BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ THU HẰNG

CỔ MẪU

TRONG TIỂU THUYẾT JOHN STEINBECK

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

HÀ NỘI, 2022

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ THU HẰNG

CỔ MẪU

TRONG TIỂU THUYẾT JOHN STEINBECK

Chuyên ngành: Văn học nước ngoài

Mã số: 9 22 02 42

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

Người hướng dẫn

GS.TS. LÊ HUY BẮC

HÀ NỘI, 2022

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả

nêu trong luận án là kết quả của quá trình làm việc nghiêm túc, trung thực. Các

tài liệu tham khảo, trích dẫn có xuất xứ rõ ràng. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm

về công trình nghiên cứu của mình.

Hà Nội, ngày 7 tháng 12 năm 2022

Tác giả

Nguyễn Thị Thu Hằng

LỜI CẢM ƠN

Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến người hướng dẫn

khoa học, GS.TS. Lê Huy Bắc, Thầy đã tận tình dạy bảo, định hướng, khích lệ,

sẵn sàng giúp đỡ và đồng hành cùng tôi từ buổi đầu tôi mới bước chân vào con

đường nghiên cứu khoa học. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu đậm đến PGS.TS.

Nguyễn Thị Kim Ngân, Cô đã động viên, chia sẻ, hỗ trợ và truyền cảm hứng cho

tôi trong suốt quá trình thực hiện nghiên cứu này. Xin tỏ lòng tri ân vô vàn đến

Thầy và Cô, những người dẫn đường tuyệt vời của tôi.

Tôi cũng xin trân trọng cảm ơn các thầy cô trong Khoa Ngữ văn - Trường

Đại học Sư phạm Hà Nội, đặc biệt là các thầy cô thuộc Tổ Văn học nước ngoài,

đã nhiệt tình giảng dạy, chỉ dẫn, sẵn lòng chia sẻ các tri thức, kinh nghiệm quý

giá cho tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.

Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo Sau đại học, Khoa

Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã hỗ trợ tôi trong quá trình thực hiện

luận án.

Xin bày tỏ sự tri ân tới Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm, Đại học

Huế, nơi có các thầy cô, anh chị đồng nghiệp luôn tin tưởng, hỗ trợ và tạo điều

kiện tốt nhất cho tôi học tập và thực hiện nghiên cứu.

Cuối cùng, tôi xin tỏ lòng biết ơn sâu nặng tới gia đình, những người thân,

những người bạn đã luôn yêu thương, đồng hành và tiếp sức cho tôi trong quãng

đường nhiều thử thách và giàu ý nghĩa này.

Nguyễn Thị Thu Hằng

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU…………………………………………………………………………1

1. Lí do chọn đề tài ................................................................................................. 1

2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................... 4

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...................................................................... 5

4. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu ......................................................... 5

5. Đóng góp của luận án ......................................................................................... 7

6. Cấu trúc của luận án ........................................................................................... 7

Chương 1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ…………………………..9

1.1. Phê bình cổ mẫu: từ cách tiếp cận tâm lí-huyền thoại đến cách tiếp cận

lịch sử-xã hội .......................................................................................................... 9

1.1.1. Cách tiếp cận tâm lí-huyền thoại .................................................................. 9

1.1.2. Cách tiếp cận lịch sử-xã hội ........................................................................ 13

1.2. Nghiên cứu tiểu thuyết John Steinbeck ..................................................... 17

1.2.1. Nghiên cứu tiểu thuyết John Steinbeck trên thế giới .................................. 17

1.2.2. Nghiên cứu tiểu thuyết John Steinbeck ở Việt Nam .................................. 22

1.3. Nghiên cứu cổ mẫu trong tiểu thuyết John Steinbeck ............................. 26

1.3.1. Nghiên cứu cổ mẫu trong tiểu thuyết John Steinbeck trên thế giới ........... 26

1.3.2. Nghiên cứu cổ mẫu trong tiểu thuyết John Steinbeck ở Việt Nam ............ 32

Tiểu kết ................................................................................................................. 34

Chương 2. CỔ MẪU MẸ VÀ SỰ TÁI LẬP BẢN SẮC NỮ TÍNH TRONG

TIỂU THUYẾT JOHN STEINBECK………………………………………...36

2.1. Cổ mẫu mẹ trong văn hóa dân gian ........................................................... 36

2.2. Biến thể của cổ mẫu mẹ trong tiểu thuyết John Steinbeck ...................... 38

2.2.1. Mẹ hiền ....................................................................................................... 38

2.2.2. Mẹ dữ .......................................................................................................... 55

2.3. Sự tái lập bản sắc nữ tính trong truyền thống văn học nam tính ........... 60

2.3.1. Truyền thống nam tính trong văn học Mỹ .................................................. 60

2.3.2. Sự tái lập bản sắc nữ tính trong tiểu thuyết John Steinbeck ....................... 63

Tiểu kết ................................................................................................................. 72

Chương 3. CỔ MẪU ANH HÙNG VÀ DẤU ẤN GIẢI HUYỀN THOẠI

TRONG TIỂU THUYẾT JOHN STEINBECK……………………………...74

3.1. Cổ mẫu anh hùng trong văn hóa dân gian ................................................ 74

3.2. Cấu trúc của cổ mẫu anh hùng trong tiểu thuyết John Steinbeck qua các

motif nhiệm vụ căn bản ...................................................................................... 78

3.2.1. Tìm kiếm miền đất hứa ............................................................................... 79

3.2.2. Xác lập bản sắc ........................................................................................... 83

3.3. Biến thể của cổ mẫu anh hùng trong tiểu thuyết John Steinbeck ........... 91

3.3.1. Anh hùng với sứ mệnh thiết lập các giá trị đức tin mới ............................. 91

3.3.2. Anh hùng thuộc về cộng đồng thiểu số ...................................................... 93

3.4. Giải huyền thoại người hùng và “giấc mơ Mỹ” ........................................ 97

3.4.1. Phương thức giải huyền thoại trong tiểu thuyết John Steinbeck ................ 97

3.4.2. Giải huyền thoại người hùng qua sự kiến tạo motif anh hùng bi kịch ..... 100

3.4.3. Giải huyền thoại “giấc mơ Mỹ” qua sự kiến tạo motif những vùng đất hứa

sụp đổ .................................................................................................................. 106

Tiểu kết ............................................................................................................... 113

Chương 4. CỔ MẪU ĐẤT, NƯỚC VÀ DIỄN NGÔN SINH THÁI TRONG

TIỂU THUYẾT JOHN STEINBECK………………………………………115

4.1. Cổ mẫu đất và nước trong văn hóa dân gian .......................................... 115

4.2. Biến thể của cổ mẫu đất và nước trong tiểu thuyết John Steinbeck ..... 118

4.2.1. Khát vọng sinh tồn và tình yêu đất đai của con người qua cổ mẫu đất .... 118

4.2.2. Sự hủy diệt và niềm hi vọng tái sinh qua cổ mẫu nước ............................ 122

4.3. Diễn ngôn sinh thái trong tiểu thuyết John Steinbeck qua cổ mẫu đất

và nước .............................................................................................................. 128

4.3.1. Khủng hoảng sinh thái và số phận con người trong thời đại kĩ trị ........... 128

4.3.2. Sự sụp đổ ý thức sinh thái trong thời đại kĩ trị ......................................... 133

4.3.3. Tinh thần Đông phương trong khôi phục giao ước giữa con người và tự

nhiên ................................................................................................................... 139

Tiểu kết ............................................................................................................... 147

KẾT LUẬN……………………………………………………………………149

DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ…………………154

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………….155

PHỤ LỤC……………………………………………………………………...165

1

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Trong những khuynh hướng nghiên cứu văn học hiện nay, xu hướng xem xét

tác phẩm văn học trong mối quan hệ với nhiều lĩnh vực liên quan như văn hóa, lịch

sử, xã hội, chính trị, tâm lí, giới tính tỏ ra năng động, thiết thực, tương thích với xu

thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế. Ở địa hạt này, phê bình cổ mẫu - hướng nghiên

cứu văn học từng phát triển nở rộ và có nhiều đóng góp to lớn ở thế kỉ XX - vẫn

tiếp tục giữ vững vị thế quan trọng của nó trên hành trình khám phá thế giới văn

chương. Nhận ra những hạn chế của phương pháp tiếp cận tâm lí học trong quá

trình thăm dò kho cổ mẫu, cụ thể là tính khái quát hóa của nó, các nhà nghiên cứu

đã ứng dụng phương pháp tiếp cận lịch sử-xã hội (socio-historical approaches) để

giải mã những bí ẩn và chiều sâu văn hóa của các cổ mẫu được tái sinh trong các

nền văn học cổ đại, trung đại, hiện đại và hậu hiện đại. Mục tiêu của phương pháp

tiếp cận này là “xem xét các khía cạnh khác nhau của một mẫu hình ký ức nguyên

thuỷ của nhân loại đã hoạt động như thế nào trong phạm vi chính trị, xã hội và văn

hóa rộng lớn hơn” [1,52] bất kể thời đại nào. Kết quả là “bối cảnh xung quanh một

cổ mẫu cụ thể trở thành chủ đề chính của nghiên cứu nhằm hướng đến mục tiêu

hiểu biết sâu sắc hơn về vấn đề nguồn gốc, quá trình phát triển và các hiện thể được

tái sinh đa dạng” [1,52] trong các tác phẩm, thể loại văn học ở mọi miền không

gian và thời gian. Như thế, bằng cách tiếp cận lịch sử-xã hội, thế giới cổ mẫu muôn

màu trong kho tàng văn chương nhân loại hiện lên không phải như những vết tích

đóng băng và khép kín, ngược lại, là một yếu tố văn hóa năng động, thích ứng và

chuyển biến liên tục cùng với bối cảnh xã hội và thời đại.

John Steinbeck (1902-1968) là nhà văn Mỹ nổi tiếng trên văn đàn thế giới với

Của chuột và người (1937), Chùm nho phẫn nộ (1939), Phía đông vườn địa đàng

(1952). Cùng với F. Scott Fitzgerald, William Faulkner và Ernest Hemingway,

John Steinbeck được xem là một trong bốn tiểu thuyết gia ra đời vào thời điểm

chuyển giao giữa hai thế kỉ và đã góp phần định hình nước Mỹ hiện đại [2]. Trong

nửa đầu thế kỉ XX, nước Mỹ và thế giới đã trải qua nhiều biến động bao gồm cả

sự thịnh vượng lẫn suy thoái, đó là hai cuộc Thế chiến 1914-1918 và 1939-1945,

Đại suy thoái 1929-1933 và những vấn nạn về môi trường. Sinh ra và lớn lên trong

bối cảnh lịch sử đặc biệt đó, John Steinbeck đã chứng kiến những bất ổn và đổi

2

thay lớn lao của đất nước, thấu hiểu những bi kịch hiện sinh của con người. Bằng

cảm quan nhạy bén, nhà văn đã nhịp bước cùng thời đại với một sự nghiệp sáng

tác dày dặn, gồm nhiều thể loại: tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch, phóng sự, du kí.

Nổi bật trong sự nghiệp sáng tác đồ sộ và nhiều màu sắc của John Steinbeck là tiểu

thuyết, thể loại chiếm vị thế vượt trội, mang đậm hơi thở huyền thoại và gắn bó

với những người lao động nghèo khổ, những thân phận bên lề xã hội Hoa Kỳ văn

minh và hiện đại. Bối cảnh lịch sử xã hội đặc biệt và tố chất của một nghệ sĩ thiên

tài đã hình thành bản sắc của John Steinbeck và những tác phẩm của ông với những

câu hỏi không bao giờ cũ về quyền lực và nghèo đói, chủ nghĩa cá nhân và cộng

đồng trong sự cảnh báo xen lẫn hi vọng [2]. Vì vậy, năm 1962, Viện Hàn lâm Thụy

Điển đã trao tặng giải Nobel văn chương cho nhà văn John Steinbeck, người đã

dám “phơi bày sự thật với một bản năng không thiên vị về những gì đích thực là

Mỹ dù tốt đẹp hay xấu xa” [3], như một sự ghi nhận cao nhất về những đóng góp

và vị trí quan trọng của ông trong nền văn học thế giới.

Là một bộ phận của văn hóa phương Tây, ngoài các giá trị cốt lõi, văn hóa Mỹ

còn có những đặc trưng gắn liền với tiến trình lập quốc, mà nét căn bản là một nền

văn hóa đa dạng, thống nhất từ những nền văn hóa khác biệt. Tuy nhiên, điều này

cũng chính là căn nguyên dẫn tới những cuộc xung đột, bất ổn và thỏa hiệp xuyên

suốt tiến trình lập quốc của nước Mỹ. Vấn đề mang tính quốc gia, dân tộc này đều

được các nhà văn Mỹ đề cập theo nhiều phong cách khác nhau trong các tác phẩm

của họ. Trong đó, John Steinbeck không phải là trường hợp ngoại lệ. Nhà văn đã

tiếp biến các yếu tố huyền thoại phương Tây, huyền thoại bản địa và huyền thoại

quốc gia để phản ánh những vấn đề nội tại của nước Mỹ trong nhiều tiểu thuyết

giàu sức gợi của ông. Như thế, điều khiến John Steinbeck thực sự quan tâm là tâm

hồn người Mỹ, là sự kiện nước Mỹ hiện đại hóa nhanh chóng vươn lên trở thành

cường quốc trên thế giới nhưng ngay sau đó là thời kì Đại suy thoái và mặt trái của

nền văn minh hiện đại đã hủy hoại đời sống của những tầng lớp dưới đáy/bên lề xã

hội. Nhưng hơn hết, nhìn vào hành trình văn chương của nhà văn người Mỹ này,

có thể nhận thấy, điều khiến cho sáng tác của ông có sức sống lâu bền chính là vì

những vấn đề văn hóa của người Mỹ được thể hiện bằng phương thức huyền thoại

hóa. Vì vậy, tiểu thuyết của John Steinbeck mặc dù từng gây ra nhiều luồng ý kiến

trái chiều, từng bị ngăn cấm phát hành, thậm chí bị chỉ trích là “những tác phẩm

3

của một thời”, “không có chút giá trị ngoài mục đích tuyên truyền tư tưởng” [4,41],

“nhân vật và tư tưởng khá sơ lược” [5,631], song sự thật là cho đến nay, những tác

phẩm ấy vẫn được bạn đọc ở khắp mọi nơi trên thế giới đón nhận, là đối tượng

nghiên cứu của nhiều học giả từ Đông sang Tây. Hơn nữa, những chủ đề mà nhà

văn đã theo đuổi là những vấn đề nhức nhối mà thế giới đương đại vẫn đang phải

đối mặt và những gương mặt ấn tượng trong thế giới nghệ thuật của ông vẫn hiện

diện đâu đó trong cuộc sống hôm nay. Khi nghiên cứu tác phẩm của John

Steinbeck, Tetsumaro Hayashi tự hỏi: “Tại sao chúng ta vẫn chú ý tiểu thuyết của

Steinbeck, những tác phẩm gần như là chỉ nói về các sự kiện của một thời đại?”

[6,41]. Thiết nghĩ trong nhiều căn nguyên thì việc John Steinbeck sử dụng một

cách vừa bản năng vừa sáng tạo các cổ mẫu, biểu tượng, motif cổ xưa để phản ánh

những vấn đề thời đại và muôn thuở của nước Mỹ và người Mỹ, rộng hơn là của

toàn nhân loại, chính là điều làm nên sức sống bền lâu và giá trị vĩnh hằng của tiểu

thuyết John Steinbeck.

Một số học giả nghiên cứu tiểu thuyết của John Steinbeck ngay từ thời kì đầu

đã sớm nhận ra các yếu tố huyền thoại cổ điển trong sáng tác của văn hào người

Mỹ này mặc dù vào thời điểm đó, hầu hết giới phê bình và bạn đọc đều hướng sự

quan tâm của họ vào giá trị hiện thực và ý nghĩa đấu tranh xã hội. Từ đó đến nay,

nghiên cứu tiểu thuyết John Steinbeck trở thành một địa hạt hấp dẫn và thách thức

nhiều học giả trên khắp mọi miền thế giới khi những sáng tác của nhà văn này vẫn

tỏ ra phù hợp với bối cảnh đương đại. Vì thế, để góp phần khám phá những vẻ đẹp

kì diệu trong thế giới nghệ thuật và tư tưởng của tiểu thuyết John Steinbeck và

đóng góp cho quá trình nghiên cứu, giảng dạy văn học Mỹ ở Việt Nam, chúng tôi

sử dụng phối hợp các phương pháp tiếp cận khả dụng của phê bình cổ mẫu nhằm

khái quát hóa, hệ thống hóa và giải mã những cổ mẫu điển hình được tái sinh trong

các tác phẩm của văn hào người Mỹ này. Nghiên cứu tiểu thuyết John Steinbeck

từ lí thuyết phê bình cổ mẫu, một mặt chỉ ra lớp trầm tích văn hóa ẩn sâu trong mỗi

cổ mẫu, những mẫu số chung của cổ mẫu trong tiểu thuyết John Steinbeck và mẫu

gốc nguyên thủy, mặt khác tìm kiếm những ý nghĩa phái sinh, phản đề được hình

thành dưới tác động của bối cảnh lịch sử xã hội đặc biệt của nước Mỹ.

Với những lí do trên, chúng tôi lựa chọn: Cổ mẫu trong tiểu thuyết John

Steinbeck làm đề tài nghiên cứu cho luận án tiến sĩ của mình.

4

2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục tiêu nghiên cứu

Với đề tài Cổ mẫu trong tiểu thuyết John Steinbeck, luận án đặt ra những mục

tiêu nghiên cứu như sau:

Thứ nhất, giới thuyết lí thuyết phê bình cổ mẫu. Chứng minh tính ưu việt của

lí thuyết phê bình cổ mẫu trong nghiên cứu văn học, góp phần vào các nghiên cứu

văn hóa, nghiên cứu liên ngành.

Thứ hai, tổng quan về những nghiên cứu có liên quan đến vấn đề cổ mẫu trong

tiểu thuyết John Steinbeck, từ đó kế thừa và phát triển những kết quả đã có để tìm ra

đặc trưng cổ mẫu trong tác phẩm của nhà văn.

Thứ ba, chỉ ra những điểm gặp gỡ giữa mô hình phổ quát của các cổ mẫu trên

thế giới tương ứng với các cổ mẫu xuất hiện trong tác phẩm của nhà văn và lí giải

cội nguồn sáng tạo tiểu thuyết John Steinbeck từ Kinh Thánh, thần thoại Hi Lạp

và văn học phương Tây. Đồng thời, luận án cũng phân tích những điểm khác lạ,

mới mẻ của các cổ mẫu này được quy định bởi đặc trưng văn hóa Mỹ. Từ đó, luận

án sẽ trình bày sự xung đột giữa hệ cổ mẫu của John Steinbeck với các hệ giá trị

phổ biến.

Thứ tư, minh giải cổ mẫu trong tiểu thuyết John Steinbeck, luận án khám phá

giá trị của các cổ mẫu trong việc thể hiện chủ đề, tư tưởng cũng như quan niệm

nghệ thuật về thế giới và con người của Steinbeck; xác định những nét đặc sắc

nghệ thuật tiểu thuyết John Steinbeck; khẳng định vị trí và đóng góp của nhà văn

đối với nền văn học Mỹ và văn học thế giới.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được những mục tiêu nghiên cứu trên, luận án xác định các nhiệm vụ

nghiên cứu sau đây:

Thứ nhất, xác lập khái niệm cổ mẫu, lịch sử hình thành và phát triển của phê

bình cổ mẫu, nội dung và khuynh hướng nghiên cứu cơ bản của trường phái này ở

phương Tây thế kỉ XX, hướng tiếp cận cổ mẫu đương đại.

Thứ hai, khảo sát, thống kê, phân tích các tài liệu nghiên cứu tiếng Anh để chỉ

ra những khuynh hướng nghiên cứu về John Steinbeck trên thế giới, những kết quả

nghiên cứu về cổ mẫu trong tác phẩm của John Steinbeck; điểm lại các bài viết,

công trình bằng tiếng Việt có liên quan đến đề tài nghiên cứu.

5

Thứ ba, khảo sát, nhận diện, phân tích và minh giải đặc trưng của những cổ

mẫu điển hình trong tiểu thuyết John Steinbeck. Luận án tập trung vào các cổ mẫu

tiêu biểu gắn với đặc trưng nổi bật của chúng, đó là: cổ mẫu mẹ và sự tái lập bản

sắc nữ tính, cổ mẫu anh hùng và dấu ấn giải huyền thoại, cổ mẫu đất, nước và diễn

ngôn sinh thái.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận án là cổ mẫu trong tiểu thuyết John Steinbeck.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

3.2.1. Phạm vi văn bản khảo sát

John Steinbeck là một nhà tiểu thuyết ưa thích khám phá, thể nghiệm và có

một sự nghiệp sáng tác đồ sộ. Trong luận án này, phạm vi văn bản khảo sát là 8

tiểu thuyết nổi bật được sáng tác trong nửa đầu thế kỉ XX của nhà văn, bao gồm:

To a God Unknown/Gửi vị thần chưa biết (Bantam Books Inc., 1933), In Dubious

Battle/Trong trận chiến mơ hồ (Random House, 1936), East of Eden/Phía đông

vườn địa đàng (Penguin Books, 2014), Thị trấn Tortilla Flat (Lâm Vũ Thao dịch,

Nxb Trẻ, 2014), Phố Cannery Row, Của chuột và người (Phạm Văn dịch, Nxb Hội

nhà văn, 2018), Viên ngọc trai (Đặng Việt Hưng dịch, Nxb Hội nhà văn, 2020),

Chùm nho phẫn nộ (Phạm Thủy Ba dịch, Nxb Văn học, 2020). Ngoài ra, luận án

sử dụng một số chi tiết trong bản dịch Phía đông vườn địa đàng của dịch giả Đinh

Văn Quý (Nxb Văn hóa Thông tin, 2003).

Trong quá trình thực hiện luận án, chúng tôi không những không tách biệt các

tác phẩm này mà còn xem xét vấn đề nghiên cứu ở những tác phẩm khác của John

Steinbeck để vừa tìm hiểu sâu vừa đảm bảo tính bao quát, hệ thống. Từ đó, luận án

chỉ ra những nét đặc sắc của thế giới cổ mẫu trong tiểu thuyết John Steinbeck.

3.2.2. Phạm vi nội dung nghiên cứu

Thế giới cổ mẫu trong tiểu thuyết John Steinbeck rất phong phú và đa dạng.

Trong phạm vi của luận án, chúng tôi tìm hiểu tiểu thuyết John Steinbeck từ góc

nhìn phê bình cổ mẫu, cụ thể là nghiên cứu các cổ mẫu điển hình: cổ mẫu mẹ, cổ

mẫu anh hùng, cổ mẫu đất, cổ mẫu nước và khám phá sự tái sinh của các cổ mẫu

này trong bối cảnh lịch sử xã hội Mỹ nửa đầu thế kỉ XX.

4. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu

6

4.1. Cách tiếp cận

Trên nền tảng các nghiên cứu về văn học, văn hóa, lịch sử xã hội, luận án sử

dụng lí thuyết phê bình cổ mẫu, kết hợp cách tiếp cận tâm lí-huyền thoại với cách

tiếp cận lịch sử-xã hội.

- Cách tiếp cận tâm lí-huyền thoại: khảo sát các tiểu thuyết của John Steinbeck,

chọn lọc và hệ thống các motif, biểu tượng thường xuyên được lặp lại; xác định

các cổ mẫu và tìm hiểu ý nghĩa phổ quát của chúng trong tâm thức nhân loại nói

chung và minh định ý nghĩa của các cổ mẫu trong tiểu thuyết John Steinbeck. Cách

tiếp cận này dựa trên nền tảng nhân học, tâm lí học, tôn giáo để khám phá sự kế

thừa những huyền thoại, cổ mẫu từ Kinh Thánh, thần thoại Hi Lạp, văn học phương

Tây trong tiểu thuyết John Steinbeck.

- Cách tiếp cận lịch sử-xã hội: xem xét vai trò của các sự kiện lịch sử, xã hội,

hệ thống chính trị, chủng tộc, giới tính đối với sự tái sinh các cổ mẫu trong tiểu

thuyết John Steinbeck. Cách tiếp cận lịch sử-xã hội chú trọng mối quan hệ giữa

văn bản văn học và lịch sử xã hội của tác giả cũng như cộng đồng của anh ta. Do

đó, việc sử dụng cách tiếp cận này sẽ giúp chúng tôi lí giải sự xung đột giữa hệ cổ

mẫu của John Steinbeck với các mẫu hình ban đầu, các hệ giá trị phổ quát.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện luận án, trên cơ sở phương pháp luận nghiên cứu khoa học xã

hội và nhân văn, luận án kết hợp nhiều phương pháp và thao tác nghiên cứu. Luận

án chú trọng các phương pháp sau:

- Phương pháp liên ngành: được sử dụng xuyên suốt luận án để khám phá cổ

mẫu trong tiểu thuyết John Steinbeck trên nền tảng kết hợp kết quả nghiên cứu từ

các lĩnh vực đa dạng của khoa học xã hội và nhân văn như văn học, văn hóa, lịch

sử, triết học, tôn giáo, ngôn ngữ học, tâm lí học.

- Phương pháp cấu trúc - hệ thống: được dùng để khảo sát, sắp xếp hệ thống

cổ mẫu trong tiểu thuyết John Steinbeck, đồng thời khi phân tích các phương diện

biểu hiện của hệ thống cổ mẫu đó, luận án không xem xét vấn đề theo hướng cô

lập mà đặt trong hệ thống để xác định đặc trưng cổ mẫu và phong cách tiểu thuyết

John Steinbeck.

- Phương pháp so sánh lịch sử: được dùng để tái thiết những gì đã suy tàn hoặc

biến mất của một nền văn hóa, văn học; đối chiếu các sự kiện lịch sử để truy tìm

7

nguồn gốc văn hóa, lịch sử và giải thích quá trình tái sinh cổ mẫu trong tiểu thuyết

John Steinbeck.

- Phương pháp phê bình tiểu sử: được dùng để nghiên cứu tiểu thuyết John

Steinbeck trong mối quan hệ với cuộc đời của nhà văn, tìm kiếm những chi tiết

tiểu sử đặc biệt ảnh hưởng đến tư tưởng và sáng tác của John Steinbeck.

Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, luận án còn sử dụng các thao tác nghiên

cứu khoa học khác, cụ thể như: so sánh đối chiếu, phân tích tổng hợp, bình giải,

khảo sát văn bản, khảo cứu và biên dịch tư liệu, thống kê phân loại các cổ mẫu

trong tiểu thuyết John Steinbeck.

5. Đóng góp của luận án

Luận án là công trình tiếng Việt đầu tiên nghiên cứu cổ mẫu trong tiểu thuyết

John Steinbeck. Kết quả khoa học của luận án mở ra hướng diễn giải, phân tích

một cách hệ thống và chuyên sâu về cổ mẫu trong tiểu thuyết John Steinbeck. Kết

quả của luận án là cơ sở quan trọng để khẳng định những điểm kế thừa và cách tân

của John Steinbeck ở thể loại tiểu thuyết.

Luận án giải quyết thành công một số vấn đề mới trong nghiên cứu tiểu thuyết

John Steinbeck: nhận diện, lí giải những ảnh hưởng của bối cảnh lịch sử-xã hội

đến cách nhà văn tái sinh các cổ mẫu; chỉ ra vai trò của hệ thống cổ mẫu trong việc

kiến tạo nên giá trị nghệ thuật và tính nhân văn của tiểu thuyết John Steinbeck, cho

thấy ý nghĩa và tầm ảnh hưởng của hệ thống cổ mẫu này trong cuộc đối thoại với

các mẫu gốc, các giá trị phổ quát và công cuộc định hình bản sắc văn hóa Mỹ

đương đại.

Việc nghiên cứu tiểu thuyết John Steinbeck dưới góc độ cổ mẫu góp phần cung

cấp một phương thức mới trong hành trình khám phá đặc sắc tiểu thuyết John

Steinbeck và sáng tác của các nhà văn khác, đem đến những hiểu biết căn bản và

toàn diện về các yếu tố nguyên bản cổ xưa của nhân loại và bản sắc văn hóa Mỹ

trong tiểu thuyết John Steinbeck. Luận án là tài liệu tham khảo hữu ích cho những

ai quan tâm tìm hiểu cổ mẫu văn chương, tiểu thuyết John Steinbeck và văn hóa Mỹ.

6. Cấu trúc của luận án

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận án được

triển khai thành 4 chương:

Chương 1: Tổng quan nghiên cứu vấn đề

8

Chương 2: Cổ mẫu mẹ và sự tái lập bản sắc nữ tính trong tiểu thuyết John

Steinbeck

Chương 3: Cổ mẫu anh hùng và dấu ấn giải huyền thoại trong tiểu thuyết John

Steinbeck

Chương 4: Cổ mẫu đất, nước và diễn ngôn sinh thái trong tiểu thuyết John

Steinbeck

9

Chương 1.

TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ

Khởi nguồn từ tâm lí học và nhân học, phê bình cổ mẫu, một nhánh của phê

bình huyền thoại có nội hàm rộng lớn hơn, đã có nhiều đóng góp quan trọng cho

lĩnh vực nghiên cứu văn học thế kỉ XX. Bằng cách trở về với văn bản, tìm kiếm

những mẫu hình cổ xưa thường xuyên được lặp lại thông qua các biểu tượng, nhân

vật, motif, khuynh hướng nghiên cứu này đã mở ra cánh cửa bước vào thế giới tinh

thần phong phú của nhân loại, đồng thời tiết lộ khả năng bồi đắp khu vườn cổ mẫu

của mỗi nhà văn qua các thời kì. Được ghi nhận như là “một người khổng lồ của nền

văn học Mỹ” [7], John Steinbeck và những tác phẩm của ông là đối tượng nghiên

cứu của đông đảo các nhà phê bình trên thế giới và Việt Nam. Do đó, lịch sử nghiên

cứu sáng tác của nhà văn người Mỹ này đã có một phả hệ lâu dài và phong phú.

Trong phần tổng quan, chúng tôi tiến hành khái lược lí thuyết phê bình cổ mẫu, đồng

thời tổng thuật, phân tích các công trình nghiên cứu, bài viết về tiểu thuyết John

Steinbeck và cổ mẫu trong tiểu thuyết John Steinbeck ở Việt Nam và trên thế giới.

1.1. Phê bình cổ mẫu: từ cách tiếp cận tâm lí-huyền thoại đến cách tiếp

cận lịch sử-xã hội

Phê bình cổ mẫu (Archetypal Criticism) là một khuynh hướng nghiên cứu lớn

trong lịch sử nghiên cứu văn học, bắt đầu phát triển vào những năm 1930 -1940 và

đạt đến đỉnh cao vào những năm 50, 60 của thế kỉ XX. Chiến lược phê bình này là

trở về với văn bản, tìm ra những tác phẩm gần gũi hoặc tương tự ở mọi nơi trên thế

giới để hiểu rõ sự tái sinh của những nhân vật, kiểu trần thuật và motif cổ mẫu nhất

định. Lược sử phê bình cổ mẫu cho thấy có nhiều cách tiếp cận cổ mẫu tùy thuộc

góc nhìn của người nghiên cứu. Trong đó, có thể xem cách tiếp cận tâm lí-huyền

thoại, kết hợp giữa lí thuyết của Jung và Frye, là xu hướng nổi trội của phê bình cổ

mẫu thời kì đầu. Tuy nhiên, vào cuối thế kỉ XX và đầu thế kỉ XXI, các nhà nghiên

cứu dần nhận ra những điểm hạn chế của cách tiếp cận này, do đó, hướng đến kết

hợp với phương pháp tiếp cận lịch sử-xã hội để khám phá cổ mẫu cả bề rộng lẫn

bề sâu.

1.1.1. Cách tiếp cận tâm lí-huyền thoại

Cổ mẫu (archetype) là một thuật ngữ có nguồn gốc từ tiếng Hi Lạp cổ, được

10

hiểu là những mẫu hình ban đầu, thường được sao chép, mô phỏng, bắt chước về

sau. Ý nghĩa này được tạo nên từ những gốc từ của nó, đó là: “arkhe” mang nghĩa

“khởi đầu, nguồn gốc, vị trí đầu tiên” và “typos” mang nghĩa “khuôn mẫu, mô hình

hoặc kiểu mẫu” [8]. Trong tiếng Việt, thuật ngữ archetype được chuyển dịch bằng

nhiều cách khác nhau: cổ mẫu, mẫu gốc, nguyên mẫu, siêu mẫu, mẫu tượng, mẫu

cổ, sơ nguyên tượng... Tuy vậy, thuật ngữ này vẫn được thống nhất trong cách hiểu

của giới nghiên cứu như là một yếu tố xuất hiện từ thời cổ xưa và trở thành mẫu số

chung cho kinh nghiệm tinh thần của nhân loại.

Ngay từ thời cổ đại, với quan điểm “con người có khả năng hòa nhập về tinh

thần vào thế giới lí tưởng”, Platon đã đề xuất khái niệm idea, một trong ba khái

niệm then chốt của học thuyết Platon, chỉ “những thực tại ở thế giới thứ nhất, ngoài

cửa hang. Những idea này có tính phi vật chất nhưng tồn tại khách quan và vĩnh

cửu” [9]. Khái niệm idea của Platon đã khơi gợi cho Carl Jung, nhà tâm lí học

người Thụy Sĩ, đề xuất cổ mẫu, một trong những ý tưởng quan trọng và nổi bật

trong lí thuyết tâm lí học phân tích của ông. Khái niệm này gắn liền với lí thuyết

nổi tiếng của Jung về vô thức tập thể. Quá trình hình thành lí thuyết cổ mẫu được

Jung khởi đầu từ năm 1912, đánh dấu sự chia rẽ giữa ông và Sigmund Freud, vốn

là thầy của Jung. Đây cũng là thời điểm Jung bắt đầu theo đuổi hướng nghiên cứu

độc lập về tâm lí học chuyên sâu. Các khái niệm, ý tưởng về cổ mẫu của Jung được

tập hợp trong cuốn Archetypes and the Collective Unconscious (Cổ mẫu và vô thức

tập thể, 1981) [10]. Theo đó, lí thuyết của Jung phân chia tâm lí con người thành

ba cấp độ: ý thức cá nhân (ego), vô thức cá nhân (personal unconscious) và vô thức

tập thể (collective unconscious). Trong đó, vô thức tập thể là yếu tố tâm lí làm nổi

bật học thuyết của Jung so với các nhà tâm lí học khác. Jung “chọn hạng từ ‘tập

thể’ (collective) vì phần này của vô thức không mang tính cá thể mà phổ quát; trái

ngược với tinh thần cá nhân, nó có những nội dung và kiểu hành vi gần như có mặt

ở khắp nơi, trong mọi cá thể. Nói cách khác, nó giống nhau ở tất cả mọi người, và

do đó cấu thành nên một chất nền tinh thần chung của bản tính siêu nhiên hiện diện

trong mỗi chúng ta” [11]. Nội dung của vô thức tập thể được ông gọi tên là những

cổ mẫu.

Như thế, Jung là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ “cổ mẫu” để “chỉ ‘những

hình ảnh nguyên thủy’ và ‘dư lượng tâm linh’ của các nguyên mẫu được lặp đi lặp

11

lại trong vô thức tập thể của nhân loại và được thể hiện trong huyền thoại, tôn giáo,

giấc mơ và mơ mộng cá nhân, cũng như trong các tác phẩm văn học” [12,16]. Theo

ông, cổ mẫu tái xuất hiện trong tiến trình lịch sử nhân loại ở bất cứ nơi đâu có hoạt

động sáng tạo. Nó lay động mỗi chúng ta bởi vì “nó khơi dậy trong ta một giọng

nói to hơn giọng nói của chính ta” [13,599]. Đó là giọng nói của tổ tiên, của vô

thức tập thể được lắng đọng qua bao thế hệ. Có thể nói, phải đến Jung cổ mẫu mới

được xác lập như một thuật ngữ tâm lí học. Trong Thăm dò tiềm thức, ông tái khẳng

định rằng: cổ mẫu “là những yếu tố tâm thần không thể cắt nghĩa được bằng một

sự việc xảy ra trong đời sống... Nó hình như bẩm sinh đã có, có từ nguyên thủy, nó

là một thành phần trong gia tài tinh thần nhân loại” [14,95-96]. Ông cũng nhấn

mạnh tính chất ban sơ, nguyên thủy của cổ mẫu như là những nội dung vô thức tập

thể hiện hữu trong “những hình thức cổ xưa, hoặc đúng hơn là những hình thức

nguyên thủy, tức là những hình ảnh chung tồn tại từ những thời đại xa xưa nhất”

[15,78]. Cũng theo Jung, mặc dù “thoát thai từ vô thức tập thể” song cổ mẫu vẫn

“có tính tự trị” của nó. Điều này có nghĩa là “cổ mẫu không bó mình vĩnh viễn

trong vô thức cộng đồng, như là cái có sẵn, mà nó luôn vận động, do những xung

năng nội tại, nhằm phát triển trong xu hướng chống lại sự kiểm soát của ý thức”

[DT 16]. Như vậy, những nghiên cứu của Jung đã tiết lộ rằng: cổ mẫu có nguồn

cội từ xa xưa, nảy nở trong khu vườn vô thức tập thể, chứa đựng kí ức của cộng

đồng, chúng mang tính bẩm sinh và tự trị. Ông cũng cho biết ứng với mỗi một

trạng thái của con người sẽ có một cổ mẫu tương ứng, chẳng hạn như cổ mẫu Mẹ

(Mother), Tái sinh (Rebirth), Tinh thần (Spirit), Kẻ lừa lọc (Trickster)... do đó, số

lượng cổ mẫu là vô tận [17]. Cùng với vô thức tập thể, cổ mẫu là một trong những

chất liệu quan trọng để Jung “vẽ bản đồ tâm hồn con người” như Murey Stein từng

nhận định. Tóm lại, trong lí thuyết tâm lí học phân tích của Jung, cổ mẫu mang

tính phổ quát, tự trị và căn bản. Bất kì nền văn hóa hay giai đoạn lịch sử nào cũng

đều chia sẻ những mô hình cổ mẫu phổ biến.

Những “luận điểm tràn đầy cảm hứng khai phá” [16] của Jung về cổ mẫu đã

mở ra hướng tiếp cận tâm lí học, định hình lí thuyết phê bình cổ mẫu và gợi hứng

cho rất nhiều nhà nghiên cứu về sau. Nhiều nhà phê bình như Maud Bokin, Joseph

Campbell, Gaston Bachelard, Northrop Frye đã phát triển lí thuyết của Jung về vô

thức tập thể và cổ mẫu để khám phá các tác phẩm văn chương. Trong đó, Northrop

12

Frye, nhà phê bình thần thoại người Canada, là người có công rất lớn đối với việc

xác lập lí thuyết phê bình cổ mẫu khi mở rộng nội hàm thuật ngữ cổ mẫu của Jung

bằng cách xem xét nó từ góc nhìn huyền thoại học. Công trình khoa học có sức ảnh

hưởng lớn của Frye, Anatomy of Criticism (Giải phẫu văn chương), gồm có bốn

tiểu luận: phê bình lịch sử, phê bình đạo đức, phê bình cổ mẫu và phê bình thể loại.

Trong đó, tiểu luận thứ nhất gắn với các lí thuyết về thức (mode), tiểu luận thứ hai

bàn về các biểu tượng làm tiền đề cho nghiên cứu cổ mẫu, tiểu luận thứ ba đề cập

đến các huyền thoại, tiểu luận thứ tư nghiên cứu cách thức để tác giả và văn bản

giao tiếp với độc giả hay khán giả [18]. Frye đề xuất rằng toàn bộ các tác phẩm

văn học tạo thành một “thế giới văn chương độc lập” được tạo ra qua các thời đại

bằng trí tưởng tượng của nhân loại để đồng hóa thế giới xa lạ và thờ ơ của tự nhiên

thành những loại cổ mẫu, đáp ứng những mong muốn và nhu cầu dài lâu của con

người. Trong thế giới văn chương này, bốn cổ mẫu thần thoại cơ bản tương ứng

với bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông và bốn thể loại chủ yếu: hài kịch, truyện hư cấu,

bi kịch, châm biếm. Như bản chất của chu kì tự nhiên, các mô thức tự sự này cũng

vận động theo chu kì tuần hoàn, sống và chết, bốn mùa trong năm, bốn giai đoạn

của đời người [19]. Khi xem xét mối quan hệ giữa huyền thoại và văn học, Frye

phát hiện sự lặp lại của các cấu trúc hoặc ngữ cảnh và nhận định rằng văn học là

huyền thoại được tái cấu trúc thông qua những cổ mẫu thần thoại liên tục được tái

sinh và làm mới trong các mô thức tự sự khác nhau [13]. Nhìn từ cổ mẫu, Frye cho

rằng vũ trụ văn chương không hoàn toàn quá tự trị và cô lập. “Văn học giữ vai trò

chủ yếu trong việc biến đổi thế giới vật chất thành một thế giới ngôn từ sống động,

dễ nhận thức và lưu lại ấn tượng lâu bền, bởi vì nó đáp ứng những nhu cầu và quan

tâm của con người” [12,17].

Kết hợp quan niệm về cổ mẫu của Jung và Frye, Vũ Minh Đức cho rằng: “Cổ

mẫu, trước hết, là mẫu của những biểu tượng có mối liên hệ chặt chẽ

với vô thức tập thể, là nơi lưu giữ kí ức, kinh nghiệm tập thể của dân tộc và nhân

loại. Cổ mẫu là khuôn mẫu nguyên thủy để từ đó có nhiệm vụ phục vụ cho một

mô hình cụ thể” [20,9]. Theo tổng hợp của Vũ Minh Đức, đặc điểm của cổ mẫu

bao gồm: tính phổ quát nhân loại, tính biểu tượng huyền thoại và tính phái sinh.

Như vậy, cách tiếp cận tâm lí học xem xét cổ mẫu như là sự kết tinh các kinh

nghiệm tinh thần phổ quát nắm giữ vai trò quan trọng trong đời sống tâm hồn nhân

13

loại. Cách tiếp cận huyền thoại học chú trọng tính lặp lại của những kiểu mẫu cổ

xưa để đáp ứng những mong muốn có tính hằng số của con người thuộc các nền

văn hóa cách biệt về không gian lẫn thời gian. Kết hợp cả hai hướng tiếp cận này,

các nhà nghiên cứu đã gặt hái những thành công ban đầu trong việc giải quyết các

câu hỏi về cổ mẫu liên quan đến tâm linh, văn hóa. Tuy nhiên, bản chất của cổ mẫu

vẫn là vấn đề chưa được giới nghiên cứu thống nhất đồng thuận, thậm chí nhiều

cuộc tranh cãi về nó đã nổ ra trên các không gian học thuật uy tín.

1.1.2. Cách tiếp cận lịch sử-xã hội

Khi đề xuất lí thuyết mang tính đột phá của mình, Jung đã bộc lộ sự lúng túng,

mâu thuẫn qua rất nhiều cách thức khác biệt, phức tạp để xác định những gì là cổ

mẫu. Theo tổng hợp của nhà nghiên cứu tâm lí học Jon Mills, điều đó được biểu

hiện qua việc Jung đã đưa ra rất nhiều tên gọi khác nhau, thậm chí trái ngược về

archetype: “Jung gọi cổ mẫu là những ý tưởng bẩm sinh, hình thức, hình ảnh tập

thể, bản năng, tổ chức nhạy cảm, tưởng tượng, cảm xúc, mô hình hành vi và cường

độ định tính như tính chất bí ẩn. Ở những nơi khác trong Collective Works, ông gọi

chúng là những năng lượng tâm linh, thực thể, các lực lượng và cơ quan độc lập tự

tổ chức và có thể tự mình áp đặt một người chống lại ý chí của chính họ. Hơn nữa,

Jung cho rằng tâm trí độc lập với các cổ mẫu, có đặc tính siêu việt, tồn tại bên

ngoài không gian và thời gian do cấu trúc và sự hiện diện siêu nhiên của chúng.

Nhưng Jung cũng gọi cổ mẫu là các khái niệm, giả thuyết, mô hình trải nghiệm và

ẩn dụ khi ông quay về với các ý niệm triết học trước đây của mình dưới nguyên

tắc khoa học” [21,2]. Như vậy, theo Jon Mills, bên cạnh những đóng góp nhất định,

lí thuyết cổ mẫu của Jung vẫn bộc lộ tính chủ quan, thiếu cơ sở khoa học, thậm chí

chỉ đơn thuần là suy đoán lí thuyết. Những đề xướng mâu thuẫn về cổ mẫu của

Jung, do đó, đã dẫn đến những ý kiến tranh luận của các nhà nghiên cứu về bản

chất của cổ mẫu.

Học giả Knox, với công trình Archetype, Attachment, Analysis: Jungian

Psychology and the Emergent Mind (Cổ mẫu, gắn bó, phân tích: Tâm lí học của

Jung và tâm thức hợp trội, 2003), đã cung cấp một cách diễn giải mới về cổ mẫu

dựa trên mô hình phát triển của tâm trí được cấu thành bởi ba yếu tố: trí não, bản

năng và nhận thức. Knox khẳng định rằng mô hình này cho biết cổ mẫu là một

phần của tâm lí tập thể, không có hình ảnh bẩm sinh trong bản thân chúng, nhưng

14

lại tạo ra các kiểu mẫu ý nghĩa được lặp lại thường xuyên [22]. Trong bài viết

Approaching Archetypes: Reconsidering Innateness (Tiếp cận cổ mẫu: Xét lại tính

bẩm sinh, 2010), Goodwyn xem xét tính bẩm sinh của cổ mẫu và dựa trên những

kết quả nghiên cứu di truyền học để chống lại ý tưởng tâm trí chứa những nội dung

bẩm sinh có ý nghĩa quan trọng [23]. Đến năm 2013, nhà nghiên cứu này đã xác

lập một mô hình cổ mẫu trên cơ sở thực nghiệm thay vì chỉ suy đoán lí thuyết trong

bài viết Recurrent Motifs as Resonant Attractor Atates in the Narrative Field: a

Testable Model of Archetype (Các motif lặp lại như là mô hình thu hút trong lĩnh

vực tự sự: một mô hình cổ mẫu thử nghiệm). Theo ông, cổ mẫu của Jung vẫn còn

gây tranh cãi khi giải thích về các motif thường xuyên lặp lại, do sự tồn tại của các

motif không chứng minh được sự hiện hữu của các cổ mẫu. Vì vậy, thách thức đối

với lí thuyết cổ mẫu đương đại không chỉ đơn thuần là giải thích sự tồn tại của các

motif tái xuất hiện, bởi lẽ điều này không bị tranh cãi, mà là chứng minh các cổ

mẫu hiện hữu và tạo ra các motif thường xuyên lặp lại. Goodwyn cho rằng các

motif trong mọi xã hội đều có thể nghiên cứu thực nghiệm trong lĩnh vực tự sự và

chứng minh cho sự xuất hiện của các cổ mẫu bẩm sinh [24]. Do đó, nghiên cứu

của Goodwyn đã đề xuất cách tiếp cận cổ mẫu theo hướng thực nghiệm.

Dưới ánh sáng của di truyền học và khoa học thần kinh, Roesler, trong bài viết

có tựa đề Are Archetypes Transmitted more by Culture than Biology? Questions

arising from Conceptualizations of the Archetype (Cổ mẫu được truyền thừa nhiều

hơn bởi văn hóa hay sinh học? Các vấn đề nảy sinh từ khái niệm cổ mẫu, 2012),

thừa nhận tính chất phổ quát trong khái niệm cổ mẫu, tuy nhiên, cho rằng chưa có

cơ sở khoa học nào để khẳng định mỗi cá nhân đều có thể được kế thừa các mô

hình biểu tượng phức tạp. Roesler gợi mở: “Có thể ký ức của nhân loại, vô thức

tập thể không có chỗ đứng trong sinh học, mà trong văn hóa và xã hội hóa. Nếu

chúng ta thừa nhận rằng việc truyền tải những cổ mẫu phụ thuộc nhiều vào quá

trình tương tác và văn hóa hơn Jung từng nghĩ, chúng ta có thể phát triển các khái

niệm giống như phức hợp văn hóa và kết nối chúng với nghiên cứu được đề cập

đến các cách truyền tải ngầm, một công việc vẫn còn phải được thực hiện. Nhận

thức ngày càng tăng trong các ngành khoa học rằng có các quá trình giao tiếp và

truyền tải ở cấp độ tiềm thức mang đến sự hỗ trợ đáng ngạc nhiên cho khái niệm

của Jung về lĩnh vực vô thức giữa các cá nhân. Theo nghĩa này, chúng ta không

15

được sinh ra với vô thức tập thể, mà chúng ta trở thành nó” [25,242].

Như vậy, cả Knox và Roesler đều cho rằng cổ mẫu được truyền thừa thông

qua các quá trình xã hội nhiều hơn sinh học. Điều này cũng tiết lộ bản chất năng

động, thích ứng với những chuyển biến bên ngoài của cổ mẫu, trái với cách nhìn

cổ mẫu mang tính khái quát hóa, cứng nhắc của giới nghiên cứu trước đây.

The Essence of Archetypes (Bản chất của cổ mẫu, 2018) của Jon Mills đề xuất

một lí thuyết cổ mẫu về tính khác dựa trên logic biện chứng. Trong nghiên cứu

toàn diện này, ông đã phân tích các cuộc tranh luận về cổ mẫu giữa các trường phái

sau đây: chủ nghĩa duy lí với chủ nghĩa kinh nghiệm - xoay quanh vấn đề về tiên

nghiệm với kinh nghiệm; sinh học và văn hóa - xoay quanh vấn đề về tính bẩm

sinh, sự tiến hóa, sự truyền gene với vai trò của môi trường, sự gắn bó, tâm lí học

phát triển, ngôn ngữ, động học xã hội; chủ nghĩa tự nhiên và chủ nghĩa siêu nhiên

- xoay quanh vấn đề về mô hình biểu hiện tự nhiên trong cấu trúc xã hội phức tạp

với các năng lượng siêu nhiên, siêu việt, vô hình… Từ đó, ông chỉ ra rằng: “cổ

mẫu không thể xuất hiện từ một số nơi phù du hoặc cõi ma thuật. Chúng phải được

giải thích từ quá trình phát triển hữu cơ tương ứng với lí tính và khoa học” [21,5].

Jon Mills cũng nhận diện cấu tạo bên trong và sự sinh thành của một cổ mẫu dựa

trên đứt gãy nội tại và ham muốn phóng chiếu tính phổ quát, hình thức và kiểu mẫu

của nó vào hiện thực tâm linh như những bản sao tự tạo. Dựa trên mối quan hệ biện

chứng giữa tính quen thuộc và xa lạ, Jon Mills cho rằng: “Khi một cổ mẫu phân

chia bản chất phổ quát của nó thành đa bội, nó trở nên khác với chính nó, chỉ để

khôi phục tính thống nhất ban đầu đã mất, trong dạng thức này, sự khác biệt như

là sự trở lại với chính nó. Vì cái cổ xưa là nguồn cội, một khe hở để cái khác nảy

sinh” [21,19]. Như vậy, lí thuyết của Jon Mills cho thấy tính khác/lạ/thay đổi trên

nền tảng mẫu hình ban đầu bởi các tác động bên ngoài mới là điểm cốt lõi tạo nên

bản chất thực sự của một cổ mẫu. Đây cũng là điều mà Jung chưa trả lời được.

Những kết quả nghiên cứu về cổ mẫu trong các lĩnh vực tâm lí học, di truyền

học, xã hội học trong những năm gần đây khiến chúng ta phải cân nhắc lại cách

tiếp cận cổ mẫu trong nghiên cứu văn học trước đây. Liệu rằng vô thức tập thể,

khía cạnh tâm lí, tính chất lại giống có đủ căn cứ khoa học để diễn giải các nội

dung cổ mẫu? Vấn đề này đã khơi dậy những cách tiếp cận mới, thuyết phục hơn

trong hành trình khám phá cổ mẫu văn chương. Trong đó, cách thức tiếp cận lịch

16

sử-xã hội (socio-historical approaches) có tính khả dụng cao, bổ khuyết những

điểm chưa thỏa đáng của cách thức tiếp cận tâm lí-huyền thoại. Ứng dụng phương

pháp này trong phê bình cổ mẫu nghĩa là xem xét sự hình thành của các nguyên

mẫu mới dưới ảnh hưởng của các yếu tố bên ngoài như bối cảnh lịch sử, xã hội, hệ

thống chính trị, chủng tộc, giới tính; lí giải sự khác biệt, xung đột của nguyên mẫu

mới trong tác phẩm văn học với mẫu hình ban đầu của nó cũng như các hệ giá trị

phổ biến. Từ đó, người nghiên cứu có thể nhận diện những đóng góp của nhà văn

trong hành trình vun đắp khu vườn cổ mẫu của nhân loại. “Bằng cách tiếp cận tìm

hiểu cổ mẫu từ góc độ lịch sử-xã hội, các nhà nghiên cứu có thể đi đến nhận định

rằng cổ mẫu với tư cách là ký ức văn hoá của cộng đồng từ nguyên thuỷ hoàn toàn

không tồn tại trong hình thức tĩnh tại như các di chỉ hoá thạch của quá khứ mà là

một trong những yếu tố văn hóa năng động trong quá trình tương tác liên tục với

dòng chảy lịch sử” [1,60].

Kết hợp các cách tiếp cận tâm lí-huyền thoại và lịch sử-xã hội, chúng tôi quan

niệm cổ mẫu là những mẫu hình nguyên bản và cổ xưa, tồn tại trong tâm thức nhân

loại, trong thần thoại, truyền thuyết, truyện kể dân gian và liên tục được tái sinh

trong các thể loại văn học thuộc các thời kì văn học về sau. Sự tái sinh của cổ mẫu

không chỉ là quá trình kế thừa các đặc điểm mang tính hằng số trong tâm thức con

người mà còn là sự thích nghi của mỗi nhà văn đối với truyền thống văn hóa dân

tộc, nhân loại và đặc biệt là sự tác động của bối cảnh lịch sử văn hóa xã hội của

thời đại đến cách thức tái sinh, làm mới cổ mẫu của người nghệ sĩ. Như thế, bản

chất của cổ mẫu vừa quen thuộc, gần gũi, phổ quát vừa xa lạ, mới mẻ và năng

động.

Cần lưu ý rằng, phê bình cổ mẫu là một khuynh hướng phê bình dung hợp các

thành tựu văn hóa học, nhân loại học, tâm lý học, xã hội học... và có nhiều ưu việt

riêng trên con đường khai phá những miền đất trù phú của văn chương. Đó là khả

năng kết nối các tác phẩm văn học trong các thời đại và các dân tộc khác nhau, gắn

liền văn học với văn hóa, con người hôm nay với con người cổ xưa, nhờ đó tư duy

không gian văn học được nới rộng. Truy tầm cổ mẫu trong văn học cũng là tìm

kiếm sự đồng điệu và khác biệt. Từ đó, chúng ta có thể giải thích được vì sao văn

học chạm đến tận sâu trái tim của mỗi bạn đọc. Tuy nhiên, phê bình cổ mẫu cũng

khó tránh khỏi những hạn chế như: tính giản hóa, tính chủ quan, nếu vận dụng

17

không hợp lý thì dễ rơi vào suy diễn khi truy tìm ý nghĩa của cổ mẫu. Trong mục

Hướng tiếp cận huyền thoại và cổ mẫu, các nhà nghiên cứu cho biết mặc dù khuynh

hướng phê bình này “đưa chúng ta đi xa khỏi những phạm vi lịch sử và thẩm mỹ

trong nghiên cứu văn học - quay ngược tới đoạn khởi đầu của những nghi lễ và

niềm tin cổ xưa nhất của loài người, và đi sâu vào trong những trái tim cá nhân

riêng của mỗi chúng ta”, song hướng tiếp cận này, nếu vận dụng không đúng chừng

mực, cũng có lúc khiến người nghiên cứu “không nhìn thấy những giá trị thẩm

mỹ” của tác phẩm, “không chú ý đến kinh nghiệm thẩm mỹ của bản thân tác phẩm”

[26,205-206].

1.2. Nghiên cứu tiểu thuyết John Steinbeck

1.2.1. Nghiên cứu tiểu thuyết John Steinbeck trên thế giới

Là một trong những tiểu thuyết gia vĩ đại của nền văn học Mỹ thế kỉ XX, John

Steinbeck và các sáng tác của ông là một đề tài lớn, thu hút sự quan tâm của đông

đảo giới nghiên cứu và bạn đọc. Đến nay, đã có nhiều chuyên luận, bài báo khoa

học, luận văn, luận án tiếp cận tiểu thuyết John Steinbeck theo nhiều hướng nghiên

cứu, góp phần nhận diện, phác thảo và xác lập phong cách nghệ thuật tiểu thuyết

John Steinbeck. Trong đó, có thể kể đến các hướng nghiên cứu lớn quy tụ các học

giả ở khắp mọi nơi trên thế giới, bao gồm:

Phê bình Tiểu sử quan tâm đến cuộc đời của John Steinbeck từ thuở nhỏ ở

Salinas, California; đến những năm tháng ở thành phố San Fransico, Mexico, New

York, làm phóng viên chiến trường tại Việt Nam; đặc biệt là những người thân,

bạn bè và những sự kiện lớn trong cuộc đời nhà văn có ảnh hưởng không nhỏ đến

tư tưởng, tác phẩm của ông. Các công trình tiêu biểu cho hướng nghiên cứu này

là: John Steinbeck (1971) của học giả James Gray [27], The Portable Steinbeck

(1971) của nhà nghiên cứu Pascal Covici [28], Steinbeck: A Life in Letters

(Steinbeck: Cuộc đời trong những bức thư, 1975) được biên tập bởi Elaine

Steinbeck và Robert Wallstein [29], The True Adventures of John Steinbeck, Writer

(Cuộc hành trình thực sự của nhà văn John Steinbeck, 1984) của Jackson J. Benson

[30], John Steinbeck: A Biography (Tiểu sử John Steinbeck, 1994) của Jay Parini

[31] và gần đây nhất là cuốn Mad at the World: A Life of John Steinbeck (Phẫn nộ

vì thế giới: cuộc đời John Steinbeck, 2020) của William Souder [32].

Trong khi đó, phê bình Xã hội học tiếp cận tiểu thuyết John Steinbeck trong

18

mối quan hệ với các yếu tố văn hóa, xã hội - bối cảnh ra đời của tác phẩm - như

những tiền đề quan trọng chi phối đề tài, chủ đề của tác phẩm và tư tưởng của nhà

văn. Những mốc lịch sử có ý nghĩa lớn của Hoa Kỳ nói riêng và thế giới nói chung

trở thành tâm điểm thu hút sự chú ý của các nhà nghiên cứu để lí giải tác phẩm của

Steinbeck. Điển hình là các nghiên cứu sau: The Grapes of Wrath: Trouble in the

Promised Land (Chùm nho phẫn nộ: Nỗi đau ở miền đất hứa, 1989) của Louis

Owens [33], John Steinbeck and the Great Depression (John Steinbeck và Đại suy

thoái, 2015) của Alison Morretta [34].

Với phê bình Mới, các nhà nghiên cứu đã có những phát hiện mới mẻ về tiểu

thuyết John Steinbeck, đặc biệt là về cấu trúc, ngôn ngữ, chủ đề, nhân vật, hình

tượng, motif, phong cách. Các công trình đáng kể là: The Wide World of John

Steinbeck (Thế giới rộng lớn của John Steinbeck, 1958) của học giả Peter Lisca

[35], The Novels of John Steinbeck (Tiểu thuyết của John Steinbeck, 1963) của

Howard Levant [36].

Tiếp cận tiểu thuyết John Steinbeck từ góc nhìn phê bình sinh thái, nữ quyền

sinh thái, nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra tình trạng khủng hoảng sinh thái, ý thức

sinh thái, mối quan hệ giữa tự nhiên và con người trong các sáng tác của Steinbeck.

Trong đó, Steinbeck and the Environment: Interdisciplinary Approaches

(Steinbeck và môi trường: Tiếp cận liên ngành, 1997) do Susan F. Beegel, Susan

Shillinglaw và Wesley N. Tifney biên tập [37], Monstrous Ecology: John

Steinbeck, Ecology, and American Cultural Politics (Sinh thái quái dị: John

Steinbeck, Sinh thái học và Chính trị văn hóa Mỹ, 2005) của nhà nghiên cứu Lloyd

Willis [38], “Ecological Consiousness in John Steinbeck’s ‘The Grapes of Wrath’”

(“Ý thức sinh thái trong ‘Chùm nho phẫn nộ’ của John Steinbeck”, 2015) của S.

C. Bamarani [39], John Steinbeck through the Perspective of Ecocritical Reading

(John Steinbeck từ quan điểm đọc sinh thái, 2016) của Lucie Benesová [40] là

những nghiên cứu tiêu biểu.

Bên cạnh các hướng nghiên cứu trên, tiểu thuyết John Steinbeck còn được tiếp

cận từ lí thuyết phê bình nữ quyền, phê bình biểu tượng. Một số nghiên cứu nổi bật

thuộc hai khuynh hướng này ít nhiều đã chạm đến vấn đề cổ mẫu trong tiểu thuyết

của nhà văn.

Phê bình nữ quyền là một địa hạt nghiên cứu khá mới mẻ, xuất hiện vào

19

khoảng những năm 1960. Khuynh hướng tiếp cận văn chương này đặt trọng tâm

vào ba khía cạnh chủ yếu: sự khác biệt giữa nam giới và nữ giới, nữ giới cầm quyền

hoặc mối quan hệ về quyền lực giữa nam giới và nữ giới, trải nghiệm nữ. Chịu ảnh

hưởng bởi những người phụ nữ (mẹ, chị em gái, những người vợ) và trưởng thành

trong một xã hội đầy bất ổn đầu thế kỉ XX, John Steinbeck sớm nhận thức rõ vai

trò và vị trí của nữ giới để xây dựng những mẫu hình nhân vật nữ mạnh mẽ, táo

bạo, nắm giữ địa vị quan trọng trong gia đình vào những thời điểm chuyển giao

lịch sử đặc biệt. Đây cũng là điểm gặp gỡ của những nhà nghiên cứu khi tiếp cận

tiểu thuyết John Steinbeck theo khuynh hướng phê bình nữ quyền.

Những công trình tiêu biểu khám phá tiểu thuyết John Steinbeck theo lí thuyết

phê bình nữ quyền bao gồm: “From Patriarchy to Matriarchy: Ma Joad’s Role in

‘The Grapes of Wrath’” (“Từ chế độ gia trưởng đến chế độ mẫu quyền: Vai trò của

Ma Joad trong ‘Chùm nho phẫn nộ’”, 1982) của Warren Motley [41], Defying

Domesticity: Steinbeck’s critique of gender politics of postwar generation in “East

of Eden” (Thách thức đời sống gia đình: Phê phán chính trị giới ở thế hệ hậu chiến

của Steinbeck trong “Phía đông vườn địa đàng”, 2008) của Danielle Woods [42],

Gender relations in Steinbeck’s “The Grapes of Wrath” (Những mối quan hệ giới

trong “Chùm nho phẫn nộ” của John Steinbeck, 2010) của Fonseca [43], “The

Construction of Female Subject Identity in ‘The Grapes of Wrath’” (“Cấu trúc của

căn cước nhân vật nữ trong “Chùm nho phẫn nộ’”, 2016) của Limin Wu [44],

Steinbeck’s Female Characters: Environment, Confinement, and Agency (Nhân

vật nữ của Steinbeck: Môi trường, Sự giam cầm và Chức năng, 2016) của Nikki

Marrie Garcia [45], “Cathy’s ‘Masculinity’ as Survival in Steinbeck’s ‘East of

Eden’” (“‘Tính nam’ của Cathy như là sự sống sót trong ‘Phía đông vườn địa

đàng’ của John Steinbeck”, 2016) của Kelly-Rae Meyer [46]… Trong đó, chuyên

luận The Indestructible Woman in Faulkner, Hemingway and Steinbeck (Người

phụ nữ bất tử của Faulkner, Hemingway và Steinbeck, 1986) của Mimi R.

Gladstein đã có những nhận xét đề cập đến vấn đề cổ mẫu khi phân tích người phụ

nữ bất tử trong tiểu thuyết của John Steinbeck. Ý tưởng về người phụ nữ bất tử

giống như mẹ thiên nhiên, đôi lúc hung dữ đôi khi tử tế nhưng lại luôn luôn bền bỉ

trong tác phẩm của John Steinbeck được Gladstein khám phá qua các nhân vật nữ

tiêu biểu như Ma Joad trong Chùm nho phẫn nộ, Dora trong Phố Cannery Row, và

20

Mordeen trong Burning Bright. Trong đó, nhà nghiên cứu khẳng định nhân vật Ma

Joad “có thể được gọi là cổ mẫu giống trong văn xuôi hư cấu Mỹ” [47,76]; là “hiện

thân của huyền thoại về người phụ nữ tiên phong, biểu tượng cho tình mẹ và nữ

thần trái đất” [47,77]. Qua chuyên luận này, Gladstein tập trung vào các nhân vật

nữ chính lẫn phụ để chứng minh tính chất khái quát của hình tượng người phụ nữ

bất tử. Từ đó, học giả Gladstein thừa nhận rằng kiểu nhân vật này đã bước vào địa

hạt rộng lớn của cổ mẫu trong sáng tác của các nhà văn nam người Mỹ.

Như vậy, những công trình nghiên cứu tiểu thuyết John Steinbeck từ lí thuyết

Phê bình nữ quyền đã xác lập vị trí quan trọng và đặc trưng của nữ giới trong sáng

tác của nhà văn. Đặc biệt, một số nghiên cứu đã bước đầu xem xét những nhân vật

nữ tiêu biểu như là cổ mẫu giống cái trong văn học Mỹ. Đây là những gợi ý quan

trọng để chúng tôi nhận diện và lí giải đặc trưng của cổ mẫu mẹ trong tiểu thuyết

John Steinbeck.

Phê bình đề tài/biểu tượng là hướng tiếp cận chủ yếu nghiên cứu ngôn ngữ

của văn bản để khám phá các dạng thức hình ảnh, motif, biểu tượng tạo nghĩa cho

tác phẩm. Thông qua việc giải mã biểu tượng, motif, hình ảnh biểu trưng, các học

giả đã tìm thấy dấu vết của Kinh Thánh và các tác phẩm văn chương khác trong

tiểu thuyết của John Steinbeck.

Tiểu thuyết của John Steinbeck được giới phê bình biểu tượng chú ý nhiều

nhất là kiệt tác Chùm nho phẫn nộ. Nổi bật là các bài viết, công trình nghiên cứu

xoay quanh vấn đề nhân vật biểu tượng Chúa, dấu vết Kinh Thánh trong tác phẩm

của John Steinbeck. “Christian Symbolism in The Grapes of Wrath” (“Biểu tượng

Cơ đốc giáo trong Chùm nho phẫn nộ”, 1957) của Shaples Martin Shockly cho biết

nhân vật Jim Casy có ý nghĩa biểu trưng như Chúa Jesus [48]. Eric W. Carlson,

trong “Symbolism in The Grapes of Wrath” (“Chủ nghĩa biểu trưng trong Chùm nho

phẫn nộ”, 1958) lại cho rằng nhân vật Casy không phải là biểu tượng Chúa mà

thuộc về truyền thống tự do-dân chủ mạnh mẽ của nước Mỹ [49]. Trong khi đó,

Dougherty, với nghiên cứu “The Christ-Figure in The Grapes of Wrath” (“Nhân

vật Chúa trong Chùm nho phẫn nộ”, 1962) lại cho rằng “nhân vật - Chúa trong

Chùm nho phẫn nộ là Tom Joad chứ không phải Jim Casy” [50,225]. Nhà nghiên

cứu nhấn mạnh sự khác nhau giữa nhân vật Tom Joad và Jim Casy như sau: “Tom

tích cực và hiệu quả trong khi Casy chỉ là người hay mơ mộng” [50,225]. Kelly

21

Crockett cũng tìm thấy mối quan hệ giữa Kinh Thánh và Chùm nho phẫn nộ. Qua

nghiên cứu “The Bible and The Grapes of Wrath” (“Kinh Thánh và Chùm nho

phẫn nộ”, 1962), Crockett cho rằng “gia đình Joad đại diện cho những người Mỹ

mở đường, câu chuyện của họ với những yếu tố Kinh Thánh làm cho tính cách của

họ trở nên phổ biến hơn” [51,194]. James Brasch, trong bài viết “The Grapes of

Wrath and Old Testament Skepticism” (“Chùm nho phẫn nộ và Chủ nghĩa hoài

nghi Cựu ước”, 1978), nhận thấy Casy được phỏng theo hình ảnh người giảng đạo

trong Cựu ước, những người di cư giống với người dân Israel và sự tương đồng

giữa lời dự báo “chùm nho phẫn nộ” sẽ có ngày chín muồi trong Kinh Thánh với

các giải pháp áp chế trong tình thương và sự cảm thông [52]. Với nghiên cứu

“Inversion of biblical symbols in The Grapes of Wrath” (“Sự đảo ngược những

biểu tượng Kinh Thánh trong Chùm nho phẫn nộ”, 2012), Miriam Pérez Veneros

cho rằng Steinbeck đã đảo ngược một số biểu tượng vốn là những điểm tựa tôn

giáo lâu đời. Chẳng hạn như nhân vật Rosashan khác với nhân vật cùng tên trong

Kinh Thánh, cô được miêu tả như là “Mẹ tự nhiên, người mẹ mới của con người

và cô hành động vì tình yêu, chứ không phải vì niềm tin tôn giáo” [53,173].

