BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
--------------------------
NGÔ MINH ĐỨC
DẠY HỌC KHÁI NIỆM ĐẠO HÀM VÀ TÍCH PHÂN
THEO QUAN ĐIỂM LIÊN MÔN:
TRƯỜNG HỢP LIÊN MÔN TOÁN – VẬT LÍ
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – NĂM 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
--------------------------
NGÔ MINH ĐỨC
DẠY HỌC KHÁI NIỆM ĐẠO HÀM VÀ TÍCH PHÂN
THEO QUAN ĐIỂM LIÊN MÔN:
TRƯỜNG HỢP LIÊN MÔN TOÁN – VẬT LÍ
Chuyên ngành: Lý luận và phương pháp dạy học bộ môn toán
Mã số : 62.14.01.11
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. LÊ THỊ HOÀI CHÂU
Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn
của PGS.TS. Lê Thị Hoài Châu. Các số liệu và kết quả nêu trong luận án là trung
thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận án
Ngô Minh Đức
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
DANH MỤC CÁC BẢNG
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, SƠ ĐỒ
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài .................................................................................................. 1
1.1. Một số vấn đề đặt ra cho dạy học giải tích ...................................................... 1
1.2. Dạy học liên môn Toán và Vật lí, một xu hướng để khắc phục ...................... 3
1.3. Lựa chọn đối tượng tri thức ............................................................................. 5
2. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu ....................................................................... 6
2.1. Cách hiểu của người học về hai khái niệm đạo hàm và tích phân .................. 6
2.2. Nghiên cứu theo hướng dạy học đạo hàm và tích phân để hỗ trợ cho việc ứng
dụng trong Vật lí ..................................................................................................... 9
2.3. Nghiên cứu về việc sử dụng Vật lí để hỗ trợ việc dạy học các khái niệm của
Giải tích ................................................................................................................ 11
2.4. Các chương trình dạy học theo hướng liên môn Giải tích với Vật lí ............ 12
2.5. Nghiên cứu về dạy học giải tích theo quan điểm liên môn ở Việt Nam ....... 13
2.6. Kết luận và định hướng nghiên cứu .............................................................. 14
3. Cơ sở lí luận ....................................................................................................... 16
4. Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu ....................................................................... 16
5. Giả thuyết khoa học .......................................................................................... 17
6. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 17
7. Những luận điểm cần bảo vệ ............................................................................ 18
8. Các đóng góp mới của luận án ........................................................................ 18
9. Cấu trúc luận án ............................................................................................... 19
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN ........................................................................... 200
1.1. Liên môn. Các mô hình, chiến lược liên môn Toán và Khoa học ........... 20
1.1.1. Về khái niệm liên môn ........................................................................... 20
1.1.2. Liên môn Toán và môn khoa học: một số mô hình và cách tiếp cận ..... 24
1.1.3. Ba chiến lược dạy học liên môn Toán – Khoa học ................................ 27
1.2. Về việc hiểu và ứng dụng một khái niệm toán học .................................. 28
1.2.1. Hiểu khái niệm toán học ........................................................................ 29
1.2.2. Ứng dụng khái niệm toán học ................................................................ 31
1.2.3. Tiểu kết .................................................................................................. 32
1.3. Thuyết nhân học trong Didactic Toán ...................................................... 33
1.3.1. Về thuyết nhân học ................................................................................ 33
1.3.2. Lý thuyết chuyển hóa sư phạm .............................................................. 34
1.3.3. Phân tích tri thức luận ............................................................................ 36
1.3.4. Quan hệ thể chế và quan hệ cá nhân ...................................................... 37
1.3.5. Tổ chức tri thức ...................................................................................... 39
1.4. Lý thuyết tình huống ................................................................................... 39
1.4.1. Những điểm đặc trưng của lý thuyết tình huống ................................... 39
1.4.2. Tình huống lí tưởng ............................................................................... 41
1.4.3. Biến dạy học .......................................................................................... 42
1.5. Đồ án dạy học .............................................................................................. 43
1.5.1. Khái niệm đồ án dạy học ....................................................................... 43
1.5.2. Các bước để xây dựng một đồ án dạy học ............................................. 44
1.6. Kết luận chương 1: những nghiên cứu cần triển khai ............................. 46
CHƯƠNG 2. ĐẠO HÀM, TÍCH PHÂN: MỐI QUAN HỆ GẮN KẾT GIỮA
GIẢI TÍCH VÀ VẬT LÍ NHÌN TỪ LỊCH SỬ .................................................... 50
2.1. Mục tiêu của chương và định hướng thực hiện ........................................ 50
2.2. Quan hệ gắn kết giữa Toán học với Vật lí học trong lịch sử hình thành và
tiến triển của đạo hàm, tích phân ..................................................................... 51
2.2.1. Thời kì cổ đại ......................................................................................... 51
2.2.2. Thời kì tiền Giải tích (sau Archimedes và trước Newton – Leibniz) .... 53
2.2.3. Cơ học cổ điển của Newton và vai trò công cụ của Giải tích ................ 58
2.2.4. Những đóng góp của Giải tích vào sự phát triển sau đó của Vật lí ....... 62
2.3. Đặc trưng tri thức luận của đạo hàm và tích phân .................................. 63
2.3.1. Các bài toán là động lực nảy sinh và tiến triển của đạo hàm, tích phân 63
2.3.2. Các nghĩa của hai khái niệm đạo hàm và tích phân ............................... 66
2.4. Kết luận chương 2 và những gợi ý sư phạm được rút ra ........................ 66
CHƯƠNG 3. ĐẠO HÀM, TÍCH PHÂN: MỘT NGHIÊN CỨU THỂ CHẾ TỪ
QUAN ĐIỂM LIÊN MÔN GIỮA GIẢI TÍCH VÀ VẬT LÍ ............................... 70
3.1. Mục tiêu của chương và định hướng thực hiện ........................................ 70
3.2. Nghiên cứu mối quan hệ thể chế đối với khái niệm đạo hàm nhìn từ định
hướng liên môn ................................................................................................... 71
3.2.1. Đạo hàm trong thể chế IVL ...................................................................... 71
3.2.2. Đạo hàm trong thể chế IT........................................................................ 75
3.3. Nghiên cứu mối quan hệ thể chế đối với khái niệm tích phân nhìn từ định
hướng liên môn ................................................................................................... 80
3.3.1. Tích phân trong thể chế IVL .................................................................... 81
3.3.2. Tích phân trong thể chế IT ...................................................................... 88
3.4. Kết luận chương 3: mối quan hệ liên môn Toán – Vật lí trong việc dạy
học hai khái niệm đạo hàm và tích phân .......................................................... 95
CHƯƠNG 4. CÁC GIẢI PHÁP SƯ PHẠM ......................................................... 97
4.1. Cơ sở đề xuất giải pháp ............................................................................... 97
4.1.1. Cách hiểu đầy đủ về khái niệm đạo hàm, tích phân ............................... 98
4.1.2. Ứng dụng khái niệm đạo hàm, tích phân trong Vật lí .......................... 102
4.1.3. Vận dụng các chiến lược liên môn Toán – Khoa học trong dạy học khái
niệm đạo hàm, tích phân ................................................................................ 105
4.1.4. Sự liên môn thể hiện trong chuyển hóa sư phạm hai tri thức đạo hàm, tích
phân ................................................................................................................ 107
4.2. Các giải pháp sư phạm .............................................................................. 109
4.2.1. Nhóm 1: Nhóm giải pháp xây dựng cách hiểu đầy đủ hơn cho người học
về hai khái niệm đạo hàm và tích phân .......................................................... 110
4.2.2. Nhóm 2: Nhóm giải pháp nhằm tăng cường vai trò công cụ của đạo hàm
và tích phân và giúp người học ứng dụng hiệu quả chúng trong các vấn đề của
Vật lí ............................................................................................................... 114
CHƯƠNG 5. NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM ................................................ 126
5.1. Đồ án dạy học khái niệm đạo hàm ........................................................... 126
5.1.1. Mục tiêu xây dựng đồ án ...................................................................... 126
5.1.2. Các giải pháp được vận dụng ............................................................... 127
5.1.3. Các phân tích ban đầu .......................................................................... 128
5.1.4. Các bài toán cơ sở của đồ án ............................................................... 130
5.1.5. Phân tích tiên nghiệm .......................................................................... 133
5.1.6. Phân tích hậu nghiệm ........................................................................... 140
5.1.7. Kết luận cho thực nghiệm dạy học khái niệm đạo hàm ....................... 149
5.2. Đồ án dạy học khái niệm tích phân ......................................................... 149
5.2.1. Mục tiêu xây dựng đồ án ..................................................................... 149
5.2.2. Các giải pháp được vận dụng............................................................... 150
5.2.3. Các phân tích ban đầu .......................................................................... 151
5.2.4. Các bài toán cơ sở của đồ án ............................................................... 155
5.2.5. Phân tích tiên nghiệm .......................................................................... 158
5.2.6. Phân tích hậu nghiệm ........................................................................... 172
5.2.7. Kết luận cho thực nghiệm dạy học khái niệm tích phân...................... 189
5.4. Kết luận chương 5 ..................................................................................... 189
KẾT LUẬN CỦA LUẬN ÁN ............................................................................... 191
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ......................................... 194
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 195
CÁC TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
VIẾT TẮT VIẾT ĐẦY ĐỦ
DH Dạy học
GT Giải tích
GV Giáo viên
HS Học sinh
LM Liên môn
SGK Sách giáo khoa
SV Sinh viên
TN Thực nghiệm
tr Trang
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1. Kiểu nhiệm vụ vật lí có sử dụng công cụ tích phân……………………....93
Bảng 5.1. Thống kê kết quả bài toán 2a……………………………………………144
Bảng 5.2. Kết quả cuộc thi ở pha 4………………………………………………..145
Bảng 5.3. Khung lý thuyết của tích phân trong ngữ cảnh vật lí……………….…..153
Bảng 5.4. Khung lý thuyết về đa biểu diễn của tích phân………………..………..162
Bảng 5.5. Kết quả TN bài toán 1 và 2…………………………………………......174
Bảng 5.6. Kết quả các chiến lược giải xuất hiện trong bài toán 6…………………182
DANH MỤC HÌNH ẢNH, SƠ ĐỒ
Sơ đồ 1.1. Ba mắt xích của quá trình chuyển hóa sư phạm…………………………35
Sơ đồ 1.2. Tình huống lí tưởng……………………………………………………..43
Hình 1.1. Những lựa chọn trong việc tích hợp Toán và Khoa học…………………26
Hình 2.1. Tính diện tích tam giác Parabol………………………………………….52
Hình 2.2. Stevin xác định trọng tâm tam giác……………………………………….54
Hình 2.3. Oresme mô tả sự biến thiên bằng đồ thị rời rạc………………………….55
Hình 2.4. Quãng đường trong chuyển động nhanh dần đều…………………………55
Hình 2.5. Đồ thị vận tốc theo thời gian của Oresme………………………………..56
Hình 2.6. Công của lực biến đổi…………………………………………………….63
Hình 2.7. Bài toán xác định tiếp tuyến………………………………………...……64
Hình 4.1. Khung của Zandieh cho khái niệm đạo hàm…………………………….98
Hình 4.2. Mô hình cách hiểu khái niệm đạo hàm ……………………………….…99
Hình 4.3. Khung lý thuyết về khái niệm tích phân của Habineza…………………100
Sơ đồ 5.1. Tóm tắt chuỗi tình huống DH tích phân trong ngữ cảnh vật lí…………..154
Hình 5.1. Lời giải bài toán 1 của nhóm 4………………………………………….141
Hình 5.2. Lời giải bài toán 1 của nhóm 1…………………………………………141
Hình 5.3. Lời giải bài toán 1’ của nhóm 4………………………………………….143
Hình 5.4. Lời giải bài toán 3 của nhóm 5………………………………………….147
Hình 5.5. Lời giải bài toán 2 của nhóm 1…………………………………………174
Hình 5.6. Lời giải bài toán 2 của nhóm 3…………………………………………175
Hình 5.7. Lời giải bài toán 3 của nhóm 2…………………………………………177
Hình 5.8. Lời giải bài toán 4 của nhóm 1…………………………………………178
Hình 5.9. Lời giải bài toán 5 của nhóm 5…………………………………………180
Hình 5.10. Lời giải bài toán 6 của nhóm 5…………………………………….….183
Hình 5.11. Lời giải bài toán 6 của nhóm 1…………………………….………….183
Hình 5.12. Lời giải bài toán 6 của nhóm 6……………….……………………….184
Hình 5.13. Lời giải bài toán 7 của nhóm 1…………………………………….….186
Hình 5.14. Lời giải bài toán 8 của nhóm 1………………………………….…….187
1
MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Một số vấn đề đặt ra cho dạy học giải tích
Giải tích (GT) luôn được xem là một trong những thành tựu vĩ đại nhất của trí tuệ
loài người. Nó không chỉ chứa đựng những ý tưởng lớn làm thay đổi toán học mà còn
đem đến một sức mạnh thực tiễn to lớn thể hiện qua các ứng dụng hiệu quả trong nhiều
lĩnh vực. Điều này giải thích cho sự công nhận rộng rãi của các nhà nghiên cứu giáo dục
về vai trò quan trọng của dạy học (DH) GT trong nhà trường ở cả bậc phổ thông lẫn đại
học.
Mỗi khái niệm toán học nói chung và GT nói riêng đều có hai mặt là đối tượng và
công cụ, vì thế hai mục tiêu cơ bản thường được bàn đến trong DH là làm cho học sinh
(HS) hiểu khái niệm và sử dụng được nó như một công cụ. Tuy nhiên, do sự trừu tượng
của các khái niệm GT mà mục tiêu “hiểu” chúng có lúc bị việc DH bỏ qua. Có lẽ vì thế
mà Hội nghị cải cách giáo dục tổ chức ở đại học Tulane năm 1986 đã xác định “hiểu
khái niệm” là một mục tiêu trọng tâm của DH GT (Douglas, 1986). Kể từ đó, mục tiêu
này luôn nhận được sự quan tâm của cộng đồng giáo dục toán. Đối với mục tiêu còn lại,
trong vài thập kỉ gần đây nhiều nhà nghiên cứu giáo dục kêu gọi DH Toán dành sự quan
tâm lớn hơn cho ứng dụng của GT vào các ngữ cảnh ngoài toán học. Theo các nhà
nghiên cứu, điều đó trước hết mang lại động cơ thực tiễn cho việc học GT và giúp người
học sử dụng được GT trong các lĩnh vực khác. Rồi chính việc làm chủ được những ứng
dụng đó lại giúp người học hiểu một cách sâu sắc và đầy đủ hơn các khái niệm GT vốn
rất trừu tượng.
Tuy nhiên, trong thực tế, nếu nhìn từ hai mục tiêu nói trên thì việc DH GT ở trường
Trung học phổ thông (THPT) hiện nay phải đối mặt với nhiều vấn đề. Dưới đây là những
vấn đề cơ bản đã được cộng đồng các nhà nghiên cứu chỉ ra.
1.1.1. Người học thành thạo tính toán nhưng không hiểu được các khái niệm và kĩ
thuật của giải tích
Ở chương trình DH Toán phổ thông, hai trong số những bước chuyển quan trọng
mà HS phải trải qua, đó là từ Số học vào Đại số và từ Đại số vào GT. Ở mỗi bước chuyển
HS đều phải đối diện với những khó khăn. Nhưng khó khăn ở hai bước chuyển này
không giống nhau. Bước chuyển thứ nhất làm nảy sinh ở HS nhiều sai lầm liên quan đến
sự khái quát hóa (các tính chất, quy tắc tính toán trên các số cho các biểu thức đại số).
2
Tuy nhiên, bản chất hữu hạn và rời rạc của đối tượng vẫn không thay đổi và vì thế
phương pháp nghiên cứu không có quá nhiều sự khác biệt. Điều này không còn đúng ở
bước chuyển từ Đại số vào GT. GT nghiên cứu các đại lượng, các quá trình vô hạn, biến
thiên liên tục, và phải sử dụng những phương pháp và kĩ thuật khác hẳn với Đại số như
chia nhỏ, lập tổng vô hạn, xấp xỉ, đóng khung (chặn trên, chặn dưới). Nhiều nghiên cứu
cho thấy những khái niệm cơ bản như giới hạn, đạo hàm, tích phân và các kĩ thuật của
GT khó hiểu không chỉ với HS phổ thông mà thậm chí còn cả với sinh viên (SV) đại học
(Orton, 1983a; 1983b; Tall, 1993).
Mặc dù vậy các phép toán lấy giới hạn hay tính toán đạo hàm và tích phân lại có
thể được thực hiện theo những quy trình đại số mà không bắt buộc phải hiểu khái niệm
một cách đầy đủ. Ở điểm này, Doorman và Van Maanen (2008) nhận định rằng “GT là
một trong những chủ đề toán học mà những thao tác thuật toán trên các kí hiệu thì dễ
dàng hơn việc hiểu thấu bản chất khái niệm” (tr. 4).
Những ghi nhận nói trên đã dẫn đến một xu hướng khá phổ biến trong DH GT ở
bậc THPT – xu hướng đại số hoá GT. Theo xu hướng này, người ta không chú trọng
vào yêu cầu hiểu khái niệm mà chỉ tập trung vào các tính toán đại số (theo quy tắc, chẳng
hạn như đạo hàm của hàm hợp hay tích phân từng phần), nhằm mục đích tránh cho HS
phải đương đầu với những khó khăn của phương pháp GT. Dù có thể giúp người học
thành thạo trong tính toán hay giải quyết những dạng toán theo quy trình có sẵn, xu
hướng DH này vẫn vấp phải sự phê phán từ nhiều nhà giáo dục toán học. Họ cho rằng
đó không phải là DH GT, bởi lẽ người học có thể không thật sự hiểu được ý nghĩa và
cấu trúc của các khái niệm cũng như những kĩ thuật mà mình đang sử dụng. Zandieh
(2000) đưa ra thuật ngữ “giả khái niệm” để nói về điều này. Tall (1993) cũng cho rằng
việc hạ thấp cách hiểu khái niệm xuống thành các kĩ thuật tính toán đại số là một sự
đánh tráo vấn đề trong DH GT. Đó là còn chưa nói kiểu DH này có thể dẫn HS đến việc
thao tác trên các đối tượng vô hạn như với các đối tượng hữu hạn của Đại số, từ đó phạm
phải nhiều sai lầm. Nhiều công trình nghiên cứu ở các nền giáo dục khác nhau trên thế
giới đã xác nhận một sự hiểu biết không đầy đủ của cả HS phổ thông lẫn SV đại học về
các khái niệm của GT, dù các em thể hiện sự thành thạo đáng kể trong các nhiệm vụ
tính toán (Orton, 1983a; 1983b; Bezuidenhout, 1998; Bezuidenhout và Olivier, 2000;
Jones, 2015a; 2015b; Wagner, 2017).
3
1.1.2. Người học không vận dụng được kiến thức giải tích trong ngữ cảnh ngoài toán
học, nói riêng là ngữ cảnh vật lí
GT có một sức mạnh thực tiễn to lớn. Điều này thể hiện ở những ứng dụng đa dạng
và hiệu quả của nó trong thực tế và nhiều lĩnh vực khoa học, đặc biệt là Vật lí, vốn có
mối liên hệ mật thiết nhất với GT trong suốt lịch sử. Thậm chí theo Kleiner (2001) thì
GT là “công cụ định lượng chủ yếu cho việc nghiên cứu các vấn đề khoa học trong ba
thế kỉ gần đây (…) mà nếu không có nó thì Vật lí và kĩ thuật hiện đại sẽ không thể tồn
tại” (tr. 138). Vì thế, việc DH GT không thể chỉ tập trung vào nhiệm vụ giải các bài toán
toán học thuần tuý mà bỏ qua cơ hội giúp người học thấy được vai trò công cụ quan
trọng của GT trong Vật lí.
Từ điểm này, nhiều nghiên cứu lại cho thấy người học gặp khó khăn khi vận dụng
kiến thức GT mà mình được học ở lớp học toán để giải quyết các nhiệm vụ của Vật lí.
Chẳng hạn, theo điều tra của Redish et al. (1996) thì nhiều SV mặc dù có thể sử dụng
kiến thức GT để giải quyết thành công các vấn đề toán học nhưng lại không thể làm
được điều tương tự trong ngữ cảnh vật lí. Nghiên cứu của Jones (2010, 2015a) xác nhận
rằng dường như kiến thức toán của người học đã không được kích hoạt thành công trong
các lớp học khoa học. Vấn đề không hẳn là ở sự thiếu hụt kiến thức. Chẳng hạn, như
Bajracharya và Thompson (2014), hay Ngô Minh Đức (2019), đã chỉ ra, kể cả khi có
đầy đủ kiến thức toán và vật lí cần thiết, người học vẫn gặp khó khăn trong việc nối kết
những hiểu biết này để giải quyết các vấn đề của Vật lí bằng công cụ GT. Thậm chí,
nhiều HS không biết những kiến thức GT các em được học có ứng dụng gì trong Vật lí,
khi nào và tại sao nó lại được sử dụng trong những vấn đề đó (López-Gay & Torregrosa,
2015). Giải thích hiện tượng này, Jones (2010) nhận định nguyên nhân nằm ở chỗ “các
khóa học GT thành công trong việc cung cấp cho SV một dạng của kiến thức, dạng cần
thiết để giải quyết các nhiệm vụ trong lớp học toán, nhưng lại không chuẩn bị cho việc
sử dụng kiến thức này một cách thành công trong các lớp học khoa học” (tr. 2).
1.2. Dạy học liên môn Toán và Vật lí, một xu hướng để khắc phục
Hai vấn đề chính cần giữ lại từ các phân tích ở trên. Thứ nhất, cần tìm một cách
DH có thể giúp HS hiểu đầy đủ hơn về bản chất khái niệm và giúp các em làm quen với
các kĩ thuật của GT. Thứ hai, cần làm cho HS vận dụng được kiến thức GT vào Vật lí,
hay ít ra là hiểu được những ứng dụng đa dạng của GT xuất hiện trong chương trình vật
lí THPT. Giải pháp nào giúp đạt được hai mục tiêu này?
4
Nhiều nhà nghiên cứu giáo dục đã tiến hành xem xét sự hình thành và tiến triển của
GT trong lịch sử để tìm kiếm những cách tiếp cận phù hợp hơn trong DH (Kaput, 1994;
Lê Thị Hoài Châu, 2004; Doorman & Van Maanen, 2008; Bressoud, 2011). Việc phân
tích lịch sử cho thấy một mối liên hệ chặt chẽ giữa GT với những động lực đến từ thực
tiễn và các ngành khoa học. Nói riêng, đã có một gắn kết vô cùng mật thiết giữa GT và
Vật lí trong suốt lịch sử. Nhiều vấn đề mà Vật lí đặt ra đã là động cơ thúc đẩy sự nảy
sinh và tiến triển các khái niệm của GT. Ở chiều ngược lại, công cụ mà GT mang đến
giúp Vật lí giải quyết nhiều vấn đề của mình. Mối quan hệ hỗ trợ lẫn nhau giữa hai khoa
học này đã tạo ra những bước phát triển vượt bậc trong lịch sử văn minh loài người. Các
nhà nghiên cứu cho rằng nó nên được tận dụng trong việc DH các kiến thức GT ở nhà
trường hiện nay.
Ta tìm thấy ở đây một giải pháp để vượt qua hai khó khăn kể trên trong việc hiểu
và ứng dụng các khái niệm của GT: đó là tận dụng sự gắn kết giữa Toán học và Vật lí
học vào quá trình DH để hai môn học có thể hỗ trợ lẫn nhau. Hướng nghiên cứu này đưa
đến một xu hướng DH thường được gọi là “tích hợp (TH) – liên môn (LM) toán và các môn khoa học1”. Đây là hướng nghiên cứu mà theo Berlin và White (1999) đã được đề
cập từ đầu thế kỉ 20 và còn được quan tâm nhiều hơn trong vài thập kỉ trở lại đây.
Nằm trong xu hướng nói trên, nhiều mô hình bàn về sự gắn kết giữa toán và các
môn khoa học đã được các nhà nghiên cứu xây dựng. Trong đó, người ta thường nhấn
mạnh đến hai tương tác LM chủ yếu sau đây:
1/Toán học – ngữ cảnh khoa học (Math – Science context): khoa học cung cấp
những ngữ cảnh, nguyên lí, nội dung đem lại ý nghĩa và lí do ra đời cho khái niệm
toán học.
2/Khoa học – ứng dụng Toán học (Science – apply Math): nhấn mạnh Toán học như
là công cụ giúp giải quyết các vấn đề của các khoa học.
Bị thu hút bởi xu hướng nghiên cứu trên, chúng tôi đặt ra câu hỏi xuất phát sau đây:
Làm thế nào tận dụng những gắn kết giữa Toán và Vật lí vào DH GT ở trường THPT,
nhằm mang lại nhiều lợi ích hơn cho cả hai môn học? Cụ thể hơn là nhằm giúp HS
vừa vượt qua được những khó khăn trong việc hiểu các khái niệm trừu tượng của
GT, vừa ứng dụng được GT vào các vấn đề của Vật lí. Câu hỏi xuất phát này chính là
Hóa, Sinh, …
1 Các môn khoa học ở đây chỉ những môn học được dạy trong chương trình giáo dục phổ thông như: Vật lí,
5
động lực đưa chúng tôi đến với hướng nghiên cứu DH một số khái niệm của GT ở trường
THPT theo cách tiếp cận LM Toán và Vật lí.
1.3. Lựa chọn đối tượng tri thức
Những bài học mở đầu về GT phải đi từ một số khái niệm cơ bản là giới hạn, liên
tục, đạo hàm và tích phân. Trong những khái niệm này, chúng tôi lựa chọn hai khái
niệm đạo hàm và tích phân cho định hướng tiếp cận LM Toán và Vật lí. Lý do lựa
chọn đó được hình thành từ năm luận điểm dưới đây.
- Đạo hàm và tích phân, hai khái niệm nền tảng của GT: đạo hàm và tích phân
là hai trong số những khái niệm nền tảng nhất, thể hiện hai mặt đảo ngược vi phân và
tích phân trong bức tranh tổng thể của GT toán học. Những phản ánh từ lịch sử cho thấy
rằng việc hiểu được các ý tưởng ẩn dưới hai khái niệm này và phát hiện ra mối quan hệ
mật thiết giữa chúng là một chặng đường quan trọng đánh dấu sự phát minh ra GT. Liệu
có thể nói đến GT mà bỏ qua đạo hàm và tích phân hay không? Câu trả lời là gì có lẽ
mọi người biết về GT đều đã rõ. Đây cũng là lý do để hai khái niệm này chiếm được sự
quan tâm của DH GT ở mọi nền giáo dục toán. Ở Việt Nam, những nội dung liên quan
đến chúng chiếm một thời lượng học tập lớn trong suốt hai năm cuối cấp THPT.
- Vai trò đạo hàm và tích phân trong các lĩnh vực ngoài toán học: Sự quan
trọng của đạo hàm, tích phân không chỉ giới hạn trong phạm vi GT, thậm chí trong Toán
học. Tầm quan trọng của đạo hàm, tích phân còn nằm ở những ứng dụng rộng rãi của
chúng trong nhiều lĩnh vực như Vật lí, Kinh tế, … Chính vai trò đó khiến chúng tiếp tục
tác động vào các bậc giáo dục cao hơn ở đại học, trong đào tạo Toán học – hiển nhiên,
và trong cả các lĩnh vực đào tạo nghề khác. Việc giúp HS cuối cấp THPT hiểu và sử
dụng được hai khái niệm này là cần thiết cho các em về sau.
- Sự gắn kết giữa đạo hàm, tích phân với Vật lí nhìn từ lịch sử: Xét riêng tác
động của đạo hàm, tích phân vào Vật lí. Một phần động lực quan trọng cho sự ra đời và
tiến triển của hai khái niệm đạo hàm và tích phân đến từ những vấn đề đặt ra trong ngành
khoa học này. Sau khi ra đời, hai khái niệm đang nói tới còn mang lại những công cụ
toán học mạnh mẽ giúp Vật lí phát triển và giải quyết thêm nhiều vấn đề khác của mình.
Sự gắn kết này rõ ràng là nên được phản ánh trong việc DH hai khái niệm đạo hàm và
tích phân ở trường THPT nếu nhìn từ lợi ích của cả hai môn học.
- Đạo hàm và tích phân, công cụ toán học cho nhiều vấn đề của Vật lí THPT:
Tiếp tục luận điểm trên, chúng tôi đã xem xét chương trình vật lí THPT ở Việt Nam và
tìm thấy nhiều vấn đề mà việc giải quyết chúng cần đến công cụ đạo hàm, tích phân. Có
6
thể kể ra đây những bài toán cần sử dụng đạo hàm như: tìm vận tốc tức thời, gia tốc tức
thời, cường độ dòng điện, suất điện động cảm ứng, … Các bài toán sử dụng tích phân:
tìm độ dời khi vận tốc biến đổi, tìm độ thay đổi vận tốc khi biết gia tốc, tìm công của
lực biến đổi, … Và nếu như vậy thì việc DH hai khái niệm đạo hàm và tích phân ở môn
Toán cần phải tính đến nhiệm vụ giúp đỡ cho HS vận dụng hay ít ra là hiểu được những
ứng dụng đa dạng của hai khái niệm này trong các bài toán vật lí vừa kể trên.
- Đạo hàm, tích phân và mối quan hệ mật thiết: Lí do cuối cùng giải thích cho
việc chọn đồng thời cả hai khái niệm đạo hàm và tích phân nằm ở mối liên hệ đảo ngược
mật thiết giữa chúng, thể hiện qua định lý cơ bản của GT. Chính nhờ mối quan hệ đảo
ngược này mà ứng với một vấn đề của Vật lí có thể được giải quyết với công cụ đạo
hàm, người ta luôn tìm được một vấn đề “ngược lại” mà ở đó tích phân là phương tiện
tìm lời giải. Chúng tôi gọi đây là hai bài toán thuận – nghịch. Vì thế, việc nghiên cứu
song hành hai đối tượng đạo hàm và tích phân trong sự gắn kết, theo cách tiếp cận LM
giữa GT với Vật lí có thể sẽ giúp hai khái niệm này soi sáng lẫn nhau.
Sự lựa chọn này xác định đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là: DH khái niệm đạo
hàm và tích phân theo quan điểm liên môn Toán – Vật lí cho HS THPT.
2. TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Từ câu hỏi xuất phát đặt ra và hướng nghiên cứu đã chọn, nghiên cứu tổng quan
của chúng tôi sẽ tìm hiểu trước tiên về cách hiểu của người học về đạo hàm, tích phân
và những khó khăn trong việc ứng dụng chúng vào Vật lí. Tiếp đó, chúng tôi sẽ xem xét
các kết quả nghiên cứu đã có về sự hỗ trợ lẫn nhau giữa hai môn học Toán và Vật lí liên
quan đến hai khái niệm đạo hàm, tích phân. Và cuối cùng là tổng hợp các nghiên cứu về
DH liên môn trong và ngoài nước cũng như một số chương trình DH liên môn giữa GT
và Vật lí đã được xây dựng trên thế giới.
2.1. Cách hiểu của người học về hai khái niệm đạo hàm và tích phân
2.1.1. Cách hiểu của người học về khái niệm đạo hàm
Orton (1983a) là một trong những người đầu tiên tiến hành nghiên cứu về cách hiểu
của người học về khái niệm đạo hàm. Ông nhận thấy đa số HS và SV tham gia thực
nghiệm (TN) thành thạo với các nhiệm vụ yêu cầu tính toán hoặc áp dụng các quy trình
quen thuộc để giải quyết. Tuy nhiên người học lại cho thấy một sự thiếu hụt trong kiến
thức về khái niệm, đặc biệt là quan niệm đạo hàm theo tốc độ biến thiên tức thời và độ
7
dốc2 của tiếp tuyến. Orton cho rằng nguyên nhân là ở cách hiểu nghèo nàn của người
học về giới hạn cũng như về tỉ số và tỉ lệ của sự thay đổi.
Việc người học không nhận ra được sự liên hệ giữa đạo hàm với ý nghĩa tốc độ
biến thiên còn được xác nhận bởi nhiều tác giả khác (Bezuidenhout, 1998; Bingolbali et
al., 2007; Hankiöniemi, 2006; Sahin et al., 2015). Chẳng hạn, Sahin et al. (2015) chỉ ra
rằng mặc dù HS biết đến định nghĩa hình thức của đạo hàm là giới hạn của tỉ sai phân
nhưng không thể giải thích được sự liên quan giữa nó với ý nghĩa
tốc độ biến thiên tức thời. Hankiöniemi (2006) cũng nhận thấy khó khăn mà người học
gặp phải với khái niệm giới hạn để hiểu được cách mà tốc độ biến thiên trung bình tiến
đến tốc độ biến thiên tức thời hay cách mà độ dốc cát tuyến dần đến độ dốc tiếp tuyến.
Thompson (1995), sau đó là White và Mitchelmore (1996) đã tìm ra một trong
những nguyên nhân quan trọng giải thích cho khó khăn mà người học gặp phải với khái
niệm đạo hàm là ở cách hiểu về khái niệm hàm số của mình. Họ thường chỉ xem hàm
số như một đối tượng tĩnh và các biến là những kí hiệu để thao tác hay tính toán. Trong
khi đó, theo các tác giả này thì đặc trưng biến thiên đồng thời của hàm số (sự biến thiên
của biến số kéo theo sự biến thiên của hàm số) mới là điều then chốt để phát triển cách
hiểu về đạo hàm như là tốc độ thay đổi.
Một số nghiên cứu trong nước còn chỉ ra sự thiếu hụt trong quan niệm của HS
THPT với cách hiểu đạo hàm theo nghĩa tốc độ biến thiên và sự xấp xỉ hàm số bởi tiếp
tuyến (Ngô Minh Đức, 2013; 2016) hay khó khăn của HS trong việc kết nối những cách
hiểu khác nhau của đạo hàm vào cùng một khái niệm (Lê Thị Hoài Châu, 2014). Bên
cạnh đó, một nghiên cứu gần đây của Lê Thị Bạch Liên và Trần Kiêm Minh (2020) còn
cho thấy một hiểu biết chưa đầy đủ của nhiều SV ngành sư phạm toán về khái niệm đạo
hàm. Sự thiếu hụt kiến thức này khiến cho đa số SV trong thực nghiệm của các tác giả
không vận dụng được đạo hàm để giải quyết thành công một bài toán có ngữ cảnh vật lí
mà đòi hỏi phải phối hợp được ý nghĩa vật lí và ý nghĩa hình học của tri thức đang đề
cập.
với nội hàm giống như thuật ngữ “hệ số góc” trong SGK toán ở Việt Nam.
2 Trong nhiều tài liệu về DH GT trên thế giới, thuật ngữ “độ dốc” (slope) của đường thẳng được sử dụng
8
2.1.2. Cách hiểu của người học về khái niệm tích phân
Bezuidenhout và Olivier (2000), Jones (2015a, 2015b) kết luận rằng đa số người
học chỉ sở hữu một cách hiểu hạn chế về tích phân. Kiến thức điển hình người học biết
thường gói gọn trong những quy trình tính toán theo hiệu giá trị nguyên hàm hoặc ý
nghĩa hình học của tích phân như là diện tích hình dưới đường cong. Trong khi đó cách
hiểu tích phân theo giới hạn tổng Riemann mới được xem là có giá trị nhất cho việc hiểu
bản chất và các ứng dụng của tích phân. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu cho thấy người
học gặp một khó khăn lớn trong việc hiểu tích phân như giới hạn của một tổng. Chẳng
hạn, Rasslan và Tall (2002) tiến hành kiểm tra cách hiểu của một số HS THPT về khái
niệm tích phân. Mặc dù các HS này đã được tiếp cận tích phân từ phương pháp tính xấp
xỉ diện tích bằng các tổng trong lớp học toán, thế nhưng không có lời giải thích nào về
tích phân liên quan đến giới hạn hay tổng Riemann xuất hiện trong kết quả TN. Thay
vào đó, các HS chỉ giải thích tích phân như diện tích, hiệu hai nguyên hàm hoặc qua một
ví dụ tính toán cụ thể. Dường như quan niệm tích phân theo giới hạn tổng Riemann rất
khó được xây dựng hoặc gợi ra trong nhận thức của người học.
Sự thiếu hụt cách hiểu tích phân theo cấu trúc tổng Riemann thậm chí còn phổ biến
với đối tượng là SV các trường đại học như đã được kiểm chứng bởi những nghiên cứu
của: Orton, 1983b; Jones, 2015b; Sealey, 2014; Wagner, 2017. Các tác giả này cho rằng
nguyên nhân là do cấu trúc phức tạp của định nghĩa tích phân theo tổng Riemann cũng
như chướng ngại đến từ một khái niệm khác – khái niệm giới hạn. Một nguyên nhân
khác được Jones et al. (2017) chỉ ra nằm ở ngữ cảnh hình học mà các sách giáo khoa
(SGK) hay giáo trình GT truyền thống sử dụng để giới thiệu khái niệm tích phân. Ông
cho rằng trong ngữ cảnh của bài toán diện tích dưới đường cong, người học có xu hướng
xem việc lập tổng Riemann chỉ như một quy trình tính toán diện tích thay vì nhận ra
được bản chất của khái niệm ẩn đằng sau phương pháp tính toán đó. Hơn nữa, sau khi
mối quan hệ giữa tích phân và nguyên hàm được thiết lập, việc tính toán diện tích lại
được quy về một quy trình đơn giản là đảo ngược phép lấy đạo hàm. Từ đó, quan niệm
tích phân theo giới hạn tổng Riemann có thể dần trở nên mờ nhạt và khó được kích hoạt
hay củng cố trong nhận thức người học vì họ không còn bất cứ lí do gì để thiết lập những
tổng như vậy.
2.1.3. Khó khăn của người học với việc hiểu mối quan hệ giữa đạo hàm và tích phân
Mối quan hệ đảo ngược giữa đạo hàm và tích phân thể hiện trong định lí cơ bản của
GT (từ nay sẽ viết gọn là định lí cơ bản) là một trong những phát hiện quan trọng và hữu
9
ích nhất của GT. Định lí này hoạt động khi tích phân được định nghĩa theo giới hạn tổng
Riemann. Tuy nhiên ở trường THPT người ta thường định nghĩa tích phân bằng nguyên
hàm và theo Bressoud (2011) thì điều này làm cho định lí cơ bản không còn bất kì ý
nghĩa gì. Kouropatov và Dreyfus (2014) cũng kết luận rằng hầu hết HS phổ thông không
biết được vì sao nguyên hàm lại có thể tính được diện tích, mà lí do lại nằm ở định lí cơ
bản.
Với đối tượng SV được tiếp cận tích phân theo tổng Riemann, các nghiên cứu của
Orton (1983b), Artigue (1991), Thompson (1994b) và Mahir (2009) chỉ ra rằng SV
thường chỉ xem định lí cơ bản như một phương tiện để tính toán tích phân mà không có
một cách hiểu rõ ràng về bản chất của các khái niệm có liên quan. Các em không giải
thích được mối quan hệ đảo ngược giữa đạo hàm và tích phân cũng như việc tại sao một
đại lượng xác định bởi giới hạn tổng Riemann lại có thể tính theo nguyên hàm.
Khó khăn trong việc hiểu định lí cơ bản theo Thompson (1994b) bắt nguồn từ “quan
niệm nghèo nàn về khái niệm tốc độ biến thiên và từ sự thiếu hụt quan niệm về hàm số
như là sự biến thiên đồng thời của hai đại lượng” (tr. 2). Hay nói rộng ra là bắt nguồn từ
sự thiếu hụt trong cách hiểu các khái niệm có liên quan như: đạo hàm, tích phân, hàm
số, giới hạn.
Khó khăn với định lí cơ bản còn thể hiện trong việc trình bày một chứng minh chặt
chẽ cho nó đặc biệt là với đối tượng HS THPT. Để có một chứng minh chặt chẽ như vậy
trong lịch sử, các nhà toán học đã phải đối mặt với những “chướng ngại khoa học luận”
như đã được chỉ ra trong luận án tiến sĩ của Klisinska (2009). Kết quả luận án này cho
thấy, mặc dù đã có nhiều phiên bản chứng minh khác nhau xuất hiện trong các thể chế
DH phổ thông hay đại học, các chướng ngại nói trên vẫn luôn gây ra khó khăn lớn cho
người học trong việc hiểu được ý nghĩa của định lí cơ bản cũng như cách chứng minh
nó.
2.2. Nghiên cứu theo hướng dạy học đạo hàm và tích phân để hỗ trợ cho việc ứng
dụng chúng trong Vật lí
2.2.1. Dạy học khái niệm đạo hàm để ứng dụng trong Vật lí
Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng người học gặp trở ngại khi sử dụng đạo hàm trong
các bài toán vật lí (Beichner,1994; Bingolbali et al., 2007; Jones, 2017). Nguyên nhân
chủ yếu theo Jones (2017) là vì chương trình DH GT nhấn mạnh hơn vào ý nghĩa hình
học của đạo hàm (hệ số góc tiếp tuyến), trong khi đó ngữ cảnh ứng dụng của Vật lí lại
chủ yếu sử dụng cách hiểu tốc độ biến thiên. Sự ghép đôi không tương xứng này tạo ra
10
khoảng cách giữa việc học đạo hàm với việc hiểu được những ứng dụng hiệu quả của
nó trong Vật lí. Nhận định này còn được củng cố bởi nghiên cứu của nhóm tác giả Dray
et al. (2008) khi họ chỉ ra rằng để bắc cầu nối qua lỗ hổng giữa Toán và Vật lí thì ý
tưởng trung tâm của khái niệm đạo hàm nên là tốc độ biến thiên thay vì là hệ số góc tiếp
tuyến.
Có nhiều công trình về DH đạo hàm gắn với các ứng dụng trong Vật lí nhưng đa
số đều tập trung vào ngữ cảnh động học liên quan đến ba đại lượng quãng đường, vận
tốc và gia tốc. Tuy nhiên, theo kết luận của Thompson (1994a; 1994b) và Bezuidenhout
(1998) thì có vẻ như ngữ cảnh động học không giúp SV hiểu được đầy đủ ý nghĩa tốc
độ biến thiên. SV chỉ hiểu đơn giản là đạo hàm được ứng dụng để tính vận tốc hay gia
tốc mà không mở rộng được cách hiểu tốc độ biến thiên đối với những đại lượng ngoài
ngữ cảnh động học hay thậm chí là các đại lượng biến thiên không theo thời gian. Jones
(2017) kết luận rằng việc tập trung quá mức vào các ứng dụng của đạo hàm trong ngữ
cảnh động học có thể không đem đến một cách hiểu đầy đủ cho đạo hàm để có thể sử
dụng được nó trong nhiều ngữ cảnh khác của Vật lí.
Một nghiên cứu của chúng tôi (Ngô Minh Đức, 2016) chỉ ra rằng quan niệm của
HS về đạo hàm là không đủ để thấu hiểu những ứng dụng đa dạng của nó trong nhiều
vấn đề thuộc chương trình vật lí THPT. Để có thể hiểu được ứng dụng của đạo hàm
trong các vấn đề vật lí này HS cần nắm bắt được cách hiểu đạo hàm theo tốc độ biến
thiên tức thời và ý tưởng xấp xỉ một hàm số có đạo hàm bởi tiếp tuyến của đường cong
ứng với nó.
2.2.2. Dạy học khái niệm tích phân để ứng dụng trong Vật lí
Nghiên cứu của Thompson và Silverman (2008), Jones (2015a) cho thấy rằng cách
hiểu tích phân theo nguyên hàm hay theo diện tích dưới đường cong là không đủ để giải
thích được các ứng dụng của tích phân trong ngữ cảnh ngoài toán học nói chung và Vật
lí nói riêng. Chẳng hạn khi xem xét các giáo trình vật lí và kĩ thuật, Jones (2015b) nhận
thấy cách hiểu tích phân theo nguyên hàm thì ít hoạt động trong việc định nghĩa và tính
toán các đại lượng vật lí. Theo lời của tác giả thì việc giải thích tích phân theo nguyên
hàm “không cung cấp được ý nghĩa mong đợi trong Vật lí và kĩ thuật” (tr. 10). Bên cạnh
đó, cách hiểu tích phân theo diện tích cũng là không đủ để hỗ trợ hiệu quả cho các ứng
dụng của tích phân vào Vật lí vì người học gặp khó khăn để nhận ra diện tích dưới đường
cong sẽ biểu diễn cho đại lượng vật lí nào (Nguyễn Đông Hải & Rebello, 2011).
11
Thompson và Silverman (2008) đề nghị một cách giúp người học hiểu được diện
tích dưới đường cong khi nó đại diện cho một đại lượng khác ngoài diện tích như quãng
đường hay công của lực. Đó là phải hiểu được quá trình lấy tích phân như một sự tích
lũy (lấy tổng) các lượng nhỏ gia tăng tạo thành từ các tích – mà cách hiểu này lại dựa
trên cấu trúc của tổng Riemann. Tương tự như vậy, theo Jones (2015a) thì cách hiểu tích
phân theo nguyên hàm đã cắt bớt đi ý nghĩa của tích phân trong ngữ cảnh ứng dụng, và
ông cũng cho rằng cách hiểu tích phân theo giới hạn tổng Riemann nên được kích hoạt
trong người học nếu như muốn ứng dụng được tích phân trong nhiều vấn đề của Vật lí.
Liên quan đến việc dạy tích phân để kết nối được với những ứng dụng trong Vật lí, Dray
et al. (2008) cũng đề nghị rằng ý tưởng trung tâm của tích phân nên dựa trên cấu trúc
tổng Riemann (chia nhỏ, nhân, cộng, và chuyển qua giới hạn) thay vì là diện tích dưới
đường cong. Hầu hết các nghiên cứu theo hướng này đều xác nhận rằng cách hiểu tích
phân theo tổng Riemann mới là có giá trị nhất cho việc hiểu những ứng dụng của tích
phân trong các ngữ cảnh, đặc biệt là Vật lí (Jones, 2015a, 2015b; Sealey 2006; 2014;
Thompson & Silverman, 2008).
Một khó khăn khác mà người học gặp phải khi áp dụng tích phân vào Vật lí vốn
không đến từ sự thiếu hụt kiến thức toán hay vật lí mà từ dạng kiến thức “cô lập” mà họ
sở hữu. Nói cách khác thì việc DH Toán và Vật lí nếu diễn ra một cách tách biệt có thể
làm hạn chế khả năng vận dụng kiến thức toán vào các ngữ cảnh của môn học còn lại.
Nói riêng với khái niệm tích phân, cách tiếp cận từ bài toán tính diện tích giúp người
học nhận ra việc chia nhỏ, lập tích và lập tổng giúp tính gần đúng diện tích dưới đường
cong. Tuy nhiên họ có thể gặp khó khăn trong việc áp dụng phương pháp tính diện tích
theo tổng Riemann vào một ngữ cảnh không quen thuộc khác như bài toán xác định
quãng đường hay công của lực. Nhận định này được xác nhận bởi các nghiên cứu của
Rebello (2007) và Bajracharya (2014) hay trong một nghiên cứu của chúng tôi (Ngô
Minh Đức, 2019) khi những SV trong TN cho thấy dù có đủ kiến thức cần thiết về tích
phân nhưng vẫn gặp khó khăn trong việc áp dụng nó vào các bài toán vật lí.
2.3. Nghiên cứu về việc sử dụng Vật lí để hỗ trợ việc dạy học các khái niệm của
Giải tích
Các khái niệm cơ bản của GT như đạo hàm và tích phân có mối quan hệ chặt chẽ
về ý nghĩa với nhiều đại lượng vật lí như công, quãng đường, vận tốc, gia tốc, … Vì vậy
những kinh nghiệm và hiểu biết có trước về các đại lượng này ở ngoài đời sống hay
trong việc học tập môn Vật lí có thể hỗ trợ người học hiểu rõ hơn những khái niệm trừu
12
tượng của GT. Các nghiên cứu của Marrongelle (2001, 2004, 2010) đã kêu gọi việc sử
dụng hiểu biết và ngữ cảnh từ Vật lí để xây dựng những quan niệm có nghĩa cho các
khái niệm GT như đạo hàm hay tích phân.
Firouzian và Speer (2015) đưa ra một lược đồ phân loại những cách sử dụng Vật lí
để hỗ trợ cho việc học tập các khái niệm của GT bao gồm: ngữ cảnh hóa (sử dụng ngữ
cảnh vật lí như là một phương tiện để giải các bài toán), minh họa (gợi ra những ví dụ
từ Vật lí để giúp hiểu được các khái niệm và bài toán GT), ngôn ngữ - trộn lẫn (sử dụng
kết hợp cả ngôn ngữ của Toán và Vật lí), và cuối cùng là không sử dụng.
Một số tác giả khác khi nghiên cứu về việc DH gắn kết GT với Vật lí đã đưa ra một
số lý thuyết như “sự hòa trộn nhận thức” (Fauconnier & Turner, 2002) hay “các tài
nguyên nhận thức” (Hammer, 2000). Những lăng kính lý thuyết này cho phép tìm hiểu
cách mà người học sử dụng Toán để giải quyết các vấn đề vật lí hay sử dụng những hiểu
biết từ Vật lí để phát triển nhận thức về một khái niệm toán học.
2.4. Các chương trình dạy học Giải tích theo hướng liên môn Toán với Vật lí
2.4.1. Ở cấp độ đại học
Các khóa học LM Toán – Vật lí nhằm thúc đẩy việc dạy học GT đã được xây dựng
và triển khai ở nhiều trường đại học trên thế giới. Chẳng hạn như khóa học LM giữa GT
và Vật lí ở đại học Hampshire (Marrongelle, 2001), tích hợp GT với khoa học ở đại học
kĩ thuật Louisiana (Carpenter et al., 2007), chương trình tích hợp Toán – Vật lí của đại
học Tecnologico de Monterrey (Domínguez et al., 2015). Những chương trình LM này
được xây dựng để giảng dạy cho SV các ngành khoa học hay kinh tế, những người sẽ
cần kiến thức về GT cho lĩnh vực chuyên môn của mình.
Trong các khóa học nói trên, những khái niệm như đạo hàm và tích phân sẽ được
dạy xen kẽ và phối hợp với giờ học vật lí hay một số buổi thực hành ở phòng thí nghiệm.
Các ngữ cảnh, mô hình và kinh nghiệm có được từ lớp học vật lí sẽ hỗ trợ cho người
học hiểu các khái niệm của GT. Đồng thời, những khái niệm này sau đó sẽ trở thành các
công cụ hiệu quả để giải quyết trở lại các bài toán đặt ra trong Vật lí.
2.4.2. Ở cấp độ phổ thông
Việc nghiên cứu về DH GT nói chung và theo quan điểm LM nói riêng ở trường
phổ thông lại không nhận được nhiều sự quan tâm từ cộng đồng nghiên cứu giáo dục
toán trên thế giới. Trong một nghiên cứu tổng quan về vấn đề DH GT ở trường phổ
thông Châu Âu, Törner et al. (2014) nhận thấy các công trình nghiên cứu về chủ đề này
là rất ít ỏi và hạn chế so với những nghiên cứu tương tự ở cấp độ DH đại học. Các tác
13
giả giải thích cho điều này có lẽ là vì cách DH truyền thống ở trường phổ thông còn
cách quá xa mục tiêu giúp HS hiểu được các khái niệm phức tạp của GT cũng như ứng
dụng được chúng một cách hiệu quả trong các ngữ cảnh ngoài toán.
Ở các trường phổ thông, môn Toán thường được dạy một cách độc lập và ít xuất
hiện những chương trình DH LM nó với các môn học khác. Mặc dù vậy, khi tham khảo
một nghiên cứu tổng quan về DH GT của Bressoud et al. (2016), chúng tôi nhận ra rằng
xu hướng LM đã có ảnh hưởng nhất định trong việc thiết kế chương trình DH GT cho
HS THPT ở nhiều nước trên thế giới những năm gần đây. Điều này thể hiện ở sự nhấn
mạnh nhiều hơn vào các ứng dụng đa dạng của GT trong các môn học khác mà đặc biệt
là Vật lí. Thậm chí ở một số quốc gia (chẳng hạn như Hàn quốc hay Singapore), các nhà
xây dựng chương trình còn xác định rằng GT phải được bắt đầu sớm để chuẩn bị công
cụ nghiên cứu cho Vật lí và một số lĩnh vực khác. Một số tác giả (Thompson, 1994a;
Turner et al., 2000) còn đề xuất giới thiệu những ý tưởng quan trọng của GT như khái
niệm tốc độ biến thiên ngay từ cấp độ trung học cơ sở để chuẩn bị tiền đề cho việc hiểu
và ứng dụng khái niệm đạo hàm sau này. Họ lập luận rằng, nhiều ý tưởng quan trọng
của GT hoàn toàn có thể được giới thiệu sớm cho HS thông qua các kinh nghiệm từ cuộc
sống hoặc Vật lí để chuẩn bị cho một sự thấu hiểu các khái niệm toán học ở các cấp học
cao hơn.
2.5. Nghiên cứu về dạy học giải tích theo quan điểm liên môn ở Việt Nam
Mặc dù xu hướng DH theo quan điểm tích hợp – LM đã được quan tâm và nghiên
cứu ở Việt Nam trong vài thập niên gần đây, tuy nhiên chúng tôi nhận thấy những công
trình nghiên cứu về chủ đề LM Toán và Khoa học lại khá ít ỏi và chủ yếu tập trung vào
chiều ứng dụng toán. Nói riêng thì hướng nghiên cứu về DH ứng dụng toán vào các vấn
đề thực tiễn và khoa học đã được quan tâm từ lâu tuy nhiên xem xét nó dưới góc nhìn
của quan điểm tích hợp – LM thì chỉ mới được thực hiện gần đây trong một số công
trình. Một trong số đó là nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thế Sơn (2017) về đề tài xây
dựng các chủ đề tích hợp toán. Trong luận án tiến sĩ của mình, tác giả đã đề xuất những
quy trình và biện pháp nhằm hỗ trợ giáo viên (GV) thiết kế và DH các chủ đề tích hợp
toán với nội dung các môn học khác ở trường THPT. Nhiều hoạt động học tập LM cũng
được xây dựng trong công trình này và thường chú trọng vào mặt ứng dụng các kiến
thức toán trong các vấn đề của các khoa học khác như Vật lí, Hóa học, Sinh học, ... Cách
tiếp cận LM theo chiều này giúp làm nổi bật vai trò của công cụ toán trong việc giải
quyết các vấn đề thực tiễn và khoa học. Ngoài ra còn một số nghiên cứu khác cũng đi
14
theo hướng tương tự khi kết nối kiến thức toán với những vấn đề LM, chẳng hạn như
DH hình học gắn với các bài toán thực tiễn và Vật lí (Đào Tam và Phạm Văn Hiệu,
2018) hay vận dụng kiến thức xác suất và thống kê trong bài toán di truyền (Nguyễn Thị
Hà, 2016). Tuy nhiên nhìn chung thì các công trình vừa đề cập vẫn chưa quan tâm đến
chiều tác động ngược lại cho thấy sự hỗ trợ của các môn khoa học trong việc giúp hiểu
rõ hơn tri thức toán học cũng như sự gắn kết tương hỗ giữa các môn học để DH một nội
dung kiến thức thích hợp theo định hướng LM.
Cũng nhìn từ quan điểm LM, nhưng là xem xét khả năng giải quyết những vấn đề
LM của người học. Nghiên cứu của tác giả Trần Văn Học (2018) với đối tượng HS
THPT và của Lê Thị Hoài Châu và Ngô Minh Đức (2018) với đối tượng SV trường Sư
phạm cũng chỉ ra rằng người học gặp khó khăn với việc giải quyết những vấn đề đòi hỏi
vận dụng kiến thức từ cả hai môn học toán và vật lí, nói riêng với khái niệm tích phân.
Một nghiên cứu khác tìm hiểu quan niệm của GV về sự liên môn giữa Toán và Vật lí
liên quan đến chủ đề vectơ được thực hiện bởi tác giả Nguyễn Thị Nga (2018). Kết quả
cho thấy các GV toán ít quan tâm đến những ứng dụng của vectơ trong Vật lí cũng như
không liên hệ những ứng dụng này để giúp HS hiểu rõ hơn khái niệm toán học.
Đối với các nghiên cứu về DH GT ở trong nước, chúng tôi tìm thấy một số công
trình của các tác giả: Trịnh Thị Bạch Tuyết (2016), Phạm Sĩ Nam (2013), Nguyễn Phú
Lộc (2006), Trần Anh Dũng (2013). Những công trình này nghiên cứu việc DH các khái
niệm của GT ở THPT theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập và phát triển năng lực
người học, nhưng chưa có công trình nào nhìn từ quan điểm LM toán với các môn khoa
học nói chung, Vật lí nói riêng.
2.6. Kết luận và định hướng nghiên cứu
Kết quả nghiên cứu tổng quan các tài liệu cho thấy một khó khăn kép của người
học cả trong việc hiểu được hai khái niệm đạo hàm và tích phân cũng như trong việc sử
dụng chúng để giải quyết các bài toán với ngữ cảnh vật lí. Trong nhiều trường hợp, chính
sự thiếu hụt trong cách hiểu về khái niệm lại là nguyên nhân quan trọng gây ra khó khăn
cho việc ứng dụng chúng. Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng người học gặp khó khăn với
cách hiểu đạo hàm theo tốc độ biến thiên và tích phân theo giới hạn tổng Riemann cũng
như mối quan hệ đảo ngược giữa hai khái niệm này. Ấy vậy mà những hiểu biết này lại
là hữu ích nhất cho việc ứng dụng đạo hàm và tích phân trong các vấn đề đa dạng của
Vật lí và thực tiễn. Vì lẽ đó, nhiều tác giả đề nghị một sự nhấn mạnh hơn vào hai cách
hiểu nói trên để tạo ra sự nối khớp giữa việc DH GT và việc ứng dụng nó trong Vật lí.
15
Những nghiên cứu khác xem xét các cách thức và lược đồ cho phép sử dụng Vật lí để
hỗ trợ cho việc hiểu các khái niệm GT. Một số tác giả cũng kêu gọi việc xem xét lịch sử
phát triển của GT để thấy rõ được những gắn kết LM giữa nó với Vật lí và tận dụng
chúng trong việc DH ở nhà trường.
Nghiên cứu tổng quan cũng cho thấy, các công trình nghiên cứu trên thế giới về
DH GT nói chung, DH GT theo hướng tiếp cận LM nói riêng chủ yếu tập trung cho đối
tượng là SV các trường đại học và cao đẳng. Các nghiên cứu về DH đạo hàm, tích phân
cho đối tượng HS phổ thông theo định hướng LM Toán – Vật lí vẫn chưa nhận được sự
quan tâm thích đáng. Hơn nữa, vẫn chưa có nhiều nghiên cứu theo hướng LM trong đó
có tính đến sự nối khớp về nội dung chương trình và những tác động tương hỗ giữa việc
DH hai môn Toán và Vật lí ở trường THPT.
Ở Việt Nam, xu hướng DH tích hợp – LM trong giáo dục hiện nay đang nhận được
rất nhiều sự quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên cách tiếp cận LM trong DH Toán lại có
những đặc thù riêng và vẫn cần nhiều hơn các nghiên cứu để bắt kịp với xu thế thế giới
và vận dụng hợp lí với tình hình trong nước. Một số công trình trong nước đã bàn về
DH GT cho đối tượng HS THPT nhưng chưa phải từ điểm nhìn của DH LM. Nhiều công
trình khác nghiên cứu những vấn đề lí luận chung về DH Toán theo quan điểm tích hợp
hoặc tiến hành xây dựng một số chủ đề DH tích hợp toán với các khoa học. Tuy nhiên,
nhìn tổng thể lại thì vẫn chưa có một nghiên cứu nào về việc DH hai khái niệm đạo hàm
và tích phân theo hướng tận dụng những gắn kết LM Toán và Vật lí đặt trong sự nối
khớp giữa các thể chế DH ở trường THPT nhằm đem lại nhiều lợi ích hơn cho cả hai
môn học. Đặt trong bối cảnh này, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu cho luận án của mình
là: “Dạy học khái niệm đạo hàm và tích phân theo quan điểm liên môn: trường hợp
liên môn Toán – Vật lí”.
Dựa trên các kết quả có được từ nghiên cứu tổng quan và nhìn lại câu hỏi xuất phát
“làm thế nào để tận dụng những gắn kết LM giữa Toán và Vật lí trong việc DH GT ở
trường THPT nhằm giúp HS vừa vượt qua được những khó khăn trong việc hiểu các
khái niệm trừu tượng của GT, vừa ứng dụng được GT vào các vấn đề của Vật lí?”, chúng
tôi đề ra định hướng nghiên cứu như sau: Đầu tiên phải làm rõ mối quan hệ gắn kết giữa
GT và Vật lí đã thể hiện trong lịch sử hình thành và phát triển hai khái niệm đạo hàm và
tích phân. Sau đó sẽ kiểm tra xem mối quan hệ LM này đã thể hiện như thế nào trong
nội dung chương trình toán và vật lí ở bậc THPT? Những cách hiểu nào về khái niệm
cần phải hình thành nơi người học, sự nối khớp nào phải đảm bảo để việc DH LM diễn
16
ra hiệu quả và thích hợp hơn? Kết quả từ phân tích này là cơ sở để chúng tôi đề xuất các
biện pháp sư phạm nhằm tận dụng được những gắn kết LM Toán – Vật lí giúp người
học hiểu đầy đủ hơn hai khái niệm đạo hàm và tích phân đồng thời vận dụng được chúng
trong nhiều vấn đề của Vật lí.
3. CƠ SỞ LÍ LUẬN
Theo định hướng nghiên cứu nói trên, các cơ sở lý thuyết chúng tôi cần đến đó là:
- Các mô hình và chiến lược cho phép xây dựng hoạt động học tập theo cách tiếp cận
LM Toán – Vật lí.
- Khung lý thuyết về việc hiểu và ứng dụng khái niệm toán học, nói riêng với hai khái
niệm đạo hàm và tích phân.
- Lý thuyết nhân học của didactic: Tìm hiểu sự gắn kết giữa Toán và Vật lí trong quá
trình nảy sinh và tiến triển của hai khái niệm đạo hàm, tích phân thông qua một phân
tích tri thức luận. Xem xét sự thể hiện của mối quan hệ gắn kết này trong chương
trình THPT Việt Nam từ việc nghiên cứu mối quan hệ thể chế.
- Lý thuyết tình huống để xây dựng các tình huống học tập thích hợp theo cách tiếp
cận LM Toán – Vật lí.
- Lý thuyết đồ án DH cung cấp cho chúng tôi phương pháp luận nghiên cứu để thiết
kế chuỗi hoạt động học tập, xây dựng TN và kiểm tra giả thuyết nghiên cứu.
4. MỤC TIÊU VÀ CÂU HỎI NGHIÊN CỨU
Mục tiêu của luận án là làm rõ mối quan hệ LM giữa Toán và Vật lí từ cả góc độ
tri thức luận (sự gắn kết và thúc đẩy lẫn nhau trong lịch sử) và sư phạm (gắn kết LM
trong thể chế DH Toán và Vật lí) đối với hai khái niệm đạo hàm và tích phân. Luận án
cũng hướng đến mục tiêu đề xuất và thử nghiệm các giải pháp sư phạm nhằm tận dụng
mối quan hệ LM nói trên để giúp người học hiểu đầy đủ hơn về đạo hàm, tích phân và
ứng dụng hiệu quả chúng trong các vấn đề của Vật lí.
Mục tiêu này được cụ thể hóa bởi ba câu hỏi nghiên cứu sau đây: Câu hỏi Q1: Mối quan hệ gắn kết, hỗ trợ lẫn nhau giữa Toán học và Vật lí học3 đã
diễn ra như thế nào trong lịch sử hình thành và tiến triển hai khái niệm đạo hàm, tích
phân?
môn học Toán và Vật lí được dạy trong nhà trường.
3 Chúng tôi dùng các từ Toán học và Vật lí học với tư cách là các ngành khoa học để phân biệt nó với các
17
Câu hỏi Q2: Liên quan đến đạo hàm, tích phân, mối quan hệ LM Toán – Vật lí đã
thể hiện như thế nào trong chương trình hiện hành và SGK các môn Toán, Vật lí dùng
ở bậc THPT?
Câu hỏi Q3: Giải pháp sư phạm nào cho phép tận dụng hiệu quả những gắn kết
LM giữa Toán và Vật lí để mang lại hiểu biết đầy đủ hơn về hai khái niệm đạo hàm và
tích phân cho HS, đồng thời giúp các em ứng dụng được kiến thức toán học này vào các
vấn đề của Vật lí?
5. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Trong việc tổ chức các hoạt động DH hai khái niệm đạo hàm và tích phân ở trường
THPT, nếu tận dụng được những gắn kết LM và tác động tương hỗ đến từ kiến thức hai
môn học toán và vật lí một cách thích hợp thì có thể đem lại một quan niệm đầy đủ hơn
cho HS về các khái niệm đồng thời giúp các em vận dụng được hiệu quả những kiến
thức này vào các vấn đề của Vật lí.
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để đạt được những mục tiêu đã đặt ra, chúng tôi lựa chọn phương pháp luận nghiên
cứu như sau:
a) Phương pháp nghiên cứu lí luận
- Nghiên cứu lí luận về quan điểm LM, các mô hình và chiến lược LM Toán và Khoa
học.
- Nghiên cứu các khung lý thuyết về việc hiểu và ứng dụng một khái niệm toán học nói
chung và đạo hàm, tích phân nói riêng.
b) Nghiên cứu tri thức luận và sư phạm
- Nghiên cứu tri thức luận nhằm tìm hiểu sự gắn kết hỗ trợ lẫn nhau giữa Toán và Vật
lí trong lịch sử hình thành tiến triển của hai khái niệm đạo hàm và tích phân. Nghiên
cứu này không chỉ đem đến một tham chiếu nhìn từ giai đoạn hình thành tri thức mà
còn cung cấp những gợi ý sư phạm cho việc xây dựng các hoạt động DH LM thích
hợp.
- Nghiên cứu mối quan hệ gắn kết LM giữa thể chế DH Toán và Vật lí liên quan đến
hai khái niệm đạo hàm và tích phân đồng thời chỉ ra đâu là những ràng buộc và sự
nối khớp cần thỏa mãn.
c) Phương pháp luận nghiên cứu của lý thuyết đồ án dạy học
18
Thiết kế tình huống DH và xây dựng đồ án DH đạo hàm, tích phân theo cách tiếp
cận LM Toán – Vật lí. Phân tích tiên nghiệm và hậu nghiệm, kiểm chứng tính khả thi
và hiệu quả của các giải pháp sư phạm đã đề xuất.
d) Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Kiểm tra khả năng của người học trong việc ứng dụng GT vào các vấn đề của Vật
lí, từ đó kiểm chứng một số giải pháp sư phạm.
7. NHỮNG LUẬN ĐIỂM CẦN BẢO VỆ
- Lợi ích kép về việc hiểu và ứng dụng mà cách tiếp cận LM Toán – Vật lí mang lại
trong DH hai khái niệm đạo hàm và tích phân.
- Những đặc trưng tri thức luận liên quan đến mối quan hệ gắn kết hỗ trợ lẫn nhau
giữa GT và Vật lí trong quá trình hình thành và tiến triển của khái niệm đạo hàm,
tích phân.
- Mối quan hệ LM giữa hai thể chế DH Toán và Vật lí, sự chuyển hóa sư phạm và
những điểm chưa nối khớp.
- Một số giải pháp sư phạm nhằm tận dụng hiệu quả những gắn kết LM giữa GT và
Vật lí. Các đồ án DH và TN kiểm chứng.
8. CÁC ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN
a) Về mặt lí luận
- Làm rõ thêm một số vấn đề liên quan đến DH LM: các quan niệm, mô hình, cách
tiếp cận và chiến lược cho phép tận dụng sự gắn kết hỗ trợ lẫn nhau giữa hai môn
học Toán và Vật lí.
- Phân tích và làm sáng tỏ các khung lý thuyết chung về việc hiểu và ứng dụng một
khái niệm toán học, vận dụng chúng để xây dựng các khung lý thuyết cho đạo hàm
và tích phân đặt trong ngữ cảnh vật lí.
- Tận dụng được mối liên hệ biện chứng giữa nghiên cứu tri thức luận và nghiên cứu
thể chế để làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp sư phạm và xây dựng hoạt động
học tập đạo hàm, tích phân theo cách tiếp cận LM.
- Vận dụng một cách phù hợp thuyết nhân học, lý thuyết tình huống và đồ án DH trong
việc nghiên cứu DH tri thức toán học theo hướng LM.
b) Về mặt thực tiễn
- Đề xuất được các giải pháp sư phạm nhằm tận dụng hiệu quả hơn những gắn kết LM
Toán – Vật lí trong việc DH hiểu và ứng dụng hai khái niệm đạo hàm, tích phân.
19
- Xây dựng các đồ án DH hai khái niệm đạo hàm và tích phân theo cách tiếp cận LM
giúp mang lại cách hiểu đầy đủ hơn về khái niệm cho HS đồng thời giúp các em vận
dụng được tri thức toán vừa học vào các vấn đề của Vật lí.
- Góp phần đổi mới phương pháp DH môn Toán theo hướng tận dụng những lợi ích
mà cách tiếp cận LM Toán và Khoa học mang lại. Đặc biệt là trong việc DH các khái
niệm của GT, vốn là một lĩnh vực có sự gắn kết mật thiết với Vật lí.
9. CẤU TRÚC LUẬN ÁN
- Chương 1: Cơ sở lí luận
- Chương 2: Đạo hàm, tích phân: mối quan hệ gắn kết giữa Giải tích và Vật lí nhìn từ
lịch sử
- Chương 3: Đạo hàm, tích phân: một nghiên cứu thể chế từ quan điểm liên môn giữa
Giải tích và Vật lí
- Chương 4: Các giải pháp sư phạm
- Chương 5: Nghiên cứu thực nghiệm
20
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Liên môn. Các mô hình, chiến lược liên môn Toán và Khoa học
1.1.1. Về khái niệm liên môn
1.1.1.1. Các khuynh hướng tiếp cận khái niệm liên môn
• Khuynh hướng xem liên môn như là một hình thức của tích hợp
Với khuynh hướng này, người ta lấy tích hợp làm khái niệm cơ sở và có tính phổ
quát nhằm nghiên cứu sự kết hợp các đối tượng khác nhau để hợp thành một tổng thể.
Sự kết hợp này khi vận dụng trong DH, theo các nhà nghiên cứu là có nhiều mức độ hay
hình thức khác nhau và LM được xem là một trong những hình thức đó.
Một cách cụ thể, tích hợp trong DH được định nghĩa là “hành động liên kết các đối
tượng nghiên cứu, giảng dạy, học tập của cùng một hoặc vài lĩnh vực khác nhau trong
cùng một kế hoạch dạy học” (Từ điển giáo dục, tr. 383). Như đã đề cập, sự liên kết này
có thể có các hình thức khác nhau và nhiều tài liệu nghiên cứu trên thế giới và ở Việt
Nam thường nhắc đến bốn hình thức tích hợp chủ yếu sau đây: tích hợp nội môn (hay
đơn môn), tích hợp đa môn, tích hợp liên môn và tích hợp xuyên môn (Drake và Burns,
2004; Đỗ Hương Trà, 2015; Nguyễn Thế Sơn, 2017; Xavier Roegiers, 2001). Đối với
hình thức tích hợp LM, mặc dù có những lời giải thích khác nhau của nhiều nhà nghiên
cứu, nhưng tựu trung lại đều ngụ ý chỉ đến hình thức DH có sự phối hợp giữa nhiều môn
học. Sự kết hợp này xoay quanh một bài học hay vấn đề chung mà việc giải quyết hay
nghiên cứu về chúng đòi hỏi kiến thức của nhiều môn học khác nhau.
Sự phân loại giữa đơn môn, đa môn, LM và xuyên môn đôi khi được các nhà nghiên
cứu thực hiện dựa trên mức độ của sự tích hợp diễn ra trong DH. Chẳng hạn theo Xavier
Roegiers (2001) và Drake (2007) thì sự phân biệt giữa đa môn và LM nằm ở mức độ
gắn kết giữa các môn học. Với đa môn, các môn học được dạy riêng biệt dù vẫn hướng
đến một chủ đề hay vấn đề chung nào đó. Trái lại ở mức độ LM, có sự phối hợp giữa
các môn học với nhau về phương pháp, khái niệm, ý tưởng trong việc tổ chức DH hoặc
giải quyết một vấn đề chung nào đó.
• Khuynh hướng đặt liên môn làm khái niệm cơ sở để nghiên cứu sự gắn kết giữa
các môn học trong giáo dục
21
Khuynh hướng này bắt nguồn từ việc ghi nhận sự gắn kết giữa các ngành khoa học
khác nhau. Sự gắn kết ấy là đương nhiên, bởi lẽ theo nguyên lí triết học duy vật biện
chứng về các mối quan hệ phổ biến thì mọi sự vật, hiện tượng đều tồn tại và phát triển
vừa với tư cách là một thực thể độc lập, vừa đặt trong mối liên hệ đa dạng giữa các bộ
phận cấu thành cũng như liên hệ giữa sự vật đó với các sự vật khác. Mỗi khoa học, với
phương pháp riêng của mình, sẽ nghiên cứu chúng từ những góc độ khác nhau. Để có
một sự hiểu biết đầy đủ về sự vật, hiện tượng, con người phải biết kết hợp kết quả nghiên
cứu của nhiều khoa học lại. Phân tích trên cho thấy LM có nguồn gốc từ lịch sử phát
triển của các khoa học, vì thế người ta muốn đặt nó làm cơ sở để nghiên cứu sự gắn kết
giữa các môn học trong DH tri thức ở nhà trường. Để làm điều này chúng ta cần một
định nghĩa khái quát nhất cho khái niệm LM vừa cho thấy phương diện tri thức luận vừa
cho thấy phương diện tổ chức DH một tri thức toán học trong nhà trường. Một định
nghĩa khái quát như vậy được đưa ra ở hội thảo quốc tế về LM trong DH phổ thông do
LM được xem như một dạng hợp tác giữa những môn học khác nhau. Các môn học này
đóng góp vào một nhiệm vụ chung và qua sự kết hợp giữa chúng mà tạo điều kiện cho tri
thức mới hình thành, tiến triển” (trích theo D’Hainaut, 1986, tr. 7).
Unesco tổ chức năm 1985:
Với định nghĩa này, D’Hainaut (1986) làm rõ hai cách hiểu thuật ngữ LM: cách
hiểu thứ nhất gắn với quan điểm tri thức luận, liên quan chủ yếu đến vấn đề khám phá
và tổ chức tri thức; cách hiểu còn lại thiên về cách thức, phương pháp để tổ chức DH.
Tuy nhiên, do việc DH vốn gắn bó mật thiết với quá trình khám phá và tổ chức tri thức,
nên D’Hainaut cho rằng cách hiểu thứ hai chỉ là một phương diện của quan điểm đầu.
Cùng theo xu hướng đặt LM làm khái niệm cơ sở và tách biệt với khái niệm tích
LM là một cách xem xét tri thức và tiếp cận DH, trong đó áp dụng một cách có chủ ý các
phương pháp và ngôn ngữ từ nhiều hơn một môn học để nghiên cứu các bài toán, chủ đề,
đề tài trung tâm nào đó. (tr. 8).
hợp, Jacobs (1989) đưa ra một định nghĩa khác cho khái niệm LM như sau:
Tương tự như định nghĩa của Unesco (1985), định nghĩa về LM của Jacobs cũng
nhấn mạnh việc xem xét sự gắn kết giữa các môn học ở cả hai mặt, tri thức luận và tiếp
cận DH. Hơn nữa, sự gắn kết này có thể thực hiện bằng cách sử dụng chung các phương
pháp, ngôn ngữ, khái niệm của nhiều môn học để giải quyết một nhiệm vụ chung nào
đó hoặc để làm nảy sinh và tiến triển tri thức trong quá trình DH.
22
• Khuynh hướng phân biệt liên môn với tích hợp ở sự bảo tồn ranh giới các môn
học trong sự gắn kết giữa chúng
Hai khuynh hướng nói trên cho thấy, LM thường được tiếp cận như là một hình
thức của tích hợp, ngoài ra cũng có thể đặt LM vào vị trí xuất phát điểm để xem xét sự
gắn kết của nhiều môn học ở cả phương diện tri thức luận và tổ chức DH. Tuy nhiên
ngay cả khi đặt khái niệm LM ở vị thế tách rời khỏi tích hợp, việc phân biệt rạch ròi hai
khái niệm này vẫn là một việc khó khăn vì chúng đều là những xu hướng DH nhắm đến
sự kết hợp các yếu tố từ nhiều môn học trong một mục đích DH nhất định. Có lẽ vì vậy
mà nhiều tài liệu trong nước thường dùng lẫn lộn hai khái niệm này và đôi khi sử dụng
song hành tổ hợp từ “tích hợp – liên môn” hay “tích hợp liên môn” để đặt hai quan điểm
DH này trong sự gắn kết với nhau.
Nằm trong nỗ lực phân biệt hai khái niệm tích hợp và LM, có một khuynh hướng
của nhiều nhà nghiên cứu giáo dục trên thế giới muốn làm rõ hai khái niệm này dựa trên
việc biên giới của mỗi môn học có bị làm mờ đi trong quá trình kết hợp hay không.
Loepp (1999) dùng hình ảnh ẩn dụ về một cái bánh thập cẩm và một cái bánh có nhiều
lớp để phân biệt mức độ kết nối, hợp nhất trong cách hiểu tương ứng về tích hợp và LM.
Trong đó, LM được minh họa bởi loại bánh thứ hai, mỗi lớp bánh đại diện cho một môn
học và hình ảnh tổng thể của cái bánh ám chỉ rằng biên giới giữa các môn học vẫn được
duy trì khi chúng kết hợp với nhau. Trong khi đó tích hợp gắn với hình ảnh của cái bánh
thập cẩm và nó cho thấy sự xoá nhoà biên giới của các môn học khi sự gắn kết được
Việc DH LM có thể thực hiện theo nhiều cách tiếp cận như: phối hợp nội dung giữa các
môn học, dạy hai môn học cùng với nhau, hoặc khám phá một chủ đề chung qua những
hoạt động dựa trên các môn học khác nhau. Tuy nhiên, các nội dung, phương pháp, quy
trình hoặc kĩ năng được dạy trong cách tiếp cận LM vẫn nằm trong biên giới của mỗi môn
học ban đầu mà chúng được phối hợp. (tr. 9)
thực hiện. Sự phân biệt này được giải thích rõ ràng bởi Mathison và Freeman (1998):
Các tác giả nhấn mạnh rằng mặc dù cách tiếp cận LM luôn kết nối có chủ ý hai
hoặc nhiều hơn các môn học tuy nhiên vẫn giữ cho chúng riêng biệt và rõ nét. Điều này
có nghĩa là khi phối hợp và liên kết các môn học trong học tập, người học vẫn nhận ra
kiến thức hay phương pháp được sử dụng thuộc về môn học nào mà không có sự hoà
trộn hay tạo ra môn học mới. Sự toàn vẹn của biên giới mỗi môn học cũng được
Frykholm và Glasson (2005) xem xét khi bàn về cách tiếp cận tích hợp và LM giữa toán
và các môn khoa học trong DH. Theo hai tác giả thì LM được xem là vẫn giữ gìn tính
23
toàn vẹn này trong quá trình khám phá những ngữ cảnh chung nhằm thúc đẩy việc học
ở cả hai môn học. Trái lại, nhiều định nghĩa về tích hợp lại ngụ ý rằng “sự trộn lẫn giữa
toán và khoa học đạt đến mức liền mảnh hơn, đến nỗi khó để nói nơi nào toán học ngừng
lại và nơi nào khoa học bắt đầu” (Frykholm & Glasson, 2005, tr. 130). Nguyễn Thị Nga
(2018) cho rằng, trong sự tương tác LM giữa các môn học “tác động tổng thể của các
yếu tố định tính và định lượng không đủ để tạo nên một môn học mới. Đây là sự kết hợp
giữa các môn học khác nhau đối với các vấn đề mà tính phức tạp của chúng chỉ có thể
được giải quyết bởi sự hội tụ và kết nối chặt chẽ của nhiều quan điểm khác nhau” (tr.
