VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRỊNH PHƯƠNG THẢO

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN

CƠ SỞ CHĂM SÓC NGƯỜI CAO TUỔI TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI

LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI – năm 2023

VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRỊNH PHƯƠNG THẢO

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN

CƠ SỞ CHĂM SÓC NGƯỜI CAO TUỔI TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI

Ngành: Chính sách công

Mã số: 9 34 04 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. NGUYỄN ĐỨC VINH

HÀ NỘI – năm 2023

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng, toàn bộ Luận án “Thực hiện chính sách phát triển cơ

sở chăm sóc người cao tuổi trên địa bàn Hà Nội” là một công trình nghiên cứu

khoa học độc lập, được hoàn thành từ quá trình nghiên cứu và học hỏi nghiêm túc

của chính bản thân tôi. Các kết quả nghiên cứu và các kết luận khoa học được rút ra

trung thực từ quá trình nghiên cứu mà không có bất cứ hình thức sao chép nào, cũng

như chưa được công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu khoa học nào khác. Các

số liệu, tài liệu tham khảo được trích dẫn trong luận án này đều được ghi nguồn cụ

thể và tuân theo những quy định về mặt khoa học. Luận án này cũng tuân thủ nghiêm

ngặt các nguyên tắc về mặt đạo đức cần có trong suốt quá trình nghiên cứu của tác

giả.

Nghiên cứu sinh

i

Trịnh Phương Thảo

MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ........................................................................ iv DANH MỤC BẢNG .................................................................................................... v DANH MỤC SƠ ĐỒ ................................................................................................... v DANH MỤC BIỂU ĐỒ ............................................................................................... v DANH MỤC HỘP Ý KIẾN ....................................................................................... vi PHẦN MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Tính cấp thiết của đề tài ......................................................................................... 1

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................ 3

3. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu ........................................................ 4

4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu .................................................... 4

5. Đóng góp mới về khoa học của luận án .............................................................. 11

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án ............................................................. 12

7. Kết cấu của luận án .............................................................................................. 12

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ................................... 13 1.1. Các hướng tiếp cận nghiên cứu thực hiện chính sách công ............................. 13

1.2. Các nghiên cứu về nhu cầu phát triển cơ sở chăm sóc người cao tuổi ............. 23

1.3. Các nghiên cứu về chính sách phát triển cơ sở chăm sóc người cao tuổi ........ 26

1.4. Các nghiên cứu về thực hiện chính sách phát triển cơ sở chăm sóc người cao

tuổi ........................................................................................................................... 30

Tiểu kết Chương 1 ................................................................................................... 37

CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CƠ SỞ CHĂM SÓC NGƯỜI CAO TUỔI ........................ 38 2.1. Người cao tuổi và nhu cầu chăm sóc người cao tuổi ........................................ 38

2.2. Cơ sở chăm sóc Người cao tuổi ........................................................................ 43

2.3. Chính sách phát triển cơ sở chăm sóc người cao tuổi ...................................... 46

2.4. Thực hiện chính sách phát triển cơ sở chăm sóc người cao tuổi ...................... 49

2.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách phát triển cơ sở chăm sóc

người cao tuổi .......................................................................................................... 58

2.6. Quan điểm định hướng và chính sách phát triển cơ sở chăm sóc người cao tuổi

ở Việt Nam............................................................................................................... 63

2.7. Khung phân tích của luận án ............................................................................ 71

ii

Tiểu kết Chương 2 ................................................................................................... 75

CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CƠ SỞ CHĂM SÓC NGƯỜI CAO TUỔI TẠI HÀ NỘI ............................................. 77 3.1. Khái quát về địa bàn nghiên cứu ...................................................................... 77

3.2. Đánh giá quy trình thực hiện chính sách phát triển cơ sở chăm sóc người cao

tuổi tại Hà Nội ......................................................................................................... 83

3.3. Đánh giá kết quả thực hiện chính sách phát triển cơ sở chăm sóc người cao

tuổi tại Hà Nội ....................................................................................................... 121

Tiểu kết Chương 3 ................................................................................................. 134

CHƯƠNG 4. GIẢI PHÁP CẢI THIỆN HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CƠ SỞ CHĂM SÓC NGƯỜI CAO TUỔI TẠI HÀ NỘI ................................................................................................................................... 135 4.1. Cơ sở các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách phát triển cơ sở

chăm sóc người cao tuổi trên địa bàn Hà Nội ....................................................... 135

4.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách phát triển cơ sở chăm

sóc người cao tuổi trên địa bàn Hà Nội ................................................................. 141

Tiểu kết chương 4 .................................................................................................. 164

iii

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 165 DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ ................................. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................... PHỤ LỤC .......................................................................................................................

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ASXH An sinh xã hội

BTXH Bảo trợ xã hội

CS Chính sách

CSDH Chăm sóc dài hạn

CTXH Công tác xã hội

DVCS Dịch vụ chăm sóc

KHĐT Kế hoạch đầu tư

LĐTBXH Lao động, Thương binh và xã hội

NCT Người cao tuổi

NKT Người khuyết tật

NSNN Ngân sách nhà nước

QĐ Quyết định

TGXH Trợ giúp xã hội

TP Hà Nội Thành phố Hà Nội

TW Trung ương

UBND Uỷ ban nhân dân

iv

XHH Xã hội hoá

DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.5. Ma trận đánh giá các yếu tố ảnh hưởng theo mô hình 7C đến quy trình thực hiện CS ........................................................................................................................ 74 Bảng 3.1. Tuổi thọ trung bình người dân Hà Nội tính từ lúc sinh phân theo giới tính ..................................................................................................................................... 77 Bảng 3.2. Tăng trưởng GRDP quý II năm 2020-2022 (So với cùng kỳ) .................... 78 Bảng 3.3. Thu nhập bình quân đầu người tại Hà Nội từ 2015-2021 ........................... 78 Bảng 3.4. Số lượng NCT theo nhóm tuổi, giới tính tại Hà Nội năm 2022 ................. 80 Bảng 3.5. Số lượng người cao tuổi được chăm sóc tại các TTBTXH ...................... 122 Bảng 3.6. Số NCT tự nguyện đóng phí sống tại cơ sở TGXH công lập ................... 123 Bảng 3.7. Các cơ sở chăm sóc NCT chưa đăng ký với Sở LĐTBXH ...................... 128

Sơ đồ 1.1. Các bên liên quan tham gia vào dịch vụ chăm sóc NCT ...................................... 35

Sơ đồ 2.1. Khung phân tích đánh giá kết quả thực hiện CS ................................................... 72

DANH MỤC SƠ ĐỒ

Biểu đồ 3.1. Nơi NCT muốn được chăm sóc nếu có nhu cầu .............................................. 113

Biểu đồ 3.2. Tỷ lệ sẵn sàng chi trả cho DVCS của NCT và gia đình .................................. 114

v

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Hộp 3.1: Ý kiến đánh giá tích cực về nội dung CS ................................................................ 88

Hộp 3.2: Ý kiến đánh giá về sự phù hợp của CS trong hệ thống pháp luật ........................... 90

Hộp 3.3: Ý kiến về việc hiểu nội dung và lập kế hoạch thực hiện CS ................................... 91

Hộp 3.4: Ý kiến về năng lực/nguồn lực xây dựng kế hoạch thực hiện CS ............................ 91

Hộp 3.5: Ý kiến đánh giá về sự phù hợp của CS đối với vấn đề già hoá dân số và nhu cầu

của NCT ................................................................................................................................. 95

Hộp 3.6: Ý kiến đánh giá về sự phù hợp của CS đối với vấn đề văn hoá .............................. 96

Hộp 3.7: Ý kiến về năng lực hiểu CS của cán bộ thực hiện CS ............................................. 97

Hộp 3.8: Ý kiến về sự cam kết tuyên truyền, phổ biến CS .................................................... 98

Hộp 3.9: Ý kiến về cách thức truyền thông tới cơ sở TGXH trong ngành LĐTBXH ........... 99

Hộp 3.10: Ý kiến về nhân lực phối hợp thực hiện trong các cơ quan thực hiện CS ............ 103

Hộp 3.11: Ý kiến về sự cam kết trong phân công thực hiện CS .......................................... 104

Hộp 3.12: Ý kiến về sự phối hợp liên ngành trong việc thực hiện thủ tục hành chính ........ 106

Hộp 3.13: Ý kiến về sự phối hợp liên ngành đối với CS cho cơ sở công lập ...................... 106

Hộp 3.14: Ý kiến về sự phối hợp liên ngành LĐTBXH và Y tế trong vận hành cơ sở ....... 107

Hộp 3.15: Ý kiến về sự phối hợp liên ngành LĐTBXH và Y tế trong vận hành cơ sở ....... 108

Hộp 3.16: Ý kiến đánh giá về hạn chế của nội dung các CS ............................................... 110

Hộp 3.17: Ý kiến đánh giá CS XHH .................................................................................... 111

Hộp 3.18: Đánh giá về hạn chế về tính chiến lược và thiếu quản lý chất lượng dịch vụ của cơ

quan thực thi CS ................................................................................................................... 112

Hộp 3.19: Ý kiến về năng lực theo dõi, giám sát thực hiện CS ........................................... 115

Hộp 3.20: Ý kiến về sự cam kết xử lý, giám sát các cơ sở chăm sóc NCT ......................... 116

Hộp 3.21: Ý kiến đánh giá về cơ chế phối hợp giám sát ..................................................... 117

Hộp 3.22: Ý kiến đánh giá về các kiến nghị CS .................................................................. 118

Hộp 3.23: Ý kiến đánh giá việc báo cáo triển khai CS ........................................................ 119

Hộp 3.24: Ý kiến về sự tham gia của liên minh trong sơ kết, đánh giá thực hiện CS ......... 120

Hộp 3.25: Ý kiến về sự phối hợp sơ kết, tổng kết, đánh giá việc thực hiện CS ................... 121

Hộp 3.26: Ý kiến về chế tài xử lý các cơ sở chưa cấp phép của Sở LĐTBXH ................... 129

vi

DANH MỤC HỘP Ý KIẾN

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong những biến đổi về nhân khẩu học trên thế giới hiện nay, già hóa dân số,

sự bùng nổ về số lượng người cao tuổi (NCT) và những nhu cầu chăm sóc riêng biệt

của NCT đặt ra những thách thức về kinh tế, xã hội của nhiều quốc gia trên thế giới,

trong đó có Việt Nam. Tính tới tháng 9/2021 tổng dân số Việt Nam là 98,5 triệu

người, trong đó tổng số NCT là 12,5 triệu người (12,8% tổng dân số) [44]. Theo

phương án mức sinh trung bình, Việt Nam bắt đầu thời kỳ dân số già từ năm 2036,

khi tỷ trọng dân số từ 65 tuổi trở lên vượt 14%. Sau đó, bước vào năm 2056, Việt

Nam sẽ có cơ cấu dân số siêu già [42]. Bên cạnh đó, tốc độ già hoá dân số của Việt

Nam được cho là thuộc nhóm nhanh nhất thế giới và có xu hướng tăng nhanh chóng

trong hai thập kỷ tới. Dự báo số tỉnh có dân số cao tuổi lớn hơn dân số trẻ em sẽ tăng

từ 14/63 lên 41/63 tỉnh thành trong 10 năm sắp tới (2029- 2039) [150]. Nhóm NCT ở

Việt Nam hiện nay cũng phải đối mặt với nhiều vấn đề như: các vấn đề sức khoẻ lão

khoa, tỷ lệ mắc các bệnh mãn tính, tỷ lệ NCT sống một mình hoặc chỉ có hai vợ

chồng có xu hướng tăng lên… Những vấn đề trên càng trở nên nghiêm trọng hơn với

nhóm NCT từ 80 tuổi trở lên do tỷ lệ gặp khó khăn, thậm chí không thể tự chăm sóc

càng lớn [145]. Bởi vậy, nhu cầu phát triển một hệ thống chăm sóc phù hợp

(Appropriate), đảm bảo khả năng chi trả (Affordable) và khả năng tiếp cận

(Accessible) cho nhóm dân số cao tuổi là hết sức cần thiết [147].

Trước tình hình này, chính phủ đã có những chính sách (CS) bước đầu đáp ứng

nhu cầu của NCT, tạo điều kiện thiết lập hệ thống an sinh đa tầng, bao phủ và đáp

ứng nhu cầu đa dạng của toàn bộ nhóm dân số cao tuổi trong một xã hội đang già hoá

nhanh chóng. Bên cạnh các chủ thể theo Hiến định có trách nhiệm chăm sóc NCT

bao gồm nhà nước, gia đình và cộng đồng, từ năm 2008 đến nay, nhà nước đã ban

hành/ sửa đổi/ điều chỉnh/thay thế nhiều văn bản pháp luật nhằm tạo điều kiện thúc

đẩy sự phát triển của các chủ thể khác như: tư nhân, doanh nghiệp, tổ chức từ thiện,

tôn giáo…trong việc thành lập, vận hành các cơ sở chăm sóc (cơ sở chăm sóc) NCT.

Cụ thể, Chính phủ Việt Nam đã phê duyệt đề án quy hoạch mạng lưới các cơ sở trợ

giúp xã hội (TGXH) giai đoạn 2015-2025, quản lý việc thành lập, tổ chức, hoạt động

và giải thể các cơ sở TGXH, có CS ưu đãi khuyến khích xã hội hoá (XHH) trong lĩnh

vực này như ưu đãi về giao/ cho thuê đất, về vốn vay, thuế… và các CS liên quan đến

1

việc quản lý và đào tạo nguồn nhân lực cung ứng cho các cơ sở chăm sóc NCT.

Ngoài ra, các cơ sở TGXH công lập cũng được khuyến khích XHH và trao quyền

cung cấp dịch vụ…

Tuy nhiên, theo báo cáo năm 2022 của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội

(LĐTBXH), trên phạm vi toàn quốc, các cơ sở TGXH chăm sóc NCT gồm có 46 cơ

sở, trong đó có 6 cơ sở công lập và 40 cơ sở ngoài công lập. Các cơ sở này hiện đang

quản lý, nuôi dưỡng, chăm sóc 5.788 đối tượng (trong đó các cơ sở công lập có 835

đối tượng, ngoài công lập có 4.953 đối tượng). Báo cáo cho thấy sự phát triển của các

cơ sở chăm sóc NCT hiện nay còn rất hạn chế so với kỳ vọng CS: (1) Số lượng cơ sở

ngoài công lập được phát triển mới chưa đạt 1/2 so với mục tiêu; (2) Các cơ sở chưa

phân bổ theo quy hoạch về cơ cấu mạng lưới từng vùng; (3) Điều kiện về cơ sở vật

chất, trang thiết bị của hầu hết các cơ sở công lập đều đã xuống cấp không đáp ứng

được nhu cầu chăm sóc đặc thù của NCT trong thực tiễn; (4) Đội ngũ cán bộ tại các

cơ sở vừa thiếu về số lượng, vừa hạn chế về năng lực chăm sóc chuyên sâu đối với

nhóm đối tượng NCT; (5) Quan trọng hơn cả, số lượng NCT được chăm sóc tại các

cơ sở hiện nay mới đáp ứng được 0,5% số NCT cô đơn, thuộc hộ gia đình nghèo và

NCT còn vợ hoặc chồng nhưng già yếu, không có con, cháu, người thân thích để

nương tựa, thuộc hộ gia đình nghèo [4].

Hà Nội là thành phố đông dân và có mật độ dân số cao thứ hai trong cả nước.

Tỷ lệ dân số “già” ở Hà Nội tăng gấp đôi trong vòng chưa tới 20 năm qua và hiện

tuổi thọ trung bình của người dân Hà Nội ở mức cao nhất cả nước (trên 75 tuổi) với

nhiều vấn đề về sức khoẻ. Bên cạnh đó, Hà Nội còn là vùng có tốc độ gia tăng dân số

cao tuổi cơ học hàng năm ở mức cao do di dân đô thị. Điều này đặt ra những thách

thức cho việc chăm sóc NCT, nhưng cũng là cơ hội cho việc phát triển dịch vụ chăm

sóc NCT tại đây. Nhận thức rõ được những thách thức và cơ hội này, Uỷ ban nhân

dân (UBND) thành phố Hà Nội (TP Hà Nội) đã ban hành một loạt các văn bản nhằm

triển khai CS của chính phủ và hỗ trợ việc phát triển mạng lưới các cơ sở chăm sóc

NCT, cũng như trực tiếp thực hiện các dự án đầu tư phát triển hệ thống các cơ sở

chăm sóc NCT theo hướng XHH theo đặc thù tại địa phương. Tuy nhiên, tính đến

tháng 3/2022, toàn TP Hà Nội có 02 cơ sở chăm sóc NCT công lập và 13 cơ sở chăm

sóc NCT ngoài công lập. Bên cạnh đó, nhiều dự án xây dựng cơ sở chăm sóc NCT

được Thành phố phê duyệt theo dự án khuyến khích XHH đến nay sau nhiều năm

2

vẫn không được triển khai. Chưa kể hiện nay tại Hà Nội, có 03 cơ sở đang hoạt động

chăm sóc NCT nhưng chưa được cấp phép bởi ngành LĐTBXH. Nhiều cơ sở hoạt

động nhưng thiếu thốn về mặt bằng, trang thiết bị; các chủ cơ sở hoặc các nhà đầu tư

phát triển cơ sở TGXH chăm sóc NCT khó tiếp cận để hưởng các quy định hỗ trợ về

đất đai, vốn, xây dựng, đào tạo nhân lực, giảm thuế phí… Bức tranh tổng thể cho

thấy, quy mô chăm sóc, nuôi dưỡng NCT tại các cơ sở TGXH chỉ khoảng hơn 1100

người, đáp ứng được khoảng dưới 2% nhu cầu thực tế [4]. Vậy, vấn đề cần đặt ra là

vì sao nhiều CS được ban hành nhằm phát triển các cơ sở chăm sóc NCT nhưng

trong thực tế việc triển khai các CS hiện có tại Hà Nội lại không đạt được hiệu quả

như kỳ vọng?

Luận án “Thực hiện chính sách phát triển cơ sở chăm sóc người cao tuổi trên

địa bàn Hà Nội” mong muốn tìm ra câu trả lời về khoảng trống trong quá trình thực

hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT đã được ban hành và đang có hiệu lực tại địa

bàn Hà Nội. Kết quả nghiên cứu bàn luận về quá trình thực hiện CS tại Hà Nội,

nhưng mong rằng đây sẽ là bài học kinh nghiệm cho các khu vực kinh tế - xã hội -

chính trị tương đồng khác trên cả nước, giúp đóng góp vào công tác quản lý nhà

nước, công tác xây dựng và triển khai các CS an sinh xã hội cho NCT một cách hiệu

quả, để giải bài toán Việt Nam phải đối mặt khi xây dựng một xã hội thích ứng với

già hoá dân số.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu

Luận án tập trung đánh giá thực trạng việc thực hiện các chính sách phát triển

cơ sở chăm sóc cho NCT tại TP Hà Nội, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm cải thiện

việc thực hiện các chính sách này tại Hà Nội định hướng đến năm 2030, góp phần

nâng cao hiệu quả phát triển cơ sở chăm sóc NCT trong thực tiễn.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Nghiên cứu và hệ thống hoá những vấn đề lý luận và thực tiễn việc thực hiện

CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT trên thế giới, tại Việt Nam và tại địa bàn Hà Nội;

- Đánh giá kết quả thực hiện các CS phát triển cơ sở TGXH chăm sóc NCT trên

địa bàn Hà Nội dựa theo quy trình thực hiện chính sách, đồng thời đánh giá các yếu

tố ảnh hưởng tới hiệu quả của việc thực hiện các CS này;

- Xây dựng hệ thống các giải pháp dựa trên các phát hiện nhằm cải thiện hiệu

quả việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT tại Hà Nội trong giai đoạn từ

3

nay đến năm 2030, cũng như gợi ý cho việc nâng cao hiệu quả thực hiện CS phát

triển cơ sở chăm sóc NCT tại các nơi có điều kiện kinh tế - xã hội – chính trị tương

đồng khác tại Việt Nam.

3. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Việc thực hiện chính sách phát triển cơ sở chăm sóc NCT tại địa bàn Hà Nội.

3.2. Khách thể nghiên cứu

- Cán bộ hoạch định CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT.

- Cán bộ thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT tại Hà Nội.

- Cán bộ quản lý, chủ cơ sở chăm sóc NCT công lập và ngoài công lập tại Hà Nội.

- Các nhà đầu tư có nhu cầu hoặc đang hoàn thiện thủ tục xin cấp phép thành lập cơ

sở chăm sóc NCT tại Hà Nội.

- Chuyên gia nghiên cứu CS trong các lĩnh vực có liên quan.

3.3. Phạm vi nghiên cứu

3.3.1. Phạm vi nghiên cứu về nội dung

Do giới hạn về nguồn lực, luận án chỉ tập trung nghiên cứu về việc thực hiện

các chính sách phát triển các cơ sở TGXH chăm sóc NCT. Cơ sở TGXH chăm sóc

NCT là một trong ba loại hình cơ sở chăm sóc NCT, bên cạnh các cơ sở chăm sóc

ban ngày, hoặc các cơ sở tư vấn chăm sóc sức khoẻ NCT nói chung.

Các cơ sở TGXH chăm sóc NCT (sau đây được gọi là cơ sở chăm sóc NCT)

trong luận án này được hiểu là các cơ sở công lập do nhà nước xây dựng, quản lý

(thường được gọi là trung tâm bảo trợ xã hội (BTXH) và các cơ sở ngoài công lập do

tư nhân, tổ chức từ thiện, tổ chức tôn giáo xây dựng và quản lý (thường được gọi là

viện dưỡng lão, trung tâm chăm sóc NCT, trung tâm dưỡng lão, nhà dưỡng lão….).

3.3.2. Phạm vi nghiên cứu về không gian

Luận án tập trung nghiên cứu việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT

tại địa bàn Hà Nội.

3.3.3. Phạm vi nghiên cứu về thời gian

Luận án đánh giá thực trạng thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT tại địa

bàn Hà Nội từ năm 2015 đến năm 2022; đưa ra giải pháp cải thiện hiệu quả thực hiện

CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT tại Hà Nội đến năm 2030.

4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

4

4.1. Phương pháp luận nghiên cứu

Để giải quyết những vấn đề đặt ra, luận án sẽ dựa trên phương pháp luận nghiên

cứu khoa học bao gồm:

Phương pháp luận khái niệm (Conceptual approach): Phương pháp này nhằm

giúp phân tích các khái niệm, lý thuyết liên quan đến chính sách công nói chung,

chính sách phát triển cơ sở chăm sóc người cao tuổi nói riêng, bao gồm các khái

niệm then chốt trong lĩnh vực chính sách chăm sóc người cao tuổi: người cao tuổi,

chăm sóc người cao tuổi, cơ sở chăm sóc người cao tuổi. Bên cạnh đó, luận án xây

dựng các khái niệm, hệ thống khái niệm phù hợp với bối cảnh Việt Nam và xác định

các mối quan hệ giữa các khái niệm trong lĩnh vực nghiên cứu.

Phương pháp luận duy vật lịch sử (Historical approach): Luận án xem xét sự

hình thành và phát triển của chính sách phát triển cơ sở chăm sóc người cao tuổi ở

Việt Nam trong bối cảnh lịch sử. Đồng thời, phân tích các yếu tố chính trị - xã hội -

văn hóa - kinh tế tác động đến quá trình thực hiện chính sách, cũng như lý giải những

kết quả nghiên cứu cũng như ứng dụng các biện pháp nhằm cải thiện hiệu quả thực

hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT trong sự vận động và phát triển của xã hội.

Phương pháp luận so sánh (Comparative approach): Đây là phương pháp luận

nghiên cứu dựa trên việc so sánh các khái niệm, hiện tượng, quá trình, sự vật... để tìm

ra mối liên hệ, điểm tương đồng và khác biệt giữa chúng. Luận án so sánh mô hình

chính sách chăm sóc người cao tuổi giữa Việt Nam và các quốc gia khác trong khu

vực và trên thế giới từ đó chỉ ra điểm tương đồng và khác biệt, rút ra bài học kinh

nghiệm.

Phương pháp luận phân tích chính sách (Policy analysis approach): Đây là

phương pháp nghiên cứu các khía cạnh liên quan đến chính sách công, bao gồm phân

tích logic của chính sách, các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình hoạch định và thực thi

chính sách. Luận án xác định các tiêu chí để đánh giá hiệu quả chính sách; các công

cụ, mô hình để đánh giá tác động của chính sách tới các nhóm đối tượng và từ đó đưa

ra kết luận về hiệu quả và đề xuất các giải pháp cải thiện quá trình thực hiện chính

sách

Phương pháp luận đánh giá chính sách (Policy evaluation approach): Đây là

phương pháp nhằm xem xét, đo lường và đánh giá hiệu quả của một chính sách công

sau khi được ban hành và triển khai. Luận án phân tích và xác định các tiêu chí để

5

đánh giá hiệu quả chính sách bao gồm các công cụ, mô hình để đánh giá tác động của

chính sách tới các nhóm đối tượng khác nhau. Từ đó, luận án đưa ra kết luận về hiệu

quả và đề xuất các giải pháp cải thiện quá trình thực hiện chính sách.

4.2. Hướng tiếp cận nghiên cứu

Luận án đi theo hướng tiếp cận liên ngành, đa ngành trong khoa học xã hội, đặc

biệt là các hướng nghiên cứu chính trong thực hiện CS, cụ thể:

Tiếp cận theo quy trình thực hiện CS: Tuy là một phần trong chu trình CS,

nhưng giai đoạn thực hiện CS được xem là giai đoạn quan trọng quyết định tới sự

thành công hay thất bại của một CS khi được ban hành. Dựa trên cách tiếp cận về chu

trình CS, giai đoạn thực hiện CS cũng được nhiều học giả thống nhất và phân chia

thành các bước cụ thể khác nhau bao gồm: 1) Xây dựng văn bản và kế hoạch triển

khai thực hiện; 2) Phổ biến, tuyên truyền; 3) Huy động nguồn lực; 4) Phân công, phối

hợp thực hiện; 5) Kiểm tra, đánh giá quá trình thực hiện CS. Tác giả sử dụng hướng

tiếp cận này trong luận án như là một khung phân tích nhằm đánh giá việc thực hiện

CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT trên địa bàn Hà Nội theo từng bước.

Tiếp cận theo hướng các yếu tố ảnh hưởng theo mô hình 7C: Mô hình 7C, được

đề xuất bởi Cloete [74], là một trong những hướng tiếp cận mới để các nhà nghiên

cứu xây dựng công cụ thu thập dữ liệu, phân tích và xác định các yếu tố ảnh hưởng

đến sự thành công của quy trình thực hiện CS. Theo mô hình này, có 7 yếu tố ảnh

hưởng tới quá trình thực hiện chính sách bao gồm: nội dung chính sách; bối cảnh; sự

cam kết; năng lực; liên minh; truyền thông; phối hợp. Mô hình 7C đặc biệt hữu ích ở

các quốc gia đang phát triển, nơi quy trình thực hiện CS được coi là yếu điểm cản trở

sự thành công của CS [69, 112]. Nguyên nhân bởi: (1) Việc thực hiện CS không thể

được coi là một hoạt động được lên kế hoạch trước và thực hiện theo kế hoạch đã đề

ra; (2) Một CS sau khi thực hiện không đạt được hiệu quả như kỳ vọng, cần phải tìm

ra các yếu tố cản trở hoặc thúc đẩy quá trình thực hiện CS. Bởi vậy, đối với các CS

mới và được coi là một hợp phần nhỏ trong CS chăm sóc NCT hiện nay; cùng với sự

thiếu hụt văn bản và các con số thống kê cụ thể, cũng như việc thực hiện CS mới bắt

đầu được chủ thể thực hiện và các bên liên quan quan tâm, rất cần một cách tiếp cận

nghiên cứu mới như mô hình 7C để phân tích chi tiết hơn các yếu tố tác động tới quá

trình thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT tại Hà Nội từ đó đề xuất cách thức

cải thiện chất lượng thực hiện CS và tăng cường sự phát triển của xã hội.

4.3. Phương pháp nghiên cứu

6

4.3.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu thứ cấp

Luận án tổng hợp, hệ thống hoá, khái quát, phân tích những lý thuyết cũng như

các công trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước được đăng tải trên

sách, tạp chí, báo, đề tài nghiên cứu về các vấn đề liên quan tới thực hiện CS và CS

phát triển cơ sở chăm sóc NCT, cũng như để xác định khái niệm công cụ chính của

đề tài. Hơn 150 tài liệu đã được tác giả sử dụng từ các nguồn tài liệu chính thống,

được đăng tải trên các hệ thống cơ sở dữ liệu chuyên sâu như: Proquest; Cambridge

Journals; Google Scholar, hoặc thư viện của các trường ĐH trong nước và trên thế

giới. Luận án cũng tiếp cận các văn bản CS của Việt Nam dưới dạng Hiến pháp,

Luật, Quyết định, Nghị định, Thông tư… và các văn bản báo cáo nội bộ của các cơ

quan nhà nước cấp trung ương (TW) và địa phương để thu thập, hệ thống và đánh giá

các CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT hiện nay.

4.3.2. Phương pháp nghiên cứu định tính

Với mục tiêu, hướng tiếp cận của đề tài, sự giới hạn về khách thể nghiên cứu

trong thực tế, cũng như mức độ đánh giá chuyên sâu, tác giả lựa chọn và sử dụng

phương pháp nghiên cứu định tính là phương pháp nghiên cứu chính cho luận án này.

Các phương pháp thu thập dữ liệu cụ thể tác giả sử dụng bao gồm: phương pháp

phỏng vấn sâu; phương pháp thảo luận nhóm; phương pháp chuyên gia.

Do quần thể mẫu giới hạn, tác giả tiếp cận phương pháp chọn mẫu không xác

xuất. Chọn mẫu thuận tiện và chọn mẫu có mục đích là kỹ thuật chọn mẫu được sử

dụng trong luận án này.

Chọn mẫu thuận tiện là phương pháp chọn mẫu dựa trên các cá thể có sẵn, cụ

thể ở đây là các cán bộ thuộc các cơ quan hoạch định và thực hiện CS phát triển cơ

sở chăm sóc NCT, cán bộ quản lý các cơ sở chăm sóc NCT công lập, chủ cơ sở hoặc

người quản lý các cơ sở chăm sóc NCT ngoài công lập, các nhà đầu tư có nhu cầu và

đang hoàn thiện các thủ tục cấp phép thành lập cơ sở chăm sóc NCT cũng như các

chuyên gia nghiên cứu và đánh giá CS mà tác giả có thể tiếp cận tại địa bàn Hà Nội.

Chọn mẫu có mục đích là phương pháp chọn mẫu dựa trên các cá thể quan

trọng được xác định trước trong quần thể nghiên cứu. Cụ thể ở đây, đối với việc thực

hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT trên địa bàn Hà Nội, nhóm đối tượng điều tra

mà tác giả xác định là các cán bộ quản lý cấp Bộ, cán bộ quản lý và thực hiện CS cấp

địa phương (TP Hà Nội), và cán bộ quản lý các cơ sở chăm sóc NCT công lập và

7

ngoài công lập.

Về cỡ mẫu, tác giả lựa chọn theo phương pháp tới hạn. Điều này có nghĩa là

việc điều tra, phỏng vấn sẽ được dừng lại cho tới khi tác giả cảm thấy không phát

hiện được các nhân tố mới.

Do sự giới hạn số lượng khách thể nghiên cứu trong thực tế, tác giả đã cố gắng

tiếp cận tối đa các đối tượng phỏng vấn trong suốt quá trình thực hiện nghiên cứu.

4.3.2.1. Phương pháp phỏng vấn sâu

Luận án sử dụng bảng hướng dẫn phỏng vấn sâu nhằm khám phá các nội dung

chính bao gồm:

- Các văn bản CS liên quan tới việc phát triển cơ sở chăm sóc NCT ở cấp TW và

địa phương.

- Đánh giá việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT tại địa bàn Hà Nội.

- Đánh giá các yếu tố ảnh hưởng tới quá trình thực hiện CS theo mô hình 7C bao

gồm: nội dung CS; bối cảnh; sự cam kết; năng lực và nguồn lực; liên minh; truyền

thông; phối hợp liên ngành.

Đối tượng tham gia phỏng vấn sâu được lựa chọn với các tiêu chí đảm bảo

tính đa dạng của mẫu nghiên cứu bao gồm:

Đa dạng về vị trí và đơn vị công tác: Cán bộ CS cấp Bộ (ban hành CS); Cán bộ

CS cấp Sở thuộc các ngành khác nhau bao gồm ngành LĐTBXH (cơ quan chủ quản);

Kế hoạch đầu tư (KHĐT); Quy hoạch kiến trúc; Tài chính; Tài nguyên môi trường.

Chủ sở hữu/quản lý các cơ sở TGXH công lập và ngoài công lập chăm sóc NCT là

nhóm đối tượng mà luận án tập trung chính và chiếm số lượng lớn nhất trong số các

đối tượng được phỏng vấn. Ngoài ra, luận án tiếp cận phỏng vấn các nhà đầu tư có

nhu cầu hoặc đang trong quá trình hoàn thiện thủ tục cấp phép dự án thành lập cơ sở

chăm sóc NCT và nhóm chuyên gia nghiên cứu CS trong lĩnh vực có liên quan.

Đa dạng về giới tính: Đảm bảo tỉ lệ cân đối về giới tính (nam giới, nữ giới) giữa

các đối tượng tham gia phỏng vấn.

Đa dạng về độ tuổi và số năm công tác: Đảm bảo các đối tượng tham gia phỏng

vấn có kinh nghiệm liên quan tới quá trình ban hành và thực hiện CS liên quan tới

phát triển cơ sở chăm sóc NCT.

8

Bảng dưới đây mô tả chi tiết đối tượng được phỏng vấn sâu trong nghiên cứu:

Giới tính Độ Số năm

Đối tượng nghiên cứu tuổi công tác Nam Nữ TB TB

Cán bộ quản lý cơ sở công lập (TTBTXH 2,3) 1 1 48 23

Cán bộ quản lý cơ sở ngoài công lập 5 9 44 8

Cán bộ quản lý cơ sở khác 1 2 42 5

Các nhà đầu tư có nhu cầu hoặc đang hoàn 2 2 45 4 thiện xin cấp phép dự án thành lập cơ sở

Cán bộ thực hiện CS cấp Sở (Sở LĐTBXH) 0 3 42 12

Cán bộ CS sở Kế hoạch đầu tư 1 0 46 13

Cán bộ CS sở Tài nguyên môi trường 1 0 47 12

Cán bộ CS sở Quy hoạch kiến trúc 1 0 43 18

Cán bộ CS Sở tài chính 0 1 45 9

Cán bộ CS cấp Bộ 2 3 47 10

5 2 52 17 Chuyên gia nghiên cứu lĩnh vực có liên quan

Tổng số: 42 19 23

4.3.2.2. Phương pháp thảo luận nhóm

Đây là phương pháp nhằm thu thập những ý kiến khác nhau cùng một thời điểm

của các đối tượng tham gia nghiên cứu. Người được chọn lựa tham gia thảo luận là

nhóm các nhà quản lý hoặc chủ cơ sở chăm sóc NCT, các nhà đầu tư có nhu cầu

hoặc đang trong quá trình hoàn thiện thủ tục cấp phép thành lập cơ sở, mỗi nhóm

thảo luận sẽ bao gồm 5-6 thành viên, thời gian mỗi cuộc thảo luận nhóm kéo dài từ

60-90 phút.

Quá trình thảo luận nhóm ngoài việc tập trung tìm hiểu các ý kiến đánh giá về

thực trạng thực hiện các CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT, các câu hỏi liên quan tới

các giải pháp để nâng cao hiệu quả CS cũng được thảo luận. Bảng hướng dẫn thảo

luận nhóm cũng được xây dựng nhằm đảm bảo các nguyên tắc trong quá trình phỏng

vấn cũng như đảm bảo về mặt nội dung.

Số lượng người tham gia thảo luận nhóm được lựa chọn theo khu vực địa lý

khác nhau của Thành phố nhằm đảm bảo tính thuận tiện khi tham gia. Bên cạnh đó,

các tiêu chí về sự cân bằng giới tính, kinh nghiệm tham gia xây dựng, vận hành các

9

cơ sở chăm sóc NCT cũng được tính đến.

Bảng dưới đây mô tả chi tiết thông tin các thảo luận nhóm đã được tiến hành:

Đặc điểm nhóm

Khu vực Số lượng Thành phần (Số lượng) Thông tin nhóm

5 Nhóm số 01 Ngoại thành

6 Nhóm số 02 Nội thành

Hỗn hợp 6 Nhóm số 03

- Quản lý cơ sở công lập (1) - Quản lý/Chủ cơ sở tư nhân (3) - Nhà đầu tư (1) - Chủ cơ sở tư nhân (3) - Nhà đầu tư (1) - Chủ cơ sở đang trong quá trình thành lập (2) - Quản lý cơ sở công lập (2) - Quản lý/Chủ cơ sở tư nhân (3) - Nhà đầu tư/chủ cơ sở đang trong quá trình thành lập (1)

4.3.2.3. Phương pháp chuyên gia

Phương pháp này nhằm giúp tác giả tìm hiểu, khám phá thêm các quan điểm về

thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT tại Hà Nội dưới góc nhìn của các

chuyên gia. Có tổng số 05 nhà nghiên cứu CS tại các trường Đại học, các viện nghiên

cứu, các tổ chức phi chính phủ, và các chuyên gia độc lập đang hoạt động trong lĩnh

vực nghiên cứu CS liên quan tới NCT được tác giả phỏng vấn, tham khảo ý kiến liên

quan tới việc triển khai nghiên cứu, các phát hiện cũng như các giải pháp. Dựa trên

kết quả nghiên cứu của luận án và việc tham vấn quan điểm của các chuyên gia, tác

giả có thêm cơ sở để đề xuất các giải pháp cải thiện việc thực hiện CS phát triển cơ

sở chăm sóc NCT tại Hà Nội.

Các nội dung chính được tham vấn với các chuyên gia bao gồm: (1) Các xu thế

về nghiên cứu thực hiện CS hiện nay trên thế giới và ở Việt Nam; (2) Đánh giá về

nội dung và việc thực hiện các CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT tại Việt Nam hiện

nay; (3) Xu thế phát triển các dịch vụ chăm sóc NCT trên thế giới và định hướng CS

đối với bối cảnh Việt Nam; (4) Những tồn tại hiện có trong việc thực hiện CS phát

triển cơ sở chăm sóc NCT tại Việt Nam và giải pháp khắc phục.

4.3.3. Phương pháp xử lý dữ liệu định tính

Kết quả phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm được xử lý bằng phần mền Nvivo

2020, giúp cho tác giả có thể xác định ý kiến, quan điểm của những người được

phỏng vấn, sau đó phân tích và đưa ra các kết luận về các vấn đề nghiên cứu. Đặc

biệt, việc sử dụng phần mềm Nvivo 2020 giúp cho quá trình phân tích dữ liệu định

10

tính trở nên tiện lợi và đáng tin cậy hơn, bằng cách tổ chức và quản lý dữ liệu một

cách có hệ thống và chính xác. Từ đó, giúp cho người nghiên cứu có thể đưa ra

những kết luận và khuyến nghị dựa trên cơ sở dữ liệu chính xác và cụ thể.

4.4. Câu hỏi nghiên cứu

Dựa trên mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, luận án được thực hiện nhằm trả lời

cho các câu hỏi nghiên cứu cụ thể như sau:

1) Kết quả thực hiện các CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT trên địa bàn Hà Nội

hiện nay như thế nào?

2) Những yếu tố nào hiện đang cản trở hoặc thúc đẩy tới quá trình thực hiện các

CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT trên địa bàn Hà Nội?

3) Làm thế nào để cải thiện việc thực hiện các CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT

trên địa bàn Hà Nội?

5. Đóng góp mới về khoa học của luận án

Thứ nhất, luận án áp dụng hướng nghiên cứu tổng hợp theo mô hình 7C về các

yếu tố ảnh hưởng tới quá trình thực hiện CS. Đây được xem là một cách tiếp cận mới

trong nghiên cứu chính sách tại Việt Nam. Khung phân tích và công cụ nghiên cứu

được xây dựng theo cách tiếp cận này giúp phát hiện các yếu tố cụ thể tác động tới

từng bước trong quá trình thực hiện CCS. Từ đó, các giải pháp được đưa ra mang

tính cụ thể dựa trên các yếu tố ảnh hưởng chính được phát hiện.

Thứ hai, luận án đã chỉ ra được những kết quả cụ thể của quá trình thực hiện

các CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT tại Hà Nội bao gồm hệ thống các văn bản

chính sách đã được ban hành, sự ảnh hưởng của các chính sách này tới sự phát triển

của các cơ sở chăm sóc NCT về mặt số lượng và chất lượng.

Thứ ba, luận án cũng chỉ ra được các yếu tố cụ thể có ảnh hưởng tới quá trình

thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT tại Hà Nội. Trong đó, các yếu tố được

xem là có sự ảnh hưởng mang tính quyết định bao gồm sự phối hợp giữa các bên liên

quan, truyền thông và nội dung CS.

Thứ tư, luận án đã hệ thống hoá lại một loạt các khái niệm có liên quan tới

chính sách công, thực hiện CS, cơ sở chăm sóc NCT, và các kiến thức có liên quan

khác, từ đó tạo được cơ sở khoa học cho các nghiên cứu khác về thực hiện CS nói

chung và thực hiện các CS liên quan tới phát triển dịch vụ/cơ sở chăm sóc NCT tại

11

Việt Nam nói riêng.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

Về mặt lý luận: Luận án đã ứng dụng các lý thuyết về CS công và việc nghiên

cứu thực hiện CS công hiện nay trên thế giới, đặc biệt là các CS liên quan tới phát

triển hệ thống cơ sở chăm sóc NCT. Từ đó, nghiên cứu cũng đã giúp bổ sung và hoàn

thiện cũng như chứng minh tính đúng đắn của các lý thuyết về CS hiện nay. Hơn

nữa, luận án cũng góp phần củng cố và mở rộng thêm khung phân tích quy trình thực

hiện CS theo mô hình 7C để đánh giá việc thực hiện CS nhằm đưa ra các giải pháp

cải thiện quy trình thực hiện phù hợp từ góc nhìn của các bên liên quan.

Về mặt thực tiễn: Luận án tổng hợp một cách hệ thống và đầy đủ các CS liên

quan tới việc phát triển cơ sở chăm sóc NCT tại Việt Nam và Hà Nội, cùng với đó là

việc làm rõ và phân tích các yếu tố ảnh hưởng theo từng bước trong quy trình thực

hiện CS này tại địa bàn Hà Nội. Luận án cũng đưa ra những kiến nghị mang tính thực

tế, dựa trên kết quả nghiên cứu nghiêm túc của tác giả. Các nhà nghiên cứu, các cơ

quan hoạch định và thực hiện CS có thể xem luận án này như một tài liệu tham khảo

hữu ích nhằm phục vụ cho việc nghiên cứu, hoạch định và triển khai thực hiện các

CS liên quan tới NCT nói chung và đặc biệt là các CS về phát triển cơ sở chăm sóc

NCT trên địa bàn Hà Nội nói riêng. Đây cũng có thể được xem là một tài liệu tham

khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy, hoạch định và triển khai các CS quốc gia về

NCT và các dịch vụ chăm sóc NCT trong tương lai.

7. Kết cấu của luận án

Ngoài các phần kết cấu chung của luận án bao gồm: Phần mở đầu; Kết luận;

Các công trình đã công bố của tác giả; Danh mục tài liệu tham khảo; Phụ lục. Luận

án bao gồm 4 chương cụ thể như sau:

Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu

Chương 2. Cơ sở lý luận và thực tiễn về thực hiện chính sách phát triển cơ sở

chăm sóc người cao tuổi

Chương 3. Thực trạng thực hiện chính sách phát triển cơ sở chăm sóc người

cao tuổi tại Hà Nội

Chương 4. Giải pháp cải thiện hiệu quả thực hiện chính sách phát triển cơ sở

12

chăm sóc người cao tuổi tại Hà Nội.

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1.1. Các hướng tiếp cận nghiên cứu thực hiện chính sách công

Các nghiên cứu về thực hiện CS trên thế giới hiện nay khá đa dạng với nhiều

cách tiếp cận khác nhau trong các thập kỷ qua. Trong một nghiên cứu tổng hợp năm

2005 với tiêu đề bài báo “Sự thật và huyền thoại về nghiên cứu thực hiện chính sách

công: Không hợp thời, bị cáo buộc là đã chết, nhưng vẫn còn rất nhiều và có liên

quan”, tác giả Saetren [128] đã chỉ ra nguồn gốc của các nghiên cứu về thực hiện CS

đã có từ năm 1930, mặc dù đa phần đều tin rằng những nghiên cứu này bắt đầu từ hai

tác giả Pressman và Wildavsky [124] bởi hai ông là người đi tiên phong trong việc sử

dụng thuật ngữ “Thực hiện CS” và phổ biến nó. Tuy nhiên, sự khởi đầu của các

nghiên cứu về thực hiện CS đã bắt đầu từ rất sớm với nhiều những khái niệm và cách

tiếp cận khác nhau trong việc nghiên cứu về thực hiện CS.

Đầu tiên phải kể đến cách tiếp cận định lượng dựa trên lý thuyết kinh tế trong

nghiên cứu thực hiện CS với công trình nghiên cứu điển hình của Hotelling [98]

trong bài báo có tiêu đề "Phúc lợi chung liên quan đến các vấn đề thuế và mức giá

của đường sắt và tiện ích" được công bố vào năm 1938. Trong nghiên cứu này, ông

đã đưa ra các phương trình toán học để tính toán chi phí đầu tư và thu nhập bình quân

đầu người trong các CS. Hướng tiếp cận của Hotelling là sử dụng phương pháp định

lượng và lý thuyết kinh tế để nghiên cứu và giải thích tại sao chính phủ lại có vai trò

quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến CS công và đưa ra các

phương trình toán học để tính toán chi phí đầu tư và thu nhập bình quân đầu người

trong các CS này. Kết quả nghiên cứu đã giúp ngành kinh tế học hiểu rõ hơn về vai

trò của chính phủ trong việc quản lý và thực hiện CS bằng cách đưa ra phương pháp

tính toán lợi ích - chi phí, giúp chính phủ đưa ra quyết định hiệu quả hơn trong việc

thực hiện các CS công. Tuy nhiên, nghiên cứu này bị giới hạn trong một số khía cạnh

như không đưa ra các phân tích chi tiết về các ảnh hưởng khác của CS đối với nền

kinh tế - xã hội cũng như không đưa ra các giải pháp cụ thể để giải quyết các vấn đề

liên quan đến CS.

Một nghiên cứu khác của hai tác giả Bahl và Oates [64] có tên “Khía cạnh về

13

Khả năng Tài chính: Một so sánh Quốc tế” được đăng trên tạp chí Public Finance

Quarterly vào năm 1978 đã sử dụng mô hình ngân sách chi tiết để phân tích dữ liệu

ngân sách của 12 tiểu bang tại Hoa Kỳ từ 1955 đến 1970. Kết quả cho thấy các CS

thuế và chi tiêu của tiểu bang có tác động mạnh mẽ đến tình trạng ngân sách, và việc

sử dụng mô hình ngân sách chi tiết có thể giúp các tiểu bang đưa ra những quyết định

ngân sách chính xác hơn. Nghiên cứu của Bahl và Oates đã đưa ra một cách tiếp cận

phân tích và đánh giá hiệu quả của các CS công bằng cách sử dụng phương pháp tính

toán ngân sách chi tiết. Nghiên cứu này đã làm nổi bật vai trò quan trọng của việc

quản lý và kiểm soát ngân sách để đảm bảo sự ổn định và phát triển bền vững của

kinh tế.

Cùng với cách tiếp cận kinh tế và lợi ích, năm 1955 tác giả Herbert A. Simon đã

đưa ra khái niệm "quyết định chính sách" (policy decision), đó là quá trình lựa chọn

và triển khai các hành động để giải quyết một vấn đề chính trị, xã hội, kinh tế hoặc

môi trường. Khái niệm này giúp cho các nghiên cứu về thực hiện CS công tập trung

vào quá trình lựa chọn và thực hiện CS thay vì chỉ tập trung vào việc thiết kế CS.

Simon đã sử dụng lý thuyết quyết định để giải thích quá trình quyết định CS. Theo lý

thuyết này, quyết định được đưa ra dựa trên việc so sánh các tùy chọn khác nhau và

đánh giá các hậu quả có thể xảy ra từ mỗi tùy chọn. Để đưa ra quyết định tốt nhất,

quá trình quyết định phải dựa trên thông tin đầy đủ và chính xác về tình hình và các

tùy chọn có sẵn. Quá trình quyết định cũng bao gồm các yếu tố tâm lý và chính trị,

bởi vì các quyết định CS thường bị ảnh hưởng bởi những quan điểm chính trị, giá trị

và lợi ích của các bên liên quan [132].

Với cách tiếp cận xem xét các yếu tố văn hóa, chính trị, xã hội, tác giả Appleby

[62] trong cuốn sách "Quản lý công và Lợi ích cộng đồng” đã phân tích một loạt các

yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện CS công, bao gồm cả các yếu tố văn hóa, chính trị và

kinh tế. Trong cuốn sách của mình, Appleby đã chỉ ra rằng quyết định CS công

không chỉ phụ thuộc vào các yếu tố kinh tế, mà còn phụ thuộc vào các yếu tố văn

hóa, chính trị và xã hội. Vì vậy, tác giả khuyến khích các nhà quản lý công và nhà

hoạch định CS nên cân nhắc đến các yếu tố này khi thực hiện CS công. Theo

Appleby, để tăng cường tính minh bạch và hiệu quả của CS công, các nhà quản lý

14

công nên đảm bảo rằng quá trình ra quyết định được thực hiện công khai và minh

bạch, và các quyết định này phải được dựa trên những thông tin đầy đủ và chính xác.

Cuốn sách của Appleby đã ảnh hưởng đến nhiều nghiên cứu về thực hiện CS công

sau này. Nó đã mở ra một hướng tiếp cận mới về việc xem xét các yếu tố văn hóa,

chính trị và xã hội trong quyết định CS công, và đã thúc đẩy sự quan tâm đến việc

tăng cường tính minh bạch và hiệu quả của CS công [62].

Tiếp theo là hướng tiếp cận phân tích dựa trên quan điểm các nhóm lợi ích.

Nghiên cứu của hai tác giả Lindblom [110] và Wildavsky [148] đưa ra những

phương pháp và hướng tiếp cận tương đồng và mở rộng trong việc phân tích thực

hiện CS. Nghiên cứu của Lindblom lấy ví dụ về quyết định CS về nông nghiệp và

cho rằng quyết định đó phụ thuộc vào các yếu tố khác nhau như sự ảnh hưởng của

các nhóm lợi ích, thông tin và kinh nghiệm của cán bộ lãnh đạo thực hiện CS. Aaron

Wildavsky đưa ra khái niệm "nhóm lợi ích" và cho rằng các nhóm lợi ích sẽ có tầm

nhìn khác nhau về các CS và sẽ ảnh hưởng đến quyết định của chính phủ. Nghiên

cứu của ông đưa ra một phương pháp phân tích mới về thực hiện CS bằng cách tập

trung vào tầm nhìn và quan điểm của các nhóm lợi ích và cách chúng ảnh hưởng đến

quyết định CS của chính phủ. Những phương pháp này cũng giúp chính phủ và các

nhà quản lý có thể đưa ra các quyết định CS phù hợp với tầm nhìn của các nhóm lợi

ích và các yếu tố xã hội, chính trị và văn hóa khác nhau.

Đến những năm 1970, hướng tiếp cận đánh giá hiệu quả và tính độc lập của CS

phát triển mạnh mẽ. Các nghiên cứu về thực hiện CS công bắt đầu tập trung vào các

vấn đề về hiệu quả và tính độc lập của các CS, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế. Các

tác giả như Kenneth J. Arrow, Amartya Sen, và James M. Buchanan đã đưa ra các

quan điểm về việc đánh giá hiệu quả của các CS công và ý nghĩa của tính độc lập của

các quyết định CS. Các tác giả cho rằng việc đánh giá hiệu quả của các CS công

không chỉ dựa trên các chỉ tiêu kinh tế, việc đánh giá hiệu quả của các CS công phải

dựa trên sự đánh giá đa chiều về các yếu tố liên quan như môi trường và xã hội cũng

như tính độc lập và tiêu chuẩn về trách nhiệm của chính phủ. [63, 71, 130].

Sau này, trong công trình nghiên cứu của 2 tác giả Pressman và Wildavsky

[124] vào những năm 1970, thuật ngữ “thực hiện chính sách công” chính thức được

15

ra đời với ý nghĩa mô tả quá trình chuyển đổi các CS thành hành động thực tế. Từ đó,

các nghiên cứu về thực hiện CS công đã trở thành một lĩnh vực nghiên cứu phức tạp

và đa dạng, với nhiều cách tiếp cận khác nhau hơn. Các nghiên cứu này bao gồm các

phương pháp kết hợp định tính và định lượng, phân tích đa cấp, phân tích mạng lưới,

phân tích CS, đánh giá tác động, và nghiên cứu trường hợp.

Từ những năm 1980 trở đi, sự phát triển của các nghiên cứu sau đó tiếp tục đạt

đỉnh và sụt giảm phần nào. Nhưng các học giả như Goggin và cộng sự [91] tỏ ra khá

lạc quan về tương lai của các nghiên cứu được triển khai ở giai đoạn tiếp theo. Các

tác giả dự đoán rằng mối quan tâm có thể sẽ tăng lên trong suốt những năm 1990 và

tiếp tục nhiều hơn trong thế kỷ 21. Với nghiên cứu được thực hiện năm 2014, tác giả

Saetren [127] đã khẳng định nghiên cứu về thực hiện CS công vẫn còn tồn tại và đã

phát triển tốt hơn vào thế kỷ 21. Xu hướng nghiên cứu thực hiện CS công hiện nay

thể hiện ở ba khía cạnh: đa dạng hoá các cách gọi thay thế khái niệm thực hiện CS

công, xu hướng sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính, so sánh đối chiếu và

hướng tiếp cận đánh giá thực hiện CS bằng công cụ nghiên cứu cụ thể.

Ở khía cạnh thứ nhất, các học giả nhận thấy từ thế kỷ 21, nghiên cứu về thực

hiện CS lại quay trở lại, nhưng được nghiên cứu dưới những khái niệm mới và khác

nhau như: quản trị mới; các công cụ và thiết kế CS; nghiên cứu mạng lưới; thuê

ngoài; hợp tác công tư; tính quan liêu cấp xã/phường; quản lý; quản lý công mới; các

nghiên cứu về tác nhân chính; hiệu quả hoạt động; thực thi quy định; và tuân thủ

[149].

Ở khía cạnh thứ hai, xu hướng nghiên cứu thực hiện CS công trên thế giới hiện

nay là tập trung sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính mặc dù lý tưởng nhất là

kết hợp cả định tính và định lượng. Các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, việc nghiên cứu

nên sử dụng phân tích so sánh đối chiếu để tăng giá trị của nghiên cứu.

Tác giả Saetren [128, tr. 53] trong nghiên cứu của mình năm 2005 đã tiến hành

đánh giá toàn diện các tài liệu và kết luận rằng nghiên cứu thực hiện CS đã phát triển

nhanh chóng và ở trong tình trạng tốt: "... tồn tại và phát triển tốt hơn nữa vào thế kỷ

21 về mặt định lượng", giống như hầu hết các nghiên cứu chủ yếu mang tính định

lượng trong thập niên 70, 80. Nhưng sau đó gần một thập kỷ, vào năm 2014, chính

16

Saetren [127] trong công trình nghiên cứu của mình đã xem xét 547 bài báo trên các

tạp chí hàng đầu trong lĩnh vực khoa học chính trị, hành chính công và CS công, và

đưa ra kết luận, bao gồm:

(1) Nghiên cứu thực hiện CS đã đến giai đoạn chín muồi. Các nghiên cứu đã

hướng nhiều hơn tới việc cung cấp các dữ liệu định tính để bổ sung cho những

nghiên cứu vốn chủ yếu sử dụng dữ liệu định lượng ở những thập niên trước. Lý

tưởng nhất là nghiên cứu triển khai kết hợp các phương pháp định lượng và định tính

dù trên thực tế vẫn rất khó thực hành. Tác giả Saetren cũng phát hiện ra rằng, các nhà

nghiên cứu ở Châu Âu thường sử dụng các phương pháp định tính hơn, trong khi các

nhà nghiên cứu ở Mỹ giỏi sử dụng các phương pháp định lượng với nhiều kỹ thuật

phân tích [127].

(2) Những nghiên cứu trường hợp đơn lẻ có giá trị về mặt học thuật có vẻ rất

hiếm trong các nghiên cứu thực hiện CS, nhưng một số đặc điểm thiết kế nghiên cứu

nhất định như nghiên cứu trường hợp so sánh sẽ có giá trị hơn đối với sự phát triển lý

thuyết thực hiện CS [127]. Trong một nghiên cứu khác, hai tác giả Hupe và Saetren

[100] cũng đã củng cố lại quan điểm và nhấn mạnh thêm rằng, các nghiên cứu so

sánh nổi bật hơn và là hướng nghiên cứu mới trong khoa học thực hiện CS do sự ra

đời của một thế hệ nghiên cứu thứ ba mặc dù những nghiên cứu so sánh cũng gặp phải

nhiều thách thức. Cũng có cùng quan điểm, các tác giả Wee de Wee [83] và Tatiana-

Camelia [136] nhận thấy dù còn nhiều thách thức, nhưng những phân tích CS so sánh

đã thu hút sự chú ý của các nhà lý thuyết. Các nghiên cứu này có nhiều tiềm năng sử

dụng trong việc hỗ trợ liên ngành về kiến thức trong phân tích CS để giải quyết lý do

vì sao các CS trên khắp thế giới đang không đạt được mục tiêu thành công.

Ngoài ra, các nghiên cứu xét về khía cạnh địa lý, lĩnh vực, đối tượng nghiên

cứu cũng được tổng hợp cho thấy nội dung các hướng nghiên cứu thực hiện CS trong

những năm gần đây. Trong nghiên cứu năm 2005, với số lượng hơn 7300 nghiên cứu

trong lĩnh vực thực hiện CS từ trước năm 2003, tác giả Saetren [128] đã nhận thấy

các học giả luôn quan tâm nhiều hơn đến năm vấn đề CS sau: các vấn đề giáo dục, y

tế, môi trường, xã hội và kinh tế. Nhưng trong tổng hợp các nghiên cứu, xã hội và

kinh tế là hai chủ đề chỉ dành được 8% lượng nghiên cứu. Ngoài ra, chủ yếu các

17

nghiên cứu được công bố đều tới từ các nước phương Tây. Đến năm 2017, trong bài

báo “Nghiên cứu so sánh về hai luồng nghiên cứu thực hiện chính sách”, các tác giả

Roll và cộng sự [126] đã thực hiện một đánh giá so sánh của hơn 1.500 bài báo trên

tạp chí về thực hiện CS được xuất bản từ năm 2004-2013 và nhận thấy: (1) Các

nghiên cứu chủ yếu sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính (35%) và định lượng

(21%), các nghiên cứu hỗn hợp hoặc lý thuyết chiếm tỷ trọng nhỏ (tương ứng 7% và

6%). Về lĩnh vực, các nghiên cứu tập trung nhiều nhất vào ba lĩnh vực sức khoẻ

(52%), giáo dục (20%) và môi trường (12%), trong khi đó lĩnh vực ASXH chỉ chiếm

7% nghiên cứu. Nhóm đối tượng mục tiêu của các CS rất đa dạng từ trẻ em, người

khuyết tật (NKT), NCT, đối tượng yếu thế về mặt y tế, gia đình và cha mẹ, nghèo

đói, sắc tộc và dân tộc, hoặc không rõ nhóm dân số mục tiêu, nhưng NCT là nhóm

đối tượng chỉ chiếm 2% các nghiên cứu với tỷ lệ nhỏ. Điều này có nghĩa là các

nghiên cứu về thực hiện CS trong lĩnh vực an sinh xã hội, tập trung vào nhóm dân số

mục tiêu là NCT còn thiếu do mới chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ trong các nghiên cứu thực hiện

CS công.

Ở khía cạnh thứ ba, hướng nghiên cứu theo các yếu tố ảnh hưởng sử dụng công

cụ nghiên cứu bằng mô hình 7C được xem là hướng nghiên cứu thực hiện CS phổ

biến hiện nay tại các nước đang phát triển. Hướng tiếp cận này cung cấp công cụ

nghiên cứu giúp tìm kiếm và đánh giá các yếu tố cụ thể ảnh hưởng tới quá trình thực

hiện CS và từ đó gợi ý các giải pháp cụ thể nhằm cải thiện quá trình thực hiện CS

công.

Trong một số nghiên cứu về thực hiện CS công ở Việt Nam, vấn đề về hiệu quả

thực hiện CS công được quan tâm bởi các nhà nghiên cứu cũng như các nhà hoạch

định CS. Một số tác giả đã có những nghiên cứu về hiệu quả việc thực hiện CS công

như Nguyễn Trọng Bình [25], Lê Chi Mai [18], Ngô Ngọc Thắng [20], Nguyễn Hữu

Hải [22]. Các tác giả tiếp cận nghiên cứu ở các khía cạnh khác nhau, tuy nhiên mục

đích chung của các nghiên cứu tập trung vào việc khám phá định tính các vấn đề cản

trở tính hiệu quả của quá trình thực hiện CS tại Việt Nam. Kết quả các nghiên cứu

chỉ ra một số khía cạnh chung ảnh hưởng tới việc thực hiện CS bao gồm: tính chất

của vấn đề CS; tính đúng đắn và cụ thể của CS; nguồn lực thực hiện CS; sự phối hợp

18

giữa các cơ quan và cá nhân; sự tiếp nhận và ủng hộ của đối tượng; phẩm chất năng

lực của người thực hiện CS; bộ máy và cơ chế vận hành của cơ quan thực hiện CS;

và cuối cùng là môi trường kinh tế, chính trị và văn hoá.

Trong cuốn sách “Những vấn đề cơ bản về chính sách và quy trình chính sách”,

bàn đến các yếu tố tác động đến việc thực hiện CS, tác giả Lê Chi Mai [18] phân chia

các yếu tố thành ba nhóm: (1) các yếu tố liên quan đến bản chất vấn đề và chất lượng

hoạch định CS (tính chất đa dạng của vấn đề CS, các khó khăn kỹ thuật khi giải

quyết vấn đề, phạm vi và đặc thù của các nhóm đối tưởng CS, tính rõ ràng và nhất

quán của mục tiêu CS, quy mô của nhóm mục tiêu); (2) các yếu tố liên quan đến khả

năng thực hiện CS (sắp xếp các tổ chức có liên quan, quan hệ giữa các tổ chức cùng

tham gia thực hiện CS, năng lực của cơ quan thực hiện, kinh phí cần thiết để thực

hiện CS, trình độ và năng lực của những người phụ trách, cách ứng xử của các chủ

thể thực hiện, thủ tục hành chính), (3) các yếu tố bên ngoài tác động vào quá trình

thực hiện CS (bối cảnh thực tế, công luận, thái độ của các nhóm có liên quan, sự hỗ

trợ của các nhà lãnh đạo cấp trên) [18].

Không phân loại các yếu tố như trên, tác giả Nguyễn Hữu Hải [22] trong cuốn

sách “Chính sách công: những vấn đề cơ bản” đã phân các yếu tố ảnh hưởng thành

hai nhóm: (1) yếu tố khách quan (bao gồm tính chất của vấn đề CS công, môi trường

thực hiện CS công, mối quan hệ giữa các đối tượng thực hiện CS công, tiềm lực của

các nhóm đối tượng CS, đặc tính của đối tượng CS) và (2) các yếu tố chủ quan (bao

gồm năng lực thực hiện CS công của cán bộ, công chức, mức độ tuân thủ các bước

trong quy trình tổ chức thực hiện CS công, các điều kiện vật chất để thực hiện CS

công, sự đồng tình ủng hộ của người dân). Đồng quan điểm về các yếu tố ảnh hưởng

tới thực hiện CS công, tác giả Nguyễn Trọng Bình [25] trong bài báo “Nâng cao hiệu

quả thực thi CS công ở Việt Nam” đánh giá trong những yếu tố trên, ba yếu tố chủ

yếu bao gồm chất lượng CS; đối tượng bị tác động bởi CS (đối tượng CS) và chủ thể

thực hiện CS là các yếu tố có tính quyết định trong hiệu quả thực hiện CS công ở

Việt Nam.

Như vậy, có thể thấy, các nghiên cứu các nghiên cứu thực hiện CS ở Việt Nam

chủ yếu dựa vào việc khám phá các yếu tố tác động đến việc thực hiện CS, từ đó tìm

19

cách cải thiện hiệu quả thực hiện. Nhưng, một điểm nổi bật trong hướng nghiên cứu

thực hiện CS trên thế giới hiện nay khác với nghiên cứu ở Việt Nam là việc các học

giả đã áp dụng các mô hình lý thuyết cụ thể vào việc nghiên cứu thực hiện CS. Trong

đó, mô hình 5C và 7C là mô hình được áp dụng phổ biến gần đây trong cách tiếp cận

nghiên cứu quy trình thực hiện CS. Đây là một trong cách cách tiếp cận đánh giá

thực hiện CS được xem là phù hợp nhằm đưa ra các giải thích cụ thể về hiệu quả thực

hiện CS thông qua các biến số chung được đo lường trải dài trong suốt tiến trình thực

hiện CS. Các học giả cũng cho rằng, nghiên cứu theo mô hình 5C và 7C đặc biệt phù

hợp trong bối cảnh nghiên cứu thực hiện CS ở các quốc gia đang phát triển tại châu

Phi và Châu Á, nơi mà việc hoạch định CS tốt hơn rất nhiều so với việc tuân thủ chặt

chẽ một quy trình thực hiện CS và nơi mà không phải CS nào được ban hành cũng sẽ

ngay lập tức được triển khai hiệu quả trong thực tế [69, 112].

Nói về hướng nghiên cứu thực hiện CS công dựa trên cách tiếp cận sử dụng

công cụ để đánh giá các yếu tố ảnh hưởng, năm 2016, trong bài báo Phân tích về

thực hiện CS công được công bố, các tác giả Marume và cộng sự [113] đã tổng hợp

khung lý thuyết về thực hiện CS để làm cơ sở phân tích về các yếu tố liên quan tới

thực hiện CS công tại một số nước đang phát triển ở châu Phi. Trong rất nhiều khung

lý thuyết được đưa ra, các tác giả đã tóm lược những học giả tiêu biểu và đóng góp

đáng chú ý về các yếu tố ảnh hưởng tới thực hiện CS như:

(1) Edwards và Sharkansky (1978): trình bày chi tiết những rào cản khiến

những người ra quyết định gặp phải khi cố gắng thực hiện ý định của họ bao gồm:

Giao tiếp, nguồn lực, bố trí, các thủ tục hoạt động, theo dõi sau thực hiện;

(2) Ruth Levitt (1980): liệt kê 19 đặc điểm ảnh hưởng tới thực hiện CS công

bao gồm các khía cạnh như: quy mô thời gian để đưa ra các quyền lực pháp lý, CS

công với tư cách là chức năng của CS chi tiêu công, chi phí cơ hội của các ưu tiên

thay thế, áp lực bên ngoài đối với các cơ quan thực hiện, hình ảnh tổ chức, năng lực

học hỏi kinh nghiệm thực hiện, lợi ích của việc hoạch định CS quốc tế;

(3) Frawley (1977) xác định năm yếu tố tác động tới CS công và việc thực hiện,

cụ thể là: giải thích và xác định các mục tiêu, phát triển các hướng dẫn và quy định;

20

ủy quyền và giao tiếp, hoạt động và giám sát;

(4) Halparin đưa ra ba yếu tố giải thích cơ bản cho sự thất bại của việc thực

hiện CS công, đó là: thiếu kiến thức, thiếu khả năng và năng lực, và thiếu cam kết;

(5) Van Horn và Van Meter (1977) xác định tám yếu tố ảnh hưởng đến nỗ lực

thực hiện các chương trình và cải thiện hiệu quả, bao gồm: môi trường chính trị, các

điều kiện kinh tế và xã hội, tiêu chuẩn CS, các nguồn lực CS, đặc điểm của cơ quan

thực hiện (chất lượng đội ngũ, tổ chức bộ máy và mối quan hệ với các cán bộ, đơn vị

khác), bố trí người thực hiện, tính lợi ích của người thực hiện, giao tiếp.

Một số học giả về thực hiện CS, như Goggin, Bowman [91], đã đồng ý về các

biến số quan trọng giống nhau cần thiết để đảm bảo thực hiện CS thành công bao

gồm: hình thức và nội dung của CS; năng lực của đơn vị thực hiện; và năng lực của

những người chịu trách nhiệm chính. Dựa trên những ý niệm này, tác giả Najam

[118] đã đề xuất 5 biến số chính ảnh hưởng tới sự thành công hay thất bại của của

một CS, và nó được gọi là mô hình 5C, bao gồm: nội dung (content); bối cảnh

(context); cam kết (commitment); đối tác/liên minh (clients/coalitions); năng lực

(capacity).

Dựa trên mô hình 5C, tác giả Brynard [69] đã thêm vào chữ “C” thứ 6 là

“truyền thông” (communication) như là một yếu tố quan trọng trong việc đánh giá

thực hiện CS. Thêm vào đó, Burger [72] trong cuốn sách “CS môi trường đô thị tổng

hợp của thành phố Cape Town: Đánh giá việc thực hiện”, đã đưa ra tranh luận rằng

sự phối hợp hiệu quả mới là yếu tố tiên quyết đối với việc thực hiện thành công CS,

và nếu không có sự phối hợp chặt chẽ thậm chí kết quả mong đợi của CS sẽ không

được nhận thức rõ ràng. Cùng chung bối cảnh nghiên cứu, vào năm 2018 tác giả

Cloete De Coning [73], đã đề xuất thêm chữ “C” thứ 7 đó là “sự phối hợp”

(coordination) vào mô hình 5C, và do đó mô hình 7C đã ra đời.

Mô hình 7C đã được chính tác giả Brynard (2005) sử dụng như là một công cụ

hữu ích để thực hiện nghiên cứu đánh giá những vấn đề tồn tại chính trong việc thực

hiện và cung cấp dịch vụ CS công tại Nam Phi. Mô hình 7C được sử dụng nhằm giúp

phân tích các khía cạnh phức tạp và đa dạng trong suốt tiến trình thực hiện CS, từ đó

giúp làm sáng tỏ hiệu quả của việc triển khai và từ đó xác định rõ các dịch vụ công

21

phù hợp và chất lượng. Mô hình 7C cũng giúp chỉ ra rằng việc thực hiện CS không

thể được coi là một hoạt động được lên kế hoạch trước và thực hiện theo kế hoạch đã

đề ra. Đúng hơn, đó là một tiến trình được quản lý và liên tục rút ra các bài học kinh

nghiệm trong suốt các giai đoạn thực hiện khác nhau. Trên cơ sở tiếp cận tương tự,

nhiều nhà nghiên cứu thực hiện CS trên thế giới đã áp dụng mô hình 5C và 7C trong

các nghiên cứu của mình như một công cụ về mặt lý thuyết hữu ích trong việc định

hướng phân tích, đánh giá thực hiện các CS ở nhiều lĩnh vực khác nhau.

Một số nghiên cứu về tính ứng dụng của mô hình 7C điển hình như nghiên cứu

của tác giả Molobela [115] tập trung vào việc thảo luận và đánh giá khả năng áp

dụng mô hình 7C trong việc cải thiện việc thực hiện CS và cung cấp dịch vụ công ở

các thành phố tự trị của Nam Phi. Nghiên cứu này làm rõ các khái niệm của mô hình

7C và xác định các nguyên tắc cơ bản cũng như đề xuất những yếu tố cần cải thiện

trong việc thực hiện CS công về dịch vụ đô thị bằng việc áp dụng 7C để đánh giá cụ

thể quy trình thực hiện CS. Cùng nghiên cứu về hiệu quả thực hiện các CS ở các

thành phố tự trị của Nam Phi, tác giả Munzhedzi [117] đã sử dụng mô hình 7C như

một khung lý thuyết nhằm đánh giá các kế hoạch khác nhau của thành phố, bao gồm

kế hoạch phát triển tích hợp, kế hoạch ngân sách nhằm đánh giá tính hiệu quả của các kế

hoạch này dẫn đến tình trạng tồn đọng liên tục trong việc cung cấp các dịch vụ công.

Tóm lại, các nghiên cứu về thực hiện CS trên thế giới đã được bắt đầu từ rất

sớm với nhiều cách cách tiếp cận khác nhau. Giai đoạn đầu, các nhà nghiên cứu CS

tập trung vào việc nghiên cứu định lượng, nghiên cứu khám phá các yếu tố ảnh

hưởng nhằm cải thiện quy trình CS. Trong các giai đoạn nghiên cứu thực hiện CS

tiếp theo, các nhà nghiên cứu đã thấy sự cần thiết của việc tiếp cận nghiên cứu theo

hướng định tính nhằm thu thập dữ liệu để bổ sung cho các dữ liệu mang tính định

lượng vốn đang phổ biến trong nghiên cứu thực hiện CS công. Và quan trọng hơn cả,

là việc nghiên cứu cần dựa trên một công cụ toàn diện như mô hình 7C để đảm bảo

tính tổng thể của kết quả nghiên cứu. Cuối cùng, từ việc xem xét một loạt các nghiên

cứu về thực hiện CS nói chung và các CS liên quan tới phát triển dịch vụ và cơ sở

chăm sóc NCT, có thể thấy các nghiên cứu về thực hiện CS với nhóm NCT chỉ

22

chiếm khoảng 2% trong tổng số các nghiên cứu nói chung. Vì thế, các nghiên cứu

hướng tới nhóm đối tượng NCT hoặc các vấn đề liên quan tới người cao tuổi cần

được quan tâm nhiều hơn nữa, đặc biệt trong bối cảnh già hoá dân số toàn cầu.

1.2. Các nghiên cứu về nhu cầu phát triển cơ sở chăm sóc người cao tuổi

Ủy ban Bảo vệ Xã hội (Social Protection Committee - SPC) và Ủy ban Châu

Âu (European Commission) trong báo cáo "Chăm sóc dài hạn: Xu hướng, thách thức

và cơ hội trong một xã hội già hoá" đã tập trung vào việc phân tích xu hướng, thách

thức và cơ hội trong lĩnh vực CSDH cho NCT trong một xã hội có mức độ già hoá

ngày càng cao. Báo cáo đã nêu bật một số xu hướng đáng chú ý bao gồm việc cần

phải tăng cường các dịch vụ CSDH cho NCT. Việc gia tăng tuổi thọ và sự gia tăng tỷ

lệ NCT đặt ra áp lực lớn cho hệ thống CSDH và yêu cầu sự mở rộng và nâng cao

chất lượng các dịch vụ này. Tuy nhiên, báo cáo cũng nhấn mạnh tới việc cần phải đa

dạng hóa các lựa chọn chăm sóc cho NCT. Điều này bao gồm việc phát triển các

DVCS tại nhà, chăm sóc trung tâm và chăm sóc cộng đồng, nhằm tạo ra sự linh hoạt và

lựa chọn phù hợp cho NCT. Bên cạnh đó, cần thiết phải cải thiện chất lượng chăm sóc

đảm bảo sự đáng tin cậy, an toàn và chăm sóc tập trung vào khách hàng (NCT), đồng

thời đảm bảo rằng các dịch vụ mang tính phù hợp với nhu cầu thực tế của NCT [77].

