BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
NGUYỄN THỊ THU HẰNG
CỔ MẪU
TRONG TIỂU THUYẾT JOHN STEINBECK
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
HÀ NỘI, 2022
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
NGUYỄN THỊ THU HẰNG
CỔ MẪU
TRONG TIỂU THUYẾT JOHN STEINBECK
Chuyên ngành: Văn học nước ngoài
Mã số: 9 22 02 42
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
Người hướng dẫn
GS.TS. LÊ HUY BẮC
HÀ NỘI, 2022
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả
nêu trong luận án là kết quả của quá trình làm việc nghiêm túc, trung thực. Các
tài liệu tham khảo, trích dẫn có xuất xứ rõ ràng. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm
về công trình nghiên cứu của mình.
Hà Nội, ngày 7 tháng 12 năm 2022
Tác giả
Nguyễn Thị Thu Hằng
LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến người hướng dẫn
khoa học, GS.TS. Lê Huy Bắc, Thầy đã tận tình dạy bảo, định hướng, khích lệ,
sẵn sàng giúp đỡ và đồng hành cùng tôi từ buổi đầu tôi mới bước chân vào con
đường nghiên cứu khoa học. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu đậm đến PGS.TS.
Nguyễn Thị Kim Ngân, Cô đã động viên, chia sẻ, hỗ trợ và truyền cảm hứng cho
tôi trong suốt quá trình thực hiện nghiên cứu này. Xin tỏ lòng tri ân vô vàn đến
Thầy và Cô, những người dẫn đường tuyệt vời của tôi.
Tôi cũng xin trân trọng cảm ơn các thầy cô trong Khoa Ngữ văn - Trường
Đại học Sư phạm Hà Nội, đặc biệt là các thầy cô thuộc Tổ Văn học nước ngoài,
đã nhiệt tình giảng dạy, chỉ dẫn, sẵn lòng chia sẻ các tri thức, kinh nghiệm quý
giá cho tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo Sau đại học, Khoa
Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã hỗ trợ tôi trong quá trình thực hiện
luận án.
Xin bày tỏ sự tri ân tới Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm, Đại học
Huế, nơi có các thầy cô, anh chị đồng nghiệp luôn tin tưởng, hỗ trợ và tạo điều
kiện tốt nhất cho tôi học tập và thực hiện nghiên cứu.
Cuối cùng, tôi xin tỏ lòng biết ơn sâu nặng tới gia đình, những người thân,
những người bạn đã luôn yêu thương, đồng hành và tiếp sức cho tôi trong quãng
đường nhiều thử thách và giàu ý nghĩa này.
Nguyễn Thị Thu Hằng
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU…………………………………………………………………………1
1. Lí do chọn đề tài ................................................................................................. 1
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................... 4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...................................................................... 5
4. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu ......................................................... 5
5. Đóng góp của luận án ......................................................................................... 7
6. Cấu trúc của luận án ........................................................................................... 7
Chương 1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ…………………………..9
1.1. Phê bình cổ mẫu: từ cách tiếp cận tâm lí-huyền thoại đến cách tiếp cận
lịch sử-xã hội .......................................................................................................... 9
1.1.1. Cách tiếp cận tâm lí-huyền thoại .................................................................. 9
1.1.2. Cách tiếp cận lịch sử-xã hội ........................................................................ 13
1.2. Nghiên cứu tiểu thuyết John Steinbeck ..................................................... 17
1.2.1. Nghiên cứu tiểu thuyết John Steinbeck trên thế giới .................................. 17
1.2.2. Nghiên cứu tiểu thuyết John Steinbeck ở Việt Nam .................................. 22
1.3. Nghiên cứu cổ mẫu trong tiểu thuyết John Steinbeck ............................. 26
1.3.1. Nghiên cứu cổ mẫu trong tiểu thuyết John Steinbeck trên thế giới ........... 26
1.3.2. Nghiên cứu cổ mẫu trong tiểu thuyết John Steinbeck ở Việt Nam ............ 32
Tiểu kết ................................................................................................................. 34
Chương 2. CỔ MẪU MẸ VÀ SỰ TÁI LẬP BẢN SẮC NỮ TÍNH TRONG
TIỂU THUYẾT JOHN STEINBECK………………………………………...36
2.1. Cổ mẫu mẹ trong văn hóa dân gian ........................................................... 36
2.2. Biến thể của cổ mẫu mẹ trong tiểu thuyết John Steinbeck ...................... 38
2.2.1. Mẹ hiền ....................................................................................................... 38
2.2.2. Mẹ dữ .......................................................................................................... 55
2.3. Sự tái lập bản sắc nữ tính trong truyền thống văn học nam tính ........... 60
2.3.1. Truyền thống nam tính trong văn học Mỹ .................................................. 60
2.3.2. Sự tái lập bản sắc nữ tính trong tiểu thuyết John Steinbeck ....................... 63
Tiểu kết ................................................................................................................. 72
Chương 3. CỔ MẪU ANH HÙNG VÀ DẤU ẤN GIẢI HUYỀN THOẠI
TRONG TIỂU THUYẾT JOHN STEINBECK……………………………...74
3.1. Cổ mẫu anh hùng trong văn hóa dân gian ................................................ 74
3.2. Cấu trúc của cổ mẫu anh hùng trong tiểu thuyết John Steinbeck qua các
motif nhiệm vụ căn bản ...................................................................................... 78
3.2.1. Tìm kiếm miền đất hứa ............................................................................... 79
3.2.2. Xác lập bản sắc ........................................................................................... 83
3.3. Biến thể của cổ mẫu anh hùng trong tiểu thuyết John Steinbeck ........... 91
3.3.1. Anh hùng với sứ mệnh thiết lập các giá trị đức tin mới ............................. 91
3.3.2. Anh hùng thuộc về cộng đồng thiểu số ...................................................... 93
3.4. Giải huyền thoại người hùng và “giấc mơ Mỹ” ........................................ 97
3.4.1. Phương thức giải huyền thoại trong tiểu thuyết John Steinbeck ................ 97
3.4.2. Giải huyền thoại người hùng qua sự kiến tạo motif anh hùng bi kịch ..... 100
3.4.3. Giải huyền thoại “giấc mơ Mỹ” qua sự kiến tạo motif những vùng đất hứa
sụp đổ .................................................................................................................. 106
Tiểu kết ............................................................................................................... 113
Chương 4. CỔ MẪU ĐẤT, NƯỚC VÀ DIỄN NGÔN SINH THÁI TRONG
TIỂU THUYẾT JOHN STEINBECK………………………………………115
4.1. Cổ mẫu đất và nước trong văn hóa dân gian .......................................... 115
4.2. Biến thể của cổ mẫu đất và nước trong tiểu thuyết John Steinbeck ..... 118
4.2.1. Khát vọng sinh tồn và tình yêu đất đai của con người qua cổ mẫu đất .... 118
4.2.2. Sự hủy diệt và niềm hi vọng tái sinh qua cổ mẫu nước ............................ 122
4.3. Diễn ngôn sinh thái trong tiểu thuyết John Steinbeck qua cổ mẫu đất
và nước .............................................................................................................. 128
4.3.1. Khủng hoảng sinh thái và số phận con người trong thời đại kĩ trị ........... 128
4.3.2. Sự sụp đổ ý thức sinh thái trong thời đại kĩ trị ......................................... 133
4.3.3. Tinh thần Đông phương trong khôi phục giao ước giữa con người và tự
nhiên ................................................................................................................... 139
Tiểu kết ............................................................................................................... 147
KẾT LUẬN……………………………………………………………………149
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ…………………154
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………….155
PHỤ LỤC……………………………………………………………………...165
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong những khuynh hướng nghiên cứu văn học hiện nay, xu hướng xem xét
tác phẩm văn học trong mối quan hệ với nhiều lĩnh vực liên quan như văn hóa, lịch
sử, xã hội, chính trị, tâm lí, giới tính tỏ ra năng động, thiết thực, tương thích với xu
thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế. Ở địa hạt này, phê bình cổ mẫu - hướng nghiên
cứu văn học từng phát triển nở rộ và có nhiều đóng góp to lớn ở thế kỉ XX - vẫn
tiếp tục giữ vững vị thế quan trọng của nó trên hành trình khám phá thế giới văn
chương. Nhận ra những hạn chế của phương pháp tiếp cận tâm lí học trong quá
trình thăm dò kho cổ mẫu, cụ thể là tính khái quát hóa của nó, các nhà nghiên cứu
đã ứng dụng phương pháp tiếp cận lịch sử-xã hội (socio-historical approaches) để
giải mã những bí ẩn và chiều sâu văn hóa của các cổ mẫu được tái sinh trong các
nền văn học cổ đại, trung đại, hiện đại và hậu hiện đại. Mục tiêu của phương pháp
tiếp cận này là “xem xét các khía cạnh khác nhau của một mẫu hình ký ức nguyên
thuỷ của nhân loại đã hoạt động như thế nào trong phạm vi chính trị, xã hội và văn
hóa rộng lớn hơn” [1,52] bất kể thời đại nào. Kết quả là “bối cảnh xung quanh một
cổ mẫu cụ thể trở thành chủ đề chính của nghiên cứu nhằm hướng đến mục tiêu
hiểu biết sâu sắc hơn về vấn đề nguồn gốc, quá trình phát triển và các hiện thể được
tái sinh đa dạng” [1,52] trong các tác phẩm, thể loại văn học ở mọi miền không
gian và thời gian. Như thế, bằng cách tiếp cận lịch sử-xã hội, thế giới cổ mẫu muôn
màu trong kho tàng văn chương nhân loại hiện lên không phải như những vết tích
đóng băng và khép kín, ngược lại, là một yếu tố văn hóa năng động, thích ứng và
chuyển biến liên tục cùng với bối cảnh xã hội và thời đại.
John Steinbeck (1902-1968) là nhà văn Mỹ nổi tiếng trên văn đàn thế giới với
Của chuột và người (1937), Chùm nho phẫn nộ (1939), Phía đông vườn địa đàng
(1952). Cùng với F. Scott Fitzgerald, William Faulkner và Ernest Hemingway,
John Steinbeck được xem là một trong bốn tiểu thuyết gia ra đời vào thời điểm
chuyển giao giữa hai thế kỉ và đã góp phần định hình nước Mỹ hiện đại [2]. Trong
nửa đầu thế kỉ XX, nước Mỹ và thế giới đã trải qua nhiều biến động bao gồm cả
sự thịnh vượng lẫn suy thoái, đó là hai cuộc Thế chiến 1914-1918 và 1939-1945,
Đại suy thoái 1929-1933 và những vấn nạn về môi trường. Sinh ra và lớn lên trong
bối cảnh lịch sử đặc biệt đó, John Steinbeck đã chứng kiến những bất ổn và đổi
2
thay lớn lao của đất nước, thấu hiểu những bi kịch hiện sinh của con người. Bằng
cảm quan nhạy bén, nhà văn đã nhịp bước cùng thời đại với một sự nghiệp sáng
tác dày dặn, gồm nhiều thể loại: tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch, phóng sự, du kí.
Nổi bật trong sự nghiệp sáng tác đồ sộ và nhiều màu sắc của John Steinbeck là tiểu
thuyết, thể loại chiếm vị thế vượt trội, mang đậm hơi thở huyền thoại và gắn bó
với những người lao động nghèo khổ, những thân phận bên lề xã hội Hoa Kỳ văn
minh và hiện đại. Bối cảnh lịch sử xã hội đặc biệt và tố chất của một nghệ sĩ thiên
tài đã hình thành bản sắc của John Steinbeck và những tác phẩm của ông với những
câu hỏi không bao giờ cũ về quyền lực và nghèo đói, chủ nghĩa cá nhân và cộng
đồng trong sự cảnh báo xen lẫn hi vọng [2]. Vì vậy, năm 1962, Viện Hàn lâm Thụy
Điển đã trao tặng giải Nobel văn chương cho nhà văn John Steinbeck, người đã
dám “phơi bày sự thật với một bản năng không thiên vị về những gì đích thực là
Mỹ dù tốt đẹp hay xấu xa” [3], như một sự ghi nhận cao nhất về những đóng góp
và vị trí quan trọng của ông trong nền văn học thế giới.
Là một bộ phận của văn hóa phương Tây, ngoài các giá trị cốt lõi, văn hóa Mỹ
còn có những đặc trưng gắn liền với tiến trình lập quốc, mà nét căn bản là một nền
văn hóa đa dạng, thống nhất từ những nền văn hóa khác biệt. Tuy nhiên, điều này
cũng chính là căn nguyên dẫn tới những cuộc xung đột, bất ổn và thỏa hiệp xuyên
suốt tiến trình lập quốc của nước Mỹ. Vấn đề mang tính quốc gia, dân tộc này đều
được các nhà văn Mỹ đề cập theo nhiều phong cách khác nhau trong các tác phẩm
của họ. Trong đó, John Steinbeck không phải là trường hợp ngoại lệ. Nhà văn đã
tiếp biến các yếu tố huyền thoại phương Tây, huyền thoại bản địa và huyền thoại
quốc gia để phản ánh những vấn đề nội tại của nước Mỹ trong nhiều tiểu thuyết
giàu sức gợi của ông. Như thế, điều khiến John Steinbeck thực sự quan tâm là tâm
hồn người Mỹ, là sự kiện nước Mỹ hiện đại hóa nhanh chóng vươn lên trở thành
cường quốc trên thế giới nhưng ngay sau đó là thời kì Đại suy thoái và mặt trái của
nền văn minh hiện đại đã hủy hoại đời sống của những tầng lớp dưới đáy/bên lề xã
hội. Nhưng hơn hết, nhìn vào hành trình văn chương của nhà văn người Mỹ này,
có thể nhận thấy, điều khiến cho sáng tác của ông có sức sống lâu bền chính là vì
những vấn đề văn hóa của người Mỹ được thể hiện bằng phương thức huyền thoại
hóa. Vì vậy, tiểu thuyết của John Steinbeck mặc dù từng gây ra nhiều luồng ý kiến
trái chiều, từng bị ngăn cấm phát hành, thậm chí bị chỉ trích là “những tác phẩm
3
của một thời”, “không có chút giá trị ngoài mục đích tuyên truyền tư tưởng” [4,41],
“nhân vật và tư tưởng khá sơ lược” [5,631], song sự thật là cho đến nay, những tác
phẩm ấy vẫn được bạn đọc ở khắp mọi nơi trên thế giới đón nhận, là đối tượng
nghiên cứu của nhiều học giả từ Đông sang Tây. Hơn nữa, những chủ đề mà nhà
văn đã theo đuổi là những vấn đề nhức nhối mà thế giới đương đại vẫn đang phải
đối mặt và những gương mặt ấn tượng trong thế giới nghệ thuật của ông vẫn hiện
diện đâu đó trong cuộc sống hôm nay. Khi nghiên cứu tác phẩm của John
Steinbeck, Tetsumaro Hayashi tự hỏi: “Tại sao chúng ta vẫn chú ý tiểu thuyết của
Steinbeck, những tác phẩm gần như là chỉ nói về các sự kiện của một thời đại?”
[6,41]. Thiết nghĩ trong nhiều căn nguyên thì việc John Steinbeck sử dụng một
cách vừa bản năng vừa sáng tạo các cổ mẫu, biểu tượng, motif cổ xưa để phản ánh
những vấn đề thời đại và muôn thuở của nước Mỹ và người Mỹ, rộng hơn là của
toàn nhân loại, chính là điều làm nên sức sống bền lâu và giá trị vĩnh hằng của tiểu
thuyết John Steinbeck.
Một số học giả nghiên cứu tiểu thuyết của John Steinbeck ngay từ thời kì đầu
đã sớm nhận ra các yếu tố huyền thoại cổ điển trong sáng tác của văn hào người
Mỹ này mặc dù vào thời điểm đó, hầu hết giới phê bình và bạn đọc đều hướng sự
quan tâm của họ vào giá trị hiện thực và ý nghĩa đấu tranh xã hội. Từ đó đến nay,
nghiên cứu tiểu thuyết John Steinbeck trở thành một địa hạt hấp dẫn và thách thức
nhiều học giả trên khắp mọi miền thế giới khi những sáng tác của nhà văn này vẫn
tỏ ra phù hợp với bối cảnh đương đại. Vì thế, để góp phần khám phá những vẻ đẹp
kì diệu trong thế giới nghệ thuật và tư tưởng của tiểu thuyết John Steinbeck và
đóng góp cho quá trình nghiên cứu, giảng dạy văn học Mỹ ở Việt Nam, chúng tôi
sử dụng phối hợp các phương pháp tiếp cận khả dụng của phê bình cổ mẫu nhằm
khái quát hóa, hệ thống hóa và giải mã những cổ mẫu điển hình được tái sinh trong
các tác phẩm của văn hào người Mỹ này. Nghiên cứu tiểu thuyết John Steinbeck
từ lí thuyết phê bình cổ mẫu, một mặt chỉ ra lớp trầm tích văn hóa ẩn sâu trong mỗi
cổ mẫu, những mẫu số chung của cổ mẫu trong tiểu thuyết John Steinbeck và mẫu
gốc nguyên thủy, mặt khác tìm kiếm những ý nghĩa phái sinh, phản đề được hình
thành dưới tác động của bối cảnh lịch sử xã hội đặc biệt của nước Mỹ.
Với những lí do trên, chúng tôi lựa chọn: Cổ mẫu trong tiểu thuyết John
Steinbeck làm đề tài nghiên cứu cho luận án tiến sĩ của mình.
4
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Với đề tài Cổ mẫu trong tiểu thuyết John Steinbeck, luận án đặt ra những mục
tiêu nghiên cứu như sau:
Thứ nhất, giới thuyết lí thuyết phê bình cổ mẫu. Chứng minh tính ưu việt của
lí thuyết phê bình cổ mẫu trong nghiên cứu văn học, góp phần vào các nghiên cứu
văn hóa, nghiên cứu liên ngành.
Thứ hai, tổng quan về những nghiên cứu có liên quan đến vấn đề cổ mẫu trong
tiểu thuyết John Steinbeck, từ đó kế thừa và phát triển những kết quả đã có để tìm ra
đặc trưng cổ mẫu trong tác phẩm của nhà văn.
Thứ ba, chỉ ra những điểm gặp gỡ giữa mô hình phổ quát của các cổ mẫu trên
thế giới tương ứng với các cổ mẫu xuất hiện trong tác phẩm của nhà văn và lí giải
cội nguồn sáng tạo tiểu thuyết John Steinbeck từ Kinh Thánh, thần thoại Hi Lạp
và văn học phương Tây. Đồng thời, luận án cũng phân tích những điểm khác lạ,
mới mẻ của các cổ mẫu này được quy định bởi đặc trưng văn hóa Mỹ. Từ đó, luận
án sẽ trình bày sự xung đột giữa hệ cổ mẫu của John Steinbeck với các hệ giá trị
phổ biến.
Thứ tư, minh giải cổ mẫu trong tiểu thuyết John Steinbeck, luận án khám phá
giá trị của các cổ mẫu trong việc thể hiện chủ đề, tư tưởng cũng như quan niệm
nghệ thuật về thế giới và con người của Steinbeck; xác định những nét đặc sắc
nghệ thuật tiểu thuyết John Steinbeck; khẳng định vị trí và đóng góp của nhà văn
đối với nền văn học Mỹ và văn học thế giới.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được những mục tiêu nghiên cứu trên, luận án xác định các nhiệm vụ
nghiên cứu sau đây:
Thứ nhất, xác lập khái niệm cổ mẫu, lịch sử hình thành và phát triển của phê
bình cổ mẫu, nội dung và khuynh hướng nghiên cứu cơ bản của trường phái này ở
phương Tây thế kỉ XX, hướng tiếp cận cổ mẫu đương đại.
Thứ hai, khảo sát, thống kê, phân tích các tài liệu nghiên cứu tiếng Anh để chỉ
ra những khuynh hướng nghiên cứu về John Steinbeck trên thế giới, những kết quả
nghiên cứu về cổ mẫu trong tác phẩm của John Steinbeck; điểm lại các bài viết,
công trình bằng tiếng Việt có liên quan đến đề tài nghiên cứu.
5
Thứ ba, khảo sát, nhận diện, phân tích và minh giải đặc trưng của những cổ
mẫu điển hình trong tiểu thuyết John Steinbeck. Luận án tập trung vào các cổ mẫu
tiêu biểu gắn với đặc trưng nổi bật của chúng, đó là: cổ mẫu mẹ và sự tái lập bản
sắc nữ tính, cổ mẫu anh hùng và dấu ấn giải huyền thoại, cổ mẫu đất, nước và diễn
ngôn sinh thái.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là cổ mẫu trong tiểu thuyết John Steinbeck.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
3.2.1. Phạm vi văn bản khảo sát
John Steinbeck là một nhà tiểu thuyết ưa thích khám phá, thể nghiệm và có
một sự nghiệp sáng tác đồ sộ. Trong luận án này, phạm vi văn bản khảo sát là 8
tiểu thuyết nổi bật được sáng tác trong nửa đầu thế kỉ XX của nhà văn, bao gồm:
To a God Unknown/Gửi vị thần chưa biết (Bantam Books Inc., 1933), In Dubious
Battle/Trong trận chiến mơ hồ (Random House, 1936), East of Eden/Phía đông
vườn địa đàng (Penguin Books, 2014), Thị trấn Tortilla Flat (Lâm Vũ Thao dịch,
Nxb Trẻ, 2014), Phố Cannery Row, Của chuột và người (Phạm Văn dịch, Nxb Hội
nhà văn, 2018), Viên ngọc trai (Đặng Việt Hưng dịch, Nxb Hội nhà văn, 2020),
Chùm nho phẫn nộ (Phạm Thủy Ba dịch, Nxb Văn học, 2020). Ngoài ra, luận án
sử dụng một số chi tiết trong bản dịch Phía đông vườn địa đàng của dịch giả Đinh
Văn Quý (Nxb Văn hóa Thông tin, 2003).
Trong quá trình thực hiện luận án, chúng tôi không những không tách biệt các
tác phẩm này mà còn xem xét vấn đề nghiên cứu ở những tác phẩm khác của John
Steinbeck để vừa tìm hiểu sâu vừa đảm bảo tính bao quát, hệ thống. Từ đó, luận án
chỉ ra những nét đặc sắc của thế giới cổ mẫu trong tiểu thuyết John Steinbeck.
3.2.2. Phạm vi nội dung nghiên cứu
Thế giới cổ mẫu trong tiểu thuyết John Steinbeck rất phong phú và đa dạng.
Trong phạm vi của luận án, chúng tôi tìm hiểu tiểu thuyết John Steinbeck từ góc
nhìn phê bình cổ mẫu, cụ thể là nghiên cứu các cổ mẫu điển hình: cổ mẫu mẹ, cổ
mẫu anh hùng, cổ mẫu đất, cổ mẫu nước và khám phá sự tái sinh của các cổ mẫu
này trong bối cảnh lịch sử xã hội Mỹ nửa đầu thế kỉ XX.
4. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
6
4.1. Cách tiếp cận
Trên nền tảng các nghiên cứu về văn học, văn hóa, lịch sử xã hội, luận án sử
dụng lí thuyết phê bình cổ mẫu, kết hợp cách tiếp cận tâm lí-huyền thoại với cách
tiếp cận lịch sử-xã hội.
- Cách tiếp cận tâm lí-huyền thoại: khảo sát các tiểu thuyết của John Steinbeck,
chọn lọc và hệ thống các motif, biểu tượng thường xuyên được lặp lại; xác định
các cổ mẫu và tìm hiểu ý nghĩa phổ quát của chúng trong tâm thức nhân loại nói
chung và minh định ý nghĩa của các cổ mẫu trong tiểu thuyết John Steinbeck. Cách
tiếp cận này dựa trên nền tảng nhân học, tâm lí học, tôn giáo để khám phá sự kế
thừa những huyền thoại, cổ mẫu từ Kinh Thánh, thần thoại Hi Lạp, văn học phương
Tây trong tiểu thuyết John Steinbeck.
- Cách tiếp cận lịch sử-xã hội: xem xét vai trò của các sự kiện lịch sử, xã hội,
hệ thống chính trị, chủng tộc, giới tính đối với sự tái sinh các cổ mẫu trong tiểu
thuyết John Steinbeck. Cách tiếp cận lịch sử-xã hội chú trọng mối quan hệ giữa
văn bản văn học và lịch sử xã hội của tác giả cũng như cộng đồng của anh ta. Do
đó, việc sử dụng cách tiếp cận này sẽ giúp chúng tôi lí giải sự xung đột giữa hệ cổ
mẫu của John Steinbeck với các mẫu hình ban đầu, các hệ giá trị phổ quát.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận án, trên cơ sở phương pháp luận nghiên cứu khoa học xã
hội và nhân văn, luận án kết hợp nhiều phương pháp và thao tác nghiên cứu. Luận
án chú trọng các phương pháp sau:
- Phương pháp liên ngành: được sử dụng xuyên suốt luận án để khám phá cổ
mẫu trong tiểu thuyết John Steinbeck trên nền tảng kết hợp kết quả nghiên cứu từ
các lĩnh vực đa dạng của khoa học xã hội và nhân văn như văn học, văn hóa, lịch
sử, triết học, tôn giáo, ngôn ngữ học, tâm lí học.
- Phương pháp cấu trúc - hệ thống: được dùng để khảo sát, sắp xếp hệ thống
cổ mẫu trong tiểu thuyết John Steinbeck, đồng thời khi phân tích các phương diện
biểu hiện của hệ thống cổ mẫu đó, luận án không xem xét vấn đề theo hướng cô
lập mà đặt trong hệ thống để xác định đặc trưng cổ mẫu và phong cách tiểu thuyết
John Steinbeck.
- Phương pháp so sánh lịch sử: được dùng để tái thiết những gì đã suy tàn hoặc
biến mất của một nền văn hóa, văn học; đối chiếu các sự kiện lịch sử để truy tìm
7
nguồn gốc văn hóa, lịch sử và giải thích quá trình tái sinh cổ mẫu trong tiểu thuyết
John Steinbeck.
- Phương pháp phê bình tiểu sử: được dùng để nghiên cứu tiểu thuyết John
Steinbeck trong mối quan hệ với cuộc đời của nhà văn, tìm kiếm những chi tiết
tiểu sử đặc biệt ảnh hưởng đến tư tưởng và sáng tác của John Steinbeck.
Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, luận án còn sử dụng các thao tác nghiên
cứu khoa học khác, cụ thể như: so sánh đối chiếu, phân tích tổng hợp, bình giải,
khảo sát văn bản, khảo cứu và biên dịch tư liệu, thống kê phân loại các cổ mẫu
trong tiểu thuyết John Steinbeck.
5. Đóng góp của luận án
Luận án là công trình tiếng Việt đầu tiên nghiên cứu cổ mẫu trong tiểu thuyết
John Steinbeck. Kết quả khoa học của luận án mở ra hướng diễn giải, phân tích
một cách hệ thống và chuyên sâu về cổ mẫu trong tiểu thuyết John Steinbeck. Kết
quả của luận án là cơ sở quan trọng để khẳng định những điểm kế thừa và cách tân
của John Steinbeck ở thể loại tiểu thuyết.
Luận án giải quyết thành công một số vấn đề mới trong nghiên cứu tiểu thuyết
John Steinbeck: nhận diện, lí giải những ảnh hưởng của bối cảnh lịch sử-xã hội
đến cách nhà văn tái sinh các cổ mẫu; chỉ ra vai trò của hệ thống cổ mẫu trong việc
kiến tạo nên giá trị nghệ thuật và tính nhân văn của tiểu thuyết John Steinbeck, cho
thấy ý nghĩa và tầm ảnh hưởng của hệ thống cổ mẫu này trong cuộc đối thoại với
các mẫu gốc, các giá trị phổ quát và công cuộc định hình bản sắc văn hóa Mỹ
đương đại.
Việc nghiên cứu tiểu thuyết John Steinbeck dưới góc độ cổ mẫu góp phần cung
cấp một phương thức mới trong hành trình khám phá đặc sắc tiểu thuyết John
Steinbeck và sáng tác của các nhà văn khác, đem đến những hiểu biết căn bản và
toàn diện về các yếu tố nguyên bản cổ xưa của nhân loại và bản sắc văn hóa Mỹ
trong tiểu thuyết John Steinbeck. Luận án là tài liệu tham khảo hữu ích cho những
ai quan tâm tìm hiểu cổ mẫu văn chương, tiểu thuyết John Steinbeck và văn hóa Mỹ.
6. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận án được
triển khai thành 4 chương:
Chương 1: Tổng quan nghiên cứu vấn đề
8
Chương 2: Cổ mẫu mẹ và sự tái lập bản sắc nữ tính trong tiểu thuyết John
Steinbeck
Chương 3: Cổ mẫu anh hùng và dấu ấn giải huyền thoại trong tiểu thuyết John
Steinbeck
Chương 4: Cổ mẫu đất, nước và diễn ngôn sinh thái trong tiểu thuyết John
Steinbeck
9
Chương 1.
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Khởi nguồn từ tâm lí học và nhân học, phê bình cổ mẫu, một nhánh của phê
bình huyền thoại có nội hàm rộng lớn hơn, đã có nhiều đóng góp quan trọng cho
lĩnh vực nghiên cứu văn học thế kỉ XX. Bằng cách trở về với văn bản, tìm kiếm
những mẫu hình cổ xưa thường xuyên được lặp lại thông qua các biểu tượng, nhân
vật, motif, khuynh hướng nghiên cứu này đã mở ra cánh cửa bước vào thế giới tinh
thần phong phú của nhân loại, đồng thời tiết lộ khả năng bồi đắp khu vườn cổ mẫu
của mỗi nhà văn qua các thời kì. Được ghi nhận như là “một người khổng lồ của nền
văn học Mỹ” [7], John Steinbeck và những tác phẩm của ông là đối tượng nghiên
cứu của đông đảo các nhà phê bình trên thế giới và Việt Nam. Do đó, lịch sử nghiên
cứu sáng tác của nhà văn người Mỹ này đã có một phả hệ lâu dài và phong phú.
Trong phần tổng quan, chúng tôi tiến hành khái lược lí thuyết phê bình cổ mẫu, đồng
thời tổng thuật, phân tích các công trình nghiên cứu, bài viết về tiểu thuyết John
Steinbeck và cổ mẫu trong tiểu thuyết John Steinbeck ở Việt Nam và trên thế giới.
1.1. Phê bình cổ mẫu: từ cách tiếp cận tâm lí-huyền thoại đến cách tiếp
cận lịch sử-xã hội
Phê bình cổ mẫu (Archetypal Criticism) là một khuynh hướng nghiên cứu lớn
trong lịch sử nghiên cứu văn học, bắt đầu phát triển vào những năm 1930 -1940 và
đạt đến đỉnh cao vào những năm 50, 60 của thế kỉ XX. Chiến lược phê bình này là
trở về với văn bản, tìm ra những tác phẩm gần gũi hoặc tương tự ở mọi nơi trên thế
giới để hiểu rõ sự tái sinh của những nhân vật, kiểu trần thuật và motif cổ mẫu nhất
định. Lược sử phê bình cổ mẫu cho thấy có nhiều cách tiếp cận cổ mẫu tùy thuộc
góc nhìn của người nghiên cứu. Trong đó, có thể xem cách tiếp cận tâm lí-huyền
thoại, kết hợp giữa lí thuyết của Jung và Frye, là xu hướng nổi trội của phê bình cổ
mẫu thời kì đầu. Tuy nhiên, vào cuối thế kỉ XX và đầu thế kỉ XXI, các nhà nghiên
cứu dần nhận ra những điểm hạn chế của cách tiếp cận này, do đó, hướng đến kết
hợp với phương pháp tiếp cận lịch sử-xã hội để khám phá cổ mẫu cả bề rộng lẫn
bề sâu.
1.1.1. Cách tiếp cận tâm lí-huyền thoại
Cổ mẫu (archetype) là một thuật ngữ có nguồn gốc từ tiếng Hi Lạp cổ, được
10
hiểu là những mẫu hình ban đầu, thường được sao chép, mô phỏng, bắt chước về
sau. Ý nghĩa này được tạo nên từ những gốc từ của nó, đó là: “arkhe” mang nghĩa
“khởi đầu, nguồn gốc, vị trí đầu tiên” và “typos” mang nghĩa “khuôn mẫu, mô hình
hoặc kiểu mẫu” [8]. Trong tiếng Việt, thuật ngữ archetype được chuyển dịch bằng
nhiều cách khác nhau: cổ mẫu, mẫu gốc, nguyên mẫu, siêu mẫu, mẫu tượng, mẫu
cổ, sơ nguyên tượng... Tuy vậy, thuật ngữ này vẫn được thống nhất trong cách hiểu
của giới nghiên cứu như là một yếu tố xuất hiện từ thời cổ xưa và trở thành mẫu số
chung cho kinh nghiệm tinh thần của nhân loại.
Ngay từ thời cổ đại, với quan điểm “con người có khả năng hòa nhập về tinh
thần vào thế giới lí tưởng”, Platon đã đề xuất khái niệm idea, một trong ba khái
niệm then chốt của học thuyết Platon, chỉ “những thực tại ở thế giới thứ nhất, ngoài
cửa hang. Những idea này có tính phi vật chất nhưng tồn tại khách quan và vĩnh
cửu” [9]. Khái niệm idea của Platon đã khơi gợi cho Carl Jung, nhà tâm lí học
người Thụy Sĩ, đề xuất cổ mẫu, một trong những ý tưởng quan trọng và nổi bật
trong lí thuyết tâm lí học phân tích của ông. Khái niệm này gắn liền với lí thuyết
nổi tiếng của Jung về vô thức tập thể. Quá trình hình thành lí thuyết cổ mẫu được
Jung khởi đầu từ năm 1912, đánh dấu sự chia rẽ giữa ông và Sigmund Freud, vốn
là thầy của Jung. Đây cũng là thời điểm Jung bắt đầu theo đuổi hướng nghiên cứu
độc lập về tâm lí học chuyên sâu. Các khái niệm, ý tưởng về cổ mẫu của Jung được
tập hợp trong cuốn Archetypes and the Collective Unconscious (Cổ mẫu và vô thức
tập thể, 1981) [10]. Theo đó, lí thuyết của Jung phân chia tâm lí con người thành
ba cấp độ: ý thức cá nhân (ego), vô thức cá nhân (personal unconscious) và vô thức
tập thể (collective unconscious). Trong đó, vô thức tập thể là yếu tố tâm lí làm nổi
bật học thuyết của Jung so với các nhà tâm lí học khác. Jung “chọn hạng từ ‘tập
thể’ (collective) vì phần này của vô thức không mang tính cá thể mà phổ quát; trái
ngược với tinh thần cá nhân, nó có những nội dung và kiểu hành vi gần như có mặt
ở khắp nơi, trong mọi cá thể. Nói cách khác, nó giống nhau ở tất cả mọi người, và
do đó cấu thành nên một chất nền tinh thần chung của bản tính siêu nhiên hiện diện
trong mỗi chúng ta” [11]. Nội dung của vô thức tập thể được ông gọi tên là những
cổ mẫu.
Như thế, Jung là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ “cổ mẫu” để “chỉ ‘những
hình ảnh nguyên thủy’ và ‘dư lượng tâm linh’ của các nguyên mẫu được lặp đi lặp
11
lại trong vô thức tập thể của nhân loại và được thể hiện trong huyền thoại, tôn giáo,
giấc mơ và mơ mộng cá nhân, cũng như trong các tác phẩm văn học” [12,16]. Theo
ông, cổ mẫu tái xuất hiện trong tiến trình lịch sử nhân loại ở bất cứ nơi đâu có hoạt
động sáng tạo. Nó lay động mỗi chúng ta bởi vì “nó khơi dậy trong ta một giọng
nói to hơn giọng nói của chính ta” [13,599]. Đó là giọng nói của tổ tiên, của vô
thức tập thể được lắng đọng qua bao thế hệ. Có thể nói, phải đến Jung cổ mẫu mới
được xác lập như một thuật ngữ tâm lí học. Trong Thăm dò tiềm thức, ông tái khẳng
định rằng: cổ mẫu “là những yếu tố tâm thần không thể cắt nghĩa được bằng một
sự việc xảy ra trong đời sống... Nó hình như bẩm sinh đã có, có từ nguyên thủy, nó
là một thành phần trong gia tài tinh thần nhân loại” [14,95-96]. Ông cũng nhấn
mạnh tính chất ban sơ, nguyên thủy của cổ mẫu như là những nội dung vô thức tập
thể hiện hữu trong “những hình thức cổ xưa, hoặc đúng hơn là những hình thức
nguyên thủy, tức là những hình ảnh chung tồn tại từ những thời đại xa xưa nhất”
[15,78]. Cũng theo Jung, mặc dù “thoát thai từ vô thức tập thể” song cổ mẫu vẫn
“có tính tự trị” của nó. Điều này có nghĩa là “cổ mẫu không bó mình vĩnh viễn
trong vô thức cộng đồng, như là cái có sẵn, mà nó luôn vận động, do những xung
năng nội tại, nhằm phát triển trong xu hướng chống lại sự kiểm soát của ý thức”
[DT 16]. Như vậy, những nghiên cứu của Jung đã tiết lộ rằng: cổ mẫu có nguồn
cội từ xa xưa, nảy nở trong khu vườn vô thức tập thể, chứa đựng kí ức của cộng
đồng, chúng mang tính bẩm sinh và tự trị. Ông cũng cho biết ứng với mỗi một
trạng thái của con người sẽ có một cổ mẫu tương ứng, chẳng hạn như cổ mẫu Mẹ
(Mother), Tái sinh (Rebirth), Tinh thần (Spirit), Kẻ lừa lọc (Trickster)... do đó, số
lượng cổ mẫu là vô tận [17]. Cùng với vô thức tập thể, cổ mẫu là một trong những
chất liệu quan trọng để Jung “vẽ bản đồ tâm hồn con người” như Murey Stein từng
nhận định. Tóm lại, trong lí thuyết tâm lí học phân tích của Jung, cổ mẫu mang
tính phổ quát, tự trị và căn bản. Bất kì nền văn hóa hay giai đoạn lịch sử nào cũng
đều chia sẻ những mô hình cổ mẫu phổ biến.
Những “luận điểm tràn đầy cảm hứng khai phá” [16] của Jung về cổ mẫu đã
mở ra hướng tiếp cận tâm lí học, định hình lí thuyết phê bình cổ mẫu và gợi hứng
cho rất nhiều nhà nghiên cứu về sau. Nhiều nhà phê bình như Maud Bokin, Joseph
Campbell, Gaston Bachelard, Northrop Frye đã phát triển lí thuyết của Jung về vô
thức tập thể và cổ mẫu để khám phá các tác phẩm văn chương. Trong đó, Northrop
12
Frye, nhà phê bình thần thoại người Canada, là người có công rất lớn đối với việc
xác lập lí thuyết phê bình cổ mẫu khi mở rộng nội hàm thuật ngữ cổ mẫu của Jung
bằng cách xem xét nó từ góc nhìn huyền thoại học. Công trình khoa học có sức ảnh
hưởng lớn của Frye, Anatomy of Criticism (Giải phẫu văn chương), gồm có bốn
tiểu luận: phê bình lịch sử, phê bình đạo đức, phê bình cổ mẫu và phê bình thể loại.
Trong đó, tiểu luận thứ nhất gắn với các lí thuyết về thức (mode), tiểu luận thứ hai
bàn về các biểu tượng làm tiền đề cho nghiên cứu cổ mẫu, tiểu luận thứ ba đề cập
đến các huyền thoại, tiểu luận thứ tư nghiên cứu cách thức để tác giả và văn bản
giao tiếp với độc giả hay khán giả [18]. Frye đề xuất rằng toàn bộ các tác phẩm
văn học tạo thành một “thế giới văn chương độc lập” được tạo ra qua các thời đại
bằng trí tưởng tượng của nhân loại để đồng hóa thế giới xa lạ và thờ ơ của tự nhiên
thành những loại cổ mẫu, đáp ứng những mong muốn và nhu cầu dài lâu của con
người. Trong thế giới văn chương này, bốn cổ mẫu thần thoại cơ bản tương ứng
với bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông và bốn thể loại chủ yếu: hài kịch, truyện hư cấu,
bi kịch, châm biếm. Như bản chất của chu kì tự nhiên, các mô thức tự sự này cũng
vận động theo chu kì tuần hoàn, sống và chết, bốn mùa trong năm, bốn giai đoạn
của đời người [19]. Khi xem xét mối quan hệ giữa huyền thoại và văn học, Frye
phát hiện sự lặp lại của các cấu trúc hoặc ngữ cảnh và nhận định rằng văn học là
huyền thoại được tái cấu trúc thông qua những cổ mẫu thần thoại liên tục được tái
sinh và làm mới trong các mô thức tự sự khác nhau [13]. Nhìn từ cổ mẫu, Frye cho
rằng vũ trụ văn chương không hoàn toàn quá tự trị và cô lập. “Văn học giữ vai trò
chủ yếu trong việc biến đổi thế giới vật chất thành một thế giới ngôn từ sống động,
dễ nhận thức và lưu lại ấn tượng lâu bền, bởi vì nó đáp ứng những nhu cầu và quan
tâm của con người” [12,17].
Kết hợp quan niệm về cổ mẫu của Jung và Frye, Vũ Minh Đức cho rằng: “Cổ
mẫu, trước hết, là mẫu của những biểu tượng có mối liên hệ chặt chẽ
với vô thức tập thể, là nơi lưu giữ kí ức, kinh nghiệm tập thể của dân tộc và nhân
loại. Cổ mẫu là khuôn mẫu nguyên thủy để từ đó có nhiệm vụ phục vụ cho một
mô hình cụ thể” [20,9]. Theo tổng hợp của Vũ Minh Đức, đặc điểm của cổ mẫu
bao gồm: tính phổ quát nhân loại, tính biểu tượng huyền thoại và tính phái sinh.
Như vậy, cách tiếp cận tâm lí học xem xét cổ mẫu như là sự kết tinh các kinh
nghiệm tinh thần phổ quát nắm giữ vai trò quan trọng trong đời sống tâm hồn nhân
13
loại. Cách tiếp cận huyền thoại học chú trọng tính lặp lại của những kiểu mẫu cổ
xưa để đáp ứng những mong muốn có tính hằng số của con người thuộc các nền
văn hóa cách biệt về không gian lẫn thời gian. Kết hợp cả hai hướng tiếp cận này,
các nhà nghiên cứu đã gặt hái những thành công ban đầu trong việc giải quyết các
câu hỏi về cổ mẫu liên quan đến tâm linh, văn hóa. Tuy nhiên, bản chất của cổ mẫu
vẫn là vấn đề chưa được giới nghiên cứu thống nhất đồng thuận, thậm chí nhiều
cuộc tranh cãi về nó đã nổ ra trên các không gian học thuật uy tín.
1.1.2. Cách tiếp cận lịch sử-xã hội
Khi đề xuất lí thuyết mang tính đột phá của mình, Jung đã bộc lộ sự lúng túng,
mâu thuẫn qua rất nhiều cách thức khác biệt, phức tạp để xác định những gì là cổ
mẫu. Theo tổng hợp của nhà nghiên cứu tâm lí học Jon Mills, điều đó được biểu
hiện qua việc Jung đã đưa ra rất nhiều tên gọi khác nhau, thậm chí trái ngược về
archetype: “Jung gọi cổ mẫu là những ý tưởng bẩm sinh, hình thức, hình ảnh tập
thể, bản năng, tổ chức nhạy cảm, tưởng tượng, cảm xúc, mô hình hành vi và cường
độ định tính như tính chất bí ẩn. Ở những nơi khác trong Collective Works, ông gọi
chúng là những năng lượng tâm linh, thực thể, các lực lượng và cơ quan độc lập tự
tổ chức và có thể tự mình áp đặt một người chống lại ý chí của chính họ. Hơn nữa,
Jung cho rằng tâm trí độc lập với các cổ mẫu, có đặc tính siêu việt, tồn tại bên
ngoài không gian và thời gian do cấu trúc và sự hiện diện siêu nhiên của chúng.
Nhưng Jung cũng gọi cổ mẫu là các khái niệm, giả thuyết, mô hình trải nghiệm và
ẩn dụ khi ông quay về với các ý niệm triết học trước đây của mình dưới nguyên
tắc khoa học” [21,2]. Như vậy, theo Jon Mills, bên cạnh những đóng góp nhất định,
lí thuyết cổ mẫu của Jung vẫn bộc lộ tính chủ quan, thiếu cơ sở khoa học, thậm chí
chỉ đơn thuần là suy đoán lí thuyết. Những đề xướng mâu thuẫn về cổ mẫu của
Jung, do đó, đã dẫn đến những ý kiến tranh luận của các nhà nghiên cứu về bản
chất của cổ mẫu.
Học giả Knox, với công trình Archetype, Attachment, Analysis: Jungian
Psychology and the Emergent Mind (Cổ mẫu, gắn bó, phân tích: Tâm lí học của
Jung và tâm thức hợp trội, 2003), đã cung cấp một cách diễn giải mới về cổ mẫu
dựa trên mô hình phát triển của tâm trí được cấu thành bởi ba yếu tố: trí não, bản
năng và nhận thức. Knox khẳng định rằng mô hình này cho biết cổ mẫu là một
phần của tâm lí tập thể, không có hình ảnh bẩm sinh trong bản thân chúng, nhưng
14
lại tạo ra các kiểu mẫu ý nghĩa được lặp lại thường xuyên [22]. Trong bài viết
Approaching Archetypes: Reconsidering Innateness (Tiếp cận cổ mẫu: Xét lại tính
bẩm sinh, 2010), Goodwyn xem xét tính bẩm sinh của cổ mẫu và dựa trên những
kết quả nghiên cứu di truyền học để chống lại ý tưởng tâm trí chứa những nội dung
bẩm sinh có ý nghĩa quan trọng [23]. Đến năm 2013, nhà nghiên cứu này đã xác
lập một mô hình cổ mẫu trên cơ sở thực nghiệm thay vì chỉ suy đoán lí thuyết trong
bài viết Recurrent Motifs as Resonant Attractor Atates in the Narrative Field: a
Testable Model of Archetype (Các motif lặp lại như là mô hình thu hút trong lĩnh
vực tự sự: một mô hình cổ mẫu thử nghiệm). Theo ông, cổ mẫu của Jung vẫn còn
gây tranh cãi khi giải thích về các motif thường xuyên lặp lại, do sự tồn tại của các
motif không chứng minh được sự hiện hữu của các cổ mẫu. Vì vậy, thách thức đối
với lí thuyết cổ mẫu đương đại không chỉ đơn thuần là giải thích sự tồn tại của các
motif tái xuất hiện, bởi lẽ điều này không bị tranh cãi, mà là chứng minh các cổ
mẫu hiện hữu và tạo ra các motif thường xuyên lặp lại. Goodwyn cho rằng các
motif trong mọi xã hội đều có thể nghiên cứu thực nghiệm trong lĩnh vực tự sự và
chứng minh cho sự xuất hiện của các cổ mẫu bẩm sinh [24]. Do đó, nghiên cứu
của Goodwyn đã đề xuất cách tiếp cận cổ mẫu theo hướng thực nghiệm.
Dưới ánh sáng của di truyền học và khoa học thần kinh, Roesler, trong bài viết
có tựa đề Are Archetypes Transmitted more by Culture than Biology? Questions
arising from Conceptualizations of the Archetype (Cổ mẫu được truyền thừa nhiều
hơn bởi văn hóa hay sinh học? Các vấn đề nảy sinh từ khái niệm cổ mẫu, 2012),
thừa nhận tính chất phổ quát trong khái niệm cổ mẫu, tuy nhiên, cho rằng chưa có
cơ sở khoa học nào để khẳng định mỗi cá nhân đều có thể được kế thừa các mô
hình biểu tượng phức tạp. Roesler gợi mở: “Có thể ký ức của nhân loại, vô thức
tập thể không có chỗ đứng trong sinh học, mà trong văn hóa và xã hội hóa. Nếu
chúng ta thừa nhận rằng việc truyền tải những cổ mẫu phụ thuộc nhiều vào quá
trình tương tác và văn hóa hơn Jung từng nghĩ, chúng ta có thể phát triển các khái
niệm giống như phức hợp văn hóa và kết nối chúng với nghiên cứu được đề cập
đến các cách truyền tải ngầm, một công việc vẫn còn phải được thực hiện. Nhận
thức ngày càng tăng trong các ngành khoa học rằng có các quá trình giao tiếp và
truyền tải ở cấp độ tiềm thức mang đến sự hỗ trợ đáng ngạc nhiên cho khái niệm
của Jung về lĩnh vực vô thức giữa các cá nhân. Theo nghĩa này, chúng ta không
15
được sinh ra với vô thức tập thể, mà chúng ta trở thành nó” [25,242].
Như vậy, cả Knox và Roesler đều cho rằng cổ mẫu được truyền thừa thông
qua các quá trình xã hội nhiều hơn sinh học. Điều này cũng tiết lộ bản chất năng
động, thích ứng với những chuyển biến bên ngoài của cổ mẫu, trái với cách nhìn
cổ mẫu mang tính khái quát hóa, cứng nhắc của giới nghiên cứu trước đây.
The Essence of Archetypes (Bản chất của cổ mẫu, 2018) của Jon Mills đề xuất
một lí thuyết cổ mẫu về tính khác dựa trên logic biện chứng. Trong nghiên cứu
toàn diện này, ông đã phân tích các cuộc tranh luận về cổ mẫu giữa các trường phái
sau đây: chủ nghĩa duy lí với chủ nghĩa kinh nghiệm - xoay quanh vấn đề về tiên
nghiệm với kinh nghiệm; sinh học và văn hóa - xoay quanh vấn đề về tính bẩm
sinh, sự tiến hóa, sự truyền gene với vai trò của môi trường, sự gắn bó, tâm lí học
phát triển, ngôn ngữ, động học xã hội; chủ nghĩa tự nhiên và chủ nghĩa siêu nhiên
- xoay quanh vấn đề về mô hình biểu hiện tự nhiên trong cấu trúc xã hội phức tạp
với các năng lượng siêu nhiên, siêu việt, vô hình… Từ đó, ông chỉ ra rằng: “cổ
mẫu không thể xuất hiện từ một số nơi phù du hoặc cõi ma thuật. Chúng phải được
giải thích từ quá trình phát triển hữu cơ tương ứng với lí tính và khoa học” [21,5].
Jon Mills cũng nhận diện cấu tạo bên trong và sự sinh thành của một cổ mẫu dựa
trên đứt gãy nội tại và ham muốn phóng chiếu tính phổ quát, hình thức và kiểu mẫu
của nó vào hiện thực tâm linh như những bản sao tự tạo. Dựa trên mối quan hệ biện
chứng giữa tính quen thuộc và xa lạ, Jon Mills cho rằng: “Khi một cổ mẫu phân
chia bản chất phổ quát của nó thành đa bội, nó trở nên khác với chính nó, chỉ để
khôi phục tính thống nhất ban đầu đã mất, trong dạng thức này, sự khác biệt như
là sự trở lại với chính nó. Vì cái cổ xưa là nguồn cội, một khe hở để cái khác nảy
sinh” [21,19]. Như vậy, lí thuyết của Jon Mills cho thấy tính khác/lạ/thay đổi trên
nền tảng mẫu hình ban đầu bởi các tác động bên ngoài mới là điểm cốt lõi tạo nên
bản chất thực sự của một cổ mẫu. Đây cũng là điều mà Jung chưa trả lời được.
Những kết quả nghiên cứu về cổ mẫu trong các lĩnh vực tâm lí học, di truyền
học, xã hội học trong những năm gần đây khiến chúng ta phải cân nhắc lại cách
tiếp cận cổ mẫu trong nghiên cứu văn học trước đây. Liệu rằng vô thức tập thể,
khía cạnh tâm lí, tính chất lại giống có đủ căn cứ khoa học để diễn giải các nội
dung cổ mẫu? Vấn đề này đã khơi dậy những cách tiếp cận mới, thuyết phục hơn
trong hành trình khám phá cổ mẫu văn chương. Trong đó, cách thức tiếp cận lịch
16
sử-xã hội (socio-historical approaches) có tính khả dụng cao, bổ khuyết những
điểm chưa thỏa đáng của cách thức tiếp cận tâm lí-huyền thoại. Ứng dụng phương
pháp này trong phê bình cổ mẫu nghĩa là xem xét sự hình thành của các nguyên
mẫu mới dưới ảnh hưởng của các yếu tố bên ngoài như bối cảnh lịch sử, xã hội, hệ
thống chính trị, chủng tộc, giới tính; lí giải sự khác biệt, xung đột của nguyên mẫu
mới trong tác phẩm văn học với mẫu hình ban đầu của nó cũng như các hệ giá trị
phổ biến. Từ đó, người nghiên cứu có thể nhận diện những đóng góp của nhà văn
trong hành trình vun đắp khu vườn cổ mẫu của nhân loại. “Bằng cách tiếp cận tìm
hiểu cổ mẫu từ góc độ lịch sử-xã hội, các nhà nghiên cứu có thể đi đến nhận định
rằng cổ mẫu với tư cách là ký ức văn hoá của cộng đồng từ nguyên thuỷ hoàn toàn
không tồn tại trong hình thức tĩnh tại như các di chỉ hoá thạch của quá khứ mà là
một trong những yếu tố văn hóa năng động trong quá trình tương tác liên tục với
dòng chảy lịch sử” [1,60].
Kết hợp các cách tiếp cận tâm lí-huyền thoại và lịch sử-xã hội, chúng tôi quan
niệm cổ mẫu là những mẫu hình nguyên bản và cổ xưa, tồn tại trong tâm thức nhân
loại, trong thần thoại, truyền thuyết, truyện kể dân gian và liên tục được tái sinh
trong các thể loại văn học thuộc các thời kì văn học về sau. Sự tái sinh của cổ mẫu
không chỉ là quá trình kế thừa các đặc điểm mang tính hằng số trong tâm thức con
người mà còn là sự thích nghi của mỗi nhà văn đối với truyền thống văn hóa dân
tộc, nhân loại và đặc biệt là sự tác động của bối cảnh lịch sử văn hóa xã hội của
thời đại đến cách thức tái sinh, làm mới cổ mẫu của người nghệ sĩ. Như thế, bản
chất của cổ mẫu vừa quen thuộc, gần gũi, phổ quát vừa xa lạ, mới mẻ và năng
động.
Cần lưu ý rằng, phê bình cổ mẫu là một khuynh hướng phê bình dung hợp các
thành tựu văn hóa học, nhân loại học, tâm lý học, xã hội học... và có nhiều ưu việt
riêng trên con đường khai phá những miền đất trù phú của văn chương. Đó là khả
năng kết nối các tác phẩm văn học trong các thời đại và các dân tộc khác nhau, gắn
liền văn học với văn hóa, con người hôm nay với con người cổ xưa, nhờ đó tư duy
không gian văn học được nới rộng. Truy tầm cổ mẫu trong văn học cũng là tìm
kiếm sự đồng điệu và khác biệt. Từ đó, chúng ta có thể giải thích được vì sao văn
học chạm đến tận sâu trái tim của mỗi bạn đọc. Tuy nhiên, phê bình cổ mẫu cũng
khó tránh khỏi những hạn chế như: tính giản hóa, tính chủ quan, nếu vận dụng
17
không hợp lý thì dễ rơi vào suy diễn khi truy tìm ý nghĩa của cổ mẫu. Trong mục
Hướng tiếp cận huyền thoại và cổ mẫu, các nhà nghiên cứu cho biết mặc dù khuynh
hướng phê bình này “đưa chúng ta đi xa khỏi những phạm vi lịch sử và thẩm mỹ
trong nghiên cứu văn học - quay ngược tới đoạn khởi đầu của những nghi lễ và
niềm tin cổ xưa nhất của loài người, và đi sâu vào trong những trái tim cá nhân
riêng của mỗi chúng ta”, song hướng tiếp cận này, nếu vận dụng không đúng chừng
mực, cũng có lúc khiến người nghiên cứu “không nhìn thấy những giá trị thẩm
mỹ” của tác phẩm, “không chú ý đến kinh nghiệm thẩm mỹ của bản thân tác phẩm”
[26,205-206].
1.2. Nghiên cứu tiểu thuyết John Steinbeck
1.2.1. Nghiên cứu tiểu thuyết John Steinbeck trên thế giới
Là một trong những tiểu thuyết gia vĩ đại của nền văn học Mỹ thế kỉ XX, John
Steinbeck và các sáng tác của ông là một đề tài lớn, thu hút sự quan tâm của đông
đảo giới nghiên cứu và bạn đọc. Đến nay, đã có nhiều chuyên luận, bài báo khoa
học, luận văn, luận án tiếp cận tiểu thuyết John Steinbeck theo nhiều hướng nghiên
cứu, góp phần nhận diện, phác thảo và xác lập phong cách nghệ thuật tiểu thuyết
John Steinbeck. Trong đó, có thể kể đến các hướng nghiên cứu lớn quy tụ các học
giả ở khắp mọi nơi trên thế giới, bao gồm:
Phê bình Tiểu sử quan tâm đến cuộc đời của John Steinbeck từ thuở nhỏ ở
Salinas, California; đến những năm tháng ở thành phố San Fransico, Mexico, New
York, làm phóng viên chiến trường tại Việt Nam; đặc biệt là những người thân,
bạn bè và những sự kiện lớn trong cuộc đời nhà văn có ảnh hưởng không nhỏ đến
tư tưởng, tác phẩm của ông. Các công trình tiêu biểu cho hướng nghiên cứu này
là: John Steinbeck (1971) của học giả James Gray [27], The Portable Steinbeck
(1971) của nhà nghiên cứu Pascal Covici [28], Steinbeck: A Life in Letters
(Steinbeck: Cuộc đời trong những bức thư, 1975) được biên tập bởi Elaine
Steinbeck và Robert Wallstein [29], The True Adventures of John Steinbeck, Writer
(Cuộc hành trình thực sự của nhà văn John Steinbeck, 1984) của Jackson J. Benson
[30], John Steinbeck: A Biography (Tiểu sử John Steinbeck, 1994) của Jay Parini
[31] và gần đây nhất là cuốn Mad at the World: A Life of John Steinbeck (Phẫn nộ
vì thế giới: cuộc đời John Steinbeck, 2020) của William Souder [32].
Trong khi đó, phê bình Xã hội học tiếp cận tiểu thuyết John Steinbeck trong
18
mối quan hệ với các yếu tố văn hóa, xã hội - bối cảnh ra đời của tác phẩm - như
những tiền đề quan trọng chi phối đề tài, chủ đề của tác phẩm và tư tưởng của nhà
văn. Những mốc lịch sử có ý nghĩa lớn của Hoa Kỳ nói riêng và thế giới nói chung
trở thành tâm điểm thu hút sự chú ý của các nhà nghiên cứu để lí giải tác phẩm của
Steinbeck. Điển hình là các nghiên cứu sau: The Grapes of Wrath: Trouble in the
Promised Land (Chùm nho phẫn nộ: Nỗi đau ở miền đất hứa, 1989) của Louis
Owens [33], John Steinbeck and the Great Depression (John Steinbeck và Đại suy
thoái, 2015) của Alison Morretta [34].
Với phê bình Mới, các nhà nghiên cứu đã có những phát hiện mới mẻ về tiểu
thuyết John Steinbeck, đặc biệt là về cấu trúc, ngôn ngữ, chủ đề, nhân vật, hình
tượng, motif, phong cách. Các công trình đáng kể là: The Wide World of John
Steinbeck (Thế giới rộng lớn của John Steinbeck, 1958) của học giả Peter Lisca
[35], The Novels of John Steinbeck (Tiểu thuyết của John Steinbeck, 1963) của
Howard Levant [36].
Tiếp cận tiểu thuyết John Steinbeck từ góc nhìn phê bình sinh thái, nữ quyền
sinh thái, nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra tình trạng khủng hoảng sinh thái, ý thức
sinh thái, mối quan hệ giữa tự nhiên và con người trong các sáng tác của Steinbeck.
Trong đó, Steinbeck and the Environment: Interdisciplinary Approaches
(Steinbeck và môi trường: Tiếp cận liên ngành, 1997) do Susan F. Beegel, Susan
Shillinglaw và Wesley N. Tifney biên tập [37], Monstrous Ecology: John
Steinbeck, Ecology, and American Cultural Politics (Sinh thái quái dị: John
Steinbeck, Sinh thái học và Chính trị văn hóa Mỹ, 2005) của nhà nghiên cứu Lloyd
Willis [38], “Ecological Consiousness in John Steinbeck’s ‘The Grapes of Wrath’”
(“Ý thức sinh thái trong ‘Chùm nho phẫn nộ’ của John Steinbeck”, 2015) của S.
C. Bamarani [39], John Steinbeck through the Perspective of Ecocritical Reading
(John Steinbeck từ quan điểm đọc sinh thái, 2016) của Lucie Benesová [40] là
những nghiên cứu tiêu biểu.
Bên cạnh các hướng nghiên cứu trên, tiểu thuyết John Steinbeck còn được tiếp
cận từ lí thuyết phê bình nữ quyền, phê bình biểu tượng. Một số nghiên cứu nổi bật
thuộc hai khuynh hướng này ít nhiều đã chạm đến vấn đề cổ mẫu trong tiểu thuyết
của nhà văn.
Phê bình nữ quyền là một địa hạt nghiên cứu khá mới mẻ, xuất hiện vào
19
khoảng những năm 1960. Khuynh hướng tiếp cận văn chương này đặt trọng tâm
vào ba khía cạnh chủ yếu: sự khác biệt giữa nam giới và nữ giới, nữ giới cầm quyền
hoặc mối quan hệ về quyền lực giữa nam giới và nữ giới, trải nghiệm nữ. Chịu ảnh
hưởng bởi những người phụ nữ (mẹ, chị em gái, những người vợ) và trưởng thành
trong một xã hội đầy bất ổn đầu thế kỉ XX, John Steinbeck sớm nhận thức rõ vai
trò và vị trí của nữ giới để xây dựng những mẫu hình nhân vật nữ mạnh mẽ, táo
bạo, nắm giữ địa vị quan trọng trong gia đình vào những thời điểm chuyển giao
lịch sử đặc biệt. Đây cũng là điểm gặp gỡ của những nhà nghiên cứu khi tiếp cận
tiểu thuyết John Steinbeck theo khuynh hướng phê bình nữ quyền.
Những công trình tiêu biểu khám phá tiểu thuyết John Steinbeck theo lí thuyết
phê bình nữ quyền bao gồm: “From Patriarchy to Matriarchy: Ma Joad’s Role in
‘The Grapes of Wrath’” (“Từ chế độ gia trưởng đến chế độ mẫu quyền: Vai trò của
Ma Joad trong ‘Chùm nho phẫn nộ’”, 1982) của Warren Motley [41], Defying
Domesticity: Steinbeck’s critique of gender politics of postwar generation in “East
of Eden” (Thách thức đời sống gia đình: Phê phán chính trị giới ở thế hệ hậu chiến
của Steinbeck trong “Phía đông vườn địa đàng”, 2008) của Danielle Woods [42],
Gender relations in Steinbeck’s “The Grapes of Wrath” (Những mối quan hệ giới
trong “Chùm nho phẫn nộ” của John Steinbeck, 2010) của Fonseca [43], “The
Construction of Female Subject Identity in ‘The Grapes of Wrath’” (“Cấu trúc của
căn cước nhân vật nữ trong “Chùm nho phẫn nộ’”, 2016) của Limin Wu [44],
Steinbeck’s Female Characters: Environment, Confinement, and Agency (Nhân
vật nữ của Steinbeck: Môi trường, Sự giam cầm và Chức năng, 2016) của Nikki
Marrie Garcia [45], “Cathy’s ‘Masculinity’ as Survival in Steinbeck’s ‘East of
Eden’” (“‘Tính nam’ của Cathy như là sự sống sót trong ‘Phía đông vườn địa
đàng’ của John Steinbeck”, 2016) của Kelly-Rae Meyer [46]… Trong đó, chuyên
luận The Indestructible Woman in Faulkner, Hemingway and Steinbeck (Người
phụ nữ bất tử của Faulkner, Hemingway và Steinbeck, 1986) của Mimi R.
Gladstein đã có những nhận xét đề cập đến vấn đề cổ mẫu khi phân tích người phụ
nữ bất tử trong tiểu thuyết của John Steinbeck. Ý tưởng về người phụ nữ bất tử
giống như mẹ thiên nhiên, đôi lúc hung dữ đôi khi tử tế nhưng lại luôn luôn bền bỉ
trong tác phẩm của John Steinbeck được Gladstein khám phá qua các nhân vật nữ
tiêu biểu như Ma Joad trong Chùm nho phẫn nộ, Dora trong Phố Cannery Row, và
20
Mordeen trong Burning Bright. Trong đó, nhà nghiên cứu khẳng định nhân vật Ma
Joad “có thể được gọi là cổ mẫu giống trong văn xuôi hư cấu Mỹ” [47,76]; là “hiện
thân của huyền thoại về người phụ nữ tiên phong, biểu tượng cho tình mẹ và nữ
thần trái đất” [47,77]. Qua chuyên luận này, Gladstein tập trung vào các nhân vật
nữ chính lẫn phụ để chứng minh tính chất khái quát của hình tượng người phụ nữ
bất tử. Từ đó, học giả Gladstein thừa nhận rằng kiểu nhân vật này đã bước vào địa
hạt rộng lớn của cổ mẫu trong sáng tác của các nhà văn nam người Mỹ.
Như vậy, những công trình nghiên cứu tiểu thuyết John Steinbeck từ lí thuyết
Phê bình nữ quyền đã xác lập vị trí quan trọng và đặc trưng của nữ giới trong sáng
tác của nhà văn. Đặc biệt, một số nghiên cứu đã bước đầu xem xét những nhân vật
nữ tiêu biểu như là cổ mẫu giống cái trong văn học Mỹ. Đây là những gợi ý quan
trọng để chúng tôi nhận diện và lí giải đặc trưng của cổ mẫu mẹ trong tiểu thuyết
John Steinbeck.
Phê bình đề tài/biểu tượng là hướng tiếp cận chủ yếu nghiên cứu ngôn ngữ
của văn bản để khám phá các dạng thức hình ảnh, motif, biểu tượng tạo nghĩa cho
tác phẩm. Thông qua việc giải mã biểu tượng, motif, hình ảnh biểu trưng, các học
giả đã tìm thấy dấu vết của Kinh Thánh và các tác phẩm văn chương khác trong
tiểu thuyết của John Steinbeck.
Tiểu thuyết của John Steinbeck được giới phê bình biểu tượng chú ý nhiều
nhất là kiệt tác Chùm nho phẫn nộ. Nổi bật là các bài viết, công trình nghiên cứu
xoay quanh vấn đề nhân vật biểu tượng Chúa, dấu vết Kinh Thánh trong tác phẩm
của John Steinbeck. “Christian Symbolism in The Grapes of Wrath” (“Biểu tượng
Cơ đốc giáo trong Chùm nho phẫn nộ”, 1957) của Shaples Martin Shockly cho biết
nhân vật Jim Casy có ý nghĩa biểu trưng như Chúa Jesus [48]. Eric W. Carlson,
trong “Symbolism in The Grapes of Wrath” (“Chủ nghĩa biểu trưng trong Chùm nho
phẫn nộ”, 1958) lại cho rằng nhân vật Casy không phải là biểu tượng Chúa mà
thuộc về truyền thống tự do-dân chủ mạnh mẽ của nước Mỹ [49]. Trong khi đó,
Dougherty, với nghiên cứu “The Christ-Figure in The Grapes of Wrath” (“Nhân
vật Chúa trong Chùm nho phẫn nộ”, 1962) lại cho rằng “nhân vật - Chúa trong
Chùm nho phẫn nộ là Tom Joad chứ không phải Jim Casy” [50,225]. Nhà nghiên
cứu nhấn mạnh sự khác nhau giữa nhân vật Tom Joad và Jim Casy như sau: “Tom
tích cực và hiệu quả trong khi Casy chỉ là người hay mơ mộng” [50,225]. Kelly
21
Crockett cũng tìm thấy mối quan hệ giữa Kinh Thánh và Chùm nho phẫn nộ. Qua
nghiên cứu “The Bible and The Grapes of Wrath” (“Kinh Thánh và Chùm nho
phẫn nộ”, 1962), Crockett cho rằng “gia đình Joad đại diện cho những người Mỹ
mở đường, câu chuyện của họ với những yếu tố Kinh Thánh làm cho tính cách của
họ trở nên phổ biến hơn” [51,194]. James Brasch, trong bài viết “The Grapes of
Wrath and Old Testament Skepticism” (“Chùm nho phẫn nộ và Chủ nghĩa hoài
nghi Cựu ước”, 1978), nhận thấy Casy được phỏng theo hình ảnh người giảng đạo
trong Cựu ước, những người di cư giống với người dân Israel và sự tương đồng
giữa lời dự báo “chùm nho phẫn nộ” sẽ có ngày chín muồi trong Kinh Thánh với
các giải pháp áp chế trong tình thương và sự cảm thông [52]. Với nghiên cứu
“Inversion of biblical symbols in The Grapes of Wrath” (“Sự đảo ngược những
biểu tượng Kinh Thánh trong Chùm nho phẫn nộ”, 2012), Miriam Pérez Veneros
cho rằng Steinbeck đã đảo ngược một số biểu tượng vốn là những điểm tựa tôn
giáo lâu đời. Chẳng hạn như nhân vật Rosashan khác với nhân vật cùng tên trong
Kinh Thánh, cô được miêu tả như là “Mẹ tự nhiên, người mẹ mới của con người
và cô hành động vì tình yêu, chứ không phải vì niềm tin tôn giáo” [53,173].
