BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
VŨ THỊ BẮC
CHUYỂN ĐỔI NÔNG NGHIỆP Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN ÁN TIẾN SĨ ĐỊA LÍ
Hà Nội – 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
VŨ THỊ BẮC CHUYỂN ĐỔI NÔNG NGHIỆP Ở
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành : Địa lí học
Mã số: 9.31.05.01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ ĐỊA LÍ
Người hướng dẫn khoa học:
1: GS. TS. Nguyễn Viết Thịnh
2: PGS. TS. Đặng Văn Phan
Hà Nội – 2021
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan nội dung luận án tiến sĩ “Chuyển đổi nông nghiệp ở Thành phố
Hồ Chí Minh” là công trình nghiên cứu độc lập của riêng tôi. Các kết quả nghiên cứu
trong luận án là trung thực và chưa từng được công bố trong các công trình nghiên cứu
khoa học nào khác.
Tác giả luận án
Vũ Thị Bắc
ii
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt khoảng thời gian làm Luận án, tôi đã nhận được sự giúp đỡ, chia sẻ
và động viên của các thầy, cô giáo, các bạn đồng nghiệp, các nhà khoa học và những
người thân của tôi.
Đầu tiên, tôi xin gửi lời tri ân chân thành và lòng biết ơn sâu sắc đến GS.TS.
Nguyễn Viết Thịnh, PGS. TS Đặng Văn Phan, GS.TS. Đỗ Thị Minh Đức đã trực tiếp
hướng dẫn, dìu dắt và chỉ bảo cho tôi những kiến thức vô cùng quí giá để tôi hoàn
thành luận án.
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Ban Giám hiệu Trường Đại học Sư phạm Hà
Nội, Ban Chủ nhiệm Khoa Địa lý, Phòng Sau Đại học, Phòng Kế hoạch – tài chính,
các Thầy, Cô giáo trong khoa Địa lý đặc biệt là Bộ môn Địa lý Kinh tế- Xã hội đã hỗ
trợ tôi rất nhiều về tinh thần, kiến thức và những lời động viên kịp thời để tôi hoàn
thành luận án.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các Chi cục Phát triển Nông thôn thuộc
Sở NN&PTNT TP.Hồ Chí Minh, Cục thống kê TP.Hồ Chí Minh,Viện nghiên cứu và
thiết kế nông nghiệp, UBND huyện Củ Chi, UBND huyện Hóc Môn đã tạo điều kiện
thuận lợi và giúp đỡ tôi trong quá trình thu thập số liệu và điều tra thực địa.
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Ban Giám hiệu trường Phổ thông Năng khiếu
- ĐHQG TP.HCM đã tạo điều kiện và thời gian cho tôi hoàn thành luận án.
Cuối cùng, để hoàn thành luận án, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến gia đình tôi: mẹ
và những người thân đã luôn bên cạnh để động viên, chia sẻ, giúp đỡ và hỗ trợ cho tôi
trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận án.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Tác giả luận án
Vũ Thị Bắc
iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................................. i MỤC LỤC ...................................................................................................................... iii DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TIẾNG VIỆT ............................................................... vi DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TIẾNG ANH .............................................................. vii DANH MỤC CÁC BẢNG ........................................................................................... viii DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ ........................................................................................ ix DANH MỤC CÁC BẢN ĐỒ ........................................................................................ ix MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................................... 1 2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................... 3 3. Giới hạn nghiên cứu .................................................................................................... 3 4. Quan điểm và phương pháp nghiên cứu ...................................................................... 4 5. Những đóng góp mới của đề tài .................................................................................. 9 6. Cấu trúc của luận án .................................................................................................... 9 CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHUYỂN ĐỔI NÔNG NGHIỆP ....................................................................................................................... 10 1.1. Tổng quan các nghiên cứu ...................................................................................... 10 1.1.1. Trên thế giới ...................................................................................................... 10 1.1.2. Ở Việt Nam ....................................................................................................... 19 1.1.3. Ở thành phố Hồ Chí Minh ................................................................................ 24 1.2. Cơ sở lý luận về chuyển đổi nông nghiệp .............................................................. 27 1.2.1. Về nông nghiệp ................................................................................................. 27 1.2.2. Về chuyển đổi nông nghiệp .............................................................................. 29 1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chuyển đổi nông nghiệp ....................................... 31 1.2.4. Một số hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp ............................................... 38 1.2.5. Các chỉ tiêu đánh giá chuyển đổi nông nghiệp vận dụng cho TP.HCM .......... 42 1.3. Cơ sở thực tiễn về chuyển đổi nông nghiệp ........................................................... 44 1.3.1. Chuyển đổi nông nghiệp ở một số quốc gia trên thế giới ................................. 44 1.3.2. Chuyển đổi nông nghiệp ở Việt Nam ............................................................... 48 1.3.3. Chuyển đổi nông nghiêp ở các thành phố của Việt Nam ................................. 52 1.3.4. Bài học kinh nghiệm với chuyển đổi nông nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh ..... 55 Tiểu kết chương 1 .......................................................................................................... 56 CHƯƠNG 2. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHUYỂN ĐỔI NÔNG NGHIỆP TP.HCM ......................................................................................... 58 2.1.Vị trí địa lý, phạm vi lãnh thổ .................................................................................. 58 2.2. Điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên ............................................................ 59 2.2.1. Địa hình............................................................................................................. 59 2.2.2. Đất ..................................................................................................................... 60
iv
2.2.3. Khí hậu .............................................................................................................. 62 2.2.4. Nguồn nước ...................................................................................................... 63 2.2.5. Sinh vật ............................................................................................................. 65 2.3. Nhân tố kinh tế - xã hội .......................................................................................... 65 2.3.1. Dân cư và nguồn lao động ................................................................................ 65 2.3.2. Thị trường ......................................................................................................... 67 2.3.3. Khoa học công nghệ ......................................................................................... 70 2.3.4. Cơ sở hạ tầng .................................................................................................... 71 2.3.5. Cơ sở vật chất kĩ thuật ...................................................................................... 73 2.3.6. Nguồn vốn đầu tư ............................................................................................. 74 2.3.7. Đường lối, chính sách ....................................................................................... 75 2.3.8. Đô thị hóa.......................................................................................................... 78 2.4. Đánh giá chung ....................................................................................................... 79 2.4.1. Thuận lợi ........................................................................................................... 79 2.4.2. Khó khăn ........................................................................................................... 79 Tiểu kết chương 2 .......................................................................................................... 80 CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG CHUYỂN ĐỔI NÔNG NGHIỆP Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH............................................................................... 81 3.1. Thực trạng chuyển đổi nông nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh ............................ 81 3.1.1. Khái quát chung ................................................................................................ 81 3.1.2. Chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất nông nghiệp .................................................... 83 3.1.3. Chuyển đổi sản xuất nông nghiệp ..................................................................... 88 3.1.4. Chuyển đổi tổ chức sản xuất và tổ chức lãnh thổ nông nghiệp ...................... 112