40-41).
1.1.1.2. Cách hiểu và cách tiếp cận của chúng tôi về khái niệm liên môn
Tổng kết lại, chúng tôi tìm thấy ba hướng tiếp cận khái niệm LM khi xem xét sự
gắn kết giữa các môn học trong DH. Một hướng lấy tích hợp làm cơ sở và LM như là
một dạng của tích hợp mà trong đó diễn ra sự tương tác chặt chẽ giữa các môn học. Cách
thứ hai lấy bản thân khái niệm LM làm cơ sở để nghiên cứu sự hợp tác giữa các môn
học cả về phương diện tri thức luận và tổ chức DH. Khuynh hướng thứ ba thừa nhận sự
tương đồng giữa nội hàm của hai thuật ngữ “tích hợp” và “liên môn”, tuy nhiên sự phân
biệt nằm ở chỗ quá trình DH LM vẫn bảo tồn biên giới của mỗi môn học trong quá trình
kết hợp.
Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy rằng dù cho LM được hiểu theo khuynh hướng nào
thì đặc trưng cốt lõi của nó vẫn là tận dụng sự gắn kết, phối hợp giữa các môn học trong
DH nhằm mục đích khám phá tri thức mới hoặc giải quyết một vấn đề chung nào đó.
Dựa trên đặc trưng cốt lõi này và tổng hợp những luận điểm từ ba khuynh hướng đã
trình bày, chúng tôi đưa ra cách hiểu của mình và làm rõ khái niệm LM khi tiếp cận nó
trong DH như sau:
- LM là sự hợp tác giữa nhiều môn học từ cả phương diện khám phá và tổ chức tri
thức cũng như phương pháp tổ chức DH.
- Mục đích của sự hợp tác nói trên là nhằm mang lại lợi ích cho mỗi môn học trong
việc nảy sinh và tiến triển tri thức, hoặc để giải quyết một bài toán, vấn đề, đề tài
chung nào đó.
- Phương thức để đạt mục đích này là phối hợp sử dụng các kiến thức, phương pháp,
quy trình hoặc kĩ năng của nhiều môn học tuy nhiên các yếu tố này vẫn nằm vẹn
nguyên trong biên giới của mỗi môn học mà chúng đến.
24
Với cách hiểu này, LM ngụ ý giữ gìn tính toàn vẹn của mỗi môn học đặt trong sự
hỗ trợ lẫn nhau và sẽ phù hợp để chúng tôi tiếp cận việc DH hai khái niệm đạo hàm, tích
phân bằng cách tận dụng những gắn kết giữa Toán và Vật lí.
1.1.2. Liên môn Toán và Khoa học: một số mô hình và cách tiếp cận
Ở trên chúng tôi đã bàn về LM, một xu hướng nhấn mạnh sự gắn kết và tác động
tương hỗ giữa các môn học. Phần này sẽ dành để bàn về LM giữa Toán và các môn
Khoa học trong DH. Để ngắn gọn, từ nay chúng tôi gọi nó là LM “Toán – Khoa học”.
Nói riêng thì sự gắn kết giữa Toán học và các ngành khoa học như Vật lí học, Hóa học,
Sinh học,… đã diễn ra xuyên suốt lịch sử phát triển lâu dài của chúng. Các khoa học
đem đến những tài nguyên (vấn đề, ngữ cảnh, nguyên lí, đối tượng nghiên cứu,…) là
động lực phát triển Toán học. Ở chiều ngược lại, Toán học cung cấp ngôn ngữ và công
cụ để các ngành khoa học thực hiện những nghiên cứu định lượng của mình.
Bên cạnh đó, cũng cần phải nhấn mạnh thêm ở đây về tư tưởng phương pháp luận
nhận thức thế giới khách quan bằng Toán học. Theo đó, phương pháp chủ yếu để nhận
thức hiện thực khách quan nhờ sử dụng toán học là sử dụng mô hình toán của các hiện
tượng trong thế giới thực. Nhận thức các hiện tượng trong nghiên cứu Khoa học tất
nhiên cũng sử dụng các mô hình toán học với tư cách là những công cụ nhận thức.
Mối quan hệ gắn kết vừa đề cập ở trên hoàn toàn thích hợp để vận dụng vào DH và
Sự phát triển của các ý tưởng toán học và việc áp dụng toán trong các môn học khác được
quyện vào nhau. Thỉnh thoảng, một ý tưởng mới phát triển trong ngữ cảnh toán và người
học áp dụng nó để giải quyết nhiều vấn đề khác nhau. Nhưng cũng có khi khái niệm mới
được nảy sinh ngoài ngữ cảnh toán học, trong các môn khoa học hoặc trong ngữ cảnh thực
tế… Những ứng dụng đa dạng của toán học trong nhiều ngữ cảnh giúp HS nhận thức được
sức mạnh thực tiễn và tính tổng quát của nó.
(NCTM, 2000, tr. 202)
nó làm nên đặc thù riêng cho sự LM giữa Toán và các môn khoa học trong nhà trường.
Sau đây chúng tôi sẽ bàn đến một số mô hình LM Toán – Khoa học để tìm ra một
cách tiếp cận LM phù hợp cho mục đích nghiên cứu của mình. Vì tích hợp và LM có sự
gắn bó, thậm chí được dùng theo một cách không thực sự rạch ròi bởi một số nhà nghiên
cứu, nên những mô hình mà họ gọi là “mô hình tích hợp” cũng được chúng tôi xem xét.
Nghiên cứu về DH Toán và khoa học trong sự gắn kết đã được quan tâm từ lâu trên
thế giới. Từ năm 1967, hội nghị ở Cambridge về tích hợp Toán và Khoa học trong giáo
dục (Education Development Center, 1970) đã đưa ra một mô hình dựa trên tiêu chí là
25
sự hỗ trợ của môn học này cho môn học khác, gồm năm loại sau (tr. 65): 1/Toán học
cho toán học (math for math); 2/Toán hỗ trợ cho khoa học (math for science); 3/Toán
và Khoa học (math and science); 4/Khoa học hỗ trợ cho toán (science for math); và
5/Khoa học cho khoa học (science for science). Đây chỉ là một phân loại chung nhất về
những hình thức DH có thể tổ chức để kết hợp các môn học với nhau. Nhiều mô hình
khác được xây dựng sau đó đã làm rõ hơn sự kết hợp LM này giữa Toán và các môn
khoa học.
Berlin và White (1994) đưa ra mô hình về tích hợp Toán và Khoa học gồm sáu mặt
sau: cách học, cách để hiểu, nội dung kiến thức, kĩ năng về quy trình và tư duy, thái độ
và nhận thức, các chiến lược DH. Bàn về những nội dung có thể tích hợp, các tác giả
này gợi ý rằng một số ý tưởng tổng quát như sự thay đổi, bảo toàn, các mô hình, quy
luật, tỉ lệ, đối xứng, và hệ thống có thể tìm thấy ở cả Toán học và nhiều ngành khoa học.
Việc xem xét các “ý tưởng lớn” này có thể giúp tìm ra những nội dung chung để tích
hợp Toán và Khoa học trong nhà trường. Trong số những nghiên cứu sau đó để phát
triển mô hình này, Berlin (2007) đưa ra một cách biểu diễn cho sự tương tác LM giữa
Toán và Khoa học. Ông dùng chữ hoa để biểu thị cho môn học chính được nhấn mạnh,
và chữ thường biểu thị cho môn học có vai trò hỗ trợ (tr. 87): 1/M: Toán học (Math);
2/Ms: Toán – ngữ cảnh khoa học (Math-science context); 3/MS: Toán và Khoa học
(Math and Science); 4/Sm: Khoa học – ứng dụng toán (Science-apply math); và 5/S:
Science.
Trong năm loại này, chúng tôi thấy rằng loại đầu và loại cuối muốn nói đến hình
thức tích hợp trong nội bộ từng môn học. Loại thứ ba (MS) nhắm đến cách tiếp cận “tích
hợp” theo nghĩa mà Berlin và White (1992) đã đề cập: “trộn lẫn Toán và Khoa học lại
với nhau từ sự liên kết các khái niệm, nguyên lí và sử dụng chung các phương pháp
nghiên cứu” (tr. 8). Hai loại còn lại, Ms và Sm, chỉ ra dạng gắn kết LM Toán – Khoa
học mà việc DH có thể tiếp cận. Berlin (2007) giải thích rõ hai tương tác LM này như
Ms tập trung vào Toán học, sử dụng các ngữ cảnh khoa học như là một cách để tăng cường
cách hiểu và ứng dụng toán học của học sinh. Tương tự, Sm tập trung vào khoa học, trong
đó áp dụng các công cụ toán học để nghiên cứu định lượng các quy luật và mối quan hệ.
sau (tr. 85):
Lonning và DeFranco (1997) cũng đưa ra một mô hình tương tự dựa trên sự nhấn
mạnh vào lợi ích của một môn học chính đặt trong sự hỗ trợ của các môn còn lại. Theo
đó, các tác giả này đưa năm hình thức sau:
26
1/Toán học độc lập: DH Toán thuần túy.
2/Tập trung vào toán học: Khoa học hỗ trợ cho việc học các khái niệm toán học.
3/Toán học và khoa học cân bằng: Các khái niệm và các hoạt động trong toán và
khoa học được tích hợp.
4/Tập trung vào khoa học: Các khái niệm toán học là công cụ hỗ trợ khoa học.
5/Khoa học độc lập: DH thuần túy khoa học.
Huntley (1998) tiếp tục phát triển một mô hình theo cách phân loại tương tự và đưa
ra lược đồ sau đây mô tả các hình thức có thể lựa chọn khi kết hợp Toán và Khoa học
trong DH:
Hình 1.1. Những lựa chọn trong việc tích hợp Toán và Khoa học
Trong mô hình này, cái ở chính giữa thể hiện sự hòa trộn giữa Toán và Khoa học
đến mức liền mảnh và không còn phân biệt được từng môn học trong việc giải thích tự
nhiên. Tương tác LM theo hướng hỗ trợ lẫn nhau nhưng vẫn giữ nguyên biên giới của
mỗi môn học theo chúng tôi thể hiện ở loại thứ hai và thứ tư trong lược đồ này: toán với
khoa học (Ms) và khoa học với toán học (Sm). Huntley làm rõ hai gắn kết LM này như
Toán với khoa học: việc DH Toán trong đó Khoa học (nội dung và/hoặc phương pháp)
được sử dụng để cung cấp các vấn đề, ngữ cảnh thích hợp.
Khoa học với Toán: việc DH Khoa học mà nhấn mạnh Toán học (nội dung và/hoặc phương
pháp) như một công cụ để giải quyết các vấn đề của khoa học.
sau (tr. 8):
Những mô hình nói trên có điểm chung là mô tả sự chuyển dịch liên tục dựa vào ý
đồ nhấn mạnh lợi ích một môn học chính với sự hỗ trợ của môn còn lại. Hơn nữa, các
tác giả còn cố gắng làm rõ những hỗ trợ mà toán có thể cung cấp cho khoa học và ngược
lại trong sự kết hợp giữa chúng. Tuy nhiên, phải tổ chức DH các môn học này như thế
nào để những hỗ trợ LM đã nói có thể diễn ra? Hurley (2001) cố gắng trả lời câu hỏi
này bằng cách đưa ra một mô hình gồm năm loại tổ chức và nó cho thấy sự phù hợp với
1/Tuần tự: Toán học và khoa học được dạy theo thứ tự, cái này đến cái kia.
cách hiểu thuật ngữ “LM” mà chúng tôi sử dụng.
2/Song song: Toán học và khoa học được sắp xếp và được dạy cùng lúc thông qua các
khái niệm tương đương.
3/Bộ phận: Toán học và khoa học được dạy một phần cùng với nhau và phần còn lại được
dạy tách biệt trong cùng một lớp học.
4/Tăng cường: Toán học hoặc khoa học là lĩnh vực chính, các lĩnh vực còn lại hỗ trợ xuyên
suốt việc DH.
5/Hoàn toàn: Toán và khoa học được dạy cùng nhau một cách cân bằng và bình đẳng.
(Hurley, 2001, tr. 263)
27
Chúng tôi kết thúc mục này bằng cách đưa ra một cách tiếp cận LM Toán – Khoa
học cho nghiên cứu của mình. Cách tiếp cận này dựa trên những cơ sở sau đây:
- Định nghĩa về LM mà chúng tôi sử dụng trong nghiên cứu này (theo đó LM là sự
hợp tác giữa các môn học khác nhau từ cả phương diện khám phá, tổ chức tri thức cũng
như phương pháp tổ chức DH);
- Các mô hình tích hợp Toán – Khoa học vừa đề cập;
- Mục đích DH nhằm đem đến nhiều lợi ích hơn cho cả môn Toán và Vật lí.
Trong cách tiếp cận LM của mình, chúng tôi sẽ sử dụng hai cặp tương tác Ms và
Sm để tạo ra sự hỗ trợ lẫn nhau một cách thích hợp cho mỗi môn học. Sự hỗ trợ này đã
được làm rõ bởi những mô hình mà các tác giả nói trên đã xây dựng. Theo đó, ngoài
những mục tiêu trong nội bộ môn học, việc DH Toán cũng cần phải cung cấp các khái
niệm, ý tưởng, phương pháp là công cụ giải quyết các vấn đề của khoa học nói chung,
Vật lí nói riêng. Theo chiều ngược lại, một số vấn đề vật lí có thể được sử dụng để đem
đến động cơ nảy sinh và ý nghĩa cho các khái niệm toán học. Hơn nữa những ngữ cảnh
và kiến thức từ Vật lí còn có thể giúp người học thấu hiểu hơn kiến thức toán học vốn
trừu tượng và thường đòi hỏi chứng minh chặt chẽ.
1.1.3. Ba chiến lược dạy học liên môn Toán – Khoa học
Nikitina và Mansilla (2003) đã chỉ ra ba chiến lược LM nhằm vượt qua sự cô lập
giữa các môn khoa học và toán học trong trường THPT truyền thống. Ba chiến lược lần
lượt là: thiết lập khái niệm cốt lõi (essentializing), bối cảnh hóa (contextualizing) và xây
dựng các bài toán – tâm (problem – centering).
Thiết lập khái niệm cốt lõi: Đây là chiến lược nâng tầm các khái niệm, nguyên lý,
lý thuyết trong toán học và các khoa học lên thành những khái niệm cốt lõi, nền tảng từ
đó có thể tạo ra những liên kết nội tại thống nhất trong toán học và các khoa học. Một
khái niệm toán học càng cốt lõi (tổng quát) thì phạm vi ứng dụng trong các khoa học
28
càng rộng và có thể tìm được nhiều điểm kết nối thích hợp. Chẳng hạn, các khái niệm
hàm, khái niệm biến hình, dãy số hay đa thức có khái niệm cốt lõi là ánh xạ. Khái niệm
cốt lõi cho phép nhìn nhận những kiến thức hay ứng dụng riêng lẻ của nó theo một quan
điểm thống nhất, từ đó cho phép mở rộng khả năng ứng dụng vào nhiều ngữ cảnh khác
nhau.
Bối cảnh hóa: Đặt bối cảnh cho một khái niệm, một ý tưởng, … là đưa nó vào một
môi trường, một hoàn cảnh rộng lớn hơn, ở đó nó có được ý nghĩa thật sự và đầy đủ.
Chiến lược này đặt kiến thức toán học và khoa học vào trong bối cảnh lịch sử hình thành
và phát triển của các ý tưởng. Việc tìm hiểu lịch sử tiến triển của một khái niệm toán
học có thể giúp tìm ra những ngữ cảnh thích hợp cho phép tích hợp Toán học với các
lĩnh vực có nhiều liên hệ mật thiết như Vật lí, Hóa học, …
Bài toán – tâm: Là chiến lược xây dựng các bài toán tâm điểm, theo nghĩa là cần
huy động kiến thức và kỹ năng của cả toán học lẫn các khoa học khác để giải quyết.
Kiến thức của nhiều môn học sẽ hội tụ về một bài toán này, từ đó tạo ra hoàn cảnh thuận
lợi cho việc tích hợp chúng lại với nhau. Các bài toán – tâm có thể tìm thấy từ thực tiễn
cuộc sống, từ ứng dụng của công cụ toán học vào các khoa học hoặc đến từ phân tích
nguồn gốc lịch sử để thấy được đâu là những vấn đề đem đến động lực cho sự hình thành
của khái niệm.
Để vận dụng chiến lược thiết lập khái niệm cốt lõi trong nghiên cứu của mình,
chúng tôi cần chỉ ra những cách hiểu tổng quát về đạo hàm và tích phân mà cho thấy
được sự tác động của chúng trong việc giải quyết nhiều vấn đề của các khoa học, nói
riêng là Vật lí. Điều này chỉ thực hiện được khi có các kết quả phân tích tri thức luận
được chúng tôi trình bày ở chương 2. Hơn nữa, phân tích tri thức luận cũng cho thấy sự
gắn kết mật thiết giữa GT với Vật lí trong lịch sử và giúp gợi ra những bối cảnh LM mà
việc DH có thể tận dụng để làm nảy sinh khái niệm đạo hàm, tích phân và đem đến ý
nghĩa đầy đủ hơn cho chúng. Bên cạnh đó, việc tìm hiểu một số ứng dụng hiệu quả của
đạo hàm và tích phân trong chương trình vật lí THPT có thể cung cấp các gợi ý để xây
dựng những bài toán – tâm mà ở đó HS phải kết hợp kiến thức và kĩ năng của cả Toán
và Vật lí để giải quyết chúng.
1.2. Về việc hiểu và ứng dụng một khái niệm toán học
Từ những mô hình và chiến lược DH LM Toán – Khoa học nói trên, chúng tôi nhận
thấy rằng việc DH hai khái niệm đạo hàm và tích phân theo cách tiếp cận LM Toán –
Vật lí ở trường THPT là hoàn toàn thích hợp để đạt được mục đích đặt ra ban đầu của
29
mình. Cụ thể hơn, chúng tôi muốn xây dựng tiến trình DH theo hướng LM Toán – Vật
lí để đem đến một cách hiểu đầy đủ hơn cho hai khái niệm đạo hàm và tích phân đồng
thời giúp HS vận dụng được những tri thức này trong ngữ cảnh vật lí.
Để đạt được điều này, trước hết cần làm rõ thế nào là “hiểu” và “ứng dụng” được
một khái niệm toán học.
1.2.1. Hiểu khái niệm toán học
1.2.1.1. Ảnh khái niệm
Những điều ta dạy cho HS về một khái niệm toán học thông qua định nghĩa so với
những gì mà các em hiểu và quan niệm về khái niệm đó có thể là không hoàn toàn đồng
nhất. Để đưa ra một mô hình cho sự khác biệt này, Tall và Vinner (1981) xây dựng
khung lý thuyết về “ảnh khái niệm và định nghĩa khái niệm”. Họ định nghĩa thuật ngữ
“ảnh khái niệm” (concept image) là tổng nhận thức của một cá nhân về khái niệm bao
gồm “tất cả các bức tranh tinh thần, các quá trình và thuộc tính gắn với khái niệm đó”
(tr. 152). Bức tranh tinh thần liên quan đến một khái niệm có thể là những hình ảnh, kí
hiệu hay một cái gì đó khác, nó cùng với các hoạt động và thuộc tính gắn với khái niệm
làm nên ảnh khái niệm mà một HS sở hữu. Chẳng hạn khi đề cập đến khái niệm hàm số,
một HS có thể gợi ra kí hiệu 𝑓(𝑥) hay nghĩ về nó chỉ như là một công thức để tính toán.
Một HS khác có thể gợi ra hình ảnh một đồ thị hoặc hiểu về nó như một mối liên hệ giữa
hai đại lượng. Các HS này có thể hoàn toàn không hề nhớ đến định nghĩa chính thức của
hàm số như là một quy tắc cho tương ứng mỗi giá trị 𝑥 thuộc tập 𝑋 với một và chỉ một
giá trị 𝑦 thuộc tập 𝑌… HS có thể học thuộc lòng định nghĩa một khái niệm hoặc tự xây
dựng một định nghĩa riêng cho mình tuy nhiên những định nghĩa này chỉ là một phần
của ảnh khái niệm. Hơn nữa, trong mỗi tình huống có thể chỉ có một số mảnh nào đó
của ảnh khái niệm được gợi ra hoặc được kích hoạt trong tâm trí HS và những mảnh này
sẽ ảnh hưởng đến cách hiểu và sử dụng khái niệm của các em.
1.2.1.2. Khung quá trình – đối tượng
Phân tích sâu hơn về các thuộc tính đặc trưng của một khái niệm toán học, Sfard
(1991) phân chia chúng thành hai loại: khái niệm có thuộc tính cấu trúc và khái niệm có
thuộc tính hoạt động (structural and operational conceptions). Theo sự phân chia này thì
một cá nhân được xem là có quan niệm cấu trúc về một khái niệm toán học khi anh ta
hiểu về khái niệm đó như một đối tượng trừu tượng. Ở một mặt khác, cá nhân được xem
là có quan niệm hoạt động về khái niệm khi anh ta tập trung suy nghĩ vào các quá trình,
thuật toán và các hoạt động gắn liền với khái niệm. Chẳng hạn, với trường hợp khái
30
niệm đạo hàm, HS có quan niệm hoạt động có thể thực hiện được thành thạo việc tính
toán đạo hàm theo định nghĩa (giới hạn của tỉ số sai phân) hay áp dụng các quy tắc tính
toán có sẵn. Sfard sau đó đã xây dựng “khung quá trình – đối tượng” (process – object
framework) để chỉ ra bản chất kép này của các khái niệm toán học. Rõ ràng là hai loại
thuộc tính này phải gắn bó tương hỗ với nhau và tác giả cho rằng người học trước hết
phải thông qua hoạt động để nắm được quá trình mà khái niệm là kết quả. Quá trình này
sau đó mới có thể được trừu tượng hoá và kết tinh lại trong bản thân khái niệm và mang
lại ý nghĩa cho nó. Người học không thể hiểu được đầy đủ về khái niệm nếu chỉ được
cung cấp một định nghĩa hình thức. Họ cần biết đâu là lí do mà tri thức đó xuất hiện, nó
có thể dùng để giải quyết những vấn đề gì? Từ điểm nhìn này, việc hiểu một khái niệm
toán học có thể đến từ chính những bài toán hay tình huống mà khái niệm này đóng vai
trò là công cụ để giải quyết.
1.2.1.3. Các biểu diễn của một khái niệm
Một nhân tố quan trọng giúp người học hiểu và sử dụng được các khái niệm toán
học chính là những biểu diễn của nó. Pape và Tchoshanov (2001) phân chia các biểu
diễn thành hai loại: một loại là kết quả của “sự trừu tượng bên trong” các ý tưởng và
thiết lập những lược đồ nhận thức trong quá trình học tập. Loại thứ hai là những biểu lộ
bên ngoài của các khái niệm toán học như các biểu diễn số, phương trình đại số, đồ thị,
bảng, biểu đồ, lời, … Loại này đóng vai trò kích thích nhận thức, giúp người học hiểu
và sử dụng được khái niệm. Hội GV toán của Mỹ (NCTM, 2000) cũng nhấn mạnh tầm
quan trọng của các biểu diễn đa dạng đối với việc hiểu một khái niệm toán học. Họ cho
rằng các biểu diễn khác nhau sẽ làm sáng tỏ những mặt khác nhau của cùng một khái
niệm. Vì thế, để có một cách hiểu đầy đủ người học cần phải biết các biểu diễn này cũng
như có khả năng kết nối và chuyển đổi giữa chúng.
1.2.1.4. Kiến thức về khái niệm
Để mô tả những gì mà người học có thể hiểu về một khái niệm, Hiebert và Lefevre
(1986) chia kiến thức về đối tượng toán học này thành hai loại: kiến thức khái niệm
(conceptual knowledge) và kiến thức quy trình (procedural knowledge). Theo các tác
Kiến thức được làm giàu trong những mối liên hệ. Nó có thể được hiểu như là một mạng
lưới kết nối các kiến thức, một mạng lưới mà trong đó những mối quan hệ liên kết cũng
cần phải được quan tâm nhiều như những mẩu thông tin riêng lẻ.
(Hiebert & Lefevre, 1986, tr. 3-4).
giả thì kiến thức khái niệm là:
31
Cùng với đó, Hiebert và Lefevre định nghĩa kiến thức quy trình theo hai dạng. Dạng
đầu tiên là những hiểu biết về kí hiệu biểu diễn cho khái niệm toán học và cú pháp theo
quy ước để thao tác trên các kí hiệu đó. Dạng thứ hai bao gồm các “công thức, thuật
toán hay quy trình để giải quyết những vấn đề toán học. Nhiều quy trình mà HS sở hữu
có thể chỉ là một chuỗi mệnh lệnh thao tác trên các kí hiệu” (Hiebert & Lefevre, 1986,
tr. 7-8).
Trong nhiều trường hợp, những hoạt động trên các quá trình liên quan đến khái
niệm không đem đến một cách hiểu về bản thân khái niệm, mà có thể chỉ hình thành ở
người học một dạng kiến thức quy trình về khái niệm đó. Chẳng hạn một HS có thể biết
về sự tồn tại của một khái niệm có tên là tích phân, biết kí hiệu và vận dụng được các
công thức hay quy trình để tính toán và giải các dạng toán, tuy nhiên lại không thật sự
hiểu được khái niệm. Với mục đích nghiên cứu của mình, chúng tôi muốn xây dựng một
hiểu biết về khái niệm đầy đủ hơn cho HS về đạo hàm và tích phân. Một kiến thức khái
niệm đầy đủ như vậy theo định nghĩa của Hiebert và Lefevre cần phải được làm giàu
trong những kết nối. Hơn nữa, Hiebert và Carpenter (1992) còn cho rằng, mức độ của
việc hiểu khái niệm phụ thuộc vào số kết nối và độ mạnh của những kết nối giữa các sự
kiện, các biểu diễn, quá trình và các ý tưởng.
1.2.2. Ứng dụng khái niệm toán học
Anderson et al. (2001) định nghĩa việc ứng dụng một kiến thức là thực hiện những
quy trình để giải quyết một vấn đề trong một tình huống nào đó. Tuy nhiên việc ứng
dụng khái niệm toán học lại có thể đòi hỏi những mức độ hiểu kiến thức khác nhau như
Lauritzen (2012) đã chỉ ra: “Trong những bài toán áp dụng, có khi chỉ cần ghi nhớ làm
theo các quy trình, có khi đòi hỏi nhiều hơn nhận thức về bản chất khái niệm, đòi hỏi sự
quan tâm đến những mối liên hệ” (tr. 23). Anderson et al. (2001) làm rõ rằng, trong
những nhiệm vụ quen thuộc HS thường sẽ biết kiến thức quy trình nào sẽ sử dụng. Tuy
nhiên khi nhiệm vụ là một vấn đề không quen thuộc (chẳng hạn trong ngữ cảnh vật lí),
HS sẽ cần phải có một mức độ hiểu nhất định về bài toán cũng như về khái niệm toán
học sẽ sử dụng để tìm ra quy trình có thể giải quyết. Lúc này thì “hiểu về kiến thức khái
niệm sẽ là điều kiện tiên quyết để có thể áp dụng được kiến thức quy trình” (Anderson
et al., 2001, tr. 77). Vai trò của kiến thức khái niệm còn được nhấn mạnh bởi kết luận
của Mahir (2009):
Sự ghi nhớ những kiến thức theo quy trình nhưng không được hỗ trợ bởi việc hiểu khái
niệm chỉ tạo ra được những thành công hạn chế. Sự linh hoạt cần thiết để giải quyết nhiều
kiểu bài tập khác nhau chỉ có thể đạt được bởi một hiểu biết đầy đủ về khái niệm. (tr. 202)
32
Để giải quyết một bài toán vật lí Jones (2010) cho rằng cần phải xây dựng được
một mô hình toán học cho nó, từ đó chuyển đổi được vấn đề đặt ra thành các phương
trình toán học trước khi có thể xây dựng và thực hiện được các quy trình giải. Tuy nhiên,
những bài toán vật lí thường đặt trong ngữ cảnh thế giới thực, sử dụng các biểu diễn
khác nhau như các từ ngữ, bảng số, đồ thị, hình ảnh để diễn đạt vấn đề. Vì thế, để tìm
được các công cụ toán học phù hợp thì người học cần phải có hiểu biết cũng như sử
dụng được các biểu diễn khác nhau của khái niệm toán học tương ứng.
Bên cạnh việc nhấn mạnh vai trò của hiểu kiến thức toán học, nhiều nhà nghiên cứu
còn quan tâm đến sự biến chuyển của cách hiểu và kiến thức này khi người học ứng
dụng chúng vào vật lí. Chẳng hạn, HS đã biết về tích phân nhưng cách hiểu về tích phân
sẽ như thế nào khi hàm số lấy tích phân có một ý nghĩa vật lí cụ thể. Vận dụng lý thuyết
về “sự hòa trộn nhận thức” (cognitive blending) của Fauconnier and Turner (2002),
Jones (2010) chỉ ra rằng có một sự trộn lẫn trong nhận thức của người học giữa cách
hiểu về một khái niệm toán học với những đại lượng có liên quan trong Vật lí hay các
ngữ cảnh ứng dụng khác. Theo Jones thì sự hòa trộn này có thể giúp kết nối các kiến
thức toán học với các hiểu biết mà người học tiếp nhận từ lĩnh vực vật lí. Chúng tôi cũng
cho rằng “sự hòa trộn nhận thức” này sẽ đóng vai trò là chất keo kết dính giúp gắn kết
và thúc đẩy một tiến trình DH LM giữa Toán và Vật lí.
1.2.3. Tiểu kết
Từ những khung lý thuyết đã được giới thiệu ở trên, chúng tôi quan niệm cách hiểu
đầy đủ về khái niệm thể hiện ở một kiến thức được làm giàu bởi các kết nối sau đây:
- Kết nối giữa các hoạt động, thao tác trên khái niệm với bản thân khái niệm: nghĩa là
người học không những có thể thực hiện các thao tác theo quy trình để giải quyết bài
toán mà còn có thể hiểu được lí do tại sao thực hiện những quy trình đó.
- Kết nối giữa các quan niệm khác nhau về cùng một khái niệm.
- Kết nối giữa các biểu diễn khác nhau của khái niệm.
- Kết nối giữa một khái niệm với những khái niệm khác có liên quan: chẳng hạn HS
phải biết sự liên hệ giữa tích phân với đạo hàm và lí do tại sao có mối liên hệ đó.
- Kết nối giữa khái niệm với các ứng dụng của nó ở cả ngữ cảnh trong và ngoài toán
học.
33
Một số nhà nghiên cứu đã xây dựng các khung lý thuyết nhằm mô tả một cách hiểu
đầy đủ về hai khái niệm đạo hàm, tích phân. Những khung này sẽ được chúng tôi thảo
luận ở chương 4 với sự soi sáng của các kết quả nghiên cứu tri thức luận về hai khái
niệm đang nói tới.
1.3. Thuyết nhân học trong Didactic
Để sử dụng được ba chiến lược LM mà Nikitina và Mansilla đã đề xuất, chúng tôi
cần đến những khung lý thuyết là công cụ phù hợp cho các nhiệm vụ sau: Tìm hiểu các
nghĩa tổng quát của khái niệm (chiến lược thiết lập khái niệm cốt lõi), phân tích sự hình
thành và tiến triển của tri thức trong lịch sử (chiến lược đặt bối cảnh cho khái niệm) và
cuối cùng là xây dựng các tình huống DH thông qua những bài toán – tâm thích hợp để
tổ chức hoạt động học tập LM (chiến lược bài toán – tâm). Ngoài ra, chúng tôi cũng
muốn tìm hiểu những gắn kết giữa GT và Vật lí trong lịch sử, sự thể hiện của nó trong
DH Toán và Vật lí ở trường THPT nhìn từ quan điểm LM. Những đòi hỏi này là lí do
để chúng tôi sử dụng trong nghiên cứu của mình thuyết nhân học trong Didactic Toán,
gọi tắt là “thuyết nhân học”.
1.3.1. Về thuyết nhân học
Nhân học vốn là một lĩnh vực nghiên cứu các vấn đề về sự tồn tại của con người
trong môi trường tự nhiên, xã hội cũng như nghệ thuật. Tuy nhiên vào những năm 80 và
đầu những năm 90, Chevallard đã mở rộng nhận thức luận theo nghĩa truyền thống này
để xây dựng lên thuyết nhân học về didactic toán. Tri thức toán học lúc này có thể xem
như một sinh vật sống, vì thế “cũng sẽ trải qua những giai đoạn: nảy sinh, tồn tại, tiến
triển, mất đi và luôn có những mối liên hệ ràng buộc với các đối tượng khác” (Trần Anh
Dũng, 2013, tr. 29). Đối tượng nghiên cứu lúc này không chỉ dừng ở việc tạo dựng tri
thức khoa học của con người mà còn được mở rộng ra với những hiện tượng liên quan
đến việc áp dụng tri thức, việc DH hay những quá trình chuyển đổi tri thức đó. Thuyết
nhân học didactic (gọi tắt là thuyết nhân học) tập trung vào việc nghiên cứu quá trình
soạn thảo tri thức để truyền bá nó trong các cộng đồng xã hội cũng như những điều kiện
và ràng buộc ảnh hưởng đến quá trình đó. Lý thuyết này cũng cung cấp các công cụ cho
phép mô hình hóa những điều kiện và ràng buộc nói trên và mô tả được cuộc sống và
hoạt động của một tri thức trong thể chế mà nó tồn tại. Theo đó, ba nội dung cơ bản của
thuyết nhân học đó là: lý thuyết chuyển hóa sư phạm; quan hệ thể chế và quan hệ cá
nhân với một đối tượng tri thức; về tổ chức tri thức và tổ chức DH.
34
1.3.2. Lý thuyết chuyển hóa sư phạm
1.3.1.1. Chuyển hóa sư phạm
Chuyển hóa là sự biến đổi từ dạng này sang dạng khác. Ở đây đã có sự chuyển hóa
tri thức khoa học được phát minh trong lịch sử bởi cộng đồng các nhà nghiên cứu thành
tri thức cần dạy (do một nhóm các chuyên gia có vai trò chọn lựa, phản biện và điều
chỉnh), trước khi bị biến đổi thêm một lần nữa để trở thành tri thức được dạy xuất hiện
trong thực tế DH của GV và HS. Thuyết nhân học mô tả sự chuyển hóa này thông qua
cụm từ “chuyển hóa sư phạm” và giải thích một phần cho sự chuyển hóa đó bằng hai
Thể chế I là một bộ phận xã hội, cho phép – thậm chí áp đặt, các chủ thể của nó (nghĩa là
những người chiếm các vị trí khác nhau do I đưa ra) vận dụng một cách làm, cách nghĩ
riêng, ứng xử theo những quy tắc riêng.
(Lê Thị Hoài Châu, 2018, tr.12)
khái niệm cơ bản: “tri thức” và “thể chế”.
Tri thức vốn ra đời từ hoạt động khoa học của con người trong quá trình nhận thức
thế giới tự nhiên. Trong thuyết nhân học, Chevallard (1992) cho rằng tri thức không thể
tồn tại lơ lửng mà phải đặt trong một hoặc nhiều cộng đồng xã hội nào đó. Điều này có
nghĩa là mỗi tri thức đều phải là tri thức của một hoặc nhiều thể chế và vì thế phải tuân
theo những ràng buộc và thậm chí có thể bị biến đổi để phù hợp và đứng vững được
trong các thể chế đó. Chevallard (1985) đưa ra bốn kiểu thể chế có liên quan đến một tri
thức bao gồm: 1/Thể chế tạo ra tri thức; 2/Thể chế sử dụng tri thức; 3/Thể chế DH tri
thức; 4/Thể chế chuyển hóa tri thức (còn được gọi là Noosphère). Khi tri thức được
chuyển hóa qua các thể chế, nếu đích đến là một thể chế DH thì ta sẽ gọi quá trình này
Công việc làm cho một đối tượng tri thức thành một đối tượng DH được gọi là
chuyển hóa sư phạm. (Chevallard, 1985, tr. 46)
là chuyển hóa sư phạm.
35
1.3.1.2. Quá trình chuyển hóa sư phạm
Theo Chevallard (1989) quá trình chuyển hóa sư phạm một tri thức gồm ba mắt
xích. Tác giả Lê Thị Hoài Châu (2018, tr. 19) đã mô tả quá trình đó theo sơ đồ 1.1 trình
bày ở bên. Từ sơ đồ này, có ba bước chuyển Tri thức bác học hóa cần được làm rõ. Thể chế tạo ra và bảo quản tri thức Bước chuyển hóa thứ nhất xảy ra ở thể
chế tạo ra tri thức. Hoạt động nghiên cứu Tri thức cần dạy giải quyết một vấn đề nào đó dẫn nhà khoa Thể chế chuyển hóa tri thức học đến việc phát minh ra những tri thức
mới. Tuy nhiên ngay khi muốn công bố Tri thức được dạy
rộng rãi tri thức này trong cộng đồng khoa Thể chế DH
học, nhà nghiên cứu đã phải thực hiện Sơ đồ 1.1. Ba mắt xích của
những biến đổi nhất định với nó. Từ việc quá trình chuyển hóa sư phạm xóa bỏ đi những dấu vết cá nhân, ngữ cảnh
hay động cơ đã dẫn đến sự phát minh ra tri thức, đến việc sắp xếp và tổ chức lại nó theo
một hệ thống thích hợp với bối cảnh khoa học đương thời. Bước chuyển hóa đầu tiên
này của tri thức nhằm mục đích biến nó thành tri thức chung thuận tiện cho việc kiểm
chứng và sử dụng của cộng đồng các nhà khoa học nhưng lại có thể làm mất đi phần nào
ý nghĩa và ngữ cảnh ra đời của tri thức. Điều này có thể không ảnh hưởng đến những
nhà nghiên cứu cùng thời và cùng chuyên ngành nhưng có thể làm che dấu đi lí do ra
đời của tri thức, làm mất nghĩa và thậm chí bị hiểu sai bởi các thành viên trong những
thể chế DH về sau.
Tri thức ở bước thứ nhất còn được gọi là tri thức bác học và bước chuyển hóa thứ
hai xảy ra khi tri thức này trở thành một đối tượng DH. Một nhóm các chuyên gia, những
người lập chương trình sẽ chọn lựa và cấu trúc lại để tri thức trở nên có thể dạy được.
Lúc này tùy thuộc vào đối tượng công chúng cần học tập, tri thức sẽ được hạn chế, biến
đổi và trình bày lại theo một cấu trúc mới. Sự chuyển hóa này giúp tri thức trở nên phù
hợp hơn với các đối tượng đó theo quan điểm sư phạm hay theo các mục đích riêng
khác, tuy nhiên lại có thể gây ra những chênh lệch khá lớn giữa tri thức bác học với tri
thức xuất hiện trong chương trình và SGK. Việc chỉ ra một cách rõ ràng thể chế chuyển
hóa tri thức này là một đóng góp quan trọng của thuyết nhân học.
Bước chuyển hóa thứ ba diễn ra khi tri thức được đưa vào giảng dạy bởi GV trong
lớp học:
Ở giai đoạn này, mỗi GV sẽ biến đổi tri thức đã được chỉ ra là cần dạy thành những đối
tượng kiến thức thực sự được dạy. Hiển nhiên, việc chuyển hóa tri thức ở giai đoạn này
luôn gắn với kiến thức mà GV gán cho tri thức đang nói đến, quan niệm của GV về việc
DH có hiệu quả, hiểu biết của GV về lớp học,…
(Lê Thị Hoài Châu, 2018, tr.25)
36
Lý thuyết về chuyển hóa sư phạm chỉ ra những chênh lệch có thể xuất hiện giữa tri
thức được dạy với các tri thức bác học là tham chiếu của nó, và sự chênh lệch này đến
từ những ràng buộc tác động lên tri thức ở mỗi một thể chế mà nó hiện diện. Để tìm hiểu
những chênh lệch này trước tiên cần phải tiến hành một nghiên cứu tri thức ở thể chế đã
tạo ra nó trong lịch sử. Một phân tích tri thức luận lịch sử về tri thức cần dạy sẽ thực
hiện được công việc đó.
1.3.3. Phân tích tri thức luận
Phân tích tri thức luận hay còn được gọi là phân tích khoa học luận lịch sử của một
tri thức, theo Dorier (1997) nghĩa là “nghiên cứu những điều kiện và ràng buộc đối với
sự nảy sinh các tri thức khoa học, cũng như quá trình hình thành và phát triển các tri
thức đó” (trích theo Trần Anh Dũng, 2013, tr. 27). Tìm hiểu quá trình nảy sinh, hình
thành và phát triển từ lịch sử rõ ràng không chỉ đơn thuần là một tập hợp các sự kiện,
Phân tích tri thức luận lịch sử một tri thức là một phân tích quá khứ để khám phá những
mò mẫm, những lệch lạc, những chướng ngại khác nhau, những điều kiện cho phép xuất
hiện tri thức, lí do tồn tại của nó. Trong phân tích tri thức luận lịch sử, điều kiện cho sự
nảy sinh một phát minh cũng quan trọng không kém bản thân phát minh đó. Phân tích này
giúp ta hiểu đầy đủ hơn sự tiến triển của tri thức, từ đó hiểu rõ hơn các hiện tượng DH tri
thức đang bàn đến.
(Lê Thị Hoài Châu, 2018, tr. 44-45)
thời điểm hay tên tuổi các nhà toán học.
Một cách cụ thể, phân tích tri thức luận là nghiên cứu lịch sử hình thành và tiến
- Nghĩa của tri thức, những bài toán, những vấn đề mà tri thức đó cho phép giải quyết;
- Những trở ngại cho việc hình thành tri thức;
- Những điều kiện sản sinh ra tri thức, những bước nhảy cần thiết trong quan niệm để
thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển tri thức.
(Lê Thị Hoài Châu, 2017, tr. 19)
triển một tri thức để làm rõ những điểm sau:
37
Những kết luận có được từ nghiên cứu tri thức luận có thể giúp hiểu rõ mối liên hệ
giữa quá trình xây dựng tri thức trong cộng đồng khoa học với việc dạy và học nó trong
các cộng đồng xã hội.
1.3.4. Quan hệ thể chế và quan hệ cá nhân
Lý thuyết nhân học của didactic trên cương vị là một nhánh mở rộng của khoa học
loài người (nhân chủng học) có những quan điểm riêng về đối tượng này. Con người
(vào một thời điểm trong lịch sử của nó) có thể xem là một cá nhân cùng với một tập
hợp các mối quan hệ của cá nhân đó với những đối tượng mà nó biết. Quá trình học tập
một tri thức toán học buộc cá nhân phải tạo ra hoặc điều chỉnh mối quan hệ của họ với
tri thức đó.
Ở một góc nhìn khác một đối tượng tri thức đang đề cập lại luôn phải tồn tại trong
một thể chế nhất định và chịu những quy tắc, ràng buộc của thể chế này. Mối quan hệ
của thể chế đối với tri thức liệu sẽ ảnh hưởng thế nào đến mối quan hệ của cá nhân với
tri thức? Thuyết nhân học tìm cách trả lời cho vấn đề này đồng thời tìm cách mô hình
hóa sự hình thành những mối quan hệ đó. Theo đó, ba thuật ngữ cơ bản của thuyết này
lần lượt là: đối tượng (O), cá nhân (X) và thể chế (I).
Lúc này, đối tượng tri thức O được xem là tồn tại nếu như có một cá nhân X hay
một thể chế I nhận biết về nó. Hay nói khác đi là có tồn tại mối quan hệ cá nhân của X
với O hay mối quan hệ thể chế của I với O. Mối quan hệ giữa X và O được thể hiện qua
tập hợp tất cả các tác động qua lại mà X có với O (hiểu về O, sử dụng O, nói về O,…).
Và tương tự như thế, mối quan hệ thể chế giữa I với O sẽ cho biết O xuất hiện ở đâu
trong I, xuất hiện như thế nào, giữ vai trò và có mối liên hệ gì với các đối tượng tri thức
khác trong thể chế đó,… Có thể hình dung thể chế I hay là cá nhân X như những không
gian sống mà đối tượng tri thức O có thể nảy sinh, tồn tại, tiến triển, thay đổi, mất đi và
luôn có những liên hệ ràng buộc với các đối tượng khác.
Theo quan điểm trên, việc học tập có thể xem là sự điều chỉnh mối quan hệ của một
cá nhân X với O theo hướng thiết lập (nếu nó chưa tồn tại), hoặc biến đổi (nếu nó đã tồn
tại) cho phù hợp hơn với những mục tiêu nhất định nào đó. Tuy nhiên để hình thành
hoặc biến đổi mối quan hệ với tri thức O, cá nhân X phải hòa mình vào một thể chế DH
I nào đó, và như thế nó bị ảnh hưởng bởi những ràng buộc của mối quan hệ thể chế giữa
I với O. Một mặt thì mối quan hệ cá nhân không hoàn toàn phù hợp với quan hệ thể chế
bởi lẽ nó được hình thành từ sự tổng hợp của nhiều quan hệ thể chế khác nhau liên quan
đến đối tượng tri thức mà cá nhân đó đã biết. Mặt khác, mối quan hệ cá nhân cũng không
38
thể quá khác biệt vì dù sao nó cũng phản ánh các quan hệ thể chế đã đào tạo ra nó.
Những luận điểm nêu trên cho thấy tầm quan trọng của việc nghiên cứu mối quan hệ thể
chế với đối tượng tri thức nếu muốn nhìn nhận rõ những ràng buộc và ảnh hưởng của
nó lên quá trình học tập của HS.
• Phân tích thể chế
Phân tích thể chế là đi tìm hiểu mối quan hệ giữa đối tượng tri thức O với một hoặc
nhiều thể chế liên quan đến nó. Phân tích thể chế nói nôm na là đi tìm hiểu “cuộc sống”
của đối tượng tri thức trong thể chế ấy: tri thức đó xuất hiện ở đâu, xuất hiện như thế
nào, có vai trò gì, có quan hệ gì với những đối tượng khác trong thể chế, những điều
kiện hay ràng buộc nào của thể chế tác động lên nó.
• Lí do phải phân tích thể chế
Như đã nói, việc học tập được quan niệm như là sự thiết lập hay điều chỉnh mối
quan hệ của cá nhân X với tri thức O, mà mối quan hệ cá nhân này là sự phản ánh một
phần của quan hệ thể chế liên quan đến tri thức đó. Bởi vậy, để việc học tập một tri thức
đạt hiệu quả, hay đơn giản là để hiểu rõ những nhân tố, những ràng buộc ảnh hưởng lên
sự hình thành hay biến chuyển trong mối quan hệ của cá nhân với tri thức luôn cần phải
có một phân tích thể chế soi sáng.
Tùy theo mỗi thể chế với những cơ cấu, tổ chức riêng biệt, những quy tắc hay ràng
buộc của nó sẽ biến đổi dạng tồn tại của đối tượng tri thức sống trong nó. Tri thức bị
chuyển hóa khi đi qua những thể chế khác nhau, trong đó thể chế DH lại nhắm đến mục
tiêu thay đổi mối quan hệ cá nhân của tri thức để nó trở nên phù hợp hơn với thể chế.
Việc nghiên cứu mối quan hệ thể chế rõ ràng là đóng vai trò quan trọng khi nó chỉ ra
những điều kiện, ràng buộc, hệ quả, và tác động lên quá trình hình thành mối quan hệ
của cá nhân X với tri thức.
• Cách thức tiến hành phân tích thể chế
Nghiên cứu quan hệ tri thức với thể chế có thể tiến hành theo các hướng sau:
- Nghiên cứu các quan điểm của thể chế với tri thức.
- Nghiên cứu sự chuyển biến qua thời gian của các quan hệ thể chế - tri thức.
- Nghiên cứu những điều kiện và ràng buộc của thể chế với tri thức (những điều kiện
và ràng buộc này thường thể hiện qua chương trình SGK, sách GV, …)
- Nghiên cứu các hoạt động đối với tri thức và mối liên hệ với các đối tượng khác
trong thể chế.
39
1.3.5. Tổ chức tri thức
Tuy nhiên làm thế nào để mô tả được một cách rõ ràng mối quan hệ giữa tri thức
với thể chế mà nó đang tồn tại? Bosch và Chevallard (1999) giới thiệu khái niệm tổ chức
tri thức để trả lời cho vấn đề này.
Khái niệm tổ chức tri thức cho phép lý thuyết hóa những gì xảy ra trong hoạt động
DH và cũng làm sáng tỏ cách thức hình thành mối quan hệ giữa một cá nhân (hoặc một
thể chế) với một đối tượng tri thức. Điều này dựa trên việc xem xét mỗi hoạt động liên
quan đến tri thức trong thể chế như là quá trình thực hiện một nhiệm vụ t thuộc kiểu
nhiệm vụ T nào đó. Việc thực hiện nhiệm vụ này nhờ vào một kĩ thuật τ, được giải thích
bởi một công nghệ . Công nghệ này cho phép xác định kĩ thuật, thậm chí tạo ra nó, và
đến lượt mình, công nghệ lại được giải thích nhờ vào lý thuyết . Bốn yếu tố này được
tổ hợp lại trong một tổ chức ký hiệu là: [T/τ/ ] và gọi là tổ chức tri thức. /
Quá trình phân tích tổ chức tri thức sẽ cho thấy những nhiệm vụ cần giải quyết có
liên quan đến tri thức, những kĩ thuật cho phép giải quyết và tất cả những yếu tố lý
thuyết, công nghệ ẩn phía sau chi phối tính hợp thức của các hoạt động đó. Chúng hình
thành nên bức tranh toàn cảnh giúp ta nhìn thấy được cuộc sống của tri thức trong thể
chế. Đối với thể chế DH, việc phân tích tổ chức tri thức sẽ giúp chúng ta nhận thấy được
cách mà thể chế hiểu về tri thức hay thậm chí là cách mà thể chế muốn người học hiểu
về tri thức đó.
1.4. Lý thuyết tình huống
1.4.1. Những điểm đặc trưng của lý thuyết tình huống
Lý thuyết tình huống được xây dựng bởi Brousseau từ những năm 1970 và quan
điểm của nó là khuyến khích HS tự xây dựng tri thức thông qua việc hoạt động trên các
tình huống được xây dựng một cách có chủ ý. Có một tình huống giả tạo thường thấy
trong lớp học đó là GV đặt ra những câu hỏi mà anh ta đã biết trước câu trả lời trong khi
ở ngoài lớp học thì người ta chỉ đặt câu hỏi về những điều mà họ không biết. Quá trình
DH điển hình theo truyền thống thường xảy ra theo một cách áp đặt như vậy: GV hỏi
những vấn đề mà họ đã biết cách giải quyết và HS phải tìm cách trả lời những câu hỏi
mà các em không tự mình đặt ra và nếu không trả lời được thì GV sẽ nhận trách nhiệm
đó. Brousseau (2006) cho rằng “nếu GV tự đặt ra những câu hỏi toán học và các câu trả
lời, họ đã tước đoạt đi của người học trách nhiệm của việc hoạt động” (tr. 46). Để vượt
qua nghịch lý nói trên, Brousseau muốn xây dựng một hệ thống gồm GV, HS và môi
40
trường mà ở đó việc học tập tri thức được diễn ra theo cách tự nhiên và mang lại ý nghĩa
đúng cho tri thức.
Lý thuyết tình huống cho rằng mỗi tri thức đều có một họ tình huống sư phạm cho
phép đem đến cho nó một nghĩa đúng và phù hợp so với lịch sử hình thành và tiến triển
của tri thức hoặc phù hợp với bối cảnh xã hội và cộng đồng khoa học hiện thời. Các
nghĩa này sẽ hiện diện trong hoạt động học tập như là kết quả hay là phương tiện để giải
quyết các tình huống đã đặt ra. Việc xem xét đến chiều văn hóa và xã hội trong hoạt
động học tập tri thức cũng là một điểm đặc trưng của lý thuyết tình huống mà thuyết
phát triển nhận thức của Piaget trước đó chưa xem xét một cách đầy đủ. Để xây dựng
một tình huống học tập mong ước, cần phải tạo những điều kiện thuận lợi để đảm bảo
cho một sự tự chủ tối đa của người học trong quá trình học tập. Những điều kiện đó
- Tri thức toán học đang hướng đến cần phải cung cấp được một phương pháp tối ưu cho
việc giải quyết vấn đề đặt ra.
- Văn bản và các tài liệu DH không nên đưa ra bất cứ sự tham khảo nào cho tri thức được
nhắm đến.
- Chấp nhận được rằng người học có thể bắt đầu công việc giải quyết bài toán với những
chiến lược không thích hợp.
- Người học có thể tự xác nhận với bản thân rằng những cố gắng của họ là thành công
hay thất bại.
- Không có sự xác định đúng sai cho lời giải, những kiểm tra chỉ là để gợi ý.
- Giữa những lời giải được chấp nhận dựa vào kinh nghiệm, chỉ có một cái là thỏa mãn
được tất cả những điều kiện của bài toán.
- Lời giải có thể được tìm thấy và kiểm tra bởi một số HS khác trong một lượng thời gian
hợp lí, và ngay lập tức được chia sẻ và kiểm tra bởi những người khác.
được đưa ra sau đây bởi Brousseau (2008, tr. 249):
Cơ sở cho việc xây dựng tình huống DH của lý thuyết tình huống vẫn dựa trên hai
cơ chế đồng hóa và điều ứng trong lý thuyết về quá trình học tập và phát triển trí tuệ của
Piaget và Cook (1952). Theo đó đồng hóa là quá trình chủ thể tái hiện lại một số đặc
điểm của đối tượng và đưa nó vào những sơ đồ, nhận thức đã có sẵn. Còn điều ứng là
quá trình thích nghi với những phản hồi của môi trường bằng cách điều chỉnh, biến đổi
cấu trúc đã có, tạo ra những cấu trúc mới nhằm đưa đến trạng thái cân bằng. Khi người
học tiếp cận với một khái niệm mới, lúc đầu họ sẽ cố gắng đồng hóa, liên hệ nó với
những tri thức, quan niệm, cấu trúc sẵn có. Chỉ khi có những phản hồi, tương tác lại của
môi trường khiến họ bắt buộc phải điều chỉnh, biến đổi lại các quan niệm và tri thức cũ
41
để hình thành những quan niệm mới (điều ứng) thì việc học tập mới thật sự được xem
là diễn ra. Về cơ chế học tập này, Brousseau (2006) cũng chỉ ra rằng: “HS học tập bằng
cách tự thích nghi với môi trường sinh ra những mâu thuẫn, những khó khăn và những
sự mất cân bằng” (tr. 30). Môi trường trong đó việc học tập diễn ra được xem là một
trong những khái niệm cơ sở của lý thuyết tình huống. Vai trò của nó là cung cấp các
thông tin và tín hiệu phản hồi để đem đến những tác động xác nhận, ủng hộ hay ngược
lại là từ chối, bài xích những chiến lược giải mà người học đề ra và sử dụng. Các tác
động phản hồi này sẽ điều chỉnh hành động của HS theo hướng thích nghi với những
mâu thuẫn, khó khăn, mất cân bằng đã xuất hiện từ đó nảy sinh nhận thức mới về tri
thức.
1.4.2. Tình huống lí tưởng
Một tình huống trong đó GV chỉ cần ủy thác một vấn đề và HS tự mình khám phá
tri thức thông qua hoạt động trên tình huống đã cho mà không cần đến sự tác động của
GV được lý thuyết tình huống gọi là tình huống lí tưởng. Nhờ sự tồn tại của loại tình
huống này mà chúng ta có thể hướng đến một hệ thống DH tự nhiên và tích cực. Ở đó,
kiến thức của HS có cơ hội được hình thành, tiến hóa và phát triển từ việc thích nghi với
các tác động phản hồi của môi trường mà không cần nhiều can thiệp của GV. Những tác
động phản hồi này giúp HS tự đánh giá sản phẩm của mình để đi đến chấp nhận hay loại
bỏ nó mà không cần đến những đánh giá của người thầy. Chẳng hạn, HS có thể nhận
thấy chiến lược ban đầu của mình gặp trở ngại, đi đến kết quả không đúng hay trở nên
quá đắt giá (tốn thời gian và công sức). Những điều chỉnh, thay đổi và sáng tạo nhằm
thích nghi với các phản hồi của môi trường sẽ giúp HS khám phá được tri thức mới. Quá
trình này diễn ra có vẻ là tự nhiên nhưng lại được cài đặt trong những tình huống thích
hợp được xây dựng theo một logic nội tại của việc tiến triển tri thức. HS không ý thức
được là các em đang dần đi theo một kịch bản sư phạm đã được tính toán trước, và ý đồ
DH tri thức sẽ ẩn dấu đằng sau môi trường mà GV cố ý xây dựng trong tình huống. Tất
nhiên là sau khi tìm được lời giải cho vấn đề đặt ra HS có thể vẫn chưa biết là mình đã
tìm ra một tri thức có thể dùng được cho những trường hợp khác. GV sẽ là người xác
nhận và giúp HS chuyển hóa tri thức vừa kiến tạo thành tri thức của chương trình, của
Việc dạy là sự ủy thác cho HS một tình huống lí tưởng thích hợp; còn việc học là sự thích
nghi của HS với tính huống này.
(Brousseau, 2006, tr. 31)
xã hội.
42
Lý thuyết tình huống chỉ ra các điều kiện sau đây cho một tình huống lí tưởng:
1/Tồn tại một chiến lược cơ sở, nghĩa là với những hiểu biết đã có HS có thể sớm đưa
ra một phương án trả lời ban đầu cho vấn đề.
2/Chiến lược cơ sở phải nhanh chóng tỏ ra không hiệu quả, khiếm khuyết, không phù
hợp để khiến cho HS phải thay đổi cách giải quyết.
3/HS có thể bắt đầu một chiến lược giải khác khi chiến lược cơ sở thất bại.
4/Tri thức nhắm đến cho phép HS chuyển từ chiến lược cơ sở qua chiến lược tối ưu.
5/Tồn tại môi trường có khả năng phản hồi thông tin giúp HS đánh giá được kết quả
hoạt động của mình để từ đó điều chỉnh quan niệm, kiến thức của mình nhằm tìm đến
chiến lược tối ưu cho vấn đề đặt ra.
Tuy nhiên không phải lúc nào HS cũng có thể tìm được ngay một chiến lược giải
khác khi chiến lược cơ sở gặp thất bại, hơn nữa việc chuyển từ chiến lược cơ sở sang
chiến lược tối ưu có thể cần những bước nhảy nhận thức mà người học khó có thể tự
mình làm được. Đây là lúc cần sự giúp đỡ của GV với mức độ và liều lượng vừa phải
tùy vào tính chất khó khăn mà HS phải đối mặt. Một tình huống DH mà GV góp mặt
trong vai trò người tổ chức, điều khiển và hướng dẫn HS giải quyết vấn đề được gọi là
tình huống didactic.
1.4.3. Biến dạy học
Lý thuyết tình huống đưa ra khái niệm biến DH (didactical variable) chỉ những yếu
tố của tình huống mà việc thay đổi giá trị của nó sẽ làm thay đổi đặc trưng của các chiến
lược giải (mức độ khó khăn, sự phức tạp, tính hợp thức,…). Biến DH là một khái niệm
quan trọng của lý thuyết tình huống vì nó giúp thấy được cách thức vận hành đặc trưng
của một tình huống lí tưởng: GV gián tiếp điều khiển quá trình học tập bằng cách chọn
các giá trị của biến DH một cách có dụng ý. HS học tập thông qua sự thay đổi các chiến
lược giải quyết vấn đề cài trong tình huống và sự tiến triển kiến thức sẽ gắn liền với sự
thay đổi của các chiến lược đó. Dưới góc nhìn này, một tình huống lí tưởng được chúng
tôi mô tả lại bởi sơ đồ 1.2 dưới đây.
43
Theo sơ đồ này thì quá trình
học tập được diễn ra một cách lí
tưởng như sau: GV ủy thác cho HS
một tình huống (hoặc một họ các
tình huống) trong đó đã cài đặt sẵn
một dãy các giá trị của biến DH mà
sự thay đổi của nó đã được thiết kế
trước. Khi giá trị của biến DH bị
thay đổi, nó làm cho đặc trưng của
các chiến lược giải tương ứng cũng Sơ đồ 1.2. Tình huống lí tưởng
biến đổi theo hướng gặp nhiều trở
ngại hơn: tốn thời gian, công sức, không đem đến kết quả hợp lí, hay thậm chí là không
thực hiện được. Những tác động phản hồi từ môi trường làm cho người học thấy rằng
chiến lược họ sử dụng trở nên “đắt giá” và không “hoạt động”. Để thích nghi được với
tình huống khi mà biến DH nhận một giá trị mới, HS phải cố gắng thay đổi chiến lược
giải của họ. Điều quan trọng là quá trình thiết kế và lựa chọn biến DH phải tuân theo
một logic nhận thức nội tại phù hợp với sự tiến triển của tri thức sao cho có thể dẫn dắt
người học dần tìm thấy một chiến lược tối ưu. Kiến thức mới sẽ ẩn phía sau chiến lược
tối ưu này như là kết quả hoặc phương tiện để giải quyết vấn đề đặt ra trong tình huống.
Chu trình học tập này còn giúp mang lại nghĩa cho tri thức vì nó cho thấy được lí do tồn
Lý thuyết tình huống thực hiện việc phân tích các biến của thực hành DH và khám phá
mối quan hệ của nó với quá trình sản sinh ra tri thức toán học.
(González-Martín et al., 2014, tr. 118)
tại cũng như vai trò công cụ của tri thức đang nói tới.
1.5. Đồ án dạy học
1.5.1. Khái niệm đồ án dạy học
Theo Artigue (1992) thì ý tưởng về đồ án DH đã xuất hiện và phát triển trong cộng
đồng nghiên cứu didactic toán của Pháp từ đầu những năm 1980 và đóng vai trò như
một phương pháp luận nghiên cứu trong giáo dục toán học. Artigue (2014, tr. 159) định
Một phương pháp luận nghiên cứu dựa trên quá trình thiết kế và TN có điều chỉnh của
chuỗi các tình huống DH và tuân theo một kiểu hợp thức nội tại từ việc đối chứng giữa
phân tích tiên nghiệm và hậu nghiệm của quá trình đó.
nghĩa đồ án DH là:
44
Trong vai trò là một phương pháp luận nghiên cứu, định nghĩa này chỉ ra rằng việc
xây dựng một đồ án DH trải qua nhiều công đoạn. Bắt đầu từ việc thiết kế chuỗi các tình
huống DH và phân tích trước những gì sẽ diễn ra (phân tích tiên nghiệm), đến quá trình
thực hiện TN, quan sát và ghi nhận kết quả để xem xét những gì đã diễn ra (phân tích
hậu nghiệm). Cuối cùng, quá trình kiểm chứng TN sẽ dựa trên sự hợp thức nội tại của
đồ án, nghĩa là so sánh giữa phân tích tiên nghiệm và hậu nghiệm sau đó tất cả các công
đoạn này có thể được điều chỉnh để trở nên thích hợp hơn. Theo Brousseau (2008) thì
đồ án DH là một cách thuận lợi để xây dựng và kiểm tra những tình huống DH mới cũng
như sự hiệu quả mà nó đem lại theo cách có thể điều chỉnh được. Artigue (2000) cũng
cho rằng, đồ án DH đem đến một công cụ cho phép kiểm tra tính hợp thức của các giả
thuyết khoa học mà lý thuyết tình huống đặt ra.
1.5.2. Các bước để xây dựng một đồ án dạy học
Theo González-Martín et al. (2014) thì những bước sau đây cần thực hiện để xây
dựng một đồ án DH: 1/Phân tích tri thức luận (gắn với những đặc trưng của tri thức);
2/Tìm hiểu nhận thức cá nhân của người học về tri thức (gắn với những đặc trưng của
HS); 3/Phân tích thể chế (gắn với các đặc trưng của hệ thống giáo dục và DH); 4/Phân
tích các biến DH của tình huống được sử dụng trong đồ án; 5/Phân tích tiên nghiệm để
xác định cách mà sự lựa chọn biến DH ảnh hưởng đến chiến lược của HS (tập trung chủ
yếu vào các yếu tố lí tưởng của tình huống).
Artigue (2014) đưa ra bốn pha sau đây trong việc xây dựng một đồ án DH (tr. 160):
các phân tích chuẩn bị; thiết kế và phân tích tiên nghiệm; tiến hành TN và quan sát; thu
thập dữ liệu, phân tích hậu nghiệm và hợp thức hóa.
• Các phân tích chuẩn bị: thường bao gồm ba chiều chủ yếu là: Phân tích tri thức luận;
phân tích những điều kiện và chướng ngại mà đồ án phải đối mặt; và phân tích về những
cái mà nghiên cứu giáo dục phải cung cấp để hỗ trợ cho việc thiết kế.
• Phân tích tiên nghiệm: Pha này gồm bước thiết kế và phân tích trước khi tiến hành
TN, các giả thuyết nghiên cứu cũng được xây dựng trong quá trình này. Để thiết kế một
- Tìm kiếm những tình huống cơ sở, nghĩa là những tình huống toán học mà tóm lược
được bản chất khoa học luận của khái niệm.
- Phân tích những đặc trưng của môi trường mà HS sẽ tương tác để tối ưu các hỗ trợ cho
hoạt động học tập độc lập của người học và những tác động phản hồi thích hợp.
đồ án DH, nhà nghiên cứu cần phải thực hiện những công việc sau:
- Tổ chức lại quá trình ủy thác và thể chế hóa bởi GV, một mặt, phải làm cho HS nhận
lấy nhiệm vụ toán học mà họ phải giải quyết, mặt khác lại phải kết nối những kiến thức
mà họ tạo ra với kiến thức mà nhà trường đang nhắm đến.
(Artigue, 2014, tr. 160)
45
Vai trò của phân tích tiên nghiệm là làm rõ mối liên hệ giữa quá trình thiết kế, sự
lựa chọn biến DH với giả thuyết đã đặt ra. Phân tích này nhằm dự kiến được những hiện
tượng có thể xảy ra dựa trên những động lực tiềm năng của tình huống, tương tác của
HS với môi trường, các chiến lược giải có thể của HS và sự tiến triển của các chiến lược
đó. Cụ thể hơn, theo Trần Anh Dũng (2013, tr. 38) thì phân tích tiên nghiệm phải làm
- Các biến DH có thể tác động trong tình huống DH tri thức, những chiến lược hay câu
trả lời có thể xuất hiện (đặc biệt là chiến lược tối ưu) và ảnh hưởng của biến trên chiến
lược (câu trả lời).
- Những cái có thể quan sát được, minh chứng (dấu hiệu) của các chiến lược hay câu trả
lời.
- Những kiến thức ẩn đằng sau những chiến lược đó, nghĩa là những kiến thức mầm
mống cho sự nảy sinh các chiến lược.
- Những kiến thức khác có thể nảy sinh và các lựa chọn (giá trị của biến) tạo ra điều
kiện cho sự nảy sinh đó.
rõ được các yếu tố sau đây:
• Tiến hành thực nghiệm: Trong pha này, các dữ liệu từ TN sẽ được ghi nhận lại để
chuẩn bị cho pha phân tích hậu nghiệm tiếp theo. Tùy theo mục đích của đồ án DH, giả
thuyết nghiên cứu cần kiểm chứng và các dự kiến trước đó trong phân tích tiên nghiệm
mà những dự liệu này sẽ được lựa chọn và tổ chức một cách thích hợp.
• Phân tích hậu nghiệm: Là xem xét tình huống thực tế đã diễn ra và phân tích đối
chứng giữa những cái dự kiến trước trong phân tích tiên nghiệm với các dữ liệu thu được
từ quá trình TN. Những dữ liệu nào phù hợp với phân tích tiên nghiệm, ý nghĩa của
những điểm hội tụ và phân kì giữa hai phân tích và làm thế nào để giải thích chúng sẽ
là những câu hỏi phải trả lời trong pha này. Sự đối chứng giữa phân tích tiên nghiệm và
hậu nghiệm là cơ sở cho việc kiểm chứng giả thuyết nghiên cứu đã đặt ra và bản chất
của tính hợp thức là ở nội tại của tình huống, chứ không phải là sự so sánh bên ngoài
giữa một nhóm HS được TN và một nhóm đối chứng.
Những trình bày ở trên cho thấy một mối quan hệ mật thiết giữa lý thuyết đồ án DH
với các lý thuyết khác của Didactic Toán mà đặc biệt là lý thuyết tình huống. Đồ án DH
46
dựa vào lý thuyết tình huống để xây dựng và thực hiện những tình huống nhắm đến mục
đích hình thành tri thức toán học mới cho HS. Tri thức toán học mới này sẽ xuất hiện
như là một công cụ toán học tối ưu để giải quyết bài toán đặt ra và sự lựa chọn các biến
DH sẽ giúp dẫn dắt người học đến với chiến lược tối ưu đó. Theo chiều ngược lại,
phương pháp luận nghiên cứu của lý thuyết đồ án DH cung cấp những bước thích hợp
để xây dựng và phân tích trước các tình huống DH cũng như để kiểm chứng được tính
hợp thức của các giả thuyết nghiên cứu dựa vào sự so sánh giữa phân tích tiên nghiệm
và hậu nghiệm.
1.6. Kết luận chương 1: những nghiên cứu cần triển khai
Mục đích nghiên cứu của chúng tôi là muốn đem lại một cách hiểu đầy đủ hơn cho
HS về hai khái niệm đạo hàm, tích phân và giúp các em ứng dụng được hiệu quả các
kiến thức này trong Vật lí. Theo đó, các cơ sở lí luận được trình bày ở chương này đã
giúp làm rõ thế nào là cách hiểu đầy đủ về một khái niệm toán học và những yếu tố cần
tính đến để ứng dụng nó trong Vật lí. Các mô hình và chiến lược LM được giới thiệu
giúp chỉ ra những cách thức đạt được mục đích nói trên từ hướng tiếp cận LM Toán –
Vật lí.
Đi sâu vào các mục tiêu nghiên cứu cụ thể. Hai mục tiêu nghiên cứu đầu tiên chúng
tôi đặt ra là: làm rõ mối quan hệ LM giữa Toán và Vật lí từ cả góc độ tri thức luận (mối
quan hệ gắn kết hỗ trợ lẫn nhau diễn ra trong lịch sử) và sư phạm (sự thể hiện của tính
LM này trong thể chế DH Toán và Vật lí) đối với hai khái niệm đạo hàm và tích phân.
Để đạt được các mục tiêu này, một nghiên cứu tri thức luận, một nghiên cứu thể chế và
cả một nghiên cứu sự chuyển hóa sư phạm liên quan đến hai khái niệm đạo hàm và tích
phân sẽ cần phải thực hiện. Bên cạnh đó, lý thuyết tình huống và đồ án DH sẽ được
chúng tôi vận dụng trong việc thiết kế và triển khai TN các công đoạn DH khái niệm
đạo hàm, tích phân theo hướng tiếp cận LM. Sự hợp thức hóa nội tại theo lý thuyết của
đồ án DH còn là cơ sở để chúng tôi kiểm chứng tính khả thi của các giải pháp sư phạm
và giả thuyết nghiên cứu đã đặt ra.
Các kết luận nói trên chỉ ra những nghiên cứu sau đây cần được triển khai trong
luận án:
• Nghiên cứu tri thức luận theo định hướng liên môn
Nếu nhìn từ định hướng LM thì phân tích tri thức luận không thể chỉ tập trung vào
bản thân đối tượng tri thức đang bàn đến mà còn phải làm rõ hai chiều tác động hỗ trợ
47
lẫn nhau giữa GT và Vật lí đã diễn ra trong lịch sử. Theo đó, nghiên cứu tri thức luận
cần phải giúp trả lời các câu hỏi sau:
- Những bài toán nào của Vật lí là động lực cho sự ra đời và tiến triển của các khái
niệm GT, đạo hàm và tích phân nói riêng?
- Những tri thức, hay ngữ cảnh vật lí nào đem đến sự hỗ trợ cho việc hiểu sâu sắc
hơn các khái niệm cơ bản của GT và mối quan hệ giữa chúng?
- Việc vận dụng đạo hàm và tích phân trong các bài toán và ngữ cảnh vật lí nói trên
mang đến cho các tri thức này những nghĩa gì?
- Mối quan hệ gắn kết giữa Toán với Vật lí đã giúp các nhà toán học vượt qua những
chướng ngại trong việc hiểu rõ hai khái niệm đạo hàm và tích phân như thế nào?
- Vật lí đã sử dụng các công cụ đạo hàm và tích phân ra sao?
Một nghiên cứu tri thức luận theo định hướng làm rõ sự gắn kết giữa GT và Vật lí
sẽ được chúng tôi thực hiện trong chương 2 của luận án.
• Nghiên cứu thể chế theo định hướng liên môn
Để thấy được sự hỗ trợ lẫn nhau giữa hai môn học Toán và Vật lí trong việc DH
đạo hàm và tích phân ở nhà trường, chúng tôi cho rằng nghiên cứu thể chế phải chỉ rõ
được những điều sau đây:
- Đạo hàm và tích phân xuất hiện ở đâu trong SGK toán và vật lí. Ở đó nó mang ý
nghĩa gì và giúp giải quyết những vấn đề nào?
- Ngữ cảnh và các vấn đề của Vật lí hỗ trợ ra sao trong việc giúp hình thành khái
niệm đạo hàm và tích phân ở thể chế DH Toán?
- Công cụ toán học mà đạo hàm và tích phân mang lại giúp giải quyết được những
vấn đề gì trong chương trình vật lí THPT?
- Những điều kiện và ràng buộc nào cần phải thỏa mãn để đảm bảo cho một sự nối
khớp LM hợp lí giữa Toán và Vật lí liên quan đến hai khái niệm đạo hàm và tích
phân?
- Từ quan điểm DH LM, những kiểu nhiệm vụ nào gắn với việc sử dụng đạo hàm
và tích phân, kĩ thuật giải quyết là gì và đâu là cơ sở lý thuyết cho việc giải thích
những ứng dụng của hai khái niệm này trong các vấn đề của Vật lí?
Nghiên cứu này sẽ được chúng tôi thực hiện trong chương 3 của luận án.
• Nghiên cứu sự chuyển hóa sư phạm
48
Chúng tôi sử dụng linh hoạt lý thuyết chuyển hóa sư phạm khi xem xét đối tượng
chuyển hóa không chỉ là bản thân tri thức toán học mà còn là những gắn kết và hỗ trợ
lẫn nhau giữa các ngành khoa học trong quá trình hình thành và phát triển tri thức đó.
Một cách cụ thể, chúng tôi sẽ trả lời các câu hỏi sau đây:
- Trong thể chế tạo ra tri thức, sự gắn kết Toán – Vật lí đã diễn ra như thế nào?
- Trong thể chế DH Toán và Vật lí ở trường THPT, sự gắn kết nói trên thể hiện ra
sao? Những gắn kết LM giữa GT và Vật lí có được tận dụng hợp lí và hiệu quả trong
việc DH hai khái niệm đạo hàm và tích phân hay không?
- Sự nối khớp theo hướng tiếp cận LM giữa hai thể chế DH Toán và Vật lí có được
đảm bảo hay không?
- Cần phải điều chỉnh hay bổ sung những gì để đem đến nhiều lợi ích hơn cho người
học ở cả hai khía cạnh hiểu và ứng dụng khái niệm?
Nghiên cứu này được trình bày trong chương 3 dựa trên các kết quả thu được từ việc
phân tích thể chế.
• Nghiên cứu xây dựng các giải pháp sư phạm theo hướng liên môn
Nghiên cứu này được thực hiện ở chương 4. Cụ thể, bằng cách vận dụng các mô
hình, chiến lược LM cùng với các kết quả thu được từ nghiên cứu tri thức luận và thể
chế nói trên, chúng tôi đề ra các giải pháp sư phạm nhằm tận dụng mối quan hệ liên môn
Toán – Vật lí trong DH khái niệm đạo hàm, tích phân.
• Nghiên cứu xây dựng đồ án DH hai khái niệm đạo hàm và tích phân dựa trên các
tình huống có sự gắn kết liên môn Toán – Vật lí
Dưới sự soi sáng của lý thuyết tình huống, một nhiệm vụ quan trọng mà chúng tôi
phải thực hiện là tìm kiếm các tình huống lí tưởng từ nguồn gốc tri thức luận sao cho
vừa tận dụng được các gắn kết LM Toán – Vật lí và vừa tạo điều kiện tối ưu cho hoạt
động tự kiến tạo tri thức ở người học. Những tình huống LM như vậy có thể tìm thấy từ
sự ra đời và tiến triển của đạo hàm và tích phân trong lịch sử. Đó sẽ là hạt nhân để chúng
tôi thiết kế hoạt động học tập và lựa chọn các biến DH một cách hợp lí nhằm đem đến
cho người học cách hiểu đầy đủ hơn về khái niệm đồng thời tăng cường vai trò công cụ
của chúng trong các vấn đề vật lí.
Bên cạnh đó, phương pháp luận nghiên cứu có được từ lý thuyết đồ án DH cũng
giúp chúng tôi thấy rõ những bước cần phải thực hiện để thiết kế các tình huống DH phù
hợp với mục đích đặt ra. Theo lý thuyết này, chúng tôi tìm thấy cơ sở để kiểm chứng giả
49
thuyết khoa học của mình bằng cách đối chiếu giữa phân tích tiên nghiệm và hậu nghiệm
của đồ án đã thiết kế. Sự hợp thức hóa nội tại của đồ án mà chúng tôi xây dựng sẽ dựa
trên các cơ sở sau đây:
- Sự hội tụ (phù hợp) hay phân kỳ giữa phân tích tiên nghiệm và hậu nghiệm.
- Các kết quả nghiên cứu về tri thức luận và mối quan hệ thể chế đối với đạo hàm,
tích phân theo định hướng LM.
- Vận dụng các mô hình và chiến lược DH LM để tận dụng những tác động tương hỗ
giữa hai môn học Toán và Vật lí.
- Nghiên cứu xây dựng đồ án DH và tổ chức TN với đối tượng HS THPT để góp phần
chứng tỏ tính khả thi và hợp lí của các giải pháp đã đề xuất.
50
CHƯƠNG 2
ĐẠO HÀM, TÍCH PHÂN: MỐI QUAN HỆ GẮN KẾT GIỮA GIẢI TÍCH
VÀ VẬT LÍ NHÌN TỪ LỊCH SỬ
2.1. Mục tiêu của chương và định hướng thực hiện
Mục tiêu của chương 2 là tìm câu trả lời cho câu hỏi nghiên cứu Q1: Mối quan hệ
gắn kết, hỗ trợ lẫn nhau giữa Toán học và Vật lí học đã diễn ra như thế nào trong lịch
sử hình thành và tiến triển hai khái niệm đạo hàm, tích phân? Kết quả này sẽ là cơ sở
để xem xét việc DH chúng trong nhà trường (chương 3), đề xuất các giải pháp DH theo
hướng LM (chương 4), cũng như chuẩn bị cho quá trình xây dựng và thiết kế đồ án DH
(chương 5). Lưu ý rằng tuy nói là nghiên cứu sự gắn kết giữa Toán học với Vật lý học,
chúng tôi sẽ chỉ tập trung chủ yếu vào GT – lĩnh vực mà trong đó đạo hàm và tích phân
được đề cập đến. Toán học tổng quát chỉ được nhắc đến khi GT chưa ra đời.
Nghiên cứu mối quan hệ gắn kết này có bản chất là một phân tích tri thức luận với
hai khái niệm đạo hàm và tích phân và nó giúp làm rõ hai chiều tác động tương hỗ lẫn
nhau trong lịch sử giữa Vật lí học với Toán học. Để vận dụng những gợi ý về ba chiến
lược LM của Nikitina và Mansilla (mục 1.1.3), nghiên cứu tri thức luận ở chương này
còn giúp làm rõ những bối cảnh lịch sử có thể được tận dụng để DH các khái niệm đạo
hàm, tích phân theo quan điểm LM. Chúng tôi sẽ xem xét các nghĩa của tri thức đã hình
thành trong lịch sử, tìm xem nghĩa tổng quát nào cho phép ứng dụng đạo hàm và tích
phân trong nhiều vấn đề của Vật lí. Nghiên cứu tri thức luận cũng cần cho thấy sự tiến
triển tự nhiên trong lịch sử hình thành khái niệm để tìm kiếm được họ các tình huống cơ
sở cho phép xây dựng được các nghĩa đúng cho nó.