Một số nghiên cứu tìm kiếm biểu tượng, motif trong các tiểu thuyết khác của

John Steinbeck như: “Motif and Pattern in ‘Of Mice and Men’” (“Motif và khuôn

mẫu trong ‘Của chuột và người’”, 1956) của Peter Lisca [54]. Xem xét tự nhiên

như là cội nguồn của hệ thống hình ảnh và biểu tượng trong những tác phẩm ngắn

của Steinbeck, Heitkamp đã khám phá và giải mã bốn motif biểu tượng nổi bật

nhất trong Nature Symbolism in the Fiction of John Steinbeck (Biểu tượng tự nhiên

trong tiểu thuyết của John Steinbeck, 1971). Đó là: đất như là biểu tượng cho tính

gắn kết giữa con người và tự nhiên, động vật biểu tượng cho tính cách con người,

motif sinh ra, chết đi và khả năng sinh sản, biển như là một biểu tượng [55]. The

Escape Motif in the American Novel: Mark Twain to Richard Wright (Motif tẩu

thoát trong tiểu thuyết Mỹ: từ Mark Twain đến Richard Wright, 1972) của học giả

Sam Bluefarb là một công trình nghiên cứu công phu, khái quát về một trong những

motif điển hình của văn học Mỹ. Ở chương 7, Sam Bluefarb tìm hiểu motif tẩu

thoát trong tiểu thuyết Chùm nho phẫn nộ qua nhiều hình thức và nguyên nhân của

các nhân vật tẩu thoát như Tom Joad, Casy, Noah, Uncle John, Connie… Nhà

nghiên cứu cho rằng ý nghĩa của motif tẩu thoát trong tiểu thuyết của John

22

Steinbeck như là chuyến bay vào linh hồn tập thể [56]. Todd M. Lieber, với bài

viết “Talismanic Patterns in the Novels of John Steinbeck” (“Những kiểu bùa chú

trong tiểu thuyết của John Steinbeck”, 1972), đã khám phá các dạng thức khác

nhau của biểu tượng bùa chú trong tác phẩm của John Steinbeck nhằm biểu trưng

cho mối quan hệ giữa con người và nơi chốn [57]. Năm 1976, Arthur Cummins

Anderson đã thực hiện nghiên cứu The Journey Motif in the Fiction of John

Steinbeck: the Traveler Discovers himself. Trong công trình này, nhà nghiên

cứu đã tìm hiểu motif hành trình trong các tác phẩm Cup of Gold/Cúp vàng,

Chùm nho phẫn nộ, Viên ngọc trai và The Wayward Bus/Chuyến xe bất kham.

Anderson cho biết mặc dù triết lí của John Steinbeck là “phi mục đích”, song

nhà văn đã xây dựng các nhân vật có tầm nhìn, mục tiêu và cho phép họ di

chuyển để đạt được mục tiêu [58].

Tóm lại, những nghiên cứu thuộc Phê bình biểu tượng đã khám phá thế giới

biểu tượng, motif, hình ảnh đa sắc trong tiểu thuyết của John Steinbeck. Trong số

đó, nhiều biểu tượng, motif có khả năng bước vào địa hạt cổ mẫu. Gợi ý của các

nghiên cứu về biểu tượng đất, biển, motif hành trình, dấu vết Kinh Thánh trong tác

phẩm của nhà văn thôi thúc chúng tôi tìm kiếm và giải mã hệ cổ mẫu trong tiểu

thuyết của John Steinbeck.

1.2.2. Nghiên cứu tiểu thuyết John Steinbeck ở Việt Nam

Ở Việt Nam, John Steinbeck và tiểu thuyết của ông được giới thiệu khá sớm.

Năm 1942, Võ Lang đã lược dịch kiệt tác Chùm nho phẫn nộ với nhan đề Men -

uất hận đăng trên tạp chí Tự do (Sài Gòn). Năm 1957, Nguyễn Sơn Lang dịch Nội

cỏ thiên đường. Tuy nhiên, việc tiếp nhận tác phẩm của Steinbeck ở Việt Nam thực

sự khởi sắc chỉ từ sau khi nhà văn đoạt giải Nobel văn chương vào năm 1962. Minh

chứng là hàng loạt tác phẩm của ông được tuyển dịch, chẳng hạn như: Viên ngọc

trai (Bảo Sơn dịch, 1967), Của chuột và người (Hoàng Ngọc Khôi, Nguyễn Phúc

Bửu Tập dịch, 1967), Chùm nho uất hận (Võ Lang dịch, 1972), Chuyến xe định

mệnh (Võ Sơn Thanh dịch, 1973), Phía đông vườn địa đàng (Đinh Hoàng Sa dịch,

1974), Chén vàng (Vĩnh Khôi dịch, 1991)… Kể từ đó đến nay, thông tin về John

Steinbeck và tác phẩm của ông chủ yếu xuất hiện ở các bài viết trên một số tờ báo,

tạp chí, như: “John Steinbeck, giải Nobel văn chương năm 1962” (1962) của Hà

Hoài, “Chủ đề về người nông dân và cách cắt nghĩa chủ đề trong ‘Chùm nho phẫn

23

nộ’” (2009) của Lê Huy Bắc…; hoặc được đề cập trong các tài liệu, chuyên luận

về văn học Mỹ như: Đại cương Văn học sử Hoa Kỳ (1961) của Đắc Sơn, Tiểu

thuyết hiện đại (1963) của Tràng Thiên, Văn học Mỹ (2000) của Lê Huy Bắc, Tác

gia văn học Mỹ (Thế kỉ XVIII-XX) (2004), Lịch sử văn học Mỹ (2007) của Lê Đình

Cúc… Số lượng luận văn, luận án liên quan đến tiểu thuyết John Steinbeck còn rất

khiêm tốn. Theo thống kê của chúng tôi, tính đến nay, có 1 luận án và 4 luận văn:

luận án Nghệ thuật tiểu thuyết John Steinbeck (2015) của Hoàng Thị Thập; luận

văn Nghệ thuật tiểu thuyết và truyện ngắn của John Steinbeck (2008) của Lê

Nguyễn Hạnh Phước, Kết cấu tiểu thuyết “Chùm nho phẫn nộ” của John Steinbeck

(2008) của Đinh Thị Thủy, Hình tượng nhân vật nữ trong nghệ thuật xây dựng tiểu

thuyết của John Steinbeck (2008) của Đỗ Thị Mai Trâm. Các công trình này tiếp

cận tác phẩm của Steinbeck chủ yếu từ góc nhìn tự sự học, thi pháp học và xã hội

học.

Nguyễn Đức Đàn, với phác thảo Hành trình văn học Mỹ (1995), cho rằng John

Steinbeck là một trường hợp rõ nét về sự đổi mới của văn học Mỹ sau chiến tranh

thế giới lần thứ II. Giống như nhiều nhà phê bình khác, ông đánh giá tiểu thuyết

Phía đông vườn địa đàng là một tác phẩm có giá trị lớn của Steinbeck. Nhà nghiên

cứu nhận định việc tái sinh huyền thoại Kinh Thánh giúp nhà văn thể hiện những

vấn đề của đời sống, kể cả lĩnh vực siêu hình: “Cố gắng đổi mới huyền thoại về

Cain và Abel mà ông chuyển sang một thời kì của lịch sử California, Steinbeck đã

đề cập đến vấn đề siêu hình của cái ác” [59,291]. Tuy vậy, phần lớn những ý kiến

của Nguyễn Đức Đàn đều xem nhẹ giá trị của tiểu thuyết Steinbeck với những nhận

xét như: Steinbeck “không phải là nhà văn lớn như người ta nghĩ” [59,294], “bị

xem là một nhà văn nhàm chán” [59,295], “người ta lấy làm lạ tại sao ông lại được

giải Nobel” [59,296].

Kathryn Vanspanckeren lại chú ý đến sự kết hợp giữa chủ nghĩa Hiện thực và

chủ nghĩa Lãng mạn trong sáng tác của John Steinbeck. Ở Phác thảo văn học Mỹ

(2001), ông viết: “Steinbeck kết hợp chủ nghĩa Hiện thực và chủ nghĩa Lãng mạn

mang tính cách nguyên sơ để tìm kiếm đức hạnh ở những nông dân nghèo bán mặt

cho đất bán lưng cho trời. Tiểu thuyết của ông minh chứng cho các khía cạnh dễ

bị tổn thương của những con người đó, họ có thể bị nhổ tận gốc bởi những cơn hạn

hán và là những người đầu tiên phải chịu đựng đau khổ trong những giai đoạn bất

24

ổn chính trị và khủng hoảng kinh tế” [60,188-189].

Ở chuyên luận Tác gia văn học Mỹ (Thế kỉ XVIII-XX) (2004), khi viết về John

Steinbeck, nhà nghiên cứu Lê Đình Cúc nhận định tác phẩm văn học của Steinbeck

“tạo ra một tầm nhìn quảng đại – ông đã thể hiện một cách nhìn nhận về tâm hồn

cao đẹp của người Mỹ, tâm hồn đó bao trùm cả thế giới mà trong đó mỗi cá nhân

có một phần khiêm tốn của riêng mình” [61,707]. Đánh giá về những tiểu thuyết

đầu tay của Steinbeck, nhà nghiên cứu cho biết: “ông đã đưa ra hai mô típ trong

tiểu thuyết đó là ý thức về cuộc đời. Ý thức mỗi cá nhân về triển vọng và khả năng

của mỗi con người trong cuộc sống và xã hội. Thứ hai là sự thông cảm lạ lùng có

lúc kì quặc đối với con người dù thiện hay ác” [61,710]. Về mặt tư tưởng triết học,

Lê Đình Cúc cho rằng nhà văn người Mỹ này chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện

sinh: “Chủ đề trong tiểu thuyết của ông thường là những cuộc nổi loạn chống lại

các lực lượng chia rẽ con người. Ông đề cao luận thuyết của A. Camus “Tôi nổi

loạn vì vậy chúng ta còn tồn tại” hoặc Ignazic Silence “Điều quyết định sự nổi loạn

của tôi là sự lựa chọn của các bạn đồng hành” […]. John Steinbeck có nhiều đóng

góp cho trào lưu triết học này. Đặc biệt là tác phẩm Chùm nho uất hận” [61,711-

712]. Bên cạnh đó, Lê Đình Cúc còn nhắc đến sự tiếp nối và phát triển truyền thống

“viết về sự di chuyển” trong văn học Mỹ của Steinbeck. Nhà nghiên cứu đánh giá

nhà văn đã “khéo léo tạo cho mình một chủ đề tự nhiên với một nguồn tư liệu tự

nhiên, ông khai thác bản sắc, những đặc điểm chính thống, quen thuộc của văn học

Mỹ để làm giàu thêm cho chính nó” [61,714-715]. Ngoài ra, Lê Đình Cúc cũng

vạch rõ những hạn chế của John Steinbeck. Đó là việc nhà văn vô tình tham gia

vào hoạt động chính trị ngay khi ông chỉ muốn làm một nghệ sĩ. Song, một số ý

kiến của nhà nghiên cứu cần được đối thoại như Steinbeck “cho rằng nguyên nhân

của những đau khổ ấy, những sai trái ấy bắt nguồn từ những động cơ thực dụng,

máy móc mà không hiểu đó là sự tha hóa của xã hội có người giàu, người nghèo,

có kẻ bóc lột và người bị bóc lột” [61,717-718].

Nhận định chung về phong cách của John Steinbeck, Lê Huy Bắc trong Văn

học Mỹ (2010) cho rằng: “Phong cách John Steinbeck độc đáo ở chỗ, tận thẳm sâu

là bi kịch, là sự dồn nén nặng nề nhưng lại được biểu hiện ra bên ngoài rất nhẹ

nhàng, đầy chất thơ” [62,62]. Nhà nghiên cứu nhấn mạnh hai mảng đề tài quan

trọng trong sáng tác của Steinbeck là: “xung đột của cá nhân với bản thân (chủ yếu

25

là lương tri và đạo đức) và xung đột giữa cá nhân với xã hội (nạn khủng hoảng và

chính sách độc đoán” [62,61].

Trong Hồ sơ văn hóa Mỹ (2015), Hữu Ngọc nhận định Steinbeck là một “cây

bút tự nhiên chủ nghĩa miêu tả nông dân vô sản Mỹ”. Ông cho rằng: Chùm nho

phẫn nộ “vẽ lại cảnh cơ cực của nông dân Mỹ mất đất, bị áp bức bóc lột không

kém gì nông dân vô sản Việt Nam bị đi phu đồn điền cao su ở xa quê hương”

[5,628]. Nhà nghiên cứu này đánh giá cao cách kể chuyện lôi cuốn, truyền cảm

trên cơ sở tình thương những người bị áp bức bóc lột của Steinbeck và chỉ ra chỗ

yếu của nhà văn là xây dựng nhân vật và tư tưởng khá sơ lược. Thiết nghĩ, ý kiến

của Hữu Ngọc phần nào đó có thể chấp nhận được, tuy nhiên, đánh giá của ông về

nhân vật và tư tưởng khá khắt khe và cần được đối thoại.

Trong những nghiên cứu về tiểu thuyết John Steinbeck ở Việt Nam, có thể nói

luận án tiến sĩ Nghệ thuật tiểu thuyết John Steinbeck (2015) của tác giả Hoàng Thị

Thập và luận văn thạc sĩ Nghệ thuật tiểu thuyết và truyện ngắn của John Steinbeck

(2007) của tác giả Lê Nguyễn Hạnh Phước là hai công trình có quy mô và khả năng

bao quát nhất từ trước đến nay. Hoàng Thị Thập tập trung vào ba phương diện

nghệ thuật tiêu biểu trong ba cuốn tiểu thuyết Trong cuộc chiến bất phân thắng

bại, Của chuột và người, Chùm nho phẫn nộ, gồm: cấu trúc truyện kể, nghệ thuật

xây dựng nhân vật và nghệ thuật kiến tạo lời văn. Bên cạnh đó, tác giả cũng chỉ ra

mối quan hệ giữa tiểu thuyết Steinbeck với các văn bản lịch sử, văn bản văn học.

Tác giả luận án nhận xét: “nhà văn có ý thức sử dụng liên văn bản như là một thủ

pháp nghệ thuật đắc lực”; “Khi sử dụng các sự kiện lịch sử, các tình huống đã từng

xuất hiện trong các tác phẩm của các nhà văn khác nhằm mở rộng cấu trúc bên

trong, nhà văn đã phản ánh bản chất cuộc sống với muôn vàn khía cạnh, với nhiều

cung bậc khác nhau” [63,176]. Tuy nhiên, ảnh hưởng của bối cảnh văn hóa xã hội

đến cách thức John Steinbeck tạo sinh cổ mẫu vẫn là khoảng trống nghiên cứu

trong công trình của Hoàng Thị Thập.

Lê Nguyễn Hạnh Phước chọn hai tiểu thuyết tiêu biểu của John Steinbeck là

Của chuột và người, Chùm nho phẫn nộ và năm truyện ngắn đặc sắc Jonny gấu,

Người chỉ huy, Những rặng núi lớn, Cây hoa cúc, Bộ đai để khám phá các bình

diện nghệ thuật như nhân vật, thời gian, không gian và tổ chức kết cấu của các tác

phẩm. Từ đó, người nghiên cứu chỉ ra chiều sâu triết lí, chủ nghĩa nhân đạo, cái

26

nhìn sâu sắc về con người, xã hội, quan niệm nghệ thuật và đặc biệt là ý thức về

một sứ mệnh văn chương chân chính của John Steinbeck [64]. Với bài viết “Nghệ

thuật như là một sự cảnh tỉnh trong thời đại công nghiệp và kinh tế thị trường dưới

sứ mệnh nhân bản” (2007), Lê Nguyễn Hạnh Phước đã trình bày rõ quan niệm

nghệ thuật và đặc điểm sáng tác của John Steinbeck. Tác giả bài viết nhận định

nguồn chất liệu cho các tác phẩm của nhà văn là “cảm hứng dạt dào từ vùng quê

tươi đẹp cùng với những ảnh hưởng sâu sắc từ văn học Hi Lạp cổ điển, Kinh

Thánh và văn học Châu Âu” [65,59].

1.3. Nghiên cứu cổ mẫu trong tiểu thuyết John Steinbeck

1.3.1. Nghiên cứu cổ mẫu trong tiểu thuyết John Steinbeck trên thế giới

Dưới ánh sáng của lí thuyết phê bình huyền thoại, Tom E. Kakonis đã tiến

hành nghiên cứu công phu đầu tiên về Mysticism in Selected early Novels of John

Steinbeck (Phê bình huyền thoại trong tuyển tập tiểu thuyết đầu tay của John

Steinbeck, 1958) [66]. Khám phá của Kakonis về sự phát triển của các yếu tố huyền

thoại trong các tác phẩm Đồng cỏ thiên đường, Gửi vị thần chưa biết, Trong trận

chiến mơ hồ, Của chuột và người, Chùm nho phẫn nộ của Steinbeck đã chỉ ra sự

hiện diện mạnh mẽ của các yếu tố huyền thoại từ những sáng tác đầu tay đến các

tiểu thuyết thành công về sau của nhà văn. Trong đó, nhà nghiên cứu đặc biệt quan

tâm đến sự thể hiện triết lí của John Steinbeck về mối quan hệ bộ phận-tổng thể

giữa tâm hồn cá nhân và linh hồn vũ trụ dựa trên nền tảng huyền thoại.

Trong công trình John Steinbeck: an Introduction and Interpretation (John

Steinbeck: giới thiệu và diễn giải, 1963), Joseph Eddy Fontenrose đã chỉ ra vai trò

chìa khóa của cả hai lĩnh vực sinh vật học và thần thoại học trong việc hiểu và giải

mã tác phẩm của John Steinbeck. Đóng góp lớn nhất của nghiên cứu này là khám

phá mối quan tâm sâu sắc của John Steinbeck đối với thần thoại và truyền thuyết.

Fontenrose cho rằng tiểu thuyết John Steinbeck tái hiện “vòng đời Arthur, các câu

chuyện trong Kinh Thánh, đặc biệt là Chén thánh và Vua Cá, Vườn địa đàng, Cain

và Abel, câu chuyện về Joseph, Xuất hành, Thủy quái, Khổ nạn và Phục sinh, cuộc

nổi dậy của các thiên thần”. Bên cạnh đó, những thần thoại khác như: “thần thoại

sáng thế, thần chết, Faust, thành Troy và Helen, con điếm đồng trinh, truyền thuyết

thành lập thành phố” [67,141] cũng được nhà văn thể hiện đầy chất thơ. Từ đó, nhà

nghiên cứu đi đến kết luận rằng chính huyền thoại là “chất dẫn” quan trọng để gắn

27

kết tác phẩm của John Steinbeck với truyền thống vĩ đại của văn học Âu Mỹ.

Dựa trên lí thuyết tâm lí học phân tích của Carl Jung, James Lawrence

VanDevyvere đã thực hiện nghiên cứu Archetypes of the Collective Unconscious

in the three Novels of John Steinbeck (Những cổ mẫu về vô thức tập thể trong ba

tiểu thuyết của John Steinbeck, 1974). Khảo sát ba tác phẩm chính của John

Steinbeck, bao gồm: Gửi vị thần chưa biết, Chùm nho phẫn nộ, Phía đông vườn

địa đàng, VanDevyvere tiết lộ các mẫu hình của biểu tượng, huyền thoại và nghi

lễ như là những kinh nghiệm phổ quát của nhân loại được nhà văn tái hiện trong

sáng tác của ông. Đó là biểu tượng cây và đá trong Gửi vị thần chưa biết, các mô

hình huyền thoại thể hiện sự phát triển và chuyển đổi tâm lí nhân vật để đạt đến

trạng huống toàn vẹn, là những nghi thức tiêu biểu như ca hát, kể chuyện, gặp gỡ,

ẩm thực trong cả ba tiểu thuyết. Theo VanDevyvere, các biểu tượng, huyền thoại

và nghi lễ này cho thấy cuộc gặp gỡ giữa tiểu thuyết John Steinbeck và các đề

xướng tâm lí học của Jung cũng như khát vọng lớn lao của người nghệ sĩ John

Steinbeck trong việc thấu hiểu và chuyển tải những trải nghiệm tinh thần cốt yếu

của con người [68].

Tiếp nối các nghiên cứu trên, học giả Connie Post thăm dò mối tương quan

giữa lịch sử và huyền thoại trong buổi hoàng hôn của nền văn hóa phương Tây ở

chùm tiểu thuyết vốn không được giới học thuật đánh giá cao của John Steinbeck

qua luận án tiến sĩ History’s Myth: John Steinbeck and the Twilight of Western

Culture (Huyền thoại lịch sử: John Steinbeck và buổi hoàng hôn của văn hóa

phương Tây, 1993) [69]. Qua phân tích bốn tiểu thuyết của John Steinbeck, Post

nhận ra sự sụp đổ của một số khuôn mẫu văn hóa phương Tây dưới tác động của

cuộc khủng hoảng tôn giáo, chuyển đổi cơ cấu kinh tế và những chính sách độc

đoán. Nước Mỹ lúc bấy giờ không còn là miền đất hứa như trong huyền thoại lập

quốc mà là một vùng đất ngập ngụa trong sự thừa mứa vật chất mà lại trống rỗng

về tinh thần. Theo đó, việc khôi phục lời hứa của Hoa Kỳ liên quan trực tiếp đến

sự thay đổi nền tảng huyền thoại của quốc gia này bằng cách quay trở về với chế

độ mẫu hệ và niềm tôn kính tự nhiên. Theo nhà nghiên cứu Post, bằng hiểu biết

sâu sắc của mình, Steinbeck đã sử dụng phương thức “tái huyền thoại hóa” để tái

thiết lập những giá trị văn hóa đại chúng nguyên bản của nước Mỹ, nơi lịch sử

quyện vào huyền thoại.

28

Trong số những nghiên cứu trường hợp, “The ‘Great Mother’ in The Grapes

of Wrath” (“‘Mẹ vĩ đại’ trong Chùm nho phẫn nộ”, 1997) của học giả Lorelei

Cederstrom in trong chuyên luận Steinbeck and the Environment: Interdisciplinary

Approaches, là bài viết bàn luận tỉ mỉ về vấn đề cổ mẫu mẹ trong kiệt tác Chùm

nho phẫn nộ của Steinbeck và cũng là nghiên cứu gợi mở nhiều ý tưởng cho chúng

tôi tiếp tục khám phá cổ mẫu mẹ trong tiểu thuyết Steinbeck. Để lí giải tầm nhìn

xa của nhà văn về sự hủy hoại sinh thái ngày nay, gợi mở sự thay thế nguyên thủy

cho các cấu trúc và tư tưởng gia trưởng đang tàn phá trái đất, nhà nghiên cứu cho

rằng Steinbeck mô tả sự tái xuất hiện của cổ mẫu tính nữ và khẳng định tầm quan

trọng của các nền văn hóa mẫu hệ để hiểu được mối quan hệ giữa vòng tròn cuộc

sống và thế giới tự nhiên. Dựa trên phân tích về cấu trúc cổ mẫu mẹ vĩ đại của

Erich Neumann, Lorelei Cederstrom chỉ ra rằng: “Trong Chùm nho phẫn nộ, mẹ

vĩ đại xuất hiện với cả hai đặc tính cơ bản và biến đổi của mình. Trước đây, bà xuất

hiện như một linh hồn nguyên thủy đằng sau các thế lực tự nhiên, biểu lộ mình trên

trái đất và bầu trời, mùa màng và nạn đói, mưa và lũ lụt. Về đặc tính cơ bản, mẹ vĩ

đại cũng hiện diện ở trong nhà và trong các hoạt động văn hóa nảy sinh từ việc

thiết lập các điều kiện cho giấc ngủ, chuẩn bị thức ăn,... Về đặc tính biến đổi, mẹ

vĩ đại là một sức mạnh để thay đổi mỗi cá nhân và xã hội; sự thay đổi này có thể

liên quan đến sự phát triển hoặc hủy diệt, tái sinh và cái chết, vì cả hai đều nằm

trong phạm vi của bà. Điểm cuối cùng này phải được nhấn mạnh vì sự hủy diệt

cũng là một phần của mẹ vĩ đại cũng như sự sáng tạo; bà mang lại sự sống và cũng

có thể mang đến cái chết cho thế giới tự nhiên hoặc cá nhân” [37,88]. Nghiên cứu

của Lorelei Cederstrom đã mở ra hướng tiếp cận cổ mẫu trong Chùm nho phẫn nộ.

Tuy nhiên, nhà nghiên cứu mới chỉ khảo sát cổ mẫu mẹ vĩ đại trong một tác phẩm

và mới tập trung vào đặc điểm mô hình cổ mẫu mà chưa thực sự lí giải sự tái sinh

của cổ mẫu này trong bối cảnh lịch sử, văn hóa của tác phẩm.

Trong luận án tiến sĩ The American Cain: an Alternative National Archetype

(Cain Mỹ: một cổ mẫu dân tộc mang tính lựa chọn, 2008), nhà nghiên cứu W. Brett

Wiley quan tâm đến cổ mẫu mang tính chất quốc gia dựa trên nhân vật Cain, con

trai của Adam và Eva trong Kinh Thánh. Wiley cho rằng cổ mẫu này tái xuất hiện

khi một nhân vật thể hiện những đặc điểm và trải nghiệm sống của Cain, đặc biệt

là hành động giết người, theo đuổi giấc mơ Mỹ hoặc không đạt được cơ hội mà hệ

29

tư tưởng của dân tộc đã đề ra. Ngoài McTeague của Frank Norris, Green Centuries

của Caroline Gordon, luận án nghiên cứu cổ mẫu Cain trong tiểu thuyết Phía đông

vườn địa đàng của John Steinbeck. Theo Wiley: “tiểu thuyết của Steinbeck trình

bày những đặc điểm và hành động của con trai Adam qua sự theo đuổi cơ hội và

thành công của anh ta. Cal Trask đảm đương vai trò của một cổ mẫu, cướp đi sự

sống của người anh trai vì lòng thù hận, ghen tị của anh ta và ham muốn đạt được

thành tích cá nhân; những nỗ lực trước đây của anh để giành được tình yêu của

người cha, thông qua những mưu cầu và thái độ mang tính chất quốc gia, chỉ dẫn

đến sự từ chối và cô lập” [70,200].

Gabriella Tóth, với bài viết “Myths and Contexts in John Steinbeck’s The

Grapes of Wrath” (“Huyền thoại và ngữ cảnh trong Chùm nho phẫn nộ của John

Steinbeck”, 2010) đã xem xét các huyền thoại Kitô giáo, các yếu tố của người Mỹ

bản địa và một số huyền thoại phương Tây khác trong bối cảnh lịch sử của tác

phẩm. Nhà nghiên cứu cho biết: “Biên niên sử của kỉ nguyên Dust Bowl những

năm 1930 hiển nhiên là một trong những văn bản hiện đại được thảo luận nhiều

nhất trong văn học Mỹ. Bối cảnh lịch sử này mang lại cho tiểu thuyết một hương

vị hiện thực - tự nhiên. Các nhân vật không chỉ đại diện cho chính họ mà còn tượng

trưng cho một đơn vị xã hội rộng hơn, do đó họ có thể được xem như những biểu

tượng, nâng câu chuyện của gia đình lên một mức độ trừu tượng hơn. Văn bản cân

bằng trên đường biên của chủ nghĩa hiện đại và chủ nghĩa hậu hiện đại. Điều đó

cho thấy các đặc điểm quan trọng của các phương pháp diễn giải huyền thoại hiện

đại, nhưng theo nhiều cách, nó cũng lật đổ và giải cấu trúc lối kể chuyện dựa trên

huyền thoại Kitô giáo. Đồng thời, các yếu tố của người Mỹ bản địa và các huyền

thoại phương Tây khác có thể được khám phá xuyên suốt cốt truyện, điều này tạo

ra một ấn tượng về một nghệ thuật cắt dán các huyền thoại” [71]. Mặc dù chưa

định danh cổ mẫu trong tiểu thuyết Chùm nho phẫn nộ song trong quá trình phân

tích, nhà nghiên cứu đã chỉ ra chức năng của nhân vật Ma Joad như một nữ thần

mẹ hay nữ thần trái đất (Mother Goddess, or Earth Mother). Trong mối quan hệ

mẹ - con trai, Ma Joad xuất hiện với vai trò của Thetis (mẹ của Achilles). Từ góc

nhìn của con gái, Ma Joad giống hệt nữ thần Demeter; giống như nữ thần sinh sản,

người tạm thời lạc mất con gái, con gái của Ma Joad cũng biến mất trong một thế

giới ngầm tương đương - như một nơi trú ẩn.

30

Yanhong Fan, với bài viết “Analysis of Archetypal Character Jim Casy in The

Grapes of Wrath” (“Phân tích nhân vật cổ mẫu Jim Casy trong Chùm nho phẫn

nộ”, 2014), đã sử dụng lí thuyết phê bình cổ mẫu để phân tích nhân vật cổ mẫu Jim

Casy như là nhân vật Chúa thời hiện đại. Tác giả bài báo cho rằng Casy thực hiện

chức danh này thông qua lời nói và hành động của ông. Đồng thời, Yanhong Fan

khẳng định tác phẩm chịu ảnh hưởng sâu sắc từ Kinh Thánh và thần thoại Hi Lạp

[72]. Tuy nhiên, về ảnh hưởng của thần thoại Hi Lạp, người nghiên cứu chưa có

phân tích cụ thể. Bài viết này mới chỉ đề cập đến một khía cạnh của cổ mẫu trong

tác phẩm, đó là cổ mẫu nhân vật Jim Casy. Và một số ý kiến của Yanhong Fan vẫn

cần có sự trao đổi lại, chẳng hạn như Casy là người dẫn đường cho gia đình Joad

và những người khác khám phá vùng đất mới.

Trong bài viết “Of Mice and Myth: John Steinbeck, Carl Jung, and The Epic

of Gilgamesh” (“Của Chuột và Huyền thoại: John Steinbeck, Carl Jung và Sử thi

Gilgamesh”, 2014), Eric Matthew Martin cho rằng tiểu thuyết ngắn Của Chuột và

người là một khám phá sâu sắc về sự cô lập, tước quyền và những vấn đề hòa nhập

xã hội trong kỉ nguyên đứt gãy văn hóa. Tuy nhiên, câu chuyện của John Steinbeck

cũng sở hữu một chiều kích vô tận, cũng là một truyện kể được nghiên cứu trong

phạm vi khái niệm vô thức của nhà tâm lí học Carl Jung và hai truyện cổ: Sử thi

Gilgamesh của người Lưỡng Hà cổ đại và câu chuyện về Jacob và Essau trong

Sách Sáng thế. Theo Martin: “phê bình huyền thoại và tâm lí học phân tích của

Carl Jung đem lại những hiểu biết sâu sắc về tầm quan trọng của việc John Steinbeck

sử dụng một cổ mẫu truyền thống trong khi mô tả nhân vật George và Lennie, cho

thấy phần lớn sức mạnh của tiểu thuyết bắt nguồn từ một mô hình trong huyền thoại

cổ đại” [73]. Đó là một cặp đôi nhân vật trong đó một cá nhân là anh hùng thực sự,

được gắn kết bởi sự ra đời và số phận của người kia, kẻ bị ruồng bỏ. Cả ba câu

chuyện đều có sự tương đồng khá nổi bật về số lượng, chi tiết và tác động trên nhiều

cấp độ, George và Lennie là Gilgamesh và Enkidu, Jacob và Essau; mỗi cặp nhân

vật dường như được cắt ra từ vô thức tập thể. Dưới góc nhìn này, sức mạnh của tiểu

thuyết John Steinbeck có thể được xác định phần lớn trong việc nhà văn sử dụng các

cổ mẫu huyền thoại để khám phá một sự thật tâm lí.

Năm 2015, Nikita Walker đã tiến hành nghiên cứu “Timshel: the Monomyth

in East of Eden” (“Timshel: huyền thoại gốc trong Phía đông vườn địa đàng).

31

Trong nghiên cứu này, Walker đã khám phá cách thức Steinbeck sử dụng huyền

thoại xưa và Kinh Thánh để sáng tạo một thiên huyền thoại hiện đại về hành trình

con người đạt đến sự toàn thiện và đạt được khả năng làm chủ bản sắc cá nhân và

phổ quát của mình. Trên cơ sở huyền thoại gốc mà Campbell đã đề xuất, Walker

đã phân tích hành trình của các nhân vật trong tiểu thuyết Steinbeck và bàn luận

về vai trò của sự lựa chọn của mỗi nhân vật đối với số phận và bản sắc của họ [74].

Khám phá tiểu thuyết Phía đông vườn địa đàng, Carla Thurmanita, trong luận

văn Derived Mythical Recurrence of the Bibilical Genesis Cain and Abel Story in

Trask Family in John Steinbeck’s “East of Eden” (Sự tái xuất huyền thoại Cain và

Abel trong Sáng Thế ký trong Kinh Thánh ở gia đình Trask trong “Phía đông vườn

địa đàng” của John Steinbeck, 2017), đã chỉ ra sự khác biệt về mối quan hệ gia

đình giữa gia đình Trask trong tiểu thuyết của John Steinbeck và huyền thoại Cain

và Abel trong Kinh Thánh. Khi phân tích các yếu tố nội tại, nhà nghiên cứu đã

trình bày cách nhà văn xây dựng nhân vật, xung đột, bối cảnh và biểu tượng. Về

các yếu tố bên ngoài, người viết sử dụng lí thuyết cổ mẫu của Northrop Frye để

thăm dò. Từ đó, Carla Thurmanita tiết lộ nguyên do dẫn đến sự khác biệt là sự thất

bại của một thế hệ và ý chí của thế hệ sau để thay đổi vận mệnh [75].

Kết hợp giữa lí thuyết nữ quyền và lí thuyết cổ mẫu, nhà nghiên cứu Bianca

Saputra, với bài viết “Steinbeck’s East of Eden: Redefining the Evil within Cathy

Ames” (“Phía đông vườn địa đàng của Steinbeck: Định nghĩa lại cái ác trong Cathy

Ames”, 2018), tìm hiểu ảnh hưởng của các quy ước xã hội đến trải nghiệm của phụ

nữ và ảnh hưởng của truyền thống đối với việc lựa chọn. Thông qua việc phân tích

tính cách và vai trò của các nhân vật nữ trong tác phẩm, đặc biệt là sự đối lập giữa

Cathy và những người phụ nữ khác và sự tái xuất hiện của các nguyên mẫu trong

Kinh Thánh và huyền thoại cổ đại, Bianca Saputra cho rằng tiểu thuyết của

Steinbeck dự định trở thành câu chuyện về sự cứu chuộc và chấp nhận, nhưng câu

chuyện về Cathy Ames lại đưa ra cái bóng của chủ nghĩa lí tưởng lạc quan về

timshel. Nhìn từ lí thuyết, các nguyên tắc của timshel xảy ra theo bản năng, trong

khi thực tế thì sự lựa chọn bị hạn chế bởi các quy ước xã hội [76].

Rebeca Gualberto, trong bài viết “Reassessing John Steinbeck’s Modernism:

Myth, Ritual, and a Land Full of Ghosts in To a God Unknown” (“Tái đánh giá chủ

nghĩa hiện đại của John Steinbeck: Huyền thoại, nghi lễ và vùng đất đầy thần thánh

32

trong Gửi vị thần chưa biết”, 2018), xem xét tỉ mỉ cách thức Steinbeck xây dựng

cấu trúc huyền thoại của tác phẩm, cũng như cách thức nhà văn định hình và sắp

xếp lại các hình ảnh rời rạc để tái sinh các huyền thoại. Nhà nghiên cứu đặc biệt

chú ý đến sự tái xuất hiện của những motif quan trọng như vùng đất bị lãng quên,

cái chết của nhà vua, hiệp sĩ và chén thánh. Theo Gualberto, bằng phương cách đó,

Steinbeck đã mang lại hình thức và ý nghĩa mới cho huyền thoại được tái sử dụng

phù hợp với bối cảnh hỗn loạn của thế giới hiện đại và sự suy tàn của các giá trị

truyền thống [77].

Tóm lại, nghiên cứu cổ mẫu trong tiểu thuyết John Steinbeck trên thế giới

không phải là một vấn đề quá mới mẻ, song các nghiên cứu này mới chỉ quan tâm

đến một hoặc một vài cổ mẫu, biểu tượng trong một hoặc một số tiểu thuyết và tiếp

cận chủ yếu từ góc nhìn tâm lí-huyền thoại. Tuy nhiên, các bài viết và công trình

mà chúng tôi đã lược thuật có ý nghĩa gợi dẫn rất lớn và là nguồn tư liệu quan trọng

để chúng tôi tiếp tục thăm dò một cách toàn diện và hệ thống thế giới cổ mẫu trong

tiểu thuyết John Steinbeck. Bên cạnh đó, luận án vận dụng kết hợp cách thức tiếp

cận lịch sử-xã hội để phát hiện những ý nghĩa mới mẻ mà John Steinbeck đã tạo

sinh cho kho cổ mẫu của nhà văn.

1.3.2. Nghiên cứu cổ mẫu trong tiểu thuyết John Steinbeck ở Việt Nam

So sánh với bức tranh nghiên cứu cổ mẫu trong tiểu thuyết John Steinbeck

trên thế giới, có thể nhận xét rằng, khám phá tiểu thuyết John Steinbeck từ lí thuyết

phê bình cổ mẫu ở Việt Nam vẫn là một địa hạt còn bỏ ngỏ trong nghiên cứu về

tác gia người Mỹ này. Nhìn chung, các bài viết và công trình nghiên cứu về tiểu

thuyết của John Steinbeck ở Việt Nam mới chỉ dừng lại ở một số ý kiến, nhận định

liên quan đến vấn đề cổ mẫu mà chưa thực sự xem xét nó như là một đặc điểm

quan trọng trong sáng tác của nhà văn.

Trong bài viết “John Steinbeck, giải Nobel văn chương năm 1962” (1962),

giống như nhiều học giả trên thế giới, Hà Hoài nhận ra mối liên quan giữa Chùm

nho phẫn nộ và Kinh Thánh, đặc biệt ở kết cấu và motif “hành trình”. Nhà nghiên

cứu cho biết: “kết cấu tác phẩm Chùm nho phẫn nộ là sự mô phỏng Kinh Thánh”,

“Hành trình của gia đình Joad là sự mô phỏng hành trình của người Israel đến miền

đất hứa trong Kinh Thánh” [78,15]. Tuy nhiên, những vấn đề quan trọng như bản

chất của hành trình, ảnh hưởng Kinh Thánh và những điểm sáng tạo của Steinbeck

33

trong bối cảnh đương đại lại chưa được người nghiên cứu quan tâm.

Qua bài viết “Chủ đề về người nông dân và cách cắt nghĩa chủ đề trong Chùm

nho phẫn nộ” (2009), Lê Huy Bắc đã có những nhận định thú vị về nhân vật Jim

Casy - “biểu tượng của Chúa”: “Chúa đối với Casy chính là con người và làm tất

cả những gì để con người hạnh phúc là tiêu chí phấn đấu của Casy” [79,14]; “Cái

chết của Casy mang tính chất hài hước đen của kỉ nguyên hiện đại: người anh hùng

đột nhiên ngã xuống vì lí tưởng cao cả trong sự thắng thế của cái xấu, cái ác”

[79,15]. Nhận định của Lê Huy Bắc gặp gỡ với ý kiến của các nhà nghiên cứu trên

thế giới ở vấn đề: biểu tượng/cổ mẫu Chúa qua nhân vật Jim Casy. Song, tính khác

lạ của nhân vật này gắn với bối cảnh lịch sử xã hội Mỹ thời hiện đại vẫn đang là

một vấn đề còn bỏ ngỏ.

Khám phá thế giới nhân vật trong truyện ngắn và tiểu thuyết của John

Steinbeck, Lê Nguyễn Hạnh Phước phát hiện tình đất và người thấm đượm trong

từng trang văn của tác gia người Mỹ này. Người nghiên cứu nhận xét: “Những

nhân vật của Steinbeck không chỉ yêu quý mà còn ước ao được đem lại sự sống

cho cây cối và sự hồi sinh cho đất đai. Sự gắn kết mật thiết, tình cảm mãnh liệt

giữa đất và người này là một loại “ý thức” cơ bản và xuyên suốt trong những đứa

con tinh thần của Steinbeck […]. Steinbeck đã tạo nên cặp đôi Đất - Người trong

tác phẩm của mình như một biểu trưng thật đẹp cho khí chất của những con người

Mỹ” [64,21-22]. Tuy chưa xem đất như là một cổ mẫu trong sáng tác của John

Steinbeck nhưng những ý kiến của Lê Nguyễn Hạnh Phước đã gợi mở cho chúng

tôi về tính gắn kết giữa cổ mẫu đất với con người trong thế giới tiểu thuyết của văn

hào John Steinbeck.

Tuy chưa định danh cổ mẫu trạng huống trong tiểu thuyết John Steinbeck,

song Hoàng Thị Thập đã phát hiện sự kết hợp giữa các sự kiện lịch sử với những

tình huống có sẵn trong truyền thuyết, thần thoại hoặc các văn bản nghệ thuật khác

khi khám phá cấu trúc bên trong của truyện kể Steinbeck. Người nghiên cứu tiết lộ

“trong Chùm nho phẫn nộ có bóng dáng cốt truyện của truyền thuyết truy tìm Đất

hứa trong Kinh Thánh; ở Của chuột và người có chủ đề về sự thất bại trong tác

phẩm Với Chuột (1667) của Robert Burns; trong Trong cuộc chiến bất phân thắng

bại là sự kết hợp cốt truyện của truyền thuyết trong Kinh Thánh với cốt truyện tác

phẩm Thiên đường đã mất (1786) của John Milton” [63,59]. Về sau, với bài viết

34

“Tiểu thuyết Chùm nho phẫn nộ và những đối thoại để ngỏ” (2018), Hoàng Thị

Thập tiếp tục khẳng định vai trò của thủ pháp liên văn bản trong việc tạo nên nhiều

cuộc đối thoại trong tác phẩm. Việc kết nối các sự kiện lịch sử xã hội với những

tình huống trong truyền thuyết, thần thoại và các tác phẩm văn chương khác khiến

tiểu thuyết Steinbeck không chỉ đối thoại với các văn bản nghệ thuật trước đó mà

còn đối thoại với lịch sử. “Mỗi tình tiết xuất hiện trong tác phẩm đều gợi đến một

chuyện khác có ý nghĩa sâu xa như những huyền thoại” [80,53].

Kế thừa những kết quả nghiên cứu của các học giả trong và ngoài nước, năm

2016, chúng tôi đã thực hiện luận văn Cổ mẫu Mẹ trong “Chùm nho phẫn nộ” của

John Steinbeck, tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Luận văn tìm hiểu, phân tích

cổ mẫu nhân vật trong tiểu thuyết được xem là kiệt tác của John Steinbeck, trong

đó, chúng tôi tập trung làm rõ cổ mẫu nhân vật tiêu biểu là cổ mẫu mẹ. Cổ mẫu mẹ

trong tác phẩm được chúng tôi phân tích và lí giải qua ba ý nghĩa nổi bật: cổ mẫu

mẹ thế giới, cổ mẫu mẹ gia đình và cổ mẫu mẹ tạo sinh. Qua nghiên cứu cổ mẫu

mẹ, chúng tôi cho rằng tác giả John Steinbeck vừa kế thừa những ý nghĩa nguyên

thủy của loại cổ mẫu này, vừa tái thiết những ý nghĩa, tình tiết khác lạ gắn với thời

hiện đại và nền văn hóa Mỹ [81].

Những kết quả thu nhận được từ luận văn giúp chúng tôi lĩnh hội được phương

pháp tiếp cận cổ mẫu trong tiểu thuyết John Steinbeck và xác định rõ mối liên quan

giữa thế giới văn chương của ông với kho kí ức tập thể của nhân loại và bối cảnh

lịch sử xã hội Mỹ thời hiện đại. Do đó, trong luận án này, chúng tôi mạnh dạn mở

rộng phạm vi và đối tượng nghiên cứu, không chỉ dừng lại ở một tiểu thuyết và

một cổ mẫu nhân vật mà đi sâu hơn nữa trong cuộc hành trình khám phá kho cổ

mẫu phong phú và đa sắc trong tiểu thuyết John Steinbeck. Từ việc khảo sát, nhận

diện, phân loại cổ mẫu trong tiểu thuyết John Steinbeck, chúng tôi tiến hành phân

tích các cổ mẫu điển hình: cổ mẫu mẹ, cổ mẫu anh hùng, cổ mẫu đất và cổ mẫu

nước, đồng thời lí giải sự tái sinh của các cổ mẫu này trong tiểu thuyết John

Steinbeck nhìn từ văn hóa Mỹ.

* Tiểu kết

Trong chương này, với mục đích xác lập nền tảng cho các kiến giải ở các

chương tiếp theo, chúng tôi đã phân tích hai hướng tiếp cận cổ mẫu: hướng tiếp

cận tâm lí-huyền thoại và hướng tiếp cận lịch sử-xã hội, đồng thời chỉ ra việc kết

35

hợp cả hai hướng tiếp cận này là cách thức hữu hiệu để khám phá cổ mẫu trong

văn chương. Lịch sử nghiên cứu tiểu thuyết John Steinbeck và mối quan tâm của

các học giả về vấn đề cổ mẫu trong tiểu thuyết John Steinbeck cũng được chúng

tôi tập trung tìm hiểu và tổng thuật. Theo khảo sát của chúng tôi, những nghiên

cứu này đã đề cập đến nhiều vấn đề trong tiểu thuyết John Steinbeck, từ nội dung

tư tưởng đến các phương thức nghệ thuật, phong cách sáng tác. Trong luận án này,

chúng tôi đã tiến hành phân loại các công trình nghiên cứu về tiểu thuyết John

Steinbeck theo các hướng tiếp cận: phê bình tiểu sử, phê bình xã hội học, phê bình

mới, phê bình đề tài, phê bình nữ quyền, phê bình sinh thái, phê bình huyền thoại/cổ

mẫu. Chúng tôi cũng đặc biệt chú ý đến các hướng tiếp cận liên quan ít nhiều đến

cổ mẫu. Các nghiên cứu trên đã cung cấp cho chúng tôi một cái nhìn toàn diện hơn

về những vấn đề xung quanh tiểu thuyết John Steinbeck, hé mở các cách tiệm cận

cổ mẫu, hoặc từ bình diện lịch sử xã hội, hoặc từ bình diện văn hóa. Đây là những

cơ sở khoa học quan trọng đối với nghiên cứu phê bình cổ mẫu trong tiểu thuyết

hiện đại nói chung và tiểu thuyết Steinbeck nói riêng. Đặc biệt, những ý kiến của

Kakonis, C. Post, L. Cederstrom, G. Tóth, Y. Fan, E. M. Martin,... đã đặt ra vấn đề

nghiên cứu cổ mẫu trong tiểu thuyết John Steinbeck. Tuy rằng các nghiên cứu này

chủ yếu tiếp cận vấn đề cổ mẫu từ góc nhìn tâm lí-huyền thoại, song đã gợi ý cho

chúng tôi những dạng thức cổ mẫu, những cách thức lí giải cổ mẫu, đặc biệt là vấn

đề tạo sinh cổ mẫu trong tiểu thuyết của nhà văn người Mỹ này. Tóm lại, những ý

kiến của các học giả trên thế giới và trong nước về tiểu thuyết John Steinbeck đã

góp phần gợi dẫn để chúng tôi đặt ra vấn đề nghiên cứu: Cổ mẫu trong tiểu thuyết

John Steinbeck.

36

Chương 2.

CỔ MẪU MẸ VÀ SỰ TÁI LẬP BẢN SẮC NỮ TÍNH

TRONG TIỂU THUYẾT JOHN STEINBECK

Trên nền tảng trình bày lí thuyết tổng quan về vấn đề cổ mẫu và các vấn đề

nghiên cứu trọng tâm có liên quan, cũng như mối quan tâm qua thời gian của các

học giả có liên quan đến vấn đề cổ mẫu trong tiểu thuyết John Steinbeck được đề

cập trong chương 1, từ chương 2, luận án sẽ đi vào nghiên cứu các trường hợp cụ

thể. Luận án tập trung nghiên cứu các cổ mẫu điển hình trong sáng tác của nhà văn

người Mỹ này, đặc biệt là xem xét sự tái sinh cổ mẫu trong tiểu thuyết John

Steinbeck dưới ảnh hưởng của bối cảnh lịch sử xã hội Mỹ nửa đầu thế kỉ XX đầy

biến động. Theo đó, sự tái sinh cổ mẫu trong tác phẩm của John Steinbeck sẽ được

chúng tôi bàn luận trong sự tương tác với kho kí ức tập thể của nhân loại và những

thay đổi mạnh mẽ trong lòng nước Mỹ hiện đại. Dựa trên kết quả khảo sát về tần

suất lặp lại cũng như sức ảnh hưởng của một cổ mẫu đến toàn tác phẩm, chương

này của luận án tiến hành nghiên cứu cổ mẫu mẹ, một trong những cổ mẫu được

tái sinh đầy ấn tượng trong tiểu thuyết John Steinbeck. Cổ mẫu này được tái xuất

hiện thường xuyên trong các kiểu loại truyện kể từ thời cổ đại đến hiện đại, ở khắp

nơi trên thế giới, nhằm biểu trưng cho ước vọng và chiêm nghiệm của các cộng

đồng về hình mẫu người mẹ, người phụ nữ phổ quát. Sự hiện diện của cổ mẫu mẹ

trong văn học hiện đại nói chung và văn học Mỹ hiện đại nói riêng là minh chứng

cho sức sống mãnh liệt của những hình tượng người mẹ, người phụ nữ trong đời

sống tinh thần của mỗi cá nhân và cộng đồng. Để phản ánh đời sống và tâm hồn

của những thân phận bên lề ở một quốc gia nhanh chóng vươn lên vị thế số một

trên trường quốc tế rồi lại rơi vào thời kì suy thoái kinh tế nặng nề, John Steinbeck

đã tái sinh cổ mẫu mẹ trong nhiều tiểu thuyết nổi bật của ông trên nền tảng huyền

thoại, đồng thời tái lập bản sắc nữ tính của cổ mẫu này như một phương cách chữa

lành những vết thương tinh thần trong thời đại bất ổn.

2.1. Cổ mẫu mẹ trong văn hóa dân gian

Là một trong những đại cổ mẫu ngự trị trong văn hóa dân gian của các cộng

đồng khắp thế giới, cổ mẫu mẹ được định danh theo nhiều cách khác nhau:

archetypal woman (người nữ cổ mẫu), feminine archetype (cổ mẫu tính nữ),

37

mother archetype (cổ mẫu mẹ). Trong luận án này, chúng tôi sử dụng khái niệm

mother archetype (cổ mẫu mẹ) với ý nghĩa như là hình mẫu chung về người mẹ.

Từ thế giới thần thoại Hi Lạp, sử thi Ấn Độ, thần thoại Trung Hoa, truyện cổ của

các dân tộc trên thế giới đến những áng văn chương hiện đại, thậm chí hậu hiện

đại, cổ mẫu mẹ liên tục được tái sinh với nhiều sự biến đổi, song những đặc trưng

cốt lõi của cổ mẫu này trong văn hóa dân gian vẫn được lưu giữ ít nhiều.

Giống như nhiều cổ mẫu khác, cổ mẫu mẹ hiện diện với nhiều dạng thức và

khía cạnh khác nhau. Trong nghiên cứu Four Archetypes: Mother, Rebirth, Spirit,

Trickster (Bốn cổ mẫu - Mẹ, Sự tái sinh, Linh hồn, Kẻ bịp bợm), Jung cho biết cổ

mẫu mẹ được biểu hiện rất đa dạng. Theo Jung, những dạng thức quan trọng phải

kể đến đầu tiên là mẹ, bà, mẹ kế, mẹ chồng, sau đó là bất kì người phụ nữ nào, tiếp

đến là các Nữ thần (Đức Mẹ Maria, Trinh nữ, Thánh nữ,...). Xuất phát từ liên tưởng

về sự tương đồng giữa một số biểu tượng với cổ mẫu mẹ, “ngụ ý cho sự che chở,

vòng tuần hoàn hay vòng tròn thiêng liêng có thể là một dạng của cổ mẫu mẹ”

[17,15], Jung đã chỉ ra nhóm biểu tượng về mẹ liên quan đến sự cứu rỗi, khả năng

sinh sản và che chở bao gồm: Địa đàng, đất, nước, mặt trăng, cánh đồng, tảng đá,

khu vườn, hang động,... Jung cũng xác lập hai đặc trưng đối lập nổi bật của cổ mẫu

mẹ, bao gồm mẹ yêu thương và mẹ khủng khiếp. Những phẩm tính gắn liền với

mẹ yêu thương là lòng yêu thương, thấu cảm, quyền uy nữ tính, khôn ngoan, sinh

sản và nuôi dưỡng. Ngược lại, mẹ khủng khiếp là những gì bí ẩn, tăm tối, vực thẳm,

chết chóc, quyến rũ, độc hại [17].

Trong mục “Hướng tiếp cận huyền thoại và cổ mẫu”, các tác giả của công

trình Hướng dẫn các hướng tiếp cận phê bình văn học (1992) đã khái quát các đặc

trưng của cổ mẫu mẹ, bao gồm: mẹ hiền (good mother), mẹ dữ (terrible mother)

và bạn linh hồn (soulmate). Theo các nhà nghiên cứu, mẹ hiền thường gắn với các

đặc tính như: sinh sản, nuôi dưỡng, che chở, bảo vệ, ấm áp, phì nhiêu, phong phú.

Đây là những phương diện tích cực của mẹ đất (Earth Mother) hay mẹ vĩ đại (Great

Mother). Ngược lại, những phương diện tiêu cực hay mẹ dữ thường mang những

đặc tính như: nguy hiểm, bóng tối, chết chóc, trụy lạc, sợ hãi và biểu hiện qua các

hình tượng người đàn bà xấu xí, mụ phù thủy, người đàn bà trụy lạc. Ngoài ra, đặc

tính bạn linh hồn thường biểu hiện cho cảm hứng và sự hoàn tất một trạng thái tinh

thần [82,161]. Như thế, cổ mẫu mẹ xuất hiện trước hết trong kho tàng văn hóa dân

38

gian với những đặc trưng đối lập, trở thành một cổ mẫu trung tâm không gì thay

thế được và liên tục được tái sinh cùng với tiến trình lịch sử-văn hóa của nhân loại.

Dựa trên nghi lễ, huyền thoại, giấc mơ và trí tưởng tượng của các tộc người ở

khắp nơi trên thế giới, Erich Neumann đã tiến hành nghiên cứu trường hợp đầu

tiên về cổ mẫu mẹ trong văn hóa dân gian, với công trình mang tính bước ngoặt

The Great Mother: an Analysis of the Archetype (Mẹ vĩ đại: phân tích cổ mẫu).

Trong đó, học giả đã xem xét biểu hiện của cổ mẫu mẹ trong nhiều nền văn hóa xa

xưa qua các vị nữ thần, quái vật, cánh cổng, cây cối, mặt trăng, mặt trời, vật chứa...

Từ đó, Neumann đi đến kết luận về bản chất hai chiều đối lập mà thống nhất của

cổ mẫu mẹ, vừa là người nuôi dưỡng vừa là kẻ đáng sợ. Neumann cũng khẳng định

rằng mẹ vĩ đại là một trong những cổ mẫu nguyên thủy của tâm hồn nhân loại [83].

2.2. Biến thể của cổ mẫu mẹ trong tiểu thuyết của John Steinbeck

2.2.1. Mẹ hiền

2.2.1.1. Vẻ đẹp nữ tính

Khi tạo ra người phụ nữ, Thượng Đế đã ban cho họ ân sủng đầu tiên, đó là vẻ

đẹp nữ tính. Vẻ đẹp nữ tính của người phụ nữ, người mẹ thường hiển lộ qua nét

dịu dàng, mềm mại từ dáng vẻ bên ngoài đến cả chiều sâu tâm hồn. Trong tâm thức

nhân loại, nữ tính là “ước vọng của con người tới cái siêu tại, siêu phàm” [84,707].

Nó vượt lên trên tất cả mọi vẻ đẹp và biểu hiện cái kì diệu, hấp dẫn riêng biệt ở

người phụ nữ. Nhờ có vẻ đẹp nữ tính nên “phụ nữ liên hệ mật thiết hơn đàn ông

với linh hồn của thế giới, với những sức mạnh tự nhiên nguyên sơ và chính qua

phụ nữ mà đàn ông cộng thông được với những sức mạnh ấy” [84,707]. Có thể nói,

vẻ đẹp nữ tính chính là một trong những phẩm tính tốt đẹp của người mẹ, tạo nên

sức mạnh ở họ, giúp họ vượt qua những rào cản, thử thách khốc liệt trong cuộc

sống và trở thành nơi chở che của giới nam vốn dĩ mạnh mẽ.

Ý thức sâu sắc về cội nguồn nữ tính và địa vị quan trọng của người phụ nữ

trong những năm tháng đầy bất ổn của xã hội Mỹ đầu thế kỉ XX, John Steinbeck

đã xây dựng những nhân vật nữ dịu dàng, mềm mại làm điểm tựa tinh thần cho

những người đàn ông. Từ những sáng tác đầu tay cho đến những tiểu thuyết cuối

cùng trong sự nghiệp cầm bút hơn 30 năm của mình, Steinbeck luôn dành một

niềm ưu ái đối với những người phụ nữ, những người mẹ. Trong số đó, Lisa (Trong

trận đánh mơ hồ), Ma Joad và Rosashan (Chùm nho phẫn nộ), Juana (Viên ngọc

39

trai), Abra Bacon (Phía đông vườn địa đàng) là những gương mặt đầy nữ tính.

Trước hết, vẻ đẹp nữ tính của họ được hiển lộ qua ngoại hình. Trong Chùm nho

phẫn nộ, Ma Joad là một phụ nữ vất vả, nghèo khổ. Giống như bao người nông dân

khác, bà và gia đình bị cuốn vào bi kịch khốn khổ của cuộc khủng hoảng kinh tế

những năm đầu thế kỉ XX. Tuy vậy, người mẹ ấy vẫn không đánh mất nét nữ tính

của mình. Dáng vẻ của bà vẫn “thanh thoát”, “mái tóc thưa, xám thiếc, búi thành

một túm gầy nhom phía sau gáy”, “đôi bàn tay mập mạp và giống như bàn tay của

một bé gái béo tròn”, “khuôn mặt đầy đặn” [85,117]. Như thế, vẻ bên ngoài của Ma

Joad dẫu mang hơi thở của cuộc sống khổ cực nhưng vẫn là những nét nữ tính của

một người phụ nữ, người mẹ đã trưởng thành. Rosashan là một người sắp làm mẹ,

dáng vẻ bên ngoài của cô được miêu tả khác với các nhân vật nữ còn lại, bởi cô

đang mang trong mình một sinh linh bé bỏng, một mầm non của sự sống. Điểm

nhấn đầu tiên trong chân dung của người mẹ trẻ này là mái tóc dày và đẹp: “Đám

tóc tết tạo nên một chiếc vành khăn sắc hung nhạt” [85,49]. Mái tóc của Rosashan

không phải “thưa, xám thiếc, búi thành một túm gầy nhom” như của Ma Joad mà

có màu “hung nhạt”, được tết thành “một chiếc vành khăn”. Mái tóc gợi lên sức

sống, nét đẹp của một người phụ nữ trẻ. Chi tiết thứ hai là gương mặt “dịu dàng và

tròn” [85,149]. Trong tâm thức của loài người, gương mặt đẹp của người phụ nữ

thường được mặc định tròn trịa, phúc hậu. Nguyễn Du đã miêu tả vẻ đẹp của Thúy

Vân qua “Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang” (Truyện Kiều). Gương mặt của

Rosashan cũng tựa như vầng trăng tròn, toát lên vẻ dịu dàng, hiền hậu. Điều khiến

cô khác biệt, đó là khuôn mặt đẹp ấy “cách đây mấy tháng còn hấp dẫn và gợi

khoái lạc, nay đã mang cái rào chắn của sự thai nghén” [85,149]. Rõ ràng, khi ý

thức được mình sắp làm mẹ, bất kì người phụ nữ nào cũng tạo ra một “rào chắn”

để bảo vệ cho đứa con yêu quý của họ. Vẻ đẹp nữ tính của Rosashan còn được

Steinbeck chú ý khắc họa những điểm nhấn hình thể như: đôi vú, bụng, hông,

mông. “Cái thân hình phây phây, đôi vú nhô lên và mềm, bụng, hông, mông rắn

chắc, nân nân và khêu gợi, khiến ai nhìn cũng muốn vuốt ve hoặc đưa tay vỗ vỗ”

[85,149]. Đây đều là những điểm nhấn trên cơ thể của người phụ nữ khẳng định

quyền năng làm mẹ của họ. Vì vậy, khi nói về nét đẹp nữ tính của họ, không thể

không kể đến những điểm nhấn đặc biệt này. Vẻ nữ tính của một người sắp làm

mẹ còn được nhà văn khu biệt thêm nét kín đáo và nghiêm trang. Bởi lẽ, đối với

40

họ, điều quan trọng lúc này không phải là phô bày tất cả vẻ đẹp của mình ra bên

ngoài để hấp dẫn một nửa thế giới còn lại mà dành tất cả sự quan tâm, ưu ái cho

đứa bé nằm trong bụng.

Khi miêu tả những người phụ nữ, người mẹ, John Steinbeck thường nhấn

mạnh chi tiết đôi mắt. Phải chăng vì “đôi mắt là cửa sổ tâm hồn” như ai đó từng

nói. Đôi mắt là một trong những điểm nhấn thể hiện rõ nhất nét đẹp nữ tính của

một người phụ nữ. Trong Viên ngọc trai, nhân vật Juana, vợ của một người da đỏ

làm nghề mò ngọc trai, xuất hiện qua cái nhìn âu yếm của người chồng với đôi mắt

đen láy huyền bí mà gần gũi, chan chứa tình yêu thương chồng con: “Đôi mắt đen

láy của Juana như phản chiếu những vì sao, chị nhìn anh bằng ánh mắt quá đỗi

thân thuộc mỗi buổi sáng khi anh tỉnh dậy” [86,7]. Ánh mắt ấy của Juana cũng biểu

trưng cho cuộc sống bình dị mà hạnh phúc của gia đình Kino, những ngày tháng

mà người da đỏ chưa phải đối mặt với người da trắng đến chinh phục và những thế

lực tai ác khác.

Bên cạnh đó, đôi mắt của người mẹ còn ẩn chứa sự trầm tĩnh, thấu hiểu và ý

chí kiên cường. Ma Joad có “đôi mắt màu hạt dẻ hình như đã trải qua tất cả những

tấn tuồng bi đát và cũng leo lên bấy nhiêu bậc thang của những nỗi nhọc nhằn xót

xa tới những vùng cao vợi của sự trầm tĩnh và sự thấu hiểu siêu phàm” [85,117-

118]. Trong đôi mắt bà, người ta có thể nhìn thấy mọi nỗi khốn cùng và cả trái tim

nhân hậu ấm áp. Những lúc đau khổ, nguy hiểm bủa vây, ánh mắt của người mẹ

ấy “tương tự như cái nhìn vĩnh hằng ở các pho tượng” [85,447]. Có thể nói, sự

trầm tĩnh và từng trải giúp bà mẹ nhìn cuộc đời một cách bình thản, lạc quan. Đó

còn là đôi mắt đẹp ẩn chứa sức mạnh tinh thần phi thường của bà Sairy: “đôi mắt

rực lửa - đôi mắt đen nhánh hình như đã từng nhìn vào một cái hố sâu thẳm của

những cảnh kinh khiếp [85,209], “đôi mắt sáng rực” [85,211] “đôi mắt to và sáng

chói” [85,343]. Vì vậy, trong những lúc nguy nan, những người mẹ dường như

kiên cường và bản lĩnh hơn những người đàn ông. Khi con trai nhỏ Coyotito chẳng

may bị bọ cạp cắn, Juana quyết định tìm bác sĩ, song những người hàng xóm và

chồng chị không tin rằng lão bác sĩ da trắng sẽ đến chữa trị cho một bé con da đỏ.

Tuy thế, ý định của Juana chẳng những không bị lung lay mà còn lay chuyển suy

nghĩ của người chồng. Điều này được thể hiện qua ánh mắt đanh thép của nhân

vật: “Chị nhìn anh bằng đôi mắt lạnh băng như của một con sư tử cái” [86,16].

41

Kino nhìn thấy rõ lòng quyết tâm của vợ mình qua ánh mắt sắt đá ấy. Có thể nói,

ẩn sâu bên dưới vẻ nữ tính thường ngày của những người phụ nữ là sức mạnh tinh

thần phi thường, khí chất sắt đá, bản lĩnh kiên cường đến mức kì diệu.

Khi miêu tả vẻ đẹp nữ tính của những người phụ nữ, người mẹ, John Steinbeck

thường chú ý đến trang phục của họ. Đó có thể là những chiếc áo tuy đã sờn màu

nhưng vẫn sạch sẽ, là những chiếc váy tuy không còn mới nhưng vẫn đẹp đẽ. Lúc

Tom Joad gặp mẹ sau bốn năm chịu án, “bà mang một chiếc áo choàng bông chùng

bằng dạ xám, xưa có điểm hoa tô màu nhưng nay đã bạc phếch, đến nỗi hình hoa

bé tí chỉ còn chút xanh mờ nhạt hơn nền vải. Chiếc áo dài chấm xuống tận mắt cá”

[85,117]. Sự phai màu của những bông hoa bé nhỏ trên nền vải không làm mất đi

vẻ nữ tính, dịu hiền của người mẹ, có chăng là giờ đây lại gắn thêm cái nghèo khổ,

nhọc nhằn. Thực ra, trong nguyên bản tiếng Anh, tên của chiếc áo ấy là “Mother

Hubbard” [87,74], một loại áo choàng dài, rộng, tạo cảm giác thoải mái khi mặc ở

nhà, đặc biệt thích hợp với công việc của các bà mẹ. Tên gọi này xuất phát từ tên

của nhân vật người mẹ trong câu chuyện Những cuộc phiêu lưu hài hước của Mẹ

Hubbard già và con chó của bà. Qua trang phục của bà mẹ, Tom cũng chớm nhận

ra sự thay đổi trong gia đình mình. Tương lai của họ sẽ không còn những năm

tháng sung túc, đủ đầy nữa mà là một chuỗi ngày vất vả, khổ cực.

Trên hành trình đến miền đất hứa, những người mẹ và gia đình của họ phải

chịu biết bao đắng cay, thậm chí họ không được sống đúng nghĩa một con người.

Duy nhất lần ở trại Weedpated, cảm thấy mình như trở lại làm người, những người

phụ nữ, người mẹ lập tức chỉnh tề trang phục cho mình và những người thân yêu.

