VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRỊNH PHƯƠNG THẢO
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN
CƠ SỞ CHĂM SÓC NGƯỜI CAO TUỔI TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI
LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
HÀ NỘI – năm 2023
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRỊNH PHƯƠNG THẢO
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN
CƠ SỞ CHĂM SÓC NGƯỜI CAO TUỔI TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI
Ngành: Chính sách công
Mã số: 9 34 04 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN ĐỨC VINH
HÀ NỘI – năm 2023
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, toàn bộ Luận án “Thực hiện chính sách phát triển cơ
sở chăm sóc người cao tuổi trên địa bàn Hà Nội” là một công trình nghiên cứu
khoa học độc lập, được hoàn thành từ quá trình nghiên cứu và học hỏi nghiêm túc
của chính bản thân tôi. Các kết quả nghiên cứu và các kết luận khoa học được rút ra
trung thực từ quá trình nghiên cứu mà không có bất cứ hình thức sao chép nào, cũng
như chưa được công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu khoa học nào khác. Các
số liệu, tài liệu tham khảo được trích dẫn trong luận án này đều được ghi nguồn cụ
thể và tuân theo những quy định về mặt khoa học. Luận án này cũng tuân thủ nghiêm
ngặt các nguyên tắc về mặt đạo đức cần có trong suốt quá trình nghiên cứu của tác
giả.
Nghiên cứu sinh
i
Trịnh Phương Thảo
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ........................................................................ iv DANH MỤC BẢNG .................................................................................................... v DANH MỤC SƠ ĐỒ ................................................................................................... v DANH MỤC BIỂU ĐỒ ............................................................................................... v DANH MỤC HỘP Ý KIẾN ....................................................................................... vi PHẦN MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Tính cấp thiết của đề tài ......................................................................................... 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................ 3
3. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu ........................................................ 4
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu .................................................... 4
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án .............................................................. 11
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án ............................................................. 12
7. Kết cấu của luận án .............................................................................................. 12
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ................................... 13 1.1. Các hướng tiếp cận nghiên cứu thực hiện chính sách công ............................. 13
1.2. Các nghiên cứu về nhu cầu phát triển cơ sở chăm sóc người cao tuổi ............. 23
1.3. Các nghiên cứu về chính sách phát triển cơ sở chăm sóc người cao tuổi ........ 26
1.4. Các nghiên cứu về thực hiện chính sách phát triển cơ sở chăm sóc người cao
tuổi ........................................................................................................................... 30
Tiểu kết Chương 1 ................................................................................................... 37
CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CƠ SỞ CHĂM SÓC NGƯỜI CAO TUỔI ........................ 38 2.1. Người cao tuổi và nhu cầu chăm sóc người cao tuổi ........................................ 38
2.2. Cơ sở chăm sóc Người cao tuổi ........................................................................ 43
2.3. Chính sách phát triển cơ sở chăm sóc người cao tuổi ...................................... 46
2.4. Thực hiện chính sách phát triển cơ sở chăm sóc người cao tuổi ...................... 49
2.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách phát triển cơ sở chăm sóc
người cao tuổi .......................................................................................................... 58
2.6. Quan điểm định hướng và chính sách phát triển cơ sở chăm sóc người cao tuổi
ở Việt Nam............................................................................................................... 63
2.7. Khung phân tích của luận án ............................................................................ 71
ii
Tiểu kết Chương 2 ................................................................................................... 75
CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CƠ SỞ CHĂM SÓC NGƯỜI CAO TUỔI TẠI HÀ NỘI ............................................. 77 3.1. Khái quát về địa bàn nghiên cứu ...................................................................... 77
3.2. Đánh giá quy trình thực hiện chính sách phát triển cơ sở chăm sóc người cao
tuổi tại Hà Nội ......................................................................................................... 83
3.3. Đánh giá kết quả thực hiện chính sách phát triển cơ sở chăm sóc người cao
tuổi tại Hà Nội ....................................................................................................... 121
Tiểu kết Chương 3 ................................................................................................. 134
CHƯƠNG 4. GIẢI PHÁP CẢI THIỆN HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CƠ SỞ CHĂM SÓC NGƯỜI CAO TUỔI TẠI HÀ NỘI ................................................................................................................................... 135 4.1. Cơ sở các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách phát triển cơ sở
chăm sóc người cao tuổi trên địa bàn Hà Nội ....................................................... 135
4.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách phát triển cơ sở chăm
sóc người cao tuổi trên địa bàn Hà Nội ................................................................. 141
Tiểu kết chương 4 .................................................................................................. 164
iii
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 165 DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ ................................. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................... PHỤ LỤC .......................................................................................................................
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ASXH An sinh xã hội
BTXH Bảo trợ xã hội
CS Chính sách
CSDH Chăm sóc dài hạn
CTXH Công tác xã hội
DVCS Dịch vụ chăm sóc
KHĐT Kế hoạch đầu tư
LĐTBXH Lao động, Thương binh và xã hội
NCT Người cao tuổi
NKT Người khuyết tật
NSNN Ngân sách nhà nước
QĐ Quyết định
TGXH Trợ giúp xã hội
TP Hà Nội Thành phố Hà Nội
TW Trung ương
UBND Uỷ ban nhân dân
iv
XHH Xã hội hoá
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.5. Ma trận đánh giá các yếu tố ảnh hưởng theo mô hình 7C đến quy trình thực hiện CS ........................................................................................................................ 74 Bảng 3.1. Tuổi thọ trung bình người dân Hà Nội tính từ lúc sinh phân theo giới tính ..................................................................................................................................... 77 Bảng 3.2. Tăng trưởng GRDP quý II năm 2020-2022 (So với cùng kỳ) .................... 78 Bảng 3.3. Thu nhập bình quân đầu người tại Hà Nội từ 2015-2021 ........................... 78 Bảng 3.4. Số lượng NCT theo nhóm tuổi, giới tính tại Hà Nội năm 2022 ................. 80 Bảng 3.5. Số lượng người cao tuổi được chăm sóc tại các TTBTXH ...................... 122 Bảng 3.6. Số NCT tự nguyện đóng phí sống tại cơ sở TGXH công lập ................... 123 Bảng 3.7. Các cơ sở chăm sóc NCT chưa đăng ký với Sở LĐTBXH ...................... 128
Sơ đồ 1.1. Các bên liên quan tham gia vào dịch vụ chăm sóc NCT ...................................... 35
Sơ đồ 2.1. Khung phân tích đánh giá kết quả thực hiện CS ................................................... 72
DANH MỤC SƠ ĐỒ
Biểu đồ 3.1. Nơi NCT muốn được chăm sóc nếu có nhu cầu .............................................. 113
Biểu đồ 3.2. Tỷ lệ sẵn sàng chi trả cho DVCS của NCT và gia đình .................................. 114
v
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Hộp 3.1: Ý kiến đánh giá tích cực về nội dung CS ................................................................ 88
Hộp 3.2: Ý kiến đánh giá về sự phù hợp của CS trong hệ thống pháp luật ........................... 90
Hộp 3.3: Ý kiến về việc hiểu nội dung và lập kế hoạch thực hiện CS ................................... 91
Hộp 3.4: Ý kiến về năng lực/nguồn lực xây dựng kế hoạch thực hiện CS ............................ 91
Hộp 3.5: Ý kiến đánh giá về sự phù hợp của CS đối với vấn đề già hoá dân số và nhu cầu
của NCT ................................................................................................................................. 95
Hộp 3.6: Ý kiến đánh giá về sự phù hợp của CS đối với vấn đề văn hoá .............................. 96
Hộp 3.7: Ý kiến về năng lực hiểu CS của cán bộ thực hiện CS ............................................. 97
Hộp 3.8: Ý kiến về sự cam kết tuyên truyền, phổ biến CS .................................................... 98
Hộp 3.9: Ý kiến về cách thức truyền thông tới cơ sở TGXH trong ngành LĐTBXH ........... 99
Hộp 3.10: Ý kiến về nhân lực phối hợp thực hiện trong các cơ quan thực hiện CS ............ 103
Hộp 3.11: Ý kiến về sự cam kết trong phân công thực hiện CS .......................................... 104
Hộp 3.12: Ý kiến về sự phối hợp liên ngành trong việc thực hiện thủ tục hành chính ........ 106
Hộp 3.13: Ý kiến về sự phối hợp liên ngành đối với CS cho cơ sở công lập ...................... 106
Hộp 3.14: Ý kiến về sự phối hợp liên ngành LĐTBXH và Y tế trong vận hành cơ sở ....... 107
Hộp 3.15: Ý kiến về sự phối hợp liên ngành LĐTBXH và Y tế trong vận hành cơ sở ....... 108
Hộp 3.16: Ý kiến đánh giá về hạn chế của nội dung các CS ............................................... 110
Hộp 3.17: Ý kiến đánh giá CS XHH .................................................................................... 111
Hộp 3.18: Đánh giá về hạn chế về tính chiến lược và thiếu quản lý chất lượng dịch vụ của cơ
quan thực thi CS ................................................................................................................... 112
Hộp 3.19: Ý kiến về năng lực theo dõi, giám sát thực hiện CS ........................................... 115
Hộp 3.20: Ý kiến về sự cam kết xử lý, giám sát các cơ sở chăm sóc NCT ......................... 116
Hộp 3.21: Ý kiến đánh giá về cơ chế phối hợp giám sát ..................................................... 117
Hộp 3.22: Ý kiến đánh giá về các kiến nghị CS .................................................................. 118
Hộp 3.23: Ý kiến đánh giá việc báo cáo triển khai CS ........................................................ 119
Hộp 3.24: Ý kiến về sự tham gia của liên minh trong sơ kết, đánh giá thực hiện CS ......... 120
Hộp 3.25: Ý kiến về sự phối hợp sơ kết, tổng kết, đánh giá việc thực hiện CS ................... 121
Hộp 3.26: Ý kiến về chế tài xử lý các cơ sở chưa cấp phép của Sở LĐTBXH ................... 129
vi
DANH MỤC HỘP Ý KIẾN
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những biến đổi về nhân khẩu học trên thế giới hiện nay, già hóa dân số,
sự bùng nổ về số lượng người cao tuổi (NCT) và những nhu cầu chăm sóc riêng biệt
của NCT đặt ra những thách thức về kinh tế, xã hội của nhiều quốc gia trên thế giới,
trong đó có Việt Nam. Tính tới tháng 9/2021 tổng dân số Việt Nam là 98,5 triệu
người, trong đó tổng số NCT là 12,5 triệu người (12,8% tổng dân số) [44]. Theo
phương án mức sinh trung bình, Việt Nam bắt đầu thời kỳ dân số già từ năm 2036,
khi tỷ trọng dân số từ 65 tuổi trở lên vượt 14%. Sau đó, bước vào năm 2056, Việt
Nam sẽ có cơ cấu dân số siêu già [42]. Bên cạnh đó, tốc độ già hoá dân số của Việt
Nam được cho là thuộc nhóm nhanh nhất thế giới và có xu hướng tăng nhanh chóng
trong hai thập kỷ tới. Dự báo số tỉnh có dân số cao tuổi lớn hơn dân số trẻ em sẽ tăng
từ 14/63 lên 41/63 tỉnh thành trong 10 năm sắp tới (2029- 2039) [150]. Nhóm NCT ở
Việt Nam hiện nay cũng phải đối mặt với nhiều vấn đề như: các vấn đề sức khoẻ lão
khoa, tỷ lệ mắc các bệnh mãn tính, tỷ lệ NCT sống một mình hoặc chỉ có hai vợ
chồng có xu hướng tăng lên… Những vấn đề trên càng trở nên nghiêm trọng hơn với
nhóm NCT từ 80 tuổi trở lên do tỷ lệ gặp khó khăn, thậm chí không thể tự chăm sóc
càng lớn [145]. Bởi vậy, nhu cầu phát triển một hệ thống chăm sóc phù hợp
(Appropriate), đảm bảo khả năng chi trả (Affordable) và khả năng tiếp cận
(Accessible) cho nhóm dân số cao tuổi là hết sức cần thiết [147].
Trước tình hình này, chính phủ đã có những chính sách (CS) bước đầu đáp ứng
nhu cầu của NCT, tạo điều kiện thiết lập hệ thống an sinh đa tầng, bao phủ và đáp
ứng nhu cầu đa dạng của toàn bộ nhóm dân số cao tuổi trong một xã hội đang già hoá
nhanh chóng. Bên cạnh các chủ thể theo Hiến định có trách nhiệm chăm sóc NCT
bao gồm nhà nước, gia đình và cộng đồng, từ năm 2008 đến nay, nhà nước đã ban
hành/ sửa đổi/ điều chỉnh/thay thế nhiều văn bản pháp luật nhằm tạo điều kiện thúc
đẩy sự phát triển của các chủ thể khác như: tư nhân, doanh nghiệp, tổ chức từ thiện,
tôn giáo…trong việc thành lập, vận hành các cơ sở chăm sóc (cơ sở chăm sóc) NCT.
Cụ thể, Chính phủ Việt Nam đã phê duyệt đề án quy hoạch mạng lưới các cơ sở trợ
giúp xã hội (TGXH) giai đoạn 2015-2025, quản lý việc thành lập, tổ chức, hoạt động
và giải thể các cơ sở TGXH, có CS ưu đãi khuyến khích xã hội hoá (XHH) trong lĩnh
vực này như ưu đãi về giao/ cho thuê đất, về vốn vay, thuế… và các CS liên quan đến
1
việc quản lý và đào tạo nguồn nhân lực cung ứng cho các cơ sở chăm sóc NCT.
Ngoài ra, các cơ sở TGXH công lập cũng được khuyến khích XHH và trao quyền
cung cấp dịch vụ…
Tuy nhiên, theo báo cáo năm 2022 của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội
(LĐTBXH), trên phạm vi toàn quốc, các cơ sở TGXH chăm sóc NCT gồm có 46 cơ
sở, trong đó có 6 cơ sở công lập và 40 cơ sở ngoài công lập. Các cơ sở này hiện đang
quản lý, nuôi dưỡng, chăm sóc 5.788 đối tượng (trong đó các cơ sở công lập có 835
đối tượng, ngoài công lập có 4.953 đối tượng). Báo cáo cho thấy sự phát triển của các
cơ sở chăm sóc NCT hiện nay còn rất hạn chế so với kỳ vọng CS: (1) Số lượng cơ sở
ngoài công lập được phát triển mới chưa đạt 1/2 so với mục tiêu; (2) Các cơ sở chưa
phân bổ theo quy hoạch về cơ cấu mạng lưới từng vùng; (3) Điều kiện về cơ sở vật
chất, trang thiết bị của hầu hết các cơ sở công lập đều đã xuống cấp không đáp ứng
được nhu cầu chăm sóc đặc thù của NCT trong thực tiễn; (4) Đội ngũ cán bộ tại các
cơ sở vừa thiếu về số lượng, vừa hạn chế về năng lực chăm sóc chuyên sâu đối với
nhóm đối tượng NCT; (5) Quan trọng hơn cả, số lượng NCT được chăm sóc tại các
cơ sở hiện nay mới đáp ứng được 0,5% số NCT cô đơn, thuộc hộ gia đình nghèo và
NCT còn vợ hoặc chồng nhưng già yếu, không có con, cháu, người thân thích để
nương tựa, thuộc hộ gia đình nghèo [4].
Hà Nội là thành phố đông dân và có mật độ dân số cao thứ hai trong cả nước.
Tỷ lệ dân số “già” ở Hà Nội tăng gấp đôi trong vòng chưa tới 20 năm qua và hiện
tuổi thọ trung bình của người dân Hà Nội ở mức cao nhất cả nước (trên 75 tuổi) với
nhiều vấn đề về sức khoẻ. Bên cạnh đó, Hà Nội còn là vùng có tốc độ gia tăng dân số
cao tuổi cơ học hàng năm ở mức cao do di dân đô thị. Điều này đặt ra những thách
thức cho việc chăm sóc NCT, nhưng cũng là cơ hội cho việc phát triển dịch vụ chăm
sóc NCT tại đây. Nhận thức rõ được những thách thức và cơ hội này, Uỷ ban nhân
dân (UBND) thành phố Hà Nội (TP Hà Nội) đã ban hành một loạt các văn bản nhằm
triển khai CS của chính phủ và hỗ trợ việc phát triển mạng lưới các cơ sở chăm sóc
NCT, cũng như trực tiếp thực hiện các dự án đầu tư phát triển hệ thống các cơ sở
chăm sóc NCT theo hướng XHH theo đặc thù tại địa phương. Tuy nhiên, tính đến
tháng 3/2022, toàn TP Hà Nội có 02 cơ sở chăm sóc NCT công lập và 13 cơ sở chăm
sóc NCT ngoài công lập. Bên cạnh đó, nhiều dự án xây dựng cơ sở chăm sóc NCT
được Thành phố phê duyệt theo dự án khuyến khích XHH đến nay sau nhiều năm
2
vẫn không được triển khai. Chưa kể hiện nay tại Hà Nội, có 03 cơ sở đang hoạt động
chăm sóc NCT nhưng chưa được cấp phép bởi ngành LĐTBXH. Nhiều cơ sở hoạt
động nhưng thiếu thốn về mặt bằng, trang thiết bị; các chủ cơ sở hoặc các nhà đầu tư
phát triển cơ sở TGXH chăm sóc NCT khó tiếp cận để hưởng các quy định hỗ trợ về
đất đai, vốn, xây dựng, đào tạo nhân lực, giảm thuế phí… Bức tranh tổng thể cho
thấy, quy mô chăm sóc, nuôi dưỡng NCT tại các cơ sở TGXH chỉ khoảng hơn 1100
người, đáp ứng được khoảng dưới 2% nhu cầu thực tế [4]. Vậy, vấn đề cần đặt ra là
vì sao nhiều CS được ban hành nhằm phát triển các cơ sở chăm sóc NCT nhưng
trong thực tế việc triển khai các CS hiện có tại Hà Nội lại không đạt được hiệu quả
như kỳ vọng?
Luận án “Thực hiện chính sách phát triển cơ sở chăm sóc người cao tuổi trên
địa bàn Hà Nội” mong muốn tìm ra câu trả lời về khoảng trống trong quá trình thực
hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT đã được ban hành và đang có hiệu lực tại địa
bàn Hà Nội. Kết quả nghiên cứu bàn luận về quá trình thực hiện CS tại Hà Nội,
nhưng mong rằng đây sẽ là bài học kinh nghiệm cho các khu vực kinh tế - xã hội -
chính trị tương đồng khác trên cả nước, giúp đóng góp vào công tác quản lý nhà
nước, công tác xây dựng và triển khai các CS an sinh xã hội cho NCT một cách hiệu
quả, để giải bài toán Việt Nam phải đối mặt khi xây dựng một xã hội thích ứng với
già hoá dân số.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án tập trung đánh giá thực trạng việc thực hiện các chính sách phát triển
cơ sở chăm sóc cho NCT tại TP Hà Nội, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm cải thiện
việc thực hiện các chính sách này tại Hà Nội định hướng đến năm 2030, góp phần
nâng cao hiệu quả phát triển cơ sở chăm sóc NCT trong thực tiễn.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu và hệ thống hoá những vấn đề lý luận và thực tiễn việc thực hiện
CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT trên thế giới, tại Việt Nam và tại địa bàn Hà Nội;
- Đánh giá kết quả thực hiện các CS phát triển cơ sở TGXH chăm sóc NCT trên
địa bàn Hà Nội dựa theo quy trình thực hiện chính sách, đồng thời đánh giá các yếu
tố ảnh hưởng tới hiệu quả của việc thực hiện các CS này;
- Xây dựng hệ thống các giải pháp dựa trên các phát hiện nhằm cải thiện hiệu
quả việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT tại Hà Nội trong giai đoạn từ
3
nay đến năm 2030, cũng như gợi ý cho việc nâng cao hiệu quả thực hiện CS phát
triển cơ sở chăm sóc NCT tại các nơi có điều kiện kinh tế - xã hội – chính trị tương
đồng khác tại Việt Nam.
3. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Việc thực hiện chính sách phát triển cơ sở chăm sóc NCT tại địa bàn Hà Nội.
3.2. Khách thể nghiên cứu
- Cán bộ hoạch định CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT.
- Cán bộ thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT tại Hà Nội.
- Cán bộ quản lý, chủ cơ sở chăm sóc NCT công lập và ngoài công lập tại Hà Nội.
- Các nhà đầu tư có nhu cầu hoặc đang hoàn thiện thủ tục xin cấp phép thành lập cơ
sở chăm sóc NCT tại Hà Nội.
- Chuyên gia nghiên cứu CS trong các lĩnh vực có liên quan.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
3.3.1. Phạm vi nghiên cứu về nội dung
Do giới hạn về nguồn lực, luận án chỉ tập trung nghiên cứu về việc thực hiện
các chính sách phát triển các cơ sở TGXH chăm sóc NCT. Cơ sở TGXH chăm sóc
NCT là một trong ba loại hình cơ sở chăm sóc NCT, bên cạnh các cơ sở chăm sóc
ban ngày, hoặc các cơ sở tư vấn chăm sóc sức khoẻ NCT nói chung.
Các cơ sở TGXH chăm sóc NCT (sau đây được gọi là cơ sở chăm sóc NCT)
trong luận án này được hiểu là các cơ sở công lập do nhà nước xây dựng, quản lý
(thường được gọi là trung tâm bảo trợ xã hội (BTXH) và các cơ sở ngoài công lập do
tư nhân, tổ chức từ thiện, tổ chức tôn giáo xây dựng và quản lý (thường được gọi là
viện dưỡng lão, trung tâm chăm sóc NCT, trung tâm dưỡng lão, nhà dưỡng lão….).
3.3.2. Phạm vi nghiên cứu về không gian
Luận án tập trung nghiên cứu việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT
tại địa bàn Hà Nội.
3.3.3. Phạm vi nghiên cứu về thời gian
Luận án đánh giá thực trạng thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT tại địa
bàn Hà Nội từ năm 2015 đến năm 2022; đưa ra giải pháp cải thiện hiệu quả thực hiện
CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT tại Hà Nội đến năm 2030.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4
4.1. Phương pháp luận nghiên cứu
Để giải quyết những vấn đề đặt ra, luận án sẽ dựa trên phương pháp luận nghiên
cứu khoa học bao gồm:
Phương pháp luận khái niệm (Conceptual approach): Phương pháp này nhằm
giúp phân tích các khái niệm, lý thuyết liên quan đến chính sách công nói chung,
chính sách phát triển cơ sở chăm sóc người cao tuổi nói riêng, bao gồm các khái
niệm then chốt trong lĩnh vực chính sách chăm sóc người cao tuổi: người cao tuổi,
chăm sóc người cao tuổi, cơ sở chăm sóc người cao tuổi. Bên cạnh đó, luận án xây
dựng các khái niệm, hệ thống khái niệm phù hợp với bối cảnh Việt Nam và xác định
các mối quan hệ giữa các khái niệm trong lĩnh vực nghiên cứu.
Phương pháp luận duy vật lịch sử (Historical approach): Luận án xem xét sự
hình thành và phát triển của chính sách phát triển cơ sở chăm sóc người cao tuổi ở
Việt Nam trong bối cảnh lịch sử. Đồng thời, phân tích các yếu tố chính trị - xã hội -
văn hóa - kinh tế tác động đến quá trình thực hiện chính sách, cũng như lý giải những
kết quả nghiên cứu cũng như ứng dụng các biện pháp nhằm cải thiện hiệu quả thực
hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT trong sự vận động và phát triển của xã hội.
Phương pháp luận so sánh (Comparative approach): Đây là phương pháp luận
nghiên cứu dựa trên việc so sánh các khái niệm, hiện tượng, quá trình, sự vật... để tìm
ra mối liên hệ, điểm tương đồng và khác biệt giữa chúng. Luận án so sánh mô hình
chính sách chăm sóc người cao tuổi giữa Việt Nam và các quốc gia khác trong khu
vực và trên thế giới từ đó chỉ ra điểm tương đồng và khác biệt, rút ra bài học kinh
nghiệm.
Phương pháp luận phân tích chính sách (Policy analysis approach): Đây là
phương pháp nghiên cứu các khía cạnh liên quan đến chính sách công, bao gồm phân
tích logic của chính sách, các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình hoạch định và thực thi
chính sách. Luận án xác định các tiêu chí để đánh giá hiệu quả chính sách; các công
cụ, mô hình để đánh giá tác động của chính sách tới các nhóm đối tượng và từ đó đưa
ra kết luận về hiệu quả và đề xuất các giải pháp cải thiện quá trình thực hiện chính
sách
Phương pháp luận đánh giá chính sách (Policy evaluation approach): Đây là
phương pháp nhằm xem xét, đo lường và đánh giá hiệu quả của một chính sách công
sau khi được ban hành và triển khai. Luận án phân tích và xác định các tiêu chí để
5
đánh giá hiệu quả chính sách bao gồm các công cụ, mô hình để đánh giá tác động của
chính sách tới các nhóm đối tượng khác nhau. Từ đó, luận án đưa ra kết luận về hiệu
quả và đề xuất các giải pháp cải thiện quá trình thực hiện chính sách.
4.2. Hướng tiếp cận nghiên cứu
Luận án đi theo hướng tiếp cận liên ngành, đa ngành trong khoa học xã hội, đặc
biệt là các hướng nghiên cứu chính trong thực hiện CS, cụ thể:
Tiếp cận theo quy trình thực hiện CS: Tuy là một phần trong chu trình CS,
nhưng giai đoạn thực hiện CS được xem là giai đoạn quan trọng quyết định tới sự
thành công hay thất bại của một CS khi được ban hành. Dựa trên cách tiếp cận về chu
trình CS, giai đoạn thực hiện CS cũng được nhiều học giả thống nhất và phân chia
thành các bước cụ thể khác nhau bao gồm: 1) Xây dựng văn bản và kế hoạch triển
khai thực hiện; 2) Phổ biến, tuyên truyền; 3) Huy động nguồn lực; 4) Phân công, phối
hợp thực hiện; 5) Kiểm tra, đánh giá quá trình thực hiện CS. Tác giả sử dụng hướng
tiếp cận này trong luận án như là một khung phân tích nhằm đánh giá việc thực hiện
CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT trên địa bàn Hà Nội theo từng bước.
Tiếp cận theo hướng các yếu tố ảnh hưởng theo mô hình 7C: Mô hình 7C, được
đề xuất bởi Cloete [74], là một trong những hướng tiếp cận mới để các nhà nghiên
cứu xây dựng công cụ thu thập dữ liệu, phân tích và xác định các yếu tố ảnh hưởng
đến sự thành công của quy trình thực hiện CS. Theo mô hình này, có 7 yếu tố ảnh
hưởng tới quá trình thực hiện chính sách bao gồm: nội dung chính sách; bối cảnh; sự
cam kết; năng lực; liên minh; truyền thông; phối hợp. Mô hình 7C đặc biệt hữu ích ở
các quốc gia đang phát triển, nơi quy trình thực hiện CS được coi là yếu điểm cản trở
sự thành công của CS [69, 112]. Nguyên nhân bởi: (1) Việc thực hiện CS không thể
được coi là một hoạt động được lên kế hoạch trước và thực hiện theo kế hoạch đã đề
ra; (2) Một CS sau khi thực hiện không đạt được hiệu quả như kỳ vọng, cần phải tìm
ra các yếu tố cản trở hoặc thúc đẩy quá trình thực hiện CS. Bởi vậy, đối với các CS
mới và được coi là một hợp phần nhỏ trong CS chăm sóc NCT hiện nay; cùng với sự
thiếu hụt văn bản và các con số thống kê cụ thể, cũng như việc thực hiện CS mới bắt
đầu được chủ thể thực hiện và các bên liên quan quan tâm, rất cần một cách tiếp cận
nghiên cứu mới như mô hình 7C để phân tích chi tiết hơn các yếu tố tác động tới quá
trình thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT tại Hà Nội từ đó đề xuất cách thức
cải thiện chất lượng thực hiện CS và tăng cường sự phát triển của xã hội.
4.3. Phương pháp nghiên cứu
6
4.3.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu thứ cấp
Luận án tổng hợp, hệ thống hoá, khái quát, phân tích những lý thuyết cũng như
các công trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước được đăng tải trên
sách, tạp chí, báo, đề tài nghiên cứu về các vấn đề liên quan tới thực hiện CS và CS
phát triển cơ sở chăm sóc NCT, cũng như để xác định khái niệm công cụ chính của
đề tài. Hơn 150 tài liệu đã được tác giả sử dụng từ các nguồn tài liệu chính thống,
được đăng tải trên các hệ thống cơ sở dữ liệu chuyên sâu như: Proquest; Cambridge
Journals; Google Scholar, hoặc thư viện của các trường ĐH trong nước và trên thế
giới. Luận án cũng tiếp cận các văn bản CS của Việt Nam dưới dạng Hiến pháp,
Luật, Quyết định, Nghị định, Thông tư… và các văn bản báo cáo nội bộ của các cơ
quan nhà nước cấp trung ương (TW) và địa phương để thu thập, hệ thống và đánh giá
các CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT hiện nay.
4.3.2. Phương pháp nghiên cứu định tính
Với mục tiêu, hướng tiếp cận của đề tài, sự giới hạn về khách thể nghiên cứu
trong thực tế, cũng như mức độ đánh giá chuyên sâu, tác giả lựa chọn và sử dụng
phương pháp nghiên cứu định tính là phương pháp nghiên cứu chính cho luận án này.
Các phương pháp thu thập dữ liệu cụ thể tác giả sử dụng bao gồm: phương pháp
phỏng vấn sâu; phương pháp thảo luận nhóm; phương pháp chuyên gia.
Do quần thể mẫu giới hạn, tác giả tiếp cận phương pháp chọn mẫu không xác
xuất. Chọn mẫu thuận tiện và chọn mẫu có mục đích là kỹ thuật chọn mẫu được sử
dụng trong luận án này.
Chọn mẫu thuận tiện là phương pháp chọn mẫu dựa trên các cá thể có sẵn, cụ
thể ở đây là các cán bộ thuộc các cơ quan hoạch định và thực hiện CS phát triển cơ
sở chăm sóc NCT, cán bộ quản lý các cơ sở chăm sóc NCT công lập, chủ cơ sở hoặc
người quản lý các cơ sở chăm sóc NCT ngoài công lập, các nhà đầu tư có nhu cầu và
đang hoàn thiện các thủ tục cấp phép thành lập cơ sở chăm sóc NCT cũng như các
chuyên gia nghiên cứu và đánh giá CS mà tác giả có thể tiếp cận tại địa bàn Hà Nội.
Chọn mẫu có mục đích là phương pháp chọn mẫu dựa trên các cá thể quan
trọng được xác định trước trong quần thể nghiên cứu. Cụ thể ở đây, đối với việc thực
hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT trên địa bàn Hà Nội, nhóm đối tượng điều tra
mà tác giả xác định là các cán bộ quản lý cấp Bộ, cán bộ quản lý và thực hiện CS cấp
địa phương (TP Hà Nội), và cán bộ quản lý các cơ sở chăm sóc NCT công lập và
7
ngoài công lập.
Về cỡ mẫu, tác giả lựa chọn theo phương pháp tới hạn. Điều này có nghĩa là
việc điều tra, phỏng vấn sẽ được dừng lại cho tới khi tác giả cảm thấy không phát
hiện được các nhân tố mới.
Do sự giới hạn số lượng khách thể nghiên cứu trong thực tế, tác giả đã cố gắng
tiếp cận tối đa các đối tượng phỏng vấn trong suốt quá trình thực hiện nghiên cứu.
4.3.2.1. Phương pháp phỏng vấn sâu
Luận án sử dụng bảng hướng dẫn phỏng vấn sâu nhằm khám phá các nội dung
chính bao gồm:
- Các văn bản CS liên quan tới việc phát triển cơ sở chăm sóc NCT ở cấp TW và
địa phương.
- Đánh giá việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT tại địa bàn Hà Nội.
- Đánh giá các yếu tố ảnh hưởng tới quá trình thực hiện CS theo mô hình 7C bao
gồm: nội dung CS; bối cảnh; sự cam kết; năng lực và nguồn lực; liên minh; truyền
thông; phối hợp liên ngành.
Đối tượng tham gia phỏng vấn sâu được lựa chọn với các tiêu chí đảm bảo
tính đa dạng của mẫu nghiên cứu bao gồm:
Đa dạng về vị trí và đơn vị công tác: Cán bộ CS cấp Bộ (ban hành CS); Cán bộ
CS cấp Sở thuộc các ngành khác nhau bao gồm ngành LĐTBXH (cơ quan chủ quản);
Kế hoạch đầu tư (KHĐT); Quy hoạch kiến trúc; Tài chính; Tài nguyên môi trường.
Chủ sở hữu/quản lý các cơ sở TGXH công lập và ngoài công lập chăm sóc NCT là
nhóm đối tượng mà luận án tập trung chính và chiếm số lượng lớn nhất trong số các
đối tượng được phỏng vấn. Ngoài ra, luận án tiếp cận phỏng vấn các nhà đầu tư có
nhu cầu hoặc đang trong quá trình hoàn thiện thủ tục cấp phép dự án thành lập cơ sở
chăm sóc NCT và nhóm chuyên gia nghiên cứu CS trong lĩnh vực có liên quan.
Đa dạng về giới tính: Đảm bảo tỉ lệ cân đối về giới tính (nam giới, nữ giới) giữa
các đối tượng tham gia phỏng vấn.
Đa dạng về độ tuổi và số năm công tác: Đảm bảo các đối tượng tham gia phỏng
vấn có kinh nghiệm liên quan tới quá trình ban hành và thực hiện CS liên quan tới
phát triển cơ sở chăm sóc NCT.
8
Bảng dưới đây mô tả chi tiết đối tượng được phỏng vấn sâu trong nghiên cứu:
Giới tính Độ Số năm
Đối tượng nghiên cứu tuổi công tác Nam Nữ TB TB
Cán bộ quản lý cơ sở công lập (TTBTXH 2,3) 1 1 48 23
Cán bộ quản lý cơ sở ngoài công lập 5 9 44 8
Cán bộ quản lý cơ sở khác 1 2 42 5
Các nhà đầu tư có nhu cầu hoặc đang hoàn 2 2 45 4 thiện xin cấp phép dự án thành lập cơ sở
Cán bộ thực hiện CS cấp Sở (Sở LĐTBXH) 0 3 42 12
Cán bộ CS sở Kế hoạch đầu tư 1 0 46 13
Cán bộ CS sở Tài nguyên môi trường 1 0 47 12
Cán bộ CS sở Quy hoạch kiến trúc 1 0 43 18
Cán bộ CS Sở tài chính 0 1 45 9
Cán bộ CS cấp Bộ 2 3 47 10
5 2 52 17 Chuyên gia nghiên cứu lĩnh vực có liên quan
Tổng số: 42 19 23
4.3.2.2. Phương pháp thảo luận nhóm
Đây là phương pháp nhằm thu thập những ý kiến khác nhau cùng một thời điểm
của các đối tượng tham gia nghiên cứu. Người được chọn lựa tham gia thảo luận là
nhóm các nhà quản lý hoặc chủ cơ sở chăm sóc NCT, các nhà đầu tư có nhu cầu
hoặc đang trong quá trình hoàn thiện thủ tục cấp phép thành lập cơ sở, mỗi nhóm
thảo luận sẽ bao gồm 5-6 thành viên, thời gian mỗi cuộc thảo luận nhóm kéo dài từ
60-90 phút.
Quá trình thảo luận nhóm ngoài việc tập trung tìm hiểu các ý kiến đánh giá về
thực trạng thực hiện các CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT, các câu hỏi liên quan tới
các giải pháp để nâng cao hiệu quả CS cũng được thảo luận. Bảng hướng dẫn thảo
luận nhóm cũng được xây dựng nhằm đảm bảo các nguyên tắc trong quá trình phỏng
vấn cũng như đảm bảo về mặt nội dung.
Số lượng người tham gia thảo luận nhóm được lựa chọn theo khu vực địa lý
khác nhau của Thành phố nhằm đảm bảo tính thuận tiện khi tham gia. Bên cạnh đó,
các tiêu chí về sự cân bằng giới tính, kinh nghiệm tham gia xây dựng, vận hành các
9
cơ sở chăm sóc NCT cũng được tính đến.
Bảng dưới đây mô tả chi tiết thông tin các thảo luận nhóm đã được tiến hành:
Đặc điểm nhóm
Khu vực Số lượng Thành phần (Số lượng) Thông tin nhóm
5 Nhóm số 01 Ngoại thành
6 Nhóm số 02 Nội thành
Hỗn hợp 6 Nhóm số 03
- Quản lý cơ sở công lập (1) - Quản lý/Chủ cơ sở tư nhân (3) - Nhà đầu tư (1) - Chủ cơ sở tư nhân (3) - Nhà đầu tư (1) - Chủ cơ sở đang trong quá trình thành lập (2) - Quản lý cơ sở công lập (2) - Quản lý/Chủ cơ sở tư nhân (3) - Nhà đầu tư/chủ cơ sở đang trong quá trình thành lập (1)
4.3.2.3. Phương pháp chuyên gia
Phương pháp này nhằm giúp tác giả tìm hiểu, khám phá thêm các quan điểm về
thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT tại Hà Nội dưới góc nhìn của các
chuyên gia. Có tổng số 05 nhà nghiên cứu CS tại các trường Đại học, các viện nghiên
cứu, các tổ chức phi chính phủ, và các chuyên gia độc lập đang hoạt động trong lĩnh
vực nghiên cứu CS liên quan tới NCT được tác giả phỏng vấn, tham khảo ý kiến liên
quan tới việc triển khai nghiên cứu, các phát hiện cũng như các giải pháp. Dựa trên
kết quả nghiên cứu của luận án và việc tham vấn quan điểm của các chuyên gia, tác
giả có thêm cơ sở để đề xuất các giải pháp cải thiện việc thực hiện CS phát triển cơ
sở chăm sóc NCT tại Hà Nội.
Các nội dung chính được tham vấn với các chuyên gia bao gồm: (1) Các xu thế
về nghiên cứu thực hiện CS hiện nay trên thế giới và ở Việt Nam; (2) Đánh giá về
nội dung và việc thực hiện các CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT tại Việt Nam hiện
nay; (3) Xu thế phát triển các dịch vụ chăm sóc NCT trên thế giới và định hướng CS
đối với bối cảnh Việt Nam; (4) Những tồn tại hiện có trong việc thực hiện CS phát
triển cơ sở chăm sóc NCT tại Việt Nam và giải pháp khắc phục.
4.3.3. Phương pháp xử lý dữ liệu định tính
Kết quả phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm được xử lý bằng phần mền Nvivo
2020, giúp cho tác giả có thể xác định ý kiến, quan điểm của những người được
phỏng vấn, sau đó phân tích và đưa ra các kết luận về các vấn đề nghiên cứu. Đặc
biệt, việc sử dụng phần mềm Nvivo 2020 giúp cho quá trình phân tích dữ liệu định
10
tính trở nên tiện lợi và đáng tin cậy hơn, bằng cách tổ chức và quản lý dữ liệu một
cách có hệ thống và chính xác. Từ đó, giúp cho người nghiên cứu có thể đưa ra
những kết luận và khuyến nghị dựa trên cơ sở dữ liệu chính xác và cụ thể.
4.4. Câu hỏi nghiên cứu
Dựa trên mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, luận án được thực hiện nhằm trả lời
cho các câu hỏi nghiên cứu cụ thể như sau:
1) Kết quả thực hiện các CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT trên địa bàn Hà Nội
hiện nay như thế nào?
2) Những yếu tố nào hiện đang cản trở hoặc thúc đẩy tới quá trình thực hiện các
CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT trên địa bàn Hà Nội?
3) Làm thế nào để cải thiện việc thực hiện các CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT
trên địa bàn Hà Nội?
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Thứ nhất, luận án áp dụng hướng nghiên cứu tổng hợp theo mô hình 7C về các
yếu tố ảnh hưởng tới quá trình thực hiện CS. Đây được xem là một cách tiếp cận mới
trong nghiên cứu chính sách tại Việt Nam. Khung phân tích và công cụ nghiên cứu
được xây dựng theo cách tiếp cận này giúp phát hiện các yếu tố cụ thể tác động tới
từng bước trong quá trình thực hiện CCS. Từ đó, các giải pháp được đưa ra mang
tính cụ thể dựa trên các yếu tố ảnh hưởng chính được phát hiện.
Thứ hai, luận án đã chỉ ra được những kết quả cụ thể của quá trình thực hiện
các CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT tại Hà Nội bao gồm hệ thống các văn bản
chính sách đã được ban hành, sự ảnh hưởng của các chính sách này tới sự phát triển
của các cơ sở chăm sóc NCT về mặt số lượng và chất lượng.
Thứ ba, luận án cũng chỉ ra được các yếu tố cụ thể có ảnh hưởng tới quá trình
thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT tại Hà Nội. Trong đó, các yếu tố được
xem là có sự ảnh hưởng mang tính quyết định bao gồm sự phối hợp giữa các bên liên
quan, truyền thông và nội dung CS.
Thứ tư, luận án đã hệ thống hoá lại một loạt các khái niệm có liên quan tới
chính sách công, thực hiện CS, cơ sở chăm sóc NCT, và các kiến thức có liên quan
khác, từ đó tạo được cơ sở khoa học cho các nghiên cứu khác về thực hiện CS nói
chung và thực hiện các CS liên quan tới phát triển dịch vụ/cơ sở chăm sóc NCT tại
11
Việt Nam nói riêng.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Về mặt lý luận: Luận án đã ứng dụng các lý thuyết về CS công và việc nghiên
cứu thực hiện CS công hiện nay trên thế giới, đặc biệt là các CS liên quan tới phát
triển hệ thống cơ sở chăm sóc NCT. Từ đó, nghiên cứu cũng đã giúp bổ sung và hoàn
thiện cũng như chứng minh tính đúng đắn của các lý thuyết về CS hiện nay. Hơn
nữa, luận án cũng góp phần củng cố và mở rộng thêm khung phân tích quy trình thực
hiện CS theo mô hình 7C để đánh giá việc thực hiện CS nhằm đưa ra các giải pháp
cải thiện quy trình thực hiện phù hợp từ góc nhìn của các bên liên quan.
Về mặt thực tiễn: Luận án tổng hợp một cách hệ thống và đầy đủ các CS liên
quan tới việc phát triển cơ sở chăm sóc NCT tại Việt Nam và Hà Nội, cùng với đó là
việc làm rõ và phân tích các yếu tố ảnh hưởng theo từng bước trong quy trình thực
hiện CS này tại địa bàn Hà Nội. Luận án cũng đưa ra những kiến nghị mang tính thực
tế, dựa trên kết quả nghiên cứu nghiêm túc của tác giả. Các nhà nghiên cứu, các cơ
quan hoạch định và thực hiện CS có thể xem luận án này như một tài liệu tham khảo
hữu ích nhằm phục vụ cho việc nghiên cứu, hoạch định và triển khai thực hiện các
CS liên quan tới NCT nói chung và đặc biệt là các CS về phát triển cơ sở chăm sóc
NCT trên địa bàn Hà Nội nói riêng. Đây cũng có thể được xem là một tài liệu tham
khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy, hoạch định và triển khai các CS quốc gia về
NCT và các dịch vụ chăm sóc NCT trong tương lai.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài các phần kết cấu chung của luận án bao gồm: Phần mở đầu; Kết luận;
Các công trình đã công bố của tác giả; Danh mục tài liệu tham khảo; Phụ lục. Luận
án bao gồm 4 chương cụ thể như sau:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2. Cơ sở lý luận và thực tiễn về thực hiện chính sách phát triển cơ sở
chăm sóc người cao tuổi
Chương 3. Thực trạng thực hiện chính sách phát triển cơ sở chăm sóc người
cao tuổi tại Hà Nội
Chương 4. Giải pháp cải thiện hiệu quả thực hiện chính sách phát triển cơ sở
12
chăm sóc người cao tuổi tại Hà Nội.
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Các hướng tiếp cận nghiên cứu thực hiện chính sách công
Các nghiên cứu về thực hiện CS trên thế giới hiện nay khá đa dạng với nhiều
cách tiếp cận khác nhau trong các thập kỷ qua. Trong một nghiên cứu tổng hợp năm
2005 với tiêu đề bài báo “Sự thật và huyền thoại về nghiên cứu thực hiện chính sách
công: Không hợp thời, bị cáo buộc là đã chết, nhưng vẫn còn rất nhiều và có liên
quan”, tác giả Saetren [128] đã chỉ ra nguồn gốc của các nghiên cứu về thực hiện CS
đã có từ năm 1930, mặc dù đa phần đều tin rằng những nghiên cứu này bắt đầu từ hai
tác giả Pressman và Wildavsky [124] bởi hai ông là người đi tiên phong trong việc sử
dụng thuật ngữ “Thực hiện CS” và phổ biến nó. Tuy nhiên, sự khởi đầu của các
nghiên cứu về thực hiện CS đã bắt đầu từ rất sớm với nhiều những khái niệm và cách
tiếp cận khác nhau trong việc nghiên cứu về thực hiện CS.
Đầu tiên phải kể đến cách tiếp cận định lượng dựa trên lý thuyết kinh tế trong
nghiên cứu thực hiện CS với công trình nghiên cứu điển hình của Hotelling [98]
trong bài báo có tiêu đề "Phúc lợi chung liên quan đến các vấn đề thuế và mức giá
của đường sắt và tiện ích" được công bố vào năm 1938. Trong nghiên cứu này, ông
đã đưa ra các phương trình toán học để tính toán chi phí đầu tư và thu nhập bình quân
đầu người trong các CS. Hướng tiếp cận của Hotelling là sử dụng phương pháp định
lượng và lý thuyết kinh tế để nghiên cứu và giải thích tại sao chính phủ lại có vai trò
quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến CS công và đưa ra các
phương trình toán học để tính toán chi phí đầu tư và thu nhập bình quân đầu người
trong các CS này. Kết quả nghiên cứu đã giúp ngành kinh tế học hiểu rõ hơn về vai
trò của chính phủ trong việc quản lý và thực hiện CS bằng cách đưa ra phương pháp
tính toán lợi ích - chi phí, giúp chính phủ đưa ra quyết định hiệu quả hơn trong việc
thực hiện các CS công. Tuy nhiên, nghiên cứu này bị giới hạn trong một số khía cạnh
như không đưa ra các phân tích chi tiết về các ảnh hưởng khác của CS đối với nền
kinh tế - xã hội cũng như không đưa ra các giải pháp cụ thể để giải quyết các vấn đề
liên quan đến CS.
Một nghiên cứu khác của hai tác giả Bahl và Oates [64] có tên “Khía cạnh về
13
Khả năng Tài chính: Một so sánh Quốc tế” được đăng trên tạp chí Public Finance
Quarterly vào năm 1978 đã sử dụng mô hình ngân sách chi tiết để phân tích dữ liệu
ngân sách của 12 tiểu bang tại Hoa Kỳ từ 1955 đến 1970. Kết quả cho thấy các CS
thuế và chi tiêu của tiểu bang có tác động mạnh mẽ đến tình trạng ngân sách, và việc
sử dụng mô hình ngân sách chi tiết có thể giúp các tiểu bang đưa ra những quyết định
ngân sách chính xác hơn. Nghiên cứu của Bahl và Oates đã đưa ra một cách tiếp cận
phân tích và đánh giá hiệu quả của các CS công bằng cách sử dụng phương pháp tính
toán ngân sách chi tiết. Nghiên cứu này đã làm nổi bật vai trò quan trọng của việc
quản lý và kiểm soát ngân sách để đảm bảo sự ổn định và phát triển bền vững của
kinh tế.
Cùng với cách tiếp cận kinh tế và lợi ích, năm 1955 tác giả Herbert A. Simon đã
đưa ra khái niệm "quyết định chính sách" (policy decision), đó là quá trình lựa chọn
và triển khai các hành động để giải quyết một vấn đề chính trị, xã hội, kinh tế hoặc
môi trường. Khái niệm này giúp cho các nghiên cứu về thực hiện CS công tập trung
vào quá trình lựa chọn và thực hiện CS thay vì chỉ tập trung vào việc thiết kế CS.
Simon đã sử dụng lý thuyết quyết định để giải thích quá trình quyết định CS. Theo lý
thuyết này, quyết định được đưa ra dựa trên việc so sánh các tùy chọn khác nhau và
đánh giá các hậu quả có thể xảy ra từ mỗi tùy chọn. Để đưa ra quyết định tốt nhất,
quá trình quyết định phải dựa trên thông tin đầy đủ và chính xác về tình hình và các
tùy chọn có sẵn. Quá trình quyết định cũng bao gồm các yếu tố tâm lý và chính trị,
bởi vì các quyết định CS thường bị ảnh hưởng bởi những quan điểm chính trị, giá trị
và lợi ích của các bên liên quan [132].
Với cách tiếp cận xem xét các yếu tố văn hóa, chính trị, xã hội, tác giả Appleby
[62] trong cuốn sách "Quản lý công và Lợi ích cộng đồng” đã phân tích một loạt các
yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện CS công, bao gồm cả các yếu tố văn hóa, chính trị và
kinh tế. Trong cuốn sách của mình, Appleby đã chỉ ra rằng quyết định CS công
không chỉ phụ thuộc vào các yếu tố kinh tế, mà còn phụ thuộc vào các yếu tố văn
hóa, chính trị và xã hội. Vì vậy, tác giả khuyến khích các nhà quản lý công và nhà
hoạch định CS nên cân nhắc đến các yếu tố này khi thực hiện CS công. Theo
Appleby, để tăng cường tính minh bạch và hiệu quả của CS công, các nhà quản lý
14
công nên đảm bảo rằng quá trình ra quyết định được thực hiện công khai và minh
bạch, và các quyết định này phải được dựa trên những thông tin đầy đủ và chính xác.
Cuốn sách của Appleby đã ảnh hưởng đến nhiều nghiên cứu về thực hiện CS công
sau này. Nó đã mở ra một hướng tiếp cận mới về việc xem xét các yếu tố văn hóa,
chính trị và xã hội trong quyết định CS công, và đã thúc đẩy sự quan tâm đến việc
tăng cường tính minh bạch và hiệu quả của CS công [62].
Tiếp theo là hướng tiếp cận phân tích dựa trên quan điểm các nhóm lợi ích.
Nghiên cứu của hai tác giả Lindblom [110] và Wildavsky [148] đưa ra những
phương pháp và hướng tiếp cận tương đồng và mở rộng trong việc phân tích thực
hiện CS. Nghiên cứu của Lindblom lấy ví dụ về quyết định CS về nông nghiệp và
cho rằng quyết định đó phụ thuộc vào các yếu tố khác nhau như sự ảnh hưởng của
các nhóm lợi ích, thông tin và kinh nghiệm của cán bộ lãnh đạo thực hiện CS. Aaron
Wildavsky đưa ra khái niệm "nhóm lợi ích" và cho rằng các nhóm lợi ích sẽ có tầm
nhìn khác nhau về các CS và sẽ ảnh hưởng đến quyết định của chính phủ. Nghiên
cứu của ông đưa ra một phương pháp phân tích mới về thực hiện CS bằng cách tập
trung vào tầm nhìn và quan điểm của các nhóm lợi ích và cách chúng ảnh hưởng đến
quyết định CS của chính phủ. Những phương pháp này cũng giúp chính phủ và các
nhà quản lý có thể đưa ra các quyết định CS phù hợp với tầm nhìn của các nhóm lợi
ích và các yếu tố xã hội, chính trị và văn hóa khác nhau.
Đến những năm 1970, hướng tiếp cận đánh giá hiệu quả và tính độc lập của CS
phát triển mạnh mẽ. Các nghiên cứu về thực hiện CS công bắt đầu tập trung vào các
vấn đề về hiệu quả và tính độc lập của các CS, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế. Các
tác giả như Kenneth J. Arrow, Amartya Sen, và James M. Buchanan đã đưa ra các
quan điểm về việc đánh giá hiệu quả của các CS công và ý nghĩa của tính độc lập của
các quyết định CS. Các tác giả cho rằng việc đánh giá hiệu quả của các CS công
không chỉ dựa trên các chỉ tiêu kinh tế, việc đánh giá hiệu quả của các CS công phải
dựa trên sự đánh giá đa chiều về các yếu tố liên quan như môi trường và xã hội cũng
như tính độc lập và tiêu chuẩn về trách nhiệm của chính phủ. [63, 71, 130].
Sau này, trong công trình nghiên cứu của 2 tác giả Pressman và Wildavsky
[124] vào những năm 1970, thuật ngữ “thực hiện chính sách công” chính thức được
15
ra đời với ý nghĩa mô tả quá trình chuyển đổi các CS thành hành động thực tế. Từ đó,
các nghiên cứu về thực hiện CS công đã trở thành một lĩnh vực nghiên cứu phức tạp
và đa dạng, với nhiều cách tiếp cận khác nhau hơn. Các nghiên cứu này bao gồm các
phương pháp kết hợp định tính và định lượng, phân tích đa cấp, phân tích mạng lưới,
phân tích CS, đánh giá tác động, và nghiên cứu trường hợp.
Từ những năm 1980 trở đi, sự phát triển của các nghiên cứu sau đó tiếp tục đạt
đỉnh và sụt giảm phần nào. Nhưng các học giả như Goggin và cộng sự [91] tỏ ra khá
lạc quan về tương lai của các nghiên cứu được triển khai ở giai đoạn tiếp theo. Các
tác giả dự đoán rằng mối quan tâm có thể sẽ tăng lên trong suốt những năm 1990 và
tiếp tục nhiều hơn trong thế kỷ 21. Với nghiên cứu được thực hiện năm 2014, tác giả
Saetren [127] đã khẳng định nghiên cứu về thực hiện CS công vẫn còn tồn tại và đã
phát triển tốt hơn vào thế kỷ 21. Xu hướng nghiên cứu thực hiện CS công hiện nay
thể hiện ở ba khía cạnh: đa dạng hoá các cách gọi thay thế khái niệm thực hiện CS
công, xu hướng sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính, so sánh đối chiếu và
hướng tiếp cận đánh giá thực hiện CS bằng công cụ nghiên cứu cụ thể.
Ở khía cạnh thứ nhất, các học giả nhận thấy từ thế kỷ 21, nghiên cứu về thực
hiện CS lại quay trở lại, nhưng được nghiên cứu dưới những khái niệm mới và khác
nhau như: quản trị mới; các công cụ và thiết kế CS; nghiên cứu mạng lưới; thuê
ngoài; hợp tác công tư; tính quan liêu cấp xã/phường; quản lý; quản lý công mới; các
nghiên cứu về tác nhân chính; hiệu quả hoạt động; thực thi quy định; và tuân thủ
[149].
Ở khía cạnh thứ hai, xu hướng nghiên cứu thực hiện CS công trên thế giới hiện
nay là tập trung sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính mặc dù lý tưởng nhất là
kết hợp cả định tính và định lượng. Các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, việc nghiên cứu
nên sử dụng phân tích so sánh đối chiếu để tăng giá trị của nghiên cứu.
Tác giả Saetren [128, tr. 53] trong nghiên cứu của mình năm 2005 đã tiến hành
đánh giá toàn diện các tài liệu và kết luận rằng nghiên cứu thực hiện CS đã phát triển
nhanh chóng và ở trong tình trạng tốt: "... tồn tại và phát triển tốt hơn nữa vào thế kỷ
21 về mặt định lượng", giống như hầu hết các nghiên cứu chủ yếu mang tính định
lượng trong thập niên 70, 80. Nhưng sau đó gần một thập kỷ, vào năm 2014, chính
16
Saetren [127] trong công trình nghiên cứu của mình đã xem xét 547 bài báo trên các
tạp chí hàng đầu trong lĩnh vực khoa học chính trị, hành chính công và CS công, và
đưa ra kết luận, bao gồm:
(1) Nghiên cứu thực hiện CS đã đến giai đoạn chín muồi. Các nghiên cứu đã
hướng nhiều hơn tới việc cung cấp các dữ liệu định tính để bổ sung cho những
nghiên cứu vốn chủ yếu sử dụng dữ liệu định lượng ở những thập niên trước. Lý
tưởng nhất là nghiên cứu triển khai kết hợp các phương pháp định lượng và định tính
dù trên thực tế vẫn rất khó thực hành. Tác giả Saetren cũng phát hiện ra rằng, các nhà
nghiên cứu ở Châu Âu thường sử dụng các phương pháp định tính hơn, trong khi các
nhà nghiên cứu ở Mỹ giỏi sử dụng các phương pháp định lượng với nhiều kỹ thuật
phân tích [127].
(2) Những nghiên cứu trường hợp đơn lẻ có giá trị về mặt học thuật có vẻ rất
hiếm trong các nghiên cứu thực hiện CS, nhưng một số đặc điểm thiết kế nghiên cứu
nhất định như nghiên cứu trường hợp so sánh sẽ có giá trị hơn đối với sự phát triển lý
thuyết thực hiện CS [127]. Trong một nghiên cứu khác, hai tác giả Hupe và Saetren
[100] cũng đã củng cố lại quan điểm và nhấn mạnh thêm rằng, các nghiên cứu so
sánh nổi bật hơn và là hướng nghiên cứu mới trong khoa học thực hiện CS do sự ra
đời của một thế hệ nghiên cứu thứ ba mặc dù những nghiên cứu so sánh cũng gặp phải
nhiều thách thức. Cũng có cùng quan điểm, các tác giả Wee de Wee [83] và Tatiana-
Camelia [136] nhận thấy dù còn nhiều thách thức, nhưng những phân tích CS so sánh
đã thu hút sự chú ý của các nhà lý thuyết. Các nghiên cứu này có nhiều tiềm năng sử
dụng trong việc hỗ trợ liên ngành về kiến thức trong phân tích CS để giải quyết lý do
vì sao các CS trên khắp thế giới đang không đạt được mục tiêu thành công.
Ngoài ra, các nghiên cứu xét về khía cạnh địa lý, lĩnh vực, đối tượng nghiên
cứu cũng được tổng hợp cho thấy nội dung các hướng nghiên cứu thực hiện CS trong
những năm gần đây. Trong nghiên cứu năm 2005, với số lượng hơn 7300 nghiên cứu
trong lĩnh vực thực hiện CS từ trước năm 2003, tác giả Saetren [128] đã nhận thấy
các học giả luôn quan tâm nhiều hơn đến năm vấn đề CS sau: các vấn đề giáo dục, y
tế, môi trường, xã hội và kinh tế. Nhưng trong tổng hợp các nghiên cứu, xã hội và
kinh tế là hai chủ đề chỉ dành được 8% lượng nghiên cứu. Ngoài ra, chủ yếu các
17
nghiên cứu được công bố đều tới từ các nước phương Tây. Đến năm 2017, trong bài
báo “Nghiên cứu so sánh về hai luồng nghiên cứu thực hiện chính sách”, các tác giả
Roll và cộng sự [126] đã thực hiện một đánh giá so sánh của hơn 1.500 bài báo trên
tạp chí về thực hiện CS được xuất bản từ năm 2004-2013 và nhận thấy: (1) Các
nghiên cứu chủ yếu sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính (35%) và định lượng
(21%), các nghiên cứu hỗn hợp hoặc lý thuyết chiếm tỷ trọng nhỏ (tương ứng 7% và
6%). Về lĩnh vực, các nghiên cứu tập trung nhiều nhất vào ba lĩnh vực sức khoẻ
(52%), giáo dục (20%) và môi trường (12%), trong khi đó lĩnh vực ASXH chỉ chiếm
7% nghiên cứu. Nhóm đối tượng mục tiêu của các CS rất đa dạng từ trẻ em, người
khuyết tật (NKT), NCT, đối tượng yếu thế về mặt y tế, gia đình và cha mẹ, nghèo
đói, sắc tộc và dân tộc, hoặc không rõ nhóm dân số mục tiêu, nhưng NCT là nhóm
đối tượng chỉ chiếm 2% các nghiên cứu với tỷ lệ nhỏ. Điều này có nghĩa là các
nghiên cứu về thực hiện CS trong lĩnh vực an sinh xã hội, tập trung vào nhóm dân số
mục tiêu là NCT còn thiếu do mới chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ trong các nghiên cứu thực hiện
CS công.
Ở khía cạnh thứ ba, hướng nghiên cứu theo các yếu tố ảnh hưởng sử dụng công
cụ nghiên cứu bằng mô hình 7C được xem là hướng nghiên cứu thực hiện CS phổ
biến hiện nay tại các nước đang phát triển. Hướng tiếp cận này cung cấp công cụ
nghiên cứu giúp tìm kiếm và đánh giá các yếu tố cụ thể ảnh hưởng tới quá trình thực
hiện CS và từ đó gợi ý các giải pháp cụ thể nhằm cải thiện quá trình thực hiện CS
công.
Trong một số nghiên cứu về thực hiện CS công ở Việt Nam, vấn đề về hiệu quả
thực hiện CS công được quan tâm bởi các nhà nghiên cứu cũng như các nhà hoạch
định CS. Một số tác giả đã có những nghiên cứu về hiệu quả việc thực hiện CS công
như Nguyễn Trọng Bình [25], Lê Chi Mai [18], Ngô Ngọc Thắng [20], Nguyễn Hữu
Hải [22]. Các tác giả tiếp cận nghiên cứu ở các khía cạnh khác nhau, tuy nhiên mục
đích chung của các nghiên cứu tập trung vào việc khám phá định tính các vấn đề cản
trở tính hiệu quả của quá trình thực hiện CS tại Việt Nam. Kết quả các nghiên cứu
chỉ ra một số khía cạnh chung ảnh hưởng tới việc thực hiện CS bao gồm: tính chất
của vấn đề CS; tính đúng đắn và cụ thể của CS; nguồn lực thực hiện CS; sự phối hợp
18
giữa các cơ quan và cá nhân; sự tiếp nhận và ủng hộ của đối tượng; phẩm chất năng
lực của người thực hiện CS; bộ máy và cơ chế vận hành của cơ quan thực hiện CS;
và cuối cùng là môi trường kinh tế, chính trị và văn hoá.
Trong cuốn sách “Những vấn đề cơ bản về chính sách và quy trình chính sách”,
bàn đến các yếu tố tác động đến việc thực hiện CS, tác giả Lê Chi Mai [18] phân chia
các yếu tố thành ba nhóm: (1) các yếu tố liên quan đến bản chất vấn đề và chất lượng
hoạch định CS (tính chất đa dạng của vấn đề CS, các khó khăn kỹ thuật khi giải
quyết vấn đề, phạm vi và đặc thù của các nhóm đối tưởng CS, tính rõ ràng và nhất
quán của mục tiêu CS, quy mô của nhóm mục tiêu); (2) các yếu tố liên quan đến khả
năng thực hiện CS (sắp xếp các tổ chức có liên quan, quan hệ giữa các tổ chức cùng
tham gia thực hiện CS, năng lực của cơ quan thực hiện, kinh phí cần thiết để thực
hiện CS, trình độ và năng lực của những người phụ trách, cách ứng xử của các chủ
thể thực hiện, thủ tục hành chính), (3) các yếu tố bên ngoài tác động vào quá trình
thực hiện CS (bối cảnh thực tế, công luận, thái độ của các nhóm có liên quan, sự hỗ
trợ của các nhà lãnh đạo cấp trên) [18].
Không phân loại các yếu tố như trên, tác giả Nguyễn Hữu Hải [22] trong cuốn
sách “Chính sách công: những vấn đề cơ bản” đã phân các yếu tố ảnh hưởng thành
hai nhóm: (1) yếu tố khách quan (bao gồm tính chất của vấn đề CS công, môi trường
thực hiện CS công, mối quan hệ giữa các đối tượng thực hiện CS công, tiềm lực của
các nhóm đối tượng CS, đặc tính của đối tượng CS) và (2) các yếu tố chủ quan (bao
gồm năng lực thực hiện CS công của cán bộ, công chức, mức độ tuân thủ các bước
trong quy trình tổ chức thực hiện CS công, các điều kiện vật chất để thực hiện CS
công, sự đồng tình ủng hộ của người dân). Đồng quan điểm về các yếu tố ảnh hưởng
tới thực hiện CS công, tác giả Nguyễn Trọng Bình [25] trong bài báo “Nâng cao hiệu
quả thực thi CS công ở Việt Nam” đánh giá trong những yếu tố trên, ba yếu tố chủ
yếu bao gồm chất lượng CS; đối tượng bị tác động bởi CS (đối tượng CS) và chủ thể
thực hiện CS là các yếu tố có tính quyết định trong hiệu quả thực hiện CS công ở
Việt Nam.
Như vậy, có thể thấy, các nghiên cứu các nghiên cứu thực hiện CS ở Việt Nam
chủ yếu dựa vào việc khám phá các yếu tố tác động đến việc thực hiện CS, từ đó tìm
19
cách cải thiện hiệu quả thực hiện. Nhưng, một điểm nổi bật trong hướng nghiên cứu
thực hiện CS trên thế giới hiện nay khác với nghiên cứu ở Việt Nam là việc các học
giả đã áp dụng các mô hình lý thuyết cụ thể vào việc nghiên cứu thực hiện CS. Trong
đó, mô hình 5C và 7C là mô hình được áp dụng phổ biến gần đây trong cách tiếp cận
nghiên cứu quy trình thực hiện CS. Đây là một trong cách cách tiếp cận đánh giá
thực hiện CS được xem là phù hợp nhằm đưa ra các giải thích cụ thể về hiệu quả thực
hiện CS thông qua các biến số chung được đo lường trải dài trong suốt tiến trình thực
hiện CS. Các học giả cũng cho rằng, nghiên cứu theo mô hình 5C và 7C đặc biệt phù
hợp trong bối cảnh nghiên cứu thực hiện CS ở các quốc gia đang phát triển tại châu
Phi và Châu Á, nơi mà việc hoạch định CS tốt hơn rất nhiều so với việc tuân thủ chặt
chẽ một quy trình thực hiện CS và nơi mà không phải CS nào được ban hành cũng sẽ
ngay lập tức được triển khai hiệu quả trong thực tế [69, 112].
Nói về hướng nghiên cứu thực hiện CS công dựa trên cách tiếp cận sử dụng
công cụ để đánh giá các yếu tố ảnh hưởng, năm 2016, trong bài báo Phân tích về
thực hiện CS công được công bố, các tác giả Marume và cộng sự [113] đã tổng hợp
khung lý thuyết về thực hiện CS để làm cơ sở phân tích về các yếu tố liên quan tới
thực hiện CS công tại một số nước đang phát triển ở châu Phi. Trong rất nhiều khung
lý thuyết được đưa ra, các tác giả đã tóm lược những học giả tiêu biểu và đóng góp
đáng chú ý về các yếu tố ảnh hưởng tới thực hiện CS như:
(1) Edwards và Sharkansky (1978): trình bày chi tiết những rào cản khiến
những người ra quyết định gặp phải khi cố gắng thực hiện ý định của họ bao gồm:
Giao tiếp, nguồn lực, bố trí, các thủ tục hoạt động, theo dõi sau thực hiện;
(2) Ruth Levitt (1980): liệt kê 19 đặc điểm ảnh hưởng tới thực hiện CS công
bao gồm các khía cạnh như: quy mô thời gian để đưa ra các quyền lực pháp lý, CS
công với tư cách là chức năng của CS chi tiêu công, chi phí cơ hội của các ưu tiên
thay thế, áp lực bên ngoài đối với các cơ quan thực hiện, hình ảnh tổ chức, năng lực
học hỏi kinh nghiệm thực hiện, lợi ích của việc hoạch định CS quốc tế;
(3) Frawley (1977) xác định năm yếu tố tác động tới CS công và việc thực hiện,
cụ thể là: giải thích và xác định các mục tiêu, phát triển các hướng dẫn và quy định;
20
ủy quyền và giao tiếp, hoạt động và giám sát;
(4) Halparin đưa ra ba yếu tố giải thích cơ bản cho sự thất bại của việc thực
hiện CS công, đó là: thiếu kiến thức, thiếu khả năng và năng lực, và thiếu cam kết;
(5) Van Horn và Van Meter (1977) xác định tám yếu tố ảnh hưởng đến nỗ lực
thực hiện các chương trình và cải thiện hiệu quả, bao gồm: môi trường chính trị, các
điều kiện kinh tế và xã hội, tiêu chuẩn CS, các nguồn lực CS, đặc điểm của cơ quan
thực hiện (chất lượng đội ngũ, tổ chức bộ máy và mối quan hệ với các cán bộ, đơn vị
khác), bố trí người thực hiện, tính lợi ích của người thực hiện, giao tiếp.
Một số học giả về thực hiện CS, như Goggin, Bowman [91], đã đồng ý về các
biến số quan trọng giống nhau cần thiết để đảm bảo thực hiện CS thành công bao
gồm: hình thức và nội dung của CS; năng lực của đơn vị thực hiện; và năng lực của
những người chịu trách nhiệm chính. Dựa trên những ý niệm này, tác giả Najam
[118] đã đề xuất 5 biến số chính ảnh hưởng tới sự thành công hay thất bại của của
một CS, và nó được gọi là mô hình 5C, bao gồm: nội dung (content); bối cảnh
(context); cam kết (commitment); đối tác/liên minh (clients/coalitions); năng lực
(capacity).
Dựa trên mô hình 5C, tác giả Brynard [69] đã thêm vào chữ “C” thứ 6 là
“truyền thông” (communication) như là một yếu tố quan trọng trong việc đánh giá
thực hiện CS. Thêm vào đó, Burger [72] trong cuốn sách “CS môi trường đô thị tổng
hợp của thành phố Cape Town: Đánh giá việc thực hiện”, đã đưa ra tranh luận rằng
sự phối hợp hiệu quả mới là yếu tố tiên quyết đối với việc thực hiện thành công CS,
và nếu không có sự phối hợp chặt chẽ thậm chí kết quả mong đợi của CS sẽ không
được nhận thức rõ ràng. Cùng chung bối cảnh nghiên cứu, vào năm 2018 tác giả
Cloete De Coning [73], đã đề xuất thêm chữ “C” thứ 7 đó là “sự phối hợp”
(coordination) vào mô hình 5C, và do đó mô hình 7C đã ra đời.
Mô hình 7C đã được chính tác giả Brynard (2005) sử dụng như là một công cụ
hữu ích để thực hiện nghiên cứu đánh giá những vấn đề tồn tại chính trong việc thực
hiện và cung cấp dịch vụ CS công tại Nam Phi. Mô hình 7C được sử dụng nhằm giúp
phân tích các khía cạnh phức tạp và đa dạng trong suốt tiến trình thực hiện CS, từ đó
giúp làm sáng tỏ hiệu quả của việc triển khai và từ đó xác định rõ các dịch vụ công
21
phù hợp và chất lượng. Mô hình 7C cũng giúp chỉ ra rằng việc thực hiện CS không
thể được coi là một hoạt động được lên kế hoạch trước và thực hiện theo kế hoạch đã
đề ra. Đúng hơn, đó là một tiến trình được quản lý và liên tục rút ra các bài học kinh
nghiệm trong suốt các giai đoạn thực hiện khác nhau. Trên cơ sở tiếp cận tương tự,
nhiều nhà nghiên cứu thực hiện CS trên thế giới đã áp dụng mô hình 5C và 7C trong
các nghiên cứu của mình như một công cụ về mặt lý thuyết hữu ích trong việc định
hướng phân tích, đánh giá thực hiện các CS ở nhiều lĩnh vực khác nhau.
Một số nghiên cứu về tính ứng dụng của mô hình 7C điển hình như nghiên cứu
của tác giả Molobela [115] tập trung vào việc thảo luận và đánh giá khả năng áp
dụng mô hình 7C trong việc cải thiện việc thực hiện CS và cung cấp dịch vụ công ở
các thành phố tự trị của Nam Phi. Nghiên cứu này làm rõ các khái niệm của mô hình
7C và xác định các nguyên tắc cơ bản cũng như đề xuất những yếu tố cần cải thiện
trong việc thực hiện CS công về dịch vụ đô thị bằng việc áp dụng 7C để đánh giá cụ
thể quy trình thực hiện CS. Cùng nghiên cứu về hiệu quả thực hiện các CS ở các
thành phố tự trị của Nam Phi, tác giả Munzhedzi [117] đã sử dụng mô hình 7C như
một khung lý thuyết nhằm đánh giá các kế hoạch khác nhau của thành phố, bao gồm
kế hoạch phát triển tích hợp, kế hoạch ngân sách nhằm đánh giá tính hiệu quả của các kế
hoạch này dẫn đến tình trạng tồn đọng liên tục trong việc cung cấp các dịch vụ công.
Tóm lại, các nghiên cứu về thực hiện CS trên thế giới đã được bắt đầu từ rất
sớm với nhiều cách cách tiếp cận khác nhau. Giai đoạn đầu, các nhà nghiên cứu CS
tập trung vào việc nghiên cứu định lượng, nghiên cứu khám phá các yếu tố ảnh
hưởng nhằm cải thiện quy trình CS. Trong các giai đoạn nghiên cứu thực hiện CS
tiếp theo, các nhà nghiên cứu đã thấy sự cần thiết của việc tiếp cận nghiên cứu theo
hướng định tính nhằm thu thập dữ liệu để bổ sung cho các dữ liệu mang tính định
lượng vốn đang phổ biến trong nghiên cứu thực hiện CS công. Và quan trọng hơn cả,
là việc nghiên cứu cần dựa trên một công cụ toàn diện như mô hình 7C để đảm bảo
tính tổng thể của kết quả nghiên cứu. Cuối cùng, từ việc xem xét một loạt các nghiên
cứu về thực hiện CS nói chung và các CS liên quan tới phát triển dịch vụ và cơ sở
chăm sóc NCT, có thể thấy các nghiên cứu về thực hiện CS với nhóm NCT chỉ
22
chiếm khoảng 2% trong tổng số các nghiên cứu nói chung. Vì thế, các nghiên cứu
hướng tới nhóm đối tượng NCT hoặc các vấn đề liên quan tới người cao tuổi cần
được quan tâm nhiều hơn nữa, đặc biệt trong bối cảnh già hoá dân số toàn cầu.
1.2. Các nghiên cứu về nhu cầu phát triển cơ sở chăm sóc người cao tuổi
Ủy ban Bảo vệ Xã hội (Social Protection Committee - SPC) và Ủy ban Châu
Âu (European Commission) trong báo cáo "Chăm sóc dài hạn: Xu hướng, thách thức
và cơ hội trong một xã hội già hoá" đã tập trung vào việc phân tích xu hướng, thách
thức và cơ hội trong lĩnh vực CSDH cho NCT trong một xã hội có mức độ già hoá
ngày càng cao. Báo cáo đã nêu bật một số xu hướng đáng chú ý bao gồm việc cần
phải tăng cường các dịch vụ CSDH cho NCT. Việc gia tăng tuổi thọ và sự gia tăng tỷ
lệ NCT đặt ra áp lực lớn cho hệ thống CSDH và yêu cầu sự mở rộng và nâng cao
chất lượng các dịch vụ này. Tuy nhiên, báo cáo cũng nhấn mạnh tới việc cần phải đa
dạng hóa các lựa chọn chăm sóc cho NCT. Điều này bao gồm việc phát triển các
DVCS tại nhà, chăm sóc trung tâm và chăm sóc cộng đồng, nhằm tạo ra sự linh hoạt và
lựa chọn phù hợp cho NCT. Bên cạnh đó, cần thiết phải cải thiện chất lượng chăm sóc
đảm bảo sự đáng tin cậy, an toàn và chăm sóc tập trung vào khách hàng (NCT), đồng
thời đảm bảo rằng các dịch vụ mang tính phù hợp với nhu cầu thực tế của NCT [77].
Tác giả Guzman [92] trong báo cáo “Già hoá trong thể kỉ 21: Thành công và
thách thức” thông qua việc phân tích xu hướng già hoá dân số toàn cầu, với việc tập
trung đặc biệt vào các thay đổi dân số, tình hình kinh tế, sự phát triển công nghệ và
ảnh hưởng của những yếu tố này đến sức khỏe và chất lượng cuộc sống của NCT đã
nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tăng cường chăm sóc sức khỏe và cải thiện điều
kiện sống cho NCT. Tác giả đề xuất một loạt các biện pháp để tăng cường chăm sóc
sức khỏe và cải thiện cuộc sống của NCT bao gồm việc đảm bảo NCT tham gia vào
các loại hình chăm sóc đa dạng, tăng cường phòng ngừa và chăm sóc sức khỏe tại
nhà và cung cấp dịch vụ y tế chất lượng cao. Tác giả khuyến nghị các quốc gia và tổ
chức quốc tế đầu tư vào hệ thống CS CSDH để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của
NCT. Cuối cùng, báo cáo nhấn mạnh vai trò quan trọng của chăm sóc tại nhà và cộng
đồng trong việc giúp NCT sống độc lập và có chất lượng cuộc sống tốt hơn và đề
xuất các biện pháp để cải thiện và mở rộng các DVCS tại nhà, hỗ trợ gia đình và
23
người chăm sóc, và xây dựng môi trường cộng đồng thân thiện với NCT.
