
5
Các công trình nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm đối với lý thuyết đa
dạng hóa danh mục đầu tư trên TTCK trên thế giới khá phong phú, tuy nhiên kết
quả rất khác nhau tùy từng nước và vùng lãnh thổ:
Lee, Fah và Chong (2016) đã sử dụng mô hình CAPM và mô hình trung bình
phương sai của Markowitz để xem xét, đánh giá hiệu quả của hoạt động đa dạng
hóa danh mục đầu tư trên TTCK tại Malaysia thông qua sử dụng chuỗi số liệu theo
tuần của 60 cổ phiếu trong giai đoạn từ 1/1/2010 - 31/12/2014. Chỉ số thị trường
được tham chiếu là chỉ số FBM KLCI, tài sản phi rủi ro là lãi suất lấy từ Ngân hàng
Trung ương Malaysia..
Verchenko (2000) sử dụng phương pháp tương quan đơn giản và phương
pháp đồng liên kết để đo lường mối tương quan giữa cổ phiếu của 10 thị trường mới
nổi ở châu Âu, gồm Ukraina, Lithuania, Estonia, Latvia, Poland, Hungary,
Slovenia, Nga và Cộng hòa Séc, với chuỗi số liệu theo tuần của các chỉ số chứng
khoán của 10 nước trong giai đoạn từ tháng 4/1997 - 1/2000.
Zaimovic, Berio và Mustafic (2017) sử dụng lý thuyết mô hình trung bình
phương sai của Markowitz và kỹ thuật phân tích cấu phần cơ bản (PCA) để xem xét
lợi ích và đánh giá hiệu quả của hoạt động đa dạng hóa danh mục đầu tư trên TTCK
tại các thị trường mới nổi ở Đông Nam Âu (South East Europe, còn gọi tắt là SEE).
Nghiên cứu dựa trên số liệu về tỷ suất sinh lợi theo tháng của 47 cổ phiếu của các
nước Đông Nam Âu (gồm Croatia, Serbia, Montenegro, Macedonia và Bosnia-
Herzegovina) và giá trị của 23 chỉ số chứng khoán trong giai đoạn từ 1/1/2006 -
1/4/2016, bao gồm cả các chỉ số của các thị trường lớn nhất trên thế giới đại diện
cho Mỹ, Anh, Đức, Australia, Nhật Bản và Italia.
Zhou (2010) đã xem xét tối ưu hóa danh mục đầu tư trên TTCK cổ phiếu
quốc tế trên vai trò của nhà đầu tư Trung Quốc, sử dụng chuỗi số liệu theo tháng
của 3 thị trường lớn thế giới (Mỹ, châu Âu, Trung Quốc) trong giai đoạn từ tháng
12/1990 - 12/2007. Nghiên cứu sử dụng khung khổ phân tích danh mục đầu tư trên