Đã có nhiều nghiên cứu bàn về lịch sử phát triển của GT (Boyer, 1959; Edwards,
2012; Eves, 1976; Grabiner, 1983; Kleiner, 2001; Perkins, 2012; Stillwell, 2002) cũng
như việc khai thác lịch sử vào DH ở nhà trường (Bressoud, 2011; Doorman & Van
Maanen, 2008; Lê Thị Hoài Châu, 2014; Katz, 2000). Những công trình nói trên cùng
với một số tác phẩm khác về lịch sử vật lí (Oliveira, 2014) là nguồn tài liệu mà chúng
tôi sử dụng để tổng hợp và phân tích mối liên hệ gắn kết hỗ trợ lẫn nhau giữa hai ngành
khoa học đang bàn đến đối với sự ra đời và tiến triển của hai khái niệm đạo hàm, tích
phân. Cũng phải nói thêm rằng, một số kết quả từ những nghiên cứu tri thức luận trước
51
đó của chúng tôi về khái niệm đạo hàm và tích phân (Ngô Minh Đức, 2013, 2016, 2017b)
chỉ được giới thiệu tóm lược để bổ sung các luận điểm cần thiết.
2.2. Quan hệ gắn kết giữa Toán học với Vật lí học trong lịch sử hình thành và tiến
triển của đạo hàm, tích phân
2.2.1. Thời kì cổ đại
Hình học chắc chắn là một động lực quan trọng cho sự ra đời và phát triển của đạo
hàm, tích phân trong nỗ lực đi tìm lời giải cho hai bài toán “xác định tiếp tuyến” và “tính
diện tích các hình cong”. Tuy nhiên, ngay từ khi bắt đầu, Vật lí học nói chung và đặc
biệt là Cơ học nói riêng cũng đóng góp một vai trò không kém phần quan trọng cho sự
phát triển của GT - chứ không chỉ đạo hàm, tích phân. Lý giải cho điều này chính là đặc
trưng của các đối tượng mà GT nghiên cứu: GT xem xét các quá trình biến thiên liên
tục, mà chuyển động cơ học lại là một mô hình thực tế cho những quá trình như vậy.
Để hiểu được nguồn gốc của GT, chúng ta phải trở về thời kì Hy Lạp cổ đại và bắt
đầu với những nghịch lý của Zeno (khoảng 450 trước công nguyên) khi xem xét quá
trình chuyển động cơ học liên tục của một vật thể. Một chất điểm muốn vượt qua quãng
đường từ điểm A đến điểm B có chiều dài 1𝑚 rõ ràng là phải lần lượt vượt qua các đoạn
đường dài Và vì quá trình này được tiếp diễn đến vô hạn nên nghịch lý Zeno
nói rằng mọi chuyển động là không thể thực hiện được, nghĩa là chất điểm chuyển động
không bao giờ đến đích. Nghịch lý này chỉ ra một khó khăn trong việc mô tả các hiện
tượng biến thiên (ở đây là chuyển động) theo ngôn ngữ của toán học. Liệu rằng mỗi
đoạn đường dù nhỏ thế nào đều có thể chia làm hai? Nếu quả thật là luôn chia được như
vậy thì số các đoạn đường phải vượt qua sẽ là vô hạn và lúc này nghịch lý Zeno có thể
phát biểu theo cách khác: tổng vô hạn liệu có bằng 1 không?
Thực tại vật lí cho thấy mũi tên sẽ đến đích và vì vậy tổng vô hạn nói trên thật sự
phải bằng 1 – là một lượng hữu hạn. Điều này có thể đã đem đến cho các nhà bác học
cổ đại ý tưởng về việc tính toán một đại lượng từ một quá trình lấy tổng vô hạn các đại
lượng khác. Phương pháp “vét kiệt” mà Edoxus và Archimedes sử dụng để tính diện
tích các hình có yếu tố cong là một minh họa cho việc sử dụng ý tưởng nói trên. Như
vậy là ý tưởng về tổng vô hạn ra đời rõ ràng là có một phần đóng góp từ việc xem xét
các chuyển động cơ học liên tục và là tiền đề ra đời cho phép tính tích phân sau này.
Chúng tôi sẽ làm rõ sự xuất hiện ngầm ẩn của phép tính tích phân bằng cách trích dẫn ở
52
đây phương pháp lập tổng vô hạn mà Archimedes đã áp dụng để xác định diện tích tam giác Parabol4:
Xét “tam giác parabol” được
tạo từ một parabol bị chắn bởi dây
cung AB (hình 2.1). Archimedes xác
định điểm C mà tại đó tiếp tuyến của
parabol song song với AB (điều này
làm cho chiều cao của tam giác ABC
kí hiệu là ∆, và “chiều cao tam giác
Parabol” là bằng nhau). Gọi D và E
là hai điểm trên hai cung AC và BC Hình 2.1. Tính diện tích tam giác Parabol
sao cho tiếp tuyến tại đó song song
với các dây cung tương ứng, ông chứng minh được tổng diện tích hai tam giác ADC và
tam giác CEB bằng diện tích tam giác ABC. Tiếp tục quá trình trên và lập tổng tất
cả các tam giác tạo thành ông vét cạn tam giác parabol bằng một tổng vô hạn:
Archimedes tất nhiên là chưa dùng đến tổng vô hạn của cấp số nhân hay phép toán
giới hạn mà thay vào đó ông chứng minh tính đúng đắn của kết quả này bằng phương
pháp phản chứng (hai lần đưa đến vô lý).
Không chỉ là một nhà toán học vĩ đại, Archimedes còn là một nhà vật lí kiệt xuất.
Chính ông đã đóng góp một phát minh quan trọng cho Cơ học trong thời cổ đại với việc
giới thiệu cơ sở của tĩnh học: sự cân bằng của đòn bẩy đòi hỏi sự cân bằng của các
moment về hai phía. Điều rất đáng chú ý là ông đã sử dụng nguyên lý cân bằng này của đòn bẩy để khám phá ra công thức tính thể tính của các hình khối khác nhau5. Để minh
hoạ, có thể xem xét cách mà Archimedes dùng để xác định thể tích hình cầu mà chúng
tôi giới thiệu ở phần Phụ lục 1 (trang PL1). Trong phương pháp “cơ học” của mình, ông
đã sử dụng tư tưởng chia nhỏ, cân bằng moment ở hai đầu đòn bẩy rồi lập tổng “các lát
cắt nhỏ” để xác định thể tích một hình từ thể tích của các hình đã biết. Ở đây, Archimedes
Archimedes đã bị thất lạc từ lâu.
4 Tham khảo từ Perkins (2012), tr. 6-7. 5 Thật ra điều này chỉ được biết đến vào năm 1906 khi người ta tìm ra bản sao luận văn “Phương pháp” của
53
đưa ra tư tưởng về một độ lớn có thể được xem là hợp của rất nhiều những bộ phận rất
nhỏ, và bằng việc tính toán trên các bộ phận rất nhỏ này sau khi lấy tổng sẽ thu được kết
quả chính xác cho đại lượng ban đầu.
➢ Tiểu kết 1: Việc xem xét chuyển động cơ học liên tục của một vật thể dẫn đến chỗ
phải đối mặt với các quá trình vô hạn. Các nhà bác học cổ đại đứng trước hai quan điểm.
Quan điểm thứ nhất dẫn đến giả định rằng một đại lượng có thể chia nhỏ được vô hạn,
trong khi theo quan điểm thứ hai thì đại lượng đó được hợp thành từ một số rất lớn các
nguyên tử rất nhỏ không thể phân chia. Giả định đầu là cơ sở cho phương pháp vét kiệt,
còn giả định sau đem đến những lợi ích khác trong việc tìm kiếm các kết quả tính diện
tích và thể tích bằng cách thao tác trên các phần rất nhỏ xem như nguyên tử trước khi
hợp chúng lại. Các nhà toán học cổ đại mà nổi bật nhất là Archimedes đã sử dụng phương
pháp vét kiệt để thu được những kết quả đẹp đẽ cho phép đo các hình có yếu tố cong.
Archimedes thậm chí đã sử dụng tư tưởng chia nhỏ một hình thành các hình nguyên tố
cùng với những nguyên lí của cơ học để chứng minh được nhiều công thức tính toán
diện tích hay thể tích của chúng.
Hiện thực vật lí, cụ thể là các chuyển động cơ học liên tục đã góp phần quan trọng
vào việc xuất hiện những tư tưởng về tổng vô hạn và các đại lượng vô cùng bé mà sau
đó là tiền đề cho sự phát sinh GT. Nói riêng, tư tưởng của phép tính tích phân đã xuất
hiện ngay từ thời kì này, khi các đại lượng đã được tính bằng quy trình gồm các bước:
chia nhỏ chúng thành hữu hạn hoặc vô hạn các đại lượng rất nhỏ (nguyên tố, nguyên tử
hay vô cùng bé); lập tổng các đại lượng nguyên tố này rồi chuyển qua giới hạn (một cách ngầm ẩn) để có được đại lượng ban đầu6. Bên cạnh đó, trong giai đoạn này các đại
lượng hình học và vật lí thường được liên hệ và là mô hình thay thế cho nhau, chẳng
hạn như thể tích với khối lượng. Việc áp dụng các định luật vật lí cũng góp phần đem
đến giải pháp cho quá trình tìm kiếm công thức tính toán trên các đại lượng hình học
(như đã thể hiện trong phương pháp “cơ học” của Archimedes).
2.2.2. Thời kì tiền Giải tích (sau Archimedes và trước Newton – Leibniz)
• Vận dụng các tư tưởng ban đầu của tích phân trong Vật lí học
Những công trình của Archimedes đến được Tây Âu vào thời kì trung cổ, và tại đây
các phương pháp của ông đã vượt ra khỏi Hình học (tính diện tích, thể tích, chiều dài
chỉ dự đoán kết quả của tổng vô hạn và chứng minh tính đúng đắn bằng phương pháp phản chứng.
6 Tư tưởng chuyển qua giới hạn vẫn chưa xuất hiện tường minh ở thời kì này, thay vào đó các nhà toán học
54
đường cong) để áp dụng vào các bài toán khác của Vật lí học trong một số công trình
của Steven, Kepler, Galileo, … Lấy cảm hứng từ tư tưởng ẩn trong phương pháp vét
kiệt của Archimedes, các nhà khoa học nói trên đã phát triển phương pháp chia nhỏ và
lập tổng vô hạn để giải quyết nhiều vấn đề theo một cách thực dụng. Họ loại bỏ đi tính
chặt chẽ toán học trong các chứng minh của Archimedes (dựa trên phép phản chứng)
mà chỉ tập trung vào việc tìm kiếm được kết quả hợp lí cho đại lượng ban đầu khi xem
xét nó như một tổng của các thành phần nguyên tố.
Một trong những nhà khoa học đầu tiên ở Tây Âu sử dụng phương pháp của
Archimedes lại là một kĩ sư vật lí: Simon Stevin (1548 – 1620) đã sử dụng phương pháp
chia nhỏ thành các hình nguyên tố trong một số công trình của ông về thủy tĩnh học và
xác định trọng tâm vật rắn. Để minh họa cho
phương pháp của Stevin, có thể xem cách lập luận
của ông để tìm ra trọng tâm của một hình tam
giác. Stevin phủ tam giác 𝐴𝐵𝐺 bởi tập hợp các dải
hình bình hành được chia ngày càng mỏng. Bằng
cách tìm trọng tâm của hình ghép bởi các dải hình
bình hành này, Stevin xác định được trọng tâm
của tam giác đang xét (lập luận chi tiết được trình Hình 2.2. Stevin xác định
bày đầy đủ ở Phụ lục 1, trang PL2). Stevin cũng trọng tâm tam giác
dùng phương pháp tương tự trong các công trình
khác về thủy tĩnh học. Chẳng hạn ông xác định được áp lực của chất lỏng tác động lên
một đập hình chữ nhật thẳng đứng bằng cách chia đập đó ra thành những dải mỏng nằm
ngang.
• Đồ thị hóa sự thay đổi
Một vấn đề vật lí khác cũng góp phần quan trọng trong sự phát triển của GT đó là
bài toán liên quan đến vật rơi tự do, và rộng hơn là những chuyển động có vận tốc biến
đổi. Vấn đề khó khăn là làm thế nào để biểu diễn các đại lượng biến đổi liên tục, chẳng
hạn như trường hợp chuyển động nhanh dần đều và làm sao để tìm quãng đường đi được
trong một chuyển động như vậy. Liên quan đến vấn đề này, Nichole Oresme đã có một
đóng góp quan trọng. Cụ thể thì khi nghiên cứu về mối quan hệ giữa các đại lượng biến
thiên, ông đã phát minh ra một yếu tố toán học mới để mô tả chúng: biểu diễn đồ thị (là
điềm báo trước của khái niệm hàm số và hình học GT sau này).
55
Chẳng hạn khi khảo sát sự phân bố nhiệt độ trên
một cái xà, Oresme mô tả sự biến thiên liên tục bằng
cách xem nhiệt độ mỗi thời điểm như một đoạn thẳng
hoặc các dải hình chữ nhật vuông góc với trục ngang
(xem thêm Phụ lục 1, trang PL2). Biểu diễn đồ thị
nói trên còn cho phép Oresme tìm ra một cách thức
mới để xác định tổng lượng thay đổi trong một biến
đổi liên tục: đó là diện tích của hình giới hạn bởi đồ
Hình 2.3. Oresme mô tả sự biến thiên bằng đồ thị rời rạc
thị.
• Tính quãng đường trong chuyển động có vận tốc biến đổi đều
Oresme còn áp dụng kĩ thuật đồ thị này để
biểu diễn cho một chuyển động có vận tốc biến
đổi theo thời gian. Trên hình 2.4, đoạn AB biểu
thị trục thời gian, các đoạn vuông góc với AB
biểu diễn cho vận tốc tức thời tại mỗi thời điểm
và diện tích của hình biểu diễn cho tổng quãng
đường đi được. Cách hiểu này cho phép Oresme Hình 2.4. Quãng đường trong chuyển động nhanh dần đều xác định quãng đường trong chuyển động biến
đổi đều bằng con đường hình học. Theo đó quãng đường bằng diện tích hình thang dưới
Oresme không giải thích rõ tại sao diện tích giới hạn bởi đồ thị hàm vận tốc biểu thị cho
quãng đường đi được. Có thể ông cho rằng diện tích là tập hợp vô số đường thẳng mà mỗi
đường đại diện cho vận tốc trong thời gian rất ngắn.
(Carl B. Boyer, 1959, tr.84)
• Quãng đường rơi tự do7
đồ thị vận tốc và bằng tích của vận tốc trung bình với khoảng thời gian chuyển động:
Cho đến tận đến thế kỉ 16, người ta thường vẫn chấp nhận rằng thời gian để một
vật rơi xuống đất thì tỉ lệ nghịch với khối lượng của nó. Điều này là di sản truyền lại từ
lý thuyết của Aristotle và vì vậy mối quan hệ chính xác giữa quãng đường và thời gian
rơi của vật vẫn chưa được phát hiện ra trong suốt một khoảng thời gian dài.
7 Những phân tích ở mục này tham khảo từ Doorman & Van Maanen, 2008, tr. 7-8.
56
Năm 1618, Isaac Beeckman đã sử dụng tư tưởng chia nhỏ của Archimedes và
phương pháp đồ thị hóa chuyển động của Oresme để thiết lập mối quan hệ giữa quãng
đường rơi tự do và thời gian. Ông hình dung có một lực kéo vật xuống trong quá trình
rơi tự do và xấp xỉ lực này bằng các lực gián đoạn – ông gọi chúng là những cái “giật
ngắn”. Sau mỗi khoảng thời gian 𝑡, một cái giật như vậy làm tăng vận tốc lên bởi một
lượng không đổi 𝑔. Mỗi quãng đường nhỏ tăng thêm bằng với diện tích của các hình
chữ nhật tương ứng. Bằng cách tính tổng các quãng đường nhỏ này Beeckman thu được công thức tính quãng đường: 𝑠(𝑡) = 𝑐. 𝑡2 (lập luận đầy đủ của Beeckman được chúng
tôi giới thiệu trong Phụ lục 1, trang PL3).
Galileo cũng thông báo một kết quả tương tự như của Beeckman (độ dời của một vật rơi tự do từ trạng thái nghỉ 𝑡 = 0 thì tỉ lệ với 𝑡2) trong một bức thư gửi đi năm 1604.
Galileo không chỉ giải thích được mối quan hệ bậc hai này từ phương pháp đồ thị của
Oresme mà còn tìm ra cách kiểm tra sự đúng đắn của nó bằng TN (thực nghiệm của
Galileo dựa trên chuyển động của một vật lăn theo mặt phẳng nghiêng được nói rõ ở
Phụ lục 1, trang PL4) Nhận định về những thành tựu này của Oresme và Galileo, Boyer
(1959) cho rằng: “Oresme và Galileo đã sử dụng công cụ hình học để giải quyết vấn đề,
tuy chưa được chặt chẽ về mặt toán học nhưng đây là giải pháp hợp lí nhất khi mà tích
phân chưa được hình thành” (tr. 83).
• Định lý cơ bản của GT và những động lực từ Vật lí
Khi Oresme cho rằng quãng
đường chuyển động của một vật bằng
với diện tích dưới đồ thị vận tốc – thời
gian, có thể ông đã nghĩ về việc chia
diện tích dưới đồ thị thành một số các
dải hình chữ nhật mỏng thẳng đứng,
tương ứng với các khoảng thời gian Hình 2.5. Đồ thị vận tốc theo thời gian của Oresme nhỏ.
Trong mỗi khoảng thời gian như vậy vận tốc gần như không đổi, và như vậy tích
của nó với khoảng thời gian (cũng chính là diện tích của dải) sẽ xấp xỉ với quãng đường
đi được trong khoảng thời gian đó. Bằng cách cộng tất cả các dải mỏng này, có thể thấy
rằng tổng diện tích bằng với tổng quãng đường. Liệu đây có phải hay không là lập luận
57
của Oresme, và nếu như vậy thì ông thậm chí đã có cái nhìn lướt qua mối liên hệ quan
trọng này giữa quãng đường và vận tốc.
Mối quan hệ giữa quãng đường và vận tốc phản ánh mặt động học của định lí cơ
bản, mà để hiểu được nó cần phải giải quyết được hai bài toán. Bài toán thứ nhất là xác
định quãng đường khi biết vận tốc. Bài toán thứ hai theo chiều ngược lại là mô tả và xác
định vận tốc khi biết trước quãng đường hay quỹ đạo chuyển động. Như đã nói ở trên,
để giải bài toán thứ nhất Oresme xem quãng đường như là diện tích của hình giới hạn
bởi đồ thị của vận tốc trong chuyển động biến đổi đều. Để giải quyết bài toán thứ hai,
các nhà toán học tìm thấy sự hữu ích của quan niệm xem đường cong như quỹ đạo của
một điểm chuyển động và vectơ vận tốc tức thời cùng hướng với tiếp tuyến đường cong.
Chẳng hạn, ta có thể tìm thấy quan niệm này trong lời giải do Roberval đề xuất khi
xem xét chuyển động theo đường Cycloid (một đường cong có được từ quỹ đạo của một
điểm trên đường tròn khi đường tròn này lăn trên một đường thẳng). Cụ thể, ông phân
tích chuyển động của một điểm trên đường Cycloid thành hai phần: một là tịnh tiến theo
phương ngang và thành phần còn lại là chuyển động quay theo quỹ đạo tròn. Vì lẽ đó,
để tìm được tiếp tuyến của đường cong này, Roberval đã xem vận tốc của điểm chuyển
động như là tổng của hai vectơ vận tốc thành phần: một có độ lớn không đổi theo phương
ngang và vận tốc còn lại theo phương tiếp tuyến với đường tròn. Roberval sau đó chỉ ra
rằng trong chuyển động theo quỹ đạo đường Cycloid, vận tốc có giá trị bằng với độ dốc
tiếp tuyến của đồ thị quãng đường – thời gian.
Mối quan hệ đảo ngược giữa vận tốc và quãng đường có lẽ đã được biết đến khoảng
năm 1640 bởi Torricelli. Ông nhận ra tính đảo ngược này từ việc xem xét cách giải quyết
hai bài toán tìm quãng đường và vận tốc:
Quãng đường là diện tích của đồ thị vận tốc (đối với thời gian).
Vận tốc là độ dốc tiếp tuyến của đồ thị hàm số quãng đường (đối với thời gian).
Từ mối liên hệ giữa các bài toán xác định đại lượng vật lí và đại lượng hình học
tương ứng, Torricelli dường như đã có cái nhìn thoáng qua mối quan hệ đảo ngược giữa
vận tốc và quãng đường mà có thể xem là phản ánh vật lí của định lí cơ bản. Ông thậm
chí còn sử dụng các đại lượng vật lí để giải quyết ngược trở lại bài toán tìm tiếp tuyến
của đường cong parabol bằng cách phân tích một chuyển động theo hai thành phần – rơi
tự do theo phương thẳng đứng và chuyển động đều theo phương ngang (Phụ lục 1, trang
PL4).
58
Phương pháp của Torricelli sau đó còn được mở rộng bởi Barrow cho một đường
cong bất kì. Cụ thể hơn, Barrow phân tích chuyển động dọc theo một đường cong tùy ý
như là tổng hợp của hai chuyển động – một theo phương ngang (mà có thể luôn được
xem như đều) và một theo phương dọc. Phương tiếp tuyến của đường cong sẽ được xác
định theo tỉ số của “vận tốc rơi” (phương dọc) chia cho “vận tốc chuyển động bên”
(phương ngang).
Vào lúc này, định lí cơ bản có một phiên bản hình học trong biểu diễn đồ thị của
các hàm số mà có thể phát biểu rằng “độ dốc là phép toán ngược của diện tích”. Nghĩa
là, nếu ta bắt đầu với đồ thị của một đại lượng bất kì (không nhất thiết phải là vận tốc),
áp dụng phép toán “diện tích” và sau đó là phép toán “độ dốc”, chúng ta sẽ thu trở lại
được đại lượng ban đầu. Một định lý như vậy được phát biểu đầu tiên bởi Isaac Barrow
trong Lectiones Geometricae năm 1670. Nó đã rất gần với định lí cơ bản, nhưng không
hoàn toàn, bởi vì các khái niệm nền tảng của GT là đạo hàm và tích phân còn chưa xuất
hiện một cách tường minh và có hệ thống. Vào thời điểm đó vẫn chưa có một phương
pháp tổng quát về việc tính toán độ dốc và diện tích của các đường cong. Như vậy, chính
từ mối liên hệ giữa vận tốc và quãng đường trong Vật lí và giữa tiếp tuyến và độ dốc ở
trong Hình học mà các nhà toán học đã chuẩn bị sẵn sàng những điều kiện cần thiết cho
sự ra đời của định lí cơ bản.
➢ Tiểu kết 2:
Ngay cả khi chưa có tích phân, tư tưởng chia nhỏ, lập tổng, … đã cho phép giải
quyết nhiều vấn đề của Vật lý học, với một sự chấp nhận kết quả thiếu tính chặt chẽ (ở
bước cuối cùng – ngầm ẩn chuyển qua giới hạn). Những ứng dụng này giúp các nhà
khoa học nhận ra sức mạnh ngầm ẩn của một phương pháp toán học đã xuất hiện từ cổ
đại.
Nhu cầu biểu diễn các đại lượng biến thiên liên tục (như vận tốc rơi tự do) đưa đến
việc phát minh phương pháp đồ thị của Oresme. Dựa vào phương pháp này, người ta
tìm ra một biểu diễn mới cho quãng đường đi được là diện tích dưới đường cong vận
tốc. Mối liên hệ ẩn sau phương pháp xác định các đại lượng vật lí như quãng đường –
vận tốc hay đại lượng hình học như diện tích – tiếp tuyến là bước chuẩn bị quan trọng
cho sự ra đời của GT sau đó.
2.2.3. Cơ học cổ điển của Newton và vai trò công cụ của Giải tích
Newton và Leibniz được lịch sử công nhận là đã độc lập phát minh ra GT. Hai ông
đã nắm bắt được các phương pháp giải quyết bài toán tiếp tuyến và diện tích đã xuất
59
hiện trước đó và tổng hợp chúng thành hai khái niệm tổng quát: đạo hàm và tích phân.
Bên cạnh đó, Newton và Leibniz còn đưa ra những lập luận chứng minh cho định lí cơ
bản cho thấy mối quan hệ giữa hai khái niệm đạo hàm và tích phân. Newton cũng chính
là người có công lớn trong việc tạo ra sự kết nối chặt chẽ giữa GT và Vật lí trong lịch
sử. Dưới đây chúng tôi giới thiệu một số ứng dụng của GT trong các công trình về Cơ
học của Newton cũng như cách hiểu của ông về đạo hàm và tích phân theo ngôn ngữ
vật lí.
• Mối quan hệ giữa chuyển động và lực tác động
Một phát minh quan trọng trong Cơ học được Newton tìm ra khi xem xét mối quan
hệ giữa lực tác động và chuyển động của vật thể. Trong “Các nguyên lý toán học của
triết học tự nhiên”, tác phẩm nổi tiếng nhất của mình, Newton đã phát biểu ba định luật
quan trọng về chuyển động, trong đó định luật thứ hai chỉ ra rằng: sự biến thiên của động
lượng tỉ lệ với lực tác động lên vật và có hướng là hướng của lực đó”. Theo ngôn ngữ
của GT hiện nay thì định luật này có thể được phát biểu ở dạng:
(nếu khối lượng 𝑚 không đổi). Vậy là mọi thay đổi trong trạng thái chuyển động của
vật đều được gây ra bởi lực tác động và lực này tỉ lệ với đạo hàm cấp hai của hàm tọa
độ chất điểm. Vì thế, nếu biết được lực tác động chúng ta có thể tính toán được vectơ
gia tốc, từ đó xác định được quỹ đạo của chất điểm đang xét.
Như đã phân tích trên, thực ra thì vấn đề xác định chuyển động của vật thể khi biết
vectơ gia tốc đã được giải quyết trước đó trong một số trường hợp đặc biệt (chẳng hạn
như rơi tự do hay đạn bắn ra), bởi các nhà khoa học như Roberval hay Galileo. Tuy
nhiên, Newton là người đầu tiên phát triển và xây dựng một cách hệ thống các công cụ
của GT cho phép giải quyết vấn đề tổng quát. Từ điểm này, chúng ta nhận thấy rằng Cơ
học đã cung cấp một lớp bài toán rộng lớn là động lực để làm xuất hiện và tiến triển các
tư tưởng của GT nói chung, hai phép toán đạo hàm và tích phân nói riêng.
Ở một khía cạnh khác, Newton và nhiều nhà nghiên cứu GT thời đó tin rằng liên
tục là một thuộc tính thiết yếu của các hàm số. Tuy nhiên, lúc bấy giờ cách duy nhất để
họ có thể biểu thị được tính liên tục là dựa vào sự phụ thuộc của một vận tốc hoặc một
độ dời theo thời gian. Ở điểm này, Cơ học đã mang đến các mô hình thực tại về quá
trình biến thiên liên tục là đối tượng nghiên cứu thích hợp cho GT.
• Các định luật của Kepler và định luật đảo ngược bình phương của Newton
60
Kepler là một trong những nhà thiên văn học đầu tiên áp dụng các tư tưởng của
phép tính tích phân để tính những diện tích liên quan đến định luật thứ hai của ông về
quỹ đạo của thiên thể. Ông giải thích những quan sát có được về sao Hỏa bằng cách chỉ
ra rằng quỹ đạo của nó là Elip, với mặt trời ở tại một tiêu điểm. Những nghiên cứu sau
đó giúp Kepler đưa ra ba định luật sau đây về chuyển động của các hành tinh:
1/Quỹ đạo của mỗi hành tinh là một elip, với mặt trời tại một tiêu điểm.
2/Đường nối từ mặt trời đến hành tinh quét được các diện tích bằng nhau trong những
khoảng thời gian bằng nhau.
3/Chu kì chuyển động của một hành tinh quanh mặt trời tỉ lệ với , trong đó R là
một nửa trục chính của quỹ đạo hành tinh.
Đáng chú ý là Newton đã sử dụng kết quả định luật thứ ba của Kepler và phép tính
vi phân của GT để chỉ ra rằng lực hấp dẫn giữa hai vật tỉ lệ nghịch với bình phương
khoảng cách. Cụ thể Newton giả thiết một hành tinh chuyển động theo quỹ đạo tròn
quanh mặt trời với độ lớn vận tốc không đổi. Sử dụng phép tính vi phân và lấy đạo hàm,
ông tính được vận tốc dài và chu kì quay của hành tinh quanh mặt trời. Từ kết quả định
luật ba của Kepler, Newton chứng minh được gia tốc của chuyển động tỉ lệ nghịch với
bình phương bán kính. Mặt khác, Newton biết rằng lực bằng tích của khối lượng với gia
tốc nên cũng tỉ lệ nghịch với bình phương khoảng cách giữa hành tinh với mặt trời
(chứng minh đầy đủ của Newton có ở Phụ lục 1, trang PL5).
• Đạo hàm và tích phân theo ngôn ngữ của Newton
Dù ban đầu cũng tiếp cận với ý tưởng mới trong các phương pháp tìm tiếp tuyến
của Fermat và đặc biệt là Barrow, khái niệm đạo hàm mà Newton xây dựng nên lại dựa
trên cơ sở những quan niệm đến từ Vật lí học. Trong công trình “Phương pháp thay đổi
liên tục và các chuỗi vô hạn” (được viết vào khoảng 1671 nhưng đến 1736 mới xuất
bản), Newton xây dựng các yếu tố của GT trên cơ sở khái niệm chuyển động, và đạo
Newton xem một đường cong được sinh ra bởi chuyển động liên tục của một điểm. Các ) được xem là biến đổi theo “thời gian”8, và tốc
đại lượng (kí hiệu bởi các chữ cái
độ biến đổi của chúng (chính là đạo hàm) được Newton gọi là sự thay đổi liên tục và kí
là một khoảng
hiệu bởi những chữ cái đó nhưng với dấu chấm trên đầu (𝑥̇, 𝑦̇ , 𝑧̇). Gọi
hàm được xem như là tốc độ biến đổi của một đại lượng theo thời gian.
lượng x nào đó tăng đều đặn cùng với thời gian thực. Tức là có thể xem
.
8 “Thời gian” ở đây không nhất thiết phải hiểu theo nghĩa đen mà có thể được thay thế bởi một đại
thời gian vô cùng bé, thì
và chính là khái
(độ thay đổi của x trong quãng thời gian niệm “vi phân” ngày nay) được ông gọi là “moment” của đại lượng x.
(Boyer, 1959, tr. 194)
61
Newton hiểu về tích phân như một sự tích lũy (tổng của các lượng gia tăng liên tục)
của một đại lượng mà tốc độ biến đổi của nó đã được biết. Ngôn ngữ của Newton có
mối quan hệ mật thiết với chuyển động của một thực thể hình học trong một hệ tọa độ.
Tọa độ y biểu thị cho vận tốc thay đổi của đại lượng (diện tích hay chiều dài) và tọa độ
x biểu thị cho thời gian. Việc gắn chuyển động và thời gian với hình học là một nét đặc
trưng riêng biệt trong kĩ thuật động học của Newton. Bên cạnh đó, Newton cũng sử dụng
ngữ cảnh của chuyển động để cung cấp một cách nhìn trực quan cho quá trình tiến tới
giới hạn của tỉ lệ của hai đại lượng dần đến không.
➢ Tiểu kết 3: Newton đã phát minh GT với mục đích tạo ra công cụ thích hợp phục vụ
cho các tính toán trong những công trình về cơ học của ông. Các bài toán của GT trong
giai đoạn này gắn chặt với những đại lượng và quá trình cơ học liên tục và chính chúng
đem đến điểm tựa cho sự phát triển các ý tưởng và vận dụng GT trong nhiều hiện tượng
tự nhiên.
Công cụ đạo hàm và tích phân khi ứng dụng vào khoa học Vật lí cho phép giải
quyết hai bài toán phổ quát: tìm tốc độ biến thiên của một đại lượng khi biết hàm số mô
tả nó và tính toán sự tích lũy của một đại lượng khi biết tốc độ biến thiên của đại lượng
đó. Một trường hợp riêng của hai bài toán này là xác định vận tốc khi biết hàm số quãng
đường và ngược lại. Bên cạnh vấn đề tìm tiếp tuyến, bài toán tìm vận tốc cũng chính là
nguồn động lực chính cho sự ra đời của phép tính đạo hàm. Ngoài hai bài toán đã nói,
công cụ GT còn đem đến quyền lực to lớn cho việc giải mã các hiện tượng của tự nhiên,
ví dụ như nghiên cứu xem các vật hút nhau theo một lực như thế nào, hay với các tương
tác đã biết thì vật sẽ chuyển động ra sao?
Cuối cùng, trực quan vật lí tác động đến cách hiểu và ngôn ngữ của Newton khi
trình bày về GT. Ông quan niệm một đường cong hình học như chuyển động liên tục
của một chất điểm, tích phân như một đại lượng tích lũy nào đó và đạo hàm là tốc độ
biến thiên của chúng. Đạo hàm và tích phân trong giai đoạn này đã được xây dựng rõ
ràng thành những khái niệm cơ bản và là cơ sở cho GT. Những ảnh hưởng của cách nhìn
vật lí lên cách mà người ta trình bày và sử dụng GT đã nói lên rất nhiều điều về mối liên
hệ chặt chẽ giữa Vật lí học và GT trong suốt quá trình hình thành và phát triển.
62
2.2.4. Những đóng góp của Giải tích vào sự phát triển sau đó của Vật lí
Sau sự ra đời của GT, đặc biệt đạo hàm và tích phân, là cả một thời kì nở rộ những
ứng dụng phong phú và đa dạng của ngành toán học này trong Vật lí học, đặc biệt là Cơ
Các nhà toán học cố gắng sử dụng GT để giải quyết được ngày càng nhiều các bài toán
vật lí và đã nhanh chóng nhận ra mình phải biết ơn nó như thế nào khi đã giải quyết được
hàng loạt những vấn đề rất mới. Họ thậm chí còn làm được hơn nhiều những gì đã mong
muốn.
(Morris Kline, 1972, tr. 468).
học.
Vật lí học giúp đưa vào Toán học khái niệm về sự biến thiên liên tục và GT đem
lại công cụ để nghiên cứu sự biến thiên đó (chẳng hạn đạo hàm giúp xác định tốc độ
biến thiên). Các hiện tượng tự nhiên được mô tả bằng cách thiết lập các phương trình vi
phân hay phương trình đạo hàm riêng mà việc giải chúng sẽ cho phép nhà khoa học tìm
ra quy luật vật lí ẩn phía sau hiện tượng đó. Một minh họa cho điều này là cách mà Euler
đã thực hiện để tìm ra quy luật dao động của con lắc lò xo năm 1739. Ông thiết lập được
một phương trình vi phân mô tả dao động của con lắc lò xo từ công thức tính lực đàn
hồi và định luật hai Newton, sau đó giải nó để tìm ra được sự phụ thuộc của li độ theo
thời gian là một hàm số dạng 𝑠𝑖𝑛. Đến gần giữa thế kỉ 18, phương trình vi phân đã trở
thành một công cụ toán học hữu hiệu nhất để nghiên cứu Vật lí và nó cho thấy sự gắn
GT đem đến công cụ định lượng cho việc giải quyết những vấn đề của Vật lí. Nó cung cấp
các biểu thức toán học chính xác cho các khái niệm nền tảng như chuyển động, liên tục,
biến thiên, và vô hạn (…). Những phương trình quan trọng nhất của Cơ học, Thiên văn,
và Vật lí nói chung đều là phương trình vi phân và tích phân – vốn đã nảy mầm từ thế kỷ
17.
(Kleiner, 2015, tr. 138)
kết mật thiết giữa hai ngành khoa học này trong việc nghiên cứu tự nhiên.
Trong giai đoạn này, sự hỗ trợ của GT đã giúp khoa học Vật lí có những bước phát
triển nhảy vọt. Nhiều khái niệm vật lí mới ra đời, được xác định hay thậm chí là được
định nghĩa theo phép toán tích phân hay đạo hàm. Chẳng hạn khi xem xét chuyển động
quay của vật rắn, Christiaan Huygens (1673) đưa ra khái niệm về moment quán tính.
Sau đó, Euler (1760) nghiên cứu đầy đủ hơn và đưa ra các khái niệm mới như: tâm khối
lượng, tâm quán tính và moment quán tính. Đối với một vật có khối lượng phân bố liên
tục, Euler đưa ra công thức tính moment quán tính bằng một tích phân:
63
(r là khoảng cách đến trục quay và dV là vi phân thể tích).
Một đại lượng vật lí quan trọng khác là
công cơ học cũng được Coriolis giới thiệu
năm 1835. Ông định nghĩa công sinh ra bởi
một lực biến đổi 𝐹(𝑥) trên một đoạn đường
như là một tích phân: .
Định nghĩa này bắt nguồn từ phương
pháp tính công khi lực biến đổi: chia nhỏ Hình 2.6. Công của lực biến đổi
quãng đường dịch chuyển để tính các công
nguyên tố, lập tổng của chúng rồi chuyển qua giới hạn để tính chính xác công toàn phần.
Cách tính này tương đương với việc lấy giới hạn của một tổng Riemann mà tích phân
lại là kết quả.
➢ Tiểu kết 4: Vật lí học trong một thời kì dài cung cấp những động lực giúp các khái
niệm như đạo hàm và tích phân có thể nảy sinh và phát triển. Ngược lại, các công cụ
của GT đóng vai trò quan trọng giúp giải quyết rất nhiều vấn đề vật lí và đặc biệt là
trong Cơ học. Thế kỉ 18 ghi dấu thời kì hoàng kim của việc ứng dụng GT trong nghiên
cứu vật lí và lý thuyết về phương trình vi phân là một trong những công cụ hữu hiệu
nhất. Cùng với những liên hệ ngầm ẩn trước đó, đạo hàm và tích phân khi vận dụng vào
các ngữ cảnh của Vật lí đã được khoác thêm những chiếc áo mới. Chẳng hạn, tích phân
có thể có “nghĩa” là công của lực biến đổi, là quãng đường, là moment quán tính. Trong
khi đó đạo hàm có thể mang nghĩa vật lí là vận tốc hay gia tốc tức thời, cường độ dòng
điện, suất điện động, v.v…
2.3. Đặc trưng tri thức luận của đạo hàm và tích phân
Phần này dành riêng cho đạo hàm, tích phân - các tri thức được xác định là đối
tượng nghiên cứu của chúng tôi. Chúng tôi sẽ trình bày tóm lược ở đây một số đặc trưng
tri thức luận rút ra từ nghiên cứu lịch sử nêu trên và từ một số công trình khác do chúng
tôi thực hiện đối với hai khái niệm đạo hàm, tích phân (Ngô Minh Đức, 2013; 2016;
2017b). Nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ những bài toán là động lực nảy sinh tri thức đang
nói đến và các nghĩa khác nhau của chúng.
2.3.1. Các bài toán là động lực nảy sinh và tiến triển của đạo hàm, tích phân
2.3.1.1. Đối với khái niệm đạo hàm
64
Trong lịch sử, có hai bài toán chủ yếu là nguồn gốc làm nảy sinh và tiến triển khái
niệm đạo hàm, một đến từ Hình học là bài toán xác định tiếp tuyến đường cong và cái
còn lại đến từ Vật lí là bài toán xác định vận tốc tức thời của chuyển động.
Bài toán thứ nhất đóng vai trò chủ
yếu trong việc làm nảy sinh khái niệm
đạo hàm. Cụ thể, trong phương pháp mà
các nhà toán học thế kỷ 17 (Fermat,
Descartes, John Wallis, Isaac Barrow) đề
xuất để giải quyết bài toán xác định tiếp
tuyến đường cong đã ngầm ẩn xuất hiện
khái niệm đạo hàm. Họ xem tiếp tuyến
như là vị trí “tới hạn” của cát tuyến và độ Hình 2.7. Bài toán xác định tiếp tuyến
dốc của cát tuyến sẽ trở
thành độ dốc của tiếp tuyến khi h dần đến không. Phương pháp này sau đó đã dẫn Leibniz
đi đến định nghĩa đạo hàm theo tỉ số các vi phân và cách hiểu đạo hàm như là độ dốc
tiếp tuyến.
Trong khi đó bài toán tìm vận tốc tức thời và những vấn đề của Vật lí học nói chung
đóng một vai trò quan trọng hơn trong giai đoạn tiến triển sau này của đạo hàm. Nói
riêng, nó đưa Newton đến với ý tưởng xây dựng GT trên cơ sở của chuyển động. Từ cái
nhìn vật lí, Newton đem đến cho đạo hàm một cách hiểu tổng quát hơn, đặc trưng cho
tốc độ biến thiên của một đại lượng theo một đại lượng khác.
Khái niệm đạo hàm sau khi được định nghĩa tường minh đã được dùng để giải quyết
nhiều vấn đề của Toán học và Vật lí học và một trong số chúng là vấn đề xấp xỉ hàm số.
Về chủ đề này, năm 1715 Taylor đã có một đóng góp quan trọng khi đưa ra công thức
khai triển sau:
Công thức này cho phép xấp xỉ hàm số 𝑓(𝑥) bởi một hàm đa thức. Trong trường
hợp đơn giản nhất, một hàm số có đạo hàm luôn xấp xỉ được bằng một hàm tuyến tính.
Cách hiểu hình học tương ứng là phần đường cong 𝑓(𝑥) sẽ xấp xỉ với tiếp tuyến của nó
quanh một lân cận “khá nhỏ” của tiếp điểm.
2.3.1.2. Đối với khái niệm tích phân
Bài toán tính diện tích các hình có yếu tố cong là nguồn động lực đầu tiên làm nảy
65
sinh các ý tưởng nền tảng của tích phân từ thời điểm cách đây khoảng 2500 năm. Để
tính diện tích các hình, người ta xấp xỉ nó bằng tập hợp các hình nguyên tố nào đó. Lập
tổng các diện tích nguyên tố này chúng ta sẽ có một giá trị gần đúng cho diện tích hình
ban đầu. Edoxus và Archimedes đã phát triển ý tưởng này thành phương pháp “vét kiệt”
cho phép chuyển qua giới hạn các tổng trên để xác định được chính xác diện tích cần
tìm. Tư tưởng về tích phân sau đó được phát triển bởi các nhà toán học thế kỉ 17 như
Pascal, Fermat,… cùng với sự ra đời của hình học GT giúp tính toán chính xác diện tích,
thể tích và độ dài các đường cong tạo bởi những hàm số bất kì.
Các bài toán vật lí (tính quãng đường chuyển động, trọng tâm vật rắn, hay các đại
lượng vật lí liên quan đến một đại lượng biến đổi khác) đóng vai trò quan trọng hơn
trong sự tiến triển sau này của khái niệm tích phân. Các nhà khoa học nhận ra sức mạnh
của tư tưởng tích phân có thể giúp họ giải quyết nhiều vấn đề khác nhau, đặc biệt trong
khoa học Vật lí. Sự phát triển sau đó của tích phân đưa nó trở thành một công cụ toán
học hiệu quả và mạnh mẽ trong việc nghiên cứu tự nhiên.
2.3.1.3. Đối với định lý cơ bản của Giải tích
Trong lịch sử, việc phát hiện ra mối quan hệ đảo ngược giữa hai khái niệm đạo hàm
và tích phân gắn bó mật thiết với quá trình tìm lời giải cho hai cặp bài toán đảo ngược
nhau – một từ Hình học và một từ Vật lí.
Cặp bài toán đảo ngược thứ nhất đến từ hình học: tìm độ dốc tiếp tuyến tại một
điểm của đường cong, và tìm diện tích của hình giới hạn bởi đường cong. Cặp bài toán
vật lí: mô tả, tính toán vận tốc khi biết quỹ đạo chuyển động (hàm số quãng đường), và
ngược lại. Hai cặp bài toán này đem đến hai phiên bản cho định lí cơ bản, một phiên bản
vật lí về mối quan hệ giữa vận tốc và quãng đường, và một phiên bản hình học giữa độ
dốc và diện tích. Kế thừa việc phát hiện ra mối quan hệ đảo ngược trong phương pháp
giải quyết hai cặp bài toán này của các nhà toán học đi trước (Torricelli, Barrow),
Newton và Leibniz tìm thấy điểm chung trong các phương pháp, từ đó xây dựng nên hai
khái niệm cơ bản của GT là đạo hàm và tích phân trong mối quan hệ đảo ngược giữa
chúng.
66
2.3.2. Các nghĩa của hai khái niệm đạo hàm và tích phân 2.3.2.1. Nghĩa của khái niệm đạo hàm9
Nghĩa hình học: Đạo hàm tại một điểm bằng hệ số góc của tiếp tuyến tại điểm ấy.
Nghĩa này cho phép giải quyết được bài toán xác định tiếp tuyến của đồ thị hàm số tại
một điểm.
Nghĩa xấp xỉ: Một trong những đặc trưng quan trọng của đạo hàm được tìm ra bởi
Lagrange qua biểu diễn của ông: , trong đó và
H tiến đến 0 cùng với h. Điều này cũng nói lên rằng, một hàm số có đạo hàm thì xấp xỉ
được bởi hàm số tiếp tuyến (hàm tuyến tính) ở gần lân cận của tiếp điểm và đạo hàm là
hệ số bậc nhất của hàm tuyến tính này. Xấp xỉ vừa nói được biểu diễn bằng công thức
sau đây: hay .
Nghĩa tổng quát: Đạo hàm là thước đo cho tốc độ thay đổi (biến thiên) của một
hàm số theo biến số của nó. 2.3.2.2. Nghĩa của khái niệm tích phân10
sẽ bằng diện tích hình phẳng giới hạn Nghĩa hình học: Nếu 𝑓(𝑥) ≥ 0 thì
bởi đồ thị 𝑦 = 𝑓(𝑥) với trục hoành từ a đến b.
Nghĩa nguyên hàm: , trong đó là một nguyên hàm
của . Nghĩa này cho thấy mối liên hệ giữa tích phân với nguyên hàm – là phép
toán đảo ngược của đạo hàm.
Nghĩa tổng quát (giới hạn tổng Riemann):
Nghĩa này thể hiện trong định nghĩa tích phân theo giới hạn tổng Riemann:
. Nó cung cấp kĩ thuật tính toán một đại lượng bằng cách
lấy tổng các tích giữa hàm số với số gia của đối số rồi chuyển qua giới hạn.
2.4. Kết luận chương 2 và những gợi ý sư phạm được rút ra
Chúng tôi sẽ kết thúc chương này bằng cách tóm lược những nét chính về mối quan
hệ gắn kết giữa GT và Vật lí trong suốt quá trình nảy sinh và tiến triển khái niệm đạo
9 Xem thêm Ngô Minh Đức (2016). 10 Xem thêm Ngô Minh Đức (2017b).
67
hàm, tích phân. Bên cạnh đó, từ kết quả nghiên cứu tri thức luận vừa thực hiện, chúng
tôi cũng rút ra một số gợi ý sư phạm quan trọng trong việc xây dựng hoạt động DH cho
các tri thức đang bàn tới.
Quá trình hình thành và tiến triển của hai khái niệm đạo hàm, tích phân trong lịch
sử nhận được sự hỗ trợ to lớn từ những “tài nguyên” đến từ khoa học Vật lí. GT nghiên
cứu trên những đại lượng biến thiên liên tục và ngay từ thuở ban đầu, Vật lí học mà nói
riêng là Cơ học đã cung cấp những mô hình thực tế cho chúng. Việc xem xét chuyển
động liên tục buộc các nhà khoa học cổ đại phải đối mặt với các quá trình vô hạn và dẫn
họ đến ý tưởng chia một đại lượng thành vô số các đại lượng vô cùng bé. Điều này góp
phần đưa đến tư tưởng của phương pháp vét kiệt, và sau này phát triển thành phép tính
tích phân. Bên cạnh đó, Vật lí học còn cung cấp nhiều vấn đề là động lực để đạo hàm,
tích phân vượt ra khỏi những ngữ cảnh hình học ban đầu và trở thành hai công cụ tổng
quát trong việc giải thích thế giới tự nhiên. Hơn nữa, Vật lí học còn góp phần hỗ trợ cho
việc phát hiện ra mối quan hệ giữa hai phép tính đạo hàm và tích phân – cột mốc quan
trọng nhất trong lịch sử GT. Cụ thể thì nhờ nhận ra sự đảo ngược trong phương pháp
giải quyết các bài toán động học (tính vận tốc và quãng đường) và mối liên hệ với các
bài toán hình học tương ứng (độ dốc tiếp tuyến và diện tích) đã đưa các nhà toán học
đến gần hơn với việc tìm ra định lí cơ bản của GT.
Với những hỗ trợ và động lực từ Vật lí, các nhà toán học đã phát triển đạo hàm và
tích phân thành hai khái niệm tổng quát (nền tảng cho ngành GT toán học). Chúng được
áp dụng trở lại vào Vật lí để giải quyết nhiều vấn đề khác nhau. Những ứng dụng đó
mang đến các ý nghĩa vật lí đa dạng cho hai khái niệm đang nói đến. Tiếp theo đây
chúng tôi sẽ trình bày một số ý tưởng sư phạm được rút ra từ nghiên cứu đã thực hiện.
• Vai trò của mô hình đồ thị rời rạc trong việc nảy sinh tư tưởng của phép tính tích phân
Phát minh phương pháp biểu diễn đồ thị một hàm số (lúc này được hiểu là một đại
lượng biến thiên theo một đại lượng khác) là một bước quan trọng trong lịch sử để gắn
kết GT với Hình học. Oresme đã sử dụng phương pháp này để biểu diễn và chứng minh
một số kết quả liên quan đến các đại lượng biến đổi. Chẳng hạn, ông kiểm tra được mối
quan hệ giữa vận tốc với quãng đường đi được và rút ra kết luận rằng quãng đường bằng
với một diện tích. Tuy nhiên để có được kết quả này, Oresme đã bắt đầu với mô hình đồ
thị rời rạc. Ông dùng các đoạn thẳng vuông góc hoặc dải hình chữ nhật mỏng để biểu
68
thị cho vận tốc tại mỗi thời điểm. Các yếu tố cơ bản này được ghép thành các hình mà
diện tích của chúng biểu thị cho quãng đường đi được.
Beeckman cũng sử dụng mô tả rời rạc nói trên khi xem một lực biến thiên liên tục
như là một chuỗi những các “giật nhỏ” – mỗi lực được xem là không đổi trong một
khoảng thời gian ngắn. Rõ ràng là việc nghiên cứu trên các đại lượng biến thiên liên tục
cần đến một mô hình đồ thị rời rạc làm trung gian. Trong lịch sử đã diễn ra một quá
trình phát triển biện chứng, từ việc sử dụng đồ thị rời rạc để mô tả chuyển động đến
những suy luận về diện tích và độ dốc, gắn kết nó với các đại lượng động học, từ đó làm
nảy sinh khái niệm tích phân.
Xem xét ở phương diện sư phạm: phương pháp tính tích phân theo giới hạn tổng
Riemann phải trải qua các bước: phân hoạch (chia nhỏ), lập tích giá trị hàm số với số
gia đối số, lập tổng các tích này và cuối cùng là xác định giới hạn của tổng vừa thu được
khi số gia đối số tiến dần về 0. Quá trình này phải gắn liền với biểu diễn đồ thị của hàm
số và cần giúp HS thấy được rằng kết quả thu được phản ánh chính xác diện tích của
hình dưới đường cong. Những phân tích lịch sử ở trên đưa ra một gợi ý cho việc thiết
kế tình huống DH khái niệm tích phân theo cách hiểu giới hạn tổng Riemann: chúng ta
có thể bắt đầu với việc giới thiệu mô hình đồ thị rời rạc thay vì là một đường cong liên
tục. Gắn nó với ngữ cảnh động học, một vận tốc biến đổi có thể được xấp xỉ rời rạc bởi
một dãy các vận tốc khác nhau nhưng không đổi trong các khoảng thời gian liên tiếp
(mô hình hàm bước). Quãng đường đi được lúc này có thể tính xấp xỉ bằng tổng các
quãng đường liên tiếp trên từng khoảng thời gian nhỏ (vận tốc được xem là không đổi
trên các khoảng thời gian này).
• Thấu hiểu mối quan hệ giữa đạo hàm và tích phân từ sự kết nối hai mặt động học
và hình học của định lý cơ bản
Thấu hiểu được mối quan hệ đảo ngược giữa đạo hàm và tích phân là một trong
những thách thức lớn nhất mà các nhà toán học gặp phải trong việc phát minh ra GT.
Thách thức này rõ ràng sẽ lại là trở ngại mà người học phải đối mặt trong việc hiểu hai
khái niệm đạo hàm và tích phân và mối quan hệ giữa chúng. Trong lịch sử, có hai dòng
chảy phân biệt liên quan đến cách hiểu và diễn đạt đạo hàm, tích phân thể hiện rõ nét
nhất trong các công trình của Newton và Leibniz. Leibniz diễn đạt theo cách nhìn hình
học: tích phân được hiểu như diện tích dưới đường cong (tổng của các diện tích vô cùng
bé) và đạo hàm được định nghĩa bởi độ dốc của tiếp tuyến. Trong khi đó, Newton đưa
69
ra cách hiểu động học khi xem tích phân như là sự tích lũy một đại lượng và đạo hàm
chính là tốc độ biến thiên của nó.
Việc phát hiện ra mối quan hệ đảo ngược giữa đạo hàm và tích phân cũng bắt nguồn
từ hai mặt hình học và vật lí nói trên. Cụ thể là nó đến từ việc nhận ra sự đảo ngược
trong quá trình giải hai cặp bài toán: xác định diện tích – tiếp tuyến và xác định quãng
đường – vận tốc. Chứng minh chặt chẽ cho định lí cơ bản được cả Leibniz và Newton
thực hiện dựa trên việc khảo sát cặp bài toán thứ nhất – nghĩa là chứng minh rằng cách giải bài toán tìm diện tích và tìm tiếp tuyến là hai quá trình đảo ngược nhau11. Tuy nhiên
chứng minh này thì không dễ hiểu, nhất là với đối tượng HS phổ thông, vì thế chúng ta
có thể tiếp cận nó từ mặt động học. Cách tiếp cận này sẽ đơn giản và trực quan hơn vì
bài toán tính quãng đường hay vận tốc rõ ràng là thân thuộc hơn với người học. Tuy
nhiên cũng phải nói thêm rằng cách tiếp cận vật lí này chỉ để giúp người học phát hiện
ra và ở một chừng mực nào đó hiểu được mối quan hệ giữa đạo hàm và tích phân mà
không chú trọng đến một chứng minh chặt chẽ trong ngữ cảnh toán học.
Bresssound, 2011, tr. 101-102.
11 Tham khảo chứng minh của Newton trong Saul Stahl, 2011, tr. 261-262. Và chứng minh của Leibniz trong
70
CHƯƠNG 3
ĐẠO HÀM, TÍCH PHÂN: MỘT NGHIÊN CỨU THỂ CHẾ TỪ QUAN
ĐIỂM LIÊN MÔN GIỮA GIẢI TÍCH VÀ VẬT LÍ
3.1. Mục tiêu của chương và định hướng thực hiện
Mục đích của chương này là trả lời câu hỏi nghiên cứu Q2: “Liên quan đến đạo
hàm, tích phân, mối quan hệ LM Toán – Vật lí đã thể hiện như thế nào trong chương
trình hiện hành và SGK các môn Toán, Vật lí dùng ở bậc THPT?”. Nghiên cứu của
chúng tôi nhắm đến việc làm rõ sự nối khớp giữa hai thể chế DH Toán và Vật lí (liên
quan đến hai đối tượng tri thức đạo hàm, tích phân) từ góc nhìn LM. Cụ thể hơn, chúng
tôi sẽ tìm hiểu mức độ, cách thức mà thể chế DH Toán và Vật lí hiện hành khai thác sự
hỗ trợ lẫn nhau giữa hai môn học cùng với những gắn kết tiềm năng cho phép mang lại
nhiều lợi ích đối với việc hiểu và ứng dụng các tri thức đang bàn đến.
Để đạt được mục đích nói trên, chúng tôi sẽ thực hiện một phân tích thể chế theo
định hướng LM như đã trình bày ở kết luận của chương 1. Chúng tôi nhắc lại những vấn
đề cần làm rõ trong chương này là:
- Đạo hàm và tích phân xuất hiện ở những đâu trong SGK Toán và Vật lí. Ở đó nó
mang những nghĩa và đặc trưng gì?
- Ngữ cảnh và các vấn đề của vật lí hỗ trợ như thế nào trong việc giúp hình thành
khái niệm đạo hàm và tích phân ở thể chế DH Toán?
- Đạo hàm và tích phân đem đến công cụ toán học giải quyết được những vấn đề gì
trong chương trình vật lí THPT?
- Những điều kiện và ràng buộc nào cần phải thỏa mãn để đảm bảo cho một sự nối
khớp LM hợp lí giữa Toán và Vật lí liên quan đến hai khái niệm đạo hàm và tích
phân?
- Từ quan điểm DH LM, những kiểu nhiệm vụ nào gắn với việc sử dụng đạo hàm
và tích phân, kĩ thuật giải quyết là gì và đâu là cơ sở lý thuyết cho việc giải thích
những ứng dụng của hai khái niệm này trong các vấn đề của Vật lí?
Nghiên cứu thể chế DH trong chương này dựa chủ yếu trên các SGK, sách bài tập
và sách giáo viên của hai môn học Toán, Vật lí. Ngoài ra, để cho gọn chúng tôi sử dụng
kí hiệu 𝐼𝑇 để thay thế cho thể chế DH Toán và kí hiệu 𝐼𝑉𝐿 thay cho thể chế DH Vật lí ở bậc THPT theo chương trình hiện hành.
71
3.2. Nghiên cứu mối quan hệ thể chế đối với khái niệm đạo hàm nhìn từ định hướng
liên môn
Trong luận văn Thạc sĩ bảo vệ năm 2013 với đề tài “Khái niệm đạo hàm trong dạy
học Toán và Vật lí ở trường phổ thông” (Ngô Minh Đức, 2013), chúng tôi đã tiến hành
một phân tích thể chế với khái niệm đạo hàm theo định hướng LM Toán – Vật lí. Để
tinh giản hơn trong việc trình bày luận án, ở đây chúng tôi chỉ tóm lược lại một số kết
quả đã có từ luận văn và bổ sung thêm các phân tích mới nhằm làm rõ mối quan hệ LM
giữa hai môn học Toán, Vật lí liên quan đến khái niệm đang bàn đến.
3.2.1. Đạo hàm trong thể chế 𝑰𝑽𝑳
Trong chương trình vật lí THPT, đạo hàm được sử dụng với hai mục đích chính: thước đo cho tốc độ biến thiên tức thời của một đại lượng12 và giải thích một số xấp xỉ
được sử dụng. Nói thêm là, đặc trưng tốc độ biến thiên là một dấu hiệu quan trọng để
nhận ra sự tác động của công cụ đạo hàm trong việc tính toán một đại lượng vật lí.
Để phù hợp với thời điểm đạo hàm được dạy ở môn Toán, quá trình sử dụng công
cụ này trong 𝐼𝑉𝐿 có thể được chia thành hai giai đoạn sau đây:
- Sử dụng một cách ngầm ẩn trong SGK vật lí lớp 10 và 11 (khi khái niệm đạo hàm
chưa xuất hiện trong môn Toán).
- Ứng dụng một cách tường minh trong SGK vật lí 12 (sau khi khái niệm đạo hàm
đã được dạy trong môn Toán).
3.2.1.1. Sử dụng ngầm ẩn trong sách giáo khoa Vật lí lớp 10 và 11
Trước thời điểm được giảng dạy chính thức ở chương trình môn Toán (cuối năm
lớp 11), đạo hàm đã xuất hiện ngầm ẩn ở nhiều tình huống khác nhau trong Vật lí. Ở các
tình huống này, đạo hàm đặc trưng cho tốc độ biến thiên tức thời của một đại lượng
khi rất bé (tiến dần đến 𝑢(𝑡) nào đó theo thời gian và được xác định bằng tỉ số
Xét vận tốc trung bình của chất điểm chuyện động thẳng trong khoảng thời gian từ t
đến t + ∆t. Chọn ∆𝐭 rất nhỏ, nhỏ đến mức gần bằng 0 … Khi đó vtb đặc trưng cho độ nhanh chậm và chiều của chuyển động. Ta có thể dùng vectơ vận tốc trung bình khi ∆t rất
nhỏ để đặc trưng cho phương, chiều, độ nhanh chậm của chuyển động và gọi đó là vectơ
0). Chúng tôi giới thiệu ở đây một số trích dẫn từ SGK Vật lí lớp 10 và lớp 11 ban nâng cao và SGK Vật lí lớp 11 cơ bản như là minh chứng cho kết luận vừa nêu13:
12 Chủ yếu là tốc độ biến thiên theo thời gian. 13 Những phân tích kĩ càng hơn có thể tham khảo ở Ngô Minh Đức, 2013, tr. 40-41.
vận tốc tức thời tại thời điểm t …
(SGK Vật lí 10 nâng cao, tr. 13-14)
Độ lớn của suất điện động cảm ứng trong mạch kín tỉ lệ với tốc độ biến thiên của
72
từ thông qua mạch … Nếu trong khoảng thời gian
đủ nhỏ, từ thông qua mạch biến
thiên một lượng
thì
là tốc độ biến thiên của từ thông qua mạch … Công thức
xác định suất điện động cảm ứng được viết dưới dạng sau:
.
(SGK Vật lí 11 nâng cao, tr. 186)
Suất điện động tự cảm có công thức:
. Suất điện động tự cảm có độ
(SGK Vật lí 10 cơ bản, tr. 186)
lớn tỉ lệ với tốc độ biến thiên của cường độ dòng điện trong mạch.
Như vậy, do nhu cầu của mình, SGK Vật lí đã sớm đưa vào khái niệm tốc độ biến
thiên tức thời và ngầm hiểu nó như là giới hạn của tốc độ biến thiên trung bình khi
“rất nhỏ”. Phép lấy giới hạn hoạt động ngầm ẩn ở đây, vì lúc này ngay cả khái niệm
“giới hạn” cũng chưa được nghiên cứu trong IT. Chẳng hạn theo trích dẫn trên thì suất
điện động cảm ứng được tính theo tốc độ biến thiên từ thông. Trong khi đó tốc độ biến
“đủ nhỏ”. Những cách tính toán này trong
thiên này lại được xác định bởi khi
Vật lí đem đến cho giới hạn tỉ số sai phân ý nghĩa là tốc độ biến thiên tức thời của
hàm số theo biến số của nó khi số gia ( rất nhỏ).
Chúng tôi nhận thấy có một chiều có thể khai thác theo quan điểm LM đã xuất hiện
trong thể chế 𝐼𝑉𝐿 khi nó cung cấp các bài toán là động lực giúp hình thành khái niệm đạo hàm. Đáng nói hơn là những ngữ cảnh này còn có thể đem đến cho đạo hàm cách
hiểu tốc độ biến thiên nhờ vào ý nghĩa vật lý của các đại lượng đang được tính toán. Sự
hỗ trợ này có được tận dụng khi dạy đạo hàm trong 𝐼𝑇 hay không sẽ được chúng tôi làm rõ ở các phân tích tiếp theo.
3.2.1.2. Sử dụng tường minh trong sách giáo khoa Vật lí lớp 12
Đạo hàm xuất hiện trong 𝐼𝑇 vào cuối năm lớp 11 thế nên nó đã được sử dụng tường minh trong nhiều nội dung của SGK Vật lí lớp 12, đặc biệt là ban nâng cao. Ở các tình
73
huống này, đạo hàm cũng được dùng với nghĩa tường minh là tốc độ biến thiên tức thời
của một đại lượng. Cụ thể, mỗi khi có một đại lượng đặc trưng cho tốc độ biến thiên của
một đại lượng khác, SGK Vật lí sẽ sử dụng đạo hàm để tính toán nó. Chúng tôi trích dẫn
Gia tốc góc tức thời (gọi tắt là gia tốc góc) của vật rắn quay quanh một trục ở thời
điểm t là đại lượng đặc trưng cho sự biến thiên của tốc độ góc ở thời điểm đó và được
ở đây một số ví dụ từ SGK Vật lí 12 nâng cao để làm rõ cho nhận định này:
xác định bằng đạo hàm của tốc độ góc theo thời gian.
(SGK Vật lí 12 nâng cao, tr. 6)
𝐝𝐄
(21.2). Biểu thức (21.2) cho
Vậy, biểu thức của dòng điện i sẽ có dạng: 𝐢 = 𝐂𝐝
𝐝𝐭
thấy có sự liên quan mật thiết giữa cường độ dòng điện trong mạch với tốc độ biến thiên
của cường độ điện trường trong tụ điện.
(SGK Vật lí 12 nâng cao, tr. 109)
Một điểm đáng chú ý SGK Vật lí sử dụng kí hiệu đạo hàm là (SGK Toán lớp
11 không hề giới thiệu kí hiệu này) và hiểu nó một cách tường minh là “tốc độ biến
thiên”. Cách hiểu này tiếp tục được sử dụng nhiều lần sau đó, chẳng hạn trong bài toán
xác định tốc độ phân rã phóng xạ (SGK Vật lí 12 nâng cao, tr. 270-271). Đặc biệt, chúng
tôi quan sát thấy bước chuyển trong việc sử dụng công cụ đạo hàm từ ngầm ẩn đến tường
minh trong trường hợp của bài toán xác định “suất điện động cảm ứng”. Cụ thể, như đã
trích dẫn ở mục trước, suất điện động cảm ứng ở SGK Vật lí 11 nâng cao được tính toán
theo tốc độ biến thiên: , với rất bé (Đạo hàm tác động một cách ngầm ẩn).
Cũng khái niệm này trong SGK Vật lí 12 nâng cao (tr. 63) lại được tính bởi đạo hàm
Vì từ thông
qua cuộn dây biến thiên theo t nên trong cuộn dây xuất hiện suất điện động
cảm ứng được tính theo định luật Fa-ra-đây:
một cách tường minh như sau:
Cùng một đại lượng vật lí, SGK Vật lí 11 nâng cao hiểu nó là tốc độ biến thiên còn
SGK Vật lí 12 nâng cao lại tính nó theo đạo hàm. Bước chuyển tiếp này tưởng chừng là
diễn ra tự nhiên, nhưng thật ra nó chỉ hợp lí nếu như đặc trưng tốc độ biến thiên của đạo
hàm được hình thành trong 𝐼𝑇 mà thôi.
Ở giai đoạn này, thể chế 𝐼𝑉𝐿 lại tiếp tục hỗ trợ cho việc hiểu khái niệm đạo hàm khi cung cấp những tình huống mà việc giải quyết chúng có sự tác động của cách hiểu tốc
74
độ biến thiên. Nó là cơ sở cho phép ứng dụng đạo hàm trong nhiều vấn đề của Vật lí,
thế nên nếu quan niệm tốc độ biến thiên không được xây dựng trong lớp học toán thì sự
nối khớp và hỗ trợ lẫn nhau giữa hai môn học khó có thể xảy ra.
3.2.1.3. Vấn đề giải thích các xấp xỉ xuất hiện trong Vật lí
Xem xét SGK và sách bài tập Vật lí THPT, chúng tôi phát hiện ra một số xấp xỉ
hàm số được sử dụng mà không có bất kì một lời giải thích nào về chúng. Chẳng hạn
trong bài phương trình dao động của con lắc đơn SGK Vật lí 12 nâng cao (tr. 37) có nêu
nhận xét sau: “𝛼 ≪ 1 𝑟𝑎𝑑 nên có thể coi gần đúng 𝑠𝑖𝑛𝛼 ≈ 𝛼”. Sách bài tập Vật lí 12
nâng cao còn đưa ra thêm một số xấp xỉ khác: “Với 𝜀 ≪ 1, có thể dùng những công thức
gần đúng: ; ” (tr. 79).
Lời giải thích cho các xấp xỉ này có thể tìm thấy từ đặc trưng xấp xỉ của một hàm
số có đạo hàm khi ta xấp xỉ hàm số bởi phương trình đường tiếp tuyến của nó quanh lân
cận đủ bé của tiếp điểm. Trách nhiệm của việc này có lẽ thuộc về thể chế DH Toán, nếu
không muốn áp đặt HS chấp nhận như hai trích dẫn trên.
3.2.1.4. Tiểu kết: về nhu cầu của IVL và tiềm năng mà IT có thể khai thác trong dạy
học khái niệm đạo hàm
Trước khi có mặt chính thức trong 𝐼𝑇, đạo hàm đã được thể chế 𝐼𝑉𝐿 sử dụng một cách ngầm ẩn như là công cụ nghiên cứu tốc độ biến thiên tức thời của một đại lượng
theo thời gian. Sau khi khái niệm này được giới thiệu ở 𝐼𝑇, SGK Vật lí 12 nâng cao sử dụng nó một cách tường minh và vẫn gắn với cách hiểu đạo hàm theo tốc độ biến thiên.
Bên cạnh đó trong nhiều tình huống, 𝐼𝑉𝐿 còn sử dụng các xấp xỉ hàm mà việc giải thích chúng cần đến sự tác động của đạo hàm (xấp xỉ tuyến tính).
Hai điều cần nhấn mạnh từ kết luận rút ra ở trên: Một là Vật lí đã cung cấp các ngữ
cảnh và vấn đề có thể làm nảy sinh khái niệm đạo hàm và mang lại nghĩa tốc độ biến
thiên tức thời cho nó. Hai là, thể chế DH Vật lí cần đến công cụ đạo hàm một cách tường
minh để giải quyết các vấn đề đặt ra mà ở đó có sự tác động của cách hiểu tốc độ biến
thiên và đặc trưng về xấp xỉ tuyến tính. Nhìn nhận hai điều trên từ quan điểm LM, chúng
tôi thấy được sự hỗ trợ đầy tiềm năng mà 𝐼𝑉𝐿 đã cung cấp trong việc giúp hiểu đầy đủ hơn khái niệm đạo hàm. Đến lượt mình, 𝐼𝑇 có tận dụng thích đáng những gắn kết LM này và liệu có đáp ứng những đòi hỏi mà 𝐼𝑉𝐿 cần đến hay không? Câu trả lời sẽ được làm sáng tỏ sau khi chúng tôi phân tích mối quan hệ giữa đạo hàm với thể chế 𝐼𝑇.
75
3.2.2. Đạo hàm trong thể chế 𝑰𝑻
Cần nhấn mạnh lại rằng, một phân tích thể chế đặc trưng của 𝐼𝑇 liên quan đến khái niệm đạo hàm đã được chúng tôi thực hiện trong luận văn Thạc sĩ của mình (Ngô Minh
Đức, 2013). Trong phần này, chúng tôi chỉ tóm tắt lại các kết quả chính rút ra từ nghiên
cứu đó và sẽ phân tích sâu hơn ở những biểu hiện LM giữa hai thể chế.
3.2.2.1. Các bài toán tạo động cơ nảy sinh khái niệm đạo hàm
SGK toán sử dụng các bài toán vật lí để tạo động cơ nảy sinh khái niệm đạo hàm.
Cụ thể, SGK Toán 11 cơ bản dẫn vào khái niệm từ hai bài toán vật lí: tìm vận tốc tức
thời và tìm cường độ dòng điện tức thời. Trong lúc đó, SGK Toán 11 nâng cao chỉ xem
xét duy nhất bài toán xác định vận tốc tức thời của vật rơi tự do.
Cách tiếp cận nói trên cho thấy các SGK trên đã tính đến quan điểm LM khi trình
bày khái niệm đạo hàm gắn với ngữ cảnh vật lí. Tuy nhiên phân tích sau đó chỉ ra rằng
cách tiếp cận này lại chưa thu được những lợi ích LM cần phải có – một trong số đó là
mang lại nghĩa tốc độ biến thiên tức thời cho khái niệm đạo hàm. Để làm rõ cho nhận
định này, phải thấy được đâu là mục đích mà SGK Toán 11 cơ bản muốn đạt được khi
giới thiệu hai bài toán vật lí nói trên.
Trước hết, SGK nhắc lại cách tính vận tốc trung bình (𝑣𝑡𝑏) và cường độ dòng điện
và , với 𝑠(𝑡) và 𝑄(𝑡) là hàm trung bình (𝐼𝑡𝑏) như sau:
và
số quãng đường và điện lượng theo thời gian. Sau đó lập luận rằng để có được vận tốc
tức thời và cường độ dòng điện tức thời cần tính các giới hạn
. Về đặc trưng vật lí, vận tốc trung bình được tính bởi thương số của sự
thay đổi quãng đường với sự thay đổi thời gian và sẽ phản
ánh tốc độ biến thiên trung bình của quãng đường theo thời gian. Tương tự, cường độ
dòng điện cho biết tốc độ thay đổi của điện lượng gửi qua một thiết diện thẳng của vật
dẫn theo thời gian. Tuy nhiên cách dẫn dắt của SGK toán không làm rõ được đặc trưng
Nhiều bài toán trong Vật lí, Hóa học, … đưa đến việc tìm giới hạn dạng
, trong đó
là một hàm số đã cho. Giới hạn trên dẫn tới một khái niệm quan trọng
trong toán học, đó là khái niệm đạo hàm.
này, thay vào đó chỉ đưa ra nhận xét sau đây:
(SGK Toán 11 cơ bản, tr. 148)
76
Như vậy, ý định của SGK toán là để đưa đến lí do tồn tại của một khái niệm có tên
là “đạo hàm” và được tính theo giới hạn có dạng: . Cách tiếp
cận như trên tất nhiên sẽ đem đến nghĩa vật lí cho đạo hàm là vận tốc và cường độ dòng
điện tức thời, tuy nhiên chưa làm nổi bật được ý tưởng tổng quát của đạo hàm là thước
đo cho tốc độ biến thiên của một đại lượng theo một đại lượng khác. Không thể chắc
chắn rằng SGK toán có ý định làm xuất hiện nghĩa tổng quát này hay không, tuy nhiên
thuật ngữ “tốc độ biến thiên” thì chưa bao giờ thấy được nhắc đến trong các nội dung liên quan đến khái niệm đạo hàm 14.
3.2.2.2. Ý nghĩa vật lí của đạo hàm
SGK Toán 11 cơ bản đưa ra ba ứng dụng của đạo hàm trong Vật lí thông qua các
công thức tính vận tốc, gia tốc và cường độ dòng điện tức thời: ,
và . Với SGK Toán 11 nâng cao thì chỉ có hai ứng dụng đầu
tiên được đề cập mà không giới thiệu bài toán tính cường độ dòng điện tức thời. Cả hai
bộ SGK toán đều không nêu ra đặc trưng chung trong các ứng dụng này của đạo hàm là
để tính toán tốc độ biến thiên của một đại lượng vật lí (theo thời gian). SGK Toán 11
nâng cao hình như có ý định làm việc này nhưng cách trình bày là khá “mập mờ” và
theo chúng tôi cũng chưa hợp lý. Chúng tôi sẽ làm rõ điều này từ việc phân tích cách
Bây giờ nếu
nhận một số gia
thì
nhận một số gia là
Khi
càng nhỏ (khác 0) thì
càng phản ánh chính xác sự biến thiên vận tốc của chất điểm
tại thời điểm
.
mà SGK Toán 11 nâng cao (tr. 217) giải thích về ý nghĩa của gia tốc tức thời:
Gia tốc sau đó được định nghĩa: , vì thế là đạo hàm của hàm vận tốc.
Cuối cùng, SGK toán còn đưa ra nhận xét: “Gia tốc tại thời điểm đặc trưng cho sự
biến đổi vận tốc của chuyển động tại thời điểm đó”.
Điểm bất hợp lí trong cách trình bày trên là ở chỗ, SGK toán cho rằng cả gia tốc 𝑎(𝑡0) và ∆𝑣 (khi ∆𝑡 rất nhỏ) đều phản ánh “sự biến thiên vận tốc tại thời điểm 𝑡0”. Điều này theo chúng tôi chỉ đúng với ∆𝑣 mà thôi. Đi tìm lại cách hiểu về gia tốc trong SGK
14 Trừ một trường hợp đặc biệt duy nhất mà sẽ được chúng tôi phân tích kĩ ở phần sau.
77
Vật lí 10 nâng cao, chúng tôi thấy nó được giải thích là đại lượng “đặc trưng cho độ
biến đổi nhanh chậm của vận tốc” (tr. 21). Độ biến đổi nhanh chậm ở đây là muốn nói
đến việc vận tốc thay đổi nhanh như thế nào theo thời gian, cũng là muốn ám chỉ đến
tốc độ thay đổi của nó. Việc SGK toán chỉ giải thích gia tốc theo sự biến thiên của vận
tốc ( ) thay vì phải là tốc độ biến thiên của vận tốc rõ ràng là có thể gây hiểu sai đặc
trưng vật lí của nó và cũng không thể giúp HS hình thành được cách hiểu đạo hàm theo
tốc độ biến thiên ở tình huống này.
3.2.2.3. Đặc trưng xấp xỉ của đạo hàm
Đặc trưng xấp xỉ của đạo hàm biểu thị qua công thức mà
thể hiện hình học của nó là xấp xỉ đồ thị hàm số bởi đường thẳng tiếp tuyến của nó
quanh lân cận của tiếp điểm. Vai trò của đạo hàm trong xấp xỉ hình học này là hệ số góc
của đường thẳng tiếp tuyến.
Để đi đến ý nghĩa hình học của đạo hàm, SGK toán đưa ra quan niệm tiếp tuyến là
vị trí tới hạn của cát tuyến từ đó giải thích rằng đạo hàm cho phép tính được hệ số góc
của tiếp tuyến. Dạng của phương trình tiếp tuyến tại tiếp điểm được thiết lập
sau đó: . Sự xấp xỉ hàm số bởi phương trình tiếp tuyến không
được thực hiện ở đây mà lại được dẫn ra một cách tách biệt trong bài “Vi phân” (SGK
Cho hàm số
có đạo hàm tại điểm
. Khi đó ta có
. Đẳng thức trên
cho thấy: Nếu
khá nhỏ thì tỉ số
rất gần với
, do đó có thể coi rằng
hay
.
Toán 11 nâng cao, tr. 218):
Công thức xấp xỉ trên được viết lại , từ đó đi đến biểu
thức xấp xỉ: . Điều đáng tiếc là SGK chỉ dừng ở đây để thu
được một công thức giúp tính gần đúng thay vì biến đổi nó về một dạng tương đương
(bằng cách thay ). Ở dạng này vế trái là hàm số
còn vế phải chính là phương trình của đường thẳng tiếp tuyến tại , và do đó cho
phép xấp xỉ bởi một hàm số bậc nhất. SGK toán hoàn toàn có thể đi đến công thức
xấp xỉ này bằng con đường hình học: xấp xỉ đồ thị hàm số trong một lân cận “khá bé”
của với một đoạn thẳng (một phần của đường tiếp tuyến tại ). Cách tiếp cận này
78
theo chúng tôi là thuận lợi hơn bởi sự hỗ trợ của biểu diễn trực quan đồ thị. HS sẽ dễ
dàng “nhìn thấy” được sự xấp xỉ này nếu chúng ta “phóng to” đồ thị hàm số và đường
tiếp tuyến của nó trong cùng một hệ trục (chẳng hạn với sự trợ giúp của một phần mềm
vẽ đồ thị).
3.2.2.4. Các tổ chức tri thức
Như đã trình bày ở phần cơ sở lí luận, phân tích một tổ chức tri thức là làm rõ những
kiểu nhiệm vụ có liên quan, các kĩ thuật giải quyết chúng cũng như yếu tố công nghệ và
lý thuyết cho phép giải thích kĩ thuật đó. Phân tích này giúp chúng ta thấy được “cuộc
sống” của tri thức trong thể chế và đối với thể chế DH thì nó còn hé lộ phần nào cách
mà các chủ thể của thể chế (GV, HS) có thể hiểu về tri thức đó.