Tại Úc, trong báo cáo "Tổng quan các mô hình chăm sóc người cao tuổi sáng
tạo”, tác giả Dyer và cộng sự [86] đã xem xét các các mô hình chăm sóc NCT khác
nhau trên thế giới và đưa ra đánh giá về hiệu quả và tiềm năng của những mô hình
này dựa trên nhu cầu thực tế và bối cảnh của các quốc gia khác nhau. Báo cáo xác
định và phân tích các yếu tố của từng mô hình chăm sóc NCT khác nhau, bao gồm
các mô hình tại nhà, cộng đồng, cơ sở chăm sóc dài ngày và các hình thức khác. Các
yếu tố được đánh giá bao gồm sự hiệu quả, chất lượng chăm sóc, tiếp cận dịch vụ, tài
chính và quản lý. Báo cáo nhấn mạnh việc tiếp tục đánh giá và nghiên cứu các mô
hình chăm sóc NCT sáng tạo như sử dụng công nghệ, tương tác xã hội, và quản lý tri
thức để nâng cao chất lượng và hiệu quả của DVCS NCT là rất cần thiết. Việc thu
thập thêm bằng chứng về tác động và hiệu quả của những phương pháp này sẽ cung
cấp thông tin quan trọng để đưa ra quyết định về việc triển khai và đầu tư vào các mô
hình chăm sóc NCT mới. Đồng thời, việc tăng cường quản lý tri thức và chia sẻ kinh
nghiệm giữa các nhà cung cấp dịch vụ và chính phủ rất quan trọng để thúc đẩy sự
phát triển và cải thiện DVCS NCT.
Tác giả Glinskaya và Feng [90] trong cuốn sách "Lựa chọn chăm sóc người cao
tuổi tại Trung Quốc: Xây dựng một hệ thống chăm sóc người cao tuổi hiệu quả và
bền vững" đã tập trung vào việc đề xuất các phương án chăm sóc NCT hiệu quả và
bền vững tại Trung Quốc. Dựa trên vấn đề hiện tại của quốc gia đang phải đối mặt
với sự gia tăng dân số già và nhu cầu chăm sóc ngày càng tăng, tác giả trình bày các
phân tích về tình hình chăm sóc NCT hiện nay ở Trung Quốc, bao gồm các thách
thức và cơ hội liên quan đến việc cung cấp DVCS chất lượng và bền vững cho NCT.
Tác giả tập trung vào việc tìm hiểu các mô hình chăm sóc NCT đã được triển khai ở
các quốc gia khác và từ đó đề xuất những phương pháp phù hợp với tình hình và nhu
cầu của Trung Quốc. Cuốn sách cung cấp những gợi ý và đề xuất cụ thể để cải thiện
hệ thống chăm sóc NCT tại Trung Quốc, bao gồm việc xây dựng các cơ sở chăm sóc
NCT, nâng cao chất lượng dịch vụ và đào tạo nhân lực chăm sóc NCT. Tác giả cũng
đề cập đến việc tăng cường hợp tác giữa chính phủ, các tổ chức phi chính phủ và các
24
bên liên quan khác để đảm bảo sự phát triển bền vững của hệ thống chăm sóc NCT.
Đóng góp tiếng nói về những vấn đề Việt Nam phải đổi mặt trước thách thức
già hoá, tác giả Vũ Ngọc Bình [146] trong bài báo “Luật, chính sách và thực tế cho
người cao tuổi ở Việt Nam hiện nay” đã nhận định chăm sóc tại cơ sở, mặc dù ít phổ
biến ở Việt Nam, cũng đã được hình thành. Các nhà hoạch định CS đang đưa ra
những cách khác nhau để đáp ứng nhu cầu CSDH ngày càng tăng ngoài những gì gia
đình có thể cung cấp. Nhà nước cho rằng chăm sóc lâu dài cho NCT là nghĩa vụ của
chủ thể nhà nước. Nhưng dù quan tâm nhiều hơn tới việc phát triển dịch vụ cho NCT
tại gia đình và cộng đồng, nhà nước cũng cần quan tâm tới điều chỉnh CS để tăng
cường sự phối hợp liên ngành, tránh phân biệt dịch vụ xã hội và y tế và phát triển các
chương trình chăm sóc tại khu vực nông thôn và vùng sâu vùng xa.
Nghiên cứu "Cơ sở trợ giúp xã hội thuộc tổ chức tôn giáo dành cho người cao
tuổi: Kinh nghiệm thế giới và thực tiễn Việt Nam" của tác giả Đào Thúy Hằng và
Hoàng Thu Hương [12] tìm hiểu về cơ sở TGXH thuộc tổ chức tôn giáo dành cho
NCT, từ đó đưa ra những đề xuất để phát triển các DVCS NCT. Nghiên cứu bao gồm
phần đánh giá kinh nghiệm thế giới và phần nghiên cứu thực tiễn tại Việt Nam. Nghiên
cứu cho thấy sự quan tâm của các tổ chức tôn giáo đối với NCT và cố gắng cung cấp
các dịch vụ hỗ trợ cho họ. Tuy nhiên, còn tồn tại nhiều thách thức như sự thiếu hiểu
biết về nhu cầu của NCT, thiếu nguồn lực và đối tượng NCT thường xuyên phải đối
mặt với sự kì thị và phân biệt đối xử. Nghiên cứu đề xuất một số giải pháp để cải thiện
chất lượng các dịch vụ hỗ trợ cho NCT, bao gồm tăng cường hợp tác giữa các tổ chức
tôn giáo và các cơ quan chính phủ, nâng cao năng lực chuyên môn của các cơ sở
TGXH thuộc tổ chức tôn giáo, đưa ra các CS hỗ trợ cho tổ chức tôn giáo và khuyến
khích sự tham gia của cộng đồng trong việc chăm sóc NCT.
Tóm lại, các nghiên cứu cho thấy những thay đổi về dân số, vấn đề sức khoẻ của
NCT tình hình kinh tế, sự phát triển khoa học công nghệ… dẫn tới nhu cầu hệ thống
dịch vụ chăm sóc dài hạn cho NCT và cần mở rộng, nâng cao chất lượng phù hợp với
nhu cầu thực tế của NCT. Tuy nhiên, nhu cầu dịch vụ chăm sóc cần được đa dạng
hoá tại nhà, cộng đồng và cơ sở chăm sóc. Nhà nước cần tăng cường sự phối hợp
giữa các ngành, tránh phân biệt dịch vụ xã hội và y tế, phát triển chương trình chăm
sóc tại nông thôn và vùng sâu xa và khuyến khích sự tham gia của cộng đồng trong
25
chăm sóc NCT.
1.3. Các nghiên cứu về chính sách phát triển cơ sở chăm sóc người cao tuổi
Quan điểm về các CS phát triển dịch vụ và cơ sở chăm sóc NCT ở các quốc gia
trên thế giới thể hiện sự tương đồng về xu hướng phát triển nhằm thích ứng với xu
thế già hoá dân số. Vì thế, các nghiên cứu về CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT trên
thế giới hiện cũng đang tập trung việc so sánh các khía cạnh tương đồng và khác biệt
về mặt CS để từ đó tìm ra những thực hành mang tính tối ưu nhất cho mỗi bối cảnh
văn hoá, nhà nước và thể chế chính trị khác nhau.
Trong nghiên cứu so sánh có tên “Dịch vụ chăm sóc người cao tuổi tại Thuỵ
Điển và Hoa kỳ - quan điểm và ví dụ so sánh về cách thực hành tốt nhất”, tác giả
Zapędowska-Kling [152] đã chỉ ra rằng mặc dù Thuỵ Điển và Hoa Kỳ là hai mô hình
nhà nước phúc lợi khác nhau (Thuỵ Điển là mô hình nhà nước dân chủ xã hội, trong
khi Hoa Kỳ theo mô hình nhà nước tự do), nhưng quan điểm CS về các DVCS NCT
có sự phát triển tương đồng. Từ năm 1913, Thuỵ Điển đã thiết lập kế hoạch phổ quát
đầu tiên trên thế giới (nguyên tắc phổ quát) với yêu cầu bắt buộc các địa phương cấp
quận/huyện phải cung cấp các DVCS NCT tại cơ sở ở địa phương mình. Tuy nhiên,
sau khủng hoảng kinh tế những năm 1990, do cần phải cắt giảm chi tiêu công và sự
gia tăng của các CS tân tự do đã dẫn đến việc Thuỵ Điển áp dụng khái niệm Quản lý
công mới. Theo triết lý của Quản lý công mới, nhà nước quyết định phạm vi và hình
thức dịch vụ và những nhà cung cấp (nhà nước hay tư nhân), là những người sẽ cung
cấp DVCS chất lượng và chi phí phù hợp theo yêu cầu. Đạo luật về Hệ thống lựa
chọn tự do có hiệu lực vào năm 2009, là một trong những biểu hiện rõ ràng nhất của
cách tiếp cận mới của Thụy Điển đối với chăm sóc sức khỏe.
Trong khi đó tại Hoa Kỳ, gia đình, hệ thống tôn giáo và các nhà từ thiện, tổ
chức từ thiện là những chủ thể đầu tiên cung cấp dịch vụ cho NCT. Sau đó, tương tự
như kinh nghiệm của Thuỵ Điển và nhiều nước châu Âu, sự suy giảm chất lượng
cuộc sống của NCT ở Hoa Kỳ tỷ lệ thuận với quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa
đã khiến Hoa Kỳ phải phát triển các hình thức chăm sóc NCT tại cơ sở, dù sự phát
triển cơ sở này diễn ra tương đối muộn so với châu Âu [152]. Điều này cho thấy rằng
việc nghiên cứu và so sánh các nội dung CS có thể giúp các quốc gia tìm ra những
26
hướng đi tốt nhất để cải thiện chất lượng cuộc sống của NCT. Tuy nhiên, nghiên cứu
còn có hạn chế do chưa phân tích đầy đủ về mức độ ảnh hưởng của các yếu tố khác như
văn hóa, tài chính và địa lý đến các quyết định CS về DVCS NCT ở hai quốc gia này.
Nghiên cứu "Các chính sách quốc gia về già hoá và chăm sóc dài hạn tại khu
vực châu Á Thái Bình Dương: Vấn đề và thách thức” của hai tác giả Phillips và Chan
[123] tập trung vào các CS quốc gia về già hóa dân số và CSDH ở khu vực châu Á-
Thái Bình Dương. Nghiên cứu này phân tích các CS và cơ sở hạ tầng CSDH ở nhiều
quốc gia trong khu vực, bao gồm Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Úc và Trung
Quốc, tập trung vào các khía cạnh như CS xã hội, hệ thống chăm sóc y tế và chăm
sóc cộng đồng, kết hợp với các vấn đề về tài chính và nguồn nhân lực trong CSDH
cho NCT. Nghiên cứu nhận diện một số thách thức chính trong khu vực, bao gồm sự
già hóa dân số nhanh chóng, nhu cầu ngày càng tăng về chăm sóc NCT và sự thiếu
hụt nguồn lực trong lực lượng lao động chăm sóc. Từ đó, các chính phủ sở tại đã có
những CS phát triển hệ thống chăm sóc cho NCT khác nhau. Cụ thể tại Nhật Bản,
chính phủ xây dựng một hệ thống chăm sóc đa tầng, bao gồm chăm sóc gia đình,
chăm sóc cộng đồng và viện dưỡng lão. Tại Hàn Quốc, chính phủ đã triển khai nhiều
chương trình hỗ trợ viện dưỡng lão và chăm sóc NCT, bao gồm hỗ trợ tài chính và
chăm sóc tại nhà. Tại Singapore, chính phủ đã đầu tư mạnh vào các dự án chăm sóc
NCT, tăng cường chăm sóc tại nhà và phát triển các khu nhà dưỡng lão.
Tác giả Curry và cộng sự [80] trong nghiên cứu của mình đã so sánh hệ thống
chăm sóc NCT ở Anh và Đức và đề xuất những bài học mà Anh có thể học từ hệ
thống chăm sóc NCT của Đức, trong đó nhấn mạnh tới CS bảo hiểm CSDH ở Đức
như là một mô hình bền vững nhằm thúc đẩy các cơ sở chăm sóc NCT phát triển.
Bên cạnh đó, một số gợi ý khác mà tác giả cũng đưa ra chủ yếu tập trung vào các CS
quản lý tài chính hiệu quả và bền vững của chính phủ, bao gồm tăng thuế và hỗ trợ từ
nguồn tài chính công, thúc đẩy sự tham gia của bảo hiểm tư nhân và cá nhân. Trong
một nghiên cứu khác của tác giả Rhee và cộng sự [125] có tiêu đề “Xem xét bảo hiểm
chăm sóc người cao tuổi dài hạn cho các nước thu nhập trung bình: so sánh Hàn
Quốc với Nhật Bản và Đức”, tác giả nhấn mạnh tới việc cần thiết xây dựng hệ thống
CS về bảo hiểm CSDH, trong đó bao gồm cả Bảo hiểm CSDH cơ bản và Bảo hiểm
27
CSDH tùy chỉnh, như tại Nhật Bản và Đức, hai quốc gia đã thành công trong việc
xây dựng và triển khai các CS và quy định về bảo hiểm chăm sóc NCT và đây được
xem như là một động lực thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống các cơ sở
chăm sóc NCT tại hai quốc gia này.
Nghiên cứu về sự ảnh hưởng của bối cảnh chính trị đến các quyết sách liên
quan tới việc phát triển các cơ sở chăm sóc NCT, tác giả Hieda [94] trong nghiên cứu
"Chính trị và Chính sách chăm sóc người cao tuổi: So sánh quan điểm về CSDH
trong các nền dân chủ tiên tiến." đã tập trung vào việc khám phá logic chính trị đằng
sau sự đa dạng trong việc phát triển các chương trình CS chăm sóc NCT tại các quốc
gia công nghiệp tiên tiến. Với sự thay đổi cấu trúc dân số và thành phần hộ gia đình,
DVCS NCT trở thành một vấn đề cấp bách trong CS phúc lợi của các nền dân chủ
tiên tiến. Nghiên cứu nêu rõ sự đa dạng trong các CS công về chăm sóc NCT ở các
quốc gia. Những quốc gia vùng Scandinavia đã phát triển các DVCS NCT công lớn
và chất lượng cao, các chương trình chăm sóc NCT dài hạn được tài trợ bởi thuế, CS
bảo hiểm xã hội, và được cung cấp dựa trên việc kiểm tra thu nhập và/hoặc tài sản.
Nhật Bản và một số quốc gia Châu Âu lục địa đang bắt kịp với các quốc gia
Scandinavia, nhưng những quốc gia khác có mức phủ sóng an sinh và chi tiêu thấp
hơn dẫn tới ít có những biến động trong việc cải thiện CS chăm sóc NCT.
Tại Việt Nam, trong bài báo “Người cao tuổi và chăm sóc dài hạn” của các tác
giả Vân và cộng sự [143] đã đánh giá tình hình chăm sóc NCT tại Việt Nam và đưa
ra các giải pháp để nâng cao chất lượng chăm sóc. Nghiên cứu đã sử dụng phương
pháp nghiên cứu mô tả, phân tích số liệu thống kê và đánh giá chất lượng DVCS
NCT. Kết quả cho thấy tình hình chăm sóc NCT tại Việt Nam còn nhiều khó khăn và
hạn chế, nhưng đã có một số cải thiện về mặt chất lượng và phạm vi chăm sóc. Các
tác giả đánh giá về cơ sở sóc NCT tại cơ sở ở Việt Nam hiện nay như sau: các viện
dưỡng lão hầu hết nằm ở các thành phố lớn, chủ yếu có đối tượng khách hàng là
người khá giả, số lượng trung tâm BTXH còn hạn chế, chưa đáp ứng đủ nhu cầu và
hoạt động không hiệu quả. Các tác giả cũng nhận định các CS nhìn chung toàn diện,
nhưng khó thực hiện do thiếu kinh phí, cơ chế khuyến khích không dẫn tới việc thực
hiện có hiệu quả, sự phối hợp đa ngành, việc giám sát, đánh giá việc thực hiện hạn
28
chế… CS phát triển nhóm dịch vụ này nằm trong rất nhiều các CS, chương trình,
chiến lược, kế hoạch chăm sóc NCT. Nhưng điều còn thiếu là Việt Nam cần có các
CS trung và dài hạn quốc gia để xây dựng hệ thống CSDH cho NCT nói chung, trong
đó có việc phát triển các cơ sở chăm sóc NCT. Các giải pháp đề xuất bao gồm tăng
cường quản lý chăm sóc NCT, đào tạo nguồn nhân lực chăm sóc NCT, nâng cao chất
lượng DVCS và tăng cường quảng bá để nâng cao nhận thức của người dân về tình
hình chăm sóc NCT tại Việt Nam. Tuy nhiên, các kết luận rút ra mang tính suy luận
chưa có sự kiểm tra giả thuyết trong phạm vi một bài báo tạp chí [143].
Trong nghiên cứu về các CS CSDH cho NCT tại Việt Nam, các tác giả Giang
Thành Long và cộng sự [88] đã đánh giá rằng, trong những năm gần đây, Việt Nam
đã chú trọng đến việc phát triển CSDH và có những CS hỗ trợ phát triển ngành này.
Tuy nhiên, còn nhiều thách thức đối với việc phát triển CSDH tại Việt Nam, bao
gồm: sự thiếu hụt nguồn lực và CS hỗ trợ, tình trạng già hóa dân số ngày càng tăng,
sự thiếu thông tin và kiến thức về CSDH, và sự đa dạng về nhu cầu chăm sóc giữa
các vùng và tầng lớp khác nhau. Bài báo cũng đề cập đến các CS hiện tại của Việt
Nam về CSDH, bao gồm CS phát triển nguồn nhân lực, CS về đối tượng được hỗ trợ,
CS tài chính, CS xây dựng cơ sở hạ tầng và CS về quản lý và giám sát ngành CSDH.
Tuy nhiên, các tác giả cho rằng còn nhiều khó khăn và thách thức cần được giải
quyết, và đề xuất một số giải pháp để nâng cao chất lượng CSDH tại Việt Nam, bao
gồm việc tăng cường đầu tư và hỗ trợ dịch vụ CSDH, cải thiện CS và quản lý, đẩy
mạnh giáo dục và tăng cường nghiên cứu trong lĩnh vực này.
Tác giả Trịnh Duy Luân [46, tr. 67] trong bài báo có tựa đề "Chính sách chăm
sóc người cao tuổi ở Việt Nam hiện nay" đã tập trung phân tích về tình hình chăm sóc
NCT ở Việt Nam hiện nay, đánh giá các CS liên quan đến việc chăm sóc NCT, và đề
xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc NCT tại Việt Nam. Tác
giả sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính thông qua phân tích tài liệu để thu
thập thông tin và dữ liệu cho bài báo. Kết quả nghiên cứu chỉ ra một số hạn chế của
các CS chăm sóc NCT tại Việt Nam bao gồm sự thiếu hụt nguồn lực, khó khăn trong
việc đáp ứng nhu cầu đa dạng của NCT và sự chưa đồng bộ giữa các CS khác nhau.
Hầu hết các cơ sở chăm sóc NCT hiện nay đều là các tổ chức tư nhân, với chất lượng
29
chăm sóc chưa đảm bảo. Tác giả đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
cuộc sống của NCT, bao gồm: đầu tư hơn cho cơ sở chăm sóc NCT, nâng cao trình
độ chuyên môn cho người chăm sóc, đẩy mạnh các chương trình bảo hiểm y tế và
bảo hiểm xã hội cho NCT, và tăng cường giáo dục và tạo đào tạo nguồn nhân lực
chăm sóc NCT.
Có thể thấy, dù các quốc gia có bối cảnh văn hoá, nhà nước và thể chế chính trị
khác nhau nhưng đều quan tâm vào CS phát triển hệ thống chăm sóc NCT đa tầng từ
gia đình, cộng đồng đến cơ sở dưỡng lão và đa dạng hoá chủ thể chăm sóc. Các chính
phủ đầu tư CS ưu tiên phát triển hệ thống chăm sóc NCT tại chỗ và thống nhất xu
hướng phát triển cơ sở chăm sóc tập trung chỉ phát triển được nếu có hỗ trợ bởi CS
bảo hiểm chăm sóc dài hạn, ưu đãi thuế, bảo hiểm xã hội. Tại Việt Nam, các CS nhìn
chung toàn diện, nhưng khó thực hiện do thiếu kinh phí, cơ chế khuyến khích không
hiệu quả, sự phối hợp, việc giám sát, đánh giá việc thực hiện hạn chế… Việt Nam
cần có các CS trung và dài hạn để xây dựng hệ thống chăm sóc dài hạn cho NCT,
tăng cường đầu tư và hỗ trợ dịch vụ chăm sóc dài hạn, cải thiện CS và quản lý, đẩy
mạnh giáo dục và tăng cường nghiên cứu trong lĩnh vực này.
1.4. Các nghiên cứu về thực hiện chính sách phát triển cơ sở chăm sóc người cao tuổi
Đầu tiên là các nghiên cứu về thực hiện các CS về phát triển cơ sở chăm sóc
NCT tại các nước phát triển như Mỹ, Anh, Canada, Úc, Thuỵ Điển, Hà Lan, Đan
Mạch, Nhật Bản và Hàn Quốc tập trung vào việc đánh giá hiệu quả của các CS công
về dịch vụ và cơ sở chăm sóc NCT, đặc biệt là ở khía cạnh kinh tế và xã hội. Các
nghiên cứu này được triển khai theo nhiều hướng tiếp cận, bao gồm các nghiên cứu
về nội dung CS và các quy định hiện hành và hiệu quả tác động của các CS trong quá
trình thực hiện. Hướng nghiên cứu thứ nhất tập trung vào việc phân tích và đánh giá
các CS và quy định về cơ sở chăm sóc NCT tại các quốc gia phát triển, từ đó đề xuất
các cải tiến và CS mới. Hướng nghiên cứu thứ hai tập trung vào đánh giá hiệu quả và
tác động của các CS và chương trình phát triển cơ sở chăm sóc NCT đã triển khai, từ
đó đề xuất các cách thức để cải tiến hiệu quả của quá trình thực hiện CS [78, 79, 89,
123, 151].
Tại Hàn Quốc và Nhận Bản, hai nghiên cứu điển hình của tác giả Kuzuya và
30
cộng sự [109] và Mah và cộng sự [111] tập trung vào việc đánh giá hiệu quả của các
chương trình chăm sóc NCT tại cộng đồng bao gồm việc đánh giá tác động của các
CS. Nghiên cứu đã thu thập dữ liệu từ mẫu ngẫu nhiên gồm 1.000 NCT đang sống tại
Hàn Quốc nhằm tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến việc sử dụng DVCS NCT tại nhà
ở Hàn Quốc, dựa trên đánh giá các yếu tố kinh tế và tổ chức gia đình. Kết quả cho
thấy rằng các yếu tố kinh tế, chẳng hạn như thu nhập và trình độ học vấn, ảnh hưởng
đến việc sử dụng DVCS NCT tại nhà. Nghiên cứu cũng cho thấy rằng tổ chức gia
đình, bao gồm số lượng thành viên trong gia đình và trạng thái hôn nhân, cũng có ảnh
hưởng đến việc sử dụng DVCS. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng các chương trình chăm
sóc bao gồm các hoạt động giúp nâng cao sức khỏe, tăng cường mối quan hệ xã hội
và cung cấp hỗ trợ tâm lý cho NCT có thể cải thiện sức khỏe và chất lượng cuộc sống
của NCT, đồng thời giảm chi phí chăm sóc y tế. Vì thế các CS đầu tư vào các cơ sở
chăm sóc NCT có thể tạo ra lợi ích kinh tế và xã hội đáng kể. Tuy nhiên, nghiên cứu
cũng nhận thấy rằng cần tăng cường các CS hỗ trợ tài chính và kỹ thuật cho các dịch
vụ và cơ sở chăm sóc để đảm bảo chất lượng dịch vụ và sự hài lòng của NCT và gia
đình họ [109, 111].
Tại Châu Phi, các nghiên cứu về thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT
tại Ethiopia và Nam Phi tập trung vào việc đánh giá hiệu quả các chương trình chăm
sóc NCT được triển khai tại cộng đồng. Các nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng có
nhiều thách thức cần được giải quyết để phát triển các cơ sở chăm sóc NCT tại địa
phương bao gồm việc thiếu nguồn lực và thiếu sự đồng thuận giữa các cấp chính
quyền. Cụ thể, tác giả Belachew và cộng sự [65] trong bài báo " Tình hình Sức khỏe
và Lão hóa tại Ethiopia: Khảo sát về nhu cầu sức khỏe và thách thức cung cấp dịch
vụ", đã thực hiện việc đánh giá tình hình cung cấp DVCS NCT tại Ethiopia, bao gồm
cả cơ sở chăm sóc và DVCS tại cộng đồng bằng phương pháp phỏng vấn trực tiếp
với các cơ sở chăm sóc, khảo sát dân cư và phân tích các tài liệu CS. Kết quả cho
thấy việc cung cấp DVCS NCT tại Ethiopia gặp nhiều thách thức, bao gồm thiếu
nguồn lực và cơ sở vật chất, thiếu đào tạo cho nhân viên chăm sóc và thiếu CS hỗ trợ.
Mặc dù chính phủ Ethiopia đã đưa ra nhiều CS và kế hoạch phát triển chăm sóc
NCT, song vẫn còn gặp nhiều khó khăn trong thực hiện. Nghiên cứu này cho thấy
31
rằng cần có nhiều nỗ lực về mặt CS hơn để nâng cao chất lượng và khả năng tiếp cận
DVCS NCT tại Ethiopia. Nghiên cứu cũng đưa ra đề xuất về việc tăng cường đào tạo
cho nhân viên chăm sóc, đầu tư vào cơ sở vật chất và đưa ra các CS bổ sung hỗ trợ
cho NCT và gia đình của họ [65].
Ở Nam Phi, nghiên cứu của Kalideen và cộng sự [104] tập trung vào việc đánh
giá các chương trình chăm sóc NCT tại Nam Phi, đặc biệt là các chương trình chăm
sóc ở khu vực đô thị và nông thôn. Bằng phương pháp khảo sát thu thập dữ liệu từ
680 NCT tại các khu vực khác nhau của Nam Phi, những người tham gia được hỏi về
các nhu cầu chăm sóc của họ và các chương trình chăm sóc đã được cung cấp. Kết
quả cho thấy rằng có một sự khác biệt lớn giữa các khu vực đô thị và nông thôn về cơ
sở hạ tầng chăm sóc NCT và các dịch vụ được cung cấp. Các chương trình chăm sóc
ở các khu vực đô thị thường tập trung vào chăm sóc y tế, trong khi các chương trình
chăm sóc ở khu vực nông thôn tập trung nhiều hơn vào hỗ trợ sinh hoạt và vận động.
Tuy nhiên, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng các chương trình chăm sóc đang đối mặt với
nhiều thách thức, bao gồm ngân sách hạn chế, thiếu hụt nhân lực và sự bất đồng giữa
các cơ quan về phạm vi chăm sóc y tế hay xã hội. Nghiên cứu đề xuất giải pháp CS
nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc NCT tại Nam Phi, bao gồm tăng cường hợp tác
giữa các ngành, đào tạo nhân lực và tăng cường ngân sách cho chương trình chăm sóc.
Trong các nghiên cứu về các CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT tại Châu Á –
Thái Bình Dương, nhiều tác giả khẳng định xã hội hiện nay đang phải đối mặt với
những thách thức và tác động khác nhau của quá trình già hoá, tuỳ thuộc bối cảnh
chính trị, xã hội và kinh tế mà các đề xuất và thực hành CS với NCT sẽ có những
điểm khác nhau. Tuy nhiên, các nghiên cứu về CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT tại
khu vực này với một số quốc gia điển hình như Singapore, Trung Quốc, Myanmar
đều cho thấy gia đình và cộng đồng là những chủ thể cung cấp dịch vụ được ưu tiên;
nhưng các CS của chính phủ cũng cần đa dạng hoá các nhà cung cấp dịch vụ để thúc
đẩy việc tư nhân hoá/xã hội hoá DVCS NCT. Đặc biệt, việc ưu tiên CS phát triển
dịch vụ tại khu vực nông thôn cũng là một trong những bài toán mà các quốc gia cần
giải quyết [106].
Nghiên cứu của hai tác giả Jayasekara và Schultz [103] tại Sri Lanka tập trung
32
vào các xu hướng và vấn đề đang diễn ra trong lĩnh vực sức khỏe tại Sri Lanka. Tác
giả đề cập đến các chỉ số sức khỏe chính của đất nước, bao gồm tỷ lệ tử vong sơ sinh,
tỷ lệ tử vong trẻ em, tuổi thọ trung bình và tỷ lệ người lớn mắc bệnh. Bài báo cũng đề
cập đến các thách thức trong hệ thống chăm sóc sức khỏe của Sri Lanka, bao gồm
tình trạng chênh lệch giữa các khu vực, sự thiếu hụt về cơ sở hạ tầng và tài nguyên,
và vấn đề đối với chăm sóc NCT. Ngoài ra, tác giả cũng nêu ra các CS và giải pháp
cần thiết để cải thiện tình trạng sức khỏe tại Sri Lanka, bao gồm nâng cao cơ sở hạ
tầng chăm sóc sức khỏe, cải thiện tiếp cận và chất lượng DVCS sức khỏe, đào tạo và
phát triển lực lượng lao động chăm sóc sức khỏe, và cải thiện cơ sở dữ liệu và thông
tin sức khỏe. Tuy nhiên, bài báo cũng nhấn mạnh rằng để đạt được những mục tiêu
này, cần phải có sự cam kết chặt chẽ từ phía chính phủ, các tổ chức phi chính phủ và
các cơ quan liên quan, cũng như đảm bảo sự tham gia của cộng đồng và các bên liên
quan khác.
Tại Trung Quốc, trong nghiên cứu về bối cảnh cho sự phát triển của các cơ sở
chăm sóc NCT “Sự hình thành của ngành công nghiệp: Sự trỗi dậy của các cơ sở
chăm sóc người cao tuổi tại Đô thị Trung Quốc”, Feng và cộng sự [87] đã cho thấy
ngành công nghiệp non trẻ về DVCS NCT tại cơ sở đang phát triển và thay đổi cơ
bản về quyền sở hữu, tài chính, và nhóm đối tượng khách hàng. Tác giả sử dụng
phương pháp thu thập dữ liệu để phân tích và đánh giá hoạt động các cơ sở chăm sóc
NCT tư nhân và độc quyền, cũng như tìm kiếm các mô hình và phương thức phát
triển hiệu quả của các cơ sở này. Kết quả cho thấy nhu cầu về các DVCS NCT sẽ
tăng lên, thúc đẩy sự phát triển của các cơ sở trong những thập kỷ tới mặc dù ngành
công nghiệp chăm sóc tại cơ sở ở đô thị Trung Quốc này vẫn nhỏ hơn ở châu Âu và
Hoa Kỳ, cả về số lượng, cơ sở vật chất và quy mô giường. Tác giả dự đoán sẽ có sự
tăng trưởng lớn nhất ở các cơ sở tư nhân và độc quyền. Nghiên cứu cũng đưa ra
những đề xuất CS để hỗ trợ sự phát triển các cơ sở chăm sóc NCT tư nhân và độc
quyền, đồng thời đánh giá hiệu quả của các CS này để có thể tinh chỉnh và cải thiện
trong tương lai [87].
Một nghiên cứu khác, dựa trên quan điểm của Shleifer trong bài báo đánh giá
về sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân, tác giả Jane P.Chan trong nghiên cứu về
33
DVCS NCT đến sự tác động tới CS CSDH, Chan [58] đã so sánh DVCS NCT tại cơ
sở ở Mỹ và Trung Quốc, rút ra kết luận các dịch vụ viện dưỡng lão nên được cung
cấp bởi các công ty nhà nước hoặc các công ty phi lợi nhuận. Đồng quan điểm, trong
bài báo của mình, hai tác giả Hinton và Chen [95], đã trích lại ý kiến của tác giả
Kuah Khun Eng, dựa trên nghiên cứu thực địa về vai trò của nhà nước Singapore và
các tổ chức Phật giáo trong việc cung cấp DVCS NCT. Tác giả cho rằng các tổ chức
xã hội có lịch sử lâu dài trong việc cung cấp các dịch vụ phúc lợi tự nguyện cho cộng
đồng là một cơ hội quan trọng để mở rộng và củng cố hệ thống phúc lợi xã hội lấy
nhà nước làm trung tâm. Tác giả cũng cho rằng, nhà nước cần khuyến khích sự tham
gia của tổ chức tôn giáo thông qua CS tài khóa và CS phụ trợ, hoặc có thể tích hợp
hiệu quả các tổ chức phúc lợi tự nguyện tôn giáo vào hệ thống phúc lợi của nhà nước.
Tại Việt Nam, nghiên cứu về bối cảnh để thực hiện CS phát triển cơ sở chăm
sóc NCT tại Việt Nam, tác giả Đặng Thị Thanh Phúc và cộng sự [81] đã chỉ ra rằng ở
Việt Nam đang diễn ra sự gia tăng số NCT, các bệnh nền nghiêm trọng NCT gặp
phải, sự thay đổi cơ cấu dân số và cơ cấu gia đình nên viện dưỡng lão ngày càng phát
triển như một hệ thống chăm sóc mới cho NCT. Tuy nhiên, DVCS NCT trong viện
dưỡng lão vẫn chưa phải là DVCS phổ biến cho NCT. Hệ thống chăm sóc tại viện
dưỡng lão cần được phát triển ở Việt Nam, và cần sự hỗ trợ nhiều hơn từ cả khu vực
chính phủ và phi chính phủ. Điều này không phủ nhận sự chăm sóc toàn diện từ cấp
chính phủ đến cộng đồng để nâng cao chất lượng cuộc sống của NCT Việt Nam.
Nghiên cứu về DVCS y tế đối với NCT ở Việt Nam tổng hợp nhất có thể kể tới
nghiên cứu của của Bộ Y tế và nhóm đối tác y tế [5] với Báo cáo chung về ngành Y
tế năm 2016 – Hướng tới một xã hội già hoá khoẻ mạnh. Nghiên cứu đã sơ đồ hoá tất
cả các cơ quan thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT ở Việt Nam (như dưới
34
đây).
Sơ đồ 1.1. Các bên liên quan tham gia vào dịch vụ chăm sóc NCT
Nguồn: Bộ Y tế và nhóm đối tác y tế [5]
Tuy nhiên, báo cáo chỉ đơn thuần mang tính mô tả các cá nhân, tổ chức có liên
quan ở cấp chính phủ. Sự cam kết giữa các cá nhân, tổ chức thực hiện chưa được
xem xét ở đây. Điều này đặt ra một vấn đề trong thực hiện CS phát triển cơ sở chăm
sóc NCT tại cơ sở ở Việt Nam liên quan tới sự thiếu phối hợp giữa Bộ LĐTB&XH
cùng Bộ Y tế trong việc cấp phép, quản lý, giám sát các cơ sở chăm sóc NCT như
viện dưỡng lão công lập, ngoài công lập. Đây có thể được coi là một trong những
nghiên cứu hiếm hoi nói về sự phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện CS
phát triển cơ sở chăm sóc NCT ở Việt Nam.
Một báo cáo đáng chú ý khác năm 2021: "Thị trường các sản phẩm chăm sóc
người cao tuổi tại Việt Nam" được thực hiện bởi Trung tâm Chăm sóc Sức khỏe Thành
phố Hồ Chí Minh và Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc [48] đã đánh giá thị trường chăm sóc
NCT tại thành phố Hồ Chí Minh, từ đó đề xuất các giải pháp CS để nâng cao chất
lượng chăm sóc và đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của nhóm NCT. Kết quả của
nghiên cứu cho thấy rằng thị trường chăm sóc NCT ở thành phố Hồ Chí Minh đang
phát triển, tuy nhiên, vẫn còn nhiều hạn chế và thách thức như: thiếu nguồn nhân lực
chuyên môn, thiếu cơ sở vật chất, yêu cầu đào tạo cao cho nhân lực và chi phí chăm
sóc cao. Nghiên cứu đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc
35
NCT, bao gồm: (1) Tăng cường đầu tư và hỗ trợ phát triển các cơ sở chăm sóc NCT,
đặc biệt là cơ sở chăm sóc tại gia; (2) Nâng cao năng lực chuyên môn và đào tạo cho
người lao động trong ngành chăm sóc NCT; (3) Thúc đẩy sự hợp tác giữa các nhà cung
cấp dịch vụ để tăng cường khả năng cạnh tranh và cải thiện chất lượng dịch vụ; (4)
Xây dựng các CS và quy định hỗ trợ cho NCT và gia đình trong việc chăm sóc NCT.
Nghiên cứu này cho thấy các yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến thị trường chăm sóc
NCT, bao gồm các nhu cầu, định hướng và mong muốn của các đối tượng khách hàng,
các sản phẩm và dịch vụ được cung cấp bởi các nhà cung cấp và cơ hội và thách thức
khác trong thị trường. Nghiên cứu này cũng khẳng định phương pháp nghiên cứu định
tính và xử lý dữ liệu định tính là các phương pháp hữu ích trong việc nghiên cứu và
phân tích các vấn đề liên quan đến chăm sóc NCT. Các phương pháp này cho phép thu
thập thông tin chi tiết và sâu sắc từ các cá nhân hoặc tổ chức, và tập trung vào các yếu
tố chính ảnh hưởng đến thị trường chăm sóc NCT. Kết quả của nghiên cứu cũng cung
cấp thông tin quan trọng cho các nhà quản lý và CS để phát triển các chương trình
chăm sóc NCT phù hợp với nhu cầu của người dân, cũng như đáp ứng các cơ hội và
thách thức của thị trường [48].
Tổng thể, các nghiên cứu trong nước và quốc tế cho thấy quá trình thực hiện CS
nảy sinh những thách thức như thiếu nguồn lực, thiếu sự đồng thuận từ cấp chính
quyền, thiếu CS hỗ trợ và sự bất đồng giữa các tổ chức về phạm vi chăm sóc (tinh thần,
dinh dưỡng và y tế) ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả thực hiện CS. Bởi vậy, bài học là
cần tập trung khuyến khích các tổ chức nhà nước, tư nhân phi lợi nhuận, tổ chức tôn giáo/
từ thiện và khuyến khích phát triển các cơ sở tại các khu vực nông thôn bằng CS tài khóa
36
và phụ trợ khác để đảm bảo chất lượng dịch vụ, sự hài lòng của NCT và gia đình.
Tiểu kết Chương 1
Các hướng tiếp cận nghiên cứu thực hiện CS, và các nội dung trong nghiên cứu
nhu cầu chăm sóc NCT, CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT và thực hiên CS chăm sóc
NCT trên thế giới và tại Việt Nam đã được đề cập một cách chi tiết trong chương này.
Hướng tiếp cận nghiên cứu thực hiện CS hiện nay nên đi theo hướng hỗn hợp
giữa định tính và định lượng. Trong đó, ưu tiên việc sử dụng phương pháp định tính
nhằm giúp các nhà nghiên cứu khám phá ra vấn đề cụ thể có giá trị, đồng thời việc
phân tích so sánh đối chiếu sẽ đem lại giá trị tốt hơn những nghiên cứu đơn lẻ. Định
hướng nghiên cứu cũng chỉ ra việc tiếp cận theo hướng hỗn hợp (từ trên xuống và từ
dưới lên), cũng như sự xuất hiện của mô hình 5C và 7C để làm công cụ nghiên cứu
thực hiện CS từ góc nhìn của các bên liên quan trở thành một khung phân tích thực
hiện CS toàn diện hiện nay, nhất là trong bối cảnh thực hiện CS tại những quốc gia
đang phát triển vốn gặp phải những khó khăn về thiếu thông tin, dữ liệu.
Đồng thời, các nghiên cứu sẵn có trên thế giới và Việt Nam cho thấy, về cơ bản
các nghiên cứu liên quan tới thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT không xuất
hiện nhiều. Các nghiên cứu hiện nay khẳng định nhu cầu tất yếu cần chăm sóc dài
hạn của NCT, nhu cầu phát triển hệ thống chăm sóc đa tầng (gia đình, cộng đồng, cơ
sở chăm sóc). Các chủ thể cung cấp dịch vụ chăm sóc cũng cần được đa dạng hoá và
tập trung phát triển hệ thống chăm sóc tại cả khu vực nông thôn. Đa phần các nghiên
cứu cho thấy hạn chế của việc thực hiện nằm ở thiếu kinh phí, cơ chế khuyến khích
thiếu hiệu quả, thiếu sự phối hợp, sự đồng thuận từ cấp chính quyền còn hạn chế. Tuy
nhiên những nhận định này không đánh giá cụ thể dựa trên quy trình thực hiện. Vì
vậy, cần có những nghiên cứu sâu hơn để đánh giá cụ thể quy trình thực hiện CS và
37
cách thức cải thiện quy trình thực hiện và vượt qua các rào cản CS.
CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH
SÁCH PHÁT TRIỂN CƠ SỞ CHĂM SÓC NGƯỜI CAO TUỔI
2.1. Người cao tuổi và nhu cầu chăm sóc người cao tuổi
2.1.1. Khái niệm người cao tuổi
Theo truyền thống, Liên hợp quốc và hầu hết các nhà nghiên cứu đã sử dụng
các thước đo và chỉ số về già hoá dựa trên độ tuổi sinh học của mỗi người. Năm
1992, Đại Hội đồng Liên hợp quốc (UN) đã thống nhất quy định những công dân từ
60 tuổi trở lên được tính là NCT [141]. Trong Bình luận chung số 6 (Quyền kinh tế,
xã hội và văn hóa của những người cao tuổi) do Ủy ban về các quyền kinh tế, xã hội
và văn hóa của Liên hợp quốc đưa ra tại phiên họp thứ 13 (1995), thuật ngữ NCT đã
được ghi nhận là để chỉ những người từ 60 tuổi trở lên. Còn theo Eurostat (Cơ quan
Thống kê của Liên minh châu Âu), NCT là những người từ 65 tuổi trở lên, vì tuổi về
hưu thông thường là 65 tuổi và xu hướng nghỉ hưu ngày càng muộn hơn [137].
Tại Việt Nam, dưới góc độ ngành CS công, khái niệm NCT được xác định dựa
trên quy định của các văn bản CS, mà cụ thể ở đây là các văn bản pháp luật. Từ trước
năm 2009, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã ban hành, triển khai nhiều văn bản như
Chỉ thị số 59-CT/TW, ngày 27/9/1995 về chăm sóc NCT; Chỉ thị số 117/TTg ngày
27/2/1996 về chăm sóc NCT và hỗ trợ hoạt động cho Hội Người cao tuổi Việt Nam;
Pháp lệnh Người cao tuổi số 23/2000/PL-UBTVQH10; NĐ 71/2000/NĐ-CP ngày
23/11/2000 quy định việc kéo dài thời gian công tác của cán bộ, công chức đến độ
tuổi nghỉ hưu; QĐ số 141/2004/QĐ-TTG ngày 05/08/2004 về việc thành lập Ủy ban
Quốc gia về NCT Việt Nam. Trong các văn bản đó, khái niệm NCT được xác định là
công dân nước Cộng hoà xã hội Chủ nghĩa Việt Nam từ 60 tuổi trở lên. Sau đó, tháng
11 năm 2009, Quốc Hội chính thức thông qua Luật NCT và có hiệu lực bắt đầu từ
ngày 01 tháng 07 năm 2010. Trong Luật, tại Điều 2, NCT được định nghĩa “là công
dân Việt Nam từ đủ 60 tuổi trở lên”. Đây là cơ sở pháp lý cao nhất khẳng định đối
tượng của các CS có liên quan đến nhóm NCT này [31].
Lý giải cho việc quy định số tuổi được coi là NCT ở mỗi nước không giống
nhau là do sự khác nhau về lứa tuổi có các biểu hiện già hóa của người dân ở mỗi
nước khác nhau. Những nước có hệ thống y tế, chăm sóc sức khỏe tốt thì tuổi thọ và
sức khỏe của người dân cũng được nâng cao, các biểu hiện của tuổi già cũng đến
muộn hơn. Thêm vào đó, tình trạng thiếu hụt lao động do tốc độ già hoá nên ở nhiều
38
quốc gia phát triển như Nhật Bản, Đức, Canada…, mức tuổi được xác định thuộc
nhóm NCT được nâng cao hơn.
Từ phân tích các khái niệm trên, trong luận án này, dưới góc độ của chuyên
ngành CS công, khái niệm NCT được xác định là người “từ đủ 60 tuổi trở lên”.
2.1.2. Đặc trưng và nhu cầu chăm sóc của người cao tuổi
2.1.2.1. Đặc trưng nhân khẩu, kinh tế - xã hội và các vấn đề sức khoẻ của NCT
Nghiên cứu về đặc trưng nhân khẩu, kinh tế - xã hội và đặc trưng về sức khoẻ
của NCT, các dữ liệu điều tra dân số và báo cáo của [42], Tổng cục Thống kê [43],
[44] và Quỹ Dân số Liên hợp quốc [49] có chung những nhận định về đặc trưng cơ
bản của nhóm NCT bao gồm:
- Đặc trưng nhân khẩu
Số lượng NCT và tỷ lệ dân số cao tuổi trong tổng dân số có xu hướng tăng lên
rõ rệt. Tại Việt Nam, trong hai lần tổng điều tra dân số vào năm 2009 – 2019, dân số
cao tuổi tăng từ 7,45 triệu lên 11,41 triệu, tương ứng từ 8,68% đến hơn 11,86% tổng
dân số. Chỉ trong giai đoạn 2019-2021, tổng dân số Việt Nam tăng thêm 2,07 triệu
người (từ 96,21 triệu lên 98,28 triệu) thì dân số cao tuổi tăng thêm 1,17 triệu người
(tương ứng với tăng từ 11,86% lên 12,80% tổng dân số). Dân số cao tuổi tăng thêm
chiếm 56,5% tổng dân số tăng thêm. Chỉ số già hoá dân số dự báo sẽ tăng nhanh
chóng trong hai thập kỷ tới. Dự báo tới năm 2029, chỉ có 14 tỉnh dân số cao tuổi lớn
hơn dân số trẻ em, thì đến năm 2039, con số sẽ lên tới 41 tỉnh [42, 44].
Trong số NCT tăng thêm, với cách chia nhóm dân số NCT thành ba nhóm: sơ
lão (60-69 tuổi), trung lão (70-79 tuổi) và đại lão (80 tuổi trở lên), nhóm NCT sơ lão
có tốc độ tăng trưởng cao nhất (7,49% trong 10 năm giai đoạn 2009-2019), tiếp đó là
nhóm NCT đại lão với tỷ lệ 3,59%. Số NCT thuộc nhóm đại lão đạt hơn 1,9 triệu
người năm 2019.
Xét theo giới tính, tỷ số NCT nữ cao hơn nam giới (7,28 triệu NCT nữ giới
(chiếm 57,82%) so với 5,30 triệu NCT nam giới (chiếm 42,18%), đồng thời ở tất cả
các nhóm tuổi (sơ lão, trung lão, đại lão), ở độ tuổi càng cao, mức độ nữ hóa càng rõ
so với các nhóm tuổi khác.
Xét về phân bổ dân số theo khu vực sống (thành thị hay nông thôn), tỷ lệ NCT
sống ở nông thôn giảm dần từ năm 2009 – 2019 do quá trình đô thị hoá. Tính đến
năm 2021, trong số 12,58 triệu NCT, có 4,62 triệu NCT (chiếm 36,72%) sống ở khu
39
vực thành thị và 7,96 triệu NCT (chiếm 63,28%) sống ở khu vực nông thôn. Với cả
hai giới nam/nữ, tỷ lệ NCT sống ở thành thị cao hơn với nhóm NCT trẻ hơn. Trong
khi, càng cao tuổi, NCT càng có xu hướng sống ở nông thôn nhiều hơn.
Xét về phân bổ dân số theo vùng kinh tế-xã hội, có tới 50% dân số cao tuổi Việt
Nam sống ở hai vùng Đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền
Trung [44].
- Đặc trưng kinh tế - xã hội
Về tình trạng hôn nhân, phần lớn (hơn 2/3) NCT đang có vợ/chồng và khoảng
¼ NCT góa vợ/chồng, trong khi các tình trạng khác (ly thân, ly dị hoặc chưa kết hôn)
chiếm tỷ lệ không đáng kể. Tuổi càng cao thì tỷ lệ góa chồng/vợ càng lớn: nhóm đại
lão có tỷ lệ goá vợ/chồng cao gấp 3-4 lần so với nhóm sơ lão, phụ nữ cao tuổi có tỷ lệ
góa chồng cao gấp hơn bốn lần tỷ lệ nam giới cao tuổi góa vợ. Trong số những NCT
góa vợ hoặc chồng thì phụ nữ chiếm hơn 80% ở tất cả các nhóm tuổi.
Về khoảng cách sống gần con của NCT theo nhóm tuổi, tuổi càng cao thì tỷ lệ
NCT sống một mình nhưng gần con càng cao: khoảng 87% NCT nhóm đại lão (từ 80
tuổi trở lên) sống gần con, trong khi tỷ lệ này của nhóm trung lão và sơ lão là gần
76% và 68%. Đặc biệt, khoảng 73% NCT nhóm đại lão có con sống rất gần nhà
(cùng thôn/xóm). Xét theo khu vực sống: có sự khác biệt rõ rệt giữa NCT sống ở
thành thị và nông thôn: khoảng 78% NCT nông thôn sống gần con, trong khi tỷ lệ
này của NCT thành thị là khoảng 61%.
Về việc sắp xếp NCT sống trong hộ gia đình, có 4,43 triệu NCT sống một mình
hoặc sống trong hộ gia đình mà chỉ có NCT sống với NCT khác hoặc NCT sống với
ít nhất một trẻ em dưới 15 tuổi. Trong số này, khoảng 74% NCT sống gần con (trong
đó 57,65% sống cùng thôn/xóm và 16,36% NCT sống cùng xã/phường). Nhưng
4,70% không có con hoặc con đã mất và 2,28% không có người thân hoặc người thân
đã mất. [44].
Về kinh tế, đến năm 2019, tỷ lệ NCT không có khoản tiết kiệm ở các nhóm tuổi
sơ lão, trung lão và cao lão lần lượt là 71,8%, 76,7% và 85.2%. Càng cao tuổi, nguồn
thu nhập chủ yếu của NCT là ở sự hỗ trợ của con cháu, nguồn thu nhập từ tiết kiệm
của NCT chỉ chiếm 1% và chỉ có ¼ NCT có tiền tiết kiệm. Điều này cho thấy bức
tranh kinh tế thiếu khả năng tự chủ của đa phần NCT khi về già và gặp phải các vấn
40
đề về sức khoẻ [48].
- Các vấn đề về sức khoẻ của người cao tuổi
Các nghiên cứu của Tổng cục Thống kê và Quỹ Dân số Liên hợp quốc [44],
Tổng cục Thống kê [43], Bộ Y tế và nhóm đối tác y tế [5] cho thấy, càng cao tuổi, tỷ
lệ tự đánh giá có sức khoẻ rất tốt/ tốt càng giảm mạnh tới mức rất thấp (nhóm đại lão:
15,37%, trung lão: 31,45%, sơ lão: 46,64%). Tương tự, tỷ lệ NCT nữ, NCT thuộc
nhóm dân tộc thiểu số, NCT sống ở nông thôn cũng có tỷ lệ tự đánh giá sức khoẻ ở
mức rất tốt/ tốt thấp hơn so với các nhóm đối sánh. Ngoài ra, NCT sống một mình
bởi tình trạng goá vợ/chồng hoặc có tình trạng hôn nhân khác như độc thân/ ly thân/
ly dị gặp nhiều vấn đề về sức khoẻ thể chất và tinh thần khiến chất lượng cuộc sống
bị suy giảm cũng có tỷ lệ tự đánh giá sức khoẻ thấp hơn so với các nhóm khác [15].
Có 11,70% NCT (tương đương khoảng 1,47 triệu NCT) có ít nhất một khuyết
tật về chức năng. Tỷ lệ khuyết tật có sự khác biệt theo nhóm tuổi, giới tính, dân tộc
và khu vực sống, đáng chú ý nhất là: gần 37% nhóm đại lão khuyết tật với ít nhất một
chức năng trong khi tỷ lệ này ở cả hai nhóm sơ lão và trung lão là 17,24%, tỷ lệ NCT
nữ và dân tộc khác cao hơn so với NCT nam và dân tộc Kinh, tỷ lệ NCT sống ở nông
thôn gặp khuyết tật ít nhất một chức năng cao hơn so với thành thị gần 2% [44].
Có 6,32% NCT (tương đương với 796 ngàn NCT) rất khó khăn hoặc không thể
thực hiện được ít nhất một trong các hoạt động sinh hoạt hàng ngày (gồm ăn; mặc và
cởi quần áo; tắm, rửa; ngồi dậy khi đang nằm; và tự đi đại tiện hoặc tiểu tiện). Có sự
khác biệt rõ rệt theo độ tuổi (càng cao tuổi, tỷ lệ gặp khó khăn càng cao, đặc biệt với
nhóm đại lão với 23,32%), theo giới tính, dân tộc, khu vực sống (phụ nữ, dân tộc
thiểu số, NCT sống ở nông thôn thường có tỷ lệ gặp khó khăn cao hơn so với nhóm
nam giới, dân tộc Kinh và sống ở thành thị). Về tỉnh thành, các tỉnh có quy mô dân
số cao tuổi lớn hoặc có tỷ lệ NCT cần chăm sóc lớn thì số lượng NCT cần chăm sóc
cũng lớn và ngược lại. Bởi vậy, TP Hồ Chí Minh, Hà Nội, Thanh Hoá, Nghệ An và
Thái Bình là 5 tỉnh có số lượng NCT cần chăm sóc hỗ trợ lớn nhất cả nước [44].
Tóm lại, đối với nhóm dân số cao tuổi, một số đặc trưng nổi bật bao gồm: xu
hướng già hoá dân số ngày càng tăng với tốc độ nhanh; số lượng NCT ở nhóm sơ lão
và đại lão gia tăng nhanh chóng, trong đó tỷ lệ NCT nữ cao hơn so với nam giới và ở
độ tuổi càng cao, mức độ nữ hóa càng rõ so với các nhóm tuổi khác. NCT sống chủ
yếu ở nông thôn, tập trung tại 2 vùng Đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ và
Duyên hải miền Trung. Tỷ lệ NCT goá/sống một mình hoặc sống với NCT khác, với
41
trẻ em dưới 15 tuổi chiếm tỷ lệ cao. NCT có tài chính phụ thuộc vào con cháu tăng
lên ở lứa tuổi cao hơn và tỷ lệ NCT có tiết kiệm chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ với số tiền tiết
kiệm thấp. NCT có những khó khăn về thực hiện chức năng sinh hoạt ngày tăng cao
ở lứa tuổi đại lão, trong đó phụ nữ, dân tộc thiểu số, NCT sống ở nông thôn thường
có tỷ lệ gặp khó khăn sinh hoạt cao hơn so với nhóm nam giới, dân tộc Kinh và sống
ở thành thị.
2.1.2.2. Nhu cầu chăm sóc của người cao tuổi
Xu hướng già hoá ở các nhóm lứa tuổi khác nhau của NCT cho thấy nhu cầu
phát triển về mặt số lượng hệ thống các cơ sở chăm sóc NCT và tập trung vào chăm
sóc y tế/sức khoẻ cho nhóm đại lão trong khi các nhóm sơ lão và trung lão cũng có
nhu cầu chăm sóc nhưng chủ yếu tập trung vào xã hội và tinh thần. Việc chăm sóc y
tế cho nhóm đại lão cũng cần quan tâm đến đặc trưng về tỷ lệ nữ, tỷ lệ NCT sống tại
nông thôn và dân tộc thiểu số cao hơn so với các nhóm đối sánh tương ứng. Việc
chăm sóc y tế cho nhóm NCT này đòi hỏi lực lượng chăm sóc chính thức (được đào
tạo chuyên nghiệp) và cung cấp bởi các cơ sở chăm sóc được cấp phép. Vấn đề là
nhóm NCT cần dịch vụ chuyên biệt như chăm sóc y tế, hỗ trợ các hoạt động hàng
ngày, lại sống đa số ở nông thôn, với thu nhập và tiếp cận dịch vụ kém hơn so với
người cao tuổi thành thị, khả năng chi trả thấp và bị phụ thuộc về tài chính.
Thêm vào đó, việc phát triển hệ thống chăm sóc NCT cần có sự cân bằng để
thích ứng với biến đổi về dân số, luồng di cư, dịch chuyển lao động nữ cũng góp
phần gia tăng nhu cầu phát triển hệ thống cơ sở chăm sóc NCT. Trong bối cảnh di
dân đô thị ở Việt Nam, tỷ lệ NCT sống ở thành thị càng ngày càng tăng lên do quá
trình đô thị hoá diễn ra mạnh mẽ, tỷ lệ NCT sống một mình vừa tự chăm sóc/vừa
phải chăm sóc các cháu ở cả thành thị và nông thôn tăng lên. Cùng với bối cảnh dịch
chuyển lao động ở Việt Nam hiện nay, vấn đề về lực lượng lao động nữ vốn chủ lực
tham gia vào việc chăm sóc sức khoẻ cho NCT nay tham gia nhiều hơn vào thị
trường lao động khiến nhiều gia đình không thể thực hiện cả hai chức năng kinh tế và
chăm sóc NCT đồng thời. Cuối cùng, xu hướng nhân khẩu của nhóm dân số cao tuổi
với tuổi thọ trung bình tăng lên và những thay đổi về tỷ lệ sinh thấp và quy mô gia
đình nhỏ dẫn đến sự chăm sóc của người thân dành cho NCT giảm đi theo thời gian
… là những nguyên nhân dẫn đến nhu cầu được CSDH tập trung để đảm bảo lấp đầy
khoảng cách nhu cầu chăm sóc đa dạng của nhóm NCT ngày càng tăng lên [44, 135].
Như vậy, với những đặc trưng của nhóm dân số cao tuổi, để đáp ứng toàn diện
42
nhu cầu của nhóm dân số này cần hệ thống chăm sóc toàn diện bao gồm: mạng lưới y
tế chăm sóc sức khoẻ, phòng bệnh, khám bệnh cho NCT các cấp, mạng lưới bác sĩ
gia đình và DVCS sức khoẻ tại nhà; chăm sóc hỗ trợ khẩn cấp hoặc chăm sóc thay
thế, CSDH cho NCT (bao gồm DVCS ban ngày, dịch vụ hỗ trợ chăm sóc NCT tại gia
đình và cộng đồng, chăm sóc NCT tại cơ sở tập trung) [5, 93]. Trong phạm vi nghiên
cứu của luận án, tác giả tập trung vào nhu cầu về hệ thống CSDH cho NCT mà
không tập trung vào phía cạnh chăm sóc ngắn hạn hoặc cấp tính từ mạng lưới y tế và
mạng lưới bác sĩ gia đình, chăm sóc sức khoẻ tại nhà. Hệ thống CSDH cho NCT cần
phát triển dựa trên các tiêu chí sau:
- Hệ thống chăm sóc cho NCT cần tập trung phát triển cả hệ thống chăm sóc
NCT tại cộng đồng (bao gồm chăm sóc tại gia đình và cộng đồng) và chăm sóc NCT
tập trung tại cơ sở;
- Hệ thống chăm sóc cho NCT cần đa dạng hoá chủ thể cung cấp dịch vụ bao
gồm hai nhóm chính thức (do nhà nước, thị trường/tư nhân, các tổ chức phi chính
phủ/tổ chức tôn giáo/tổ chức từ thiện) và nhóm phi chính thức (bao gồm các thành
viên trong gia đình, người thân, bạn bè, tình nguyện viên tại cộng đồng);
- Hệ thống chăm sóc cho NCT cần đáp ứng nhu cầu xã hội, tinh thần, y tế (sức
khoẻ) dựa theo sự khác biệt giữa các nhóm sơ lão, trung lão, đại lão để giải quyết nhu
cầu thiết yếu trong đời sống của nhóm dân số cao tuổi;
- Hệ thống chăm sóc cho NCT tại cơ sở cần tập trung phát triển đa dạng các loại
dịch vụ cung cấp bao gồm dịch vụ chăm sóc ban ngày, chăm sóc ngắn ngày, dịch vụ
hỗ trợ chăm sóc NCT tại gia đình và cộng đồng…;
- Hệ thống chăm sóc cho NCT cần đáp ứng sự khác biệt liên quan đến nhạy
cảm giới, khu vực thành thị/nông thôn, vùng kinh tế - xã hội để đảm bảo tính sẵn có,
khả năng tiếp cận, khả năng chi trả của NCT với hệ thống chăm sóc.
2.2. Cơ sở chăm sóc Người cao tuổi
2.2.1. Khái niệm cơ sở chăm sóc người cao tuổi
Theo Khoản 1 Điều 20 Luật Người cao tuổi số 39/2009/QH12 ngày
23/11/2009, cơ sở chăm sóc NCT được định nghĩa: “Là nơi chăm sóc, nuôi dưỡng, tư
vấn hoặc hỗ trợ những điều kiện cần thiết khác cho người cao tuổi”.
Mục đích thành lập cơ sở chăm sóc NCT nhằm thực hiện các hoạt động chăm
sóc sức khỏe thể chất, tinh thần của NCT trong thời hạn nhất định. Hoạt động chăm
sóc NCT có thể phát sinh dựa trên hợp đồng DVCS NCT và hoặc đề nghị của NCT
43
đối với các trường hợp là đối tượng BTXH theo quy định của nhà nước. Cần lưu ý
phân biệt khái niệm chăm sóc sức khoẻ của cơ sở chăm sóc NCT. Mục 2, Chương II
của Luật NCT (2009) đề cập đến việc Chăm sóc sức khoẻ NCT bao gồm khám chữa
bệnh và chăm sóc sức khoẻ ban đầu là một trong những chức năng của cơ sở y tế bao
gồm bệnh viện, trạm y tế xã, phường, thị trấn [31]. Điều này có nghĩa, cơ sở chăm
sóc NCT không có thẩm quyền cung cấp DVCS sức khoẻ với những can thiệp y tế
của lực lượng y tế được cấp phép.
Cơ sở chăm sóc NCT bao gồm các tổ chức được thành lập và hoạt động hợp
pháp (trong đó bao gồm các cơ sở chăm sóc xã hội), được sự cho phép của cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền. Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền bao gồm: Sở Kế
KHĐT, Sở LĐTBXH hoặc Phòng LĐTBXH. Đối với các cơ sở chăm sóc xã hội, để
có thể thực hiện việc chăm sóc NCT, cần phải đáp ứng một số điều kiện về mặt cơ sở
vật chất để đáp ứng nhu cầu của NCT theo các yêu cầu về quản lý nhà nước được
quy định trong các NĐ 68/2008/NĐ-CP (đã hết hiệu lực), NĐ 103/2017/NĐ-CP và
các thông tư, quyết định khác được ban hành kèm theo.
Theo khoản 4, điều 20 Luật NCT, cơ sở chăm sóc NCT được hưởng các CS ưu
đãi theo quy định của pháp luật về CS khuyến khích XHH, nên trong nhiều văn bản
pháp luật khác, cơ sở chăm sóc NCT được nhắc đến với các tên gọi có ý nghĩa tương
đồng là Cơ sở thực hiện XHH (theo NĐ 69/2008/NĐ- CP, QĐ số 693/QĐ-TTg) hoặc
được gọi là Cơ sở dưỡng lão (theo Điều 9, Thông tư 16/2014/TT-BCT) và được xếp
vào nhóm cơ sở thuộc lĩnh vực y tế để hưởng mức giá ưu đãi về điện, nước [31].
2.2.2. Phân loại cơ sở chăm sóc người cao tuổi
Theo Khoản 2 Điều 20 Luật NCT số 39/2009/QH12 ngày 23/11/2009, cơ sở
chăm sóc NCT bao gồm: (1) Cơ sở bảo trợ xã hội; (2) Cơ sở tư vấn, DVCS người cao
tuổi; (3) Cơ sở chăm sóc người cao tuổi khác. Cơ sở chăm sóc NCT khác có thể được
hiểu là các cơ sở chăm sóc NCT không thuộc hai nhóm trên, bao gồm các cơ sở như:
cơ sở cung cấp dịch vụ hỗ trợ khẩn cấp, chăm sóc thay thế. Việc phân chia này cho
thấy trong số các cơ sở được phân loại ở trên, nhóm Cơ sở tư vấn, DVCS NCT và cơ
sở chăm sóc NCT khác không thuộc nhóm Cơ sở cung cấp dịch vụ CSDH – chức
năng của cơ sở chăm sóc NCT mà luận án nghiên cứu [31]. Theo NĐ số
103/2017/NĐ- CP, tên gọi Cơ sở BTXH được đề cập trong NĐ 68/2008/NĐ- CP và
Luật NCT 2009 trên đã được thay đổi tên gọi thành Cơ sở TGXH. Như vậy, theo
cách phân chia về cơ sở chăm sóc NCT, nhóm cơ sở BTXH có tên gọi mới trong các
44
văn bản pháp lý là cơ sở TGXH chăm sóc NCT [6, 8].
Trên cơ sở phân loại Cơ sở TGXH theo Điều 2, NĐ số 103/2017/NĐ- CP, cơ sở
TGXH chăm sóc NCT sẽ được phân loại bao gồm Cơ sở TGXH công lập và cơ sở
TGXH ngoài công lập. Trong đó: (1) Cơ sở TGXH công lập do cơ quan nhà nước
thành lập, quản lý, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và bảo đảm kinh phí cho các
nhiệm vụ của cơ sở TGXH; (2) Cơ sở TGXH ngoài công lập do các cá nhân, tổ chức,
doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và bảo đảm kinh
phí cho các nhiệm vụ của cơ sở TGXH.
Theo Điều 2, NĐ 68/2008/NĐ- CP (đã hết hiệu lực) và NĐ 103/2017/NĐ- CP:
Cơ sở TGXH hay tên cũ là cơ sở BTXH đều bao gồm cơ sở công lập và cơ sở ngoài
công lập. NĐ 68 chỉ quy định điều kiện, thủ tục thành lập, tổ chức, hoạt động và giải
thể cơ sở BTXH chăm sóc, nuôi dưỡng từ 10 đối tượng trở lên. Trong khi NĐ 103
quy định về thành lập, tổ chức, hoạt động, giải thể và quản lý các cơ sở TGXH mà
không có hạn định về số lượng đối tượng chăm sóc. Bên cạnh đó, sự thay đổi trong
NĐ 103 là tiền đề cơ bản cho phép các cơ sở công lập có quyền được cung cấp
DVCS NCT có thu phí tự nguyện và các cơ sở ngoài công lập thu hút được đầu tư
của các doanh nghiệp trong và ngoài nước (xem Phụ lục 5).
Mặc dù có sự khác nhau về chủ thể thành lập, nhưng theo quy định của pháp
luật, một cơ sở TGXH dù là công lập hay ngoài công lập, để được thành lập, tổ chức
và hoạt động phải chịu sự quản lý của Nhà nước và phải đảm bảo các yếu tố: có tư
cách pháp nhân, con dấu và tài khoản riêng; có tên gọi bằng tiếng Việt và tiếng nước
ngoài, biểu tượng riêng (nếu có). Tên và biểu tượng của cơ sở TGXH phải đáp ứng
các điều kiện: không trùng lắp hoặc gây nhầm lẫn với tên hoặc biểu tượng của cơ sở
khác đã được đăng ký trước đó; không vi phạm truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo
đức và thuần phong mỹ tục của dân tộc; trụ sở hoạt động của cơ sở TGXH phải đặt
trên lãnh thổ Việt Nam và có địa chỉ cụ thể.
Điểm khác biệt giữa cơ sở TGXH công lập và ngoài công lập là ở đối tượng
chăm sóc. Điều 5, Luật NCT phân các loại hình cơ sở TGXH bao gồm cơ sở BTXH
chăm sóc NCT, chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, chăm sóc NKT, chăm sóc và
phục hồi chức năng cho người tâm thần và rối nhiễu tâm trí, cơ sở BTXH tổng hợp,
trung tâm CTXH và cơ sở TGXH khác theo quy định của pháp luật. Tuy các loại
hình được phân định cụ thể theo nhóm đối tượng trợ giúp, nhưng các cơ sở TGXH
công lập hiện nay chăm sóc tổng hợp cả NCT và trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt
45
và/hoặc NKT. Trong khi cơ sở TGXH ngoài công lập chỉ cung cấp dịch vụ cho riêng
đối tượng NCT. Các cơ sở TGXH chăm sóc NCT công lập và ngoài công lập chịu sự
quản lý trực tiếp của ngành LĐTBXH theo Điều 5, NĐ 103/2017/NĐ-CP. Ngoài ra,
theo Luật đầu tư, các cơ sở ngoài công lập cần phải đăng kí hoạt động dưới sự quản
lý của Sở KHĐT. Nói cách khác, các cơ sở ngoài công lập phải đăng kí theo Sở
KHĐT để được hoạt động và đăng kí với Sở LĐTBXH hoặc Phòng LĐTBXH để
được cấp phép chăm sóc NCT.
Trên thực tế, hiện nay có một số cơ sở chăm sóc NCT chỉ đăng kí hoạt động
theo Sở KHĐT theo Danh mục ngành nghề kinh doanh ban hành kèm theo QĐ
27/2018/QĐ-TTg ngày 06 tháng 7 năm 2018 của Thủ tướng chính phủ, và đăng kí
nhóm ngành 8730: Hoạt động chăm sóc sức khoẻ người có công, người già và NKT
không có khả năng tự chăm sóc. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, để cung cấp dịch vụ
CSDH cho NCT, các cơ sở này cần được cấp phép bởi ngành LĐTBXH. Trong luận
án, để nghiên cứu toàn diện về việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT, tác
giả có nghiên cứu các cơ sở này và gọi tên là: Cơ sở khác.
2.3. Chính sách phát triển cơ sở chăm sóc người cao tuổi
2.3.1. Khái niệm chính sách công
Bàn về khái niệm CS công, cũng có nhiều quan điểm khác nhau, dẫn tới nhiều
các định nghĩa khác nhau. Các tác giả Cochran và cộng sự [75] và Thrush và Hyder
[139] cho rằng “Khái niệm CS công là những hành động của chính phủ và các ý định
quyết định tới các hành động này”. Tác giả Dye [85] cho rằng CS công là “bất cứ
điều gì mà chính phủ chọn để thực hiện hoặc không thực hiện”. Hoặc một định nghĩa
khác cho rằng “CS công là các quyết định chính trị nhằm thực hiện các chương trình
để hướng tới các mục đích xã hội” [76]. Một định nghĩa khác, được cho là khái quát
hơn của tác giả Peters [122, tr. 74] cho rằng “một cách đơn giản, CS công là tổng thể
các hành động của chính phủ, dù là trực tiếp hoặc thông qua các cơ quan tổ chức,
nhằm tác động tới đời sống của người dân”. Nói cách khác, CS là hành động của nhà
nước nhằm lựa chọn hoặc không lựa chọn giải quyết vấn đề mà họ quan tâm nhằm
mục tiêu chính trị và xã hội của chủ thể ban hành.
Tác giả Beverly Schultz và Beverly [129, tr. 175] đề cập đến khái niệm CS
công “là quá trình các thành viên của một khu vực địa lý hoặc đơn vị chính trị đưa ra
lựa chọn giải quyết các lĩnh vực và vấn đề họ quan tâm”. Trong đó, tác giả cũng làm
rõ thêm bằng cách phân tích từng yếu tố của khái niệm bao gồm yếu tố “công”, có
46
nghĩa là sở thích và hành động của một nhóm người, phổ biến nhất là thông qua việc
tiếng nói chung của họ được lắng nghe trong các cơ quan quản lý nhà nước và đặc biệt là
chính phủ. Khái niệm này đề cập đến khía cạnh CS bị chi phối bởi các bên liên quan.
Ngoài ra, tác giả Ingram và Smith [102] và Birkland [67] cho rằng quan điểm
CS vốn được thể hiện bởi nhiều hình thức khác nhau trong thực tế, bao gồm có thể là
luật, hoặc quy định, hoặc tập hợp tất cả các luật và quy định chi phối một lĩnh vực
hoặc vấn đề cụ thể nào đó là một quan điểm không đầy đủ. Vì thế, thuật ngữ CS đối
với tác giả cần được hiểu đầy đủ hơn là: “Các CS được thể hiện thông qua các văn
bản, thông lệ, biểu tượng và diễn ngôn nhằm xác định và cung cấp các giá trị”. Theo
định nghĩa này, CS không chỉ nằm trong luật và quy định; một khi luật hoặc các quy
tắc được đưa ra, các CS sẽ tiếp tục được đưa ra đối với những người thực hiện CS –
tức là những người đưa CS vào thực hiện – đưa ra quyết định xem ai sẽ được hưởng
lợi từ CS và ai sẽ là người gánh vác trách nhiệm thực hiện. Do đó, khi nghiên cứu
CS, cần xem xét phạm vi rộng, không chỉ đơn giản là luật và quy tắc thành văn [67].
Ở Việt Nam, hai tác giả Nguyễn Hữu Hải Lê Văn Hoà [23] định nghĩa CS công
là “một tập hợp các quyết định có liên quan với nhau do nhà
nước ban hành, bao gồm các mục tiêu và giải pháp để giải quyết
một vấn đề công nhằm thúc đẩy xã hội phát triển theo hướng
nhất định”. Trong các văn bản pháp lý ở Việt Nam, Điều 2, NĐ số 36/2016/NĐ-
CP quy định CS là “những định hướng, giải pháp của nhà nước để giải quyết vấn đề
của thực tiễn nhằm đạt được một mục tiêu nhất định” [7].
Tổng hợp các khái niệm trên, trong phạm vi nghiên cứu của luận án, khái niệm
CS được hiểu tương đồng với khái niệm CS công và bao gồm có những đặc điểm
sau: (1) Chủ thể ban hành CS là chính phủ hoặc một thành viên của khu vực địa lý
hoặc đơn vị chính trị có thẩm quyền ban hành; (2) CS công là việc lựa chọn hoặc
không lựa chọn hành động để giải quyết một vấn đề nhất định; (3) CS công được thể
hiện dưới nhiều hình thức khác nhau dưới dạng văn bản pháp luật và khi đưa vào
thực hiện, được thể hiện cả dưới dạng quy tắc bất thành văn do bản thân những người
liên quan đến việc thực hiện CS; (4) CS công bao gồm những quyết định của nhà
nước về việc lựa chọn mục tiêu, giải pháp thực hiện mục tiêu; (5) CS công có tác
động nhất định đến đời sống kinh tế, xã hội của cả quốc gia hoặc một bộ phận dân cư
nhất định.
47
2.3.2. Chính sách phát triển cơ sở chăm sóc người cao tuổi
Dựa vào khái niệm về CS công, việc tổng hợp CS phát triển cơ sở chăm sóc
NCT phải dựa trên các văn bản pháp luật đã được ban hành về lĩnh vực này. Khi tổng
hợp các văn bản pháp luật, có thể phân chia các văn bản CS theo dòng thời gian,
hoặc phân chia dựa trên các loại CS. Nếu lựa chọn tổng hợp CS theo thời gian, có thể
dễ dàng thấy được tiến trình ban hành CS. Nhưng với cách tổng hợp này, những CS
đã hết hiệu lực bị thay thế bởi CS khác sẽ khó được theo dõi, đồng thời, việc có góc
nhìn tổng hợp về các loại CS tương tự nhau trong các văn bản sẽ không được tường
minh. Bởi vậy, trong luận án, tác giả lựa chọn cách phân chia dựa trên các loại CS.