Một số nghiên cứu tìm kiếm biểu tượng, motif trong các tiểu thuyết khác của
John Steinbeck như: “Motif and Pattern in ‘Of Mice and Men’” (“Motif và khuôn
mẫu trong ‘Của chuột và người’”, 1956) của Peter Lisca [54]. Xem xét tự nhiên
như là cội nguồn của hệ thống hình ảnh và biểu tượng trong những tác phẩm ngắn
của Steinbeck, Heitkamp đã khám phá và giải mã bốn motif biểu tượng nổi bật
nhất trong Nature Symbolism in the Fiction of John Steinbeck (Biểu tượng tự nhiên
trong tiểu thuyết của John Steinbeck, 1971). Đó là: đất như là biểu tượng cho tính
gắn kết giữa con người và tự nhiên, động vật biểu tượng cho tính cách con người,
motif sinh ra, chết đi và khả năng sinh sản, biển như là một biểu tượng [55]. The
Escape Motif in the American Novel: Mark Twain to Richard Wright (Motif tẩu
thoát trong tiểu thuyết Mỹ: từ Mark Twain đến Richard Wright, 1972) của học giả
Sam Bluefarb là một công trình nghiên cứu công phu, khái quát về một trong những
motif điển hình của văn học Mỹ. Ở chương 7, Sam Bluefarb tìm hiểu motif tẩu
thoát trong tiểu thuyết Chùm nho phẫn nộ qua nhiều hình thức và nguyên nhân của
các nhân vật tẩu thoát như Tom Joad, Casy, Noah, Uncle John, Connie… Nhà
nghiên cứu cho rằng ý nghĩa của motif tẩu thoát trong tiểu thuyết của John
22
Steinbeck như là chuyến bay vào linh hồn tập thể [56]. Todd M. Lieber, với bài
viết “Talismanic Patterns in the Novels of John Steinbeck” (“Những kiểu bùa chú
trong tiểu thuyết của John Steinbeck”, 1972), đã khám phá các dạng thức khác
nhau của biểu tượng bùa chú trong tác phẩm của John Steinbeck nhằm biểu trưng
cho mối quan hệ giữa con người và nơi chốn [57]. Năm 1976, Arthur Cummins
Anderson đã thực hiện nghiên cứu The Journey Motif in the Fiction of John
Steinbeck: the Traveler Discovers himself. Trong công trình này, nhà nghiên
cứu đã tìm hiểu motif hành trình trong các tác phẩm Cup of Gold/Cúp vàng,
Chùm nho phẫn nộ, Viên ngọc trai và The Wayward Bus/Chuyến xe bất kham.
Anderson cho biết mặc dù triết lí của John Steinbeck là “phi mục đích”, song
nhà văn đã xây dựng các nhân vật có tầm nhìn, mục tiêu và cho phép họ di
chuyển để đạt được mục tiêu [58].
Tóm lại, những nghiên cứu thuộc Phê bình biểu tượng đã khám phá thế giới
biểu tượng, motif, hình ảnh đa sắc trong tiểu thuyết của John Steinbeck. Trong số
đó, nhiều biểu tượng, motif có khả năng bước vào địa hạt cổ mẫu. Gợi ý của các
nghiên cứu về biểu tượng đất, biển, motif hành trình, dấu vết Kinh Thánh trong tác
phẩm của nhà văn thôi thúc chúng tôi tìm kiếm và giải mã hệ cổ mẫu trong tiểu
thuyết của John Steinbeck.
1.2.2. Nghiên cứu tiểu thuyết John Steinbeck ở Việt Nam
Ở Việt Nam, John Steinbeck và tiểu thuyết của ông được giới thiệu khá sớm.
Năm 1942, Võ Lang đã lược dịch kiệt tác Chùm nho phẫn nộ với nhan đề Men -
uất hận đăng trên tạp chí Tự do (Sài Gòn). Năm 1957, Nguyễn Sơn Lang dịch Nội
cỏ thiên đường. Tuy nhiên, việc tiếp nhận tác phẩm của Steinbeck ở Việt Nam thực
sự khởi sắc chỉ từ sau khi nhà văn đoạt giải Nobel văn chương vào năm 1962. Minh
chứng là hàng loạt tác phẩm của ông được tuyển dịch, chẳng hạn như: Viên ngọc
trai (Bảo Sơn dịch, 1967), Của chuột và người (Hoàng Ngọc Khôi, Nguyễn Phúc
Bửu Tập dịch, 1967), Chùm nho uất hận (Võ Lang dịch, 1972), Chuyến xe định
mệnh (Võ Sơn Thanh dịch, 1973), Phía đông vườn địa đàng (Đinh Hoàng Sa dịch,
1974), Chén vàng (Vĩnh Khôi dịch, 1991)… Kể từ đó đến nay, thông tin về John
Steinbeck và tác phẩm của ông chủ yếu xuất hiện ở các bài viết trên một số tờ báo,
tạp chí, như: “John Steinbeck, giải Nobel văn chương năm 1962” (1962) của Hà
Hoài, “Chủ đề về người nông dân và cách cắt nghĩa chủ đề trong ‘Chùm nho phẫn
23
nộ’” (2009) của Lê Huy Bắc…; hoặc được đề cập trong các tài liệu, chuyên luận
về văn học Mỹ như: Đại cương Văn học sử Hoa Kỳ (1961) của Đắc Sơn, Tiểu
thuyết hiện đại (1963) của Tràng Thiên, Văn học Mỹ (2000) của Lê Huy Bắc, Tác
gia văn học Mỹ (Thế kỉ XVIII-XX) (2004), Lịch sử văn học Mỹ (2007) của Lê Đình
Cúc… Số lượng luận văn, luận án liên quan đến tiểu thuyết John Steinbeck còn rất
khiêm tốn. Theo thống kê của chúng tôi, tính đến nay, có 1 luận án và 4 luận văn:
luận án Nghệ thuật tiểu thuyết John Steinbeck (2015) của Hoàng Thị Thập; luận
văn Nghệ thuật tiểu thuyết và truyện ngắn của John Steinbeck (2008) của Lê
Nguyễn Hạnh Phước, Kết cấu tiểu thuyết “Chùm nho phẫn nộ” của John Steinbeck
(2008) của Đinh Thị Thủy, Hình tượng nhân vật nữ trong nghệ thuật xây dựng tiểu
thuyết của John Steinbeck (2008) của Đỗ Thị Mai Trâm. Các công trình này tiếp
cận tác phẩm của Steinbeck chủ yếu từ góc nhìn tự sự học, thi pháp học và xã hội
học.
Nguyễn Đức Đàn, với phác thảo Hành trình văn học Mỹ (1995), cho rằng John
Steinbeck là một trường hợp rõ nét về sự đổi mới của văn học Mỹ sau chiến tranh
thế giới lần thứ II. Giống như nhiều nhà phê bình khác, ông đánh giá tiểu thuyết
Phía đông vườn địa đàng là một tác phẩm có giá trị lớn của Steinbeck. Nhà nghiên
cứu nhận định việc tái sinh huyền thoại Kinh Thánh giúp nhà văn thể hiện những
vấn đề của đời sống, kể cả lĩnh vực siêu hình: “Cố gắng đổi mới huyền thoại về
Cain và Abel mà ông chuyển sang một thời kì của lịch sử California, Steinbeck đã
đề cập đến vấn đề siêu hình của cái ác” [59,291]. Tuy vậy, phần lớn những ý kiến
của Nguyễn Đức Đàn đều xem nhẹ giá trị của tiểu thuyết Steinbeck với những nhận
xét như: Steinbeck “không phải là nhà văn lớn như người ta nghĩ” [59,294], “bị
xem là một nhà văn nhàm chán” [59,295], “người ta lấy làm lạ tại sao ông lại được
giải Nobel” [59,296].
Kathryn Vanspanckeren lại chú ý đến sự kết hợp giữa chủ nghĩa Hiện thực và
chủ nghĩa Lãng mạn trong sáng tác của John Steinbeck. Ở Phác thảo văn học Mỹ
(2001), ông viết: “Steinbeck kết hợp chủ nghĩa Hiện thực và chủ nghĩa Lãng mạn
mang tính cách nguyên sơ để tìm kiếm đức hạnh ở những nông dân nghèo bán mặt
cho đất bán lưng cho trời. Tiểu thuyết của ông minh chứng cho các khía cạnh dễ
bị tổn thương của những con người đó, họ có thể bị nhổ tận gốc bởi những cơn hạn
hán và là những người đầu tiên phải chịu đựng đau khổ trong những giai đoạn bất
24
ổn chính trị và khủng hoảng kinh tế” [60,188-189].
Ở chuyên luận Tác gia văn học Mỹ (Thế kỉ XVIII-XX) (2004), khi viết về John
Steinbeck, nhà nghiên cứu Lê Đình Cúc nhận định tác phẩm văn học của Steinbeck
“tạo ra một tầm nhìn quảng đại – ông đã thể hiện một cách nhìn nhận về tâm hồn
cao đẹp của người Mỹ, tâm hồn đó bao trùm cả thế giới mà trong đó mỗi cá nhân
có một phần khiêm tốn của riêng mình” [61,707]. Đánh giá về những tiểu thuyết
đầu tay của Steinbeck, nhà nghiên cứu cho biết: “ông đã đưa ra hai mô típ trong
tiểu thuyết đó là ý thức về cuộc đời. Ý thức mỗi cá nhân về triển vọng và khả năng
của mỗi con người trong cuộc sống và xã hội. Thứ hai là sự thông cảm lạ lùng có
lúc kì quặc đối với con người dù thiện hay ác” [61,710]. Về mặt tư tưởng triết học,
Lê Đình Cúc cho rằng nhà văn người Mỹ này chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện
sinh: “Chủ đề trong tiểu thuyết của ông thường là những cuộc nổi loạn chống lại
các lực lượng chia rẽ con người. Ông đề cao luận thuyết của A. Camus “Tôi nổi
loạn vì vậy chúng ta còn tồn tại” hoặc Ignazic Silence “Điều quyết định sự nổi loạn
của tôi là sự lựa chọn của các bạn đồng hành” […]. John Steinbeck có nhiều đóng
góp cho trào lưu triết học này. Đặc biệt là tác phẩm Chùm nho uất hận” [61,711-
712]. Bên cạnh đó, Lê Đình Cúc còn nhắc đến sự tiếp nối và phát triển truyền thống
“viết về sự di chuyển” trong văn học Mỹ của Steinbeck. Nhà nghiên cứu đánh giá
nhà văn đã “khéo léo tạo cho mình một chủ đề tự nhiên với một nguồn tư liệu tự
nhiên, ông khai thác bản sắc, những đặc điểm chính thống, quen thuộc của văn học
Mỹ để làm giàu thêm cho chính nó” [61,714-715]. Ngoài ra, Lê Đình Cúc cũng
vạch rõ những hạn chế của John Steinbeck. Đó là việc nhà văn vô tình tham gia
vào hoạt động chính trị ngay khi ông chỉ muốn làm một nghệ sĩ. Song, một số ý
kiến của nhà nghiên cứu cần được đối thoại như Steinbeck “cho rằng nguyên nhân
của những đau khổ ấy, những sai trái ấy bắt nguồn từ những động cơ thực dụng,
máy móc mà không hiểu đó là sự tha hóa của xã hội có người giàu, người nghèo,
có kẻ bóc lột và người bị bóc lột” [61,717-718].
Nhận định chung về phong cách của John Steinbeck, Lê Huy Bắc trong Văn
học Mỹ (2010) cho rằng: “Phong cách John Steinbeck độc đáo ở chỗ, tận thẳm sâu
là bi kịch, là sự dồn nén nặng nề nhưng lại được biểu hiện ra bên ngoài rất nhẹ
nhàng, đầy chất thơ” [62,62]. Nhà nghiên cứu nhấn mạnh hai mảng đề tài quan
trọng trong sáng tác của Steinbeck là: “xung đột của cá nhân với bản thân (chủ yếu
25
là lương tri và đạo đức) và xung đột giữa cá nhân với xã hội (nạn khủng hoảng và
chính sách độc đoán” [62,61].
Trong Hồ sơ văn hóa Mỹ (2015), Hữu Ngọc nhận định Steinbeck là một “cây
bút tự nhiên chủ nghĩa miêu tả nông dân vô sản Mỹ”. Ông cho rằng: Chùm nho
phẫn nộ “vẽ lại cảnh cơ cực của nông dân Mỹ mất đất, bị áp bức bóc lột không
kém gì nông dân vô sản Việt Nam bị đi phu đồn điền cao su ở xa quê hương”
[5,628]. Nhà nghiên cứu này đánh giá cao cách kể chuyện lôi cuốn, truyền cảm
trên cơ sở tình thương những người bị áp bức bóc lột của Steinbeck và chỉ ra chỗ
yếu của nhà văn là xây dựng nhân vật và tư tưởng khá sơ lược. Thiết nghĩ, ý kiến
của Hữu Ngọc phần nào đó có thể chấp nhận được, tuy nhiên, đánh giá của ông về
nhân vật và tư tưởng khá khắt khe và cần được đối thoại.
Trong những nghiên cứu về tiểu thuyết John Steinbeck ở Việt Nam, có thể nói
luận án tiến sĩ Nghệ thuật tiểu thuyết John Steinbeck (2015) của tác giả Hoàng Thị
Thập và luận văn thạc sĩ Nghệ thuật tiểu thuyết và truyện ngắn của John Steinbeck
(2007) của tác giả Lê Nguyễn Hạnh Phước là hai công trình có quy mô và khả năng
bao quát nhất từ trước đến nay. Hoàng Thị Thập tập trung vào ba phương diện
nghệ thuật tiêu biểu trong ba cuốn tiểu thuyết Trong cuộc chiến bất phân thắng
bại, Của chuột và người, Chùm nho phẫn nộ, gồm: cấu trúc truyện kể, nghệ thuật
xây dựng nhân vật và nghệ thuật kiến tạo lời văn. Bên cạnh đó, tác giả cũng chỉ ra
mối quan hệ giữa tiểu thuyết Steinbeck với các văn bản lịch sử, văn bản văn học.
Tác giả luận án nhận xét: “nhà văn có ý thức sử dụng liên văn bản như là một thủ
pháp nghệ thuật đắc lực”; “Khi sử dụng các sự kiện lịch sử, các tình huống đã từng
xuất hiện trong các tác phẩm của các nhà văn khác nhằm mở rộng cấu trúc bên
trong, nhà văn đã phản ánh bản chất cuộc sống với muôn vàn khía cạnh, với nhiều
cung bậc khác nhau” [63,176]. Tuy nhiên, ảnh hưởng của bối cảnh văn hóa xã hội
đến cách thức John Steinbeck tạo sinh cổ mẫu vẫn là khoảng trống nghiên cứu
trong công trình của Hoàng Thị Thập.
Lê Nguyễn Hạnh Phước chọn hai tiểu thuyết tiêu biểu của John Steinbeck là
Của chuột và người, Chùm nho phẫn nộ và năm truyện ngắn đặc sắc Jonny gấu,
Người chỉ huy, Những rặng núi lớn, Cây hoa cúc, Bộ đai để khám phá các bình
diện nghệ thuật như nhân vật, thời gian, không gian và tổ chức kết cấu của các tác
phẩm. Từ đó, người nghiên cứu chỉ ra chiều sâu triết lí, chủ nghĩa nhân đạo, cái
26
nhìn sâu sắc về con người, xã hội, quan niệm nghệ thuật và đặc biệt là ý thức về
một sứ mệnh văn chương chân chính của John Steinbeck [64]. Với bài viết “Nghệ
thuật như là một sự cảnh tỉnh trong thời đại công nghiệp và kinh tế thị trường dưới
sứ mệnh nhân bản” (2007), Lê Nguyễn Hạnh Phước đã trình bày rõ quan niệm
nghệ thuật và đặc điểm sáng tác của John Steinbeck. Tác giả bài viết nhận định
nguồn chất liệu cho các tác phẩm của nhà văn là “cảm hứng dạt dào từ vùng quê
tươi đẹp cùng với những ảnh hưởng sâu sắc từ văn học Hi Lạp cổ điển, Kinh
Thánh và văn học Châu Âu” [65,59].
1.3. Nghiên cứu cổ mẫu trong tiểu thuyết John Steinbeck
1.3.1. Nghiên cứu cổ mẫu trong tiểu thuyết John Steinbeck trên thế giới
Dưới ánh sáng của lí thuyết phê bình huyền thoại, Tom E. Kakonis đã tiến
hành nghiên cứu công phu đầu tiên về Mysticism in Selected early Novels of John
Steinbeck (Phê bình huyền thoại trong tuyển tập tiểu thuyết đầu tay của John
Steinbeck, 1958) [66]. Khám phá của Kakonis về sự phát triển của các yếu tố huyền
thoại trong các tác phẩm Đồng cỏ thiên đường, Gửi vị thần chưa biết, Trong trận
chiến mơ hồ, Của chuột và người, Chùm nho phẫn nộ của Steinbeck đã chỉ ra sự
hiện diện mạnh mẽ của các yếu tố huyền thoại từ những sáng tác đầu tay đến các
tiểu thuyết thành công về sau của nhà văn. Trong đó, nhà nghiên cứu đặc biệt quan
tâm đến sự thể hiện triết lí của John Steinbeck về mối quan hệ bộ phận-tổng thể
giữa tâm hồn cá nhân và linh hồn vũ trụ dựa trên nền tảng huyền thoại.
Trong công trình John Steinbeck: an Introduction and Interpretation (John
Steinbeck: giới thiệu và diễn giải, 1963), Joseph Eddy Fontenrose đã chỉ ra vai trò
chìa khóa của cả hai lĩnh vực sinh vật học và thần thoại học trong việc hiểu và giải
mã tác phẩm của John Steinbeck. Đóng góp lớn nhất của nghiên cứu này là khám
phá mối quan tâm sâu sắc của John Steinbeck đối với thần thoại và truyền thuyết.
Fontenrose cho rằng tiểu thuyết John Steinbeck tái hiện “vòng đời Arthur, các câu
chuyện trong Kinh Thánh, đặc biệt là Chén thánh và Vua Cá, Vườn địa đàng, Cain
và Abel, câu chuyện về Joseph, Xuất hành, Thủy quái, Khổ nạn và Phục sinh, cuộc
nổi dậy của các thiên thần”. Bên cạnh đó, những thần thoại khác như: “thần thoại
sáng thế, thần chết, Faust, thành Troy và Helen, con điếm đồng trinh, truyền thuyết
thành lập thành phố” [67,141] cũng được nhà văn thể hiện đầy chất thơ. Từ đó, nhà
nghiên cứu đi đến kết luận rằng chính huyền thoại là “chất dẫn” quan trọng để gắn
27
kết tác phẩm của John Steinbeck với truyền thống vĩ đại của văn học Âu Mỹ.
Dựa trên lí thuyết tâm lí học phân tích của Carl Jung, James Lawrence
VanDevyvere đã thực hiện nghiên cứu Archetypes of the Collective Unconscious
in the three Novels of John Steinbeck (Những cổ mẫu về vô thức tập thể trong ba
tiểu thuyết của John Steinbeck, 1974). Khảo sát ba tác phẩm chính của John
Steinbeck, bao gồm: Gửi vị thần chưa biết, Chùm nho phẫn nộ, Phía đông vườn
địa đàng, VanDevyvere tiết lộ các mẫu hình của biểu tượng, huyền thoại và nghi
lễ như là những kinh nghiệm phổ quát của nhân loại được nhà văn tái hiện trong
sáng tác của ông. Đó là biểu tượng cây và đá trong Gửi vị thần chưa biết, các mô
hình huyền thoại thể hiện sự phát triển và chuyển đổi tâm lí nhân vật để đạt đến
trạng huống toàn vẹn, là những nghi thức tiêu biểu như ca hát, kể chuyện, gặp gỡ,
ẩm thực trong cả ba tiểu thuyết. Theo VanDevyvere, các biểu tượng, huyền thoại
và nghi lễ này cho thấy cuộc gặp gỡ giữa tiểu thuyết John Steinbeck và các đề
xướng tâm lí học của Jung cũng như khát vọng lớn lao của người nghệ sĩ John
Steinbeck trong việc thấu hiểu và chuyển tải những trải nghiệm tinh thần cốt yếu
của con người [68].
Tiếp nối các nghiên cứu trên, học giả Connie Post thăm dò mối tương quan
giữa lịch sử và huyền thoại trong buổi hoàng hôn của nền văn hóa phương Tây ở
chùm tiểu thuyết vốn không được giới học thuật đánh giá cao của John Steinbeck
qua luận án tiến sĩ History’s Myth: John Steinbeck and the Twilight of Western
Culture (Huyền thoại lịch sử: John Steinbeck và buổi hoàng hôn của văn hóa
phương Tây, 1993) [69]. Qua phân tích bốn tiểu thuyết của John Steinbeck, Post
nhận ra sự sụp đổ của một số khuôn mẫu văn hóa phương Tây dưới tác động của
cuộc khủng hoảng tôn giáo, chuyển đổi cơ cấu kinh tế và những chính sách độc
đoán. Nước Mỹ lúc bấy giờ không còn là miền đất hứa như trong huyền thoại lập
quốc mà là một vùng đất ngập ngụa trong sự thừa mứa vật chất mà lại trống rỗng
về tinh thần. Theo đó, việc khôi phục lời hứa của Hoa Kỳ liên quan trực tiếp đến
sự thay đổi nền tảng huyền thoại của quốc gia này bằng cách quay trở về với chế
độ mẫu hệ và niềm tôn kính tự nhiên. Theo nhà nghiên cứu Post, bằng hiểu biết
sâu sắc của mình, Steinbeck đã sử dụng phương thức “tái huyền thoại hóa” để tái
thiết lập những giá trị văn hóa đại chúng nguyên bản của nước Mỹ, nơi lịch sử
quyện vào huyền thoại.
28
Trong số những nghiên cứu trường hợp, “The ‘Great Mother’ in The Grapes
of Wrath” (“‘Mẹ vĩ đại’ trong Chùm nho phẫn nộ”, 1997) của học giả Lorelei
Cederstrom in trong chuyên luận Steinbeck and the Environment: Interdisciplinary
Approaches, là bài viết bàn luận tỉ mỉ về vấn đề cổ mẫu mẹ trong kiệt tác Chùm
nho phẫn nộ của Steinbeck và cũng là nghiên cứu gợi mở nhiều ý tưởng cho chúng
tôi tiếp tục khám phá cổ mẫu mẹ trong tiểu thuyết Steinbeck. Để lí giải tầm nhìn
xa của nhà văn về sự hủy hoại sinh thái ngày nay, gợi mở sự thay thế nguyên thủy
cho các cấu trúc và tư tưởng gia trưởng đang tàn phá trái đất, nhà nghiên cứu cho
rằng Steinbeck mô tả sự tái xuất hiện của cổ mẫu tính nữ và khẳng định tầm quan
trọng của các nền văn hóa mẫu hệ để hiểu được mối quan hệ giữa vòng tròn cuộc
sống và thế giới tự nhiên. Dựa trên phân tích về cấu trúc cổ mẫu mẹ vĩ đại của
Erich Neumann, Lorelei Cederstrom chỉ ra rằng: “Trong Chùm nho phẫn nộ, mẹ
vĩ đại xuất hiện với cả hai đặc tính cơ bản và biến đổi của mình. Trước đây, bà xuất
hiện như một linh hồn nguyên thủy đằng sau các thế lực tự nhiên, biểu lộ mình trên
trái đất và bầu trời, mùa màng và nạn đói, mưa và lũ lụt. Về đặc tính cơ bản, mẹ vĩ
đại cũng hiện diện ở trong nhà và trong các hoạt động văn hóa nảy sinh từ việc
thiết lập các điều kiện cho giấc ngủ, chuẩn bị thức ăn,... Về đặc tính biến đổi, mẹ
vĩ đại là một sức mạnh để thay đổi mỗi cá nhân và xã hội; sự thay đổi này có thể
liên quan đến sự phát triển hoặc hủy diệt, tái sinh và cái chết, vì cả hai đều nằm
trong phạm vi của bà. Điểm cuối cùng này phải được nhấn mạnh vì sự hủy diệt
cũng là một phần của mẹ vĩ đại cũng như sự sáng tạo; bà mang lại sự sống và cũng
có thể mang đến cái chết cho thế giới tự nhiên hoặc cá nhân” [37,88]. Nghiên cứu
của Lorelei Cederstrom đã mở ra hướng tiếp cận cổ mẫu trong Chùm nho phẫn nộ.
Tuy nhiên, nhà nghiên cứu mới chỉ khảo sát cổ mẫu mẹ vĩ đại trong một tác phẩm
và mới tập trung vào đặc điểm mô hình cổ mẫu mà chưa thực sự lí giải sự tái sinh
của cổ mẫu này trong bối cảnh lịch sử, văn hóa của tác phẩm.
Trong luận án tiến sĩ The American Cain: an Alternative National Archetype
(Cain Mỹ: một cổ mẫu dân tộc mang tính lựa chọn, 2008), nhà nghiên cứu W. Brett
Wiley quan tâm đến cổ mẫu mang tính chất quốc gia dựa trên nhân vật Cain, con
trai của Adam và Eva trong Kinh Thánh. Wiley cho rằng cổ mẫu này tái xuất hiện
khi một nhân vật thể hiện những đặc điểm và trải nghiệm sống của Cain, đặc biệt
là hành động giết người, theo đuổi giấc mơ Mỹ hoặc không đạt được cơ hội mà hệ
29
tư tưởng của dân tộc đã đề ra. Ngoài McTeague của Frank Norris, Green Centuries
của Caroline Gordon, luận án nghiên cứu cổ mẫu Cain trong tiểu thuyết Phía đông
vườn địa đàng của John Steinbeck. Theo Wiley: “tiểu thuyết của Steinbeck trình
bày những đặc điểm và hành động của con trai Adam qua sự theo đuổi cơ hội và
thành công của anh ta. Cal Trask đảm đương vai trò của một cổ mẫu, cướp đi sự
sống của người anh trai vì lòng thù hận, ghen tị của anh ta và ham muốn đạt được
thành tích cá nhân; những nỗ lực trước đây của anh để giành được tình yêu của
người cha, thông qua những mưu cầu và thái độ mang tính chất quốc gia, chỉ dẫn
đến sự từ chối và cô lập” [70,200].
Gabriella Tóth, với bài viết “Myths and Contexts in John Steinbeck’s The
Grapes of Wrath” (“Huyền thoại và ngữ cảnh trong Chùm nho phẫn nộ của John
Steinbeck”, 2010) đã xem xét các huyền thoại Kitô giáo, các yếu tố của người Mỹ
bản địa và một số huyền thoại phương Tây khác trong bối cảnh lịch sử của tác
phẩm. Nhà nghiên cứu cho biết: “Biên niên sử của kỉ nguyên Dust Bowl những
năm 1930 hiển nhiên là một trong những văn bản hiện đại được thảo luận nhiều
nhất trong văn học Mỹ. Bối cảnh lịch sử này mang lại cho tiểu thuyết một hương
vị hiện thực - tự nhiên. Các nhân vật không chỉ đại diện cho chính họ mà còn tượng
trưng cho một đơn vị xã hội rộng hơn, do đó họ có thể được xem như những biểu
tượng, nâng câu chuyện của gia đình lên một mức độ trừu tượng hơn. Văn bản cân
bằng trên đường biên của chủ nghĩa hiện đại và chủ nghĩa hậu hiện đại. Điều đó
cho thấy các đặc điểm quan trọng của các phương pháp diễn giải huyền thoại hiện
đại, nhưng theo nhiều cách, nó cũng lật đổ và giải cấu trúc lối kể chuyện dựa trên
huyền thoại Kitô giáo. Đồng thời, các yếu tố của người Mỹ bản địa và các huyền
thoại phương Tây khác có thể được khám phá xuyên suốt cốt truyện, điều này tạo
ra một ấn tượng về một nghệ thuật cắt dán các huyền thoại” [71]. Mặc dù chưa
định danh cổ mẫu trong tiểu thuyết Chùm nho phẫn nộ song trong quá trình phân
tích, nhà nghiên cứu đã chỉ ra chức năng của nhân vật Ma Joad như một nữ thần
mẹ hay nữ thần trái đất (Mother Goddess, or Earth Mother). Trong mối quan hệ
mẹ - con trai, Ma Joad xuất hiện với vai trò của Thetis (mẹ của Achilles). Từ góc
nhìn của con gái, Ma Joad giống hệt nữ thần Demeter; giống như nữ thần sinh sản,
người tạm thời lạc mất con gái, con gái của Ma Joad cũng biến mất trong một thế
giới ngầm tương đương - như một nơi trú ẩn.
30
Yanhong Fan, với bài viết “Analysis of Archetypal Character Jim Casy in The
Grapes of Wrath” (“Phân tích nhân vật cổ mẫu Jim Casy trong Chùm nho phẫn
nộ”, 2014), đã sử dụng lí thuyết phê bình cổ mẫu để phân tích nhân vật cổ mẫu Jim
Casy như là nhân vật Chúa thời hiện đại. Tác giả bài báo cho rằng Casy thực hiện
chức danh này thông qua lời nói và hành động của ông. Đồng thời, Yanhong Fan
khẳng định tác phẩm chịu ảnh hưởng sâu sắc từ Kinh Thánh và thần thoại Hi Lạp
[72]. Tuy nhiên, về ảnh hưởng của thần thoại Hi Lạp, người nghiên cứu chưa có
phân tích cụ thể. Bài viết này mới chỉ đề cập đến một khía cạnh của cổ mẫu trong
tác phẩm, đó là cổ mẫu nhân vật Jim Casy. Và một số ý kiến của Yanhong Fan vẫn
cần có sự trao đổi lại, chẳng hạn như Casy là người dẫn đường cho gia đình Joad
và những người khác khám phá vùng đất mới.
Trong bài viết “Of Mice and Myth: John Steinbeck, Carl Jung, and The Epic
of Gilgamesh” (“Của Chuột và Huyền thoại: John Steinbeck, Carl Jung và Sử thi
Gilgamesh”, 2014), Eric Matthew Martin cho rằng tiểu thuyết ngắn Của Chuột và
người là một khám phá sâu sắc về sự cô lập, tước quyền và những vấn đề hòa nhập
xã hội trong kỉ nguyên đứt gãy văn hóa. Tuy nhiên, câu chuyện của John Steinbeck
cũng sở hữu một chiều kích vô tận, cũng là một truyện kể được nghiên cứu trong
phạm vi khái niệm vô thức của nhà tâm lí học Carl Jung và hai truyện cổ: Sử thi
Gilgamesh của người Lưỡng Hà cổ đại và câu chuyện về Jacob và Essau trong
Sách Sáng thế. Theo Martin: “phê bình huyền thoại và tâm lí học phân tích của
Carl Jung đem lại những hiểu biết sâu sắc về tầm quan trọng của việc John Steinbeck
sử dụng một cổ mẫu truyền thống trong khi mô tả nhân vật George và Lennie, cho
thấy phần lớn sức mạnh của tiểu thuyết bắt nguồn từ một mô hình trong huyền thoại
cổ đại” [73]. Đó là một cặp đôi nhân vật trong đó một cá nhân là anh hùng thực sự,
được gắn kết bởi sự ra đời và số phận của người kia, kẻ bị ruồng bỏ. Cả ba câu
chuyện đều có sự tương đồng khá nổi bật về số lượng, chi tiết và tác động trên nhiều
cấp độ, George và Lennie là Gilgamesh và Enkidu, Jacob và Essau; mỗi cặp nhân
vật dường như được cắt ra từ vô thức tập thể. Dưới góc nhìn này, sức mạnh của tiểu
thuyết John Steinbeck có thể được xác định phần lớn trong việc nhà văn sử dụng các
cổ mẫu huyền thoại để khám phá một sự thật tâm lí.
Năm 2015, Nikita Walker đã tiến hành nghiên cứu “Timshel: the Monomyth
in East of Eden” (“Timshel: huyền thoại gốc trong Phía đông vườn địa đàng).
31
Trong nghiên cứu này, Walker đã khám phá cách thức Steinbeck sử dụng huyền
thoại xưa và Kinh Thánh để sáng tạo một thiên huyền thoại hiện đại về hành trình
con người đạt đến sự toàn thiện và đạt được khả năng làm chủ bản sắc cá nhân và
phổ quát của mình. Trên cơ sở huyền thoại gốc mà Campbell đã đề xuất, Walker
đã phân tích hành trình của các nhân vật trong tiểu thuyết Steinbeck và bàn luận
về vai trò của sự lựa chọn của mỗi nhân vật đối với số phận và bản sắc của họ [74].
Khám phá tiểu thuyết Phía đông vườn địa đàng, Carla Thurmanita, trong luận
văn Derived Mythical Recurrence of the Bibilical Genesis Cain and Abel Story in
Trask Family in John Steinbeck’s “East of Eden” (Sự tái xuất huyền thoại Cain và
Abel trong Sáng Thế ký trong Kinh Thánh ở gia đình Trask trong “Phía đông vườn
địa đàng” của John Steinbeck, 2017), đã chỉ ra sự khác biệt về mối quan hệ gia
đình giữa gia đình Trask trong tiểu thuyết của John Steinbeck và huyền thoại Cain
và Abel trong Kinh Thánh. Khi phân tích các yếu tố nội tại, nhà nghiên cứu đã
trình bày cách nhà văn xây dựng nhân vật, xung đột, bối cảnh và biểu tượng. Về
các yếu tố bên ngoài, người viết sử dụng lí thuyết cổ mẫu của Northrop Frye để
thăm dò. Từ đó, Carla Thurmanita tiết lộ nguyên do dẫn đến sự khác biệt là sự thất
bại của một thế hệ và ý chí của thế hệ sau để thay đổi vận mệnh [75].
Kết hợp giữa lí thuyết nữ quyền và lí thuyết cổ mẫu, nhà nghiên cứu Bianca
Saputra, với bài viết “Steinbeck’s East of Eden: Redefining the Evil within Cathy
Ames” (“Phía đông vườn địa đàng của Steinbeck: Định nghĩa lại cái ác trong Cathy
Ames”, 2018), tìm hiểu ảnh hưởng của các quy ước xã hội đến trải nghiệm của phụ
nữ và ảnh hưởng của truyền thống đối với việc lựa chọn. Thông qua việc phân tích
tính cách và vai trò của các nhân vật nữ trong tác phẩm, đặc biệt là sự đối lập giữa
Cathy và những người phụ nữ khác và sự tái xuất hiện của các nguyên mẫu trong
Kinh Thánh và huyền thoại cổ đại, Bianca Saputra cho rằng tiểu thuyết của
Steinbeck dự định trở thành câu chuyện về sự cứu chuộc và chấp nhận, nhưng câu
chuyện về Cathy Ames lại đưa ra cái bóng của chủ nghĩa lí tưởng lạc quan về
timshel. Nhìn từ lí thuyết, các nguyên tắc của timshel xảy ra theo bản năng, trong
khi thực tế thì sự lựa chọn bị hạn chế bởi các quy ước xã hội [76].
Rebeca Gualberto, trong bài viết “Reassessing John Steinbeck’s Modernism:
Myth, Ritual, and a Land Full of Ghosts in To a God Unknown” (“Tái đánh giá chủ
nghĩa hiện đại của John Steinbeck: Huyền thoại, nghi lễ và vùng đất đầy thần thánh
32
trong Gửi vị thần chưa biết”, 2018), xem xét tỉ mỉ cách thức Steinbeck xây dựng
cấu trúc huyền thoại của tác phẩm, cũng như cách thức nhà văn định hình và sắp
xếp lại các hình ảnh rời rạc để tái sinh các huyền thoại. Nhà nghiên cứu đặc biệt
chú ý đến sự tái xuất hiện của những motif quan trọng như vùng đất bị lãng quên,
cái chết của nhà vua, hiệp sĩ và chén thánh. Theo Gualberto, bằng phương cách đó,
Steinbeck đã mang lại hình thức và ý nghĩa mới cho huyền thoại được tái sử dụng
phù hợp với bối cảnh hỗn loạn của thế giới hiện đại và sự suy tàn của các giá trị
truyền thống [77].
Tóm lại, nghiên cứu cổ mẫu trong tiểu thuyết John Steinbeck trên thế giới
không phải là một vấn đề quá mới mẻ, song các nghiên cứu này mới chỉ quan tâm
đến một hoặc một vài cổ mẫu, biểu tượng trong một hoặc một số tiểu thuyết và tiếp
cận chủ yếu từ góc nhìn tâm lí-huyền thoại. Tuy nhiên, các bài viết và công trình
mà chúng tôi đã lược thuật có ý nghĩa gợi dẫn rất lớn và là nguồn tư liệu quan trọng
để chúng tôi tiếp tục thăm dò một cách toàn diện và hệ thống thế giới cổ mẫu trong
tiểu thuyết John Steinbeck. Bên cạnh đó, luận án vận dụng kết hợp cách thức tiếp
cận lịch sử-xã hội để phát hiện những ý nghĩa mới mẻ mà John Steinbeck đã tạo
sinh cho kho cổ mẫu của nhà văn.
1.3.2. Nghiên cứu cổ mẫu trong tiểu thuyết John Steinbeck ở Việt Nam
So sánh với bức tranh nghiên cứu cổ mẫu trong tiểu thuyết John Steinbeck
trên thế giới, có thể nhận xét rằng, khám phá tiểu thuyết John Steinbeck từ lí thuyết
phê bình cổ mẫu ở Việt Nam vẫn là một địa hạt còn bỏ ngỏ trong nghiên cứu về
tác gia người Mỹ này. Nhìn chung, các bài viết và công trình nghiên cứu về tiểu
thuyết của John Steinbeck ở Việt Nam mới chỉ dừng lại ở một số ý kiến, nhận định
liên quan đến vấn đề cổ mẫu mà chưa thực sự xem xét nó như là một đặc điểm
quan trọng trong sáng tác của nhà văn.
Trong bài viết “John Steinbeck, giải Nobel văn chương năm 1962” (1962),
giống như nhiều học giả trên thế giới, Hà Hoài nhận ra mối liên quan giữa Chùm
nho phẫn nộ và Kinh Thánh, đặc biệt ở kết cấu và motif “hành trình”. Nhà nghiên
cứu cho biết: “kết cấu tác phẩm Chùm nho phẫn nộ là sự mô phỏng Kinh Thánh”,
“Hành trình của gia đình Joad là sự mô phỏng hành trình của người Israel đến miền
đất hứa trong Kinh Thánh” [78,15]. Tuy nhiên, những vấn đề quan trọng như bản
chất của hành trình, ảnh hưởng Kinh Thánh và những điểm sáng tạo của Steinbeck
33
trong bối cảnh đương đại lại chưa được người nghiên cứu quan tâm.
Qua bài viết “Chủ đề về người nông dân và cách cắt nghĩa chủ đề trong Chùm
nho phẫn nộ” (2009), Lê Huy Bắc đã có những nhận định thú vị về nhân vật Jim
Casy - “biểu tượng của Chúa”: “Chúa đối với Casy chính là con người và làm tất
cả những gì để con người hạnh phúc là tiêu chí phấn đấu của Casy” [79,14]; “Cái
chết của Casy mang tính chất hài hước đen của kỉ nguyên hiện đại: người anh hùng
đột nhiên ngã xuống vì lí tưởng cao cả trong sự thắng thế của cái xấu, cái ác”
[79,15]. Nhận định của Lê Huy Bắc gặp gỡ với ý kiến của các nhà nghiên cứu trên
thế giới ở vấn đề: biểu tượng/cổ mẫu Chúa qua nhân vật Jim Casy. Song, tính khác
lạ của nhân vật này gắn với bối cảnh lịch sử xã hội Mỹ thời hiện đại vẫn đang là
một vấn đề còn bỏ ngỏ.
Khám phá thế giới nhân vật trong truyện ngắn và tiểu thuyết của John
Steinbeck, Lê Nguyễn Hạnh Phước phát hiện tình đất và người thấm đượm trong
từng trang văn của tác gia người Mỹ này. Người nghiên cứu nhận xét: “Những
nhân vật của Steinbeck không chỉ yêu quý mà còn ước ao được đem lại sự sống
cho cây cối và sự hồi sinh cho đất đai. Sự gắn kết mật thiết, tình cảm mãnh liệt
giữa đất và người này là một loại “ý thức” cơ bản và xuyên suốt trong những đứa
con tinh thần của Steinbeck […]. Steinbeck đã tạo nên cặp đôi Đất - Người trong
tác phẩm của mình như một biểu trưng thật đẹp cho khí chất của những con người
Mỹ” [64,21-22]. Tuy chưa xem đất như là một cổ mẫu trong sáng tác của John
Steinbeck nhưng những ý kiến của Lê Nguyễn Hạnh Phước đã gợi mở cho chúng
tôi về tính gắn kết giữa cổ mẫu đất với con người trong thế giới tiểu thuyết của văn
hào John Steinbeck.
Tuy chưa định danh cổ mẫu trạng huống trong tiểu thuyết John Steinbeck,
song Hoàng Thị Thập đã phát hiện sự kết hợp giữa các sự kiện lịch sử với những
tình huống có sẵn trong truyền thuyết, thần thoại hoặc các văn bản nghệ thuật khác
khi khám phá cấu trúc bên trong của truyện kể Steinbeck. Người nghiên cứu tiết lộ
“trong Chùm nho phẫn nộ có bóng dáng cốt truyện của truyền thuyết truy tìm Đất
hứa trong Kinh Thánh; ở Của chuột và người có chủ đề về sự thất bại trong tác
phẩm Với Chuột (1667) của Robert Burns; trong Trong cuộc chiến bất phân thắng
bại là sự kết hợp cốt truyện của truyền thuyết trong Kinh Thánh với cốt truyện tác
phẩm Thiên đường đã mất (1786) của John Milton” [63,59]. Về sau, với bài viết
34
“Tiểu thuyết Chùm nho phẫn nộ và những đối thoại để ngỏ” (2018), Hoàng Thị
Thập tiếp tục khẳng định vai trò của thủ pháp liên văn bản trong việc tạo nên nhiều
cuộc đối thoại trong tác phẩm. Việc kết nối các sự kiện lịch sử xã hội với những
tình huống trong truyền thuyết, thần thoại và các tác phẩm văn chương khác khiến
tiểu thuyết Steinbeck không chỉ đối thoại với các văn bản nghệ thuật trước đó mà
còn đối thoại với lịch sử. “Mỗi tình tiết xuất hiện trong tác phẩm đều gợi đến một
chuyện khác có ý nghĩa sâu xa như những huyền thoại” [80,53].
Kế thừa những kết quả nghiên cứu của các học giả trong và ngoài nước, năm
2016, chúng tôi đã thực hiện luận văn Cổ mẫu Mẹ trong “Chùm nho phẫn nộ” của
John Steinbeck, tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Luận văn tìm hiểu, phân tích
cổ mẫu nhân vật trong tiểu thuyết được xem là kiệt tác của John Steinbeck, trong
đó, chúng tôi tập trung làm rõ cổ mẫu nhân vật tiêu biểu là cổ mẫu mẹ. Cổ mẫu mẹ
trong tác phẩm được chúng tôi phân tích và lí giải qua ba ý nghĩa nổi bật: cổ mẫu
mẹ thế giới, cổ mẫu mẹ gia đình và cổ mẫu mẹ tạo sinh. Qua nghiên cứu cổ mẫu
mẹ, chúng tôi cho rằng tác giả John Steinbeck vừa kế thừa những ý nghĩa nguyên
thủy của loại cổ mẫu này, vừa tái thiết những ý nghĩa, tình tiết khác lạ gắn với thời
hiện đại và nền văn hóa Mỹ [81].
Những kết quả thu nhận được từ luận văn giúp chúng tôi lĩnh hội được phương
pháp tiếp cận cổ mẫu trong tiểu thuyết John Steinbeck và xác định rõ mối liên quan
giữa thế giới văn chương của ông với kho kí ức tập thể của nhân loại và bối cảnh
lịch sử xã hội Mỹ thời hiện đại. Do đó, trong luận án này, chúng tôi mạnh dạn mở
rộng phạm vi và đối tượng nghiên cứu, không chỉ dừng lại ở một tiểu thuyết và
một cổ mẫu nhân vật mà đi sâu hơn nữa trong cuộc hành trình khám phá kho cổ
mẫu phong phú và đa sắc trong tiểu thuyết John Steinbeck. Từ việc khảo sát, nhận
diện, phân loại cổ mẫu trong tiểu thuyết John Steinbeck, chúng tôi tiến hành phân
tích các cổ mẫu điển hình: cổ mẫu mẹ, cổ mẫu anh hùng, cổ mẫu đất và cổ mẫu
nước, đồng thời lí giải sự tái sinh của các cổ mẫu này trong tiểu thuyết John
Steinbeck nhìn từ văn hóa Mỹ.
* Tiểu kết
Trong chương này, với mục đích xác lập nền tảng cho các kiến giải ở các
chương tiếp theo, chúng tôi đã phân tích hai hướng tiếp cận cổ mẫu: hướng tiếp
cận tâm lí-huyền thoại và hướng tiếp cận lịch sử-xã hội, đồng thời chỉ ra việc kết
35
hợp cả hai hướng tiếp cận này là cách thức hữu hiệu để khám phá cổ mẫu trong
văn chương. Lịch sử nghiên cứu tiểu thuyết John Steinbeck và mối quan tâm của
các học giả về vấn đề cổ mẫu trong tiểu thuyết John Steinbeck cũng được chúng
tôi tập trung tìm hiểu và tổng thuật. Theo khảo sát của chúng tôi, những nghiên
cứu này đã đề cập đến nhiều vấn đề trong tiểu thuyết John Steinbeck, từ nội dung
tư tưởng đến các phương thức nghệ thuật, phong cách sáng tác. Trong luận án này,
chúng tôi đã tiến hành phân loại các công trình nghiên cứu về tiểu thuyết John
Steinbeck theo các hướng tiếp cận: phê bình tiểu sử, phê bình xã hội học, phê bình
mới, phê bình đề tài, phê bình nữ quyền, phê bình sinh thái, phê bình huyền thoại/cổ
mẫu. Chúng tôi cũng đặc biệt chú ý đến các hướng tiếp cận liên quan ít nhiều đến
cổ mẫu. Các nghiên cứu trên đã cung cấp cho chúng tôi một cái nhìn toàn diện hơn
về những vấn đề xung quanh tiểu thuyết John Steinbeck, hé mở các cách tiệm cận
cổ mẫu, hoặc từ bình diện lịch sử xã hội, hoặc từ bình diện văn hóa. Đây là những
cơ sở khoa học quan trọng đối với nghiên cứu phê bình cổ mẫu trong tiểu thuyết
hiện đại nói chung và tiểu thuyết Steinbeck nói riêng. Đặc biệt, những ý kiến của
Kakonis, C. Post, L. Cederstrom, G. Tóth, Y. Fan, E. M. Martin,... đã đặt ra vấn đề
nghiên cứu cổ mẫu trong tiểu thuyết John Steinbeck. Tuy rằng các nghiên cứu này
chủ yếu tiếp cận vấn đề cổ mẫu từ góc nhìn tâm lí-huyền thoại, song đã gợi ý cho
chúng tôi những dạng thức cổ mẫu, những cách thức lí giải cổ mẫu, đặc biệt là vấn
đề tạo sinh cổ mẫu trong tiểu thuyết của nhà văn người Mỹ này. Tóm lại, những ý
kiến của các học giả trên thế giới và trong nước về tiểu thuyết John Steinbeck đã
góp phần gợi dẫn để chúng tôi đặt ra vấn đề nghiên cứu: Cổ mẫu trong tiểu thuyết
John Steinbeck.
36
Chương 2.
CỔ MẪU MẸ VÀ SỰ TÁI LẬP BẢN SẮC NỮ TÍNH
TRONG TIỂU THUYẾT JOHN STEINBECK
Trên nền tảng trình bày lí thuyết tổng quan về vấn đề cổ mẫu và các vấn đề
nghiên cứu trọng tâm có liên quan, cũng như mối quan tâm qua thời gian của các
học giả có liên quan đến vấn đề cổ mẫu trong tiểu thuyết John Steinbeck được đề
cập trong chương 1, từ chương 2, luận án sẽ đi vào nghiên cứu các trường hợp cụ
thể. Luận án tập trung nghiên cứu các cổ mẫu điển hình trong sáng tác của nhà văn
người Mỹ này, đặc biệt là xem xét sự tái sinh cổ mẫu trong tiểu thuyết John
Steinbeck dưới ảnh hưởng của bối cảnh lịch sử xã hội Mỹ nửa đầu thế kỉ XX đầy
biến động. Theo đó, sự tái sinh cổ mẫu trong tác phẩm của John Steinbeck sẽ được
chúng tôi bàn luận trong sự tương tác với kho kí ức tập thể của nhân loại và những
thay đổi mạnh mẽ trong lòng nước Mỹ hiện đại. Dựa trên kết quả khảo sát về tần
suất lặp lại cũng như sức ảnh hưởng của một cổ mẫu đến toàn tác phẩm, chương
này của luận án tiến hành nghiên cứu cổ mẫu mẹ, một trong những cổ mẫu được
tái sinh đầy ấn tượng trong tiểu thuyết John Steinbeck. Cổ mẫu này được tái xuất
hiện thường xuyên trong các kiểu loại truyện kể từ thời cổ đại đến hiện đại, ở khắp
nơi trên thế giới, nhằm biểu trưng cho ước vọng và chiêm nghiệm của các cộng
đồng về hình mẫu người mẹ, người phụ nữ phổ quát. Sự hiện diện của cổ mẫu mẹ
trong văn học hiện đại nói chung và văn học Mỹ hiện đại nói riêng là minh chứng
cho sức sống mãnh liệt của những hình tượng người mẹ, người phụ nữ trong đời
sống tinh thần của mỗi cá nhân và cộng đồng. Để phản ánh đời sống và tâm hồn
của những thân phận bên lề ở một quốc gia nhanh chóng vươn lên vị thế số một
trên trường quốc tế rồi lại rơi vào thời kì suy thoái kinh tế nặng nề, John Steinbeck
đã tái sinh cổ mẫu mẹ trong nhiều tiểu thuyết nổi bật của ông trên nền tảng huyền
thoại, đồng thời tái lập bản sắc nữ tính của cổ mẫu này như một phương cách chữa
lành những vết thương tinh thần trong thời đại bất ổn.
2.1. Cổ mẫu mẹ trong văn hóa dân gian
Là một trong những đại cổ mẫu ngự trị trong văn hóa dân gian của các cộng
đồng khắp thế giới, cổ mẫu mẹ được định danh theo nhiều cách khác nhau:
archetypal woman (người nữ cổ mẫu), feminine archetype (cổ mẫu tính nữ),
37
mother archetype (cổ mẫu mẹ). Trong luận án này, chúng tôi sử dụng khái niệm
mother archetype (cổ mẫu mẹ) với ý nghĩa như là hình mẫu chung về người mẹ.
Từ thế giới thần thoại Hi Lạp, sử thi Ấn Độ, thần thoại Trung Hoa, truyện cổ của
các dân tộc trên thế giới đến những áng văn chương hiện đại, thậm chí hậu hiện
đại, cổ mẫu mẹ liên tục được tái sinh với nhiều sự biến đổi, song những đặc trưng
cốt lõi của cổ mẫu này trong văn hóa dân gian vẫn được lưu giữ ít nhiều.
Giống như nhiều cổ mẫu khác, cổ mẫu mẹ hiện diện với nhiều dạng thức và
khía cạnh khác nhau. Trong nghiên cứu Four Archetypes: Mother, Rebirth, Spirit,
Trickster (Bốn cổ mẫu - Mẹ, Sự tái sinh, Linh hồn, Kẻ bịp bợm), Jung cho biết cổ
mẫu mẹ được biểu hiện rất đa dạng. Theo Jung, những dạng thức quan trọng phải
kể đến đầu tiên là mẹ, bà, mẹ kế, mẹ chồng, sau đó là bất kì người phụ nữ nào, tiếp
đến là các Nữ thần (Đức Mẹ Maria, Trinh nữ, Thánh nữ,...). Xuất phát từ liên tưởng
về sự tương đồng giữa một số biểu tượng với cổ mẫu mẹ, “ngụ ý cho sự che chở,
vòng tuần hoàn hay vòng tròn thiêng liêng có thể là một dạng của cổ mẫu mẹ”
[17,15], Jung đã chỉ ra nhóm biểu tượng về mẹ liên quan đến sự cứu rỗi, khả năng
sinh sản và che chở bao gồm: Địa đàng, đất, nước, mặt trăng, cánh đồng, tảng đá,
khu vườn, hang động,... Jung cũng xác lập hai đặc trưng đối lập nổi bật của cổ mẫu
mẹ, bao gồm mẹ yêu thương và mẹ khủng khiếp. Những phẩm tính gắn liền với
mẹ yêu thương là lòng yêu thương, thấu cảm, quyền uy nữ tính, khôn ngoan, sinh
sản và nuôi dưỡng. Ngược lại, mẹ khủng khiếp là những gì bí ẩn, tăm tối, vực thẳm,
chết chóc, quyến rũ, độc hại [17].
Trong mục “Hướng tiếp cận huyền thoại và cổ mẫu”, các tác giả của công
trình Hướng dẫn các hướng tiếp cận phê bình văn học (1992) đã khái quát các đặc
trưng của cổ mẫu mẹ, bao gồm: mẹ hiền (good mother), mẹ dữ (terrible mother)
và bạn linh hồn (soulmate). Theo các nhà nghiên cứu, mẹ hiền thường gắn với các
đặc tính như: sinh sản, nuôi dưỡng, che chở, bảo vệ, ấm áp, phì nhiêu, phong phú.
Đây là những phương diện tích cực của mẹ đất (Earth Mother) hay mẹ vĩ đại (Great
Mother). Ngược lại, những phương diện tiêu cực hay mẹ dữ thường mang những
đặc tính như: nguy hiểm, bóng tối, chết chóc, trụy lạc, sợ hãi và biểu hiện qua các
hình tượng người đàn bà xấu xí, mụ phù thủy, người đàn bà trụy lạc. Ngoài ra, đặc
tính bạn linh hồn thường biểu hiện cho cảm hứng và sự hoàn tất một trạng thái tinh
thần [82,161]. Như thế, cổ mẫu mẹ xuất hiện trước hết trong kho tàng văn hóa dân
38
gian với những đặc trưng đối lập, trở thành một cổ mẫu trung tâm không gì thay
thế được và liên tục được tái sinh cùng với tiến trình lịch sử-văn hóa của nhân loại.
Dựa trên nghi lễ, huyền thoại, giấc mơ và trí tưởng tượng của các tộc người ở
khắp nơi trên thế giới, Erich Neumann đã tiến hành nghiên cứu trường hợp đầu
tiên về cổ mẫu mẹ trong văn hóa dân gian, với công trình mang tính bước ngoặt
The Great Mother: an Analysis of the Archetype (Mẹ vĩ đại: phân tích cổ mẫu).
Trong đó, học giả đã xem xét biểu hiện của cổ mẫu mẹ trong nhiều nền văn hóa xa
xưa qua các vị nữ thần, quái vật, cánh cổng, cây cối, mặt trăng, mặt trời, vật chứa...
Từ đó, Neumann đi đến kết luận về bản chất hai chiều đối lập mà thống nhất của
cổ mẫu mẹ, vừa là người nuôi dưỡng vừa là kẻ đáng sợ. Neumann cũng khẳng định
rằng mẹ vĩ đại là một trong những cổ mẫu nguyên thủy của tâm hồn nhân loại [83].
2.2. Biến thể của cổ mẫu mẹ trong tiểu thuyết của John Steinbeck
2.2.1. Mẹ hiền
2.2.1.1. Vẻ đẹp nữ tính
Khi tạo ra người phụ nữ, Thượng Đế đã ban cho họ ân sủng đầu tiên, đó là vẻ
đẹp nữ tính. Vẻ đẹp nữ tính của người phụ nữ, người mẹ thường hiển lộ qua nét
dịu dàng, mềm mại từ dáng vẻ bên ngoài đến cả chiều sâu tâm hồn. Trong tâm thức
nhân loại, nữ tính là “ước vọng của con người tới cái siêu tại, siêu phàm” [84,707].
Nó vượt lên trên tất cả mọi vẻ đẹp và biểu hiện cái kì diệu, hấp dẫn riêng biệt ở
người phụ nữ. Nhờ có vẻ đẹp nữ tính nên “phụ nữ liên hệ mật thiết hơn đàn ông
với linh hồn của thế giới, với những sức mạnh tự nhiên nguyên sơ và chính qua
phụ nữ mà đàn ông cộng thông được với những sức mạnh ấy” [84,707]. Có thể nói,
vẻ đẹp nữ tính chính là một trong những phẩm tính tốt đẹp của người mẹ, tạo nên
sức mạnh ở họ, giúp họ vượt qua những rào cản, thử thách khốc liệt trong cuộc
sống và trở thành nơi chở che của giới nam vốn dĩ mạnh mẽ.
Ý thức sâu sắc về cội nguồn nữ tính và địa vị quan trọng của người phụ nữ
trong những năm tháng đầy bất ổn của xã hội Mỹ đầu thế kỉ XX, John Steinbeck
đã xây dựng những nhân vật nữ dịu dàng, mềm mại làm điểm tựa tinh thần cho
những người đàn ông. Từ những sáng tác đầu tay cho đến những tiểu thuyết cuối
cùng trong sự nghiệp cầm bút hơn 30 năm của mình, Steinbeck luôn dành một
niềm ưu ái đối với những người phụ nữ, những người mẹ. Trong số đó, Lisa (Trong
trận đánh mơ hồ), Ma Joad và Rosashan (Chùm nho phẫn nộ), Juana (Viên ngọc
39
trai), Abra Bacon (Phía đông vườn địa đàng) là những gương mặt đầy nữ tính.
Trước hết, vẻ đẹp nữ tính của họ được hiển lộ qua ngoại hình. Trong Chùm nho
phẫn nộ, Ma Joad là một phụ nữ vất vả, nghèo khổ. Giống như bao người nông dân
khác, bà và gia đình bị cuốn vào bi kịch khốn khổ của cuộc khủng hoảng kinh tế
những năm đầu thế kỉ XX. Tuy vậy, người mẹ ấy vẫn không đánh mất nét nữ tính
của mình. Dáng vẻ của bà vẫn “thanh thoát”, “mái tóc thưa, xám thiếc, búi thành
một túm gầy nhom phía sau gáy”, “đôi bàn tay mập mạp và giống như bàn tay của
một bé gái béo tròn”, “khuôn mặt đầy đặn” [85,117]. Như thế, vẻ bên ngoài của Ma
Joad dẫu mang hơi thở của cuộc sống khổ cực nhưng vẫn là những nét nữ tính của
một người phụ nữ, người mẹ đã trưởng thành. Rosashan là một người sắp làm mẹ,
dáng vẻ bên ngoài của cô được miêu tả khác với các nhân vật nữ còn lại, bởi cô
đang mang trong mình một sinh linh bé bỏng, một mầm non của sự sống. Điểm
nhấn đầu tiên trong chân dung của người mẹ trẻ này là mái tóc dày và đẹp: “Đám
tóc tết tạo nên một chiếc vành khăn sắc hung nhạt” [85,49]. Mái tóc của Rosashan
không phải “thưa, xám thiếc, búi thành một túm gầy nhom” như của Ma Joad mà
có màu “hung nhạt”, được tết thành “một chiếc vành khăn”. Mái tóc gợi lên sức
sống, nét đẹp của một người phụ nữ trẻ. Chi tiết thứ hai là gương mặt “dịu dàng và
tròn” [85,149]. Trong tâm thức của loài người, gương mặt đẹp của người phụ nữ
thường được mặc định tròn trịa, phúc hậu. Nguyễn Du đã miêu tả vẻ đẹp của Thúy
Vân qua “Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang” (Truyện Kiều). Gương mặt của
Rosashan cũng tựa như vầng trăng tròn, toát lên vẻ dịu dàng, hiền hậu. Điều khiến
cô khác biệt, đó là khuôn mặt đẹp ấy “cách đây mấy tháng còn hấp dẫn và gợi
khoái lạc, nay đã mang cái rào chắn của sự thai nghén” [85,149]. Rõ ràng, khi ý
thức được mình sắp làm mẹ, bất kì người phụ nữ nào cũng tạo ra một “rào chắn”
để bảo vệ cho đứa con yêu quý của họ. Vẻ đẹp nữ tính của Rosashan còn được
Steinbeck chú ý khắc họa những điểm nhấn hình thể như: đôi vú, bụng, hông,
mông. “Cái thân hình phây phây, đôi vú nhô lên và mềm, bụng, hông, mông rắn
chắc, nân nân và khêu gợi, khiến ai nhìn cũng muốn vuốt ve hoặc đưa tay vỗ vỗ”
[85,149]. Đây đều là những điểm nhấn trên cơ thể của người phụ nữ khẳng định
quyền năng làm mẹ của họ. Vì vậy, khi nói về nét đẹp nữ tính của họ, không thể
không kể đến những điểm nhấn đặc biệt này. Vẻ nữ tính của một người sắp làm
mẹ còn được nhà văn khu biệt thêm nét kín đáo và nghiêm trang. Bởi lẽ, đối với
40
họ, điều quan trọng lúc này không phải là phô bày tất cả vẻ đẹp của mình ra bên
ngoài để hấp dẫn một nửa thế giới còn lại mà dành tất cả sự quan tâm, ưu ái cho
đứa bé nằm trong bụng.
Khi miêu tả những người phụ nữ, người mẹ, John Steinbeck thường nhấn
mạnh chi tiết đôi mắt. Phải chăng vì “đôi mắt là cửa sổ tâm hồn” như ai đó từng
nói. Đôi mắt là một trong những điểm nhấn thể hiện rõ nhất nét đẹp nữ tính của
một người phụ nữ. Trong Viên ngọc trai, nhân vật Juana, vợ của một người da đỏ
làm nghề mò ngọc trai, xuất hiện qua cái nhìn âu yếm của người chồng với đôi mắt
đen láy huyền bí mà gần gũi, chan chứa tình yêu thương chồng con: “Đôi mắt đen
láy của Juana như phản chiếu những vì sao, chị nhìn anh bằng ánh mắt quá đỗi
thân thuộc mỗi buổi sáng khi anh tỉnh dậy” [86,7]. Ánh mắt ấy của Juana cũng biểu
trưng cho cuộc sống bình dị mà hạnh phúc của gia đình Kino, những ngày tháng
mà người da đỏ chưa phải đối mặt với người da trắng đến chinh phục và những thế
lực tai ác khác.
Bên cạnh đó, đôi mắt của người mẹ còn ẩn chứa sự trầm tĩnh, thấu hiểu và ý
chí kiên cường. Ma Joad có “đôi mắt màu hạt dẻ hình như đã trải qua tất cả những
tấn tuồng bi đát và cũng leo lên bấy nhiêu bậc thang của những nỗi nhọc nhằn xót
xa tới những vùng cao vợi của sự trầm tĩnh và sự thấu hiểu siêu phàm” [85,117-
118]. Trong đôi mắt bà, người ta có thể nhìn thấy mọi nỗi khốn cùng và cả trái tim
nhân hậu ấm áp. Những lúc đau khổ, nguy hiểm bủa vây, ánh mắt của người mẹ
ấy “tương tự như cái nhìn vĩnh hằng ở các pho tượng” [85,447]. Có thể nói, sự
trầm tĩnh và từng trải giúp bà mẹ nhìn cuộc đời một cách bình thản, lạc quan. Đó
còn là đôi mắt đẹp ẩn chứa sức mạnh tinh thần phi thường của bà Sairy: “đôi mắt
rực lửa - đôi mắt đen nhánh hình như đã từng nhìn vào một cái hố sâu thẳm của
những cảnh kinh khiếp [85,209], “đôi mắt sáng rực” [85,211] “đôi mắt to và sáng
chói” [85,343]. Vì vậy, trong những lúc nguy nan, những người mẹ dường như
kiên cường và bản lĩnh hơn những người đàn ông. Khi con trai nhỏ Coyotito chẳng
may bị bọ cạp cắn, Juana quyết định tìm bác sĩ, song những người hàng xóm và
chồng chị không tin rằng lão bác sĩ da trắng sẽ đến chữa trị cho một bé con da đỏ.
Tuy thế, ý định của Juana chẳng những không bị lung lay mà còn lay chuyển suy
nghĩ của người chồng. Điều này được thể hiện qua ánh mắt đanh thép của nhân
vật: “Chị nhìn anh bằng đôi mắt lạnh băng như của một con sư tử cái” [86,16].
41
Kino nhìn thấy rõ lòng quyết tâm của vợ mình qua ánh mắt sắt đá ấy. Có thể nói,
ẩn sâu bên dưới vẻ nữ tính thường ngày của những người phụ nữ là sức mạnh tinh
thần phi thường, khí chất sắt đá, bản lĩnh kiên cường đến mức kì diệu.
Khi miêu tả vẻ đẹp nữ tính của những người phụ nữ, người mẹ, John Steinbeck
thường chú ý đến trang phục của họ. Đó có thể là những chiếc áo tuy đã sờn màu
nhưng vẫn sạch sẽ, là những chiếc váy tuy không còn mới nhưng vẫn đẹp đẽ. Lúc
Tom Joad gặp mẹ sau bốn năm chịu án, “bà mang một chiếc áo choàng bông chùng
bằng dạ xám, xưa có điểm hoa tô màu nhưng nay đã bạc phếch, đến nỗi hình hoa
bé tí chỉ còn chút xanh mờ nhạt hơn nền vải. Chiếc áo dài chấm xuống tận mắt cá”
[85,117]. Sự phai màu của những bông hoa bé nhỏ trên nền vải không làm mất đi
vẻ nữ tính, dịu hiền của người mẹ, có chăng là giờ đây lại gắn thêm cái nghèo khổ,
nhọc nhằn. Thực ra, trong nguyên bản tiếng Anh, tên của chiếc áo ấy là “Mother
Hubbard” [87,74], một loại áo choàng dài, rộng, tạo cảm giác thoải mái khi mặc ở
nhà, đặc biệt thích hợp với công việc của các bà mẹ. Tên gọi này xuất phát từ tên
của nhân vật người mẹ trong câu chuyện Những cuộc phiêu lưu hài hước của Mẹ
Hubbard già và con chó của bà. Qua trang phục của bà mẹ, Tom cũng chớm nhận
ra sự thay đổi trong gia đình mình. Tương lai của họ sẽ không còn những năm
tháng sung túc, đủ đầy nữa mà là một chuỗi ngày vất vả, khổ cực.