3.2. Khảo sát thực trạng chuyển đổi nông nghiệp ở hai huyện Củ Chi và huyện Hóc Môn .............................................................................................................................. 126 3.2.1. Khảo sát mô hình CĐNN ở hai huyện Củ Chi và Hóc Môn .......................... 126 3.2.2. Về thực trạng chuyển đổi ................................................................................ 127 3.2.3. Đánh giá quá trình chuyển đổi ........................................................................ 132 3.3. Đánh giá chung ..................................................................................................... 136 3.3.1. Thành tựu ........................................................................................................ 136 3.3.2. Tồn tại, hạn chế ............................................................................................... 137 Tiểu kết chương 3 ........................................................................................................ 139 CHƯƠNG 4. ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHUYỂN ĐỔI NÔNG NGHIỆP Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH............................................................................. 141 4.1. Cơ sở xây dựng định hướng và đề xuất giải pháp chuyển đổi nông nghiệp ở TP.HCM ...................................................................................................................... 141
4.1.1. Bối cảnh thế giới và trong nước tác động đến chuyển đổi nông nghiệp ở TP.HCM .................................................................................................................... 141 4.1.2. Dự báo về nhu cầu các sản phẩm nông nghiệp ở TP.HCM đến năm 2025 .... 145
v
4.2. Định hướng chuyển đổi chuyển đổi nông nghiệp ở TP.HCM đến năm 2025, tầm nhìn 2030 ..................................................................................................................... 146 4.2.1. Quan điểm ....................................................................................................... 146 4.2.2. Mục tiêu .......................................................................................................... 146 4.2.3. Định hướng chuyển đổi .................................................................................. 147 4.3. Giải pháp chuyển đổi nông nghiệp ở TP.HCM .................................................... 151 4.3.1. Chính sách nông nghiệp của chính quyền thành phố ..................................... 151 4.3.2. Nâng cao năng suất nông nghiệp gắn liền với tăng trưởng bền vững ............ 153 4.3.3. Nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường ................................................ 156 4.3.4. Huy động vốn đầu tư cho chuyển đổi nông nghiệp ........................................ 160 4.3.5. Ứng dụng khoa học công nghệ trong quá trình chuyển đổi nông nghiệp ....... 160 4.3.6. Đổi mới các hình thức tổ chức SXNN ............................................................ 161 Tiểu kết chương 4 ........................................................................................................ 162 KẾT LUẬN ................................................................................................................. 163 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
vi
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TIẾNG VIỆT
STT Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ
1. BĐKH Biến đổi khí hậu
2. CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
3. CĐNN Chuyển đổi nông nghiệp
4. DNNN Doanh nghiệp nông nghiệp
5. ĐBSCL Đồng Bằng Sông Cửu Long
6. ĐNB Đông Nam Bộ
7. GTSX Giá trị sản xuất
8. HTX Hợp tác xã
9. KH - CN Khoa học - Công nghệ
10. KT - XH Kinh tế - Xã hội
11. Nxb Nhà xuất bản
12. SXKD Sản xuất kinh doanh
13. N, L, TS Nông, lâm, thủy sản
14. NN&PTNT Nông nghiệp và phát triển nông thôn
15. SXNN Sản xuất nông nghiệp
16. TP.HCM Thành phố Hồ Chí Minh
17. TTLĐ Trung tâm lao động
18. TCLTNN Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp
19. UBND Uỷ ban nhân dân
20. XHCH Xã hội chủ nghĩa
vii
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TIẾNG ANH
Ngân hàng phát triển Châu Á
1.
ADB
STT Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ
Nông nghiệp cộng đồng CSA 2.
Liên minh Châu Âu EU 3.
FAO 4. Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hiệp Quốc
5. GRDP Tổng sản phẩm trên địa bàn thành phố
Tổng sản phẩm quốc nội GDP 6.
Hệ thống định vị toàn cầu GPS 7.
8. IFOAM Liên đoàn Quốc tế các Phong trào Nông nghiệp Hữu cơ
9. OECD Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế
10. UNDP Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc
11. UN Liên Hiệp quốc
12. WB Ngân hàng thế giới
viii
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1. Quan hệ tăng trưởng GDP và tổng sản phẩm nông nghiệp giai đoạn 2005- 2017 ............................................................................................................................... 49 Bảng 2. 1 Lượng mưa, nhiệt độ, số giờ nắng trung bình của TPHCM năm 2018 ........ 62 Bảng 2.2. Chỉ tiêu về lao động của Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2010-2018 .... 67 Bảng 3.1. GRDP và tốc độ tăng GRDP của TP.HCM giai đoạn 2005-2018 ............... 81 Bảng 3.2. GRDP và tốc độ tăng trưởng GRDP phân theo ngành kinh tế giai đoạn 2005 - 2018 (tỉ đồng, giá so sánh 2010) ................................................................................. 81 Bảng 3.3. Giá trị sản xuất và cơ cấu GTSX nông, lâm, thủy sản ở TP.HCM giai đoạn 2005 - 2018 (giá thực tế) ............................................................................................... 82 Bảng 3.4. Diện tích và cơ cấu diện tích đất chia theo mục đích sử dụng của TP.HCM ....................................................................................................................................... 83 Bảng 3.5. Diện tích và cơ cấu diện tích đất nông nghiệp của TP.HCM giai đoạn ....... 84 Bảng 3.6 GTSX và cơ cấu GTSX nông nghiệp của TP.HCM giai đoạn 2005 – 2018 .. 88 Bảng 3.7. Diện tích gieo trồng và cơ cấu diện tích gieo trồng cây hàng năm của TP.HCM giai đoạn 2005 – 2018 ................................................................................... 89 Bảng 3.8. Diện tích, sản lượng và năng suất cây lương thực có hạt giai đoạn ............ 91 Bảng 3.9. Diện tích, năng suất và sản lượng rau các loại của TP.HCM ...................... 93 Bảng 3.10. Diện tích và sản lượng của cây công nghiệp ở TP.HCM giai đoạn 2005 – 2018 ............................................................................................................................... 97 Bảng 3.11. Diện tích, năng suất và sản lượng lúa đông xuân, lúa hè thu, lúa mùa của TP.HCM giai đoạn 2005 - 2018 (ĐVDT:ha) ................................................................ 99 Bảng 3.12. Bảng số lượng và cơ cấu đàn lợn, thịt lợn hơi của TP.HCM ................... 104 Bảng 3.13. Sản lượng gỗ và lâm sản ngoài gỗ của TP.HCM giai đoạn 2005 - 2018 . 107 Bảng 3.14. Diện tích rừng và phân loại diện tích theo rừng của TP.HCM giai đoạn 108 Bảng 3.15. GTSX và cơ cấu GTSX thủy sản và tốc độ tăng trưởng GTSX từ 2005 - 2018 (tỉ đồng, giá hiện hành) ..................................................................................... 111 Bảng 3.16. Quy mô đất trung bình theo huyện ............................................................ 126 Bảng 3.17. Nguồn gốc giống sản xuất của các hộ nông dân ...................................... 128 Bảng 3.18. Hình thức tiêu thụ hàng hóa nông sản từ các nông hộ ............................. 129 Bảng 3.19. Vốn, lợi nhuận, doanh thu trung bình một năm theo huyện ..................... 130 Bảng 3.20. Nguồn vốn đầu tư chủ yếu của các hộ ...................................................... 131 Bảng 3.21. Sản phẩm chính và tỉ lệ lợi nhuận tăng thêm ............................................ 132 Bảng 3.22. Lợi ích khi hộ nông dân tham gia tổ hợp tác, HTX .................................. 134 Bảng 3.23. Khó khăn và nguyện vọng của các hộ nông dân ....................................... 135
ix
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Hình 3.1. Biểu đồ số đàn bò sữa và sản lượng sữa bò tươi của TP.HCM ........................ 102
Hình 3.2. Biểu đồ số đàn lợn và sản lượng thịt lợn hơi của TP.HCM ............................. 103
Hình 3.3. Biểu đồ thể hiện cơ cấu sử dụng đất theo kết quả điều tra phân theo huyện năm
2018 .................................................................................................................................. 127
Hình 3.4. Biểu đồ thể hiện doanh thu trung bình một năm theo huyện ............................ 131
Hình 3.5.Biểu đồ thể hiện mối quan hệ giữa doanh thu hàng năm và tổng số vốn một năm
theo kết quả điều tra ở địa bàn khảo sát ........................................................................... 132
DANH MỤC CÁC BẢN ĐỒ
2.1. Bản đồ hành chính thành phố Hồ Chí Minh ................................................ sau trang 58
2.2. Bản đồ tài nguyên đất ở Thành Phố Hồ Chí Minh ...................................... sau trang 60
2.3. Bản đồ khí hậu Thành Phố Hồ Chí Minh .................................................... sau trang 62
2.4. Bản đồ phân vùng sinh thái nông nghiệp Thành Phố Hồ Chí Minh............ sau trang 65
2.5. Bản đồ cơ sở vật chất kỹ thuật và dịch vụ nông nghiệp Thành Phố Hồ Chí Minh .........
............................................................................................................................ sau trang 73
3.1. Bản đồ hiện trạng nông nghiệp Thành Phố Hồ Chí Minh năm 2005 .......... sau trang 88
3.2. Bản đồ hiện trạng nông nghiệp Thành Phố Hồ Chí Minh 2018 ................ sau trang 106
3.3. Bản đồ chuyển đổi nông nghiệp Thành Phố Hồ Chí Minh 2005 – 2018 ........................
.......................................................................................................................... sau trang 126
4.1. Bản đồ dự kiến chuyển đổi nông nghiệp Thành Phố Hồ Chí Minh đến năm 2025.
.......................................................................................................................... sau trang 148
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay, tăng trưởng của nông nghiệp Việt Nam chủ yếu vẫn dựa vào các nhân
tố đầu vào như đất, phân bón, hóa chất, lao động, vốn với chi phí lớn để mở rộng sản xuất, sử dụng nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên và gây tác động xấu đến môi trường.