Một đặc trưng khác của CS công là việc thể hiện ý định của chủ thể ban hành
CS mà cụ thể ở đây, CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT thể hiện ý định can thiệp của
nhà nước (bao gồm chính phủ và chính quyền theo đơn vị địa lý hoặc chính trị) trong
việc phát triển cơ sở chăm sóc cho nhóm dân số cao tuổi. Trình bày về ý định của
nhà nước trong việc phát triển cơ sở chăm sóc NCT, Uchimura-Shiroshi và Terada-
Hagiwara [140] và Dewen Wang [84] cho thấy các văn bản CS thể hiện sự can thiệp
của nhà nước dựa trên ba khía cạnh cơ bản bao gồm: CS quản lý nhà nước về hành
chính và chất lượng dịch vụ; CS ưu đãi khuyến khích phát triển và các CS đào tạo và
phát triển thị trường nhân lực cung ứng cho lĩnh vực đó.
Bàn về vai trò quản lý nhà nước đối với các cơ sở TGXH ở Việt Nam, Đinh Thị
Minh Tuyết [13] cho rằng cần bao gồm 7 nội dung: 1) Xây dựng, tổ chức thực hiên
quy hoạch phát triển mạng lưới cơ sở TGXH; 2) Xây dựng, tổ chức thực hiện hệ
thống thể chế quản lý nhà nước với các cơ sở TGXH; 3) Xây dựng và tổ chức thực
hiện hệ thống CS (hỗ trợ, đầu tư, xây dựng cơ sở TGXH công lập… ); 4) Kiện toàn
và tổ chức thực hiện bộ máy quản lý nhà nước đối với các cơ sở TGXH; 5) Xây dựng
và phát triển đội ngũ cán bộ quản lý và chuyên môn đối với cơ sở TGXH; 6) Huy
động, quản lý nguồn lực tài chính, cơ sở vật chất và kỹ thuật đối với các cơ sở
TGXH…; 7) Thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm đối với các cơ sở TGXH. Bảy nội
dung bàn về sự can thiệp của nhà nước đối với sự phát triển của cơ sở chăm sóc NCT
ở Việt Nam trên tương đồng với quan điểm về ba khía cạnh can thiệp của nhà nước
đối với việc phát triển cơ sở chăm sóc NCT mà Uchimura-Shiroshi và Terada-
Hagiwara [140] và Dewen Wang [84] đề cập. Từ những cơ sở nghiên cứu trên, có thể
hiểu, khái niệm CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT trong luận án này được hiểu như sau:
CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT là tổng thể hành động của chính phủ và địa
48
phương nhằm tác động đến sự phát triển các cơ sở chăm sóc NCT bao gồm việc lựa
chọn và xác định các mục tiêu CS, giải pháp CS có liên quan đến ba khía cạnh: quản
lý hành chính và quản lý chất lượng dịch vụ các cơ sở chăm sóc NCT, ưu đãi khuyến
khích sự phát triển của các cơ sở và việc đào tạo phát triển nguồn nhân lực cung ứng
cho thị trường chăm sóc NCT nhằm thúc đẩy các cơ sở chăm sóc NCT phát triển về
số lượng, chất lượng, quy mô, với sự phân bố phù hợp với quy hoạch của nhà nước
và đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Trên cơ sở về sự can thiệp của nhà nước đối với sự phát triển cơ sở chăm sóc
NCT ở Việt Nam, các khía cạnh CS, các nhóm CS được phân chia cụ thể như sau:
- CS quản lý hành chính và quản lý chất lượng dịch vụ: bao gồm các CS quy
hoạch mạng lưới, quy định về thành lập, tổ chức, hoạt động, giải thể và quản lý các
cơ sở trợ giúp, quản lý về định mức nhân viên và quy trình, tiêu chuẩn TGXH tại cơ
sở TGXH, quy định về thẩm quyền và trách nhiệm quản lý của các cơ quan TW và
chính quyền địa phương đối với các cơ sở TGXH, tiêu chuẩn và quản lý chất lượng
về dịch vụ được cung cấp…;
- CS ưu đãi: bao gồm các CS khuyến khích XHH như hỗ trợ đầu tư, ưu đãi tín
dụng, đầu tư xây dựng/ sửa chữa cơ sở vật chất, miễn/ giảm thuế phí, giao/ cho thuê
đất và mặt nước, giảm giá dịch vụ, miễn giảm thuế xuất nhập khẩu trang thiết bị
trong các lĩnh vực XHH;
- CS đào tạo và phát triển nguồn nhân lực: CS lương/phụ cấp, khen thưởng,
đào tạo nhân lực điều dưỡng, công tác xã hội (CTXH), tham vấn tâm lý, bồi dưỡng
thường xuyên, cấp chứng chỉ hành nghề…
2.4. Thực hiện chính sách phát triển cơ sở chăm sóc người cao tuổi
2.4.1. Khái niệm thực hiện chính sách phát triển cơ sở chăm sóc người cao tuổi
Bất kể việc phân chia chu trình CS thành các giai đoạn như thế nào, thực hiện
CS vẫn luôn được coi là một phần không thể thiếu của chu trình CS [134]. Thuật ngữ
“thực hiện” là một khái niệm phổ biến trong diễn ngôn đương đại giữa các học giả về
CS công xuất hiện từ tác phẩm của Pressman và Wildavsky [124] vào đầu những
năm 1970. Pressman và Wildavsky [124] cho rằng việc thực hiện có thể được xem
như một quá trình tương tác giữa việc thiết lập các mục tiêu và các hành động hướng tới
việc đạt được chúng [124]. Tác giả Khan [105] tuyên bố rằng việc thực hiện CS liên
quan đến việc chuyển đổi các mục tiêu của một CS thành các chương trình, hoạt động.
Bên cạnh đó, tác giả Stewart và cộng sự [59] đề cập khái niệm này là quá trình
49
thực hiện văn bản pháp luật, trong đó các bên liên quan tổ chức, thực hiện các thủ tục
hành chính và kỹ thuật khác nhau, cùng phối hợp để đưa các CS có hiệu lực vào thực
tiễn nhằm đạt được các mục tiêu CS. Simon [131] cũng coi thực hiện CS là việc áp
dụng CS của bộ máy hành chính của chính phủ nhằm đạt được các mục tiêu. Cùng
quan điểm, tác giả Birkland [67] cho rằng, khi các nhà hoạch định CS đã thiết kế các
công cụ CS, các bên liên quan khác nhau trong chu trình CS sẽ dịch chuyển mối quan
tâm của họ sang việc thực hiện CS trong thực tế. Điều này có thể được hiểu rằng việc
thực hiện CS sẽ được tổ chức bởi các cơ quan nhà nước nhưng không đơn thuần là
việc tổ chức triển khai các giải pháp CS ở trong các văn bản cụ thể mà còn bao hàm
nhiều nội dung cần thực hiện với sự tham gia và phối hợp giữa nhiều chủ thể có liên
quan để biến mục tiêu CS thành hiện thực.
Bàn về vị trí của giai đoạn thực hiện CS trong chu trình CS, có nhiều quan điểm
cho rằng các CS thành công hoặc không thành công do bản thân nội dung của CS –
liên quan đến bước xây dựng, thiết kế CS. Giải thích điều này, Hupe và Hill [101]
cho rằng việc thực hiện chỉ diễn ra chỉ ở giai đoạn cuối của quy trình CS. Điều này
có nghĩa là việc triển khai đang thiết lập bất kỳ CS dự kiến nào thành hành động. Do
đó, giai đoạn thực hiện chỉ là sự tiếp nối các giai đoạn trước của quá trình xây dựng
chương trình nghị sự và xây dựng CS. Hai tác giả Hupe và Hill [101] cũng lưu ý rằng
ngay sau khi các mục tiêu CS được nêu ra và thống nhất, các ý định hoặc mục tiêu
của CS được đặt lên đầu trước các bước thực hiện để đạt được mục tiêu CS. Vậy nên,
việc thực hiện chỉ được là một hoạt động hành chính chính trị.
Nhưng Hudson và cộng sự [99] cùng nhiều học giả khác ở Việt Nam lại có
quan điểm trái ngược. Trong các hệ thống phức tạp, tìm ra câu trả lời cho câu hỏi làm
thế nào tốt nhất để đảm bảo thiết kế và thực hiện CS hiệu quả không dễ dàng. Bởi
vậy, thay vì để các CS rơi vào tình trạng thất bại toàn bộ hoặc thậm chí một phần, các
chính phủ hiện đang bắt đầu quan tâm đến những cách thức mà quá trình CS – đặc
biệt là giai đoạn thực hiện – có thể được điều chỉnh. Vì thế, xét đến cùng, mặc dù
không bỏ qua bước hình thành CS khi nghiên cứu, đánh giá thực hiện CS, nhưng cần
khẳng định thực hiện CS công là bước có ý nghĩa quyết định tới sự thành bại của một
CS công: giữ CS công tồn tại và phát huy tác dụng trong đời sống xã hội, ngay cả khi
phải thay đổi các biện pháp thực hiện mục tiêu CS, đồng thời thực hiện CS công còn
nhằm duy trì CS công với các bên có liên quan tham gia thực hiện CS, bao gồm các
50
cơ quan nhà nước, các tổ chức cá nhân cả trong nước và nước ngoài [18, 22].
Tại Việt Nam, khái niệm thực hiện CS cũng được coi là giai đoạn “biến ý đồ
CS thành những kết quả thực tế” thông qua hoạt động có tổ chức của các cơ quan
trong bộ máy nhà nước nhằm đạt những mục tiêu đã đề ra một cách hiệu quả [22].
Như vậy, yếu tố cấu thành của hầu hết các định nghĩa được trích dẫn về thuật ngữ
thực hiện CS là một quá trình ban hành và triển khai một loạt các chương trình, hoạt
động trong thực tế nhằm đạt mục tiêu CS của chủ thể ban hành.
Từ các định nghĩa và quan điểm về vị trí của giai đoạn thực hiện trong quy trình
CS của các tác giả trên thế giới và Việt Nam, có thể khái quát khái niệm thực hiện
CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT được sử dụng trong luận án như sau:
Thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT là một quá trình được tổ chức bởi
các cơ quan nhà nước thông qua việc ban hành và triển khai các văn bản, kế hoạch
thực hiện bởi sự tham gia và phối hợp của nhiều chủ thể có liên quan nhằm biến mục
tiêu phát triển các cơ sở chăm sóc NCT đáp ứng mục tiêu quản lý nhà nước và nhu
cầu của xã hội. Việc thực hiện CS không phải là bước cuối cùng của quy trình CS mà
là bước có sự điều chỉnh CS nhằm duy trì và đảm bảo sự thành công của CS trong
thực tiễn.
2.4.2. Chủ thể thực hiện chính sách phát triển cơ sở chăm sóc người cao tuổi
Việc thực hiện thành công một CS phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó bao
gồm việc xác định và phân tích được các chủ thể/các bên liên quan. Khi xác định
được các bên liên quan, nhóm thực hiện CS sẽ hình dung cụ thể từng bên, mối quan
hệ qua lại giữa các bên, mức độ hỗ trợ cho sự thay đổi, mức độ quan trọng đối với
thành công của việc thực hiện để giúp xác định các cá nhân, tổ chức có khả năng tạo
điều kiện hoặc cản trở việc thực hiện CS.
Theo Triệu Văn Cường [45], các chủ thể tham gia thực hiện CS bao gồm 3
nhóm: (1) Chủ thể tổ chức triển khai thực hiện là các cơ quan bộ máy nhà nước ở
TW và/hoặc địa phương; (2) Chủ thể tham gia phối hợp thực hiện gồm các cơ quan
nhà nước từ TW đến địa phương trong đó nòng cốt là Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan
thuộc chính phủ, UBND các cấp và cơ quan chuyên môn của UBND các cấp; các tổ
chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội dân sự từ TW đến cơ sở, các hội, hiệp hội nghề
nghiệp và tổ chức dân sự tự quản khác trong xã hội có sự phối hợp với chủ thể triển
khai; (3) Đối tượng mục tiêu và đối tượng thụ hưởng CS bao gồm cơ quan tổ chức, cá
nhân trong xã hội, cá nhân hưởng lợi trực tiếp và những người không thụ hưởng lợi
51
ích trực tiếp từ CS. Làm rõ khái niệm về chủ thể thực hiện CS, Dương Xuân Ngọc và
Đỗ Đức Minh [14, tr. 65] cho rằng những chủ thể thực hiện rất đông đảo, bao gồm
các tổ chức, nhóm xã hội hoặc cá nhân mà những hành động của họ
khiế n CS trở thành hiện thực, tạo ra những biến đổi trong thực
tế như cơ quan hành chính nhà nư ớ c và công chứ c củ a các cơ
quan đó, các tổ chứ c chính trị xã hộ i, đố i tư ợ ng CS và nhân
dân. Quan điể m này làm rõ cơ quan thự c hiệ n CS là các cơ quan
đư ợ c phân công nhiệ m vụ quả n lý và tổ chứ c triể n khai công
việ c hàng ngày củ a Nhà nư ớ c, bao gồ m các công chứ c có thẩ m
quyề n là chủ thể triể n khai quan trọ ng nhấ t.
Như vậy, có thể thấy, để thực hiện CS công cần sự tham gia của nhiều chủ thể
với những vai trò khác nhau, với số lượng chủ thể tham gia khác nhau phụ thuộc vào
từng loại CS cụ thể, phụ thuộc phạm vi khu vực tác động của CS cấp địa phương và
quốc gia, bối cảnh thực hiện CS. Nhìn chung, các nhóm chủ thể thực hiện CS bao
gồm ba nhóm chính là: (1) Chủ thể tổ chức triển khai thực hiện là cơ quan nhà nước
và nhân sự phụ trách triển khai thực hiện lĩnh vực CS của cơ quan đó; (2) Chủ thể
tham gia phối hợp thực hiện CS là cơ quan được phân công nhiệm vụ phối hợp thực
hiện, trong đó nòng cốt là Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc chính phủ, UBND
các cấp và cơ quan chuyên môn của UBND các cấp; các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội dân sự; (3) Chủ thể tham gia với tư cách là đối tượng thụ hưởng CS.
Đối với CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT, các bên liên quan tham gia vào quá
trình thực hiện CS này sẽ bao gồm:
- Chủ thể tổ chức triển khai thực hiện CS
Bộ LĐTBXH được chính phủ phân công chịu trách nhiệm chủ trì và phối hợp
các bên liên quan về các vấn đề liên quan đến NCT, trong đó có việc xây dựng quy
hoạch mạng lưới các cơ sở chăm sóc NCT để trình cấp có thẩm quyền; phát triển
mạng lưới và xây dựng mô hình điểm cơ sở TGXH; tổ chức thực hiện chính sách về
chăm sóc NCT; đào tạo nâng cao năng lực nhân viên, cán bộ; triển khai hoạt động
truyền thông và khảo sát, đánh giá, điều tra về người cao tuổi, lĩnh vực TGXH; tổ
chức sơ kết, tổng kết thực hiện Đề án/ chương trình; thanh kiểm tra và giải quyết
khiếu nại liên quan đến hoạt động của các cơ sở TGXH. Bộ LĐTBXH cũng ban hành
52
trình tự, thủ tục và hồ sơ tiếp nhận và chế độ CS cho NCT vào các cơ sở BTXH. Ở
cấp quốc gia, Cục BTXH là cơ quan chuyên môn tham mưu cho Bộ LĐTBXH các
hoạt động trên.
Ở cấp địa phương, Sở LĐTBXH và Phòng LĐTBXH chịu trách nhiệm triển
khai thực hiện các CS phát triển các cơ sở TGXH cho NCT. Các công việc cụ thể bao
gồm: phổ biến văn bản CS; xây dựng kế hoạch thực hiện và trình UBND phê duyệt;
hướng dẫn các bên liên quan và chủ trì phối hợp thực hiện CS; trực tiếp hỗ trợ cơ sở
TGXH tại địa phương; theo dõi, kiểm tra, giám sát và đánh giá tổng kết việc thực
hiện CS.
- Chủ thể tham gia phối hợp thực hiện
Các bộ, ngành và UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc TW có trách nhiệm
phối hợp với Bộ/Sở LĐTBXH triển khai thực hiện CS này. Cụ thể:
UBND tỉnh, thành phố trực thuộc TW có trách nhiệm xây dựng kế hoạch tổ
chức thực hiện, bố trí nhân lực, phương tiện, kinh phí thực hiện theo đặc thù của địa
phương trong dự toán ngân sách hàng năm theo quy định của Luật ngân sách và lồng
ghép có hiệu quả với các đề án, dự án hiện có, định kỳ kiểm tra; báo cáo việc thực
hiện. UBND chỉ đạo, tổng kết đánh giá việc phối hợp của các cơ quan chức năng
nhằm tạo điều kiện hoạt động và rà soát, sắp xếp, kiện toàn các cơ sở TGXH trên địa
bàn quản lý.
Ở cấp TW, Bộ Nội vụ có trách nhiệm hướng dẫn việc thành lập, tổ chức lại, giải
thể đơn vị sự nghiệp công lập và hoàn thiện CS tuyển dụng, đãi ngộ và định mức với
cán bộ, nhân viên tại các cơ sở TGXH công lập; Bộ Tài chính có trách nhiệm bố trí,
điều chỉnh định mức, kinh phí hoạt động và quy định mức thu XHH của các cơ sở
TGXH theo quy định của Luật ngân sách nhà nước và các văn bản quy phạm pháp
luật; Các bộ ban ngành khác có liên quan như Bộ Xây dựng, Tài nguyên môi trường,
KHĐT để giải quyết các vấn đề CS cụ thể liên quan đến lĩnh vực quản lý.
Ở cấp địa phương: Sở trực thuộc ngành dọc của các Bộ tham gia phối hợp thực
hiện tại địa phương. Ngoài ra, còn có tổ chức xã hội khác, quan trọng nhất là Hội
người cao tuổi đại diện cho nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp của NCT có vai
trò tuyên truyền, vận động thực hiện CS.
- Chủ thể là đối tượng CS và đối tượng thụ hưởng CS
Các nhà cung cấp DVCS NCT là đối tượng thụ hưởng trực tiếp của CS bởi việc
53
CS có thúc đẩy triển khai được mạng lưới/hệ thống cơ sở chăm sóc NCT hay không
phụ thuộc vào nhu cầu, năng lực, mong đợi của nhóm này. Nhóm này bao gồm
những tổ chức được cấp phép hoạt động trong lĩnh vực chăm sóc NCT bởi ngành
LĐTBXH. Tuy nhiên trong quá trình phân tích, tác giả nhận thấy với nhóm đối tượng
nhà cung cấp DVCS NCT, còn có nhóm những nhà cung cấp dịch vụ nhưng không
đăng kí chăm sóc NCT theo ngành LĐTBXH mà chỉ đăng kí kinh doanh tại Sở
KHĐT; nhóm các tổ chức tư nhân, từ thiện, tôn giáo chăm sóc NCT. Ngoài ra, các tổ
chức/cá nhân trong và ngoài nước có ý định/mong đợi thành lập cơ sở chăm sóc NCT
cũng là nhóm đối tượng thụ hưởng trực tiếp của CS. Các cơ sở này cần thực hiện
theo các quy định của nhà nước và được quyền kiến nghị và báo cáo định kỳ 6 tháng
(trước ngày 15/6), theo năm (trước ngày 15/12) và đột xuất với cơ quan LĐTBXH
cùng cấp về hoạt động của tổ chức.
Đối tượng thụ hưởng gián tiếp của CS, góp phần tạo ra nguồn cầu để thúc đẩy
các chủ cơ sở chăm sóc NCT mở rộng dịch vụ chính là NCT và gia đình/người chăm
sóc của NCT có nhu cầu/khả năng sử dụng dịch vụ tại cơ sở. Nhóm này quyết định
sự mở rộng, phát triển mạng lưới cơ sở chăm sóc. Bởi vậy, nghiên cứu về các chủ thể
có liên quan đến quá trình thực hiện CS chăm sóc NCT không bỏ qua nhóm này. Tuy
nhiên trong phạm vi luận án, việc nghiên cứu nhóm đối tượng thụ hưởng gián tiếp
này được thực hiện thông qua các số liệu thứ cấp từ kết quả nghiên cứu công phu của
Tổng cục thống kê, Quỹ dân số thế giới, các báo cáo của Cục BTXH, Sở LĐTBXH.
Chủ thể cuối cùng có liên quan là các nhà nghiên cứu CS tại các trường Đại
học, các viện nghiên cứu, các tổ chức phi chính phủ, và các chuyên gia độc lập đang
hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu CS liên quan tới NCT, bởi đây là nhóm quan
tâm, có tiếng nói với việc thực hiện và hình thành CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT.
Nghiên cứu về việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT, cần quan tâm
đến tất cả các nhóm chủ thể tổ chức triển khai thực hiện, tham gia phối hợp và đối
tượng thụ hưởng của CS để có góc nhìn đa chiều, khách quan và có tính đối sánh
giữa các quan điểm khác nhau về quá trình thực hiện CS.
2.4.3. Quy trình thực hiện chính sách phát triển cơ sở chăm sóc người cao tuổi
Thực hiện CS là một bước quan trọng trong chu trình CS. Đây là bước được
xem là phức tạp nhất bởi sự tham gia của rất nhiều các chủ thể thực hiện CS khác
nhau (hay còn gọi là các bên liên quan), ở nhiều cấp độ khác nhau, với những nhiệm
54
vụ khác nhau. Bên cạnh đó, sự phức tạp còn được thể hiện bởi sự thay đổi liên tục
trong quá trình thực hiện CS, và sự phụ thuộc vào các bối cảnh mang tính tổ chức và
bối cảnh xã hội ảnh hưởng tới quá trình thực hiện mỗi CS.
Các CS công nói chung, trong đó có các CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT,
được nhiều học giả, nhà nghiên cứu cũng như các nhà hoạch định CS, các nhà quản
lý thực hiện CS trong nước và quốc tế cho rằng quá trình thực hiện có thể được chia
nhỏ thành các bước khác nhau. Tuỳ quan điểm tiếp cận, quá trình thực hiện CS có thể
được chia thành 3, 5, 6 hoặc 7 bước cụ thể.
Với quan điểm quy trình thực hiện CS gồm 3 bước, Triệu Văn Cường [45] sắp
xếp quy trình thực hiện CS gồm: (1) Xây dựng và ban hành văn bản, chương trình,
dự án thực hiện CS công; (2) Tổ chức thực hiện văn bản, chương trình, dự án thực
hiện CS công ; (3) Sơ kết, tổng kết việc thực hiện CS công.
Tác giả Viennet và Pont [144] dựa theo quan điểm về định hướng hành động,
cho rằng có 5 yếu tố (bước) cần được xem xét trong quá trình thực hiện CS, bao gồm:
(1) Phân công nhiệm vụ và cơ chế giải trình; (2) Phân tích mục đích, mục tiêu và
công cụ CS; (3) Xác định nguồn lực và thời gian; (4) Truyền thông và khuyến khích
sự tham gia; (5) Giám sát đánh giá. Đồng quan điểm 5 bước, tác giả Honig [96] cho
rằng để triển khai thực hiện một CS cụ thể cần thực hiện như sau: (1) Xây dựng văn
bản và kế hoạch triển khai thực hiện CS; (2) Phổ biến, tuyên truyền về CS; (3) Huy
động nguồn lực để thực hiện CS; (4) Phân công, phối hợp thực hiện; (5) Kiểm tra,
đánh giá quá trình thực hiện CS.
Tác giả Hồ Việt Hạnh [16] tổng hợp các phương thức để chia quy trình thực
hiện CS thành 3 bước, bao gồm: (1) Xây dựng kế hoạch thực hiện; (2) Triển khai
thực hiện; (3) Sơ kết, tổng kết, đánh giá rút kinh nghiệm thực hiện CS; hoặc chia
thành 5 bước, bao gồm: (1) Xây dựng kế hoạch thực hiện; (2) Tuyên truyền, phổ biến
CS; (3) Phân công, phối hợp thực hiện CS; (4) Theo dõi, kiểm tra, giám sát, đôn đốc
việc thực hiện CS; (5) Sơ kết, tổng kết, đánh giá quá trình thực hiện CS; hoặc cũng
có thể chia thành 7 bước cụ thể hơn, bao gồm: (1) Xây dựng kế hoạch thực hiện; (2)
Tuyên truyền, phổ biến CS; (3) Phân công, phối hợp thực hiện CS; (4) Theo dõi,
kiểm tra, giám sát, đôn đốc việc thực hiện CS; (5) Điều chỉnh CS; (6) Duy trì CS; (7)
Sơ kết, tổng kết, đánh giá quá trình thực hiện CS.
Dù phân chia theo bao nhiêu bước, về cơ bản quy trình vẫn đảm bảo việc thực
55
hiện là một tiến trình liên tục. Trên cơ sở lý luận, luận án này lựa chọn quy trình thực
hiện CS gồm 5 bước cơ bản. Cụ thể, đối với việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm
sóc NCT, quy trình 5 bước được triển khai như sau:
Bước 1: Xây dựng văn bản và kế hoạch triển khai thực hiện CS
Sở LĐTBXH là cơ quan chủ quản chịu trách nhiệm thực hiện CS phát triển cơ
sở chăm sóc NCT tại Hà Nội. Dựa trên văn bản hướng dẫn thực hiện CS của các cơ
quan có thẩm quyền (cấp bộ), nhiệm vụ của cơ quan thực hiện CS là cụ thể hoá các
văn bản này dưới dạng kế hoạch thực hiện CS sau đó trình UBND phê duyệt. Thông
thường, các CS là văn bản mang tính định hướng về mục tiêu và giải pháp giải quyết
vấn đề, nên kế hoạch thực hiện được xem là công cụ quan trọng để đảm bảo các CS
được hiện thực hoá với các hoạt động triển khai cụ thể theo giai đoạn thời gian hoặc
địa bàn cụ thể. Một kế hoạch triển khai thực hiện bao gồm các nội dung cơ bản sau:
các hoạt động dự kiến triển khai; nguồn lực được phân bổ (về con người và tài
chính); các mốc thời gian; các kết quả mong đợi và cuối cùng là cơ chế giám sát thực
hiện [22].
Trong giai đoạn này, những người xây dựng kế hoạch thực hiện cần nghiên cứu
nội dung CS về mục tiêu, nội dung, nhiệm vụ, phạm vi, quy mô, đối tượng và tầm
quan trọng của CS để đưa ra những văn bản, chương trình, dự án cần ban hành và
phê duyệt.
Bước 2: Tuyên truyền, phổ biến thực hiện CS
Bước tiếp theo sau khi có kế hoạch thực hiện là việc tuyên truyền, phổ biến CS
tới các bên liên quan. Cụ thể ở đây, đối với CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT tại Hà
Nội, việc truyền thông CS cần được thực hiện tới các sở ban ngành có liên quan tới
việc thực hiện bao gồm Sở tài nguyên môi trường, Sở KHĐT, Sở tài chính, Sở Quy
hoạch kiến trúc… Đối tượng hưởng lợi CS là nhóm ưu tiên quan trọng tiếp theo trong
việc tuyên truyền các CS này, ở đây là các cơ sở chăm sóc NCT công lập và ngoài
công lập. Mục tiêu của việc tuyên truyền nhằm giúp các chủ thể tham gia thực hiện
CS hiểu về nội dung CS và các vai trò cụ thể của mình trong quá trình phối hợp thực
hiện. Việc tuyên truyền có thể được thực hiện thông qua văn bản (công văn) trong hệ
thống quản lý nhà nước, hoặc thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng
khác. Ngoài ra, nhằm đưa CS được tuyên truyền, phổ biến sâu rộng, có thể thực hiện
triển khai tới người dân bao gồm: những nhà đầu tư tiềm năng hoặc đang có ý định
đầu tư vào lĩnh vực chăm sóc NCT, đối tượng hưởng lợi gián tiếp từ CS này bao gồm
56
NCT và gia đình/ người chăm sóc NCT để hiểu rõ về CS.
Việc phổ biến, tuyên truyền cần thực hiện thường xuyên, liên tục ngay cả khi
CS đang được thực hiện. Các hình thức cần đa dạng như trực tiếp tiếp xúc, trao đổi
với các đối tượng hoặc gián tiếp qua phương tiện truyền thông đại chúng.
Bước 3: Phân công, phối hợp thực hiện CS
Đây là bước hành động cụ thể nhằm đưa các CS vào thực tế, trong đó nhấn
mạnh tới việc phân công nhiệm vụ, phối hợp giữa các chủ thể tham gia thực hiện CS.
Trong bước này, các cơ chế phối hợp thực hiện CS được làm rõ. Bước này được coi
là bước then chốt quyết định toàn bộ quá trình thực hiện CS để các cá nhân có liên
quan hiểu được những nhiệm vụ, vai trò cụ thể được giao phó ở các giai đoạn khác
nhau trong suốt quá trình thực hiện CS. Cơ chế phối hợp thực hiện cũng bao gồm cả
cơ chế phản hồi giữa các bên liên quan nhằm kịp thời có những điều chỉnh, thay đổi
cần thiết để đạt được mục tiêu CS đề ra.
Việc phân công, phối hợp thực hiện có thể bao gồm phân công phối hợp theo
chiều dọc (giữa các sở, phòng theo ngạch quản lý nhà nước các cấp và với các cơ sở
chăm sóc NCT) và theo chiều ngang (giữa các bộ, ngành với nhau).
Bước 4: Theo dõi, kiểm tra, giám sát, đôn đốc việc thực hiện CS
Trong suốt quá trình thực hiện CS, việc theo dõi, kiểm tra, giám sát, đôn đốc
việc thực hiện CS được thực hiện thường xuyên. Một ban kiểm tra, giám sát CS được
thành lập bao gồm các thành viên thuộc cơ quan quản lý cấp Bộ (cơ quan hoạch định
CS) và các thành viên thuộc các sở ban ngành tham gia thực hiện CS. Việc theo dõi,
kiểm tra, giám sát và đôn đốc nhằm đảm bảo kế hoạch thực hiện CS được triển khai
một cách phù hợp, kịp thời cũng như các vấn đề phát sinh trong quá trình triển khai
được phát hiện và xử lý kịp thời từ đó đảm bảo mục tiêu CS được hoàn thành.
Trong việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT, việc thanh kiểm tra
giám sát được thực hiện theo ngành dọc (Bộ, Sở cùng lĩnh vực) và của UBND đối
với việc kiểm tra việc thực hiện của các Sở được phân công thực hiện nhiệm vụ. Việc
thanh kiểm tra thực hiện CS có thể được thực hiện vào đầu kỳ, giữa kỳ, cuối kỳ tuỳ
mục đích từng hoạt động kiểm tra. Các hình thức thanh kiểm tra có thể là gián tiếp
qua báo cáo kết quả thực hiện của các bộ, ngành chủ quan, của các Sở hoặc trực tiếp
thông qua hoạt động của các đoàn kiểm tra thực hiện CS.
Bước 5: Sơ kết, tổng kết, đánh giá quá trình thực hiện CS
Sơ kết, tổng kết, đánh giá quá trình thực hiện CS là bước cuối cùng trong tiến
57
trình thực hiện CS. Mục tiêu của bước này nhằm rút ra các bài học kinh nghiệm cần
thiết trong suốt quá trình triển khai từ đó có những thay đổi liên quan tới toàn bộ các
bước kể trên trong quá trình thực hiện CS. Đồng thời, bước này cũng hướng tới việc
tham mưu cho cơ quan hoạch định CS những thay đổi cần thiết về nội dung CS. Việc
sơ kết, tổng kết và đánh giá quá trình thực hiện CS được thực hiện trên nguyên tắc
tham gia và minh bạch. Điều này có nghĩa là các bên liên quan đều được tham gia
vào quá trình đánh giá, đồng thời kết quả việc đánh giá CS được xem xét một cách
trung thực và được chia sẻ chung cho các chủ thể tham gia thực hiện.
2.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách phát triển cơ sở chăm
sóc người cao tuổi
Nhiều quan điểm khác nhau về các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện CS
phát triển cơ sở chăm sóc NCT. Luận án nghiên cứu theo hướng tiếp cận tìm ra các
yếu tố là rào cản và thúc đẩy để đề xuất cách thức cải thiện quy trình thực hiện CS
dựa trên các yếu tố, chứ không đơn thuần chỉ đưa ra đánh giá yếu tố nào là sự thất bại
trong quá trình thực hiện và đưa giải pháp dựa trên quy trình [74]. Tác giả sử dụng
7C làm công cụ thu thập dữ liệu, cũng như để phân tích và xác định các yếu tố ảnh
hưởng từ quan điểm của các bên liên quan trong quy trình thực hiện CS. Theo mô
hình 7C, các yếu tố cần xem xét bao gồm: 1- Nội dung; 2- Bối cảnh; 3- Cam kết; 4-
Năng lực; 5- Liên minh; 6- Truyền thông; 7- Phối hợp. Áp dụng mô hình 7C, các yếu
tố ảnh hưởng đến việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT được cụ thể hoá
như sau:
Nội dung (C1 - Content)
Theo tác giả Birkland [66, tr. 50] các thành tố chính của một văn bản CS bao
gồm: mục đích; mô hình nhân quả; công cụ CS; đối tượng tác động, thực hiện CS.
Quan điểm này phù hợp với quan điểm của chính phủ Việt Nam về việc xác định nội
dung CS (Điều 5, NĐ số 34/2016/NĐ-CP Quy định chi tiết một số điều và biện pháp
thi hành luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật; và Luật ban hành văn bản quy
phạm pháp luật) [32], bao gồm các yếu tố sau: (1) Xác định các vấn đề cần giải
quyết, nguyên nhân của từng vấn đề; (2) Xác định Mục tiêu tổng thể, Mục tiêu cụ thể
cần đạt được khi giải quyết các vấn đề; (3) Xác định định hướng, giải pháp để giải
quyết từng vấn đề; (4) Xác định đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của CS, nhóm
đối tượng chịu trách nhiệm thực hiện CS; (5) Xác định thẩm quyền ban hành CS để
58
giải quyết vấn đề.
Bởi vậy, CS có nội dung tốt cần đảm bảo các yếu tố sau: Hệ thống văn bản CS
liên quan đến việc phát triển cơ sở chăm sóc NCT được xây dựng đầy đủ, cấu trúc
theo tiêu chuẩn Luật ban hành văn bản; Mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể của CS cụ
thể và rõ ràng; Giải pháp phù hợp với mục tiêu và có tính khả thi, phù hợp với thực tế
và đáp ứng nhu cầu của đối tượng CS là cơ sở chăm sóc NCT và đối tượng thụ
hưởng gián tiếp (NCT, gia đình/người chăm sóc NCT); Công cụ thực hiện được nhà
nước sử dụng có tác dụng hỗ trợ và khuyến khích các chủ thể tham gia phát triển cơ
sở chăm sóc NCT; Thẩm quyền của các bên liên quan được xác định cụ thể, rõ ràng.
Bối cảnh (C2 - Context)
Việc thực hiện CS công không diễn ra trong một “môi trường chân không” mà
trong bối cảnh chính trị, xã hội, kinh tế và luật pháp cụ thể. Bối cảnh trong thực hiện
CS đặt ra các giới hạn về những gì phải làm hoặc không được làm trong các giai
đoạn thực hiện. Tác giả Burger [72] đã đưa ra một nhận xét quan trọng khi nói rằng
“bối cảnh” như một biến số đóng một vai trò nổi bật trong việc đóng góp vào sự
thành công của quá trình thực hiện CS, vì nó phân loại các bên đóng vai trò thể chế
chính, các cam kết nội bộ và giữa các cơ quan thực hiện quan trọng.
Nói cách khác, yếu tố đầu tiên cần quan tâm khi phân tích bối cảnh của các CS
phát triển cơ sở chăm sóc NCT là bối cảnh chính trị khi CS được ban hành. Bối cảnh
chính trị quyết định đến mục tiêu và nội dung cụ thể CS cũng như cách thức mà CS
được triển khai thực hiện. Bối cảnh về mặt chính trị hay về mặt quản lý nhà nước quy
định các cấp độ tham gia và kiểm soát quá trình thực hiện CS của các cá nhân và tổ
chức. Mỗi một hệ thống quản lý nhà nước sẽ quy định các cách triển khai CS khác
nhau và sự ảnh hưởng qua lại của các bên tham gia [114]. Ở Việt Nam hiện nay, mô
hình quản lý thực hiện CS được thực hiện theo cơ chế quản lý nhà nước (chính phủ
đứng đầu và giao phó các cơ quan thực hiện từ cấp bộ tới địa phương). Bởi vậy, cần
đánh giá các CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT có phù hợp với các ảnh hưởng mang
tính quyền lực chính trị trong quá trình triển khai CS không, CS có phù hợp với quan
điểm định hướng phát triển của Đảng, và chiến lược quốc gia về NCT không.
Ngoài ra, bối cảnh về mặt kinh tế ảnh hưởng trực tiếp tới các giải pháp cụ thể
mà CS đưa ra. Chẳng hạn các quy định liên quan tới sự hỗ trợ về mặt tài chính, đất
đai và cơ sở vật chất cho các cơ sở chăm sóc NCT rất dễ bị ảnh hưởng bởi các yếu tố
thị trường, những thay đổi trong nền kinh tế (lạm phát) hay xu hướng phát triển các
59
DVCS NCT. Hoặc vấn đề về tài chính kinh tế, bảo hiểm và CS trợ cấp cho NCT và
gia đình/người chăm sóc NCT cũng là yếu tố ảnh hưởng đến sự thành công của CS
để đáp ứng nguồn cầu phát triển các cơ sở chăm sóc NCT.
Yếu tố xã hội với sự thay đổi về quy mô dân số, tốc độ già hoá, đặc trưng về
mô hình gia đình hiện đại, vấn đề di dân đô thị, sự thay đổi về hưởng thụ dịch vụ
theo hướng cao cấp, toàn diện… là những yếu tố bối cảnh tác động đến nhu cầu sử
dụng DVCS, từ đó tác động trực tiếp đến CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT.
Yếu tố văn hoá cũng ảnh hưởng trực tiếp tới việc thực hiện CS khi CS phản ánh
và đáp ứng phù hợp với các nhu cầu hiện tại. Chẳng hạn đối với văn hoá Việt Nam
thì NCT luôn được chú trọng và quan tâm chăm sóc, tuy nhiên việc chăm sóc NCT
lại thường được chịu trách nhiệm bởi các thành viên gia đình và bản chất NCT cũng
có những nhu cầu được chăm sóc tại nhà hơn là được chăm sóc bởi các cơ sở dịch
vụ. Yếu tố văn hoá ở đây cần hiểu về nhận thức của cộng đồng, của NCT và gia đình/
người chăm sóc NCT đến việc thúc đẩy các cơ sở chăm sóc.
Năng lực (C3 - Capacity)
Năng lực trong việc thực hiện CS công được tác giả Cloete [74, tr. 173] định
nghĩa là “khả năng cung cấp các dịch vụ công nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống
của công dân, mà chính phủ đã đặt ra để cung cấp theo thời gian”. Cụ thể, tác giả
cho rằng “khả năng” bao gồm 2 yếu tố cấu thành là nguồn lực để thực hiện các CS và
năng lực (kiến thức và kỹ năng) của hệ thống hoặc người thực hiện CS. Nguồn lực
được tác giả Cloete chia thành 2 nhóm là nguồn lực hữu hình và nguồn lực vô hình.
Nguồn lực hữu hình bao gồm các nguồn lực như kinh phí, vốn đầu tư, nguồn nhân
lực, công nghệ và hậu cần. Các nguồn lực vô hình bao gồm trình độ, động lực, sự nỗ
lực của hệ thống thực hiện CS. Đối với CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT, nguồn lực
ở đây bao gồm sự phân bổ tài chính, nhân lực của nhà nước; năng lực bao gồm số
lượng, chất lượng (trình độ) và việc đào tạo, phát triển đội ngũ thực hiện CS.
Cam kết (C4 - Commitment)
Cam kết là một trong những biến cốt lõi và quan trọng ở tất cả các cấp của quá
trình thực hiện. Tác giả Burger [72] lập luận rằng có mối tương quan giữa cam kết và
sáu biến số khác, theo đó cam kết quan trọng đến mức nó ảnh hưởng đến tất cả các
biến 7C khác. Các chính phủ có thể có các CS hợp lý để hướng dẫn sự phát triển ở
quốc gia của họ, nhưng nếu các cá nhân được đặt lên đầu để thực hiện các CS này
không sẵn lòng hoặc không quan tâm thực hiện, rất có thể những CS này sẽ thất bại
60
hoặc có ít ảnh hưởng đến mục tiêu đã định của CS. Như vậy, đánh giá yếu tố về sự
cam kết, cần đánh giá sự cam kết của lãnh đạo chính quyền (UBND, chính phủ), cơ
quan ban hành CS, cơ quan thực hiện CS (ngành LĐTBXH) và các tổ chức/cá nhân
có liên quan (Bộ, ngành và các tổ chức khác có liên quan). Trong đó, sự cam kết của
người đứng đầu tổ chức là quan trọng nhất, so với sự cam kết của người được phân
công thực hiện. Sự cam kết ủng hộ vừa được thể hiện bằng lời nói, văn bản chính
thức (phân công nhân sự, phân bổ tài chính, kế hoạch làm việc và đánh giá kết quả
thực hiện nhiệm vụ định kỳ) và các hành động thiết thực giải quyết vấn đề phát sinh
(thời gian giải quyết, văn bản chỉ đạo phối hợp) [61, 133, 142].
Liên minh (C5 - Coalitions)
Liên minh có thể được các bên liên quan tới quá trình thực hiện CS, bao gồm
các đối tượng tham gia bên trong (hệ thống thực hiện CS các cấp, đối tượng hưởng
lợi), và các đối tác bên ngoài hệ thống này bao gồm doanh nghiệp, các tổ chức ngoài
nhà nước, các nhóm lợi ích có ảnh hưởng tới quá trình thực hiện CS. Nhà nước, hay
cơ quan thực hiện CS cần phải xác định rõ các nhóm đối tượng có liên quan, tạo ra sự
liên minh chặt chẽ với các nhóm này để thực hiện thành công CS. Khi họ tham gia,
nhà nước cũng cần đảm bảo rằng các bên liên quan hiểu rõ về mục tiêu CS, đặc biệt
nhóm bị ảnh hưởng trực tiếp bởi CS. Sự thành công của một CS thường được quyết
định bởi cách nhìn nhận chung và cách hiểu chung của cơ quan thực hiện (bên trong)
và các nhóm lợi ích có liên quan [70, 107].
Vai trò của liên minh bên trong và bên ngoài rất quan trọng để đảm bảo thực
hiện CS hiệu quả. Việc thực hiện không chỉ bị ảnh hưởng bởi các chủ thể trong nhà
nước, các nhóm lợi ích như doanh nghiệp, các nhà lãnh đạo quan điểm, những người
tiếp nhận thụ động cũng tác động đến việc thực hiện CS [108]. Chính phủ nên thành
lập một liên minh với các nhà lãnh đạo, các nhóm lợi ích bao gồm cả các tác nhân
bên ngoài để thực hiện thành công CS bởi các tác nhân bên ngoài có thể ảnh hưởng
đến sự thay đổi quyền lực và ảnh hưởng đến sự thay đổi bên trong quá trình thực hiện
CS [69].
Việc đánh giá ảnh hưởng của các liên minh trong CS phát triển cơ sở chăm sóc
NCT cần quan tâm đến những khía cạnh sau: sự tham gia của các cơ sở chăm sóc
NCT trong các hoạt động xây dựng, thực hiện CS; hội/nhóm phi chính thức của các
chủ/quản lý cơ sở chăm sóc NCT; mối liên hệ tương tác giữa các chủ cơ sở chăm sóc
và các nhà đầu tư trong tương lai; Nhóm lợi ích hoặc bị mâu thuẫn lợi ích khi triển
61
khai CS; nhóm độc lập tham gia giám sát hoặc đánh giá hiệu quả thực hiện [24].
Sự phối hợp (C6 - Coordination)
Tác giả Burger [72] đã khẳng định rằng sự “phối hợp” chặt chẽ đóng một vai
trò quan trọng trong quá trình thực hiện CS thành công. Việc phối hợp được định
nghĩa là “sự kết hợp hài hòa giữa các tác nhân và chức năng nhằm tạo ra một kết
quả” [116, tr. 112]. Như vậy, phối hợp liên quan đến việc đo lường sự hợp tác nội bộ
và giữa các tổ chức và các nhóm trong quá trình thực hiện CS. Tác giả Cloete [74, tr.
212] giải thích thêm rằng “phối hợp nội bộ là mối quan hệ làm việc giữa các bộ phận
và cơ quan trong cùng một tổ chức, trong khi phối hợp giữa các tổ chức là mối quan
hệ giữa các tổ chức khác nhau, chẳng hạn như phối hợp giữa chính phủ, các tổ chức
phi chính phủ và các nhà tài trợ”. Điều này có nghĩa là sự phối hợp sẽ cho phép tất
cả các bên liên quan hiểu được toàn bộ quá trình hoạch định và thực hiện CS.
Đối với CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT, các bên liên quan chính có thể bao
gồm: chính phủ (hoạch định CS); các cơ quan bộ ngành (chịu trách nhiệm ban hành
các văn bản hướng dẫn thực hiện CS hoặc tham gia trực tiếp vào quá trình triển khai
CS); các cơ sở chăm sóc NCT (chủ thể hưởng lợi trực tiếp); NCT và gia đình (đối
tượng hưởng lợi gián tiếp); các ban ngành đoàn thể tại địa phương (tham gia thực
hiện CS); các cơ quan truyền thông (đơn vị trung gian); các doanh nghiệp, tổ chức từ
thiện (đơn vị phối hợp thực hiện). Để quá trình triển khai CS đạt hiệu quả, cần có sự
phối hợp chặt chẽ giữa các bên liên quan trong toàn bộ quy trình thực hiện CS. Sự
phối hợp có thể được thực hiện thông qua việc các cơ quan quản lý thực hiện việc đối
thoại CS với các bên liên quan khác nhằm thực hiện việc truyền thông về CS cũng
như tiếp nhận các ý kiến đóng góp trong quá trình triển khai. Sự phối hợp cũng có thể
được thực hiện thông qua các cơ chế giám sát, đánh giá hiệu quả việc thực hiện CS
có sự tham gia đầy đủ của các bên liên quan. Bên cạnh đó, việc phối hợp cũng có thể
thông qua việc đào tạo nâng cao năng lực thực hiện CS cho các bên liên quan nhằm
đảm bảo chất lượng đội ngũ các thành viên tham gia thực hiện CS.
Truyền thông (C7 - Communication)
Truyền thông là một yếu tố quan trọng trong tất cả các giai đoạn thực hiện CS
công. Theo tác giả Okumus [121], trước khi thực hiện CS, thông tin liên lạc là một
biến quan trọng trong việc đảm bảo rằng các mục tiêu của CS được thực hiện như dự
kiến. Truyền thông đề cập đến cách thức mà các tổ chức truyền đạt một cách chính
thức và không chính thức về các hành động và hướng truyền thông CS trong nội bộ
62
và bên ngoài tổ chức. “Giao tiếp có thể là từ trên xuống, từ dưới lên, chính thức,
không chính thức, nội bộ, bên ngoài, một lần hoặc liên tục. Để một CS có hiệu quả,
các thông điệp rõ ràng và phải đến được với tất cả các quan chức thực hiện” [121.
871-82].
Để đánh giá về yếu tố truyền thông, cần nắm được các kênh và hiệu quả truyền
thông nội bộ về CS trong các Bộ/ngành, truyền thông liên ngành, truyền thông tới đối
tượng hưởng lợi gồm chủ/quản lý các cơ sở hay những người đầu tư phát triển cơ sở
chăm sóc NCT hoặc truyền thông giữa các đối tượng hưởng lợi [74, 121]. Cần lưu ý,
hoạt động truyền thông sẽ được thực hiện qua kênh chính thức, từ trên xuống dưới
thông qua việc chuyển gửi các văn bản CS tới các đối tượng khác nhau trong hệ
thống hoặc ngoài hệ thống. Bên cạnh đó, tổ chức các chương trình hội thảo, đào tạo,
hướng dẫn về CS là một hình thức truyền thông phổ biến cho các cá nhân, tổ chức
chịu trách nhiệm cũng như các bên liên quan trong và ngoài hệ thống thực hiện CS.
Các kênh truyền thông phi chính thức, bao gồm mạng xã hội, email, điện thoại cũng
được đánh giá là phương tiện truyền thông hiệu quả và thu hút được sự quan tâm của
cộng đồng theo OECD [119].
2.6. Quan điểm định hướng và chính sách phát triển cơ sở chăm sóc người cao
tuổi ở Việt Nam
2.6.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về chính sách phát triển cơ sở chăm sóc
người cao tuổi ở Việt Nam
Lĩnh vực công tác dân số trong tình hình mới được Đảng quan tâm chỉ đạo sát
sao. Trong các văn kiện Đảng, Ban chấp hành Trung ương [1] thể hiện quan điểm
của Đảng về đường lối, chủ trương, CS, kế hoạch của Đảng về công tác dân số nói
chung và những vấn đề về NCT, già hoá dân số và phát triển mạng lưới cơ sở chăm
sóc NCT, đổi mới hoạt động của đơn vị sự nghiệp công lập trong Nghị quyết số 21-
NQ/TW, Nghị quyết số 19-NQ/TW ban hành ngày 25/10/2017 tại Hội nghị lần thứ
sáu Ban chấp hành TW Đảng khoá XII. Nghị quyết nêu rõ mục tiêu “thích ứng với
già hoá dân số”. Cụ thể đến năm 2030, 100% NCT có thẻ bảo hiểm y tế, được quản
lý sức khoẻ, được khám, chữa bệnh, được chăm sóc tại gia đình, cộng đồng, cơ sở
chăm sóc tập trung. Để đạt mục tiêu, Ban chấp hành TW Đảng đưa ra nhiều nhóm
nhiệm vụ và giải pháp, trong đó nhóm Phát triển mạng lưới và nâng cao chất lượng
dịch vụ về dân số được xếp thứ 4/7 nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu. Cụ thể, quan
điểm của Đảng về vấn đề này được thể hiện như sau: 1) Sắp xếp lại hệ thống các cơ
63
sở BTXH công lập theo hướng đẩy mạnh XHH; 2) Khuyến khích phát triển các cơ sở
chăm sóc NCT; cơ sở cung cấp các loại hình dịch vụ đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, văn
hoá, giải trí của NCT; 3) Ưu tiên đầu tư nguồn lực nhà nước, đồng thời huy động
nguồn lực xã hội phát triển các cơ sở cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản bảo đảm các
nhóm dân số đặc thù như NCT.
Trong các văn bản Hiến pháp, CS liên quan tới việc chăm sóc NCT đã được thể
hiện từ bản Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Theo dòng lịch sử lập hiến của nước ta, kể từ khi thành lập nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa đến nay, nước ta đã có 05 bản Hiến pháp, đó là Hiến pháp năm 1946, 1959,
1980, 1992 (sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2001) và 2013. Trong đó, 04 bản Hiến
pháp năm 1946, 1959, 1992 và 2013 có những đề cập và thay đổi về quan điểm chăm
sóc NCT. Cụ thể quy định về quyền lợi của NCT trong Điều 14 Hiến pháp năm 1946,
Điều 32 Hiến pháp 1959, Điều 64 và 87 Hiến pháp 1992 cho thấy việc chăm sóc
NCT là trách nhiệm của gia đình và xã hội thông qua việc giúp đỡ vật chất khi già
yếu, bệnh tật và NCT được giúp đỡ là NCT già cả, tàn tật, không nơi nương tựa [27,
29, 30]. Sau đó, khoản 2, Điều 59 Hiến pháp 2013 quy định: “Nhà nước tạo bình
đẳng về cơ hội để công dân thụ hưởng phúc lợi xã hội, phát triển hệ thống ASXH, có
CS trợ giúp người cao tuổi, NKT, người nghèo và người có hoàn cảnh khó khăn
khác” [28]. Sự thay đổi của Hiến pháp qua các thời kỳ cho thấy sự thay đổi về đối
tượng NCT được nhà nước giúp đỡ và trách nhiệm giúp đỡ, chăm sóc NCT và việc
quy định rõ vai trò của Nhà nước là tạo ra bình đẳng trong thụ hưởng phúc lợi xã hội,
phát triển hệ thống ASXH và có CS trợ giúp NCT.
Trong một loạt những định hướng tác động trực tiếp tới đối tượng NCT, để xây
dựng một hệ thống ASXH thích ứng với già hoá dân số phù hợp với bối cảnh Việt
Nam và quốc tế, chính phủ đã có quan điểm khuyến khích các cơ sở chăm sóc NCT
từ QĐ số 1781/QĐ-TTg và QĐ 2156/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình quốc gia về
NCT giai đoạn 2012-2020 và 2021-2030. Tuy nhiên, sự khác biệt lớn trong hai
Chương trình quốc gia về NCT có quan điểm phát triển các cơ sở chăm sóc NCT là:
(1) Tăng mức độ ưu tiên về nhiệm vụ cần thực hiện từ vị trí số 7 (trong tổng số 9
nhiệm vụ) lên vị trí số 2 (trên tổng số 12 nhiệm vụ); (2) Sắp xếp riêng biệt nhiệm vụ
phát triển mạng lưới cơ sở TGXH mà không lồng ghép với phát triển nhà ở cho NCT
như QĐ 1781; (3) Phê duyệt việc hỗ trợ đầu tư tài chính cơ sở TGXH với mục tiêu
cụ thể về số lượng được hỗ trợ xây dựng và thí điểm mô hình (xem Phụ lục 6).
64
Điều này cho thấy sự khác biệt lớn về mặt quan điểm của chính phủ khi xây
dựng Chương trình quốc gia về NCT với các CS khuyến khích sự phát triển của các
cơ sở chăm sóc NCT công lập và ngoài công lập – hay nói cách khác là xây dựng hệ
thống ASXH toàn diện, được cung cấp bởi cả nhà nước và dựa vào những nguồn lực
từ tư nhân, cộng đồng. Có thể thấy rõ quá trình thay đổi quan điểm tiếp cận của nhà
nước về việc phát triển các cơ sở chăm sóc NCT trong các văn bản pháp luật được ban
hành và sửa đổi/điều chỉnh/thay thế từ năm 2008 đến nay. Những văn bản này ngày càng
được quan tâm hoàn thiện để thể hiện rõ hơn ý chí của nhà nước trong việc xác định
trách nhiệm của nhiều bên tham gia (gia đình, cộng đồng, thị trường, nhà nước) và đa
dạng hoá, tạo điều kiện hỗ trợ xây dựng hệ thống ASXH đa tầng đáp ứng nhu cầu khác
biệt của nhóm dân số NCT trong một xã hội đang già hoá nhanh chóng.
Tóm lại, Đảng và Nhà nước Việt Nam quan tâm đến công tác phát triển cơ sở
chăm sóc NCT và đã có nhiều văn bản quy định về vấn đề này với nhiều những mục
tiêu quan trọng nhằm nâng cao sức khoẻ và an sinh cho nhóm NCT. Để đạt được các
mục tiêu này, Đảng đưa ra nhiều nhóm nhiệm vụ và giải pháp, trong đó nhóm phát
triển mạng lưới và nâng cao chất lượng dịch vụ về dân số được xếp thứ 4/7. Các định
hướng của Đảng và Nhà nước gồm sắp xếp lại hệ thống các cơ sở BTXH công lập,
khuyến khích phát triển các cơ sở chăm sóc NCT và ưu tiên đầu tư nguồn lực nhà
nước, đồng thời huy động nguồn lực xã hội phát triển các cơ sở cung cấp các dịch vụ
xã hội cơ bản bảo đảm các nhóm dân số đặc thù như NCT.
2.6.2. Hệ thống chính sách phát triển cơ sở chăm sóc người cao tuổi ở Việt Nam
Hệ thống các CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT ở Việt Nam được xây dựng
trên quan điểm định hướng của Đảng và thể hiện trong nhiều văn bản khác nhau do
các cơ quan nhà nước xây dựng. CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT không phải là
một nội dung được trình bày riêng trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật, bởi vậy,
hệ thống các văn bản liên quan đến CS mà luận án đề cập có số lượng văn bản khá
hạn chế so với các CS khác. Ưu điểm của các văn bản là quan điểm, mục tiêu, giải
pháp được xây dựng ở mọi cấp từ Hiến pháp, Luật và các văn bản dưới Luật do nhiều
cơ quan xây dựng. Cụ thể, 05 bản Hiến pháp (1946, 1959, 1980, 1992 (sửa đổi bổ
sung 2001), 2013) đã thể hiện rõ quan điểm của nhà nước về việc phát triển các cơ sở
chăm sóc NCT.
Về các văn bản Luật, Bộ LĐTBXH có trách nhiệm xây dựng Luật NCT và các
văn bản hướng dẫn thi hành Luật; Bộ KHĐT chủ trì việc xây dựng Luật Quy hoạch
65
2017 số 21/2017/QHH14 làm cơ sở pháp lý quy hoạch mạng lưới cơ sở chăm sóc
NCT, Luật đầu tư số 61/2020/QH14 quy định về CS đầu tư và khuyến khích đầu tư
của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đến lĩnh vực chăm sóc NCT; Bộ Tài
chính có trách nhiệm xây dựng Luật ngân sách nhà nước số 83/2015/QH13 bố trí
kinh phí hoạt động cơ sở TGXH công lập; Bộ Nội vụ có trách nhiệm hướng dẫn việc
thành lập, tổ chức lại, giải thể đơn vị sự nghiệp công lập và hoàn thiện CS tuyển
dụng, đãi ngộ và định mức với cán bộ, nhân viên tại các cơ sở xã hội theo Luật; Các
bộ ban ngành khác có liên quan như Bộ Xây dựng, Tài nguyên môi trường, KHĐT để
giải quyết các vấn đề CS cụ thể liên quan đến lĩnh vực quản lý.
Về các văn bản dưới luật, trước năm 2015, chính phủ không có văn bản pháp
luật quy định về trực tiếp về quy hoạch mạng lưới phát triển cơ sở TGXH chăm sóc
NCT mà chỉ có các văn bản khuyến khích XHH ưu đãi giáo dục, y tế và đào tạo,
quản lý nguồn nhân lực chung cho cơ sở TGXH. Sau đó, trong một loạt những định
hướng tác động trực tiếp tới đối tượng NCT và gia đình NCT, nhằm xây dựng một hệ
thống ASXH thích ứng với già hoá dân số, phù hợp với bối cảnh Việt Nam và quốc
tế, thực hiện chỉ đạo của Đảng, từ năm 2015, nhà nước đã ban hành những văn bản
pháp lý thể hiện quan điểm, mục tiêu và giải pháp về việc phát triển cơ sở TGXH,
trong đó có cơ sở TGXH chăm sóc NCT ở Việt Nam.
Cho đến nay, có hai văn bản thể hiện trực tiếp ý chí của chính phủ đối với các
cơ sở TGXH cho NCT bao gồm: QĐ số 524/QĐ-TTg ngày 20 tháng 4 năm 2015 của
Thủ tướng chính phủ phê duyệt Đề án củng cố, phát triển mạng lưới các cơ sở TGXH
giai đoạn 2016-2025; QĐ số 1520/QĐ-LĐTBXH ngày 20 tháng 10 năm 2015 của Bộ
trưởng Bộ LĐTBXH về phê duyệt quy hoạch mạng lưới các cơ sở TGXH giai đoạn
2016-2025. Gần đây nhất, QĐ số 542/QĐ-TTg do Thủ tướng chính phủ ban hành
ngày 20/4/2020 đã phê duyệt nhiệm vụ lập quy hoạch mạng lưới cơ sở TGXH thời kỳ
2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Tuy nhiên, việc lập quy hoạch mạng lưới đến
nay đã được xây dựng nhưng chưa được phê duyệt chính thức. Các văn bản trên thể
hiện rõ quan điểm, mục tiêu phát triển mạng lưới các cơ sở TGXH như sau: cần phải
phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, nâng cao chất lượng
dịch vụ trợ giúp xã hội tiếp cận các nước tiên tiến trong khu vực, đáp ứng nhu cầu trợ
giúp của người dân, hướng tới mục tiêu phát triển xã hội công bằng và hiệu quả. Các
giải pháp được đề cập cần thực hiện bao gồm việc hoàn thiện văn bản pháp luật, quy
hoạch mạng lưới các cơ sở TGXH về nhân lực, đổi mới cơ chế và phương thức quản
66
lý, vận hành các cơ sở, tranh thủ sự hỗ trợ của Quốc tế và xây dựng, củng cố, phát
triển các cơ sở TGXH lồng ghép với các chương trình, đề án khác của Chính phủ
(xem Phụ lục 7)
Trên cơ sở phân loại các CS ở phần trước, có thể xác định các CS phát triển cơ
sở BTXH công lập và ngoài công lập ở Việt Nam hiện nay theo ba nhóm: (1) CS
quản lý hành chính và chất lượng dịch vụ; (2) CS ưu đãi và (3) CS đào tạo và phát
triển nguồn nhân lực. Cho đến nay, Nhà nước đã có 25 văn bản thực hiện, liên quan
đến việc phát triển cơ sở chăm sóc NCT, trong đó, có 04 các CS quản lý hành chính
và chất lượng dịch vụ, 15 văn bản về CS ưu đãi và 03 văn bản CS đào tạo và phát
triển nguồn lực cho thị trường chăm sóc NCT.
Tuy nhiên, trong quá trình tổng hợp các văn bản CS, hệ thống các văn bản hiện
hành không thể hiện sự quản lý nhà nước về chất lượng dịch vụ cung cấp tại các cơ
sở chăm sóc mà chỉ dừng ở việc quản lý hành chính về thủ tục cấp phép, thành lập, tổ
chức, giải thể, chức năng nhiệm vụ và những tiêu chuẩn cơ bản về cơ sở như tiêu
chuẩn cụ thể về định mức nhân viên, quy trình, tiêu chuẩn trợ giúp. Việc quản lý
phân cấp dịch vụ, quy chuẩn trang thiết bị nhất là thiết bị đặc thù cho phục hồi chức
năng, chăm sóc NCT, quy chuẩn về trang thiết bị, môi trường sống, thiết kế cho NCT
theo mức độ khuyết tật/khó khăn trong cuộc sống chưa được phân định. Cùng với đó,
CS kiểm định/giám sát chất lượng dịch vụ để xếp hạng minh bạch, công khai chưa
được xây dựng. Đây là một rào cản lớn về việc phát triển chuyên nghiệp các cơ sở
chăm sóc NCT ở Việt Nam [48]. Tuy nhiên, do luận án tập trung vào việc thực hiện
các CS đã được ban hành, bởi vậy, trên cơ sở tổng hợp các văn bản CS phát triển cơ
sở chăm sóc NCT tại Việt Nam (xem Phụ lục 8), các CS này được chia thành 3 nhóm
có nội dung cụ thể như sau:
Chính sách quản lý về hành chính
Chính phủ ban hành quy hoạch, phát triển mạng lưới các cơ sở TGXH công lập
và ngoài công lập chăm sóc NCT, giao cho Bộ LĐTBXH thực hiện. Trong đó, quy
định rõ việc phân bổ mạng lưới cơ sở TGXH theo từng Vùng địa lý với tổng số 64 cơ
sở trên cả nước đến năm 2025. Trong đó số cơ sở chăm sóc NCT là 5 cơ sở công lập
và 59 cơ sở ngoài công lập với lộ trình quy hoạch đến năm 2025 là nâng cấp mở rộng
5 cơ sở công lập, 26 cơ sở ngoài công lập; phát triển mới 33 cơ sở Ngoài công lập.
Chính phủ quy định cụ thể các tiêu chuẩn quản lý về mặt hành chính để quy
định về điều kiện, thủ tục thành lập, tổ chức, hoạt động, quản lý và giải thể cơ sở
67
TGXH trong NĐ 103. Cụ thể, về thẩm quyền cấp, thu hồi giấy chứng nhận đăng kí
thành lập và giải thể cơ sở, Sở LĐTBXH cấp giấy chứng nhận đăng ký thành lập cơ
sở hoạt động trên phạm vi liên tỉnh hoặc liên huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh, thành phố, có trụ sở chính đặt tại địa phương; Phòng LĐTBXH cấp giấy chứng
nhận đăng ký thành lập cơ sở hoạt động trên phạm vi cấp huyện, có trụ sở chính đặt
tại địa phương. Các cơ sở TGXH cần đáp ứng các tiêu chuẩn bố trí đất đai, cơ sở hạ
tầng để nâng cấp, mở rộng hoặc xây dựng cơ sở TGXH như sau: Diện tích đất tự
nhiên tối thiểu 30m2 ở khu vực nông thôn và 10m2 ở khu vực thành thi trên một đối
tượng; Diện tích phòng ở, phòng cung cấp dịch vụ cho đối tượng tối thiểu 6m2/đối
tượng, đối với đối tượng phải chăm sóc 24/24 giờ một ngày, diện tích phòng ở,
phòng cung cấp dịch vụ tối thiểu 8m2/đối tượng và các phòng ở, phòng cung cấp
dịch vụ được trang bị đồ dùng cần thiết phục vụ cho sinh hoạt hàng ngày của đối
tượng; Cơ sở vật chất tối thiểu có khu nhà ở, khu chăm sóc y tế, khu cung cấp dịch
vụ, khu đào tạo, khu nhà bếp, khu làm việc của cán bộ nhân viên, khu vui chơi giải
trí, khu sản xuất và khu phục hồi chức năng trị liệu; các công trình, trang thiết bị bảo
đảm cho đối tượng tiếp cận và sử dụng thuận tiện.
Về việc vận hành các cơ sở TGXH, cơ quan quản lý là Bộ LĐTBXH cũng quy
định về cơ cấu tổ chức, vị trí việc làm, định mức nhân viên, quy trình, tiêu chuẩn
TGXH tại cơ sở, các mức kinh tế - kỹ thuật là cơ sở xây dựng giá dịch vụ TGXH
được quy định trong các NĐ, thông tư. Trong đó, đáng lưu ý ngoài nhóm vị trí quản
lý, nhóm vị trí việc làm gắn với nhiệm vụ chăm sóc, trợ giúp tại cơ sở TGXH được
quy định cụ thể như: tối thiểu 01 nhân viên tâm lý/một cơ sở; 01 nhân viên CTXH
quản lý trường hợp tối đa 100 đối tượng; 01 nhân viên chăm sóc trực tiếp phụ trách
tối đa 10 NCT tự phục phụ hoặc tối đa 04 NCT không tự phục vụ; 01 nhân viên y tế
phụ trách tối đa 50 đối tượng; 01 nhân viên phụ trách dinh dưỡng cho tối đa 20 đối
tượng và 01 nhân viên phục hồi chức năng cho tối đa 5 đối tượng; vị trí việc làm gián
tiếp không quá 20% tổng nhân lực tại cơ sở. Các yêu cầu về quy trình trợ giúp, tiêu
chuẩn về môi trường khuôn viên nhà ở, tiêu chuẩn về y tế, vệ sinh, quần áo và dinh
dưỡng, tiêu chuẩn về văn hoá, thể thao, thể dục và giải trí được quy định tại Chương
4 của Thông tư 33/2017/TT-BLĐTBXH.
Các CS hiện nay thể hiện sự quản lý nhà nước về thủ tục hành chính và được áp
dụng các tiêu chuẩn, quy đinh cứng cho mọi loại cơ sở TGXH mà không phân biệt
đối tượng chăm sóc là NCT, trẻ em, NKT, người tâm thần rối nhiễu tâm trí… Ngoài
68
ra, các quy định hiện nay mới tập trung vào việc chăm sóc xã hội (về nơi ở, thể chất
và tinh thần) cho NCT trong khi một trong những đặc trưng quan trọng của NCT là
gặp phải các vấn đề về sức khoẻ và có nhu cầu trợ giúp y tế, đặc biệt với nhóm đại
lão. Có thể thấy, việc phân cấp cơ sở, từ đó đánh giá các tiêu chuẩn về hành chính và
tiêu chuẩn chất lượng dịch vụ để đáp ứng nhu cầu được chăm sóc y tế cho NCT hiện
nay vẫn chưa được ban hành. Cuối cùng, việc phân định thẩm quyền quản lý cấp
Sở/Phòng hiện nay mới chỉ theo khu vực địa lý hành chính mà chưa quan tâm đến
quy mô chăm sóc. Điều này là một hạn chế của các CS quản lý của nhà nước hiện
nay khi chưa quản lý được tiêu chuẩn chất lượng dịch vụ và phân biệt đặc điểm riêng
biệt của các cơ sở TGXH cho NCT.
Chính sách ưu đãi
Nhà nước thể hiện quan điểm khuyến khích XHH các thành phần kinh tế tham
gia vào hệ thống cơ sở TGXH chăm sóc NCT và có các CS ưu đãi về hỗ trợ đầu tư,
giao/ cho thuê đất, cho thuê/ xây dựng cơ sở vật chất cho cơ sở TGXH, miễn/ giảm
tiền thuê đất, thuê mặt nước, ưu đãi về tín dụng và huy động vốn, miễn giảm thuế giá
trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế đất, giá điện, nước ưu đãi cơ sở TGXH,
TGXH cho đối tượng bảo trợ (NĐ 69/2008/NĐ- CP, QĐ 693/QĐ-TTg, NĐ
59/2014/NĐ- CP, QĐ số 1470/QĐ-TTg)
Về đất đai, nhà nước khuyến khích các bộ, ngành chuyên quản căn cứ khả năng
ngân sách và nhu cầu khuyến khích XHH thực hiện đầu tư cơ sở hạ tầng, xây dựng
một phần hoặc toàn bộ công trình XHH hoặc sử dụng quỹ nhà, cơ sở hạ tầng hiện có
để cơ sở thực hiện XHH thuê có thời gian và được hướng những quyền lợi khi cơ sở
XHH trả hoặc ứng trước tiền thuê cơ sở hạ tầng và công trình XHH. Các cơ sở được
UBND cấp tỉnh tạo điều kiện thuận lợi cho cơ sở XHH đầu tư theo quy hoạch được
cấp có thẩm quyền phê duyệt. Các cơ sở cũng được nhà nước cho thuê đất đã hoàn
thành giải phóng mặt bằng để xây dựng được miễn toàn bộ tiền thuê đất cho cả thời
gian thuê. Các cơ sở sử dụng đất tại các đô thị, được hưởng chế độ miễn, giảm theo
khu vực, lĩnh vực theo quy định (Điều 5, điều 6, NĐ 69/2008/NĐ- CP, Khoản 2,3
Điều 1, NĐ số 59/2014/NĐ- CP, NĐ 46/2014/NĐ- CP)
Về cơ sở vật chất, nhà nước hỗ trợ đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật và trang thiết
bị cho cơ sở TGXH đạt tiêu chuẩn chăm sóc theo tiêu chuẩn do Nhà nước quy định,
bảo đảm có các phân khu chức năng, các hạng mục công trình đáp ứng hoạt động
69
chăm sóc, phục hồi chức năng, trị liệu và cung cấp dịch vụ CTXH. Ưu tiên hỗ trợ
mua sắm trang thiết bị vận chuyển đối tượng, sơ cấp cứu, sinh hoạt và phục hồi chức
năng cho đối tượng (Điều 5, NĐ 69/2008/NĐ- CP)
Về các CS tài khoá, các cơ sở này cũng được vay vốn tín dụng đầu tư hoặc hỗ
trợ sau đầu tư, được phép huy động vốn dưới dạng góp cổ phần, vốn góp từ người lao
động trong đơn vị, huy động các nguồn vốn hợp pháp khác thông qua hợp tác, liên
kết với doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, tổ chức tài chính, cá nhân trong và ngoài nước
để đầu tư xây dựng cơ sở vật chất. Mức ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp cũng
được áp dụng nhằm khuyến khích các cơ sở đầu tư tăng cường cơ sở vật chất, nâng
cao chất lượng dịch vụ (Điều 9, 10 – NĐ 69/2008/NĐ- CP, Thông tư số
153/2011/TT-BTC, Thông tư số 96/2015/TT-BTC, Thông tư số 130/2016/TT-BTC)
Về các CS khác, Nhà nước cho phép các cơ sở này được tham gia cung cấp các
dịch vụ công do nhà nước tài trợ, đặt hàng, tham gia nhận đấu thầu các hợp đồng, dự
án sử dụng nguồn vốn trong và ngoài nước phù hợp với chức năng của cơ sở theo
quy định của pháp luật. Các đối tượng CS khi thụ hưởng dịch vụ tại các cơ sở này
cũng được hưởng mức hỗ trợ. Ngoài ra, cơ sở chăm sóc NCT được xếp vào nhóm cơ
sở y tế, các cơ sở này cũng được ưu đãi về giá điện, nước sinh hoạt (Điều 9, Thông tư
số 16/2014/TT-BTC, Thông tư số 44/2021/TT-BTC, NĐ 20/2021/NĐ- CP).
Có thể thấy, nhà nước xây dựng hành lang pháp lý đáp ứng những điều kiện có
tính hỗ trợ khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia vào hệ thống cơ sở chăm
sóc NCT hiện nay về đất đai, tài khoá, cơ sở vật chất và các CS ưu đãi khác.
Chính sách quản lý, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
Nhà nước quy định rõ việc quản lý nhà nước về nguồn nhân lực với tiêu chuẩn
về định mức và các tiêu chuẩn về chức danh nghề nghiệp của nhân viên CTXH, điều
dưỡng và có CS đào tạo, đào tạo lại cho đội ngũ cán bộ TGXH với việc đào tạo hệ
vừa học vừa làm trình độ sơ cấp, trung cấp, cao đẳng và đại học về CTXH, đào tạo
kỹ năng chuyên sâu chăm sóc, phục hồi chức năng cho đối tượng, bồi dưỡng kỹ năng
cho cán bộ, công chức, viên chức, nhân viên và cộng tác viên TGXH, CTXH. Mã
ngành đào tạo nhân viên tâm lý, điều dưỡng, CTXH đã được triển khai và được
khuyến khích xây dựng và hoàn thiện chương trình, giáo trình đào tạo thạc sỹ, tiến sỹ
về CTXH phù hợp với nhu cầu hội nhập quốc tế, đạt yêu cầu ngang bằng chuẩn đào
tạo của các nước trong khu vực nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Tuy
70
nhiên, các CS này hiện giờ chỉ đáp ứng những yêu cầu cơ bản về việc cung ứng
nguồn nhân lực chung của ngành chứ chưa ưu tiên hoặc tập trung phát triển và quản
lý nguồn nhân lực trong lĩnh vực chăm sóc NCT.
Bên cạnh đó, các cơ chế ưu đãi với nhân lực trong cơ sở TGXH chưa được
quan tâm đúng mức. Nhà nước khuyến khích các cơ sở TGXH ngoài công lập bằng
việc khen thưởng tập thể và người lao động có thành tích xuất sắc, các cá nhân và tập
thể tham gia đóng góp cho các hoạt động XHH theo quy định của pháp luật (Điều 12,
NĐ 69/2008/NĐ- CP). Người lao động trong các cơ sở TGXH công lập được nhận
mức phụ cấp 60% trực tiếp xét nghiệm, khám, điều trị, chăm sóc, nuôi dưỡng, trợ
giúp NCT không tự phục vụ được, 40% với NCT cho công chức, viên chức thường
xuyên; 30% với công chức, viên chức quản lý; không vượt mức 25% với công chức,
viên chức khác trong cơ sở (Thông tư liên tịch số 30/2015/TTLT-BLĐTBXH-BNV).
Tóm lại, hệ thống văn bản CS liên quan tới chăm sóc NCT nói chung khá đa
dạng và đã bao phủ các khía cạnh quản lý nhà nước về việc phát triển các cơ sở cung
cấp DVCS NCT ở Việt Nam hiện nay. Các văn bản này tạo cơ chế khuyến khích phát
triển cơ sở chăm sóc NCT với quan điểm thống nhất, mục tiêu và giải pháp khả thi.