Tác giả Guzman [92] trong báo cáo “Già hoá trong thể kỉ 21: Thành công và

thách thức” thông qua việc phân tích xu hướng già hoá dân số toàn cầu, với việc tập

trung đặc biệt vào các thay đổi dân số, tình hình kinh tế, sự phát triển công nghệ và

ảnh hưởng của những yếu tố này đến sức khỏe và chất lượng cuộc sống của NCT đã

nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tăng cường chăm sóc sức khỏe và cải thiện điều

kiện sống cho NCT. Tác giả đề xuất một loạt các biện pháp để tăng cường chăm sóc

sức khỏe và cải thiện cuộc sống của NCT bao gồm việc đảm bảo NCT tham gia vào

các loại hình chăm sóc đa dạng, tăng cường phòng ngừa và chăm sóc sức khỏe tại

nhà và cung cấp dịch vụ y tế chất lượng cao. Tác giả khuyến nghị các quốc gia và tổ

chức quốc tế đầu tư vào hệ thống CS CSDH để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của

NCT. Cuối cùng, báo cáo nhấn mạnh vai trò quan trọng của chăm sóc tại nhà và cộng

đồng trong việc giúp NCT sống độc lập và có chất lượng cuộc sống tốt hơn và đề

xuất các biện pháp để cải thiện và mở rộng các DVCS tại nhà, hỗ trợ gia đình và

23

người chăm sóc, và xây dựng môi trường cộng đồng thân thiện với NCT.

Tại Úc, trong báo cáo "Tổng quan các mô hình chăm sóc người cao tuổi sáng

tạo”, tác giả Dyer và cộng sự [86] đã xem xét các các mô hình chăm sóc NCT khác

nhau trên thế giới và đưa ra đánh giá về hiệu quả và tiềm năng của những mô hình

này dựa trên nhu cầu thực tế và bối cảnh của các quốc gia khác nhau. Báo cáo xác

định và phân tích các yếu tố của từng mô hình chăm sóc NCT khác nhau, bao gồm

các mô hình tại nhà, cộng đồng, cơ sở chăm sóc dài ngày và các hình thức khác. Các

yếu tố được đánh giá bao gồm sự hiệu quả, chất lượng chăm sóc, tiếp cận dịch vụ, tài

chính và quản lý. Báo cáo nhấn mạnh việc tiếp tục đánh giá và nghiên cứu các mô

hình chăm sóc NCT sáng tạo như sử dụng công nghệ, tương tác xã hội, và quản lý tri

thức để nâng cao chất lượng và hiệu quả của DVCS NCT là rất cần thiết. Việc thu

thập thêm bằng chứng về tác động và hiệu quả của những phương pháp này sẽ cung

cấp thông tin quan trọng để đưa ra quyết định về việc triển khai và đầu tư vào các mô

hình chăm sóc NCT mới. Đồng thời, việc tăng cường quản lý tri thức và chia sẻ kinh

nghiệm giữa các nhà cung cấp dịch vụ và chính phủ rất quan trọng để thúc đẩy sự

phát triển và cải thiện DVCS NCT.

Tác giả Glinskaya và Feng [90] trong cuốn sách "Lựa chọn chăm sóc người cao

tuổi tại Trung Quốc: Xây dựng một hệ thống chăm sóc người cao tuổi hiệu quả và

bền vững" đã tập trung vào việc đề xuất các phương án chăm sóc NCT hiệu quả và

bền vững tại Trung Quốc. Dựa trên vấn đề hiện tại của quốc gia đang phải đối mặt

với sự gia tăng dân số già và nhu cầu chăm sóc ngày càng tăng, tác giả trình bày các

phân tích về tình hình chăm sóc NCT hiện nay ở Trung Quốc, bao gồm các thách

thức và cơ hội liên quan đến việc cung cấp DVCS chất lượng và bền vững cho NCT.

Tác giả tập trung vào việc tìm hiểu các mô hình chăm sóc NCT đã được triển khai ở

các quốc gia khác và từ đó đề xuất những phương pháp phù hợp với tình hình và nhu

cầu của Trung Quốc. Cuốn sách cung cấp những gợi ý và đề xuất cụ thể để cải thiện

hệ thống chăm sóc NCT tại Trung Quốc, bao gồm việc xây dựng các cơ sở chăm sóc

NCT, nâng cao chất lượng dịch vụ và đào tạo nhân lực chăm sóc NCT. Tác giả cũng

đề cập đến việc tăng cường hợp tác giữa chính phủ, các tổ chức phi chính phủ và các

24

bên liên quan khác để đảm bảo sự phát triển bền vững của hệ thống chăm sóc NCT.

Đóng góp tiếng nói về những vấn đề Việt Nam phải đổi mặt trước thách thức

già hoá, tác giả Vũ Ngọc Bình [146] trong bài báo “Luật, chính sách và thực tế cho

người cao tuổi ở Việt Nam hiện nay” đã nhận định chăm sóc tại cơ sở, mặc dù ít phổ

biến ở Việt Nam, cũng đã được hình thành. Các nhà hoạch định CS đang đưa ra

những cách khác nhau để đáp ứng nhu cầu CSDH ngày càng tăng ngoài những gì gia

đình có thể cung cấp. Nhà nước cho rằng chăm sóc lâu dài cho NCT là nghĩa vụ của

chủ thể nhà nước. Nhưng dù quan tâm nhiều hơn tới việc phát triển dịch vụ cho NCT

tại gia đình và cộng đồng, nhà nước cũng cần quan tâm tới điều chỉnh CS để tăng

cường sự phối hợp liên ngành, tránh phân biệt dịch vụ xã hội và y tế và phát triển các

chương trình chăm sóc tại khu vực nông thôn và vùng sâu vùng xa.

Nghiên cứu "Cơ sở trợ giúp xã hội thuộc tổ chức tôn giáo dành cho người cao

tuổi: Kinh nghiệm thế giới và thực tiễn Việt Nam" của tác giả Đào Thúy Hằng và

Hoàng Thu Hương [12] tìm hiểu về cơ sở TGXH thuộc tổ chức tôn giáo dành cho

NCT, từ đó đưa ra những đề xuất để phát triển các DVCS NCT. Nghiên cứu bao gồm

phần đánh giá kinh nghiệm thế giới và phần nghiên cứu thực tiễn tại Việt Nam. Nghiên

cứu cho thấy sự quan tâm của các tổ chức tôn giáo đối với NCT và cố gắng cung cấp

các dịch vụ hỗ trợ cho họ. Tuy nhiên, còn tồn tại nhiều thách thức như sự thiếu hiểu

biết về nhu cầu của NCT, thiếu nguồn lực và đối tượng NCT thường xuyên phải đối

mặt với sự kì thị và phân biệt đối xử. Nghiên cứu đề xuất một số giải pháp để cải thiện

chất lượng các dịch vụ hỗ trợ cho NCT, bao gồm tăng cường hợp tác giữa các tổ chức

tôn giáo và các cơ quan chính phủ, nâng cao năng lực chuyên môn của các cơ sở

TGXH thuộc tổ chức tôn giáo, đưa ra các CS hỗ trợ cho tổ chức tôn giáo và khuyến

khích sự tham gia của cộng đồng trong việc chăm sóc NCT.

Tóm lại, các nghiên cứu cho thấy những thay đổi về dân số, vấn đề sức khoẻ của

NCT tình hình kinh tế, sự phát triển khoa học công nghệ… dẫn tới nhu cầu hệ thống

dịch vụ chăm sóc dài hạn cho NCT và cần mở rộng, nâng cao chất lượng phù hợp với

nhu cầu thực tế của NCT. Tuy nhiên, nhu cầu dịch vụ chăm sóc cần được đa dạng

hoá tại nhà, cộng đồng và cơ sở chăm sóc. Nhà nước cần tăng cường sự phối hợp

giữa các ngành, tránh phân biệt dịch vụ xã hội và y tế, phát triển chương trình chăm

sóc tại nông thôn và vùng sâu xa và khuyến khích sự tham gia của cộng đồng trong

25

chăm sóc NCT.

1.3. Các nghiên cứu về chính sách phát triển cơ sở chăm sóc người cao tuổi

Quan điểm về các CS phát triển dịch vụ và cơ sở chăm sóc NCT ở các quốc gia

trên thế giới thể hiện sự tương đồng về xu hướng phát triển nhằm thích ứng với xu

thế già hoá dân số. Vì thế, các nghiên cứu về CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT trên

thế giới hiện cũng đang tập trung việc so sánh các khía cạnh tương đồng và khác biệt

về mặt CS để từ đó tìm ra những thực hành mang tính tối ưu nhất cho mỗi bối cảnh

văn hoá, nhà nước và thể chế chính trị khác nhau.

Trong nghiên cứu so sánh có tên “Dịch vụ chăm sóc người cao tuổi tại Thuỵ

Điển và Hoa kỳ - quan điểm và ví dụ so sánh về cách thực hành tốt nhất”, tác giả

Zapędowska-Kling [152] đã chỉ ra rằng mặc dù Thuỵ Điển và Hoa Kỳ là hai mô hình

nhà nước phúc lợi khác nhau (Thuỵ Điển là mô hình nhà nước dân chủ xã hội, trong

khi Hoa Kỳ theo mô hình nhà nước tự do), nhưng quan điểm CS về các DVCS NCT

có sự phát triển tương đồng. Từ năm 1913, Thuỵ Điển đã thiết lập kế hoạch phổ quát

đầu tiên trên thế giới (nguyên tắc phổ quát) với yêu cầu bắt buộc các địa phương cấp

quận/huyện phải cung cấp các DVCS NCT tại cơ sở ở địa phương mình. Tuy nhiên,

sau khủng hoảng kinh tế những năm 1990, do cần phải cắt giảm chi tiêu công và sự

gia tăng của các CS tân tự do đã dẫn đến việc Thuỵ Điển áp dụng khái niệm Quản lý

công mới. Theo triết lý của Quản lý công mới, nhà nước quyết định phạm vi và hình

thức dịch vụ và những nhà cung cấp (nhà nước hay tư nhân), là những người sẽ cung

cấp DVCS chất lượng và chi phí phù hợp theo yêu cầu. Đạo luật về Hệ thống lựa

chọn tự do có hiệu lực vào năm 2009, là một trong những biểu hiện rõ ràng nhất của

cách tiếp cận mới của Thụy Điển đối với chăm sóc sức khỏe.

Trong khi đó tại Hoa Kỳ, gia đình, hệ thống tôn giáo và các nhà từ thiện, tổ

chức từ thiện là những chủ thể đầu tiên cung cấp dịch vụ cho NCT. Sau đó, tương tự

như kinh nghiệm của Thuỵ Điển và nhiều nước châu Âu, sự suy giảm chất lượng

cuộc sống của NCT ở Hoa Kỳ tỷ lệ thuận với quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa

đã khiến Hoa Kỳ phải phát triển các hình thức chăm sóc NCT tại cơ sở, dù sự phát

triển cơ sở này diễn ra tương đối muộn so với châu Âu [152]. Điều này cho thấy rằng

việc nghiên cứu và so sánh các nội dung CS có thể giúp các quốc gia tìm ra những

26

hướng đi tốt nhất để cải thiện chất lượng cuộc sống của NCT. Tuy nhiên, nghiên cứu

còn có hạn chế do chưa phân tích đầy đủ về mức độ ảnh hưởng của các yếu tố khác như

văn hóa, tài chính và địa lý đến các quyết định CS về DVCS NCT ở hai quốc gia này.

Nghiên cứu "Các chính sách quốc gia về già hoá và chăm sóc dài hạn tại khu

vực châu Á Thái Bình Dương: Vấn đề và thách thức” của hai tác giả Phillips và Chan

[123] tập trung vào các CS quốc gia về già hóa dân số và CSDH ở khu vực châu Á-

Thái Bình Dương. Nghiên cứu này phân tích các CS và cơ sở hạ tầng CSDH ở nhiều

quốc gia trong khu vực, bao gồm Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Úc và Trung

Quốc, tập trung vào các khía cạnh như CS xã hội, hệ thống chăm sóc y tế và chăm

sóc cộng đồng, kết hợp với các vấn đề về tài chính và nguồn nhân lực trong CSDH

cho NCT. Nghiên cứu nhận diện một số thách thức chính trong khu vực, bao gồm sự

già hóa dân số nhanh chóng, nhu cầu ngày càng tăng về chăm sóc NCT và sự thiếu

hụt nguồn lực trong lực lượng lao động chăm sóc. Từ đó, các chính phủ sở tại đã có

những CS phát triển hệ thống chăm sóc cho NCT khác nhau. Cụ thể tại Nhật Bản,

chính phủ xây dựng một hệ thống chăm sóc đa tầng, bao gồm chăm sóc gia đình,

chăm sóc cộng đồng và viện dưỡng lão. Tại Hàn Quốc, chính phủ đã triển khai nhiều

chương trình hỗ trợ viện dưỡng lão và chăm sóc NCT, bao gồm hỗ trợ tài chính và

chăm sóc tại nhà. Tại Singapore, chính phủ đã đầu tư mạnh vào các dự án chăm sóc

NCT, tăng cường chăm sóc tại nhà và phát triển các khu nhà dưỡng lão.

Tác giả Curry và cộng sự [80] trong nghiên cứu của mình đã so sánh hệ thống

chăm sóc NCT ở Anh và Đức và đề xuất những bài học mà Anh có thể học từ hệ

thống chăm sóc NCT của Đức, trong đó nhấn mạnh tới CS bảo hiểm CSDH ở Đức

như là một mô hình bền vững nhằm thúc đẩy các cơ sở chăm sóc NCT phát triển.

Bên cạnh đó, một số gợi ý khác mà tác giả cũng đưa ra chủ yếu tập trung vào các CS

quản lý tài chính hiệu quả và bền vững của chính phủ, bao gồm tăng thuế và hỗ trợ từ

nguồn tài chính công, thúc đẩy sự tham gia của bảo hiểm tư nhân và cá nhân. Trong

một nghiên cứu khác của tác giả Rhee và cộng sự [125] có tiêu đề “Xem xét bảo hiểm

chăm sóc người cao tuổi dài hạn cho các nước thu nhập trung bình: so sánh Hàn

Quốc với Nhật Bản và Đức”, tác giả nhấn mạnh tới việc cần thiết xây dựng hệ thống

CS về bảo hiểm CSDH, trong đó bao gồm cả Bảo hiểm CSDH cơ bản và Bảo hiểm

27

CSDH tùy chỉnh, như tại Nhật Bản và Đức, hai quốc gia đã thành công trong việc

xây dựng và triển khai các CS và quy định về bảo hiểm chăm sóc NCT và đây được

xem như là một động lực thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống các cơ sở

chăm sóc NCT tại hai quốc gia này.

Nghiên cứu về sự ảnh hưởng của bối cảnh chính trị đến các quyết sách liên

quan tới việc phát triển các cơ sở chăm sóc NCT, tác giả Hieda [94] trong nghiên cứu

"Chính trị và Chính sách chăm sóc người cao tuổi: So sánh quan điểm về CSDH

trong các nền dân chủ tiên tiến." đã tập trung vào việc khám phá logic chính trị đằng

sau sự đa dạng trong việc phát triển các chương trình CS chăm sóc NCT tại các quốc

gia công nghiệp tiên tiến. Với sự thay đổi cấu trúc dân số và thành phần hộ gia đình,

DVCS NCT trở thành một vấn đề cấp bách trong CS phúc lợi của các nền dân chủ

tiên tiến. Nghiên cứu nêu rõ sự đa dạng trong các CS công về chăm sóc NCT ở các

quốc gia. Những quốc gia vùng Scandinavia đã phát triển các DVCS NCT công lớn

và chất lượng cao, các chương trình chăm sóc NCT dài hạn được tài trợ bởi thuế, CS

bảo hiểm xã hội, và được cung cấp dựa trên việc kiểm tra thu nhập và/hoặc tài sản.

Nhật Bản và một số quốc gia Châu Âu lục địa đang bắt kịp với các quốc gia

Scandinavia, nhưng những quốc gia khác có mức phủ sóng an sinh và chi tiêu thấp

hơn dẫn tới ít có những biến động trong việc cải thiện CS chăm sóc NCT.

Tại Việt Nam, trong bài báo “Người cao tuổi và chăm sóc dài hạn” của các tác

giả Vân và cộng sự [143] đã đánh giá tình hình chăm sóc NCT tại Việt Nam và đưa

ra các giải pháp để nâng cao chất lượng chăm sóc. Nghiên cứu đã sử dụng phương

pháp nghiên cứu mô tả, phân tích số liệu thống kê và đánh giá chất lượng DVCS

NCT. Kết quả cho thấy tình hình chăm sóc NCT tại Việt Nam còn nhiều khó khăn và

hạn chế, nhưng đã có một số cải thiện về mặt chất lượng và phạm vi chăm sóc. Các

tác giả đánh giá về cơ sở sóc NCT tại cơ sở ở Việt Nam hiện nay như sau: các viện

dưỡng lão hầu hết nằm ở các thành phố lớn, chủ yếu có đối tượng khách hàng là

người khá giả, số lượng trung tâm BTXH còn hạn chế, chưa đáp ứng đủ nhu cầu và

hoạt động không hiệu quả. Các tác giả cũng nhận định các CS nhìn chung toàn diện,

nhưng khó thực hiện do thiếu kinh phí, cơ chế khuyến khích không dẫn tới việc thực

hiện có hiệu quả, sự phối hợp đa ngành, việc giám sát, đánh giá việc thực hiện hạn

28

chế… CS phát triển nhóm dịch vụ này nằm trong rất nhiều các CS, chương trình,

chiến lược, kế hoạch chăm sóc NCT. Nhưng điều còn thiếu là Việt Nam cần có các

CS trung và dài hạn quốc gia để xây dựng hệ thống CSDH cho NCT nói chung, trong

đó có việc phát triển các cơ sở chăm sóc NCT. Các giải pháp đề xuất bao gồm tăng

cường quản lý chăm sóc NCT, đào tạo nguồn nhân lực chăm sóc NCT, nâng cao chất

lượng DVCS và tăng cường quảng bá để nâng cao nhận thức của người dân về tình

hình chăm sóc NCT tại Việt Nam. Tuy nhiên, các kết luận rút ra mang tính suy luận

chưa có sự kiểm tra giả thuyết trong phạm vi một bài báo tạp chí [143].

Trong nghiên cứu về các CS CSDH cho NCT tại Việt Nam, các tác giả Giang

Thành Long và cộng sự [88] đã đánh giá rằng, trong những năm gần đây, Việt Nam

đã chú trọng đến việc phát triển CSDH và có những CS hỗ trợ phát triển ngành này.

Tuy nhiên, còn nhiều thách thức đối với việc phát triển CSDH tại Việt Nam, bao

gồm: sự thiếu hụt nguồn lực và CS hỗ trợ, tình trạng già hóa dân số ngày càng tăng,

sự thiếu thông tin và kiến thức về CSDH, và sự đa dạng về nhu cầu chăm sóc giữa

các vùng và tầng lớp khác nhau. Bài báo cũng đề cập đến các CS hiện tại của Việt

Nam về CSDH, bao gồm CS phát triển nguồn nhân lực, CS về đối tượng được hỗ trợ,

CS tài chính, CS xây dựng cơ sở hạ tầng và CS về quản lý và giám sát ngành CSDH.

Tuy nhiên, các tác giả cho rằng còn nhiều khó khăn và thách thức cần được giải

quyết, và đề xuất một số giải pháp để nâng cao chất lượng CSDH tại Việt Nam, bao

gồm việc tăng cường đầu tư và hỗ trợ dịch vụ CSDH, cải thiện CS và quản lý, đẩy

mạnh giáo dục và tăng cường nghiên cứu trong lĩnh vực này.

Tác giả Trịnh Duy Luân [46, tr. 67] trong bài báo có tựa đề "Chính sách chăm

sóc người cao tuổi ở Việt Nam hiện nay" đã tập trung phân tích về tình hình chăm sóc

NCT ở Việt Nam hiện nay, đánh giá các CS liên quan đến việc chăm sóc NCT, và đề

xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc NCT tại Việt Nam. Tác

giả sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính thông qua phân tích tài liệu để thu

thập thông tin và dữ liệu cho bài báo. Kết quả nghiên cứu chỉ ra một số hạn chế của

các CS chăm sóc NCT tại Việt Nam bao gồm sự thiếu hụt nguồn lực, khó khăn trong

việc đáp ứng nhu cầu đa dạng của NCT và sự chưa đồng bộ giữa các CS khác nhau.

Hầu hết các cơ sở chăm sóc NCT hiện nay đều là các tổ chức tư nhân, với chất lượng

29

chăm sóc chưa đảm bảo. Tác giả đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng

cuộc sống của NCT, bao gồm: đầu tư hơn cho cơ sở chăm sóc NCT, nâng cao trình

độ chuyên môn cho người chăm sóc, đẩy mạnh các chương trình bảo hiểm y tế và

bảo hiểm xã hội cho NCT, và tăng cường giáo dục và tạo đào tạo nguồn nhân lực

chăm sóc NCT.

Có thể thấy, dù các quốc gia có bối cảnh văn hoá, nhà nước và thể chế chính trị

khác nhau nhưng đều quan tâm vào CS phát triển hệ thống chăm sóc NCT đa tầng từ

gia đình, cộng đồng đến cơ sở dưỡng lão và đa dạng hoá chủ thể chăm sóc. Các chính

phủ đầu tư CS ưu tiên phát triển hệ thống chăm sóc NCT tại chỗ và thống nhất xu

hướng phát triển cơ sở chăm sóc tập trung chỉ phát triển được nếu có hỗ trợ bởi CS

bảo hiểm chăm sóc dài hạn, ưu đãi thuế, bảo hiểm xã hội. Tại Việt Nam, các CS nhìn

chung toàn diện, nhưng khó thực hiện do thiếu kinh phí, cơ chế khuyến khích không

hiệu quả, sự phối hợp, việc giám sát, đánh giá việc thực hiện hạn chế… Việt Nam

cần có các CS trung và dài hạn để xây dựng hệ thống chăm sóc dài hạn cho NCT,

tăng cường đầu tư và hỗ trợ dịch vụ chăm sóc dài hạn, cải thiện CS và quản lý, đẩy

mạnh giáo dục và tăng cường nghiên cứu trong lĩnh vực này.

1.4. Các nghiên cứu về thực hiện chính sách phát triển cơ sở chăm sóc người cao tuổi

Đầu tiên là các nghiên cứu về thực hiện các CS về phát triển cơ sở chăm sóc

NCT tại các nước phát triển như Mỹ, Anh, Canada, Úc, Thuỵ Điển, Hà Lan, Đan

Mạch, Nhật Bản và Hàn Quốc tập trung vào việc đánh giá hiệu quả của các CS công

về dịch vụ và cơ sở chăm sóc NCT, đặc biệt là ở khía cạnh kinh tế và xã hội. Các

nghiên cứu này được triển khai theo nhiều hướng tiếp cận, bao gồm các nghiên cứu

về nội dung CS và các quy định hiện hành và hiệu quả tác động của các CS trong quá

trình thực hiện. Hướng nghiên cứu thứ nhất tập trung vào việc phân tích và đánh giá

các CS và quy định về cơ sở chăm sóc NCT tại các quốc gia phát triển, từ đó đề xuất

các cải tiến và CS mới. Hướng nghiên cứu thứ hai tập trung vào đánh giá hiệu quả và

tác động của các CS và chương trình phát triển cơ sở chăm sóc NCT đã triển khai, từ

đó đề xuất các cách thức để cải tiến hiệu quả của quá trình thực hiện CS [78, 79, 89,

123, 151].

Tại Hàn Quốc và Nhận Bản, hai nghiên cứu điển hình của tác giả Kuzuya và

30

cộng sự [109] và Mah và cộng sự [111] tập trung vào việc đánh giá hiệu quả của các

chương trình chăm sóc NCT tại cộng đồng bao gồm việc đánh giá tác động của các

CS. Nghiên cứu đã thu thập dữ liệu từ mẫu ngẫu nhiên gồm 1.000 NCT đang sống tại

Hàn Quốc nhằm tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến việc sử dụng DVCS NCT tại nhà

ở Hàn Quốc, dựa trên đánh giá các yếu tố kinh tế và tổ chức gia đình. Kết quả cho

thấy rằng các yếu tố kinh tế, chẳng hạn như thu nhập và trình độ học vấn, ảnh hưởng

đến việc sử dụng DVCS NCT tại nhà. Nghiên cứu cũng cho thấy rằng tổ chức gia

đình, bao gồm số lượng thành viên trong gia đình và trạng thái hôn nhân, cũng có ảnh

hưởng đến việc sử dụng DVCS. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng các chương trình chăm

sóc bao gồm các hoạt động giúp nâng cao sức khỏe, tăng cường mối quan hệ xã hội

và cung cấp hỗ trợ tâm lý cho NCT có thể cải thiện sức khỏe và chất lượng cuộc sống

của NCT, đồng thời giảm chi phí chăm sóc y tế. Vì thế các CS đầu tư vào các cơ sở

chăm sóc NCT có thể tạo ra lợi ích kinh tế và xã hội đáng kể. Tuy nhiên, nghiên cứu

cũng nhận thấy rằng cần tăng cường các CS hỗ trợ tài chính và kỹ thuật cho các dịch

vụ và cơ sở chăm sóc để đảm bảo chất lượng dịch vụ và sự hài lòng của NCT và gia

đình họ [109, 111].

Tại Châu Phi, các nghiên cứu về thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT

tại Ethiopia và Nam Phi tập trung vào việc đánh giá hiệu quả các chương trình chăm

sóc NCT được triển khai tại cộng đồng. Các nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng có

nhiều thách thức cần được giải quyết để phát triển các cơ sở chăm sóc NCT tại địa

phương bao gồm việc thiếu nguồn lực và thiếu sự đồng thuận giữa các cấp chính

quyền. Cụ thể, tác giả Belachew và cộng sự [65] trong bài báo " Tình hình Sức khỏe

và Lão hóa tại Ethiopia: Khảo sát về nhu cầu sức khỏe và thách thức cung cấp dịch

vụ", đã thực hiện việc đánh giá tình hình cung cấp DVCS NCT tại Ethiopia, bao gồm

cả cơ sở chăm sóc và DVCS tại cộng đồng bằng phương pháp phỏng vấn trực tiếp

với các cơ sở chăm sóc, khảo sát dân cư và phân tích các tài liệu CS. Kết quả cho

thấy việc cung cấp DVCS NCT tại Ethiopia gặp nhiều thách thức, bao gồm thiếu

nguồn lực và cơ sở vật chất, thiếu đào tạo cho nhân viên chăm sóc và thiếu CS hỗ trợ.

Mặc dù chính phủ Ethiopia đã đưa ra nhiều CS và kế hoạch phát triển chăm sóc

NCT, song vẫn còn gặp nhiều khó khăn trong thực hiện. Nghiên cứu này cho thấy

31

rằng cần có nhiều nỗ lực về mặt CS hơn để nâng cao chất lượng và khả năng tiếp cận

DVCS NCT tại Ethiopia. Nghiên cứu cũng đưa ra đề xuất về việc tăng cường đào tạo

cho nhân viên chăm sóc, đầu tư vào cơ sở vật chất và đưa ra các CS bổ sung hỗ trợ

cho NCT và gia đình của họ [65].

Ở Nam Phi, nghiên cứu của Kalideen và cộng sự [104] tập trung vào việc đánh

giá các chương trình chăm sóc NCT tại Nam Phi, đặc biệt là các chương trình chăm

sóc ở khu vực đô thị và nông thôn. Bằng phương pháp khảo sát thu thập dữ liệu từ

680 NCT tại các khu vực khác nhau của Nam Phi, những người tham gia được hỏi về

các nhu cầu chăm sóc của họ và các chương trình chăm sóc đã được cung cấp. Kết

quả cho thấy rằng có một sự khác biệt lớn giữa các khu vực đô thị và nông thôn về cơ

sở hạ tầng chăm sóc NCT và các dịch vụ được cung cấp. Các chương trình chăm sóc

ở các khu vực đô thị thường tập trung vào chăm sóc y tế, trong khi các chương trình

chăm sóc ở khu vực nông thôn tập trung nhiều hơn vào hỗ trợ sinh hoạt và vận động.

Tuy nhiên, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng các chương trình chăm sóc đang đối mặt với

nhiều thách thức, bao gồm ngân sách hạn chế, thiếu hụt nhân lực và sự bất đồng giữa

các cơ quan về phạm vi chăm sóc y tế hay xã hội. Nghiên cứu đề xuất giải pháp CS

nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc NCT tại Nam Phi, bao gồm tăng cường hợp tác

giữa các ngành, đào tạo nhân lực và tăng cường ngân sách cho chương trình chăm sóc.

Trong các nghiên cứu về các CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT tại Châu Á –

Thái Bình Dương, nhiều tác giả khẳng định xã hội hiện nay đang phải đối mặt với

những thách thức và tác động khác nhau của quá trình già hoá, tuỳ thuộc bối cảnh

chính trị, xã hội và kinh tế mà các đề xuất và thực hành CS với NCT sẽ có những

điểm khác nhau. Tuy nhiên, các nghiên cứu về CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT tại

khu vực này với một số quốc gia điển hình như Singapore, Trung Quốc, Myanmar

đều cho thấy gia đình và cộng đồng là những chủ thể cung cấp dịch vụ được ưu tiên;

nhưng các CS của chính phủ cũng cần đa dạng hoá các nhà cung cấp dịch vụ để thúc

đẩy việc tư nhân hoá/xã hội hoá DVCS NCT. Đặc biệt, việc ưu tiên CS phát triển

dịch vụ tại khu vực nông thôn cũng là một trong những bài toán mà các quốc gia cần

giải quyết [106].

Nghiên cứu của hai tác giả Jayasekara và Schultz [103] tại Sri Lanka tập trung

32

vào các xu hướng và vấn đề đang diễn ra trong lĩnh vực sức khỏe tại Sri Lanka. Tác

giả đề cập đến các chỉ số sức khỏe chính của đất nước, bao gồm tỷ lệ tử vong sơ sinh,

tỷ lệ tử vong trẻ em, tuổi thọ trung bình và tỷ lệ người lớn mắc bệnh. Bài báo cũng đề

cập đến các thách thức trong hệ thống chăm sóc sức khỏe của Sri Lanka, bao gồm

tình trạng chênh lệch giữa các khu vực, sự thiếu hụt về cơ sở hạ tầng và tài nguyên,

và vấn đề đối với chăm sóc NCT. Ngoài ra, tác giả cũng nêu ra các CS và giải pháp

cần thiết để cải thiện tình trạng sức khỏe tại Sri Lanka, bao gồm nâng cao cơ sở hạ

tầng chăm sóc sức khỏe, cải thiện tiếp cận và chất lượng DVCS sức khỏe, đào tạo và

phát triển lực lượng lao động chăm sóc sức khỏe, và cải thiện cơ sở dữ liệu và thông

tin sức khỏe. Tuy nhiên, bài báo cũng nhấn mạnh rằng để đạt được những mục tiêu

này, cần phải có sự cam kết chặt chẽ từ phía chính phủ, các tổ chức phi chính phủ và

các cơ quan liên quan, cũng như đảm bảo sự tham gia của cộng đồng và các bên liên

quan khác.

Tại Trung Quốc, trong nghiên cứu về bối cảnh cho sự phát triển của các cơ sở

chăm sóc NCT “Sự hình thành của ngành công nghiệp: Sự trỗi dậy của các cơ sở

chăm sóc người cao tuổi tại Đô thị Trung Quốc”, Feng và cộng sự [87] đã cho thấy

ngành công nghiệp non trẻ về DVCS NCT tại cơ sở đang phát triển và thay đổi cơ

bản về quyền sở hữu, tài chính, và nhóm đối tượng khách hàng. Tác giả sử dụng

phương pháp thu thập dữ liệu để phân tích và đánh giá hoạt động các cơ sở chăm sóc

NCT tư nhân và độc quyền, cũng như tìm kiếm các mô hình và phương thức phát

triển hiệu quả của các cơ sở này. Kết quả cho thấy nhu cầu về các DVCS NCT sẽ

tăng lên, thúc đẩy sự phát triển của các cơ sở trong những thập kỷ tới mặc dù ngành

công nghiệp chăm sóc tại cơ sở ở đô thị Trung Quốc này vẫn nhỏ hơn ở châu Âu và

Hoa Kỳ, cả về số lượng, cơ sở vật chất và quy mô giường. Tác giả dự đoán sẽ có sự

tăng trưởng lớn nhất ở các cơ sở tư nhân và độc quyền. Nghiên cứu cũng đưa ra

những đề xuất CS để hỗ trợ sự phát triển các cơ sở chăm sóc NCT tư nhân và độc

quyền, đồng thời đánh giá hiệu quả của các CS này để có thể tinh chỉnh và cải thiện

trong tương lai [87].

Một nghiên cứu khác, dựa trên quan điểm của Shleifer trong bài báo đánh giá

về sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân, tác giả Jane P.Chan trong nghiên cứu về

33

DVCS NCT đến sự tác động tới CS CSDH, Chan [58] đã so sánh DVCS NCT tại cơ

sở ở Mỹ và Trung Quốc, rút ra kết luận các dịch vụ viện dưỡng lão nên được cung

cấp bởi các công ty nhà nước hoặc các công ty phi lợi nhuận. Đồng quan điểm, trong

bài báo của mình, hai tác giả Hinton và Chen [95], đã trích lại ý kiến của tác giả

Kuah Khun Eng, dựa trên nghiên cứu thực địa về vai trò của nhà nước Singapore và

các tổ chức Phật giáo trong việc cung cấp DVCS NCT. Tác giả cho rằng các tổ chức

xã hội có lịch sử lâu dài trong việc cung cấp các dịch vụ phúc lợi tự nguyện cho cộng

đồng là một cơ hội quan trọng để mở rộng và củng cố hệ thống phúc lợi xã hội lấy

nhà nước làm trung tâm. Tác giả cũng cho rằng, nhà nước cần khuyến khích sự tham

gia của tổ chức tôn giáo thông qua CS tài khóa và CS phụ trợ, hoặc có thể tích hợp

hiệu quả các tổ chức phúc lợi tự nguyện tôn giáo vào hệ thống phúc lợi của nhà nước.

Tại Việt Nam, nghiên cứu về bối cảnh để thực hiện CS phát triển cơ sở chăm

sóc NCT tại Việt Nam, tác giả Đặng Thị Thanh Phúc và cộng sự [81] đã chỉ ra rằng ở

Việt Nam đang diễn ra sự gia tăng số NCT, các bệnh nền nghiêm trọng NCT gặp

phải, sự thay đổi cơ cấu dân số và cơ cấu gia đình nên viện dưỡng lão ngày càng phát

triển như một hệ thống chăm sóc mới cho NCT. Tuy nhiên, DVCS NCT trong viện

dưỡng lão vẫn chưa phải là DVCS phổ biến cho NCT. Hệ thống chăm sóc tại viện

dưỡng lão cần được phát triển ở Việt Nam, và cần sự hỗ trợ nhiều hơn từ cả khu vực

chính phủ và phi chính phủ. Điều này không phủ nhận sự chăm sóc toàn diện từ cấp

chính phủ đến cộng đồng để nâng cao chất lượng cuộc sống của NCT Việt Nam.

Nghiên cứu về DVCS y tế đối với NCT ở Việt Nam tổng hợp nhất có thể kể tới

nghiên cứu của của Bộ Y tế và nhóm đối tác y tế [5] với Báo cáo chung về ngành Y

tế năm 2016 – Hướng tới một xã hội già hoá khoẻ mạnh. Nghiên cứu đã sơ đồ hoá tất

cả các cơ quan thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT ở Việt Nam (như dưới

34

đây).

Sơ đồ 1.1. Các bên liên quan tham gia vào dịch vụ chăm sóc NCT

Nguồn: Bộ Y tế và nhóm đối tác y tế [5]

Tuy nhiên, báo cáo chỉ đơn thuần mang tính mô tả các cá nhân, tổ chức có liên

quan ở cấp chính phủ. Sự cam kết giữa các cá nhân, tổ chức thực hiện chưa được

xem xét ở đây. Điều này đặt ra một vấn đề trong thực hiện CS phát triển cơ sở chăm

sóc NCT tại cơ sở ở Việt Nam liên quan tới sự thiếu phối hợp giữa Bộ LĐTB&XH

cùng Bộ Y tế trong việc cấp phép, quản lý, giám sát các cơ sở chăm sóc NCT như

viện dưỡng lão công lập, ngoài công lập. Đây có thể được coi là một trong những

nghiên cứu hiếm hoi nói về sự phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện CS

phát triển cơ sở chăm sóc NCT ở Việt Nam.

Một báo cáo đáng chú ý khác năm 2021: "Thị trường các sản phẩm chăm sóc

người cao tuổi tại Việt Nam" được thực hiện bởi Trung tâm Chăm sóc Sức khỏe Thành

phố Hồ Chí Minh và Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc [48] đã đánh giá thị trường chăm sóc

NCT tại thành phố Hồ Chí Minh, từ đó đề xuất các giải pháp CS để nâng cao chất

lượng chăm sóc và đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của nhóm NCT. Kết quả của

nghiên cứu cho thấy rằng thị trường chăm sóc NCT ở thành phố Hồ Chí Minh đang

phát triển, tuy nhiên, vẫn còn nhiều hạn chế và thách thức như: thiếu nguồn nhân lực

chuyên môn, thiếu cơ sở vật chất, yêu cầu đào tạo cao cho nhân lực và chi phí chăm

sóc cao. Nghiên cứu đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc

35

NCT, bao gồm: (1) Tăng cường đầu tư và hỗ trợ phát triển các cơ sở chăm sóc NCT,

đặc biệt là cơ sở chăm sóc tại gia; (2) Nâng cao năng lực chuyên môn và đào tạo cho

người lao động trong ngành chăm sóc NCT; (3) Thúc đẩy sự hợp tác giữa các nhà cung

cấp dịch vụ để tăng cường khả năng cạnh tranh và cải thiện chất lượng dịch vụ; (4)

Xây dựng các CS và quy định hỗ trợ cho NCT và gia đình trong việc chăm sóc NCT.

Nghiên cứu này cho thấy các yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến thị trường chăm sóc

NCT, bao gồm các nhu cầu, định hướng và mong muốn của các đối tượng khách hàng,

các sản phẩm và dịch vụ được cung cấp bởi các nhà cung cấp và cơ hội và thách thức

khác trong thị trường. Nghiên cứu này cũng khẳng định phương pháp nghiên cứu định

tính và xử lý dữ liệu định tính là các phương pháp hữu ích trong việc nghiên cứu và

phân tích các vấn đề liên quan đến chăm sóc NCT. Các phương pháp này cho phép thu

thập thông tin chi tiết và sâu sắc từ các cá nhân hoặc tổ chức, và tập trung vào các yếu

tố chính ảnh hưởng đến thị trường chăm sóc NCT. Kết quả của nghiên cứu cũng cung

cấp thông tin quan trọng cho các nhà quản lý và CS để phát triển các chương trình

chăm sóc NCT phù hợp với nhu cầu của người dân, cũng như đáp ứng các cơ hội và

thách thức của thị trường [48].

Tổng thể, các nghiên cứu trong nước và quốc tế cho thấy quá trình thực hiện CS

nảy sinh những thách thức như thiếu nguồn lực, thiếu sự đồng thuận từ cấp chính

quyền, thiếu CS hỗ trợ và sự bất đồng giữa các tổ chức về phạm vi chăm sóc (tinh thần,

dinh dưỡng và y tế) ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả thực hiện CS. Bởi vậy, bài học là

cần tập trung khuyến khích các tổ chức nhà nước, tư nhân phi lợi nhuận, tổ chức tôn giáo/

từ thiện và khuyến khích phát triển các cơ sở tại các khu vực nông thôn bằng CS tài khóa

36

và phụ trợ khác để đảm bảo chất lượng dịch vụ, sự hài lòng của NCT và gia đình.

Tiểu kết Chương 1

Các hướng tiếp cận nghiên cứu thực hiện CS, và các nội dung trong nghiên cứu

nhu cầu chăm sóc NCT, CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT và thực hiên CS chăm sóc

NCT trên thế giới và tại Việt Nam đã được đề cập một cách chi tiết trong chương này.

Hướng tiếp cận nghiên cứu thực hiện CS hiện nay nên đi theo hướng hỗn hợp

giữa định tính và định lượng. Trong đó, ưu tiên việc sử dụng phương pháp định tính

nhằm giúp các nhà nghiên cứu khám phá ra vấn đề cụ thể có giá trị, đồng thời việc

phân tích so sánh đối chiếu sẽ đem lại giá trị tốt hơn những nghiên cứu đơn lẻ. Định

hướng nghiên cứu cũng chỉ ra việc tiếp cận theo hướng hỗn hợp (từ trên xuống và từ

dưới lên), cũng như sự xuất hiện của mô hình 5C và 7C để làm công cụ nghiên cứu

thực hiện CS từ góc nhìn của các bên liên quan trở thành một khung phân tích thực

hiện CS toàn diện hiện nay, nhất là trong bối cảnh thực hiện CS tại những quốc gia

đang phát triển vốn gặp phải những khó khăn về thiếu thông tin, dữ liệu.

Đồng thời, các nghiên cứu sẵn có trên thế giới và Việt Nam cho thấy, về cơ bản

các nghiên cứu liên quan tới thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT không xuất

hiện nhiều. Các nghiên cứu hiện nay khẳng định nhu cầu tất yếu cần chăm sóc dài

hạn của NCT, nhu cầu phát triển hệ thống chăm sóc đa tầng (gia đình, cộng đồng, cơ

sở chăm sóc). Các chủ thể cung cấp dịch vụ chăm sóc cũng cần được đa dạng hoá và

tập trung phát triển hệ thống chăm sóc tại cả khu vực nông thôn. Đa phần các nghiên

cứu cho thấy hạn chế của việc thực hiện nằm ở thiếu kinh phí, cơ chế khuyến khích

thiếu hiệu quả, thiếu sự phối hợp, sự đồng thuận từ cấp chính quyền còn hạn chế. Tuy

nhiên những nhận định này không đánh giá cụ thể dựa trên quy trình thực hiện. Vì

vậy, cần có những nghiên cứu sâu hơn để đánh giá cụ thể quy trình thực hiện CS và

37

cách thức cải thiện quy trình thực hiện và vượt qua các rào cản CS.

CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH

SÁCH PHÁT TRIỂN CƠ SỞ CHĂM SÓC NGƯỜI CAO TUỔI

2.1. Người cao tuổi và nhu cầu chăm sóc người cao tuổi

2.1.1. Khái niệm người cao tuổi

Theo truyền thống, Liên hợp quốc và hầu hết các nhà nghiên cứu đã sử dụng

các thước đo và chỉ số về già hoá dựa trên độ tuổi sinh học của mỗi người. Năm

1992, Đại Hội đồng Liên hợp quốc (UN) đã thống nhất quy định những công dân từ

60 tuổi trở lên được tính là NCT [141]. Trong Bình luận chung số 6 (Quyền kinh tế,

xã hội và văn hóa của những người cao tuổi) do Ủy ban về các quyền kinh tế, xã hội

và văn hóa của Liên hợp quốc đưa ra tại phiên họp thứ 13 (1995), thuật ngữ NCT đã

được ghi nhận là để chỉ những người từ 60 tuổi trở lên. Còn theo Eurostat (Cơ quan

Thống kê của Liên minh châu Âu), NCT là những người từ 65 tuổi trở lên, vì tuổi về

hưu thông thường là 65 tuổi và xu hướng nghỉ hưu ngày càng muộn hơn [137].

Tại Việt Nam, dưới góc độ ngành CS công, khái niệm NCT được xác định dựa

trên quy định của các văn bản CS, mà cụ thể ở đây là các văn bản pháp luật. Từ trước

năm 2009, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã ban hành, triển khai nhiều văn bản như

Chỉ thị số 59-CT/TW, ngày 27/9/1995 về chăm sóc NCT; Chỉ thị số 117/TTg ngày

27/2/1996 về chăm sóc NCT và hỗ trợ hoạt động cho Hội Người cao tuổi Việt Nam;

Pháp lệnh Người cao tuổi số 23/2000/PL-UBTVQH10; NĐ 71/2000/NĐ-CP ngày

23/11/2000 quy định việc kéo dài thời gian công tác của cán bộ, công chức đến độ

tuổi nghỉ hưu; QĐ số 141/2004/QĐ-TTG ngày 05/08/2004 về việc thành lập Ủy ban

Quốc gia về NCT Việt Nam. Trong các văn bản đó, khái niệm NCT được xác định là

công dân nước Cộng hoà xã hội Chủ nghĩa Việt Nam từ 60 tuổi trở lên. Sau đó, tháng

11 năm 2009, Quốc Hội chính thức thông qua Luật NCT và có hiệu lực bắt đầu từ

ngày 01 tháng 07 năm 2010. Trong Luật, tại Điều 2, NCT được định nghĩa “là công

dân Việt Nam từ đủ 60 tuổi trở lên”. Đây là cơ sở pháp lý cao nhất khẳng định đối

tượng của các CS có liên quan đến nhóm NCT này [31].

Lý giải cho việc quy định số tuổi được coi là NCT ở mỗi nước không giống

nhau là do sự khác nhau về lứa tuổi có các biểu hiện già hóa của người dân ở mỗi

nước khác nhau. Những nước có hệ thống y tế, chăm sóc sức khỏe tốt thì tuổi thọ và

sức khỏe của người dân cũng được nâng cao, các biểu hiện của tuổi già cũng đến

muộn hơn. Thêm vào đó, tình trạng thiếu hụt lao động do tốc độ già hoá nên ở nhiều

38

quốc gia phát triển như Nhật Bản, Đức, Canada…, mức tuổi được xác định thuộc

nhóm NCT được nâng cao hơn.

Từ phân tích các khái niệm trên, trong luận án này, dưới góc độ của chuyên

ngành CS công, khái niệm NCT được xác định là người “từ đủ 60 tuổi trở lên”.

2.1.2. Đặc trưng và nhu cầu chăm sóc của người cao tuổi

2.1.2.1. Đặc trưng nhân khẩu, kinh tế - xã hội và các vấn đề sức khoẻ của NCT

Nghiên cứu về đặc trưng nhân khẩu, kinh tế - xã hội và đặc trưng về sức khoẻ

của NCT, các dữ liệu điều tra dân số và báo cáo của [42], Tổng cục Thống kê [43],

[44] và Quỹ Dân số Liên hợp quốc [49] có chung những nhận định về đặc trưng cơ

bản của nhóm NCT bao gồm:

- Đặc trưng nhân khẩu

Số lượng NCT và tỷ lệ dân số cao tuổi trong tổng dân số có xu hướng tăng lên

rõ rệt. Tại Việt Nam, trong hai lần tổng điều tra dân số vào năm 2009 – 2019, dân số

cao tuổi tăng từ 7,45 triệu lên 11,41 triệu, tương ứng từ 8,68% đến hơn 11,86% tổng

dân số. Chỉ trong giai đoạn 2019-2021, tổng dân số Việt Nam tăng thêm 2,07 triệu

người (từ 96,21 triệu lên 98,28 triệu) thì dân số cao tuổi tăng thêm 1,17 triệu người

(tương ứng với tăng từ 11,86% lên 12,80% tổng dân số). Dân số cao tuổi tăng thêm

chiếm 56,5% tổng dân số tăng thêm. Chỉ số già hoá dân số dự báo sẽ tăng nhanh

chóng trong hai thập kỷ tới. Dự báo tới năm 2029, chỉ có 14 tỉnh dân số cao tuổi lớn

hơn dân số trẻ em, thì đến năm 2039, con số sẽ lên tới 41 tỉnh [42, 44].

Trong số NCT tăng thêm, với cách chia nhóm dân số NCT thành ba nhóm: sơ

lão (60-69 tuổi), trung lão (70-79 tuổi) và đại lão (80 tuổi trở lên), nhóm NCT sơ lão

có tốc độ tăng trưởng cao nhất (7,49% trong 10 năm giai đoạn 2009-2019), tiếp đó là

nhóm NCT đại lão với tỷ lệ 3,59%. Số NCT thuộc nhóm đại lão đạt hơn 1,9 triệu

người năm 2019.

Xét theo giới tính, tỷ số NCT nữ cao hơn nam giới (7,28 triệu NCT nữ giới

(chiếm 57,82%) so với 5,30 triệu NCT nam giới (chiếm 42,18%), đồng thời ở tất cả

các nhóm tuổi (sơ lão, trung lão, đại lão), ở độ tuổi càng cao, mức độ nữ hóa càng rõ

so với các nhóm tuổi khác.

Xét về phân bổ dân số theo khu vực sống (thành thị hay nông thôn), tỷ lệ NCT

sống ở nông thôn giảm dần từ năm 2009 – 2019 do quá trình đô thị hoá. Tính đến

năm 2021, trong số 12,58 triệu NCT, có 4,62 triệu NCT (chiếm 36,72%) sống ở khu

39

vực thành thị và 7,96 triệu NCT (chiếm 63,28%) sống ở khu vực nông thôn. Với cả

hai giới nam/nữ, tỷ lệ NCT sống ở thành thị cao hơn với nhóm NCT trẻ hơn. Trong

khi, càng cao tuổi, NCT càng có xu hướng sống ở nông thôn nhiều hơn.

Xét về phân bổ dân số theo vùng kinh tế-xã hội, có tới 50% dân số cao tuổi Việt

Nam sống ở hai vùng Đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền

Trung [44].

- Đặc trưng kinh tế - xã hội

Về tình trạng hôn nhân, phần lớn (hơn 2/3) NCT đang có vợ/chồng và khoảng

¼ NCT góa vợ/chồng, trong khi các tình trạng khác (ly thân, ly dị hoặc chưa kết hôn)

chiếm tỷ lệ không đáng kể. Tuổi càng cao thì tỷ lệ góa chồng/vợ càng lớn: nhóm đại

lão có tỷ lệ goá vợ/chồng cao gấp 3-4 lần so với nhóm sơ lão, phụ nữ cao tuổi có tỷ lệ

góa chồng cao gấp hơn bốn lần tỷ lệ nam giới cao tuổi góa vợ. Trong số những NCT

góa vợ hoặc chồng thì phụ nữ chiếm hơn 80% ở tất cả các nhóm tuổi.

Về khoảng cách sống gần con của NCT theo nhóm tuổi, tuổi càng cao thì tỷ lệ

NCT sống một mình nhưng gần con càng cao: khoảng 87% NCT nhóm đại lão (từ 80

tuổi trở lên) sống gần con, trong khi tỷ lệ này của nhóm trung lão và sơ lão là gần

76% và 68%. Đặc biệt, khoảng 73% NCT nhóm đại lão có con sống rất gần nhà

(cùng thôn/xóm). Xét theo khu vực sống: có sự khác biệt rõ rệt giữa NCT sống ở

thành thị và nông thôn: khoảng 78% NCT nông thôn sống gần con, trong khi tỷ lệ

này của NCT thành thị là khoảng 61%.

Về việc sắp xếp NCT sống trong hộ gia đình, có 4,43 triệu NCT sống một mình

hoặc sống trong hộ gia đình mà chỉ có NCT sống với NCT khác hoặc NCT sống với

ít nhất một trẻ em dưới 15 tuổi. Trong số này, khoảng 74% NCT sống gần con (trong

đó 57,65% sống cùng thôn/xóm và 16,36% NCT sống cùng xã/phường). Nhưng

4,70% không có con hoặc con đã mất và 2,28% không có người thân hoặc người thân

đã mất. [44].

Về kinh tế, đến năm 2019, tỷ lệ NCT không có khoản tiết kiệm ở các nhóm tuổi

sơ lão, trung lão và cao lão lần lượt là 71,8%, 76,7% và 85.2%. Càng cao tuổi, nguồn

thu nhập chủ yếu của NCT là ở sự hỗ trợ của con cháu, nguồn thu nhập từ tiết kiệm

của NCT chỉ chiếm 1% và chỉ có ¼ NCT có tiền tiết kiệm. Điều này cho thấy bức

tranh kinh tế thiếu khả năng tự chủ của đa phần NCT khi về già và gặp phải các vấn

40

đề về sức khoẻ [48].

- Các vấn đề về sức khoẻ của người cao tuổi

Các nghiên cứu của Tổng cục Thống kê và Quỹ Dân số Liên hợp quốc [44],

Tổng cục Thống kê [43], Bộ Y tế và nhóm đối tác y tế [5] cho thấy, càng cao tuổi, tỷ

lệ tự đánh giá có sức khoẻ rất tốt/ tốt càng giảm mạnh tới mức rất thấp (nhóm đại lão:

15,37%, trung lão: 31,45%, sơ lão: 46,64%). Tương tự, tỷ lệ NCT nữ, NCT thuộc

nhóm dân tộc thiểu số, NCT sống ở nông thôn cũng có tỷ lệ tự đánh giá sức khoẻ ở

mức rất tốt/ tốt thấp hơn so với các nhóm đối sánh. Ngoài ra, NCT sống một mình

bởi tình trạng goá vợ/chồng hoặc có tình trạng hôn nhân khác như độc thân/ ly thân/

ly dị gặp nhiều vấn đề về sức khoẻ thể chất và tinh thần khiến chất lượng cuộc sống

bị suy giảm cũng có tỷ lệ tự đánh giá sức khoẻ thấp hơn so với các nhóm khác [15].

Có 11,70% NCT (tương đương khoảng 1,47 triệu NCT) có ít nhất một khuyết

tật về chức năng. Tỷ lệ khuyết tật có sự khác biệt theo nhóm tuổi, giới tính, dân tộc

và khu vực sống, đáng chú ý nhất là: gần 37% nhóm đại lão khuyết tật với ít nhất một

chức năng trong khi tỷ lệ này ở cả hai nhóm sơ lão và trung lão là 17,24%, tỷ lệ NCT

nữ và dân tộc khác cao hơn so với NCT nam và dân tộc Kinh, tỷ lệ NCT sống ở nông

thôn gặp khuyết tật ít nhất một chức năng cao hơn so với thành thị gần 2% [44].

Có 6,32% NCT (tương đương với 796 ngàn NCT) rất khó khăn hoặc không thể

thực hiện được ít nhất một trong các hoạt động sinh hoạt hàng ngày (gồm ăn; mặc và

cởi quần áo; tắm, rửa; ngồi dậy khi đang nằm; và tự đi đại tiện hoặc tiểu tiện). Có sự

khác biệt rõ rệt theo độ tuổi (càng cao tuổi, tỷ lệ gặp khó khăn càng cao, đặc biệt với

nhóm đại lão với 23,32%), theo giới tính, dân tộc, khu vực sống (phụ nữ, dân tộc

thiểu số, NCT sống ở nông thôn thường có tỷ lệ gặp khó khăn cao hơn so với nhóm

nam giới, dân tộc Kinh và sống ở thành thị). Về tỉnh thành, các tỉnh có quy mô dân

số cao tuổi lớn hoặc có tỷ lệ NCT cần chăm sóc lớn thì số lượng NCT cần chăm sóc

cũng lớn và ngược lại. Bởi vậy, TP Hồ Chí Minh, Hà Nội, Thanh Hoá, Nghệ An và

Thái Bình là 5 tỉnh có số lượng NCT cần chăm sóc hỗ trợ lớn nhất cả nước [44].

Tóm lại, đối với nhóm dân số cao tuổi, một số đặc trưng nổi bật bao gồm: xu

hướng già hoá dân số ngày càng tăng với tốc độ nhanh; số lượng NCT ở nhóm sơ lão

và đại lão gia tăng nhanh chóng, trong đó tỷ lệ NCT nữ cao hơn so với nam giới và ở

độ tuổi càng cao, mức độ nữ hóa càng rõ so với các nhóm tuổi khác. NCT sống chủ

yếu ở nông thôn, tập trung tại 2 vùng Đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ và

Duyên hải miền Trung. Tỷ lệ NCT goá/sống một mình hoặc sống với NCT khác, với

41

trẻ em dưới 15 tuổi chiếm tỷ lệ cao. NCT có tài chính phụ thuộc vào con cháu tăng

lên ở lứa tuổi cao hơn và tỷ lệ NCT có tiết kiệm chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ với số tiền tiết

kiệm thấp. NCT có những khó khăn về thực hiện chức năng sinh hoạt ngày tăng cao

ở lứa tuổi đại lão, trong đó phụ nữ, dân tộc thiểu số, NCT sống ở nông thôn thường

có tỷ lệ gặp khó khăn sinh hoạt cao hơn so với nhóm nam giới, dân tộc Kinh và sống

ở thành thị.

2.1.2.2. Nhu cầu chăm sóc của người cao tuổi

Xu hướng già hoá ở các nhóm lứa tuổi khác nhau của NCT cho thấy nhu cầu

phát triển về mặt số lượng hệ thống các cơ sở chăm sóc NCT và tập trung vào chăm

sóc y tế/sức khoẻ cho nhóm đại lão trong khi các nhóm sơ lão và trung lão cũng có

nhu cầu chăm sóc nhưng chủ yếu tập trung vào xã hội và tinh thần. Việc chăm sóc y

tế cho nhóm đại lão cũng cần quan tâm đến đặc trưng về tỷ lệ nữ, tỷ lệ NCT sống tại

nông thôn và dân tộc thiểu số cao hơn so với các nhóm đối sánh tương ứng. Việc

chăm sóc y tế cho nhóm NCT này đòi hỏi lực lượng chăm sóc chính thức (được đào

tạo chuyên nghiệp) và cung cấp bởi các cơ sở chăm sóc được cấp phép. Vấn đề là

nhóm NCT cần dịch vụ chuyên biệt như chăm sóc y tế, hỗ trợ các hoạt động hàng

ngày, lại sống đa số ở nông thôn, với thu nhập và tiếp cận dịch vụ kém hơn so với

người cao tuổi thành thị, khả năng chi trả thấp và bị phụ thuộc về tài chính.

Thêm vào đó, việc phát triển hệ thống chăm sóc NCT cần có sự cân bằng để

thích ứng với biến đổi về dân số, luồng di cư, dịch chuyển lao động nữ cũng góp

phần gia tăng nhu cầu phát triển hệ thống cơ sở chăm sóc NCT. Trong bối cảnh di

dân đô thị ở Việt Nam, tỷ lệ NCT sống ở thành thị càng ngày càng tăng lên do quá

trình đô thị hoá diễn ra mạnh mẽ, tỷ lệ NCT sống một mình vừa tự chăm sóc/vừa

phải chăm sóc các cháu ở cả thành thị và nông thôn tăng lên. Cùng với bối cảnh dịch

chuyển lao động ở Việt Nam hiện nay, vấn đề về lực lượng lao động nữ vốn chủ lực

tham gia vào việc chăm sóc sức khoẻ cho NCT nay tham gia nhiều hơn vào thị

trường lao động khiến nhiều gia đình không thể thực hiện cả hai chức năng kinh tế và

chăm sóc NCT đồng thời. Cuối cùng, xu hướng nhân khẩu của nhóm dân số cao tuổi

với tuổi thọ trung bình tăng lên và những thay đổi về tỷ lệ sinh thấp và quy mô gia

đình nhỏ dẫn đến sự chăm sóc của người thân dành cho NCT giảm đi theo thời gian

… là những nguyên nhân dẫn đến nhu cầu được CSDH tập trung để đảm bảo lấp đầy

khoảng cách nhu cầu chăm sóc đa dạng của nhóm NCT ngày càng tăng lên [44, 135].

Như vậy, với những đặc trưng của nhóm dân số cao tuổi, để đáp ứng toàn diện

42

nhu cầu của nhóm dân số này cần hệ thống chăm sóc toàn diện bao gồm: mạng lưới y

tế chăm sóc sức khoẻ, phòng bệnh, khám bệnh cho NCT các cấp, mạng lưới bác sĩ

gia đình và DVCS sức khoẻ tại nhà; chăm sóc hỗ trợ khẩn cấp hoặc chăm sóc thay

thế, CSDH cho NCT (bao gồm DVCS ban ngày, dịch vụ hỗ trợ chăm sóc NCT tại gia

đình và cộng đồng, chăm sóc NCT tại cơ sở tập trung) [5, 93]. Trong phạm vi nghiên

cứu của luận án, tác giả tập trung vào nhu cầu về hệ thống CSDH cho NCT mà

không tập trung vào phía cạnh chăm sóc ngắn hạn hoặc cấp tính từ mạng lưới y tế và

mạng lưới bác sĩ gia đình, chăm sóc sức khoẻ tại nhà. Hệ thống CSDH cho NCT cần

phát triển dựa trên các tiêu chí sau:

- Hệ thống chăm sóc cho NCT cần tập trung phát triển cả hệ thống chăm sóc

NCT tại cộng đồng (bao gồm chăm sóc tại gia đình và cộng đồng) và chăm sóc NCT

tập trung tại cơ sở;

- Hệ thống chăm sóc cho NCT cần đa dạng hoá chủ thể cung cấp dịch vụ bao

gồm hai nhóm chính thức (do nhà nước, thị trường/tư nhân, các tổ chức phi chính

phủ/tổ chức tôn giáo/tổ chức từ thiện) và nhóm phi chính thức (bao gồm các thành

viên trong gia đình, người thân, bạn bè, tình nguyện viên tại cộng đồng);

- Hệ thống chăm sóc cho NCT cần đáp ứng nhu cầu xã hội, tinh thần, y tế (sức

khoẻ) dựa theo sự khác biệt giữa các nhóm sơ lão, trung lão, đại lão để giải quyết nhu

cầu thiết yếu trong đời sống của nhóm dân số cao tuổi;

- Hệ thống chăm sóc cho NCT tại cơ sở cần tập trung phát triển đa dạng các loại

dịch vụ cung cấp bao gồm dịch vụ chăm sóc ban ngày, chăm sóc ngắn ngày, dịch vụ

hỗ trợ chăm sóc NCT tại gia đình và cộng đồng…;

- Hệ thống chăm sóc cho NCT cần đáp ứng sự khác biệt liên quan đến nhạy

cảm giới, khu vực thành thị/nông thôn, vùng kinh tế - xã hội để đảm bảo tính sẵn có,

khả năng tiếp cận, khả năng chi trả của NCT với hệ thống chăm sóc.

2.2. Cơ sở chăm sóc Người cao tuổi

2.2.1. Khái niệm cơ sở chăm sóc người cao tuổi

Theo Khoản 1 Điều 20 Luật Người cao tuổi số 39/2009/QH12 ngày

23/11/2009, cơ sở chăm sóc NCT được định nghĩa: “Là nơi chăm sóc, nuôi dưỡng, tư

vấn hoặc hỗ trợ những điều kiện cần thiết khác cho người cao tuổi”.

Mục đích thành lập cơ sở chăm sóc NCT nhằm thực hiện các hoạt động chăm

sóc sức khỏe thể chất, tinh thần của NCT trong thời hạn nhất định. Hoạt động chăm

sóc NCT có thể phát sinh dựa trên hợp đồng DVCS NCT và hoặc đề nghị của NCT

43

đối với các trường hợp là đối tượng BTXH theo quy định của nhà nước. Cần lưu ý

phân biệt khái niệm chăm sóc sức khoẻ của cơ sở chăm sóc NCT. Mục 2, Chương II

của Luật NCT (2009) đề cập đến việc Chăm sóc sức khoẻ NCT bao gồm khám chữa

bệnh và chăm sóc sức khoẻ ban đầu là một trong những chức năng của cơ sở y tế bao

gồm bệnh viện, trạm y tế xã, phường, thị trấn [31]. Điều này có nghĩa, cơ sở chăm

sóc NCT không có thẩm quyền cung cấp DVCS sức khoẻ với những can thiệp y tế

của lực lượng y tế được cấp phép.

Cơ sở chăm sóc NCT bao gồm các tổ chức được thành lập và hoạt động hợp

pháp (trong đó bao gồm các cơ sở chăm sóc xã hội), được sự cho phép của cơ quan

Nhà nước có thẩm quyền. Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền bao gồm: Sở Kế

KHĐT, Sở LĐTBXH hoặc Phòng LĐTBXH. Đối với các cơ sở chăm sóc xã hội, để

có thể thực hiện việc chăm sóc NCT, cần phải đáp ứng một số điều kiện về mặt cơ sở

vật chất để đáp ứng nhu cầu của NCT theo các yêu cầu về quản lý nhà nước được

quy định trong các NĐ 68/2008/NĐ-CP (đã hết hiệu lực), NĐ 103/2017/NĐ-CP và

các thông tư, quyết định khác được ban hành kèm theo.

Theo khoản 4, điều 20 Luật NCT, cơ sở chăm sóc NCT được hưởng các CS ưu

đãi theo quy định của pháp luật về CS khuyến khích XHH, nên trong nhiều văn bản

pháp luật khác, cơ sở chăm sóc NCT được nhắc đến với các tên gọi có ý nghĩa tương

đồng là Cơ sở thực hiện XHH (theo NĐ 69/2008/NĐ- CP, QĐ số 693/QĐ-TTg) hoặc

được gọi là Cơ sở dưỡng lão (theo Điều 9, Thông tư 16/2014/TT-BCT) và được xếp

vào nhóm cơ sở thuộc lĩnh vực y tế để hưởng mức giá ưu đãi về điện, nước [31].

2.2.2. Phân loại cơ sở chăm sóc người cao tuổi

Theo Khoản 2 Điều 20 Luật NCT số 39/2009/QH12 ngày 23/11/2009, cơ sở

chăm sóc NCT bao gồm: (1) Cơ sở bảo trợ xã hội; (2) Cơ sở tư vấn, DVCS người cao

tuổi; (3) Cơ sở chăm sóc người cao tuổi khác. Cơ sở chăm sóc NCT khác có thể được

hiểu là các cơ sở chăm sóc NCT không thuộc hai nhóm trên, bao gồm các cơ sở như:

cơ sở cung cấp dịch vụ hỗ trợ khẩn cấp, chăm sóc thay thế. Việc phân chia này cho

thấy trong số các cơ sở được phân loại ở trên, nhóm Cơ sở tư vấn, DVCS NCT và cơ

sở chăm sóc NCT khác không thuộc nhóm Cơ sở cung cấp dịch vụ CSDH – chức

năng của cơ sở chăm sóc NCT mà luận án nghiên cứu [31]. Theo NĐ số

103/2017/NĐ- CP, tên gọi Cơ sở BTXH được đề cập trong NĐ 68/2008/NĐ- CP và

Luật NCT 2009 trên đã được thay đổi tên gọi thành Cơ sở TGXH. Như vậy, theo

cách phân chia về cơ sở chăm sóc NCT, nhóm cơ sở BTXH có tên gọi mới trong các

44

văn bản pháp lý là cơ sở TGXH chăm sóc NCT [6, 8].

Trên cơ sở phân loại Cơ sở TGXH theo Điều 2, NĐ số 103/2017/NĐ- CP, cơ sở

TGXH chăm sóc NCT sẽ được phân loại bao gồm Cơ sở TGXH công lập và cơ sở

TGXH ngoài công lập. Trong đó: (1) Cơ sở TGXH công lập do cơ quan nhà nước

thành lập, quản lý, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và bảo đảm kinh phí cho các

nhiệm vụ của cơ sở TGXH; (2) Cơ sở TGXH ngoài công lập do các cá nhân, tổ chức,

doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và bảo đảm kinh

phí cho các nhiệm vụ của cơ sở TGXH.

Theo Điều 2, NĐ 68/2008/NĐ- CP (đã hết hiệu lực) và NĐ 103/2017/NĐ- CP:

Cơ sở TGXH hay tên cũ là cơ sở BTXH đều bao gồm cơ sở công lập và cơ sở ngoài

công lập. NĐ 68 chỉ quy định điều kiện, thủ tục thành lập, tổ chức, hoạt động và giải

thể cơ sở BTXH chăm sóc, nuôi dưỡng từ 10 đối tượng trở lên. Trong khi NĐ 103

quy định về thành lập, tổ chức, hoạt động, giải thể và quản lý các cơ sở TGXH mà

không có hạn định về số lượng đối tượng chăm sóc. Bên cạnh đó, sự thay đổi trong

NĐ 103 là tiền đề cơ bản cho phép các cơ sở công lập có quyền được cung cấp

DVCS NCT có thu phí tự nguyện và các cơ sở ngoài công lập thu hút được đầu tư

của các doanh nghiệp trong và ngoài nước (xem Phụ lục 5).

Mặc dù có sự khác nhau về chủ thể thành lập, nhưng theo quy định của pháp

luật, một cơ sở TGXH dù là công lập hay ngoài công lập, để được thành lập, tổ chức

và hoạt động phải chịu sự quản lý của Nhà nước và phải đảm bảo các yếu tố: có tư

cách pháp nhân, con dấu và tài khoản riêng; có tên gọi bằng tiếng Việt và tiếng nước

ngoài, biểu tượng riêng (nếu có). Tên và biểu tượng của cơ sở TGXH phải đáp ứng

các điều kiện: không trùng lắp hoặc gây nhầm lẫn với tên hoặc biểu tượng của cơ sở

khác đã được đăng ký trước đó; không vi phạm truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo

đức và thuần phong mỹ tục của dân tộc; trụ sở hoạt động của cơ sở TGXH phải đặt

trên lãnh thổ Việt Nam và có địa chỉ cụ thể.

Điểm khác biệt giữa cơ sở TGXH công lập và ngoài công lập là ở đối tượng

chăm sóc. Điều 5, Luật NCT phân các loại hình cơ sở TGXH bao gồm cơ sở BTXH

chăm sóc NCT, chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, chăm sóc NKT, chăm sóc và

phục hồi chức năng cho người tâm thần và rối nhiễu tâm trí, cơ sở BTXH tổng hợp,

trung tâm CTXH và cơ sở TGXH khác theo quy định của pháp luật. Tuy các loại

hình được phân định cụ thể theo nhóm đối tượng trợ giúp, nhưng các cơ sở TGXH

công lập hiện nay chăm sóc tổng hợp cả NCT và trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt

45

và/hoặc NKT. Trong khi cơ sở TGXH ngoài công lập chỉ cung cấp dịch vụ cho riêng

đối tượng NCT. Các cơ sở TGXH chăm sóc NCT công lập và ngoài công lập chịu sự

quản lý trực tiếp của ngành LĐTBXH theo Điều 5, NĐ 103/2017/NĐ-CP. Ngoài ra,

theo Luật đầu tư, các cơ sở ngoài công lập cần phải đăng kí hoạt động dưới sự quản

lý của Sở KHĐT. Nói cách khác, các cơ sở ngoài công lập phải đăng kí theo Sở

KHĐT để được hoạt động và đăng kí với Sở LĐTBXH hoặc Phòng LĐTBXH để

được cấp phép chăm sóc NCT.

Trên thực tế, hiện nay có một số cơ sở chăm sóc NCT chỉ đăng kí hoạt động

theo Sở KHĐT theo Danh mục ngành nghề kinh doanh ban hành kèm theo QĐ

27/2018/QĐ-TTg ngày 06 tháng 7 năm 2018 của Thủ tướng chính phủ, và đăng kí

nhóm ngành 8730: Hoạt động chăm sóc sức khoẻ người có công, người già và NKT

không có khả năng tự chăm sóc. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, để cung cấp dịch vụ

CSDH cho NCT, các cơ sở này cần được cấp phép bởi ngành LĐTBXH. Trong luận

án, để nghiên cứu toàn diện về việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT, tác

giả có nghiên cứu các cơ sở này và gọi tên là: Cơ sở khác.

2.3. Chính sách phát triển cơ sở chăm sóc người cao tuổi

2.3.1. Khái niệm chính sách công

Bàn về khái niệm CS công, cũng có nhiều quan điểm khác nhau, dẫn tới nhiều

các định nghĩa khác nhau. Các tác giả Cochran và cộng sự [75] và Thrush và Hyder

[139] cho rằng “Khái niệm CS công là những hành động của chính phủ và các ý định

quyết định tới các hành động này”. Tác giả Dye [85] cho rằng CS công là “bất cứ

điều gì mà chính phủ chọn để thực hiện hoặc không thực hiện”. Hoặc một định nghĩa

khác cho rằng “CS công là các quyết định chính trị nhằm thực hiện các chương trình

để hướng tới các mục đích xã hội” [76]. Một định nghĩa khác, được cho là khái quát

hơn của tác giả Peters [122, tr. 74] cho rằng “một cách đơn giản, CS công là tổng thể

các hành động của chính phủ, dù là trực tiếp hoặc thông qua các cơ quan tổ chức,

nhằm tác động tới đời sống của người dân”. Nói cách khác, CS là hành động của nhà

nước nhằm lựa chọn hoặc không lựa chọn giải quyết vấn đề mà họ quan tâm nhằm

mục tiêu chính trị và xã hội của chủ thể ban hành.

Tác giả Beverly Schultz và Beverly [129, tr. 175] đề cập đến khái niệm CS

công “là quá trình các thành viên của một khu vực địa lý hoặc đơn vị chính trị đưa ra

lựa chọn giải quyết các lĩnh vực và vấn đề họ quan tâm”. Trong đó, tác giả cũng làm

rõ thêm bằng cách phân tích từng yếu tố của khái niệm bao gồm yếu tố “công”, có

46

nghĩa là sở thích và hành động của một nhóm người, phổ biến nhất là thông qua việc

tiếng nói chung của họ được lắng nghe trong các cơ quan quản lý nhà nước và đặc biệt là

chính phủ. Khái niệm này đề cập đến khía cạnh CS bị chi phối bởi các bên liên quan.

Ngoài ra, tác giả Ingram và Smith [102] và Birkland [67] cho rằng quan điểm

CS vốn được thể hiện bởi nhiều hình thức khác nhau trong thực tế, bao gồm có thể là

luật, hoặc quy định, hoặc tập hợp tất cả các luật và quy định chi phối một lĩnh vực

hoặc vấn đề cụ thể nào đó là một quan điểm không đầy đủ. Vì thế, thuật ngữ CS đối

với tác giả cần được hiểu đầy đủ hơn là: “Các CS được thể hiện thông qua các văn

bản, thông lệ, biểu tượng và diễn ngôn nhằm xác định và cung cấp các giá trị”. Theo

định nghĩa này, CS không chỉ nằm trong luật và quy định; một khi luật hoặc các quy

tắc được đưa ra, các CS sẽ tiếp tục được đưa ra đối với những người thực hiện CS –

tức là những người đưa CS vào thực hiện – đưa ra quyết định xem ai sẽ được hưởng

lợi từ CS và ai sẽ là người gánh vác trách nhiệm thực hiện. Do đó, khi nghiên cứu

CS, cần xem xét phạm vi rộng, không chỉ đơn giản là luật và quy tắc thành văn [67].

Ở Việt Nam, hai tác giả Nguyễn Hữu Hải Lê Văn Hoà [23] định nghĩa CS công

là “một tập hợp các quyết định có liên quan với nhau do nhà

nước ban hành, bao gồm các mục tiêu và giải pháp để giải quyết

một vấn đề công nhằm thúc đẩy xã hội phát triển theo hướng

nhất định”. Trong các văn bản pháp lý ở Việt Nam, Điều 2, NĐ số 36/2016/NĐ-

CP quy định CS là “những định hướng, giải pháp của nhà nước để giải quyết vấn đề

của thực tiễn nhằm đạt được một mục tiêu nhất định” [7].

Tổng hợp các khái niệm trên, trong phạm vi nghiên cứu của luận án, khái niệm

CS được hiểu tương đồng với khái niệm CS công và bao gồm có những đặc điểm

sau: (1) Chủ thể ban hành CS là chính phủ hoặc một thành viên của khu vực địa lý

hoặc đơn vị chính trị có thẩm quyền ban hành; (2) CS công là việc lựa chọn hoặc

không lựa chọn hành động để giải quyết một vấn đề nhất định; (3) CS công được thể

hiện dưới nhiều hình thức khác nhau dưới dạng văn bản pháp luật và khi đưa vào

thực hiện, được thể hiện cả dưới dạng quy tắc bất thành văn do bản thân những người

liên quan đến việc thực hiện CS; (4) CS công bao gồm những quyết định của nhà

nước về việc lựa chọn mục tiêu, giải pháp thực hiện mục tiêu; (5) CS công có tác

động nhất định đến đời sống kinh tế, xã hội của cả quốc gia hoặc một bộ phận dân cư

nhất định.

47

2.3.2. Chính sách phát triển cơ sở chăm sóc người cao tuổi

Dựa vào khái niệm về CS công, việc tổng hợp CS phát triển cơ sở chăm sóc

NCT phải dựa trên các văn bản pháp luật đã được ban hành về lĩnh vực này. Khi tổng

hợp các văn bản pháp luật, có thể phân chia các văn bản CS theo dòng thời gian,

hoặc phân chia dựa trên các loại CS. Nếu lựa chọn tổng hợp CS theo thời gian, có thể

dễ dàng thấy được tiến trình ban hành CS. Nhưng với cách tổng hợp này, những CS

đã hết hiệu lực bị thay thế bởi CS khác sẽ khó được theo dõi, đồng thời, việc có góc

nhìn tổng hợp về các loại CS tương tự nhau trong các văn bản sẽ không được tường

minh. Bởi vậy, trong luận án, tác giả lựa chọn cách phân chia dựa trên các loại CS.