Nông nghiệp đang bị tác động mạnh bởi quá trình đô thị hóa đặc biệt tại các thành phố
lớn như Hà Nội và TP.HCM. Nông nghiệp Việt Nam đứng trước những cơ hội và
thách thức lớn trên thị trường, đòi hỏi các hộ nông dân và doanh nghiệp phải tạo ra các
sản phẩm có chất lượng, an toàn, có uy tín để tăng năng lực cạnh tranh trên thị trường
quốc tế.
Cho đến nay, nông nghiệp vẫn là ngành tạo ra nhiều việc làm và sinh kế cho 25- 30% dân số dù tỉ trọng việc làm và tỉ trọng GDP của ngành nông nghiệp sẽ giảm. Cách
thức sử dụng đất, tổ chức sản xuất nông nghiệp, cũng như chuỗi giá trị nông nghiệp sẽ
thay đổi, làm cho đất trồng lúa sẽ chuyển sang mục đích nông nghiệp khác hoặc các
dịch vụ sinh thái. Chuỗi giá trị lúa gạo và các nông sản khác sẽ được tổ chức tốt hơn,
tạo ra liên kết chặt chẽ giữa nông dân với cơ sở chế biến và tiêu thụ sản phẩm, hoặc
các doanh nghiệp xuất khẩu.
Ngành nông nghiệp Việt Nam nói chung và của TP.HCM nói riêng phải đảm bảo
"tăng giá trị, giảm đầu vào”[64]. Nghĩa là nông nghiệp sẽ phải tạo ra nhiều giá trị về
mặt kinh tế hơn, hiệu quả cao hơn cho người tiêu dùng nhưng đồng thời phải sử dụng
ít tài nguyên, nhân công và hóa chất độc hại. Nông nghiệp sẽ tăng trưởng dựa trên tính
hiệu quả, sáng tạo và đa dạng hóa sản phẩm.
Trong tương lai, hình ảnh nông nghiệp Việt Nam trên thế giới sẽ thay đổi khi
tính chất đa chức năng của nông nghiệp được công nhận, trong đó phải kể đến chức
năng bảo vệ cảnh quan và thúc đẩy du lịch sinh thái. Các quy trình canh tác, quản
lý tài nguyên, tiết kiệm năng lượng trong nông nghiệp sẽ đảm bảo an ninh lương thực, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng về an toàn thực phẩm, chất lượng và giá cả. Nông nghiệp sẽ giữ vai trò đảm bảo nguồn dinh dưỡng đa dạng và giúp Việt Nam hoàn thành các mục tiêu an ninh dinh dưỡng của Tổ chức Y Tế thế giới vào năm 2025.
Trong Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã xác định “…cơ cấu lại ngành nông
nghiệp, xây dựng nền nông nghiệp sinh thái phát triển toàn diện cả về nông, lâm, ngư
nghiệp theo hướng hiện đại, bền vững…thúc đẩy ứng dụng sâu rộng khoa học – công
nghệ, nhất là công nghệ sinh học, công nghệ thông tin vào sản xuất, quản lý nông
2
nghiệp và đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn để tăng
năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, bảo đảm vững chắc an ninh lương
thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài; nâng cao thu nhập và đời sống của nông dân” là
động lực để chuyển đổi nông nghiệp Việt Nam từ nông nghiệp truyền thống dựa trên
đất đai, nguồn lao động sang nền nông nghiệp hiện đại dựa trên công nghệ, giải phóng
sức lao động nhưng vẫn đảm bảo tăng năng suất và chất lượng sản phẩm. Vì thế, quá
trình chuyển đổi nông nghiệp (CĐNN) là một xu thế tất yếu trong phát triển nông
nghiệp của các tỉnh (thành phố) tại Việt Nam.
TP.HCM chiếm 0,6% diện tích và 9,3% dân số cả nước, đây là thành phố đông
dân nhất trong 63 tỉnh (thành phố) (2018) [28]. TP.HCM nằm trong Vùng kinh tế
trọng điểm phía Nam; mỗi năm Thành phố đóng góp 18,23% tổng sản phẩm quốc nội
(GRDP), đứng đầu cả nước năm 2018 và 20% tổng đầu tư trực tiếp nước ngoài cho cả
nước [28]. Quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh, mạnh, diện tích đất nông nghiệp bị thu
hẹp hoặc chuyển đổi sang mục đích khác để phục vụ cho công nghiệp, dịch vụ và nuôi
trồng cây, con có giá trị sản xuất cao hơn. Giá trị sản xuất nông nghiệp luôn tăng trong
khi thu nhập của nông hộ vẫn còn thấp hơn so với mặt bằng chung toàn thành phố. Giá
cả các loại hàng hóa tăng nhanh trong khi giá nông sản lại có nhiều biến động. Điều
kiện tự nhiên của thành phố đang gặp nhiều khó khăn do tác động của biến đổi khí hậu
(BĐKH) và xâm nhập mặn, năng suất cây trồng giảm. Quỹ đất nông nghiệp khá lớn
nhưng sản xuất lại gặp nhiều khó khăn.
Để khắc phục tình trạng này đòi hỏi TP.HCM phải có những mô hình chuyển
đổi nông nghiệp phù hợp từ nông nghiệp truyền thống sang nền nông nghiệp đô thị
hiện đại mang tính hiệu quả, thân thiện với môi trường, thích ứng với quá trình đô thị
hóa. Nông nghiệp thành phố sẽ tăng cường tính chất đa chức năng đồng thời giải quyết
một phần nhu cầu lương thực, thực phẩm an toàn, chất lượng cho người dân. Từ đó, góp phần tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống người dân chủ yếu tại các huyện ngoại thành.
Xuất phát từ cơ sở lý luận và những bài học rút ra từ thực tiễn của quá trình
CĐNN trên thế giới cũng như ở Việt Nam và do tính cấp thiết của vấn đề, NCS đã
chọn đề tài “Chuyển đổi nông nghiệp ở Thành phố Hồ Chí Minh” cho luận án của
mình.
3
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở tổng quan những vấn đề lý luận về chuyển đổi nông nghiệp, đề tài có
mục tiêu là phân tích thực trạng và xu hướng chuyển đổi nông nghiệp của TP.HCM.
Từ đó đề xuất các giải pháp thúc đẩy chuyển đổi nông nghiệp của thành phố trong
tương lai.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu đề ra, luận án tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Tổng quan cơ sở lí luận và thực tiễn về CĐNN ở các nước trên thế giới và Việt
Nam, vận dụng vào trường hợp của TP.HCM.
- Đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến CĐNN ở TP.HCM.
- Phân tích thực trạng CĐNN ở TP.HCM giai đoạn 2005-2018.
- Đề xuất các giải pháp thúc đẩy CĐNN và nâng cao hiệu quả CĐNN ở TP.HCM
đến năm 2025 và tầm nhìn 2030.