Nhưng hệ thống các văn bản pháp lý dưới luật nhằm hướng dẫn triển khai các mục
tiêu, chương trình hoặc các hoạt động phát triển các cơ sở cung cấp DVCS còn nhiều
khoảng trống. Điều này dẫn tới khó khăn cho các đơn vị nhà nước và ngoài nhà nước
(tư nhân, tôn giáo, từ thiện…) trong việc hiểu và triển khai các DVCS NCT và được
hưởng lợi từ các CS này một cách toàn diện. Nhưng, cần nhìn nhận rằng, việc phân
tích hệ thống văn bản CS trên mới chỉ phân tích về mặt nội dung, còn việc triển khai
trong thực tế có đạt được như những kỳ vọng của văn bản khung không còn là một
dấu hỏi. Trên cơ sở văn bản CS này, luận án sẽ đi sâu tìm hiểu quá trình thực hiện tại
địa bàn Hà Nội nhằm khám phá tính thực tiễn của các CS phát triển hệ thống chăm
sóc NCT hiện nay.
2.7. Khung phân tích của luận án
Trong luận án này, việc đánh giá quá trình thực hiện CS phát triển cơ sở chăm
sóc NCT được tác giả xem xét và phân tích từ hai góc độ khác nhau bao gồm: tiếp
cận theo quy trình thực hiện CS và cách tiếp cận dựa trên các yếu tố ảnh hưởng theo
mô hình 7C. Tuy nhiên, tác giả cũng xem xét đầy đủ các yếu tố đầu vào và đầu ra của
quá trình thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT tại Hà Nội.
Theo hướng tiếp cận quy trình (xem sơ đồ 2.1), tác giả xác định đầu vào của
71
quy trình thực hiện các CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT là hệ thống văn bản quy
phạm pháp luật thể hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT hiện nay ở Việt Nam bao
gồm 3 nhóm: CS quản lý về hành chính; CS ưu đãi và CS quản lý, đào tạo, phát triển
nguồn nhân lực (đã được cụ thể hoá trong mục 2.6.2). Các văn bản này là cơ sở CS
để triển khai tại Hà Nội cũng như các tỉnh thành khác ở Việt Nam.
Trên cơ sở các văn bản CS đã được ban hành, Luận án tiếp cận nghiên cứu quy
trình thực hiện các CS trên tại Hà Nội theo 5 bước, bao gồm: (1) Xây dựng kế hoạch;
(2) Tuyên truyền, phổ biến; (3) Phân công phối hợp thực hiện; (4) Theo dõi kiểm tra
giám sát và (5) Sơ kết, tổng kết, đánh giá. Trong từng bước, tác giả nghiên cứu về
thực trạng và các kết quả đạt được. Đồng thời, dựa trên các yếu tố theo mô hình 7C,
luận án phân tích tác động của các yếu tố này đến từng bước trong quy trình thực
hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT tại Hà Nội.
Kết quả đầu ra của quy trình thể hiện tác động của CS mà nhà nước đang thực
hiện thông qua: Sự phát triển của các cơ sở chăm sóc NCT tại Hà Nội về cả số lượng
và chất lượng, Kết quả thực hiện các CS quản lý hành chính, CS ưu đãi và CS đào
tạo và phát triển nguồn nhân lực đối với các cơ sở chăm sóc NCT trên địa bàn Hà
Nội. Từ đó, sự so sánh về kết quả đầu ra của quy trình và mục tiêu đặt ra của các CS
là cơ sở đánh giá hiệu lực thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT trong thực tế.
Cũng từ hướng tiếp cận này, tác giả trình bày được quy trình thực hiện gồm 5 bước
cụ thể như sau:
72
Sơ đồ 2.1. Khung phân tích đánh giá kết quả thực hiện CS
Hướng tiếp cận thứ hai được sử dụng trong luận án này là đánh giá ảnh hưởng
của các yếu tố theo mô hình 7C (xem bảng 2.5).
Hướng tiếp cận thứ hai sử dụng mô hình 7C giúp tác giả có thể xây dựng ma
trận tiêu chí đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình thực hiện CS một cách chi
tiết và cụ thể hơn. Sử dụng mô hình này giúp tác giả xác định các tiêu chí đo lường
tính cản trở hoặc thúc đẩy của từng yếu tố tác động như thế nào đến 5 bước trong quy
trình thực hiện CS. Từ đó, dựa trên các kết quả đánh giá theo mô hình 7C từ góc nhìn
của các bên liên quan về chu trình CS, tác giả đưa ra các giải pháp đề xuất cải thiện
hoặc tối ưu hóa quy trình thực hiện CS nhằm đảm bảo tính hiệu quả và thành công
bền vững của CS. Các đề xuất này xoay quanh việc thay đổi các yếu tố ảnh hưởng
73
theo mô hình 7C. Các yếu tố mang tính cản trở hoặc thúc đẩy trùng lặp nhiều nhất tới
từng bước trong quy trình thực hiện, dựa trên kết quả nghiên cứu với các khách thể
cho phép đưa ra nhận định về các yếu tố cần xem xét để giải quyết nhằm có những
giải pháp phù hợp, khả thi, tối ưu.
Trong ma trận phân tích kết hợp giữa các yếu tố ảnh hưởng theo mô hình 7C và
quy trình thực hiện CS, một số nội dung không được đưa ra bàn luận (kí hiệu N/A)
do nội hàm các yếu tố theo mô hình 7C không phù hợp hoặc bị lặp lại khi nghiên cứu
theo từng bước trong quy trình thực hiện.
Có thể nói, khung phân tích kết hợp hướng tiếp cận quy trình CS và ma trận
tiêu chí đánh giá các yếu tố ảnh hưởng theo mô hình 7C này giúp tác giả đánh giá
hiệu quả thực hiện CS một cách toàn diện và phù hợp với các câu hỏi nghiên cứu
trong luận án. Đồng thời, việc đánh giá này được thực hiện dựa trên cơ sở lý thuyết
khoa học trong việc định hướng thu thập, xử lý và phân tích các dữ liệu nghiên cứu.
Từ đó, đảm bảo tính chính xác và độ tin cậy của kết quả nghiên cứu của luận án.
Bảng 1.5. Ma trận đánh giá các yếu tố ảnh hưởng theo mô hình 7C đến quy trình
thực hiện CS
Xây dựng kế hoạch thực hiện
Tuyên truyền phổ biến
Theo dõi, kiểm tra, giám sát
Sơ kết, tổng kết, đánh giá
N/A
Nội dung
- Nội dung CS phù hợp với thực tiễn triển khai
hoạch - Kế truyền thông được xây dựng và triển khai
- Kế hoạch tiến độ thực hiện, ngân sách, cơ chế giám sát được xây dựng - Nội dung CS phù hợp, rõ ràng
Phân công phối hợp thực hiện - Có sự phân công cụ thể về nhiệm vụ của các bên liên quan - Nội dung CS đáp ứng nhu cầu thực tiễn
N/A
Bối cảnh
- Sự phù hợp của các văn bản triển khai với hệ thống văn bản pháp luật
- Sự thống nhất về chính trị trong việc phân công thực phối hợp hiện
- Sự phù hợp về hoàn cảnh của đối tượng hưởng lợi với thực tiễn triển khai
- Sự tác động của văn hoá, xã hội đến sự ủng hộ với tác công tuyên truyền, phổ biến CS. - Năng lực tuyên
- Năng lực hiểu
- Nhân lực phục
- Phát triển năng
N/A
Năng
74
lực
vụ cho công tác triển khai
lực đội ngũ thực hiện CS
truyền CS trong ngành, liên ngành
Cam kết
- Sự ủng hộ của lãnh đạo và cán bộ thực thi
- Sự cam kết của các bên liên quan và quan cơ truyền thông
- Sự cam kết thực hiện sơ kết, tổng kết, đánh giá thực hiện CS
nội dung và xây dựng kế hoạch thực hiện CS - Nguồn lực được sắp xếp để thực hiện kế hoạch - Sự ủng hộ của lãnh đạo chính quyền - Kế hoạch công tác được xây dựng
- Sự cam kết xử lý của các bên trong tham gia quá trình giám sát
N/A
N/A
Liên minh
- Các nhóm phi thức xây chính dựng kênh truyền thông riêng
- Sự tham gia của đối tượng hưởng lợi CS vào quá trình thực hiện
- Sự tham gia của đối tượng hưởng lợi trực tiếp - Sự tham gia của các cá nhân, tổ chức liên có quan
Sự phối hợp
- Phối hợp trong việc xây dựng kế hoạch thực hiện
- Đánh giá liên thực ngành về hiện
- Phân công trách nhiệm, cơ chế giám sát giữa các bên liên quan - Cơ chế báo cáo
- Cơ chế phối hợp nội bộ cùng ngành trong quá trình thực hiện - Cơ chế phối hợp liên ngành
- Các bên tham gia vào công tác truyền thông - Cơ chế phối hợp các bên tham gia tuyên truyền CS
Thông
N/A
Truyền thông
- Xây dựng kế hoạch truyền thông
- Hiệu quả truyền thông
- Kênh truyền thông, nội dung truyền thông
tin - truyền thông giữa các bên liên quan công khai, minh bạch Tiểu kết Chương 2
Chương này tập trung vào việc làm rõ các cơ sở lý thuyết và cơ sở thực tiễn
phục vụ cho việc phân tích, đánh giá hiệu quả của việc thực hiện CS phát triển cơ sở
chăm sóc NCT tại Việt Nam hiện nay bao gồm khái niệm, đặc trưng và nhu cầu chăm
sóc của NCT; khái niệm và phân loại cơ sở chăm sóc NCT; khái niệm và phân loại
các CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT; khái niệm thực hiện CS phát triển cơ sở chăm
sóc NCT, các chủ thể thực hiện và quy trình thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc
NCT cùng các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT
theo mô hình 7C. Bên cạnh đó, nội dung chương 2 cũng đề cập đến quan điểm định
hướng của Đảng và Nhà nước cùng việc hệ thống hoá các CS phát triển cơ sở chăm
sóc NCT tại Việt Nam theo ba nhóm: CS quản lý nhà nước, CS ưu đãi và CS đào tạo,
75
phát triển nguồn nhân lực chăm sóc NCT. Đây là những công cụ lý thuyết và cơ sở
thực tiễn quan trọng để xây dựng công cụ nghiên cứu thực trạng thực hiện CS phát
triển cơ sở chăm sóc NCT trên địa bàn Hà Nội.
Cuối cùng, từ các cơ sở lý thuyết và thực tiễn tác giả xây dựng khung phân
tích để thể hiện rõ quan điểm tiếp cận theo quy trình và theo ma trận đánh giá các yếu
tố ảnh hưởng tới việc thực hiện CS. Việc sử dụng khung phân tích và ma trận yếu tố
ảnh hưởng trong luận án phù hợp trong việc xác định các khía cạnh cụ thể cần xem
xét để đưa ra những nhận định về kết quả thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc
NCT theo quy trình 5 bước. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu thực trạng, tác giả có thể
định hướng cho các giải pháp sát với thực tế nhằm cải thiện các yếu tố cản trở tính
hiệu quả của quá trình thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT trên địa bàn Hà
76
Nội.
CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CƠ
SỞ CHĂM SÓC NGƯỜI CAO TUỔI TẠI HÀ NỘI
3.1. Khái quát về địa bàn nghiên cứu
3.1.1. Khái quát về Hà Nội
Thành phố Hà Nội là trung tâm chính trị, văn hóa, kinh tế và giao dịch quốc tế
của Việt Nam, là một trong những thành phố lớn, với diện tích hơn 3.340 km2. Theo
số liệu của Tổng cục thống kê, tính đến giữa năm 2021 tổng dân số tại Hà Nội là 8,3
triệu người, sống trên địa bàn 12 quận, 17 huyện và 1 thị xã. Tỉ lệ gia tăng dân số Hà
Nội theo thống kê là 3,7%; ước tính tới năm 2030, dân số Hà Nội đạt khoảng 10 triệu
người, tỷ lệ đô thị hóa 65 - 68%. Đến năm 2050 đạt ngưỡng dân số tối đa khoảng
10,8 triệu người, tỷ lệ đô thị hóa 70 - 80%. Theo kế hoạch thực hiện chiến lược dân
số Việt Nam đến năm 2030 của UBND, TP Hà Nội duy trì mức sinh thay thế; 90%
phụ nữ mang thai và 95% trẻ sơ sinh được sàng lọc trước sinh ít nhất 4 -5 loại bệnh
tật bẩm sinh phổ biến nhất. Tỷ số giới tính khi sinh không vượt quá 109,0 trẻ trai/100
trẻ gái. Tỷ lệ NCT được khám sức khỏe định kỳ đạt 90%; tuổi thọ bình quân đạt trên
75 tuổi, trong đó thời gian sống khỏe mạnh đạt tối thiểu 68 năm. Tỷ lệ dân số đô thị
đạt khoảng 65%; bố trí, sắp xếp dân cư hợp lý ở nông thôn, thành thị; 100% dân số
được đăng ký, quản lý trong hệ thống cơ sở dữ liệu thống nhất toàn Thành phố và
quy mô toàn quốc; Ngành, lĩnh vực và địa phương sử dụng dữ liệu chuyên ngành dân
số đạt 100%.
Bảng 3.1. Tuổi thọ trung bình người dân Hà Nội tính từ lúc sinh phân theo giới tính
Năm
2015 2017 2018 2019 2020 Tổng số 75,2 75,4 75,4 75,5 75,5
Phân theo giới tính Nữ Nam 77,8 72,8 77,9 73,0 77,9 73,0 78,0 73,1 78,0 73,1 Nguồn: Cục thống kê thành phố Hà Nội [10]
Về tình hình kinh tế của Hà Nội, đây là một trong những địa phương có tốc độ
tăng trưởng kinh tế cao nhất cả nước. Theo báo cáo của Cục thống kê thành phố Hà
Nội [11] tính chung tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) trong 6 tháng đầu năm 2022
đạt trên 1.135 nghìn tỷ đồng, tăng 7,79% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, quý I
77
tăng 6,02%; quý II tăng 9,49%. Tăng trường GRDP cao hơn những năm trước đây,
đồng thời thể hiện xu hướng phục hồi, phát triển rõ nét qua từng quý của nhiều
ngành, nhiều lĩnh vực kinh tế chủ đạo của thành phố gồm: công nghiệp chế biến, xây
dựng, dịch vụ, du lịch, giáo dục, y tế. Cơ cấu thu chuyển dịch tích cực, tỷ trọng thu
nội địa và các khoản thu bền vững từ sản xuất, kinh doanh tăng; các khoản thu liên
quan đến tài nguyên, đất đai giảm dần. Điều hành chi chủ động, tiết kiệm, đảm bảo
cân đối ngân sách các cấp; tỷ lệ nợ công của Thành phố đang ở mức thấp, khoảng
12% GRDP [10]. Việc điều hành chi chủ động, tiết kiệm, đảm bảo cân đối ngân sách
các cấp cũng đóng vai trò quan trọng trong đảm bảo các CS an sinh cho NCT được
triển khai hiệu quả. Tuy nhiên, việc phân bổ ngân sách cho các CS an sinh cho NCT
cần được đưa ra các quyết định CS và quản lý cẩn thận để đảm bảo rằng các khoản
chi phí đó được sử dụng một cách hiệu quả và mang lại lợi ích tối đa cho NCT.
Bảng 3.2. Tăng trưởng GRDP quý II năm 2020-2022 (So với cùng kỳ)
Quý Quý Quý
II.2020 II.2021 II.2022
Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) 1,77 5,63 9,49
Dịch vụ 0,54 5,59 11,68
Công nghiệp – xây dựng 5,34 7,42 6,61
Trong đó: Công nghiệp 4,50 7,43 7,33
Nông, lâm nghiệp, thuỷ sản 5,47 3,08 1,77
Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm 1,52 3,19 4,32
Nguồn: Cục thống kê thành phố Hà Nội [11]
Thu nhập bình quân đầu người tại Hà Nội luôn ở mức cao trong cả nước. Trong
giai đoạn 2015 – 2021, thu nhập bình quân đầu người của Hà Nội luôn giữ vị trí
trong nhóm 5 tỉnh thành có mức cao nhất cả nước, cao hơn từ 1,4 – 1,8 lần. Thu nhập
bình quân năm sau luôn cao hơn năm trước. Cụ thể như sau:
Bảng 3.3. Thu nhập bình quân đầu người tại Hà Nội từ 2015-2021
2015 2016 2017 2018 2019 2020 2021
117,5 120,3
Thu nhập bình quân tại Hà Nội (triệu đồng) Trong 1 năm Trong 1 tháng 86-88 82-86 6,8-7,2 7,2-7,3 91 7,6 9,8 10 130 10,8 128,2 10,7
Nguồn: Cục thống kê thành phố Hà Nội [11]
Thu nhập bình quân đầu người càng cao thì người dân sẽ có khả năng chi tiêu
78
cao hơn cho các DVCS sức khỏe, đặc biệt là DVCS NCT. NCT thường cần được
chăm sóc đặc biệt và có các nhu cầu về sức khỏe cao hơn so với các nhóm tuổi khác.
Với thu nhập cao, người dân có thể chi trả cho các DVCS NCT tốt hơn, bao gồm cả
DVCS tại nhà và DVCS tại các cơ sở y tế. Bên cạnh đó, thu nhập bình quân đầu
người càng cao thì họ cũng có khả năng tăng cường đóng góp vào các khoản quỹ xã
hội, bao gồm quỹ bảo hiểm xã hội và quỹ y tế. Nhờ đó, các DVCS NCT có thể được
cải thiện hơn bằng cách sử dụng các khoản đóng góp để đầu tư vào cơ sở vật chất,
thiết bị và đào tạo nhân lực. Tuy nhiên, việc tăng thu nhập bình quân đầu người cũng
có thể gây ra khoảng cách địa vị kinh tế giữa các gia đình và cá nhân, đặc biệt giữa
nhóm NCT di cư và nhóm NCT sống lâu đời tại Hà Nội. Điều này dẫn đến sự chênh
lệch trong khả năng tiếp cận và chi trả cho DVCS NCT. Điều này có thể dẫn đến sự
bất bình đẳng trong DVCS sức khỏe cho NCT.
Thu ngân sách nhà nước (NSNN) trên địa bàn liên tục tăng và vượt dự toán; lũy
kế giai đoạn 2016-2020 đạt gần 1,2 triệu tỷ đồng, gấp 1,64 lần giai đoạn 2011-2015,
tăng trung bình 11,8%/năm; đảm bảo cân đối thu, chi góp phần thúc đẩy sản xuất,
kinh doanh, phát triển kinh tế, xã hội. Với ngân sách này chính quyền địa phương có
thể cung cấp các CS an sinh cho NCT như bảo hiểm y tế, xã hội, chăm sóc sức khỏe,
chăm sóc dài ngày, giảm giá phí dịch vụ y tế, và hỗ trợ chi phí sinh hoạt cho NCT.
Công tác đảm bảo an sinh, phúc lợi xã hội luôn được Thành phố và các cấp, các
ngành quan tâm thực hiện. Công tác chăm lo đời sống cho nhân dân và các đối tượng
CS được thực hiện tốt; các CS xã hội được thực hiện kịp thời, đầy đủ, đúng đối
tượng. Trong 6 tháng đầu năm 2022, Thành phố đã tiếp nhận và giải quyết gần 10,1
nghìn hồ sơ hưởng chế độ ưu đãi người có công và thân nhân người có công với cách
mạng, số tiền 41,2 tỷ đồng. Đến nay, Thành phố đã thực hiện chi trả đầy đủ, kịp thời
trợ cấp 6 tháng đầu năm cho trên 81,7 nghìn người có công và thân nhân người có
công đang hưởng trợ cấp ưu đãi hàng tháng với số tiền 910 tỷ đồng, chi điều dưỡng
người có công 35 tỷ đồng. Trên địa bàn Thành phố hiện có 202,4 nghìn đối tượng
BTXH đang được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng tại cộng đồng và 2,8 nghìn đối
tượng BTXH đang được nuôi dưỡng tại các Trung tâm BTXH của Thành phố [11].
Cùng với việc phát triển kinh tế, tình hình xã hội của Hà Nội cũng đang phát
triển tích cực, với nhiều cơ sở hạ tầng văn hóa, thể thao, giải trí, mua sắm, ăn uống,
giáo dục được đầu tư phát triển. Hà Nội cũng là trung tâm giáo dục, đào tạo, nghiên
cứu khoa học, văn hóa, nghệ thuật của cả nước. Tuy nhiên, cũng như nhiều thành phố
79
lớn trên thế giới, Hà Nội cũng đang phải đối mặt với một số vấn đề về xã hội, như
tình trạng ô nhiễm môi trường, áp lực đô thị hóa, mất cân đối giữa phát triển kinh tế
và bảo vệ môi trường, phân bổ nguồn lực không đồng đều giữa các khu vực. Đặc biệt,
vấn đề chăm sóc NCT đang trở thành một trong những thách thức lớn đối với Hà Nội
khi tỷ lệ NCT ngày càng tăng, nhu cầu chăm sóc, cuộc sống của họ cũng tăng cao.
3.1.2. Người cao tuổi trên địa bàn Hà Nội
Về tốc độ và số lượng dân số cao tuổi: Hà Nội là khu vực có tỷ lệ tăng trưởng
dân số cao tuổi cao. Trong giai đoạn từ 2015 đến 2020, tỷ lệ tăng trưởng dân số cao
tuổi đạt 3,3%, tăng lên so với giai đoạn trước đó (2010-2015) là 2,8%. Theo báo cáo
của Sở LĐTB&XH Hà Nội [34], tính đến năm 2022, toàn Thành phố hiện có 888.603
hộ gia đình có NCT, trong đó tổng số NCT là 1.069.456 NCT, chiếm tỷ lệ 12,8% dân
số Thành phố. NCT ở các độ tuổi cụ thể bao gồm:
Bảng 3.4. Số lượng NCT theo nhóm tuổi, giới tính tại Hà Nội năm 2022
Nam Nữ Tổng
Tổng số NCT Nhóm 60-69 tuổi Nhóm 70-79 tuổi Nhóm 80 tuổi trở lên 500.907 265.299 146.042 89.566 Tỷ lệ % trên tổng số NCT 53,1% 29,0% 17,9%
568.549 1.069.456 302.874 568.173 163.911 309.953 191.330 101.764 Nguồn: Sở LĐTB&XH Hà Nội [34]
Có thể thấy, tỷ lệ NCT ở nhóm đại lão (trên 80 tuổi) tại Hà Nội đạt 17,9%. Dựa
theo đặc điểm nhân khẩu học của NCT đã được trình bày ở chương 2, tỷ lệ NCT
nhóm đại lão có ý nghĩa thống kê về nhu cầu chăm sóc chính thức tại cơ sở do những
khó khăn về sức khoẻ, sự độc lập trong việc thực hiện hoạt động sinh hoạt hàng ngày.
Về sự phân bố NCT theo đơn vị hành chính: Tỷ lệ phân bố số NCT ở 12 quận,
17 huyện, 01 thị xã tại địa bàn Hà Nội tương đối đồng đều, trong đó khu vực 12 quận
nội thành có số lượng NCT cao hơn một chút so với 19 huyện, thị xã (khoảng 4300
NCT). Tính trung bình, số NCT ở các quận nội thành cao hơn 113% so với khu vực
ngoại thành Hà Nội. Trong 12 quận nội thành, số NCT đông nhất là Đống Đa, Thanh
Xuân, Ba Đình, thấp nhất là ở Nam Từ Liêm, Hoàng Mai. Nhưng số lượng NCT từ
80 tuổi trở lên theo ở các huyện, thị xã có tổng số 114.513 người, trong khi con số
này ở các quận nội thành là 76.753 [38] (xem Phụ lục 9). Điều này cho thấy nhu cầu
80
DVCS của NCT ở các quận ngoại thành cho nhóm đại lão cũng khá lớn. Cần hiểu,
DVCS ở đây không nhất thiết phải là DVCS tại cơ sở TGXH mà có thể bao gồm
DVCS tại gia đình, cộng đồng cho nhóm đại lão do các cơ sở TGXH cung cấp.
Về đặc điểm nhân khẩu và sức khoẻ của NCT: Tại Hà Nội, số hộ mà NCT sống
một mình hoặc chỉ có NCT sống với nhau, số NCT cô đơn không nơi nương tựa, số
NCT là NKT (đã được UBND cấp giấy xác nhận mức độ khuyết tật), số NCT thuộc
hộ nghèo không có khả năng tự phục vụ bản thân, số NCT thuộc hộ gia đình nghèo
không có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng hoặc có người có nghĩa vụ và
quyền phụng dưỡng nhưng người này đang hưởng chế độ trợ cấp xã hội hằng tháng
có tổng số khoảng 133 nghìn NCT, chiếm 12,4% tổng số NCT tại Hà Nội [38] (xem
Phụ lục 10). NCT ở Hà Nội cũng đang đối mặt với nhiều vấn đề về sức khỏe, trong
đó bao gồm các bệnh lý liên quan đến tuổi già như bệnh tim mạch, tiểu đường, đột
quỵ, ung thư, rối loạn tâm thần và các bệnh khác. Theo báo cáo của Sở Y tế Hà Nội
năm 2020 và nghiên cứu của Phạm Anh Tùng và cộng sự [26], NCT ở Hà Nội đang
đối mặt với nhiều vấn đề về sức khỏe. Tỷ lệ NCT mắc bệnh tim mạch và tiểu đường
ở Hà Nội là rất cao, chiếm 60,5% và 43,5% trong số những người trên 60 tuổi. Đột
quỵ cũng là một vấn đề sức khỏe quan trọng đối với NCT ở Hà Nội, với tỷ lệ mắc
bệnh đột quỵ cao hơn so với các địa phương khác. Ngoài ra, ung thư và các bệnh lý
khác cũng được ghi nhận tăng cao đối với NCT ở Hà Nội. Rối loạn tâm thần cũng là
một vấn đề đáng lo ngại, với số ca tăng lên đáng kể trong những năm gần đây. Điều
này đặt ra một thách thức lớn đối với việc phát triển các DVCS sức khỏe và tâm lý
cho NCT ở Hà Nội. Những số liệu trên cho thấy những đặc trưng về nhân khẩu, các
vấn đề về sức khoẻ khiến nhu cầu CSDH của NCT tại Hà Nội khá cao.
Về kinh tế, thu nhập của NCT: NCT ở Hà Nội phải đối mặt với vấn đề khó khăn
về mức sống. Trong số hơn 1 triệu NCT ở Hà Nội, số NCT đang hưởng lương hưu
chỉ chiếm 36% số NCT tại Hà Nội [38]. Theo báo cáo đánh giá tình hình thực hiện
các CS, pháp luật về NCT tại Hà Nội năm 2019, mức sống của NCT vẫn còn khó
khăn và chưa đáp ứng được các nhu cầu cơ bản của cuộc sống đặc biệt là nhóm NCT
di cư từ các địa phương khác. Nghiên cứu của Viện Kinh tế và Quản lý Hà Nội [57]
cũng cho thấy, khoảng 30% NCT ở Hà Nội sống dưới mức độ sinh hoạt tối thiểu, chỉ
đủ đáp ứng được các nhu cầu cơ bản như ăn uống, sinh hoạt, không có nhiều điều
kiện cho các hoạt động giải trí, tham gia các hoạt động xã hội. Ngoài ra, khoảng 15%
trong số đó sống trong điều kiện khó khăn, thiếu thốn những tiện ích cơ bản như
81
đường đi, ánh sáng, nước sạch, vệ sinh, y tế. Trong khi đó, số NCT không có lương
hưu, trợ cấp BHXH, trợ cấp xã hội chiếm 34%. Số NCT thuộc hộ nghèo, NCT thuộc
hộ cận nghèo là khoảng 14.842 NCT.
Về nhu cầu và khả năng chi trả DVCS của NCT: Chi phí chăm sóc cho NCT
cũng là một vấn đề quan trọng. Báo cáo của UBND TP Hà Nội năm 2020 cho biết,
mức chi tiêu hàng tháng của một NCT ở TP Hà Nội trung bình là khoảng 7 triệu
đồng, gồm các chi phí cho ăn uống, đi lại, chăm sóc sức khỏe và các nhu cầu sinh
hoạt khác. Nghiên cứu của Viện Kinh tế và Quản lý Hà Nội cũng cho thấy, khoảng
30% NCT ở Hà Nội sử dụng DVCS tại cơ sở y tế để khám chữa bệnh, phần còn lại tự
chăm sóc bản thân tại nhà, thuê người chăm sóc hoặc được chăm sóc bởi người thân.
Các cơ sở chăm sóc người già, nhà dưỡng lão, phòng khám chuyên khoa cũng còn
khá ít và chất lượng dịch vụ chưa đáp ứng nhu cầu của NCT. Điều này đòi hỏi NCT
phải tiết kiệm và hạn chế sử dụng các DVCS, đồng thời đẩy nặng gánh nợ cho các
gia đình có NCT. Mức thu nhập bình quân đầu người tại Hà Nội như đã trình bày ở
mục 3.1.1 từ năm 2015-2021 dù luôn giữ ở vị trí một trong 5 tỉnh thành có mức cao
nhất cả nước, nhưng mức thu nhập bình quân khoảng 7 triệu (2015) – 10,7 triệu
(2021) đã thể hiện mức chi phí cho một người cao tuổi cũng là một gánh nặng cho
các hộ gia đình.
Về số lượng NCT hưởng CS BTXH của nhà nước: Trong những năm qua, TP
Hà Nội luôn quan tâm phối hợp, tạo điều kiện để Ban Đại diện Hội NCT các cấp, Hội
NCT cơ sở triển khai thực hiện có hiệu quả các nghị quyết, chương trình, kế hoạch
của TW và thành phố, tạo điều kiện cho NCT “Sống vui, sống khỏe, sống hạnh phúc,
sống có ích cho bản thân, gia đình và xã hội”. Thành phố trợ cấp ưu đãi hàng tháng
cho 65.369 NCT có công với cách mạng, hơn 91 nghìn NCT đang hưởng trợ cấp xã
hội hàng tháng. NCT thành phố được đi xe buýt miễn phí. Trong 5 năm (2016-2021),
toàn Thành phố đã tổ chức mừng thọ, chúc thọ cho trên 633.222 NCT, với tổng số
tiền trên 407,3 tỷ đồng; hỗ trợ trên 252.400 lượt NCT có hoàn cảnh khó khăn với số
tiền trên 68,5 tỷ đồng; cấp thẻ Bảo hiểm Y tế cho trên 81,01% NCT.
Tuy nhiên, ngoài những thành tựu về TGXH cho NCT, tại Hà Nội vẫn còn có
những NCT thuộc hộ nghèo, cận nghèo, cô đơn không nơi nương tựa là nhóm được
hưởng CS BTXH và được chăm sóc miễn phí trong các cơ sở BTXH công lập. Tuy
nhiên, số NCT đang được nuôi dưỡng trong cơ sở BTXH công lập chỉ đạt 323 NCT
(Số liệu này bao gồm cả những NCT cô đơn thuộc hộ nghèo và cận nghèo theo NĐ
82
103 và cả những NCT khuyết tật, tâm thần đang sống trong các cơ sở TGXH khác)
[33]. Trong khi đó, số NCT đủ điều kiện tiếp nhận vào cơ sở BTXH nhưng tự nguyện
và có người chăm sóc tại cộng đồng lên tới 923 người. Đây là một dấu hỏi cần tìm lý
do vì sao NCT không muốn vào các cơ sở BTXH (xem Phụ lục 10).
Với một số khía cạnh nêu ở trên, có thể thấy rằng mặc dù được chính quyền TP
Hà Nội quan tâm và coi công tác NCT là một trong những hoạt động ASXH trọng
điểm của Thành phố, nhưng bức tranh về NCT tại Hà Nội còn tồn tại nhiều vấn đề
như tốc độ già hoá, số lượng NCT (đặc biệt nhóm đại lão) khá cao, các khó khăn về
xã hội, sức khoẻ, nhu cầu chăm sóc, khả năng chi trả và nhu cầu sử dụng cơ sở
TGXH của NCT. Mặc dù Thành phố cũng khuyến khích XHH các dịch vụ TGXH
nhằm đáp ứng các nhu cầu cần thiết của NCT và gia đình, nhưng những con số cho
thấy nhu cầu rất lớn với các dịch vụ CSDH, sự cần thiết phát triển các cơ sở chăm
sóc NCT đáp ứng nhu cầu đa dạng cho nhiều nhóm NCT khác nhau với sự khác biệt
về mức chi trả, giới tính, khu vực địa lý, nhu cầu chăm sóc.
3.2. Đánh giá quy trình thực hiện chính sách phát triển cơ sở chăm sóc người
cao tuổi tại Hà Nội
3.2.1. Xây dựng kế hoạch thực hiện chính sách
3.2.1.1. Thực trạng và kết quả xây dựng kế hoạch thực hiện chính sách
Dựa trên văn bản hướng dẫn thực hiện CS của các cơ quan có thẩm quyền (cấp
bộ), UBND TP Hà Nội giao cho Sở LĐTBXH (cơ quan chủ quản chịu trách nhiệm
thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT tại Hà Nội) cụ thể hoá các văn bản này
sau đó trình UBND phê duyệt. Các văn bản là căn cứ và kế hoạch triển khai thực
hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT trên địa bàn Hà Nội. UBND TP Hà Nội cùng
với các sở ban ngành liên quan đã ban hành các văn bản hướng dẫn chi tiết triển khai
các CS liên quan tới việc phát triển các cơ sở chăm sóc NCT cả công lập và ngoài
công lập trên địa bàn Thành phố dưới dạng Kế hoạch, Quyết định, Công văn chung
của UBND Thành phố và của Sở LĐTBXH. Các văn bản hướng dẫn thực hiện CS hỗ
trợ phát triển cơ sở chăm sóc NCT được tác giả tổng hợp bao gồm Quyết định, kế
hoạch triển khai CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT tại Hà Nội (xem Phụ lục 12).
Dưới đây là tóm tắt và phân tích một số CS cơ bản liên quan tới việc phát triển các cơ
sở chăm sóc NCT tại Hà Nội:
1) QĐ số 2330/QĐ-UBND ngày 22 tháng 5 năm 2015 về việc “Phê duyệt quy
83
hoạch phát triển mạng lưới cơ sở xã hội trên địa bàn TP Hà Nội đến năm 2020, định
hướng đến năm 2030” nhằm triển khai thực hiện quyết định trên của Bộ và Sở. Các
nội dung của QĐ đã thể hiện rõ định hướng tới việc phát triển các cơ sở chăm sóc
NCT trên địa bàn Hà Nội từ quan điểm, mục tiêu cho đến các nội dung và giải pháp
cụ thể.
Về mục tiêu, tăng cường chất lượng dịch vụ và giữ nguyên các cơ sở xã hội
công lập hiện có; Khuyến khích phát triển các cơ sở xã hội ngoài công lập để chăm
sóc nhóm đối tượng đặc biệt, đặc biệt là nhóm NCT; Đẩy mạnh việc xã hội hóa công
tác chăm sóc và nuôi dưỡng nhóm đối tượng BTXH; Khuyến khích các cơ sở xã hội
ngoài công lập tiếp nhận đối tượng BTXH, đặc biệt là nhóm NCT, với hỗ trợ kinh phí
từ thành phố;Tăng cường đầu tư để cải thiện cơ sở hạ tầng và trang thiết bị kỹ thuật
của các cơ sở xã hội, nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu chăm sóc, nuôi dưỡng và phục
hồi chức năng của các nhóm đối tượng BTXH tại cơ sở [52].
Về mặt nội dung, ngoài việc duy trì và phát triển hệ thống các cơ sở TGXH
công lập, Quyết định hướng tới việc phát triển mạng lưới cơ sở TGXH ngoài công
lập nhằm tiếp nhận nuôi dưỡng các nhóm đối tượng BTXH thuộc diện CS và nhóm
có nhu cầu được chăm sóc theo hình thức tự nguyện, chú trọng đến NCT, NKT và
các nhóm đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt. Các giải pháp cụ thể cũng được Quyết
định đưa ra nhằm khuyến khích sự phát triển của các cơ sở TGXH, đặc biệt dành cho
NCT bao gồm:
- Về mặt CS, thực hiện việc nghiên cứu xây dựng và triển khai thực hiện các CS
khuyến khích sự tham gia của các cá nhân, tổ chức trong nước và quốc tế vào việc
đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, trang thiết bị kỹ thuật cho mạng lưới cơ sở xã hội công
lập và ngoài công lập.
- Về ưu đãi, quy hoạch đất sạch đô thị và đầu tư xây dựng, bố trí quỹ đất để phát
triển cơ sở BTXH ngoài công lập tại các quận/huyện/thị xã có diện tích đất chưa sử
dụng còn nhiều, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất của TP Hà Nội đến năm 2030,
định hướng đến năm 2050. Trong đó, có quy định một số CS riêng của Hà Nội bao
gồm: (1) Khu vực các huyện và thị xã Sơn Tây được miễn 100% tiền thuê đất; Khu
vực Ba Đình, Đống Đa, Hai Bà Trưng, Hoàn Kiếm được giảm 30%; Các khu vực còn
lại được giảm 60% tiền thuê đất; (2) Đối với các dự án xã hội hóa thuộc lĩnh vực ưu
đãi đầu tư theo quy định, đơn giá thuê đất áp dụng là 0,5%; các dự án xã hội hóa còn
84
lại áp dụng 1%.
- Về mặt nhân lực, thực hiện tuyển dụng, bổ sung cán bộ/nhân viên CTXH, giáo
viên, y, bác sĩ điều trị và phục hồi chức năng... hàng năm để đảm bảo các cơ sở có đủ
nhân lực phục vụ công tác quản lý, chăm sóc và nuôi dưỡng đối tượng tại cơ sở.
- Về mặt tài chính, TP Hà Nội dự toán nguồn ngân sách cung cấp khoảng cho
hoạt động phát triển các cơ sở TGXH khoảng 1.246 tỷ đồng (xem Phụ lục 13), đẩy
mạnh hợp tác với các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài nhằm tăng cường
thu hút nguồn lực đầu tư cho công tác TGXH, bố trí kinh phí tạo quỹ đất sạch [52].
2) QĐ số 11/2015/QĐ-UBND ngày 19 tháng 05 năm 2015 về việc “Ban hành
quy định về CS khuyến khích xã hội hóa trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, dạy nghề,
y tế, văn hóa, thể dục thể thao, môi trường, giám định tư pháp trên địa bàn TP Hà
Nội”. Điều 02 của Quyết định về việc đầu tư, quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước là cơ
sở vật chất cho đơn vị xã hội hóa thuê đã chỉ rõ: UBND Thành phố quyết định việc
đầu tư, cải tạo nâng cấp quỹ nhà, cơ sở hạ tầng hiện có thuộc nhà nước quản lý (nếu
có đủ điều kiện) hoặc xây dựng mới nhà, cơ sở hạ tầng, một phần hoặc toàn bộ công
trình xã hội hóa để cho các cơ sở thực hiện xã hội hóa thuê có thời hạn. Quyết định
cũng chỉ rõ những ưu đãi cụ thể về cơ chế cho thuê đất, giải phóng mặt bằng, giá thuê
cơ sở hạ tầng, giá thuê đất cũng như tài sản trên đất, thời điểm tính tiền thuê, cơ chế
ứng vốn, thủ tục hồ sơ xét duyệt việc thuê cơ sở vật chất. Các ưu đãi cụ thể khác về
thuế, ưu đãi tín dụng, đào tạo bồi dưỡng cán bộ quản lý và nhân viên của các cơ sở
cũng được chỉ rõ trong Quyết định [55].
3) Kế hoạch số 93/KH-UBND ngày 19 tháng 4 năm 2018 về việc triển khai
thực hiện “Đề án Chăm sóc sức khỏe người cao tuổi giai đoạn 2017-2025” trên địa
bàn TP Hà Nội đến năm 2025. Kế hoạch đã đưa ra các mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể
đối với việc phát triển các cơ sở chăm sóc NCT nhằm đáp ứng ngày càng đầy đủ nhu
cầu chăm sóc sức khỏe dài hạn của NCT tại các cơ sở chăm sóc sức khỏe tập trung
bao gồm: Khuyến khích phát triển các Trung tâm dưỡng lão kết hợp chăm sóc sức
khỏe NCT. Trong kế hoạch cũng xác định rõ nguồn kinh phí chi tiết cho các hoạt
động này theo từng giai đoạn khác nhau [51]. Cần lưu ý cơ sở chăm sóc sức khoẻ do
Bộ Y tế quản lý, trong khi cơ sở chăm sóc NCT được nghiên cứu trong luận án do Bộ
LĐTBXH quản lý triển khai.
4) QĐ số 2478/QĐ-UBND ngày 23/5/2018 về việc ban hành “Kế hoạch thực
hiện Đề án đổi mới, phát triển hệ thống trợ giúp xã hội trên địa bàn TP Hà Nội giai
85
đoạn 2018-2025 và tầm nhìn đến năm 2030”. Trong đó xác định việc nâng cao chất
lượng hoạt động của các cơ sở cung cấp dịch vụ TGXH trên địa bàn và hoàn thiện
mô hình cung cấp dịch vụ toàn diện (DVCS về thể chất và tinh thần) đảm bảo tính
chuyên nghiệp, hiệu quả; thí điểm xây dựng mô hình trợ giúp toàn diện tại 1 cơ sở
BTXH công lập trên địa bàn thành phố; Xây dựng mối liên hệ trong hoạt động trợ
giúp giữa các cơ sở TGXH trên toàn thành phố đảm bảo sự bình đẳng trong quyền
lợi, trách nhiệm và nghĩa vụ trong cung cấp dịch vụ xã hội, trong đó Trung tâm cung
cấp dịch vụ CTXH thành phố có vai trò kết nối, tư vấn sử dụng dịch vụ TGXH trên
địa bàn. Ngoài ra, nghiên cứu hợp nhất một số Trung tâm BTXH có cùng chức năng
nhiệm vụ thành Trung tâm BTXH đa năng. Xây dựng giá dịch vụ đối với DVCS,
nuôi dưỡng dài hạn cho đối tượng tự nguyện (tập trung vào NCT); dịch vụ CTXH và
chăm sóc bán trú cho đối tượng tự nguyện [50].
5) QĐ 5188/QĐ-UBND ngày 09 tháng 12 năm 2021 về việc phê duyệt Đề án
“Sắp xếp, tổ chức lại các cơ sở trợ giúp xã hội trực thuộc Sở Lao động - Thương
binh và Xã hội Hà Nội”. Mục tiêu chính của Quyết định nhằm đổi mới, sắp xếp, tổ
chức lại các cơ sở TGXH thuộc Sở LĐTBXH Hà Nội theo hướng đảm bảo quy mô,
mạng lưới phù hợp với quy hoạch, cơ cấu, địa bàn và tổ chức bộ máy tinh gọn, hợp
lý, giảm đầu mối, hoạt động hiệu quả, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, viên
chức, người lao động. Bên cạnh đó, phát triển hệ thống dịch vụ công về TGXH
chuyên nghiệp, toàn diện, đảm bảo chất lượng, đáp ứng nhu cầu của xã hội. Mở rộng
các dịch vụ tư vấn, tham vấn, chăm sóc, phục hồi chức năng, TGXH đối với các
nhóm đối tượng tại cộng đồng và cung cấp dịch vụ cho các đối tượng có nhu cầu và
tự nguyện đóng góp kinh phí (đặc biệt là nhóm NCT). Đề án cũng ưu tiên việc mở
rộng công suất, nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng đối tượng BTXH thông
qua việc đầu tư cơ sở vật chất và các trang thiết bị cần thiết cho các cơ sở TGXH
nằm trong kế hoạch.
6) Kế hoạch số 30/KH-UBND ngày 26 tháng 01 năm 2022 về việc “Thực hiện
Chương trình hành động quốc gia về NCT đến năm 2030 trên địa bàn TP Hà Nội”.
Mục tiêu chung của kế hoạch đề cập tới việc phát triển, nâng cao chất lượng hệ thống
DVCS xã hội NCT và huy động khu vực tư nhân vào tham gia cung cấp DVCS sức
khỏe cho NCT. Các nhiệm vụ và giải pháp cụ thể đưa ra bao gồm việc phát triển
mạng lưới cơ sở TGXH cung cấp DVCS, phục hồi chức năng đối với NCT (công lập
86
và ngoài công lập; hỗ trợ nâng cấp, sửa chữa các cơ sở TGXH về cơ sở vật chất, kỹ
thuật và trang thiết bị đạt tiêu chuẩn quy định, bảo đảm có các phân khu chức năng,
các hạng mục công trình đáp ứng hoạt động chăm sóc, phục hồi chức năng cho NCT [53].
Có thể thấy số lượng văn bản triển khai còn ít về số lượng, chỉ có 04 văn bản cụ
thể về phát triển cơ sở chăm sóc NCT tại Hà Nội. Các văn bản khác về CS phát triển
cơ sở chăm sóc NCT công lập và ngoài công lập được thể hiện chỉ là một hợp phần
trong CS về NCT và chăm sóc NCT nói chung. Trong các văn bản kế hoạch triển
khai của UBND và các Sở, kế hoạch triển khai phát triển cơ sở chăm sóc NCT không
được tách riêng mà lồng ghép trong kế hoạch chung như: Kế hoạch thực hiện chương
trình quốc gia về NCT, Kế hoạch triển khai đề án thực hiện chăm sóc sức khoẻ cho
NCT tại Thành phố Hà Nội… hoặc được triển khai thực hiện trên cơ sở văn bản CS
gốc như QĐ 2330/QĐ-UBND về quy hoạch phát triển mạng lưới cơ sở TGXH.
Trong tất cả các văn bản, chỉ có QĐ 2330/QĐ-UBND thể hiện mục tiêu, giải pháp,
nguồn lực, mốc thời gian và kết quả mong đợi khi triển khai (1) CS sáp nhập cơ sở
TGXH công lập, (2) Duy trì số cơ sở TGXH công lập và (3) Phân bổ ngân sách và
giải ngân cho cơ sở TGXH công lập và ngoài công lập [52]. Ở các văn bản khác, chỉ
tiêu phát triển các cơ sở TGXH ngoài công lập không được đặt ra mà chỉ được coi là
một phần của mục tiêu hoặc nhiệm vụ/ hoạt động cần thực hiện.
3.2.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng theo mô hình 7C đến bước xây dựng kế hoạch thực
hiện chính sách
- Yếu tố nội dung: Hệ thống văn bản triển khai CS được xây dựng đầy đủ, có
cấu trúc phù hợp theo các tiêu chuẩn chung; các mục tiêu chung và giải pháp được
đưa ra phù hợp với mục tiêu chung của cả nước, các công cụ CS ưu đãi đầy đủ, đáp
ứng được nhu cầu của các đối tượng hưởng lợi và có tác động thúc đẩy nhu cầu đầu
tư cơ sở.
Hệ thống văn bản triển khai tại Hà Nội được ban hành dựa trên các văn bản gốc
ở nhiều các cấp độ nhau từ Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc Hội, Chủ tịch nước,
chính phủ, Thủ Tướng chính phủ, Bộ trưởng, thủ tưởng cơ quan ngang bộ, Hội đồng
nhân dân, Uỷ ban nhân dân các cấp, các Sở đã thể hiện quan điểm thống nhất của Hà
Nội so với những quy định khá toàn diện về CS TGXH và điều kiện thành lập, hoạt
động, giải thể các cơ sở TGXH nói chung và cơ sở chăm sóc NCT nói riêng của Việt
Nam (bao gồm cả nhóm công lập và ngoài công lập). Bên cạnh những văn bản mang
tính định hướng từ chính phủ, các bộ ban ngành, UBND thành phố HN cũng đã xây
87
dựng rất nhiều các văn bản CS con nhằm cụ thể hoá các văn bản khung nhằm giúp
ích cho việc triển khai thực hiện và giám sát đánh giá quá trình thực hiện CS (xem
Phụ lục 11). Theo các ý kiến khảo sát từ các đối tượng khác nhau tham gia trong tiến
trình thực hiện các CS, 38/42 người được hỏi cho rằng các văn bản CS hiện hành
được xây dựng đầy đủ, đảm bảo các thành tố của một văn bản CS.
Đánh giá nội dung các văn bản triển khai, dưới góc nhìn của các bên liên quan,
42/42 đối tượng khảo sát và 03 thảo luận nhóm cùng cho rằng các mục tiêu, bao gồm
mục tiêu cụ thể, giải pháp và công cụ CS đáp ứng được nhu cầu của các đối tượng
hưởng lợi. Cụ thể, nhu cầu chủ yếu của các cơ sở chăm sóc NCT là nhu cầu về mặt
bằng, xây dựng cơ sở vật chất, cũng như nhu cầu được hỗ trợ về giá thuê và các loại
thuế phí khác (VAT, thu nhập doanh nghiệp, phí trước bạ). Các quy định hỗ trợ liên
quan tới khía cạnh này đã được quan tâm và chỉ rõ trong các văn bản như: NĐ số
69/2008/NĐ- CP; NĐ số 59/2014/NĐ- CP; QĐ số 693/QĐ-TTg; QĐ số 1470/QĐ-
TTg; Thông tư 135/2008/TT-BTC; NĐ số 16/2015/NĐ-chính phủ ngày 14/02/2015;
NĐ số 141/2016/NĐ- CP ngày 10/10/2016; QĐ số 1508/QĐ-TTg ngày 27/7/2016;
QĐ 2857/QĐ-UBND ngày 18/5/2017; QĐ số 11/2015/QĐ-UBND ngày 19/05/2015
của UBND TP Hà Nội.
Các văn bản CS được xây dựng cho thấy các giải pháp hỗ trợ nhiều mặt cho các
cơ sở này từ việc giao đất, cho thuê đất, thuê hoặc xây dựng cơ sở vật chất, tới các
CS ưu đãi liên quan tới thuế, vay vốn, đào tạo nguồn nhân lực có tác động giảm chi
phí đầu tư – nguồn chi phí chiếm lượng lớn nhất trong tổng đầu tư cơ sở chăm sóc
NCT. Các cơ sở đặc biệt quan tâm đến CS ưu đãi về đất đai và cho rằng nếu giải
quyết được bài toán đất đai, là giải quyết bài toán về định mức đầu tư, từ đó giảm chi
phí mà cơ sở phải gánh, hay đúng hơn là NCT và gia đình NCT phải chi trả.
“Hệ thống các CS rất đầy đủ, ưu việt và rộng rãi. Nội dung các văn bản CS rất chi tiết, rõ
ràng và đầy đủ các nội dung, các giải pháp đề ra đáp ứng phù hợp với các nhu cầu của
cơ sở chăm sóc, đặc biệt các quy định hỗ trợ về đất, ưu đãi về thuế là những điều các cơ
sở cần để giảm chi phí đầu tư ban đầu”.
(Thảo luận nhóm số 01)
Hộp 3.1: Ý kiến đánh giá tích cực về nội dung CS
Các CS tạo điều kiện phát triển hệ thống các cơ sở TGXH ngoài công lập nhằm
tiếp nhận nuôi dưỡng các nhóm đối tượng BTXH thuộc diện CS và nhóm có nhu cầu
được chăm sóc theo hình thức tự nguyện cũng được coi trọng. Khuyến khích các cơ
88
sở xã hội ngoài công lập tiếp nhận đối tượng BTXH, đặc biệt đối với nhóm NCT,
theo mức hỗ trợ đóng góp kinh phí theo mức trợ cấp xã hội như đối tượng được nuôi
dưỡng tại cộng đồng là hướng đi đúng giảm gánh nặng của nhà nước. Bởi vậy, giải
pháp tăng cường đầu tư cải thiện chất lượng cơ sở hạ tầng và trang thiết bị kỹ thuật
của các cơ sở xã hội nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu được chăm sóc, nuôi
dưỡng và phục hồi chức năng của các nhóm đối tượng BTXH tại cơ sở công lập và
ngoài công lập đều là những giải pháp tốt.
Tuy nhiên mục tiêu cụ thể chưa thể hiện tính định lượng rõ ràng về việc phát
triển các cơ sở chăm sóc NCT làm cản trở tầm nhìn của các bên liên quan. Các kế
hoạch triển khai chỉ được lồng ghép trong kế hoạch chung của TP, Sở LĐTBXH, Tài
Chính; các sở khác không xây dựng kế hoạch cụ thể hoặc phụ thuộc văn bản CS gốc
để thực hiện.
Trong quá trình phân tích văn bản CS, tác giả nhận thấy nội dung các văn bản
CS và các báo cáo đều gộp chung số liệu về mục tiêu cụ thể giữa các cơ sở TGXH
chăm sóc NCT, trẻ em, NKT, người tâm thần. Các mục tiêu cụ thể về số lượng cơ sở,
số lượng người được bảo trợ đều được tính gộp trong các văn bản. Ngoài ra, các mục
tiêu cụ thể về đẩy mạnh XHH, đầu tư cải thiện chất lượng cơ sở hạ tầng, điều chỉnh
mức trợ cấp đối tượng bảo trợ xã hội đều không đưa ra được con số cụ thể. Điều này
làm cản trở tầm nhìn của cán bộ thực hiện CS trong việc xây dựng kế hoạch hỗ trợ
các cơ sở chăm sóc NCT phát triển.
- Yếu tố bối cảnh: việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT được đưa
ra trong bối cảnh văn bản quy phạm pháp luật mang tính định khung và các văn bản
hướng dẫn thực hiện đã được hình thành thành hệ thống, phù hợp quan điểm thống
nhất của Đảng và Nhà nước.
Quan điểm của Đảng và Nhà nước được phân tích ở mục 2.6 cho thấy sự ủng
hộ mạnh mẽ khi đưa ra định hướng về sự phát triển các cơ sở chăm sóc NCT trước
thách thức già hoá dân số. Mặc dù, Đảng và Nhà nước vẫn ưu tiên sự phát triển của
mô hình chăm sóc NCT tại gia đình và cộng đồng, nhưng cũng thể hiện sự đồng tình
ủng hộ phát triển hệ thống ASXH, đa dạng hoá các khu vực chăm sóc NCT, mở rộng
sang cả kinh tế tư nhân, hỗ trợ khu vực ngoài công lập khác như tôn giáo, từ thiện,
doanh nghiệp nước ngoài trong việc chăm sóc NCT và khuyến khích XHH với các cơ
sở TGXH công lập [31, 41]. Cụ thể ở đây Luật NCT 2009, Luật Quy hoạch, Luật đầu
tư, Định hướng phát triển và chiến lược của quốc gia về NCT phù hợp và tạo khung
89
pháp lý thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT. Điều này được thể hiện thành
văn trong các văn bản dưới Luật như QĐ 1781/QĐ-TTg, QĐ 2156/QĐ-TTg về
Chương trình hành động quốc gia về người cao tuổi giai đoạn 2012-2020, 2021 –
2030 với mục tiêu của Chương trình đã nêu rõ: “Hoàn thiện CS trợ giúp xã hội
hướng tới đảm bảo mức sống tối thiểu cho người cao tuổi; phát triển, nâng cao chất
lượng hệ thống DVCS xã hội người cao tuổi, chú trọng người cao tuổi khuyết tật,
người cao tuổi thuộc diện nghèo không có người phụng dưỡng, người cao tuổi dân
tộc thiểu số; huy động khu vực tư nhân vào tham gia cung cấp DVCS người cao
tuổi” [40]. Theo tổng hợp từ kết quả nghiên cứu, một loạt các văn bản dưới luật
(Quyết định, Nghị định, Thông tư, Kế hoạch…) với các chủ thể ban hành khác nhau
ở các cấp, ngành đã được triển khai đã đảm bảo tính hệ thống của CS (xem Phụ lục 8,
11). Điều này giúp các chủ thể tại Hà Nội thực hiện trong việc hiểu, triển khai CS.
Đồng thời, các văn bản liên quan đến CS ưu đãi cho cơ sở chăm sóc NCT phù hợp
với các CS XHH trong lĩnh vực giáo dục, y tế… Khảo cứu các văn bản của Hà Nội hiện
nay cho thấy có sự thống nhất với hệ thống văn bản của toàn quốc, tạo điều kiện thuận
lợi về hành lang pháp lý để các CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT được triển khai.
“Các CS được ban hành thường nhằm chi tiết hoá các điều luật, do đó đảm bảo tính
thống nhất và phù hợp với các mục tiêu và giải pháp của chương trình hành động quốc
gia về NCT trong những năm gần đây, thuận lợi cho Sở triển khai CS tới các cấp và các
cơ sở.”
(Nữ, cán bộ CS cấp Sở, 54 tuổi)
Hộp 3.2: Ý kiến đánh giá về sự phù hợp của CS trong hệ thống pháp luật
-Yếu tố năng lực: Cán bộ Sở LĐTBXH và Sở Tài chính hiểu rõ về CS được
phân công phụ trách, nhưng cán bộ cấp Sở ở các ngành khác không nắm rõ các CS
liên ngành. Cùng với sự hạn chế về nguồn nhân lực và kinh phí, các kế hoạch cụ thể
về việc triển khai chính sách không được xây dựng.
Ngoài Sở LĐTBXH có phân công cán bộ CS phụ trách lĩnh vực quản lý cơ sở
TGXH và Sở Tài chính có cán bộ được phân công phụ trách tài chính tại các cơ sở
TGXH công lập, cán bộ các sở khác cho biết đã nghe nói đến CS này nhưng để thực
hiện cần nghiên cứu cụ thể hơn. Sự hiểu biết của cán bộ CS Sở LĐTBXH và Tài
chính xuất phát từ việc triển khai văn bản CS do cấp trên ban hành, nhưng các Sở
khác, sự hiểu biết của cán bộ là do quá trình tiếp xúc với người dân (chủ cơ sở, các
nhà đầu tư) đến làm việc về chế độ CS. Bởi vậy, dù CS được ban hành từ năm 2008,
90
nhưng đến nay, khả năng hiểu, thực hiện của các Sở liên ngành còn nhiều hạn chế.
Các kế hoạch về cơ chế giám sát được thực hiện theo định kỳ, theo năm hoặc diễn ra
đột xuất như các văn bản kế hoạch khác.
“Trong giai đoạn đầu thành lập cơ sở, anh có đi hỏi các cán bộ CS ở Sở Xây dựng, Tài
nguyên môi trường nhưng họ còn không biết tới các CS hỗ trợ hiện có. Họ còn chỉ dẫn
lòng vòng sang các cơ quan khác để hỏi thông tin”
(Nam, chủ cơ sở ngoài công lập, 65 tuổi)
“CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT có nhưng chủ yếu là bên Sở LĐTBXH quản lý, bởi
vậy bên Sở chỉ có trách nhiệm phối hợp khi cần thiết”
(Nam, cán bộ CS cấp Sở, 42 tuổi)
Hộp 3.3: Ý kiến về việc hiểu nội dung và lập kế hoạch thực hiện CS
Ngay cả khi hiểu về CS, cán bộ thực thi CS cũng cho rằng, sự hạn chế của các
văn bản triển khai phần lớn là do sự thiếu hụt về nguồn lực: tài lực và mức độ ưu tiên
trong việc xây dựng các CS liên quan đến người cao tuổi. Nói cách khác, việc phát
triển cơ sở TGXH ngoài công lập đã được quan tâm, nhưng khi chưa đưa thành chỉ
tiêu hành động cụ thể, việc phân bổ nguồn lực thực hiện và thống nhất trong cách
hiểu của chủ thể thực hiện CS để triển khai hiệu quả sẽ có nhiều hạn chế khi cần cơ
chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước.
“Hiện nay kinh phí của Thành phố không có để thực hiện những sự hỗ trợ cho các hoạt
động XHH dịch vụ chăm sóc NCT vì còn nhiều lĩnh vực cần quan tâm, bức thiết hơn”
(Nữ, cán bộ CS cấp Sở, 47 tuổi)
Hộp 3.4: Ý kiến về năng lực/nguồn lực xây dựng kế hoạch thực hiện CS
- Yếu tố cam kết: Sự ủng hộ của lãnh đạo dừng ở cam kết lời nói/văn bản mà
chưa đi vào hành động cụ thể, các kế hoạch công tác cá nhân của cán bộ thực hiện
CS không được đưa vào xây dựng, đánh giá chỉ tiêu thực hiện.
UBND TP Hà Nội, ngoài việc thể hiện sự cam kết và tham gia tích cực với vai
trò là đơn vị chỉ đạo trong việc ban hành các CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT trên
địa bàn thành phố thì cũng đã thể hiện sự tham gia tích cực trong việc triển khai các
kế hoạch nhằm thực hiện các CS được ban hành. Đây đều là các chương trình kế
hoạch khung chi tiết nhằm giúp định hướng cho các sở ban ngành khác trong việc
triển khai các CS về phát triển cơ sở chăm sóc NCT trên địa bàn thành phố. Tuy
nhiên, các kế hoạch triển khai của UBND được xây dựng dựa trên tờ trình của Sở
LĐTBXH. Sở LĐTBXH hoàn toàn chủ động trong việc lập kế hoạch. UBND TP Hà
91
Nội không có cá nhân được phân công phụ trách riêng mảng phát triển cơ sở chăm
sóc NCT mà lồng ghép trong các CS chăm sóc NCT khác. Tại các sở, việc xây dựng
kế hoạch công tác cá nhân để hỗ trợ các cơ sở ngoài công lập không được đưa vào kế
hoạch công tác năm. Chỉ có các hoạt động với cơ sở công lập được cán bộ Sở
LĐTBXH đưa vào kế hoạch hoạt động hàng năm. Nói cách khác, sự cam kết của chủ
thể thực hiện CS chỉ thể hiện ở lời nói (bằng miệng hoặc văn bản kế hoạch) mà
không có hành động cụ thể.
- Yếu tố sự phối hợp: xây dựng kế hoạch triển khai CS giữa các bên liên quan
rất mờ nhạt do thiếu tầm nhìn chung về mục tiêu và giải pháp.
Trong các văn bản, việc phối hợp thực hiện triển khai các kế hoạch cũng đã
được thể hiện rõ, tuy nhiên, kết quả nghiên cứu cho thấy việc phối hợp xây dựng kế
hoạch triển khai còn hạn chế. Do kế hoạch phát triển cơ sở chăm sóc NCT là một
trong nhiều nhiệm vụ cần thực hiện, nên các Sở tập trung thảo luận xây dựng kế
hoạch thực hiện các CS khác thiết thực hơn. Đồng thời, trong văn bản kế hoạch, các
mục tiêu cụ thể không được xây dựng rõ ràng, mà chỉ phân công phối hợp thực hiện
dựa trên cơ sở nhiệm vụ của từng Sở, bởi vậy, việc thực hiện và điều chỉnh kế hoạch
thực hiện theo từng Sở không rõ ràng, gây cản trở đến việc xây dựng văn bản CS.
- Yếu tố truyền thông: Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng kế hoạch truyền thông
về các CS phát triển các dịch vụ và cơ sở chăm sóc NCT không được xây dựng.
Mặc dù kế hoạch phổ biến CS được quan tâm và thể hiện trong các văn bản,
nhưng nội dung truyền thông được thành phố chỉ đạo các sở, ngành liên quan, cơ
quan truyền thông xây dựng chuyên mục và dành thời lượng phát sóng tuyên truyền
về chủ trương, CS của Đảng, Nhà nước và Thành phố đối với NCT, nội dung và kết
quả triển khai thực hiện Luật NCT, các sự kiện quan trọng liên quan đến NCT như
ngày Người cao tuổi Việt Nam 6/6, ngày Quốc tế Người cao tuổi 01/10..., phổ biến
kiến thức, kỹ năng phòng ngừa, chăm sóc sức khỏe cho NCT. Kế hoạch truyền thông
tới các cơ sở TGXH hoặc các nhà quản lý/ chủ cơ sở/ nhà đầu tư không được xây
dựng để thực hiện.
Tóm lại, trong bước Xây dựng kế hoạch, các văn bản đã được xây dựng để định
hướng thực hiện CS và nhận được sự ủng hộ và chỉ đạo chung của lãnh đạo TP Hà
Nội, tuy nhiên bước thực hiện này vẫn còn nhiều hạn chế. Nguyên nhân là do các kế
hoạch chủ yếu được triển khai dựa trên các văn bản gốc, hoặc chỉ là một hợp phần
nhỏ trong kế hoạch triển khai các chương trình/ đề án cho NCT, cùng với việc kế
92
hoạch không được triển khai cụ thể về mục tiêu và giải pháp (trừ kế hoạch đối với cơ
sở TGXH công lập) nên thiếu tầm nhìn chung giữa các Sở, thiếu tầm nhìn chung để
các cán bộ CS xây dựng kế hoạch hoạt động theo năm để đánh giá về công việc của
cá nhân. Đồng thời, chỉ có kế hoạch ngân sách được xây dựng, các kế hoạch về
truyền thông, kế hoạch nhân lực không được xây dựng kịch bản.. sẽ làm giảm hiệu
quả thực hiện, đồng thời giảm hiệu quả đánh giá, giám sát CS này.
3.2.2. Tuyên truyền, phổ biến chính sách
3.2.2.1 Thực trạng và kết quả tuyên truyền, phổ biến chính sách
Sở LĐTBXH có trách nhiệm chủ động tuyên truyền, phổ biến CS phát triển cơ
sở chăm sóc NCT, đặc biệt là các CS khuyến khích xã hội hoá và cung cấp thông tin
về các hoạt động triển khai và kết quả thực hiện cho các cơ quan báo chí để thực hiện
công tác thông tin, tuyên truyền đạt hiệu quả. Sở Tài chính có trách nhiệm truyền
thông CS ưu đãi, miễn/giảm thuế, vay vốn cho các cơ sở. Thành phố đã chỉ đạo các
sở, ngành liên quan, cơ quan truyền thông xây dựng chuyên mục và dành thời lượng
phát sóng tuyên truyền về chủ trương, CS của Đảng, Nhà nước và Thành phố.
Với sự phát triển của công nghệ, hệ thống các văn bản CS sau khi ban hành
được truyền thông một cách nhanh chóng và rộng rãi hơn tới các đối tượng liên quan
thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng, cổng thông tin điện tử mở, hoặc
hệ thống thông tin nội bộ của các ban ngành. Chẳng hạn đối với ngành LĐTBXH,
các đơn vị trực thuộc (bao gồm cả cơ sở TGXH công lập) có thể tiếp cận tới các văn
bản CS mới nhất thông qua tài khoản trên hệ thống thông tin nội bộ riêng được triển
khai từ năm 2015 (https://intranet.molisa.gov.vn), hoặc được cập nhật thông qua
email của tổ chức. Bên cạnh đó, với hệ thống cổng thông tin điện tử mở, các văn bản
CS, các bài viết, chuyên mục có liên quan tới việc phát triển cơ sở chăm sóc NCT,
các sự kiện quan trọng liên quan đến NCT cũng được Thành phố cập nhật trên các
trang như: www.solaodong.hanoi.gov.vn; www.hanoi.gov.vn; www.hanoi.gov.vn, và
các cơ quan báo chí truyền thông điện tử khác cũng tham gia tích cực trong việc đưa
tin về các hoạt động này.
3.2.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến bước tuyên truyền, phổ biến chính sách
- Yếu tố nội dung: Nội dung tuyên truyền, phổ biến CS không được xây dựng
tập trung vào CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT cho đối tượng thụ hưởng trực tiếp..
Do bước xây dựng kế hoạch không tập trung vào nội dung truyền thông về CS
93
phát triển cơ sở chăm sóc NCT, nên nội dung truyền thông của các cơ quan truyền
thông đại chúng hiện nay tập trung vào việc triển khai thực hiện Luật NCT, Kế hoạch
hành động vì NCT Việt Nam, CS ưu đãi với NCT và các sự kiện quan trọng có liên
quan tới NCT. Nên mặc dù các chương trình truyền thông có nhiều, nhưng việc tập
trung nội dung truyền thông vào CS phát triển và khuyến khích các cơ sở ngoài công
lập cung cấp DVCS cho NCT còn rất hạn chế.
- Yếu tố bối cảnh: Yếu tố xã hội và văn hoá trong bối cảnh ở Hà Nội hiện nay
có tác động thúc đẩy sự thành công của việc tuyên truyền, phổ biến chính sách phát
triển cơ sở TGXH ngoài công lập, ngược lại những định kiến xã hội đang tồn tại là
rào cản lộ trình xã hội hoá của các cơ sở TGXH công lập.
Những yếu tố xã hội bao gồm các đặc trưng nhân khẩu, xã hội, vấn đề già hoá
của NCT phù hợp với định hướng tuyên truyền, phổ biến CS phát triển cơ sở chăm
sóc đáp ứng nhu cầu của NCT và gia đình NCT. Nhu cầu tự thân của nhóm NCT, đặc
biệt là nhóm đại lão, nhóm NCT nữ và NCT ở khu vực nông thôn, dân tộc thiểu số.
Bên cạnh đó, làn sóng di dân đô thị gia tăng kéo theo số lượng NCT nhóm sơ lão và
trung lão ở các khu vực thành thị, đặc biệt là vùng Đồng bằng sông Hồng (Hà Nội)
có nhu cầu chăm sóc tăng cao. Cộng với sự thu hẹp của mô hình gia đình hiện nay,
sự chuyển dịch phân công lao động giữa nam và nữ trong việc chăm sóc NCT cùng
tỷ lệ sống chung của NCT ở Việt Nam với con cái, người thân giảm đáng kể khiến
nhu cầu chăm sóc bởi lực lượng chăm sóc chuyên nghiệp được nảy sinh [138]. Quan
trong hơn cả, NCT với sự suy giảm sức khoẻ, tình trạng khuyết tật và khả năng thực
hiện các hoạt động sinh hoạt hàng ngày khiến việc chăm sóc cho NCT cần được nâng
cao về chất lượng. Lực lượng chăm sóc cho NCT cần được đào tạo về trình độ,
chuyên môn như các lực lượng chính thức (nhân viên CTXH, điều dưỡng, bác sĩ…)
để chăm sóc cả mặt xã hội, sức khoẻ cho NCT chứ không chỉ sử dụng lực lượng
chăm sóc không chính thức bao gồm thành viên gia đình, tình nguyện viên như trước
[5]. Bên cạnh các giải pháp thích ứng với bối cảnh già hoá dân số, các giải pháp về
quản lý nhà nước nhằm tăng cường tính tự chủ của các cơ sở TGXH công lập dẫn
đến CS khuyến khích xã hội hoá cung cấp dịch vụ cho các đối tượng tự nguyện của
cơ sở TGXH công lập cũng là hướng đi tất yếu phù hợp với sự phát triển của xã hội
94
giống như các lĩnh vực y tế, giáo dục.
Hộp 3.5: Ý kiến đánh giá về sự phù hợp của CS đối với vấn đề già hoá dân số và nhu
“Đường hướng lâu dài về việc phát triển các cơ sở chăm sóc NCT là phù hợp. Nhiều NCT
hiện nay có kinh tế và họ không muốn phụ thuộc vào con cái mình”
(Nữ, quản lý cơ sở TGXH ngoài công lập, 37 tuổi)
“Các quy định về XHH dịch vụ chăm sóc NCT đã tạo điều kiện cho các cơ sở TGXH công
lập có thêm các hoạt động phù hợp với chức năng, nâng cao năng lực chuyên môn cán bộ
nhằm đáp ứng với xu thế, nâng cao tính chuyên nghiệp và gia tăng thu nhập cho cơ sở”
(Nam, cán bộ quản lý cơ sở TGXH công lập, 45 tuổi)
cầu của NCT
Sự thay đổi nhận thức của xã hội, đặc biệt là những người sống ở khu vực đô
thị với góc nhìn tiến bộ và ủng hộ việc NCT sống trong các cơ sở TGXH ngoài công
lập, ngược lại hoàn toàn với những định kiến về việc sống trong các cơ sở TGXH
công lập. Các cơ sở CSDH cho NCT theo mô hình dưỡng lão chỉ mới phát triển ở
khu vực thành thị như Hà Nội (một trong hai nơi có số lượng cơ sở TGXH cho NCT
lớn nhất cả nước cùng Hồ Chí Minh) bởi đô thị là nơi người dân có nhận thức tốt hơn
về việc chăm sóc sức khoẻ toàn diện cho NCT, cũng như điều kiện về mặt kinh tế để
sử dụng loại hình dịch vụ này. Tuy vẫn còn những sự phản đối ít nhiều của cộng
đồng về các loại hình dưỡng lão và chăm sóc NCT, nhưng sự thay đổi tích cực về
nhận thức đã thể hiện rõ cũng như có xu hướng ủng hộ nhiều hơn cho mô hình này
trong tương lai [56]. Trái lại, các cơ sở TGXH công lập do thường thành lập trên 20
năm, được xã hội đánh giá là nơi có cơ sở vật chất kém, chỉ dành cho đối tượng
nghèo, cận nghèo, lang thang không người chăm sóc, dịch vụ chăm sóc không
chuyên nghiệp như tại các cơ sở TGXH ngoài công lập. Bởi vậy, dư luận xã hội và
bản thân NCT, gia đình NCT không ủng hộ việc đưa NCT sinh sống tại các cơ sở
công lập mặc dù mức phí phải trả khá thấp. Điều này giải thích vì sao nhu cầu NCT
cần CSDH tại Hà Nội rất lớn, nhưng số lượng NCT tại các cơ sở TGXH công lập có
xu hướng giảm đi từ năm 2015- 2021, NCT đủ điều kiện vào cơ sở TGXH nhưng vẫn
quyết định sống tại cộng đồng dù không có người chăm sóc cao hơn 3 lần so với
lượng NCT đồng ý vào sống trong các cơ sở bảo trợ [38, 47]. Nói cách khác, nhận
thức của xã hội hiện nay là một rào cản lớn với lộ trình XHH các cơ sở TGXH công
lập để nâng cao chất lượng DVCS tại đây.
Truyền thống con cái có nghĩa vụ chăm sóc cha mẹ là phổ biến và mô hình
95
chăm sóc tại gia đình, cộng đồng vẫn được ưu tiên bởi vậy việc xây dựng dịch vụ
chăm sóc NCT ban ngày tại các cơ sở TGXH sẽ là một hướng phát triển phù hợp với
văn hoá Việt Nam hơn so với CSDH tập trung tại cơ sở. Theo Viện Chiến lược và
Chính sách Y tế [56] trong nghiên cứu “Tìm hiểu nhận thức, thái độ và nhu cầu sống
trong các Trung tâm dưỡng lão của NCT Việt Nam”, quan điểm “nên để NCT sống
trong trung tâm dưỡng lão” nhận được nhiều quan điểm khác nhau (đồng tình/không
đồng tình). Kết quả nghiên cứu cho thấy quan điểm không ai chăm sóc cha mẹ bằng
con cái là phổ biến và mô hình chăm sóc tại gia đình hiện nay vẫn khá phù hợp với
điều kiện hoàn cảnh và truyền thống văn hóa tại Việt Nam. Đặc biệt, suy nghĩ này
không chỉ xuất phát từ NCT mà ngay cả những người trẻ tuổi cũng đồng tình với
quan điểm này. Bởi vậy, nếu chỉ tập trung phát triển dịch vụ CSDH tập trung tại các
cơ sở TGXH cho NCT sẽ không phải là hướng phát triển phù hợp với bối cảnh văn
hoá. Hiện nay, theo báo cáo của Sở LĐTBXH Hà Nội, chỉ có duy nhất 01 cơ sở
TGXH ngoài công lập cung cấp dịch vụ chăm sóc NCT ban ngày, bởi vậy nếu nhận
thức được tốt yếu tố văn hoá để khuyến khích thực hiện CS đa dạng các loại hình
dịch vụ cung cấp bao gồm bán trú, nội trú và tích hợp mô hình chăm sóc với gia đình,
cộng đồng trong các cơ sở chăm sóc NCT, sẽ tạo động lực thúc đẩy tốt hơn cho sự
phát triển của các cơ sở chăm sóc NCT tại Hà Nội [36, 43].
“Nhu cầu của người dân tăng cao và nhận thức của họ cũng tốt hơn về việc chăm sóc
NCT, có những thay đổi tích cực về quan điểm truyền thống phụng dưỡng NCT tại gia
đình. Vì thế, việc triển khai các CS XHH và phát triển các cơ sở rất thuận lợi và phù hợp”
(Nam, cán bộ CS cấp Bộ, 58 tuổi)
“Nhu cầu của người dân rất lớn nhưng nhiều trường hợp các cụ đến sống tại trung tâm
BTXH chỉ ở một thời gian rồi dời đi dưới áp lực của gia đình và hàng xóm do quan điểm
trung tâm BTXH dành cho người nghèo, không ai chăm sóc mặc dù mức phí thấp hơn
đáng kể so với các cơ sở TGXH ngoài công lập”
(Thảo luận nhóm số 02)
Hộp 3.6: Ý kiến đánh giá về sự phù hợp của CS đối với vấn đề văn hoá
- Yếu tố năng lực: Năng lực tuyên truyền, phổ biến CS trong Sở LĐTBXH và
giữa các sở không đồng đều, phụ thuộc ở sự chủ động của các cơ sở chăm sóc NCT.