Trên hành trình đến miền đất hứa, những người mẹ và gia đình của họ phải
chịu biết bao đắng cay, thậm chí họ không được sống đúng nghĩa một con người.
Duy nhất lần ở trại Weedpated, cảm thấy mình như trở lại làm người, những người
phụ nữ, người mẹ lập tức chỉnh tề trang phục cho mình và những người thân yêu.
Bởi họ ý thức được vẻ bên ngoài sẽ giới thiệu với người khác họ là người như thế
nào. Rosashan ngượng ngùng trước ánh nhìn của bà mẹ vì diện mạo mới của mình
sau những tháng ngày phải chạy trốn, sống chui lủi. “Tóc cô còn nhỏ giọt, chải
mượt, da dẻ sáng sủa, hồng hào. Cô đã mặc chiếc áo dài xanh in hoa trắng nhỏ, đi
đôi giày gót cao của hồi mới cưới” [85,487]. Ma Joad cũng tìm lại sự nữ tính của
mình: “Mẹ trở về, sạch sẽ và hồng hào; tóc còn ướt chải kĩ thắt lại một búi ở sau
gáy. Mẹ mặc chiếc áo vải hoa, đi đôi giày cũ đã nứt và đeo đôi hoa tai nhỏ”
[85,493]. Những điểm nhấn như “chiếc áo dài xanh in hoa trắng nhỏ”, “đôi giày
gót cao”, “chiếc áo vải hoa”, “đôi hoa tai nhỏ” tuy nhỏ bé và cũng không quá nổi
bật nhưng chúng đều biểu trưng cho vẻ đẹp nữ tính của người phụ nữ, người mẹ.
42
Vẻ đẹp ấy không một chút tầm thường. Bởi lẽ, trong hoàn cảnh đói khát, chạy trốn
từ nơi này đến nơi khác, ý thức nữ tính và sự gìn giữ nét đẹp nữ tính của người mẹ,
người phụ nữ là một điều đáng quý hơn bao giờ hết, tựa như những đốm sáng lung
linh trong đêm tối.
Vẻ đẹp nữ tính của người mẹ còn được thể hiện qua giọng nói. Không phải
ngẫu nhiên khi có người khẳng định rằng: “Giọng nói là hoa của sắc đẹp”. Chỉ cần
nghe thanh âm của một người cũng đủ để chúng ta biết họ là ai. Trong Chùm nho
phẫn nộ, John Steinbeck nhiều lần miêu tả giọng nói của những bà mẹ. Với Ma
Joad, đó là những thanh âm “kéo dài, tươi mát, trầm tĩnh, thân tình và khiêm
nhường” [85,117]. Âm thanh ấy khiến người nghe cảm thấy ấm áp, dễ chịu tựa như
cảm giác được sà vào lòng mẹ. Với Sairy Wilson, một người phụ nữ đang bị bệnh
nặng “tàn tạ rúm ró” thế nhưng giọng nói của bà không hề mang dấu hiệu bệnh tật
mà là những “âm sắc trầm trầm, dịu dàng và ngân nga nhưng lại có những nhấn
giọng rung vang” [85,209]. Thanh âm ấy đủ để xoa dịu một trái tim đang hấp hối.
Tiếng nói dịu dàng của bà gây chú ý đến ông nội, một người đang cận kề bên cái
chết, khiến ông xúc động và bật khóc. Quả thật, nét dịu dàng, mềm mại của những
người phụ nữ, người mẹ đã được nhà văn ghi lại qua những thanh âm ngọt dịu, ấm
áp của họ.
Không chỉ đẹp ở ngoại hình, trang phục, giọng nói, những người phụ nữ, người
mẹ của John Steinbeck còn nữ tính ở hành động cử chỉ. Nét dịu dàng, xúc động
của người mẹ khi gặp lại con trai sau nhiều năm xa cách được nhà văn khắc họa
qua hành động từ tốn, khẽ khàng của nhân vật Ma Joad: “Bà bước lại gần con, uyển
chuyển và lặng lẽ. Khuôn mặt bà rạng rỡ. Bà đưa bàn tay nhỏ bé sờ sờ cánh tay
của con, nắn nắn cái rắn chắc của cơ bắp anh. Rồi những cánh tay như ngón tay
người mù của bà lần lên trán con” [85,118-119]. Ma Joad vốn là một bà mẹ nhanh
nhẹn, dứt khoát. Vậy mà, trong giờ phút xúc động ấy, bà lại chậm rãi, từ tốn. Ở
đoạn văn này, các chi tiết được miêu tả như những thước phim quay chậm. Bởi vì,
với Ma Joad, việc Tom được trở về tựa như một giấc mơ, bao nhiêu yêu thương,
nhớ nhung đã được kìm nén trong trái tim bà mẹ quê mùa ấy bấy lâu nay vỡ òa.
Còn với Tom Joad, mẹ lúc nào cũng là người phụ nữ dịu dàng nhất, là bến bờ êm
ái nhất trong cuộc đời anh.
Phụ nữ, nhất là những bà mẹ, bao giờ cũng là những người bình tĩnh, khoan
43
thai khi đối mặt với những giông bão của cuộc đời. Trên hành trình đến miền đất
hứa California, Ma Joad luôn là chỗ dựa cho cả gia đình. Sự dịu dàng, bình tĩnh,
khiêm nhường của bà làm điểm tựa cho cả nhà Joad vượt qua những khổ đau, mất
mát. Trong Viên ngọc trai, Juana cũng là một nhân vật nối tiếp những vẻ đẹp của
Ma Joad, khi chị là chỗ dựa cho Kino, là người vợ trợ giúp chồng bằng sự sáng
suốt, tỉnh táo để thoát khỏi những cám dỗ mà viên ngọc mang lại.
Nét nữ tính của người mẹ còn được thể hiện qua tâm lí hoài niệm quá khứ.
Trong đêm trước ngày cả nhà lên đường đến miền tây, Ma Joad lấy một chiếc
hộp cũ, trong đó đựng những vật kỉ niệm của bà. Đó là những lá thư, đôi hoa tai,
chiếc nhẫn nhỏ, tờ báo đăng biên bản vụ án xử Tom. Bà ngồi lặng ngắm những
kỉ vật, lưu giữ những khoảnh khắc quan trọng trong cuộc đời như những ống kính
ghi lại những phút giây vui buồn, hạnh phúc, đau khổ. Bà tiếc nuối vì không thể
mang theo chiếc hộp kí ức nên đành giữ lại những vật quý giá và đốt chỗ còn lại.
Điều đó không có nghĩa là Ma Joad chôn vùi tia sáng quá khứ mà tia sáng ấy còn
len lỏi trong tâm tưởng của bà trên cuộc hành trình qua những lần hồi tưởng, qua
những cuộc trò chuyện. Nếu như người đàn ông tìm về quá khứ để bấu víu, để trốn
tránh thực tại, thì người mẹ lại hoài niệm quá khứ để kiên cường hơn, mạnh mẽ
hơn trong cuộc chiến của số phận và vững tin hơn vào tương lai.
Trong những ngày đi đường lặn lội, bà mẹ hầu như không suy tư nhiều. Chỉ
khi gặp những con người tốt bụng, cả nhà kiếm được chỗ ăn chỗ ở đàng hoàng, Ma
Joad mới ôn lại trong tâm trí “tất cả những nỗi buồn đau, nhớ lại cái đêm ông nội
mất, nhớ lại lúc chôn cất ông. Nhưng từ đó đường trường bao nhiêu gian nan vất
vả, ngồi trên xe, bị lắc lư, bị lèn chặt, nên tôi chưa thấy thấm thía. Nhưng khi đã
vượt qua và tới được đây, thì sự tình lại đau xót hơn. Bà nội mất… Noah bỏ đi như
thế… bỏ đi cắm cúi dọc bờ sông như thế…” [85,513]. Quá khứ đối với người phụ
nữ cũng quan trọng không kém hiện tại hay tương lai. Bởi lẽ, quá khứ là những
mảnh đời của họ, là điểm tựa cho cuộc sống hiện tại của họ.
Có thể nói vẻ đẹp nữ tính là một đặc điểm tiêu biểu của cổ mẫu mẹ hiền trong
thế giới nghệ thuật tiểu thuyết John Steinbeck. Như đã ăn sâu vào kí ức của nhân
loại, tâm thức của người sáng tạo và bạn đọc, người phụ nữ, người mẹ trong các
tác phẩm văn chương bất hủ thường xuất hiện với nét đẹp nữ tính. Đó là điều làm
cho họ khác biệt với nam giới và cũng là cái tạo nên sức cuốn hút, hấp dẫn của
44
phái nữ. Nói về vẻ đẹp của họ, Kinh Phúc âm có câu: “Phụ nữ được tiền định mang
hương thơm” [84,707]. Chúng ta cũng có thể nói rằng phụ nữ được tiền định mang
vẻ đẹp nữ tính. Đặc biệt với người mẹ, vẻ đẹp nữ tính còn gắn liền với sự trầm tĩnh,
nghiêm trang, bản lĩnh phi thường và hơn hết là tình yêu thương.
2.2.1.2. Suối nguồn yêu thương
Từ bao đời nay, người mẹ trong tâm thức nhân loại luôn là nữ thần của tình
yêu thương. M. Gorky từng nói: “Tất cả vẻ đẹp và những điều diệu kỳ trong cuộc
sống được tạo nên là nhờ vào sức mạnh tình yêu của người phụ nữ”. Tình yêu
thương, lòng bao dung, vị tha, đức hi sinh, sức chịu đựng phi thường là những cung
bậc tình cảm thiêng liêng, cao quý trong trái tim người mẹ, được mặc định trong
vô thức của loài người về hình mẫu người mẹ và trở thành cội nguồn sức mạnh của
những người phụ nữ, người mẹ. Thượng đế sinh ra người mẹ là để yêu thương, để
xoa dịu và chữa lành những nỗi thống khổ trên thế gian này. Do đó, tình yêu thương
là một đặc điểm không thể thiếu khi nói về cổ mẫu mẹ hiền.
Trong Kinh Thánh, Đức mẹ Maria được xem là biểu tượng cho tình yêu thương,
lòng bác ái. Đức mẹ có một tình yêu phi thường đối với Thiên Chúa, bà sẵn sàng hi
sinh tất cả, từ bỏ tất cả để dành tình yêu thương trọn vẹn cho Thiên Chúa. Nỗi đau
đớn của mẹ Maria trước cái chết của Chúa Jesus trở thành một chủ đề của nghệ thuật
với tên gọi Đức Mẹ Sầu Bi. Vì vậy, Đức mẹ Maria được tôn sùng là thánh mẫu của
loài người. Nhà văn Nga M. Gorky cũng ngợi ca người mẹ như là biểu tượng của
tình yêu thương trong tiểu thuyết Người mẹ qua nhân vật Nilopna. Bà mẹ già “có
tấm lòng rộng lớn”, “có thể yêu thương tất cả mọi người” và sẵn sàng hi sinh tất cả
vì con [88,125]. Không chỉ có mẹ Maria hay bà Nilopna mà mọi người mẹ trên thế
gian này đều yêu thương con mình, đấy là bản tính, là thiên tư của người phụ nữ.
Bất cứ ai khi nghĩ đến người mẹ cũng đều gắn họ với tình yêu thương.
Yêu thương con đâu phải chỉ là trách nhiệm, bổn phận mà còn là bản năng của
mỗi bà mẹ. Do đó, nỗi đau mất con là nỗi đau đớn lớn nhất của người mẹ và không
một ngôn từ nào có thể diễn tả nỗi đau đớn đó. Ngay từ thời xa xưa, người Hi lạp
đã hình tượng hóa tình cảm thiêng liêng này qua nhân vật Demeter và Persephone.
Câu chuyện Demeter đi tìm con không chỉ để lí giải về hiện tượng các mùa trong
tự nhiên mà còn thể hiện tình mẫu tử thiêng liêng. Chuyện kể rằng: Persephone bị
thần Hades bắt về làm vợ ở dưới âm phủ, “Demeter đi tìm con suốt chín ngày chín
45
đêm. Chín ngày không ăn, chín đêm không ngủ, và cũng không tắm rửa gội đầu,
chải tóc khiến cho thân hình nàng tiều tụy, hao mòn. Demeter cứ đi lang thang hết
nơi này đến nơi khác gọi con, kêu gào than khóc, vật vã. Nàng hỏi rừng cây, rừng
cây lắc đầu trả lời không biết. Nàng hỏi núi cao, núi cao cũng ngơ ngác không biết
nói gì. Nàng hỏi biển khơi, biển khơi trả lời nàng bằng tiếng thở dài, thương cảm.
Còn đất đen thì im lặng nhìn nàng, thấm khô những giọt nước mắt xót xa, đau khổ
của nàng lã chã tuôn rơi…” [89,237]. Nỗi đau mất con của Demeter khiến biển
khơi, đất đai xót xa, thương cảm. Tình mẫu tử ấy đủ sức để lay động những trái
tim sắt đá, khô cằn, những khối óc lạnh lùng, toan tính. Điều đó đã cho thấy trong
tâm thức của nhân loại, người mẹ bao giờ cũng là suối nguồn của tình yêu thương.
Ý thức sâu sắc về sức mạnh yêu thương của người mẹ, người phụ nữ trong
cơn biến chuyển của thời đại, Steinbeck đã dựng xây những hình tượng người mẹ,
người phụ nữ giàu lòng yêu thương, bao dung. Tình yêu thương của cổ mẫu mẹ
hiền trong tiểu thuyết John Steinbeck được thể hiện trước hết ở tình cảm mẹ - con
giữa các nhân vật trong Chùm nho phẫn nộ, Viên ngọc trai, Của chuột và người,
Phía đông vườn địa đàng. Ma Joad là một bà mẹ hết lòng yêu thương con. Bà luôn
luôn lo lắng, quan tâm, chăm sóc cho con cái và những người thân trong gia đình.
Bởi vậy, niềm vui sướng, hạnh phúc của Ma Joad khi thấy con trai sớm trở về sau
những tháng năm tù đày nhanh chóng nhường chỗ cho sự lo lắng, ân cần: “Tommy,
họ không truy lùng lại con chứ? Con không vượt tù chứ?” [85,118]. Trên hành
trình đến miền đất hứa, tuy mệt mỏi, gian khổ nhưng không lúc nào bà mẹ quên lo
lắng cho Tom, sợ rằng anh có thể lặp lại con đường sai lầm trước đây. Khi Tom
Joad giết người để trả thù cho mục sư Jim Casy, chính Ma Joad là người đứng ra
sắp xếp, lo liệu mọi việc để bảo vệ cho Tom, giúp anh tránh khỏi sự truy lùng của
cảnh sát. Hằng ngày bà không quản nguy hiểm để đưa thức ăn đến nơi Tom ẩn nấp.
Nhưng bà mẹ không thể che giấu đứa con trai mãi mãi vì Tom quyết định ra đi.
Lần cuối cùng gặp con, bà mong muốn Tom trốn đến một nơi xa hơn, an toàn hơn.
Bà thuyết phục Tom nhận lấy số tiền ít ỏi mà mình đã tích cóp: “Mẹ có dành ra
được một ít. Con đưa tay đây, Tom. Mẹ có đem theo bảy đôla” [85,668]. Trong
hoàn cảnh gia đình khổ cực, Ma Joad phải dè sẻn từng đồng xu để mua thức ăn, ấy
vậy mà bà mẹ nghèo khổ ấy vẫn không quên dành dụm để Tom có tiền đi đường.
Bởi lẽ, một người mẹ yêu thương con như bà không thể ăn ngon ngủ yên khi con
46
mình chưa biết đi đâu về đâu và phải chịu sự truy lùng của kẻ ác. Yêu thương con
trai, mong muốn gia đình được toàn vẹn, tuy nhiên Ma Joad phải ngậm đắng nuốt
cay, phải chấp nhận tiễn biệt đứa con trai mà bà yêu quý nhất. Bên cạnh đó, những
hành động tưởng chừng là nhỏ nhặt của bà mẹ chẳng hạn như bo bo giữ lấy mẩu
bánh mì để dành cho cô con gái đang ốm đau, không quên để phần thức ăn cho tất
cả các thành viên trong gia đình, dè sẻn từng cọng củi khô còn lại để cầm chừng
qua ngày lũ lụt, đều chất chứa tình yêu thương vô bờ bến của một người mẹ.
Chính tình yêu thương là cội nguồn sức mạnh ở những bà mẹ. Không biết từ
bao giờ, đôi vai của mỗi người mẹ lại trĩu nặng gánh hi sinh, chịu đựng. Là một
người mẹ, người vợ, họ không thể chỉ nghĩ cho riêng mình. Với họ, gia đình, con
cái là những ưu tiên hàng đầu. Vì vậy, dẫu mất mát, đau khổ, những bà mẹ vẫn cố
kìm nén, chịu đựng. Khi ông nội qua đời, bà nội - một người vợ, người mẹ, người
bà - không thể gục ngã trước đau thương này. Cái chết của ông nội khiến bà thay
đổi hoàn toàn, không còn dáng vẻ trẻ con, thích đùa giỡn như trước: “Bà nội bước
đi đàng hoàng, đầu ngẩng cao. Bà bước đi vì gia đình và ngẩng cao đầu vì gia
đình… Bà Nội nhìn thẳng phía trước mặt, tràn trề niềm kiêu hãnh” [85,215]. Sau
giờ phút vững vàng, vượt qua nỗi đau mất chồng, bà nội trở nên lú lẫn và yếu dần,
bà chết khi chưa kịp nhìn thấy đất hứa California. Quả thật, sức chịu đựng của
những bà mẹ trong tác phẩm khiến chúng ta phải kinh sợ và nể phục.
Rosashan, người thiếu phụ vừa mang thai lần đầu nên hành trình đến
California của cô gian truân hơn so với những người khác. Hoàn cảnh thiếu thốn
và tai họa liên tiếp ập tới khiến Rosashan luôn lo lắng cho sự an nguy của sinh linh
bé bỏng. Connie, chồng cô, người đã bao lần vẽ ra lâu đài ảo tưởng trong tâm trí
cô: Connie sẽ kiếm được việc làm thêm, tối tối họ cùng nhau đi xem phim, bác sĩ
sẽ đến khi nào cô sinh em bé, đã làm vỡ tan giấc mộng khi anh ta trốn chạy, không
ai biết anh ta đã đi đâu. Rosashan đau đớn, niềm hi vọng duy nhất với cô bây giờ
chỉ còn là đứa trẻ. Thế nhưng, đứa bé cô mang nặng đẻ đau, cùng trải qua biết bao
tủi cực với người mẹ trẻ xấu số, nó đã chết trước khi ra đời vì thiếu tháng, chỉ còn
là “một xác chết khô đét xanh tím và nhăn nheo” [85,708]. Thử hỏi đối với người
phụ nữ, có nỗi đau nào lớn hơn nỗi đau mất chồng, mất con… Thế nhưng, những
nhân vật nữ của John Steinbeck vẫn vững vàng vượt qua tất cả khổ đau. Bởi vì tình
yêu thương và sức chịu đựng phi thường đã hun đúc nên sức mạnh bất diệt ở những
47
người mẹ nghèo khổ.
Juana trong Viên ngọc trai cũng là một người vợ, người mẹ giàu tình yêu
thương và sức chịu đựng. “Chị ngoan hiền, cung kính, vui vẻ và cũng đầy nhẫn
nại, chị có thể nén chịu cơn đau đẻ mà gần như không hề rên la. Những nhọc nhằn
hay đói khát, chị cơ hồ có thể chịu tốt hơn cả Kino. Trên chiếc thuyền ra khơi,
Juana như một người đàn ông mạnh mẽ” [86,15]. Những phẩm chất tuyệt đẹp ấy
khiến Juana có đủ bản lĩnh để làm những việc mà đối với một người phụ nữ Mỹ
bản địa là bất khả. Khi Coyotito bị thương, chị khẩn thiết nhờ mọi người mời bác
sĩ đến. Mà với những người trong dòng tộc của chị, việc này quá hoang đường, quá
kinh thiên động địa. Khi biết rằng lão bác sĩ kiêu ngạo sẽ chẳng đến chốn lều tranh
vách đất, chị cương quyết: “Vậy mình sẽ đến tìm ông ta” [86,16]. Với trái tim yêu
thương của một người vợ, người mẹ, Juana là người duy nhất nhận ra viên ngọc
trai là một vật tà ác, nó sẽ phá hủy cuộc sống bình yên của gia đình chị. Vì vậy,
Juana tìm mọi cách để khuyên nhủ chồng ném viên ngọc trở về biển cả. Thậm chí,
chị dám vượt qua ranh giới bổn phận của một người vợ để chống lại chồng, lén
đánh cắp viên ngọc hòng mang trả nó về đại dương. Có thể nói, chính tình yêu
thương là cội nguồn làm nên sức mạnh, sức chịu đựng của những người mẹ, người
phụ nữ trong các tác phẩm của John Steinbeck. Nhận xét về các nhân vật nữ trong
tác phẩm của ông, Gladstein cho rằng: “Như một điển hình trong chủ đề của
Steinbeck về sức mạnh và sức chịu đựng của người phụ nữ, Juana có thể là người
thứ hai chỉ sau Ma Joad” [47,86]. Với trái tim yêu thương con người nghèo khổ,
đặc biệt là những người mẹ, người phụ nữ, John Steinbeck thường xây dựng những
nhân vật người mẹ mang trong mình sức mạnh nội lực phi thường, một trái tim
luôn đập những nhịp yêu thương và sự kiên cường, cứng cỏi chẳng thua kém gì
người đàn ông.
Không chỉ dành tình yêu thương cho những đứa con của mình, những người
mẹ, người phụ nữ trong tiểu thuyết John Steinbeck còn dành tình yêu thương cho
trẻ em, người già và những kiếp người đáng thương, bất hạnh. Điều này được thể
hiện qua nhân vật Ma Joad trong Chùm nho phẫn nộ, người đã chia sẻ thức ăn cho
những đứa trẻ đói khổ, những người cùng hoàn cảnh hoạn nạn dẫu nhà bà chẳng
đủ cái để ăn. Khi đặt chân tới California, trái ngược với những cảnh tượng đẹp đẽ
trong mơ ước, cả gia đình Joad chứng kiến những “túp nhà lụp xụp”, “cảnh nhếch
48
nhác và tuyệt vọng” của những người di cư đến đây. Tuy vậy, Ma Joad vẫn không
quên việc đầu tiên là lo cho cả nhà có một bữa ăn đàng hoàng mà thực ra chỉ là
món cháo thịt băm lỏng bỏng. Trong khi bà nấu cháo, “một vòng tròn háu đói” -
bọn trẻ con - lặng lẽ nhìn bà. Tuy chúng không nói và có vẻ thèn thẹn nhưng bà
biết chúng muốn được bà cho ăn. Bọn trẻ cứ thế “đứng sững trước bà và nhìn bà”
[85,407]. Ánh mắt của chúng khiến bà khó xử, vì bà “không thể truất phần” của
người nhà được. Sau khi phân phát cháo cho cả nhà và để lại ít cháo còn ở đáy nồi,
Ma Joad nhìn bọn trẻ con và nói như để xin lỗi “Không có đủ cháo”, giọng của bà
lạc đi “Bác không làm khác được”, rồi bà “chạy ào vào lều để khỏi phải nhìn lũ
trẻ… bà nghe thấy ở phía ngoài bọn trẻ con vét, cạo nồi quèn quẹt, với các mẩu
gỗ, thìa và những mảnh sắt rỉ… Mẹ ngồi quay lưng về phía chúng để khỏi phải
nhìn” [85,409]. Cái quay lưng, tránh nhìn tình cảnh đói khổ của lũ trẻ không phải
là một sự thờ ơ mà là nỗi đau của người mẹ khi không đủ sức để giúp đỡ những
đứa trẻ tội nghiệp. Bởi lẽ, với bà, cả nhà “không có đủ ăn nhưng không thể không
cho chúng được” [85,411]. Khi con trai Tom Joad về nhà, Pa Joad muốn tạo bất
ngờ cho bà, ông lên tiếng: “Mẹ nó này, có hai gã (Tom và Casy) vừa ở ngoài đường
cái tới đây, họ phân vân không biết nhà ta có thể cho họ chút gì để ăn không”
[85,117]. Dẫu chưa biết đó là ai nhưng mẹ vẫn hào hiệp, nhiệt thành, sẵn sàng chia
sẻ với “một cái gật đầu dễ mến”: “Mời họ vào, bà nói. Thừa ăn. Bảo họ phải rửa
tay đi. Bánh nướng rồi. Tôi đang múc thịt ra đây… Mời vào. Cũng may là sáng
nay tôi nướng nhiều bánh” [85,117]. Tấm lòng yêu thương của bà mẹ thật vô bờ
bến, đó là sự cho đi không một chút toan tính, dẫu người đó là ai thì với bà họ đều
phải được đối xử như là những con người. Vì vậy, khi Casy ngỏ ý muốn cùng gia
đình Joad đến California, chính Ma Joad là người đầu tiên dang rộng vòng tay chào
đón ông, dẫu tình cảnh nhà bà chẳng sung túc gì.
Bà Sairy Wilson, một người phụ nữ khốn khổ vì nghèo, vì bệnh tật, vẫn sẵn
sàng chia sẻ mái lều, tấm chăn của mình cho ông nội nhà Joad, một người sắp từ
giã cõi đời. Chính tình yêu thương của bà Sairy đã khiến cho cụ già vốn tinh ranh,
bướng bỉnh nay “đột nhiên khóc, cằm ông run run môi mím chặt, toàn thân rung
chuyển trong những tiếng nức nở khàn khàn” [85,210]. Phải chăng vì được chết
trong vòng tay của cả nhà, của những người tốt bụng như bà Sairy nên dẫu đã
ngừng thở đôi mắt ông nội vẫn “trong sáng, sâu thẳm, thâm trầm và trong đó ánh
49
lên sự thanh thản của bậc hiền nhân” [85,215]. Ở trong hoàn cảnh đói khổ, bị xua
đuổi khỏi mảnh đất “chôn rau cắt rốn”, những người mẹ, người phụ nữ đã tìm thấy
ánh sáng hy vọng bởi một điều thật giản dị: “người ta cần… cần phải giúp đỡ lẫn
nhau” [85,220]. Tình yêu thương, sự sẻ chia trong hoàn cảnh khốn khó của những
con người nghèo khổ tựa như những tia sáng lấp lánh trong đêm tối. Vì vậy, trên
hành trình nhọc nhằn đi tìm vùng đất mới, những con người khốn khổ đó vẫn không
cảm thấy cô độc, lẻ loi. Ẩn giấu trong tình thương bao la của Ma Joad, của bà Sairy
dành cho những đứa trẻ đói khát, những kẻ xa lạ, chúng ta biết họ đâu chỉ là một
người mẹ, người vợ trong một gia đình cụ thể mà phẩm chất cao quý ấy của họ còn
khiến ta liên tưởng đến hình ảnh mẹ vĩ đại của nhân loại. Bản năng yêu thương con
cái, yêu thương gia đình khiến cho những người mẹ dễ dàng rung động, cảm thông
trước những nỗi đau khổ, bất công trong cuộc đời.
Trong Của chuột và người, nhân vật dì Clara dẫu chỉ xuất hiện trong lời kể
của George hay Lennie nhưng vẫn ánh lên tình yêu thương vô bờ đối với Lennie,
đứa cháu mồ côi ngờ nghệch của bà. Bà nhận nuôi Lennie từ bé cho tới lớn. Lennie
to khỏe nhưng chẳng sáng dạ, to xác nhưng trí óc mãi như một đứa trẻ con. Anh ta
có một sở thích kì lạ là “lấy ngón tay vuốt mấy thứ đẹp, mấy thứ mềm” [90,149].
Chiều lòng Lennie, dì Clara cho anh những con chuột và một miếng nhung lớn. Dù
ngờ nghệch song Lennie vẫn cảm nhận được tình yêu thương của dì Clara. Vì vậy,
trong kí ức vụn vỡ, ít ỏi của anh luôn có hình bóng của bà. Đặc biệt là, khi Lennie
sợ hãi vì đã vô tình giết chết vợ Curley, anh ta tự phân thân thành dì Clara và tự
quở trách mình: “Dì đã dặn đi dặn lại cháu. Dì đã bảo cháu, ‘Nhớ nghe lời George
vì anh ấy tử tế lắm và tốt với cháu.’ Nhưng cháu chẳng bao giờ thèm để ý. Cháu
làm điều xấu” [90,166]. Điều này cho thấy đối với Lennie, ngoài George, người
yêu thương, lo lắng cho anh ta nhất chính là dì Clara.
Bên cạnh việc khám phá đức hạnh của những người mẹ, người phụ nữ bình
dân, tiểu thuyết John Steinbeck còn tiết lộ những phẩm tính tốt đẹp của những má
mì, cô gái làng chơi, vốn là những người phụ nữ hành nghề trái phép và bị xã hội
lên án, kì thị. Điều này được thể hiện rõ nét qua nhân vật má mì Dora Flood trong
tiểu thuyết Phố Cannery Row. Steinbeck mô tả nhân vật này như sau: “Dora là một
phụ nữ vĩ đại, một phụ nữ to lớn vĩ đại với mái tóc màu cam rực lửa và thích mặc
áo dạ hội màu lá cây chói lọi. Bà điều hành nhà thổ một giá, lương thiện, không
50
bán rượu mạnh, và không cho phép nói lớn tiếng hay tục tằn trong nhà bà. Một số
kĩ nữ của bà hơi thiếu tích cực vì tuổi tác và đau yếu, nhưng Dora không bao giờ
bỏ rơi họ” [91,28]. Là chủ của một nhà thổ, song Dora sống thận trọng, tuân theo
luật lệ gấp đôi kẻ khác và đặc biệt rất mực bác ái. Vào hồi kinh tế suy thoái, dù bị
ảnh hưởng nặng nề nhưng bà là người quyên góp tiền từ thiện nhiều nhất Cannery
Row. Ngoài việc làm từ thiện bình thường, Dora còn “chi tiền chợ tứ phía trong
hơn hai năm và gần sạt nghiệp” vì “bọn trẻ đói ở Cannery Row, các ông bố thất
nghiệp và các bà lo lắng” [91,29]. Hay khi dịch cúm hoành hành, Cannery Row tê
liệt: đám bác sĩ chạy phát điên để chăm sóc bệnh nhân, trường học đóng cửa, dân
chúng thị trấn sợ hãi và tuyệt vọng, song Dora “mềm như lụa” mà “có thể cứng
như đá” đã dùng “Nhà hàng Cờ Gấu” (nhà thổ) của bà để tổ chức phục vụ cho cả
khu phố nghèo. Bà bảo người đầu bếp Hi Lạp nấu một vạc súp và “giữ cho lúc nào
cũng đầy và đặc” [91,118], các cô gái thay phiên nhau tới chia sẻ với các gia đình
và luôn mang theo một nồi súp. Nhờ hành động nghĩa hiệp, xuất phát từ lòng nhân
ái của Dora, Cannery Row đã vượt qua những thời điểm khó khăn nhất.
Trong Phía đông vườn địa đàng, John Steinbeck tiếp tục khẳng định tình yêu
thương như là một vẻ đẹp bất tử ở người phụ nữ, giúp họ trở nên mạnh mẽ hơn bao
giờ hết: “Tôi tin rằng một người phụ nữ mạnh mẽ có thể mạnh mẽ hơn một người
đàn ông, đặc biệt nếu họ có tình yêu thương trong trái tim mình. Tôi nghĩ rằng một
người phụ nữ giàu tình yêu thương là bất tử” [92,354]. Tình yêu thương dường như
đã trở thành phẩm tính vĩnh cửu ở cổ mẫu mẹ hiền. Vì vậy, khi viết về người mẹ,
các nhà văn không phân biệt vùng miền, tôn giáo, văn hóa, đều ngợi ca tình yêu
thương của họ. Do đó, bất kì bạn đọc nào cũng không khỏi xúc động trước hành
động bán tóc, bán răng để lấy tiền gửi cho con gái của người mẹ trẻ, Fantine, trong
Những người khốn khổ của V. Hugo [93]. Bên cạnh đó, bản năng của người mẹ
khiến họ không chỉ yêu thương con cái mình mà còn thương yêu những số phận
bất hạnh khác. Ở bản hợp âm Âm thanh và cuồng nộ của W. Faulkner, Dilsey - bà
vú nuôi da đen - hiện lên như một thanh âm tuyệt vời của tình mẹ, tình người. Là
người nhìn thấy từ “cái bắt đầu” đến “cái kết thúc” của tấn bi kịch trong dòng họ
Compson, hơn ai hết, Dilsey thấu hiểu số phận bất hạnh của những con người trong
gia đình Compson, đặc biệt là Benjy đần độn và Quentin cháu bất hạnh. Người phụ
nữ da đen ấy chăm sóc, lo lắng cho Benjy, Quentin và cả gia đình Compson bằng
51
sự nhẫn nại và tình yêu của một bà mẹ chứ không đơn thuần chỉ là phận sự của
một bà vú nuôi. Vì vậy, nhân vật Dilsey được Faulkner sáng tạo và ngợi ca như là
biểu tượng tuyệt đẹp của “CON NGƯỜI” [94]. Nếu như cổ mẫu mẹ trong tác phẩm
của Faulkner là biểu tượng của sự cứu vớt cái đẹp, giữ lấy đức tin ở con người, thì
cổ mẫu mẹ trong tác phẩm của John Steinbeck không chỉ giữ lấy đức tin ở con
người mà còn là biểu tượng của sự sống sót trong thời kì đói khổ, bấp bênh, bất an
đe dọa con người.
Từ thời xa xưa đến ngày nay, mẹ luôn là một biểu tượng của tình yêu thương
- tình mẹ, tình người. Biểu tượng ấy đã ăn sâu vào vô thức cộng đồng, trở thành
bản năng của người phụ nữ, những người đã, đang và sẽ làm mẹ. Vì vậy, tận sâu
trong vô thức của mỗi người phụ nữ đều có một “tâm hồn Mẹ” [95], một trái tim
người mẹ ấm áp, đầy ắp yêu thương. Được kết tinh từ kinh nghiệm của cộng đồng,
tồn tại trong vô thức tập thể của nhân loại qua bao đời, cổ mẫu mẹ được tái sinh
trong thế giới tiểu thuyết John Steinbeck như là biểu tượng của “sự an toàn của chỗ
trú thân, của sự nồng ấm, yêu thương và dinh dưỡng” [84,586]. Và hơn hết, nói
đến người mẹ là nhắc đến quyền năng sinh sản và nuôi dưỡng.
2.2.1.3. Quyền năng sinh sản và nuôi dưỡng
Nếu một người phụ nữ bị tước đi quyền làm mẹ thì đó chính là bất hạnh lớn
nhất của họ. Bởi lẽ, “trong tất cả các quyền của phụ nữ, quyền vĩ đại nhất là quyền
được làm mẹ” (Lâm Ngữ Đường). Khi sinh ra người phụ nữ, Thượng Đế không
chỉ ban cho họ vẻ đẹp nữ tính và bản năng yêu thương mà còn trao cho họ quyền
năng cao quý hơn cả, đó là quyền được làm mẹ, cũng có nghĩa là quyền năng sinh
sản và nuôi dưỡng.
Dựa trên các nét vẽ trong hang động và các di vật khảo cổ, người ta cho rằng
từ hàng ngàn năm trước đây loài người đã quan tâm đến cơ thể của người phụ nữ,
đặc biệt là lúc mang thai và lúc sinh nở. Điều đó cho thấy tổ tiên loài người xa xưa
đã sớm nhận ra quyền năng thiêng liêng của người mẹ, người phụ nữ. Bởi lẽ, chỉ
có người phụ nữ mới có khả năng sinh sản để mang lại sự sống tươi trẻ cho trái đất
này. Vì vậy, trong tâm thức của cộng đồng, cổ mẫu mẹ là cội nguồn của sự sống.
Dĩ nhiên, người đàn ông cũng có vai trò quan trọng trong việc tạo ra sự sống. Tuy
vậy, phụ nữ lại là người mang nặng đẻ đau và trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con
cái. Cho nên, hằn sâu trong tâm thức nhân loại, người mẹ có một vị trí đặc biệt
52
quan trọng. Dường như trong khu rừng huyền thoại của mỗi dân tộc đều tồn tại cổ
mẫu mẹ. Chức năng, bổn phận thiêng liêng nhất của mẹ là sinh sản và nuôi dưỡng.
Đây cũng là một đặc điểm tiêu biểu của cổ mẫu mẹ hiền biểu hiện qua các nhân
vật nữ như: Teresina Cortez (Thị trấn Tortilla Flat), Lisa (Trong trận đánh mơ hồ),
Ma Joad và Rosashan (Chùm nho phẫn nộ), Juana (Viên ngọc trai), Liza (Phía
đông vườn địa đàng) trong thế giới nghệ thuật tiểu thuyết John Steinbeck.
Trong Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, các nhà biên soạn đã nhấn mạnh
quyền năng sinh sản của người mẹ. Họ cho rằng: “Các vị Đại Thánh Mẫu đều là
các nữ thần của khả năng sinh sản: Ở người Hi Lạp, là Gaia, Rhéa, Héra, Déméter;
ở người Ai Cập và trong các tôn giáo được Hi Lạp hóa là Isis; ở người Assyrie -
Babylonie, là Ichstar; ở người Phénicie, là Astarté; ở người theo đạo Hindu, là
Kâli” [84,586]. Điều đó cho thấy ngay từ thời cổ xưa, trước khi nhận ra khả năng
sinh sản của người đàn ông, nhân loại thời kì ấy chỉ mới biết đến khả năng sinh sản
của người phụ nữ. Vì vậy, họ thờ cúng các vị nữ thần. Thần thoại Hi Lạp ngợi ca
nữ thần Đất Mẹ, Gaia, là “Đất Mẹ của muôn loài, có bộ ngực mênh mông. Chính
đất mẹ Gaia là nơi sinh cơ lập nghiệp bền vững đời đời của muôn vàn sinh linh,
sinh vật” [89,35]. Phải chăng vì vậy mà nhà thơ Louis Aragon đã ngợi ca người
phụ nữ như là “tương lai của loài người”, còn Charden thì ví họ với “sức mạnh vĩ
đại của vũ trụ”. Bởi suy đến cùng, đời sống này dẫu có muôn vàn ước mơ, hoài
bão thì những nhu cầu thiết yếu vẫn là: dinh dưỡng và truyền giống, mà mẹ lại là
người nắm giữ những quyền năng thiêng liêng ấy.
Trong Chùm nho phẫn nộ, Ma Joad, một bà mẹ có sáu đứa con (Noah, Tom,
Al, Rosashan, Ruthie, Winfeild), có dáng vẻ in đậm dấu vết của nhiều lần sinh nở:
“Mẹ đẫy người, nặng nề sau bao lần chửa đẻ và lao động, nhưng không xồ xề”
[85,117]. Cùng với Ma Joad, Rosashan cũng nắm giữ quyền năng sinh sản. Nhìn
bên ngoài, dáng vẻ của cô đã toát lên chức năng làm mẹ: “đôi vú nhô lên và mềm,
bụng, hông, mông rắn chắc, nân nân và khêu gợi” [85,149]. Đấy cũng là những bộ
phận trên cơ thể của người phụ nữ lên tiếng cho khả năng sinh sản của họ. Không
chỉ vậy, Rosashan còn là một người phụ nữ ý thức được vai trò mới của mình. Vì
thế, từ lúc mang thai “cô trở nên kín đáo và nghiêm trang. Tất cả mọi suy nghĩ, tất
cả mọi hành động của cô đều hướng về bên trong, về đứa trẻ nằm trong bụng. Với
cô, cả trái đất này đang có chửa; trong suy nghĩ của cô, đâu đâu cũng là sự tái sinh,
53
sự sinh đẻ” [85,149]. Đối với chồng (Connie), Rosashan không bộc lộ vẻ “bạo dạn
như con trai, nõn nà, ham khoái lạc” [85,150] như trước nữa, mà giờ đây cô là một
con người “cân bằng, thận trọng và khôn ngoan, mỉm cười rụt rè nhưng cương
quyết khi y tới gần” [85,150].
Rõ ràng, khi ý thức được vai trò, bổn phận, quyền năng mới của mình,
Rosashan đã thay đổi cách suy nghĩ và cư xử. Ở cô, tất cả mọi thứ đều lên tiếng
cho quyền năng làm mẹ. Đó không chỉ là niềm kiêu hãnh, tự hào, sung sướng mà
còn là nỗi lo sợ từng phút từng giây cho sự an nguy của đứa trẻ. Vì vậy, hành trình
đến miền đất hứa của Rosashan trở nên khó khăn hơn những người xung quanh.
Cô luôn luôn lo lắng cho cái hình hài đang lớn dần ở trong bụng mình. Bất kì
chuyện gì xấu xảy ra đều khiến cô lo sợ cho đứa trẻ. Thấy con chó bị chiếc xe lớn
nghiền nát, Rosashan hét lên, trợn mắt kinh khiếp, cô cảm thấy nỗi đau đớn trên
cơ thể mình như chính cô đang bị thương; cái chết của ông nội cũng khiến cô lo sợ
không biết “chuyện đó… có hại gì cho đứa bé không?” [85,221]. Khi biết Tom lại
giết người, Rosashan giận dữ, đôi mắt cô ánh lên vẻ “hận thù dữ tợn”, cô đay
nghiến anh trai: “làm sao tôi có thể có một đứa con xinh đẹp được?”, “làm sao con
tôi có thể sinh bình thường được? Tôi biết rồi: nó sẽ tàn tật, tàn tật…” [85,629],
rồi cô vùi đầu dưới chăn, nức nở. Dẫu biết rằng việc anh trai mình giết người để
trả thù cho mục sư Jim Casy không hoàn toàn sai trái, nhưng tâm lí dễ xúc động
của một người phụ nữ đang thai ghén khiến Rosashan khó có thể chấp nhận chuyện
đó một cách bình thản. Bởi lẽ, trước đó, một loạt các sự kiện không may đã xảy ra:
ông bà nội lần lượt qua đời, anh trai Noah bỏ đi, chồng của cô cũng bỏ trốn, gia
đình thiếu ăn thiếu uống… Tất cả dồn nén trong trái tim bé bỏng của cô, nay như
vỡ òa.
Nhân vật Teresina Cortez trong Thị trấn Tortilla Flat cũng mang dáng dấp
của một nữ thần sinh sản. Với “vóc dáng đậm đà”, “cơ thể nàng là một cái bình cổ
cong hoàn hảo cho việc chưng cất trẻ con” [96,208], Teresina thường xuyên trở
thành mẹ, cô có hết thảy tám đứa con và một đứa chuẩn bị ra đời. Liza Hamilton,
một nhân vật nữ nhỏ nhắn trong tiểu thuyết Phía đông vườn địa đàng, cũng có khả
năng sinh sản kì diệu, bà có năm người con trai và năm người con gái. Điều này
không khỏi khiến những người xung quanh ngạc nhiên, xem như là một phép lạ,
vì một người có vẻ ngoài yếu ớt như bà “có thể đẻ liên tục chừng ấy người con và
54
nuôi nấng chúng, lo cho chúng cái ăn cái mặc, cũng như dạy dỗ chúng một cách
cẩn thận bằng những lời lẽ cứng rắn” [97,18].
Vậy là, bên cạnh khả năng sinh sản, những người mẹ trong tiểu thuyết John
Steinbeck còn đảm đương nhiệm vụ nuôi dưỡng con cái, chăm sóc gia đình. Ma
Joad được xem là “người chữa bệnh”, là “trọng tài” và là “một nữ thần” của gia
đình. “Là người chữa bệnh, đôi tay của bà đã trở nên vững vàng tươi mát, thanh
thản; là trọng tài, bà trở nên lạnh lùng và như một thần nữ bà không thể sai lầm”
[85,118]. Trong tác phẩm, nhân vật Ma Joad thường gắn liền với không gian “căn
bếp”, “trung tâm sống động của gia đình”: “trong bếp… Mẹ đang bận rộn giặt giũ
quần áo trẻ con” [85,141]; “Mẹ xoay xở trước bếp lò… Bà cho mỡ vào cháo, và
khi mỡ sôi lèo xèo, bà đổ những thìa bột vào” [85,624]. Lần đầu tiên nhân vật Ma
Joad xuất hiện cũng là ở trong căn bếp với “mùi gỗ liễu”, “mùi thịt lợn”, “mùi bánh
nóng” và “mùi cà phê”. Đó là căn bếp ở ngôi nhà của chú John, là “căn bếp mới”
được dựng ngay trên chiếc xe thổ tả hay là cái bếp đơn sơ đặt trong hoặc ngoài căn
lều ở những lần dừng chân dựng trại. Tuy thay đổi vị trí linh hoạt nhưng “căn bếp”
và bà mẹ luôn là trung tâm của sự sống, của hành trình gian nan để đến và sinh
sống ở miền đất hứa.
Juana, trong Viên ngọc trai, cũng là một người mẹ nắm giữ quyền năng nuôi
dưỡng. Điều này được bộc lộ qua cách chị khéo léo, tận tụy chăm sóc bé Coyotito
– đứa con đầu lòng và là cả thế giới của chị. Thông qua những chi tiết như: “Chị
nhón đôi chân trần cứng cáp đến bên chiếc nôi nơi Coyotito đang say giấc, nghiêng
người và thì thầm những lời âu yếm” [86,8]; “Chị ghé miệng xuống gắng hút nọc
độc rồi nhổ ra, nhổ ra rồi lại hút” [86,14] để cứu Coyotito khi bé bị bọ cạp cắn;
“Coyotito khóc thút thít, Juana khe khẽ hát vài câu dỗ dành” [86,95], Juana xuất
hiện trong tâm trí độc giả như là một người mẹ dịu hiền, yêu thương săn sóc con
hết mực. Giống như Ma Joad, nhân vật Juana cũng gắn liền với không gian căn
bếp, trung tâm sự sống của gia đình. Từ điểm nhìn của Kino, người kể tiết lộ sự
gắn bó chặt chẽ giữa Juana và hình ảnh bếp lò: “Juana bước đến cái bếp lò, cời ra
một cục than, vừa quạt cho hồng vừa bẻ củi vụn rắc lên” [86,8], “bếp lò của Juana
bập bùng lửa” [86,9], “ngọn lửa phát ra từ cái lò của Juana hắt lên những chiếc
bóng kì lạ in trên vách lều tranh” [86,41], “Juana ngồi xuống bên bếp” [86,43],
“Juana lúc này đã thức dậy nhóm bếp” [86,56]. Và cũng từ không gian này, nhân
55
vật Juana thường dõi theo mọi cử chỉ và hành động của người chồng: “Juana ngồi
cạnh bếp lửa quan sát chồng” [86,54] nắm lấy thời điểm phù hợp để khuyên nhủ,
bảo vệ chồng mình.
Với Rosashan, hành trình đến miền đất hứa còn là hành trình học cách làm
mẹ, học cách chăm sóc gia đình. Nếu như ở phần đầu tác phẩm, cô xuất hiện với
dáng vẻ khá rụt rè, thẹn thùng vì sự thay đổi mới mẻ từ bên trong của mình thì càng
về cuối tác phẩm, Rosashan thực sự càng trưởng thành. Cô biết phụ giúp mẹ chuẩn
bị thức ăn cho cả nhà, khiến hàng xóm cũng phải khen ngợi cô: “Cô gái lớn của bà
ngoan lắm… Cô ấy gọt khoai tây khéo lắm” [85,220]. Khi bà nội bắt đầu ý thức
được việc ông nội đã qua đời, bà “thốt ra những tiếng rên rỉ ai oán” [85,227]. Chính
Ma Joad đã bảo Rosashan đến nằm cạnh bà để an ủi bà: “Rosashan đứng lên và
đến nằm dài trên đệm bên cạnh bà cụ già, tiếng lầm rầm của hai bà cháu vọng tới
tận bếp lửa. Cháu gái và bà nội đang thì thầm trò chuyện với nhau” [85,228]. Học
cách yêu thương, chia sẻ và chăm lo cho gia đình, đó cũng là những bài học thiết
yếu của những người phụ nữ chuẩn bị làm mẹ.
Tóm lại, quyền năng sinh sản và nuôi dưỡng là một trong những đặc tính tích
cực nổi bật của cổ mẫu mẹ hiền trong tiểu thuyết John Steinbeck. Sinh con ra và
nuôi dưỡng con cái trưởng thành, nỗ lực bảo vệ sự an toàn của con cái và gia đình
không chỉ là bổn phận của người mẹ, người vợ mà còn là bản năng của họ. Trong
bối cảnh đại suy thoái, đời sống di tản khốn khó và những vấn nạn xã hội khác,
đặc tính này của cổ mẫu mẹ khiến những người phụ nữ, người mẹ dễ dàng nắm lấy
vai trò và địa vị mới mẻ của họ.
2.2.2. Mẹ dữ
Bên cạnh những đặc điểm tích cực, sáng tạo như vẻ đẹp nữ tính, suối nguồn
yêu thương, quyền năng sinh sản và nuôi dưỡng, cổ mẫu mẹ còn sở hữu những
khía cạnh bóng tối, mang sức mạnh hủy diệt, chết chóc. Điều này đã được Jung
khám phá khi cho rằng tất cả các cổ mẫu đều chứa đựng một cái bóng của chính
nó. Kế thừa ý tưởng của Jung, nhà nghiên cứu Erich Neumann, trong chuyên luận
The Great Mother: An analysis of archetype (Mẹ vĩ đại: phân tích cổ mẫu, 1963),
đã viết lại toàn bộ phả hệ và các biểu tượng về các nhân vật nữ thần nổi tiếng trong
văn hóa thế giới. Từ đó, Neumann cho rằng mẹ khủng khiếp là một đặc trưng cốt
yếu của cổ mẫu mẹ song hành với mẹ hiền [83]. Vì vậy, khi xây dựng các nhân vật
56
nữ, tiểu thuyết gia John Steinbeck không chỉ trân trọng những phẩm tính đẹp đẽ,
cao cả mà còn quan tâm đến những khía cạnh tiêu cực, xấu xí, biểu tượng của cái
chết và sự hủy diệt của cổ mẫu mẹ. Cổ mẫu mẹ dữ trong sáng tác của nhà văn
người Mỹ này thường bộc lộ qua các kiểu nhân vật người đàn bà lẳng lơ, cám dỗ
và người đàn bà tàn nhẫn, độc ác mà nhân vật vợ Curley (Của chuột và người) và
Cathy/Kate (Phía đông vườn địa đàng) là những trường hợp điển hình.
2.2.2.1. Người đàn bà lẳng lơ, cám dỗ
Theo Neuman, những đặc tính khủng khiếp của cổ mẫu người nữ bắt nguồn
từ thế giới bên trong, bao gồm những trải nghiệm nội tâm, nỗi đau khổ, kinh hoàng,
sợ hãi về mối nguy hiểm. Do đó, cổ mẫu mẹ dữ là một biểu tượng của vô thức. Mặt
khác, khía cạnh bóng tối của cổ mẫu mẹ dữ được thành hình từ những hình tượng
quái vật trong thế giới huyền thoại và truyện cổ của người Ai Cập, Ấn Độ, Mexico,
Bali, La Mã cổ đại. Theo đó, “Nửa tăm tối của trứng nước của vũ trụ đen và trắng
đại diện cho cổ mẫu nữ tính tạo ra những hình tượng khủng khiếp biểu hiện phương
diện đen tối, dữ dội của cuộc sống và tâm trí con người. Giống như thế giới, cuộc
sống, thiên nhiên và linh hồn đã được trải nghiệm như là sự sinh sản và nuôi dưỡng,
bảo vệ và sưởi ấm của người nữ, vì vậy các mặt đối lập của chúng cũng được nhận
thức qua hình ảnh của nữ giới; cái chết và sự hủy diệt, nguy hiểm và đau khổ, đói
khát và trần trụi, xuất hiện như sự bất lực trước sự hiện diện của người mẹ đen tối
và khủng khiếp” [83,148-149].
Vậy là, không chỉ đại diện cho sự sống, sự sáng tạo, cổ mẫu mẹ còn biểu trưng
cho sự nguy hiểm, sự hủy diệt. Đây là hai đặc trưng có tính cách đối nghịch của cổ
mẫu mẹ thế giới, tương tự như ở các cổ mẫu đất và nước. Trong thế giới nhân vật
nữ của tiểu thuyết John Steinbeck, bên cạnh những gương mặt nữ biểu trưng cho
sự dịu hiền, yêu thương, dinh dưỡng là những người đàn bà lẳng lơ, ẩn chứa mầm
móng cám dỗ, là nguyên căn dẫn tới tai họa cho các nhân vật nam và cũng là những
đại diện cho khía cạnh khủng khiếp của cổ mẫu mẹ.
Nhân vật vợ Curley trong Của chuột và người là một người phụ nữ đỏm dáng,
lẳng lơ với nhiều người đàn ông nên những nhân vật nam trong tác phẩm luôn dè
chừng cô ta như là một thứ độc hại, một cái bẫy tù. Đặc điểm này của nhân vật
được tiết lộ qua lời kể pha chút miệt thị của lão tạp dịch Candy, một kẻ tàn tật, khi
Candy cảnh báo hai công nhân mới đến là George và Lennie, về sự nguy hiểm của
57
Curley và vợ hắn: “Curley chưa bao giờ chơi sòng phẳng với ai” [90,50], hắn ta
vênh váo thêm từ ngày cưới vợ, “nó giữ bàn tay đó mềm mại cho vợ” [90,51], vợ
hắn “đỏm” nhưng mà “lẳng lơ”, “Tao thấy nó lẳng với Slim”, “Tao còn thấy con
nhỏ lẳng với thằng Carlson nữa”, “Ôi dào, tao nghĩ Curley cưới… con điếm”
[90,52]. Nhận xét của Candy về vợ Curley trở nên xác tín khi cô ta xuất hiện trước
khung cửa của gian nhà ngủ với một gương mặt được tô điểm đậm và cách ăn mặc
đỏm dáng: “Môi ả dày, bôi son hồng, hai con mắt cách xa nhau, mặt bự phấn. Móng
tay ả đỏ. Tóc ả buông thõng những lọn nhỏ như xúc xích. Ả mặc bộ váy vải cô-
tông, đi guốc màu đỏ, trên quai có chùm lông đà điểu màu đỏ” [90,57]. Cùng với
vẻ ngoài chải chuốt, cô ta còn cố ý phô bày hình thể của mình bằng cách chống hai
tay sau lưng, tựa vào khung cửa để thân mình ưỡn ra phía trước, “mỉm cười khiêu
khích và ưỡn ẹo thân mình” [90,58] và nói với giọng mũi khàn khàn. Diện mạo,
cử chỉ điệu bộ và giọng nói đầy khêu gợi của vợ Curley khiến Lennie, một kẻ ngờ
nghệch, mê mẩn và thán phục còn George, một kẻ tỉnh táo, thông minh lại lo sợ
cho Lennie và chính anh. Anh ta cảnh báo người anh em của mình, rằng: “Tao đã
từng thấy nhiều thứ độc hại, nhưng tao chưa bao giờ gặp cái ‘bẫy tù’ nào độc hơn
con này. Mày tránh xa nó ra” [90,59].
Giống như vợ Curley, Cathy/Kate, trong Phía đông vườn địa đàng cũng là
một phụ nữ lẳng lơ, cám dỗ nhiều người đàn ông. Song, tính cách lẳng lơ của Cathy
được che giấu dưới lớp vỏ ngoài đẹp đẽ, hiền lành, ngây thơ: “Mái tóc vàng óng
ánh. Cặp mắt mở lớn với hàng lông mi trên khá dài rũ xuống khiến nàng trông có
vẻ mặt mơ màng bí mật. Chiếc mũi nhỏ và thanh tú. Hai gò má cao và rộng vòng
xuống chiếc cằm nhỏ xinh xinh. Chiếc miệng thanh như một nét vẽ và nhỏ nhắn
như một nụ hồng. Nàng có cái vẻ của một đứa bé xinh đẹp khiến người nào khi
mới nhìn thoáng qua, cũng phải quay lại nhìn thêm một lần nữa, và không khỏi bồi
hồi hoang mang. Trong ánh mắt nàng, có một vẻ gì kì bí mà người ta không thấy
lại được khi nhìn lần thứ hai. Nàng đi đứng nhẹ nhàng như cái bóng và rất ít nói,
nhưng mỗi khi bước qua nơi nào, nàng làm cho mọi người phải ngoái cổ nhìn theo”
[97,33-34].
Tính cách lẳng lơ của nàng được phát lộ khi mới lớn, Cathy cảm thấy trong
mình rạo rực lạ lùng và bắt đầu buông thả một cách thầm lén. Nàng thường thơ
thẩn một mình rất lâu trong khu rừng vắng và đôi khi một vài cậu con trai rình sẵn,
58
ôm chầm lấy nàng. Khác với những cô gái đứng đắn, Cathy không phản ứng quyết
liệt, trong thái độ của nàng có một vẻ đặc biệt, khiến đối phương cảm thấy “ngầm
chứa một sự đồng lõa”. Vẻ lẳng lơ, cám dỗ của Cathy đã hủy diệt vị giáo sư tiếng
Latin ở trường nàng theo học, anh ta đã tự sát bằng súng lục. Bằng diện mạo trong
sáng, thơ ngây, nàng đã chiếm được lòng si mê của ông Edwards, một kẻ môi giới
mại dâm khét tiếng. Khi đó, nàng bắt đầu bòn rút tiền bạc, đòi hỏi quà tặng bằng
nữ trang đắt giá, làm cho ông ta mất bình tĩnh để tận hưởng một cách khoái trá
cảnh ông Edwards ghen tuông đến độ run rẩy bực tức. Và cũng chính hình ảnh
ngụy trang xinh đẹp, dịu dàng, trong trắng, đáng yêu của Cathy đã khiến Adam,
một người đàn ông hiền lành, tốt bụng, si mê đến mù quáng, bỏ rơi cậu em đang
đau khổ và rời bỏ quê nhà đến một nơi xa lạ để xây dựng vườn địa đàng cho riêng
hai người.
2.2.2.2. Người đàn bà tàn nhẫn, độc ác
Một phương diện khác của cổ mẫu mẹ dữ trong tiểu thuyết John Steinbeck là
đặc tính tàn nhẫn và độc ác. Trong tiểu thuyết Phía đông vườn địa đàng, John
Steinbeck đã khắc họa nhân vật Cathy/Kate như là một biểu tượng của cái Ác, của
hồn ma bóng quỷ lẩn khuất trong đời sống con người. Dựa theo lời kể của nhân vật
tôi cũng là Steinbeck trong phần đầu của tác phẩm, người đọc được biết rằng, Cathy
Ames là một “người sinh ra thiếu lương tâm”, “ma quỷ đã xúi giục và dẫn dắt các
hành động của nàng suốt đời”, “cái ác vẫn bám riết lấy nàng” [97,33]. Bản chất
của nàng là độc ác, tàn nhẫn và con người nàng là một thứ cạm bẫy nguy hiểm chết
người.
Neumann, trong Mẹ vĩ đại: phân tích về cổ mẫu, đã chỉ ra các thuộc tính phá
hủy nam giới của nữ giới ẩn chứa trong các biểu tượng: rắn, răng, răng nanh và
lưỡi. Trong đó, cái miệng há hốc có răng nanh và lưỡi lè ra là những đặc điểm
chung của mẹ khủng khiếp. Nữ thần của bóng tối và sự hủy diệt, Kali, trong thần
thoại Ấn Độ, là một ví dụ điển hình. Bà thường xuất hiện cùng với rắn và một con
chó rừng, với mái tóc rối bù, đôi mắt đỏ giận dữ và những chiếc răng nanh nhỏ nhô
ra khỏi miệng [83]. Khi miêu tả nhân vật Cathy, Steinbeck chú ý khắc họa hai chi
tiết: nụ cười ngây thơ và hàm răng nhỏ và bén. Những người nhẹ dạ như Adam thì
bị cuốn hút bởi vẻ ngoài trong sáng như trẻ con của nàng với nụ cười trẻ thơ. Còn
những người từng trải như Samuel hay Lee thì ấn tượng với hai hàm răng nhỏ và
59
bén như răng nanh của nàng. Chi tiết này trên gương mặt nàng đã khiến Samuel
bỗng cảm thấy ớn lạnh và dự cảm rằng, “có ma quỷ đang lẩn quất trong nhà này”,
và “một tai họa lớn lao sắp xảy đến” [97,105]. Sau này, chính Cathy đã cắn tay
Samuel khi ông đỡ đẻ cho nàng, vết thương khiến ông lên cơn sốt mê man suốt ba
ngày đêm.
Theo người kể chuyện, mọi người đều có những khát vọng, những hứng khởi,
những ích kỉ, những đam mê song, chúng thường được giấu kín bên trong và người
ta không dám để lộ ra bên ngoài. Với Cathy, trái lại, những góc cạnh này trong tâm
hồn nàng diễn tiến từ chỗ được giấu kín dưới vẻ ngoài ngây thơ đến chỗ càng ngày
càng được bộc lộ ra bên ngoài, khiến tất cả mọi người xung quanh nàng sợ hãi và
xa lánh. Bằng một cách bí mật, Cathy đã khiến James Grew, vị giáo sư tiếng Latin
ở trường nàng, tự tử bằng súng lục. Tuy nhiên, nàng không mảy may sám hối,
thương tiếc cái chết của anh mà còn dựng chuyện James gặp rắc rối ở Boston. Và
cũng chính nàng đã sắp đặt một vụ cháy nhà, giết chết cha mẹ, rồi bỏ trốn để lại
đằng sau nàng “một hình ảnh đẹp và nỗi xót thương trong lòng mọi người” [97,45].
Được Adam, một người đàn ông thật thà, cứu giúp lúc nguy nan và đem lòng yêu
chiều, cưới làm vợ song, Cathy chẳng mảy may rung động mà còn lừa gạt tình yêu
của Adam. Là một người mẹ trẻ của hai đứa bé song sinh kháu khỉnh, nhưng Cathy
hoàn toàn lạnh lùng, không hề thích thú chúng, cũng chẳng cho chúng bú mớm.
Sau khi sinh con một tuần, Cathy nổ súng vào Adam khiến chàng bị thương, rồi bỏ
đi, để lại hai đứa bé thơ dại. Sự tàn nhẫn và độc ác của Cathy không chỉ biểu lộ
qua hành động bắn chồng mà còn bộc lộ qua lời nói tuyệt tình mẫu tử: “Quăng
chúng nó [hai đứa bé] xuống mấy cái giếng của anh mới đào cho rảnh nợ” [97,43].
Điều ác của Cathy không dừng lại ở đó, nàng đổi tên thành Kate. Sự kiện đổi
tên này biểu trưng cho việc thay đổi danh tính, nghĩa là nàng đã vứt bỏ quá khứ,
chấm dứt những ngày tháng sống bằng vẻ ngoài thơ ngây che đậy bản chất tàn
nhẫn bên trong và chính thức bước vào thế giới tội lỗi. Kate trở thành một kĩ nữ
của bà Faye và từ đây, nàng sống thật với bản chất, công khai công việc nhơ nhuốc
của mình. Nhờ vẻ ngoài ngây thơ và sự khôn khéo, Kate chiếm được cảm tình của
các thiếu nữ khác và cả bà Faye. Nàng cũng xếp đặt một cách khéo léo cái chết của
bà Faye vì ngộ độc thức ăn để được thừa kế gia sản của bà. Trở thành chủ một nhà
thổ, Kate thu thập hình ảnh và địa chỉ của những kẻ tai to mặt lớn trong thị trấn,
60
cất giữ chúng như là lá bùa hộ mệnh cho hành vi phạm pháp và cuộc đời tội lỗi của
nàng.
Như thế, bên cạnh việc ngợi ca những phẩm tính tuyệt vời của cổ mẫu mẹ hiền
thông qua những gương mặt nữ nổi bật trong thế giới tiểu thuyết John Steinbeck
như Ma Joad, Rosashan, Juana, nhà văn còn đặc biệt nhấn mạnh các đặc tính hủy
diệt, chết chóc của cổ mẫu mẹ dữ với hai gương mặt nổi bật là vợ Curley và
Cathy/Kate. Hai khía cạnh đối lập này cấu thành nên cấu trúc của cổ mẫu mẹ trong
tâm thức nhân loại và được Steinbeck tái sinh một cách ấn tượng thông qua các
nhân vật nữ của mình.
2.3. Sự tái lập bản sắc nữ tính trong truyền thống văn học nam tính
Tọa lạc trên đảo Liberty, cảng New York, cửa ngõ của Hoa Kỳ, tượng Nữ thần
tự do (tên gọi đầy đủ là Nữ thần tự do soi sáng thế giới), có hình dáng một người
phụ nữ mặc áo choàng, tay phải cầm ngọn đuốc, còn tay kia nắm một phiến đá
được khắc ngày độc lập của Hoa Kỳ. Với dáng vẻ đầy ngụ ý đó, bức tượng này trở
thành một trong những biểu tượng trung tâm cho lí tưởng tự do cũng như lí tưởng
quốc gia của dân tộc Mỹ. Về ý tưởng của tượng Nữ thần tự do, theo John Bondar,
trong thời kì sơ khai, hai nhân vật nữ có tên là Columbia và Liberty, là biểu tượng
văn hóa của Hoa Kỳ. Columbia là phiên bản Mỹ của biểu tượng nước Anh, nữ thần
Britannia, biểu thị quyền lực và sức mạnh của quốc gia mới, sánh ngang với Anh
quốc. Liberty, vị nữ thần tự do thời cổ đại La Mã, là biểu tượng xuyên quốc gia về
nhân quyền, biểu thị lí tưởng lãng mạn về quyền tự do cho tất cả mọi người [98].
Rõ ràng, việc lựa chọn phụ nữ để diễn tả ý niệm về lí tưởng tự do của người Mỹ
phần nào tiết lộ vai trò và vị trí quan trọng của thiên tính nữ trong tiến trình lập
quốc của quốc gia trẻ trung, năng động này.
Ngoài ra, truyền thống của người Mỹ bản địa vốn đề cao tính nữ và những lí
tưởng ban đầu của những người Mỹ lập quốc chưa bao giờ phân biệt đối xử với
phụ nữ. Paula Gun Allen, trong công trình nghiên cứu nổi tiếng The Sacred Hoop:
Recovering the Feminine in American Indian Traditions (Vòng tròn linh thiêng:
Khôi phục tính nữ trong truyền thống của người Mỹ bản địa, 1992), cho biết: từ
thuở sơ khai, các bộ lạc quần tụ ở châu Mỹ đã công nhận địa vị quan trọng của
những người mẹ, người bà như là người gìn giữ những truyền thống lâu đời nhất
và được tôn vinh trong các cấu trúc xã hội, công trình kiến trúc, phong tục tập quán
61
và truyền thống truyền khẩu của các cộng đồng. Theo Allen, vị trí trung tâm và
bản sắc của những người phụ nữ trong truyền thống văn hóa của người Mỹ bản địa
được biểu trưng qua hình ảnh “vòng tròn linh thiêng của sự sống” [99,26]. Robert
G. Natelson khẳng định rằng: Hiến pháp Hoa Kỳ, một trong những văn bản thể
hiện rõ những lí tưởng lập quốc của nước Mỹ, “chưa bao giờ phân biệt đối xử với
phụ nữ” [100,3]. Trước khi Tu chính án thứ 19, đảm bảo quyền bầu cử của phụ nữ
trên toàn quốc, được các cơ quan lập pháp của chính phủ phê chuẩn, ở nhiều bang
phụ nữ đã được tham gia các cuộc bầu cử. “Hiến Pháp Hoa Kỳ không bao giờ cấm
phụ nữ bỏ phiếu hoặc giữ chức vụ liên bang. Ngược lại, những Nhà soạn thảo ra
bản Hiến Pháp đã cẩn thận tránh các cuộc tranh biện dựa trên giới tính trong bầu
cử hoặc giữ chức vụ, giống như họ tránh các cuộc tranh biện dựa trên chủng tộc,
tài sản hoặc tôn giáo” [100,3]. Như thế, tính trung lập về giới tính của Hiến pháp
hoàn toàn phù hợp với lí tưởng tự do và bình đẳng cho tất cả mọi người mà dân tộc
Hoa Kỳ đã theo đuổi ngay từ buổi đầu lập quốc, đồng thời thể hiện sự công nhận
của xã hội đối với phụ nữ xứ cờ hoa.