3. Giới hạn nghiên cứu
3.1. Giới hạn về nội dung
Luận án nghiên cứu CĐNN ở các khía cạnh chủ yếu sau:
- Các nhân tố ảnh hưởng đến CĐNN ở TP.HCM bao gồm vị trí địa lí; điều kiện tự nhiên (tập trung đến đất, khí hậu, nguồn nước); KT – XH (chủ yếu phân tích đến thị
trường, KHCN, cơ sở vật chất kĩ thuật, chính sách, đô thị hóa,công nghiệp hóa...).
- Về thực trạng CĐNN ở TP.HCM (bao gồm nông, lâm, thủy sản):
+ Đi sâu nghiên cứu ngành nông nghiệp (chiếm ưu thế về giá trị sản xuất
(GTSX), phân tích theo các tiêu chí đã lựa chọn.
+ Các hình thức TCLTNN ở TP.HCM (nông hộ, trang trại, DNNN, HTX, vùng
chuyên canh và tiểu vùng nông nghiệp).
+ Đánh giá CĐNN ở TP.HCM theo các tiêu chí đã lựa chọn như chuyển đổi đất đai, sự biến động về cơ cấu sử dụng đất; chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, đa dạng hoá nông sản, nuôi trồng thuỷ sản phục vụ thị trường trong nước và xuất khẩu; sự phát triển của chuỗi giá trị nông sản trong nông nghiệp; sự chuyển đổi mô hình SXNN và cơ cấu lãnh thổ nông nghiệp. Luận án đi sâu các nghiên cứu trường hợp là 3 xã của huyện Củ Chi và 2 xã của huyện Hóc Môn, hai huyện này là trọng tâm trong phát triển và chuyển đổi nông nghiệp của TP.HCM.
4
3.2. Giới hạn về không gian
Luận án nghiên cứu CĐNN ở TP.HCM, chi tiết đến cấp huyện bao gồm 19 quận
và 5 huyện. Căn cứ vào điều kiện tự nhiên và đặc trưng của các vùng sinh thái nông
nghiệp, các nghiên cứu trường hợp là 3 xã của huyện Củ Chi và 2 xã của huyện Hóc
Môn, hai huyện này là trọng tâm trong phát triển và CĐNN của TP.HCM.
3.3. Giới hạn về thời gian
Sự chuyển đổi nông nghiệp của Thành phố được xem xét chủ yếu trong giai đoạn
2005 – 2018. Riêng nghiên cứu về hình thức TCLTNN, Luận án dựa vào Tổng điều tra
nông thôn, nông nghiệp và thủy sản các năm 2005, 2011 và 2016.
Thời gian nghiên cứu dự báo và định hướng: đến năm 2025 tầm nhìn 2030.
4. Quan điểm và phương pháp nghiên cứu
4.1. Quan điểm nghiên cứu
4.1.1. Quan điểm hệ thống
Quá trình chuyển đổi nông nghiệp của TP. HCM là một hệ thống bao gồm các
quá trình nhỏ hơn như chuyển đổi đất đai; chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, nuôi
trồng thuỷ sản, đa dạng hoá nông sản phục vụ thị trường trong nước và xuất khẩu; sự
phát triển của chuỗi giá trị nông sản; sự chuyển đổi mô hình SXNN và cơ cấu lãnh thổ
nông nghiệp. Chuyển đổi nông nghiệp của TP. HCM cũng là một tiểu hệ thống trong
quá trình CĐNN của vùng Đông Nam Bộ và cả nước.
4.1.2. Quan điểm tổng hợp
Quan điểm này dựa trên tính tất yếu là mỗi sự vật, hiện tượng đều tồn tại trong
mối quan hệ biện chứng trong tổng thể. CĐNN có mối quan hệ chặt chẽ với chuyển
dịch cơ cấu nông nghiệp. CĐNN cũng đồng thời chịu ảnh hưởng của các nhân tố tự
nhiên và nhân tố KT-XH. Quan điểm này được vận dụng trong luận án để tập trung
phân tích tổng hợp các nhân tố tự nhiên, KT-XH trong mối quan hệ tương tác giữa
chúng với nhau ảnh hưởng đến quá trình chuyển đổi nông nghiệp ở TP.HCM.
4.1.3. Quan điểm lãnh thổ
Đây là quan điểm đặc trưng của môn địa lí vì bất kì sự vật, hiện tượng địa lí nào
cũng đều gắn với một không gian lãnh thổ và có mối quan hệ mật thiết với nhau trong
hệ thống. Tìm hiểu sự phân hoá sự vật, hiện tượng theo lãnh thổ, giải thích và dự báo
5
sự phân hoá là hướng nghiên cứu của khoa học địa lí. Vận dụng quan điểm này vào
nghiên cứu, đề tài xem xét quá trình CĐNN gắn liền với sự phân hóa lãnh thổ nông
nghiệp ở TP.HCM. Qua đó, tìm ra được sự khác biệt và thế mạnh của từng vùng sản
xuất nông nghiệp trong quá trình CĐNN ở TP.HCM để có kế hoạch sắp xếp, phân
vùng sản xuất nông nghiệp một cách hợp lý và hiệu quả nhất.
Khi tìm hiểu quá trình phát triển của bất kỳ sự vật, hiện tượng nào đều phải đặt
trong bối cảnh không gian và thời gian vì chúng có tính kế thừa, phát triển và biến đổi liên
tục. Quá trình CĐNN ở TP.HCM cũng vận động và phát triển không ngừng. Hiện trạng
của CĐNN trong giai đoạn này là kết quả của các nghiên cứu trước đó, đồng thời là cơ sở
cho quá trình CĐNN mới trong tương lai. Quan điểm lịch sử - viễn cảnh được áp dụng
4.1.4. Quan điểm lịch sử - viễn cảnh
để xem xét sự biến đổi của đối tượng nghiên cứu là CĐNN theo không gian và thời
gian; từ đó có thể rút ra những kinh nghiệm trong quá khứ cũng như dự đoán những
vấn đề, những xu hướng trong tương lai nhằm đưa ra các giải pháp chuyển đổi nông
nghiệp ở TP.HCM theo cách hiệu quả nhất.
4.1.5. Quan điểm phát triển bền vững
Trong nền kinh tế hiện đại, các nền kinh tế trên thế giới đều trở nên dễ bị tổn
thương, do các mục tiêu về KT - XH và môi trường không được hài hòa. Vì thế, quan
điểm phát triển bền vững đã được thừa nhận rộng rãi. Trong việc phát triển kinh tế một
cách bền vững phải đặt cân đối các quan hệ lợi ích (vĩ mô và vi mô, quốc gia và địa
phương, cộng đồng), đảm bảo mục tiêu phát triển kinh tế nhưng phải giảm thiểu những
tác động đến môi trường sinh thái.
Trong trường hợp nghiên cứu tại TP.HCM, quan điểm phát triển bền vững giúp
người nghiên cứu có những cách nhìn biện chứng, đa chiều về tác động của CĐNN
đến sinh kế của người dân địa phương, những tác động của quá trình chuyển đổi đến
môi trường và tài nguyên thiên nhiên.
4.1.6. Quan điểm kinh tế sinh thái
Hiện nay, các nước trên thế giới có hướng nghiên cứu về chuyển đổi kinh tế tác
động đến xã hội và sinh thái, tập trung phân tích sự suy giảm giá trị sinh thái xã hội từ
quá trình khai thác tài nguyên, các xung đột môi trường, xung đột xã hội do chính sách
6
phát triển kinh tế, thu hút đầu tư và giải pháp khắc phục. Qua đó, đảm bảo tính cân
bằng, ổn định giữa các nhân tố phát triển, hướng tới xã hội bền vững.