Nghiên cứu về tổ chức tri thức liên quan đến khái niệm đạo hàm trong luận văn của
chúng tôi (Ngô Minh Đức, 2013) và bài báo của Nguyễn Phú Lộc và Nguyễn Văn Nu
(2015) đã chỉ ra: SGK toán ưu tiên cho các kiểu nhiệm vụ tính toán đạo hàm và viết
phương trình tiếp tuyến. Ở đây, chúng tôi chỉ tập trung phân tích các kiểu nhiệm vụ liên
quan đến hai đặc trưng đang bàn đến là tốc độ biến thiên và đặc trưng xấp xỉ hàm số.
• Kiểu nhiệm vụ liên quan đến tốc độ biến thiên
Các ứng dụng chủ yếu của đạo hàm trong Vật lí là tính toán các đại lượng có liên
quan đến tốc độ biến thiên tức thời. Tuy nhiên SGK toán chỉ đưa vào hai kiểu nhiệm vụ
vật lí là tính vận tốc và gia tốc. Kĩ thuật giải quyết là hai công thức ;
. Công nghệ giải thích cho kĩ thuật này liên quan đến bản chất vật lí mà đặc
biệt là đặc trưng tốc độ biến thiên lại không được làm rõ.
Những kiểu nhiệm vụ yêu cầu tính tốc độ biến thiên hoặc vận dụng đặc trưng tốc
độ biến thiên của đạo hàm không hề xuất hiện trong SGK toán lớp 11 ở cả hai phân ban.
SGK GT 12 nâng cao thì có đưa vào một bài toán duy nhất liên quan đến cách hiểu tốc
Số dân của một thị trấn sau 𝑡 năm kể từ năm 1970 được tính bởi công thức:
(đơn vị: nghìn người)
a. Tính số dân của thị trấn vào năm 1980 và năm 1995.
b. Xem 𝑓 là một hàm số xác định trên nửa khoảng [0 ; +∞ ). Tìm 𝑓′ và xét chiều biến thiên
của hàm số 𝑓 trên nửa khoảng [0 ; +∞ ).
c. Đạo hàm của hàm số f biểu thị tốc độ tăng dân số của thị trấn (nghìn người/năm)
- Tính tốc độ tăng dân số vào năm 1990 và năm 2008 của thị trấn?
độ biến thiên, nhưng nó lại không phải là bài toán vật lí.
- Vào năm nào thì tốc độ tăng dân số là 0,125 nghìn người / năm?
(SGK GT 12 nâng cao, tr. 9)
79
Bài toán này xuất hiện ở nội dung xét tính đơn điệu trong chương khảo sát hàm số,
tuy nhiên người đọc không rõ SGK đưa ra kiểu nhiệm vụ tính “tốc độ tăng dân số” ở
đây có dụng ý gì? Và nếu vậy thì kĩ thuật giải quyết là gì và đâu là yếu tố công nghệ hay
lý thuyết cho phép giải thích nó nếu như đặc trưng tốc độ biến thiên của đạo hàm không
được xây dựng ở phần lý thuyết dạy ở lớp 11. Dường như các tác giả viết SGK cũng cho
rằng HS không thể biết được đặc trưng này cho nên đã đưa vào đề bài toán một thông
báo có tính áp đặt: “Đạo hàm của hàm số f biểu thị tốc độ tăng dân số của thị trấn”. HS
có thể vẫn giải quyết được nhiệm vụ này bằng cách tính đạo hàm nhưng không vì thế
mà hiểu được tại sao đạo hàm lại đặc trưng cho tốc độ thay đổi. Kiểu nhiệm vụ tính tốc
độ biến thiên sau đó cũng không xuất hiện thêm một lần nào nữa. Việc 𝐼𝑇 không quan tâm đến đặc trưng tốc độ biến thiên nhưng lại đưa vào bài toán tính tốc độ tăng dân số
theo chúng tôi là chưa phù hợp. Có lẽ các tác giả SGK muốn làm đa dạng hơn các kiểu
nhiệm vụ mà đạo hàm có thể giải quyết. Tuy nhiên cách làm này theo chúng tôi là khiên
cưỡng nhất là khi 𝐼𝑉𝐿 đã cung cấp nhiều bài toán cần đến sự tác động của cách hiểu tốc độ biến thiên và đạo hàm hoàn toàn có thể xuất hiện ở đó.
• Kiểu nhiệm vụ liên quan đến đặc trưng xấp xỉ
Chỉ có một kiểu nhiệm vụ duy nhất liên quan đến đặc trưng xấp xỉ đó là tính gần
đúng một phép tính số học. Chẳng hạn là tính gần đúng giá trị của . Để giải quyết
nhiệm vụ này, kĩ thuật được SGK đưa ra là: Chọn hàm số , và phù hợp. Sử
dụng công thức gần đúng: .
Công thức nói trên cho phép xấp xỉ hàm số bởi một hàm số bậc nhất. Tuy
nhiên lại không hề xuất hiện những kiểu nhiệm vụ chứng minh hay giải thích các xấp xỉ
hàm đã xuất hiện trong Vật lí mặc dù yếu tố kĩ thuật và công nghệ đã có sẵn. Phân tích
này cho thấy nghĩa xấp xỉ của đạo hàm khó mà xuất hiện và 𝐼𝑇 thêm một lần nữa bỏ qua cơ hội cung cấp cho 𝐼𝑉𝐿 những công cụ toán học cần thiết. 3.2.2.5. Tiểu kết: về sự nối khớp giữa 𝑰𝑻 và 𝑰𝑽𝑳 đối với khái niệm đạo hàm
𝐼𝑉𝐿 đặt ra những vấn đề cần đến đạo hàm để giải quyết mà ở đó có sự tác động của đặc trưng tốc độ biến thiên tức thời. Từ góc nhìn LM thì đây là những ngữ cảnh thuận
lợi mà 𝐼𝑇 có thể tận dụng để làm nảy sinh và mang lại cách hiểu đầy đủ hơn cho khái
80
niệm. Hơn nữa, cách hiểu tốc độ biến thiên nếu xuất hiện trong 𝐼𝑇 sẽ giúp soi sáng lại nhiều tình huống mà 𝐼𝑉𝐿 đã sử dụng đạo hàm ngầm ẩn trước đó.
Tuy nhiên, phân tích sự hiện diện của đạo hàm trong 𝐼𝑇 cho thấy cách hiểu tốc độ biến thiên đã không có cơ hội xuất hiện. Mặc dù SGK toán sử dụng các bài toán vật lí
làm động lực dẫn vào khái niệm đạo hàm nhưng lại không nâng tầm ý tưởng về nó như
công cụ tính toán tốc độ biến thiên, hay ít ra là tận dụng những ngữ cảnh LM đã có từ
Vật lí để giới thiệu cách hiểu quan trọng này. Xem xét tổ chức tri thức liên quan đến
khái niệm đạo hàm trong 𝐼𝑇 cho thấy một sự nhấn mạnh vào kĩ thuật tính toán và ý nghĩa hình học của đạo hàm như là hệ số góc tiếp tuyến. Các kiểu nhiệm vụ gắn với ngữ cảnh
vật lí chỉ hạn chế ở hai đại lượng động học là vận tốc hay gia tốc và kĩ thuật giải quyết
chúng là sử dụng các công thức được cung cấp sẵn mà không cần đến đặc trưng vật lí
liên quan đến tốc độ biến thiên. Bên cạnh đó, chúng tôi còn ghi nhận sự thiếu vắng trong
𝐼𝑇 kiểu nhiệm vụ giải thích các xấp xỉ hàm số xuất hiện ở 𝐼𝑉𝐿 dù cho kĩ thuật và công nghệ giải quyết nhiệm vụ này đã có sẵn.
Những điểm đã chỉ ra cho thấy một sự ngắt quãng trong việc hiểu và sử dụng đạo
hàm ở hai thể chế. Nguyên nhân chính đến từ sự thiếu hụt cách hiểu đạo hàm theo tốc
độ biến thiên trong quan niệm của HS ngay từ thể chế DH nó. Sự thiếu hụt này đã được
chúng tôi kiểm chứng bởi một TN đã tiến hành trước đó (Ngô Minh Đức, 2013, tr. 60-
68). TN này chỉ ra rằng, dù ý tưởng về tốc độ thay đổi tồn tại trong quan hệ cá nhân của
HS nhưng nó hoàn toàn không được nối kết với khái niệm đạo hàm.
Tóm lại, sự nối khớp LM giữa hai môn học chỉ mới thể hiện ở mức độ cung cấp
một số công thức tính vận tốc và gia tốc qua đạo hàm. Mức độ này rõ ràng là chưa thỏa
đáng khi mà 𝐼𝑇 đã không tận dụng thích đáng nguồn “tài nguyên” từ Vật lí, cũng như chưa cung cấp đầy đủ các công cụ toán học mà 𝐼𝑉𝐿 cần đến. Sự bất cập này đặt ra nhu cầu phải xây dựng một đồ án DH khái niệm đạo hàm có thể mang đến nghĩa tốc độ biến
thiên tức thời cho nó. Đó cũng là một trong những công việc được chúng tôi thực hiện
ở chương cuối của luận án.
3.3. Nghiên cứu mối quan hệ thể chế đối với khái niệm tích phân nhìn từ định
hướng liên môn
Theo phân tích tri thức luận ở chương 2, tích phân là một khái niệm có nhiều cách
hiểu khác nhau. Trong những cách hiểu đó, quan niệm tích phân theo giới hạn tổng
Riemann đem đến một kĩ thuật GT cho phép tính toán nhiều đại lượng thông qua quá
81
trình gồm các bước chia nhỏ, lập tổng vô hạn, chuyển qua giới hạn. Nó cũng là cơ sở để
hiểu vai trò của tích phân trong nhiều ngữ cảnh ứng dụng, đặc biệt là đối với các vấn đề
của Vật lí. Mặt khác, việc tính toán tích phân lại có thể thực hiện theo một quá trình đơn
giản hơn từ phép tính nguyên hàm. Tuy nhiên, nếu giới thiệu cả hai phương pháp tính
toán nói trên thì lại cần phải chỉ ra sự tương đương giữa chúng thông qua việc chứng
minh định lí cơ bản vốn phức tạp với đối tượng HS THPT. Vậy 𝐼𝑇 tiếp cận tích phân theo tổng Riemann hay theo nguyên hàm? Sự lựa chọn của 𝐼𝑇 sẽ giúp HS hiểu và ứng dụng tích phân như thế nào?
Tương tự như với khái niệm đạo hàm, chúng tôi sẽ đối chiếu 𝐼𝑇 và 𝐼𝑉𝐿, xác định những yếu tố mà việc DH tích phân có thể khai thác để tạo ra sự nối khớp giữa hai thể
chế và đem đến một cách hiểu đầy đủ hơn cho đối tượng tri thức đang bàn đến.
3.3.1. Tích phân trong thể chế 𝑰𝑽𝑳
Xem xét 𝐼𝑉𝐿, chúng tôi nhận thấy xuất hiện ba kiểu nhiệm vụ chính sau đây cần đến
sự can thiệp của khái niệm tích phân trong kĩ thuật giải quyết:
- Tính độ dời của chuyển động khi biết hàm số vận tốc (khi chuyển động thẳng và
theo cùng một hướng thì độ dời bằng với quãng đường đi được).
- Tính công của lực biến đổi, bao gồm các kiểu nhiệm vụ con là: công của trọng lực,
của lực điện, của lực đàn hồi.
- Tính công của khí lí tưởng.
Ở phần tiếp theo, chúng tôi sẽ phân tích kĩ thuật mà SGK Vật lí đã dùng để giải
quyết ba kiểu nhiệm vụ nói trên. Điều này không chỉ giúp làm rõ cách 𝐼𝑉𝐿 hiểu và sử dụng tích phân mà còn hé lộ những tiềm năng do có thể khai thác từ các ngữ cảnh vật lí
trong việc tạo tình huống DH khái niệm.
3.3.1.1. Bài toán xác định độ dời khi biết hàm số vận tốc
SGK Vật lí 10 nâng cao chỉ xét các chuyển động thẳng và khi vận tốc không âm
(luôn chuyển động theo chiều dương) thì độ dời và quãng đường là đồng nhất.
• Trường hợp chuyển động thẳng đều
Trong trường hợp này vận tốc là hằng số, vì thế độ dời được tính bởi công thức quen
thuộc là tích của vận tốc và thời gian: 𝑥 − 𝑥0 = 𝑣𝑡. Điểm đáng chú ý là việc SGK đưa ra nhận định về ý nghĩa hình học của độ dời này như sau:
Độ dời (𝑥 − 𝑥0) được tính bằng diện tích hình chữ nhật (Hình 2.9) có một cạnh bằng 𝑣0 và một cạnh bằng t. Ở đây vận tốc tức thời không đổi, bằng vận tốc đầu
82
𝑣0: 𝑣 = 𝑣0. (SGK Vật lí 10 nâng cao, tr.16) Dường như đây là sự chuẩn bị đầu tiên mà SGK
Vật
lí thực hiện để giới thiệu ý nghĩa hình học của quãng
đường như là diện tích dưới đồ thị hàm số vận tốc.
• Trường hợp chuyển động thẳng biến đổi đều
Để có kết quả tương tự trong trường hợp vận tốc biến đổi theo thời gian, SGK Vật
Trong chuyển động thẳng biến đổi đều, công thức của vận tốc là : 𝑣 = 𝑣0 + 𝑎𝑡 Đồ thị vận tốc theo thời gian là một đường thẳng xiên
góc. Ta sẽ chứng minh rằng độ dời 𝑥 − 𝑥0 được tính bằng diện tích hình thang vuông có các cạnh đáy là
𝑣, 𝑣0 và đường cao là t. Thực vậy, trước hết ta kẻ những đường song song với trục tung Ov cách đều
nhau một khoảng ∆𝑡 rất nhỏ. Ta có những hình thang
nhỏ với đường cao Δ𝑡. Lấy một hình thang bất kì như
trên hình 5.3 chuyển động của chất điểm trong
khoảng thời gian 𝑡𝑐 − 𝑡𝐴 = Δ𝑡 có thể coi như chuyển
.
động đều với vận tốc 𝑣𝐵 =
𝑣𝑐+𝑣𝐴 2
Độ dời Δ𝑥 trong khoảng thời gian đó là Δ𝑥 =
. Δ𝑡, bằng diện tích hình thang
𝑣𝑐+𝑣𝐴 2
nhỏ gạch chéo trên hình 5.3. Độ dời trong khoảng thời gian từ 𝑡0 đến t bằng tổng của tất cả các độ dời Δ𝑥 trong các khoảng thời gian Δ𝑡. Độ dời này đúng bằng diện tích hình thang
vuông có các cạnh đáy 𝑣 và 𝑣0, đường cao là 𝑡 − 𝑡0. Dễ dàng tính được diện tích này:
𝑡.
Diện tích hình thang bằng: 𝑥 − 𝑥0 =
𝑣+𝑣0 2
(SGK Vật lí 10 nâng cao, tr. 26)
lí lại phải cần đến kĩ thuật của phương pháp lập tổng Riemann.
Cách làm trên của SGK Vật lí đã đi qua các bước sau: Đầu tiên là chia thời gian
chuyển động thành các khoảng thời gian Δ𝑡 rất nhỏ để có thể xem vận tốc là không đổi.
Vì vận tốc được xem là hằng số nên độ dời nguyên tố Δ𝑥 trong khoảng thời gian nhỏ
này được tính bởi tích của vận tốc và thời gian. Mỗi độ dời này được thay thế bằng diện
tích của một hình thang nguyên tố tương ứng (biểu diễn hình học của tích). Lập tổng tất
83
cả các độ dời nhỏ nói trên – tương ứng là tổng tất cả các diện tích nguyên tố. Lớp giới
hạn hoạt động một cách ngầm ẩn khi xem Δ𝑡 rất nhỏ (dần đến 0). Cuối cùng, SGK Vật
lí kết luận rằng độ dời trong khoảng thời gian cần tính bằng với diện tích hình thang
vuông dưới đồ thị hàm số vận tốc.
Các bước của phương pháp giải nói trên cho thấy rằng SGK Vật lí đã sử dụng kĩ
thuật xấp xỉ theo tổng Riemann để tính độ dời từ hàm số vận tốc đã biết. Quy trình xây
dựng khái niệm tích phân tác động vào việc giải quyết vấn đề mà kết quả chính là diện
tích hình phẳng dưới đồ thị. Tình huống vật lí nói trên đưa đến một ngữ cảnh thuận lợi
có thể giúp nảy sinh khái niệm tích phân và giới thiệu cho người học một kĩ thuật tính
toán xấp xỉ hiệu quả của GT.
Thật ra, còn một cách thứ hai để giải thích lí do vì sao quãng đường được tính toán
theo tích phân hàm vận tốc: đó là xem xét từ bài toán đảo ngược của nó – bài toán tìm
vận tốc khi biết hàm số quãng đường, ở đó đạo hàm là công cụ cho phép giải quyết. Bài
toán này, như chúng tôi chỉ ra ở trên, được sử dụng để đưa vào khái niệm đạo hàm. Tuy
vậy, vào thời điểm 𝐼𝑉𝐿 xét bài toán “tìm quãng đường” thì đạo hàm và tích phân đều chưa xuất hiện ở 𝐼𝑇. Thế nhưng, ở chiều ngược lại, SGK toán hoàn toàn có thể sử dụng cặp bài toán thuận – nghịch này để né tránh việc giới thiệu kĩ thuật xấp xỉ theo tổng
Riemann khi xây dựng tích phân mà vẫn giải thích được ứng dụng của nó trong bài toán
tính quãng đường. Tuy nhiên, theo chúng tôi đây chỉ là giải pháp tạm thời vì có nhiều
vấn đề khác xuất hiện trong 𝐼𝑉𝐿 mà một mối quan hệ ngược như trên không có sẵn. Điều đó giải thích lý do vì sao DH Toán cần phải tiếp cận tích phân theo phương pháp lập
tổng Riemann. Một lớp các vấn đề như vậy xuất hiện trong SGK Vật lí sẽ được chúng
tôi phân tích tiếp sau đây.
3.3.1.2. Bài toán xác định công của lực biến đổi
• Trường hợp tổng quát
Khi lực là không đổi và chuyển động là thẳng thì công được tính theo mối quan hệ
nhân giữa lực và quãng đường như sau: 𝐴 = 𝐹. 𝑠. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp, lực
thường là một đại lượng biến đổi theo quãng đường dịch chuyển. Để chuẩn bị phương
Vật lí 10 nâng cao đã trình bày cách tính “công của lực biến đổi” như sau:
pháp giải quyết cho các bài toán thuộc dạng này, trong bài “Công và công suất” SGK
…trường hợp lực biến đổi và quỹ đạo không thẳng thì
công được tính thế nào? Giả sử vật chuyển động trên một
đường cong bất kì từ A đến B…chia đường cong thành
những đoạn đủ nhỏ ∆𝑠 sao cho mỗi đoạn đó có thể xem
như một đoạn thẳng (Hình 33.3). Đồng thời vì đoạn
thẳng đã coi là đủ nhỏ nên có thể coi lực tác dụng trong
khoảng thời gian này là không đổi. Công thực hiện trên
quãng đường vô cùng nhỏ như thế gọi là công nguyên tố
.
Với lập luận như vậy, về nguyên tắc, công toàn phần mà lực thực hiện trên cả quãng
đường sẽ bằng tổng các công nguyên tố (được tính bằng phép tính tích phân).
(SGK Vật lí 10 nâng cao, tr. 156)
84
Phương pháp mà SGK Vật lí trình bày là chia một đại lượng thành các phần
“nguyên tố” được tạo bởi một tích giữa hàm số với một số gia biến số “đủ nhỏ”. Đại
lượng ban đầu sẽ được tính bằng tổng của các thành phần “nguyên tố” này (thật ra bước
chuyển qua giới hạn hoạt động ngầm ẩn và không rõ ràng trong bước lập luận này).
Phương pháp lập tổng các “công nguyên tố” nói trên được SGK Vật lí nói rõ là “được
tính bằng phép tính tích phân”. Điều này cho thấy rõ cách mà 𝐼𝑉𝐿 hiểu và sử dụng công cụ tích phân là theo cấu trúc tổng Riemann của nó.
Tất nhiên là làm việc trực tiếp với các công nguyên tố là khá khó khăn với HS nên
mỗi khi cần tính một đại lượng bằng tổng Riemann, SGK Vật lí sẽ tìm cách chuyển mỗi
công nguyên tố thành các diện tích nguyên tố tương ứng trên đồ thị. Công toàn phần sau
đó được tính qua diện tích toàn phần – tổng của các diện tích nguyên tố này.
• Trường hợp công của lực đàn hồi
Ở tình huống này lực đàn hồi biến đổi theo độ biến dạng 𝑥 nên để tính
công, SGK đã “chia nhỏ độ biến dạng toàn phần thành những đoạn rất nhỏ ∆𝑥 sao cho
tương ứng với độ biến dạng này lực đàn hồi được coi là không đổi” (SGK Vật lí 10 nâng
cao, tr. 169). Công nguyên tố tương ứng sẽ là ∆𝐴 = 𝐹∆𝑥 = −𝑘𝑥∆𝑥, và công toàn phần
sẽ là tổng của các công nguyên tố đó. Tương tự như tình huống trước, SGK Vật lí 10
nâng cao tiếp tục sử dụng phương pháp đồ thị để tính công này (tr. 170):
Trên Hình 36.2, công nguyên tố được biểu diễn
bằng diện tích dải chữ nhật màu xanh có hai
cạnh là
và
. Cộng tất cả các diện tích
nguyên tố trong phạm vi giới hạn trên trục x từ
giá trị
đến giá trị
ta được công toàn
phần…có giá trị bằng diện tích hình thang
BCDE, cũng bằng hiệu diện tích hai tam giác
OCD và OBE.
85
Dường như quy trình giải bài toán nêu trên
cũng giống như cách giải bài toán tìm độ dời. Tuy nhiên, trong bài toán về độ dời, mỗi
độ dời nguyên tố được thay thế bằng với một hình thang nhỏ. Vì vậy khi cộng các hình
thang này sẽ thu được trực tiếp diện tích hình thang lớn. Ở tình huống tính công, mỗi
công nguyên tố được thay thế bởi một dải hình chữ nhật, mà sau đó SGK Vật lí không
giải thích rõ vì sao lấy tổng diện tích các dải hình chữ nhật nhỏ này lại thu được diện
tích hình thang. Bước chuyển qua giới hạn của tổng Riemann hình như đã được “lờ đi”
hay có thể SGK Vật lí ngầm hiểu mỗi dải hình chữ nhật khi xét đủ nhỏ sẽ như mỗi đoạn
thẳng để ghép lại thành hình thang như phương pháp mà Oresme đã làm trong bài toán
tính quãng đường.
Một điểm thú vị khác là khi biểu diễn các công nguyên tố bằng diện tích hình chữ
nhật (là số dương), dấu trừ trong biểu thức ∆𝐴 = 𝐹∆𝑥 = −𝑘𝑥∆𝑥 cũng bị bỏ qua và chỉ
xuất hiện lại trong kết quả tính toán cuối cùng:
(đồng nhất với kết quả tính tích phân )
Cần phải nói thêm rằng trong phương pháp tính công vừa trình bày, SGK Vật lí đã
phải thực hiện việc lập tổng Riemann hai lần. Lần thứ nhất là chia nhỏ công toàn phần
thành tổng các công nguyên tố, lần thứ hai lấy tổng các hình chữ nhật nguyên tố và xem
tổng này khi ∆𝑥 rất nhỏ sẽ bằng với diện tích hình phẳng nằm dưới đồ thị giới hạn trên
trục x từ giá trị đến giá trị . Việc lập tổng hai lần này không những thể hiện rõ đặc
trưng của cấu trúc tổng Riemann trong cách giải quyết bài toán mà còn đưa đến những
gợi ý về cách kết nối những ý nghĩa khác nhau của tích phân: ý nghĩa vật lí, ý nghĩa diện
tích, và cách hiểu tích phân theo giới hạn tổng Riemann. Đây là những “tài nguyên” mà
86
𝐼𝑇 hoàn toàn có thể tận dụng để mang lại cách hiểu đầy đủ hơn cho khái niệm tích phân đồng thời hỗ trợ Vật lí trong việc giải quyết các vấn đề của nó.
Trường hợp công của trọng lực và công của lực điện
Phương pháp lập tổng Riemann còn xuất hiện trong nhiều vấn đề khác của Vật lí,
đặc biệt là với bài toán tính công của lực biến đổi. Dưới đây cách mà SGK Vật lí sử
dụng để xác định công của trọng lực và của lực điện (SGK Vật lí 10 nâng cao, tr. 165).
Xét trường hợp trọng lực , một lực biến thiên theo độ cao 𝑧 của vật so với
vị trí được chọn làm gốc. Để tính công do trọng lực sinh
ra trong một chuyển động giữa hai vị trí có độ cao khác
nhau (điểm B và điểm C), SGK vẫn sử dụng kĩ thuật xấp
xỉ như trên khi xem công toàn phần như tổng của các công
Công toàn phần thực hiện trên cả quãng đường từ B đến C là:
.
Kết quả:
(hình 35.1)
nguyên tố.
Với trường hợp công của lực điện, SGK Vật lí 11
Công trên toàn đoạn MN bằng:
nâng cao cũng có kĩ thuật giải quyết tương tự (tr. 19).
Đối với hai bài toán này, SGK Vật lí sử dụng phương pháp lập tổng Riemann để
giải quyết nhưng quá trình tính toán này đi trực tiếp đến kết quả mà không cần đến một
diện tích nào biểu diễn cho đại lượng cần tính. Nghĩa là biểu diễn đồ thị của tích phân
không tác động trong kĩ thuật giải bài toán.
3.3.1.3. Bài toán công của khí lý tưởng
Chúng tôi sẽ phân tích một ví dụ ở trong chương VIII mà quá trình tính công đưa
về việc tìm diện tích của hình phẳng giới hạn bởi đồ thị là đường cong chứ không phải
là đường thẳng như những bài toán đã phân tích ở trên. Cụ thể là trong bài: “Áp dụng
nguyên lí I nhiệt động lực học cho khí lí tưởng” SGK Vật lí 10 nâng cao đã xây dựng
“công thức tính công” của khí lí tưởng theo các bước sau:
87
Đồ thị của áp suất p theo thể tích V được biểu diễn bởi đường cong MN trên hình
59.2. SGK xét một “quá trình rất nhỏ” để có thể tính
, và có thể xem đoạn chéo 12 gần
công nguyên tố
như trùng với đoạn cong 12 của đường cong MN.
Bằng các lập luận tương tự như các bài toán trước,
Công
được biểu thị bằng diện tích hình thang
nằm bên dưới đoạn đường biểu diễn 12 (Hình 59.2)
Diện tích hình thang này gần đúng bằng diện tích
hình thang cong giới hạn bởi đường cong MN, trục
hoành và hai đường song song với trục tung ứng với
các giá trị
và
. Nếu
càng bé thì hai diện tích của hai hình thang nói trên càng
gần bằng nhau hơn.
(SGK Vật lí 10 nâng cao, tr.294 – 295)
SGK đi đến kết luận:
Từ đây SGK Vật lí 10 nâng cao suy ra công toàn phần A sẽ được biểu thị bởi diện
tích hình thang cong vì nó là tổng của các diện tích hình thang nguyên tố trên.
Ở cách giải bài toán này, bước chuyển qua giới hạn trong phương pháp lập tổng Riemann
lần đầu tiên đã được nhắc đến thông qua nhận định “Nếu càng bé thì hai diện tích
của hai hình thang nói trên càng gần bằng nhau hơn”. Tuy nhiên điều đáng phải chú ý
nhất lại chính là một thông báo mà SGK Vật lí đưa ra sau quá trình giải quyết vấn đề
này: “Suy luận trên được chứng minh chính xác bằng toán học, song phải dùng đến
một số kiến thức thuộc chương trình lớp 12” (tr. 295). Câu hỏi chúng tôi đặt ra ở đây
là: môn toán sẽ chứng minh chính xác suy luận trên như thế nào, và liệu phải cần đến
“một số kiến thức” gì ở chương trình Toán lớp 12? Câu trả lời rõ ràng không thể nằm
ngoài nội dung kiến thức liên quan đến khái niệm tích phân. Nhận xét trên cho thấy sự
“cầu viện” của 𝐼𝑉𝐿 trong việc làm sáng tỏ cho các suy luận của mình liên quan đến việc ứng dụng tích phân vào các vấn đề của Vật lí. Thế nhưng điều này có được 𝐼𝑇 đáp ứng để đem đến sự nối khớp LM trong việc dạy và ứng dụng khái niệm tích phân hay không?
Chúng tôi sẽ làm rõ câu trả lời bằng cách phân tích 𝐼𝑇 ở phần tiếp theo. 3.3.1.4. Tiểu kết: về nhu cầu hiểu tích phân qua tổng Riemann của 𝑰𝑽𝑳
Chúng tôi tóm lược lại cách thức mà 𝐼𝑉𝐿 đã sử dụng tích phân trong các vấn đề của
mình bằng cách trả lời hai câu hỏi sau:
1/Đâu là cơ sở giải thích cho vai trò công cụ của tích phân trong Vật lí ?
88
2/Tích phân nói trên sau đó được tính theo cách nào?
Câu trả lời cho điều thứ nhất nằm ở kĩ thuật mà Vật lí đã sử dụng. Kĩ thuật này thể
hiện trong phương pháp tính tích phân theo giới hạn tổng Riemann bao gồm bốn bước:
chia nhỏ, lập tích, lập tổng và chuyển qua giới hạn. Vì thế nếu 𝐼𝑇 không xây dựng được cách hiểu tích phân theo tổng Riemann thì rất khó để người học nhận ra và giải thích
được những ứng dụng của tích phân trong chương trình vật lí THPT.
Với vấn đề thứ hai, Vật lí lẽ ra có thể tính tích phân vừa thiết lập thông qua ba con
đường: Tính xấp xỉ bằng phương pháp số, tính theo nguyên hàm (công thức Newton –
Leibniz), hoặc theo diện tích dưới đồ thị hàm số (trong trường hợp tính theo diện tích
đơn giản hơn, hoặc không có sẵn dạng biểu thức đại số). Tuy nhiên, vì tích phân xuất
hiện ở 𝐼𝑇 khá muộn (cuối năm lớp 12), nên nó được sử dụng ở 𝐼𝑉𝐿 một cách ngầm ẩn và được tính toán thông qua diện tích.
Vì không thể chờ đợi sự ra đời của tích phân trong 𝐼𝑇 để làm rõ cơ sở toán học cho các ứng dụng của mình, ở mỗi tình huống cần đến tích phân, 𝐼𝑉𝐿 đều phải tiến hành hai giai đoạn lập tổng Riemann. Đầu tiên là xem đại lượng cần tìm như là tổng của các thành
phần nguyên tố. Các thành phần nguyên tố này được thay bởi diện tích của các hình
nguyên tố tương ứng. Sau đó, người ta lập tổng diện tích các hình nguyên tố để có được
diện tích dưới đường cong. Hai bước lập tổng này nhằm chỉ ra sự bằng nhau giữa đại
lượng cần tính với diện tích của hình dưới đồ thị. Ta thấy là kĩ thuật GT thể hiện trong
phương pháp lập tổng Riemann đóng vai trò quan trọng, cho phép giải quyết một lớp
tổng quát nhiều vấn đề của Vật lí.
Trong phương pháp giải của mình, nhiều lập luận của SGK Vật lí là không chặt chẽ
và chính xác về mặt toán học đặc biệt là sự thiếu hụt của bước chuyển qua giới hạn (hoặc
có thể bước này chỉ hoạt động ngầm ẩn). Tính chính xác và cơ sở cho phương pháp đang
sử dụng đã được 𝐼𝑉𝐿 nhường lại cho 𝐼𝑇, như ít nhất là hai trích dẫn mà chúng tôi đã đưa ra ở trên. Vì lẽ đó, để có được một sự gắn kết LM hợp lí thì thể chế 𝐼𝑇 không thể không đáp ứng.
3.3.2. Tích phân trong thể chế 𝑰𝑻
Kĩ thuật tính toán các đại lượng dựa trên phương pháp lập tổng Riemann xuất hiện
tường minh trong SGK Vật lí ban nâng cao, và chỉ được giới thiệu ở phần đọc thêm
trong SGK Vật lí ban cơ bản. Vì vậy để có một sự đối chứng hợp lí, những phân tích
89
của chúng tôi ở mục này sẽ dựa trên SGK, sách giáo viên, sách bài tập GT của ban nâng
cao.
Nghiên cứu tri thức luận mà chúng tôi trình bày ở chương 2 đã chỉ ra là có ba cách
tiếp cận khái niệm tích phân:
- Cách thứ nhất: Tích phân được định nghĩa là diện tích của hình phẳng giới hạn dưới
đường cong với lưu ý về dấu (dấu âm nếu diện tích nằm dưới trục hoành).
- Cách thứ hai: Định nghĩa tích phân theo khái niệm nguyên hàm (Công thức Newton –
Leibniz).
- Cách thứ ba: Tích phân được định nghĩa theo giới hạn của tổng Riemann. Ở đây tổng
Riemann có thể xuất hiện trong ngữ cảnh toán học (chẳng hạn với bài toán tính diện
tích, và như thế là có sự kết hợp với cách tiếp cận thứ nhất), cũng có thể trong ngữ cảnh
vật lí (như ở những bài toán mà 𝐼𝑉𝐿 đã giải quyết).
Chúng tôi nhận thấy rằng SGK GT hiện nay lựa chọn cách định nghĩa thứ hai.
Nghĩa là đưa vào khái niệm nguyên hàm rồi dùng nó để định nghĩa tích phân.
3.3.2.1. Mục tiêu của việc dạy học khái niệm tích phân
Khái niệm tích phân được đưa vào giảng dạy ở học kì 2 môn Toán lớp 12 trong
chương III: “Nguyên hàm, tích phân và ứng dụng”. Tên của chương cho thấy nội dung
không chỉ tập trung vào việc dạy khái niệm mà còn hướng đến những ứng dụng quan
trọng của tích phân. Để biết quan điểm của các tác giả SGK có quan tâm đến mối quan
hệ LM với Vật lí hay không, chúng tôi tham khảo mục đích của chương từ sách giáo
viên GT lớp 12 ban nâng cao (tr. 179)
Kiến thức
Giúp học sinh:
- Nắm vững khái niệm nguyên hàm.
- Nhớ bảng các nguyên hàm của một số hàm thường gặp.
- Nhớ và hiểu được các tính chất cơ bản của nguyên hàm.
- Nhớ định nghĩa tích phân.
- Nắm vững phương pháp tính tích phân nhờ đổi biến số và tích phân từng phần.
- Bước đầu thấy được ý nghĩa thực tiễn và một số ứng dụng của tích phân trong hình học.
Kĩ năng
- Biết vận dụng các tính chất cơ bản của nguyên hàm, cách đổi biến số và cách tìm nguyên
hàm từng phần để tìm nguyên hàm của một số hàm số không quá phức tạp.
- Biết vận dụng các tính chất cơ bản của tích phân, phương pháp đổi biến số và phương
pháp tích phân từng phần để tính tích phân một số hàm số không quá phức tạp.
- Biết ứng dụng tích phân trong một số bài toán tính diện tích các hình phẳng và tính thể
tích các vật thể.
90
Ở đây chúng tôi quan tâm đến hai mục tiêu chính là hiểu khái niệm và ứng dụng
khái niệm trong thực tiễn, đặc biệt là Vật lí. Liên quan đến việc hiểu khái niệm, sách
giáo viên đặt ra mục tiêu “nắm vững khái niệm nguyên hàm”, nhưng tại sao chỉ là “nhớ
định nghĩa tích phân” mà không phải là nắm vững hay hiểu khái niệm tích phân. Phải
chăng các tác giả đã lường trước việc khái niệm tích phân là khó hiểu với HS, và chỉ
yêu cầu HS nhớ (hay học thuộc) định nghĩa khái niệm này mà không cần hiểu nó là gì.
Nhìn qua mục tiêu ở cả phần kiến thức và kĩ năng chúng tôi thấy một sự nhấn mạnh
hoàn toàn vào kiến thức quy trình (các công thức hay phương pháp tính) và kĩ năng tính
toán. Mục tiêu hiểu khái niệm hay làm quen với các kĩ thuật của GT không được nhắc
đến. Bên cạnh đó, chỉ các ứng dụng trong hình học (tính diện tích và thể tích) được đề
cập và dường như vai trò công cụ của tích phân trong Vật lí không được xác định là
trọng tâm.
3.3.2.2. Các bài toán nảy sinh và định nghĩa khái niệm tích phân
Tình huống gợi ra lí do xuất hiện khái niệm nguyên hàm được SGK Giải tích 12
Bài toán mở đầu: Vận tốc của một viên đạn được bắn lên theo phương thẳng đứng tại thời
điểm t là v(t) = 160 − 9,8t (m/s) (coi t = 0 là thời điểm đạn được bắn lên). Tính quãng
đường đi được của viên đạn kể từ khi bắn lên cho đến thời điểm t.
nâng cao lựa chọn là một bài toán đến từ Vật lí (tr. 136).
Gọi 𝑠(𝑡) là hàm số quãng đường, SGK nhắc lại 𝑣(𝑡) = 𝑠′(𝑡), từ đó việc tìm
𝑠(𝑡) đưa đến nhu cầu phải xác định một hàm số khi biết trước đạo hàm của nó. Như vậy,
bài toán vật lí nói trên mang đến tình huống cho HS thấy được ý nghĩa công cụ cũng
như lí do xuất hiện của khái niệm nguyên hàm.
Nếu nhìn lại thì đây là bài toán tính quãng đường trong chuyển động biến đổi đều
(vận tốc là hàm số bậc nhất), đã được SGK Vật lí lớp 10 giải quyết. Thử so sánh phương
pháp giải của hai SGK Toán và Vật lí chúng tôi thấy rằng: SGK Vật lí tính quãng đường
qua hai bước, một là dựa vào tổng Riemann để tính gần đúng, và sau đó là tính toán
thông qua diện tích dưới đồ thị hàm số vận tốc. Trong lúc đó, SGK Giải tích 12 nâng
cao lại tính quãng đường này thông qua nguyên hàm của hàm số vận tốc. Đây là một
tình huống đáng giá để tạo ra gắn kết LM giữa hai môn học, vừa có thể giúp HS nắm
bắt các cách hiểu và biểu diễn khác nhau của khái niệm, vừa thấu hiểu hơn vai trò công
91
cụ của tích phân trong bài toán vật lí này. SGK GT có tận dụng sự gắn kết xuất hiện
trong ngữ cảnh LM này hay không? Câu trả lời dường như là không.
Thật vậy, hai bài toán SGK Giải tích 12 nâng cao sử dụng để làm nảy sinh khái
niệm tích phân là tính diện tích hình thang cong và tính quãng đường lại không nhằm
mục đích giới thiệu kĩ thuật xấp xỉ trong việc lập các tổng Riemann giống như SGK Vật
lí đã làm:
Bài toán 1. Cho hình thang cong giới hạn bởi đồ thị hàm số 𝑦 = 𝑓(𝑥), trục hoành và hai
đường thẳng 𝑥 = 𝑎, 𝑥 = 𝑏 (𝑎 < 𝑏). Giả sử f là hàm số liên tục, đồng biến và nhận giá trị
dương trên đoạn [a; b]. Chứng minh rằng diện tích S của hình thang cong đó là: 𝑆 =
𝐹(𝑏) − 𝐹(𝑎), trong đó F là một nguyên hàm bất kì của f trên đoạn [a; b].
(SGK Giải tích 12 nâng cao, tr.146)
Bài toán 2. Giả sử một vật chuyển động có vận tốc thay đổi theo thời gian,
𝑣 = 𝑓(𝑡) (0 < 𝑡 < 𝑇). Chứng minh rằng quãng đường L vật đi được trong khoảng thời
gian từ thời điểm 𝑡 = 𝑎 đến thời điểm 𝑡 = 𝑏 (0 < 𝑎 < 𝑏 < 𝑇) là: 𝐿 = 𝐹(𝑏) − 𝐹(𝑎), trong
đó F là một nguyên hàm bất kì của f trên khoảng (0; T).
(SGK Giải tích 12 nâng cao, tr.148)
SGK đưa vào và giải quyết hai bài toán nói trên nhằm mục đích dẫn ra kết luận (tr.
148): “Trong khoa học và kĩ thuật, có nhiều đại lượng quan trọng được biểu thị bằng
hiệu 𝐹(𝑏) − 𝐹(𝑎) trong đó F là một nguyên hàm của hàm số f nào đó”.
Kết luận này là lí do để đưa ra định nghĩa tích phân sau đây:
ĐỊNH NGHĨA
Cho hàm số f liên tục trên K và a, b là hai số bất kì thuộc K. Nếu F là một nguyên hàm
của f trên K thì hiệu số: 𝐹(𝑏) − 𝐹(𝑎) được gọi là tích phân của f từ a đến b và kí hiệu là:
.
𝑏 ∫ 𝑓(𝑥)𝑑𝑥 𝑎
(SGK Giải tích 12 nâng cao, tr.148)
Như vậy, cũng tương tự điều đã xảy ra với khái niệm đạo hàm, lí do SGK toán dẫn
vào bài toán vật lí lại không nhằm mục đích hình thành cách hiểu mà 𝐼𝑉𝐿 mong chờ. Thay vào đó, SGK toán chỉ muốn đưa ra một lí do hợp thức cho việc định nghĩa tích
phân là hiệu giá trị nguyên hàm tại hai cận. Cách định nghĩa này làm cho việc tính tích
phân được đưa về một quy trình dễ hiểu là đảo ngược phép lấy đạo hàm, thế hai cận rồi
trừ chúng cho nhau. Nó tránh được những khó khăn khi tiếp cận với kĩ thuật xấp xỉ của
GT và thuận lợi cho việc DH tích phân theo xu hướng đại số hóa. Hơn thế, nó còn cho
thấy ngay mối quan hệ đảo ngược giữa hai phép tính cơ bản là đạo hàm và tích phân.
92
Tuy nhiên, bên cạnh những lợi thế trên, cách tiếp cận này làm nảy sinh hai vấn đề.
Thứ nhất, nó đánh mất đặc trưng GT nói chung, bản chất của khái niệm tích phân nói
riêng, và hạn chế phần nào một hiểu biết đầy đủ về khái niệm ở người học. Thứ hai,
cách hiểu này không giúp HS nhận ra những ứng dụng hiệu quả trong các vấn đề của
Vật lí mà ở đó mối quan hệ giữa đạo hàm và tích phân không tác động.
Các tác giả SGK dường như cũng nhận ra mặt hạn chế của cách tiếp cận này khi
Học sinh không thấy được bản chất của kí hiệu tích phân, không thấy được lí do tại sao
tích phân lại có ứng dụng rộng rãi như vậy. Do đó học sinh chỉ biết tính tích phân theo
công thức một cách máy móc và sẽ không biết áp dụng tích phân vào các tình huống thực
tiễn.
đưa ra nhận định sau trong sách giáo viên GT lớp 12 ban nâng cao (tr. 191):
3.3.2.3. Nghĩa vật lí của tích phân và các kiểu nhiệm vụ liên quan đến Vật lí
Nghĩa của một khái niệm sẽ được bộc lộ trong bài toán mà khái niệm đó mang đến
công cụ để giải quyết. Trong 𝐼𝑉𝐿, tích phân được ứng dụng để tính quãng đường, công của lực biến đổi, công của khí lý tưởng, … Và từ đó tích phân có nhiều nghĩa vật lí khác
nhau như quãng đường hay công của lực. Chúng tôi xem xét trong SGK Giải tích 12
nâng cao và thấy rằng nghĩa vật lí duy nhất của tích phân được giới thiệu là để tính
Một vật chuyển động với vận tốc thay đổi theo thời gian 𝑣 = 𝑓(𝑡). Chứng minh rằng
quãng đường mà vật đi được trong khoảng thời gian từ thời điểm a đến thời điểm b là
.
𝑏 ∫ 𝑓(𝑡)𝑑𝑡 𝑎 Hoạt động này đóng vai trò như là một định lý (yếu tố công nghệ) để giải thích cho
quãng đường thể hiện trong hoạt động 3 (tr. 150):
kĩ thuật được sử dụng trong việc tính quãng đường theo tích phân hàm vận tốc. Tuy
nhiên xem xét từ bản chất vật lí thì định lý vừa phát biểu ở trên lại không chính xác. Bởi
lẽ, trong quá trình chuyển động thẳng vận tốc có thể đổi dấu (chuyển động cùng chiều
𝑏 𝑎
là công thức cho phép xác hoặc ngược với chiều dương được quy ước) vì thế ∫ 𝑣(𝑡)𝑑𝑡
định độ dời chứ không phải là quãng đường của chuyển động. Công thức đúng để tính
𝑏 𝑎
. Hai đại lượng vật lí này chỉ đồng nhất với nhau khi quãng đường phải là∫ |𝑣(𝑡)|𝑑𝑡
𝑣(𝑡) ≥ 0, tuy nhiên SGK GT lại không gắn kèm điều kiện này vào định lý vừa phát biểu
ở trên. Điều này như chúng tôi sẽ chỉ ra, đã dẫn đến những sai lầm trong việc giải quyết
các kiểu nhiệm vụ liên quan đến Vật lí (cụ thể là bài toán tính quãng đường). Nhưng
trước đó chúng tôi sẽ xem xét các kiểu nhiệm vụ liên quan đến Vật lí xuất hiện trong 𝐼𝑇.
93
Trong tổng số 340 bài tập của chương III “Nguyên hàm, tích phân và ứng dụng”,
xuất hiện trong SGK và sách bài tập GT 12 ban nâng cao, chỉ có 10 bài liên quan đến
ngữ cảnh vật lí và được chúng tôi phân loại vào các kiểu nhiệm vụ sau:
Bảng 3.1. Kiểu nhiệm vụ vật lí có sử dụng công cụ tích phân
Số lượng bài tập
Kiểu nhiệm vụ Sách giáo Sách bài
khoa tập
4 2
0 1
1 1
1 0
𝑇1: Tính quãng đường đi được khi biết vận tốc 𝑇2: Tính vận tốc khi biết gia tốc 𝑇3: Tính quãng đường khi biết gia tốc 𝑇4: Tính vận tốc tại thời điểm 2 vật đuổi kịp nhau Tổng 6 4
Kĩ thuật để giải quyết các nhiệm vụ nói trên là tính nguyên hàm hoặc tích phân và
công nghệ giải thích cho kĩ thuật này đến từ mối quan hệ giữa bài toán đang đề cập với
bài toán đảo ngược được giải quyết bởi công cụ đạo hàm. Lý thuyết giải thích cho công
nghệ này nằm ở mối quan hệ đảo ngược giữa tích phân với đạo hàm. Vì lẽ đó, các kiểu
nhiệm vụ nói trên chỉ có thể xoay quanh các đại lượng của động học như là vận tốc và
gia tốc mà không có các bài toán vật lí đòi hỏi sự tác động của kĩ thuật lập tổng Riemann
như bài toán tính công. Chúng tôi hiểu được sự lựa chọn nói trên là để tránh cách hiểu
tích phân theo giới hạn tổng Riemann. Tuy nhiên, điều này dường như không thỏa đáng
với cách mà SGK Vật lí đã sử dụng tích phân trước đó. Một sự ghép đôi không tương
xứng ở đây khi Vật lí hiểu và sử dụng tích phân theo quan niệm về tổng Riemann, còn
môn Toán lại dạy nó chỉ như hiệu các nguyên hàm.
Chúng tôi dừng ở đây để bàn về một tình huống đáng chú ý xuất hiện trong sách
bài tập GT lớp 12 ban nâng cao (tr. 153):
Bài 14. a) Một vật chuyển động với vận tốc 𝑣(𝑡) = 1 − 2 sin 2𝑡 (m/s). Tính quãng đường
3𝜋
(s).
mà vật di chuyển trong khoảng thời gian từ thời điểm 𝑡 = 0 (s) đến thời điểm 𝑡 =
4
3𝜋
− 1
Lời giải cho bài toán này được sách giáo viên GT 12 nâng cao trình bày như sau:
3𝜋 Quãng đường 𝑆 = ∫ (1 − 2𝑠𝑖𝑛2𝑡)𝑑𝑡 = 4 0
4
. (tr. 193)
Điều đáng nói là giá trị trên lại không phải kết quả đúng. Lí do là bởi vì vận tốc
𝑣(𝑡) trong bài toán này đổi dấu trong khoảng thời gian đang xét. Vì thế để xác định đúng
quãng đường chuyển động cần lấy tích phân hàm trị tuyệt đối |𝑣(𝑡)|. Cụ thể thì: 𝑆 =
3𝜋 ∫ |1 − 2𝑠𝑖𝑛2𝑡|𝑑𝑡 = ∫ (1 − 2𝑠𝑖𝑛2𝑡)𝑑𝑡 + ∫ (2𝑠𝑖𝑛2𝑡 − 1)𝑑𝑡 + 4 0
𝜋 12 0
5𝜋 12 𝜋 12
3𝜋 4 ∫ (1 − 2𝑠𝑖𝑛2𝑡)𝑑𝑡 . 5𝜋 12
94
Kết quả của phép tính này rõ ràng là khác với đáp số mà sách giáo viên đã đưa ra.
Điều kì lạ là, vì vận tốc có thể âm hoặc dương nên cách tính quãng đường ở đây cũng
tương tự như việc tính diện tích dưới đồ thị hàm số. Trong khi SGK Giải tích 12 nâng
cao nhấn mạnh rằng để tính diện tích giới hạn bởi đường cong 𝑦 = 𝑓(𝑥) cần phải lấy
𝑏 𝑎
, thì lại đã không làm điều tương tự với tích phân hàm giá trị tuyệt đối: 𝑆 = ∫ |𝑓(𝑥)|𝑑𝑥
bài toán tính quãng đường. Như đã nói ở trên, công thức mà sách giáo viên sử dụng thực
chất là để tính đại lượng độ dời trong Vật lí. Việc sách giáo viên không phân biệt rõ ràng
giữa hai đại lượng “quãng đường” và “độ dời” cũng cho thấy phần nào sự không chú
trọng đúng mức đến nhiệm vụ hỗ trợ quá trình học tập vật lí của thể chế DH Toán.
3.3.2.4. Tiểu kết: về sự nối khớp giữa 𝑰𝑻 và 𝑰𝑽𝑳 đối với khái niệm tích phân
Dựa trên việc phân tích hai thể chế DH Toán và Vật lí liên quan đến khái niệm tích
phân chúng tôi nhận ra một số điểm không nối khớp được trình dưới đây.
• Về thời điểm xuất hiện: Ở 𝐼𝑉𝐿 tư tưởng tích phân xuất hiện sớm ngay từ lớp 10 thông qua việc giải quyết các bài toán tính quãng đường và công của lực biến đổi. Tuy nhiên
việc giới thiệu khái niệm tích phân trong 𝐼𝑇 chỉ được thực hiện ở cuối năm lớp 12 và người học không có nhiều cơ hội để được “nhìn lại” những ứng dụng hiệu quả của tích
phân trong những ngữ cảnh vật lí này.
• Về phương pháp tiếp cận: Chúng tôi xem xét bài toán xác định quãng đường khi hàm
vận tốc biến đổi theo thời gian. Cách tiếp cận để giải quyết bài toán này ở cả hai thể chế
lại rất khác nhau. Để chỉ ra rằng quãng đường bằng diện tích dưới đường cong hàm vận
tốc, SGK Vật lí 10 nâng cao sử dụng phương pháp chia nhỏ, lập tổng Riemann để tính
gần đúng. Trong khi đó 𝐼𝑇 lại xem việc tính quãng đường như là đảo ngược của bài toán xác định vận tốc. Từ đó quãng đường có thể được tính toán thông qua phép toán đảo
ngược với đạo hàm là nguyên hàm. Như vậy là bài toán quãng đường được giải quyết
theo hai phương pháp hoàn toàn khác nhau. Nhưng cách trình bày của 𝐼𝑇 không mang lại cho người học cơ hội thấu hiểu được sự gắn kết giữa hai thể chế để có thể thu được
một cách hiểu đầy đủ hơn cho khái niệm tích phân.
• Về cách hiểu và sử dụng tích phân ở hai thể chế: Những phân tích của chúng tôi cho
thấy một sự ghép đôi không phù hợp giữa những cách hiểu về tích phân được SGK toán
trình bày và nhấn mạnh với cái mà thật sự là có ích nhất cho những ứng dụng hiệu quả
95
của khái niệm này trong Vật lí. Thật vậy, trong SGK Giải tích 12 nâng cao, tích phân
chỉ được định nghĩa theo hiệu hai nguyên hàm và đi kèm với đó là ý nghĩa hình học như
là diện tích dưới đường cong. Tuy nhiên cái thật sự hữu ích nhất cho việc ứng dụng tích
phân vào ngữ cảnh vật lí lại là ở phương pháp “chia nhỏ, lập tổng, chuyển qua giới hạn”
thể hiện trong cách hiểu theo giới hạn tổng Riemann. Tóm lại, cách hiểu tích phân theo
cấu trúc tổng Riemann hoàn toàn vắng mặt trong 𝐼𝑇 nhưng lại là cái mà 𝐼𝑉𝐿 đã sử dụng để giải thích cho việc ứng dụng tích phân trong các vấn đề của mình.
3.4. Kết luận chương 3: mối quan hệ liên môn Toán – Vật lí trong việc dạy học hai
khái niệm đạo hàm và tích phân
Dựa trên các cơ sở lý thuyết về DH LM đã trình bày ở chương 1 (quan điểm, mô
hình và chiến lược LM), chúng tôi soi sáng lại các kết quả phân tích thể chế ở chương 2
để chỉ ra mối quan hệ LM giữa Toán và Vật lí đã diễn ra như thế nào đối với tri thức
đang bàn đến. Phân tích này để trả lời câu hỏi nghiên cứu Q2 mà chúng tôi đã đặt ra.
• Sự hỗ trợ của 𝑰𝑽𝑳 trong việc dạy học đạo hàm, tích phân ở 𝑰𝑻
-
Sự hỗ trợ của 𝐼𝑉𝐿 thể hiện ở các mặt sau: 𝐼𝑉𝐿 cung cấp các vấn đề mà 𝐼𝑇 có thể sử dụng để tạo ra ngữ cảnh và tình huống làm nảy sinh, tiến triển khái niệm đạo hàm, tích phân.
-
𝐼𝑉𝐿 sử dụng từ rất sớm những cách hiểu và phương pháp tính toán của hai khái niệm đạo hàm, tích phân trong nhiều vấn đề vật lí khác nhau. Điều này tạo ra động
cơ để 𝐼𝑇 phải cung cấp một hiểu biết đầy đủ hơn cho các tri thức đang nói tới. - Trong những bài toán vật lí mà đạo hàm tác động, ngữ cảnh và ý nghĩa của các đại
lượng mang đến cho khái niệm này cách hiểu tốc độ biến thiên.
-
𝐼𝑉𝐿 sử dụng phương pháp chia nhỏ, lập tích, lập tổng và chuyển qua giới hạn (ngầm ẩn) để tính toán các đại lượng vật lí như quãng đường, công,… Cách giải quyết
này mặc dù không dựa trên một cơ sở toán học chặt chẽ nhưng lại là cơ hội để giới
thiệu quan niệm về tích phân như là giới hạn tổng Riemann.
- Bằng cách soi sáng lại những ứng dụng đa dạng của đạo hàm và tích phân trong
𝐼𝑉𝐿 , 𝐼𝑇 có thể giúp HS thấu hiểu hơn các tư tưởng tổng quát ẩn trong hai khái niệm toán học mà các em được học.
• Sự hỗ trợ của môn Toán đối với việc dạy học vật lí
Như đã nói, thời điểm mà đạo hàm và tích phân được dạy ở 𝐼𝑇 là muộn để 𝐼𝑉𝐿 có thể vận dụng một cách tường minh trong việc giải quyết các vấn đề của mình. Ý thức
96
được điều này, 𝐼𝑉𝐿 sử dụng trước các công cụ toán học nói trên và mong đợi 𝐼𝑇 sẽ làm sáng tỏ cơ sở toán học cho các phương pháp đã sử dụng. Tuy nhiên phân tích thể chế 𝐼𝑇 chỉ ra rằng, sự hỗ trợ của 𝐼𝑉𝐿 đã không được tận dụng thích đáng và đòi hỏi của 𝐼𝑉𝐿 cũng không được đáp ứng. Điều này được giải thích bởi những tiểu kết mà chúng tôi đã rút
ra từ các phân tích thể chế đã thực hiện. Hai điểm nhấn sau đây cần được nhắc lại:
-
𝐼𝑇 sử dụng các bài toán vật lí để làm nảy sinh khái niệm đạo hàm, tích phân nhưng lại không hướng đến cách hiểu tốc độ biến thiên và giới hạn tổng Riemann. Trong
khi đây lại là những quan niệm hữu ích nhất để hiểu nhiều ứng dụng của đạo hàm
và tích phân trong Vật lí.
- Việc giải quyết các kiểu nhiệm vụ liên quan đến Vật lí trong 𝐼𝑇 không phản ánh được phương pháp đặc trưng mà 𝐼𝑉𝐿 đã sử dụng – cách hiểu tốc độ biến thiên và kĩ thuật lập tổng Riemann không tác động ở những tình huống này. Thay vào đó, các ứng
dụng vào Vật lí được giới thiệu trong 𝐼𝑇 chỉ xoay quanh một số đại lượng động học như quãng đường, vận tốc và gia tốc. Các bài toán này được giải quyết dựa trên các
công thức cho sẵn và thậm chí còn nhầm lẫn trong việc tính toán hai đại lượng vật
lí là “quãng đường” và “độ dời”.
97
CHƯƠNG 4
CÁC GIẢI PHÁP SƯ PHẠM
Mục đích của chương này là trả lời câu hỏi nghiên cứu Q3 của chúng tôi: Giải pháp
sư phạm nào cho phép tận dụng hiệu quả những gắn kết LM giữa Toán và Vật lí để
mang lại hiểu biết đầy đủ hơn về hai khái niệm đạo hàm và tích phân cho HS đồng
thời giúp các em ứng dụng được kiến thức toán học này vào các vấn đề của Vật lí?
Do mục đích nghiên cứu đã xác định nên chúng tôi đặt ra hai nguyên tắc sau khi đề
xuất các giải pháp sư phạm. Thứ nhất, các giải pháp phải nhắm đến mục tiêu kép: vừa
mang lại cho HS một hiểu biết đầy đủ hơn về hai khái niệm đạo hàm và tích phân, vừa
giúp các em hiểu được những ứng dụng đa dạng của chúng trong Vật lí. Thứ hai, không
chỉ khai thác mối quan hệ LM Toán – Vật lí (liên quan đến các tri thức đang nói tới) trên
phương diện tri thức luận, mà còn phải tận dụng những yếu tố LM tiềm năng trong thể
chế DH hiện hành. Nguyên tắc thứ nhất cho thấy rõ mục tiêu mà các giải pháp phải
hướng đến và nguyên tắc thứ hai chỉ ra cách thức để đạt được chúng.
4.1. Cơ sở đề xuất giải pháp
Các giải pháp sư phạm được chúng tôi đề xuất dựa trên những nghiên cứu đã thực
hiện trước đó trong luận án gồm:
- Cơ sở lí luận trình bày trong chương 1.
- Kết quả nghiên cứu tri thức luận ở chương 2 về mối quan hệ gắn kết, hỗ trợ lẫn nhau
giữa Toán học và Vật lí học trong quá trình hình thành và tiến triển hai khái niệm đạo
hàm, tích phân.
- Kết quả nghiên cứu thể chế về sự nối khớp giữa 𝐼𝑉𝐿 và 𝐼𝑇 (liên quan đến hai đối tượng tri thức đạo hàm, tích phân) theo quan điểm LM ở chương 3.
Mặc dù vậy để có được cơ sở đầy đủ hơn cho việc đề xuất giải pháp, chúng tôi nhận
thấy cần phải thực hiện thêm một số nghiên cứu bổ sung.
Trước hết, trong chương cơ sở lí luận chúng tôi chỉ mới bàn về việc hiểu và ứng
dụng một khái niệm toán học nói chung. Muốn cụ thể hóa những mục tiêu mà các giải
pháp hướng đến, cần làm rõ thế nào là hiểu đầy đủ về đạo hàm, tích phân và đâu là
những yếu tố phải tính đến để giúp người học hiểu các ứng dụng của chúng trong Vật
lí. Một nghiên cứu thực hiện nhiệm vụ này sẽ được chúng tôi tiến hành trước tiên.
Bên cạnh đó, ở chương 1 chúng tôi đã đề cập đến ba chiến lược LM Toán – Khoa
học của Nikitina và Mansilla (2003). Nghiên cứu bổ sung tiếp theo sẽ bàn đến việc vận
98
dụng các chiến lược này theo định hướng LM Toán – Vật lí với trường hợp DH hai khái
niệm đạo hàm, tích phân.
Trong chương 2 và chương 3, chúng tôi đã chỉ ra sự gắn kết Toán – Vật lí (liên
quan đến đối tượng đạo hàm, tích phân) ở cả thể chế tạo ra tri thức và thể chế DH nó
trong nhà trường. Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy cần có thêm một nghiên cứu về sự
LM thể hiện trong chuyển hóa sư phạm hai tri thức đạo hàm, tích phân để chỉ ra những
điểm nối khớp và gắn kết tương hỗ mà các thể chế DH ở nhà trường có thể đã chưa tận
dụng hiệu quả. Đây sẽ là những gợi ý sư phạm cho tiến trình xây dựng một cách tiếp
cận LM hợp lí trong việc DH hai khái niệm đạo hàm và tích phân ở trường THPT.
4.1.1. Cách hiểu đầy đủ về khái niệm đạo hàm, tích phân
Phần này sẽ dành để làm rõ thế nào là hiểu đầy đủ hai khái niệm đạo hàm, tích
phân. Muốn vậy, chúng tôi dựa vào: cơ sở lí luận về hiểu khái niệm đã trình bày ở
chương 1, kết quả nghiên cứu tri thức luận đã thực hiện ở chương 2, và các khung lý
thuyết về hiểu khái niệm đạo hàm, tích phân của một số nhà nghiên cứu giáo dục toán
trên thế giới.
4.1.1.1. Cách hiểu đầy đủ về khái niệm đạo hàm
Dựa trên bản chất kép quá trình – đối tượng từ khung lý thuyết của Sfard (1991)
cũng như tính đa biểu diễn của một khái niệm toán học. Zandieh (2000) là người đầu
tiên đưa ra một khung lý thuyết mô tả cách hiểu khái niệm đạo hàm gồm các lớp quá
Đồ thị Lời Vật lí Kí hiệu Khác
Lớp
quá trình – đối tượng
Độ dốc Tốc độ Vận tốc Tỉ số vi phân
Tỉ số
Giới hạn
Hàm số
trình – đối tượng và thể hiện của nó trong những biểu diễn khác nhau.
Hình 4.1. Khung của Zandieh cho khái niệm đạo hàm
Zandieh chỉ ra ba lớp quá trình – đối tượng (ban đầu hoạt động trên quá trình và
sau đó sẽ được trừu tượng vào một đối tượng toán học tương ứng) trong cách hiểu về
đạo hàm bao gồm: lớp tỉ số, lớp giới hạn và lớp hàm số. Mỗi ô trống trong bảng hai
chiều thể hiện một diện mạo của đạo hàm tại mỗi lớp và theo các biểu diễn khác nhau.
Chẳng hạn như “lớp tỉ số” trong biểu diễn đồ thị mang ý nghĩa là độ dốc (hệ số góc) cát
tuyến, còn trong biểu diễn bằng lời lại được hiểu là tốc độ thay đổi trung bình.
99
Khung của Zandieh cung cấp cho chúng tôi một mô tả đầy đủ về cách hiểu khái
niệm đạo hàm. Theo đó, người học phải hiểu được cấu trúc của khái niệm gồm các lớp,
những quá trình gắn với các lớp đó cùng với sự liên kết giữa các ý nghĩa và cách hiểu
của khái niệm trong những ngữ cảnh hay biểu diễn khác nhau.
Dựa trên kết quả phân tích tri thức luận ở chương 2, khung lý thuyết của Zandieh
(2000) cùng với những nghiên cứu của Kendal và Stacey (2003), Firouzian (2013) và
Sahin et al. (2015), chúng tôi tổng hợp những cách hiểu sau đây có thể xây dựng trong
ảnh khái niệm của HS về đạo hàm:
- Đạo hàm là giới hạn của tỉ số sai phân (biểu diễn kí hiệu): .
- Đạo hàm như là hệ số góc (độ dốc) tiếp tuyến tại một điểm của đồ thị hàm số (biểu
diễn đồ thị).
- Đạo hàm như là tốc độ biến thiên tức thời (biểu diễn bằng lời).
- Người học sử dụng các tính toán số để mô tả đạo hàm là gì (biểu diễn số).
- Sử dụng những đại lượng vật lí như vận tốc, gia tốc, … để mô tả về đạo hàm (biểu
diễn vật lí).
- Giải thích về đạo hàm bằng các quy tắc tính toán hay các ví dụ cụ thể, chẳng hạn
(cách hiểu theo quy trình).
Để có một kiến thức khái
niệm đầy đủ về đạo hàm, Sahin
et al. (2015) cho rằng người học
phải “hiểu được ba ý tưởng lớn
bên dưới khái niệm đạo hàm đó
là tốc độ biến thiên, độ dốc của
tiếp tuyến và giới hạn, cùng với
những mối liên hệ giữa chúng”
(tr. 178). Hình 4.2. Mô hình cách hiểu khái niệm đạo hàm Trong ba ý tưởng này,
chúng tôi cho rằng cách hiểu theo tốc độ biến thiên tức thời đóng một vai trò thiết yếu
trong ảnh khái niệm của người học về đạo hàm bởi vì nó đem đến ý nghĩa nền tảng và
tổng quát nhất về bản chất của khái niệm. Điều này được xác nhận bởi định nghĩa của
Akkoç et al. (2008, tr. 18-19): “Khái niệm đạo hàm là một mô hình toán học cho tốc độ
100
biến thiên tức thời và được tính bởi giới hạn của hàm số mô tả tốc độ biến thiên trung
bình”. Hay như nhận định của Weber et al. (2012, tr. 1): “Về phương diện tri thức luận,
đạo hàm được xây dựng như là một cách để biểu diễn và đo đạc tốc độ mà tại đó một
đại lượng thay đổi so với một đại lượng khác”. Bezuidenhout (1998) cũng cho rằng quan
niệm tốc độ biến thiên là một trong những ý nghĩa quan trọng nhất của GT và vì thế,
một cách hiểu đầy đủ về khái niệm đạo hàm theo chúng tôi sẽ không thể thiếu hụt quan
niệm này.
4.1.1.2. Cách hiểu đầy đủ về khái niệm tích phân
Dựa trên khung lý thuyết của Zandieh (2000) về khái niệm đạo hàm, Habineza
(2013) mô tả một khung tương tự cho khái niệm tích phân xây dựng trong ngữ cảnh bài
toán tìm diện tích dưới đường cong nhằm hướng đến cách hiểu tích phân như giới hạn
tổng Riemann:
Ngữ cảnh: Diện tích dưới một đường cong
Các biểu diễn
Lớp
Lời
Đồ thị -
Kí hiệu tượng trưng
Số
Quá trình - Đối tượng
(Vật lí)
trực quan
(sự khái quát)
(tính toán số)
Phân hoạch
Lớp tích
Lớp tổng
Lớp giới hạn
Hình 4.3. Khung lý thuyết về khái niệm tích phân của Habineza
Ở khung lý thuyết này, tác giả đã chỉ ra bốn lớp quá trình – đối tượng trong cách
hiểu về tích phân theo giới hạn tổng Riemann: lớp phân hoạch, lớp tích, lớp tổng và lớp
giới hạn. Mỗi ô trống trong bảng hai chiều thể hiện một diện mạo của tích phân ứng với
mỗi lớp và dạng biểu diễn đặt trong ngữ cảnh đang nói đến. Chẳng hạn khi mô tả lớp
tích, Habineza cho rằng biểu diễn đại số là tích , còn biểu diễn hình học (đồ thị)
tương ứng là diện tích một dải hình chữ nhật với chiều dài và chiều rộng .
Từ kết quả nghiên cứu tri thức luận, khung lý thuyết của Habineza và các công trình
của Kouropatov và Dreyfus (2013), Jones (2015a), chúng tôi tổng hợp các cách hiểu sau
đây về tích phân có thể thiết lập trong quan niệm người học:
- Giới hạn của tổng Riemann (biểu diễn kí hiệu):
101
- Diện tích của hình phẳng dưới đồ thị hàm số (biểu diễn đồ thị).
- Hiệu các giá trị của nguyên hàm tại hai cận (cách hiểu theo quy trình tính toán).
- Tổng của những mẩu rất nhỏ được tạo thành từ tích của giá trị hàm số với một sự
thay đổi vô cùng bé của biến số; thước đo cho sự tích lũy hoặc tổng sự thay đổi của
một đại lượng khi biết trước tốc độ thay đổi của nó (biểu diễn bằng lời).
- Người học sử dụng phương pháp chia nhỏ, lập tổng để tính gần đúng giá trị số của
diện tích dưới đường cong (biểu diễn số).
- Sử dụng các đại lượng vật lí như độ dời, công để mô tả về tích phân (biểu diễn vật
lí).
Như đã đề cập ở phần cơ sở lí luận, để có một hiểu biết đầy đủ về tích phân, kiến
thức mà người học sở hữu phải được làm giàu bởi những kết nối giữa các cách hiểu và
biểu diễn nói trên. Hơn nữa trong những quan niệm này, nghiên cứu tri thức luận ở
chương 2 chỉ ra rằng cách hiểu chứa đựng trong cấu trúc tổng Riemann mới chỉ ra được
bản chất và nguồn gốc của tích phân. Nhiều nhà nghiên cứu giáo dục cũng cho rằng đây
là cách hiểu quan trọng nhất cho một hiểu biết vững chắc và đầy đủ về khái niệm đang
bàn đến (Artigue, 1991; Sealey, 2014; Jones, 2015a).
4.1.1.3. Hiểu về mối quan hệ giữa đạo hàm và tích phân
Một hiểu biết đầy đủ về hai khái niệm đạo hàm và tích phân không thể thiếu mối
liên hệ mật thiết giữa chúng được phát biểu trong định lí cơ bản. Lời giải thích chung
thường thấy về mối quan hệ này là: đạo hàm và tích phân là các quá trình đảo ngược nhau15. Tuy nhiên phát biểu chính xác của định lí cơ bản bao gồm hai phần sau (Stewart,
, thì 𝑔′(𝑥) = 𝑓(𝑥).
Phần 1: Giả sử 𝑓(𝑥) liên tục trên [𝑎; 𝑏]. Nếu 𝑔(𝑥) = ∫ 𝑓(𝑡)𝑑𝑡
𝑥 𝑎
, với 𝐹 là một nguyên hàm bất kì của 𝑓.
Phần 2:∫ 𝑓(𝑥)𝑑𝑥 = 𝐹(𝑏) − 𝐹(𝑎)
𝑏 𝑎
2012, tr. 393):
Phần 1 thường được gọi là phần nguyên hàm vì nó chỉ ra cách sử dụng tích phân
để xây dựng một nguyên hàm cho một hàm số. Phần 2 được xem là phần tính toán vì nó
cung cấp một phương tiện để tính tích phân. Định lí cơ bản cho thấy sự tương đương
trong hai cách tính toán tích phân, theo giới hạn tổng Riemann, và theo một quá trình
hàm là một hàm số trong khi đó tích phân là một số thực.
15 Thực ra nguyên hàm và đạo hàm mới được xem là các quá trình, hay các hàm số ngược với nhau. Nguyên
102
đảo ngược với phép lấy đạo hàm (nguyên hàm). Cấu trúc tổng Riemann giúp người học
biết được tại sao phải dùng đến tích phân trong việc giải quyết một bài toán, còn nguyên
hàm đưa đến một quy trình tính toán thuận lợi. Một cái trả lời câu hỏi tại sao, còn cái
kia cho biết phải tính nó như thế nào. Các phân tích trên cho thấy, để thực sự hiểu được
ý nghĩa của định lí cơ bản, điều kiện tiên quyết là người học phải quan niệm tích phân
theo giới hạn tổng Riemann. Vì nếu như họ chỉ hiểu tích phân theo quy trình tính toán
bởi nguyên hàm, định lí cơ bản tự nó sẽ không còn ý nghĩa.
Một cách thức khác để hiểu định lí cơ bản là người học phải hiểu được đạo hàm
như là tốc độ biến thiên và tích phân như sự tích lũy (lấy tổng các lượng rất nhỏ). Sự kết
nối giữa những cách hiểu này sẽ soi sáng cho mối quan hệ đảo ngược nhau giữa đạo
Sự tích lũy và tốc độ thay đổi của nó là hai mặt của cùng một đồng xu. Việc hiểu biết sâu
sắc mối quan hệ qua lại giữa các mặt này sẽ giúp thấy được sự kết nối chặt chẽ giữa hai
khái niệm chủ yếu của GT là đạo hàm và tích phân.
hàm và tích phân như Kouropatov và Dreyfus (2013) đã chỉ ra (tr. 4):
4.1.2. Ứng dụng khái niệm đạo hàm, tích phân trong Vật lí
Trong mục này, chúng tôi tìm hiểu những ứng dụng của đạo hàm, tích phân trong
các vấn đề vật lí, giới hạn ở chương trình vật lí bậc THPT. Để làm việc này, chúng tôi
sử dụng những kết quả có được từ nghiên cứu thể chế ở chương 3 và một số nghiên cứu
của các tác giả trên thế giới. Soi sáng với cơ sở lí luận về ứng dụng khái niệm trình bày
ở chương 1, chúng tôi sẽ làm rõ đâu là đặc trưng về tri thức cần chú trọng để hiểu được
các ứng dụng của đạo hàm, tích phân trong Vật lí.
4.1.2.1. Ứng dụng đạo hàm trong Vật lí
Đạo hàm là một khái niệm có những ứng dụng hữu ích trong nhiều lĩnh vực khoa
học kĩ thuật, đặc biệt là trong Vật lí học. Điều này thì không ngạc nhiên bởi vì Vật lí học
vốn được xem là ngành khoa học nghiên cứu các quy luật vận động, biến đổi của thế
giới tự nhiên trong khi đó đạo hàm lại là một công cụ toán học cho phép biểu diễn và
định lượng được tốc độ thay đổi ấy.
Nghiên cứu của Bingolbali et al. (2007) và Jones (2017) xác nhận rằng cách hiểu
theo tốc độ biến thiên là quan trọng và cần thiết nhất cho việc thấu hiểu những ứng dụng
của đạo hàm trong ngữ cảnh vật lí. Tốc độ biến thiên dùng trong Vật lí không nhất thiết
phải xem xét theo sự thay đổi của biến thời gian mà còn có thể chỉ ra một đại lượng bất
kì thay đổi nhiều như thế nào khi một đại lượng khác thay đổi.
103
Xem xét các ứng dụng của đạo hàm trong thể chế 𝐼𝑉𝐿, chúng tôi nhận thấy sự tác động chủ yếu của khái niệm này đến từ cách hiểu tốc độ biến thiên của nó. Dưới đây là
các đại lượng vật lí xuất hiện trong chương trình vật lí THPT mà việc xác định chúng
cần đến đặc trưng tốc độ biến thiên của đạo hàm:
- Vận tốc: tốc độ biến thiên của độ dời theo thời gian
- Gia tốc: tốc độ biến thiên của vận tốc theo thời gian
- Công suất: tốc độ biến thiên của công theo thời gian
- Suất điện động cảm ứng: tốc độ biến thiên của từ thông theo thời gian
- Suất điện động tự cảm: tỉ lệ với tốc độ biến thiên của dòng điện trong mạch
4.1.2.2. Ứng dụng tích phân trong Vật lí
Để có thể hiểu được những ứng dụng đa dạng của tích phân trong Vật lí, các nhà
nghiên cứu giáo dục toán và vật lí trên thế giới đều cho rằng người học phải sở hữu cách
hiểu về tích phân dựa trên cấu trúc tổng Riemann (Thompson và Silverman, 2008;
Meredith và Marrongelle, 2008; Jones, 2015a). Nhận định này cũng được xác nhận từ
kết quả nghiên cứu thể chế của chúng tôi ở chương 3. Cụ thể hơn, khi xem xét các kiểu
nhiệm vụ trong thể chế 𝐼𝑉𝐿, chúng tôi nhận thấy hai đặc trưng quan trọng sau đây xuất hiện ở những đại lượng vật lí được tính bởi tích phân.
Trước hết, các đại lượng này đều liên quan đến một mối quan hệ nhân (ứng với lớp
tích trong khung lý thuyết về tích phân): chẳng hạn độ dời bằng tích vận tốc và thời gian
khi vận tốc không đổi (𝑆 = 𝑣. 𝑡), và công bằng tích của lực với độ dịch chuyển khi lực
không đổi và cùng hướng với phương chuyển động (𝐴 = 𝐹. 𝑠).
Thứ hai, các đại lượng này đều thỏa mãn đặc trưng cộng tính (ứng với lớp tổng):
theo đó khi chia thời gian chuyển động thành các khoảng thời gian nhỏ thì độ dời bằng
tổng các độ dời thành phần: 𝑆 = 𝑆1 + 𝑆2 + ⋯ + 𝑆𝑛. Điều tương tự cũng đúng cho việc tính công khi chia đoạn đường dịch chuyển thành các phần nhỏ: 𝐴 = 𝐴1 + 𝐴2 + ⋯ + 𝐴𝑛.
Hai đặc trưng này cho thấy tầm quan trọng của cách hiểu theo tổng Riemann để
nhận ra được sự tác động của tích phân trong việc tính toán các đại lượng vật lí khi mà
hàm số lấy tích phân biến đổi theo biến số độc lập (vận tốc biến đổi theo thời gian/lực
biến đổi theo độ dịch chuyển). Về điểm này, Jones (2015a) đề nghị nhấn mạnh vào cấu
trúc cộng và cấu trúc nhân trong cách hiểu theo giới hạn tổng Riemann để có thể sử dụng
được tích phân giải quyết những vấn đề ngoài ngữ cảnh toán, đặc biệt là trong Vật lí.
104
Theo đó, Jones đề xuất một cách hiểu tích phân gọi là “tổng dựa trên tính nhân”
(multiplicatively based summation), gồm 2 yếu tố: mối quan hệ nhân giữa hàm lấy tích
phân và vi phân để tạo ra một tích trên những mẩu nhỏ của miền, và ý tưởng về tổng
những lượng nhỏ (có thể là nhỏ vô cùng) của các tích này để có được tổng giá trị của
đại lượng. Jones cho rằng quan niệm trên về tích phân sẽ giúp người học nắm bắt được
ý tưởng ẩn dưới và biết được lí do vì sao tích phân được sử dụng. Thompson và
Silverman (2008) thì đề nghị cách hiểu tích phân như một “sự tích lũy” để giúp người
học hiểu được ứng dụng của tích phân trong ngữ cảnh ngoài toán. “Tích lũy” ở đây được
các tác giả này hiểu là “sự cộng dồn lại những lượng gia tăng nhỏ mà được tạo thành
bởi các tích” (tr. 120).
Tựu trung lại, các phân tích và kết quả trên chỉ ra rằng quan niệm tích phân theo
giới hạn tổng Riemann (hoặc những cách hiểu dựa trên nó) là cái cần thiết nhất để hiểu
được các ứng dụng đa dạng của tích phân trong nhiều vấn đề của Vật lí. Cách hiểu này
giúp người học biết lí do vì sao tích phân được vận dụng trong mỗi tình huống và ý
nghĩa mà nó mang lại trong những ngữ cảnh đó. Ngoài ra, tầm quan trọng của phương
pháp lập tổng Riemann cũng được thể hiện trong các ứng dụng ngầm ẩn của tích phân
ở 𝐼𝑉𝐿 như chúng tôi đã phân tích ở chương 2. 4.1.2.3. Ứng dụng định lí cơ bản trong Vật lí
Định lí cơ bản cho thấy được mối quan hệ đảo ngược giữa tích phân với đạo hàm.
Từ mối quan hệ này, khi một bài toán vật lí giải được bằng cách áp dụng đạo hàm thì
luôn có thể đặt ra một bài toán ngược lại, ở đó tích phân là phương tiện để giải quyết.