2.3.1. Truyền thống nam tính trong văn học Mỹ
“Văn học Mỹ đậm chất nam tính” [101,1]. Nhà nghiên cứu Judith Fetterley đã
nhận xét như thế khi nhìn lại hành trình hơn 200 năm kể từ thời lập quốc của nền
văn học Mỹ, với sự thống trị của nam giới. Mặc dù có thể tìm thấy một số trường
hợp ngoại lệ chẳng hạn như một số bài thơ của nữ thi sĩ Emily Dickinson, cuốn
tiểu thuyết nổi tiếng của Harriet Beecher Stowe, song văn học Mỹ thường “không
để người phụ nữ yên và cũng không cho phép họ tham dự” [101,xii]. Căn nguyên
của vấn đề này liên quan đến thái độ của nền văn hóa Mỹ đối với người phụ nữ.
Hơn 200 năm qua, kể từ ngày 4/7/1776 - Hợp chúng quốc Hoa Kỳ non trẻ ra đời,
người Mỹ đã thiết lập một trật tự xã hội bao gồm nhiều kiểu phân tầng trái ngược
với những tuyên bố hùng hồn của tiền nhân về sự bình đẳng, tự do và hạnh phúc
cho tất cả mọi người. Trong đó, sự phân biệt đối xử giữa đàn ông - những người
có vai trò chủ chốt, được hưởng đặc quyền, đặc lợi, với phụ nữ - những người bị
tước mất quyền lợi, phải lệ thuộc vào đàn ông, chỉ có vai trò thứ yếu, phụ trợ - là
một trong những hình thức phân tầng có tính quy ước mạnh mẽ [102]. Dẫu xã hội
Hoa Kỳ đã trải qua nhiều bước ngoặt lịch sử, nhiều cuộc chiến tranh, nhiều phong
trào cải cách thì sự phân tầng giới tính này vẫn không mất đi; ngược lại, nó tiếp tục
62
được duy trì và có những tác động tinh vi hơn. Sự phân biệt, đối xử bất bình đẳng
với phụ nữ, bó buộc họ trong những giới hạn nữ tính dẫn đến hệ quả là trong truyền
thống văn học Mỹ tiếng nói của nữ giới khá nhỏ bé và yếu ớt, số lượng tác giả nữ
và những tác phẩm viết về người phụ nữ và những mối quan tâm nữ tính cũng khá
ít ỏi.
Trong khi đó, truyền thống nam tính nổi lên như một đặc trưng cốt yếu của
nền văn học xứ cờ hoa. Theo Fetterley, truyền thống này “nhấn mạnh tính phổ quát
đồng thời xác định tính phổ quát ấy theo những giới hạn nam tính cụ thể” [101,xii].
Điều đó được thể hiện rõ nét ngay từ những tác phẩm thuộc thời kì đầu của nền
văn học Mỹ với nhân vật trung tâm là nam giới và những chủ đề, mong muốn nam
tính. Rip van Winkle, câu chuyện huyền thoại của Washington Irving, có thể được
xem là tác phẩm mở đầu cho truyền thống nam tính trong văn học Mỹ. Giấc ngủ
suốt 20 năm của Rip van Winkle tượng trưng cho khát khao thoát khỏi công việc,
quyền lực và những quyết định quan trọng trong cuộc đời mỗi người. Khát vọng
này, dưới góc nhìn của Irving, thuộc về nam giới chứ không phải là nữ giới. Nổi
tiếng trong các sáng tác của James Fenimore Cooper, Natty Bumppo, nhân vật
người khai hoang đầu tiên và cũng là tiền thân văn học của kiểu nhân vật cao bồi,
anh hùng hảo hán trong văn học Mỹ, là một người đàn ông chính trực, yêu thiên
nhiên, yêu tự do, mang những khát vọng cao đẹp. Đặc biệt, nhân vật Huck Finn
trong tiểu thuyết cùng tên của văn hào Mark Twain được xem như một điển hình
của cổ mẫu anh hùng Mỹ, “mẫu người mà người Mỹ luôn luôn sùng bái dưới mọi
hình thức” [26,204]. Các tác phẩm văn học Mỹ về sau, ở một khía cạnh nào đó,
tiếp tục duy trì truyền thống nam tính theo nhiều cách thức và mức độ khác nhau.
Ngược dòng thời gian, có thể thấy rằng mức độ biểu hiện bản sắc và địa vị
của nam giới hay nữ giới chịu sự tác động không hề nhỏ bởi hoàn cảnh xã hội, chế
độ chính trị và đặc trưng văn hóa. Theo nhà nghiên cứu Y. N. Harari, sự phân biệt
giữa đàn ông và đàn bà hay nam tính và nữ tính hoàn toàn mang tính liên chủ quan
và biến đổi liên tục theo thời gian và không gian. Bởi vì những huyền thoại, hơn là
khía cạnh sinh học, đã xác định vai trò, quyền và nghĩa vụ của đàn ông và đàn bà
[102]. Dưới chế độ mẫu quyền, người phụ nữ được coi trọng, là người dẫn đầu và
giữ vai trò trụ cột trong gia đình và cộng đồng. Tuy nhiên, vào thời kì tư hữu, sự
chuyển giao quyền lực bắt đầu xuất hiện, vai trò của người đàn ông trở nên quan
63
trọng hơn và tiến đến chế độ phụ quyền thay thế mẫu quyền khi nam giới trở thành
người chỉ huy, nắm quyền kiểm soát. Trong thời kì trung đại, vai trò trụ cột của
người đàn ông được củng cố và nâng cao, phụ nữ chỉ là những người thụ động, yếu
đuối với vai trò chính là làm mẹ, làm vợ. Địa vị của nữ giới đã có những thay đổi
mạnh mẽ vào thời hiện đại khi họ ý thức được vai trò quan trọng của mình và
chứng minh rằng không chỉ làm mẹ, làm vợ, nữ giới còn có thể đảm đương mọi vị
trí như nam giới. Như Betty Friedan đã chỉ ra, trong cuốn sách nổi tiếng của bà, Bí
ẩn nữ tính, rằng phụ nữ cũng như đàn ông, có thể tác động đến xã hội cũng như
chịu ảnh hưởng từ nó, họ có sức mạnh để lựa chọn, để tạo ra thiên đường hay địa
ngục cho chính mình [103]. Tiến trình lịch sử của nhân loại đã cho chúng ta thấy
rằng, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của thiết chế nam quyền, khi xã hội thanh
bình, phần lớn nữ giới thể hiện tố chất nhẫn nại và phục tùng quyền uy của nam
giới. Nhưng mỗi khi xã hội biến động, sự an nguy của gia đình bị đe họa, người
phụ nữ, người mẹ lại là người tiên phong đấu tranh, phá vỡ các quy tắc gia trưởng
cũ mòn đã không còn phù hợp để tìm lại sự bình ổn và tái khẳng định vị trí quan
trọng của mình.
Ý thức về sự tác động của bối cảnh lịch sử xã hội đến số phận, tính cách và
địa vị của những người mẹ, người phụ nữ, John Steinbeck đã tạo sinh cổ mẫu mẹ
trong nhiều tiểu thuyết nhằm thiết lập lại bản sắc nữ tính và tái cân nhắc truyền
thống nam tính của nền văn học Mỹ.
2.3.2. Sự tái lập bản sắc nữ tính trong tiểu thuyết John Steinbeck
2.3.2.1. Chất animus (nam tính) trong cổ mẫu tính nữ
Có thể nói, Steinbeck là nhà văn sớm ý thức về tầm quan trọng của thiên tính
nữ trong cuộc Đại suy thoái (The Great Depression, 1929-1933), thời kì đen tối
được ví như “đêm trước” của Thế chiến thứ II và những thay đổi về trật tự giới
trong xã hội Mỹ nửa đầu thế kỉ XX khi phong trào đấu tranh nữ quyền nở rộ ở Mỹ
và đạt được nhiều thành tựu. Vì vậy, xuyên suốt sự nghiệp sáng tác của mình, John
Steinbeck đã xây dựng nên những mẫu hình nhân vật nữ mạnh mẽ, táo bạo, ngoan
cường với thiên chức hàn gắn những vết thương, có khả năng đảm đương vị trí của
người đàn ông trong gia đình và thách thức trật tự thống trị lâu đời của nam tính.
Từ đó, tác phẩm của John Steinbeck đã góp phần tái lập bản sắc nữ tính trong một
thời kì lịch sử đặc biệt của Hoa Kỳ và thế giới.
64
Trong chuyên luận Mẹ vĩ đại: phân tích cổ mẫu, Enrich Neumann cho rằng
quá trình phát triển tâm lí của một người phụ nữ bao gồm bốn giai đoạn. Giai đoạn
thứ nhất được gọi là Uroboros (một biểu tượng cổ của con rắn tự cắn đuôi mình
biểu trưng cho thuyết duy ngã hoặc khả năng sinh sản), lúc này bản ngã và vô thức
vẫn được hợp nhất. Giai đoạn thứ hai có sự xâm lấn và thống trị của các cổ mẫu
cha vĩ đại, gắn liền với thuyết duy lí và độc thần. Giai đoạn thứ ba có sự hiện thân
của nam tính, nam tính và nữ tính loại trừ lẫn nhau. Giai đoạn thứ tư là ở người
phụ nữ trưởng thành, khi họ vay mượn nam tính, phát hiện ra bản thân và tiếng nói
của mình [83]. Sự mạnh mẽ, kiên cường, cứng cỏi của người phụ nữ, người mẹ
phần nhiều được hình thành lúc họ trưởng thành, khi tính chất nam tính có điều
kiện lấn át khía cạnh đối lập của nó. Đặc tính này được Carl Jung gọi là animus
(khía cạnh nam tính vĩnh cửu ở người phụ nữ). Theo học giả, cổ mẫu animus là
yếu tố nam tính, dấu ấn nam tính hiện hữu trong vô thức của phụ nữ như sức mạnh
tinh thần, lòng can đảm, tính quyết đoán, sức sống mãnh liệt và khát khao đạt được
thành tựu. Do đó, nó chi phối tâm lí nữ giới, có thể khiến họ hoặc đánh mất nữ tính
hoặc thúc đẩy sự phát triển tâm lí.
Trên nền cổ mẫu animus, John Steinbeck đã xây dựng những mẫu hình người
phụ nữ nổi bật với vẻ đẹp nam tính trong nữ tính. Trước khi cho người đọc thấy
nội lực mạnh mẽ của người mẹ, người phụ nữ Mỹ, nhà văn đã khắc họa chân dung
người mẹ đậm chất Mỹ với vẻ đẹp khỏe khoắn, nhanh nhẹn, trầm tĩnh. Sự mạnh
mẽ của Ma Joad được toát ra từ ngoại hình: “đôi bàn chân khỏe và để trần của bà
cử động nhanh, thanh thoát trên nền nhà… đôi cánh tay khỏe… đôi bàn tay mập
mạp” [85,177]. Rõ ràng, ngay từ lúc đầu, người mẹ đã gây ấn tượng với người đọc
bởi vẻ đẹp mạnh mẽ, nam tính từ dáng vẻ bên ngoài. Bên cạnh đó, vẻ đẹp nam tính
của người phụ nữ còn được thể hiện thông qua những hành động nổi loạn, chống
cự. Điều này đã góp phần thể hiện rõ nét sức mạnh tinh thần của họ như những
nhân vật nữ bất tử. Sức mạnh tinh thần của nhân vật Ma Joad được hình thành
không phải vào lúc gia đình bà lâm vào cảnh nghèo khổ, bị xua đuổi khỏi mảnh
đất của cha ông để lại mà bản tính mạnh mẽ đã có ngay từ khi bà còn trẻ. Điều đó
được thể hiện qua nhận xét của bố: “Mẹ mày lúc còn trẻ như thế nào thì nay cũng
như vậy. Một người rất bạo, không sợ gì hết” [85,357]. Đặc biệt trong kí ức của
Tom về mẹ ở đầu truyện, mẹ là một người phụ nữ không để cho ai quấy đảo. Anh
65
kể với Jim Casy hành động phản kháng có chút hài hước của mẹ: “Có lần, tớ đã
thấy bà ấy nện cho một gã hàng rong một trận đòn nên thân, nện bằng một con gà
sống, vì gã định cãi bướng. Một tay cầm con gà, một tay xách rìu, bà sẵn sàng cắt
cổ thằng cha. Bà có ý định cầm rìu nhảy bổ vào gã, nhưng nhầm tay, cho nên bà
xông vào rồi giơ con gà nện tới tấp” [85,79]. Có thể coi đây là hành động mang
tính dự báo cho vai trò dẫn đầu sau này của bà mẹ.
Trên hành trình đến miền đất hứa của gia đình Joad, những hành động bảo vệ,
củng cố tinh thần cho gia đình, nỗ lực gắn kết gia đình thành một khối thống nhất
của Ma Joad càng cho thấy rõ nét sức mạnh tinh thần của người phụ nữ “thép” này.
Người vợ ấy xưa nay luôn phục tùng chồng, người mẹ ấy đã từng nhường lời cho
con trai vì anh là đàn ông, vậy mà, trên đường đến miền Tây, Ma Joad đã nổi loạn,
bướng bỉnh, chả khác con ngựa cái mất nết như cách nói của bố. Khi Tom đề nghị
nhà Joad và nhà Wilson đi về miền Tây trước, còn anh và mục sư Casy ở lại sửa
xe rồi đuổi theo sau, Pa Joad ủng hộ “nếu chỉ còn cách đó thì chẳng thà lên đường
ngay thôi” [85,263], ngay lập tức, Ma Joad “đứng lên ngay phía trước ông”, “lại
gần chiếc xe du lịch… lôi ra một cái chuôi kích rồi thong thả đu đưa trong tay” đe
dọa Pa Joad: “muốn cho tôi đi, chỉ có cách là ông cứ đánh tôi… tôi không chịu để
ông đánh đâu, tôi chẳng khóc lóc, chẳng lạy van gì hết. Tôi sẽ nhảy bổ vào ông…
Lại đây đánh tôi xem nào. Thử xem. Nhưng đừng hòng tôi đi…” [85,264]. Hành
động nổi loạn của bà mẹ khiến cho cả nhóm ngỡ ngàng, còn Pa Joad thì chưng
hửng và… chịu thua. Giờ đây, Ma Joad là quyền uy, là người nắm lấy quyền điều
khiển. Bởi lẽ, bà mẹ là người thấu thị tình thế bi đát của cả nhóm và tất cả họ chỉ
còn lại thứ duy nhất là “chúng ta với nhau”, “gia đình chúng ta với nhau”, “gia
đình đoàn tụ, chúng ta chỉ còn lại có thế” [85,265]. Bà mẹ khốn khổ ấy hiểu rằng:
khi và chỉ khi cả gia đình bà ở cạnh nhau, họ mới có được sức mạnh để vượt qua
mọi tình cảnh bi đát. Ý nghĩa của gia đình đã được một bà mẹ thất học nhận ra
bằng trái tim yêu thương và sức mạnh tinh thần vĩ đại.
Sức mạnh của các nhân vật nữ còn được thể hiện qua khả năng chịu đựng phi
thường của họ. Trên hành trình đến miền đất hứa, Ma Joad đã lần lượt mất đi bố
chồng, mẹ chồng, con trai cả (Noah), con rể (Connie) và đứa con trai bà yêu quý
nhất (Tom). Trong đêm vượt qua sa mạc để đến California, Mẹ đã nằm cạnh bà nội
(đã chết) suốt đêm và cố gắng giấu chuyện bà chết để cả nhà vượt sa mạc an toàn.
66
Để rồi sáng hôm sau, bà bồi hồi xúc động và nhớ lại: “Tôi đã nói với Bà… tôi nói
với Bà lúc Bà đang nằm hấp hối ở đấy. Ta không thể dừng lại ngay giữa sa mạc.
Còn có lũ nhỏ… và đứa bé trong bụng Rosashan” [85,361]. Điều đó khiến cả nhà
“hoảng hốt”, “kinh sợ” trước sức chịu đựng lạ thường của Ma Joad. Ngay cả mục
sư Jim Casy, người được xem là nhân vật Chúa thời hiện đại, người từng tự hỏi:
“Cái Đấng Thánh Thần này là gì?” Và tự nhủ đó là tình yêu thương con người. Giờ
đây, đứng trước sức mạnh của bà, chính Casy cũng phải sững sờ: “Suốt cả đêm,
mà một mình, John ạ, trước mặt ông là một người phụ nữ quá đỗi giàu tình yêu
thương khiến tôi phải sợ. Bên cạnh bà ta tôi cảm thấy mình bé nhỏ đến thế, xấu xa
đến thế” [85,362]. Vì vậy, với Casy, Ma Joad chính là biểu tượng tuyệt vời nhất
của tình yêu thương, cội rễ sức mạnh tinh thần của con người. Điều trước đây ông
hồ nghi ở Chúa, giờ hiển hiện rõ rệt ở một bà mẹ quê mùa, thất học.
Bằng tình yêu thương, sức chịu đựng phi thường và khả năng thích ứng mạnh
mẽ trước những đổi thay của thời cuộc, Ma Joad đã vươn lên nắm lấy vai trò dẫn
dắt gia đình cùng với người con trai, Tom Joad. Vai trò và địa vị của bà mẹ ngày
một lớn dần xuyên suốt câu chuyện. Cuộc chuyển giao quyền lực này được khẳng
định bởi chính Pa Joad, người từng là trụ cột của gia đình: “Tôi chẳng còn được
tích sự gì nữa [...]. Ngược đời thật. Người đàn bà nắm quyền chỉ huy trong nhà. Bà
ta nói: ‘Ta làm cái này, ta đi chỗ kia’, ấy thế mà tôi dửng dưng” [85,677]. Căn
nguyên của sự thay thế này không chỉ đến từ bên ngoài, tác động dữ dội của cuộc
khủng hoảng kinh tế - xã hội, mà cốt yếu xuất phát từ sự khác biệt, tiềm năng và
cách nhìn sự đời của mỗi giới. Điều đó được ý thức sâu sắc bởi Ma Joad, một bà
mẹ quê mùa, thất học. “Phụ nữ họ dễ quen với những thay đổi hơn đàn ông [...].
Cuộc đời của người đàn bà là ở trong đôi cánh tay của mụ ta; ở người đàn ông, thì
nó nằm trong đầu óc y [...]. Ở người đàn ông, họ sống với những bước nhảy, một
đứa bé ra đời, một người đàn ông mất, đó là mỗi bước nhảy. Đàn ông lấy vợ, rồi
vợ mất, một bước nhảy khác. Ở người đàn bà, sự việc cứ trôi chảy như con sông,
có những xoáy nước nhỏ, những sông vẫn chảy, chảy hoài” [85,677-678].
Cùng với Ma Joad, Juana trong Viên ngọc trai cũng là một nhân vật nữ mạnh
mẽ, táo bạo. Trong tiểu thuyết ngắn này, người kể chuyện nhiều lần khắc họa vẻ
đẹp nam tính trong nữ tính của Juana qua những tình huống éo le. Vốn là một người
vợ hiền thục, một người mẹ tảo tần, song khi tính mạng của con trai Coyotito bị đe
67
dọa, chính Juana là người dám vượt qua những rào chắn về chủng tộc, giai cấp
trong xã hội để làm một kinh thiên động địa. “Trên chiếc thuyền ra khơi, Juana
như một người đàn ông mạnh mẽ. Và ngay giây phút này đây, chị đang làm một
việc hết sức bất ngờ” [86,11]. Đó là mang Coyotito đến tìm lão bác sĩ người da
trắng để chữa trị vết thương. Ở một tình huống éo le khác, gia đình Kino bị những
kẻ săn người truy đuổi đến một rặng núi cao vút phía tây, Kino bày tỏ ý muốn để
vợ con ẩn nấp ở một nơi an toàn còn anh sẽ dẫn dụ chúng đi hướng khác, khi ấy
Juana và con trai của họ có thể đến phía bắc một cách yên ổn. Trái với vẻ ngoan
hiền, cung kính thường ngày, Juana chống lại ý nguyện của chồng, chị quả quyết:
“Em và con sẽ đi theo anh” [86,109]. Bởi lẽ Juana hiểu rõ sự bình yên và an toàn
chỉ có thể có được khi gia đình họ ở bên nhau và cùng vượt qua mọi hiểm nguy.
Có thể nói, sự trỗi dậy của cổ mẫu animus trong nhân vật nữ này vào những thời
khắc nguy nan đã giúp Juana dần dần tái định vị vai trò của chị trong gia đình. Nếu
như ở phần đầu của tác phẩm, Juana mặc dù có những biểu hiện nam tính song chị
vẫn chỉ là một người vợ, người mẹ theo chuẩn mực truyền thống, phục tùng mọi
yêu cầu của chồng, thì ở phần kết của câu chuyện, Juana đã xác lập địa vị mới mẻ,
ngang hàng với người chồng. Điều này được biểu hiện qua chi tiết vợ chồng chị
cùng “sóng đôi” trở về: “Hai người họ rảo bước trên con đường mòn từ nông thôn
vào thị trấn, nhưng không phải như mọi lần - Kino đi trước Juana bước sau, mà họ
sóng đôi” [86,123]. Bên cạnh Ma Joad, Juana, nhiều nhân vật nữ trong truyện ngắn
của John Steinbeck cũng mang đậm vẻ đẹp nam tính trong nữ tính, chẳng hạn như
Elisa Allen trong Khóm cúc hay Mary Teller trong Con chim cút trắng.
Như thế, vẻ đẹp nam tính vốn ẩn chứa trong nét nữ tính thường ngày sẽ được
bung tỏa khi người phụ nữ đứng trước những thử thách của cuộc đời, khi gia đình
thân yêu của họ đối diện với những nghịch cảnh trớ trêu. Đặc biệt, trong tình cảnh
cùng quẫn nhất, hiểm nghèo nhất, John Steinbeck đã chỉ ra rằng chỉ có người phụ
nữ mới có thể đem lại sự sống, cứu chuộc những con người sắp mất đi quyền sống.
Cuối tác phẩm Chùm nho phẫn nộ, Rosashan đã vượt qua nỗi đau mất con, dùng
bầu sữa ấm nóng của mình để cứu sống một ông già sắp chết vì đói. Như thế, khía
cạnh nam tính ở nữ giới không hủy diệt khía cạnh nữ tính mà trái lại, thúc đẩy sự
phát triển tâm lí, sức mạnh ở người nữ, giúp họ thực hiện thiên chức cao cả.
Khẳng định sức mạnh nam tính của người mẹ, người phụ nữ trong thời đại
68
mới không có nghĩa là John Steinbeck chỉ đơn thuần ngợi ca, tán tụng. Đôi mắt
tinh anh của nhà văn còn nhìn thấy ở họ những giây phút yếu lòng. Bởi suy cho
cùng thì họ vẫn là những người phụ nữ. Đó là những lúc Ma Joad không kìm nén
được niềm hạnh phúc ngập tràn. “Mẹ gục đầu xuống và cố nén tiếng khóc thổn
thức muốn bật ra” [85,484] khi gia đình Joad đến trại Weedpated. Sau bao nhiêu
ngày tháng rong ruổi trên đường, lần đầu tiên họ được đối xử, được sống như những
con người. Đó còn là những lúc nỗi đau khổ vượt quá sức chịu đựng của họ. Mặc
dù cố gắng chịu đựng những cơn đau nhưng Sairy Wilson vẫn không thể giấu được
“đôi mắt bị cơn đau đớn giày vò và khuôn mặt co rúm chống chọi với bệnh tật”
[85,234]. Tuy vậy, những giây phút yếu lòng vì quá hạnh phúc hoặc quá đau đớn
chỉ đến trong thoáng chốc, bởi trên hành trình thống khổ dài vô tận, bản năng bảo
vệ và tình yêu đối với gia đình khiến người phụ nữ trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ
hết. Mẹ vẫn gắng gượng để vượt qua tất cả khổ cực. Bà không muốn bất kì ai lo
lắng cho mình. Vì vậy, khi Tom định an ủi mẹ, bà nói: “Con đừng chạm tới mẹ”,
“Sẽ ổn thôi nếu con không chạm tới mẹ” [85,361]. Nếu Tom hay một ai khác chạm
đến Ma Joad thì bao nhiêu nỗi đau được bà kìm nén sẽ vỡ òa. Những giây phút yếu
đuối của Ma Joad một lần nữa khẳng định bà cũng giống như biết bao người mẹ
khác, trái tim bà dù sắt đá, kiên cường đến mấy vẫn không thể tránh khỏi những
khoảnh khắc yếu mềm. Như vậy, ở những nhân vật nữ, vẻ đẹp nữ tính vẫn ngự trị
như một hằng số bất biến. Chỉ là đôi lúc nó cần phải nhường chỗ để yếu tố nam
tính vươn lên, giúp người phụ nữ vững vàng hơn trên hành trình gìn giữ và bảo vệ
gia đình.
Tính chất nam tính vốn dĩ được mặc định của người đàn ông, giờ đây hiển
hiện ở những người mẹ, người phụ nữ trong tác phẩm của John Steinbeck. Khi viết
về người phụ nữ, thiên hướng của Hemingway thường là phi giới tính, nam tính
hóa nữ tính, tạo nên một thế giới “đàn ông không đàn bà” như một phương cách
để thể hiện những chấn thương tâm lí của thế hệ lạc lõng (Lost generation). Còn
với John Steinbeck, ông phát hiện ra vẻ đẹp nam tính trong nữ tính của những
người mẹ, người phụ nữ, nguồn cội làm nên sức mạnh vĩ đại của họ.
Vậy nên, khi giới thiệu các nhân vật trong tác phẩm, Harold Bloom cho rằng
Ma Joad là “nhân vật mạnh mẽ nhất trong tiểu thuyết” [104,4]. Mimi Reisel
Gladstein khẳng định Ma Joad là “người phụ nữ bất tử”, là một “cổ mẫu giống
69
trong tiểu thuyết Mỹ” [47,76]. Bà mẹ là “hiện thân của huyền thoại về người phụ
nữ tiên phong, biểu tượng của tình mẹ và là hóa thân của nữ thần trái đất” [47,77].
Có thể thấy, những nhân vật như Ma Joad, Juana không chỉ đẹp ở vẻ đẹp nữ tính
mà còn mang trong mình nội lực, bản lĩnh, sức chịu đựng phi thường tạo nên nét
đẹp nam tính trong nữ tính. Đây cũng là một sự sáng tạo độc đáo của John
Steinbeck trên nền tảng của cổ mẫu animus. Với vẻ đẹp nam tính trong nữ tính và
sức mạnh phi thường của mình, người phụ nữ dễ dàng chiếm lấy vị trí của người
đàn ông, trở thành thủ lĩnh, người dẫn đầu gia đình vượt qua mọi khó khăn, thử
thách cũng như mọi tấn tuồng bi đát của cuộc đời.
Sự trỗi dậy của cổ mẫu về chất nam tính trong nữ tính trong tiểu thuyết của
Steinbeck còn thể hiện qua nhân vật Cathy/Kate trong Phía đông vườn địa đàng.
Song, khác với sự thành công của Ma Joad hay Juana, chất nam tính trong Cathy
lại là động lực thúc đẩy sự lựa chọn đi ngược lại những chuẩn mực nữ tính của
cộng đồng, sau cùng dẫn đến cái chết đầy bi kịch của nhân vật này. Ban đầu, người
kể chuyện giấu mặt trong tác phẩm tin rằng ngay từ lúc sinh ra Cathy đã là một
“quái vật”, một kẻ “thiếu lương tâm”: “Nàng không giống những người khác, chưa
bao giờ giống kể từ lúc sinh ra” [92,72]. Sự khác biệt đó được Cathy dùng để tạo
ra một sự khuấy động hoang mang và đau đớn trong thế giới của nàng. Sự khác
biệt giữa nàng với những nhân vật nữ truyền thống như Liza không hẳn xuất phát
từ khía cạnh bản năng ác tiền định trong Cathy mà ở một phương diện nào đó có
thể xem xét từ sự hiện diện ngày càng vượt trội của cổ mẫu animus trong người
phụ nữ này. Những hành động và lời nói của Cathy biểu hiện sự thách thức của
nàng đối với những chuẩn mực nữ tính của cộng đồng. Thay vì lựa chọn trở thành
một giáo viên hay thư ký, những công việc được xem là phù hợp với phụ nữ thời
bấy giờ. Nàng dấn thân vào con đường tội lỗi, chống lại những chuẩn mực của xã
hội. Bởi vì nàng tin rằng việc hành nghề mại dâm sẽ là một cách thức hữu hiệu để
ẩn mình trong một xã hội gia trưởng: “Một gái điếm là một gái điếm” [92,266]. Do
đó, nàng không những có thể sống sót trong một xã hội hà khắc, ngược lại có thể
đạt được quyền lực và sự tự do bất chấp mọi rào cản của cộng đồng. Theo Kelly-
Rae Meyer, trong bài viết “Cathy's ‘Masculinity’ as Survival in Steinbeck's East
of Eden”, phẩm chất nam tính của Cathy tạo ra động lực và lòng quyết tâm giúp
nhân vật này đạt được thành công trong xã hội phụ quyền [49]. Tuy nhiên, sự thành
70
công mà Meyer nhấn mạnh chỉ là đời sống vật chất thịnh vượng và phù phiếm bên
ngoài với khối tài sản kếch xù mà thiếu vắng những giá trị tinh thần. Cathy không
yêu ai ngoài chính bản thân và vì vậy cũng chẳng có ai ở lại bên nàng đến tận giây
phút cuối đời. Nàng tự vẫn trong căn phòng xa hoa mà lạnh lẽo. Như thế, khát vọng
đạt được sự tự do và quyền tự định đoạt số phận của Cathy là hoàn toàn chính đáng,
song phương cách mà nàng thực hiện để đạt được mục đích này lại đi ngược lại
với chuẩn mực của xã hội gia trưởng. Vì vậy, cái chết là một kết cục tất yếu của
nhân vật này. Thông qua bi kịch của Cathy, nhà văn đã chỉ ra cuộc khủng hoảng
bản sắc nữ tính của một bộ phận phụ nữ trong xã hội Mỹ thời hậu chiến khi họ bị
áp chế bởi những khuôn mẫu của cộng đồng trong sự thỏa mãn ở việc làm vợ và
làm mẹ.
Như thế, thông qua sự tái sinh cổ mẫu mẹ, sáng tác của John Steinbeck đã
phơi bày những tác động của bất ổn xã hội nửa đầu thế kỉ XX đến trật tự giới đã
được định hình hàng trăm năm ở nước Mỹ. Những người đàn ông vốn là trụ cột,
nắm quyền trở nên yếu đuối, bất lực, thụ động; những người đàn bà vốn là phái
yếu, thụ động, lệ thuộc vào đàn ông lại vươn lên nắm giữ địa vị quan trọng, quyết
định sự sống còn của gia đình và xã hội. Đồng thời, sự thách thức những khuôn
mẫu nữ tính truyền thống của cổ mẫu mẹ trong tác phẩm của John Steinbeck cũng
tiết lộ những làn sóng tái cân nhắc bản sắc nữ tính âm ỉ trong lòng nước Mỹ.
2.3.2.2. Tính nhị nguyên trong cổ mẫu mẹ của John Steinbeck
Là một hiện tượng trung tâm trong lịch sử văn hóa nhân loại, huyền thoại góp
phần định danh một nền văn hóa, định hình tư duy của mỗi cá nhân và cộng đồng.
Sức sống của huyền thoại mãnh liệt đến mức: “Ngay cả khi một nền văn hóa không
còn tin rằng huyền thoại của nó là những lời giải thích chân thật, tuy nhiên, những
câu chuyện này vẫn hiện diện như một nơi chứa đựng những giá trị văn hóa quan
trọng” [105,284]. Sức ảnh hưởng dài lâu của huyền thoại trong lịch sử văn hóa,
ngoài việc biểu hiện qua những giá trị văn hóa như là đích đến của nó, còn xuất
phát từ tư duy huyền thoại là cách thức của nó. Khám phá thần thoại và truyện cổ
của người da đỏ Bắc Mỹ từ quan điểm cấu trúc, Lévi-Strauss đã chỉ ra cơ chế logic
của tư duy huyền thoại, trong đó, việc sử dụng các cặp đôi đối lập là biểu hiện quan
trọng nhất. Theo nhà nghiên cứu, người nguyên thủy “nhận xét thế giới trước hết
bằng các cặp đối lập mà cơ bản nhất là hai cặp Trời/Đất và Đực/Cái. Hai cặp này
71
cũng lồng vào nhau như Trời/Đất // Đực/Cái. Những bản phối hợp của chúng có
thể biến thành nhiều ‘bản hòa tấu’ trong thế giới của những kí hiệu, tượng trưng
và thần thoại” [106,28]. Meletinsky cũng đồng tình với quan điểm của Lévi-Strauss
về lối tư duy nhị phân và logic nhị phân của người nguyên thủy: “Logic huyền
thoại sử dụng rộng rãi các cặp đối lập nhị phân (cặp đôi) những phẩm chất cảm
xúc, đồng thời qua đó khắc phục tính ‘liên tục’ của tri giác về thế giới xung quanh
bằng cách tách các ‘khuôn hình’ riêng rẽ có dấu hiệu mâu thuẫn” [107,219]. Điều
này cũng góp phần lí giải tính cách hai chiều đối lập của phần lớn cổ mẫu, biểu
tượng trong kho tàng văn hóa dân gian. Về sau, tư duy huyền thoại và logic nhị
phân của người nguyên thủy tiếp tục ảnh hưởng sâu đậm trong các thể loại văn học
với sự biến hóa đa dạng và phức tạp, sự mở rộng của các cặp đối lập: cuộc sống/cái
chết, thiện/ác, may mắn/bất hạnh, thống trị/bị trị, tốt/xấu...
Nhìn vào các đặc tính của cổ mẫu mẹ, mẹ hiền và mẹ dữ, được tái sinh trong
tiểu thuyết John Steinbeck, chúng ta có thể dễ dàng nhận ra lối tư duy huyền thoại
đã ngả bóng đậm nét trong thế giới quan của văn hào người Mỹ này. Nói cách
khác, tính nhị nguyên là một đặc điểm quan trọng của cổ mẫu mẹ trong văn hóa
dân gian cũng như trong sáng tác của John Steinbeck. Tuy nhiên, điểm khác biệt
của các biến thể của cổ mẫu mẹ trong tiểu thuyết John Steinbeck lại thuộc về đặc
trưng mẹ hiền chiếm mức độ/tỉ lệ nhiều hơn hẳn so với đặc trưng mẹ dữ. Qua khảo
sát và thống kê, kết quả mà chúng tôi thu được là: mẹ hiền chiếm 70% và mẹ dữ
chiếm 30%. Độ chênh này tiết lộ rằng, khi tái sinh cổ mẫu mẹ bằng một cách thức
vừa bản năng vừa sáng tạo, tác giả đã nghiêng về khía cạnh mẹ hiền, nhấn mạnh
các đặc tính và chức năng tích cực của cổ mẫu mẹ như là cội nguồn của sự sống,
yêu thương, chữa lành, bảo vệ và che chở. Sự “thiên vị” này có ý nghĩa quan trọng,
góp phần tái lập bản sắc nữ tính trong bối cảnh lịch sử xã hội đặc biệt của nước
Mỹ. Đó là thời kì Đại suy thoái kéo theo những bất ổn xã hội, không chỉ đe dọa sự
sống còn của mỗi cá nhân và cộng đồng mà còn làm lung lay tận gốc những giá trị
thiêng liêng của gia đình và xã hội. Chính những đặc tính tích cực này, theo John
Steinbeck, là nền tảng vững chãi giúp những người mẹ, người phụ nữ dễ dàng nắm
lấy vai trò và địa vị mới mẻ của họ.
Cũng cần lưu ý rằng, sự hiện diện của đặc trưng mẹ dữ trong cổ mẫu mẹ của
John Steinbeck tuy không đậm nét như mẹ hiền song vẫn có ý nghĩa nhất định.
72
Điểm đáng chú ý là khía cạnh hủy diệt của cổ mẫu mẹ được nhà văn đặc biệt quan
tâm trong những sáng tác ở chặng cuối, tiêu biểu là tiểu thuyết Phía đông vườn địa
đàng, tác phẩm ra đời trong giai đoạn phong trào nữ quyền gặt hái nhiều thành
công vang dội ở nước Mỹ. Theo đó, việc John Steinbeck khắc họa hình tượng nhân
vật nữ đi ngược lại một số chuẩn mực, giá trị vốn được cộng đồng thừa nhận, bảo
lưu và khích lệ thể hiện khát vọng tự do, làm chủ bản sắc của người phụ nữ, vượt
ra ngoài khuôn khổ, áp chế của cộng đồng đối với nữ giới.
Như thế, với độ chênh giữa các mặt đối lập tùy thuộc bối cảnh lịch sử xã hội
của mỗi tác phẩm, tính nhị nguyên trong cổ mẫu mẹ của John Steinbeck cho thấy
sức ảnh hưởng dài lâu của tư duy huyền thoại song vẫn chịu sự chi phối của các
biến động xã hội mới. Nghĩa là nhà văn trong khi kế thừa các di sản tinh thần của
cộng đồng một cách vô thức lẫn ý thức vẫn phát huy khả năng sáng tạo của cá nhân
trên nền cảnh lịch sử xã hội đầy biến động và phức tạp của thời hiện đại. Bằng
phương thức “tái huyền thoại hóa”, John Steinbeck đã tạo sinh cổ mẫu mẹ nhằm
tái định vị vai trò và vị trí của người mẹ, người phụ nữ, rộng hơn là tái lập bản sắc
nữ tính trong bối cảnh lịch sử xã hội đặc biệt của Hoa Kỳ nửa đầu thế kỉ XX. Cũng
cần lưu ý rằng, sự tái sinh cổ mẫu mẹ và những cổ mẫu khác trong tiểu thuyết John
Steinbeck không hề mâu thuẫn với triết lí sáng tạo mà ông gọi là phi mục đích luận
(non-teleological), cũng là quan điểm triết học được chia sẻ giữa Ed Ricketts và
Steinbeck. Trong The Log from the Sea of Cortez (Nhật kí từ biển Cortez, 1951),
Steinbeck và Ricketts đã phát biểu quan điểm này như sau: tư duy phi mục đích
luận không xem xét sự vật hiện tượng như nó nên là hay có thể là mà như nó đang
là, nhà văn cố gắng trả lời cho các câu hỏi hóc búa là cái gì và như thế nào thay vì
tại sao [108,112]. Bởi lẽ, bằng cách tái sinh, làm mới cổ mẫu, sáng tác của John
Steinbeck vừa khơi dậy kho kí ức tập thể, vừa phản ánh những trạng huống hiện
sinh mới mẻ của nhân loại.
* Tiểu kết
Trên cơ sở những nghiên cứu về cổ mẫu mẹ trong văn hóa dân gian và những
biến thể của cổ mẫu này trong tiểu thuyết của John Steinbeck, có thể thấy tiểu
thuyết của nhà văn người Mỹ này đã hấp thu những đặc trưng cơ bản của cổ mẫu
mẹ trong kho kí ức tập thể của nhân loại, đồng thời tạo sinh những ý nghĩa mới mẻ
cho cổ mẫu này dưới tác động của bối cảnh lịch sử xã hội Mỹ nửa đầu thế kỉ XX.
73
Những gương mặt ấn tượng của những người mẹ, người phụ nữ trong tiểu thuyết
John Steinbeck mang hai đặc điểm nổi bật của cổ mẫu mẹ nguyên thủy, là mẹ hiền
và mẹ dữ. Trong đó, mẹ hiền được thể hiện thông qua các đặc tính tích cực như vẻ
đẹp nữ tính, suối nguồn yêu thương, quyền năng sinh sản và nuôi dưỡng. Mẹ dữ
gắn liền với những đặc tính khủng khiếp như lẳng lơ, cám dỗ và độc ác, tàn nhẫn.
Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế và những bất ổn xã hội thời hiện đại, tiểu
thuyết của John Steinbeck đã tái lập bản sắc nữ tính của cổ mẫu mẹ để xoa dịu,
chữa lành những tâm hồn bị ruồng bỏ và biểu hiện khát vọng tự do, tự định đoạt
số phận của người phụ nữ trong một nền văn hóa giàu truyền thống nam tính. Ý
nghĩa phái sinh quan trọng này được thể hiện qua sự trỗi dậy của chất nam tính
trong cổ mẫu tính nữ bằng cách xây dựng những tính cách nữ mạnh mẽ, quyết
đoán, giàu nghị lực, là nơi nương tựa của những phận người nghèo khổ, thua thiệt.
Ngoài ra, tính nhị nguyên và độ chênh giữa hai cực đối lập trong cổ mẫu mẹ của
tiểu thuyết John Steinbeck vừa tiết lộ dấu ấn sâu đậm của tư duy huyền thoại, vừa
bộc lộ sự chuyển biến về bản sắc của cổ mẫu mẹ trong quá trình tương tác với bối
cảnh thời đại. Nhờ vậy, những gương mặt nữ của John Steinbeck có thể vươn lên
nắm lấy vai trò và địa vị mới mẻ, tái lập bản sắc và thách thức chuẩn mực nữ tính
trong một nền văn học, văn hóa giàu truyền thống nam tính.
74
Chương 3.
CỔ MẪU ANH HÙNG VÀ DẤU ẤN GIẢI HUYỀN THOẠI
TRONG TIỂU THUYẾT JOHN STEINBECK
Trong khi cổ mẫu mẹ phản ánh một cách độc đáo đời sống và tâm hồn của
một quốc gia nhanh chóng vươn lên vị thế số một trên trường quốc tế rồi lại rơi
vào thời kì suy thoái kinh tế nặng nề và tìm kiếm tính nữ trong đời sống như một
phương cách chữa lành những vết thương tinh thần, cổ mẫu anh hùng lại giữ vai
trò chủ đạo trong việc phản ánh truyền thống và đặc chất của chủ nghĩa anh hùng
kiểu Mỹ. Chủ nghĩa anh hùng được xem là một đặc điểm nổi bật của nền văn học
Mỹ, nền văn học của một quốc gia hứa hẹn đảm bảo rằng mỗi người đến đây đều
có cơ hội trở thành người hùng, ít nhất là của chính cuộc đời họ. Nỗi khát khao anh
hùng này trở nên mãnh liệt hơn khi nước Mỹ phải đối diện với những bất ổn trong
thế kỉ XX, đặc biệt là nửa đầu thế kỉ này với cuộc Đại suy thoái, hai cuộc Thế chiến
và giai đoạn hậu chiến. Bối cảnh lịch sử xã hội đặc biệt này đã thôi thúc các nhà
văn Mỹ tái sinh cổ mẫu mẹ và đặc biệt là cổ mẫu anh hùng để phản ánh những
mong cầu của con người trong thời đại bất ổn. Trong đó, John Steinbeck không
phải là trường hợp ngoại lệ. Với đặc trưng của tiểu thuyết hiện đại, tác phẩm của
John Steinbeck hầu như không tái hiện cổ mẫu anh hùng trong một hành trình toàn
vẹn, mĩ mãn hay khắc họa những nhân vật anh hùng như trong truyền thống tự sự
dân gian. Khả năng tiếp biến và sáng tạo của nhà văn thể hiện rõ nét qua những
chuyển đổi trong cấu trúc vòng đời của người anh hùng, qua việc tái tạo những
motif của cổ mẫu anh hùng và đặc biệt là xu hướng giải thiêng các huyền thoại liên
quan đến người anh hùng. Trong chương này, trên cơ sở khái lược bản chất của cổ
mẫu anh hùng trong huyền thoại, luận án tiến hành đối chiếu và so sánh với trường
hợp tiểu thuyết John Steinbeck để khám phá những ý nghĩa phái sinh của cổ mẫu
này dưới ảnh hưởng của bối cảnh lịch sử xã hội Mỹ nửa đầu thế kỉ XX.
3.1. Cổ mẫu anh hùng trong văn hóa dân gian
Anh hùng là một nhân vật có thật trong lịch sử hoặc là một nhân vật hư cấu,
thường đối mặt với các nghịch cảnh và vượt qua thử thách bằng sự khôn ngoan,
khéo léo, sức mạnh và lòng dũng cảm. Về mặt từ nguyên, anh hùng (hero) có nguồn
gốc từ tiếng Hi Lạp, nghĩa là người bảo vệ, người che chở. Ngả bóng trong kho
75
tàng văn hóa dân gian của nhân loại, những thần thoại hào hùng của người Hi Lạp,
những truyện kể uy nghi của Kinh Thánh, hay những huyền thoại, truyền thuyết
trầm hùng của phương Đông là những anh hùng có tài nghệ phi thường, được cộng
đồng tôn vinh song cũng có lúc bị khinh rẻ và không được thừa nhận. Theo nhà
thần thoại học nổi tiếng người Mỹ, Joseph Campbell, “anh hùng là con người nào
đã chiến đấu vượt qua những hạn chế lịch sử của cá nhân và địa phương mình để
tiến tới những hình tướng người tiêu chuẩn, có hiệu lực phổ quát” [109,36].
Khi giới thuyết về các cổ mẫu điển hình trong truyện kể dân gian, nhà nghiên
cứu Nguyễn Thị Kim Ngân nhận định rằng: “Nhân vật anh hùng được xem là một
cổ mẫu lớn của nhân loại và cấu trúc căn bản nhất cho tất cả những truyện kể về
người anh hùng thuộc về các nền văn học trung đại, hiện đại, thậm chí là hậu hiện
đại đã tồn tại từ trong thần thoại, truyền thuyết dân gian” [110,84]. Trong tâm thức
nhân loại, anh hùng là người dũng cảm hoặc có phẩm chất tốt đẹp, có khả năng cải
thiện hoặc thay đổi thế giới, thực hiện ước mơ và khát vọng của cá nhân và cộng
đồng. Tính chất huyền thoại, phổ quát của cổ mẫu anh hùng thể hiện trong chu
trình vòng đời của nhân vật: sinh ra - khởi hành - cái chết và tái sinh. Tuy nhiên,
không phải truyện kể về nhân vật anh hùng nào cũng sử dụng các tình tiết giống
nhau bởi chúng còn chịu sự chi phối của nhiều yếu tố khác nhau như hoàn cảnh
lịch sử xã hội, đặc trưng văn hóa và ý đồ sáng tạo của người kể. Do đó, khi xây
dựng những nhân vật anh hùng, bên cạnh việc kế thừa bộ khung gốc của cổ mẫu
này, các nhà tiểu thuyết hiện đại đã tái thiết cổ mẫu anh hùng cùng với nhiều tình
tiết biến đổi.
Chiếm giữ vị trí vô cùng quan trọng trong tâm thức nhân loại và hiện diện rõ
nét qua các câu chuyện mang dáng dấp huyền thoại nên cổ mẫu anh hùng sớm
được nhiều học giả quan tâm và nghiên cứu. Theo Robert A. Segal, nghiên cứu
thần thoại anh hùng xuất hiện sớm nhất vào năm 1871 với công trình Primitive
Culture (Văn hóa nguyên thủy) của nhà nhân chủng học tiên phong người Anh, E.
B. Tylor, trong đó, Tylor cho biết nhiều nhân vật được thiết lập cùng một cốt truyện
hoặc khuôn mẫu: anh hùng ra đời, được một người hoặc động vật khác cứu sống
và lớn lên trở thành một anh hùng dân tộc. Đến năm 1928, nhà folklore học nổi
tiếng người Nga, Vladimir Propp đã chứng minh các câu chuyện cổ tích Nga đều
tuân theo một cốt truyện tiểu sử: nhân vật anh hùng thực hiện một cuộc phiêu lưu
76
thành công, trở về kết hôn với công chúa và giành được ngai vàng [111,70]. Không
chỉ dừng lại ở việc phác họa các mô hình, các nhà nghiên cứu còn đi sâu khám phá
nguồn gốc, chức năng và chủ đề của các thần thoại anh hùng, tiêu biểu là các công
trình công phu của nhà phân tâm học người Áo Otto Rank (1884-1939), nhà
folklore học người Anh Lord Raglan (1885–1964) và nhà thần thoại người Mỹ
Joseph Campbell (1904–1987) [112], [113], [109].
Truyện kể về cuộc đời và chiến công của người hùng thường được bắt đầu với
tuổi thơ kì diệu. Ngay từ lúc sinh ra, thậm chí từ lúc thụ thai, người hùng tương lai
đã được phú cho những quyền năng phi thường, nhờ đó họ có thể vượt qua những
thử thách, nhiệm vụ khó khăn sau này. Các nhà nghiên cứu anh hùng thần thoại
như Otto Rank và Lord Raglan quan tâm đến nửa đầu cuộc đời của người hùng,
đặc biệt là nguồn gốc xuất thân, mối quan hệ với gia đình, dòng dõi của người
hùng. Cụ thể, trong nghiên cứu nổi tiếng, The Myth of the Birth of the Hero (Thần
thoại về sự ra đời của anh hùng, 1914), Otto Rank đã phát triển khái niệm “anh
hùng thần thoại” qua tập hợp 12 đặc điểm thường xuyên xuất hiện trong các thần
thoại, truyền thuyết về anh hùng. Trong đó, các đặc điểm thể hiện rõ tuổi thơ kì
diệu của người anh hùng có thể kể đến như: họ là con cái của những bậc cha mẹ
ưu tú; cha là vua; khó thụ thai; lời tiên tri cảnh báo sự ra đời; được cứu bởi động
vật hoặc những kẻ thấp kém [112]. Mô hình anh hùng của Lord Raglan bao gồm
22 đặc điểm, trong đó cũng có những đặc điểm tô đậm tuổi thơ dữ dội của người
anh hùng, chẳng hạn như: mẹ là một trinh nữ hoàng tộc; cha là vua; thụ thai bất
thường; anh hùng nổi tiếng là con trai của thần; cố gắng giết anh hùng khi còn là
một đứa trẻ sơ sinh, thường là bởi cha hoặc ông ngoại; anh hùng hào sảng khi còn
nhỏ; được nuôi dưỡng bởi cha mẹ nuôi ở một đất nước xa xôi [113]. Không chỉ có
nguồn gốc, xuất thân, dòng dõi đặc biệt, ngay từ khi còn nhỏ người hùng đã có sức
mạnh, tài năng, trí thông minh hơn người. “Herakles siết cổ con rắn do nữ thần
Hera phái tới bên nôi cậu. Maui xứ Đa Đảo đánh bẫy làm mặt trời chậm lại – để
cho mẹ kịp làm cơm. Abraham, như chúng ta thấy, có được tri kiến về Chúa Trời
Duy Nhất. Jesus làm rối trí những nhà thông thái. Đức Phật còn nhỏ một hôm bị
bỏ dưới bóng cây; các bà vú của ngài bỗng nhận thấy bóng cây không di chuyển
cả buổi chiều và đứa trẻ đang ngồi im lìm nhập định yoga” [109,350]. Theo
Campbell, tính chất kì diệu của tuổi thơ người hùng hoàn toàn phù hợp với cách
77
nhìn của người xưa rằng vai trò anh hùng là tiền định.
Cùng gặp gỡ ở quan điểm về chức năng tâm lí và tính biểu tượng của huyền
thoại, các đặc điểm của cổ mẫu anh hùng của Rank và Raglan dưới ánh sáng của
Freud chủ yếu xoay quanh mối quan hệ với cha mẹ và tập trung vào nửa đầu trong
cuộc đời người anh hùng. Trong khi đó, lí thuyết của Campbell chịu ảnh hưởng
của Jung quan tâm đến nửa sau của cuộc đời người anh hùng, bắt đầu từ cuộc phiêu
lưu của anh ta và thể hiện vấn đề trung tâm là sự chuyển biến trong tâm trí của
người anh hùng. Người anh hùng mang
ngàn gương mặt (The Heros with a
Thousand Faces, 1949) là công trình
nghiên cứu thần thoại đầu tiên của
Joseph Campbell, có sức ảnh hưởng
mạnh mẽ đến nhiều nhà văn và nghệ sĩ
hiện đại. Xuất phát từ niềm tin rằng
mọi lĩnh vực trong đời sống con người
đều “trào dâng từ chiếc nhẫn thần cơ
bản là thần thoại” [109,19], Campbell
đã tiến hành phân tích hành trình của
người anh hùng trong thần thoại và truyện kể dân gian ở khắp mọi miền thế giới.
Ông gọi tên hành trình của người anh hùng là “monomyth”, một thuật ngữ được
nhà thần thoại vay mượn từ tác phẩm Finnegans Wake (1939) của James Joyce.
Theo Campbell, hành trình của người hùng trải qua 17 giai đoạn và được chia thành
3 chặng đường cơ bản: Lên đường (x) – Thụ giáo (y) – Quay về (z). Trên hành
trình đó, “người hùng từ thế giới ngày thường dấn bước vào một vùng phép lạ siêu
nhiên (x); chạm trán những lực lượng thần kì ở đó và giành được thắng lợi quyết
định (y); người hùng từ chuyến phiêu lưu kì bí này quay về với quyền năng ban ân
huệ cho đồng loại (z)” [109,46]. Trải qua cuộc phiêu lưu, người anh hùng biến đổi
và đạt được trí tuệ hoặc sức mạnh tâm linh.
Sau Campbell, David Adams Leeming với chuyên luận Mythology: the
Voyage of the Hero (Thần thoại: chuyến hành trình của người anh hùng) đã phân
tích các câu chuyện thần thoại về nhân vật anh hùng thành 8 phần ứng với 8 giai
đoạn nổi bật của cuộc đời người hùng [114]. Dẫu phân chia khác nhau về các giai
78
đoạn, song các nhà nghiên cứu vẫn thừa nhận ba nghi thức thiết yếu trong cấu trúc
vòng đời của nhân vật anh hùng đã được Campbell phát hiện. Nghi lễ chuyển đổi
của người hùng, theo Campbell, là “đơn vị hạt nhân trong thần thoại gốc” [109,46]
và mọi thần thoại ở mọi nơi trên thế giới đều có thể đọc được theo công thức này.
Do đó, khi xem xét cội nguồn của văn học từ huyền thoại/thần thoại, các nhà phê
bình huyền thoại cho biết công thức của Campbell không chỉ phù hợp với lĩnh vực
thần thoại mà còn có khả năng khai mở nhiều thể loại văn học khác ở những thời
đại khác nhau, trong đó có tiểu thuyết hiện đại. Dựa trên mô hình của Campbell,
người đọc có thể truy vết mô hình gốc và sự biến đổi của người hùng trong mỗi tác
phẩm để giải mã tác phẩm và gắn kết nó với nhà văn, thời đại và bạn đọc.
3.2. Cấu trúc của cổ mẫu anh hùng trong tiểu thuyết John Steinbeck qua
các motif nhiệm vụ căn bản
Đối chiếu với mô hình cổ mẫu anh hùng trong folklore, cấu trúc vòng đời của
nhân vật anh hùng trong tiểu thuyết của John Steinbeck đều kế thừa các giai
đoạn/nghi thức cơ bản: tiếng gọi phiêu lưu/lên đường, nhiệm vụ và thử thách/thụ
giáo, trở về/quay về (xem thêm phụ lục 4). Song, sự phá vỡ và tái thiết lập cấu trúc
cổ mẫu anh hùng chính là điểm thu hút và phản ánh tinh thần thời đại của tiểu
thuyết John Steinbeck. Nhà văn hầu như không miêu tả tỉ mỉ toàn bộ vòng đời của
nhân vật mà chỉ chú trọng một hoặc một số giai đoạn thiết yếu và một số motif
nhiệm vụ căn bản để làm nổi bật đặc điểm của nhân vật anh hùng gắn với bối cảnh
lịch sử xã hội Hoa Kỳ nửa đầu thế kỉ XX. Hơn nữa, một số sự kiện, chi tiết trong
cuộc đời người anh hùng cũng được Steinbeck cải biến phù hợp với đặc trưng và
chức năng của nhân vật trong tiểu thuyết hiện đại.
Ngoài ra, một số chi tiết tiểu sử liên quan đến sự tái sinh cổ mẫu anh hùng
trong sáng tác của John Steinbeck cũng cần được lưu ý. Từ thuở nhỏ, nhà văn
tương lai Steinbeck đã say mê Kinh Thánh, huyền thoại vua Arthur và những câu
chuyện về người hùng. Thêm vào đó, Steinbeck cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi
truyền thống dịch chuyển và nhu cầu tìm kiếm cái mới lạ như là tâm thức nổi bật
của người Mỹ khởi sinh từ lịch sử lập quốc và mở rộng biên giới đặc thù của nước
Mỹ. Đặc biệt, bối cảnh xã hội nhiều biến động của nước Mỹ nửa đầu thế kỉ XX là
chất liệu hiện thực phong phú thôi thúc Steinbeck tái thiết cổ mẫu anh hùng trong
thế giới tiểu thuyết của ông với hai motif nhiệm vụ cơ bản: tìm kiếm miền đất hứa
79
và xác lập bản sắc.
3.2.1. Tìm kiếm miền đất hứa
“Đất hứa” được biết đến với tên gọi mĩ miều, “vùng đất đượm sữa và mật
ong”, mang hàm ý chỉ nơi sung túc, đủ đầy, nhận được phúc lộc của Chúa Trời.
Trong Kinh Thánh, đó là vùng đất Chúa đã hứa ban cho Abraham và dòng dõi của
ông, dân tộc được Chúa chọn. Sáng thế kí ghi lại lời giao ước của Chúa với
Abraham như sau: “Hôm đó, ĐỨC CHÚA lập giao ước với ông Áp-ram như sau:
‘Ta ban cho dòng dõi ngươi đất này, từ sông Ai Cập đến sông Cả, tức sông Êu-
phơ-rát, đất của những người Kê-ni, Cơ-nát, Cát-môn, Khết, Pơ-rít-di, Ra-pha, E-
mô-ri, Ca-na-an, Ghia-ga-si và Giơ-vút” [115,52].
Theo Heike Paul, trong nghiên cứu The Myths that made America: An
introduction to American Studies (Những huyền thoại định hình nước Mỹ: Dẫn
nhập nghiên cứu Mỹ, 2014), câu chuyện về cuộc chạy trốn khỏi chế độ nô lệ ở Ai
Cập của những người Do Thái và hành trình đến vùng đất Chúa hứa ban cho họ là
một trong những huyền thoại có sức ảnh hưởng lớn nhất của truyền thống Cơ đốc
giáo và Do Thái giáo. Điều đáng lưu ý là câu chuyện của những người nô lệ Do
Thái và huyền thoại về nguồn gốc của nước Mỹ lại có mối liên hệ mật thiết với
nhau. Trong đó nước Mỹ ban đầu được xem như là miền đất hứa của những người
hành hương và những người Thanh giáo vốn là những nhóm người ly khai tôn giáo
rời bỏ nước Anh và châu Âu, di cư đến nước Mỹ/châu Mỹ để tìm kiếm tự do tôn
giáo, tìm kiếm “tân thế giới”/“thiên đường trên mặt đất”/miền đất hứa [116]. Như
thế, sự hình thành của nước Mỹ, ở một khía nào đó, gần gũi với câu chuyện cổ xưa
của cộng đồng Do Thái.
Nước Mỹ/châu Mỹ ban đầu được biết đến với những cái tên gắn liền với tính
từ “new” (mới), New World hay New England, hàm ý chỉ sự mới mẻ, tốt đẹp hơn
so với châu Âu già cỗi. Lịch sử phát triển của đất nước này cũng tiết lộ nhu cầu
khám phá những vùng đất mới lạ, hoang sơ như là căn tính đặc biệt của quốc gia.
Điều này được thể hiện qua quá trình mở rộng biên giới về phía Tây “từ bờ biển
Đại Tây Dương chuyển sang Trung Tây rồi sang viễn Tây” [5,117] với một không
gian luôn dịch chuyển, hoang sơ, xa lạ, trù phú, tự do, đầy tinh thần phiêu lưu.
Chính vì vậy, miền Tây Mỹ luôn hiện diện và chiếm vị trí quan trọng trong trí
tưởng tượng và văn hóa của người Mỹ, trở thành một huyền thoại quốc gia.
80
Như thế, huyền thoại về miền đất hứa và cuộc tìm kiếm đất hứa thường xuyên
được củng cố và phổ biến trong lịch sử phát triển, mở rộng biên giới của nước Mỹ.
Vì vậy, nhiều nhà văn Mỹ thường sử dụng motif tìm kiếm miền đất hứa với nhiều
màu sắc khác nhau để phản ánh căn tính quốc gia và những vấn đề của thời đại.
Vũ Minh Đức, trong luận án Cổ mẫu trong truyện ngắn Isaac Bashevis Singer,
khám phá hành trình đến miền đất hứa trong sáng tác của nhà văn người Mỹ gốc
Do Thái. Theo tác giả, những nhân vật của Singer luôn ở trong hành trình hoặc
chạy trốn hoặc kiếm tìm: “Tiếng gọi lên đường để kiếm tìm miền đất hứa của các
nhân vật được kết nối với kho vô thức cộng đồng và được thổi bùng lên thành khát
khao và ước vọng… LÊN ĐƯỜNG trở thành một nhu cầu và hành động tất yếu”
[20,79]. Hành trình tìm kiếm của các nhân vật trong truyện ngắn Singer thường
mang màu sắc tôn giáo và biểu đạt khát khao tìm về cội nguồn của một dân tộc tha
hương, trong khi đó, cuộc truy tìm của các nhân vật trong tiểu thuyết John
Steinbeck hướng đến khát vọng thay đổi hiện tại, sở hữu một mảnh đất nho nhỏ,
nơi họ có thể sống sót và vượt qua những khó khăn, đau khổ trong xã hội hiện đại
khốc liệt.
Khác với những thần thoại, truyền thuyết cổ xưa, nhân vật anh hùng trong thế
giới nghệ thuật tiểu thuyết John Steinbeck phần đa là những người lao động nghèo,
bộ phận chịu tác động dữ dội của cuộc Đại khủng hoảng và những bất ổn xã hội
thời hiện đại như chiến tranh, hậu chiến và thảm họa môi sinh. Do đó, nhiệm vụ
của các nhân vật anh hùng trong tác phẩm của Steinbeck không hướng đến những
kì tích lập chiến công phi thường như giết chết quái vật, chiến thắng kẻ thù… mà
trước hết gắn liền với nhu cầu, mong muốn tìm kiếm một cuộc sống tốt đẹp hơn,
một miền đất hứa, nơi họ có thể tồn tại bằng cách chăm chỉ làm lụng.
Sinh ra và lớn lên ở Salinas, thuộc bang California, mang theo lịch sử dịch
chuyển từ Đông sang Tây của đại gia đình và một tình yêu mãnh liệt với quê hương
Salinas, Steinbeck hiểu rõ vị trí của miền Tây trong tâm thức của người Mỹ. Do
đó, phần lớn tiểu thuyết của ông lấy bối cảnh ở California với nhiều nhân vật dịch
chuyển từ miền Đông nề nếp, hiện đại tìm đến miền Tây hoang sơ, phóng khoáng.
Chẳng hạn như nhân vật Joseph Wayne, trong tiểu thuyết thứ ba của Steinbeck,
Gửi vị thần chưa biết, thực hiện hành trình từ trang trại Vermont cằn cỗi của gia
đình thuộc New England đến một trang trại nhỏ ở một thung lũng yên tĩnh, màu
81
mỡ của California. Điểm khác biệt giữa hai nơi chốn hé lộ mục đích hành trình của
Joseph, đó là ước vọng sở hữu một vùng đất tươi đẹp hơn, tự do hơn mảnh đất cằn
cỗi ở quê nhà. Hơn nữa, khát vọng tự thân lập nghiệp của Joseph còn phản ánh ý
chí tự do của nhân vật khi anh ta quyết tâm thoát khỏi trang trại của người cha hà
khắc và độc đoán. Tương tự câu chuyện về Joseph, Adam Trask, trong tiểu thuyết
Phía đông vườn địa đàng, cũng rời bỏ trang trại của gia đình ở Connecticut thuộc
miền Đông Hoa Kỳ để tìm đến thung lũng miền Tây Salinas, California đẹp đẽ,
“luôn chan hòa ánh nắng mặt trời” [97,60] với mong muốn “lập nghiệp, tậu nhà
sinh sống” [97,64] dựng xây địa đàng cùng với nàng Eva của chàng là Cathy Ames.
“Giấc mộng con” của hai gã đàn ông lang thang, George và Lennie, trong tiểu
thuyết ngắn Của chuột và người, phản ánh nhu cầu tìm kiếm việc làm, dành dụm,
gom góp tiền để “mua căn nhà nhỏ với hai mẫu đất, một con bò cái và mấy con
lợn”, để được “sống trên miếng đất màu mỡ” của chính họ [90,30].
Đặc biệt, với kiệt tác Chùm nho phẫn nộ, nhà văn Steinbeck đã tái sinh một
cách ấn tượng, rõ nét motif tìm kiếm miền đất hứa và cuộc hành trình của những
người nông dân vô gia cư thời hiện đại, mà cụ thể là của gia đình Joad và đám đông
di tản. Trong đó, hành trình của gia đình Joad được miêu tả cận cảnh trên nền cảnh
hành trình lớn của đám đông di tản từ vùng Trung Tây cằn cỗi, Oklahoma, đến xứ
sở của mặt trời và cam, thiên đường phía Tây, California, với niềm tin mãnh liệt
rằng nơi xa lạ đó ít nhất vẫn tốt đẹp hơn quê nhà bị tàn phá bởi bão bụi và bị xua
đuổi bởi máy móc, ngân hàng. Trên hành trình tìm kiếm một nơi chốn để sinh sống
của những con người khốn khổ, Tom Joad và Ma Joad, hai nhân vật chính của thiên
tiểu thuyết, là những nam/nữ anh hùng từng bước nắm giữ nhiệm vụ dẫn đầu, bảo
vệ, làm chỗ dựa tinh thần cho đoàn người di tản.
Là một nhà văn của thời đại khủng hoảng, Steinbeck được tận mắt chứng kiến
“dòng suối người tị nạn” khắp nơi di tản về miền Tây. Tiếp nối truyền thống viết
về sự dịch chuyển trong văn học phương tây, ông đã tái hiện cuộc trốn chạy thời
hiện đại của những con người bất hạnh. Họ là nạn nhân của cuộc Đại suy thoái vào
những năm 1929-1933: mùa màng thất bát, nợ nần chồng chất cùng với công cuộc
cơ khí hóa nông nghiệp đã khiến người nông dân mất đi ruộng đất và bị xua đuổi
khỏi quê hương xứ sở. Giống như những người Do Thái chạy trốn chế độ nô lệ hà
khắc ở Ai Cập, những kẻ tị nạn trong kiệt tác của Steinbeck cũng trốn chạy những
82
nỗi kinh hoàng thời hiện đại là thiên tai và sự bóc lột của những thế lực ngầm,
những “con quái vật” thời đại kĩ trị. Rơi vào “bước đường cùng”, những người vô
gia cư buộc phải lìa xa mảnh đất vốn đã gắn liền với quá khứ của họ, tổ tiên của
họ, nơi họ đã trải qua “những năm tháng lụt lội, những năm tháng mưa lũ và những
năm tháng khô hạn”, để tiếp tục hành trình sống nhọc nhằn với niềm hy vọng có
thể sống sót ở miền đất mới, miền đất trù phú ở California bốn mùa hoa trái, nơi
họ được những tay đại diện của chủ đất, ngân hàng, công ty – những vị “Chúa”
toàn năng thời hiện đại, hứa hẹn, quảng cáo và mời chào với những lời lẽ hoa mĩ:
cứ “đi về miền Tây, sang California”. “Ở đó có công ăn việc làm, ở đó không bao
giờ lạnh”, “chỗ nào cũng có cam, chỉ cần giơ tay ra mà hái” [85,60]. Trên hành
trình chạy trốn và tìm kiếm miền đất hứa của mình, những người di cư đã trải qua
bao nhiêu chuyện đắng cay, khốc liệt song vẫn nuôi giữ niềm tin bất diệt vào tương
lai.