Một đặc trưng khác của CS công là việc thể hiện ý định của chủ thể ban hành

CS mà cụ thể ở đây, CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT thể hiện ý định can thiệp của

nhà nước (bao gồm chính phủ và chính quyền theo đơn vị địa lý hoặc chính trị) trong

việc phát triển cơ sở chăm sóc cho nhóm dân số cao tuổi. Trình bày về ý định của

nhà nước trong việc phát triển cơ sở chăm sóc NCT, Uchimura-Shiroshi và Terada-

Hagiwara [140] và Dewen Wang [84] cho thấy các văn bản CS thể hiện sự can thiệp

của nhà nước dựa trên ba khía cạnh cơ bản bao gồm: CS quản lý nhà nước về hành

chính và chất lượng dịch vụ; CS ưu đãi khuyến khích phát triển và các CS đào tạo và

phát triển thị trường nhân lực cung ứng cho lĩnh vực đó.

Bàn về vai trò quản lý nhà nước đối với các cơ sở TGXH ở Việt Nam, Đinh Thị

Minh Tuyết [13] cho rằng cần bao gồm 7 nội dung: 1) Xây dựng, tổ chức thực hiên

quy hoạch phát triển mạng lưới cơ sở TGXH; 2) Xây dựng, tổ chức thực hiện hệ

thống thể chế quản lý nhà nước với các cơ sở TGXH; 3) Xây dựng và tổ chức thực

hiện hệ thống CS (hỗ trợ, đầu tư, xây dựng cơ sở TGXH công lập… ); 4) Kiện toàn

và tổ chức thực hiện bộ máy quản lý nhà nước đối với các cơ sở TGXH; 5) Xây dựng

và phát triển đội ngũ cán bộ quản lý và chuyên môn đối với cơ sở TGXH; 6) Huy

động, quản lý nguồn lực tài chính, cơ sở vật chất và kỹ thuật đối với các cơ sở

TGXH…; 7) Thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm đối với các cơ sở TGXH. Bảy nội

dung bàn về sự can thiệp của nhà nước đối với sự phát triển của cơ sở chăm sóc NCT

ở Việt Nam trên tương đồng với quan điểm về ba khía cạnh can thiệp của nhà nước

đối với việc phát triển cơ sở chăm sóc NCT mà Uchimura-Shiroshi và Terada-

Hagiwara [140] và Dewen Wang [84] đề cập. Từ những cơ sở nghiên cứu trên, có thể

hiểu, khái niệm CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT trong luận án này được hiểu như sau:

CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT là tổng thể hành động của chính phủ và địa

48

phương nhằm tác động đến sự phát triển các cơ sở chăm sóc NCT bao gồm việc lựa

chọn và xác định các mục tiêu CS, giải pháp CS có liên quan đến ba khía cạnh: quản

lý hành chính và quản lý chất lượng dịch vụ các cơ sở chăm sóc NCT, ưu đãi khuyến

khích sự phát triển của các cơ sở và việc đào tạo phát triển nguồn nhân lực cung ứng

cho thị trường chăm sóc NCT nhằm thúc đẩy các cơ sở chăm sóc NCT phát triển về

số lượng, chất lượng, quy mô, với sự phân bố phù hợp với quy hoạch của nhà nước

và đáp ứng nhu cầu của xã hội.

Trên cơ sở về sự can thiệp của nhà nước đối với sự phát triển cơ sở chăm sóc

NCT ở Việt Nam, các khía cạnh CS, các nhóm CS được phân chia cụ thể như sau:

- CS quản lý hành chính và quản lý chất lượng dịch vụ: bao gồm các CS quy

hoạch mạng lưới, quy định về thành lập, tổ chức, hoạt động, giải thể và quản lý các

cơ sở trợ giúp, quản lý về định mức nhân viên và quy trình, tiêu chuẩn TGXH tại cơ

sở TGXH, quy định về thẩm quyền và trách nhiệm quản lý của các cơ quan TW và

chính quyền địa phương đối với các cơ sở TGXH, tiêu chuẩn và quản lý chất lượng

về dịch vụ được cung cấp…;

- CS ưu đãi: bao gồm các CS khuyến khích XHH như hỗ trợ đầu tư, ưu đãi tín

dụng, đầu tư xây dựng/ sửa chữa cơ sở vật chất, miễn/ giảm thuế phí, giao/ cho thuê

đất và mặt nước, giảm giá dịch vụ, miễn giảm thuế xuất nhập khẩu trang thiết bị

trong các lĩnh vực XHH;

- CS đào tạo và phát triển nguồn nhân lực: CS lương/phụ cấp, khen thưởng,

đào tạo nhân lực điều dưỡng, công tác xã hội (CTXH), tham vấn tâm lý, bồi dưỡng

thường xuyên, cấp chứng chỉ hành nghề…

2.4. Thực hiện chính sách phát triển cơ sở chăm sóc người cao tuổi

2.4.1. Khái niệm thực hiện chính sách phát triển cơ sở chăm sóc người cao tuổi

Bất kể việc phân chia chu trình CS thành các giai đoạn như thế nào, thực hiện

CS vẫn luôn được coi là một phần không thể thiếu của chu trình CS [134]. Thuật ngữ

“thực hiện” là một khái niệm phổ biến trong diễn ngôn đương đại giữa các học giả về

CS công xuất hiện từ tác phẩm của Pressman và Wildavsky [124] vào đầu những

năm 1970. Pressman và Wildavsky [124] cho rằng việc thực hiện có thể được xem

như một quá trình tương tác giữa việc thiết lập các mục tiêu và các hành động hướng tới

việc đạt được chúng [124]. Tác giả Khan [105] tuyên bố rằng việc thực hiện CS liên

quan đến việc chuyển đổi các mục tiêu của một CS thành các chương trình, hoạt động.

Bên cạnh đó, tác giả Stewart và cộng sự [59] đề cập khái niệm này là quá trình

49

thực hiện văn bản pháp luật, trong đó các bên liên quan tổ chức, thực hiện các thủ tục

hành chính và kỹ thuật khác nhau, cùng phối hợp để đưa các CS có hiệu lực vào thực

tiễn nhằm đạt được các mục tiêu CS. Simon [131] cũng coi thực hiện CS là việc áp

dụng CS của bộ máy hành chính của chính phủ nhằm đạt được các mục tiêu. Cùng

quan điểm, tác giả Birkland [67] cho rằng, khi các nhà hoạch định CS đã thiết kế các

công cụ CS, các bên liên quan khác nhau trong chu trình CS sẽ dịch chuyển mối quan

tâm của họ sang việc thực hiện CS trong thực tế. Điều này có thể được hiểu rằng việc

thực hiện CS sẽ được tổ chức bởi các cơ quan nhà nước nhưng không đơn thuần là

việc tổ chức triển khai các giải pháp CS ở trong các văn bản cụ thể mà còn bao hàm

nhiều nội dung cần thực hiện với sự tham gia và phối hợp giữa nhiều chủ thể có liên

quan để biến mục tiêu CS thành hiện thực.

Bàn về vị trí của giai đoạn thực hiện CS trong chu trình CS, có nhiều quan điểm

cho rằng các CS thành công hoặc không thành công do bản thân nội dung của CS –

liên quan đến bước xây dựng, thiết kế CS. Giải thích điều này, Hupe và Hill [101]

cho rằng việc thực hiện chỉ diễn ra chỉ ở giai đoạn cuối của quy trình CS. Điều này

có nghĩa là việc triển khai đang thiết lập bất kỳ CS dự kiến nào thành hành động. Do

đó, giai đoạn thực hiện chỉ là sự tiếp nối các giai đoạn trước của quá trình xây dựng

chương trình nghị sự và xây dựng CS. Hai tác giả Hupe và Hill [101] cũng lưu ý rằng

ngay sau khi các mục tiêu CS được nêu ra và thống nhất, các ý định hoặc mục tiêu

của CS được đặt lên đầu trước các bước thực hiện để đạt được mục tiêu CS. Vậy nên,

việc thực hiện chỉ được là một hoạt động hành chính chính trị.

Nhưng Hudson và cộng sự [99] cùng nhiều học giả khác ở Việt Nam lại có

quan điểm trái ngược. Trong các hệ thống phức tạp, tìm ra câu trả lời cho câu hỏi làm

thế nào tốt nhất để đảm bảo thiết kế và thực hiện CS hiệu quả không dễ dàng. Bởi

vậy, thay vì để các CS rơi vào tình trạng thất bại toàn bộ hoặc thậm chí một phần, các

chính phủ hiện đang bắt đầu quan tâm đến những cách thức mà quá trình CS – đặc

biệt là giai đoạn thực hiện – có thể được điều chỉnh. Vì thế, xét đến cùng, mặc dù

không bỏ qua bước hình thành CS khi nghiên cứu, đánh giá thực hiện CS, nhưng cần

khẳng định thực hiện CS công là bước có ý nghĩa quyết định tới sự thành bại của một

CS công: giữ CS công tồn tại và phát huy tác dụng trong đời sống xã hội, ngay cả khi

phải thay đổi các biện pháp thực hiện mục tiêu CS, đồng thời thực hiện CS công còn

nhằm duy trì CS công với các bên có liên quan tham gia thực hiện CS, bao gồm các

50

cơ quan nhà nước, các tổ chức cá nhân cả trong nước và nước ngoài [18, 22].

Tại Việt Nam, khái niệm thực hiện CS cũng được coi là giai đoạn “biến ý đồ

CS thành những kết quả thực tế” thông qua hoạt động có tổ chức của các cơ quan

trong bộ máy nhà nước nhằm đạt những mục tiêu đã đề ra một cách hiệu quả [22].

Như vậy, yếu tố cấu thành của hầu hết các định nghĩa được trích dẫn về thuật ngữ

thực hiện CS là một quá trình ban hành và triển khai một loạt các chương trình, hoạt

động trong thực tế nhằm đạt mục tiêu CS của chủ thể ban hành.

Từ các định nghĩa và quan điểm về vị trí của giai đoạn thực hiện trong quy trình

CS của các tác giả trên thế giới và Việt Nam, có thể khái quát khái niệm thực hiện

CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT được sử dụng trong luận án như sau:

Thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT là một quá trình được tổ chức bởi

các cơ quan nhà nước thông qua việc ban hành và triển khai các văn bản, kế hoạch

thực hiện bởi sự tham gia và phối hợp của nhiều chủ thể có liên quan nhằm biến mục

tiêu phát triển các cơ sở chăm sóc NCT đáp ứng mục tiêu quản lý nhà nước và nhu

cầu của xã hội. Việc thực hiện CS không phải là bước cuối cùng của quy trình CS mà

là bước có sự điều chỉnh CS nhằm duy trì và đảm bảo sự thành công của CS trong

thực tiễn.

2.4.2. Chủ thể thực hiện chính sách phát triển cơ sở chăm sóc người cao tuổi

Việc thực hiện thành công một CS phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó bao

gồm việc xác định và phân tích được các chủ thể/các bên liên quan. Khi xác định

được các bên liên quan, nhóm thực hiện CS sẽ hình dung cụ thể từng bên, mối quan

hệ qua lại giữa các bên, mức độ hỗ trợ cho sự thay đổi, mức độ quan trọng đối với

thành công của việc thực hiện để giúp xác định các cá nhân, tổ chức có khả năng tạo

điều kiện hoặc cản trở việc thực hiện CS.

Theo Triệu Văn Cường [45], các chủ thể tham gia thực hiện CS bao gồm 3

nhóm: (1) Chủ thể tổ chức triển khai thực hiện là các cơ quan bộ máy nhà nước ở

TW và/hoặc địa phương; (2) Chủ thể tham gia phối hợp thực hiện gồm các cơ quan

nhà nước từ TW đến địa phương trong đó nòng cốt là Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan

thuộc chính phủ, UBND các cấp và cơ quan chuyên môn của UBND các cấp; các tổ

chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội dân sự từ TW đến cơ sở, các hội, hiệp hội nghề

nghiệp và tổ chức dân sự tự quản khác trong xã hội có sự phối hợp với chủ thể triển

khai; (3) Đối tượng mục tiêu và đối tượng thụ hưởng CS bao gồm cơ quan tổ chức, cá

nhân trong xã hội, cá nhân hưởng lợi trực tiếp và những người không thụ hưởng lợi

51

ích trực tiếp từ CS. Làm rõ khái niệm về chủ thể thực hiện CS, Dương Xuân Ngọc và

Đỗ Đức Minh [14, tr. 65] cho rằng những chủ thể thực hiện rất đông đảo, bao gồm

các tổ chức, nhóm xã hội hoặc cá nhân mà những hành động của họ

khiế n CS trở thành hiện thực, tạo ra những biến đổi trong thực

tế như cơ quan hành chính nhà nư ớ c và công chứ c củ a các cơ

quan đó, các tổ chứ c chính trị xã hộ i, đố i tư ợ ng CS và nhân

dân. Quan điể m này làm rõ cơ quan thự c hiệ n CS là các cơ quan

đư ợ c phân công nhiệ m vụ quả n lý và tổ chứ c triể n khai công

việ c hàng ngày củ a Nhà nư ớ c, bao gồ m các công chứ c có thẩ m

quyề n là chủ thể triể n khai quan trọ ng nhấ t.

Như vậy, có thể thấy, để thực hiện CS công cần sự tham gia của nhiều chủ thể

với những vai trò khác nhau, với số lượng chủ thể tham gia khác nhau phụ thuộc vào

từng loại CS cụ thể, phụ thuộc phạm vi khu vực tác động của CS cấp địa phương và

quốc gia, bối cảnh thực hiện CS. Nhìn chung, các nhóm chủ thể thực hiện CS bao

gồm ba nhóm chính là: (1) Chủ thể tổ chức triển khai thực hiện là cơ quan nhà nước

và nhân sự phụ trách triển khai thực hiện lĩnh vực CS của cơ quan đó; (2) Chủ thể

tham gia phối hợp thực hiện CS là cơ quan được phân công nhiệm vụ phối hợp thực

hiện, trong đó nòng cốt là Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc chính phủ, UBND

các cấp và cơ quan chuyên môn của UBND các cấp; các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội dân sự; (3) Chủ thể tham gia với tư cách là đối tượng thụ hưởng CS.

Đối với CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT, các bên liên quan tham gia vào quá

trình thực hiện CS này sẽ bao gồm:

- Chủ thể tổ chức triển khai thực hiện CS

Bộ LĐTBXH được chính phủ phân công chịu trách nhiệm chủ trì và phối hợp

các bên liên quan về các vấn đề liên quan đến NCT, trong đó có việc xây dựng quy

hoạch mạng lưới các cơ sở chăm sóc NCT để trình cấp có thẩm quyền; phát triển

mạng lưới và xây dựng mô hình điểm cơ sở TGXH; tổ chức thực hiện chính sách về

chăm sóc NCT; đào tạo nâng cao năng lực nhân viên, cán bộ; triển khai hoạt động

truyền thông và khảo sát, đánh giá, điều tra về người cao tuổi, lĩnh vực TGXH; tổ

chức sơ kết, tổng kết thực hiện Đề án/ chương trình; thanh kiểm tra và giải quyết

khiếu nại liên quan đến hoạt động của các cơ sở TGXH. Bộ LĐTBXH cũng ban hành

52

trình tự, thủ tục và hồ sơ tiếp nhận và chế độ CS cho NCT vào các cơ sở BTXH. Ở

cấp quốc gia, Cục BTXH là cơ quan chuyên môn tham mưu cho Bộ LĐTBXH các

hoạt động trên.

Ở cấp địa phương, Sở LĐTBXH và Phòng LĐTBXH chịu trách nhiệm triển

khai thực hiện các CS phát triển các cơ sở TGXH cho NCT. Các công việc cụ thể bao

gồm: phổ biến văn bản CS; xây dựng kế hoạch thực hiện và trình UBND phê duyệt;

hướng dẫn các bên liên quan và chủ trì phối hợp thực hiện CS; trực tiếp hỗ trợ cơ sở

TGXH tại địa phương; theo dõi, kiểm tra, giám sát và đánh giá tổng kết việc thực

hiện CS.

- Chủ thể tham gia phối hợp thực hiện

Các bộ, ngành và UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc TW có trách nhiệm

phối hợp với Bộ/Sở LĐTBXH triển khai thực hiện CS này. Cụ thể:

UBND tỉnh, thành phố trực thuộc TW có trách nhiệm xây dựng kế hoạch tổ

chức thực hiện, bố trí nhân lực, phương tiện, kinh phí thực hiện theo đặc thù của địa

phương trong dự toán ngân sách hàng năm theo quy định của Luật ngân sách và lồng

ghép có hiệu quả với các đề án, dự án hiện có, định kỳ kiểm tra; báo cáo việc thực

hiện. UBND chỉ đạo, tổng kết đánh giá việc phối hợp của các cơ quan chức năng

nhằm tạo điều kiện hoạt động và rà soát, sắp xếp, kiện toàn các cơ sở TGXH trên địa

bàn quản lý.

Ở cấp TW, Bộ Nội vụ có trách nhiệm hướng dẫn việc thành lập, tổ chức lại, giải

thể đơn vị sự nghiệp công lập và hoàn thiện CS tuyển dụng, đãi ngộ và định mức với

cán bộ, nhân viên tại các cơ sở TGXH công lập; Bộ Tài chính có trách nhiệm bố trí,

điều chỉnh định mức, kinh phí hoạt động và quy định mức thu XHH của các cơ sở

TGXH theo quy định của Luật ngân sách nhà nước và các văn bản quy phạm pháp

luật; Các bộ ban ngành khác có liên quan như Bộ Xây dựng, Tài nguyên môi trường,

KHĐT để giải quyết các vấn đề CS cụ thể liên quan đến lĩnh vực quản lý.

Ở cấp địa phương: Sở trực thuộc ngành dọc của các Bộ tham gia phối hợp thực

hiện tại địa phương. Ngoài ra, còn có tổ chức xã hội khác, quan trọng nhất là Hội

người cao tuổi đại diện cho nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp của NCT có vai

trò tuyên truyền, vận động thực hiện CS.

- Chủ thể là đối tượng CS và đối tượng thụ hưởng CS

Các nhà cung cấp DVCS NCT là đối tượng thụ hưởng trực tiếp của CS bởi việc

53

CS có thúc đẩy triển khai được mạng lưới/hệ thống cơ sở chăm sóc NCT hay không

phụ thuộc vào nhu cầu, năng lực, mong đợi của nhóm này. Nhóm này bao gồm

những tổ chức được cấp phép hoạt động trong lĩnh vực chăm sóc NCT bởi ngành

LĐTBXH. Tuy nhiên trong quá trình phân tích, tác giả nhận thấy với nhóm đối tượng

nhà cung cấp DVCS NCT, còn có nhóm những nhà cung cấp dịch vụ nhưng không

đăng kí chăm sóc NCT theo ngành LĐTBXH mà chỉ đăng kí kinh doanh tại Sở

KHĐT; nhóm các tổ chức tư nhân, từ thiện, tôn giáo chăm sóc NCT. Ngoài ra, các tổ

chức/cá nhân trong và ngoài nước có ý định/mong đợi thành lập cơ sở chăm sóc NCT

cũng là nhóm đối tượng thụ hưởng trực tiếp của CS. Các cơ sở này cần thực hiện

theo các quy định của nhà nước và được quyền kiến nghị và báo cáo định kỳ 6 tháng

(trước ngày 15/6), theo năm (trước ngày 15/12) và đột xuất với cơ quan LĐTBXH

cùng cấp về hoạt động của tổ chức.

Đối tượng thụ hưởng gián tiếp của CS, góp phần tạo ra nguồn cầu để thúc đẩy

các chủ cơ sở chăm sóc NCT mở rộng dịch vụ chính là NCT và gia đình/người chăm

sóc của NCT có nhu cầu/khả năng sử dụng dịch vụ tại cơ sở. Nhóm này quyết định

sự mở rộng, phát triển mạng lưới cơ sở chăm sóc. Bởi vậy, nghiên cứu về các chủ thể

có liên quan đến quá trình thực hiện CS chăm sóc NCT không bỏ qua nhóm này. Tuy

nhiên trong phạm vi luận án, việc nghiên cứu nhóm đối tượng thụ hưởng gián tiếp

này được thực hiện thông qua các số liệu thứ cấp từ kết quả nghiên cứu công phu của

Tổng cục thống kê, Quỹ dân số thế giới, các báo cáo của Cục BTXH, Sở LĐTBXH.

Chủ thể cuối cùng có liên quan là các nhà nghiên cứu CS tại các trường Đại

học, các viện nghiên cứu, các tổ chức phi chính phủ, và các chuyên gia độc lập đang

hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu CS liên quan tới NCT, bởi đây là nhóm quan

tâm, có tiếng nói với việc thực hiện và hình thành CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT.

Nghiên cứu về việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT, cần quan tâm

đến tất cả các nhóm chủ thể tổ chức triển khai thực hiện, tham gia phối hợp và đối

tượng thụ hưởng của CS để có góc nhìn đa chiều, khách quan và có tính đối sánh

giữa các quan điểm khác nhau về quá trình thực hiện CS.

2.4.3. Quy trình thực hiện chính sách phát triển cơ sở chăm sóc người cao tuổi

Thực hiện CS là một bước quan trọng trong chu trình CS. Đây là bước được

xem là phức tạp nhất bởi sự tham gia của rất nhiều các chủ thể thực hiện CS khác

nhau (hay còn gọi là các bên liên quan), ở nhiều cấp độ khác nhau, với những nhiệm

54

vụ khác nhau. Bên cạnh đó, sự phức tạp còn được thể hiện bởi sự thay đổi liên tục

trong quá trình thực hiện CS, và sự phụ thuộc vào các bối cảnh mang tính tổ chức và

bối cảnh xã hội ảnh hưởng tới quá trình thực hiện mỗi CS.

Các CS công nói chung, trong đó có các CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT,

được nhiều học giả, nhà nghiên cứu cũng như các nhà hoạch định CS, các nhà quản

lý thực hiện CS trong nước và quốc tế cho rằng quá trình thực hiện có thể được chia

nhỏ thành các bước khác nhau. Tuỳ quan điểm tiếp cận, quá trình thực hiện CS có thể

được chia thành 3, 5, 6 hoặc 7 bước cụ thể.

Với quan điểm quy trình thực hiện CS gồm 3 bước, Triệu Văn Cường [45] sắp

xếp quy trình thực hiện CS gồm: (1) Xây dựng và ban hành văn bản, chương trình,

dự án thực hiện CS công; (2) Tổ chức thực hiện văn bản, chương trình, dự án thực

hiện CS công ; (3) Sơ kết, tổng kết việc thực hiện CS công.

Tác giả Viennet và Pont [144] dựa theo quan điểm về định hướng hành động,

cho rằng có 5 yếu tố (bước) cần được xem xét trong quá trình thực hiện CS, bao gồm:

(1) Phân công nhiệm vụ và cơ chế giải trình; (2) Phân tích mục đích, mục tiêu và

công cụ CS; (3) Xác định nguồn lực và thời gian; (4) Truyền thông và khuyến khích

sự tham gia; (5) Giám sát đánh giá. Đồng quan điểm 5 bước, tác giả Honig [96] cho

rằng để triển khai thực hiện một CS cụ thể cần thực hiện như sau: (1) Xây dựng văn

bản và kế hoạch triển khai thực hiện CS; (2) Phổ biến, tuyên truyền về CS; (3) Huy

động nguồn lực để thực hiện CS; (4) Phân công, phối hợp thực hiện; (5) Kiểm tra,

đánh giá quá trình thực hiện CS.

Tác giả Hồ Việt Hạnh [16] tổng hợp các phương thức để chia quy trình thực

hiện CS thành 3 bước, bao gồm: (1) Xây dựng kế hoạch thực hiện; (2) Triển khai

thực hiện; (3) Sơ kết, tổng kết, đánh giá rút kinh nghiệm thực hiện CS; hoặc chia

thành 5 bước, bao gồm: (1) Xây dựng kế hoạch thực hiện; (2) Tuyên truyền, phổ biến

CS; (3) Phân công, phối hợp thực hiện CS; (4) Theo dõi, kiểm tra, giám sát, đôn đốc

việc thực hiện CS; (5) Sơ kết, tổng kết, đánh giá quá trình thực hiện CS; hoặc cũng

có thể chia thành 7 bước cụ thể hơn, bao gồm: (1) Xây dựng kế hoạch thực hiện; (2)

Tuyên truyền, phổ biến CS; (3) Phân công, phối hợp thực hiện CS; (4) Theo dõi,

kiểm tra, giám sát, đôn đốc việc thực hiện CS; (5) Điều chỉnh CS; (6) Duy trì CS; (7)

Sơ kết, tổng kết, đánh giá quá trình thực hiện CS.

Dù phân chia theo bao nhiêu bước, về cơ bản quy trình vẫn đảm bảo việc thực

55

hiện là một tiến trình liên tục. Trên cơ sở lý luận, luận án này lựa chọn quy trình thực

hiện CS gồm 5 bước cơ bản. Cụ thể, đối với việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm

sóc NCT, quy trình 5 bước được triển khai như sau:

Bước 1: Xây dựng văn bản và kế hoạch triển khai thực hiện CS

Sở LĐTBXH là cơ quan chủ quản chịu trách nhiệm thực hiện CS phát triển cơ

sở chăm sóc NCT tại Hà Nội. Dựa trên văn bản hướng dẫn thực hiện CS của các cơ

quan có thẩm quyền (cấp bộ), nhiệm vụ của cơ quan thực hiện CS là cụ thể hoá các

văn bản này dưới dạng kế hoạch thực hiện CS sau đó trình UBND phê duyệt. Thông

thường, các CS là văn bản mang tính định hướng về mục tiêu và giải pháp giải quyết

vấn đề, nên kế hoạch thực hiện được xem là công cụ quan trọng để đảm bảo các CS

được hiện thực hoá với các hoạt động triển khai cụ thể theo giai đoạn thời gian hoặc

địa bàn cụ thể. Một kế hoạch triển khai thực hiện bao gồm các nội dung cơ bản sau:

các hoạt động dự kiến triển khai; nguồn lực được phân bổ (về con người và tài

chính); các mốc thời gian; các kết quả mong đợi và cuối cùng là cơ chế giám sát thực

hiện [22].

Trong giai đoạn này, những người xây dựng kế hoạch thực hiện cần nghiên cứu

nội dung CS về mục tiêu, nội dung, nhiệm vụ, phạm vi, quy mô, đối tượng và tầm

quan trọng của CS để đưa ra những văn bản, chương trình, dự án cần ban hành và

phê duyệt.

Bước 2: Tuyên truyền, phổ biến thực hiện CS

Bước tiếp theo sau khi có kế hoạch thực hiện là việc tuyên truyền, phổ biến CS

tới các bên liên quan. Cụ thể ở đây, đối với CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT tại Hà

Nội, việc truyền thông CS cần được thực hiện tới các sở ban ngành có liên quan tới

việc thực hiện bao gồm Sở tài nguyên môi trường, Sở KHĐT, Sở tài chính, Sở Quy

hoạch kiến trúc… Đối tượng hưởng lợi CS là nhóm ưu tiên quan trọng tiếp theo trong

việc tuyên truyền các CS này, ở đây là các cơ sở chăm sóc NCT công lập và ngoài

công lập. Mục tiêu của việc tuyên truyền nhằm giúp các chủ thể tham gia thực hiện

CS hiểu về nội dung CS và các vai trò cụ thể của mình trong quá trình phối hợp thực

hiện. Việc tuyên truyền có thể được thực hiện thông qua văn bản (công văn) trong hệ

thống quản lý nhà nước, hoặc thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng

khác. Ngoài ra, nhằm đưa CS được tuyên truyền, phổ biến sâu rộng, có thể thực hiện

triển khai tới người dân bao gồm: những nhà đầu tư tiềm năng hoặc đang có ý định

đầu tư vào lĩnh vực chăm sóc NCT, đối tượng hưởng lợi gián tiếp từ CS này bao gồm

56

NCT và gia đình/ người chăm sóc NCT để hiểu rõ về CS.

Việc phổ biến, tuyên truyền cần thực hiện thường xuyên, liên tục ngay cả khi

CS đang được thực hiện. Các hình thức cần đa dạng như trực tiếp tiếp xúc, trao đổi

với các đối tượng hoặc gián tiếp qua phương tiện truyền thông đại chúng.

Bước 3: Phân công, phối hợp thực hiện CS

Đây là bước hành động cụ thể nhằm đưa các CS vào thực tế, trong đó nhấn

mạnh tới việc phân công nhiệm vụ, phối hợp giữa các chủ thể tham gia thực hiện CS.

Trong bước này, các cơ chế phối hợp thực hiện CS được làm rõ. Bước này được coi

là bước then chốt quyết định toàn bộ quá trình thực hiện CS để các cá nhân có liên

quan hiểu được những nhiệm vụ, vai trò cụ thể được giao phó ở các giai đoạn khác

nhau trong suốt quá trình thực hiện CS. Cơ chế phối hợp thực hiện cũng bao gồm cả

cơ chế phản hồi giữa các bên liên quan nhằm kịp thời có những điều chỉnh, thay đổi

cần thiết để đạt được mục tiêu CS đề ra.

Việc phân công, phối hợp thực hiện có thể bao gồm phân công phối hợp theo

chiều dọc (giữa các sở, phòng theo ngạch quản lý nhà nước các cấp và với các cơ sở

chăm sóc NCT) và theo chiều ngang (giữa các bộ, ngành với nhau).

Bước 4: Theo dõi, kiểm tra, giám sát, đôn đốc việc thực hiện CS

Trong suốt quá trình thực hiện CS, việc theo dõi, kiểm tra, giám sát, đôn đốc

việc thực hiện CS được thực hiện thường xuyên. Một ban kiểm tra, giám sát CS được

thành lập bao gồm các thành viên thuộc cơ quan quản lý cấp Bộ (cơ quan hoạch định

CS) và các thành viên thuộc các sở ban ngành tham gia thực hiện CS. Việc theo dõi,

kiểm tra, giám sát và đôn đốc nhằm đảm bảo kế hoạch thực hiện CS được triển khai

một cách phù hợp, kịp thời cũng như các vấn đề phát sinh trong quá trình triển khai

được phát hiện và xử lý kịp thời từ đó đảm bảo mục tiêu CS được hoàn thành.

Trong việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT, việc thanh kiểm tra

giám sát được thực hiện theo ngành dọc (Bộ, Sở cùng lĩnh vực) và của UBND đối

với việc kiểm tra việc thực hiện của các Sở được phân công thực hiện nhiệm vụ. Việc

thanh kiểm tra thực hiện CS có thể được thực hiện vào đầu kỳ, giữa kỳ, cuối kỳ tuỳ

mục đích từng hoạt động kiểm tra. Các hình thức thanh kiểm tra có thể là gián tiếp

qua báo cáo kết quả thực hiện của các bộ, ngành chủ quan, của các Sở hoặc trực tiếp

thông qua hoạt động của các đoàn kiểm tra thực hiện CS.

Bước 5: Sơ kết, tổng kết, đánh giá quá trình thực hiện CS

Sơ kết, tổng kết, đánh giá quá trình thực hiện CS là bước cuối cùng trong tiến

57

trình thực hiện CS. Mục tiêu của bước này nhằm rút ra các bài học kinh nghiệm cần

thiết trong suốt quá trình triển khai từ đó có những thay đổi liên quan tới toàn bộ các

bước kể trên trong quá trình thực hiện CS. Đồng thời, bước này cũng hướng tới việc

tham mưu cho cơ quan hoạch định CS những thay đổi cần thiết về nội dung CS. Việc

sơ kết, tổng kết và đánh giá quá trình thực hiện CS được thực hiện trên nguyên tắc

tham gia và minh bạch. Điều này có nghĩa là các bên liên quan đều được tham gia

vào quá trình đánh giá, đồng thời kết quả việc đánh giá CS được xem xét một cách

trung thực và được chia sẻ chung cho các chủ thể tham gia thực hiện.

2.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách phát triển cơ sở chăm

sóc người cao tuổi

Nhiều quan điểm khác nhau về các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện CS

phát triển cơ sở chăm sóc NCT. Luận án nghiên cứu theo hướng tiếp cận tìm ra các

yếu tố là rào cản và thúc đẩy để đề xuất cách thức cải thiện quy trình thực hiện CS

dựa trên các yếu tố, chứ không đơn thuần chỉ đưa ra đánh giá yếu tố nào là sự thất bại

trong quá trình thực hiện và đưa giải pháp dựa trên quy trình [74]. Tác giả sử dụng

7C làm công cụ thu thập dữ liệu, cũng như để phân tích và xác định các yếu tố ảnh

hưởng từ quan điểm của các bên liên quan trong quy trình thực hiện CS. Theo mô

hình 7C, các yếu tố cần xem xét bao gồm: 1- Nội dung; 2- Bối cảnh; 3- Cam kết; 4-

Năng lực; 5- Liên minh; 6- Truyền thông; 7- Phối hợp. Áp dụng mô hình 7C, các yếu

tố ảnh hưởng đến việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT được cụ thể hoá

như sau:

Nội dung (C1 - Content)

Theo tác giả Birkland [66, tr. 50] các thành tố chính của một văn bản CS bao

gồm: mục đích; mô hình nhân quả; công cụ CS; đối tượng tác động, thực hiện CS.

Quan điểm này phù hợp với quan điểm của chính phủ Việt Nam về việc xác định nội

dung CS (Điều 5, NĐ số 34/2016/NĐ-CP Quy định chi tiết một số điều và biện pháp

thi hành luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật; và Luật ban hành văn bản quy

phạm pháp luật) [32], bao gồm các yếu tố sau: (1) Xác định các vấn đề cần giải

quyết, nguyên nhân của từng vấn đề; (2) Xác định Mục tiêu tổng thể, Mục tiêu cụ thể

cần đạt được khi giải quyết các vấn đề; (3) Xác định định hướng, giải pháp để giải

quyết từng vấn đề; (4) Xác định đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của CS, nhóm

đối tượng chịu trách nhiệm thực hiện CS; (5) Xác định thẩm quyền ban hành CS để

58

giải quyết vấn đề.

Bởi vậy, CS có nội dung tốt cần đảm bảo các yếu tố sau: Hệ thống văn bản CS

liên quan đến việc phát triển cơ sở chăm sóc NCT được xây dựng đầy đủ, cấu trúc

theo tiêu chuẩn Luật ban hành văn bản; Mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể của CS cụ

thể và rõ ràng; Giải pháp phù hợp với mục tiêu và có tính khả thi, phù hợp với thực tế

và đáp ứng nhu cầu của đối tượng CS là cơ sở chăm sóc NCT và đối tượng thụ

hưởng gián tiếp (NCT, gia đình/người chăm sóc NCT); Công cụ thực hiện được nhà

nước sử dụng có tác dụng hỗ trợ và khuyến khích các chủ thể tham gia phát triển cơ

sở chăm sóc NCT; Thẩm quyền của các bên liên quan được xác định cụ thể, rõ ràng.

Bối cảnh (C2 - Context)

Việc thực hiện CS công không diễn ra trong một “môi trường chân không” mà

trong bối cảnh chính trị, xã hội, kinh tế và luật pháp cụ thể. Bối cảnh trong thực hiện

CS đặt ra các giới hạn về những gì phải làm hoặc không được làm trong các giai

đoạn thực hiện. Tác giả Burger [72] đã đưa ra một nhận xét quan trọng khi nói rằng

“bối cảnh” như một biến số đóng một vai trò nổi bật trong việc đóng góp vào sự

thành công của quá trình thực hiện CS, vì nó phân loại các bên đóng vai trò thể chế

chính, các cam kết nội bộ và giữa các cơ quan thực hiện quan trọng.

Nói cách khác, yếu tố đầu tiên cần quan tâm khi phân tích bối cảnh của các CS

phát triển cơ sở chăm sóc NCT là bối cảnh chính trị khi CS được ban hành. Bối cảnh

chính trị quyết định đến mục tiêu và nội dung cụ thể CS cũng như cách thức mà CS

được triển khai thực hiện. Bối cảnh về mặt chính trị hay về mặt quản lý nhà nước quy

định các cấp độ tham gia và kiểm soát quá trình thực hiện CS của các cá nhân và tổ

chức. Mỗi một hệ thống quản lý nhà nước sẽ quy định các cách triển khai CS khác

nhau và sự ảnh hưởng qua lại của các bên tham gia [114]. Ở Việt Nam hiện nay, mô

hình quản lý thực hiện CS được thực hiện theo cơ chế quản lý nhà nước (chính phủ

đứng đầu và giao phó các cơ quan thực hiện từ cấp bộ tới địa phương). Bởi vậy, cần

đánh giá các CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT có phù hợp với các ảnh hưởng mang

tính quyền lực chính trị trong quá trình triển khai CS không, CS có phù hợp với quan

điểm định hướng phát triển của Đảng, và chiến lược quốc gia về NCT không.

Ngoài ra, bối cảnh về mặt kinh tế ảnh hưởng trực tiếp tới các giải pháp cụ thể

mà CS đưa ra. Chẳng hạn các quy định liên quan tới sự hỗ trợ về mặt tài chính, đất

đai và cơ sở vật chất cho các cơ sở chăm sóc NCT rất dễ bị ảnh hưởng bởi các yếu tố

thị trường, những thay đổi trong nền kinh tế (lạm phát) hay xu hướng phát triển các

59

DVCS NCT. Hoặc vấn đề về tài chính kinh tế, bảo hiểm và CS trợ cấp cho NCT và

gia đình/người chăm sóc NCT cũng là yếu tố ảnh hưởng đến sự thành công của CS

để đáp ứng nguồn cầu phát triển các cơ sở chăm sóc NCT.

Yếu tố xã hội với sự thay đổi về quy mô dân số, tốc độ già hoá, đặc trưng về

mô hình gia đình hiện đại, vấn đề di dân đô thị, sự thay đổi về hưởng thụ dịch vụ

theo hướng cao cấp, toàn diện… là những yếu tố bối cảnh tác động đến nhu cầu sử

dụng DVCS, từ đó tác động trực tiếp đến CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT.

Yếu tố văn hoá cũng ảnh hưởng trực tiếp tới việc thực hiện CS khi CS phản ánh

và đáp ứng phù hợp với các nhu cầu hiện tại. Chẳng hạn đối với văn hoá Việt Nam

thì NCT luôn được chú trọng và quan tâm chăm sóc, tuy nhiên việc chăm sóc NCT

lại thường được chịu trách nhiệm bởi các thành viên gia đình và bản chất NCT cũng

có những nhu cầu được chăm sóc tại nhà hơn là được chăm sóc bởi các cơ sở dịch

vụ. Yếu tố văn hoá ở đây cần hiểu về nhận thức của cộng đồng, của NCT và gia đình/

người chăm sóc NCT đến việc thúc đẩy các cơ sở chăm sóc.

Năng lực (C3 - Capacity)

Năng lực trong việc thực hiện CS công được tác giả Cloete [74, tr. 173] định

nghĩa là “khả năng cung cấp các dịch vụ công nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống

của công dân, mà chính phủ đã đặt ra để cung cấp theo thời gian”. Cụ thể, tác giả

cho rằng “khả năng” bao gồm 2 yếu tố cấu thành là nguồn lực để thực hiện các CS và

năng lực (kiến thức và kỹ năng) của hệ thống hoặc người thực hiện CS. Nguồn lực

được tác giả Cloete chia thành 2 nhóm là nguồn lực hữu hình và nguồn lực vô hình.

Nguồn lực hữu hình bao gồm các nguồn lực như kinh phí, vốn đầu tư, nguồn nhân

lực, công nghệ và hậu cần. Các nguồn lực vô hình bao gồm trình độ, động lực, sự nỗ

lực của hệ thống thực hiện CS. Đối với CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT, nguồn lực

ở đây bao gồm sự phân bổ tài chính, nhân lực của nhà nước; năng lực bao gồm số

lượng, chất lượng (trình độ) và việc đào tạo, phát triển đội ngũ thực hiện CS.

Cam kết (C4 - Commitment)

Cam kết là một trong những biến cốt lõi và quan trọng ở tất cả các cấp của quá

trình thực hiện. Tác giả Burger [72] lập luận rằng có mối tương quan giữa cam kết và

sáu biến số khác, theo đó cam kết quan trọng đến mức nó ảnh hưởng đến tất cả các

biến 7C khác. Các chính phủ có thể có các CS hợp lý để hướng dẫn sự phát triển ở

quốc gia của họ, nhưng nếu các cá nhân được đặt lên đầu để thực hiện các CS này

không sẵn lòng hoặc không quan tâm thực hiện, rất có thể những CS này sẽ thất bại

60

hoặc có ít ảnh hưởng đến mục tiêu đã định của CS. Như vậy, đánh giá yếu tố về sự

cam kết, cần đánh giá sự cam kết của lãnh đạo chính quyền (UBND, chính phủ), cơ

quan ban hành CS, cơ quan thực hiện CS (ngành LĐTBXH) và các tổ chức/cá nhân

có liên quan (Bộ, ngành và các tổ chức khác có liên quan). Trong đó, sự cam kết của

người đứng đầu tổ chức là quan trọng nhất, so với sự cam kết của người được phân

công thực hiện. Sự cam kết ủng hộ vừa được thể hiện bằng lời nói, văn bản chính

thức (phân công nhân sự, phân bổ tài chính, kế hoạch làm việc và đánh giá kết quả

thực hiện nhiệm vụ định kỳ) và các hành động thiết thực giải quyết vấn đề phát sinh

(thời gian giải quyết, văn bản chỉ đạo phối hợp) [61, 133, 142].

Liên minh (C5 - Coalitions)

Liên minh có thể được các bên liên quan tới quá trình thực hiện CS, bao gồm

các đối tượng tham gia bên trong (hệ thống thực hiện CS các cấp, đối tượng hưởng

lợi), và các đối tác bên ngoài hệ thống này bao gồm doanh nghiệp, các tổ chức ngoài

nhà nước, các nhóm lợi ích có ảnh hưởng tới quá trình thực hiện CS. Nhà nước, hay

cơ quan thực hiện CS cần phải xác định rõ các nhóm đối tượng có liên quan, tạo ra sự

liên minh chặt chẽ với các nhóm này để thực hiện thành công CS. Khi họ tham gia,

nhà nước cũng cần đảm bảo rằng các bên liên quan hiểu rõ về mục tiêu CS, đặc biệt

nhóm bị ảnh hưởng trực tiếp bởi CS. Sự thành công của một CS thường được quyết

định bởi cách nhìn nhận chung và cách hiểu chung của cơ quan thực hiện (bên trong)

và các nhóm lợi ích có liên quan [70, 107].

Vai trò của liên minh bên trong và bên ngoài rất quan trọng để đảm bảo thực

hiện CS hiệu quả. Việc thực hiện không chỉ bị ảnh hưởng bởi các chủ thể trong nhà

nước, các nhóm lợi ích như doanh nghiệp, các nhà lãnh đạo quan điểm, những người

tiếp nhận thụ động cũng tác động đến việc thực hiện CS [108]. Chính phủ nên thành

lập một liên minh với các nhà lãnh đạo, các nhóm lợi ích bao gồm cả các tác nhân

bên ngoài để thực hiện thành công CS bởi các tác nhân bên ngoài có thể ảnh hưởng

đến sự thay đổi quyền lực và ảnh hưởng đến sự thay đổi bên trong quá trình thực hiện

CS [69].

Việc đánh giá ảnh hưởng của các liên minh trong CS phát triển cơ sở chăm sóc

NCT cần quan tâm đến những khía cạnh sau: sự tham gia của các cơ sở chăm sóc

NCT trong các hoạt động xây dựng, thực hiện CS; hội/nhóm phi chính thức của các

chủ/quản lý cơ sở chăm sóc NCT; mối liên hệ tương tác giữa các chủ cơ sở chăm sóc

và các nhà đầu tư trong tương lai; Nhóm lợi ích hoặc bị mâu thuẫn lợi ích khi triển

61

khai CS; nhóm độc lập tham gia giám sát hoặc đánh giá hiệu quả thực hiện [24].

Sự phối hợp (C6 - Coordination)

Tác giả Burger [72] đã khẳng định rằng sự “phối hợp” chặt chẽ đóng một vai

trò quan trọng trong quá trình thực hiện CS thành công. Việc phối hợp được định

nghĩa là “sự kết hợp hài hòa giữa các tác nhân và chức năng nhằm tạo ra một kết

quả” [116, tr. 112]. Như vậy, phối hợp liên quan đến việc đo lường sự hợp tác nội bộ

và giữa các tổ chức và các nhóm trong quá trình thực hiện CS. Tác giả Cloete [74, tr.

212] giải thích thêm rằng “phối hợp nội bộ là mối quan hệ làm việc giữa các bộ phận

và cơ quan trong cùng một tổ chức, trong khi phối hợp giữa các tổ chức là mối quan

hệ giữa các tổ chức khác nhau, chẳng hạn như phối hợp giữa chính phủ, các tổ chức

phi chính phủ và các nhà tài trợ”. Điều này có nghĩa là sự phối hợp sẽ cho phép tất

cả các bên liên quan hiểu được toàn bộ quá trình hoạch định và thực hiện CS.

Đối với CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT, các bên liên quan chính có thể bao

gồm: chính phủ (hoạch định CS); các cơ quan bộ ngành (chịu trách nhiệm ban hành

các văn bản hướng dẫn thực hiện CS hoặc tham gia trực tiếp vào quá trình triển khai

CS); các cơ sở chăm sóc NCT (chủ thể hưởng lợi trực tiếp); NCT và gia đình (đối

tượng hưởng lợi gián tiếp); các ban ngành đoàn thể tại địa phương (tham gia thực

hiện CS); các cơ quan truyền thông (đơn vị trung gian); các doanh nghiệp, tổ chức từ

thiện (đơn vị phối hợp thực hiện). Để quá trình triển khai CS đạt hiệu quả, cần có sự

phối hợp chặt chẽ giữa các bên liên quan trong toàn bộ quy trình thực hiện CS. Sự

phối hợp có thể được thực hiện thông qua việc các cơ quan quản lý thực hiện việc đối

thoại CS với các bên liên quan khác nhằm thực hiện việc truyền thông về CS cũng

như tiếp nhận các ý kiến đóng góp trong quá trình triển khai. Sự phối hợp cũng có thể

được thực hiện thông qua các cơ chế giám sát, đánh giá hiệu quả việc thực hiện CS

có sự tham gia đầy đủ của các bên liên quan. Bên cạnh đó, việc phối hợp cũng có thể

thông qua việc đào tạo nâng cao năng lực thực hiện CS cho các bên liên quan nhằm

đảm bảo chất lượng đội ngũ các thành viên tham gia thực hiện CS.

Truyền thông (C7 - Communication)

Truyền thông là một yếu tố quan trọng trong tất cả các giai đoạn thực hiện CS

công. Theo tác giả Okumus [121], trước khi thực hiện CS, thông tin liên lạc là một

biến quan trọng trong việc đảm bảo rằng các mục tiêu của CS được thực hiện như dự

kiến. Truyền thông đề cập đến cách thức mà các tổ chức truyền đạt một cách chính

thức và không chính thức về các hành động và hướng truyền thông CS trong nội bộ

62

và bên ngoài tổ chức. “Giao tiếp có thể là từ trên xuống, từ dưới lên, chính thức,

không chính thức, nội bộ, bên ngoài, một lần hoặc liên tục. Để một CS có hiệu quả,

các thông điệp rõ ràng và phải đến được với tất cả các quan chức thực hiện” [121.

871-82].

Để đánh giá về yếu tố truyền thông, cần nắm được các kênh và hiệu quả truyền

thông nội bộ về CS trong các Bộ/ngành, truyền thông liên ngành, truyền thông tới đối

tượng hưởng lợi gồm chủ/quản lý các cơ sở hay những người đầu tư phát triển cơ sở

chăm sóc NCT hoặc truyền thông giữa các đối tượng hưởng lợi [74, 121]. Cần lưu ý,

hoạt động truyền thông sẽ được thực hiện qua kênh chính thức, từ trên xuống dưới

thông qua việc chuyển gửi các văn bản CS tới các đối tượng khác nhau trong hệ

thống hoặc ngoài hệ thống. Bên cạnh đó, tổ chức các chương trình hội thảo, đào tạo,

hướng dẫn về CS là một hình thức truyền thông phổ biến cho các cá nhân, tổ chức

chịu trách nhiệm cũng như các bên liên quan trong và ngoài hệ thống thực hiện CS.

Các kênh truyền thông phi chính thức, bao gồm mạng xã hội, email, điện thoại cũng

được đánh giá là phương tiện truyền thông hiệu quả và thu hút được sự quan tâm của

cộng đồng theo OECD [119].

2.6. Quan điểm định hướng và chính sách phát triển cơ sở chăm sóc người cao

tuổi ở Việt Nam

2.6.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về chính sách phát triển cơ sở chăm sóc

người cao tuổi ở Việt Nam

Lĩnh vực công tác dân số trong tình hình mới được Đảng quan tâm chỉ đạo sát

sao. Trong các văn kiện Đảng, Ban chấp hành Trung ương [1] thể hiện quan điểm

của Đảng về đường lối, chủ trương, CS, kế hoạch của Đảng về công tác dân số nói

chung và những vấn đề về NCT, già hoá dân số và phát triển mạng lưới cơ sở chăm

sóc NCT, đổi mới hoạt động của đơn vị sự nghiệp công lập trong Nghị quyết số 21-

NQ/TW, Nghị quyết số 19-NQ/TW ban hành ngày 25/10/2017 tại Hội nghị lần thứ

sáu Ban chấp hành TW Đảng khoá XII. Nghị quyết nêu rõ mục tiêu “thích ứng với

già hoá dân số”. Cụ thể đến năm 2030, 100% NCT có thẻ bảo hiểm y tế, được quản

lý sức khoẻ, được khám, chữa bệnh, được chăm sóc tại gia đình, cộng đồng, cơ sở

chăm sóc tập trung. Để đạt mục tiêu, Ban chấp hành TW Đảng đưa ra nhiều nhóm

nhiệm vụ và giải pháp, trong đó nhóm Phát triển mạng lưới và nâng cao chất lượng

dịch vụ về dân số được xếp thứ 4/7 nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu. Cụ thể, quan

điểm của Đảng về vấn đề này được thể hiện như sau: 1) Sắp xếp lại hệ thống các cơ

63

sở BTXH công lập theo hướng đẩy mạnh XHH; 2) Khuyến khích phát triển các cơ sở

chăm sóc NCT; cơ sở cung cấp các loại hình dịch vụ đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, văn

hoá, giải trí của NCT; 3) Ưu tiên đầu tư nguồn lực nhà nước, đồng thời huy động

nguồn lực xã hội phát triển các cơ sở cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản bảo đảm các

nhóm dân số đặc thù như NCT.

Trong các văn bản Hiến pháp, CS liên quan tới việc chăm sóc NCT đã được thể

hiện từ bản Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Theo dòng lịch sử lập hiến của nước ta, kể từ khi thành lập nước Việt Nam dân chủ

cộng hòa đến nay, nước ta đã có 05 bản Hiến pháp, đó là Hiến pháp năm 1946, 1959,

1980, 1992 (sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2001) và 2013. Trong đó, 04 bản Hiến

pháp năm 1946, 1959, 1992 và 2013 có những đề cập và thay đổi về quan điểm chăm

sóc NCT. Cụ thể quy định về quyền lợi của NCT trong Điều 14 Hiến pháp năm 1946,

Điều 32 Hiến pháp 1959, Điều 64 và 87 Hiến pháp 1992 cho thấy việc chăm sóc

NCT là trách nhiệm của gia đình và xã hội thông qua việc giúp đỡ vật chất khi già

yếu, bệnh tật và NCT được giúp đỡ là NCT già cả, tàn tật, không nơi nương tựa [27,

29, 30]. Sau đó, khoản 2, Điều 59 Hiến pháp 2013 quy định: “Nhà nước tạo bình

đẳng về cơ hội để công dân thụ hưởng phúc lợi xã hội, phát triển hệ thống ASXH, có

CS trợ giúp người cao tuổi, NKT, người nghèo và người có hoàn cảnh khó khăn

khác” [28]. Sự thay đổi của Hiến pháp qua các thời kỳ cho thấy sự thay đổi về đối

tượng NCT được nhà nước giúp đỡ và trách nhiệm giúp đỡ, chăm sóc NCT và việc

quy định rõ vai trò của Nhà nước là tạo ra bình đẳng trong thụ hưởng phúc lợi xã hội,

phát triển hệ thống ASXH và có CS trợ giúp NCT.

Trong một loạt những định hướng tác động trực tiếp tới đối tượng NCT, để xây

dựng một hệ thống ASXH thích ứng với già hoá dân số phù hợp với bối cảnh Việt

Nam và quốc tế, chính phủ đã có quan điểm khuyến khích các cơ sở chăm sóc NCT

từ QĐ số 1781/QĐ-TTg và QĐ 2156/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình quốc gia về

NCT giai đoạn 2012-2020 và 2021-2030. Tuy nhiên, sự khác biệt lớn trong hai

Chương trình quốc gia về NCT có quan điểm phát triển các cơ sở chăm sóc NCT là:

(1) Tăng mức độ ưu tiên về nhiệm vụ cần thực hiện từ vị trí số 7 (trong tổng số 9

nhiệm vụ) lên vị trí số 2 (trên tổng số 12 nhiệm vụ); (2) Sắp xếp riêng biệt nhiệm vụ

phát triển mạng lưới cơ sở TGXH mà không lồng ghép với phát triển nhà ở cho NCT

như QĐ 1781; (3) Phê duyệt việc hỗ trợ đầu tư tài chính cơ sở TGXH với mục tiêu

cụ thể về số lượng được hỗ trợ xây dựng và thí điểm mô hình (xem Phụ lục 6).

64

Điều này cho thấy sự khác biệt lớn về mặt quan điểm của chính phủ khi xây

dựng Chương trình quốc gia về NCT với các CS khuyến khích sự phát triển của các

cơ sở chăm sóc NCT công lập và ngoài công lập – hay nói cách khác là xây dựng hệ

thống ASXH toàn diện, được cung cấp bởi cả nhà nước và dựa vào những nguồn lực

từ tư nhân, cộng đồng. Có thể thấy rõ quá trình thay đổi quan điểm tiếp cận của nhà

nước về việc phát triển các cơ sở chăm sóc NCT trong các văn bản pháp luật được ban

hành và sửa đổi/điều chỉnh/thay thế từ năm 2008 đến nay. Những văn bản này ngày càng

được quan tâm hoàn thiện để thể hiện rõ hơn ý chí của nhà nước trong việc xác định

trách nhiệm của nhiều bên tham gia (gia đình, cộng đồng, thị trường, nhà nước) và đa

dạng hoá, tạo điều kiện hỗ trợ xây dựng hệ thống ASXH đa tầng đáp ứng nhu cầu khác

biệt của nhóm dân số NCT trong một xã hội đang già hoá nhanh chóng.

Tóm lại, Đảng và Nhà nước Việt Nam quan tâm đến công tác phát triển cơ sở

chăm sóc NCT và đã có nhiều văn bản quy định về vấn đề này với nhiều những mục

tiêu quan trọng nhằm nâng cao sức khoẻ và an sinh cho nhóm NCT. Để đạt được các

mục tiêu này, Đảng đưa ra nhiều nhóm nhiệm vụ và giải pháp, trong đó nhóm phát

triển mạng lưới và nâng cao chất lượng dịch vụ về dân số được xếp thứ 4/7. Các định

hướng của Đảng và Nhà nước gồm sắp xếp lại hệ thống các cơ sở BTXH công lập,

khuyến khích phát triển các cơ sở chăm sóc NCT và ưu tiên đầu tư nguồn lực nhà

nước, đồng thời huy động nguồn lực xã hội phát triển các cơ sở cung cấp các dịch vụ

xã hội cơ bản bảo đảm các nhóm dân số đặc thù như NCT.

2.6.2. Hệ thống chính sách phát triển cơ sở chăm sóc người cao tuổi ở Việt Nam

Hệ thống các CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT ở Việt Nam được xây dựng

trên quan điểm định hướng của Đảng và thể hiện trong nhiều văn bản khác nhau do

các cơ quan nhà nước xây dựng. CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT không phải là

một nội dung được trình bày riêng trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật, bởi vậy,

hệ thống các văn bản liên quan đến CS mà luận án đề cập có số lượng văn bản khá

hạn chế so với các CS khác. Ưu điểm của các văn bản là quan điểm, mục tiêu, giải

pháp được xây dựng ở mọi cấp từ Hiến pháp, Luật và các văn bản dưới Luật do nhiều

cơ quan xây dựng. Cụ thể, 05 bản Hiến pháp (1946, 1959, 1980, 1992 (sửa đổi bổ

sung 2001), 2013) đã thể hiện rõ quan điểm của nhà nước về việc phát triển các cơ sở

chăm sóc NCT.

Về các văn bản Luật, Bộ LĐTBXH có trách nhiệm xây dựng Luật NCT và các

văn bản hướng dẫn thi hành Luật; Bộ KHĐT chủ trì việc xây dựng Luật Quy hoạch

65

2017 số 21/2017/QHH14 làm cơ sở pháp lý quy hoạch mạng lưới cơ sở chăm sóc

NCT, Luật đầu tư số 61/2020/QH14 quy định về CS đầu tư và khuyến khích đầu tư

của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đến lĩnh vực chăm sóc NCT; Bộ Tài

chính có trách nhiệm xây dựng Luật ngân sách nhà nước số 83/2015/QH13 bố trí

kinh phí hoạt động cơ sở TGXH công lập; Bộ Nội vụ có trách nhiệm hướng dẫn việc

thành lập, tổ chức lại, giải thể đơn vị sự nghiệp công lập và hoàn thiện CS tuyển

dụng, đãi ngộ và định mức với cán bộ, nhân viên tại các cơ sở xã hội theo Luật; Các

bộ ban ngành khác có liên quan như Bộ Xây dựng, Tài nguyên môi trường, KHĐT để

giải quyết các vấn đề CS cụ thể liên quan đến lĩnh vực quản lý.

Về các văn bản dưới luật, trước năm 2015, chính phủ không có văn bản pháp

luật quy định về trực tiếp về quy hoạch mạng lưới phát triển cơ sở TGXH chăm sóc

NCT mà chỉ có các văn bản khuyến khích XHH ưu đãi giáo dục, y tế và đào tạo,

quản lý nguồn nhân lực chung cho cơ sở TGXH. Sau đó, trong một loạt những định

hướng tác động trực tiếp tới đối tượng NCT và gia đình NCT, nhằm xây dựng một hệ

thống ASXH thích ứng với già hoá dân số, phù hợp với bối cảnh Việt Nam và quốc

tế, thực hiện chỉ đạo của Đảng, từ năm 2015, nhà nước đã ban hành những văn bản

pháp lý thể hiện quan điểm, mục tiêu và giải pháp về việc phát triển cơ sở TGXH,

trong đó có cơ sở TGXH chăm sóc NCT ở Việt Nam.

Cho đến nay, có hai văn bản thể hiện trực tiếp ý chí của chính phủ đối với các

cơ sở TGXH cho NCT bao gồm: QĐ số 524/QĐ-TTg ngày 20 tháng 4 năm 2015 của

Thủ tướng chính phủ phê duyệt Đề án củng cố, phát triển mạng lưới các cơ sở TGXH

giai đoạn 2016-2025; QĐ số 1520/QĐ-LĐTBXH ngày 20 tháng 10 năm 2015 của Bộ

trưởng Bộ LĐTBXH về phê duyệt quy hoạch mạng lưới các cơ sở TGXH giai đoạn

2016-2025. Gần đây nhất, QĐ số 542/QĐ-TTg do Thủ tướng chính phủ ban hành

ngày 20/4/2020 đã phê duyệt nhiệm vụ lập quy hoạch mạng lưới cơ sở TGXH thời kỳ

2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Tuy nhiên, việc lập quy hoạch mạng lưới đến

nay đã được xây dựng nhưng chưa được phê duyệt chính thức. Các văn bản trên thể

hiện rõ quan điểm, mục tiêu phát triển mạng lưới các cơ sở TGXH như sau: cần phải

phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, nâng cao chất lượng

dịch vụ trợ giúp xã hội tiếp cận các nước tiên tiến trong khu vực, đáp ứng nhu cầu trợ

giúp của người dân, hướng tới mục tiêu phát triển xã hội công bằng và hiệu quả. Các

giải pháp được đề cập cần thực hiện bao gồm việc hoàn thiện văn bản pháp luật, quy

hoạch mạng lưới các cơ sở TGXH về nhân lực, đổi mới cơ chế và phương thức quản

66

lý, vận hành các cơ sở, tranh thủ sự hỗ trợ của Quốc tế và xây dựng, củng cố, phát

triển các cơ sở TGXH lồng ghép với các chương trình, đề án khác của Chính phủ

(xem Phụ lục 7)

Trên cơ sở phân loại các CS ở phần trước, có thể xác định các CS phát triển cơ

sở BTXH công lập và ngoài công lập ở Việt Nam hiện nay theo ba nhóm: (1) CS

quản lý hành chính và chất lượng dịch vụ; (2) CS ưu đãi và (3) CS đào tạo và phát

triển nguồn nhân lực. Cho đến nay, Nhà nước đã có 25 văn bản thực hiện, liên quan

đến việc phát triển cơ sở chăm sóc NCT, trong đó, có 04 các CS quản lý hành chính

và chất lượng dịch vụ, 15 văn bản về CS ưu đãi và 03 văn bản CS đào tạo và phát

triển nguồn lực cho thị trường chăm sóc NCT.

Tuy nhiên, trong quá trình tổng hợp các văn bản CS, hệ thống các văn bản hiện

hành không thể hiện sự quản lý nhà nước về chất lượng dịch vụ cung cấp tại các cơ

sở chăm sóc mà chỉ dừng ở việc quản lý hành chính về thủ tục cấp phép, thành lập, tổ

chức, giải thể, chức năng nhiệm vụ và những tiêu chuẩn cơ bản về cơ sở như tiêu

chuẩn cụ thể về định mức nhân viên, quy trình, tiêu chuẩn trợ giúp. Việc quản lý

phân cấp dịch vụ, quy chuẩn trang thiết bị nhất là thiết bị đặc thù cho phục hồi chức

năng, chăm sóc NCT, quy chuẩn về trang thiết bị, môi trường sống, thiết kế cho NCT

theo mức độ khuyết tật/khó khăn trong cuộc sống chưa được phân định. Cùng với đó,

CS kiểm định/giám sát chất lượng dịch vụ để xếp hạng minh bạch, công khai chưa

được xây dựng. Đây là một rào cản lớn về việc phát triển chuyên nghiệp các cơ sở

chăm sóc NCT ở Việt Nam [48]. Tuy nhiên, do luận án tập trung vào việc thực hiện

các CS đã được ban hành, bởi vậy, trên cơ sở tổng hợp các văn bản CS phát triển cơ

sở chăm sóc NCT tại Việt Nam (xem Phụ lục 8), các CS này được chia thành 3 nhóm

có nội dung cụ thể như sau:

Chính sách quản lý về hành chính

Chính phủ ban hành quy hoạch, phát triển mạng lưới các cơ sở TGXH công lập

và ngoài công lập chăm sóc NCT, giao cho Bộ LĐTBXH thực hiện. Trong đó, quy

định rõ việc phân bổ mạng lưới cơ sở TGXH theo từng Vùng địa lý với tổng số 64 cơ

sở trên cả nước đến năm 2025. Trong đó số cơ sở chăm sóc NCT là 5 cơ sở công lập

và 59 cơ sở ngoài công lập với lộ trình quy hoạch đến năm 2025 là nâng cấp mở rộng

5 cơ sở công lập, 26 cơ sở ngoài công lập; phát triển mới 33 cơ sở Ngoài công lập.

Chính phủ quy định cụ thể các tiêu chuẩn quản lý về mặt hành chính để quy

định về điều kiện, thủ tục thành lập, tổ chức, hoạt động, quản lý và giải thể cơ sở

67

TGXH trong NĐ 103. Cụ thể, về thẩm quyền cấp, thu hồi giấy chứng nhận đăng kí

thành lập và giải thể cơ sở, Sở LĐTBXH cấp giấy chứng nhận đăng ký thành lập cơ

sở hoạt động trên phạm vi liên tỉnh hoặc liên huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc

tỉnh, thành phố, có trụ sở chính đặt tại địa phương; Phòng LĐTBXH cấp giấy chứng

nhận đăng ký thành lập cơ sở hoạt động trên phạm vi cấp huyện, có trụ sở chính đặt

tại địa phương. Các cơ sở TGXH cần đáp ứng các tiêu chuẩn bố trí đất đai, cơ sở hạ

tầng để nâng cấp, mở rộng hoặc xây dựng cơ sở TGXH như sau: Diện tích đất tự

nhiên tối thiểu 30m2 ở khu vực nông thôn và 10m2 ở khu vực thành thi trên một đối

tượng; Diện tích phòng ở, phòng cung cấp dịch vụ cho đối tượng tối thiểu 6m2/đối

tượng, đối với đối tượng phải chăm sóc 24/24 giờ một ngày, diện tích phòng ở,

phòng cung cấp dịch vụ tối thiểu 8m2/đối tượng và các phòng ở, phòng cung cấp

dịch vụ được trang bị đồ dùng cần thiết phục vụ cho sinh hoạt hàng ngày của đối

tượng; Cơ sở vật chất tối thiểu có khu nhà ở, khu chăm sóc y tế, khu cung cấp dịch

vụ, khu đào tạo, khu nhà bếp, khu làm việc của cán bộ nhân viên, khu vui chơi giải

trí, khu sản xuất và khu phục hồi chức năng trị liệu; các công trình, trang thiết bị bảo

đảm cho đối tượng tiếp cận và sử dụng thuận tiện.

Về việc vận hành các cơ sở TGXH, cơ quan quản lý là Bộ LĐTBXH cũng quy

định về cơ cấu tổ chức, vị trí việc làm, định mức nhân viên, quy trình, tiêu chuẩn

TGXH tại cơ sở, các mức kinh tế - kỹ thuật là cơ sở xây dựng giá dịch vụ TGXH

được quy định trong các NĐ, thông tư. Trong đó, đáng lưu ý ngoài nhóm vị trí quản

lý, nhóm vị trí việc làm gắn với nhiệm vụ chăm sóc, trợ giúp tại cơ sở TGXH được

quy định cụ thể như: tối thiểu 01 nhân viên tâm lý/một cơ sở; 01 nhân viên CTXH

quản lý trường hợp tối đa 100 đối tượng; 01 nhân viên chăm sóc trực tiếp phụ trách

tối đa 10 NCT tự phục phụ hoặc tối đa 04 NCT không tự phục vụ; 01 nhân viên y tế

phụ trách tối đa 50 đối tượng; 01 nhân viên phụ trách dinh dưỡng cho tối đa 20 đối

tượng và 01 nhân viên phục hồi chức năng cho tối đa 5 đối tượng; vị trí việc làm gián

tiếp không quá 20% tổng nhân lực tại cơ sở. Các yêu cầu về quy trình trợ giúp, tiêu

chuẩn về môi trường khuôn viên nhà ở, tiêu chuẩn về y tế, vệ sinh, quần áo và dinh

dưỡng, tiêu chuẩn về văn hoá, thể thao, thể dục và giải trí được quy định tại Chương

4 của Thông tư 33/2017/TT-BLĐTBXH.

Các CS hiện nay thể hiện sự quản lý nhà nước về thủ tục hành chính và được áp

dụng các tiêu chuẩn, quy đinh cứng cho mọi loại cơ sở TGXH mà không phân biệt

đối tượng chăm sóc là NCT, trẻ em, NKT, người tâm thần rối nhiễu tâm trí… Ngoài

68

ra, các quy định hiện nay mới tập trung vào việc chăm sóc xã hội (về nơi ở, thể chất

và tinh thần) cho NCT trong khi một trong những đặc trưng quan trọng của NCT là

gặp phải các vấn đề về sức khoẻ và có nhu cầu trợ giúp y tế, đặc biệt với nhóm đại

lão. Có thể thấy, việc phân cấp cơ sở, từ đó đánh giá các tiêu chuẩn về hành chính và

tiêu chuẩn chất lượng dịch vụ để đáp ứng nhu cầu được chăm sóc y tế cho NCT hiện

nay vẫn chưa được ban hành. Cuối cùng, việc phân định thẩm quyền quản lý cấp

Sở/Phòng hiện nay mới chỉ theo khu vực địa lý hành chính mà chưa quan tâm đến

quy mô chăm sóc. Điều này là một hạn chế của các CS quản lý của nhà nước hiện

nay khi chưa quản lý được tiêu chuẩn chất lượng dịch vụ và phân biệt đặc điểm riêng

biệt của các cơ sở TGXH cho NCT.

Chính sách ưu đãi

Nhà nước thể hiện quan điểm khuyến khích XHH các thành phần kinh tế tham

gia vào hệ thống cơ sở TGXH chăm sóc NCT và có các CS ưu đãi về hỗ trợ đầu tư,

giao/ cho thuê đất, cho thuê/ xây dựng cơ sở vật chất cho cơ sở TGXH, miễn/ giảm

tiền thuê đất, thuê mặt nước, ưu đãi về tín dụng và huy động vốn, miễn giảm thuế giá

trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế đất, giá điện, nước ưu đãi cơ sở TGXH,

TGXH cho đối tượng bảo trợ (NĐ 69/2008/NĐ- CP, QĐ 693/QĐ-TTg, NĐ

59/2014/NĐ- CP, QĐ số 1470/QĐ-TTg)

Về đất đai, nhà nước khuyến khích các bộ, ngành chuyên quản căn cứ khả năng

ngân sách và nhu cầu khuyến khích XHH thực hiện đầu tư cơ sở hạ tầng, xây dựng

một phần hoặc toàn bộ công trình XHH hoặc sử dụng quỹ nhà, cơ sở hạ tầng hiện có

để cơ sở thực hiện XHH thuê có thời gian và được hướng những quyền lợi khi cơ sở

XHH trả hoặc ứng trước tiền thuê cơ sở hạ tầng và công trình XHH. Các cơ sở được

UBND cấp tỉnh tạo điều kiện thuận lợi cho cơ sở XHH đầu tư theo quy hoạch được

cấp có thẩm quyền phê duyệt. Các cơ sở cũng được nhà nước cho thuê đất đã hoàn

thành giải phóng mặt bằng để xây dựng được miễn toàn bộ tiền thuê đất cho cả thời

gian thuê. Các cơ sở sử dụng đất tại các đô thị, được hưởng chế độ miễn, giảm theo

khu vực, lĩnh vực theo quy định (Điều 5, điều 6, NĐ 69/2008/NĐ- CP, Khoản 2,3

Điều 1, NĐ số 59/2014/NĐ- CP, NĐ 46/2014/NĐ- CP)

Về cơ sở vật chất, nhà nước hỗ trợ đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật và trang thiết

bị cho cơ sở TGXH đạt tiêu chuẩn chăm sóc theo tiêu chuẩn do Nhà nước quy định,

bảo đảm có các phân khu chức năng, các hạng mục công trình đáp ứng hoạt động

69

chăm sóc, phục hồi chức năng, trị liệu và cung cấp dịch vụ CTXH. Ưu tiên hỗ trợ

mua sắm trang thiết bị vận chuyển đối tượng, sơ cấp cứu, sinh hoạt và phục hồi chức

năng cho đối tượng (Điều 5, NĐ 69/2008/NĐ- CP)

Về các CS tài khoá, các cơ sở này cũng được vay vốn tín dụng đầu tư hoặc hỗ

trợ sau đầu tư, được phép huy động vốn dưới dạng góp cổ phần, vốn góp từ người lao

động trong đơn vị, huy động các nguồn vốn hợp pháp khác thông qua hợp tác, liên

kết với doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, tổ chức tài chính, cá nhân trong và ngoài nước

để đầu tư xây dựng cơ sở vật chất. Mức ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp cũng

được áp dụng nhằm khuyến khích các cơ sở đầu tư tăng cường cơ sở vật chất, nâng

cao chất lượng dịch vụ (Điều 9, 10 – NĐ 69/2008/NĐ- CP, Thông tư số

153/2011/TT-BTC, Thông tư số 96/2015/TT-BTC, Thông tư số 130/2016/TT-BTC)

Về các CS khác, Nhà nước cho phép các cơ sở này được tham gia cung cấp các

dịch vụ công do nhà nước tài trợ, đặt hàng, tham gia nhận đấu thầu các hợp đồng, dự

án sử dụng nguồn vốn trong và ngoài nước phù hợp với chức năng của cơ sở theo

quy định của pháp luật. Các đối tượng CS khi thụ hưởng dịch vụ tại các cơ sở này

cũng được hưởng mức hỗ trợ. Ngoài ra, cơ sở chăm sóc NCT được xếp vào nhóm cơ

sở y tế, các cơ sở này cũng được ưu đãi về giá điện, nước sinh hoạt (Điều 9, Thông tư

số 16/2014/TT-BTC, Thông tư số 44/2021/TT-BTC, NĐ 20/2021/NĐ- CP).

Có thể thấy, nhà nước xây dựng hành lang pháp lý đáp ứng những điều kiện có

tính hỗ trợ khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia vào hệ thống cơ sở chăm

sóc NCT hiện nay về đất đai, tài khoá, cơ sở vật chất và các CS ưu đãi khác.

Chính sách quản lý, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực

Nhà nước quy định rõ việc quản lý nhà nước về nguồn nhân lực với tiêu chuẩn

về định mức và các tiêu chuẩn về chức danh nghề nghiệp của nhân viên CTXH, điều

dưỡng và có CS đào tạo, đào tạo lại cho đội ngũ cán bộ TGXH với việc đào tạo hệ

vừa học vừa làm trình độ sơ cấp, trung cấp, cao đẳng và đại học về CTXH, đào tạo

kỹ năng chuyên sâu chăm sóc, phục hồi chức năng cho đối tượng, bồi dưỡng kỹ năng

cho cán bộ, công chức, viên chức, nhân viên và cộng tác viên TGXH, CTXH. Mã

ngành đào tạo nhân viên tâm lý, điều dưỡng, CTXH đã được triển khai và được

khuyến khích xây dựng và hoàn thiện chương trình, giáo trình đào tạo thạc sỹ, tiến sỹ

về CTXH phù hợp với nhu cầu hội nhập quốc tế, đạt yêu cầu ngang bằng chuẩn đào

tạo của các nước trong khu vực nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Tuy

70

nhiên, các CS này hiện giờ chỉ đáp ứng những yêu cầu cơ bản về việc cung ứng

nguồn nhân lực chung của ngành chứ chưa ưu tiên hoặc tập trung phát triển và quản

lý nguồn nhân lực trong lĩnh vực chăm sóc NCT.

Bên cạnh đó, các cơ chế ưu đãi với nhân lực trong cơ sở TGXH chưa được

quan tâm đúng mức. Nhà nước khuyến khích các cơ sở TGXH ngoài công lập bằng

việc khen thưởng tập thể và người lao động có thành tích xuất sắc, các cá nhân và tập

thể tham gia đóng góp cho các hoạt động XHH theo quy định của pháp luật (Điều 12,

NĐ 69/2008/NĐ- CP). Người lao động trong các cơ sở TGXH công lập được nhận

mức phụ cấp 60% trực tiếp xét nghiệm, khám, điều trị, chăm sóc, nuôi dưỡng, trợ

giúp NCT không tự phục vụ được, 40% với NCT cho công chức, viên chức thường

xuyên; 30% với công chức, viên chức quản lý; không vượt mức 25% với công chức,

viên chức khác trong cơ sở (Thông tư liên tịch số 30/2015/TTLT-BLĐTBXH-BNV).

Tóm lại, hệ thống văn bản CS liên quan tới chăm sóc NCT nói chung khá đa

dạng và đã bao phủ các khía cạnh quản lý nhà nước về việc phát triển các cơ sở cung

cấp DVCS NCT ở Việt Nam hiện nay. Các văn bản này tạo cơ chế khuyến khích phát

triển cơ sở chăm sóc NCT với quan điểm thống nhất, mục tiêu và giải pháp khả thi.