Trong trường hợp TP.HCM, thành phố đang gặp phải những vấn đề sinh thái
trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường. Trong luận án, vấn đề CĐNN
đã được phân tích trên quan điểm kinh tế sinh thái và đã được phân tích một cách đầy
đủ theo hướng tiếp cận liên ngành, xây dựng các tiêu chí chuyển đổi trong bối cảnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nền kinh tế thị trường.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
4.2.1. Phương pháp thu thập và xử lý tài liệu thứ cấp
Để đề tài được hoàn thành, việc thu thập, phân tích và tổng hợp các tài liệu liên
quan có ý nghĩa quan trọng. Những tài liệu nghiên cứu, những thông tin dựa vào các
nguồn thứ cấp như hệ thống văn bản (sách, tạp chí, bài báo khoa học, các đề tài
nghiên cứu…), các quy hoạch tổng thể, kết quả điều tra, báo chuyên ngành, các
website chính thức và cả những tài liệu lưu trữ (có thể không xuất bản) của Chính Phủ,
Bộ Ban ngành, Sở, Viện nghiên cứu được chọn lọc, hệ thống hóa để làm rõ lịch sử của
vấn đề nghiên cứu, những cách nhìn của các chuyên gia thuộc các lĩnh vực khác nhau.
4.2.2. Phương pháp phân tích, tổng hợp
Dựa trên nguồn tài liệu đã thu thập và xử lý, tác giả thực hiện việc đánh giá, so
sánh, phân tích và tổng hợp. Với quá trình CĐNN ở TP.HCM, tác giả cần đối chiếu
với các thành phố khác trong cả nước như Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng và Cần Thơ
để thấy sự khác biệt, các yếu tố đặc trưng, xu hướng phát triển cũng như mối quan hệ
về CĐNN với các yếu tố khác. Sau khi đối chiếu có thể đưa ra các tiêu chí để đánh giá
chính xác về đối tượng nghiên cứu theo mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
4.2.3. Phương pháp thực địa
Phương pháp nghiên cứu thực địa là phương pháp truyền thống và căn bản trong
nghiên cứu địa lí, đặc biệt trong các nghiên cứu trường hợp. Trong nghiên cứu đề tài
này, các đợt thực địa (nhiều vòng) sẽ được tiến hành từ giai đoạn thiết kế các nội dung
nghiên cứu, câu hỏi nghiên cứu, đến việc theo dõi diễn biến trên thực tế của quá trình
chuyển đổi nông nghiệp tại địa phương. Trong nghiên cứu thực địa, bên cạnh việc thu
thập các số liệu, tài liệu ở cơ sở, phỏng vấn,... NCS còn tiến hành các quan sát trực
7
tiếp, có hệ thống (theo không gian và thời gian). Các đợt thực địa còn có mục tiêu
nhằm đối chiếu, kiểm chứng lại những phát hiện của người nghiên cứu và tiếp tục phát
hiện các khía cạnh mới. NCS khảo sát khu nông nghiệp công nghệ cao, các khu thí
điểm trồng rau an toàn trong giai đoạn từ 2017 đến 2020. Những khảo sát này kết hợp
với quan sát nhằm tìm hiểu các phương thức chuyển đổi SXNN, mô hình chuyển đổi
trong những năm qua dưới tác động của thị trường và sự phát triển khoa học công
nghệ; tìm hiểu các kế hoạch của các bên về định hướng trong thời gian tới. Từ đó, giúp
tác giả có những đánh giá tin cậy, những kết luận chính xác về vấn đề nghiên cứu.
4.2.4. Phương pháp điều tra xã hội học
Trong nghiên cứu địa lí KT - XH, phương pháp điều tra xã hội học được sử dụng
khá phổ biến và đem lại hiệu quả cao. Trong nghiên cứu này, tác giả sử dụng phương
pháp điều tra xã hội học để phân tích cái nhìn đa chiều của các chủ thế chính; khảo sát
các đánh giá của các nông hộ về các thuận lợi, khó khăn trong quá trình chuyển đổi
nông nghiệp ở TP.HCM, nguyện vọng và các đề xuất của họ nhằm tháo gỡ các khó
khăn đó. Thông qua phương pháp điều tra nông hộ theo mẫu phiếu đã chuẩn bị sẵn
(xem phần phụ lục) kết hợp với thực địa nhằm thu thập bổ sung thông tin về chuyển
đổi nông nghiệp ở TP.HCM. Việc điều tra mẫu được thực hiện cụ thể như sau:
Xác định đối tượng điều tra: trên cơ sở giới hạn của đề tài, luận án chỉ tập trung
điều tra các nông hộ có đất sản xuất nông nghiệp tại hai huyện còn hoạt động sản xuất
nông nghiệp rõ nhất của thành phố là Củ chi và Hóc Môn. Đây là những hộ hội tụ đầy
đủ các điều kiện thuận lợi cho quá trình chuyển đổi nông nghiệp trong giai đoạn trên
để thích nghi với quá trình đô thị hóa đang diễn ra rất nhanh tại thành phố.
Xác định nội dung điều tra: điều tra các nông hộ có quá trình chuyển đổi nông
nghiệp, tập trung vào các vấn đề như nguyên nhân chuyển đổi; cây trồng, vật nuôi
chuyển đổi; mô hình chuyển đổi, các nguồn lực chuyển đổi, hiệu quả của quá trình
chuyển đổi; các đề xuất, kiến nghị của nông hộ với quá trình CĐNN.
Địa điểm điều tra: nghiên cứu sinh tiến hành khảo sát tại huyện Củ Chi và huyện
Hóc Môn. Củ Chi và Hóc Môn là hai huyện tập trung phát triển nông nghiệp chủ yếu
trong 5 huyện vùng ven của TP.HCM. Với chính sách phát triển đô thị của thành phố
thời tập trung chủ yếu ở hướng Đông và Nam; hướng Tây Nam và Tây Bắc như Cần
8
Giờ, Bình Chánh, Củ Chi với quỹ đất còn nhiều nên thuận lợi cho quá trình phát triển
nông nghiệp đô thị. Diện tích đất của huyện Củ Chi là 43,5 nghìn ha (đất sản xuất
nông nghiệp chiếm 71,2%), huyện Hóc Môn có 10,9 nghìn ha (đất sản xuất nông
nghiệp chiếm 47,8%). Huyện Hóc Môn có sự biến động mạnh do quá trình đô thị hóa,
tuy nhiên nông nghiệp của huyện vẫn có mô hình trồng lan và các trang trại chăn nuôi.
Huyện Củ Chi có quỹ đất nông nghiệp lớn và lợi thế đặc biệt với nhiều mảng xanh lớn,
thuận lợi phát triển nông nghiệp đô thị và hình thành các cụm dân cư trong quy hoạch
mô hình dân cư nông thôn theo hướng đô thị hóa, trên cơ sở hoàn chỉnh hạ tầng giao
thông và hạ tầng xã hội thuộc 5 huyện vùng ven của thành phố. Nông nghiệp của hai
huyện này đang có sự chuyển đổi mạnh mẽ sang mô hình khác phù hợp với quá trình
phát triển chuyển dịch cơ cấu kinh tế của thành phố. Các hộ điều tra phần lớn là ở Củ
Chi (3 xã Phạm Văn Cội, Tân Phú Trung và Tân Thông Hội) và Hóc Môn (2 xã Xuân
Thới Sơn và Xuân Thới Thượng). Đây là những xã có nhiều điều kiện thuận lợi để
chuyển đổi nông nghiệp (địa hình, đất đai, thủy lợi, vị trí, thị trường, lao động).
Số mẫu điều tra: NCS tiến hành khảo sát 110 mẫu (110 nông hộ) tại hai huyện
Củ Chi và Hóc Môn. Trong đó, có các hộ chuyển đổi mô hình sản xuất từ trồng trọt
sang chăn nuôi hoặc chuyển đổi từ các loại cây trồng có năng suất thấp sang cây trồng
có năng suất cao bằng việc sử dụng bảng hỏi hộ gia đình (phụ lục). Các hộ điều tra
phần lớn là ở Củ Chi (60 phiếu trên 3 xã Phạm Văn Cội, Tân Phú Trung và Tân Thông
Hội) và Hóc Môn (50 phiếu trên 2 xã Xuân Thới Sơn và Xuân Thới Thượng).