Như chúng tôi đã đề cập đến trước đó, có thể xem đây là cặp bài toán thuận – nghịch.
Chẳng hạn, vì vận tốc được tính bằng cách đạo hàm hàm số quãng đường thế nên có thể
xác định quãng đường bằng cách lấy tích phân hàm vận tốc trong khoảng thời gian chuyển động16. Ở đây, để sử dụng mối quan hệ đảo ngược đã nói người học trước hết
phải xác định được bài toán nào sẽ giải được bằng đạo hàm (hay tích phân) và đâu là bài
toán ngược của nó. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp, việc nhận ra một bài toán ngược
không phải luôn thực hiện được chẳng hạn như với bài toán tính công. Lúc này một cách
hiểu đầy đủ về tích phân, đặc biệt là kĩ thuật tính toán theo tổng Riemann sẽ cần đến để
khái niệm đang nói có thể tác động vào cách giải bài toán.
được là độ dời chứ không phải quãng đường.
16 Với điều kiện hàm vận tốc 𝑣(𝑡) phải luôn dương trong khoảng thời gian này, nếu không đại lượng tính
105
Định lí cơ bản còn được ứng dụng trong Vật lí để tính tổng lượng thay đổi của một
đại lượng nào đó. Điều này thể hiện trong phần 2 của định lí cơ bản:
(công thức Newton – Leibniz)
Công thức này có thể viết lại dưới dạng , và diễn
bằng tích phân đạt bằng lời của nó là: sự thay đổi của một hàm số 𝐹(𝑥) trên đoạn
hàm số tốc độ biến thiên 𝐹′(𝑥) của nó trên khoảng ấy. Tuy nhiên nếu người học chỉ xem
công thức Newton – Leibniz như một phương tiện tính tích phân mà không gắn kết được
nó với các ngữ cảnh vật lí phù hợp thì sẽ khó mà vận dụng được trong những tình huống
cụ thể.
4.1.3. Vận dụng các chiến lược liên môn Toán – Khoa học trong dạy học khái niệm
đạo hàm, tích phân
Chúng tôi nhắc lại ba chiến lược LM Toán – Khoa học mà Nikitina và Mansilla
(2003) đã đề xuất: thiết lập khái niệm cốt lõi; bối cảnh hóa; và bài toán – tâm. Phần này
sẽ nói về cách vận dụng các chiến lược nói trên trong DH khái niệm đạo hàm, tích phân
theo hướng tiếp cận LM Toán – Vật lí.
4.1.3.1. Chiến lược thiết lập khái niệm cốt lõi: nghĩa tổng quát của đạo hàm, tích
phân
Như đã đề cập (ở mục 1.1.3), chiến lược thiết lập khái niệm cốt lõi hướng đến việc
nâng tầm các khái niệm, nguyên lý, lý thuyết trong toán học trở thành những khái niệm
cốt lõi, nền tảng từ đó có thể tạo ra những liên kết nội tại thống nhất giữa Toán học và
các khoa học khác. Để vận dụng chiến lược này, chúng tôi thấy rằng việc DH đạo hàm
và tích phân theo quan điểm LM cần phải hình thành được “nghĩa tổng quát” cho khái
niệm để người học có thể hiểu được các ứng dụng đa dạng của chúng trong Vật lí.
Một khái niệm thường mang trong nó nhiều nghĩa khác nhau, các nghĩa sẽ lộ diện
qua những tình huống mà khái niệm này xuất hiện (ngầm ẩn hay tường minh) như là
công cụ để giải quyết tình huống đó. Theo tiến trình lịch sử hình thành và phát triển của
khái niệm, các nghĩa này dần xuất hiện. Chúng tôi sử dụng thuật ngữ “nghĩa tổng quát”
của một khái niệm để chỉ nghĩa khởi thủy đầu tiên khi khái niệm bắt đầu xuất hiện hoặc
nghĩa mà cho phép khái niệm có thể được ứng dụng trong một lớp các bài toán của nhiều
lĩnh vực khác nhau.
106
Theo cách hiểu này, tốc độ biến thiên tức thời có thể xem là nghĩa tổng quát của
khái niệm đạo hàm. Thật vậy, ý tưởng về “sự thay đổi” hay “biến thiên” là một quan
niệm nền tảng có mặt ở mọi ngành khoa học, vì thế không ngạc nhiên khi đạo hàm có
ứng dụng rộng rãi. Nói riêng, khi vận dụng nghĩa này để giải quyết các bài toán vật lí,
đạo hàm có thể mang ý nghĩa là vận tốc tức thời (tốc độ biến thiên của quãng đường),
gia tốc (tốc độ biến thiên của vận tốc), suất điện động cảm ứng (tốc độ biến thiên của từ
thông theo thời gian),… Hay trong các ngữ cảnh khác của cuộc sống, đạo hàm giúp
chúng ta xác định tốc độ tăng dân số, tốc độ biến thiên của nhiệt độ,…
Bên cạnh đó, tư tưởng chia nhỏ, lập tổng sau đó chuyển qua giới hạn có thể xem là
nghĩa khởi thủy đầu tiên khi tích phân bắt đầu xuất hiện và sau đó trở thành một phương
pháp tổng quát giúp giải quyết nhiều vấn đề của thực tiễn và các ngành khoa học. Nói
riêng trong Vật lí, người ta vận dụng phương pháp này để tính toán các đại lượng có liên
quan đến quan hệ nhân và đặc trưng cộng tính như: xác định quãng đường đi
𝑡 𝑡0
được: 𝑠(𝑡) = ∫ 𝑣(𝑡)𝑑𝑡 , moment quán tính: 𝐼 = ∫ 𝑟2𝑑𝑚, hay tính công sinh ra bởi một
𝑠2 𝑠1
,… lực biến thiên: 𝐴 = ∫ 𝐹(𝑠)𝑑𝑠
4.1.3.2. Chiến lược bối cảnh hóa: xây dựng bối cảnh vật lí để mang lại nghĩa đúng
cho khái niệm
Chiến lược bối cảnh hóa đặt kiến thức toán học và khoa học vào trong bối cảnh lịch
sử hình thành và phát triển của các ý tưởng. Những bối cảnh như vậy hoàn toàn có thể
tìm thấy từ kết quả nghiên cứu tri thức luận mà chúng tôi đã thực hiện ở chương 2.
Chẳng hạn xem xét bối cảnh khi tích phân chưa được xây dựng một cách tường minh,
chúng tôi nhận thấy rằng: mặc dù ban đầu được nảy sinh trong các bài toán hình học,
các tư tưởng về tích phân (phương pháp chia nhỏ, lập tổng, …) sau đó đã cho phép giải
quyết nhiều vấn đề của Vật lí học với một sự chấp nhận kết quả thiếu tính chặt chẽ (ở
bước chuyển qua giới hạn). Ta có thể nhìn thấy ở bối cảnh vừa nói hai lợi ích: nếu khái
niệm tích phân đã có thì toàn bộ phương pháp giải phức tạp trong Vật lí có thể thay bằng
một ứng dụng của tích phân, làm nổi bật vai trò công cụ của nó trong Vật lý học; ngược
lại, về phương diện DH thì một số bài toán của Vật lí học có thể được sử dụng như ngữ
cảnh để đưa vào khái niệm này. Kết quả phân tích thể chế DH ở chương 3 cũng chỉ ra
một tình huống tương tự khi 𝐼𝑉𝐿 đã sử dụng tư tưởng về phương pháp của tích phân để giải quyết các vấn đề của mình ngay cả khi khái niệm này chưa xuất hiện ở 𝐼𝑇. Vì vậy,
107
nếu vận dụng chiến lược bối cảnh hóa, 𝐼𝑇 hoàn toàn có thể đặt việc DH khái niệm tích phân trong những ngữ cảnh ứng dụng đã đưa vào thể chế 𝐼𝑉𝐿 trước đó. 4.1.3.3. Chiến lược bài toán – tâm: tận dụng các bài toán mà việc giải quyết cần sự
tác động của cả kiến thức Giải tích và Vật lí
Như đã nói, quan điểm LM thể hiện rõ nhất ở sự hợp tác và hỗ trợ lẫn nhau giữa
các môn học trong việc DH một tri thức hoặc giải quyết một vấn đề thực tiễn. Chiến
lược bài toán tâm gợi ý xây dựng và đưa vào DH các bài toán cần huy động kiến thức
và kĩ năng của Toán và Vật lí để giải quyết. Điều này tạo điều kiện để hai mặt đối tượng
và công cụ của một tri thức có cơ hội soi rõ lẫn nhau và giúp người học hiểu và ứng
dụng khái niệm tốt hơn. Để vận dụng chiến lược này trong DH, theo chúng tôi thể chế
𝐼𝑇 cần xem xét và tận dụng các vấn đề vật lí xuất hiện trong 𝐼𝑉𝐿 mà đạo hàm và tích phân là phương tiện giải quyết. Tuy nhiên khi phân tích các thể chế DH, chúng tôi nhận thấy
mặc dù các bài toán LM có ứng dụng đạo hàm, tích phân xuất hiện rất nhiều trong 𝐼𝑉𝐿 nhưng lại không được 𝐼𝑇 quan tâm đến. Sự vắng mặt của các kiểu nhiệm vụ LM này làm giảm đi vai trò công cụ của đạo hàm, tích phân trong Vật lí đồng thời bỏ qua cơ hội giúp
người học thấu hiểu hơn khái niệm từ chính các ứng dụng đa dạng của chúng.
4.1.4. Sự liên môn thể hiện trong chuyển hóa sư phạm hai tri thức đạo hàm, tích
phân
Ở đây chúng tôi chỉ phân tích sự chuyển hóa sư phạm đã diễn ra đối với mối quan
hệ gắn kết giữa hai khoa học Toán và Vật lí ở cả thể chế tạo ra tri thức và thể chế DH chúng17. Phân tích này dựa trên kết quả nghiên cứu (ở chương 2 và chương 3) mà chúng
tôi đã thực hiện để trả lời cho hai câu hỏi nghiên cứu Q1 và Q2.
Câu hỏi Q1: Mối quan hệ gắn kết, hỗ trợ lẫn nhau giữa Toán học và Vật lí học đã
diễn ra như thế nào trong lịch sử hình thành và tiến triển hai khái niệm đạo hàm, tích
phân?
Câu hỏi Q2: Liên quan đến đạo hàm, tích phân, chương trình hiện hành và SGK
các môn Toán, Vật lí dùng ở bậc THPT đã thể hiện mối quan hệ LM như thế nào?
Dưới đây, chúng tôi tóm lược lại các kết quả nghiên cứu đã đạt được từ đó sẽ làm
rõ sự LM thể hiện như thế nào trong quá trình chuyển hóa sư phạm hai tri thức đạo hàm,
tích phân.
bài báo trước đây của chúng tôi (Ngô Minh Đức, 2017b)
17 Một phân tích về sự chuyển hóa sư phạm đối với khái niệm tích phân có thể tham khảo thêm trong một
108
Trong lịch sử hình thành và phát triển của GT nói chung và đạo hàm/tích phân nói
riêng, sự gắn kết và hỗ trợ lẫn nhau giữa Toán học và Vật lí học thể hiện ở các mặt sau:
- GT và Vật lí cùng nghiên cứu trên một số đối tượng giống nhau: các đại lượng và
quá trình biến thiên liên tục, vô hạn; các vấn đề của cơ học,…
- Cùng giải quyết các bài toán – tâm: các bài toán từ khoa học Vật lí cần sự hỗ trợ
của công cụ GT, các bài toán hình học với sự hỗ trợ của Vật lí.
- Cùng sử dụng các phương pháp và nguyên lí giống nhau: cả Hình học và Vật lí
học đều cùng sử dụng phương pháp “vét kiệt”, và sau này là phương pháp lập tổng
Riemann để giải quyết các vấn đề của mình. Một minh hoạ khác đó là Vật lí sử
dụng giới hạn tỉ sai phân để tính toán tốc độ thay đổi còn Toán học sử dụng nó để
xác định tiếp tuyến của đường cong,…
- Nhiều nhà toán học trong giai đoạn này cũng đồng thời là nhà vật lí: chẳng hạn
như Fermat, Newton, Euler, …
Tiềm năng LM này lại chưa thể hiện một cách thỏa đáng trong 𝐼𝑇 và 𝐼𝑉𝐿 liên quan
đến việc DH hai khái niệm đạo hàm, tích phân. Điều này thể hiện ở các điểm sau:
- Hai môn học Toán và Vật lí ở trường THPT được giảng dạy một cách tách biệt.
Khi 𝐼𝑉𝐿 cần đến đạo hàm hoặc tích phân thì nó chưa được dạy ở 𝐼𝑇. Khi các khái niệm này được dạy chính thức ở 𝐼𝑇 thì HS lại không có cơ hội được nhìn lại các ứng dụng đa dạng của đạo hàm và tích phân đã xuất hiện ngầm ẩn trước đó trong
-
𝐼𝑉𝐿. 𝐼𝑇 không chuẩn bị và cung cấp những phương pháp, cách hiểu và nguyên lý mà hữu ích cho việc ứng dụng đạo hàm và tích phân trong Vật lí. Cụ thể thì kĩ thuật
lập tổng Riemann được sử dụng ở 𝐼𝑉𝐿 lại không xuất hiện ở 𝐼𝑇; nghĩa tốc độ biến thiên của đạo hàm được sử dụng tường minh trong 𝐼𝑉𝐿 thì 𝐼𝑇 lại không giới thiệu. Điều này còn được làm rõ ở việc 𝐼𝑉𝐿 và 𝐼𝑇 sử dụng các phương pháp khác nhau để giải quyết cùng một bài toán tính quãng đường. 𝐼𝑉𝐿 dùng kĩ thuật lập tổng Riemann còn 𝐼𝑇 sử dụng nguyên hàm và mối quan hệ giữa hai phương pháp này thì không được làm rõ.
- Các bài toán – tâm vừa mang đặc trưng vật lí vừa sử dụng phương pháp và kĩ thuật
của GT chưa được khai thác đúng mức. Nhiều bài toán vật lí có sự tác động của
cách hiểu tốc độ biến thiên không được 𝐼𝑇 nhắc đến. Còn với tích phân, một kiểu nhiệm vụ quan trọng của 𝐼𝑉𝐿 (đã xuất hiện ở nhiều thời điểm khác nhau trong
109
chương trình THPT) là tính công của lực biến đổi, mặc dù luôn cần đến sự tác động
của kĩ thuật lập tổng Riemann nhưng lại không được 𝐼𝑇 quan tâm khai thác. Chúng tôi ghi nhận rằng 𝐼𝑇 đã có tính đến quan điểm LM Toán – Vật lí trong việc DH hai khái niệm đạo hàm và tích phân thể hiện ở hai điểm sau: một là 𝐼𝑇 có sử dụng ngữ cảnh và bài toán vật lí trong việc hình thành khái niệm đạo hàm, tích phân; và hai
là 𝐼𝑇 có vận dụng hai khái niệm này để giải quyết một số bài toán ngữ cảnh vật lí. Tuy nhiên những phân tích trên cho thấy rằng, việc khai thác sự hỗ trợ LM giữa Toán và Vật
lí liên quan đến hai khái niệm đang bàn đến là chưa thỏa đáng. Theo chúng tôi, mối quan
hệ LM này hoàn toàn có thể tận dụng hợp lý hơn để mang đến một cách hiểu đầy đủ
nhất trong chừng mực có thể cho hai khái niệm đạo hàm/tích phân cũng như giúp người
học hiểu được các ứng dụng đa dạng và hiệu quả của chúng trong Vật lí.
4.2. Các giải pháp sư phạm
Nhằm tận dụng những gắn kết LM Toán – Vật lí liên quan đến đạo hàm, tích phân,
chúng tôi đề xuất các giải pháp sư phạm sau đây và chia thành hai nhóm chính dựa trên
mục tiêu mà chúng nhắm đến. Nhóm giải pháp thứ nhất nhằm xây dựng cách hiểu đầy
đủ và vững chắc hơn cho người học về hai khái niệm đạo hàm và tích phân. Nhóm thứ
hai nhằm tăng cường vai trò công cụ của đạo hàm, tích phân trong các vấn đề vật lí và
qua đó cũng giúp người học vận dụng hiệu quả hơn kiến thức về GT trong những ngữ
cảnh ứng dụng.
Tuy nhiên, như đã đề cập thì việc hiểu và ứng dụng một khái niệm luôn có tính
tương hỗ cho nên sự phân chia thành hai nhóm giải pháp như trên chỉ có ý nghĩa tương
đối. Nghĩa là những giải pháp ở nhóm hai vẫn có thể hỗ trợ cho việc hiểu đầy đủ hơn về
khái niệm và ngược lại, những giải pháp ở nhóm một cũng giúp ứng dụng tốt hơn công
cụ đạo hàm và tích phân trong Vật lí. Điều này mặc dù dẫn đến sự gối đầu lên nhau ở
một số giải pháp, tuy nhiên cách phân loại nói trên phần nào giúp chúng tôi nhấn mạnh
hơn vào các mục tiêu chủ yếu mà mỗi nhóm hướng đến.
Cũng phải nói thêm rằng, lẽ ra trong một nghiên cứu DH theo quan điểm LM thì
những biện pháp liên quan đến việc xây dựng các chủ đề LM Toán và Vật lí nên được
bàn đến. Tuy nhiên để gắn kết được kiến thức toán và vật lí vào cùng một chủ đề DH lại
cần phải cấu trúc lại chương trình hai môn học sao cho các nội dung có liên quan được
đặt cạnh nhau và xuất hiện vào cùng một thời điểm. Điều này rõ ràng là không khả thi
với đối tượng tri thức là hai khái niệm đạo hàm và tích phân. Nguyên nhân ở chỗ GT
110
luôn được xem là đỉnh tháp trong các nội dung toán học được dạy ở cấp THPT và việc
học tập nó cần đến nhiều kiến thức chuẩn bị trước. Thế nên hai khái niệm đạo hàm và
tích phân chỉ có thể xuất hiện ở 𝐼𝑇 vào giai đoạn cuối của bậc học THPT. Trong khi đó, những ứng dụng của hai khái niệm này lại trải dài từ đầu lớp 10 đến cuối lớp 12 ở chương
trình DH Vật lí, vì thế gây khó khăn cho việc xây dựng các chủ đề DH LM những nội
dung có liên quan của hai môn học. Do những ràng buộc vừa chỉ ra, chúng tôi sẽ không
nhắm đến việc xây dựng các chủ đề LM tương tự như những chủ đề tích hợp mà một số
công trình nghiên cứu trong nước đã thực hiện. Thay vào đó, các giải pháp được đề xuất
sẽ tập trung khai thác sự hỗ trợ LM có thể thực hiện từ hai môn học Toán và Vật lí để
đem đến nhiều lợi ích hơn cho chúng. Các giải pháp này có thể thực hiện vào những thời
điểm thích hợp cả trong việc DH môn Toán hoặc môn Vật lí. Trong quá trình trình bày
các giải pháp chúng tôi đưa ra ví dụ cho một số giải pháp. Bên cạnh đó, để minh hoạ
cho việc sử dụng các giải pháp trong một tiến trình DH LM và tính khả thi của chúng,
hai đồ án DH khái niệm đạo hàm/tích phân cũng được chúng tôi xây dựng nhằm đạt
được những mục tiêu LM đã đặt ra trong câu hỏi nghiên cứu Q3.
4.2.1. Nhóm 1: Nhóm giải pháp xây dựng cách hiểu đầy đủ hơn cho người học về
hai khái niệm đạo hàm và tích phân
4.2.1.1. Giải pháp 1: Xây dựng các tình huống dạy học nhằm liên kết những cách
hiểu và biểu diễn khác nhau của đạo hàm/tích phân vào cùng một khái niệm
Đạo hàm và tích phân đều là những khái niệm “nhiều mặt”, theo nghĩa là chúng có
một số cách hiểu và biểu diễn khác nhau mà thoạt nhìn thì rất khó thấy được sự liên hệ
giữa chúng. Các khung lý thuyết về DH hiểu khái niệm đã chỉ ra rằng, để có một kiến
thức đầy đủ và “kích hoạt” được trong các tình huống giải quyết vấn đề, người học cần
phải kết nối được những cách hiểu này lại với nhau để thấy được sự thống nhất và mối
liên hệ giữa chúng.
Chẳng hạn, với khái niệm tích phân, những cách hiểu khác nhau có thể xây dựng
là: giới hạn tổng Riemann; hiệu giá trị hai nguyên hàm (phép toán đảo ngược của đạo
hàm); diện tích giới hạn bởi đồ thị hàm số với trục hoành; và một số ý nghĩa vật lí như
quãng đường, công… Giải pháp này hướng đến việc xây dựng các tình huống DH mà
có thể liên kết được những cách hiểu nói trên vào cùng một khái niệm – chẳng hạn ở
đây là tích phân. Điều này đem đến cho người học một dạng kiến thức gắn kết được làm
giàu trong những mối liên hệ, từ đó giúp họ hiểu đầy đủ hơn về khái niệm và có khả
111
năng ứng dụng hiệu quả nó để giải quyết các bài toán của Vật lí và của thực tiễn nói
chung.
Các minh hoạ cho giải pháp này được chúng tôi giới thiệu trong hai đồ án DH khái
niệm đạo hàm và tích phân sẽ trình bày trong chương 5. Ở hai đồ án đó, chúng tôi xây
dựng những tình huống sư phạm nhằm tạo ra sự liên kết giữa các cách hiểu và biểu diễn
khác nhau của hai khái niệm đạo hàm/tích phân, từ đó mang lại một hiểu biết đầy đủ
hơn cho người học về tri thức đang bàn đến.
4.2.1.2. Giải pháp 2: Khai thác tối đa mối quan hệ gắn kết giữa Toán học và Vật lí
học đã diễn ra trong lịch sử nảy sinh và tiến triển của khái niệm
Tận dụng hiệu quả hơn những gợi ý có được từ quá trình phát triển của tri thức
trong lịch sử là một quan điểm về DH Toán hiện nay được nhiều nhà nghiên cứu giáo
dục ủng hộ. Điều này không hàm ý là phải tổ chức DH mô phỏng lại hoàn toàn những
gì đã diễn ra trong lịch sử hình thành khái niệm. Thay vì thế, điều nên làm là sử dụng
những gợi ý có được từ phân tích tri thức luận để xây dựng các tình huống DH mang lại
những nghĩa đúng cho tri thức mà đặt trong sự phù hợp với nhận thức của HS và sự ràng
buộc của thể chế DH.
Xem xét gợi ý nói trên từ quan điểm LM, chúng ta hoàn toàn có thể khai thác sự hỗ
trợ lẫn nhau giữa GT và Vật lí học đã xảy ra trong lịch sử để tổ chức các hoạt động DH
hai khái niệm đang bàn đến. Một tiến trình DH phản ánh được mối quan hệ LM này có
thể mang lại cùng lúc lợi ích cho cả hai môn học Toán và Vật lí. Một mặt, người học sẽ
hiểu rõ hơn tri thức toán học nhờ sự hỗ trợ của Vật lí. Mặt khác, các khái niệm và kĩ
thuật GT sẽ là công cụ mạnh mẽ giúp giải quyết được nhiều vấn đề trong ngữ cảnh vật
lí. Hơn nữa, trong phân tích sự chuyển hóa sư phạm trình bày ở đầu chương này, chúng
tôi cũng chỉ ra rằng quá trình DH các khái niệm đạo hàm, tích phân dường như chưa tận
dụng thỏa đáng tiềm năng LM vốn có. Đặt trong thực trạng này, giải pháp mà chúng tôi
vừa đề xuất vẫn còn tính thời sự trong việc xây dựng chương trình DH Toán và Vật lí
để tạo sự gắn kết hỗ trợ nhau cho hai môn học.
Bên cạnh đó, từ kết quả phân tích tri thức luận đã thực hiện ở chương 2 chúng tôi
đã rút ra những gợi ý sư phạm nhằm tận dụng sự gắn kết tương hỗ giữa toán và vật lí
trong việc làm nảy sinh và tiến triển hai khái niệm đạo hàm và tích phân. Để minh hoạ
cho việc vận dụng giải pháp 2, chúng tôi sẽ sử dụng các gợi ý có được từ nghiên cứu tri
thức luận lịch sử ở chương 2 trong việc thiết kế tình huống DH khái niệm tích phân mà
sẽ trình bày ở chương 5 của luận án.
112
4.2.1.3. Giải pháp 3: Tận dụng một cách xác đáng những hỗ trợ mà thể chế 𝑰𝑽𝑳 đã cung cấp trong quá trình dạy học khái niệm đạo hàm, tích phân
Ở chương 3 chúng tôi chỉ ra rằng, khi giải quyết một số vấn đề của mình, 𝐼𝑉𝐿 đã cung cấp sớm nhiều tình huống thích hợp có thể giúp làm xuất hiện ý nghĩa tốc độ biến
thiên và kĩ thuật lập tổng Riemann. Như đã đề cập thì những cách hiểu này là nền tảng
và quan trọng nhất đối với hai khái niệm đạo hàm, tích phân cả về mặt đối tượng và
công cụ. Hơn nữa, khi sử dụng ý tưởng về tốc độ biến thiên và phương pháp chia nhỏ
lập tổng Riemann, 𝐼𝑉𝐿 thậm chí đã giới thiệu trước rằng những lập luận này sẽ được làm rõ sau khi thể chế 𝐼𝑇 giới thiệu tường minh hai khái niệm đạo hàm, tích phân.
Điều đáng tiếc là 𝐼𝑇 đã không tận dụng sự hỗ trợ từ 𝐼𝑉𝐿 để mang lại hai cách hiểu quan trọng nói trên cho các khái niệm đang bàn đến. Theo đề xuất của chúng tôi, việc
DH Toán hoàn toàn có thể khai thác tốt hơn những “tài nguyên” mà Vật lí đã cung cấp
(các ngữ cảnh, bài toán, phương pháp giải quyết) để đem đến kiến thức đầy đủ hơn cho
HS cũng như giới thiệu cho các em những kĩ thuật đặc trưng và hiệu quả của GT. Và
mặc dù đạo hàm và tích phân chỉ được dạy ở 𝐼𝑇 ở cuối chương trình THPT, có lẽ cũng cần tạo điều kiện cho người học nhìn lại những ứng dụng hiệu quả của chúng trong các
vấn đề vật lí trước đó. Điều này có thể sẽ giúp người học nhận ra rằng, những khái niệm
mà họ đang học có một sức mạnh thực tiễn to lớn như thế nào trong việc giải quyết nhiều
vấn đề của thực tiễn và khoa học, nói riêng là Vật lí.
Liên quan đến việc vận dụng giải pháp 5, trong hai đồ án DH được xây dựng ở
chương 5, chúng tôi đã thiết kế các tình huống tận dụng ngữ cảnh vật lí để làm nảy sinh
và mang lại nghĩa đầy đủ hơn cho hai khái niệm đạo hàm/tích phân. Ngoài ra, bằng cách
tạo điều kiện cho HS “thăm lại” những ứng dụng ngầm ẩn trước đó của đạo hàm/tích
phân trong Vật lí, đồ án cũng giúp các em hiểu sâu sắc hơn về tri thức đang đề cập và
cách ứng dụng chúng trong nhiều vấn đề thực tiễn.
4.2.1.4. Giải pháp 4: Đưa vào thể chế DH Toán nhiều hơn những kiểu nhiệm vụ mà
việc giải quyết chúng đòi hỏi người học phải hiểu khái niệm ở mức độ phù hợp thay
vì chỉ cần đến các kiến thức theo quy trình
Xu hướng đại số hóa GT ở trường THPT hiện nay dường như đang chú trọng vào
các kiến thức quy trình liên quan đến đạo hàm và tích phân. Các kiểu nhiệm vụ xuất
hiện trong thể chế 𝐼𝑇 nghiêng nhiều về yêu cầu tính toán hoặc có thể dùng những quy
113
trình có sẵn để giải quyết. Người học có thể thành thạo trong việc giải quyết các kiểu
nhiệm vụ này nhưng chưa hẳn là đã hiểu khái niệm ở một mức độ cần thiết.
Để phát triển một kiến thức đầy đủ hơn về các tri thức đang bàn đến, chúng tôi cho
rằng thể chế 𝐼𝑇 phải đưa vào nhiều hơn các kiểu nhiệm vụ mà việc giải quyết chúng đòi hỏi một mức độ hiểu khái niệm nhất định. Các bài toán này không nhất thiết phải đặt
trong ngữ cảnh toán mà có thể khai thác từ các ứng dụng của khái niệm trong thực tiễn
khoa học, đặc biệt là Vật lí. Những kiểu nhiệm vụ này sẽ dẫn dắt việc học tập của HS
theo hướng hiểu đầy đủ hơn khái niệm cũng như giúp các em rèn luyện khả năng vận
dụng và nối kết các cách hiểu và biểu diễn khác nhau để giải quyết thay vì chỉ sử dụng
những quy trình đại số có sẵn.
Để minh hoạ cho giải pháp này, chúng tôi giới thiệu sau đây hai bài toán mà việc
giải quyết nó cần đến công cụ đạo hàm và tích phân. Hơn nữa, người học cần phải hiểu
được nghĩa và các biểu diễn của khái niệm thì mới nhận ra được sự tác động của đạo
hàm/tích phân trong việc giải quyết bài toán đặt ra.
Ví dụ 4.1. Một thùng chứa dầu bị thủng vào thời điểm 𝑡 = 0 và sau đó dầu rò rỉ (chảy
ra) khỏi thùng. Biết rằng tốc độ giảm của lượng dầu trong thùng theo thời gian được ước tính theo hàm số 𝑟(𝑡) = 100. 𝑒−0,01𝑡 lít/phút.
a. Tính tổng lượng dầu chảy ra khỏi thùng trong 1 giờ đầu tiên. Giải thích cách tính đó?
b. Trong khoảng thời gian từ thời điểm 2 phút đến thời điểm 10 phút, lượng dầu chảy ra
khỏi thùng chứa là bao nhiêu?
Phân tích ví dụ 4.1
Nếu gọi hàm số mô tả lượng dầu trong thùng theo thời gian là 𝑓(𝑡) (đơn vị lít) thì
60 0
, và ở . Từ đó, kết quả ở câu a được tính bằng tích phân ∫ 𝑟(𝑡)𝑑𝑡 tốc độ biến thiên (trong bài là tốc độ giảm) của nó chính là 𝑓′(𝑡). Theo đề bài thì 𝑓′(𝑡) = 𝑟(𝑡). Tổng lượng dầu chảy ra khỏi thùng từ thời điểm 𝑡1 đến 𝑡2 được tính bởi: 𝑓(𝑡2) − 𝑡2 𝑓(𝑡1) = ∫ 𝑓′(𝑡)𝑑𝑡 𝑡1
10 2
. câu b là tích phân ∫ 𝑟(𝑡)𝑑𝑡
Để giải quyết được bài toán này HS cần phải hiểu được ý nghĩa của đạo hàm như
là tốc độ biến thiên và tích phân như là công cụ tính tổng lượng thay đổi của một đại
lượng khi biết được tốc độ biến thiên của nó. Cần nói thêm là HS không nhất thiết phải
tiếp cận tích phân theo giới hạn tổng Riemann thì mới nhận ra được cách hiểu này. Thật
114
𝑏 𝑎
= 𝐹(𝑏) − 𝐹(𝑎) (công thức Newton – Leibniz), ý vậy, ngay trong công thức ∫ 𝑓(𝑥)𝑑𝑥
nghĩa của tích phân như là tổng lượng thay đổi đã được thể hiện.
Cụ thể, vì 𝐹(𝑥) là nguyên hàm của 𝑓(𝑥) nên ta có 𝑓(𝑥) = 𝐹′(𝑥). Từ đó, công thức
𝑏 𝑎
. Trong Newton – Leibniz có thể viết lại như sau: ∆𝐹 = 𝐹(𝑏) − 𝐹(𝑎) = ∫ 𝐹′(𝑥)𝑑𝑥
công thức này, 𝐹(𝑏) − 𝐹(𝑎) cho biết sự thay đổi tổng cộng của hàm số 𝐹(𝑥) trên đoạn
[𝑎; 𝑏] và nó được tính bởi tích phân hàm số tốc độ biến thiên 𝐹′(𝑥).
Ví dụ 4.2. Thể tích nước (theo lít) trong một bể chứa sau 𝑡 phút được mô tả bởi hàm số
sau đây: với 𝑡 ≥ 0.
a. Hãy chứng minh rằng thể tích nước trong bể đang tăng dần lên theo thời gian.
b. Tại hai thời điểm 𝑡 = 4 phút và 𝑡 = 5 phút, theo em vào thời điểm nào thể tích nước
trong bể chứa tăng nhanh hơn?
Phân tích ví dụ 4.2
Để giải quyết bài toán này HS cần biết nghĩa tốc độ biến thiên tức thời của đạo
hàm. Nếu thiếu nghĩa này thì dù cho HS có giải được câu a bằng xét dấu 𝑉′(𝑡) để chứng
minh thể tích luôn tăng nhưng sẽ gặp khó khăn với yêu cầu ở câu b. Thật vậy, yêu cầu so sánh tốc độ tăng ở hai thời điểm ở câu b buộc HS phải so sánh hai giá trị 𝑉′(4) và 𝑉′(5). Tuy nhiên nếu các em không biết rằng giá trị 𝑉′(𝑡0) đặc trưng cho tốc độ tăng thể tích nước ở thời điểm 𝑡0 thì chiến lược giải này khó mà xuất hiện.
Hai bài toán chúng tôi xây dựng ở trên đòi hỏi HS phải thấu hiểu nghĩa của các khái
niệm ở mức độ thích hợp để nhận ra được sự tác động của đạo hàm và tích phân trong
việc giải quyết các vấn đề của khoa học và thực tiễn. Theo chúng tôi, những kiểu nhiệm
vụ như vậy sẽ giúp hướng người dạy và người học vào mục tiêu hiểu được đầy đủ hơn
ý nghĩa và bản chất khái niệm để ứng dụng chúng trong nhiều ngữ cảnh thực tiễn đa
dạng, thay vì chỉ tập trung vào các nhiệm vụ tính toán và giải bài tập theo quy trình sẵn
có.
4.2.2. Nhóm 2: Nhóm giải pháp nhằm tăng cường vai trò công cụ của đạo hàm và
tích phân và giúp người học ứng dụng hiệu quả chúng trong các vấn đề của Vật lí
4.2.2.1. Giải pháp 5: Đưa vào thể chế dạy học Toán cách hiểu tường minh về đạo
hàm như là thước đo cho tốc độ biến thiên và giới thiệu công cụ xấp xỉ hàm số
Như các phân tích trước đó đã chỉ ra, vai trò công cụ của đạo hàm trong Vật lí thể
hiện rõ nét nhất ở cách hiểu tốc độ biến thiên. Vật lí cần đến cách hiểu này để giải thích
115
lý do áp dụng đạo hàm ở các ngữ cảnh ứng dụng. Vì lẽ đó, thể chế 𝐼𝑇 cần phải làm xuất hiện cách hiểu này trong quan niệm của HS để giúp các em nhận thấy được vai trò công
cụ và sức mạnh thực tiễn của tri thức đang nói đến.
Ngoài ra, 𝐼𝑉𝐿 còn sử dụng các xấp xỉ hàm số để nghiên cứu và giải quyết các vấn đề của Vật lí. Cơ sở toán học giải thích cho các xấp xỉ này đã có sẵn trong 𝐼𝑇, tuy nhiên các kiểu nhiệm vụ liên quan lại chỉ dừng ở việc tính toán gần đúng mà bỏ qua việc xấp
xỉ một hàm số khả vi bởi hàm tuyến tính bậc nhất. Vì vậy, để người học thấy được vai
trò công cụ của đạo hàm và các kĩ thuật GT, chúng tôi cho rằng việc nâng tầm kĩ thuật
tính xấp xỉ số lên thành xấp xỉ hàm là điều cần thiết và hoàn toàn có thể làm được bằng
con đường hình học: xấp xỉ phần đường cong (đồ thị của hàm số) trong một lân cận (khá
bé) của 𝑥0 bởi một đoạn thẳng (chính là tiếp tuyến của hàm số tại 𝑥0). Bằng cách này, chúng ta có xấp xỉ sau mà có thể sử dụng để giải thích nhiều công thức xấp xỉ được sử dụng trong 𝐼𝑉𝐿: 𝑓(𝑥) ≈ 𝑓′(𝑥0)(𝑥 − 𝑥0) + 𝑓(𝑥0)
Để minh hoạ cho giải pháp này, chúng tôi đưa ra hai phương thức sau đây có thể
hình thành nghĩa tốc độ biến thiên trong quan niệm của người học về đạo hàm tuỳ vào
từng đối tượng.
Với đối tượng HS đã học qua đạo hàm theo định nghĩa giới hạn tỉ sai phân nhưng
chưa biết về nghĩa “tốc độ biến thiên”, chúng ta có thể bổ sung thêm cách hiểu này từ
cách tiếp cận động học. Chẳng hạn, thông báo sau đây có thể dùng để giới thiệu cách
hiểu “tốc độ biến thiên tức thời” gắn với giá trị của đạo hàm tại một điểm:
Bổ sung kiến thức
• Tốc độ biến thiên trung bình
Xét hàm số 𝑦 = 𝑓(𝑥), nếu 𝑥 thay đổi (biến thiên) từ giá trị 𝑥1 sang giá trị 𝑥2 thì độ
biến thiên của 𝑥 là: ∆𝑥 = 𝑥2 − 𝑥1 (đại lượng này còn được gọi là số gia của 𝑥) Độ biến thiên tương ứng của 𝑦 là: ∆𝑦 = 𝑓(𝑥2) − 𝑓(𝑥1)
Tỉ số
chính là tốc độ biến thiên trung bình của 𝑦 theo 𝑥 trên đoạn
[𝑥1; 𝑥2]. • Tốc độ biến thiên tức thời
Khi 𝑥2 tiến dần đến giá trị của 𝑥1 (nghĩa là ∆𝑥 → 0) thì tốc độ biến thiên trung bình trên đoạn [𝑥1; 𝑥2] càng lúc càng phản ánh chính xác hơn tốc độ biến thiên của hàm số 𝑦
sẽ cho biết chính
theo đối số 𝑥 ngay tại 𝑥1. Giới hạn (nếu có)
xác tốc độ biến thiên tức thời của 𝑦 theo 𝑥 tại điểm 𝑥1 và nó cũng chính là 𝑓′(𝑥1) (đạo hàm của hàm số 𝑓(𝑥) tại giá trị 𝑥1).
Với ý nghĩa này, khi hàm số 𝑓(𝑥) biểu thị cho một đại lượng bất kì trong khoa học
hoặc trong thực tiễn, thì đạo hàm của nó sẽ giúp ta tính được tốc độ biến thiên của đại
lượng đó theo biến mà nó phụ thuộc.
116
Với đối tượng HS chưa học về đạo hàm, đồ án DH mà chúng tôi xây dựng ở chương
5 trình bày một cách làm nảy sinh khái niệm đạo hàm trong ngữ cảnh vật lí mà có thể
gắn nó với cách hiểu theo tốc độ biến thiên. Chuỗi tình huống DH được chúng tôi xây
dựng trong đồ án đó nhắm đến mục tiêu liên kết được nghĩa tốc độ biến thiên với cách
tính theo giới hạn tỉ sai phân khi đạo hàm đóng vai trò là công cụ giúp giải quyết một
vấn đề nảy sinh trong ngữ cảnh ứng dụng.
4.2.2.2. Giải pháp 6: Giới thiệu cho người học các kĩ thuật của Giải tích có nhiều ứng
dụng hiệu quả trong Vật lí, đặc biệt là phương pháp tính gần đúng theo tổng Riemann
Nhiều HS có thể đã từng tự hỏi: “tại sao lại phải học tích phân”? Câu trả lời có thể
tìm thấy trong SGK thường là “để tính diện tích và thể tích”, nhưng để tính toán những
đại lượng này các em chỉ phải áp dụng các công thức sẵn có. Hầu hết HS không hề biết
đến lí do tại sao tích phân có thể giúp tính diện tích và thậm chí còn được áp dụng để
giải quyết nhiều vấn đề trong khoa học và thực tiễn. Nguyên nhân chủ yếu như chúng
tôi đã chỉ ra trước đó đến từ sự thiếu hụt cách hiểu tích phân theo cấu trúc tổng Riemann.
Ấy vậy mà, khi chương trình vật lí THPT đưa vào nhiều tình huống giải quyết vấn đề
có sử dụng phương pháp lập tổng Riemann thì HS lại không hề biết sự liên hệ của kĩ
thuật tính toán này với khái niệm tích phân được học. Nghiên cứu ở chương 2 và chương
3 cũng chỉ ra rằng phương pháp tính toán thể hiện trong kĩ thuật lập tổng Riemann không
những là cốt lõi để nắm được bản chất khái niệm mà còn thiết yếu cho việc hiểu được
các ứng dụng đa dạng của tích phân trong Vật lí nói riêng và các vấn đề của thực tiễn
nói chung. Vì thế, nếu như muốn HS thấy rõ được vai trò công của khái niệm tích phân,
chúng ta nên giới thiệu kĩ thuật tính gần đúng theo tổng Riemann trong thể chế DH
Toán.
Cần phải nói rõ, chúng tôi không ngụ ý rằng tích phân phải được định nghĩa chặt
chẽ bằng giới hạn tổng Riemann giống như cách trình bày của các giáo trình đại học,
bởi lẽ tính phức tạp của nó có thể là quá sức với mức độ nhận thức của HS phổ thông.
Thay vì đó, chúng ta có thể đưa vào các tình huống làm xuất hiện phương pháp chia
nhỏ, lập tổng Riemann để làm nổi bật được vai trò công cụ của khái niệm này. Tích phân
117
vẫn có thể được định nghĩa và tính toán theo hiệu giá trị nguyên hàm tại hai cận, nhưng
điều cần thiết là phải chỉ ra được sự tương đương giữa hai cách tính toán, một theo
nguyên hàm và một theo tổng Riemann. Phương pháp tính toán theo tổng Riemann cho
biết lý do tại sao phải sử dụng tích phân trong một ngữ cảnh ứng dụng nào đó, còn
nguyên hàm sẽ cung cấp một phương tiện thuận lợi để tính toán nó.
Giải pháp này cũng sẽ được chúng tôi cụ thể hoá trong đồ án DH khái niệm tích
phân trình bày ở chương 5. Trong đồ án đó, một chuỗi tình huống được chúng tôi xây
dựng nhằm giới thiệu phương pháp tính toán gần đúng theo tổng Riemann và liên hệ
của nó với nghĩa nguyên hàm và diện tích của khái niệm tích phân.
4.2.2.3. Giải pháp 7: Soi sáng lại các ứng dụng đã xuất hiện trong Vật lí trên cơ sở
những kiến thức mà môn Toán cung cấp
Việc cấu trúc lại chương trình DH hai môn Toán và Vật lí sao cho có thể thỏa mãn
được tối đa những đặc trưng LM từ lịch sử không phải lúc nào cũng làm được (đây cũng
là sự ràng buộc về mặt thể chế DH). Như đã nói đến, sự xuất hiện của hai khái niệm đạo
hàm và tích phân ở thể chế 𝐼𝑇 thường đến muộn hơn những ứng dụng của chúng trong 𝐼𝑉𝐿. Trong trường hợp này, một giải pháp để người học nhận ra được vai trò công cụ của các tri thức đang nói đến là soi sáng lại các ứng dụng của chúng đã xuất hiện ngầm ẩn
trước đó trong Vật lí.
Cụ thể, khái niệm đạo hàm đã được 𝐼𝑉𝐿 sử dụng một cách ngầm ẩn để giải quyết nhiều vấn đề cần sự tác động của cách hiểu tốc độ biến thiên trước khi được dạy ở 𝐼𝑇. Vì thế để HS nhận ra được những ứng dụng đa dạng của đạo hàm, SGK toán có thể
“thăm lại” các vấn đề vật lí nói trên và làm rõ vai trò công cụ của khái niệm đang bàn
đến. Hơn nữa, việc xem xét lại những ứng dụng này còn có thể giúp người học hiểu rõ
hơn các đặc trưng và ý nghĩa của đạo hàm, cũng như thấu hiểu được lý do và cách thức
mà nó được ứng dụng trong nhiều vấn đề của Vật lí.
Luận điểm nói trên cũng phù hợp trong trường hợp khái niệm tích phân. Tuy nhiên,
như chúng tôi đã phân tích trước đó thì sự soi sáng và nhìn lại những ứng dụng của đạo
hàm, tích phân trong Vật lí chỉ phù hợp nếu như 𝐼𝑇 có thể làm xuất hiện được các cách hiểu tương thích: tốc độ biến thiên với đạo hàm và giới hạn của tổng Riemann với tích
phân.
Để minh hoạ cho giải pháp này, chúng tôi đặt giả thiết rằng cách hiểu tốc độ biến
thiên tức thời đã được hình thành trong quan niệm của HS về khái niệm đạo hàm. Khi
118
đó, GV có thể tạo điều kiện cho HS nhìn lại các ứng dụng ngầm ẩn của đạo hàm xuất
hiện trong SGK Vật lí lớp 10 và 11 bằng cách đưa ra một số bài toán sau đây:
Ví dụ 7.1. Gọi hàm số biểu diễn vận tốc và gia tốc theo thời gian lần lượt là: 𝑣(𝑡) và
𝑎(𝑡). Trong SGK Vật lí lớp 10 ta biết rằng tốc độ biến thiên tức thời của vận tốc theo
thời gian chính là gia tốc. Gia tốc đặc trưng cho mức độ biến thiên nhanh chậm của vận
tốc. Bên cạnh đó, để tính độ lớn của gia tốc tức thời SGK Vật lí lớp 10 đưa ra công thức
sau đây: , với ∆𝑡 rất nhỏ.
Theo em, để tính được chính xác gia tốc tức thời tại một thời điểm thì công thức
đúng phải là gì? Giải thích đề xuất của mình bằng ít nhất hai lí lẽ khác nhau.
Ví dụ 7.2. Phát biểu sau được trích dẫn trong bài “Định luật Fa-ra-đây về cảm ứng điện
từ” SGK Vật lí 11 NC (tr.186)
“…độ lớn của suất điện động cảm ứng trong mạch kín tỉ lệ với tốc độ biến thiên của
từ thông qua mạch… Nếu trong khoảng thời gian ∆𝑡 đủ nhỏ, từ thông qua mạch biến
thiên một lượng thì là tốc độ biến thiên của từ thông.
SGK Vật lí lớp 11 đưa ra công thức tính độ lớn suất điện động cảm ứng như sau:
, với ∆𝑡 đủ nhỏ. Nếu tính đến dấu của 𝑒𝑐 (theo định luật Len-xơ) thì công thức
xác định suất điện động cảm ứng tại một thời điểm được viết dưới dạng sau:
, với ∆𝑡 đủ nhỏ.
a. Theo em, công thức trên đã giúp xác định chính xác suất điện động cảm ứng tại mỗi
thời điểm hay chưa? Hãy đưa ra một công thức có thể xác định chính xác suất điện động
tức thời nói trên. Giải thích đề xuất của mình bằng ít nhất hai lí lẽ khác nhau.
b. Xét một khung dây dẫn diện tích 𝑆, quay đều quanh trục với tốc độ góc 𝜔 trong từ
trường đều 𝐵⃗ . Biết rằng từ thông qua khung dây biến thiên theo hàm số
. Hãy tìm hàm số biểu thị suất điện động cảm ứng trong khung dây
theo thời gian 𝑡.
Ví dụ 7.3. Trong bài hiện tượng “Tự cảm”, SGK Vật lí lớp 11 cơ bản phát biểu định
luật về suất điện động tự cảm xuất hiện trong mạch như sau:
119
“Suất điện động tự cảm có độ lớn tỉ lệ với tốc độ biến thiên của cường độ dòng điện
trong mạch” (tr. 156)
Theo đó, suất điện động tự cảm được xác định bởi công thức sau đây:
, với 𝐿 là độ tự cảm và ∆𝑡 rất nhỏ.
a. Theo em, để tính được chính xác suất điện động tự cảm tại một thời điểm thì công
thức đúng phải là gì? Giải thích đề xuất của mình bằng ít nhất hai lí lẽ khác nhau.
b. Biết rằng độ tự cảm 𝐿 = 0,2 (đơn vị H), cường độ dòng điện trong mạch biến đổi theo
thời gian 𝑡 theo hàm số 𝑖(𝑡) = 2sin (100𝜋𝑡) (đơn vị A). Hãy tính suất điện động tự cảm
𝑒𝑡𝑐 (đơn vị V) tại thời điểm 𝑡 = 1 giây. Phân tích:
Ba ví dụ trên liên quan đến việc xác định các đại lượng vật lí sau: gia tốc tức thời,
suất điện động cảm ứng tức thời và suất điện động tự cảm tức thời. Đặc trưng vật lí của
ba đại lượng này đều gắn với ý nghĩa tốc độ biến thiên của đạo hàm, tuy nhiên vì xuất
hiện ở 𝐼𝑉𝐿 vào thời điểm phép tính giới hạn và đạo hàm chưa được giới thiệu nên SGK
Vật lí chỉ đưa ra các công thức tính gần đúng ở dạng: , với ∆𝑡 rất nhỏ. Điều mong
đợi là HS nhận ra sự tác động của phép lấy đạo hàm trong những vấn đề này để có thể
đưa ra một công thức tính chính xác các đại lượng được nhắc đến. Chiến lược mong đợi
này theo chúng tôi có thể xuất hiện từ hai con đường. Một từ việc kết nối cách hiểu tốc
độ biến thiên của đạo hàm với đặc trưng vật lí của các đại lượng vật lí đang đề cập. Con
đường thứ hai xuất phát từ việc xem xét công thức tính gần đúng theo tỉ sai phân khi số
gia biến số rất nhỏ và liên hệ nó với phép lấy giới hạn . Bằng cách đưa thêm yêu
cầu HS phải “giải thích đề xuất của mình bằng hai lí lẽ khác nhau” chúng tôi muốn
hướng HS tiếp cận theo cả hai cách nói trên. Điều này không chỉ giúp HS nhận ra vai
trò công cụ mạnh mẽ của đạo hàm trong nhiều vấn đề của Vật lí mà hơn nữa còn giúp
nối kết cách hiểu tốc độ biến thiên của đạo hàm với công thức tính toán nó trong những
ngữ cảnh ứng dụng.
Để kiểm chứng sự phù hợp của giải pháp 7, các ví dụ nói trên (ví dụ 7.1; 7.2a và
7.3a) sẽ được chúng tôi đưa vào đồ án DH ở chương 5. Mục đích là để kiểm tra khả năng
của HS trong việc gắn kết cách hiểu về đạo hàm vừa được xây dựng từ đồ án với những
tình huống ứng dụng nó trong Vật lí.
120
4.2.2.4. Giải pháp 8: Tăng cường các kiểu nhiệm vụ liên môn có sử dụng kiến thức
của cả Giải tích và Vật lí
Phân tích thể chế DH của chúng tôi ở chương 3 đã chỉ ra rằng các tổ chức tri thức
liên quan đến việc ứng dụng đạo hàm/tích phân trong ngữ cảnh vật lí chưa được xây
dựng thoả đáng với tiềm năng LM vốn có. Một phần nguyên nhân bắt nguồn từ cách
tiếp cận hiện nay của 𝐼𝑇 không hướng đến việc làm xuất hiện những cách hiểu cần thiết để ứng dụng đạo hàm/tích phân trong Vật lí. Một nguyên nhân khác có lẽ đến từ sự chú
trọng của 𝐼𝑇 vào các kiểu nhiệm vụ tính toán đạo hàm hay tích phân nhưng lại chưa gắn việc tính toán này vào các ngữ cảnh LM để mang lại ý nghĩa thực tiễn cho đại lượng vừa
tính.
Trong giải pháp này, chúng tôi đề xuất đưa vào thêm các kiểu nhiệm vụ LM mà để
giải quyết chúng người học cần sử dụng đến cả kiến thức toán và vật lí. Giải pháp này
sẽ tăng thêm tính phù hợp và hiệu quả nếu chúng ta thực hiện kèm với hai giải pháp 5
và 6 (giới thiệu cách hiểu tốc độ biến thiên và kĩ thuật tính xấp xỉ bằng tổng Riemann
trong 𝐼𝑇) vì chỉ khi đó thì các kiểu nhiệm vụ LM mới được khai thác đúng mức. Những giải pháp này sẽ giúp HS thấy rõ được vai trò công cụ mạnh mẽ của đạo hàm và tích
phân trong Vật lí nói riêng và thực tiễn nói chung đồng thời có lợi cho việc hiểu sâu sắc
hơn về các tri thức đang đề cập.
Lợi ích LM của giải pháp 8 là điều đã thấy rõ, tuy nhiên một trở ngại phải xem xét
là các kiến thức GT và Vật lí có gắn kết LM lại thường không được dạy song song hoặc
gần nhau trong hai thể chế 𝐼𝑇 và 𝐼𝑉𝐿. Điều này gây ra khó khăn cho người học trong việc huy động tổng hợp các kiến thức cần thiết từ hai môn học để giải quyết vấn đề. Trong
hoàn cảnh chưa thể thiết kế được những chủ đề LM để dạy các kiến thức toán và vật lí
cùng với nhau, một giải pháp chúng tôi đưa ra là cung cấp kiến thức bổ trợ cho mỗi kiểu
nhiệm vụ tuỳ theo phạm vi môn học. Chẳng hạn khi đặt một bài toán có ngữ cảnh LM
trong phạm vi DH môn Toán, GV có thể thêm vào đề bài một số thông tin nhằm cung
cấp các kiến thức vật lí cần thiết. Để minh hoạ, chúng tôi giới thiệu các bài toán có ngữ
cảnh vật lí sau đây có thể đặt ra cho HS trong phạm vi môn Toán, hai ví dụ đầu sử dụng
công cụ đạo hàm, hai ví dụ còn lại sử dụng tích phân.
Ví dụ 8.1. Định luật hấp dẫn của Newton phát biểu rằng lực hút của một vật khối lượng
𝑚 tác động lên một vật có khối lượng 𝑀 được cho bởi công thức:
, trong đó 𝐺 là hằng số hấp dẫn và 𝑟 là khoảng cách giữa hai vật.
121
a. Hãy tính 𝐹′(𝑟) (đạo hàm của hàm số lực 𝐹 theo khoảng cách 𝑟) và giải thích ý nghĩa
của nó.
b. Chứng minh rằng lực hấp dẫn luôn giảm khi khoảng cách 𝑟 tăng lên. Khi khoảng cách
𝑟 càng tăng thì lực hấp dẫn sẽ giảm nhanh hơn hay giảm chậm lại?
Ví dụ 8.2. Định luật Bôilơ – Mariốt (SGK Vật lí 11 NC, tr. 224) phát biểu rằng ở nhiệt
độ không đổi, tích của áp suất 𝑝 và thể tích 𝑉 của một lượng khí xác định là một hằng
số:
𝑝𝑉 = 𝐶, với 𝐶 là một hằng số.
a. Hãy tìm công thức biểu thị tốc độ biến thiên của thể tích 𝑉 theo áp suất 𝑝.
b. Một lượng khí trong xi lanh dãn từ áp suất cao đến áp suất thấp hơn ở nhiệt độ không
đổi trong suốt 5 phút. Thể tích của xi lanh giảm nhanh hơn vào lúc bắt đầu hay kết thúc
của 5 phút này? Giải thích tại sao.
Phân tích ví dụ 8.1 và 8.2
Với ví dụ 8.1, công thức tính lực hấp dẫn trong SGK Vật lí lớp 10 được nhắc lại.
Công thức này cho phép HS thiết lập được một hàm số biểu diễn sự phụ thuộc của lực
hấp dẫn theo khoảng cách giữa hai vật: .
Từ đó ta có . 𝐹′(𝑟) cho chúng ta biết tốc độ biến thiên của lực
hấp dẫn theo sự thay đổi của khoảng cách 𝑟 giữa hai vật. Dấu trừ cho thấy 𝐹′(𝑟) luôn
âm, nghĩa là lực hấp dẫn sẽ giảm đi theo chiều tăng của khoảng cách hai vật. Hơn nữa,
công thức của 𝐹′(𝑟) còn cho biết rằng khi khoảng cách càng tăng thì tốc độ giảm của lực hấp dẫn càng nhỏ (độ lớn 𝐹′(𝑟) tỉ lệ nghịch với 𝑟3). Bằng cách đặt câu hỏi kiểu mở
như “giải thích ý nghĩa của 𝐹′(𝑟)”, chúng ta sẽ kiểm tra được cách hiểu của HS về khái
niệm đạo hàm, đặc biệt là khi đặt nó vào một ngữ cảnh vật lí cụ thể.
Với ví dụ 8.2, mối quan hệ giữa áp suất và thể tích chất khí trong quá trình đẳng
nhiệt ở SGK Vật lí lớp 10 được chúng tôi nhắc lại: 𝑝𝑉 = 𝐶. Từ đây HS có thể thiết lập
. Điều đáng nói là các được một hàm số biểu thị sự phụ thuộc của 𝑉 theo 𝑝:
yêu cầu a và b trong ví dụ này đều không hề nhắc đến việc phải tính đạo hàm. HS chỉ
có thể nhận ra được sự tác động của đạo hàm trong bài toán nếu như các em biết được
nghĩa tốc độ biến thiên của tri thức đang đề cập. Theo đó đạo hàm cho ta
122
công thức biểu thị tốc độ biến thiên của thể tích 𝑉 theo áp suất 𝑝. Với câu b, đề bài cho
biết quá trình là giảm áp và áp suất ở thời điểm ban đầu sẽ lớn hơn ở thời điểm cuối.
Điều này kéo theo độ lớn của 𝑉′(𝑝) ở thời điểm ban đầu sẽ nhỏ hơn (theo công thức thì độ lớn 𝑉′(𝑝) tỉ lệ nghịch với 𝑝2), nghĩa là thể tích của xi lanh sẽ giảm nhanh hơn vào
thời điểm kết thúc của quá trình.
Hai ví dụ trên minh hoạ các kiểu nhiệm vụ LM Toán – Vật lí mà cần sử dụng đến
nghĩa tốc độ biến thiên của đạo hàm trong việc giải quyết. Các ví dụ tiếp theo sau đây
được chúng tôi xây dựng để minh hoạ cho một số kiểu nhiệm vụ LM cần đến sự tác
động của công cụ tích phân.
Ví dụ 8.3: Đồ thị gia tốc – thời gian của hai vật được cho dưới đây:
Vật 1 Vật 2
a. Cho biết vật 1 có hàm số gia tốc trên đoạn [0; 2] là 𝑎(𝑡) = −𝑡 + 2. Vận tốc của vật
1 thay đổi một lượng bao nhiêu từ thời điểm 𝑡 = 0 đến thời điểm 𝑡 = 2 giây.
b. Trong hai vật, vật nào có sự thay đổi vận tốc lớn hơn trong khoảng thời gian chuyển
động từ thời điểm 𝑡 = 0 giây đến thời điểm 𝑡 = 2 giây? Giải thích tại sao.
Phân tích ví dụ 8.3
Ví dụ này và ví dụ 4.1 ở giải pháp 4 đều cùng thuộc một kiểu nhiệm vụ là tính sự
thay đổi tổng cộng của một đại lượng trên một khoảng thời gian khi cho biết tốc độ biến
thiên của đại lượng ấy. Kĩ thuật giải kiểu nhiệm vụ này là công thức tính tích phân theo
𝑏 𝑎
. Đặt trong ngữ cảnh vật lí này chúng ta nguyên hàm: ∆𝐹 = 𝐹(𝑏) − 𝐹(𝑎) = ∫ 𝐹′(𝑥)𝑑𝑥
có lượng thay đổi của vận tốc trong đoạn thời gian [𝑎; 𝑏] được tính bởi
𝑏 𝑎
𝑏 𝑎
. ∆𝑣 = 𝑣(𝑏) − 𝑣(𝑎) = ∫ 𝑣′(𝑡)𝑑𝑡 = ∫ 𝑎(𝑡)𝑑𝑡
2 0
. Ở câu b, Theo đó kết quả của câu a được xác định bởi tích phân: ∫ (−𝑡 + 2)𝑑𝑡
việc so sánh lượng thay đổi vận tốc của hai vật trong đoạn thời gian [0; 2] quy về việc
so sánh hai tích phân. Tuy nhiên vì đề bài không hề cho biểu thức hàm số gia tốc của
vật 2 nên việc so sánh hai tích phân bắt buộc quy về so sánh hai diện tích dưới đồ thị.
123
Để giải quyết vấn đề này HS cần thấu hiểu và chuyển đổi được giữa các cách hiểu
𝑏 𝑎
: Nó vừa là tổng lượng thay đổi của vận tốc trong đoạn khác nhau về tích phân ∫ 𝑎(𝑡)𝑑𝑡
thời gian [𝑎; 𝑏], vừa là diện tích của hình phẳng giới hạn bởi đồ thị với trục hoành. Từ
phân tích này có thể thấy, những kiểu nhiệm vụ LM như vậy không chỉ giúp nâng cao
vai trò công cụ của đạo hàm/tích phân trong Vật lí mà thậm chí, còn có thể giúp đem lại
cách hiểu đầy đủ và sâu sắc hơn cho khái niệm đang đề cập.
Ở ví dụ trên, HS cần vận dụng cách hiểu tích phân theo hiệu nguyên hàm trong ngữ
cảnh vật lí. Để khai thác thêm cách hiểu tích phân theo diện tích và giới hạn tổng
Riemann trong việc giải quyết vấn đề vật lí, chúng tôi đưa ra hai ví dụ sau đây:
Ví dụ 8.4. Hai xe ô tô xuất phát
đồng thời từ cùng một vị trí và
bắt đầu chuyển động trên cùng
một đường thẳng theo cùng một
hướng với vận tốc cho bởi đồ
thị sau:
a. Theo em, vào thời điểm 𝑡 = 3
phút, xe nào đi được quãng
đường dài hơn? Giải thích câu trả lời của em.
b. Tại thời điểm 𝑡 = 8 phút, xe nào đi được quãng đường dài hơn? Giải thích.
Ví dụ 8.5. Công 𝐴 do lực F không đổi kéo vật dịch chuyển một độ dời 𝑠 (cùng phương
với lực) được tính bởi công thức: 𝐴 = 𝐹. 𝑠.
a. Một vật dịch chuyển trên đoạn đường thẳng dưới tác
dụng của một lực kéo không đổi có độ lớn F = 10N cùng
phương với chiều chuyển động. Tính công của lực khi kéo
vật từ vị trí ban đầu 𝑠 = 0 đến vị trí 𝑠 = 5 (m).
b. Trong thực tế, khi kéo vật di chuyển quãng đường càng
lớn thì người kéo càng mệt nên lực kéo giảm dần theo hàm
(đơn vị của lực là Newton và đồ thị cho số
ở bên).
- Hãy tìm cách tính gần đúng công của lực kéo này khi
vật dịch chuyển từ vị trí 𝑠 = 0 (m) đến vị trí 𝑠 = 5 (m). Giải thích cách tính của mình.
124
- Bạn hãy đề nghị một phương pháp toán học cho phép tính chính xác công cần tìm.
Hãy giải thích đề nghị của bạn.
Ở ví dụ 8.4, HS sẽ cần kết nối quãng đường cần so sánh với tích phân hàm số vận
tốc và tiếp tục kết nối tích phân này với diện tích dưới đồ thị để thực hiện việc so sánh.
Với ví dụ 8.5, công thức tính công trong Vật lí khi lực không đổi và cùng phương với
phương dịch chuyển được chúng tôi nhắc lại. Để có thể tính công này khi lực 𝐹(𝑠) biến
thiên, chúng ta phải cần đến sự tác động của cách hiểu tích phân theo cấu trúc tổng
Riemann. Cần phải thông báo rằng, việc hình thành cách hiểu tích phân theo kĩ thuật lập
tổng Riemann là một trong những mục tiêu mà đồ án DH của chúng tôi ở chương 5 đặt
ra. Theo đó, hai ví dụ 8.4 và 8.5 sẽ được chúng tôi đưa vào đồ án này để kiểm tra việc
hiểu và ứng dụng được tích phân trong ngữ cảnh vật lí. Các phân tích tiên nghiệm cho
hai ví dụ đang nói cũng sẽ được trình bày cụ thể trong đồ án đó.
4.2.2.5. Giải pháp 9: Trang bị cho người học “kiến thức ngữ cảnh”, đặc biệt là những
kiến thức gắn với ngữ cảnh vật lí
Một rào cản cho việc thấu hiểu các ứng dụng của đạo hàm và tích phân trong Vật
lí là ở sự tách biệt giữa kiến thức toán và vật lí trong quá trình học tập của HS. Hơn nữa,
kiến thức toán truyền thụ cho HS thường được giới thiệu một cách hình thức, gắn với
những thao tác trên các ký hiệu trừu tượng. Để kiến thức này trở nên có ý nghĩa hơn với
người học, nên gắn nó với các ngữ cảnh mà nói riêng là ngữ cảnh vật lí.
Chúng tôi sử dụng thuật ngữ “kiến thức ngữ cảnh” với ý nghĩa là: những hiểu biết
về khái niệm gắn với các ngữ cảnh cho phép nó xuất hiện và những tình huống mà khái
niệm này đóng vai trò công cụ giải quyết. Với cách hiểu này, kiến thức toán học gắn với
ngữ cảnh vật lí sẽ giúp làm giàu hơn ý nghĩa của các khái niệm toán học và đem lại kiến
thức ở dạng gắn kết hơn với Vật lí. Chẳng hạn khi DH khái niệm tích phân, có thể gắn
kèm nó với những ngữ cảnh vật lí mà tích phân là phương tiện giải quyết như: quãng
đường dịch chuyển, công của lực tác động. Điều này không những làm mạnh hơn hiểu
biết của HS về khái niệm mà còn giúp các em hiểu rõ hơn vai trò công cụ của tri thức
toán được học.
Bên cạnh đó, giải pháp 9 theo chúng tôi có thể đi kèm với hai giải pháp 7, 8 và và
thậm chí đôi khi không cần sự phân biệt rõ ràng giữa chúng. Lý do nằm ở chỗ, để mang
lại “kiến thức ngữ cảnh” về đạo hàm/tích phân cho người học, nhiều khi chúng ta chỉ
cần soi sáng lại các ứng dụng của chúng trong Vật lí (giải pháp 7) hoặc giúp HS thấy
được vai trò công cụ của tri thức toán trong những kiểu nhiệm vụ LM (giải pháp 8).
125
4.2.2.6. Giải pháp 10: Giới thiệu sớm một số ý tưởng quan trọng của Giải tích để hỗ
trợ cho việc dạy học vật lí
Trong thể chế DH Vật lí ở trường phổ thông hiện nay, các vấn đề mà việc giải quyết
chúng cần đến sự tác động của công cụ GT mà nói riêng là hai khái niệm đạo hàm và
tích phân xuất hiện từ rất sớm (ngay từ đầu lớp 10). Trong khi ấy các khái niệm này lại
không thể được dạy một cách chính thức ở 𝐼𝑇 trước khi 𝐼𝑉𝐿 cần đến nó và chính việc “lệch thời điểm” này đã làm giảm đi rất nhiều vai trò công cụ của đạo hàm và tích phân
trong việc giải quyết nhiều vấn đề của Vật lí. Việc DH sớm GT ở trường phổ thông như
chúng tôi đã bàn luận là điều bất khả thi. Tuy nhiên, theo chúng tôi một số ý tưởng quan
trọng của GT hoàn toàn có thể giới thiệu sớm hơn trong DH Toán để chuẩn bị cho những
ứng dụng của GT sau đó. Cụ thể, chúng tôi đang muốn đề cập đến quan niệm về tốc độ
biến thiên của khái niệm đạo hàm.
Tốc độ biến thiên hay còn được gọi là tốc độ thay đổi không phải là một ý tưởng
quá xa lạ với HS. Sự thay đổi bản thân nó đã là một thuộc tính thiết yếu của tồn tại vật
chất. Khi một đại lượng nào đó thay đổi theo một đại lượng khác, chúng ta sẽ muốn biết
nó thay đổi nhanh chậm như thế nào. Những kinh nghiệm có trước mà HS sở hữu trong
cuộc sống hay trong các môn khoa học khác (tốc độ tăng dân số trong môn Địa lý chẳng
hạn) hoàn toàn có thể hỗ trợ cho việc hiểu được đặc trưng quan trọng này. Chúng tôi
cho rằng có thể giới thiệu quan niệm nói trên sớm hơn trong các lớp học toán để chuẩn
bị cho việc ứng dụng nó ở lớp học vật lí.
Đề xuất của chúng tôi là giới thiệu khái niệm tốc độ biến thiên trung bình ngay sau
chủ đề hàm số được dạy ở lớp 9 hoặc đầu năm lớp 10. Bằng cách này chúng ta sẽ chuẩn
bị sớm cho HS “quan điểm động học” về hàm số mà theo một số nghiên cứu là rất quan
trọng cho việc học GT sau này, đặc biệt là với khái niệm đạo hàm. Theo đó, quan niệm
về hàm số được gắn với sự biến thiên đồng thời giữa hai đại lượng, và tốc độ biến thiên
sẽ là thước đo cho tốc độ mà đại lượng này thay đổi so với sự thay đổi của đại lượng
còn lại.
126
CHƯƠNG 5
NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM
Trong chương này, hai đồ án DH khái niệm đạo hàm và tích phân được chúng tôi
xây dựng dựa trên cơ sở những gắn kết LM Toán – Vật lí đã làm rõ ở các chương trước.
Bên cạnh đó, chúng tôi cũng vận dụng các giải pháp sư phạm đã đề xuất ở chương 4
nhằm đem lại cách hiểu đầy đủ hơn cho HS về hai khái niệm đạo hàm/tích phân đồng
thời tạo điều kiện để các em ứng dụng được những tri thức này trong các vấn đề của Vật
lí. Kết quả TN thu được từ hai đồ án sẽ là cơ sở để chúng tôi xác nhận được tính khả
dụng của các giải pháp và tính đúng đắn của giả thuyết nghiên cứu đã đặt ra.
5.1. Đồ án dạy học khái niệm đạo hàm
5.1.1. Mục tiêu xây dựng đồ án
Trước đây, trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ của mình, chúng tôi đã xây dựng một
TN kiểm tra mối quan hệ cá nhân của HS với khái niệm đạo hàm (Ngô Minh Đức, 2013,
tr. 60-68). Đối tượng tham gia TN là một số HS khá giỏi đã học qua khái niệm đạo hàm.
Mục đích TN là kiểm tra xem trong những tình huống cần đến nghĩa tốc độ biến thiên
tức thời hoặc xấp xỉ hàm số thì công cụ đạo hàm có xuất hiện hay không? Kết quả chỉ
ra rằng với yêu cầu “so sánh thời điểm dân số tăng nhanh hơn”, đa số HS đều biết phải
tính tốc độ tăng dân số trung bình để làm cơ sở cho việc so sánh, thậm chí một số em
còn nhận xét rằng tốc độ tăng trung bình không đảm bảo cho việc so sánh sự tăng nhanh
hơn ở mỗi thời điểm. Điều này cho thấy cách hiểu về tốc độ biến thiên trung bình vẫn
hiện diện trong quan niệm của nhiều HS. Tuy nhiên ở tình huống cần đến tốc độ biến
thiên tức thời thì chiến lược sử dụng đạo hàm đã không xuất hiện. Kết quả nói trên chứng
tỏ rằng quan niệm về đạo hàm như là thước đo cho “tốc độ biến thiên tức thời” của một
đại lượng chưa tồn tại trong hiểu biết của những HS tham gia TN. Sự thiếu hụt này còn
xảy ra với đặc trưng xấp xỉ affin khi HS không sử dụng được nó để giải thích một xấp
xỉ hàm quen thuộc dùng trong Vật lí ( với x rất nhỏ).
Cũng trong luận văn này, chúng tôi xây dựng một đồ án DH dành cho đối tượng
HS đã học qua khái niệm đạo hàm mà mục đích là bổ sung hai nghĩa còn thiếu nói trên
(tốc độ biến thiên và xấp xỉ) trong cách hiểu của người học. Đồ án này sau đó được tiến
hành TN và thu được các kết quả phù hợp với mục đích (Ngô Minh Đức, 2013, tr. 69-
98). Cụ thể thì sau TN, HS nhận ra rằng khái niệm đạo hàm mà các em học trước đây
có thể giúp tính toán được tốc độ biến thiên tức thời của một đại lượng bất kì vượt ra
127
khỏi ngữ cảnh động học (Đạo hàm không chỉ giúp tính toán vận tốc và gia tốc). Bên
cạnh đó, HS tham gia TN còn hiểu được ý tưởng xấp xỉ một đường cong bằng tiếp tuyến
của nó quanh lân cận tiếp điểm và từ đó giải thích được nhiều xấp xỉ hàm xuất hiện trong
Vật lí.
Kế thừa kết quả đạt được nói trên, trong luận án này chúng tôi phát triển thêm một
đồ án DH đạo hàm cho đối tượng HS lần đầu học về khái niệm. Mục tiêu của đồ án này
là mang lại cho HS một cách hiểu đầy đủ hơn về khái niệm đạo hàm đồng thời giúp các
em nhận ra được những ứng dụng quan trọng của đạo hàm trong nhiều vấn đề của Vật
lí. Mặt khác, như các phân tích trước đó chúng tôi đã chỉ ra, cách hiểu đạo hàm theo tốc
độ biến thiên là quan trọng nhất về cả hai mặt hiểu và ứng dụng khái niệm. Vì lẽ đó, đồ
án DH chúng tôi xây dựng lần này sẽ tập trung vào mục tiêu đem lại cách hiểu tốc độ
biến thiên cho HS vào thời điểm giới thiệu khái niệm đạo hàm cho các em. Đối với việc
bổ sung nghĩa xấp xỉ, chúng ta hoàn toàn có thể tiến hành sau khi HS đã học về ý nghĩa
hình học của đạo hàm như là hệ số góc tiếp tuyến của đường cong. Từ điểm này, chúng
tôi cho rằng đồ án bổ sung nghĩa xấp xỉ thực hiện trong luận văn thạc sĩ trước đây vẫn
còn nguyên giá trị và không cần thiết phải xây dựng lại trong luận án.
Tóm lại, mục tiêu của đồ án này là mang lại cho khái niệm đạo hàm cách hiểu tốc
độ biến thiên tức thời và gắn kết nó với định nghĩa đạo hàm theo giới hạn tỉ sai phân.
Thông qua đồ án, chúng tôi mong muốn HS thấy được vai trò của công cụ đạo hàm trong
việc giải quyết nhiều vấn đề của Vật lí và xa hơn nữa là hiểu được ý nghĩa tổng quát của
khái niệm ẩn đằng sau các ứng dụng và công thức tính toán nó.
5.1.2. Các giải pháp được vận dụng
Để đạt được các mục đích nói trên, trong đồ án này chúng tôi vận dụng một số giải
pháp đã đề xuất ở mục 4.2 và diễn đạt lại một cách cụ thể như sau:
Vận dụng giải pháp 1: Xây dựng các tình huống có thể liên kết cách hiểu đạo hàm theo
giới hạn tỉ sai phân với cách hiểu tốc độ biến thiên tức thời, cũng như kết nối giữa biểu
diễn đại số với biểu diễn bằng lời của nó (chiếu theo khung lý thuyết của Zadieh về khái
niệm đạo hàm). Giải pháp này giúp mang lại một kiến thức khái niệm đầy đủ và vững
chắc hơn cho người học về tri thức đang nói đến.
Vận dụng giải pháp 2: Phân tích khoa học luận lịch sử đã chỉ ra rằng, ở giai đoạn đạo
hàm được nảy sinh và ứng dụng hiệu quả trong Vật lí, nó được hiểu một cách động học
như là thước đo tốc độ biến thiên tức thời của một đại lượng. Áp dụng giải pháp 2, chúng
tôi khai thác mối quan hệ LM này bằng cách thiết lập trước tiên cách hiểu đạo hàm theo
128
tốc độ biến thiên. Cách hiểu này sau đó sẽ quay trở lại soi sáng cho các ứng dụng đã
xuất hiện trong thể chế DH Vật lí trước đó. Hoạt động này vừa để hỗ trợ cho việc học
tập Vật lí vừa giúp củng cố kiến thức về khái niệm đạo hàm vừa học.
Vận dụng giải pháp 4: Chúng tôi vận dụng giải pháp này bằng cách đưa vào đồ án một
số kiểu nhiệm vụ LM mà việc giải quyết cần đến cách hiểu tốc độ biến thiên và khả năng
kết nối cách hiểu này với các đặc trưng vật lí tương ứng. Điều này không những giúp
HS hình thành nghĩa vật lí cho khái niệm đạo hàm, hơn nữa còn tạo cơ hội cho các em
làm quen với việc vận dụng đạo hàm vào nhiều ngữ cảnh khác nhau trong thực tiễn.
Bên cạnh đó chúng tôi còn áp dụng giải pháp 5 (thiết lập cách hiểu về đạo hàm một
cách tường minh theo tốc độ biến thiên tức thời) và giải pháp 7 (soi sáng lại các ứng
dụng của đạo hàm trong nhiều vấn đề vật lí trước đó) để tăng cường vai trò công cụ của
đạo hàm trong Vật lí. Liên quan đến những việc làm này, chúng tôi cũng đang vận dụng
giải pháp 9 nhằm trang bị cho HS kiến thức đạo hàm đặt trong ngữ cảnh để hỗ trợ tốt
hơn cho việc hiểu và ứng dụng tri thức đang đề cập.
5.1.3. Các phân tích ban đầu
5.1.3.1. Tiếp cận khái niệm đạo hàm theo ngữ cảnh hình học
Nhìn từ lịch sử, một trong những bài toán làm nảy sinh khái niệm đạo hàm là xác
định tiếp tuyến của một đường cong. Ở bài toán này, đạo hàm cho phép xác định hệ số
góc của tiếp tuyến và mang lại ý nghĩa hình học cho tri thức đang nói tới. Tuy nhiên
theo định hướng LM thì có hai vấn đề sau đây cần phải xem xét nếu ta chọn ngữ cảnh
hình học để giới thiệu khái niệm đạo hàm.
Vấn đề đầu tiên nằm ở chỗ, mặc dù cách tiếp cận hình học nhấn mạnh được ý nghĩa
của đạo hàm như là hệ số góc tiếp tuyến, nhưng cách hiểu thường được sử dụng cho các
ứng dụng trong thực tiễn và Vật lí lại là tốc độ biến thiên. Vấn đề thứ hai là rất khó để
liên kết hai cách hiểu này với nhau. Làm thế nào để HS có thể liên hệ được việc tính
toán hệ số góc của tiếp tuyến với việc xác định tốc độ biến thiên tức thời của một đại
lượng bất kì trong thực tiễn hoặc Vật lí?
Như vậy, nếu nhìn từ lợi ích LM thì cách hiểu tốc độ biến thiên sẽ thuận lợi hơn
trong việc kết nối khái niệm đạo hàm với những ứng dụng đa dạng của nó trong thực
tiễn và khoa học. Vì lẽ đó chúng tôi cho rằng ngữ cảnh để giới thiệu khái niệm đạo hàm
nên từ thực tiễn hoặc Vật lí thay vì Hình học.
Đề nghị này của chúng tôi không phủ nhận tầm quan trọng của cách hiểu đạo hàm
như là hệ số góc của tiếp tuyến, vì cách hiểu này chẳng những cần cho toán học mà đôi
129
lúc cũng được sử dụng trong các bài toán vật lí. Vì vậy, nếu có tiếp cận đạo hàm trong
ngữ cảnh vật lý để làm nổi bật nghĩa tốc độ biến thiên thì sau đó vẫn phải nghiên cứu
khái niệm này trong ngữ cảnh “tìm tiếp tuyến”.