Bởi họ ý thức được vẻ bên ngoài sẽ giới thiệu với người khác họ là người như thế

nào. Rosashan ngượng ngùng trước ánh nhìn của bà mẹ vì diện mạo mới của mình

sau những tháng ngày phải chạy trốn, sống chui lủi. “Tóc cô còn nhỏ giọt, chải

mượt, da dẻ sáng sủa, hồng hào. Cô đã mặc chiếc áo dài xanh in hoa trắng nhỏ, đi

đôi giày gót cao của hồi mới cưới” [85,487]. Ma Joad cũng tìm lại sự nữ tính của

mình: “Mẹ trở về, sạch sẽ và hồng hào; tóc còn ướt chải kĩ thắt lại một búi ở sau

gáy. Mẹ mặc chiếc áo vải hoa, đi đôi giày cũ đã nứt và đeo đôi hoa tai nhỏ”

[85,493]. Những điểm nhấn như “chiếc áo dài xanh in hoa trắng nhỏ”, “đôi giày

gót cao”, “chiếc áo vải hoa”, “đôi hoa tai nhỏ” tuy nhỏ bé và cũng không quá nổi

bật nhưng chúng đều biểu trưng cho vẻ đẹp nữ tính của người phụ nữ, người mẹ.

42

Vẻ đẹp ấy không một chút tầm thường. Bởi lẽ, trong hoàn cảnh đói khát, chạy trốn

từ nơi này đến nơi khác, ý thức nữ tính và sự gìn giữ nét đẹp nữ tính của người mẹ,

người phụ nữ là một điều đáng quý hơn bao giờ hết, tựa như những đốm sáng lung

linh trong đêm tối.

Vẻ đẹp nữ tính của người mẹ còn được thể hiện qua giọng nói. Không phải

ngẫu nhiên khi có người khẳng định rằng: “Giọng nói là hoa của sắc đẹp”. Chỉ cần

nghe thanh âm của một người cũng đủ để chúng ta biết họ là ai. Trong Chùm nho

phẫn nộ, John Steinbeck nhiều lần miêu tả giọng nói của những bà mẹ. Với Ma

Joad, đó là những thanh âm “kéo dài, tươi mát, trầm tĩnh, thân tình và khiêm

nhường” [85,117]. Âm thanh ấy khiến người nghe cảm thấy ấm áp, dễ chịu tựa như

cảm giác được sà vào lòng mẹ. Với Sairy Wilson, một người phụ nữ đang bị bệnh

nặng “tàn tạ rúm ró” thế nhưng giọng nói của bà không hề mang dấu hiệu bệnh tật

mà là những “âm sắc trầm trầm, dịu dàng và ngân nga nhưng lại có những nhấn

giọng rung vang” [85,209]. Thanh âm ấy đủ để xoa dịu một trái tim đang hấp hối.

Tiếng nói dịu dàng của bà gây chú ý đến ông nội, một người đang cận kề bên cái

chết, khiến ông xúc động và bật khóc. Quả thật, nét dịu dàng, mềm mại của những

người phụ nữ, người mẹ đã được nhà văn ghi lại qua những thanh âm ngọt dịu, ấm

áp của họ.

Không chỉ đẹp ở ngoại hình, trang phục, giọng nói, những người phụ nữ, người

mẹ của John Steinbeck còn nữ tính ở hành động cử chỉ. Nét dịu dàng, xúc động

của người mẹ khi gặp lại con trai sau nhiều năm xa cách được nhà văn khắc họa

qua hành động từ tốn, khẽ khàng của nhân vật Ma Joad: “Bà bước lại gần con, uyển

chuyển và lặng lẽ. Khuôn mặt bà rạng rỡ. Bà đưa bàn tay nhỏ bé sờ sờ cánh tay

của con, nắn nắn cái rắn chắc của cơ bắp anh. Rồi những cánh tay như ngón tay

người mù của bà lần lên trán con” [85,118-119]. Ma Joad vốn là một bà mẹ nhanh

nhẹn, dứt khoát. Vậy mà, trong giờ phút xúc động ấy, bà lại chậm rãi, từ tốn. Ở

đoạn văn này, các chi tiết được miêu tả như những thước phim quay chậm. Bởi vì,

với Ma Joad, việc Tom được trở về tựa như một giấc mơ, bao nhiêu yêu thương,

nhớ nhung đã được kìm nén trong trái tim bà mẹ quê mùa ấy bấy lâu nay vỡ òa.

Còn với Tom Joad, mẹ lúc nào cũng là người phụ nữ dịu dàng nhất, là bến bờ êm

ái nhất trong cuộc đời anh.

Phụ nữ, nhất là những bà mẹ, bao giờ cũng là những người bình tĩnh, khoan

43

thai khi đối mặt với những giông bão của cuộc đời. Trên hành trình đến miền đất

hứa California, Ma Joad luôn là chỗ dựa cho cả gia đình. Sự dịu dàng, bình tĩnh,

khiêm nhường của bà làm điểm tựa cho cả nhà Joad vượt qua những khổ đau, mất

mát. Trong Viên ngọc trai, Juana cũng là một nhân vật nối tiếp những vẻ đẹp của

Ma Joad, khi chị là chỗ dựa cho Kino, là người vợ trợ giúp chồng bằng sự sáng

suốt, tỉnh táo để thoát khỏi những cám dỗ mà viên ngọc mang lại.

Nét nữ tính của người mẹ còn được thể hiện qua tâm lí hoài niệm quá khứ.

Trong đêm trước ngày cả nhà lên đường đến miền tây, Ma Joad lấy một chiếc

hộp cũ, trong đó đựng những vật kỉ niệm của bà. Đó là những lá thư, đôi hoa tai,

chiếc nhẫn nhỏ, tờ báo đăng biên bản vụ án xử Tom. Bà ngồi lặng ngắm những

kỉ vật, lưu giữ những khoảnh khắc quan trọng trong cuộc đời như những ống kính

ghi lại những phút giây vui buồn, hạnh phúc, đau khổ. Bà tiếc nuối vì không thể

mang theo chiếc hộp kí ức nên đành giữ lại những vật quý giá và đốt chỗ còn lại.

Điều đó không có nghĩa là Ma Joad chôn vùi tia sáng quá khứ mà tia sáng ấy còn

len lỏi trong tâm tưởng của bà trên cuộc hành trình qua những lần hồi tưởng, qua

những cuộc trò chuyện. Nếu như người đàn ông tìm về quá khứ để bấu víu, để trốn

tránh thực tại, thì người mẹ lại hoài niệm quá khứ để kiên cường hơn, mạnh mẽ

hơn trong cuộc chiến của số phận và vững tin hơn vào tương lai.

Trong những ngày đi đường lặn lội, bà mẹ hầu như không suy tư nhiều. Chỉ

khi gặp những con người tốt bụng, cả nhà kiếm được chỗ ăn chỗ ở đàng hoàng, Ma

Joad mới ôn lại trong tâm trí “tất cả những nỗi buồn đau, nhớ lại cái đêm ông nội

mất, nhớ lại lúc chôn cất ông. Nhưng từ đó đường trường bao nhiêu gian nan vất

vả, ngồi trên xe, bị lắc lư, bị lèn chặt, nên tôi chưa thấy thấm thía. Nhưng khi đã

vượt qua và tới được đây, thì sự tình lại đau xót hơn. Bà nội mất… Noah bỏ đi như

thế… bỏ đi cắm cúi dọc bờ sông như thế…” [85,513]. Quá khứ đối với người phụ

nữ cũng quan trọng không kém hiện tại hay tương lai. Bởi lẽ, quá khứ là những

mảnh đời của họ, là điểm tựa cho cuộc sống hiện tại của họ.

Có thể nói vẻ đẹp nữ tính là một đặc điểm tiêu biểu của cổ mẫu mẹ hiền trong

thế giới nghệ thuật tiểu thuyết John Steinbeck. Như đã ăn sâu vào kí ức của nhân

loại, tâm thức của người sáng tạo và bạn đọc, người phụ nữ, người mẹ trong các

tác phẩm văn chương bất hủ thường xuất hiện với nét đẹp nữ tính. Đó là điều làm

cho họ khác biệt với nam giới và cũng là cái tạo nên sức cuốn hút, hấp dẫn của

44

phái nữ. Nói về vẻ đẹp của họ, Kinh Phúc âm có câu: “Phụ nữ được tiền định mang

hương thơm” [84,707]. Chúng ta cũng có thể nói rằng phụ nữ được tiền định mang

vẻ đẹp nữ tính. Đặc biệt với người mẹ, vẻ đẹp nữ tính còn gắn liền với sự trầm tĩnh,

nghiêm trang, bản lĩnh phi thường và hơn hết là tình yêu thương.

2.2.1.2. Suối nguồn yêu thương

Từ bao đời nay, người mẹ trong tâm thức nhân loại luôn là nữ thần của tình

yêu thương. M. Gorky từng nói: “Tất cả vẻ đẹp và những điều diệu kỳ trong cuộc

sống được tạo nên là nhờ vào sức mạnh tình yêu của người phụ nữ”. Tình yêu

thương, lòng bao dung, vị tha, đức hi sinh, sức chịu đựng phi thường là những cung

bậc tình cảm thiêng liêng, cao quý trong trái tim người mẹ, được mặc định trong

vô thức của loài người về hình mẫu người mẹ và trở thành cội nguồn sức mạnh của

những người phụ nữ, người mẹ. Thượng đế sinh ra người mẹ là để yêu thương, để

xoa dịu và chữa lành những nỗi thống khổ trên thế gian này. Do đó, tình yêu thương

là một đặc điểm không thể thiếu khi nói về cổ mẫu mẹ hiền.

Trong Kinh Thánh, Đức mẹ Maria được xem là biểu tượng cho tình yêu thương,

lòng bác ái. Đức mẹ có một tình yêu phi thường đối với Thiên Chúa, bà sẵn sàng hi

sinh tất cả, từ bỏ tất cả để dành tình yêu thương trọn vẹn cho Thiên Chúa. Nỗi đau

đớn của mẹ Maria trước cái chết của Chúa Jesus trở thành một chủ đề của nghệ thuật

với tên gọi Đức Mẹ Sầu Bi. Vì vậy, Đức mẹ Maria được tôn sùng là thánh mẫu của

loài người. Nhà văn Nga M. Gorky cũng ngợi ca người mẹ như là biểu tượng của

tình yêu thương trong tiểu thuyết Người mẹ qua nhân vật Nilopna. Bà mẹ già “có

tấm lòng rộng lớn”, “có thể yêu thương tất cả mọi người” và sẵn sàng hi sinh tất cả

vì con [88,125]. Không chỉ có mẹ Maria hay bà Nilopna mà mọi người mẹ trên thế

gian này đều yêu thương con mình, đấy là bản tính, là thiên tư của người phụ nữ.

Bất cứ ai khi nghĩ đến người mẹ cũng đều gắn họ với tình yêu thương.

Yêu thương con đâu phải chỉ là trách nhiệm, bổn phận mà còn là bản năng của

mỗi bà mẹ. Do đó, nỗi đau mất con là nỗi đau đớn lớn nhất của người mẹ và không

một ngôn từ nào có thể diễn tả nỗi đau đớn đó. Ngay từ thời xa xưa, người Hi lạp

đã hình tượng hóa tình cảm thiêng liêng này qua nhân vật Demeter và Persephone.

Câu chuyện Demeter đi tìm con không chỉ để lí giải về hiện tượng các mùa trong

tự nhiên mà còn thể hiện tình mẫu tử thiêng liêng. Chuyện kể rằng: Persephone bị

thần Hades bắt về làm vợ ở dưới âm phủ, “Demeter đi tìm con suốt chín ngày chín

45

đêm. Chín ngày không ăn, chín đêm không ngủ, và cũng không tắm rửa gội đầu,

chải tóc khiến cho thân hình nàng tiều tụy, hao mòn. Demeter cứ đi lang thang hết

nơi này đến nơi khác gọi con, kêu gào than khóc, vật vã. Nàng hỏi rừng cây, rừng

cây lắc đầu trả lời không biết. Nàng hỏi núi cao, núi cao cũng ngơ ngác không biết

nói gì. Nàng hỏi biển khơi, biển khơi trả lời nàng bằng tiếng thở dài, thương cảm.

Còn đất đen thì im lặng nhìn nàng, thấm khô những giọt nước mắt xót xa, đau khổ

của nàng lã chã tuôn rơi…” [89,237]. Nỗi đau mất con của Demeter khiến biển

khơi, đất đai xót xa, thương cảm. Tình mẫu tử ấy đủ sức để lay động những trái

tim sắt đá, khô cằn, những khối óc lạnh lùng, toan tính. Điều đó đã cho thấy trong

tâm thức của nhân loại, người mẹ bao giờ cũng là suối nguồn của tình yêu thương.

Ý thức sâu sắc về sức mạnh yêu thương của người mẹ, người phụ nữ trong

cơn biến chuyển của thời đại, Steinbeck đã dựng xây những hình tượng người mẹ,

người phụ nữ giàu lòng yêu thương, bao dung. Tình yêu thương của cổ mẫu mẹ

hiền trong tiểu thuyết John Steinbeck được thể hiện trước hết ở tình cảm mẹ - con

giữa các nhân vật trong Chùm nho phẫn nộ, Viên ngọc trai, Của chuột và người,

Phía đông vườn địa đàng. Ma Joad là một bà mẹ hết lòng yêu thương con. Bà luôn

luôn lo lắng, quan tâm, chăm sóc cho con cái và những người thân trong gia đình.

Bởi vậy, niềm vui sướng, hạnh phúc của Ma Joad khi thấy con trai sớm trở về sau

những tháng năm tù đày nhanh chóng nhường chỗ cho sự lo lắng, ân cần: “Tommy,

họ không truy lùng lại con chứ? Con không vượt tù chứ?” [85,118]. Trên hành

trình đến miền đất hứa, tuy mệt mỏi, gian khổ nhưng không lúc nào bà mẹ quên lo

lắng cho Tom, sợ rằng anh có thể lặp lại con đường sai lầm trước đây. Khi Tom

Joad giết người để trả thù cho mục sư Jim Casy, chính Ma Joad là người đứng ra

sắp xếp, lo liệu mọi việc để bảo vệ cho Tom, giúp anh tránh khỏi sự truy lùng của

cảnh sát. Hằng ngày bà không quản nguy hiểm để đưa thức ăn đến nơi Tom ẩn nấp.

Nhưng bà mẹ không thể che giấu đứa con trai mãi mãi vì Tom quyết định ra đi.

Lần cuối cùng gặp con, bà mong muốn Tom trốn đến một nơi xa hơn, an toàn hơn.

Bà thuyết phục Tom nhận lấy số tiền ít ỏi mà mình đã tích cóp: “Mẹ có dành ra

được một ít. Con đưa tay đây, Tom. Mẹ có đem theo bảy đôla” [85,668]. Trong

hoàn cảnh gia đình khổ cực, Ma Joad phải dè sẻn từng đồng xu để mua thức ăn, ấy

vậy mà bà mẹ nghèo khổ ấy vẫn không quên dành dụm để Tom có tiền đi đường.

Bởi lẽ, một người mẹ yêu thương con như bà không thể ăn ngon ngủ yên khi con

46

mình chưa biết đi đâu về đâu và phải chịu sự truy lùng của kẻ ác. Yêu thương con

trai, mong muốn gia đình được toàn vẹn, tuy nhiên Ma Joad phải ngậm đắng nuốt

cay, phải chấp nhận tiễn biệt đứa con trai mà bà yêu quý nhất. Bên cạnh đó, những

hành động tưởng chừng là nhỏ nhặt của bà mẹ chẳng hạn như bo bo giữ lấy mẩu

bánh mì để dành cho cô con gái đang ốm đau, không quên để phần thức ăn cho tất

cả các thành viên trong gia đình, dè sẻn từng cọng củi khô còn lại để cầm chừng

qua ngày lũ lụt, đều chất chứa tình yêu thương vô bờ bến của một người mẹ.

Chính tình yêu thương là cội nguồn sức mạnh ở những bà mẹ. Không biết từ

bao giờ, đôi vai của mỗi người mẹ lại trĩu nặng gánh hi sinh, chịu đựng. Là một

người mẹ, người vợ, họ không thể chỉ nghĩ cho riêng mình. Với họ, gia đình, con

cái là những ưu tiên hàng đầu. Vì vậy, dẫu mất mát, đau khổ, những bà mẹ vẫn cố

kìm nén, chịu đựng. Khi ông nội qua đời, bà nội - một người vợ, người mẹ, người

bà - không thể gục ngã trước đau thương này. Cái chết của ông nội khiến bà thay

đổi hoàn toàn, không còn dáng vẻ trẻ con, thích đùa giỡn như trước: “Bà nội bước

đi đàng hoàng, đầu ngẩng cao. Bà bước đi vì gia đình và ngẩng cao đầu vì gia

đình… Bà Nội nhìn thẳng phía trước mặt, tràn trề niềm kiêu hãnh” [85,215]. Sau

giờ phút vững vàng, vượt qua nỗi đau mất chồng, bà nội trở nên lú lẫn và yếu dần,

bà chết khi chưa kịp nhìn thấy đất hứa California. Quả thật, sức chịu đựng của

những bà mẹ trong tác phẩm khiến chúng ta phải kinh sợ và nể phục.

Rosashan, người thiếu phụ vừa mang thai lần đầu nên hành trình đến

California của cô gian truân hơn so với những người khác. Hoàn cảnh thiếu thốn

và tai họa liên tiếp ập tới khiến Rosashan luôn lo lắng cho sự an nguy của sinh linh

bé bỏng. Connie, chồng cô, người đã bao lần vẽ ra lâu đài ảo tưởng trong tâm trí

cô: Connie sẽ kiếm được việc làm thêm, tối tối họ cùng nhau đi xem phim, bác sĩ

sẽ đến khi nào cô sinh em bé, đã làm vỡ tan giấc mộng khi anh ta trốn chạy, không

ai biết anh ta đã đi đâu. Rosashan đau đớn, niềm hi vọng duy nhất với cô bây giờ

chỉ còn là đứa trẻ. Thế nhưng, đứa bé cô mang nặng đẻ đau, cùng trải qua biết bao

tủi cực với người mẹ trẻ xấu số, nó đã chết trước khi ra đời vì thiếu tháng, chỉ còn

là “một xác chết khô đét xanh tím và nhăn nheo” [85,708]. Thử hỏi đối với người

phụ nữ, có nỗi đau nào lớn hơn nỗi đau mất chồng, mất con… Thế nhưng, những

nhân vật nữ của John Steinbeck vẫn vững vàng vượt qua tất cả khổ đau. Bởi vì tình

yêu thương và sức chịu đựng phi thường đã hun đúc nên sức mạnh bất diệt ở những

47

người mẹ nghèo khổ.

Juana trong Viên ngọc trai cũng là một người vợ, người mẹ giàu tình yêu

thương và sức chịu đựng. “Chị ngoan hiền, cung kính, vui vẻ và cũng đầy nhẫn

nại, chị có thể nén chịu cơn đau đẻ mà gần như không hề rên la. Những nhọc nhằn

hay đói khát, chị cơ hồ có thể chịu tốt hơn cả Kino. Trên chiếc thuyền ra khơi,

Juana như một người đàn ông mạnh mẽ” [86,15]. Những phẩm chất tuyệt đẹp ấy

khiến Juana có đủ bản lĩnh để làm những việc mà đối với một người phụ nữ Mỹ

bản địa là bất khả. Khi Coyotito bị thương, chị khẩn thiết nhờ mọi người mời bác

sĩ đến. Mà với những người trong dòng tộc của chị, việc này quá hoang đường, quá

kinh thiên động địa. Khi biết rằng lão bác sĩ kiêu ngạo sẽ chẳng đến chốn lều tranh

vách đất, chị cương quyết: “Vậy mình sẽ đến tìm ông ta” [86,16]. Với trái tim yêu

thương của một người vợ, người mẹ, Juana là người duy nhất nhận ra viên ngọc

trai là một vật tà ác, nó sẽ phá hủy cuộc sống bình yên của gia đình chị. Vì vậy,

Juana tìm mọi cách để khuyên nhủ chồng ném viên ngọc trở về biển cả. Thậm chí,

chị dám vượt qua ranh giới bổn phận của một người vợ để chống lại chồng, lén

đánh cắp viên ngọc hòng mang trả nó về đại dương. Có thể nói, chính tình yêu

thương là cội nguồn làm nên sức mạnh, sức chịu đựng của những người mẹ, người

phụ nữ trong các tác phẩm của John Steinbeck. Nhận xét về các nhân vật nữ trong

tác phẩm của ông, Gladstein cho rằng: “Như một điển hình trong chủ đề của

Steinbeck về sức mạnh và sức chịu đựng của người phụ nữ, Juana có thể là người

thứ hai chỉ sau Ma Joad” [47,86]. Với trái tim yêu thương con người nghèo khổ,

đặc biệt là những người mẹ, người phụ nữ, John Steinbeck thường xây dựng những

nhân vật người mẹ mang trong mình sức mạnh nội lực phi thường, một trái tim

luôn đập những nhịp yêu thương và sự kiên cường, cứng cỏi chẳng thua kém gì

người đàn ông.

Không chỉ dành tình yêu thương cho những đứa con của mình, những người

mẹ, người phụ nữ trong tiểu thuyết John Steinbeck còn dành tình yêu thương cho

trẻ em, người già và những kiếp người đáng thương, bất hạnh. Điều này được thể

hiện qua nhân vật Ma Joad trong Chùm nho phẫn nộ, người đã chia sẻ thức ăn cho

những đứa trẻ đói khổ, những người cùng hoàn cảnh hoạn nạn dẫu nhà bà chẳng

đủ cái để ăn. Khi đặt chân tới California, trái ngược với những cảnh tượng đẹp đẽ

trong mơ ước, cả gia đình Joad chứng kiến những “túp nhà lụp xụp”, “cảnh nhếch

48

nhác và tuyệt vọng” của những người di cư đến đây. Tuy vậy, Ma Joad vẫn không

quên việc đầu tiên là lo cho cả nhà có một bữa ăn đàng hoàng mà thực ra chỉ là

món cháo thịt băm lỏng bỏng. Trong khi bà nấu cháo, “một vòng tròn háu đói” -

bọn trẻ con - lặng lẽ nhìn bà. Tuy chúng không nói và có vẻ thèn thẹn nhưng bà

biết chúng muốn được bà cho ăn. Bọn trẻ cứ thế “đứng sững trước bà và nhìn bà”

[85,407]. Ánh mắt của chúng khiến bà khó xử, vì bà “không thể truất phần” của

người nhà được. Sau khi phân phát cháo cho cả nhà và để lại ít cháo còn ở đáy nồi,

Ma Joad nhìn bọn trẻ con và nói như để xin lỗi “Không có đủ cháo”, giọng của bà

lạc đi “Bác không làm khác được”, rồi bà “chạy ào vào lều để khỏi phải nhìn lũ

trẻ… bà nghe thấy ở phía ngoài bọn trẻ con vét, cạo nồi quèn quẹt, với các mẩu

gỗ, thìa và những mảnh sắt rỉ… Mẹ ngồi quay lưng về phía chúng để khỏi phải

nhìn” [85,409]. Cái quay lưng, tránh nhìn tình cảnh đói khổ của lũ trẻ không phải

là một sự thờ ơ mà là nỗi đau của người mẹ khi không đủ sức để giúp đỡ những

đứa trẻ tội nghiệp. Bởi lẽ, với bà, cả nhà “không có đủ ăn nhưng không thể không

cho chúng được” [85,411]. Khi con trai Tom Joad về nhà, Pa Joad muốn tạo bất

ngờ cho bà, ông lên tiếng: “Mẹ nó này, có hai gã (Tom và Casy) vừa ở ngoài đường

cái tới đây, họ phân vân không biết nhà ta có thể cho họ chút gì để ăn không”

[85,117]. Dẫu chưa biết đó là ai nhưng mẹ vẫn hào hiệp, nhiệt thành, sẵn sàng chia

sẻ với “một cái gật đầu dễ mến”: “Mời họ vào, bà nói. Thừa ăn. Bảo họ phải rửa

tay đi. Bánh nướng rồi. Tôi đang múc thịt ra đây… Mời vào. Cũng may là sáng

nay tôi nướng nhiều bánh” [85,117]. Tấm lòng yêu thương của bà mẹ thật vô bờ

bến, đó là sự cho đi không một chút toan tính, dẫu người đó là ai thì với bà họ đều

phải được đối xử như là những con người. Vì vậy, khi Casy ngỏ ý muốn cùng gia

đình Joad đến California, chính Ma Joad là người đầu tiên dang rộng vòng tay chào

đón ông, dẫu tình cảnh nhà bà chẳng sung túc gì.

Bà Sairy Wilson, một người phụ nữ khốn khổ vì nghèo, vì bệnh tật, vẫn sẵn

sàng chia sẻ mái lều, tấm chăn của mình cho ông nội nhà Joad, một người sắp từ

giã cõi đời. Chính tình yêu thương của bà Sairy đã khiến cho cụ già vốn tinh ranh,

bướng bỉnh nay “đột nhiên khóc, cằm ông run run môi mím chặt, toàn thân rung

chuyển trong những tiếng nức nở khàn khàn” [85,210]. Phải chăng vì được chết

trong vòng tay của cả nhà, của những người tốt bụng như bà Sairy nên dẫu đã

ngừng thở đôi mắt ông nội vẫn “trong sáng, sâu thẳm, thâm trầm và trong đó ánh

49

lên sự thanh thản của bậc hiền nhân” [85,215]. Ở trong hoàn cảnh đói khổ, bị xua

đuổi khỏi mảnh đất “chôn rau cắt rốn”, những người mẹ, người phụ nữ đã tìm thấy

ánh sáng hy vọng bởi một điều thật giản dị: “người ta cần… cần phải giúp đỡ lẫn

nhau” [85,220]. Tình yêu thương, sự sẻ chia trong hoàn cảnh khốn khó của những

con người nghèo khổ tựa như những tia sáng lấp lánh trong đêm tối. Vì vậy, trên

hành trình nhọc nhằn đi tìm vùng đất mới, những con người khốn khổ đó vẫn không

cảm thấy cô độc, lẻ loi. Ẩn giấu trong tình thương bao la của Ma Joad, của bà Sairy

dành cho những đứa trẻ đói khát, những kẻ xa lạ, chúng ta biết họ đâu chỉ là một

người mẹ, người vợ trong một gia đình cụ thể mà phẩm chất cao quý ấy của họ còn

khiến ta liên tưởng đến hình ảnh mẹ vĩ đại của nhân loại. Bản năng yêu thương con

cái, yêu thương gia đình khiến cho những người mẹ dễ dàng rung động, cảm thông

trước những nỗi đau khổ, bất công trong cuộc đời.

Trong Của chuột và người, nhân vật dì Clara dẫu chỉ xuất hiện trong lời kể

của George hay Lennie nhưng vẫn ánh lên tình yêu thương vô bờ đối với Lennie,

đứa cháu mồ côi ngờ nghệch của bà. Bà nhận nuôi Lennie từ bé cho tới lớn. Lennie

to khỏe nhưng chẳng sáng dạ, to xác nhưng trí óc mãi như một đứa trẻ con. Anh ta

có một sở thích kì lạ là “lấy ngón tay vuốt mấy thứ đẹp, mấy thứ mềm” [90,149].

Chiều lòng Lennie, dì Clara cho anh những con chuột và một miếng nhung lớn. Dù

ngờ nghệch song Lennie vẫn cảm nhận được tình yêu thương của dì Clara. Vì vậy,

trong kí ức vụn vỡ, ít ỏi của anh luôn có hình bóng của bà. Đặc biệt là, khi Lennie

sợ hãi vì đã vô tình giết chết vợ Curley, anh ta tự phân thân thành dì Clara và tự

quở trách mình: “Dì đã dặn đi dặn lại cháu. Dì đã bảo cháu, ‘Nhớ nghe lời George

vì anh ấy tử tế lắm và tốt với cháu.’ Nhưng cháu chẳng bao giờ thèm để ý. Cháu

làm điều xấu” [90,166]. Điều này cho thấy đối với Lennie, ngoài George, người

yêu thương, lo lắng cho anh ta nhất chính là dì Clara.

Bên cạnh việc khám phá đức hạnh của những người mẹ, người phụ nữ bình

dân, tiểu thuyết John Steinbeck còn tiết lộ những phẩm tính tốt đẹp của những má

mì, cô gái làng chơi, vốn là những người phụ nữ hành nghề trái phép và bị xã hội

lên án, kì thị. Điều này được thể hiện rõ nét qua nhân vật má mì Dora Flood trong

tiểu thuyết Phố Cannery Row. Steinbeck mô tả nhân vật này như sau: “Dora là một

phụ nữ vĩ đại, một phụ nữ to lớn vĩ đại với mái tóc màu cam rực lửa và thích mặc

áo dạ hội màu lá cây chói lọi. Bà điều hành nhà thổ một giá, lương thiện, không

50

bán rượu mạnh, và không cho phép nói lớn tiếng hay tục tằn trong nhà bà. Một số

kĩ nữ của bà hơi thiếu tích cực vì tuổi tác và đau yếu, nhưng Dora không bao giờ

bỏ rơi họ” [91,28]. Là chủ của một nhà thổ, song Dora sống thận trọng, tuân theo

luật lệ gấp đôi kẻ khác và đặc biệt rất mực bác ái. Vào hồi kinh tế suy thoái, dù bị

ảnh hưởng nặng nề nhưng bà là người quyên góp tiền từ thiện nhiều nhất Cannery

Row. Ngoài việc làm từ thiện bình thường, Dora còn “chi tiền chợ tứ phía trong

hơn hai năm và gần sạt nghiệp” vì “bọn trẻ đói ở Cannery Row, các ông bố thất

nghiệp và các bà lo lắng” [91,29]. Hay khi dịch cúm hoành hành, Cannery Row tê

liệt: đám bác sĩ chạy phát điên để chăm sóc bệnh nhân, trường học đóng cửa, dân

chúng thị trấn sợ hãi và tuyệt vọng, song Dora “mềm như lụa” mà “có thể cứng

như đá” đã dùng “Nhà hàng Cờ Gấu” (nhà thổ) của bà để tổ chức phục vụ cho cả

khu phố nghèo. Bà bảo người đầu bếp Hi Lạp nấu một vạc súp và “giữ cho lúc nào

cũng đầy và đặc” [91,118], các cô gái thay phiên nhau tới chia sẻ với các gia đình

và luôn mang theo một nồi súp. Nhờ hành động nghĩa hiệp, xuất phát từ lòng nhân

ái của Dora, Cannery Row đã vượt qua những thời điểm khó khăn nhất.

Trong Phía đông vườn địa đàng, John Steinbeck tiếp tục khẳng định tình yêu

thương như là một vẻ đẹp bất tử ở người phụ nữ, giúp họ trở nên mạnh mẽ hơn bao

giờ hết: “Tôi tin rằng một người phụ nữ mạnh mẽ có thể mạnh mẽ hơn một người

đàn ông, đặc biệt nếu họ có tình yêu thương trong trái tim mình. Tôi nghĩ rằng một

người phụ nữ giàu tình yêu thương là bất tử” [92,354]. Tình yêu thương dường như

đã trở thành phẩm tính vĩnh cửu ở cổ mẫu mẹ hiền. Vì vậy, khi viết về người mẹ,

các nhà văn không phân biệt vùng miền, tôn giáo, văn hóa, đều ngợi ca tình yêu

thương của họ. Do đó, bất kì bạn đọc nào cũng không khỏi xúc động trước hành

động bán tóc, bán răng để lấy tiền gửi cho con gái của người mẹ trẻ, Fantine, trong

Những người khốn khổ của V. Hugo [93]. Bên cạnh đó, bản năng của người mẹ

khiến họ không chỉ yêu thương con cái mình mà còn thương yêu những số phận

bất hạnh khác. Ở bản hợp âm Âm thanh và cuồng nộ của W. Faulkner, Dilsey - bà

vú nuôi da đen - hiện lên như một thanh âm tuyệt vời của tình mẹ, tình người. Là

người nhìn thấy từ “cái bắt đầu” đến “cái kết thúc” của tấn bi kịch trong dòng họ

Compson, hơn ai hết, Dilsey thấu hiểu số phận bất hạnh của những con người trong

gia đình Compson, đặc biệt là Benjy đần độn và Quentin cháu bất hạnh. Người phụ

nữ da đen ấy chăm sóc, lo lắng cho Benjy, Quentin và cả gia đình Compson bằng

51

sự nhẫn nại và tình yêu của một bà mẹ chứ không đơn thuần chỉ là phận sự của

một bà vú nuôi. Vì vậy, nhân vật Dilsey được Faulkner sáng tạo và ngợi ca như là

biểu tượng tuyệt đẹp của “CON NGƯỜI” [94]. Nếu như cổ mẫu mẹ trong tác phẩm

của Faulkner là biểu tượng của sự cứu vớt cái đẹp, giữ lấy đức tin ở con người, thì

cổ mẫu mẹ trong tác phẩm của John Steinbeck không chỉ giữ lấy đức tin ở con

người mà còn là biểu tượng của sự sống sót trong thời kì đói khổ, bấp bênh, bất an

đe dọa con người.

Từ thời xa xưa đến ngày nay, mẹ luôn là một biểu tượng của tình yêu thương

- tình mẹ, tình người. Biểu tượng ấy đã ăn sâu vào vô thức cộng đồng, trở thành

bản năng của người phụ nữ, những người đã, đang và sẽ làm mẹ. Vì vậy, tận sâu

trong vô thức của mỗi người phụ nữ đều có một “tâm hồn Mẹ” [95], một trái tim

người mẹ ấm áp, đầy ắp yêu thương. Được kết tinh từ kinh nghiệm của cộng đồng,

tồn tại trong vô thức tập thể của nhân loại qua bao đời, cổ mẫu mẹ được tái sinh

trong thế giới tiểu thuyết John Steinbeck như là biểu tượng của “sự an toàn của chỗ

trú thân, của sự nồng ấm, yêu thương và dinh dưỡng” [84,586]. Và hơn hết, nói

đến người mẹ là nhắc đến quyền năng sinh sản và nuôi dưỡng.

2.2.1.3. Quyền năng sinh sản và nuôi dưỡng

Nếu một người phụ nữ bị tước đi quyền làm mẹ thì đó chính là bất hạnh lớn

nhất của họ. Bởi lẽ, “trong tất cả các quyền của phụ nữ, quyền vĩ đại nhất là quyền

được làm mẹ” (Lâm Ngữ Đường). Khi sinh ra người phụ nữ, Thượng Đế không

chỉ ban cho họ vẻ đẹp nữ tính và bản năng yêu thương mà còn trao cho họ quyền

năng cao quý hơn cả, đó là quyền được làm mẹ, cũng có nghĩa là quyền năng sinh

sản và nuôi dưỡng.

Dựa trên các nét vẽ trong hang động và các di vật khảo cổ, người ta cho rằng

từ hàng ngàn năm trước đây loài người đã quan tâm đến cơ thể của người phụ nữ,

đặc biệt là lúc mang thai và lúc sinh nở. Điều đó cho thấy tổ tiên loài người xa xưa

đã sớm nhận ra quyền năng thiêng liêng của người mẹ, người phụ nữ. Bởi lẽ, chỉ

có người phụ nữ mới có khả năng sinh sản để mang lại sự sống tươi trẻ cho trái đất

này. Vì vậy, trong tâm thức của cộng đồng, cổ mẫu mẹ là cội nguồn của sự sống.

Dĩ nhiên, người đàn ông cũng có vai trò quan trọng trong việc tạo ra sự sống. Tuy

vậy, phụ nữ lại là người mang nặng đẻ đau và trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con

cái. Cho nên, hằn sâu trong tâm thức nhân loại, người mẹ có một vị trí đặc biệt

52

quan trọng. Dường như trong khu rừng huyền thoại của mỗi dân tộc đều tồn tại cổ

mẫu mẹ. Chức năng, bổn phận thiêng liêng nhất của mẹ là sinh sản và nuôi dưỡng.

Đây cũng là một đặc điểm tiêu biểu của cổ mẫu mẹ hiền biểu hiện qua các nhân

vật nữ như: Teresina Cortez (Thị trấn Tortilla Flat), Lisa (Trong trận đánh mơ hồ),

Ma Joad và Rosashan (Chùm nho phẫn nộ), Juana (Viên ngọc trai), Liza (Phía

đông vườn địa đàng) trong thế giới nghệ thuật tiểu thuyết John Steinbeck.

Trong Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, các nhà biên soạn đã nhấn mạnh

quyền năng sinh sản của người mẹ. Họ cho rằng: “Các vị Đại Thánh Mẫu đều là

các nữ thần của khả năng sinh sản: Ở người Hi Lạp, là Gaia, Rhéa, Héra, Déméter;

ở người Ai Cập và trong các tôn giáo được Hi Lạp hóa là Isis; ở người Assyrie -

Babylonie, là Ichstar; ở người Phénicie, là Astarté; ở người theo đạo Hindu, là

Kâli” [84,586]. Điều đó cho thấy ngay từ thời cổ xưa, trước khi nhận ra khả năng

sinh sản của người đàn ông, nhân loại thời kì ấy chỉ mới biết đến khả năng sinh sản

của người phụ nữ. Vì vậy, họ thờ cúng các vị nữ thần. Thần thoại Hi Lạp ngợi ca

nữ thần Đất Mẹ, Gaia, là “Đất Mẹ của muôn loài, có bộ ngực mênh mông. Chính

đất mẹ Gaia là nơi sinh cơ lập nghiệp bền vững đời đời của muôn vàn sinh linh,

sinh vật” [89,35]. Phải chăng vì vậy mà nhà thơ Louis Aragon đã ngợi ca người

phụ nữ như là “tương lai của loài người”, còn Charden thì ví họ với “sức mạnh vĩ

đại của vũ trụ”. Bởi suy đến cùng, đời sống này dẫu có muôn vàn ước mơ, hoài

bão thì những nhu cầu thiết yếu vẫn là: dinh dưỡng và truyền giống, mà mẹ lại là

người nắm giữ những quyền năng thiêng liêng ấy.

Trong Chùm nho phẫn nộ, Ma Joad, một bà mẹ có sáu đứa con (Noah, Tom,

Al, Rosashan, Ruthie, Winfeild), có dáng vẻ in đậm dấu vết của nhiều lần sinh nở:

“Mẹ đẫy người, nặng nề sau bao lần chửa đẻ và lao động, nhưng không xồ xề”

[85,117]. Cùng với Ma Joad, Rosashan cũng nắm giữ quyền năng sinh sản. Nhìn

bên ngoài, dáng vẻ của cô đã toát lên chức năng làm mẹ: “đôi vú nhô lên và mềm,

bụng, hông, mông rắn chắc, nân nân và khêu gợi” [85,149]. Đấy cũng là những bộ

phận trên cơ thể của người phụ nữ lên tiếng cho khả năng sinh sản của họ. Không

chỉ vậy, Rosashan còn là một người phụ nữ ý thức được vai trò mới của mình. Vì

thế, từ lúc mang thai “cô trở nên kín đáo và nghiêm trang. Tất cả mọi suy nghĩ, tất

cả mọi hành động của cô đều hướng về bên trong, về đứa trẻ nằm trong bụng. Với

cô, cả trái đất này đang có chửa; trong suy nghĩ của cô, đâu đâu cũng là sự tái sinh,

53

sự sinh đẻ” [85,149]. Đối với chồng (Connie), Rosashan không bộc lộ vẻ “bạo dạn

như con trai, nõn nà, ham khoái lạc” [85,150] như trước nữa, mà giờ đây cô là một

con người “cân bằng, thận trọng và khôn ngoan, mỉm cười rụt rè nhưng cương

quyết khi y tới gần” [85,150].

Rõ ràng, khi ý thức được vai trò, bổn phận, quyền năng mới của mình,

Rosashan đã thay đổi cách suy nghĩ và cư xử. Ở cô, tất cả mọi thứ đều lên tiếng

cho quyền năng làm mẹ. Đó không chỉ là niềm kiêu hãnh, tự hào, sung sướng mà

còn là nỗi lo sợ từng phút từng giây cho sự an nguy của đứa trẻ. Vì vậy, hành trình

đến miền đất hứa của Rosashan trở nên khó khăn hơn những người xung quanh.

Cô luôn luôn lo lắng cho cái hình hài đang lớn dần ở trong bụng mình. Bất kì

chuyện gì xấu xảy ra đều khiến cô lo sợ cho đứa trẻ. Thấy con chó bị chiếc xe lớn

nghiền nát, Rosashan hét lên, trợn mắt kinh khiếp, cô cảm thấy nỗi đau đớn trên

cơ thể mình như chính cô đang bị thương; cái chết của ông nội cũng khiến cô lo sợ

không biết “chuyện đó… có hại gì cho đứa bé không?” [85,221]. Khi biết Tom lại

giết người, Rosashan giận dữ, đôi mắt cô ánh lên vẻ “hận thù dữ tợn”, cô đay

nghiến anh trai: “làm sao tôi có thể có một đứa con xinh đẹp được?”, “làm sao con

tôi có thể sinh bình thường được? Tôi biết rồi: nó sẽ tàn tật, tàn tật…” [85,629],

rồi cô vùi đầu dưới chăn, nức nở. Dẫu biết rằng việc anh trai mình giết người để

trả thù cho mục sư Jim Casy không hoàn toàn sai trái, nhưng tâm lí dễ xúc động

của một người phụ nữ đang thai ghén khiến Rosashan khó có thể chấp nhận chuyện

đó một cách bình thản. Bởi lẽ, trước đó, một loạt các sự kiện không may đã xảy ra:

ông bà nội lần lượt qua đời, anh trai Noah bỏ đi, chồng của cô cũng bỏ trốn, gia

đình thiếu ăn thiếu uống… Tất cả dồn nén trong trái tim bé bỏng của cô, nay như

vỡ òa.

Nhân vật Teresina Cortez trong Thị trấn Tortilla Flat cũng mang dáng dấp

của một nữ thần sinh sản. Với “vóc dáng đậm đà”, “cơ thể nàng là một cái bình cổ

cong hoàn hảo cho việc chưng cất trẻ con” [96,208], Teresina thường xuyên trở

thành mẹ, cô có hết thảy tám đứa con và một đứa chuẩn bị ra đời. Liza Hamilton,

một nhân vật nữ nhỏ nhắn trong tiểu thuyết Phía đông vườn địa đàng, cũng có khả

năng sinh sản kì diệu, bà có năm người con trai và năm người con gái. Điều này

không khỏi khiến những người xung quanh ngạc nhiên, xem như là một phép lạ,

vì một người có vẻ ngoài yếu ớt như bà “có thể đẻ liên tục chừng ấy người con và

54

nuôi nấng chúng, lo cho chúng cái ăn cái mặc, cũng như dạy dỗ chúng một cách

cẩn thận bằng những lời lẽ cứng rắn” [97,18].

Vậy là, bên cạnh khả năng sinh sản, những người mẹ trong tiểu thuyết John

Steinbeck còn đảm đương nhiệm vụ nuôi dưỡng con cái, chăm sóc gia đình. Ma

Joad được xem là “người chữa bệnh”, là “trọng tài” và là “một nữ thần” của gia

đình. “Là người chữa bệnh, đôi tay của bà đã trở nên vững vàng tươi mát, thanh

thản; là trọng tài, bà trở nên lạnh lùng và như một thần nữ bà không thể sai lầm”

[85,118]. Trong tác phẩm, nhân vật Ma Joad thường gắn liền với không gian “căn

bếp”, “trung tâm sống động của gia đình”: “trong bếp… Mẹ đang bận rộn giặt giũ

quần áo trẻ con” [85,141]; “Mẹ xoay xở trước bếp lò… Bà cho mỡ vào cháo, và

khi mỡ sôi lèo xèo, bà đổ những thìa bột vào” [85,624]. Lần đầu tiên nhân vật Ma

Joad xuất hiện cũng là ở trong căn bếp với “mùi gỗ liễu”, “mùi thịt lợn”, “mùi bánh

nóng” và “mùi cà phê”. Đó là căn bếp ở ngôi nhà của chú John, là “căn bếp mới”

được dựng ngay trên chiếc xe thổ tả hay là cái bếp đơn sơ đặt trong hoặc ngoài căn

lều ở những lần dừng chân dựng trại. Tuy thay đổi vị trí linh hoạt nhưng “căn bếp”

và bà mẹ luôn là trung tâm của sự sống, của hành trình gian nan để đến và sinh

sống ở miền đất hứa.

Juana, trong Viên ngọc trai, cũng là một người mẹ nắm giữ quyền năng nuôi

dưỡng. Điều này được bộc lộ qua cách chị khéo léo, tận tụy chăm sóc bé Coyotito

– đứa con đầu lòng và là cả thế giới của chị. Thông qua những chi tiết như: “Chị

nhón đôi chân trần cứng cáp đến bên chiếc nôi nơi Coyotito đang say giấc, nghiêng

người và thì thầm những lời âu yếm” [86,8]; “Chị ghé miệng xuống gắng hút nọc

độc rồi nhổ ra, nhổ ra rồi lại hút” [86,14] để cứu Coyotito khi bé bị bọ cạp cắn;

“Coyotito khóc thút thít, Juana khe khẽ hát vài câu dỗ dành” [86,95], Juana xuất

hiện trong tâm trí độc giả như là một người mẹ dịu hiền, yêu thương săn sóc con

hết mực. Giống như Ma Joad, nhân vật Juana cũng gắn liền với không gian căn

bếp, trung tâm sự sống của gia đình. Từ điểm nhìn của Kino, người kể tiết lộ sự

gắn bó chặt chẽ giữa Juana và hình ảnh bếp lò: “Juana bước đến cái bếp lò, cời ra

một cục than, vừa quạt cho hồng vừa bẻ củi vụn rắc lên” [86,8], “bếp lò của Juana

bập bùng lửa” [86,9], “ngọn lửa phát ra từ cái lò của Juana hắt lên những chiếc

bóng kì lạ in trên vách lều tranh” [86,41], “Juana ngồi xuống bên bếp” [86,43],

“Juana lúc này đã thức dậy nhóm bếp” [86,56]. Và cũng từ không gian này, nhân

55

vật Juana thường dõi theo mọi cử chỉ và hành động của người chồng: “Juana ngồi

cạnh bếp lửa quan sát chồng” [86,54] nắm lấy thời điểm phù hợp để khuyên nhủ,

bảo vệ chồng mình.

Với Rosashan, hành trình đến miền đất hứa còn là hành trình học cách làm

mẹ, học cách chăm sóc gia đình. Nếu như ở phần đầu tác phẩm, cô xuất hiện với

dáng vẻ khá rụt rè, thẹn thùng vì sự thay đổi mới mẻ từ bên trong của mình thì càng

về cuối tác phẩm, Rosashan thực sự càng trưởng thành. Cô biết phụ giúp mẹ chuẩn

bị thức ăn cho cả nhà, khiến hàng xóm cũng phải khen ngợi cô: “Cô gái lớn của bà

ngoan lắm… Cô ấy gọt khoai tây khéo lắm” [85,220]. Khi bà nội bắt đầu ý thức

được việc ông nội đã qua đời, bà “thốt ra những tiếng rên rỉ ai oán” [85,227]. Chính

Ma Joad đã bảo Rosashan đến nằm cạnh bà để an ủi bà: “Rosashan đứng lên và

đến nằm dài trên đệm bên cạnh bà cụ già, tiếng lầm rầm của hai bà cháu vọng tới

tận bếp lửa. Cháu gái và bà nội đang thì thầm trò chuyện với nhau” [85,228]. Học

cách yêu thương, chia sẻ và chăm lo cho gia đình, đó cũng là những bài học thiết

yếu của những người phụ nữ chuẩn bị làm mẹ.

Tóm lại, quyền năng sinh sản và nuôi dưỡng là một trong những đặc tính tích

cực nổi bật của cổ mẫu mẹ hiền trong tiểu thuyết John Steinbeck. Sinh con ra và

nuôi dưỡng con cái trưởng thành, nỗ lực bảo vệ sự an toàn của con cái và gia đình

không chỉ là bổn phận của người mẹ, người vợ mà còn là bản năng của họ. Trong

bối cảnh đại suy thoái, đời sống di tản khốn khó và những vấn nạn xã hội khác,

đặc tính này của cổ mẫu mẹ khiến những người phụ nữ, người mẹ dễ dàng nắm lấy

vai trò và địa vị mới mẻ của họ.

2.2.2. Mẹ dữ

Bên cạnh những đặc điểm tích cực, sáng tạo như vẻ đẹp nữ tính, suối nguồn

yêu thương, quyền năng sinh sản và nuôi dưỡng, cổ mẫu mẹ còn sở hữu những

khía cạnh bóng tối, mang sức mạnh hủy diệt, chết chóc. Điều này đã được Jung

khám phá khi cho rằng tất cả các cổ mẫu đều chứa đựng một cái bóng của chính

nó. Kế thừa ý tưởng của Jung, nhà nghiên cứu Erich Neumann, trong chuyên luận

The Great Mother: An analysis of archetype (Mẹ vĩ đại: phân tích cổ mẫu, 1963),

đã viết lại toàn bộ phả hệ và các biểu tượng về các nhân vật nữ thần nổi tiếng trong

văn hóa thế giới. Từ đó, Neumann cho rằng mẹ khủng khiếp là một đặc trưng cốt

yếu của cổ mẫu mẹ song hành với mẹ hiền [83]. Vì vậy, khi xây dựng các nhân vật

56

nữ, tiểu thuyết gia John Steinbeck không chỉ trân trọng những phẩm tính đẹp đẽ,

cao cả mà còn quan tâm đến những khía cạnh tiêu cực, xấu xí, biểu tượng của cái

chết và sự hủy diệt của cổ mẫu mẹ. Cổ mẫu mẹ dữ trong sáng tác của nhà văn

người Mỹ này thường bộc lộ qua các kiểu nhân vật người đàn bà lẳng lơ, cám dỗ

và người đàn bà tàn nhẫn, độc ác mà nhân vật vợ Curley (Của chuột và người) và

Cathy/Kate (Phía đông vườn địa đàng) là những trường hợp điển hình.

2.2.2.1. Người đàn bà lẳng lơ, cám dỗ

Theo Neuman, những đặc tính khủng khiếp của cổ mẫu người nữ bắt nguồn

từ thế giới bên trong, bao gồm những trải nghiệm nội tâm, nỗi đau khổ, kinh hoàng,

sợ hãi về mối nguy hiểm. Do đó, cổ mẫu mẹ dữ là một biểu tượng của vô thức. Mặt

khác, khía cạnh bóng tối của cổ mẫu mẹ dữ được thành hình từ những hình tượng

quái vật trong thế giới huyền thoại và truyện cổ của người Ai Cập, Ấn Độ, Mexico,

Bali, La Mã cổ đại. Theo đó, “Nửa tăm tối của trứng nước của vũ trụ đen và trắng

đại diện cho cổ mẫu nữ tính tạo ra những hình tượng khủng khiếp biểu hiện phương

diện đen tối, dữ dội của cuộc sống và tâm trí con người. Giống như thế giới, cuộc

sống, thiên nhiên và linh hồn đã được trải nghiệm như là sự sinh sản và nuôi dưỡng,

bảo vệ và sưởi ấm của người nữ, vì vậy các mặt đối lập của chúng cũng được nhận

thức qua hình ảnh của nữ giới; cái chết và sự hủy diệt, nguy hiểm và đau khổ, đói

khát và trần trụi, xuất hiện như sự bất lực trước sự hiện diện của người mẹ đen tối

và khủng khiếp” [83,148-149].

Vậy là, không chỉ đại diện cho sự sống, sự sáng tạo, cổ mẫu mẹ còn biểu trưng

cho sự nguy hiểm, sự hủy diệt. Đây là hai đặc trưng có tính cách đối nghịch của cổ

mẫu mẹ thế giới, tương tự như ở các cổ mẫu đất và nước. Trong thế giới nhân vật

nữ của tiểu thuyết John Steinbeck, bên cạnh những gương mặt nữ biểu trưng cho

sự dịu hiền, yêu thương, dinh dưỡng là những người đàn bà lẳng lơ, ẩn chứa mầm

móng cám dỗ, là nguyên căn dẫn tới tai họa cho các nhân vật nam và cũng là những

đại diện cho khía cạnh khủng khiếp của cổ mẫu mẹ.

Nhân vật vợ Curley trong Của chuột và người là một người phụ nữ đỏm dáng,

lẳng lơ với nhiều người đàn ông nên những nhân vật nam trong tác phẩm luôn dè

chừng cô ta như là một thứ độc hại, một cái bẫy tù. Đặc điểm này của nhân vật

được tiết lộ qua lời kể pha chút miệt thị của lão tạp dịch Candy, một kẻ tàn tật, khi

Candy cảnh báo hai công nhân mới đến là George và Lennie, về sự nguy hiểm của

57

Curley và vợ hắn: “Curley chưa bao giờ chơi sòng phẳng với ai” [90,50], hắn ta

vênh váo thêm từ ngày cưới vợ, “nó giữ bàn tay đó mềm mại cho vợ” [90,51], vợ

hắn “đỏm” nhưng mà “lẳng lơ”, “Tao thấy nó lẳng với Slim”, “Tao còn thấy con

nhỏ lẳng với thằng Carlson nữa”, “Ôi dào, tao nghĩ Curley cưới… con điếm”

[90,52]. Nhận xét của Candy về vợ Curley trở nên xác tín khi cô ta xuất hiện trước

khung cửa của gian nhà ngủ với một gương mặt được tô điểm đậm và cách ăn mặc

đỏm dáng: “Môi ả dày, bôi son hồng, hai con mắt cách xa nhau, mặt bự phấn. Móng

tay ả đỏ. Tóc ả buông thõng những lọn nhỏ như xúc xích. Ả mặc bộ váy vải cô-

tông, đi guốc màu đỏ, trên quai có chùm lông đà điểu màu đỏ” [90,57]. Cùng với

vẻ ngoài chải chuốt, cô ta còn cố ý phô bày hình thể của mình bằng cách chống hai

tay sau lưng, tựa vào khung cửa để thân mình ưỡn ra phía trước, “mỉm cười khiêu

khích và ưỡn ẹo thân mình” [90,58] và nói với giọng mũi khàn khàn. Diện mạo,

cử chỉ điệu bộ và giọng nói đầy khêu gợi của vợ Curley khiến Lennie, một kẻ ngờ

nghệch, mê mẩn và thán phục còn George, một kẻ tỉnh táo, thông minh lại lo sợ

cho Lennie và chính anh. Anh ta cảnh báo người anh em của mình, rằng: “Tao đã

từng thấy nhiều thứ độc hại, nhưng tao chưa bao giờ gặp cái ‘bẫy tù’ nào độc hơn

con này. Mày tránh xa nó ra” [90,59].

Giống như vợ Curley, Cathy/Kate, trong Phía đông vườn địa đàng cũng là

một phụ nữ lẳng lơ, cám dỗ nhiều người đàn ông. Song, tính cách lẳng lơ của Cathy

được che giấu dưới lớp vỏ ngoài đẹp đẽ, hiền lành, ngây thơ: “Mái tóc vàng óng

ánh. Cặp mắt mở lớn với hàng lông mi trên khá dài rũ xuống khiến nàng trông có

vẻ mặt mơ màng bí mật. Chiếc mũi nhỏ và thanh tú. Hai gò má cao và rộng vòng

xuống chiếc cằm nhỏ xinh xinh. Chiếc miệng thanh như một nét vẽ và nhỏ nhắn

như một nụ hồng. Nàng có cái vẻ của một đứa bé xinh đẹp khiến người nào khi

mới nhìn thoáng qua, cũng phải quay lại nhìn thêm một lần nữa, và không khỏi bồi

hồi hoang mang. Trong ánh mắt nàng, có một vẻ gì kì bí mà người ta không thấy

lại được khi nhìn lần thứ hai. Nàng đi đứng nhẹ nhàng như cái bóng và rất ít nói,

nhưng mỗi khi bước qua nơi nào, nàng làm cho mọi người phải ngoái cổ nhìn theo”

[97,33-34].

Tính cách lẳng lơ của nàng được phát lộ khi mới lớn, Cathy cảm thấy trong

mình rạo rực lạ lùng và bắt đầu buông thả một cách thầm lén. Nàng thường thơ

thẩn một mình rất lâu trong khu rừng vắng và đôi khi một vài cậu con trai rình sẵn,

58

ôm chầm lấy nàng. Khác với những cô gái đứng đắn, Cathy không phản ứng quyết

liệt, trong thái độ của nàng có một vẻ đặc biệt, khiến đối phương cảm thấy “ngầm

chứa một sự đồng lõa”. Vẻ lẳng lơ, cám dỗ của Cathy đã hủy diệt vị giáo sư tiếng

Latin ở trường nàng theo học, anh ta đã tự sát bằng súng lục. Bằng diện mạo trong

sáng, thơ ngây, nàng đã chiếm được lòng si mê của ông Edwards, một kẻ môi giới

mại dâm khét tiếng. Khi đó, nàng bắt đầu bòn rút tiền bạc, đòi hỏi quà tặng bằng

nữ trang đắt giá, làm cho ông ta mất bình tĩnh để tận hưởng một cách khoái trá

cảnh ông Edwards ghen tuông đến độ run rẩy bực tức. Và cũng chính hình ảnh

ngụy trang xinh đẹp, dịu dàng, trong trắng, đáng yêu của Cathy đã khiến Adam,

một người đàn ông hiền lành, tốt bụng, si mê đến mù quáng, bỏ rơi cậu em đang

đau khổ và rời bỏ quê nhà đến một nơi xa lạ để xây dựng vườn địa đàng cho riêng

hai người.

2.2.2.2. Người đàn bà tàn nhẫn, độc ác

Một phương diện khác của cổ mẫu mẹ dữ trong tiểu thuyết John Steinbeck là

đặc tính tàn nhẫn và độc ác. Trong tiểu thuyết Phía đông vườn địa đàng, John

Steinbeck đã khắc họa nhân vật Cathy/Kate như là một biểu tượng của cái Ác, của

hồn ma bóng quỷ lẩn khuất trong đời sống con người. Dựa theo lời kể của nhân vật

tôi cũng là Steinbeck trong phần đầu của tác phẩm, người đọc được biết rằng, Cathy

Ames là một “người sinh ra thiếu lương tâm”, “ma quỷ đã xúi giục và dẫn dắt các

hành động của nàng suốt đời”, “cái ác vẫn bám riết lấy nàng” [97,33]. Bản chất

của nàng là độc ác, tàn nhẫn và con người nàng là một thứ cạm bẫy nguy hiểm chết

người.

Neumann, trong Mẹ vĩ đại: phân tích về cổ mẫu, đã chỉ ra các thuộc tính phá

hủy nam giới của nữ giới ẩn chứa trong các biểu tượng: rắn, răng, răng nanh và

lưỡi. Trong đó, cái miệng há hốc có răng nanh và lưỡi lè ra là những đặc điểm

chung của mẹ khủng khiếp. Nữ thần của bóng tối và sự hủy diệt, Kali, trong thần

thoại Ấn Độ, là một ví dụ điển hình. Bà thường xuất hiện cùng với rắn và một con

chó rừng, với mái tóc rối bù, đôi mắt đỏ giận dữ và những chiếc răng nanh nhỏ nhô

ra khỏi miệng [83]. Khi miêu tả nhân vật Cathy, Steinbeck chú ý khắc họa hai chi

tiết: nụ cười ngây thơ và hàm răng nhỏ và bén. Những người nhẹ dạ như Adam thì

bị cuốn hút bởi vẻ ngoài trong sáng như trẻ con của nàng với nụ cười trẻ thơ. Còn

những người từng trải như Samuel hay Lee thì ấn tượng với hai hàm răng nhỏ và

59

bén như răng nanh của nàng. Chi tiết này trên gương mặt nàng đã khiến Samuel

bỗng cảm thấy ớn lạnh và dự cảm rằng, “có ma quỷ đang lẩn quất trong nhà này”,

và “một tai họa lớn lao sắp xảy đến” [97,105]. Sau này, chính Cathy đã cắn tay

Samuel khi ông đỡ đẻ cho nàng, vết thương khiến ông lên cơn sốt mê man suốt ba

ngày đêm.

Theo người kể chuyện, mọi người đều có những khát vọng, những hứng khởi,

những ích kỉ, những đam mê song, chúng thường được giấu kín bên trong và người

ta không dám để lộ ra bên ngoài. Với Cathy, trái lại, những góc cạnh này trong tâm

hồn nàng diễn tiến từ chỗ được giấu kín dưới vẻ ngoài ngây thơ đến chỗ càng ngày

càng được bộc lộ ra bên ngoài, khiến tất cả mọi người xung quanh nàng sợ hãi và

xa lánh. Bằng một cách bí mật, Cathy đã khiến James Grew, vị giáo sư tiếng Latin

ở trường nàng, tự tử bằng súng lục. Tuy nhiên, nàng không mảy may sám hối,

thương tiếc cái chết của anh mà còn dựng chuyện James gặp rắc rối ở Boston. Và

cũng chính nàng đã sắp đặt một vụ cháy nhà, giết chết cha mẹ, rồi bỏ trốn để lại

đằng sau nàng “một hình ảnh đẹp và nỗi xót thương trong lòng mọi người” [97,45].

Được Adam, một người đàn ông thật thà, cứu giúp lúc nguy nan và đem lòng yêu

chiều, cưới làm vợ song, Cathy chẳng mảy may rung động mà còn lừa gạt tình yêu

của Adam. Là một người mẹ trẻ của hai đứa bé song sinh kháu khỉnh, nhưng Cathy

hoàn toàn lạnh lùng, không hề thích thú chúng, cũng chẳng cho chúng bú mớm.

Sau khi sinh con một tuần, Cathy nổ súng vào Adam khiến chàng bị thương, rồi bỏ

đi, để lại hai đứa bé thơ dại. Sự tàn nhẫn và độc ác của Cathy không chỉ biểu lộ

qua hành động bắn chồng mà còn bộc lộ qua lời nói tuyệt tình mẫu tử: “Quăng

chúng nó [hai đứa bé] xuống mấy cái giếng của anh mới đào cho rảnh nợ” [97,43].

Điều ác của Cathy không dừng lại ở đó, nàng đổi tên thành Kate. Sự kiện đổi

tên này biểu trưng cho việc thay đổi danh tính, nghĩa là nàng đã vứt bỏ quá khứ,

chấm dứt những ngày tháng sống bằng vẻ ngoài thơ ngây che đậy bản chất tàn

nhẫn bên trong và chính thức bước vào thế giới tội lỗi. Kate trở thành một kĩ nữ

của bà Faye và từ đây, nàng sống thật với bản chất, công khai công việc nhơ nhuốc

của mình. Nhờ vẻ ngoài ngây thơ và sự khôn khéo, Kate chiếm được cảm tình của

các thiếu nữ khác và cả bà Faye. Nàng cũng xếp đặt một cách khéo léo cái chết của

bà Faye vì ngộ độc thức ăn để được thừa kế gia sản của bà. Trở thành chủ một nhà

thổ, Kate thu thập hình ảnh và địa chỉ của những kẻ tai to mặt lớn trong thị trấn,

60

cất giữ chúng như là lá bùa hộ mệnh cho hành vi phạm pháp và cuộc đời tội lỗi của

nàng.

Như thế, bên cạnh việc ngợi ca những phẩm tính tuyệt vời của cổ mẫu mẹ hiền

thông qua những gương mặt nữ nổi bật trong thế giới tiểu thuyết John Steinbeck

như Ma Joad, Rosashan, Juana, nhà văn còn đặc biệt nhấn mạnh các đặc tính hủy

diệt, chết chóc của cổ mẫu mẹ dữ với hai gương mặt nổi bật là vợ Curley và

Cathy/Kate. Hai khía cạnh đối lập này cấu thành nên cấu trúc của cổ mẫu mẹ trong

tâm thức nhân loại và được Steinbeck tái sinh một cách ấn tượng thông qua các

nhân vật nữ của mình.

2.3. Sự tái lập bản sắc nữ tính trong truyền thống văn học nam tính

Tọa lạc trên đảo Liberty, cảng New York, cửa ngõ của Hoa Kỳ, tượng Nữ thần

tự do (tên gọi đầy đủ là Nữ thần tự do soi sáng thế giới), có hình dáng một người

phụ nữ mặc áo choàng, tay phải cầm ngọn đuốc, còn tay kia nắm một phiến đá

được khắc ngày độc lập của Hoa Kỳ. Với dáng vẻ đầy ngụ ý đó, bức tượng này trở

thành một trong những biểu tượng trung tâm cho lí tưởng tự do cũng như lí tưởng

quốc gia của dân tộc Mỹ. Về ý tưởng của tượng Nữ thần tự do, theo John Bondar,

trong thời kì sơ khai, hai nhân vật nữ có tên là Columbia và Liberty, là biểu tượng

văn hóa của Hoa Kỳ. Columbia là phiên bản Mỹ của biểu tượng nước Anh, nữ thần

Britannia, biểu thị quyền lực và sức mạnh của quốc gia mới, sánh ngang với Anh

quốc. Liberty, vị nữ thần tự do thời cổ đại La Mã, là biểu tượng xuyên quốc gia về

nhân quyền, biểu thị lí tưởng lãng mạn về quyền tự do cho tất cả mọi người [98].

Rõ ràng, việc lựa chọn phụ nữ để diễn tả ý niệm về lí tưởng tự do của người Mỹ

phần nào tiết lộ vai trò và vị trí quan trọng của thiên tính nữ trong tiến trình lập

quốc của quốc gia trẻ trung, năng động này.

Ngoài ra, truyền thống của người Mỹ bản địa vốn đề cao tính nữ và những lí

tưởng ban đầu của những người Mỹ lập quốc chưa bao giờ phân biệt đối xử với

phụ nữ. Paula Gun Allen, trong công trình nghiên cứu nổi tiếng The Sacred Hoop:

Recovering the Feminine in American Indian Traditions (Vòng tròn linh thiêng:

Khôi phục tính nữ trong truyền thống của người Mỹ bản địa, 1992), cho biết: từ

thuở sơ khai, các bộ lạc quần tụ ở châu Mỹ đã công nhận địa vị quan trọng của

những người mẹ, người bà như là người gìn giữ những truyền thống lâu đời nhất

và được tôn vinh trong các cấu trúc xã hội, công trình kiến trúc, phong tục tập quán

61

và truyền thống truyền khẩu của các cộng đồng. Theo Allen, vị trí trung tâm và

bản sắc của những người phụ nữ trong truyền thống văn hóa của người Mỹ bản địa

được biểu trưng qua hình ảnh “vòng tròn linh thiêng của sự sống” [99,26]. Robert

G. Natelson khẳng định rằng: Hiến pháp Hoa Kỳ, một trong những văn bản thể

hiện rõ những lí tưởng lập quốc của nước Mỹ, “chưa bao giờ phân biệt đối xử với

phụ nữ” [100,3]. Trước khi Tu chính án thứ 19, đảm bảo quyền bầu cử của phụ nữ

trên toàn quốc, được các cơ quan lập pháp của chính phủ phê chuẩn, ở nhiều bang

phụ nữ đã được tham gia các cuộc bầu cử. “Hiến Pháp Hoa Kỳ không bao giờ cấm

phụ nữ bỏ phiếu hoặc giữ chức vụ liên bang. Ngược lại, những Nhà soạn thảo ra

bản Hiến Pháp đã cẩn thận tránh các cuộc tranh biện dựa trên giới tính trong bầu

cử hoặc giữ chức vụ, giống như họ tránh các cuộc tranh biện dựa trên chủng tộc,

tài sản hoặc tôn giáo” [100,3]. Như thế, tính trung lập về giới tính của Hiến pháp

hoàn toàn phù hợp với lí tưởng tự do và bình đẳng cho tất cả mọi người mà dân tộc

Hoa Kỳ đã theo đuổi ngay từ buổi đầu lập quốc, đồng thời thể hiện sự công nhận

của xã hội đối với phụ nữ xứ cờ hoa.

2.3.1. Truyền thống nam tính trong văn học Mỹ

“Văn học Mỹ đậm chất nam tính” [101,1]. Nhà nghiên cứu Judith Fetterley đã

nhận xét như thế khi nhìn lại hành trình hơn 200 năm kể từ thời lập quốc của nền

văn học Mỹ, với sự thống trị của nam giới. Mặc dù có thể tìm thấy một số trường

hợp ngoại lệ chẳng hạn như một số bài thơ của nữ thi sĩ Emily Dickinson, cuốn

tiểu thuyết nổi tiếng của Harriet Beecher Stowe, song văn học Mỹ thường “không

để người phụ nữ yên và cũng không cho phép họ tham dự” [101,xii]. Căn nguyên

của vấn đề này liên quan đến thái độ của nền văn hóa Mỹ đối với người phụ nữ.