Thời gian điều tra: NCS tiến hành thực địa, điều tra, khảo sát từ tháng 06/2017 đến
tháng 06/2018, điều tra kết hợp sử dụng bảng hỏi, quan sát thực tế và phỏng vấn sâu.
4.2.5. Phương pháp thống kê toán học
Trong nghiên cứu này, phương pháp thống kê toán học được sử dụng rộng rãi, cả
trong xử lí các số liệu thứ cấp và số liệu sơ cấp. Trong luận án sử dụng các kĩ thuật
thống kê mô tả và thống kê suy luận. Các phần mềm được sử dụng là Excel, SPSS.
Các thông tin sẽ được sử dụng để thành lập bản đồ chuyên đề bằng MapInfo.
4.2.6. Phương pháp bản đồ, GIS
Trong luận án, các bản đồ chuyên đề cho phép NCS phân tích dưới góc độ địa lí
quá trình CĐNN ở TP.HCM nhằm đảm bảo tính lãnh thổ trong các phân tích, đánh giá.
9
Các bản đồ chuyên đề được xây dựng dựa trên kết quả nghiên cứu của NCS bằng phần
mềm Mapinfo 15.0, ở tỉ lệ in chính là 1: 350.000. Hệ thống các bản đồ được sử dụng
trong quá trình nghiên cứu luận án bao gồm: bản đồ hành chính TP.HCM, bản đồ các
nhóm đất TP.HCM, bản đồ địa hình TP.HCM,, bản đồ cơ sở vật chất kỹ thuật
TP.HCM, bản đồ chuyển đổi các cây trồng vật nuôi TP.HCM, bản đồ quy hoạch và
định hướng CĐNN tại TP.HCM.
4.2.7. Phương pháp chuyên gia
Trong quá trình nghiên cứu, đề tài tham vấn các chuyên gia đang công tác tại
TP.HCM, các tỉnh phía nam như các cán bộ quản lý Sở NN&PTNT TP.HCM; các kỹ
sư nông nghiệp, các nhà nghiên cứu ở Viện Quy hoạch và Thiết kế Nông nghiệp
(thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn), các chuyên gia trong lĩnh vực nông
nghiệp tại Đại học Sydney (Úc) để có cái nhìn đa chiều trong CĐNN; các chuyên gia
thống kê để chọn lựa mẫu nghiên cứu và địa bàn nghiên cứu.
5. Những đóng góp mới của đề tài
- Làm sáng tỏ cơ sở lí luận về CĐNN.
- Xác định được hệ thống chỉ tiêu đánh giá CĐNN vận dụng vào địa bàn nghiên cứu
cấp tỉnh, thành phố.
- Phân tích được ảnh hưởng của các nhân tố đến sự CĐNN ở TP.HCM.
- Làm rõ được thực trạng của CĐNN ở TP.HCM giai đoạn 2005 - 2018 theo các
tiêu chí đã chọn và trong các nghiên cứu trường hợp ở hai huyện Củ Chi và Hóc Môn.
Bước đầu đánh giá được hiệu quả về mặt KT-XH của quá trình chuyển đổi, chủ yếu ở
các nông hộ có CĐNN.
- Đề xuất được các giải pháp nhằm thực hiện CĐNN và nâng cao hiệu quả
chuyển đổi trong tương lai.
6. Cấu trúc của luận án
Ngoài Phần Mở đầu và Kết luận, nội dung chính của luận án gồm có 4 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn về chuyển đổi nông nghiệp
Chương 2: Các nhân tố ảnh hưởng đến chuyển đổi nông nghiệp TP.HCM
Chương 3: Thực trạng chuyển đổi nông nghiệp ở TP.HCM
Chương 4: Định hướng và giải pháp chuyển đổi nông nghiệp TP.HCM
Luận án còn có danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ lục.
10
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHUYỂN ĐỔI NÔNG NGHIỆP
1.1. Tổng quan các nghiên cứu
1.1.1. Trên thế giới
Nghiên cứu về chuyển đổi nông nghiệp gắn liền với quá trình quá trình chuyển đổi kinh tế của một quốc gia. Ở khu vực đô thị, những thay đổi về CĐNN chịu tác động của quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa gây ra sự biến động về dân số, việc làm, thu nhập, nhu cầu thực phẩm tại các thành phố. Có nhiều hướng nghiên cứu về chuyển đổi nông nghiệp, trong đó có thể kể đến một số hướng nghiên cứu quan trọng như sau:
1.1.1.1. Nghiên cứu về chuyển đổi nông nghiệp
Trong tác phẩm The Agricultural tranformation (Chuyển đổi nông nghiệp)
(1988) [146], Peter Timmer đã phân tích quá trình CĐNN có 4 giai đoạn dựa trên cơ
sở tiếp thu những lý thuyết của các nhà kinh tế học đã công bố trước đó về nông
nghiệp. Tùy vào từng giai đoạn, vai trò của nông nghiệp có sự khác biệt thể hiện ở thu
nhập của người lao động; đóng góp của nông nghiệp cho sự tăng trưởng kinh tế; sự
thay đổi của nhà nước với chính sách nông nghiệp để bảo đảm vấn đề an ninh lương
thực. Trong giai đoạn bắt đầu, nông nghiệp là bệ đỡ của nền kinh tế, cơ cấu nông
nghiệp trong giai đoạn này chiếm tỉ lệ lớn trong GDP, nguồn tích luỹ của nền kinh tế
chủ yếu lấy từ nông nghiệp. Đặc trưng của giai đoạn tiếp theo thể hiện ở năng suất
nông nghiệp thay đổi, sản lượng nông nghiệp tăng lên đáng kể tạo nên giá trị thặng dư;
một phần nguồn lợi được đầu tư trở lại cho nông nghiệp (chủ yếu cho nghiên cứu công
nghệ và cơ sở hạ tầng). Giai đoạn 3 xuất hiện khi tỉ lệ lao động trong nông nghiệp
giảm, có sự chênh lệch đáng kể trong thu nhập giữa công nghiệp và nông nghiệp.
Nông nghiệp lúc này đã có sự gắn kết với thị trường, giữa nông thôn và thành thị.
Nhưng nông nghiệp càng được gắn kết với nền kinh tế chung thì tính ổn định lại mất đi và bị phụ thuộc vào thị trường. Giai đoạn cuối cùng, tỉ lệ lao động trong nông nghiệp giảm xuống dưới 20%, chi tiêu cho lương thực, thực phẩm trong ngân sách của người dân tại thành thị giảm xuống khoảng 30%. Thu nhập của người nông dân bị giảm bớt do giá nông sản thấp và do chi phí đầu tư vào các kỹ thuật mới áp dụng trong nông nghiệp. Trong giai đoạn này, nhà nước sẽ phải trợ giá cho nông nghiệp để bảo đảm vấn đề an ninh lương thực và tạo thu nhập ổn định cho người lao động trong nông nghiệp.
11
Trong nghiên cứu Transforming agriculture in Africa and Asia: What are the
policy priorities [126] (Chuyển đổi nông nghiệp ở Châu Phi và Châu Á: ưu tiên những
chính sách gì?) đã tóm tắt các chính sách của chính phủ ở các quốc gia Châu Phi,
Châu Á và Châu Mỹ Latinh có vai trò thúc đẩy chuyển đổi nông nghiệp trong giai đoạn từ 1970 đến 2015. Nghiên cứu này xác định quá trình CĐNN như sau: thời kì đầu là nền nông nghiệp thuần nông sau đó nông nghiệp tăng trưởng rõ rệt nhờ tăng năng
suất; tỉ lệ lao động trong nông nghiệp giảm dần do chuyển dịch sang công nghiệp và dịch vụ; nông nghiệp tiếp tục có đóng góp đáng kể vào nền kinh tế vĩ mô và tiến đến
nền nông nghiệp bền vững. Vào năm 1970, hầu hết các quốc gia ở Châu Phi, Châu Á
và Châu Mỹ Latinh vẫn đặc trưng bởi mức độ thiếu hụt lương thực thực phẩm, nông
nghiệp phụ thuộc nặng nề vào lao động và năng suất thấp. Vào năm 2015, phần lớn các quốc gia đã diễn ra sự chuyển đổi, chỉ có châu Phi cận Sahara vẫn bị tụt lại phía
sau; 14 quốc gia đã và đang chuyển đổi là: Brazil, Chile, Trung Quốc, Colombia,
Costa Rica, Ghana, Indonesia, Malaysia, Morocco, Peru, Nam Phi, Hàn Quốc, Thái
Lan và Việt Nam.