Do CS chăm sóc NCT được ngành LĐTBXH chủ trì nên cán bộ ngành
LĐTBXH hiểu rõ nhất về CS để hướng dẫn các cơ sở hoàn thiện thủ tục hồ sơ,
hưởng ưu đãi CS. Tuy nhiên, năng lực này được phát triển qua quá trình hơn 10 năm
96
(từ khi Nghị định 68/2008/NĐ- CP) ra đời, và cán bộ CS tại Hà Nội đã hỗ trợ cho
hơn 15 cơ sở hoàn thiện thủ tục (tính đến 2022) và thực hiện các công việc hành
chính để thành lập và vận hành cơ sở. Nhưng nguồn nhân lực của Sở LĐTBXH cũng
hạn chế do Sở phân công 02 cán bộ phụ trách mảng này, trong đó có 01 cán bộ phụ
trách chính thức, 01 cán bộ còn lại hỗ trợ (do mới đảm nhiệm công việc). Bởi vậy,
năng lực hiểu về CS này để tuyên truyền của Sở hiện nay phụ thuộc chủ yếu vào 01
cán bộ.
Thêm vào đó, tại các sở khác, khi các chủ cơ sở/nhà đầu tư tiếp cận hỏi về CS,
đa phần các Sở không được biết đến hoặc cán bộ tại các sở hiểu khác nhau về CS. Số
lượng cán bộ tại các sở khác khi được phỏng vấn có thể gọi đúng tên văn bản CS và
nội dung CS chỉ đạt 4/12 cán bộ nói chính xác. Cán bộ CS cơ bản hiểu CS của ngành
mình phụ trách mà không có sự hiểu biết CS liên ngành, thậm chí ngoài ngành
LĐTBXH, cán bộ các ngành khác không nắm được CS mình có trách nhiệm thực
hiện. Điều này gây khó khăn cho các chủ cơ sở và nhà đầu tư đến tìm hiểu về CS.
Bởi vậy, các chủ cơ sở muốn hiểu và thụ hưởng CS phải chủ động tìm hiểu bằng
cách đọc thông tin hoặc trao đổi theo nhóm phi chính thức.
“Khi mọi chi phí cao quá, mình phải tự tìm kiếm thông tin về các CS trên mạng và chủ
động liên lạc với các bên liên quan để xin hỗ trợ. Tuy nhiên việc này thường gặp khó khăn
vì chính các Sở cũng không biết đến các CS này. Như Điện lực không biết đến CS hỗ trợ
về giá điện, hoặc Tài nguyên không biết về CS ưu đãi thuê đất”.
(Nữ, chủ cơ sở ngoài công lập, 37 tuổi)
“Làm việc với các chủ cơ sở nhiều và lâu năm nên chị hiểu rõ các CS. Ở các Sở tỉnh khác
ít có cơ hội làm việc còn không hiểu đúng về CS phải gọi điện hỏi chị”.
(Nữ, cán bộ CS cấp Sở, 54 tuổi)
“Cơ chế CS vĩ mô nhà nước xây dựng ổn, nhưng mỗi Sở thực hiện một kiểu khác nhau mà
không có cách hiểu chung về CS về các từ ngữ, thậm chí các địa phương mỗi nơi lại hiểu
một kiểu khác nhau hướng dẫn mình khác nhau”
(Nữ, nhà đầu tư cơ sở ngoài công lập, 40 tuổi)
Hộp 3.7: Ý kiến về năng lực hiểu CS của cán bộ thực hiện CS
- Yếu tố cam kết: Các cơ quan, tổ chức có liên quan và cơ quan truyền thông tại
Hà Nội thiếu cam kết chủ động tuyên truyền CS và tổ chức các hoạt động truyền thông.
Nhận thức được công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, CS cần được tập
trung thực hiện với nhiều hình thức đa dạng, phong phú hơn. UBND thành phố đã
97
yêu cầu các sở, ngành liên quan và các cơ quan truyền thông phải tạo ra các chuyên
mục và sử dụng thời gian phát sóng để quảng bá chủ trương và CS của Đảng, Nhà
nước và Thành phố về NCT, cũng như triển khai Luật NCT và Kế hoạch "Tháng
hành động vì NCT Việt Nam" với khoảng 60 tin, 50 bài/ phóng sự mỗi năm, mỗi
tháng có một chuyên mục truyền hình tuyên truyền, thông tin về các vấn đề liên quan
đến NCT. Tuy nhiên, nội dung tuyên truyền tập trung vào nội dung và kết quả triển
khai CS ưu đãi của Nhà nước đối với NCT; tin bài về cuộc sống của NCT tại các cơ
sở dưỡng lão như là một xu thế tất yếu hiện nay. Các cơ sở chăm sóc NCT ngoài
công lập cũng chủ động truyền thông tới NCT thông qua các hình thức đa dạng và áp
dụng công nghệ như facebook, báo đài bằng việc phối hợp tích cực với cơ quan báo
đài và sử dụng các kênh marketing hiệu quả. Tuy không trực tiếp truyền thông CS
nhưng đây là một tiền đề tạo điều kiện CS được quan tâm phát triển do nhu cầu của
NCT, gia đình NCT gia tăng.
“Nhà nước hiện nay có CS gì để hỗ trợ các cơ sở chăm sóc NCT ngoài công lập đâu,
hoặc có thì chỉ trên giấy tờ và mình không biết tới”.
(Nam, chủ cơ sở ngoài công lập, 35 tuổi)
“Các CS thì có vẻ nhiều lắm, tuy nhiên mình không tiếp cận được và có đi hỏi thì cũng ít
người biết tới”.
(Nữ, chủ cơ sở khác, 43 tuổi)
“Không có bất kỳ cổng thông tin chính thức nào về CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT,
nếu muốn biết chỉ hỏi các chủ cơ sở nhiệt tình hướng dẫn hoặc tự tìm hiểu thông tin”
(Nữ, nhà đầu tư cơ sở chăm sóc NCT, tuổi)
Hộp 3.8: Ý kiến về sự cam kết tuyên truyền, phổ biến CS
Song, việc chủ động truyền thông CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT tới các
chủ và nhà quản lý cơ sở cùng các nhà đầu tư lại không được chú trọng, trong khi
đây mới là đối tượng CS đích.
- Yếu tố liên minh: Các cơ sở chăm sóc NCT được cấp phép tự xây dựng nhóm
truyền thông riêng nhưng sự tham gia tích cực của các thành viên giảm dần, chỉ một
số thành viên hoạt động tích cực tuyên truyền, phổ biến CS.
Các cơ sở TGXH ngoài công lập liên kết lập nhóm zalo để liên hệ và hỗ trợ
nhau trong quá trình xây dựng và vận hành cơ sở. 10/13 chủ các cơ sở đều đánh giá
sự tham gia tích cực nhất của các chủ cơ sở TGXH đã thành lập từ trước năm 2015
như TT Thiên Đức, Diên Hồng, Nhân Ái… Các nhà đầu tư, nghiên cứu có quan tâm
98
có thể dễ dàng kết nối với các chủ/ nhà quản lý cơ sở để tìm hiểu thông tin CS và sự
trợ giúp mà không bị hạn chế do tính cạnh tranh trong ngành cung ứng dịch vụ. Các
thành viên chia sẻ thông tin CS trên nhóm Zalo chung, tuy nhiên sau một thời gian
hoạt động, hiện còn 6/13 chủ cơ sở hoạt động tích cực trao đổi. Nguyên nhân được
các chủ cơ sở cho rằng do khả năng tiếp cận và được hưởng CS thấp nên trao đổi trên
nhóm cơ bản hoạt động không hiệu quả và chỉ còn nhóm nhỏ trao đổi với nhau bởi sự
phù hợp về tính cách, quan điểm. Thêm vào đó, số lượng chủ cơ sở ít không đủ thành
lập Hội theo quy định Pháp luật nên việc giữ nhóm liên minh này không được đánh
giá cao. Điều này cho thấy, ngay cả nhóm hưởng lợi cũng không quan tâm đến việc
tuyên truyền, phổ biến CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT.
- Yếu tố sự phối hợp: Sự phối hợp tuyên truyền CS giữa ngành LĐTBXH theo
ngành dọc thuận lợi với các cơ sở TGXH công lập nhưng hạn chế với cơ sở TGXH
ngoài công lập hoặc các nhà đầu tư, chủ các cơ sở khác. Sự phối hợp tuyên truyền
CS giữa các Sở ngành hạn chế do thiếu ứng dụng công nghệ thông tin.
Tuyên truyền, phổ biến CS theo ngành dọc không phải là rào cản đối với các
cơ sở TGXH chăm sóc NCT công lập nhưng lại hạn chế với cơ sở TGXH ngoài công
lập. Đối với các cơ sở TGXH công lập có chăm sóc NCT hoặc thực hiện mô hình
XHH dịch vụ chăm sóc NCT, do phụ thuộc hoàn toàn về mặt tài chính vào ngân sách
nhà nước, do đó việc được hưởng lợi từ các CS tốt hơn nhóm ngoài công lập. Cũng
như có cơ chế giao tiếp, tiếp nhận các văn bản CS (thông qua cổng thông tin nội bộ)
nên được tiếp cận tốt hơn với các hệ thống các văn bản hiện hành. Việc giao tiếp,
trao đổi với cơ quan chủ quản/cơ quan quản lý việc triển khai các CS cũng thuận tiện
hơn (cả giao tiếp chính thức và phi chính thức). Các cơ sở ngoài công lập tiếp nhận
CS hạn chế do bản chất không có nhiều văn bản chỉ đạo sau khi thành lập cơ sở, trừ
các trường hợp chỉ đạo khẩn cấp (như đại dịch Covid). Các nhà đầu tư có nhu cầu
không thể tự tìm hiểu CS qua một kênh thông tin thống nhất nào ngoại trừ hỏi kinh
nghiệm của nhóm phi chính thức bao gồm các chủ cơ sở TGXH đã thành lập.
“Khi có các CS mới được ban hành thì sẽ được cập nhật trên hệ thống, muốn xem thì chỉ
cần đăng nhập và tải về. Ngoài ra, các thông tin này cũng được gửi về email của cơ sở”.
(Nữ, quản lý cơ sở TGXH công lập, 50 tuổi)
“Sở có email của tất cả cơ sở TGXH ngoài công lập, khi có CS mới, đặc biệt trong
trường hợp khẩn cấp như đợt Covid là gửi văn bản liên hệ với các cơ sở ngay”
(Nữ, cán bộ CS cấp Sở, 38 tuổi)
99
Hộp 3.9: Ý kiến về cách thức truyền thông tới cơ sở TGXH trong ngành LĐTBXH
Ngoài ra, giữa cán bộ quản lý các Sở, việc giao tiếp cũng bị những hạn chế vì
trải qua nhiều cấp quản lý gây ra sự chậm trễ trong quá trình giao tiếp liên ngành.
Bên cạnh đó, văn bản giấy tờ liên ngành được chuyển theo hình thức công văn qua
bưu điện, điều này phù hợp với quan điểm quản lý văn bản nhà nước, nhưng không
ứng dụng khoa học công nghệ như cổng thông tin chung theo chiều dọc của ngành,
bởi vậy hạn chế việc lưu trữ, tiếp cận thông tin tới nhiều đối tượng cán bộ CS. Thêm
vào đó, mặc dù trong hầu hết các văn bản CS, công tác truyền thông đều được nhắc
đến và được giao cho các cơ quan chuyên môn là Sở Thông tin Truyền thông (truyền
thông đa phương tiện), Sở LĐTBXH (qua hệ thống thông tin nội bộ, cổng thông tin
điện tử, qua tập huấn), các cơ quan báo đài (truyền truyền thanh, truyền hình), tuy
nhiên việc truyền thông nói chung được đánh giá là không hiệu quả [37]. Nguyên
nhân chính là do thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng và đơn vị truyền
thông. Trong quá trình triển khai CS, các cơ quan chức năng thường chịu trách nhiệm
về việc thực hiện CS và phát triển cơ sở chăm sóc NCT ngoài công lập, trong khi đó
các đơn vị truyền thông thường chỉ thực hiện nhiệm vụ truyền thông. Điều này thiếu
sự phối hợp, gắn kết lên kế hoạch nội dung chi tiết thông tin truyền thông và sự liên
kết giữa hai bên là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến hiệu quả truyền thông không
cao. Ngoài ra, còn có thể có các nguyên từ chính thiếu sự hiểu biết và quan tâm của
đối tượng nhận thông tin (như NCT và gia đình), thiếu nguồn lực để triển khai
chương trình truyền thông, thiếu sự sáng tạo và đổi mới trong các phương thức và
hình thức truyền thông.
Tóm lại, có thể thấy công tác tuyên truyền phổ biến thông tin CS của TP Hà
Nội đang được đánh giá cao về hiệu quả tuyên truyền theo ngành dọc của ngành
LĐTBXH. Nhưng đối với các đối tượng CS của CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT,
công tác tuyên truyền đang gặp khó khăn do thiếu nguồn nhân lực về số lượng và
hiểu biết cụ thể về CS, đặc biệt với các CS liên ngành; các bên liên quan thiếu sự
cam kết tuyên truyền CS phát triển cơ sở mà chủ yếu tập trung vào nội dung với đối
tượng đích là NCT; sự phối hợp giữa các bên liên quan hạn chế do thiếu ứng dụng
công nghê, đặc biệt là sự phối hợp thường xuyên giữa cán bộ thực hiện CS và đối
tượng CS; nhóm lợi ích của các chủ cơ sở đã hoạt động nhằm tuyên truyền CS nhưng
hiệu quả giảm dần. Những yếu tố trên làm giảm khả năng hiểu, tiếp cận CS của các
đối tượng CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT tại Hà Nội.
100
3.2.3. Phân công, phối hợp thực hiện chính sách
3.2.3.1. Thực trạng và kết quả phân công, phối hợp thực hiện chính sách
Trong việc thực hiện các CS TGXH nói chung và CS phát triển cơ sở chăm sóc
NCT trên địa bàn Hà Nội, UBND TP Hà Nội đã chỉ đạo các Sở ban ngành chức
năng, UBND các Quận/Huyện/Thị xã/Xã/Phường/Thị trấn, các hội đoàn thể phối
cùng phối hợp triển khai các CS này. Cụ thể như sau:
Sở Lao động – Thương binh và Xã hội: là cơ quan thường trực, chịu trách
nhiệm chủ trì và phối hợp với các Sở ban ngành có liên quan triển khai thực hiện và
quản lý nhà nước về công tác phát triển cơ sở chăm sóc NCT. Sở xây dựng và đề
xuất các Đề án xây dựng, cấp phép, chuyển đổi mô hình, chức năng và nhiệm vụ của
các cơ sở chăm sóc NCT; Các đề án đầu tư về đất đai, tài chính, nhân lực cho cơ sở
TGXH. Xây dựng kế hoạch chi tiết và hướng dẫn đối với các cơ sở chăm sóc NCT
thực hiện việc tiếp nhận và hưởng lợi từ CS, hoàn thiện cơ cấu tổ chức, đào tạo nhân
lực tại cơ sở. Kiểm tra đánh giá hoạt động của các Sở, ban, ngành, địa phương trong
việc triển khai thực hiện pháp luật, CS của nhà nước đối với công tác chăm sóc và
phát huy vai trò NCT tại cơ sở. Tổ chức tập huấn cho cán bộ tham gia công tác NCT.
Phối hợp với các ngành liên quan kiểm tra, thẩm định, đánh giá tình hình hoạt động
của các cơ sở chăm sóc NCT công lập và ngoài công lập trên địa bàn Thành phố.
Phối hợp với các hội, đoàn thể tuyên truyền phổ biến và vận động nhân dân, khuyến
khích phát triển các mô hình cung cấp dịch vụ nuôi dưỡng, chăm sóc NCT ngoài
công lập để giảm tải áp lực đối với hệ thống cơ sở xã hội công lập và đáp ứng tối đa
nhu cầu của đối tượng. Tổng hợp báo cáo UBND Thành phố.
Sở Kế hoạch – Đầu tư: Hướng dẫn, phối hợp với các ngành và các cấp đưa quy
hoạch phát triển các cơ sở chăm sóc NCT vào kế hoạch định kỳ hàng năm của ngành
và địa phương phù hợp với quy hoạch phát triển chung của TP. Thực hiện việc rà
soát, đổi mới tổ chức quản lý, cải cách hành chính, tạo môi trường thuận lợi cho việc
cấp phép và thu hút đầu tư trong nước và nước ngoài vào phát triển hạ tầng cơ sở và
cung cấp dịch vụ cho NCT.
Sở Tài chính: Trên cơ sở các dự án, chương trình thực hiện quy hoạch và phát
triển mạng lưới các cơ sở chăm sóc NCT, phân bổ và bảo đảm ngân sách hàng năm
cho việc triển khai các hoạt động này theo kế hoạch. Nghiên cứu điều chỉnh định
mức kinh phí đầu tư, miễn giảm thuế phí cho các cơ sở trong quá trình xây dựng và
101
vận hành. Nghiên cứu mức phí dịch vụ cho lộ trình XHH tại cơ sở TGXH công lập.
Sở Nội vụ: Chủ trì, phối hợp với Sở LĐ-TB&XH và các ban, ngành liên quan
nghiên cứu điều chỉnh bổ sung và hoàn thiện quy định về định mức cán bộ, nhân viên
của các cơ sở (công lập), đảm bảo phù hợp với yêu cầu nâng cao chất lượng dịch vụ
cung cấp trong từng thời kỳ; quy định việc tuyển dụng, đãi ngộ đối với cán bộ, nhân
viên làm việc tại các cơ sở này.
Sở Quy hoạch Kiến trúc và Sở Tài nguyên Môi trường: Chủ trì, xây dựng
phương án bố trí quỹ đất dành cho phát triển cơ sở xã hội nói chung và các cơ sở
chăm sóc NCT, nhất là các cơ sở ngoài công lập. Nghiên cứu điều chỉnh định mức
diện tích đất tự nhiên và đất sử dụng cho sinh hoạt của đối tượng tại cơ sở phù hợp
với Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2030, định hướng đến năm 2050 của TP.
UBND các Quận/Huyện/Thị xã, Xã/Phường/Thị trấn: Căn cứ vào mục tiêu,
chỉ tiêu và định hướng quy hoạch phát triển mạng lưới cơ sở chăm sóc NCT, thực
hiện chỉ đạo đơn vị thực hiện tốt quy hoạch và thực hiện các kế hoạch phát triển phù
hợp với quy hoạch phát triển ngành LĐ-TB&XH và kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội của địa bàn.
Các tổ chức, đoàn thể: Tiếp tục triển khai công tác tuyên truyền, vận động thực
hiện các phong trào chăm sóc NCT; hướng dẫn NCT thụ hưởng các CS hỗ trợ và
phối hợp với các bên liên quan khác trong việc tham mưu, hỗ trợ triển khai các dự
án, chương trình liên quan tới NCT tại địa phương.
3.2.3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến bước phân công, phối hợp thực hiện chính sách
- Yếu tố nội dung: Các văn bản CS thể hiện nhất quán sự phân công phối hợp
thực hiện giữa các bên liên quan trong quy trình thực hiện CS.
Tất cả các văn bản triển khai CS tại Hà Nội nói riêng và Việt Nam nói chung
đều có mục Tổ chức, phân công thực hiện. Từng nhiệm vụ của các bên liên quan
trong từng quyết sách, kế hoạch cụ thể đều được phân định rõ như đã trình bày tổng
hợp trong mục 3.3.1. Bởi vậy, nội dung CS triển khai tại Hà Nội được coi là một
điểm sáng thể hiện sự đồng thuận trong việc phân công triển khai thực hiện tại địa
bàn và sự thống nhất trong quản lý nhà nước từ tuyến Trung ương đến địa phương.
- Yếu tố bối cảnh: Sự thống nhất về quan điểm chỉ đạo của Đảng và nhà nước
trong việc phân công nhiệm vụ chủ trì cho ngành LĐTBXH
Các văn bản liên quan đến việc phát triển cơ sở chăm sóc NCT cho đến nay
luôn thể hiện ý chí của Đảng và Nhà nước khi phân công vai trò chủ trì, tổ chức và
102
phối hợp thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT cho ngành LĐTBXH. Đồng
thời, cơ quan hành chính nhà nước bao gồm chính phủ và UBND các cấp chịu trách
nhiệm xây dựng kế hoạch tổ chức thực hiện và sắp xếp đảm bảo điều kiện triển khai
theo đặc thù của địa phương. Điều này đảm bảo sự đồng bộ trong công tác quản lý
nhà nước và tạo điều kiện thuận lợi cho chủ thể chính trong việc thực hiện CS này ở
Việt Nam và tại các địa phương như Hà Nội.
- Yếu tố năng lực: Sự tham gia của nhân lực trong nội bộ các cơ quan thực thi
CS không rõ ràng.
Hiện nay người phụ trách chính cho các hoạt động liên quan tới BTXH của cấp
Sở là Phòng BTXH, trong đó cán bộ phụ trách chính việc triển khai các CS về BTXH
nói chung có số lượng giới hạn (2 người), và hầu như không có sự liên kết với các bộ
phận khác cùng cấp như Sở KHĐT, Tài nguyên môi trường trong việc triển khai, hỗ
trợ các cơ sở hưởng thụ từ CS. Ngoại trừ Sở tài chính có 01 viên chức phụ trách tài
chính cho cơ sở TGXH, các sở khác không có viên chức được phân công trực tiếp
nhiệm vụ theo dõi, hỗ trợ sự phát triển của các cơ sở TGXH nói chung và TGXH cho
NCT nói riêng. Sự tham gia trong nội bộ các cơ quan quản lý cũng hạn chế, thường
thì việc thực hiện được giao cho cá nhân chịu trách nhiệm toàn bộ tiến trình thực hiện
CS mà không có sự tham gia của các bộ phận khác trong nội bộ hoặc liên ngành.
Số lượng cán bộ trực tiếp quản lý việc triển khai CS hạn chế, bên cạnh đó phải
chịu trách nhiệm quản lý việc triển khai nhiều CS khác nhau, với nhiều đối tượng
khác nhau do đó không có đủ điều kiện để thực hiện các hoạt động mang tính phối
hợp, kết nối hoặc khuyến khích sự tham gia của các bên liên quan trong toàn bộ quá
trình thực hiện CS. Song, điểm tích cực là vị trí cán bộ hỗ trợ trực tiếp ngành
LĐTBXH và tài chính thường ổn định, không có sự thay đổi thường xuyên, điều này
đã tạo ra những sự kết nối nhất định giữa các bên liên quan, từ đó tạo điều kiện tốt
cho hoạt động triển khai các CS. Đặc biệt, các CS mới được ban hành có thể được thông
báo qua các kênh giao tiếp phi chính thức trước khi thông qua các kênh chính thức.
“Bởi hạn chế về số lượng, nên các cán bộ quản lý thực hiện CS phải làm rất nhiều việc.
Các bên liên quan trong quá trình thực hiện CS cũng được khuyến khích tham gia nhưng
thực sự không có cơ chế cụ thể. Vì thế sự tham gia đôi khi cũng chỉ ở mức hình thức trong
các sự kiện cụ thể nào đó”.
(Nam, cán bộ CS cấp Sở, 42 tuổi)
“Cơ quan nào cũng có phòng một cửa, nhưng phòng một cửa không giải quyết được câu
103
Hộp 3.10: Ý kiến về nhân lực phối hợp thực hiện trong các cơ quan thực hiện CS
hỏi về quy hoạch vì thế mình cũng phải tìm các mối quan hệ để nhờ xin thông tin. Nhưng
tìm ra đúng người trả lời cũng không dễ. Điều này khác hẳn với tỉnh X trong quá trình
mình làm các dự án đầu tư”
(Nữ, nhà đầu tư cơ sở ngoài công lập, 40 tuổi)
- Yếu tố cam kết: Có sự ủng hộ tích cực về mặt quan điểm của cơ quan ban
hành và quản lý các CS phát triển các cơ sở chăm sóc NCT, đặc biệt là cán bộ CS
quản lý trực tiếp, người thường không giữ vị trí lãnh đạo trong Sở được đánh giá tốt.
Kết quả nghiên cứu của luận án này chỉ ra một đặc điểm nổi bật của sự cam
kết trong quá trình thực hiện các CS liên quan tới phát triển cơ sở chăm sóc NCT đó
là sự ủng hộ về mặt quan điểm (lời nói) hoặc thông qua sự chỉ đạo của người quản lý,
lãnh đạo cấp cao thuộc đơn vị chủ quản (LĐTBXH), hoặc cá nhân có thẩm quyền
quyết định khác như UBND. Có 3 chủ cơ sở có thể tiếp cận Lãnh đạo UBND nhiệm
kỳ 2016-2020 cho rằng lãnh đạo nhiệm kỳ này ủng hộ sự phát triển của cơ sở chăm
sóc NCT. 14/17 chủ cơ sở và nhà đầu tư ngoài công lập khi được phỏng vấn cho rằng
Cán bộ Sở LĐTBXH ủng hộ và tạo mọi điều kiện thành lập cơ sở. Cán bộ thực thi
trực tiếp ngành LĐTBXH được đánh giá cao về sự cam kết và hỗ trợ, chỉ dẫn thực
hiện CS, cũng như sẵn sàng tiếp thu ý kiến từ cơ sở. Ngoài ra, sự cam kết ủng hộ còn
được đánh giá cao bởi những buổi vận động CS “hành lang” giữa các cá nhân một
cách phi chính thức.
Tuy nhiên, sự cam kết này chưa được cụ thể hoá bằng các hành động giúp cho
quá trình thực hiện CS được hiệu quả hơn. Cụ thể là việc các thủ tục hành chính liên
quan thường bị tắc nghẽn, các đề xuất CS từ phía cơ sở thường được xử lý chậm, các
thắc mắc của các đơn vị thụ hưởng chưa được phản hồi một cách nhanh chóng và cụ
thể. Bên cạnh đó, sự phân công bố trí nhân lực quản lý và thực hiện CS còn hạn chế
(thiếu nhân lực), dẫn tới việc quá tải hoặc xử lý chậm các thủ tục liên quan. Nói cách
khác, sự cam kết của chủ thể thực hiện CS được thể hiện ở lời nói (bằng miệng hoặc
văn bản kế hoạch) nhưng không có hành động cụ thể hỗ trợ các cơ sở thực hiện CS
theo kế hoạch.
“Lãnh đạo UBND nhiệm kỳ trước rất quan tâm và ủng hộ phát triển mô hình dưỡng lão
và bảo chị cứ tìm địa điểm thích hợp thì xem xét tạo điều kiện. Nhưng tìm đúng vị trí
không dễ, chỗ muốn làm thì không phải đất quy hoạch. Chỗ quy hoạch thì vướng giải
phóng mặt bằng, không thuận tiện xây cơ sở. Cán bộ CS không giúp được gì nhiều, không
104
Hộp 3.11: Ý kiến về sự cam kết trong phân công thực hiện CS
cung cấp thông tin mà mình phải tự tìm hiểu và đề xuất”.
(Nữ, chủ cơ sở ngoài công lập, 48 tuổi)
“Chị cán bộ CS Sở rất tạo điều kiện cho cơ sở thực hiện các thủ tục, nhưng làm thủ tục
thế nào cơ sở tự nghiên cứu cách làm. Bởi vậy các chủ cơ sở hoặc nhà đầu tư nếu muốn
mở toàn đến các trung tâm học hỏi kinh nghiệm chứ không tìm đến Sở. Họ chỉ đến sở sau
khi hoàn thiện xong hết mọi thủ tục để nộp xin cấp phép”
(Nữ, chủ cơ sở ngoài công lập, 36 tuổi)
- Yếu tố sự phối hợp: Việc phối hợp của các bên liên quan trong các thủ tục
hành chính cho cơ sở ngoài công lập đều hạn chế về quy trình giải quyết. Sự phối
hợp giải quyết cơ chế cho cơ sở TGXH công lập hạn chế về thời hạn xử lý. Đặc biệt
thiếu hụt cơ chế phối hợp giữa ngành LĐTBXH và Y tế hỗ trợ các cơ sở TGXH vận
hành DVCS cho NCT chất lượng.
Quá trình phân công phối hợp thực hiện CS còn thiếu sự tham gia phối hợp và
hỗ trợ của cán bộ CS liên ngành khác để tạo điều kiện môi trường thuận lợi cho cơ sở
ngoài công lập phát triển. Cụ thể như trong QĐ số 11/2015/QĐ-UBND ngày 19
tháng 05 năm 2015 về việc ban hành quy định về CS khuyến khích xã hội hóa có đề
cập tới việc hỗ trợ về mặt bằng, giá thuê cũng như các quy định về việc miễn giảm
thuế cho các cơ sở chăm sóc NCT ngoài công lập. Tuy nhiên, các cơ sở ngoài công
lập đều gặp khó khăn trong việc được hưởng lợi từ các CS này do thiếu sự phối hợp
thực hiện của các ban bộ ngành liên quan gồm Sở xây dựng, Sở tài chính hay Sở Tài
nguyên và Môi trường. Mỗi Sở ngành đều đòi hỏi các loại giấy tờ y hệt nhau mà
không có liên thông về giấy tờ trên hệ thống ứng dụng công nghệ thông tin chung của
chính phủ. Hoặc với CS ưu đãi điện, nước cho cơ sở chăm sóc NCT, do không có
thông tư hướng dẫn phối hợp giữa các Sở, nên cơ sở phải áp dụng văn bản gốc về ưu
đãi điện nước cho nhóm Cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập, trường học,
bệnh viện, cơ sở khám chữa bệnh, rồi sử dụng Mục 2, Khoản 1, Phụ lục 1 của NĐ
46/2015/NĐ-CP về Quản lý chất lượng và bảo trì công trình xây dựng để xác định
Nhà dưỡng lão thuộc nhóm công trình y tế, từ đó cơ sở mới được hưởng CS ưu đãi
điện nước.
Chính những rắc rối về thủ tục dẫn tới thực tế là một số các cơ sở TGXH ngoài
công lập không đủ tiêu chuẩn để cấp phép hoạt động bởi Sở LĐTBXH đến nay vẫn
chỉ hoạt động theo giấy phép kinh doanh của Sở KH&ĐT. Các nhà đầu tư nước
105
ngoài càng không dám đầu tư tại Hà Nội do việc đầu tư còn phức tạp thêm bởi chứng
minh dòng tiền và thủ tục đầu tư nước ngoài, lựa chọn phương án mua lại cổ phần và
chuyển đổi vì những rằng buộc luật đầu tư nước ngoài cùng sự không chắc chắn về
thủ tục hành chính và thời hạn giải quyết ở Việt Nam.
“Thủ tục giữa các sở không liên thông với nhau nên một bộ hồ sơ phải in đến 10 bản
khác nhau để nộp ở các cửa mỗi Sở. Trong khi làm tại tỉnh Y thì chỉ cần đến bộ phận
một cửa của Sở KHĐT nộp hồ sơ là liên thông giữa các Sở họ sẽ làm mọi thủ tục trong
60-120 ngày. Nếu có vướng mắc họ sẽ chủ động gọi điện thoại”.
(Nam, chủ cơ sở ngoài công lập, 65 tuổi)
“Mảng DVCS này nhiều nhà đầu tư nước ngoài muốn làm vì thấy tiềm năng nhưng thủ
tục đầu tư nước ngoài đã rắc rối, nay đầu tư trong lĩnh vực mới còn rắc rối thêm và
không rõ các thủ tục cùng thời gian xử lý khiến họ ngại. Thêm vào đó, sự thay đổi chính
trị như thay đổi nhiệm kỳ lãnh đạo UBND vừa rồi khiến thủ tục đầu tư anh đã làm chậm
thành gần 4 năm mà chưa biết bao giờ xong hay xong được không”
(Nam, nhà đầu tư cơ sở ngoài công lập, 48 tuổi)
Hộp 3.12: Ý kiến về sự phối hợp liên ngành trong việc thực hiện thủ tục hành chính
Điều này diễn ra với cả các cơ sở TGXH công lập. CS XHH và đầu tư cơ sở
vật chất đã có. Nhưng việc áp giá cho các dịch vụ XHH của các cơ sở công lập hay
sắp xếp nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất ở các cơ sở gặp vướng mắc về thời
hạn xử lý của các cơ quan liên ngành. Thủ tục kéo dài gây khó khăn cho việc cung
cấp dịch vụ cho NCT tự nguyện tại cộng đồng hoặc thay đổi cơ sở vật chất – một yếu
tố hạn chế nhu cầu của NCT sử dụng dịch vụ tại cơ sở công lập. Sau thời gian dài vẫn
chưa được xây dựng xử lý dứt điểm và không có thời hạn giải quyết.
“Sự phối hợp giữa các bộ ban ngành đúng quy định nhưng thủ tục hành chính kéo dài
lâu, ví dụ Trung tâm xin xây dựng lại toà nhà từ năm 1991, đã được Quận cho phép
nhưng Sở Đầu tư chưa cho phép…”
(Nữ, cán bộ quản lý cơ sở công lập, 50 tuổi)
“Khi có những vướng mắc và hỏi cơ quan chủ quản qua văn bản hoặc thông qua điện
thoại, có những yêu cầu thì được trả lời ngay, nhưng có những hướng dẫn cần phải chờ
sự phối hợp của các sở ban ngành khác nên rất lâu”.
(Nam, cán bộ quản lý cơ sở TGXH công lập, 45 tuổi)
Hộp 3.13: Ý kiến về sự phối hợp liên ngành đối với CS cho cơ sở công lập
Đặc biệt hơn cả, sự thiếu phối hợp quản lý giữa LĐTBXH và Y Tế khiến các cơ
sở khó khăn trong quá trình vận hành cung cấp DVCS. NCT trong các cơ sở CSDH
106
đa phần cần sự chăm sóc cả về dinh dưỡng, tinh thần, can thiệp y tế. Tuy nhiên, theo
giấy phép được ngành LĐTBXH cấp, các cơ sở chỉ được cung cấp dịch vụ nuôi
dưỡng mà không được phép can thiệp y tế. Mặc dù trong các văn bản CS có đề cập rõ
cơ quan chủ quản, các đơn vị chịu trách nhiệm phối hợp triển khai. Trong đó, ngành
LĐTBXH là cơ quan chủ quản, Sở Y tế cần phối hợp. Song, không có cơ chế phối
hợp cụ thể, nhất là việc đóng góp nguồn lực, cũng như cơ chế giám sát, đánh giá và
giải trình trách nhiệm trong việc cấp phép, quản lý, và giám sát các cơ sở chăm sóc
NCT bao gồm cả công lập và ngoài công lập. Điều này xuất phát từ thực tế trong các
hoạt động chăm sóc cho NCT, chăm sóc Y tế chiếm tới 70-80% các DVCS nói
chung. Việc chăm sóc về mặt y tế tỉ lệ thuận với độ tuổi của NCT. Ngoài ra, các cơ
sở chăm sóc NCT thường là nơi thực hiện các hoạt động chăm sóc nối dài sau khi
bệnh nhân (NCT) ra viện. Hoặc thậm chí là nơi thực hiện các hoạt động chăm sóc
cuối đời cho NCT [5]. Hiện nay, tại các cơ sở này đều có các cán bộ thực hiện việc
chăm sóc y tế cho NCT (bao gồm có y sĩ và y tá), tuy nhiên các cán bộ này không
được hưởng các CS hỗ trợ liên quan tới việc đào tạo nâng cao năng lực chuyên môn
giống như các cán bộ xã hội khác tại cơ sở. Do đó, việc chăm sóc về mặt y tế cho các
đối tượng nói chung và NCT nói riêng còn nhiều hạn chế. Ngay cả các cơ sở TGXH
công lập do chỉ có ngành LĐTBXH quản lý, nên khi đào tạo bồi dưỡng cán bộ chỉ tập
trung đào tạo bồi dưỡng về CTXH, sức khoẻ tâm thần chứ không được đào tạo về y tế.
“Các cơ sở chăm sóc NCT đang gặp phải vấn đề liên quan tới hoạt động chăm sóc y tế,
bởi nếu ngành y tế kiểm tra thì mình đang sai phạm, vì không được cấp phép chăm sóc về
mặt y tế. Tuy nhiên, chăm sóc y tế lại là một nhu cầu hàng đầu của NCT khi tới nhà
dưỡng lão”.
(Nam, chủ cơ sở ngoài công lập, 65 tuổi)
“Hiện tại cơ sở phải hợp tác với một phòng khám trong khu vực để thực hiện các hoạt
động chăm sóc y tế cho NCT. Do không có cơ chế quản lý phối hợp giữa hai ngành, nên
việc hợp tác với 1 bên thứ 3 để cung cấp DVCS y tế gặp nhiều khó khăn”.
(Nữ, chủ cơ sở ngoài công lập, 43 tuổi)
Hộp 3.14: Ý kiến về sự phối hợp liên ngành LĐTBXH và Y tế trong vận hành cơ sở
- Yếu tố liên minh: Có sự tách biệt rõ về thụ hưởng CS giữa các nhóm cơ sở
TGXH công lập và ngoài công lập.
Các văn bản CS hỗ trợ phát triển cơ sở chăm sóc NCT được ban hành quy định
việc phát triển và đào tạo nhân lực cho lĩnh vực chăm sóc NCT … Nhưng xét về liên
107
minh nhóm lợi ích, các cơ sở TGXH công lập được hưởng nhiều CS về nhân lực hơn
so với các cơ sở ngoài công lập. 16/16 các cơ sở chăm sóc NCT ngoài công lập
không nắm được các CS ưu đãi hoặc đào tạo nhân lực thông qua kênh giao tiếp chính
thức với cơ quan chủ quản là Sở LĐTBXH. Các chủ cơ sở ngoài công lập cho biết,
các khoá đào tạo được tham gia có nội dung về Phòng cháy chữa cháy, phòng chống
Covid, các khoá đào tạo về CTXH hay sức khoẻ tâm thần không được mời tham gia.
Bởi vậy, họ phải tự chủ động gửi nhân viên đào tạo từ các cơ sở khác hoặc ở nước
ngoài. Đây là một yếu tố cho thấy việc liên minh các cơ sở TGXH công lập và ngành
LĐTBXH có sự gắn kết chặt chẽ hơn, trong khi ngành LĐTBXH cũng cần quản lý
chất lượng và tiêu chuẩn với các cơ sở ngoài công lập.
“Anh phải tự chi kinh phí cho nhân viên cán bộ tại cơ sở được đào tạo với chuyên gia
nước ngoài. Bây giờ cơ sở của anh cũng là nơi thực tập đào tạo nhân viên chăm sóc NCT
trước khi đi thực hành nghề tại nước ngoài hoặc cho các cơ sở TGXH khác trong nước ”.
(Nam, chủ cơ sở ngoài công lập, 65 tuổi)
“Năm nào Sở cũng gửi công văn về các chương trình đào tạo cho nhân viên như CTXH,
sức khoẻ tâm thần.. nhưng không có đào tạo về y tế mặc dù ở đây vẫn phải có những hỗ
trợ phục hồi chức năng, y tế nhất định cho NCT”.
(Nữ, chủ cơ sở công lập, 50 tuổi)
Hộp 3.15: Ý kiến về sự phối hợp liên ngành LĐTBXH và Y tế trong vận hành cơ sở
- Yếu tố truyền thông: Thông tin không được công khai minh bạch khiến các
bên liên quan khó tiếp cận thông tin.
Vấn đề này được tất cả các chủ cơ sở và nhà đầu tư cho rằng đây là vấn đề quan
trọng nhất hạn chế sự thụ hưởng các CS ưu đãi của nhà nước để phát triển các cơ sở
TGXH. Kết quả phỏng vấn chủ các cơ sở và nhà đầu tư cho thấy 100% đều mong đợi
nhận được sự ưu đãi về đất bởi đây là khoản kinh phí đầu tư lớn nhất cho việc thành
lập một cơ sở TGXH. Các cán bộ CS ngành LĐTBXH cũng cho rằng CS ưu đãi về
đất là CS vượt trội có tác động khuyến khích thành lập cơ sở TGXH. Tuy nhiên, cổng
thông tin của Sở Xây dựng công bố nhiều văn bản CS nhưng mục Quy hoạch lại là
khoảng trống. Các phân tích về cơ chế phối hợp, sự cam kết của các cán bộ CS ở
trong từng bước thực hiện phía trên cũng có thấy khó khăn của các chủ cơ sở, nhà
đầu tư khi tiếp cận với CS ưu đãi này. Nguyên nhân phần lớn là ở việc thiếu công
khai minh bạch Quy hoạch sử dụng đất tại TP Hà Nội. Lý do thứ hai là do trong Quy
hoạch, không có khu đất được quy hoạch xây dựng cơ sở chăm sóc NCT, chỉ có quy
108
hoạch khu đất An sinh, diện tích công cộng tại các khu đô thị có thể được sử dụng
cho mục đích xây dựng cơ sở chăm sóc NCT. Điều này là bởi Quy hoạch trước đây
chỉ quan tâm đến xây dựng bệnh viện, trường học nhưng không có quy hoạch để
thích ứng với Già hoá dân số - xu hướng mới được xã hội quan tâm. Các khu đô thị
cũng không có quỹ đất quy hoạch. Bởi vậy 31/42 người được phỏng vấn cho rằng
thông tin cần công khai minh bạch tạo điều kiện đấu thầu, hưởng CS ưu đãi về đất
của nhà nước hoặc hưởng các CS khác.
Tóm lại, điểm mạnh của bước phân công phối hợp nằm ở sự ổn định của nhân
lực thực thi CS ngành LĐTBXH và tài chính; sự ủng hộ hỗ trợ của cán bộ CS, đặc
biệt là cán bộ thực hiện CS trực tiếp không giữ vị trí lãnh đạo trong các cơ quan; sự
liên minh chặt chẽ theo ngành dọc của các cơ sở TGXH công lập với cơ quan chủ
quản. Nhưng yếu điểm của bước phân công thực hiện nằm ở chỗ không có nhân lực
được phân công trách nhiệm cụ thể tại các Sở khác ngoài LĐTBXH và tài chính; thủ
tục và thời hạn giải quyết các thủ tục, đề xuất được hưởng lợi từ các CS không hỗ trợ
cơ sở; thiếu sự phối hợp liên ngành LĐTBXH và Y tế trong việc quản lý thành lập và
vận hành của các cơ sở; và thông tin không được công khai minh bạch để các bên
liên quan dễ dàng tiếp cận. Nhận thức được các rào cản và yếu tố thúc đẩy sẽ giúp
bước phân công phối hợp thực hiện có sự điều chỉnh đạt đến thành công tốt hơn,
giảm bất lợi và rủi ro cho cả chính phủ, các cơ sở chăm sóc NCT và người dân.
3.2.4. Theo dõi, kiểm tra, giám sát, đôn đốc việc thực hiện chính sách
3.2.4.1. Thực trạng và kết quả theo dõi, kiểm tra, giám sát, đôn đốc việc thực hiện
chính sách
Hàng năm, Sở LĐTBXH phối hợp với các Sở ban ngành có liên quan theo sự
phân công phối hợp thực hiện tổ chức kiểm tra, giám sát việc thực hiện các CS được
ban hành. Việc giám sát được thực hiện thông qua các hoạt động tìm hiểu cơ sở, các
hoạt động rà soát văn bản, các báo cáo định kỳ từ địa phương. Sở LĐTBXH thành
lập các đoàn giám sát liên ngành để thực hiện việc giám sát cho một loạt các chương
trình, hoạt động có liên quan tới NCT nói chung, đặc biệt là các chương trình hành
động vì NCT, công tác chăm sóc NCT tại địa phương. Kết quả của hoạt động giám
sát là các báo cáo theo năm của Sở LĐTBXH tới UBND Thành Phố, tới Bộ
LĐTBXH nhằm thống kê các kết quả đạt được theo giai đoạn và đề xuất các khuyến
nghị liên quan tới CS xuất phát từ thực tế quá trình thực hiện. Tuy nhiên, các báo cáo
109
chủ yếu đánh giá định lượng về các thông tin liên quan như số lượng cơ sở, số NCT
được chăm sóc, các thông tin khác liên quan tới cơ sở vật chất mà không có các đánh
giá cụ thể về vấn đề, vướng mắc liên quan tới việc thực hiện CS mà các cơ sở được
hưởng lợi hay các đánh giá cụ thể về chất lượng chăm sóc.
3.2.4.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến bước theo dõi, kiểm tra, giám sát, đôn đốc việc
thực hiện chính sách
- Yếu tố nội dung: Nội dung chính sách trong thực tiễn triển khai lộ ra những
bất cập về giải pháp thiếu thực tế, thiếu hệ thống văn bản pháp lý dưới luật, thiếu
tính chiến lược và quản lý chất lượng chăm sóc tại các cơ sở cũng như các chính
sách ưu đãi ưu tiên phát triển các cơ sở chăm sóc NCT ngoài công lập mang tính cào
bằng, chưa xác đính đúng đối tượng hưởng ưu đãi khiến các bên liên quan khó tiếp
cận/hưởng lợi trong quá trình triển khai.
Các giải pháp quản lý nhà nước mà CS đưa ra thiếu thực tế hoặc gây vướng
mắc về thủ tục hành chính, thiếu văn bản pháp lý dưới luật khiến các cơ sở khó đáp
ứng để hưởng CS ưu đãi. Cụ thể, tại khoản 3, Điều 1 của NĐ 59/2014/NĐ- CP ngày
16/6/2014 của chính phủ quy định: “Trường hợp có từ hai nhà đầu tư trở lên cùng
đăng ký lựa chọn một địa điểm để thực hiện dự án đầu tư trong lĩnh vực xã hội hóa
thì thực hiện lựa chọn nhà đầu tư đáp ứng cao nhất các tiêu chí về quy mô, chất
lượng, hiệu quả theo quy định tại pháp luật về đấu thầu và pháp luật về đất đai”.
Thực tế tại NĐ số 30/2015/NĐ- CP ngày 17/3/2015 của chính phủ quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà đầu tư chỉ quy
định áp dụng hình thức đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư đối với các khu đất, quỹ đất có
giá trị thương mại cao để xây dựng công trình thuộc đô thị, khu đô thị mới, nhà ở
thương mại, công trình thương mại và dịch vụ; tổ hợp đa năng, trong khi lĩnh vực
XHH lại không phải thuộc các trường hợp cần đấu thầu theo quy định trên.
“Một số các giải pháp của CS còn chưa sát thực tế. Ví dụ như quy định về thành lập cơ sở BTXH theo NĐ số 68/2008/NĐ-CP, quy định một trong những điều kiện thành lập cơ sở BTXH phải có địa điểm xây dựng cơ sở, trong khi UBND các quận, huyện yêu cầu phải có Quyết định thành lập cơ sở thì mới xem xét bố trí địa điểm xây dựng cơ sở”.
(Nữ, cán bộ CS cấp Sở, 54 tuổi) “Các văn bản hướng dẫn nhiều khi không rõ ràng, thống nhất, thậm chí mâu thuẫn nhau. Tình trạng luật, pháp lệnh đã ban hành nhưng phải chờ NĐ, thông tư hướng dẫn cụ thể”. (Nam, quản lý cơ sở TGXH công lập, 45 tuổi) “NĐ 103/2017/NĐ-CP yêu cầu về diện tích phòng ở và đất tự nhiên thiếu thực tế so với năng lực của các cơ sở tư nhân trong nội thành, nên có những nơi diện tích đất tự nhiên
110
Hộp 3.16: Ý kiến đánh giá về hạn chế của nội dung các CS
thì không đủ nhưng diện tích phòng lại thừa nhiều. Nhiều quy định về cơ sở vật chất còn lỗi thời và lấy cơ sở TGXH công lập là chuẩn là không hợp lý”.
(Thảo luận nhóm số 02)
Đối với các quy định về việc cấp phép hoạt động cho cơ sở chăm sóc NCT phải
đảm bảo những tiêu chuẩn về diện tích, khuôn viên, nhà ở, hoặc các điều kiện chăm
sóc khác theo NĐ 103/2017/NĐ- CP ngày 12/09/2017. Tuy nhiên, hiện nay các cơ sở
chăm sóc NCT đều vướng mắc các vấn đề về mặt bằng xây dựng, cũng như các vấn
đề liên quan tới thiết kế tổng thể, chức năng cụ thể của các phòng chức năng, hay các
vấn đề liên quan tới đội ngũ nhân viên. Điều này cản trở việc các cơ sở được chính
thức cấp phép hoạt động và dẫn tới nhiều cơ sở có hoạt động thực tế nhưng chưa có
giấy phép của cơ quan quản lý đầu mối. Thường thì các cơ sở ngoài công lập triển
khai mô hình cơ sở theo hình thức kinh doanh, dưới sự cấp phép của Sở KH&ĐT mà
không có giấy phép hoạt động của Sở LĐTBXH đối với dịch vụ chăm sóc NCT.
Đối với các cơ sở TGXH công lập, mặc dù CS khuyến khích XHH đã được ban
hành từ năm 2017, nhưng cho đến nay, chưa có văn bản quy định cụ thể về cơ chế tự
chủ bởi vậy việc triển khai XHH chưa được Sở chủ quản cho phép tiến hành. Ngoài
ra, đối với CS nhân lực trong cơ sở TGXH công lập, các mức ưu đãi với cán bộ cấp
quản lý chưa được quan tâm đúng mức, phụ cấp lãnh đạo thấp hơn phụ cấp cho nhân
viên làm việc trực tiếp với đối tượng mặc dù lãnh đạo tại các trung tâm đều phải giải
quyết công việc trực tiếp với các đối tượng tại cơ sở trong những tình huống khẩn
cấp mà nhân viên không thực hiện được.
“Việc chăm sóc các cụ tự nguyện đã được thực hiện thử nghiệm từ năm 2007 và dự kiến chính thức XHH từ NĐ 103. Tuy nhiên cho đến nay, vẫn chưa có văn bản quy định cụ thể về cơ chế tự chủ, đặc biệt là áp giá từ Sở tài chính, bởi vậy từ tháng 5/2022 mọi dịch vụ cho NCT tự nguyện tại cộng đồng phải dừng lại”
(Thảo luận nhóm số 01)
Hộp 3.17: Ý kiến đánh giá CS XHH
Các CS hiện giờ chưa có tính chiến lược và mới quản lý về mặt hành chính nhà
nước theo kiểu cào bằng và ưu tiên phát triển về số lượng mà chưa chú tâm về chất
lượng cơ sở chăm sóc NCT. Trước hết, nhận định về tính thiếu sự chiến lược được
đưa ra do các chuyên gia nghiên cứu CS bởi khi so sánh với mô hình chăm sóc NCT
tại các quốc gia khác, các chuyên gia nhận thấy quan điểm cụ thể của chính phủ các
nước khi muốn phát triển mô hình chăm sóc NCT tập trung tại cơ sở TGXH cần đáp
ứng tỷ lệ khoảng 3-5% dân số cao tuổi. Trong khi đó, việc phát triển hệ thống cơ sở
111
TGXH ngoài công lập ở Việt Nam hiện nay chưa thể hiện rõ quan điểm phát triển
dựa trên các đặc điểm NCT đặc thù ở Việt Nam. Sự phân bổ quy hoạch cơ sở TGXH
ở Hà Nội hiện nay mặc dù được đưa lên thành văn bản quy hoạch nhưng được phân
bổ dàn đều theo tuyến quận/ huyện (khu vực địa lý) mà chưa tính đến sự phân bố dựa
trên mật độ dân cư, nhu cầu và khả năng chi trả.
Ngoài ra, 8/42 (19%) khách thể nghiên cứu bao gồm các chuyên gia và số ít các
chủ cơ sở nhận thấy vướng mắc về việc chăm sóc NCT cần chăm sóc y tế nhưng hiện
nay các cơ sở chỉ được cấp phép bởi Sở/ Phòng LĐTBXH và ghi rõ trong giấy phép
hoạt động là không bao gồm khám chữa bệnh (can thiệp y tế). Điều này đặt ra vấn đề
về việc cần phân cấp các cơ sở chăm sóc NCT thành các cấp khác nhau dựa theo mức
độ can thiệp y tế để đảm bảo quản lý chất lượng các cơ sở đáp ứng toàn diện nhu cầu
của NCT. Nhất là khi tỷ lệ NCT thuộc nhóm đại lão có nhu cầu chăm sóc chính thức
trong các cơ sở để nhận sự hỗ trợ y tế cao hơn các nhóm khác. Đồng thời, theo quan
điểm của các chuyên gia, nếu các cơ sở được phép can thiệp y tế, có thể sử dụng các
cơ sở chăm sóc NCT trở thành một mắt lưới quan trọng trong việc hỗ trợ gia đình và
cộng đồng chăm sóc sức khoẻ cho NCT tại chỗ thay thế cho các tuyến viện lão khoa
giống như mô hình mà tỉnh An Huy, Trung Quốc đang áp dụng rất thành công. Ngoài
ra, theo quan điểm của 9/42 khách thể tham gia PVS, bao gồm các chuyên gia nghiên
cứu và những nhà đầu tư cơ sở chăm sóc NCT, việc thiếu chuẩn hoá các cấp cơ sở
chăm sóc sẽ đặt ra các vấn đề về thiết kế, mức tiêu chuẩn dịch vụ cung ứng, tiêu
chuẩn chất lượng nhân lực (giấy phép hành nghề)… tại các cơ sở chăm sóc.
Hộp 3.18: Đánh giá về hạn chế về tính chiến lược và thiếu quản lý chất lượng dịch
“Mình từng làm bên mảng khách sạn nên mình biết rõ càng tiêu chuẩn hoá vận hành và phân cấp các cơ sở ra sao, việc phối hợp giữa các bên liên quan và quản lý chặt chẽ DVCS cho NCT càng chuẩn hoá bấy nhiêu. Điều đó góp phần tăng cường chất lượng DVCS cho NCT hơn rất nhiều so với CS hiện nay”.
(Nữ, nhà đầu tư cơ sở ngoài công lập, 41 tuổi) “Phát triển các cơ sở sẽ phải bao hàm cả phát triển về cả chất lượng nhưng các CS hiện nay chưa quan tâm đến quản lý chất lượng dịch vụ mà chỉ quan tâm đến việc quản lý hành chính về thủ tục, giấy tờ”.
(Nam, chuyên gia nghiên cứu, 57 tuổi) “Các cơ sở ngoài công lập hiện nay tự bỏ tiền hoặc vay ngoài để đầu tư, mọi chi phí đó cuối cùng NCT phải gánh chịu. Nên nếu được hưởng những CS ưu đãi của nhà nước, chi phí NCT tại các trung tâm sẽ giảm, nhiều NCT được tiếp cận hơn với DVCS chuyên nghiệp”
(Nữ, chủ cơ sở ngoài công lập, 51 tuổi)
112
vụ của cơ quan thực thi CS
CS ưu đãi hiện nay ưu tiên phát triển các cơ sở chăm sóc NCT ngoài công lập
tuy nhiên việc xác định đúng đối tượng được hưởng ưu đãi chưa trúng đích. 27/42
người được phỏng vấn nêu lên bởi các CS ưu đãi, đặc biệt về giao/cho thuê đất hiện
nay là một công cụ CS hữu ích, nhận được sự ủng hộ của các chủ cơ sở và các nhà
đầu tư. Tuy nhiên, số lượng cơ sở nhận được ưu đãi này tại Hà Nội đến nay là 04 dự
án. Trong 04 dự án đó, 3/4 dự án sau gần 10 năm nhận phê duyệt đầu tư vẫn chưa
thực thi. 01 dự án đi vào thực hiện chỉ cung cấp cho số lượng NCT sử dụng dịch vụ
thấp so với công suất thiết kế và đưa mức giá dịch vụ hơn 15 triệu, cao hơn so với
mức thu nhập bình quân tại Hà Nội và khả năng chi trả của NCT; ngoài ra, toàn bộ
khu đất được giao/ cho thuê hiện đang được xin thủ tục chuyển đổi do kinh doanh thu
không đủ bù chi. Trong khi đó, nhiều chủ cơ sở chăm sóc NCT cung cấp dịch vụ thực
tế lại không thể tiếp cận với CS ưu đãi này. Bởi vậy, công cụ CS được đánh giá chưa
xác định trúng đích đối tượng cần hưởng CS.
- Yếu tố bối cảnh: Vấn đề về thu nhập, tiết kiệm của NCT cũng như các chương
trình bảo hiểm xã hội và các CS trợ cấp cho đa phần NCT hiện nay chưa đáp ứng
được nhu cầu chăm sóc thực tế của NCT, gây cản trở cho phát triển của các cơ sở
ngoài công lập trong quá trình triển khai CS. Theo số liệu về nhu cầu của NCT
muốn được chăm sóc tại cơ sở và có khả năng chi trả tại Việt Nam của Tổng cục
Thống kê và Quỹ Dân số Liên hợp quốc [44], tỷ lệ NCT cần và muốn được chăm sóc
nếu có nhu cầu tại Cơ sở CSDH như Nhà dưỡng lão, trung tâm chăm sóc nội trú là
khoảng 1,6 – 2,4% tổng dân số.
Biểu đồ 3.1. Nơi NCT muốn được chăm sóc nếu có nhu cầu
113
Nguồn: Tổng cục Thống kê và Quỹ Dân số Liên hợp quốc [44]
Tuy nhiên, tỷ lệ NCT và gia đình sẵn sàng chi trả cho dịch vụ đạt tỷ lệ thấp
0,27- 0,42% (Hình 4). Dù vậy, nếu tính tỷ lệ sẵn sàng chi trả cho cơ sở chăm sóc
NCT ở mức thấp nhất (tính theo Giới tính, Dân tộc, Độ tuổi, Khu vực) là 0,36% thì
nhu cầu của thị trường chăm sóc tại Hà Nội vẫn còn rất lớn khi có khoảng 4320 NCT
có mong muốn và khả năng sử dụng dịch vụ.
Biểu đồ 3.2. Tỷ lệ sẵn sàng chi trả cho DVCS của NCT và gia đình
Nguồn: Tổng cục Thống kê và Quỹ Dân số Liên hợp quốc [44]
Những đặc điểm về kinh tế của dân số cao tuổi tại Việt Nam nói chung và Hà
Nội nói riêng cho thấy mức kinh tế của đa phần NCT không thể đáp ứng được các
nhu cầu chăm sóc hiện tại, đặc biệt là những nhóm NCT có suy giảm về mặt chức
năng và cần sự chăm sóc đặc biệt. Hiện tại các cơ sở ngoài công lập chỉ có thể tiếp
cận được với những NCT (hoặc gia đình) có khả năng chi trả dịch vụ ở mức cao. Ước
tính, mức chi phí trung bình đối với một NCT khoẻ mạnh không cần sự hỗ trợ về y tế
đặc biệt vào một cơ sở TGXH ngoài công lập tại Hà Nội có mức thấp nhất là 5 triệu
đồng. Mức phí cho NCT sống tại các cơ sở ngoài công lập dao động từ 5-40
triệu/tháng [48]. Theo các nghiên cứu, việc sử dụng DVCS chuyên nghiệp tại các cơ
sở ngoài công lập của NCT và gia đình NCT sẽ tăng lên nếu các CS liên quan đến
bảo hiểm CSDH được xây dựng như kinh nghiệm của các nước khác [44]. Vì thế,
trong bối cảnh Việt Nam chưa có các CS bảo hiểm, khả năng kinh tế để tiếp cận của
NCT là khá khó khăn.
- Yếu tố năng lực: Việc theo dõi, giám sát việc thực hiện CS được đánh giá là
114
không hiệu quả do hạn chế về năng lực của cán bộ thực hiện CS.
Thảo luận nhóm cho thấy các chủ cơ sở chăm sóc đánh giá cao thái độ làm việc
của các cán bộ thực hiện CS nhưng đều cho rằng cán bộ thực hiện đang kiểm tra,
giám sát hoạt động của các cơ sở theo tình hình thực tế chứ không đưa ra được cách
giải quyết có tính định hướng cho cơ sở; việc đánh giá còn mang tính chủ quan vì
chưa có những tiêu chuẩn cụ thể xác định sự tuân thủ của các cơ sở khi chăm sóc
NCT; trong quá trình các cơ sở chăm sóc NCT xin giấy phép hoạt động hoặc đề nghị
được hưởng lợi từ các CS hỗ trợ, nhiều cán bộ CS cho rằng các cơ sở này đang thực
hiện mô hình chăm sóc y tế cho NCT dưới dạng bệnh viên tư nhân. Do đó, các cơ sở
gặp khó khăn trong việc được cấp phép hoạt động cũng như trong toàn bộ quá trình
vận hành và hưởng lợi từ các CS được ban hành.
Vấn đề này trong kết quả phỏng vấn sâu với cán bộ thực hiện CS được lý giải
do việc phát triển cơ sở còn rất mới nên hiện nay các chương trình học hỏi kinh
nghiệm từ các quốc gia khác tập trung cho đội ngũ lãnh đạo nhiều hơn là cán bộ thực
thi. Đây là một rào cản nâng cao năng lực đội ngũ trực tiếp thực hiện CS tại các sở
khiến việc theo dõi, giám sát còn có những hạn chế. Dẫn tới việc chủ thể thực hiện
CS phải học hỏi đối tượng thụ hưởng CS.
- Yếu tố cam kết: Việc theo dõi giám sát hạn chế do cam kết hành động của các
bên tham gia chưa đủ quyết liệt.
Các cán bộ CS hầu như ít có những trao đổi, cập nhật hoặc thực hiện việc kết
nối cũng như đánh giá việc thực hiện CS sau ban hành. Các ý kiến đóng góp từ cơ sở
liên quan tới CS thì dường như không tạo ra sự thay đổi về mặt nội dung CS hoặc
quá trình quản lý thực hiện CS đã ban hành. Ngoài tính cam kết, khi kiểm tra giám
sát, sự thiếu hụt của hệ thống nhân lực thực hiện CS và nguồn kinh phí của nhà nước
bố trí cho quá trình theo dõi, giám sát và đánh giá quá trình triển khai thực hiện cũng
là một yếu tố ảnh hưởng chính.
“Các chị cán bộ CS hỗ trợ cũng gặp nhiều khó khăn, họ không có đủ người cũng như không có tiếng nói gì trong việc tác động để thay đổi CS nếu thấy có những bất cập”.
(Nữ, chủ cơ sở ngoài công lập, 47 tuổi) “Hiện nay nhà nước không có tiền đề thực hiện các hoạt động đánh giá hiệu quả CS một cách sâu rộng. Thường thì vẫn có các nhóm, đoàn kiểm tra liên ngành đi giám sát, đánh giá việc thực hiện CS. Tuy nhiên, chủ yếu dựa vào các báo cáo từ phía cơ sở chứ không có các hoạt động đánh giá chuyên sâu để nhìn nhận từ nhiều góc độ khác nhau”.
(Nam, cán bộ CS cấp Bộ, 45 tuổi)
115
Hộp 3.19: Ý kiến về năng lực theo dõi, giám sát thực hiện CS
Sở LĐTBXH trong giai đoạn 2015-2022 có 01 Công văn số 929/LĐTBXH-
BTXH về tăng cường kiểm tra, rà soát các cơ sở trợ giúp đối tượng thuộc diện bảo
trợ xã hội và cơ sở chăm sóc NCT, NKT do phát hiện sai phạm của các cơ sở hoạt
động không đăng ký cấp phép chăm sóc NCT. Tuy nhiên, các cơ quan chủ quản
không kiên quyết trong việc quản lý các cơ sở chưa xin cấp phép của Sở LĐTBXH
nhằm đảm bảo việc cung cấp DVCS cho NCT trên địa bàn Hà Nội. Mặc dù NĐ 103
quy định “Trong thời hạn 01 năm, nếu cơ sở không đáp ứng các tiêu chuẩn, điều kiện
hoạt động theo quy định thì thực hiện thủ tục sáp nhập hoặc giải thể cơ sở”. Điều này
do các cơ sở chăm sóc NCT ngoài công lập phần lớn đều tự thuê địa điểm và không
nhận được ưu đãi đáng kể từ phía nhà nước, bởi vậy không muốn đăng kí cấp phép vì
cho rằng hoạt động trên cơ sở giấy phép đầu tư của Sở KHĐT là phù hợp. Tuy nhiên,
đây là quan điểm sai lệch của chủ cơ sở. Xong, các biện pháp xử lý của ngành
LĐTBXH chưa được triển khai do tính cam kết của người thực hiện CS dù hiểu quy
trình xử lý và do nhận thức các cơ sở chăm sóc NCT thường được xây dựng chủ yếu
phục vụ lợi ích cho cộng đồng.
“ Phòng có tham mưu cho UBND Quận rà soát, báo cáo các cơ sở TGXH, sau đó UB báo cáo cho Sở tổng hợp chung toàn thành phố nên có trường hợp một cơ sở chưa làm thủ tục cấp phép dù thành lập từ 2013. Tuy nhiên sau vài lần gửi văn bản vẫn chưa nhận được phản hồi vì cơ sở đó thay đổi trụ sở. Hiện giờ vẫn chưa biết cơ sở chuyển đi đâu.”
(Nữ cán bộ thực hiện CS cấp Sở, 54 tuổi)
Hộp 3.20: Ý kiến về sự cam kết xử lý, giám sát các cơ sở chăm sóc NCT
- Yếu tố phối hợp: Việc phối hợp giám sát liên ngành cũng còn nhiều hạn chế
do chưa có cơ chế giám sát cụ thể, chưa có các bộ tiêu chí đánh giá, giám sát về các
khía cạnh của việc phát triển các cơ sở chăm sóc NCT và chưa quan tâm đến cơ chế
xử lý sau báo cáo.
Trong báo cáo của Bộ LĐTB&XH [4], về quy hoạch mạng lưới cơ sở TGXH
thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, chỉ có 42,9% cơ sở chăm sóc NCT tại
Hà Nội đáp ứng được yêu cầu về bảo đảm an toàn và chất lượng chăm sóc. Còn lại,
hầu hết các cơ sở còn tồn tại nhiều vấn đề, bao gồm thiếu nguồn nhân lực chuyên
môn, thiếu trang thiết bị y tế cần thiết, không đảm bảo vệ sinh, an toàn thực phẩm và
chất lượng thực phẩm, và còn nhiều vấn đề khác. Trong khi đó, việc giám sát liên
ngành trong thực hiện các CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT cũng gặp nhiều hạn
chế. Theo báo cáo, chỉ có 11/16 các cơ sở được khảo sát cho biết đã tham gia các
116
hoạt động giám sát định kỳ của các cơ quan liên ngành như Ban quản lý dịch vụ y tế
quận/huyện và Cục Quản lý Y tế Dự phòng thành phố, hoặc các hoạt động kiểm tra
liên ngành của các ban bộ ngành có liên quan khác. Hầu hết, việc đánh giá giám sát
chủ yếu tập trung vào việc vận hành của cơ sở và thường diễn ra vào những thời
điểm đặc biệt, ví dụ như giai đoạn dịch bệnh Covid-19 xảy ra.
“Thỉnh thoảng có các đoàn kiểm tra liên ngành tới cơ sở, tuy nhiên cũng thường chỉ xảy ra vào các dịp đặc biệt ví dụ như trong giai đoạn Covid-19. Họ thường tới để xem xét điều kiện cơ sở vật chất, rồi các hoạt động chăm sóc diễn ra như thế nào, hoặc các vấn đề liên quan tới an toàn vệ sinh, cháy nổ”.
(Nữ, chủ cơ sở ngoài công lập, 45 tuổi)
Hộp 3.21: Ý kiến đánh giá về cơ chế phối hợp giám sát
Tổng thể, các con số thống kê và kết quả nghiên cứu cho thấy rằng việc thiếu cơ
chế giám sát cụ thể và bộ tiêu chí đánh giá, giám sát vẫn đang là một thách thức lớn
đối với việc phát triển các cơ sở chăm sóc NCT tại Hà Nội. Việc đánh giá chưa
hướng tới cải thiện các CS đã ban hành, mà chỉ tập trung vào đánh giá chất lượng các
cơ sở chăm sóc NCT theo những quy định chung. Các hạn chế này cho thấy sự cần
thiết của việc xây dựng và áp dụng các bộ tiêu chí đánh giá cụ thể và hiệu quả, cùng
với cơ chế giám sát và đánh giá thường xuyên để đảm bảo chất lượng và hiệu quả của
các cơ sở chăm sóc NCT và các CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT tại Hà Nội.
-Yếu tố truyền thông: Các kiến nghị của các cơ sở - cơ chế truyền thông nội bộ
- dường như ít có tác động tới quá trình thay đổi.
Theo kết quả nghiên cứu, các cơ sở chăm sóc NCT tại Hà Nội đã đưa ra nhiều
kiến nghị để cải thiện các CS hỗ trợ cơ sở chăm sóc NCT, bao gồm yêu cầu hỗ trợ về
mặt bằng, tài chính, và hợp tác giữa các cơ sở. Tuy nhiên, các kiến nghị này ít có tác
động tới quá trình thay đổi, chỉnh sửa CS. Cụ thể, trong số các cơ sở được khảo sát,
chỉ có 5/13 cơ sở cho biết đã đưa ra các kiến nghị với các cơ quan liên quan để giải
quyết các vấn đề liên quan đến việc chăm sóc NCT. Trong số đó, chỉ có 2/13 cơ sở
cho biết các kiến nghị của họ đã được cơ quan liên quan xem xét và giải quyết nhưng
thời gian kéo dài rất lâu. Điều này làm giảm động lực tham gia của đối tượng CS.
Hình thức kiến nghị của các cơ sở bao gồm việc đưa ra kiến nghị trực tiếp cho cơ
quan chức năng, hoặc kiến nghị thông qua việc tham gia hội thảo hoặc đối thoại với
các cơ quan chức năng hoặc tổ chức liên quan, một số cơ sở đã tham gia đóng góp ý
kiến trong các hoạt động lập pháp. Tuy nhiên, các kiến nghị này chưa được đưa vào
hoặc ít có tác động tới quá trình thay đổi, chỉnh sửa CS. Một số nguyên nhân gây ra
117
tình trạng này được xác định bao gồm: 1) Thiếu kênh thông tin: Nhiều cơ sở chăm
sóc không biết cách liên hệ hoặc gửi kiến nghị đến các cơ quan chức năng hoặc tổ
chức liên quan; 2) Thiếu tư vấn và hướng dẫn: Nhiều cơ sở chăm sóc không biết cách
tham gia hoạt động lập pháp hoặc tham gia các hội thảo, đối thoại với các cơ quan
chức năng hoặc tổ chức liên quan; 3) Thiếu sự quan tâm và phản hồi: Một số cơ quan
chức năng và tổ chức liên quan chưa quan tâm đến kiến nghị từ cơ sở chăm sóc hoặc
không đưa ra phản hồi.
“Các cơ sở ngoài công lập có thành lập các nhóm để trao đổi thông tin, trợ giúp lẫn nhau nhưng một cách phi chính thức. Các hội thảo cũng gọi rủ nhau cùng đi, nêu ý kiến nhưng dường như ý kiến chỉ được ghi nhận, lắng nghe chứ không tạo ra những điều chỉnh CS”. (Nữ, chủ cơ sở ngoài công lập, 41 tuổi)
“Đầu tiên, anh còn thích tham gia các hội thảo để đóng góp ý kiến. Nhưng sau thấy mọi thứ mãi không thay đổi và anh cảm thấy chán dần”.
(Nam, chủ cơ sở ngoài công lập, 57 tuổi)
Hộp 3.22: Ý kiến đánh giá về các kiến nghị CS
Tổng hợp lại, có thể thấy bước theo dõi, kiểm tra, giám sát CS đang là một yếu
điểm lớn của quy trình thực hiện do mọi yếu tố được đem ra làm hệ quy chiếu đánh
giá đều cho thấy những rào cản đến hiệu quả thực hiện bước này do hạn chế về năng
lực của cán bộ CS, thiếu sự cam kết và hành động trong quản lý cơ sở TGXH, thiếu
bộ tiêu chí đánh giá, giám sát làm giảm hiểu quả phối hợp giám sát giữa các bên liên
quan, cùng với đó là cơ chế xử lý sau báo cáo giám sát không được thực thi. Cuối
cùng, kênh giao tiếp giữa đối tượng thụ hưởng CS, nhân dân và cán bộ thực hiện CS
không có hiệu quả.
3.2.5. Sơ kết, tổng kết, đánh giá quá trình thực hiện chính sách
3.2.5.1. Thực trạng và kết quả sơ kết, tổng kết, đánh giá quá trình thực hiện chính sách
UBND TP Hà Nội và cơ quan quản lý thực hiện CS (Sở LĐTBXH TP) cũng
đã có nhiều những hoạt động liên quan tới việc sơ kết, tổng kết đánh giá theo giai
đoạn các nội dung CS liên quan tới việc phát triển cơ sở chăm sóc NCT. Hiện tại,
hoạt động tổng kết và đánh giá quá trình thực hiện CS được thực hiện lồng ghép với
các hoạt động kiểm tra giám sát định kỳ hàng năm. Theo định kỳ, 10 năm một lần
các CS sẽ được đánh giá thực hiện một lần, dựa trên việc tổng hợp các kết quả theo
dõi, giám sát thường kỳ. Một số báo cáo đã được thực hiện cho đến nay bao gồm:
Báo cáo tình hình chăm sóc NCT trên địa bàn thành phố Hà Nội (2015); Báo cáo
tổng hợp Quy hoạch phát triển mạng lưới các cơ sở xã hội trên địa bàn TP Hà Nội
118
đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 (2015); Báo cáo Kết quả thực hiện Chương
trình hành động quốc gia về NCT giai đoạn 2012 – 2020 (2020); Báo cáo Kết quả
thực hiện Luật NKT; Luật Người cao tuổi và Kế hoạch số 114/KH-UBND ngày
27/9/2011 của UBND Thành phố về chăm sóc, phát huy vai trò Người cao tuổi
Thành phố giai đoạn 2011 – 2020 (2020); Báo cáo Đánh giá kết quả thực hiện quy
hoạch mạng lưới cơ sở trợ giúp xã hội giai đoạn 2010-2020 và đề xuất quy hoạch
thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn 2050 (2020); Báo cáo Kế hoạch số 161/KH-UBND
ngày 10/10/2013 của UBND Thành phố về việc thực hiện Đề án trợ giúp NKT Thành
phố giai đoạn 2013 – 2020 (2021)… Có thể thấy, cho tới hiện tại, hoạt động đánh giá
tổng kết các CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT không có riêng, tuy nhiên việc đánh
giá này được thực hiện lồng ghép trong các hoạt động đánh giá Luật NCT, đánh giá
Chương trình hành động quốc gia về NCT, hoặc đánh giá Quy hoạch phát triển mạng
lưới các cơ sở xã hội trên địa bàn TP Hà Nội. Các báo cáo quy hoạch cơ sở chăm sóc
NCT được thực hiện tại Hà Nội được triển khai khi có các đề án, dự án ví dụ: Thành
lập quy hoạch phát triển mạng lưới cơ sở trợ giúp xã hội 2015-2025, tầm nhìn đến
2030. Vấn đề này được nêu ra bởi thiếu kinh phí thực hiện và các số liệu thống kê
bởi các nghiên cứu chính thức diện rộng tại Hà Nội còn hạn chế. Ngoài ra, trong các
buổi tổng kết 5-10 năm thực hiện Luật NCT, các cơ sở ngoài công lập được khen
thuong vì đã có đóng góp trong quá trình thực hiện luật.
3.2.5.2. Các yếu tố ảnh hưởng tới bước sơ kết, tổng kết, đánh giá quá trình thực hiện
chính sách
- Yếu tố cam kết: Do thiếu sự quan tâm nên các hoạt động đánh giá quá trình
thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT tại Hà Nội chỉ theo định kỳ hàng năm
và được thực hiện lồng ghép với báo cáo chung về chăm sóc NCT.