Hơn 200 năm qua, kể từ ngày 4/7/1776 - Hợp chúng quốc Hoa Kỳ non trẻ ra đời,

người Mỹ đã thiết lập một trật tự xã hội bao gồm nhiều kiểu phân tầng trái ngược

với những tuyên bố hùng hồn của tiền nhân về sự bình đẳng, tự do và hạnh phúc

cho tất cả mọi người. Trong đó, sự phân biệt đối xử giữa đàn ông - những người

có vai trò chủ chốt, được hưởng đặc quyền, đặc lợi, với phụ nữ - những người bị

tước mất quyền lợi, phải lệ thuộc vào đàn ông, chỉ có vai trò thứ yếu, phụ trợ - là

một trong những hình thức phân tầng có tính quy ước mạnh mẽ [102]. Dẫu xã hội

Hoa Kỳ đã trải qua nhiều bước ngoặt lịch sử, nhiều cuộc chiến tranh, nhiều phong

trào cải cách thì sự phân tầng giới tính này vẫn không mất đi; ngược lại, nó tiếp tục

62

được duy trì và có những tác động tinh vi hơn. Sự phân biệt, đối xử bất bình đẳng

với phụ nữ, bó buộc họ trong những giới hạn nữ tính dẫn đến hệ quả là trong truyền

thống văn học Mỹ tiếng nói của nữ giới khá nhỏ bé và yếu ớt, số lượng tác giả nữ

và những tác phẩm viết về người phụ nữ và những mối quan tâm nữ tính cũng khá

ít ỏi.

Trong khi đó, truyền thống nam tính nổi lên như một đặc trưng cốt yếu của

nền văn học xứ cờ hoa. Theo Fetterley, truyền thống này “nhấn mạnh tính phổ quát

đồng thời xác định tính phổ quát ấy theo những giới hạn nam tính cụ thể” [101,xii].

Điều đó được thể hiện rõ nét ngay từ những tác phẩm thuộc thời kì đầu của nền

văn học Mỹ với nhân vật trung tâm là nam giới và những chủ đề, mong muốn nam

tính. Rip van Winkle, câu chuyện huyền thoại của Washington Irving, có thể được

xem là tác phẩm mở đầu cho truyền thống nam tính trong văn học Mỹ. Giấc ngủ

suốt 20 năm của Rip van Winkle tượng trưng cho khát khao thoát khỏi công việc,

quyền lực và những quyết định quan trọng trong cuộc đời mỗi người. Khát vọng

này, dưới góc nhìn của Irving, thuộc về nam giới chứ không phải là nữ giới. Nổi

tiếng trong các sáng tác của James Fenimore Cooper, Natty Bumppo, nhân vật

người khai hoang đầu tiên và cũng là tiền thân văn học của kiểu nhân vật cao bồi,

anh hùng hảo hán trong văn học Mỹ, là một người đàn ông chính trực, yêu thiên

nhiên, yêu tự do, mang những khát vọng cao đẹp. Đặc biệt, nhân vật Huck Finn

trong tiểu thuyết cùng tên của văn hào Mark Twain được xem như một điển hình

của cổ mẫu anh hùng Mỹ, “mẫu người mà người Mỹ luôn luôn sùng bái dưới mọi

hình thức” [26,204]. Các tác phẩm văn học Mỹ về sau, ở một khía cạnh nào đó,

tiếp tục duy trì truyền thống nam tính theo nhiều cách thức và mức độ khác nhau.

Ngược dòng thời gian, có thể thấy rằng mức độ biểu hiện bản sắc và địa vị

của nam giới hay nữ giới chịu sự tác động không hề nhỏ bởi hoàn cảnh xã hội, chế

độ chính trị và đặc trưng văn hóa. Theo nhà nghiên cứu Y. N. Harari, sự phân biệt

giữa đàn ông và đàn bà hay nam tính và nữ tính hoàn toàn mang tính liên chủ quan

và biến đổi liên tục theo thời gian và không gian. Bởi vì những huyền thoại, hơn là

khía cạnh sinh học, đã xác định vai trò, quyền và nghĩa vụ của đàn ông và đàn bà

[102]. Dưới chế độ mẫu quyền, người phụ nữ được coi trọng, là người dẫn đầu và

giữ vai trò trụ cột trong gia đình và cộng đồng. Tuy nhiên, vào thời kì tư hữu, sự

chuyển giao quyền lực bắt đầu xuất hiện, vai trò của người đàn ông trở nên quan

63

trọng hơn và tiến đến chế độ phụ quyền thay thế mẫu quyền khi nam giới trở thành

người chỉ huy, nắm quyền kiểm soát. Trong thời kì trung đại, vai trò trụ cột của

người đàn ông được củng cố và nâng cao, phụ nữ chỉ là những người thụ động, yếu

đuối với vai trò chính là làm mẹ, làm vợ. Địa vị của nữ giới đã có những thay đổi

mạnh mẽ vào thời hiện đại khi họ ý thức được vai trò quan trọng của mình và

chứng minh rằng không chỉ làm mẹ, làm vợ, nữ giới còn có thể đảm đương mọi vị

trí như nam giới. Như Betty Friedan đã chỉ ra, trong cuốn sách nổi tiếng của bà, Bí

ẩn nữ tính, rằng phụ nữ cũng như đàn ông, có thể tác động đến xã hội cũng như

chịu ảnh hưởng từ nó, họ có sức mạnh để lựa chọn, để tạo ra thiên đường hay địa

ngục cho chính mình [103]. Tiến trình lịch sử của nhân loại đã cho chúng ta thấy

rằng, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của thiết chế nam quyền, khi xã hội thanh

bình, phần lớn nữ giới thể hiện tố chất nhẫn nại và phục tùng quyền uy của nam

giới. Nhưng mỗi khi xã hội biến động, sự an nguy của gia đình bị đe họa, người

phụ nữ, người mẹ lại là người tiên phong đấu tranh, phá vỡ các quy tắc gia trưởng

cũ mòn đã không còn phù hợp để tìm lại sự bình ổn và tái khẳng định vị trí quan

trọng của mình.

Ý thức về sự tác động của bối cảnh lịch sử xã hội đến số phận, tính cách và

địa vị của những người mẹ, người phụ nữ, John Steinbeck đã tạo sinh cổ mẫu mẹ

trong nhiều tiểu thuyết nhằm thiết lập lại bản sắc nữ tính và tái cân nhắc truyền

thống nam tính của nền văn học Mỹ.

2.3.2. Sự tái lập bản sắc nữ tính trong tiểu thuyết John Steinbeck

2.3.2.1. Chất animus (nam tính) trong cổ mẫu tính nữ

Có thể nói, Steinbeck là nhà văn sớm ý thức về tầm quan trọng của thiên tính

nữ trong cuộc Đại suy thoái (The Great Depression, 1929-1933), thời kì đen tối

được ví như “đêm trước” của Thế chiến thứ II và những thay đổi về trật tự giới

trong xã hội Mỹ nửa đầu thế kỉ XX khi phong trào đấu tranh nữ quyền nở rộ ở Mỹ

và đạt được nhiều thành tựu. Vì vậy, xuyên suốt sự nghiệp sáng tác của mình, John

Steinbeck đã xây dựng nên những mẫu hình nhân vật nữ mạnh mẽ, táo bạo, ngoan

cường với thiên chức hàn gắn những vết thương, có khả năng đảm đương vị trí của

người đàn ông trong gia đình và thách thức trật tự thống trị lâu đời của nam tính.

Từ đó, tác phẩm của John Steinbeck đã góp phần tái lập bản sắc nữ tính trong một

thời kì lịch sử đặc biệt của Hoa Kỳ và thế giới.

64

Trong chuyên luận Mẹ vĩ đại: phân tích cổ mẫu, Enrich Neumann cho rằng

quá trình phát triển tâm lí của một người phụ nữ bao gồm bốn giai đoạn. Giai đoạn

thứ nhất được gọi là Uroboros (một biểu tượng cổ của con rắn tự cắn đuôi mình

biểu trưng cho thuyết duy ngã hoặc khả năng sinh sản), lúc này bản ngã và vô thức

vẫn được hợp nhất. Giai đoạn thứ hai có sự xâm lấn và thống trị của các cổ mẫu

cha vĩ đại, gắn liền với thuyết duy lí và độc thần. Giai đoạn thứ ba có sự hiện thân

của nam tính, nam tính và nữ tính loại trừ lẫn nhau. Giai đoạn thứ tư là ở người

phụ nữ trưởng thành, khi họ vay mượn nam tính, phát hiện ra bản thân và tiếng nói

của mình [83]. Sự mạnh mẽ, kiên cường, cứng cỏi của người phụ nữ, người mẹ

phần nhiều được hình thành lúc họ trưởng thành, khi tính chất nam tính có điều

kiện lấn át khía cạnh đối lập của nó. Đặc tính này được Carl Jung gọi là animus

(khía cạnh nam tính vĩnh cửu ở người phụ nữ). Theo học giả, cổ mẫu animus là

yếu tố nam tính, dấu ấn nam tính hiện hữu trong vô thức của phụ nữ như sức mạnh

tinh thần, lòng can đảm, tính quyết đoán, sức sống mãnh liệt và khát khao đạt được

thành tựu. Do đó, nó chi phối tâm lí nữ giới, có thể khiến họ hoặc đánh mất nữ tính

hoặc thúc đẩy sự phát triển tâm lí.

Trên nền cổ mẫu animus, John Steinbeck đã xây dựng những mẫu hình người

phụ nữ nổi bật với vẻ đẹp nam tính trong nữ tính. Trước khi cho người đọc thấy

nội lực mạnh mẽ của người mẹ, người phụ nữ Mỹ, nhà văn đã khắc họa chân dung

người mẹ đậm chất Mỹ với vẻ đẹp khỏe khoắn, nhanh nhẹn, trầm tĩnh. Sự mạnh

mẽ của Ma Joad được toát ra từ ngoại hình: “đôi bàn chân khỏe và để trần của bà

cử động nhanh, thanh thoát trên nền nhà… đôi cánh tay khỏe… đôi bàn tay mập

mạp” [85,177]. Rõ ràng, ngay từ lúc đầu, người mẹ đã gây ấn tượng với người đọc

bởi vẻ đẹp mạnh mẽ, nam tính từ dáng vẻ bên ngoài. Bên cạnh đó, vẻ đẹp nam tính

của người phụ nữ còn được thể hiện thông qua những hành động nổi loạn, chống

cự. Điều này đã góp phần thể hiện rõ nét sức mạnh tinh thần của họ như những

nhân vật nữ bất tử. Sức mạnh tinh thần của nhân vật Ma Joad được hình thành

không phải vào lúc gia đình bà lâm vào cảnh nghèo khổ, bị xua đuổi khỏi mảnh

đất của cha ông để lại mà bản tính mạnh mẽ đã có ngay từ khi bà còn trẻ. Điều đó

được thể hiện qua nhận xét của bố: “Mẹ mày lúc còn trẻ như thế nào thì nay cũng

như vậy. Một người rất bạo, không sợ gì hết” [85,357]. Đặc biệt trong kí ức của

Tom về mẹ ở đầu truyện, mẹ là một người phụ nữ không để cho ai quấy đảo. Anh

65

kể với Jim Casy hành động phản kháng có chút hài hước của mẹ: “Có lần, tớ đã

thấy bà ấy nện cho một gã hàng rong một trận đòn nên thân, nện bằng một con gà

sống, vì gã định cãi bướng. Một tay cầm con gà, một tay xách rìu, bà sẵn sàng cắt

cổ thằng cha. Bà có ý định cầm rìu nhảy bổ vào gã, nhưng nhầm tay, cho nên bà

xông vào rồi giơ con gà nện tới tấp” [85,79]. Có thể coi đây là hành động mang

tính dự báo cho vai trò dẫn đầu sau này của bà mẹ.

Trên hành trình đến miền đất hứa của gia đình Joad, những hành động bảo vệ,

củng cố tinh thần cho gia đình, nỗ lực gắn kết gia đình thành một khối thống nhất

của Ma Joad càng cho thấy rõ nét sức mạnh tinh thần của người phụ nữ “thép” này.

Người vợ ấy xưa nay luôn phục tùng chồng, người mẹ ấy đã từng nhường lời cho

con trai vì anh là đàn ông, vậy mà, trên đường đến miền Tây, Ma Joad đã nổi loạn,

bướng bỉnh, chả khác con ngựa cái mất nết như cách nói của bố. Khi Tom đề nghị

nhà Joad và nhà Wilson đi về miền Tây trước, còn anh và mục sư Casy ở lại sửa

xe rồi đuổi theo sau, Pa Joad ủng hộ “nếu chỉ còn cách đó thì chẳng thà lên đường

ngay thôi” [85,263], ngay lập tức, Ma Joad “đứng lên ngay phía trước ông”, “lại

gần chiếc xe du lịch… lôi ra một cái chuôi kích rồi thong thả đu đưa trong tay” đe

dọa Pa Joad: “muốn cho tôi đi, chỉ có cách là ông cứ đánh tôi… tôi không chịu để

ông đánh đâu, tôi chẳng khóc lóc, chẳng lạy van gì hết. Tôi sẽ nhảy bổ vào ông…

Lại đây đánh tôi xem nào. Thử xem. Nhưng đừng hòng tôi đi…” [85,264]. Hành

động nổi loạn của bà mẹ khiến cho cả nhóm ngỡ ngàng, còn Pa Joad thì chưng

hửng và… chịu thua. Giờ đây, Ma Joad là quyền uy, là người nắm lấy quyền điều

khiển. Bởi lẽ, bà mẹ là người thấu thị tình thế bi đát của cả nhóm và tất cả họ chỉ

còn lại thứ duy nhất là “chúng ta với nhau”, “gia đình chúng ta với nhau”, “gia

đình đoàn tụ, chúng ta chỉ còn lại có thế” [85,265]. Bà mẹ khốn khổ ấy hiểu rằng:

khi và chỉ khi cả gia đình bà ở cạnh nhau, họ mới có được sức mạnh để vượt qua

mọi tình cảnh bi đát. Ý nghĩa của gia đình đã được một bà mẹ thất học nhận ra

bằng trái tim yêu thương và sức mạnh tinh thần vĩ đại.

Sức mạnh của các nhân vật nữ còn được thể hiện qua khả năng chịu đựng phi

thường của họ. Trên hành trình đến miền đất hứa, Ma Joad đã lần lượt mất đi bố

chồng, mẹ chồng, con trai cả (Noah), con rể (Connie) và đứa con trai bà yêu quý

nhất (Tom). Trong đêm vượt qua sa mạc để đến California, Mẹ đã nằm cạnh bà nội

(đã chết) suốt đêm và cố gắng giấu chuyện bà chết để cả nhà vượt sa mạc an toàn.

66

Để rồi sáng hôm sau, bà bồi hồi xúc động và nhớ lại: “Tôi đã nói với Bà… tôi nói

với Bà lúc Bà đang nằm hấp hối ở đấy. Ta không thể dừng lại ngay giữa sa mạc.

Còn có lũ nhỏ… và đứa bé trong bụng Rosashan” [85,361]. Điều đó khiến cả nhà

“hoảng hốt”, “kinh sợ” trước sức chịu đựng lạ thường của Ma Joad. Ngay cả mục

sư Jim Casy, người được xem là nhân vật Chúa thời hiện đại, người từng tự hỏi:

“Cái Đấng Thánh Thần này là gì?” Và tự nhủ đó là tình yêu thương con người. Giờ

đây, đứng trước sức mạnh của bà, chính Casy cũng phải sững sờ: “Suốt cả đêm,

mà một mình, John ạ, trước mặt ông là một người phụ nữ quá đỗi giàu tình yêu

thương khiến tôi phải sợ. Bên cạnh bà ta tôi cảm thấy mình bé nhỏ đến thế, xấu xa

đến thế” [85,362]. Vì vậy, với Casy, Ma Joad chính là biểu tượng tuyệt vời nhất

của tình yêu thương, cội rễ sức mạnh tinh thần của con người. Điều trước đây ông

hồ nghi ở Chúa, giờ hiển hiện rõ rệt ở một bà mẹ quê mùa, thất học.

Bằng tình yêu thương, sức chịu đựng phi thường và khả năng thích ứng mạnh

mẽ trước những đổi thay của thời cuộc, Ma Joad đã vươn lên nắm lấy vai trò dẫn

dắt gia đình cùng với người con trai, Tom Joad. Vai trò và địa vị của bà mẹ ngày

một lớn dần xuyên suốt câu chuyện. Cuộc chuyển giao quyền lực này được khẳng

định bởi chính Pa Joad, người từng là trụ cột của gia đình: “Tôi chẳng còn được

tích sự gì nữa [...]. Ngược đời thật. Người đàn bà nắm quyền chỉ huy trong nhà. Bà

ta nói: ‘Ta làm cái này, ta đi chỗ kia’, ấy thế mà tôi dửng dưng” [85,677]. Căn

nguyên của sự thay thế này không chỉ đến từ bên ngoài, tác động dữ dội của cuộc

khủng hoảng kinh tế - xã hội, mà cốt yếu xuất phát từ sự khác biệt, tiềm năng và

cách nhìn sự đời của mỗi giới. Điều đó được ý thức sâu sắc bởi Ma Joad, một bà

mẹ quê mùa, thất học. “Phụ nữ họ dễ quen với những thay đổi hơn đàn ông [...].

Cuộc đời của người đàn bà là ở trong đôi cánh tay của mụ ta; ở người đàn ông, thì

nó nằm trong đầu óc y [...]. Ở người đàn ông, họ sống với những bước nhảy, một

đứa bé ra đời, một người đàn ông mất, đó là mỗi bước nhảy. Đàn ông lấy vợ, rồi

vợ mất, một bước nhảy khác. Ở người đàn bà, sự việc cứ trôi chảy như con sông,

có những xoáy nước nhỏ, những sông vẫn chảy, chảy hoài” [85,677-678].

Cùng với Ma Joad, Juana trong Viên ngọc trai cũng là một nhân vật nữ mạnh

mẽ, táo bạo. Trong tiểu thuyết ngắn này, người kể chuyện nhiều lần khắc họa vẻ

đẹp nam tính trong nữ tính của Juana qua những tình huống éo le. Vốn là một người

vợ hiền thục, một người mẹ tảo tần, song khi tính mạng của con trai Coyotito bị đe

67

dọa, chính Juana là người dám vượt qua những rào chắn về chủng tộc, giai cấp

trong xã hội để làm một kinh thiên động địa. “Trên chiếc thuyền ra khơi, Juana

như một người đàn ông mạnh mẽ. Và ngay giây phút này đây, chị đang làm một

việc hết sức bất ngờ” [86,11]. Đó là mang Coyotito đến tìm lão bác sĩ người da

trắng để chữa trị vết thương. Ở một tình huống éo le khác, gia đình Kino bị những

kẻ săn người truy đuổi đến một rặng núi cao vút phía tây, Kino bày tỏ ý muốn để

vợ con ẩn nấp ở một nơi an toàn còn anh sẽ dẫn dụ chúng đi hướng khác, khi ấy

Juana và con trai của họ có thể đến phía bắc một cách yên ổn. Trái với vẻ ngoan

hiền, cung kính thường ngày, Juana chống lại ý nguyện của chồng, chị quả quyết:

“Em và con sẽ đi theo anh” [86,109]. Bởi lẽ Juana hiểu rõ sự bình yên và an toàn

chỉ có thể có được khi gia đình họ ở bên nhau và cùng vượt qua mọi hiểm nguy.

Có thể nói, sự trỗi dậy của cổ mẫu animus trong nhân vật nữ này vào những thời

khắc nguy nan đã giúp Juana dần dần tái định vị vai trò của chị trong gia đình. Nếu

như ở phần đầu của tác phẩm, Juana mặc dù có những biểu hiện nam tính song chị

vẫn chỉ là một người vợ, người mẹ theo chuẩn mực truyền thống, phục tùng mọi

yêu cầu của chồng, thì ở phần kết của câu chuyện, Juana đã xác lập địa vị mới mẻ,

ngang hàng với người chồng. Điều này được biểu hiện qua chi tiết vợ chồng chị

cùng “sóng đôi” trở về: “Hai người họ rảo bước trên con đường mòn từ nông thôn

vào thị trấn, nhưng không phải như mọi lần - Kino đi trước Juana bước sau, mà họ

sóng đôi” [86,123]. Bên cạnh Ma Joad, Juana, nhiều nhân vật nữ trong truyện ngắn

của John Steinbeck cũng mang đậm vẻ đẹp nam tính trong nữ tính, chẳng hạn như

Elisa Allen trong Khóm cúc hay Mary Teller trong Con chim cút trắng.

Như thế, vẻ đẹp nam tính vốn ẩn chứa trong nét nữ tính thường ngày sẽ được

bung tỏa khi người phụ nữ đứng trước những thử thách của cuộc đời, khi gia đình

thân yêu của họ đối diện với những nghịch cảnh trớ trêu. Đặc biệt, trong tình cảnh

cùng quẫn nhất, hiểm nghèo nhất, John Steinbeck đã chỉ ra rằng chỉ có người phụ

nữ mới có thể đem lại sự sống, cứu chuộc những con người sắp mất đi quyền sống.

Cuối tác phẩm Chùm nho phẫn nộ, Rosashan đã vượt qua nỗi đau mất con, dùng

bầu sữa ấm nóng của mình để cứu sống một ông già sắp chết vì đói. Như thế, khía

cạnh nam tính ở nữ giới không hủy diệt khía cạnh nữ tính mà trái lại, thúc đẩy sự

phát triển tâm lí, sức mạnh ở người nữ, giúp họ thực hiện thiên chức cao cả.

Khẳng định sức mạnh nam tính của người mẹ, người phụ nữ trong thời đại

68

mới không có nghĩa là John Steinbeck chỉ đơn thuần ngợi ca, tán tụng. Đôi mắt

tinh anh của nhà văn còn nhìn thấy ở họ những giây phút yếu lòng. Bởi suy cho

cùng thì họ vẫn là những người phụ nữ. Đó là những lúc Ma Joad không kìm nén

được niềm hạnh phúc ngập tràn. “Mẹ gục đầu xuống và cố nén tiếng khóc thổn

thức muốn bật ra” [85,484] khi gia đình Joad đến trại Weedpated. Sau bao nhiêu

ngày tháng rong ruổi trên đường, lần đầu tiên họ được đối xử, được sống như những

con người. Đó còn là những lúc nỗi đau khổ vượt quá sức chịu đựng của họ. Mặc

dù cố gắng chịu đựng những cơn đau nhưng Sairy Wilson vẫn không thể giấu được

“đôi mắt bị cơn đau đớn giày vò và khuôn mặt co rúm chống chọi với bệnh tật”

[85,234]. Tuy vậy, những giây phút yếu lòng vì quá hạnh phúc hoặc quá đau đớn

chỉ đến trong thoáng chốc, bởi trên hành trình thống khổ dài vô tận, bản năng bảo

vệ và tình yêu đối với gia đình khiến người phụ nữ trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ

hết. Mẹ vẫn gắng gượng để vượt qua tất cả khổ cực. Bà không muốn bất kì ai lo

lắng cho mình. Vì vậy, khi Tom định an ủi mẹ, bà nói: “Con đừng chạm tới mẹ”,

“Sẽ ổn thôi nếu con không chạm tới mẹ” [85,361]. Nếu Tom hay một ai khác chạm

đến Ma Joad thì bao nhiêu nỗi đau được bà kìm nén sẽ vỡ òa. Những giây phút yếu

đuối của Ma Joad một lần nữa khẳng định bà cũng giống như biết bao người mẹ

khác, trái tim bà dù sắt đá, kiên cường đến mấy vẫn không thể tránh khỏi những

khoảnh khắc yếu mềm. Như vậy, ở những nhân vật nữ, vẻ đẹp nữ tính vẫn ngự trị

như một hằng số bất biến. Chỉ là đôi lúc nó cần phải nhường chỗ để yếu tố nam

tính vươn lên, giúp người phụ nữ vững vàng hơn trên hành trình gìn giữ và bảo vệ

gia đình.

Tính chất nam tính vốn dĩ được mặc định của người đàn ông, giờ đây hiển

hiện ở những người mẹ, người phụ nữ trong tác phẩm của John Steinbeck. Khi viết

về người phụ nữ, thiên hướng của Hemingway thường là phi giới tính, nam tính

hóa nữ tính, tạo nên một thế giới “đàn ông không đàn bà” như một phương cách

để thể hiện những chấn thương tâm lí của thế hệ lạc lõng (Lost generation). Còn

với John Steinbeck, ông phát hiện ra vẻ đẹp nam tính trong nữ tính của những

người mẹ, người phụ nữ, nguồn cội làm nên sức mạnh vĩ đại của họ.

Vậy nên, khi giới thiệu các nhân vật trong tác phẩm, Harold Bloom cho rằng

Ma Joad là “nhân vật mạnh mẽ nhất trong tiểu thuyết” [104,4]. Mimi Reisel

Gladstein khẳng định Ma Joad là “người phụ nữ bất tử”, là một “cổ mẫu giống

69

trong tiểu thuyết Mỹ” [47,76]. Bà mẹ là “hiện thân của huyền thoại về người phụ

nữ tiên phong, biểu tượng của tình mẹ và là hóa thân của nữ thần trái đất” [47,77].

Có thể thấy, những nhân vật như Ma Joad, Juana không chỉ đẹp ở vẻ đẹp nữ tính

mà còn mang trong mình nội lực, bản lĩnh, sức chịu đựng phi thường tạo nên nét

đẹp nam tính trong nữ tính. Đây cũng là một sự sáng tạo độc đáo của John

Steinbeck trên nền tảng của cổ mẫu animus. Với vẻ đẹp nam tính trong nữ tính và

sức mạnh phi thường của mình, người phụ nữ dễ dàng chiếm lấy vị trí của người

đàn ông, trở thành thủ lĩnh, người dẫn đầu gia đình vượt qua mọi khó khăn, thử

thách cũng như mọi tấn tuồng bi đát của cuộc đời.

Sự trỗi dậy của cổ mẫu về chất nam tính trong nữ tính trong tiểu thuyết của

Steinbeck còn thể hiện qua nhân vật Cathy/Kate trong Phía đông vườn địa đàng.

Song, khác với sự thành công của Ma Joad hay Juana, chất nam tính trong Cathy

lại là động lực thúc đẩy sự lựa chọn đi ngược lại những chuẩn mực nữ tính của

cộng đồng, sau cùng dẫn đến cái chết đầy bi kịch của nhân vật này. Ban đầu, người

kể chuyện giấu mặt trong tác phẩm tin rằng ngay từ lúc sinh ra Cathy đã là một

“quái vật”, một kẻ “thiếu lương tâm”: “Nàng không giống những người khác, chưa

bao giờ giống kể từ lúc sinh ra” [92,72]. Sự khác biệt đó được Cathy dùng để tạo

ra một sự khuấy động hoang mang và đau đớn trong thế giới của nàng. Sự khác

biệt giữa nàng với những nhân vật nữ truyền thống như Liza không hẳn xuất phát

từ khía cạnh bản năng ác tiền định trong Cathy mà ở một phương diện nào đó có

thể xem xét từ sự hiện diện ngày càng vượt trội của cổ mẫu animus trong người

phụ nữ này. Những hành động và lời nói của Cathy biểu hiện sự thách thức của

nàng đối với những chuẩn mực nữ tính của cộng đồng. Thay vì lựa chọn trở thành

một giáo viên hay thư ký, những công việc được xem là phù hợp với phụ nữ thời

bấy giờ. Nàng dấn thân vào con đường tội lỗi, chống lại những chuẩn mực của xã

hội. Bởi vì nàng tin rằng việc hành nghề mại dâm sẽ là một cách thức hữu hiệu để

ẩn mình trong một xã hội gia trưởng: “Một gái điếm là một gái điếm” [92,266]. Do

đó, nàng không những có thể sống sót trong một xã hội hà khắc, ngược lại có thể

đạt được quyền lực và sự tự do bất chấp mọi rào cản của cộng đồng. Theo Kelly-

Rae Meyer, trong bài viết “Cathy's ‘Masculinity’ as Survival in Steinbeck's East

of Eden”, phẩm chất nam tính của Cathy tạo ra động lực và lòng quyết tâm giúp

nhân vật này đạt được thành công trong xã hội phụ quyền [49]. Tuy nhiên, sự thành

70

công mà Meyer nhấn mạnh chỉ là đời sống vật chất thịnh vượng và phù phiếm bên

ngoài với khối tài sản kếch xù mà thiếu vắng những giá trị tinh thần. Cathy không

yêu ai ngoài chính bản thân và vì vậy cũng chẳng có ai ở lại bên nàng đến tận giây

phút cuối đời. Nàng tự vẫn trong căn phòng xa hoa mà lạnh lẽo. Như thế, khát vọng

đạt được sự tự do và quyền tự định đoạt số phận của Cathy là hoàn toàn chính đáng,

song phương cách mà nàng thực hiện để đạt được mục đích này lại đi ngược lại

với chuẩn mực của xã hội gia trưởng. Vì vậy, cái chết là một kết cục tất yếu của

nhân vật này. Thông qua bi kịch của Cathy, nhà văn đã chỉ ra cuộc khủng hoảng

bản sắc nữ tính của một bộ phận phụ nữ trong xã hội Mỹ thời hậu chiến khi họ bị

áp chế bởi những khuôn mẫu của cộng đồng trong sự thỏa mãn ở việc làm vợ và

làm mẹ.

Như thế, thông qua sự tái sinh cổ mẫu mẹ, sáng tác của John Steinbeck đã

phơi bày những tác động của bất ổn xã hội nửa đầu thế kỉ XX đến trật tự giới đã

được định hình hàng trăm năm ở nước Mỹ. Những người đàn ông vốn là trụ cột,

nắm quyền trở nên yếu đuối, bất lực, thụ động; những người đàn bà vốn là phái

yếu, thụ động, lệ thuộc vào đàn ông lại vươn lên nắm giữ địa vị quan trọng, quyết

định sự sống còn của gia đình và xã hội. Đồng thời, sự thách thức những khuôn

mẫu nữ tính truyền thống của cổ mẫu mẹ trong tác phẩm của John Steinbeck cũng

tiết lộ những làn sóng tái cân nhắc bản sắc nữ tính âm ỉ trong lòng nước Mỹ.

2.3.2.2. Tính nhị nguyên trong cổ mẫu mẹ của John Steinbeck

Là một hiện tượng trung tâm trong lịch sử văn hóa nhân loại, huyền thoại góp

phần định danh một nền văn hóa, định hình tư duy của mỗi cá nhân và cộng đồng.

Sức sống của huyền thoại mãnh liệt đến mức: “Ngay cả khi một nền văn hóa không

còn tin rằng huyền thoại của nó là những lời giải thích chân thật, tuy nhiên, những

câu chuyện này vẫn hiện diện như một nơi chứa đựng những giá trị văn hóa quan

trọng” [105,284]. Sức ảnh hưởng dài lâu của huyền thoại trong lịch sử văn hóa,

ngoài việc biểu hiện qua những giá trị văn hóa như là đích đến của nó, còn xuất

phát từ tư duy huyền thoại là cách thức của nó. Khám phá thần thoại và truyện cổ

của người da đỏ Bắc Mỹ từ quan điểm cấu trúc, Lévi-Strauss đã chỉ ra cơ chế logic

của tư duy huyền thoại, trong đó, việc sử dụng các cặp đôi đối lập là biểu hiện quan

trọng nhất. Theo nhà nghiên cứu, người nguyên thủy “nhận xét thế giới trước hết

bằng các cặp đối lập mà cơ bản nhất là hai cặp Trời/Đất và Đực/Cái. Hai cặp này

71

cũng lồng vào nhau như Trời/Đất // Đực/Cái. Những bản phối hợp của chúng có

thể biến thành nhiều ‘bản hòa tấu’ trong thế giới của những kí hiệu, tượng trưng

và thần thoại” [106,28]. Meletinsky cũng đồng tình với quan điểm của Lévi-Strauss

về lối tư duy nhị phân và logic nhị phân của người nguyên thủy: “Logic huyền

thoại sử dụng rộng rãi các cặp đối lập nhị phân (cặp đôi) những phẩm chất cảm

xúc, đồng thời qua đó khắc phục tính ‘liên tục’ của tri giác về thế giới xung quanh

bằng cách tách các ‘khuôn hình’ riêng rẽ có dấu hiệu mâu thuẫn” [107,219]. Điều

này cũng góp phần lí giải tính cách hai chiều đối lập của phần lớn cổ mẫu, biểu

tượng trong kho tàng văn hóa dân gian. Về sau, tư duy huyền thoại và logic nhị

phân của người nguyên thủy tiếp tục ảnh hưởng sâu đậm trong các thể loại văn học

với sự biến hóa đa dạng và phức tạp, sự mở rộng của các cặp đối lập: cuộc sống/cái

chết, thiện/ác, may mắn/bất hạnh, thống trị/bị trị, tốt/xấu...

Nhìn vào các đặc tính của cổ mẫu mẹ, mẹ hiền và mẹ dữ, được tái sinh trong

tiểu thuyết John Steinbeck, chúng ta có thể dễ dàng nhận ra lối tư duy huyền thoại

đã ngả bóng đậm nét trong thế giới quan của văn hào người Mỹ này. Nói cách

khác, tính nhị nguyên là một đặc điểm quan trọng của cổ mẫu mẹ trong văn hóa

dân gian cũng như trong sáng tác của John Steinbeck. Tuy nhiên, điểm khác biệt

của các biến thể của cổ mẫu mẹ trong tiểu thuyết John Steinbeck lại thuộc về đặc

trưng mẹ hiền chiếm mức độ/tỉ lệ nhiều hơn hẳn so với đặc trưng mẹ dữ. Qua khảo

sát và thống kê, kết quả mà chúng tôi thu được là: mẹ hiền chiếm 70% và mẹ dữ

chiếm 30%. Độ chênh này tiết lộ rằng, khi tái sinh cổ mẫu mẹ bằng một cách thức

vừa bản năng vừa sáng tạo, tác giả đã nghiêng về khía cạnh mẹ hiền, nhấn mạnh

các đặc tính và chức năng tích cực của cổ mẫu mẹ như là cội nguồn của sự sống,

yêu thương, chữa lành, bảo vệ và che chở. Sự “thiên vị” này có ý nghĩa quan trọng,

góp phần tái lập bản sắc nữ tính trong bối cảnh lịch sử xã hội đặc biệt của nước

Mỹ. Đó là thời kì Đại suy thoái kéo theo những bất ổn xã hội, không chỉ đe dọa sự

sống còn của mỗi cá nhân và cộng đồng mà còn làm lung lay tận gốc những giá trị

thiêng liêng của gia đình và xã hội. Chính những đặc tính tích cực này, theo John

Steinbeck, là nền tảng vững chãi giúp những người mẹ, người phụ nữ dễ dàng nắm

lấy vai trò và địa vị mới mẻ của họ.

Cũng cần lưu ý rằng, sự hiện diện của đặc trưng mẹ dữ trong cổ mẫu mẹ của

John Steinbeck tuy không đậm nét như mẹ hiền song vẫn có ý nghĩa nhất định.

72

Điểm đáng chú ý là khía cạnh hủy diệt của cổ mẫu mẹ được nhà văn đặc biệt quan

tâm trong những sáng tác ở chặng cuối, tiêu biểu là tiểu thuyết Phía đông vườn địa

đàng, tác phẩm ra đời trong giai đoạn phong trào nữ quyền gặt hái nhiều thành

công vang dội ở nước Mỹ. Theo đó, việc John Steinbeck khắc họa hình tượng nhân

vật nữ đi ngược lại một số chuẩn mực, giá trị vốn được cộng đồng thừa nhận, bảo

lưu và khích lệ thể hiện khát vọng tự do, làm chủ bản sắc của người phụ nữ, vượt

ra ngoài khuôn khổ, áp chế của cộng đồng đối với nữ giới.

Như thế, với độ chênh giữa các mặt đối lập tùy thuộc bối cảnh lịch sử xã hội

của mỗi tác phẩm, tính nhị nguyên trong cổ mẫu mẹ của John Steinbeck cho thấy

sức ảnh hưởng dài lâu của tư duy huyền thoại song vẫn chịu sự chi phối của các

biến động xã hội mới. Nghĩa là nhà văn trong khi kế thừa các di sản tinh thần của

cộng đồng một cách vô thức lẫn ý thức vẫn phát huy khả năng sáng tạo của cá nhân

trên nền cảnh lịch sử xã hội đầy biến động và phức tạp của thời hiện đại. Bằng

phương thức “tái huyền thoại hóa”, John Steinbeck đã tạo sinh cổ mẫu mẹ nhằm

tái định vị vai trò và vị trí của người mẹ, người phụ nữ, rộng hơn là tái lập bản sắc

nữ tính trong bối cảnh lịch sử xã hội đặc biệt của Hoa Kỳ nửa đầu thế kỉ XX. Cũng

cần lưu ý rằng, sự tái sinh cổ mẫu mẹ và những cổ mẫu khác trong tiểu thuyết John

Steinbeck không hề mâu thuẫn với triết lí sáng tạo mà ông gọi là phi mục đích luận

(non-teleological), cũng là quan điểm triết học được chia sẻ giữa Ed Ricketts và

Steinbeck. Trong The Log from the Sea of Cortez (Nhật kí từ biển Cortez, 1951),

Steinbeck và Ricketts đã phát biểu quan điểm này như sau: tư duy phi mục đích

luận không xem xét sự vật hiện tượng như nó nên là hay có thể là mà như nó đang

là, nhà văn cố gắng trả lời cho các câu hỏi hóc búa là cái gì và như thế nào thay vì

tại sao [108,112]. Bởi lẽ, bằng cách tái sinh, làm mới cổ mẫu, sáng tác của John

Steinbeck vừa khơi dậy kho kí ức tập thể, vừa phản ánh những trạng huống hiện

sinh mới mẻ của nhân loại.

* Tiểu kết

Trên cơ sở những nghiên cứu về cổ mẫu mẹ trong văn hóa dân gian và những

biến thể của cổ mẫu này trong tiểu thuyết của John Steinbeck, có thể thấy tiểu

thuyết của nhà văn người Mỹ này đã hấp thu những đặc trưng cơ bản của cổ mẫu

mẹ trong kho kí ức tập thể của nhân loại, đồng thời tạo sinh những ý nghĩa mới mẻ

cho cổ mẫu này dưới tác động của bối cảnh lịch sử xã hội Mỹ nửa đầu thế kỉ XX.

73

Những gương mặt ấn tượng của những người mẹ, người phụ nữ trong tiểu thuyết

John Steinbeck mang hai đặc điểm nổi bật của cổ mẫu mẹ nguyên thủy, là mẹ hiền

và mẹ dữ. Trong đó, mẹ hiền được thể hiện thông qua các đặc tính tích cực như vẻ

đẹp nữ tính, suối nguồn yêu thương, quyền năng sinh sản và nuôi dưỡng. Mẹ dữ

gắn liền với những đặc tính khủng khiếp như lẳng lơ, cám dỗ và độc ác, tàn nhẫn.

Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế và những bất ổn xã hội thời hiện đại, tiểu

thuyết của John Steinbeck đã tái lập bản sắc nữ tính của cổ mẫu mẹ để xoa dịu,

chữa lành những tâm hồn bị ruồng bỏ và biểu hiện khát vọng tự do, tự định đoạt

số phận của người phụ nữ trong một nền văn hóa giàu truyền thống nam tính. Ý

nghĩa phái sinh quan trọng này được thể hiện qua sự trỗi dậy của chất nam tính

trong cổ mẫu tính nữ bằng cách xây dựng những tính cách nữ mạnh mẽ, quyết

đoán, giàu nghị lực, là nơi nương tựa của những phận người nghèo khổ, thua thiệt.

Ngoài ra, tính nhị nguyên và độ chênh giữa hai cực đối lập trong cổ mẫu mẹ của

tiểu thuyết John Steinbeck vừa tiết lộ dấu ấn sâu đậm của tư duy huyền thoại, vừa

bộc lộ sự chuyển biến về bản sắc của cổ mẫu mẹ trong quá trình tương tác với bối

cảnh thời đại. Nhờ vậy, những gương mặt nữ của John Steinbeck có thể vươn lên

nắm lấy vai trò và địa vị mới mẻ, tái lập bản sắc và thách thức chuẩn mực nữ tính

trong một nền văn học, văn hóa giàu truyền thống nam tính.

74

Chương 3.

CỔ MẪU ANH HÙNG VÀ DẤU ẤN GIẢI HUYỀN THOẠI

TRONG TIỂU THUYẾT JOHN STEINBECK

Trong khi cổ mẫu mẹ phản ánh một cách độc đáo đời sống và tâm hồn của

một quốc gia nhanh chóng vươn lên vị thế số một trên trường quốc tế rồi lại rơi

vào thời kì suy thoái kinh tế nặng nề và tìm kiếm tính nữ trong đời sống như một

phương cách chữa lành những vết thương tinh thần, cổ mẫu anh hùng lại giữ vai

trò chủ đạo trong việc phản ánh truyền thống và đặc chất của chủ nghĩa anh hùng

kiểu Mỹ. Chủ nghĩa anh hùng được xem là một đặc điểm nổi bật của nền văn học

Mỹ, nền văn học của một quốc gia hứa hẹn đảm bảo rằng mỗi người đến đây đều

có cơ hội trở thành người hùng, ít nhất là của chính cuộc đời họ. Nỗi khát khao anh

hùng này trở nên mãnh liệt hơn khi nước Mỹ phải đối diện với những bất ổn trong

thế kỉ XX, đặc biệt là nửa đầu thế kỉ này với cuộc Đại suy thoái, hai cuộc Thế chiến

và giai đoạn hậu chiến. Bối cảnh lịch sử xã hội đặc biệt này đã thôi thúc các nhà

văn Mỹ tái sinh cổ mẫu mẹ và đặc biệt là cổ mẫu anh hùng để phản ánh những

mong cầu của con người trong thời đại bất ổn. Trong đó, John Steinbeck không

phải là trường hợp ngoại lệ. Với đặc trưng của tiểu thuyết hiện đại, tác phẩm của

John Steinbeck hầu như không tái hiện cổ mẫu anh hùng trong một hành trình toàn

vẹn, mĩ mãn hay khắc họa những nhân vật anh hùng như trong truyền thống tự sự

dân gian. Khả năng tiếp biến và sáng tạo của nhà văn thể hiện rõ nét qua những

chuyển đổi trong cấu trúc vòng đời của người anh hùng, qua việc tái tạo những

motif của cổ mẫu anh hùng và đặc biệt là xu hướng giải thiêng các huyền thoại liên

quan đến người anh hùng. Trong chương này, trên cơ sở khái lược bản chất của cổ

mẫu anh hùng trong huyền thoại, luận án tiến hành đối chiếu và so sánh với trường

hợp tiểu thuyết John Steinbeck để khám phá những ý nghĩa phái sinh của cổ mẫu

này dưới ảnh hưởng của bối cảnh lịch sử xã hội Mỹ nửa đầu thế kỉ XX.

3.1. Cổ mẫu anh hùng trong văn hóa dân gian

Anh hùng là một nhân vật có thật trong lịch sử hoặc là một nhân vật hư cấu,

thường đối mặt với các nghịch cảnh và vượt qua thử thách bằng sự khôn ngoan,

khéo léo, sức mạnh và lòng dũng cảm. Về mặt từ nguyên, anh hùng (hero) có nguồn

gốc từ tiếng Hi Lạp, nghĩa là người bảo vệ, người che chở. Ngả bóng trong kho

75

tàng văn hóa dân gian của nhân loại, những thần thoại hào hùng của người Hi Lạp,

những truyện kể uy nghi của Kinh Thánh, hay những huyền thoại, truyền thuyết

trầm hùng của phương Đông là những anh hùng có tài nghệ phi thường, được cộng

đồng tôn vinh song cũng có lúc bị khinh rẻ và không được thừa nhận. Theo nhà

thần thoại học nổi tiếng người Mỹ, Joseph Campbell, “anh hùng là con người nào

đã chiến đấu vượt qua những hạn chế lịch sử của cá nhân và địa phương mình để

tiến tới những hình tướng người tiêu chuẩn, có hiệu lực phổ quát” [109,36].

Khi giới thuyết về các cổ mẫu điển hình trong truyện kể dân gian, nhà nghiên

cứu Nguyễn Thị Kim Ngân nhận định rằng: “Nhân vật anh hùng được xem là một

cổ mẫu lớn của nhân loại và cấu trúc căn bản nhất cho tất cả những truyện kể về

người anh hùng thuộc về các nền văn học trung đại, hiện đại, thậm chí là hậu hiện

đại đã tồn tại từ trong thần thoại, truyền thuyết dân gian” [110,84]. Trong tâm thức

nhân loại, anh hùng là người dũng cảm hoặc có phẩm chất tốt đẹp, có khả năng cải

thiện hoặc thay đổi thế giới, thực hiện ước mơ và khát vọng của cá nhân và cộng

đồng. Tính chất huyền thoại, phổ quát của cổ mẫu anh hùng thể hiện trong chu

trình vòng đời của nhân vật: sinh ra - khởi hành - cái chết và tái sinh. Tuy nhiên,

không phải truyện kể về nhân vật anh hùng nào cũng sử dụng các tình tiết giống

nhau bởi chúng còn chịu sự chi phối của nhiều yếu tố khác nhau như hoàn cảnh

lịch sử xã hội, đặc trưng văn hóa và ý đồ sáng tạo của người kể. Do đó, khi xây

dựng những nhân vật anh hùng, bên cạnh việc kế thừa bộ khung gốc của cổ mẫu

này, các nhà tiểu thuyết hiện đại đã tái thiết cổ mẫu anh hùng cùng với nhiều tình

tiết biến đổi.

Chiếm giữ vị trí vô cùng quan trọng trong tâm thức nhân loại và hiện diện rõ

nét qua các câu chuyện mang dáng dấp huyền thoại nên cổ mẫu anh hùng sớm

được nhiều học giả quan tâm và nghiên cứu. Theo Robert A. Segal, nghiên cứu

thần thoại anh hùng xuất hiện sớm nhất vào năm 1871 với công trình Primitive

Culture (Văn hóa nguyên thủy) của nhà nhân chủng học tiên phong người Anh, E.

B. Tylor, trong đó, Tylor cho biết nhiều nhân vật được thiết lập cùng một cốt truyện

hoặc khuôn mẫu: anh hùng ra đời, được một người hoặc động vật khác cứu sống

và lớn lên trở thành một anh hùng dân tộc. Đến năm 1928, nhà folklore học nổi

tiếng người Nga, Vladimir Propp đã chứng minh các câu chuyện cổ tích Nga đều

tuân theo một cốt truyện tiểu sử: nhân vật anh hùng thực hiện một cuộc phiêu lưu

76

thành công, trở về kết hôn với công chúa và giành được ngai vàng [111,70]. Không

chỉ dừng lại ở việc phác họa các mô hình, các nhà nghiên cứu còn đi sâu khám phá

nguồn gốc, chức năng và chủ đề của các thần thoại anh hùng, tiêu biểu là các công

trình công phu của nhà phân tâm học người Áo Otto Rank (1884-1939), nhà

folklore học người Anh Lord Raglan (1885–1964) và nhà thần thoại người Mỹ

Joseph Campbell (1904–1987) [112], [113], [109].

Truyện kể về cuộc đời và chiến công của người hùng thường được bắt đầu với

tuổi thơ kì diệu. Ngay từ lúc sinh ra, thậm chí từ lúc thụ thai, người hùng tương lai

đã được phú cho những quyền năng phi thường, nhờ đó họ có thể vượt qua những

thử thách, nhiệm vụ khó khăn sau này. Các nhà nghiên cứu anh hùng thần thoại

như Otto Rank và Lord Raglan quan tâm đến nửa đầu cuộc đời của người hùng,

đặc biệt là nguồn gốc xuất thân, mối quan hệ với gia đình, dòng dõi của người

hùng. Cụ thể, trong nghiên cứu nổi tiếng, The Myth of the Birth of the Hero (Thần

thoại về sự ra đời của anh hùng, 1914), Otto Rank đã phát triển khái niệm “anh

hùng thần thoại” qua tập hợp 12 đặc điểm thường xuyên xuất hiện trong các thần

thoại, truyền thuyết về anh hùng. Trong đó, các đặc điểm thể hiện rõ tuổi thơ kì

diệu của người anh hùng có thể kể đến như: họ là con cái của những bậc cha mẹ

ưu tú; cha là vua; khó thụ thai; lời tiên tri cảnh báo sự ra đời; được cứu bởi động

vật hoặc những kẻ thấp kém [112]. Mô hình anh hùng của Lord Raglan bao gồm

22 đặc điểm, trong đó cũng có những đặc điểm tô đậm tuổi thơ dữ dội của người

anh hùng, chẳng hạn như: mẹ là một trinh nữ hoàng tộc; cha là vua; thụ thai bất

thường; anh hùng nổi tiếng là con trai của thần; cố gắng giết anh hùng khi còn là

một đứa trẻ sơ sinh, thường là bởi cha hoặc ông ngoại; anh hùng hào sảng khi còn

nhỏ; được nuôi dưỡng bởi cha mẹ nuôi ở một đất nước xa xôi [113]. Không chỉ có

nguồn gốc, xuất thân, dòng dõi đặc biệt, ngay từ khi còn nhỏ người hùng đã có sức

mạnh, tài năng, trí thông minh hơn người. “Herakles siết cổ con rắn do nữ thần

Hera phái tới bên nôi cậu. Maui xứ Đa Đảo đánh bẫy làm mặt trời chậm lại – để

cho mẹ kịp làm cơm. Abraham, như chúng ta thấy, có được tri kiến về Chúa Trời

Duy Nhất. Jesus làm rối trí những nhà thông thái. Đức Phật còn nhỏ một hôm bị

bỏ dưới bóng cây; các bà vú của ngài bỗng nhận thấy bóng cây không di chuyển

cả buổi chiều và đứa trẻ đang ngồi im lìm nhập định yoga” [109,350]. Theo

Campbell, tính chất kì diệu của tuổi thơ người hùng hoàn toàn phù hợp với cách

77

nhìn của người xưa rằng vai trò anh hùng là tiền định.

Cùng gặp gỡ ở quan điểm về chức năng tâm lí và tính biểu tượng của huyền

thoại, các đặc điểm của cổ mẫu anh hùng của Rank và Raglan dưới ánh sáng của

Freud chủ yếu xoay quanh mối quan hệ với cha mẹ và tập trung vào nửa đầu trong

cuộc đời người anh hùng. Trong khi đó, lí thuyết của Campbell chịu ảnh hưởng

của Jung quan tâm đến nửa sau của cuộc đời người anh hùng, bắt đầu từ cuộc phiêu

lưu của anh ta và thể hiện vấn đề trung tâm là sự chuyển biến trong tâm trí của

người anh hùng. Người anh hùng mang

ngàn gương mặt (The Heros with a

Thousand Faces, 1949) là công trình

nghiên cứu thần thoại đầu tiên của

Joseph Campbell, có sức ảnh hưởng

mạnh mẽ đến nhiều nhà văn và nghệ sĩ

hiện đại. Xuất phát từ niềm tin rằng

mọi lĩnh vực trong đời sống con người

đều “trào dâng từ chiếc nhẫn thần cơ

bản là thần thoại” [109,19], Campbell

đã tiến hành phân tích hành trình của

người anh hùng trong thần thoại và truyện kể dân gian ở khắp mọi miền thế giới.

Ông gọi tên hành trình của người anh hùng là “monomyth”, một thuật ngữ được

nhà thần thoại vay mượn từ tác phẩm Finnegans Wake (1939) của James Joyce.

Theo Campbell, hành trình của người hùng trải qua 17 giai đoạn và được chia thành

3 chặng đường cơ bản: Lên đường (x) – Thụ giáo (y) – Quay về (z). Trên hành

trình đó, “người hùng từ thế giới ngày thường dấn bước vào một vùng phép lạ siêu

nhiên (x); chạm trán những lực lượng thần kì ở đó và giành được thắng lợi quyết

định (y); người hùng từ chuyến phiêu lưu kì bí này quay về với quyền năng ban ân

huệ cho đồng loại (z)” [109,46]. Trải qua cuộc phiêu lưu, người anh hùng biến đổi

và đạt được trí tuệ hoặc sức mạnh tâm linh.

Sau Campbell, David Adams Leeming với chuyên luận Mythology: the

Voyage of the Hero (Thần thoại: chuyến hành trình của người anh hùng) đã phân

tích các câu chuyện thần thoại về nhân vật anh hùng thành 8 phần ứng với 8 giai

đoạn nổi bật của cuộc đời người hùng [114]. Dẫu phân chia khác nhau về các giai

78

đoạn, song các nhà nghiên cứu vẫn thừa nhận ba nghi thức thiết yếu trong cấu trúc

vòng đời của nhân vật anh hùng đã được Campbell phát hiện. Nghi lễ chuyển đổi

của người hùng, theo Campbell, là “đơn vị hạt nhân trong thần thoại gốc” [109,46]

và mọi thần thoại ở mọi nơi trên thế giới đều có thể đọc được theo công thức này.

Do đó, khi xem xét cội nguồn của văn học từ huyền thoại/thần thoại, các nhà phê

bình huyền thoại cho biết công thức của Campbell không chỉ phù hợp với lĩnh vực

thần thoại mà còn có khả năng khai mở nhiều thể loại văn học khác ở những thời

đại khác nhau, trong đó có tiểu thuyết hiện đại. Dựa trên mô hình của Campbell,

người đọc có thể truy vết mô hình gốc và sự biến đổi của người hùng trong mỗi tác

phẩm để giải mã tác phẩm và gắn kết nó với nhà văn, thời đại và bạn đọc.

3.2. Cấu trúc của cổ mẫu anh hùng trong tiểu thuyết John Steinbeck qua

các motif nhiệm vụ căn bản

Đối chiếu với mô hình cổ mẫu anh hùng trong folklore, cấu trúc vòng đời của

nhân vật anh hùng trong tiểu thuyết của John Steinbeck đều kế thừa các giai

đoạn/nghi thức cơ bản: tiếng gọi phiêu lưu/lên đường, nhiệm vụ và thử thách/thụ

giáo, trở về/quay về (xem thêm phụ lục 4). Song, sự phá vỡ và tái thiết lập cấu trúc

cổ mẫu anh hùng chính là điểm thu hút và phản ánh tinh thần thời đại của tiểu

thuyết John Steinbeck. Nhà văn hầu như không miêu tả tỉ mỉ toàn bộ vòng đời của

nhân vật mà chỉ chú trọng một hoặc một số giai đoạn thiết yếu và một số motif

nhiệm vụ căn bản để làm nổi bật đặc điểm của nhân vật anh hùng gắn với bối cảnh

lịch sử xã hội Hoa Kỳ nửa đầu thế kỉ XX. Hơn nữa, một số sự kiện, chi tiết trong

cuộc đời người anh hùng cũng được Steinbeck cải biến phù hợp với đặc trưng và

chức năng của nhân vật trong tiểu thuyết hiện đại.

Ngoài ra, một số chi tiết tiểu sử liên quan đến sự tái sinh cổ mẫu anh hùng

trong sáng tác của John Steinbeck cũng cần được lưu ý. Từ thuở nhỏ, nhà văn

tương lai Steinbeck đã say mê Kinh Thánh, huyền thoại vua Arthur và những câu

chuyện về người hùng. Thêm vào đó, Steinbeck cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi

truyền thống dịch chuyển và nhu cầu tìm kiếm cái mới lạ như là tâm thức nổi bật

của người Mỹ khởi sinh từ lịch sử lập quốc và mở rộng biên giới đặc thù của nước

Mỹ. Đặc biệt, bối cảnh xã hội nhiều biến động của nước Mỹ nửa đầu thế kỉ XX là

chất liệu hiện thực phong phú thôi thúc Steinbeck tái thiết cổ mẫu anh hùng trong

thế giới tiểu thuyết của ông với hai motif nhiệm vụ cơ bản: tìm kiếm miền đất hứa

79

và xác lập bản sắc.

3.2.1. Tìm kiếm miền đất hứa

“Đất hứa” được biết đến với tên gọi mĩ miều, “vùng đất đượm sữa và mật

ong”, mang hàm ý chỉ nơi sung túc, đủ đầy, nhận được phúc lộc của Chúa Trời.

Trong Kinh Thánh, đó là vùng đất Chúa đã hứa ban cho Abraham và dòng dõi của

ông, dân tộc được Chúa chọn. Sáng thế kí ghi lại lời giao ước của Chúa với

Abraham như sau: “Hôm đó, ĐỨC CHÚA lập giao ước với ông Áp-ram như sau:

‘Ta ban cho dòng dõi ngươi đất này, từ sông Ai Cập đến sông Cả, tức sông Êu-

phơ-rát, đất của những người Kê-ni, Cơ-nát, Cát-môn, Khết, Pơ-rít-di, Ra-pha, E-

mô-ri, Ca-na-an, Ghia-ga-si và Giơ-vút” [115,52].

Theo Heike Paul, trong nghiên cứu The Myths that made America: An

introduction to American Studies (Những huyền thoại định hình nước Mỹ: Dẫn

nhập nghiên cứu Mỹ, 2014), câu chuyện về cuộc chạy trốn khỏi chế độ nô lệ ở Ai

Cập của những người Do Thái và hành trình đến vùng đất Chúa hứa ban cho họ là

một trong những huyền thoại có sức ảnh hưởng lớn nhất của truyền thống Cơ đốc

giáo và Do Thái giáo. Điều đáng lưu ý là câu chuyện của những người nô lệ Do

Thái và huyền thoại về nguồn gốc của nước Mỹ lại có mối liên hệ mật thiết với

nhau. Trong đó nước Mỹ ban đầu được xem như là miền đất hứa của những người

hành hương và những người Thanh giáo vốn là những nhóm người ly khai tôn giáo

rời bỏ nước Anh và châu Âu, di cư đến nước Mỹ/châu Mỹ để tìm kiếm tự do tôn

giáo, tìm kiếm “tân thế giới”/“thiên đường trên mặt đất”/miền đất hứa [116]. Như

thế, sự hình thành của nước Mỹ, ở một khía nào đó, gần gũi với câu chuyện cổ xưa

của cộng đồng Do Thái.

Nước Mỹ/châu Mỹ ban đầu được biết đến với những cái tên gắn liền với tính

từ “new” (mới), New World hay New England, hàm ý chỉ sự mới mẻ, tốt đẹp hơn

so với châu Âu già cỗi. Lịch sử phát triển của đất nước này cũng tiết lộ nhu cầu

khám phá những vùng đất mới lạ, hoang sơ như là căn tính đặc biệt của quốc gia.

Điều này được thể hiện qua quá trình mở rộng biên giới về phía Tây “từ bờ biển

Đại Tây Dương chuyển sang Trung Tây rồi sang viễn Tây” [5,117] với một không

gian luôn dịch chuyển, hoang sơ, xa lạ, trù phú, tự do, đầy tinh thần phiêu lưu.

Chính vì vậy, miền Tây Mỹ luôn hiện diện và chiếm vị trí quan trọng trong trí

tưởng tượng và văn hóa của người Mỹ, trở thành một huyền thoại quốc gia.

80

Như thế, huyền thoại về miền đất hứa và cuộc tìm kiếm đất hứa thường xuyên

được củng cố và phổ biến trong lịch sử phát triển, mở rộng biên giới của nước Mỹ.

Vì vậy, nhiều nhà văn Mỹ thường sử dụng motif tìm kiếm miền đất hứa với nhiều

màu sắc khác nhau để phản ánh căn tính quốc gia và những vấn đề của thời đại.

Vũ Minh Đức, trong luận án Cổ mẫu trong truyện ngắn Isaac Bashevis Singer,

khám phá hành trình đến miền đất hứa trong sáng tác của nhà văn người Mỹ gốc

Do Thái. Theo tác giả, những nhân vật của Singer luôn ở trong hành trình hoặc

chạy trốn hoặc kiếm tìm: “Tiếng gọi lên đường để kiếm tìm miền đất hứa của các

nhân vật được kết nối với kho vô thức cộng đồng và được thổi bùng lên thành khát

khao và ước vọng… LÊN ĐƯỜNG trở thành một nhu cầu và hành động tất yếu”

[20,79]. Hành trình tìm kiếm của các nhân vật trong truyện ngắn Singer thường

mang màu sắc tôn giáo và biểu đạt khát khao tìm về cội nguồn của một dân tộc tha

hương, trong khi đó, cuộc truy tìm của các nhân vật trong tiểu thuyết John

Steinbeck hướng đến khát vọng thay đổi hiện tại, sở hữu một mảnh đất nho nhỏ,

nơi họ có thể sống sót và vượt qua những khó khăn, đau khổ trong xã hội hiện đại

khốc liệt.

Khác với những thần thoại, truyền thuyết cổ xưa, nhân vật anh hùng trong thế

giới nghệ thuật tiểu thuyết John Steinbeck phần đa là những người lao động nghèo,

bộ phận chịu tác động dữ dội của cuộc Đại khủng hoảng và những bất ổn xã hội

thời hiện đại như chiến tranh, hậu chiến và thảm họa môi sinh. Do đó, nhiệm vụ

của các nhân vật anh hùng trong tác phẩm của Steinbeck không hướng đến những

kì tích lập chiến công phi thường như giết chết quái vật, chiến thắng kẻ thù… mà

trước hết gắn liền với nhu cầu, mong muốn tìm kiếm một cuộc sống tốt đẹp hơn,

một miền đất hứa, nơi họ có thể tồn tại bằng cách chăm chỉ làm lụng.

Sinh ra và lớn lên ở Salinas, thuộc bang California, mang theo lịch sử dịch

chuyển từ Đông sang Tây của đại gia đình và một tình yêu mãnh liệt với quê hương

Salinas, Steinbeck hiểu rõ vị trí của miền Tây trong tâm thức của người Mỹ. Do

đó, phần lớn tiểu thuyết của ông lấy bối cảnh ở California với nhiều nhân vật dịch

chuyển từ miền Đông nề nếp, hiện đại tìm đến miền Tây hoang sơ, phóng khoáng.

Chẳng hạn như nhân vật Joseph Wayne, trong tiểu thuyết thứ ba của Steinbeck,

Gửi vị thần chưa biết, thực hiện hành trình từ trang trại Vermont cằn cỗi của gia

đình thuộc New England đến một trang trại nhỏ ở một thung lũng yên tĩnh, màu

81

mỡ của California. Điểm khác biệt giữa hai nơi chốn hé lộ mục đích hành trình của

Joseph, đó là ước vọng sở hữu một vùng đất tươi đẹp hơn, tự do hơn mảnh đất cằn

cỗi ở quê nhà. Hơn nữa, khát vọng tự thân lập nghiệp của Joseph còn phản ánh ý

chí tự do của nhân vật khi anh ta quyết tâm thoát khỏi trang trại của người cha hà

khắc và độc đoán. Tương tự câu chuyện về Joseph, Adam Trask, trong tiểu thuyết

Phía đông vườn địa đàng, cũng rời bỏ trang trại của gia đình ở Connecticut thuộc

miền Đông Hoa Kỳ để tìm đến thung lũng miền Tây Salinas, California đẹp đẽ,

“luôn chan hòa ánh nắng mặt trời” [97,60] với mong muốn “lập nghiệp, tậu nhà

sinh sống” [97,64] dựng xây địa đàng cùng với nàng Eva của chàng là Cathy Ames.

“Giấc mộng con” của hai gã đàn ông lang thang, George và Lennie, trong tiểu

thuyết ngắn Của chuột và người, phản ánh nhu cầu tìm kiếm việc làm, dành dụm,

gom góp tiền để “mua căn nhà nhỏ với hai mẫu đất, một con bò cái và mấy con

lợn”, để được “sống trên miếng đất màu mỡ” của chính họ [90,30].

Đặc biệt, với kiệt tác Chùm nho phẫn nộ, nhà văn Steinbeck đã tái sinh một

cách ấn tượng, rõ nét motif tìm kiếm miền đất hứa và cuộc hành trình của những

người nông dân vô gia cư thời hiện đại, mà cụ thể là của gia đình Joad và đám đông

di tản. Trong đó, hành trình của gia đình Joad được miêu tả cận cảnh trên nền cảnh

hành trình lớn của đám đông di tản từ vùng Trung Tây cằn cỗi, Oklahoma, đến xứ

sở của mặt trời và cam, thiên đường phía Tây, California, với niềm tin mãnh liệt

rằng nơi xa lạ đó ít nhất vẫn tốt đẹp hơn quê nhà bị tàn phá bởi bão bụi và bị xua

đuổi bởi máy móc, ngân hàng. Trên hành trình tìm kiếm một nơi chốn để sinh sống

của những con người khốn khổ, Tom Joad và Ma Joad, hai nhân vật chính của thiên

tiểu thuyết, là những nam/nữ anh hùng từng bước nắm giữ nhiệm vụ dẫn đầu, bảo

vệ, làm chỗ dựa tinh thần cho đoàn người di tản.

Là một nhà văn của thời đại khủng hoảng, Steinbeck được tận mắt chứng kiến

“dòng suối người tị nạn” khắp nơi di tản về miền Tây. Tiếp nối truyền thống viết

về sự dịch chuyển trong văn học phương tây, ông đã tái hiện cuộc trốn chạy thời

hiện đại của những con người bất hạnh. Họ là nạn nhân của cuộc Đại suy thoái vào

những năm 1929-1933: mùa màng thất bát, nợ nần chồng chất cùng với công cuộc

cơ khí hóa nông nghiệp đã khiến người nông dân mất đi ruộng đất và bị xua đuổi

khỏi quê hương xứ sở. Giống như những người Do Thái chạy trốn chế độ nô lệ hà

khắc ở Ai Cập, những kẻ tị nạn trong kiệt tác của Steinbeck cũng trốn chạy những

82

nỗi kinh hoàng thời hiện đại là thiên tai và sự bóc lột của những thế lực ngầm,

những “con quái vật” thời đại kĩ trị. Rơi vào “bước đường cùng”, những người vô

gia cư buộc phải lìa xa mảnh đất vốn đã gắn liền với quá khứ của họ, tổ tiên của

họ, nơi họ đã trải qua “những năm tháng lụt lội, những năm tháng mưa lũ và những

năm tháng khô hạn”, để tiếp tục hành trình sống nhọc nhằn với niềm hy vọng có

thể sống sót ở miền đất mới, miền đất trù phú ở California bốn mùa hoa trái, nơi

họ được những tay đại diện của chủ đất, ngân hàng, công ty – những vị “Chúa”

toàn năng thời hiện đại, hứa hẹn, quảng cáo và mời chào với những lời lẽ hoa mĩ:

cứ “đi về miền Tây, sang California”. “Ở đó có công ăn việc làm, ở đó không bao

giờ lạnh”, “chỗ nào cũng có cam, chỉ cần giơ tay ra mà hái” [85,60]. Trên hành

trình chạy trốn và tìm kiếm miền đất hứa của mình, những người di cư đã trải qua

bao nhiêu chuyện đắng cay, khốc liệt song vẫn nuôi giữ niềm tin bất diệt vào tương

lai.

Nổi bật trong đoàn người di tản đến miền tây là gia đình Joad. Cùng với hàng

loạt gia đình bất hạnh khác, cả nhà Joad buộc phải rời bỏ mảnh đất cha ông để lại,

lên đường tìm kiếm một vùng đất mới để duy trì sự sống. Trên đường trường lắm

gian nan, gia đình Joad và đoàn người di tản phải trải qua nhiều thử thách, thiếu

thốn, đói khát và đặc biệt là mất đi người thân. Ông nội và bà nội nhà Joad chưa

kịp thấy đất hứa thì đã qua đời vì nỗi đau xa lìa quê hương và sức lực có hạn mà

đường trường lắm gian nan. Những người đàn ông họ Joad như Noah, Connie,

cũng lần lượt rời bỏ gia đình. Steinbeck đã trao nhiệm vụ dẫn dắt đoàn người khốn

khổ tìm kiếm miền đất hứa cho những nam, nữ anh hùng là Tom Joad và Ma Joad.