Nhưng hệ thống các văn bản pháp lý dưới luật nhằm hướng dẫn triển khai các mục

tiêu, chương trình hoặc các hoạt động phát triển các cơ sở cung cấp DVCS còn nhiều

khoảng trống. Điều này dẫn tới khó khăn cho các đơn vị nhà nước và ngoài nhà nước

(tư nhân, tôn giáo, từ thiện…) trong việc hiểu và triển khai các DVCS NCT và được

hưởng lợi từ các CS này một cách toàn diện. Nhưng, cần nhìn nhận rằng, việc phân

tích hệ thống văn bản CS trên mới chỉ phân tích về mặt nội dung, còn việc triển khai

trong thực tế có đạt được như những kỳ vọng của văn bản khung không còn là một

dấu hỏi. Trên cơ sở văn bản CS này, luận án sẽ đi sâu tìm hiểu quá trình thực hiện tại

địa bàn Hà Nội nhằm khám phá tính thực tiễn của các CS phát triển hệ thống chăm

sóc NCT hiện nay.

2.7. Khung phân tích của luận án

Trong luận án này, việc đánh giá quá trình thực hiện CS phát triển cơ sở chăm

sóc NCT được tác giả xem xét và phân tích từ hai góc độ khác nhau bao gồm: tiếp

cận theo quy trình thực hiện CS và cách tiếp cận dựa trên các yếu tố ảnh hưởng theo

mô hình 7C. Tuy nhiên, tác giả cũng xem xét đầy đủ các yếu tố đầu vào và đầu ra của

quá trình thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT tại Hà Nội.

Theo hướng tiếp cận quy trình (xem sơ đồ 2.1), tác giả xác định đầu vào của

71

quy trình thực hiện các CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT là hệ thống văn bản quy

phạm pháp luật thể hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT hiện nay ở Việt Nam bao

gồm 3 nhóm: CS quản lý về hành chính; CS ưu đãi và CS quản lý, đào tạo, phát triển

nguồn nhân lực (đã được cụ thể hoá trong mục 2.6.2). Các văn bản này là cơ sở CS

để triển khai tại Hà Nội cũng như các tỉnh thành khác ở Việt Nam.

Trên cơ sở các văn bản CS đã được ban hành, Luận án tiếp cận nghiên cứu quy

trình thực hiện các CS trên tại Hà Nội theo 5 bước, bao gồm: (1) Xây dựng kế hoạch;

(2) Tuyên truyền, phổ biến; (3) Phân công phối hợp thực hiện; (4) Theo dõi kiểm tra

giám sát và (5) Sơ kết, tổng kết, đánh giá. Trong từng bước, tác giả nghiên cứu về

thực trạng và các kết quả đạt được. Đồng thời, dựa trên các yếu tố theo mô hình 7C,

luận án phân tích tác động của các yếu tố này đến từng bước trong quy trình thực

hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT tại Hà Nội.

Kết quả đầu ra của quy trình thể hiện tác động của CS mà nhà nước đang thực

hiện thông qua: Sự phát triển của các cơ sở chăm sóc NCT tại Hà Nội về cả số lượng

và chất lượng, Kết quả thực hiện các CS quản lý hành chính, CS ưu đãi và CS đào

tạo và phát triển nguồn nhân lực đối với các cơ sở chăm sóc NCT trên địa bàn Hà

Nội. Từ đó, sự so sánh về kết quả đầu ra của quy trình và mục tiêu đặt ra của các CS

là cơ sở đánh giá hiệu lực thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT trong thực tế.

Cũng từ hướng tiếp cận này, tác giả trình bày được quy trình thực hiện gồm 5 bước

cụ thể như sau:

72

Sơ đồ 2.1. Khung phân tích đánh giá kết quả thực hiện CS

Hướng tiếp cận thứ hai được sử dụng trong luận án này là đánh giá ảnh hưởng

của các yếu tố theo mô hình 7C (xem bảng 2.5).

Hướng tiếp cận thứ hai sử dụng mô hình 7C giúp tác giả có thể xây dựng ma

trận tiêu chí đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình thực hiện CS một cách chi

tiết và cụ thể hơn. Sử dụng mô hình này giúp tác giả xác định các tiêu chí đo lường

tính cản trở hoặc thúc đẩy của từng yếu tố tác động như thế nào đến 5 bước trong quy

trình thực hiện CS. Từ đó, dựa trên các kết quả đánh giá theo mô hình 7C từ góc nhìn

của các bên liên quan về chu trình CS, tác giả đưa ra các giải pháp đề xuất cải thiện

hoặc tối ưu hóa quy trình thực hiện CS nhằm đảm bảo tính hiệu quả và thành công

bền vững của CS. Các đề xuất này xoay quanh việc thay đổi các yếu tố ảnh hưởng

73

theo mô hình 7C. Các yếu tố mang tính cản trở hoặc thúc đẩy trùng lặp nhiều nhất tới

từng bước trong quy trình thực hiện, dựa trên kết quả nghiên cứu với các khách thể

cho phép đưa ra nhận định về các yếu tố cần xem xét để giải quyết nhằm có những

giải pháp phù hợp, khả thi, tối ưu.

Trong ma trận phân tích kết hợp giữa các yếu tố ảnh hưởng theo mô hình 7C và

quy trình thực hiện CS, một số nội dung không được đưa ra bàn luận (kí hiệu N/A)

do nội hàm các yếu tố theo mô hình 7C không phù hợp hoặc bị lặp lại khi nghiên cứu

theo từng bước trong quy trình thực hiện.

Có thể nói, khung phân tích kết hợp hướng tiếp cận quy trình CS và ma trận

tiêu chí đánh giá các yếu tố ảnh hưởng theo mô hình 7C này giúp tác giả đánh giá

hiệu quả thực hiện CS một cách toàn diện và phù hợp với các câu hỏi nghiên cứu

trong luận án. Đồng thời, việc đánh giá này được thực hiện dựa trên cơ sở lý thuyết

khoa học trong việc định hướng thu thập, xử lý và phân tích các dữ liệu nghiên cứu.

Từ đó, đảm bảo tính chính xác và độ tin cậy của kết quả nghiên cứu của luận án.

Bảng 1.5. Ma trận đánh giá các yếu tố ảnh hưởng theo mô hình 7C đến quy trình

thực hiện CS

Xây dựng kế hoạch thực hiện

Tuyên truyền phổ biến

Theo dõi, kiểm tra, giám sát

Sơ kết, tổng kết, đánh giá

N/A

Nội dung

- Nội dung CS phù hợp với thực tiễn triển khai

hoạch - Kế truyền thông được xây dựng và triển khai

- Kế hoạch tiến độ thực hiện, ngân sách, cơ chế giám sát được xây dựng - Nội dung CS phù hợp, rõ ràng

Phân công phối hợp thực hiện - Có sự phân công cụ thể về nhiệm vụ của các bên liên quan - Nội dung CS đáp ứng nhu cầu thực tiễn

N/A

Bối cảnh

- Sự phù hợp của các văn bản triển khai với hệ thống văn bản pháp luật

- Sự thống nhất về chính trị trong việc phân công thực phối hợp hiện

- Sự phù hợp về hoàn cảnh của đối tượng hưởng lợi với thực tiễn triển khai

- Sự tác động của văn hoá, xã hội đến sự ủng hộ với tác công tuyên truyền, phổ biến CS. - Năng lực tuyên

- Năng lực hiểu

- Nhân lực phục

- Phát triển năng

N/A

Năng

74

lực

vụ cho công tác triển khai

lực đội ngũ thực hiện CS

truyền CS trong ngành, liên ngành

Cam kết

- Sự ủng hộ của lãnh đạo và cán bộ thực thi

- Sự cam kết của các bên liên quan và quan cơ truyền thông

- Sự cam kết thực hiện sơ kết, tổng kết, đánh giá thực hiện CS

nội dung và xây dựng kế hoạch thực hiện CS - Nguồn lực được sắp xếp để thực hiện kế hoạch - Sự ủng hộ của lãnh đạo chính quyền - Kế hoạch công tác được xây dựng

- Sự cam kết xử lý của các bên trong tham gia quá trình giám sát

N/A

N/A

Liên minh

- Các nhóm phi thức xây chính dựng kênh truyền thông riêng

- Sự tham gia của đối tượng hưởng lợi CS vào quá trình thực hiện

- Sự tham gia của đối tượng hưởng lợi trực tiếp - Sự tham gia của các cá nhân, tổ chức liên có quan

Sự phối hợp

- Phối hợp trong việc xây dựng kế hoạch thực hiện

- Đánh giá liên thực ngành về hiện

- Phân công trách nhiệm, cơ chế giám sát giữa các bên liên quan - Cơ chế báo cáo

- Cơ chế phối hợp nội bộ cùng ngành trong quá trình thực hiện - Cơ chế phối hợp liên ngành

- Các bên tham gia vào công tác truyền thông - Cơ chế phối hợp các bên tham gia tuyên truyền CS

Thông

N/A

Truyền thông

- Xây dựng kế hoạch truyền thông

- Hiệu quả truyền thông

- Kênh truyền thông, nội dung truyền thông

tin - truyền thông giữa các bên liên quan công khai, minh bạch Tiểu kết Chương 2

Chương này tập trung vào việc làm rõ các cơ sở lý thuyết và cơ sở thực tiễn

phục vụ cho việc phân tích, đánh giá hiệu quả của việc thực hiện CS phát triển cơ sở

chăm sóc NCT tại Việt Nam hiện nay bao gồm khái niệm, đặc trưng và nhu cầu chăm

sóc của NCT; khái niệm và phân loại cơ sở chăm sóc NCT; khái niệm và phân loại

các CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT; khái niệm thực hiện CS phát triển cơ sở chăm

sóc NCT, các chủ thể thực hiện và quy trình thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc

NCT cùng các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT

theo mô hình 7C. Bên cạnh đó, nội dung chương 2 cũng đề cập đến quan điểm định

hướng của Đảng và Nhà nước cùng việc hệ thống hoá các CS phát triển cơ sở chăm

sóc NCT tại Việt Nam theo ba nhóm: CS quản lý nhà nước, CS ưu đãi và CS đào tạo,

75

phát triển nguồn nhân lực chăm sóc NCT. Đây là những công cụ lý thuyết và cơ sở

thực tiễn quan trọng để xây dựng công cụ nghiên cứu thực trạng thực hiện CS phát

triển cơ sở chăm sóc NCT trên địa bàn Hà Nội.

Cuối cùng, từ các cơ sở lý thuyết và thực tiễn tác giả xây dựng khung phân

tích để thể hiện rõ quan điểm tiếp cận theo quy trình và theo ma trận đánh giá các yếu

tố ảnh hưởng tới việc thực hiện CS. Việc sử dụng khung phân tích và ma trận yếu tố

ảnh hưởng trong luận án phù hợp trong việc xác định các khía cạnh cụ thể cần xem

xét để đưa ra những nhận định về kết quả thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc

NCT theo quy trình 5 bước. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu thực trạng, tác giả có thể

định hướng cho các giải pháp sát với thực tế nhằm cải thiện các yếu tố cản trở tính

hiệu quả của quá trình thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT trên địa bàn Hà

76

Nội.

CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CƠ

SỞ CHĂM SÓC NGƯỜI CAO TUỔI TẠI HÀ NỘI

3.1. Khái quát về địa bàn nghiên cứu

3.1.1. Khái quát về Hà Nội

Thành phố Hà Nội là trung tâm chính trị, văn hóa, kinh tế và giao dịch quốc tế

của Việt Nam, là một trong những thành phố lớn, với diện tích hơn 3.340 km2. Theo

số liệu của Tổng cục thống kê, tính đến giữa năm 2021 tổng dân số tại Hà Nội là 8,3

triệu người, sống trên địa bàn 12 quận, 17 huyện và 1 thị xã. Tỉ lệ gia tăng dân số Hà

Nội theo thống kê là 3,7%; ước tính tới năm 2030, dân số Hà Nội đạt khoảng 10 triệu

người, tỷ lệ đô thị hóa 65 - 68%. Đến năm 2050 đạt ngưỡng dân số tối đa khoảng

10,8 triệu người, tỷ lệ đô thị hóa 70 - 80%. Theo kế hoạch thực hiện chiến lược dân

số Việt Nam đến năm 2030 của UBND, TP Hà Nội duy trì mức sinh thay thế; 90%

phụ nữ mang thai và 95% trẻ sơ sinh được sàng lọc trước sinh ít nhất 4 -5 loại bệnh

tật bẩm sinh phổ biến nhất. Tỷ số giới tính khi sinh không vượt quá 109,0 trẻ trai/100

trẻ gái. Tỷ lệ NCT được khám sức khỏe định kỳ đạt 90%; tuổi thọ bình quân đạt trên

75 tuổi, trong đó thời gian sống khỏe mạnh đạt tối thiểu 68 năm. Tỷ lệ dân số đô thị

đạt khoảng 65%; bố trí, sắp xếp dân cư hợp lý ở nông thôn, thành thị; 100% dân số

được đăng ký, quản lý trong hệ thống cơ sở dữ liệu thống nhất toàn Thành phố và

quy mô toàn quốc; Ngành, lĩnh vực và địa phương sử dụng dữ liệu chuyên ngành dân

số đạt 100%.

Bảng 3.1. Tuổi thọ trung bình người dân Hà Nội tính từ lúc sinh phân theo giới tính

Năm

2015 2017 2018 2019 2020 Tổng số 75,2 75,4 75,4 75,5 75,5

Phân theo giới tính Nữ Nam 77,8 72,8 77,9 73,0 77,9 73,0 78,0 73,1 78,0 73,1 Nguồn: Cục thống kê thành phố Hà Nội [10]

Về tình hình kinh tế của Hà Nội, đây là một trong những địa phương có tốc độ

tăng trưởng kinh tế cao nhất cả nước. Theo báo cáo của Cục thống kê thành phố Hà

Nội [11] tính chung tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) trong 6 tháng đầu năm 2022

đạt trên 1.135 nghìn tỷ đồng, tăng 7,79% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, quý I

77

tăng 6,02%; quý II tăng 9,49%. Tăng trường GRDP cao hơn những năm trước đây,

đồng thời thể hiện xu hướng phục hồi, phát triển rõ nét qua từng quý của nhiều

ngành, nhiều lĩnh vực kinh tế chủ đạo của thành phố gồm: công nghiệp chế biến, xây

dựng, dịch vụ, du lịch, giáo dục, y tế. Cơ cấu thu chuyển dịch tích cực, tỷ trọng thu

nội địa và các khoản thu bền vững từ sản xuất, kinh doanh tăng; các khoản thu liên

quan đến tài nguyên, đất đai giảm dần. Điều hành chi chủ động, tiết kiệm, đảm bảo

cân đối ngân sách các cấp; tỷ lệ nợ công của Thành phố đang ở mức thấp, khoảng

12% GRDP [10]. Việc điều hành chi chủ động, tiết kiệm, đảm bảo cân đối ngân sách

các cấp cũng đóng vai trò quan trọng trong đảm bảo các CS an sinh cho NCT được

triển khai hiệu quả. Tuy nhiên, việc phân bổ ngân sách cho các CS an sinh cho NCT

cần được đưa ra các quyết định CS và quản lý cẩn thận để đảm bảo rằng các khoản

chi phí đó được sử dụng một cách hiệu quả và mang lại lợi ích tối đa cho NCT.

Bảng 3.2. Tăng trưởng GRDP quý II năm 2020-2022 (So với cùng kỳ)

Quý Quý Quý

II.2020 II.2021 II.2022

Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) 1,77 5,63 9,49

Dịch vụ 0,54 5,59 11,68

Công nghiệp – xây dựng 5,34 7,42 6,61

Trong đó: Công nghiệp 4,50 7,43 7,33

Nông, lâm nghiệp, thuỷ sản 5,47 3,08 1,77

Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm 1,52 3,19 4,32

Nguồn: Cục thống kê thành phố Hà Nội [11]

Thu nhập bình quân đầu người tại Hà Nội luôn ở mức cao trong cả nước. Trong

giai đoạn 2015 – 2021, thu nhập bình quân đầu người của Hà Nội luôn giữ vị trí

trong nhóm 5 tỉnh thành có mức cao nhất cả nước, cao hơn từ 1,4 – 1,8 lần. Thu nhập

bình quân năm sau luôn cao hơn năm trước. Cụ thể như sau:

Bảng 3.3. Thu nhập bình quân đầu người tại Hà Nội từ 2015-2021

2015 2016 2017 2018 2019 2020 2021

117,5 120,3

Thu nhập bình quân tại Hà Nội (triệu đồng) Trong 1 năm Trong 1 tháng 86-88 82-86 6,8-7,2 7,2-7,3 91 7,6 9,8 10 130 10,8 128,2 10,7

Nguồn: Cục thống kê thành phố Hà Nội [11]

Thu nhập bình quân đầu người càng cao thì người dân sẽ có khả năng chi tiêu

78

cao hơn cho các DVCS sức khỏe, đặc biệt là DVCS NCT. NCT thường cần được

chăm sóc đặc biệt và có các nhu cầu về sức khỏe cao hơn so với các nhóm tuổi khác.

Với thu nhập cao, người dân có thể chi trả cho các DVCS NCT tốt hơn, bao gồm cả

DVCS tại nhà và DVCS tại các cơ sở y tế. Bên cạnh đó, thu nhập bình quân đầu

người càng cao thì họ cũng có khả năng tăng cường đóng góp vào các khoản quỹ xã

hội, bao gồm quỹ bảo hiểm xã hội và quỹ y tế. Nhờ đó, các DVCS NCT có thể được

cải thiện hơn bằng cách sử dụng các khoản đóng góp để đầu tư vào cơ sở vật chất,

thiết bị và đào tạo nhân lực. Tuy nhiên, việc tăng thu nhập bình quân đầu người cũng

có thể gây ra khoảng cách địa vị kinh tế giữa các gia đình và cá nhân, đặc biệt giữa

nhóm NCT di cư và nhóm NCT sống lâu đời tại Hà Nội. Điều này dẫn đến sự chênh

lệch trong khả năng tiếp cận và chi trả cho DVCS NCT. Điều này có thể dẫn đến sự

bất bình đẳng trong DVCS sức khỏe cho NCT.

Thu ngân sách nhà nước (NSNN) trên địa bàn liên tục tăng và vượt dự toán; lũy

kế giai đoạn 2016-2020 đạt gần 1,2 triệu tỷ đồng, gấp 1,64 lần giai đoạn 2011-2015,

tăng trung bình 11,8%/năm; đảm bảo cân đối thu, chi góp phần thúc đẩy sản xuất,

kinh doanh, phát triển kinh tế, xã hội. Với ngân sách này chính quyền địa phương có

thể cung cấp các CS an sinh cho NCT như bảo hiểm y tế, xã hội, chăm sóc sức khỏe,

chăm sóc dài ngày, giảm giá phí dịch vụ y tế, và hỗ trợ chi phí sinh hoạt cho NCT.

Công tác đảm bảo an sinh, phúc lợi xã hội luôn được Thành phố và các cấp, các

ngành quan tâm thực hiện. Công tác chăm lo đời sống cho nhân dân và các đối tượng

CS được thực hiện tốt; các CS xã hội được thực hiện kịp thời, đầy đủ, đúng đối

tượng. Trong 6 tháng đầu năm 2022, Thành phố đã tiếp nhận và giải quyết gần 10,1

nghìn hồ sơ hưởng chế độ ưu đãi người có công và thân nhân người có công với cách

mạng, số tiền 41,2 tỷ đồng. Đến nay, Thành phố đã thực hiện chi trả đầy đủ, kịp thời

trợ cấp 6 tháng đầu năm cho trên 81,7 nghìn người có công và thân nhân người có

công đang hưởng trợ cấp ưu đãi hàng tháng với số tiền 910 tỷ đồng, chi điều dưỡng

người có công 35 tỷ đồng. Trên địa bàn Thành phố hiện có 202,4 nghìn đối tượng

BTXH đang được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng tại cộng đồng và 2,8 nghìn đối

tượng BTXH đang được nuôi dưỡng tại các Trung tâm BTXH của Thành phố [11].

Cùng với việc phát triển kinh tế, tình hình xã hội của Hà Nội cũng đang phát

triển tích cực, với nhiều cơ sở hạ tầng văn hóa, thể thao, giải trí, mua sắm, ăn uống,

giáo dục được đầu tư phát triển. Hà Nội cũng là trung tâm giáo dục, đào tạo, nghiên

cứu khoa học, văn hóa, nghệ thuật của cả nước. Tuy nhiên, cũng như nhiều thành phố

79

lớn trên thế giới, Hà Nội cũng đang phải đối mặt với một số vấn đề về xã hội, như

tình trạng ô nhiễm môi trường, áp lực đô thị hóa, mất cân đối giữa phát triển kinh tế

và bảo vệ môi trường, phân bổ nguồn lực không đồng đều giữa các khu vực. Đặc biệt,

vấn đề chăm sóc NCT đang trở thành một trong những thách thức lớn đối với Hà Nội

khi tỷ lệ NCT ngày càng tăng, nhu cầu chăm sóc, cuộc sống của họ cũng tăng cao.

3.1.2. Người cao tuổi trên địa bàn Hà Nội

Về tốc độ và số lượng dân số cao tuổi: Hà Nội là khu vực có tỷ lệ tăng trưởng

dân số cao tuổi cao. Trong giai đoạn từ 2015 đến 2020, tỷ lệ tăng trưởng dân số cao

tuổi đạt 3,3%, tăng lên so với giai đoạn trước đó (2010-2015) là 2,8%. Theo báo cáo

của Sở LĐTB&XH Hà Nội [34], tính đến năm 2022, toàn Thành phố hiện có 888.603

hộ gia đình có NCT, trong đó tổng số NCT là 1.069.456 NCT, chiếm tỷ lệ 12,8% dân

số Thành phố. NCT ở các độ tuổi cụ thể bao gồm:

Bảng 3.4. Số lượng NCT theo nhóm tuổi, giới tính tại Hà Nội năm 2022

Nam Nữ Tổng

Tổng số NCT Nhóm 60-69 tuổi Nhóm 70-79 tuổi Nhóm 80 tuổi trở lên 500.907 265.299 146.042 89.566 Tỷ lệ % trên tổng số NCT 53,1% 29,0% 17,9%

568.549 1.069.456 302.874 568.173 163.911 309.953 191.330 101.764 Nguồn: Sở LĐTB&XH Hà Nội [34]

Có thể thấy, tỷ lệ NCT ở nhóm đại lão (trên 80 tuổi) tại Hà Nội đạt 17,9%. Dựa

theo đặc điểm nhân khẩu học của NCT đã được trình bày ở chương 2, tỷ lệ NCT

nhóm đại lão có ý nghĩa thống kê về nhu cầu chăm sóc chính thức tại cơ sở do những

khó khăn về sức khoẻ, sự độc lập trong việc thực hiện hoạt động sinh hoạt hàng ngày.

Về sự phân bố NCT theo đơn vị hành chính: Tỷ lệ phân bố số NCT ở 12 quận,

17 huyện, 01 thị xã tại địa bàn Hà Nội tương đối đồng đều, trong đó khu vực 12 quận

nội thành có số lượng NCT cao hơn một chút so với 19 huyện, thị xã (khoảng 4300

NCT). Tính trung bình, số NCT ở các quận nội thành cao hơn 113% so với khu vực

ngoại thành Hà Nội. Trong 12 quận nội thành, số NCT đông nhất là Đống Đa, Thanh

Xuân, Ba Đình, thấp nhất là ở Nam Từ Liêm, Hoàng Mai. Nhưng số lượng NCT từ

80 tuổi trở lên theo ở các huyện, thị xã có tổng số 114.513 người, trong khi con số

này ở các quận nội thành là 76.753 [38] (xem Phụ lục 9). Điều này cho thấy nhu cầu

80

DVCS của NCT ở các quận ngoại thành cho nhóm đại lão cũng khá lớn. Cần hiểu,

DVCS ở đây không nhất thiết phải là DVCS tại cơ sở TGXH mà có thể bao gồm

DVCS tại gia đình, cộng đồng cho nhóm đại lão do các cơ sở TGXH cung cấp.

Về đặc điểm nhân khẩu và sức khoẻ của NCT: Tại Hà Nội, số hộ mà NCT sống

một mình hoặc chỉ có NCT sống với nhau, số NCT cô đơn không nơi nương tựa, số

NCT là NKT (đã được UBND cấp giấy xác nhận mức độ khuyết tật), số NCT thuộc

hộ nghèo không có khả năng tự phục vụ bản thân, số NCT thuộc hộ gia đình nghèo

không có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng hoặc có người có nghĩa vụ và

quyền phụng dưỡng nhưng người này đang hưởng chế độ trợ cấp xã hội hằng tháng

có tổng số khoảng 133 nghìn NCT, chiếm 12,4% tổng số NCT tại Hà Nội [38] (xem

Phụ lục 10). NCT ở Hà Nội cũng đang đối mặt với nhiều vấn đề về sức khỏe, trong

đó bao gồm các bệnh lý liên quan đến tuổi già như bệnh tim mạch, tiểu đường, đột

quỵ, ung thư, rối loạn tâm thần và các bệnh khác. Theo báo cáo của Sở Y tế Hà Nội

năm 2020 và nghiên cứu của Phạm Anh Tùng và cộng sự [26], NCT ở Hà Nội đang

đối mặt với nhiều vấn đề về sức khỏe. Tỷ lệ NCT mắc bệnh tim mạch và tiểu đường

ở Hà Nội là rất cao, chiếm 60,5% và 43,5% trong số những người trên 60 tuổi. Đột

quỵ cũng là một vấn đề sức khỏe quan trọng đối với NCT ở Hà Nội, với tỷ lệ mắc

bệnh đột quỵ cao hơn so với các địa phương khác. Ngoài ra, ung thư và các bệnh lý

khác cũng được ghi nhận tăng cao đối với NCT ở Hà Nội. Rối loạn tâm thần cũng là

một vấn đề đáng lo ngại, với số ca tăng lên đáng kể trong những năm gần đây. Điều

này đặt ra một thách thức lớn đối với việc phát triển các DVCS sức khỏe và tâm lý

cho NCT ở Hà Nội. Những số liệu trên cho thấy những đặc trưng về nhân khẩu, các

vấn đề về sức khoẻ khiến nhu cầu CSDH của NCT tại Hà Nội khá cao.

Về kinh tế, thu nhập của NCT: NCT ở Hà Nội phải đối mặt với vấn đề khó khăn

về mức sống. Trong số hơn 1 triệu NCT ở Hà Nội, số NCT đang hưởng lương hưu

chỉ chiếm 36% số NCT tại Hà Nội [38]. Theo báo cáo đánh giá tình hình thực hiện

các CS, pháp luật về NCT tại Hà Nội năm 2019, mức sống của NCT vẫn còn khó

khăn và chưa đáp ứng được các nhu cầu cơ bản của cuộc sống đặc biệt là nhóm NCT

di cư từ các địa phương khác. Nghiên cứu của Viện Kinh tế và Quản lý Hà Nội [57]

cũng cho thấy, khoảng 30% NCT ở Hà Nội sống dưới mức độ sinh hoạt tối thiểu, chỉ

đủ đáp ứng được các nhu cầu cơ bản như ăn uống, sinh hoạt, không có nhiều điều

kiện cho các hoạt động giải trí, tham gia các hoạt động xã hội. Ngoài ra, khoảng 15%

trong số đó sống trong điều kiện khó khăn, thiếu thốn những tiện ích cơ bản như

81

đường đi, ánh sáng, nước sạch, vệ sinh, y tế. Trong khi đó, số NCT không có lương

hưu, trợ cấp BHXH, trợ cấp xã hội chiếm 34%. Số NCT thuộc hộ nghèo, NCT thuộc

hộ cận nghèo là khoảng 14.842 NCT.

Về nhu cầu và khả năng chi trả DVCS của NCT: Chi phí chăm sóc cho NCT

cũng là một vấn đề quan trọng. Báo cáo của UBND TP Hà Nội năm 2020 cho biết,

mức chi tiêu hàng tháng của một NCT ở TP Hà Nội trung bình là khoảng 7 triệu

đồng, gồm các chi phí cho ăn uống, đi lại, chăm sóc sức khỏe và các nhu cầu sinh

hoạt khác. Nghiên cứu của Viện Kinh tế và Quản lý Hà Nội cũng cho thấy, khoảng

30% NCT ở Hà Nội sử dụng DVCS tại cơ sở y tế để khám chữa bệnh, phần còn lại tự

chăm sóc bản thân tại nhà, thuê người chăm sóc hoặc được chăm sóc bởi người thân.

Các cơ sở chăm sóc người già, nhà dưỡng lão, phòng khám chuyên khoa cũng còn

khá ít và chất lượng dịch vụ chưa đáp ứng nhu cầu của NCT. Điều này đòi hỏi NCT

phải tiết kiệm và hạn chế sử dụng các DVCS, đồng thời đẩy nặng gánh nợ cho các

gia đình có NCT. Mức thu nhập bình quân đầu người tại Hà Nội như đã trình bày ở

mục 3.1.1 từ năm 2015-2021 dù luôn giữ ở vị trí một trong 5 tỉnh thành có mức cao

nhất cả nước, nhưng mức thu nhập bình quân khoảng 7 triệu (2015) – 10,7 triệu

(2021) đã thể hiện mức chi phí cho một người cao tuổi cũng là một gánh nặng cho

các hộ gia đình.

Về số lượng NCT hưởng CS BTXH của nhà nước: Trong những năm qua, TP

Hà Nội luôn quan tâm phối hợp, tạo điều kiện để Ban Đại diện Hội NCT các cấp, Hội

NCT cơ sở triển khai thực hiện có hiệu quả các nghị quyết, chương trình, kế hoạch

của TW và thành phố, tạo điều kiện cho NCT “Sống vui, sống khỏe, sống hạnh phúc,

sống có ích cho bản thân, gia đình và xã hội”. Thành phố trợ cấp ưu đãi hàng tháng

cho 65.369 NCT có công với cách mạng, hơn 91 nghìn NCT đang hưởng trợ cấp xã

hội hàng tháng. NCT thành phố được đi xe buýt miễn phí. Trong 5 năm (2016-2021),

toàn Thành phố đã tổ chức mừng thọ, chúc thọ cho trên 633.222 NCT, với tổng số

tiền trên 407,3 tỷ đồng; hỗ trợ trên 252.400 lượt NCT có hoàn cảnh khó khăn với số

tiền trên 68,5 tỷ đồng; cấp thẻ Bảo hiểm Y tế cho trên 81,01% NCT.

Tuy nhiên, ngoài những thành tựu về TGXH cho NCT, tại Hà Nội vẫn còn có

những NCT thuộc hộ nghèo, cận nghèo, cô đơn không nơi nương tựa là nhóm được

hưởng CS BTXH và được chăm sóc miễn phí trong các cơ sở BTXH công lập. Tuy

nhiên, số NCT đang được nuôi dưỡng trong cơ sở BTXH công lập chỉ đạt 323 NCT

(Số liệu này bao gồm cả những NCT cô đơn thuộc hộ nghèo và cận nghèo theo NĐ

82

103 và cả những NCT khuyết tật, tâm thần đang sống trong các cơ sở TGXH khác)

[33]. Trong khi đó, số NCT đủ điều kiện tiếp nhận vào cơ sở BTXH nhưng tự nguyện

và có người chăm sóc tại cộng đồng lên tới 923 người. Đây là một dấu hỏi cần tìm lý

do vì sao NCT không muốn vào các cơ sở BTXH (xem Phụ lục 10).

Với một số khía cạnh nêu ở trên, có thể thấy rằng mặc dù được chính quyền TP

Hà Nội quan tâm và coi công tác NCT là một trong những hoạt động ASXH trọng

điểm của Thành phố, nhưng bức tranh về NCT tại Hà Nội còn tồn tại nhiều vấn đề

như tốc độ già hoá, số lượng NCT (đặc biệt nhóm đại lão) khá cao, các khó khăn về

xã hội, sức khoẻ, nhu cầu chăm sóc, khả năng chi trả và nhu cầu sử dụng cơ sở

TGXH của NCT. Mặc dù Thành phố cũng khuyến khích XHH các dịch vụ TGXH

nhằm đáp ứng các nhu cầu cần thiết của NCT và gia đình, nhưng những con số cho

thấy nhu cầu rất lớn với các dịch vụ CSDH, sự cần thiết phát triển các cơ sở chăm

sóc NCT đáp ứng nhu cầu đa dạng cho nhiều nhóm NCT khác nhau với sự khác biệt

về mức chi trả, giới tính, khu vực địa lý, nhu cầu chăm sóc.

3.2. Đánh giá quy trình thực hiện chính sách phát triển cơ sở chăm sóc người

cao tuổi tại Hà Nội

3.2.1. Xây dựng kế hoạch thực hiện chính sách

3.2.1.1. Thực trạng và kết quả xây dựng kế hoạch thực hiện chính sách

Dựa trên văn bản hướng dẫn thực hiện CS của các cơ quan có thẩm quyền (cấp

bộ), UBND TP Hà Nội giao cho Sở LĐTBXH (cơ quan chủ quản chịu trách nhiệm

thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT tại Hà Nội) cụ thể hoá các văn bản này

sau đó trình UBND phê duyệt. Các văn bản là căn cứ và kế hoạch triển khai thực

hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT trên địa bàn Hà Nội. UBND TP Hà Nội cùng

với các sở ban ngành liên quan đã ban hành các văn bản hướng dẫn chi tiết triển khai

các CS liên quan tới việc phát triển các cơ sở chăm sóc NCT cả công lập và ngoài

công lập trên địa bàn Thành phố dưới dạng Kế hoạch, Quyết định, Công văn chung

của UBND Thành phố và của Sở LĐTBXH. Các văn bản hướng dẫn thực hiện CS hỗ

trợ phát triển cơ sở chăm sóc NCT được tác giả tổng hợp bao gồm Quyết định, kế

hoạch triển khai CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT tại Hà Nội (xem Phụ lục 12).

Dưới đây là tóm tắt và phân tích một số CS cơ bản liên quan tới việc phát triển các cơ

sở chăm sóc NCT tại Hà Nội:

1) QĐ số 2330/QĐ-UBND ngày 22 tháng 5 năm 2015 về việc “Phê duyệt quy

83

hoạch phát triển mạng lưới cơ sở xã hội trên địa bàn TP Hà Nội đến năm 2020, định

hướng đến năm 2030” nhằm triển khai thực hiện quyết định trên của Bộ và Sở. Các

nội dung của QĐ đã thể hiện rõ định hướng tới việc phát triển các cơ sở chăm sóc

NCT trên địa bàn Hà Nội từ quan điểm, mục tiêu cho đến các nội dung và giải pháp

cụ thể.

Về mục tiêu, tăng cường chất lượng dịch vụ và giữ nguyên các cơ sở xã hội

công lập hiện có; Khuyến khích phát triển các cơ sở xã hội ngoài công lập để chăm

sóc nhóm đối tượng đặc biệt, đặc biệt là nhóm NCT; Đẩy mạnh việc xã hội hóa công

tác chăm sóc và nuôi dưỡng nhóm đối tượng BTXH; Khuyến khích các cơ sở xã hội

ngoài công lập tiếp nhận đối tượng BTXH, đặc biệt là nhóm NCT, với hỗ trợ kinh phí

từ thành phố;Tăng cường đầu tư để cải thiện cơ sở hạ tầng và trang thiết bị kỹ thuật

của các cơ sở xã hội, nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu chăm sóc, nuôi dưỡng và phục

hồi chức năng của các nhóm đối tượng BTXH tại cơ sở [52].

Về mặt nội dung, ngoài việc duy trì và phát triển hệ thống các cơ sở TGXH

công lập, Quyết định hướng tới việc phát triển mạng lưới cơ sở TGXH ngoài công

lập nhằm tiếp nhận nuôi dưỡng các nhóm đối tượng BTXH thuộc diện CS và nhóm

có nhu cầu được chăm sóc theo hình thức tự nguyện, chú trọng đến NCT, NKT và

các nhóm đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt. Các giải pháp cụ thể cũng được Quyết

định đưa ra nhằm khuyến khích sự phát triển của các cơ sở TGXH, đặc biệt dành cho

NCT bao gồm:

- Về mặt CS, thực hiện việc nghiên cứu xây dựng và triển khai thực hiện các CS

khuyến khích sự tham gia của các cá nhân, tổ chức trong nước và quốc tế vào việc

đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, trang thiết bị kỹ thuật cho mạng lưới cơ sở xã hội công

lập và ngoài công lập.

- Về ưu đãi, quy hoạch đất sạch đô thị và đầu tư xây dựng, bố trí quỹ đất để phát

triển cơ sở BTXH ngoài công lập tại các quận/huyện/thị xã có diện tích đất chưa sử

dụng còn nhiều, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất của TP Hà Nội đến năm 2030,

định hướng đến năm 2050. Trong đó, có quy định một số CS riêng của Hà Nội bao

gồm: (1) Khu vực các huyện và thị xã Sơn Tây được miễn 100% tiền thuê đất; Khu

vực Ba Đình, Đống Đa, Hai Bà Trưng, Hoàn Kiếm được giảm 30%; Các khu vực còn

lại được giảm 60% tiền thuê đất; (2) Đối với các dự án xã hội hóa thuộc lĩnh vực ưu

đãi đầu tư theo quy định, đơn giá thuê đất áp dụng là 0,5%; các dự án xã hội hóa còn

84

lại áp dụng 1%.

- Về mặt nhân lực, thực hiện tuyển dụng, bổ sung cán bộ/nhân viên CTXH, giáo

viên, y, bác sĩ điều trị và phục hồi chức năng... hàng năm để đảm bảo các cơ sở có đủ

nhân lực phục vụ công tác quản lý, chăm sóc và nuôi dưỡng đối tượng tại cơ sở.

- Về mặt tài chính, TP Hà Nội dự toán nguồn ngân sách cung cấp khoảng cho

hoạt động phát triển các cơ sở TGXH khoảng 1.246 tỷ đồng (xem Phụ lục 13), đẩy

mạnh hợp tác với các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài nhằm tăng cường

thu hút nguồn lực đầu tư cho công tác TGXH, bố trí kinh phí tạo quỹ đất sạch [52].

2) QĐ số 11/2015/QĐ-UBND ngày 19 tháng 05 năm 2015 về việc “Ban hành

quy định về CS khuyến khích xã hội hóa trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, dạy nghề,

y tế, văn hóa, thể dục thể thao, môi trường, giám định tư pháp trên địa bàn TP Hà

Nội”. Điều 02 của Quyết định về việc đầu tư, quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước là cơ

sở vật chất cho đơn vị xã hội hóa thuê đã chỉ rõ: UBND Thành phố quyết định việc

đầu tư, cải tạo nâng cấp quỹ nhà, cơ sở hạ tầng hiện có thuộc nhà nước quản lý (nếu

có đủ điều kiện) hoặc xây dựng mới nhà, cơ sở hạ tầng, một phần hoặc toàn bộ công

trình xã hội hóa để cho các cơ sở thực hiện xã hội hóa thuê có thời hạn. Quyết định

cũng chỉ rõ những ưu đãi cụ thể về cơ chế cho thuê đất, giải phóng mặt bằng, giá thuê

cơ sở hạ tầng, giá thuê đất cũng như tài sản trên đất, thời điểm tính tiền thuê, cơ chế

ứng vốn, thủ tục hồ sơ xét duyệt việc thuê cơ sở vật chất. Các ưu đãi cụ thể khác về

thuế, ưu đãi tín dụng, đào tạo bồi dưỡng cán bộ quản lý và nhân viên của các cơ sở

cũng được chỉ rõ trong Quyết định [55].

3) Kế hoạch số 93/KH-UBND ngày 19 tháng 4 năm 2018 về việc triển khai

thực hiện “Đề án Chăm sóc sức khỏe người cao tuổi giai đoạn 2017-2025” trên địa

bàn TP Hà Nội đến năm 2025. Kế hoạch đã đưa ra các mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể

đối với việc phát triển các cơ sở chăm sóc NCT nhằm đáp ứng ngày càng đầy đủ nhu

cầu chăm sóc sức khỏe dài hạn của NCT tại các cơ sở chăm sóc sức khỏe tập trung

bao gồm: Khuyến khích phát triển các Trung tâm dưỡng lão kết hợp chăm sóc sức

khỏe NCT. Trong kế hoạch cũng xác định rõ nguồn kinh phí chi tiết cho các hoạt

động này theo từng giai đoạn khác nhau [51]. Cần lưu ý cơ sở chăm sóc sức khoẻ do

Bộ Y tế quản lý, trong khi cơ sở chăm sóc NCT được nghiên cứu trong luận án do Bộ

LĐTBXH quản lý triển khai.

4) QĐ số 2478/QĐ-UBND ngày 23/5/2018 về việc ban hành “Kế hoạch thực

hiện Đề án đổi mới, phát triển hệ thống trợ giúp xã hội trên địa bàn TP Hà Nội giai

85

đoạn 2018-2025 và tầm nhìn đến năm 2030”. Trong đó xác định việc nâng cao chất

lượng hoạt động của các cơ sở cung cấp dịch vụ TGXH trên địa bàn và hoàn thiện

mô hình cung cấp dịch vụ toàn diện (DVCS về thể chất và tinh thần) đảm bảo tính

chuyên nghiệp, hiệu quả; thí điểm xây dựng mô hình trợ giúp toàn diện tại 1 cơ sở

BTXH công lập trên địa bàn thành phố; Xây dựng mối liên hệ trong hoạt động trợ

giúp giữa các cơ sở TGXH trên toàn thành phố đảm bảo sự bình đẳng trong quyền

lợi, trách nhiệm và nghĩa vụ trong cung cấp dịch vụ xã hội, trong đó Trung tâm cung

cấp dịch vụ CTXH thành phố có vai trò kết nối, tư vấn sử dụng dịch vụ TGXH trên

địa bàn. Ngoài ra, nghiên cứu hợp nhất một số Trung tâm BTXH có cùng chức năng

nhiệm vụ thành Trung tâm BTXH đa năng. Xây dựng giá dịch vụ đối với DVCS,

nuôi dưỡng dài hạn cho đối tượng tự nguyện (tập trung vào NCT); dịch vụ CTXH và

chăm sóc bán trú cho đối tượng tự nguyện [50].

5) QĐ 5188/QĐ-UBND ngày 09 tháng 12 năm 2021 về việc phê duyệt Đề án

“Sắp xếp, tổ chức lại các cơ sở trợ giúp xã hội trực thuộc Sở Lao động - Thương

binh và Xã hội Hà Nội”. Mục tiêu chính của Quyết định nhằm đổi mới, sắp xếp, tổ

chức lại các cơ sở TGXH thuộc Sở LĐTBXH Hà Nội theo hướng đảm bảo quy mô,

mạng lưới phù hợp với quy hoạch, cơ cấu, địa bàn và tổ chức bộ máy tinh gọn, hợp

lý, giảm đầu mối, hoạt động hiệu quả, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, viên

chức, người lao động. Bên cạnh đó, phát triển hệ thống dịch vụ công về TGXH

chuyên nghiệp, toàn diện, đảm bảo chất lượng, đáp ứng nhu cầu của xã hội. Mở rộng

các dịch vụ tư vấn, tham vấn, chăm sóc, phục hồi chức năng, TGXH đối với các

nhóm đối tượng tại cộng đồng và cung cấp dịch vụ cho các đối tượng có nhu cầu và

tự nguyện đóng góp kinh phí (đặc biệt là nhóm NCT). Đề án cũng ưu tiên việc mở

rộng công suất, nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng đối tượng BTXH thông

qua việc đầu tư cơ sở vật chất và các trang thiết bị cần thiết cho các cơ sở TGXH

nằm trong kế hoạch.

6) Kế hoạch số 30/KH-UBND ngày 26 tháng 01 năm 2022 về việc “Thực hiện

Chương trình hành động quốc gia về NCT đến năm 2030 trên địa bàn TP Hà Nội”.

Mục tiêu chung của kế hoạch đề cập tới việc phát triển, nâng cao chất lượng hệ thống

DVCS xã hội NCT và huy động khu vực tư nhân vào tham gia cung cấp DVCS sức

khỏe cho NCT. Các nhiệm vụ và giải pháp cụ thể đưa ra bao gồm việc phát triển

mạng lưới cơ sở TGXH cung cấp DVCS, phục hồi chức năng đối với NCT (công lập

86

và ngoài công lập; hỗ trợ nâng cấp, sửa chữa các cơ sở TGXH về cơ sở vật chất, kỹ

thuật và trang thiết bị đạt tiêu chuẩn quy định, bảo đảm có các phân khu chức năng,

các hạng mục công trình đáp ứng hoạt động chăm sóc, phục hồi chức năng cho NCT [53].

Có thể thấy số lượng văn bản triển khai còn ít về số lượng, chỉ có 04 văn bản cụ

thể về phát triển cơ sở chăm sóc NCT tại Hà Nội. Các văn bản khác về CS phát triển

cơ sở chăm sóc NCT công lập và ngoài công lập được thể hiện chỉ là một hợp phần

trong CS về NCT và chăm sóc NCT nói chung. Trong các văn bản kế hoạch triển

khai của UBND và các Sở, kế hoạch triển khai phát triển cơ sở chăm sóc NCT không

được tách riêng mà lồng ghép trong kế hoạch chung như: Kế hoạch thực hiện chương

trình quốc gia về NCT, Kế hoạch triển khai đề án thực hiện chăm sóc sức khoẻ cho

NCT tại Thành phố Hà Nội… hoặc được triển khai thực hiện trên cơ sở văn bản CS

gốc như QĐ 2330/QĐ-UBND về quy hoạch phát triển mạng lưới cơ sở TGXH.

Trong tất cả các văn bản, chỉ có QĐ 2330/QĐ-UBND thể hiện mục tiêu, giải pháp,

nguồn lực, mốc thời gian và kết quả mong đợi khi triển khai (1) CS sáp nhập cơ sở

TGXH công lập, (2) Duy trì số cơ sở TGXH công lập và (3) Phân bổ ngân sách và

giải ngân cho cơ sở TGXH công lập và ngoài công lập [52]. Ở các văn bản khác, chỉ

tiêu phát triển các cơ sở TGXH ngoài công lập không được đặt ra mà chỉ được coi là

một phần của mục tiêu hoặc nhiệm vụ/ hoạt động cần thực hiện.

3.2.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng theo mô hình 7C đến bước xây dựng kế hoạch thực

hiện chính sách

- Yếu tố nội dung: Hệ thống văn bản triển khai CS được xây dựng đầy đủ, có

cấu trúc phù hợp theo các tiêu chuẩn chung; các mục tiêu chung và giải pháp được

đưa ra phù hợp với mục tiêu chung của cả nước, các công cụ CS ưu đãi đầy đủ, đáp

ứng được nhu cầu của các đối tượng hưởng lợi và có tác động thúc đẩy nhu cầu đầu

tư cơ sở.

Hệ thống văn bản triển khai tại Hà Nội được ban hành dựa trên các văn bản gốc

ở nhiều các cấp độ nhau từ Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc Hội, Chủ tịch nước,

chính phủ, Thủ Tướng chính phủ, Bộ trưởng, thủ tưởng cơ quan ngang bộ, Hội đồng

nhân dân, Uỷ ban nhân dân các cấp, các Sở đã thể hiện quan điểm thống nhất của Hà

Nội so với những quy định khá toàn diện về CS TGXH và điều kiện thành lập, hoạt

động, giải thể các cơ sở TGXH nói chung và cơ sở chăm sóc NCT nói riêng của Việt

Nam (bao gồm cả nhóm công lập và ngoài công lập). Bên cạnh những văn bản mang

tính định hướng từ chính phủ, các bộ ban ngành, UBND thành phố HN cũng đã xây

87

dựng rất nhiều các văn bản CS con nhằm cụ thể hoá các văn bản khung nhằm giúp

ích cho việc triển khai thực hiện và giám sát đánh giá quá trình thực hiện CS (xem

Phụ lục 11). Theo các ý kiến khảo sát từ các đối tượng khác nhau tham gia trong tiến

trình thực hiện các CS, 38/42 người được hỏi cho rằng các văn bản CS hiện hành

được xây dựng đầy đủ, đảm bảo các thành tố của một văn bản CS.

Đánh giá nội dung các văn bản triển khai, dưới góc nhìn của các bên liên quan,

42/42 đối tượng khảo sát và 03 thảo luận nhóm cùng cho rằng các mục tiêu, bao gồm

mục tiêu cụ thể, giải pháp và công cụ CS đáp ứng được nhu cầu của các đối tượng

hưởng lợi. Cụ thể, nhu cầu chủ yếu của các cơ sở chăm sóc NCT là nhu cầu về mặt

bằng, xây dựng cơ sở vật chất, cũng như nhu cầu được hỗ trợ về giá thuê và các loại

thuế phí khác (VAT, thu nhập doanh nghiệp, phí trước bạ). Các quy định hỗ trợ liên

quan tới khía cạnh này đã được quan tâm và chỉ rõ trong các văn bản như: NĐ số

69/2008/NĐ- CP; NĐ số 59/2014/NĐ- CP; QĐ số 693/QĐ-TTg; QĐ số 1470/QĐ-

TTg; Thông tư 135/2008/TT-BTC; NĐ số 16/2015/NĐ-chính phủ ngày 14/02/2015;

NĐ số 141/2016/NĐ- CP ngày 10/10/2016; QĐ số 1508/QĐ-TTg ngày 27/7/2016;

QĐ 2857/QĐ-UBND ngày 18/5/2017; QĐ số 11/2015/QĐ-UBND ngày 19/05/2015

của UBND TP Hà Nội.

Các văn bản CS được xây dựng cho thấy các giải pháp hỗ trợ nhiều mặt cho các

cơ sở này từ việc giao đất, cho thuê đất, thuê hoặc xây dựng cơ sở vật chất, tới các

CS ưu đãi liên quan tới thuế, vay vốn, đào tạo nguồn nhân lực có tác động giảm chi

phí đầu tư – nguồn chi phí chiếm lượng lớn nhất trong tổng đầu tư cơ sở chăm sóc

NCT. Các cơ sở đặc biệt quan tâm đến CS ưu đãi về đất đai và cho rằng nếu giải

quyết được bài toán đất đai, là giải quyết bài toán về định mức đầu tư, từ đó giảm chi

phí mà cơ sở phải gánh, hay đúng hơn là NCT và gia đình NCT phải chi trả.

“Hệ thống các CS rất đầy đủ, ưu việt và rộng rãi. Nội dung các văn bản CS rất chi tiết, rõ

ràng và đầy đủ các nội dung, các giải pháp đề ra đáp ứng phù hợp với các nhu cầu của

cơ sở chăm sóc, đặc biệt các quy định hỗ trợ về đất, ưu đãi về thuế là những điều các cơ

sở cần để giảm chi phí đầu tư ban đầu”.

(Thảo luận nhóm số 01)

Hộp 3.1: Ý kiến đánh giá tích cực về nội dung CS

Các CS tạo điều kiện phát triển hệ thống các cơ sở TGXH ngoài công lập nhằm

tiếp nhận nuôi dưỡng các nhóm đối tượng BTXH thuộc diện CS và nhóm có nhu cầu

được chăm sóc theo hình thức tự nguyện cũng được coi trọng. Khuyến khích các cơ

88

sở xã hội ngoài công lập tiếp nhận đối tượng BTXH, đặc biệt đối với nhóm NCT,

theo mức hỗ trợ đóng góp kinh phí theo mức trợ cấp xã hội như đối tượng được nuôi

dưỡng tại cộng đồng là hướng đi đúng giảm gánh nặng của nhà nước. Bởi vậy, giải

pháp tăng cường đầu tư cải thiện chất lượng cơ sở hạ tầng và trang thiết bị kỹ thuật

của các cơ sở xã hội nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu được chăm sóc, nuôi

dưỡng và phục hồi chức năng của các nhóm đối tượng BTXH tại cơ sở công lập và

ngoài công lập đều là những giải pháp tốt.

Tuy nhiên mục tiêu cụ thể chưa thể hiện tính định lượng rõ ràng về việc phát

triển các cơ sở chăm sóc NCT làm cản trở tầm nhìn của các bên liên quan. Các kế

hoạch triển khai chỉ được lồng ghép trong kế hoạch chung của TP, Sở LĐTBXH, Tài

Chính; các sở khác không xây dựng kế hoạch cụ thể hoặc phụ thuộc văn bản CS gốc

để thực hiện.

Trong quá trình phân tích văn bản CS, tác giả nhận thấy nội dung các văn bản

CS và các báo cáo đều gộp chung số liệu về mục tiêu cụ thể giữa các cơ sở TGXH

chăm sóc NCT, trẻ em, NKT, người tâm thần. Các mục tiêu cụ thể về số lượng cơ sở,

số lượng người được bảo trợ đều được tính gộp trong các văn bản. Ngoài ra, các mục

tiêu cụ thể về đẩy mạnh XHH, đầu tư cải thiện chất lượng cơ sở hạ tầng, điều chỉnh

mức trợ cấp đối tượng bảo trợ xã hội đều không đưa ra được con số cụ thể. Điều này

làm cản trở tầm nhìn của cán bộ thực hiện CS trong việc xây dựng kế hoạch hỗ trợ

các cơ sở chăm sóc NCT phát triển.

- Yếu tố bối cảnh: việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT được đưa

ra trong bối cảnh văn bản quy phạm pháp luật mang tính định khung và các văn bản

hướng dẫn thực hiện đã được hình thành thành hệ thống, phù hợp quan điểm thống

nhất của Đảng và Nhà nước.

Quan điểm của Đảng và Nhà nước được phân tích ở mục 2.6 cho thấy sự ủng

hộ mạnh mẽ khi đưa ra định hướng về sự phát triển các cơ sở chăm sóc NCT trước

thách thức già hoá dân số. Mặc dù, Đảng và Nhà nước vẫn ưu tiên sự phát triển của

mô hình chăm sóc NCT tại gia đình và cộng đồng, nhưng cũng thể hiện sự đồng tình

ủng hộ phát triển hệ thống ASXH, đa dạng hoá các khu vực chăm sóc NCT, mở rộng

sang cả kinh tế tư nhân, hỗ trợ khu vực ngoài công lập khác như tôn giáo, từ thiện,

doanh nghiệp nước ngoài trong việc chăm sóc NCT và khuyến khích XHH với các cơ

sở TGXH công lập [31, 41]. Cụ thể ở đây Luật NCT 2009, Luật Quy hoạch, Luật đầu

tư, Định hướng phát triển và chiến lược của quốc gia về NCT phù hợp và tạo khung

89

pháp lý thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT. Điều này được thể hiện thành

văn trong các văn bản dưới Luật như QĐ 1781/QĐ-TTg, QĐ 2156/QĐ-TTg về

Chương trình hành động quốc gia về người cao tuổi giai đoạn 2012-2020, 2021 –

2030 với mục tiêu của Chương trình đã nêu rõ: “Hoàn thiện CS trợ giúp xã hội

hướng tới đảm bảo mức sống tối thiểu cho người cao tuổi; phát triển, nâng cao chất

lượng hệ thống DVCS xã hội người cao tuổi, chú trọng người cao tuổi khuyết tật,

người cao tuổi thuộc diện nghèo không có người phụng dưỡng, người cao tuổi dân

tộc thiểu số; huy động khu vực tư nhân vào tham gia cung cấp DVCS người cao

tuổi” [40]. Theo tổng hợp từ kết quả nghiên cứu, một loạt các văn bản dưới luật

(Quyết định, Nghị định, Thông tư, Kế hoạch…) với các chủ thể ban hành khác nhau

ở các cấp, ngành đã được triển khai đã đảm bảo tính hệ thống của CS (xem Phụ lục 8,

11). Điều này giúp các chủ thể tại Hà Nội thực hiện trong việc hiểu, triển khai CS.

Đồng thời, các văn bản liên quan đến CS ưu đãi cho cơ sở chăm sóc NCT phù hợp

với các CS XHH trong lĩnh vực giáo dục, y tế… Khảo cứu các văn bản của Hà Nội hiện

nay cho thấy có sự thống nhất với hệ thống văn bản của toàn quốc, tạo điều kiện thuận

lợi về hành lang pháp lý để các CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT được triển khai.

“Các CS được ban hành thường nhằm chi tiết hoá các điều luật, do đó đảm bảo tính

thống nhất và phù hợp với các mục tiêu và giải pháp của chương trình hành động quốc

gia về NCT trong những năm gần đây, thuận lợi cho Sở triển khai CS tới các cấp và các

cơ sở.”

(Nữ, cán bộ CS cấp Sở, 54 tuổi)

Hộp 3.2: Ý kiến đánh giá về sự phù hợp của CS trong hệ thống pháp luật

-Yếu tố năng lực: Cán bộ Sở LĐTBXH và Sở Tài chính hiểu rõ về CS được

phân công phụ trách, nhưng cán bộ cấp Sở ở các ngành khác không nắm rõ các CS

liên ngành. Cùng với sự hạn chế về nguồn nhân lực và kinh phí, các kế hoạch cụ thể

về việc triển khai chính sách không được xây dựng.

Ngoài Sở LĐTBXH có phân công cán bộ CS phụ trách lĩnh vực quản lý cơ sở

TGXH và Sở Tài chính có cán bộ được phân công phụ trách tài chính tại các cơ sở

TGXH công lập, cán bộ các sở khác cho biết đã nghe nói đến CS này nhưng để thực

hiện cần nghiên cứu cụ thể hơn. Sự hiểu biết của cán bộ CS Sở LĐTBXH và Tài

chính xuất phát từ việc triển khai văn bản CS do cấp trên ban hành, nhưng các Sở

khác, sự hiểu biết của cán bộ là do quá trình tiếp xúc với người dân (chủ cơ sở, các

nhà đầu tư) đến làm việc về chế độ CS. Bởi vậy, dù CS được ban hành từ năm 2008,

90

nhưng đến nay, khả năng hiểu, thực hiện của các Sở liên ngành còn nhiều hạn chế.

Các kế hoạch về cơ chế giám sát được thực hiện theo định kỳ, theo năm hoặc diễn ra

đột xuất như các văn bản kế hoạch khác.

“Trong giai đoạn đầu thành lập cơ sở, anh có đi hỏi các cán bộ CS ở Sở Xây dựng, Tài

nguyên môi trường nhưng họ còn không biết tới các CS hỗ trợ hiện có. Họ còn chỉ dẫn

lòng vòng sang các cơ quan khác để hỏi thông tin”

(Nam, chủ cơ sở ngoài công lập, 65 tuổi)

“CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT có nhưng chủ yếu là bên Sở LĐTBXH quản lý, bởi

vậy bên Sở chỉ có trách nhiệm phối hợp khi cần thiết”

(Nam, cán bộ CS cấp Sở, 42 tuổi)

Hộp 3.3: Ý kiến về việc hiểu nội dung và lập kế hoạch thực hiện CS

Ngay cả khi hiểu về CS, cán bộ thực thi CS cũng cho rằng, sự hạn chế của các

văn bản triển khai phần lớn là do sự thiếu hụt về nguồn lực: tài lực và mức độ ưu tiên

trong việc xây dựng các CS liên quan đến người cao tuổi. Nói cách khác, việc phát

triển cơ sở TGXH ngoài công lập đã được quan tâm, nhưng khi chưa đưa thành chỉ

tiêu hành động cụ thể, việc phân bổ nguồn lực thực hiện và thống nhất trong cách

hiểu của chủ thể thực hiện CS để triển khai hiệu quả sẽ có nhiều hạn chế khi cần cơ

chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước.

“Hiện nay kinh phí của Thành phố không có để thực hiện những sự hỗ trợ cho các hoạt

động XHH dịch vụ chăm sóc NCT vì còn nhiều lĩnh vực cần quan tâm, bức thiết hơn”

(Nữ, cán bộ CS cấp Sở, 47 tuổi)

Hộp 3.4: Ý kiến về năng lực/nguồn lực xây dựng kế hoạch thực hiện CS

- Yếu tố cam kết: Sự ủng hộ của lãnh đạo dừng ở cam kết lời nói/văn bản mà

chưa đi vào hành động cụ thể, các kế hoạch công tác cá nhân của cán bộ thực hiện

CS không được đưa vào xây dựng, đánh giá chỉ tiêu thực hiện.

UBND TP Hà Nội, ngoài việc thể hiện sự cam kết và tham gia tích cực với vai

trò là đơn vị chỉ đạo trong việc ban hành các CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT trên

địa bàn thành phố thì cũng đã thể hiện sự tham gia tích cực trong việc triển khai các

kế hoạch nhằm thực hiện các CS được ban hành. Đây đều là các chương trình kế

hoạch khung chi tiết nhằm giúp định hướng cho các sở ban ngành khác trong việc

triển khai các CS về phát triển cơ sở chăm sóc NCT trên địa bàn thành phố. Tuy

nhiên, các kế hoạch triển khai của UBND được xây dựng dựa trên tờ trình của Sở

LĐTBXH. Sở LĐTBXH hoàn toàn chủ động trong việc lập kế hoạch. UBND TP Hà

91

Nội không có cá nhân được phân công phụ trách riêng mảng phát triển cơ sở chăm

sóc NCT mà lồng ghép trong các CS chăm sóc NCT khác. Tại các sở, việc xây dựng

kế hoạch công tác cá nhân để hỗ trợ các cơ sở ngoài công lập không được đưa vào kế

hoạch công tác năm. Chỉ có các hoạt động với cơ sở công lập được cán bộ Sở

LĐTBXH đưa vào kế hoạch hoạt động hàng năm. Nói cách khác, sự cam kết của chủ

thể thực hiện CS chỉ thể hiện ở lời nói (bằng miệng hoặc văn bản kế hoạch) mà

không có hành động cụ thể.

- Yếu tố sự phối hợp: xây dựng kế hoạch triển khai CS giữa các bên liên quan

rất mờ nhạt do thiếu tầm nhìn chung về mục tiêu và giải pháp.

Trong các văn bản, việc phối hợp thực hiện triển khai các kế hoạch cũng đã

được thể hiện rõ, tuy nhiên, kết quả nghiên cứu cho thấy việc phối hợp xây dựng kế

hoạch triển khai còn hạn chế. Do kế hoạch phát triển cơ sở chăm sóc NCT là một

trong nhiều nhiệm vụ cần thực hiện, nên các Sở tập trung thảo luận xây dựng kế

hoạch thực hiện các CS khác thiết thực hơn. Đồng thời, trong văn bản kế hoạch, các

mục tiêu cụ thể không được xây dựng rõ ràng, mà chỉ phân công phối hợp thực hiện

dựa trên cơ sở nhiệm vụ của từng Sở, bởi vậy, việc thực hiện và điều chỉnh kế hoạch

thực hiện theo từng Sở không rõ ràng, gây cản trở đến việc xây dựng văn bản CS.

- Yếu tố truyền thông: Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng kế hoạch truyền thông

về các CS phát triển các dịch vụ và cơ sở chăm sóc NCT không được xây dựng.

Mặc dù kế hoạch phổ biến CS được quan tâm và thể hiện trong các văn bản,

nhưng nội dung truyền thông được thành phố chỉ đạo các sở, ngành liên quan, cơ

quan truyền thông xây dựng chuyên mục và dành thời lượng phát sóng tuyên truyền

về chủ trương, CS của Đảng, Nhà nước và Thành phố đối với NCT, nội dung và kết

quả triển khai thực hiện Luật NCT, các sự kiện quan trọng liên quan đến NCT như

ngày Người cao tuổi Việt Nam 6/6, ngày Quốc tế Người cao tuổi 01/10..., phổ biến

kiến thức, kỹ năng phòng ngừa, chăm sóc sức khỏe cho NCT. Kế hoạch truyền thông

tới các cơ sở TGXH hoặc các nhà quản lý/ chủ cơ sở/ nhà đầu tư không được xây

dựng để thực hiện.

Tóm lại, trong bước Xây dựng kế hoạch, các văn bản đã được xây dựng để định

hướng thực hiện CS và nhận được sự ủng hộ và chỉ đạo chung của lãnh đạo TP Hà

Nội, tuy nhiên bước thực hiện này vẫn còn nhiều hạn chế. Nguyên nhân là do các kế

hoạch chủ yếu được triển khai dựa trên các văn bản gốc, hoặc chỉ là một hợp phần

nhỏ trong kế hoạch triển khai các chương trình/ đề án cho NCT, cùng với việc kế

92

hoạch không được triển khai cụ thể về mục tiêu và giải pháp (trừ kế hoạch đối với cơ

sở TGXH công lập) nên thiếu tầm nhìn chung giữa các Sở, thiếu tầm nhìn chung để

các cán bộ CS xây dựng kế hoạch hoạt động theo năm để đánh giá về công việc của

cá nhân. Đồng thời, chỉ có kế hoạch ngân sách được xây dựng, các kế hoạch về

truyền thông, kế hoạch nhân lực không được xây dựng kịch bản.. sẽ làm giảm hiệu

quả thực hiện, đồng thời giảm hiệu quả đánh giá, giám sát CS này.

3.2.2. Tuyên truyền, phổ biến chính sách

3.2.2.1 Thực trạng và kết quả tuyên truyền, phổ biến chính sách

Sở LĐTBXH có trách nhiệm chủ động tuyên truyền, phổ biến CS phát triển cơ

sở chăm sóc NCT, đặc biệt là các CS khuyến khích xã hội hoá và cung cấp thông tin

về các hoạt động triển khai và kết quả thực hiện cho các cơ quan báo chí để thực hiện

công tác thông tin, tuyên truyền đạt hiệu quả. Sở Tài chính có trách nhiệm truyền

thông CS ưu đãi, miễn/giảm thuế, vay vốn cho các cơ sở. Thành phố đã chỉ đạo các

sở, ngành liên quan, cơ quan truyền thông xây dựng chuyên mục và dành thời lượng

phát sóng tuyên truyền về chủ trương, CS của Đảng, Nhà nước và Thành phố.

Với sự phát triển của công nghệ, hệ thống các văn bản CS sau khi ban hành

được truyền thông một cách nhanh chóng và rộng rãi hơn tới các đối tượng liên quan

thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng, cổng thông tin điện tử mở, hoặc

hệ thống thông tin nội bộ của các ban ngành. Chẳng hạn đối với ngành LĐTBXH,

các đơn vị trực thuộc (bao gồm cả cơ sở TGXH công lập) có thể tiếp cận tới các văn

bản CS mới nhất thông qua tài khoản trên hệ thống thông tin nội bộ riêng được triển

khai từ năm 2015 (https://intranet.molisa.gov.vn), hoặc được cập nhật thông qua

email của tổ chức. Bên cạnh đó, với hệ thống cổng thông tin điện tử mở, các văn bản

CS, các bài viết, chuyên mục có liên quan tới việc phát triển cơ sở chăm sóc NCT,

các sự kiện quan trọng liên quan đến NCT cũng được Thành phố cập nhật trên các

trang như: www.solaodong.hanoi.gov.vn; www.hanoi.gov.vn; www.hanoi.gov.vn, và

các cơ quan báo chí truyền thông điện tử khác cũng tham gia tích cực trong việc đưa

tin về các hoạt động này.

3.2.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến bước tuyên truyền, phổ biến chính sách

- Yếu tố nội dung: Nội dung tuyên truyền, phổ biến CS không được xây dựng

tập trung vào CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT cho đối tượng thụ hưởng trực tiếp..

Do bước xây dựng kế hoạch không tập trung vào nội dung truyền thông về CS

93

phát triển cơ sở chăm sóc NCT, nên nội dung truyền thông của các cơ quan truyền

thông đại chúng hiện nay tập trung vào việc triển khai thực hiện Luật NCT, Kế hoạch

hành động vì NCT Việt Nam, CS ưu đãi với NCT và các sự kiện quan trọng có liên

quan tới NCT. Nên mặc dù các chương trình truyền thông có nhiều, nhưng việc tập

trung nội dung truyền thông vào CS phát triển và khuyến khích các cơ sở ngoài công

lập cung cấp DVCS cho NCT còn rất hạn chế.

- Yếu tố bối cảnh: Yếu tố xã hội và văn hoá trong bối cảnh ở Hà Nội hiện nay

có tác động thúc đẩy sự thành công của việc tuyên truyền, phổ biến chính sách phát

triển cơ sở TGXH ngoài công lập, ngược lại những định kiến xã hội đang tồn tại là

rào cản lộ trình xã hội hoá của các cơ sở TGXH công lập.

Những yếu tố xã hội bao gồm các đặc trưng nhân khẩu, xã hội, vấn đề già hoá

của NCT phù hợp với định hướng tuyên truyền, phổ biến CS phát triển cơ sở chăm

sóc đáp ứng nhu cầu của NCT và gia đình NCT. Nhu cầu tự thân của nhóm NCT, đặc

biệt là nhóm đại lão, nhóm NCT nữ và NCT ở khu vực nông thôn, dân tộc thiểu số.

Bên cạnh đó, làn sóng di dân đô thị gia tăng kéo theo số lượng NCT nhóm sơ lão và

trung lão ở các khu vực thành thị, đặc biệt là vùng Đồng bằng sông Hồng (Hà Nội)

có nhu cầu chăm sóc tăng cao. Cộng với sự thu hẹp của mô hình gia đình hiện nay,

sự chuyển dịch phân công lao động giữa nam và nữ trong việc chăm sóc NCT cùng

tỷ lệ sống chung của NCT ở Việt Nam với con cái, người thân giảm đáng kể khiến

nhu cầu chăm sóc bởi lực lượng chăm sóc chuyên nghiệp được nảy sinh [138]. Quan

trong hơn cả, NCT với sự suy giảm sức khoẻ, tình trạng khuyết tật và khả năng thực

hiện các hoạt động sinh hoạt hàng ngày khiến việc chăm sóc cho NCT cần được nâng

cao về chất lượng. Lực lượng chăm sóc cho NCT cần được đào tạo về trình độ,

chuyên môn như các lực lượng chính thức (nhân viên CTXH, điều dưỡng, bác sĩ…)

để chăm sóc cả mặt xã hội, sức khoẻ cho NCT chứ không chỉ sử dụng lực lượng

chăm sóc không chính thức bao gồm thành viên gia đình, tình nguyện viên như trước

[5]. Bên cạnh các giải pháp thích ứng với bối cảnh già hoá dân số, các giải pháp về

quản lý nhà nước nhằm tăng cường tính tự chủ của các cơ sở TGXH công lập dẫn

đến CS khuyến khích xã hội hoá cung cấp dịch vụ cho các đối tượng tự nguyện của

cơ sở TGXH công lập cũng là hướng đi tất yếu phù hợp với sự phát triển của xã hội

94

giống như các lĩnh vực y tế, giáo dục.

Hộp 3.5: Ý kiến đánh giá về sự phù hợp của CS đối với vấn đề già hoá dân số và nhu

“Đường hướng lâu dài về việc phát triển các cơ sở chăm sóc NCT là phù hợp. Nhiều NCT

hiện nay có kinh tế và họ không muốn phụ thuộc vào con cái mình”

(Nữ, quản lý cơ sở TGXH ngoài công lập, 37 tuổi)

“Các quy định về XHH dịch vụ chăm sóc NCT đã tạo điều kiện cho các cơ sở TGXH công

lập có thêm các hoạt động phù hợp với chức năng, nâng cao năng lực chuyên môn cán bộ

nhằm đáp ứng với xu thế, nâng cao tính chuyên nghiệp và gia tăng thu nhập cho cơ sở”

(Nam, cán bộ quản lý cơ sở TGXH công lập, 45 tuổi)

cầu của NCT

Sự thay đổi nhận thức của xã hội, đặc biệt là những người sống ở khu vực đô

thị với góc nhìn tiến bộ và ủng hộ việc NCT sống trong các cơ sở TGXH ngoài công

lập, ngược lại hoàn toàn với những định kiến về việc sống trong các cơ sở TGXH

công lập. Các cơ sở CSDH cho NCT theo mô hình dưỡng lão chỉ mới phát triển ở

khu vực thành thị như Hà Nội (một trong hai nơi có số lượng cơ sở TGXH cho NCT

lớn nhất cả nước cùng Hồ Chí Minh) bởi đô thị là nơi người dân có nhận thức tốt hơn

về việc chăm sóc sức khoẻ toàn diện cho NCT, cũng như điều kiện về mặt kinh tế để

sử dụng loại hình dịch vụ này. Tuy vẫn còn những sự phản đối ít nhiều của cộng

đồng về các loại hình dưỡng lão và chăm sóc NCT, nhưng sự thay đổi tích cực về

nhận thức đã thể hiện rõ cũng như có xu hướng ủng hộ nhiều hơn cho mô hình này

trong tương lai [56]. Trái lại, các cơ sở TGXH công lập do thường thành lập trên 20

năm, được xã hội đánh giá là nơi có cơ sở vật chất kém, chỉ dành cho đối tượng

nghèo, cận nghèo, lang thang không người chăm sóc, dịch vụ chăm sóc không

chuyên nghiệp như tại các cơ sở TGXH ngoài công lập. Bởi vậy, dư luận xã hội và

bản thân NCT, gia đình NCT không ủng hộ việc đưa NCT sinh sống tại các cơ sở

công lập mặc dù mức phí phải trả khá thấp. Điều này giải thích vì sao nhu cầu NCT

cần CSDH tại Hà Nội rất lớn, nhưng số lượng NCT tại các cơ sở TGXH công lập có

xu hướng giảm đi từ năm 2015- 2021, NCT đủ điều kiện vào cơ sở TGXH nhưng vẫn

quyết định sống tại cộng đồng dù không có người chăm sóc cao hơn 3 lần so với

lượng NCT đồng ý vào sống trong các cơ sở bảo trợ [38, 47]. Nói cách khác, nhận

thức của xã hội hiện nay là một rào cản lớn với lộ trình XHH các cơ sở TGXH công

lập để nâng cao chất lượng DVCS tại đây.

Truyền thống con cái có nghĩa vụ chăm sóc cha mẹ là phổ biến và mô hình

95

chăm sóc tại gia đình, cộng đồng vẫn được ưu tiên bởi vậy việc xây dựng dịch vụ

chăm sóc NCT ban ngày tại các cơ sở TGXH sẽ là một hướng phát triển phù hợp với

văn hoá Việt Nam hơn so với CSDH tập trung tại cơ sở. Theo Viện Chiến lược và

Chính sách Y tế [56] trong nghiên cứu “Tìm hiểu nhận thức, thái độ và nhu cầu sống

trong các Trung tâm dưỡng lão của NCT Việt Nam”, quan điểm “nên để NCT sống

trong trung tâm dưỡng lão” nhận được nhiều quan điểm khác nhau (đồng tình/không

đồng tình). Kết quả nghiên cứu cho thấy quan điểm không ai chăm sóc cha mẹ bằng

con cái là phổ biến và mô hình chăm sóc tại gia đình hiện nay vẫn khá phù hợp với

điều kiện hoàn cảnh và truyền thống văn hóa tại Việt Nam. Đặc biệt, suy nghĩ này

không chỉ xuất phát từ NCT mà ngay cả những người trẻ tuổi cũng đồng tình với

quan điểm này. Bởi vậy, nếu chỉ tập trung phát triển dịch vụ CSDH tập trung tại các

cơ sở TGXH cho NCT sẽ không phải là hướng phát triển phù hợp với bối cảnh văn

hoá. Hiện nay, theo báo cáo của Sở LĐTBXH Hà Nội, chỉ có duy nhất 01 cơ sở

TGXH ngoài công lập cung cấp dịch vụ chăm sóc NCT ban ngày, bởi vậy nếu nhận

thức được tốt yếu tố văn hoá để khuyến khích thực hiện CS đa dạng các loại hình

dịch vụ cung cấp bao gồm bán trú, nội trú và tích hợp mô hình chăm sóc với gia đình,

cộng đồng trong các cơ sở chăm sóc NCT, sẽ tạo động lực thúc đẩy tốt hơn cho sự

phát triển của các cơ sở chăm sóc NCT tại Hà Nội [36, 43].