5.1.3.2. Tiếp cận khái niệm đạo hàm theo ngữ cảnh vật lí và ngữ cảnh thực tế
Theo truyền thống, các SGK và thậm chí nhiều giáo trình đại học vẫn hay sử dụng
ngữ cảnh động học để tiếp cận khái niệm đạo hàm. Thường thấy nhất là giới thiệu bài
toán tìm vận tốc tức thời để đưa đến định nghĩa đạo hàm như giới hạn của một tỉ số sai
phân. Lí do mà các SGK toán ưa thích lựa chọn ngữ cảnh này có lẽ là vì bài toán vận
tốc vốn rất quen thuộc với HS và hơn nữa nó đưa đến động cơ làm nảy sinh khái niệm
đang đề cập. Tuy nhiên theo chúng tôi thì chính sự quen thuộc với đại lượng vận tốc lại
trở thành rào cản ngăn HS thấu hiểu ý nghĩa về đạo hàm như là tốc độ biến thiên. Cụ thể
thì HS đã biết rõ về vận tốc ở Vật lí nhưng đại lượng này trước đây lại không gắn với
một tốc độ biến thiên nào cả. Vì thế, HS có thể áp dụng đạo hàm để tính vận tốc hay gia
tốc nhưng có lẽ khó mà tổng quát nó lên thành ý tưởng về tốc độ biến thiên của một đại
lượng bất kì được.
Một số đại lượng vật lí khác có sử dụng công cụ đạo hàm như suất điện động (liên
quan đến tốc độ biến thiên của từ thông) cũng không thích hợp vì nó yêu cầu HS phải
chuẩn bị trước những kiến thức vật lí đặc thù. Điều này có thể đưa đến các khó khăn
không cần thiết khi người học phải hiểu bản chất vật lí của hiện tượng trước khi thấu
hiểu tư tưởng toán học gắn kèm với nó.
Một ngữ cảnh thực tiễn có liên quan đến tốc độ biến thiên cũng có thể xem xét để
sử dụng đó là bài toán về tốc độ tăng dân số. Lợi thế của ngữ cảnh này là nó đã xuất
hiện ở môn Địa lí và hơn nữa còn gắn trực tiếp với cách hiểu tốc độ thay đổi. Tuy nhiên,
có một yêu cầu khác cũng cần phải xem xét là tính biến thiên liên tục của các biến trong
mô hình thực tế được chọn để tiếp cận khái niệm đạo hàm. Mà nếu nhìn từ tiêu chí này
thì bài toán liên quan đến tốc độ tăng dân số sẽ không thỏa mãn. Lý do là vì giá trị của
hàm dân số chỉ được nhận giá trị nguyên dương nhưng như thế thì việc mô tả nó bởi một
hàm sơ cấp liên tục nào đó là điều không hợp lí.
5.1.3.3. Ngữ cảnh được lựa chọn
Nhiệm vụ của chúng tôi là phải tìm được một ngữ cảnh vật lí phù hợp với ba tiêu
chí mà các phân tích ở trên đã chỉ ra. Một là, nó cho phép nảy sinh ý tưởng về tốc độ
biến thiên tức thời từ công thức tính toán theo giới hạn tỉ sai phân và hơn nữa có thể mở
rộng thành ý tưởng về tốc độ biến thiên của một đại lượng bất kì. Hai là phải quen thuộc,
130
không đòi hỏi người học phải có hiểu biết về các kiến thức vật lí quá đặc thù. Cuối cùng
là phải chứa đựng một mô hình biến thiên liên tục.
Ngữ cảnh vật lí chúng tôi lựa chọn đó là bài toán liên quan đến tốc độ biến thiên
nhiệt độ theo thời gian. Cụ thể là yêu cầu HS so sánh xem trong hai thời điểm thì ở đâu
nhiệt độ tăng nhanh hơn. Lí do lựa chọn ngữ cảnh này là bởi vì nó thỏa mãn được ba
tiêu chí vừa đề cập. Cụ thể thì:
- Bài toán đang nói cho phép làm nảy sinh nhu cầu xác định tốc độ tăng nhiệt độ để
tìm thời điểm tăng nhanh hơn.
- Vấn đề nhiệt độ tăng nhanh hay chậm là rất quen thuộc với kinh nghiệm trong cuộc
sống của HS. Hơn nữa, yêu cầu tính tốc độ tăng nhiệt độ cũng không gắn với một
đại lượng vật lí quá đặc thù và do đó chúng ta có thể mở rộng nó thành ý tưởng tổng
quát về tốc độ biến thiên của một đại lượng bất kì.
- Cuối cùng, nhiệt độ là một đại lượng biến thiên liên tục theo thời gian và vì thế việc
mô tả nó bởi một hàm số sơ cấp liên tục là điều hợp lí.
5.1.4. Các bài toán cơ sở của đồ án
Đồ án của chúng tôi được xây dựng dựa trên sáu bài toán sau. Trong đó mục đích
của bốn bài toán đầu tiên là xây dựng cách hiểu tốc độ biến thiên tức thời cho khái niệm
đạo hàm. Bài toán cuối cùng (tổng hợp từ các ví dụ 7.1, 7.2 và 7.3 ở giải pháp 7) nhằm
soi sáng lại các ứng dụng của đạo hàm trong nhiều vấn đề của chương trình vật lí THPT
đã xuất hiện trước đó. Bài toán 1. Một bình nuôi cấy vi sinh vật được giữ ở nhiệt độ 00𝐶. Tại thời điểm ban
đầu 𝑡 = 0 người ta cung cấp nhiệt cho nó. Nhiệt độ của bình bắt đầu tăng dần theo thời
gian và trong khoảng thời gian đầu được ước tính bởi hàm số: 𝑓(𝑡) = (𝑡 − 1)3 + 1, trong đó 𝑓(𝑡) (đơn vị độ C) là nhiệt độ của bình nuôi cấy ở thời
điểm 𝑡 giây.
a. Tính tốc độ tăng nhiệt độ trung bình của bình nuôi cấy trên trong khoảng thời gian
từ thời điểm 𝑡0 = 0,5 giây đến thời điểm 𝑡 sau đó 1 giây (∆𝑡 = 𝑡 − 𝑡0 = 1).
b. Tính tốc độ tăng nhiệt độ trung bình của bình nuôi cấy trong khoảng thời gian từ
thời điểm 𝑡0′ = 1,25 đến thời điểm 𝑡′ sau đó 1 giây (∆𝑡′ = 𝑡′ − 𝑡0′ = 1).
c. Tại hai thời điểm 𝑡0 = 0,5 và 𝑡0′ = 1,25 , theo dự đoán của em thời điểm nào nhiệt
độ của bình nuôi cấy tăng nhanh hơn?
131
d. Em hãy đề xuất nhiều cách khác nhau để kiểm tra được thời điểm nào trong hai
thời điểm trên nhiệt độ của bình nuôi cấy tăng nhanh hơn.
Bài toán 1’. Hình vẽ bên trái dưới đây là đồ thị hàm số 𝑓(𝑡) và bên phải là hình ảnh
phóng to của phần đồ thị tại hai thời điểm 𝑡0 = 0,5 và 𝑡0′ = 1,25.
Quan sát và trả lời lại câu hỏi: theo em tại hai thời điểm 𝑡0 = 0,5 và 𝑡0′ = 1,25, thời điểm nào nhiệt độ của bình nuôi cấy tăng nhanh hơn? Hãy giải thích câu trả lời của
mình.
Bài toán 2.
a. Với hai thời điểm 𝑡0 = 0,5 và 𝑡0′ = 1,25, hãy tìm một khoảng thời gian ∆𝑡 thích hợp để sao cho tốc độ tăng nhiệt độ trung bình trên đoạn [𝑡0; 𝑡0 + ∆𝑡] sẽ trở nên lớn hơn trên đoạn [𝑡0′; 𝑡0′ + ∆𝑡] (thay vì nhỏ hơn như khi ta chọn ∆𝑡 = ∆𝑡′ = 1 ở bài toán 1). b. Các khoảng thời gian ∆𝑡 này cần phải được chọn như thế nào để tốc độ trung bình trong những khoảng đó mô tả càng chính xác tốc độ tức thời tại thời điểm đang xét ?
Bài toán 3.
a. Tính tốc độ tăng nhiệt độ trung bình của bình nuôi cấy trong khoảng thời gian từ thời
điểm 𝑡0 = 0,5 đến thời điểm 𝑡 = 0,5 + ∆𝑡 (kết quả tính toán phụ thuộc vào ∆𝑡). b. Tính tốc độ tăng nhiệt độ tức thời tại thời điểm 𝑡0 = 0,5 nói trên. Bài toán 4.
a. Gọi hàm số biểu diễn vận tốc và gia tốc theo thời gian lần lượt là: 𝑣(𝑡) và 𝑎(𝑡). Trong
SGK Vật lí lớp 10 ta biết rằng tốc độ biến thiên tức thời của vận tốc theo thời gian chính
132
là gia tốc. Gia tốc đặc trưng cho mức độ biến thiên nhanh chậm của vận tốc. Bên cạnh
đó, để tính độ lớn của gia tốc tức thời SGK Vật lí lớp 10 đưa ra công thức sau đây:
, với ∆𝑡 rất nhỏ.
Theo em, để tính được chính xác gia tốc tức thời tại một thời điểm thì công thức
đúng phải là gì? Giải thích đề xuất của mình bằng ít nhất hai lí lẽ khác nhau.
b. Phát biểu sau được trích dẫn trong bài “Định luật Fa-ra-đây về cảm ứng điện từ” SGK
Vật lí 11 NC (tr.186)
“…độ lớn của suất điện động cảm ứng trong mạch kín tỉ lệ với tốc độ biến thiên của
từ thông qua mạch… Nếu trong khoảng thời gian ∆𝑡 đủ nhỏ, từ thông qua mạch biến
thiên một lượng thì là tốc độ biến thiên của từ thông.
SGK Vật lí lớp 11 đưa ra công thức tính độ lớn suất điện động cảm ứng như sau:
, với ∆𝑡 đủ nhỏ. Nếu tính đến dấu của 𝑒𝑐 (theo định luật Len-xơ) thì công thức
xác định suất điện động cảm ứng tại một thời điểm được viết dưới dạng sau:
, với ∆𝑡 đủ nhỏ.
Theo em, công thức trên đã giúp xác định chính xác suất điện động cảm ứng tại
mỗi thời điểm hay chưa? Hãy đưa ra một công thức có thể xác định chính xác suất điện
động tức thời nói trên. Giải thích đề xuất của mình bằng ít nhất hai lí lẽ khác nhau.
c. Trong bài hiện tượng “Tự cảm”, SGK Vật lí lớp 11 cơ bản phát biểu định luật về suất
điện động tự cảm xuất hiện trong mạch như sau:
“Suất điện động tự cảm có độ lớn tỉ lệ với tốc độ biến thiên của cường độ dòng điện
trong mạch” (tr. 156)
Theo đó, suất điện động tự cảm được xác định bởi công thức sau đây:
, với 𝐿 là độ tự cảm và ∆𝑡 rất nhỏ.
Theo em, để tính được chính xác suất điện động tự cảm tại một thời điểm thì công
thức đúng phải là gì? Giải thích đề xuất của mình bằng ít nhất hai lí lẽ khác nhau.
133
5.1.5. Phân tích tiên nghiệm
5.1.5.1. Những chiến lược giải có thể xuất hiện
Trước khi yêu cầu giải quyết bài toán 1, chúng tôi giới thiệu cho HS công thức tính
tốc độ biến thiên trung bình của một hàm số 𝑓(𝑥) khi đối số 𝑥 thay đổi giá trị từ 𝑥1 đến
. Với công thức này, HS sẽ dễ dàng 𝑥2, đó là tỉ số:
tính được tốc độ tăng nhiệt độ trung bình ở câu a và câu b của bài toán 1. Ở đây chúng
tôi chỉ trình bày những chiến lược có thể xuất hiện trong việc giải quyết câu c và câu d
của bài toán này.
▪ Chiến lược sử dụng tốc độ trung bình để so sánh: 𝑺trung bình - Chọn hai khoảng thời gian ∆𝑡 và ∆𝑡′ đủ nhỏ. - Tính tốc độ tăng trung bình trong hai khoảng thời gian ∆𝑡 và ∆𝑡′.
- So sánh hai tốc độ trung bình này và rút ra kết luận.
▪ Chiến lược sử dụng tốc độ tăng tức thời để so sánh: 𝑺tức thời
- Tính tốc độ tăng tức thời tại 𝑡0 = 0,5:
- Tính tốc độ tăng tức thời tại 𝑡0′ = 1,25 :
- So sánh hai tốc độ tăng tức thời này để rút ra kết luận.
▪ Chiến lược đồ thị: 𝑺Đồ thị
- Quan sát đồ thị tại hai thời điểm nói trên xem thời điểm nào đồ thị “dốc” hơn (tiếp
tuyến tại điểm đang xét có độ dốc lớn hơn).
- Từ đó kết luận thời điểm nhiệt độ tăng nhanh hơn.
5.1.5.2. Phân tích việc lựa chọn giá trị của biến DH
Mục tiêu của chúng tôi là mang lại cho HS cách hiểu về đạo hàm theo tốc độ biến
thiên tức thời. Vì lẽ đó, cách lựa chọn các giá trị của biến DH phải hướng HS từ việc sử
dụng chiến lược 𝑺trung bình (ban đầu) sang chiến lược tính giới hạn 𝑺tức thời (mong đợi).
Để làm điều này cần dẫn dắt HS đến việc tính tốc độ tăng trung bình trên một khoảng
đủ nhỏ để sau đó 𝑺tức thời có thể xuất hiện tự nhiên như là chiến lược giải hợp lí cho bài toán đặt ra. Khái niệm đạo hàm sau đó được hình thành như là một công cụ toán học
cho phép tính toán tốc độ biến thiên tức thời bằng cách tìm giới hạn (nếu có) của tỉ số
134
của hai số gia. Ý đồ nói trên được chúng tôi cụ thể hoá bằng cách chọn biến DH và giá
trị của chúng như sau:
Biến 𝑽𝟏: Cách đặt câu hỏi về tốc độ biến thiên Đáng lẽ ra cách đặt câu hỏi chính xác trong ngữ cảnh của bài toán phải là “thời
điểm nào nhiệt độ biến thiên nhanh hơn?” trong trường hợp chưa biết rõ hàm nhiệt độ
có phải đồng biến (tăng) trên khoảng đang xét hay không. Tuy nhiên khi xem xét một
số môn học khác như Địa lí, chúng tôi nhận thấy thuật ngữ “tốc độ tăng” và kiểu nhiệm
vụ so sánh thời điểm tăng nhanh hơn (chẳng hạn như tốc độ tăng dân số) là phổ biến và
quen thuộc hơn với HS. Vì lẽ đó, trong bài toán này chúng tôi chọn cách đặt câu hỏi là
tính “tốc độ tăng nhiệt độ” và sau đó là tìm “thời điểm nào nhiệt độ tăng nhanh hơn”
để tạo tâm thế thuận lợi cho quá trình suy nghĩ và đưa ra phương án trả lời của HS. Tất
nhiên cách đặt câu hỏi như vậy được hợp thức bởi việc chọn hàm nhiệt độ 𝑓(𝑡) là hàm
số đồng biến trên khoảng thời gian đang xét.
Biến 𝑽𝟐: Có đưa vào yêu cầu tính tốc độ tăng trung bình hay không? Kiểu nhiệm vụ chính trong bài toán 1 là so sánh tốc độ tăng tức thời tại hai thời
điểm. Tuy nhiên ở đây chúng tôi đưa thêm vào yêu cầu tính tốc độ tăng trung bình ngay
từ đầu, mục đích là muốn tạo điều kiện thuận lợi để chiến lược 𝑺trung bình xuất hiện
trước chiến lược 𝑺Đồ thị. Bằng cách chọn giá trị các biến 𝑽𝟑, 𝑽𝟒, 𝑽𝟓 một cách thích hợp
(sẽ trình bày tiếp theo đây), việc sử dụng 𝑺trung bình sẽ dẫn HS đến với câu trả lời sai.
Tình huống phá vỡ hợp đồng này (sau khi HS đã biết đáp án đúng từ 𝑺Đồ thị) buộc các
em phải tìm kiếm một chiến lược thích hợp hơn để có thể luôn đưa ra được kết luận
chính xác cho câu hỏi c của bài toán 1.
để phù hợp Biến 𝑽𝟑: Hàm số nhiệt độ 𝒇(𝒕) Như đã đề cập trước đó, hàm số 𝑓(𝑡) được chọn phải đồng biến trên
với cách đặt câu hỏi ở biến 𝑽𝟏. Hơn nữa để các chiến lược 𝑺trung bình và 𝑺Đồ thị lần lượt
xuất hiện chúng tôi thao tác với giá trị biến 𝑽𝟑 như sau: - Hàm 𝑓(𝑡) được cho ở dạng một biểu thức GT ở các câu a, câu b và câu c của bài
toán 1 để các thuận tiện cho việc tính toán tốc độ tăng trung bình.
- Ở bài toán 1’, chúng tôi cung cấp đồ thị hàm số 𝑓(𝑡) và hình ảnh phóng to ở hai thời
điểm đang xét để tạo ra thông tin phản hồi cho chiến lược giải của HS trước đó.
Điều này có thể làm cho HS rời bỏ chiến lược giải ban đầu để chuyển sang chiến
lược giải mong đợi.
135
Biến 𝑽𝟒: Hai thời điểm 𝒕𝟎 và 𝒕𝟎′ Hai thời điểm cần phải chọn sao cho: 𝑓′(𝑡0) ≠ 𝑓′(𝑡0′), nghĩa là tốc độ tăng nhiệt độ ở hai thời điểm ấy phải khác nhau. Hơn nữa, cách chọn giá trị biến này cần phải được phối hợp với cách chọn khoảng thời gian ∆𝑡 và ∆𝑡′như sẽ nói đến dưới đây.
Biến 𝑽𝟓: Khoảng thời gian ∆𝒕 và ∆𝒕′ Bằng cách chọn hai khoảng thời gian này bằng nhau và bằng ∆𝑡 = ∆𝑡′ = 1, tốc độ
tăng trung bình sẽ không phản ánh đúng tốc độ tăng tức thời tại mỗi thời điểm. Điều
này tạo ra một tình huống phá vỡ hợp đồng khi HS thường dựa vào tốc độ trung bình để
đưa ra kết luận. Việc HS nhận ra sai lầm khi sử dụng chiến lược 𝑺Đồ thị sẽ là lý do hợp
lí để chúng tôi đưa vào yêu cầu chọn lại khoảng thời gian ∆𝑡 ở bài toán 2. Quá trình xác
định lại các khoảng thời gian này giúp HS nhận ra vai trò của giới hạn trong việc
tìm một đại lượng phản ánh đúng tốc độ biến thiên tức thời của nhiệt độ theo thời gian.
5.1.5.3. Dàn dựng và phân tích kịch bản
Đồ án được chia thành 6 pha, thời gian dự kiến là 90 phút. Lớp học được chia thành
các nhóm, mỗi nhóm 4-5 HS. Ở mỗi pha, HS các nhóm sẽ được phát một phiếu học tập
cụ thể. Các phiếu học tập này được chúng tôi trình bày trong Phụ lục 2.
. Các nhóm sau đó
❖ Pha 1 (15 phút): GV dành ít phút để giới thiệu khái niệm tốc độ biến thiên trung bình
của một hàm số 𝑦 = 𝑓(𝑥) trên đoạn [𝑥1; 𝑥2] là tỉ số
được phát phiếu học tập trong đó có in nội dung ba câu a, b, c của bài toán 1 và tiến
hành thảo luận để giải quyết các yêu cầu này. Sau thời gian làm việc, mỗi nhóm cử một
thành viên trình bày chiến lược giải và kết quả về thời điểm có nhiệt độ tăng nhanh hơn.
Các nhóm khác được khuyến khích đưa ra các nhận xét và phản biện.
Phân tích: Ở pha này, chúng tôi chọn giá trị các biến 𝑽𝟏 và 𝑽𝟐 như đã trình bày ở mục 5.1.5.2 nhằm mục đích hướng HS đến việc sử dụng 𝑺trung bình để so sánh thời điểm
có nhiệt độ tăng nhanh hơn. Thêm vào đó, các biến 𝑽𝟑, 𝑽𝟒 và 𝑽𝟓 cũng được chọn thích hợp để chiến lược này đưa đến một kết luận sai. Ý đồ của pha này là tạo ra một tình
huống có vấn đề khi mà tốc độ trung bình trên các khoảng đang xét không phản ánh
đúng tốc độ tăng tức thời tại mỗi thời điểm tương ứng. Tuy nhiên, vào lúc này các HS
vẫn chưa nhận ra được sai lầm của mình và vì thế vẫn chưa có động cơ để tìm một cách
giải khác. Công việc này sẽ được GV thực hiện ở pha 2.
136
❖ Pha 2 (10 phút): Sau khi kết thúc pha 1, GV đặt ra yêu cầu ở câu hỏi d: “đề xuất
nhiều cách khác nhau để kiểm tra được thời điểm nhiệt độ tăng nhanh hơn” và đề nghị
các nhóm thảo luận và giơ tay phát biểu. GV có thể gợi ý bằng cách đặt câu hỏi “các em
đã bao giờ gặp yêu cầu phải so sánh tốc độ tăng của một đại lượng ở các môn học khác
hay chưa?” GV mong đợi sẽ có nhóm đưa ra phương pháp sử dụng chiến lược 𝑺Đồ thị,
nếu không sẽ gợi mở và giải thích về tính hợp lí của chiến lược này. Ngay sau đó, GV
phát cho mỗi nhóm một phiếu học tập có bài toán 1’. Trong đề bài đã cung cấp sẵn đồ thị của hàm số 𝑓(𝑡) và hình ảnh phóng to tại lân cận hai điểm 𝑡0 = 0,5 và 𝑡0′ = 1,25, HS được yêu cầu so sánh lại tốc độ tăng nhiệt độ ở hai thời điểm này. GV cùng với cả
lớp thống nhất kết luận sau: “ở những khoảng nhỏ quanh hai thời điểm 𝑡0 = 0,5 và 𝑡0′ = 1,25, đồ thị gần như đường thẳng và xung quanh thời điểm 𝑡0 = 0,5 đường này dốc hơn nên nhiệt độ tại thời điểm đó tăng nhanh hơn”. GV đề nghị các nhóm đối chiếu kết
quả này với kết quả các em thu được ở bài toán 1 theo chiến lược 𝑺trung bình.
Phân tích: Câu hỏi so sánh tốc độ tăng theo chúng tôi là khá quen thuộc với các HS,
cụ thể thì kiểu nhiệm vụ này đã xuất hiện ở một số bài học về tốc độ tăng dân số ở môn
Địa lí. Hơn nữa trong các biểu đồ biến đổi dân số, HS thường dựa vào độ dốc của đường
nối các điểm để đánh giá xem dân số thời kì nào tăng nhanh hơn. Ở pha này, bằng cách
đặt ra yêu cầu tìm thêm các cách khác để kiểm tra thời điểm nhiệt độ tăng nhanh hơn,
chúng tôi cho rằng 𝑺Đồ thị có thể được gợi ra hay ít ra là được sự đồng thuận của HS khi
GV đề xuất nó. Tuy nhiên, vì HS tham gia TN chưa học về khảo sát và vẽ đồ thị hàm số
bậc 3 nên trong bài toán 1’ chúng tôi cung cấp đồ thị vẽ sẵn và hình ảnh phóng to ở hai
thời điểm đang xét. Điều này giúp các em dễ dàng thấy được thời điểm nhiệt độ tăng
nhanh hơn (đồ thị dốc hơn) và kiểm tra được sai lầm mà 𝑺trung bình đã đưa tới trước đó.
HS được chờ đợi sẽ nhận ra rằng, tùy theo khoảng thời gian được chọn, tốc độ tăng trung
bình có thể không phản ánh đúng tốc độ tăng tức thời tại mỗi thời điểm. Và đó cũng là
động cơ cho hoạt động tiếp theo ở pha 3.
❖ Pha 3 (15 phút): GV phát phiếu học tập có câu a của bài toán 2, trong đó đề nghị các
nhóm tìm lại một khoảng thời gian ∆𝑡 thích hợp để tốc độ tăng trung bình trên khoảng
thời gian này ở hai mốc thời điểm 𝑡0 và 𝑡0′ phù hợp với kết luận đã tìm ra ở bài toán 1’. Mỗi nhóm thực hiện các tính toán cần thiết vào phiếu học tập rồi nộp lại cho GV.
Kết quả của các nhóm về khoảng thời gian ∆𝑡 và tốc độ tăng trung bình tương ứng được
GV thống kê lại và trình bày lên bảng. GV để cho HS có thời gian quan sát và đặt ra câu
137
hỏi b của bài toán 2: “Khoảng thời gian ∆𝑡 cần phải được chọn như thế nào để tốc độ
tăng trung bình trên đó mô tả càng chính xác tốc độ tăng tức thời tại mỗi thời điểm đang
xét?”. GV mời các nhóm phát biểu rồi thảo luận với cả lớp để rút ra nhận xét: phải chọn
∆𝑡 càng nhỏ thì tốc độ trung bình càng phản ánh đúng tốc độ tăng tức thời.
Phân tích: Đây là pha để hình thành những gợi mở đầu tiên về lớp giới hạn trong
khung lý thuyết về đạo hàm. Mục đích của nó là để HS nhận ra khi khoảng thời gian ∆𝑡
càng ngày càng nhỏ (tiến về 0) thì tốc độ tăng trung bình sẽ càng phản ánh chính xác
tốc độ tăng tức thời tại thời điểm đang xét. Tuy nhiên lúc này, HS vẫn chưa đạt được
một giá trị xác định nào có thể đặc trưng cho tốc độ tăng tức thời, hay nói khác đi giới
hạn chúng ta đang đề cập vẫn chưa được tìm thấy. Ở pha tiếp theo, chúng tôi sẽ tìm cách
tổ chức hoạt động để nó xuất hiện.
❖ Pha 4 (10 phút): GV đặt ra một cuộc thi nhỏ mang tên: “Đi tìm tốc độ trung bình
phản ánh chính xác nhất tốc độ tức thời tại thời điểm 𝑡0 = 0,5”. Yêu cầu mỗi nhóm đề xuất một giá trị ∆𝑡 rồi tính tốc độ trung bình trong khoảng thời gian ấy. Nhóm nào thu
được kết quả phản ánh chính xác nhất tốc độ tăng nhiệt độ tức thời tại thời điểm đang
xét sẽ thắng cuộc. GV cho phép HS được tính toán bằng các loại máy tính bỏ túi đang
có, hay thậm chí được sử dụng các phần mềm tính toán cài đặt trên điện thoại di động.
Sau 5 phút làm việc, GV ghi nhận kết quả của các nhóm trên bảng và chỉ ra nhóm thắng
cuộc là nhóm đã chọn khoảng ∆𝑡 nhỏ nhất mà vẫn tính được tốc độ trung bình trên
khoảng đó.
GV để cho cả lớp quan sát kết quả tính toán của các nhóm và giúp các em nhận ra
rằng khi ∆𝑡 càng lúc càng nhỏ (tiến dần đến 0) thì tốc độ trung bình sẽ tiến đến một giá
trị xác định nào đó. Từ đây GV đưa ra câu hỏi thảo luận: “Làm thế nào để có được một
giá trị phản ánh chính xác tốc độ tăng nhiệt độ tức thời tại thời điểm 𝑡0 = 0,5?”. GV
, nếu không GV gợi mở để
mong đợi rằng HS sẽ nhận ra cần phải tính giới hạn
HS đồng thuận với đề xuất này rồi yêu cầu cả lớp dự đoán về giới hạn nói trên.
Phân tích: Bằng cách tổ chức trò chơi tìm kiếm một tốc độ trung bình phản ánh
chính xác nhất tốc độ tức thời, chúng tôi đã khuyến khích các nhóm lựa chọn những
khoảng ∆𝑡 rất nhỏ và tính tốc độ tăng trung bình trên khoảng vừa chọn. Theo đó, kết
quả mà mỗi nhóm tìm được sẽ rất gần nhau và tiến dần đến một giá trị xác định mà cả
lớp dễ dàng dự đoán được. Hoạt động này giúp HS nhận ra rằng, có thể có một giá trị
138
giới hạn nào đó trong chiến lược 𝑺trung bình của mình khi các em chọn ∆𝑡 ngày càng
nhỏ. Vì vậy, bằng cách đặt câu hỏi về cách để tìm một giá trị phản ánh chính xác tốc độ
tăng tức thời, chúng tôi cho rằng chiến lược tính giới hạn hoàn toàn có thể xuất
hiện. Sự dẫn dắt này nhằm xuất hiện động cơ tự nhiên và hợp lí cho việc nảy sinh khái
niệm đạo hàm và giúp mang đến cho nó cách hiểu tốc độ biến thiên tức thời.
❖ Pha 5 (15 phút): GV phát phiếu học tập có bài toán 3, yêu cầu các nhóm tìm công
thức tính tốc độ tăng trung bình trên đoạn [0,5; 0,5 + ∆𝑡] (câu 3a). Tiếp theo, yêu cầu
“tính tốc độ tăng nhiệt độ tức thời tại thời điểm 𝑡0 = 0,5” (câu 3b). Chiến lược mong
và thu được kết quả giống như
đợi là các nhóm sẽ tính giới hạn
giá trị đã dự đoán ở pha 4.
Phân tích: Mục đích ở pha này là cụ thể hóa chiến lược tính giới hạn để tìm được
tốc độ tăng nhiệt độ tức thời. Đối với câu a, chúng tôi yêu cầu HS lập công thức tính tốc
độ tăng trung bình trên một đoạn ∆𝑡 tùy ý và câu b là tính giới hạn khi khoảng thời gian
này tiến về 0. Sự đồng nhất giữa kết quả tính toán ở pha 5 và kết quả dự đoán ở pha 4
sẽ củng cố thêm cách hiểu và giúp HS làm quen trước với cách tính đạo hàm bằng định
nghĩa theo giới hạn.
❖ Pha 6 (10 phút): Đây là pha thể chế, GV trình bày định nghĩa khái niệm đạo hàm của hàm số 𝑓(𝑥) tại điểm 𝑥0 (kí hiệu 𝑓′(𝑥0)) là giới hạn (nếu có) sau:
. GV liên hệ giới hạn này với cách
hiểu về đạo hàm như là tốc độ biến thiên tức thời của hàm số theo sự thay đổi của đối
số. GV mở rộng thêm rằng: nếu một hàm số có đạo hàm tại mọi điểm trên một khoảng
bất kì, thì ứng với một giá trị 𝑥 thuộc khoảng đó sẽ có một giá trị đạo hàm tương ứng.
Quy tắc đặt tương ứng mỗi 𝑥 với giá trị 𝑓′(𝑥) giúp ta thiết lập một hàm số được gọi là
hàm số đạo hàm.
❖ Pha 7 (15 phút): GV cung cấp phiếu học tập có in các ứng dụng trong Vật lí của đạo
hàm (Bài toán 4). GV có thể dành thời gian để nhắc lại hoặc giải thích một số kiến thức
vật lí có liên quan trong bài toán. GV yêu cầu mỗi nhóm thảo luận để hoàn thành các
yêu cầu và nộp lại giấy làm bài cho GV. Với mỗi ngữ cảnh vật lí khác nhau, GV nhấn
mạnh yêu cầu “tìm ít nhất hai lí lẽ khác nhau” để giải thích cách xác định đại lượng vật
lí tương ứng. GV mong đợi các nhóm sẽ đi đến chiến lược sử dụng đạo hàm theo hai
139
cách giải thích khác nhau. Một từ cách tính đại lượng theo giới hạn tỉ sai phân (khi ∆𝑡
rất nhỏ), và cách còn lại từ đặc trưng tốc độ biến thiên của các đại lượng vật lí đang xét.
Sau thời gian thảo luận, GV yêu cầu đại diện của một nhóm nào đó đứng dậy trình bày
đáp án của mình và các nhóm khác đưa ra ý kiến đồng tình hoặc phản biện. GV khuyến
khích HS đề xuất thêm những tình huống trong thực tiễn cuộc sống có thể ứng dụng
công cụ đạo hàm. Cuối cùng, GV tổng kết và nhấn mạnh lại những điểm quan trọng của
bài học.
Phân tích: Mục đích của pha này là tạo điều kiện cho HS thăm lại các ứng dụng
quan trọng của đạo hàm trong nhiều vấn đề vật lí mà các em đã gặp trước đó. Ở câu 4a,
chúng tôi cung cấp cho HS ý nghĩa vật lí của gia tốc là đại lượng đặc trưng cho tốc độ
biến thiên của vận tốc. Hơn nữa, chúng tôi nhắc lại công thức mà SGK Vật lí lớp 10 đã
dùng để tính gia tốc tức thời: , với ∆𝑡 rất nhỏ. Công thức này thật ra phản ánh
cho chiến lược tốc độ biến thiên trung bình mà mà ở các pha trước đó HS đã được tiếp
cận. Bên cạnh đó, vì pha 4 và pha 5 đã làm xuất hiện chiến lược giới hạn nên HS có thể
tìm ra cách tính chính xác gia tốc tức thời qua công thức và cũng chính là phép
tính đạo hàm vừa học. Hơn nữa, bằng cách đặt ra yêu cầu giải thích công thức vừa đề
xuất bằng ít nhất hai lí lẽ khác nhau, chúng tôi mong đợi HS sẽ còn đưa ra thêm một
luận cứ khác để giải thích sự tác động của đạo hàm trong tình huống đang xét. Đó là vì
gia tốc đặc trưng cho tốc độ biến thiên của vận tốc, mà đạo hàm là công cụ toán học giúp tính tốc độ biến thiên nên có thể suy ra rằng 𝑎(𝑡) = 𝑣′(𝑡). Ý đồ của bài toán này
là giúp HS nhận ra sự tác động của khái niệm đạo hàm trong việc xác định gia tốc tức
thời theo hai cách tiếp cận: một theo giới hạn tỉ sai phân và một theo nghĩa tốc độ biến
thiên. Điều này tạo cơ hội để người học kết nối hai cách hiểu khác nhau về đạo hàm
trong cùng một ngữ cảnh ứng dụng. Sự kết nối này không những giúp HS hiểu rõ hơn
cách thức mà đạo hàm được áp dụng trong Vật lí, mà còn giúp các em hiểu sâu sắc hơn
tri thức toán vừa học.
Với câu b và câu c, chúng tôi giới thiệu lại phương pháp SGK Vật lí đã dùng để
tính toán suất điện động cảm ứng và suất điện động tự cảm. Đại lượng thứ nhất tỉ lệ với
tốc độ biến thiên từ thông, còn cái thứ hai tỉ lệ với tốc độ biến thiên của cường độ dòng
điện. Bằng cách thăm lại những ứng dụng vật lí này, HS có thể nhận ra vai trò công cụ
140
quan trọng của đạo hàm trong nhiều vấn đề vật lí khác nhau có liên quan đến tốc độ biến
thiên.
5.1.6. Phân tích hậu nghiệm
5.1.6.1. Đối tượng và cách thức tổ chức
Đồ án DH trên được chúng tôi triển khai TN với 30 HS lớp 11.1 của trường Trung
học thực hành Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh. Đây là các HS lớp ban tự nhiên và có
học lực khá về môn Toán. Thời điểm TN diễn ra khi các em vừa mới học qua bài giới
hạn hàm số. Để tổ chức hoạt động học tập, chúng tôi chia lớp thành 6 nhóm, mỗi nhóm
có năm HS ngồi thành vòng tròn. Quá trình TN được sự giúp đỡ của năm trợ giảng là
các học viên cao học và sinh viên Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh trong việc quay
phim ghi hình diễn biến học tập xảy ra trong suốt quá trình TN. Cụ thể, mỗi trợ giảng
sẽ phụ trách quay phim hoạt động thảo luận của HS ở một nhóm. Một máy quay phim
được đặt ở cuối lớp để ghi lại toàn cảnh các hoạt động của HS và GV trong suốt buổi
TN.
5.1.6.2. Phân tích kết quả
Pha 1: Ở đầu pha này, GV đã dành ra ít phút để giới thiệu ý nghĩa và cách tính tốc độ
biến thiên trung bình của hàm số 𝑓(𝑥) trên đoạn [𝑥1; 𝑥2]. Để tạo ra tâm thế thuận lợi cho bài toán TN sau đó, trong lời giảng của mình GV xét một hàm số 𝑓(𝑥) tăng (đồng
GV: Trên đoạn đang xét ta đã thấy biến 𝑥 tăng một lượng là ∆𝑥 = 𝑥2 − 𝑥1, và hàm số 𝑓(𝑥) tăng một lượng tương ứng là ∆𝑦 = 𝑓(𝑥2) − 𝑓(𝑥1). Vậy làm thế nào để tính được tốc độ tăng trung bình của hàm số trên đoạn đang xét.
biến) trên đoạn [𝑥1; 𝑥2] và đặt câu hỏi gợi mở như sau với cả lớp:
Đáng chú ý là có một HS trong lớp rất nhanh đã trả lời: “tốc độ tăng sẽ lấy độ tăng
của 𝑦 chia cho độ tăng của 𝑥, tức là lấy ∆𝑦 chia cho ∆𝑥”. Điều này cho thấy khái niệm
về tốc độ tăng hay rộng hơn là tốc độ thay đổi dường như đã tồn tại trước trong quan
niệm của một số HS tham gia TN. Sau bước gợi mở nói trên, GV thể chế hoá bằng cách
đưa ra định nghĩa và cách tính “tốc độ thay đổi” trung bình (mà từ nay sẽ gọi là “tốc độ
biến thiên”) của một hàm số theo biến số của nó trên một đoạn.
Với bước chuẩn bị này, không ngạc nhiên khi tất cả các nhóm đều dễ dàng tính được
tốc độ tăng trung bình theo yêu cầu ở câu 𝑎 và 𝑏 của bài toán 1. Đối với câu 1𝑐, đúng
như chúng tôi đã dự đoán cả 6 nhóm đều sử dụng chiến lược 𝑺trung bình và không có bất
cứ một chiến lược nào khác xuất hiện. Cụ thể thì các nhóm đều sử dụng kết quả tốc độ
141
tăng trung bình đã tính ở hai câu a và b để đi đến kết luận rằng “ở thời điểm 𝑡0′ = 1,25 nhiệt độ của bình nuôi cấy tăng nhanh hơn”.
Hình 5.1. Lời giải bài toán 1 của nhóm 4
Hình trên là lời giải bài toán 1 của nhóm 4. Nhóm này thực hiện chính xác tính toán
tốc độ tăng trung bình ở câu a và câu b và dùng chúng để đưa ra kết luận cho câu c. Các
em nhóm này còn ghi rõ lí do đưa ra kết luận là vì “tốc độ tăng nhiệt độ trung bình tại
thời điểm 𝑡0′ = 1,25 lớn hơn 𝑡0 = 0,5”. Trong kết quả của một số nhóm khác (nhóm 1 và nhóm 5), có lẽ do ảnh hưởng từ môn Vật lí mà các em thậm chí còn ghi rõ đơn vị của
tốc độ tăng trung bình đang tính là . Đối với lời giải của nhóm 1, mặc dù chúng
tôi chưa hề đưa ra một kí hiệu nào cho khái niệm “tốc độ tăng trung bình” tuy nhiên HS
nhóm này tự sử dụng kí hiệu 𝑣𝑡𝑏 để biểu thị cho nó.
Hình 5.2. Lời giải bài toán 1 của nhóm 1
142
Các em này lập luận rằng vì 𝑣𝑡𝑏(𝑡𝑜′) > 𝑣𝑡𝑏(𝑡0) nên tại thời điểm 𝑡0′ = 1,25 tăng nhanh hơn. GV có đặt câu hỏi với HS nhóm này về lí do tại sao lại sử dụng kí hiệu 𝑣𝑡𝑏 thì nhận được câu trả lời là các em liên hệ “tốc độ tăng nhiệt độ” với đại lượng “tốc độ”
hay “vận tốc” ở bên môn Vật lí. Sự liên hệ này của HS đưa chúng tôi đến nhận định là
nếu như các em hiểu được ý nghĩa tổng quát của đạo hàm là tốc độ biến thiên thì hoàn
toàn có thể vận dụng nó vào ngữ cảnh động học – nói riêng là tính vận tốc.
Bên cạnh đó, xem xét SGK Vật lí lớp 10 chúng tôi nhận thấy khái niệm vận tốc tức
thời được hiểu như là vận tốc trung bình trong khoảng thời gian ∆𝑡 rất nhỏ. Tuy nhiên,
nếu như các HS nhóm 1 đã liên hệ “tốc độ tăng nhiệt độ” với “vận tốc” trong chuyển
động cơ học thì có vẻ như quan niệm nói trên về vận tốc tức thời không tác động đến
chiến lược giải của các em. Bởi lẽ khi yêu cầu so sánh tốc độ tăng tại mỗi thời điểm (tức
thời), các nhóm đều không để ý đến việc ∆𝑡 có đủ nhỏ hay chưa mà chỉ đơn giản đưa ra
kết luận cho thời điểm nhiệt độ tăng nhanh hơn từ kết quả tốc độ trung bình đã có.
Tóm lại, kết quả pha này cho thấy khái niệm tốc độ thay đổi hay tốc độ tăng của
một đại lượng là khá quen thuộc với đa số HS. Hơn nữa, có HS thậm chí còn tự đưa ra
được công thức tính tốc độ tăng là tỉ số của độ tăng hàm số và độ tăng biến số khi GV
đặt câu hỏi. Một số HS còn liên hệ tốc độ tăng nhiệt độ với tốc độ hay vận tốc trong
chuyển động cơ học và sử dụng kí hiệu 𝑣𝑡𝑏 để biểu thị cho tốc độ tăng này. Tuy nhiên khi gặp phải tình huống so sánh tốc độ tăng nhiệt độ tức thời ở hai điểm thì chiến lược
ưu thế là 𝑺trung bình và vì thế dẫn tất cả các nhóm đến kết luận sai.
Pha 2: Khi GV đặt cho cả lớp yêu cầu ở câu c thì nhận thấy sự bối rối của HS. GV sau
GV: Các bạn đã gặp trường hợp nào có nhắc đến tốc độ tăng hay tốc độ thay đổi chưa?
HS (cả lớp): Tốc độ tăng dân số, tốc độ tăng GDP, tăng kinh tế,… Mấy cái này hay gặp
bên môn địa lí đó thầy.
GV: Ta xét thử một cái, chẳng hạn nói về tốc độ tăng dân số nhé. Vậy ở môn địa lí mình
thường làm gì để biểu thị sự thay đổi dân số qua từng năm?
HS: Dạ vẽ biểu đồ.
GV: Tụi em hay dùng loại biểu đồ nào?
HS: Nhiều loại thầy, đường, cột. Mà biểu thị tăng giảm thì hay dùng biểu đồ đường ạ.
GV: Nếu là biểu đồ đường thì làm sao biết dân số tăng hay giảm?
HS: Dạ nhìn xem đường nó hướng lên là tăng.
GV: Vậy làm sao biết ở chỗ nào tăng nhanh hơn?
đó đã đặt ra một số câu hỏi gợi mở trước lớp và sau đây là đoạn đối thoại được ghi lại:
HS: Nhìn thấy dốc hơn là tăng nhanh hơn.
GV: Ở bài toán này, mình cần biết thời điểm nào hàm số nhiệt độ 𝑓(𝑡) tăng nhanh hơn.
Vậy mình sẽ cần có gì?
HS: Đồ thị hàm số.
143
Sau đoạn thảo luận này, nhiều HS nhận ra một phương pháp giúp kiểm tra tốc độ
tăng của hàm số đó là dựa vào “độ dốc”. Chỗ nào đồ thị dốc hơn thì tăng nhanh hơn.
Theo cách trả lời của HS, chúng tôi cho rằng các em hiểu đồ thị dốc hơn nghĩa là hướng
lên nhiều hơn hay góc nghiêng lớn hơn. Tuy nhiên, vì đồ thị hàm 𝑓(𝑡) không phải đường
thẳng nên chiến lược đúng ở đây phải dựa vào góc nghiêng của đường thẳng tiếp tuyến18
tại điểm đang xét. Vào thời điểm này, vì HS chưa được tiếp cận với khái niệm tiếp tuyến
của đường cong cho nên trong đề bài toán 1’ chúng tôi cung cấp hình ảnh phóng to đồ
thị. Khi HS đã quan sát hình ảnh này, GV có gợi mở thêm trước lớp là ở một vùng khá
nhỏ xung quanh điểm đang xét thì đồ thị gần như đường thẳng nên ta có thể so sánh góc
nghiêng của chúng. GV đề nghị các nhóm trả lời lại câu hỏi đặt ra ở bài toán 1c. Kết quả
cho thấy cả sáu nhóm đều sử dụng chiến lược 𝑺Đồ thị và đưa ra kết quả trái ngược với
kết luận trước đó về thời điểm nhiệt độ tăng nhanh hơn.
Chẳng hạn trong phiếu học tập của nhóm 4 (Hình 5.3), các HS tiến hành đo góc tạo
bởi hướng của đồ thị với
phương ngang ở hai thời
điểm để làm cơ sở cho kết
luận. Cụ thể, ở hình ảnh
phóng to các em đo được
hai góc nghiêng ở hai thời điểm lần lượt xấp xỉ 350 và 150. Từ đó HS nhóm này
kết luận rằng nhiệt độ tại
thời điểm 𝑡0 = 0,5 tăng nhanh hơn vì tại đó đồ thị
“dốc hơn”.
Hình 5.3. Lời giải bài toán 1’ của nhóm 4
được tính bằng giá trị tan của góc nghiêng này.
18 Thay vì xét góc nghiêng chúng ta có thể xét hệ số góc của tiếp tuyến (còn gọi là độ dốc tiếp tuyến) mà sẽ
144
Tổng kết lại, ở pha này chúng tôi nhận thấy rằng các HS đã có những kinh nghiệm
trước đó về tốc độ biến thiên mà nói riêng là tốc độ tăng dân số. Nhờ vậy, chúng tôi dễ
dàng gợi mở để làm xuất hiện chiến lược 𝑺đồ thị trong việc tìm thời điểm nhiệt độ tăng
nhanh hơn. 𝑺đồ thị sẽ cung cấp thông tin phản hồi cho kết luận mà các nhóm đưa ra ở bài
toán 1 khi sử dụng 𝑺trung bình. Theo đó, tất cả các HS đều nhận ra sai lầm mà 𝑺trung bình
đưa đến khi so sánh tốc độ tăng nhiệt độ tức thời ở mỗi thời điểm. Tình huống này mang
lại một điểm nhận thức mới cho HS khi các em nhận ra tốc độ tăng trung bình chưa hẳn
đã phản ánh đúng tốc độ tăng tức thời. Từ đó, một vấn đề mới đặt ra là tìm được khoảng
thời gian phù hợp để sự phản ánh nói trên được thoả mãn. Đây chính là lí do hợp lí cho
hoạt động tiếp theo ở pha 3.
Pha 3: Ở pha này, chúng tôi yêu cầu các nhóm chọn lại khoảng thời gian ∆𝑡 để tốc độ
tăng nhiệt độ trung bình trên hai đoạn [𝑡0; 𝑡0 + ∆𝑡] và [𝑡0′; 𝑡0′ + ∆𝑡] phản ánh đúng sự tương quan tốc độ tăng tức thời ở hai thời điểm 𝑡0 và 𝑡0′. Kết quả làm việc của các nhóm được chúng tôi tổng hợp lại trong bảng dưới đây
Nhóm
1
2
3
4
5
6
Chọn lần 1
∆𝑡 = 1,5
3
2
< 0,25
0,01
5
Chọn lần 2
0,2
0,1
0,5
11
Chọn lần 3
0,25
0,001
Chọn lần 4
0,1
Bảng 5.1. Thống kê kết quả bài toán 2a
Trong 6 nhóm, chỉ có nhóm 5 là thành công với lần lựa chọn đầu tiên. Hầu hết các
nhóm đều phải thực hiện nhiều lần lựa chọn mới tìm được khoảng ∆𝑡 phù hợp. Chẳng
hạn như trường hợp của nhóm 6, ban đầu các em chọn ∆𝑡 = 5 thấy chưa thành công nên
tiếp tục chọn giá trị lớn hơn (∆𝑡 = 11) và tiếp tục thất bại. Các thành viên nhóm này sau
đó quyết định thử chọn một khoảng thời gian thật nhỏ ∆𝑡 = 0,001 và đã thu được kết
quả phù hợp. Với nhóm 3, mặc dù đã lựa chọn ∆𝑡 càng lúc càng nhỏ nhưng đến lần chọn
thứ ba vẫn chưa thành công (khi ∆𝑡 = 0,25 thì tốc độ tăng trung bình trên hai đoạn bằng
nhau). Mãi đến lần chọn thứ tư, các em này mới thành công khi chọn một giá trị ∆𝑡 đủ
nhỏ (∆𝑡 = 0,1). Đặc biệt nhất là trường hợp của nhóm 4, các em này không thử những
giá trị ∆𝑡 cụ thể mà tiến hành giải một bất phương trình để tìm ra điều kiện ∆𝑡 phải bé
hơn 0,25.
145
Ở cuối pha này, tất cả các nhóm đều nhận ra cần phải chọn ∆𝑡 đủ nhỏ thì yêu cầu
đặt ra mới được thoả mãn. Vì thế khi GV tổng kết lại kết quả của cả lớp trên bảng và đặt
câu hỏi 2𝑏 thì hầu hết HS cả lớp đều đồng thuận rằng: khi ∆𝑡 càng nhỏ thì tốc độ tăng
trung bình trên đoạn [𝑡0; 𝑡0 + ∆𝑡] sẽ càng phản ánh chính xác tốc độ tăng ngay tại thời điểm đang xét.
Pha 4: Ở pha này, GV tổ chức cho các nhóm thi tìm một tốc độ trung bình phản ánh
chính xác nhất tốc độ tăng tức thời tại thời điểm 𝑡0. GV nói rõ luật chơi là chỉ chấp nhận kết quả khi các nhóm đưa ra được giá trị bằng số thập phân (làm tròn phần thập phân
càng xa càng tốt) của tốc độ tăng trung bình ứng với khoảng ∆𝑡 đã chọn. Dưới đây là
kết quả ghi nhận của 6 nhóm (những giá trị rất nhỏ đã được chúng tôi đổi về dạng lũy
thừa nguyên âm của 10).
Nhóm
1
2
3
4
5
6
∆𝑡
10−6
0,0006 10−100 10−10
10−11
10−11
Tốc độ tăng
?
0,7499985 0,74999999998 0,749
0,75
0,75
trung bình
Bảng 5.2. Kết quả cuộc thi ở pha 4
Các nhóm đều ý thức được phải chọn ∆𝑡 rất nhỏ nếu muốn dành chiến thắng. Tuy
nhiên khi một số nhóm chọn ∆𝑡 rất nhỏ để tính thì có một vấn đề nảy sinh do hạn chế
của máy tính bỏ túi. Chẳng hạn với trường hợp của nhóm 1, các em chọn ∆𝑡 lần lượt là 10−9, 10−10, 10−11 thì thấy kết quả đều ra 0,75. Tỏ ra nghi ngờ giá trị này có vấn đề nên nhóm này chỉ chọn ∆𝑡 = 10−6 và thu được kết quả tốc độ tăng trung bình là 0,7499985. Nhóm 5 và nhóm 6 thì vẫn đưa ra kết quả 0,75 ứng với ∆𝑡 lần lượt là 10−10 và 10−11. Nhóm 2 có một em đã sử dụng phần mềm tính toán cài trên điện thoại để tính được tốc độ tăng trung bình khi ∆𝑡 = 10−11 là 0,74999999998. Nhóm 4 ban đầu định
chọn ∆𝑡 = 0 nhưng sau đó từ bỏ vì không tính được. Sau đó nhóm này đề xuất ∆𝑡 = 10−100, tuy nhiên khi GV yêu cầu tính toán tốc độ tăng trung bình thì nhóm này không
tính được nhưng vẫn quả quyết là kết quả sẽ “rất chính xác”.
Sau khi các nhóm báo cáo kết quả, GV thống kê chúng lên trên bảng và hỏi ý kiến
cả lớp về nhóm thắng cuộc. Lúc này có sự tranh luận xảy ra khi nhóm 2 và nhóm 6 chọn cùng một giá trị ∆𝑡 = 10−11 nhưng lại tính ra tốc độ trung bình khác nhau. GV hỏi cả
lớp thì có một bạn nhóm 1 đứng dậy trả lời rằng “kết quả rất gần với 0,75 đến mức máy
tính bình thường không phân biệt được và làm tròn luôn”. Theo tiêu chí là làm tròn chữ
146
số thập phân càng xa càng tốt nên GV tuyên bố chiến thắng thuộc về nhóm 2 với sự trợ
giúp của công cụ tính toán mạnh hơn.
GV: Theo tụi em, làm sao để có được một giá trị phản ánh chính xác tốc độ tăng nhiệt độ
tại ngay thời điểm 𝑡0 = 0,5? HS: Dạ, chọn ∆t thật nhỏ ạ.
GV: Nhưng như tụi em đã thấy, nếu máy tính đủ mạnh thì mỗi giá trị ∆𝑡 cho ra một tốc
Để rút ra kết luận cho pha này, GV thực hiện cuộc trao đổi sau đây với cả lớp:
độ tăng trung bình khác nhau? Vậy chọn ∆𝑡 bằng bao nhiêu thì đạt được tốc độ tăng
HS: Cho ∆𝑡 tiến về 0 thầy, tính giới hạn.
GV: Vậy tụi em dự đoán xem giới hạn này là bao nhiêu?
HS: Em nghĩ chắc là 0,75 rồi.
tức thời này?
Cần nói thêm là ở hoạt động này, chúng tôi dẫn dắt hình thành chiến lược tính giới
hạn theo cách tiếp cận “xấp xỉ 𝑥” chứ không không chọn cách tiếp cận “xấp xỉ 𝑓(𝑥)”
(theo ngôn ngữ 𝜀 − 𝛿). Nghĩa là tạo ra hoạt động để HS nhận ra khi ∆𝑡 dần đến giá trị
0 thì tỉ sai phân đang xét sẽ tiến về một giá trị xác định.
Ở cuối pha 4, GV tổng kết và giới thiệu tường minh công thức tính tốc độ biến thiên
. tức thời của hàm số 𝑓(𝑥) tại điểm 𝑥0 qua giới hạn:
Qua pha hoạt động này, HS đã nhận ra rằng: khi chọn ∆𝑡 càng nhỏ thì tốc độ tăng
trung bình tiến dần về một giá trị xác định là 0,75 và nó phản ánh chính xác tốc độ tăng
tức thời tại thời điểm 𝑡0 = 0,5. Chiến lược sử dụng phép toán giới hạn đã xuất hiện ở pha này một cách hợp lí như là một phương án đúng đắn nhất để giải quyết vấn đề đặt
ra ban đầu.
Pha 5: Ở pha 4, các nhóm đã dự đoán được giới hạn cần tìm là 0,75 thông qua tính toán
số. Trong pha này chúng tôi yêu cầu các nhóm tính toán tốc độ tăng tức thời trên đoạn
[𝑡0; 𝑡0 + ∆𝑡] theo biểu thức đại số và tính tốc độ tăng tức thời bằng phép toán giới hạn. Quá trình làm việc các nhóm cho thấy kĩ năng tính toán đại số khá tốt. Kết quả có đến
năm nhóm thực hiện được phép lấy giới hạn và thu được kết
quả 0,75 phù hợp với dự đoán từ pha trước đó (có một nhóm tính toán sai). Chẳng hạn
dưới đây là bài làm của một bạn nhóm 5:
147
Hình 5.4. Lời giải bài toán 3 của nhóm 5
GV trình bày tóm tắt lời giải trên bảng. Đáp án thu được hoàn toàn trùng khớp với
giá trị giới hạn đã dự đoán ở pha 4. GV nhấn mạnh lại rằng kết quả giới hạn vừa tìm
được là giá trị phản ánh chính xác tốc độ tăng tức thời của nhiệt độ tại thời điểm 𝑡0 = 0,5.
Pha 6: Đây là pha thể chế để GV đưa ra định nghĩa tường minh cho khái niệm có tên là
đạo hàm. Đầu tiên, GV nhắc lại rằng ở bài toán trên khi 𝑓(𝑡) mô tả nhiệt độ của bình
nuôi cấy theo thời gian thì giới hạn (nếu tồn tại) giúp ta tính được
tốc độ biến thiên tức thời của nhiệt độ ngay tại thời điểm 𝑡0. Vì ∆𝑡 = 𝑡 − 𝑡0, nên ta có:
GV gợi mở, trong trường hợp tổng quát, nếu một đại lượng 𝑦 nào đó phụ thuộc vào
(còn được viết ở biến 𝑥 theo hàm số 𝑦 = 𝑓(𝑥) thì giới hạn (nếu có)
dạng với ∆𝑥 = 𝑥 − 𝑥0) cũng giúp tính được tốc độ biến thiên
của hàm số 𝑓(𝑥) theo biến số 𝑥 tại điểm 𝑥0. Vì ý nghĩa tổng quát này, trong toán học người ta gọi giới hạn nói trên, nếu có và hữu hạn, là đạo hàm của hàm số 𝑓(𝑥) tại
148
điểm 𝑥0. GV sau đó đưa ra định nghĩa tường minh cho khái niệm đạo hàm theo giới hạn trên và nhấn mạnh thêm một lần nữa nghĩa tốc độ biến thiên của nó.
Trong trường hợp hàm số 𝑓(𝑥) có đạo hàm tại mọi điểm x trên khoảng (𝑎; 𝑏), lúc
này với mỗi giá trị x trong khoảng (𝑎; 𝑏) ta xác định được duy nhất một giá trị đạo hàm
𝑓′(𝑥). Hàm số mô tả sự phụ thuộc của giá trị đạo hàm 𝑓′(𝑥) theo giá trị của x trên đoạn
(𝑎; 𝑏) được gọi là hàm số đạo hàm và kí hiệu là 𝑦′ hay 𝑓′(𝑥).
Sau pha thể chế này, HS được giới thiệu chính thức định nghĩa về đạo hàm tại một
điểm và hàm số đạo hàm. Hơn nữa, giới hạn của tỉ sai phân trong định nghĩa đạo hàm
còn gắn với phương pháp giúp xác định tốc độ biến thiên tức thời mà các HS đã tìm ra
trong các pha trước đó. Nhờ vậy cách hiểu đạo hàm theo tốc độ biến thiên được hình
thành một cách tự nhiên và hợp lí trong vai trò là công cụ giải quyết vấn đề đã đặt ra.
Ngoài ra ý nghĩa vừa nói còn có thể mở rộng tổng quát cho tốc độ biến thiên (tốc độ
thay đổi) của một đại lượng bất kì theo sự thay đổi của biến số mà nó phụ thuộc.
Pha 7: Mục đích của pha 7 là tạo điều kiện để HS có cơ hội nhìn lại các tình huống
trước đó trong 𝐼𝑉𝐿 mà đạo hàm đã được sử dụng một cách ngầm ẩn. Ở pha này, chúng tôi có thay đổi một chút trong cách thức tổ chức hoạt động (vì điều kiện thời gian) so
với dự kiến: cụ thể thay vì giao phiếu học tập để các nhóm thảo luận trả lời chúng tôi
giới thiệu bài toán 4 trên bảng và để cả lớp cùng thảo luận đưa ra câu trả lời. Dưới đây
GV: Theo cả lớp cách tính
, với ∆𝑡 rất nhỏ có giúp xác định chính xác gia tốc tức
thời chưa?
HS (nhiều bạn cùng nói): Nó tính gần đúng thôi thầy ơi.
GV: Vậy công thức đúng phải là gì?
HS: Phải tính lim khi ∆𝑡 → 0 mới ra được kết quả chính xác.
GV: Vậy khi có hàm số vận tốc, làm thế nào để tính được gia tốc?
HS1: Tính đạo hàm ạ.
GV: Em nhận ra đạo hàm là vì mình phải tính giới hạn đúng không? Vậy có cách nào khác
để giải thích được tại sao gia tốc lại bằng đạo hàm hàm số vận tốc hay không?
HS2: Thì vì gia tốc là tốc độ thay đổi của vận tốc nên nó tính bằng đạo hàm thôi.
là đoạn trích cuộc thảo luận:
Với hai ngữ cảnh vật lí còn lại là bài toán tính suất điện động cảm ứng và suất điện
động tự cảm, các HS rất nhanh chóng nhận ra sự tác động của công cụ đạo hàm và dễ
149
dàng đưa ra được công thức tính đúng bởi đạo hàm và giải thích nó bằng hai lí lẽ: một
theo giới hạn tỉ sai phân, và một theo đặc trưng tốc độ biến thiên.
Kết thúc pha này, tất cả HS tham gia TN đều nhận ra vai trò công cụ trong những
vấn đề vật lí trước đó mà các em đã học mà có liên quan đến đặc trưng tốc độ biến thiên.
Bên cạnh đó, các em còn chỉ ra được rằng những đại lượng vật lí đang nói cũng được
tính toán theo giới hạn tỉ sai phân. Hoạt động này không những giúp người học thấu
hiểu được các ứng dụng đa dạng của đạo hàm mà còn có thể tạo ra những liên kết mạnh
mẽ giữa những cách hiểu khác nhau về tri thức đang đề cập.
5.1.7. Kết luận cho thực nghiệm dạy học khái niệm đạo hàm
Trong đồ án DH này, chúng tôi đã sử dụng ngữ cảnh LM để thiết kế một chuỗi các
tình huống học tập giúp người học có một hiểu biết đầy đủ hơn cho khái niệm đạo hàm.
Kết quả TN cho thấy, việc cài đặt giá trị của các biến DH (làm cho tốc độ biến thiên
trung bình không phản ánh đúng tốc độ biến thiên tức thời) cùng với sự hỗ trợ từ đồ thị
trực quan đã tạo ra động cơ và môi trường phản hồi giúp chiến lược tính giới hạn của tỉ
sai phân xuất hiện một cách tự nhiên và hợp lí. Hơn nữa, trong ngữ cảnh đang xét, chiến
lược giới hạn này cho phép tìm ra một giá trị phản ánh chính xác tốc độ biến thiên nhiệt
độ tại từng thời điểm. Vì lẽ đó, sau khi đạo hàm được định nghĩa theo giới hạn của tỉ số
hai số gia, HS tham gia TN đã nhận ra ý nghĩa tổng quát của đạo hàm trong việc tính
toán tốc độ biến thiên tức thời của các đại lượng.
Cách tiếp cận LM này không chỉ mang lại lợi ích về mặt nhận thức khái niệm, nó
còn hỗ trợ cho việc ứng dụng đạo hàm trong nhiều ngữ cảnh đa dạng của khoa học và
thực tiễn. Cụ thể thì đa số HS trong TN đã vận dụng được cả hai cách hiểu đạo hàm –
theo giới hạn và theo tốc độ biến thiên – để rút ra công thức liên hệ giữa các đại lượng
vật lí cũng như chính xác hóa được các công thức gần đúng mà trước đó mà đạo hàm
được áp dụng một cách ngầm ẩn.
Kết quả này là cơ sở để chúng tôi xác nhận tính đúng đắn của giả thuyết nghiên cứu
đặt ra ban đầu khi mà cách tiếp cận LM trong DH đã mang lại lợi ích kép trong việc
hiểu và ứng dụng khái niệm đạo hàm. Đây cũng là điểm tựa để chúng tôi kết luận về
tính khả thi và hiệu quả mang lại của các giải pháp sư phạm đã đề xuất.
5.2. Đồ án dạy học khái niệm tích phân
5.2.1. Mục tiêu xây dựng đồ án
Đồ án DH này nhắm đến hai mục tiêu chính sau: nhằm mang lại cách hiểu đầy đủ
hơn cho HS về khái niệm tích phân; và giới thiệu cho người học các phương pháp và kĩ
150
thuật của GT được sử dụng để giải quyết nhiều vấn đề của Vật lí. Như các phân tích
trước đó đã chỉ ra, hai mục tiêu này có một nhân tố chung đó là cách hiểu tích phân theo
giới hạn tổng Riemann. Quan niệm này là cơ sở để hiểu được bản chất của khái niệm
đồng thời giúp HS làm quen với một kĩ thuật tính toán đặc trưng của GT. Hơn nữa, sự
cần thiết của kĩ thuật tính toán này còn vượt ra khỏi phạm vi toán học bởi những ứng
dụng hiệu quả của nó trong nhiều vấn đề vật lí.
5.2.2. Các giải pháp được vận dụng
Để đạt được mục đích nói trên, chúng tôi sẽ diễn đạt cụ thể hơn việc vận dụng các
giải pháp sư phạm đã đề xuất trong quá trình xây dựng đồ án. Cần nói rõ, chúng tôi
không trình bày các giải pháp theo thứ tự số đếm mà theo logic của việc áp dụng chúng
trong đồ án.
Vận dụng giải pháp 3: Chúng tôi tận dụng những hỗ trợ mà thể chế DH Vật lí đã cung
cấp. Cụ thể, kết quả phân tích ở chương 3 cho thấy 𝐼𝑉𝐿 đã đưa vào nhiều vấn đề mà phương pháp giải quyết có áp dụng kĩ thuật tính toán theo tổng Riemann. Các tình huống
này sẽ được chúng tôi khai thác để xây dựng chuỗi tình huống DH nhằm mang lại cách
hiểu tích phân theo giới hạn tổng Riemann.
Vận dụng giải pháp 1: Để giúp người học có được hiểu biết đầy đủ hơn về tích phân,
giải pháp 1 gợi ý rằng cần phải liên kết được các cách hiểu và biểu diễn khác nhau vào
cùng một khái niệm – tích phân. Để thực hiện nhiệm vụ này, chúng tôi sẽ thiết kế một
chuỗi tình huống học tập giúp người học thấy được sự tương đương của ba cách tính
toán (tương ứng với ba cách hiểu về tích phân): theo giới hạn tổng Riemann, theo nguyên
hàm, và cuối cùng là theo diện tích.
Vận dụng giải pháp 2: Như đã nói, việc tiếp cận tích phân theo tổng Riemann hoàn toàn
có thể thực hiện bằng cách tận dụng những ngữ cảnh và vấn đề mà Vật lí hỗ trợ. Tuy
nhiên, khó khăn lớn nhất như chúng tôi đã phân tích ở các phần trước chính là: nếu tiếp
cận tích phân từ kĩ thuật tính toán theo tổng Riemann thì làm thế nào gắn kết nó với
phép toán ngược – phép toán đạo hàm? Vận dụng giải pháp 2 trong hoàn cảnh này,
chúng tôi nhìn lại kết quả nghiên cứu về mối quan hệ gắn kết GT – Vật lí trong lịch sử
và tìm hiểu xem các nhà khoa học vượt qua khó khăn kể trên như thế nào? Theo đó,
những kết luận rút ra ở chương 3 đưa đến gợi ý quan trọng sau đây và là cơ sở quan
trọng để chúng tôi thiết kế các tình huống DH trong đồ án: mối quan hệ đảo ngược giữa
các đại lượng vật lí (quãng đường và vận tốc) đem đến cái nhìn động học góp phần giúp
các nhà toán học phát hiện ra mối liên hệ giữa đạo hàm và tích phân.
151
Vận dụng các giải pháp khác: Bên cạnh việc vận dụng các giải pháp thuộc nhóm 1 đã
đề cập ở trên, một số khía cạnh liên quan đến các giải pháp ở nhóm 2 cũng được xem
xét để tăng cường vai trò công cụ của tích phân trong Vật lí. Cụ thể, vận dụng giải pháp
6, chúng tôi giới thiệu cho HS kĩ thuật lập tổng Riemann có nhiều ứng dụng trong Vật
lí. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng vận dụng giải pháp 8 khi đưa vào đồ án một số kiểu
nhiệm vụ LM mà việc giải quyết cần đến cả kiến thức toán và vật lí (ví dụ 8.4 và 8.5).
Trải nghiệm với các tình huống vật lí trong đồ án và các kiểu nhiệm vụ LM vừa nói đến
còn là cơ hội để soi sáng lại cơ sở toán học cho phương pháp toán học mà 𝐼𝑉𝐿 đã dùng để giải quyết nhiều vấn đề của mình: giải pháp 7. Cuối cùng, việc DH khái niệm tích
phân theo cách tiếp cận LM Toán – Vật lí như trên đem đến “kiến thức ngữ cảnh” có
thể giúp người học hiểu và ứng dụng tri thức một cách hiệu quả và linh hoạt hơn: giải
pháp 9.
5.2.3. Các phân tích ban đầu
5.2.3.1. Tiếp cận khái niệm tích phân theo ngữ cảnh hình học
Tán thành lựa chọn đưa vào khái niệm tích phân thông qua cách hiểu theo giới hạn tổng Riemann, chúng tôi sử dụng khung lý thuyết tham chiếu của Habineza19. Theo
khung này, người ta sử dụng ngữ cảnh hình học để giới thiệu khái niệm tích phân từ bài
toán xác định diện tích hình phẳng dưới đồ thị hàm số. Đây cũng là cách tiếp cận truyền
thống mà các giáo trình đại học, thậm chí nhiều SGK THPT nước ngoài lựa chọn. Ngữ
cảnh nói trên mang lại cho tích phân ý nghĩa hình học là “diện tích dưới đường cong”
và làm xuất hiện đầy đủ bốn lớp quá trình – đối tượng: phân hoạch, lập tích, lập tổng,
giới hạn. Tuy nhiên nó không giúp giải quyết được hai khó khăn mà chúng tôi đã đề cập
trước đó:
- Người học khó mà hiểu được mối liên hệ giữa tích phân với đạo hàm nếu như các
em tiếp cận tích phân theo giới hạn tổng Riemann nhưng lại tính toán nó theo nguyên
hàm. Hơn nữa, mặc dù cách tiếp cận hình học nói trên mang đến cho tích phân nghĩa
diện tích nhưng nếu muốn liên kết nghĩa này với phép lấy nguyên hàm thì vẫn phải
đưa vào định lí cơ bản về mối liên hệ giữa đạo hàm và tích phân. Ấy vậy mà việc
chứng minh chặt chẽ định lí này thì khó và cần nhiều nỗ lực vốn không phù hợp với
DH ở cấp độ THPT.
19 Xem lại mục 4.1.1.2
152
- Người học gặp khó khăn khi sử dụng phương pháp lập tổng Riemann trong những
ngữ cảnh ứng dụng khác ngoài Hình học. Nghiên cứu của một số tác giả đã chỉ ra,
ngay cả khi được tiếp cận tích phân theo tổng Riemann từ ngữ cảnh hình học, người
học chỉ xem nó như một quy trình tính toán diện tích phức tạp và thường không vận
dụng được vào các ngữ cảnh ứng dụng khác.
5.2.3.2. Tiếp cận khái niệm tích phân theo ngữ cảnh vật lí
Để tận dụng sự hỗ trợ LM giữa Toán và Vật lí, chúng tôi lựa chọn ngữ cảnh vật lí
để xây dựng tình huống làm xuất hiện khái niệm tích phân và phân tích chúng dựa trên
khung lý thuyết của Habineza. Kết quả phân tích thể chế 𝐼𝑉𝐿 chỉ ra khá nhiều ứng viên có thể chọn để vận dụng khung lý thuyết này. Chẳng hạn như: bài toán tìm quãng đường,
công của lực đàn hồi, công của khí lí tưởng, công của lực hấp dẫn và lực điện. Để giải
quyết các bài toán ấy, SGK Vật lí sử dụng phương pháp tính toán trải qua những bước
sau đây: 1/chia nhỏ, lập tích để tính gần đúng đại lượng trên mỗi khoảng nhỏ; 2/lập tổng
các tích nói trên; 3/ngầm ẩn dùng khái niệm giới hạn để suy ra rằng đại lượng vật lí cần
tính bằng diện tích của hình phẳng dưới đồ thị. Cách giải quyết này thuận lợi cho việc
hình thành các lớp quá trình – đối tượng trong khung của Habineza về tích phân, ngoài
ra còn mang đến cơ hội tận dụng đặc trưng vật lí của đại lượng cần tính để đem lại cách
hiểu sâu sắc hơn cho khái niệm đang nói tới.
Trong những ứng viên nói trên, chúng tôi lựa chọn ngữ cảnh của bài toán “tính
quãng đường khi biết hàm số vận tốc” để đưa vào khái niệm tích phân. Nói thêm là chỉ
xét trường hợp chuyển động thẳng và hàm số vận tốc là không âm để không đặt người
học vào tình huống bị nhầm lẫn giữa hai đại lượng vật lí: “quãng đường” và “độ dời”.
Như đã biết, khung lý thuyết của Habineza chỉ mới xem xét tích phân đặt trong ngữ
cảnh hình học (bài toán tính diện tích). Để có một khung lí thuyết giúp phân tích cách
hiểu về tích phân trong ngữ cảnh vật lí, chúng tôi tiến hành xây dựng một khung về tích
phân đặt trong bài toán tính quãng đường và lấy nó làm cơ sở cho việc thiết kế đồ án
DH.
153
Bảng 5.3. Khung lý thuyết của tích phân trong ngữ cảnh vật lí
Ngữ cảnh:
Lớp
Tính quãng đường với hàm vận tốc và khoảng thời gian cho trước
Quá trình -
Các biểu diễn
Đối tượng
Vật lí
Đồ thị
Kí hiệu
Tính toán số
Chia thành các
Lớp phân
khoảng thời gian
∆𝑡
∆𝑡 nhỏ
hoạch
nhỏ
Diện tích hình
Quãng đường xấp xỉ
chữ nhật với hai
𝑣(𝑡). ∆𝑡
Lớp tích
trong từng khoảng
cạnh là 𝑣(𝑡) và
thời gian nhỏ
∆𝑡
Quãng đường xấp xỉ
Tổng diện tích
Tổng gần
Lớp tổng
trong toàn bộ thời
các hình chữ
đúng
𝑛 ∑ 𝑣(𝑡). ∆𝑡 𝑖=1
gian chuyển động
nhật nhỏ
Diện tích hình
Tổng gần
Lớp giới
Quãng đường chính
dưới đồ thị hàm
đúng với sai
lim 𝑛→∞
hạn
xác
𝑛 ∑ 𝑣(𝑡). ∆𝑡 𝑖=1
số vận tốc
số cho phép
Có ba lý do khiến chúng tôi muốn tận dụng bài toán nói trên.
Thứ nhất, tính quãng đường khi vật chuyển động thẳng với vận tốc không đổi là
một kiểu nhiệm vụ quen thuộc với HS ngay từ tiểu học. Ở trường hợp này, nếu đặt trong
hệ trục toạ độ (vận tốc – thời gian) thì đồ thị hàm vận tốc là đường thẳng song song với
trục hoành. Hơn nữa, theo công thức tính quãng đường đã biết (𝑆 = 𝑣. 𝑡) ta có thể cho
HS liên hệ ngay đại lượng này với diện tích hình chữ nhật (đây cũng là điều mà SGK
Vật lí đã làm). Cách nhìn này sau đó được vận dụng để nghiên cứu trường hợp vận tốc
biến đổi theo một hàm số 𝑣(𝑡), tất nhiên là với phương pháp mới, phương pháp xấp xỉ.
Cụ thể, để tính gần đúng quãng đường, người ta chia thời gian chuyển động thành những
khoảng nhỏ ∆𝑡 mà ở đó có thể xem vận tốc là không đổi để áp dụng công thức 𝑆 = 𝑣. 𝑡,
trước khi lấy tổng tất cả những quãng đường nhỏ này với nhau. Một giá trị tốt nhất biểu
diễn chính xác quãng đường chuyển động có thể đạt được từ quá trình lấy giới hạn các
tổng vừa lập khi khoảng thời gian ∆𝑡 ngày càng nhỏ (tiến về không). Như vậy ở đây đã
xuất hiện đầy đủ bốn lớp quá trình – đối tượng (chia nhỏ, lập tích, lập tổng, giới hạn)
mà cuối cùng kết tinh lại trong cái gọi là tích phân. Ngữ cảnh vật lí này đem lại một lí
do cho sự xuất hiện quan niệm giới hạn tổng Riemann khi nó đóng vai trò là công cụ
154
giải quyết vấn đề và sẽ được kết thúc bởi việc đưa vào khái niệm tích phân sau đó.
Thứ hai, như khung của chúng tôi đã chỉ ra, quá trình giải bài toán “tính quãng
đường” cho phép thiết lập một sự chuyển đổi giữa nhiều biểu diễn khác nhau của khái
niệm tích phân. Cụ thể, ứng với biểu diễn hình học trên đồ thị thì việc nhân vận tốc với
khoảng thời gian ∆𝑡 trong lớp tích chính là diện tích hình chữ nhật có kích thước là hai
đại lượng này. Sự chuyển đổi từ biểu diễn vật lí sang biểu diễn hình học sẽ giúp nối kết
quãng đường với diện tích dưới đường cong hàm số vận tốc và mang lại nghĩa hình học
cho khái niệm tích phân mà GV sẽ chế hoá sau đó.
Cuối cùng, tình huống chúng tôi đề xuất giúp vượt qua khó khăn lớn nhất khi dạy
tích phân theo giới hạn tổng Riemann trong ngữ cảnh bài toán tính diện tích. Nó cho
phép tiếp cận định lí cơ bản theo cách hiểu động học (như gợi ý từ phân tích tri thức
luận) và có thể giúp gợi ra mối quan hệ đảo ngược giữa tích phân và đạo hàm từ cách hiểu vật lí. Nói rõ hơn thì trước đó HS đã biết công thức 𝑣(𝑡) = 𝑠′(𝑡) dùng để xác định
vận tốc tức thời khi biết hàm số quãng đường bằng cách lấy đạo hàm. Từ đó ta có thể
giúp HS nhận ra rằng việc tính quãng đường có thể thực hiện theo cách đảo ngược phép
lấy đạo hàm (nguyên hàm). Sự liên kết giữa hai cách tính toán quãng đường nói trên
(một theo tổng Riemann và một theo nguyên hàm) sẽ tạo cơ hội đưa vào công thức
Newton – Leibniz phản ánh mối quan hệ đảo ngược giữa đạo hàm và tích phân.
5.2.3.3. Sơ đồ tóm tắt chuỗi tình huống dạy học tích phân trong ngữ cảnh vật lí
Chúng tôi dùng sơ đồ sau đây mô tả tóm tắt chuỗi tình huống DH tích phân có thể xây
dựng.
Sơ đồ 5.1. Tóm tắt chuỗi tình huống DH tích phân trong ngữ cảnh vật lí
155
Theo sơ đồ này, xuất phát từ cùng một bài toán vật lí – tìm quãng đường khi biết
vận tốc – ta có thể đưa vào ba chiến lược giải quyết khác nhau cho nó:
- Theo nguyên hàm: Tìm lại hàm số quãng đường 𝑠(𝑡) từ hàm số vận tốc 𝑣(𝑡) bằng
cách đảo ngược phép lấy đạo hàm.
- Theo giới hạn tổng Riemann: Chia nhỏ khoảng thời gian, lập tích 𝑣(𝑡). ∆𝑡, lập tổng
Riemann rồi tìm giới hạn của tổng này khi ∆𝑡 → 0.
- Theo diện tích: Quãng đường bằng diện tích hình phẳng dưới đồ thị hàm số 𝑣(𝑡).
Sơ đồ trên cho thấy ngữ cảnh mà chúng tôi lựa chọn là cơ hội để liên kết các cách
hiểu khác nhau của tích phân. Bên cạnh đó, phương pháp chia nhỏ, lập tích, tổng và
chuyển qua giới hạn dùng cho việc tính quãng đường hoàn toàn có thể vận dụng tương
tự cho trong nhiều ngữ cảnh vật lí khác. Nó giải thích cho HS hiểu được những ứng
dụng rộng rãi của tích phân, giúp các em nhận ra ngữ cảnh nào cần đến khái niệm đang
nói. Phân tích này cho thấy, ngữ cảnh vật lí nói trên có thể giúp người học hiểu bản chất
của tích phân, làm quen với kỹ thuật nghiên cứu GT, nhận ra ứng dụng đa dạng của khái
niệm trong Vật lí – nghĩa là cho phép vượt qua những vấn đề mà cách tiếp cận truyền
thống theo ngữ cảnh hình học chưa thể giải quyết.