Alston J. M. and P. G. Pardey (2017) trong bài báo Transforming Traditional
Agriculture (Chuyển đổi nông nghiệp truyền thống) [125], cho rằng khi dân số thế giới
đã tăng gấp đôi trong hơn 50 năm qua thì sản lượng và giá trị sản xuất nông nghiệp
cũng tăng lên đáng kể trong khi diện tích đất nông nghiệp chỉ tăng khoảng một phần
mười. Các học giả đã không dự đoán được quá trình CĐNN sẽ xảy ra. Theo nghiên
cứu, CĐNN là quá trình chuyển đổi từ nông nghiệp truyền thống sang nông nghiệp
hàng hóa; là động cơ tăng trưởng kinh tế giúp thay đổi nông nghiệp một cách vững
chắc. Tuy nhiên, quá trình CĐNN trong nửa thế kỷ sau diễn ra không đồng nhất giữa các quốc gia có thu nhập cao và thu nhập thấp.
Trong bài báo“Chuyển đổi trong nông nghiệp và ý nghĩa của nó đối với phát
triển nông thôn” Peter Hazell (2007) [147] đã đánh giá những tác động của CĐNN
đối với phát triển nông thôn. Bài báo thảo luận một số vấn đề về chiến lược trong việc hỗ trợ các khu vực nông thôn và trang trại nhỏ ở các nước đang phát triển như tăng năng suất thực phẩm, đa dạng hóa các sản phẩm có giá trị kinh tế cao, tổ chức tiếp thị nông nghiệp và tập trung phát triển trang trại nhỏ.
Kinh nghiệm quy hoạch và chuyển đổi thành công trong nông nghiệp được trình bày trong nghiên cứu Successful agricultural transformations: Six core elements of planning and delivery (Chuyển đổi nông nghiệp thành công: Sáu yếu tố cốt lõi của kế hoạch và chuyển giao) (2017) [151] của nhóm tác giả Sara Boettiger, Nicolas Denis,
12
and Sunil Sanghvi). Các tác giả cho rằng, CĐNN là quá trình cải thiện cuộc sống của
hàng triệu người nghèo đói ở các nước đang phát triển vì đa số người nghèo trên thế
giới là nông dân. Chuyển đổi nông nghiệp của một quốc gia có thể tạo ra việc làm,
tăng thu nhập, giúp nền tăng trưởng kinh tế, tạo ra mức thu nhập trung bình cho người nông dân. Các quốc gia được đề cập trong nghiên cứu như Brazil, Trung Quốc và Việt Nam, mỗi nơi đều có giá trị ngành nông nghiệp tăng gần gấp đôi trong 20 năm kể từ
lúc bắt đầu chuyển đổi. Nhiều quốc gia khác ở châu Phi, Châu Á và Mỹ Latinh cũng đang trên con đường chuyển đổi. Các nghiên cứu của WB, UNDP, tổ chức OECD và
FAO cũng đề cập đến vấn đề này ở các nước đang phát triển.
Sietze Vellema (2011) trong cuốn sách Transformation and sustainability in
agriculture (Chuyển đổi và phát triển bền vững trong nông nghiệp) [154] đã phân tích các thể chế xã hội cho phép nông dân thay đổi cách làm nông nghiệp và cung ứng sản
phẩm. Từ năm 2001, chính phủ Hà Lan đã thực hiện các lựa chọn chuyển đổi “theo kế
hoạch”, để đối phó với những thách thức của ô nhiễm môi trường cũng như nhằm phát
triển bền vững trong khoảng thời gian 30 năm tới. Chuyển đổi để nông nghiệp tiến đến
sự bền vững đòi hỏi có sự hỗ trợ của nhiều bên liên quan và nỗ lực để hiện thực hóa
quá trình chuyển đổi. Tài liệu này áp dụng một số mô hình quản trị để quản lý các quá
trình chuyển đổi nông nghiệp, tìm cách kết hợp giữa lý thuyết phức tạp với thực tiễn
tại Hà Lan.
Theo Schultz (1964) CĐNN là sự tăng nhanh về sản lượng nông nghiệp do tác
động của hiện đại hóa ngành nông nghiệp. Ông nêu bật vai trò của toàn cầu hóa đổi
mới công nghệ và thể chế, môi trường đối với nông nghiệp và cho rằng CĐNN kích
thích tăng trưởng, giảm đói nghèo, bất bình đẳng, cung cấp an ninh lương thực và phân phối các dịch vụ môi trường [155].
Như vậy, các nghiên cứu kể trên về CĐNN chủ yếu đề cập đến mô hình phát
triển thông qua các giai đoạn của quá trình chuyển đổi; kinh nghiệm tại các nước phát
triển và đang phát triển trong quá trình công nghiệp hóa theo cả hai hướng tích cực và tiêu cực. Bên cạnh đó, các nghiên cứu cũng xem xét những khía cạnh tác động của CĐNN đến sinh kế của nông dân (bộ phận có thu nhập thấp của nền kinh tế) đặc biệt ở các nước đang phát triển hiện nay. 1.1.1.2. Nghiên cứu chuyển đổi nông nghiệp theo hướng nông nghiệp an toàn
Fernando P. Carvalho trong bài báo Agriculture, pesticides, food security and food safety (Nông nghiệp, thuốc trừ sâu, an ninh lương thực và an toàn thực phẩm) (2006) [135] cho rằng nhiều thập kỷ trước, hóa chất nông nghiệp đã được đưa vào sử
13
dụng nhằm mục đích nâng cao năng suất cây trồng và bảo vệ cây trồng khỏi sâu bệnh.
Do sự thích nghi và sức đề kháng của sâu bệnh với hóa chất tăng lên, hàng năm người
ta phải đưa vào các thuốc bảo vệ thực vật mới gây tác dụng phụ. Cuối cùng, các công
nghệ mới, bao gồm các sinh vật biến đổi gen (GMO) kháng sâu bệnh, có thể làm giảm quy mô sử dụng hóa chất nông nghiệp nhưng các công nghệ mới này không thể đáp ứng nhu cầu sản xuất một lượng lớn thực phẩm. Việc sử dụng hóa chất nông nghiệp,
bao gồm cả thuốc trừ sâu, vẫn là một thói quen phổ biến đặc biệt là ở các vùng nhiệt đới và các nước ở Nam bán cầu. Các hợp chất nông nghiệp tồn tại lâu dài với môi
trường, đã bị cấm sử dụng trong nông nghiệp ở các nước phát triển, nhưng vẫn phổ
biến ở các nước đang phát triển. Bài báo đưa ra giải pháp phát triển nông nghiệp an
toàn là cần có những nỗ lực phối hợp của các quốc gia để tăng sản xuất thực phẩm nhưng vẫn đảm bảo chất lượng và an toàn thực phẩm cũng như kiểm soát dư lượng
thuốc trừ sâu dai dẳng trong môi trường.
Meiz-hang-xiang-yu Guo trong bài báo Nghiên cứu về chức năng của hợp tác xã
nông nghiệp trong an toàn thực phẩm (2010) [141] cho rằng hiện nay vấn đề an toàn
thực phẩm đã được chính phủ và các doanh nghiệp chú ý nhiều hơn. Buôn bán quốc tế
đỏi hỏi phải chứng minh nguồn gốc và sự an toàn sản phẩm theo các tiêu chuẩn đã
được qui định, trong người nông dân cả thể không có đủ điều kiện công nghệ, vốn, chi
phí, nhân lực cần thiết để đáp ứng yêu cầu đó. Vì vậy, nông dân phải xây dựng phải
nhờ đến HTX nông nghiệp. Hợp tác xã nông nghiệp sẽ chịu trách nhiệm phân phối
những sản phẩm đã được xác nhận nguồn gốc và mức độ an toàn sản phẩm; HTX trở
thành tổ chức quan trọng giúp chính phủ thực hiện kiểm tra và quản lý chất lượng sản
xuất nông nghiệp. Các HTX nông nghiệp đã đạt được hiệu suất lớn trong việc kiểm soát và bảo vệ an toàn thực phẩm, nâng cao thu nhập của nông dân và thúc đẩy sức
mạnh cạnh tranh thị trường.