“Nhu cầu của người dân tăng cao và nhận thức của họ cũng tốt hơn về việc chăm sóc

NCT, có những thay đổi tích cực về quan điểm truyền thống phụng dưỡng NCT tại gia

đình. Vì thế, việc triển khai các CS XHH và phát triển các cơ sở rất thuận lợi và phù hợp”

(Nam, cán bộ CS cấp Bộ, 58 tuổi)

“Nhu cầu của người dân rất lớn nhưng nhiều trường hợp các cụ đến sống tại trung tâm

BTXH chỉ ở một thời gian rồi dời đi dưới áp lực của gia đình và hàng xóm do quan điểm

trung tâm BTXH dành cho người nghèo, không ai chăm sóc mặc dù mức phí thấp hơn

đáng kể so với các cơ sở TGXH ngoài công lập”

(Thảo luận nhóm số 02)

Hộp 3.6: Ý kiến đánh giá về sự phù hợp của CS đối với vấn đề văn hoá

- Yếu tố năng lực: Năng lực tuyên truyền, phổ biến CS trong Sở LĐTBXH và

giữa các sở không đồng đều, phụ thuộc ở sự chủ động của các cơ sở chăm sóc NCT.

Do CS chăm sóc NCT được ngành LĐTBXH chủ trì nên cán bộ ngành

LĐTBXH hiểu rõ nhất về CS để hướng dẫn các cơ sở hoàn thiện thủ tục hồ sơ,

hưởng ưu đãi CS. Tuy nhiên, năng lực này được phát triển qua quá trình hơn 10 năm

96

(từ khi Nghị định 68/2008/NĐ- CP) ra đời, và cán bộ CS tại Hà Nội đã hỗ trợ cho

hơn 15 cơ sở hoàn thiện thủ tục (tính đến 2022) và thực hiện các công việc hành

chính để thành lập và vận hành cơ sở. Nhưng nguồn nhân lực của Sở LĐTBXH cũng

hạn chế do Sở phân công 02 cán bộ phụ trách mảng này, trong đó có 01 cán bộ phụ

trách chính thức, 01 cán bộ còn lại hỗ trợ (do mới đảm nhiệm công việc). Bởi vậy,

năng lực hiểu về CS này để tuyên truyền của Sở hiện nay phụ thuộc chủ yếu vào 01

cán bộ.

Thêm vào đó, tại các sở khác, khi các chủ cơ sở/nhà đầu tư tiếp cận hỏi về CS,

đa phần các Sở không được biết đến hoặc cán bộ tại các sở hiểu khác nhau về CS. Số

lượng cán bộ tại các sở khác khi được phỏng vấn có thể gọi đúng tên văn bản CS và

nội dung CS chỉ đạt 4/12 cán bộ nói chính xác. Cán bộ CS cơ bản hiểu CS của ngành

mình phụ trách mà không có sự hiểu biết CS liên ngành, thậm chí ngoài ngành

LĐTBXH, cán bộ các ngành khác không nắm được CS mình có trách nhiệm thực

hiện. Điều này gây khó khăn cho các chủ cơ sở và nhà đầu tư đến tìm hiểu về CS.

Bởi vậy, các chủ cơ sở muốn hiểu và thụ hưởng CS phải chủ động tìm hiểu bằng

cách đọc thông tin hoặc trao đổi theo nhóm phi chính thức.

“Khi mọi chi phí cao quá, mình phải tự tìm kiếm thông tin về các CS trên mạng và chủ

động liên lạc với các bên liên quan để xin hỗ trợ. Tuy nhiên việc này thường gặp khó khăn

vì chính các Sở cũng không biết đến các CS này. Như Điện lực không biết đến CS hỗ trợ

về giá điện, hoặc Tài nguyên không biết về CS ưu đãi thuê đất”.

(Nữ, chủ cơ sở ngoài công lập, 37 tuổi)

“Làm việc với các chủ cơ sở nhiều và lâu năm nên chị hiểu rõ các CS. Ở các Sở tỉnh khác

ít có cơ hội làm việc còn không hiểu đúng về CS phải gọi điện hỏi chị”.

(Nữ, cán bộ CS cấp Sở, 54 tuổi)

“Cơ chế CS vĩ mô nhà nước xây dựng ổn, nhưng mỗi Sở thực hiện một kiểu khác nhau mà

không có cách hiểu chung về CS về các từ ngữ, thậm chí các địa phương mỗi nơi lại hiểu

một kiểu khác nhau hướng dẫn mình khác nhau”

(Nữ, nhà đầu tư cơ sở ngoài công lập, 40 tuổi)

Hộp 3.7: Ý kiến về năng lực hiểu CS của cán bộ thực hiện CS

- Yếu tố cam kết: Các cơ quan, tổ chức có liên quan và cơ quan truyền thông tại

Hà Nội thiếu cam kết chủ động tuyên truyền CS và tổ chức các hoạt động truyền thông.

Nhận thức được công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, CS cần được tập

trung thực hiện với nhiều hình thức đa dạng, phong phú hơn. UBND thành phố đã

97

yêu cầu các sở, ngành liên quan và các cơ quan truyền thông phải tạo ra các chuyên

mục và sử dụng thời gian phát sóng để quảng bá chủ trương và CS của Đảng, Nhà

nước và Thành phố về NCT, cũng như triển khai Luật NCT và Kế hoạch "Tháng

hành động vì NCT Việt Nam" với khoảng 60 tin, 50 bài/ phóng sự mỗi năm, mỗi

tháng có một chuyên mục truyền hình tuyên truyền, thông tin về các vấn đề liên quan

đến NCT. Tuy nhiên, nội dung tuyên truyền tập trung vào nội dung và kết quả triển

khai CS ưu đãi của Nhà nước đối với NCT; tin bài về cuộc sống của NCT tại các cơ

sở dưỡng lão như là một xu thế tất yếu hiện nay. Các cơ sở chăm sóc NCT ngoài

công lập cũng chủ động truyền thông tới NCT thông qua các hình thức đa dạng và áp

dụng công nghệ như facebook, báo đài bằng việc phối hợp tích cực với cơ quan báo

đài và sử dụng các kênh marketing hiệu quả. Tuy không trực tiếp truyền thông CS

nhưng đây là một tiền đề tạo điều kiện CS được quan tâm phát triển do nhu cầu của

NCT, gia đình NCT gia tăng.

“Nhà nước hiện nay có CS gì để hỗ trợ các cơ sở chăm sóc NCT ngoài công lập đâu,

hoặc có thì chỉ trên giấy tờ và mình không biết tới”.

(Nam, chủ cơ sở ngoài công lập, 35 tuổi)

“Các CS thì có vẻ nhiều lắm, tuy nhiên mình không tiếp cận được và có đi hỏi thì cũng ít

người biết tới”.

(Nữ, chủ cơ sở khác, 43 tuổi)

“Không có bất kỳ cổng thông tin chính thức nào về CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT,

nếu muốn biết chỉ hỏi các chủ cơ sở nhiệt tình hướng dẫn hoặc tự tìm hiểu thông tin”

(Nữ, nhà đầu tư cơ sở chăm sóc NCT, tuổi)

Hộp 3.8: Ý kiến về sự cam kết tuyên truyền, phổ biến CS

Song, việc chủ động truyền thông CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT tới các

chủ và nhà quản lý cơ sở cùng các nhà đầu tư lại không được chú trọng, trong khi

đây mới là đối tượng CS đích.

- Yếu tố liên minh: Các cơ sở chăm sóc NCT được cấp phép tự xây dựng nhóm

truyền thông riêng nhưng sự tham gia tích cực của các thành viên giảm dần, chỉ một

số thành viên hoạt động tích cực tuyên truyền, phổ biến CS.

Các cơ sở TGXH ngoài công lập liên kết lập nhóm zalo để liên hệ và hỗ trợ

nhau trong quá trình xây dựng và vận hành cơ sở. 10/13 chủ các cơ sở đều đánh giá

sự tham gia tích cực nhất của các chủ cơ sở TGXH đã thành lập từ trước năm 2015

như TT Thiên Đức, Diên Hồng, Nhân Ái… Các nhà đầu tư, nghiên cứu có quan tâm

98

có thể dễ dàng kết nối với các chủ/ nhà quản lý cơ sở để tìm hiểu thông tin CS và sự

trợ giúp mà không bị hạn chế do tính cạnh tranh trong ngành cung ứng dịch vụ. Các

thành viên chia sẻ thông tin CS trên nhóm Zalo chung, tuy nhiên sau một thời gian

hoạt động, hiện còn 6/13 chủ cơ sở hoạt động tích cực trao đổi. Nguyên nhân được

các chủ cơ sở cho rằng do khả năng tiếp cận và được hưởng CS thấp nên trao đổi trên

nhóm cơ bản hoạt động không hiệu quả và chỉ còn nhóm nhỏ trao đổi với nhau bởi sự

phù hợp về tính cách, quan điểm. Thêm vào đó, số lượng chủ cơ sở ít không đủ thành

lập Hội theo quy định Pháp luật nên việc giữ nhóm liên minh này không được đánh

giá cao. Điều này cho thấy, ngay cả nhóm hưởng lợi cũng không quan tâm đến việc

tuyên truyền, phổ biến CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT.

- Yếu tố sự phối hợp: Sự phối hợp tuyên truyền CS giữa ngành LĐTBXH theo

ngành dọc thuận lợi với các cơ sở TGXH công lập nhưng hạn chế với cơ sở TGXH

ngoài công lập hoặc các nhà đầu tư, chủ các cơ sở khác. Sự phối hợp tuyên truyền

CS giữa các Sở ngành hạn chế do thiếu ứng dụng công nghệ thông tin.

Tuyên truyền, phổ biến CS theo ngành dọc không phải là rào cản đối với các

cơ sở TGXH chăm sóc NCT công lập nhưng lại hạn chế với cơ sở TGXH ngoài công

lập. Đối với các cơ sở TGXH công lập có chăm sóc NCT hoặc thực hiện mô hình

XHH dịch vụ chăm sóc NCT, do phụ thuộc hoàn toàn về mặt tài chính vào ngân sách

nhà nước, do đó việc được hưởng lợi từ các CS tốt hơn nhóm ngoài công lập. Cũng

như có cơ chế giao tiếp, tiếp nhận các văn bản CS (thông qua cổng thông tin nội bộ)

nên được tiếp cận tốt hơn với các hệ thống các văn bản hiện hành. Việc giao tiếp,

trao đổi với cơ quan chủ quản/cơ quan quản lý việc triển khai các CS cũng thuận tiện

hơn (cả giao tiếp chính thức và phi chính thức). Các cơ sở ngoài công lập tiếp nhận

CS hạn chế do bản chất không có nhiều văn bản chỉ đạo sau khi thành lập cơ sở, trừ

các trường hợp chỉ đạo khẩn cấp (như đại dịch Covid). Các nhà đầu tư có nhu cầu

không thể tự tìm hiểu CS qua một kênh thông tin thống nhất nào ngoại trừ hỏi kinh

nghiệm của nhóm phi chính thức bao gồm các chủ cơ sở TGXH đã thành lập.

“Khi có các CS mới được ban hành thì sẽ được cập nhật trên hệ thống, muốn xem thì chỉ

cần đăng nhập và tải về. Ngoài ra, các thông tin này cũng được gửi về email của cơ sở”.

(Nữ, quản lý cơ sở TGXH công lập, 50 tuổi)

“Sở có email của tất cả cơ sở TGXH ngoài công lập, khi có CS mới, đặc biệt trong

trường hợp khẩn cấp như đợt Covid là gửi văn bản liên hệ với các cơ sở ngay”

(Nữ, cán bộ CS cấp Sở, 38 tuổi)

99

Hộp 3.9: Ý kiến về cách thức truyền thông tới cơ sở TGXH trong ngành LĐTBXH

Ngoài ra, giữa cán bộ quản lý các Sở, việc giao tiếp cũng bị những hạn chế vì

trải qua nhiều cấp quản lý gây ra sự chậm trễ trong quá trình giao tiếp liên ngành.

Bên cạnh đó, văn bản giấy tờ liên ngành được chuyển theo hình thức công văn qua

bưu điện, điều này phù hợp với quan điểm quản lý văn bản nhà nước, nhưng không

ứng dụng khoa học công nghệ như cổng thông tin chung theo chiều dọc của ngành,

bởi vậy hạn chế việc lưu trữ, tiếp cận thông tin tới nhiều đối tượng cán bộ CS. Thêm

vào đó, mặc dù trong hầu hết các văn bản CS, công tác truyền thông đều được nhắc

đến và được giao cho các cơ quan chuyên môn là Sở Thông tin Truyền thông (truyền

thông đa phương tiện), Sở LĐTBXH (qua hệ thống thông tin nội bộ, cổng thông tin

điện tử, qua tập huấn), các cơ quan báo đài (truyền truyền thanh, truyền hình), tuy

nhiên việc truyền thông nói chung được đánh giá là không hiệu quả [37]. Nguyên

nhân chính là do thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng và đơn vị truyền

thông. Trong quá trình triển khai CS, các cơ quan chức năng thường chịu trách nhiệm

về việc thực hiện CS và phát triển cơ sở chăm sóc NCT ngoài công lập, trong khi đó

các đơn vị truyền thông thường chỉ thực hiện nhiệm vụ truyền thông. Điều này thiếu

sự phối hợp, gắn kết lên kế hoạch nội dung chi tiết thông tin truyền thông và sự liên

kết giữa hai bên là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến hiệu quả truyền thông không

cao. Ngoài ra, còn có thể có các nguyên từ chính thiếu sự hiểu biết và quan tâm của

đối tượng nhận thông tin (như NCT và gia đình), thiếu nguồn lực để triển khai

chương trình truyền thông, thiếu sự sáng tạo và đổi mới trong các phương thức và

hình thức truyền thông.

Tóm lại, có thể thấy công tác tuyên truyền phổ biến thông tin CS của TP Hà

Nội đang được đánh giá cao về hiệu quả tuyên truyền theo ngành dọc của ngành

LĐTBXH. Nhưng đối với các đối tượng CS của CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT,

công tác tuyên truyền đang gặp khó khăn do thiếu nguồn nhân lực về số lượng và

hiểu biết cụ thể về CS, đặc biệt với các CS liên ngành; các bên liên quan thiếu sự

cam kết tuyên truyền CS phát triển cơ sở mà chủ yếu tập trung vào nội dung với đối

tượng đích là NCT; sự phối hợp giữa các bên liên quan hạn chế do thiếu ứng dụng

công nghê, đặc biệt là sự phối hợp thường xuyên giữa cán bộ thực hiện CS và đối

tượng CS; nhóm lợi ích của các chủ cơ sở đã hoạt động nhằm tuyên truyền CS nhưng

hiệu quả giảm dần. Những yếu tố trên làm giảm khả năng hiểu, tiếp cận CS của các

đối tượng CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT tại Hà Nội.

100

3.2.3. Phân công, phối hợp thực hiện chính sách

3.2.3.1. Thực trạng và kết quả phân công, phối hợp thực hiện chính sách

Trong việc thực hiện các CS TGXH nói chung và CS phát triển cơ sở chăm sóc

NCT trên địa bàn Hà Nội, UBND TP Hà Nội đã chỉ đạo các Sở ban ngành chức

năng, UBND các Quận/Huyện/Thị xã/Xã/Phường/Thị trấn, các hội đoàn thể phối

cùng phối hợp triển khai các CS này. Cụ thể như sau:

Sở Lao động – Thương binh và Xã hội: là cơ quan thường trực, chịu trách

nhiệm chủ trì và phối hợp với các Sở ban ngành có liên quan triển khai thực hiện và

quản lý nhà nước về công tác phát triển cơ sở chăm sóc NCT. Sở xây dựng và đề

xuất các Đề án xây dựng, cấp phép, chuyển đổi mô hình, chức năng và nhiệm vụ của

các cơ sở chăm sóc NCT; Các đề án đầu tư về đất đai, tài chính, nhân lực cho cơ sở

TGXH. Xây dựng kế hoạch chi tiết và hướng dẫn đối với các cơ sở chăm sóc NCT

thực hiện việc tiếp nhận và hưởng lợi từ CS, hoàn thiện cơ cấu tổ chức, đào tạo nhân

lực tại cơ sở. Kiểm tra đánh giá hoạt động của các Sở, ban, ngành, địa phương trong

việc triển khai thực hiện pháp luật, CS của nhà nước đối với công tác chăm sóc và

phát huy vai trò NCT tại cơ sở. Tổ chức tập huấn cho cán bộ tham gia công tác NCT.

Phối hợp với các ngành liên quan kiểm tra, thẩm định, đánh giá tình hình hoạt động

của các cơ sở chăm sóc NCT công lập và ngoài công lập trên địa bàn Thành phố.

Phối hợp với các hội, đoàn thể tuyên truyền phổ biến và vận động nhân dân, khuyến

khích phát triển các mô hình cung cấp dịch vụ nuôi dưỡng, chăm sóc NCT ngoài

công lập để giảm tải áp lực đối với hệ thống cơ sở xã hội công lập và đáp ứng tối đa

nhu cầu của đối tượng. Tổng hợp báo cáo UBND Thành phố.

Sở Kế hoạch – Đầu tư: Hướng dẫn, phối hợp với các ngành và các cấp đưa quy

hoạch phát triển các cơ sở chăm sóc NCT vào kế hoạch định kỳ hàng năm của ngành

và địa phương phù hợp với quy hoạch phát triển chung của TP. Thực hiện việc rà

soát, đổi mới tổ chức quản lý, cải cách hành chính, tạo môi trường thuận lợi cho việc

cấp phép và thu hút đầu tư trong nước và nước ngoài vào phát triển hạ tầng cơ sở và

cung cấp dịch vụ cho NCT.

Sở Tài chính: Trên cơ sở các dự án, chương trình thực hiện quy hoạch và phát

triển mạng lưới các cơ sở chăm sóc NCT, phân bổ và bảo đảm ngân sách hàng năm

cho việc triển khai các hoạt động này theo kế hoạch. Nghiên cứu điều chỉnh định

mức kinh phí đầu tư, miễn giảm thuế phí cho các cơ sở trong quá trình xây dựng và

101

vận hành. Nghiên cứu mức phí dịch vụ cho lộ trình XHH tại cơ sở TGXH công lập.

Sở Nội vụ: Chủ trì, phối hợp với Sở LĐ-TB&XH và các ban, ngành liên quan

nghiên cứu điều chỉnh bổ sung và hoàn thiện quy định về định mức cán bộ, nhân viên

của các cơ sở (công lập), đảm bảo phù hợp với yêu cầu nâng cao chất lượng dịch vụ

cung cấp trong từng thời kỳ; quy định việc tuyển dụng, đãi ngộ đối với cán bộ, nhân

viên làm việc tại các cơ sở này.

Sở Quy hoạch Kiến trúc và Sở Tài nguyên Môi trường: Chủ trì, xây dựng

phương án bố trí quỹ đất dành cho phát triển cơ sở xã hội nói chung và các cơ sở

chăm sóc NCT, nhất là các cơ sở ngoài công lập. Nghiên cứu điều chỉnh định mức

diện tích đất tự nhiên và đất sử dụng cho sinh hoạt của đối tượng tại cơ sở phù hợp

với Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2030, định hướng đến năm 2050 của TP.

UBND các Quận/Huyện/Thị xã, Xã/Phường/Thị trấn: Căn cứ vào mục tiêu,

chỉ tiêu và định hướng quy hoạch phát triển mạng lưới cơ sở chăm sóc NCT, thực

hiện chỉ đạo đơn vị thực hiện tốt quy hoạch và thực hiện các kế hoạch phát triển phù

hợp với quy hoạch phát triển ngành LĐ-TB&XH và kế hoạch phát triển kinh tế - xã

hội của địa bàn.

Các tổ chức, đoàn thể: Tiếp tục triển khai công tác tuyên truyền, vận động thực

hiện các phong trào chăm sóc NCT; hướng dẫn NCT thụ hưởng các CS hỗ trợ và

phối hợp với các bên liên quan khác trong việc tham mưu, hỗ trợ triển khai các dự

án, chương trình liên quan tới NCT tại địa phương.

3.2.3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến bước phân công, phối hợp thực hiện chính sách

- Yếu tố nội dung: Các văn bản CS thể hiện nhất quán sự phân công phối hợp

thực hiện giữa các bên liên quan trong quy trình thực hiện CS.

Tất cả các văn bản triển khai CS tại Hà Nội nói riêng và Việt Nam nói chung

đều có mục Tổ chức, phân công thực hiện. Từng nhiệm vụ của các bên liên quan

trong từng quyết sách, kế hoạch cụ thể đều được phân định rõ như đã trình bày tổng

hợp trong mục 3.3.1. Bởi vậy, nội dung CS triển khai tại Hà Nội được coi là một

điểm sáng thể hiện sự đồng thuận trong việc phân công triển khai thực hiện tại địa

bàn và sự thống nhất trong quản lý nhà nước từ tuyến Trung ương đến địa phương.

- Yếu tố bối cảnh: Sự thống nhất về quan điểm chỉ đạo của Đảng và nhà nước

trong việc phân công nhiệm vụ chủ trì cho ngành LĐTBXH

Các văn bản liên quan đến việc phát triển cơ sở chăm sóc NCT cho đến nay

luôn thể hiện ý chí của Đảng và Nhà nước khi phân công vai trò chủ trì, tổ chức và

102

phối hợp thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT cho ngành LĐTBXH. Đồng

thời, cơ quan hành chính nhà nước bao gồm chính phủ và UBND các cấp chịu trách

nhiệm xây dựng kế hoạch tổ chức thực hiện và sắp xếp đảm bảo điều kiện triển khai

theo đặc thù của địa phương. Điều này đảm bảo sự đồng bộ trong công tác quản lý

nhà nước và tạo điều kiện thuận lợi cho chủ thể chính trong việc thực hiện CS này ở

Việt Nam và tại các địa phương như Hà Nội.

- Yếu tố năng lực: Sự tham gia của nhân lực trong nội bộ các cơ quan thực thi

CS không rõ ràng.

Hiện nay người phụ trách chính cho các hoạt động liên quan tới BTXH của cấp

Sở là Phòng BTXH, trong đó cán bộ phụ trách chính việc triển khai các CS về BTXH

nói chung có số lượng giới hạn (2 người), và hầu như không có sự liên kết với các bộ

phận khác cùng cấp như Sở KHĐT, Tài nguyên môi trường trong việc triển khai, hỗ

trợ các cơ sở hưởng thụ từ CS. Ngoại trừ Sở tài chính có 01 viên chức phụ trách tài

chính cho cơ sở TGXH, các sở khác không có viên chức được phân công trực tiếp

nhiệm vụ theo dõi, hỗ trợ sự phát triển của các cơ sở TGXH nói chung và TGXH cho

NCT nói riêng. Sự tham gia trong nội bộ các cơ quan quản lý cũng hạn chế, thường

thì việc thực hiện được giao cho cá nhân chịu trách nhiệm toàn bộ tiến trình thực hiện

CS mà không có sự tham gia của các bộ phận khác trong nội bộ hoặc liên ngành.

Số lượng cán bộ trực tiếp quản lý việc triển khai CS hạn chế, bên cạnh đó phải

chịu trách nhiệm quản lý việc triển khai nhiều CS khác nhau, với nhiều đối tượng

khác nhau do đó không có đủ điều kiện để thực hiện các hoạt động mang tính phối

hợp, kết nối hoặc khuyến khích sự tham gia của các bên liên quan trong toàn bộ quá

trình thực hiện CS. Song, điểm tích cực là vị trí cán bộ hỗ trợ trực tiếp ngành

LĐTBXH và tài chính thường ổn định, không có sự thay đổi thường xuyên, điều này

đã tạo ra những sự kết nối nhất định giữa các bên liên quan, từ đó tạo điều kiện tốt

cho hoạt động triển khai các CS. Đặc biệt, các CS mới được ban hành có thể được thông

báo qua các kênh giao tiếp phi chính thức trước khi thông qua các kênh chính thức.

“Bởi hạn chế về số lượng, nên các cán bộ quản lý thực hiện CS phải làm rất nhiều việc.

Các bên liên quan trong quá trình thực hiện CS cũng được khuyến khích tham gia nhưng

thực sự không có cơ chế cụ thể. Vì thế sự tham gia đôi khi cũng chỉ ở mức hình thức trong

các sự kiện cụ thể nào đó”.

(Nam, cán bộ CS cấp Sở, 42 tuổi)

“Cơ quan nào cũng có phòng một cửa, nhưng phòng một cửa không giải quyết được câu

103

Hộp 3.10: Ý kiến về nhân lực phối hợp thực hiện trong các cơ quan thực hiện CS

hỏi về quy hoạch vì thế mình cũng phải tìm các mối quan hệ để nhờ xin thông tin. Nhưng

tìm ra đúng người trả lời cũng không dễ. Điều này khác hẳn với tỉnh X trong quá trình

mình làm các dự án đầu tư”

(Nữ, nhà đầu tư cơ sở ngoài công lập, 40 tuổi)

- Yếu tố cam kết: Có sự ủng hộ tích cực về mặt quan điểm của cơ quan ban

hành và quản lý các CS phát triển các cơ sở chăm sóc NCT, đặc biệt là cán bộ CS

quản lý trực tiếp, người thường không giữ vị trí lãnh đạo trong Sở được đánh giá tốt.

Kết quả nghiên cứu của luận án này chỉ ra một đặc điểm nổi bật của sự cam

kết trong quá trình thực hiện các CS liên quan tới phát triển cơ sở chăm sóc NCT đó

là sự ủng hộ về mặt quan điểm (lời nói) hoặc thông qua sự chỉ đạo của người quản lý,

lãnh đạo cấp cao thuộc đơn vị chủ quản (LĐTBXH), hoặc cá nhân có thẩm quyền

quyết định khác như UBND. Có 3 chủ cơ sở có thể tiếp cận Lãnh đạo UBND nhiệm

kỳ 2016-2020 cho rằng lãnh đạo nhiệm kỳ này ủng hộ sự phát triển của cơ sở chăm

sóc NCT. 14/17 chủ cơ sở và nhà đầu tư ngoài công lập khi được phỏng vấn cho rằng

Cán bộ Sở LĐTBXH ủng hộ và tạo mọi điều kiện thành lập cơ sở. Cán bộ thực thi

trực tiếp ngành LĐTBXH được đánh giá cao về sự cam kết và hỗ trợ, chỉ dẫn thực

hiện CS, cũng như sẵn sàng tiếp thu ý kiến từ cơ sở. Ngoài ra, sự cam kết ủng hộ còn

được đánh giá cao bởi những buổi vận động CS “hành lang” giữa các cá nhân một

cách phi chính thức.

Tuy nhiên, sự cam kết này chưa được cụ thể hoá bằng các hành động giúp cho

quá trình thực hiện CS được hiệu quả hơn. Cụ thể là việc các thủ tục hành chính liên

quan thường bị tắc nghẽn, các đề xuất CS từ phía cơ sở thường được xử lý chậm, các

thắc mắc của các đơn vị thụ hưởng chưa được phản hồi một cách nhanh chóng và cụ

thể. Bên cạnh đó, sự phân công bố trí nhân lực quản lý và thực hiện CS còn hạn chế

(thiếu nhân lực), dẫn tới việc quá tải hoặc xử lý chậm các thủ tục liên quan. Nói cách

khác, sự cam kết của chủ thể thực hiện CS được thể hiện ở lời nói (bằng miệng hoặc

văn bản kế hoạch) nhưng không có hành động cụ thể hỗ trợ các cơ sở thực hiện CS

theo kế hoạch.

“Lãnh đạo UBND nhiệm kỳ trước rất quan tâm và ủng hộ phát triển mô hình dưỡng lão

và bảo chị cứ tìm địa điểm thích hợp thì xem xét tạo điều kiện. Nhưng tìm đúng vị trí

không dễ, chỗ muốn làm thì không phải đất quy hoạch. Chỗ quy hoạch thì vướng giải

phóng mặt bằng, không thuận tiện xây cơ sở. Cán bộ CS không giúp được gì nhiều, không

104

Hộp 3.11: Ý kiến về sự cam kết trong phân công thực hiện CS

cung cấp thông tin mà mình phải tự tìm hiểu và đề xuất”.

(Nữ, chủ cơ sở ngoài công lập, 48 tuổi)

“Chị cán bộ CS Sở rất tạo điều kiện cho cơ sở thực hiện các thủ tục, nhưng làm thủ tục

thế nào cơ sở tự nghiên cứu cách làm. Bởi vậy các chủ cơ sở hoặc nhà đầu tư nếu muốn

mở toàn đến các trung tâm học hỏi kinh nghiệm chứ không tìm đến Sở. Họ chỉ đến sở sau

khi hoàn thiện xong hết mọi thủ tục để nộp xin cấp phép”

(Nữ, chủ cơ sở ngoài công lập, 36 tuổi)

- Yếu tố sự phối hợp: Việc phối hợp của các bên liên quan trong các thủ tục

hành chính cho cơ sở ngoài công lập đều hạn chế về quy trình giải quyết. Sự phối

hợp giải quyết cơ chế cho cơ sở TGXH công lập hạn chế về thời hạn xử lý. Đặc biệt

thiếu hụt cơ chế phối hợp giữa ngành LĐTBXH và Y tế hỗ trợ các cơ sở TGXH vận

hành DVCS cho NCT chất lượng.

Quá trình phân công phối hợp thực hiện CS còn thiếu sự tham gia phối hợp và

hỗ trợ của cán bộ CS liên ngành khác để tạo điều kiện môi trường thuận lợi cho cơ sở

ngoài công lập phát triển. Cụ thể như trong QĐ số 11/2015/QĐ-UBND ngày 19

tháng 05 năm 2015 về việc ban hành quy định về CS khuyến khích xã hội hóa có đề

cập tới việc hỗ trợ về mặt bằng, giá thuê cũng như các quy định về việc miễn giảm

thuế cho các cơ sở chăm sóc NCT ngoài công lập. Tuy nhiên, các cơ sở ngoài công

lập đều gặp khó khăn trong việc được hưởng lợi từ các CS này do thiếu sự phối hợp

thực hiện của các ban bộ ngành liên quan gồm Sở xây dựng, Sở tài chính hay Sở Tài

nguyên và Môi trường. Mỗi Sở ngành đều đòi hỏi các loại giấy tờ y hệt nhau mà

không có liên thông về giấy tờ trên hệ thống ứng dụng công nghệ thông tin chung của

chính phủ. Hoặc với CS ưu đãi điện, nước cho cơ sở chăm sóc NCT, do không có

thông tư hướng dẫn phối hợp giữa các Sở, nên cơ sở phải áp dụng văn bản gốc về ưu

đãi điện nước cho nhóm Cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập, trường học,

bệnh viện, cơ sở khám chữa bệnh, rồi sử dụng Mục 2, Khoản 1, Phụ lục 1 của NĐ

46/2015/NĐ-CP về Quản lý chất lượng và bảo trì công trình xây dựng để xác định

Nhà dưỡng lão thuộc nhóm công trình y tế, từ đó cơ sở mới được hưởng CS ưu đãi

điện nước.

Chính những rắc rối về thủ tục dẫn tới thực tế là một số các cơ sở TGXH ngoài

công lập không đủ tiêu chuẩn để cấp phép hoạt động bởi Sở LĐTBXH đến nay vẫn

chỉ hoạt động theo giấy phép kinh doanh của Sở KH&ĐT. Các nhà đầu tư nước

105

ngoài càng không dám đầu tư tại Hà Nội do việc đầu tư còn phức tạp thêm bởi chứng

minh dòng tiền và thủ tục đầu tư nước ngoài, lựa chọn phương án mua lại cổ phần và

chuyển đổi vì những rằng buộc luật đầu tư nước ngoài cùng sự không chắc chắn về

thủ tục hành chính và thời hạn giải quyết ở Việt Nam.

“Thủ tục giữa các sở không liên thông với nhau nên một bộ hồ sơ phải in đến 10 bản

khác nhau để nộp ở các cửa mỗi Sở. Trong khi làm tại tỉnh Y thì chỉ cần đến bộ phận

một cửa của Sở KHĐT nộp hồ sơ là liên thông giữa các Sở họ sẽ làm mọi thủ tục trong

60-120 ngày. Nếu có vướng mắc họ sẽ chủ động gọi điện thoại”.

(Nam, chủ cơ sở ngoài công lập, 65 tuổi)

“Mảng DVCS này nhiều nhà đầu tư nước ngoài muốn làm vì thấy tiềm năng nhưng thủ

tục đầu tư nước ngoài đã rắc rối, nay đầu tư trong lĩnh vực mới còn rắc rối thêm và

không rõ các thủ tục cùng thời gian xử lý khiến họ ngại. Thêm vào đó, sự thay đổi chính

trị như thay đổi nhiệm kỳ lãnh đạo UBND vừa rồi khiến thủ tục đầu tư anh đã làm chậm

thành gần 4 năm mà chưa biết bao giờ xong hay xong được không”

(Nam, nhà đầu tư cơ sở ngoài công lập, 48 tuổi)

Hộp 3.12: Ý kiến về sự phối hợp liên ngành trong việc thực hiện thủ tục hành chính

Điều này diễn ra với cả các cơ sở TGXH công lập. CS XHH và đầu tư cơ sở

vật chất đã có. Nhưng việc áp giá cho các dịch vụ XHH của các cơ sở công lập hay

sắp xếp nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất ở các cơ sở gặp vướng mắc về thời

hạn xử lý của các cơ quan liên ngành. Thủ tục kéo dài gây khó khăn cho việc cung

cấp dịch vụ cho NCT tự nguyện tại cộng đồng hoặc thay đổi cơ sở vật chất – một yếu

tố hạn chế nhu cầu của NCT sử dụng dịch vụ tại cơ sở công lập. Sau thời gian dài vẫn

chưa được xây dựng xử lý dứt điểm và không có thời hạn giải quyết.

“Sự phối hợp giữa các bộ ban ngành đúng quy định nhưng thủ tục hành chính kéo dài

lâu, ví dụ Trung tâm xin xây dựng lại toà nhà từ năm 1991, đã được Quận cho phép

nhưng Sở Đầu tư chưa cho phép…”

(Nữ, cán bộ quản lý cơ sở công lập, 50 tuổi)

“Khi có những vướng mắc và hỏi cơ quan chủ quản qua văn bản hoặc thông qua điện

thoại, có những yêu cầu thì được trả lời ngay, nhưng có những hướng dẫn cần phải chờ

sự phối hợp của các sở ban ngành khác nên rất lâu”.

(Nam, cán bộ quản lý cơ sở TGXH công lập, 45 tuổi)

Hộp 3.13: Ý kiến về sự phối hợp liên ngành đối với CS cho cơ sở công lập

Đặc biệt hơn cả, sự thiếu phối hợp quản lý giữa LĐTBXH và Y Tế khiến các cơ

sở khó khăn trong quá trình vận hành cung cấp DVCS. NCT trong các cơ sở CSDH

106

đa phần cần sự chăm sóc cả về dinh dưỡng, tinh thần, can thiệp y tế. Tuy nhiên, theo

giấy phép được ngành LĐTBXH cấp, các cơ sở chỉ được cung cấp dịch vụ nuôi

dưỡng mà không được phép can thiệp y tế. Mặc dù trong các văn bản CS có đề cập rõ

cơ quan chủ quản, các đơn vị chịu trách nhiệm phối hợp triển khai. Trong đó, ngành

LĐTBXH là cơ quan chủ quản, Sở Y tế cần phối hợp. Song, không có cơ chế phối

hợp cụ thể, nhất là việc đóng góp nguồn lực, cũng như cơ chế giám sát, đánh giá và

giải trình trách nhiệm trong việc cấp phép, quản lý, và giám sát các cơ sở chăm sóc

NCT bao gồm cả công lập và ngoài công lập. Điều này xuất phát từ thực tế trong các

hoạt động chăm sóc cho NCT, chăm sóc Y tế chiếm tới 70-80% các DVCS nói

chung. Việc chăm sóc về mặt y tế tỉ lệ thuận với độ tuổi của NCT. Ngoài ra, các cơ

sở chăm sóc NCT thường là nơi thực hiện các hoạt động chăm sóc nối dài sau khi

bệnh nhân (NCT) ra viện. Hoặc thậm chí là nơi thực hiện các hoạt động chăm sóc

cuối đời cho NCT [5]. Hiện nay, tại các cơ sở này đều có các cán bộ thực hiện việc

chăm sóc y tế cho NCT (bao gồm có y sĩ và y tá), tuy nhiên các cán bộ này không

được hưởng các CS hỗ trợ liên quan tới việc đào tạo nâng cao năng lực chuyên môn

giống như các cán bộ xã hội khác tại cơ sở. Do đó, việc chăm sóc về mặt y tế cho các

đối tượng nói chung và NCT nói riêng còn nhiều hạn chế. Ngay cả các cơ sở TGXH

công lập do chỉ có ngành LĐTBXH quản lý, nên khi đào tạo bồi dưỡng cán bộ chỉ tập

trung đào tạo bồi dưỡng về CTXH, sức khoẻ tâm thần chứ không được đào tạo về y tế.

“Các cơ sở chăm sóc NCT đang gặp phải vấn đề liên quan tới hoạt động chăm sóc y tế,

bởi nếu ngành y tế kiểm tra thì mình đang sai phạm, vì không được cấp phép chăm sóc về

mặt y tế. Tuy nhiên, chăm sóc y tế lại là một nhu cầu hàng đầu của NCT khi tới nhà

dưỡng lão”.

(Nam, chủ cơ sở ngoài công lập, 65 tuổi)

“Hiện tại cơ sở phải hợp tác với một phòng khám trong khu vực để thực hiện các hoạt

động chăm sóc y tế cho NCT. Do không có cơ chế quản lý phối hợp giữa hai ngành, nên

việc hợp tác với 1 bên thứ 3 để cung cấp DVCS y tế gặp nhiều khó khăn”.

(Nữ, chủ cơ sở ngoài công lập, 43 tuổi)

Hộp 3.14: Ý kiến về sự phối hợp liên ngành LĐTBXH và Y tế trong vận hành cơ sở

- Yếu tố liên minh: Có sự tách biệt rõ về thụ hưởng CS giữa các nhóm cơ sở

TGXH công lập và ngoài công lập.

Các văn bản CS hỗ trợ phát triển cơ sở chăm sóc NCT được ban hành quy định

việc phát triển và đào tạo nhân lực cho lĩnh vực chăm sóc NCT … Nhưng xét về liên

107

minh nhóm lợi ích, các cơ sở TGXH công lập được hưởng nhiều CS về nhân lực hơn

so với các cơ sở ngoài công lập. 16/16 các cơ sở chăm sóc NCT ngoài công lập

không nắm được các CS ưu đãi hoặc đào tạo nhân lực thông qua kênh giao tiếp chính

thức với cơ quan chủ quản là Sở LĐTBXH. Các chủ cơ sở ngoài công lập cho biết,

các khoá đào tạo được tham gia có nội dung về Phòng cháy chữa cháy, phòng chống

Covid, các khoá đào tạo về CTXH hay sức khoẻ tâm thần không được mời tham gia.

Bởi vậy, họ phải tự chủ động gửi nhân viên đào tạo từ các cơ sở khác hoặc ở nước

ngoài. Đây là một yếu tố cho thấy việc liên minh các cơ sở TGXH công lập và ngành

LĐTBXH có sự gắn kết chặt chẽ hơn, trong khi ngành LĐTBXH cũng cần quản lý

chất lượng và tiêu chuẩn với các cơ sở ngoài công lập.

“Anh phải tự chi kinh phí cho nhân viên cán bộ tại cơ sở được đào tạo với chuyên gia

nước ngoài. Bây giờ cơ sở của anh cũng là nơi thực tập đào tạo nhân viên chăm sóc NCT

trước khi đi thực hành nghề tại nước ngoài hoặc cho các cơ sở TGXH khác trong nước ”.

(Nam, chủ cơ sở ngoài công lập, 65 tuổi)

“Năm nào Sở cũng gửi công văn về các chương trình đào tạo cho nhân viên như CTXH,

sức khoẻ tâm thần.. nhưng không có đào tạo về y tế mặc dù ở đây vẫn phải có những hỗ

trợ phục hồi chức năng, y tế nhất định cho NCT”.

(Nữ, chủ cơ sở công lập, 50 tuổi)

Hộp 3.15: Ý kiến về sự phối hợp liên ngành LĐTBXH và Y tế trong vận hành cơ sở

- Yếu tố truyền thông: Thông tin không được công khai minh bạch khiến các

bên liên quan khó tiếp cận thông tin.

Vấn đề này được tất cả các chủ cơ sở và nhà đầu tư cho rằng đây là vấn đề quan

trọng nhất hạn chế sự thụ hưởng các CS ưu đãi của nhà nước để phát triển các cơ sở

TGXH. Kết quả phỏng vấn chủ các cơ sở và nhà đầu tư cho thấy 100% đều mong đợi

nhận được sự ưu đãi về đất bởi đây là khoản kinh phí đầu tư lớn nhất cho việc thành

lập một cơ sở TGXH. Các cán bộ CS ngành LĐTBXH cũng cho rằng CS ưu đãi về

đất là CS vượt trội có tác động khuyến khích thành lập cơ sở TGXH. Tuy nhiên, cổng

thông tin của Sở Xây dựng công bố nhiều văn bản CS nhưng mục Quy hoạch lại là

khoảng trống. Các phân tích về cơ chế phối hợp, sự cam kết của các cán bộ CS ở

trong từng bước thực hiện phía trên cũng có thấy khó khăn của các chủ cơ sở, nhà

đầu tư khi tiếp cận với CS ưu đãi này. Nguyên nhân phần lớn là ở việc thiếu công

khai minh bạch Quy hoạch sử dụng đất tại TP Hà Nội. Lý do thứ hai là do trong Quy

hoạch, không có khu đất được quy hoạch xây dựng cơ sở chăm sóc NCT, chỉ có quy

108

hoạch khu đất An sinh, diện tích công cộng tại các khu đô thị có thể được sử dụng

cho mục đích xây dựng cơ sở chăm sóc NCT. Điều này là bởi Quy hoạch trước đây

chỉ quan tâm đến xây dựng bệnh viện, trường học nhưng không có quy hoạch để

thích ứng với Già hoá dân số - xu hướng mới được xã hội quan tâm. Các khu đô thị

cũng không có quỹ đất quy hoạch. Bởi vậy 31/42 người được phỏng vấn cho rằng

thông tin cần công khai minh bạch tạo điều kiện đấu thầu, hưởng CS ưu đãi về đất

của nhà nước hoặc hưởng các CS khác.

Tóm lại, điểm mạnh của bước phân công phối hợp nằm ở sự ổn định của nhân

lực thực thi CS ngành LĐTBXH và tài chính; sự ủng hộ hỗ trợ của cán bộ CS, đặc

biệt là cán bộ thực hiện CS trực tiếp không giữ vị trí lãnh đạo trong các cơ quan; sự

liên minh chặt chẽ theo ngành dọc của các cơ sở TGXH công lập với cơ quan chủ

quản. Nhưng yếu điểm của bước phân công thực hiện nằm ở chỗ không có nhân lực

được phân công trách nhiệm cụ thể tại các Sở khác ngoài LĐTBXH và tài chính; thủ

tục và thời hạn giải quyết các thủ tục, đề xuất được hưởng lợi từ các CS không hỗ trợ

cơ sở; thiếu sự phối hợp liên ngành LĐTBXH và Y tế trong việc quản lý thành lập và

vận hành của các cơ sở; và thông tin không được công khai minh bạch để các bên

liên quan dễ dàng tiếp cận. Nhận thức được các rào cản và yếu tố thúc đẩy sẽ giúp

bước phân công phối hợp thực hiện có sự điều chỉnh đạt đến thành công tốt hơn,

giảm bất lợi và rủi ro cho cả chính phủ, các cơ sở chăm sóc NCT và người dân.

3.2.4. Theo dõi, kiểm tra, giám sát, đôn đốc việc thực hiện chính sách

3.2.4.1. Thực trạng và kết quả theo dõi, kiểm tra, giám sát, đôn đốc việc thực hiện

chính sách

Hàng năm, Sở LĐTBXH phối hợp với các Sở ban ngành có liên quan theo sự

phân công phối hợp thực hiện tổ chức kiểm tra, giám sát việc thực hiện các CS được

ban hành. Việc giám sát được thực hiện thông qua các hoạt động tìm hiểu cơ sở, các

hoạt động rà soát văn bản, các báo cáo định kỳ từ địa phương. Sở LĐTBXH thành

lập các đoàn giám sát liên ngành để thực hiện việc giám sát cho một loạt các chương

trình, hoạt động có liên quan tới NCT nói chung, đặc biệt là các chương trình hành

động vì NCT, công tác chăm sóc NCT tại địa phương. Kết quả của hoạt động giám

sát là các báo cáo theo năm của Sở LĐTBXH tới UBND Thành Phố, tới Bộ

LĐTBXH nhằm thống kê các kết quả đạt được theo giai đoạn và đề xuất các khuyến

nghị liên quan tới CS xuất phát từ thực tế quá trình thực hiện. Tuy nhiên, các báo cáo

109

chủ yếu đánh giá định lượng về các thông tin liên quan như số lượng cơ sở, số NCT

được chăm sóc, các thông tin khác liên quan tới cơ sở vật chất mà không có các đánh

giá cụ thể về vấn đề, vướng mắc liên quan tới việc thực hiện CS mà các cơ sở được

hưởng lợi hay các đánh giá cụ thể về chất lượng chăm sóc.

3.2.4.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến bước theo dõi, kiểm tra, giám sát, đôn đốc việc

thực hiện chính sách

- Yếu tố nội dung: Nội dung chính sách trong thực tiễn triển khai lộ ra những

bất cập về giải pháp thiếu thực tế, thiếu hệ thống văn bản pháp lý dưới luật, thiếu

tính chiến lược và quản lý chất lượng chăm sóc tại các cơ sở cũng như các chính

sách ưu đãi ưu tiên phát triển các cơ sở chăm sóc NCT ngoài công lập mang tính cào

bằng, chưa xác đính đúng đối tượng hưởng ưu đãi khiến các bên liên quan khó tiếp

cận/hưởng lợi trong quá trình triển khai.

Các giải pháp quản lý nhà nước mà CS đưa ra thiếu thực tế hoặc gây vướng

mắc về thủ tục hành chính, thiếu văn bản pháp lý dưới luật khiến các cơ sở khó đáp

ứng để hưởng CS ưu đãi. Cụ thể, tại khoản 3, Điều 1 của NĐ 59/2014/NĐ- CP ngày

16/6/2014 của chính phủ quy định: “Trường hợp có từ hai nhà đầu tư trở lên cùng

đăng ký lựa chọn một địa điểm để thực hiện dự án đầu tư trong lĩnh vực xã hội hóa

thì thực hiện lựa chọn nhà đầu tư đáp ứng cao nhất các tiêu chí về quy mô, chất

lượng, hiệu quả theo quy định tại pháp luật về đấu thầu và pháp luật về đất đai”.

Thực tế tại NĐ số 30/2015/NĐ- CP ngày 17/3/2015 của chính phủ quy định chi tiết

và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà đầu tư chỉ quy

định áp dụng hình thức đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư đối với các khu đất, quỹ đất có

giá trị thương mại cao để xây dựng công trình thuộc đô thị, khu đô thị mới, nhà ở

thương mại, công trình thương mại và dịch vụ; tổ hợp đa năng, trong khi lĩnh vực

XHH lại không phải thuộc các trường hợp cần đấu thầu theo quy định trên.

“Một số các giải pháp của CS còn chưa sát thực tế. Ví dụ như quy định về thành lập cơ sở BTXH theo NĐ số 68/2008/NĐ-CP, quy định một trong những điều kiện thành lập cơ sở BTXH phải có địa điểm xây dựng cơ sở, trong khi UBND các quận, huyện yêu cầu phải có Quyết định thành lập cơ sở thì mới xem xét bố trí địa điểm xây dựng cơ sở”.

(Nữ, cán bộ CS cấp Sở, 54 tuổi) “Các văn bản hướng dẫn nhiều khi không rõ ràng, thống nhất, thậm chí mâu thuẫn nhau. Tình trạng luật, pháp lệnh đã ban hành nhưng phải chờ NĐ, thông tư hướng dẫn cụ thể”. (Nam, quản lý cơ sở TGXH công lập, 45 tuổi) “NĐ 103/2017/NĐ-CP yêu cầu về diện tích phòng ở và đất tự nhiên thiếu thực tế so với năng lực của các cơ sở tư nhân trong nội thành, nên có những nơi diện tích đất tự nhiên

110

Hộp 3.16: Ý kiến đánh giá về hạn chế của nội dung các CS

thì không đủ nhưng diện tích phòng lại thừa nhiều. Nhiều quy định về cơ sở vật chất còn lỗi thời và lấy cơ sở TGXH công lập là chuẩn là không hợp lý”.

(Thảo luận nhóm số 02)

Đối với các quy định về việc cấp phép hoạt động cho cơ sở chăm sóc NCT phải

đảm bảo những tiêu chuẩn về diện tích, khuôn viên, nhà ở, hoặc các điều kiện chăm

sóc khác theo NĐ 103/2017/NĐ- CP ngày 12/09/2017. Tuy nhiên, hiện nay các cơ sở

chăm sóc NCT đều vướng mắc các vấn đề về mặt bằng xây dựng, cũng như các vấn

đề liên quan tới thiết kế tổng thể, chức năng cụ thể của các phòng chức năng, hay các

vấn đề liên quan tới đội ngũ nhân viên. Điều này cản trở việc các cơ sở được chính

thức cấp phép hoạt động và dẫn tới nhiều cơ sở có hoạt động thực tế nhưng chưa có

giấy phép của cơ quan quản lý đầu mối. Thường thì các cơ sở ngoài công lập triển

khai mô hình cơ sở theo hình thức kinh doanh, dưới sự cấp phép của Sở KH&ĐT mà

không có giấy phép hoạt động của Sở LĐTBXH đối với dịch vụ chăm sóc NCT.

Đối với các cơ sở TGXH công lập, mặc dù CS khuyến khích XHH đã được ban

hành từ năm 2017, nhưng cho đến nay, chưa có văn bản quy định cụ thể về cơ chế tự

chủ bởi vậy việc triển khai XHH chưa được Sở chủ quản cho phép tiến hành. Ngoài

ra, đối với CS nhân lực trong cơ sở TGXH công lập, các mức ưu đãi với cán bộ cấp

quản lý chưa được quan tâm đúng mức, phụ cấp lãnh đạo thấp hơn phụ cấp cho nhân

viên làm việc trực tiếp với đối tượng mặc dù lãnh đạo tại các trung tâm đều phải giải

quyết công việc trực tiếp với các đối tượng tại cơ sở trong những tình huống khẩn

cấp mà nhân viên không thực hiện được.

“Việc chăm sóc các cụ tự nguyện đã được thực hiện thử nghiệm từ năm 2007 và dự kiến chính thức XHH từ NĐ 103. Tuy nhiên cho đến nay, vẫn chưa có văn bản quy định cụ thể về cơ chế tự chủ, đặc biệt là áp giá từ Sở tài chính, bởi vậy từ tháng 5/2022 mọi dịch vụ cho NCT tự nguyện tại cộng đồng phải dừng lại”

(Thảo luận nhóm số 01)

Hộp 3.17: Ý kiến đánh giá CS XHH

Các CS hiện giờ chưa có tính chiến lược và mới quản lý về mặt hành chính nhà

nước theo kiểu cào bằng và ưu tiên phát triển về số lượng mà chưa chú tâm về chất

lượng cơ sở chăm sóc NCT. Trước hết, nhận định về tính thiếu sự chiến lược được

đưa ra do các chuyên gia nghiên cứu CS bởi khi so sánh với mô hình chăm sóc NCT

tại các quốc gia khác, các chuyên gia nhận thấy quan điểm cụ thể của chính phủ các

nước khi muốn phát triển mô hình chăm sóc NCT tập trung tại cơ sở TGXH cần đáp

ứng tỷ lệ khoảng 3-5% dân số cao tuổi. Trong khi đó, việc phát triển hệ thống cơ sở

111

TGXH ngoài công lập ở Việt Nam hiện nay chưa thể hiện rõ quan điểm phát triển

dựa trên các đặc điểm NCT đặc thù ở Việt Nam. Sự phân bổ quy hoạch cơ sở TGXH

ở Hà Nội hiện nay mặc dù được đưa lên thành văn bản quy hoạch nhưng được phân

bổ dàn đều theo tuyến quận/ huyện (khu vực địa lý) mà chưa tính đến sự phân bố dựa

trên mật độ dân cư, nhu cầu và khả năng chi trả.

Ngoài ra, 8/42 (19%) khách thể nghiên cứu bao gồm các chuyên gia và số ít các

chủ cơ sở nhận thấy vướng mắc về việc chăm sóc NCT cần chăm sóc y tế nhưng hiện

nay các cơ sở chỉ được cấp phép bởi Sở/ Phòng LĐTBXH và ghi rõ trong giấy phép

hoạt động là không bao gồm khám chữa bệnh (can thiệp y tế). Điều này đặt ra vấn đề

về việc cần phân cấp các cơ sở chăm sóc NCT thành các cấp khác nhau dựa theo mức

độ can thiệp y tế để đảm bảo quản lý chất lượng các cơ sở đáp ứng toàn diện nhu cầu

của NCT. Nhất là khi tỷ lệ NCT thuộc nhóm đại lão có nhu cầu chăm sóc chính thức

trong các cơ sở để nhận sự hỗ trợ y tế cao hơn các nhóm khác. Đồng thời, theo quan

điểm của các chuyên gia, nếu các cơ sở được phép can thiệp y tế, có thể sử dụng các

cơ sở chăm sóc NCT trở thành một mắt lưới quan trọng trong việc hỗ trợ gia đình và

cộng đồng chăm sóc sức khoẻ cho NCT tại chỗ thay thế cho các tuyến viện lão khoa

giống như mô hình mà tỉnh An Huy, Trung Quốc đang áp dụng rất thành công. Ngoài

ra, theo quan điểm của 9/42 khách thể tham gia PVS, bao gồm các chuyên gia nghiên

cứu và những nhà đầu tư cơ sở chăm sóc NCT, việc thiếu chuẩn hoá các cấp cơ sở

chăm sóc sẽ đặt ra các vấn đề về thiết kế, mức tiêu chuẩn dịch vụ cung ứng, tiêu

chuẩn chất lượng nhân lực (giấy phép hành nghề)… tại các cơ sở chăm sóc.

Hộp 3.18: Đánh giá về hạn chế về tính chiến lược và thiếu quản lý chất lượng dịch

“Mình từng làm bên mảng khách sạn nên mình biết rõ càng tiêu chuẩn hoá vận hành và phân cấp các cơ sở ra sao, việc phối hợp giữa các bên liên quan và quản lý chặt chẽ DVCS cho NCT càng chuẩn hoá bấy nhiêu. Điều đó góp phần tăng cường chất lượng DVCS cho NCT hơn rất nhiều so với CS hiện nay”.

(Nữ, nhà đầu tư cơ sở ngoài công lập, 41 tuổi) “Phát triển các cơ sở sẽ phải bao hàm cả phát triển về cả chất lượng nhưng các CS hiện nay chưa quan tâm đến quản lý chất lượng dịch vụ mà chỉ quan tâm đến việc quản lý hành chính về thủ tục, giấy tờ”.

(Nam, chuyên gia nghiên cứu, 57 tuổi) “Các cơ sở ngoài công lập hiện nay tự bỏ tiền hoặc vay ngoài để đầu tư, mọi chi phí đó cuối cùng NCT phải gánh chịu. Nên nếu được hưởng những CS ưu đãi của nhà nước, chi phí NCT tại các trung tâm sẽ giảm, nhiều NCT được tiếp cận hơn với DVCS chuyên nghiệp”

(Nữ, chủ cơ sở ngoài công lập, 51 tuổi)

112

vụ của cơ quan thực thi CS

CS ưu đãi hiện nay ưu tiên phát triển các cơ sở chăm sóc NCT ngoài công lập

tuy nhiên việc xác định đúng đối tượng được hưởng ưu đãi chưa trúng đích. 27/42

người được phỏng vấn nêu lên bởi các CS ưu đãi, đặc biệt về giao/cho thuê đất hiện

nay là một công cụ CS hữu ích, nhận được sự ủng hộ của các chủ cơ sở và các nhà

đầu tư. Tuy nhiên, số lượng cơ sở nhận được ưu đãi này tại Hà Nội đến nay là 04 dự

án. Trong 04 dự án đó, 3/4 dự án sau gần 10 năm nhận phê duyệt đầu tư vẫn chưa

thực thi. 01 dự án đi vào thực hiện chỉ cung cấp cho số lượng NCT sử dụng dịch vụ

thấp so với công suất thiết kế và đưa mức giá dịch vụ hơn 15 triệu, cao hơn so với

mức thu nhập bình quân tại Hà Nội và khả năng chi trả của NCT; ngoài ra, toàn bộ

khu đất được giao/ cho thuê hiện đang được xin thủ tục chuyển đổi do kinh doanh thu

không đủ bù chi. Trong khi đó, nhiều chủ cơ sở chăm sóc NCT cung cấp dịch vụ thực

tế lại không thể tiếp cận với CS ưu đãi này. Bởi vậy, công cụ CS được đánh giá chưa

xác định trúng đích đối tượng cần hưởng CS.

- Yếu tố bối cảnh: Vấn đề về thu nhập, tiết kiệm của NCT cũng như các chương

trình bảo hiểm xã hội và các CS trợ cấp cho đa phần NCT hiện nay chưa đáp ứng

được nhu cầu chăm sóc thực tế của NCT, gây cản trở cho phát triển của các cơ sở

ngoài công lập trong quá trình triển khai CS. Theo số liệu về nhu cầu của NCT

muốn được chăm sóc tại cơ sở và có khả năng chi trả tại Việt Nam của Tổng cục

Thống kê và Quỹ Dân số Liên hợp quốc [44], tỷ lệ NCT cần và muốn được chăm sóc

nếu có nhu cầu tại Cơ sở CSDH như Nhà dưỡng lão, trung tâm chăm sóc nội trú là

khoảng 1,6 – 2,4% tổng dân số.

Biểu đồ 3.1. Nơi NCT muốn được chăm sóc nếu có nhu cầu

113

Nguồn: Tổng cục Thống kê và Quỹ Dân số Liên hợp quốc [44]

Tuy nhiên, tỷ lệ NCT và gia đình sẵn sàng chi trả cho dịch vụ đạt tỷ lệ thấp

0,27- 0,42% (Hình 4). Dù vậy, nếu tính tỷ lệ sẵn sàng chi trả cho cơ sở chăm sóc

NCT ở mức thấp nhất (tính theo Giới tính, Dân tộc, Độ tuổi, Khu vực) là 0,36% thì

nhu cầu của thị trường chăm sóc tại Hà Nội vẫn còn rất lớn khi có khoảng 4320 NCT

có mong muốn và khả năng sử dụng dịch vụ.

Biểu đồ 3.2. Tỷ lệ sẵn sàng chi trả cho DVCS của NCT và gia đình

Nguồn: Tổng cục Thống kê và Quỹ Dân số Liên hợp quốc [44]

Những đặc điểm về kinh tế của dân số cao tuổi tại Việt Nam nói chung và Hà

Nội nói riêng cho thấy mức kinh tế của đa phần NCT không thể đáp ứng được các

nhu cầu chăm sóc hiện tại, đặc biệt là những nhóm NCT có suy giảm về mặt chức

năng và cần sự chăm sóc đặc biệt. Hiện tại các cơ sở ngoài công lập chỉ có thể tiếp

cận được với những NCT (hoặc gia đình) có khả năng chi trả dịch vụ ở mức cao. Ước

tính, mức chi phí trung bình đối với một NCT khoẻ mạnh không cần sự hỗ trợ về y tế

đặc biệt vào một cơ sở TGXH ngoài công lập tại Hà Nội có mức thấp nhất là 5 triệu

đồng. Mức phí cho NCT sống tại các cơ sở ngoài công lập dao động từ 5-40

triệu/tháng [48]. Theo các nghiên cứu, việc sử dụng DVCS chuyên nghiệp tại các cơ

sở ngoài công lập của NCT và gia đình NCT sẽ tăng lên nếu các CS liên quan đến

bảo hiểm CSDH được xây dựng như kinh nghiệm của các nước khác [44]. Vì thế,

trong bối cảnh Việt Nam chưa có các CS bảo hiểm, khả năng kinh tế để tiếp cận của

NCT là khá khó khăn.

- Yếu tố năng lực: Việc theo dõi, giám sát việc thực hiện CS được đánh giá là

114

không hiệu quả do hạn chế về năng lực của cán bộ thực hiện CS.

Thảo luận nhóm cho thấy các chủ cơ sở chăm sóc đánh giá cao thái độ làm việc

của các cán bộ thực hiện CS nhưng đều cho rằng cán bộ thực hiện đang kiểm tra,

giám sát hoạt động của các cơ sở theo tình hình thực tế chứ không đưa ra được cách

giải quyết có tính định hướng cho cơ sở; việc đánh giá còn mang tính chủ quan vì

chưa có những tiêu chuẩn cụ thể xác định sự tuân thủ của các cơ sở khi chăm sóc

NCT; trong quá trình các cơ sở chăm sóc NCT xin giấy phép hoạt động hoặc đề nghị

được hưởng lợi từ các CS hỗ trợ, nhiều cán bộ CS cho rằng các cơ sở này đang thực

hiện mô hình chăm sóc y tế cho NCT dưới dạng bệnh viên tư nhân. Do đó, các cơ sở

gặp khó khăn trong việc được cấp phép hoạt động cũng như trong toàn bộ quá trình

vận hành và hưởng lợi từ các CS được ban hành.

Vấn đề này trong kết quả phỏng vấn sâu với cán bộ thực hiện CS được lý giải

do việc phát triển cơ sở còn rất mới nên hiện nay các chương trình học hỏi kinh

nghiệm từ các quốc gia khác tập trung cho đội ngũ lãnh đạo nhiều hơn là cán bộ thực

thi. Đây là một rào cản nâng cao năng lực đội ngũ trực tiếp thực hiện CS tại các sở

khiến việc theo dõi, giám sát còn có những hạn chế. Dẫn tới việc chủ thể thực hiện

CS phải học hỏi đối tượng thụ hưởng CS.

- Yếu tố cam kết: Việc theo dõi giám sát hạn chế do cam kết hành động của các

bên tham gia chưa đủ quyết liệt.

Các cán bộ CS hầu như ít có những trao đổi, cập nhật hoặc thực hiện việc kết

nối cũng như đánh giá việc thực hiện CS sau ban hành. Các ý kiến đóng góp từ cơ sở

liên quan tới CS thì dường như không tạo ra sự thay đổi về mặt nội dung CS hoặc

quá trình quản lý thực hiện CS đã ban hành. Ngoài tính cam kết, khi kiểm tra giám

sát, sự thiếu hụt của hệ thống nhân lực thực hiện CS và nguồn kinh phí của nhà nước

bố trí cho quá trình theo dõi, giám sát và đánh giá quá trình triển khai thực hiện cũng

là một yếu tố ảnh hưởng chính.

“Các chị cán bộ CS hỗ trợ cũng gặp nhiều khó khăn, họ không có đủ người cũng như không có tiếng nói gì trong việc tác động để thay đổi CS nếu thấy có những bất cập”.

(Nữ, chủ cơ sở ngoài công lập, 47 tuổi) “Hiện nay nhà nước không có tiền đề thực hiện các hoạt động đánh giá hiệu quả CS một cách sâu rộng. Thường thì vẫn có các nhóm, đoàn kiểm tra liên ngành đi giám sát, đánh giá việc thực hiện CS. Tuy nhiên, chủ yếu dựa vào các báo cáo từ phía cơ sở chứ không có các hoạt động đánh giá chuyên sâu để nhìn nhận từ nhiều góc độ khác nhau”.

(Nam, cán bộ CS cấp Bộ, 45 tuổi)

115

Hộp 3.19: Ý kiến về năng lực theo dõi, giám sát thực hiện CS

Sở LĐTBXH trong giai đoạn 2015-2022 có 01 Công văn số 929/LĐTBXH-

BTXH về tăng cường kiểm tra, rà soát các cơ sở trợ giúp đối tượng thuộc diện bảo

trợ xã hội và cơ sở chăm sóc NCT, NKT do phát hiện sai phạm của các cơ sở hoạt

động không đăng ký cấp phép chăm sóc NCT. Tuy nhiên, các cơ quan chủ quản

không kiên quyết trong việc quản lý các cơ sở chưa xin cấp phép của Sở LĐTBXH

nhằm đảm bảo việc cung cấp DVCS cho NCT trên địa bàn Hà Nội. Mặc dù NĐ 103

quy định “Trong thời hạn 01 năm, nếu cơ sở không đáp ứng các tiêu chuẩn, điều kiện

hoạt động theo quy định thì thực hiện thủ tục sáp nhập hoặc giải thể cơ sở”. Điều này

do các cơ sở chăm sóc NCT ngoài công lập phần lớn đều tự thuê địa điểm và không

nhận được ưu đãi đáng kể từ phía nhà nước, bởi vậy không muốn đăng kí cấp phép vì

cho rằng hoạt động trên cơ sở giấy phép đầu tư của Sở KHĐT là phù hợp. Tuy nhiên,

đây là quan điểm sai lệch của chủ cơ sở. Xong, các biện pháp xử lý của ngành

LĐTBXH chưa được triển khai do tính cam kết của người thực hiện CS dù hiểu quy

trình xử lý và do nhận thức các cơ sở chăm sóc NCT thường được xây dựng chủ yếu

phục vụ lợi ích cho cộng đồng.

“ Phòng có tham mưu cho UBND Quận rà soát, báo cáo các cơ sở TGXH, sau đó UB báo cáo cho Sở tổng hợp chung toàn thành phố nên có trường hợp một cơ sở chưa làm thủ tục cấp phép dù thành lập từ 2013. Tuy nhiên sau vài lần gửi văn bản vẫn chưa nhận được phản hồi vì cơ sở đó thay đổi trụ sở. Hiện giờ vẫn chưa biết cơ sở chuyển đi đâu.”

(Nữ cán bộ thực hiện CS cấp Sở, 54 tuổi)

Hộp 3.20: Ý kiến về sự cam kết xử lý, giám sát các cơ sở chăm sóc NCT

- Yếu tố phối hợp: Việc phối hợp giám sát liên ngành cũng còn nhiều hạn chế

do chưa có cơ chế giám sát cụ thể, chưa có các bộ tiêu chí đánh giá, giám sát về các

khía cạnh của việc phát triển các cơ sở chăm sóc NCT và chưa quan tâm đến cơ chế

xử lý sau báo cáo.

Trong báo cáo của Bộ LĐTB&XH [4], về quy hoạch mạng lưới cơ sở TGXH

thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, chỉ có 42,9% cơ sở chăm sóc NCT tại

Hà Nội đáp ứng được yêu cầu về bảo đảm an toàn và chất lượng chăm sóc. Còn lại,

hầu hết các cơ sở còn tồn tại nhiều vấn đề, bao gồm thiếu nguồn nhân lực chuyên

môn, thiếu trang thiết bị y tế cần thiết, không đảm bảo vệ sinh, an toàn thực phẩm và

chất lượng thực phẩm, và còn nhiều vấn đề khác. Trong khi đó, việc giám sát liên

ngành trong thực hiện các CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT cũng gặp nhiều hạn

chế. Theo báo cáo, chỉ có 11/16 các cơ sở được khảo sát cho biết đã tham gia các

116

hoạt động giám sát định kỳ của các cơ quan liên ngành như Ban quản lý dịch vụ y tế

quận/huyện và Cục Quản lý Y tế Dự phòng thành phố, hoặc các hoạt động kiểm tra

liên ngành của các ban bộ ngành có liên quan khác. Hầu hết, việc đánh giá giám sát

chủ yếu tập trung vào việc vận hành của cơ sở và thường diễn ra vào những thời

điểm đặc biệt, ví dụ như giai đoạn dịch bệnh Covid-19 xảy ra.

“Thỉnh thoảng có các đoàn kiểm tra liên ngành tới cơ sở, tuy nhiên cũng thường chỉ xảy ra vào các dịp đặc biệt ví dụ như trong giai đoạn Covid-19. Họ thường tới để xem xét điều kiện cơ sở vật chất, rồi các hoạt động chăm sóc diễn ra như thế nào, hoặc các vấn đề liên quan tới an toàn vệ sinh, cháy nổ”.

(Nữ, chủ cơ sở ngoài công lập, 45 tuổi)

Hộp 3.21: Ý kiến đánh giá về cơ chế phối hợp giám sát

Tổng thể, các con số thống kê và kết quả nghiên cứu cho thấy rằng việc thiếu cơ

chế giám sát cụ thể và bộ tiêu chí đánh giá, giám sát vẫn đang là một thách thức lớn

đối với việc phát triển các cơ sở chăm sóc NCT tại Hà Nội. Việc đánh giá chưa

hướng tới cải thiện các CS đã ban hành, mà chỉ tập trung vào đánh giá chất lượng các

cơ sở chăm sóc NCT theo những quy định chung. Các hạn chế này cho thấy sự cần

thiết của việc xây dựng và áp dụng các bộ tiêu chí đánh giá cụ thể và hiệu quả, cùng

với cơ chế giám sát và đánh giá thường xuyên để đảm bảo chất lượng và hiệu quả của

các cơ sở chăm sóc NCT và các CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT tại Hà Nội.

-Yếu tố truyền thông: Các kiến nghị của các cơ sở - cơ chế truyền thông nội bộ

- dường như ít có tác động tới quá trình thay đổi.

Theo kết quả nghiên cứu, các cơ sở chăm sóc NCT tại Hà Nội đã đưa ra nhiều

kiến nghị để cải thiện các CS hỗ trợ cơ sở chăm sóc NCT, bao gồm yêu cầu hỗ trợ về

mặt bằng, tài chính, và hợp tác giữa các cơ sở. Tuy nhiên, các kiến nghị này ít có tác

động tới quá trình thay đổi, chỉnh sửa CS. Cụ thể, trong số các cơ sở được khảo sát,

chỉ có 5/13 cơ sở cho biết đã đưa ra các kiến nghị với các cơ quan liên quan để giải

quyết các vấn đề liên quan đến việc chăm sóc NCT. Trong số đó, chỉ có 2/13 cơ sở

cho biết các kiến nghị của họ đã được cơ quan liên quan xem xét và giải quyết nhưng

thời gian kéo dài rất lâu. Điều này làm giảm động lực tham gia của đối tượng CS.

Hình thức kiến nghị của các cơ sở bao gồm việc đưa ra kiến nghị trực tiếp cho cơ

quan chức năng, hoặc kiến nghị thông qua việc tham gia hội thảo hoặc đối thoại với

các cơ quan chức năng hoặc tổ chức liên quan, một số cơ sở đã tham gia đóng góp ý

kiến trong các hoạt động lập pháp. Tuy nhiên, các kiến nghị này chưa được đưa vào

hoặc ít có tác động tới quá trình thay đổi, chỉnh sửa CS. Một số nguyên nhân gây ra

117

tình trạng này được xác định bao gồm: 1) Thiếu kênh thông tin: Nhiều cơ sở chăm

sóc không biết cách liên hệ hoặc gửi kiến nghị đến các cơ quan chức năng hoặc tổ

chức liên quan; 2) Thiếu tư vấn và hướng dẫn: Nhiều cơ sở chăm sóc không biết cách

tham gia hoạt động lập pháp hoặc tham gia các hội thảo, đối thoại với các cơ quan

chức năng hoặc tổ chức liên quan; 3) Thiếu sự quan tâm và phản hồi: Một số cơ quan

chức năng và tổ chức liên quan chưa quan tâm đến kiến nghị từ cơ sở chăm sóc hoặc

không đưa ra phản hồi.

“Các cơ sở ngoài công lập có thành lập các nhóm để trao đổi thông tin, trợ giúp lẫn nhau nhưng một cách phi chính thức. Các hội thảo cũng gọi rủ nhau cùng đi, nêu ý kiến nhưng dường như ý kiến chỉ được ghi nhận, lắng nghe chứ không tạo ra những điều chỉnh CS”. (Nữ, chủ cơ sở ngoài công lập, 41 tuổi)

“Đầu tiên, anh còn thích tham gia các hội thảo để đóng góp ý kiến. Nhưng sau thấy mọi thứ mãi không thay đổi và anh cảm thấy chán dần”.

(Nam, chủ cơ sở ngoài công lập, 57 tuổi)

Hộp 3.22: Ý kiến đánh giá về các kiến nghị CS

Tổng hợp lại, có thể thấy bước theo dõi, kiểm tra, giám sát CS đang là một yếu

điểm lớn của quy trình thực hiện do mọi yếu tố được đem ra làm hệ quy chiếu đánh

giá đều cho thấy những rào cản đến hiệu quả thực hiện bước này do hạn chế về năng

lực của cán bộ CS, thiếu sự cam kết và hành động trong quản lý cơ sở TGXH, thiếu

bộ tiêu chí đánh giá, giám sát làm giảm hiểu quả phối hợp giám sát giữa các bên liên

quan, cùng với đó là cơ chế xử lý sau báo cáo giám sát không được thực thi. Cuối

cùng, kênh giao tiếp giữa đối tượng thụ hưởng CS, nhân dân và cán bộ thực hiện CS

không có hiệu quả.

3.2.5. Sơ kết, tổng kết, đánh giá quá trình thực hiện chính sách

3.2.5.1. Thực trạng và kết quả sơ kết, tổng kết, đánh giá quá trình thực hiện chính sách

UBND TP Hà Nội và cơ quan quản lý thực hiện CS (Sở LĐTBXH TP) cũng

đã có nhiều những hoạt động liên quan tới việc sơ kết, tổng kết đánh giá theo giai

đoạn các nội dung CS liên quan tới việc phát triển cơ sở chăm sóc NCT. Hiện tại,

hoạt động tổng kết và đánh giá quá trình thực hiện CS được thực hiện lồng ghép với

các hoạt động kiểm tra giám sát định kỳ hàng năm. Theo định kỳ, 10 năm một lần

các CS sẽ được đánh giá thực hiện một lần, dựa trên việc tổng hợp các kết quả theo

dõi, giám sát thường kỳ. Một số báo cáo đã được thực hiện cho đến nay bao gồm:

Báo cáo tình hình chăm sóc NCT trên địa bàn thành phố Hà Nội (2015); Báo cáo

tổng hợp Quy hoạch phát triển mạng lưới các cơ sở xã hội trên địa bàn TP Hà Nội

118

đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 (2015); Báo cáo Kết quả thực hiện Chương

trình hành động quốc gia về NCT giai đoạn 2012 – 2020 (2020); Báo cáo Kết quả

thực hiện Luật NKT; Luật Người cao tuổi và Kế hoạch số 114/KH-UBND ngày

27/9/2011 của UBND Thành phố về chăm sóc, phát huy vai trò Người cao tuổi

Thành phố giai đoạn 2011 – 2020 (2020); Báo cáo Đánh giá kết quả thực hiện quy

hoạch mạng lưới cơ sở trợ giúp xã hội giai đoạn 2010-2020 và đề xuất quy hoạch

thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn 2050 (2020); Báo cáo Kế hoạch số 161/KH-UBND

ngày 10/10/2013 của UBND Thành phố về việc thực hiện Đề án trợ giúp NKT Thành

phố giai đoạn 2013 – 2020 (2021)… Có thể thấy, cho tới hiện tại, hoạt động đánh giá

tổng kết các CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT không có riêng, tuy nhiên việc đánh

giá này được thực hiện lồng ghép trong các hoạt động đánh giá Luật NCT, đánh giá

Chương trình hành động quốc gia về NCT, hoặc đánh giá Quy hoạch phát triển mạng

lưới các cơ sở xã hội trên địa bàn TP Hà Nội. Các báo cáo quy hoạch cơ sở chăm sóc

NCT được thực hiện tại Hà Nội được triển khai khi có các đề án, dự án ví dụ: Thành

lập quy hoạch phát triển mạng lưới cơ sở trợ giúp xã hội 2015-2025, tầm nhìn đến

2030. Vấn đề này được nêu ra bởi thiếu kinh phí thực hiện và các số liệu thống kê

bởi các nghiên cứu chính thức diện rộng tại Hà Nội còn hạn chế. Ngoài ra, trong các

buổi tổng kết 5-10 năm thực hiện Luật NCT, các cơ sở ngoài công lập được khen

thuong vì đã có đóng góp trong quá trình thực hiện luật.

3.2.5.2. Các yếu tố ảnh hưởng tới bước sơ kết, tổng kết, đánh giá quá trình thực hiện

chính sách

- Yếu tố cam kết: Do thiếu sự quan tâm nên các hoạt động đánh giá quá trình

thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT tại Hà Nội chỉ theo định kỳ hàng năm

và được thực hiện lồng ghép với báo cáo chung về chăm sóc NCT.