Cán bộ thực hiện CS đồng tình ý kiến cho rằng báo cáo về sự phát triển các cơ
sở diễn ra mờ nhạt, có những hội nghị tổng kết không nhắc tới mà dành thời gian trao
đổi những vấn đề thiết thực hơn. Các báo cáo chỉ nêu chung về sự phát triển của các
cơ sở ngoài công lập, không có các con số thống kê, tổng hợp, rà soát cụ thể về tình
hình phát triển và nhận ưu đãi của các cơ sở ngoài công lập về đào tạo nhân lực, ưu
đãi về thuế, vốn, đất đai.
“Một số tỉnh khác có báo cáo hàng năm nhưng riêng Hà Nội các báo cáo về quy hoạch mạng lưới được thực hiện theo chương trình triển khai. Một phần là thiếu kinh phí, một phần là do số lượng nhân lực có hạn”
(Nữ, cán bộ CS cấp Bộ, 47 tuổi)
119
Hộp 3.23: Ý kiến đánh giá việc báo cáo triển khai CS
- Yếu tố liên minh: Trong các hoạt động này, các cơ sở (công lập và ngoài
công lập) cũng được mời tham dự và đóng góp ý kiến vào việc thực hiện CS nhưng
sự tham gia tiếp tục giảm dần theo thời gian.
Tuy nhiên, việc phổ biến các hoạt động đánh giá này không rộng rãi và thiếu sự
tham gia của nhiều các cơ sở, đặc biệt là các cơ sở chăm sóc tư nhân. Trong các hoạt
động đánh giá, cơ quan quản lý đều có những báo cáo cụ thể về quá trình thực hiện
CS một cách cụ thể. Tuy nhiên, theo đánh giá của các cơ sở và của các cán bộ thực
hiện CS thì các báo cáo này còn nhiều khoảng trống do thiếu sự phối hợp với các bên
liên quan trong quá trình thực hiện CS. Ban đầu, các cơ sở đều tích cực tham gia vào
việc đóng góp, tuy nhiên sau khi nhận thấy rằng việc các khuyến nghị của mình hầu
như không tạo được ra những sự thay đổi tích cực thì các cơ sở có xu hướng ngại
tham gia các hoạt động đánh giá này. Ngoài việc thực hiện các hoạt động đánh giá
chính thức, thì việc đánh giá cũng được thực hiện thông qua các kênh phi chính thức
như việc trao đổi, chia sẻ giữa cán bộ thực hiện CS với người quản lý các cơ sở dựa
trên những sự kết nối nhất định
“Bọn chị thực hiện CS thực tế nên hiểu vấn đề ở phía chủ cơ sở. Nhưng báo cáo tổng kết hàng năm đưa lên cấp trên, hầu hết thay đổi điều chỉnh diễn ra rất chậm”
(Nữ, cán bộ thực hiện CS cấp Sở, 39 tuổi) “Các cán bộ ở Sở cũng có hỏi ý kiến anh để xin tư vấn, anh cũng nhiệt tình chia sẻ hết những ý tưởng và mong đợi của anh cho các cán bộ ấy. Khi tham gia các buổi tổng kết chương trình, nội dung chủ yếu về chế độ CS cho NCT và thực hiện luật nên ý kiến đóng góp của mình tại hội thảo cũng hạn chế. Nhưng nếu được góp ý kiến, phần lớn vẫn là các chủ cơ sở lâu năm, nhưng cơ bản, ý kiến nêu ra không tạo ra nhiều thay đổi”
(Nam, chủ cơ sở ngoài công lập, 57 tuổi)
Hộp 3.24: Ý kiến về sự tham gia của liên minh trong sơ kết, đánh giá thực hiện CS
- Yếu tố sự phối hợp: Sự phối hợp liên ngành về đánh giá sơ kết, tổng kết thực
hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT mang tính hình thức.
Do không có sự phân định cụ thể về nhân lực phụ trách thực hiện CS phát triển
cơ sở chăm sóc NCT nên trong các buổi báo cáo, họp sơ kết, tổng kết do UBND TP
Hà Nội thực hiện, sự tham gia của các cán bộ CS đầy đủ nhưng mang tính đại diện và
lắng nghe ý kiến, báo cáo. Sở LĐTBXH là cơ quan đại diện báo cáo tình hình chung
về công tác NCT và những nét khái quát về công tác phát triển cơ sở chăm sóc NCT
ở Việt Nam. Tuy nhiên, do đây chỉ là một hợp phần nhỏ trong hoạt động chăm sóc
120
NCT, báo cáo về nội dung này không phải là chủ đề trọng tâm.
“Theo định kỳ cũng có các báo cáo liên quan tới thực thi CS, trong đó đề xuất thay đổi được tổng hợp từ ý kiến của các cơ sở hoặc cán bộ thực hiện. Tuy nhiên, các thông tin cũng mang tính định tính bởi thiếu kết nối với các đơn vị khác tham gia trực tiếp vào quá trình thực hiện CS”.
(Nữ, cán bộ CS cấp Sở, 39 tuổi)
Hộp 3.25: Ý kiến về sự phối hợp sơ kết, tổng kết, đánh giá việc thực hiện CS
- Yếu tố truyền thông: Các báo cáo tổng kết đánh giá của UBND và Sở
LĐTBXH cho đến nay không được công khai trên cổng thông tin.
- Có 25% người được hỏi (bao gồm các chủ cơ sở khác, chủ cơ sở ngoài công
lập, nhà đầu tư và chuyên gia nghiên cứu CS) cho biết họ không có kênh thông tin để
biết báo cáo tổng kết và định hướng của nhà nước trong việc tổ chức triển khai CS.
Các kênh truyền thông đại chúng như báo, đài không đưa tin bài về sự phát triển các
cơ sở trợ giúp xã hội và các CS ưu đãi, đào tạo và phát triển nhân lực. Ngay cả khi
tiếp cận được với các báo cáo, nội dung báo cáo về phát triển mạng lưới cơ sở TGXH
khoảng 10 dòng ngắn gọn và không có thông số cụ thể ngoại trừ số lượng cơ sở
TGXH hiện nay. Có thể thấy việc đánh giá, tổng kết quá trình thực hiện CS đã được
quan tâm thực hiện bởi các cơ quan thực hiện CS, với các hành động cụ thể như thực
hiện các cuộc trao đổi, toạ đàm hoặc hội thảo. Các văn bản đánh giá cũng được xây
dựng tuy nhiên chưa phản ánh đầy đủ hết các khía cạnh liên quan tới quá trình thực
hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT tại Hà Nội.
Tóm lại, công tác sơ kết, tổng kết, đánh giá việc thực hiện CS phát triển cơ sở
chăm sóc NCT tại Hà Nội đến nay đã được thực hiện định kỳ, cũng bộc lộ những hạn
chế giống các bước khác của quy trình thực hiện CS khi báo cáo về sự phát triển cơ
sở mang tính lồng ghép, sự tham gia của các bên liên quan mang tính hình thức và
báo cáo tổng kết không có kênh công khai minh bạch để các bên hữu quan nắm được
quy hoạch phát triển CS.
3.3. Đánh giá kết quả thực hiện chính sách phát triển cơ sở chăm sóc người cao
tuổi tại Hà Nội
3.3.1. Sự phát triển của các cơ sở chăm sóc người cao tuổi tại Hà Nội
3.3.1.1. Sự phát triển của các cơ sở chăm sóc người cao tuổi công lập
Tính đến trước ngày 9/6/2022, Sở LĐTBXH Hà Nội có 14 cơ sở TGXH trực
thuộc, gồm 12 cơ sở chăm sóc đối tượng BTXH và 02 cơ sở cung cấp dịch vụ
121
TGXH. Các cơ sở thực hiện công tác quản lý, chăm sóc, nuôi dưỡng, phục hồi chức
năng cho nhiều nhóm đối tượng: NCT, trẻ em, NKT, người lang thang xin tiền; cung
cấp các dịch vụ CTXH; trợ giúp trẻ em và các đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt khó
khăn, góp phần đảm bảo ASXH Thủ đô. Mỗi cơ sở chăm sóc, nuôi dưỡng từ 01 đến
02 nhóm đối tượng BTXH khác nhau. NCT tại cơ sở TGXH ngày càng giảm do
Thành phố thực hiện tốt CS giảm nghèo (theo Luật NCT, NCT cô đơn thuộc hộ
nghèo được tiếp nhận vào cơ sở TGXH) [47].
Toàn Thành phố vẫn có tới 4.352 NCT cô đơn thuộc hộ nghèo thuộc nhóm đối
tượng đủ điều kiện để tiếp nhận vào chăm sóc, nuôi dưỡng tại cơ sở TGXH. Nhưng
số lượng NCT là đối tượng trợ giúp vào sống tại các cơ sở TGXH vẫn còn thấp: dưới
100 cụ. Trước thực trạng đó, HĐND Thành phố đã ban hành Nghị quyết số
04/2019/NQ-HĐND, trong đó mở rộng đối tượng được tiếp nhận vào các cơ sở
TGXH là trẻ mồ côi cha hoặc mẹ thuộc hộ nghèo, cận nghèo và NCT cô đơn thuộc
hộ cận nghèo. Do vậy, số trẻ em và NCT tại các cơ sở TGXH 03 năm gần đây tương
đối ổn định.
Bảng 3.5. Số lượng người cao tuổi được chăm sóc tại các TTBTXH
Đối tượng trợ giúp
T12/ 2017 T12/ 2018 T12/ 2019 T12/ 2020 T5/ 2021
Người cao tuổi cô đơn 88 90 92 91 87
Nguồn: UBND TP Hà Nội [47]
Tuy nhiên, bắt đầu từ năm 2022, theo QĐ 5188/QĐ-UBND của UBND TP Hà
Nội ngày 09/12/2021 về việc phê duyệt đề án sắp xếp lại các cơ sở TGXH thuộc sở
LĐTBXH Hà Nội, thực hiện việc sắp xếp 12 cơ sở BTXH còn 10 cơ sở BTXH (giảm
02 đơn vị, tỷ lệ 16,7%) và đổi tên, sắp xếp lại tổ chức của các cơ sở BTXH theo quy
định (xem Phụ lục 13). Do đó, hiện nay NCT cô đơn chỉ được chăm sóc tập trung tại
02 cơ sở bảo trợ của Thành phố, bao gồm: Trung tâm BTXH II Hà Nội; Trung tâm
BTXH III Hà Nội. Quyết định cũng đưa ra hướng phát triển mới cho các Trung tâm
này theo hướng XHH bằng việc mở rộng dịch vụ chăm sóc NCT có nhu cầu được
TGXH và tự nguyện đóng góp kinh phí nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội và vấn đề
già hoá dân số [47]. Theo NĐ số 20/2021/NĐ- CP ngày 15/03/2021 của chính phủ
quy định CS TGXH đối với đối tượng BTXH, các đối tượng phục vụ tại các cơ sở
122
TGXH được hưởng các CS về chăm sóc và nuôi dưỡng toàn bộ trong suốt thời gian
lưu trú tại các cơ sở này. Như vậy, các cơ sở không có khả năng tự chủ về tài chính,
mà phục thuộc hoàn toàn vào nguồn ngân sách của nhà nước.
Đánh giá kết quả thực hiện quy hoạch mạng lưới cơ sở TGXH giai đoạn 2010-
2020 và đề xuất quy hoạch thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn 2050 của [17] cho thấy:
Về đối tượng: Toàn TP Hà Nội có: 1.032.357 NCT, trong đó có 439 người đang
được nuôi dưỡng tại các cơ sở BTXH công lập (gồm 87 NCT cô đơn, 200 NCT
khuyết tật, 121 NCT lang thang vô gia cư; 31 NCT tự nguyện đóng góp kinh phí).
Về cơ sở trợ giúp xã hội chăm sóc NCT: Sở Lao động – TB&XH có 02 các cơ
sở TGXH đang nuôi dưỡng 88 NCT cô đơn bao gồm: Trung tâm BTXH II, Trung
tâm BTXH III. Mỗi cơ sở quản lý, chăm sóc từ 01- 02 loại đối tượng để đảm bảo
thực hiện tốt công tác quản lý, chăm sóc, phù hợp với đặc điểm, độ tuổi, dạng tật của
các nhóm đối tượng.
Như vậy, các cơ sở TGXH trực thuộc Sở LĐTBXH trong nhiều năm qua đã
thực hiện tốt công tác quản lý, chăm sóc, nuôi dưỡng, phục hồi chức năng cho các
đối tượng tại cơ sở; cung cấp các dịch vụ CTXH; trợ giúp cho NCT cô đơn thuộc hộ
nghèo và cận nghèo, góp phần đảm bảo ASXH Thủ đô. Phần lớn các cơ sở đã được
thành lập trên 20 năm, mỗi cơ sở TGXH có chức năng, nhiệm vụ riêng, chăm sóc từ
1 đến 2 nhóm đối tượng BTXH, góp phần chuyên nghiệp hóa công tác quản lý, chăm
sóc, trợ giúp đối tượng. Được sự quan tâm của Bộ LĐTBXH; Thành ủy, HĐND,
UBND Thành phố và các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, nhà hảo tâm đã giúp đời
sống vật chất, tinh thần của đối tượng tại các cơ sở TGXH được cải thiện đáng kể.
Nhu cầu đối tượng được vào chăm sóc hoặc sử dụng các dịch vụ phục hồi chức năng
tại các cơ sở TGXH theo hình thức tự nguyện ngày càng tăng.
Tại các trung tâm BTXH, ngoài các đối tượng được bảo trợ, trung tâm nuôi
dưỡng thường xuyên NCT theo diện tự nguyện. Số lượng đối tượng được các trung
tâm nuôi dưỡng thường xuyên theo diện tự nguyện thường xuyên như sau:
Bảng 3.6. Số NCT tự nguyện đóng phí sống tại cơ sở TGXH công lập
Đối tượng tự nguyện
T12/ 2017 T12/ 2018 T12/ 2019 T12/ 2020 T5/ 2021
Người cao tuổi cô đơn 30 30 31 32 31
123
Nguồn: Sở LĐTBXH Hà Nội [38]
Trung tâm bảo trợ III thí điểm nuôi dưỡng NCT theo diện tự nguyện từ năm
2007 với mức tạm thu do UBND TP Hà Nội duyệt mức tạm thu thí điểm. Mức tạm
thu từ năm 2007 là 2 triệu/ người/ tháng. Tuy nhiên, theo kế hoạch, sau 10 năm đến
năm 2017 sẽ chính thức cung cấp dịch vụ cho NCT theo diện tự nguyện như Quy
định tại NĐ 103/2017/NĐ- CP nhưng do cơ chế, thủ tục của nhà nước nên đơn vị dời
đến năm 2022 mới được chính thức giao nhiệm vụ. Bởi vậy, trong giai đoạn 2021,
việc chăm sóc đối tượng tự nguyện có nhu cầu các Trung tâm bảo trợ II, III phải gửi
công văn xin ý kiến Sở LĐTBXH từng trường hợp do việc chăm sóc XHH bị tạm
dừng khi thành phố đưa ra đề án Quy hoạch mạng lưới cơ sở TGXH 2021-2030, tầm
nhìn đến 2050. Tuy nhiên đến thời điểm này, do mức thu được các Trung tâm BTXH
II, III trình lên thu NCT mức 3.5 triệu/ tháng chưa được Sở tài chính duyệt nên việc
chăm sóc NCT theo diện tự nguyện đang bị tạm dừng, điều này gây khó khăn cho cả
NCT và cơ sở công lập.
Trong khi đó, theo ước tính, trên toàn địa bàn TP Hà Nội, vẫn còn gần 10.000
NCT cô đơn sống một mình. Trong số đó, có những NCT có lương hưu nên không
được hưởng chế độ vào cơ sở TGXH theo QĐ 103 về các trường hợp được bảo trợ.
Ngoài ra, khoảng 30% NCT ở Hà Nội sống dưới mức độ sinh hoạt tối thiểu, chỉ đủ
đáp ứng được các nhu cầu cơ bản như ăn uống, sinh hoạt, không có nhiều điều kiện
cho các hoạt động giải trí, tham gia các hoạt động xã hội. Ngoài ra, khoảng 15%
trong số đó sống trong điều kiện khó khăn, thiếu thốn những tiện ích cơ bản như
đường đi, ánh sáng, nước sạch, vệ sinh, y tế. Đây là những con số cho thấy triển vọng
về số lượng đối tượng cần dịch vụ của các cơ sở TGXH công lập để đáp ứng nhu cầu
của NCT có mức thu nhập không đảm bảo đáp ứng việc sinh hoạt tại các cơ sở
TGXH ngoài công lập tại Hà Nội hiện nay.
Tại các trung tâm BTXH, cơ sở vật chất của phần lớn các đơn vị đã xuống cấp;
thiếu trang thiết bị cho công tác chăm sóc, phục hồi chức năng. Tại các cơ sở, đối
tượng BTXH đông, việc thành lập các cơ sở TGXH đa năng là không phù hợp, vì
không đảm bảo tính chuyên nghiệp trong công tác quản lý, chăm sóc, nuôi dưỡng đối
tượng. Tại Hà Nội, việc sáp nhập các cơ sở BTXH do Sở Lao động TB&XH quản lý,
giảm từ 12 cơ sở xuống còn 05 cơ sở. Tuy nhiên mỗi cơ sở sau khi sáp nhập có nhiều
địa điểm khác nhau (các địa điểm cách nhau từ 30-70km) nên công tác quản lý, điều
124
hành gặp không ít khó khăn.
Như vậy, Hiện nay, trên địa bàn Hà Nội chỉ còn 2 cơ sở TGXH chăm sóc NCT
cô đơn thuộc hộ nghèo bao gồm Trung tâm Bảo trợ xã hội II và Trung tâm Bảo trợ xã
hội III. Tuy nhiên, số NCT tại Hà Nội vẫn khá lớn, với khoảng 4.700 NCT cô đơn
thuộc hộ nghèo đủ điều kiện để được tiếp nhận vào các cơ sở TGXH dẫn tới việc
thiếu hụt các cơ sở chăm sóc nhằm đáp ứng nhu cầu thực tế của NCT. Bên cạnh đó,
các cơ sở TGXH tại Hà Nội không chỉ chăm sóc NCT mà còn có nhiều đối tượng
khác như trẻ em, NKT, người lang thang xin tiền, cung cấp các dịch vụ CTXH và trợ
giúp các đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Điều này cũng dẫn tới việc chăm
sóc cho NCT chưa được chú trọng đầy đủ và tập trung. Từ năm 2022, TP Hà Nội đã
sắp xếp lại các cơ sở TGXH thuộc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, giảm số
lượng cơ sở từ 12 xuống còn 5 đơn vị. Quyết định này đồng thời đưa ra hướng phát
triển mới cho các Trung tâm Bảo trợ xã hội II và III theo hướng nâng cao chất lượng
dịch vụ và hiệu quả hoạt động, đặc biệt là CS khuyến khích XHH trong chăm sóc
NCT. Tuy nhiên quá trình này vẫn còn đang vướng mắc nhiều vì liên quan tới việc
quy định mức giá dịch vụ, và đầu tư cơ sở vật chất phù hợp cho việc XHH.
Về đội ngũ cán bộ nhân viên tại 02 cơ sở TGXH, tổng số cán bộ nhân viên là
khoảng 123-145 người trong giai đoạn 2015-2022, trong đó về cơ cấu, so với quy
định tại theo Nghị định 68/NĐ- CP (tỷ lệ bộ phận lãnh đạo và hành chính không quá
20% tổng số cán bộ, nhân viên của cơ sở), thực tế năm 2013, đội ngũ lãnh đạo, văn
phòng phục vụ quản lý của 11 cơ sở BTXH đạt 25,3%, cao hơn 1,3 lần so với quy
định. Hầu hết các cơ sở đều vượt mức quy định, trong đó, có 4 cơ sở có tỷ lệ trên
30%, gồm: Trung tâm BTXH số II (37,7%); tiếp đến Trung tâm BTXH số III
(35,7%). Đây là một trong những nguyên nhân gia tăng sự quá tải trong công việc
của các bộ phận chuyên môn. Hầu hết bộ phận chuyên môn bị quá tải so với quy
định: bộ phận y tế, phục hồi chức năng (quản lý 17 đối tượng, cao hơn khoảng 1,2
lần và cấp dưỡng (chăm sóc 36 đối tượng, cao hơn khoảng 1,8 lần so với mức quy
định). Đa số nhân viên, đặc biệt là nhóm quản lý, y tế, phục hồi chức năng có trình
độ đại học, cao đẳng [54].
3.3.1.2. Sự phát triển của các cơ sở chăm sóc người cao tuổi ngoài công lập
Theo chính sách XHH cơ sở TGXH, UBND TP Hà Nội đã chấp thuận địa điểm,
cấp giấy chứng nhận đầu tư cho 04 dự án xây dựng các trung tâm chăm sóc NCT trên
địa bàn theo CS khuyến khích XHH như dưới đây. Trong đó, đến nay đã có 01 dự án
125
chính thức đi vào hoạt động là Trung tâm chăm sóc NCT Hoa Sen (tại Nam Từ Liêm).
- Trung tâm nuôi dưỡng và chăm sóc sức khoẻ NCT nhân đạo Thịnh Phúc (thôn
Tương Chúc - xã Ngũ Hiệp, huyện Thanh Trì). Quy mô: 150 NCT, tổng mức đầu tư
dự kiến: 11 tỷ đồng (Công văn số 472/UBND-KH&ĐT ngày 18/01/2008 về việc
chấp thuận địa điểm nghiên cứu lập và triển khai dự án xây dựng Trung tâm)
- Trung tâm chăm sóc NCT Ngọc Hà (xã Quang Tiến, huyện Sóc Sơn). Quy
mô: 500 NCT, tổng mức đầu tư dự kiến: 100 tỷ đồng (Công văn số 472/UBND-
KH&ĐT ngày 18/01/2008 về việc chấp thuận địa điểm nghiên cứu lập và triển khai
dự án xây dựng Trung tâm.)
- Trung tâm chăm sóc sức khỏe NCT Hoa Sen (tổ dân phố Hòe Thị, phường
Phương Canh, quận Nam Từ Liêm). Quy mô: 350 NCT, tổng mức đầu tư dự kiến:
265 tỷ đồng (Giấy chứng nhận đầu tư số 01121000404 lần đầu ngày 05/5/2010).
- Trung tâm điều dưỡng và chăm sóc NCT Hà Nội thuộc dự án Tổ hợp Sơn Hà
(xã Song Phượng, huyện Đan Phượng, Hà Nội). Quy mô: 400 NCT, tổng mức đầu tư
dự kiến: 103 tỷ đồng (Giấy chứng nhận đầu tư số 01121001741 lần đầu ngày
16/10/2014.)
Theo thống kê mới nhất năm 2022 của Sở LĐTBXH TP Hà Nội, hiện nay trên
địa bàn có 13 cơ sở chăm sóc NCT ngoài công lập. Các cơ sở này hoạt động dưới các
tên gọi bao gồm: Trung tâm chăm sóc NCT; Trung tâm chăm sóc sức khoẻ NCT;
Trung tâm dưỡng lão; Viện dưỡng lão. Ngoài ra, trên địa bàn TP Hà Nội không có
bất kỳ cơ sở tôn giáo hoặc từ thiện chăm sóc NCT được Sở LĐTBXH ghi nhận (xem
Phụ lục 14). 13 cơ sở TGXH ngoài công lập trên địa bàn Hà Nội hiện nay do tư nhân
làm chủ. 13 là số cơ sở được Sở (12 cơ sở) và Phòng LĐTBXH (1 cơ sở) cấp phép
hoạt động, nhưng trên thực tế, có 4/13 cơ sở phát triển thành lập thêm 2 – 4 địa điểm
chi nhánh chăm sóc tại các khu vực địa lý khác nhau trên địa bàn Hà Nội. Nên chính
xác, Hà Nội có tổng cộng 21 địa điểm xây dựng cơ sở chăm sóc NCT, cung cấp cho
1153 NCT sử dụng dịch vụ. Các trung tâm tập trung tại các quận mới bao gồm: Bắc
Từ Liêm (4), Nam Từ Liêm (3), Hoàng Mai (2), Hà Đông (2), Thanh Xuân (1), và
các huyện ngoại thành bao gồm Thanh Trì (3), Đông Anh (1), Gia Lâm (1), Sóc Sơn
(1), Hoài Đức (1), Mê Linh (1), Chương Mỹ (1).
Cơ sở được thành lập sớm nhất là Trung tâm Thiên Đức (2009) ngay sau khi
NĐ 68/2008/NĐ-CP có hiệu lực. Sau đó, trước năm 2015, có tổng cộng 7/13 cơ sở
thành lập, nhưng chỉ có 4/13 cơ sở đăng kí hồ sơ hoạt động của Sở LĐTBXH theo
126
NĐ 68/2008 vì đáp ứng đủ thủ tục hành chính. Sau đó, 3 cơ sở thành lập trước 2015
và 6 cơ sở thành lập sau 2015 đăng kí thủ tục cấp phép hoạt động theo NĐ103/2017
vì lúc này, nghị định 103 đã tháo gỡ một số khó khăn cho cơ sở bao gồm: cụ thể hoá
các mẫu văn bản hồ sơ thành lập, điều kiện về nhà ở, nhà bếp cho cán bộ công nhân
viên… và quy định cụ thể hơn về các tiêu chuẩn TGXH về quy trình, tiêu chuẩn môi
trường, khuôn viên, nhà ở, y tế, vệ sinh, quần áo, văn hoá, thể thao, thể dục và giải
trí. Điều này cho thấy những thay đổi về thủ tục và sự hướng dẫn cụ thể tạo điều kiện
thuận lợi cho các cơ sở đăng kí hoạt động hơn kể từ 2015 đến nay. Nhưng số lượng
cơ sở mở mới trong 7 năm (2015-2022) vẫn thấp với 6 cơ sở.
Nói về quy mô công suất, các cơ sở hiện nay đáp ứng cho 1153 NCT, trong khi
quy mô được cấp phép là hơn 1200 NCT. Có 4/13 cơ sở có quy mô hơn 100 đối
tượng do vướng về định mức diện tích đất tự nhiên theo NĐ 103/2017/NĐ-CP. Các
nhân viên tại cơ sở TGXH hiện nay đáp ứng đủ các điều kiện về số lượng, nhóm
nghề nghiệp theo yêu cầu của ngành LĐTBXH và các cơ sở hiện nay chủ động quản
lý nhân viên.
3.3.1.3. Sự phát triển của các cơ sở chăm sóc người cao tuổi khác
Như đã phân tích ở Chương 2 về các loại cơ sở chăm sóc NCT tại Việt Nam,
ngoài các cơ sở chăm sóc NCT thuộc nhóm cơ sở TGXH công lập và ngoài công lập
do Sở LĐTBXH Hà Nội quản lý và cấp phép, còn có những cơ sở chăm sóc NCT
trên địa bàn TP Hà Nội đang hoạt động theo sự cấp phép ngành nghề của Sở KHĐT
mà không chịu sự quản lý của Sở hay Phòng LĐTBXH.
Các tổ chức này có thời gian thành lập, quy mô hoạt động, công suất giường…
rất khác nhau. Phương thức tốt nhất để thống kê số liệu là thông qua chính quyền
hoặc Phòng LĐTBXH của từng địa phương. Nhưng đến nay, Sở LĐTBXH chưa rà
soát những tổ chức chăm sóc NCT không cấp phép bởi Sở LĐTBXH, vì thế số lượng
không thể chính xác. Dựa trên phỏng vấn các cán bộ quản lý các cơ sở chăm sóc
NCT tư nhân mà tác giả đã nghiên cứu và tìm kiếm thông tin trên Internet, một số tổ
chức chăm sóc NCT trên địa bàn Hà Nội đã hoạt động và có số lượng NCT để chăm
sóc nhưng chưa làm thủ tục với Sở LĐ như dưới đây. Điểm đáng lưu ý là theo kết
quả phỏng vấn, cán bộ các cơ sở đều cho rằng tại Hà Nội không có tổ chức từ thiện
127
nào chăm sóc NCT.
Bảng 3.7. Các cơ sở chăm sóc NCT chưa đăng ký với Sở LĐTBXH
STT Địa chỉ Tên cơ sở Năm thành lập Số lượng NCT
1 TT chăm sóc NCT Orihome 2013 40 - 45 Hoàng Mai Thanh Trì
2 Quốc Oai 2020 32
3 Tây Hồ 2015 10/30 Viện dưỡng lão – phục hồi chức năng FDC Trung tâm chăm sóc giảm nhẹ Chân trời mới
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ nghiên cứu luận án
Có thể thấy, Ngoài các cơ sở chăm sóc NCT thuộc nhóm cơ sở TGXH công lập
và ngoài công lập do Sở LĐTBXH Hà Nội quản lý và cấp phép, còn có những cơ sở
chăm sóc NCT trên địa bàn TP Hà Nội đang hoạt động theo sự cấp phép ngành nghề
của Sở KHĐT mà không chịu sự quản lý của Sở hay Phòng LĐTBXH. Việc tồn tại
các cơ sở chăm sóc NCT hoạt động không đúng quy định và không được quản lý,
giám sát sẽ gây ra những rủi ro về chất lượng DVCS NCT. Cần có sự tham gia tích
cực của chính quyền và Phòng LĐTBXH của từng địa phương thực hiện rà soát,
kiểm tra và quản lý chặt chẽ các cơ sở chăm sóc NCT hoạt động trên địa bàn.
3.3.2. Tác động của chính sách tới sự phát triển các cơ sở chăm sóc người cao tuổi
tại Hà Nội
3.3.2.1. Tác động của chính sách quản lý hành chính
Theo QĐ số 2330/QĐ-UBND ngày 22 tháng 5 năm 2015 về việc phê duyệt
Quy hoạch phát triển mạng lưới cơ sở xã hội trên địa bàn TP Hà Nội đến năm 2020,
định hướng đến năm 2030, với các mục tiêu cụ thể bao gồm việc tăng cường chất
lượng cung cấp DVCS NCT; đẩy mạnh XHH; tăng quy mô công suất tiếp nhận; điều
chỉnh mức chuẩn trợ cấp xã hội và tăng cường đầu tư cơ sở hạn tầng cho các cơ sở
TGXH. Có thể nói, việc so sánh kết quả đầu ra của việc thực hiện CS và mục tiêu đề
ra của các văn bản về mặt số lượng là rất khó khăn do các cơ sở TGXH cho NCT
được thống kê cùng với số lượng cơ sở TGXH cho NKT, người tâm thần, trẻ em. Bởi
vậy, sự so sánh chỉ mang tính định tính và dựa trên các số liệu thứ cấp. Kết quả thực
tế dựa trên các báo cáo tới thời điểm này cho thấy:
CS XHH được xây dựng và chính thức được triển khai từ NĐ 68/2008/NĐ-CP.
Trước đó, nhà nước cũng đã có quan điểm khuyến khích XHH, mở rộng cơ hội cho
128
thành phần kinh tế khác ngoài nhà nước tham gia vào thị trường nói chung và thị
trường ASXH nói riêng. Nhưng kể từ sau khi NĐ68/2008 được ban hành, sự ra đời
nhanh chóng của các cơ sở chăm sóc NCT cho thấy đã có những thành công nhất
định bao gồm việc phát triển mạng lưới rộng khắp các cơ sở TGXH trong đó quan
tâm đặc biệt tới nhóm NCT. Bên cạnh đó, các CS XHH cũng giúp tạo điều kiện cho
NCT được hưởng các DVCS phù hợp và có chất lượng tại khu vực sinh sống. Hệ
thống mạng lưới các cơ sở TGXH nói chung và cơ sở chăm sóc NCT nói riêng được
hưởng nhiều các CS về hỗ trợ đầu tư mặt bằng, cơ sở vật chất, các loại thuế phí và
nguồn nhân lực. Tất cả đã tạo ra một sự phát triển mạnh mẽ về số lượng và quy mô
các cơ sở chăm sóc NCT hiện nay trên địa bàn Thành phố. Thêm vào đó, đa phần các
cơ sở chăm sóc NCT đều được cấp phép từ sau năm 2017 – khi NĐ 103 ra đời, dù
các cơ sở này đã hình thành và đi vào hoạt động từ trước khi được Sở LĐTBXH cấp
phép lâu nhất tới 6 năm. Điều này cho thấy việc hoạt động của các cơ sở tuy vẫn
chưa được quản lý chặt chẽ bởi cơ quan thực hiện CS nhưng rõ ràng, những điều
chỉnh CS phù hợp đã tạo ra khung hoạt động và tạo động lực thành lập và phát triển
cho các cơ sở chăm sóc NCT.
Các cơ sở trên đều đáp ứng những tiêu chuẩn thành lập được đưa ra trong NĐ
103 về quản lý nhà nước của ngành LĐTBXH, đồng thời hàng năm, Sở đều xây dựng
kế hoạch kiểm tra định kỳ việc tuân thủ các yêu cầu, tiêu chuẩn về hành chính của
các cơ sở chăm sóc NCT công lập. Tuy nhiên, hiện nay có 03 cơ sở trên địa bàn Hà
Nội hoạt động chưa được cấp phép bởi Sở hoặc Phòng LĐTBXH mặc dù đã bắt đầu
đi vào xây dựng từ năm 2013, 2015 và 2020. Cho đến nay, vẫn chưa có hình thức,
chế tài xử lý nào được đưa ra cho các cơ sở này. Đánh giá về điều này, cán bộ quản
lý cấp Sở cho rằng: thông thường, các cơ sở đi vào hoạt động vài năm mới đăng kí
cấp phép bởi Sở hoặc Phòng LĐTBXH. Duy nhất 01 cơ sở đã hoạt động từ năm 2013
đã được Sở kết hợp với UBND đưa thông báo đề nghị cơ sở làm thủ tục cấp phép tuy
nhiên do cơ sở thay đổi vị trí nên không gửi được văn bản và có phản hồi.
“ Phòng LĐ có tham mưu cho UBND Quận rà soát, báo cáo các cơ sở TGXH, sau đó UB báo cáo cho Sở tổng hợp chung toàn thành phố nên có trường hợp một cơ sở chưa làm thủ tục cấp phép dù thành lập từ 2013. Tuy nhiên sau vài lần gửi văn bản vẫn chưa nhận được phản hồi vì cơ sở đó thay đổi trụ sở. Hiện giờ vẫn chưa biết cơ sở ở đâu”
(Nữ cán bộ cấp Sở, 54 tuổi)
Hộp 3.26: Ý kiến về chế tài xử lý các cơ sở chưa cấp phép của Sở LĐTBXH
Nhận xét về quy mô công suất số giường cho nhóm đối tượng NCT tại Hà Nội,
129
tổng số giường có thể đáp ứng cho nhóm NCT là 1153 NCT (cơ sở ngoài công lập)
và 88 (cơ sở công lập). Với tổng số NCT có thể cung cấp DVCS tại cơ sở là khoảng
1230 chiếm tỷ lệ nhỏ so với số lượng NCT toàn TP Hà Nội. Tổng số NCT tại Hà Nội
theo Số liệu Tổng điều tra dân số là 1,2 triệu. Dựa vào bài học kinh nghiệm từ các
quốc gia khác trên thế giới trong việc xây dựng hệ thống cơ sở chăm sóc cho NCT tại
cơ sở, sự phát triển của hệ thống cơ sở chăm sóc cho NCT cần đạt khả năng cung cấp
cho 3% NCT tại Trung Quốc [84], và con số khoảng 4-6% tại Hoa Kỳ [60].
Trong số 13 cơ sở trên, do yêu cầu theo NĐ 103, quy mô số lượng đối tượng
NCT mà Sở/ Phòng LĐTBXH cho phép cơ sở chăm sóc phụ thuộc về diện tích đất tự
nhiên và diện tích phòng cho một người, nên về cơ bản, với đặc thù đất đai tại Hà
Nội, 100% cơ sở thừa diện tích phòng ở cho đối tượng nhưng lại thiếu diện tích đất
tự nhiên, bởi vậy, quy mô được cho phép ở mỗi cơ sở dao động từ 10-118. Trong đó,
cơ sở được cấp phép quy mô 118 nằm ở Chương Mỹ - ngoại thành Hà Nội, các cơ sở
khác trong nội thành có quy mô được cấp phép nhỏ hơn so với công suất có thể đáp
ứng cho NCT mặc dù thuận tiện về giao thông và chăm sóc sức khoẻ y tế của NCT.
Nhưng nhìn vào bảng tổng hợp Phụ lục 15, trong số 13 cơ sở chăm sóc NCT được
cấp phép, có 4/13 cơ sở đáp ứng NCT vượt quy mô được cấp phép. Điều này có thể
được lý giải do số NCT ra vào trung tâm liên tục và không cố định, nhưng đây cũng
là một chỉ báo cho thấy các cơ sở thì nhiều, nhưng chưa đáp ứng đúng nhu cầu của
lượng lớn những NCT tại Hà Nội đang cần sự hỗ trợ, chăm sóc tại Cơ sở tập trung.
Việc quản lý số lượng NCT sống tại các trung tâm của Sở LĐTBXH còn lỏng lẻo.
Cuối cùng, trong những CS mà nhà nước và UBND TP Hà Nội đưa ra, kết quả
sự phát triển của các cơ sở cho thấy sự thiếu về số lượng và đồng bộ, được quy hoạch
tại các địa điểm phù hợp về mặt địa lý và dân cư, văn hoá. Bởi việc lựa chọn vị trí đặt
cơ sở là do các chủ cơ sở tự quyết định phù hợp với nhu cầu. Trong danh sách 13 cơ
sở chăm sóc NCT được thành lập, có thể thấy, địa điểm lựa chọn của các cơ sở đa số
đều tập trung tại các khu vực ngoại thành Hà Nội. Các trung tâm tập trung chủ yếu
tại các quận mới (12/21 trung tâm) và không nhận được CS ưu đãi về giá thuê đất của
UBND TP Hà Nội bao gồm 5 quận: Nam Từ Liêm, Bắc Từ Liêm, Hoàng Mai, Hà
Đông, Thanh Xuân, và các huyện ngoại thành. Sự phân bổ này phù hợp với định
hướng quy hoạch mở khi mỗi quận huyện có cơ sở TGXH có quy mô dưới 300
giường. Dù tình hình giao thông thuận tiện cho việc chăm sóc, đi lại của NCT và gia
đình, song, với sự phân bố NCT khá đồng đều tại Hà Nội, số lượng cơ sở TGXH như
130
trên được phân bố chưa hợp lý theo mục tiêu quy hoạch. Đây là một vấn đề cần lưu ý
về tính chặt chẽ của việc phân bổ thiếu đồng bộ về quy hoạch địa điểm và sự quản lý
hạn chế về địa lý kinh doanh/ cung cấp dịch vụ của nhà nước để tạo thành một mạng
lưới cung cấp dịch vụ toàn diện cho NCT tại Hà Nội.
Đánh giá về cơ sở TGXH công lập, lộ trình XHH đối với cơ sở TGXH công lập
mở một hướng đi đúng đắn cho các cơ sở TGXH công lập phát triển và đáp ứng nhu
cầu của NCT. Tuy nhiên, từ năm 2017 sau khi CS khuyến khích XHH chính thức
được ra đời, các văn bản hướng dẫn quy trình XHH của cơ sở công lập vẫn chưa
được triển khai, mức áp giá theo mức nhà nước quy định chưa được Bộ tài chính
duyệt là những rào cản lớn đối với việc phát triển các cơ sở chăm sóc NCT công lập
này. Bên cạnh đó, số lượng cơ sở bị thu hẹp, thiếu đầu tư cơ sở vật chất cùng truyền
thông dư luận về việc cơ sở TGXH công lập chỉ chăm NCT cô đơn, không nơi nương
tựa và có mức sống thấp trong trung tâm khiến tiến trình XHH theo mục tiêu của nhà
nước đối với loại cơ sở này còn rất xa.
3.3.2.2. Tác động của chính sách ưu đãi
Mặc dù 13 cơ sở TGXH ngoài công lập đang được Sở LĐTBXH cấp phép hiện
nay đã có sự phát triển nhanh chóng về số lượng khi 4/13 cơ sở mở rộng địa điểm đặt
cơ sở chăm sóc NCT. Nhưng điều cần lưu ý: một CS nổi bật của việc khuyến khích
XHH là việc giao, cho thuê đất và miễn/giảm thuế với các dự án XHH. Nhưng trong
số 13 cơ sở trên, chỉ có duy nhất Trung tâm Dưỡng lão Hoa Sen nhận được sự ưu đãi
của nhà nước theo CS khuyến khích XHH. Các cơ sở khác phải thuê mặt bằng hoặc
tự sử dụng tài chính cá nhân mua đất (3/13 cơ sở: Diên Hồng, ALH, Tâm Phúc).
Trung tâm chăm sóc NCT Thiên Đức mở rộng với 4 cơ sở và đã thành lập từ cách
đây 20 năm, nhưng đến nay 4 cơ sở vẫn được xây dựng trên đất đi thuê của cá nhân,
kí hợp đồng 3-5 năm/lần. Các cơ sở khác thuê đất của tư nhân hoặc nhà của cá nhân
để xây dựng, vận hành cơ sở chăm sóc NCT. Trong khi đó, 03 dự án còn lại được nhà
nước phê duyệt đầu tư theo hình thức XHH nhưng đến nay các cơ sở chăm sóc NCT
vẫn chưa được xây dựng và đi vào hoạt động. Nếu tính về phân bố theo khu vực địa
lý, tất cả các trung tâm đều được đặt ở các quận (được ưu đãi giảm 60% tiền thuê đất)
và huyện, thị xã Sơn Tây (được miễn 100% tiền thuê đất) nhưng do không có chứng
nhận đầu tư XHH nên các cơ sở không được hưởng CS này. Điều này cho thấy, sự
khó khăn trong việc tiếp cận các CS XHH mà Nhà nước đã đưa ra cũng như tính kém
hiệu quả khi phê duyệt cho các nhà đầu tư theo hình thức XHH được trúng thầu
131
nhưng không triển khai hoạt động. Điểm đáng lưu ý là TT Hoa Sen nhận được CS
giao đất nhưng hiện nay chỉ cung cấp dịch vụ cho chưa đến 20 NCT với mức chi phí
15-20 triệu/tháng, và phần lớn diện tích đất được chuyển đổi mục đích sử dụng [2].
Đối với CS cho vay vốn, chỉ duy nhất trung tâm dưỡng lão Hoa Sen tiếp cận
được với nguồn vốn vay và nhận được ưu đãi về thuế, giao đất do có đủ các thủ tục
giấy tờ theo yêu cầu hành chính. 12 cơ sở còn lại sử dụng vốn cá nhân hoặc tự huy
động để phát triển các cơ sở. Một lần nữa, hiệu quả việc thực hiện các CS ưu đãi về
tài khoá, đất của nhà nước không có khả năng tiếp cận với các đối tượng có nhu cầu.
Điểm sáng về CS ưu đãi là các cơ sở chăm sóc NCT hiện nay có thể tiếp cận
với ưu đãi về điện, nước với mức giá sinh hoạt thay vì giá kinh doanh và được giảm
thuế thu nhập doanh nghiệp. Đây là một CS có ý nghĩa đi vào thực tiễn.
Với CS giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, các cơ sở cho biết do hoạt động
chăm sóc NCT cần chi phí đầu tư lớn, mức thu không quá cao để phù hợp với nhu
cầu của NCT, nên doanh nghiệp không có lãi theo báo cáo tài chính, bởi vậy, về cơ
bản CS giảm thuế thu nhập doanh nghiệp không có ý nghĩa với các cơ sở chăm sóc
NCT.
3.3.2.3. Tác động của chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
Theo báo cáo, trung bình mỗi năm, Sở LĐTBXH tổ chức khoảng 340 lớp tập
huấn cho hơn 12 nghìn cán bộ [38]. Hầu hết cán bộ tham gia tập huấn là cán bộ hoạt
động trong Hội NCT, một số ít là cán bộ, nhân viên trong các cơ sở TGXH công lập.
Ngoài ra, cán bộ Sở LĐTBXH cho biết nhà nước không có nguồn kinh phí để đào tạo
nhân lực cho các cơ sở TGXH ngoài công lập. Có thể thấy, không có con số thống kê
chính thức về việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho lĩnh vực chăm sóc NCT
cho riêng nhóm đối tượng chăm sóc tại cơ sở TGXH công lập (Trung tâm số 2,3) tại
Hà Nội. Tuy nhiên, để vận hành các cơ sở này, có những nhóm nghề sau cần được
phát triển: điều dưỡng, CTXH, quản lý các cơ sở TGXH. Theo báo cáo của Bộ Lao
động thương binh và xã hội [3], đội ngũ cán bộ, viên chức, nhân viên làm công tác
TGXH hiện có khoảng 35.000 người; trong đó có khoảng 15.000 người làm việc tại
các cơ sở TGXH; còn lại là cán bộ, nhân viên CTXH làm việc trong ngành
LĐTBXH, các tổ chức đoàn thể chính trị-xã hội tại cấp tỉnh, huyện, xã. Tuy nhiên, có
khoảng 81.5% cán bộ, nhân viên làm CTXH tại các cơ sở TGXH chưa được đào tạo
về CTXH hoặc được đào tạo từ nhiều ngành nghề khác nhau. Đội ngũ cán bộ, viên
chức và nhân viên làm CTXH còn thiếu về số lượng và chưa được đào tạo chuyên
132
nghiệp về CTXH, nhất là cán bộ làm việc trực tiếp với đối tượng; tổ chức bộ máy
cung cấp dịch vụ CTXH ở cộng đồng gần như chưa có ở tất cả các địa phương. Điều
này ảnh hưởng tới hiệu quả của các CS xã hội và trợ giúp các đối tượng yếu thế.
Các cơ sở chăm sóc NCT ngoài công lập cho rằng họ không được hỗ trợ đào tạo
mà phải chủ động tuyển dụng và đào tạo nhân lực. Trong khi đó, kết quả phỏng vấn
cho thấy các cơ sở chăm sóc NCT công lập nhận được sự hỗ trợ của cơ quan chủ
quan về việc bồi dưỡng, tập huấn về CTXH, lý luận chính trị, phòng cháy chữa cháy
nhưng chuyên môn y tế bị bỏ ngỏ trong khi đây là một trong những kiến thức cần
thiết để chăm sóc NCT. Ngoài ra, các chế độ CS cho viên chức quản lý về các đợt thi
tuyển viên chức, nâng mức phụ cấp cho viên chức lãnh đạo, phụ cấp cho viên chức
tại Hà Nội là những vấn đề cần được đáp ứng nhu cầu nhưng chưa được nhà nước
133
sửa đổi, bổ sung và triển khai thực hiện.
Tiểu kết Chương 3
Chương 3 của luận án trình bày thực trạng và đánh giá kết quả thực hiện CS
phát triển cơ sở chăm sóc NCT tại Hà Nội. Về địa bàn nghiên cứu, Hà Nội là nơi tập
trung đông đảo NCT, chiếm 12,8% dân số với hơn 1 triệu người. Trong đó, số lượng
NCT có nhu cầu được chăm sóc tại các cơ sở chăm sóc dài hạn là rất cao. Nhằm đáp
ứng với nhu cầu này, Thành phố đã ban hành đầy đủ hệ thống các văn bản CS liên
quan đến việc phát triển cơ sở chăm sóc NCT bao gồm các Nghị định, Quyết định,
Kế hoạch của Chính phủ và UBND Thành phố nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc triển
khai CS này. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, các bước của quy trình thực hiện
CS vẫn còn nhiều hạn chế.
Cụ thể, ở bước xây dựng kế hoạch, kế hoạch thực hiện CS còn thiếu cụ thể về
mục tiêu số lượng cơ sở cần phát triển; đồng thời thiếu sự tham gia đầy đủ của các Sở
ngành liên quan trong quá trình lập kế hoạch. Trong khâu tuyên truyền CS, các hoạt
động truyền thông chủ yếu tập trung vào NCT chứ không phải các cơ sở và nhà đầu
tư là đối tượng trực tiếp thực hiện CS; đồng thời thiếu sự phối hợp chặt chẽ với các
cơ quan truyền thông đại chúng. Trong khâu phân công thực hiện CS, việc phối hợp
liên ngành còn hạn chế; các thủ tục hành chính liên quan đến việc cấp phép, hỗ trợ
các cơ sở còn rườm rà. Cuối cùng, trong bước theo dõi, giám sát việc thực hiện CS,
thiếu các tiêu chí đánh giá cụ thể để giám sát hiệu quả hoạt động của các cơ sở; đồng
thời chưa có cơ chế xử lý hiệu quả đối với các cơ sở hoạt động chăm sóc NCT không
có giấy phép.
Do vậy, kết quả thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT tại Hà Nội còn
hạn chế về nhiều mặt. Cụ thể, các cơ sở chăm sóc NCT phát triển chậm, số lượng ít
và chưa đồng bộ giữa các khu vực. Đối với cơ sở công lập, số lượng giảm còn 2 đơn
vị, số lượng NCT được chăm sóc ít và chưa thực hiện được mục tiêu xã hội hóa. Cơ
sở chăm sóc NCT ngoài công lập mới chỉ có 13 cơ sở được cấp phép hoạt động, con
số này chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế ngày càng tăng cao của NCT tại Hà Nội.
Bên cạnh đó, các CS ưu đãi về đất đai, giảm thuế cũng khó tiếp cận đối với phần lớn
các cơ sở chăm sóc NCT. Chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chủ yếu
134
mới chỉ hỗ trợ cho các cơ sở chăm sóc NCT công lập.
CHƯƠNG 4. GIẢI PHÁP CẢI THIỆN HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH
SÁCH PHÁT TRIỂN CƠ SỞ CHĂM SÓC NGƯỜI CAO TUỔI TẠI HÀ NỘI
4.1. Cơ sở các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách phát triển cơ sở
chăm sóc người cao tuổi trên địa bàn Hà Nội
4.1.1. Về mặt quan điểm của Nhà nước và của TP Hà Nội
Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện các CS phát triển cơ sở chăm sóc
NCT trên địa bàn Hà Nội được xem xét và thống nhất về mặt quan điểm với các vấn
đề liên quan tới NCT đã được Đảng và Nhà nước xác định rõ trong lịch sử và trong
bối cảnh hiện tại về mặt kinh tế-chính trị-văn hoá của Việt Nam. Bên cạnh đó, các
giải pháp cũng cần được xem xét để phù hợp với quan điểm cụ thể của Hà Nội trong
việc đảm bảo an sinh cho các nhóm đối tượng đặc biệt, như trẻ em, NCT, NKT hoặc
các nhóm đối tượng BTXH khác. Các quan điểm cần được xem xét bao gồm:
Nâng cao chất lượng chăm sóc người cao tuổi: Đảng và Nhà nước luôn dành
sự quan tâm đặc biệt cho NCT và đã ban hành nhiều chủ chương, CS pháp luật nhằm
chăm lo mọi mặt đời sống cho NCT cũng như phát huy vai trò của NCT trong các
lĩnh vực đời sống xã hội. Chương trình hành động quốc gia về NCT giai đoạn 2021-
2030, và Chương trình chăm sóc sức khoẻ NCT tới năm 2030 được chính phủ ban
hành đều đã đặt ra mục tiêu chung nhất là “Chăm sóc, nâng cao sức khỏe người cao
tuổi bảo đảm thích ứng với già hóa dân số, góp phần thực hiện thành công Chiến
lược Dân số Việt Nam đến năm 2030” [39]. Do đó, việc thực hiện hiệu quả các CS
cần góp phần vào việc nâng cao chất lượng chăm sóc cho NCT về thể chất, tinh thần
và các mối quan hệ xã hội, cũng như phát huy vai trò tích cực của NCT nhằm gia
tăng chất lượng cuộc sống, và đóng góp tích cực cho sự phát triển chung của xã hội.
Đáp ứng xu hướng già hoá dân số: Với số liệu hiện tại, tổng số NCT tại Hà
Nội là 1.069.456, chiếm tỷ lệ 12,8% trong tổng dân số của TP. Điều này cho thấy Hà
Nội là một trong những địa phương đang phải đối mặt với xu hướng già hoá dân số
điển hình tại Việt Nam. Cùng với xu hướng già hoá dân số, các vấn đề liên quan đến
sức khỏe của NCT cũng được dự báo sẽ gia tăng theo độ tuổi. Điều này đặt ra một
thách thức lớn đối với Hà Nội và yêu cầu sự chú trọng đến việc phát triển các cơ sở
chăm sóc NCT và các DVCS cho nhóm này. Để đáp ứng tốt nhất cho xu hướng già
hoá dân số và sự gia tăng nhu cầu chăm sóc của nhóm NCT, việc ban hành các CS
nhằm thúc đẩy phát triển các cơ sở chăm sóc NCT và các DVCS tương ứng là cần
135
thiết. Qua việc tăng cường các cơ sở chăm sóc NCT và DVCS phù hợp, Hà Nội có
thể đảm bảo rằng nhóm NCT sẽ được chăm sóc tốt hơn, đáp ứng nhu cầu của họ và
cải thiện chất lượng cuộc sống trong giai đoạn già hoá dân số [49].
Nâng cao chất lượng thực hiện CS công: Chính phủ Việt Nam không ngừng
xây dựng các CS nhằm phát triển các vấn đề kinh tế, xã hội và văn hoá, nhằm phát
triển đất nước. Bên cạnh đó, do ảnh hưởng của xu thế già hoá dân số, dẫn tới việc tạo
ra các áp lực nhất định tới hệ thống ban hành và thực hiện các CS liên quan tới NCT
hiện nay tại Việt Nam. Chính phủ cũng đã xác định rằng việc tổ chức thực hiện các
CS công tại Việt Nam vẫn là khâu yếu vì thế cần có những giải pháp tập trung vào
cải thiện quá trình thực hiện các CS công hiện nay. Điều này có nghĩa là việc cải
thiện chu trình CS công luôn được chính phủ quan tâm và khuyến khích thực hiện
nhằm tạo ra những thay đổi tích cực, đặc biệt đối với hệ thống ASXH hiện hành [19].
Đẩy mạnh XHH các DVCS người cao tuổi: Để chăm sóc toàn diện cho NCT,
cũng như giảm áp lực cho hệ thống nhà nước, đặc biệt là cơ quan thực hiện CS, chính
phủ luôn khuyến khích sự tham gia của khu vực tư nhân trong chăm sóc NCT thông
qua tăng cường hợp tác công-tư (PPP) trong lĩnh vực chăm sóc NCT và các mô hình
tích hợp DVCS NCT tại nhà, tại cộng đồng và tại các cơ sở chăm sóc. UBNDTP Hà
Nội, trong Đề án Chăm sóc sức khỏe người cao tuổi giai đoạn 2017-2025 và Quy
hoạch phát triển mạng lưới cơ sở xã hội trên địa bàn thành phố Hà Nội đến năm
2020, định hướng đến năm 2030 đã xác rõ mục tiêu đẩy mạnh xã hội hóa khuyến
khích các cá nhân, tổ chức không sử dụng vốn ngân sách đầu tư vào lĩnh vực bảo trợ
xã hội và chăm sóc NCT. Việc huy động khu vực tư nhân tham gia cung cấp DVCS
NCT sẽ giúp NCT có cơ hội tiếp cận với các dịch vụ có chất lượng và phù hợp với nhu
cầu, cũng như xem đây là một ngành nghề có xu hướng phát triển trong tương lai, đóng
góp cho sự phát triển chung của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế [33].
4.1.2. Về phương hướng đề xuất giải pháp
Chính phủ và các nhà nghiên cứu trên thế giới đều cho rằng quá trình thực hiện
là bước quan trọng quyết định tới sự thành công hay thất bại của một CS [68, 74, 97].
Do đó, việc nghiên cứu đánh giá nhằm tìm ra các giải pháp cải thiện quá trình thực
hiện CS công luôn được quan tâm bởi các hệ thống thực hiện CS ở các quốc gia khác
nhau. Tại Việt Nam, quá trình thực hiện CS công trong thời gian qua, được đánh giá
khá bài bản, đúng quy trình, phù hợp với thực tiễn, đáp ứng yêu cầu, mục tiêu. Tuy
nhiên, trong quá trình thực hiện các CS công còn bộc lộ những hạn chế nhất định liên
136
quan tới nhiều khía cạnh khác nhau. Nhiều các nhà nghiên cứu CS đã đề xuất các
phương án cải thiện quá trình thực hiện CS công thông qua việc cải thiện chất lượng
(nội dung/công cụ) CS, đảm bảo nguồn lực cho quá trình triển khai thực hiện, tăng
cường sự phối hợp nội bộ và liên ngành, tăng cường sự tiếp nhận và ủng hộ của các
đối tượng hưởng lợi thông qua truyền thông về CS, và cuối cùng là việc hoàn thiện
bộ máy thực hiện CS [82, 96]. Đây là cơ sở chung để tác giả xem xét đề xuất các giải
pháp cụ thể nhằm cải thiện quá trình thực hiện các CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT
tại Hà Nội.
Cùng với đó, kết quả nghiên cứu của luận án cho thấy việc thực hiện CS phát
triển các cơ sở chăm sóc NCT tại Hà Nội còn nhiều những điểm hạn chế, cụ thể ở
đây là sự cam kết và phối hợp thực hiện của các bên liên quan còn nhiều hạn chế,
công tác tuyên truyền phổ biến CS không được thực hiện một cách đồng bộ, và cuối
cùng là một số giải pháp CS chưa khả thi. Đây là 3 yếu tố rào cản lớn nhất đến các
bước trong quy trình thực hiện CS tại Hà Nội được nghiên cứu trong Chương 3.
Trong các yếu tố trên, ảnh hưởng của yếu tố truyền thông và phối hợp có thể tạo ra
sự thay đổi về hiệu quả thực hiện CS này tại Hà Nội trong tương lai gần, trong khi
yếu tố nội dung có ảnh hưởng chiến lược đến việc phát triển cơ sở TGXH cho NCT.
Đây cũng là cơ sở để ưu tien thực hiện các giải pháp ở phần sau của luận án.
Do đó, từ nghiên cứu lý luận và kết quả nghiên cứu trong thực tế, phương
hướng để đưa ra các giải pháp cải thiện việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc
NCT tại Hà Nội được đưa ra, trong đó tập trung vào một số nội dung cụ thể bao gồm:
Nâng cao chất lượng nội dung CS: Từ kết quả nghiên cứu luận án cho thấy
nội dung CS được đánh giá là ưu việt, chi tiết và tác động đầy đủ tới các khía cạnh
nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển các cơ sở. Các giải pháp CS đưa ra
đa số phù hợp với mục tiêu, mang lại những lợi ích thiết thực cho đối tượng hưởng
lợi chính như các ưu đãi về mặt bằng, các khoản thuế phí cũng như các CS về đào tạo
nhân lực cho cơ sở công lập và ngoài công lập nhằm mục tiêu khuyến khích sự tham gia
và đa dạng hoá các nhà cung cấp chăm sóc dài hạn, xây dựng hệ thống an sinh đa tầng.
Song, một số giải pháp CS đưa ra còn chưa phù hợp với thực tế dẫn tới việc khó
thực hiện hoặc không thực hiện được, các mục tiêu cụ thể còn mang tính lồng ghép
và chưa xác định rõ mục tiêu cụ thể nhằm phát triển các cơ sở TGXH cho NCT. Cụ
thể, các vấn đề của nội dung CS đang là rào cản cho sự phát triển của hệ thống chăm
137
sóc NCT cần cân nhắc thay đổi như sau:
(1) Hệ thống văn bản dưới luật thực hiện cần bổ sung đầy đủ để giảm thiểu khó
khăn cho việc thực hiện: bổ sung các văn bản hướng dẫn lộ trình xã hội hoá cơ sở công
lập, khuyến khích đầu tư nước ngoài, chứng nhận cơ sở XHH để hưởng ưu đãi...;
(2) Bổ sung hệ thống văn bản quản lý chất lượng tiêu chuẩn dịch vụ chăm sóc
NCT cho phù hợp với định hướng phát triển;
(3) CS ưu đãi hiện nay cần tạo động lực đáp ứng nhu cầu chăm sóc của NCT/
gia đình NCT có mức thu nhập thấp, trung bình.
Các CS hiện nay ưu tiên khuyến khích phát triển các cơ sở chăm sóc NCT
ngoài công lập phát triển. Điều này chỉ tạo ra tính sẵn có (available) của dịch vụ mà
không đảm bảo khả năng chi trả (affortable) của dịch vụ.
Điều này là bởi việc xác định đúng đối tượng được hưởng CS ưu đãi chưa trúng
đích, những đối tượng được hưởng ưu đãi không có rằng buộc về chất lượng và mức
gia cung cấp dịch vụ. Hiện nay, đối tượng hưởng CS ưu đãi tại Hà Nội không tạo ra
hệ thống ASXH đáp ứng đúng nhu cầu của NCT (về mặt kinh tế). Nếu để thị trường
tự do phát triển, các cơ sở ngoài công lập không được hưởng CS ưu đãi sẽ phải san sẻ
gánh nặng chi phí lên NCT khiến số lượng NCT tiếp cận dịch vụ bị hạn chế. Bởi vậy,
các đối tượng hưởng ưu đãi cần có cơ chế ràng buộc về quyền sở hữu, về mục đích
sử dụng, về mức trần giá cung cấp dịch vụ, về lượng NCT thuộc đối tượng TGXH
được sử dụng dịch vụ… , điều này giống với các nghiên cứu về hình thức ưu đãi mua
nhà ở xã hội đang được áp dụng hiện nay.
Ngoài ra, tổng quan nghiên cứu cho thấy nhà nước nên cân nhắc tập trung phát
triển cơ sở tôn giáo và từ thiện, cơ sở tư nhân không lợi nhuận hoặc không vì lợi nhuận
như hình thức Doanh nghiệp xã hội được quy định trong Luật Doanh nghiệp 2020.
Tuy nhiên, quan trọng nhất, nhà nước cần tạo hành lang khuyến khích sự phát
triển của các cơ sở công lập để tiến tới lộ trình xã hội hoá nhằm tận dụng cơ sở vật
chất và đội ngũ nhân viên hiện có bằng lộ trình tự chủ tài chính, xã hội hoá hoặc hợp
tác công – tư nhằm cung cấp dịch vụ chất lượng hơn cho nhiều NCT có thu nhập
trung bình thấp có nhu cầu tự nguyện.
(4) Nội dung CS cần tập trung ưu đãi nhóm dịch vụ hơn là nhóm chủ thể CS.
Các CS hiện nay mới chỉ tập trung về số lượng cơ sở được mở ra, nhưng các CS ưu
đãi chưa quan tâm đến nhóm dịch vụ mà các cơ sở cung cấp. Nhà nước coi nhà nước
là chủ thể quan trọng đảm bảo an sinh xã hội, gia đình và cộng đồng là chủ thể đảm
138
bảo chính chăm lo cho NCT. Bởi vậy, chiến lược CS tốt cần quan tâm khuyến khích
dịch vụ (bao gồm dịch vụ tích hợp giữa cơ sở và cộng đồng, dịch vụ chăm sóc ban
ngày… ) nhiều hơn là chỉ quan tâm vào nhóm đối tượng chủ thể thụ hưởng. Điều này
đảm bảo các CS phát triển cơ sở chăm sóc tạo động lực thúc đẩy đúng nhóm đối
tượng cung cấp dịch vụ tốt cho NCT hiện nay.
(5) Cuối cùng, hệ thống CS cần toàn diện tác động tới NCT như bảo hiểm tuổi
già, bảo hiểm chăm sóc dài hạn bởi các nghiên cứu tổng quan tại Nhật, Trung Quốc
cho thấy đây là cú hích với thị trường dịch vụ chăm sóc bởi gia tăng khả năng tiếp
cận của NCT với các dịch vụ chăm sóc dài hạn.
Những hạn chế của nội dung CS có thể là kết quả của các yếu tố sau: 1) chưa
coi trọng đúng mức việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của CS; 2) năng lực
thiết kế CS của cơ quan hoạch định CS; 3) dân chủ hóa trong hoạch định CS chưa
được coi trọng đúng mức, sự tham gia của người dân và hoạt động tư vấn, giám định
và phản biện của các tổ chức chưa đáp ứng yêu cầu [9, 18, 21]. Do đó, để góp phần
nâng cao hiệu quả thực hiện CS, cần coi trọng nâng cao chất lượng CS theo hướng,
coi trọng nghiên cứu cơ sở lý luận và đánh giá thực tiễn về CS, nâng cao năng lực
của cơ quan hoạch định CS và dân chủ hóa quá trình hoạch định CS.
Đẩy mạnh truyền thông: Thực tiễn cho thấy, khi nào có được đồng thuận và
ủng hộ của người dân và sự thông hiểu một cách thống nhất giữa các cơ quan thực thi
CS thì CS được triển khai thuận lợi cũng như việc thực hiện CS mang lại hiệu quả cao.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, truyền thông được đánh giá là yếu tố có ảnh hưởng
nhiều nhất tới hiệu quả thực hiện các CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT tại Hà Nội
trong ngắn hạn nhìn từ kết quả quy trình thực hiện CS bởi: (1) Đa số các cơ sở thuộc
nhóm ngoài công lập không biết tới sự tồn tại của các CS ưu đãi trực tiếp từ sự
hướng dẫn của cán bộ thực hiện CS, do đó hạn chế trong việc hưởng lợi từ CS. Nếu
có hệ thống văn bản triển khai ưu đãi sự phát triển cơ sở TGXH liên ngành (thuế, đất,
mặt nước, điện… ) sẽ tạo điều kiện để các cơ sở tiếp cận và tìm hiểu CS hưởng ưu
đãi tốt hơn; (2) Việc truyền thông trong nội bộ cơ quan quản lý CS theo ngành dọc
được đánh giá hiệu quả, nhưng truyền thông theo ngành ngang giữa liên ngành còn
nhiều hạn chế, dẫn tới việc hiểu về CS không đồng nhất hoặc giải quyết những
vướng mắc phát sinh chậm trễ, cản trở quá trình thực hiện CS; (3) Yếu tố truyền
thông, giao tiếp hai chiều bị hạn chế như công khai thông tin Quy hoạch, thông tin ưu
đãi… ảnh hưởng trực tiếp tới việc thụ hưởng của đối tượng CS hiện nay, khiến cho
139
nhiều cơ sở chăm sóc NCT và các nhà đầu tư không có niềm tin nhiều vào việc thụ
hưởng CS. Ngoài ra, cải thiện truyền thông sẽ tạo ra sự thay đổi đối với việc giải
quyết các vướng mắc và tăng cường sự tham gia của các bên liên quan trong quá
trình thực thi CS; (4) Truyền thông thay đổi nhận thức của xã hội, người dân để giảm
kỳ thị và định kiến về việc sử dụng dịch vụ tại cơ sở TGXH công lập. Từ đó, thúc
đẩy việc sử dụng dịch vụ của NCT tự nguyện và tạo cơ sở lộ trình xã hội hoá các cơ
sở TGXH công lập thành công.
Phối hợp nội bộ và liên ngành: Việc chưa coi trọng đúng mức sự tương tác và
phối hợp giữa cấp trên với cấp dưới, giữa các cơ quan với nhau và giữa cơ quan thực
hiện CS với đối tượng CS cũng là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến hiệu quả thực
hiện CS chưa như mong muốn. Điều này thể hiện rõ trong kết quả nghiên cứu của luận
án này. Việc thực hiện các CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT tại HN gặp cản trở bởi
thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan thực hiện CS theo chiều ngang.
Vai trò trách nhiệm của các bên liên quan được chỉ rõ trong các văn bản CS, cơ
chế phối hợp trong ngành LĐTB&XH được đánh giá cao. Tuy nhiên yếu điểm của cơ
chế này bao gồm: (1) Cơ chế phối hợp liên ngành trong quá trình thực hiện CS không
được cụ thể hoá hoặc có các bộ tiêu chí đánh giá, giám sát về các khía cạnh của việc
phát triển các cơ sở chăm sóc NCT; (2) Sự thiếu cơ chế phối hợp dẫn tới các văn bản
CS được ban hành bởi các cơ quan khác nhau thiếu thống nhất, việc xử lý các thủ tục
thường chậm trễ hoặc tắc nghẽn khiến các cơ sở chăm sóc NCT gặp rất nhiều khó
khăn trong quá trình được hưởng lợi từ các CS đã ban hành. Nên việc sử dụng hình
thức một cửa tạo điều kiện thuận lợi về đầu tư cho các cơ sở ngoài công lập tư nhân
và nước ngoài tham gia thị trường dịch vụ nếu muốn đa dạng hoá thị trường. Sự phối
hợp này chịu ảnh hưởng bởi cả yếu tố truyền thông, tuy nhiên nếu có cơ chế phối hợp
rõ ràng và tầm nhìn cụ thể về mục tiêu phát triển các cơ sở chăm sóc NCT tại Hà Nội
sẽ giúp các bên liên quan dễ dàng hơn trong phối hợp triển khai CS. Cơ chế phối hợp
còn chịu ảnh hưởng một phần bởi sự cam kết của lãnh đạo các ngành khi phân công
một cán bộ chịu trách nhiệm chính trong các CS có liên quan đến phát triển cơ sở
chăm sóc NCT, ảnh hưởng bởi năng lực của nhân sự có trách nhiệm. Tuy nhiên,
trong ngắn hạn, tháo gỡ được cơ chế phối hợp này sẽ là yếu tố quan trọng thúc đẩy
quy trình thực hiện CS được diễn ra thành công cho các bên hữu quan. Do đó, để góp
phần nâng cao hiệu quả thực hiện CS, cần thông qua nhiều biện pháp để tăng cường
sự tương tác và phối hợp giữa các cơ quan cùng cấp và giữa cơ quan thực hiện CS và
140
đối tượng CS.
Huy động nguồn lực và nâng cao năng lực: Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra
rằng hiện nay ngân sách TP Hà Nội không được đầu tư thích đáng vào việc hỗ trợ
phát triển các cơ sở chăm sóc NCT kể cả công lập và ngoài công lập. Việc thực hiện
xã hội hoá cũng gặp nhiều vướng mắc do cơ chế quản lý hành chính nhà nước chưa
thống nhất giữa các ban bộ ngành liên quan. Do đó, để nâng cao hiệu quả thực hiện
CS công, TP cần phân bổ nguồn lực đủ mức cho thực hiện các CS phát triển cơ sở
chăm sóc NCT, đặc biệt hỗ trợ đầu tư cơ sở vật chất, quy hoạch đất đai xây dựng và
các ưu đãi khác về thuế phí, hoặc khyến khích đầu tư nước ngoài và hợp tác công tư.
Bên cạnh đó, một nguyên nhân dẫn đến hiệu quả thấp trong thực hiện một số CS
công ở Việt Nam nói chung và CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT tại Hà Nội là năng
lực hiểu CS, sự cam kết và năng lực triển khai thực hiện các nhiệm vụ về CS được
giao. Do đó, để nâng cao hiệu quả thực hiện CS, cần đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ tất cả
các khâu của công tác cán bộ, công chức nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đảm
bảo về phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới [21, 25].
4.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách phát triển cơ sở chăm
sóc người cao tuổi trên địa bàn Hà Nội
Ngành LĐTBXH là cơ quan được chính phủ giao trách nhiệm chính (và phối
hợp với các Ban/Bộ/Ngành liên quan) trong việc quản lý và thực hiện các chính các
sách phát triển cơ sở chăm sóc NCT ở các cấp khác nhau trên cả nước. Tại Hà Nội,
Sở LĐTBXH TP Hà Nội là đơn chủ quản chịu trách nhiệm hướng dẫn thực hiện và
triển khai cụ thể các CS này tới các đối tượng CS thuộc địa bàn Hà Nội, cũng như
đảm nhiệm vai trò giám sát, đánh giá việc thực hiện từ đó có các khuyến nghị CS cho
các cấp quản lý cao hơn, với mục đích hoàn thiện CS cả về mặt nội dung và về mặt
thực hiện các CS này. Với các vai trò trách nhiệm đó, Sở LĐTBXH và các
Sở/Ban/Ngành liên quan của Thành phố có thể xem xét các gợi ý dưới đây nhằm
nâng cao hiệu quả việc thực hiện các CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT trên địa bàn
Hà Nội. Các giải pháp dưới đây được đưa ra dựa trên kết quả nghiên cứu của luận án
này tại Hà Nội. Tuy nhiên các địa phương khác trên cả nước với các điều kiện và bối
cảnh về mặt kinh tế - chính trị - văn hoá tương đồng có thể xem xét các gợi ý này
nhằm phục vụ cho việc triển khai thực hiện các CS về phát triển cơ sở chăm sóc NCT
nói riêng và việc thực hiện CS công nói chung.
4.3.1. Cải thiện nội dung chính sách liên quan tới phát triển cơ sở chăm sóc NCT
141
Mục tiêu của giải pháp
Như đã trình bày trong chương 3 của luận án này, một văn bản CS toàn diện
trước tiên cần đảm bảo các thành tố chính bao gồm: Mục đích CS; Mô hình nhân
quả; Công cụ CS; Đối tượng tác động; Thực hiện CS, và mỗi thành tố cần phải trả lời
các câu hỏi cụ thể nhằm làm sáng tỏ các ý định của cơ quan ban hành CS [66]. Theo
kết quả nghiên cứu của luận án, việc triển khai thực hiện các CS phát triển cơ sở
chăm sóc NCT trên địa bàn Hà Nội về cơ bản là tốt, đây là kết quả của việc có một
hệ thống các văn bản CS khá đầy đủ ban hành bởi các cấp khác nhau trong đó bao
gồm UBND TP. Nội dung của các CS chi tiết, các giải pháp đề ra đáp ứng phù hợp
với các nhu cầu của các cơ sở, đặc biệt các quy định hỗ trợ về cơ sở vật chất, ưu đãi
về phí/thuế hay đào tạo nguồn nhân lực. Tuy nhiên, quá trình thực hiện còn nhiều
những vướng mắc do bản thân các CS còn tồn tại nhiều những bất cập liên quan tới
công cụ CS, hay nói các khác là sự hạn chế về các giải pháp thực hiện mà CS đưa ra
nhằm đạt mục tiêu đề ra. Một số giải pháp được đánh giá là thiếu tính khả thi, không
sát với thực tế, còn có những giải pháp mang tính chồng chéo, không thống nhất giữa
các cơ quan ban hành CS.
Như vậy, mục tiêu của giải pháp này nhằm giúp các văn bản CS đưa ra được
các công cụ CS khả thi, gần gũi với thực tế hơn, và mang tính thống nhất/đồng bộ
giữa các cơ quan ban hành CS.
Nội dung của giải pháp
Cán bộ thực hiện CS nghiên cứu lý thuyết về chính sách và thực hiện chính
sách: Cán bộ thực hiện CS tiến hành các nghiên cứu về mặt lý thuyết liên quan tới
việc hoạch định CS công của các học giả có tên tuổi trên thế giới và tại Việt Nam
(như đã được giới thiệu trong các chương khác của luận án này), nhằm nâng cao hiểu
biết, hệ thống hoá lại các lý thuyết về CS công, thực hiện CS công và việc đánh giá
thực hiện CS công. Tập trung nghiên cứu các nội dung liên quan tới các cách tiếp cận
trong việc hoạch định CS, tiến trình xây dựng CS, thiết kế CS và đánh giá CS. Học
tập, nghiên cứu các mô hình xây dựng và thực hiện CS của các nước khác trên thế
giới, và trong khu vực, tập trung vào các quốc gia có điều kiện về mặt kinh tế-chính
trị-văn hoá xã hội tương đồng với Việt Nam. Từ đó, áp dụng vào việc thực hiện CS
cũng như phục vụ cho việc xây dựng các khuyến nghị CS một cách phù hợp.
Thực hiện các đánh giá chính sách: Xây dựng kế hoạch, tiến hành việc rà soát,
đánh giá về mặt nội dung các CS liên quan tới việc phát triển cơ sở chăm sóc NCT
142
được ban hành bởi các cấp khác nhau, từ chính phủ, tới Bộ và các cơ quan ngang Bộ,
đặc biệt các văn bản được ban hành bởi UBND TP Hà Nội và các Sở/Ban/Ngành liên
quan, dựa trên các cơ sở về mặt lý thuyết đã nghiên cứu. Tập trung vào việc rà soát
các mục tiêu cụ thể với các tiêu chí đánh giá chi tiết và rõ ràng nhằm định hướng cho
các giải pháp CS. Bằng cách rà soát các mục tiêu cụ thể và thiết lập các tiêu chí đánh
giá trong các văn bản CS, cơ quan thực hiện chính sách và các nhà quản lý có thể có
một cái nhìn rõ ràng về tình hình hiện tại và những vấn đề cần được ưu tiên giải
quyết. Điều này giúp định hình và thiết kế các giải pháp CS hiệu quả hơn, nhằm đáp
ứng tốt nhất cho nhu cầu của nhóm các cơ sở chăm sóc NCT và đảm bảo rằng họ
nhận được sự hỗ trợ cần thiết.