Nổi bật trong đoàn người di tản đến miền tây là gia đình Joad. Cùng với hàng
loạt gia đình bất hạnh khác, cả nhà Joad buộc phải rời bỏ mảnh đất cha ông để lại,
lên đường tìm kiếm một vùng đất mới để duy trì sự sống. Trên đường trường lắm
gian nan, gia đình Joad và đoàn người di tản phải trải qua nhiều thử thách, thiếu
thốn, đói khát và đặc biệt là mất đi người thân. Ông nội và bà nội nhà Joad chưa
kịp thấy đất hứa thì đã qua đời vì nỗi đau xa lìa quê hương và sức lực có hạn mà
đường trường lắm gian nan. Những người đàn ông họ Joad như Noah, Connie,
cũng lần lượt rời bỏ gia đình. Steinbeck đã trao nhiệm vụ dẫn dắt đoàn người khốn
khổ tìm kiếm miền đất hứa cho những nam, nữ anh hùng là Tom Joad và Ma Joad.
Trong bài viết “Phân tích nhân vật cổ mẫu Jim Casy trong Chùm nho phẫn
nộ”, Yanhong Fan cho rằng Jim Casy là “người dẫn đầu gia đình Joad và những
người khác để thăm dò vùng đất mới” [72,5]. Theo chúng tôi, người dẫn đầu gia
đình Joad là nhân vật Ma Joad và Tom Joad. Bởi vì, xuyên suốt câu chuyện, cả hai
nhân vật này dần dần khẳng định vai trò dẫn dắt, lãnh đạo của họ. Ma Joad từ một
người mẹ, người vợ kính cẩn người chồng, nhường lời cho con trai, tiến đến “nổi
loạn” chống lại chồng mình và bất cứ ai đe dọa sự bình yên của gia đình bà. Vai
trò và địa vị mới mẻ của Ma Joad được xác lập rõ rệt trong phần kết của thiên
truyện, khi đàn ông họ Joad buông xuôi hoặc đã bỏ đi thì người phụ nữ thép ấy vẫn
ngoan cường chống chọi, nỗ lực tìm kiếm một nơi khô ráo cho cả gia đình. Cùng
83
với mẹ, Tom cũng từng bước nắm lấy vai trò mới của anh. Vượt qua ám ảnh tù tội,
Tom là người đàn ông duy nhất trong gia đình không những không suy sụp trước
những biến cố dữ dội của thời đại mà còn trở thành chỗ dựa vững chãi cho cả nhà
Joad. Bằng trí thông minh, nhạy bén, am hiểu kĩ thuật vận hành máy móc, anh đảm
nhiệm công việc lái xe, tìm kiếm đường đi an toàn, giúp gia đình Joad vượt qua
đường trường cam go để đến đất hứa California. Như thế, sự thể hiện của hai nhân
vật ấn tượng này cho thấy vị trí dẫn đầu gia đình, đoàn người di tản tìm kiếm miền
đất hứa thuộc về họ, những nam, nữ anh hùng dễ dàng thích nghi với sự thay đổi,
dịch chuyển trong thời đại bất ổn, khủng hoảng.
Trên cơ sở motif tìm kiếm miền đất hứa, Steinbeck đã tiếp biến và chuyển đổi
motif này, bằng cách xoáy sâu vào kết cục nhiệm vụ bất thành. Đây cũng là một
đặc trưng của tiểu thuyết hiện đại, là ở chặng cuối - nhiệm vụ không hoàn tất. Trong
tác phẩm, những kẻ khốn khổ đã đặt chân đến vùng đất mà họ tưởng là đất hứa
nhưng thực chất lại là địa ngục hay đất hứa thực sự dành cho những kẻ tị nạn mãi
chỉ là ảo vọng. Không giống như những người Do Thái, đặt chân đến miền đất hứa
là hoàn thành nhiệm vụ, trong Chùm nho phẫn nộ, sau khi đến California, gia đình
Joad và đám đông di tản vẫn chưa tìm thấy đất hứa, vùng đất được hứa hẹn ban
đầu giờ đây với họ là một địa ngục khác, ở nơi đó những kẻ khốn khổ phải chịu
đựng đói khổ và bất mãn chẳng khác gì quê nhà mà họ đã dứt áo ra đi. Song, điều
đáng kể là những kẻ tị nạn không đầu hàng số phận và bất công xã hội, họ vẫn tiếp
tục lên đường tìm kiếm một miền đất hứa khác dẫu rằng hi vọng đó thật mong
manh. Thiết nghĩ đâu phải hành trình nào, nhiệm vụ nào cũng được thực hiện thành
công mĩ mãn. Người Do Thái tìm thấy vùng đất đượm sữa và mật, còn người nông
dân trong tác phẩm của Steinbeck không thể thoát khỏi cảnh đói rách, kì thị. Đó là
sự thật phũ phàng thời hiện đại, là trạng huống hiện sinh bi đát được Steinbeck và
các nhà văn hiện đại ý thức sâu sắc.
3.2.2. Xác lập bản sắc
Xác lập bản sắc là motif cổ mẫu nhiệm vụ rất phổ biến và cũng là một trong
những mục tiêu lớn của hành trình mà người anh hùng phải trải qua trước khi đạt
đến đời sống vĩnh hằng. Cổ mẫu này mang ý nghĩa quan trọng ngay cả khi nó chỉ
có vị trí đường biên trong đường dây cốt truyện. Bởi lẽ, điều vĩ đại tối thượng mà
con người khát khao thấu hiểu là họ là ai và điều gì tạo nên bản sắc của họ. Arnold
84
Grod, tác giả của công trình Theories of Culture, khi thảo luận về bản sắc và bản
sắc văn hóa đã dành sự chú ý về các nhóm đặc trưng, góp phần khu biệt các cá
nhân giữa các nền văn hóa khác nhau và nhận diện các nền văn hóa. “Nhìn chung
bản sắc thường được hiểu như sự hiện diện của một tập hợp các đặc trưng mà mỗi
cá nhân được công nhận. Bản sắc văn hóa là những đặc trưng mà nhờ nó cá nhân
được công nhận là thành viên của một nền văn hóa” [117,180]. Với ý nghĩa quan
trọng của bản sắc, nhiệm vụ xác lập và củng cố bản sắc là mối quan tâm hàng đầu
của truyện kể thuộc mọi miền không gian và thời gian.
Trong thế giới tiểu thuyết của John Steinbeck, motif tìm kiếm miền đất hứa
thường gắn liền với truyền thống lịch sử lập quốc và biểu trưng cho ước vọng của
người dân Mỹ về một quốc gia thịnh vượng, hạnh phúc và bình đẳng, trong khi đó,
motif xác lập bản sắc lại biểu hiện cái nhìn sâu sắc của nhà văn về bản sắc văn hóa
của người Mỹ và nước Mỹ. Cụ thể là những vấn đề nội tại nhức nhối mà người Mỹ
phải đối diện và vượt qua để tìm thấy giá trị đích thực của cá nhân và cộng đồng,
đồng thời củng cố và tái lập những lí tưởng tốt đẹp từ thuở lập quốc của tổ tiên họ
trước sự tấn công của những đợt sóng nghiệt ngã, mặt trái của xã hội hiện đại và
thời đại kĩ trị.
Nếu như Ernest Hemingway lựa chọn những người lính Mỹ xa xứ làm nhân
vật trung tâm trong những tiểu thuyết của ông như Mặt trời vẫn mọc, Giã từ vũ khí,
Chuông nguyện hồn ai, William Faulkner quan tâm đến giai cấp quý tộc miền Nam
trong những năm tháng suy tàn với Âm thanh và cuồng nộ, Nắng tháng tám…, John
Steinbeck thường xuyên đề cập đến những phận người nhỏ bé, thất nghiệp, vô gia
cư, nghèo khổ - nhóm người yếu thế và chịu tác động dữ dội của những bất ổn xã
hội thời hiện đại. Do vậy, bên cạnh việc mô tả đời sống lao động khổ cực, vấn đề
củng cố và tái lập bản sắc là điểm mấu chốt trong quá trình khám phá đời sống tinh
thần của cộng đồng yếu thế này. Theo Nikkita Walker, Steinbeck thường xuyên sử
dụng các yếu tố huyền thoại và Kinh Thánh để chuyển tải điều mà theo ông là câu
chuyện cơ bản của nhân loại: ý thức về việc làm chủ bản sắc của mỗi con người
[74]. Điều này cũng là mối quan tâm hàng đầu của nhà thần thoại Joseph Campbell
khi ông cho rằng câu chuyện ở trung tâm của thần thoại thường là nhận thức về
khả năng hành động có ý thức của con người: “Người hùng là người bảo vệ những
thứ đang thành, không phải thứ đã thành, vì anh ta tồn tại vĩnh viễn” [109,267].
85
Song, giá trị của motif xác lập bản sắc trong tiểu thuyết John Steinbeck không hẳn
chỉ là việc nhà văn tái sử dụng các yếu tố huyền thoại xưa mà quan trọng hơn là
cách thức nhà văn tạo sinh motif này để thể hiện trạng huống hiện sinh mới mẻ
trên nền cảnh biến động của nước Mỹ nửa đầu thế kỉ XX.
Tiểu thuyết của John Steinbeck thường khởi đầu với trạng huống khủng hoảng
bản sắc hay tình trạng thiếu vắng gốc rễ, cội nguồn của nhân vật anh hùng. Theo
Jay Parini, trong lời giới thiệu tác phẩm Tôi, Charley và hành trình nước Mỹ, đề
tài về sự thiếu vắng gốc rễ đã trở thành một phần quan trọng của cuốn sách du hành
nổi tiếng này [118]. Tuy nhiên, khi xem xét toàn bộ sáng tác của John Steinbeck,
không khó để bạn đọc nhận ra rằng đề tài này đã hiện diện ở nhiều tiểu thuyết trước
đó như: Của chuột và người, Chùm nho phẫn nộ, Viên ngọc trai, Phía đông vườn
địa đàng như là một niềm trăn trở khôn nguôi của nhà văn về tâm hồn của người
Mỹ và nước Mỹ. Đó là sự phát triển thần tốc, vươn lên vị trí dẫn đầu thế giới của
nước Mỹ nhưng bên cạnh đó là thời kì Đại suy thoái đã hủy hoại đời sống của
những tầng lớp dưới đáy/bên lề xã hội, là những mặt trái khủng khiếp của xã hội
kĩ trị làm lung lay tận gốc những giá trị Mỹ và nỗi ám ảnh thường trực của người
Mỹ về những vết nhơ lịch sử trong lòng nước Mỹ hiện đại.
Trải nghiệm nông thôn trong những năm tháng thiếu thời và tuổi trẻ lang bạt
đã giúp John Steinbeck thấu hiểu nỗi thống khổ của những người nông dân Mỹ
trong thập niên 1930. Nỗi thống khổ đó đâu chỉ là cái nghèo, cái đói, đời sống thiếu
thốn và đầy bất an mà xót xa hơn nữa còn là sự thiếu vắng gốc rễ và nguy cơ đánh
mất bản sắc, cội nguồn mà đám đông di tản, nổi bật là George và Lennie trong Của
chuột và người, gia đình Joad trong Chùm nho phẫn nộ, phải đối diện và xoay xở.
Là nhà văn hiểu rõ mối liên hệ giữa mỗi vùng đất và con người, Steinbeck đồng
cảm với nỗi đau của những người nông dân mất đất. “Mảnh đất này, mảnh đất đỏ
này, chính là chúng ta, và những năm tháng lụt lội, những năm tháng mưa lũ và
những năm tháng khô hạn, đó là chúng ta” [85,138]. Vì thế, đối với những người
nông dân, mất đất nghĩa là mất cội nguồn, quá khứ và là nguồn cơn dẫn đến tình
trạng khủng hoảng bản sắc. Khi giã từ mảnh đất, ngôi nhà đã từng là của họ để lên
đường đến miền Tây, đám đông di tản tự hỏi rằng: “Những thứ đó là những mảnh
đời chúng ta. Không có chúng thì chúng ta sống làm sao được? Không có dĩ vãng
của chúng ta làm sao chúng ta nhận ra chính chúng ta? Thôi, đành phải bỏ lại. Đem
86
đốt đi” [85,140]. Những lời hỏi thiếu vắng câu trả lời ấy tiết lộ tâm trạng xót xa,
ngậm ngùi, hoang mang vì tương lai vô định và quá khứ hoen ố của đám đông di
tản và sâu thẳm hơn là cuộc khủng hoảng bản sắc cá nhân và cộng đồng ẩn giấu
bên dưới cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội trầm trọng. Vì vậy, nhiều người trong
số họ đã không thể vượt qua những chấn động dữ dội đến từ bên ngoài lẫn bên
trong những tâm hồn mong manh, dễ thương tổn đó. Chẳng hạn như nhân vật ông
nội của nhà Joad, người đã chết ngay từ giây phút bị xốc nách ra khỏi nhà bởi “ông
nội với ngôi nhà cũ, đúng chỉ là một” [85,228] hay nhân vật Muley cương quyết
trụ lại với mảnh đất nhưng phải sống chui lủi, lẩn trốn, đơn độc như một kẻ cắp
trên chính quê hương của mình.
Theo nhà nghiên cứu văn hóa Hữu Ngọc, “lịch sử Hoa Kỳ như chính người
Mỹ đã từng nhận định ‘có hai vết nhơ’: sự tàn sát bốn chục triệu thổ dân da đỏ,
chiếm đất, hủy hoại nền văn minh của họ, và sự bóc lột dã man hai chục triệu người
da đen, bị bắt từ châu Phi sang làm nô lệ” [5,679]. Là nhà văn của nhóm người yếu
thế, Steinbeck cũng hướng sự chú ý đến những người Mỹ bản địa nhỏ bé bằng cách
tái hiện cuộc khủng hoảng bản sắc và hành trình xác lập bản sắc của cộng đồng
thiểu số này dưới sự thống trị và áp chế của cộng đồng chính thống. Chẳng hạn
như nhân vật Kino, một người Mỹ bản địa nghèo khó trong Viên ngọc trai, xuất
hiện trong phần mở đầu của tác phẩm với những cảm xúc khó như yếu đuối, sợ
hãi, tức giận, phẫn nộ và khiếp sợ khi mang con trai bị bọ cạp chích đến nhà lão
bác sĩ da trắng trong thị trấn để chữa trị. Đây cũng là những kinh nghiệm đớn đau
được truyền thừa qua nhiều thế hệ của người da đỏ trước những người da trắng
“chủng tộc mà ngót nghét bốn trăm năm trước đây từng đánh đập, bỏ đói, chà đạp
tộc người của Kino” [86,19]. Như thế, sự kiện đứa bé bị trúng độc và đoàn người
da đỏ kéo đến nhà lão bác sĩ da trắng là giọt nước tràn ly, khơi dậy trạng huống
khó khăn của người Mỹ bản địa, “những kẻ khác” theo cách gọi của các nhà phê
bình hậu thực dân. Trong lĩnh vực nghiên cứu này, thuật ngữ kẻ khác đề cập đến
những người thuộc địa, những kẻ bị gạt ra bên lề bởi diễn ngôn thực dân. Thuật
ngữ này tiết lộ những giới hạn mang lại cảm giác phụ thuộc về bản sắc của những
người thuộc địa, những kẻ được xem là ngây thơ, mông muội, xấu xí trong cái nhìn
của thực dân Tây phương văn minh, duy lí, tiến bộ [119].
Tuy nhiên, nhà văn Steinbeck không chỉ xem xét người bản xứ với cái nhìn
87
bên ngoài của kẻ chinh phục mà còn khám phá nhân vật xung quanh cộng đồng
của anh ta. Biểu hiện là nhân vật Kino rơi vào trạng thái khủng hoảng bản sắc đỉnh
điểm khi anh ta may mắn tìm thấy viên ngọc trai, vật báu hứa hẹn giúp anh và gia
đình đổi đời, thế nhưng cũng chính báu vật đó khiến anh và gia đình phải đối diện
với những âm mưu tà ác. Những kẻ rắp tâm cướp viên ngọc trai không chỉ là dân
da trắng ở thị trấn mà còn là những người đồng tộc của anh. Điều đó khiến Kino
“cảm thấy mình cô đơn không nơi nương tựa” [86,43], ngờ vực mọi thứ xung quanh
và mất kết nối với chính cộng đồng của mình.
Trước tình trạng khủng hoảng bản sắc, nhiều nhân vật trong tiểu thuyết của
Steinbeck buộc phải tẩu thoát. Kino cùng với vợ và con trai thoát li khỏi cộng đồng
da đỏ. Gia đình Joad và đám đông di tản tìm đến miền Tây nước Mỹ, George và
Lennie lang thang trên những xa lộ, điều đó đồng nghĩa với việc họ đành phải chấp
nhận sự thiếu vắng cội rễ, thực hiện hành trình tìm kiếm miền đất hứa đồng thời là
hành trình tái lập bản sắc của họ. Cố nhiên, trên hành trình tìm kiếm hay thiết lập
lại bản sắc của mình, các nhân vật phải trải qua nhiều thử thách và mất mát là điều
không tránh khỏi. Đôi khi đó là sự thách thức của tự nhiên hung bạo. Kino dẫn vợ
con trốn chạy “giữa bầu không đen kịt”, “gió thốc điên cuồng về mọi phía” [86,96]
và tiếng sói hoang tru ghê rợn. Đám đông di tản và nhà Joad ra đi trong cát bụi mịt
mù, dưới ánh nắng mặt trời nóng bỏng và phải vượt qua sa mạc bằng những chiếc
xe ọp ẹp, cọc cạch. Song, mối đe dọa lớn nhất đối với họ lại chính là những kẻ có
quyền lực, giàu có, thuộc về cộng đồng đang nắm ưu thế. Đó là những kẻ truy lùng
Kino để cướp viên ngọc trai, là bọn cớm lăm le bắt giữ những người di tản, là dân
bản xứ với thái độ khinh miệt và xua đuổi những kẻ khốn cùng, là những chủ trại
thông đồng trả tiền nhân công rẻ mạt. Trong khi đó, những con người khốn khó,
nhỏ bé ấy chỉ nhận được sự trợ giúp từ những người đồng cảnh ngộ, những người
thấu cảm với nỗi đau khổ và bất hạnh của họ. Đó là sự sẻ chia cái lều, tấm chăn
của gia đình Wilson cho nhà Joad vì một lí lẽ giản dị, con người ta cần phải giúp
đỡ lẫn nhau lúc khó khăn hoạn nạn. Đó là sự che chở và trợ giúp của gia đình Juan
Tomás, anh trai của Kino, khi Kino và vợ con lâm vào tình thế ngặt nghèo.
Sáng tác trong thời điểm nước Mỹ bắt đầu tái đánh giá căn tính giới và chủng
tộc, phong trào dân quyền và nữ quyền nở rộ và đạt được nhiều thành tựu lớn lao,
Phía đông vườn địa đàng, tác phẩm mà Steinbeck đã dành cả đời để viết, được biết
88
đến như một huyền thoại đương đại về “hành trình con người vươn đến sự toàn
thiện và giành được quyền làm chủ bản sắc cá nhân và phổ quát của mình” [74].
Do đó, khác với các tiểu thuyết mang tính đấu tranh xã hội trước đây, tác phẩm
này tập trung vào xung đột bên trong và tính chất phức tạp của tâm hồn con người
để biểu đạt sinh động câu chuyện lớn nhất của đời người: hành trình kiến tạo bản
sắc và làm chủ bản sắc của con người. Nhiều nhân vật trong tác phẩm phải đối diện
với nhiều cuộc khủng hoảng bản sắc khác nhau, chẳng hạn như Lee, một người Mỹ
gốc Hoa, có diện mạo của một người Trung Hoa song cách giao tiếp đậm chất Mỹ
hay Samuel Hamilton, một người Mỹ gốc Ireland, thường phải che dậy cảm xúc
buồn bã và tính cách nghiêm túc bằng sự nổi loạn và hài hước để đáp ứng mong
đợi của mọi người xung quanh hay Caleb (Cal) Trask phải vượt qua mặc cảm tội
lỗi và truyền thuyết huyết thống để làm chủ bản sắc của mình. Trong khi các tác
phẩm mang tính đấu tranh xã hội của Steinbeck như Chùm nho phẫn nộ giải quyết
vấn đề bản sắc bằng cách để nhân vật trải nghiệm, nhận thức tính gắn kết giữa cá
nhân và cộng đồng và hướng đến bản sắc phổ quát, thì đến chặng cuối trong hành
trình sáng tác của mình mà tác phẩm tiêu biểu là Phía đông vườn địa đàng,
Steinbeck lại chú ý đến tầm quan trọng của bản sắc cá nhân đối với cuộc đời và số
phận mỗi con người.
Hành trình đến miền đất hứa của người hùng Tom Joad cũng là quá trình nếm
trải những khó khăn và nghịch cảnh, vượt qua những mất mát của gia đình trong
thời kì Đại suy thoái để đạt được sự trưởng thành về mặt đạo đức và tinh thần. Từ
quê nhà Oklahoma đến California, Tom không chỉ là người dẫn đầu gia đình cùng
với bà mẹ mà còn nỗ lực tái lập bản sắc mới của mình, anh dần dần học được cách
bình tĩnh, suy nghĩ thấu đáo, khôn ngoan, đặc biệt là những thay đổi về nhận thức
và hành động. Mở đầu tác phẩm, Tom xuất hiện qua những chi tiết miêu tả ngoại
hình, trang phục và cuộc đối thoại giữa anh và tài xế xe tải, song tên của anh không
hề được nhắc đến. Điều này tiết lộ anh là một người khá kì lạ và đáng ngờ. Khi
gặp Casy và lắng nghe ông ta thú nhận về tội lỗi và sự mất mát thánh linh, Tom
hầu như không thể hiểu được những ý tưởng khác biệt của Casy. “Joad cúi mắt
nhìn đất, như thể anh không đương đầu nổi với sự lương thiện thật đơn giản trong
đôi mắt người mục sư” [85,45]. Thế nhưng, trên hành trình đến đất hứa California
cùng gia đình, Tom dần dần khẳng định vai trò lãnh đạo của mình khi anh là người
89
đàn ông duy nhất trong gia đình không bị chao đảo trước những biến động dữ dội
của thời cuộc, anh cùng mẹ đưa ra những quyết định liên quan trực tiếp đến số
phận của cả đại gia đình. Đặc biệt, sau khi Casy bị giết chết, Tom đã tái lập được
bản sắc của mình thông qua sự biến đổi về hành động và tâm linh. Trong tác phẩm,
Tom hai lần phạm tội giết người: trong khi lần giết người thứ nhất là hành động
bản năng để tự vệ, thì ở lần thứ hai lại là hành động trả thù cho Casy, người bạn
đồng hành và cũng là người truyền cảm hứng cho Tom, đã bị giết hại. Theo Patrick
W. Shaw, “Điểm khác biệt quan trọng nhất giữa hai vụ giết người này là động cơ
của Tom đã chuyển từ chỉ để bảo vệ bản thân hoặc nhu cầu bản năng sang bảo vệ
người khác và lí tưởng của họ” [120,622]. Điều này tiết lộ nhân vật Tom đã có một
sự biến đổi lớn trong quá trình xác lập bản sắc của mình. Cuối tác phẩm, sau khi
trải qua nhiều biến cố, đặc biệt là cái chết của Casy và quá trình nghiền ngẫm
những ý tưởng Casy để lại, Tom quyết định tiếp tục thực hiện sứ mệnh và nhiệm
vụ dở dang mà Casy đã theo đuổi. Vào thời điểm đó, Tom ý thức được nhiệm vụ
của anh là giải phóng xã hội hơn là chỉ cứu rỗi tâm linh. Vì vậy, khi Ma Joad lo
lắng về sự an nguy của Tom, anh nói với mẹ về linh hồn xã hội, nơi ẩn náu mới
của anh khi anh và nhân loại nghèo khổ liên hiệp lại thành một khối thống nhất:
“Bao giờ con cũng có mặt trong bóng tối, khắp nơi. Khắp nơi nào mẹ nhìn. Khắp
nơi nào mà có một cuộc đánh lộn để con người đói khát có thể giành giật nhau
miếng ăn, nơi đó sẽ có con. Khắp nơi nào có một tên cảnh sát đang đánh đập một
con người, sẽ có con” [85,671]. Điều đó cũng có nghĩa là bản sắc của nhân vật
Tom được tạo lập khi anh ta tìm thấy mối dây gắn kết giữa cá nhân và cộng đồng,
khi linh hồn của riêng anh gắn bó với linh hồn tập thể. Nhận định về hành trình đạt
được khả năng làm chủ bản sắc của Tom, Sam Bluefarb cho rằng về mặt bản chất,
cuộc tẩu thoát vào linh hồn tập thể của Tom là hành trình trở lại thực tại rộng lớn
hơn và đầy thách thức hơn trước, hành trình này không chỉ dành riêng cho Tom
hay các thành viên khác của gia đình Joad mà cho tất cả những người đồng cảnh
ngộ với họ ở khắp mọi nơi trên mặt đất này [56].
Tương tự Tom, nhân vật Cal, trong Phía đông vườn địa đàng, cũng là một
người anh hùng nếm trải nhiều thử thách để đạt được sự hiểu biết và quyền tự chủ.
Song, khác với Tom, người anh hùng tìm thấy sức mạnh của bản sắc cá nhân khi
trở về với bản sắc phổ quát, hành trình của Cal lại là quá trình thử nghiệm và thay
90
đổi nhận thức để đạt được khả năng làm chủ bản sắc cá nhân một cách tuyệt đối,
thoát khỏi những ám ảnh về bản sắc phổ quát. Ngay từ lúc sinh ra, Cal và anh trai
Aron đã là những đứa trẻ thiếu vắng tình yêu của cả cha lẫn mẹ chỉ vì cha của họ
là Adam chìm trong cơn tuyệt vọng khi người vợ vừa mới sinh ra cặp song sinh bỏ
đi, để lại cho người chồng đương lúc đau khổ hai đứa bé côi cút, không tên. Adam
cũng chẳng mảy may đoái hoài đến chúng, phó mặc hai đứa trẻ cho chú giúp việc
người Tàu là Lee. Là anh em song sinh nhưng khác với Aron, Cal có ý thức sâu
sắc về bản sắc cá nhân và môi trường sống của mình. Trong khi Aron đắm chìm
trong thế giới lí tưởng và hoàn mĩ do chính anh ta dựng lên, Cal là một con người
không hoàn hảo, cậu hiểu rõ bản thân là sự kết hợp của cả cái thiện lẫn cái ác. Cal
hết lòng kính yêu cha, hướng về cái thiện, đồng thời kính sợ mẹ và lo sợ cái ác một
ngày nào đó sẽ lấn át phần lương thiện trong tâm hồn cậu. Nhờ vậy, Cal đã vượt
qua nỗi sợ hãi khi biết rõ sự thật về mẹ anh, rằng bà đã bắn cha anh rồi bỏ rơi cha
con anh và giải thoát khỏi những ám ảnh về việc anh mang dòng máu của người
mẹ ác. Cal nói với bà Kate: “Tôi đã e sợ rằng tôi mang dòng máu của bà”/ “Cậu
có”, Kate đáp./ “Không, không phải vậy. Tôi là chính tôi. Tôi không phải là bà”
[92,310].
Để bảo vệ anh trai, Cal đã cố gắng che giấu sự thật về mẹ, song trong một
khoảnh khắc không thể kìm nén sự đố kị, ganh ghét anh trai và giận dỗi vì cha anh
từ chối món quà giáng sinh mà anh đã hết lòng chuẩn bị cho ông, Cal đã tiết lộ sự
thật khủng khiếp đó với Aron. Điều này đã gián tiếp dẫn đến cái chết của Aron và
sau đó là cơn đột quỵ của ông Adam. Cal vô cùng ân hận và đau khổ, mặc cảm tội
lỗi lại trào dâng trong anh. Song, nhờ sự động viên và khuyên giải kịp thời của chú
Lee, Cal nhận ra con đường đúng đắn cho mình, rằng anh không giống như cha
anh, ông Adam từ chối tấm lòng của anh vì ông không thể suy nghĩ khác hơn. “Đó
là bản chất của ông ấy. Đó là con đường duy nhất ông ấy biết. Ông ấy không thể
chọn lựa được điều gì khác. Nhưng cậu thì khác […]. Cậu có quyền lựa chọn”
[92,645]. Vì vậy, dù rất ân hận về hành động của mình nhưng Cal hiểu anh không
thể thay đổi việc anh đã gây ra và điều duy nhất anh có thể làm bây giờ là cầu xin
sự tha thứ của cha. Nếu như Cal đã đến gặp bà Kate để xác minh bản sắc cá nhân
của mình, thì từ cuối cùng mà ông Adam thều thào thốt ra trong cơn hấp hối là
“Timshel” [92,714] có thể không phải là dấu hiệu của sự tha thứ nhưng một lần
91
nữa nhắc nhở Cal về quyền chọn lựa của anh, về khả năng vượt qua cái ác của
chính anh. Theo Nikkita Walker, “đó là phước lành cao thượng dành cho Cal, lầm
lỗi của anh không hoàn toàn định nghĩa bản sắc của anh và anh có thể lựa chọn
hướng về cái tốt đẹp hơn” [74,6]. Sau cùng, cái chết của ông Adam lại là sự tái
sinh bản sắc của Cal.
Như vậy, các dạng thức biến thể của motif xác lập bản sắc trong tiểu thuyết
của Steinbeck cho thấy tùy vào thời điểm lịch sử và hoàn cảnh khác nhau,
Steinbeck đã lựa chọn chú trọng bản sắc phổ quát hoặc bản sắc cá nhân. Như sự
chiêm nghiệm của nhà văn trong những năm tháng cuối đời rằng, “... Hành trình là
chính con người, làm gì có ai giống ai? Sau nhiều năm vật vã, ta chợt nhận ra rằng
ta đâu có “làm” cuộc hành trình nào, mà chỉ có những cuộc hành trình “làm” chúng
ta mà thôi...” [118]. Có lẽ vì vậy, vào đầu thập niên 1960, khi đã ở tuổi xế chiều,
nhà văn John Steinbeck quyết định một mình thực hiện cuộc hành trình đi tìm nước
Mỹ và cũng là hành trình ông tìm kiếm chính bản thân mình.
3.3. Biến thể của cổ mẫu anh hùng trong tiểu thuyết John Steinbeck
3.3.1. Anh hùng với sứ mệnh thiết lập các giá trị đức tin mới
Bước ra từ mạng lưới giấc mơ được dệt nên bởi thế giới thần thoại, cổ tích,
con người thời hiện đại văn minh hoang mang, mơ hồ không biết cuộc đời mình sẽ
tiến tới cái gì, vì cái gì. Như phát ngôn tiên tri về cuộc khủng hoảng tinh thần, tâm
linh thời đại mới của Zarathustra, của Nietzsche rằng: “Mọi thánh thần đã chết”
[DT 109,410]. Do đó, sứ mệnh của người hùng hôm nay khác người hùng trong
huyền thoại cổ xưa, trong đó, thiết lập các giá trị đức tin mới là nhiệm vụ thiêng
liêng mà cộng đồng giao phó cho những anh hùng hiện đại. Là một trí thức tiến bộ
của thời đại mới, John Steinbeck ý thức sâu sắc về cuộc khủng hoảng xã hội trên
mọi phương diện, đặc biệt là đời sống tinh thần, tâm linh chao đảo của người Mỹ
thế kỉ XX, khi con người “không còn mang tinh thần của Chúa trong họ nữa”
[85,38]. Vậy nên, sự tái thiết cổ mẫu anh hùng với sứ mệnh thiết lập các giá trị đức
tin mới trong nhiều tiểu thuyết của ông biểu hiện khát khao cháy bỏng của nhà văn
nhằm tìm kiếm phương thức chữa lành những vết thương tâm hồn và giải phóng
con người khỏi mọi khổ đau.
Nhân vật Jim Casy trong Chùm nho phẫn nộ là hiện thể điển hình của dạng
thức người anh hùng tìm kiếm và thiết lập giá trị đức tin mới. Đây cũng là nhân
92
vật có nhiều nét tương đồng với cổ mẫu Chúa trong thế giới người hùng của John
Steinbeck. Dấu vết Cơ đốc giáo trước hết thể hiện thông qua tên gọi của nhân vật,
cụ thể là tên họ viết tắt của Jim Casy (J.C với Jesus Christ). Nhiều nhà nghiên cứu
đã phát hiện đặc điểm dễ nhận dạng này, chẳng hạn như: Lê Huy Bắc với bài viết
“Chủ đề về người nông dân và cách cắt nghĩa chủ đề trong Chùm nho phẫn nộ của
John Steinbeck”. H. Kelly Crockett tiết lộ chủ ý của Steinbeck khi xây dựng Jim
Casy như là hình tượng Chúa Jesus trong nghiên cứu “Kinh Thánh và Chùm nho
phẫn nộ”, nhà nghiên cứu nhấn mạnh rằng tương tự như cách Stephen Crane gọi
tên nhân vật Jim Conklin trong Huy hiệu đỏ cho lòng dũng cảm (The Red Badge
of Courage), Steinbeck cũng phác họa điểm tương đồng giữa nhân vật Jim Casy
và Chúa Jesus bằng cách đặt những chữ cái đầu tên tương tự cho nhân vật [51].
Martin Shockley cũng chỉ ra sáu điểm tương đồng giữa nhân vật Jim Casy và Chúa
Jesus, trong đó đặc điểm đầu tiên chính là tên họ viết tắt giống nhau, trong bài viết
“Hệ biểu tượng Cơ đốc giáo trong Chùm nho phẫn nộ”. Cũng theo Shockley, những
điểm giống Jesus của Casy còn là: Casy đang nỗ lực loan báo một đức tin mới,
Casy đi vào vùng hoang dã để tìm kiếm đức tin, Casy thừa nhận tội lỗi của chính
mình và đồng loại, Casy tha thứ cho kẻ giết mình và Casy bị giết chết [48].
Song, sự phá vỡ và tái thiết lập đặc trưng của cổ mẫu anh hùng qua nhân vật
Casy chính là điểm thu hút và phản ánh tinh thần thời đại của tác phẩm. Thứ nhất,
khác với những người hùng mang niềm tin bất diệt vào lí tưởng của Chúa, Casy là
nhân vật ý thức sâu sắc về đức tin bị lung lay tận gốc trong thời đại khủng hoảng
niềm tin, điều trước đây chưa từng xảy ra với ông ta: “Xưa kia tao là mục sư […].
Tao gào đến vỡ phổi tên chúa Jesus và sự vinh quang của Người […]. Nhưng nay
không thế nữa […], nay chỉ là Jim Casy trống trơn. Chả là thiên hướng của tao đã
mất. Tao có một đống những ý nghĩ tội lỗi” [85,38]. Từ một người có địa vị cao
trong đời sống tinh thần của xã hội, có nhiệm vụ dẫn dắt, cứu rỗi linh hồn cho
những kẻ khốn khổ và tội lỗi, Casy trở nên hoài nghi và trốn tránh sứ mệnh của
mình bởi vì ông ý thức mạnh mẽ về khối mâu thuẫn to lớn trong tận cùng tâm
khảm. Ông thành thật thú nhận với Tom rằng “tao là một đứa đạo đức trời đánh”,
sau mỗi lần rao giảng “tao dẫn một đứa trong bọn con gái vào đám cỏ và ngủ với
nó” [85,41]. Và nguyên nhân khiến Casy day dứt khôn nguôi, theo ông, chính là
“tội lỗi”. Tuy nhiên, trong lúc thừa nhận bản chất tội lỗi, xấu xa của mình, Casy lại
93
băn khoăn, mâu thuẫn bởi lẽ với ông “con người sinh ra là thế” [85,43], chẳng có
tội lỗi mà cũng chẳng có đạo đức. Hơn nữa, căn nguyên của mọi chuyện xảy ra với
ông là bởi vì ông yêu con người, ông muốn làm cho họ hạnh phúc và đặc biệt là
nhận thức trái ngược với quan niệm chính thống về thánh linh và con đường Jesus
của ông. Đó là vì sao phải gán chúng cho Chúa hay Jesus, trong khi thánh linh
chính là tình yêu. Casy tự nhủ “có lẽ tất cả những người đàn ông và tất cả những
người đàn bà mà chúng ta yêu, đều là cái đó, là Đức Thánh Thần, là trí tuệ con
người, là mớ hổ lốn. Có lẽ tất cả mọi người chỉ có một mảnh nhỏ của linh hồn đó”
[85,44]. Xuất phát từ một người giảng đạo chối bỏ đức tin chính thống, xuyên suốt
cuốn tiểu thuyết, Casy thực hành tìm kiếm và thiết lập đức tin mới, thích ứng với
hoàn cảnh xã hội thời hiện đại. Trải qua những thử thách, mất mát cùng gia đình
Joad, chứng kiến những bất công và khổ đau mà những người di tản phải gánh
chịu, Casy nhận ra sức mạnh của tinh thần đoàn kết và con đường duy nhất để tự
giải phóng của những kẻ bị áp bức là tất cả cùng đoàn kết lại và đấu tranh.
Thêm vào đó, sự việc Casy chịu tội thay cho Tom trong tư thế hiên ngang
“kiêu hãnh ngẩng đầu, cơ bắp cổ nổi lên”, mỉm cười với gương mặt “tỏ vẻ đắc
thắng [85,425] không chỉ là cách ông trả ơn gia đình Joad đã cưu mang ông mà
còn thể hiện phẩm tính anh hùng của một kẻ thân cô thế cô. Và nhà tù lại là nơi
Casy tìm thấy điều mà ông đã từng tìm kiếm trong hoang địa, rằng những người
nghèo, bị áp bức chỉ có con đường đoàn kết lại để tranh đấu. Ý thức được con
đường hành động đó, ngay sau khi ra tù, Casy dẫn đầu một cuộc đình công đòi tiền
lương xứng đáng cho những người lao động chân chính. Lí tưởng cao đẹp mà cách
thực hiện lại manh mún và trang bị thiếu thốn khiến cuộc đình công nhanh chóng
bị dập tắt, Casy bị giết chết. Lời nói cuối cùng của ông với những kẻ đàn áp cuộc
đình công, rằng: “Các bạn không nhận ra việc mình đang làm” [85,617] tương tự
như lời nói cuối cùng của Jesus trên thập giá: “Lạy Cha, xin tha thứ cho họ, vì họ
không biết họ đang làm gì” [115]. Vậy là, người hùng Casy đã ngã xuống trong sự
thắng thế của cái ác, của bạo lực và bất công. Tuy nhiên, đức tin mới mà nhân vật
này thiết lập đã được Tom Joad tiếp nối thực hành. Nghĩa là sự hi sinh của Casy
không vô nghĩa, giá trị đức tin mà ông dựng xây là vũ khí đấu tranh, hứa hẹn một
tương lai tốt đẹp hơn cho những người cùng khổ.
3.3.2. Anh hùng thuộc về cộng đồng thiểu số
94
Vào đầu những năm 30 của thế kỉ XX, John Steinbeck đã gặp gỡ nhà hải sinh
vật học Ed Ricketts, người trở thành bạn tâm giao và có nhiều ảnh hưởng đến sự
nghiệp của Steinbeck. Thông qua Ed Ricketts, Steinbeck đã thiết lập một mối quan
hệ ngắn ngủi với Joseph Campbell, nhà thần thoại học nổi tiếng về sau và là người
có ảnh hưởng lớn đến Steinbeck khi ông đang chỉnh sửa bản thảo cuốn tiểu thuyết
thứ ba, Gửi vị thần chưa biết. Ở lời giới thiệu tác phẩm này, Robert DeMott cho
biết: “trong một khoảng thời gian ngắn, Campbell và Steinbeck đã nhiệt tình chia
sẻ các nghiên cứu gần gũi của họ về nhân chủng học, dân tộc học, tâm lí học, chủ
nghĩa nguyên thủy, thần thoại, tôn giáo so sánh và truyện về vua Arthur”
[121,xxviii]. Về mối quan hệ này, Jackson Benson, trong cuốn Cuộc hành trình
thực sự của nhà văn John Steinbeck, tiết lộ: theo Carol, người vợ đầu của
Steinbeck, “chồng cô ấy đã thu được một vài tư liệu hữu ích từ Campbell. Tuy
nhiên, mặc dù là nhà thần thoại học, Campbell nhận thấy rằng ông đã học được
nhiều điều từ Steinbeck về tầm quan trọng của huyền thoại hơn là ngược lại”
[30,223]. Như thế, niềm đam mê các câu chuyện anh hùng từ thuở nhỏ và những
cuộc trao đổi ý tưởng với nhà thần thoại Campbell có thể xem là những tiền đề cốt
yếu để nhà văn Steinbeck xây dựng những nhân vật anh hùng trong các tiểu thuyết
về sau của ông.
Cùng chia sẻ những ý tưởng về huyền thoại, anh hùng thần thoại, trong khi
Campbell quan tâm đến các câu chuyện thần thoại ở khắp mọi nơi trên thế giới để
xác lập mô hình vòng đời của người hùng, nhà văn Steinbeck theo đuổi chủ đề
trung tâm về phẩm tính anh hùng của những người cùng khổ, những người bị áp
bức, bị ruồng bỏ xuyên suốt sự nghiệp sáng tác của ông. Trong ấn bản Chùm nho
phẫn nộ (2006), Robert Demott đã trích dẫn lời của John Steinbeck, trong một cuộc
phỏng vấn qua radio vào năm 1939, về nhiệm vụ khám phá chủ đề ấy của nhà văn
như sau: “Boileau nói rằng các vị Vua, Thần thánh và Anh hùng là những chủ đề
chỉ phù hợp với văn học. Nhà văn chỉ có thể viết về những gì mình ngưỡng mộ.
Ngày nay, các vị vua không còn hấp dẫn, các vị thần vắng bóng và những anh hùng
duy nhất còn lại là các nhà khoa học và người nghèo... Và kể từ khi dân tộc chúng
ta ngưỡng mộ lòng can đảm, nhà văn sẽ giải quyết vấn đề đó ở nơi anh ta tìm thấy
nó. Nhà văn ngày nay tìm thấy nó trong những người nghèo khó” [87,ix].
Và quả thật John Steinbeck đã theo đuổi mục đích tối thượng này từ những
95
sáng tác đầu tay thấm đẫm yếu tính huyền thoại đến những tiểu thuyết nhận thức
xã hội về sau. Vì vậy, khi bước vào thế giới rộng lớn của nhà văn, người đọc dễ
dàng nhận ra sự chú ý đặc biệt mà ông dành cho những người lao động khốn khổ,
những nhóm người yếu thế, những kẻ bị gạt ra bên lề xã hội văn minh hiện đại.
Những nhân vật đáng nhớ của ông, dẫu là những kẻ quê mùa, tàn tật, nghèo đói, bị
cộng đồng ghẻ lạnh, bị phân biệt màu da, giới tính, song vẫn bộc lộ phẩm tính anh
hùng trong những tình huống bi đát và éo le nhất. Trong đó, phần lớn nhân vật anh
hùng của John Steinbeck là paisano (người Mỹ nửa gốc Mễ nửa gốc da đỏ), người
Mỹ bản địa, người Mỹ gốc Hoa, hay những người nghèo, thua thiệt, yếu thế - những
người thuộc về những cộng đồng thiểu số ở nước Mỹ đa chủng tộc. Nội hàm của
thuật ngữ “thiểu số” được chúng tôi sử dụng theo ý nghĩa mà Gilles Deleuze và
Félix Guattari dùng để giải mã tác phẩm của Franz Kafka. Nó thể hiện “một thế
đứng nhất định, một vị trí phát ngôn để từ đó sáng tác văn chương” [122,12]. Theo
các học giả, văn chương thiểu số không đồng nhất với những tác phẩm của những
tác giả thuộc cộng đồng thiểu số, được viết bằng một ngôn ngữ thiểu số mà nằm
ngoài/bên lề văn học chính thống. Ở vị trí đường biên, văn học thiểu số luôn ở
trong quá trình trở thành khác, nó từ chối mọi quy phạm để duy trì quyền lực, nó
làm mờ những phạm trù phân loại trong ý thức văn hóa, nó giải phóng ngôn ngữ
để đi tìm những cái bên ngoài ngôn ngữ. Bằng cách mơ giấc mơ lạc lõng, “biết tạo
ra một sự-trở-thành-thiểu-số” [122,95] hay đặt mình vào vị trí của thiểu số, quan
sát từ góc nhìn thiểu số, các nhà văn quan tâm đến cộng đồng thiểu số đã xác lập
tiếng nói của nhóm yếu thế này trong cuộc đối thoại với cộng đồng đang nắm quyền
lực.
Bằng những trải nghiệm nông thôn và những năm tháng tuổi trẻ lăn lộn đủ
nghề như “hái trái cây, phụ hồ, thợ sơn, thợ vẽ, thợ đo đạc ở Big Sur, gác dan ở
Lake Tahoe” [91,5] để kiếm sống, Steinbeck dễ cảm thông với những nhân vật
thua thiệt, bị tước đoạt hạnh phúc giản dị bởi môi trường khắc nghiệt và những thế
lực nắm quyền trong xã hội hiện đại. Tom và gia đình Joad của anh bị “hất cẳng”
ra khỏi mảnh đất của họ như hàng vạn “kẻ tháo chạy, những kẻ đi trốn bụi và ruộng
đất của họ bị teo dần, lánh tiếng gầm thét của xe máy kéo và vì mất quyền sở hữu
đất đai” [85,131]. Trong khi đó, sự xa lánh của cộng đồng đối với Mack và hội bạn
trong Phố Cannery Row hay Danny và những người bạn của anh ta trong Thị trấn
96
Tortilla Flat lại đến từ lối sống dị thường, bất tuân chuẩn mực/giá trị cộng đồng
của họ. Vì vậy, Mack hay Danny và những người bạn lập dị, trong cái nhìn của
cộng đồng ở Tortilla Flat hay Cannery Row, là những kẻ lười biếng, phạm tội, xấu
xa, là cái gai trong mắt tất cả mọi người. Như thế, ở một mức độ nào đó, những
nhân vật anh hùng của Steinbeck là những kẻ bị ruồng bỏ, là nhóm người yếu thế
trong một nền văn hóa mà tầng lớp giàu có và da trắng chiếm ưu thế. Tuy nhiên,
điều đáng chú ý là nhà văn không chỉ miêu tả một cách hài hước tính cách hồn
nhiên và chất phác, cảnh ngộ bi đát và địa vị thấp bé của họ mà đặc biệt nhấn mạnh
phẩm chất anh hùng của những kẻ bên lề qua hành động hi sinh vì kẻ khác và khát
khao tự do cháy bỏng của họ. Điều này được thể hiện rõ nét qua nhân vật anh hùng
Kino trong tiểu thuyết ngắn Viên ngọc trai.
Chàng ngư phủ Kino là một người da đỏ ở thị trấn La Paz, sống cùng vợ, Juana
và con trai nhỏ Coyotito. Kino còn trẻ và tràn đầy sức sống với “vầng trán nâu rám
nắng”, “đôi mắt ấm áp, dữ dội và rực sáng” nhưng “luôn cảm thấy yếu đuối, sợ hãi
và tức giận” [86,10-19] khi phải đối mặt với những người da trắng Tây Ban Nha,
những người thuộc về chủng tộc từng đánh đập, bỏ đói và chà đạp tộc người của
Kino bốn trăm năm trước đây. Với Kino, phẩm chất anh hùng của chàng được thể
hiện qua vị trí trụ cột trong gia đình, là chỗ dựa vững chắc cho Juana và bé
Coyotito, qua thái độ phản kháng dữ dội của anh ta trước gia nhân của bác sĩ, người
đã từ chối chữa trị cho bé Coyotito và đám người buôn ngọc lừa gạt. Đặc biệt là
quá trình đấu tranh chống lại những kẻ săn đuổi để bảo vệ viên ngọc trai mà anh
may mắn tìm thấy và gia đình của anh.
Carroll Britch và Cliff Lewis, trong bài viết “Shadow of the Indian in the
Fiction of John Steinbeck” (“Hình bóng người da đỏ trong tiểu thuyết của John
Steinbeck”, 1984), đã chỉ ra tình thế tiến thoái lưỡng nan, căng thẳng của người da
đỏ khi đối mặt với nền văn hóa phương Tây [123]. Thực chất vấn đề mà Steinbeck
muốn hướng đến không hẳn là chỉ ra trạng huống bế tắc của người da đỏ mà đi sâu
vào sự chọn lựa và dự phóng kết cục của họ. Với người anh hùng da đỏ, mặc cảm
tổ tiên trước sự áp chế của nền văn minh da trắng khiến Kino và những người đồng
tộc của anh luôn muốn đạt được những chuẩn mực của kẻ đàn áp. Vì vậy, khi may
mắn tìm thấy viên ngọc, Kino dự định: tổ chức đám cưới trong nhà thờ, mua quần
áo mới, sở hữu một khẩu súng trường và cho con đi học. Khát vọng của anh lớn
97
dần, từ vẻ giàu sang bên ngoài đến sự tự do tinh thần. Những khát khao này cũng
phản ánh thực tại thua thiệt về kinh tế, chính trị, văn hóa của dân tộc anh so với
những người da trắng ở thị trấn. Song, các thế lực của cái ác đã ngăn cản Kino hiện
thực hóa giấc mơ đổi đời của anh, khiến anh mất nhà, mất thuyền, mất con. Kết
thúc của Viên ngọc trai, Kino cùng vợ “sóng đôi” trở về ngôi làng chài nghèo khổ
với tâm thế của những người đã vượt qua mọi nỗi đau và thấu hiểu mọi lẽ đời, khác
hẳn với thái độ lúng túng, sợ sệt khi họ đối diện với những người da trắng ở phần
đầu tác phẩm. Qua quá trình trải nghiệm và mất mát, nhân vật anh hùng Kino đã
có một sự thay đổi lớn: từ theo đuổi tham vọng mù quáng, muốn thoát khỏi mặc
cảm thua thiệt, tự ti của tộc người đến lựa chọn từ bỏ cơ hội đổi đời, dứt bỏ mọi
xiềng xích kìm hãm mỗi cá nhân và cộng đồng để trở thành một con người tự do.
Như thế, việc Steinbeck chú ý và khắc họa những nhân vật anh hùng thuộc về
cộng đồng thiểu số ở xứ sở “thiên đường”, “tự do” không chỉ cho thấy sự đồng
cảm của nhà văn với nhóm người yếu thế, thua thiệt mà còn phơi bày những mặt
trái của tấm huân chương Mỹ. Đồng thời, thông qua biến thể cổ mẫu anh hùng này,
tác phẩm của Steinbeck đã cất lên tiếng nói phản tỉnh, tái cân nhắc những giá trị
của nền văn minh phương Tây và lật ngược những giá trị chủ lưu của nền văn hóa
ưu trội mà người Mỹ da trắng đã dựng xây qua thời gian.
3.4. Giải huyền thoại người hùng và “giấc mơ Mỹ”
3.4.1. Phương thức giải huyền thoại trong tiểu thuyết John Steinbeck
3.4.1.1. Quan niệm về giải huyền thoại
E.M. Meletinsky trong Thi pháp của huyền thoại nhấn mạnh rằng: quá trình
“tái huyền thoại hóa” diễn ra mạnh mẽ trên phạm vi rộng lớn bắt đầu từ thập niên
10 của thế kỉ 20 ở phương Tây và những năm 50, 60 của thế kỉ 20 ở một số quốc
gia Á - Phi và Mỹ Latin [107]. Phùng Văn Tửu xem xét huyền thoại hóa như một
phương thức nghệ thuật, một kĩ thuật tiểu thuyết đáp ứng trăn trở tìm tòi, phát triển,
đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết hiện đại [124]. Lý giải xu hướng nhiều nhà văn sử
dụng phương thức huyền thoại để phản ánh những vấn đề mới mẻ của hiện sinh,
Đặng Anh Đào cho rằng nguyên nhân phổ biến là “do những vấn đề bức xúc gặp
phải những lực cản, nhà văn phải tìm tới thế giới của ám dụ, tượng trưng, mẫu
gốc… vốn đã cắm rễ sâu trong ký ức cộng đồng” [125]. Như thế, sự đồng thuận
của các học giả về sự phục hưng của huyền thoại trong văn học, đặc biệt là tiểu
98
thuyết hiện đại, tiết lộ sức sống mạnh mẽ của huyền thoại, mà hạt nhân của nó là
cổ mẫu.
Xuất hiện từ thời xa xưa, thuật ngữ “huyền thoại” có nội hàm không ngừng
thay đổi khi xem xét ở những bình diện khác nhau. Thuật ngữ này có nguồn gốc
từ ngôn ngữ Hi Lạp cổ “mythos”, nghĩa là lời nói, cụ thể hơn là lời nói (thoại) mơ
hồ bí ẩn (huyền) [124]. Huyền thoại xưa hay còn gọi là thần thoại là những câu
chuyện hoang đường trong dân gian về thần thánh hoặc anh hùng đã được thần
thánh hóa. Thế giới huyền thoại cung cấp cho các văn nghệ sĩ một kho trừu tượng
những mô hình truyện kể, đề tài, chủ đề, motif, biểu tượng, cổ mẫu... Bởi vì nhiều
nhà văn có ý thức hoặc vô thức sử dụng những câu chuyện cũ hay những huyền
thoại tồn tại trong nền văn hóa của họ hay nền văn hóa khác nên các nhà nghiên
cứu đã tìm cách nhận diện và lí giải phương thức tái huyền thoại hóa [126]. Sự tái
sinh của huyền thoại, cổ mẫu trong văn học không chỉ là sự trở về với truyền thống
folklore, truyền thống văn học, văn hóa của mỗi dân tộc mà còn kiến tạo những tân
huyền thoại mang bản sắc cá nhân và thời đại. Qua đó, tác phẩm văn chương có
thể phản ánh một hiện thực “biến dạng”, đa diện của đời sống, đồng thời tiết lộ
những xung đột sâu kín trong đời sống tinh thần con người hiện đại. Như thế, song
hành với quá trình tái huyền thoại hóa là xu hướng giải huyền thoại, gắn liền với
thái độ tỉnh thức và tinh thần phản tỉnh của người nghệ sĩ, nhằm đối thoại hoặc tái
cân nhắc những huyền thoại áp chế, mang đậm tính khuôn mẫu của những nền văn
hóa ưu trội như văn hóa truyền thống của nhân loại, văn hóa chính thống của các
dân tộc trên thế giới.
Roland Barthes, nhà giải huyền thoại có tầm ảnh hưởng rộng rãi, cho rằng
“ngôn ngữ duy trì cấu trúc của quyền lực trong một khoảng thời gian không xác
định và hệ quả là, nó giúp củng cố một ý thức hệ nhất định”. Do đó, nhiệm vụ của
người nghiên cứu “là phải đưa ra được một lối đọc đối lập với lịch sử và văn hóa,
từ đó, phơi bày quá trình kiến tạo ý nghĩa, phê phán những huyền thoại văn hóa,
‘phá bỏ’ (unlearn) những giá trị văn hóa chính thống, thiết lập những quan điểm
mang tính đa nguyên hơn” [126]. Điều này được Barthes thể nghiệm mạnh mẽ
trong hai tác phẩm quan trọng của ông: Độ không của lối viết (1953) và Những
huyền thoại (1957). Meletinsky cũng cho rằng một trong những đặc trưng của chủ
nghĩa huyền thoại ở thế kỉ XX là sự hài hước và giễu nhại nảy sinh từ cuộc trở về
99
với huyền thoại cổ đại của các nhà văn. Sự giễu nhại, phản huyền thoại “thể hiện
một sự tự do không hạn chế của nhà nghệ sĩ hiện đại đối với hệ biểu tượng truyền
thống đã từ lâu mất tính bắt buộc của chúng nhưng hãy còn giữ được sự hấp dẫn
với tư cách là phương tiện ẩn dụ hóa những yếu tố của ý thức hiện đại được các
nhà văn tiếp nhận như là những yếu tố vĩnh cửu và phổ quát” [107,450].
Như vậy, giải huyền thoại là một trong những phương thức nghệ thuật tiêu
biểu của nền văn học hiện đại, đặc biệt là ở thể loại tiểu thuyết. Bằng phương thức
giải huyền thoại, nhà văn có thể đối thoại, hoài nghi, giải thiêng các “đại tự sự”,
tra vấn các khuôn mẫu và thiết chế văn hóa mang tính áp chế, từ đó, phản ánh
những vấn đề mới mẻ của hiện sinh một cách lạ hóa. Đối với phê bình huyền
thoại/cổ mẫu, sự tái thiết cổ mẫu với những ý nghĩa phái sinh, thậm chí tạo ra
những phản đề cổ mẫu chính là giải huyền thoại.
3.4.1.2. Các xu hướng giải huyền thoại trong tiểu thuyết John Steinbeck
Bên cạnh tình yêu khoa học, đặc biệt là sinh vật học, John Steinbeck còn say
mê những câu chuyện cổ, những huyền thoại giàu tính chất văn chương. Các nhà
nghiên cứu tiểu sử của Steinbeck tiết lộ rằng cuốn sách đầu tiên thu hút trí tưởng
tượng trẻ trung của cậu bé John là những câu chuyện về vua Arthur. Trong cuốn
John Steinbeck: một tiểu sử, Jay Parini đã viết: “Khi viếng thăm dì Molly, người
em mê sách của mẹ ông, vào mùa hè năm 1912, ông được giới thiệu bản của Malory
về huyền thoại vua Arthur. Sau này, ông nhớ lại mình đã ngồi dưới một gốc cây
‘choáng ngợp và bị cuốn trôi đi’ bởi những chuyện kể mạnh mẽ ấy, gây nên một
ấn tượng không phai với cậu thiếu niên. Cấu trúc của những câu chuyện anh hùng
này sẽ nâng đỡ rõ rệt nhiều trong số các tiểu thuyết hay nhất của ông, chẳng hạn
Thị trấn Tortilla Flat và Phố Cannery Row, trong khi các khía cạnh của huyền
thoại Camelot sẽ ảnh hưởng kín đáo gần như đối với mọi tác phẩm của ông [...].
Mức độ mà Malory bao trùm lấy ông được ghi nhận trong sự kiện rằng ông bỏ ra
cả thập niên cuối đời đắm chìm trong tác phẩm đó, thậm chí thuê một căn nhà nhỏ
cả năm ở Somerset thuộc nước Anh – chỉ để được ở gần địa điểm được cho là lâu
đài Camelot” [DT 96,28]. Đồng quan điểm với Parini, Gordon Bergquist, trong
Tiểu sử John Steinbeck cũng kể lại rằng: lúc còn trẻ Steinbeck nổi tiếng là một
người cô độc và thích mơ mộng; ông dành phần lớn thời gian để đọc sách; những
tác giả, tác phẩm ưa thích của ông là Robert Louis Stevenson, Alexandre Dumas,
100
Walter Scott, Kinh Thánh, và đặc biệt là Cái chết của Arthur (1485) của Thomas
Malory, tác phẩm có ảnh hưởng bao trùm văn nghiệp của Steinbeck [127]. Như
vậy, ngay từ thuở thiếu niên, nhà văn Steinbeck tương lai đã say mê huyền thoại
và truyền thuyết, các câu chuyện hiệp sĩ, các câu chuyện trong Kinh Thánh. John
Steinbeck cũng là một trong những nhà văn Mỹ quan tâm sâu sắc đến bản sắc và
vận mệnh của quốc gia trong bối cảnh lịch sử đặc biệt. Điều này được thể hiện qua
việc tái xuất hiện thường xuyên của những huyền thoại định hình nước Mỹ trong
các sáng tác của ông, đặc biệt là huyền thoại về người hùng Mỹ, đất hứa/thiên
đường, giấc mơ Mỹ. Ngoài ra, nhà văn còn am hiểu và sử dụng các yếu tố huyền
thoại của người bản địa, đặc biệt là người Maya và người Aztec. Tất cả những
huyền thoại này ảnh hưởng mạnh mẽ và bao trùm cuộc đời và sự nghiệp văn
chương của ông.
Tuy nhiên, điểm đáng kể là trong khi tái sử dụng các huyền thoại xưa cũ, John
Steinbeck đã đem đến cho chúng những ý nghĩa mới mẻ, thậm chí trái ngược với
huyền thoại gốc. Xét về mức độ tái tạo, tiểu thuyết của John Steinbeck có cả huyền
thoại phái sinh và phản huyền thoại. Xét về cội rễ huyền thoại, tiểu thuyết của John
Steinbeck không chỉ giải huyền thoại phương Tây mà còn giải huyền thoại quốc
gia. Xét về lĩnh vực của huyền thoại, tiểu thuyết của John Steinbeck tập trung vào
việc tái thiết và giải huyền thoại văn hóa. Nhìn chung nhà văn thường hướng về
các huyền thoại cổ điển và tiến hành giải thiêng huyền thoại, đem đến cho huyền
thoại những nét nghĩa phái sinh dưới ảnh hưởng của bối cảnh lịch sử xã hội đặc
thù của nước Mỹ nửa đầu thế kỉ XX.
3.4.2. Giải huyền thoại người hùng qua sự kiến tạo motif anh hùng bi kịch
Trong tiến trình lập quốc của nước Mỹ, hình tượng anh hùng chiếm một vị trí
quan trọng, định hình tư duy và hệ giá trị của dân tộc Mỹ. Khát vọng trở thành anh
hùng là một trong những đặc điểm nổi bật của văn hóa/văn học Mỹ tương tự như
sức ám ảnh của huyền thoại giấc mơ Mỹ. Theodore Gross đã khẳng định mối tương
quan mật thiết của giấc mơ Mỹ và chủ nghĩa anh hùng, trong The Heroic Ideal in
American Literature (Lý tưởng anh hùng trong văn học Mỹ, 1971), rằng giấc mơ
Mỹ “phản ánh chủ nghĩa lãng mạn và tính đa cảm của chúng ta; chủ nghĩa sô vanh
và tính chất địa phương hẹp hòi của chúng ta; chủ nghĩa lí tưởng và quyền lực của
chúng ta; khát khao chủ nghĩa anh hùng của chúng ta” [128,vii]. Trong mối quan
101
hệ gần gũi này, nhân vật anh hùng tiêu biểu của Tân thế giới thường được biết đến
với hình tượng chàng Adam Mỹ. Với The American Adam (Chàng Adam Mỹ,
1955), R.W.B. Lewis, một nhà phê bình người Mỹ nổi tiếng, đã miêu tả hình tượng
này như là “một nhân cách hoàn toàn mới, người anh hùng của cuộc phiêu lưu mới:
một cá nhân được giải phóng khỏi lịch sử, may mắn mất hết dòng họ tổ tiên, không
những bị những di sản thông thường của gia đình và chủng tộc chạm đến và làm
lấm láp; một cá nhân đứng một mình, tự lực và tự hành, sẵn sàng đối đầu bất cứ
cái gì đang chờ đợi hắn với sự giúp đỡ của những phương kế xoay sở kì lạ và vốn
có của mình” [DT 26,198]. Nằm ở trung tâm của huyền thoại giấc mơ Mỹ, chàng
Adam Mỹ thường được mô tả như một cá nhân tự lập, từ chỗ nghèo khó vươn lên
giàu sang và có địa vị cao trong xã hội nhờ nỗ lực, may mắn, quả cảm.
Nhận thức sâu sắc về sức ảnh hưởng dài lâu của các huyền thoại, cổ mẫu anh
hùng trong đời sống tâm hồn người Mỹ song, Steinbeck vẫn tỉnh thức trước quy
luật tất yếu của thời hiện đại, thời đại ngự trị của cuộc khủng hoảng niềm tin, khiến
“vũ trụ biểu tượng muôn đời được kế thừa từ lâu nay phải sụp đổ” [109,410]. Do
đó, thay vì tô đậm các chiến tích phi thường, tài năng kì diệu, sức mạnh vô song
của người hùng, tiểu thuyết Steinbeck hướng đến khắc họa khía cạnh bi kịch của
nhân vật anh hùng hoặc những hình tượng phản anh hùng nhằm thể hiện sự tỉnh
thức trước một thực tại biến động và phức tạp. Cũng cần lưu ý rằng, motif người
hùng bi kịch không phải là nét đặc sắc của riêng tiểu thuyết John Steinbeck. Bởi
lẽ, kiểu anh hùng bi kịch này còn xuất hiện trong các sáng tác của các nhà văn khác
như Hemingway, Fitzgerald... Tuy nhiên, điều làm nên sự khác biệt của motif này
trong sáng tác của các nhà văn là cách thức mô tả bi kịch và căn nguyên dẫn đến
bi kịch của nhân vật anh hùng.
Năm 1928, khi khảo sát hàng trăm câu chuyện cổ tích Nga, học giả Propp đã
phân biệt sự khác nhau giữa người hùng tìm kiếm và người hùng nạn nhân thông
qua nguyên nhân dẫn đến sự ra đi của họ. Theo đó, “người hùng tìm kiếm chủ động
ra đi để tìm kiếm thứ gì đó, trong khi người hùng nạn nhân thường bị buộc phải rời
đi. Người hùng nạn nhân thường bị trục xuất khỏi nhà và có thể bị giết chết, nhưng
được cứu bởi một người nhân ái và sau đó dấn thân bước vào những cuộc phiêu
lưu trên thế giới [129,249]. Trong khi ở các câu chuyện cổ, người hùng nạn nhân
thường chịu sự áp bức, đối xử bất công bởi các thế lực thống trị, thế lực của cái ác
102
trong xã hội hoặc định mệnh nghiệt ngã. Ở tiểu thuyết của John Steinbeck, những
người hùng bi kịch của ông thường phải gánh chịu hậu quả của thảm họa môi
trường và những bất ổn của xã hội hiện đại văn minh tiến bộ. Tom Joad và gia đình
của anh, cùng với đám đông di tản trong Chùm nho phẫn nộ bị trục xuất khỏi quê
nhà, mảnh đất nơi tổ tiên họ đã khai khẩn đất hoang và dựng xây cơ nghiệp lâu
đời. Họ bị tước mất ruộng đất, “bị bụi xua đuổi, bị máy cày xua đuổi”, “chồng chất
trên xe tải, trên từng đoàn, những con người đói khát, không nhà không cửa”
[85,368]. George và Lennie trong tiểu thuyết ngắn Của chuột và người cũng là
những kẻ lang thang tìm kiếm việc làm, dẫu họ mong muốn có được một khoảnh
đất nhỏ để tự nuôi sống bản thân, song thực tại nghiệt ngã đã tàn phá giấc mơ bình
dị của những kẻ khốn cùng đó. Trong Viên ngọc trai, người hùng Kino cùng với
vợ con của anh cũng buộc phải rời khỏi ngôi làng chài nghèo khổ bên bờ biển để
trốn thoát khỏi sự truy đuổi của những kẻ tham lam hòng cướp viên ngọc quý của
Kino. Như thế, động lực ra đi của người hùng bi kịch trong tiểu thuyết của
Steinbeck phần lớn đến từ những thảm họa tự nhiên và khủng hoảng kinh tế xã hội
thời hiện đại.
Khác với người hùng trong các câu chuyện cổ, được cứu giúp bởi những người
tốt bụng hay được những thế lực siêu nhiên phù trợ và giành được vị trí của kẻ
chiến thắng trong chiều hướng kết thúc của cuộc hành trình, người hùng hiện đại
trong tiểu thuyết của Steinbeck dường như không thể thoát khỏi mạng lưới bất
công của xã hội, bi kịch đói khát vẫn đeo bám lấy họ, hiện tại và tương lai của họ
ngập tràn một màn sương mịt mờ. Danny và những người bạn của chàng trong Thị
trấn Tortilla Flat là những hình tượng người nghèo bị chà đạp đầu tiên trong thế
giới tiểu thuyết của Steinbeck, họ là nạn nhân của thời kì Đại suy thoái khi sự sở
hữu tài sản lại trở thành một gánh nặng trách nhiệm, một nỗi phiền toái. “Pilon
nhận thấy nỗi âu lo về tài sản đang dồn nén trên gương mặt Danny. Gương mặt ấy
sẽ chẳng còn vô lo nữa trong cuộc đời […]. Một tiếng kêu đau đớn buột ra khỏi
chàng trước khi chàng vĩnh viễn rời bỏ cuộc sinh tồn xưa cũ và giản dị của mình”
[96,55]. Nỗi âu lo của Danny, người được thừa kế hai căn nhà cũ kĩ từ thời ông
nội, là một điều tất yếu bởi vì chàng và những người bạn đến ở thuê trong nhà
chàng đều không có khả năng chi trả những hóa đơn dịch vụ, thuê mướn hay để
tôn tạo, gìn giữ căn nhà, tài sản của Danny. Vì vậy, khi hội bạn của chàng vô ý làm
103
cháy một căn, Danny chỉ giận lũ bạn một chút cho phải phép rồi cảm thấy nhẹ
nhõm vì “ít ra một trong những gánh nặng của chàng đã được cất dỡ” [96,99]. Thế
là họ làm hòa với nhau và cùng nhau tiến hành những cuộc phiêu lưu kì dị ở thị
trấn chẳng bằng phẳng như tên gọi của nó như xưa kia vua Arthur tập hợp các hiệp
sĩ bàn tròn để thực hiện những cuộc phiêu lưu tìm kiếm người tốt.