Cán bộ thực hiện CS đồng tình ý kiến cho rằng báo cáo về sự phát triển các cơ

sở diễn ra mờ nhạt, có những hội nghị tổng kết không nhắc tới mà dành thời gian trao

đổi những vấn đề thiết thực hơn. Các báo cáo chỉ nêu chung về sự phát triển của các

cơ sở ngoài công lập, không có các con số thống kê, tổng hợp, rà soát cụ thể về tình

hình phát triển và nhận ưu đãi của các cơ sở ngoài công lập về đào tạo nhân lực, ưu

đãi về thuế, vốn, đất đai.

“Một số tỉnh khác có báo cáo hàng năm nhưng riêng Hà Nội các báo cáo về quy hoạch mạng lưới được thực hiện theo chương trình triển khai. Một phần là thiếu kinh phí, một phần là do số lượng nhân lực có hạn”

(Nữ, cán bộ CS cấp Bộ, 47 tuổi)

119

Hộp 3.23: Ý kiến đánh giá việc báo cáo triển khai CS

- Yếu tố liên minh: Trong các hoạt động này, các cơ sở (công lập và ngoài

công lập) cũng được mời tham dự và đóng góp ý kiến vào việc thực hiện CS nhưng

sự tham gia tiếp tục giảm dần theo thời gian.

Tuy nhiên, việc phổ biến các hoạt động đánh giá này không rộng rãi và thiếu sự

tham gia của nhiều các cơ sở, đặc biệt là các cơ sở chăm sóc tư nhân. Trong các hoạt

động đánh giá, cơ quan quản lý đều có những báo cáo cụ thể về quá trình thực hiện

CS một cách cụ thể. Tuy nhiên, theo đánh giá của các cơ sở và của các cán bộ thực

hiện CS thì các báo cáo này còn nhiều khoảng trống do thiếu sự phối hợp với các bên

liên quan trong quá trình thực hiện CS. Ban đầu, các cơ sở đều tích cực tham gia vào

việc đóng góp, tuy nhiên sau khi nhận thấy rằng việc các khuyến nghị của mình hầu

như không tạo được ra những sự thay đổi tích cực thì các cơ sở có xu hướng ngại

tham gia các hoạt động đánh giá này. Ngoài việc thực hiện các hoạt động đánh giá

chính thức, thì việc đánh giá cũng được thực hiện thông qua các kênh phi chính thức

như việc trao đổi, chia sẻ giữa cán bộ thực hiện CS với người quản lý các cơ sở dựa

trên những sự kết nối nhất định

“Bọn chị thực hiện CS thực tế nên hiểu vấn đề ở phía chủ cơ sở. Nhưng báo cáo tổng kết hàng năm đưa lên cấp trên, hầu hết thay đổi điều chỉnh diễn ra rất chậm”

(Nữ, cán bộ thực hiện CS cấp Sở, 39 tuổi) “Các cán bộ ở Sở cũng có hỏi ý kiến anh để xin tư vấn, anh cũng nhiệt tình chia sẻ hết những ý tưởng và mong đợi của anh cho các cán bộ ấy. Khi tham gia các buổi tổng kết chương trình, nội dung chủ yếu về chế độ CS cho NCT và thực hiện luật nên ý kiến đóng góp của mình tại hội thảo cũng hạn chế. Nhưng nếu được góp ý kiến, phần lớn vẫn là các chủ cơ sở lâu năm, nhưng cơ bản, ý kiến nêu ra không tạo ra nhiều thay đổi”

(Nam, chủ cơ sở ngoài công lập, 57 tuổi)

Hộp 3.24: Ý kiến về sự tham gia của liên minh trong sơ kết, đánh giá thực hiện CS

- Yếu tố sự phối hợp: Sự phối hợp liên ngành về đánh giá sơ kết, tổng kết thực

hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT mang tính hình thức.

Do không có sự phân định cụ thể về nhân lực phụ trách thực hiện CS phát triển

cơ sở chăm sóc NCT nên trong các buổi báo cáo, họp sơ kết, tổng kết do UBND TP

Hà Nội thực hiện, sự tham gia của các cán bộ CS đầy đủ nhưng mang tính đại diện và

lắng nghe ý kiến, báo cáo. Sở LĐTBXH là cơ quan đại diện báo cáo tình hình chung

về công tác NCT và những nét khái quát về công tác phát triển cơ sở chăm sóc NCT

ở Việt Nam. Tuy nhiên, do đây chỉ là một hợp phần nhỏ trong hoạt động chăm sóc

120

NCT, báo cáo về nội dung này không phải là chủ đề trọng tâm.

“Theo định kỳ cũng có các báo cáo liên quan tới thực thi CS, trong đó đề xuất thay đổi được tổng hợp từ ý kiến của các cơ sở hoặc cán bộ thực hiện. Tuy nhiên, các thông tin cũng mang tính định tính bởi thiếu kết nối với các đơn vị khác tham gia trực tiếp vào quá trình thực hiện CS”.

(Nữ, cán bộ CS cấp Sở, 39 tuổi)

Hộp 3.25: Ý kiến về sự phối hợp sơ kết, tổng kết, đánh giá việc thực hiện CS

- Yếu tố truyền thông: Các báo cáo tổng kết đánh giá của UBND và Sở

LĐTBXH cho đến nay không được công khai trên cổng thông tin.

- Có 25% người được hỏi (bao gồm các chủ cơ sở khác, chủ cơ sở ngoài công

lập, nhà đầu tư và chuyên gia nghiên cứu CS) cho biết họ không có kênh thông tin để

biết báo cáo tổng kết và định hướng của nhà nước trong việc tổ chức triển khai CS.

Các kênh truyền thông đại chúng như báo, đài không đưa tin bài về sự phát triển các

cơ sở trợ giúp xã hội và các CS ưu đãi, đào tạo và phát triển nhân lực. Ngay cả khi

tiếp cận được với các báo cáo, nội dung báo cáo về phát triển mạng lưới cơ sở TGXH

khoảng 10 dòng ngắn gọn và không có thông số cụ thể ngoại trừ số lượng cơ sở

TGXH hiện nay. Có thể thấy việc đánh giá, tổng kết quá trình thực hiện CS đã được

quan tâm thực hiện bởi các cơ quan thực hiện CS, với các hành động cụ thể như thực

hiện các cuộc trao đổi, toạ đàm hoặc hội thảo. Các văn bản đánh giá cũng được xây

dựng tuy nhiên chưa phản ánh đầy đủ hết các khía cạnh liên quan tới quá trình thực

hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT tại Hà Nội.

Tóm lại, công tác sơ kết, tổng kết, đánh giá việc thực hiện CS phát triển cơ sở

chăm sóc NCT tại Hà Nội đến nay đã được thực hiện định kỳ, cũng bộc lộ những hạn

chế giống các bước khác của quy trình thực hiện CS khi báo cáo về sự phát triển cơ

sở mang tính lồng ghép, sự tham gia của các bên liên quan mang tính hình thức và

báo cáo tổng kết không có kênh công khai minh bạch để các bên hữu quan nắm được

quy hoạch phát triển CS.

3.3. Đánh giá kết quả thực hiện chính sách phát triển cơ sở chăm sóc người cao

tuổi tại Hà Nội

3.3.1. Sự phát triển của các cơ sở chăm sóc người cao tuổi tại Hà Nội

3.3.1.1. Sự phát triển của các cơ sở chăm sóc người cao tuổi công lập

Tính đến trước ngày 9/6/2022, Sở LĐTBXH Hà Nội có 14 cơ sở TGXH trực

thuộc, gồm 12 cơ sở chăm sóc đối tượng BTXH và 02 cơ sở cung cấp dịch vụ

121

TGXH. Các cơ sở thực hiện công tác quản lý, chăm sóc, nuôi dưỡng, phục hồi chức

năng cho nhiều nhóm đối tượng: NCT, trẻ em, NKT, người lang thang xin tiền; cung

cấp các dịch vụ CTXH; trợ giúp trẻ em và các đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt khó

khăn, góp phần đảm bảo ASXH Thủ đô. Mỗi cơ sở chăm sóc, nuôi dưỡng từ 01 đến

02 nhóm đối tượng BTXH khác nhau. NCT tại cơ sở TGXH ngày càng giảm do

Thành phố thực hiện tốt CS giảm nghèo (theo Luật NCT, NCT cô đơn thuộc hộ

nghèo được tiếp nhận vào cơ sở TGXH) [47].

Toàn Thành phố vẫn có tới 4.352 NCT cô đơn thuộc hộ nghèo thuộc nhóm đối

tượng đủ điều kiện để tiếp nhận vào chăm sóc, nuôi dưỡng tại cơ sở TGXH. Nhưng

số lượng NCT là đối tượng trợ giúp vào sống tại các cơ sở TGXH vẫn còn thấp: dưới

100 cụ. Trước thực trạng đó, HĐND Thành phố đã ban hành Nghị quyết số

04/2019/NQ-HĐND, trong đó mở rộng đối tượng được tiếp nhận vào các cơ sở

TGXH là trẻ mồ côi cha hoặc mẹ thuộc hộ nghèo, cận nghèo và NCT cô đơn thuộc

hộ cận nghèo. Do vậy, số trẻ em và NCT tại các cơ sở TGXH 03 năm gần đây tương

đối ổn định.

Bảng 3.5. Số lượng người cao tuổi được chăm sóc tại các TTBTXH

Đối tượng trợ giúp

T12/ 2017 T12/ 2018 T12/ 2019 T12/ 2020 T5/ 2021

Người cao tuổi cô đơn 88 90 92 91 87

Nguồn: UBND TP Hà Nội [47]

Tuy nhiên, bắt đầu từ năm 2022, theo QĐ 5188/QĐ-UBND của UBND TP Hà

Nội ngày 09/12/2021 về việc phê duyệt đề án sắp xếp lại các cơ sở TGXH thuộc sở

LĐTBXH Hà Nội, thực hiện việc sắp xếp 12 cơ sở BTXH còn 10 cơ sở BTXH (giảm

02 đơn vị, tỷ lệ 16,7%) và đổi tên, sắp xếp lại tổ chức của các cơ sở BTXH theo quy

định (xem Phụ lục 13). Do đó, hiện nay NCT cô đơn chỉ được chăm sóc tập trung tại

02 cơ sở bảo trợ của Thành phố, bao gồm: Trung tâm BTXH II Hà Nội; Trung tâm

BTXH III Hà Nội. Quyết định cũng đưa ra hướng phát triển mới cho các Trung tâm

này theo hướng XHH bằng việc mở rộng dịch vụ chăm sóc NCT có nhu cầu được

TGXH và tự nguyện đóng góp kinh phí nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội và vấn đề

già hoá dân số [47]. Theo NĐ số 20/2021/NĐ- CP ngày 15/03/2021 của chính phủ

quy định CS TGXH đối với đối tượng BTXH, các đối tượng phục vụ tại các cơ sở

122

TGXH được hưởng các CS về chăm sóc và nuôi dưỡng toàn bộ trong suốt thời gian

lưu trú tại các cơ sở này. Như vậy, các cơ sở không có khả năng tự chủ về tài chính,

mà phục thuộc hoàn toàn vào nguồn ngân sách của nhà nước.

Đánh giá kết quả thực hiện quy hoạch mạng lưới cơ sở TGXH giai đoạn 2010-

2020 và đề xuất quy hoạch thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn 2050 của [17] cho thấy:

Về đối tượng: Toàn TP Hà Nội có: 1.032.357 NCT, trong đó có 439 người đang

được nuôi dưỡng tại các cơ sở BTXH công lập (gồm 87 NCT cô đơn, 200 NCT

khuyết tật, 121 NCT lang thang vô gia cư; 31 NCT tự nguyện đóng góp kinh phí).

Về cơ sở trợ giúp xã hội chăm sóc NCT: Sở Lao động – TB&XH có 02 các cơ

sở TGXH đang nuôi dưỡng 88 NCT cô đơn bao gồm: Trung tâm BTXH II, Trung

tâm BTXH III. Mỗi cơ sở quản lý, chăm sóc từ 01- 02 loại đối tượng để đảm bảo

thực hiện tốt công tác quản lý, chăm sóc, phù hợp với đặc điểm, độ tuổi, dạng tật của

các nhóm đối tượng.

Như vậy, các cơ sở TGXH trực thuộc Sở LĐTBXH trong nhiều năm qua đã

thực hiện tốt công tác quản lý, chăm sóc, nuôi dưỡng, phục hồi chức năng cho các

đối tượng tại cơ sở; cung cấp các dịch vụ CTXH; trợ giúp cho NCT cô đơn thuộc hộ

nghèo và cận nghèo, góp phần đảm bảo ASXH Thủ đô. Phần lớn các cơ sở đã được

thành lập trên 20 năm, mỗi cơ sở TGXH có chức năng, nhiệm vụ riêng, chăm sóc từ

1 đến 2 nhóm đối tượng BTXH, góp phần chuyên nghiệp hóa công tác quản lý, chăm

sóc, trợ giúp đối tượng. Được sự quan tâm của Bộ LĐTBXH; Thành ủy, HĐND,

UBND Thành phố và các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, nhà hảo tâm đã giúp đời

sống vật chất, tinh thần của đối tượng tại các cơ sở TGXH được cải thiện đáng kể.

Nhu cầu đối tượng được vào chăm sóc hoặc sử dụng các dịch vụ phục hồi chức năng

tại các cơ sở TGXH theo hình thức tự nguyện ngày càng tăng.

Tại các trung tâm BTXH, ngoài các đối tượng được bảo trợ, trung tâm nuôi

dưỡng thường xuyên NCT theo diện tự nguyện. Số lượng đối tượng được các trung

tâm nuôi dưỡng thường xuyên theo diện tự nguyện thường xuyên như sau:

Bảng 3.6. Số NCT tự nguyện đóng phí sống tại cơ sở TGXH công lập

Đối tượng tự nguyện

T12/ 2017 T12/ 2018 T12/ 2019 T12/ 2020 T5/ 2021

Người cao tuổi cô đơn 30 30 31 32 31

123

Nguồn: Sở LĐTBXH Hà Nội [38]

Trung tâm bảo trợ III thí điểm nuôi dưỡng NCT theo diện tự nguyện từ năm

2007 với mức tạm thu do UBND TP Hà Nội duyệt mức tạm thu thí điểm. Mức tạm

thu từ năm 2007 là 2 triệu/ người/ tháng. Tuy nhiên, theo kế hoạch, sau 10 năm đến

năm 2017 sẽ chính thức cung cấp dịch vụ cho NCT theo diện tự nguyện như Quy

định tại NĐ 103/2017/NĐ- CP nhưng do cơ chế, thủ tục của nhà nước nên đơn vị dời

đến năm 2022 mới được chính thức giao nhiệm vụ. Bởi vậy, trong giai đoạn 2021,

việc chăm sóc đối tượng tự nguyện có nhu cầu các Trung tâm bảo trợ II, III phải gửi

công văn xin ý kiến Sở LĐTBXH từng trường hợp do việc chăm sóc XHH bị tạm

dừng khi thành phố đưa ra đề án Quy hoạch mạng lưới cơ sở TGXH 2021-2030, tầm

nhìn đến 2050. Tuy nhiên đến thời điểm này, do mức thu được các Trung tâm BTXH

II, III trình lên thu NCT mức 3.5 triệu/ tháng chưa được Sở tài chính duyệt nên việc

chăm sóc NCT theo diện tự nguyện đang bị tạm dừng, điều này gây khó khăn cho cả

NCT và cơ sở công lập.

Trong khi đó, theo ước tính, trên toàn địa bàn TP Hà Nội, vẫn còn gần 10.000

NCT cô đơn sống một mình. Trong số đó, có những NCT có lương hưu nên không

được hưởng chế độ vào cơ sở TGXH theo QĐ 103 về các trường hợp được bảo trợ.

Ngoài ra, khoảng 30% NCT ở Hà Nội sống dưới mức độ sinh hoạt tối thiểu, chỉ đủ

đáp ứng được các nhu cầu cơ bản như ăn uống, sinh hoạt, không có nhiều điều kiện

cho các hoạt động giải trí, tham gia các hoạt động xã hội. Ngoài ra, khoảng 15%

trong số đó sống trong điều kiện khó khăn, thiếu thốn những tiện ích cơ bản như

đường đi, ánh sáng, nước sạch, vệ sinh, y tế. Đây là những con số cho thấy triển vọng

về số lượng đối tượng cần dịch vụ của các cơ sở TGXH công lập để đáp ứng nhu cầu

của NCT có mức thu nhập không đảm bảo đáp ứng việc sinh hoạt tại các cơ sở

TGXH ngoài công lập tại Hà Nội hiện nay.

Tại các trung tâm BTXH, cơ sở vật chất của phần lớn các đơn vị đã xuống cấp;

thiếu trang thiết bị cho công tác chăm sóc, phục hồi chức năng. Tại các cơ sở, đối

tượng BTXH đông, việc thành lập các cơ sở TGXH đa năng là không phù hợp, vì

không đảm bảo tính chuyên nghiệp trong công tác quản lý, chăm sóc, nuôi dưỡng đối

tượng. Tại Hà Nội, việc sáp nhập các cơ sở BTXH do Sở Lao động TB&XH quản lý,

giảm từ 12 cơ sở xuống còn 05 cơ sở. Tuy nhiên mỗi cơ sở sau khi sáp nhập có nhiều

địa điểm khác nhau (các địa điểm cách nhau từ 30-70km) nên công tác quản lý, điều

124

hành gặp không ít khó khăn.

Như vậy, Hiện nay, trên địa bàn Hà Nội chỉ còn 2 cơ sở TGXH chăm sóc NCT

cô đơn thuộc hộ nghèo bao gồm Trung tâm Bảo trợ xã hội II và Trung tâm Bảo trợ xã

hội III. Tuy nhiên, số NCT tại Hà Nội vẫn khá lớn, với khoảng 4.700 NCT cô đơn

thuộc hộ nghèo đủ điều kiện để được tiếp nhận vào các cơ sở TGXH dẫn tới việc

thiếu hụt các cơ sở chăm sóc nhằm đáp ứng nhu cầu thực tế của NCT. Bên cạnh đó,

các cơ sở TGXH tại Hà Nội không chỉ chăm sóc NCT mà còn có nhiều đối tượng

khác như trẻ em, NKT, người lang thang xin tiền, cung cấp các dịch vụ CTXH và trợ

giúp các đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Điều này cũng dẫn tới việc chăm

sóc cho NCT chưa được chú trọng đầy đủ và tập trung. Từ năm 2022, TP Hà Nội đã

sắp xếp lại các cơ sở TGXH thuộc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, giảm số

lượng cơ sở từ 12 xuống còn 5 đơn vị. Quyết định này đồng thời đưa ra hướng phát

triển mới cho các Trung tâm Bảo trợ xã hội II và III theo hướng nâng cao chất lượng

dịch vụ và hiệu quả hoạt động, đặc biệt là CS khuyến khích XHH trong chăm sóc

NCT. Tuy nhiên quá trình này vẫn còn đang vướng mắc nhiều vì liên quan tới việc

quy định mức giá dịch vụ, và đầu tư cơ sở vật chất phù hợp cho việc XHH.

Về đội ngũ cán bộ nhân viên tại 02 cơ sở TGXH, tổng số cán bộ nhân viên là

khoảng 123-145 người trong giai đoạn 2015-2022, trong đó về cơ cấu, so với quy

định tại theo Nghị định 68/NĐ- CP (tỷ lệ bộ phận lãnh đạo và hành chính không quá

20% tổng số cán bộ, nhân viên của cơ sở), thực tế năm 2013, đội ngũ lãnh đạo, văn

phòng phục vụ quản lý của 11 cơ sở BTXH đạt 25,3%, cao hơn 1,3 lần so với quy

định. Hầu hết các cơ sở đều vượt mức quy định, trong đó, có 4 cơ sở có tỷ lệ trên

30%, gồm: Trung tâm BTXH số II (37,7%); tiếp đến Trung tâm BTXH số III

(35,7%). Đây là một trong những nguyên nhân gia tăng sự quá tải trong công việc

của các bộ phận chuyên môn. Hầu hết bộ phận chuyên môn bị quá tải so với quy

định: bộ phận y tế, phục hồi chức năng (quản lý 17 đối tượng, cao hơn khoảng 1,2

lần và cấp dưỡng (chăm sóc 36 đối tượng, cao hơn khoảng 1,8 lần so với mức quy

định). Đa số nhân viên, đặc biệt là nhóm quản lý, y tế, phục hồi chức năng có trình

độ đại học, cao đẳng [54].

3.3.1.2. Sự phát triển của các cơ sở chăm sóc người cao tuổi ngoài công lập

Theo chính sách XHH cơ sở TGXH, UBND TP Hà Nội đã chấp thuận địa điểm,

cấp giấy chứng nhận đầu tư cho 04 dự án xây dựng các trung tâm chăm sóc NCT trên

địa bàn theo CS khuyến khích XHH như dưới đây. Trong đó, đến nay đã có 01 dự án

125

chính thức đi vào hoạt động là Trung tâm chăm sóc NCT Hoa Sen (tại Nam Từ Liêm).

- Trung tâm nuôi dưỡng và chăm sóc sức khoẻ NCT nhân đạo Thịnh Phúc (thôn

Tương Chúc - xã Ngũ Hiệp, huyện Thanh Trì). Quy mô: 150 NCT, tổng mức đầu tư

dự kiến: 11 tỷ đồng (Công văn số 472/UBND-KH&ĐT ngày 18/01/2008 về việc

chấp thuận địa điểm nghiên cứu lập và triển khai dự án xây dựng Trung tâm)

- Trung tâm chăm sóc NCT Ngọc Hà (xã Quang Tiến, huyện Sóc Sơn). Quy

mô: 500 NCT, tổng mức đầu tư dự kiến: 100 tỷ đồng (Công văn số 472/UBND-

KH&ĐT ngày 18/01/2008 về việc chấp thuận địa điểm nghiên cứu lập và triển khai

dự án xây dựng Trung tâm.)

- Trung tâm chăm sóc sức khỏe NCT Hoa Sen (tổ dân phố Hòe Thị, phường

Phương Canh, quận Nam Từ Liêm). Quy mô: 350 NCT, tổng mức đầu tư dự kiến:

265 tỷ đồng (Giấy chứng nhận đầu tư số 01121000404 lần đầu ngày 05/5/2010).

- Trung tâm điều dưỡng và chăm sóc NCT Hà Nội thuộc dự án Tổ hợp Sơn Hà

(xã Song Phượng, huyện Đan Phượng, Hà Nội). Quy mô: 400 NCT, tổng mức đầu tư

dự kiến: 103 tỷ đồng (Giấy chứng nhận đầu tư số 01121001741 lần đầu ngày

16/10/2014.)

Theo thống kê mới nhất năm 2022 của Sở LĐTBXH TP Hà Nội, hiện nay trên

địa bàn có 13 cơ sở chăm sóc NCT ngoài công lập. Các cơ sở này hoạt động dưới các

tên gọi bao gồm: Trung tâm chăm sóc NCT; Trung tâm chăm sóc sức khoẻ NCT;

Trung tâm dưỡng lão; Viện dưỡng lão. Ngoài ra, trên địa bàn TP Hà Nội không có

bất kỳ cơ sở tôn giáo hoặc từ thiện chăm sóc NCT được Sở LĐTBXH ghi nhận (xem

Phụ lục 14). 13 cơ sở TGXH ngoài công lập trên địa bàn Hà Nội hiện nay do tư nhân

làm chủ. 13 là số cơ sở được Sở (12 cơ sở) và Phòng LĐTBXH (1 cơ sở) cấp phép

hoạt động, nhưng trên thực tế, có 4/13 cơ sở phát triển thành lập thêm 2 – 4 địa điểm

chi nhánh chăm sóc tại các khu vực địa lý khác nhau trên địa bàn Hà Nội. Nên chính

xác, Hà Nội có tổng cộng 21 địa điểm xây dựng cơ sở chăm sóc NCT, cung cấp cho

1153 NCT sử dụng dịch vụ. Các trung tâm tập trung tại các quận mới bao gồm: Bắc

Từ Liêm (4), Nam Từ Liêm (3), Hoàng Mai (2), Hà Đông (2), Thanh Xuân (1), và

các huyện ngoại thành bao gồm Thanh Trì (3), Đông Anh (1), Gia Lâm (1), Sóc Sơn

(1), Hoài Đức (1), Mê Linh (1), Chương Mỹ (1).

Cơ sở được thành lập sớm nhất là Trung tâm Thiên Đức (2009) ngay sau khi

NĐ 68/2008/NĐ-CP có hiệu lực. Sau đó, trước năm 2015, có tổng cộng 7/13 cơ sở

thành lập, nhưng chỉ có 4/13 cơ sở đăng kí hồ sơ hoạt động của Sở LĐTBXH theo

126

NĐ 68/2008 vì đáp ứng đủ thủ tục hành chính. Sau đó, 3 cơ sở thành lập trước 2015

và 6 cơ sở thành lập sau 2015 đăng kí thủ tục cấp phép hoạt động theo NĐ103/2017

vì lúc này, nghị định 103 đã tháo gỡ một số khó khăn cho cơ sở bao gồm: cụ thể hoá

các mẫu văn bản hồ sơ thành lập, điều kiện về nhà ở, nhà bếp cho cán bộ công nhân

viên… và quy định cụ thể hơn về các tiêu chuẩn TGXH về quy trình, tiêu chuẩn môi

trường, khuôn viên, nhà ở, y tế, vệ sinh, quần áo, văn hoá, thể thao, thể dục và giải

trí. Điều này cho thấy những thay đổi về thủ tục và sự hướng dẫn cụ thể tạo điều kiện

thuận lợi cho các cơ sở đăng kí hoạt động hơn kể từ 2015 đến nay. Nhưng số lượng

cơ sở mở mới trong 7 năm (2015-2022) vẫn thấp với 6 cơ sở.

Nói về quy mô công suất, các cơ sở hiện nay đáp ứng cho 1153 NCT, trong khi

quy mô được cấp phép là hơn 1200 NCT. Có 4/13 cơ sở có quy mô hơn 100 đối

tượng do vướng về định mức diện tích đất tự nhiên theo NĐ 103/2017/NĐ-CP. Các

nhân viên tại cơ sở TGXH hiện nay đáp ứng đủ các điều kiện về số lượng, nhóm

nghề nghiệp theo yêu cầu của ngành LĐTBXH và các cơ sở hiện nay chủ động quản

lý nhân viên.

3.3.1.3. Sự phát triển của các cơ sở chăm sóc người cao tuổi khác

Như đã phân tích ở Chương 2 về các loại cơ sở chăm sóc NCT tại Việt Nam,

ngoài các cơ sở chăm sóc NCT thuộc nhóm cơ sở TGXH công lập và ngoài công lập

do Sở LĐTBXH Hà Nội quản lý và cấp phép, còn có những cơ sở chăm sóc NCT

trên địa bàn TP Hà Nội đang hoạt động theo sự cấp phép ngành nghề của Sở KHĐT

mà không chịu sự quản lý của Sở hay Phòng LĐTBXH.

Các tổ chức này có thời gian thành lập, quy mô hoạt động, công suất giường…

rất khác nhau. Phương thức tốt nhất để thống kê số liệu là thông qua chính quyền

hoặc Phòng LĐTBXH của từng địa phương. Nhưng đến nay, Sở LĐTBXH chưa rà

soát những tổ chức chăm sóc NCT không cấp phép bởi Sở LĐTBXH, vì thế số lượng

không thể chính xác. Dựa trên phỏng vấn các cán bộ quản lý các cơ sở chăm sóc

NCT tư nhân mà tác giả đã nghiên cứu và tìm kiếm thông tin trên Internet, một số tổ

chức chăm sóc NCT trên địa bàn Hà Nội đã hoạt động và có số lượng NCT để chăm

sóc nhưng chưa làm thủ tục với Sở LĐ như dưới đây. Điểm đáng lưu ý là theo kết

quả phỏng vấn, cán bộ các cơ sở đều cho rằng tại Hà Nội không có tổ chức từ thiện

127

nào chăm sóc NCT.

Bảng 3.7. Các cơ sở chăm sóc NCT chưa đăng ký với Sở LĐTBXH

STT Địa chỉ Tên cơ sở Năm thành lập Số lượng NCT

1 TT chăm sóc NCT Orihome 2013 40 - 45 Hoàng Mai Thanh Trì

2 Quốc Oai 2020 32

3 Tây Hồ 2015 10/30 Viện dưỡng lão – phục hồi chức năng FDC Trung tâm chăm sóc giảm nhẹ Chân trời mới

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ nghiên cứu luận án

Có thể thấy, Ngoài các cơ sở chăm sóc NCT thuộc nhóm cơ sở TGXH công lập

và ngoài công lập do Sở LĐTBXH Hà Nội quản lý và cấp phép, còn có những cơ sở

chăm sóc NCT trên địa bàn TP Hà Nội đang hoạt động theo sự cấp phép ngành nghề

của Sở KHĐT mà không chịu sự quản lý của Sở hay Phòng LĐTBXH. Việc tồn tại

các cơ sở chăm sóc NCT hoạt động không đúng quy định và không được quản lý,

giám sát sẽ gây ra những rủi ro về chất lượng DVCS NCT. Cần có sự tham gia tích

cực của chính quyền và Phòng LĐTBXH của từng địa phương thực hiện rà soát,

kiểm tra và quản lý chặt chẽ các cơ sở chăm sóc NCT hoạt động trên địa bàn.

3.3.2. Tác động của chính sách tới sự phát triển các cơ sở chăm sóc người cao tuổi

tại Hà Nội

3.3.2.1. Tác động của chính sách quản lý hành chính

Theo QĐ số 2330/QĐ-UBND ngày 22 tháng 5 năm 2015 về việc phê duyệt

Quy hoạch phát triển mạng lưới cơ sở xã hội trên địa bàn TP Hà Nội đến năm 2020,

định hướng đến năm 2030, với các mục tiêu cụ thể bao gồm việc tăng cường chất

lượng cung cấp DVCS NCT; đẩy mạnh XHH; tăng quy mô công suất tiếp nhận; điều

chỉnh mức chuẩn trợ cấp xã hội và tăng cường đầu tư cơ sở hạn tầng cho các cơ sở

TGXH. Có thể nói, việc so sánh kết quả đầu ra của việc thực hiện CS và mục tiêu đề

ra của các văn bản về mặt số lượng là rất khó khăn do các cơ sở TGXH cho NCT

được thống kê cùng với số lượng cơ sở TGXH cho NKT, người tâm thần, trẻ em. Bởi

vậy, sự so sánh chỉ mang tính định tính và dựa trên các số liệu thứ cấp. Kết quả thực

tế dựa trên các báo cáo tới thời điểm này cho thấy:

CS XHH được xây dựng và chính thức được triển khai từ NĐ 68/2008/NĐ-CP.

Trước đó, nhà nước cũng đã có quan điểm khuyến khích XHH, mở rộng cơ hội cho

128

thành phần kinh tế khác ngoài nhà nước tham gia vào thị trường nói chung và thị

trường ASXH nói riêng. Nhưng kể từ sau khi NĐ68/2008 được ban hành, sự ra đời

nhanh chóng của các cơ sở chăm sóc NCT cho thấy đã có những thành công nhất

định bao gồm việc phát triển mạng lưới rộng khắp các cơ sở TGXH trong đó quan

tâm đặc biệt tới nhóm NCT. Bên cạnh đó, các CS XHH cũng giúp tạo điều kiện cho

NCT được hưởng các DVCS phù hợp và có chất lượng tại khu vực sinh sống. Hệ

thống mạng lưới các cơ sở TGXH nói chung và cơ sở chăm sóc NCT nói riêng được

hưởng nhiều các CS về hỗ trợ đầu tư mặt bằng, cơ sở vật chất, các loại thuế phí và

nguồn nhân lực. Tất cả đã tạo ra một sự phát triển mạnh mẽ về số lượng và quy mô

các cơ sở chăm sóc NCT hiện nay trên địa bàn Thành phố. Thêm vào đó, đa phần các

cơ sở chăm sóc NCT đều được cấp phép từ sau năm 2017 – khi NĐ 103 ra đời, dù

các cơ sở này đã hình thành và đi vào hoạt động từ trước khi được Sở LĐTBXH cấp

phép lâu nhất tới 6 năm. Điều này cho thấy việc hoạt động của các cơ sở tuy vẫn

chưa được quản lý chặt chẽ bởi cơ quan thực hiện CS nhưng rõ ràng, những điều

chỉnh CS phù hợp đã tạo ra khung hoạt động và tạo động lực thành lập và phát triển

cho các cơ sở chăm sóc NCT.

Các cơ sở trên đều đáp ứng những tiêu chuẩn thành lập được đưa ra trong NĐ

103 về quản lý nhà nước của ngành LĐTBXH, đồng thời hàng năm, Sở đều xây dựng

kế hoạch kiểm tra định kỳ việc tuân thủ các yêu cầu, tiêu chuẩn về hành chính của

các cơ sở chăm sóc NCT công lập. Tuy nhiên, hiện nay có 03 cơ sở trên địa bàn Hà

Nội hoạt động chưa được cấp phép bởi Sở hoặc Phòng LĐTBXH mặc dù đã bắt đầu

đi vào xây dựng từ năm 2013, 2015 và 2020. Cho đến nay, vẫn chưa có hình thức,

chế tài xử lý nào được đưa ra cho các cơ sở này. Đánh giá về điều này, cán bộ quản

lý cấp Sở cho rằng: thông thường, các cơ sở đi vào hoạt động vài năm mới đăng kí

cấp phép bởi Sở hoặc Phòng LĐTBXH. Duy nhất 01 cơ sở đã hoạt động từ năm 2013

đã được Sở kết hợp với UBND đưa thông báo đề nghị cơ sở làm thủ tục cấp phép tuy

nhiên do cơ sở thay đổi vị trí nên không gửi được văn bản và có phản hồi.

“ Phòng LĐ có tham mưu cho UBND Quận rà soát, báo cáo các cơ sở TGXH, sau đó UB báo cáo cho Sở tổng hợp chung toàn thành phố nên có trường hợp một cơ sở chưa làm thủ tục cấp phép dù thành lập từ 2013. Tuy nhiên sau vài lần gửi văn bản vẫn chưa nhận được phản hồi vì cơ sở đó thay đổi trụ sở. Hiện giờ vẫn chưa biết cơ sở ở đâu”

(Nữ cán bộ cấp Sở, 54 tuổi)

Hộp 3.26: Ý kiến về chế tài xử lý các cơ sở chưa cấp phép của Sở LĐTBXH

Nhận xét về quy mô công suất số giường cho nhóm đối tượng NCT tại Hà Nội,

129

tổng số giường có thể đáp ứng cho nhóm NCT là 1153 NCT (cơ sở ngoài công lập)

và 88 (cơ sở công lập). Với tổng số NCT có thể cung cấp DVCS tại cơ sở là khoảng

1230 chiếm tỷ lệ nhỏ so với số lượng NCT toàn TP Hà Nội. Tổng số NCT tại Hà Nội

theo Số liệu Tổng điều tra dân số là 1,2 triệu. Dựa vào bài học kinh nghiệm từ các

quốc gia khác trên thế giới trong việc xây dựng hệ thống cơ sở chăm sóc cho NCT tại

cơ sở, sự phát triển của hệ thống cơ sở chăm sóc cho NCT cần đạt khả năng cung cấp

cho 3% NCT tại Trung Quốc [84], và con số khoảng 4-6% tại Hoa Kỳ [60].

Trong số 13 cơ sở trên, do yêu cầu theo NĐ 103, quy mô số lượng đối tượng

NCT mà Sở/ Phòng LĐTBXH cho phép cơ sở chăm sóc phụ thuộc về diện tích đất tự

nhiên và diện tích phòng cho một người, nên về cơ bản, với đặc thù đất đai tại Hà

Nội, 100% cơ sở thừa diện tích phòng ở cho đối tượng nhưng lại thiếu diện tích đất

tự nhiên, bởi vậy, quy mô được cho phép ở mỗi cơ sở dao động từ 10-118. Trong đó,

cơ sở được cấp phép quy mô 118 nằm ở Chương Mỹ - ngoại thành Hà Nội, các cơ sở

khác trong nội thành có quy mô được cấp phép nhỏ hơn so với công suất có thể đáp

ứng cho NCT mặc dù thuận tiện về giao thông và chăm sóc sức khoẻ y tế của NCT.

Nhưng nhìn vào bảng tổng hợp Phụ lục 15, trong số 13 cơ sở chăm sóc NCT được

cấp phép, có 4/13 cơ sở đáp ứng NCT vượt quy mô được cấp phép. Điều này có thể

được lý giải do số NCT ra vào trung tâm liên tục và không cố định, nhưng đây cũng

là một chỉ báo cho thấy các cơ sở thì nhiều, nhưng chưa đáp ứng đúng nhu cầu của

lượng lớn những NCT tại Hà Nội đang cần sự hỗ trợ, chăm sóc tại Cơ sở tập trung.

Việc quản lý số lượng NCT sống tại các trung tâm của Sở LĐTBXH còn lỏng lẻo.

Cuối cùng, trong những CS mà nhà nước và UBND TP Hà Nội đưa ra, kết quả

sự phát triển của các cơ sở cho thấy sự thiếu về số lượng và đồng bộ, được quy hoạch

tại các địa điểm phù hợp về mặt địa lý và dân cư, văn hoá. Bởi việc lựa chọn vị trí đặt

cơ sở là do các chủ cơ sở tự quyết định phù hợp với nhu cầu. Trong danh sách 13 cơ

sở chăm sóc NCT được thành lập, có thể thấy, địa điểm lựa chọn của các cơ sở đa số

đều tập trung tại các khu vực ngoại thành Hà Nội. Các trung tâm tập trung chủ yếu

tại các quận mới (12/21 trung tâm) và không nhận được CS ưu đãi về giá thuê đất của

UBND TP Hà Nội bao gồm 5 quận: Nam Từ Liêm, Bắc Từ Liêm, Hoàng Mai, Hà

Đông, Thanh Xuân, và các huyện ngoại thành. Sự phân bổ này phù hợp với định

hướng quy hoạch mở khi mỗi quận huyện có cơ sở TGXH có quy mô dưới 300

giường. Dù tình hình giao thông thuận tiện cho việc chăm sóc, đi lại của NCT và gia

đình, song, với sự phân bố NCT khá đồng đều tại Hà Nội, số lượng cơ sở TGXH như

130

trên được phân bố chưa hợp lý theo mục tiêu quy hoạch. Đây là một vấn đề cần lưu ý

về tính chặt chẽ của việc phân bổ thiếu đồng bộ về quy hoạch địa điểm và sự quản lý

hạn chế về địa lý kinh doanh/ cung cấp dịch vụ của nhà nước để tạo thành một mạng

lưới cung cấp dịch vụ toàn diện cho NCT tại Hà Nội.

Đánh giá về cơ sở TGXH công lập, lộ trình XHH đối với cơ sở TGXH công lập

mở một hướng đi đúng đắn cho các cơ sở TGXH công lập phát triển và đáp ứng nhu

cầu của NCT. Tuy nhiên, từ năm 2017 sau khi CS khuyến khích XHH chính thức

được ra đời, các văn bản hướng dẫn quy trình XHH của cơ sở công lập vẫn chưa

được triển khai, mức áp giá theo mức nhà nước quy định chưa được Bộ tài chính

duyệt là những rào cản lớn đối với việc phát triển các cơ sở chăm sóc NCT công lập

này. Bên cạnh đó, số lượng cơ sở bị thu hẹp, thiếu đầu tư cơ sở vật chất cùng truyền

thông dư luận về việc cơ sở TGXH công lập chỉ chăm NCT cô đơn, không nơi nương

tựa và có mức sống thấp trong trung tâm khiến tiến trình XHH theo mục tiêu của nhà

nước đối với loại cơ sở này còn rất xa.

3.3.2.2. Tác động của chính sách ưu đãi

Mặc dù 13 cơ sở TGXH ngoài công lập đang được Sở LĐTBXH cấp phép hiện

nay đã có sự phát triển nhanh chóng về số lượng khi 4/13 cơ sở mở rộng địa điểm đặt

cơ sở chăm sóc NCT. Nhưng điều cần lưu ý: một CS nổi bật của việc khuyến khích

XHH là việc giao, cho thuê đất và miễn/giảm thuế với các dự án XHH. Nhưng trong

số 13 cơ sở trên, chỉ có duy nhất Trung tâm Dưỡng lão Hoa Sen nhận được sự ưu đãi

của nhà nước theo CS khuyến khích XHH. Các cơ sở khác phải thuê mặt bằng hoặc

tự sử dụng tài chính cá nhân mua đất (3/13 cơ sở: Diên Hồng, ALH, Tâm Phúc).

Trung tâm chăm sóc NCT Thiên Đức mở rộng với 4 cơ sở và đã thành lập từ cách

đây 20 năm, nhưng đến nay 4 cơ sở vẫn được xây dựng trên đất đi thuê của cá nhân,

kí hợp đồng 3-5 năm/lần. Các cơ sở khác thuê đất của tư nhân hoặc nhà của cá nhân

để xây dựng, vận hành cơ sở chăm sóc NCT. Trong khi đó, 03 dự án còn lại được nhà

nước phê duyệt đầu tư theo hình thức XHH nhưng đến nay các cơ sở chăm sóc NCT

vẫn chưa được xây dựng và đi vào hoạt động. Nếu tính về phân bố theo khu vực địa

lý, tất cả các trung tâm đều được đặt ở các quận (được ưu đãi giảm 60% tiền thuê đất)

và huyện, thị xã Sơn Tây (được miễn 100% tiền thuê đất) nhưng do không có chứng

nhận đầu tư XHH nên các cơ sở không được hưởng CS này. Điều này cho thấy, sự

khó khăn trong việc tiếp cận các CS XHH mà Nhà nước đã đưa ra cũng như tính kém

hiệu quả khi phê duyệt cho các nhà đầu tư theo hình thức XHH được trúng thầu

131

nhưng không triển khai hoạt động. Điểm đáng lưu ý là TT Hoa Sen nhận được CS

giao đất nhưng hiện nay chỉ cung cấp dịch vụ cho chưa đến 20 NCT với mức chi phí

15-20 triệu/tháng, và phần lớn diện tích đất được chuyển đổi mục đích sử dụng [2].

Đối với CS cho vay vốn, chỉ duy nhất trung tâm dưỡng lão Hoa Sen tiếp cận

được với nguồn vốn vay và nhận được ưu đãi về thuế, giao đất do có đủ các thủ tục

giấy tờ theo yêu cầu hành chính. 12 cơ sở còn lại sử dụng vốn cá nhân hoặc tự huy

động để phát triển các cơ sở. Một lần nữa, hiệu quả việc thực hiện các CS ưu đãi về

tài khoá, đất của nhà nước không có khả năng tiếp cận với các đối tượng có nhu cầu.

Điểm sáng về CS ưu đãi là các cơ sở chăm sóc NCT hiện nay có thể tiếp cận

với ưu đãi về điện, nước với mức giá sinh hoạt thay vì giá kinh doanh và được giảm

thuế thu nhập doanh nghiệp. Đây là một CS có ý nghĩa đi vào thực tiễn.

Với CS giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, các cơ sở cho biết do hoạt động

chăm sóc NCT cần chi phí đầu tư lớn, mức thu không quá cao để phù hợp với nhu

cầu của NCT, nên doanh nghiệp không có lãi theo báo cáo tài chính, bởi vậy, về cơ

bản CS giảm thuế thu nhập doanh nghiệp không có ý nghĩa với các cơ sở chăm sóc

NCT.

3.3.2.3. Tác động của chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực

Theo báo cáo, trung bình mỗi năm, Sở LĐTBXH tổ chức khoảng 340 lớp tập

huấn cho hơn 12 nghìn cán bộ [38]. Hầu hết cán bộ tham gia tập huấn là cán bộ hoạt

động trong Hội NCT, một số ít là cán bộ, nhân viên trong các cơ sở TGXH công lập.

Ngoài ra, cán bộ Sở LĐTBXH cho biết nhà nước không có nguồn kinh phí để đào tạo

nhân lực cho các cơ sở TGXH ngoài công lập. Có thể thấy, không có con số thống kê

chính thức về việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho lĩnh vực chăm sóc NCT

cho riêng nhóm đối tượng chăm sóc tại cơ sở TGXH công lập (Trung tâm số 2,3) tại

Hà Nội. Tuy nhiên, để vận hành các cơ sở này, có những nhóm nghề sau cần được

phát triển: điều dưỡng, CTXH, quản lý các cơ sở TGXH. Theo báo cáo của Bộ Lao

động thương binh và xã hội [3], đội ngũ cán bộ, viên chức, nhân viên làm công tác

TGXH hiện có khoảng 35.000 người; trong đó có khoảng 15.000 người làm việc tại

các cơ sở TGXH; còn lại là cán bộ, nhân viên CTXH làm việc trong ngành

LĐTBXH, các tổ chức đoàn thể chính trị-xã hội tại cấp tỉnh, huyện, xã. Tuy nhiên, có

khoảng 81.5% cán bộ, nhân viên làm CTXH tại các cơ sở TGXH chưa được đào tạo

về CTXH hoặc được đào tạo từ nhiều ngành nghề khác nhau. Đội ngũ cán bộ, viên

chức và nhân viên làm CTXH còn thiếu về số lượng và chưa được đào tạo chuyên

132

nghiệp về CTXH, nhất là cán bộ làm việc trực tiếp với đối tượng; tổ chức bộ máy

cung cấp dịch vụ CTXH ở cộng đồng gần như chưa có ở tất cả các địa phương. Điều

này ảnh hưởng tới hiệu quả của các CS xã hội và trợ giúp các đối tượng yếu thế.

Các cơ sở chăm sóc NCT ngoài công lập cho rằng họ không được hỗ trợ đào tạo

mà phải chủ động tuyển dụng và đào tạo nhân lực. Trong khi đó, kết quả phỏng vấn

cho thấy các cơ sở chăm sóc NCT công lập nhận được sự hỗ trợ của cơ quan chủ

quan về việc bồi dưỡng, tập huấn về CTXH, lý luận chính trị, phòng cháy chữa cháy

nhưng chuyên môn y tế bị bỏ ngỏ trong khi đây là một trong những kiến thức cần

thiết để chăm sóc NCT. Ngoài ra, các chế độ CS cho viên chức quản lý về các đợt thi

tuyển viên chức, nâng mức phụ cấp cho viên chức lãnh đạo, phụ cấp cho viên chức

tại Hà Nội là những vấn đề cần được đáp ứng nhu cầu nhưng chưa được nhà nước

133

sửa đổi, bổ sung và triển khai thực hiện.

Tiểu kết Chương 3

Chương 3 của luận án trình bày thực trạng và đánh giá kết quả thực hiện CS

phát triển cơ sở chăm sóc NCT tại Hà Nội. Về địa bàn nghiên cứu, Hà Nội là nơi tập

trung đông đảo NCT, chiếm 12,8% dân số với hơn 1 triệu người. Trong đó, số lượng

NCT có nhu cầu được chăm sóc tại các cơ sở chăm sóc dài hạn là rất cao. Nhằm đáp

ứng với nhu cầu này, Thành phố đã ban hành đầy đủ hệ thống các văn bản CS liên

quan đến việc phát triển cơ sở chăm sóc NCT bao gồm các Nghị định, Quyết định,

Kế hoạch của Chính phủ và UBND Thành phố nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc triển

khai CS này. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, các bước của quy trình thực hiện

CS vẫn còn nhiều hạn chế.

Cụ thể, ở bước xây dựng kế hoạch, kế hoạch thực hiện CS còn thiếu cụ thể về

mục tiêu số lượng cơ sở cần phát triển; đồng thời thiếu sự tham gia đầy đủ của các Sở

ngành liên quan trong quá trình lập kế hoạch. Trong khâu tuyên truyền CS, các hoạt

động truyền thông chủ yếu tập trung vào NCT chứ không phải các cơ sở và nhà đầu

tư là đối tượng trực tiếp thực hiện CS; đồng thời thiếu sự phối hợp chặt chẽ với các

cơ quan truyền thông đại chúng. Trong khâu phân công thực hiện CS, việc phối hợp

liên ngành còn hạn chế; các thủ tục hành chính liên quan đến việc cấp phép, hỗ trợ

các cơ sở còn rườm rà. Cuối cùng, trong bước theo dõi, giám sát việc thực hiện CS,

thiếu các tiêu chí đánh giá cụ thể để giám sát hiệu quả hoạt động của các cơ sở; đồng

thời chưa có cơ chế xử lý hiệu quả đối với các cơ sở hoạt động chăm sóc NCT không

có giấy phép.

Do vậy, kết quả thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT tại Hà Nội còn

hạn chế về nhiều mặt. Cụ thể, các cơ sở chăm sóc NCT phát triển chậm, số lượng ít

và chưa đồng bộ giữa các khu vực. Đối với cơ sở công lập, số lượng giảm còn 2 đơn

vị, số lượng NCT được chăm sóc ít và chưa thực hiện được mục tiêu xã hội hóa. Cơ

sở chăm sóc NCT ngoài công lập mới chỉ có 13 cơ sở được cấp phép hoạt động, con

số này chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế ngày càng tăng cao của NCT tại Hà Nội.

Bên cạnh đó, các CS ưu đãi về đất đai, giảm thuế cũng khó tiếp cận đối với phần lớn

các cơ sở chăm sóc NCT. Chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chủ yếu

134

mới chỉ hỗ trợ cho các cơ sở chăm sóc NCT công lập.

CHƯƠNG 4. GIẢI PHÁP CẢI THIỆN HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH

SÁCH PHÁT TRIỂN CƠ SỞ CHĂM SÓC NGƯỜI CAO TUỔI TẠI HÀ NỘI

4.1. Cơ sở các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách phát triển cơ sở

chăm sóc người cao tuổi trên địa bàn Hà Nội

4.1.1. Về mặt quan điểm của Nhà nước và của TP Hà Nội

Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện các CS phát triển cơ sở chăm sóc

NCT trên địa bàn Hà Nội được xem xét và thống nhất về mặt quan điểm với các vấn

đề liên quan tới NCT đã được Đảng và Nhà nước xác định rõ trong lịch sử và trong

bối cảnh hiện tại về mặt kinh tế-chính trị-văn hoá của Việt Nam. Bên cạnh đó, các

giải pháp cũng cần được xem xét để phù hợp với quan điểm cụ thể của Hà Nội trong

việc đảm bảo an sinh cho các nhóm đối tượng đặc biệt, như trẻ em, NCT, NKT hoặc

các nhóm đối tượng BTXH khác. Các quan điểm cần được xem xét bao gồm:

Nâng cao chất lượng chăm sóc người cao tuổi: Đảng và Nhà nước luôn dành

sự quan tâm đặc biệt cho NCT và đã ban hành nhiều chủ chương, CS pháp luật nhằm

chăm lo mọi mặt đời sống cho NCT cũng như phát huy vai trò của NCT trong các

lĩnh vực đời sống xã hội. Chương trình hành động quốc gia về NCT giai đoạn 2021-

2030, và Chương trình chăm sóc sức khoẻ NCT tới năm 2030 được chính phủ ban

hành đều đã đặt ra mục tiêu chung nhất là “Chăm sóc, nâng cao sức khỏe người cao

tuổi bảo đảm thích ứng với già hóa dân số, góp phần thực hiện thành công Chiến

lược Dân số Việt Nam đến năm 2030” [39]. Do đó, việc thực hiện hiệu quả các CS

cần góp phần vào việc nâng cao chất lượng chăm sóc cho NCT về thể chất, tinh thần

và các mối quan hệ xã hội, cũng như phát huy vai trò tích cực của NCT nhằm gia

tăng chất lượng cuộc sống, và đóng góp tích cực cho sự phát triển chung của xã hội.

Đáp ứng xu hướng già hoá dân số: Với số liệu hiện tại, tổng số NCT tại Hà

Nội là 1.069.456, chiếm tỷ lệ 12,8% trong tổng dân số của TP. Điều này cho thấy Hà

Nội là một trong những địa phương đang phải đối mặt với xu hướng già hoá dân số

điển hình tại Việt Nam. Cùng với xu hướng già hoá dân số, các vấn đề liên quan đến

sức khỏe của NCT cũng được dự báo sẽ gia tăng theo độ tuổi. Điều này đặt ra một

thách thức lớn đối với Hà Nội và yêu cầu sự chú trọng đến việc phát triển các cơ sở

chăm sóc NCT và các DVCS cho nhóm này. Để đáp ứng tốt nhất cho xu hướng già

hoá dân số và sự gia tăng nhu cầu chăm sóc của nhóm NCT, việc ban hành các CS

nhằm thúc đẩy phát triển các cơ sở chăm sóc NCT và các DVCS tương ứng là cần

135

thiết. Qua việc tăng cường các cơ sở chăm sóc NCT và DVCS phù hợp, Hà Nội có

thể đảm bảo rằng nhóm NCT sẽ được chăm sóc tốt hơn, đáp ứng nhu cầu của họ và

cải thiện chất lượng cuộc sống trong giai đoạn già hoá dân số [49].

Nâng cao chất lượng thực hiện CS công: Chính phủ Việt Nam không ngừng

xây dựng các CS nhằm phát triển các vấn đề kinh tế, xã hội và văn hoá, nhằm phát

triển đất nước. Bên cạnh đó, do ảnh hưởng của xu thế già hoá dân số, dẫn tới việc tạo

ra các áp lực nhất định tới hệ thống ban hành và thực hiện các CS liên quan tới NCT

hiện nay tại Việt Nam. Chính phủ cũng đã xác định rằng việc tổ chức thực hiện các

CS công tại Việt Nam vẫn là khâu yếu vì thế cần có những giải pháp tập trung vào

cải thiện quá trình thực hiện các CS công hiện nay. Điều này có nghĩa là việc cải

thiện chu trình CS công luôn được chính phủ quan tâm và khuyến khích thực hiện

nhằm tạo ra những thay đổi tích cực, đặc biệt đối với hệ thống ASXH hiện hành [19].

Đẩy mạnh XHH các DVCS người cao tuổi: Để chăm sóc toàn diện cho NCT,

cũng như giảm áp lực cho hệ thống nhà nước, đặc biệt là cơ quan thực hiện CS, chính

phủ luôn khuyến khích sự tham gia của khu vực tư nhân trong chăm sóc NCT thông

qua tăng cường hợp tác công-tư (PPP) trong lĩnh vực chăm sóc NCT và các mô hình

tích hợp DVCS NCT tại nhà, tại cộng đồng và tại các cơ sở chăm sóc. UBNDTP Hà

Nội, trong Đề án Chăm sóc sức khỏe người cao tuổi giai đoạn 2017-2025 và Quy

hoạch phát triển mạng lưới cơ sở xã hội trên địa bàn thành phố Hà Nội đến năm

2020, định hướng đến năm 2030 đã xác rõ mục tiêu đẩy mạnh xã hội hóa khuyến

khích các cá nhân, tổ chức không sử dụng vốn ngân sách đầu tư vào lĩnh vực bảo trợ

xã hội và chăm sóc NCT. Việc huy động khu vực tư nhân tham gia cung cấp DVCS

NCT sẽ giúp NCT có cơ hội tiếp cận với các dịch vụ có chất lượng và phù hợp với nhu

cầu, cũng như xem đây là một ngành nghề có xu hướng phát triển trong tương lai, đóng

góp cho sự phát triển chung của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế [33].

4.1.2. Về phương hướng đề xuất giải pháp

Chính phủ và các nhà nghiên cứu trên thế giới đều cho rằng quá trình thực hiện

là bước quan trọng quyết định tới sự thành công hay thất bại của một CS [68, 74, 97].

Do đó, việc nghiên cứu đánh giá nhằm tìm ra các giải pháp cải thiện quá trình thực

hiện CS công luôn được quan tâm bởi các hệ thống thực hiện CS ở các quốc gia khác

nhau. Tại Việt Nam, quá trình thực hiện CS công trong thời gian qua, được đánh giá

khá bài bản, đúng quy trình, phù hợp với thực tiễn, đáp ứng yêu cầu, mục tiêu. Tuy

nhiên, trong quá trình thực hiện các CS công còn bộc lộ những hạn chế nhất định liên

136

quan tới nhiều khía cạnh khác nhau. Nhiều các nhà nghiên cứu CS đã đề xuất các

phương án cải thiện quá trình thực hiện CS công thông qua việc cải thiện chất lượng

(nội dung/công cụ) CS, đảm bảo nguồn lực cho quá trình triển khai thực hiện, tăng

cường sự phối hợp nội bộ và liên ngành, tăng cường sự tiếp nhận và ủng hộ của các

đối tượng hưởng lợi thông qua truyền thông về CS, và cuối cùng là việc hoàn thiện

bộ máy thực hiện CS [82, 96]. Đây là cơ sở chung để tác giả xem xét đề xuất các giải

pháp cụ thể nhằm cải thiện quá trình thực hiện các CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT

tại Hà Nội.

Cùng với đó, kết quả nghiên cứu của luận án cho thấy việc thực hiện CS phát

triển các cơ sở chăm sóc NCT tại Hà Nội còn nhiều những điểm hạn chế, cụ thể ở

đây là sự cam kết và phối hợp thực hiện của các bên liên quan còn nhiều hạn chế,

công tác tuyên truyền phổ biến CS không được thực hiện một cách đồng bộ, và cuối

cùng là một số giải pháp CS chưa khả thi. Đây là 3 yếu tố rào cản lớn nhất đến các

bước trong quy trình thực hiện CS tại Hà Nội được nghiên cứu trong Chương 3.

Trong các yếu tố trên, ảnh hưởng của yếu tố truyền thông và phối hợp có thể tạo ra

sự thay đổi về hiệu quả thực hiện CS này tại Hà Nội trong tương lai gần, trong khi

yếu tố nội dung có ảnh hưởng chiến lược đến việc phát triển cơ sở TGXH cho NCT.

Đây cũng là cơ sở để ưu tien thực hiện các giải pháp ở phần sau của luận án.

Do đó, từ nghiên cứu lý luận và kết quả nghiên cứu trong thực tế, phương

hướng để đưa ra các giải pháp cải thiện việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc

NCT tại Hà Nội được đưa ra, trong đó tập trung vào một số nội dung cụ thể bao gồm:

Nâng cao chất lượng nội dung CS: Từ kết quả nghiên cứu luận án cho thấy

nội dung CS được đánh giá là ưu việt, chi tiết và tác động đầy đủ tới các khía cạnh

nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển các cơ sở. Các giải pháp CS đưa ra

đa số phù hợp với mục tiêu, mang lại những lợi ích thiết thực cho đối tượng hưởng

lợi chính như các ưu đãi về mặt bằng, các khoản thuế phí cũng như các CS về đào tạo

nhân lực cho cơ sở công lập và ngoài công lập nhằm mục tiêu khuyến khích sự tham gia

và đa dạng hoá các nhà cung cấp chăm sóc dài hạn, xây dựng hệ thống an sinh đa tầng.

Song, một số giải pháp CS đưa ra còn chưa phù hợp với thực tế dẫn tới việc khó

thực hiện hoặc không thực hiện được, các mục tiêu cụ thể còn mang tính lồng ghép

và chưa xác định rõ mục tiêu cụ thể nhằm phát triển các cơ sở TGXH cho NCT. Cụ

thể, các vấn đề của nội dung CS đang là rào cản cho sự phát triển của hệ thống chăm

137

sóc NCT cần cân nhắc thay đổi như sau:

(1) Hệ thống văn bản dưới luật thực hiện cần bổ sung đầy đủ để giảm thiểu khó

khăn cho việc thực hiện: bổ sung các văn bản hướng dẫn lộ trình xã hội hoá cơ sở công

lập, khuyến khích đầu tư nước ngoài, chứng nhận cơ sở XHH để hưởng ưu đãi...;

(2) Bổ sung hệ thống văn bản quản lý chất lượng tiêu chuẩn dịch vụ chăm sóc

NCT cho phù hợp với định hướng phát triển;

(3) CS ưu đãi hiện nay cần tạo động lực đáp ứng nhu cầu chăm sóc của NCT/

gia đình NCT có mức thu nhập thấp, trung bình.

Các CS hiện nay ưu tiên khuyến khích phát triển các cơ sở chăm sóc NCT

ngoài công lập phát triển. Điều này chỉ tạo ra tính sẵn có (available) của dịch vụ mà

không đảm bảo khả năng chi trả (affortable) của dịch vụ.

Điều này là bởi việc xác định đúng đối tượng được hưởng CS ưu đãi chưa trúng

đích, những đối tượng được hưởng ưu đãi không có rằng buộc về chất lượng và mức

gia cung cấp dịch vụ. Hiện nay, đối tượng hưởng CS ưu đãi tại Hà Nội không tạo ra

hệ thống ASXH đáp ứng đúng nhu cầu của NCT (về mặt kinh tế). Nếu để thị trường

tự do phát triển, các cơ sở ngoài công lập không được hưởng CS ưu đãi sẽ phải san sẻ

gánh nặng chi phí lên NCT khiến số lượng NCT tiếp cận dịch vụ bị hạn chế. Bởi vậy,

các đối tượng hưởng ưu đãi cần có cơ chế ràng buộc về quyền sở hữu, về mục đích

sử dụng, về mức trần giá cung cấp dịch vụ, về lượng NCT thuộc đối tượng TGXH

được sử dụng dịch vụ… , điều này giống với các nghiên cứu về hình thức ưu đãi mua

nhà ở xã hội đang được áp dụng hiện nay.

Ngoài ra, tổng quan nghiên cứu cho thấy nhà nước nên cân nhắc tập trung phát

triển cơ sở tôn giáo và từ thiện, cơ sở tư nhân không lợi nhuận hoặc không vì lợi nhuận

như hình thức Doanh nghiệp xã hội được quy định trong Luật Doanh nghiệp 2020.

Tuy nhiên, quan trọng nhất, nhà nước cần tạo hành lang khuyến khích sự phát

triển của các cơ sở công lập để tiến tới lộ trình xã hội hoá nhằm tận dụng cơ sở vật

chất và đội ngũ nhân viên hiện có bằng lộ trình tự chủ tài chính, xã hội hoá hoặc hợp

tác công – tư nhằm cung cấp dịch vụ chất lượng hơn cho nhiều NCT có thu nhập

trung bình thấp có nhu cầu tự nguyện.

(4) Nội dung CS cần tập trung ưu đãi nhóm dịch vụ hơn là nhóm chủ thể CS.

Các CS hiện nay mới chỉ tập trung về số lượng cơ sở được mở ra, nhưng các CS ưu

đãi chưa quan tâm đến nhóm dịch vụ mà các cơ sở cung cấp. Nhà nước coi nhà nước

là chủ thể quan trọng đảm bảo an sinh xã hội, gia đình và cộng đồng là chủ thể đảm

138

bảo chính chăm lo cho NCT. Bởi vậy, chiến lược CS tốt cần quan tâm khuyến khích

dịch vụ (bao gồm dịch vụ tích hợp giữa cơ sở và cộng đồng, dịch vụ chăm sóc ban

ngày… ) nhiều hơn là chỉ quan tâm vào nhóm đối tượng chủ thể thụ hưởng. Điều này

đảm bảo các CS phát triển cơ sở chăm sóc tạo động lực thúc đẩy đúng nhóm đối

tượng cung cấp dịch vụ tốt cho NCT hiện nay.

(5) Cuối cùng, hệ thống CS cần toàn diện tác động tới NCT như bảo hiểm tuổi

già, bảo hiểm chăm sóc dài hạn bởi các nghiên cứu tổng quan tại Nhật, Trung Quốc

cho thấy đây là cú hích với thị trường dịch vụ chăm sóc bởi gia tăng khả năng tiếp

cận của NCT với các dịch vụ chăm sóc dài hạn.

Những hạn chế của nội dung CS có thể là kết quả của các yếu tố sau: 1) chưa

coi trọng đúng mức việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của CS; 2) năng lực

thiết kế CS của cơ quan hoạch định CS; 3) dân chủ hóa trong hoạch định CS chưa

được coi trọng đúng mức, sự tham gia của người dân và hoạt động tư vấn, giám định

và phản biện của các tổ chức chưa đáp ứng yêu cầu [9, 18, 21]. Do đó, để góp phần

nâng cao hiệu quả thực hiện CS, cần coi trọng nâng cao chất lượng CS theo hướng,

coi trọng nghiên cứu cơ sở lý luận và đánh giá thực tiễn về CS, nâng cao năng lực

của cơ quan hoạch định CS và dân chủ hóa quá trình hoạch định CS.

Đẩy mạnh truyền thông: Thực tiễn cho thấy, khi nào có được đồng thuận và

ủng hộ của người dân và sự thông hiểu một cách thống nhất giữa các cơ quan thực thi

CS thì CS được triển khai thuận lợi cũng như việc thực hiện CS mang lại hiệu quả cao.

Kết quả nghiên cứu cho thấy, truyền thông được đánh giá là yếu tố có ảnh hưởng

nhiều nhất tới hiệu quả thực hiện các CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT tại Hà Nội

trong ngắn hạn nhìn từ kết quả quy trình thực hiện CS bởi: (1) Đa số các cơ sở thuộc

nhóm ngoài công lập không biết tới sự tồn tại của các CS ưu đãi trực tiếp từ sự

hướng dẫn của cán bộ thực hiện CS, do đó hạn chế trong việc hưởng lợi từ CS. Nếu

có hệ thống văn bản triển khai ưu đãi sự phát triển cơ sở TGXH liên ngành (thuế, đất,

mặt nước, điện… ) sẽ tạo điều kiện để các cơ sở tiếp cận và tìm hiểu CS hưởng ưu

đãi tốt hơn; (2) Việc truyền thông trong nội bộ cơ quan quản lý CS theo ngành dọc

được đánh giá hiệu quả, nhưng truyền thông theo ngành ngang giữa liên ngành còn

nhiều hạn chế, dẫn tới việc hiểu về CS không đồng nhất hoặc giải quyết những

vướng mắc phát sinh chậm trễ, cản trở quá trình thực hiện CS; (3) Yếu tố truyền

thông, giao tiếp hai chiều bị hạn chế như công khai thông tin Quy hoạch, thông tin ưu

đãi… ảnh hưởng trực tiếp tới việc thụ hưởng của đối tượng CS hiện nay, khiến cho

139

nhiều cơ sở chăm sóc NCT và các nhà đầu tư không có niềm tin nhiều vào việc thụ

hưởng CS. Ngoài ra, cải thiện truyền thông sẽ tạo ra sự thay đổi đối với việc giải

quyết các vướng mắc và tăng cường sự tham gia của các bên liên quan trong quá

trình thực thi CS; (4) Truyền thông thay đổi nhận thức của xã hội, người dân để giảm

kỳ thị và định kiến về việc sử dụng dịch vụ tại cơ sở TGXH công lập. Từ đó, thúc

đẩy việc sử dụng dịch vụ của NCT tự nguyện và tạo cơ sở lộ trình xã hội hoá các cơ

sở TGXH công lập thành công.

Phối hợp nội bộ và liên ngành: Việc chưa coi trọng đúng mức sự tương tác và

phối hợp giữa cấp trên với cấp dưới, giữa các cơ quan với nhau và giữa cơ quan thực

hiện CS với đối tượng CS cũng là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến hiệu quả thực

hiện CS chưa như mong muốn. Điều này thể hiện rõ trong kết quả nghiên cứu của luận

án này. Việc thực hiện các CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT tại HN gặp cản trở bởi

thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan thực hiện CS theo chiều ngang.

Vai trò trách nhiệm của các bên liên quan được chỉ rõ trong các văn bản CS, cơ

chế phối hợp trong ngành LĐTB&XH được đánh giá cao. Tuy nhiên yếu điểm của cơ

chế này bao gồm: (1) Cơ chế phối hợp liên ngành trong quá trình thực hiện CS không

được cụ thể hoá hoặc có các bộ tiêu chí đánh giá, giám sát về các khía cạnh của việc

phát triển các cơ sở chăm sóc NCT; (2) Sự thiếu cơ chế phối hợp dẫn tới các văn bản

CS được ban hành bởi các cơ quan khác nhau thiếu thống nhất, việc xử lý các thủ tục

thường chậm trễ hoặc tắc nghẽn khiến các cơ sở chăm sóc NCT gặp rất nhiều khó

khăn trong quá trình được hưởng lợi từ các CS đã ban hành. Nên việc sử dụng hình

thức một cửa tạo điều kiện thuận lợi về đầu tư cho các cơ sở ngoài công lập tư nhân

và nước ngoài tham gia thị trường dịch vụ nếu muốn đa dạng hoá thị trường. Sự phối

hợp này chịu ảnh hưởng bởi cả yếu tố truyền thông, tuy nhiên nếu có cơ chế phối hợp

rõ ràng và tầm nhìn cụ thể về mục tiêu phát triển các cơ sở chăm sóc NCT tại Hà Nội

sẽ giúp các bên liên quan dễ dàng hơn trong phối hợp triển khai CS. Cơ chế phối hợp

còn chịu ảnh hưởng một phần bởi sự cam kết của lãnh đạo các ngành khi phân công

một cán bộ chịu trách nhiệm chính trong các CS có liên quan đến phát triển cơ sở

chăm sóc NCT, ảnh hưởng bởi năng lực của nhân sự có trách nhiệm. Tuy nhiên,

trong ngắn hạn, tháo gỡ được cơ chế phối hợp này sẽ là yếu tố quan trọng thúc đẩy

quy trình thực hiện CS được diễn ra thành công cho các bên hữu quan. Do đó, để góp

phần nâng cao hiệu quả thực hiện CS, cần thông qua nhiều biện pháp để tăng cường

sự tương tác và phối hợp giữa các cơ quan cùng cấp và giữa cơ quan thực hiện CS và

140

đối tượng CS.

Huy động nguồn lực và nâng cao năng lực: Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra

rằng hiện nay ngân sách TP Hà Nội không được đầu tư thích đáng vào việc hỗ trợ

phát triển các cơ sở chăm sóc NCT kể cả công lập và ngoài công lập. Việc thực hiện

xã hội hoá cũng gặp nhiều vướng mắc do cơ chế quản lý hành chính nhà nước chưa

thống nhất giữa các ban bộ ngành liên quan. Do đó, để nâng cao hiệu quả thực hiện

CS công, TP cần phân bổ nguồn lực đủ mức cho thực hiện các CS phát triển cơ sở

chăm sóc NCT, đặc biệt hỗ trợ đầu tư cơ sở vật chất, quy hoạch đất đai xây dựng và

các ưu đãi khác về thuế phí, hoặc khyến khích đầu tư nước ngoài và hợp tác công tư.

Bên cạnh đó, một nguyên nhân dẫn đến hiệu quả thấp trong thực hiện một số CS

công ở Việt Nam nói chung và CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT tại Hà Nội là năng

lực hiểu CS, sự cam kết và năng lực triển khai thực hiện các nhiệm vụ về CS được

giao. Do đó, để nâng cao hiệu quả thực hiện CS, cần đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ tất cả

các khâu của công tác cán bộ, công chức nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đảm

bảo về phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới [21, 25].

4.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách phát triển cơ sở chăm

sóc người cao tuổi trên địa bàn Hà Nội

Ngành LĐTBXH là cơ quan được chính phủ giao trách nhiệm chính (và phối

hợp với các Ban/Bộ/Ngành liên quan) trong việc quản lý và thực hiện các chính các

sách phát triển cơ sở chăm sóc NCT ở các cấp khác nhau trên cả nước. Tại Hà Nội,

Sở LĐTBXH TP Hà Nội là đơn chủ quản chịu trách nhiệm hướng dẫn thực hiện và

triển khai cụ thể các CS này tới các đối tượng CS thuộc địa bàn Hà Nội, cũng như

đảm nhiệm vai trò giám sát, đánh giá việc thực hiện từ đó có các khuyến nghị CS cho

các cấp quản lý cao hơn, với mục đích hoàn thiện CS cả về mặt nội dung và về mặt

thực hiện các CS này. Với các vai trò trách nhiệm đó, Sở LĐTBXH và các

Sở/Ban/Ngành liên quan của Thành phố có thể xem xét các gợi ý dưới đây nhằm

nâng cao hiệu quả việc thực hiện các CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT trên địa bàn

Hà Nội. Các giải pháp dưới đây được đưa ra dựa trên kết quả nghiên cứu của luận án

này tại Hà Nội. Tuy nhiên các địa phương khác trên cả nước với các điều kiện và bối

cảnh về mặt kinh tế - chính trị - văn hoá tương đồng có thể xem xét các gợi ý này

nhằm phục vụ cho việc triển khai thực hiện các CS về phát triển cơ sở chăm sóc NCT

nói riêng và việc thực hiện CS công nói chung.

4.3.1. Cải thiện nội dung chính sách liên quan tới phát triển cơ sở chăm sóc NCT

141

Mục tiêu của giải pháp

Như đã trình bày trong chương 3 của luận án này, một văn bản CS toàn diện

trước tiên cần đảm bảo các thành tố chính bao gồm: Mục đích CS; Mô hình nhân

quả; Công cụ CS; Đối tượng tác động; Thực hiện CS, và mỗi thành tố cần phải trả lời

các câu hỏi cụ thể nhằm làm sáng tỏ các ý định của cơ quan ban hành CS [66]. Theo

kết quả nghiên cứu của luận án, việc triển khai thực hiện các CS phát triển cơ sở

chăm sóc NCT trên địa bàn Hà Nội về cơ bản là tốt, đây là kết quả của việc có một

hệ thống các văn bản CS khá đầy đủ ban hành bởi các cấp khác nhau trong đó bao

gồm UBND TP. Nội dung của các CS chi tiết, các giải pháp đề ra đáp ứng phù hợp

với các nhu cầu của các cơ sở, đặc biệt các quy định hỗ trợ về cơ sở vật chất, ưu đãi

về phí/thuế hay đào tạo nguồn nhân lực. Tuy nhiên, quá trình thực hiện còn nhiều

những vướng mắc do bản thân các CS còn tồn tại nhiều những bất cập liên quan tới

công cụ CS, hay nói các khác là sự hạn chế về các giải pháp thực hiện mà CS đưa ra

nhằm đạt mục tiêu đề ra. Một số giải pháp được đánh giá là thiếu tính khả thi, không

sát với thực tế, còn có những giải pháp mang tính chồng chéo, không thống nhất giữa

các cơ quan ban hành CS.

Như vậy, mục tiêu của giải pháp này nhằm giúp các văn bản CS đưa ra được

các công cụ CS khả thi, gần gũi với thực tế hơn, và mang tính thống nhất/đồng bộ

giữa các cơ quan ban hành CS.

Nội dung của giải pháp

Cán bộ thực hiện CS nghiên cứu lý thuyết về chính sách và thực hiện chính

sách: Cán bộ thực hiện CS tiến hành các nghiên cứu về mặt lý thuyết liên quan tới

việc hoạch định CS công của các học giả có tên tuổi trên thế giới và tại Việt Nam

(như đã được giới thiệu trong các chương khác của luận án này), nhằm nâng cao hiểu

biết, hệ thống hoá lại các lý thuyết về CS công, thực hiện CS công và việc đánh giá

thực hiện CS công. Tập trung nghiên cứu các nội dung liên quan tới các cách tiếp cận

trong việc hoạch định CS, tiến trình xây dựng CS, thiết kế CS và đánh giá CS. Học

tập, nghiên cứu các mô hình xây dựng và thực hiện CS của các nước khác trên thế

giới, và trong khu vực, tập trung vào các quốc gia có điều kiện về mặt kinh tế-chính

trị-văn hoá xã hội tương đồng với Việt Nam. Từ đó, áp dụng vào việc thực hiện CS

cũng như phục vụ cho việc xây dựng các khuyến nghị CS một cách phù hợp.

Thực hiện các đánh giá chính sách: Xây dựng kế hoạch, tiến hành việc rà soát,

đánh giá về mặt nội dung các CS liên quan tới việc phát triển cơ sở chăm sóc NCT

142

được ban hành bởi các cấp khác nhau, từ chính phủ, tới Bộ và các cơ quan ngang Bộ,

đặc biệt các văn bản được ban hành bởi UBND TP Hà Nội và các Sở/Ban/Ngành liên

quan, dựa trên các cơ sở về mặt lý thuyết đã nghiên cứu. Tập trung vào việc rà soát

các mục tiêu cụ thể với các tiêu chí đánh giá chi tiết và rõ ràng nhằm định hướng cho

các giải pháp CS. Bằng cách rà soát các mục tiêu cụ thể và thiết lập các tiêu chí đánh

giá trong các văn bản CS, cơ quan thực hiện chính sách và các nhà quản lý có thể có

một cái nhìn rõ ràng về tình hình hiện tại và những vấn đề cần được ưu tiên giải

quyết. Điều này giúp định hình và thiết kế các giải pháp CS hiệu quả hơn, nhằm đáp

ứng tốt nhất cho nhu cầu của nhóm các cơ sở chăm sóc NCT và đảm bảo rằng họ

nhận được sự hỗ trợ cần thiết.