Các nhóm văn bản CS cần rà soát bao gồm (nhưng không giới hạn): (1) CS về
quy hoạch mạng lưới các cơ sở TGXH; (2) CS quy định điều kiện, thủ tục thành lập,
tổ chức, hoạt động, quản lý và giải thể cơ sở TGXH (công lập và ngoài công lập); (3)
CS về khuyến khích XHH, danh mục chi tiết loại hình, tiêu chí, quy mô, tiêu chuẩn
của các tổ chức thực hiện XHH; (4) CS về hỗ trợ đầu tư, giao/cho thuê đất, cho
thuê/xây dựng cơ sở vật chất cho cơ sở TGXH; (4) CS miễn/giảm tiền thuê đất, thuê
mặt nước; (5) CS ưu đãi về tín dụng và huy động vốn; (6) CS về miễn giảm thuế giá
trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế đất thuế nhập khẩu; (6) CS giá điện,
nước ưu đãi cho cơ sở TGXH; (7) CS về tiêu chuẩn, quản lý và đào tạo nhận lực.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, hiện nay việc đánh giá quá trình triển khai thực
hiện các CS về phát triển cơ sở chăm sóc NCT trên địa bàn Hà Nội chưa được triển
khai. Dó đó, cơ quan thực thi CS cần thực hiện việc đánh giá thực hiện các CS này
theo nhiều hướng tiếp cận khác nhau như đánh giá kết hợp định tính và định lượng,
đánh từ trên xuống, đánh giá từ dưới lên, đánh giá theo chu trình CS, đánh giá liên
ngành, để từ đó tìm ra những khoảng trống/bất cập giữa các biện pháp CS được đề ra
trong các văn bản chính so với thực tế.
Từ kết quả nghiên cứu, Sở LĐTBXH và các Sở/Ban/Ngành khác có trách
nhiệm xây dựng báo cáo trong đó đề xuất các khuyến nghị CS nhằm hoàn thiện các
văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đã được ban hành tới các cấp quản lý khác
nhau, từ UBND, tới Bộ LĐTBXH cũng như các Ban/Bộ liên ngành khác. Các cấp
này sẽ chịu trách nhiệm trình Quốc hội hoặc Thủ tướng chính phủ nhằm đưa ra các
sửa đổi cần thiết hoặc xây dựng các CS mới phù hợp.
Một số gợi ý cụ thể về việc thay đổi, bổ sung nội dung của một số CS hiện
143
hành liên quan tới việc phát triển cơ sở chăm sóc NCT trên địa bàn Hà Nội bao gồm:
CS về quy hoạch mạng lưới các cơ sở TGXH (QĐ số 2330/QĐ-UBND ngày
22 tháng 5 năm 2015):
- Quy hoạch mạng lưới các cơ sở TGXH cần được xây dựng là quy hoạch mở
để thu hút các tổ chức, cá nhân tham gia thành lập các cơ sở TGXH, đặc biệt là cơ sở
chăm sóc NCT.
- Khuyến khích mô hình cơ sở chăm sóc NCT tự nguyện đóng góp kinh phí với
các dịch vụ đa dạng (chăm sóc bán trú/chăm sóc ban ngày, chăm sóc tại nhà...)
- Quy định rõ quy mô chăm sóc đối tượng tối đa của cơ sở TGXH để đảm bảo
chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng (ví dụ: tối đa 500 đối tượng/cơ sở chăm sóc).
- Mỗi địa bàn quận, huyện, thị xã có ít nhất 01 cơ sở TGXH (quy mô dưới 300
đối tượng); Không quá 01 cơ sở TGXH/01 xã, phường, thị trấn.
- Nhóm các cơ sở chăm sóc NCT ngoài công lập, bố trí mỗi địa bàn quận,
huyện, thị xã có ít nhất 01 cơ sở (Quy mô chăm sóc dưới 200 người).
- Đề xuất tỷ trọng nhân viên/đối tượng tại mỗi cơ sở để phù hợp với từng nhóm
đối tượng được chăm sóc (ví dụ NCT là đối tượng cần được chăm sóc 24/24 cần
nhiều nhân viên làm việc theo ca)
- Xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật về việc quy hoạch mạng lưới các
cơ sở TGXH, nhằm hạn chế việc các cơ sở TGXH phát triển chưa có định hướng,
còn manh mún, tự phát. Có thể đề xuất việc phân chia các cơ sở trợ giúp NCT theo
hướng quản lý nhà nước, hoặc phân chia theo dịch vụ để thuận tiện cho việc quản lý.
- Phân cấp quản lý cơ sở chăm sóc dựa theo công suất của cơ sở (gợi ý: cơ sở
dưới 50 giường do Phòng LĐTBXH cấp phép, 50-150 giường do Sở LĐTBXH cấp
phép, trên 150 giường do Bộ cấp phép)
CS về khuyến khích XHH (QĐ số 11/2015/QĐ-UBND ngày 19 tháng 05 năm 2015):
- Cần ban hành/cấp giấy chứng nhận cho cơ sở thực hiện XHH để đủ điều kiện
được hưởng CS khuyến khích xã hội hóa theo Khoản 2, Điều 1, QĐ số 11/2025/QĐ-
UBND. Nếu không, các cơ sở này không được hưởng CS theo quy định.
- Kết hợp với Sở Quy hoạch, Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố bố trí
quỹ đất hợp lý cho việc xây dựng các cơ sở XHH. Đảm bảo quỹ đất không có các dự
án khác đang được triển khai hoặc đang được sử dụng vào mục đích khác khiến việc
GPMB gặp khó khăn cho nhà đầu tư.
- Bố trí ngân sách và có cơ chế GPMB hoặc ứng vốn, cũng như hoàn trả vốn
144
cho nhà đầu tư đúng tiến độ, kịp thời theo quy định của NĐ 69/2008/NĐ-CP.
- Thực hiện việc hỗ trợ xây dựng cơ sở vật chất, quy định giá dịch vụ cho các
cơ sở công lập thực hiện XHH dịch vụ chăm sóc NCT để đáp ứng nhu cầu chăm sóc
phù hợp.
- Cân nhắc đề xuất mức giá trần cho dịch vụ phù hợp đối với các cơ sở nhận được
ưu đãi về giao đất/ cho thuê đất để đáp ứng nhiều hơn số lượng NCT có nhu cầu.
- Bổ sung văn bản hướng dẫn quy định cơ chế tự chủ cụ thể đối với các cơ sở
công lập.
- Nghiên cứu đề xuất CS hợp tác công tư giữa cơ sở công lập với các nhà đầu tư.
- Ưu tiên sự tham gia của các tổ chức phi lợi nhuận hoặc các tổ chức tôn giáo
trong việc cung cấp dịch vụ chăm sóc NCT trên địa bàn TP.
CS về tiêu chuẩn, quản lý và đào tạo nhận lực (QĐ 5188/QĐ-UBND ngày 09
tháng 12 năm 2021):
- Quy định lại phù hợp hơn về chế độ phụ cấp cho cán bộ cơ sở, đặc biệt là nhóm
cán bộ quản lý. Cụ thể hiện nay cán bộ quản lý được hưởng phụ cấp thực hiện các hoạt
động chăm sóc gián tiếp cho các đối tượng với mức 30%, tuy nhiên các hoạt động chăm
sóc tại cơ sở cần có sự tham gia trực tiếp của các cán bộ quản lý rất nhiều.
- Cần phối hợp với ngành Y tế, đào tạo nâng cao chuyên môn cho nhóm cán bộ
y tế tại cơ sở. Hiện tại các cán bộ y tế không được tham gia các chương trình đào tạo,
dẫn tới chất lượng chăm sóc về mặt y tế cho nhóm NCT chưa cao.
- Khuyến khích phát triển nguồn lao động chuyên nghiệp trong việc chăm sóc
NCT nhằm đáp ứng các nhu cầu chăm sóc đa dạng, chuyên sâu của NCT. Do sự
thiếu hụt về nguồn nhân lực có chất lượng trong CSDH người NCT hiện nay không
chỉ ở Việt Nam mà còn trên các quốc gia khác trên thế giới.
- Giải pháp cụ thể cho việc đào tạo chuyên môn, chuẩn hoá trình độ cho nguồn
nhân lực đang thực hiện hoạt động chăm sóc NCT hiện nay tại các cơ sở công lập và
ngoài công lập. Chẳng hạn phối hợp với các cơ sở đào tạo chính thống tại Hà Nội,
xây dựng các chương trình đào tạo mang tính thực hành và phù hợp với nhu cầu nhân
lực thực tế.
- Bổ sung những CS ưu đãi với nguồn nhân lực trong các cơ sở TGXH công lập
có tính đến yếu tố khu vực thành thị/ nông thôn.
Điều kiện thực hiện giải pháp
- Cần có sự ủng hộ của lãnh đạo các cơ quan quản lý thực hiện CS và các cơ
145
quan quản lý nhà nước cấp cao trong việc thực hiện các giải pháp cải thiện chất
lượng CS và chất lượng thực hiện CS.
- Có kế hoạch cụ thể trong việc triển khai các hoạt động nhằm nâng cao năng
lực chuyên môn cho các cán bộ CS.
- Có sự phối hợp với các Sở/Ban/Ngành khác nhằm thống nhất nội dung các CS
liên quan tránh quy định chồng chéo hoặc mâu thuẫn nhau.
- Có sự tham gia tích cực của các bên liên quan trong tiến trình đánh giá, rà soát
các văn bản CS cũng như trong hoạt động đánh giá thực hiện CS. Các bên liên quan
có thể bao gồm phòng ban khác trong nội bộ cơ quan thực hiện CS, đối tượng hưởng
lợi trực tiếp và gián của CS, các Sở/Ban/Ngành có liên quan.
- Có các nghiên cứu dự báo tổng quan theo từng lĩnh vực TGXH để xây dựng
quy hoạch sát thực tiễn.
4.3.2. Thúc đẩy các yếu tố bối cảnh nhằm hỗ trợ quá trình thực hiện chính sách
Mục tiêu của giải pháp
Quá trình thực hiện CS thành công phụ thuộc vào bối cảnh luật pháp-kinh tế-
xã hội-văn hoá nơi CS đó được ban hành và thực hiện. Do đó, để quá trình thực hiện
CS. đạt hiệu quả, các cơ quan quản lý CS cần tính toán tới sự phù hợp của các công
cụ CS với bối cảnh thực hiện, hoặc chủ động tạo ra các sự thay đổi về bối cảnh để
thúc đẩy quả trình thực hiện CS hiệu quả hơn. Ngoài bối cảnh về luật pháp-kinh tế-xã
hội bên ngoài, thì yếu tố liên quan tới bối cảnh bên trong nội bộ cơ quan quản lý thực
hiện CS cũng ảnh hưởng tới quá trình thực hiện. Bối cảnh bên trong này bao gồm các
yếu tố như sự đồng thuận về mặt quan điểm giữa các nhà lãnh đạo và cán bộ thực
hiện, các cơ chế quản lý vận hành, khuyến khích, khen thưởng phù hợp.
Mục tiêu của giải pháp này nhằm đưa ra các gợi ý cho các cơ quan thực hiện
CS tại Hà Nội, trong quá trình triển khai thực hiện một CS cụ thể, xem xét điều chỉnh
và tạo ra các yếu tố thuộc về bối cảnh (bên trong và bên ngoài) mang tính phù hợp,
đáp ứng được với mục tiêu và các giải pháp của CS.
Nội dung của giải pháp
Các giải pháp mang tính nội bộ/bên trong
Lãnh đạo cơ quan quản lý thực hiện CS tìm hiểu, nắm rõ mục tiêu và các giải
pháp CS: Lãnh đạo cấp quản lý trực tiếp của các cán bộ thực thi CS tại cấp Sở/Phòng
thông qua các trao đổi (chính thức và không chính thức) với các cán bộ thực hiện CS
146
nhằm thống nhất chung định hướng và phương hướng triển khai CS cho toàn bộ
những thành viên liên quan. Tránh tình trạng chỉ duy nhất cán bộ phụ trách thực hiện
CS có hiểu biết nội dung CS đó.
Nâng cao nhận thức về chính sách cho cán bộ thực hiện chính sách: Thực hiện
các hoạt động nâng cao nhận thức cho chính các cán bộ CS về xu hướng già hoá dân
số, các cách tiếp cận và mô hình chăm sóc sức khoẻ NCT phổ biến hiện nay thông
qua các chương trình đào tạo nội bộ, hoặc tạo điều kiện cho cán bộ nhân viên tham
gia các hoạt động trao đổi chuyên môn trong hệ thống hoặc liên ngành.
Xây dựng ban triển khai CS nội bộ: Phân công trách nhiệm cụ thể cho các cán
bộ thực hiện CS (với sự phù hợp về năng lực: lực điều chỉnh, bổ sung và đánh giá, rút
kinh nghiệm thực hiện CS), có người chịu trách nhiệm chính và những thành viên
phối hợp khác. Ban thực hiện CS chịu trách nhiệm lên kế hoạch triển khai CS, xây
dựng cơ chế phối hợp, giải trình trách nhiệm, kiểm tra, báo cáo tiến độ công việc rõ
ràng giữa các thành viên.
Cơ chế thi đua khen thưởng phù hợp: Dựa theo các quy định về mặt thi đua,
khen thưởng của đơn vị, làm rõ các tiêu chí đánh giá khen thưởng dành cho ban thực
hiện CS nhằm khuyến khích tinh thần và kết quả việc thực hiện triển khai CS.
Các giải pháp bên ngoài
Giáo dục, phổ biến chính sách: Phổ biế rộng rãi các văn bản quy phạm pháp
luật mang tính định khung (Luật NCT, Chương trình hành động Quốc gia về NCT)
về công tác chăm sóc NCT cũng như việc phát triển các DVCS NCT, hỗ trợ NCT tới
các đối tượng tham gia tiến trình thực hiện CS. Điều này nhằm đảm bảo sự thống
nhất về mặt quan điểm cũng như các hành động cụ thể được quy định mang tính pháp
lý về chăm sóc, hỗ trợ NCT, cũng như tạo nền tảng tốt cho việc triển khai các CS cụ
thể liên quan. Việc phổ biến có thể được thực hiện qua nhiều kênh khác nhau, từ
chính thức tới không chính thức hoặc lồng ghép vào các chương trình truyền thông
nâng cao nhận thức khác trong cơ quan thực hiện CS.
Truyền thông về NCT, dịch vụ chăm sóc và chính sách liên quan: Sở LĐTBXH
và UBND TP Hà Nội Kết hợp với các Ban/Bộ/Ngành hoặc Phòng ban chức năng,
thực hiện đa dạng hóa các hình thức truyền thông, nâng cao nhận thức của các cấp,
ngành và cộng đồng xã hội về tác động và thích ứng với vấn đề già hóa dân số, biến
đổi khí hậu, dịch bệnh, cách mạng công nghiệp lần thứ tư, chuyển đổi số tác động
đến đời sống của NCT; trách nhiệm của gia đình, cộng đồng xã hội và nhà nước
147
trong việc chăm sóc, phát huy vai trò của NCT.
Tạo sự đồng thuận và thống nhất: Vận động sự tham gia tích cực của các cơ
quan quản lý cấp cao, hoặc các cơ quan quản lý và thực hiện CS liên ngành, nhằm
tạo môi trường đồng thuận, thống nhất trong hệ thống quản lý nhà nước phục vụ cho
quá trình triển khai được thuận lợi, tránh những cản trở về mặt thủ tục hành chính,
hoặc các vấn đề liên quan tới xung đột về mặt lợi ích.
Bố trí ngân sách phù hợp: Các Sở/ban/ngành có liên quan đề xuất bố trí nguồn
ngân sách của UBND TP phù hợp và ưu tiên cho các hoạt động hỗ trợ phát triển các
cơ sở TGXH có chăm sóc NCT, đặc biệt các cơ sở thực hiện XHH. Đẩy nhanh tiến
độ giải ngân cho các dự án xây dựng, cải tạo các cơ sở TGXH hiện chưa đáp ứng
được điều kiện thực hiện các hoạt động XHH chăm sóc NCT.
Đề xuất mô hình chăm sóc NCT: Sở LĐTBXH TP nghiên cứu đề xuất triển khai
các mô hình chăm sóc NCT phù hợp với xu thế bao gồm các DVCS dựa vào cộng
đồng, DVCS tại nhà, DVCS ban ngày, các dịch vụ tích hợp giữa y tế và chăm sóc tập
trung dài hạn, các dịch vụ hợp tác công tư (PPP) trong chăm sóc NCT.
Điều kiện thực hiện giải pháp
- Sự cam kết của lãnh cơ quan quản lý trong việc tìm hiểu, chỉ đạo, triển khai
các hoạt động nhằm hỗ trợ các cán bộ thực hiện CS. Bao gồm việc thành lập ban thực
hiện CS, các cơ chế đào tạo năng lực, khuyến khích sự tham gia của các cán bộ này.
- Có các cán bộ CS cam kết và phù hợp về mặt năng lực chuyên môn tham gia
vào ban thực hiện CS để đảm bảo chất lượng vận hành của nhóm với các hoạt động
nội bộ và phối hợp bên ngoài.
- Nguồn ngân sách được bố trí phù hợp để thực hiện các hoạt động khuyến
khích, hỗ trợ việc phát triển cơ sở chăm sóc NCT cũng như tiến độ giải ngân nhanh
chóng, các thủ tục hành chính được giải quyết nhanh chóng.
4.3.3. Nâng cao hoạt động truyền thông về chính sách
Mục tiêu của giải pháp
Nhiều CS thực hiện không thành công bởi không có sự thống nhất/hiểu chung
về mục tiêu và các giải pháp CS. Sự không thống nhất có thể thậm chí nằm trong nội
bộ cơ quan quản lý CS và các bên liên quan trong quá trình thực hiện CS. Theo
nghiên cứu của luận án này, rất nhiều đối tượng hưởng lợi chính của các CS phát
triển cơ sở chăm sóc NCT tại Hà Nội không biết tới sự tồn tại của các CS. Do đó,
148
dường như CS không hề có tác động gì tới nhóm “không biết” này.
Mục tiêu của giải pháp tập trung vào đưa ra các gợi ý nhằm giúp cho các hoạt
động truyền thông về CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT hiệu quả hơn, các đối tượng
đều có thể tiếp cận được các văn bản CS và từ đó được hưởng lợi từ các CS này.
Nội dung của giải pháp
Đa dạng các phương tiện truyền thông: Sở LĐTBXH và UBND TP Hà Nội
phối hợp vớic các bên liên quan thực hiện các hoạt động truyền thông nội bộ và bên
ngoài về nội dung các CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT thông qua các kênh truyền
thông chính thức và phi chính thức (có thể qua mạng lưới/hội/nhóm các cơ sở chăm
sóc NCT hoặc các nhà đầu tư đang có mong muốn đầu tư vào lĩnh vực này). Sử dụng
các phương tiện truyền thông đa dạng như video, hình ảnh, và các nền tảng truyền
thông xã hội để tăng tính tiếp cận tới nhiều đối tượng đích khác nhau. Điều này có
thể được thực hiện thông qua việc phối hợp sử dụng các kênh truyền thông như báo
chí, truyền hình, radio, mạng xã hội, các cuộc họp và các hoạt động tương tác trực
tiếp với các nhóm đối tượng hưởng lợi CS. Bên cạnh đó, có thể đầu tư xây dựng các
kênh truyền thông/hệ thống thông tin (cổng thông tin điện tử) nhằm cung cấp đầy đủ
nhất các thông tin về CS mà các cơ sở TGXH có thể tiếp cận một cách rõ ràng và có
tính hệ thống. Cùng với đó, thực hiện viện truyền thông về chính các công cụ/nền
tảng này tới các đối tượng CS và các bên liên quan.
Tăng cường mạng lưới cộng tác truyền thông: Sở LĐTBXH và UBND TP phối
hợp chặt chẽ với các tổ chức xã hội như Hội người cao tuổi, các cơ sở chăm sóc NCT
đang hoạt động trên địa bàn Hà Nội, các tổ chức phi chính phủ làm việc với NCT,
các nhà nghiên cứu, các cá nhân/doanh nghiệp đang có nhu cầu đầu tư vào việc cung
cấp DVCS NCT cùng phối hợp thực hiện các hoạt động truyền thông về CS. Bên
cạnh đó mở rộng mạng lưới thông tin cộng đồng thông qua hệ thống chính quyền địa
phương, hoặc các ban ngành đoàn thể có liên quan nhằm tuyên truyền về các CS hiện
hành liên quan tới việc phát triển cơ sở chăm sóc NCT.
Truyền thông tích hợp: đây là một phương pháp truyền thông mà các cơ quan
CS có thể áp dụng để tăng cường hiệu quả và tiết kiệm chi phí. Bằng cách tích hợp
các nội dung truyền thông về CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT vào các hoạt động
tại cộng đồng thông qua chương trình của các ban ngành đoàn thể hoặc chính quyền
địa phương, các thông điệp về CS có thể được truyền tải một cách hiệu quả và tiếp
149
cận được một lượng lớn người dân trong cộng đồng.
Chia sẻ thông tin và kiến thức liên ngành: Sở LĐTBXH và UBND cần tạo ra
các cơ chế và nền tảng để chia sẻ thông tin và kiến thức liên quan đến CS cho các
ban/bộ/ngành liên quan. Điều này có thể bao gồm việc xây dựng cơ sở dữ liệu chung,
tổ chức các hội thảo và buổi tọa đàm, và sử dụng các công nghệ thông tin để tạo ra
một hệ thống giao tiếp liên ngành hiệu quả.
Đánh giá và định hướng lại chiến dịch truyền thông: Sở LĐTBXH và UBND
TP cần thường xuyên đánh giá hiệu quả của các hoạt động truyền thông và điều
chỉnh chiến dịch truyền thông theo kết quả đánh giá. Việc này giúp đảm bảo rằng
thông tin về CS được truyền tải một cách hiệu quả và đúng đối tượng mục tiêu. Đồng
thời, các cơ quan cần thể hiện sự linh hoạt trong việc thay đổi và cải tiến chiến dịch
truyền thông để đáp ứng các thay đổi trong nhu cầu và mong muốn của đối tượng
mục tiêu. Cùng với đó, nghiên cứu đánh giá về tính hiệu quả hoặc xu hướng truyền
thông phù hợp. Chẳng hạn hiện nay việc truyền thông không chính thức phát triển
hơn, đặc biệt thông qua các nền tảng mạng xã hội.
Điều kiện thực hiện giải pháp
- Để thực hiện thành công các giải pháp tăng cường truyền thông về CS phát
triển cơ sở chăm sóc NCT tại Hà Nội, Sở LĐTBXH và UBND cần có sự tổ chức và
quản lý hiệu quả trong việc phân công nhiệm vụ, sự điều phối và quản lý thông tin,
và việc xác định và theo dõi các chỉ tiêu và tiến độ.
- Các kênh truyền thông chính thức và phi chính thức được xây dựng và vận
hành có hiệu quả, đối tượng hưởng lợi và các biên liên quan biết tới CS.
- Các mạng lưới truyền thông phi chính thức được xây dựng, và vận hành trong
đó có sự đồng thuận và cam kết tham gia của các bên liên quan.
- Sự đầu tư và phối hợp về mặt công nghệ thông tin với các đơn vị cung cấp
dịch vụ đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện các giải pháp truyền thông hiệu
quả. Các công cụ và nền tảng công nghệ có thể được sử dụng để chia sẻ thông tin,
quản lý dữ liệu và tương tác với cộng đồng một cách nhanh chóng và tiện lợi.
- Ngân sách và nhân lực được bố trí cho việc xây dựng các chương trình truyền
thông, cổng thông tin điện tử giúp các đối tượng CS có thể được tiếp cận các thông
tin một cách thuận tiện, đầy đủ và cập nhật mới nhất.
4.3.4. Nâng cao năng lực phối hợp liên ngành
150
Mục tiêu của giải pháp
Ngành LĐTBXH hiện đang là đơn vị chủ quản thực hiện các CS liên quan tới
phát triển cơ sở chăm sóc NCT. Trong hầu hết các văn bản CS đều chỉ rõ sự phối hợp
tham gia của các Ban/Bộ/Ngành khác, dưới sự điều phối chính của ngành LĐTBXH
trong việc triển khai các CS. Tuy nhiên từ kết quả nghiên cứu trong luận án cho thấy
việc phối hợp này còn lỏng lẻo, không có cơ chế phối hợp rõ ràng dẫn tới việc không
thống nhất trong quá trình triển khai thực hiện.
Giải pháp này nhằm giúp cho việc phối hợp liên ngành đạt hiệu quả trong suốt
quá trình thực hiện các CS, tạo ra sự đồng bộ, thống nhất và bổ sung cho nhau.
Nội dung của giải pháp
Thiết lập cơ chế phối hợp rõ ràng: Sở LĐTBXH và UBND TP Hà Nội cần thiết
lập một cơ chế phối hợp rõ ràng và định rõ vai trò, trách nhiệm và quyền hạn của
từng ban, bộ, ngành trong quá trình thực hiện CS. Bên cạnh đó, cùng giải quyết các
vấn đề chồng chéo về thủ tục, quy định hành chính hay về nội dung các văn bản CS.
Việc này giúp tạo ra sự đồng bộ và thống nhất trong việc triển khai các giải pháp CS,
đồng thời giảm thiểu mâu thuẫn và xung đột trong quá trình làm việc. Ví dụ, sở
LĐTBXH có thể phối hợp với các bên liên quan để thực hiện một số công việc cụ thể
bao gồm:
- Phối hợp với ngành Y tế xem xét việc quản lý các hoạt động chăm sóc y tế tại
các cơ sở chăm sóc NCT, chuẩn hoá quy trình chăm sóc, thực hiện các chức năng
liên quan tới thăm khám và điều trị cũng như đào tạo nâng cao năng lực cho các cán
bộ y tế tại các cơ sở này.
- Phối hợp với Sở Tài nguyên và Môi trường trong việc sắp xếp quỹ đất cho
việc xây dựng các cơ sở chăm sóc NCT theo quy hoạch tổng thể của Thành phố.
- Phối hợp/khuyến nghị với Bộ tài chính trong việc thực hiện các hoạt động xây
dựng định mức ngân sách hỗ trợ phát triển các cơ sở trợ giúp XH, quy định khung
chi tiết mức giá các dịch vụ XHH chăm sóc NCT.
- Phối hợp với ngành Xây dựng trong việc đưa ra các tiêu chuẩn xây dựng phù hợp
với chức năng chăm sóc NCT cũng như các quy định liên quan tới việc cấp phép.
Tăng cường giao tiếp và trao đổi thông tin: Việc tăng cường giao tiếp và trao
đổi thông tin giữa các ban, bộ, ngành có vai trò quan trọng trong việc cải thiện sự
phối hợp. Cần tổ chức định kỳ các cuộc họp, hội thảo, và buổi tọa đàm để chia sẻ
151
thông tin, cập nhật tình hình, thảo luận về các vấn đề liên quan đến phát triển cơ sở
chăm sóc NCT. Đồng thời, cần sử dụng các công nghệ thông tin để tăng cường
truyền thông và quản lý thông tin một cách hiệu quả.
Xây dựng cơ chế điều phối chính: Cần xác định một ngành chủ quản hoặc một
đơn vị có trách nhiệm chính trong việc điều phối và quản lý các hoạt động liên ngành
liên quan đến chăm sóc NCT, ở đây có thể xác định chính là sở LĐTBXH TP. Đơn vị
này sẽ đảm nhận vai trò điều phối, giám sát và đồng bộ hóa các hoạt động của các
ban, bộ, ngành, đảm bảo sự thống nhất và hiệu quả trong quá trình thực hiện CS.
Phân công trách nhiệm cho cán bộ CS lập danh sách chi tiết các liên ngành cần phối
hợp, tìm hiểu cụ thể các CS được ban hành của mỗi ngành có liên quan tới việc phát
triển cơ sở chăm sóc NCT. Cụ thể như là việc phối hợp với các bên như: Y tế, Kế
hoạch và Đầu tư, Tài chính, Xây dựng, Tài nguyên môi trường, …Hoặc phối hợp
chặt chẽ với UBND Thành phố trong việc ban hành các quyết định, hướng dẫn cụ thể
việc thực hiện các CS.
Xây dựng cơ chế "Một cửa": Đây là một giải pháp quan trọng để tạo ra một môi
trường thuận lợi cho sự phối hợp liên ngành trong việc thực hiện CS phát triển cơ sở
chăm sóc NCT tại Hà Nội. Xuất phát từ kết quả nghiên cứu cho thấy các chủ cơ sở
(đặc biệt là nhóm ngoài công lập) thường gặp khó khăn trong việc hoàn thiện các thủ
tục CS và dẫn tới bỏ cuộc hoặc mất rất nhiều thời gian, công sức để hoàn thành. Để
thực hiện được cơ chế này, cần thành lập một cơ quan quản lý hoặc bộ phận chịu
trách nhiệm về quản lý và vận hành cơ chế "Một cửa". Cơ quan này sẽ đảm nhận vai
trò là điểm tiếp nhận chung và cung cấp các dịch vụ liên quan đến phối hợp liên
ngành. Đây là một điểm tiếp nhận chung cho các vấn đề CS các cơ sở quan tâm, hoặc
là nơi giúp các cơ sở có thể tiếp cận thông tin và tài liệu, gửi yêu cầu, cung cấp đóng
góp ý kiến và nhận được phản hồi một cách thuận tiện và nhanh chóng.
Điều kiện thực hiện giải pháp
- Ý thức và cam kết từ các bên liên quan: Tất cả các bên liên quan phải có ý thức
về tầm quan trọng của phối hợp và cam kết thực hiện các hoạt động phối hợp một
cách chủ động và hiệu quả. Điều này đòi hỏi sự nhận thức về lợi ích của phối hợp và
ý thức về việc chia sẻ thông tin, tài nguyên và trách nhiệm.
- Sự lãnh đạo và điều phối hiệu quả: Cần có sự lãnh đạo và điều phối chính xác từ
các cơ quan, tổ chức hoặc đơn vị chịu trách nhiệm như sở LĐTBXH. Sự lãnh đạo
này cần đảm bảo sự thống nhất trong quyết định, phân công và quản lý hoạt động
152
phối hợp, đồng thời tạo điều kiện để các bên liên quan có thể gắn kết và hỗ trợ lẫn nhau.
- Môi trường hỗ trợ và khung pháp lý: Cần có một môi trường hỗ trợ và khung
pháp lý thuận lợi cho phối hợp liên ngành. Điều này bao gồm việc định rõ vai trò,
trách nhiệm và quyền hạn của các bên liên quan, cung cấp các quy định và hướng
dẫn rõ ràng về phối hợp và tạo ra các cơ chế khuyến khích và khen thưởng để thúc
đẩy sự phối hợp hiệu quả.
- Cơ chế giao tiếp và chia sẻ thông tin: Cần thiết lập các cơ chế giao tiếp và chia
sẻ thông tin định kỳ và đa chiều giữa các bên liên quan. Các cơ chế này có thể bao
gồm cuộc họp định kỳ, hội thảo, diễn đàn trực tuyến và các công cụ trao đổi thông tin
khác. Sự giao tiếp và chia sẻ thông tin hiệu quả giúp tạo ra sự thông nhất và thống
nhất trong quá trình phối hợp.
- Tài trợ và nguồn lực đủ: Để đảm bảo sự phối hợp liên ngành được thực hiện
hiệu quả, cần cung cấp đủ tài trợ và nguồn lực cho các hoạt động phối hợp. Điều này
bao gồm cung cấp nguồn lực về nhân lực, tài chính, công nghệ, hạ tầng và các nguồn
lực khác cần thiết để thực hiện các hoạt động phối hợp một cách hiệu quả. Các nguồn
lực này có thể được huy động từ các bên liên quan, từ ngân sách công cộng hoặc từ
các nguồn tài trợ nội bộ hoặc quốc tế.
- Đánh giá và theo dõi: Cần thiết lập các cơ chế đánh giá và theo dõi quá trình
phối hợp liên ngành để đảm bảo tính hiệu quả và thúc đẩy cải tiến liên tục. Điều này
có thể bao gồm việc thiết lập các tiêu chí đánh giá, quy trình thu thập dữ liệu, cơ chế
báo cáo và phản hồi, và sự tham gia của các bên liên quan trong quá trình đánh giá và
theo dõi.
4.3.5. Nâng cao sự cam kết nội bộ và các bên tham gia
Mục tiêu của giải pháp
Sự cam kết và tham gia đầy đủ của nội bộ cơ quan thực hiện CS và các bên liên
quan trong quá trình thực hiện CS đã được chứng minh có ảnh hưởng mạnh mẽ tới
hiệu quả thực hiện CS. Về bản chất, hoạch định CS hay thực hiện CS đều là những
tiến trình phức tạp và chịu sự tác động của rất nhiều các yếu tố liên quan (bên trong
và bên ngoài hệ thống). Không tồn tại một CS nào mà không có sự tham gia của ít
nhất cơ quan ban hành và thực hiện CS với các đối tượng hưởng lợi CS. Bởi chịu sự
ảnh hưởng mạnh mẽ của các bên liên quan, cho nên nỗ lực của mỗi bên tham gia là
một yếu tố quan trọng giúp cho các giải pháp CS được triển khai thành công.
Mục tiêu của giải pháp này nhằm giúp cơ quan thực hiện CS khuyến khích
153
được sự cam kết tốt hơn từ nội bộ và của các bên liên quan trong quá trình triển khai
các CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT trên địa bàn Hà Nội từ đó đóng góp vào việc
triển khai sự thành công của các CS này.
Nội dung của giải pháp
Đối với sự cam kết nội bộ cơ quan thực hiện CS
Tạo sự thống nhất, đồng thuận trong nội bộ: Mục tiêu, kế hoạch, cách thức
triển khai hỗ trợ các CS cần được cơ quan thực hiện CS thống nhất và đảm bảo các
thành viên có cách hiểu chung nhất về nội dung CS và các giải pháp CS đưa ra.
Rà soát lại và hoàn thiện quy trình các thủ tục hành chính: Các thủ tục liên
quan tới việc cấp phép, hỗ trợ các cơ sở chăm sóc NCT cần được ra soát cẩn thận.
Đảm bảo các thủ tục hành chính được giải quyết trong những khoảng thời gian theo
quy định, có các chỉ dẫn cụ thể trong việc thực hiện các thủ tục, đặc biệt là các thủ
tục hành chính mang tính liên ngành.
Thiết lập kênh tiếp nhận thông tin và phản hồi: Sở LĐTBXH và UBND TP Hà
Nội chủ động tạo ra các kênh thông tin nhằm tiếp nhận các thắc mắc, phản hồi của cơ
sở trong quá trình tiếp cận, hưởng thụ CS và phản hồi các thông tin này một cách phù
hợp, nhanh chóng với các hướng dẫn cụ thể.
Bố trí nhân sự ổn định: Bố trí nhân sự có chuyên môn phù hợp và ổn định
trong quá trình triển khai các CS, trong trường hợp có những sự thay đổi về nhân sự,
cần thông báo cho các bên liên quan, đặc biệt là nhóm đang được hỗ trợ trực tiếp.
Thực hiện việc chuẩn hoá, đào tạo cán bộ CS để đảm bảo chất lượng công việc.
Sự cam kết bên ngoài
Xây dựng chương trình đào tạo và tăng cường nhận thức: Sở LĐTBXH và
UBND TP Hà Nội có thể phối hợp xây dựng chương trình đào tạo nhằm nâng cao
nhận thức về tầm quan trọng và lợi ích của các CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT.
Chương trình này có thể được thiết kế cho các cán bộ quản lý, nhân viên và các bên
liên quan khác, giúp họ hiểu rõ hơn về mục tiêu, giá trị và quy trình triển khai của
các CS, từ đó tăng sự cam kết và đồng lòng trong quá trình thực hiện.
Thảo luận chính sách và phân công nhiệm vụ phù hợp: Tổ chức và khuyến
khích các Ban/Bộ/Ngành liên quan tham gia vào các thảo luận CS, từ đó xác định
nhiệm vụ vai trò cụ thể mỗi bên tham gia trong quá trình phối hợp thực hiện CS.
Đồng thời khuyến khích các cơ quan quản lý cấp cơ sở (UBND phường/xã, phòng
154
LĐTBXH) tham gia vào quá trình giám sát thực hiện các CS.
Tăng cường giám sát: Thực hiện các hoạt động truyền thông, khuyến khích các
cá nhân, đơn vị tham gia đóng góp vào các hoạt động giám sát thực hiện và các
khuyến nghị cải thiện nội dung CS. Ghi nhận sự đóng góp bằng nhiều hình thức khác
nhau cho các đối tượng tham gia trong quá trình thực hiện CS thông qua khen
thưởng, vinh danh, hoặc các hỗ trợ về mặt tài chính (nếu có thể).
Điều kiện thực hiện giải pháp
- Tính chủ động và cam kết từ Sở LĐTBXH và UBND TP Hà Nội: Điều này yêu
cầu sự cam kết mạnh mẽ và quyết tâm từ các cơ quan chủ quản để thúc đẩy sự phối
hợp và khuyến khích các bên liên quan. Sở LĐTBXH và UBND TP Hà Nội nên có
sự lãnh đạo tốt, xây dựng chiến lược rõ ràng và sẵn lòng cung cấp nguồn lực cần thiết
để thực hiện các giải pháp.
- Thể hiện sự cam kết bằng hành động cụ thể: Sự cam kết bằng hành động cụ
thể của các lãnh đạo cơ quan thực hiện CS, bao gồm việc xây dựng kế hoạch, xây
dựng đội ngũ, chủ động phối hợp với các bên liên quan trong việc triển khai thực
hiện CS.
- Tài chính và nguồn lực: Để thực hiện các giải pháp, cần có nguồn lực tài
chính, nhân lực và vật chất đủ để xây dựng và triển khai các chương trình, đào tạo,
hội thảo, cơ chế phối hợp, và các hoạt động khác. Sự hỗ trợ tài chính từ UBND TP
Hà Nội và các đối tác khác là cần thiết để đảm bảo thực hiện các giải pháp.
- Giám sát và ghi nhận sự đóng góp: Có cơ chế giám sát, đánh giá và hỗ trợ kịp
thời đối với những vướng mắc trong nội bộ cơ quan thực hiện CS và các cơ quan
phối hợp cũng như đối với đối tượng hưởng lợi CS. Những đóng góp của các bên liên
quan được xem xét, thay đổi và được ghi nhận một cách phù hợp. Các cơ chế khen
thưởng, đảm bảo an sinh cho cán bộ thực hiện CS được thực hiện.
4.3.6. Nâng cao năng lực, nguồn lực thực hiện CS
Giải pháp này nhằm giúp cơ quan quản lý thực hiện CS sắp xếp, bố trí các nguồn
lực một cách phù hợp nhất nhằm đóng góp cho quá trình thực hiện CS thành công.
Nội dung của giải pháp
Bố trí ngân sách phù hợp: Sở LĐTBXH và các ban ngành liên quan đề xuất với
UBND việc phân bổ ngân sách chi tiết và đẩy nhanh tiến độ giải ngân đối với việc
triển khai các dự án xây dựng cơ sở chăm sóc NCT trên địa bàn thành phố, các hoạt
động trợ giúp cơ sở chăm sóc NCT ngoài công lập. Đảm bảo tiến độ các dự án cũng
155
như kịp thời giải quyết CS được hưởng lợi của các cơ sở.
Nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực: Mục tiêu là đảm bảo sự hiệu quả và tối
ưu hóa việc sử dụng các nguồn lực có sẵn. Điều này có thể đạt được thông qua quản
lý tài chính chặt chẽ, tăng cường sự đào tạo và nâng cao năng lực của cán bộ quản lý,
áp dụng công nghệ và quy trình hiện đại để tối ưu hóa quá trình chăm sóc NCT và sử
dụng nguồn lực.
Rà soát và khuyến nghị chính sách: Rà soát lại các nội dung CS liên quan tới hỗ
trợ đầu tư, giải phóng mặt bằng, cơ chế ứng vốn hoặc các quy định về đầu tư cơ sở
vật chất, trang thiết bị cho các cơ sở TGXH (đặc biệt là nhóm công lập), từ đó có
những kiến nghị với UBND Thành phố trong việc bố trí nguồn ngân sách và các cơ
chế cụ thể cho việc thực hiện các giải pháp này trong tương lai. Xem xét thêm vấn đề
quy hoạch sử dụng đất của Thành phố để đề nghị việc sắp xếp quỹ đất phù hợp cho
việc xây dựng các cơ sở chăm sóc NCT theo QĐ 2230/QĐ-UBND ngày 22/05/2025
về việc quy hoạch mạng lưới cơ sở xã hội đến năm 2020, và định hướng tới 2030. Rà
soát lại các cơ sở chăm sóc NCT/cơ sở TGXH trên địa bàn Hà Nội hiện chưa nhận
được sự hỗ trợ của NSNN, hoặc các đề xuất liên quan tới tài chính chưa được giải
quyết. Phối hợp với UBND và các cơ quan chức năng khác tiến hành xây dựng kế
hoạch giải ngân phù hợp theo lộ trình.
Mở rộng cơ chế đầu tư nước ngoài: Huy động từ các nguồn tài chính, nguồn
vốn ngoài nhà nước phục vụ cho việc đầu tư nâng cấp, mở rộng và phát triển cơ sở
TGXH theo định hướng tới 2050 thông qua kêu gọi các dự án đầu tư xây dựng cơ sở
vật chất, cung cấp trang thiết bị cho các cơ sở công lập (hiện nay cơ sở vật chất đang
xuống cấp, trang thiết bị không đầy đủ hoặc cũ hỏng).
Nâng cao năng lực thực hiện chính sách: Thường xuyên thực hiện các hoạt
động nâng cao năng lực cho cán bộ CS thông qua các chương trình hội thảo, đào nội
bộ và các chương trình đào tạo chuyên môn sâu ngoài tổ chức. Nâng cao các năng
lực của cán bộ CS bao gồm: năng lực dựng kế hoạch và triển khai thực hiện CS; năng
lực phổ biến, tuyên truyền CS; năng lực phân công, phối hợp thực hiện; năng lực duy
trì CS; năng lực điều chỉnh CS; năng lực theo dõi, kiểm tra đôn đốc CS; năng lực
đánh giá tổng kết rút kinh nghiệm thực hiện CS. Thực hiện việc giám sát chuyên môn
chặt chẽ đối với các cán bộ CS, kịp thời hỗ trợ những vướng mắc cho cán bộ trong
156
quá trình tham gia triển khai các CS hiện hành.
Điều kiện thực hiện giải pháp
- Sự ủng hộ và cam kết và phối hợp của UBND Thành phố cũng như các
Ban/Ngành liên quan trong việc lập kế hoạch ngân sách, thực hiện việc giải ngân
theo đúng tiến độ. Đảm bảo nguồn tài chính ổn định và đủ để đầu tư vào cơ sở hạ
tầng, trang thiết bị và đáp ứng các yêu cầu khác trong việc nâng cao năng lực và
nguồn lực.
- Kế hoạch đào tạo nâng cao năng lực cho CBNV trong hệ thống về các năng lực
liên quan tới thực hiện CS được UBND hoặc lãnh đạo Sở chấp thuận và triển khai.
- Có cơ chế trong việc huy động nguồn vốn đầu tư từ khu vực tư nhân, đầu tư
nước ngoài đảm bảo hợp pháp, mang lại lợi ích cho cả phía đầu tư và phía tiếp nhận
- Sự phối hợp của các cơ sở chăm sóc NCT trong việc rà soát, đánh giá những
tồn tại liên quan tới việc tiếp nhận ngân sách, hoặc hiện trạng các vấn đề/hạng mục
cần được đầu tư nâng cấp, sửa chữa.
4.3.7. Xây dựng các liên minh thực hiện CS
Mục tiêu của giải pháp
Sự tham gia của đối tượng CS và các bên liên quan khác bao gồm: các nhóm lợi
ích, nhóm tôn giáo, doanh nghiệp, các tổ chức không thuộc nhà nước trong tiến trình
hoạch định CS và thực hiện CS cũng là yếu tố cần được quan tâm. Cơ quan thực hiện
CS cần thiết lập được các mối liên hệ chặt chẽ với các nhóm này, bởi sự đóng góp
của họ có những tác động nhất định tới sự thành công của CS. Tuy không có vai trò
quyết định lớn, nhưng các liên minh giúp đóng góp ý kiến từ thực tế, giúp các giải
pháp CS gần gũi hơn cũng như trong quá trình thực hiện nếu mục tiêu và giải pháp
được nhìn nhận và hiểu chung, thống nhất thì quá trình triển khai sẽ luận lợi, được
ủng hộ tích cực từ các nhóm này.
Tạo ra được các liên minh và duy trì mối quan hệ này trong suốt quá trình thực
hiện CS được xem là mục tiêu của giải pháp này.
Nội dung của giải pháp
Xây dựng các liên minh thực hiện chính sách: Cơ quan quản lý thực hiện CS
thành lập mạng lưới/nhóm/hội các cơ sở chăm sóc NCT, các tổ chức xã hội, ngành y
tế, các đơn vị nghiên cứu và các bên liên quan khác nhằm cung cấp thông tin, phối
hợp thực hiện, lắng nghe phản hồi. Mạng lưới này sẽ tạo ra một sự liên kết và sự phối
hợp chặt chẽ giữa các bên để chia sẻ thông tin, kinh nghiệm và tài nguyên, cùng nhau
157
thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT. Mạng lưới/nhóm/hội vận hành dưới sự
điều phối của cơ quan quản lý trực tiếp, khuyến khích các hoạt động trao đổi mang
tính góp ý xây dựng tích cực nhằm cải thiện quá trình thực hiện CS.
Chia sẻ thông tin và kinh nghiệm: Xây dựng hệ thống giao tiếp và chia sẻ thông
tin giữa các cơ sở chăm sóc NCT và các đối tác liên quan. Việc chia sẻ thông tin và
kinh nghiệm giữa các thành viên trong liên minh giúp tăng cường kiến thức và năng
lực chung, từ đó nâng cao chất lượng DVCS NCT. Khuyến khích sự tham gia của các
đối tượng hưởng lợi trực tiếp và gián tiếp từ các CS trong quá trình ra soát, đánh giá
thực hiện CS bằng nhiều hình thức khác nhau như góp ý trực tiếp, thông qua văn bản,
thông qua email hoặc các nền tảng giao tiếp phổ biến hiện nay như Zalo, facebook,
hoặc trên các cổng thông tin điện tử của cơ quan quản lý CS.
Thực hiện các hoạt động đối thoại CS: Thường xuyên tổ chức các hoạt động đối
thoại CS có sự tham gia của các liên minh theo định kỳ, nhằm thu thập các ý kiến
đóng góp, hoàn thiện các văn bản CS và quá trình thực hiện CS. Việc đối thoại có thể
diễn ra trực tiếp, tuy nhiên cơ quan quản lý CS cũng có thể xây dựng các nền tảng,
công cụ giao tiếp phù hợp (như đã được nhắc đến ở trên) với các nhóm đối tượng
khác nhau. Cơ quan quản lý CS tổng hợp các ý kiến đóng góp của các liên minh này
nhằm phục vụ cho các khuyến nghị CS đối với các cấp chịu trách nhiệm ban hành
CS. Thông báo cho các bên khi có những tác động thay đổi nhất định nhằm khuyến
khích sự tham gia tích cực hơn (bởi thường các bên không tham gia vì thấy tiếng nói
không được xem xét và không tạo ra những thay đổi cụ thể).
Liên minh trong nội bộ cơ quan thực hiện chính sách: Trong nội bộ cơ quan
thực hiện CS, cũng cần tạo ra được các nhóm mang tính hỗ trợ việc triển khai CS.
Điều này xuất phát từ vấn đề thiếu hụt nhân lực quản lý thực hiện CS trong các cơ
quan thực hiện CS. Nhóm nhân lực này cần có thêm sự hỗ trợ, có thể không thường
trực, nhưng đặc biệt trong các giai đoạn có những biến động ảnh hưởng tới quá trình
thực hiện và đòi hỏi nguồn nhân lực nhiều hơn. Ví dụ giai đoạn dịch bệnh Covid-19,
nhu cầu hỗ trợ của các cơ sở chăm sóc NCT tăng cao, nhưng do thiếu hụt nhân sự từ
cơ quan quản lý dẫn tới việc các cơ sở không nhận được sự hỗ trợ cần thiết.
Đánh giá hợp tác liên minh: Cơ quan quản lý thường xuyên đánh giá, rà soát lại
hiệu quả của việc phối hợp tham gia đối với các liên minh này, từ có những thay đổi
tích cực hơn. Đảm bảo sự tham gia là tự nguyện và không mâu thuẫn về mặt lợi ích
158
nảy sinh trong quá trình kết hợp với các liên minh này.
Điều kiện thực hiện giải pháp
- Tính chủ động và cam kết của các bên liên quan: Các bên liên quan, bao gồm
sở LĐTBXH, UBND TP Hà Nội, cơ sở chăm sóc NCT, các tổ chức xã hội, ngành y
tế và các đối tác khác cần có ý thức và cam kết thực hiện các giải pháp. Sự chủ động
và cam kết này sẽ đảm bảo sự thực hiện hiệu quả và bền vững của các hoạt động
trong liên minh.
- Đảm bảo sự tham gia của các nhóm đối tượng có liên quan là hoàn toàn tự
nguyện, không ép buộc, bình đẳng hoặc không chịu sự chi phối về mặt quyền lực lẫn
nhau trong quá trình tham gia.
- Đảm bảo tính minh bạch trong quá trình tham gia, tránh các vấn đề liên quan
tới lợi ích nhóm hoặc xung đột về mặt lợi ích.
- Sự phân công điều động phù hợp về mặt nhân lực trong nội bộ các cơ quan
trên tinh thần vì mục đích chung hoặc ứng phó với các trường hợp khẩn cấp.
4.3.8. Cải thiện việc theo dõi, kiểm tra, giám sát, đôn đốc thực hiện chính sách
Mục tiêu của giải pháp
Việc theo dõi, kiểm tra, giám sát việc thực hiện CS là bước quan trọng trong
tiến trình thực hiện CS, nhằm đảm bảo CS được thực hiện theo kế hoạch, và kịp thời
có những đánh giá, điều chỉnh phù hợp. Việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc
NCT trên địa bàn Hà Nội theo kết quả nghiên cứu từ luận án thì việc kiếm tra đôn
đốc thực hiện còn nhiều hạn chế. Dó đó, mục tiêu của giải pháp này nhằm tạo ra cơ
chế phối hợp chặt chẽ và các quy trình, tiêu chí giám sát việc thực hiện CS hiệu quả.
Nội dung của giải pháp
Thành lập ban kiểm tra, giám sát thực hiện chính sách: Cơ quan quản lý việc
thực hiện CS thành lập ban kiểm tra, giám sát việc thực hiện CS phát triển cơ sở
chăm sóc NCT. Ban kiểm tra bao gồm các cán bộ quản lý việc thực hiện CS ở các
ban ngành khác nhau có liên quan, bao gồm cả đối tượng hưởng lợi CS (các cơ sở
chăm sóc NCT công lập và ngoài công lập). Người phụ trách, điều phối ban kiểm tra
có thể là cán bộ quản lý của sở LĐTBXH.
Ban kiểm tra lập kế hoạch chi tiết việc theo dõi, kiểm tra và giám sát thực hiện
CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT theo quý, theo năm hoặc theo các giai đoạn cụ thể
phù hợp với các hoạt động khác. Trong đó, chỉ rõ các hoạt động cụ thể và vai trò của
159
từng người trong ban kiểm tra.
Xây dựng cơ chế theo dõi và kiểm tra chặt chẽ: Cần xác định các tiêu chí, tiêu
chuẩn và quy trình để theo dõi và kiểm tra việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm
sóc NCT. Đây có thể là việc thiết lập chỉ tiêu, mốc đánh giá, hình thức báo cáo và ghi
nhận thông tin liên quan. Xây dựng bộ tiêu chí giám sát việc thực hiện CS, bao gồm
các khía cạnh giám sát khác nhau bao gồm: Sự phù hợp của nội dung CS (giải pháp
CS); Sự cam kết của các bên tham gia; Sự phối hợp của các bên liên quan; Việc
truyền thông về CS; Năng lực cơ quan/người thực hiện CS; Các kết quả đạt được
(định tính và định lượng); Việc báo cáo quá trình thực hiện CS. Các tiêu chí đánh giá
cụ thể theo từng khía cạnh có thể thực hiện như bảng Tiêu chí Giám sát gợi ý (xem
Phụ lục 15)
Tăng cường hoạt động giám sát: Cần có các hoạt động giám sát thường xuyên
để đảm bảo tính chính xác, đáng tin cậy và minh bạch trong việc thực hiện CS phát
triển cơ sở chăm sóc NCT. Giám sát có thể được thực hiện bằng cách tiến hành kiểm
tra định kỳ, đánh giá hiệu quả và sự tuân thủ các quy định. Ngoài ra, việc tạo điều
kiện cho sự tham gia của cộng đồng, các tổ chức xã hội và các đối tác khác cũng có
thể làm tăng tính minh bạch và trách nhiệm trong việc giám sát. Việc thực hiện đánh
giá, thập các thông tin được ban giám sát thực hiện theo kế hoạch và thông qua các
hình thức bao gồm: các cuộc họp đánh giá định kỳ; các hoạt động viếng thăm; thông
qua các báo cáo đánh giá từ cơ sở. Phương tiện thu thập thông tin có thể thông qua
các nền tảng online (phiếu đánh giá, báo cáo được thiết kế online) để thuận tiện và có
tính cập nhật.
Cơ chế tiếp nhận, phản hồi: Cùng với việc thực hiện hoạt động giám sát thường
xuyên, cần xây dựng cơ chế tiếp nhận và thực hiện các hoạt động giao tiếp và phản
hồi trực tiếp với các cơ sở chăm sóc NCT trong suốt quá trình thực hiện CS. Việc này
có thể được thực hiện qua việc cung cấp số điện thoại liên lạc, hoặc hòm thư điện tử,
hoặc địa chỉ cụ thể để đối tượng hưởng lợi có thể tiếp cận trực tiếp.
Báo cáo kiểm tra, giám sát: Xây dựng báo cáo rà soát, kiểm tra thực hiện CS
dựa trên các tiêu chí đánh giá được thống nhất. Báo cáo này cần được thống nhất và
có sự đóng góp của các bên liên quan tham gia vào quá trình rà soát, kiểm tra. Báo
cáo kết quả của quá trình xử lý vi phạm và cải thiện là cần thiết để cung cấp thông tin
cho các bên liên quan và khẳng định sự minh bạch và trách nhiệm trong quá trình
160
thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT.
Điều kiện thực hiện giải pháp
- Sự vào cuộc, thúc đẩy của cơ quan hoạch định CS (Bộ LĐTBXH) và cơ quan
quản lý nhà nước Thành phố (UBND) thông qua việc xây dựng các kế hoạch tổ chức
giám sát thực hiện các CS được ban hành nói chung và CS phát triển cơ sở chăm sóc
NCT nói riêng.
- Sự tích cực, chủ động của cơ quan quản lý thực hiện CS trong việc thành lập,
quản lý và duy trì ban đánh giá cũng như thực hiện nghiêm túc các hoạt động đánh giá.
- Ngân sách được sắp xếp cho các hoạt động kiểm tra, giám sát theo kế hoạch.
- Đảm bảo tính kịp thời, có sự tham gia (các bên liên quan), và tính minh bạch
trong suốt quá trình giám sát việc thực hiện CS.
4.3.9. Cải thiện hoạt động sơ kết, tổng kết, đánh giá thực hiện chính sách
Mục tiêu của giải pháp
Một CS khi được thực hiện, việc đánh giá toàn bộ quá trình thực hiện CS là
bước quan trọng không thể thiếu. Điều này nhằm giúp cơ quan hoạch định CS và cơ
quan thực hiện CS đánh giá được hiệu quả của CS từ nội dung cho tới quá trình triển
khai. Về cơ bản, việc tổng kết đánh giá quá trình thực hiện là việc tổng hợp lại toàn
bộ quá trình giám sát thực hiện CS, từ đó để có một Giải pháp này nhằm giúp nâng
cao hiệu quả việc tổng kết, đánh giá quá trình thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc
NCT trên địa bàn Hà Nội dựa trên những phát hiện trong nghiên cứu của luận án này.
Việc đánh giá thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT tại Hà Nội nhằm trả
lời các câu hỏi như: CS có phù hợp với nhu cầu thực tế của cuộc sống hay không
(đặc biệt là nhu cầu của NCT và của các cơ sở chăm sóc NCT)? Việc vận hành, thực
hiện các chủ trương CS/giải pháp trong thực tế như thế nào? Những kết quả nào đã
đạt được? Những vướng mắc, tồn tại là gì? Những bài học kinh nghiệm nào cần rút
ra nhằm cải thiện CS đã được ban hành nhằm phù hợp hơn với nhu cầu thực tế?
Nội dung của giải pháp
Tổ chức các hoạt động đánh giá độc lập: Cơ quan quản lý thực hiện CS phát
triển cơ sở chăm sóc NCT tại Hà Nội (sở LĐTBXH, UBND TP) tổ chức nhóm đánh
giá độc lập, gồm các thành viên hoạt động với tư cách chuyên gia đánh giá, có thể từ
cơ quan nhà nước hoặc ngoài nhà nước, song tất cả các thành viên sẽ thực hiện việc
đánh giá một cách độc lập, khách quan theo mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể của nhóm.
Lên kế hoạch và triển khai đánh giá CS: Cơ quan chủ quản lập kế hoạch và
161
thực hiện việc đánh giá (bao gồm cả kế hoạch ngân sách) theo lịch trình đánh giá cụ
thể. Trong kế hoạch đánh giá cần xác định rõ mục tiêu, phạm vi, chủ thể tham gia,
các đối tượng, nội dung, các phương pháp và tiêu chí đánh giá. Cần tổng kết việc
đánh giá, công bố công khai kết quả đánh giá ở phạm vi cần thiết (nội bộ, cấp thành
phố, cấp trung ương). Bên cạnh đó, rà soát lại các tiêu chí giám sát thực hiện CS (như
đã trình bày ở giải pháp trên), nhằm xem xét bổ sung các tiêu chí mang tính tổng thể
hơn về việc thực hiện và tác động của CS, có thể bao gồm các phương diện như:
- Tính hiệu lực của CS: Phản ánh mức độ đạt được các mục tiêu đề ra của các
CS về phát triển cơ sở chăm sóc NTC tại Hà Nội.
- Tính hiệu quả của CS: Phản ánh tương quan so sánh giữa kết quả do CS đưa
lại với chi phí đã bỏ ra.
- Tính công bằng của CS: Thể hiện ở sự phân bổ hợp lý các chi phí và lợi ích,
các quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể tham gia hoạch định, thực hiện CS và các
nhóm đối tượng liên quan.
- Tính chủ thể của CS: Thể hiện ở sự tác động của CS đến các đối tượng
hưởng lợi từ CS.
- Mức độ giải quyết vấn đề CS: Thể hiện ở việc đo lường được ảnh hưởng của
CS tới các khía cạnh kinh tế - xã hội có liên quan khác.
Phân tích, đánh giá và báo cáo kết quả: Dựa trên thông tin và dữ liệu thu thập
được, cần tiến hành phân tích và đánh giá quá trình thực hiện CS. Điều này bao gồm
việc so sánh kết quả đạt được so với mục tiêu đã đề ra, đánh giá hiệu quả, xác định
những vấn đề, khó khăn và vướng mắc trong quá trình thực hiện, và đưa ra các
khuyến nghị và cải thiện. Sau khi hoàn tất quá trình đánh giá, cần tổng hợp và báo
cáo kết quả cho các bên liên quan. Báo cáo này cần cung cấp thông tin chi tiết về quá
trình thực hiện CS, kết quả đạt được, các vấn đề và khó khăn đã xảy ra, cũng như
những bài học và đề xuất cải thiện. Báo cáo cần được trình bày một cách rõ ràng,
logic và minh bạch để đảm bảo sự hiểu rõ và sự tham gia. Công bố kết quả một cách
chính thức thông qua các hoạt động toạ đàm, hội thảo theo các cấp độ khác nhau; lấy
ý kiến đóng góp, hoàn thiện báo cáo và xây dựng kế hoạchuyến nghị CS gửi tới cơ
quan hoạch định cũng như các bên liên quan tham gia thực hiện CS phát triển cơ sở
chăm sóc NCT tại Hà Nội.
162
Điều kiện thực hiện giải pháp
- Việc đánh giá thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT trên địa bàn Hà
Nội được lên kế hoạch thực hiện, nằm trong kế hoạch đánh giá tổng thể các CS khác
của cơ quan chủ quản (UBND TP; Sở LĐTBXH).
- Nhóm đánh giá thực hiện CS được thành lập, đảm bảo các tiêu chí về năng lực
đánh giá, mức độ phù hợp và các tiêu chí khác theo quy định. Điều này đòi hỏi có
những chuyên gia, nhà nghiên cứu và nhân viên có khả năng phân tích dữ liệu, đánh giá
hiệu quả, và có kiến thức về lĩnh vực chăm sóc NCT để thực hiện các hoạt động này.
- Các tiêu chí đánh giá, công cụ đánh giá được xây dựng khoa học, dễ thực hiện
và đảm bảo độ tin cậy của thông tin thu thập.
- Có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bên liên quan trong suốt quá trình đánh giá
việc thực hiện CS. Các bên liên quan khác như các tổ chức, cơ quan đối tác, cộng
đồng và các chuyên gia cần hỗ trợ trong việc thu thập thông tin, phân tích dữ liệu và
đánh giá hiệu quả. Sự hỗ trợ này có thể bao gồm cung cấp nguồn tài nguyên, chuyên
môn và kỹ thuật, đồng thời tham gia vào quá trình đánh giá và sơ kết.
- Báo cáo đánh giá được xây dựng với các thông tin chi tiết, các khuyến nghị
163
được xây dựng phù hợp, dựa trên kết quả đánh giá thực hiện CS.
Tiểu kết chương 4
Chương 4 của luận án trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn để đề xuất các giải
pháp nâng cao hiệu quả thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT tại Hà Nội.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về đánh giá CS và kết quả phân tích thực trạng tại Hà
Nội ở Chương 3, tác giả nhận thấy một số hạn chế cần khắc phục để nâng cao hiệu
quả thực hiện CS. Cụ thể, một số nội dung CS còn bất cập, chưa phù hợp với thực
tiễn; việc truyền thông về CS còn hạn chế; chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các
ngành; chưa bố trí đủ nguồn lực cho thực hiện CS; công tác giám sát đánh giá chưa
được quan tâm đúng mức.
Trên cơ sở đó, chương 4 đề xuất 9 nhóm giải pháp chính gồm: (1) cải thiện nội
dung CS; (2) tạo điều kiện thực hiện CS; (3) tăng cường truyền thông; (4) nâng cao
phối hợp liên ngành; (5) tăng cường cam kết các bên; (6) bố trí nguồn lực; (7) xây
dựng liên minh thực hiện; (8) tăng cường giám sát; và (9) cải thiện đánh giá CS. Với
các nội dung cụ thể của các giải pháp bao gồm: rà soát và bổ sung hoàn thiện CS; cải
cách thủ tục, tạo môi trường pháp lý thuận lợi; tăng cường truyền thông đa chiều; xây
dựng cơ chế phối hợp rõ ràng; tạo sự tham gia và cam kết của các bên liên quan; lập
kế hoạch và bố trí nguồn lực; thiết lập cơ chế giám sát và đánh giá độc lập.
Điều kiện thực hiện các giải pháp bao gồm sự quan tâm của lãnh đạo, tính phù
hợp về năng lực nhân sự, sự phối hợp liên ngành, cam kết của các bên tham gia, và
bố trí đủ nguồn lực thực hiện. Kết quả mong đợi là nâng cao hiệu quả triển khai CS
phát triển cơ sở chăm sóc người cao tuổi, đáp ứng tốt hơn nhu cầu chăm sóc của
164
người cao tuổi tại Hà Nội.
KẾT LUẬN
Luận án đã phân tích, làm rõ các hướng tiếp cận nghiên cứu về thực hiện CS
chung hiện nay trên thế giới, cũng như những nghiên cứu về thực hiện CS liên quan
tới việc chăm sóc NCT ở nhiều quốc gia, bao gồm cả Việt Nam. Dựa trên các công
trình nghiên cứu được phân tích, luận án xác định cách triển khai nghiên cứu thực
hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT trên địa bàn Hà Nội là hướng mới, vừa phù
hợp với xu hướng nghiên cứu thực hiện CS hiện nay, vừa giúp kiểm định lại những
giả thuyết về yếu điểm của việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT dựa
trên phương pháp nghiên cứu định tính từ góc nhìn của các bên tham gia và giúp bổ
sung hàm lượng khoa học trong nghiên cứu về NCT và CS an sinh xã hội hiện nay.
Dựa vào cơ sở nghiên cứu lý luận về CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT, quy
trình thực hiện CS, mô hình 7C về các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện CS cùng
cơ sở thực tiễn nghiên cứu về xu hướng già hoá dân số, thay đổi về nhân khẩu học, di
dân đô thị, quy mô gia đình, vấn đề sức khoẻ của NCT và quan điểm cũng như hệ
thống CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT tại Việt Nam hiện nay, luận án xây dựng
Khung phân tích dựa vào cách tiếp cận quy trình CS để đánh giá hiệu lực CS và bảng
ma trận đánh giá các yếu tố ảnh hưởng tới từng bước trong quy trình 5 bước thực
hiện để làm công cụ khám phá ra các yếu tố rào cản, thúc đẩy nhằm đề xuất cải thiện
CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT trên địa bàn Hà Nội trong thời gian tới.
Nghiên cứu đánh giá thực trạng thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT
trên địa bàn Hà Nội cho thấy, kể từ sau khi NĐ68/2008 được ban hành, sự ra đời
nhanh chóng của các cơ sở chăm sóc NCT đã thể hiện những thành công nhất định
bao gồm việc phát triển mạng lưới các cơ sở TGXH tại Hà Nội cho NCT. Bên cạnh
đó, các CS XHH cũng giúp tạo điều kiện cho NCT được hưởng các DVCS phù hợp
và có chất lượng tại khu vực sinh sống. Hệ thống mạng lưới các cơ sở TGXH nói
chung và cơ sở chăm sóc NCT nói riêng được hưởng các CS về hỗ trợ đầu tư mặt
bằng, cơ sở vật chất, các loại thuế phí và nguồn nhân lực. Tất cả đã tạo ra một sự
phát triển mạnh mẽ về số lượng và quy mô các cơ sở chăm sóc NCT hiện nay trên địa
bàn Thành phố.
Tuy nhiên, đánh giá về quy trình thực hiện CS qua các yếu tố ảnh hưởng tới
quy thực hiện các CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT cho thấy kết quả quan trọng về
tính ảnh hưởng của yếu tố truyền thông và phối hợp có thể tạo ra sự thay đổi về hiệu
165
quả thực hiện CS này tại Hà Nội trong tương lai gần, trong khi yếu tố nội dung có
ảnh hưởng chiến lược đến việc phát triển cơ sở TGXH cho NCT. Cụ thể, sự thiếu
minh bạch về thông tin, khả năng giao tiếp hai chiều kém giữa các bên liên quan, đặc
biệt là giao tiếp liên ngành và giao tiếp giữa ngành chủ quản là LĐTBXH với các chủ
cơ sở TGXH ngoài công lập và các nhà đầu tư làm hạn chế khả năng tiếp cận, thụ
hưởng CS và cơ chế giao tiếp để trao đổi điều chỉnh, giám sát thực hiện CS. Đồng
thời, sự chậm trễ về thời hạn xử lý và không thuận tiện về các thủ tục hành chính do
thiếu sự liên kết phối hợp liên ngành nhằm tạo điều kiện đầu tư cho các cơ sở khiến
các nhà đầu tư không được thụ hưởng CS, từ đó giảm quan tâm đến việc cung cấp
DVCS cho NCT như kỳ vọng CS. Thêm vào đó, công tác truyền thông, tuyên truyền
CS tập trung chủ yếu vào NCT chứ không phải chủ cơ sở, các nhà đầu tư là đối tượng
trực tiếp thụ hưởng CS. Nhưng xét đến cùng, về mặt chiến lược, thay đổi nội dung
CS vẫn là yếu tố chính thúc đẩy thực hiện CS diễn ra như kỳ vọng. CS hiện nay chỉ
có hiệu quả tạo ra tính sẵn có của dịch vụ mà chưa đảm bảo khả năng chi trả được
của NCT và khả năng tiếp cận với NCT ở cả khu vực nông thôn. Để làm được điều
này, CS cần xác định đúng đối tượng đích được nhận ưu đãi của nhà nước với những
ràng buộc về cung cấp dịch vụ hoặc mức giá cho các chủ cơ sở TGXH ngoài công
lập; thúc đẩy sự tham gia của các tổ chức từ thiện, tình nguyện, doanh nghiệp xã hội,
phi chính phủ hơn so với tư nhân có lợi nhuận, thúc đẩy sự phát triển đa dạng các
dịch vụ chăm sóc NCT để có tính kết nối giữa cơ sở với gia đình, cộng đồng để cung
cấp DVCS dài hạn cho NCT đúng với kỳ vọng CS, giúp NCT đươcj già hoá tại chỗ.
Đồng thời, CS cần có với lộ trình cụ thể hơn để xã hội hoá thành công cho các cơ sở
TGXH công lập; và nghiên cứu các CS mới hỗ trợ NCT/ gia đình NCT giải quyết bài
toán kinh tế để nhận DVCS chuyên nghiệp tại các cơ sở như bảo hiểm CSDH, cơ chế
hợp tác công tư giữa Cơ sở TGXH công lập và nhà đầu tư tư nhân.
Dựa trên những phát hiện về thực trạng thực hiện CS phát triển cơ sở chăm
sóc NCT tại Hà Nội, các giải pháp cụ thể đã được đưa ra để nhằm phát huy sự thành
công của việc thực hiện CS cũng như cải thiện các yếu tố mang tính cản trở trong quá
trình thực hiện. Các giải pháp được đưa ra có xem xét tới những phương hướng, kế
hoạch và bối cảnh thực hiện các CS của Thành phố trong tương lai, cũng như được
sắp xếp theo các yếu tố ảnh hưởng được phân tích cụ thể trong kết quả nghiên cứu của
luận án. Các giải pháp này cũng có thể được xem xét ứng dụng tại các khu vực có những
166
đặc điểm tương đồng về mặt địa lý, kinh tế, chính trị và xã hội khác tại Việt Nam.
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
1. Trịnh Phương Thảo, Đánh giá nội dung chính sách phát triển cơ sở trợ giúp xã
hội chăm sóc người cao tuổi: Góc nhìn từ các bên liên quan, Tạp chí nguồn nhân
lực và ASXH, số 16, tháng 3/2023, trang 32-44.
2. Trịnh Phương Thảo, Phát triển nguồn nhân lực Công tác xã hội trong cơ sở trợ
giúp xã hội chăm sóc người cao tuổi, Kỷ yếu hội thảo quốc tế: Hoàn thiện khung
pháp lý phát triển CTXH tại Việt Nam NXB Đại học Quốc gia, trang 429-435,
ISBN 978-604-3960850-7.
3. Trinh Phuong Thao, Factors affecting policy implementation of developing
institutional care facilities for the elderly in Hanoi, State Management review,
2022, Volume 29 - number 6, page 72-77.
4. Trịnh Phương Thảo, Mô hình 5C và 7C: Áp dụng vào việc nghiên cứu đánh giá
thực hiện chính sách công tại Việt Nam, Tạp chí Kinh tế và dự báo, Số 24, tháng
8, 2022, trang 107-112, ISSN 1859-4972.
5. Trịnh Phương Thảo, Nguyễn Thu Hà, Hoàng Thị Hải Yến, Đặng Thị Huyền
Oanh, Đỗ Thị Bích Thảo (Đồng chủ biên); Công tác xã hội với người cao tuổi,
NXB Khoa học xã hội; 2022; 406 trang, ISBN 978-604-364-087-9.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1. Ban chấp hành Trung ương. Nghị quyết 21-NQQ/TW về công tác dân số trong tình hình mới. 2017. 2. Báo điện tự Bộ Xây dựng. Trung tâm chăm sóc sức khoẻ người cao tuổi Hoa sen có đang sử dụng đất sai mục đích? . 2021. 3. Bộ Lao động thương binh và xã hội. Báo cáo tóm tắt quy hoạch mạng lưới cơ sở trợ giúp xã hội thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.; 2022. 4. Bộ LĐTB&XH. Báo cáo tóm tắt quy hoạch mạng lưới cơ sở trợ giúp xã hội thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Hà Nội; 2022.
5. Bộ Y tế và nhóm đối tác y tế. Báo cáo chung tổng quan ngành Y tế năm 2016 - Hướng tới mục tiêu già hoá khoẻ mạnh ở Việt Nam. NXB Y học; 2018. 6. Chính phủ. Quy định điều kiện, thủ tục thành lập, tổ chức, hoạt động và giải thể cơ sở bảo trợ xã hội. Nghị định 68/2008/NĐ-CP2008. 7. Chính phủ. Nghị định 34/2016/NĐ-CP Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật. 2016. 8. Chính phủ. Nghị định 103/2017/NĐ-CP quy định về thành lập, tổ chức, hoạt động, giải thể và quản ký các cơ sở trợ giúp xã hội. 2017.
9. Cling J-P, Razafindrakoto M, Roubaud–IRD-DIAL F. Đánh giá tác động của các chính sách công: thách thức, phương pháp và kết quả. Những cách tiếp cận phương pháp luận mới ứng dụng trong phát triển (2) Khóa học Tam Đảo. 2008. 10. Cục thống kê thành phố Hà Nội. Niên giám thống kê Thành phố Hà Nội 2020. Hà
Nội2020. 11. Cục thống kê thành phố Hà Nội. Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quý II và 6 tháng đầu năm 2022 của thành phố Hà Nội. Hà Nội; 2022.
12. Đào Thúy Hằng, Hoàng Thu Hương. Cơ sở trợ giúp xã hội thuộc tổ chức tôn giáo dành cho người cao tuổi: Kinh nghiệm thế giới và thực tiễn Việt Nam. VNU Journal of Social Sciences and Humanities. 2021;7(2b):227-37. 13. Đinh Thị Minh Tuyết. Quản lý nhà nước đối với các cơ sở trợ giúp xã hội ở Việt Nam: Tạp chí Tổ chức nhà nước; 2021 [ 14. Dương Xuân Ngọc, Đỗ Đức Minh. Khoa học chính sách công: Chính trị Quốc
gia; 2008. 15. Giang TL TN, & TTT Vu. Báo cáo khảo sát khả năng đáp ứng của chính sách
2
bảo hiểm y tế với già hóa dân số ở Việt Nam. 2020. 16. Hồ Việt Hạnh KQA, Nguyễn Thị Hoài,. Về phương thức triển khai đề tài thực hiện chính sách công. Nhân lực khoa học xã hội. 2022;Số 11:tr. 3-9. 17. Đánh giá kết quả thực hiện quy hoạch mạng lưới cơ sở trợ giúp xã hội giai đoạn 2010-2020 và đề xuất quy hoạch thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn 2050, (2020). 18. Lê Chi Mai. Những vấn đề cơ bản về Chính sách và quy trình chính sách: NXB Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh; 2001. 184 p. 19. Lê Văn Hoà. Giám sát và đánh giá chính sách công, 295 tr: NXB Chính trị quốc gia - sự thật; 2016. 20. Ngô Ngọc Thắng. Nâng cao chất lượng hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam hiện nay - Vấn đề và giải pháp. Tạp chí Lý luận chính trị. 2017;10.