Thomas Fensch, trong lời giới thiệu tác phẩm Thị trấn Tortilla Flat, cho biết:
trong cuộc phiêu lưu nổi tiếng nhất của huyền thoại Malory, các hiệp sĩ đi tìm kiếm
chiếc cốc thánh, các paisano của Steinbeck thay vì tìm thấy chiếc cốc như các hiệp
sĩ của Malory, “họ tìm thấy mốc đánh dấu của Cơ quan khảo sát địa chất Hoa Kỳ
mà họ nhận ra là không thể đào lên để bán lấy rượu, bởi vì không ai dám mua”
[96,31]. Thậm chí, hành động đó sẽ khiến họ rơi vào vòng lao lí. Ấn tượng nhất
trong tác phẩm có lẽ là cuộc phiêu lưu xả thân cứu giúp một phụ nữ túng quẫn của
Danny và hội bạn. Mặc dù họ là những paisano nghèo rớt mồng tơi, chẳng có việc
làm, chẳng có cái để ăn, có được chút gì ít ỏi mà đáng giá họ đều quy đổi thành
những galon rượu và hào phóng dành cho nhau. Song, Danny và hội bạn thường
xuyên tìm cách giúp đỡ, chia sẻ với những người gặp khó khăn ở thị trấn. Phi vụ
điển hình là lần hội Danny lấy trộm cá, rau, đậu để làm từ thiện: “trộm cắp dứt bỏ
điều tiếng của trộm cắp, tội ác vi phạm vì một mục đích từ thiện” [96,216] bởi vì
họ không thể ngồi yên nhìn những đứa trẻ nhà Teresina chết đói. Trải qua nhiều
cuộc phiêu lưu cùng với hội bạn, song nỗi buồn lo của Danny vẫn không hề vơi.
Danny, “người từng chiến đấu vì những lí tưởng đã mất”, giờ đây ngồi yên, mệt
mỏi, tâm hồn chàng “bị đè nặng bởi một ý nghĩ u ám nặng nề” [96,258]. Các bạn
của chàng bỗng nhiên rời bỏ căn bệnh lười biếng, tìm kiếm công việc, kiếm tiền
để tổ chức tiệc cho Danny. Tất cả đàn ông, đàn bà trong thị trấn, cả những người
yêu mến lẫn những kẻ từng khinh ghét họ đều đến dự bữa tiệc của Danny. Thế
nhưng, nỗi buồn đau, cô đơn của chàng vẫn không nguôi ngoai. Danny gầm lên:
“Chỉ có một mình ta trong thế giới này sao?” [96,270], chàng thách thức thế giới
nhưng đáp lại chỉ có sự lặng yên. Trong nỗi cô độc tột cùng, Danny lao mình xuống
đáy khe suối tự vẫn. Căn nhà còn lại của Danny cũng chìm trong ngọn lửa. Danny
và biểu tượng tình bạn của chàng và hội bạn đều đã chết, những người còn lại rời
đi “mỗi người một hướng” [96,283].
Motif nhân vật anh hùng bi kịch, là những người nghèo bị chà đạp như Danny
104
và hội bạn của chàng, tiếp tục tái xuất hiện ở những mức độ cao hơn trong những
tiểu thuyết về sau của John Steinbeck. Đó là Jim Nolan và những công nhân đình
công trong Trong trận chiến mơ hồ, George trong Của chuột và người, là Tom
Joad trong Chùm nho phẫn nộ, Kino trong Viên ngọc trai, Mack và những người
bạn trong Phố Cannery Row. Nổi bật trong số đó là George, một kẻ lang thang tìm
kiếm việc làm với ước mơ sở hữu một mảnh đất nho nhỏ để sống một đời sống tự
do. Cùng với Lennie ngờ nghệch lực điền, lão tạp dịch Candy què quặt, gã mã phu
Crooks da đen, George là nạn nhân của thời kì Đại suy thoái, “của sự cô lập, sự
tước quyền và các vấn đề hòa nhập xã hội trong thời đại đứt gãy văn hóa” [73].
Mặc dù là một anh chàng “nhỏ bé và nhanh nhẹn […] sắc sảo và khỏe mạnh”
[90,11], thế nhưng George không thể đạt được một cuộc sống thoải mái, dễ dàng,
vui thú. Bởi vì anh là một công nhân nông nghiệp chạy vạy khắp nơi để tìm kiếm
việc làm trong thời kì Đại suy thoái vốn dĩ khan hiếm công việc. Cũng vì anh là
một kẻ nghèo khó, chẳng có nổi một tấc đất cắm dùi ở một xứ sở rộng lớn mênh
mông, trù phú trong thời kì mà đàn áp xã hội và tước đoạt quyền sở hữu là những
sự thật chua xót của đời sống Hoa Kỳ đương đại. Đồng thời, George tự nhận lấy
trách nhiệm bảo vệ Lennie, người anh em của anh ta, kẻ thường xuyên gây ra rắc
rối, trong khi chính anh cũng phải vật lộn để mưu sinh và hòa nhập vào một xã hội
khắc nghiệt. Tình anh em/bằng hữu giữa George và Lennie khiến Slim, một người
hiểu biết và có uy tín trong trang trại, ngạc nhiên khi một kẻ lờ khờ như Lennie lại
đi chung với một kẻ lanh lẹ như George, bởi vì ông biết rằng: “Chẳng có mấy đứa
đi chung với nhau […]. Có lẽ mọi người sợ nhau trên cái cõi đời quái ác này”
[90,63], “dân làm công… chẳng bao giờ thèm đoái hoài cóc khô gì tới ai” [90,70].
Về mối quan hệ giữa George và Lennie, nhiều nhà phê bình theo lí thuyết tâm
lí học phân tích của Carl Jung cho rằng Lennie là phần bóng tối bên trong (cổ mẫu
Shadow self) của George và câu chuyện không đơn thuần kể về hai kẻ mộng mơ
vỡ mộng mà còn khám phá các xung đột tâm lí bên trong mỗi nhân vật [36]. Mặc
dù George thỉnh thoảng vẫn trách cứ Lennie như một phương cách để thoát khỏi
cái bóng của chính mình, rằng nếu chỉ có một thân một mình thì anh ta đã có thể
dễ sống biết mấy, có thể có công ăn việc làm mà chẳng gặp điều gì rắc rối, có thể
ở nhà thổ suốt đêm, có thể ăn chơi thỏa thích mà chẳng bận tâm gì cả, nhưng cũng
chính George lại là người tìm mọi cách để bảo vệ Lennie. Từ góc độ này, có thể
105
xem George là người hùng của Lennie, là “người canh giữ người anh em” của anh
ta, một kẻ ngờ nghệch không có khả năng hòa nhập vào cộng đồng. Cuộc đời của
George phải gắn chặt với người anh em khốn khổ Lennie không những vì anh cảm
thấy mình phải có trách nhiệm với Lennie mà còn vì một sự thật xót xa hơn cả,
rằng người hùng George cũng là một nạn nhân của xã hội khắc nghiệt. Anh buộc
phải gắn bó với Lennie để thoát khỏi nỗi cô độc bủa vây bởi vì anh “chẳng có ai”
[90,72] bên cạnh ngoài Lennie, anh “muốn trò chuyện” [90,70], muốn có bạn đồng
hành cùng chia sẻ buồn vui, cùng nuôi giấc mơ “có miếng đất nhỏ… trồng trọt cho
chính mình” [90,70] mà Lennie lại là người tử tế, “đâu có cần khôn khéo mới là
đứa tử tế” [90,72]. Như thế, nhờ có Lennie lờ khờ, người hùng George mới có thể
vượt qua những bức tường vô hình ngăn cản anh hòa nhập vào xã hội.
Tuy nhiên, trong phần kết của tác phẩm, Lennie lặp lại hành động gây rắc rối
của mình khi anh ta vô ý giết chết vợ Curley, con trai của ông chủ trang trại. Candy
bí mật dẫn George đến bên xác người đàn bà tội nghiệp và hỏi George về tương lai
của họ, liệu rằng họ có thể mua mảnh đất đó, có thể sống tử tế ở đó nữa không.
George đáp lại bằng dự cảm về tương lai đơn độc của anh: “tui sẽ ở qua đêm trong
cái nhà thổ nhớp nhúa nào đó. Hay là tui sẽ ngồi trong quán cho tới khi mọi người
về nhà hết” [90,157]. Để bảo vệ Lennie khỏi sự trừng phạt khủng khiếp của Curley
bởi “Curley sẽ muốn treo cổ nó” [90,156] và rộng hơn là của xã hội khắc nghiệt,
George buộc phải giết chết Lennie. Bởi vì theo anh, xã hội hà khắc không chấp
nhận Lennie nhưng có thể ở thế giới bên kia mọi người sẽ tử tế với Lennie: “Chẳng
còn rắc rối nữa. Không ai làm hại hay ăn cắp của ai” [90,174]. Trong bài viết, “Của
chuột và huyền thoại: John Steinbeck, Carl Jung và Sử thi Gilgamesh”, Eric
Matthew Martin đã vận dụng lí thuyết tâm lí học phân tích của Jung và phê bình
huyền thoại để khám phá nguyên mẫu người anh hùng và kẻ bị ruồng bỏ qua cặp
đôi nhân vật George và Lennie. Martin cho rằng “phần lớn sức mạnh của tiểu
thuyết này bắt nguồn từ một mẫu hình thần thoại cổ đại” [73]. Steinbeck đã tái sinh
cặp nhân vật cổ mẫu trong Sử thi Gigamesh và câu chuyện Jacob và Esau trong
Sáng thế ký để khám phá một sự thật tâm lí, rằng: thế giới của George là vô tâm
nhưng anh ta có thể đương đầu, George đã loại bỏ những xung năng không thể
chấp nhận được của mình – hiện thân qua Lennie – bằng cách giết chết chúng [73].
Tuy vậy, lựa chọn nghiệt ngã đó liệu rằng có phải là điều tốt lành cho cả Lennie và
106
George? Steinbeck không đưa ra một câu trả lời cụ thể, người đọc có thể lo lắng
cho tương lai cô độc mà George đã dự báo với Candy hoặc cũng có thể nhen nhóm
hi vọng khi Slim dẫn George bước “vào đường mòn rồi hướng lên xa lộ” [90,176].
Hơn nữa, sự kiện George giết chết Lennie không chỉ ngụ ý rằng anh ta đang cố
gắng thoát khỏi cái bóng của chính mình mà còn là sự lựa chọn đầy bi kịch của
nhân vật.
Nhân vật George là một người hùng với số phận bi kịch đã bám riết lấy anh
ngay từ đầu tác phẩm. Khác với những nhân vật trong truyện cổ, người hùng là
người chiến thắng và đạt được một cuộc sống tốt đẹp hơn trước đây. Trong xã hội
hiện đại đầy rẫy bất công và khắc nghiệt, những người làm công lang thang như
George khó có thể giành được quyền sở hữu, khó có thể có được một cuộc sống
lao động tự do và do đó, càng khó có thể hòa nhập thành công vào xã hội. Đó là sự
thật cay đắng mà tiểu thuyết của Steinbeck đã phơi bày cách đây gần 100 năm
nhưng vẫn còn hiện diện chua xót trong bối cảnh đương đại. Bằng cách kiến tạo
motif anh hùng bi kịch, tiểu thuyết của John Steinbeck không chỉ giải thiêng cổ
mẫu anh hùng trong văn hóa dân gian mà còn lật ngược huyền thoại người hùng
Mỹ, rằng lòng quả cảm và sự nỗ lực không phải bao giờ cũng đem đến chiến tích
phi thường hay thành công và vận may không phải lúc nào cũng dành cho tất cả
mọi người.
3.4.3. Giải huyền thoại “giấc mơ Mỹ” qua sự kiến tạo motif những vùng
đất hứa sụp đổ
Một trong những huyền thoại quốc gia luôn hiện diện thường trực trong tâm
thức người Mỹ, từ những người đầu tiên đặt chân lên miền đất hoang sơ này đến
những người Mỹ tạo dựng nên xã hội hiện đại ngày nay là giấc mơ Mỹ. Đây cũng
là huyền thoại liên quan chặt chẽ với huyền thoại anh hùng Mỹ và đất hứa/thiên
đường. Nhìn chung, giấc mơ Mỹ là lí tưởng về cơ hội cho tất cả mọi người, về sự
thành công trong nghề nghiệp hoặc xã hội bất kể nguồn gốc, lai lịch, xuất thân, địa
vị xã hội. Tượng Nữ thần Tự do, hình ảnh đầu tiên rơi vào tầm mắt của những
người di cư đến vùng đất hứa hẹn này, là biểu tượng của giấc mơ Mỹ và nước Mỹ
đầy lí tưởng. Lí tưởng quốc gia này được tuyên bố trong bản Tuyên ngôn độc lập
Hoa Kỳ do học giả Thomas Jefferson (1743-1826) khởi thảo, đó là “mọi người sinh
ra đều bình đẳng”, đều có “quyền được sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc”
107
[130]. Đây cũng là tiếng nói của những người Mỹ lập quốc nhằm chống lại xã hội
Âu châu khép kín, nơi quyền lực và tiền bạc nằm trong tay của tầng lớp quý tộc
thống trị. Hiến pháp của Hoa Kỳ đề cao việc đảm bảo quyền tự do cho tất cả công
dân. Điều này được thể hiện ngay trong lời mở đầu rằng nhân dân Hợp chúng quốc
Hoa Kỳ thiết lập hiến pháp nhằm “xây dựng một Liên Bang hoàn hảo hơn nữa,
thiết lập công lý, duy trì an ninh trong nước, tạo dựng phòng thủ chung, thúc đẩy
sự thịnh vượng chung, giữ vững nền tự do cho bản thân và con cháu chúng ta”
[131,14]. Năm 1932, James Truslow Adams đã mô tả giấc mơ huyền thoại này,
trong công trình nổi tiếng The Epic of America (Sử thi nước Mỹ), như sau: “Đó là
giấc mơ về khả năng phát triển cao nhất của nam giới cũng như nữ giới, không bị
ngăn cản bởi bất kì rào chắn nào… được dựng lên trong các nền văn minh cổ hơn,
không bị áp đặt bởi những quy ước xã hội đã phát triển vì lợi ích của các tầng lớp
hơn là vì những con người bình thường thuộc bất kì tầng lớp nào” [132,405].
Những lời cam kết hùng hồn này hứa hẹn rằng chỉ có ở thiên đường nước Mỹ -
“vùng đất của những con người tự do và quê hương của những con người can đảm”
[133], giấc mơ đẹp đẽ này sẽ trở thành hiện thực cho bất kì ai dám theo đuổi nó
đến tận cùng. Từ một huyền thoại quốc gia, giấc mơ Mỹ đã trở thành ước vọng phổ
quát của nhiều dân tộc, di sản chung của nhân loại, là khát khao về một cuộc sống
hạnh phúc, tự do hơn ở một nơi chốn tốt đẹp hơn của nhiều lớp người ở khắp mọi
nơi trên thế giới.
Wilfred L. Guerin và các cộng sự, trong bài viết “Phê bình huyền thoại và giấc
mơ Mỹ: Huckleberry Finn như là chàng Adam Mỹ” (Myth Criticism and the
American Dream: Huckleberry Finn as the American Adam), nhận định rằng
phương diện trung tâm của huyền thoại giấc mơ Mỹ là “Huyền thoại những Khả
năng Địa đàng phản ánh hy vọng sáng tạo một thiên đường thứ hai, không phải
trong cõi sau và không phải ngoài thời gian, mà là trong Tân Thế giới sáng rỡ của
lục địa châu Mỹ” [82,197]. Tuy vậy, sự thể hiện của huyền thoại này trong văn học
Mỹ phức tạp và thú vị hơn lại nằm ở khía cạnh sự “chờ đợi tối tăm tiềm ẩn trong
giấc mơ Mỹ” như nhà văn D. H. Lawrence đã chỉ ra trong công trình Studies in
Classic American Literature (Nghiên cứu văn học Mỹ cổ điển, 1923) của ông. Tại
vùng đất được bao phủ bởi màu sắc huyền thoại về những ước vọng tươi sáng,
Lawrence lại nhận ra “Châu Mỹ chẳng bao giờ thanh thản… và ngày nay cũng
108
không hề thanh thản. Người Mỹ luôn luôn sống trong sự căng thẳng nào đó. Sự tự
do của họ chỉ là một thứ ý chí, chỉ là một sự căng thẳng: một sự tự do MÀY SẼ
KHÔNG (THOU SHALT NOT). Và nó đã là như thế ngay từ đầu. Vùng đất MÀY
SẼ KHÔNG” [DT 26,214]. Cái nhìn sâu sắc của Lawrence đã được chứng minh
trong những tác phẩm văn học Mỹ nổi tiếng viết về đề tài huyền thoại này, ở đó
các nhà văn Mỹ tập trung vào những khía cạnh gần gũi đáng lo của giấc mơ là ảo
mộng hay ác mộng hơn là những viễn cảnh tươi sáng của nó.
Vũ Minh Đức cho rằng các sáng tác tập trung vào đề tài giấc mơ Mỹ có khả
năng kiến tạo nên “thế giới văn học tự thân”, “biến giấc mơ Mĩ trở thành một cổ
mẫu trong văn học” và nước Mỹ là một biến thể của cổ mẫu khu vườn [20,80].
Một số tác phẩm văn chương kinh điển hướng về đề tài huyền thoại này là: Giấc
mơ Mỹ (Steven Millhauser), Cái chết của người chào hàng (Arthur Miller), Gatsby
vĩ đại (F. Scott Fitzgerald), The Bell Jar (Sylvia Plath), Trên đường (Jack
Kerouac)… Trong đó, tiểu thuyết của John Steinbeck không phải là trường hợp
ngoại lệ. Giấc mơ Mỹ là một trong những chủ đề xuyên suốt gắn với sự tái sinh cổ
mẫu anh hùng trong nhiều sáng tác của ông, nổi bật như: Trong trận chiến mơ hồ,
Của chuột và người, Chùm nho phẫn nộ, Viên ngọc trai, Phía đông vườn địa đàng.
Frederic Carpenter tiết lộ tác phẩm của John Steinbeck thường mô tả sự tương
phản giữa giấc mơ và thực tại, nhà văn đã theo đuổi sự phát triển của giấc mơ Mỹ
xuyên suốt sự nghiệp sáng tác của ông [134]. Giống như nhiều nhà văn Mỹ cùng
thời, John Steinbeck không tập trung mô tả khía cạnh tươi sáng của giấc mơ được
cổ súy trong tiến trình lịch sử phát triển của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, trong khi
Fitzgerald tập trung khắc họa sự sụp đổ của giấc mơ Mỹ trong xã hội xa hoa, đầy
cạm bẫy và dối trá của giới thượng lưu, thế giới của “những kẻ vô tâm”, những kẻ
sẵn sàng “đập nát mọi thứ, cả vô tri lẫn hữu tri, rồi rút lui vào tiền bạc hoặc niềm
vô tâm mênh mông của họ, hoặc bất kì những gì vẫn ràng buộc họ với nhau”
[135,249]. Thế giới ấy tưởng như có được tất cả song lại thiếu vắng cái cốt yếu
nhất, đó là “chuẩn mực nhân cách cơ bản”. Steinbeck đã chỉ ra sự tàn lụi của giấc
mơ Mỹ qua việc khắc họa motif sự sụp đổ của những vùng đất hứa dưới những tác
động dữ dội của tình trạng bất ổn kinh tế - xã hội trong thời kì Đại suy thoái và
những rào cản khác về chủng tộc, giới tính.
Nền kinh tế thịnh vượng của Hoa Kỳ trong những năm 1920 đã bị phá hủy
109
nặng nề khi cuộc Đại suy thoái diễn ra vào thập niên 30 của thế kỉ này, đặc biệt là
khu vực kinh tế trang trại trước đó vốn dĩ đã rất mong manh do sự thu hẹp của thị
trường bên ngoài song sản lượng nông nghiệp vẫn tăng trưởng quá mạnh. Trong
ba năm đầu thập niên 30, “cuộc suy thoái kinh tế bắt đầu từ nước Mỹ đã trở thành
một phần của cuộc suy thoái kinh tế trên toàn thế giới. Các doanh nghiệp đóng cửa,
các nhà máy ngừng sản xuất, các nhà băng phá sản vì mất các khoản tiền gửi tiết
kiệm. Thu nhập nông nghiệp giảm khoảng 50%. Đến tháng 11/1932, cứ năm người
Mỹ thì có khoảng một người thất nghiệp” [136,125]. Tình trạng thất nghiệp, nghèo
đói, vô gia cư ngày càng lan rộng khắp nước Mỹ, khiến tâm trạng lạc quan của
thập niên trước đó dần phai nhạt. Tại nhiều bang, hàng trăm nghìn nông dân, công
nhân nông nghiệp di chuyển khắp xứ để tìm kiếm việc làm cốt để sống sót qua thời
kì đói khổ. Những nạn nhân của cuộc đại suy thoái không chỉ cần có nơi ăn chốn
ở, cái ăn cái mặc mà còn cần phải có một điều gì đó lớn lao hơn truyền cảm hứng.
Nhiều người trong số họ đã tìm đến huyền thoại mạnh mẽ trong lịch sử dân tộc, đó
là giấc mơ Mỹ. Điều này đã được Steinbeck chứng kiến trong những chuyến đi
xuyên Mỹ và phản ánh trong thế giới nghệ thuật của ông, nổi bật là Trong trận
chiến mơ hồ, Của chuột và người, Chùm nho phẫn nộ. Song, Steinbeck cay đắng
nhận ra sự tàn lụi của giấc mơ huyền thoại này hay nói cách khác, hiện thực tráo
trở sẵn sàng tàn phá những khát vọng chân chính và cao đẹp của con người.
Trong Của chuột và người, giống như nhiều thế hệ người Mỹ mơ ước đạt được
sự giàu có, thịnh vượng và được “mưu cầu hạnh phúc”, George và Lennie, hai gã
công nhân nông nghiệp lang thang từ nông trại này sang nông trại khác kiếm việc
làm để nuôi giấc mộng có “một căn nhà nhỏ với hai mẫu đất” [90,30]. Chính giấc
mơ chung của George và Lennie đã đánh thức khát vọng được sở hữu của lão già
tật nguyền Candy. Tương tự như thế, những người di tản trong Chùm nho phẫn nộ
chạy trốn khỏi những nơi đầy sự cô đơn và lạc lõng, nơi mà họ phải chịu đựng sự
nhục nhã của kẻ chiến bại với nỗi đau mất nhà, mất đất. Họ di chuyển trên những
con đường cao tốc chạy xuyên qua các bang vào miền Tây hòng tìm kiếm một
miền đất mới. Thế là, thiên đường miền Tây trở thành giấc mơ chung của đám
đông nghèo đói. Nổi bật là những giấc mơ của những thành viên họ Joad. Pa Joad
tin rằng California là một xứ sở xinh đẹp, giàu có nơi ông và gia đình có thể thoát
khỏi cảnh nghèo đói bằng cách làm lụng chăm chỉ. Trong khi đó, Ma Joad “để tâm
110
trí vào một ngôi nhà trắng nhỏ bé” [85,320]. Rosashan và chồng cô mơ ước có một
căn nhà riêng đầy đủ tiện nghi ở thành phố và một tương lai hạnh phúc cùng với
đứa con sắp sửa ra đời của họ. Hiện diện thường trực trong những mộng mơ, tưởng
tượng của Jim, trong tiểu thuyết Trong trận chiến mơ hồ, là một ngôi nhà nhỏ màu
trắng với hàng rào cầu kì và những cây phong lữ rực cháy trong sân vườn.
Hình ảnh căn nhà nho nhỏ màu trắng trong mộng tưởng của nhiều nhân vật
trong tiểu thuyết Steinbeck không chỉ biểu trưng cho giấc mơ về quyền sở hữu mà
cao hơn là khát vọng tự do của những con người “cô đơn nhất trên đời” [90,29]
như George tự nhận xét. Bởi lẽ, chỉ ở nơi mà họ thuộc về, tự do mới thực sự đến
với họ. “Giả thử có hội hè hay gánh xiếc tới thị trấn, hay một trận bóng, hay bất kì
cái quái gì […]. Thì mình cứ đi dự. Mình khỏi cần xin phép ai. Chỉ cần nói, ‘mình
đi coi’, rồi mình đi” [90,104]. Vì vậy, hầu hết các nhân vật của Steinbeck đều nỗ
lực và chịu đựng một cách phi thường, vượt lên trên nghịch cảnh khốn khó để hiện
thực hóa giấc mơ. Tuy nhiên, trái với ước nguyện rạng rỡ và tinh thần lạc quan mà
giấc mơ Mỹ khơi gợi, những nhân vật anh hùng trong tiểu thuyết Steinbeck đều
không hoặc chưa thể đạt được mong mỏi bình dị của họ. Sự thật trần trụi này đã
được nhân vật Crooks vạch trần một cách miệt thị: “Tao đã thấy cả trăm thằng ở
ngoài đường và trong các trại, với tay nải trên lưng và cũng cái ý khốn khổ đó trong
đầu. Cả trăm đứa. Tụi nó tới làm, rồi bỏ việc, rồi lại đi. Thằng khốn nào cũng có
miếng đất nhỏ trong đầu. Và chưa hề có thằng khốn nào tậu được đất… Chưa ai
lên thiên đàng, chưa đứa nào tậu được đất” [90,124]. Quả thật, cuối tác phẩm Của
chuột và người, giấc mơ chung tay tậu đất tậu vườn của George, Lennie và Candy
sụp đổ khi Lennie vô ý giết chết vợ Curley. George chua xót nhận ra: “tui đã biết
ngay từ đầu. Tui nghĩ tui đã biết là mình sẽ không bao giờ mua mảnh đất đó”
[90,156]. Hay trong Chùm nho phẫn nộ, thiên đường miền Tây thực tế lại là vùng
đất của sự xua đuổi, bất công, đói khổ và mất mát, rạn vỡ. California trong tưởng
tượng và thực tế hoàn toàn trái ngược nhau. Người nhà Joad lần lượt rời bỏ gia
đình, hoặc chết hoặc bỏ trốn, trong nỗ lực gìn giữ sự vẹn toàn cho gia đình của Ma
Joad. Chính Ma Joad cay đắng thừa nhận rằng: “Chỗ nào cũng rạn vỡ… Không
còn gia đình nữa” [85,628]. Như thế, trái với tương lai đầy hứa hẹn ở đất hứa
California trong phần đầu của tác phẩm, những viễn cảnh tươi sáng được nhen
nhóm trong đám dân di tản, tại vùng đất màu mỡ và giàu có này, cái mà họ nhận
111
được lại là một cuộc sống thê thiết: không nơi ăn chốn ở, không có việc làm, đói
khát, bệnh tật và chết dần chết mòn. Như Frederic Carpenter đã chỉ ra: “Sự an toàn,
độc lập, một mảnh đất, giấc mơ của những người tiên phong và gần như là hiện
thực nước Mỹ… chỉ nằm ở trong đầu họ. Đây là bi kịch của nước Mỹ… bi kịch
của tư tưởng” [134,68].
Phía đông vườn địa đàng, tác phẩm được John Steinbeck xem như là cuốn
sách lớn nhất của đời mình, tiếp tục tái khám phá chủ đề về giấc mơ Mỹ và cái giá
phải trả khi theo đuổi giấc mơ. Adam Trask rời bỏ miền Đông quê nhà đến miền
Tây xa lạ với giấc mộng tạo lập một địa đàng cùng người vợ Cathy. Thung lũng
Salinas đẹp đẽ, giàu tiềm năng và đầy cảm hứng đón chào anh, nhưng xen lẫn giữa
những cảnh quan tươi đẹp đó là bóng tối âm u của những dãy núi và những vùng
đất cằn cỗi, dự báo những kết cục không mấy tốt đẹp. Sự thật là Adam đã rơi vào
bi kịch tình yêu, mệt mỏi và bị đánh bại trước một vùng đất khơi gợi khả năng lao
động và sáng tạo. Giống như chàng Adam trong huyền thoại, anh mãi mãi chẳng
thể có được một địa đàng cho riêng mình.
Tiểu thuyết dày dặn này không phải là tác phẩm đầu tiên Steinbeck theo đuổi
chủ đề giấc mơ Mỹ, song ở vào độ tuổi bốn mươi khi khởi sự cuốn sách mà ông
cho là tất cả của cuộc đời và sau những năm tháng chứng kiến nhiều thăng trầm
của đất nước và dân tộc, Steinbeck đã phản ánh nó bằng một góc nhìn mới của một
cây bút già dặn và sâu sắc. Do đó, thay vì mô tả sự tàn lụy của giấc mơ huyền thoại
dưới những tác động khủng khiếp của hiện thực tráo trở và những đổi thay mạnh
mẽ của xã hội Hoa Kỳ như nhiều sáng tác ở giai đoạn thành công trước đó,
Steinbeck đi sâu khám phá “nghịch lí của giấc mơ, khả năng cơ hội có thể bị bỏ dở
hoặc có thể thực hiện” [70,243]. Bi kịch bên trong này, về sau, được nhà văn phát
biểu trong “Diễn từ nhận giải Nobel” năm 1962: “Sứ mệnh từ xưa của nhà văn
không thay đổi. Nhà văn được trao nhiệm vụ phơi bày những lỗi lầm và thất bại
xót xa của chúng ta, khơi ra những giấc mơ tăm tối và nguy hiểm của chúng ta
nhằm nâng cao con người chúng ta” [137]. Ở phương diện này, nhân vật Cal, một
trong hai người con trai song sinh của Adam là một ví dụ điển hình. Cal là một
nhân vật phức tạp, là hình ảnh thu nhỏ của những nghịch lí cố kết đã hình thành
nên tính cách Mỹ. Khác với người anh trai ngây thơ và yếu đuối, Cal thông minh,
lém lỉnh, tự lập, năng động, sắc sảo, táo bạo và quyết tâm, song cũng là một cá
112
nhân lẻ loi đa cảm, thường mang mặc cảm tội lỗi và ám ảnh về cái ác, sự xấu xa
và lòng đố kị. Lúc Cal còn nhỏ, chú Lee đã nhận ra ở cậu bé này vẻ “sắc sảo, đen
tối và cẩn trọng” [92,350] trái với vẻ ngoài dễ mến của anh trai. Khi Cal lớn lên,
điều đó vẫn không thay đổi: Cal “cao lớn, mảnh khảnh và bóng tối luôn hiện diện
ở anh ta” [92,524]. Mặc dù Cal hồ nghi rằng bóng tối ở anh được truyền thừa từ
người chú và bà mẹ, những kẻ sa đọa và đầy hận thù trong gia đình anh, song cá
tính ích kỉ, lòng ghen tị và oán giận của Cal được thể hiện như là bản tính của anh
ta, là một phần tất yếu của tính cách Mỹ biểu hiện khi nỗ lực cá nhân không mang
lại kết quả như mong muốn. Ngay từ khi còn trẻ, Cal đã theo đuổi sự thịnh vượng
và an toàn tài chính, cậu hùn vốn với Will Hamilton để kinh doanh đậu kiếm lời
với ý định sẽ dùng món tiền này làm quà tặng cha, bù đắp cho ông khoản tiền đã
thất thoát trong thương vụ trước đó, đồng thời giúp đỡ anh trai học hành. Nhờ vậy,
Cal có thể giành được tình yêu thương của ông Adam.
Tuy nhiên, sự việc ông Adam từ chối món quà và quở trách Cal đã khiến lòng
ghen tị và oán giận trong Cal trỗi dậy, dẫn đến việc anh tiết lộ sự thật khủng khiếp
về người mẹ với Aron, người mà Cal biết trước là không đủ dũng khí để vượt qua
nỗi đau đớn đó. Vậy là câu chuyện huyền thoại về Cain và Abel tiếp tục lặp lại.
Quyết định và hành động của Cal, một cách gián tiếp, đã dẫn đến cái chết của người
anh em Aron và cơn đột quỵ của người cha. Như thế, giấc mơ theo đuổi sự thịnh
vượng và hạnh phúc cá nhân của Cal là hoàn toàn chính đáng, song kết quả của sự
lựa chọn mà anh phải đối diện liên quan đến sự tái lập bản sắc của anh lại tiết lộ sự
tàn lụy của giấc mơ trước nỗi ám ảnh của quá khứ và khả năng tự định đoạt số
phận của chính Cal. Như triết gia Emerson đã đề xuất rằng người Mỹ nên gạt quá
khứ sang một bên và lãng quên nó. Cal cũng có thể đạt được sự tiến bộ về vật chất
bất kể anh ta là con trai của một nông dân thất bại, một doanh nhân vỡ nợ và một
người mẹ tội lỗi [70]. Song thực tế, tâm hồn Cal luôn bị mắc kẹt trong cội nguồn
phức tạp, đời sống bất ổn đầy nghịch lí và bản chất lưỡng diện của chính anh. Đây
cũng là bi kịch mang tầm cỡ quốc gia và dân tộc. Như Lawrence đã phát hiện ra
khối mâu thuẫn sâu thẳm ở người Mỹ, một dân tộc kiên quyết rũ bỏ truyền thống
và cái xấu xa của châu Âu già cỗi nhưng lại càng bị buộc chặt hơn nữa bởi di sản
lương tâm và những điều cấm kị tại vùng đất mới [DT 82]. Liệu rằng có cơ may
113
nào, lối thoát nào cho Cal và cũng là cho dân tộc Hoa Kỳ trong quá trình theo đuổi
giấc mơ đầy nghịch lí của họ không? Lời trăng trối của ông Adam cho người con
trai duy nhất còn lại và cũng là chủ đề xuyên suốt tác phẩm của Steinbeck,
“Timshel”, tiết lộ với chúng ta rằng điều đó hoàn toàn phụ thuộc vào sự lựa chọn
của Cal và dân tộc của anh. Nghĩa là mỗi cá nhân và mỗi dân tộc đều có quyền lựa
chọn bản sắc mà họ sẽ trở thành.
Như vậy, bằng cách kiến tạo motif những vùng đất hứa sụp đổ, John Steinbeck
đã tái phát hiện khối mâu thuẫn tiềm ẩn giữa ước vọng tươi đẹp và thực tế phũ
phàng của giấc mơ Mỹ trong bối cảnh xã hội nhiều biến động và rối ren nửa đầu
thế kỉ XX. Đồng thời, nhà văn cũng chỉ ra khả năng thất bại hoặc thành công của
mỗi người trên hành trình theo đuổi giấc mơ và lí tưởng mà tổ tiên họ đã định hình.
Giấc mơ Mỹ của hầu hết các nhân vật trong sáng tác của John Steinbeck không thể
tránh khỏi kết cục bi đát - sự tàn lụy của nó, trong thời đại bất ổn khi mọi giá trị bị
đảo lộn và đánh bại. Tuy nhiên, là một nhà văn đứng về phía lương tri và tiến bộ
của nhân loại, John Steinbeck vẫn tin tưởng vào những tia sáng thiên lương lấp
lánh dẫu mong manh ở những con người bình thường. Như ông đã khẳng định:
“Chung quy lại, hiểm nguy, vinh quang và sự lựa chọn chỉ còn ở con người”, “chính
con người đã thành mối nguy to lớn và niềm hi vọng duy nhất của chúng ta” [137].
Giải thiêng huyền thoại giấc mơ Mỹ, song John Steinbeck vẫn tin cậy vào lương
tri của những người Mỹ tiến bộ.
* Tiểu kết
Dựa trên đặc trưng và cấu trúc cổ mẫu anh hùng trong truyền thống văn hóa
dân gian, John Steinbeck đã tái sinh cổ mẫu này trong tiểu thuyết của ông nhằm
phản ánh những trạng huống hiện sinh mới mẻ và biểu hiện quan niệm về con
người trong hoàn cảnh lịch sử xã hội đặc biệt của nước Mỹ nửa đầu thế kỉ XX.
Nhân vật anh hùng trong tiểu thuyết John Steinbeck là những cá nhân quả cảm,
giàu lòng vị tha, đức hi sinh, là những người tiên phong trên hành trình thực hiện
nhiệm vụ tìm kiếm miền đất hứa và xác lập bản sắc để duy trì nỗ lực sinh tồn trong
thời đại khốc liệt. Trên hành trình của người anh hùng, cổ mẫu mẹ nắm giữ vai trò
là người trợ giúp, nâng đỡ, truyền cảm hứng. Người hùng của Steinbeck còn là
người xác lập các giá trị đức tin mới khi những tín điều thiêng liêng xưa cũ tỏ ra
114
không còn hợp thời, là những cá nhân thuộc về cộng đồng thiểu số dám đứng lên
chống lại thành trì của cộng đồng chính thống. Song hành với phương thức huyền
thoại hóa để khắc họa người hùng hiện đại là xu hướng giải huyền thoại nhằm giải
thiêng những huyền thoại về người hùng đã hằn sâu trong tâm thức người Mỹ.
Khác với người hùng đạt được thành tích bằng sự nỗ lực, lòng quả cảm và may
mắn như trong huyền thoại, người hùng của John Steinbeck là những con người bi
kịch, chịu nhiều thiệt thòi, mất mát và tương lai vô định. Trái với khía cạnh tươi
sáng của giấc mơ Mỹ huyền thoại, tiểu thuyết của John Steinbeck tập trung khắc
họa khía cạnh tăm tối của giấc mơ qua những vùng đất bất mãn, ruồng bỏ để tô
đậm bi kịch của người hùng hôm nay.
115
Chương 4.
CỔ MẪU ĐẤT, NƯỚC VÀ DIỄN NGÔN SINH THÁI
TRONG TIỂU THUYẾT JOHN STEINBECK
Tiểu thuyết của John Steinbeck không chỉ thể hiện sự đồng cảm của nhà văn
với số phận của những kẻ bên lề, bị ruồng bỏ ở một vùng đất đầy hứa hẹn mà còn
bộc lộ mối quan tâm sâu sắc và bền bỉ của ông đối với sinh học và huyền thoại.
Niềm say mê mà John Steinbeck dành cho lĩnh vực sinh vật học, sinh thái học
mãnh liệt chẳng kém gì sức quyến rũ của thần thoại, truyền thuyết và các câu
chuyện cổ xưa với nhà văn. Điểm ấn tượng là cả hai yếu tố này thường xuyên được
kết hợp, đan xen đầy thi vị và sáng tạo, tạo nên cấu trúc cơ bản cho nhiều tiểu
thuyết nổi tiếng của ông. Trong đó, đất và nước là những cổ mẫu tự nhiên tiêu biểu,
là chìa khóa mở cánh cửa bước vào thế giới tự nhiên và biểu hiện mối tương quan
giữa con người và tự nhiên trong sáng tác của John Steinbeck. Ở chương cuối của
luận án, trên cơ sở những ý nghĩa biểu trưng của cổ mẫu đất và nước trong kho
tàng văn hóa dân gian, chúng tôi tìm kiếm và khám phá những biến thể của hai cổ
mẫu này, từ đó, hướng đến phân tích diễn ngôn sinh thái trong tiểu thuyết John
Steinbeck. Qua đó, luận án chỉ ra đóng góp của nhà văn đối với khu vườn cổ mẫu
văn chương của nhân loại và tiếng nói sinh thái tiến bộ, mới mẻ của John Steinbeck
trong thời kì bất ổn xã hội cùng với những thảm họa môi sinh.
4.1. Cổ mẫu đất và nước trong văn hóa dân gian
Có thể nói rằng, đất và nước là những cổ mẫu ban sơ nhất trong kho kinh
nghiệm tinh thần của nhân loại, là nền tảng của tâm thức con người từ ngàn xưa.
Chúng thường xuyên được tái xuất hiện, có lúc riêng rẽ song có lúc kết hợp với
nhau, trong thần thoại, truyền thuyết, truyện kể dân gian và các thể loại văn học về
sau với hệ thống biến thể phong phú và đa dạng. Tương tự như các cổ mẫu khác,
ý nghĩa biểu trưng của cổ mẫu đất và nước trong các nền văn hóa cổ xưa thường
mang tính cách hai chiều đối nghịch, là cội rễ của sự sống và là nguồn cơn dẫn đến
sự chết, có khả năng tạo lập và cũng có sức mạnh hủy diệt. Theo Từ điển biểu
tượng văn hóa thế giới, cùng là gốc của vạn vật, song khác với đất là nguồn cội
sản sinh ra các hình dạng sống, nước xuất hiện trước sự hình thành vũ trụ. “Nước
là cái khối lượng chưa phân hóa, đất biểu thị những mầm móng phân biệt. Các chu
116
kì của nước bao gồm những thời kì dài hơn các chu kì của đất trong cuộc tiến hóa
chung của Vũ trụ” [84,288].
Xuất phát từ hai chiều cạnh đối lập gần gũi với cổ mẫu mẹ, đồng thời mọi
động vật cái đều mang bản chất của đất và nước, đất và nước trong văn hóa dân
gian của nhiều cộng đồng thường được nhân cách hóa như những vị nữ thần. Trong
tín ngưỡng của người Hi Lạp cổ, nữ thần Gaia là đất mẹ của muôn loài, đồng thời
cũng là nơi an nghỉ của mọi sinh linh khi chúng khép lại cuộc dạo chơi trên mặt
đất ngập tràn ánh sáng để bước vào một đời sống khác ở một thế giới khác. Điều
đó có nghĩa là Gaia vừa là khởi đầu, vừa là chung cuộc của sự sống. Đối với các
nền văn minh cổ đại ở châu Mỹ, nữ thần đất cũng nắm giữ vai trò quan trọng trong
việc duy trì và kết thúc sự sống. Người Aztec cho rằng đất “là Mẹ Nuôi cho ta sống
bằng thực vật của mình; nhưng ngược lại, bà đòi những người chết để bản thân bà
ăn và, theo nghĩa đó, bà có bản chất hủy diệt” [84,288]. Với người Maya, đất là vị
nữ thần “chủ trì công cuộc sinh đẻ, chủ trì cội nguồn của mọi sự vật, chủ trì bước
khởi đầu của sự hình thành thế giới” [84,288].
Mở đầu Kinh Thánh, một trong những văn bản thiêng liêng nhất của nhân loại,
là câu chuyện Thiên Chúa sáng tạo trời đất vào buổi hồng hoang. Ngài tạo ra ngày,
đêm, trời, đất, biển. Đất sản sinh thảo mộc, gia súc, dã thú cùng mọi sinh vật trên
mặt đất. Sau đó, vào ngày thứ sáu, Thiên Chúa tạo ra con người mang hình dáng
của Ngài từ bụi đất và trao cho con người làm “bá chủ mặt đất”. Song, Ngài cũng
không quên căn dặn rằng: “Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn, cho đến
khi trở về với đất, vì từ đất, ngươi đã được lấy ra. Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với
bụi đất” [115,36]. Huyền tích này đã được tái sinh trong những ca từ đậm màu sắc
hiện sinh của bài hát Cát bụi: “Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi/Để một mai tôi về làm
cát bụi” (Trịnh Công Sơn). Như thế, sự hiện diện của cổ mẫu biểu trưng đất trong
các tín ngưỡng tôn giáo cổ, trong kho tàng folklore của nhân loại, trong các huyền
thoại và nghi lễ tuy có những biểu hiện khác nhau ít nhiều song đều hướng tới hai
bình diện nguồn sống và sự hủy diệt của đất, đồng thời thể hiện mối quan hệ thiêng
liêng và bền chặt giữa con người với đất và rộng hơn là giữa con người với thế giới
tự nhiên. Trong đó, con người chỉ là một bộ phận nhỏ thuộc tổng thể lớn lao. Yêu
thương, tôn trọng, săn sóc đất đai/tự nhiên, đấy là bổn phận của mỗi người.
Cùng với cổ mẫu đất, nước không chỉ là yếu tố quan trọng hàng đầu trong tự
117
nhiên mà còn là một trong những cổ mẫu sơ khởi của hầu hết các nền văn hóa, văn
học cổ đại. Trong những huyền thoại, truyền thuyết cổ xưa nhất, ý nghĩa biểu trưng
của cổ mẫu nước thường quy tụ ở những chủ đề lớn như: nguồn sống, sự thanh tẩy,
tính nữ, sự tái sinh, sự linh hoạt và tai họa. Nước mang những đặc tính vật lí tuyệt
đẹp như thanh khiết, mềm mại, khiêm nhu, xuyên thấu, uyển chuyển, biến hóa và
chuyển động không ngừng. Vì vậy, triết gia phương Đông nổi tiếng là Lão tử say
mê nước. Ông cho rằng nước “có đức sinh hóa, tự sinh tự hóa, và sinh hóa mọi
loài”, nước tuy “mềm yếu” mà có thể thắng được những vật cực cứng [138]. Mang
sức mạnh vô biên, nước là khởi đầu của mọi khởi đầu, là nguồn cội của sự sống.
Dựa trên niềm tin cổ xưa rằng vũ trụ được tạo nên từ những vùng nước nguyên
thủy, truyền thống Do Thái và Kitô giáo cho rằng ý nghĩa biểu trưng đầu tiên của
nước là khởi đầu cuộc sáng tạo thế giới. Mở đầu Sáng thế kí, nước xuất hiện cùng
với Thần Đức Chúa Trời tạo lập nên vũ trụ: “Thần Đức Chúa Trời vận hành trên
mặt nước”, “Đức Chúa Trời đặt tên chỗ khô cạn là đất, còn nơi nước tụ lại là biển”,
Ngài lại phán rằng: “Nước phải sanh các vật sống cho nhiều” [115,32]. Thần thoại
Ấn Độ tiết lộ bước sơ khởi của vũ trụ và thế gian ngập tràn bóng tối, chỉ có nước
mênh mông, sau đó, nước sản sinh ra mặt trời, tiếp đó những vị thần đầu tiên là
Trời và Đất xuất hiện. Trong thần thoại Hi Lạp, nước biểu trưng cho sức mạnh bất
khả chiến bại, sự tái sinh và sự trừng phạt qua hình tượng dòng sông Styx. Achilles,
con trai của nữ thần biển cả Thetis và là một trong những vị anh hùng vĩ đại nhất
của thần thoại Hi Lạp, đã được mẹ nắm hai gót chân nhúng xuống sông Styx để
trở nên bất tử như những vị thần. Sông Styx cũng là nơi chứng kiến lời thề của 12
vị thần trên đỉnh Olympus và sẽ trừng phạt những ai làm trái lời thề. Thần thoại
sáng thế của người Mỹ bản địa cũng đề cao ý nghĩa thanh lọc và nguồn sống của
cổ mẫu nước. Người Lakota thường truyền tai nhau câu chuyện về trận lụt thanh
tẩy và phục hồi hành tinh. Người Cheyenne tin rằng thuở ban đầu thế gian chìm
trong vũ trụ nước và Rùa Bà đã cõng trái đất từ dưới đáy lên trên lưng của nó.
Trong truyền thuyết của nhiều tôn giáo và dân tộc trên thế giới, nước còn có
thể nhấn chìm, nuốt chửng, tàn phá, gây ra chết chóc kinh hoàng mà ví dụ điển
hình là những trận Đại hồng thủy. Sáng thế kí kể lại câu chuyện tạo dựng trời đất,
loài người của Đức Chúa Trời. Song, khi loài người ngày một đông hơn và trở nên
hung ác, tha hóa, bại hoại, Ngài tự trách mình đã tạo ra loài người và tìm cách hủy
118
diệt chúng bằng một trận lụt tàn khốc. Mưa lớn ròng rã 40 ngày đêm, nước dâng
liên tục 157 ngày. Mọi loài từ con người đến muông thú, côn trùng, chim trời ở
trên mặt đất đều chết hết, ngoại từ gia đình Noah cùng các loài vật trên con tàu
Noah được sống sót nhờ ơn Chúa. Ở Việt Nam, sự tích Quả bầu mẹ và sử thi Đẻ
đất đẻ nước thấp thoáng bóng dáng cổ mẫu nước với biến thể là nạn lụt: sau khi
đại hồng thủy chấm dứt, chỉ có hai người may mắn sống sót, một nam một nữ, họ
buộc phải lấy nhau để duy trì dòng giống [16]. Như thế, nước mà biến thể của nó
trong trường hợp này là nạn lụt, có chức năng trừng phạt những kẻ có tội, bại hoại
và tha hóa nhưng không thể làm hại những người chính trực, lương thiện. Ngoài
ra, tương tự như cổ mẫu đất, nước cũng có tính cách hai chiều đối nghịch, vừa là
kẻ hủy diệt vừa là đấng tái sinh.
Trong lĩnh vực tâm lí học, nước và đất còn biểu trưng cho những năng lượng
vô thức, những nguồn sức mạnh vô hình, những xung năng thầm kín của con người.
Jung cho rằng nước là biểu trưng chung nhất của vô thức [26]. Gaston Bachelard
xem xét đất và nước như những nguyên tố cơ bản của sự sống và trí tưởng tượng
cùng với lửa và không khí. Luận điểm này được đề xuất trong những công trình
nghiên cứu nổi tiếng của ông: Nước và những giấc mơ (Water and Dreams, 1942),
Đất và mặc tưởng ý chí (Earth and Reveries of Will – An Essay on the Imagination
of Matter, 1948), Đất và mặc tưởng trầm tư (Earth and Reveries of Repose – An
Essay on Images of Interiority, 1948) [139], [140],[141]. Trong đó, Bachelard cho
biết nước hiện diện như một thực thể hoàn chỉnh với thể xác, linh hồn và tiếng nói
biến hóa không ngừng, kết tinh những ý nghĩa biểu trưng như sự thanh khiết, tù
đọng, tính nam, tính nữ, im lìm, quyền uy, hung bạo. Bachelard cũng nhấn mạnh
tính hai mặt của nguyên tố đất: hướng nội và hướng ngoại, mềm và cứng, kiên định
và tĩnh lặng. Do vậy, vai trò của đất và nước đối với sự sống cũng mang tính chất
đối nghịch, kiến tạo và duy trì sự sống, đồng thời gây ra sự hủy diệt, chết chóc.
4.2. Biến thể của cổ mẫu đất và nước trong tiểu thuyết John Steinbeck
4.2.1. Khát vọng sinh tồn và tình yêu thiên nhiên của con người qua cổ mẫu đất
John Steinbeck là một trong số ít những tiểu thuyết gia người Mỹ hiện đại gắn
bó mật thiết với nông thôn, với đời sống thôn dã ở miền Tây nước Mỹ. Ông sinh
ra và lớn lên tại California, một vùng đất trù phú, núi non hiểm trở, những cánh
đồng bạt ngàn, hàng trăm dặm bờ biển trải dài quyến rũ và thường xuyên bị bao
119
phủ bởi một lớp sương mù. Đây cũng là vùng đất có lịch sử lâu đời, nơi những
người da đỏ sinh sống hàng chục thiên niên kỉ trước khi những người châu Âu đặt
chân đến. Khác với các nhà văn Mỹ cùng thời như F. Scott Fitzgerald, Ernest
Hemingway có những năm tháng tuổi trẻ sôi động, xa xứ ở Paris hoa lệ, John
Steinbeck gắn bó với miền Tây nước Mỹ, với đất đai, biển cả và những người lao
động nghèo khổ, giàu hi vọng. Ngoài ra, trong số các nhà văn Mỹ cùng thời, chỉ
có John Steinbeck sống đủ lâu để trải qua những năm 1960 đầy biến động với
những vấn đề nghiêm trọng mà ngày nay nhân loại vẫn đang phải đối mặt, đó là
nạn chuyên chế chính trị, bất bình đẳng kinh tế và sự tàn phá môi sinh [2]. Chính
những trải nghiệm nông thôn trong những năm tháng tuổi trẻ cơ cực của John
Steinbeck đã giúp nhà văn sáng tạo nên những kiệt tác về nỗi đau khổ của con
người, đặc biệt là những cá nhân yếu thế, bên lề xã hội, bộ phận chịu tác động dữ
dội của thời kì Đại suy thoái, của tình trạng bất ổn sau các cuộc Thế Chiến. Và
cũng chính gốc gác nông thôn đã góp phần nuôi dưỡng tình yêu đối với đất đai,
thiên nhiên trong trái tim chàng trai trẻ John Steinbeck. Không phải ngẫu nhiên khi
những sáng tác đầu tay của nhà văn người Mỹ này lại hướng về chủ đề đất đai, đặc
biệt là mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, để rồi trong những sáng tác thuộc
thời kì văn nghiệp vững vàng về sau bên cạnh những chủ đề lớn khác, đất vẫn là
mối quan tâm đau đáu của ông.
Cổ mẫu đất hiện diện trong tiểu thuyết John Steinbeck trước hết với đặc trưng
nguồn sống, biểu trưng cho khát vọng sinh tồn của những người lao động nghèo
khổ, thua thiệt. Những tác phẩm như Gửi vị thần chưa biết, Của chuột và người,
Chùm nho phẫn nộ, Phía đông vườn địa đàng phần lớn lấy bối cảnh nông thôn, đó
là những vùng quê hẻo lánh, những trang trại mênh mông, những vườn cây ăn trái
sum sê. Của chuột và người mở ra với khung cảnh thiên nhiên đầy sức sống: “Ở
một bên sông, những dốc thoải vàng rực dưới chân đồi vươn lên thành dãy núi đá
Gabilan hùng vĩ… cây cối mọc ven bờ nước – mỗi khi xuân đến hàng liễu lại xanh
tươi” [90,9], trái ngược với số phận long đong của các nhân vật trong truyện. Dãy
núi đá Gabilan tiếp tục hiện diện trong phần mở đầu của Phía đông vườn địa đàng
với vẻ đẹp tươi sáng và ấm áp cùng với quang cảnh thung lũng Salinas bao la, màu
mỡ, ngập tràn muôn sắc hoa: “Trên các mẫu đất rộng của thung lũng, lớp đất mặt
nằm sâu và màu mỡ. Chỉ cần một mùa đông mưa nhiều, cỏ và hoa sẽ trồi lên. Hoa
120
xuân vào một năm ẩm ướt nhiều vô kể. Toàn bộ đáy thung lũng và cả chân đồi sẽ
được trải thảm bằng hoa lupin và anh túc” [91,8]. Vẻ đẹp giàu sức sống của đất đai
cũng biểu trưng cho ý nghĩa tái sinh, kết thúc một thời kì khó khăn và mở ra một
tương lai tốt đẹp hơn. Điều này được biểu hiện qua khung cảnh thiên nhiên hồi
sinh sau trận lụt ở cuối tác phẩm Chùm nho phẫn nộ: “Những mầm cỏ non bé xíu
bắt đầu chọc đất ló ra và chỉ trong mấy ngày, các quả đồi nay đã khoác màu xanh
cùng với năm mới đang bắt đầu” [85,695].
Ở một số tiểu thuyết khác của John Steinbeck, ý nghĩa biểu trưng nguồn sống
của đất đai còn được thể hiện qua niềm ao ước của nhiều nhân vật về việc sở hữu
một mảnh đất nho nhỏ, một nơi an toàn, nơi họ có thể tạo dựng một thiên đường
trên mặt đất, có thể tận hưởng một cuộc sống giản dị, hạnh phúc. Đó là giấc mộng
của những gã lang thang khốn khổ trong Của chuột và người: “mình sẽ mua căn
nhà nhỏ với hai mẫu đất” [90,30], “mình sẽ có một vườn rau lớn, một chuồng thỏ
và đàn gà” [90,31], “mình có thể sống nhờ đất màu mỡ” [90,99], “đó là nơi của
mình, hổng ai có thể cấm mình” [90,100]. Với những nhân vật nghèo khổ trong tác
phẩm của John Steinbeck, chỉ cần có một miếng đất nho nhỏ là đủ để có thể trồng
trọt, nuôi sống bản thân và gia đình. Đất đai đối với họ là nguồn sống, là biểu trưng
cho khát vọng sinh tồn, là cơ may duy nhất để họ có thể sống sót và vượt qua thời
buổi kinh tế khủng hoảng.
Chủ đề về tình yêu đất đai, mối liên hệ gắn bó mật thiết giữa con người và
vùng đất được John Steinbeck khám phá qua nhiều tiểu thuyết, từ những tác phẩm
đầu tay đậm đặc yếu tố huyền thoại như Gửi vị thần chưa biết, đến những tiểu
thuyết phản kháng xã hội như Của chuột và người hay Chùm nho phẫn nộ, đến
những sáng tác sau cùng đầy tính chiêm nghiệm như Phía đông vườn địa đàng. Gửi
vị thần chưa biết là câu chuyện về nỗ lực bảo vệ đất của nhân vật Joseph Wayne.
Joseph vốn là một người yêu mến đất đai và những sinh linh cư trú trên mặt đất.
Bằng linh cảm về sự kết nối giữa bản thân và đất, Joseph rời bỏ trang trại Vermount
khô cằn ở phía đông để đến California, nơi có những thung lũng màu mỡ. Khi nhìn
thấy cảnh quan phì nhiêu này, một dòng suối nóng bỏng của tình yêu trào dâng trong
trái tim Joseph. “Có lòng trắc ẩn với cỏ cây và hoa lá trong con người anh; anh cảm
thấy rằng cây cối là con anh và đất cũng là con anh. Trong một phút chốc, anh như
đang lơ lửng trên không trung và nhìn xuống đất. ‘Đất là của tôi’, anh lại nhủ, ‘và
121
tôi phải bảo vệ nó’” [121,7]. Tình yêu mà Joseph dành cho đất giống như tình cảm
trìu mến, ấm áp của một người cha đối với con, của Thiên Chúa dành cho loài người.
Trên hành trình khám phá mối liên kết đặc biệt này, Joseph gặp gỡ những
người dẫn đường, những người giúp đỡ anh hiểu biết về đất đai. Tiêu biểu là nhân
vật Juanito, một người Mỹ bản địa, Juanito đã khai mở nhận thức của Joseph về
bản tính hai mặt vừa là nguồn sống, vừa là sự hủy diệt của đất: “trái đất là bà mẹ
của chúng ta, mọi sinh linh có sự sống từ mẹ đất và cuối cùng sẽ trở về với đất mẹ”
[121,18]. Sở dĩ John Steinbeck lựa chọn nhân vật trợ giúp cho nhân vật chính của
thiên truyện là người Mỹ da đỏ bởi vì đối với cộng đồng da đỏ, đất đai hay thiên
nhiên là “bà mẹ lớn nuôi dưỡng họ, đồng thời họ là một phần của thiên nhiên” [DT
142]. Nhờ vậy, Joseph dần dần gắn kết chặt chẽ và hiểu biết sâu sắc về vùng đất,
anh vui mừng khi nhận ra “bản chất của anh và bản chất của đất là một” [121,72].
Niềm tin này một lần nữa được tái khẳng định trong giờ phút cận kề cái chết của
Joseph, cũng là lúc anh hiểu rằng con người và thế giới tự nhiên là một thể thống
nhất, hài hòa, cân bằng: “Tôi là đất… và tôi là mưa. Cỏ sẽ mọc ra từ tôi trong chốc
lát” [121,179]. Để cứu đất thoát khỏi trận hạn hán, Joseph đã tiến hành các nghi lễ
hiến tế: anh giết một con bê để lấy máu cứu sống đất đai song thất bại, dòng suối
ngày càng cạn kiệt, cuối cùng anh lấy máu của chính anh để mang mưa đến tái sinh
vùng đất. Bằng cách hi sinh cuộc sống của mình, Joseph đã đem đến cuộc hồi sinh
cho thế giới tự nhiên mà anh hằng yêu quý. Sự hi sinh của Joseph gây ấn tượng
mạnh mẽ không phải chỉ vì tính chất thần bí và thiêng liêng của nó mà còn đặt ra
những vấn đề sinh thái, mối quan tâm của các nhà sinh thái học bề sâu nổi lên sau
khi tác phẩm của John Steinbeck ra đời đã khá lâu. Theo đó, sự hợp nhất giữa con
người và các lực lượng trong tự nhiên là điều khả thể dẫu trong bối cảnh xã hội
hiện đại khốc liệt [143]. Cố nhiên, câu chuyện của Joseph đã tiết lộ mối gắn kết
sâu sắc giữa con người với đất, đồng thời thể hiện niềm tôn kính của nhà văn John
Steinbeck đối với tự nhiên, ý tưởng được chia sẻ bởi rất nhiều nhà sinh thái học.
Chủ đề này tiếp tục được trình bày trong Phía đông vườn địa đàng qua thái độ trân
trọng, yêu mến vùng đất của ông Samuel Hamilton, một người nông dân lương
thiện, hiểu biết. Mặc dù sở hữu một vùng đất khô cằn, lớp đất mặt mỏng mảnh,
nhưng Samuel vẫn gắn bó mật thiết với nơi đây. Tình yêu đất đai tha thiết của ông
được thể hiện qua lời bộc bạch của ông với Adam rằng: “Tôi yêu từng viên đá sỏi,
122
yêu lớp đất cằn cỗi không có nước đó. Tôi tin rằng trong đó vẫn chứa sẵn sự sung
túc” [96,176]. Vì vậy, Samuel không tránh khỏi cảm giác bịn rịn về đất đai vườn
tược khi ông quyết định cùng vợ thực hiện một chuyến đi xa, cũng là chuyến đi
duy nhất và cuối cùng trong suốt cuộc đời làm lụng vất vả của ông. “Ông ngắm
nghía thật kĩ từng ngọn núi, từng gốc cây, từng khuôn mặt thân quen như muốn
ghi nhớ vĩnh viễn” [96,169].
Bằng cách tái sinh cổ mẫu đất, John Steinbeck đã khẳng định vai trò quan
trọng của đất đai/tự nhiên đối với cuộc sinh tồn của con người, đặc biệt là những
người lao động nghèo khổ. Khát vọng sở hữu một mảnh vườn nho nhỏ để cày cuốc
đặng nuôi sống bản thân và gia đình trong thời kì đói khát là ước mơ bình dị của
hầu hết các nhân vật trong tiểu thuyết của John Steinbeck. Khát vọng ấy tựa như
đốm lửa lấp lánh trong đêm tối dẫn dắt họ tiến lên phía trước, hướng đến một ngày
mai tươi đẹp hơn. Bên cạnh đó, sự gắn kết giữa con người và đất đai trong nhiều
tác phẩm của Steinbeck còn thể hiện tình yêu thiên nhiên sâu sắc, mong cầu thoát
khỏi đặc tính rập khuôn, máy móc của nền văn minh hiện đại của những người Mỹ
giàu lương tri.
4.2.2. Sự hủy diệt và niềm hi vọng tái sinh qua cổ mẫu nước
Tương tự cổ mẫu đất, nước trong tiểu thuyết John Steinbeck, với các biến thể
tiêu biểu của nó là biển, sông, suối, ao hồ, mưa, lụt (xem thêm phụ lục 5), cũng
nắm giữ chức năng kép, vừa là nguồn sống vừa là nguồn chết, là biểu tượng của
khả năng sinh sôi nảy nở đồng thời cũng là biểu tượng của sự hủy diệt, là nơi chứng
kiến trạng huống cái chết và sự tái sinh diễn ra. Hơn thế, với John Steinbeck, cổ
mẫu nước không chỉ gắn liền với số phận của những người dân nghèo trong sáng
tác của ông mà còn là chìa khóa mở cánh cửa bước vào thế giới tự nhiên, đặc biệt
là thế giới sinh vật biển đa dạng, nơi nhà văn, nhà sinh vật học tìm thấy mối quan
hệ gắn kết giữa muôn loài trong vũ trụ rộng lớn.
Là một biến thể của cổ mẫu nước, dòng sông được tái hiện nhiều lần với nhiều
ý nghĩa biểu trưng khác nhau trong nhiều tiểu thuyết của John Steinbeck. Những
dòng sông trong Của chuột và người, Chùm nho phẫn nộ thường được miêu tả với
vẻ đẹp dịu êm, nước chảy trong veo, cùng với quang cảnh tươi xanh, đầy sức sống
hai bên sông. Đó là dòng Salinas “nước xanh và sâu thẳm”, cây cối mọc ven bờ
nước xanh tươi. Trên nền cảnh thiên nhiên sông nước tươi đẹp mở đầu tác phẩm,
123
hai nhân vật chính của câu chuyện, George và Lennie, hiện ra. Họ dừng lại bên
vũng nước xanh để xoa dịu cơn khát, để tận hưởng một đêm yên bình, hòa mình
cùng thiên nhiên trước khi bước vào chuỗi ngày khuân vác mệt nhọc. Song, cũng
chính tại nơi yên bình, an toàn này, trong phần cuối tác phẩm, lại là nơi những cái
chết hiện diện: cái chết của loài vật và cái chết của con người. Bên dòng nước xanh
thẳm, một con chim diệc cao lớn phóng đầu và mỏ xuống vũng nước nuốt lấy con
rắn nước nhỏ đang vùng vẫy trong cơn hoảng loạn. George hướng Lennie chú ý
đến một quãng xa bên kia sông, kể cho hắn nghe về mảnh đất trong mộng tưởng
của họ, rồi rút súng bắn vào gáy Lennie, “Lennie giật tung mình, rồi từ từ gục
xuống bãi cát phía trước” [90,175]. Cái chết của con rắn nước là hệ quả của quy
luật sinh tồn tất yếu trong tự nhiên. Nhưng cái chết của Lennie lại là một bi kịch
bất khả kháng. Để bảo vệ Lennie, George buộc phải tự tay giết chết người anh em
của mình, điều đó cũng đồng nghĩa với việc anh ta tự giết chết cái bóng của chính
mình. Như thế, Lennie hay phần bản năng ngây thơ, vô tội của George không có
chốn dung thân trong môi trường xã hội hiện đại khắc nghiệt.
Bên cạnh đó, dòng sông trong tiểu thuyết của John Steinbeck còn mang ý
nghĩa biểu trưng cho cõi hoang dã, nơi con người được tái sinh, được trở về với
bản thể. Đó là dòng sông Colorado nước chảy trong veo xuyên qua bãi lau sậy
xanh tươi, nơi đây là điểm dừng chân của nhà Joad và đoàn người di tản trước khi
băng qua sa mạc để đến đất hứa California. Dòng nước mát dịu của nó không chỉ
gột rửa sạch bụi bặm và mệt mỏi mà đám đông di tản phải chịu đựng trong những
ngày rong ruổi trên đường cái mà còn đánh thức, chuyển hóa tinh thần của những
người đàn ông trong nhà Joad. Đó là nơi đàn ông họ Joad được thanh tẩy, với
những người như Pa Joad, chú John hay Tom, đó là một sự gột rửa, khép lại những
năm tháng yên ổn ở quê nhà để chính thức bước vào một cuộc đời mới mẻ và lạ
lẫm nơi đất khách quê người. Riêng với Noah, dòng nước này có một ý nghĩa đặc
biệt. Vẻ đẹp yên bình, thanh khiết của nó thôi thúc anh chia lìa gia đình, người thân
đương lúc khó khăn để ở lại bên con sông, “sống mãi mãi ở nơi đây” mà không
bao giờ sợ đói hay buồn chán [85,319].