Trong bài viết “Phân tích nhân vật cổ mẫu Jim Casy trong Chùm nho phẫn

nộ”, Yanhong Fan cho rằng Jim Casy là “người dẫn đầu gia đình Joad và những

người khác để thăm dò vùng đất mới” [72,5]. Theo chúng tôi, người dẫn đầu gia

đình Joad là nhân vật Ma Joad và Tom Joad. Bởi vì, xuyên suốt câu chuyện, cả hai

nhân vật này dần dần khẳng định vai trò dẫn dắt, lãnh đạo của họ. Ma Joad từ một

người mẹ, người vợ kính cẩn người chồng, nhường lời cho con trai, tiến đến “nổi

loạn” chống lại chồng mình và bất cứ ai đe dọa sự bình yên của gia đình bà. Vai

trò và địa vị mới mẻ của Ma Joad được xác lập rõ rệt trong phần kết của thiên

truyện, khi đàn ông họ Joad buông xuôi hoặc đã bỏ đi thì người phụ nữ thép ấy vẫn

ngoan cường chống chọi, nỗ lực tìm kiếm một nơi khô ráo cho cả gia đình. Cùng

83

với mẹ, Tom cũng từng bước nắm lấy vai trò mới của anh. Vượt qua ám ảnh tù tội,

Tom là người đàn ông duy nhất trong gia đình không những không suy sụp trước

những biến cố dữ dội của thời đại mà còn trở thành chỗ dựa vững chãi cho cả nhà

Joad. Bằng trí thông minh, nhạy bén, am hiểu kĩ thuật vận hành máy móc, anh đảm

nhiệm công việc lái xe, tìm kiếm đường đi an toàn, giúp gia đình Joad vượt qua

đường trường cam go để đến đất hứa California. Như thế, sự thể hiện của hai nhân

vật ấn tượng này cho thấy vị trí dẫn đầu gia đình, đoàn người di tản tìm kiếm miền

đất hứa thuộc về họ, những nam, nữ anh hùng dễ dàng thích nghi với sự thay đổi,

dịch chuyển trong thời đại bất ổn, khủng hoảng.

Trên cơ sở motif tìm kiếm miền đất hứa, Steinbeck đã tiếp biến và chuyển đổi

motif này, bằng cách xoáy sâu vào kết cục nhiệm vụ bất thành. Đây cũng là một

đặc trưng của tiểu thuyết hiện đại, là ở chặng cuối - nhiệm vụ không hoàn tất. Trong

tác phẩm, những kẻ khốn khổ đã đặt chân đến vùng đất mà họ tưởng là đất hứa

nhưng thực chất lại là địa ngục hay đất hứa thực sự dành cho những kẻ tị nạn mãi

chỉ là ảo vọng. Không giống như những người Do Thái, đặt chân đến miền đất hứa

là hoàn thành nhiệm vụ, trong Chùm nho phẫn nộ, sau khi đến California, gia đình

Joad và đám đông di tản vẫn chưa tìm thấy đất hứa, vùng đất được hứa hẹn ban

đầu giờ đây với họ là một địa ngục khác, ở nơi đó những kẻ khốn khổ phải chịu

đựng đói khổ và bất mãn chẳng khác gì quê nhà mà họ đã dứt áo ra đi. Song, điều

đáng kể là những kẻ tị nạn không đầu hàng số phận và bất công xã hội, họ vẫn tiếp

tục lên đường tìm kiếm một miền đất hứa khác dẫu rằng hi vọng đó thật mong

manh. Thiết nghĩ đâu phải hành trình nào, nhiệm vụ nào cũng được thực hiện thành

công mĩ mãn. Người Do Thái tìm thấy vùng đất đượm sữa và mật, còn người nông

dân trong tác phẩm của Steinbeck không thể thoát khỏi cảnh đói rách, kì thị. Đó là

sự thật phũ phàng thời hiện đại, là trạng huống hiện sinh bi đát được Steinbeck và

các nhà văn hiện đại ý thức sâu sắc.

3.2.2. Xác lập bản sắc

Xác lập bản sắc là motif cổ mẫu nhiệm vụ rất phổ biến và cũng là một trong

những mục tiêu lớn của hành trình mà người anh hùng phải trải qua trước khi đạt

đến đời sống vĩnh hằng. Cổ mẫu này mang ý nghĩa quan trọng ngay cả khi nó chỉ

có vị trí đường biên trong đường dây cốt truyện. Bởi lẽ, điều vĩ đại tối thượng mà

con người khát khao thấu hiểu là họ là ai và điều gì tạo nên bản sắc của họ. Arnold

84

Grod, tác giả của công trình Theories of Culture, khi thảo luận về bản sắc và bản

sắc văn hóa đã dành sự chú ý về các nhóm đặc trưng, góp phần khu biệt các cá

nhân giữa các nền văn hóa khác nhau và nhận diện các nền văn hóa. “Nhìn chung

bản sắc thường được hiểu như sự hiện diện của một tập hợp các đặc trưng mà mỗi

cá nhân được công nhận. Bản sắc văn hóa là những đặc trưng mà nhờ nó cá nhân

được công nhận là thành viên của một nền văn hóa” [117,180]. Với ý nghĩa quan

trọng của bản sắc, nhiệm vụ xác lập và củng cố bản sắc là mối quan tâm hàng đầu

của truyện kể thuộc mọi miền không gian và thời gian.

Trong thế giới tiểu thuyết của John Steinbeck, motif tìm kiếm miền đất hứa

thường gắn liền với truyền thống lịch sử lập quốc và biểu trưng cho ước vọng của

người dân Mỹ về một quốc gia thịnh vượng, hạnh phúc và bình đẳng, trong khi đó,

motif xác lập bản sắc lại biểu hiện cái nhìn sâu sắc của nhà văn về bản sắc văn hóa

của người Mỹ và nước Mỹ. Cụ thể là những vấn đề nội tại nhức nhối mà người Mỹ

phải đối diện và vượt qua để tìm thấy giá trị đích thực của cá nhân và cộng đồng,

đồng thời củng cố và tái lập những lí tưởng tốt đẹp từ thuở lập quốc của tổ tiên họ

trước sự tấn công của những đợt sóng nghiệt ngã, mặt trái của xã hội hiện đại và

thời đại kĩ trị.

Nếu như Ernest Hemingway lựa chọn những người lính Mỹ xa xứ làm nhân

vật trung tâm trong những tiểu thuyết của ông như Mặt trời vẫn mọc, Giã từ vũ khí,

Chuông nguyện hồn ai, William Faulkner quan tâm đến giai cấp quý tộc miền Nam

trong những năm tháng suy tàn với Âm thanh và cuồng nộ, Nắng tháng tám…, John

Steinbeck thường xuyên đề cập đến những phận người nhỏ bé, thất nghiệp, vô gia

cư, nghèo khổ - nhóm người yếu thế và chịu tác động dữ dội của những bất ổn xã

hội thời hiện đại. Do vậy, bên cạnh việc mô tả đời sống lao động khổ cực, vấn đề

củng cố và tái lập bản sắc là điểm mấu chốt trong quá trình khám phá đời sống tinh

thần của cộng đồng yếu thế này. Theo Nikkita Walker, Steinbeck thường xuyên sử

dụng các yếu tố huyền thoại và Kinh Thánh để chuyển tải điều mà theo ông là câu

chuyện cơ bản của nhân loại: ý thức về việc làm chủ bản sắc của mỗi con người

[74]. Điều này cũng là mối quan tâm hàng đầu của nhà thần thoại Joseph Campbell

khi ông cho rằng câu chuyện ở trung tâm của thần thoại thường là nhận thức về

khả năng hành động có ý thức của con người: “Người hùng là người bảo vệ những

thứ đang thành, không phải thứ đã thành, vì anh ta tồn tại vĩnh viễn” [109,267].

85

Song, giá trị của motif xác lập bản sắc trong tiểu thuyết John Steinbeck không hẳn

chỉ là việc nhà văn tái sử dụng các yếu tố huyền thoại xưa mà quan trọng hơn là

cách thức nhà văn tạo sinh motif này để thể hiện trạng huống hiện sinh mới mẻ

trên nền cảnh biến động của nước Mỹ nửa đầu thế kỉ XX.

Tiểu thuyết của John Steinbeck thường khởi đầu với trạng huống khủng hoảng

bản sắc hay tình trạng thiếu vắng gốc rễ, cội nguồn của nhân vật anh hùng. Theo

Jay Parini, trong lời giới thiệu tác phẩm Tôi, Charley và hành trình nước Mỹ, đề

tài về sự thiếu vắng gốc rễ đã trở thành một phần quan trọng của cuốn sách du hành

nổi tiếng này [118]. Tuy nhiên, khi xem xét toàn bộ sáng tác của John Steinbeck,

không khó để bạn đọc nhận ra rằng đề tài này đã hiện diện ở nhiều tiểu thuyết trước

đó như: Của chuột và người, Chùm nho phẫn nộ, Viên ngọc trai, Phía đông vườn

địa đàng như là một niềm trăn trở khôn nguôi của nhà văn về tâm hồn của người

Mỹ và nước Mỹ. Đó là sự phát triển thần tốc, vươn lên vị trí dẫn đầu thế giới của

nước Mỹ nhưng bên cạnh đó là thời kì Đại suy thoái đã hủy hoại đời sống của

những tầng lớp dưới đáy/bên lề xã hội, là những mặt trái khủng khiếp của xã hội

kĩ trị làm lung lay tận gốc những giá trị Mỹ và nỗi ám ảnh thường trực của người

Mỹ về những vết nhơ lịch sử trong lòng nước Mỹ hiện đại.

Trải nghiệm nông thôn trong những năm tháng thiếu thời và tuổi trẻ lang bạt

đã giúp John Steinbeck thấu hiểu nỗi thống khổ của những người nông dân Mỹ

trong thập niên 1930. Nỗi thống khổ đó đâu chỉ là cái nghèo, cái đói, đời sống thiếu

thốn và đầy bất an mà xót xa hơn nữa còn là sự thiếu vắng gốc rễ và nguy cơ đánh

mất bản sắc, cội nguồn mà đám đông di tản, nổi bật là George và Lennie trong Của

chuột và người, gia đình Joad trong Chùm nho phẫn nộ, phải đối diện và xoay xở.

Là nhà văn hiểu rõ mối liên hệ giữa mỗi vùng đất và con người, Steinbeck đồng

cảm với nỗi đau của những người nông dân mất đất. “Mảnh đất này, mảnh đất đỏ

này, chính là chúng ta, và những năm tháng lụt lội, những năm tháng mưa lũ và

những năm tháng khô hạn, đó là chúng ta” [85,138]. Vì thế, đối với những người

nông dân, mất đất nghĩa là mất cội nguồn, quá khứ và là nguồn cơn dẫn đến tình

trạng khủng hoảng bản sắc. Khi giã từ mảnh đất, ngôi nhà đã từng là của họ để lên

đường đến miền Tây, đám đông di tản tự hỏi rằng: “Những thứ đó là những mảnh

đời chúng ta. Không có chúng thì chúng ta sống làm sao được? Không có dĩ vãng

của chúng ta làm sao chúng ta nhận ra chính chúng ta? Thôi, đành phải bỏ lại. Đem

86

đốt đi” [85,140]. Những lời hỏi thiếu vắng câu trả lời ấy tiết lộ tâm trạng xót xa,

ngậm ngùi, hoang mang vì tương lai vô định và quá khứ hoen ố của đám đông di

tản và sâu thẳm hơn là cuộc khủng hoảng bản sắc cá nhân và cộng đồng ẩn giấu

bên dưới cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội trầm trọng. Vì vậy, nhiều người trong

số họ đã không thể vượt qua những chấn động dữ dội đến từ bên ngoài lẫn bên

trong những tâm hồn mong manh, dễ thương tổn đó. Chẳng hạn như nhân vật ông

nội của nhà Joad, người đã chết ngay từ giây phút bị xốc nách ra khỏi nhà bởi “ông

nội với ngôi nhà cũ, đúng chỉ là một” [85,228] hay nhân vật Muley cương quyết

trụ lại với mảnh đất nhưng phải sống chui lủi, lẩn trốn, đơn độc như một kẻ cắp

trên chính quê hương của mình.

Theo nhà nghiên cứu văn hóa Hữu Ngọc, “lịch sử Hoa Kỳ như chính người

Mỹ đã từng nhận định ‘có hai vết nhơ’: sự tàn sát bốn chục triệu thổ dân da đỏ,

chiếm đất, hủy hoại nền văn minh của họ, và sự bóc lột dã man hai chục triệu người

da đen, bị bắt từ châu Phi sang làm nô lệ” [5,679]. Là nhà văn của nhóm người yếu

thế, Steinbeck cũng hướng sự chú ý đến những người Mỹ bản địa nhỏ bé bằng cách

tái hiện cuộc khủng hoảng bản sắc và hành trình xác lập bản sắc của cộng đồng

thiểu số này dưới sự thống trị và áp chế của cộng đồng chính thống. Chẳng hạn

như nhân vật Kino, một người Mỹ bản địa nghèo khó trong Viên ngọc trai, xuất

hiện trong phần mở đầu của tác phẩm với những cảm xúc khó như yếu đuối, sợ

hãi, tức giận, phẫn nộ và khiếp sợ khi mang con trai bị bọ cạp chích đến nhà lão

bác sĩ da trắng trong thị trấn để chữa trị. Đây cũng là những kinh nghiệm đớn đau

được truyền thừa qua nhiều thế hệ của người da đỏ trước những người da trắng

“chủng tộc mà ngót nghét bốn trăm năm trước đây từng đánh đập, bỏ đói, chà đạp

tộc người của Kino” [86,19]. Như thế, sự kiện đứa bé bị trúng độc và đoàn người

da đỏ kéo đến nhà lão bác sĩ da trắng là giọt nước tràn ly, khơi dậy trạng huống

khó khăn của người Mỹ bản địa, “những kẻ khác” theo cách gọi của các nhà phê

bình hậu thực dân. Trong lĩnh vực nghiên cứu này, thuật ngữ kẻ khác đề cập đến

những người thuộc địa, những kẻ bị gạt ra bên lề bởi diễn ngôn thực dân. Thuật

ngữ này tiết lộ những giới hạn mang lại cảm giác phụ thuộc về bản sắc của những

người thuộc địa, những kẻ được xem là ngây thơ, mông muội, xấu xí trong cái nhìn

của thực dân Tây phương văn minh, duy lí, tiến bộ [119].

Tuy nhiên, nhà văn Steinbeck không chỉ xem xét người bản xứ với cái nhìn

87

bên ngoài của kẻ chinh phục mà còn khám phá nhân vật xung quanh cộng đồng

của anh ta. Biểu hiện là nhân vật Kino rơi vào trạng thái khủng hoảng bản sắc đỉnh

điểm khi anh ta may mắn tìm thấy viên ngọc trai, vật báu hứa hẹn giúp anh và gia

đình đổi đời, thế nhưng cũng chính báu vật đó khiến anh và gia đình phải đối diện

với những âm mưu tà ác. Những kẻ rắp tâm cướp viên ngọc trai không chỉ là dân

da trắng ở thị trấn mà còn là những người đồng tộc của anh. Điều đó khiến Kino

“cảm thấy mình cô đơn không nơi nương tựa” [86,43], ngờ vực mọi thứ xung quanh

và mất kết nối với chính cộng đồng của mình.

Trước tình trạng khủng hoảng bản sắc, nhiều nhân vật trong tiểu thuyết của

Steinbeck buộc phải tẩu thoát. Kino cùng với vợ và con trai thoát li khỏi cộng đồng

da đỏ. Gia đình Joad và đám đông di tản tìm đến miền Tây nước Mỹ, George và

Lennie lang thang trên những xa lộ, điều đó đồng nghĩa với việc họ đành phải chấp

nhận sự thiếu vắng cội rễ, thực hiện hành trình tìm kiếm miền đất hứa đồng thời là

hành trình tái lập bản sắc của họ. Cố nhiên, trên hành trình tìm kiếm hay thiết lập

lại bản sắc của mình, các nhân vật phải trải qua nhiều thử thách và mất mát là điều

không tránh khỏi. Đôi khi đó là sự thách thức của tự nhiên hung bạo. Kino dẫn vợ

con trốn chạy “giữa bầu không đen kịt”, “gió thốc điên cuồng về mọi phía” [86,96]

và tiếng sói hoang tru ghê rợn. Đám đông di tản và nhà Joad ra đi trong cát bụi mịt

mù, dưới ánh nắng mặt trời nóng bỏng và phải vượt qua sa mạc bằng những chiếc

xe ọp ẹp, cọc cạch. Song, mối đe dọa lớn nhất đối với họ lại chính là những kẻ có

quyền lực, giàu có, thuộc về cộng đồng đang nắm ưu thế. Đó là những kẻ truy lùng

Kino để cướp viên ngọc trai, là bọn cớm lăm le bắt giữ những người di tản, là dân

bản xứ với thái độ khinh miệt và xua đuổi những kẻ khốn cùng, là những chủ trại

thông đồng trả tiền nhân công rẻ mạt. Trong khi đó, những con người khốn khó,

nhỏ bé ấy chỉ nhận được sự trợ giúp từ những người đồng cảnh ngộ, những người

thấu cảm với nỗi đau khổ và bất hạnh của họ. Đó là sự sẻ chia cái lều, tấm chăn

của gia đình Wilson cho nhà Joad vì một lí lẽ giản dị, con người ta cần phải giúp

đỡ lẫn nhau lúc khó khăn hoạn nạn. Đó là sự che chở và trợ giúp của gia đình Juan

Tomás, anh trai của Kino, khi Kino và vợ con lâm vào tình thế ngặt nghèo.

Sáng tác trong thời điểm nước Mỹ bắt đầu tái đánh giá căn tính giới và chủng

tộc, phong trào dân quyền và nữ quyền nở rộ và đạt được nhiều thành tựu lớn lao,

Phía đông vườn địa đàng, tác phẩm mà Steinbeck đã dành cả đời để viết, được biết

88

đến như một huyền thoại đương đại về “hành trình con người vươn đến sự toàn

thiện và giành được quyền làm chủ bản sắc cá nhân và phổ quát của mình” [74].

Do đó, khác với các tiểu thuyết mang tính đấu tranh xã hội trước đây, tác phẩm

này tập trung vào xung đột bên trong và tính chất phức tạp của tâm hồn con người

để biểu đạt sinh động câu chuyện lớn nhất của đời người: hành trình kiến tạo bản

sắc và làm chủ bản sắc của con người. Nhiều nhân vật trong tác phẩm phải đối diện

với nhiều cuộc khủng hoảng bản sắc khác nhau, chẳng hạn như Lee, một người Mỹ

gốc Hoa, có diện mạo của một người Trung Hoa song cách giao tiếp đậm chất Mỹ

hay Samuel Hamilton, một người Mỹ gốc Ireland, thường phải che dậy cảm xúc

buồn bã và tính cách nghiêm túc bằng sự nổi loạn và hài hước để đáp ứng mong

đợi của mọi người xung quanh hay Caleb (Cal) Trask phải vượt qua mặc cảm tội

lỗi và truyền thuyết huyết thống để làm chủ bản sắc của mình. Trong khi các tác

phẩm mang tính đấu tranh xã hội của Steinbeck như Chùm nho phẫn nộ giải quyết

vấn đề bản sắc bằng cách để nhân vật trải nghiệm, nhận thức tính gắn kết giữa cá

nhân và cộng đồng và hướng đến bản sắc phổ quát, thì đến chặng cuối trong hành

trình sáng tác của mình mà tác phẩm tiêu biểu là Phía đông vườn địa đàng,

Steinbeck lại chú ý đến tầm quan trọng của bản sắc cá nhân đối với cuộc đời và số

phận mỗi con người.

Hành trình đến miền đất hứa của người hùng Tom Joad cũng là quá trình nếm

trải những khó khăn và nghịch cảnh, vượt qua những mất mát của gia đình trong

thời kì Đại suy thoái để đạt được sự trưởng thành về mặt đạo đức và tinh thần. Từ

quê nhà Oklahoma đến California, Tom không chỉ là người dẫn đầu gia đình cùng

với bà mẹ mà còn nỗ lực tái lập bản sắc mới của mình, anh dần dần học được cách

bình tĩnh, suy nghĩ thấu đáo, khôn ngoan, đặc biệt là những thay đổi về nhận thức

và hành động. Mở đầu tác phẩm, Tom xuất hiện qua những chi tiết miêu tả ngoại

hình, trang phục và cuộc đối thoại giữa anh và tài xế xe tải, song tên của anh không

hề được nhắc đến. Điều này tiết lộ anh là một người khá kì lạ và đáng ngờ. Khi

gặp Casy và lắng nghe ông ta thú nhận về tội lỗi và sự mất mát thánh linh, Tom

hầu như không thể hiểu được những ý tưởng khác biệt của Casy. “Joad cúi mắt

nhìn đất, như thể anh không đương đầu nổi với sự lương thiện thật đơn giản trong

đôi mắt người mục sư” [85,45]. Thế nhưng, trên hành trình đến đất hứa California

cùng gia đình, Tom dần dần khẳng định vai trò lãnh đạo của mình khi anh là người

89

đàn ông duy nhất trong gia đình không bị chao đảo trước những biến động dữ dội

của thời cuộc, anh cùng mẹ đưa ra những quyết định liên quan trực tiếp đến số

phận của cả đại gia đình. Đặc biệt, sau khi Casy bị giết chết, Tom đã tái lập được

bản sắc của mình thông qua sự biến đổi về hành động và tâm linh. Trong tác phẩm,

Tom hai lần phạm tội giết người: trong khi lần giết người thứ nhất là hành động

bản năng để tự vệ, thì ở lần thứ hai lại là hành động trả thù cho Casy, người bạn

đồng hành và cũng là người truyền cảm hứng cho Tom, đã bị giết hại. Theo Patrick

W. Shaw, “Điểm khác biệt quan trọng nhất giữa hai vụ giết người này là động cơ

của Tom đã chuyển từ chỉ để bảo vệ bản thân hoặc nhu cầu bản năng sang bảo vệ

người khác và lí tưởng của họ” [120,622]. Điều này tiết lộ nhân vật Tom đã có một

sự biến đổi lớn trong quá trình xác lập bản sắc của mình. Cuối tác phẩm, sau khi

trải qua nhiều biến cố, đặc biệt là cái chết của Casy và quá trình nghiền ngẫm

những ý tưởng Casy để lại, Tom quyết định tiếp tục thực hiện sứ mệnh và nhiệm

vụ dở dang mà Casy đã theo đuổi. Vào thời điểm đó, Tom ý thức được nhiệm vụ

của anh là giải phóng xã hội hơn là chỉ cứu rỗi tâm linh. Vì vậy, khi Ma Joad lo

lắng về sự an nguy của Tom, anh nói với mẹ về linh hồn xã hội, nơi ẩn náu mới

của anh khi anh và nhân loại nghèo khổ liên hiệp lại thành một khối thống nhất:

“Bao giờ con cũng có mặt trong bóng tối, khắp nơi. Khắp nơi nào mẹ nhìn. Khắp

nơi nào mà có một cuộc đánh lộn để con người đói khát có thể giành giật nhau

miếng ăn, nơi đó sẽ có con. Khắp nơi nào có một tên cảnh sát đang đánh đập một

con người, sẽ có con” [85,671]. Điều đó cũng có nghĩa là bản sắc của nhân vật

Tom được tạo lập khi anh ta tìm thấy mối dây gắn kết giữa cá nhân và cộng đồng,

khi linh hồn của riêng anh gắn bó với linh hồn tập thể. Nhận định về hành trình đạt

được khả năng làm chủ bản sắc của Tom, Sam Bluefarb cho rằng về mặt bản chất,

cuộc tẩu thoát vào linh hồn tập thể của Tom là hành trình trở lại thực tại rộng lớn

hơn và đầy thách thức hơn trước, hành trình này không chỉ dành riêng cho Tom

hay các thành viên khác của gia đình Joad mà cho tất cả những người đồng cảnh

ngộ với họ ở khắp mọi nơi trên mặt đất này [56].

Tương tự Tom, nhân vật Cal, trong Phía đông vườn địa đàng, cũng là một

người anh hùng nếm trải nhiều thử thách để đạt được sự hiểu biết và quyền tự chủ.

Song, khác với Tom, người anh hùng tìm thấy sức mạnh của bản sắc cá nhân khi

trở về với bản sắc phổ quát, hành trình của Cal lại là quá trình thử nghiệm và thay

90

đổi nhận thức để đạt được khả năng làm chủ bản sắc cá nhân một cách tuyệt đối,

thoát khỏi những ám ảnh về bản sắc phổ quát. Ngay từ lúc sinh ra, Cal và anh trai

Aron đã là những đứa trẻ thiếu vắng tình yêu của cả cha lẫn mẹ chỉ vì cha của họ

là Adam chìm trong cơn tuyệt vọng khi người vợ vừa mới sinh ra cặp song sinh bỏ

đi, để lại cho người chồng đương lúc đau khổ hai đứa bé côi cút, không tên. Adam

cũng chẳng mảy may đoái hoài đến chúng, phó mặc hai đứa trẻ cho chú giúp việc

người Tàu là Lee. Là anh em song sinh nhưng khác với Aron, Cal có ý thức sâu

sắc về bản sắc cá nhân và môi trường sống của mình. Trong khi Aron đắm chìm

trong thế giới lí tưởng và hoàn mĩ do chính anh ta dựng lên, Cal là một con người

không hoàn hảo, cậu hiểu rõ bản thân là sự kết hợp của cả cái thiện lẫn cái ác. Cal

hết lòng kính yêu cha, hướng về cái thiện, đồng thời kính sợ mẹ và lo sợ cái ác một

ngày nào đó sẽ lấn át phần lương thiện trong tâm hồn cậu. Nhờ vậy, Cal đã vượt

qua nỗi sợ hãi khi biết rõ sự thật về mẹ anh, rằng bà đã bắn cha anh rồi bỏ rơi cha

con anh và giải thoát khỏi những ám ảnh về việc anh mang dòng máu của người

mẹ ác. Cal nói với bà Kate: “Tôi đã e sợ rằng tôi mang dòng máu của bà”/ “Cậu

có”, Kate đáp./ “Không, không phải vậy. Tôi là chính tôi. Tôi không phải là bà”

[92,310].

Để bảo vệ anh trai, Cal đã cố gắng che giấu sự thật về mẹ, song trong một

khoảnh khắc không thể kìm nén sự đố kị, ganh ghét anh trai và giận dỗi vì cha anh

từ chối món quà giáng sinh mà anh đã hết lòng chuẩn bị cho ông, Cal đã tiết lộ sự

thật khủng khiếp đó với Aron. Điều này đã gián tiếp dẫn đến cái chết của Aron và

sau đó là cơn đột quỵ của ông Adam. Cal vô cùng ân hận và đau khổ, mặc cảm tội

lỗi lại trào dâng trong anh. Song, nhờ sự động viên và khuyên giải kịp thời của chú

Lee, Cal nhận ra con đường đúng đắn cho mình, rằng anh không giống như cha

anh, ông Adam từ chối tấm lòng của anh vì ông không thể suy nghĩ khác hơn. “Đó

là bản chất của ông ấy. Đó là con đường duy nhất ông ấy biết. Ông ấy không thể

chọn lựa được điều gì khác. Nhưng cậu thì khác […]. Cậu có quyền lựa chọn”

[92,645]. Vì vậy, dù rất ân hận về hành động của mình nhưng Cal hiểu anh không

thể thay đổi việc anh đã gây ra và điều duy nhất anh có thể làm bây giờ là cầu xin

sự tha thứ của cha. Nếu như Cal đã đến gặp bà Kate để xác minh bản sắc cá nhân

của mình, thì từ cuối cùng mà ông Adam thều thào thốt ra trong cơn hấp hối là

“Timshel” [92,714] có thể không phải là dấu hiệu của sự tha thứ nhưng một lần

91

nữa nhắc nhở Cal về quyền chọn lựa của anh, về khả năng vượt qua cái ác của

chính anh. Theo Nikkita Walker, “đó là phước lành cao thượng dành cho Cal, lầm

lỗi của anh không hoàn toàn định nghĩa bản sắc của anh và anh có thể lựa chọn

hướng về cái tốt đẹp hơn” [74,6]. Sau cùng, cái chết của ông Adam lại là sự tái

sinh bản sắc của Cal.

Như vậy, các dạng thức biến thể của motif xác lập bản sắc trong tiểu thuyết

của Steinbeck cho thấy tùy vào thời điểm lịch sử và hoàn cảnh khác nhau,

Steinbeck đã lựa chọn chú trọng bản sắc phổ quát hoặc bản sắc cá nhân. Như sự

chiêm nghiệm của nhà văn trong những năm tháng cuối đời rằng, “... Hành trình là

chính con người, làm gì có ai giống ai? Sau nhiều năm vật vã, ta chợt nhận ra rằng

ta đâu có “làm” cuộc hành trình nào, mà chỉ có những cuộc hành trình “làm” chúng

ta mà thôi...” [118]. Có lẽ vì vậy, vào đầu thập niên 1960, khi đã ở tuổi xế chiều,

nhà văn John Steinbeck quyết định một mình thực hiện cuộc hành trình đi tìm nước

Mỹ và cũng là hành trình ông tìm kiếm chính bản thân mình.

3.3. Biến thể của cổ mẫu anh hùng trong tiểu thuyết John Steinbeck

3.3.1. Anh hùng với sứ mệnh thiết lập các giá trị đức tin mới

Bước ra từ mạng lưới giấc mơ được dệt nên bởi thế giới thần thoại, cổ tích,

con người thời hiện đại văn minh hoang mang, mơ hồ không biết cuộc đời mình sẽ

tiến tới cái gì, vì cái gì. Như phát ngôn tiên tri về cuộc khủng hoảng tinh thần, tâm

linh thời đại mới của Zarathustra, của Nietzsche rằng: “Mọi thánh thần đã chết”

[DT 109,410]. Do đó, sứ mệnh của người hùng hôm nay khác người hùng trong

huyền thoại cổ xưa, trong đó, thiết lập các giá trị đức tin mới là nhiệm vụ thiêng

liêng mà cộng đồng giao phó cho những anh hùng hiện đại. Là một trí thức tiến bộ

của thời đại mới, John Steinbeck ý thức sâu sắc về cuộc khủng hoảng xã hội trên

mọi phương diện, đặc biệt là đời sống tinh thần, tâm linh chao đảo của người Mỹ

thế kỉ XX, khi con người “không còn mang tinh thần của Chúa trong họ nữa”

[85,38]. Vậy nên, sự tái thiết cổ mẫu anh hùng với sứ mệnh thiết lập các giá trị đức

tin mới trong nhiều tiểu thuyết của ông biểu hiện khát khao cháy bỏng của nhà văn

nhằm tìm kiếm phương thức chữa lành những vết thương tâm hồn và giải phóng

con người khỏi mọi khổ đau.

Nhân vật Jim Casy trong Chùm nho phẫn nộ là hiện thể điển hình của dạng

thức người anh hùng tìm kiếm và thiết lập giá trị đức tin mới. Đây cũng là nhân

92

vật có nhiều nét tương đồng với cổ mẫu Chúa trong thế giới người hùng của John

Steinbeck. Dấu vết Cơ đốc giáo trước hết thể hiện thông qua tên gọi của nhân vật,

cụ thể là tên họ viết tắt của Jim Casy (J.C với Jesus Christ). Nhiều nhà nghiên cứu

đã phát hiện đặc điểm dễ nhận dạng này, chẳng hạn như: Lê Huy Bắc với bài viết

“Chủ đề về người nông dân và cách cắt nghĩa chủ đề trong Chùm nho phẫn nộ của

John Steinbeck”. H. Kelly Crockett tiết lộ chủ ý của Steinbeck khi xây dựng Jim

Casy như là hình tượng Chúa Jesus trong nghiên cứu “Kinh Thánh và Chùm nho

phẫn nộ”, nhà nghiên cứu nhấn mạnh rằng tương tự như cách Stephen Crane gọi

tên nhân vật Jim Conklin trong Huy hiệu đỏ cho lòng dũng cảm (The Red Badge

of Courage), Steinbeck cũng phác họa điểm tương đồng giữa nhân vật Jim Casy

và Chúa Jesus bằng cách đặt những chữ cái đầu tên tương tự cho nhân vật [51].

Martin Shockley cũng chỉ ra sáu điểm tương đồng giữa nhân vật Jim Casy và Chúa

Jesus, trong đó đặc điểm đầu tiên chính là tên họ viết tắt giống nhau, trong bài viết

“Hệ biểu tượng Cơ đốc giáo trong Chùm nho phẫn nộ”. Cũng theo Shockley, những

điểm giống Jesus của Casy còn là: Casy đang nỗ lực loan báo một đức tin mới,

Casy đi vào vùng hoang dã để tìm kiếm đức tin, Casy thừa nhận tội lỗi của chính

mình và đồng loại, Casy tha thứ cho kẻ giết mình và Casy bị giết chết [48].

Song, sự phá vỡ và tái thiết lập đặc trưng của cổ mẫu anh hùng qua nhân vật

Casy chính là điểm thu hút và phản ánh tinh thần thời đại của tác phẩm. Thứ nhất,

khác với những người hùng mang niềm tin bất diệt vào lí tưởng của Chúa, Casy là

nhân vật ý thức sâu sắc về đức tin bị lung lay tận gốc trong thời đại khủng hoảng

niềm tin, điều trước đây chưa từng xảy ra với ông ta: “Xưa kia tao là mục sư […].

Tao gào đến vỡ phổi tên chúa Jesus và sự vinh quang của Người […]. Nhưng nay

không thế nữa […], nay chỉ là Jim Casy trống trơn. Chả là thiên hướng của tao đã

mất. Tao có một đống những ý nghĩ tội lỗi” [85,38]. Từ một người có địa vị cao

trong đời sống tinh thần của xã hội, có nhiệm vụ dẫn dắt, cứu rỗi linh hồn cho

những kẻ khốn khổ và tội lỗi, Casy trở nên hoài nghi và trốn tránh sứ mệnh của

mình bởi vì ông ý thức mạnh mẽ về khối mâu thuẫn to lớn trong tận cùng tâm

khảm. Ông thành thật thú nhận với Tom rằng “tao là một đứa đạo đức trời đánh”,

sau mỗi lần rao giảng “tao dẫn một đứa trong bọn con gái vào đám cỏ và ngủ với

nó” [85,41]. Và nguyên nhân khiến Casy day dứt khôn nguôi, theo ông, chính là

“tội lỗi”. Tuy nhiên, trong lúc thừa nhận bản chất tội lỗi, xấu xa của mình, Casy lại

93

băn khoăn, mâu thuẫn bởi lẽ với ông “con người sinh ra là thế” [85,43], chẳng có

tội lỗi mà cũng chẳng có đạo đức. Hơn nữa, căn nguyên của mọi chuyện xảy ra với

ông là bởi vì ông yêu con người, ông muốn làm cho họ hạnh phúc và đặc biệt là

nhận thức trái ngược với quan niệm chính thống về thánh linh và con đường Jesus

của ông. Đó là vì sao phải gán chúng cho Chúa hay Jesus, trong khi thánh linh

chính là tình yêu. Casy tự nhủ “có lẽ tất cả những người đàn ông và tất cả những

người đàn bà mà chúng ta yêu, đều là cái đó, là Đức Thánh Thần, là trí tuệ con

người, là mớ hổ lốn. Có lẽ tất cả mọi người chỉ có một mảnh nhỏ của linh hồn đó”

[85,44]. Xuất phát từ một người giảng đạo chối bỏ đức tin chính thống, xuyên suốt

cuốn tiểu thuyết, Casy thực hành tìm kiếm và thiết lập đức tin mới, thích ứng với

hoàn cảnh xã hội thời hiện đại. Trải qua những thử thách, mất mát cùng gia đình

Joad, chứng kiến những bất công và khổ đau mà những người di tản phải gánh

chịu, Casy nhận ra sức mạnh của tinh thần đoàn kết và con đường duy nhất để tự

giải phóng của những kẻ bị áp bức là tất cả cùng đoàn kết lại và đấu tranh.

Thêm vào đó, sự việc Casy chịu tội thay cho Tom trong tư thế hiên ngang

“kiêu hãnh ngẩng đầu, cơ bắp cổ nổi lên”, mỉm cười với gương mặt “tỏ vẻ đắc

thắng [85,425] không chỉ là cách ông trả ơn gia đình Joad đã cưu mang ông mà

còn thể hiện phẩm tính anh hùng của một kẻ thân cô thế cô. Và nhà tù lại là nơi

Casy tìm thấy điều mà ông đã từng tìm kiếm trong hoang địa, rằng những người

nghèo, bị áp bức chỉ có con đường đoàn kết lại để tranh đấu. Ý thức được con

đường hành động đó, ngay sau khi ra tù, Casy dẫn đầu một cuộc đình công đòi tiền

lương xứng đáng cho những người lao động chân chính. Lí tưởng cao đẹp mà cách

thực hiện lại manh mún và trang bị thiếu thốn khiến cuộc đình công nhanh chóng

bị dập tắt, Casy bị giết chết. Lời nói cuối cùng của ông với những kẻ đàn áp cuộc

đình công, rằng: “Các bạn không nhận ra việc mình đang làm” [85,617] tương tự

như lời nói cuối cùng của Jesus trên thập giá: “Lạy Cha, xin tha thứ cho họ, vì họ

không biết họ đang làm gì” [115]. Vậy là, người hùng Casy đã ngã xuống trong sự

thắng thế của cái ác, của bạo lực và bất công. Tuy nhiên, đức tin mới mà nhân vật

này thiết lập đã được Tom Joad tiếp nối thực hành. Nghĩa là sự hi sinh của Casy

không vô nghĩa, giá trị đức tin mà ông dựng xây là vũ khí đấu tranh, hứa hẹn một

tương lai tốt đẹp hơn cho những người cùng khổ.

3.3.2. Anh hùng thuộc về cộng đồng thiểu số

94

Vào đầu những năm 30 của thế kỉ XX, John Steinbeck đã gặp gỡ nhà hải sinh

vật học Ed Ricketts, người trở thành bạn tâm giao và có nhiều ảnh hưởng đến sự

nghiệp của Steinbeck. Thông qua Ed Ricketts, Steinbeck đã thiết lập một mối quan

hệ ngắn ngủi với Joseph Campbell, nhà thần thoại học nổi tiếng về sau và là người

có ảnh hưởng lớn đến Steinbeck khi ông đang chỉnh sửa bản thảo cuốn tiểu thuyết

thứ ba, Gửi vị thần chưa biết. Ở lời giới thiệu tác phẩm này, Robert DeMott cho

biết: “trong một khoảng thời gian ngắn, Campbell và Steinbeck đã nhiệt tình chia

sẻ các nghiên cứu gần gũi của họ về nhân chủng học, dân tộc học, tâm lí học, chủ

nghĩa nguyên thủy, thần thoại, tôn giáo so sánh và truyện về vua Arthur”

[121,xxviii]. Về mối quan hệ này, Jackson Benson, trong cuốn Cuộc hành trình

thực sự của nhà văn John Steinbeck, tiết lộ: theo Carol, người vợ đầu của

Steinbeck, “chồng cô ấy đã thu được một vài tư liệu hữu ích từ Campbell. Tuy

nhiên, mặc dù là nhà thần thoại học, Campbell nhận thấy rằng ông đã học được

nhiều điều từ Steinbeck về tầm quan trọng của huyền thoại hơn là ngược lại”

[30,223]. Như thế, niềm đam mê các câu chuyện anh hùng từ thuở nhỏ và những

cuộc trao đổi ý tưởng với nhà thần thoại Campbell có thể xem là những tiền đề cốt

yếu để nhà văn Steinbeck xây dựng những nhân vật anh hùng trong các tiểu thuyết

về sau của ông.

Cùng chia sẻ những ý tưởng về huyền thoại, anh hùng thần thoại, trong khi

Campbell quan tâm đến các câu chuyện thần thoại ở khắp mọi nơi trên thế giới để

xác lập mô hình vòng đời của người hùng, nhà văn Steinbeck theo đuổi chủ đề

trung tâm về phẩm tính anh hùng của những người cùng khổ, những người bị áp

bức, bị ruồng bỏ xuyên suốt sự nghiệp sáng tác của ông. Trong ấn bản Chùm nho

phẫn nộ (2006), Robert Demott đã trích dẫn lời của John Steinbeck, trong một cuộc

phỏng vấn qua radio vào năm 1939, về nhiệm vụ khám phá chủ đề ấy của nhà văn

như sau: “Boileau nói rằng các vị Vua, Thần thánh và Anh hùng là những chủ đề

chỉ phù hợp với văn học. Nhà văn chỉ có thể viết về những gì mình ngưỡng mộ.

Ngày nay, các vị vua không còn hấp dẫn, các vị thần vắng bóng và những anh hùng

duy nhất còn lại là các nhà khoa học và người nghèo... Và kể từ khi dân tộc chúng

ta ngưỡng mộ lòng can đảm, nhà văn sẽ giải quyết vấn đề đó ở nơi anh ta tìm thấy

nó. Nhà văn ngày nay tìm thấy nó trong những người nghèo khó” [87,ix].

Và quả thật John Steinbeck đã theo đuổi mục đích tối thượng này từ những

95

sáng tác đầu tay thấm đẫm yếu tính huyền thoại đến những tiểu thuyết nhận thức

xã hội về sau. Vì vậy, khi bước vào thế giới rộng lớn của nhà văn, người đọc dễ

dàng nhận ra sự chú ý đặc biệt mà ông dành cho những người lao động khốn khổ,

những nhóm người yếu thế, những kẻ bị gạt ra bên lề xã hội văn minh hiện đại.

Những nhân vật đáng nhớ của ông, dẫu là những kẻ quê mùa, tàn tật, nghèo đói, bị

cộng đồng ghẻ lạnh, bị phân biệt màu da, giới tính, song vẫn bộc lộ phẩm tính anh

hùng trong những tình huống bi đát và éo le nhất. Trong đó, phần lớn nhân vật anh

hùng của John Steinbeck là paisano (người Mỹ nửa gốc Mễ nửa gốc da đỏ), người

Mỹ bản địa, người Mỹ gốc Hoa, hay những người nghèo, thua thiệt, yếu thế - những

người thuộc về những cộng đồng thiểu số ở nước Mỹ đa chủng tộc. Nội hàm của

thuật ngữ “thiểu số” được chúng tôi sử dụng theo ý nghĩa mà Gilles Deleuze và

Félix Guattari dùng để giải mã tác phẩm của Franz Kafka. Nó thể hiện “một thế

đứng nhất định, một vị trí phát ngôn để từ đó sáng tác văn chương” [122,12]. Theo

các học giả, văn chương thiểu số không đồng nhất với những tác phẩm của những

tác giả thuộc cộng đồng thiểu số, được viết bằng một ngôn ngữ thiểu số mà nằm

ngoài/bên lề văn học chính thống. Ở vị trí đường biên, văn học thiểu số luôn ở

trong quá trình trở thành khác, nó từ chối mọi quy phạm để duy trì quyền lực, nó

làm mờ những phạm trù phân loại trong ý thức văn hóa, nó giải phóng ngôn ngữ

để đi tìm những cái bên ngoài ngôn ngữ. Bằng cách mơ giấc mơ lạc lõng, “biết tạo

ra một sự-trở-thành-thiểu-số” [122,95] hay đặt mình vào vị trí của thiểu số, quan

sát từ góc nhìn thiểu số, các nhà văn quan tâm đến cộng đồng thiểu số đã xác lập

tiếng nói của nhóm yếu thế này trong cuộc đối thoại với cộng đồng đang nắm quyền

lực.

Bằng những trải nghiệm nông thôn và những năm tháng tuổi trẻ lăn lộn đủ

nghề như “hái trái cây, phụ hồ, thợ sơn, thợ vẽ, thợ đo đạc ở Big Sur, gác dan ở

Lake Tahoe” [91,5] để kiếm sống, Steinbeck dễ cảm thông với những nhân vật

thua thiệt, bị tước đoạt hạnh phúc giản dị bởi môi trường khắc nghiệt và những thế

lực nắm quyền trong xã hội hiện đại. Tom và gia đình Joad của anh bị “hất cẳng”

ra khỏi mảnh đất của họ như hàng vạn “kẻ tháo chạy, những kẻ đi trốn bụi và ruộng

đất của họ bị teo dần, lánh tiếng gầm thét của xe máy kéo và vì mất quyền sở hữu

đất đai” [85,131]. Trong khi đó, sự xa lánh của cộng đồng đối với Mack và hội bạn

trong Phố Cannery Row hay Danny và những người bạn của anh ta trong Thị trấn

96

Tortilla Flat lại đến từ lối sống dị thường, bất tuân chuẩn mực/giá trị cộng đồng

của họ. Vì vậy, Mack hay Danny và những người bạn lập dị, trong cái nhìn của

cộng đồng ở Tortilla Flat hay Cannery Row, là những kẻ lười biếng, phạm tội, xấu

xa, là cái gai trong mắt tất cả mọi người. Như thế, ở một mức độ nào đó, những

nhân vật anh hùng của Steinbeck là những kẻ bị ruồng bỏ, là nhóm người yếu thế

trong một nền văn hóa mà tầng lớp giàu có và da trắng chiếm ưu thế. Tuy nhiên,

điều đáng chú ý là nhà văn không chỉ miêu tả một cách hài hước tính cách hồn

nhiên và chất phác, cảnh ngộ bi đát và địa vị thấp bé của họ mà đặc biệt nhấn mạnh

phẩm chất anh hùng của những kẻ bên lề qua hành động hi sinh vì kẻ khác và khát

khao tự do cháy bỏng của họ. Điều này được thể hiện rõ nét qua nhân vật anh hùng

Kino trong tiểu thuyết ngắn Viên ngọc trai.

Chàng ngư phủ Kino là một người da đỏ ở thị trấn La Paz, sống cùng vợ, Juana

và con trai nhỏ Coyotito. Kino còn trẻ và tràn đầy sức sống với “vầng trán nâu rám

nắng”, “đôi mắt ấm áp, dữ dội và rực sáng” nhưng “luôn cảm thấy yếu đuối, sợ hãi

và tức giận” [86,10-19] khi phải đối mặt với những người da trắng Tây Ban Nha,

những người thuộc về chủng tộc từng đánh đập, bỏ đói và chà đạp tộc người của

Kino bốn trăm năm trước đây. Với Kino, phẩm chất anh hùng của chàng được thể

hiện qua vị trí trụ cột trong gia đình, là chỗ dựa vững chắc cho Juana và bé

Coyotito, qua thái độ phản kháng dữ dội của anh ta trước gia nhân của bác sĩ, người

đã từ chối chữa trị cho bé Coyotito và đám người buôn ngọc lừa gạt. Đặc biệt là

quá trình đấu tranh chống lại những kẻ săn đuổi để bảo vệ viên ngọc trai mà anh

may mắn tìm thấy và gia đình của anh.

Carroll Britch và Cliff Lewis, trong bài viết “Shadow of the Indian in the

Fiction of John Steinbeck” (“Hình bóng người da đỏ trong tiểu thuyết của John

Steinbeck”, 1984), đã chỉ ra tình thế tiến thoái lưỡng nan, căng thẳng của người da

đỏ khi đối mặt với nền văn hóa phương Tây [123]. Thực chất vấn đề mà Steinbeck

muốn hướng đến không hẳn là chỉ ra trạng huống bế tắc của người da đỏ mà đi sâu

vào sự chọn lựa và dự phóng kết cục của họ. Với người anh hùng da đỏ, mặc cảm

tổ tiên trước sự áp chế của nền văn minh da trắng khiến Kino và những người đồng

tộc của anh luôn muốn đạt được những chuẩn mực của kẻ đàn áp. Vì vậy, khi may

mắn tìm thấy viên ngọc, Kino dự định: tổ chức đám cưới trong nhà thờ, mua quần

áo mới, sở hữu một khẩu súng trường và cho con đi học. Khát vọng của anh lớn

97

dần, từ vẻ giàu sang bên ngoài đến sự tự do tinh thần. Những khát khao này cũng

phản ánh thực tại thua thiệt về kinh tế, chính trị, văn hóa của dân tộc anh so với

những người da trắng ở thị trấn. Song, các thế lực của cái ác đã ngăn cản Kino hiện

thực hóa giấc mơ đổi đời của anh, khiến anh mất nhà, mất thuyền, mất con. Kết

thúc của Viên ngọc trai, Kino cùng vợ “sóng đôi” trở về ngôi làng chài nghèo khổ

với tâm thế của những người đã vượt qua mọi nỗi đau và thấu hiểu mọi lẽ đời, khác

hẳn với thái độ lúng túng, sợ sệt khi họ đối diện với những người da trắng ở phần

đầu tác phẩm. Qua quá trình trải nghiệm và mất mát, nhân vật anh hùng Kino đã

có một sự thay đổi lớn: từ theo đuổi tham vọng mù quáng, muốn thoát khỏi mặc

cảm thua thiệt, tự ti của tộc người đến lựa chọn từ bỏ cơ hội đổi đời, dứt bỏ mọi

xiềng xích kìm hãm mỗi cá nhân và cộng đồng để trở thành một con người tự do.

Như thế, việc Steinbeck chú ý và khắc họa những nhân vật anh hùng thuộc về

cộng đồng thiểu số ở xứ sở “thiên đường”, “tự do” không chỉ cho thấy sự đồng

cảm của nhà văn với nhóm người yếu thế, thua thiệt mà còn phơi bày những mặt

trái của tấm huân chương Mỹ. Đồng thời, thông qua biến thể cổ mẫu anh hùng này,

tác phẩm của Steinbeck đã cất lên tiếng nói phản tỉnh, tái cân nhắc những giá trị

của nền văn minh phương Tây và lật ngược những giá trị chủ lưu của nền văn hóa

ưu trội mà người Mỹ da trắng đã dựng xây qua thời gian.

3.4. Giải huyền thoại người hùng và “giấc mơ Mỹ”

3.4.1. Phương thức giải huyền thoại trong tiểu thuyết John Steinbeck

3.4.1.1. Quan niệm về giải huyền thoại

E.M. Meletinsky trong Thi pháp của huyền thoại nhấn mạnh rằng: quá trình

“tái huyền thoại hóa” diễn ra mạnh mẽ trên phạm vi rộng lớn bắt đầu từ thập niên

10 của thế kỉ 20 ở phương Tây và những năm 50, 60 của thế kỉ 20 ở một số quốc

gia Á - Phi và Mỹ Latin [107]. Phùng Văn Tửu xem xét huyền thoại hóa như một

phương thức nghệ thuật, một kĩ thuật tiểu thuyết đáp ứng trăn trở tìm tòi, phát triển,

đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết hiện đại [124]. Lý giải xu hướng nhiều nhà văn sử

dụng phương thức huyền thoại để phản ánh những vấn đề mới mẻ của hiện sinh,

Đặng Anh Đào cho rằng nguyên nhân phổ biến là “do những vấn đề bức xúc gặp

phải những lực cản, nhà văn phải tìm tới thế giới của ám dụ, tượng trưng, mẫu

gốc… vốn đã cắm rễ sâu trong ký ức cộng đồng” [125]. Như thế, sự đồng thuận

của các học giả về sự phục hưng của huyền thoại trong văn học, đặc biệt là tiểu

98

thuyết hiện đại, tiết lộ sức sống mạnh mẽ của huyền thoại, mà hạt nhân của nó là

cổ mẫu.

Xuất hiện từ thời xa xưa, thuật ngữ “huyền thoại” có nội hàm không ngừng

thay đổi khi xem xét ở những bình diện khác nhau. Thuật ngữ này có nguồn gốc

từ ngôn ngữ Hi Lạp cổ “mythos”, nghĩa là lời nói, cụ thể hơn là lời nói (thoại) mơ

hồ bí ẩn (huyền) [124]. Huyền thoại xưa hay còn gọi là thần thoại là những câu

chuyện hoang đường trong dân gian về thần thánh hoặc anh hùng đã được thần

thánh hóa. Thế giới huyền thoại cung cấp cho các văn nghệ sĩ một kho trừu tượng

những mô hình truyện kể, đề tài, chủ đề, motif, biểu tượng, cổ mẫu... Bởi vì nhiều

nhà văn có ý thức hoặc vô thức sử dụng những câu chuyện cũ hay những huyền

thoại tồn tại trong nền văn hóa của họ hay nền văn hóa khác nên các nhà nghiên

cứu đã tìm cách nhận diện và lí giải phương thức tái huyền thoại hóa [126]. Sự tái

sinh của huyền thoại, cổ mẫu trong văn học không chỉ là sự trở về với truyền thống

folklore, truyền thống văn học, văn hóa của mỗi dân tộc mà còn kiến tạo những tân

huyền thoại mang bản sắc cá nhân và thời đại. Qua đó, tác phẩm văn chương có

thể phản ánh một hiện thực “biến dạng”, đa diện của đời sống, đồng thời tiết lộ

những xung đột sâu kín trong đời sống tinh thần con người hiện đại. Như thế, song

hành với quá trình tái huyền thoại hóa là xu hướng giải huyền thoại, gắn liền với

thái độ tỉnh thức và tinh thần phản tỉnh của người nghệ sĩ, nhằm đối thoại hoặc tái

cân nhắc những huyền thoại áp chế, mang đậm tính khuôn mẫu của những nền văn

hóa ưu trội như văn hóa truyền thống của nhân loại, văn hóa chính thống của các

dân tộc trên thế giới.

Roland Barthes, nhà giải huyền thoại có tầm ảnh hưởng rộng rãi, cho rằng

“ngôn ngữ duy trì cấu trúc của quyền lực trong một khoảng thời gian không xác

định và hệ quả là, nó giúp củng cố một ý thức hệ nhất định”. Do đó, nhiệm vụ của

người nghiên cứu “là phải đưa ra được một lối đọc đối lập với lịch sử và văn hóa,

từ đó, phơi bày quá trình kiến tạo ý nghĩa, phê phán những huyền thoại văn hóa,

‘phá bỏ’ (unlearn) những giá trị văn hóa chính thống, thiết lập những quan điểm

mang tính đa nguyên hơn” [126]. Điều này được Barthes thể nghiệm mạnh mẽ

trong hai tác phẩm quan trọng của ông: Độ không của lối viết (1953) và Những

huyền thoại (1957). Meletinsky cũng cho rằng một trong những đặc trưng của chủ

nghĩa huyền thoại ở thế kỉ XX là sự hài hước và giễu nhại nảy sinh từ cuộc trở về

99

với huyền thoại cổ đại của các nhà văn. Sự giễu nhại, phản huyền thoại “thể hiện

một sự tự do không hạn chế của nhà nghệ sĩ hiện đại đối với hệ biểu tượng truyền

thống đã từ lâu mất tính bắt buộc của chúng nhưng hãy còn giữ được sự hấp dẫn

với tư cách là phương tiện ẩn dụ hóa những yếu tố của ý thức hiện đại được các

nhà văn tiếp nhận như là những yếu tố vĩnh cửu và phổ quát” [107,450].

Như vậy, giải huyền thoại là một trong những phương thức nghệ thuật tiêu

biểu của nền văn học hiện đại, đặc biệt là ở thể loại tiểu thuyết. Bằng phương thức

giải huyền thoại, nhà văn có thể đối thoại, hoài nghi, giải thiêng các “đại tự sự”,

tra vấn các khuôn mẫu và thiết chế văn hóa mang tính áp chế, từ đó, phản ánh

những vấn đề mới mẻ của hiện sinh một cách lạ hóa. Đối với phê bình huyền

thoại/cổ mẫu, sự tái thiết cổ mẫu với những ý nghĩa phái sinh, thậm chí tạo ra

những phản đề cổ mẫu chính là giải huyền thoại.

3.4.1.2. Các xu hướng giải huyền thoại trong tiểu thuyết John Steinbeck

Bên cạnh tình yêu khoa học, đặc biệt là sinh vật học, John Steinbeck còn say

mê những câu chuyện cổ, những huyền thoại giàu tính chất văn chương. Các nhà

nghiên cứu tiểu sử của Steinbeck tiết lộ rằng cuốn sách đầu tiên thu hút trí tưởng

tượng trẻ trung của cậu bé John là những câu chuyện về vua Arthur. Trong cuốn

John Steinbeck: một tiểu sử, Jay Parini đã viết: “Khi viếng thăm dì Molly, người

em mê sách của mẹ ông, vào mùa hè năm 1912, ông được giới thiệu bản của Malory

về huyền thoại vua Arthur. Sau này, ông nhớ lại mình đã ngồi dưới một gốc cây

‘choáng ngợp và bị cuốn trôi đi’ bởi những chuyện kể mạnh mẽ ấy, gây nên một

ấn tượng không phai với cậu thiếu niên. Cấu trúc của những câu chuyện anh hùng

này sẽ nâng đỡ rõ rệt nhiều trong số các tiểu thuyết hay nhất của ông, chẳng hạn

Thị trấn Tortilla Flat và Phố Cannery Row, trong khi các khía cạnh của huyền

thoại Camelot sẽ ảnh hưởng kín đáo gần như đối với mọi tác phẩm của ông [...].

Mức độ mà Malory bao trùm lấy ông được ghi nhận trong sự kiện rằng ông bỏ ra

cả thập niên cuối đời đắm chìm trong tác phẩm đó, thậm chí thuê một căn nhà nhỏ

cả năm ở Somerset thuộc nước Anh – chỉ để được ở gần địa điểm được cho là lâu

đài Camelot” [DT 96,28]. Đồng quan điểm với Parini, Gordon Bergquist, trong

Tiểu sử John Steinbeck cũng kể lại rằng: lúc còn trẻ Steinbeck nổi tiếng là một

người cô độc và thích mơ mộng; ông dành phần lớn thời gian để đọc sách; những

tác giả, tác phẩm ưa thích của ông là Robert Louis Stevenson, Alexandre Dumas,

100

Walter Scott, Kinh Thánh, và đặc biệt là Cái chết của Arthur (1485) của Thomas

Malory, tác phẩm có ảnh hưởng bao trùm văn nghiệp của Steinbeck [127]. Như

vậy, ngay từ thuở thiếu niên, nhà văn Steinbeck tương lai đã say mê huyền thoại

và truyền thuyết, các câu chuyện hiệp sĩ, các câu chuyện trong Kinh Thánh. John

Steinbeck cũng là một trong những nhà văn Mỹ quan tâm sâu sắc đến bản sắc và

vận mệnh của quốc gia trong bối cảnh lịch sử đặc biệt. Điều này được thể hiện qua

việc tái xuất hiện thường xuyên của những huyền thoại định hình nước Mỹ trong

các sáng tác của ông, đặc biệt là huyền thoại về người hùng Mỹ, đất hứa/thiên

đường, giấc mơ Mỹ. Ngoài ra, nhà văn còn am hiểu và sử dụng các yếu tố huyền

thoại của người bản địa, đặc biệt là người Maya và người Aztec. Tất cả những

huyền thoại này ảnh hưởng mạnh mẽ và bao trùm cuộc đời và sự nghiệp văn

chương của ông.

Tuy nhiên, điểm đáng kể là trong khi tái sử dụng các huyền thoại xưa cũ, John

Steinbeck đã đem đến cho chúng những ý nghĩa mới mẻ, thậm chí trái ngược với

huyền thoại gốc. Xét về mức độ tái tạo, tiểu thuyết của John Steinbeck có cả huyền

thoại phái sinh và phản huyền thoại. Xét về cội rễ huyền thoại, tiểu thuyết của John

Steinbeck không chỉ giải huyền thoại phương Tây mà còn giải huyền thoại quốc

gia. Xét về lĩnh vực của huyền thoại, tiểu thuyết của John Steinbeck tập trung vào

việc tái thiết và giải huyền thoại văn hóa. Nhìn chung nhà văn thường hướng về

các huyền thoại cổ điển và tiến hành giải thiêng huyền thoại, đem đến cho huyền

thoại những nét nghĩa phái sinh dưới ảnh hưởng của bối cảnh lịch sử xã hội đặc

thù của nước Mỹ nửa đầu thế kỉ XX.

3.4.2. Giải huyền thoại người hùng qua sự kiến tạo motif anh hùng bi kịch

Trong tiến trình lập quốc của nước Mỹ, hình tượng anh hùng chiếm một vị trí

quan trọng, định hình tư duy và hệ giá trị của dân tộc Mỹ. Khát vọng trở thành anh

hùng là một trong những đặc điểm nổi bật của văn hóa/văn học Mỹ tương tự như

sức ám ảnh của huyền thoại giấc mơ Mỹ. Theodore Gross đã khẳng định mối tương

quan mật thiết của giấc mơ Mỹ và chủ nghĩa anh hùng, trong The Heroic Ideal in

American Literature (Lý tưởng anh hùng trong văn học Mỹ, 1971), rằng giấc mơ

Mỹ “phản ánh chủ nghĩa lãng mạn và tính đa cảm của chúng ta; chủ nghĩa sô vanh

và tính chất địa phương hẹp hòi của chúng ta; chủ nghĩa lí tưởng và quyền lực của

chúng ta; khát khao chủ nghĩa anh hùng của chúng ta” [128,vii]. Trong mối quan

101

hệ gần gũi này, nhân vật anh hùng tiêu biểu của Tân thế giới thường được biết đến

với hình tượng chàng Adam Mỹ. Với The American Adam (Chàng Adam Mỹ,

1955), R.W.B. Lewis, một nhà phê bình người Mỹ nổi tiếng, đã miêu tả hình tượng

này như là “một nhân cách hoàn toàn mới, người anh hùng của cuộc phiêu lưu mới:

một cá nhân được giải phóng khỏi lịch sử, may mắn mất hết dòng họ tổ tiên, không

những bị những di sản thông thường của gia đình và chủng tộc chạm đến và làm

lấm láp; một cá nhân đứng một mình, tự lực và tự hành, sẵn sàng đối đầu bất cứ

cái gì đang chờ đợi hắn với sự giúp đỡ của những phương kế xoay sở kì lạ và vốn

có của mình” [DT 26,198]. Nằm ở trung tâm của huyền thoại giấc mơ Mỹ, chàng

Adam Mỹ thường được mô tả như một cá nhân tự lập, từ chỗ nghèo khó vươn lên

giàu sang và có địa vị cao trong xã hội nhờ nỗ lực, may mắn, quả cảm.

Nhận thức sâu sắc về sức ảnh hưởng dài lâu của các huyền thoại, cổ mẫu anh

hùng trong đời sống tâm hồn người Mỹ song, Steinbeck vẫn tỉnh thức trước quy

luật tất yếu của thời hiện đại, thời đại ngự trị của cuộc khủng hoảng niềm tin, khiến

“vũ trụ biểu tượng muôn đời được kế thừa từ lâu nay phải sụp đổ” [109,410]. Do

đó, thay vì tô đậm các chiến tích phi thường, tài năng kì diệu, sức mạnh vô song

của người hùng, tiểu thuyết Steinbeck hướng đến khắc họa khía cạnh bi kịch của

nhân vật anh hùng hoặc những hình tượng phản anh hùng nhằm thể hiện sự tỉnh

thức trước một thực tại biến động và phức tạp. Cũng cần lưu ý rằng, motif người

hùng bi kịch không phải là nét đặc sắc của riêng tiểu thuyết John Steinbeck. Bởi

lẽ, kiểu anh hùng bi kịch này còn xuất hiện trong các sáng tác của các nhà văn khác

như Hemingway, Fitzgerald... Tuy nhiên, điều làm nên sự khác biệt của motif này

trong sáng tác của các nhà văn là cách thức mô tả bi kịch và căn nguyên dẫn đến

bi kịch của nhân vật anh hùng.

Năm 1928, khi khảo sát hàng trăm câu chuyện cổ tích Nga, học giả Propp đã

phân biệt sự khác nhau giữa người hùng tìm kiếm và người hùng nạn nhân thông

qua nguyên nhân dẫn đến sự ra đi của họ. Theo đó, “người hùng tìm kiếm chủ động

ra đi để tìm kiếm thứ gì đó, trong khi người hùng nạn nhân thường bị buộc phải rời

đi. Người hùng nạn nhân thường bị trục xuất khỏi nhà và có thể bị giết chết, nhưng

được cứu bởi một người nhân ái và sau đó dấn thân bước vào những cuộc phiêu

lưu trên thế giới [129,249]. Trong khi ở các câu chuyện cổ, người hùng nạn nhân

thường chịu sự áp bức, đối xử bất công bởi các thế lực thống trị, thế lực của cái ác

102

trong xã hội hoặc định mệnh nghiệt ngã. Ở tiểu thuyết của John Steinbeck, những

người hùng bi kịch của ông thường phải gánh chịu hậu quả của thảm họa môi

trường và những bất ổn của xã hội hiện đại văn minh tiến bộ. Tom Joad và gia đình

của anh, cùng với đám đông di tản trong Chùm nho phẫn nộ bị trục xuất khỏi quê

nhà, mảnh đất nơi tổ tiên họ đã khai khẩn đất hoang và dựng xây cơ nghiệp lâu

đời. Họ bị tước mất ruộng đất, “bị bụi xua đuổi, bị máy cày xua đuổi”, “chồng chất

trên xe tải, trên từng đoàn, những con người đói khát, không nhà không cửa”

[85,368]. George và Lennie trong tiểu thuyết ngắn Của chuột và người cũng là

những kẻ lang thang tìm kiếm việc làm, dẫu họ mong muốn có được một khoảnh

đất nhỏ để tự nuôi sống bản thân, song thực tại nghiệt ngã đã tàn phá giấc mơ bình

dị của những kẻ khốn cùng đó. Trong Viên ngọc trai, người hùng Kino cùng với

vợ con của anh cũng buộc phải rời khỏi ngôi làng chài nghèo khổ bên bờ biển để

trốn thoát khỏi sự truy đuổi của những kẻ tham lam hòng cướp viên ngọc quý của

Kino. Như thế, động lực ra đi của người hùng bi kịch trong tiểu thuyết của

Steinbeck phần lớn đến từ những thảm họa tự nhiên và khủng hoảng kinh tế xã hội

thời hiện đại.

Khác với người hùng trong các câu chuyện cổ, được cứu giúp bởi những người

tốt bụng hay được những thế lực siêu nhiên phù trợ và giành được vị trí của kẻ

chiến thắng trong chiều hướng kết thúc của cuộc hành trình, người hùng hiện đại

trong tiểu thuyết của Steinbeck dường như không thể thoát khỏi mạng lưới bất

công của xã hội, bi kịch đói khát vẫn đeo bám lấy họ, hiện tại và tương lai của họ

ngập tràn một màn sương mịt mờ. Danny và những người bạn của chàng trong Thị

trấn Tortilla Flat là những hình tượng người nghèo bị chà đạp đầu tiên trong thế

giới tiểu thuyết của Steinbeck, họ là nạn nhân của thời kì Đại suy thoái khi sự sở

hữu tài sản lại trở thành một gánh nặng trách nhiệm, một nỗi phiền toái. “Pilon

nhận thấy nỗi âu lo về tài sản đang dồn nén trên gương mặt Danny. Gương mặt ấy

sẽ chẳng còn vô lo nữa trong cuộc đời […]. Một tiếng kêu đau đớn buột ra khỏi

chàng trước khi chàng vĩnh viễn rời bỏ cuộc sinh tồn xưa cũ và giản dị của mình”

[96,55]. Nỗi âu lo của Danny, người được thừa kế hai căn nhà cũ kĩ từ thời ông

nội, là một điều tất yếu bởi vì chàng và những người bạn đến ở thuê trong nhà

chàng đều không có khả năng chi trả những hóa đơn dịch vụ, thuê mướn hay để

tôn tạo, gìn giữ căn nhà, tài sản của Danny. Vì vậy, khi hội bạn của chàng vô ý làm

103

cháy một căn, Danny chỉ giận lũ bạn một chút cho phải phép rồi cảm thấy nhẹ

nhõm vì “ít ra một trong những gánh nặng của chàng đã được cất dỡ” [96,99]. Thế

là họ làm hòa với nhau và cùng nhau tiến hành những cuộc phiêu lưu kì dị ở thị

trấn chẳng bằng phẳng như tên gọi của nó như xưa kia vua Arthur tập hợp các hiệp

sĩ bàn tròn để thực hiện những cuộc phiêu lưu tìm kiếm người tốt.

Thomas Fensch, trong lời giới thiệu tác phẩm Thị trấn Tortilla Flat, cho biết:

trong cuộc phiêu lưu nổi tiếng nhất của huyền thoại Malory, các hiệp sĩ đi tìm kiếm

chiếc cốc thánh, các paisano của Steinbeck thay vì tìm thấy chiếc cốc như các hiệp

sĩ của Malory, “họ tìm thấy mốc đánh dấu của Cơ quan khảo sát địa chất Hoa Kỳ

mà họ nhận ra là không thể đào lên để bán lấy rượu, bởi vì không ai dám mua”

[96,31]. Thậm chí, hành động đó sẽ khiến họ rơi vào vòng lao lí. Ấn tượng nhất

trong tác phẩm có lẽ là cuộc phiêu lưu xả thân cứu giúp một phụ nữ túng quẫn của

Danny và hội bạn. Mặc dù họ là những paisano nghèo rớt mồng tơi, chẳng có việc

làm, chẳng có cái để ăn, có được chút gì ít ỏi mà đáng giá họ đều quy đổi thành

những galon rượu và hào phóng dành cho nhau. Song, Danny và hội bạn thường

xuyên tìm cách giúp đỡ, chia sẻ với những người gặp khó khăn ở thị trấn. Phi vụ

điển hình là lần hội Danny lấy trộm cá, rau, đậu để làm từ thiện: “trộm cắp dứt bỏ

điều tiếng của trộm cắp, tội ác vi phạm vì một mục đích từ thiện” [96,216] bởi vì

họ không thể ngồi yên nhìn những đứa trẻ nhà Teresina chết đói. Trải qua nhiều

cuộc phiêu lưu cùng với hội bạn, song nỗi buồn lo của Danny vẫn không hề vơi.

