics,Washington DC: World Bank.
39. Alonso,
José Antonio and Carlos Garcimartín
(2009), The
Determinants of Institutional Quality: More on the Debate, World
Bank policy paper 03/09.
40. Asian Development Bank, ADB
(1995), Governance: Sound
Development Management, October, ADB.
41. Auty, Richard M. (1993), Sustaining Development in Mineral
Economies: The Resource Curse Thesis, London: Routledge.
42. Auty, Richard; & de Soysa, Indra (2006) Energy, Wealth and
176
Governance in the Caspian Sea Region. Lessons Not Learned. : Central
Asia Research Forum.
43. Ayittey George (2008), Betrayal: Why Socialism failed in Africa,
Foundation for Economic Education
44. Bigsten, A. and S. Kayizzi-Mugerwa (2000), The Political Economy of
Policy Failure in Zambia, Working Papers in Economics No. 23,
Goteborg University, Department of Economics.
45. Bloom, David and Jeffrey Sachs (1998), Geography, Demography, and
Economic Growth in Africa, Brookings Papers on Economic Activity,
1998, vol. 2, 207–295.
46. Bovet, David (1985), “Financial Aspects of Public Enterprises in Sub-
Saharan Africa.” Unpublished paper submitted to the World Bank.
47. Buchs, Thierry D (2003), Privatization in Sub-Saharan Africa: Some
Lessons from Experiences to Date, IFC, December 2003, pg.16
48. Brilliant, Myron A. and Jeremie Waterman. 2004. China’s WTO
Implementation: A Three-Year Assessment.U.S. Chamber of
Commerce. September, 2004
49. Chipeta, Chinyamata, Mjedo Mkandawire and Haile Taye (2002),
Malawi: Globalization, Liberalization and Sustainable Human
Development. In “Making Global Integration Work for People” Edited
by Manuel Agosin, David Bloom, Georges Chapellier and Jagdish
Saigal (2002), UNCTAD
50. Chow, Gregory. 2000. “China's Economic Reform and Policies at the
Beginning of the 21st Century.” Perspective.Vol. 2. No.1 August,
2000.
51. Coase, Ronald (1960), The Problem of Social Cost, Journal of Law and
Economics3 (1).
177
52. Commons, John R. (1931), Institutional Economics, American
Economic Review Vol. 21.
53. Coolidge, J. and S. Rose-Ackerman (1997), High Level Rent Seeking
and Corruption in African Regimes: Theory and Causes, World Bank
Working Paper No. 1780, World Bank, Washington, DC.
54. Dahl, Robert (1956) [2006], A Preface to Democratic Theory,
University Of Chicago Press
55. Dollar, David and Aart Kraay (2002), “Spreading the Wealth”, Foreign
Affairs, January/February 2002
56. EIU (2015),The Economist Intelligence Unit’s Democracy Index
2015:Democracy in an age of anxiety
57. Farah, Paolo D. 2006. “Five Years of China’s WTO Membership: EU
and US Perspectives on China’s Compliance with Transparency
Commitments and the Transitional Review Mechanism.” Legal Issues
of Economic Integration 33(3): 263–304, 2006. Tr. 266
58. Fund for Peace, The (2016), Fragile State Index 2016, Washington DC
59. Freedom House (2016), Freedom in the World 2016, Anxious
Dictators, Wavering Democracies: Global Freedom under Pressure,
Freedom House Report.
60. Harsch, Ernest (2000), “Privatization shifts gears in Africa,” Africa
Recovery, April 2000, page 9
61. Heijden, H. van der (2000), The Effectiveness of Economic Policy
Reform, Foreign Aid and External Debt Relief in Zambia, Swedish
Agency for International Development Cooperation, Stockholm.
62.
ILO (2013), Global Employment Trend for Youth 2013: A generation
at risk, Geneva. Tr.20
63.
IMF (2020) IMF Survey : Ghana: The Bumpy Road To Economic
Recovery. [online] Available
at:
178
64.