Noah là con trai cả của nhà Joad được đặt tên theo tên của nhân vật sống sót
sau sự kiện Đại hồng thủy trong Kinh Thánh. Khác với các em của mình, anh là
một người kì lạ nhưng không ngốc nghếch. Sự xa lạ của anh được người kể mô tả
124
là kì cục, dị dạng và ngang ngược: “Anh không ngốc, nhưng lạ lùng”, “không tự
ái và cũng không có chút ham muốn nhục dục”. Vẻ ngoài của anh gây chú ý với
đôi mắt quá cách xa nhau. Anh dửng dưng với tất cả và là kẻ xa lạ với thế giới bên
ngoài, nhưng không thấy lẻ loi [85,124]. Thomas Fahy, trong nghiên cứu Freak
Shows and the Modern American Imagination: Constructing the Damaged Body
from Willa Cather to Truman Capote (Những cuộc biểu diễn kì quặc và trí tưởng
tượng của người Mỹ hiện đại: Xây dựng nhân vật bị tổn thương từ Willa Cather
đến Truman Capote, 2006), xuất phát từ những mô tả của người kể chuyện trong
tiểu thuyết, cho rằng Noah bị “khuyết tật” và điều đó đe dọa khả năng sống sót và
tồn tại của anh ta trong bối cảnh Đại suy thoái [144,93]. Song, những lời nói và
hành động của Noah trong tác phẩm lại thể hiện sự xa lạ của anh với thế giới xung
quanh hơn là vẻ ngoài lạ thường của anh. Mặc dù các thành viên khác trong nhà
Joad đều yêu quý Noah, đặc biệt là Pa Joad, người luôn đối xử dịu dàng với anh vì
cảm giác xấu hổ và tội lỗi mà ông bố phải đối diện mỗi khi nom thấy đứa con trai
đầu lòng, nhưng Noah hờ hững với tất cả, anh “nói năng ít và chậm rãi khiến những
người không quen biết anh thường tưởng tượng anh đần si” [85,123-124]. Anh
sống một đời sống lạ lùng, lặng lẽ và bình thản hoàn toàn trái ngược với người em
trai là Tom, luôn nhiệt tình và năng động. Ronald Fields cũng chú ý đến tính cách
lưỡng phân ở Noah khi anh khiến những người xung quanh có cảm giác vừa thoải
mái vừa khó xử. Vẻ kì lạ của Noah tượng trưng cho sự cách biệt giữa hai thế giới:
nông thôn/tự nhiên và thành thị/văn minh [145].Vì vậy, ở trong nhà Joad, Noah
chưa bao giờ sống một cuộc đời đích thực, anh tồn tại ở trạng thái chết-lúc-đang-
sống.
Quyết định ở lại bên con sông của Noah là lựa chọn thoát khỏi xã hội văn
minh để trở về với thế giới tự nhiên. Vậy là, Noah - kẻ xa lạ, được tái sinh nhờ sự
thức tỉnh của thiên nhiên hoang dã. Vững tin vào khả năng tự xoay sở của bản thân
trong môi trường tự nhiên, Noah bỏ đi dọc theo con sông Colorado và cắt đứt mối
ràng buộc giữa anh với xã hội văn minh. Theo đó, sự xa lạ của nhân vật này xuất
phát từ chỗ anh ta chỉ quan tâm đến bản thân và thờ ơ với người khác, chứ không
hoàn toàn vì diện mạo kì cục của anh. Điều này đã được người kể chuyện thông
báo ở phần đầu tác phẩm, rằng “chẳng có gì khiến anh quan tâm” [85,124]. Với
Noah, việc ở lại bên gia đình như một thành viên của xã hội văn minh, hiện đại sẽ
125
chỉ mang lại đau khổ, đói khát và sau cùng là cái chết [145], vì vậy, anh lựa chọn
một giải pháp mạo hiểm và có phần ích kỉ, đó là đi theo con đường của riêng anh
với niềm hi vọng tái sinh bên dòng sông Colorado. Trong khi gia đình của Noah
phải đối diện với đói khát và lũ lụt, Noah đã vượt ra ngoài chuẩn mực đạo đức của
cộng đồng, tuân theo bản năng khác thường của bản thân, song chính điều đó lại
có thể đảm bảo sự an toàn và khả năng sống sót của anh ấy [145]. Khác với nhân
vật trong huyền thoại, sự bình yên và khả năng sống sót của Noah không phụ thuộc
vào một đấng thánh linh mơ hồ mà dựa vào chính khả năng thức tỉnh và chọn lựa
của anh. Tất nhiên, Steinbeck không mang đến một câu trả lời cụ thể cho người
đọc, tương lai của Noah sẽ như thế nào, anh ta sẽ sống sót hay chết trong cô độc.
Cả hai khả năng này đều có thể xảy ra như chính sự biến hóa khôn lường của dòng
sông cuộc đời.
Bên cạnh biến thể dòng sông, ý nghĩa biểu trưng cho sự hủy diệt và niềm hi
vọng tái sinh của cổ mẫu nước còn được tô đậm trong kiệt tác Chùm nho phẫn nộ
qua các biến thể dòng suối và đặc biệt là trận lụt ở cuối tác phẩm. Đó là dòng suối
nhỏ, nơi người hùng Casy đã ngã xuống trong sự thắng thế của cái ác và sự bất
công. Cũng tại nơi đây, cái chết oan ức của Casy đã đánh dấu sự chuyển mình của
người hùng Tom Joad. Trong phần đầu của tiểu thuyết, tâm trí Tom chỉ hướng về
gia đình, những người thân yêu của anh với niềm mong mỏi được đoàn tụ sau nhiều
năm xa cách. Vì vậy, những bài thuyết giảng chân thành của mục sư Casy hầu như
không lắng đọng trong tâm trí Tom: “Anh chẳng để ý gì đến bài nói của ông mục
sư, tưởng chừng đó là chuyện riêng tư mà người khác chẳng phải suy xét” [85,92-
93]. Thế nhưng, trải qua những thử thách, mất mát trên hành trình đến miền đất
hứa cùng với gia đình và đặc biệt là sự kiện cái chết của Casy, nhân vật Tom đã có
một sự chuyển hóa tinh thần rất lớn. Như nhận định của Sam Bluefarb, Casy phải
chết để Tom được tái sinh, đó cũng là motif quen thuộc trong văn chương nhân
loại [56]. Sau khi trả thù cho Casy, Tom phải ẩn nấp trong hang tối được che phủ
bởi bụi rậm và một lùm cây dâu dại để tránh làm phiền lụy đến những người thân.
Hang là “mẫu gốc của hình ảnh tử cung của người mẹ”, hiện diện trong những
huyền thoại về sự phát sinh, phục sinh và khai tâm” [84,380] của rất nhiều dân tộc
trên thế giới. Với các đặc tính trung tâm, liên thông trời-đất, gắn liền với cái vô
thức, hang động là nơi chốn diễn ra một trạng huống đặc biệt của con người, nơi
126
con người trở thành chính mình và đạt được sự trưởng thành. Trong những ngày
đêm Tom ẩn nấp đơn độc nơi hang tối, những bài nói liên chi hồ điệp của Casy
vọng về khiến anh nghĩ suy, tưởng nhớ, nghiền ngẫm và nhận ra chân lí giản dị
của mọi thời đại: “một cây làm chẳng nên non” [85,669], tự nhủ chuyện gì sẽ xảy
ra khi tất cả những kẻ đói khổ cùng đoàn kết lại và bắt đầu tranh đấu. Vì vậy, Tom
quyết định ra đi để tiếp tục thực hiện sự nghiệp dang dở của Casy. Nghĩa là từ một
người nông cạn, thật thà, có đôi chút nóng nảy, Tom đã chuyển hóa để trở thành
một người có lí tưởng, khát vọng đẹp đẽ và biết cách để hiện thực hóa điều đó.
Như thế, thay vì tiếp tục trốn chạy hoặc thỏa hiệp với tình trạng bị đối xử bất công,
Tom Joad đã trả thù cho Casy và quyết định tiếp tục con đường tranh đấu mà ông
ta đã khởi xướng.
Hay ở một biến thể mạnh mẽ khác, trận lụt lịch sử ở cuối truyện, nhiều nhà
nghiên cứu cho rằng Steinbeck được gợi hứng từ huyền thoại Đại hồng thủy trong
Kinh Thánh. Song khác với ý nghĩa trừng phạt tội ác của loài người và cơn phẫn
nộ của Đức Chúa Trời trong huyền tích xưa, trận lụt trong kiệt tác của John
Steinbeck mang ý nghĩa biểu trưng cho trạng huống bi đát và phi lí mà con người
thời hiện đại phải đối diện. Những người nông dân nghèo khổ trong câu chuyện
của John Steinbeck tìm đến đất hứa California với mong cầu một cuộc sống tốt đẹp
hơn nơi quê nhà. Song lời hứa hẹn ấy đã sụp đổ khi họ liên tục bị đối xử bất công,
bị khinh miệt và xua đuổi, mất mát và khổ đau vẫn tiếp tục đeo bám họ. Đứa con
của Rosasharn chết ngay khi vừa ra đời giữa trận lụt kinh hoàng. Thay vì được
chôn cất tử tế, xác của nó được chú John thả xuống dòng nước xoáy mạnh để “nói
cho chúng rõ”, để “thối rữa giữa đường cái” cho chúng mở mắt [85,715], là lời tố
cáo đanh thép và xót xa cho những bất công mà những người di tản phải gánh chịu.
Ngoài ra, trong Kinh Thánh, Noah và gia đình ông là những người duy nhất sống
sót sau trận lụt nhờ sự giúp đỡ của Chúa, song gia đình Joad và những người di tản
vượt qua cảnh ngập lụt mà không có bất cứ một sự trợ giúp nào từ bên ngoài.
Nguồn sức mạnh của họ đến từ bên trong, gia đình họ dù có mất mát vẫn ở bên
cạnh nhau và đặc biệt là niềm tin, niềm hi vọng mãnh liệt của những người như
Ma Joad rằng: “Mọi việc sẽ ổn thỏa. Sẽ có những thay đổi. Khắp nơi” [85,710].
Từ góc nhìn lạc quan, Miriam Pérez Veneros tin rằng trận lụt trong tác phẩm của
Steinbeck là biểu tượng của “hi vọng và sự hồi sinh”, “một khởi đầu mới”, “sự tái
127
sinh của vùng đất” [53,176]. Đồng thời, sự hiện diện của nước ở cuối tác phẩm đối
lập với sự thiếu vắng của nó ở đầu tác phẩm ngụ ý cho một cuộc sống mới, một sự
thức tỉnh mới. Song, chúng tôi cho rằng sự thể hiện của cổ mẫu nước trong phần
kết của câu chuyện là một biểu trưng kép, vừa là sự hủy diệt vừa là niềm hi vọng
tái sinh, vừa là tai họa vừa là điềm lành.
Trong Viên ngọc trai, cổ mẫu nước biểu hiện qua các biến thể: biển, dòng
suối, ao. Biển gắn bó mật thiết với đời sống của Kino và cộng đồng da đỏ, là nguồn
sống duy nhất và vô tận của họ, đồng thời biển cũng ẩn chứa bao điều bí mật và
những tai họa khôn lường. “Bãi biển phủ cát vàng, nhưng ở rìa nước thì toàn là vỏ
sò cùng rong rêu. Mấy con còng phì bong bóng lên từ những chiếc hố trên bờ cát,
trong vùng nước nông, những con tôm hùm bé xíu cũng thập thò ra vào hang hốc
của chúng giữa những rến rác và cát. Đáy biển vô vàn các loài sinh vật, đang bò,
đang bơi và đang sinh sống. Từng cụm tảo nâu đung đưa theo làn nước, mấy con
cá ngựa nhỏ xíu bám trên những ngọn cỏ biển xanh mướt rung rinh” [86,23]. Biển
đẹp đẽ, chứa đựng nguồn sống cho con người, song biển cũng có thể gieo mầm tai
ương. Điều này được ẩn ngụ qua biểu tượng viên ngọc trai, vật báu mà Kino may
mắn tìm thấy ở dưới lòng đại dương sâu thẳm. Ngỡ rằng viên ngọc sẽ đem đến
cuộc sống giàu sang, hạnh phúc cho gia đình Kino, nhưng sự thật là nó đã khơi dậy
lòng tham vật chất, vụ lợi ở Kino và những người xung quanh, là nguồn cơn gây
ra những mất mát, đau khổ cho Kino và gia đình anh. Trên đường chạy trốn bọn
săn người, gia đình Kino tìm đến khe nứt tối tăm nằm khuất sâu trong đỉnh núi với
hi vọng có nước uống và nơi an toàn để trú ẩn. Người kể chuyện cho biết dòng suối
rỉ ra từ khe nứt ấy bình thường “tuôn trào dòng nước mát lạnh, trong trẻo và đáng
yêu” nhưng khi mưa xuống nó có thể trở thành thác dữ hay khi khô hạn chỉ còn trơ
đá cuội. Chỗ nước chảy xuống đọng thành ao, là chốn cư ngụ của các loài vật,
muông thú khát nước tìm đến. “Vì có nước nên ao nhỏ là nơi sinh tồn và cũng vì
có nước mà nó là chốn tử địa” [86,112]. Nơi đây đã cứu giúp gia đình Kino qua
cơn khát cháy bỏng, trú ẩn khi màn đêm buông xuống, nhưng đây cũng là nơi Kino
giết chết mấy gã săn người và con trai anh cũng bị chúng bắn chết.
Bên cạnh đó, biển cũng là nơi chứng kiến sự chuyển hóa hay tái sinh về mặt
tinh thần của nhân vật chính. Biển là nơi đem đến cho Kino và gia đình viên ngọc
trai tuyệt thế. Kino rời xa biển và ngôi làng của anh để lên đường thực hiện giấc
128
mơ giàu sang và quyền thế, song điều anh nhận được lại là mất mát và chết chóc.
Cuối cùng, Kino cùng vợ quay trở về ngôi làng, đến bên bờ biển, ném trả viên ngọc
xuống biển sâu và điều anh đạt được là một sự chuyển hóa bên trong. Như nhận
định của Astro rằng Kino đã nhận ra sự vô nghĩa của thói vụ lợi và bản chất đồi
bại của sự giàu có, do đó, Kino lựa chọn “một cuộc sống tự nhiên lành mạnh như
là giải pháp thay thế thiết thực duy nhất” [DT 146,70]. Sự tái sinh về mặt tinh thần
của Kino cùng với người vợ được khắc họa như là một sự vượt qua tất cả kinh
nghiệm của loài người và đạt đến một trạng thái tồn tại cao hơn, thuộc về thế giới
thần thánh, sau tất cả những khổ đau và mất mát mà họ phải trải qua. “Ai nấy đều
bảo rằng họ không thuộc về loài người, rằng họ đã bước xuyên qua nỗi đau để tới
bờ bên kia, rằng họ được bảo bọc bởi quyền năng ma thuật” [86,123]. Cần lưu ý
rằng, nhân vật người hùng da đỏ của Steinbeck chỉ có thể đạt được sự tự do đích
thực khi anh ta trở về với cộng đồng, với ngôi làng chài và biển khơi. Chính tại nơi
chốn bình dị ấy, truyền thống gắn bó với biển cả và vạn vật của tộc người là động
lực lớn lao giúp nhân vật nhận thức đúng đắn về bản sắc cá nhân và cộng đồng.
Khi nghiên cứu cổ mẫu nước trong tiểu thuyết của John Steinbeck, chúng tôi
xét thấy ở hầu hết các trường hợp, nước đều biểu hiện qua các dạng thức cụ thể, là
biển, sông, suối, ao, mưa, lụt. Các biến thể của nước được nhà văn kiến tạo nên
những bối cảnh không gian hoặc các sự kiện quan trọng hình thành cốt truyện, tính
cách và số phận của nhân vật trong truyện. Thoát thai từ lớp lớp vô thức tập thể,
nước trong tiểu thuyết của John Steinbeck vẫn lấp lánh những nét nghĩa cơ bản của
mẫu gốc như nguồn sống, sự thanh tẩy, sự tái sinh, sự hủy diệt. Song, điểm đáng
lưu ý là nhà văn đã chuyển hóa cổ mẫu nước trên nền mẫu gốc để phản ánh số phận
bấp bênh, bi đát của những người nghèo trong xã hội Mỹ hiện đại, đồng thời gieo
mầm hi vọng, tin tưởng vào khả năng chịu đựng và vượt qua trạng huống khốc liệt
của họ.
4.3. Diễn ngôn sinh thái trong tiểu thuyết John Steinbeck qua cổ mẫu đất
và nước
4.3.1. Khủng hoảng sinh thái và số phận con người trong thời đại kĩ trị
Thế kỷ 20 được đánh dấu trong lịch sử nhân loại bằng hàng loạt những biến
động dữ dội trong đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường của các
quốc gia phương Tây lẫn phương Đông. Đó là những cuộc khủng hoảng kinh tế
129
gia tăng thêm khoảng cách giàu nghèo, những cuộc chiến tranh tàn khốc gây đổ vỡ
những giá trị truyền thống, những chấn động xã hội kéo theo hệ lụy là những chấn
thương tinh thần của con người hiện đại. Trong muôn vàn nỗi bất an, khủng hoảng
mà con người thời đại kĩ trị phải đối diện, khủng hoảng sinh thái là cuộc khủng
hoảng chưa từng xảy ra trong quá khứ. Đây là hệ quả tất yếu của những “cơn điên
tăng trưởng” thời hiện đại, của tham vọng và dục vọng quá trớn khiến con người
rời xa tự nhiên, chống lại quy luật tự nhiên và phải trả giá rất đắt. Hiện thực nhức
nhối ấy, trên bình diện nghệ thuật, trở thành nguồn chất liệu phong phú của văn
học, thách thức người sáng tạo tìm kiếm những phương thức biểu hiện mới mẻ.
Trong số những tiểu thuyết gia người Mỹ cùng thời, John Steinbeck là tác giả
sớm bộc lộ mối quan tâm đến các vấn nạn môi trường và tác động sâu sắc của cuộc
khủng hoảng sinh thái đến số phận những người lao động nghèo trong thời đại
khoa học kĩ thuật bùng nổ, công cuộc cơ giới hóa nông nghiệp diễn ra nhanh chóng
ở nước Mỹ. Trong tác phẩm Tôi, Charley và hành trình nước Mỹ, khi nhìn thấy sự
phát triển điên cuồng diễn ra khắp nơi, những chiếc xe ủi lạnh lùng san bằng cánh
rừng Seattle xanh mướt để lấy chỗ xây cất nhà chọc trời, Steinbeck đã thốt lên:
“Tôi tự hỏi sao mà sự tiến bộ lại giống với sự hủy diệt đến thế” [118,165]. Tuy
vậy, ý thức về mặt trái của sự tiến bộ đã sớm được nhà văn thể hiện ngay từ những
tiểu thuyết đầu tay và xuyên suốt sự nghiệp sáng tác hơn 30 năm của ông. Trong
đó, Steinbeck đặc biệt chú ý đến: khủng hoảng sinh thái tự nhiên, khủng hoảng
sinh thái xã hội, khủng hoảng sinh thái tinh thần và tác động khủng khiếp của chúng
đến số phận của những người lao động nghèo khổ. Thông qua những biến thể của
cổ mẫu đất và nước, cụ thể là thảm họa tự nhiên bão bụi và hạn hán kéo dài, tác
phẩm của Steinbeck đã khắc họa rõ nét trạng huống bi đát của con người trong thời
đại kĩ trị.
Thân phận bi thương của con người thời hiện đại được Steinbeck khám phá
qua cuộc khủng hoảng môi trường tự nhiên, đất đai bị tàn phá và tình trạng thiếu
nước trầm trọng. Đó là những vùng đất cằn cỗi vì bị vắt kiệt nhựa sống, vì nạn độc
canh, vì thiếu thốn tình yêu và niềm tôn kính của con người. Đó còn là sự tàn phá
của thảm họa tự nhiên, là nạn bão bụi được Steinbeck tái hiện qua cảnh mở đầu
Chùm nho phẫn nộ với ý nghĩa dự báo chết chóc, tang thương. Theo Từ điển biểu
tượng văn hóa thế giới, “cát bụi là dấu hiệu của sự chết” [84,110]. Những người
130
nông dân trong tác phẩm này của Steinbeck đứng trước nguy cơ mất mùa, đói khát
và xa hơn là cái chết vì bão bụi tấn công từ khắp mọi phía khiến không khí trở nên
ngột ngạt, đặc quánh lại, cây cối úa tàn, mọi hoạt động của con người bị đình trệ.
Tất cả mọi sinh linh đều bị bao phủ bởi một màn bụi chết chóc: “Bụi đường dâng
cao, trải rộng, rơi xuống đám cỏ bên bờ và trong các đám ruộng… bầu trời tối sầm
lại sau màn bụi hỗn loạn, lướt qua mặt đất, cuốn tung mịt mù” [85,14] “không khí
đầy ứ bụi bóp nghẹt các âm thanh một cách trọn vẹn hơn cả sương mù” [85,15-
16]. “Suốt ngày bụi từ trên cao cứ rơi xuống dần như xuyên qua một cái rây. Ngày
tiếp theo, bụi tiếp tục sa xuống, bao phủ mặt đất dưới một tấm màn đồng màu. Bụi
lắng đọng trên ngô, bám đầy trên đầu cọc rào, bám đặc trên các sợi dây thép, trải
rộng trên các mái nhà, che lấp cỏ và cây” [85,16]. Bão bụi cũng lấy đi lớp đất mặt
trên các vùng đất nông nghiệp dẫn đến tình trạng xói mòn, suy thoái đất đai trên
diện rộng, khiến những người tá điền lâm vào tình cảnh nợ nần, đói khát. Điều
đáng kể là Steinbeck đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa ý nghĩa biểu trưng của cát bụi
trong tầng sâu văn hóa nhân loại và tác động khủng khiếp của sự kiện cơn bão đen
(Dust Bowl) đã xảy ra ở nước Mỹ vào những năm 1930, gia tăng mức độ ảnh hưởng
của cuộc Đại suy thoái ở quốc gia này. Vậy là, ý nghĩa hủy diệt của cổ mẫu đất
không chỉ đến từ tính chất biểu trưng huyền thoại của nó mà trong bối cảnh hiện
đại, khía cạnh chết chóc đấy là hậu quả của sự thiếu hiểu biết và lòng tham mà con
người đã gây ra và phải gánh chịu.
Bên cạnh đó, khía cạnh hủy diệt của cổ mẫu nước được Steinbeck khám phá
qua mức độ thiếu thốn hoặc dư thừa của nó. Sự tàn phá của nạn bão bụi càng trở
nên trầm trọng khi đi kèm với sự kiện này là tình trạng thiếu nước và nắng nóng
kéo dài dẫn đến hạn hán. Trong tâm thức nhân loại, nước mưa, “thứ nước của trời
cho”, với bản chất thanh khiết là biểu tượng của sự sống, sự phì nhiêu, có vai trò
tạo dựng và thanh lọc. Thế nhưng trong cảnh mở đầu của Chùm nho phẫn nộ, sự
hiện diện của mưa vô cùng ít ỏi, thậm chí có mà như không: “những trận mưa cuối
vụ lâm thâm, không đủ sức xói lở mặt đất vốn đã bị nứt nẻ” [85,13], “những đám
mây giông gieo xuống vài hạt mưa lưa thưa rồi vội vã trốn về miền khác” [85,14].
Mây và mưa chạy trốn, trong khi đó, nắng, gió, cát bụi càng ngày càng thêm dữ
dội, ác liệt, tấn công những cánh đồng ngô và đe dọa sự sống của con người. Đối
lập với tình trạng thiếu thốn, khô hạn trong phần mở đầu, phần cuối của tác phẩm
131
này là khung cảnh đất đai, lều bạt ngập chìm trong biển nước. “Thoạt tiên là những
cơn mưa nhỏ triền miên. Rồi đến những trận mưa rào xối xả, rồi tiếp đó là một cơn
mưa nhỏ hạt dầm dề, đều đặn” [85,691]. Mưa rơi mãi không ngừng, nước từ sông,
suối dâng tràn bờ, quật ngã cây cối, ùa vào các vườn cây ăn quả, các cánh đồng,
nhấn chìm đường cao tốc, xâm chiếm lều bạt của những người di tản. Cảnh vật
nhuốm màu xám xịt. Người người run rẩy, tuyệt vọng, sợ hãi, uất giận vì không có
việc làm, đói khát và bệnh tật kéo tới. “Trẻ con đói kêu khóc, thức ăn lại không
có” [85,693]. “Các ông già bà lão chết co rúm trong một xó và bọn trẻ con cũng co
rúm mà chết” [85,694]. Như thế, sự thiếu vắng hay dư thừa của nước đều tác động
dữ dội đến đời sống của những người lao động nghèo, bộ phận dễ bị tổn thương
trong xã hội kĩ trị. Điều khác biệt là Steinbeck đã tái hiện cuộc khủng hoảng sinh
thái tự nhiên trong thời đại văn minh cơ khí như là một hệ quả tất yếu, đồng thời
xoáy sâu vào bi kịch của tầng lớp bên lề xã hội.
Khủng hoảng sinh thái tự nhiên dẫn đến khủng hoảng sinh thái xã hội. Trong
Chùm nho phẫn nộ, mối quan hệ giữa con người và con người ngày một rạn vỡ.
Điển hình là thái độ khắc nghiệt của điền chủ với tá điền, bởi vì “từ lâu họ biết
rằng không khắc nghiệt thì không trở thành ông chủ được” [85,55]; là những kẻ
bán hàng gian xảo với đôi mắt sắc nhọn chực rình những phút yếu mềm để kiếm
chác từng đồng xu cuối cùng của những con người bị xua đuổi khỏi quê hương bản
quán; là sự ghẻ lạnh, thù hằn của bọn chủ đất, chủ ngân hàng, người buôn bán, dân
thành thị ở miền Tây đối với đám người bị tước đoạt ruộng đất, không nhà cửa.
Đám người giàu có, quyền thế gọi những con người khốn khổ ấy là “quân Okies”,
“tụi chó chết”, chẳng khác gì “quân da đen khốn kiếp ở miền Nam” [85,372].
Không chỉ dừng lại ở đó, tình trạng khủng hoảng còn lan rộng đến tận gốc rễ của
từng gia đình. Nổi bật trong đoàn người di tản đến miền Tây là gia đình Joad. Trên
đường trường gian nan, vất vả, thiếu thốn đủ bề, ông nội bà nội lần lượt qua đời,
Noah, Connie, Tom lần lượt bỏ đi. Ma Joad đau đớn khi nhận ra sự rạn vỡ trong
gia đình mình: “Gia đình ta tan tác hết. Chả biết sao! Hình như mẹ không thể suy
nghĩ hơn được nữa” [85,340]. Tác động khủng khiếp của khủng hoảng sinh thái xã
hội không chỉ ám ảnh những người đang sống mà còn tăng thêm nỗi bi đát cho
những người đã chết. Sinh ra từ đất rồi chết đi về với đất. Trong tâm thức nhân
loại, ngôi mộ dù tầm cỡ hay khiêm tốn đều có ý nghĩa thiêng liêng, không chỉ là
132
nơi bao bọc, che chở người đã chết mà còn là “đài chứa sự sống” [85,596] bởi lẽ
cái chết cũng là sự sống, sự sống ở một thế giới khác. Thế nhưng, những nhân vật
di tản của Steinbeck khi chết đi lại không được chôn cất như một con người bình
thường. Ông nội, trong Chùm nho phẫn nộ, là người có địa vị cao nhất trong nhà
Joad, cũng là người gắn bó sâu sắc nhất với mảnh đất tổ tiên để lại. Vì vậy, ông
không thể rời bỏ đất. Ông đã chết ngay khi con cháu xốc nách ông trong tình trạng
mê sảng để lên đường đến miền Tây. Như một lẽ tất yếu, ông nội đã nằm lại với
đất đai quê nhà. Tuy nhiên, con cháu ông không thể chôn cất ông một cách bình
thường, ngôi mộ của ông không được đắp cao. Bởi lẽ, nếu người nhà Joad “đắp
thành ngôi mộ thì nhoáng cái người ta sẽ đào lên” [85,226]. Vì vậy, họ phải giấu
nhẹm đi bằng cách san phẳng đất rồi phủ cỏ khô lên. Điều này tiết lộ thân phận
chua xót của con người trong thời đại bất ổn, khi con người quan tâm đến đất đai,
lợi nhuận hơn tính mạng và cái chết của đồng loại, khi cuộc khủng hoảng sinh thái
xã hội làm chao đảo những giá trị sống căn bản nhất.
Trong thời đại biến động, bão táp đó, đời sống tinh thần của mỗi cá nhân
không tránh khỏi sự chao đảo, lung lay. Đánh mất nơi nương tựa ở tự nhiên, ở đồng
loại, mỗi cá nhân chỉ còn cách trở về với chính mình, nhưng họ lại đau đớn nhận
ra tâm hồn họ cũng trơ trọi, lạc lõng, cô độc. Pa Joad, người nắm giữ vai trò trụ cột
trong gia đình Joad đau đớn nhận ra sự bất lực, tuyệt vọng của mình: “Tôi chẳng
còn được tích sự gì nữa. Suốt ngày tôi chỉ nghĩ thời xưa. Suốt ngày tôi chỉ nghĩ đến
căn nhà của chúng ta và cứ tự nhủ là sẽ không bao giờ thấy lại nó nữa […]. Tôi có
ý nghĩ là cuộc đời của chúng ta đã chấm dứt, chấm dứt hẳn rồi” [85,677-678]. Có
thể nói, sự yếu đuối, bất lực lộ rõ trong lời nói của Pa Joad. Ông hoàn toàn suy sụp,
sợ hãi, bi quan, tuyệt vọng. Vì vậy, ông đeo bám quá khứ huy hoàng và lảng tránh
thực tại như một phương thuốc để xoa dịu những chấn thương tinh thần của mình.
Chú John, người luôn mang mặc cảm tội lỗi vì cái chết oan ức của người vợ, càng
trở nên bi quan, cô đơn, tuyệt vọng: “Tôi chẳng biết làm sao. Tôi không tài nào có
ý kiến này nọ cả. Tôi thấy như người nửa tỉnh nửa mê” [85,677] và muốn buông
xuôi tất cả.
Với những nét đặc thù về địa lí tự nhiên, Mỹ là một đất nước rộng lớn, đất đai
rất đa dạng, tài nguyên thiên nhiên dồi dào, cùng với những lí tưởng về tự do và
bình đẳng cơ hội cho tất cả mọi người, Mỹ trở thành quốc gia của sự dịch chuyển
133
và “sự dịch chuyển” cũng là bản sắc của người Mỹ. Khía cạnh văn hóa này đặc
biệt bùng nổ trong thời đại kĩ trị. Song, bằng cảm quan nhạy bén của người nghệ
sĩ, Steinbeck đã ý thức rất sớm về sự phát triển đến mức quá tải và thừa mứa của
nền kinh tế đã làm biến đổi sâu sắc môi trường sinh thái, số phận và tâm hồn của
những người dân Mỹ. Khác với truyền thống gắn kết hài hòa với thiên nhiên hoang
sơ, “người-Mỹ-mới tìm thấy sự thách thức và tình yêu của mình ở những con
đường nghẹt thở, ở những khung trời đầy sương khói, ngột ngạt bởi những thứ a-
xít mà nền công nghiệp thải ra, ở những tiếng rít của bánh xe và ở những ngôi nhà
nằm san sát nhau... trong khi các làng mạc nhỏ thì cứ héo hắt và chết dần chết mòn”
[118,70]. Những sự thật chua xót này được nhà văn Steinbeck chiêm nghiệm trên
hành trình tái khám phá nước Mỹ lúc ông đã bước vào tuổi xế chiều. Song, những
mầm móng của nó vốn dĩ đã được nhà văn thể nghiệm trong những tiểu thuyết
quan trọng trước đó, đặc biệt là ở Chùm nho phẫn nộ, nơi mà số phận khổ đau của
người lao động chưa bao giờ lại được biểu hiện một cách đậm nét trong bối cảnh
Đại suy thoái, đặc biệt là cuộc khủng hoảng sinh thái.
Như thế, mối quan tâm của nhà văn Steinbeck về khủng hoảng sinh thái trong
các tác phẩm của ông không nằm ngoài chủ đề số phận con người trong thời đại kĩ
trị, đặc biệt là những người dân di tản, những con người bị gạt ra khỏi mảnh đất tổ
tiên họ để lại, mang giấc mơ về thiên đường miền Tây để rồi… vỡ mộng. Bằng
cách tái sinh và biểu hiện mạnh mẽ các biến thể của cổ mẫu đất và nước, Steinbeck
đã cất lên tiếng nói của những người lao động nghèo khổ, bộ phận chịu tác động
dữ dội nhất của thảm họa tự nhiên và sự phát triển “điên cuồng” của nền công
nghiệp, nông nghiệp hiện đại.
4.3.2. Sự sụp đổ ý thức sinh thái trong thời đại kĩ trị
“Ý thức sinh thái nhấn mạnh con người và tất cả các sinh mệnh khác đều là
những thành viên bình đẳng trong hệ thống đại tự nhiên, nhân loại không phải là
chủ nhân của tự nhiên, tự nhiên cũng không phải là nô lệ hoặc đối tượng tiêu dùng
của nhân loại. Quan hệ giữa con người và tự nhiên là quan hệ phát triển hài hòa,
cộng sinh, cùng có lợi” [142,23]. Từ thuở ban sơ, giữa con người nguyên thủy và
tự nhiên vốn dĩ đã thiết lập một mối quan hệ thiêng liêng, gắn bó mật thiết. Trong
đó, con người chỉ là một bộ phận nhỏ trong tổng thể to lớn là thế giới tự nhiên.
Song, trong tiến trình loài người chế ngự, chinh phục, thoát ra khỏi nỗi sợ hãi và
134
lệ thuộc vào tự nhiên để khẳng định vị trí và sức mạnh của mình, mối quan hệ giữa
con người và tự nhiên dần dần nghiêng về đối lập nhị nguyên. Đặc biệt, sự xuất
hiện của phong trào Khai sáng và chủ nghĩa duy lý ở châu Âu vào thế kỉ XVIII đã
phục hưng và cổ vũ vai trò của lí tính, đề cao con người trí tuệ và giải phóng con
người khỏi mọi xiềng xích, áp chế, ràng buộc. Đấy cũng là thời điểm đánh dấu sự
tách biệt của con người ra khỏi thế giới tự nhiên. Từ đó về sau, cùng với sự phát
triển nhanh chóng của khoa học kĩ thuật, sự kiêu ngạo và tham vọng ngày một lớn
dần của con người, mối quan hệ thiêng liêng, bền chặt giữa con người và tự nhiên
dần dần bị phá vỡ. Hệ quả là không chỉ thế giới tự nhiên bị hủy hoại mà sự sống
của con người cũng bị đe dọa, thậm chí đứng trước nguy cơ diệt vong. Nhận thức
nhạy bén trước trạng huống hiện sinh mới mẻ và chua xót của con người thời hiện
đại, Steinbeck đã phản ánh sự sụp đổ ý thức sinh thái ở nước Mỹ, quốc gia non trẻ
nhanh chóng vươn lên trở thành cường quốc trên thế giới vào nửa đầu thế kỉ XX
thông qua việc khắc họa mối quan hệ rạn vỡ giữa con người và tự nhiên.
Gửi vị thần chưa biết đánh dấu bước khởi đầu mối quan tâm của nhà văn trẻ
Steinbeck với các vùng đất và chủ đề về mối quan hệ giữa con người và đất đai
trong sự nghiệp sáng tác của ông. Nhân vật chính của câu chuyện, Joseph, phải trải
qua nhiều thử thách, mất mát, thậm chí phải đánh đổi bằng sinh mạng của mình
mới có thể nhận ra bản chất gắn kết sâu sắc giữa anh ta và vùng đất. Song, cái chết
của Joseph cũng tiết lộ cái giá mà con người phải trả cho những tham vọng và sự
thiếu hiểu biết của họ. Do đó, tiểu thuyết này của Steinbeck có ý nghĩa dự báo về
sự rạn vỡ của mối quan hệ vốn đã được kiến tạo lâu đời giữa người và đất trong
thời đại kĩ trị. Nguy cơ này đã trở thành một chủ đề lớn trong những sáng tác sau
này của Steinbeck mà trường hợp điển hình là Chùm nho phẫn nộ, Của chuột và
người.
Đất vốn là suối nguồn nuôi dưỡng vạn vật, nắm giữ vai trò quan trọng đối với
quá trình sinh sống của con người, có mối ràng buộc thiêng liêng với con người,
đặc biệt là những người nông dân. Không phải đợi đến thời hiện đại khi phê bình
sinh thái ra đời mối dây liên kết này mới được thừa nhận, mà ngay từ thời xa xưa
Kinh Thánh kể lại câu chuyện tạo dựng trời đất và loài người của Đức Chúa Trời
trong Sáng thế kí. Theo đó, Ngài đã xác lập mối quan hệ gắn bó thiêng liêng có
tính song phương giữa người và đất, sinh ra từ đất rồi trở về với đất, con người
135
phải có trách nhiệm chăm sóc, quản trị đất, nguồn sống của họ [115]. Tuy nhiên,
Steinbeck đã phát hiện khía cạnh ngược lại, đó là mối quan hệ tốt đẹp giữa con
người và đất đai bị phá vỡ trong thời đại kĩ trị. Đất vốn là tài sản sở hữu của những
nông dân, những tá điền, những người “đã đo đạc, đã khai hoang”, “đã sinh ra ở
đây, để làm ăn ở đây, có mồ mả cha ông ở đây” [85,59]. Tổ tiên của họ “đã giết
bọn da đỏ”, “đã giết rắn cho đất đai này yên ổn” [85,59], đã lao động và tranh đấu
đến tận hơi thở cuối cùng để cứu ruộng đất, chiếm giữ đất đai và truyền thừa cho
các thế hệ con cháu mai sau. Song, hạn hán và bão bụi đe dọa sức sống của đất,
hủy hoại vùng đất vốn màu mỡ và phì nhiêu, đồng thời ảnh hưởng trực tiếp đến
đời sống của những người nông dân nghèo. Mùa màng thất bát, những cánh đồng
ngô bị tàn phá, nợ nần chồng chất, đói khát, ngân hàng thu hồi đất, máy móc hiện
đại thay thế sức lao động của con người, người nông dân chưa bao giờ phải đối
diện với thảm cảnh khủng khiếp như thế trong lịch sử. Văn minh cơ khí hiện đại
đem đến đời sống tiện nghi, thoải mái song lại gia tăng khoảng cách giàu - nghèo
và nhiều hệ lụy khác, trong đó, con người trở thành nạn nhân của chính sự phát
triển mà đồng loại đã tạo ra. Đó là sự thực cay đắng và tàn khốc trong xã hội hiện
đại mà Steinbeck đã dũng cảm phơi bày trong tiểu thuyết của ông.
Tất cả các căn nguyên này dẫn đến hệ quả xót xa là mối gắn kết thiêng liêng
và lâu đời giữa con người và đất bị phá vỡ. Cố nhiên, nguyên cớ dẫn đến tình trạng
khủng khiếp này không đơn thuần chỉ là sự trừng phạt của mẹ thiên nhiên hay mặt
trái của sự phát triển và tiến bộ mà xuất phát từ quá trình lạm dụng đất đai của con
người. Lòng tham vô đáy khiến con người trở nên mù quáng. Loài người đã phá
vỡ giao ước mà Chúa Trời đã đặt ra giữa họ và đất đai, biến đất đai từ vị trí ngang
hàng, chung lưng đấu cật, trở thành một món hàng, một đối tượng bị lạm dụng, bóc
lột và ngược đãi. Vì vậy, tính gắn kết thiêng liêng giữa con người và đất, điều tạo
nên các mối quan hệ bền chặt giữa người với người, giờ đây chỉ còn đọng lại trong
những ký ức xa xăm: “Đã có một thời nhà ta có ruộng có đất, con ạ. Hồi đó có một
cái gì ràng buộc chúng ta với nhau: người già mất đi, lớp trẻ thay thế, và tất cả nhà
ta chỉ là một. Gia đình là thế. Điều đó có vẻ vẹn nguyên rõ ràng. Nhưng bây giờ
thì không rõ ràng nữa” [85,628].
Đất là đối tượng dễ bị tổn thương bởi tác động của các lực lượng tự nhiên và
sự tàn ác của con người. Việc độc canh cây bông để kiếm lợi từ những cuộc chiến
136
khiến “đất ngày càng nghèo đi”, “hút kiệt máu mủ của đất” [85,56]. Những ông
chủ lớn sở hữu hàng ngàn acre đất đai quan tâm đến những món lợi nhuận vững
chắc, đất đai phải sinh lợi. Vì vậy, khi đất mất dần sức sống, không còn đáp ứng
lòng tham của họ thì họ “vội thu hoạch bông, trước khi đất chết”, rồi “bán đất”
[85,58]. Bên cạnh việc con người lạm dụng, bóc lột đất đai, sự phát triển của nền
nông nghiệp cơ giới hóa khiến con người ngày một thêm xa rời đất, lạnh lùng, vô
cảm với đất. Steinbeck đặc biệt nhấn mạnh việc sử dụng các phương tiện canh tác
hiện đại đã đẩy nhanh trạng thái rạn vỡ của mối ràng buộc thiêng liêng, lâu đời
giữa người và đất. Những kẻ lái máy cày giống người máy hơn là con người, với
bao tay, kính, mặt nạ cao su bịt kín. “Y không yêu mến đất, cũng như ngân hàng
không yêu mến đất” [85,62]. Lí trí và cảm xúc của anh ta tê liệt, người lái không
thể nhìn thấy, không thể ngửi thấy, không thể chạm vào, không thể cảm nhận hơi
nóng và sức mạnh của đất. Cùng với máy móc, anh ta không trồng trọt và chăm
sóc đất như giao ước mà ngược lại hãm hiếp đất một cách có phương pháp và lạnh
lùng. Hệ quả tất yếu là con người tách biệt với đất đai của họ. Họ ăn những thứ
không phải do chính tay họ làm ra, và chẳng có gì ràng buộc họ với chúng. “Đất
sinh con đẻ cái với sắt thép và chết dần chết mòn dưới sắt thép, bởi lẽ đất không
được ai yêu, không bị ai ghét, nó không phải là đối tượng cầu khẩn hay nguyền
rủa” [85,63]. Không chỉ mô tả sự phát triển nhanh chóng, vượt bậc của nước Mỹ
hiện đại, tiểu thuyết của Steinbeck còn thể hiện ý thức sâu sắc của nhà văn về
những hệ lụy khủng khiếp của nó. Đời sống kim khí, sắt thép, xăng nhớt, lấp lánh
ánh đèn khiến việc trồng trọt đất đai trở nên dễ dàng và năng suất hơn, song lại
đánh mất tính cách kì diệu của hoạt động lao động nhọc nhằn mà thiêng liêng của
con người từ ngàn đời nay. Do đó, sự am hiểu sâu xa và mối liên hệ mật thiết giữa
con người và tự nhiên cũng biến mất. Bên cạnh việc mô tả cuộc khủng hoảng bản
sắc của những người di tản bị xua đuổi khỏi quê hương xứ sở, nơi họ đã bỏ lại ký
ức vui buồn, bỏ lại trái tim của mình, tác phẩm của Steinbeck còn chỉ ra trạng
huống khủng hoảng bản sắc của những người ở lại, những người sắm vai ông chủ-
nô lệ của máy móc hiện đại, phá bỏ mối ràng buộc thiêng liêng với đất đai, vì thế
đánh mất bản sắc của chính họ.
Lần theo hành trình của đám đông di tản, Steinbeck phát hiện ra rằng sự gắn
kết giữa con người với đất đai không chỉ rạn vỡ ở miền Trung Nam của nước Mỹ
137
mà nhanh chóng lan rộng đến tận miền Tây nước Mỹ, nơi chốn vốn hoang sơ, trù
phú bậc nhất của quốc gia này. Chương 19 tái hiện quá trình phát triển của sự thèm
khát đất đai của những người Mỹ đầu tiên ồ ạt đổ về đây, họ cướp ruộng đất của
người Sulier, người Gurrero rồi cày cấy, trồng trọt hoa màu với một ham muốn
điên cuồng phải sở hữu đất đai. Dần dà, sự thèm khát đất mờ nhòa trước sức mạnh
vạn năng của đồng tiền: “những gì là lòng yêu thương họ mang trong trái tim đã bị
loãng đi một khi tiếp xúc với đồng tiền; tất cả nhiệt tình mãnh liệt đến tan, rỉ giọt
và mất đi trong những vấn đề vụ lợi bẩn thỉu” [85,366]. Nông nghiệp trở thành một
kĩ nghệ, hoa màu thay đổi, trang trại rộng lớn thêm trong khi chủ sở hữu ngày một
ít đi. Mối ràng buộc thiêng liêng giữa người với đất ngày càng lơi lỏng và hoàn
toàn bị cắt bỏ khi những chủ đất “trồng trọt trên giấy tờ và quên ruộng đất”
[85,367]. Chính lúc đó, đám người đói khát, bị tước đoạt ruộng đất tràn đến miền
Tây. Hoàn cảnh khốn cùng khiến những người di tản ý thức sâu sắc về giá trị của
đất đai “giống như đàn kiến suốt đời tìm kiếm việc làm, thức ăn và trên hết là ruộng
đất” [85,368], “bỏ hoang ruộng đất là có tội, không sử dụng đất đai là một tội ác
chống lại đàn trẻ đói khát” [85,370]. Cái đói khiến họ nổi khùng. Họ muốn tìm
thấy một nơi ấm cúng nhưng chỉ thấy sự thù hằn, căm ghét, xua đuổi. Khát vọng
sở hữu đất đai, gìn giữ mối quan hệ mật thiết với đất của những người di tản bị vùi
dập bởi chính đồng loại của họ, những kẻ sẵn sàng tiêu phí hàng núi tiền của để
mua sắm vũ khí, hơi cay, thuê mướn tay sai, cảnh sát để bóp chết mọi mưu toan
khởi nghĩa từ trong trứng, những kẻ thà để cam vàng thối ủng lủng lẳng trên cành,
trang trại ngập trái cây, các vựa thóc đầy ăm ắp trong lúc đám người đói khát chạy
vạy khắp nơi để kiếm cái ăn, bọn trẻ con thiếu ăn, bệnh tật.
Bên cạnh đó, sự phát triển của khoa học, sự cải tiến kĩ thuật để gia tăng sản
lượng đem đến cho con người những vụ mùa bội thu. “Tri thức của họ đã cải biến
thế giới” [85,552] song con người bất lực không tìm kiếm được cách thức khiến
những người đói khát có được cái ăn cái mặc. Để cho giá cả thị trường đứng vững,
người ta sẵn sàng hủy diệt sản phẩm của đất đai, cây cối đương lúc hàng triệu người
đói khát cần đến chúng. “Đó là một tội ác ghê tởm vượt quá mọi sức tưởng tượng.
Đây là một nỗi đau khổ không thể diễn tả được bằng nước mắt. Đây là một sự phá
sản lớn lao đến nỗi nó hủy bỏ tất thảy những thành công trước đây” [85,555]. Theo
Heavilin, thật đáng buồn khi ở một vùng đất giàu có lại có quá ít sự hào phóng và
138
hiếu khách, mối quan hệ mật thiết giữa người và đất bị phá vỡ, từ vị trí ân nhân đất
đai trở thành nạn nhân của lòng tham và sự thiếu hiểu biết của con người [147].
Sau rất nhiều năm chu du khắp nước Mỹ, chiêm nghiệm lại những điều mắt
thấy tai nghe trên những con đường, xa lộ chằng chịt ở xứ sở cờ hoa, Steinbeck
phát hiện sự đổi thay khủng khiếp của nước Mỹ ẩn giấu bên dưới vẻ hào nhoáng
của nó. Nếu như trong những năm 1930, nhà văn trẻ trung đương lúc sung sức nhận
ra cái xơ xác, kinh hoàng, đói khát của những người lao động nghèo khổ ở một đất
nước đang vươn lên khẳng định vị thế vô song. Về sau, trong những năm tháng
cuối đời, một Steinbeck dạn dày kinh nghiệm đã nhận thấy sự bất mãn của một
vùng đất thừa mứa, nơi có những con người có ước mơ nhưng không có hoài bão.
Vùng đất ấy “thiếu những áp lực vốn làm cho con người càng mạnh mẽ hơn và nỗi
đau khổ vốn làm con người trở nên vĩ đại” [29,702]. Nỗi thống khổ trong những
năm 1950, 1960, theo Steinbeck, không còn là cái nghèo, cái đói mà là sự buồn
chán. Một nước Mỹ ban đầu đầy lý tưởng trở nên mục ruỗng và bất mãn qua thời
gian được Steinbeck phát hiện thông qua sự sụp đổ ý thức sinh thái, khi người Mỹ
ngày một cách xa thế giới tự nhiên, chìm đắm trong sự tiện nghi, thừa mứa và cũng
là giới hạn của nền văn minh hiện đại. Như lời than phiền của ông về “sự vô đạo
đức đáng ngờ” của nước Mỹ: “Vì quá giàu có về VẬT CHẤT”, ông nói “[người
Mỹ] đang bỏ thời gian và tiền bạc ra ngồi trên ghế sa lông mà tìm kiếm một tâm
hồn. Chúng ta thật là một giống loài kỳ lạ. Chúng ta có thể chịu đựng được mọi
thứ Chúa và thảm họa Tự nhiên giáng xuống đầu, nhưng lại không chống chọi nổi
sự dư thừa” [DT 118].
Xuất phát từ lòng yêu mến đất đai, quê hương Salinas cùng với niềm tin vào
tính gắn kết, hài hòa giữa vạn vật trong vũ trụ, Steinbeck đã tái sinh cổ mẫu đất,
nước trong tiểu thuyết của ông nhằm phản ánh hiện thực khắc nghiệt và đặc biệt là
vấn đề khủng hoảng sinh thái trong thời đại công nghiệp hóa, cơ khí hóa. Cổ mẫu
đất, nước trong tác phẩm của Steinbeck không chỉ kế thừa các đặc tính nguồn sống
và sự hủy diệt từ cổ mẫu thế giới mà điều đáng kể là thông qua việc tái thiết các cổ
mẫu này, nhà văn đã thể hiện niềm trăn trở của ông về sự rạn vỡ của mối quan hệ
thiêng liêng và lâu đời giữa đất và người, cũng là giữa con người và thế giới tự
nhiên. Từ đó, tiểu thuyết của văn hào người Mỹ âm vang những khắc khoải sinh
thái mà cho đến nay nhân loại vẫn đang phải đối mặt. Mang theo quá nhiều tham
139
vọng, dục vọng trong “cơn điên tăng trưởng” của thời hiện đại, từ chỗ gắn kết,
hưởng lợi từ tự nhiên, con người tiến đến “khai thác tận diệt, bóc lột, cưỡng đoạt
tự nhiên” biến thế giới tự nhiên đẹp đẽ, giàu có trở nên khô cằn và tuyệt chủng, để
rồi tự chuốc lấy một đời sống hiện đại đầy bất an và khủng hoảng [142].
4.3.3. Tinh thần Đông phương trong khôi phục giao ước giữa con người và
tự nhiên
Để thiết lập diễn ngôn sinh thái trong tiểu thuyết John Steinbeck, chúng tôi đã
khám phá bức tranh khủng hoảng sinh thái và tác động khủng khiếp của nó đến số
phận con người, đặc biệt là những người lao động nghèo, bộ phận chịu tác động
dữ dội của những vấn nạn thời hiện đại. Đồng thời, chúng tôi cũng chỉ ra căn
nguyên sâu xa của trạng huống hiện sinh đầy ám ảnh này là sự rạn vỡ của mối quan
hệ thiêng liêng giữa con người và tự nhiên trong thời đại kĩ trị. Vấn đề còn lại là
liệu rằng có một cách thức nào đó có thể giúp nhân loại chuộc lại lầm lỗi của chính
họ và thoát khỏi nỗi bất an thời đại kĩ trị hay không? Dựa trên sự tái sinh của những
cổ mẫu tự nhiên tiêu biểu và mối liên hệ của chúng với những nhân vật ấn tượng
trong tiểu thuyết John Steinbeck, chúng ta có thể nhận ra con đường mà nhà văn
đã chọn lựa. Đó là tìm đến triết học cổ đại phương Đông để mở ra cánh cửa tỉnh
thức và hi vọng cho người Mỹ hiện đại, nối lại giao ước giữa con người và tự nhiên
đã được thiết lập từ ngàn xưa. Như Baird T. Spalding, trong cuốn sách nổi tiếng
Hành trình về phương Đông, đã xác quyết rằng: “Phương Đông có những chân lý
quan trọng đáng để cho người phương Tây nghiên cứu, học hỏi. Đã đến lúc người
Tây phương phải quay về Đông phương để trở về với quê hương tinh thần” [148,3].
Nhà nghiên cứu Nguyễn Thị Tịnh Thy cho rằng tài nguyên tinh thần của văn
minh phương Đông cổ đại là một lối mở khả dĩ cho bước đường hoàn thiện của
phê bình sinh thái. Sau khi phân tích trí tuệ sinh thái của Nho gia, Đạo gia và Phật
giáo, tác giả đúc kết rằng “tuy khác nhau trong quan niệm về vị trí của con người
trong vũ trụ và quan niệm ứng xử với cuộc đời, nhưng cả ba hệ tư tưởng đều gặp
nhau ở việc coi con người là một bộ phận của tự nhiên, coi sự hài hòa với tự nhiên
là điều tôn nghiêm và thần thánh, là yêu cầu đạo đức của con người” [142,279].
Theo đó, mối quan hệ gắn bó mật thiết, hài hòa giữa con người và tự nhiên là chủ
đề lớn trong tam giáo phương Đông, biểu hiện cụ thể qua các tư tưởng “Thiên nhân
hợp nhất” của Nho giáo, “Duyên khởi” của Phật giáo và “Đạo pháp tự nhiên” của
140
Đạo giáo. Ý thức sinh thái tiến bộ, nhân văn của phương Đông cổ đại tỏ ra phù hợp
với thực tiễn đời sống hiện đại, có thể giải quyết được những vấn đề sinh thái của
nhân loại, đặc biệt ở thế giới Tây phương, nơi trình độ khoa học kĩ thuật phát triển
như vũ bão.
Điều bất ngờ và ấn tượng là Steinbeck, một nhà văn người Mỹ thế kỉ XX, lại
đồng cảm với triết học phương Đông cổ đại. Ảnh hưởng của triết học phương Đông
đến Steinbeck thường được các học giả giải thích thông qua tình bạn bền vững giữa
nhà văn với nhà sinh vật học, nhà triết học người Mỹ, Edward Flanders Robb
Ricketts (1897 –1948). Astro, khi giới thiệu tác phẩm Nhật kí từ biển Cortez, lưu
ý rằng trong khi đấu tranh cho những phận người thua thiệt và tiến bộ xã hội,
Steinbeck đã chịu ảnh hưởng bởi nhiều tư tưởng triết học từ Ed Ricketts mà thế
giới quan của Ricketts đa phần lại là “phương Đông và huyền bí”; đặc biệt là, “cuộc
truy tìm của Ricketts về cái bí ẩn sâu kín” và thế giới quan phi mục đích hay “là
gì” của Ricketts có bản chất gần gũi với truyền thống Đạo gia mà Lão Tử là đại
diện tiêu biểu [108,xxii]. Hạt nhân của học thuyết Đạo gia là quan niệm “nhân pháp
địa, địa pháp thiên, thiên pháp đạo, đạo pháp tự nhiên” (người theo lẽ đất, đất theo
lẽ trời, trời theo lẽ đạo, đạo theo lẽ tự nhiên) và “tự nhiên vô vi”. “Vô vi” của Lão
Tử không phải là không làm gì mà là không làm trái quy luật tự nhiên [138]. Theo
đó, con người cần ứng xử hài hòa với tự nhiên, thuận theo lẽ tự nhiên, không nên
phá hoại sự vận hành của tự nhiên. Bên cạnh đó, Lão Tử còn nhấn mạnh Đạo được
sinh ra từ sự thống nhất của hai cực đối lập hữu và vô: “Thiên địa vạn vật sinh ư
hữu, hữu sinh ư vô” (vạn vật trong thiên hạ sinh ra từ hữu, sinh ra từ vô) [138].
Ranh giới giữa hữu và vô là tương đối, chúng có vai trò như nhau và có thể chuyển
hóa lẫn nhau để tạo nên sự biến đổi. Song, sự chuyển hóa này, theo Lão Tử, dựa
trên các quy luật của tự nhiên: luật phản phục và luật quân bình.
Cùng với Ricketts, Steinbeck đã thiết lập niềm tin và triết lí của ông về tính
thống nhất của mọi sự sống. Trong Nhật kí từ biển Cortez, một trong những tác
phẩm phi hư cấu quan trọng nhất của Steinbeck, ông đã khẳng định điểm cốt lõi
của triết lí này như sau: “phần lớn cảm giác mà chúng ta gọi là tôn giáo, phần lớn
tiếng la hét huyền nhiệm vốn là một trong những phản ứng được đánh giá, sử dụng
và mong muốn nhất của loài người, lại thực sự là sự hiểu biết và nỗ lực để nói rằng
con người có liên quan đến toàn bộ sự việc, liên đới chặt chẽ với tất cả thực tế được
141
biết và không thể biết. Đây là một điều đơn giản để nói, nhưng cảm giác sâu sắc
về nó đã tạo nên một Chúa Jesus, một Thánh Augustine, một Thánh Francis, một
Roger Bacon, một Charles Darwin và một Einstein. Mỗi người trong số họ theo
cách thức và bằng giọng nói của riêng mình đã khám phá và tái khẳng định với sự
kinh ngạc khi biết rằng vạn vật là một… tất cả ràng buộc với nhau bởi sợi dây đàn
hồi của thời gian” [108,216-217]. Steinbeck cho rằng tính thống nhất của “toàn bộ
thế giới thực tại và tưởng tượng, thể xác và tâm hồn, sự thật vật lí và sự thật tinh
thần, cá nhân và tập thể, sự sống và cái chết, vũ trụ vĩ mô và vi mô, ý thức và vô
thức, chủ thể và khách thể” [108,125] bao trùm ý niệm cái tồn tại trong triết học
phương Đông.
Tư tưởng sinh thái nhân văn và tiến bộ của văn hào John Steinbeck không chỉ
là cuộc trở về với các giá trị tinh thần phương Đông cổ đại mà còn gặp gỡ với nhiều
triết lí Đông – Tây kim cổ. Đó là niềm tin bất diệt của những người da đỏ về mối
quan hệ thiêng liêng giữa tộc người đối với đất đai quê hương: “mảnh đất này là
bà mẹ của người da đỏ. Chúng tôi là một phần của mẹ và mẹ cũng là một phần của
chúng tôi […], tất cả đều cùng chung một gia đình […]. Mọi vật trên đời đều có sự
ràng buộc” [DT 142]. Giáo lí Kitô giáo nhấn mạnh mối tương giao của mọi tạo vật,
con người và mọi sinh vật, mọi tế bào tạo nên một mạng lưới các tương quan hỗ
tương. Chủ nghĩa Marx vốn đề cao vị trí và vai trò của con người, song vẫn duy trì
mối tương quan giữa con người và tự nhiên: “Đời sống thể xác và tinh thần của
con người gắn liền khăng khít với tự nhiên vì con người là bộ phận của tự nhiên,
là giai đoạn cao nhất trong quá trình phát triển của giới tự nhiên, con người tuân
theo các quy luật của tự nhiên và hòa vào tự nhiên” [DT 142,13].
John Steinbeck tin rằng vạn vật trên mặt đất này đều gắn bó khăng khít với
nhau. Con người là một bộ phận của tổng thể, mỗi loài, mỗi vật đều là những thành
tố không thể thiếu của vũ trụ rộng lớn. Do đó, sự tồn tại của bất kì loài nào cũng
đều phụ thuộc vào tính gắn kết giữa chúng với phần còn lại của thế giới. Là một
nhà văn chịu ảnh hưởng sâu đậm bởi truyền thống văn hóa phương Tây song, John
Steinbeck lại tìm thấy sự đồng điệu trong quan niệm về sinh thái ở phương Đông
cổ đại. Vì vậy, ông trở thành một trong những tiểu thuyết gia người Mỹ sớm hình
thành ý thức và lựa chọn ý thức sinh thái đúng đắn và tiến bộ. Điều này được nhà
văn thể hiện thông qua cuộc tái thiết các cổ mẫu tự nhiên và đặc biệt là sự tỉnh thức
142
về tính gắn kết giữa con người và tự nhiên của những nhân vật anh hùng, những
gương mặt nữ giới tiêu biểu trong nhiều tiểu thuyết ấn tượng của ông. Trong đó,
Jim Casy, Ma Joad trong Chùm nho phẫn nộ, Juana trong Viên ngọc trai và Doc
trong Phố Cannery Row là những gương mặt nổi bật, được xem như những người
hùng, những hiện thể của cổ mẫu mẹ trong thế giới nghệ thuật tiểu thuyết John
Steinbeck. Trong đó, Jim Casy và Doc là những nhân vật cô đơn, không gia đình,
không có mối ràng buộc với xã hội. Nhưng chính họ lại là những người hiểu biết
sâu sắc về bản thân, dễ dàng cảm thông với nỗi đau khổ và sự yếu đuối của con
người, đồng thời nhạy bén nhận ra sự kết nối mật thiết giữa con người với tự nhiên.
Thông qua những suy tư và hành động của Casy và Doc, John Steinbeck tiết lộ
rằng, bằng cách trở về với tự nhiên, con người thời đại kĩ trị mới có thể khắc phục
vấn nạn sinh thái và duy trì sự phát triển bền vững.
Trong thời đại bất ổn xã hội, mỗi người đàn ông trong Chùm nho phẫn nộ đều
rơi vào một dạng bi kịch khác nhau. Pa Joad đánh mất vai trò trụ cột trong gia đình,
chú John chìm trong mặc cảm tội lỗi, Connie trốn chạy nghĩa vụ của một người
chồng, người cha, còn Jim Casy đánh mất thiên hướng của một mục sư. Song, khác
với đám đàn ông nhà Joad mãi loay hoay trong bi kịch cá nhân, bằng nền tảng học
vấn và tố chất đặc biệt, Casy đã tìm thấy con đường mới cho bản thân, điều chỉ đạt
được khi ông trở về cõi hoang dã như chúa Jesus xưa kia đã từng. Chính tại nơi
chốn tự nhiên, hòa mình cùng trời, đất, cỏ cây, Casy nhận ra sự kết nối thiêng liêng,
sâu sắc giữa con người và tự nhiên: “Có những ngọn đồi đây, và tôi đây, và thế là
không bị xa cách nữa. Người ta chỉ còn là một vật duy nhất mà vật đó là thiêng
liêng” [85,129]. Đó là sự thật giản dị mà lâu nay vì mải mê đời sống kim khí và
chìm đắm trong muôn nỗi lo toan thời hiện đại nên người ta đã đánh mất hoặc cố
tình né tránh. Sự tỉnh thức kịp thời của Casy giúp ông suy nghĩ sâu xa hơn về bản
chất của con người, về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, rằng “người ta chỉ
thánh thiện khi là một bộ phận của tổng thể, nhân loại thánh thiện khi nó chỉ là một
vật thể duy nhất và thống nhất” [85,129]. Frederick Carpenter trong bài viết “The
Philosophical Joads” đã tóm lược câu chuyện của Casy như sau: “Jim Casy, kẻ dị
giáo, đã đi vào vùng hoang dã Oklahoma để cứu lấy linh hồn của mình. Và ở trong
vùng hoang dã, ông ta đã trải nghiệm cảm giác tôn giáo về sự đồng nhất với thiên
nhiên vốn luôn là trái tim của chủ nghĩa thần bí siêu việt” [149,324-25]. Song,
143
những trăn trở về cuộc đời, con người và hành trình hiện thực hóa ý tưởng của
Casy khiến chúng tôi nhận ra cuộc tương kiến lạ kì giữa những suy tưởng của một
nhân vật tìm đường thời hiện đại với tư tưởng chỉnh thể sinh thái của Đạo gia xem
xét vạn vật từ góc độ chỉnh thể, con người và vạn vật bình đẳng: “thiên địa dữ ngã
tịnh sinh, vạn vật dữ ngã vi nhất” (trời đất cùng sinh ra với ta, vạn vật với ta là
một). Bởi lẽ, lý tưởng của Casy không hướng đến một thứ tôn giáo thần bí, siêu
việt mà cốt lõi là giải quyết bi kịch mà con người trong thời đại kĩ trị phải đối mặt.
Vì vậy, khi Tom Joad ngơ ngác trước quyết định ở lại với đất đai thay vì bỏ đi cùng
gia đình của Muley, Casy lại là người thấu hiểu sự lựa chọn khó khăn và nỗi cô
đơn tột cùng mà Muley phải chịu đựng. Cũng chính ở thời điểm đó, Casy quyết
định đến với những kẻ vô gia cư, những kẻ lang thang đơn độc trên đường sá để
giúp họ hiểu được điều mà ông đã ngộ ra và để được sống trước khi chết. Ý tưởng
và hành động của Casy, về sau, được Tom Joad kế thừa và tiếp tục thực hiện khi
anh ta thực sự hiểu được bản chất của anh cũng chỉ là một bộ phận của tổng thể to
lớn. Do vậy, Tom sẵn sàng đứng lên đấu tranh cùng những người bị áp bức giống
như anh và chấp nhận hi sinh. Bởi lẽ, khi nhận thức được sự gắn kết giữa bản thân
và tự nhiên, Tom hiểu rằng mối gắn kết đó là vĩnh hằng nên dẫu phải chết, anh vẫn
“có mặt trong bóng tối, khắp nơi” [85,671]. Điều đó mang đến nguồn sức mạnh
tinh thần lớn lao giúp nhân vật Tom, một người từng chịu án tù, nóng nảy, bộc
trực, thật thà, vụt trưởng thành trong phần kết của thiên truyện.
Những suy tưởng về con người và thế giới tự nhiên của nhân vật Jim Casy
được Steinbeck phát triển cao hơn và thể hiện rõ nét tinh thần Đông phương thông
qua nhân vật Doc, dựa trên nguyên mẫu là Ed Ricketts, người bạn thân của
Steinbeck, trong tiểu thuyết Phố Cannery Row. Doc là chủ nhân và là người điều
hành phòng thí nghiệm sinh vật miền Tây ở Cannery Row lúc náo nhiệt và ồn ã,
khi yên lặng và huyền bí. Giống như Casy, Doc là một người đàn ông cô đơn và
khép kín, giàu lòng trắc ẩn và đặc biệt tôn kính tự nhiên. Nhưng khác với suy luận
trực quan của Casy, Doc nắm bắt các đặc tính của nước biển, thủy triều và các loài
sinh vật biển bằng kiến thức khoa học để chung sống hài hòa, cộng sinh với tự
nhiên. “Doc phải giữ lịch trình thu nhặt của mình. Ông cố đến đúng lúc thủy triều
ven bờ biển. Ghềnh đá và bãi biển là kho dự trữ của ông. Doc biết mọi thứ ở chỗ
nào khi ông cần đến. Mọi món hàng của ông đều nằm trên bờ biển […]. Ông biết
144
nơi nào bắt chúng, nhưng không phải lúc nào ông muốn là bắt đi. Vì Thiên nhiên cất
kĩ các món hàng và thỉnh thoảng mới thả ra. Doc phải biết con nước và cả khi nào
thủy triều xuống đủ thấp ở một nơi nào đó. Khi thủy triều rút như thế, ông đem dụng
cụ thu nhặt lên xe, đem bình vại, chai lọ, bản kính và chất bảo quản, rồi ông ra bờ
biển hay ghềnh đá hay bãi đá ngầm nơi giữ những sinh vật ông cần” [91,119-120].