Các nhóm văn bản CS cần rà soát bao gồm (nhưng không giới hạn): (1) CS về

quy hoạch mạng lưới các cơ sở TGXH; (2) CS quy định điều kiện, thủ tục thành lập,

tổ chức, hoạt động, quản lý và giải thể cơ sở TGXH (công lập và ngoài công lập); (3)

CS về khuyến khích XHH, danh mục chi tiết loại hình, tiêu chí, quy mô, tiêu chuẩn

của các tổ chức thực hiện XHH; (4) CS về hỗ trợ đầu tư, giao/cho thuê đất, cho

thuê/xây dựng cơ sở vật chất cho cơ sở TGXH; (4) CS miễn/giảm tiền thuê đất, thuê

mặt nước; (5) CS ưu đãi về tín dụng và huy động vốn; (6) CS về miễn giảm thuế giá

trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế đất thuế nhập khẩu; (6) CS giá điện,

nước ưu đãi cho cơ sở TGXH; (7) CS về tiêu chuẩn, quản lý và đào tạo nhận lực.

Kết quả nghiên cứu cho thấy, hiện nay việc đánh giá quá trình triển khai thực

hiện các CS về phát triển cơ sở chăm sóc NCT trên địa bàn Hà Nội chưa được triển

khai. Dó đó, cơ quan thực thi CS cần thực hiện việc đánh giá thực hiện các CS này

theo nhiều hướng tiếp cận khác nhau như đánh giá kết hợp định tính và định lượng,

đánh từ trên xuống, đánh giá từ dưới lên, đánh giá theo chu trình CS, đánh giá liên

ngành, để từ đó tìm ra những khoảng trống/bất cập giữa các biện pháp CS được đề ra

trong các văn bản chính so với thực tế.

Từ kết quả nghiên cứu, Sở LĐTBXH và các Sở/Ban/Ngành khác có trách

nhiệm xây dựng báo cáo trong đó đề xuất các khuyến nghị CS nhằm hoàn thiện các

văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đã được ban hành tới các cấp quản lý khác

nhau, từ UBND, tới Bộ LĐTBXH cũng như các Ban/Bộ liên ngành khác. Các cấp

này sẽ chịu trách nhiệm trình Quốc hội hoặc Thủ tướng chính phủ nhằm đưa ra các

sửa đổi cần thiết hoặc xây dựng các CS mới phù hợp.

Một số gợi ý cụ thể về việc thay đổi, bổ sung nội dung của một số CS hiện

143

hành liên quan tới việc phát triển cơ sở chăm sóc NCT trên địa bàn Hà Nội bao gồm:

CS về quy hoạch mạng lưới các cơ sở TGXH (QĐ số 2330/QĐ-UBND ngày

22 tháng 5 năm 2015):

- Quy hoạch mạng lưới các cơ sở TGXH cần được xây dựng là quy hoạch mở

để thu hút các tổ chức, cá nhân tham gia thành lập các cơ sở TGXH, đặc biệt là cơ sở

chăm sóc NCT.

- Khuyến khích mô hình cơ sở chăm sóc NCT tự nguyện đóng góp kinh phí với

các dịch vụ đa dạng (chăm sóc bán trú/chăm sóc ban ngày, chăm sóc tại nhà...)

- Quy định rõ quy mô chăm sóc đối tượng tối đa của cơ sở TGXH để đảm bảo

chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng (ví dụ: tối đa 500 đối tượng/cơ sở chăm sóc).

- Mỗi địa bàn quận, huyện, thị xã có ít nhất 01 cơ sở TGXH (quy mô dưới 300

đối tượng); Không quá 01 cơ sở TGXH/01 xã, phường, thị trấn.

- Nhóm các cơ sở chăm sóc NCT ngoài công lập, bố trí mỗi địa bàn quận,

huyện, thị xã có ít nhất 01 cơ sở (Quy mô chăm sóc dưới 200 người).

- Đề xuất tỷ trọng nhân viên/đối tượng tại mỗi cơ sở để phù hợp với từng nhóm

đối tượng được chăm sóc (ví dụ NCT là đối tượng cần được chăm sóc 24/24 cần

nhiều nhân viên làm việc theo ca)

- Xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật về việc quy hoạch mạng lưới các

cơ sở TGXH, nhằm hạn chế việc các cơ sở TGXH phát triển chưa có định hướng,

còn manh mún, tự phát. Có thể đề xuất việc phân chia các cơ sở trợ giúp NCT theo

hướng quản lý nhà nước, hoặc phân chia theo dịch vụ để thuận tiện cho việc quản lý.

- Phân cấp quản lý cơ sở chăm sóc dựa theo công suất của cơ sở (gợi ý: cơ sở

dưới 50 giường do Phòng LĐTBXH cấp phép, 50-150 giường do Sở LĐTBXH cấp

phép, trên 150 giường do Bộ cấp phép)

CS về khuyến khích XHH (QĐ số 11/2015/QĐ-UBND ngày 19 tháng 05 năm 2015):

- Cần ban hành/cấp giấy chứng nhận cho cơ sở thực hiện XHH để đủ điều kiện

được hưởng CS khuyến khích xã hội hóa theo Khoản 2, Điều 1, QĐ số 11/2025/QĐ-

UBND. Nếu không, các cơ sở này không được hưởng CS theo quy định.

- Kết hợp với Sở Quy hoạch, Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố bố trí

quỹ đất hợp lý cho việc xây dựng các cơ sở XHH. Đảm bảo quỹ đất không có các dự

án khác đang được triển khai hoặc đang được sử dụng vào mục đích khác khiến việc

GPMB gặp khó khăn cho nhà đầu tư.

- Bố trí ngân sách và có cơ chế GPMB hoặc ứng vốn, cũng như hoàn trả vốn

144

cho nhà đầu tư đúng tiến độ, kịp thời theo quy định của NĐ 69/2008/NĐ-CP.

- Thực hiện việc hỗ trợ xây dựng cơ sở vật chất, quy định giá dịch vụ cho các

cơ sở công lập thực hiện XHH dịch vụ chăm sóc NCT để đáp ứng nhu cầu chăm sóc

phù hợp.

- Cân nhắc đề xuất mức giá trần cho dịch vụ phù hợp đối với các cơ sở nhận được

ưu đãi về giao đất/ cho thuê đất để đáp ứng nhiều hơn số lượng NCT có nhu cầu.

- Bổ sung văn bản hướng dẫn quy định cơ chế tự chủ cụ thể đối với các cơ sở

công lập.

- Nghiên cứu đề xuất CS hợp tác công tư giữa cơ sở công lập với các nhà đầu tư.

- Ưu tiên sự tham gia của các tổ chức phi lợi nhuận hoặc các tổ chức tôn giáo

trong việc cung cấp dịch vụ chăm sóc NCT trên địa bàn TP.

CS về tiêu chuẩn, quản lý và đào tạo nhận lực (QĐ 5188/QĐ-UBND ngày 09

tháng 12 năm 2021):

- Quy định lại phù hợp hơn về chế độ phụ cấp cho cán bộ cơ sở, đặc biệt là nhóm

cán bộ quản lý. Cụ thể hiện nay cán bộ quản lý được hưởng phụ cấp thực hiện các hoạt

động chăm sóc gián tiếp cho các đối tượng với mức 30%, tuy nhiên các hoạt động chăm

sóc tại cơ sở cần có sự tham gia trực tiếp của các cán bộ quản lý rất nhiều.

- Cần phối hợp với ngành Y tế, đào tạo nâng cao chuyên môn cho nhóm cán bộ

y tế tại cơ sở. Hiện tại các cán bộ y tế không được tham gia các chương trình đào tạo,

dẫn tới chất lượng chăm sóc về mặt y tế cho nhóm NCT chưa cao.

- Khuyến khích phát triển nguồn lao động chuyên nghiệp trong việc chăm sóc

NCT nhằm đáp ứng các nhu cầu chăm sóc đa dạng, chuyên sâu của NCT. Do sự

thiếu hụt về nguồn nhân lực có chất lượng trong CSDH người NCT hiện nay không

chỉ ở Việt Nam mà còn trên các quốc gia khác trên thế giới.

- Giải pháp cụ thể cho việc đào tạo chuyên môn, chuẩn hoá trình độ cho nguồn

nhân lực đang thực hiện hoạt động chăm sóc NCT hiện nay tại các cơ sở công lập và

ngoài công lập. Chẳng hạn phối hợp với các cơ sở đào tạo chính thống tại Hà Nội,

xây dựng các chương trình đào tạo mang tính thực hành và phù hợp với nhu cầu nhân

lực thực tế.

- Bổ sung những CS ưu đãi với nguồn nhân lực trong các cơ sở TGXH công lập

có tính đến yếu tố khu vực thành thị/ nông thôn.

Điều kiện thực hiện giải pháp

- Cần có sự ủng hộ của lãnh đạo các cơ quan quản lý thực hiện CS và các cơ

145

quan quản lý nhà nước cấp cao trong việc thực hiện các giải pháp cải thiện chất

lượng CS và chất lượng thực hiện CS.

- Có kế hoạch cụ thể trong việc triển khai các hoạt động nhằm nâng cao năng

lực chuyên môn cho các cán bộ CS.

- Có sự phối hợp với các Sở/Ban/Ngành khác nhằm thống nhất nội dung các CS

liên quan tránh quy định chồng chéo hoặc mâu thuẫn nhau.

- Có sự tham gia tích cực của các bên liên quan trong tiến trình đánh giá, rà soát

các văn bản CS cũng như trong hoạt động đánh giá thực hiện CS. Các bên liên quan

có thể bao gồm phòng ban khác trong nội bộ cơ quan thực hiện CS, đối tượng hưởng

lợi trực tiếp và gián của CS, các Sở/Ban/Ngành có liên quan.

- Có các nghiên cứu dự báo tổng quan theo từng lĩnh vực TGXH để xây dựng

quy hoạch sát thực tiễn.

4.3.2. Thúc đẩy các yếu tố bối cảnh nhằm hỗ trợ quá trình thực hiện chính sách

Mục tiêu của giải pháp

Quá trình thực hiện CS thành công phụ thuộc vào bối cảnh luật pháp-kinh tế-

xã hội-văn hoá nơi CS đó được ban hành và thực hiện. Do đó, để quá trình thực hiện

CS. đạt hiệu quả, các cơ quan quản lý CS cần tính toán tới sự phù hợp của các công

cụ CS với bối cảnh thực hiện, hoặc chủ động tạo ra các sự thay đổi về bối cảnh để

thúc đẩy quả trình thực hiện CS hiệu quả hơn. Ngoài bối cảnh về luật pháp-kinh tế-xã

hội bên ngoài, thì yếu tố liên quan tới bối cảnh bên trong nội bộ cơ quan quản lý thực

hiện CS cũng ảnh hưởng tới quá trình thực hiện. Bối cảnh bên trong này bao gồm các

yếu tố như sự đồng thuận về mặt quan điểm giữa các nhà lãnh đạo và cán bộ thực

hiện, các cơ chế quản lý vận hành, khuyến khích, khen thưởng phù hợp.

Mục tiêu của giải pháp này nhằm đưa ra các gợi ý cho các cơ quan thực hiện

CS tại Hà Nội, trong quá trình triển khai thực hiện một CS cụ thể, xem xét điều chỉnh

và tạo ra các yếu tố thuộc về bối cảnh (bên trong và bên ngoài) mang tính phù hợp,

đáp ứng được với mục tiêu và các giải pháp của CS.

Nội dung của giải pháp

Các giải pháp mang tính nội bộ/bên trong

Lãnh đạo cơ quan quản lý thực hiện CS tìm hiểu, nắm rõ mục tiêu và các giải

pháp CS: Lãnh đạo cấp quản lý trực tiếp của các cán bộ thực thi CS tại cấp Sở/Phòng

thông qua các trao đổi (chính thức và không chính thức) với các cán bộ thực hiện CS

146

nhằm thống nhất chung định hướng và phương hướng triển khai CS cho toàn bộ

những thành viên liên quan. Tránh tình trạng chỉ duy nhất cán bộ phụ trách thực hiện

CS có hiểu biết nội dung CS đó.

Nâng cao nhận thức về chính sách cho cán bộ thực hiện chính sách: Thực hiện

các hoạt động nâng cao nhận thức cho chính các cán bộ CS về xu hướng già hoá dân

số, các cách tiếp cận và mô hình chăm sóc sức khoẻ NCT phổ biến hiện nay thông

qua các chương trình đào tạo nội bộ, hoặc tạo điều kiện cho cán bộ nhân viên tham

gia các hoạt động trao đổi chuyên môn trong hệ thống hoặc liên ngành.

Xây dựng ban triển khai CS nội bộ: Phân công trách nhiệm cụ thể cho các cán

bộ thực hiện CS (với sự phù hợp về năng lực: lực điều chỉnh, bổ sung và đánh giá, rút

kinh nghiệm thực hiện CS), có người chịu trách nhiệm chính và những thành viên

phối hợp khác. Ban thực hiện CS chịu trách nhiệm lên kế hoạch triển khai CS, xây

dựng cơ chế phối hợp, giải trình trách nhiệm, kiểm tra, báo cáo tiến độ công việc rõ

ràng giữa các thành viên.

Cơ chế thi đua khen thưởng phù hợp: Dựa theo các quy định về mặt thi đua,

khen thưởng của đơn vị, làm rõ các tiêu chí đánh giá khen thưởng dành cho ban thực

hiện CS nhằm khuyến khích tinh thần và kết quả việc thực hiện triển khai CS.

Các giải pháp bên ngoài

Giáo dục, phổ biến chính sách: Phổ biế rộng rãi các văn bản quy phạm pháp

luật mang tính định khung (Luật NCT, Chương trình hành động Quốc gia về NCT)

về công tác chăm sóc NCT cũng như việc phát triển các DVCS NCT, hỗ trợ NCT tới

các đối tượng tham gia tiến trình thực hiện CS. Điều này nhằm đảm bảo sự thống

nhất về mặt quan điểm cũng như các hành động cụ thể được quy định mang tính pháp

lý về chăm sóc, hỗ trợ NCT, cũng như tạo nền tảng tốt cho việc triển khai các CS cụ

thể liên quan. Việc phổ biến có thể được thực hiện qua nhiều kênh khác nhau, từ

chính thức tới không chính thức hoặc lồng ghép vào các chương trình truyền thông

nâng cao nhận thức khác trong cơ quan thực hiện CS.

Truyền thông về NCT, dịch vụ chăm sóc và chính sách liên quan: Sở LĐTBXH

và UBND TP Hà Nội Kết hợp với các Ban/Bộ/Ngành hoặc Phòng ban chức năng,

thực hiện đa dạng hóa các hình thức truyền thông, nâng cao nhận thức của các cấp,

ngành và cộng đồng xã hội về tác động và thích ứng với vấn đề già hóa dân số, biến

đổi khí hậu, dịch bệnh, cách mạng công nghiệp lần thứ tư, chuyển đổi số tác động

đến đời sống của NCT; trách nhiệm của gia đình, cộng đồng xã hội và nhà nước

147

trong việc chăm sóc, phát huy vai trò của NCT.

Tạo sự đồng thuận và thống nhất: Vận động sự tham gia tích cực của các cơ

quan quản lý cấp cao, hoặc các cơ quan quản lý và thực hiện CS liên ngành, nhằm

tạo môi trường đồng thuận, thống nhất trong hệ thống quản lý nhà nước phục vụ cho

quá trình triển khai được thuận lợi, tránh những cản trở về mặt thủ tục hành chính,

hoặc các vấn đề liên quan tới xung đột về mặt lợi ích.

Bố trí ngân sách phù hợp: Các Sở/ban/ngành có liên quan đề xuất bố trí nguồn

ngân sách của UBND TP phù hợp và ưu tiên cho các hoạt động hỗ trợ phát triển các

cơ sở TGXH có chăm sóc NCT, đặc biệt các cơ sở thực hiện XHH. Đẩy nhanh tiến

độ giải ngân cho các dự án xây dựng, cải tạo các cơ sở TGXH hiện chưa đáp ứng

được điều kiện thực hiện các hoạt động XHH chăm sóc NCT.

Đề xuất mô hình chăm sóc NCT: Sở LĐTBXH TP nghiên cứu đề xuất triển khai

các mô hình chăm sóc NCT phù hợp với xu thế bao gồm các DVCS dựa vào cộng

đồng, DVCS tại nhà, DVCS ban ngày, các dịch vụ tích hợp giữa y tế và chăm sóc tập

trung dài hạn, các dịch vụ hợp tác công tư (PPP) trong chăm sóc NCT.

Điều kiện thực hiện giải pháp

- Sự cam kết của lãnh cơ quan quản lý trong việc tìm hiểu, chỉ đạo, triển khai

các hoạt động nhằm hỗ trợ các cán bộ thực hiện CS. Bao gồm việc thành lập ban thực

hiện CS, các cơ chế đào tạo năng lực, khuyến khích sự tham gia của các cán bộ này.

- Có các cán bộ CS cam kết và phù hợp về mặt năng lực chuyên môn tham gia

vào ban thực hiện CS để đảm bảo chất lượng vận hành của nhóm với các hoạt động

nội bộ và phối hợp bên ngoài.

- Nguồn ngân sách được bố trí phù hợp để thực hiện các hoạt động khuyến

khích, hỗ trợ việc phát triển cơ sở chăm sóc NCT cũng như tiến độ giải ngân nhanh

chóng, các thủ tục hành chính được giải quyết nhanh chóng.

4.3.3. Nâng cao hoạt động truyền thông về chính sách

Mục tiêu của giải pháp

Nhiều CS thực hiện không thành công bởi không có sự thống nhất/hiểu chung

về mục tiêu và các giải pháp CS. Sự không thống nhất có thể thậm chí nằm trong nội

bộ cơ quan quản lý CS và các bên liên quan trong quá trình thực hiện CS. Theo

nghiên cứu của luận án này, rất nhiều đối tượng hưởng lợi chính của các CS phát

triển cơ sở chăm sóc NCT tại Hà Nội không biết tới sự tồn tại của các CS. Do đó,

148

dường như CS không hề có tác động gì tới nhóm “không biết” này.

Mục tiêu của giải pháp tập trung vào đưa ra các gợi ý nhằm giúp cho các hoạt

động truyền thông về CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT hiệu quả hơn, các đối tượng

đều có thể tiếp cận được các văn bản CS và từ đó được hưởng lợi từ các CS này.

Nội dung của giải pháp

Đa dạng các phương tiện truyền thông: Sở LĐTBXH và UBND TP Hà Nội

phối hợp vớic các bên liên quan thực hiện các hoạt động truyền thông nội bộ và bên

ngoài về nội dung các CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT thông qua các kênh truyền

thông chính thức và phi chính thức (có thể qua mạng lưới/hội/nhóm các cơ sở chăm

sóc NCT hoặc các nhà đầu tư đang có mong muốn đầu tư vào lĩnh vực này). Sử dụng

các phương tiện truyền thông đa dạng như video, hình ảnh, và các nền tảng truyền

thông xã hội để tăng tính tiếp cận tới nhiều đối tượng đích khác nhau. Điều này có

thể được thực hiện thông qua việc phối hợp sử dụng các kênh truyền thông như báo

chí, truyền hình, radio, mạng xã hội, các cuộc họp và các hoạt động tương tác trực

tiếp với các nhóm đối tượng hưởng lợi CS. Bên cạnh đó, có thể đầu tư xây dựng các

kênh truyền thông/hệ thống thông tin (cổng thông tin điện tử) nhằm cung cấp đầy đủ

nhất các thông tin về CS mà các cơ sở TGXH có thể tiếp cận một cách rõ ràng và có

tính hệ thống. Cùng với đó, thực hiện viện truyền thông về chính các công cụ/nền

tảng này tới các đối tượng CS và các bên liên quan.

Tăng cường mạng lưới cộng tác truyền thông: Sở LĐTBXH và UBND TP phối

hợp chặt chẽ với các tổ chức xã hội như Hội người cao tuổi, các cơ sở chăm sóc NCT

đang hoạt động trên địa bàn Hà Nội, các tổ chức phi chính phủ làm việc với NCT,

các nhà nghiên cứu, các cá nhân/doanh nghiệp đang có nhu cầu đầu tư vào việc cung

cấp DVCS NCT cùng phối hợp thực hiện các hoạt động truyền thông về CS. Bên

cạnh đó mở rộng mạng lưới thông tin cộng đồng thông qua hệ thống chính quyền địa

phương, hoặc các ban ngành đoàn thể có liên quan nhằm tuyên truyền về các CS hiện

hành liên quan tới việc phát triển cơ sở chăm sóc NCT.

Truyền thông tích hợp: đây là một phương pháp truyền thông mà các cơ quan

CS có thể áp dụng để tăng cường hiệu quả và tiết kiệm chi phí. Bằng cách tích hợp

các nội dung truyền thông về CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT vào các hoạt động

tại cộng đồng thông qua chương trình của các ban ngành đoàn thể hoặc chính quyền

địa phương, các thông điệp về CS có thể được truyền tải một cách hiệu quả và tiếp

149

cận được một lượng lớn người dân trong cộng đồng.

Chia sẻ thông tin và kiến thức liên ngành: Sở LĐTBXH và UBND cần tạo ra

các cơ chế và nền tảng để chia sẻ thông tin và kiến thức liên quan đến CS cho các

ban/bộ/ngành liên quan. Điều này có thể bao gồm việc xây dựng cơ sở dữ liệu chung,

tổ chức các hội thảo và buổi tọa đàm, và sử dụng các công nghệ thông tin để tạo ra

một hệ thống giao tiếp liên ngành hiệu quả.

Đánh giá và định hướng lại chiến dịch truyền thông: Sở LĐTBXH và UBND

TP cần thường xuyên đánh giá hiệu quả của các hoạt động truyền thông và điều

chỉnh chiến dịch truyền thông theo kết quả đánh giá. Việc này giúp đảm bảo rằng

thông tin về CS được truyền tải một cách hiệu quả và đúng đối tượng mục tiêu. Đồng

thời, các cơ quan cần thể hiện sự linh hoạt trong việc thay đổi và cải tiến chiến dịch

truyền thông để đáp ứng các thay đổi trong nhu cầu và mong muốn của đối tượng

mục tiêu. Cùng với đó, nghiên cứu đánh giá về tính hiệu quả hoặc xu hướng truyền

thông phù hợp. Chẳng hạn hiện nay việc truyền thông không chính thức phát triển

hơn, đặc biệt thông qua các nền tảng mạng xã hội.

Điều kiện thực hiện giải pháp

- Để thực hiện thành công các giải pháp tăng cường truyền thông về CS phát

triển cơ sở chăm sóc NCT tại Hà Nội, Sở LĐTBXH và UBND cần có sự tổ chức và

quản lý hiệu quả trong việc phân công nhiệm vụ, sự điều phối và quản lý thông tin,

và việc xác định và theo dõi các chỉ tiêu và tiến độ.

- Các kênh truyền thông chính thức và phi chính thức được xây dựng và vận

hành có hiệu quả, đối tượng hưởng lợi và các biên liên quan biết tới CS.

- Các mạng lưới truyền thông phi chính thức được xây dựng, và vận hành trong

đó có sự đồng thuận và cam kết tham gia của các bên liên quan.

- Sự đầu tư và phối hợp về mặt công nghệ thông tin với các đơn vị cung cấp

dịch vụ đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện các giải pháp truyền thông hiệu

quả. Các công cụ và nền tảng công nghệ có thể được sử dụng để chia sẻ thông tin,

quản lý dữ liệu và tương tác với cộng đồng một cách nhanh chóng và tiện lợi.

- Ngân sách và nhân lực được bố trí cho việc xây dựng các chương trình truyền

thông, cổng thông tin điện tử giúp các đối tượng CS có thể được tiếp cận các thông

tin một cách thuận tiện, đầy đủ và cập nhật mới nhất.

4.3.4. Nâng cao năng lực phối hợp liên ngành

150

Mục tiêu của giải pháp

Ngành LĐTBXH hiện đang là đơn vị chủ quản thực hiện các CS liên quan tới

phát triển cơ sở chăm sóc NCT. Trong hầu hết các văn bản CS đều chỉ rõ sự phối hợp

tham gia của các Ban/Bộ/Ngành khác, dưới sự điều phối chính của ngành LĐTBXH

trong việc triển khai các CS. Tuy nhiên từ kết quả nghiên cứu trong luận án cho thấy

việc phối hợp này còn lỏng lẻo, không có cơ chế phối hợp rõ ràng dẫn tới việc không

thống nhất trong quá trình triển khai thực hiện.

Giải pháp này nhằm giúp cho việc phối hợp liên ngành đạt hiệu quả trong suốt

quá trình thực hiện các CS, tạo ra sự đồng bộ, thống nhất và bổ sung cho nhau.

Nội dung của giải pháp

Thiết lập cơ chế phối hợp rõ ràng: Sở LĐTBXH và UBND TP Hà Nội cần thiết

lập một cơ chế phối hợp rõ ràng và định rõ vai trò, trách nhiệm và quyền hạn của

từng ban, bộ, ngành trong quá trình thực hiện CS. Bên cạnh đó, cùng giải quyết các

vấn đề chồng chéo về thủ tục, quy định hành chính hay về nội dung các văn bản CS.

Việc này giúp tạo ra sự đồng bộ và thống nhất trong việc triển khai các giải pháp CS,

đồng thời giảm thiểu mâu thuẫn và xung đột trong quá trình làm việc. Ví dụ, sở

LĐTBXH có thể phối hợp với các bên liên quan để thực hiện một số công việc cụ thể

bao gồm:

- Phối hợp với ngành Y tế xem xét việc quản lý các hoạt động chăm sóc y tế tại

các cơ sở chăm sóc NCT, chuẩn hoá quy trình chăm sóc, thực hiện các chức năng

liên quan tới thăm khám và điều trị cũng như đào tạo nâng cao năng lực cho các cán

bộ y tế tại các cơ sở này.

- Phối hợp với Sở Tài nguyên và Môi trường trong việc sắp xếp quỹ đất cho

việc xây dựng các cơ sở chăm sóc NCT theo quy hoạch tổng thể của Thành phố.

- Phối hợp/khuyến nghị với Bộ tài chính trong việc thực hiện các hoạt động xây

dựng định mức ngân sách hỗ trợ phát triển các cơ sở trợ giúp XH, quy định khung

chi tiết mức giá các dịch vụ XHH chăm sóc NCT.

- Phối hợp với ngành Xây dựng trong việc đưa ra các tiêu chuẩn xây dựng phù hợp

với chức năng chăm sóc NCT cũng như các quy định liên quan tới việc cấp phép.

Tăng cường giao tiếp và trao đổi thông tin: Việc tăng cường giao tiếp và trao

đổi thông tin giữa các ban, bộ, ngành có vai trò quan trọng trong việc cải thiện sự

phối hợp. Cần tổ chức định kỳ các cuộc họp, hội thảo, và buổi tọa đàm để chia sẻ

151

thông tin, cập nhật tình hình, thảo luận về các vấn đề liên quan đến phát triển cơ sở

chăm sóc NCT. Đồng thời, cần sử dụng các công nghệ thông tin để tăng cường

truyền thông và quản lý thông tin một cách hiệu quả.

Xây dựng cơ chế điều phối chính: Cần xác định một ngành chủ quản hoặc một

đơn vị có trách nhiệm chính trong việc điều phối và quản lý các hoạt động liên ngành

liên quan đến chăm sóc NCT, ở đây có thể xác định chính là sở LĐTBXH TP. Đơn vị

này sẽ đảm nhận vai trò điều phối, giám sát và đồng bộ hóa các hoạt động của các

ban, bộ, ngành, đảm bảo sự thống nhất và hiệu quả trong quá trình thực hiện CS.

Phân công trách nhiệm cho cán bộ CS lập danh sách chi tiết các liên ngành cần phối

hợp, tìm hiểu cụ thể các CS được ban hành của mỗi ngành có liên quan tới việc phát

triển cơ sở chăm sóc NCT. Cụ thể như là việc phối hợp với các bên như: Y tế, Kế

hoạch và Đầu tư, Tài chính, Xây dựng, Tài nguyên môi trường, …Hoặc phối hợp

chặt chẽ với UBND Thành phố trong việc ban hành các quyết định, hướng dẫn cụ thể

việc thực hiện các CS.

Xây dựng cơ chế "Một cửa": Đây là một giải pháp quan trọng để tạo ra một môi

trường thuận lợi cho sự phối hợp liên ngành trong việc thực hiện CS phát triển cơ sở

chăm sóc NCT tại Hà Nội. Xuất phát từ kết quả nghiên cứu cho thấy các chủ cơ sở

(đặc biệt là nhóm ngoài công lập) thường gặp khó khăn trong việc hoàn thiện các thủ

tục CS và dẫn tới bỏ cuộc hoặc mất rất nhiều thời gian, công sức để hoàn thành. Để

thực hiện được cơ chế này, cần thành lập một cơ quan quản lý hoặc bộ phận chịu

trách nhiệm về quản lý và vận hành cơ chế "Một cửa". Cơ quan này sẽ đảm nhận vai

trò là điểm tiếp nhận chung và cung cấp các dịch vụ liên quan đến phối hợp liên

ngành. Đây là một điểm tiếp nhận chung cho các vấn đề CS các cơ sở quan tâm, hoặc

là nơi giúp các cơ sở có thể tiếp cận thông tin và tài liệu, gửi yêu cầu, cung cấp đóng

góp ý kiến và nhận được phản hồi một cách thuận tiện và nhanh chóng.

Điều kiện thực hiện giải pháp

- Ý thức và cam kết từ các bên liên quan: Tất cả các bên liên quan phải có ý thức

về tầm quan trọng của phối hợp và cam kết thực hiện các hoạt động phối hợp một

cách chủ động và hiệu quả. Điều này đòi hỏi sự nhận thức về lợi ích của phối hợp và

ý thức về việc chia sẻ thông tin, tài nguyên và trách nhiệm.

- Sự lãnh đạo và điều phối hiệu quả: Cần có sự lãnh đạo và điều phối chính xác từ

các cơ quan, tổ chức hoặc đơn vị chịu trách nhiệm như sở LĐTBXH. Sự lãnh đạo

này cần đảm bảo sự thống nhất trong quyết định, phân công và quản lý hoạt động

152

phối hợp, đồng thời tạo điều kiện để các bên liên quan có thể gắn kết và hỗ trợ lẫn nhau.

- Môi trường hỗ trợ và khung pháp lý: Cần có một môi trường hỗ trợ và khung

pháp lý thuận lợi cho phối hợp liên ngành. Điều này bao gồm việc định rõ vai trò,

trách nhiệm và quyền hạn của các bên liên quan, cung cấp các quy định và hướng

dẫn rõ ràng về phối hợp và tạo ra các cơ chế khuyến khích và khen thưởng để thúc

đẩy sự phối hợp hiệu quả.

- Cơ chế giao tiếp và chia sẻ thông tin: Cần thiết lập các cơ chế giao tiếp và chia

sẻ thông tin định kỳ và đa chiều giữa các bên liên quan. Các cơ chế này có thể bao

gồm cuộc họp định kỳ, hội thảo, diễn đàn trực tuyến và các công cụ trao đổi thông tin

khác. Sự giao tiếp và chia sẻ thông tin hiệu quả giúp tạo ra sự thông nhất và thống

nhất trong quá trình phối hợp.

- Tài trợ và nguồn lực đủ: Để đảm bảo sự phối hợp liên ngành được thực hiện

hiệu quả, cần cung cấp đủ tài trợ và nguồn lực cho các hoạt động phối hợp. Điều này

bao gồm cung cấp nguồn lực về nhân lực, tài chính, công nghệ, hạ tầng và các nguồn

lực khác cần thiết để thực hiện các hoạt động phối hợp một cách hiệu quả. Các nguồn

lực này có thể được huy động từ các bên liên quan, từ ngân sách công cộng hoặc từ

các nguồn tài trợ nội bộ hoặc quốc tế.

- Đánh giá và theo dõi: Cần thiết lập các cơ chế đánh giá và theo dõi quá trình

phối hợp liên ngành để đảm bảo tính hiệu quả và thúc đẩy cải tiến liên tục. Điều này

có thể bao gồm việc thiết lập các tiêu chí đánh giá, quy trình thu thập dữ liệu, cơ chế

báo cáo và phản hồi, và sự tham gia của các bên liên quan trong quá trình đánh giá và

theo dõi.

4.3.5. Nâng cao sự cam kết nội bộ và các bên tham gia

Mục tiêu của giải pháp

Sự cam kết và tham gia đầy đủ của nội bộ cơ quan thực hiện CS và các bên liên

quan trong quá trình thực hiện CS đã được chứng minh có ảnh hưởng mạnh mẽ tới

hiệu quả thực hiện CS. Về bản chất, hoạch định CS hay thực hiện CS đều là những

tiến trình phức tạp và chịu sự tác động của rất nhiều các yếu tố liên quan (bên trong

và bên ngoài hệ thống). Không tồn tại một CS nào mà không có sự tham gia của ít

nhất cơ quan ban hành và thực hiện CS với các đối tượng hưởng lợi CS. Bởi chịu sự

ảnh hưởng mạnh mẽ của các bên liên quan, cho nên nỗ lực của mỗi bên tham gia là

một yếu tố quan trọng giúp cho các giải pháp CS được triển khai thành công.

Mục tiêu của giải pháp này nhằm giúp cơ quan thực hiện CS khuyến khích

153

được sự cam kết tốt hơn từ nội bộ và của các bên liên quan trong quá trình triển khai

các CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT trên địa bàn Hà Nội từ đó đóng góp vào việc

triển khai sự thành công của các CS này.

Nội dung của giải pháp

Đối với sự cam kết nội bộ cơ quan thực hiện CS

Tạo sự thống nhất, đồng thuận trong nội bộ: Mục tiêu, kế hoạch, cách thức

triển khai hỗ trợ các CS cần được cơ quan thực hiện CS thống nhất và đảm bảo các

thành viên có cách hiểu chung nhất về nội dung CS và các giải pháp CS đưa ra.

Rà soát lại và hoàn thiện quy trình các thủ tục hành chính: Các thủ tục liên

quan tới việc cấp phép, hỗ trợ các cơ sở chăm sóc NCT cần được ra soát cẩn thận.

Đảm bảo các thủ tục hành chính được giải quyết trong những khoảng thời gian theo

quy định, có các chỉ dẫn cụ thể trong việc thực hiện các thủ tục, đặc biệt là các thủ

tục hành chính mang tính liên ngành.

Thiết lập kênh tiếp nhận thông tin và phản hồi: Sở LĐTBXH và UBND TP Hà

Nội chủ động tạo ra các kênh thông tin nhằm tiếp nhận các thắc mắc, phản hồi của cơ

sở trong quá trình tiếp cận, hưởng thụ CS và phản hồi các thông tin này một cách phù

hợp, nhanh chóng với các hướng dẫn cụ thể.

Bố trí nhân sự ổn định: Bố trí nhân sự có chuyên môn phù hợp và ổn định

trong quá trình triển khai các CS, trong trường hợp có những sự thay đổi về nhân sự,

cần thông báo cho các bên liên quan, đặc biệt là nhóm đang được hỗ trợ trực tiếp.

Thực hiện việc chuẩn hoá, đào tạo cán bộ CS để đảm bảo chất lượng công việc.

Sự cam kết bên ngoài

Xây dựng chương trình đào tạo và tăng cường nhận thức: Sở LĐTBXH và

UBND TP Hà Nội có thể phối hợp xây dựng chương trình đào tạo nhằm nâng cao

nhận thức về tầm quan trọng và lợi ích của các CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT.

Chương trình này có thể được thiết kế cho các cán bộ quản lý, nhân viên và các bên

liên quan khác, giúp họ hiểu rõ hơn về mục tiêu, giá trị và quy trình triển khai của

các CS, từ đó tăng sự cam kết và đồng lòng trong quá trình thực hiện.

Thảo luận chính sách và phân công nhiệm vụ phù hợp: Tổ chức và khuyến

khích các Ban/Bộ/Ngành liên quan tham gia vào các thảo luận CS, từ đó xác định

nhiệm vụ vai trò cụ thể mỗi bên tham gia trong quá trình phối hợp thực hiện CS.

Đồng thời khuyến khích các cơ quan quản lý cấp cơ sở (UBND phường/xã, phòng

154

LĐTBXH) tham gia vào quá trình giám sát thực hiện các CS.

Tăng cường giám sát: Thực hiện các hoạt động truyền thông, khuyến khích các

cá nhân, đơn vị tham gia đóng góp vào các hoạt động giám sát thực hiện và các

khuyến nghị cải thiện nội dung CS. Ghi nhận sự đóng góp bằng nhiều hình thức khác

nhau cho các đối tượng tham gia trong quá trình thực hiện CS thông qua khen

thưởng, vinh danh, hoặc các hỗ trợ về mặt tài chính (nếu có thể).

Điều kiện thực hiện giải pháp

- Tính chủ động và cam kết từ Sở LĐTBXH và UBND TP Hà Nội: Điều này yêu

cầu sự cam kết mạnh mẽ và quyết tâm từ các cơ quan chủ quản để thúc đẩy sự phối

hợp và khuyến khích các bên liên quan. Sở LĐTBXH và UBND TP Hà Nội nên có

sự lãnh đạo tốt, xây dựng chiến lược rõ ràng và sẵn lòng cung cấp nguồn lực cần thiết

để thực hiện các giải pháp.

- Thể hiện sự cam kết bằng hành động cụ thể: Sự cam kết bằng hành động cụ

thể của các lãnh đạo cơ quan thực hiện CS, bao gồm việc xây dựng kế hoạch, xây

dựng đội ngũ, chủ động phối hợp với các bên liên quan trong việc triển khai thực

hiện CS.

- Tài chính và nguồn lực: Để thực hiện các giải pháp, cần có nguồn lực tài

chính, nhân lực và vật chất đủ để xây dựng và triển khai các chương trình, đào tạo,

hội thảo, cơ chế phối hợp, và các hoạt động khác. Sự hỗ trợ tài chính từ UBND TP

Hà Nội và các đối tác khác là cần thiết để đảm bảo thực hiện các giải pháp.

- Giám sát và ghi nhận sự đóng góp: Có cơ chế giám sát, đánh giá và hỗ trợ kịp

thời đối với những vướng mắc trong nội bộ cơ quan thực hiện CS và các cơ quan

phối hợp cũng như đối với đối tượng hưởng lợi CS. Những đóng góp của các bên liên

quan được xem xét, thay đổi và được ghi nhận một cách phù hợp. Các cơ chế khen

thưởng, đảm bảo an sinh cho cán bộ thực hiện CS được thực hiện.

4.3.6. Nâng cao năng lực, nguồn lực thực hiện CS

Giải pháp này nhằm giúp cơ quan quản lý thực hiện CS sắp xếp, bố trí các nguồn

lực một cách phù hợp nhất nhằm đóng góp cho quá trình thực hiện CS thành công.

Nội dung của giải pháp

Bố trí ngân sách phù hợp: Sở LĐTBXH và các ban ngành liên quan đề xuất với

UBND việc phân bổ ngân sách chi tiết và đẩy nhanh tiến độ giải ngân đối với việc

triển khai các dự án xây dựng cơ sở chăm sóc NCT trên địa bàn thành phố, các hoạt

động trợ giúp cơ sở chăm sóc NCT ngoài công lập. Đảm bảo tiến độ các dự án cũng

155

như kịp thời giải quyết CS được hưởng lợi của các cơ sở.

Nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực: Mục tiêu là đảm bảo sự hiệu quả và tối

ưu hóa việc sử dụng các nguồn lực có sẵn. Điều này có thể đạt được thông qua quản

lý tài chính chặt chẽ, tăng cường sự đào tạo và nâng cao năng lực của cán bộ quản lý,

áp dụng công nghệ và quy trình hiện đại để tối ưu hóa quá trình chăm sóc NCT và sử

dụng nguồn lực.

Rà soát và khuyến nghị chính sách: Rà soát lại các nội dung CS liên quan tới hỗ

trợ đầu tư, giải phóng mặt bằng, cơ chế ứng vốn hoặc các quy định về đầu tư cơ sở

vật chất, trang thiết bị cho các cơ sở TGXH (đặc biệt là nhóm công lập), từ đó có

những kiến nghị với UBND Thành phố trong việc bố trí nguồn ngân sách và các cơ

chế cụ thể cho việc thực hiện các giải pháp này trong tương lai. Xem xét thêm vấn đề

quy hoạch sử dụng đất của Thành phố để đề nghị việc sắp xếp quỹ đất phù hợp cho

việc xây dựng các cơ sở chăm sóc NCT theo QĐ 2230/QĐ-UBND ngày 22/05/2025

về việc quy hoạch mạng lưới cơ sở xã hội đến năm 2020, và định hướng tới 2030. Rà

soát lại các cơ sở chăm sóc NCT/cơ sở TGXH trên địa bàn Hà Nội hiện chưa nhận

được sự hỗ trợ của NSNN, hoặc các đề xuất liên quan tới tài chính chưa được giải

quyết. Phối hợp với UBND và các cơ quan chức năng khác tiến hành xây dựng kế

hoạch giải ngân phù hợp theo lộ trình.

Mở rộng cơ chế đầu tư nước ngoài: Huy động từ các nguồn tài chính, nguồn

vốn ngoài nhà nước phục vụ cho việc đầu tư nâng cấp, mở rộng và phát triển cơ sở

TGXH theo định hướng tới 2050 thông qua kêu gọi các dự án đầu tư xây dựng cơ sở

vật chất, cung cấp trang thiết bị cho các cơ sở công lập (hiện nay cơ sở vật chất đang

xuống cấp, trang thiết bị không đầy đủ hoặc cũ hỏng).

Nâng cao năng lực thực hiện chính sách: Thường xuyên thực hiện các hoạt

động nâng cao năng lực cho cán bộ CS thông qua các chương trình hội thảo, đào nội

bộ và các chương trình đào tạo chuyên môn sâu ngoài tổ chức. Nâng cao các năng

lực của cán bộ CS bao gồm: năng lực dựng kế hoạch và triển khai thực hiện CS; năng

lực phổ biến, tuyên truyền CS; năng lực phân công, phối hợp thực hiện; năng lực duy

trì CS; năng lực điều chỉnh CS; năng lực theo dõi, kiểm tra đôn đốc CS; năng lực

đánh giá tổng kết rút kinh nghiệm thực hiện CS. Thực hiện việc giám sát chuyên môn

chặt chẽ đối với các cán bộ CS, kịp thời hỗ trợ những vướng mắc cho cán bộ trong

156

quá trình tham gia triển khai các CS hiện hành.

Điều kiện thực hiện giải pháp

- Sự ủng hộ và cam kết và phối hợp của UBND Thành phố cũng như các

Ban/Ngành liên quan trong việc lập kế hoạch ngân sách, thực hiện việc giải ngân

theo đúng tiến độ. Đảm bảo nguồn tài chính ổn định và đủ để đầu tư vào cơ sở hạ

tầng, trang thiết bị và đáp ứng các yêu cầu khác trong việc nâng cao năng lực và

nguồn lực.

- Kế hoạch đào tạo nâng cao năng lực cho CBNV trong hệ thống về các năng lực

liên quan tới thực hiện CS được UBND hoặc lãnh đạo Sở chấp thuận và triển khai.

- Có cơ chế trong việc huy động nguồn vốn đầu tư từ khu vực tư nhân, đầu tư

nước ngoài đảm bảo hợp pháp, mang lại lợi ích cho cả phía đầu tư và phía tiếp nhận

- Sự phối hợp của các cơ sở chăm sóc NCT trong việc rà soát, đánh giá những

tồn tại liên quan tới việc tiếp nhận ngân sách, hoặc hiện trạng các vấn đề/hạng mục

cần được đầu tư nâng cấp, sửa chữa.

4.3.7. Xây dựng các liên minh thực hiện CS

Mục tiêu của giải pháp

Sự tham gia của đối tượng CS và các bên liên quan khác bao gồm: các nhóm lợi

ích, nhóm tôn giáo, doanh nghiệp, các tổ chức không thuộc nhà nước trong tiến trình

hoạch định CS và thực hiện CS cũng là yếu tố cần được quan tâm. Cơ quan thực hiện

CS cần thiết lập được các mối liên hệ chặt chẽ với các nhóm này, bởi sự đóng góp

của họ có những tác động nhất định tới sự thành công của CS. Tuy không có vai trò

quyết định lớn, nhưng các liên minh giúp đóng góp ý kiến từ thực tế, giúp các giải

pháp CS gần gũi hơn cũng như trong quá trình thực hiện nếu mục tiêu và giải pháp

được nhìn nhận và hiểu chung, thống nhất thì quá trình triển khai sẽ luận lợi, được

ủng hộ tích cực từ các nhóm này.

Tạo ra được các liên minh và duy trì mối quan hệ này trong suốt quá trình thực

hiện CS được xem là mục tiêu của giải pháp này.

Nội dung của giải pháp

Xây dựng các liên minh thực hiện chính sách: Cơ quan quản lý thực hiện CS

thành lập mạng lưới/nhóm/hội các cơ sở chăm sóc NCT, các tổ chức xã hội, ngành y

tế, các đơn vị nghiên cứu và các bên liên quan khác nhằm cung cấp thông tin, phối

hợp thực hiện, lắng nghe phản hồi. Mạng lưới này sẽ tạo ra một sự liên kết và sự phối

hợp chặt chẽ giữa các bên để chia sẻ thông tin, kinh nghiệm và tài nguyên, cùng nhau

157

thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT. Mạng lưới/nhóm/hội vận hành dưới sự

điều phối của cơ quan quản lý trực tiếp, khuyến khích các hoạt động trao đổi mang

tính góp ý xây dựng tích cực nhằm cải thiện quá trình thực hiện CS.

Chia sẻ thông tin và kinh nghiệm: Xây dựng hệ thống giao tiếp và chia sẻ thông

tin giữa các cơ sở chăm sóc NCT và các đối tác liên quan. Việc chia sẻ thông tin và

kinh nghiệm giữa các thành viên trong liên minh giúp tăng cường kiến thức và năng

lực chung, từ đó nâng cao chất lượng DVCS NCT. Khuyến khích sự tham gia của các

đối tượng hưởng lợi trực tiếp và gián tiếp từ các CS trong quá trình ra soát, đánh giá

thực hiện CS bằng nhiều hình thức khác nhau như góp ý trực tiếp, thông qua văn bản,

thông qua email hoặc các nền tảng giao tiếp phổ biến hiện nay như Zalo, facebook,

hoặc trên các cổng thông tin điện tử của cơ quan quản lý CS.

Thực hiện các hoạt động đối thoại CS: Thường xuyên tổ chức các hoạt động đối

thoại CS có sự tham gia của các liên minh theo định kỳ, nhằm thu thập các ý kiến

đóng góp, hoàn thiện các văn bản CS và quá trình thực hiện CS. Việc đối thoại có thể

diễn ra trực tiếp, tuy nhiên cơ quan quản lý CS cũng có thể xây dựng các nền tảng,

công cụ giao tiếp phù hợp (như đã được nhắc đến ở trên) với các nhóm đối tượng

khác nhau. Cơ quan quản lý CS tổng hợp các ý kiến đóng góp của các liên minh này

nhằm phục vụ cho các khuyến nghị CS đối với các cấp chịu trách nhiệm ban hành

CS. Thông báo cho các bên khi có những tác động thay đổi nhất định nhằm khuyến

khích sự tham gia tích cực hơn (bởi thường các bên không tham gia vì thấy tiếng nói

không được xem xét và không tạo ra những thay đổi cụ thể).

Liên minh trong nội bộ cơ quan thực hiện chính sách: Trong nội bộ cơ quan

thực hiện CS, cũng cần tạo ra được các nhóm mang tính hỗ trợ việc triển khai CS.

Điều này xuất phát từ vấn đề thiếu hụt nhân lực quản lý thực hiện CS trong các cơ

quan thực hiện CS. Nhóm nhân lực này cần có thêm sự hỗ trợ, có thể không thường

trực, nhưng đặc biệt trong các giai đoạn có những biến động ảnh hưởng tới quá trình

thực hiện và đòi hỏi nguồn nhân lực nhiều hơn. Ví dụ giai đoạn dịch bệnh Covid-19,

nhu cầu hỗ trợ của các cơ sở chăm sóc NCT tăng cao, nhưng do thiếu hụt nhân sự từ

cơ quan quản lý dẫn tới việc các cơ sở không nhận được sự hỗ trợ cần thiết.

Đánh giá hợp tác liên minh: Cơ quan quản lý thường xuyên đánh giá, rà soát lại

hiệu quả của việc phối hợp tham gia đối với các liên minh này, từ có những thay đổi

tích cực hơn. Đảm bảo sự tham gia là tự nguyện và không mâu thuẫn về mặt lợi ích

158

nảy sinh trong quá trình kết hợp với các liên minh này.

Điều kiện thực hiện giải pháp

- Tính chủ động và cam kết của các bên liên quan: Các bên liên quan, bao gồm

sở LĐTBXH, UBND TP Hà Nội, cơ sở chăm sóc NCT, các tổ chức xã hội, ngành y

tế và các đối tác khác cần có ý thức và cam kết thực hiện các giải pháp. Sự chủ động

và cam kết này sẽ đảm bảo sự thực hiện hiệu quả và bền vững của các hoạt động

trong liên minh.

- Đảm bảo sự tham gia của các nhóm đối tượng có liên quan là hoàn toàn tự

nguyện, không ép buộc, bình đẳng hoặc không chịu sự chi phối về mặt quyền lực lẫn

nhau trong quá trình tham gia.

- Đảm bảo tính minh bạch trong quá trình tham gia, tránh các vấn đề liên quan

tới lợi ích nhóm hoặc xung đột về mặt lợi ích.

- Sự phân công điều động phù hợp về mặt nhân lực trong nội bộ các cơ quan

trên tinh thần vì mục đích chung hoặc ứng phó với các trường hợp khẩn cấp.

4.3.8. Cải thiện việc theo dõi, kiểm tra, giám sát, đôn đốc thực hiện chính sách

Mục tiêu của giải pháp

Việc theo dõi, kiểm tra, giám sát việc thực hiện CS là bước quan trọng trong

tiến trình thực hiện CS, nhằm đảm bảo CS được thực hiện theo kế hoạch, và kịp thời

có những đánh giá, điều chỉnh phù hợp. Việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc

NCT trên địa bàn Hà Nội theo kết quả nghiên cứu từ luận án thì việc kiếm tra đôn

đốc thực hiện còn nhiều hạn chế. Dó đó, mục tiêu của giải pháp này nhằm tạo ra cơ

chế phối hợp chặt chẽ và các quy trình, tiêu chí giám sát việc thực hiện CS hiệu quả.

Nội dung của giải pháp

Thành lập ban kiểm tra, giám sát thực hiện chính sách: Cơ quan quản lý việc

thực hiện CS thành lập ban kiểm tra, giám sát việc thực hiện CS phát triển cơ sở

chăm sóc NCT. Ban kiểm tra bao gồm các cán bộ quản lý việc thực hiện CS ở các

ban ngành khác nhau có liên quan, bao gồm cả đối tượng hưởng lợi CS (các cơ sở

chăm sóc NCT công lập và ngoài công lập). Người phụ trách, điều phối ban kiểm tra

có thể là cán bộ quản lý của sở LĐTBXH.

Ban kiểm tra lập kế hoạch chi tiết việc theo dõi, kiểm tra và giám sát thực hiện

CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT theo quý, theo năm hoặc theo các giai đoạn cụ thể

phù hợp với các hoạt động khác. Trong đó, chỉ rõ các hoạt động cụ thể và vai trò của

159

từng người trong ban kiểm tra.

Xây dựng cơ chế theo dõi và kiểm tra chặt chẽ: Cần xác định các tiêu chí, tiêu

chuẩn và quy trình để theo dõi và kiểm tra việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm

sóc NCT. Đây có thể là việc thiết lập chỉ tiêu, mốc đánh giá, hình thức báo cáo và ghi

nhận thông tin liên quan. Xây dựng bộ tiêu chí giám sát việc thực hiện CS, bao gồm

các khía cạnh giám sát khác nhau bao gồm: Sự phù hợp của nội dung CS (giải pháp

CS); Sự cam kết của các bên tham gia; Sự phối hợp của các bên liên quan; Việc

truyền thông về CS; Năng lực cơ quan/người thực hiện CS; Các kết quả đạt được

(định tính và định lượng); Việc báo cáo quá trình thực hiện CS. Các tiêu chí đánh giá

cụ thể theo từng khía cạnh có thể thực hiện như bảng Tiêu chí Giám sát gợi ý (xem

Phụ lục 15)

Tăng cường hoạt động giám sát: Cần có các hoạt động giám sát thường xuyên

để đảm bảo tính chính xác, đáng tin cậy và minh bạch trong việc thực hiện CS phát

triển cơ sở chăm sóc NCT. Giám sát có thể được thực hiện bằng cách tiến hành kiểm

tra định kỳ, đánh giá hiệu quả và sự tuân thủ các quy định. Ngoài ra, việc tạo điều

kiện cho sự tham gia của cộng đồng, các tổ chức xã hội và các đối tác khác cũng có

thể làm tăng tính minh bạch và trách nhiệm trong việc giám sát. Việc thực hiện đánh

giá, thập các thông tin được ban giám sát thực hiện theo kế hoạch và thông qua các

hình thức bao gồm: các cuộc họp đánh giá định kỳ; các hoạt động viếng thăm; thông

qua các báo cáo đánh giá từ cơ sở. Phương tiện thu thập thông tin có thể thông qua

các nền tảng online (phiếu đánh giá, báo cáo được thiết kế online) để thuận tiện và có

tính cập nhật.

Cơ chế tiếp nhận, phản hồi: Cùng với việc thực hiện hoạt động giám sát thường

xuyên, cần xây dựng cơ chế tiếp nhận và thực hiện các hoạt động giao tiếp và phản

hồi trực tiếp với các cơ sở chăm sóc NCT trong suốt quá trình thực hiện CS. Việc này

có thể được thực hiện qua việc cung cấp số điện thoại liên lạc, hoặc hòm thư điện tử,

hoặc địa chỉ cụ thể để đối tượng hưởng lợi có thể tiếp cận trực tiếp.

Báo cáo kiểm tra, giám sát: Xây dựng báo cáo rà soát, kiểm tra thực hiện CS

dựa trên các tiêu chí đánh giá được thống nhất. Báo cáo này cần được thống nhất và

có sự đóng góp của các bên liên quan tham gia vào quá trình rà soát, kiểm tra. Báo

cáo kết quả của quá trình xử lý vi phạm và cải thiện là cần thiết để cung cấp thông tin

cho các bên liên quan và khẳng định sự minh bạch và trách nhiệm trong quá trình

160

thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT.

Điều kiện thực hiện giải pháp

- Sự vào cuộc, thúc đẩy của cơ quan hoạch định CS (Bộ LĐTBXH) và cơ quan

quản lý nhà nước Thành phố (UBND) thông qua việc xây dựng các kế hoạch tổ chức

giám sát thực hiện các CS được ban hành nói chung và CS phát triển cơ sở chăm sóc

NCT nói riêng.

- Sự tích cực, chủ động của cơ quan quản lý thực hiện CS trong việc thành lập,

quản lý và duy trì ban đánh giá cũng như thực hiện nghiêm túc các hoạt động đánh giá.

- Ngân sách được sắp xếp cho các hoạt động kiểm tra, giám sát theo kế hoạch.

- Đảm bảo tính kịp thời, có sự tham gia (các bên liên quan), và tính minh bạch

trong suốt quá trình giám sát việc thực hiện CS.

4.3.9. Cải thiện hoạt động sơ kết, tổng kết, đánh giá thực hiện chính sách

Mục tiêu của giải pháp

Một CS khi được thực hiện, việc đánh giá toàn bộ quá trình thực hiện CS là

bước quan trọng không thể thiếu. Điều này nhằm giúp cơ quan hoạch định CS và cơ

quan thực hiện CS đánh giá được hiệu quả của CS từ nội dung cho tới quá trình triển

khai. Về cơ bản, việc tổng kết đánh giá quá trình thực hiện là việc tổng hợp lại toàn

bộ quá trình giám sát thực hiện CS, từ đó để có một Giải pháp này nhằm giúp nâng

cao hiệu quả việc tổng kết, đánh giá quá trình thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc

NCT trên địa bàn Hà Nội dựa trên những phát hiện trong nghiên cứu của luận án này.

Việc đánh giá thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT tại Hà Nội nhằm trả

lời các câu hỏi như: CS có phù hợp với nhu cầu thực tế của cuộc sống hay không

(đặc biệt là nhu cầu của NCT và của các cơ sở chăm sóc NCT)? Việc vận hành, thực

hiện các chủ trương CS/giải pháp trong thực tế như thế nào? Những kết quả nào đã

đạt được? Những vướng mắc, tồn tại là gì? Những bài học kinh nghiệm nào cần rút

ra nhằm cải thiện CS đã được ban hành nhằm phù hợp hơn với nhu cầu thực tế?

Nội dung của giải pháp

Tổ chức các hoạt động đánh giá độc lập: Cơ quan quản lý thực hiện CS phát

triển cơ sở chăm sóc NCT tại Hà Nội (sở LĐTBXH, UBND TP) tổ chức nhóm đánh

giá độc lập, gồm các thành viên hoạt động với tư cách chuyên gia đánh giá, có thể từ

cơ quan nhà nước hoặc ngoài nhà nước, song tất cả các thành viên sẽ thực hiện việc

đánh giá một cách độc lập, khách quan theo mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể của nhóm.

Lên kế hoạch và triển khai đánh giá CS: Cơ quan chủ quản lập kế hoạch và

161

thực hiện việc đánh giá (bao gồm cả kế hoạch ngân sách) theo lịch trình đánh giá cụ

thể. Trong kế hoạch đánh giá cần xác định rõ mục tiêu, phạm vi, chủ thể tham gia,

các đối tượng, nội dung, các phương pháp và tiêu chí đánh giá. Cần tổng kết việc

đánh giá, công bố công khai kết quả đánh giá ở phạm vi cần thiết (nội bộ, cấp thành

phố, cấp trung ương). Bên cạnh đó, rà soát lại các tiêu chí giám sát thực hiện CS (như

đã trình bày ở giải pháp trên), nhằm xem xét bổ sung các tiêu chí mang tính tổng thể

hơn về việc thực hiện và tác động của CS, có thể bao gồm các phương diện như:

- Tính hiệu lực của CS: Phản ánh mức độ đạt được các mục tiêu đề ra của các

CS về phát triển cơ sở chăm sóc NTC tại Hà Nội.

- Tính hiệu quả của CS: Phản ánh tương quan so sánh giữa kết quả do CS đưa

lại với chi phí đã bỏ ra.

- Tính công bằng của CS: Thể hiện ở sự phân bổ hợp lý các chi phí và lợi ích,

các quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể tham gia hoạch định, thực hiện CS và các

nhóm đối tượng liên quan.

- Tính chủ thể của CS: Thể hiện ở sự tác động của CS đến các đối tượng

hưởng lợi từ CS.

- Mức độ giải quyết vấn đề CS: Thể hiện ở việc đo lường được ảnh hưởng của

CS tới các khía cạnh kinh tế - xã hội có liên quan khác.

Phân tích, đánh giá và báo cáo kết quả: Dựa trên thông tin và dữ liệu thu thập

được, cần tiến hành phân tích và đánh giá quá trình thực hiện CS. Điều này bao gồm

việc so sánh kết quả đạt được so với mục tiêu đã đề ra, đánh giá hiệu quả, xác định

những vấn đề, khó khăn và vướng mắc trong quá trình thực hiện, và đưa ra các

khuyến nghị và cải thiện. Sau khi hoàn tất quá trình đánh giá, cần tổng hợp và báo

cáo kết quả cho các bên liên quan. Báo cáo này cần cung cấp thông tin chi tiết về quá

trình thực hiện CS, kết quả đạt được, các vấn đề và khó khăn đã xảy ra, cũng như

những bài học và đề xuất cải thiện. Báo cáo cần được trình bày một cách rõ ràng,

logic và minh bạch để đảm bảo sự hiểu rõ và sự tham gia. Công bố kết quả một cách

chính thức thông qua các hoạt động toạ đàm, hội thảo theo các cấp độ khác nhau; lấy

ý kiến đóng góp, hoàn thiện báo cáo và xây dựng kế hoạchuyến nghị CS gửi tới cơ

quan hoạch định cũng như các bên liên quan tham gia thực hiện CS phát triển cơ sở

chăm sóc NCT tại Hà Nội.

162

Điều kiện thực hiện giải pháp

- Việc đánh giá thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT trên địa bàn Hà

Nội được lên kế hoạch thực hiện, nằm trong kế hoạch đánh giá tổng thể các CS khác

của cơ quan chủ quản (UBND TP; Sở LĐTBXH).

- Nhóm đánh giá thực hiện CS được thành lập, đảm bảo các tiêu chí về năng lực

đánh giá, mức độ phù hợp và các tiêu chí khác theo quy định. Điều này đòi hỏi có

những chuyên gia, nhà nghiên cứu và nhân viên có khả năng phân tích dữ liệu, đánh giá

hiệu quả, và có kiến thức về lĩnh vực chăm sóc NCT để thực hiện các hoạt động này.

- Các tiêu chí đánh giá, công cụ đánh giá được xây dựng khoa học, dễ thực hiện

và đảm bảo độ tin cậy của thông tin thu thập.

- Có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bên liên quan trong suốt quá trình đánh giá

việc thực hiện CS. Các bên liên quan khác như các tổ chức, cơ quan đối tác, cộng

đồng và các chuyên gia cần hỗ trợ trong việc thu thập thông tin, phân tích dữ liệu và

đánh giá hiệu quả. Sự hỗ trợ này có thể bao gồm cung cấp nguồn tài nguyên, chuyên

môn và kỹ thuật, đồng thời tham gia vào quá trình đánh giá và sơ kết.

- Báo cáo đánh giá được xây dựng với các thông tin chi tiết, các khuyến nghị

163

được xây dựng phù hợp, dựa trên kết quả đánh giá thực hiện CS.

Tiểu kết chương 4

Chương 4 của luận án trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn để đề xuất các giải

pháp nâng cao hiệu quả thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT tại Hà Nội.

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về đánh giá CS và kết quả phân tích thực trạng tại Hà

Nội ở Chương 3, tác giả nhận thấy một số hạn chế cần khắc phục để nâng cao hiệu

quả thực hiện CS. Cụ thể, một số nội dung CS còn bất cập, chưa phù hợp với thực

tiễn; việc truyền thông về CS còn hạn chế; chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các

ngành; chưa bố trí đủ nguồn lực cho thực hiện CS; công tác giám sát đánh giá chưa

được quan tâm đúng mức.

Trên cơ sở đó, chương 4 đề xuất 9 nhóm giải pháp chính gồm: (1) cải thiện nội

dung CS; (2) tạo điều kiện thực hiện CS; (3) tăng cường truyền thông; (4) nâng cao

phối hợp liên ngành; (5) tăng cường cam kết các bên; (6) bố trí nguồn lực; (7) xây

dựng liên minh thực hiện; (8) tăng cường giám sát; và (9) cải thiện đánh giá CS. Với

các nội dung cụ thể của các giải pháp bao gồm: rà soát và bổ sung hoàn thiện CS; cải

cách thủ tục, tạo môi trường pháp lý thuận lợi; tăng cường truyền thông đa chiều; xây

dựng cơ chế phối hợp rõ ràng; tạo sự tham gia và cam kết của các bên liên quan; lập

kế hoạch và bố trí nguồn lực; thiết lập cơ chế giám sát và đánh giá độc lập.

Điều kiện thực hiện các giải pháp bao gồm sự quan tâm của lãnh đạo, tính phù

hợp về năng lực nhân sự, sự phối hợp liên ngành, cam kết của các bên tham gia, và

bố trí đủ nguồn lực thực hiện. Kết quả mong đợi là nâng cao hiệu quả triển khai CS

phát triển cơ sở chăm sóc người cao tuổi, đáp ứng tốt hơn nhu cầu chăm sóc của

164

người cao tuổi tại Hà Nội.

KẾT LUẬN

Luận án đã phân tích, làm rõ các hướng tiếp cận nghiên cứu về thực hiện CS

chung hiện nay trên thế giới, cũng như những nghiên cứu về thực hiện CS liên quan

tới việc chăm sóc NCT ở nhiều quốc gia, bao gồm cả Việt Nam. Dựa trên các công

trình nghiên cứu được phân tích, luận án xác định cách triển khai nghiên cứu thực

hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT trên địa bàn Hà Nội là hướng mới, vừa phù

hợp với xu hướng nghiên cứu thực hiện CS hiện nay, vừa giúp kiểm định lại những

giả thuyết về yếu điểm của việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT dựa

trên phương pháp nghiên cứu định tính từ góc nhìn của các bên tham gia và giúp bổ

sung hàm lượng khoa học trong nghiên cứu về NCT và CS an sinh xã hội hiện nay.

Dựa vào cơ sở nghiên cứu lý luận về CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT, quy

trình thực hiện CS, mô hình 7C về các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện CS cùng

cơ sở thực tiễn nghiên cứu về xu hướng già hoá dân số, thay đổi về nhân khẩu học, di

dân đô thị, quy mô gia đình, vấn đề sức khoẻ của NCT và quan điểm cũng như hệ

thống CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT tại Việt Nam hiện nay, luận án xây dựng

Khung phân tích dựa vào cách tiếp cận quy trình CS để đánh giá hiệu lực CS và bảng

ma trận đánh giá các yếu tố ảnh hưởng tới từng bước trong quy trình 5 bước thực

hiện để làm công cụ khám phá ra các yếu tố rào cản, thúc đẩy nhằm đề xuất cải thiện

CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT trên địa bàn Hà Nội trong thời gian tới.

Nghiên cứu đánh giá thực trạng thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT

trên địa bàn Hà Nội cho thấy, kể từ sau khi NĐ68/2008 được ban hành, sự ra đời

nhanh chóng của các cơ sở chăm sóc NCT đã thể hiện những thành công nhất định

bao gồm việc phát triển mạng lưới các cơ sở TGXH tại Hà Nội cho NCT. Bên cạnh

đó, các CS XHH cũng giúp tạo điều kiện cho NCT được hưởng các DVCS phù hợp

và có chất lượng tại khu vực sinh sống. Hệ thống mạng lưới các cơ sở TGXH nói

chung và cơ sở chăm sóc NCT nói riêng được hưởng các CS về hỗ trợ đầu tư mặt

bằng, cơ sở vật chất, các loại thuế phí và nguồn nhân lực. Tất cả đã tạo ra một sự

phát triển mạnh mẽ về số lượng và quy mô các cơ sở chăm sóc NCT hiện nay trên địa

bàn Thành phố.

Tuy nhiên, đánh giá về quy trình thực hiện CS qua các yếu tố ảnh hưởng tới

quy thực hiện các CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT cho thấy kết quả quan trọng về

tính ảnh hưởng của yếu tố truyền thông và phối hợp có thể tạo ra sự thay đổi về hiệu

165

quả thực hiện CS này tại Hà Nội trong tương lai gần, trong khi yếu tố nội dung có

ảnh hưởng chiến lược đến việc phát triển cơ sở TGXH cho NCT. Cụ thể, sự thiếu

minh bạch về thông tin, khả năng giao tiếp hai chiều kém giữa các bên liên quan, đặc

biệt là giao tiếp liên ngành và giao tiếp giữa ngành chủ quản là LĐTBXH với các chủ

cơ sở TGXH ngoài công lập và các nhà đầu tư làm hạn chế khả năng tiếp cận, thụ

hưởng CS và cơ chế giao tiếp để trao đổi điều chỉnh, giám sát thực hiện CS. Đồng

thời, sự chậm trễ về thời hạn xử lý và không thuận tiện về các thủ tục hành chính do

thiếu sự liên kết phối hợp liên ngành nhằm tạo điều kiện đầu tư cho các cơ sở khiến

các nhà đầu tư không được thụ hưởng CS, từ đó giảm quan tâm đến việc cung cấp

DVCS cho NCT như kỳ vọng CS. Thêm vào đó, công tác truyền thông, tuyên truyền

CS tập trung chủ yếu vào NCT chứ không phải chủ cơ sở, các nhà đầu tư là đối tượng

trực tiếp thụ hưởng CS. Nhưng xét đến cùng, về mặt chiến lược, thay đổi nội dung

CS vẫn là yếu tố chính thúc đẩy thực hiện CS diễn ra như kỳ vọng. CS hiện nay chỉ

có hiệu quả tạo ra tính sẵn có của dịch vụ mà chưa đảm bảo khả năng chi trả được

của NCT và khả năng tiếp cận với NCT ở cả khu vực nông thôn. Để làm được điều

này, CS cần xác định đúng đối tượng đích được nhận ưu đãi của nhà nước với những

ràng buộc về cung cấp dịch vụ hoặc mức giá cho các chủ cơ sở TGXH ngoài công

lập; thúc đẩy sự tham gia của các tổ chức từ thiện, tình nguyện, doanh nghiệp xã hội,

phi chính phủ hơn so với tư nhân có lợi nhuận, thúc đẩy sự phát triển đa dạng các

dịch vụ chăm sóc NCT để có tính kết nối giữa cơ sở với gia đình, cộng đồng để cung

cấp DVCS dài hạn cho NCT đúng với kỳ vọng CS, giúp NCT đươcj già hoá tại chỗ.

Đồng thời, CS cần có với lộ trình cụ thể hơn để xã hội hoá thành công cho các cơ sở

TGXH công lập; và nghiên cứu các CS mới hỗ trợ NCT/ gia đình NCT giải quyết bài

toán kinh tế để nhận DVCS chuyên nghiệp tại các cơ sở như bảo hiểm CSDH, cơ chế

hợp tác công tư giữa Cơ sở TGXH công lập và nhà đầu tư tư nhân.

Dựa trên những phát hiện về thực trạng thực hiện CS phát triển cơ sở chăm

sóc NCT tại Hà Nội, các giải pháp cụ thể đã được đưa ra để nhằm phát huy sự thành

công của việc thực hiện CS cũng như cải thiện các yếu tố mang tính cản trở trong quá

trình thực hiện. Các giải pháp được đưa ra có xem xét tới những phương hướng, kế

hoạch và bối cảnh thực hiện các CS của Thành phố trong tương lai, cũng như được

sắp xếp theo các yếu tố ảnh hưởng được phân tích cụ thể trong kết quả nghiên cứu của

luận án. Các giải pháp này cũng có thể được xem xét ứng dụng tại các khu vực có những

166

đặc điểm tương đồng về mặt địa lý, kinh tế, chính trị và xã hội khác tại Việt Nam.

DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

1. Trịnh Phương Thảo, Đánh giá nội dung chính sách phát triển cơ sở trợ giúp xã

hội chăm sóc người cao tuổi: Góc nhìn từ các bên liên quan, Tạp chí nguồn nhân

lực và ASXH, số 16, tháng 3/2023, trang 32-44.

2. Trịnh Phương Thảo, Phát triển nguồn nhân lực Công tác xã hội trong cơ sở trợ

giúp xã hội chăm sóc người cao tuổi, Kỷ yếu hội thảo quốc tế: Hoàn thiện khung

pháp lý phát triển CTXH tại Việt Nam NXB Đại học Quốc gia, trang 429-435,

ISBN 978-604-3960850-7.

3. Trinh Phuong Thao, Factors affecting policy implementation of developing

institutional care facilities for the elderly in Hanoi, State Management review,

2022, Volume 29 - number 6, page 72-77.

4. Trịnh Phương Thảo, Mô hình 5C và 7C: Áp dụng vào việc nghiên cứu đánh giá

thực hiện chính sách công tại Việt Nam, Tạp chí Kinh tế và dự báo, Số 24, tháng

8, 2022, trang 107-112, ISSN 1859-4972.

5. Trịnh Phương Thảo, Nguyễn Thu Hà, Hoàng Thị Hải Yến, Đặng Thị Huyền

Oanh, Đỗ Thị Bích Thảo (Đồng chủ biên); Công tác xã hội với người cao tuổi,

NXB Khoa học xã hội; 2022; 406 trang, ISBN 978-604-364-087-9.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tiếng Việt

1. Ban chấp hành Trung ương. Nghị quyết 21-NQQ/TW về công tác dân số trong tình hình mới. 2017. 2. Báo điện tự Bộ Xây dựng. Trung tâm chăm sóc sức khoẻ người cao tuổi Hoa sen có đang sử dụng đất sai mục đích? . 2021. 3. Bộ Lao động thương binh và xã hội. Báo cáo tóm tắt quy hoạch mạng lưới cơ sở trợ giúp xã hội thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.; 2022. 4. Bộ LĐTB&XH. Báo cáo tóm tắt quy hoạch mạng lưới cơ sở trợ giúp xã hội thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Hà Nội; 2022.

5. Bộ Y tế và nhóm đối tác y tế. Báo cáo chung tổng quan ngành Y tế năm 2016 - Hướng tới mục tiêu già hoá khoẻ mạnh ở Việt Nam. NXB Y học; 2018. 6. Chính phủ. Quy định điều kiện, thủ tục thành lập, tổ chức, hoạt động và giải thể cơ sở bảo trợ xã hội. Nghị định 68/2008/NĐ-CP2008. 7. Chính phủ. Nghị định 34/2016/NĐ-CP Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật. 2016. 8. Chính phủ. Nghị định 103/2017/NĐ-CP quy định về thành lập, tổ chức, hoạt động, giải thể và quản ký các cơ sở trợ giúp xã hội. 2017.

9. Cling J-P, Razafindrakoto M, Roubaud–IRD-DIAL F. Đánh giá tác động của các chính sách công: thách thức, phương pháp và kết quả. Những cách tiếp cận phương pháp luận mới ứng dụng trong phát triển (2) Khóa học Tam Đảo. 2008. 10. Cục thống kê thành phố Hà Nội. Niên giám thống kê Thành phố Hà Nội 2020. Hà

Nội2020. 11. Cục thống kê thành phố Hà Nội. Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quý II và 6 tháng đầu năm 2022 của thành phố Hà Nội. Hà Nội; 2022.

12. Đào Thúy Hằng, Hoàng Thu Hương. Cơ sở trợ giúp xã hội thuộc tổ chức tôn giáo dành cho người cao tuổi: Kinh nghiệm thế giới và thực tiễn Việt Nam. VNU Journal of Social Sciences and Humanities. 2021;7(2b):227-37. 13. Đinh Thị Minh Tuyết. Quản lý nhà nước đối với các cơ sở trợ giúp xã hội ở Việt Nam: Tạp chí Tổ chức nhà nước; 2021 [ 14. Dương Xuân Ngọc, Đỗ Đức Minh. Khoa học chính sách công: Chính trị Quốc

gia; 2008. 15. Giang TL TN, & TTT Vu. Báo cáo khảo sát khả năng đáp ứng của chính sách

2

bảo hiểm y tế với già hóa dân số ở Việt Nam. 2020. 16. Hồ Việt Hạnh KQA, Nguyễn Thị Hoài,. Về phương thức triển khai đề tài thực hiện chính sách công. Nhân lực khoa học xã hội. 2022;Số 11:tr. 3-9. 17. Đánh giá kết quả thực hiện quy hoạch mạng lưới cơ sở trợ giúp xã hội giai đoạn 2010-2020 và đề xuất quy hoạch thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn 2050, (2020). 18. Lê Chi Mai. Những vấn đề cơ bản về Chính sách và quy trình chính sách: NXB Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh; 2001. 184 p. 19. Lê Văn Hoà. Giám sát và đánh giá chính sách công, 295 tr: NXB Chính trị quốc gia - sự thật; 2016. 20. Ngô Ngọc Thắng. Nâng cao chất lượng hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam hiện nay - Vấn đề và giải pháp. Tạp chí Lý luận chính trị. 2017;10.