Internations.org (2020. Working And Getting A Job In Ghana |
Internations GO!. [online] Available at:
15778/ghana-economic-challenges-2> 65. International Development Association. IDA (1998), Additions to IDA Resources: Twelfth Replenishment, (IDA12). 23 December 1998. 66. International Fund for Agricultural Development, IFAD (1999), Good Governance: Overview. Executive Board – Sixty-Seventh Session, Rome, 8-9 September 1999 67. Institute of Economics and Peace (2016), Global Peace Index 2016, New York, USA. 68. Ismail, Faizel (2009), “Reforming the World Trade Organization”, World Economics, Vol. 10, No 4, October-December 2009. 69. Kasper, Wolfgang and Manfred E Streit (1999), Institutional Economics: Social Order and Public Policy, Edward Elgar. 70. Kayizzi-Mugerwa, S. (2001), Africa and the Donor Community: In Search of a Partnership for Development, in L. Rikkila¨ and K. Sehm- Patoma¨ ki (eds.) Democracy and Globalization. Promoting a North South Dialogue, Department for International Development Cooperation, Ministry of Foreign Affairs: Helsinki. 71. Khemani S, 2017. Political Economy of Reform, Policy research working paper, No.8224, the World Bank, page 1 72. Kilishi A.A. (2017), Institutional Reforms and Economic Outcomes in Africa, Working Paper Series N° 264, African Development Bank, Abidjan, Côte d’Ivoire. Page 3 73. Knack, Stephen and Philip Keefer (1995), Institutions and Economic 179 Performance: Cross-Country Tests Using Alternative Institutional Indicators, Published in: Economics and Politics, Vol. 7, No. 3. 74. Koehn, Peter H. 2002. “The Shanghai Outlook on the WTO: Local Bureaucrats and Accession-Related Reforms,” Pacific Affairs, Vol. 75 75. Kolodko, Grzegorz W. 1998. Ten Years of Postsocialist Transition: the Lessons for Policy Reforms. The World Bank Development Economics Research Group Washington, D.C. 76. Lieberthal, Kenneth. 2004. Governing China: From Revolution through Reform (W.W. Norton & Co., New York). Tr.169 77. Lienert, I. (1998), Civil Service Reform in Africa: Mixed Results after 10 Years, Finance and Development 35(2). 78. Lienert, I. and J. Modi (1997), A Decade of Civil Service Reform in Sub-Saharan Africa, IMF Working Paper 97/179. 79. Lipset, Seymour. M. 1959, Some Social Requisites of Democracy: Economic Development and Political Legitimacy, American Political Science Review. Vol. 53. 80. Makalou, Oumar (1999), “Privatisation in Africa:
A Critical Analysis”, The 9th International Anti-Corruption Conference, 1999, Durban South Africa 81. Nellis, John. (1988), The Institutional Framework: Organization, Management and Supervision of Tanzanian Parastatals, Unpublished chapter in World Bank report on Tanzanian public enterprises. 82. Nellis, John (2005), The Evolution of Enterprise Reform in Africa: From State-owned Enterprises to Private Participation In Infrastructure and Back ?, The Joint UNDP/World Bank Energy Sector Management Assistance Program (ESMAP), World Bank. 83. North D. (1990), Institutions, Institutional Change and Economic Performance, Cambridge and New York: Cambridge University Press. 180 84. Norman Loayza Raimundo Soto, (2003),Market – Oriented Reforms: Definitions and Measurement, Catholic University of Chile. 85. North, Douglas and Robert Thomas, The Rise of the Western World: A New Economic History. Cambridge University Press, 1973 86. Olowu, D., E. Otobo and M. Okotoni (1997), The Role of the Civil Service in Enhancing Development and Democracy: An Evaluation of the Nigerian Experience, School of Public and Environmental Affairs, Indiana University. 87. Przeworski, Adam and Limongi, Fernando (1997),Modernization: Theories and Facts, World Politics.Vol. 49. 88. Peter Meyns and Charity Musamba (eds.), 2010, The Developmental State in Africa Problems and Prospects, Institute for Development and Peace (INEF), University of Duisburg-Essen, Germany 89. Ramo, Joshua Cooper, The Beijing Consensus, The Foreign Policy Centre, London, May 2004 90. Rose-Ackerman, S. (1986), Reforming Public Bureaucracy through Economic Incentives ?, Journal of Law, Economics and Organization 2(1):131–61. 91. Ross ML,(2001), Does oil hinder democracy?, World Polit. 53:325–61 92. Rostow, Walt. W, and Millikan, Max (1961), The Emerging Nations: Their Growth and United States Policy, Boston: Little Brown. 93. Rostow, Walt. W. (1962), The Process of Economic Growth: Second Edition, New York: W.W. Norton. 