5.2.4. Các bài toán cơ sở của đồ án
Để HS lĩnh hội được những cách hiểu khác nhau về tích phân từ ngữ cảnh vật lí đã
chọn thì cần phải xây dựng các tình huống thích hợp để làm xuất hiện ba chiến lược giải
tương ứng như chúng tôi đã chỉ ra ở trên: chiến lược lập tổng Riemann, chiến lược diện
tích dưới đường cong và chiến lược tìm nguyên hàm. Chuỗi tình huống DH như vậy
được chúng tôi xây dựng dựa trên các bài toán cơ sở sau đây:
Bài toán 1. Một vật chuyển động thẳng trong đó quãng đường 𝑠 (cm) đi được tại thời
(coi là thời điểm bắt đầu chuyển điểm 𝑡 (giây) được xác định bởi hàm số
động). Tính vận tốc của vật tại thời điểm giây, giây?
Bài toán 2. Một vật bắt đầu chuyển động theo đường thẳng từ thời điểm , vận tốc
(cm/s). của vật tại thời điểm 𝑡 được xác định bởi hàm số:
a. Tính quãng đường vật đi được kể từ lúc bắt đầu chuyển động cho đến thời điểm
giây.
b. Tính quãng đường vật đi được trong khoảng thời gian từ thời điểm giây
đến thời điểm giây.
156
Bài toán 3. Một vật chuyển động thẳng đều với
vận tốc không đổi (cm/s). Đồ thị vận tốc
theo thời gian được cho dưới đây:
a. Tính quãng đường vật đi được sau 3 giây từ
lúc bắt đầu (thời điểm 𝑡 = 0 đến 𝑡 = 3)
b. Theo em, đại lượng hình học nào (độ dài, chu
vi, diện tích, …) trên đồ thị biểu diễn cho quãng
đường vật đi được ở câu a?
Bài toán 4. Trong xứ sở thần tiên, các bạn nhỏ tí hon tổ chức cuộc thi chạy tiếp sức.
Mỗi đội gồm một số vận động viên chạy nối tiếp nhau trong tổng thời gian là 6 giây.
a. Đội 1 gồm 3 bạn X, Y và Z chạy tiếp sức theo thứ tự đó. Mỗi bạn đều chạy trong 2
giây rồi chuyền gậy cho bạn kế tiếp. Vì mỗi bạn chỉ chạy trong một thời gian ngắn nên
có thể xem như chạy với vận
tốc không đổi như sau: Bạn
X: 1𝑐𝑚/𝑠, bạn Y: 1,5𝑐𝑚/𝑠,
bạn Z: 2𝑐𝑚/𝑠. Hình bên là
đồ thị hàm số vận tốc của ba
bạn.
Hãy tính tổng quãng
đường của đội 1 đã chạy được và gạch sọc phần diện tích biểu diễn quãng đường đó.
b. Đội 2 gồm 6 bạn: A, B, C,
D, E, F chạy tiếp sức theo thứ
tự đó. Mỗi bạn chỉ chạy trong
1 giây rồi chuyền gậy cho bạn
tiếp theo. Vận tốc của 6 bạn là
một cấp số cộng với công sai
là 0,25 và bạn A chạy
đầu tiên với vận tốc 1 .
Hãy tính tổng quãng đường đội 2 chạy được và gạch sọc phần diện tích biểu diễn
quãng đường đó. Đội nào chạy được quãng đường dài hơn?
Bài toán 5. Các bạn nhỏ tí hon cũng tổ chức thi chạy cá nhân tính thành tích, mỗi bạn
tham gia thi đấu sẽ chạy một mình trong 5 giây và so sánh quãng đường chạy được với
157
nhau. Trong quá trình thi chạy của bạn Tom, người ta ghi nhận được vận tốc của bạn ấy
cứ mỗi 0,5 giây một lần. Dữ liệu được cho theo bảng sau:
0,5 1 1,5 2 2,5 3 3,5 4 4,5 0 Thời điểm 𝑡 (giây)
1,1 1,2 1,3 1,31 1,35 1,36 1,37 1,38 1,4 1 Vận tốc 𝑣 (cm/s)
Hãy tính xấp xỉ quãng đường mà Tom chạy được trong 5 giây kể từ lúc bắt đầu
chuyển động.
Bài toán 6. Bạn Jerry thi chạy sau đó và chúng ta biết được vận tốc của Jerry biến đổi
theo hàm số (cm/s). Đồ thị hàm số này được cho dưới đây:
Hãy tính gần đúng quãng đường mà Jerry chạy được trong 5 giây kể từ lúc bắt đầu
chuyển động.
Bên cạnh đó, để kiểm tra xem HS sau TN có vận dụng được những cách hiểu về
tích phân vào các ngữ cảnh vật lí khác nhau hay không chúng tôi đưa vào đồ án hai bài
toán sau (ví dụ 8.4 và 8.5):
Bài toán 7. Hai xe ô tô xuất phát
đồng thời từ cùng một vị trí và
bắt đầu chuyển động trên cùng
một đường thẳng theo cùng một
hướng với vận tốc cho bởi đồ
thị sau:
a. Theo em, vào thời điểm 𝑡 = 3
phút, xe nào đi được quãng
đường dài hơn? Giải thích câu trả lời của em.
b. Tại thời điểm 𝑡 = 8 phút, xe nào đi được quãng đường dài hơn? Giải thích.
158
Bài toán 8. Công 𝐴 do lực F không đổi kéo vật dịch chuyển một độ dời 𝑠 (cùng phương
với lực) được tính bởi công thức: 𝐴 = 𝐹. 𝑠.
a. Một vật dịch chuyển trên đoạn đường thẳng dưới tác
dụng của một lực kéo không đổi có độ lớn F = 10N cùng
phương với chiều chuyển động. Tính công của lực khi kéo
vật từ vị trí ban đầu 𝑠 = 0 đến vị trí 𝑠 = 5 (m).
b. Trong thực tế, khi kéo vật di chuyển quãng đường càng
lớn thì người kéo càng mệt nên lực kéo giảm dần theo hàm
(đơn vị của lực là Newton và đồ thị cho số
ở bên).
- Hãy tìm cách tính gần đúng công của lực kéo này khi
vật dịch chuyển từ vị trí 𝑠 = 0 (m) đến vị trí 𝑠 = 5 (m). Giải thích cách tính của mình.
- Bạn hãy đề nghị một phương pháp toán học cho phép tính chính xác công cần tìm.
Hãy giải thích đề nghị của bạn.
5.2.5. Phân tích tiên nghiệm
5.2.5.1. Những chiến lược giải có thể xuất hiện
Bài toán 1:
▪ Chiến lược tính vận tốc theo đạo hàm: 𝑺Đạo hàm
. Từ đó
Bài toán 2:
▪ Chiến lược thực hiện đảo ngược quá trình lấy đạo hàm: 𝑺Nguyên hàm
Suy ra hàm số quãng đường là . Vì .
Câu a: thế suy ra (cm).
Câu b: quãng đường đi được là: .
▪ Chiến lược diện tích hình phẳng dưới đồ thị hàm số vận tốc: 𝑺Diện tích
Câu a: Quãng đường bằng với diện tích hình tam giác giới hạn bởi đồ thị hàm số
và hai mốc thời gian: .
Câu b: Quãng đường bằng với diện tích hình thang có độ dài hai đáy lần lượt là 4 và
8, chiều cao là 2 thế nên: .
159
▪ Chiến lược tính quãng đường theo các công thức động học của Vật lí: 𝑺vật lí
suy ra chuyển động là thẳng biến đổi đều. Từ đó ta có công Vì
thức: .
Câu a: Áp dụng công thức trên với ta được:
Câu b: Áp dụng công thức trên với ta được:
Bài toán 3: Đây là một bài toán đơn giản khi chuyển động là thẳng đều với vận tốc
không đổi. HS chủ yếu sẽ sử dụng công thức quãng đường bằng vận tốc nhân thời gian.
Cách tính này là cơ sở cho việc xác định quãng đường
theo thời gian và vận tốc nên chúng tôi sẽ gọi nó là
“chiến lược cơ sở”
▪ Chiến lược cơ sở: 𝑺Cơ sở
Câu a: Sử dụng công thức: .
Câu b: Quãng đường đi được là diện tích hình chữ
nhật.
Bài toán 4: Là bước chuyển để tạo điều kiện cho chiến lược lập tổng Riemann xuất hiện
ở bài toán 5. Vì chuyển động của mỗi vận động viên chạy tiếp sức có thể xem như thẳng
đều nên các chiến lược có thể xuất hiện là:
▪ Chiến lược tính tổng các quãng đường: 𝑺Tổng
Tính quãng đường của mỗi vận động viên chạy được rồi cộng tất cả lại.
Câu a.
160
Câu b.
▪ Chiến lược vận tốc trung bình: 𝑺vtb
Chẳng hạn với câu b:
Quãng đường:
Bài toán 5:
▪ Chiến lược tính gần đúng bằng tổng Riemann: 𝑺Riemann
Xem chuyển động trong mỗi 0,5 giây là đều với vận tốc bằng với thời điểm đầu tiên
của khoảng thời gian đó. Quãng đường sẽ được tính gần đúng như sau:
Bài toán 6: Các chiến lược có thể:
▪ Chiến lược: 𝑺Nguyên hàm hoặc 𝑺Tích phân
▪ Chiến lược tính gần đúng bằng tổng Riemann: 𝑺Riemann
- Chia thời gian thành
những đoạn thời gian
nhỏ.
- Lập bảng giá trị vận
tốc tại các mốc thời
gian tương ứng.
- Xem chuyển động
trong mỗi đoạn thời
gian đó là đều với vận tốc ở thời điểm đầu mỗi đoạn tương ứng.
161
- Tính quãng đường trong từng khoảng rồi cộng tất cả lại.
Chẳng hạn với :
Bài toán 7
▪ Chiến lược 𝑺Diện tích: So sánh 2 diện tích dưới đường cong vận tốc.
▪ Chiến lược tích phân – đại số: 𝑺Đại số:
- Tìm biểu diễn đại số (biểu thức GT) cho hàm số vận tốc.
- Tính quãng đường của mỗi xe bằng cách lấy tích phân các hàm số này.
- So sánh các kết quả có được để đưa ra kết luận cho quãng đường lớn hơn.
▪ Chiến lược 𝑺Vật lí: So sánh quãng đường bằng các lí lẽ trong ngữ cảnh vật lí (vận tốc
lớn hơn thì quãng đường sẽ lớn hơn…).
Bài toán 8
▪ Chiến lược 𝑺Nguyên hàm:
Công trong trường hợp lực biến đổi được tính theo tích phân: , HS có
thể tìm nguyên hàm của rồi tính hiệu nguyên hàm ở hai cận.
▪ Chiến lược 𝑺Diện tích:
Công cần tìm bằng với diện tích dưới đường cong đồ thị
▪ Chiến lược 𝑺Riemann:
Chia nhỏ đoạn đường s, trên mỗi đoạn nhỏ ∆𝑠 xem lực là không đổi để tính công
thành phần rồi cộng lại để thu được công toàn phần gần đúng.
5.2.5.2. Phân tích việc lựa chọn giá trị của biến dạy học
a/ Cơ sở của việc chọn biến
Học thuyết của lý thuyết tình huống cho rằng, việc học tập diễn ra cùng với sự thay
đổi các chiến lược giải và kiến thức đi cùng với các chiến lược đó. Nhiệm vụ của chúng
tôi là làm xuất hiện cả hai chiến lược giải khác nhau cho bài toán tính quãng đường: một
theo nguyên hàm và một theo tổng Riemann. Cùng với đó là tạo tình huống làm xuất
hiện và nối kết các biểu diễn khác nhau của tích phân. Để thực hiện nhiệm vụ này, chúng
tôi sử dụng biến DH chính là hàm số vận tốc 𝑣(𝑡) và sự lựa chọn giá trị của nó dựa trên
các cơ sở sau đây.
Cơ sở đầu tiên là khung lý thuyết của khái niệm tích phân được chúng tôi xây dựng
trong ngữ cảnh vật lí nhằm làm xuất hiện cách hiểu giới hạn tổng Riemann. Dựa trên
khung này, việc chọn giá trị của các biến DH phải làm xuất hiện các lớp quá trình – đối
162
tượng tương ứng với cách hiểu tích phân theo cấu trúc tổng Riemann: lớp phân hoạch,
lớp tích, lớp tổng, lớp giới hạn.
Cơ sở thứ hai đến từ cách tiếp cận khái niệm tích phân theo hướng LM đặt trong
ngữ cảnh vật lí mà chúng tôi phân tích rõ trong sơ đồ 5.1 đã trình bày trước đó. Cách
tiếp cận này cho phép tận dụng phiên bản động học của định lí cơ bản trong việc thiết
lập mối quan hệ đảo ngược giữa đạo hàm và tích phân.
Cơ sở thứ ba là ở tính đa biểu diễn của khái niệm tích phân. Theo đó, tích phân sẽ
có những biểu diễn khác nhau tùy theo biểu diễn tương ứng của hàm được lấy tích phân.
Chúng tôi làm rõ mối quan hệ này trong bảng sau:
Bảng 5.4. Khung lý thuyết về đa biểu diễn của tích phân
Khung ở trên cho thấy cách tính và cách hiểu tích phân sẽ khác nhau tùy thuộc vào
dạng biểu diễn của hàm số lấy tích phân. Với ngữ cảnh vật lí đang xét, chúng tôi dựa
vào mối liên hệ này để chọn dạng biểu diễn thích hợp cho hàm số 𝑣(𝑡) nhằm làm xuất
hiện các chiến lược giải mong đợi ở HS.
Cơ sở cuối cùng cho việc chọn biến DH đến từ kết quả phân tích tri thức luận liên
quan đến quá trình nảy sinh và tiến triển của khái niệm tích phân trong lịch sử. Theo đó,
một trong những kết luận sư phạm quan trọng mà chúng tôi rút ra là “sự tiến triển của
mô hình đồ thị rời rạc để mô tả các đại lượng vật lí là một hỗ trợ quan trọng cho việc hình thành phép tính tích phân”20. Tận dụng gợi ý này, chúng tôi sẽ để cho HS làm quen
trước với việc tính toán quãng đường trên mô hình đồ thị rời rạc trước khi tiếp cận với
20 Xem lại mục 2.4
163
mô hình liên tục thường gắn liền với một biểu thức GT của hàm số vận tốc đang xét. Từ
các phân tích này, biến DH mà chúng tôi sử dụng là hàm số vận tốc 𝑣(𝑡) với các dạng
biểu diễn và mô hình đồ thị khác nhau của nó.
b/ Biến dạy học cho các bài toán từ 1 đến 6
▪ Biến 𝑽𝟏: Hàm số vận tốc 𝒗(𝒕)
Các giá trị có thể của biến này rất đa dạng, ở đây chúng tôi thay đổi giá trị biến 𝑽𝟏
dựa trên các tiêu chí phân loại như sau:
- Theo dạng biểu diễn của hàm số 𝒗(𝒕), các giá trị có thể là: biểu diễn bằng lời,
biểu diễn theo bảng, theo biểu thức đại số và biểu diễn đồ thị.
- Theo mô hình đồ thị của hàm số 𝒗(𝒕), các giá trị có thể là: mô hình đồ thị rời rạc
(mô hình hàm bước21, đồ thị điểm rời rạc), mô hình đồ thị liên tục.
- Theo “độ phức tạp” của 𝒗(𝒕) (trong phép lấy nguyên hàm): Chúng tôi dùng thuật
ngữ “độ phức tạp” theo nghĩa là mức độ khó khăn trong việc xác định nguyên hàm
của một hàm sơ cấp. Theo nghĩa này, các hàm căn thức có thể xem là có độ phức
tạp cao hơn hàm đa thức.
Giá trị của biến 𝐕𝟏 Với bài toán 2: chúng tôi chọn giá trị của 𝑽𝟏 là dạng biểu diễn đại số và có độ
phức tạp thấp (hàm số bậc nhất v(t) = 2t), bởi các lí do sau:
- Giá trị vận tốc biến đổi theo thời gian nên 𝑺Cơ sở không sử dụng được. - Để tạo điều kiện cho chiến lược 𝑺Nguyên hàm có cơ hội xuất hiện, ngoài việc chọn
hàm số 𝑣(𝑡) có “độ phức tạp” thấp (hàm số bậc nhất, dễ tìm nguyên hàm), chúng
tôi còn đưa thêm vào trước đó bài toán đảo ngược của bài toán đang xét (bài toán
1: cho hàm số quãng đường, tìm vận tốc).
- Như đã nói, chiến lược 𝑺Nguyên hàm thực chất giúp tính độ dời của vật chứ không
phải quãng đường chuyển động. Tuy nhiên để giảm nhẹ tính chính xác của đặc
trưng vật lí trong tình huống DH, chúng tôi chọn hàm vận tốc là luôn dương với
và vì thế quãng đường và độ dời là đồng nhất. Sự phân biệt rõ ràng giữa hai
đại lượng này có thể được GV nhắc đến trong những nội dung sau đó của bài dạy
đặc biệt là trong các ngữ cảnh LM với Vật lí.
Với bài toán 3: hàm số 𝑣(𝑡) được chọn là hàm hằng: 𝑣(𝑡) = 2. Khi đó, chiến lược
𝑺Cơ sở (𝑠 = 𝑣. 𝑡) có thể được ưu tiên lựa chọn bởi vì chuyển động là thẳng đều. Hai lí do
21 Hàm bước hay còn gọi là hàm bậc thang hiểu đơn giản là hàm hằng trên hữu hạn khoảng.
164
cho sự lựa chọn này là để:
- Làm xuất hiện lớp tích trong khung lý thuyết của khái niệm tích phân: quãng
đường bằng vận tốc nhân thời gian.
- Làm xuất hiện biểu diễn hình học của lớp tích: diện tích hình chữ nhật.
Với bài toán 4: hàm số 𝑣(𝑡) được chọn là dạng hàm bước. Cụ thể thì 𝑣(𝑡) nhận giá
trị là hằng số trong mỗi khoảng thời gian, các giá trị hằng số này thay đổi qua từng
khoảng thời gian liên tiếp. Để hợp lí hóa một chuyển động có vận tốc gián đoạn như vậy
chúng tôi sử dụng tình huống chạy tiếp sức trong đó mỗi vận động viên có một vận tốc
riêng biệt. Lý do cho sự lựa chọn giá trị biến 𝐕𝟏 ở đây là để:
- Giới thiệu lớp phân hoạch bằng cách cho trước các khoảng chia mà trên đó vận
tốc không đổi.
- Chuẩn bị những điều kiện để 𝑺Tổng xuất hiện. Hình thành lớp tổng trong khung lí
thuyết của tích phân.
Với bài toán 5: 𝑣(𝑡) được cho ở dạng biểu diễn số (bảng số), trong đó giá trị của
hàm số được cho ứng với đầu mỗi khoảng chia. Yêu cầu bài toán là tính gần đúng quãng
đường đi được.
Để hiểu lí do cho sự lựa chọn này hãy đặt giả thiết về sự thiếu vắng bài toán 5 trong
chuỗi tình huống của đồ án. Khi đó, nếu chuyển từ bài toán 4 ngay sang bài toán 6, HS
sẽ phải đối mặt với hai điểm nối khó khăn sau. Một là đang từ yêu cầu tính đúng chuyển
sang tính gần đúng. Và hai là từ mô hình hàm bước đã có sẵn các khoảng chia (vận tốc
trên mỗi khoảng không đổi) sang mô hình hàm số liên tục mà không có trước một phân
hoạch như vậy.
Để tạo ra bước chuyển phù hợp hơn, chúng tôi đưa vào bài toán 5, ở đó hàm 𝑣(𝑡)
được cho bởi một bảng giá trị vận tốc theo những mốc thời gian tương ứng. Các mốc
thời gian này sẽ tạo ra một phân hoạch có sẵn để HS có thể liên hệ với phương pháp giải
của bài toán trước. Theo đó, để sử dụng được 𝑺Tổng , HS phải xem vận tốc là không đổi
trên mỗi khoảng thời gian, và điều này là thích đáng khi chỉ đặt ra yêu cầu tính gần đúng
quãng đường đi được. Cuối cùng, vì dạng bảng giá trị này vốn đã quen thuộc trong các
nhiệm vụ vẽ đồ thị, cho nên khi 𝑣(𝑡) cho bởi biểu thức GT (ở bài toán 6), HS sẽ dễ dàng
lập ra một bảng số tương tự để đưa về cách giải đã biết.
165
Tóm lại, sự kết nối giữa chiến lược tính theo kiểu xấp xỉ ở bài toán 5 và chiến lược
lập tổng ở bài toán 4 sẽ góp phần tạo nên “bước đệm” thích hợp để chiến lược 𝑺𝑹𝒊𝒆𝒎𝒂𝒏𝒏 có nhiều cơ hội xuất hiện ở bài toán tiếp theo.
Với bài toán 6: Hàm số vận tốc cho ở dạng căn thức (độ phức tạp cao):
. Việc chọn giá trị biến như vậy rõ ràng đã ngăn cản tất cả các chiến
lược có thể sử dụng trong những trường hợp trước đó:
không sử dụng được vì đồ thị hàm số 𝑣(𝑡) không phải đường - 𝑣(𝑡) không phải hằng số nên không thể sử dụng 𝑺Cơ sở . - 𝑺Diện tích và 𝑺vtb
thẳng và hàm số biến đổi không tuyến tính.
- Chiến lược 𝑺Nguyên hàm cũng trở nên cực kì đắt giá bởi lẽ HS khó mà tìm được
nguyên hàm của một hàm số căn thức phức tạp như vậy.
Lúc này, sự gợi ý đến từ hai bài toán 4 và 5 sẽ góp phần tạo ra điều kiện thuận lợi
để chiến lược 𝑺Riemann xuất hiện. HS có thể nghĩ đến việc xây dựng một bảng số như bài toán 5 giống như cách mà các em thường lập bảng giá trị khi vẽ đồ thị (thực hiện lớp
phân hoạch), sau đó xem gần đúng chuyển động là đều trong mỗi khoảng chia để tính
quãng đường theo 𝑺Cơ sở (lớp tích). Tiếp đến là thực hiện chiến lược 𝑺Tổng như bài toán
4 để có một kết quả gần đúng của quãng đường đi được (lớp tổng). Chúng tôi còn cố
tình chọn hàm 𝑣(𝑡) đồng biến và hơn nữa là tăng chậm (độ dốc không lớn) để HS thấy
được sự hợp lí của việc tính toán xấp xỉ như đã nói ở trên.
▪ Biến 𝑽𝟐: Có đưa vào đồ thị hàm số vận tốc trong các bài toán hay không? Hiển
nhiên là biến này nhận giá trị là có hoặc không.
Ở hai bài toán đầu tiên, vì mục đích là hình thành nghĩa “Đạo hàm đảo ngược” của
khái niệm tích phân nên chúng tôi không đưa vào đồ thị. Một là vì không cần thiết, hai
là không muốn chiến lược 𝑺Diện tích xuất hiện (dù điều này cũng ít xảy ra).
Các bài toán 3, 4 và 6 đều có đưa kèm vào đồ thị hàm vận tốc bởi vì đó là lúc chúng
tôi muốn xây dựng đặc trưng diện tích cho đại lượng quãng đường cần tính. Cụ thể thì
bài toán 3 nhằm xây dựng biểu diễn hình học (diện tích) cho lớp tích, bài toán 4 cho lớp
tổng và bài toán 6 là biểu diễn hình học cho lớp tổng và lớp giới hạn (quãng đường cần
tính bằng với diện tích dưới đường cong).
▪ Biến 𝑽𝟑: Số vận động viên tham gia chạy tiếp sức
166
Việc tăng số vận động viên trong bài toán 4 ở câu b thật ra là một cách minh họa
cho việc tăng số khoảng chia trong bước phân hoạch của 𝑺Riemann. Số khoảng chia này còn được tăng lên nhiều hơn ở bài toán 5 khi hàm số cho ở dạng bảng. Cách chọn giá trị
tăng dần của biến 𝑽𝟑 nhằm tạo cơ hội để HS nhận ra sự tác động của lớp giới hạn: Quãng đường tính được trong bài toán 6 theo chiến lược 𝑺Riemann sẽ trở nên càng chính xác nếu ta tăng số điểm chia lên (làm nhỏ các khoảng thời gian ).
c/ Biến dạy học cho bài toán 7 và 8
▪ Biến 𝑽𝟒: Ngữ cảnh vật lí gắn với bài toán
Ngữ cảnh vật lí cần được lựa chọn để khái niệm tích phân có thể tác động. Ta biết
rằng ba đại lượng gắn kèm với việc tính một tích phân lần lượt là: Biến số – hàm số lấy
tích phân – kết quả của tích phân. Theo đó, một số bộ ba sau đây xuất hiện trong chương
trình vật lí phổ thông mà chúng tôi có thể lựa chọn để thiết kế bài toán: 1/thời gian – vận
tốc – quãng đường; 2/thời gian – gia tốc – vận tốc; 3/độ dịch chuyển – lực tác động –
công.
Biến 𝑽𝟓: Hàm số lấy tích phân
Để kiểm tra được khả năng vận dụng các cách hiểu và biểu diễn của tích phân vào
những ngữ cảnh vật lí nói trên, chúng tôi chọn giá trị của biến 𝑽𝟓 dựa trên dạng biểu diễn của hàm số được cho. Một cách cụ thể, hai dạng biểu diễn sau đây của hàm lấy tích
phân được chúng tôi sử dụng:
- Biểu diễn đại số (biểu thức GT): Dạng biểu diễn này thuận lợi cho việc tính tích
phân theo hiệu nguyên hàm ở hai cận hoặc tính gần đúng giá trị tích phân theo tổng
Riemann.
- Biểu diễn đồ thị: Dạng biểu diễn này lại thuận lợi cho chiến lược tính toán hoặc so
sánh dựa trên diện tích dưới đường cong đồ thị.
Biến 𝑽𝟔: Yêu cầu của bài toán
Trong TN này chúng tôi đưa vào ba loại yêu cầu sau đây: 1/Tính gần đúng; 2/Tính
đúng; và 3/So sánh. Yêu cầu tính gần đúng có thể gợi ra chiến lược sử dụng tổng
Riemann, yêu cầu tính đúng hướng người học đến việc tính toán đại số theo hiệu nguyên
hàm. Và cuối cùng, trong những điều kiện cụ thể nào đó (chẳng hạn hàm số cho bởi biểu
diễn đồ thị), chiến lược sử dụng diện tích dưới đồ thị lại có thể là tối ưu đối với nhiệm
vụ so sánh các đại lượng. Sự tối ưu của mỗi chiến lược tùy thuộc vào việc chọn giá trị
cho các biến DH trong mỗi tình huống và nó thúc đẩy người học thay đổi chiến lược
167
giải của họ. Trong trường hợp những thay đổi này không xảy ra, chúng tôi sẽ có cơ sở
để đánh giá phần nào kiến thức về tích phân của người học cũng như khả năng vận dụng
nó vào các vấn đề với ngữ cảnh vật lí.
▪ Lựa chọn giá trị của biến và mục đích của mỗi bài toán
Với bài toán 7:
- Giá trị biến 𝑽𝟒: bộ ba thời gian – vận tốc – quãng đường. - Giá trị biến 𝑽𝟓: hàm số vận tốc 𝑣(𝑡) được cho ở dạng biểu diễn đồ thị trong đó vận
tốc xe A có thể nội suy ra biểu thức GT còn xe B thì không.
- Giá trị biến 𝑽𝟔: yêu cầu so sánh quãng đường của hai xe đi được.
Bằng cách cho hàm số vận tốc ở dạng biểu diễn đồ thị, chúng tôi muốn kiểm tra
xem HS có tìm ra chiến lược so sánh quãng đường thông qua việc so sánh diện tích giới
hạn bởi đồ thị hàm vận tốc hay không? Nói cách khác là để kiểm tra khả năng vận dụng
cách hiểu tích phân theo diện tích dưới đường cong vào các bài toán vật lí. Việc chọn
giá trị của biến DH như trên còn có ý nghĩa trong nhiều ngữ cảnh ứng dụng bởi vì đại
lượng cần tính hoặc so sánh có thể được cho ở dạng đồ thị và không phải lúc nào cũng
có sẵn biểu thức GT để mô tả.
Với bài toán 8:
- Giá trị biến 𝑽𝟒: bộ ba độ dịch chuyển – lực tác động – công. - Giá trị biến 𝑽𝟓: 𝐹(𝑠) được cho ở cả hai dạng biểu diễn đồ thị và biểu thức GT. - Giá trị biến 𝑽𝟔: có cả hai yêu cầu là tính gần đúng và tính chính xác
Trong ngữ cảnh của bộ ba được chọn, HS không tìm thấy mối quan hệ đảo ngược
đạo hàm – nguyên hàm giống như ngữ cảnh tính quãng đường ở bài toán 7. Lúc này, sự
tác động của công cụ tích phân không đến từ phép toán đảo ngược với đạo hàm mà lại
được dẫn ra từ phương pháp tính xấp xỉ theo tổng Riemann. Cũng tương tự như trong
bài toán tính quãng đường, bài toán tính công có một chiến lược cơ sở: khi lực F không
đổi thì công 𝐴 tính bởi lớp tích 𝐴 = 𝐹. 𝑠. Với việc chọn biến 𝑽𝟓 là hàm số lực biến đổi theo độ dịch chuyển và biến 𝑽𝟔 là yêu cầu tính gần đúng, chúng tôi muốn kiểm tra xem người học có đề xuất được chiến lược 𝑺Riemann để tính xấp xỉ công này hay không? Nếu chiến lược này xuất hiện, chúng tôi cho rằng người học cũng sẽ dễ dàng đề xuất được
chiến lược 𝑺TíchPhân để tính chính xác công cần tìm và vai trò công cụ của tích phân trong ngữ cảnh này được thể hiện rõ.
168
5.2.5.3. Dàn dựng và phân tích kịch bản
Đồ án được chia thành 7 pha, thời gian thực hiện dự kiến là 105 phút. Lớp học được
chia thành các nhóm, mỗi nhóm 4-5 HS. HS mỗi nhóm sẽ được phát phiếu học tập ứng
với từng pha hoạt động (các phiếu học tập này được tổng hợp ở Phụ lục 3).
❖ Pha 1 (20 phút): Các nhóm được giao các phiếu học tập trong đó có hai bài toán đầu
tiên. Bài toán 1 được giải trước, sau đó mới đến bài toán 2. HS từng nhóm thảo luận với
nhau để giải quyết hai bài toán trên. Sau thời gian làm việc, các thành viên nộp lại giấy
nháp và lời giải đã thống nhất trong nhóm cho GV.
Đối với những nhóm tìm ra được chiến lược 𝑺Nguyên hàm, GV sẽ phỏng vấn nhanh
một số thành viên và yêu cầu các em giải thích cách làm của mình. Chúng tôi cũng tiến
hành phỏng vấn với những nhóm có lời giải sai để hiểu hơn cách làm và những quan
niệm của họ. GV hoặc trợ giảng sẽ cung cấp một số gợi ý hoặc phản hồi về những chiến
lược sai này để hướng HS tìm ra chiến lược tối ưu nhờ vào mối liên hệ đảo ngược giữa
hai bài toán đang đề cập.
GV giới thiệu phép toán ngược của đạo hàm được gọi là nguyên hàm và tổng kết
lại kĩ thuật để giải quyết bài toán tính quãng đường khi biết hàm số vận tốc.
Phân tích: Mục đích của pha này là để hình thành cách hiểu tích phân theo “phép
toán ngược với đạo hàm”. Bài toán 1 là kiểu nhiệm vụ tìm vận tốc khi có hàm số quãng
đường mà HS đã biết kĩ thuật giải quyết là lấy đạo hàm. Vì vậy, việc đặt ra ngay sau đó
bài toán 2 (tìm quãng đường khi cho trước hàm số vận tốc) có thể đưa đến một tình
huống đảo ngược tạo điều kiện cho chiến lược 𝑺Nguyên hàm xuất hiện. Đặc biệt ở câu 2𝑏
chúng tôi yêu cầu tính quãng đường đi được giữa hai mốc thời gian ( giây đến thời
điểm giây) để đưa vào cách tính hiệu giá trị nguyên hàm nhằm chuẩn bị cho việc
định nghĩa tích phân sau này. Giá trị biến 𝑽𝟏 cũng đã được chọn một cách thích hợp để việc tìm nguyên hàm có thể thực hiện được dễ dàng.
❖ Pha 2 (10 phút):
Ở pha này mỗi nhóm được phát phiếu học tập có bài toán 3 và giải quyết trong
khoảng thời gian 5 phút. Vì yêu cầu ở câu 3𝑎 là khá đơn giản (tính quãng đường khi vận
tốc không đổi) nên các HS sẽ nhanh chóng tìm được câu trả lời. Trọng tâm của cuộc
thảo luận giữa các thành viên là tìm ra đại lượng hình học trên đồ thị biểu diễn cho quãng
đường tính được (câu 3𝑏). Sau thời gian làm việc nhóm, nếu có nhóm nào không tìm ra
được đại lượng hình học hợp lý GV sẽ đàm thoại và gợi mở riêng cho các em đó.
169
Ở thời điểm cuối của pha 2, GV dành một chút thời gian để phân tích và tổng kết
lại hai nhận xét quan trọng:
- Nếu chuyển động là đều hoặc (được xem gần đúng là đều) thì quãng đường được
tính đúng (hoặc gần đúng) bởi công thức vận tốc nhân thời gian.
- Quãng đường trong chuyển động đều được biểu thị trên đồ thị bởi diện tích của một
hình chữ nhật tương ứng với hai kích thước là giá trị hàm số vận tốc và khoảng thời
gian chuyển động
Phân tích: Bài toán tính quãng đường khi vận tốc không đổi là một nhiệm vụ đơn
giản. Pha này nhằm đến việc làm nổi bật lớp tích đồng thời xây dựng biểu diễn hình học
cho quãng đường trong trường hợp chuyển động thẳng đều. Đây cũng là bước chuẩn bị
để hình thành ý nghĩa diện tích cho khái niệm tích phân ở các pha tiếp theo.
❖ Pha 3 (15 phút): Các nhóm được phát phiếu học tập có bài toán 4 trong đó vẽ sẵn đồ
thị vận tốc của các vận động viên trong từng đội. Các nhóm tính toán tổng quãng đường
của hai đội và so sánh. Sau đó GV yêu cầu tô màu (hoặc kẻ sọc) vùng diện tích biểu
diễn cho hai tổng quãng đường đó.
GV tổng kết và rút ra kết luận chung cho phương pháp giải: trong trường hợp có
nhiều khoảng thời gian và mỗi khoảng có một vận tốc được xem là không đổi trên đó.
Quãng đường tổng cộng sẽ bằng tổng các quãng đường nhỏ là tích của vận tốc và thời
gian trên mỗi khoảng thời gian nói trên. Hơn nữa, quãng đường này còn bằng với tổng
diện tích các hình chữ nhật giới hạn bởi đồ thị hàm vận tốc và trục hoành.
Phân tích: Bài toán 4 ở pha này chính là “bước đệm” cho việc hình thành chiến
lược 𝑺Riemann ở các pha tiếp theo. Việc chia nhỏ rồi xấp xỉ gần đúng ở từng khoảng chia là một chiến lược không dễ xuất hiện ở HS nếu không có những gợi mở thích hợp. Việc
đưa vào hai bài toán 4 và 5 nhằm mục đích tạo ra sự “gợi mở” này. Với bài toán 4, HS
sẽ tiếp xúc với tình huống tính quãng đường bằng cách lấy tổng các quãng đường thành
phần trên mỗi khoảng thời gian mà vận tốc được xem là không đổi. Đề bài toán đã xây
dựng những “phân hoạch” cho sẵn từ cách chọn biến 𝑽𝟏 và việc HS phải tính toán trên cách “phân hoạch” này phần nào cho các em thấy trước được ý nghĩa của việc chia nhỏ
trong chiến lược lập tổng Riemann.
❖ Pha 4 (20 phút): Các nhóm thảo luận để giải quyết bài toán 5 trong phiếu học tập,
GV nhấn mạnh rằng yêu cầu bài toán chỉ cần “tính xấp xỉ” quãng đường đi được. Sau
thời gian làm việc, GV yêu cầu mỗi nhóm cử một bạn đứng dậy trình bày chiến lược
170
giải của nhóm mình (chỉ trình bày ý tưởng). Nếu chiến lược 𝑺Riemann (xem vận tốc là không đổi trên mỗi khoảng thời gian để tính quãng đường rồi lấy tổng) xuất hiện, GV
và cả lớp sẽ thảo luận kĩ hơn về cách tính gần đúng này trước khi các nhóm sử dụng nó
để tính toán ra kết quả cuối cùng. Trong trường hợp chiến lược nói trên không xuất hiện,
GV sẽ dẫn dắt đến việc xem vận tốc là không đổi ở mỗi khoảng thời gian để có thể áp
dụng chiến lược 𝑺Tổng đã dùng ở bài toán 4.
Phân tích: Với bài toán 5, việc phân hoạch thành các khoảng chia cũng được cho
trước trong đề bài. Tuy nhiên vận tốc là không đều trên mỗi khoảng chia này và chiến
lược tính đúng theo 𝑺Tổng như bài toán 4 là chưa thực hiện được. Để chiến lược này có
thể hoạt động được, HS phải xem vận tốc là không đổi trên mỗi khoảng thời gian nhỏ.
Ngoài ra, để hướng các nhóm cùng chọn vận tốc đầu mỗi khoảng là vận tốc không đổi
cho cả khoảng đó (ứng với việc lập tổng Riemann trái), trong đề bài chúng tôi đã cố tình
không cho biết thông tin vận tốc ở mốc thời gian 5 giây.
Bằng cách chọn hàm số vận tốc cho bởi mô hình rời rạc (hàm số cho bởi bảng số),
chúng tôi tạo ra tình huống giúp chuyển đổi từ việc tính đúng sang tính gần đúng. Đây
cũng là bước chuẩn bị cuối cùng trước khi chuyển sang mô hình liên tục của hàm số vận
tốc ở pha 5.
❖ Pha 5 (20 phút): Các nhóm nhận phiếu học tập và thảo luận để giải quyết bài toán 6,
GV cũng nhấn mạnh yêu cầu tính gần đúng ở bài toán này. Sau thời gian làm việc, GV
yêu cầu mỗi nhóm cử một bạn trình bày chiến lược giải của nhóm mình. Chiến lược giải
tối ưu (𝑺Riemann ) nếu xuất hiện sẽ được GV thảo luận kĩ lưỡng hơn. Trong trường hợp không có nhóm nào đề ra được chiến lược giải hợp lí cho bài toán, GV sẽ gợi mở từ
phương pháp giải đã thành công cho các bài toán trước đó.
Kết thúc pha này, GV đặt ra câu hỏi: “Phải chia thành các khoảng thời gian như
thế nào để khi lập tổng sẽ thu được kết quả gần đúng nhất cho quãng đường đi được?”.
Sau khi thảo luận với cả lớp, GV đưa ra kết luận: “Quãng đường tính được sẽ càng chính
xác nếu như ta chia khoảng thời gian thành các khoảng càng nhỏ. Khi tiến dần
về 0, tổng tính được sẽ dần tiến về quãng đường chính xác của chuyển động đang xét”.
Sau đó GV giới thiệu ký hiệu cho tổng Riemann ∑ 𝑣(𝑡). ∆𝑡, thảo luận với cả lớp để đi
đến nhận xét: “Muốn tìm chính xác quãng đường, chúng ta cần phải xác định được giới ∑ 𝑣(𝑡𝑖). ∆𝑡𝑖”. Tập trung vào biểu diễn hình học, GV thảo luận với cả hạn sau đây: lim ∆𝑡→0
lớp về đại lượng hình học biểu diễn cho quãng đường trong bài toán và rút ra kết luận:
171
“Quãng đường tính được cũng bằng với diện tích hình phẳng giới hạn bởi đồ thị hàm
số vận tốc và trục hoành”.
Phân tích: Đây là pha quan trọng nhất của đồ án. Vì hàm vận tốc 𝑣(𝑡) được cho có
dạng căn thức phức tạp nên đã ngăn cản HS chọn lựa các chiến lược 𝑺Cơ sở, 𝑺Nguyên hàm
và 𝑺Diện tích. Mặt khác, yêu cầu của đề bài là tính gần đúng quãng đường nên HS có thể
sẽ nghĩ đến phương pháp giải tương tự như bài toán 5 trước đó. Chúng tôi đặt hai bài
toán này cạnh nhau với ý đồ dẫn dắt HS chuyển đổi hàm số 𝑣(𝑡) ở bài toán 6 về dạng
giống như bài toán 5 để có thể áp dụng phương pháp đã thành công trước đó. Muốn vậy
HS chỉ cần lập một bảng giá trị cho 𝑣(𝑡) tại các mốc thời điểm liên tiếp, và nhiệm vụ
này vốn đã quen thuộc với các em khi vẽ đồ thị một hàm số. Lúc này các em đã có một
phân hoạch và chỉ cần thực hiện tiếp lớp tích và lớp tổng là sẽ được tính được gần đúng
quãng đường đi được.
Chiến lược giải nói trên sẽ giúp thu được kết quả càng chính xác nếu như HS tăng
số khoảng chia (làm nhỏ ∆𝑡). Ý tưởng giới hạn theo đó sẽ có cơ hội xuất hiện và ta có
thể tận dụng thời điểm này để đưa vào cách tính quãng đường chính xác bởi 𝑺Riemann. Cách tính quãng đường theo diện tích sẽ được giải thích nhờ ý nghĩa hình học của lớp
tích, lớp tổng và bước chuyển qua giới hạn của tổng Riemann.
❖ Pha 6 (10 phút): Pha này tổng kết và thể chế lại những chiến lược giải bài toán tính
quãng đường đã xuất hiện trong buổi học. Sau đó GV giới thiệu định nghĩa tích phân
bởi hiệu giá trị nguyên hàm tại hai cận và đưa ra ba cách tính toán cho nó (theo nguyên
hàm, diện tích và giới hạn tổng Riemann). GV giới thiệu ý nghĩa hình học của tích phân
là diện tích của hình giới hạn bởi đồ thị của hàm số và hai cận đã cho. GV nhấn mạnh
rằng, ngoài việc áp dụng để tính diện tích và quãng đường, khái niệm này còn được dùng
để tính toán các đại lượng trong khoa học và cuộc sống thông qua quá trình lập tổng và
chuyển qua giới hạn.
Phân tích: Đây là pha thể chế hoá tri thức. Ở đây chúng tôi vẫn chọn cách định
nghĩa tích phân theo hiệu nguyên hàm vì sự đơn giản và thuận tiện trong tính toán vốn
phù hợp với nhận thức của HS THPT. Tuy nhiên, nhờ vào việc liên kết ba chiến lược
giải khác nhau đã xuất hiện ở các pha trước đó, chúng tôi có thể làm xuất hiện ba cách
hiểu tương ứng về tích phân và kết nối chúng lại với nhau trong cùng một khái niệm.
Cụ thể thì, sự tương đương giữa ba cách tính tích phân (theo hiệu nguyên hàm, giới
hạn tổng Riemann và theo diện tích) sẽ được chỉ ra từ sự tương đương của ba chiến lược
172
tương ứng trong việc tính quãng đường. HS sẽ biết vì sao nguyên hàm lại cho phép xác
định được diện tích cũng như các đại lượng khác trong Vật lí mà việc tính toán chúng
phải thực hiện kĩ thuật chia nhỏ, lập tổng và chuyển qua giới hạn. Tích phân mặc dù vẫn
𝑏 𝑎
= 𝐹(𝑏) − 𝐹(𝑎) nhưng người học có được định nghĩa theo hiệu nguyên hàm ∫ 𝑓(𝑥)𝑑𝑥
cơ hội hiểu đầy đủ hơn bản chất và các đặc trưng khác của nó. Không chỉ vậy, HS còn
được cung cấp kiến thức về tích phân ở dạng hoạt động và gắn kết hơn với những ứng
dụng trong Vật lí.
❖ Pha 7 (20 phút): GV phát cho mỗi nhóm phiếu học tập có in hai bài toán 7 và 8.
Các nhóm thảo luận để thống nhất một lời giải chung rồi nộp phiếu học tập lại cho GV.
GV xem qua lời giải của các nhóm, sau đó tiến hành thảo luận tập thể trước cả lớp về
những chiến lược giải đã xuất hiện và tổ chức cho HS nhận xét, đánh giá. Cuối pha này,
GV bàn luận thêm về vai trò công cụ mạnh mẽ của tích phân trong nhiều vấn đề thực
tiễn và khoa học, đặc biệt là đối với môn Vật lí.
Phân tích: Đây là pha ứng dụng tri thức vừa học trong một số ngữ cảnh vật lí. Cụ
thể thì bài toán 7 HS cần sử dụng nghĩa diện tích của tích phân và bài toán 8 cần đến kĩ
thuật lập tổng Riemann để giải quyết. Bài toán 7 là quen thuộc với HS tham gia TN bởi
vì trước đó các em đã được tiếp cận nhiều chiến lược giải khác nhau liên quan đến bài
toán tính quãng đường. Ở đây, như đã phân tích biến DH, chúng tôi muốn kiểm tra xem
HS có thể huy động nghĩa diện tích để giải quyết vấn đề vật lí gặp phải hay không? Đối
với bài toán 8, HS bắt gặp lại kiểu nhiệm vụ tính gần đúng theo tổng Riemann tuy nhiên
lần này là trong một ngữ cảnh vật lí khác: bài toán tính công của lực biến đổi. Điều
chúng tôi muốn kiểm tra là các em có gợi ra chiến lược lập tổng Riemann trong một tình
huống ứng dụng không quen thuộc hay không? Trong hoạt động tổng kết ở pha này, GV
và cả lớp cùng nhau nhận xét về những chiến lược giải và kết quả mà các nhóm đề xuất.
Điều này một lần nữa giúp HS khắc sâu lại những cách hiểu quan trọng của tích phân
và vai trò công cụ hiệu quả của chúng trong nhiều ngữ cảnh ứng dụng đa dạng của khoa
học và thực tiễn.
5.2.6. Phân tích hậu nghiệm
5.2.6.1. Đối tượng và cách thức tổ chức thực nghiệm
Đồ án DH khái niệm tích phân được chúng tôi triển khai TN với 26 HS lớp 12.2
của trường Trung học thực hành Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh. Đây là lớp cuối cấp
173
ban tự nhiên và có học lực khá về môn Toán. Thời điểm thực nghiệm vào đầu năm học
khi mà tất cả HS đều chưa học về nguyên hàm và tích phân.
Lớp học được chia thành 6 nhóm, mỗi nhóm từ bốn đến năm HS để các em có cơ
hội thảo luận và gợi ra nhiều chiến lược giải khác nhau. TN được sự hỗ trợ của GV bộ
môn cùng với các trợ giảng là những sinh viên sư phạm năm cuối. Những người này đã
nắm rõ mục đích và các phân tích tiên nghiệm của đồ án để có thể cung cấp những hỗ
trợ hoặc điều chỉnh khi cần thiết. Các nhóm ngồi thành một vòng tròn để tiện thảo luận
và trao đổi. Mỗi trợ giảng thực hiện việc quay phim ghi lại hoạt động thảo luận của từng
nhóm. Ngoài ra, một máy quay phim đặt ở cuối lớp sẽ ghi hình toàn cảnh mọi hoạt động
của GV và HS trong suốt buổi TN. Sau mỗi pha làm việc, GV thu lại giấy nháp của từng
HS và xem xét phiếu trả lời của mỗi nhóm trước khi tiến hành thảo luận tập thể với cả
lớp.
5.2.6.3. Phân tích kết quả
Các kết quả TN và những phân tích của chúng tôi sẽ tập trung vào:
- Kết quả làm việc của các nhóm với từng nhiệm vụ trong mỗi pha hoạt động thể hiện
trên phiếu học tập.
- Các trao đổi và thảo luận đáng chú ý giữa HS trong nhóm được ghi nhận từ máy ghi
âm.
- Những cuộc phỏng vấn giữa GV với HS cả lớp cũng như một số trao đổi hay gợi ý
mà GV và trợ giảng đã cung cấp trong quá trình học tập ở mỗi pha.
Phân tích dựa vào kết quả quan sát và ghi nhận ở trên sẽ giúp làm rõ sự tiến triển
nhận thức ở HS trong suốt các pha của TN. Sự đối chứng giữa kết quả này với phân tích
tiên nghiệm trước đó sẽ là cơ sở để đánh giá tính khả thi và hiệu quả của đồ án trong
việc tận dụng mối quan hệ LM Toán – Vật lí để đem lại một cách hiểu đầy đủ và vững
chắc hơn cho khái niệm tích phân. Cũng phải nói thêm rằng, bước thể chế và những nội
dung thảo luận chung với cả lớp đã được chúng tôi trình bày trong phần kịch bản và sẽ
không nhắc lại trong mục này.
Pha 1: Công thức tính vận tốc theo đạo hàm của hàm số quãng đường (𝑣(𝑡) = 𝑠′(𝑡)) đã
được dạy ở cuối năm lớp 11 (trong phần ý nghĩa vật lí của đạo hàm). Ở đầu pha 1, GV
dẫn dắt và gợi mở cho HS nhớ lại công thức này. Đây có thể là một phần lí do giải thích
tại sao cả 6 nhóm HS đều có thể giải quyết dễ dàng bài toán 1, tức là sử dụng 𝑺Đạo hàm
để tính vận tốc khi biết hàm số quãng đường theo thời gian.
174
Điều chúng tôi quan tâm là khi phải đối mặt với bài toán đảo ngược – tìm quãng
đường khi biết hàm số vận tốc – liệu các em có gợi ra được phép toán ngược của đạo
hàm (nguyên hàm) để giải quyết hay không? Kết quả cho thấy có ba nhóm tìm ra chiến
lược 𝑺Nguyên hàm và giải quyết thành công bài toán. Một nhóm sử dụng chiến lược
𝑺Vật lí và cũng thu được kết quả đúng trong khi hai nhóm còn lại vận dụng
Bài toán
Bài toán 1
Bài toán 2
Chiến lược
𝑺Đạo hàm Chiến lược khác
𝑺Nguyên hàm
𝑺Vật lí
𝑺Cơ sở
Số nhóm
6
0
3
1
2
𝑺Cơ sở và đi đến kết quả không chính xác. Bảng 5.5. Kết quả TN bài toán 1 và 2
Minh hoạ dưới đây là lời giải bài toán 2 của nhóm 1 (sử dụng 𝑺Nguyên hàm).
Hình 5.5. Lời giải bài toán 2 của nhóm 1
Trong quá trình quan sát, khi thấy nhóm 1 giải xong bài toán 2, GV đã thực hiện
GV: Tụi em giải bài toán này như thế nào?
HS1: Dạ làm ngược lại với bài toán 1, có hàm vận tốc mình tìm lại được hàm số quãng đường là 𝑡2 rồi thay số vào. HS2: Vì 𝑡2 đạo hàm là 2𝑡 đó thầy.
GV: Vậy làm thế nào để tính quãng đường trong khoảng thời gian từ 2s đến 4s?
HS: Mình lấy s(4) trừ đi s(2) là được.
đoạn phỏng vấn ngắn sau đây để hiểu thêm về chiến lược giải của nhóm:
175
Một nhóm khác cũng thành công với chiến lược 𝑺Nguyên hàm là nhóm 5. Khi GV đặt câu hỏi “vì sao em tìm được hàm quãng đường 𝑠(𝑡) = 𝑡2?”, một HS nhóm này thậm chí
còn trả lời rằng em ấy đi tìm “đạo hàm ngược” của 2𝑡.
Qua phỏng vấn, chúng tôi nhận thấy việc đặt cạnh nhau hai bài toán đảo ngược 1
và 2 đã giúp khái niệm nguyên hàm nảy sinh một cách hợp lí như là công cụ để giải
quyết vấn đề xác định quãng đường khi vận tốc biến đổi. Một số HS còn tự đặt tên cho
phép toán này là “đạo hàm ngược” và hiểu về nó như một cách làm ngược lại với đạo
hàm. Một ghi nhận khác đó là cả 3 nhóm sử dụng 𝑺Nguyên hàm đều bỏ qua hằng số 𝐶 trong
phép lấy nguyên hàm và không có bước lập luận để chỉ ra 𝐶 = 0. Thật ra việc bỏ qua
mà hằng số 𝐶 khi tính quãng đường trong 2 giây đầu tiên phải cần điều kiện
điều này thường phù hợp với ngữ cảnh thực tế (vật bắt đầu chuyển động từ thời điểm 𝑡 =
0). Trong hoàn cảnh HS lần đầu tiên tiếp xúc với khái niệm nguyên hàm nên ban đầu
chúng tôi chấp nhận lời giải của các nhóm trên là đúng và chỉ bổ sung hằng số 𝐶 trong
pha thể chế khi giới thiệu cho các em khái niệm nguyên hàm.
Bên cạnh đó, chúng tôi cũng
ghi nhận được hai nhóm có lời giải
không đúng cho bài toán 2 (nhóm
3 và nhóm 5). Hai nhóm này đều
sử dụng cùng một chiến lược
không hợp lí là tính quãng đường
bằng cách nhân vận tốc với khoảng
Hình 5.6. Lời giải bài toán 2 của nhóm 3
thời gian (𝑺Cơ sở ). Hình 5.6 là cách giải mà chúng tôi quan sát được từ
HS nhóm 3. Nhóm này dường như đang cố gắng sử dụng chiến lược quen thuộc là nhân
vận tốc với thời gian ngay cả trong một tình huống không thích hợp (chuyển động không
đều).
Sau khi các nhóm đã nộp kết quả làm việc, GV trình bày hai lời giải của nhóm 1 và
nhóm 3 lên bảng để cả lớp thảo luận. Đáng chú ý là cả lớp lúc đầu vẫn chưa có được sự
đồng thuận về cách giải chính xác. Nói rõ hơn là hai nhóm sử dụng 𝑺Cơ sở vẫn cho rằng lời giải của mình là đúng. Lúc này, nhóm 4 đứng dậy và trình bày một phương pháp giải 2 = 2𝑎𝑆. GV thực hiện tính toán khác để tìm quãng đường là sử dụng công thức 𝑣2 − 𝑣0 theo cách giải này và đi đến kết quả phù hợp với phương pháp giải theo đạo hàm ngược.
176
GV xác nhận tính đúng đắn của chiến lược 𝑺Nguyên hàm và đặt câu hỏi tại sao ở tình
huống này ta không thể tính quãng đường bằng cách nhân vận tốc với thời gian. Rất
nhanh một HS đứng dậy trả lời là do “vận tốc thay đổi càng ngày càng tăng nên không
thể tính như vậy”. Nhận thấy cả lớp đều đồng thuận với lời giải thích này, GV chốt lại
một khái niệm mới giúp tính quãng đường khi ta biết vận tốc biến đổi theo hàm số 𝑣(𝑡):
đó làm phép lấy đạo hàm ngược mà trong toán học người ta gọi nó là nguyên hàm. Để
thể chế chiến lược tính theo hiệu nguyên hàm, GV gọi 𝑦 = 𝑓(𝑡) là hàm số vận tốc, và
𝐹(𝑡) là một nguyên hàm 𝑓(𝑡), tức là 𝐹′(𝑡) = 𝑓(𝑡). Sau đó, GV đặt câu hỏi “làm thế nào
để tính quãng đường đi được trong khoảng từ 2 giây đến 4 giây?”, HS ở dưới trả lời
được ngay là lấy 𝐹(4) − 𝐹(2). GV ghi lên bảng: quãng đường đi được trên đoạn thời gian [𝑡1; 𝑡2] được tính bởi 𝐹(𝑡2) − 𝐹(𝑡1), trong đó 𝐹(𝑡) là nguyên hàm của hàm số vận tốc.
Quan sát hoạt động học tập của HS trong pha 1, chúng tôi nhận thấy rõ sự tiến triển
nhận thức ở các em đặc biệt là ở hai nhóm giải sai lúc đầu. Sự tiến triển nhận thức này
diễn ra trong lớp học cùng với sự thay đổi chiến lược giải của các nhóm, từ 𝑺Cơ sở (vận tốc không đổi) đến 𝑺Nguyên hàm (vận tốc là hàm số biến đổi theo thời gian). Và thậm chí
một số HS còn nói với chúng tôi rằng các em không ngờ lại “có một cách tính quãng
đường hay như vậy!”. Kết quả này cho thấy hiệu quả của cách chọn giá trị biến 𝑽𝟐 và việc đặt hai bài toán đảo ngược cạnh nhau giúp tạo động cơ xuất hiện cho khái niệm
nguyên hàm như thế nào.
Pha 2: Câu 3𝑎 là một kiểu nhiệm vụ đơn giản (tính quãng đường khi vận tốc không đổi)
nên cả 6 nhóm đều nhanh chóng giải thành công bằng chiến lược 𝑺Cơ sở . Với câu 3𝑏, vì trong đề bài đã gợi ý một số đại lượng như độ dài, chu vi hay diện tích nên một số nhóm
sau khi thảo luận đã tìm ra biểu diễn hình học thích hợp cho quãng đường tính được.
Chẳng hạn với trường hợp của nhóm 2, ban đầu các em tỏ ra lúng túng vì yêu cầu của
đề bài có vẻ xa lạ. Sau khoảng năm phút trao đổi thì bất ngờ một bạn nữ trong nhóm chỉ
vào đồ thị và nói “Thấy rồi, vận tốc bằng hai là đoạn này, còn ba (í chỉ khoảng thời gian
177
bằng 3 giây) là đoạn này, vậy là
hình chữ nhật”. Nhiều bạn trong
nhóm này hiểu ra ngay và tỏ vẻ
đồng ý. Một em trong nhóm giải
thích cho bạn bên cạnh: “thì lấy
hai nhân ba là ra diện tích hình
chữ nhật này, mà quãng đường
cũng ra vậy”. Sau đó, tất cả thành
viên nhóm 2 dường như đều nhận
ra vận tốc và thời gian lần lượt là
Hình 5.7. Lời giải bài toán 3 của nhóm 2 chiều rộng và chiều dài của hình
chữ nhật và diện tích của nó biểu
thị cho quãng đường đi được.
Chúng tôi cũng có một cuộc trao đổi ngắn với nhóm 5, là nhóm duy nhất vẫn chưa
GV: Ở câu a em tính quãng đường như thế nào?
HS: Lấy vận tốc nhân thời gian ra 6 ạ.
GV: Em tìm trên đồ thị có đại lượng hình học nào như diện tích hay chu vi mà cũng bằng
6 không?
HS: …
GV: Trên đồ thị thì vận tốc được biểu diễn bởi độ dài của đoạn thẳng nào? Nhớ rằng trục
vận tốc là trục tung nhé.
HS: Dạ đoạn này (một HS chỉ vào đoạn trên trục tung và có độ dài là 2).
GV: Thế còn thời gian?
HS: Dạ đoạn này (chỉ vào đoạn có độ dài 3 trên trục hoành).
GV: Vậy nếu nhân chúng với nhau thì thu được đại lượng hình học nào trên đồ thị?
HS: À, là diện tích hình chữ nhật này (chỉ vào hình).
GV: Đúng rồi, em có thể gạch sọc miền hình chữ nhật đó hay không?
HS: Dạ được.
tìm được câu trả lời:
Sau đoạn trao đổi trên, một HS nhóm 5 giải thích lại cho bạn bên cạnh như sau:
“mày tính quãng đường là 𝑣. 𝑡 đúng không, mà 𝑣 là đoạn này là chiều rộng, còn 𝑡 là
chiều dài, nhân lại ra diện tích”. Quan sát hoạt động các nhóm, chúng tôi thấy HS chỉ
nhận ra biểu diễn hình học của quãng đường sau khi xác định rõ được biểu diễn hình
học tương ứng của vận tốc và khoảng thời gian trên đồ thị. Điều này cũng gợi mở cho
178
chúng tôi về tầm quan trọng của việc làm rõ yếu tố hình học biểu thị cho giá trị của hàm số22 trước khi xây dựng ý nghĩa hình học cho khái niệm tích phân sau đó.
Ở cuối pha này, GV tổng kết lại một biểu diễn mới cho giá trị quãng đường khi vận
tốc không đổi: đó là quãng đường trên đi được trên đoạn thời gian [𝑡1; 𝑡2] bằng với diện tích hình giới hạn bởi đồ thị hàm số 𝑣(𝑡), trục hoành và bị chặn hai bên bởi hai cận thời
gian 𝑡1; 𝑡2. Sau pha 2, HS nắm được lớp tích (tính một đại lượng bằng tích hai đại lượng khác) và biểu diễn hình học của nó trong ngữ cảnh bài toán tính quãng đường. Đây là
bước chuẩn bị để các em chuyển qua chiến lược 𝑺Tổng để hình thành lớp tổng trong pha
tiếp theo.
Pha 3: Ở pha này chúng tôi yêu cầu tính tổng quãng đường của hai nhóm bạn tí hon
chạy tiếp sức. Mỗi nhóm gồm nhiều thành viên mà vận tốc của mỗi bạn là không đổi
trong một khoảng thời gian nhất định. Mục đích của pha này là để hình thành lớp tổng
với một phân hoạch cho trước. Kết quả cho thấy mục đích này hoàn toàn đạt được khi
tất cả 6 nhóm đều lựa chọn 𝑺Tổng để tính đúng tổng quãng đường đi được của mỗi nhóm.
Chẳng hạn dưới đây là lời giải của nhóm 1.
Hình 5.8. Lời giải bài toán 4 nhóm 1
Trong cách giải của cả sáu nhóm, các em đều thực hiện việc tính quãng đường trên
mỗi khoảng thời gian nhỏ rồi cộng lại (đề bài thông báo rằng vận tốc của mỗi bạn được
xem là không đổi trên mỗi khoảng thời gian đó). Mặt khác, từ sự gợi ý của biểu diễn
22 Đoạn thẳng vuông góc với trục hoành và có độ dài bằng giá trị của hàm số tại điểm đang xét.
179
hình học đã được thiết lập ở bài toán 2, đa số các nhóm sau khi thảo luận đều nhận diện
đúng và gạch sọc được phần diện tích biểu diễn cho tổng quãng đường vừa tính.
Kết quả cho thấy hoạt động ở pha 3 đã thành công trong việc hình thành ở HS lớp
tổng và biểu diễn hình học của nó trong ngữ cảnh đang xét. Sự kết nối giữa lớp tích ở
pha 2 và lớp tổng ở pha 3 mặc dù đơn giản nhưng theo chúng tôi là một mắt xích quan
trọng cần phải thiết lập để dẫn dắt HS đến với cách tính một đại lượng bằng phương
pháp lập tổng Riemann ở pha tiếp theo.
Pha 4: Ở pha 4, hàm số vận tốc trong bài toán 5 được cho dưới dạng bảng giá trị và yêu
cầu HS tính gần đúng quãng đường đi được. Chiến lược mong đợi là 𝑺Riemann – nghĩa là HS nghĩ đến việc xem vận tốc là không đổi trên mỗi khoảng nhỏ để sử dụng 𝑺Tổng như
ở bài toán trước đó. Tuy nhiên vì kiểu nhiệm vụ tính gần đúng vẫn còn xa lạ với HS nên
hầu hết các nhóm đều loay hoay chưa tìm được ngay cách giải.
GV đi ngang bàn làm việc của nhóm 3 thì nhận ra nhóm này đang thử tính quãng
đường trên mỗi khoảng thời gian 0,5 giây. GV đã tiến hành một đoạn phỏng vấn nhỏ để
GV: Nói thầy nghe cách giải của nhóm mình xem nào.
HS: Em lấy trung bình, cộng vận tốc hai bên lại rồi chia đôi ra vận tốc chung rồi nhân
thời gian cho từng khoảng.
GV: Ý em là các khoảng 0,5 giây này đúng không? Rất hợp lí, nhưng ở khoảng thời gian
cuối, chúng ta chưa có vận tốc tại 5s thì làm sao tính trung bình.
HS: …Vậy lấy đỡ 1,4 đi thầy (ý chỉ vận tốc ở thời điểm t = 4,5), dù sao nó cũng thay đổi
chưa nhiều.
GV: Vậy nếu như ta lấy vận tốc đầu mỗi khoảng làm vận tốc chung cho từng khoảng để
tính quãng đường. Tính xong rồi cộng lại thì cách làm như vậy có hợp lí không?
HS: Dạ được thầy, vì khoảng nhỏ nên vận tốc thay đổi chưa nhiều. Mà đề chỉ yêu cầu tính
gần đúng.
hiểu thêm cách giải của nhóm này:
Rõ ràng là nhóm 3 đã tự đề xuất được ý tưởng lập tổng các tích 𝑣. 𝑡 cho mỗi khoảng
thời gian 0,5 giây. Các em thậm chí đã nghĩ đến việc xem trung bình cộng vận tốc ở hai
mốc để làm vận tốc chung cho cả khoảng. Tuy nhiên để thống nhất cả lớp dùng kĩ thuật
lập tổng Riemann trái, GV hướng sự chú ý vào khoảng thời gian cuối mà ở đó thiếu
thông tin 𝑣(5). Các HS nghĩ ngay đến việc lấy vận tốc đầu làm vận tốc chung cho cả
khoảng và lập luận rằng tính như vậy vẫn hợp lí vì “khoảng nhỏ nên vận tốc thay đổi
180
chưa nhiều”. Nhận thấy nhóm 3 đã tìm ra chiến lược giải hợp lí, GV kêu gọi sự chú ý
GV: Nhóm 3 vừa nghĩ ra một cách tính gần đúng rất hay. Tính quãng đường trên mỗi
khoảng thời gian nhỏ rồi cộng lại giống như bài toán trước đó? Trong bài toán 5 này mình
đã có những khoảng thời gian nhỏ nhỏ của tụi em?
HS: Dạ có rồi thầy, 0,5 giây.
GV: Mỗi khoảng thời gian là 0,5 giây, vậy mình còn thiếu thông tin gì để tính quãng đường
trên mỗi khoảng này?
HS: Thiếu vận tốc.
GV: Hãy xem quãng đường cuối trên đoạn [4,5; 5], chúng ta sẽ sử dụng vận tốc nào để
tính quãng đường nhỏ này?
HS: Lấy 1,4 đi thầy
GV: Tại sao lại lấy 1,4 được?
HS: Vì gần chính xác, tính gần đúng mà thầy.
và chia sẻ với cả lớp chiến lược giải mà nhóm 3 vừa tìm được.
GV tỏ ra tán đồng với đề xuất này và tổng kết lại cách giải mà cả lớp vừa thảo luận:
Trên các khoảng thời gian nhỏ đã chia thì vận tốc chưa thay đổi nhiều nên ta có thể xem
gần đúng là chuyển động đều. Với mỗi khoảng, ta có thể chọn vận tốc “đều” này bằng
giá trị bên trái hoặc bên phải, thậm chí có thể lấy giá trị trung bình của hai giá trị này
như cách của nhóm 3. Tuy nhiên vì dữ kiện của bài toán thiếu vận tốc cuối ở khoảng thứ
10 nên cả lớp thống nhất sẽ chọn vận tốc bên trái mỗi khoảng để tính. Sau gợi mở của
GV, các nhóm tiến hành các tính toán tiếp theo.
Quan sát lời giải thích
của nhóm 5 chúng tôi nhận
thấy rằng các em đã hiểu
khá mạch lạc kĩ thuật lập
tổng Riemann từ gợi mở
của GV. Chúng tôi tìm
thấy trong lời giải thích
trên ba lớp quá trình – đối
tượng của khái niệm tích
phân: Hình 5.9. Lời giải bài toán 5 của nhóm 5
1/Lớp phân hoạch: [𝑡1; 𝑡2] chia thành từng đoạn nhỏ ∆𝑡 = 0,5;
181
2/Lớp tích: vận tốc trên mỗi 0,5 giây thay đổi không đáng kể → chuyển động đều →
𝑠 = 𝑣. 𝑡
3/Lớp tổng: 𝒔𝑡ổ𝑛𝑔= tổng các 𝒔 trên từng khoảng.
HS trên tính tổng quãng đường và vì độ dài các khoảng thời gian này là như nhau
(đều bằng 0,5) nên em đó đã đặt thừa số chung để phép tính gọn hơn. Khi triển khai hoạt
động này trong DH, GV hoàn toàn có thể chọn độ dài các khoảng thời gian khác nhau
để tổng quát hóa quá trình phân hoạch trong phương pháp lập tổng Riemann. Tuy nhiên
trong TN này chúng tôi chọn ∆𝑡 không đổi để HS thống nhất một tiến trình chung và
thuận tiện hơn trong việc tính toán.
Kết quả thu được cho thấy rằng, việc lựa chọn biến DH và sắp đặt hợp lí các hoạt
động trước đó đã giúp hình thành các lớp quá trình – đối tượng trong cách hiểu về tích
phân theo tổng Riemann. Cụ thể thì, bằng cách chuẩn bị trước 𝑺Tổng ở pha 3 và chọn
biến 𝑽𝟐 là hàm số cho bởi bảng các giá trị rời rạc (đã có sẵn một phân hoạch), chiến lược tính gần đúng 𝑺Riemann đã xuất hiện ngay trong pha này. Mặt khác trong mỗi khoảng thời gian, khi tính lớp tích HS có thể chọn những giá trị vận tốc khác nhau. Vì
lẽ đó, để tạm thời có một cách tính chung trong kĩ thuật lập tổng Riemann là sử dụng
giá trị vận tốc bên trái mỗi khoảng trong lớp tích (tổng Riemann trái) cho nên chúng tôi
đã cố tình cho thiếu dữ kiện vận tốc ở mốc thời gian cuối cùng. Kết quả TN cho thấy sự
sắp đặt này đã thu được kết quả như mong đợi.
Ở pha thể chế, GV giới thiệu lại kĩ thuật tính gần đúng mà các nhóm đã đề xuất
trong bài toán 5: “Với mỗi khoảng thời gian, chúng ta xem vận tốc gần như không đổi
là vận tốc đầu mỗi khoảng, rồi tính quãng đường bằng cách nhân vận tốc này với khoảng
thời gian tương ứng. Tổng các tích vừa tính được sẽ cho một giá trị gần đúng quãng
đường cần tìm”. GV thảo luận với cả lớp để chỉ ra rằng cách tính này sẽ cho kết quả
càng chính xác khi các khoảng thời gian là nhỏ để vận tốc thay đổi không đáng kể trong
mỗi khoảng ấy. GV cũng xác nhận rằng việc chọn vận tốc đầu hay cuối mỗi khoảng để
tính các tích đều chấp nhận được, nhưng với dữ kiện đã cho chúng ta thống nhất lựa
chọn giá trị ở mốc đầu (bên trái mỗi khoảng).
1
Pha 5: Trong pha này, chúng tôi lựa chọn biến 𝑽𝟐 là hàm số ở dạng căn thức
25
(𝑣(𝑡) = √ 𝑡2 + 1) và yêu cầu tính gần đúng quãng đường đi được trong 5 giây. Quan
182
sát quá trình làm việc của các nhóm và xem xét phiếu trả lời thu được, chúng tôi thống
kê lại những chiến lược giải mà từng nhóm sử dụng.
Bảng 5.6. Kết quả các chiến lược giải xuất hiện trong bài toán 6
Nhóm 1 2 4 5 6 3
? Chiến lược 𝑺Riemann 𝑺Nguyên hàm 𝑺Vật lí 𝑺Riemann 𝑺Riemann
Kết quả ở pha này cho thấy có đến 3 nhóm tìm ra đáp số phù hợp bằng cách sử
dụng chiến lược tính gần đúng dựa trên tổng Riemann. Chúng tôi sẽ phân tích lời giải
và một số đoạn thảo luận ghi nhận được của những nhóm này để làm rõ sự tiến triển
nhận thức của HS sau khi trải qua các pha của đồ án.
Cách giải của nhóm 5: Nhóm 5 sau khi thảo luận với nhau và từ sự gợi mở của GV đã
quyết định lập một bảng giá trị giống như ở bài toán 5 để có thể sử dụng chiến lược tính
gần đúng bằng cách lập tổng. Dưới đây là đoạn trao đổi giữa các em trong nhóm với GV
HS1: Bạn tìm được nguyên hàm của cái này không?
HS2: Sao tìm được. Đề yêu cầu tính gần đúng thôi mà, làm giống bài hồi này đi.
GV: Tụi em giải bài này bằng cách nào?
HS: Dạ em định giải giống bài hồi nãy, chia nhỏ để tính đó thầy mà không biết làm.
GV: Bài hồi nãy cho dữ liệu gì?
HS1: Có nhiều vận tốc ở các thời gian.
HS2: Ah, bạn có thể thế t vào công thức để tính v. Giống như khi lập bảng giá trị để vẽ đồ
thị đó.
HS1: À à. Hiểu rồi. Thầy để tụi em làm thử xem ạ.
trước khi nhóm tìm ra chiến lược giải bài toán:
Qua đoạn trao đổi trên có thể thấy rằng, ban đầu HS nhóm này định sử dụng
𝑺Nguyên hàm để giải quyết giống như phương pháp mà các em đã thành công với bài toán
2 trước đó. Tuy nhiên đúng như phân tích tiên nghiệm đã chỉ ra, việc chọn hàm vận tốc
ở dạng căn thức đã ngăn cản chiến lược này thành công. Chiến lược 𝑺Cơ sở cũng không được xét đến vì hàm số vận tốc trong bài này không phải hằng số. Từ đó, khi GV đưa ra
gợi ý bằng cách nhấn mạnh yêu cầu tính gần đúng, các HS ở trên đã nhanh chóng liên
hệ đến chiến lược 𝑺Riemann đã dùng ở bài trước. Các em cũng nhận ra rằng để sử dụng chiến lược nói trên cần phải có “nhiều vận tốc ở các thời gian” mà thực chất là thực hiện
quá trình phân hoạch. Một HS trong nhóm đã đề xuất phương pháp thực hiện nhiệm vụ
này giống như việc “lập bảng giá trị để vẽ đồ thị”. GV hỏi nhóm 5 xem định chia thành
mấy khoảng thời gian. Nhóm này ban đầu dự định sẽ chọn ∆𝑡 = 0,25 để tính cho chính
183
xác (20 đoạn đường nhỏ), tuy nhiên sau đó vì thấy phải tính toán quá nhiều nên nhóm
đổi ý và chỉ chia thành 5 đoạn (∆𝑡 = 1).
Đáng chú ý là mặc
dù tính đầy đủ giá trị
của vận tốc ở tất cả 6
mốc thời điểm, lời giải
bên (Hình 5.10) vẫn chỉ
sử dụng 5 vận tốc đầu
mỗi khoảng để tính 5
quãng đường nhỏ trước
khi cộng lại để có kết
quả hợp lí cho bài toán Hình 5.10. Lời giải bài toán 6 của HS nhóm 5
(mốc cuối cùng bị gạch
bỏ). Điều này cho thấy tác dụng của những pha trước đó đã hướng HS đến việc áp dụng
phương pháp “tổng Riemann trái” để giải quyết thành công nhiệm vụ của pha này.
Cách giải của nhóm 1:
Hình 5.11. Lời giải bài toán 6 của HS nhóm 1
Đây là nhóm đã tự tìm ra chiến lược chia khoảng rồi lập tổng mà không cần đến
bất cứ lời gợi ý nào từ GV. Điều thú vị ở chỗ, nhóm 1 thậm chí còn quyết định chọn vận
tốc bên phải mỗi khoảng để tính gần đúng (lập tổng Riemann phải) thay vì bên trái như
cách giải bài toán 5 trước đó. GV đi ngang qua có đặt câu hỏi là tại sao nhóm tính như
vậy? Các em này trả lời là hồi nãy vận tốc bạn Tom thiếu mốc cuối cùng nên phải dùng
184
vận tốc trái. Còn ở bài này có thể tính mốc nào cũng được nên nhóm chọn vận tốc phải
mỗi đoạn để tính cho “lạ”. HS nhóm này sau đó quyết định tính quãng đường theo cả
hai cách: mốc 𝑣(sau) và 𝑣(trước) và thu được hai kết quả gần đúng khác nhau cho quãng
đường.
Lời giải trên cho thấy những thành viên nhóm 1 đã có một cách hiểu chắc chắn về
kĩ thuật lập tổng Riemann. Các em lập luận “vì độ biến thiên của vận tốc trong 1s rất
nhỏ (không đáng kể) nên có thể xem là không đổi”. Hơn nữa công thức tính cho mỗi
quãng đường nhỏ còn được viết theo dạng 𝑣(𝑡𝑖)∆𝑡 cho thấy ý tưởng của lớp tích và sau đó là lớp tổng thể hiện rõ ràng.
Cách giải của nhóm 6:
Chúng tôi khá ngạc
nhiên về lời giải của nhóm
6 (Hình 5.12). Nhóm này
chia thành 5 khoảng thời
gian và chọn vận tốc phải
mỗi khoảng để tính gần
đúng quãng đường giống
như cách làm của nhóm 1.
Tuy nhiên, điều thú vị ở
chỗ các em còn thể hiện
tổng quãng đường vừa tính
bằng các dải hình chữ nhật
trên đồ thị. Điều này cho Hình 5.12. Lời giải bài toán 6 của nhóm 6 thấy ý nghĩa hình học của
lớp tích mà chúng tôi xây dựng ở pha 2 và 3 đã có ảnh hưởng lên quan niệm của HS
nhóm này. Việc HS có thể tự liên hệ tổng Riemann vừa tính với tổng diện tích tương
ứng (dù rằng bài toán đang giải đặt trong ngữ cảnh vật lí) giúp chúng tôi xác nhận tính
khả thi và hiệu quả của đồ án trong việc xây dựng được một cách hiểu đầy đủ cho khái
khái niệm tích phân.
Có ba nhóm không giải quyết thành công bài toán 6 ở pha này. Nhóm 2 bị tác động
mạnh bởi chiến lược 𝑺Nguyên hàm nên dành toàn bộ thời gian để xác định nguyên hàm
𝑣(𝑡) nhưng không thành công. Nhóm 4 tính 𝑣′(𝑡) để tìm gia tốc rồi áp dụng công thức
2 = 2𝑎𝑆 để tìm quãng đường nhưng không hợp lí (vì công thức này chỉ sử dụng
185
𝑣2 − 𝑣0 được cho trường hợp gia tốc không đổi). Đáng chú ý là nhóm 4 cũng là nhóm đã dùng
chiến lược 𝑺Vật lí để tính quãng đường ở pha 1 trước đó.
Ở cuối pha 5, GV giới thiệu một số cách giải mà các nhóm đã sử dụng. GV dừng
lại ở cách giải của nhóm 1, nhóm đã dùng cả 𝑣(sau) và 𝑣(trước) (lập tổng Riemann trái
và phải) để đưa ra được hai quãng đường gần đúng khác nhau. GV đặt câu hỏi gợi mở
về quãng đường chính xác thì cả lớp đều nhận ra giá trị này sẽ nằm giữa hai kết quả mà
nhóm 1 đã tính ra. Bên cạnh đó, GV cũng kể cho cả lớp nghe về tình huống của nhóm
5. Ban đầu nhóm 5 định chia thành 20 khoảng thời gian nhỏ để tính (∆𝑡 = 0,25) nhưng
sau đó thấy vất vả quá nên chỉ chia thành năm khoảng (∆𝑡 = 1). GV đặt câu hỏi: “chọn
∆𝑡 nhỏ thì phải tính toán nhiều khoảng rất vất vả nhưng được lợi gì?”. Nhiều HS trả lời
rằng “tính như vậy sẽ chính xác hơn”. GV dẫn dắt gợi mở tiếp để HS thấy rằng kết quả
tính được sẽ càng chính xác nếu ta chọn các giá trị của ∆𝑡 càng lúc càng tiến dần đến 0.
Giới hạn (nếu có và nếu tìm được) của các tổng khi ∆𝑡 → 0 sẽ cho ta kết quả
chính xác của quãng đường cần tìm. Lúc này GV giới thiệu lời giải của nhóm 6 và bàn
về biểu diễn hình học của tổng quãng đường vừa tính. Khi ∆𝑡 → 0
Pha 6: Trong pha này, GV tiến hành bước thể chế và tổng kết lại tất cả những chiến
lược mà các HS đã tìm ra trong việc giải quyết bài toán tính quãng đường khi cho trước
hàm số vận tốc. Cụ thể, ba cách giải sau được nhắc lại: lập các tổng có dạng
, mà gọi là tổng Riemann. Giới hạn của tổng này khi ∆𝑡 → 0 sẽ cho một kết quả phản
ánh chính xác nhất giá trị thực của quãng đường cần tính. Cách giải thứ 2 là tìm một
nguyên hàm của hàm số vận tốc. Theo đó, quãng đường trong khoảng thời gian từ a đến
b sẽ bằng hiệu giá trị nguyên hàm tại hai thời điểm nói trên. Cách thứ ba là tính quãng
đường thông qua diện tích của hình giới hạn bởi đồ thị hàm số 𝑣(𝑡) với trục hoành và
hai cận thời gian.