21. Đánh giá chính sách công: một số vấn đề lý luận [Internet]. 2020 [cited 10/7/2021]. 22. Nguyễn Hữu Hải. Chính sách công-Những vấn đề cơ bản: H.: Chính trị Quốc gia, 432 tr; 2014. 23. Nguyễn Hữu Hải Lê Văn Hoà. Đại cương về chính sách công: NXH Chính trị quốc gia; 2013.

24. Nguyễn Thị Hà. Sự tham gia của người dân vào quá trình xây dựng và thực thi pháp luật https://www.quanlynhanuoc.vn/2020/12/03/su-tham-gia-cua-nguoi- dan-vao-qua-trinh-xay-dung-va-thuc-thi-phap-luat/2020 [

25. Nguyễn Trọng Bình. Nâng cao hiệu quả thực thi chính sách công ở Việt Nam 2020 [Available from: http://lapphap.vn/Pages/TinTuc/210452/Nang-cao- hieu-qua-thuc-thi-chinh-sach-cong-o-Viet-Nam.html.

26. Phạm Anh Tùng, Nguyễn Thị Châu Anh, Nguyễn Thị Thu, Tạ Quang Huy. Một số vân đề sức khỏe thường gặp ở người cao tuổi thành phố Hà Nội năm 2019. Tạp chí Y học Dự phòng. 2020;30(7):140-6.

27. Quốc hội. Hiến pháp năm 1946. Hà Nội 1946. 28. Quốc hội. Hiến pháp năm 2013. Hà Nội 2013. 29. Quốc hội. Hiến pháp năm 1959. Hà Nội 1959. 30. Quốc hội. Hiến pháp năm 1992. Hà Nội 1992. 31. Quốc hội. Luật người cao tuổi. Hà Nội 2009. 32. Quốc hội. Khảo sát về thực hiện chính sách xã hội hóa, thu hút nguồn lực xã hội đầu tư, xây dựng cơ sở bảo trợ xã hội ngoài công lập chăm sóc người cao tuổi, người khuyết tật tại thành phố Hà Nội. In: hội ỦbVcvđx, editor. Hà Nội 2015. 33. Sở LĐTB&XH Hà Nội. Báo cáo tình hình thực hiện chính sách xã hội hóa, thu hút nguồn lực xã hội đầu tư, xây dựng cơ sở Bảo trợ xã hội ngoài công lập chăm sóc người cao tuổi và người khuyết tật trên địa bàn thành phố Hà Nội. Hà Nội2022.

34. Sở LĐTB&XH Hà Nội. Báo cáo kết quả thực hiện Chương trình hành động quốc gia về người cao tuổi giai đoạn 2012 - 2020. UBND Thành phố Hà Nội; 2020. 35. Sở LĐTB&XH Hà Nội. Danh sách các cơ sở bảo trợ xã hội Hà Nội Hà Nội2022 [Available from: https://solaodong.hanoi.gov.vn/khoi-bao-tro-xa-hoi. 36. Sở LĐTBXH Hà Nội. Danh sách các cơ sở bảo trợ xã hội Hà Nội Hà Nội2022 [Available from: https://solaodong.hanoi.gov.vn/khoi-bao-tro-xa-hoi.

37. Sở LĐTBXH Hà Nội. Báo cáo tình hình thực hiện chính sách xã hội hóa, thu hút nguồn lực xã hội đầu tư, xây dựng cơ sở Bảo trợ xã hội ngoài công lập chăm sóc người cao tuổi và người khuyết tật trên địa bàn thành phố Hà Nội. Hà Nội2022. 38. Sở LĐTBXH Hà Nội. Tổng hợp và rà soát số liệu Người cao tuổi năm 2022. 2022. 39. Thủ tướng chính phủ. Quyết định số 2156/QD-TTg phê duyệt chương trình hành động quốc gia về người cao tuổi. Hà Nội2021. 40. Thủ tướng chính phủ. Quyết định số 2156/QĐ-TTg phê duyệt chương trình hành động quốc gia về người cao tuổi giai đoạn 2021-2030. Hà Nội2021.

3

41. Thủ tướng chính phủ. Quyết định 1781/QĐ-TTg Phê duyệt Chương trình hành động quốc gia về người cao tuổi Việt Nam giai đoạn 2012-2020. Hà Nội2012.

42. Tổng cục Thống kê. Dự báo dân số Việt Nam giai đoạn 2019-2069. Hà Nội2020. 43. Tổng cục Thống kê. Tổng điều tra dân số và nhà ở 2019: Già hoá dân số và người cao tuổi ở Việt Nam. 2021.

44. Tổng cục Thống kê và Quỹ Dân số Liên hợp quốc. Người cao tuổi Việt Nam: Phân tích từ điều tra biến động dân số và kế hoạch hoá gia đình năm 2021. 2021. 45. Triệu Văn Cường. Quản lý quy trình chính sách thông qua nghiên cứu tình huống, 383 tr: NXB Lao động xã hội; 2016. 46. Trịnh Duy Luân. Chính sách chăm sóc người cao tuổi ở Việt Nam hiện nay. 2020.

47. UBND TP Hà Nội. Quyết định số 5188/QĐ-UBND về việc phê duyệt Đề án sắp xếp, tổ chức lại các cơ sở trợ giúp xã hội thuộc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Hà Nội. . Hà Nội2021. 48. UNFPA. Thị trường các sản phẩm, dịch vụ chăm sóc người cao tuổi tại Việt Nam. TP Hồ Chí Minh; 2021. 49. UNFPA Viet Nam, Nguyen Minh Duc. Già hóa dân số và người cao tuổi ở Việt Nam. Hà Nội: Tổng cục thống kê; 2021.

50. Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nôi. Quyết định số 2478/QĐ-UBND về việc ban hành Kế hoạch thực hiện Đề án đổi mới, phát triển hệ thống trợ giúp xã hội trên địa bàn thành phố Hà Nội giai đoạn 2018-2025 và tầm nhìn đến năm 2030. Hà Nội2018.

51. Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội. Kế hoạch số 93/KH-UBND ngày 19 tháng 4 năm 2018 về việc triển khai thực hiện “Đề án Chăm sóc sức khỏe người cao tuổi giai đoạn 2017-2025” trên địa bàn thành phố Hà Nội đến năm 2025. Hà Nội2018.

52. Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội. Quyết định số 2330/QĐ-UBND ngày 22 tháng 5 năm 2015 về việc phê duyệt quy hoạch phát triển mạng lưới cơ sở xã hội trên địa bàn thành phố Hà Nội đến năm 2020, định hướng đến năm 2030. Hà Nội2015.

53. Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội. Kế hoạch số 30/KH-UBND ngày 26 tháng 01 năm 2022 về việc thực hiện Chương trình hành động quốc gia về người cao tuổi đến năm 2030. Hà Nội2022.

54. Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội. Báo cáo tổng hợp Quy hoạch phát triển mạng lưới các cơ sở xã hội trên địa bàn thành phố Hà Nội đến năm 2020, định hướng đến năm 2030. Hà Nội; 2015.

4

55. Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội. Quyết định số 11/2015/QĐ-UBND về việc ban hành quy định về chính sách khuyến khích xã hội hóa trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể dục thể thao, môi trường, giám định tư pháp trên địa bàn thành phố Hà Nội. Hà Nội2015. 56. Viện Chiến lược và Chính sách Y tế Tìm hiểu nhận thức, thái độ và nhu cầu sống trong các Trung tâm dưỡng lão của người cao tuổi Việt Nam. 2012. 57. Viện Kinh tế và Quản lý Hà Nội. Nghiên cứu đánh giá tình hình thực hiện các chính sách, pháp luật về người cao tuổi tại Hà Nội. Hà Nội; 2019.

Tài liệu tiếng Anh

58. Chan JP. From elderly care institutions to long-term care policy: Evolution of nursing homes in the United States and China [Ph.D.]. Ann Arbor: American University; 2002. 59. Stewart J, Hedge DM, Lester JP. Public policy : an evolutionary approach. Boston: Wadsworth Thomson Learning; 2008. 60. Lehning AJ, Austin MJ. Long-term care in the United States: policy themes and promising practices. J Gerontol Soc Work. 2010;53(1):43-63.

61. Ambali A, Eissa G, Bakar A. Servant Leadership's Values and Staff's Commitment: Policy Implementation Focus. American Journal of Scientific Research. 2011:18-40.

62. Appleby PH. Administration in big business. JSTOR; 1945. 63. Arrow KJ. Information and economic behavior. 1973. 64. Bahl RW, Oates WE. Aspects of Fiscal Capacity: An International Comparison. Public Finance Quarterly. 1978.

65. Belachew A, Ali K, Tesfu M, Negassa Gissila M, Geletu N, Temesgen S, et al. The State of Health and Ageing in Ethiopia: A Survey of Health Needs and Challenges of Service Provisions. Ethiopia: HelpAge International; 2013. 66. Birkland TA. An introduction to the policy process: Theories, concepts, and models of public policy making: Routledge; 2015. 67. Birkland TA. An introduction to the policy process: Theories, concepts, and models of public policy making: Routledge; 2019.

68. Brynard & de Coning. Policy Implementation. In: Cloete, F., Wissink, H. & de Coning, C. Improving Public Policy: from theory to practice, pp.180–213. 2006. 69. Brynard P. Policy implementation: Lessons for service delivery. Journal of Public Administration. 2005;40(si-3):649-64. 70. Brynard P, Cloete F, De Coning C. Improving public policy: Theory, practice and results. 3rd edition: Van Schaik Publishers; 2011. 71. Buchanan JM. Cost and choice: An inquiry in economic theory: University of Chicago Press; 1978.

72. Burger RW. The integrated metropolitan environmental policy of the city of Cape Town: An implementation evaluation: Stellenbosch: Stellenbosch University; 2015.

73. Cloete De Coning WaR. Policy, Implementation and M&E Process2018. 74. Cloete F, de Coning, C., Wissink, H. & Rabie, B. Improving Public policy: Good governance: Van Schaik Publishers; 2018. 75. Cochran CE, Mayer LC, Carr T, Cayer NJ, McKenzie M. American public policy: An introduction: Cengage Learning; 2015. 76. Cochran CL, Malone EF. Perspectives and Choices. Boulder: Lynne Rienner; 2010.

5

77. Commission E, Directorate-General for Employment SA, Inclusion. Long-term care report : trends, challenges and opportunities in an ageing society. Volume I: Publications Office; 2021.

78. CONRAD H, LÜTZELER R. German and Japanese social policy in comparative perspective: Anoverview. Aging and Social Policy: A German-Japanese Comparison. 2002;26:11. 79. Cook IG, Halsall J. Aging in comparative perspective: Processes and policies: Springer Science & Business Media; 2011. 80. Curry N, Schlepper L, Hemmings N. What can England learn from the long-term care system in Germany. London: nuffieldtrust. 2019. 81. Đặng Thị Thanh Phúc, Phuong N, Hai M, Ho T, Nguyen Vu Quoc H, Eun-hi K. Current status and future direction of elder care in Vietnam2018.

82. Datnow A, Park V. Conceptualizing policy implementation: Large-scale reform in an era of complexity. Handbook of education policy research: Routledge; 2012. p. 364-77.

83. de Wee G. Comparative Policy Analysis and the Science of Conceptual Systems: A Candidate Pathway to a Common Variable. Foundations of Science. 2021:1-18. 84. Dewen Wang. Policy Framework, Strategy, and Institutional Arrangements. In: Feng EGa, editor. Options for Aged Care in China World Bank Group; 2018.

85. Dye TR. Understanding public policy [by] Thomas R. Dye1992. 86. Dyer S, van den Berg M, Brown A, Johnstone G, Laver K, Lowthian J, et al. Review of innovative models of aged care: Royal Commission into Aged Care Quality and Safety; 2020.

87. Feng Z, Zhan HJ, Feng X, Liu C, Sun M, Mor V. An Industry in the Making: The Emergence of Institutional Elder Care in Urban China. Journal of the American Geriatrics Society. 2011;59(4):738-44.

88. Giang Thành Long, Bùi Đại Thu, Trịnh Thái Quang. Long-term care development in Vietnam. Shaping Long-Term Care in Emerging Asia: Routledge; 2022. p. 73-103.

89. Glendinning C. Long term care reform in England: A long and unfinished story. Reforms in long-term care policies in Europe: Investigating institutional change and social impacts: Springer; 2012. p. 179-200. 90. Glinskaya E, Feng Z. Options for Aged Care in China: Building an Efficient and Sustainable Aged Care System2018. 91. Goggin ML, Bowman AOM, Lester JP. Implementation theory and practice:

Toward a third generation: Scott Foresman & Company; 1990. 92. Guzman J. Ageing in the Twenty-First Century: A Celebration and A

Challenge2012. 93. Harris-Kojetin LD, Sengupta M, Park-Lee E, Valverde R. Long-term care services in the United States: 2013 overview. 2013. 94. Hieda T. Political Institutions and Elderly Care Policy: Comparative politics of long-term care in advanced democracies: Springer; 2012.

6

95. Hinton L, Chen H. Introduction to the Special Section: “Eldercare in Asia: a Call for Policy Development Beyond Traditional Family Care”. Ageing International. 2016;41(4):331-4.

96. Honig M. Complexity and policy implementation: Challenges and opportunities for the field in MI Honig (ed.) New directions in education policy implementation: Confronting complexity. New York: SUNY Press; 2006. 97. Honig M. Complexity and policy implementation. New directions in education policy implementation: Confronting complexity. 2006;63:1-25.

98. Hotelling H. The general welfare in relation to problems of taxation and of railway and utility rates. Econometrica: Journal of the Econometric Society. 1938:242-69.

99. Hudson B, Hunter D, Peckham S. Policy failure and the policy-implementation gap: can policy support programs help? Policy Design and Practice. 2019;2(1):1-14.

100. Hupe P, Saetren H. Comparative implementation research: Directions and dualities. Taylor & Francis; 2015.

101. Hupe PL, Hill MJ. ‘And the rest is implementation.’Comparing approaches to what happens in policy processes beyond Great Expectations. Public Policy and Administration. 2016;31(2):103-21. 102. Ingram H, Smith SR. Public policy for democracy: Brookings Institution Press; 2011. 103. Jayasekara RS, Schultz T. Health status, trends, and issues in Sri Lanka. Nursing & health sciences. 2007;9(3):228-33.

104. Kalideen L, Van Wyk J, Govender P. Demographic and clinical profiles of residents in long-term care facilities in South Africa A cross-sectional survey (2022). African Journal of Primary Health Care & Family Medicine. 2022;14:3131. 105. Khan A. POLICY IMPLEMENTATION: SOME ASPECTS AND ISSUES. 2016. 106. Klassen TR, Higo M, Dhirathiti NS, Devasahayam TW. Ageing in Asia-Pacific: Interdisciplinary and Comparative Perspectives: Routledge; 2018. 107. Knill C, Tosun J. Governance Institutions and Policy Implementation in the European Union. 2012. p. 309-33. 108. Kress G, Koehler G, Springer JF. Policy drift: An evaluation of the California business enterprise program. Policy Studies Journal. 1980;8(7):1101.

109. Kuzuya M, Masuda Y, Hirakawa Y, Iwata M, Enoki H, Hasegawa J, et al. Day Care Service Use Is Associated with Lower Mortality in Community- Dwelling Frail Older People. Journal of the American Geriatrics Society. 2006;54(9):1364-71. 110. Lindblom CE. The science of "muddling through". Public administration review. 1959:79-88.

7

111. Mah JC, Stevens SJ, Keefe JM, Rockwood K, Andrew MK. Social factors influencing utilization of home care in community-dwelling older adults: a scoping review. BMC Geriatrics. 2021;21(1):145. 112. Makinde T. Problems of Policy Implementation in Developing Nations: The Nigerian Experience. Journal of Social Sciences. 2005;11(1):63-9. 113. Marume S, Mutongi C, Madziyire NC, editors. An Analysis of Public Policy Implementation2016.

theory and systemic change in education 114. Mason M. Complexity governance2016.

115. Molobela T, editor The assessment of in service delivery Improving

the 7C protocols for policy Implementation in South African municipalities2019: International Conference on Public Administration and Development …. 116. Moynihan DP, Pandey SK. The role of organizations in fostering public service motivation. Public administration review. 2007;67(1):40-53.

117. Munzhedzi PH. Evaluating the efficacy of municipal policy implementation in South Africa: challenges and prospects. African Journal of Governance and Development. 2020;9(1):89-105.

118. Najam A. Learning from the literature on policy implementation: a synthesis perspective. 1995. 119. OECD. Strengthening Vietnam’s capacity of implementation https://www.oecd-

ilibrary.org//sites/f0f328de- en/index.html?itemId=/content/component/f0f328de-en#2019 [

120. OECD. Policy Coherence for Sustainable Development 20182018. 121. Okumus F. A framework to implement strategies in organizations. Management Decision. 2003;41(9):871-82.

122. Peters BG. American public policy: Promise and performance: Cq Press; 2018. 123. Phillips D, Chan A. National Policies on Ageing and Long-term Care in the Asia–Pacific: Issues and Challenges: National Policies in the Asia-Pacific. 2002. p. 1-22.

124. Pressman JL, Wildavsky A. Implementation: How great expectations in Washington are dashed in Oakland; Or, why it's amazing that federal programs work at all, this being a saga of the Economic Development Administration as told by two sympathetic observers who seek to build morals on a foundation: Univ of California Press; 1973.

125. Rhee JC, Done N, Anderson GF. Considering long-term care insurance for middle-income countries: comparing South Korea with Japan and Germany. Health policy. 2015;119(10):1319-29.

126. Roll S, Moulton S, Sandfort J. A comparative analysis of two streams of research. Journal of Public and Nonprofit Affairs.

implementation 2017;3(1):3-22.

127. Saetren H. Implementing the third generation research paradigm in policy implementation research: An empirical assessment. Public Policy and Administration. 2014;29:84-105.

8

128. Saetren H. Facts and Myths About Research on Public Policy Implementation: Out-of-Fashion, Allegedly Dead, But Still Very Much Alive and Relevant. Policy Studies Journal. 2005;33:559-82. 129. Schultz DA, Beverly JA. Encyclopedia of public administration and public policy: Infobase Publishing; 2014. 130. Sen A. Poverty: an ordinal approach to measurement. Econometrica: Journal of the Econometric Society. 1976:219-31. 131. Simon CA. Public policy: Preferences and outcomes: Routledge; 2017.

132. Simon HA. A behavioral model of rational choice. The quarterly journal of economics. 1955:99-118.

133. Skhosana JS. Applying the 7-C Protocol to assess the implementation of immigration policies in the Department of Home Affairs: A case study: Stellenbosch: Stellenbosch University; 2019.

134. Smith KB, Larimer CW. The public policy theory primer: Routledge; 2018. 135. Social Protection Committee and the European Commission. Long term care report: Trends, challenges and opportunities in an ageging societies. 2021. 136. Tatiana-Camelia DC. The comparative method for policy studies: the thorny aspects. HOLISTICA–Journal of Business and Public Administration. 2019;10(1):56-67.

137. The Global Alliance for the Rights of Older People. In our own words What older people say about discrimination and human rights in older age. 2015. 138. The World Bank; JICA. Viet Nam: Adapting to an Aging Society. World Bank; 2021. 139. Thrush A, Hyder A. The neglected burden of caregiving in low-and middle- income countries. Disability and health journal. 2014;7(3):262-72. 140. Uchimura-Shiroshi H, Terada-Hagiwara A. Aging and Implications for Elderly Care Services in the People’s Republic of China. 2018. 141. United Nations DoEaSA, Population Division. World Population Aging 2019. 2020.

142. Uusiku VJ, editor Implementation evaluation of the universal primary education policy at Khomasdal Primary School and Gammams Primary School in the Khomas Region, Namibia2019.

143. Vân PH, Tuấn KA, Anh TTM. Older persons and Long - term care in Vietnam. In: Komazawa OaYS, editor. Coping with Rapid Population Ageing in Asia Jakarta: ERIA, pp.45-562021.

144. Viennet R, Pont B. Education Policy Implementation: A Literature Review and Proposed Framework. OECD Education Working Papers, No. 162. OECD Publishing. 2017. 145. VNCA & UNFPA. Towards a comprehensive national policy for an ageing in Vietnam. Hanoi: VNCA & UNFPA; 2019. 146. Vũ Ngọc Bình. Current laws, policies and practices for older persons in Viet

Nam. Ageing in Asia-Pacific: Routledge; 2018. p. 107-30.

147. Walker WM, Wyse M. Long-Term Care for Older People in Viet Nam: The Current Scenario, and Next Steps Toward a Healthy, Aging Population. 2022. 148. Wildavsky A. Rescuing policy analysis from PPBS. Public Administration Review. 1969;29(2):189-202. 149. Winter SC. Implementation perspectives: Status and reconsideration. The SAGE handbook of public administration. 2012:265-78. 150. World Bank. Live Long and Prosper: Aging in East Asia and Pacific. Washington, DC: World Bank.; 2016.

9

151. Yong V, Saito Y. National long-term care insurance policy in Japan a decade after implementation: some lessons for aging countries. Ageing International. 2012;37:271-84.

10

152. Zapędowska-Kling K. Eldercare services in Sweden and the United States-- comparative perspective and examples of best practice. Poznan University of Economics Review. 2014;14(2).

PHỤ LỤC

Phụ lục 1.

HƯỚNG DẪN PHỎNG VẤN SÂU

ĐỀ TÀI: CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CƠ SỞ CHĂM SÓC

NGƯỜI CAO TUỔI TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI

(Dành cho Cán bộ quản lý, thực hiện CS các cấp)

1. GIỚI THIỆU MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU VÀ NGUYÊN TẮC BẢO

MẬT

(cid:127) Giới thiệu mục đích của việc phỏng vấn: Nhằm thu thập thông tin đánh giá việc

thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc cho NCT trên địa bàn thành phố Hà Nội.

(cid:127) Thông báo rõ các thông tin về bảo mật (thông tin chia sẻ sẽ được đảm bảo bảo

mật và ẩn danh).

(cid:127) Thảo luận nội dung của Phiếu chấp thuận cung cấp thông tin và lấy chữ ký

người được PV

(cid:127) Đảm bảo người được PV sẵn sàng tham gia cung cấp thông tin và môi trường

thực hiện phỏng vấn thuận lợi nhất có thể.

2. GIỚI THIỆU TIẾN TRÌNH PHỎNG VẤN

(cid:127) Thông báo về thời gian của cuộc phỏng vấn/trao đổi sẽ diễn ra

(cid:127) Thông báo và xin phép việc ghi âm/ghi chép trong quá trình phỏng vấn

(cid:127) Trong quá trình phỏng vấn, người được PV có thể đặt câu hỏi để làm rõ thông tin

(cid:127) Người được PV có thể lựa chọn bỏ qua các câu hỏi nếu cảm thấy không thoải

mái khi trả lời

(cid:127) Người được PV có thể yêu cầu dừng cuộc phỏng vấn trao đổi và rời đi nếu như

cảm thấy có bất kỳ mối nguy hại nguy cơ nào có thể xảy ra hoặc cảm thấy không

thoải mái

3. THU THẬP CÁC THÔNG TIN CHUNG

(cid:127) Giới tính:

(cid:127) Năm sinh:

(cid:127) Trình độ học vấn:

(cid:127) Chuyên môn:

(cid:127) Nơi làm việc và thời gian công tác:

11

4. CÂU HỎI PHỎNG VẤN

CƠ SỞ CHĂM SÓC NGƯỜI CAO TUÔI

1. Theo ông/bà, hiện nay có những cơ sở cung cấp DVCS nào cho NCT đang

được triển khai? Cả cơ sở trợ giúp công lập, ngoài công lập.

2. Theo ông/bà, xu hướng trong tương lai có những cơ sở cung cấp dịch vụ nào

sẽ phát triển nhằm đáp ứng các nhu cầu của người cao tuổi?

CS PHÁT TRIỂN CƠ SỞ CHĂM SÓC NGƯỜI CAO TUỔI

3. Theo ông/bà được biết, thì hiện nay có những văn bản CS nào liên quan tới

việc phát triển cơ sở chăm sóc người cao tuổi?

4. Ông/bà có biết tới CS cụ thể nào về việc phát triển các cơ sở chăm sóc người

cao tuổi dành riêng cho khu vực thành phố Hà Nội không? Nếu có thì đó là

những CS gì?

VỀ QUY TRÌNH TRIỂN KHAI THỰC HIỆN CÁC CS

5. Xin ông/ bà cho biết quy trình triển khai thực hiện CS và các văn bản có liên

quan đến việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc người cao tuổi?

6. Ông/bà đánh giá như thế nào về việc triển khai thực hiện các CS về phát triển

cơ sở chăm sóc NCT hiện nay trên cả nước, và đặc biệt ở khu vực TP Hà

Nội?

7. Việc thực hiện hiệu quả, hoặc không hiệu quả các CS này thì vì những lý

do chính nào?

ĐÁNH GIÁ VIỆC THỰC HIỆN CS THEO MÔ HÌNH 7C

(Giải thích ngắn gọn về các nội dung đánh giá theo mô hình 7C)

8. Theo ông/bà, các yếu tố liên quan tới nội dung CS có ảnh hưởng như thế

nào tới việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT?

9. Theo ông/bà, các yếu tố liên quan tới bối cảnh luật pháp-kinh tế-xã hội-

văn hoá có ảnh hưởng như thế nào tới việc thực hiện CS phát triển cơ sở

chăm sóc NCT?

10. Theo ông/bà, các yếu tố liên quan tới sự cam kết của các bên tham gia có

ảnh hưởng như thế nào tới việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc

12

NCT?

11. Theo ông/bà, các yếu tố liên quan tới năng lực của người/hệ thống thực

hiện CS có ảnh hưởng như thế nào tới việc thực hiện CS phát triển cơ sở

chăm sóc NCT?

12. Theo ông/bà, các yếu tố liên quan tới sự tham gia của các bên liên quan có

ảnh hưởng như thế nào tới việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc

NCT?

13. Theo ông/bà, các yếu tố liên quan tới truyền thông có ảnh hưởng như thế

nào tới việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT?

14. Theo ông/bà, các yếu tố liên quan tới sự phối hợp nội bộ và các bên liên

quan/liên ngành có ảnh hưởng như thế nào tới việc thực hiện CS phát triển

cơ sở chăm sóc NCT?

KHUYẾN NGHỊ CẢI THIỆN VIỆC THỰC HIỆN CS

15. Ông/bà có những gợi ý gì cho việc triển khai thành công các CS phát triển cơ

sở chăm sóc người cao tuổi trên địa bàn thành phố Hà Nội? Theo các khía

cạnh của mô hình 7C nói trên?

16. Ngoài các yếu tố trên, ông/bà cho rằng còn yếu tố nào thúc đẩy hiệu quả

của việc thực hiện các CS phát triển cơ sở chăm sóc người cao tuổi trên địa

bàn thành phố Hà Nội?

17. Theo ông/bà, đâu là yếu tố cản trở việc thực hiện hiệu quả các CS phát triển

cơ sở chăm sóc người cao tuổi trên địa bàn thành phố Hà Nội.

18. Ông/bà có những gợi ý gì khác cho việc triển khai thành công các CS phát

triển cơ sở chăm sóc người cao tuổi trên địa bàn thành phố Hà Nội?

13

Xin cảm ơn!

Phụ lục 2.

HƯỚNG DẪN PHỎNG VẤN SÂU

ĐỀ TÀI: CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CƠ SỞ CHĂM SÓC

NGƯỜI CAO TUỔI TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI

(Dành cho Cán bộ quản lý, chủ cơ sở chăm sóc NCT công lập và ngoài công lập)

1. GIỚI THIỆU MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU VÀ NGUYÊN TẮC BẢO

MẬT

(cid:127) Giới thiệu mục đích của việc phỏng vấn: Nhằm thu thập thông tin đánh giá việc

thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc cho NCT trên địa bàn thành phố Hà Nội.

(cid:127) Thông báo rõ các thông tin về bảo mật (thông tin chia sẻ sẽ được đảm bảo bảo

mật và ẩn danh).

(cid:127) Thảo luận nội dung của Phiếu chấp thuận cung cấp thông tin và lấy chữ ký

người được PV

(cid:127) Đảm bảo người được PV sẵn sàng tham gia cung cấp thông tin và môi trường

thực hiện phỏng vấn thuận lợi nhất có thể.

2. GIỚI THIỆU TIẾN TRÌNH PHỎNG VẤN

(cid:127) Thông báo về thời gian của cuộc phỏng vấn/trao đổi sẽ diễn ra

(cid:127) Thông báo và xin phép việc ghi âm/ghi chép trong quá trình phỏng vấn

(cid:127) Trong quá trình phỏng vấn, người được PV có thể đặt câu hỏi để làm rõ thông tin

(cid:127) Người được PV có thể lựa chọn bỏ qua các câu hỏi nếu cảm thấy không thoải

mái khi trả lời

(cid:127) Người được PV có thể yêu cầu dừng cuộc phỏng vấn trao đổi và rời đi nếu như

cảm thấy có bất kỳ mối nguy hại nguy cơ nào có thể xảy ra hoặc cảm thấy không

thoải mái

3. THU THẬP CÁC THÔNG TIN CHUNG

(cid:127) Giới tính:

(cid:127) Năm sinh:

(cid:127) Trình độ học vấn:

(cid:127) Chuyên môn:

(cid:127) Nơi làm việc và thời gian công tác:

14

4. CÂU HỎI PHỎNG VẤN

CƠ SỞ CHĂM SÓC NGƯỜI CAO TUÔI

1. Theo ông/bà, hiện nay có những cơ sở cung cấp DVCS nào cho NCT đang

được triển khai? Cả cơ sở trợ giúp công lập, ngoài công lập.

2. Theo ông/bà, xu hướng trong tương lai có những cơ sở cung cấp dịch vụ nào

sẽ phát triển nhằm đáp ứng các nhu cầu của người cao tuổi?

CS PHÁT TRIỂN CƠ SỞ CHĂM SÓC NGƯỜI CAO TUỔI

3. Xin ông/bà cho biết hiện nay có những văn bản CS nào liên quan tới việc

phát triển cơ sở chăm sóc người cao tuổi?

4. Ông/bà có biết tới CS cụ thể nào về việc phát triển các cơ sở chăm sóc người

cao tuổi dành riêng cho khu vực thành phố Hà Nội không? Nếu có thì đó là

những CS gì?

VỀ QUY TRÌNH TRIỂN KHAI THỰC HIỆN CÁC CS

5. Ông bà đã tham gia như thế nào trong quy trình triển khai thực hiện CS và

phát triển cơ sở chăm sóc NCT của các cơ quan quản lý và thực hiện CS?

6. Ông/bà đánh giá như thế nào về quy trình triển khai thực hiện các CS về phát

triển cơ sở chăm sóc NCT hiện nay trên cả nước, và đặc biệt ở khu vực TP

Hà Nội?

7. Việc thực hiện hiệu quả, hoặc không hiệu quả các CS này thì vì những lý do

chính nào?

ĐÁNH GIÁ VIỆC THỰC HIỆN CS THEO MÔ HÌNH 7C

(Giải thích ngắn gọn về các nội dung đánh giá theo mô hình 7C)

8. Theo ông/bà, các yếu tố liên quan tới nội dung CS có ảnh hưởng như thế nào

tới việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT?

9. Theo ông/bà, các yếu tố liên quan tới bối cảnh luật pháp-kinh tế-xã hội-văn

hoá có ảnh hưởng như thế nào tới việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm

sóc NCT?

10. Theo ông/bà, các yếu tố liên quan tới sự cam kết của các bên tham gia có ảnh

hưởng như thế nào tới việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT?

15

11. Theo ông/bà, các yếu tố liên quan tới năng lực của người/hệ thống thực hiện

CS có ảnh hưởng như thế nào tới việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc

NCT?

12. Theo ông/bà, các yếu tố liên quan tới sự tham gia của các bên liên quan có

ảnh hưởng như thế nào tới việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc

NCT?

13. Theo ông/bà, các yếu tố liên quan tới truyền thông có ảnh hưởng như thế nào

tới việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT?

14. Theo ông/bà, các yếu tố liên quan tớ sự phối hợp nội bộ và các bên liên

quan/liên ngành có ảnh hưởng như thế nào tới việc thực hiện CS phát triển

cơ sở chăm sóc NCT?

KHUYẾN NGHỊ CẢI THIỆN VIỆC THỰC HIỆN CS

15. Ông/bà có những gợi ý gì cho việc triển khai thành công các CS phát triển cơ

sở chăm sóc người cao tuổi trên địa bàn thành phố Hà Nội? Theo các khía

cạnh của mô hình 7C nói trên?

16. Ngoài các yếu tố trên, ông/bà cho rằng còn yếu tố nào thúc đẩy hiệu quả của

việc thực hiện các CS phát triển cơ sở chăm sóc người cao tuổi trên địa bàn

thành phố Hà Nội?

17. Theo ông/bà, đâu là yếu tố cản trở việc thực hiện hiệu quả các CS phát triển

cơ sở chăm sóc người cao tuổi trên địa bàn thành phố Hà Nội.

18. Ông/bà có những gợi ý gì khác cho việc triển khai thành công các CS phát

triển cơ sở chăm sóc người cao tuổi trên địa bàn thành phố Hà Nội?

16

Xin cảm ơn!

Phụ lục 3.

HƯỚNG DẪN PHỎNG VẤN SÂU

ĐỀ TÀI: CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CƠ SỞ CHĂM SÓC

NGƯỜI CAO TUỔI TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI

(Dành cho các chuyên gia nghiên cứu CS và các nhà đầu tư có nhu cầu hoặc đang

hoàn thiện thủ tục dự án xin thành lập cơ sở chăm sóc NCT)

1. GIỚI THIỆU MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU VÀ NGUYÊN TẮC BẢO MẬT

(cid:127) Giới thiệu mục đích của việc phỏng vấn: Nhằm thu thập thông tin đánh giá việc

thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc cho NCT trên địa bàn thành phố Hà Nội.

(cid:127) Thông báo rõ các thông tin về bảo mật (thông tin chia sẻ sẽ được đảm bảo bảo

mật và ẩn danh).

(cid:127) Thảo luận nội dung của Phiếu chấp thuận cung cấp thông tin và lấy chữ ký

người được PV

(cid:127) Đảm bảo người được PV sẵn sàng tham gia cung cấp thông tin và môi trường

thực hiện phỏng vấn thuận lợi nhất có thể.

2. GIỚI THIỆU TIẾN TRÌNH PHỎNG VẤN

(cid:127) Thông báo về thời gian của cuộc phỏng vấn/trao đổi sẽ diễn ra

(cid:127) Thông báo và xin phép việc ghi âm/ghi chép trong quá trình phỏng vấn

(cid:127) Trong quá trình phỏng vấn, người được PV có thể đặt câu hỏi để làm rõ thông tin

(cid:127) Người được PV có thể lựa chọn bỏ qua các câu hỏi nếu cảm thấy không thoải

mái khi trả lời

(cid:127) Người được PV có thể yêu cầu dừng cuộc phỏng vấn trao đổi và rời đi nếu như

cảm thấy có bất kỳ mối nguy hại nguy cơ nào có thể xảy ra hoặc cảm thấy không

thoải mái

3. THU THẬP CÁC THÔNG TIN CHUNG

(cid:127) Giới tính: Năm sinh:

(cid:127) Trình độ học vấn:

(cid:127) Chuyên môn:

17

(cid:127) Nơi làm việc và thời gian công tác:

5. CÂU HỎI PHỎNG VẤN

CƠ SỞ CHĂM SÓC NGƯỜI CAO TUÔI

1. Theo ông/bà, hiện nay có những cơ sở cung cấp DVCS nào cho NCT đang

được triển khai? Cả cơ sở trợ giúp công lập, ngoài công lập.

2. Theo ông/bà, xu hướng trong tương lai có những cơ sở cung cấp dịch vụ nào

sẽ phát triển nhằm đáp ứng các nhu cầu của người cao tuổi?

CS PHÁT TRIỂN CƠ SỞ CHĂM SÓC NGƯỜI CAO TUỔI

3. Xin ông/bà cho biết hiện nay có những văn bản CS nào liên quan tới việc

phát triển cơ sở chăm sóc người cao tuổi?

4. Ông/bà có biết tới CS cụ thể nào về việc phát triển các cơ sở chăm sóc người

cao tuổi dành riêng cho khu vực thành phố Hà Nội không? Nếu có thì đó là

những CS gì?

5. Theo ông/ bà những CS thế nào sẽ giúp khuyến khích và phát triển các cơ sở

chăm sóc NCT hiện nay?

VỀ QUY TRÌNH TRIỂN KHAI THỰC HIỆN CÁC CS

1. Ông bà đã tham gia như thế nào trong quy trình triển khai thực hiện CS và

phát triển cơ sở chăm sóc NCT của các cơ quan quản lý và thực hiện CS?

2. Ông/bà quan sát và đánh giá như thế nào về quy trình triển khai thực hiện các

CS về phát triển cơ sở chăm sóc NCT hiện nay trên cả nước, và đặc biệt ở

khu vực TP Hà Nội?

3. Xin nêu cụ thể những thuận lợi và cản trở trong quá trình ông bà quan sát

hoặc tham gia vào quy trình triển khai thực hiện CS?

4. Việc thực hiện hiệu quả, hoặc không hiệu quả các CS này thì vì những lý do

chính nào?

ĐÁNH GIÁ VIỆC THỰC HIỆN CS THEO MÔ HÌNH 7C

(Giải thích ngắn gọn về các nội dung đánh giá theo mô hình 7C)

5. Theo ông/bà, các yếu tố liên quan tới nội dung CS có ảnh hưởng như thế nào

tới việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT?

6. Theo ông/bà, các yếu tố liên quan tới bối cảnh luật pháp-kinh tế-xã hội-văn

18

hoá có ảnh hưởng như thế nào tới việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm

sóc NCT?

7. Theo ông/bà, các yếu tố liên quan tới sự cam kết của các bên tham gia có ảnh

hưởng như thế nào tới việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT?

8. Theo ông/bà, các yếu tố liên quan tới năng lực của người/hệ thống thực hiện

CS có ảnh hưởng như thế nào tới việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc

NCT?

9. Theo ông/bà, các yếu tố liên quan tới sự tham gia của các bên liên quan có

ảnh hưởng như thế nào tới việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc

NCT?

10. Theo ông/bà, các yếu tố liên quan tới truyền thông có ảnh hưởng như thế nào

tới việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT?

11. Theo ông/bà, các yếu tố liên quan tớ sự phối hợp nội bộ và các bên liên

quan/liên ngành có ảnh hưởng như thế nào tới việc thực hiện CS phát triển

cơ sở chăm sóc NCT?

KHUYẾN NGHỊ CẢI THIỆN VIỆC THỰC HIỆN CS

12. Ông/bà có những gợi ý gì cho việc triển khai thành công các CS phát triển cơ

sở chăm sóc người cao tuổi trên địa bàn thành phố Hà Nội? Theo các khía

cạnh của mô hình 7C nói trên?

13. Ngoài các yếu tố trên, ông/bà cho rằng còn yếu tố nào thúc đẩy hiệu quả của

việc thực hiện các CS phát triển cơ sở chăm sóc người cao tuổi trên địa bàn

thành phố Hà Nội?

14. Theo ông/bà, đâu là yếu tố cản trở việc thực hiện hiệu quả các CS phát triển

cơ sở chăm sóc người cao tuổi trên địa bàn thành phố Hà Nội.

15. Ông/bà có những gợi ý gì khác cho việc triển khai thành công các CS phát

triển cơ sở chăm sóc người cao tuổi trên địa bàn thành phố Hà Nội theo mô

19

hình 7C?

Phụ lục 4.

HƯỚNG DẪN THẢO LUẬN NHÓM

VỀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CƠ SỞ CHĂM SÓC NGƯỜI CAO TUỔI

TẠI ĐỊA BÀN HÀ NỘI

(Dành cho nhóm Cán bộ quản lý các cơ sở chăm sóc NCT và Các nhà đầu tư)

1. GIỚI THIỆU MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU VÀ NGUYÊN TẮC BẢO MẬT

(cid:127) Giới thiệu mục đích của việc phỏng vấn: Nhằm thu thập thông tin đánh giá việc

thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc cho NCT trên địa bàn thành phố Hà Nội.

(cid:127) Thông báo rõ các thông tin về bảo mật (thông tin chia sẻ sẽ được đảm bảo bảo

mật và ẩn danh).

(cid:127) Thảo luận nội dung của Phiếu chấp thuận cung cấp thông tin và lấy chữ ký

người được PV

(cid:127) Đảm bảo người được PV sẵn sàng tham gia cung cấp thông tin và môi trường

thực hiện phỏng vấn thuận lợi nhất có thể.

2. GIỚI THIỆU TIẾN TRÌNH PHỎNG VẤN

(cid:127) Thông báo về thời gian của cuộc thảo luận nhóm sẽ diễn ra

(cid:127) Thông báo và xin phép việc ghi âm/ghi chép trong quá trình phỏng vấn

(cid:127) Trong quá trình phỏng vấn, người được PV có thể đặt câu hỏi để làm rõ thông tin

(cid:127) Người được PV có thể lựa chọn bỏ qua các câu hỏi nếu cảm thấy không thoải

mái khi trả lời

(cid:127) Người được PV có thể yêu cầu dừng cuộc phỏng vấn trao đổi và rời đi nếu như

cảm thấy có bất kỳ mối nguy hại nguy cơ nào có thể xảy ra hoặc cảm thấy không

thoải mái

3. THU THẬP DANH SÁCH NGƯỜI THAM GIA

(cid:127) Giới tính:

(cid:127) Năm sinh:

(cid:127) Trình độ học vấn:

(cid:127) Chuyên môn:

(cid:127) Nơi làm việc và thời gian công tác:

4. CÂU HỎI PHỎNG VẤN

CS PHÁT TRIỂN CƠ SỞ CHĂM SÓC NGƯỜI CAO TUỔI

20

1. Theo ông/bà được biết, thì hiện nay có những văn bản CS nào liên quan tới

việc phát triển cơ sở chăm sóc người cao tuổi?

2. Ông/bà có biết tới CS cụ thể nào về việc phát triển các cơ sở chăm sóc người

cao tuổi dành riêng cho khu vực thành phố Hà Nội không? Nếu có thì đó là

những CS gì?

VỀ QUY TRÌNH TRIỂN KHAI THỰC HIỆN CÁC CS

3. Ông/bà đánh giá như thế nào về QUY TRÌNH việc triển khai thực hiện các

CS về phát triển cơ sở chăm sóc NCT hiện nay tại khu vực TP Hà Nội?

4. Theo QUY TRÌNH thực hiện, kết quả đạt được như thế nào? Bước nào là

hiệu quả, hoặc không hiệu quả và vì những lý do chính nào?

ĐÁNH GIÁ VIỆC THỰC HIỆN CS THEO MÔ HÌNH 7C (Giải thích ngắn gọn về các nội dung đánh giá theo mô hình 7C)

5. Theo ông/bà, các yếu tố liên quan tới nội dung CS có ảnh hưởng như thế nào

tới việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT?

6. Theo ông/bà, các yếu tố liên quan tới bối cảnh luật pháp-kinh tế-xã hội-văn hoá có ảnh hưởng như thế nào tới việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT?

7. Theo ông/bà, các yếu tố liên quan tới sự cam kết của các bên tham gia có ảnh hưởng như thế nào tới việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT? 8. Theo ông/bà, các yếu tố liên quan tới năng lực của người/hệ thống thực hiện CS có ảnh hưởng như thế nào tới việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT?

9. Theo ông/bà, các yếu tố liên quan tới sự tham gia của các bên liên quan có ảnh hưởng như thế nào tới việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT?

10. Theo ông/bà, các yếu tố liên quan tới truyền thông có ảnh hưởng như thế nào

tới việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT?

11. Theo ông/bà, các yếu tố liên quan tớ sự phối hợp nội bộ và các bên liên quan/liên ngành có ảnh hưởng như thế nào tới việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT?

KHUYẾN NGHỊ CẢI THIỆN VIỆC THỰC HIỆN CS

12. Ông/bà có những gợi ý gì cho việc triển khai thành công các CS phát triển cơ

sở chăm sóc người cao tuổi trên địa bàn thành phố Hà Nội? Theo QUY

TRÌNH thực hiện và theo các khía cạnh của mô hình 7C nói trên?

21

Xin cảm ơn!

Phụ lục 5.

SO SÁNH CƠ SỞ TGXH CÔNG LẬP VÀ NGOÀI CÔNG LẬP

THEO NGHỊ ĐỊNH 68/2008/NĐ-CP VÀ NGHỊ ĐỊNH 103/2017/NĐ-CP

NĐ 68/2008/NĐ-CP NĐ 103/2017/NĐ-CP

Cơ sở BTXH công lập do cơ Cơ sở TGXH công lập do cơ 1 Cơ sở công

quan nhà nước quản lý, đầu quan nhà nước thành lập, lập

tư xây dựng cơ sở vật chất, quản lý, đầu tư xây dựng cơ

bảo đảm kinh phí cho các sở vật chất và bảo đảm kinh

phí cho các nhiệm vụ của nhiệm vụ chi thường xuyên

của cơ sở BTXH cơ sở TGXH

Cơ sở BTXH ngoài công lập Cơ sở TGXH ngoài công lập 2 Cơ sở ngoài

do các tổ chức, cá nhân do các cá nhân, tổ chức, công lập

trong và ngoài nước đầu tư doanh nghiệp trong và

xây dựng cơ sở vật chất và ngoài nước đầu tư xây dựng

bảo đảm kinh phí cho các cơ sở vật chất và bảo đảm

kinh phí cho các nhiệm vụ nhiệm vụ chi thường xuyên

của cơ sở BTXH của cơ sở TGXH

Tất cả các cơ sở 3 Quy mô cơ sở Trên 10 đối tượng

22

Nguồn: Tác giả tổng hợp

Phụ lục 6.

QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN CƠ SỞ CHĂM SÓC NCT

Quyết định số Quyết định 2156/QĐ-TTg

1781/QĐ-TTg

(Hoạt động thứ (Nhiệm vụ thứ 2/12 nhiệm vụ và giải pháp)

2. Phát triển mạng lưới cơ sở trợ giúp xã hội cung cấp 7/9 Hoạt động chủ

DVCS, phục hồi chức năng đối với NCT yếu)

7 Hoạt động phát a) Thực hiện quy hoạch, phát triển mạng lưới các cơ sở trợ

triển các cơ sở giúp xã hội chăm sóc, phục hồi chức năng cho NCT (công

chăm sóc và nhà ở lập và ngoài công lập);

đối với NCT: b) Hỗ trợ đầu tư cho các cơ sở trợ giúp xã hội về cơ sở vật

a) Quy hoạch hệ chất, kỹ thuật và trang thiết bị đạt tiêu chuẩn quy định, bảo

thống cơ sở chăm đảm có các phân khu chức năng, các hạng mục công trình

sóc NCT, bảo đảm đáp ứng hoạt động chăm sóc, phục hồi chức năng cho NCT;

mỗi tỉnh, thành phố Giai đoạn 2022 - 2025, mỗi năm hỗ trợ xây dựng tối thiểu 2

có ít nhất từ 02 cơ mô hình: cơ sở trợ giúp xã hội chăm sóc, phục hồi chức

sở chăm sóc NCT năng cho NCT và cơ sở trợ giúp xã hội dưỡng lão.

trở lên; Giai đoạn 2026 - 2030, hỗ trợ nhân rộng mô hình, Bộ Lao

b) Chuẩn hóa cơ sở động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn tiêu chí, điều kiện

chăm sóc NCT; mô hình và thống nhất với các tỉnh, thành phố lựa chọn cơ

sở nhân rộng mô hình; xây dựng các tiêu chuẩn, quy trình (Giải pháp thứ 4/5

cung cấp DVCS, phục hồi chức năng; hướng dẫn, hỗ trợ các giải pháp)

4. Đẩy mạnh xã hội địa phương thực hiện các tiêu chuẩn và quy trình theo quy

hóa về công tác định, nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ cho NCT;

chăm sóc NCT; đa c) Hỗ trợ thí điểm mô hình CSDH đối với NCT; mô hình

dạng hóa nguồn nhà xã hội an toàn tại cộng đồng cho NCT độc thân, NCT

vốn để triển khai cô đơn không nơi nương tựa; thực hiện thí điểm NSNN hỗ

thực hiện Chương trợ một phần đối với khu vực tư nhân cung cấp dịch vụ

23

trình. chăm sóc NCT có hoàn cảnh khó khăn.

Phụ lục 7.

QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU, GIẢI PHÁP QUY HOẠCH CƠ SỞ TGXH

CHĂM SÓC NGƯỜI CAO TUỔI TẠI VIỆT NAM

24

1. Quan điểm a) Quy hoạch mạng lưới các cơ sở trợ giúp xã hội phù hợp với chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, của từng vùng, địa phương trong từng thời kỳ và phát huy năng lực, hiệu quả của các cơ sở trợ giúp xã hội hiện có; b) Quy hoạch mạng lưới các cơ sở trợ giúp xã hội theo vùng kinh tế - xã hội, theo cơ cấu dân số và người dân có nhu cầu trợ giúp xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận và thụ hưởng dịch vụ trợ giúp xã hội, nhất là người cao tuổi, người khuyết tật, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, người tâm thần, người nhiễm HIV/AIDS và đối tượng cần sự bảo vệ khẩn cấp; c) Đa dạng hóa các hình thức đầu tư, hình thức quản lý cơ sở trợ giúp xã hội, đẩy mạnh xã hội hóa, bảo đảm phù hợp với khả năng đầu tư của Nhà nước và khả năng huy động nguồn lực xã hội để phát triển mạng lưới các cơ sở trợ giúp xã hội; d) Quy hoạch mạng lưới cơ sở trợ giúp xã hội giai đoạn 2016 - 2025 là quy hoạch mở, tùy thuộc vào tình hình và nhu cầu thực tế của các vùng, địa phương, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sẽ nghiên cứu, điều chỉnh quy hoạch cho phù hợp, đáp ứng tốt nhất nhu cầu phục vụ đối tượng bảo trợ xã hội. 2. Mục tiêu 2.1. Mục tiêu chung Phát triển mạng lưới các cơ sở trợ giúp xã hội phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, nâng cao chất lượng dịch vụ trợ giúp xã hội tiếp cận các nước tiên tiến trong khu vực, đáp ứng nhu cầu trợ giúp của người dân, hướng tới mục tiêu phát triển xã hội công bằng và hiệu quả. 2.2. Mục tiêu cụ thể a) Củng cố, phát triển mạng lưới các cơ sở trợ giúp xã hội công lập và ngoài công lập, trong đó các cơ sở trợ giúp xã hội ngoài công lập đạt tối thiểu 60% số cơ sở; b) Đến năm 2020, số người có hoàn cảnh khó khăn được tư vấn, hỗ trợ và quản lý trường hợp từ các cơ sở trợ giúp xã hội đạt 50% và năm 2025 đạt 75%, trong đó, ưu tiên trợ giúp người cao tuổi không có người phụng dưỡng, người tâm thần, người khuyết tật nặng, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, nạn nhân bạo lực gia đình, nạn nhân bị buôn bán, người chưa thành niên không có nơi cư trú ổn định bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, trẻ em lang thang kiếm sống trên đường phố. c) Đến năm 2025, tất cả các cơ sở trợ giúp xã hội bảo đảm các điều kiện tối thiểu tiếp cận đối với người khuyết tật.

Phụ lục 8.

HỆ THỐNG CÁC VĂN BẢN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN

(Có hiệu lực đến tháng 12/2022)

CƠ SỞ CHĂM SÓC NGƯỜI CAO TUỔI Ở VIỆT NAM

Loại CS Năm ban Tên văn bản CS

hành/

Các văn bản là căn cứ của các CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT

2012 Quyết định 1781/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình quốc

gia về người cao tuổi giai đoạn 2012-2020

Văn bản 2013 Hiến pháp Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam

pháp luật 2013

2009 Luật Người cao tuổi số 39/2009/QH12 ngày 23 tháng

11 năm 2009

2017 Luật Quy hoạch số 21/2017/QH14

2019 Nghị định số 37/2019/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành

Quyết định số 1781/QĐ-TTg ngày 22/11/2012 của Thủ

một số điều của Luật quy hoạch (Khoản 10, điều 20)

tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình hành động quốc

gia về người cao tuổi Việt Nam giai đoạn 2012-2020

2012

2021 Quyết định 2156/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình hành

động quốc gia về người cao tuổi Việt Nam giai đoạn

2021-2030

CS quản lý nhà nước

CS quy 2015 Quyết định số 1520/QĐ-LĐTBXH phê duyệt quy hoạch

mạng lưới các cơ sở trợ giúp xã hội giai đoạn 2016 - hoạch

mạng lưới 2025

các cơ sở 2017 Quyết định số 488/QĐ-TTg phê duyệt đề án “Đổi mới,

trợ giúp xã phát triển trợ giúp xã hội giai đoạn 2017 – 2020 và tầm

hội nhìn đến năm 2030.

2020 Quyết định số 542/QĐ-TTg phê duyệt nhiệm vụ lập quy

25

hoạch mạng lưới cơ sở trợ giúp xã hội thời kỳ 2021 -

2030, tầm nhìn đến năm 2050

2020 Văn bản số 3434/LĐTBXH-BTXH ngày 07/9/2020 của

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn thực

hiện phương án sắp xếp các cơ sở trợ giúp xã hội;

CS về quy 2017 Nghị định số 103/2017/NĐ-CP quy định về thành lập,

định điều tổ chức, hoạt động, giải thể và quản lý các cơ sở trợ

kiện, thủ giúp xã hội (thay thế NĐ 68/2008/NĐ-CP)

tục thành 2017 Thông tư số 33/2017/TT-BLĐTBXH hướng dẫn về cơ

lập, tổ cấu tổ chức, định mức nhân viên và quy trình, tiêu

chức, hoạt chuẩn trợ giúp xã hội tại cơ sở trợ giúp xã hội

động, quản 2018 Thông tư số 02/2018/TT-BLĐTBXH quy định mức

lý và giải kinh tế-kỹ thuật làm cơ sở xây dựng giá dịch vụ trợ

thể cơ sở giúp xã hội

trợ giúp xã 2020 Văn bản số 3434/LĐTBXH-BTXH ngày 07/9/2020 của

hội Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn thực

hiện phương án sắp xếp các cơ sở trợ giúp xã hội

2020 Nghị định số 120/2020/NĐ-CP ngày 07/10/2020 của

Chính phủ quy định về thành lập, tổ chức lại, giải thể

đơn vị sự nghiệp công lập.

2020 Nghị định số 60/2021/NĐ-CP ngày 21/6/2021 của

Chính phủ quy định cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị

sự nghiệp công lập

CS ưu đãi

CS về 2008 Nghị định số 69/2008/NĐ-CP về CS khuyến khích xã

khuyến hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục,

khích dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường

XHH, 2013 Quyết định số 693/QĐ-TTg về việc sửa đổi, bổ sung

danh mục một số nội dung của danh mục chi tiết các loại hình,

chi tiết loại tiêu chí quy mô, tiêu chuẩn của các cơ sở thực hiện xã

hình, tiêu hội hóa trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, dạy nghề, y

chí, quy tế, văn hóa, thể thao, môi trường ban hành kèm theo

26

mô, tiêu quyết định số 1466/QĐ-TTg ngày 10 tháng 10 năm

chuẩn của 2008 của Thủ tướng chính phủ

các tổ chức 2014 Nghị định số 59/2014/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số

thực hiện điều của nghị định số 69/2008/NĐ-CP ngày 30 tháng 5

XHH năm 2008 của chính phủ về CS khuyến khích xã hội

hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy

nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường.

2016 QĐ số 1470/QĐ-TTg về việc sửa đổi, bổ sung một số

nội dung của danh mục chi tiết các loại hình, tiêu chí,

quy mô, tiêu chuẩn của các cơ sở thực hiện xã hội hóa

trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, dạy nghề, y tế, văn

hóa, thể thao, môi trường ban hành kèm theo Quyết

định số 1466/QĐ-TTg ngày 10 tháng 10 năm 2008 của

Thủ tướng chính phủ

CS về hỗ 2008 Điều 5, điều 6, Nghị định số 69/2008/NĐ-CP về CS

trợ đầu tư, khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong

giao/ cho lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi

thuê đất, trường

cho thuê/ Thông tư số 135/2008/TT-BTC hướng dẫn nghị định

xây dựng số 69/2008/NĐ-CP ngày 30 tháng 5 năm 2008 của

cơ sở vật chính phủ về CS khuyến khích xã hội hóa đối với các

chất cho cơ hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn

sở trợ giúp hóa, thể thao, môi trường

xã hội, 2013 Khoản 2,3 Điều 1, Nghị định số 59/2014/NĐ-CP

2015 Nghị định số 30/2015/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành

một số điều của luật đấu thầu về lựa chọn nhà đầu tư

(không thuộc trường hợp cần đấu thầu khi thực hiện dự

án đầu tư trong lĩnh vực XHH – NĐ 59/2014/NĐ-CP)

CS miễn/ 2014 Nghị định số 46/2014/NĐ-CP quy định về thu tiền thuê

đất, thuê mặt nước (Được miễn tiền thuê đất, thuê mặt giảm tiền

thuê đất, nước)

thuê mặt

27

nước

CS ưu đãi 2008 Điều 9, Nghị định số 69/2008/NĐ- CP về CS ưu đãi về

về tín dụng tín dụng.

và huy Điều 10, Nghị định số 69/2008/NĐ- CP về CS huy

động vốn. động vốn.

CS về 2011 Thông tư số 153/2011/TT-BTC hướng dẫn về thuế sử

miễn giảm dụng đất phi nông nghiệp (Điều 10. Miễn thuế)

thuế giá trị 2015 Thông tư số 96/2015/TT-BTC hướng dẫn về thuế thu

gia tăng, nhập doanh nghiệp tại Nghị định số 12/2015/NĐ-

thuế thu CP ngày 12/2/2015 của chính phủ quy định chi tiết thi

nhập hành luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật về

doanh thuế và sửa đổi bổ sung một số điều của các nghị định

nghiệp, về thuế và sửa đổi, bổ sung một số điều của thông tư

thuế đất số 78/2014/TT-BTC ngày 18/6/2014, thông tư

số 119/2014/TT-BTC NGÀY 25/8/2014, thông tư

số 151/2014/TT-BTC ngày 10/10/2014 của Bộ tài chính

(Thuế TNDN 10%)

2016 Thông tư số 130/2016/TT-BTC hướng dẫn nghị định

số 100/2016/NĐ-CP ngày 01 tháng 7 năm 2016 của

Chính phủ quy định chi tiết thi hành luật sửa đổi, bổ

sung một số điều của luật thuế giá trị gia tăng, luật thuế

tiêu thụ đặc biệt và luật quản lý thuế và sửa đổi một số

điều tại các thông tư về thuế. (Khoản 9, Điều 4: Đối

tượng không chịu thuế GTGT)

CS giá 2014 Điều 9. Giá bán lẻ điện cho khối hành chính, sự nghiệp,

Thông tư số 16/2014/TT-BCT quy định về thực hiện giá điện, nước

bán điện. ưu đãi cho

cơ sở trợ 2021 Thông tư số 44/2021/TT-BTC quy định về khung giá,

giúp xã hội nguyên tắc, phương pháp xác định giá nước sạch sinh

hoạt.

CS trợ 2021 Nghị định 20/2021/NĐ-CP ngày 15/3/2021 quy định

CS trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội giúp xã hội

28

cho đối

tượng bảo

trợ

CS quản lý, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực

CS quản lý 2009 Điều 11. Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế

nhân sự Điều 12. Khen thưởng

Nghị định số 69/2008/NĐ-CP về CS khuyến khích xã

hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục,

dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường

CS tiêu 2015 Thông tư liên tịch số 30/2015/TTLT-BLĐTBXH-BNV

chuẩn nhân Quy định mã số và tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp

lực viên chức chuyên ngành CTXH

CS đào tạo 2021 Quyết định số 112/2021/QĐ-TTg ngày 21/01/2021 của

nhân lực Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án phát triển

29

CTXH giai đoạn 2021-2030

Phụ lục 9.

SỐ NGƯỜI CAO TUỔI THEO NHÓM TUỔI

THEO ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH TẠI HÀ NỘI NĂM 2022

Số lượng NCT theo nhóm tuổi phân bố theo Đơn vị hành chính tại Hà Nội năm 2022

7.477

8.235

5.716

5.952

5.832

6.289

5.203

6.646

7.638

1.767

6.764

4.723

8.457

8.444

4.857

7.429

9.318

3.766

8.391

5.159

2.789

8.040

6.168

2.984

4.700

8.343

10.648

6.210

5.186

Ứng Hoà Thường Tín Thạch Thất Thanh Trì Thanh Oai Sóc Sơn Quốc Oai Phúc Thọ Phú Xuyên Mỹ Đức Mê Linh Hoài Đức Gia Lâm Đông Anh Đan Phượng Chương Mỹ Ba Vì Sơn Tây Thanh Xuân Tây Hồ Nam Từ Liêm Long Biên Hà Đông Hoàng Mai Hoàn Kiếm Hai Bà Trưng Đống Đa Cầu Giấy Bắc Từ Liêm Ba Đình

8.135

0

10.000

20.000

30.000

40.000

50.000

60.000

70.000

Số NCT từ 60-79 tuổi

Số NCT từ 80 tuổi trở lên

30

Nguồn: Tác giả tổng hợp [38]

Phụ lục 10.

MỘT SỐ SỐ LIỆU THỐNG KÊ VỀ NGƯỜI CAO TUỔI TẠI HÀ NỘI

Đặc điểm

Số NCT 86.798 9.814 STT 1 2

36.348

103

3

4

14

387.547

5

364.152

6

91.268

7

8

299

2.237 12.605

9

4.352

10 11

12

923

323

13

18

14

Số hộ hiện chỉ có NCT NCT cô đơn không nơi nương tựa Số NCT là người khuyết tật (đã được UBND cấp xã cấp giấy xác nhận mức độ khuyết tật). Người cao tuổi thuộc hộ nghèo không có khả năng tự phục vụ bản thân NCT thuộc hộ gia đình nghèo không có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng hoặc có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng nhưng người này đang hưởng chế độ trợ cấp xã hội hằng tháng. Số NCT đang hưởng lương hưu Số NCT không có lương hưu, trợ cấp BHXH, trợ cấp bảo trợ xã hội, trợ cấp NCC hàng tháng NCT từ đủ 80 tuổi trở lên không có lương hưu, trợ cấp BHXH hàng tháng, trợ cấp XH hàng tháng NCT từ đủ 80 tuổi trở lên không có lương hưu, trợ cấp BHXH hàng tháng, trợ cấp XH hàng tháng thuộc hộ nghèo Số NCT thuộc hộ nghèo Số NCT thuộc hộ cận nghèo NCT cô đơn là thành viên thuộc hộ nghèo không có khả năng thoát nghèo hoặc cận nghèo mà trong hộ không có người trong độ tuổi lao động hoặc không có người còn khả năng lao động Số NCT đủ điều kiện tiếp nhận vào cơ sở bảo trợ xã hội (BTXH) nhưng tự nguyện và có người chăm sóc tại cộng đồng Số NCT đang được nuôi dưỡng trong cơ sở BTXH công lập Số NCT đang phải sống trong nhà tạm, nhà hư hỏng 15

31

Nguồn: Tác giả tổng hợp [38]

Phụ lục 11.

DANH SÁCH CÁC VĂN BẢN CS VỀ PHÁT TRIỂN CƠ SỞ CHĂM SÓC

NGƯỜI CAO TUỔI VÀ CƠ QUAN BAN HÀNH

Cơ quan ban hành Văn bản CS cụ thể

Quốc hội - Luật Người cao tuổi 2009

- Luật Quy hoạch số 21/2017/QH14

Chính phủ - Nghị định số 69/2008/NĐ-CP

- Nghị định 103/2017/NĐ-CP

- Nghị định số 37/2019/NĐ-CP

- Nghị định 20/2021/NĐ-CP

- Nghị định số 120/2020/NĐ-CP ngày 07/10/2020

Thủ Tướng Chính phủ - Quyết định 2156/QĐ-TTg

- Quyết định số 488/QĐ-TTg

Bộ trưởng, thủ trưởng cơ - Quyết định số 1520/QĐ-LĐTBXH

quan ngang bộ - Thông tư 33/2017/TT-BLĐTBXH

- Thông tư số 02/2018/TT-BLĐTBXH

- Văn bản số 3434/LĐTBXH-BTXH

- Thông tư số 153/2011/TT-BTC

- Thông tư số 96/2015/TT-BTC

- Thông tư số 16/2014/TT-BCT

UBND thành phố Hà - Quyết định số 2478/QĐ-UBND năm ;

Nội - Quyết định số 11/2015/QĐ-UBND năm 2015;

- Quyết định số 2330/QĐ-UBND năm 2015;

- Quyết định số 5188/QĐ-UBND năm 2021;

- Quyết định số 2857/QĐ-UBND năm 2017

- Kế hoạch số 93/KH-UBND năm 2018;

- Kế hoạch số 30/KH-UBND năm 2022;

- Kế hoạch 249/KH-UBND năm 2020;

- Kế hoạch 02/KH-UBND năm 2022.

32

Nguồn: Tác giả tổng hợp

Phụ lục 12.

VĂN BẢN HƯỚNG DẪN THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CƠ SỞ

CHĂM SÓC NCT CỦA TP HÀ NỘI

Loại chính sách Thông tin chi tiết các văn bản

CS về quy hoạch mạng lưới các - QĐ số 2330/QĐ-UBND ngày 22/5/2015

cơ sở TGXH - QĐ số 5188/QĐ-UBND ngày 9/12/2021

- QĐ số 1459/QĐ-UBND ngày 26/3/2018

- QĐ số 2478/QĐ-UBND ngày 23/5/2018

CS về khuyến khích XHH - QĐ số 11/2015/QĐ-UBND ngày

19/05/2015

- Kế hoạch số 93/KH-UBND ngày

19/4/2018

CS về hỗ trợ đầu tư, xây dựng cơ - QĐ số 11/2015/QĐ-UBND ngày

sở vật chất cho cơ sở TGXH 19/05/2015

CS giao/thuê đất, thuê mặt nước - QĐ số 11/2015/QĐ-UBND ngày 19/05/

2015

CS về miễn giảm thuế giá trị gia - QĐ số 11/2015/QĐ-UBND ngày 19/05/

tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, 2015

thuế đất

CS giá điện, nước ưu đãi cho cơ - Theo CS chung của cả nước

sở TGXH

CS đào tạo và phát triển nguồn - QĐ 5188/QĐ-UBND ngày 09 tháng 12

năm 2021 nhân lực

33

Nguồn: Tác giả tổng hợp

Phụ lục 13.

DỰ KIẾN ĐẦU TƯ CHO CÁC CƠ SỞ TGXH DÀNH CHO NCT CÔNG LẬP

VÀ NGOÀI CÔNG LẬP TP HÀ NỘI GIAI ĐOẠN 2015-2030

Quy mô

Diện Diện Công Tổng tích đất tích suất Hình kinh phí Công chuyên xây tăng STT Tên dự án thức đầu dự kiến suất dùng dựng thêm tư (tỷ sau (đối thêm đồng) đầu tư (đơn vị tính m2) tượng,

(đơn vị tính m2) giường)

I Giai đoạn 2015-2020

Nâng cấp, Nâng cấp, cải tạo, xây mới cải tạo bổ sung cơ sở hạ tầng và CSHT, 1 đầu tư trang thiết bị kỹ 10,000 2,876 56 280 49 đầu tư thuật của Trung tâm trang thiết BTXH số II bị

Nâng cấp, Nâng cấp, cải tạo, xây mới cải tạo bổ sung cơ sở hạ tầng và CSHT, 2 đầu tư trang thiết bị kỹ 10,000 0 59 280 15 đầu tư thuật của Trung tâm trang thiết BTXH số III bị

Nâng cấp, Nâng cấp, cải tạo, xây mới cải tạo bổ sung cơ sở hạ tầng và CSHT, 3 đầu tư trang thiết bị kỹ 43,826 23,437 720 1,650 402 đầu tư thuật của mạng lưới cơ sở trang thiết BTXH ngoài công lập bị

II Giai đoạn 2021-2030

34

1 Nâng cấp, cải tạo, xây mới 10,000 500 20 300 Nâng cấp, 20

cải tạo bổ sung cơ sở hạ tầng và

CSHT, đầu tư trang thiết bị kỹ

đầu tư thuật của Trung tâm

trang thiết BTXH số II

bị

Nâng cấp, Nâng cấp, cải tạo, xây mới cải tạo bổ sung cơ sở hạ tầng và CSHT, 2 đầu tư trang thiết bị kỹ 10,000 1,350 20 300 55 đầu tư thuật của Trung tâm trang thiết BTXH số III bị

Nâng cấp, cải tạo, xây mới

bổ sung cơ sở hạ tầng và

3 đầu tư trang thiết bị kỹ 75,323 55,616 2,450 4,100 2249

thuật của mạng lưới cơ sở

BTXH ngoài công lập

35

Nguồn: Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội [52]

Phụ lục 14.

THÔNG TIN CƠ SỞ BTXH TẠI HÀ NỘI CHĂM SÓC NGƯỜI CAO TUỔI

Tên cơ sở BTXH Đối tượng phục vụ của cơ sở Số lượng đối tượng

phục vụ

- NCT không có người có nghĩa vụ 39 NCT cô đơn; Trung tâm Bảo trợ

và quyền phụng dưỡng 109 NKT tâm thần, xã hội 2 Hà Nội

Địa chỉ: thôn Phù - Người khuyết tật bao gồm người 73 NKT khác;

Yên, xã Viên An, khuyết tật thần kinh, tâm thần, trí 20 người lang thang.

huyện Ứng Hoà, tuệ

thành phố Hà Nội. - Người lang thang, xin tiền

- Đối tượng cần sự bảo vệ khẩn cấp

- Đối tượng có nhu cầu được

TGXH và tự nguyện đóng góp kinh

phí

- NCT cô đơn không nơi nương tựa; 48 NCT cô đơn; Trung tâm Bảo trợ

- Trẻ em không có nguồn nuôi 65 trẻ không có xã hội 3 Hà Nội

Địa chỉ: số 3 TDP 3 dưỡng nguồn nuôi dưỡng

Miêu Nha, phường - Đối tượng có nhu cầu được TGXH

Tây Mỗ, quận Nam và tự nguyện đóng góp kinh phí

Từ Liêm

36

Nguồn: Sở LĐTB&XH Hà Nội [35], UBND TP Hà Nội [47]

Phụ lục 15.

DANH SÁCH CÁC CƠ SỞ CHĂM SÓC NCT NGOÀI CÔNG LẬP

TẠI HÀ NỘI

Tên cơ sở Địa chỉ ST T Năm thành lập Giấy phép năm

Số lượng NCT (Thực tế/ cấp phép)

1 2015 220/ 320 Bắc Từ Liêm Sóc Sơn Bắc Từ Liêm 2009 2011 2013

2 Bắc Từ Liêm 2007 2014 100/ 60

3 Đông Anh 2012 68/103 L1.2014 L2. 2022

4 Gia Lâm 2014 2014 50/100

5 Thanh Trì 2014 2014 60/70

6 Chương Mỹ 2014 14/ 118 L1.2014 L2. 2022 TT chăm sóc sức khỏe NCT Thiên Đức (3/5CS ở Hà Nội) TT chăm sóc NCT Nhân Ái TT chăm sóc NCT Tuyết Thái Trung tâm chăm sóc sức khỏe NCT Phù Đổng (Phúc Sinh) Trung tâm điều dưỡng và chăm sóc NCT Vạn Phúc Trung tâm Chăm sóc NCT Tâm Đức (tên thực tế: Từ Tâm)

lão 7 2014 tâm Dưỡng Trung Diên Hồng (04 cơ sở) 330/ 157 2019 2019 2020 2022

tâm Dưỡng lão 8 2018 2020 40/32 Trung Javilink (03 cơ sở) Hà Đông Thanh Oai Hoàng Mai Thanh Trì Nam Từ Liêm Hà Đông Bắc Từ Liêm

9 2016 2021 52/40 Thanh Xuân Hoàng Mai

tâm Dưỡng

10 Mê Linh 2019 2021 20/35

11 Hoài Đức 2019 116/80

12 Thanh Trì 2019 67/80 2019 L1. 2019 L2. 2022

13 Nam Từ Liêm 2022 2020 16/68 Trung tâm Chăm sóc NCT Hà Nội (3CS: 2 CS Hà Nội, 1 CS Thái Nguyên) lão Trung Kaigo Mê Linh (2CS: 1 CS Hà Nội, 1 CS Hưng Yên) Viện dưỡng lão ALH Trung tâm chăm sóc NCT Tâm Phúc Trung tâm Dưỡng lão Hoa Sen

37

TỔNG SỐ 1153

Nguồn: Sở LĐTB&XH Hà Nội [35]; tác giả tự tổng hợp

Phụ lục 16.

TIÊU CHÍ GIÁM SÁT THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH

- Các giải pháp được thực hiện mà không gặp phải những Sự phù hợp của vướng mắc trong thực tế, đặc biệt là mức độ khả thi nội dung CS (giải - Có các hướng dẫn cụ thể về việc thực hiện các giải pháp pháp CS) cho đơn vụ quản lý và đối tượng hưởng lợi CS

- Sự quan tâm ủng hộ của chính quyền sở tại (cấp xã

phường) với việc thực hiện các CS được ban hành.

- Các thủ tục hành chính liên quan tới việc thực hiện CS

được giải quyết nhanh chóng.

- Có các chỉ dẫn cụ thể từ chính quyền cho đơn vị thụ Sự cam kết của các

hưởng trong quá trình thực hiện CS. bên tham gia

- Những thắc mắc của các đơn vị thụ hưởng được trả lời

một cách nhanh chóng và cụ thể.

- Sự ổn định về mặt nhân sự tham gia vào quá trình quản

lý thực hiện CS

- Có cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành và địa phương

trong quá trình thực hiện CS (thông tư liên ngành).

- Có sự phối hợp nội bộ trong cơ quan quản lý thực hiện

CS và các bên liên quan. Sự phối hợp của

- Các bên liên quan được thông báo về tiến trình, các vấn các bên liên quan

đề phát sinh trong quá trình thực hiện CS.

- Có cơ chế khuyến khích các bên liên quan tham gia đóng

góp ý kiến trong quá trình triển khai CS.

- Nội dung CS được phổ biến rộng rãi tới đối tượng hưởng

lợi bởi nhiều phương thức truyền thông khác nhau.

- Nội dung CS được hiểu thống nhất từ trên xuống và từ Việc truyền thông

dưới lên. về CS

- Thông tin liên lạc, cách thức liên lạc được thể hiện rõ

38

trong các văn bản hướng dẫn thực hiện CS.

- Có cơ chế tiếp nhận ý kiến phản hồi và giải đáp thắc mắc

của những đối tượng hưởng lợi.

- Việc trao đổi 2 chiều giữa người/cơ quan chịu trách

nhiệm thực hiện CS với đối tượng hưởng lợi dễ dàng và

thuận lợi.

- Năng lực điều phối, phân công nội bộ các hoạt động

trong quá trình thực hiện CS.

- Năng lực điều phối các bên tham gia trong quá trình thực Năng lực cơ hiện CS. quan/người thực - Khả năng quản lý và thay đổi những bất cập trong quá hiện CS trình thực hiện CS.

- Trình độ chuyên môn của các cá nhân và tổ chức có liên

quan tới việc thực hiện.

- Số lượng các cơ sở được hưởng lợi từ CS, cụ thể các hỗ Các kết quả đạt trợ được nhận theo từng giai đoạn. được (định tính và - Những tác động mà CS mang lại về các mặt khác nhau định lượng) đối với cơ sở.

- Có các báo cáo cụ thể theo giai đoạn về việc thực hiện

CS từ các cấp quản lý và thực hiện khác nhau. Việc báo cáo quá

- Đối tượng hưởng lợi CS có những đóng góp và được ghi trình thực hiện CS.

nhận trong các báo cáo.

39

Nguồn: OECD [120]; Tác giả tổng hợp từ kết quả khảo sát