21. Đánh giá chính sách công: một số vấn đề lý luận [Internet]. 2020 [cited 10/7/2021]. 22. Nguyễn Hữu Hải. Chính sách công-Những vấn đề cơ bản: H.: Chính trị Quốc gia, 432 tr; 2014. 23. Nguyễn Hữu Hải Lê Văn Hoà. Đại cương về chính sách công: NXH Chính trị quốc gia; 2013.
24. Nguyễn Thị Hà. Sự tham gia của người dân vào quá trình xây dựng và thực thi pháp luật https://www.quanlynhanuoc.vn/2020/12/03/su-tham-gia-cua-nguoi- dan-vao-qua-trinh-xay-dung-va-thuc-thi-phap-luat/2020 [
25. Nguyễn Trọng Bình. Nâng cao hiệu quả thực thi chính sách công ở Việt Nam 2020 [Available from: http://lapphap.vn/Pages/TinTuc/210452/Nang-cao- hieu-qua-thuc-thi-chinh-sach-cong-o-Viet-Nam.html.
26. Phạm Anh Tùng, Nguyễn Thị Châu Anh, Nguyễn Thị Thu, Tạ Quang Huy. Một số vân đề sức khỏe thường gặp ở người cao tuổi thành phố Hà Nội năm 2019. Tạp chí Y học Dự phòng. 2020;30(7):140-6.
27. Quốc hội. Hiến pháp năm 1946. Hà Nội 1946. 28. Quốc hội. Hiến pháp năm 2013. Hà Nội 2013. 29. Quốc hội. Hiến pháp năm 1959. Hà Nội 1959. 30. Quốc hội. Hiến pháp năm 1992. Hà Nội 1992. 31. Quốc hội. Luật người cao tuổi. Hà Nội 2009. 32. Quốc hội. Khảo sát về thực hiện chính sách xã hội hóa, thu hút nguồn lực xã hội đầu tư, xây dựng cơ sở bảo trợ xã hội ngoài công lập chăm sóc người cao tuổi, người khuyết tật tại thành phố Hà Nội. In: hội ỦbVcvđx, editor. Hà Nội 2015. 33. Sở LĐTB&XH Hà Nội. Báo cáo tình hình thực hiện chính sách xã hội hóa, thu hút nguồn lực xã hội đầu tư, xây dựng cơ sở Bảo trợ xã hội ngoài công lập chăm sóc người cao tuổi và người khuyết tật trên địa bàn thành phố Hà Nội. Hà Nội2022.
34. Sở LĐTB&XH Hà Nội. Báo cáo kết quả thực hiện Chương trình hành động quốc gia về người cao tuổi giai đoạn 2012 - 2020. UBND Thành phố Hà Nội; 2020. 35. Sở LĐTB&XH Hà Nội. Danh sách các cơ sở bảo trợ xã hội Hà Nội Hà Nội2022 [Available from: https://solaodong.hanoi.gov.vn/khoi-bao-tro-xa-hoi. 36. Sở LĐTBXH Hà Nội. Danh sách các cơ sở bảo trợ xã hội Hà Nội Hà Nội2022 [Available from: https://solaodong.hanoi.gov.vn/khoi-bao-tro-xa-hoi.
37. Sở LĐTBXH Hà Nội. Báo cáo tình hình thực hiện chính sách xã hội hóa, thu hút nguồn lực xã hội đầu tư, xây dựng cơ sở Bảo trợ xã hội ngoài công lập chăm sóc người cao tuổi và người khuyết tật trên địa bàn thành phố Hà Nội. Hà Nội2022. 38. Sở LĐTBXH Hà Nội. Tổng hợp và rà soát số liệu Người cao tuổi năm 2022. 2022. 39. Thủ tướng chính phủ. Quyết định số 2156/QD-TTg phê duyệt chương trình hành động quốc gia về người cao tuổi. Hà Nội2021. 40. Thủ tướng chính phủ. Quyết định số 2156/QĐ-TTg phê duyệt chương trình hành động quốc gia về người cao tuổi giai đoạn 2021-2030. Hà Nội2021.
3
41. Thủ tướng chính phủ. Quyết định 1781/QĐ-TTg Phê duyệt Chương trình hành động quốc gia về người cao tuổi Việt Nam giai đoạn 2012-2020. Hà Nội2012.
42. Tổng cục Thống kê. Dự báo dân số Việt Nam giai đoạn 2019-2069. Hà Nội2020. 43. Tổng cục Thống kê. Tổng điều tra dân số và nhà ở 2019: Già hoá dân số và người cao tuổi ở Việt Nam. 2021.
44. Tổng cục Thống kê và Quỹ Dân số Liên hợp quốc. Người cao tuổi Việt Nam: Phân tích từ điều tra biến động dân số và kế hoạch hoá gia đình năm 2021. 2021. 45. Triệu Văn Cường. Quản lý quy trình chính sách thông qua nghiên cứu tình huống, 383 tr: NXB Lao động xã hội; 2016. 46. Trịnh Duy Luân. Chính sách chăm sóc người cao tuổi ở Việt Nam hiện nay. 2020.
47. UBND TP Hà Nội. Quyết định số 5188/QĐ-UBND về việc phê duyệt Đề án sắp xếp, tổ chức lại các cơ sở trợ giúp xã hội thuộc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Hà Nội. . Hà Nội2021. 48. UNFPA. Thị trường các sản phẩm, dịch vụ chăm sóc người cao tuổi tại Việt Nam. TP Hồ Chí Minh; 2021. 49. UNFPA Viet Nam, Nguyen Minh Duc. Già hóa dân số và người cao tuổi ở Việt Nam. Hà Nội: Tổng cục thống kê; 2021.
50. Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nôi. Quyết định số 2478/QĐ-UBND về việc ban hành Kế hoạch thực hiện Đề án đổi mới, phát triển hệ thống trợ giúp xã hội trên địa bàn thành phố Hà Nội giai đoạn 2018-2025 và tầm nhìn đến năm 2030. Hà Nội2018.
51. Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội. Kế hoạch số 93/KH-UBND ngày 19 tháng 4 năm 2018 về việc triển khai thực hiện “Đề án Chăm sóc sức khỏe người cao tuổi giai đoạn 2017-2025” trên địa bàn thành phố Hà Nội đến năm 2025. Hà Nội2018.
52. Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội. Quyết định số 2330/QĐ-UBND ngày 22 tháng 5 năm 2015 về việc phê duyệt quy hoạch phát triển mạng lưới cơ sở xã hội trên địa bàn thành phố Hà Nội đến năm 2020, định hướng đến năm 2030. Hà Nội2015.
53. Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội. Kế hoạch số 30/KH-UBND ngày 26 tháng 01 năm 2022 về việc thực hiện Chương trình hành động quốc gia về người cao tuổi đến năm 2030. Hà Nội2022.
54. Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội. Báo cáo tổng hợp Quy hoạch phát triển mạng lưới các cơ sở xã hội trên địa bàn thành phố Hà Nội đến năm 2020, định hướng đến năm 2030. Hà Nội; 2015.
4
55. Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội. Quyết định số 11/2015/QĐ-UBND về việc ban hành quy định về chính sách khuyến khích xã hội hóa trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể dục thể thao, môi trường, giám định tư pháp trên địa bàn thành phố Hà Nội. Hà Nội2015. 56. Viện Chiến lược và Chính sách Y tế Tìm hiểu nhận thức, thái độ và nhu cầu sống trong các Trung tâm dưỡng lão của người cao tuổi Việt Nam. 2012. 57. Viện Kinh tế và Quản lý Hà Nội. Nghiên cứu đánh giá tình hình thực hiện các chính sách, pháp luật về người cao tuổi tại Hà Nội. Hà Nội; 2019.
Tài liệu tiếng Anh
58. Chan JP. From elderly care institutions to long-term care policy: Evolution of nursing homes in the United States and China [Ph.D.]. Ann Arbor: American University; 2002. 59. Stewart J, Hedge DM, Lester JP. Public policy : an evolutionary approach. Boston: Wadsworth Thomson Learning; 2008. 60. Lehning AJ, Austin MJ. Long-term care in the United States: policy themes and promising practices. J Gerontol Soc Work. 2010;53(1):43-63.
61. Ambali A, Eissa G, Bakar A. Servant Leadership's Values and Staff's Commitment: Policy Implementation Focus. American Journal of Scientific Research. 2011:18-40.
62. Appleby PH. Administration in big business. JSTOR; 1945. 63. Arrow KJ. Information and economic behavior. 1973. 64. Bahl RW, Oates WE. Aspects of Fiscal Capacity: An International Comparison. Public Finance Quarterly. 1978.
65. Belachew A, Ali K, Tesfu M, Negassa Gissila M, Geletu N, Temesgen S, et al. The State of Health and Ageing in Ethiopia: A Survey of Health Needs and Challenges of Service Provisions. Ethiopia: HelpAge International; 2013. 66. Birkland TA. An introduction to the policy process: Theories, concepts, and models of public policy making: Routledge; 2015. 67. Birkland TA. An introduction to the policy process: Theories, concepts, and models of public policy making: Routledge; 2019.
68. Brynard & de Coning. Policy Implementation. In: Cloete, F., Wissink, H. & de Coning, C. Improving Public Policy: from theory to practice, pp.180–213. 2006. 69. Brynard P. Policy implementation: Lessons for service delivery. Journal of Public Administration. 2005;40(si-3):649-64. 70. Brynard P, Cloete F, De Coning C. Improving public policy: Theory, practice and results. 3rd edition: Van Schaik Publishers; 2011. 71. Buchanan JM. Cost and choice: An inquiry in economic theory: University of Chicago Press; 1978.
72. Burger RW. The integrated metropolitan environmental policy of the city of Cape Town: An implementation evaluation: Stellenbosch: Stellenbosch University; 2015.
73. Cloete De Coning WaR. Policy, Implementation and M&E Process2018. 74. Cloete F, de Coning, C., Wissink, H. & Rabie, B. Improving Public policy: Good governance: Van Schaik Publishers; 2018. 75. Cochran CE, Mayer LC, Carr T, Cayer NJ, McKenzie M. American public policy: An introduction: Cengage Learning; 2015. 76. Cochran CL, Malone EF. Perspectives and Choices. Boulder: Lynne Rienner; 2010.
5
77. Commission E, Directorate-General for Employment SA, Inclusion. Long-term care report : trends, challenges and opportunities in an ageing society. Volume I: Publications Office; 2021.
78. CONRAD H, LÜTZELER R. German and Japanese social policy in comparative perspective: Anoverview. Aging and Social Policy: A German-Japanese Comparison. 2002;26:11. 79. Cook IG, Halsall J. Aging in comparative perspective: Processes and policies: Springer Science & Business Media; 2011. 80. Curry N, Schlepper L, Hemmings N. What can England learn from the long-term care system in Germany. London: nuffieldtrust. 2019. 81. Đặng Thị Thanh Phúc, Phuong N, Hai M, Ho T, Nguyen Vu Quoc H, Eun-hi K. Current status and future direction of elder care in Vietnam2018.
82. Datnow A, Park V. Conceptualizing policy implementation: Large-scale reform in an era of complexity. Handbook of education policy research: Routledge; 2012. p. 364-77.
83. de Wee G. Comparative Policy Analysis and the Science of Conceptual Systems: A Candidate Pathway to a Common Variable. Foundations of Science. 2021:1-18. 84. Dewen Wang. Policy Framework, Strategy, and Institutional Arrangements. In: Feng EGa, editor. Options for Aged Care in China World Bank Group; 2018.
85. Dye TR. Understanding public policy [by] Thomas R. Dye1992. 86. Dyer S, van den Berg M, Brown A, Johnstone G, Laver K, Lowthian J, et al. Review of innovative models of aged care: Royal Commission into Aged Care Quality and Safety; 2020.
87. Feng Z, Zhan HJ, Feng X, Liu C, Sun M, Mor V. An Industry in the Making: The Emergence of Institutional Elder Care in Urban China. Journal of the American Geriatrics Society. 2011;59(4):738-44.
88. Giang Thành Long, Bùi Đại Thu, Trịnh Thái Quang. Long-term care development in Vietnam. Shaping Long-Term Care in Emerging Asia: Routledge; 2022. p. 73-103.
89. Glendinning C. Long term care reform in England: A long and unfinished story. Reforms in long-term care policies in Europe: Investigating institutional change and social impacts: Springer; 2012. p. 179-200. 90. Glinskaya E, Feng Z. Options for Aged Care in China: Building an Efficient and Sustainable Aged Care System2018. 91. Goggin ML, Bowman AOM, Lester JP. Implementation theory and practice:
Toward a third generation: Scott Foresman & Company; 1990. 92. Guzman J. Ageing in the Twenty-First Century: A Celebration and A
Challenge2012. 93. Harris-Kojetin LD, Sengupta M, Park-Lee E, Valverde R. Long-term care services in the United States: 2013 overview. 2013. 94. Hieda T. Political Institutions and Elderly Care Policy: Comparative politics of long-term care in advanced democracies: Springer; 2012.
6
95. Hinton L, Chen H. Introduction to the Special Section: “Eldercare in Asia: a Call for Policy Development Beyond Traditional Family Care”. Ageing International. 2016;41(4):331-4.
96. Honig M. Complexity and policy implementation: Challenges and opportunities for the field in MI Honig (ed.) New directions in education policy implementation: Confronting complexity. New York: SUNY Press; 2006. 97. Honig M. Complexity and policy implementation. New directions in education policy implementation: Confronting complexity. 2006;63:1-25.
98. Hotelling H. The general welfare in relation to problems of taxation and of railway and utility rates. Econometrica: Journal of the Econometric Society. 1938:242-69.
99. Hudson B, Hunter D, Peckham S. Policy failure and the policy-implementation gap: can policy support programs help? Policy Design and Practice. 2019;2(1):1-14.
100. Hupe P, Saetren H. Comparative implementation research: Directions and dualities. Taylor & Francis; 2015.
101. Hupe PL, Hill MJ. ‘And the rest is implementation.’Comparing approaches to what happens in policy processes beyond Great Expectations. Public Policy and Administration. 2016;31(2):103-21. 102. Ingram H, Smith SR. Public policy for democracy: Brookings Institution Press; 2011. 103. Jayasekara RS, Schultz T. Health status, trends, and issues in Sri Lanka. Nursing & health sciences. 2007;9(3):228-33.
104. Kalideen L, Van Wyk J, Govender P. Demographic and clinical profiles of residents in long-term care facilities in South Africa A cross-sectional survey (2022). African Journal of Primary Health Care & Family Medicine. 2022;14:3131. 105. Khan A. POLICY IMPLEMENTATION: SOME ASPECTS AND ISSUES. 2016. 106. Klassen TR, Higo M, Dhirathiti NS, Devasahayam TW. Ageing in Asia-Pacific: Interdisciplinary and Comparative Perspectives: Routledge; 2018. 107. Knill C, Tosun J. Governance Institutions and Policy Implementation in the European Union. 2012. p. 309-33. 108. Kress G, Koehler G, Springer JF. Policy drift: An evaluation of the California business enterprise program. Policy Studies Journal. 1980;8(7):1101.
109. Kuzuya M, Masuda Y, Hirakawa Y, Iwata M, Enoki H, Hasegawa J, et al. Day Care Service Use Is Associated with Lower Mortality in Community- Dwelling Frail Older People. Journal of the American Geriatrics Society. 2006;54(9):1364-71. 110. Lindblom CE. The science of "muddling through". Public administration review. 1959:79-88.
7
111. Mah JC, Stevens SJ, Keefe JM, Rockwood K, Andrew MK. Social factors influencing utilization of home care in community-dwelling older adults: a scoping review. BMC Geriatrics. 2021;21(1):145. 112. Makinde T. Problems of Policy Implementation in Developing Nations: The Nigerian Experience. Journal of Social Sciences. 2005;11(1):63-9. 113. Marume S, Mutongi C, Madziyire NC, editors. An Analysis of Public Policy Implementation2016.
theory and systemic change in education 114. Mason M. Complexity governance2016.
115. Molobela T, editor The assessment of in service delivery Improving
the 7C protocols for policy Implementation in South African municipalities2019: International Conference on Public Administration and Development …. 116. Moynihan DP, Pandey SK. The role of organizations in fostering public service motivation. Public administration review. 2007;67(1):40-53.
117. Munzhedzi PH. Evaluating the efficacy of municipal policy implementation in South Africa: challenges and prospects. African Journal of Governance and Development. 2020;9(1):89-105.
118. Najam A. Learning from the literature on policy implementation: a synthesis perspective. 1995. 119. OECD. Strengthening Vietnam’s capacity of implementation https://www.oecd-
ilibrary.org//sites/f0f328de- en/index.html?itemId=/content/component/f0f328de-en#2019 [
120. OECD. Policy Coherence for Sustainable Development 20182018. 121. Okumus F. A framework to implement strategies in organizations. Management Decision. 2003;41(9):871-82.
122. Peters BG. American public policy: Promise and performance: Cq Press; 2018. 123. Phillips D, Chan A. National Policies on Ageing and Long-term Care in the Asia–Pacific: Issues and Challenges: National Policies in the Asia-Pacific. 2002. p. 1-22.
124. Pressman JL, Wildavsky A. Implementation: How great expectations in Washington are dashed in Oakland; Or, why it's amazing that federal programs work at all, this being a saga of the Economic Development Administration as told by two sympathetic observers who seek to build morals on a foundation: Univ of California Press; 1973.
125. Rhee JC, Done N, Anderson GF. Considering long-term care insurance for middle-income countries: comparing South Korea with Japan and Germany. Health policy. 2015;119(10):1319-29.
126. Roll S, Moulton S, Sandfort J. A comparative analysis of two streams of research. Journal of Public and Nonprofit Affairs.
implementation 2017;3(1):3-22.
127. Saetren H. Implementing the third generation research paradigm in policy implementation research: An empirical assessment. Public Policy and Administration. 2014;29:84-105.
8
128. Saetren H. Facts and Myths About Research on Public Policy Implementation: Out-of-Fashion, Allegedly Dead, But Still Very Much Alive and Relevant. Policy Studies Journal. 2005;33:559-82. 129. Schultz DA, Beverly JA. Encyclopedia of public administration and public policy: Infobase Publishing; 2014. 130. Sen A. Poverty: an ordinal approach to measurement. Econometrica: Journal of the Econometric Society. 1976:219-31. 131. Simon CA. Public policy: Preferences and outcomes: Routledge; 2017.
132. Simon HA. A behavioral model of rational choice. The quarterly journal of economics. 1955:99-118.
133. Skhosana JS. Applying the 7-C Protocol to assess the implementation of immigration policies in the Department of Home Affairs: A case study: Stellenbosch: Stellenbosch University; 2019.
134. Smith KB, Larimer CW. The public policy theory primer: Routledge; 2018. 135. Social Protection Committee and the European Commission. Long term care report: Trends, challenges and opportunities in an ageging societies. 2021. 136. Tatiana-Camelia DC. The comparative method for policy studies: the thorny aspects. HOLISTICA–Journal of Business and Public Administration. 2019;10(1):56-67.
137. The Global Alliance for the Rights of Older People. In our own words What older people say about discrimination and human rights in older age. 2015. 138. The World Bank; JICA. Viet Nam: Adapting to an Aging Society. World Bank; 2021. 139. Thrush A, Hyder A. The neglected burden of caregiving in low-and middle- income countries. Disability and health journal. 2014;7(3):262-72. 140. Uchimura-Shiroshi H, Terada-Hagiwara A. Aging and Implications for Elderly Care Services in the People’s Republic of China. 2018. 141. United Nations DoEaSA, Population Division. World Population Aging 2019. 2020.
142. Uusiku VJ, editor Implementation evaluation of the universal primary education policy at Khomasdal Primary School and Gammams Primary School in the Khomas Region, Namibia2019.
143. Vân PH, Tuấn KA, Anh TTM. Older persons and Long - term care in Vietnam. In: Komazawa OaYS, editor. Coping with Rapid Population Ageing in Asia Jakarta: ERIA, pp.45-562021.
144. Viennet R, Pont B. Education Policy Implementation: A Literature Review and Proposed Framework. OECD Education Working Papers, No. 162. OECD Publishing. 2017. 145. VNCA & UNFPA. Towards a comprehensive national policy for an ageing in Vietnam. Hanoi: VNCA & UNFPA; 2019. 146. Vũ Ngọc Bình. Current laws, policies and practices for older persons in Viet
Nam. Ageing in Asia-Pacific: Routledge; 2018. p. 107-30.
147. Walker WM, Wyse M. Long-Term Care for Older People in Viet Nam: The Current Scenario, and Next Steps Toward a Healthy, Aging Population. 2022. 148. Wildavsky A. Rescuing policy analysis from PPBS. Public Administration Review. 1969;29(2):189-202. 149. Winter SC. Implementation perspectives: Status and reconsideration. The SAGE handbook of public administration. 2012:265-78. 150. World Bank. Live Long and Prosper: Aging in East Asia and Pacific. Washington, DC: World Bank.; 2016.
9
151. Yong V, Saito Y. National long-term care insurance policy in Japan a decade after implementation: some lessons for aging countries. Ageing International. 2012;37:271-84.
10
152. Zapędowska-Kling K. Eldercare services in Sweden and the United States-- comparative perspective and examples of best practice. Poznan University of Economics Review. 2014;14(2).
PHỤ LỤC
Phụ lục 1.
HƯỚNG DẪN PHỎNG VẤN SÂU
ĐỀ TÀI: CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CƠ SỞ CHĂM SÓC
NGƯỜI CAO TUỔI TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI
(Dành cho Cán bộ quản lý, thực hiện CS các cấp)
1. GIỚI THIỆU MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU VÀ NGUYÊN TẮC BẢO
MẬT
(cid:127) Giới thiệu mục đích của việc phỏng vấn: Nhằm thu thập thông tin đánh giá việc
thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc cho NCT trên địa bàn thành phố Hà Nội.
(cid:127) Thông báo rõ các thông tin về bảo mật (thông tin chia sẻ sẽ được đảm bảo bảo
mật và ẩn danh).
(cid:127) Thảo luận nội dung của Phiếu chấp thuận cung cấp thông tin và lấy chữ ký
người được PV
(cid:127) Đảm bảo người được PV sẵn sàng tham gia cung cấp thông tin và môi trường
thực hiện phỏng vấn thuận lợi nhất có thể.
2. GIỚI THIỆU TIẾN TRÌNH PHỎNG VẤN
(cid:127) Thông báo về thời gian của cuộc phỏng vấn/trao đổi sẽ diễn ra
(cid:127) Thông báo và xin phép việc ghi âm/ghi chép trong quá trình phỏng vấn
(cid:127) Trong quá trình phỏng vấn, người được PV có thể đặt câu hỏi để làm rõ thông tin
(cid:127) Người được PV có thể lựa chọn bỏ qua các câu hỏi nếu cảm thấy không thoải
mái khi trả lời
(cid:127) Người được PV có thể yêu cầu dừng cuộc phỏng vấn trao đổi và rời đi nếu như
cảm thấy có bất kỳ mối nguy hại nguy cơ nào có thể xảy ra hoặc cảm thấy không
thoải mái
3. THU THẬP CÁC THÔNG TIN CHUNG
(cid:127) Giới tính:
(cid:127) Năm sinh:
(cid:127) Trình độ học vấn:
(cid:127) Chuyên môn:
(cid:127) Nơi làm việc và thời gian công tác:
11
4. CÂU HỎI PHỎNG VẤN
CƠ SỞ CHĂM SÓC NGƯỜI CAO TUÔI
1. Theo ông/bà, hiện nay có những cơ sở cung cấp DVCS nào cho NCT đang
được triển khai? Cả cơ sở trợ giúp công lập, ngoài công lập.
2. Theo ông/bà, xu hướng trong tương lai có những cơ sở cung cấp dịch vụ nào
sẽ phát triển nhằm đáp ứng các nhu cầu của người cao tuổi?
CS PHÁT TRIỂN CƠ SỞ CHĂM SÓC NGƯỜI CAO TUỔI
3. Theo ông/bà được biết, thì hiện nay có những văn bản CS nào liên quan tới
việc phát triển cơ sở chăm sóc người cao tuổi?
4. Ông/bà có biết tới CS cụ thể nào về việc phát triển các cơ sở chăm sóc người
cao tuổi dành riêng cho khu vực thành phố Hà Nội không? Nếu có thì đó là
những CS gì?
VỀ QUY TRÌNH TRIỂN KHAI THỰC HIỆN CÁC CS
5. Xin ông/ bà cho biết quy trình triển khai thực hiện CS và các văn bản có liên
quan đến việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc người cao tuổi?
6. Ông/bà đánh giá như thế nào về việc triển khai thực hiện các CS về phát triển
cơ sở chăm sóc NCT hiện nay trên cả nước, và đặc biệt ở khu vực TP Hà
Nội?
7. Việc thực hiện hiệu quả, hoặc không hiệu quả các CS này thì vì những lý
do chính nào?
ĐÁNH GIÁ VIỆC THỰC HIỆN CS THEO MÔ HÌNH 7C
(Giải thích ngắn gọn về các nội dung đánh giá theo mô hình 7C)
8. Theo ông/bà, các yếu tố liên quan tới nội dung CS có ảnh hưởng như thế
nào tới việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT?
9. Theo ông/bà, các yếu tố liên quan tới bối cảnh luật pháp-kinh tế-xã hội-
văn hoá có ảnh hưởng như thế nào tới việc thực hiện CS phát triển cơ sở
chăm sóc NCT?
10. Theo ông/bà, các yếu tố liên quan tới sự cam kết của các bên tham gia có
ảnh hưởng như thế nào tới việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc
12
NCT?
11. Theo ông/bà, các yếu tố liên quan tới năng lực của người/hệ thống thực
hiện CS có ảnh hưởng như thế nào tới việc thực hiện CS phát triển cơ sở
chăm sóc NCT?
12. Theo ông/bà, các yếu tố liên quan tới sự tham gia của các bên liên quan có
ảnh hưởng như thế nào tới việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc
NCT?
13. Theo ông/bà, các yếu tố liên quan tới truyền thông có ảnh hưởng như thế
nào tới việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT?
14. Theo ông/bà, các yếu tố liên quan tới sự phối hợp nội bộ và các bên liên
quan/liên ngành có ảnh hưởng như thế nào tới việc thực hiện CS phát triển
cơ sở chăm sóc NCT?
KHUYẾN NGHỊ CẢI THIỆN VIỆC THỰC HIỆN CS
15. Ông/bà có những gợi ý gì cho việc triển khai thành công các CS phát triển cơ
sở chăm sóc người cao tuổi trên địa bàn thành phố Hà Nội? Theo các khía
cạnh của mô hình 7C nói trên?
16. Ngoài các yếu tố trên, ông/bà cho rằng còn yếu tố nào thúc đẩy hiệu quả
của việc thực hiện các CS phát triển cơ sở chăm sóc người cao tuổi trên địa
bàn thành phố Hà Nội?
17. Theo ông/bà, đâu là yếu tố cản trở việc thực hiện hiệu quả các CS phát triển
cơ sở chăm sóc người cao tuổi trên địa bàn thành phố Hà Nội.
18. Ông/bà có những gợi ý gì khác cho việc triển khai thành công các CS phát
triển cơ sở chăm sóc người cao tuổi trên địa bàn thành phố Hà Nội?
13
Xin cảm ơn!
Phụ lục 2.
HƯỚNG DẪN PHỎNG VẤN SÂU
ĐỀ TÀI: CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CƠ SỞ CHĂM SÓC
NGƯỜI CAO TUỔI TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI
(Dành cho Cán bộ quản lý, chủ cơ sở chăm sóc NCT công lập và ngoài công lập)
1. GIỚI THIỆU MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU VÀ NGUYÊN TẮC BẢO
MẬT
(cid:127) Giới thiệu mục đích của việc phỏng vấn: Nhằm thu thập thông tin đánh giá việc
thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc cho NCT trên địa bàn thành phố Hà Nội.
(cid:127) Thông báo rõ các thông tin về bảo mật (thông tin chia sẻ sẽ được đảm bảo bảo
mật và ẩn danh).
(cid:127) Thảo luận nội dung của Phiếu chấp thuận cung cấp thông tin và lấy chữ ký
người được PV
(cid:127) Đảm bảo người được PV sẵn sàng tham gia cung cấp thông tin và môi trường
thực hiện phỏng vấn thuận lợi nhất có thể.
2. GIỚI THIỆU TIẾN TRÌNH PHỎNG VẤN
(cid:127) Thông báo về thời gian của cuộc phỏng vấn/trao đổi sẽ diễn ra
(cid:127) Thông báo và xin phép việc ghi âm/ghi chép trong quá trình phỏng vấn
(cid:127) Trong quá trình phỏng vấn, người được PV có thể đặt câu hỏi để làm rõ thông tin
(cid:127) Người được PV có thể lựa chọn bỏ qua các câu hỏi nếu cảm thấy không thoải
mái khi trả lời
(cid:127) Người được PV có thể yêu cầu dừng cuộc phỏng vấn trao đổi và rời đi nếu như
cảm thấy có bất kỳ mối nguy hại nguy cơ nào có thể xảy ra hoặc cảm thấy không
thoải mái
3. THU THẬP CÁC THÔNG TIN CHUNG
(cid:127) Giới tính:
(cid:127) Năm sinh:
(cid:127) Trình độ học vấn:
(cid:127) Chuyên môn:
(cid:127) Nơi làm việc và thời gian công tác:
14
4. CÂU HỎI PHỎNG VẤN
CƠ SỞ CHĂM SÓC NGƯỜI CAO TUÔI
1. Theo ông/bà, hiện nay có những cơ sở cung cấp DVCS nào cho NCT đang
được triển khai? Cả cơ sở trợ giúp công lập, ngoài công lập.
2. Theo ông/bà, xu hướng trong tương lai có những cơ sở cung cấp dịch vụ nào
sẽ phát triển nhằm đáp ứng các nhu cầu của người cao tuổi?
CS PHÁT TRIỂN CƠ SỞ CHĂM SÓC NGƯỜI CAO TUỔI
3. Xin ông/bà cho biết hiện nay có những văn bản CS nào liên quan tới việc
phát triển cơ sở chăm sóc người cao tuổi?
4. Ông/bà có biết tới CS cụ thể nào về việc phát triển các cơ sở chăm sóc người
cao tuổi dành riêng cho khu vực thành phố Hà Nội không? Nếu có thì đó là
những CS gì?
VỀ QUY TRÌNH TRIỂN KHAI THỰC HIỆN CÁC CS
5. Ông bà đã tham gia như thế nào trong quy trình triển khai thực hiện CS và
phát triển cơ sở chăm sóc NCT của các cơ quan quản lý và thực hiện CS?
6. Ông/bà đánh giá như thế nào về quy trình triển khai thực hiện các CS về phát
triển cơ sở chăm sóc NCT hiện nay trên cả nước, và đặc biệt ở khu vực TP
Hà Nội?
7. Việc thực hiện hiệu quả, hoặc không hiệu quả các CS này thì vì những lý do
chính nào?
ĐÁNH GIÁ VIỆC THỰC HIỆN CS THEO MÔ HÌNH 7C
(Giải thích ngắn gọn về các nội dung đánh giá theo mô hình 7C)
8. Theo ông/bà, các yếu tố liên quan tới nội dung CS có ảnh hưởng như thế nào
tới việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT?
9. Theo ông/bà, các yếu tố liên quan tới bối cảnh luật pháp-kinh tế-xã hội-văn
hoá có ảnh hưởng như thế nào tới việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm
sóc NCT?
10. Theo ông/bà, các yếu tố liên quan tới sự cam kết của các bên tham gia có ảnh
hưởng như thế nào tới việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT?
15
11. Theo ông/bà, các yếu tố liên quan tới năng lực của người/hệ thống thực hiện
CS có ảnh hưởng như thế nào tới việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc
NCT?
12. Theo ông/bà, các yếu tố liên quan tới sự tham gia của các bên liên quan có
ảnh hưởng như thế nào tới việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc
NCT?
13. Theo ông/bà, các yếu tố liên quan tới truyền thông có ảnh hưởng như thế nào
tới việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT?
14. Theo ông/bà, các yếu tố liên quan tớ sự phối hợp nội bộ và các bên liên
quan/liên ngành có ảnh hưởng như thế nào tới việc thực hiện CS phát triển
cơ sở chăm sóc NCT?
KHUYẾN NGHỊ CẢI THIỆN VIỆC THỰC HIỆN CS
15. Ông/bà có những gợi ý gì cho việc triển khai thành công các CS phát triển cơ
sở chăm sóc người cao tuổi trên địa bàn thành phố Hà Nội? Theo các khía
cạnh của mô hình 7C nói trên?
16. Ngoài các yếu tố trên, ông/bà cho rằng còn yếu tố nào thúc đẩy hiệu quả của
việc thực hiện các CS phát triển cơ sở chăm sóc người cao tuổi trên địa bàn
thành phố Hà Nội?
17. Theo ông/bà, đâu là yếu tố cản trở việc thực hiện hiệu quả các CS phát triển
cơ sở chăm sóc người cao tuổi trên địa bàn thành phố Hà Nội.
18. Ông/bà có những gợi ý gì khác cho việc triển khai thành công các CS phát
triển cơ sở chăm sóc người cao tuổi trên địa bàn thành phố Hà Nội?
16
Xin cảm ơn!
Phụ lục 3.
HƯỚNG DẪN PHỎNG VẤN SÂU
ĐỀ TÀI: CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CƠ SỞ CHĂM SÓC
NGƯỜI CAO TUỔI TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI
(Dành cho các chuyên gia nghiên cứu CS và các nhà đầu tư có nhu cầu hoặc đang
hoàn thiện thủ tục dự án xin thành lập cơ sở chăm sóc NCT)
1. GIỚI THIỆU MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU VÀ NGUYÊN TẮC BẢO MẬT
(cid:127) Giới thiệu mục đích của việc phỏng vấn: Nhằm thu thập thông tin đánh giá việc
thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc cho NCT trên địa bàn thành phố Hà Nội.
(cid:127) Thông báo rõ các thông tin về bảo mật (thông tin chia sẻ sẽ được đảm bảo bảo
mật và ẩn danh).
(cid:127) Thảo luận nội dung của Phiếu chấp thuận cung cấp thông tin và lấy chữ ký
người được PV
(cid:127) Đảm bảo người được PV sẵn sàng tham gia cung cấp thông tin và môi trường
thực hiện phỏng vấn thuận lợi nhất có thể.
2. GIỚI THIỆU TIẾN TRÌNH PHỎNG VẤN
(cid:127) Thông báo về thời gian của cuộc phỏng vấn/trao đổi sẽ diễn ra
(cid:127) Thông báo và xin phép việc ghi âm/ghi chép trong quá trình phỏng vấn
(cid:127) Trong quá trình phỏng vấn, người được PV có thể đặt câu hỏi để làm rõ thông tin
(cid:127) Người được PV có thể lựa chọn bỏ qua các câu hỏi nếu cảm thấy không thoải
mái khi trả lời
(cid:127) Người được PV có thể yêu cầu dừng cuộc phỏng vấn trao đổi và rời đi nếu như
cảm thấy có bất kỳ mối nguy hại nguy cơ nào có thể xảy ra hoặc cảm thấy không
thoải mái
3. THU THẬP CÁC THÔNG TIN CHUNG
(cid:127) Giới tính: Năm sinh:
(cid:127) Trình độ học vấn:
(cid:127) Chuyên môn:
17
(cid:127) Nơi làm việc và thời gian công tác:
5. CÂU HỎI PHỎNG VẤN
CƠ SỞ CHĂM SÓC NGƯỜI CAO TUÔI
1. Theo ông/bà, hiện nay có những cơ sở cung cấp DVCS nào cho NCT đang
được triển khai? Cả cơ sở trợ giúp công lập, ngoài công lập.
2. Theo ông/bà, xu hướng trong tương lai có những cơ sở cung cấp dịch vụ nào
sẽ phát triển nhằm đáp ứng các nhu cầu của người cao tuổi?
CS PHÁT TRIỂN CƠ SỞ CHĂM SÓC NGƯỜI CAO TUỔI
3. Xin ông/bà cho biết hiện nay có những văn bản CS nào liên quan tới việc
phát triển cơ sở chăm sóc người cao tuổi?
4. Ông/bà có biết tới CS cụ thể nào về việc phát triển các cơ sở chăm sóc người
cao tuổi dành riêng cho khu vực thành phố Hà Nội không? Nếu có thì đó là
những CS gì?
5. Theo ông/ bà những CS thế nào sẽ giúp khuyến khích và phát triển các cơ sở
chăm sóc NCT hiện nay?
VỀ QUY TRÌNH TRIỂN KHAI THỰC HIỆN CÁC CS
1. Ông bà đã tham gia như thế nào trong quy trình triển khai thực hiện CS và
phát triển cơ sở chăm sóc NCT của các cơ quan quản lý và thực hiện CS?
2. Ông/bà quan sát và đánh giá như thế nào về quy trình triển khai thực hiện các
CS về phát triển cơ sở chăm sóc NCT hiện nay trên cả nước, và đặc biệt ở
khu vực TP Hà Nội?
3. Xin nêu cụ thể những thuận lợi và cản trở trong quá trình ông bà quan sát
hoặc tham gia vào quy trình triển khai thực hiện CS?
4. Việc thực hiện hiệu quả, hoặc không hiệu quả các CS này thì vì những lý do
chính nào?
ĐÁNH GIÁ VIỆC THỰC HIỆN CS THEO MÔ HÌNH 7C
(Giải thích ngắn gọn về các nội dung đánh giá theo mô hình 7C)
5. Theo ông/bà, các yếu tố liên quan tới nội dung CS có ảnh hưởng như thế nào
tới việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT?
6. Theo ông/bà, các yếu tố liên quan tới bối cảnh luật pháp-kinh tế-xã hội-văn
18
hoá có ảnh hưởng như thế nào tới việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm
sóc NCT?
7. Theo ông/bà, các yếu tố liên quan tới sự cam kết của các bên tham gia có ảnh
hưởng như thế nào tới việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT?
8. Theo ông/bà, các yếu tố liên quan tới năng lực của người/hệ thống thực hiện
CS có ảnh hưởng như thế nào tới việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc
NCT?
9. Theo ông/bà, các yếu tố liên quan tới sự tham gia của các bên liên quan có
ảnh hưởng như thế nào tới việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc
NCT?
10. Theo ông/bà, các yếu tố liên quan tới truyền thông có ảnh hưởng như thế nào
tới việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT?
11. Theo ông/bà, các yếu tố liên quan tớ sự phối hợp nội bộ và các bên liên
quan/liên ngành có ảnh hưởng như thế nào tới việc thực hiện CS phát triển
cơ sở chăm sóc NCT?
KHUYẾN NGHỊ CẢI THIỆN VIỆC THỰC HIỆN CS
12. Ông/bà có những gợi ý gì cho việc triển khai thành công các CS phát triển cơ
sở chăm sóc người cao tuổi trên địa bàn thành phố Hà Nội? Theo các khía
cạnh của mô hình 7C nói trên?
13. Ngoài các yếu tố trên, ông/bà cho rằng còn yếu tố nào thúc đẩy hiệu quả của
việc thực hiện các CS phát triển cơ sở chăm sóc người cao tuổi trên địa bàn
thành phố Hà Nội?
14. Theo ông/bà, đâu là yếu tố cản trở việc thực hiện hiệu quả các CS phát triển
cơ sở chăm sóc người cao tuổi trên địa bàn thành phố Hà Nội.
15. Ông/bà có những gợi ý gì khác cho việc triển khai thành công các CS phát
triển cơ sở chăm sóc người cao tuổi trên địa bàn thành phố Hà Nội theo mô
19
hình 7C?
Phụ lục 4.
HƯỚNG DẪN THẢO LUẬN NHÓM
VỀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CƠ SỞ CHĂM SÓC NGƯỜI CAO TUỔI
TẠI ĐỊA BÀN HÀ NỘI
(Dành cho nhóm Cán bộ quản lý các cơ sở chăm sóc NCT và Các nhà đầu tư)
1. GIỚI THIỆU MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU VÀ NGUYÊN TẮC BẢO MẬT
(cid:127) Giới thiệu mục đích của việc phỏng vấn: Nhằm thu thập thông tin đánh giá việc
thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc cho NCT trên địa bàn thành phố Hà Nội.
(cid:127) Thông báo rõ các thông tin về bảo mật (thông tin chia sẻ sẽ được đảm bảo bảo
mật và ẩn danh).
(cid:127) Thảo luận nội dung của Phiếu chấp thuận cung cấp thông tin và lấy chữ ký
người được PV
(cid:127) Đảm bảo người được PV sẵn sàng tham gia cung cấp thông tin và môi trường
thực hiện phỏng vấn thuận lợi nhất có thể.
2. GIỚI THIỆU TIẾN TRÌNH PHỎNG VẤN
(cid:127) Thông báo về thời gian của cuộc thảo luận nhóm sẽ diễn ra
(cid:127) Thông báo và xin phép việc ghi âm/ghi chép trong quá trình phỏng vấn
(cid:127) Trong quá trình phỏng vấn, người được PV có thể đặt câu hỏi để làm rõ thông tin
(cid:127) Người được PV có thể lựa chọn bỏ qua các câu hỏi nếu cảm thấy không thoải
mái khi trả lời
(cid:127) Người được PV có thể yêu cầu dừng cuộc phỏng vấn trao đổi và rời đi nếu như
cảm thấy có bất kỳ mối nguy hại nguy cơ nào có thể xảy ra hoặc cảm thấy không
thoải mái
3. THU THẬP DANH SÁCH NGƯỜI THAM GIA
(cid:127) Giới tính:
(cid:127) Năm sinh:
(cid:127) Trình độ học vấn:
(cid:127) Chuyên môn:
(cid:127) Nơi làm việc và thời gian công tác:
4. CÂU HỎI PHỎNG VẤN
CS PHÁT TRIỂN CƠ SỞ CHĂM SÓC NGƯỜI CAO TUỔI
20
1. Theo ông/bà được biết, thì hiện nay có những văn bản CS nào liên quan tới
việc phát triển cơ sở chăm sóc người cao tuổi?
2. Ông/bà có biết tới CS cụ thể nào về việc phát triển các cơ sở chăm sóc người
cao tuổi dành riêng cho khu vực thành phố Hà Nội không? Nếu có thì đó là
những CS gì?
VỀ QUY TRÌNH TRIỂN KHAI THỰC HIỆN CÁC CS
3. Ông/bà đánh giá như thế nào về QUY TRÌNH việc triển khai thực hiện các
CS về phát triển cơ sở chăm sóc NCT hiện nay tại khu vực TP Hà Nội?
4. Theo QUY TRÌNH thực hiện, kết quả đạt được như thế nào? Bước nào là
hiệu quả, hoặc không hiệu quả và vì những lý do chính nào?
ĐÁNH GIÁ VIỆC THỰC HIỆN CS THEO MÔ HÌNH 7C (Giải thích ngắn gọn về các nội dung đánh giá theo mô hình 7C)
5. Theo ông/bà, các yếu tố liên quan tới nội dung CS có ảnh hưởng như thế nào
tới việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT?
6. Theo ông/bà, các yếu tố liên quan tới bối cảnh luật pháp-kinh tế-xã hội-văn hoá có ảnh hưởng như thế nào tới việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT?
7. Theo ông/bà, các yếu tố liên quan tới sự cam kết của các bên tham gia có ảnh hưởng như thế nào tới việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT? 8. Theo ông/bà, các yếu tố liên quan tới năng lực của người/hệ thống thực hiện CS có ảnh hưởng như thế nào tới việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT?
9. Theo ông/bà, các yếu tố liên quan tới sự tham gia của các bên liên quan có ảnh hưởng như thế nào tới việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT?
10. Theo ông/bà, các yếu tố liên quan tới truyền thông có ảnh hưởng như thế nào
tới việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT?
11. Theo ông/bà, các yếu tố liên quan tớ sự phối hợp nội bộ và các bên liên quan/liên ngành có ảnh hưởng như thế nào tới việc thực hiện CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT?
KHUYẾN NGHỊ CẢI THIỆN VIỆC THỰC HIỆN CS
12. Ông/bà có những gợi ý gì cho việc triển khai thành công các CS phát triển cơ
sở chăm sóc người cao tuổi trên địa bàn thành phố Hà Nội? Theo QUY
TRÌNH thực hiện và theo các khía cạnh của mô hình 7C nói trên?
21
Xin cảm ơn!
Phụ lục 5.
SO SÁNH CƠ SỞ TGXH CÔNG LẬP VÀ NGOÀI CÔNG LẬP
THEO NGHỊ ĐỊNH 68/2008/NĐ-CP VÀ NGHỊ ĐỊNH 103/2017/NĐ-CP
NĐ 68/2008/NĐ-CP NĐ 103/2017/NĐ-CP
Cơ sở BTXH công lập do cơ Cơ sở TGXH công lập do cơ 1 Cơ sở công
quan nhà nước quản lý, đầu quan nhà nước thành lập, lập
tư xây dựng cơ sở vật chất, quản lý, đầu tư xây dựng cơ
bảo đảm kinh phí cho các sở vật chất và bảo đảm kinh
phí cho các nhiệm vụ của nhiệm vụ chi thường xuyên
của cơ sở BTXH cơ sở TGXH
Cơ sở BTXH ngoài công lập Cơ sở TGXH ngoài công lập 2 Cơ sở ngoài
do các tổ chức, cá nhân do các cá nhân, tổ chức, công lập
trong và ngoài nước đầu tư doanh nghiệp trong và
xây dựng cơ sở vật chất và ngoài nước đầu tư xây dựng
bảo đảm kinh phí cho các cơ sở vật chất và bảo đảm
kinh phí cho các nhiệm vụ nhiệm vụ chi thường xuyên
của cơ sở BTXH của cơ sở TGXH
Tất cả các cơ sở 3 Quy mô cơ sở Trên 10 đối tượng
22
Nguồn: Tác giả tổng hợp
Phụ lục 6.
QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN CƠ SỞ CHĂM SÓC NCT
Quyết định số Quyết định 2156/QĐ-TTg
1781/QĐ-TTg
(Hoạt động thứ (Nhiệm vụ thứ 2/12 nhiệm vụ và giải pháp)
2. Phát triển mạng lưới cơ sở trợ giúp xã hội cung cấp 7/9 Hoạt động chủ
DVCS, phục hồi chức năng đối với NCT yếu)
7 Hoạt động phát a) Thực hiện quy hoạch, phát triển mạng lưới các cơ sở trợ
triển các cơ sở giúp xã hội chăm sóc, phục hồi chức năng cho NCT (công
chăm sóc và nhà ở lập và ngoài công lập);
đối với NCT: b) Hỗ trợ đầu tư cho các cơ sở trợ giúp xã hội về cơ sở vật
a) Quy hoạch hệ chất, kỹ thuật và trang thiết bị đạt tiêu chuẩn quy định, bảo
thống cơ sở chăm đảm có các phân khu chức năng, các hạng mục công trình
sóc NCT, bảo đảm đáp ứng hoạt động chăm sóc, phục hồi chức năng cho NCT;
mỗi tỉnh, thành phố Giai đoạn 2022 - 2025, mỗi năm hỗ trợ xây dựng tối thiểu 2
có ít nhất từ 02 cơ mô hình: cơ sở trợ giúp xã hội chăm sóc, phục hồi chức
sở chăm sóc NCT năng cho NCT và cơ sở trợ giúp xã hội dưỡng lão.
trở lên; Giai đoạn 2026 - 2030, hỗ trợ nhân rộng mô hình, Bộ Lao
b) Chuẩn hóa cơ sở động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn tiêu chí, điều kiện
chăm sóc NCT; mô hình và thống nhất với các tỉnh, thành phố lựa chọn cơ
sở nhân rộng mô hình; xây dựng các tiêu chuẩn, quy trình (Giải pháp thứ 4/5
cung cấp DVCS, phục hồi chức năng; hướng dẫn, hỗ trợ các giải pháp)
4. Đẩy mạnh xã hội địa phương thực hiện các tiêu chuẩn và quy trình theo quy
hóa về công tác định, nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ cho NCT;
chăm sóc NCT; đa c) Hỗ trợ thí điểm mô hình CSDH đối với NCT; mô hình
dạng hóa nguồn nhà xã hội an toàn tại cộng đồng cho NCT độc thân, NCT
vốn để triển khai cô đơn không nơi nương tựa; thực hiện thí điểm NSNN hỗ
thực hiện Chương trợ một phần đối với khu vực tư nhân cung cấp dịch vụ
23
trình. chăm sóc NCT có hoàn cảnh khó khăn.
Phụ lục 7.
QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU, GIẢI PHÁP QUY HOẠCH CƠ SỞ TGXH
CHĂM SÓC NGƯỜI CAO TUỔI TẠI VIỆT NAM
24
1. Quan điểm a) Quy hoạch mạng lưới các cơ sở trợ giúp xã hội phù hợp với chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, của từng vùng, địa phương trong từng thời kỳ và phát huy năng lực, hiệu quả của các cơ sở trợ giúp xã hội hiện có; b) Quy hoạch mạng lưới các cơ sở trợ giúp xã hội theo vùng kinh tế - xã hội, theo cơ cấu dân số và người dân có nhu cầu trợ giúp xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận và thụ hưởng dịch vụ trợ giúp xã hội, nhất là người cao tuổi, người khuyết tật, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, người tâm thần, người nhiễm HIV/AIDS và đối tượng cần sự bảo vệ khẩn cấp; c) Đa dạng hóa các hình thức đầu tư, hình thức quản lý cơ sở trợ giúp xã hội, đẩy mạnh xã hội hóa, bảo đảm phù hợp với khả năng đầu tư của Nhà nước và khả năng huy động nguồn lực xã hội để phát triển mạng lưới các cơ sở trợ giúp xã hội; d) Quy hoạch mạng lưới cơ sở trợ giúp xã hội giai đoạn 2016 - 2025 là quy hoạch mở, tùy thuộc vào tình hình và nhu cầu thực tế của các vùng, địa phương, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sẽ nghiên cứu, điều chỉnh quy hoạch cho phù hợp, đáp ứng tốt nhất nhu cầu phục vụ đối tượng bảo trợ xã hội. 2. Mục tiêu 2.1. Mục tiêu chung Phát triển mạng lưới các cơ sở trợ giúp xã hội phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, nâng cao chất lượng dịch vụ trợ giúp xã hội tiếp cận các nước tiên tiến trong khu vực, đáp ứng nhu cầu trợ giúp của người dân, hướng tới mục tiêu phát triển xã hội công bằng và hiệu quả. 2.2. Mục tiêu cụ thể a) Củng cố, phát triển mạng lưới các cơ sở trợ giúp xã hội công lập và ngoài công lập, trong đó các cơ sở trợ giúp xã hội ngoài công lập đạt tối thiểu 60% số cơ sở; b) Đến năm 2020, số người có hoàn cảnh khó khăn được tư vấn, hỗ trợ và quản lý trường hợp từ các cơ sở trợ giúp xã hội đạt 50% và năm 2025 đạt 75%, trong đó, ưu tiên trợ giúp người cao tuổi không có người phụng dưỡng, người tâm thần, người khuyết tật nặng, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, nạn nhân bạo lực gia đình, nạn nhân bị buôn bán, người chưa thành niên không có nơi cư trú ổn định bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, trẻ em lang thang kiếm sống trên đường phố. c) Đến năm 2025, tất cả các cơ sở trợ giúp xã hội bảo đảm các điều kiện tối thiểu tiếp cận đối với người khuyết tật.
Phụ lục 8.
HỆ THỐNG CÁC VĂN BẢN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN
(Có hiệu lực đến tháng 12/2022)
CƠ SỞ CHĂM SÓC NGƯỜI CAO TUỔI Ở VIỆT NAM
Loại CS Năm ban Tên văn bản CS
hành/
Các văn bản là căn cứ của các CS phát triển cơ sở chăm sóc NCT
2012 Quyết định 1781/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình quốc
gia về người cao tuổi giai đoạn 2012-2020
Văn bản 2013 Hiến pháp Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
pháp luật 2013
2009 Luật Người cao tuổi số 39/2009/QH12 ngày 23 tháng
11 năm 2009
2017 Luật Quy hoạch số 21/2017/QH14
2019 Nghị định số 37/2019/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành
Quyết định số 1781/QĐ-TTg ngày 22/11/2012 của Thủ
một số điều của Luật quy hoạch (Khoản 10, điều 20)
tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình hành động quốc
gia về người cao tuổi Việt Nam giai đoạn 2012-2020
2012
2021 Quyết định 2156/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình hành
động quốc gia về người cao tuổi Việt Nam giai đoạn
2021-2030
CS quản lý nhà nước
CS quy 2015 Quyết định số 1520/QĐ-LĐTBXH phê duyệt quy hoạch
mạng lưới các cơ sở trợ giúp xã hội giai đoạn 2016 - hoạch
mạng lưới 2025
các cơ sở 2017 Quyết định số 488/QĐ-TTg phê duyệt đề án “Đổi mới,
trợ giúp xã phát triển trợ giúp xã hội giai đoạn 2017 – 2020 và tầm
hội nhìn đến năm 2030.
2020 Quyết định số 542/QĐ-TTg phê duyệt nhiệm vụ lập quy
25
hoạch mạng lưới cơ sở trợ giúp xã hội thời kỳ 2021 -
2030, tầm nhìn đến năm 2050
2020 Văn bản số 3434/LĐTBXH-BTXH ngày 07/9/2020 của
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn thực
hiện phương án sắp xếp các cơ sở trợ giúp xã hội;
CS về quy 2017 Nghị định số 103/2017/NĐ-CP quy định về thành lập,
định điều tổ chức, hoạt động, giải thể và quản lý các cơ sở trợ
kiện, thủ giúp xã hội (thay thế NĐ 68/2008/NĐ-CP)
tục thành 2017 Thông tư số 33/2017/TT-BLĐTBXH hướng dẫn về cơ
lập, tổ cấu tổ chức, định mức nhân viên và quy trình, tiêu
chức, hoạt chuẩn trợ giúp xã hội tại cơ sở trợ giúp xã hội
động, quản 2018 Thông tư số 02/2018/TT-BLĐTBXH quy định mức
lý và giải kinh tế-kỹ thuật làm cơ sở xây dựng giá dịch vụ trợ
thể cơ sở giúp xã hội
trợ giúp xã 2020 Văn bản số 3434/LĐTBXH-BTXH ngày 07/9/2020 của
hội Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn thực
hiện phương án sắp xếp các cơ sở trợ giúp xã hội
2020 Nghị định số 120/2020/NĐ-CP ngày 07/10/2020 của
Chính phủ quy định về thành lập, tổ chức lại, giải thể
đơn vị sự nghiệp công lập.
2020 Nghị định số 60/2021/NĐ-CP ngày 21/6/2021 của
Chính phủ quy định cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị
sự nghiệp công lập
CS ưu đãi
CS về 2008 Nghị định số 69/2008/NĐ-CP về CS khuyến khích xã
khuyến hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục,
khích dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường
XHH, 2013 Quyết định số 693/QĐ-TTg về việc sửa đổi, bổ sung
danh mục một số nội dung của danh mục chi tiết các loại hình,
chi tiết loại tiêu chí quy mô, tiêu chuẩn của các cơ sở thực hiện xã
hình, tiêu hội hóa trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, dạy nghề, y
chí, quy tế, văn hóa, thể thao, môi trường ban hành kèm theo
26
mô, tiêu quyết định số 1466/QĐ-TTg ngày 10 tháng 10 năm
chuẩn của 2008 của Thủ tướng chính phủ
các tổ chức 2014 Nghị định số 59/2014/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số
thực hiện điều của nghị định số 69/2008/NĐ-CP ngày 30 tháng 5
XHH năm 2008 của chính phủ về CS khuyến khích xã hội
hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy
nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường.
2016 QĐ số 1470/QĐ-TTg về việc sửa đổi, bổ sung một số
nội dung của danh mục chi tiết các loại hình, tiêu chí,
quy mô, tiêu chuẩn của các cơ sở thực hiện xã hội hóa
trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, dạy nghề, y tế, văn
hóa, thể thao, môi trường ban hành kèm theo Quyết
định số 1466/QĐ-TTg ngày 10 tháng 10 năm 2008 của
Thủ tướng chính phủ
CS về hỗ 2008 Điều 5, điều 6, Nghị định số 69/2008/NĐ-CP về CS
trợ đầu tư, khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong
giao/ cho lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi
thuê đất, trường
cho thuê/ Thông tư số 135/2008/TT-BTC hướng dẫn nghị định
xây dựng số 69/2008/NĐ-CP ngày 30 tháng 5 năm 2008 của
cơ sở vật chính phủ về CS khuyến khích xã hội hóa đối với các
chất cho cơ hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn
sở trợ giúp hóa, thể thao, môi trường
xã hội, 2013 Khoản 2,3 Điều 1, Nghị định số 59/2014/NĐ-CP
2015 Nghị định số 30/2015/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành
một số điều của luật đấu thầu về lựa chọn nhà đầu tư
(không thuộc trường hợp cần đấu thầu khi thực hiện dự
án đầu tư trong lĩnh vực XHH – NĐ 59/2014/NĐ-CP)
CS miễn/ 2014 Nghị định số 46/2014/NĐ-CP quy định về thu tiền thuê
đất, thuê mặt nước (Được miễn tiền thuê đất, thuê mặt giảm tiền
thuê đất, nước)
thuê mặt
27
nước
CS ưu đãi 2008 Điều 9, Nghị định số 69/2008/NĐ- CP về CS ưu đãi về
về tín dụng tín dụng.
và huy Điều 10, Nghị định số 69/2008/NĐ- CP về CS huy
động vốn. động vốn.
CS về 2011 Thông tư số 153/2011/TT-BTC hướng dẫn về thuế sử
miễn giảm dụng đất phi nông nghiệp (Điều 10. Miễn thuế)
thuế giá trị 2015 Thông tư số 96/2015/TT-BTC hướng dẫn về thuế thu
gia tăng, nhập doanh nghiệp tại Nghị định số 12/2015/NĐ-
thuế thu CP ngày 12/2/2015 của chính phủ quy định chi tiết thi
nhập hành luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật về
doanh thuế và sửa đổi bổ sung một số điều của các nghị định
nghiệp, về thuế và sửa đổi, bổ sung một số điều của thông tư
thuế đất số 78/2014/TT-BTC ngày 18/6/2014, thông tư
số 119/2014/TT-BTC NGÀY 25/8/2014, thông tư
số 151/2014/TT-BTC ngày 10/10/2014 của Bộ tài chính
(Thuế TNDN 10%)
2016 Thông tư số 130/2016/TT-BTC hướng dẫn nghị định
số 100/2016/NĐ-CP ngày 01 tháng 7 năm 2016 của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của luật thuế giá trị gia tăng, luật thuế
tiêu thụ đặc biệt và luật quản lý thuế và sửa đổi một số
điều tại các thông tư về thuế. (Khoản 9, Điều 4: Đối
tượng không chịu thuế GTGT)
CS giá 2014 Điều 9. Giá bán lẻ điện cho khối hành chính, sự nghiệp,
Thông tư số 16/2014/TT-BCT quy định về thực hiện giá điện, nước
bán điện. ưu đãi cho
cơ sở trợ 2021 Thông tư số 44/2021/TT-BTC quy định về khung giá,
giúp xã hội nguyên tắc, phương pháp xác định giá nước sạch sinh
hoạt.
CS trợ 2021 Nghị định 20/2021/NĐ-CP ngày 15/3/2021 quy định
CS trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội giúp xã hội
28
cho đối
tượng bảo
trợ
CS quản lý, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
CS quản lý 2009 Điều 11. Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế
nhân sự Điều 12. Khen thưởng
Nghị định số 69/2008/NĐ-CP về CS khuyến khích xã
hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục,
dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường
CS tiêu 2015 Thông tư liên tịch số 30/2015/TTLT-BLĐTBXH-BNV
chuẩn nhân Quy định mã số và tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp
lực viên chức chuyên ngành CTXH
CS đào tạo 2021 Quyết định số 112/2021/QĐ-TTg ngày 21/01/2021 của
nhân lực Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án phát triển
29
CTXH giai đoạn 2021-2030
Phụ lục 9.
SỐ NGƯỜI CAO TUỔI THEO NHÓM TUỔI
THEO ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH TẠI HÀ NỘI NĂM 2022
Số lượng NCT theo nhóm tuổi phân bố theo Đơn vị hành chính tại Hà Nội năm 2022
7.477
8.235
5.716
5.952
5.832
6.289
5.203
6.646
7.638
1.767
6.764
4.723
8.457
8.444
4.857
7.429
9.318
3.766
8.391
5.159
2.789
8.040
6.168
2.984
4.700
8.343
10.648
6.210
5.186
Ứng Hoà Thường Tín Thạch Thất Thanh Trì Thanh Oai Sóc Sơn Quốc Oai Phúc Thọ Phú Xuyên Mỹ Đức Mê Linh Hoài Đức Gia Lâm Đông Anh Đan Phượng Chương Mỹ Ba Vì Sơn Tây Thanh Xuân Tây Hồ Nam Từ Liêm Long Biên Hà Đông Hoàng Mai Hoàn Kiếm Hai Bà Trưng Đống Đa Cầu Giấy Bắc Từ Liêm Ba Đình
8.135
0
10.000
20.000
30.000
40.000
50.000
60.000
70.000
Số NCT từ 60-79 tuổi
Số NCT từ 80 tuổi trở lên
30
Nguồn: Tác giả tổng hợp [38]
Phụ lục 10.
MỘT SỐ SỐ LIỆU THỐNG KÊ VỀ NGƯỜI CAO TUỔI TẠI HÀ NỘI
Đặc điểm
Số NCT 86.798 9.814 STT 1 2
36.348
103
3
4
14
387.547
5
364.152
6
91.268
7
8
299
2.237 12.605
9
4.352
10 11
12
923
323
13
18
14
Số hộ hiện chỉ có NCT NCT cô đơn không nơi nương tựa Số NCT là người khuyết tật (đã được UBND cấp xã cấp giấy xác nhận mức độ khuyết tật). Người cao tuổi thuộc hộ nghèo không có khả năng tự phục vụ bản thân NCT thuộc hộ gia đình nghèo không có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng hoặc có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng nhưng người này đang hưởng chế độ trợ cấp xã hội hằng tháng. Số NCT đang hưởng lương hưu Số NCT không có lương hưu, trợ cấp BHXH, trợ cấp bảo trợ xã hội, trợ cấp NCC hàng tháng NCT từ đủ 80 tuổi trở lên không có lương hưu, trợ cấp BHXH hàng tháng, trợ cấp XH hàng tháng NCT từ đủ 80 tuổi trở lên không có lương hưu, trợ cấp BHXH hàng tháng, trợ cấp XH hàng tháng thuộc hộ nghèo Số NCT thuộc hộ nghèo Số NCT thuộc hộ cận nghèo NCT cô đơn là thành viên thuộc hộ nghèo không có khả năng thoát nghèo hoặc cận nghèo mà trong hộ không có người trong độ tuổi lao động hoặc không có người còn khả năng lao động Số NCT đủ điều kiện tiếp nhận vào cơ sở bảo trợ xã hội (BTXH) nhưng tự nguyện và có người chăm sóc tại cộng đồng Số NCT đang được nuôi dưỡng trong cơ sở BTXH công lập Số NCT đang phải sống trong nhà tạm, nhà hư hỏng 15
31
Nguồn: Tác giả tổng hợp [38]
Phụ lục 11.
DANH SÁCH CÁC VĂN BẢN CS VỀ PHÁT TRIỂN CƠ SỞ CHĂM SÓC
NGƯỜI CAO TUỔI VÀ CƠ QUAN BAN HÀNH
Cơ quan ban hành Văn bản CS cụ thể
Quốc hội - Luật Người cao tuổi 2009
- Luật Quy hoạch số 21/2017/QH14
Chính phủ - Nghị định số 69/2008/NĐ-CP
- Nghị định 103/2017/NĐ-CP
- Nghị định số 37/2019/NĐ-CP
- Nghị định 20/2021/NĐ-CP
- Nghị định số 120/2020/NĐ-CP ngày 07/10/2020
Thủ Tướng Chính phủ - Quyết định 2156/QĐ-TTg
- Quyết định số 488/QĐ-TTg
Bộ trưởng, thủ trưởng cơ - Quyết định số 1520/QĐ-LĐTBXH
quan ngang bộ - Thông tư 33/2017/TT-BLĐTBXH
- Thông tư số 02/2018/TT-BLĐTBXH
- Văn bản số 3434/LĐTBXH-BTXH
- Thông tư số 153/2011/TT-BTC
- Thông tư số 96/2015/TT-BTC
- Thông tư số 16/2014/TT-BCT
UBND thành phố Hà - Quyết định số 2478/QĐ-UBND năm ;
Nội - Quyết định số 11/2015/QĐ-UBND năm 2015;
- Quyết định số 2330/QĐ-UBND năm 2015;
- Quyết định số 5188/QĐ-UBND năm 2021;
- Quyết định số 2857/QĐ-UBND năm 2017
- Kế hoạch số 93/KH-UBND năm 2018;
- Kế hoạch số 30/KH-UBND năm 2022;
- Kế hoạch 249/KH-UBND năm 2020;
- Kế hoạch 02/KH-UBND năm 2022.
32
Nguồn: Tác giả tổng hợp
Phụ lục 12.
VĂN BẢN HƯỚNG DẪN THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CƠ SỞ
CHĂM SÓC NCT CỦA TP HÀ NỘI
Loại chính sách Thông tin chi tiết các văn bản
CS về quy hoạch mạng lưới các - QĐ số 2330/QĐ-UBND ngày 22/5/2015
cơ sở TGXH - QĐ số 5188/QĐ-UBND ngày 9/12/2021
- QĐ số 1459/QĐ-UBND ngày 26/3/2018
- QĐ số 2478/QĐ-UBND ngày 23/5/2018
CS về khuyến khích XHH - QĐ số 11/2015/QĐ-UBND ngày
19/05/2015
- Kế hoạch số 93/KH-UBND ngày
19/4/2018
CS về hỗ trợ đầu tư, xây dựng cơ - QĐ số 11/2015/QĐ-UBND ngày
sở vật chất cho cơ sở TGXH 19/05/2015
CS giao/thuê đất, thuê mặt nước - QĐ số 11/2015/QĐ-UBND ngày 19/05/
2015
CS về miễn giảm thuế giá trị gia - QĐ số 11/2015/QĐ-UBND ngày 19/05/
tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, 2015
thuế đất
CS giá điện, nước ưu đãi cho cơ - Theo CS chung của cả nước
sở TGXH
CS đào tạo và phát triển nguồn - QĐ 5188/QĐ-UBND ngày 09 tháng 12
năm 2021 nhân lực
33
Nguồn: Tác giả tổng hợp
Phụ lục 13.
DỰ KIẾN ĐẦU TƯ CHO CÁC CƠ SỞ TGXH DÀNH CHO NCT CÔNG LẬP
VÀ NGOÀI CÔNG LẬP TP HÀ NỘI GIAI ĐOẠN 2015-2030
Quy mô
Diện Diện Công Tổng tích đất tích suất Hình kinh phí Công chuyên xây tăng STT Tên dự án thức đầu dự kiến suất dùng dựng thêm tư (tỷ sau (đối thêm đồng) đầu tư (đơn vị tính m2) tượng,
(đơn vị tính m2) giường)
I Giai đoạn 2015-2020
Nâng cấp, Nâng cấp, cải tạo, xây mới cải tạo bổ sung cơ sở hạ tầng và CSHT, 1 đầu tư trang thiết bị kỹ 10,000 2,876 56 280 49 đầu tư thuật của Trung tâm trang thiết BTXH số II bị
Nâng cấp, Nâng cấp, cải tạo, xây mới cải tạo bổ sung cơ sở hạ tầng và CSHT, 2 đầu tư trang thiết bị kỹ 10,000 0 59 280 15 đầu tư thuật của Trung tâm trang thiết BTXH số III bị
Nâng cấp, Nâng cấp, cải tạo, xây mới cải tạo bổ sung cơ sở hạ tầng và CSHT, 3 đầu tư trang thiết bị kỹ 43,826 23,437 720 1,650 402 đầu tư thuật của mạng lưới cơ sở trang thiết BTXH ngoài công lập bị
II Giai đoạn 2021-2030
34
1 Nâng cấp, cải tạo, xây mới 10,000 500 20 300 Nâng cấp, 20
cải tạo bổ sung cơ sở hạ tầng và
CSHT, đầu tư trang thiết bị kỹ
đầu tư thuật của Trung tâm
trang thiết BTXH số II
bị
Nâng cấp, Nâng cấp, cải tạo, xây mới cải tạo bổ sung cơ sở hạ tầng và CSHT, 2 đầu tư trang thiết bị kỹ 10,000 1,350 20 300 55 đầu tư thuật của Trung tâm trang thiết BTXH số III bị
Nâng cấp, cải tạo, xây mới
bổ sung cơ sở hạ tầng và
3 đầu tư trang thiết bị kỹ 75,323 55,616 2,450 4,100 2249
thuật của mạng lưới cơ sở
BTXH ngoài công lập
35
Nguồn: Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội [52]
Phụ lục 14.
THÔNG TIN CƠ SỞ BTXH TẠI HÀ NỘI CHĂM SÓC NGƯỜI CAO TUỔI
Tên cơ sở BTXH Đối tượng phục vụ của cơ sở Số lượng đối tượng
phục vụ
- NCT không có người có nghĩa vụ 39 NCT cô đơn; Trung tâm Bảo trợ
và quyền phụng dưỡng 109 NKT tâm thần, xã hội 2 Hà Nội
Địa chỉ: thôn Phù - Người khuyết tật bao gồm người 73 NKT khác;
Yên, xã Viên An, khuyết tật thần kinh, tâm thần, trí 20 người lang thang.
huyện Ứng Hoà, tuệ
thành phố Hà Nội. - Người lang thang, xin tiền
- Đối tượng cần sự bảo vệ khẩn cấp
- Đối tượng có nhu cầu được
TGXH và tự nguyện đóng góp kinh
phí
- NCT cô đơn không nơi nương tựa; 48 NCT cô đơn; Trung tâm Bảo trợ
- Trẻ em không có nguồn nuôi 65 trẻ không có xã hội 3 Hà Nội
Địa chỉ: số 3 TDP 3 dưỡng nguồn nuôi dưỡng
Miêu Nha, phường - Đối tượng có nhu cầu được TGXH
Tây Mỗ, quận Nam và tự nguyện đóng góp kinh phí
Từ Liêm
36
Nguồn: Sở LĐTB&XH Hà Nội [35], UBND TP Hà Nội [47]
Phụ lục 15.
DANH SÁCH CÁC CƠ SỞ CHĂM SÓC NCT NGOÀI CÔNG LẬP
TẠI HÀ NỘI
Tên cơ sở Địa chỉ ST T Năm thành lập Giấy phép năm
Số lượng NCT (Thực tế/ cấp phép)
1 2015 220/ 320 Bắc Từ Liêm Sóc Sơn Bắc Từ Liêm 2009 2011 2013
2 Bắc Từ Liêm 2007 2014 100/ 60
3 Đông Anh 2012 68/103 L1.2014 L2. 2022
4 Gia Lâm 2014 2014 50/100
5 Thanh Trì 2014 2014 60/70
6 Chương Mỹ 2014 14/ 118 L1.2014 L2. 2022 TT chăm sóc sức khỏe NCT Thiên Đức (3/5CS ở Hà Nội) TT chăm sóc NCT Nhân Ái TT chăm sóc NCT Tuyết Thái Trung tâm chăm sóc sức khỏe NCT Phù Đổng (Phúc Sinh) Trung tâm điều dưỡng và chăm sóc NCT Vạn Phúc Trung tâm Chăm sóc NCT Tâm Đức (tên thực tế: Từ Tâm)
lão 7 2014 tâm Dưỡng Trung Diên Hồng (04 cơ sở) 330/ 157 2019 2019 2020 2022
tâm Dưỡng lão 8 2018 2020 40/32 Trung Javilink (03 cơ sở) Hà Đông Thanh Oai Hoàng Mai Thanh Trì Nam Từ Liêm Hà Đông Bắc Từ Liêm
9 2016 2021 52/40 Thanh Xuân Hoàng Mai
tâm Dưỡng
10 Mê Linh 2019 2021 20/35
11 Hoài Đức 2019 116/80
12 Thanh Trì 2019 67/80 2019 L1. 2019 L2. 2022
13 Nam Từ Liêm 2022 2020 16/68 Trung tâm Chăm sóc NCT Hà Nội (3CS: 2 CS Hà Nội, 1 CS Thái Nguyên) lão Trung Kaigo Mê Linh (2CS: 1 CS Hà Nội, 1 CS Hưng Yên) Viện dưỡng lão ALH Trung tâm chăm sóc NCT Tâm Phúc Trung tâm Dưỡng lão Hoa Sen
37
TỔNG SỐ 1153
Nguồn: Sở LĐTB&XH Hà Nội [35]; tác giả tự tổng hợp
Phụ lục 16.
TIÊU CHÍ GIÁM SÁT THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
- Các giải pháp được thực hiện mà không gặp phải những Sự phù hợp của vướng mắc trong thực tế, đặc biệt là mức độ khả thi nội dung CS (giải - Có các hướng dẫn cụ thể về việc thực hiện các giải pháp pháp CS) cho đơn vụ quản lý và đối tượng hưởng lợi CS
- Sự quan tâm ủng hộ của chính quyền sở tại (cấp xã
phường) với việc thực hiện các CS được ban hành.
- Các thủ tục hành chính liên quan tới việc thực hiện CS
được giải quyết nhanh chóng.
- Có các chỉ dẫn cụ thể từ chính quyền cho đơn vị thụ Sự cam kết của các
hưởng trong quá trình thực hiện CS. bên tham gia
- Những thắc mắc của các đơn vị thụ hưởng được trả lời
một cách nhanh chóng và cụ thể.
- Sự ổn định về mặt nhân sự tham gia vào quá trình quản
lý thực hiện CS
- Có cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành và địa phương
trong quá trình thực hiện CS (thông tư liên ngành).
- Có sự phối hợp nội bộ trong cơ quan quản lý thực hiện
CS và các bên liên quan. Sự phối hợp của
- Các bên liên quan được thông báo về tiến trình, các vấn các bên liên quan
đề phát sinh trong quá trình thực hiện CS.
- Có cơ chế khuyến khích các bên liên quan tham gia đóng
góp ý kiến trong quá trình triển khai CS.
- Nội dung CS được phổ biến rộng rãi tới đối tượng hưởng
lợi bởi nhiều phương thức truyền thông khác nhau.
- Nội dung CS được hiểu thống nhất từ trên xuống và từ Việc truyền thông
dưới lên. về CS
- Thông tin liên lạc, cách thức liên lạc được thể hiện rõ
38
trong các văn bản hướng dẫn thực hiện CS.
- Có cơ chế tiếp nhận ý kiến phản hồi và giải đáp thắc mắc
của những đối tượng hưởng lợi.
- Việc trao đổi 2 chiều giữa người/cơ quan chịu trách
nhiệm thực hiện CS với đối tượng hưởng lợi dễ dàng và
thuận lợi.
- Năng lực điều phối, phân công nội bộ các hoạt động
trong quá trình thực hiện CS.
- Năng lực điều phối các bên tham gia trong quá trình thực Năng lực cơ hiện CS. quan/người thực - Khả năng quản lý và thay đổi những bất cập trong quá hiện CS trình thực hiện CS.
- Trình độ chuyên môn của các cá nhân và tổ chức có liên
quan tới việc thực hiện.
- Số lượng các cơ sở được hưởng lợi từ CS, cụ thể các hỗ Các kết quả đạt trợ được nhận theo từng giai đoạn. được (định tính và - Những tác động mà CS mang lại về các mặt khác nhau định lượng) đối với cơ sở.
- Có các báo cáo cụ thể theo giai đoạn về việc thực hiện
CS từ các cấp quản lý và thực hiện khác nhau. Việc báo cáo quá
- Đối tượng hưởng lợi CS có những đóng góp và được ghi trình thực hiện CS.
nhận trong các báo cáo.
39
Nguồn: OECD [120]; Tác giả tổng hợp từ kết quả khảo sát