Danny, “người từng chiến đấu vì những lí tưởng đã mất”, giờ đây ngồi yên, mệt

mỏi, tâm hồn chàng “bị đè nặng bởi một ý nghĩ u ám nặng nề” [96,258]. Các bạn

của chàng bỗng nhiên rời bỏ căn bệnh lười biếng, tìm kiếm công việc, kiếm tiền

để tổ chức tiệc cho Danny. Tất cả đàn ông, đàn bà trong thị trấn, cả những người

yêu mến lẫn những kẻ từng khinh ghét họ đều đến dự bữa tiệc của Danny. Thế

nhưng, nỗi buồn đau, cô đơn của chàng vẫn không nguôi ngoai. Danny gầm lên:

“Chỉ có một mình ta trong thế giới này sao?” [96,270], chàng thách thức thế giới

nhưng đáp lại chỉ có sự lặng yên. Trong nỗi cô độc tột cùng, Danny lao mình xuống

đáy khe suối tự vẫn. Căn nhà còn lại của Danny cũng chìm trong ngọn lửa. Danny

và biểu tượng tình bạn của chàng và hội bạn đều đã chết, những người còn lại rời

đi “mỗi người một hướng” [96,283].

Motif nhân vật anh hùng bi kịch, là những người nghèo bị chà đạp như Danny

104

và hội bạn của chàng, tiếp tục tái xuất hiện ở những mức độ cao hơn trong những

tiểu thuyết về sau của John Steinbeck. Đó là Jim Nolan và những công nhân đình

công trong Trong trận chiến mơ hồ, George trong Của chuột và người, là Tom

Joad trong Chùm nho phẫn nộ, Kino trong Viên ngọc trai, Mack và những người

bạn trong Phố Cannery Row. Nổi bật trong số đó là George, một kẻ lang thang tìm

kiếm việc làm với ước mơ sở hữu một mảnh đất nho nhỏ để sống một đời sống tự

do. Cùng với Lennie ngờ nghệch lực điền, lão tạp dịch Candy què quặt, gã mã phu

Crooks da đen, George là nạn nhân của thời kì Đại suy thoái, “của sự cô lập, sự

tước quyền và các vấn đề hòa nhập xã hội trong thời đại đứt gãy văn hóa” [73].

Mặc dù là một anh chàng “nhỏ bé và nhanh nhẹn […] sắc sảo và khỏe mạnh”

[90,11], thế nhưng George không thể đạt được một cuộc sống thoải mái, dễ dàng,

vui thú. Bởi vì anh là một công nhân nông nghiệp chạy vạy khắp nơi để tìm kiếm

việc làm trong thời kì Đại suy thoái vốn dĩ khan hiếm công việc. Cũng vì anh là

một kẻ nghèo khó, chẳng có nổi một tấc đất cắm dùi ở một xứ sở rộng lớn mênh

mông, trù phú trong thời kì mà đàn áp xã hội và tước đoạt quyền sở hữu là những

sự thật chua xót của đời sống Hoa Kỳ đương đại. Đồng thời, George tự nhận lấy

trách nhiệm bảo vệ Lennie, người anh em của anh ta, kẻ thường xuyên gây ra rắc

rối, trong khi chính anh cũng phải vật lộn để mưu sinh và hòa nhập vào một xã hội

khắc nghiệt. Tình anh em/bằng hữu giữa George và Lennie khiến Slim, một người

hiểu biết và có uy tín trong trang trại, ngạc nhiên khi một kẻ lờ khờ như Lennie lại

đi chung với một kẻ lanh lẹ như George, bởi vì ông biết rằng: “Chẳng có mấy đứa

đi chung với nhau […]. Có lẽ mọi người sợ nhau trên cái cõi đời quái ác này”

[90,63], “dân làm công… chẳng bao giờ thèm đoái hoài cóc khô gì tới ai” [90,70].

Về mối quan hệ giữa George và Lennie, nhiều nhà phê bình theo lí thuyết tâm

lí học phân tích của Carl Jung cho rằng Lennie là phần bóng tối bên trong (cổ mẫu

Shadow self) của George và câu chuyện không đơn thuần kể về hai kẻ mộng mơ

vỡ mộng mà còn khám phá các xung đột tâm lí bên trong mỗi nhân vật [36]. Mặc

dù George thỉnh thoảng vẫn trách cứ Lennie như một phương cách để thoát khỏi

cái bóng của chính mình, rằng nếu chỉ có một thân một mình thì anh ta đã có thể

dễ sống biết mấy, có thể có công ăn việc làm mà chẳng gặp điều gì rắc rối, có thể

ở nhà thổ suốt đêm, có thể ăn chơi thỏa thích mà chẳng bận tâm gì cả, nhưng cũng

chính George lại là người tìm mọi cách để bảo vệ Lennie. Từ góc độ này, có thể

105

xem George là người hùng của Lennie, là “người canh giữ người anh em” của anh

ta, một kẻ ngờ nghệch không có khả năng hòa nhập vào cộng đồng. Cuộc đời của

George phải gắn chặt với người anh em khốn khổ Lennie không những vì anh cảm

thấy mình phải có trách nhiệm với Lennie mà còn vì một sự thật xót xa hơn cả,

rằng người hùng George cũng là một nạn nhân của xã hội khắc nghiệt. Anh buộc

phải gắn bó với Lennie để thoát khỏi nỗi cô độc bủa vây bởi vì anh “chẳng có ai”

[90,72] bên cạnh ngoài Lennie, anh “muốn trò chuyện” [90,70], muốn có bạn đồng

hành cùng chia sẻ buồn vui, cùng nuôi giấc mơ “có miếng đất nhỏ… trồng trọt cho

chính mình” [90,70] mà Lennie lại là người tử tế, “đâu có cần khôn khéo mới là

đứa tử tế” [90,72]. Như thế, nhờ có Lennie lờ khờ, người hùng George mới có thể

vượt qua những bức tường vô hình ngăn cản anh hòa nhập vào xã hội.

Tuy nhiên, trong phần kết của tác phẩm, Lennie lặp lại hành động gây rắc rối

của mình khi anh ta vô ý giết chết vợ Curley, con trai của ông chủ trang trại. Candy

bí mật dẫn George đến bên xác người đàn bà tội nghiệp và hỏi George về tương lai

của họ, liệu rằng họ có thể mua mảnh đất đó, có thể sống tử tế ở đó nữa không.

George đáp lại bằng dự cảm về tương lai đơn độc của anh: “tui sẽ ở qua đêm trong

cái nhà thổ nhớp nhúa nào đó. Hay là tui sẽ ngồi trong quán cho tới khi mọi người

về nhà hết” [90,157]. Để bảo vệ Lennie khỏi sự trừng phạt khủng khiếp của Curley

bởi “Curley sẽ muốn treo cổ nó” [90,156] và rộng hơn là của xã hội khắc nghiệt,

George buộc phải giết chết Lennie. Bởi vì theo anh, xã hội hà khắc không chấp

nhận Lennie nhưng có thể ở thế giới bên kia mọi người sẽ tử tế với Lennie: “Chẳng

còn rắc rối nữa. Không ai làm hại hay ăn cắp của ai” [90,174]. Trong bài viết, “Của

chuột và huyền thoại: John Steinbeck, Carl Jung và Sử thi Gilgamesh”, Eric

Matthew Martin đã vận dụng lí thuyết tâm lí học phân tích của Jung và phê bình

huyền thoại để khám phá nguyên mẫu người anh hùng và kẻ bị ruồng bỏ qua cặp

đôi nhân vật George và Lennie. Martin cho rằng “phần lớn sức mạnh của tiểu

thuyết này bắt nguồn từ một mẫu hình thần thoại cổ đại” [73]. Steinbeck đã tái sinh

cặp nhân vật cổ mẫu trong Sử thi Gigamesh và câu chuyện Jacob và Esau trong

Sáng thế ký để khám phá một sự thật tâm lí, rằng: thế giới của George là vô tâm

nhưng anh ta có thể đương đầu, George đã loại bỏ những xung năng không thể

chấp nhận được của mình – hiện thân qua Lennie – bằng cách giết chết chúng [73].

Tuy vậy, lựa chọn nghiệt ngã đó liệu rằng có phải là điều tốt lành cho cả Lennie và

106

George? Steinbeck không đưa ra một câu trả lời cụ thể, người đọc có thể lo lắng

cho tương lai cô độc mà George đã dự báo với Candy hoặc cũng có thể nhen nhóm

hi vọng khi Slim dẫn George bước “vào đường mòn rồi hướng lên xa lộ” [90,176].

Hơn nữa, sự kiện George giết chết Lennie không chỉ ngụ ý rằng anh ta đang cố

gắng thoát khỏi cái bóng của chính mình mà còn là sự lựa chọn đầy bi kịch của

nhân vật.

Nhân vật George là một người hùng với số phận bi kịch đã bám riết lấy anh

ngay từ đầu tác phẩm. Khác với những nhân vật trong truyện cổ, người hùng là

người chiến thắng và đạt được một cuộc sống tốt đẹp hơn trước đây. Trong xã hội

hiện đại đầy rẫy bất công và khắc nghiệt, những người làm công lang thang như

George khó có thể giành được quyền sở hữu, khó có thể có được một cuộc sống

lao động tự do và do đó, càng khó có thể hòa nhập thành công vào xã hội. Đó là sự

thật cay đắng mà tiểu thuyết của Steinbeck đã phơi bày cách đây gần 100 năm

nhưng vẫn còn hiện diện chua xót trong bối cảnh đương đại. Bằng cách kiến tạo

motif anh hùng bi kịch, tiểu thuyết của John Steinbeck không chỉ giải thiêng cổ

mẫu anh hùng trong văn hóa dân gian mà còn lật ngược huyền thoại người hùng

Mỹ, rằng lòng quả cảm và sự nỗ lực không phải bao giờ cũng đem đến chiến tích

phi thường hay thành công và vận may không phải lúc nào cũng dành cho tất cả

mọi người.

3.4.3. Giải huyền thoại “giấc mơ Mỹ” qua sự kiến tạo motif những vùng

đất hứa sụp đổ

Một trong những huyền thoại quốc gia luôn hiện diện thường trực trong tâm

thức người Mỹ, từ những người đầu tiên đặt chân lên miền đất hoang sơ này đến

những người Mỹ tạo dựng nên xã hội hiện đại ngày nay là giấc mơ Mỹ. Đây cũng

là huyền thoại liên quan chặt chẽ với huyền thoại anh hùng Mỹ và đất hứa/thiên

đường. Nhìn chung, giấc mơ Mỹ là lí tưởng về cơ hội cho tất cả mọi người, về sự

thành công trong nghề nghiệp hoặc xã hội bất kể nguồn gốc, lai lịch, xuất thân, địa

vị xã hội. Tượng Nữ thần Tự do, hình ảnh đầu tiên rơi vào tầm mắt của những

người di cư đến vùng đất hứa hẹn này, là biểu tượng của giấc mơ Mỹ và nước Mỹ

đầy lí tưởng. Lí tưởng quốc gia này được tuyên bố trong bản Tuyên ngôn độc lập

Hoa Kỳ do học giả Thomas Jefferson (1743-1826) khởi thảo, đó là “mọi người sinh

ra đều bình đẳng”, đều có “quyền được sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc”

107

[130]. Đây cũng là tiếng nói của những người Mỹ lập quốc nhằm chống lại xã hội

Âu châu khép kín, nơi quyền lực và tiền bạc nằm trong tay của tầng lớp quý tộc

thống trị. Hiến pháp của Hoa Kỳ đề cao việc đảm bảo quyền tự do cho tất cả công

dân. Điều này được thể hiện ngay trong lời mở đầu rằng nhân dân Hợp chúng quốc

Hoa Kỳ thiết lập hiến pháp nhằm “xây dựng một Liên Bang hoàn hảo hơn nữa,

thiết lập công lý, duy trì an ninh trong nước, tạo dựng phòng thủ chung, thúc đẩy

sự thịnh vượng chung, giữ vững nền tự do cho bản thân và con cháu chúng ta”

[131,14]. Năm 1932, James Truslow Adams đã mô tả giấc mơ huyền thoại này,

trong công trình nổi tiếng The Epic of America (Sử thi nước Mỹ), như sau: “Đó là

giấc mơ về khả năng phát triển cao nhất của nam giới cũng như nữ giới, không bị

ngăn cản bởi bất kì rào chắn nào… được dựng lên trong các nền văn minh cổ hơn,

không bị áp đặt bởi những quy ước xã hội đã phát triển vì lợi ích của các tầng lớp

hơn là vì những con người bình thường thuộc bất kì tầng lớp nào” [132,405].

Những lời cam kết hùng hồn này hứa hẹn rằng chỉ có ở thiên đường nước Mỹ -

“vùng đất của những con người tự do và quê hương của những con người can đảm”

[133], giấc mơ đẹp đẽ này sẽ trở thành hiện thực cho bất kì ai dám theo đuổi nó

đến tận cùng. Từ một huyền thoại quốc gia, giấc mơ Mỹ đã trở thành ước vọng phổ

quát của nhiều dân tộc, di sản chung của nhân loại, là khát khao về một cuộc sống

hạnh phúc, tự do hơn ở một nơi chốn tốt đẹp hơn của nhiều lớp người ở khắp mọi

nơi trên thế giới.

Wilfred L. Guerin và các cộng sự, trong bài viết “Phê bình huyền thoại và giấc

mơ Mỹ: Huckleberry Finn như là chàng Adam Mỹ” (Myth Criticism and the

American Dream: Huckleberry Finn as the American Adam), nhận định rằng

phương diện trung tâm của huyền thoại giấc mơ Mỹ là “Huyền thoại những Khả

năng Địa đàng phản ánh hy vọng sáng tạo một thiên đường thứ hai, không phải

trong cõi sau và không phải ngoài thời gian, mà là trong Tân Thế giới sáng rỡ của

lục địa châu Mỹ” [82,197]. Tuy vậy, sự thể hiện của huyền thoại này trong văn học

Mỹ phức tạp và thú vị hơn lại nằm ở khía cạnh sự “chờ đợi tối tăm tiềm ẩn trong

giấc mơ Mỹ” như nhà văn D. H. Lawrence đã chỉ ra trong công trình Studies in

Classic American Literature (Nghiên cứu văn học Mỹ cổ điển, 1923) của ông. Tại

vùng đất được bao phủ bởi màu sắc huyền thoại về những ước vọng tươi sáng,

Lawrence lại nhận ra “Châu Mỹ chẳng bao giờ thanh thản… và ngày nay cũng

108

không hề thanh thản. Người Mỹ luôn luôn sống trong sự căng thẳng nào đó. Sự tự

do của họ chỉ là một thứ ý chí, chỉ là một sự căng thẳng: một sự tự do MÀY SẼ

KHÔNG (THOU SHALT NOT). Và nó đã là như thế ngay từ đầu. Vùng đất MÀY

SẼ KHÔNG” [DT 26,214]. Cái nhìn sâu sắc của Lawrence đã được chứng minh

trong những tác phẩm văn học Mỹ nổi tiếng viết về đề tài huyền thoại này, ở đó

các nhà văn Mỹ tập trung vào những khía cạnh gần gũi đáng lo của giấc mơ là ảo

mộng hay ác mộng hơn là những viễn cảnh tươi sáng của nó.

Vũ Minh Đức cho rằng các sáng tác tập trung vào đề tài giấc mơ Mỹ có khả

năng kiến tạo nên “thế giới văn học tự thân”, “biến giấc mơ Mĩ trở thành một cổ

mẫu trong văn học” và nước Mỹ là một biến thể của cổ mẫu khu vườn [20,80].

Một số tác phẩm văn chương kinh điển hướng về đề tài huyền thoại này là: Giấc

mơ Mỹ (Steven Millhauser), Cái chết của người chào hàng (Arthur Miller), Gatsby

vĩ đại (F. Scott Fitzgerald), The Bell Jar (Sylvia Plath), Trên đường (Jack

Kerouac)… Trong đó, tiểu thuyết của John Steinbeck không phải là trường hợp

ngoại lệ. Giấc mơ Mỹ là một trong những chủ đề xuyên suốt gắn với sự tái sinh cổ

mẫu anh hùng trong nhiều sáng tác của ông, nổi bật như: Trong trận chiến mơ hồ,

Của chuột và người, Chùm nho phẫn nộ, Viên ngọc trai, Phía đông vườn địa đàng.

Frederic Carpenter tiết lộ tác phẩm của John Steinbeck thường mô tả sự tương

phản giữa giấc mơ và thực tại, nhà văn đã theo đuổi sự phát triển của giấc mơ Mỹ

xuyên suốt sự nghiệp sáng tác của ông [134]. Giống như nhiều nhà văn Mỹ cùng

thời, John Steinbeck không tập trung mô tả khía cạnh tươi sáng của giấc mơ được

cổ súy trong tiến trình lịch sử phát triển của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, trong khi

Fitzgerald tập trung khắc họa sự sụp đổ của giấc mơ Mỹ trong xã hội xa hoa, đầy

cạm bẫy và dối trá của giới thượng lưu, thế giới của “những kẻ vô tâm”, những kẻ

sẵn sàng “đập nát mọi thứ, cả vô tri lẫn hữu tri, rồi rút lui vào tiền bạc hoặc niềm

vô tâm mênh mông của họ, hoặc bất kì những gì vẫn ràng buộc họ với nhau”

[135,249]. Thế giới ấy tưởng như có được tất cả song lại thiếu vắng cái cốt yếu

nhất, đó là “chuẩn mực nhân cách cơ bản”. Steinbeck đã chỉ ra sự tàn lụi của giấc

mơ Mỹ qua việc khắc họa motif sự sụp đổ của những vùng đất hứa dưới những tác

động dữ dội của tình trạng bất ổn kinh tế - xã hội trong thời kì Đại suy thoái và

những rào cản khác về chủng tộc, giới tính.

Nền kinh tế thịnh vượng của Hoa Kỳ trong những năm 1920 đã bị phá hủy

109

nặng nề khi cuộc Đại suy thoái diễn ra vào thập niên 30 của thế kỉ này, đặc biệt là

khu vực kinh tế trang trại trước đó vốn dĩ đã rất mong manh do sự thu hẹp của thị

trường bên ngoài song sản lượng nông nghiệp vẫn tăng trưởng quá mạnh. Trong

ba năm đầu thập niên 30, “cuộc suy thoái kinh tế bắt đầu từ nước Mỹ đã trở thành

một phần của cuộc suy thoái kinh tế trên toàn thế giới. Các doanh nghiệp đóng cửa,

các nhà máy ngừng sản xuất, các nhà băng phá sản vì mất các khoản tiền gửi tiết

kiệm. Thu nhập nông nghiệp giảm khoảng 50%. Đến tháng 11/1932, cứ năm người

Mỹ thì có khoảng một người thất nghiệp” [136,125]. Tình trạng thất nghiệp, nghèo

đói, vô gia cư ngày càng lan rộng khắp nước Mỹ, khiến tâm trạng lạc quan của

thập niên trước đó dần phai nhạt. Tại nhiều bang, hàng trăm nghìn nông dân, công

nhân nông nghiệp di chuyển khắp xứ để tìm kiếm việc làm cốt để sống sót qua thời

kì đói khổ. Những nạn nhân của cuộc đại suy thoái không chỉ cần có nơi ăn chốn

ở, cái ăn cái mặc mà còn cần phải có một điều gì đó lớn lao hơn truyền cảm hứng.

Nhiều người trong số họ đã tìm đến huyền thoại mạnh mẽ trong lịch sử dân tộc, đó

là giấc mơ Mỹ. Điều này đã được Steinbeck chứng kiến trong những chuyến đi

xuyên Mỹ và phản ánh trong thế giới nghệ thuật của ông, nổi bật là Trong trận

chiến mơ hồ, Của chuột và người, Chùm nho phẫn nộ. Song, Steinbeck cay đắng

nhận ra sự tàn lụi của giấc mơ huyền thoại này hay nói cách khác, hiện thực tráo

trở sẵn sàng tàn phá những khát vọng chân chính và cao đẹp của con người.

Trong Của chuột và người, giống như nhiều thế hệ người Mỹ mơ ước đạt được

sự giàu có, thịnh vượng và được “mưu cầu hạnh phúc”, George và Lennie, hai gã

công nhân nông nghiệp lang thang từ nông trại này sang nông trại khác kiếm việc

làm để nuôi giấc mộng có “một căn nhà nhỏ với hai mẫu đất” [90,30]. Chính giấc

mơ chung của George và Lennie đã đánh thức khát vọng được sở hữu của lão già

tật nguyền Candy. Tương tự như thế, những người di tản trong Chùm nho phẫn nộ

chạy trốn khỏi những nơi đầy sự cô đơn và lạc lõng, nơi mà họ phải chịu đựng sự

nhục nhã của kẻ chiến bại với nỗi đau mất nhà, mất đất. Họ di chuyển trên những

con đường cao tốc chạy xuyên qua các bang vào miền Tây hòng tìm kiếm một

miền đất mới. Thế là, thiên đường miền Tây trở thành giấc mơ chung của đám

đông nghèo đói. Nổi bật là những giấc mơ của những thành viên họ Joad. Pa Joad

tin rằng California là một xứ sở xinh đẹp, giàu có nơi ông và gia đình có thể thoát

khỏi cảnh nghèo đói bằng cách làm lụng chăm chỉ. Trong khi đó, Ma Joad “để tâm

110

trí vào một ngôi nhà trắng nhỏ bé” [85,320]. Rosashan và chồng cô mơ ước có một

căn nhà riêng đầy đủ tiện nghi ở thành phố và một tương lai hạnh phúc cùng với

đứa con sắp sửa ra đời của họ. Hiện diện thường trực trong những mộng mơ, tưởng

tượng của Jim, trong tiểu thuyết Trong trận chiến mơ hồ, là một ngôi nhà nhỏ màu

trắng với hàng rào cầu kì và những cây phong lữ rực cháy trong sân vườn.

Hình ảnh căn nhà nho nhỏ màu trắng trong mộng tưởng của nhiều nhân vật

trong tiểu thuyết Steinbeck không chỉ biểu trưng cho giấc mơ về quyền sở hữu mà

cao hơn là khát vọng tự do của những con người “cô đơn nhất trên đời” [90,29]

như George tự nhận xét. Bởi lẽ, chỉ ở nơi mà họ thuộc về, tự do mới thực sự đến

với họ. “Giả thử có hội hè hay gánh xiếc tới thị trấn, hay một trận bóng, hay bất kì

cái quái gì […]. Thì mình cứ đi dự. Mình khỏi cần xin phép ai. Chỉ cần nói, ‘mình

đi coi’, rồi mình đi” [90,104]. Vì vậy, hầu hết các nhân vật của Steinbeck đều nỗ

lực và chịu đựng một cách phi thường, vượt lên trên nghịch cảnh khốn khó để hiện

thực hóa giấc mơ. Tuy nhiên, trái với ước nguyện rạng rỡ và tinh thần lạc quan mà

giấc mơ Mỹ khơi gợi, những nhân vật anh hùng trong tiểu thuyết Steinbeck đều

không hoặc chưa thể đạt được mong mỏi bình dị của họ. Sự thật trần trụi này đã

được nhân vật Crooks vạch trần một cách miệt thị: “Tao đã thấy cả trăm thằng ở

ngoài đường và trong các trại, với tay nải trên lưng và cũng cái ý khốn khổ đó trong

đầu. Cả trăm đứa. Tụi nó tới làm, rồi bỏ việc, rồi lại đi. Thằng khốn nào cũng có

miếng đất nhỏ trong đầu. Và chưa hề có thằng khốn nào tậu được đất… Chưa ai

lên thiên đàng, chưa đứa nào tậu được đất” [90,124]. Quả thật, cuối tác phẩm Của

chuột và người, giấc mơ chung tay tậu đất tậu vườn của George, Lennie và Candy

sụp đổ khi Lennie vô ý giết chết vợ Curley. George chua xót nhận ra: “tui đã biết

ngay từ đầu. Tui nghĩ tui đã biết là mình sẽ không bao giờ mua mảnh đất đó”

[90,156]. Hay trong Chùm nho phẫn nộ, thiên đường miền Tây thực tế lại là vùng

đất của sự xua đuổi, bất công, đói khổ và mất mát, rạn vỡ. California trong tưởng

tượng và thực tế hoàn toàn trái ngược nhau. Người nhà Joad lần lượt rời bỏ gia

đình, hoặc chết hoặc bỏ trốn, trong nỗ lực gìn giữ sự vẹn toàn cho gia đình của Ma

Joad. Chính Ma Joad cay đắng thừa nhận rằng: “Chỗ nào cũng rạn vỡ… Không

còn gia đình nữa” [85,628]. Như thế, trái với tương lai đầy hứa hẹn ở đất hứa

California trong phần đầu của tác phẩm, những viễn cảnh tươi sáng được nhen

nhóm trong đám dân di tản, tại vùng đất màu mỡ và giàu có này, cái mà họ nhận

111

được lại là một cuộc sống thê thiết: không nơi ăn chốn ở, không có việc làm, đói

khát, bệnh tật và chết dần chết mòn. Như Frederic Carpenter đã chỉ ra: “Sự an toàn,

độc lập, một mảnh đất, giấc mơ của những người tiên phong và gần như là hiện

thực nước Mỹ… chỉ nằm ở trong đầu họ. Đây là bi kịch của nước Mỹ… bi kịch

của tư tưởng” [134,68].

Phía đông vườn địa đàng, tác phẩm được John Steinbeck xem như là cuốn

sách lớn nhất của đời mình, tiếp tục tái khám phá chủ đề về giấc mơ Mỹ và cái giá

phải trả khi theo đuổi giấc mơ. Adam Trask rời bỏ miền Đông quê nhà đến miền

Tây xa lạ với giấc mộng tạo lập một địa đàng cùng người vợ Cathy. Thung lũng

Salinas đẹp đẽ, giàu tiềm năng và đầy cảm hứng đón chào anh, nhưng xen lẫn giữa

những cảnh quan tươi đẹp đó là bóng tối âm u của những dãy núi và những vùng

đất cằn cỗi, dự báo những kết cục không mấy tốt đẹp. Sự thật là Adam đã rơi vào

bi kịch tình yêu, mệt mỏi và bị đánh bại trước một vùng đất khơi gợi khả năng lao

động và sáng tạo. Giống như chàng Adam trong huyền thoại, anh mãi mãi chẳng

thể có được một địa đàng cho riêng mình.

Tiểu thuyết dày dặn này không phải là tác phẩm đầu tiên Steinbeck theo đuổi

chủ đề giấc mơ Mỹ, song ở vào độ tuổi bốn mươi khi khởi sự cuốn sách mà ông

cho là tất cả của cuộc đời và sau những năm tháng chứng kiến nhiều thăng trầm

của đất nước và dân tộc, Steinbeck đã phản ánh nó bằng một góc nhìn mới của một

cây bút già dặn và sâu sắc. Do đó, thay vì mô tả sự tàn lụy của giấc mơ huyền thoại

dưới những tác động khủng khiếp của hiện thực tráo trở và những đổi thay mạnh

mẽ của xã hội Hoa Kỳ như nhiều sáng tác ở giai đoạn thành công trước đó,

Steinbeck đi sâu khám phá “nghịch lí của giấc mơ, khả năng cơ hội có thể bị bỏ dở

hoặc có thể thực hiện” [70,243]. Bi kịch bên trong này, về sau, được nhà văn phát

biểu trong “Diễn từ nhận giải Nobel” năm 1962: “Sứ mệnh từ xưa của nhà văn

không thay đổi. Nhà văn được trao nhiệm vụ phơi bày những lỗi lầm và thất bại

xót xa của chúng ta, khơi ra những giấc mơ tăm tối và nguy hiểm của chúng ta

nhằm nâng cao con người chúng ta” [137]. Ở phương diện này, nhân vật Cal, một

trong hai người con trai song sinh của Adam là một ví dụ điển hình. Cal là một

nhân vật phức tạp, là hình ảnh thu nhỏ của những nghịch lí cố kết đã hình thành

nên tính cách Mỹ. Khác với người anh trai ngây thơ và yếu đuối, Cal thông minh,

lém lỉnh, tự lập, năng động, sắc sảo, táo bạo và quyết tâm, song cũng là một cá

112

nhân lẻ loi đa cảm, thường mang mặc cảm tội lỗi và ám ảnh về cái ác, sự xấu xa

và lòng đố kị. Lúc Cal còn nhỏ, chú Lee đã nhận ra ở cậu bé này vẻ “sắc sảo, đen

tối và cẩn trọng” [92,350] trái với vẻ ngoài dễ mến của anh trai. Khi Cal lớn lên,

điều đó vẫn không thay đổi: Cal “cao lớn, mảnh khảnh và bóng tối luôn hiện diện

ở anh ta” [92,524]. Mặc dù Cal hồ nghi rằng bóng tối ở anh được truyền thừa từ

người chú và bà mẹ, những kẻ sa đọa và đầy hận thù trong gia đình anh, song cá

tính ích kỉ, lòng ghen tị và oán giận của Cal được thể hiện như là bản tính của anh

ta, là một phần tất yếu của tính cách Mỹ biểu hiện khi nỗ lực cá nhân không mang

lại kết quả như mong muốn. Ngay từ khi còn trẻ, Cal đã theo đuổi sự thịnh vượng

và an toàn tài chính, cậu hùn vốn với Will Hamilton để kinh doanh đậu kiếm lời

với ý định sẽ dùng món tiền này làm quà tặng cha, bù đắp cho ông khoản tiền đã

thất thoát trong thương vụ trước đó, đồng thời giúp đỡ anh trai học hành. Nhờ vậy,

Cal có thể giành được tình yêu thương của ông Adam.

Tuy nhiên, sự việc ông Adam từ chối món quà và quở trách Cal đã khiến lòng

ghen tị và oán giận trong Cal trỗi dậy, dẫn đến việc anh tiết lộ sự thật khủng khiếp

về người mẹ với Aron, người mà Cal biết trước là không đủ dũng khí để vượt qua

nỗi đau đớn đó. Vậy là câu chuyện huyền thoại về Cain và Abel tiếp tục lặp lại.

Quyết định và hành động của Cal, một cách gián tiếp, đã dẫn đến cái chết của người

anh em Aron và cơn đột quỵ của người cha. Như thế, giấc mơ theo đuổi sự thịnh

vượng và hạnh phúc cá nhân của Cal là hoàn toàn chính đáng, song kết quả của sự

lựa chọn mà anh phải đối diện liên quan đến sự tái lập bản sắc của anh lại tiết lộ sự

tàn lụy của giấc mơ trước nỗi ám ảnh của quá khứ và khả năng tự định đoạt số

phận của chính Cal. Như triết gia Emerson đã đề xuất rằng người Mỹ nên gạt quá

khứ sang một bên và lãng quên nó. Cal cũng có thể đạt được sự tiến bộ về vật chất

bất kể anh ta là con trai của một nông dân thất bại, một doanh nhân vỡ nợ và một

người mẹ tội lỗi [70]. Song thực tế, tâm hồn Cal luôn bị mắc kẹt trong cội nguồn

phức tạp, đời sống bất ổn đầy nghịch lí và bản chất lưỡng diện của chính anh. Đây

cũng là bi kịch mang tầm cỡ quốc gia và dân tộc. Như Lawrence đã phát hiện ra

khối mâu thuẫn sâu thẳm ở người Mỹ, một dân tộc kiên quyết rũ bỏ truyền thống

và cái xấu xa của châu Âu già cỗi nhưng lại càng bị buộc chặt hơn nữa bởi di sản

lương tâm và những điều cấm kị tại vùng đất mới [DT 82]. Liệu rằng có cơ may

113

nào, lối thoát nào cho Cal và cũng là cho dân tộc Hoa Kỳ trong quá trình theo đuổi

giấc mơ đầy nghịch lí của họ không? Lời trăng trối của ông Adam cho người con

trai duy nhất còn lại và cũng là chủ đề xuyên suốt tác phẩm của Steinbeck,

“Timshel”, tiết lộ với chúng ta rằng điều đó hoàn toàn phụ thuộc vào sự lựa chọn

của Cal và dân tộc của anh. Nghĩa là mỗi cá nhân và mỗi dân tộc đều có quyền lựa

chọn bản sắc mà họ sẽ trở thành.

Như vậy, bằng cách kiến tạo motif những vùng đất hứa sụp đổ, John Steinbeck

đã tái phát hiện khối mâu thuẫn tiềm ẩn giữa ước vọng tươi đẹp và thực tế phũ

phàng của giấc mơ Mỹ trong bối cảnh xã hội nhiều biến động và rối ren nửa đầu

thế kỉ XX. Đồng thời, nhà văn cũng chỉ ra khả năng thất bại hoặc thành công của

mỗi người trên hành trình theo đuổi giấc mơ và lí tưởng mà tổ tiên họ đã định hình.

Giấc mơ Mỹ của hầu hết các nhân vật trong sáng tác của John Steinbeck không thể

tránh khỏi kết cục bi đát - sự tàn lụy của nó, trong thời đại bất ổn khi mọi giá trị bị

đảo lộn và đánh bại. Tuy nhiên, là một nhà văn đứng về phía lương tri và tiến bộ

của nhân loại, John Steinbeck vẫn tin tưởng vào những tia sáng thiên lương lấp

lánh dẫu mong manh ở những con người bình thường. Như ông đã khẳng định:

“Chung quy lại, hiểm nguy, vinh quang và sự lựa chọn chỉ còn ở con người”, “chính

con người đã thành mối nguy to lớn và niềm hi vọng duy nhất của chúng ta” [137].

Giải thiêng huyền thoại giấc mơ Mỹ, song John Steinbeck vẫn tin cậy vào lương

tri của những người Mỹ tiến bộ.

* Tiểu kết

Dựa trên đặc trưng và cấu trúc cổ mẫu anh hùng trong truyền thống văn hóa

dân gian, John Steinbeck đã tái sinh cổ mẫu này trong tiểu thuyết của ông nhằm

phản ánh những trạng huống hiện sinh mới mẻ và biểu hiện quan niệm về con

người trong hoàn cảnh lịch sử xã hội đặc biệt của nước Mỹ nửa đầu thế kỉ XX.

Nhân vật anh hùng trong tiểu thuyết John Steinbeck là những cá nhân quả cảm,

giàu lòng vị tha, đức hi sinh, là những người tiên phong trên hành trình thực hiện

nhiệm vụ tìm kiếm miền đất hứa và xác lập bản sắc để duy trì nỗ lực sinh tồn trong

thời đại khốc liệt. Trên hành trình của người anh hùng, cổ mẫu mẹ nắm giữ vai trò

là người trợ giúp, nâng đỡ, truyền cảm hứng. Người hùng của Steinbeck còn là

người xác lập các giá trị đức tin mới khi những tín điều thiêng liêng xưa cũ tỏ ra

114

không còn hợp thời, là những cá nhân thuộc về cộng đồng thiểu số dám đứng lên

chống lại thành trì của cộng đồng chính thống. Song hành với phương thức huyền

thoại hóa để khắc họa người hùng hiện đại là xu hướng giải huyền thoại nhằm giải

thiêng những huyền thoại về người hùng đã hằn sâu trong tâm thức người Mỹ.

Khác với người hùng đạt được thành tích bằng sự nỗ lực, lòng quả cảm và may

mắn như trong huyền thoại, người hùng của John Steinbeck là những con người bi

kịch, chịu nhiều thiệt thòi, mất mát và tương lai vô định. Trái với khía cạnh tươi

sáng của giấc mơ Mỹ huyền thoại, tiểu thuyết của John Steinbeck tập trung khắc

họa khía cạnh tăm tối của giấc mơ qua những vùng đất bất mãn, ruồng bỏ để tô

đậm bi kịch của người hùng hôm nay.

115

Chương 4.

CỔ MẪU ĐẤT, NƯỚC VÀ DIỄN NGÔN SINH THÁI

TRONG TIỂU THUYẾT JOHN STEINBECK

Tiểu thuyết của John Steinbeck không chỉ thể hiện sự đồng cảm của nhà văn

với số phận của những kẻ bên lề, bị ruồng bỏ ở một vùng đất đầy hứa hẹn mà còn

bộc lộ mối quan tâm sâu sắc và bền bỉ của ông đối với sinh học và huyền thoại.

Niềm say mê mà John Steinbeck dành cho lĩnh vực sinh vật học, sinh thái học

mãnh liệt chẳng kém gì sức quyến rũ của thần thoại, truyền thuyết và các câu

chuyện cổ xưa với nhà văn. Điểm ấn tượng là cả hai yếu tố này thường xuyên được

kết hợp, đan xen đầy thi vị và sáng tạo, tạo nên cấu trúc cơ bản cho nhiều tiểu

thuyết nổi tiếng của ông. Trong đó, đất và nước là những cổ mẫu tự nhiên tiêu biểu,

là chìa khóa mở cánh cửa bước vào thế giới tự nhiên và biểu hiện mối tương quan

giữa con người và tự nhiên trong sáng tác của John Steinbeck. Ở chương cuối của

luận án, trên cơ sở những ý nghĩa biểu trưng của cổ mẫu đất và nước trong kho

tàng văn hóa dân gian, chúng tôi tìm kiếm và khám phá những biến thể của hai cổ

mẫu này, từ đó, hướng đến phân tích diễn ngôn sinh thái trong tiểu thuyết John

Steinbeck. Qua đó, luận án chỉ ra đóng góp của nhà văn đối với khu vườn cổ mẫu

văn chương của nhân loại và tiếng nói sinh thái tiến bộ, mới mẻ của John Steinbeck

trong thời kì bất ổn xã hội cùng với những thảm họa môi sinh.

4.1. Cổ mẫu đất và nước trong văn hóa dân gian

Có thể nói rằng, đất và nước là những cổ mẫu ban sơ nhất trong kho kinh

nghiệm tinh thần của nhân loại, là nền tảng của tâm thức con người từ ngàn xưa.

Chúng thường xuyên được tái xuất hiện, có lúc riêng rẽ song có lúc kết hợp với

nhau, trong thần thoại, truyền thuyết, truyện kể dân gian và các thể loại văn học về

sau với hệ thống biến thể phong phú và đa dạng. Tương tự như các cổ mẫu khác,

ý nghĩa biểu trưng của cổ mẫu đất và nước trong các nền văn hóa cổ xưa thường

mang tính cách hai chiều đối nghịch, là cội rễ của sự sống và là nguồn cơn dẫn đến

sự chết, có khả năng tạo lập và cũng có sức mạnh hủy diệt. Theo Từ điển biểu

tượng văn hóa thế giới, cùng là gốc của vạn vật, song khác với đất là nguồn cội

sản sinh ra các hình dạng sống, nước xuất hiện trước sự hình thành vũ trụ. “Nước

là cái khối lượng chưa phân hóa, đất biểu thị những mầm móng phân biệt. Các chu

116

kì của nước bao gồm những thời kì dài hơn các chu kì của đất trong cuộc tiến hóa

chung của Vũ trụ” [84,288].

Xuất phát từ hai chiều cạnh đối lập gần gũi với cổ mẫu mẹ, đồng thời mọi

động vật cái đều mang bản chất của đất và nước, đất và nước trong văn hóa dân

gian của nhiều cộng đồng thường được nhân cách hóa như những vị nữ thần. Trong

tín ngưỡng của người Hi Lạp cổ, nữ thần Gaia là đất mẹ của muôn loài, đồng thời

cũng là nơi an nghỉ của mọi sinh linh khi chúng khép lại cuộc dạo chơi trên mặt

đất ngập tràn ánh sáng để bước vào một đời sống khác ở một thế giới khác. Điều

đó có nghĩa là Gaia vừa là khởi đầu, vừa là chung cuộc của sự sống. Đối với các

nền văn minh cổ đại ở châu Mỹ, nữ thần đất cũng nắm giữ vai trò quan trọng trong

việc duy trì và kết thúc sự sống. Người Aztec cho rằng đất “là Mẹ Nuôi cho ta sống

bằng thực vật của mình; nhưng ngược lại, bà đòi những người chết để bản thân bà

ăn và, theo nghĩa đó, bà có bản chất hủy diệt” [84,288]. Với người Maya, đất là vị

nữ thần “chủ trì công cuộc sinh đẻ, chủ trì cội nguồn của mọi sự vật, chủ trì bước

khởi đầu của sự hình thành thế giới” [84,288].

Mở đầu Kinh Thánh, một trong những văn bản thiêng liêng nhất của nhân loại,

là câu chuyện Thiên Chúa sáng tạo trời đất vào buổi hồng hoang. Ngài tạo ra ngày,

đêm, trời, đất, biển. Đất sản sinh thảo mộc, gia súc, dã thú cùng mọi sinh vật trên

mặt đất. Sau đó, vào ngày thứ sáu, Thiên Chúa tạo ra con người mang hình dáng

của Ngài từ bụi đất và trao cho con người làm “bá chủ mặt đất”. Song, Ngài cũng

không quên căn dặn rằng: “Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn, cho đến

khi trở về với đất, vì từ đất, ngươi đã được lấy ra. Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với

bụi đất” [115,36]. Huyền tích này đã được tái sinh trong những ca từ đậm màu sắc

hiện sinh của bài hát Cát bụi: “Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi/Để một mai tôi về làm

cát bụi” (Trịnh Công Sơn). Như thế, sự hiện diện của cổ mẫu biểu trưng đất trong

các tín ngưỡng tôn giáo cổ, trong kho tàng folklore của nhân loại, trong các huyền

thoại và nghi lễ tuy có những biểu hiện khác nhau ít nhiều song đều hướng tới hai

bình diện nguồn sống và sự hủy diệt của đất, đồng thời thể hiện mối quan hệ thiêng

liêng và bền chặt giữa con người với đất và rộng hơn là giữa con người với thế giới

tự nhiên. Trong đó, con người chỉ là một bộ phận nhỏ thuộc tổng thể lớn lao. Yêu

thương, tôn trọng, săn sóc đất đai/tự nhiên, đấy là bổn phận của mỗi người.

Cùng với cổ mẫu đất, nước không chỉ là yếu tố quan trọng hàng đầu trong tự

117

nhiên mà còn là một trong những cổ mẫu sơ khởi của hầu hết các nền văn hóa, văn

học cổ đại. Trong những huyền thoại, truyền thuyết cổ xưa nhất, ý nghĩa biểu trưng

của cổ mẫu nước thường quy tụ ở những chủ đề lớn như: nguồn sống, sự thanh tẩy,

tính nữ, sự tái sinh, sự linh hoạt và tai họa. Nước mang những đặc tính vật lí tuyệt

đẹp như thanh khiết, mềm mại, khiêm nhu, xuyên thấu, uyển chuyển, biến hóa và

chuyển động không ngừng. Vì vậy, triết gia phương Đông nổi tiếng là Lão tử say

mê nước. Ông cho rằng nước “có đức sinh hóa, tự sinh tự hóa, và sinh hóa mọi

loài”, nước tuy “mềm yếu” mà có thể thắng được những vật cực cứng [138]. Mang

sức mạnh vô biên, nước là khởi đầu của mọi khởi đầu, là nguồn cội của sự sống.

Dựa trên niềm tin cổ xưa rằng vũ trụ được tạo nên từ những vùng nước nguyên

thủy, truyền thống Do Thái và Kitô giáo cho rằng ý nghĩa biểu trưng đầu tiên của

nước là khởi đầu cuộc sáng tạo thế giới. Mở đầu Sáng thế kí, nước xuất hiện cùng

với Thần Đức Chúa Trời tạo lập nên vũ trụ: “Thần Đức Chúa Trời vận hành trên

mặt nước”, “Đức Chúa Trời đặt tên chỗ khô cạn là đất, còn nơi nước tụ lại là biển”,

Ngài lại phán rằng: “Nước phải sanh các vật sống cho nhiều” [115,32]. Thần thoại

Ấn Độ tiết lộ bước sơ khởi của vũ trụ và thế gian ngập tràn bóng tối, chỉ có nước

mênh mông, sau đó, nước sản sinh ra mặt trời, tiếp đó những vị thần đầu tiên là

Trời và Đất xuất hiện. Trong thần thoại Hi Lạp, nước biểu trưng cho sức mạnh bất

khả chiến bại, sự tái sinh và sự trừng phạt qua hình tượng dòng sông Styx. Achilles,

con trai của nữ thần biển cả Thetis và là một trong những vị anh hùng vĩ đại nhất

của thần thoại Hi Lạp, đã được mẹ nắm hai gót chân nhúng xuống sông Styx để

trở nên bất tử như những vị thần. Sông Styx cũng là nơi chứng kiến lời thề của 12

vị thần trên đỉnh Olympus và sẽ trừng phạt những ai làm trái lời thề. Thần thoại

sáng thế của người Mỹ bản địa cũng đề cao ý nghĩa thanh lọc và nguồn sống của

cổ mẫu nước. Người Lakota thường truyền tai nhau câu chuyện về trận lụt thanh

tẩy và phục hồi hành tinh. Người Cheyenne tin rằng thuở ban đầu thế gian chìm

trong vũ trụ nước và Rùa Bà đã cõng trái đất từ dưới đáy lên trên lưng của nó.

Trong truyền thuyết của nhiều tôn giáo và dân tộc trên thế giới, nước còn có

thể nhấn chìm, nuốt chửng, tàn phá, gây ra chết chóc kinh hoàng mà ví dụ điển

hình là những trận Đại hồng thủy. Sáng thế kí kể lại câu chuyện tạo dựng trời đất,

loài người của Đức Chúa Trời. Song, khi loài người ngày một đông hơn và trở nên

hung ác, tha hóa, bại hoại, Ngài tự trách mình đã tạo ra loài người và tìm cách hủy

118

diệt chúng bằng một trận lụt tàn khốc. Mưa lớn ròng rã 40 ngày đêm, nước dâng

liên tục 157 ngày. Mọi loài từ con người đến muông thú, côn trùng, chim trời ở

trên mặt đất đều chết hết, ngoại từ gia đình Noah cùng các loài vật trên con tàu

Noah được sống sót nhờ ơn Chúa. Ở Việt Nam, sự tích Quả bầu mẹ và sử thi Đẻ

đất đẻ nước thấp thoáng bóng dáng cổ mẫu nước với biến thể là nạn lụt: sau khi

đại hồng thủy chấm dứt, chỉ có hai người may mắn sống sót, một nam một nữ, họ

buộc phải lấy nhau để duy trì dòng giống [16]. Như thế, nước mà biến thể của nó

trong trường hợp này là nạn lụt, có chức năng trừng phạt những kẻ có tội, bại hoại

và tha hóa nhưng không thể làm hại những người chính trực, lương thiện. Ngoài

ra, tương tự như cổ mẫu đất, nước cũng có tính cách hai chiều đối nghịch, vừa là

kẻ hủy diệt vừa là đấng tái sinh.

Trong lĩnh vực tâm lí học, nước và đất còn biểu trưng cho những năng lượng

vô thức, những nguồn sức mạnh vô hình, những xung năng thầm kín của con người.

Jung cho rằng nước là biểu trưng chung nhất của vô thức [26]. Gaston Bachelard

xem xét đất và nước như những nguyên tố cơ bản của sự sống và trí tưởng tượng

cùng với lửa và không khí. Luận điểm này được đề xuất trong những công trình

nghiên cứu nổi tiếng của ông: Nước và những giấc mơ (Water and Dreams, 1942),

Đất và mặc tưởng ý chí (Earth and Reveries of Will – An Essay on the Imagination

of Matter, 1948), Đất và mặc tưởng trầm tư (Earth and Reveries of Repose – An

Essay on Images of Interiority, 1948) [139], [140],[141]. Trong đó, Bachelard cho

biết nước hiện diện như một thực thể hoàn chỉnh với thể xác, linh hồn và tiếng nói

biến hóa không ngừng, kết tinh những ý nghĩa biểu trưng như sự thanh khiết, tù

đọng, tính nam, tính nữ, im lìm, quyền uy, hung bạo. Bachelard cũng nhấn mạnh

tính hai mặt của nguyên tố đất: hướng nội và hướng ngoại, mềm và cứng, kiên định

và tĩnh lặng. Do vậy, vai trò của đất và nước đối với sự sống cũng mang tính chất

đối nghịch, kiến tạo và duy trì sự sống, đồng thời gây ra sự hủy diệt, chết chóc.

4.2. Biến thể của cổ mẫu đất và nước trong tiểu thuyết John Steinbeck

4.2.1. Khát vọng sinh tồn và tình yêu thiên nhiên của con người qua cổ mẫu đất

John Steinbeck là một trong số ít những tiểu thuyết gia người Mỹ hiện đại gắn

bó mật thiết với nông thôn, với đời sống thôn dã ở miền Tây nước Mỹ. Ông sinh

ra và lớn lên tại California, một vùng đất trù phú, núi non hiểm trở, những cánh

đồng bạt ngàn, hàng trăm dặm bờ biển trải dài quyến rũ và thường xuyên bị bao

119

phủ bởi một lớp sương mù. Đây cũng là vùng đất có lịch sử lâu đời, nơi những

người da đỏ sinh sống hàng chục thiên niên kỉ trước khi những người châu Âu đặt

chân đến. Khác với các nhà văn Mỹ cùng thời như F. Scott Fitzgerald, Ernest

Hemingway có những năm tháng tuổi trẻ sôi động, xa xứ ở Paris hoa lệ, John

Steinbeck gắn bó với miền Tây nước Mỹ, với đất đai, biển cả và những người lao

động nghèo khổ, giàu hi vọng. Ngoài ra, trong số các nhà văn Mỹ cùng thời, chỉ

có John Steinbeck sống đủ lâu để trải qua những năm 1960 đầy biến động với

những vấn đề nghiêm trọng mà ngày nay nhân loại vẫn đang phải đối mặt, đó là

nạn chuyên chế chính trị, bất bình đẳng kinh tế và sự tàn phá môi sinh [2]. Chính

những trải nghiệm nông thôn trong những năm tháng tuổi trẻ cơ cực của John

Steinbeck đã giúp nhà văn sáng tạo nên những kiệt tác về nỗi đau khổ của con

người, đặc biệt là những cá nhân yếu thế, bên lề xã hội, bộ phận chịu tác động dữ

dội của thời kì Đại suy thoái, của tình trạng bất ổn sau các cuộc Thế Chiến. Và

cũng chính gốc gác nông thôn đã góp phần nuôi dưỡng tình yêu đối với đất đai,

thiên nhiên trong trái tim chàng trai trẻ John Steinbeck. Không phải ngẫu nhiên khi

những sáng tác đầu tay của nhà văn người Mỹ này lại hướng về chủ đề đất đai, đặc

biệt là mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, để rồi trong những sáng tác thuộc

thời kì văn nghiệp vững vàng về sau bên cạnh những chủ đề lớn khác, đất vẫn là

mối quan tâm đau đáu của ông.

Cổ mẫu đất hiện diện trong tiểu thuyết John Steinbeck trước hết với đặc trưng

nguồn sống, biểu trưng cho khát vọng sinh tồn của những người lao động nghèo

khổ, thua thiệt. Những tác phẩm như Gửi vị thần chưa biết, Của chuột và người,

Chùm nho phẫn nộ, Phía đông vườn địa đàng phần lớn lấy bối cảnh nông thôn, đó

là những vùng quê hẻo lánh, những trang trại mênh mông, những vườn cây ăn trái

sum sê. Của chuột và người mở ra với khung cảnh thiên nhiên đầy sức sống: “Ở

một bên sông, những dốc thoải vàng rực dưới chân đồi vươn lên thành dãy núi đá

Gabilan hùng vĩ… cây cối mọc ven bờ nước – mỗi khi xuân đến hàng liễu lại xanh

tươi” [90,9], trái ngược với số phận long đong của các nhân vật trong truyện. Dãy

núi đá Gabilan tiếp tục hiện diện trong phần mở đầu của Phía đông vườn địa đàng

với vẻ đẹp tươi sáng và ấm áp cùng với quang cảnh thung lũng Salinas bao la, màu

mỡ, ngập tràn muôn sắc hoa: “Trên các mẫu đất rộng của thung lũng, lớp đất mặt

nằm sâu và màu mỡ. Chỉ cần một mùa đông mưa nhiều, cỏ và hoa sẽ trồi lên. Hoa

120

xuân vào một năm ẩm ướt nhiều vô kể. Toàn bộ đáy thung lũng và cả chân đồi sẽ

được trải thảm bằng hoa lupin và anh túc” [91,8]. Vẻ đẹp giàu sức sống của đất đai

cũng biểu trưng cho ý nghĩa tái sinh, kết thúc một thời kì khó khăn và mở ra một

tương lai tốt đẹp hơn. Điều này được biểu hiện qua khung cảnh thiên nhiên hồi

sinh sau trận lụt ở cuối tác phẩm Chùm nho phẫn nộ: “Những mầm cỏ non bé xíu

bắt đầu chọc đất ló ra và chỉ trong mấy ngày, các quả đồi nay đã khoác màu xanh

cùng với năm mới đang bắt đầu” [85,695].

Ở một số tiểu thuyết khác của John Steinbeck, ý nghĩa biểu trưng nguồn sống

của đất đai còn được thể hiện qua niềm ao ước của nhiều nhân vật về việc sở hữu

một mảnh đất nho nhỏ, một nơi an toàn, nơi họ có thể tạo dựng một thiên đường

trên mặt đất, có thể tận hưởng một cuộc sống giản dị, hạnh phúc. Đó là giấc mộng

của những gã lang thang khốn khổ trong Của chuột và người: “mình sẽ mua căn

nhà nhỏ với hai mẫu đất” [90,30], “mình sẽ có một vườn rau lớn, một chuồng thỏ

và đàn gà” [90,31], “mình có thể sống nhờ đất màu mỡ” [90,99], “đó là nơi của

mình, hổng ai có thể cấm mình” [90,100]. Với những nhân vật nghèo khổ trong tác

phẩm của John Steinbeck, chỉ cần có một miếng đất nho nhỏ là đủ để có thể trồng

trọt, nuôi sống bản thân và gia đình. Đất đai đối với họ là nguồn sống, là biểu trưng

cho khát vọng sinh tồn, là cơ may duy nhất để họ có thể sống sót và vượt qua thời

buổi kinh tế khủng hoảng.

Chủ đề về tình yêu đất đai, mối liên hệ gắn bó mật thiết giữa con người và

vùng đất được John Steinbeck khám phá qua nhiều tiểu thuyết, từ những tác phẩm

đầu tay đậm đặc yếu tố huyền thoại như Gửi vị thần chưa biết, đến những tiểu

thuyết phản kháng xã hội như Của chuột và người hay Chùm nho phẫn nộ, đến

những sáng tác sau cùng đầy tính chiêm nghiệm như Phía đông vườn địa đàng. Gửi

vị thần chưa biết là câu chuyện về nỗ lực bảo vệ đất của nhân vật Joseph Wayne.

Joseph vốn là một người yêu mến đất đai và những sinh linh cư trú trên mặt đất.

Bằng linh cảm về sự kết nối giữa bản thân và đất, Joseph rời bỏ trang trại Vermount

khô cằn ở phía đông để đến California, nơi có những thung lũng màu mỡ. Khi nhìn

thấy cảnh quan phì nhiêu này, một dòng suối nóng bỏng của tình yêu trào dâng trong

trái tim Joseph. “Có lòng trắc ẩn với cỏ cây và hoa lá trong con người anh; anh cảm

thấy rằng cây cối là con anh và đất cũng là con anh. Trong một phút chốc, anh như

đang lơ lửng trên không trung và nhìn xuống đất. ‘Đất là của tôi’, anh lại nhủ, ‘và

121

tôi phải bảo vệ nó’” [121,7]. Tình yêu mà Joseph dành cho đất giống như tình cảm

trìu mến, ấm áp của một người cha đối với con, của Thiên Chúa dành cho loài người.

Trên hành trình khám phá mối liên kết đặc biệt này, Joseph gặp gỡ những

người dẫn đường, những người giúp đỡ anh hiểu biết về đất đai. Tiêu biểu là nhân

vật Juanito, một người Mỹ bản địa, Juanito đã khai mở nhận thức của Joseph về

bản tính hai mặt vừa là nguồn sống, vừa là sự hủy diệt của đất: “trái đất là bà mẹ

của chúng ta, mọi sinh linh có sự sống từ mẹ đất và cuối cùng sẽ trở về với đất mẹ”

[121,18]. Sở dĩ John Steinbeck lựa chọn nhân vật trợ giúp cho nhân vật chính của

thiên truyện là người Mỹ da đỏ bởi vì đối với cộng đồng da đỏ, đất đai hay thiên

nhiên là “bà mẹ lớn nuôi dưỡng họ, đồng thời họ là một phần của thiên nhiên” [DT

142]. Nhờ vậy, Joseph dần dần gắn kết chặt chẽ và hiểu biết sâu sắc về vùng đất,

anh vui mừng khi nhận ra “bản chất của anh và bản chất của đất là một” [121,72].

Niềm tin này một lần nữa được tái khẳng định trong giờ phút cận kề cái chết của

Joseph, cũng là lúc anh hiểu rằng con người và thế giới tự nhiên là một thể thống

nhất, hài hòa, cân bằng: “Tôi là đất… và tôi là mưa. Cỏ sẽ mọc ra từ tôi trong chốc

lát” [121,179]. Để cứu đất thoát khỏi trận hạn hán, Joseph đã tiến hành các nghi lễ

hiến tế: anh giết một con bê để lấy máu cứu sống đất đai song thất bại, dòng suối

ngày càng cạn kiệt, cuối cùng anh lấy máu của chính anh để mang mưa đến tái sinh

vùng đất. Bằng cách hi sinh cuộc sống của mình, Joseph đã đem đến cuộc hồi sinh

cho thế giới tự nhiên mà anh hằng yêu quý. Sự hi sinh của Joseph gây ấn tượng

mạnh mẽ không phải chỉ vì tính chất thần bí và thiêng liêng của nó mà còn đặt ra

những vấn đề sinh thái, mối quan tâm của các nhà sinh thái học bề sâu nổi lên sau

khi tác phẩm của John Steinbeck ra đời đã khá lâu. Theo đó, sự hợp nhất giữa con

người và các lực lượng trong tự nhiên là điều khả thể dẫu trong bối cảnh xã hội

hiện đại khốc liệt [143]. Cố nhiên, câu chuyện của Joseph đã tiết lộ mối gắn kết

sâu sắc giữa con người với đất, đồng thời thể hiện niềm tôn kính của nhà văn John

Steinbeck đối với tự nhiên, ý tưởng được chia sẻ bởi rất nhiều nhà sinh thái học.

Chủ đề này tiếp tục được trình bày trong Phía đông vườn địa đàng qua thái độ trân

trọng, yêu mến vùng đất của ông Samuel Hamilton, một người nông dân lương

thiện, hiểu biết. Mặc dù sở hữu một vùng đất khô cằn, lớp đất mặt mỏng mảnh,

nhưng Samuel vẫn gắn bó mật thiết với nơi đây. Tình yêu đất đai tha thiết của ông

được thể hiện qua lời bộc bạch của ông với Adam rằng: “Tôi yêu từng viên đá sỏi,

122

yêu lớp đất cằn cỗi không có nước đó. Tôi tin rằng trong đó vẫn chứa sẵn sự sung

túc” [96,176]. Vì vậy, Samuel không tránh khỏi cảm giác bịn rịn về đất đai vườn

tược khi ông quyết định cùng vợ thực hiện một chuyến đi xa, cũng là chuyến đi

duy nhất và cuối cùng trong suốt cuộc đời làm lụng vất vả của ông. “Ông ngắm

nghía thật kĩ từng ngọn núi, từng gốc cây, từng khuôn mặt thân quen như muốn

ghi nhớ vĩnh viễn” [96,169].

Bằng cách tái sinh cổ mẫu đất, John Steinbeck đã khẳng định vai trò quan

trọng của đất đai/tự nhiên đối với cuộc sinh tồn của con người, đặc biệt là những

người lao động nghèo khổ. Khát vọng sở hữu một mảnh vườn nho nhỏ để cày cuốc

đặng nuôi sống bản thân và gia đình trong thời kì đói khát là ước mơ bình dị của

hầu hết các nhân vật trong tiểu thuyết của John Steinbeck. Khát vọng ấy tựa như

đốm lửa lấp lánh trong đêm tối dẫn dắt họ tiến lên phía trước, hướng đến một ngày

mai tươi đẹp hơn. Bên cạnh đó, sự gắn kết giữa con người và đất đai trong nhiều

tác phẩm của Steinbeck còn thể hiện tình yêu thiên nhiên sâu sắc, mong cầu thoát

khỏi đặc tính rập khuôn, máy móc của nền văn minh hiện đại của những người Mỹ

giàu lương tri.

4.2.2. Sự hủy diệt và niềm hi vọng tái sinh qua cổ mẫu nước

Tương tự cổ mẫu đất, nước trong tiểu thuyết John Steinbeck, với các biến thể

tiêu biểu của nó là biển, sông, suối, ao hồ, mưa, lụt (xem thêm phụ lục 5), cũng

nắm giữ chức năng kép, vừa là nguồn sống vừa là nguồn chết, là biểu tượng của

khả năng sinh sôi nảy nở đồng thời cũng là biểu tượng của sự hủy diệt, là nơi chứng

kiến trạng huống cái chết và sự tái sinh diễn ra. Hơn thế, với John Steinbeck, cổ

mẫu nước không chỉ gắn liền với số phận của những người dân nghèo trong sáng

tác của ông mà còn là chìa khóa mở cánh cửa bước vào thế giới tự nhiên, đặc biệt

là thế giới sinh vật biển đa dạng, nơi nhà văn, nhà sinh vật học tìm thấy mối quan

hệ gắn kết giữa muôn loài trong vũ trụ rộng lớn.

Là một biến thể của cổ mẫu nước, dòng sông được tái hiện nhiều lần với nhiều

ý nghĩa biểu trưng khác nhau trong nhiều tiểu thuyết của John Steinbeck. Những

dòng sông trong Của chuột và người, Chùm nho phẫn nộ thường được miêu tả với

vẻ đẹp dịu êm, nước chảy trong veo, cùng với quang cảnh tươi xanh, đầy sức sống

hai bên sông. Đó là dòng Salinas “nước xanh và sâu thẳm”, cây cối mọc ven bờ

nước xanh tươi. Trên nền cảnh thiên nhiên sông nước tươi đẹp mở đầu tác phẩm,

123

hai nhân vật chính của câu chuyện, George và Lennie, hiện ra. Họ dừng lại bên

vũng nước xanh để xoa dịu cơn khát, để tận hưởng một đêm yên bình, hòa mình

cùng thiên nhiên trước khi bước vào chuỗi ngày khuân vác mệt nhọc. Song, cũng

chính tại nơi yên bình, an toàn này, trong phần cuối tác phẩm, lại là nơi những cái

chết hiện diện: cái chết của loài vật và cái chết của con người. Bên dòng nước xanh

thẳm, một con chim diệc cao lớn phóng đầu và mỏ xuống vũng nước nuốt lấy con

rắn nước nhỏ đang vùng vẫy trong cơn hoảng loạn. George hướng Lennie chú ý

đến một quãng xa bên kia sông, kể cho hắn nghe về mảnh đất trong mộng tưởng

của họ, rồi rút súng bắn vào gáy Lennie, “Lennie giật tung mình, rồi từ từ gục

xuống bãi cát phía trước” [90,175]. Cái chết của con rắn nước là hệ quả của quy

luật sinh tồn tất yếu trong tự nhiên. Nhưng cái chết của Lennie lại là một bi kịch

bất khả kháng. Để bảo vệ Lennie, George buộc phải tự tay giết chết người anh em

của mình, điều đó cũng đồng nghĩa với việc anh ta tự giết chết cái bóng của chính

mình. Như thế, Lennie hay phần bản năng ngây thơ, vô tội của George không có

chốn dung thân trong môi trường xã hội hiện đại khắc nghiệt.

Bên cạnh đó, dòng sông trong tiểu thuyết của John Steinbeck còn mang ý

nghĩa biểu trưng cho cõi hoang dã, nơi con người được tái sinh, được trở về với

bản thể. Đó là dòng sông Colorado nước chảy trong veo xuyên qua bãi lau sậy

xanh tươi, nơi đây là điểm dừng chân của nhà Joad và đoàn người di tản trước khi

băng qua sa mạc để đến đất hứa California. Dòng nước mát dịu của nó không chỉ

gột rửa sạch bụi bặm và mệt mỏi mà đám đông di tản phải chịu đựng trong những

ngày rong ruổi trên đường cái mà còn đánh thức, chuyển hóa tinh thần của những

người đàn ông trong nhà Joad. Đó là nơi đàn ông họ Joad được thanh tẩy, với

những người như Pa Joad, chú John hay Tom, đó là một sự gột rửa, khép lại những

năm tháng yên ổn ở quê nhà để chính thức bước vào một cuộc đời mới mẻ và lạ

lẫm nơi đất khách quê người. Riêng với Noah, dòng nước này có một ý nghĩa đặc

biệt. Vẻ đẹp yên bình, thanh khiết của nó thôi thúc anh chia lìa gia đình, người thân

đương lúc khó khăn để ở lại bên con sông, “sống mãi mãi ở nơi đây” mà không

bao giờ sợ đói hay buồn chán [85,319].

Noah là con trai cả của nhà Joad được đặt tên theo tên của nhân vật sống sót

sau sự kiện Đại hồng thủy trong Kinh Thánh. Khác với các em của mình, anh là

một người kì lạ nhưng không ngốc nghếch. Sự xa lạ của anh được người kể mô tả

124

là kì cục, dị dạng và ngang ngược: “Anh không ngốc, nhưng lạ lùng”, “không tự

ái và cũng không có chút ham muốn nhục dục”. Vẻ ngoài của anh gây chú ý với

đôi mắt quá cách xa nhau. Anh dửng dưng với tất cả và là kẻ xa lạ với thế giới bên

ngoài, nhưng không thấy lẻ loi [85,124]. Thomas Fahy, trong nghiên cứu Freak

Shows and the Modern American Imagination: Constructing the Damaged Body

from Willa Cather to Truman Capote (Những cuộc biểu diễn kì quặc và trí tưởng

tượng của người Mỹ hiện đại: Xây dựng nhân vật bị tổn thương từ Willa Cather

đến Truman Capote, 2006), xuất phát từ những mô tả của người kể chuyện trong

tiểu thuyết, cho rằng Noah bị “khuyết tật” và điều đó đe dọa khả năng sống sót và

tồn tại của anh ta trong bối cảnh Đại suy thoái [144,93]. Song, những lời nói và

hành động của Noah trong tác phẩm lại thể hiện sự xa lạ của anh với thế giới xung

quanh hơn là vẻ ngoài lạ thường của anh. Mặc dù các thành viên khác trong nhà

Joad đều yêu quý Noah, đặc biệt là Pa Joad, người luôn đối xử dịu dàng với anh vì

cảm giác xấu hổ và tội lỗi mà ông bố phải đối diện mỗi khi nom thấy đứa con trai

đầu lòng, nhưng Noah hờ hững với tất cả, anh “nói năng ít và chậm rãi khiến những

người không quen biết anh thường tưởng tượng anh đần si” [85,123-124]. Anh

sống một đời sống lạ lùng, lặng lẽ và bình thản hoàn toàn trái ngược với người em

trai là Tom, luôn nhiệt tình và năng động. Ronald Fields cũng chú ý đến tính cách

lưỡng phân ở Noah khi anh khiến những người xung quanh có cảm giác vừa thoải

mái vừa khó xử. Vẻ kì lạ của Noah tượng trưng cho sự cách biệt giữa hai thế giới:

nông thôn/tự nhiên và thành thị/văn minh [145].Vì vậy, ở trong nhà Joad, Noah

chưa bao giờ sống một cuộc đời đích thực, anh tồn tại ở trạng thái chết-lúc-đang-

sống.