Hiểu biết sâu sắc về quy luật tự nhiên đến độ “có thể cảm thấy con nước đổi
dòng khi ngủ” [91,128] giúp Doc đánh giá đúng đắn bản chất của con người, quan
hệ tương hỗ giữa vạn vật trong vũ trụ và trở thành người hào hiệp nhất ở Cannery
Row. Vì vậy, khi Mack và hội bạn bị cộng đồng Cannery Row ruồng bỏ chỉ bởi vì
họ đã làm hỏng ý định tốt đẹp tổ chức bữa tiệc cho Doc như xưa nay mọi thứ họ
làm đều hỏng, Doc lại thấu hiểu trạng huống chông chênh trên bàn cân giữa tốt và
xấu của Mack và hội bạn. Ông thán phục họ như là các triết gia chân chính: “Tôi
nghĩ Mack và đám choai choai biết mọi điều đã xảy ra trên thế gian và có lẽ cả mọi
điều đã xảy ra. Tôi nghĩ họ tồn tại trên thế giới này khá hơn kẻ khác. Trong thời
buổi người ta tự làm tan nát đời mình vì tham vọng, nóng nảy và ham muốn, thì họ
buông lơi. Tất cả mọi người mình gọi là thành công đều bị bệnh, bệnh dạ dày, bệnh
phần hồn, nhưng Mack và đám choai choai khỏe mạnh và trong sạch một cách lạ
lùng. Họ có thể làm cái gì họ muốn. Họ có thể thỏa mãn khát khao của họ mà
không cần gọi nó là cái gì khác” [91,165]. Bởi vì, ngoài Doc, ở Cannery Row, chỉ
có Mack và hội bạn của anh sống gần gũi, chan hòa cùng cây cỏ, đất đai, biển cả,
yêu mến tự nhiên. Họ “ở trong thùng tô nô khi trời ẩm ướt, nhưng khi thời tiết tốt,
họ sống dưới bóng cây bách đen trên đỉnh lô đất” [91,20] hoặc “ngủ yên bình trên
lá thông” [91,91]. Ở những nơi chốn hoang sơ ấy, Mack và hội bạn có thể tồn tại
thuận theo tự nhiên, ăn uống với hổ báo, vuốt ve đàn bê, gói vụn bánh để nuôi lũ
mòng biển. Khác với đám đông trong phố, họ không bị ràng buộc bởi những thứ
có vẻ ngoài đẹp đẽ song lại là giới hạn của thế giới văn minh. Do vậy, Doc luôn là
người thấu hiểu, cảm thông, chia sẻ và có phần thán phục nhóm người bị xã hội
ruồng bỏ. Ông trở thành người hùng của Mack, hội bạn của Mack và cư dân ở
Cannery Row.
Như thế, bằng những cách thức khác nhau, cả Casy và Doc đều ứng xử khiêm
nhường, hài hòa, trở thành thể thống nhất với tự nhiên. Nhờ vậy, họ dễ dàng trở
thành những nhà tiên tri, những người thông thái, những anh hùng thời hiện đại
145
với sứ mệnh gắn kết con người với tự nhiên, gìn giữ hòa bình và sự phát triển bền
vững. Theo Marilyn Chandler McEntyre, sự tỉnh thức của Casy và Doc bắt nguồn
từ mối quan tâm của họ đến thế giới tự nhiên. Thông qua hai nhân vật này,
Steinbeck gửi gắm thông điệp của thế giới hoang sơ, rằng “tự nhiên dạy bảo con
người những gì họ cần biết, và những người thầy giỏi nhất của chúng ta là những
người đã học được những bài học của mẹ tự nhiên” [37,123].
Bên cạnh cổ mẫu anh hùng, cổ mẫu mẹ trong tiểu thuyết của John Steinbeck cũng đảm nhiệm vai trò gắn kết tự nhiên và nam giới bằng sự thấu hiểu về tính thống nhất của mọi sự sống. Tác phẩm của Steinbeck đã chỉ ra những nét tương đồng giữa nữ giới và tự nhiên, đó là thiên tính nữ, là bản năng làm mẹ và đặc biệt là địa vị của người mẹ, người phụ nữ trong xã hội gia trưởng. Trong Chùm nho phẫn nộ, sự tác động của con người lên tự nhiên (thông quá máy móc hiện đại) được miêu tả như là sự chiếm đoạt, cưỡng bức nữ giới của nam giới: “Sau những chiếc bừa là máy gieo hạt… mười hai cái dương vật bằng sắt uốn cong trở vào, được luyện cứng ở lò đúc, được khởi động bởi các đòn bẩy, đang hãm hiếp đất một cách có phương pháp, một cách lạnh lùng” [85,50]. Ở đây, Steinbeck đã lột trần mặt trái của nền nông nghiệp hiện đại hóa. Số phận của đất, của tự nhiên cũng chẳng khác gì những đau khổ, thiệt thòi mà người phụ nữ phải chịu đựng dưới chế độ gia trưởng. Họ bị động và hoàn toàn lệ thuộc vào nam giới. Phải chăng chính nhờ những sự tương đồng ấy, phụ nữ dễ dàng kết nối với tự nhiên để xóa đi khoảng cách, lấp đầy khoảng trống, gắn kết nam giới với tự nhiên. Cũng trong tác phẩm này, Ma Joad là điển hình cho một dạng thức của cổ mẫu mẹ, đó là mẹ đất/mẹ thiên nhiên/mẹ vĩ đại [37] qua cách tác giả mô tả ngoại hình mạnh mẽ, đôi chân trần đi trên nền đất và với nguồn sức mạnh tinh thần lớn lao, bà nuôi dưỡng, che chở cho cả gia đình vượt qua những tình huống khó khăn. Bà mẹ quê mùa ấy trở thành “bức thành lũy của gia đình”, là “nơi nương tựa bất khả xâm phạm” [85,45]. Hơn thế, Ma Joad là người đảm đương sứ mệnh gắn kết nam giới với tự nhiên. Khi đàn ông nhà họ Joad chao đảo trước những biến thiên của lịch sử, đánh mất sự kết nối thiêng liêng với tự nhiên, bà mẹ đã dũng cảm nhìn thẳng vào thực tế bi đát của họ và khích lệ đám đàn ông vững vàng vượt qua trạng huống khó khăn của họ. Khác với phần lớn những người đàn ông trong gia đình, bà dễ dàng thích nghi với thời cuộc bởi cách nhìn sự đời của bà mẹ này đầy tính biện chứng như chính bản chất của tự nhiên: “Ở người đàn bà, sự việc cứ trôi chảy như con sông, có những xoáy nước
146
nhỏ, có những thác nước nhỏ, nhưng sông vẫn chảy, chảy hoài” [85,678]. Cùng với Casy, Ma Joad là người hiểu rõ tính gắn kết của vạn vật: “Tới một thời sự đời thay đổi. Lúc đó mỗi cái chết là một phần của cái chết chung, một sự sinh đẻ là một phần của toàn bộ những sự sinh đẻ, cái chết và sự sinh đẻ là hai bộ phận của cùng một sự việc. Và lúc đó, sự đời sẽ không còn đơn độc nữa” [85,444]. Nhờ vậy, bà mẹ đã trợ giúp người anh hùng của nhà Joad, Tom, trên hành trình nhận thức từ cái tôi cá nhân đến cái ta toàn thể của anh. Trong cái toàn thể đó, sự gắn kết giữa con người và tự nhiên là một phần tất yếu. Sau cùng Tom đã hiểu rằng anh không có linh hồn của riêng mình, mà chỉ là một mẩu của linh hồn độc nhất. Anh sẽ không biến mất mà vẫn luôn hiện hữu trong thế giới tự nhiên.
Ở một mức độ cao hơn, tiểu thuyết của Steinbeck không những chỉ ra con
đường trở về với tự nhiên, gắn bó với mẹ thiên nhiên để hàn gắn lại giao ước thiêng
liêng lâu đời giữa con người và tự nhiên mà còn thức tỉnh con người trong thời đại
kĩ trị nhận ra, chấp nhận vị trí thật sự của họ trong vũ trụ rộng lớn. Cả hai xu hướng
này đều phản ánh sự đồng cảm của một người đàn ông phương Tây hiện đại với
những giá trị tinh thần của phương Đông cổ đại. Theo Stephen K. George, câu
chuyện về Kino và Juana trong Viên ngọc trai có thể được đọc theo quan điểm của
Đạo gia. Đó là hành trình con người thoát khỏi sự ám ảnh của chủ nghĩa vật chất,
chủ nghĩa trí tuệ, chấp nhận sự vật/sự việc như nó vốn có và trở thành một với Đạo
[150]. Theo đó, sự kiện Kino ném trả viên ngọc xuống biển sâu đồng nghĩa với
việc nhân vật dũng cảm từ bỏ cuộc đấu tranh vì một cuộc sống giàu sang, thịnh
vượng hơn và chấp nhận số phận cá nhân của mình, do đó Kino đạt đến sự hiểu
biết về vị trí đích thực của anh trong thế giới tự nhiên. Tuy nhiên, nghiên cứu của
George chưa thực sự chú ý vai trò của Juana như là cầu nối, nguồn khích lệ, nâng
đỡ người chồng Kino trên hành trình vươn đến trạng thái tồn tại siêu việt này. Juana
là nhân vật duy nhất trong tác phẩm nhận ra những tai họa mà chồng chị có thể gặp
phải khi cất giữ vật báu. Vì vậy, xuyên suốt hành trình Juana luôn nhẫn nại, bình
tĩnh, bao dung, trở thành điểm tựa của Kino trong những tình huống éo le. Cuối tác
phẩm, Kino tỏ ý muốn Juana ném trả vật báu biểu trưng cho giấc mơ của họ về đáy
biển, song Juana từ chối và để dành hành động đó cho chồng. Bằng cách đó, Juana
đã giúp Kino thiết lập lại mối quan hệ tự nhiên giữa anh với cộng đồng và thế giới
tự nhiên.
147
Vậy là, trên “hành trình về phương Đông”, tiểu thuyết gia John Steinbeck đã
tìm thấy sự đồng điệu trong di sản tinh thần phương Đông cổ đại, đặc biệt là những
tư tưởng uyên thâm của Đạo gia. Thông qua hành trình tìm về với tự nhiên của cổ
mẫu anh hùng được xây dựng phần nào dựa trên nguyên mẫu là Ed Ricketts, nhà
sinh vật học say mê triết học phương Đông và sứ mệnh kết nối nam giới với tự
nhiên của cổ mẫu mẹ, nhà văn đã cất lên tiếng nói sinh thái mới mẻ và tiến bộ,
đánh thức dân tộc Mỹ đang “điên cuồng” trong công cuộc phát triển kinh tế, khoa
học kĩ thuật công nghệ. Theo đó, tinh thần Đông phương trong những nhân vật gắn
kết mật thiết với tự nhiên của John Steinbeck là cầu nối hàn gắn mối giao ước giữa
con người và tự nhiên đã được thiết lập từ ngàn xưa. Đây cũng là mấu chốt để giải
quyết những vấn nạn sinh thái mà con người thời đại kĩ trị đã, đang phải đối diện.
Như Glendinning đã nhắc nhủ chúng ta rằng: “Trở về với những gì chúng ta đã
đánh mất: ý thức vững vàng hơn về chính mình, cảm giác được kết nối với bản
thân, người khác, thế giới, muôn loài sâu sắc hơn và giao tiếp với linh hồn, cơ thể
và trái đất sâu sắc hơn. Khi chúng ta có được những xúc cảm này, trí tưởng tượng
chạm vào phần sâu thẳm bên trong chúng ta và do đó, chúng ta kết nối lại với tâm
hồn đã mất từ lâu. Khi đó, chúng ta mới thực sự trở về với trái đất này” [151,40].
* Tiểu kết
Trên cơ sở những nghiên cứu về cổ mẫu đất và nước trong văn hóa dân gian
và trong tiểu thuyết John Steinbeck, có thể thấy sáng tác của nhà văn người Mỹ
này đã hấp thu rất nhiều đặc trưng của cổ mẫu đất và nước trong tâm thức nhân
loại. Cổ mẫu đất mang ý nghĩa nguồn sống, là biểu trưng mạnh mẽ cho khát vọng
sống sót của những người lao động nghèo trong bối cảnh Đại suy thoái và những
bất ổn xã hội. Cổ mẫu nước, biểu hiện qua các biến thể đa dạng như biển, sông,
suối, ao hồ, mưa, lụt, được tái xuất hiện trong nhiều tiểu thuyết với ý nghĩa biểu
trưng cho sự hủy diệt và niềm hi vọng tái sinh. Điểm đáng kể là, trong khi tái hiện
các cổ mẫu tự nhiên tiêu biểu xuyên suốt sự nghiệp tiểu thuyết của mình, nhà văn
đã bồi đắp thêm cho chúng những ý nghĩa phái sinh gắn liền với bối cảnh thời đại,
đặc biệt là tiếng nói sinh thái mới mẻ, tiến bộ trong lòng nước Mỹ nửa đầu thế kỉ
XX. Diễn ngôn sinh thái trong tiểu thuyết của John Steinbeck là tiếng nói của đất,
nước và con người về cuộc khủng hoảng sinh thái ngày một nghiêm trọng và sự
sụp đổ ý thức sinh thái trong thời đại kĩ trị, đồng thời hướng về các giá trị tinh thần
148
phương Đông, biểu hiện qua sự tìm về với tự nhiên của cổ mẫu anh hùng và sứ
mệnh gắn kết nam giới với tự nhiên của cổ mẫu mẹ, để phục hồi mối quan hệ hài
hòa, bình đẳng, cộng sinh giữa con người và tự nhiên từ thuở ban sơ.
149
KẾT LUẬN
Hơn bất cứ loại hình nghệ thuật nào khác, văn chương là nơi kí thác những kí
ức văn hóa và kinh nghiệm lâu đời của nhân loại. Đặc biệt, thế giới cổ mẫu tồn tại
từ trong thần thoại, truyện kể dân gian và liên tục tái sinh trong các thể loại văn
học, các tác phẩm văn chương thuộc các nền văn học trung đại, hiện đại và cả hậu
hiện đại là nơi chưng cất vốn sống của con người qua bao thế hệ. Hệ thống cổ mẫu
được tái thiết này mặc dù vẫn lưu giữ ít nhiều những đặc trưng, mô hình cấu trúc,
ý nghĩa nguyên bản của cổ mẫu gốc, song điều đáng kể lại nằm ở những biến thể,
những tình tiết mới xuất hiện tùy thuộc vào bối cảnh lịch sử xã hội và nền văn hóa
mà chúng thuộc về.
Trong tiến trình văn học Mỹ, hiếm thấy một tác giả nào có những suy nghĩ
kiên định về bản sắc và vận mệnh của quốc gia và dân tộc như John Steinbeck.
Điều này được biểu hiện rõ nét thông qua cuộc tái sinh vĩ đại của hệ thống cổ mẫu
phong phú và đa dạng từ những huyền thoại phương Tây, huyền thoại quốc gia và
huyền thoại bản địa trong những tiểu thuyết nổi bật của ông trên nền bối cảnh lịch
sử xã hội Mỹ có nhiều biến đổi sâu sắc vào nửa đầu thế kỉ XX. Những nét tương
đồng giữa hệ cổ mẫu được tái sinh trong tiểu thuyết John Steinbeck với các cổ mẫu
trước đó phần nào tiết lộ các chủ đề phổ quát và sức ảnh hưởng mạnh mẽ của tư
duy huyền thoại từ folklore đến các nghệ sĩ hiện đại, đồng thời cho thấy cách thức
mà nhà văn đã thích ứng với hệ cổ mẫu của nhân loại và dung hòa nó với những
chuẩn mực, giá trị văn hóa của cộng đồng đương thời. Những nét khác biệt, mới lạ
chứng tỏ John Steinbeck không hề sao chép lại truyền thống một cách đơn điệu,
ngược lại, đã chuyển hóa chúng trên nền cái cũ để thích nghi với những chuyển
biến mạnh mẽ của thời đại và biểu đạt những vấn đề hiện sinh mới mẻ trong đời
sống xã hội và tâm hồn người Mỹ, nước Mỹ.
Trong phạm vi luận án, với đề tài Cổ mẫu trong tiểu thuyết John Steinbeck,
chúng tôi đã tập trung làm rõ một số vấn đề cốt yếu sau:
Trên cơ sở kế thừa những thành tựu nghiên cứu của lĩnh vực phê bình huyền
thoại/cổ mẫu, chúng tôi tiến hành phân tích hai hướng tiếp cận cổ mẫu chủ yếu:
hướng tiếp cận tâm lí-huyền thoại và hướng tiếp cận lịch sử-xã hội. Hướng tiếp
cận tâm lí-huyền thoại, dưới ảnh hưởng chủ chốt của Jung và Frye, tập trung vào
các đặc tính phổ quát, bẩm sinh, lặp lại của cổ mẫu, từ đó, góp phần nhận diện và
150
kiến giải các vấn đề thuộc về thế giới tinh thần và văn hóa của nhân loại. Trong
khi đó, hướng tiếp cận lịch sử-xã hội quan tâm đến bối cảnh lịch sử, xã hội và các
yếu tố bên ngoài khác tác động đến sự hình thành các cổ mẫu mới, thông qua đó,
lí giải cách thức nhà văn dung hòa và đối thoại với những giá trị, khuôn mẫu của
cộng đồng và thời đại. Kết hợp hai hướng tiếp cận này giúp người nghiên cứu kiến
giải hệ cổ mẫu trong tiểu thuyết John Steinbeck cả bề rộng lịch sử-xã hội lẫn chiều
sâu văn hóa tâm linh. Bên cạnh việc tái hiện nền tảng lí thuyết cổ mẫu, chúng tôi
còn xem xét lịch sử nghiên cứu tiểu thuyết John Steinbeck và cổ mẫu trong tiểu
thuyết của nhà văn người Mỹ nổi tiếng này ở trên thế giới và trong nước. Sau khi
thu thập, phân tích và tổng hợp các nghiên cứu liên quan đến đề tài, chúng tôi xét
thấy John Steinbeck và tiểu thuyết của ông vẫn luôn cuốn hút đông đảo học giả từ
Đông sang Tây quan tâm, nghiên cứu. Trong số đó, nhiều công trình nghiên cứu
đã khai phá vấn đề cổ mẫu, đặc biệt là cổ mẫu mẹ và cổ mẫu anh hùng, song chưa
tập trung xem xét sự tạo sinh cổ mẫu trong bối cảnh lịch sử xã hội đặc biệt của
nước Mỹ. Tuy nhiên, những nghiên cứu công phu của các học giả tiền bối ở trong
và ngoài nước đã gợi mở nhiều ý tưởng thú vị, thôi thúc chúng tôi tìm hiểu sâu hơn
các cổ mẫu điển hình trong tiểu thuyết của John Steinbeck.
Từ việc khảo sát các mẫu hình nhân vật, các sự kiện và kinh nghiệm đặc biệt
mà nhân vật trải qua, các biểu tượng cổ mẫu được tái xuất hiện thường xuyên và
đậm đặc trong thế giới nghệ thuật tiểu thuyết của John Steinbeck, chúng tôi nhận
thấy sự hiện diện mạnh mẽ của các cổ mẫu: cổ mẫu mẹ, cổ mẫu anh hùng, cổ mẫu
đất và nước. Cổ mẫu mẹ trong tiểu thuyết John Steinbeck kế thừa các đặc trưng cơ
bản của mô hình gốc đã được hình thành trong nền tảng văn hóa dân gian, bao gồm
mẹ hiền và mẹ dữ. Những gương mặt mẹ hiền nổi bật với vẻ đẹp nữ tính, tình yêu
thương vô bờ, quyền năng sinh sản và nuôi dưỡng, trái lại, khía cạnh hủy diệt,
khủng khiếp của mẹ dữ biểu hiện qua những nhân vật nữ lẳng lơ, cám dỗ và độc
ác, tàn nhẫn. Hơn thế, khía cạnh mới mẻ của cổ mẫu mẹ trong tiểu thuyết John
Steinbeck thuộc về cuộc tái lập địa vị và vai trò quan trọng của người mẹ, người
phụ nữ trong bối cảnh xã hội đầy bất ổn đương thời và sự áp chế của một truyền
thống văn hóa đậm chất nam tính. Steinbeck đã phát hiện sức mạnh tinh thần và
khả năng thích ứng với thời cuộc chao đảo ở những bà mẹ quê mùa, những người
phụ nữ bình dân thông qua sự trỗi dậy của cổ mẫu animus, chất nam tính trong nữ
151
tính. Từ đó, những gương mặt nữ của John Steinbeck đã cất lên tiếng nói mới mẻ
của họ, đồng thời thách thức trật tự giới vốn đã hằn sâu trong tâm thức cộng đồng.
Ngoài ra, sự thể hiện của hai đặc trưng đối lập, sáng tạo/hủy diệt, tiết lộ tính nhị
nguyên trong cổ mẫu mẹ như là một nét đặc thù của tiểu thuyết John Steinbeck.
Song, độ chênh lệch giữa hai tính cách trái chiều cho thấy nhà văn đã nghiêng về
đặc tính hiền dịu, yêu thương của cổ mẫu mẹ. Khía cạnh tích cực này là nền tảng
vững chắc làm nên sức mạnh tinh thần vĩ đại của những người mẹ, người phụ nữ,
giúp họ dễ dàng thích nghi với những thay đổi bão táp của thời đại và tái lập bản
sắc nữ tính trong một nền văn hóa giàu truyền thống nam tính.
Thành công của tiểu thuyết John Steinbeck còn biểu hiện qua sự tái sinh cổ
mẫu anh hùng nhằm phản ánh những trạng huống hiện sinh mới mẻ của con người
thời hiện đại. Trên cơ sở đặc trưng và cấu trúc cổ mẫu anh hùng trong văn hóa dân
gian, nhà văn đã tái thiết cổ mẫu này trong tiểu thuyết của ông với những phẩm
tính anh hùng, quả cảm, giàu lòng vị tha và tập trung khắc họa người hùng qua hai
motif nhiệm vụ cơ bản, tìm kiếm miền đất hứa và xác lập bản sắc. Trên hành trình
thực hiện nhiệm vụ của người hùng, cổ mẫu mẹ nắm giữ vai trò nâng đỡ, khích lệ,
truyền cảm hứng. Nhân vật anh hùng của John Steinbeck là người đảm đương sứ
mệnh thiết lập các giá trị đức tin mới để có thể thay đổi thế giới và số phận của
những kẻ bị áp bức. Bên cạnh đó, nhà văn đã khắc họa nhân vật anh hùng là những
cá nhân thuộc về những cộng đồng thiểu số trong xã hội Mỹ đa sắc tộc nhằm cất
lên tiếng nói của nhóm người yếu thế này trong cuộc đối thoại với cộng đồng chính
thống. Song hành với quá trình tái huyền thoại hóa cổ mẫu anh hùng, tiểu thuyết
John Steinbeck còn giải thiêng huyền thoại người hùng Mỹ qua việc khắc họa motif
nhân vật anh hùng bi kịch. Thay vì tô đậm kì tích của người hùng hôm nay,
Steinbeck đã phơi bày trạng huống bi đát của họ, những thân phận bên lề, bị ruồng
bỏ, chịu đựng nhiều đau thương, mất mát, thậm chí tuẫn nạn. Liên quan đến việc
giải huyền thoại người hùng, nhà văn còn giải thiêng huyền thoại giấc mơ Mỹ khi
hướng tới phơi bày khía cạnh tối tăm của giấc mơ. Phần lớn nhân vật của John
Steinbeck phải trốn chạy, bị ruồng bỏ, bị xua đuổi khỏi nơi chốn mà họ được hứa
hẹn là đất hứa, thiên đường. Như thế, bằng sự tái thiết cổ mẫu anh hùng, tiểu thuyết
của John Steinbeck đã giải thiêng những huyền thoại được cổ súy mạnh mẽ trong
tiến trình lập quốc của Hoa Kỳ, tiết lộ những xung đột giữa vùng đất hứa trong
152
huyền thoại, tưởng tượng và vùng đất bất mãn thời hiện đại. Tuy nhiên, ở một khía
cạnh nào đó, nhà văn vẫn bày tỏ niềm lạc quan, tin tưởng của ông vào những người
Mỹ giàu lương tri cùng với nỗ lực theo đuổi giấc mơ để giành lấy tiến bộ về vật
chất và tự do tinh thần của họ.
Từ việc tìm hiểu đặc trưng của cổ mẫu đất và nước trong văn hóa dân gian,
chúng tôi tiến hành khảo sát, phân tích các biến thể của những cổ mẫu tự nhiên này
trong tiểu thuyết của John Steinbeck. Cổ mẫu đất trong sáng tác của nhà văn vừa
kế thừa đặc tính nguồn sống và sự hủy diệt của cổ mẫu gốc, đồng thời mang ý
nghĩa biểu trưng cho khát vọng sinh tồn và biểu hiện tình yêu đất đai, thiên nhiên
sâu sắc của những người lao động nghèo trong thời đại kĩ trị. Cổ mẫu nước cũng
được tái thiết trên nền tảng đặc trưng cốt lõi của mẫu gốc, là nguồn sống, sự thanh
tẩy và tái sinh. Tuy vậy, sự thể hiện của các dạng thức tiêu biểu của cổ mẫu nước
trong tiểu thuyết John Steinbeck cho thấy ý nghĩa biểu trưng cho sự hủy diệt và
niềm hi vọng tái sinh là những nét nghĩa chính yếu. Hơn thế, cả hai cổ mẫu này là
chìa khóa mở cánh cửa bước vào thế giới tự nhiên và tiết lộ mối quan hệ giữa con
người và tự nhiên trong tiểu thuyết John Steinbeck. Đồng thời, sự tái sinh cổ mẫu
đất và nước nhằm cất lên tiếng nói sinh thái trong thời đại khủng hoảng môi sinh
là minh chứng sinh động, rõ nét về tài năng “thời sự hóa” những cổ mẫu nguyên
thủy của John Steinbeck, nhà văn-nhà sinh thái tiên phong. Đó là diễn ngôn về
cuộc khủng hoảng sinh thái và tác động dữ dội của nó đến số phận của tầng lớp
bên lề/dưới đáy xã hội, là sự sụp đổ ý thức sinh thái của phần lớn người Mỹ trong
thời đại khoa học kĩ thuật lên ngôi. Bên cạnh đó, thông qua sự thể hiện của cổ mẫu
mẹ và cổ mẫu anh hùng, John Steinbeck còn chỉ ra sự trở về với tính thống nhất,
hài hòa giữa con người và tự nhiên trong di sản tinh thần phương Đông cổ đại để
hàn gắn mối quan hệ thiêng liêng đã phai nhạt và rạn vỡ là con đường khả thi nhằm
khôi phục và phát triển nước Mỹ bền vững.
Như thế, sự tái thiết cổ mẫu mẹ, cổ mẫu anh hùng, cổ mẫu đất và nước trong
tiểu thuyết của John Steinbeck mang những đặc trưng, ý nghĩa riêng nhưng cùng
kiến tạo nên những chủ đề xuyên suốt sự nghiệp sáng tác của nhà văn như thiện -
ác, quyền lực - nghèo đói, cá nhân - cộng đồng, con người - tự nhiên và được tái
thiết trên cơ sở niềm tin và triết lí của nhà văn về tính thống nhất của mọi sự sống.
Bên cạnh việc kế thừa ý nghĩa nguyên thủy của các cổ mẫu, khơi dậy những kí ức
153
văn hóa của dân tộc và nhân loại, điểm đáng kể của các cổ mẫu điển hình được nhà
văn tái thiết trong sáng tác của ông thuộc về những ý nghĩa phái sinh, những phản
đề cổ mẫu mang đậm hơi thở thời đại. Vì thế, tiểu thuyết của John Steinbeck một
mặt phơi bày hiện thực đầy xót xa, phẫn nộ, ám ảnh của nước Mỹ nửa đầu thế kỉ
XX bằng âm điệu và khí chất Mỹ, mặt khác tái khẳng định những giá trị truyền
thống, văn hóa, đồng thời đối thoại, giải thiêng những huyền thoại đậm tính khuôn
mẫu, áp chế của nền văn hóa ưu trội.
Kết quả nghiên cứu của luận án mới chỉ là những khám phá, tìm tòi ban đầu
của hành trình giải mã những vỉa tầng cổ mẫu trong tiểu thuyết John Steinbeck. Do
đó, chúng tôi hi vọng có thể mở rộng phạm vi nghiên cứu sang các thể loại khác
như truyện ngắn, du kí để vẽ lại một bức tranh toàn diện về cổ mẫu trong văn xuôi
của văn hào người Mỹ này.
154
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
1. Nguyễn Thị Thu Hằng, Nguyễn Thị Kim Ngân (2022), “Discourse of
Minority Communities: Comparing Archetypal Heroes in Nguyễn Huy
Thiệp’s “The Tiger’s Heart” (1971) and John Steinbeck’s The Pearl (1947)”,
Suvannabhumi 14(1), 53-70.
2. Nguyễn Thị Kim Ngân, Nguyễn Thị Thu Hằng & Lê Văn Trung (2021),
“Identity of the Vietnamese narrative culture: archetypal journeys from folk
narratives to fantasy short stories”, Humanities and Social Sciences
Communications 8(12), https://doi.org/10.1057/s41599-020-00697-3.
3. Nguyễn Thị Thu Hằng (2020), “Tính đa trị của biểu tượng Moby Dick trong
Moby Dick – Cá voi trắng của Herman Melville”, Tạp chí Khoa học Trường
Đại học Sư phạm Huế 1(53), 23-31.
4. Nguyễn Thị Thu Hằng (2020), “Sự tích hợp thể loại trong tiểu thuyết Chùm
nho phẫn nộ của John Steinbeck”, Kỉ yếu Hội thảo Khoa học quốc gia Nghiên
cứu và dạy học tác phẩm văn học theo thể loại, Nxb ĐHSP Hà Nội, 471-483.
5. Nguyễn Thị Thu Hằng (2019), “Bất ổn xã hội và địa vị của giới nữ: nghiên
cứu trường hợp tiểu thuyết Chùm nho phẫn nộ của John Steinbeck”, Tạp chí
Nghiên cứu văn học 10(572), 95-106.
155
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thị Kim Ngân (2021). “Phân tích cổ mẫu trong tự sự dân gian từ phương
pháp tiếp cận tâm lí học đến phương pháp tiếp cận lịch sử-xã hội”, Tạp chí Lý
luận, Phê bình văn học, nghệ thuật, tr.49-60.
2. Steinbeck Now. “About John Steinbeck”, about-john-steinbeck-2/>, accessed 2 March 2021. 3. Swedish Academy (1962). “Award ceremony speech”, prize.org/prizes/literature/1962/ceremony-speech/>, accessed 2 March 2021. 4. Con Davis, R. (ed., 1982). Twentieth Century Interpretations: The Grapes of Wrath, Englewood Cliffs, Prentice-Hall, New York. 5. Hữu Ngọc (2015). Hồ sơ văn hóa Mỹ, Nxb Thế giới, Hà Nội. 6. Hayashi, T. and Simpson B. K. (eds, 1994). John Steinbeck: Dissertation Abstracts and Research Opportunities, Scarecrow Press, Portland. 7. The Guardian (2013). “Swedish Academy reopens controversy surrounding Steinbeck's Nobel prize”, swedish-academy-controversy-steinbeck-nobel>, accessed 4 March 2021. 8. Online Etymology Dictionary. “Archetype”, /search?q=archetype>, accessed 2 January 2021. 9. Phó Đức Tùng (2012). “Các khái niệm quan trọng của Platon: Idea, Form và Illusion”, idea-form-va-illusion/>, xem 18/8/2021. 10. Jung, C. G. (1981). C.G. Jung Collected Works, Vol. 9, “The Archetype and the Collective Unconsious”, Herbert Read (ed.), R.F.C Hull (trans), Routledge, London. 11. Jung, C. G. (2017). Cổ mẫu của vô thức tập thể (Nguyễn Hoài An dịch), 12. Abrams, M. H. and G. G. Harpham (2008). A Glossary of Literary Terms, Cengage Learning, Boston. 13. Lộc Phương Thủy (chủ biên, 2007). Lí luận - phê bình văn học thế giới thế kỉ XX, tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 14. Jung, C. G. (2007). Thăm dò tiềm thức (Vũ Đình Lưu dịch), Nxb Tri thức, Hà Nội. 156 15. Benett, E. A. (2002). Jung thực sự đã nói gì (Bùi Lưu Phi Khanh dịch), Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 16. Nguyễn Thị Thanh Xuân (2010). Phê bình cổ mẫu và cổ mẫu nước trong văn chương Việt Nam, hoa/nhung-goc-nhin-van-hoa/phe-binh-co-mau-va-co-mau-nuoc-trong-van- chuong-viet-nam/>, xem 15/6/2019. 17. Jung, C. G. (2005). Four Archetypes: Mother, Rebirth, Spirit, Trickster, R. F. C. Hull (trans), Routledge Classics, London. 18. Frye, N. (1971). Anatomy of Criticism: Four Essays, Princeton University Press, Princeton. 19. Trần Đình Sử (chủ biên, 2007). Tự sự học: một số vấn đề lí luận và lịch sử, tập 2, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội. 20. Vũ Minh Đức (2018). Cổ mẫu trong truyện ngắn Isaac Bashevic Singer, Luận án Tiến sĩ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. 21. Mills, J. (2018). “The Essence of Archetypes”, International Journal of Jungian Studies, pp.1-22. 22. Knox, J. (2003). Archetype, Attachment, Analysis: Jungian psychology and the emergent mind, Brunner-Routedge, New York. 23. Goodwyn (2010). “Approaching Archetypes: Reconsidering innateness”, Journal of Analytical Psychology, 55, pp.502-521. 24. Goodwyn (2013). “Recurrent motifs as resonant attractor states in the narrative field: a testable model of archetype”, Journal of Analytical Psychology, 58, pp.387-408. 25. Roesler, C. (2012). “Are Archetypes transmitted more by culture than biology? Questions arising from conceptualizations of the archetype”, Journal of Analytical Psychology, 57, pp.223-246. 26. Đào ngọc Chương (2008). Phê bình huyền thoại, Nxb Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh. 27. Gray, J. (1971). John Steinbeck, University of Minnesota Press, Minnesota. 28. Covici, P. (1971). The Portable Steinbeck, The Viking Press, New York. 29. Steinbeck, E. and Robert Wallstein (eds., 1975). Steinbeck: A Life in Letters, The Viking Press, New York. 157 30. Benson, J. J. (1984). The True Adventures of John Steinbeck, Writer, The Viking Press, New York. 31. Parini, J. (1994). John Steinbeck: A Biography, Heinemann, London. 32. Souder, W. (2020). Mad at the World: A Life of John Steinbeck, W. W. Norton & Company, New York. 33. Owens, L. (1989). The Grapes of Wrath: Trouble in the Promised Land, Twayne, Boston. 34. Morretta, A. (2015). John Steinbeck and the Great Depression, Cavendish Square Publishing, New York. 35. Lisca, P. (1958). The Wide World of John Steinbeck, Rutgers University Press, New Brunswick. 36. Meyer, Michael J. (ed., 2009). The Essential Criticism of John Steinbeck’s Of Mice and Men, The Scarecrow Press, Inc., Maryland. 37. Beegel, S. F., Susan Shillinglaw and Wesley N. Tifney Jr. (1997). Steinbeck and the Environment: Interdisciplinary Approaches, University of Alabama Press, Tuscaloosa. 38. Willis, L. (2005). “Monstrous Ecology: John Steinbeck, Ecology, and American Cultural Politics”, The Journal of American Culture, 28(4), pp.357-367. 39. Bamarani, S. C. (2015). “Ecological Consiousness in John Steinbeck’s The Grapes of Wrath”, Indian Journal of Applied Research, 5(8), pp.340-341. 40. Benesová, L. (2016). John Steinbeck through the Perspective of Ecocritical Reading, Thesis, Ceské Budejovice. 41. Motley, W. (1982). “From Patriarchy to Matriarchy: Ma Joad’s Role in The Grapes of Wrath”, American Literature, 54(3), pp.397-412. 42. Woods, D. (2008). Defying Domesticity: Steinbeck’s critique of gender politics of postwar generation in East of Eden, Thesis Master of Arts, University of North Carolina Wilmington. 43. Fonseca, D. L. (2005). Gender relations in Steinbeck’s The Grapes of Wrath, 44. Wu, L. (2016). “The Construction of Female Subject Identity in The Grapes of Wrath”, Studies in Literature and Language, 12(3), pp.12-16. 45. Garcia, N. M. (2016). Steinbeck’s Female Characters: Environment, 158 Confinement, and Agency, Master’s thesis, Havard Extension School. 46. Meyer, K-R. (2016). “Cathy’s “Masculinity” as Survival in Steinbeck’s East of Eden”, The Explicator, 74(1), pp.31-33. 47. Gladstein, M. R. (1986). The Indestructible Woman in Faulkner, Hemingway and Steinbeck, UMI Research Press, Ann Arbor, Mich. 48. Shockley, M. (1956). “Christian Symbolism in The Grapes of Wrath”, College English, 18(2), pp.87-90. 49. Carlson, E. W. (1958). “Symbolism in The Grapes of Wrath”, College English, 19(4), pp.172-175. 50. Dougherty, C. T. (1962). “The Christ-Figure in The Grapes of Wrath”, College English, 24(3), pp.224-226. 51. Crockett, H. K. (1962). “The Bible and The Grapes of Wrath”, College English, 24(3), pp.193-199. 52. Brasch, J. D. (1977). “The Grapes of Wrath and Old Testament Skepticism”, San Jose Studies, 3(2), pp.16-17. 53. Veneros, M. P. (2012). “Inversion of biblical symbols in The Grapes of Wrath”, Literatura y Linguística 26, pp.167-179. 54. Peter Lisca (1956). “Motif and Pattern in ‘Of Mice and Men’”, Modern Fiction Studies, Vol. 2, No. 4 (Winter 1956-1957), pp.228-234. 55. Heitkamp, J. (1971). Nature Symbolism in the Fiction of JohnSteinbeck, Master of Arts, North Texas State University. 56. Bluefatb, S. (1972). The Escape Motif in the American Novel: Mark Twain to Richard Wright, Ohio State University Press, Columbus, Ohio. 57. Todd M. Lieber (1972), “Talismanic Patterns in the Novels of John Steinbeck”, American Literature, 44(2), pp.262-275. 58. Anderson, A. C. (1976). The Journey motif in the fiction of John Steinbeck: the Traveler discovers himself, Dissertation in Fordham University, Michigan. 59. Nguyễn Đức Đàn (1998). Hành trình văn học Mỹ, Nxb Văn học, Hà Nội. 60. Vanspanckeren, Kathryn (2001). Phác thảo văn học Mỹ (Lê Đình Sinh, Hồng Chương dịch), Nxb Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh. 61. Lê Đình Cúc (2004). Tác gia Văn học Mỹ (thế kỉ XVIII-XX), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 159 62. Lê Huy Bắc (2000). Văn học Mỹ, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội. 63. Hoàng Thị Thập (2015). Nghệ thuật tiểu thuyết John Steinbeck, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Viện hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Hà Nội. 64. Lê Nguyễn Hạnh Phước (2008). Nghệ thuật tiểu thuyết và truyện ngắn của John Steinbeck, Luận văn thạc sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Huế. 65. Lê Nguyễn Hạnh Phước (2008). “John Steinbeck - Nghệ thuật như là một sự cảnh tỉnh trong thời đại công nghiệp và kinh tế thị trường dưới sứ mệnh nhân bản”, Tạp chí Sông Hương, số 230, tr.58-63. 66. Kakonis, T. E. (1958). Mysticism in Selected Early Novels of John Steinbeck, South Dakota State University. 67. Fontenrose, E. F. (1963). John Steinbeck: an introduction and interpretation, Barnes & Noble, New York. 68. VanDevyvere, J. L. (1974). Archetypes of the collective unconscious in the three novels of John Steinbeck, Master of Arts, Lakehead University. 69. Post, C. (1993). History’s Myth: John Steinbeck and the Twilight of Western Culture, Doctor of Philosophy in English, Texas Tech University. 70. Wiley, W. B. (2008). The American Cain: An Alternative National Archetype, Doctor of Philosophy, The University of Georgia. 71. Tóth, G. (2010). “Myths and Contexts in John Steinbeck’s The Grapes of Wrath”, E-Journal of American Studies in Hungary 6(1), 72. Fan, Y. (2014). “Analysis of Archetypal Character Jim Casy in The Grapes of Wrath”, Theory and Practice in Language Studies, 4(12), pp.2576-2580. 73. Martin, E. M. (2014). “Of Mice and Myth: John Steinbeck, Carl Jung, and The Epic of Gilgamesh”, 74. Walker, N. (2015). “Timshel: The Monomyth in East of Eden”, nglish_symposium>, accessed 5 March 2022. 75. Thurmanita, C. (2017). Derived Mythical Recurrence of the Bibilical Genesis’ Cain and Abel Story in Trask Family in John Steinbeck’s East of Eden, Thesis Examination Committee, Diponegoro University Semarang. 76. Saputra, B. (2018). “Steinbeck’s East of Eden: Redefining the Evil within Cathy 160 Ames”, International Letters of Social and Humanisic Sciences, 82, pp.19-23. 77. Gualberto, R. (2018). “Reassessing John Steinbeck’s Modernism: Myth, Ritual, and a Land Full of Ghosts in To a God Unknown”, Journal of English Studies 16, pp.113-132. 78. Hà Hoài (1962). “John Steinbeck, giải văn chương Nobel 1962”, Văn nghệ, 19, Sài Gòn. 79. Lê Huy Bắc (2009). “Chủ đề về người nông dân và cách cắt nghĩa chủ đề trong Chùm nho phẫn nộ của John Steinbeck”. Tạp chí Khoa Học Đại học Sư phạm Hà Nội 7, tr.10-16. 80. Hoàng Thị Thập (2018). “Tiểu thuyết Chùm nho phẫn nộ và những đối thoại để ngỏ”, Tạp chí Khoa học Đại học Tân Trào, 7, tr.47-54. 81. Nguyễn Thị Thu Hằng (2016). Cổ mẫu Mẹ trong “Chùm nho phẫn nộ” của John Steinbeck, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. 82. Guerin, W. L., E. Labor, L. Morgan, and J. R. Willingham (2005). “Mythical and Archetypal Approaches”, A Handbook of Critical Approaches to Literature, Oxford University Press, Inc., New York. 83. Neumann, E. (1963). The Great Mother: an analysis of archetype (Ralph Manhein translates), Princenton University Press, Princenton. 84. Chevalier, J. and A. Gheerbrant (2016). Từ điển biểu tượng văn hoá thế giới (Phạm Vĩnh Cư, Nguyễn Xuân Giao, Lưu Huy Khánh dịch), Nxb Đà Nẵng. 85. Steinbeck, J. (2020). Chùm nho phẫn nộ (Phạm Thủy Ba dịch), Nxb Văn học, Hà Nội. 86. Steinbeck, J. (2020). Viên ngọc trai (Đặng Việt Hưng dịch), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 87. Steinbeck, J. (2006). The Grapes of Wrath, Penguin Group Inc., New York. 88. Gorky, M. (2016). Người mẹ (Phan Thảo dịch), Nxb Văn học, Hà Nội. 89. Nhiều tác giả (2012). Thần thoại Hi Lạp (Nguyễn Văn Khỏa dịch), Nxb Phụ nữ, Hà Nội. 90. Steinbeck, J. (2018). Của chuột và người (Phạm Văn dịch), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 91. Steinbeck, J. (2018), Phố Cannery Row (Phạm Văn dịch), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 161 92. Steinbeck, J. (2014). East of Eden, Penguin Books, Great Britain. 93. Hugo, V. (2018). Những người khốn khổ (Huỳnh Lý, Vũ Đình Liên, Lê Trí Viễn, Đỗ Đức Hiểu dịch), Nxb Văn học, Hà Nội. 94. Faulkner, W. (2015). Âm thanh và cuồng nộ (Phan Đan - Phan Linh Đan dịch), Nxb Văn học, Hà Nội. 95. Nguyễn Huy Thiệp (2021). “Tâm hồn Mẹ”, trong Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Nxb Văn học, Tp. Hồ Chí Minh. 96. Steinbeck, J. (2014). Thị trấn Tortilla Flat (Lâm Vũ Thao dịch), Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh. 97. Steinbeck, J. (2003). Phía đông vườn địa đàng (Đinh Văn Quý dịch), Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 98. Bodnar, J. (2006). “Monuments and Morals: The Nationalization of Civic Instruction”, Civic and Moral Learning in America, Warren, Donald R.; Patrick, John J. (eds), Macmillan, New York, pp.212–214. 99. Allen, P. G. (1992). The Sacred Hoop: Recovering the Feminine in American Indian Traditions, Beacon Press, Boston. 100. Natelson, R. G. (2021). “Bảo vệ Hiến pháp Hoa Kỳ” (Minh Khanh và cộng sự dịch), The Epoch Times Tiếng Việt, tr.1-12. 101. Fetterley, Judith (1978). The resisting reader: a feminist approach to American fiction, Indiana University Press, Bloomington. 102. Harari, Y. N. (2017). Sapiens: Lược Sử Loài Người (Nguyễn Thủy Chung dịch), Nxb Tri thức, Hà Nội. 103. Friedan, B. (2015). Bí ẩn nữ tính (Nguyễn Vân Hà dịch), Nxb Hồng Đức, Tp. Hồ Chí Minh. 104. Bloom, H. (2005). John Steinbeck’s The Grapes of Wrath (Bloom’s guides), Chelsea House, New York. 105. Ross Murfin and Supryia M. Ray (eds., 2003). “Myth”, The Bedford Glossary of Critical and Literary Terms, Bedford-St. Martin’s, Boston. 106. Trịnh Bá Đĩnh (2002). Chủ nghĩa cấu trúc và văn học, Nxb Văn học, Hà Nội. 107. Meletinsky, E. M (2004). Thi pháp của huyền thoại (Trần Nho Thìn & Song Mộc dịch), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 108. Steinbeck, J. (1995). The Log from the Sea of Cortez, Penguin Books, New York. 162 109. Campbell, J. (2021). Người hùng mang ngàn gương mặt (Thiên Nga dịch), Nxb Dân trí, Hà Nội. 110. Nguyễn Thị Kim Ngân (2017). “Cổ mẫu trong nghiên cứu truyện kể dân gian”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, 541(3), tr.77-87. 111. Segal, R. et al (1990). In Quest of the Hero, Princeton University Press, Princeton. 112. Rank, O. (1914). The Myth Of The Birth Of The Hero, Journal of Nervous and Mental Disease Publishing, New York. 113. Raglan, L. (1936). The Hero: A Study in Tradition, Myth and Drama, Dover Publications, New York. 114. Leeming, D. A. (1981). Mythology: The Voyage of the Hero, Harper & Row, New York. 115. Ban Tôn giáo Chính Phủ (2011), Kinh Thánh (Nhóm phiên dịch các giờ kinh phụng vụ dịch), Nxb Tôn giáo, Huế. 116. Paul, H. (2014). The Myths that made America: An introduction to American Studies, Transcript Verlag, Bielefeld. 117. Grod, A. (2019). Theories of Culture, Routledge, New York. 118. Steinbeck, J. (2014). Tôi, Charley và hành trình nước Mỹ (Tuấn Việt dịch), Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh. 119. Ashcroft, B. et al (2007). Post-colonial studies: The Key Concepts, Taylor & Francis e-Library. 120. Shaw, P. W. (1997). “Tom’s Other Trip: Psycho-Physical Questing in The Grapes of Wrath”, The Grapes of Wrath: Text and Criticism, Peter Lisca with Kevin Hearle (eds.), 2nd rev, Viking Critical Library, Penguin Viking. 121. Steinbeck, J. (1933). To a God Unknown, Bantam Books Inc., New York. 122. Deleuze, Gilles and Félix Guattari (2015). Kafka - vì một nền văn học thiểu số (Nguyễn Thị Từ Huy dịch), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 123. Britch, Carroll and Clifford Lewis (1984). “Shadow of the Indian in the Fiction of John Steinbeck”, MELUS 11(2), pp.39-58. 124. Barthes, R. (2008). Những huyền thoại (Phùng Văn Tửu dịch), Nxb Tri thức, Hà Nội. 125. Đặng Anh Đào (2010). “Huyền thoại văn chương: thời điểm phát sáng và biến 163 hóa trong văn học viết hiện đại”, học-nước-ngoài/huyen-thoai-van-chuong-thoi-diem-phat-sang-va-bien-hoa- trong-van-hoc-viet-hien-dai-1172>, xem 10/10/2021. 126. Irena M. Makaryk (ed., 1995). Encyclopedia of Contemporary Literary Theory - Approaches, Scholars and Terms, University of Toronto Press. 127. Bergquist, G. (1999). “Biography of John Steinbeck”, Dictionary of World Biography: The 20th Century, Salem Press, Pasadena, CA, pp.3515-3517. 128. Gross, T. L. (1971). The Heroic Ideal in American Literature, Free Press. 129. Garry, J. & Hasan M. El-Shamy (eds., 2004). Archetypes and Motifs in Folklore and Literature: A Handbook, M. E. Sharpe, Inc., New York. 130. Jefferson, T. (1776). “Toàn văn Tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ 4/7/1776”, ml>, xem 10/3/2022. 131. Văn phòng Quốc hội (2009). Tuyển tập Hiến pháp một số nước trên thế giới, Nxb Thống kê, Hà Nội. 132. Adams, J. T. (1932). The Epic of America, Little, Brown, & Company, Boston. 133. Blumberg, N. (2014), “Francis Scott Key and ‘The Star-Spangled Banner’”, April 2022. 134. Carpenter, F. I. (1957). “John Steinbeck: American Dreamer”, Steinbeck and His Critics: A Record of Twenty Five Years, Tedlock and Wicker (eds.), UNMP, Albuquerque, pp.68-79. 135. Fitzgerald, F. S. (2015). Đại gia Gatsby (Trịnh Lữ dịch), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 136. Cinotta, H. (2000). Khái quát lịch sử nước Mỹ (Nguyễn Chiến dịch), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 137. Steinbeck, J. (1962). “Banquet Speech”, prizes/literature/1962/steinbeck/25229-john-steinbeck-banquet-speech1962/>, accessed 2 March 2022. 138. Lão Tử (2006). Đạo đức kinh (Nguyễn Hiến Lê dịch), Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 139. Bachelard, G. (1983). Water and Dreams: An Essay on the Imagination of 164 Matter, Gaston Farrell, Edith R. trans., Dallas Institute of Humanities and Culture Publications, Texas. 140. Bachelard, G. (2002). Earth and Reveries of Will: An Essay on the Imagination of Matter, Kenneth Haltman trans., Dallas Institute of Humanities and Culture Publications, Texas. 141. Bachelard, G. (2011). Earth and Reveries of Repose: An Essay on Images of Interiority, Mary McAllester Jones trans., Dallas Institute of Humanities and Culture Publications, Texas. 142. Nguyễn Thị Tịnh Thy (2017). Rừng khô, suối cạn, biển độc… và văn chương, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 143. Rice, R. (2011). “Circles in the Forest: John Steinbeck and the Deep Ecology of To a God Unknown”, Steinbeck Review 8(2), pp.31-52. 144. Fahy, T. (2006). Freak Shows and the Modern American Imagination: Constructing the Damaged Body from Willa Cather to Truman, Capote Palgrave MacMillan, New York. 145. Fields, R. (2009). “The Complexities of Noah in The Grapes of Wrath”, Steinbeck Review, pp.53-61. 146. French, W. (1975). John Steinbeck, 2nd rev. ed. Twayne, Boston. 147. Heavilin, B. A. (2017). “A Sacred Bond Broken: The People versus the Land in The Grapes of Wrath”, Steinbeck Review 14(1), pp.23-38, doi.org/10.5325/steinbeckreview.14.1.0023> accessed 10 March 2022. 148. Spalding, B. T. (2021). Hành trình về phương Đông (Nguyên Phong dịch), Nxb Thế giới, Hà Nội. 149. Carpenter, F. I. (1941). “The Philosophical Joads”, College English, 2(4), pp.315-325. 150. George, Stephen K. (2004). “A Taoist Interpretation of John Steinbeck’s The Pearl”, Steinbeck Review, 1, pp.90-105. 151. Sessions, George (ed., 1995). Deep Ecology for the 21st Century, Shambhala, Boston. 165 1 To a God Unknown/Gửi vị 1933 Bantam Books Inc. thần chưa biết 2 In Dubious Battle/Trong trận 1936 Random House đánh mơ hồ 3 East of Eden/Phía đông vườn 2014 Penguin Books địa đàng 4 Thị trấn Tortilla Flat 2014 Nxb Trẻ 2014 5 (Lâm Vũ Thao dịch) Nxb Hội nhà văn Phố Cannery Row 2018 6 (Phạm Văn dịch) Của chuột và người Nxb Hội nhà văn 2020 7 (Phạm Văn dịch) Nxb Hội nhà văn Viên ngọc trai 2020 8 (Đặng Việt Hưng dịch) Chùm nho phẫn nộ Nxb Văn học (Phạm Thủy Ba dịch) Mẹ hiền Mẹ dữ 1 Gửi vị thần chưa biết Elizabeth McGregor x Rama x 2 Thị trấn Tortilla Flat Ramirez ngọt ngào x Tia Ignacia x Teresina Cortez x Torrelli x 3 Trong trận đánh mơ hồ Lisa x 4 Của chuột và người Vợ Curley x 166 Dì Clara x 5 Chùm nho phẫn nộ Bà nội x Ma Joad x Rosashan x Ruthie x 6 Phố Cannery Row Dora x Những cô gái của x Dora 7 Viên ngọc trai Juana x Vợ Thomas x 8 Phía đông vườn địa Cathy Ames/Kate x đàng Abra Bacon x Alice Trask x Liza Hamilton x Nigger x Faye x 1 Gửi vị thần Joseph Là chủ một trang trại rộng lớn và màu mỡ ở chưa biết Wayne California, kết nối với tự nhiên, đất đai bởi một niềm tin thiêng liêng. Khi hạn hán xảy ra, anh đã hi sinh bản thân để mang mưa đến cho vùng đất. 2 Thị trấn Danny Là một paisano (người Mỹ gốc Mexico-Anh-Ấn) Tortilla của Tortilla Flat, trở về thị trấn sau khi phục vụ cho Flat Đại Chiến I, Danny bất ngờ được thừa kế hai căn nhà và anh đã mở rộng cửa chào đón những người bạn, là những paisano khác, đến trú ngụ. Họ đã tôn Danny làm thủ lĩnh của nhóm người hỗn hợp và cùng nhau thực hiện nhiều phi vụ chấn động Tortilla Flat lặng lẽ. Tuy nhiên, gánh nặng trách nhiệm tài sản khiến Danny ngày càng chán nản và 167 nghiện rượu, và cuối cùng sụp đổ: Danny chết, hai căn nhà bốc cháy, hội bạn của chàng cũng tan rã. 3 Trong trận Jim Là một chàng trai trẻ tuổi, mong muốn tìm kiếm đánh mơ Nolan mục đích của cuộc sống. Jim đơn độc, không có mối hồ liên hệ nào với gia đình, không có bạn bè. Anh gia nhập Đảng với hi vọng tìm ra mục đích và ý nghĩa của cuộc đời. Anh cùng với những đồng chí trong Đảng tổ chức thực hiện cuộc đình công, càng về cuối truyện khả năng lãnh đạo của anh càng được nâng cao. Tuy nhiên, cuộc đình công thất bại khi anh bị những kẻ canh gác bắn chết. 4 Của chuột George Là một công nhân nông nghiệp di cư, luôn cố gắng và người bảo vệ Lennie, một kẻ khỏe mạnh mà khù khờ. Anh, Lennie và những kẻ khuyết tật khác trong truyện ấp ủ mơ ước có một mảnh đất riêng. Song, ước mơ bị dập tắt khi George buộc phải bắn chết Lennie để bảo vệ Lennie khỏi những kẻ muốn tàn phá cuộc đời anh ta. 5 Chùm nho Tom Joad Là con trai thứ của gia đình Joad, trở về nhà sau thời phẫn nộ gian ngồi tù vì tội giết người (để tự vệ), đúng lúc gia đình anh bị xua đuổi khỏi mảnh đất nơi sinh cơ lập nghiệp lâu đời và chen chúc trên chiếc xe thổ tả để đến đất hứa California kiếm sống. Trên đường đi, gia đình Joad trải qua muôn vàn khó khăn, song Tom luôn là người mạnh mẽ, dẫn dắt cả nhà cùng mẹ. Hành trình đến đất hứa đã giúp Tom nhận ra kẻ thù của gia đình anh và những người khốn khổ như họ, sau cái chết của Casy, Tom quyết định rời xa gia đình, dự định tham gia vào một cuộc trỗi dậy, kêu gọi những người nghèo bị chà đạp đứng lên đấu tranh. Jim Casy Là một mục sư đã từ bỏ việc giảng đạo, đi lang thang trong những miền hoang vắng và vật lộn với 168 những ý tưởng khác lạ của mình. Jim cùng gia đình Tom Joad di chuyển về phía Tây. Trên đường đi, ông vẫn đóng vai trò như một người dẫn dắt tinh thần mặc dù ông chối bỏ điều đó. Trong một cuộc xung đột với cảnh sát, Jim đã hi sinh thân mình để cứu Tom, ông bị bắt giam. Ở trong tù, Jim đã nhận thức rõ ràng hơn về niềm tin của mình. Sau khi ra tù, Jim bắt đầu thực hiện lí tưởng của ông, Jim tổ chức một nhóm đình công để đòi tiền công xứng đáng hơn. Song, cuộc đình công bị dập tắt, Jim bị giết chết. 6 Phố Mack Là “đàn anh, lãnh tụ, cố vấn, và trong chừng mực nào đó là kẻ lợi dụng một nhóm vài đứa có chung Canney đặc tính là không gia đình, không tiền, không ước Row muốn nào ngoài đồ ăn, thức uống và mãn nguyện”. Bề ngoài, anh ta là một kẻ ranh mãnh, có nhiều mánh khóe thông minh, song thực chất Mack là một người có thiện chí, đặc biệt là với Doc, khi anh cố gắng tổ chức những bữa tiệc để tôn vinh Doc, dù các bữa tiệc ấy đều kết thúc thảm hại. 7 Viên ngọc Kino Là một người Mỹ bản địa, sống cùng vợ Juana và trai con trai nhỏ ở một làng chài nghèo gần thị trấn La Paz. Vận may giúp Kino tìm thấy một viên ngọc trai tuyệt thế, anh quyết định bán nó để đổi lấy sự giàu có và tự do cho gia đình. Song, lão bác sĩ, linh mục và những kẻ buôn ngọc tìm mọi cách để cướp viên ngọc. Kino dẫn gia đình chạy trốn, anh đã chiến đấu hết sức mình để bảo toàn gia đình và viên ngọc. Nhưng con trai anh bị một tên săn người giết chết. Kino cùng vợ trở về thị trấn, ném viên ngọc trai xuống biển sâu. 8 Phía đông Adam Là con trai trưởng của gia đình Trask, từng phục vụ vườn địa Trask trong chiến tranh, cứu sống Cathy Ames, đưa nàng 169 đàng đến California gây dựng cơ nghiệp. Khi vợ bỏ đi, Adam suy sụp. Nhờ chú giúp việc người Hoa, Lee, và ông Samuel Hamilton khuyên bảo, Adam thấu hiểu ngụ ý của từ Timshel, lựa chọn tha thứ cho người vợ và con trai Cain Caleb/Cal Là một trong hai người con trai song sinh của Adam Trask và Cathy. Cal lớn lên thiếu vắng tình yêu của mẹ và sự thờ ơ của cha. Anh luôn tò mò về quá khứ của mẹ, lo lắng cái ác của bà mẹ sẽ di truyền sang anh. Anh nỗ lực vượt qua thói ích kỉ của bản thân, mong muốn được cha yêu thương. Song, trong một khoảnh khắc không kìm chế lòng đố kị, Cal đã gián tiếp gây ra cái chết của anh trai và cơn đột quỵ của cha. Được Lee giúp đỡ, Cal được Adam tha thứ và trao lại quyền được lựa chọn trong giờ phút cha anh hấp hối Tiếng “biểu thị Joseph Jim nhận ra Sau khi Coyotito Cathy đột gọi rằng định nhận ra một sự thôi ra tù, bị bọ ngột xuất phiêu mệnh đã sự gắn thúc từ bên Tom cạp cắn hiện, làm lưu hiệu triệu kết đặc trong, rằng cùng với thay đổi người biệt anh phải đi Casy, đời sống hùng và giữa anh thật xa để mục sư bình lặng chuyển và vùng vượt qua đã làm lễ của trọng tâm đất và ranh giới rửa tội Adam. tinh thần quyết và trạng cho anh Anh của anh ta định thái không lúc còn muốn từ bên đến thỏa mãn trẻ, trở cùng vợ 170 trong ranh Californ với thực về trang đến giới của xã ia để tại. Californi trại của hội anh ta xây a để tạo gia đình sang một dựng dựng một Joad, họ vùng xa lạ trang vườn địa phát hiện (báu vật và trại và đàng của ra trang hiểm lập gia riêng trại đã bị nguy): một đình. mình bỏ hoang và gia xứ sở xa đình xôi, một Joad đã khu rừng, chuyển một vương đến ở quốc dưới nhà chú lòng đất, John. dưới mặt Khi đến nước, trên nhà chú bầu trời… John, người Tom và hùng tự ý gia đình lên đoàn tụ, đường/một họ quyết tác nhân định lên phúc hậu đường hay tà ác đến đẩy đi Californi a để tìm kiếm việc làm. Khước Tiếng gọi từ tiếng không gọi được đáp lại, cuộc 171 phiêu lưu thành âm bản, người hùng bị vây bọc trong chán chường, công việc nặng nhọc hay văn minh, mất khả năng hành động Sự phù Gặp nhân trợ siêu vật che nhiên chở cung cấp những bùa chú, phép thuật Vượt Đi qua là Chuyến xe Kino qua bóng tối, đưa Mac và cùng vợ ngưỡng cõi xa lạ, Jim vào đưa con cửa đầu hiểm nguy thung lũng, trai đến tiên Những giấc mơ về nhà bác vùng xa lạ nước và sĩ, bác sĩ (hoang hang động từ chối mạc, rừng đầy âm vì Kino già, biển thanh gầm nghèo, sâu, xứ lạ, rú Kino tìm vân vân) là thấy chốn tự do viên để phóng ngọc trai chiếu nội tuyệt thế 172 dung vô thức Đi qua tấm mạng ngăn thế giới đã biết và chốn chưa biết Bụng Địa hạt tái cá voi sinh, một hình thức tự hủy diệt, thay vì đi ra ngoài, vượt qua những biên cương của thế giới thấy được, người hùng đi vào trong, để sinh ra lần nữa Con Motif Joseph Ở thung Tom và Kino lên Sau khi đường “nhiệm vụ vượt lũng đoàn thị trấn sinh hai khó khăn” qua Torgas, người di bán bé trai thử thách nhiều Jim đã trải cư gặp ngọc song sinh thử qua nhiều rất nhiều trai, kháu thách: cuộc thử thử những khỉnh, chinh nghiệm và thách: kẻ buôn Cathy 173 phục thử thách: thiếu ngọc cấu bắn Elizabet Jim đỡ đẻ thốn về kết lừa Adam bị h làm cho Lisa, vật chất, gạt thương vợ, tha anh bị ông nội Kino, và bỏ đi. thứ cho thương, đối chết, anh những Adam Juantino mặt với trai kẻ tham sống mà người một người Noah bỏ lam cố như đã giết đàn ông đi, bà nội đánh cắp người đã chết vạm vỡ chết, em viên chết, Benjy, rể ngọc, không em trai Connie Kino đoái hoài của trốn giết một đến hai Joseph, chạy, kẻ tấn con trai. Elizabet Jim Casy công Nhờ có h chết, chịu tội anh, Samuel hạn hán thay Kino và Lee, tàn phá Tom, dẫn vợ Adam trang Tom và con bỏ dần sống trại và nhà Joad trốn lên lại, biết vùng không thủ đô chăm lo đất. tìm được để bán cho gia việc làm, viên đình. Em hoặc ngọc, trai của được trả Kino Adam lương rất giết chết chết để ít ỏi, 3 gã săn lại quyền Tom trả người, thừa kế thù cho phát cho cả Jim súng Adam và Casy. hướng Cathy. lên đỉnh Adam núi của vượt qua gã săn sự thù 174 người đã hận, trao giết chết lại bức Coyotito thư trong sự ngỡ ngàng của Cathy. Song, Adam vẫn đối xử thiên vị với Aron hơn Cabel. Điều này dẫn đến cái chết của Aron và nỗi đau khổ của Cabel. Cuộc Là thử gặp gỡ thách sau các nữ cùng cho thần tài năng của người hùng nhằm giành được ân huệ tình yêu (bác 175 ái), cuộc sống được vui hưởng Phụ nữ như là những kẻ chuyên cám dỗ Chuộc Jim thoát tội với khỏi sự chi người phối của cha cha anh, người đã thất bại khi một mình chiến đấu để chống lại một hệ thống xã hội áp đảo. Mac trở thành người cha tinh thần của Jim và cổ vũ anh ấy. Phong Trong giây phút hấp thần hối, Jim nhận ra anh chỉ là một 176 phần nhỏ của toàn thể, rằng anh không cô đơn, anh đồng cảm với mọi sự hiện vật trên hữu giới thế này. Ân huệ cuối cùng Khước từ Khi Jim chết Trong Kino và Trong lúc trở về mang hiểu rõ song sự trở những vợ trở về hấp hối, chiến lợi mình là về của anh ngày thị trấn, Adam đã phẩm quay trái tim ấy chính là tháng lẩn ném tha thứ và về làm của đất, ngọn lửa hi trốn viên chấp chuyển Joseph vọng mà trong ngọc trai nhận hóa thế đã hy anh đã thắp hang, xuống Cabel. giới gốc lên trong Tom suy biển sâu. sinh bằng những ngẫm về Cuộc cách cắt người lao những gì trốn cổ tay động, đó là Casy đã chạy kì để lấy sau cuộc nói với diệu máu tranh đấu anh Giải Người tưới lên này, những trước cứu từ hùng có tảng đá điều tốt đẹp đây và bên thể cần thiêng, sẽ đến. hành ngoài được đưa mang trình mà về sau mưa đến anh và cuộc phiêu cho gia đình lưu siêu 177 đang trải nhiên nhờ vùng qua, sự trợ lực đất. Tom từ bên quyết ngoài định tổ Vượt Người chức qua hùng phải những ngưỡng vượt qua người cửa thứ được cú va lao động hai chạm với bị áp bức thế gian đứng lên Người đấu chế tranh. ngự của hai thế giới Tự do Kết quả sống của chuyến đi và quay về kì diệu Người hùng là người bảo vệ những thứ đang thành, không phải thứ đã thành, vì anh ta tồn tại vĩnh viễn 178 Đất Biến thể của nước Biển Sông Suối Ao Mưa Lụt x Gửi vị thần x 1 x x chưa biết x Thị trấn 2 x x Tortilla Flat x x Trong trận x 3 x x đánh mơ hồ x Của chuột và x 4 người x Chùm nho x 5 x x x phẫn nộ x Phố Cannery 6 x x Row x Viên ngọc x 7 x x trai x Phía đông x 8 x x vườn địa đàngPHỤ LỤC
Phụ lục 1: Danh mục các tiểu thuyết của John Steinbeck được khảo sát
STT
Tên tiểu thuyết
Năm xuất bản
Nhà xuất bản
Phụ lục 2: Bảng thống kê nhân vật nữ trong tiểu thuyết John Steinbeck
được lựa chọn làm đối tượng khảo sát
STT
Tác phẩm
Nhân vật nữ
Hiện thể của cổ mẫu Mẹ
Phụ lục 3: Bảng thống kê nhân vật anh hùng trong tiểu thuyết John Steinbeck
được lựa chọn làm đối tượng khảo sát
STT Tác phẩm Nhân vật
Diễn giải
Phụ lục 4: Nghi thức và giai đoạn trong chu trình vòng đời của các nhân vật
anh hùng trong tiểu thuyết John Steinbeck dựa trên mô hình
của nhà thần thoại Joseph Campbell
Nghi
Giai
Diễn giải
Joseph
Jim Nolan
Kino
Tom
Adam
thức
Joad
Trask
đoạn
Wayne
Lên
đường
Thụ
giáo
Trở về Từ chối
Phụ lục 5: Bảng khảo sát cổ mẫu đất và nước
trong tiểu thuyết của John Steinbeck
STT
Tên tác
phẩm