94. Sachs, Jeffrey D., and Andrew M. Warner. (1995), Natural resource abundance and economic growth, National Bureau of Economic Research, Working Paper 5398. 95. Schiavo-Campo, S. (1996), Reforming the Civil Service, Finance and Development 33(3). 181 96. Schumpeter, Joseph (1943) [2008], Capitalism, Socialism and Democracy, Third Edition, Harper Perennial Modern Classics, USA 97. Sen, Amartya (2000), Development as freedom: taking economics beyond commodities - the cautious boldness of Amartya Sen, Journal of International Development. 98. Smith, Adam. (2008), An Inquiry into the Nature and Causes of the Wealth of Nations: A Selected Edition, Kathryn Sutherland, Oxford UK. 99. Subrahmanyan, Arjun. 2005. “China and the WTO: Perspective on a Changing Environment,” (February 2005) China Law and Practice 100. Sundaram, Jomo Kwame and Rudiger von Arnim (2008),Economic Liberalization and Constraints to Development in Sub-Saharan Africa, United Nations
Department of Economic and Social Affairs, page.13 101. Tullock, Gordon (2008), The New Palgrave Dictionary of Economics, Steven N. Durlauf and Lawrence E. Blume. 102. Transparency International (2015), Corruption Perception Index 2015 103. Transparency International (2016), Corruption Perception Index 2015, [www.transparency.org/cpi] 104. Transprarency International (2016), Global Coruption Barometer: People and Corruption Africa Survey 2016, author: Coralie Pring, Global Surveys, page 6. 105. The Fund for Peace (2016), Fragile State Index 2016, Washington DC, Pg.17. 106. United Nations Development Programme, UNDP (1997), Governance for Sustainable Human Development, New York, NY 10017 USA. 107. UNDP (2014), Human Development Report, Sustaining Human Progress, New York. 182 108. UNDP (2016) African Human Development Report 2016, New York, USA, Summary, Tr.3 109. UNCTAD (1998), Trade and Development Report 1998. Geneva, page 190 110. UNCTAD (1999), Investment Policy review: Uganda. UNCTAD. 111. UNCTAD (2001), Economic Development in Africa: Performance, Prospects and Policy Issues, UNCTAD. Geneva: 27. 112. UNDP (2015), Human Development Report 2015, New York: UN. 113. Uy, Marilou (2010), “Africa’s Private Sector: A Catalyst for Growth”, Africa Financial and Private Sector Development - The World Bank Conference on “Entrepreneurship in Africa”, Whitman School of Management, Syracuse University April 1-3, 2010 114. Vickery, William (1969), Congestion Theory and Transport Investment, 1969, AER. 115. WEF (2016), Global Competitiveness Report 2016-2017, Geneva 116. White, Campbell and O. Bhatia (1998), Privatization in Africa, The World Bank, Washington DC 117. Wolfensohn, James (1999), Address to the Board of Governors (September 28, 1999), World Bank, Washington DC. 118. World Bank (1989), Sub-Saharan Africa: From Crisis to Sustainable Growth, Washington DC 119. World Bank (1993), The East Asian miracle: Economic growth and public policy, Washington DC 120. World Bank (1994), Governance: The World Bank’s Experience, Washington DC. 121. World Bank (1997),World Development Report 1997, Washington DC. 122. World Bank (2000), Country brief: Uganda, Washington DC 183 123. World Bank (2000), Can Africa Claim the 21st Century, World Bank, Washington DC. 124. World Trade Organization (2001), Mozambique Trade Policy Review. WTO, Geneva. January 2001 125. World Bank (2002),World Development Report, Tr.6, Building Institution for the Market, Washington DC 126. World Bank (2016), Ease of Doing Business 2016, Washington DC 127. World Trade Organization (2002), Malawi Trade Policy Review. WTO, Geneva. February 128. World Bank 1992, Governance and Development p. 1. 129. WCARRD (1988), The Impact of Development Stratégies on thé Rural Poor, World Conférence on Agrarian Reform and Rural Development, 1979-1989, 10 years of follow up, FAO, Rome. 130. https://www.hrw.org/news/2016/05/30/chads-ex-dictator-convicted- atrocities 131. http://news.bbc.co.uk/2/hi/africa/6069230.stm 132. http://news.bbc.co.uk/2/hi/business/2043403.stm 133. http://www.economist.com/news/middle-east-and-africa/21694543- ordinary-folk-see-none-their-countrys-riches-palace-jungle 134. http://www.transparency.org/cpi2013/results 135. https://www.imf.org/en/News/Articles/2015/09/28/04/53/socar012016a 136. https://www.internations.org/ghana-expats/guide/working-in-ghana- 15778/ghana-economic-challenges-2 137. http://www.unctad.org/en/subsites/ldcs/country/profiles/malawi.htm]. 184