Ở cuối pha 6 chúng tôi giới thiệu định nghĩa khái niệm tích phân theo hiệu nguyên
hàm và đưa ra ba cách tính toán khác nhau cho nó: theo nguyên hàm, theo diện tích và
theo tổng Riemann. GV thảo luận với cả lớp về mỗi cách hiểu khác nhau và những ứng
dụng của tích phân mà các em vừa được tìm hiểu.
Pha 7: Đây là pha kiểm tra khả năng của HS trong việc vận dụng những kiến thức vừa
học vào một số vấn đề Vật lí. Chúng tôi phát phiếu học tập và yêu cầu các nhóm giải
quyết hai bài toán 7 và 8.
186
Đối với bài toán 7, tất cả 6 nhóm đều liên hệ quãng đường với diện tích để giải
quyết bài toán. Trong số đó, có 5 nhóm sử dụng được 𝑺Diện tích để đưa ra được kết luận
chính xác. Chẳng hạn như lời giải dưới đây của nhóm 1.
Hình 5.13. Lời giải bài toán 7 của nhóm 1
Trong lời giải này, quãng đường đã được HS liên hệ với diện tích hình tạo bởi đồ
thị vận tốc của hai xe với trục 𝑂𝑡. Bằng cách so sánh hai diện tích này, em HS trên có
thể suy ra quãng đường đi được của xe B lớn hơn xe A trong 3 phút và sẽ nhỏ hơn trong
8 phút.
Tuy nhiên vẫn có một nhóm không giải quyết thành công bài toán 7 đó là nhóm 4.
Các thành viên nhóm này biết cần phải so sánh hai diện tích tuy nhiên lại bỏ công đi
tính chính xác hai diện tích đó. Cụ thể thì các em tính được diện tích hình dưới đồ thị xe
A (diện tích tam giác) nhưng không làm được điều này với trường hợp xe B.
Đối với bài toán 8, đây là một ngữ cảnh vật lí khác với bài toán tính quãng đường
trước đó (tính công của lực biến đổi). Thông tin được nhắc lại trong đề bài chỉ là mối
quan hệ nhân: 𝐴 = 𝐹. 𝑠, trong trường hợp lực không đổi và cùng phương với quãng
đường dịch chuyển. Ngoài ra GV cũng không hề cung cấp bất kì một lời gợi mở hay
187
hướng dẫn nào tuy nhiên có đến ba nhóm đã vận dụng 𝑺Riemann để tính gần đúng được công cần tìm. Lời giải sau đây là của HS của nhóm 1 (Hình 5.14).
Hình 5.14. Lời giải bài toán 8 của nhóm 1
HS trên sử dụng một phương pháp tính tương tự như ở bài toán 6 đó là thực hiện
ba bước (theo lời giải thích trong phiếu học tập):
1/Chia nhỏ quãng đường ra.
2/Trong từng đoạn nhỏ độ biến thiên của lực rất nhỏ nên xem như không đổi và
tính công thành phân bằng công thức 𝐹. ∆𝑠
3/Cộng công trên các đoạn nhỏ này để ra tổng công thực hiện.
Cách giải thích của HS này cho thấy em hiểu rất rõ và mạch lạc kĩ thuật lập tổng
Riemann và có thể áp dụng nó vào một ngữ cảnh không quen thuộc. Sau khi tính gần
đúng công bằng tổng Riemann trái, HS trên đề xuất cách để tính chính xác công là là
tính tích phân hay nguyên hàm. Ngoài ra, chúng tôi nhận thấy các thành viên khác của
nhóm 1 cũng đề xuất tính chính xác bằng nguyên hàm tuy nhiên không thấy em nào thực
hiện được.
Một nhóm khác cũng vận dụng 𝑺Riemann để tính gần đúng công và thậm chí còn thực hiện nhiều khoảng chia hơn đó là nhóm 5 (Hình 5.15). Nhóm này chính là nhóm
đã dự định chia 20 khoảng để tính quãng đường ở pha 6 nhưng không thực hiện. Trong
bài này các thành viên trong nhóm đã “chịu khó” chia thành 10 đoạn đường nhỏ để tính
công và nói rằng “thực hiện lời hứa hồi nãy với thầy”. Nhóm 4 cũng đề xuất tính chính
188
xác bằng nguyên hàm tuy nhiên các em thừa nhận là không tìm được nguyên hàm của
𝐹(𝑠).
Hình 5.15. Lời giải bài toán 8 của nhóm 5
Nhóm duy nhất tính được chính xác công bằng 𝑺Nguyên hàm là nhóm 2 (Hình 5.16).
Một em trong nhóm đã quyết tâm theo đuổi chiến lược tìm nguyên hàm từ những pha
trước và đã thành công đối với bài toán này. Dưới đây là lời giải của em đó.
Hình 5.16. Lời giải bài toán 8 của nhóm 2
Sau khi các nhóm đã nộp phiếu học tập, GV tổng kết lại những cách giải mà cả lớp
đã tìm ra đối với hai bài toán 7 và 8. GV khen ngợi nỗ lực của nhóm 5 khi tăng số khoảng
chia trong việc tính gần đúng và nhóm 2 khi tính được chính xác công bằng cách tìm
nguyên hàm.
189
Cuối buổi TN, GV nhắc lại định nghĩa tích phân và những cách hiểu khác nhau của
nó. GV nhấn mạnh vai trò công cụ mạnh mẽ của khái niệm này trong việc giải quyết
nhiều vấn đề khác nhau của thực tiễn và khoa học, đặc biệt là Vật lí. GV cũng gợi mở
rằng tuỳ theo yêu cầu và ngữ cảnh trong bài toán, những cách hiểu khác nhau về tích
phân có thể được vận dụng linh hoạt.
5.2.7. Kết luận cho thực nghiệm dạy học khái niệm tích phân
Kết quả TN cho thấy, bằng cách tận dụng ngữ cảnh LM và tác động hợp lí lên các
biến DH, chúng tôi đã thiết kế được dãy tình huống học tập có thể mang lại một cách
hiểu đầy đủ hơn về khái niệm tích phân cho HS. Cụ thể thì sau các pha của đồ án, chúng
tôi đã hình thành được trong nhận thức của người học một khung lý thuyết đầy đủ cho
tích phân bao gồm các lớp: phân hoạch, lớp tích, lớp tổng, và những ý tưởng ban đầu về
lớp giới hạn. Nhờ vậy, HS hiểu được bản chất và cấu trúc đầy đủ của khái niệm tích
phân. Hơn nữa, từ việc tìm ra những chiến lược giải khác nhau cho cùng bài toán tính
quãng đường, HS đã thấy được sự tương đương giữa ba cách hiểu tương ứng về tích
phân: theo nguyên hàm, theo diện tích và theo giới hạn tổng Riemann.
Ngoài ra, trong đồ án HS còn được tạo cơ hội vận dụng kiến thức vừa học vào một
số kiểu nhiệm vụ LM Toán – Vật lí. Kết quả cho thấy các em đã vận dụng được kĩ thuật
lập tổng Riemann cả cho một ngữ cảnh vật lí không quen thuộc (bài toán tính công).
Hơn nữa, những em này còn sở hữu một dạng kiến thức “hoạt động” khi sử dụng và kết
nối linh hoạt các cách hiểu về tích phân để giải quyết vấn đề (so sánh quãng đường thông
qua diện tích). Sự thành công của HS với các kiểu nhiệm vụ LM nói trên cho thấy những
lợi ích mà các giải pháp 1, 4, 6, 7, 8 và 9 mang lại trong việc giúp tăng cường vai trò
công cụ của GT và tích phân nói riêng trong Vật lí.
5.3. Kết luận chương 5
Lấy kết quả nghiên cứu ở tất cả các chương trước làm cơ sở, ở chương này chúng
tôi đã vận dụng cách tiếp cận DH theo hướng LM nhằm mang lại nhiều lợi ích hơn cho
hai môn học Toán và Vật lí. Hai đồ án DH đạo hàm và tích phân được xây dựng như
một sự vận dụng các giải pháp sư phạm đã đề xuất ở chương 4. Kết quả TN với hai đồ
án cho thấy HS đã có một kiến thức đầy đủ hơn về đạo hàm và tích phân đặt trong sự
gắn kết giữa các cách hiểu khác nhau về chúng. Đặc biệt, HS nắm bắt được quan niệm
về đạo hàm theo tốc độ biến thiên tức thời và phương pháp lập tổng Riemann ẩn sau
khái niệm tích phân – vốn là những quan niệm hữu ích nhất cho các ứng dụng trong Vật
lí. Nhờ đó, HS có cơ hội hiểu được những ứng dụng ngầm ẩn trước đây của đạo hàm/tích
190
phân trong Vật lí và nhận ra được vai trò công cụ mạnh mẽ của chúng. Ở hoạt động vận
dụng, nhiều HS đã cho thấy khả năng giải quyết thành công các kiểu nhiệm vụ LM với
Vật lí mà đòi hỏi một cách hiểu đầy đủ về khái niệm và sự kết nối linh hoạt giữa chúng.
Những kết quả này là cơ sở để chúng tôi khẳng định tính khả dụng và sự đúng đắn của
giả thuyết nghiên cứu đã đặt ra: “Trong việc tổ chức các hoạt động DH hai khái niệm
đạo hàm và tích phân ở trường THPT, nếu tận dụng được những gắn kết LM và tác động
tương hỗ đến từ kiến thức hai môn học Toán và Vật lí một cách thích hợp thì có thể đem
lại một quan niệm đầy đủ hơn cho HS về các khái niệm đồng thời giúp các em vận dụng
được hiệu quả những kiến thức này vào các vấn đề của Vật lí”.
191
KẾT LUẬN CỦA LUẬN ÁN
Luận án được hoàn thành với mong muốn vượt qua khoảng trống ngăn cách giữa
việc DH Toán và Vật lí ở trường THPT hiện nay từ cách tiếp cận LM liên quan đến hai
khái niệm cơ bản của GT là đạo hàm và tích phân. Với mục đích đem lại nhiều lợi ích
hơn cho cả hai môn học nhờ vào sự hợp tác gắn kết lẫn nhau giữa chúng, nghiên cứu
của chúng tôi về chủ đề DH đạo hàm và tích phân theo quan điểm LM đã thu được một
số kết quả chủ yếu sau đây:
a) Về mặt lí luận
Luận án đã làm rõ thêm một số vấn đề liên quan đến DH LM, các quan niệm, mô
hình, cách tiếp cận và chiến lược cho phép tận dụng sự gắn kết hỗ trợ lẫn nhau giữa hai
môn học Toán và Vật lí. Cụ thể chúng tôi hiểu LM là sự hợp tác giữa các môn học từ cả
phương diện khám phá, tổ chức tri thức cũng như phương pháp tổ chức DH. Chúng tôi
xem xét một số mô hình tích hợp đã có và phân tích những tác động LM có thể thực
hiện trong hoàn cảnh các môn học vẫn được dạy một cách độc lập ở nhà trường. Từ kết
quả phân tích này, luận án đưa ra một cách tiếp cận LM Toán – Vật lí giúp đem đến
nhiều lợi ích nhất trong chừng mực có thể cho từng môn học. Bên cạnh đó, chúng tôi
cũng giới thiệu ba chiến lược DH LM – thiết lập khái niệm cốt lõi, bối cảnh hóa và bài
toán tâm – đồng thời nghiên cứu vận dụng chúng vào trường hợp DH khái niệm đạo
hàm, tích phân trong mối quan hệ LM GT – Vật lí.
Ngoài ra, nghiên cứu của chúng tôi còn làm sáng tỏ các khung lý thuyết chung về
việc hiểu và ứng dụng một khái niệm toán học. Nghiên cứu cho thấy để xây dựng khung
lí thuyết cho một khái niệm cụ thể cần làm rõ các lớp quá trình – đối tượng và sự kết nối
của chúng với những cách hiểu và biểu diễn khác nhau về khái niệm đang xét. Ngoài ra,
mỗi khung lí thuyết còn có thể gắn với các ngữ cảnh khác nhau mà ở đó khái niệm được
nảy sinh. Với khái niệm tích phân, chúng tôi tham khảo một số khung lí thuyết đã có đặt
trong ngữ cảnh hình học và tự xây dựng một khung tương tự cho khái niệm đang nói
nhưng là trong ngữ cảnh vật lí. Khung lí thuyết vừa xây dựng là cơ sở để làm rõ một
cách hiểu đầy đủ về khái niệm toán học đồng thời gợi ra được các tình huống DH thích
hợp theo hướng LM Toán – Vật lí.
Từ quan điểm xem xét LM cả trên phương diện khám phá, tổ chức tri thức cũng
như phương pháp tổ chức DH, luận án nghiên cứu tận dụng mối liên hệ biện chứng giữa
192
nghiên cứu tri thức luận và nghiên cứu thể chế để làm cơ sở cho việc DH đạo hàm và
tích phân theo quan điểm LM. Theo hướng này, chúng tôi vận dụng thuyết nhân học
didactic nhằm làm rõ sự gắn kết LM đã diễn ra trong thể chế tạo ra tri thức và thể chế
DH nó ở trường THPT, xem xét sự chuyển hóa sư phạm, những ràng buộc và nối khớp
cần đảm bảo. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra những đặc trưng LM Toán – Vật lí liên quan
đến khái niệm cần dạy ở phương diện tri thức luận đồng thời gợi ý các cách tận dụng
chúng trong DH. Phương pháp luận nghiên cứu này theo chúng tôi cũng sẽ phù hợp để
tiếp cận DH LM với các đối tượng tri thức khác, đặc biệt là những khái niệm toán học
có nhiều ứng dụng đa dạng trong khoa học và thực tiễn.
Một đóng góp khác của chúng tôi là nghiên cứu cách vận dụng lý thuyết tình huống
để xây dựng các công đoạn DH các tri thức đang đề cập theo hướng tiếp cận LM Toán
– Vật lí. Lợi ích mà việc vận dụng này mang lại là giúp xây dựng các tình huống DH
phỏng theo một tiến trình nhận thức khái niệm phù hợp với những đặc trưng tri thức
luận đã phân tích. Các tình huống nói trên sau đó được chúng tôi phát triển thành hai đồ
án DH khái niệm đạo hàm, tích phân dựa trên cách tiếp cận LM. Phương pháp luận
nghiên cứu của lý thuyết đồ án DH còn là cơ sở để chúng tôi xây dựng TN và kiểm
chứng giả thuyết nghiên cứu dựa trên hợp thức hóa nội tại đã xảy ra.
b) Về mặt thực tiễn
Chúng tôi đề xuất các giải pháp sư phạm giúp tận dụng hiệu quả hơn sự gắn kết LM
Toán – Vật lí trong DH hiểu và ứng dụng hai khái niệm đạo hàm, tích phân. Giải pháp
được chia thành hai nhóm, nhóm một nhằm giúp người học hiểu đầy đủ hơn về đạo
hàm/tích phân, nhóm còn lại nhằm tăng cường vai trò công cụ của các khái niệm này
trong Vật lí. Như đã nói, định hướng nghiên cứu của chúng tôi sẽ còn phù hợp cho những
đối tượng tri thức mà có nhiều ứng dụng đa dạng trong Vật lí nói riêng, khoa học nói
chung. Vì thế, phạm vi của các giải pháp đã đề xuất có thể còn rộng hơn bối cảnh nghiên
cứu của luận án này. Một số giải pháp thậm chí có thể được xem xét để vận dụng vào
DH các tri thức khác theo hướng tiếp cận LM.
Hai đồ án DH khái niệm đạo hàm và tích phân đã được chúng tôi xây dựng nhằm cụ
thể hóa các giải pháp sư phạm đã đề xuất. Kết quả nghiên cứu TN cho thấy hai đồ án
này đã giúp mang lại cách hiểu đầy đủ hơn cho HS về hai tri thức đang nói tới..
Với những kết quả nói trên, chúng tôi mong muốn góp phần đổi mới phương pháp
DH môn Toán ở Việt Nam hiện nay theo hướng tận dụng hiệu quả hơn những lợi ích
mà DH LM có thể mang lại. Nói riêng với DH hai khái niệm đạo hàm và tích phân, kết
193
quả chung của luận án cho thấy những lợi ích thiết thực mà cả hai môn học Toán và Vật
lí nhận được từ chính sự hỗ trợ lẫn nhau giữa chúng.
c) Hướng nghiên cứu mở ra
Nghiên cứu của chúng tôi đã chỉ ra những lợi ích mà cách tiếp cận LM Toán – Vật
lí có thể đem đến cho HS ở hai mặt hiểu và ứng dụng khái niệm từ cả khía cạnh khám
phá tri thức và tổ chức DH. Giáo dục Việt Nam những năm gần đây đang có những bước
đi nhằm bắt kịp xu hướng tích hợp – LM này và điều đó thể hiện phần nào qua việc đổi
mới chương trình và phương pháp DH. Tuy nhiên, để thực hiện được DH Toán theo
quan điểm LM trong tương lai sắp tới thì công tác đào tạo GV có lẽ cần phải đi trước
một bước. Trong quá trình nghiên cứu luận án này, chúng tôi cũng đã tiến hành một TN
nhằm kiểm tra khả năng vận dụng tích phân vào các bài toán với ngữ cảnh vật lí với đối
tượng là các SV trường Đại học Sư phạm năm ba. Vì khuôn khổ của luận án, chúng tôi
trình bày TN này ở phụ lục 4 và kết quả chỉ ra những khó khăn mà các SV sư phạm nói
trên gặp phải khi đối mặt với các kiểu nhiệm vụ LM Toán – Vật lí. Một trong những
nguyên nhân nổi bật đến từ sự thiếu hụt “kiến thức ngữ cảnh” gắn với khái niệm đạo
hàm, tích phân mà họ sở hữu. Các GV tương lai này được học đầy đủ về khái niệm đạo
hàm và tích phân trong ngữ cảnh toán học nhưng lại không có nhiều hiểu biết về các
ứng dụng đa dạng của chúng trong ngữ cảnh ngoài Toán mà nói riêng là Vật lí. Sự thiếu
hụt này gây khó khăn cho GV trong việc tìm tòi thiết kế và sử dụng các ngữ cảnh LM
nhằm giúp cho HS có thể hiểu và ứng dụng tốt hơn tri thức đang nói đến trong nhiều
vấn đề của thực tiễn và khoa học.
Kết quả nói trên mở ra một hướng nghiên cứu mới bàn về công tác đào tạo ở trường
Sư phạm nhằm đáp ứng xu hướng DH đang nói tới. Theo hướng này, chúng ta có thể
nghiên cứu về những khó khăn mà các GV gặp phải trong hoạt động DH LM hay bàn
đến công tác đổi mới chương trình đào tạo tại các trường đại học Sư phạm hiện nay để
vượt qua những khó khăn đó.
194
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
1. Ngô Minh Đức. (2016). Dạy học khái niệm đạo hàm trong mối quan hệ liên môn với
Vật lí. Tạp chí Khoa học Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh, (7 (85)), 41.
2. Ngô Minh Đức. (2017). Quan điểm tích hợp trong dạy học khái niệm tích phân. Tạp
chí Khoa học Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh, 14(4), 20.
3. Ngô Minh Đức. (2017). Xem xét sự chuyển hóa sư phạm khái niệm tích phân trong
sự gắn kết với vật lí ở trường phổ thông Việt Nam. Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế về
Didactic Toán lần thứ 6 (tr.103-112). TP Hồ Chí Minh: NXB ĐHSP TP HCM.
4. Ngô Minh Đức. (2017). Đào tạo giáo viên toán theo định hướng tiếp cận năng lực
người học. Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế về đào tạo, bồi dưỡng giáo viên phổ thông,
cán bộ quản lí cơ sở giáo dục phổ thông và giảng viên sư phạm (tr.366-375). TP
Hồ Chí Minh: NXB ĐHSP TP HCM.
5. Le Thi Hoai Chau & Ngo Minh Duc (2018). La connaissance des futurs enseignants
de mathematiques: Une etude par l’approche interdisciplinaire. Le cas de la
notion d’integrale, Actes de l’EMF 2018, Paris, 22-26 Octobre
6. Le Thi Hoai Chau & Ngo Minh Duc (2019). Training mathematics teachers in
accordance with teaching to integrated math and science through teaching
integration concept. Vietnam Journal of Education, 6, 48-53.
7. Lê Thị Hoài Châu và Ngô Minh Đức. (2019). Dạy học khái niệm tích phân ở trường
phổ thông từ quan điểm liên môn toán – vật lí: một giải pháp giúp vượt qua những
bất cập đặt ra bởi các cách tiếp cận truyền thống. Tạp chí Khoa học Đại học Sư
phạm Hà Nội, 64(9), 106-115. DOI: 10.18173/2354-1075.2019-0116.
8. Le Thi Hoai Chau, Ngo Minh Duc & Duong Huu Tong. (2021). The Teaching of the
Concept of Derivative in High School and Its Relationship with Physics.
Universal Journal of Educational Research, 9, 186-201.
195
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Akkoç, H., Bingolbali, E., & Ozmantar, F. (2008). Investigating the technological
pedagogical content knowledge: A case of derivative at a point. In Proceedings of
the Joint Meeting of the 32nd Conference of the International Group for the
Psychology of Mathematics Education, and the XXX North American
Chapter(Vol. 2, pp. 17-24).
Anderson, L. W., Krathwohl, D. R., Airasian, P. W., Cruikshank, K. A., Mayer, R. E.,
Pintrich, P. R., ... & Wittrock, M. C. (2001). A taxonomy for learning, teaching,
and assessing: A revision of Bloom’s taxonomy of educational objectives,
abridged edition. White Plains, NY: Longman.
Artigue, M. (2000). Didactic engineering and the complexity of learning processes in
classroom situations. In C. Bergsten, G. Dahland, & B. Grevholm (Eds.),
Proceedings of the MADIF 2 Conference (pp. 5–20). Gothenburg: Swedish Society
for Research in Mathematics Education
Artigue, M. (2014). Didactic engineering in mathematics education. Encyclopedia of
mathematics education, 159-162.
Bajracharya, R. R. (2014). Student application of the fundamental theorem of calculus
with graphical representations in mathematics and physics.
Bajracharya, R., & Thompson, J. R. (2014). Student understanding of the fundamental
theorem of calculus at the mathematics-physics interface. Proceedings of the 17th
special interest group of the Mathematical Association of America on research in
undergraduate mathematics education. Denver (CO).
Beichner, R. J. (1994). Testing student interpretation of kinematics graphs. American
journal of Physics, 62(8), 750-762.
Berlin, D. F., & White, A. L. (1992). Report from the NSF/SSMA Wingspread
conference: A network for integrated science and mathematics teaching and
learning. School science and mathematics, 92(6), 340-342.
Berlin, D. F., & White, A. L. (1994). The Berlin‐White integrated science and
mathematics model. School Science and Mathematics, 94(1), 2-4.
196
Berlin, D. F. (2007). Using a Cultural Context to Integrate Mathematics and Science
Education. Proceedings of the Ninth International Conference Mathematics
Education in a Global Community, 84-88.
Bezuidenhout, J. (1998). First‐year university students’ understanding of rate of
change. International Journal of Mathematical Education in Science and
Technology, 29(3), 389-399.
Bezuidenhout, J., & Olivier, A. (2000, July). Students' conceptions of the integral.
In PME CONFERENCE (Vol. 2, pp. 2-73).
Bingolbali, E., Monaghan, J., & Roper, T. (2007). Engineering students’ conceptions of
the derivative and some implications for their mathematical
education. International Journal of Mathematical Education in Science and
Technology, 38(6), 763-777.
Boyer, C. B. (1959). The history of the calculus and its conceptual development:(The
concepts of the calculus). Courier Corporation.
Bosch, M., & Chevallard, Y. (1999). La sensibilité de l'activité mathématique aux
ostensifs: objet d'étude et problématique. Recherches en didactique des
mathématiques (Revue), 19(1), 77-123.
Bressoud, D. M. (2011). Historical reflections on teaching the fundamental theorem of
integral calculus. The American Mathematical Monthly, 118(2), 99-115.
Brousseau, G. (2006). Theory of didactical situations in mathematics: Didactique des
mathématiques, 1970–1990 (Vol. 19). Springer Science & Business Media.
Brousseau, G. (2008). Research in mathematics education. In M. Niss (Ed.),
Proceedings of the 10th international congress on mathematical education (pp.
244–254). IMFUFA: Denmark.
Chevallard, Y. (1985). La transposition didactique. Grenoble. La pensée sauvage.
Chevallard, Y. (1989, August). On didactic transposition theory: Some introductory
notes. In Proceedings of The International Symposium on Selected Domains of
Research and Development in Mathematics Education. Bratislava.
Chevallard, Y. (1992). Fundamental concepts in didactics: perspectives provided by an
anthropological approach. Research in didactique of mathematics: Selected
papers, 131-168.
D’Hainaut, L. (1986, May). Interdisciplinarity in general education. In International
Symposium on Interdisciplinarity in General Education, UNESCO.
197
Doorman, M., & Van Maanen, J. (2008). A historical perspective on teaching and
learning calculus. Australian Senior Mathematics Journal, 22(2), 4.
Douglas, R. G. (1986). Toward a lean and lively calculus: conference/workshop to
develop alternative curriculum and teaching methods for calculus at the college
level, Tulane University, January 2-6, 1986 (Vol. 6). Mathematical Assn of Amer
Drake, S. M., & Burns, R. C. (2004). Meeting standards through integrated curriculum.
ASCD.
Drake, S. M. (2007). Creating Standards-Based Integrated Curriculum: Aligning
Curriculum, Content, Assessment, and Instruction. Corwin Press, A SAGE
Publications Company. 2455 Teller Road, Thousand Oaks, CA 91320.
Dray, T., Edwards, B., & Manogue, C. A. (2008, July). Bridging the gap between
mathematics and physics. In Proceedings of the 11th International Congress on
Mathematics Education.
Duval, R. (2006). A cognitive analysis of problems of comprehension in a learning of
mathematics. Educational studies in mathematics, 61(1-2), 103-131.
Đỗ Hương Trà. (2015). Nghiên cứu dạy học tích hợp liên môn: những yêu cầu đặt ra
trong việc xây dựng, lựa chọn nội dung và tổ chức dạy học. VNU Journal of
Science: Education Research, 31(1).
Education Development Center. (1970). Final report of Cambridge Conference on
School Mathematics, January 1962 – August 1970. Cambridge, MA: Author.
Edwards, C. J. (2012). The historical development of the calculus. Springer Science &
Business Media.
Eves, H. W. (1976). An introduction to the history of mathematics.
Fauconnier, G. T., & Turner, M. (2002). M.(2002) The way we think: conceptual
blending and the mind’s hidden complexities.
Ferrini-Mundy, J., & Graham, K. (1994). Research in calculus learning: Understanding
of limits, derivatives, and integrals. MAA notes, 31-46.
Fikhtengol'ts, G. M. (1965). The fundamentals of mathematical analysis. Elsevier.
Pergamon Press.
Firouzian, S. S. (2013). Students’ way of thinking about derivative and its correlation to
their ways of solving applied problems. In Proceedings of the 16th Annual
conference on research in undergraduate mathematics Education (pp. 492-497).
198
Firouzian, S., & Speer, N. (2015). Integrated mathematics and science knowledge for
teaching framework. In Proceedings of the Proceedings of the 18th conference on
Research in Undergraduate Mathematics Education.
Frykholm, J., & Glasson, G. (2005). Connecting science and mathematics instruction:
Pedagogical context knowledge for teachers. School Science and
Mathematics, 105(3), 127-141.
González-Martín, A. S., Bloch, I., Durand-Guerrier, V., & Maschietto, M. (2014).
Didactic Situations and Didactical Engineering in university mathematics: cases
from the study of Calculus and proof. Research in Mathematics Education, 16(2),
117-134.
Grabiner, J. V. (1983). The changing concept of change: The derivative from Fermat to
Weierstrass. Mathematics Magazine, 56(4), 195-206.
Gravemeijer, K., & Doorman, M. (1999). Context problems in realistic mathematics
education: A calculus course as an example. Educational studies in
mathematics, 39(1-3), 111-129.
Habineza, F. (2013). A case study of analyzing student teachers’ concept images of the
definite integral. Rwandan Journal of Education, 1(2), 38-54.
Hammer, D. (2000). Student resources for learning introductory physics. American
Journal of Physics, 68(S1), S52-S59.
Hiebert, J., & Lefevre, P. (1986). Conceptual and procedural knowledge in mathematics:
An introductory analysis. Conceptual and procedural knowledge: The case of
mathematics, 2, 1-27.
Hiebert, J., & Carpenter, T. P. (1992). Learning and teaching with
understanding. Handbook of research on mathematics teaching and learning: A
project of the National Council of Teachers of Mathematics, 65-97.
Huntley, M. A. (1998). Theoretical and Empirical Investigations of Integrated
Mathematics and Science Education in the Middle Grades.
Hurley, M. M. (2001). Reviewing integrated science and mathematics: The search for
evidence and definitions from new perspectives. School science and
mathematics, 101(5), 259-268.
Jacobs, H. H. (1989). Interdisciplinary curriculum: Design and implementation.
Association for Supervision and Curriculum Development, 1250 N. Pitt Street,
Alexandria, VA 22314.
199
Jones, S. R. (2010). Applying Mathematics to Physics and Engineering: Symbolic
Forms of the Integral (Doctoral dissertation).
Jones, S. R. (2015a). Areas, anti-derivatives, and adding up pieces: Definite integrals in
pure mathematics and applied science contexts. The Journal of Mathematical
Behavior, 38, 9-28.
Jones, S. R. (2015b). The prevalence of area-under-a-curve and anti-derivative
conceptions over Riemann sum-based conceptions in students’ explanations of
definite integrals. International Journal of Mathematical Education in Science and
Technology, 46(5), 721-736.
Jones, S. R. (2017). An exploratory study on student understandings of derivatives in
real-world, non-kinematics contexts. The Journal of Mathematical Behavior, 45,
95-110.
Jones, S. R., Lim, Y., & Chandler, K. R. (2017). Teaching integration: How certain
instructional moves may undermine the potential conceptual value of the Riemann
sum and the Riemann integral. International Journal of Science and Mathematics
Education, 15(6), 1075-1095.
Kaput, J. (1994). Democratizing access to calculus: New routes to old
roots. Mathematical thinking and problem solving, 77-156.
Katz,V. J. (2000). Using history to teach mathematics: An international
perspective (Vol. 51). Cambridge University Press.
Kendal, M., & Stacey, K. (2003). Tracing learning of three representations with the
differentiation competency framework. Mathematics Education Research
Journal, 15(1), 22-41.
Kleiner, I. (2001). History of the infinitely small and the infinitely large in
calculus. Educational Studies in Mathematics, 48(2-3), 137-174.
Kouropatov, A., & Dreyfus, T. (2013). Constructing the integral concept on the basis of
the idea of accumulation: suggestion for a high school curriculum. International
Journal of Mathematical Education in Science and Technology, 44(5), 641-651.
Lê Thị Bạch Liên., & Trần Kiêm Minh. (2020). Kiến thức nội dung sư phạm của giáo
viên toán tương lai ở việt nam khi dạy học chủ đề đạo hàm. Tạp chí Khoa học Đại
học Sư phạm TP Hồ Chí Minh, 17(8), 1410.
Lê Thị Hoài Châu., & Trần Thị Mỹ Dung. (2004). Phép tính tích phân và vi phân trong
lịch sử. Tạp chí Khoa học Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh, (4), 14.
200
Lê Thị Hoài Châu. (2004). Khai thác lịch sử Toán trong dạy học khái niệm tích phân.
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh, (2), 37-45.
Lê Thị Hoài Châu. (2014). Mô hình hóa trong dạy học khái niệm đạo hàm. Tạp chí Khoa
học Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh, (65), 5-18.
Lê Thị Hoài Châu. (2017). Kỉ yếu Hội thảo Quốc tế về Didactic Toán lần thứ 6. Sự cần
thiết của phân tích tri thức luận đối với các nghiên cứu về hoạt động dạy học và
đào tạo giáo viên (tr.17-38). TP Hồ Chí Minh: NXB ĐHSP TP HCM.
Lê Thị Hoài Châu. (2018). Thuyết nhân học trong Didactic Toán. TP Hồ Chí Minh:
NXB Đại học Sư phạm TP HCM.
Lê Thị Hoài Châu., & Ngô Minh Đức. (2019). Training mathematics teachers in
accordance with teaching to integrated math and science through teaching
integration concept. Vietnam Journal of Education, 6, 48-53.
Loepp, F. L. (1999). Models of curriculum integration. The journal of technology
studies, 25(2), 21-25.
Lonning, R. A., & DeFranco, T. C. (1997). Integration of science and mathematics: A
theoretical model. School science and mathematics, 97(4), 212-215.
Mathison, S., & Freeman, M. (1998). The Logic of Interdisciplinary Studies. Report
Series 2.33.
Marrongelle, K. A. (2001). Physics experiences and calculus: How students use physics
to construct meaningful conceptualizations of calculus concepts in an
interdisciplinary calculus/physics course.
Marrongelle, K. A. (2004). How students use physics to reason about calculus
tasks. School Science and Mathematics, 104(6), 258-272.
Marrongelle, K. (2010, March). The role of physics in students’ conceptualization of
calculus concepts: Implications of research on teaching practice. In 2nd
International Conference on the Teaching of Mathematics.
Meredith, D. C., & Marrongelle, K. A. (2008). How students use mathematical resources
in an electrostatics context. American Journal of Physics, 76(6), 570-578.
National Council of Teachers of Mathematics (Ed.). (2000). Principles and standards
for school mathematics (Vol. 1). National Council of Teachers of.
Ngô Minh Đức. (2013). Khái niệm đạo hàm trong dạy học Toán và Vật lí ở trường phổ
thông (Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh).
201
Ngô Minh Đức. (2016). Dạy học khái niệm đạo hàm trong mối quan hệ liên môn với
Vật lí. Tạp chí Khoa học Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh, (7 (85)), 41.
Ngô Minh Đức. (2017). Quan điểm tích hợp trong dạy học khái niệm tích phân. Tạp chí
Khoa học Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh, 14(4), 20-28.
Ngô Minh Đức. (2017). Xem xét sự chuyển hóa sư phạm khái niệm tích phân trong sự
gắn kết với vật lí ở trường phổ thông Việt Nam. Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế về
Didactic Toán lần thứ 6 (tr.103-112). TP Hồ Chí Minh: NXB ĐHSP TP HCM.
Nguyen, D. H., & Rebello, N. S. (2011). Students’ understanding and application of the
area under the curve concept in physics problems. Physical Review Special Topics-
Physics Education Research, 7(1), 010112
Nguyễn Phú Lộc. (2006). Nâng cao hiệu quả dạy học môn Giải tích trong nhà trường
trung học phổ thông theo hướng tiếp cận một số vấn đề của phương pháp luận
toán học. Luận án Tiến sĩ khoa học giáo dục. Trường đại học Vinh.
Nguyễn Thế Sơn. (2017). Xây dựng chủ đề tích hợp trong dạy học môn toán ở trường
trung học phổ thông. Luận án Tiến sĩ khoa học giáo dục. Viện khoa học giáo dục
Việt Nam.
Nguyễn Thị Hà. (2016). Tích hợp Toán học trong việc hướng dẫn học sinh giải bài tập
Di truyền (Sinh học 12). Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, 32(1), 68-
72.
Nguyễn Thị Nga. (2018). Sự liên môn Toán – Vật lí trong dạy học chủ đề vectơ ở trường
phổ thông: Nghiên cứu quan hệ cá nhân của giáo viên Toán và Vật lí. Tạp chí Khoa
học Trường Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh, 15(1), 40-47.
Nikitina, S., & Mansilla, V. B. (2003). Three strategies for interdisciplinary math and
science teaching: A case of the Illinois Mathematics and Science
Academy. Project Zero, Havard Graduate School of Education-Interdiciplinary
Studies Project, 1-21.
López-Gay, R., Sáez, J. M., & Torregrosa, J. M. (2015). Obstacles to mathematization
in physics: The case of the differential. Science & Education, 24(5-6), 591-613.
Oliveira, A. R. E. (2014). A History of the Work Concept. Springer.
Orton, A. (1983a Students' understanding of differentiation. Educational studies in
mathematics, 14(3), 235-250.
Orton, A. (1983b). Students' understanding of integration. Educational studies in
mathematics, 14(1), 1-18.
202
Pape, S. J., & Tchoshanov, M. A. (2001). The role of representation (s) in developing
mathematical understanding. Theory into practice, 40(2), 118-127.
Perkins, D. (2012). Calculus and its origins. MAA.
Phạm Sĩ Nam. (2013). Nâng cao hiệu quả dạy học một số khái niệm giải tích cho học
sinh trung học phổ thông chuyên Toán trên cơ sở vận dụng lý thuyết kiến tạo. Luận
án Tiến sĩ khoa học giáo dục. Trường đại học Vinh.
Piaget, J., & Cook, M. (1952). The origins of intelligence in children (Vol. 8, No. 5, p.
18). New York: International Universities Press.
Roegiers, X. (2001). Une pédagogie de l'intégration: compétences et intégration des
acquis dans l'enseignement. De Boeck Supérieur.
Roundy, D., Dray, T., Manogue, C. A., Wagner, J. F., & Weber, E. (2014). An extended
theoretical framework for the concept of derivative. In Proceedings of the 18th
Annual Conference on Research in Undergraduate Mathematics Education (pp.
838-843).
Sahin, Z., Yenmez, A. A., & Erbas, A. K. (2015). Relational Understanding of the
Derivative Concept through Mathematical Modeling: A Case Study. Eurasia
Journal of Mathematics, Science & Technology Education, 11(1).
Stillwell, J. (2002). Mathematics and its History. The Australian Mathem. Soc, 168.
Tall, D., & Vinner, S. (1981). Concept image and concept definition in mathematics
with particular reference to limits and continuity. Educational studies in
mathematics, 12(2), 151-169.
Tall, D. (Ed.). (1991). Advanced mathematical thinking (Vol. 11). Springer Science &
Business Media.
Tall, D. (1993). Students’ difficulties in calculus. In proceedings of working group (Vol.
3, pp. 13-28).
Thompson, P. W. (1994a). The development of the concept of speed and its relationship
to concepts of rate. The development of multiplicative reasoning in the learning of
mathematics, 179-234.
Thompson, P. W. (1994b). Images of rate and operational understanding of the
fundamental theorem of calculus. Educational studies in mathematics, 26(2-3),
229-274.
203
Thompson, P. W., & Silverman, J. (2008). The concept of accumulation in
calculus. Making the connection: Research and teaching in undergraduate
mathematics, 73, 43-52.
Turner, E. E., Wilhelm, J., & Confrey, J. (2000). Exploring Rate of Change through
Technology with Elementary Students.
Rasslan, S., & Tall, D. (2002). Definitions and images for the definite integral concept.
In PME CONFERENCE (Vol. 4, pp. 4-089).
Rebello, N. S., Cui, L., Bennett, A. G., Zollman, D. A., & Ozimek, D. J. (2007). Transfer
of learning in problem solving in the context of mathematics and physics. Learning
to solve complex scientific problems, 223-246.
Redish, E. F. (2006). Problem solving and the use of math in physics courses. arXiv
preprint physics/0608268.
Redish, E. F., Steinberg, R. N., & Saul, J. M. (1996). Student difficulties with math in
physics: Giving meaning to symbols. AAPT Announcer, 26(2), 70.
Stahl, S. (2012). Real analysis: a historical approach. John Wiley & Sons.
Sealey, V. (2006). Definite integrals, Riemann sums, and area under a curve: What is
necessary and sufficient. In Proceedings of the 28th annual meeting of the North
American Chapter of the International Group for the Psychology of Mathematics
Education (Vol. 2, No. 1991, pp. 46-53).
Sealey, V. (2014). A framework for characterizing student understanding of Riemann
sums and definite integrals. The Journal of Mathematical Behavior, 33, 230-245.
Sfard, A. (1991). On the dual nature of mathematical conceptions: Reflections on
processes and objects as different sides of the same coin. Educational studies in
mathematics, 22(1), 1-36.
Stewart, J. (2012). Essential calculus: Early transcendentals. Cengage Learning.
Törner, G., Potari, D., & Zachariades, T. (2014). Calculus in European classrooms:
curriculum and teaching in different educational and cultural
contexts. ZDM, 46(4), 549-560.
Trần Anh Dũng. (2013). Dạy học hàm số liên tục ở trường trung học phổ thông.
Luận án Tiến sĩ khoa học giáo dục. Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí
Minh.
204
Trần Văn Học. (2018). Nghiên cứu một phần thực trạng dạy học toán theo quan điểm
liên môn: trường hợp khái niệm tích phân. Tạp chí Khoa học Đại học Sư phạm TP
Hồ Chí Minh, 15(10), 145-158.
Trịnh Thị Bách Tuyết. (2016). Dạy học giải tích ở trường trung học phổ thông theo
hướng bồi dưỡng năng lực giải quyết vấn đề thông qua trang bị một số thủ pháp
hoạt động nhận thức cho học sinh. Luận án Tiến sĩ khoa học giáo dục. Viện khoa
học giáo dục Việt Nam.
Weber, E., Tallman, M., Byerley, C., & Thompson, P. W. (2012). Introducing derivative
via the calculus triangle. Mathematics Teacher, 104(4), 274-278.
White, P., & Mitchelmore, M. (1996). Conceptual knowledge in introductory
calculus. Journal for Research in Mathematics Education, 27, 79-95.
Zandieh, M. (2000). A theoretical framework for analyzing student understanding of the
concept of derivative. CBMS Issues in Mathematics Education, 8, 103-127.
PL1
PHỤ LỤC 1
MỘT SỐ MINH HỌA BỔ SUNG CHO NGHIÊN CỨU VỀ MỐI QUAN HỆ
GẮN KẾT GIẢI TÍCH – VẬT LÍ Ở CHƯƠNG 2
1. Archimedes xác định thể tích hình cầu bằng phương pháp “cơ học”
Dựa trên các công thức đã biết về thể tích hình trụ và hình nón, Archimedes xây
dựng được công thức tính thể tích hình cầu dựa trên ý tưởng lập tổng các “lát cắt nhỏ”
và nguyên lí cân bằng moment ở hai đầu đòn bẩy. Chúng tôi trình bày ở đây phương
pháp ông đã thực hiện trong đó có sự tác động ngầm ẩn của tư tưởng tích phân và sự hỗ trợ từ các nguyên lí của Cơ học23.
Trong hình bên, ta quay lần lượt hình chữ
nhật ABNS, tam giác NCS và một nửa đường
tròn đường kính NS quanh trục x (trùng với
đường thẳng NS và nhận N làm gốc) để nhận
được tương ứng một hình trụ, hình nón và hình
cầu. Cắt ba hình khối đó thành những lát mỏng
và xem chúng (gần đúng) như những hình trụ
dẹt cách N một đoạn bằng x và có độ dày (chiều
cao) là . Thể tích của các lát mỏng của hình
cầu, hình trụ và hình nón này lần lượt xấp xỉ bằng: .
Archimedes đặt hai lát cắt hình cầu và hình nón tại điểm T trên trục x cách N
một đoạn và vẫn để lát cắt của hình trụ ở chỗ cũ. Với cách sắp đặt này ông
thấy rằng tổng moment của hai lát cắt cầu và nón bằng bốn lần moment của lát cắt
hình trụ. Thật vậy:
Cộng tất cả các lát cắt này lại với nhau (đối với hình trụ thì tổng các sẽ bằng
) ta được: 2𝑟. (𝑉𝑐ầ𝑢 + 𝑉𝑛ó𝑛) = 4𝑟. 𝑉𝑡𝑟ụ.
4
Vì thể tích hình trụ và hình nón đã biết từ trước nên Archimedes suy ra được
3
𝜋𝑟3. công thức tính thể tích hình cầu là: 𝑉𝑐ầ𝑢 =
2. Stevin xác định trọng tâm tam giác bằng phương pháp “vét kiệt”
23 Tham khảo từ Eves (1976), tr. 383-385.
PL2
Simon Stevin (1548 – 1620) sử dụng phương pháp chia nhỏ thành các hình
nguyên tố của Archimedes trong các công trình về xác định trọng tâm vật rắn. Để
minh họa phương pháp của Stevin, chúng tôi trình bày ở đây cách mà ông đã thực hiện để xác định trọng tâm của một hình đơn giản, tam giác24.
Stevin vẽ các đường song song với đáy BG
và với trung tuyến AD của tam giác ABG để tạo
ra các dải hình bình hành như hình vẽ ở bên.
Theo kết quả đã biết từ trước thì trọng tâm của
mỗi hình bình hành đều nằm trên đường nối
trung điểm của hai cạnh đối, vì thế sẽ thuộc cạnh
AD. Như vậy hình tạo bởi hợp tất cả các dải
hình bình hành này ghép lại cũng có trọng tâm
nằm trên AD. Thực hiện liên tiếp việc tạo ra các dải hình bình hành mới mỏng hơn,
hình tổng hợp của chúng sẽ càng ngày càng phủ kín tam giác ABG và hơn nữa trọng
tâm của nó vẫn nằm trên AD. Vì quá trình này có thể thực hiện liên tục đến vô hạn,
Stevin kết luận rằng trọng tâm của tam giác ABG sẽ nằm trên đường trung tuyến AD.
Ông cố gắng tránh việc hai lần đưa đến vô lí (chứng minh phản chứng) của phương
pháp vét kiệt bằng cách trực tiếp cho qua giới hạn, và từ đó thu được những kết quả
hợp lí.
3. Phương pháp đồ thị để mô tả sự phân bố nhiệt độ của Oresme
Nichole Oresme (Thế kỉ 14) phát minh ra phương pháp đồ thị để mô tả một sự
biến thiên liên tục bằng cách biểu diễn giá trị của đại lượng tại mỗi điểm bằng một
đoạn thẳng (hoặc dải hình chữ nhật mỏng) vuông góc với trục ngang. Biểu diễn đồ
thị nói trên còn cho phép Oresme tìm ra một cách thức mới để xác định tổng lượng
thay đổi trong một biến đổi liên tục: đó là diện tích của hình giới hạn bởi đồ thị. Dưới
đây là cách mà Oresme dùng để diễn đạt sự phân bố nhiệt trên một cái xà:
24 Tham khảo từ Boyer (1959), tr. 99-100.
Nghĩ về một đường thẳng dọc theo cái xà và tưởng tượng tại mỗi điểm trên đường thẳng
này, nhiệt độ tại mỗi vị trí trên xà biểu diễn bằng
một đoạn thẳng vuông góc với xà. Chiều dài của
các đoạn thẳng thể hiện nhiệt độ tại các điểm trên
xà. Những đoạn thẳng vuông góc này tạo thành
một hình dạng hình học phẳng. Hình dạng này
biểu thị sự phân bố của nhiệt và diện tích của
PL3
miền đó là độ đo cho tổng lượng nhiệt của xà.
Một nhiệt độ không đổi được biểu diễn bằng
một hình chữ nhật, trong lúc đó một sự biến đổi
đều từ thấp lên cao được biểu diễn bởi một hình
Oresme mô tả sự biến thiên bằng đồ thị rời rạc
tam giác (hoặc hình thang). (trích theo Doorman và VanMaanen, 2008, tr. 6) 4. Phương pháp xác định quãng đường rơi tự do của Beeckman và Galileo25
Năm 1618, Isaac Beeckman đã sử dụng tư tưởng chia nhỏ của Archimedes và
phương pháp đồ thị hóa chuyển động của
Oresme để thiết lập mối quan hệ giữa quãng
đường rơi tự do và thời gian. Ông xấp xỉ một
lực liên tục bằng những lực gián đoạn giống
như những cái “giật ngắn” kéo vật rơi xuống.
Sau mỗi khoảng thời gian 𝑡, một cái giật như
vậy làm tăng vận tốc lên bởi một lượng không
đổi 𝑔. Quá trình này được hình dung bằng
diện tích của các thanh tương ứng.
Khi chiều dài của khoảng thời gian 𝑡 tiến Lập luận của Beeckman về quãng đường rơi tự do
dần đến 0, các quãng đường đi được trong
tổng thời gian 𝑂𝐴1 và 𝑂𝐴2 được biểu diễn bởi diện tích tam giác 𝑂𝐴1𝐵1 và 𝑂𝐴2𝐵2. Tỉ lệ hai diện tích này bằng với tỉ lệ diện tích hai hình vuông có cạnh lần lượt là 𝑂𝐴1 và 𝑂𝐴2, từ đó suy ra quãng đường tỉ lệ với bình phương khoảng thời gian đi được. Chúng ta có thể gom mối quan hệ giữa thời gian và quãng đường đi trong một phương trình: 𝑠(𝑡) = 𝑐. 𝑡2. Như vậy, Beeckman đã sử dụng một sự xấp xỉ rời rạc về diện tích
tương tự như cách mà Stevin đã dùng để xác định trọng tâm.
25 Tham khảo từ Doorman & Van Maanen, 2008, tr. 7-8.
PL4
Galileo cũng thông báo một kết quả tương tự như của Beeckman (độ dời của một vật rơi tự do từ trạng thái nghỉ 𝑡 = 0 thì tỉ lệ với 𝑡2) trong một bức thư gửi đi năm
1604. Galileo không chỉ giải thích được mối quan hệ bậc hai này từ phương pháp đồ
thị mà còn tìm ra cách kiểm tra nó bằng TN. Galileo lập luận rằng chuyển động rơi
tự do thì tương tự với chuyển động của một vật lăn xuống theo một mặt phẳng nghiêng
(theo dạng của các tỉ lệ), nhờ đó chuyển động có thể bị làm chậm đi và sẽ dễ dàng
nghiên cứu bằng TN. Galileo thiết kế một đường trượt theo mặt phẳng nghiêng với
các đinh gắn trên đoạn đường chuyển động sao cho quãng đường giữa các đinh tỉ lệ
với các số lẻ liên tiếp (1,3,5,7,…). Bằng TN, Galileo phát hiện ra rằng một quả bóng
lăn sẽ cần một lượng thời gian giống như nhau để vượt qua mỗi cái đinh. Từ đó suy
ra các quãng đường đi được sau mỗi giây sẽ tỉ lệ lần lượt với các số lẻ liên tiếp: 1, 3,
5, 7,... Mặt khác, bởi vì tổng các số lẻ liên tiếp lại là một bình phương: 1 + 3 + 5 + ⋯ + (2𝑡 − 1) = 𝑡2, cho nên quãng đường sẽ tỉ lệ với bình phương của thời gian
chuyển động. Hơn nữa, bằng cách kết hợp một vận tốc theo chiều đứng tăng đều với
một vận tốc theo chiều ngang không đổi, Galileo (1638) lần đầu tiên thu được quỹ
đạo đúng cho viên đạn bắn ra đó là đường parabol.
5. Phương pháp động học để tìm tiếp tuyến Parabol
của Torricelli
Torricelli đã phát hiện ra mối quan hệ giữa hai cặp
bài toán: vận tốc – quãng đường trong Vật lí và tiếp tuyến
– diện tích trong Hình học. Dưới đây là minh họa phương
pháp động học mà Torricelli sử dụng để xác định tiếp tuyến của đường Parabol26. Giả sử rằng một điểm có vị
trí ban đầu tại O và cùng lúc tham gia hai chuyển động:
rơi tự do với gia tốc 𝑔 (vận tốc là 𝑔𝑡, với 𝑡 là thời gian)
và chuyển động theo phương ngang với vận tốc không
đổi 𝑢. Chúng ta có: . Loại trừ 𝑡 từ hai
phương trình ta được , cho nên quỹ đạo của điểm là một parabol. Tỉ số
26 Tham khảo từ Fikhtengol'ts (1965), tr. 459-460.
PL5
giữa vận tốc theo phương dọc và theo phương ngang là: . Gọi T là giao
điểm của tiếp tuyến tại M với trục Ox, vì tam giác TPM đồng dạng với tam giác tạo
bởi hai vận tỉ lệ đồng dạng ta có: tốc 𝑔𝑡 và 𝑢. Lập
Từ mối quan hệ này, chúng ta xác
định được điểm T, nghĩa là xác định được tiếp tuyến TM của parabol tại điểm M.
6. Chứng minh định luật đảo ngược bình phương của Newton bằng vi phân
Định luật đảo ngược bình phương nói rằng các vật hút nhau bởi một lực tỉ lệ
thuận với tích hai khối lượng và tỉ lệ nghịch với bình phương khoảng cách giữa chúng.
Để rút ra định luật này, Newton xem xét lực hút giữa mặt trời với các hành tinh và
mối quan hệ của nó với quỹ đạo chuyển động. Để đơn giản, ổng xét trường hợp quỹ
đạo là một đường tròn. Trong trường hợp này, ta biết rằng hành tinh chuyển động với
tốc độ không đổi theo hướng tiếp tuyến. Giả sử bán kính của quỹ đạo là r và tốc độ
theo hướng tiếp tuyến là v(r). Định luật 2 Newton nói rằng lực tác động bởi mặt trời
thì tỉ lệ với gia tốc của hành tinh hướng về phía mặt trời, vì thế chúng ta cần đi tìm
gia tốc hướng về tâm của đường
tròn. Newton đã sử dụng vi phân để
giải quyết vấn đề này:
Xét 2 điểm rất gần nhau trên
quỹ đạo tròn có vận tốc là 𝑣1 và 𝑣2. Số gia hai vận tốc này dv, sẽ có độ
lớn là khi và có
hướng vuông góc với cả 𝑣1và 𝑣2, suy ra gia tốc này sẽ hướng về tâm Xác định gia tốc của một hành tinh trên
của đường tròn. quỹ đạo của nó
Gia tốc của các hành tinh sẽ là
. Mặt khác .
PL6
Từ đó suy ra gia tốc: . Bởi vì chu vi quỹ đạo là nên chu kì quay của
hành tinh sẽ là: . Tuy nhiên theo định luật thứ ba mà Kepler đã tìm ra thì chu kì
này bằng , với C là một hằng số nào đó. Suy ra: , C’
là một hằng số khác. Từ đây gia tốc sẽ là , mà theo định luật hai của
Newton thì lực sẽ bằng tích khối lượng với gia tốc và sẽ bằng: . Tức là tỉ lệ
nghịch với bình phương khoảng cách và hướng về phía mặt trời.
PL7
PHỤ LỤC 2
PHIẾU HỌC TẬP Ở CÁC PHA CỦA ĐỒ ÁN DẠY HỌC ĐẠO HÀM
PHIẾU HỌC TẬP PHA 1
Tên nhóm:………………….. Bài toán 1. Một bình nuôi cấy vi sinh vật được giữ ở nhiệt độ 00𝐶. Tại thời điểm 𝑡 =
0 người ta cung cấp nhiệt cho nó. Nhiệt độ của bình bắt đầu tăng lên và trong khoảng thời gian đầu được ước tính bởi hàm số sau: 𝑓(𝑡) = (𝑡 − 1)3 + 1. Trong đó 𝑓(𝑡) (đơn
vị độ C) là nhiệt độ của bình nuôi cấy ở thời điểm 𝑡 giây.
a. Tính tốc độ tăng nhiệt độ trung bình của bình nuôi cấy trên trong khoảng thời
gian từ thời điểm 𝑡0 = 0,5 giây đến thời điểm 𝑡 sau đó 1 giây (∆𝑡 = 𝑡 − 𝑡0 = 1). b. Tính tốc độ tăng nhiệt độ trung bình của bình nuôi cấy trong khoảng thời gian
từ thời điểm 𝑡0′ = 1,25 đến thời điểm 𝑡′ sau đó 1 giây (∆𝑡′ = 𝑡′ − 𝑡0′ = 1). c. Tại hai thời điểm 𝑡0 = 0,5 và 𝑡0′ = 1,25 , theo dự đoán của em thời điểm nào nhiệt độ của bình nuôi cấy tăng nhanh hơn?
PL8
PHIẾU HỌC TẬP PHA 2
Tên nhóm:…………………..
Bài toán 1’. Cho biết hàm số nhiệt độ 𝑓(𝑡) có đồ thị như hình bên trái dưới đây:
Bên phải là hình ảnh phóng to đồ thị hàm số 𝑓(𝑡) tại hai thời điểm 𝑡0 = 0,5 và 𝑡0′ = 1,25. Quan sát và trả lời lại câu hỏi: Tại hai thời điểm 𝑡0 = 0,5 và 𝑡0′ = 1,25 , thời điểm nào nhiệt độ của bình nuôi cấy tăng nhanh hơn? Giải thích câu trả lời.
PHIẾU HỌC TẬP PHA 3
Tên nhóm:…………………..
Bài toán 2. Với thông tin đã cho từ bài toán 1: Hàm số nhiệt độ của bình nuôi cấy theo thời gian được cho bởi: 𝑓(𝑡) = (𝑡 − 1)3 + 1
Em hay tìm một khoảng thời gian ∆𝑡 sau thời điểm 𝑡0 = 0,5 và một khoảng thời gian ∆𝑡′ sau thời điểm 𝑡0′ = 1,25 để tốc độ tăng nhiệt độ trung bình trong khoảng thời gian thứ nhất sẽ trở nên lớn hơn trong khoảng thời gian thứ hai (thay vì nhỏ hơn như khi ta chọn ∆𝑡 = ∆𝑡′ = 1 ở bài toán 1)?
PL9
PHIẾU HỌC TẬP PHA 5
Tên nhóm:…………………..
Bài toán 3.
a. Tính tốc độ tăng nhiệt độ trung bình của bình nuôi cấy trong khoảng thời gian từ
thời điểm 𝑡0 = 0,5 đến thời điểm 𝑡 = 0,5 + ∆𝑡 (kết quả tính toán phụ thuộc vào ∆𝑡). b. Tính tốc độ tăng nhiệt độ tức thời tại thời điểm 𝑡0 = 0,5 nói trên.
PHIẾU HỌC TẬP PHA 7
Tên nhóm:…………………..
a. Gọi hàm số biểu diễn vận tốc và gia tốc theo thời gian lần lượt là: 𝑣(𝑡) và 𝑎(𝑡).
Trong SGK Vật lí lớp 10 ta biết rằng tốc độ biến thiên tức thời của vận tốc theo thời
gian chính là gia tốc. Gia tốc đặc trưng cho mức độ biến thiên nhanh chậm của vận
tốc. Bên cạnh đó, để tính độ lớn của gia tốc tức thời SGK Vật lí lớp 10 đưa ra công
thức sau đây: , với ∆𝑡 rất nhỏ.
Theo em, để tính được chính xác gia tốc tức thời tại một thời điểm thì công thức
đúng phải là gì? Giải thích đề xuất của mình bằng ít nhất hai lí lẽ khác nhau.
b. Phát biểu sau được trích dẫn trong bài “Định luật Fa-ra-đây về cảm ứng điện từ”
SGK Vật lí 11 NC (tr.186)
“…độ lớn của suất điện động cảm ứng trong mạch kín tỉ lệ với tốc độ biến thiên
của từ thông qua mạch… Nếu trong khoảng thời gian ∆𝑡 đủ nhỏ, từ thông qua mạch
biến thiên một lượng thì là tốc độ biến thiên của từ thông.
SGK Vật lí lớp 11 đưa ra công thức tính độ lớn suất điện động cảm ứng như sau:
, với ∆𝑡 đủ nhỏ. Nếu tính đến dấu của 𝑒𝑐 (theo định luật Len-xơ) thì công
thức xác định suất điện động cảm ứng tại một thời điểm được viết dưới dạng sau:
, với ∆𝑡 đủ nhỏ.
PL10
Theo em, công thức trên đã giúp xác định chính xác suất điện động cảm ứng tại
mỗi thời điểm hay chưa? Hãy đưa ra một công thức có thể xác định chính xác suất
điện động tức thời nói trên. Giải thích đề xuất của mình bằng ít nhất hai lí lẽ khác
nhau.
c. Trong bài hiện tượng “Tự cảm”, SGK Vật lí 11 cơ bản phát biểu định luật về suất
điện động tự cảm xuất hiện trong mạch như sau:
“Suất điện động tự cảm có độ lớn tỉ lệ với tốc độ biến thiên của cường độ dòng điện
trong mạch” (tr. 156)
Theo đó, suất điện động tự cảm được xác định bởi công thức sau đây:
, với 𝐿 là độ tự cảm và ∆𝑡 rất nhỏ.
Theo em, để tính được chính xác suất điện động tự cảm tại một thời điểm thì
công thức đúng phải là gì? Giải thích đề xuất của mình bằng ít nhất hai lí lẽ khác
nhau.
PL11
PHỤ LỤC 3
PHIẾU HỌC TẬP Ở CÁC PHA CỦA ĐỒ ÁN DẠY HỌC TÍCH PHÂN
PHIẾU HỌC TẬP PHA 1
Tên nhóm:…………………..
Bài toán 1. Một vật chuyển động thẳng trong đó quãng đường 𝑠 (cm) đi được tại thời
(coi là thời điểm bắt đầu điểm 𝑡 (giây) được xác định bởi hàm số
chuyển động). Tính vận tốc của vật tại thời điểm giây, giây?
PHIẾU HỌC TẬP PHA 1’
Tên nhóm:…………………..
Bài toán 2. Một vật bắt đầu chuyển động theo đường thẳng từ thời điểm , vận
(cm/s). tốc của vật tại thời điểm 𝑡 được xác định bởi hàm số:
a. Tính quãng đường vật đi được kể từ lúc bắt đầu chuyển động cho đến thời điểm
giây.
b. Tính quãng đường vật đi được trong khoảng thời gian từ thời điểm giây
đến thời điểm giây.
PL12
PHIẾU HỌC TẬP PHA 2
Tên nhóm:…………………..
Bài toán 3. Một vật chuyển động thẳng đều với vận tốc không đổi (cm/s).
Đồ thị vận tốc theo thời gian được cho dưới đây:
a. Tính quãng đường vật đi được sau 3 giây từ lúc bắt đầu (thời điểm đến thời
điểm )
b. Theo em, đại lượng hình học nào (chu vi, diện tích, …) trên đồ thị biểu diễn cho
quãng đường vật đi được ở câu a?
PL13
PHIẾU HỌC TẬP PHA 3
Tên nhóm:…………………..
Bài toán 4. Trong xứ sở thần tiên, các bạn nhỏ tí hon có tổ chức một cuộc thi chạy
tiếp sức. Mỗi đội gồm một số vận động viên chạy nối tiếp nhau trong tổng thời gian
là 6 giây.
▪ Đội 1 gồm 3 bạn X, Y và Z chạy tiếp sức theo thứ tự đó. Mỗi bạn đều chạy trong
2 giây rồi chuyền gậy cho bạn kế tiếp. Vì mỗi bạn chỉ chạy trong một thời gian ngắn
nên có thể xem như chạy với vận tốc không đổi như sau: Bạn X: 1𝑐𝑚/𝑠, bạn Y:
1,5𝑐𝑚/𝑠, bạn Z: 2𝑐𝑚/𝑠. Đồ thị hàm số vận tốc của ba bạn có thể vẽ như hình dưới:
▪ Đội 2 gồm 6 bạn: A,
B, C, D, E, F chạy tiếp sức theo thứ tự đó. Mỗi bạn chỉ chạy trong 1 giây rồi chuyền
gậy cho bạn tiếp theo. Vận tốc của 6 bạn là một cấp số cộng với công sai là 0,25
và bạn A chạy đầu
tiên với vận tốc 1 .
a. Hãy tính tổng quãng đường mỗi đội chạy được. Đội nào chạy được quãng
đường dài hơn?
b. Tô màu phần diện tích của hình biểu diễn quãng đường chạy được của mỗi đội.
PL14
PHIẾU HỌC TẬP PHA 4
Tên nhóm:…………………..
Bài toán 5. Các bạn nhỏ tí hon cũng tổ chức thi chạy cá nhân tính thành tích, mỗi bạn
tham gia thi đấu sẽ chạy một mình trong 5 giây và so sánh quãng đường chạy được
với nhau. Trong quá trình thi chạy của bạn Tom, người ta ghi nhận được vận tốc của
bạn ấy cứ mỗi 0,5 giây một lần. Dữ liệu được cho theo bảng sau:
0 0,5 1 1,5 2 2,5 3 3,5 4 4,5 Thời điểm 𝑡 (giây)
1 1,1 1,2 1,3 1,31 1,35 1,36 1,37 1,38 1,4 Vận tốc 𝑣 (cm/s)
Hãy tính xấp xỉ quãng đường mà Tom chạy được trong 5 giây kể từ lúc bắt đầu
chuyển động.
PHIẾU HỌC TẬP PHA 5
Tên nhóm:…………………..
Bài toán 6. Bạn Jerry thi chạy sau đó và chúng ta biết được vận tốc của Jerry biến
đổi theo hàm số (cm/s). Đồ thị hàm số này được cho dưới đây:
Hãy tính gần đúng quãng đường mà Jerry chạy được trong 5 giây kể từ lúc bắt
đầu chuyển động.
PL15
PHỤ LỤC 4
THỰC NGHIỆM KIỂM TRA KHẢ NĂNG VẬN DỤNG CÔNG CỤ TÍCH
PHÂN VÀO CÁC BÀI TOÁN VẬT LÍ CỦA SINH VIÊN
NGÀNH SƯ PHẠM TOÁN
1. Đối tượng thực nghiệm và mục tiêu thực nghiệm
Ba bài toán dưới đây chính là các ví dụ về kiểu nhiệm vụ LM Toán – Vật lí mà
chúng tôi dùng để minh hoạ cho giải pháp 8 (ví dụ 8.3; 8.4; 8.5). TN tiến hành trên
đối tượng là SV năm thứ ba khoa toán trường đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí
Minh. Có 32 SV được lựa chọn cho TN, các em này đã được học nhiều học phần về
GT trước đó và chuẩn bị tham gia kì kiến tập sư phạm ở các trường phổ thông. Với
những kiến thức toán được trang bị như vậy, TN của chúng tôi muốn kiểm tra xem
SV Sư phạm toán có khả năng vận dụng chúng để giải quyết được các bài toán với
ngữ cảnh vật lí hay không.
2. Các bài toán thực nghiệm và phân tích tiên nghiệm và kết quả
Bài toán 1. Hai xe ô tô xuất phát
đồng thời từ cùng một vị trí và
bắt đầu chuyển động trên cùng
một đường thẳng theo cùng một
hướng với vận tốc cho bởi đồ
thị sau:
a. Theo em, vào thời điểm 𝑡 = 3
phút, xe nào đi được quãng
đường dài hơn? Giải thích câu trả lời của em.
b. Tại thời điểm 𝑡 = 8 phút, xe nào đi được quãng đường dài hơn? Giải thích.
Phân tích:
Hàm số vận tốc được cho theo biểu diễn đồ thị trong đó vận tốc xe A có thể nội
suy ra biểu thức đại số còn xe B thì không. Một trong những ý nghĩa vật lí của tích
phân được đưa vào chương trình toán phổ thông đó là quãng đường bằng tích phân
hàm vận tốc. Bên cạnh đó tích phân có ý nghĩa hình học là diện tích dưới đường cong.
Chúng tôi muốn kiểm tra xem các SV có biết so sánh quãng đường thông qua so sánh
hai tích phân và nối kết với việc so sánh diện tích dưới đường cong vận tốc hay
không? Việc sử dụng diện tích để tính toán hoặc so sánh các đại lượng là một kĩ thuật
PL16
quan trọng trong Vật lí nhất là khi các đại lượng cần so sánh không phải lúc nào cũng
cho trước biểu thức đại số.
Các chiến lược giải có thể xuất hiện:
- Chiến lược tích phân – diện tích (𝑺𝑫𝒊ệ𝒏 𝒕í𝒄𝒉): So sánh hai quãng đường thông
qua so sánh hai diện tích dưới đường cong vận tốc.
- Chiến lược tích phân – đại số (𝑺Đạ𝒊 𝒔ố): Tìm biểu diễn đại số cho hàm vận tốc
rồi tính quãng đường bằng tích phân rồi so sánh.
- Chiến lược vật lí (𝑺𝑽ậ𝒕 𝒍í): So sánh quãng đường bằng các lí lẽ trong ngữ cảnh
vật lí (vận tốc lớn hơn thì quãng đường sẽ lớn hơn…).
Kết quả với bài toán 1:
Bài toán 1
Câu a
Câu b
Chiến lược
𝑺Diện tích và
𝑺Diện tích 𝑺Đại số Cách giải sai hoặc
𝑺Vật lí Không trả lời
không trả lời
𝑺Đại số
Số SV
0
28
4
6
4
22
Tỉ lệ
0%
87,5%
12,5%
18.8%
12,5%
68,8%
Ở câu a, hầu hết SV (87,5%) đều sử dụng 𝑺Vật lí để giải thích rằng quãng đường
xe B dài hơn vì vận tốc lớn hơn và cách giải này cho thấy công cụ tích phân vẫn chưa
tác động. Tuy nhiên với câu b thì 𝑺Vật lí không sử dụng được, lúc này chỉ có 19%
(6/32) số SV biết sử dụng 𝑺Diện tích để giải thích được xe A đi được quãng đường dài
hơn vì diện tích hình phẳng dưới đồ thị lớn hơn. Đa số không gợi ra được công cụ
tích phân trong tình huống này và vẫn cố gắng sử dụng các lí lẽ vật lí để trả lời nhưng
không thành công. Ngoài ra, có 4 SV nghĩ đến việc sử dụng tích phân để so sánh hai
quãng đường đi được, tuy nhiên thay vì kết nối nó với diện tích thì họ lại cố gắng nội
suy ra hàm số vận tốc để có thể tính toán bằng đại số. Như vậy, trong tình huống hàm
số vận tốc được cho theo biểu diễn đồ thị thay vì biểu diễn đại số thì nhiều SV trong
TN của chúng tôi đã không thể gợi ra tích phân cũng như nối kết quãng đường cần so
sánh với diện tích để có được câu trả lời hợp lí.
PL17
Bài toán 2. Đồ thị gia tốc – thời gian của hai vật được cho dưới đây:
Vật 1 Vật 2
c. Cho biết vật 1 có hàm số gia tốc trên đoạn [0; 2] là 𝑎(𝑡) = −𝑡 + 2. Vận tốc của
vật 1 thay đổi một lượng bao nhiêu từ thời điểm 𝑡 = 0 đến thời điểm 𝑡 = 2 giây.
d. Trong hai vật, vật nào có sự thay đổi vận tốc lớn hơn trong khoảng thời gian chuyển
động từ thời điểm 𝑡 = 0 giây đến thời điểm 𝑡 = 2 giây? Giải thích tại sao.
Phân tích
Các SV đã rất quen thuộc với công thức Newton – Leibniz, vốn là một dạng phát
biểu của định lí cơ bản của giải tích. Trong đó, tích phân được tính bằng hiệu hai
nguyên hàm ở hai cận: . Ở chương trình phổ thông, các
SV cũng biết rằng gia tốc là đạo hàm của vận tốc: . Vì thế trong ngữ cảnh
của bài toán này công thức Newton – Leibniz sẽ trở thành: .
Nghĩa là lượng thay đổi vận tốc bằng tích phân hàm gia tốc. Ở bài toán này chúng tôi
đặt câu hỏi về lượng thay đổi vận tốc giữa hai thời điểm, và liệu SV có sử dụng được
kiến thức về tích phân và vật lí của họ để giải quyết hay không?
Các chiến lược giải có thể xuất hiện
- Chiến lược tích phân (𝐒𝐓í𝐜𝐡 𝐩𝐡â𝐧): Vận tốc thay đổi một lượng là:
.
- Chiến lược tính tích phân bằng diện tích (𝑺𝑫𝒊ệ𝒏 𝒕í𝒄𝒉): Vì hàm số gia tốc còn
được cho theo biểu diễn đồ thị nên chúng ta có thể tính tích phân bằng diện
tích hình phẳng dưới đồ thị.
Kết quả với bài toán 2:
PL18
Câu a
Bài toán 2
Câu b
Chiến lược
Cách giải sai/
𝑺Diện tích
giải
không trả lời
𝑺Diện tích 𝐒Tích Phân Cách giải sai/ không
trả lời
𝐒Tích Phân hoặc 𝐒Nguyên hàm
Số SV
26
3
11
18
6
0
Tỉ lệ
81,3%
9,4%
34,4%
56,3%
18.8%
0%
Ở câu a, kết quả thu được cho thấy một tỉ lệ đáng kể (56,3%) SV không sử dụng
tích phân để tính lượng thay đổi vận tốc ∆𝑣. Trong số 14 SV vận dụng được công cụ
tích phân vào việc giải quyết bài toán thì có đến 11 em thực hiện việc tính tích phân
theo nguyên hàm và ba em còn lại sử dụng diện tích để đi đến kết quả. Với câu b, khi
hàm số gia tốc được cho ở biểu diễn đồ thị, chỉ có 18,8% (6/32) SV tìm ra được chiến
lược tối ưu là 𝑺Diện tích để giải thành công bài toán. Đáng chú ý là khi xem xét lời giải
câu b của 14 SV đã áp dụng tích phân ở câu a, chúng tôi nhận thấy có đến 8 em tìm
cách nội suy hàm số gia tốc của vật 2 để tìm được biểu thức GT cho chúng. Đa số các
em này mặc nhiên thừa nhận đường cong gia tốc của vật 2 có dạng parabol để nội suy
rồi tính ra giá trị số của tích phân trước khi so sánh.
Kết quả TN với bài toán 2 cho thấy, mặc dù SV sở hữu những kiến thức toán và
vật lí cần thiết tuy nhiên phần lớn không thể vận dụng chúng vào bài toán yêu cầu
xác định lượng thay đổi vận tốc. Nhưng nếu khó khăn mà các SV gặp phải không bắt
nguồn từ sự thiếu kiến thức toán và vật lí, vậy thì nó bắt nguồn từ đâu? Theo chúng
tôi nguyên nhân nằm ở dạng kiến thức cô lập mà SV sở hữu. Việc học kiến thức toán
của SV thường diễn ra một cách tách biệt với những ngữ cảnh vật lí và thực tiễn mà
ở đó nó được áp dụng. Bên cạnh đó, dường như các SV sư phạm vẫn còn xa lạ với
các kiểu nhiệm vụ đòi hỏi ứng dụng kiến thức về tích phân vào các ngữ cảnh ngoài
toán học, đặc biệt là vật lí. Điều này dẫn đến việc cách hiểu tích phân theo hiệu nguyên
hàm mặc dù được kích hoạt dễ dàng trong các kiểu nhiệm vụ tính toán nhưng lại “ít
hoạt động” với các bài toán có ngữ cảnh ứng dụng.
PL19
Bài toán 3. Công 𝐴 do lực F không đổi kéo vật dịch chuyển một độ dời 𝑠 (cùng
phương với lực) được tính bởi công thức: 𝐴 = 𝐹. 𝑠.
a. Một vật dịch chuyển trên đoạn đường thẳng
dưới tác dụng của một lực kéo không đổi có độ
lớn F = 10N cùng phương với chiều chuyển
động. Tính công của lực khi kéo vật từ vị trí ban
đầu 𝑠 = 0 đến vị trí 𝑠 = 5 (m).
b. Trong thực tế, khi kéo vật di chuyển quãng
đường càng lớn thì người kéo càng mệt nên lực
kéo giảm dần theo hàm số
(đơn vị của lực là Newton và đồ thị cho ở bên).
- Hãy tìm cách tính gần đúng công của lực
kéo này khi vật dịch chuyển từ vị trí 𝑠 = 0 (m)
đến vị trí 𝑠 = 5 (m). Giải thích cách tính của mình.
- Bạn hãy đề nghị một phương pháp toán học cho phép tính chính xác công cần
tìm. Hãy giải thích đề nghị của bạn.
Kết quả với bài toán 3:
Từ đầu bài toán chúng tôi đã cung cấp công thức tính công trong trường hợp lực
tác động không đổi. Vì thế không ngạc nhiên khi tất cả các HS và SV tham gia TN
đều dễ dàng áp dụng và đưa ra được kết quả đúng cho yêu cầu ở câu a.
Đối với yêu cầu ở câu b, kết quả chúng tôi ghi nhận với nhóm SV như sau:
Không có SV nào đưa ra được chiến lược 𝑺Riemann đối với yêu cầu tính gần đúng. Với yêu cầu tính chính xác, chỉ có 6 SV (18,8%) trên tổng số 32 SV biết sử dụng tích
phân để tính công cần tìm trong khi các em còn lại không đưa ra được câu trả lời.
Đáng nói hơn, chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn 6 SV thành công này và phát hiện ra
rằng chỉ có duy nhất một em biết được lí do sử dụng tích phân dựa trên cấu trúc tổng
Riemann. Các em còn lại cho biết rằng, họ biết công thức tính công theo tích phân từ
các sách tham khảo vật lí nhưng vẫn chưa hiểu tại sao có cách tính này
3. Kết luận cho thực nghiệm
Để dạy học tích phân theo hướng LM Toán – Vật lí, điều quan trọng là GV phải
dạy được tích phân theo cách mà người học có thể sử dụng nó để giải quyết các vấn
PL20
đề của Vật lí. Mà nếu như thế thì các SV sư phạm sắp trở thành những GV trong
tương lai liệu có sử dụng được tích phân trong các bài toán của Vật lí hay không? Kết
quả TN của chúng tôi cho thấy các SV gặp khó khăn trong việc áp dụng kiến thức
toán học của mình vào ngữ cảnh vật lí. Hơn nữa, điều đáng chú ý là khó khăn họ gặp
phải lại không đến từ sự thiếu hụt kiến thức toán hay vật lí. Thật vậy, ở bài toán 1 đa
số các SV biết ý nghĩa vật lí của tích phân là quãng đường vì đã được giới thiệu trong
SGK toán lớp 12. Bên cạnh đó, những SV này cũng biết ý nghĩa hình học của tích
phân là diện tích hình phẳng dưới đường cong. Tuy nhiên, trong một tình huống mà
hàm số vận tốc được cho theo biểu diễn đồ thị thay vì biểu diễn đại số thì nhiều SV
trong TN của chúng tôi đã không thể gợi ra tích phân cũng như nối kết quãng đường
cần so sánh với diện tích để có được câu trả lời hợp lí. Đến bài toán 2, mặc dù SV sở
hữu những kiến thức toán và vật lí cần thiết như công thức Newton – Leibniz hay mối
quan hệ giữa gia tốc và vận tốc. Phần lớn các em không thể vận dụng chúng vào bài
toán vật lí mà yêu cầu là xác định lượng thay đổi vận tốc. Nhưng nếu khó khăn mà
các SV gặp phải không bắt nguồn từ sự thiếu kiến thức toán và vật lí, vậy thì nó bắt
nguồn từ đâu? Theo chúng tôi nguyên nhân có lẽ là ở dạng kiến thức cô lập mà SV
sở hữu. SV học một kiến thức toán, nhưng kiến thức toán này được họ học tập và
nhận thức một cách tách biệt với những ngữ cảnh trong thực tế và khoa học mà kiến
thức này có thể được áp dụng. Vì vậy mặc dù có đủ kiến thức về cả toán và khoa học
nhưng SV có thể gặp khó khăn trong việc nối kết các hiểu biết mà họ có được để giải
quyết vấn đề. Điều tương tự cũng xảy ra trong kết quả với bài toán 3. SV sư phạm
toán ở bậc đại học được dạy tích phân theo định nghĩa giới hạn tổng Riemann, tuy
nhiên việc tách biệt dạng kiến thức này khỏi những ứng dụng đa dạng của nó đang
làm cho quan niệm của SV về tích phân bị hạn chế. Hầu hết SV không thể sử dụng
cách hiểu tích phân theo tổng Riemann này vào một ngữ cảnh ứng dụng không quen
thuộc đó là bài toán tính công của lực biến đổi.
PL21
4. Hình ảnh minh hoạ một số bài làm của sinh viên trong thực nghiệm
Bài toán 1.
Bài làm 1.
Bài làm 2.
PL22
Bài làm 3.
Bài làm 4.
PL23
Bài làm 5.
PL24
Bài toán 2.
Bài làm 1.
PL25
Bài làm 2.
Bài làm 3.
PL26
Bài toán 3
Bài làm 1.
Bài làm 2.
PL27
Bài làm 3.