Quyết định ở lại bên con sông của Noah là lựa chọn thoát khỏi xã hội văn

minh để trở về với thế giới tự nhiên. Vậy là, Noah - kẻ xa lạ, được tái sinh nhờ sự

thức tỉnh của thiên nhiên hoang dã. Vững tin vào khả năng tự xoay sở của bản thân

trong môi trường tự nhiên, Noah bỏ đi dọc theo con sông Colorado và cắt đứt mối

ràng buộc giữa anh với xã hội văn minh. Theo đó, sự xa lạ của nhân vật này xuất

phát từ chỗ anh ta chỉ quan tâm đến bản thân và thờ ơ với người khác, chứ không

hoàn toàn vì diện mạo kì cục của anh. Điều này đã được người kể chuyện thông

báo ở phần đầu tác phẩm, rằng “chẳng có gì khiến anh quan tâm” [85,124]. Với

Noah, việc ở lại bên gia đình như một thành viên của xã hội văn minh, hiện đại sẽ

125

chỉ mang lại đau khổ, đói khát và sau cùng là cái chết [145], vì vậy, anh lựa chọn

một giải pháp mạo hiểm và có phần ích kỉ, đó là đi theo con đường của riêng anh

với niềm hi vọng tái sinh bên dòng sông Colorado. Trong khi gia đình của Noah

phải đối diện với đói khát và lũ lụt, Noah đã vượt ra ngoài chuẩn mực đạo đức của

cộng đồng, tuân theo bản năng khác thường của bản thân, song chính điều đó lại

có thể đảm bảo sự an toàn và khả năng sống sót của anh ấy [145]. Khác với nhân

vật trong huyền thoại, sự bình yên và khả năng sống sót của Noah không phụ thuộc

vào một đấng thánh linh mơ hồ mà dựa vào chính khả năng thức tỉnh và chọn lựa

của anh. Tất nhiên, Steinbeck không mang đến một câu trả lời cụ thể cho người

đọc, tương lai của Noah sẽ như thế nào, anh ta sẽ sống sót hay chết trong cô độc.

Cả hai khả năng này đều có thể xảy ra như chính sự biến hóa khôn lường của dòng

sông cuộc đời.

Bên cạnh biến thể dòng sông, ý nghĩa biểu trưng cho sự hủy diệt và niềm hi

vọng tái sinh của cổ mẫu nước còn được tô đậm trong kiệt tác Chùm nho phẫn nộ

qua các biến thể dòng suối và đặc biệt là trận lụt ở cuối tác phẩm. Đó là dòng suối

nhỏ, nơi người hùng Casy đã ngã xuống trong sự thắng thế của cái ác và sự bất

công. Cũng tại nơi đây, cái chết oan ức của Casy đã đánh dấu sự chuyển mình của

người hùng Tom Joad. Trong phần đầu của tiểu thuyết, tâm trí Tom chỉ hướng về

gia đình, những người thân yêu của anh với niềm mong mỏi được đoàn tụ sau nhiều

năm xa cách. Vì vậy, những bài thuyết giảng chân thành của mục sư Casy hầu như

không lắng đọng trong tâm trí Tom: “Anh chẳng để ý gì đến bài nói của ông mục

sư, tưởng chừng đó là chuyện riêng tư mà người khác chẳng phải suy xét” [85,92-

93]. Thế nhưng, trải qua những thử thách, mất mát trên hành trình đến miền đất

hứa cùng với gia đình và đặc biệt là sự kiện cái chết của Casy, nhân vật Tom đã có

một sự chuyển hóa tinh thần rất lớn. Như nhận định của Sam Bluefarb, Casy phải

chết để Tom được tái sinh, đó cũng là motif quen thuộc trong văn chương nhân

loại [56]. Sau khi trả thù cho Casy, Tom phải ẩn nấp trong hang tối được che phủ

bởi bụi rậm và một lùm cây dâu dại để tránh làm phiền lụy đến những người thân.

Hang là “mẫu gốc của hình ảnh tử cung của người mẹ”, hiện diện trong những

huyền thoại về sự phát sinh, phục sinh và khai tâm” [84,380] của rất nhiều dân tộc

trên thế giới. Với các đặc tính trung tâm, liên thông trời-đất, gắn liền với cái vô

thức, hang động là nơi chốn diễn ra một trạng huống đặc biệt của con người, nơi

126

con người trở thành chính mình và đạt được sự trưởng thành. Trong những ngày

đêm Tom ẩn nấp đơn độc nơi hang tối, những bài nói liên chi hồ điệp của Casy

vọng về khiến anh nghĩ suy, tưởng nhớ, nghiền ngẫm và nhận ra chân lí giản dị

của mọi thời đại: “một cây làm chẳng nên non” [85,669], tự nhủ chuyện gì sẽ xảy

ra khi tất cả những kẻ đói khổ cùng đoàn kết lại và bắt đầu tranh đấu. Vì vậy, Tom

quyết định ra đi để tiếp tục thực hiện sự nghiệp dang dở của Casy. Nghĩa là từ một

người nông cạn, thật thà, có đôi chút nóng nảy, Tom đã chuyển hóa để trở thành

một người có lí tưởng, khát vọng đẹp đẽ và biết cách để hiện thực hóa điều đó.

Như thế, thay vì tiếp tục trốn chạy hoặc thỏa hiệp với tình trạng bị đối xử bất công,

Tom Joad đã trả thù cho Casy và quyết định tiếp tục con đường tranh đấu mà ông

ta đã khởi xướng.

Hay ở một biến thể mạnh mẽ khác, trận lụt lịch sử ở cuối truyện, nhiều nhà

nghiên cứu cho rằng Steinbeck được gợi hứng từ huyền thoại Đại hồng thủy trong

Kinh Thánh. Song khác với ý nghĩa trừng phạt tội ác của loài người và cơn phẫn

nộ của Đức Chúa Trời trong huyền tích xưa, trận lụt trong kiệt tác của John

Steinbeck mang ý nghĩa biểu trưng cho trạng huống bi đát và phi lí mà con người

thời hiện đại phải đối diện. Những người nông dân nghèo khổ trong câu chuyện

của John Steinbeck tìm đến đất hứa California với mong cầu một cuộc sống tốt đẹp

hơn nơi quê nhà. Song lời hứa hẹn ấy đã sụp đổ khi họ liên tục bị đối xử bất công,

bị khinh miệt và xua đuổi, mất mát và khổ đau vẫn tiếp tục đeo bám họ. Đứa con

của Rosasharn chết ngay khi vừa ra đời giữa trận lụt kinh hoàng. Thay vì được

chôn cất tử tế, xác của nó được chú John thả xuống dòng nước xoáy mạnh để “nói

cho chúng rõ”, để “thối rữa giữa đường cái” cho chúng mở mắt [85,715], là lời tố

cáo đanh thép và xót xa cho những bất công mà những người di tản phải gánh chịu.

Ngoài ra, trong Kinh Thánh, Noah và gia đình ông là những người duy nhất sống

sót sau trận lụt nhờ sự giúp đỡ của Chúa, song gia đình Joad và những người di tản

vượt qua cảnh ngập lụt mà không có bất cứ một sự trợ giúp nào từ bên ngoài.

Nguồn sức mạnh của họ đến từ bên trong, gia đình họ dù có mất mát vẫn ở bên

cạnh nhau và đặc biệt là niềm tin, niềm hi vọng mãnh liệt của những người như

Ma Joad rằng: “Mọi việc sẽ ổn thỏa. Sẽ có những thay đổi. Khắp nơi” [85,710].

Từ góc nhìn lạc quan, Miriam Pérez Veneros tin rằng trận lụt trong tác phẩm của

Steinbeck là biểu tượng của “hi vọng và sự hồi sinh”, “một khởi đầu mới”, “sự tái

127

sinh của vùng đất” [53,176]. Đồng thời, sự hiện diện của nước ở cuối tác phẩm đối

lập với sự thiếu vắng của nó ở đầu tác phẩm ngụ ý cho một cuộc sống mới, một sự

thức tỉnh mới. Song, chúng tôi cho rằng sự thể hiện của cổ mẫu nước trong phần

kết của câu chuyện là một biểu trưng kép, vừa là sự hủy diệt vừa là niềm hi vọng

tái sinh, vừa là tai họa vừa là điềm lành.

Trong Viên ngọc trai, cổ mẫu nước biểu hiện qua các biến thể: biển, dòng

suối, ao. Biển gắn bó mật thiết với đời sống của Kino và cộng đồng da đỏ, là nguồn

sống duy nhất và vô tận của họ, đồng thời biển cũng ẩn chứa bao điều bí mật và

những tai họa khôn lường. “Bãi biển phủ cát vàng, nhưng ở rìa nước thì toàn là vỏ

sò cùng rong rêu. Mấy con còng phì bong bóng lên từ những chiếc hố trên bờ cát,

trong vùng nước nông, những con tôm hùm bé xíu cũng thập thò ra vào hang hốc

của chúng giữa những rến rác và cát. Đáy biển vô vàn các loài sinh vật, đang bò,

đang bơi và đang sinh sống. Từng cụm tảo nâu đung đưa theo làn nước, mấy con

cá ngựa nhỏ xíu bám trên những ngọn cỏ biển xanh mướt rung rinh” [86,23]. Biển

đẹp đẽ, chứa đựng nguồn sống cho con người, song biển cũng có thể gieo mầm tai

ương. Điều này được ẩn ngụ qua biểu tượng viên ngọc trai, vật báu mà Kino may

mắn tìm thấy ở dưới lòng đại dương sâu thẳm. Ngỡ rằng viên ngọc sẽ đem đến

cuộc sống giàu sang, hạnh phúc cho gia đình Kino, nhưng sự thật là nó đã khơi dậy

lòng tham vật chất, vụ lợi ở Kino và những người xung quanh, là nguồn cơn gây

ra những mất mát, đau khổ cho Kino và gia đình anh. Trên đường chạy trốn bọn

săn người, gia đình Kino tìm đến khe nứt tối tăm nằm khuất sâu trong đỉnh núi với

hi vọng có nước uống và nơi an toàn để trú ẩn. Người kể chuyện cho biết dòng suối

rỉ ra từ khe nứt ấy bình thường “tuôn trào dòng nước mát lạnh, trong trẻo và đáng

yêu” nhưng khi mưa xuống nó có thể trở thành thác dữ hay khi khô hạn chỉ còn trơ

đá cuội. Chỗ nước chảy xuống đọng thành ao, là chốn cư ngụ của các loài vật,

muông thú khát nước tìm đến. “Vì có nước nên ao nhỏ là nơi sinh tồn và cũng vì

có nước mà nó là chốn tử địa” [86,112]. Nơi đây đã cứu giúp gia đình Kino qua

cơn khát cháy bỏng, trú ẩn khi màn đêm buông xuống, nhưng đây cũng là nơi Kino

giết chết mấy gã săn người và con trai anh cũng bị chúng bắn chết.

Bên cạnh đó, biển cũng là nơi chứng kiến sự chuyển hóa hay tái sinh về mặt

tinh thần của nhân vật chính. Biển là nơi đem đến cho Kino và gia đình viên ngọc

trai tuyệt thế. Kino rời xa biển và ngôi làng của anh để lên đường thực hiện giấc

128

mơ giàu sang và quyền thế, song điều anh nhận được lại là mất mát và chết chóc.

Cuối cùng, Kino cùng vợ quay trở về ngôi làng, đến bên bờ biển, ném trả viên ngọc

xuống biển sâu và điều anh đạt được là một sự chuyển hóa bên trong. Như nhận

định của Astro rằng Kino đã nhận ra sự vô nghĩa của thói vụ lợi và bản chất đồi

bại của sự giàu có, do đó, Kino lựa chọn “một cuộc sống tự nhiên lành mạnh như

là giải pháp thay thế thiết thực duy nhất” [DT 146,70]. Sự tái sinh về mặt tinh thần

của Kino cùng với người vợ được khắc họa như là một sự vượt qua tất cả kinh

nghiệm của loài người và đạt đến một trạng thái tồn tại cao hơn, thuộc về thế giới

thần thánh, sau tất cả những khổ đau và mất mát mà họ phải trải qua. “Ai nấy đều

bảo rằng họ không thuộc về loài người, rằng họ đã bước xuyên qua nỗi đau để tới

bờ bên kia, rằng họ được bảo bọc bởi quyền năng ma thuật” [86,123]. Cần lưu ý

rằng, nhân vật người hùng da đỏ của Steinbeck chỉ có thể đạt được sự tự do đích

thực khi anh ta trở về với cộng đồng, với ngôi làng chài và biển khơi. Chính tại nơi

chốn bình dị ấy, truyền thống gắn bó với biển cả và vạn vật của tộc người là động

lực lớn lao giúp nhân vật nhận thức đúng đắn về bản sắc cá nhân và cộng đồng.

Khi nghiên cứu cổ mẫu nước trong tiểu thuyết của John Steinbeck, chúng tôi

xét thấy ở hầu hết các trường hợp, nước đều biểu hiện qua các dạng thức cụ thể, là

biển, sông, suối, ao, mưa, lụt. Các biến thể của nước được nhà văn kiến tạo nên

những bối cảnh không gian hoặc các sự kiện quan trọng hình thành cốt truyện, tính

cách và số phận của nhân vật trong truyện. Thoát thai từ lớp lớp vô thức tập thể,

nước trong tiểu thuyết của John Steinbeck vẫn lấp lánh những nét nghĩa cơ bản của

mẫu gốc như nguồn sống, sự thanh tẩy, sự tái sinh, sự hủy diệt. Song, điểm đáng

lưu ý là nhà văn đã chuyển hóa cổ mẫu nước trên nền mẫu gốc để phản ánh số phận

bấp bênh, bi đát của những người nghèo trong xã hội Mỹ hiện đại, đồng thời gieo

mầm hi vọng, tin tưởng vào khả năng chịu đựng và vượt qua trạng huống khốc liệt

của họ.

4.3. Diễn ngôn sinh thái trong tiểu thuyết John Steinbeck qua cổ mẫu đất

và nước

4.3.1. Khủng hoảng sinh thái và số phận con người trong thời đại kĩ trị

Thế kỷ 20 được đánh dấu trong lịch sử nhân loại bằng hàng loạt những biến

động dữ dội trong đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường của các

quốc gia phương Tây lẫn phương Đông. Đó là những cuộc khủng hoảng kinh tế

129

gia tăng thêm khoảng cách giàu nghèo, những cuộc chiến tranh tàn khốc gây đổ vỡ

những giá trị truyền thống, những chấn động xã hội kéo theo hệ lụy là những chấn

thương tinh thần của con người hiện đại. Trong muôn vàn nỗi bất an, khủng hoảng

mà con người thời đại kĩ trị phải đối diện, khủng hoảng sinh thái là cuộc khủng

hoảng chưa từng xảy ra trong quá khứ. Đây là hệ quả tất yếu của những “cơn điên

tăng trưởng” thời hiện đại, của tham vọng và dục vọng quá trớn khiến con người

rời xa tự nhiên, chống lại quy luật tự nhiên và phải trả giá rất đắt. Hiện thực nhức

nhối ấy, trên bình diện nghệ thuật, trở thành nguồn chất liệu phong phú của văn

học, thách thức người sáng tạo tìm kiếm những phương thức biểu hiện mới mẻ.

Trong số những tiểu thuyết gia người Mỹ cùng thời, John Steinbeck là tác giả

sớm bộc lộ mối quan tâm đến các vấn nạn môi trường và tác động sâu sắc của cuộc

khủng hoảng sinh thái đến số phận những người lao động nghèo trong thời đại

khoa học kĩ thuật bùng nổ, công cuộc cơ giới hóa nông nghiệp diễn ra nhanh chóng

ở nước Mỹ. Trong tác phẩm Tôi, Charley và hành trình nước Mỹ, khi nhìn thấy sự

phát triển điên cuồng diễn ra khắp nơi, những chiếc xe ủi lạnh lùng san bằng cánh

rừng Seattle xanh mướt để lấy chỗ xây cất nhà chọc trời, Steinbeck đã thốt lên:

“Tôi tự hỏi sao mà sự tiến bộ lại giống với sự hủy diệt đến thế” [118,165]. Tuy

vậy, ý thức về mặt trái của sự tiến bộ đã sớm được nhà văn thể hiện ngay từ những

tiểu thuyết đầu tay và xuyên suốt sự nghiệp sáng tác hơn 30 năm của ông. Trong

đó, Steinbeck đặc biệt chú ý đến: khủng hoảng sinh thái tự nhiên, khủng hoảng

sinh thái xã hội, khủng hoảng sinh thái tinh thần và tác động khủng khiếp của chúng

đến số phận của những người lao động nghèo khổ. Thông qua những biến thể của

cổ mẫu đất và nước, cụ thể là thảm họa tự nhiên bão bụi và hạn hán kéo dài, tác

phẩm của Steinbeck đã khắc họa rõ nét trạng huống bi đát của con người trong thời

đại kĩ trị.

Thân phận bi thương của con người thời hiện đại được Steinbeck khám phá

qua cuộc khủng hoảng môi trường tự nhiên, đất đai bị tàn phá và tình trạng thiếu

nước trầm trọng. Đó là những vùng đất cằn cỗi vì bị vắt kiệt nhựa sống, vì nạn độc

canh, vì thiếu thốn tình yêu và niềm tôn kính của con người. Đó còn là sự tàn phá

của thảm họa tự nhiên, là nạn bão bụi được Steinbeck tái hiện qua cảnh mở đầu

Chùm nho phẫn nộ với ý nghĩa dự báo chết chóc, tang thương. Theo Từ điển biểu

tượng văn hóa thế giới, “cát bụi là dấu hiệu của sự chết” [84,110]. Những người

130

nông dân trong tác phẩm này của Steinbeck đứng trước nguy cơ mất mùa, đói khát

và xa hơn là cái chết vì bão bụi tấn công từ khắp mọi phía khiến không khí trở nên

ngột ngạt, đặc quánh lại, cây cối úa tàn, mọi hoạt động của con người bị đình trệ.

Tất cả mọi sinh linh đều bị bao phủ bởi một màn bụi chết chóc: “Bụi đường dâng

cao, trải rộng, rơi xuống đám cỏ bên bờ và trong các đám ruộng… bầu trời tối sầm

lại sau màn bụi hỗn loạn, lướt qua mặt đất, cuốn tung mịt mù” [85,14] “không khí

đầy ứ bụi bóp nghẹt các âm thanh một cách trọn vẹn hơn cả sương mù” [85,15-

16]. “Suốt ngày bụi từ trên cao cứ rơi xuống dần như xuyên qua một cái rây. Ngày

tiếp theo, bụi tiếp tục sa xuống, bao phủ mặt đất dưới một tấm màn đồng màu. Bụi

lắng đọng trên ngô, bám đầy trên đầu cọc rào, bám đặc trên các sợi dây thép, trải

rộng trên các mái nhà, che lấp cỏ và cây” [85,16]. Bão bụi cũng lấy đi lớp đất mặt

trên các vùng đất nông nghiệp dẫn đến tình trạng xói mòn, suy thoái đất đai trên

diện rộng, khiến những người tá điền lâm vào tình cảnh nợ nần, đói khát. Điều

đáng kể là Steinbeck đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa ý nghĩa biểu trưng của cát bụi

trong tầng sâu văn hóa nhân loại và tác động khủng khiếp của sự kiện cơn bão đen

(Dust Bowl) đã xảy ra ở nước Mỹ vào những năm 1930, gia tăng mức độ ảnh hưởng

của cuộc Đại suy thoái ở quốc gia này. Vậy là, ý nghĩa hủy diệt của cổ mẫu đất

không chỉ đến từ tính chất biểu trưng huyền thoại của nó mà trong bối cảnh hiện

đại, khía cạnh chết chóc đấy là hậu quả của sự thiếu hiểu biết và lòng tham mà con

người đã gây ra và phải gánh chịu.

Bên cạnh đó, khía cạnh hủy diệt của cổ mẫu nước được Steinbeck khám phá

qua mức độ thiếu thốn hoặc dư thừa của nó. Sự tàn phá của nạn bão bụi càng trở

nên trầm trọng khi đi kèm với sự kiện này là tình trạng thiếu nước và nắng nóng

kéo dài dẫn đến hạn hán. Trong tâm thức nhân loại, nước mưa, “thứ nước của trời

cho”, với bản chất thanh khiết là biểu tượng của sự sống, sự phì nhiêu, có vai trò

tạo dựng và thanh lọc. Thế nhưng trong cảnh mở đầu của Chùm nho phẫn nộ, sự

hiện diện của mưa vô cùng ít ỏi, thậm chí có mà như không: “những trận mưa cuối

vụ lâm thâm, không đủ sức xói lở mặt đất vốn đã bị nứt nẻ” [85,13], “những đám

mây giông gieo xuống vài hạt mưa lưa thưa rồi vội vã trốn về miền khác” [85,14].

Mây và mưa chạy trốn, trong khi đó, nắng, gió, cát bụi càng ngày càng thêm dữ

dội, ác liệt, tấn công những cánh đồng ngô và đe dọa sự sống của con người. Đối

lập với tình trạng thiếu thốn, khô hạn trong phần mở đầu, phần cuối của tác phẩm

131

này là khung cảnh đất đai, lều bạt ngập chìm trong biển nước. “Thoạt tiên là những

cơn mưa nhỏ triền miên. Rồi đến những trận mưa rào xối xả, rồi tiếp đó là một cơn

mưa nhỏ hạt dầm dề, đều đặn” [85,691]. Mưa rơi mãi không ngừng, nước từ sông,

suối dâng tràn bờ, quật ngã cây cối, ùa vào các vườn cây ăn quả, các cánh đồng,

nhấn chìm đường cao tốc, xâm chiếm lều bạt của những người di tản. Cảnh vật

nhuốm màu xám xịt. Người người run rẩy, tuyệt vọng, sợ hãi, uất giận vì không có

việc làm, đói khát và bệnh tật kéo tới. “Trẻ con đói kêu khóc, thức ăn lại không

có” [85,693]. “Các ông già bà lão chết co rúm trong một xó và bọn trẻ con cũng co

rúm mà chết” [85,694]. Như thế, sự thiếu vắng hay dư thừa của nước đều tác động

dữ dội đến đời sống của những người lao động nghèo, bộ phận dễ bị tổn thương

trong xã hội kĩ trị. Điều khác biệt là Steinbeck đã tái hiện cuộc khủng hoảng sinh

thái tự nhiên trong thời đại văn minh cơ khí như là một hệ quả tất yếu, đồng thời

xoáy sâu vào bi kịch của tầng lớp bên lề xã hội.

Khủng hoảng sinh thái tự nhiên dẫn đến khủng hoảng sinh thái xã hội. Trong

Chùm nho phẫn nộ, mối quan hệ giữa con người và con người ngày một rạn vỡ.

Điển hình là thái độ khắc nghiệt của điền chủ với tá điền, bởi vì “từ lâu họ biết

rằng không khắc nghiệt thì không trở thành ông chủ được” [85,55]; là những kẻ

bán hàng gian xảo với đôi mắt sắc nhọn chực rình những phút yếu mềm để kiếm

chác từng đồng xu cuối cùng của những con người bị xua đuổi khỏi quê hương bản

quán; là sự ghẻ lạnh, thù hằn của bọn chủ đất, chủ ngân hàng, người buôn bán, dân

thành thị ở miền Tây đối với đám người bị tước đoạt ruộng đất, không nhà cửa.

Đám người giàu có, quyền thế gọi những con người khốn khổ ấy là “quân Okies”,

“tụi chó chết”, chẳng khác gì “quân da đen khốn kiếp ở miền Nam” [85,372].

Không chỉ dừng lại ở đó, tình trạng khủng hoảng còn lan rộng đến tận gốc rễ của

từng gia đình. Nổi bật trong đoàn người di tản đến miền Tây là gia đình Joad. Trên

đường trường gian nan, vất vả, thiếu thốn đủ bề, ông nội bà nội lần lượt qua đời,

Noah, Connie, Tom lần lượt bỏ đi. Ma Joad đau đớn khi nhận ra sự rạn vỡ trong

gia đình mình: “Gia đình ta tan tác hết. Chả biết sao! Hình như mẹ không thể suy

nghĩ hơn được nữa” [85,340]. Tác động khủng khiếp của khủng hoảng sinh thái xã

hội không chỉ ám ảnh những người đang sống mà còn tăng thêm nỗi bi đát cho

những người đã chết. Sinh ra từ đất rồi chết đi về với đất. Trong tâm thức nhân

loại, ngôi mộ dù tầm cỡ hay khiêm tốn đều có ý nghĩa thiêng liêng, không chỉ là

132

nơi bao bọc, che chở người đã chết mà còn là “đài chứa sự sống” [85,596] bởi lẽ

cái chết cũng là sự sống, sự sống ở một thế giới khác. Thế nhưng, những nhân vật

di tản của Steinbeck khi chết đi lại không được chôn cất như một con người bình

thường. Ông nội, trong Chùm nho phẫn nộ, là người có địa vị cao nhất trong nhà

Joad, cũng là người gắn bó sâu sắc nhất với mảnh đất tổ tiên để lại. Vì vậy, ông

không thể rời bỏ đất. Ông đã chết ngay khi con cháu xốc nách ông trong tình trạng

mê sảng để lên đường đến miền Tây. Như một lẽ tất yếu, ông nội đã nằm lại với

đất đai quê nhà. Tuy nhiên, con cháu ông không thể chôn cất ông một cách bình

thường, ngôi mộ của ông không được đắp cao. Bởi lẽ, nếu người nhà Joad “đắp

thành ngôi mộ thì nhoáng cái người ta sẽ đào lên” [85,226]. Vì vậy, họ phải giấu

nhẹm đi bằng cách san phẳng đất rồi phủ cỏ khô lên. Điều này tiết lộ thân phận

chua xót của con người trong thời đại bất ổn, khi con người quan tâm đến đất đai,

lợi nhuận hơn tính mạng và cái chết của đồng loại, khi cuộc khủng hoảng sinh thái

xã hội làm chao đảo những giá trị sống căn bản nhất.

Trong thời đại biến động, bão táp đó, đời sống tinh thần của mỗi cá nhân

không tránh khỏi sự chao đảo, lung lay. Đánh mất nơi nương tựa ở tự nhiên, ở đồng

loại, mỗi cá nhân chỉ còn cách trở về với chính mình, nhưng họ lại đau đớn nhận

ra tâm hồn họ cũng trơ trọi, lạc lõng, cô độc. Pa Joad, người nắm giữ vai trò trụ cột

trong gia đình Joad đau đớn nhận ra sự bất lực, tuyệt vọng của mình: “Tôi chẳng

còn được tích sự gì nữa. Suốt ngày tôi chỉ nghĩ thời xưa. Suốt ngày tôi chỉ nghĩ đến

căn nhà của chúng ta và cứ tự nhủ là sẽ không bao giờ thấy lại nó nữa […]. Tôi có

ý nghĩ là cuộc đời của chúng ta đã chấm dứt, chấm dứt hẳn rồi” [85,677-678]. Có

thể nói, sự yếu đuối, bất lực lộ rõ trong lời nói của Pa Joad. Ông hoàn toàn suy sụp,

sợ hãi, bi quan, tuyệt vọng. Vì vậy, ông đeo bám quá khứ huy hoàng và lảng tránh

thực tại như một phương thuốc để xoa dịu những chấn thương tinh thần của mình.

Chú John, người luôn mang mặc cảm tội lỗi vì cái chết oan ức của người vợ, càng

trở nên bi quan, cô đơn, tuyệt vọng: “Tôi chẳng biết làm sao. Tôi không tài nào có

ý kiến này nọ cả. Tôi thấy như người nửa tỉnh nửa mê” [85,677] và muốn buông

xuôi tất cả.

Với những nét đặc thù về địa lí tự nhiên, Mỹ là một đất nước rộng lớn, đất đai

rất đa dạng, tài nguyên thiên nhiên dồi dào, cùng với những lí tưởng về tự do và

bình đẳng cơ hội cho tất cả mọi người, Mỹ trở thành quốc gia của sự dịch chuyển

133

và “sự dịch chuyển” cũng là bản sắc của người Mỹ. Khía cạnh văn hóa này đặc

biệt bùng nổ trong thời đại kĩ trị. Song, bằng cảm quan nhạy bén của người nghệ

sĩ, Steinbeck đã ý thức rất sớm về sự phát triển đến mức quá tải và thừa mứa của

nền kinh tế đã làm biến đổi sâu sắc môi trường sinh thái, số phận và tâm hồn của

những người dân Mỹ. Khác với truyền thống gắn kết hài hòa với thiên nhiên hoang

sơ, “người-Mỹ-mới tìm thấy sự thách thức và tình yêu của mình ở những con

đường nghẹt thở, ở những khung trời đầy sương khói, ngột ngạt bởi những thứ a-

xít mà nền công nghiệp thải ra, ở những tiếng rít của bánh xe và ở những ngôi nhà

nằm san sát nhau... trong khi các làng mạc nhỏ thì cứ héo hắt và chết dần chết mòn”

[118,70]. Những sự thật chua xót này được nhà văn Steinbeck chiêm nghiệm trên

hành trình tái khám phá nước Mỹ lúc ông đã bước vào tuổi xế chiều. Song, những

mầm móng của nó vốn dĩ đã được nhà văn thể nghiệm trong những tiểu thuyết

quan trọng trước đó, đặc biệt là ở Chùm nho phẫn nộ, nơi mà số phận khổ đau của

người lao động chưa bao giờ lại được biểu hiện một cách đậm nét trong bối cảnh

Đại suy thoái, đặc biệt là cuộc khủng hoảng sinh thái.

Như thế, mối quan tâm của nhà văn Steinbeck về khủng hoảng sinh thái trong

các tác phẩm của ông không nằm ngoài chủ đề số phận con người trong thời đại kĩ

trị, đặc biệt là những người dân di tản, những con người bị gạt ra khỏi mảnh đất tổ

tiên họ để lại, mang giấc mơ về thiên đường miền Tây để rồi… vỡ mộng. Bằng

cách tái sinh và biểu hiện mạnh mẽ các biến thể của cổ mẫu đất và nước, Steinbeck

đã cất lên tiếng nói của những người lao động nghèo khổ, bộ phận chịu tác động

dữ dội nhất của thảm họa tự nhiên và sự phát triển “điên cuồng” của nền công

nghiệp, nông nghiệp hiện đại.

4.3.2. Sự sụp đổ ý thức sinh thái trong thời đại kĩ trị

“Ý thức sinh thái nhấn mạnh con người và tất cả các sinh mệnh khác đều là

những thành viên bình đẳng trong hệ thống đại tự nhiên, nhân loại không phải là

chủ nhân của tự nhiên, tự nhiên cũng không phải là nô lệ hoặc đối tượng tiêu dùng

của nhân loại. Quan hệ giữa con người và tự nhiên là quan hệ phát triển hài hòa,

cộng sinh, cùng có lợi” [142,23]. Từ thuở ban sơ, giữa con người nguyên thủy và

tự nhiên vốn dĩ đã thiết lập một mối quan hệ thiêng liêng, gắn bó mật thiết. Trong

đó, con người chỉ là một bộ phận nhỏ trong tổng thể to lớn là thế giới tự nhiên.

Song, trong tiến trình loài người chế ngự, chinh phục, thoát ra khỏi nỗi sợ hãi và

134

lệ thuộc vào tự nhiên để khẳng định vị trí và sức mạnh của mình, mối quan hệ giữa

con người và tự nhiên dần dần nghiêng về đối lập nhị nguyên. Đặc biệt, sự xuất

hiện của phong trào Khai sáng và chủ nghĩa duy lý ở châu Âu vào thế kỉ XVIII đã

phục hưng và cổ vũ vai trò của lí tính, đề cao con người trí tuệ và giải phóng con

người khỏi mọi xiềng xích, áp chế, ràng buộc. Đấy cũng là thời điểm đánh dấu sự

tách biệt của con người ra khỏi thế giới tự nhiên. Từ đó về sau, cùng với sự phát

triển nhanh chóng của khoa học kĩ thuật, sự kiêu ngạo và tham vọng ngày một lớn

dần của con người, mối quan hệ thiêng liêng, bền chặt giữa con người và tự nhiên

dần dần bị phá vỡ. Hệ quả là không chỉ thế giới tự nhiên bị hủy hoại mà sự sống

của con người cũng bị đe dọa, thậm chí đứng trước nguy cơ diệt vong. Nhận thức

nhạy bén trước trạng huống hiện sinh mới mẻ và chua xót của con người thời hiện

đại, Steinbeck đã phản ánh sự sụp đổ ý thức sinh thái ở nước Mỹ, quốc gia non trẻ

nhanh chóng vươn lên trở thành cường quốc trên thế giới vào nửa đầu thế kỉ XX

thông qua việc khắc họa mối quan hệ rạn vỡ giữa con người và tự nhiên.

Gửi vị thần chưa biết đánh dấu bước khởi đầu mối quan tâm của nhà văn trẻ

Steinbeck với các vùng đất và chủ đề về mối quan hệ giữa con người và đất đai

trong sự nghiệp sáng tác của ông. Nhân vật chính của câu chuyện, Joseph, phải trải

qua nhiều thử thách, mất mát, thậm chí phải đánh đổi bằng sinh mạng của mình

mới có thể nhận ra bản chất gắn kết sâu sắc giữa anh ta và vùng đất. Song, cái chết

của Joseph cũng tiết lộ cái giá mà con người phải trả cho những tham vọng và sự

thiếu hiểu biết của họ. Do đó, tiểu thuyết này của Steinbeck có ý nghĩa dự báo về

sự rạn vỡ của mối quan hệ vốn đã được kiến tạo lâu đời giữa người và đất trong

thời đại kĩ trị. Nguy cơ này đã trở thành một chủ đề lớn trong những sáng tác sau

này của Steinbeck mà trường hợp điển hình là Chùm nho phẫn nộ, Của chuột và

người.

Đất vốn là suối nguồn nuôi dưỡng vạn vật, nắm giữ vai trò quan trọng đối với

quá trình sinh sống của con người, có mối ràng buộc thiêng liêng với con người,

đặc biệt là những người nông dân. Không phải đợi đến thời hiện đại khi phê bình

sinh thái ra đời mối dây liên kết này mới được thừa nhận, mà ngay từ thời xa xưa

Kinh Thánh kể lại câu chuyện tạo dựng trời đất và loài người của Đức Chúa Trời

trong Sáng thế kí. Theo đó, Ngài đã xác lập mối quan hệ gắn bó thiêng liêng có

tính song phương giữa người và đất, sinh ra từ đất rồi trở về với đất, con người

135

phải có trách nhiệm chăm sóc, quản trị đất, nguồn sống của họ [115]. Tuy nhiên,

Steinbeck đã phát hiện khía cạnh ngược lại, đó là mối quan hệ tốt đẹp giữa con

người và đất đai bị phá vỡ trong thời đại kĩ trị. Đất vốn là tài sản sở hữu của những

nông dân, những tá điền, những người “đã đo đạc, đã khai hoang”, “đã sinh ra ở

đây, để làm ăn ở đây, có mồ mả cha ông ở đây” [85,59]. Tổ tiên của họ “đã giết

bọn da đỏ”, “đã giết rắn cho đất đai này yên ổn” [85,59], đã lao động và tranh đấu

đến tận hơi thở cuối cùng để cứu ruộng đất, chiếm giữ đất đai và truyền thừa cho

các thế hệ con cháu mai sau. Song, hạn hán và bão bụi đe dọa sức sống của đất,

hủy hoại vùng đất vốn màu mỡ và phì nhiêu, đồng thời ảnh hưởng trực tiếp đến

đời sống của những người nông dân nghèo. Mùa màng thất bát, những cánh đồng

ngô bị tàn phá, nợ nần chồng chất, đói khát, ngân hàng thu hồi đất, máy móc hiện

đại thay thế sức lao động của con người, người nông dân chưa bao giờ phải đối

diện với thảm cảnh khủng khiếp như thế trong lịch sử. Văn minh cơ khí hiện đại

đem đến đời sống tiện nghi, thoải mái song lại gia tăng khoảng cách giàu - nghèo

và nhiều hệ lụy khác, trong đó, con người trở thành nạn nhân của chính sự phát

triển mà đồng loại đã tạo ra. Đó là sự thực cay đắng và tàn khốc trong xã hội hiện

đại mà Steinbeck đã dũng cảm phơi bày trong tiểu thuyết của ông.

Tất cả các căn nguyên này dẫn đến hệ quả xót xa là mối gắn kết thiêng liêng

và lâu đời giữa con người và đất bị phá vỡ. Cố nhiên, nguyên cớ dẫn đến tình trạng

khủng khiếp này không đơn thuần chỉ là sự trừng phạt của mẹ thiên nhiên hay mặt

trái của sự phát triển và tiến bộ mà xuất phát từ quá trình lạm dụng đất đai của con

người. Lòng tham vô đáy khiến con người trở nên mù quáng. Loài người đã phá

vỡ giao ước mà Chúa Trời đã đặt ra giữa họ và đất đai, biến đất đai từ vị trí ngang

hàng, chung lưng đấu cật, trở thành một món hàng, một đối tượng bị lạm dụng, bóc

lột và ngược đãi. Vì vậy, tính gắn kết thiêng liêng giữa con người và đất, điều tạo

nên các mối quan hệ bền chặt giữa người với người, giờ đây chỉ còn đọng lại trong

những ký ức xa xăm: “Đã có một thời nhà ta có ruộng có đất, con ạ. Hồi đó có một

cái gì ràng buộc chúng ta với nhau: người già mất đi, lớp trẻ thay thế, và tất cả nhà

ta chỉ là một. Gia đình là thế. Điều đó có vẻ vẹn nguyên rõ ràng. Nhưng bây giờ

thì không rõ ràng nữa” [85,628].

Đất là đối tượng dễ bị tổn thương bởi tác động của các lực lượng tự nhiên và

sự tàn ác của con người. Việc độc canh cây bông để kiếm lợi từ những cuộc chiến

136

khiến “đất ngày càng nghèo đi”, “hút kiệt máu mủ của đất” [85,56]. Những ông

chủ lớn sở hữu hàng ngàn acre đất đai quan tâm đến những món lợi nhuận vững

chắc, đất đai phải sinh lợi. Vì vậy, khi đất mất dần sức sống, không còn đáp ứng

lòng tham của họ thì họ “vội thu hoạch bông, trước khi đất chết”, rồi “bán đất”

[85,58]. Bên cạnh việc con người lạm dụng, bóc lột đất đai, sự phát triển của nền

nông nghiệp cơ giới hóa khiến con người ngày một thêm xa rời đất, lạnh lùng, vô

cảm với đất. Steinbeck đặc biệt nhấn mạnh việc sử dụng các phương tiện canh tác

hiện đại đã đẩy nhanh trạng thái rạn vỡ của mối ràng buộc thiêng liêng, lâu đời

giữa người và đất. Những kẻ lái máy cày giống người máy hơn là con người, với

bao tay, kính, mặt nạ cao su bịt kín. “Y không yêu mến đất, cũng như ngân hàng

không yêu mến đất” [85,62]. Lí trí và cảm xúc của anh ta tê liệt, người lái không

thể nhìn thấy, không thể ngửi thấy, không thể chạm vào, không thể cảm nhận hơi

nóng và sức mạnh của đất. Cùng với máy móc, anh ta không trồng trọt và chăm

sóc đất như giao ước mà ngược lại hãm hiếp đất một cách có phương pháp và lạnh

lùng. Hệ quả tất yếu là con người tách biệt với đất đai của họ. Họ ăn những thứ

không phải do chính tay họ làm ra, và chẳng có gì ràng buộc họ với chúng. “Đất

sinh con đẻ cái với sắt thép và chết dần chết mòn dưới sắt thép, bởi lẽ đất không

được ai yêu, không bị ai ghét, nó không phải là đối tượng cầu khẩn hay nguyền

rủa” [85,63]. Không chỉ mô tả sự phát triển nhanh chóng, vượt bậc của nước Mỹ

hiện đại, tiểu thuyết của Steinbeck còn thể hiện ý thức sâu sắc của nhà văn về

những hệ lụy khủng khiếp của nó. Đời sống kim khí, sắt thép, xăng nhớt, lấp lánh

ánh đèn khiến việc trồng trọt đất đai trở nên dễ dàng và năng suất hơn, song lại

đánh mất tính cách kì diệu của hoạt động lao động nhọc nhằn mà thiêng liêng của

con người từ ngàn đời nay. Do đó, sự am hiểu sâu xa và mối liên hệ mật thiết giữa

con người và tự nhiên cũng biến mất. Bên cạnh việc mô tả cuộc khủng hoảng bản

sắc của những người di tản bị xua đuổi khỏi quê hương xứ sở, nơi họ đã bỏ lại ký

ức vui buồn, bỏ lại trái tim của mình, tác phẩm của Steinbeck còn chỉ ra trạng

huống khủng hoảng bản sắc của những người ở lại, những người sắm vai ông chủ-

nô lệ của máy móc hiện đại, phá bỏ mối ràng buộc thiêng liêng với đất đai, vì thế

đánh mất bản sắc của chính họ.

Lần theo hành trình của đám đông di tản, Steinbeck phát hiện ra rằng sự gắn

kết giữa con người với đất đai không chỉ rạn vỡ ở miền Trung Nam của nước Mỹ

137

mà nhanh chóng lan rộng đến tận miền Tây nước Mỹ, nơi chốn vốn hoang sơ, trù

phú bậc nhất của quốc gia này. Chương 19 tái hiện quá trình phát triển của sự thèm

khát đất đai của những người Mỹ đầu tiên ồ ạt đổ về đây, họ cướp ruộng đất của

người Sulier, người Gurrero rồi cày cấy, trồng trọt hoa màu với một ham muốn

điên cuồng phải sở hữu đất đai. Dần dà, sự thèm khát đất mờ nhòa trước sức mạnh

vạn năng của đồng tiền: “những gì là lòng yêu thương họ mang trong trái tim đã bị

loãng đi một khi tiếp xúc với đồng tiền; tất cả nhiệt tình mãnh liệt đến tan, rỉ giọt

và mất đi trong những vấn đề vụ lợi bẩn thỉu” [85,366]. Nông nghiệp trở thành một

kĩ nghệ, hoa màu thay đổi, trang trại rộng lớn thêm trong khi chủ sở hữu ngày một

ít đi. Mối ràng buộc thiêng liêng giữa người với đất ngày càng lơi lỏng và hoàn

toàn bị cắt bỏ khi những chủ đất “trồng trọt trên giấy tờ và quên ruộng đất”

[85,367]. Chính lúc đó, đám người đói khát, bị tước đoạt ruộng đất tràn đến miền

Tây. Hoàn cảnh khốn cùng khiến những người di tản ý thức sâu sắc về giá trị của

đất đai “giống như đàn kiến suốt đời tìm kiếm việc làm, thức ăn và trên hết là ruộng

đất” [85,368], “bỏ hoang ruộng đất là có tội, không sử dụng đất đai là một tội ác

chống lại đàn trẻ đói khát” [85,370]. Cái đói khiến họ nổi khùng. Họ muốn tìm

thấy một nơi ấm cúng nhưng chỉ thấy sự thù hằn, căm ghét, xua đuổi. Khát vọng

sở hữu đất đai, gìn giữ mối quan hệ mật thiết với đất của những người di tản bị vùi

dập bởi chính đồng loại của họ, những kẻ sẵn sàng tiêu phí hàng núi tiền của để

mua sắm vũ khí, hơi cay, thuê mướn tay sai, cảnh sát để bóp chết mọi mưu toan

khởi nghĩa từ trong trứng, những kẻ thà để cam vàng thối ủng lủng lẳng trên cành,

trang trại ngập trái cây, các vựa thóc đầy ăm ắp trong lúc đám người đói khát chạy

vạy khắp nơi để kiếm cái ăn, bọn trẻ con thiếu ăn, bệnh tật.

Bên cạnh đó, sự phát triển của khoa học, sự cải tiến kĩ thuật để gia tăng sản

lượng đem đến cho con người những vụ mùa bội thu. “Tri thức của họ đã cải biến

thế giới” [85,552] song con người bất lực không tìm kiếm được cách thức khiến

những người đói khát có được cái ăn cái mặc. Để cho giá cả thị trường đứng vững,

người ta sẵn sàng hủy diệt sản phẩm của đất đai, cây cối đương lúc hàng triệu người

đói khát cần đến chúng. “Đó là một tội ác ghê tởm vượt quá mọi sức tưởng tượng.

Đây là một nỗi đau khổ không thể diễn tả được bằng nước mắt. Đây là một sự phá

sản lớn lao đến nỗi nó hủy bỏ tất thảy những thành công trước đây” [85,555]. Theo

Heavilin, thật đáng buồn khi ở một vùng đất giàu có lại có quá ít sự hào phóng và

138

hiếu khách, mối quan hệ mật thiết giữa người và đất bị phá vỡ, từ vị trí ân nhân đất

đai trở thành nạn nhân của lòng tham và sự thiếu hiểu biết của con người [147].

Sau rất nhiều năm chu du khắp nước Mỹ, chiêm nghiệm lại những điều mắt

thấy tai nghe trên những con đường, xa lộ chằng chịt ở xứ sở cờ hoa, Steinbeck

phát hiện sự đổi thay khủng khiếp của nước Mỹ ẩn giấu bên dưới vẻ hào nhoáng

của nó. Nếu như trong những năm 1930, nhà văn trẻ trung đương lúc sung sức nhận

ra cái xơ xác, kinh hoàng, đói khát của những người lao động nghèo khổ ở một đất

nước đang vươn lên khẳng định vị thế vô song. Về sau, trong những năm tháng

cuối đời, một Steinbeck dạn dày kinh nghiệm đã nhận thấy sự bất mãn của một

vùng đất thừa mứa, nơi có những con người có ước mơ nhưng không có hoài bão.

Vùng đất ấy “thiếu những áp lực vốn làm cho con người càng mạnh mẽ hơn và nỗi

đau khổ vốn làm con người trở nên vĩ đại” [29,702]. Nỗi thống khổ trong những

năm 1950, 1960, theo Steinbeck, không còn là cái nghèo, cái đói mà là sự buồn

chán. Một nước Mỹ ban đầu đầy lý tưởng trở nên mục ruỗng và bất mãn qua thời

gian được Steinbeck phát hiện thông qua sự sụp đổ ý thức sinh thái, khi người Mỹ

ngày một cách xa thế giới tự nhiên, chìm đắm trong sự tiện nghi, thừa mứa và cũng

là giới hạn của nền văn minh hiện đại. Như lời than phiền của ông về “sự vô đạo

đức đáng ngờ” của nước Mỹ: “Vì quá giàu có về VẬT CHẤT”, ông nói “[người

Mỹ] đang bỏ thời gian và tiền bạc ra ngồi trên ghế sa lông mà tìm kiếm một tâm

hồn. Chúng ta thật là một giống loài kỳ lạ. Chúng ta có thể chịu đựng được mọi

thứ Chúa và thảm họa Tự nhiên giáng xuống đầu, nhưng lại không chống chọi nổi

sự dư thừa” [DT 118].

Xuất phát từ lòng yêu mến đất đai, quê hương Salinas cùng với niềm tin vào

tính gắn kết, hài hòa giữa vạn vật trong vũ trụ, Steinbeck đã tái sinh cổ mẫu đất,

nước trong tiểu thuyết của ông nhằm phản ánh hiện thực khắc nghiệt và đặc biệt là

vấn đề khủng hoảng sinh thái trong thời đại công nghiệp hóa, cơ khí hóa. Cổ mẫu

đất, nước trong tác phẩm của Steinbeck không chỉ kế thừa các đặc tính nguồn sống

và sự hủy diệt từ cổ mẫu thế giới mà điều đáng kể là thông qua việc tái thiết các cổ

mẫu này, nhà văn đã thể hiện niềm trăn trở của ông về sự rạn vỡ của mối quan hệ

thiêng liêng và lâu đời giữa đất và người, cũng là giữa con người và thế giới tự

nhiên. Từ đó, tiểu thuyết của văn hào người Mỹ âm vang những khắc khoải sinh

thái mà cho đến nay nhân loại vẫn đang phải đối mặt. Mang theo quá nhiều tham

139

vọng, dục vọng trong “cơn điên tăng trưởng” của thời hiện đại, từ chỗ gắn kết,

hưởng lợi từ tự nhiên, con người tiến đến “khai thác tận diệt, bóc lột, cưỡng đoạt

tự nhiên” biến thế giới tự nhiên đẹp đẽ, giàu có trở nên khô cằn và tuyệt chủng, để

rồi tự chuốc lấy một đời sống hiện đại đầy bất an và khủng hoảng [142].

4.3.3. Tinh thần Đông phương trong khôi phục giao ước giữa con người và

tự nhiên

Để thiết lập diễn ngôn sinh thái trong tiểu thuyết John Steinbeck, chúng tôi đã

khám phá bức tranh khủng hoảng sinh thái và tác động khủng khiếp của nó đến số

phận con người, đặc biệt là những người lao động nghèo, bộ phận chịu tác động

dữ dội của những vấn nạn thời hiện đại. Đồng thời, chúng tôi cũng chỉ ra căn

nguyên sâu xa của trạng huống hiện sinh đầy ám ảnh này là sự rạn vỡ của mối quan

hệ thiêng liêng giữa con người và tự nhiên trong thời đại kĩ trị. Vấn đề còn lại là

liệu rằng có một cách thức nào đó có thể giúp nhân loại chuộc lại lầm lỗi của chính

họ và thoát khỏi nỗi bất an thời đại kĩ trị hay không? Dựa trên sự tái sinh của những

cổ mẫu tự nhiên tiêu biểu và mối liên hệ của chúng với những nhân vật ấn tượng

trong tiểu thuyết John Steinbeck, chúng ta có thể nhận ra con đường mà nhà văn

đã chọn lựa. Đó là tìm đến triết học cổ đại phương Đông để mở ra cánh cửa tỉnh

thức và hi vọng cho người Mỹ hiện đại, nối lại giao ước giữa con người và tự nhiên

đã được thiết lập từ ngàn xưa. Như Baird T. Spalding, trong cuốn sách nổi tiếng

Hành trình về phương Đông, đã xác quyết rằng: “Phương Đông có những chân lý

quan trọng đáng để cho người phương Tây nghiên cứu, học hỏi. Đã đến lúc người

Tây phương phải quay về Đông phương để trở về với quê hương tinh thần” [148,3].

Nhà nghiên cứu Nguyễn Thị Tịnh Thy cho rằng tài nguyên tinh thần của văn

minh phương Đông cổ đại là một lối mở khả dĩ cho bước đường hoàn thiện của

phê bình sinh thái. Sau khi phân tích trí tuệ sinh thái của Nho gia, Đạo gia và Phật

giáo, tác giả đúc kết rằng “tuy khác nhau trong quan niệm về vị trí của con người

trong vũ trụ và quan niệm ứng xử với cuộc đời, nhưng cả ba hệ tư tưởng đều gặp

nhau ở việc coi con người là một bộ phận của tự nhiên, coi sự hài hòa với tự nhiên

là điều tôn nghiêm và thần thánh, là yêu cầu đạo đức của con người” [142,279].

Theo đó, mối quan hệ gắn bó mật thiết, hài hòa giữa con người và tự nhiên là chủ

đề lớn trong tam giáo phương Đông, biểu hiện cụ thể qua các tư tưởng “Thiên nhân

hợp nhất” của Nho giáo, “Duyên khởi” của Phật giáo và “Đạo pháp tự nhiên” của

140

Đạo giáo. Ý thức sinh thái tiến bộ, nhân văn của phương Đông cổ đại tỏ ra phù hợp

với thực tiễn đời sống hiện đại, có thể giải quyết được những vấn đề sinh thái của

nhân loại, đặc biệt ở thế giới Tây phương, nơi trình độ khoa học kĩ thuật phát triển

như vũ bão.

Điều bất ngờ và ấn tượng là Steinbeck, một nhà văn người Mỹ thế kỉ XX, lại

đồng cảm với triết học phương Đông cổ đại. Ảnh hưởng của triết học phương Đông

đến Steinbeck thường được các học giả giải thích thông qua tình bạn bền vững giữa

nhà văn với nhà sinh vật học, nhà triết học người Mỹ, Edward Flanders Robb

Ricketts (1897 –1948). Astro, khi giới thiệu tác phẩm Nhật kí từ biển Cortez, lưu

ý rằng trong khi đấu tranh cho những phận người thua thiệt và tiến bộ xã hội,

Steinbeck đã chịu ảnh hưởng bởi nhiều tư tưởng triết học từ Ed Ricketts mà thế

giới quan của Ricketts đa phần lại là “phương Đông và huyền bí”; đặc biệt là, “cuộc

truy tìm của Ricketts về cái bí ẩn sâu kín” và thế giới quan phi mục đích hay “là

gì” của Ricketts có bản chất gần gũi với truyền thống Đạo gia mà Lão Tử là đại

diện tiêu biểu [108,xxii]. Hạt nhân của học thuyết Đạo gia là quan niệm “nhân pháp

địa, địa pháp thiên, thiên pháp đạo, đạo pháp tự nhiên” (người theo lẽ đất, đất theo

lẽ trời, trời theo lẽ đạo, đạo theo lẽ tự nhiên) và “tự nhiên vô vi”. “Vô vi” của Lão

Tử không phải là không làm gì mà là không làm trái quy luật tự nhiên [138]. Theo

đó, con người cần ứng xử hài hòa với tự nhiên, thuận theo lẽ tự nhiên, không nên

phá hoại sự vận hành của tự nhiên. Bên cạnh đó, Lão Tử còn nhấn mạnh Đạo được

sinh ra từ sự thống nhất của hai cực đối lập hữu và vô: “Thiên địa vạn vật sinh ư

hữu, hữu sinh ư vô” (vạn vật trong thiên hạ sinh ra từ hữu, sinh ra từ vô) [138].

Ranh giới giữa hữu và vô là tương đối, chúng có vai trò như nhau và có thể chuyển

hóa lẫn nhau để tạo nên sự biến đổi. Song, sự chuyển hóa này, theo Lão Tử, dựa

trên các quy luật của tự nhiên: luật phản phục và luật quân bình.

Cùng với Ricketts, Steinbeck đã thiết lập niềm tin và triết lí của ông về tính

thống nhất của mọi sự sống. Trong Nhật kí từ biển Cortez, một trong những tác

phẩm phi hư cấu quan trọng nhất của Steinbeck, ông đã khẳng định điểm cốt lõi

của triết lí này như sau: “phần lớn cảm giác mà chúng ta gọi là tôn giáo, phần lớn

tiếng la hét huyền nhiệm vốn là một trong những phản ứng được đánh giá, sử dụng

và mong muốn nhất của loài người, lại thực sự là sự hiểu biết và nỗ lực để nói rằng

con người có liên quan đến toàn bộ sự việc, liên đới chặt chẽ với tất cả thực tế được

141

biết và không thể biết. Đây là một điều đơn giản để nói, nhưng cảm giác sâu sắc

về nó đã tạo nên một Chúa Jesus, một Thánh Augustine, một Thánh Francis, một

Roger Bacon, một Charles Darwin và một Einstein. Mỗi người trong số họ theo

cách thức và bằng giọng nói của riêng mình đã khám phá và tái khẳng định với sự

kinh ngạc khi biết rằng vạn vật là một… tất cả ràng buộc với nhau bởi sợi dây đàn

hồi của thời gian” [108,216-217]. Steinbeck cho rằng tính thống nhất của “toàn bộ

thế giới thực tại và tưởng tượng, thể xác và tâm hồn, sự thật vật lí và sự thật tinh

thần, cá nhân và tập thể, sự sống và cái chết, vũ trụ vĩ mô và vi mô, ý thức và vô

thức, chủ thể và khách thể” [108,125] bao trùm ý niệm cái tồn tại trong triết học

phương Đông.

Tư tưởng sinh thái nhân văn và tiến bộ của văn hào John Steinbeck không chỉ

là cuộc trở về với các giá trị tinh thần phương Đông cổ đại mà còn gặp gỡ với nhiều

triết lí Đông – Tây kim cổ. Đó là niềm tin bất diệt của những người da đỏ về mối

quan hệ thiêng liêng giữa tộc người đối với đất đai quê hương: “mảnh đất này là

bà mẹ của người da đỏ. Chúng tôi là một phần của mẹ và mẹ cũng là một phần của

chúng tôi […], tất cả đều cùng chung một gia đình […]. Mọi vật trên đời đều có sự

ràng buộc” [DT 142]. Giáo lí Kitô giáo nhấn mạnh mối tương giao của mọi tạo vật,

con người và mọi sinh vật, mọi tế bào tạo nên một mạng lưới các tương quan hỗ

tương. Chủ nghĩa Marx vốn đề cao vị trí và vai trò của con người, song vẫn duy trì

mối tương quan giữa con người và tự nhiên: “Đời sống thể xác và tinh thần của

con người gắn liền khăng khít với tự nhiên vì con người là bộ phận của tự nhiên,

là giai đoạn cao nhất trong quá trình phát triển của giới tự nhiên, con người tuân

theo các quy luật của tự nhiên và hòa vào tự nhiên” [DT 142,13].

John Steinbeck tin rằng vạn vật trên mặt đất này đều gắn bó khăng khít với

nhau. Con người là một bộ phận của tổng thể, mỗi loài, mỗi vật đều là những thành

tố không thể thiếu của vũ trụ rộng lớn. Do đó, sự tồn tại của bất kì loài nào cũng

đều phụ thuộc vào tính gắn kết giữa chúng với phần còn lại của thế giới. Là một

nhà văn chịu ảnh hưởng sâu đậm bởi truyền thống văn hóa phương Tây song, John

Steinbeck lại tìm thấy sự đồng điệu trong quan niệm về sinh thái ở phương Đông

cổ đại. Vì vậy, ông trở thành một trong những tiểu thuyết gia người Mỹ sớm hình

thành ý thức và lựa chọn ý thức sinh thái đúng đắn và tiến bộ. Điều này được nhà

văn thể hiện thông qua cuộc tái thiết các cổ mẫu tự nhiên và đặc biệt là sự tỉnh thức

142

về tính gắn kết giữa con người và tự nhiên của những nhân vật anh hùng, những

gương mặt nữ giới tiêu biểu trong nhiều tiểu thuyết ấn tượng của ông. Trong đó,

Jim Casy, Ma Joad trong Chùm nho phẫn nộ, Juana trong Viên ngọc trai và Doc

trong Phố Cannery Row là những gương mặt nổi bật, được xem như những người

hùng, những hiện thể của cổ mẫu mẹ trong thế giới nghệ thuật tiểu thuyết John

Steinbeck. Trong đó, Jim Casy và Doc là những nhân vật cô đơn, không gia đình,

không có mối ràng buộc với xã hội. Nhưng chính họ lại là những người hiểu biết

sâu sắc về bản thân, dễ dàng cảm thông với nỗi đau khổ và sự yếu đuối của con

người, đồng thời nhạy bén nhận ra sự kết nối mật thiết giữa con người với tự nhiên.

Thông qua những suy tư và hành động của Casy và Doc, John Steinbeck tiết lộ

rằng, bằng cách trở về với tự nhiên, con người thời đại kĩ trị mới có thể khắc phục

vấn nạn sinh thái và duy trì sự phát triển bền vững.

Trong thời đại bất ổn xã hội, mỗi người đàn ông trong Chùm nho phẫn nộ đều

rơi vào một dạng bi kịch khác nhau. Pa Joad đánh mất vai trò trụ cột trong gia đình,

chú John chìm trong mặc cảm tội lỗi, Connie trốn chạy nghĩa vụ của một người

chồng, người cha, còn Jim Casy đánh mất thiên hướng của một mục sư. Song, khác

với đám đàn ông nhà Joad mãi loay hoay trong bi kịch cá nhân, bằng nền tảng học

vấn và tố chất đặc biệt, Casy đã tìm thấy con đường mới cho bản thân, điều chỉ đạt

được khi ông trở về cõi hoang dã như chúa Jesus xưa kia đã từng. Chính tại nơi

chốn tự nhiên, hòa mình cùng trời, đất, cỏ cây, Casy nhận ra sự kết nối thiêng liêng,

sâu sắc giữa con người và tự nhiên: “Có những ngọn đồi đây, và tôi đây, và thế là

không bị xa cách nữa. Người ta chỉ còn là một vật duy nhất mà vật đó là thiêng

liêng” [85,129]. Đó là sự thật giản dị mà lâu nay vì mải mê đời sống kim khí và

chìm đắm trong muôn nỗi lo toan thời hiện đại nên người ta đã đánh mất hoặc cố

tình né tránh. Sự tỉnh thức kịp thời của Casy giúp ông suy nghĩ sâu xa hơn về bản

chất của con người, về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, rằng “người ta chỉ

thánh thiện khi là một bộ phận của tổng thể, nhân loại thánh thiện khi nó chỉ là một

vật thể duy nhất và thống nhất” [85,129]. Frederick Carpenter trong bài viết “The

Philosophical Joads” đã tóm lược câu chuyện của Casy như sau: “Jim Casy, kẻ dị

giáo, đã đi vào vùng hoang dã Oklahoma để cứu lấy linh hồn của mình. Và ở trong

vùng hoang dã, ông ta đã trải nghiệm cảm giác tôn giáo về sự đồng nhất với thiên

nhiên vốn luôn là trái tim của chủ nghĩa thần bí siêu việt” [149,324-25]. Song,

143

những trăn trở về cuộc đời, con người và hành trình hiện thực hóa ý tưởng của

Casy khiến chúng tôi nhận ra cuộc tương kiến lạ kì giữa những suy tưởng của một

nhân vật tìm đường thời hiện đại với tư tưởng chỉnh thể sinh thái của Đạo gia xem

xét vạn vật từ góc độ chỉnh thể, con người và vạn vật bình đẳng: “thiên địa dữ ngã

tịnh sinh, vạn vật dữ ngã vi nhất” (trời đất cùng sinh ra với ta, vạn vật với ta là

một). Bởi lẽ, lý tưởng của Casy không hướng đến một thứ tôn giáo thần bí, siêu

việt mà cốt lõi là giải quyết bi kịch mà con người trong thời đại kĩ trị phải đối mặt.

Vì vậy, khi Tom Joad ngơ ngác trước quyết định ở lại với đất đai thay vì bỏ đi cùng

gia đình của Muley, Casy lại là người thấu hiểu sự lựa chọn khó khăn và nỗi cô

đơn tột cùng mà Muley phải chịu đựng. Cũng chính ở thời điểm đó, Casy quyết

định đến với những kẻ vô gia cư, những kẻ lang thang đơn độc trên đường sá để

giúp họ hiểu được điều mà ông đã ngộ ra và để được sống trước khi chết. Ý tưởng

và hành động của Casy, về sau, được Tom Joad kế thừa và tiếp tục thực hiện khi

anh ta thực sự hiểu được bản chất của anh cũng chỉ là một bộ phận của tổng thể to

lớn. Do vậy, Tom sẵn sàng đứng lên đấu tranh cùng những người bị áp bức giống

như anh và chấp nhận hi sinh. Bởi lẽ, khi nhận thức được sự gắn kết giữa bản thân

và tự nhiên, Tom hiểu rằng mối gắn kết đó là vĩnh hằng nên dẫu phải chết, anh vẫn

“có mặt trong bóng tối, khắp nơi” [85,671]. Điều đó mang đến nguồn sức mạnh

tinh thần lớn lao giúp nhân vật Tom, một người từng chịu án tù, nóng nảy, bộc

trực, thật thà, vụt trưởng thành trong phần kết của thiên truyện.

Những suy tưởng về con người và thế giới tự nhiên của nhân vật Jim Casy

được Steinbeck phát triển cao hơn và thể hiện rõ nét tinh thần Đông phương thông

qua nhân vật Doc, dựa trên nguyên mẫu là Ed Ricketts, người bạn thân của

Steinbeck, trong tiểu thuyết Phố Cannery Row. Doc là chủ nhân và là người điều

hành phòng thí nghiệm sinh vật miền Tây ở Cannery Row lúc náo nhiệt và ồn ã,

khi yên lặng và huyền bí. Giống như Casy, Doc là một người đàn ông cô đơn và

khép kín, giàu lòng trắc ẩn và đặc biệt tôn kính tự nhiên. Nhưng khác với suy luận

trực quan của Casy, Doc nắm bắt các đặc tính của nước biển, thủy triều và các loài

sinh vật biển bằng kiến thức khoa học để chung sống hài hòa, cộng sinh với tự

nhiên. “Doc phải giữ lịch trình thu nhặt của mình. Ông cố đến đúng lúc thủy triều

ven bờ biển. Ghềnh đá và bãi biển là kho dự trữ của ông. Doc biết mọi thứ ở chỗ

nào khi ông cần đến. Mọi món hàng của ông đều nằm trên bờ biển […]. Ông biết

144

nơi nào bắt chúng, nhưng không phải lúc nào ông muốn là bắt đi. Vì Thiên nhiên cất

kĩ các món hàng và thỉnh thoảng mới thả ra. Doc phải biết con nước và cả khi nào

thủy triều xuống đủ thấp ở một nơi nào đó. Khi thủy triều rút như thế, ông đem dụng

cụ thu nhặt lên xe, đem bình vại, chai lọ, bản kính và chất bảo quản, rồi ông ra bờ

biển hay ghềnh đá hay bãi đá ngầm nơi giữ những sinh vật ông cần” [91,119-120].

Hiểu biết sâu sắc về quy luật tự nhiên đến độ “có thể cảm thấy con nước đổi

dòng khi ngủ” [91,128] giúp Doc đánh giá đúng đắn bản chất của con người, quan

hệ tương hỗ giữa vạn vật trong vũ trụ và trở thành người hào hiệp nhất ở Cannery

Row. Vì vậy, khi Mack và hội bạn bị cộng đồng Cannery Row ruồng bỏ chỉ bởi vì

họ đã làm hỏng ý định tốt đẹp tổ chức bữa tiệc cho Doc như xưa nay mọi thứ họ

làm đều hỏng, Doc lại thấu hiểu trạng huống chông chênh trên bàn cân giữa tốt và

xấu của Mack và hội bạn. Ông thán phục họ như là các triết gia chân chính: “Tôi

nghĩ Mack và đám choai choai biết mọi điều đã xảy ra trên thế gian và có lẽ cả mọi

điều đã xảy ra. Tôi nghĩ họ tồn tại trên thế giới này khá hơn kẻ khác. Trong thời

buổi người ta tự làm tan nát đời mình vì tham vọng, nóng nảy và ham muốn, thì họ

buông lơi. Tất cả mọi người mình gọi là thành công đều bị bệnh, bệnh dạ dày, bệnh

phần hồn, nhưng Mack và đám choai choai khỏe mạnh và trong sạch một cách lạ

lùng. Họ có thể làm cái gì họ muốn. Họ có thể thỏa mãn khát khao của họ mà

không cần gọi nó là cái gì khác” [91,165]. Bởi vì, ngoài Doc, ở Cannery Row, chỉ

có Mack và hội bạn của anh sống gần gũi, chan hòa cùng cây cỏ, đất đai, biển cả,

yêu mến tự nhiên. Họ “ở trong thùng tô nô khi trời ẩm ướt, nhưng khi thời tiết tốt,

họ sống dưới bóng cây bách đen trên đỉnh lô đất” [91,20] hoặc “ngủ yên bình trên

lá thông” [91,91]. Ở những nơi chốn hoang sơ ấy, Mack và hội bạn có thể tồn tại

thuận theo tự nhiên, ăn uống với hổ báo, vuốt ve đàn bê, gói vụn bánh để nuôi lũ

mòng biển. Khác với đám đông trong phố, họ không bị ràng buộc bởi những thứ

có vẻ ngoài đẹp đẽ song lại là giới hạn của thế giới văn minh. Do vậy, Doc luôn là

người thấu hiểu, cảm thông, chia sẻ và có phần thán phục nhóm người bị xã hội

ruồng bỏ. Ông trở thành người hùng của Mack, hội bạn của Mack và cư dân ở

Cannery Row.

Như thế, bằng những cách thức khác nhau, cả Casy và Doc đều ứng xử khiêm

nhường, hài hòa, trở thành thể thống nhất với tự nhiên. Nhờ vậy, họ dễ dàng trở

thành những nhà tiên tri, những người thông thái, những anh hùng thời hiện đại

145

với sứ mệnh gắn kết con người với tự nhiên, gìn giữ hòa bình và sự phát triển bền

vững. Theo Marilyn Chandler McEntyre, sự tỉnh thức của Casy và Doc bắt nguồn

từ mối quan tâm của họ đến thế giới tự nhiên. Thông qua hai nhân vật này,

Steinbeck gửi gắm thông điệp của thế giới hoang sơ, rằng “tự nhiên dạy bảo con

người những gì họ cần biết, và những người thầy giỏi nhất của chúng ta là những

người đã học được những bài học của mẹ tự nhiên” [37,123].

Bên cạnh cổ mẫu anh hùng, cổ mẫu mẹ trong tiểu thuyết của John Steinbeck cũng đảm nhiệm vai trò gắn kết tự nhiên và nam giới bằng sự thấu hiểu về tính thống nhất của mọi sự sống. Tác phẩm của Steinbeck đã chỉ ra những nét tương đồng giữa nữ giới và tự nhiên, đó là thiên tính nữ, là bản năng làm mẹ và đặc biệt là địa vị của người mẹ, người phụ nữ trong xã hội gia trưởng. Trong Chùm nho phẫn nộ, sự tác động của con người lên tự nhiên (thông quá máy móc hiện đại) được miêu tả như là sự chiếm đoạt, cưỡng bức nữ giới của nam giới: “Sau những chiếc bừa là máy gieo hạt… mười hai cái dương vật bằng sắt uốn cong trở vào, được luyện cứng ở lò đúc, được khởi động bởi các đòn bẩy, đang hãm hiếp đất một cách có phương pháp, một cách lạnh lùng” [85,50]. Ở đây, Steinbeck đã lột trần mặt trái của nền nông nghiệp hiện đại hóa. Số phận của đất, của tự nhiên cũng chẳng khác gì những đau khổ, thiệt thòi mà người phụ nữ phải chịu đựng dưới chế độ gia trưởng. Họ bị động và hoàn toàn lệ thuộc vào nam giới. Phải chăng chính nhờ những sự tương đồng ấy, phụ nữ dễ dàng kết nối với tự nhiên để xóa đi khoảng cách, lấp đầy khoảng trống, gắn kết nam giới với tự nhiên. Cũng trong tác phẩm này, Ma Joad là điển hình cho một dạng thức của cổ mẫu mẹ, đó là mẹ đất/mẹ thiên nhiên/mẹ vĩ đại [37] qua cách tác giả mô tả ngoại hình mạnh mẽ, đôi chân trần đi trên nền đất và với nguồn sức mạnh tinh thần lớn lao, bà nuôi dưỡng, che chở cho cả gia đình vượt qua những tình huống khó khăn. Bà mẹ quê mùa ấy trở thành “bức thành lũy của gia đình”, là “nơi nương tựa bất khả xâm phạm” [85,45]. Hơn thế, Ma Joad là người đảm đương sứ mệnh gắn kết nam giới với tự nhiên. Khi đàn ông nhà họ Joad chao đảo trước những biến thiên của lịch sử, đánh mất sự kết nối thiêng liêng với tự nhiên, bà mẹ đã dũng cảm nhìn thẳng vào thực tế bi đát của họ và khích lệ đám đàn ông vững vàng vượt qua trạng huống khó khăn của họ. Khác với phần lớn những người đàn ông trong gia đình, bà dễ dàng thích nghi với thời cuộc bởi cách nhìn sự đời của bà mẹ này đầy tính biện chứng như chính bản chất của tự nhiên: “Ở người đàn bà, sự việc cứ trôi chảy như con sông, có những xoáy nước

146

nhỏ, có những thác nước nhỏ, nhưng sông vẫn chảy, chảy hoài” [85,678]. Cùng với Casy, Ma Joad là người hiểu rõ tính gắn kết của vạn vật: “Tới một thời sự đời thay đổi. Lúc đó mỗi cái chết là một phần của cái chết chung, một sự sinh đẻ là một phần của toàn bộ những sự sinh đẻ, cái chết và sự sinh đẻ là hai bộ phận của cùng một sự việc. Và lúc đó, sự đời sẽ không còn đơn độc nữa” [85,444]. Nhờ vậy, bà mẹ đã trợ giúp người anh hùng của nhà Joad, Tom, trên hành trình nhận thức từ cái tôi cá nhân đến cái ta toàn thể của anh. Trong cái toàn thể đó, sự gắn kết giữa con người và tự nhiên là một phần tất yếu. Sau cùng Tom đã hiểu rằng anh không có linh hồn của riêng mình, mà chỉ là một mẩu của linh hồn độc nhất. Anh sẽ không biến mất mà vẫn luôn hiện hữu trong thế giới tự nhiên.

Ở một mức độ cao hơn, tiểu thuyết của Steinbeck không những chỉ ra con

đường trở về với tự nhiên, gắn bó với mẹ thiên nhiên để hàn gắn lại giao ước thiêng

liêng lâu đời giữa con người và tự nhiên mà còn thức tỉnh con người trong thời đại

kĩ trị nhận ra, chấp nhận vị trí thật sự của họ trong vũ trụ rộng lớn. Cả hai xu hướng

này đều phản ánh sự đồng cảm của một người đàn ông phương Tây hiện đại với

những giá trị tinh thần của phương Đông cổ đại. Theo Stephen K. George, câu

chuyện về Kino và Juana trong Viên ngọc trai có thể được đọc theo quan điểm của

Đạo gia. Đó là hành trình con người thoát khỏi sự ám ảnh của chủ nghĩa vật chất,

chủ nghĩa trí tuệ, chấp nhận sự vật/sự việc như nó vốn có và trở thành một với Đạo

[150]. Theo đó, sự kiện Kino ném trả viên ngọc xuống biển sâu đồng nghĩa với

việc nhân vật dũng cảm từ bỏ cuộc đấu tranh vì một cuộc sống giàu sang, thịnh

vượng hơn và chấp nhận số phận cá nhân của mình, do đó Kino đạt đến sự hiểu

biết về vị trí đích thực của anh trong thế giới tự nhiên. Tuy nhiên, nghiên cứu của

George chưa thực sự chú ý vai trò của Juana như là cầu nối, nguồn khích lệ, nâng

đỡ người chồng Kino trên hành trình vươn đến trạng thái tồn tại siêu việt này. Juana

là nhân vật duy nhất trong tác phẩm nhận ra những tai họa mà chồng chị có thể gặp

phải khi cất giữ vật báu. Vì vậy, xuyên suốt hành trình Juana luôn nhẫn nại, bình

tĩnh, bao dung, trở thành điểm tựa của Kino trong những tình huống éo le. Cuối tác

phẩm, Kino tỏ ý muốn Juana ném trả vật báu biểu trưng cho giấc mơ của họ về đáy

biển, song Juana từ chối và để dành hành động đó cho chồng. Bằng cách đó, Juana

đã giúp Kino thiết lập lại mối quan hệ tự nhiên giữa anh với cộng đồng và thế giới

tự nhiên.

147

Vậy là, trên “hành trình về phương Đông”, tiểu thuyết gia John Steinbeck đã

tìm thấy sự đồng điệu trong di sản tinh thần phương Đông cổ đại, đặc biệt là những

tư tưởng uyên thâm của Đạo gia. Thông qua hành trình tìm về với tự nhiên của cổ

mẫu anh hùng được xây dựng phần nào dựa trên nguyên mẫu là Ed Ricketts, nhà

sinh vật học say mê triết học phương Đông và sứ mệnh kết nối nam giới với tự

nhiên của cổ mẫu mẹ, nhà văn đã cất lên tiếng nói sinh thái mới mẻ và tiến bộ,

đánh thức dân tộc Mỹ đang “điên cuồng” trong công cuộc phát triển kinh tế, khoa

học kĩ thuật công nghệ. Theo đó, tinh thần Đông phương trong những nhân vật gắn

kết mật thiết với tự nhiên của John Steinbeck là cầu nối hàn gắn mối giao ước giữa

con người và tự nhiên đã được thiết lập từ ngàn xưa. Đây cũng là mấu chốt để giải

quyết những vấn nạn sinh thái mà con người thời đại kĩ trị đã, đang phải đối diện.

Như Glendinning đã nhắc nhủ chúng ta rằng: “Trở về với những gì chúng ta đã

đánh mất: ý thức vững vàng hơn về chính mình, cảm giác được kết nối với bản

thân, người khác, thế giới, muôn loài sâu sắc hơn và giao tiếp với linh hồn, cơ thể

và trái đất sâu sắc hơn. Khi chúng ta có được những xúc cảm này, trí tưởng tượng

chạm vào phần sâu thẳm bên trong chúng ta và do đó, chúng ta kết nối lại với tâm

hồn đã mất từ lâu. Khi đó, chúng ta mới thực sự trở về với trái đất này” [151,40].

* Tiểu kết

Trên cơ sở những nghiên cứu về cổ mẫu đất và nước trong văn hóa dân gian

và trong tiểu thuyết John Steinbeck, có thể thấy sáng tác của nhà văn người Mỹ

này đã hấp thu rất nhiều đặc trưng của cổ mẫu đất và nước trong tâm thức nhân

loại. Cổ mẫu đất mang ý nghĩa nguồn sống, là biểu trưng mạnh mẽ cho khát vọng

sống sót của những người lao động nghèo trong bối cảnh Đại suy thoái và những

bất ổn xã hội. Cổ mẫu nước, biểu hiện qua các biến thể đa dạng như biển, sông,

suối, ao hồ, mưa, lụt, được tái xuất hiện trong nhiều tiểu thuyết với ý nghĩa biểu

trưng cho sự hủy diệt và niềm hi vọng tái sinh. Điểm đáng kể là, trong khi tái hiện

các cổ mẫu tự nhiên tiêu biểu xuyên suốt sự nghiệp tiểu thuyết của mình, nhà văn

đã bồi đắp thêm cho chúng những ý nghĩa phái sinh gắn liền với bối cảnh thời đại,

đặc biệt là tiếng nói sinh thái mới mẻ, tiến bộ trong lòng nước Mỹ nửa đầu thế kỉ

XX. Diễn ngôn sinh thái trong tiểu thuyết của John Steinbeck là tiếng nói của đất,

nước và con người về cuộc khủng hoảng sinh thái ngày một nghiêm trọng và sự

sụp đổ ý thức sinh thái trong thời đại kĩ trị, đồng thời hướng về các giá trị tinh thần

148

phương Đông, biểu hiện qua sự tìm về với tự nhiên của cổ mẫu anh hùng và sứ

mệnh gắn kết nam giới với tự nhiên của cổ mẫu mẹ, để phục hồi mối quan hệ hài

hòa, bình đẳng, cộng sinh giữa con người và tự nhiên từ thuở ban sơ.

149

KẾT LUẬN

Hơn bất cứ loại hình nghệ thuật nào khác, văn chương là nơi kí thác những kí

ức văn hóa và kinh nghiệm lâu đời của nhân loại. Đặc biệt, thế giới cổ mẫu tồn tại

từ trong thần thoại, truyện kể dân gian và liên tục tái sinh trong các thể loại văn

học, các tác phẩm văn chương thuộc các nền văn học trung đại, hiện đại và cả hậu

hiện đại là nơi chưng cất vốn sống của con người qua bao thế hệ. Hệ thống cổ mẫu

được tái thiết này mặc dù vẫn lưu giữ ít nhiều những đặc trưng, mô hình cấu trúc,

ý nghĩa nguyên bản của cổ mẫu gốc, song điều đáng kể lại nằm ở những biến thể,

những tình tiết mới xuất hiện tùy thuộc vào bối cảnh lịch sử xã hội và nền văn hóa

mà chúng thuộc về.

Trong tiến trình văn học Mỹ, hiếm thấy một tác giả nào có những suy nghĩ

kiên định về bản sắc và vận mệnh của quốc gia và dân tộc như John Steinbeck.

Điều này được biểu hiện rõ nét thông qua cuộc tái sinh vĩ đại của hệ thống cổ mẫu

phong phú và đa dạng từ những huyền thoại phương Tây, huyền thoại quốc gia và

huyền thoại bản địa trong những tiểu thuyết nổi bật của ông trên nền bối cảnh lịch

sử xã hội Mỹ có nhiều biến đổi sâu sắc vào nửa đầu thế kỉ XX. Những nét tương

đồng giữa hệ cổ mẫu được tái sinh trong tiểu thuyết John Steinbeck với các cổ mẫu

trước đó phần nào tiết lộ các chủ đề phổ quát và sức ảnh hưởng mạnh mẽ của tư

duy huyền thoại từ folklore đến các nghệ sĩ hiện đại, đồng thời cho thấy cách thức

mà nhà văn đã thích ứng với hệ cổ mẫu của nhân loại và dung hòa nó với những

chuẩn mực, giá trị văn hóa của cộng đồng đương thời. Những nét khác biệt, mới lạ

chứng tỏ John Steinbeck không hề sao chép lại truyền thống một cách đơn điệu,

ngược lại, đã chuyển hóa chúng trên nền cái cũ để thích nghi với những chuyển

biến mạnh mẽ của thời đại và biểu đạt những vấn đề hiện sinh mới mẻ trong đời

sống xã hội và tâm hồn người Mỹ, nước Mỹ.

Trong phạm vi luận án, với đề tài Cổ mẫu trong tiểu thuyết John Steinbeck,

chúng tôi đã tập trung làm rõ một số vấn đề cốt yếu sau:

Trên cơ sở kế thừa những thành tựu nghiên cứu của lĩnh vực phê bình huyền

thoại/cổ mẫu, chúng tôi tiến hành phân tích hai hướng tiếp cận cổ mẫu chủ yếu:

hướng tiếp cận tâm lí-huyền thoại và hướng tiếp cận lịch sử-xã hội. Hướng tiếp

cận tâm lí-huyền thoại, dưới ảnh hưởng chủ chốt của Jung và Frye, tập trung vào

các đặc tính phổ quát, bẩm sinh, lặp lại của cổ mẫu, từ đó, góp phần nhận diện và

150

kiến giải các vấn đề thuộc về thế giới tinh thần và văn hóa của nhân loại. Trong

khi đó, hướng tiếp cận lịch sử-xã hội quan tâm đến bối cảnh lịch sử, xã hội và các

yếu tố bên ngoài khác tác động đến sự hình thành các cổ mẫu mới, thông qua đó,

lí giải cách thức nhà văn dung hòa và đối thoại với những giá trị, khuôn mẫu của

cộng đồng và thời đại. Kết hợp hai hướng tiếp cận này giúp người nghiên cứu kiến

giải hệ cổ mẫu trong tiểu thuyết John Steinbeck cả bề rộng lịch sử-xã hội lẫn chiều

sâu văn hóa tâm linh. Bên cạnh việc tái hiện nền tảng lí thuyết cổ mẫu, chúng tôi

còn xem xét lịch sử nghiên cứu tiểu thuyết John Steinbeck và cổ mẫu trong tiểu

thuyết của nhà văn người Mỹ nổi tiếng này ở trên thế giới và trong nước. Sau khi

thu thập, phân tích và tổng hợp các nghiên cứu liên quan đến đề tài, chúng tôi xét

thấy John Steinbeck và tiểu thuyết của ông vẫn luôn cuốn hút đông đảo học giả từ

Đông sang Tây quan tâm, nghiên cứu. Trong số đó, nhiều công trình nghiên cứu

đã khai phá vấn đề cổ mẫu, đặc biệt là cổ mẫu mẹ và cổ mẫu anh hùng, song chưa

tập trung xem xét sự tạo sinh cổ mẫu trong bối cảnh lịch sử xã hội đặc biệt của

nước Mỹ. Tuy nhiên, những nghiên cứu công phu của các học giả tiền bối ở trong

và ngoài nước đã gợi mở nhiều ý tưởng thú vị, thôi thúc chúng tôi tìm hiểu sâu hơn

các cổ mẫu điển hình trong tiểu thuyết của John Steinbeck.

Từ việc khảo sát các mẫu hình nhân vật, các sự kiện và kinh nghiệm đặc biệt

mà nhân vật trải qua, các biểu tượng cổ mẫu được tái xuất hiện thường xuyên và

đậm đặc trong thế giới nghệ thuật tiểu thuyết của John Steinbeck, chúng tôi nhận

thấy sự hiện diện mạnh mẽ của các cổ mẫu: cổ mẫu mẹ, cổ mẫu anh hùng, cổ mẫu

đất và nước. Cổ mẫu mẹ trong tiểu thuyết John Steinbeck kế thừa các đặc trưng cơ

bản của mô hình gốc đã được hình thành trong nền tảng văn hóa dân gian, bao gồm

mẹ hiền và mẹ dữ. Những gương mặt mẹ hiền nổi bật với vẻ đẹp nữ tính, tình yêu

thương vô bờ, quyền năng sinh sản và nuôi dưỡng, trái lại, khía cạnh hủy diệt,

khủng khiếp của mẹ dữ biểu hiện qua những nhân vật nữ lẳng lơ, cám dỗ và độc

ác, tàn nhẫn. Hơn thế, khía cạnh mới mẻ của cổ mẫu mẹ trong tiểu thuyết John

Steinbeck thuộc về cuộc tái lập địa vị và vai trò quan trọng của người mẹ, người

phụ nữ trong bối cảnh xã hội đầy bất ổn đương thời và sự áp chế của một truyền

thống văn hóa đậm chất nam tính. Steinbeck đã phát hiện sức mạnh tinh thần và

khả năng thích ứng với thời cuộc chao đảo ở những bà mẹ quê mùa, những người

phụ nữ bình dân thông qua sự trỗi dậy của cổ mẫu animus, chất nam tính trong nữ

151

tính. Từ đó, những gương mặt nữ của John Steinbeck đã cất lên tiếng nói mới mẻ

của họ, đồng thời thách thức trật tự giới vốn đã hằn sâu trong tâm thức cộng đồng.

Ngoài ra, sự thể hiện của hai đặc trưng đối lập, sáng tạo/hủy diệt, tiết lộ tính nhị

nguyên trong cổ mẫu mẹ như là một nét đặc thù của tiểu thuyết John Steinbeck.

Song, độ chênh lệch giữa hai tính cách trái chiều cho thấy nhà văn đã nghiêng về

đặc tính hiền dịu, yêu thương của cổ mẫu mẹ. Khía cạnh tích cực này là nền tảng

vững chắc làm nên sức mạnh tinh thần vĩ đại của những người mẹ, người phụ nữ,

giúp họ dễ dàng thích nghi với những thay đổi bão táp của thời đại và tái lập bản

sắc nữ tính trong một nền văn hóa giàu truyền thống nam tính.

Thành công của tiểu thuyết John Steinbeck còn biểu hiện qua sự tái sinh cổ

mẫu anh hùng nhằm phản ánh những trạng huống hiện sinh mới mẻ của con người

thời hiện đại. Trên cơ sở đặc trưng và cấu trúc cổ mẫu anh hùng trong văn hóa dân

gian, nhà văn đã tái thiết cổ mẫu này trong tiểu thuyết của ông với những phẩm

tính anh hùng, quả cảm, giàu lòng vị tha và tập trung khắc họa người hùng qua hai

motif nhiệm vụ cơ bản, tìm kiếm miền đất hứa và xác lập bản sắc. Trên hành trình

thực hiện nhiệm vụ của người hùng, cổ mẫu mẹ nắm giữ vai trò nâng đỡ, khích lệ,

truyền cảm hứng. Nhân vật anh hùng của John Steinbeck là người đảm đương sứ

mệnh thiết lập các giá trị đức tin mới để có thể thay đổi thế giới và số phận của

những kẻ bị áp bức. Bên cạnh đó, nhà văn đã khắc họa nhân vật anh hùng là những

cá nhân thuộc về những cộng đồng thiểu số trong xã hội Mỹ đa sắc tộc nhằm cất

lên tiếng nói của nhóm người yếu thế này trong cuộc đối thoại với cộng đồng chính

thống. Song hành với quá trình tái huyền thoại hóa cổ mẫu anh hùng, tiểu thuyết

John Steinbeck còn giải thiêng huyền thoại người hùng Mỹ qua việc khắc họa motif

nhân vật anh hùng bi kịch. Thay vì tô đậm kì tích của người hùng hôm nay,

Steinbeck đã phơi bày trạng huống bi đát của họ, những thân phận bên lề, bị ruồng

bỏ, chịu đựng nhiều đau thương, mất mát, thậm chí tuẫn nạn. Liên quan đến việc

giải huyền thoại người hùng, nhà văn còn giải thiêng huyền thoại giấc mơ Mỹ khi

hướng tới phơi bày khía cạnh tối tăm của giấc mơ. Phần lớn nhân vật của John

Steinbeck phải trốn chạy, bị ruồng bỏ, bị xua đuổi khỏi nơi chốn mà họ được hứa

hẹn là đất hứa, thiên đường. Như thế, bằng sự tái thiết cổ mẫu anh hùng, tiểu thuyết

của John Steinbeck đã giải thiêng những huyền thoại được cổ súy mạnh mẽ trong

tiến trình lập quốc của Hoa Kỳ, tiết lộ những xung đột giữa vùng đất hứa trong

152

huyền thoại, tưởng tượng và vùng đất bất mãn thời hiện đại. Tuy nhiên, ở một khía

cạnh nào đó, nhà văn vẫn bày tỏ niềm lạc quan, tin tưởng của ông vào những người

Mỹ giàu lương tri cùng với nỗ lực theo đuổi giấc mơ để giành lấy tiến bộ về vật

chất và tự do tinh thần của họ.

Từ việc tìm hiểu đặc trưng của cổ mẫu đất và nước trong văn hóa dân gian,

chúng tôi tiến hành khảo sát, phân tích các biến thể của những cổ mẫu tự nhiên này

trong tiểu thuyết của John Steinbeck. Cổ mẫu đất trong sáng tác của nhà văn vừa

kế thừa đặc tính nguồn sống và sự hủy diệt của cổ mẫu gốc, đồng thời mang ý

nghĩa biểu trưng cho khát vọng sinh tồn và biểu hiện tình yêu đất đai, thiên nhiên

sâu sắc của những người lao động nghèo trong thời đại kĩ trị. Cổ mẫu nước cũng

được tái thiết trên nền tảng đặc trưng cốt lõi của mẫu gốc, là nguồn sống, sự thanh

tẩy và tái sinh. Tuy vậy, sự thể hiện của các dạng thức tiêu biểu của cổ mẫu nước

trong tiểu thuyết John Steinbeck cho thấy ý nghĩa biểu trưng cho sự hủy diệt và

niềm hi vọng tái sinh là những nét nghĩa chính yếu. Hơn thế, cả hai cổ mẫu này là

chìa khóa mở cánh cửa bước vào thế giới tự nhiên và tiết lộ mối quan hệ giữa con

người và tự nhiên trong tiểu thuyết John Steinbeck. Đồng thời, sự tái sinh cổ mẫu

đất và nước nhằm cất lên tiếng nói sinh thái trong thời đại khủng hoảng môi sinh

là minh chứng sinh động, rõ nét về tài năng “thời sự hóa” những cổ mẫu nguyên

thủy của John Steinbeck, nhà văn-nhà sinh thái tiên phong. Đó là diễn ngôn về

cuộc khủng hoảng sinh thái và tác động dữ dội của nó đến số phận của tầng lớp

bên lề/dưới đáy xã hội, là sự sụp đổ ý thức sinh thái của phần lớn người Mỹ trong

thời đại khoa học kĩ thuật lên ngôi. Bên cạnh đó, thông qua sự thể hiện của cổ mẫu

mẹ và cổ mẫu anh hùng, John Steinbeck còn chỉ ra sự trở về với tính thống nhất,

hài hòa giữa con người và tự nhiên trong di sản tinh thần phương Đông cổ đại để

hàn gắn mối quan hệ thiêng liêng đã phai nhạt và rạn vỡ là con đường khả thi nhằm

khôi phục và phát triển nước Mỹ bền vững.

Như thế, sự tái thiết cổ mẫu mẹ, cổ mẫu anh hùng, cổ mẫu đất và nước trong

tiểu thuyết của John Steinbeck mang những đặc trưng, ý nghĩa riêng nhưng cùng

kiến tạo nên những chủ đề xuyên suốt sự nghiệp sáng tác của nhà văn như thiện -

ác, quyền lực - nghèo đói, cá nhân - cộng đồng, con người - tự nhiên và được tái

thiết trên cơ sở niềm tin và triết lí của nhà văn về tính thống nhất của mọi sự sống.

Bên cạnh việc kế thừa ý nghĩa nguyên thủy của các cổ mẫu, khơi dậy những kí ức

153

văn hóa của dân tộc và nhân loại, điểm đáng kể của các cổ mẫu điển hình được nhà

văn tái thiết trong sáng tác của ông thuộc về những ý nghĩa phái sinh, những phản

đề cổ mẫu mang đậm hơi thở thời đại. Vì thế, tiểu thuyết của John Steinbeck một

mặt phơi bày hiện thực đầy xót xa, phẫn nộ, ám ảnh của nước Mỹ nửa đầu thế kỉ

XX bằng âm điệu và khí chất Mỹ, mặt khác tái khẳng định những giá trị truyền

thống, văn hóa, đồng thời đối thoại, giải thiêng những huyền thoại đậm tính khuôn

mẫu, áp chế của nền văn hóa ưu trội.

Kết quả nghiên cứu của luận án mới chỉ là những khám phá, tìm tòi ban đầu

của hành trình giải mã những vỉa tầng cổ mẫu trong tiểu thuyết John Steinbeck. Do

đó, chúng tôi hi vọng có thể mở rộng phạm vi nghiên cứu sang các thể loại khác

như truyện ngắn, du kí để vẽ lại một bức tranh toàn diện về cổ mẫu trong văn xuôi

của văn hào người Mỹ này.

154

DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

1. Nguyễn Thị Thu Hằng, Nguyễn Thị Kim Ngân (2022), “Discourse of

Minority Communities: Comparing Archetypal Heroes in Nguyễn Huy

Thiệp’s “The Tiger’s Heart” (1971) and John Steinbeck’s The Pearl (1947)”,

Suvannabhumi 14(1), 53-70.

2. Nguyễn Thị Kim Ngân, Nguyễn Thị Thu Hằng & Lê Văn Trung (2021),

“Identity of the Vietnamese narrative culture: archetypal journeys from folk

narratives to fantasy short stories”, Humanities and Social Sciences

Communications 8(12), https://doi.org/10.1057/s41599-020-00697-3.

3. Nguyễn Thị Thu Hằng (2020), “Tính đa trị của biểu tượng Moby Dick trong

Moby Dick – Cá voi trắng của Herman Melville”, Tạp chí Khoa học Trường

Đại học Sư phạm Huế 1(53), 23-31.

4. Nguyễn Thị Thu Hằng (2020), “Sự tích hợp thể loại trong tiểu thuyết Chùm

nho phẫn nộ của John Steinbeck”, Kỉ yếu Hội thảo Khoa học quốc gia Nghiên

cứu và dạy học tác phẩm văn học theo thể loại, Nxb ĐHSP Hà Nội, 471-483.

5. Nguyễn Thị Thu Hằng (2019), “Bất ổn xã hội và địa vị của giới nữ: nghiên

cứu trường hợp tiểu thuyết Chùm nho phẫn nộ của John Steinbeck”, Tạp chí

Nghiên cứu văn học 10(572), 95-106.

155

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Thị Kim Ngân (2021). “Phân tích cổ mẫu trong tự sự dân gian từ phương

pháp tiếp cận tâm lí học đến phương pháp tiếp cận lịch sử-xã hội”, Tạp chí Lý

luận, Phê bình văn học, nghệ thuật, tr.49-60.

2. Steinbeck Now. “About John Steinbeck”,

about-john-steinbeck-2/>, accessed 2 March 2021.

3. Swedish Academy (1962). “Award ceremony speech”,

prize.org/prizes/literature/1962/ceremony-speech/>, accessed 2 March 2021.

4. Con Davis, R. (ed., 1982). Twentieth Century Interpretations: The Grapes of

Wrath, Englewood Cliffs, Prentice-Hall, New York.

5. Hữu Ngọc (2015). Hồ sơ văn hóa Mỹ, Nxb Thế giới, Hà Nội.

6. Hayashi, T. and Simpson B. K. (eds, 1994). John Steinbeck: Dissertation

Abstracts and Research Opportunities, Scarecrow Press, Portland.

7. The Guardian (2013). “Swedish Academy reopens controversy surrounding

Steinbeck's Nobel prize”,

swedish-academy-controversy-steinbeck-nobel>, accessed 4 March 2021.

8. Online Etymology Dictionary. “Archetype”,

/search?q=archetype>, accessed 2 January 2021.

9. Phó Đức Tùng (2012). “Các khái niệm quan trọng của Platon: Idea, Form và

Illusion”,

idea-form-va-illusion/>, xem 18/8/2021.

10. Jung, C. G. (1981). C.G. Jung Collected Works, Vol. 9, “The Archetype and the

Collective Unconsious”, Herbert Read (ed.), R.F.C Hull (trans), Routledge,

London.

11. Jung, C. G. (2017). Cổ mẫu của vô thức tập thể (Nguyễn Hoài An dịch),

, xem 18/8/2021.

12. Abrams, M. H. and G. G. Harpham (2008). A Glossary of Literary Terms,

Cengage Learning, Boston.

13. Lộc Phương Thủy (chủ biên, 2007). Lí luận - phê bình văn học thế giới thế kỉ

XX, tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

14. Jung, C. G. (2007). Thăm dò tiềm thức (Vũ Đình Lưu dịch), Nxb Tri thức, Hà

Nội.

156

15. Benett, E. A. (2002). Jung thực sự đã nói gì (Bùi Lưu Phi Khanh dịch), Nxb Văn

hóa Thông tin, Hà Nội.

16. Nguyễn Thị Thanh Xuân (2010). Phê bình cổ mẫu và cổ mẫu nước trong văn

chương Việt Nam,

hoa/nhung-goc-nhin-van-hoa/phe-binh-co-mau-va-co-mau-nuoc-trong-van-

chuong-viet-nam/>, xem 15/6/2019.

17. Jung, C. G. (2005). Four Archetypes: Mother, Rebirth, Spirit, Trickster, R. F. C.

Hull (trans), Routledge Classics, London.

18. Frye, N. (1971). Anatomy of Criticism: Four Essays, Princeton University Press,

Princeton.

19. Trần Đình Sử (chủ biên, 2007). Tự sự học: một số vấn đề lí luận và lịch sử, tập

2, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.

20. Vũ Minh Đức (2018). Cổ mẫu trong truyện ngắn Isaac Bashevic Singer, Luận

án Tiến sĩ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

21. Mills, J. (2018). “The Essence of Archetypes”, International Journal of Jungian

Studies, pp.1-22.

22. Knox, J. (2003). Archetype, Attachment, Analysis: Jungian psychology and the

emergent mind, Brunner-Routedge, New York.

23. Goodwyn (2010). “Approaching Archetypes: Reconsidering innateness”,

Journal of Analytical Psychology, 55, pp.502-521.

24. Goodwyn (2013). “Recurrent motifs as resonant attractor states in the narrative

field: a testable model of archetype”, Journal of Analytical Psychology, 58,

pp.387-408.

25. Roesler, C. (2012). “Are Archetypes transmitted more by culture than biology?

Questions arising from conceptualizations of the archetype”, Journal of

Analytical Psychology, 57, pp.223-246.

26. Đào ngọc Chương (2008). Phê bình huyền thoại, Nxb Đại học Quốc gia Tp. Hồ

Chí Minh.

27. Gray, J. (1971). John Steinbeck, University of Minnesota Press, Minnesota.

28. Covici, P. (1971). The Portable Steinbeck, The Viking Press, New York.

29. Steinbeck, E. and Robert Wallstein (eds., 1975). Steinbeck: A Life in Letters, The

Viking Press, New York.

157

30. Benson, J. J. (1984). The True Adventures of John Steinbeck, Writer, The Viking

Press, New York.

31. Parini, J. (1994). John Steinbeck: A Biography, Heinemann, London.

32. Souder, W. (2020). Mad at the World: A Life of John Steinbeck, W. W. Norton

& Company, New York.

33. Owens, L. (1989). The Grapes of Wrath: Trouble in the Promised Land, Twayne,

Boston.

34. Morretta, A. (2015). John Steinbeck and the Great Depression, Cavendish

Square Publishing, New York.

35. Lisca, P. (1958). The Wide World of John Steinbeck, Rutgers University Press,

New Brunswick.

36. Meyer, Michael J. (ed., 2009). The Essential Criticism of John Steinbeck’s Of

Mice and Men, The Scarecrow Press, Inc., Maryland.

37. Beegel, S. F., Susan Shillinglaw and Wesley N. Tifney Jr. (1997). Steinbeck and

the Environment: Interdisciplinary Approaches, University of Alabama Press,

Tuscaloosa.

38. Willis, L. (2005). “Monstrous Ecology: John Steinbeck, Ecology, and American

Cultural Politics”, The Journal of American Culture, 28(4), pp.357-367.

39. Bamarani, S. C. (2015). “Ecological Consiousness in John Steinbeck’s The

Grapes of Wrath”, Indian Journal of Applied Research, 5(8), pp.340-341.

40. Benesová, L. (2016). John Steinbeck through the Perspective of Ecocritical

Reading, Thesis, Ceské Budejovice.

41. Motley, W. (1982). “From Patriarchy to Matriarchy: Ma Joad’s Role in The

Grapes of Wrath”, American Literature, 54(3), pp.397-412.

42. Woods, D. (2008). Defying Domesticity: Steinbeck’s critique of gender politics

of postwar generation in East of Eden, Thesis Master of Arts, University of

North Carolina Wilmington.

43. Fonseca, D. L. (2005). Gender relations in Steinbeck’s The Grapes of Wrath,

, accessed 5 August 2021.

44. Wu, L. (2016). “The Construction of Female Subject Identity in The Grapes of

Wrath”, Studies in Literature and Language, 12(3), pp.12-16.

45. Garcia, N. M. (2016). Steinbeck’s Female Characters: Environment,

158

Confinement, and Agency, Master’s thesis, Havard Extension School.

46. Meyer, K-R. (2016). “Cathy’s “Masculinity” as Survival in Steinbeck’s East of

Eden”, The Explicator, 74(1), pp.31-33.

47. Gladstein, M. R. (1986). The Indestructible Woman in Faulkner, Hemingway

and Steinbeck, UMI Research Press, Ann Arbor, Mich.

48. Shockley, M. (1956). “Christian Symbolism in The Grapes of Wrath”, College

English, 18(2), pp.87-90.

49. Carlson, E. W. (1958). “Symbolism in The Grapes of Wrath”, College English,

19(4), pp.172-175.

50. Dougherty, C. T. (1962). “The Christ-Figure in The Grapes of Wrath”, College

English, 24(3), pp.224-226.

51. Crockett, H. K. (1962). “The Bible and The Grapes of Wrath”, College English,

24(3), pp.193-199.

52. Brasch, J. D. (1977). “The Grapes of Wrath and Old Testament Skepticism”, San

Jose Studies, 3(2), pp.16-17.

53. Veneros, M. P. (2012). “Inversion of biblical symbols in The Grapes of Wrath”,

Literatura y Linguística 26, pp.167-179.

54. Peter Lisca (1956). “Motif and Pattern in ‘Of Mice and Men’”, Modern Fiction

Studies, Vol. 2, No. 4 (Winter 1956-1957), pp.228-234.

55. Heitkamp, J. (1971). Nature Symbolism in the Fiction of JohnSteinbeck, Master

of Arts, North Texas State University.

56. Bluefatb, S. (1972). The Escape Motif in the American Novel: Mark Twain to

Richard Wright, Ohio State University Press, Columbus, Ohio.

57. Todd M. Lieber (1972), “Talismanic Patterns in the Novels of John Steinbeck”,

American Literature, 44(2), pp.262-275.

58. Anderson, A. C. (1976). The Journey motif in the fiction of John Steinbeck:

the Traveler discovers himself, Dissertation in Fordham University, Michigan.

59. Nguyễn Đức Đàn (1998). Hành trình văn học Mỹ, Nxb Văn học, Hà Nội.

60. Vanspanckeren, Kathryn (2001). Phác thảo văn học Mỹ (Lê Đình Sinh, Hồng

Chương dịch), Nxb Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh.

61. Lê Đình Cúc (2004). Tác gia Văn học Mỹ (thế kỉ XVIII-XX), Nxb Khoa học Xã

hội, Hà Nội.

159

62. Lê Huy Bắc (2000). Văn học Mỹ, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội.

63. Hoàng Thị Thập (2015). Nghệ thuật tiểu thuyết John Steinbeck, Luận án tiến sĩ

Ngữ văn, Viện hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Hà Nội.

64. Lê Nguyễn Hạnh Phước (2008). Nghệ thuật tiểu thuyết và truyện ngắn của John

Steinbeck, Luận văn thạc sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Huế.

65. Lê Nguyễn Hạnh Phước (2008). “John Steinbeck - Nghệ thuật như là một sự

cảnh tỉnh trong thời đại công nghiệp và kinh tế thị trường dưới sứ mệnh nhân

bản”, Tạp chí Sông Hương, số 230, tr.58-63.

66. Kakonis, T. E. (1958). Mysticism in Selected Early Novels of John Steinbeck,

South Dakota State University.

67. Fontenrose, E. F. (1963). John Steinbeck: an introduction and interpretation,

Barnes & Noble, New York.

68. VanDevyvere, J. L. (1974). Archetypes of the collective unconscious in the three

novels of John Steinbeck, Master of Arts, Lakehead University.

69. Post, C. (1993). History’s Myth: John Steinbeck and the Twilight of Western

Culture, Doctor of Philosophy in English, Texas Tech University.

70. Wiley, W. B. (2008). The American Cain: An Alternative National Archetype,

Doctor of Philosophy, The University of Georgia.

71. Tóth, G. (2010). “Myths and Contexts in John Steinbeck’s The Grapes of

Wrath”, E-Journal of American Studies in Hungary 6(1),

, accessed 3 March 2020.

72. Fan, Y. (2014). “Analysis of Archetypal Character Jim Casy in The Grapes of

Wrath”, Theory and Practice in Language Studies, 4(12), pp.2576-2580.

73. Martin, E. M. (2014). “Of Mice and Myth: John Steinbeck, Carl Jung, and The

Epic of Gilgamesh”, , accessed 5 March 2020.

74. Walker, N. (2015). “Timshel: The Monomyth in East of Eden”,

nglish_symposium>, accessed 5 March 2022.

75. Thurmanita, C. (2017). Derived Mythical Recurrence of the Bibilical Genesis’

Cain and Abel Story in Trask Family in John Steinbeck’s East of Eden, Thesis

Examination Committee, Diponegoro University Semarang.

76. Saputra, B. (2018). “Steinbeck’s East of Eden: Redefining the Evil within Cathy

160

Ames”, International Letters of Social and Humanisic Sciences, 82, pp.19-23.

77. Gualberto, R. (2018). “Reassessing John Steinbeck’s Modernism: Myth, Ritual,

and a Land Full of Ghosts in To a God Unknown”, Journal of English Studies

16, pp.113-132.

78. Hà Hoài (1962). “John Steinbeck, giải văn chương Nobel 1962”, Văn nghệ, 19,

Sài Gòn.

79. Lê Huy Bắc (2009). “Chủ đề về người nông dân và cách cắt nghĩa chủ đề trong

Chùm nho phẫn nộ của John Steinbeck”. Tạp chí Khoa Học Đại học Sư phạm

Hà Nội 7, tr.10-16.

80. Hoàng Thị Thập (2018). “Tiểu thuyết Chùm nho phẫn nộ và những đối thoại để

ngỏ”, Tạp chí Khoa học Đại học Tân Trào, 7, tr.47-54.

81. Nguyễn Thị Thu Hằng (2016). Cổ mẫu Mẹ trong “Chùm nho phẫn nộ” của John

Steinbeck, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

82. Guerin, W. L., E. Labor, L. Morgan, and J. R. Willingham (2005). “Mythical

and Archetypal Approaches”, A Handbook of Critical Approaches to Literature,

Oxford University Press, Inc., New York.

83. Neumann, E. (1963). The Great Mother: an analysis of archetype (Ralph

Manhein translates), Princenton University Press, Princenton.

84. Chevalier, J. and A. Gheerbrant (2016). Từ điển biểu tượng văn hoá thế giới

(Phạm Vĩnh Cư, Nguyễn Xuân Giao, Lưu Huy Khánh dịch), Nxb Đà Nẵng.

85. Steinbeck, J. (2020). Chùm nho phẫn nộ (Phạm Thủy Ba dịch), Nxb Văn học,

Hà Nội.

86. Steinbeck, J. (2020). Viên ngọc trai (Đặng Việt Hưng dịch), Nxb Hội nhà văn,

Hà Nội.

87. Steinbeck, J. (2006). The Grapes of Wrath, Penguin Group Inc., New York.

88. Gorky, M. (2016). Người mẹ (Phan Thảo dịch), Nxb Văn học, Hà Nội.

89. Nhiều tác giả (2012). Thần thoại Hi Lạp (Nguyễn Văn Khỏa dịch), Nxb Phụ nữ,

Hà Nội.

90. Steinbeck, J. (2018). Của chuột và người (Phạm Văn dịch), Nxb Hội nhà văn,

Hà Nội.

91. Steinbeck, J. (2018), Phố Cannery Row (Phạm Văn dịch), Nxb Hội nhà văn, Hà

Nội.

161

92. Steinbeck, J. (2014). East of Eden, Penguin Books, Great Britain.

93. Hugo, V. (2018). Những người khốn khổ (Huỳnh Lý, Vũ Đình Liên, Lê Trí Viễn,

Đỗ Đức Hiểu dịch), Nxb Văn học, Hà Nội.

94. Faulkner, W. (2015). Âm thanh và cuồng nộ (Phan Đan - Phan Linh Đan dịch),

Nxb Văn học, Hà Nội.

95. Nguyễn Huy Thiệp (2021). “Tâm hồn Mẹ”, trong Truyện ngắn Nguyễn Huy

Thiệp, Nxb Văn học, Tp. Hồ Chí Minh.

96. Steinbeck, J. (2014). Thị trấn Tortilla Flat (Lâm Vũ Thao dịch), Nxb Trẻ, Tp.

Hồ Chí Minh.

97. Steinbeck, J. (2003). Phía đông vườn địa đàng (Đinh Văn Quý dịch), Nxb Văn

hóa Thông tin, Hà Nội.

98. Bodnar, J. (2006). “Monuments and Morals: The Nationalization of Civic

Instruction”, Civic and Moral Learning in America, Warren, Donald R.; Patrick,

John J. (eds), Macmillan, New York, pp.212–214.

99. Allen, P. G. (1992). The Sacred Hoop: Recovering the Feminine in American

Indian Traditions, Beacon Press, Boston.

100. Natelson, R. G. (2021). “Bảo vệ Hiến pháp Hoa Kỳ” (Minh Khanh và cộng sự

dịch), The Epoch Times Tiếng Việt, tr.1-12.

101. Fetterley, Judith (1978). The resisting reader: a feminist approach to American

fiction, Indiana University Press, Bloomington.

102. Harari, Y. N. (2017). Sapiens: Lược Sử Loài Người (Nguyễn Thủy Chung

dịch), Nxb Tri thức, Hà Nội.

103. Friedan, B. (2015). Bí ẩn nữ tính (Nguyễn Vân Hà dịch), Nxb Hồng Đức, Tp.

Hồ Chí Minh.

104. Bloom, H. (2005). John Steinbeck’s The Grapes of Wrath (Bloom’s guides),

Chelsea House, New York.

105. Ross Murfin and Supryia M. Ray (eds., 2003). “Myth”, The Bedford Glossary

of Critical and Literary Terms, Bedford-St. Martin’s, Boston.

106. Trịnh Bá Đĩnh (2002). Chủ nghĩa cấu trúc và văn học, Nxb Văn học, Hà Nội.

107. Meletinsky, E. M (2004). Thi pháp của huyền thoại (Trần Nho Thìn & Song

Mộc dịch), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

108. Steinbeck, J. (1995). The Log from the Sea of Cortez, Penguin Books, New York.

162

109. Campbell, J. (2021). Người hùng mang ngàn gương mặt (Thiên Nga dịch), Nxb

Dân trí, Hà Nội.

110. Nguyễn Thị Kim Ngân (2017). “Cổ mẫu trong nghiên cứu truyện kể dân gian”,

Tạp chí Nghiên cứu Văn học, 541(3), tr.77-87.

111. Segal, R. et al (1990). In Quest of the Hero, Princeton University Press,

Princeton.

112. Rank, O. (1914). The Myth Of The Birth Of The Hero, Journal of

Nervous and Mental Disease Publishing, New York.

113. Raglan, L. (1936). The Hero: A Study in Tradition, Myth and Drama, Dover

Publications, New York.

114. Leeming, D. A. (1981). Mythology: The Voyage of the Hero, Harper & Row,

New York.

115. Ban Tôn giáo Chính Phủ (2011), Kinh Thánh (Nhóm phiên dịch các giờ kinh

phụng vụ dịch), Nxb Tôn giáo, Huế.

116. Paul, H. (2014). The Myths that made America: An introduction to American

Studies, Transcript Verlag, Bielefeld.

117. Grod, A. (2019). Theories of Culture, Routledge, New York.

118. Steinbeck, J. (2014). Tôi, Charley và hành trình nước Mỹ (Tuấn Việt dịch),

Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.

119. Ashcroft, B. et al (2007). Post-colonial studies: The Key Concepts, Taylor &

Francis e-Library.

120. Shaw, P. W. (1997). “Tom’s Other Trip: Psycho-Physical Questing in The

Grapes of Wrath”, The Grapes of Wrath: Text and Criticism, Peter Lisca with

Kevin Hearle (eds.), 2nd rev, Viking Critical Library, Penguin Viking.

121. Steinbeck, J. (1933). To a God Unknown, Bantam Books Inc., New York.

122. Deleuze, Gilles and Félix Guattari (2015). Kafka - vì một nền văn học thiểu số

(Nguyễn Thị Từ Huy dịch), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

123. Britch, Carroll and Clifford Lewis (1984). “Shadow of the Indian in the Fiction

of John Steinbeck”, MELUS 11(2), pp.39-58.

124. Barthes, R. (2008). Những huyền thoại (Phùng Văn Tửu dịch), Nxb Tri thức,

Hà Nội.

125. Đặng Anh Đào (2010). “Huyền thoại văn chương: thời điểm phát sáng và biến

163

hóa trong văn học viết hiện đại”,

học-nước-ngoài/huyen-thoai-van-chuong-thoi-diem-phat-sang-va-bien-hoa-

trong-van-hoc-viet-hien-dai-1172>, xem 10/10/2021.

126. Irena M. Makaryk (ed., 1995). Encyclopedia of Contemporary Literary Theory

- Approaches, Scholars and Terms, University of Toronto Press.

127. Bergquist, G. (1999). “Biography of John Steinbeck”, Dictionary of World

Biography: The 20th Century, Salem Press, Pasadena, CA, pp.3515-3517.

128. Gross, T. L. (1971). The Heroic Ideal in American Literature, Free Press.

129. Garry, J. & Hasan M. El-Shamy (eds., 2004). Archetypes and Motifs in Folklore

and Literature: A Handbook, M. E. Sharpe, Inc., New York.

130. Jefferson, T. (1776). “Toàn văn Tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ 4/7/1776”,

ml>, xem 10/3/2022.

131. Văn phòng Quốc hội (2009). Tuyển tập Hiến pháp một số nước trên thế giới,

Nxb Thống kê, Hà Nội.

132. Adams, J. T. (1932). The Epic of America, Little, Brown, & Company, Boston.

133. Blumberg, N. (2014), “Francis Scott Key and ‘The Star-Spangled Banner’”,

, accessed 10

April 2022.

134. Carpenter, F. I. (1957). “John Steinbeck: American Dreamer”, Steinbeck and

His Critics: A Record of Twenty Five Years, Tedlock and Wicker (eds.),

UNMP, Albuquerque, pp.68-79.

135. Fitzgerald, F. S. (2015). Đại gia Gatsby (Trịnh Lữ dịch), Nxb Hội Nhà văn, Hà

Nội.

136. Cinotta, H. (2000). Khái quát lịch sử nước Mỹ (Nguyễn Chiến dịch), Nxb Chính

trị Quốc gia, Hà Nội.

137. Steinbeck, J. (1962). “Banquet Speech”,

prizes/literature/1962/steinbeck/25229-john-steinbeck-banquet-speech1962/>,

accessed 2 March 2022.

138. Lão Tử (2006). Đạo đức kinh (Nguyễn Hiến Lê dịch), Nxb Văn hóa Thông tin,

Hà Nội.

139. Bachelard, G. (1983). Water and Dreams: An Essay on the Imagination of

164

Matter, Gaston Farrell, Edith R. trans., Dallas Institute of Humanities and

Culture Publications, Texas.

140. Bachelard, G. (2002). Earth and Reveries of Will: An Essay on the Imagination

of Matter, Kenneth Haltman trans., Dallas Institute of Humanities and Culture

Publications, Texas.

141. Bachelard, G. (2011). Earth and Reveries of Repose: An Essay on Images of

Interiority, Mary McAllester Jones trans., Dallas Institute of Humanities and

Culture Publications, Texas.

142. Nguyễn Thị Tịnh Thy (2017). Rừng khô, suối cạn, biển độc… và văn chương,

Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

143. Rice, R. (2011). “Circles in the Forest: John Steinbeck and the Deep Ecology

of To a God Unknown”, Steinbeck Review 8(2), pp.31-52.

144. Fahy, T. (2006). Freak Shows and the Modern American Imagination:

Constructing the Damaged Body from Willa Cather to Truman, Capote

Palgrave MacMillan, New York.

145. Fields, R. (2009). “The Complexities of Noah in The Grapes

of Wrath”, Steinbeck Review, pp.53-61.

146. French, W. (1975). John Steinbeck, 2nd rev. ed. Twayne, Boston.

147. Heavilin, B. A. (2017). “A Sacred Bond Broken: The People versus the Land

in The Grapes of Wrath”, Steinbeck Review 14(1), pp.23-38,

doi.org/10.5325/steinbeckreview.14.1.0023> accessed 10 March 2022.

148. Spalding, B. T. (2021). Hành trình về phương Đông (Nguyên Phong dịch), Nxb

Thế giới, Hà Nội.

149. Carpenter, F. I. (1941). “The Philosophical Joads”, College English, 2(4),

pp.315-325.

150. George, Stephen K. (2004). “A Taoist Interpretation of John Steinbeck’s The

Pearl”, Steinbeck Review, 1, pp.90-105.

151. Sessions, George (ed., 1995). Deep Ecology for the 21st Century, Shambhala,

Boston.

165

PHỤ LỤC

Phụ lục 1: Danh mục các tiểu thuyết của John Steinbeck được khảo sát

STT

Tên tiểu thuyết

Năm xuất bản

Nhà xuất bản

1

To a God Unknown/Gửi vị

1933

Bantam Books Inc.

thần chưa biết

2

In Dubious Battle/Trong trận

1936

Random House

đánh mơ hồ

3

East of Eden/Phía đông vườn

2014

Penguin Books

địa đàng

4

Thị trấn Tortilla Flat 2014 Nxb Trẻ

2014

5

(Lâm Vũ Thao dịch)

Nxb Hội nhà văn Phố Cannery Row

2018

6

(Phạm Văn dịch)

Của chuột và người Nxb Hội nhà văn

2020

7

(Phạm Văn dịch)

Nxb Hội nhà văn Viên ngọc trai

2020

8

(Đặng Việt Hưng dịch)

Chùm nho phẫn nộ Nxb Văn học

(Phạm Thủy Ba dịch)

Phụ lục 2: Bảng thống kê nhân vật nữ trong tiểu thuyết John Steinbeck

được lựa chọn làm đối tượng khảo sát

STT

Tác phẩm

Nhân vật nữ

Hiện thể của cổ mẫu Mẹ

Mẹ hiền

Mẹ dữ

1 Gửi vị thần chưa biết

Elizabeth McGregor

x

Rama

x

2

Thị trấn Tortilla Flat

Ramirez ngọt ngào

x

Tia Ignacia

x

Teresina Cortez

x

Torrelli

x

3

Trong trận đánh mơ hồ Lisa

x

4 Của chuột và người

Vợ Curley

x

166

Dì Clara

x

5 Chùm nho phẫn nộ

Bà nội

x

Ma Joad

x

Rosashan

x

Ruthie

x

6

Phố Cannery Row

Dora

x

Những cô gái của

x

Dora

7

Viên ngọc trai

Juana

x

Vợ Thomas

x

8

Phía đông vườn địa

Cathy Ames/Kate

x

đàng

Abra Bacon

x

Alice Trask

x

Liza Hamilton

x

Nigger

x

Faye

x

Phụ lục 3: Bảng thống kê nhân vật anh hùng trong tiểu thuyết John Steinbeck

được lựa chọn làm đối tượng khảo sát

STT Tác phẩm Nhân vật

Diễn giải

1 Gửi vị thần

Joseph

Là chủ một trang trại rộng lớn và màu mỡ ở

chưa biết

Wayne

California, kết nối với tự nhiên, đất đai bởi một

niềm tin thiêng liêng. Khi hạn hán xảy ra, anh đã hi

sinh bản thân để mang mưa đến cho vùng đất.

2

Thị

trấn

Danny

Là một paisano (người Mỹ gốc Mexico-Anh-Ấn)

Tortilla

của Tortilla Flat, trở về thị trấn sau khi phục vụ cho

Flat

Đại Chiến I, Danny bất ngờ được thừa kế hai căn

nhà và anh đã mở rộng cửa chào đón những người

bạn, là những paisano khác, đến trú ngụ. Họ đã tôn

Danny làm thủ lĩnh của nhóm người hỗn hợp và

cùng nhau thực hiện nhiều phi vụ chấn động

Tortilla Flat lặng lẽ. Tuy nhiên, gánh nặng trách

nhiệm tài sản khiến Danny ngày càng chán nản và

167

nghiện rượu, và cuối cùng sụp đổ: Danny chết, hai

căn nhà bốc cháy, hội bạn của chàng cũng tan rã.

3

Trong trận

Jim

Là một chàng trai trẻ tuổi, mong muốn tìm kiếm

đánh mơ

Nolan

mục đích của cuộc sống. Jim đơn độc, không có mối

hồ

liên hệ nào với gia đình, không có bạn bè. Anh gia

nhập Đảng với hi vọng tìm ra mục đích và ý nghĩa

của cuộc đời. Anh cùng với những đồng chí trong

Đảng tổ chức thực hiện cuộc đình công, càng về

cuối truyện khả năng lãnh đạo của anh càng được

nâng cao. Tuy nhiên, cuộc đình công thất bại khi

anh bị những kẻ canh gác bắn chết.

4 Của chuột

George Là một công nhân nông nghiệp di cư, luôn cố gắng

và người

bảo vệ Lennie, một kẻ khỏe mạnh mà khù khờ. Anh,

Lennie và những kẻ khuyết tật khác trong truyện ấp

ủ mơ ước có một mảnh đất riêng. Song, ước mơ bị

dập tắt khi George buộc phải bắn chết Lennie để

bảo vệ Lennie khỏi những kẻ muốn tàn phá cuộc

đời anh ta.

5 Chùm nho

Tom Joad Là con trai thứ của gia đình Joad, trở về nhà sau thời

phẫn nộ

gian ngồi tù vì tội giết người (để tự vệ), đúng lúc

gia đình anh bị xua đuổi khỏi mảnh đất nơi sinh cơ

lập nghiệp lâu đời và chen chúc trên chiếc xe thổ tả

để đến đất hứa California kiếm sống. Trên đường

đi, gia đình Joad trải qua muôn vàn khó khăn, song

Tom luôn là người mạnh mẽ, dẫn dắt cả nhà cùng

mẹ. Hành trình đến đất hứa đã giúp Tom nhận ra kẻ

thù của gia đình anh và những người khốn khổ như

họ, sau cái chết của Casy, Tom quyết định rời xa

gia đình, dự định tham gia vào một cuộc trỗi dậy,

kêu gọi những người nghèo bị chà đạp đứng lên đấu

tranh.

Jim Casy Là một mục sư đã từ bỏ việc giảng đạo, đi lang

thang trong những miền hoang vắng và vật lộn với

168

những ý tưởng khác lạ của mình. Jim cùng gia đình

Tom Joad di chuyển về phía Tây. Trên đường đi,

ông vẫn đóng vai trò như một người dẫn dắt tinh

thần mặc dù ông chối bỏ điều đó. Trong một cuộc

xung đột với cảnh sát, Jim đã hi sinh thân mình để

cứu Tom, ông bị bắt giam. Ở trong tù, Jim đã nhận

thức rõ ràng hơn về niềm tin của mình. Sau khi ra

tù, Jim bắt đầu thực hiện lí tưởng của ông, Jim tổ

chức một nhóm đình công để đòi tiền công xứng

đáng hơn. Song, cuộc đình công bị dập tắt, Jim bị

giết chết.

6

Phố

Mack

Là “đàn anh, lãnh tụ, cố vấn, và trong chừng mực

nào đó là kẻ lợi dụng một nhóm vài đứa có chung

Canney

đặc tính là không gia đình, không tiền, không ước

Row

muốn nào ngoài đồ ăn, thức uống và mãn nguyện”.

Bề ngoài, anh ta là một kẻ ranh mãnh, có nhiều

mánh khóe thông minh, song thực chất Mack là một

người có thiện chí, đặc biệt là với Doc, khi anh cố

gắng tổ chức những bữa tiệc để tôn vinh Doc, dù

các bữa tiệc ấy đều kết thúc thảm hại.

7

Viên ngọc

Kino

Là một người Mỹ bản địa, sống cùng vợ Juana và

trai

con trai nhỏ ở một làng chài nghèo gần thị trấn La

Paz. Vận may giúp Kino tìm thấy một viên ngọc trai

tuyệt thế, anh quyết định bán nó để đổi lấy sự giàu

có và tự do cho gia đình. Song, lão bác sĩ, linh mục

và những kẻ buôn ngọc tìm mọi cách để cướp viên

ngọc. Kino dẫn gia đình chạy trốn, anh đã chiến đấu

hết sức mình để bảo toàn gia đình và viên ngọc.

Nhưng con trai anh bị một tên săn người giết chết.

Kino cùng vợ trở về thị trấn, ném viên ngọc trai

xuống biển sâu.

8

Phía đông

Adam

Là con trai trưởng của gia đình Trask, từng phục vụ

vườn

địa

Trask

trong chiến tranh, cứu sống Cathy Ames, đưa nàng

169

đàng

đến California gây dựng cơ nghiệp. Khi vợ bỏ đi,

Adam suy sụp. Nhờ chú giúp việc người Hoa, Lee,

và ông Samuel Hamilton khuyên bảo, Adam thấu

hiểu ngụ ý của từ Timshel, lựa chọn tha thứ cho

người vợ và con trai Cain

Caleb/Cal

Là một trong hai người con trai song sinh của Adam

Trask

và Cathy. Cal lớn lên thiếu vắng tình yêu của mẹ và

sự thờ ơ của cha. Anh luôn tò mò về quá khứ của

mẹ, lo lắng cái ác của bà mẹ sẽ di truyền sang anh.

Anh nỗ lực vượt qua thói ích kỉ của bản thân, mong

muốn được cha yêu thương. Song, trong một

khoảnh khắc không kìm chế lòng đố kị, Cal đã gián

tiếp gây ra cái chết của anh trai và cơn đột quỵ của

cha. Được Lee giúp đỡ, Cal được Adam tha thứ và

trao lại quyền được lựa chọn trong giờ phút cha anh

hấp hối

Phụ lục 4: Nghi thức và giai đoạn trong chu trình vòng đời của các nhân vật

anh hùng trong tiểu thuyết John Steinbeck dựa trên mô hình

của nhà thần thoại Joseph Campbell

Nghi

Giai

Diễn giải

Joseph

Jim Nolan

Kino

Tom

Adam

thức

Joad

Trask

đoạn

Wayne

Tiếng

“biểu

thị

Joseph

Jim nhận ra

Sau khi

Coyotito

Cathy đột

gọi

rằng định

nhận ra

một sự thôi

ra

tù,

bị

bọ

ngột xuất

phiêu

mệnh đã

sự gắn

thúc từ bên

Tom

cạp cắn

hiện, làm

lưu

hiệu

triệu

kết đặc

trong, rằng

cùng với

thay đổi

Lên

người

biệt

anh phải đi

Casy,

đời sống

đường

hùng

giữa anh

thật xa để

mục sư

bình lặng

chuyển

và vùng

vượt

qua

đã làm lễ

của

trọng tâm

đất và

ranh

giới

rửa

tội

Adam.

tinh

thần

quyết

trạng

cho anh

Anh

của anh ta

định

thái không

lúc còn

muốn

từ

bên

đến

thỏa mãn

trẻ,

trở

cùng vợ

170

trong ranh

Californ

với

thực

về trang

đến

giới của xã

ia

để

tại.

Californi

trại của

hội anh ta

xây

a để tạo

gia đình

sang một

dựng

dựng một

Joad, họ

vùng xa lạ

trang

vườn địa

phát hiện

(báu vật và

trại và

đàng của

ra

trang

hiểm

lập gia

riêng

trại đã bị

nguy): một

đình.

mình

bỏ hoang

gia

xứ sở xa

đình

xôi, một

Joad đã

khu rừng,

chuyển

một vương

đến

quốc dưới

nhà chú

lòng đất,

John.

dưới mặt

Khi đến

nước, trên

nhà chú

bầu trời…

John,

người

Tom và

hùng tự ý

gia đình

lên

đoàn tụ,

đường/một

họ quyết

tác

nhân

định lên

phúc hậu

đường

hay tà ác

đến

đẩy đi

Californi

a để tìm

kiếm

việc làm.

Khước

Tiếng gọi

từ tiếng

không

gọi

được đáp

lại,

cuộc

171

phiêu

lưu

thành âm

bản, người

hùng

bị

vây

bọc

trong chán

chường,

công việc

nặng nhọc

hay

văn

minh, mất

khả năng

hành động

Sự phù

Gặp nhân

trợ siêu

vật

che

nhiên

chở cung

cấp những

bùa

chú,

phép thuật

Vượt

Đi qua là

Chuyến xe

Kino

qua

bóng

tối,

đưa Mac và

cùng vợ

ngưỡng

cõi xa lạ,

Jim

vào

đưa con

cửa đầu

hiểm nguy

thung lũng,

trai đến

tiên

Những

giấc mơ về

nhà bác

vùng xa lạ

nước

sĩ, bác sĩ

(hoang

hang động

từ chối

mạc, rừng

đầy

âm

vì Kino

già, biển

thanh gầm

nghèo,

sâu, xứ lạ,

Kino tìm

vân vân) là

thấy

chốn tự do

viên

để phóng

ngọc trai

chiếu nội

tuyệt thế

172

dung

thức

Đi qua tấm

mạng ngăn

thế giới đã

biết

chốn chưa

biết

Bụng

Địa hạt tái

cá voi

sinh, một

hình

thức

tự

hủy

diệt,

thay

vì đi

ra

ngoài,

vượt qua

những

biên

cương của

thế

giới

thấy được,

người

hùng

đi

vào trong,

để sinh ra

lần nữa

Con

Motif

Joseph

thung

Tom và

Kino lên

Sau khi

Thụ

đường

“nhiệm vụ

vượt

lũng

đoàn

thị

trấn

sinh hai

giáo

khó khăn”

qua

Torgas,

người di

bán

trai

thử

thách

nhiều

Jim đã trải

cư gặp

ngọc

song sinh

thử

qua nhiều

rất nhiều

trai,

kháu

thách:

cuộc

thử

thử

những

khỉnh,

chinh

nghiệm và

thách:

kẻ buôn

Cathy

173

phục

thử

thách:

thiếu

ngọc cấu

bắn

Elizabet

Jim đỡ đẻ

thốn về

kết

lừa

Adam bị

h

làm

cho Lisa,

vật chất,

gạt

thương

vợ,

tha

anh

bị

ông nội

Kino,

và bỏ đi.

thứ cho

thương, đối

chết, anh

những

Adam

Juantino

mặt

với

trai

kẻ tham

sống mà

người

một người

Noah bỏ

lam cố

như

đã giết

đàn

ông

đi, bà nội

đánh cắp

người đã

chết

vạm vỡ

chết, em

viên

chết,

Benjy,

rể

ngọc,

không

em

trai

Connie

Kino

đoái hoài

của

trốn

giết một

đến

hai

Joseph,

chạy,

kẻ

tấn

con

trai.

Elizabet

Jim Casy

công

Nhờ

h chết,

chịu

tội

anh,

Samuel

hạn hán

thay

Kino

và Lee,

tàn phá

Tom,

dẫn vợ

Adam

trang

Tom và

con bỏ

dần sống

trại và

nhà Joad

trốn lên

lại, biết

vùng

không

thủ

đô

chăm

lo

đất.

tìm được

để bán

cho

gia

việc làm,

viên

đình. Em

hoặc

ngọc,

trai

của

được trả

Kino

Adam

lương rất

giết chết

chết

để

ít

ỏi,

3 gã săn

lại quyền

Tom trả

người,

thừa

kế

thù cho

phát

cho

cả

Jim

súng

Adam và

Casy.

hướng

Cathy.

lên đỉnh

Adam

núi của

vượt qua

săn

sự

thù

174

người đã

hận, trao

giết chết

lại

bức

Coyotito

thư trong

sự

ngỡ

ngàng

của

Cathy.

Song,

Adam

vẫn đối

xử

thiên

vị

với

Aron hơn

Cabel.

Điều này

dẫn đến

cái chết

của Aron

nỗi

đau khổ

của

Cabel.

Cuộc

thử

gặp gỡ

thách sau

các nữ

cùng cho

thần

tài

năng

của người

hùng

nhằm

giành

được

ân

huệ

tình

yêu

(bác

175

ái),

cuộc

sống được

vui hưởng

Phụ nữ

như

những

kẻ

chuyên

cám dỗ

Chuộc

Jim

thoát

tội với

khỏi sự chi

người

phối

của

cha

cha

anh,

người

đã

thất bại khi

một mình

chiến đấu

để

chống

lại một hệ

thống

hội áp đảo.

Mac

trở

thành

người cha

tinh

thần

của Jim và

cổ vũ anh

ấy.

Phong

Trong giây

phút

hấp

thần

hối,

Jim

nhận ra anh

chỉ là một

176

phần nhỏ

của

toàn

thể,

rằng

anh không

cô đơn, anh

đồng cảm

với mọi sự

hiện

vật

trên

hữu

giới

thế

này.

Ân huệ

cuối

cùng

Khước

từ

Khi

Jim

chết

Trong

Kino và

Trong lúc

Trở về Từ chối

trở về

mang

hiểu rõ

song sự trở

những

vợ trở về

hấp hối,

chiến

lợi

mình là

về của anh

ngày

thị trấn,

Adam đã

phẩm quay

trái tim

ấy chính là

tháng lẩn

ném

tha thứ và

về

làm

của đất,

ngọn lửa hi

trốn

viên

chấp

chuyển

Joseph

vọng mà

trong

ngọc trai

nhận

hóa

thế

đã

hy

anh đã thắp

hang,

xuống

Cabel.

giới gốc

lên

trong

Tom suy

biển sâu.

sinh

bằng

những

ngẫm về

Cuộc

cách cắt

người

lao

những gì

trốn

cổ

tay

động, đó là

Casy đã

chạy kì

để

lấy

sau

cuộc

nói với

diệu

máu

tranh đấu

anh

Giải

Người

tưới lên

này, những

trước

cứu từ

hùng

tảng đá

điều tốt đẹp

đây

bên

thể

cần

thiêng,

sẽ đến.

hành

ngoài

được đưa

mang

trình mà

về

sau

mưa đến

anh

cuộc phiêu

cho

gia đình

lưu

siêu

177

đang trải

nhiên nhờ

vùng

qua,

sự trợ lực

đất.

Tom

từ

bên

quyết

ngoài

định

tổ

Vượt

Người

chức

qua

hùng phải

những

ngưỡng

vượt qua

người

cửa thứ

được cú va

lao động

hai

chạm với

bị áp bức

thế gian

đứng lên

Người

đấu

chế

tranh.

ngự

của hai

thế giới

Tự do

Kết

quả

sống

của chuyến

đi và quay

về kì diệu

Người

hùng

người bảo

vệ những

thứ đang

thành,

không phải

thứ

đã

thành,

anh ta tồn

tại

vĩnh

viễn

178

Phụ lục 5: Bảng khảo sát cổ mẫu đất và nước trong tiểu thuyết của John Steinbeck

Đất

Biến thể của nước

STT

Tên tác

phẩm

Biển

Sông

Suối

Ao Mưa

Lụt

x

Gửi vị thần

x

1

x

x

chưa biết

x

Thị trấn

2

x

x

Tortilla Flat

x

x

Trong trận

x

3

x

x

đánh mơ hồ

x

Của chuột và

x

4

người

x

Chùm nho

x

5

x

x

x

phẫn nộ

x

Phố Cannery

6

x

x

Row

x

Viên ngọc

x

7

x

x

trai

x

Phía đông

x

8

x

x

vườn địa

đàng