Nghiên cứu của FAO về Tương lai của thực phẩm và nông nghiệp: Xu hướng và
thách thức (2017) [133] có đề cập đến vấn đề an toàn trong nông nghiệp theo hướng nông nghiệp bền vững với tầm nhìn là một thế giới không bị đói và suy dinh dưỡng, trong đó nông nghiệp và thực phẩm góp phần cải thiện mức sống của tất cả mọi người, đặc biệt là những người nghèo nhất, theo cách bền vững về kinh tế và xã hội. Nghiên cứu này đưa ra các xu hướng và thách thức toàn cầu quan trọng sẽ ảnh hưởng đến thực phẩm và nông nghiệp trong thập kỷ tới. Những thành tựu về năng suất và tiến bộ công nghệ đã được thực hiện trong việc giảm đói nghèo và cải thiện an ninh thực phẩm và dinh dưỡng. Đạt được năng suất và tiến bộ công nghệ đã góp phần vào sử dụng tài
14
nguyên hiệu quả hơn và cải thiện an toàn thực phẩm. Nhưng mối quan tâm lớn vẫn tồn
tại, 795 triệu người vẫn phải chịu đói và hơn hai tỷ người bị thiếu dinh dưỡng. Ngoài
ra, an ninh thực phẩm toàn cầu có thể gặp nguy hiểm, do áp lực lên tài nguyên thiên
nhiên và biến đổi khí hậu, cả hai đều đe dọa sự bền vững của các hệ thống thực phẩm nói chung. Theo quan điểm của FAO, có 10 thách thức chính cần được giải quyết nếu chúng ta là để thành công trong xóa đói giảm nghèo, đồng thời làm cho hệ thống nông
nghiệp và thực phẩm bền vững. Những thách thức đó liên quan đến dân số, các mối đe dọa do biến đổi khí hậu, sự gia tăng của thiên tai và các dịch bệnh xuyên biên giới và
những điều chỉnh cần thiết thích ứng với những thay đổi trong các hệ thống thực phẩm
toàn cầu.
Nông nghiệp hữu cơ là nông nghiệp an toàn nhưng đòi hỏi sự khắt khe hơn về kỹ thuật canh tác, không sử dụng phân bón hóa học, thuốc trừ sâu trong kiểm soát dịch
bệnh và các chế phẩm biến đổi gen trong kĩ thuật canh tác nông nghiệp. Ấn phẩm
Organic In Europe, Prospects And Development (Nông nghiệp hữu cơ, triển vọng và
phát triển ở Châu Âu) (2014) của IFOAM EU [138] đưa ra một cái nhìn tổng quan về
triển vọng của nông nghiệp hữu cơ ở Châu Âu, từ góc độ chính sách công và tăng
trưởng của thị trường. Chính sách nông nghiệp của EU tiếp tục có tác động đáng kể
đến sự phát triển canh tác hữu cơ không chỉ trong EU-28, mà còn trên khắp châu Âu,
ảnh hưởng đến xu hướng thị trường trong EU cũng như các quốc gia trong Hiệp hội
thương mại tự do châu Âu (EFTA).
Trong công trình Food, Globalization and Sustainability (Thực phẩm, toàn cầu
hóa và phát triển bền vững) (2011) [148], Peter Oosterveer and David A. Sonnenfeld
cho rằng muốn phát triển nông nghiệp hữu cơ cần phát huy vai trò chuỗi cung ứng sản phẩm liên kết các nhà sản xuất, các nhà bán lẻ thực phẩm với người tiêu dùng sản
phẩm nông nghiệp. Nông nghiệp hữu cơ góp phần phát triển nông nghiệp bền vững.
Nông nghiệp sinh thái cũng hướng đến nông nghiệp an toàn. Theo Fred Magdoff,
Nông nghiệp sinh thái: nguyên tắc, thực hành và các điều kiện (2007) [136] cho rằng để phát triển nông nghiệp sinh thái trong chiến lược tổng thể cần có các giống cây có năng suất tốt, đảm bảo không gây hại cho cây trồng và tăng cường quần thể sinh vật có lợi.
Trong Chương trình đồng hành đổi mới sáng tạo trong nông nghiệp của EU (EIP- AGRI) với nghiên cứu Tiếp cận sinh thái và nông nghiệp hữu cơ (2017) [128] tập trung nghiên cứu thể chế, kết nối các bên gồm doanh nghiệp, nhà nghiên cứu, nông dân để thực hành nông nghiệp sinh thái và hữu cơ.
15
Các nghiên cứu về phát triển nông nghiệp theo hướng an toàn có sự kết hợp
chặt chẽ giữa khung lý thuyết và thực tiễn. Những dự kiến đổi mới trong nông
nghiệp như nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sinh thái sẽ có tác động không nhỏ
đến sự phát triển nền kinh tế, đặc biệt tại khu vực đô thị nơi có diện tích đất bị thu hẹp đáng kể do quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa. 1.1.1.3. Nghiên cứu chuyển đổi nông nghiệp theo hướng nông nghiệp công nghệ cao
Theo nhóm tác giả Reina, Giulio, Milella, Annalisa (2016) [150] nông nghiệp
công nghệ cao là nền nông nghiệp hiện đại kết hợp với công nghệ tiên tiến để sản xuất,
nhằm nâng cao hiệu quả, tạo đột phá về năng suất, chất lượng nông sản, đáp ứng nhu
cầu của xã hội và bảo đảm sự phát triển bền vững của ngành nông nghiệp. Biểu hiện
của nông nghiệp công nghệ cao là tự động hóa, công nghệ thông tin, công nghệ vật
liệu mới, công nghệ sinh học và các giống cây trồng, giống vật nuôi có năng suất và
chất lượng cao, đạt hiệu quả kinh tế cao trên một đơn vị diện tích và phát triển bền
vững trên cơ sở canh tác hữu cơ.
Scherr, S.J. et al (2015) trong nghiên cứu Các bước tiến tới nông nghiệp xanh:
Ảnh hưởng của chính sách đối với dấu chân môi trường đến nông nghiệp hàng hóa ở
Đông Á và Đông Nam Á hay ấn phẩm Các bước tiến tới nông nghiệp xanh: Chính
sách đáp ứng dấu chân môi trường trong nông nghiệp hàng hóa ở Đông và Đông
Nam Á [152] [153] đã đề cập đến mô hình nông nghiệp công nghệ gắn liền với công
nghệ sinh học và chuyển giao công nghệ. Các tác giả đã nghiên cứu về mô hình phát triển kinh tế dựa trên nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp xanh, nông nghiệp hữu
cơ, tác động của nó đến phát triển kinh tế, ứng dụng vào quá trình phát triển kinh tế
đặc biệt tại khu vực đô thị.
Nghiên cứu Agriculture 4.0: the future of farming technology (Nông nghiệp 4.0:
tương lai của công nghệ canh tác) của nhóm tác giả Matthieu De Clercq, Anshu Vats,
Alvaro Biel [140] có đề cập đến bốn nhân tố chính gây áp lực lên nền nông nghiệp tương lai bao gồm vấn đề dân số, tình trạng khan hiếm tài nguyên, biến đổi khí hậu và lãng phí thực phẩm. Theo FAO, dân số thế giới sẽ có qui mô gần 10 tỷ vào năm 2050. Đến năm 2050, nông dân sẽ phải sản xuất thêm 70% lương thực. Nông nghiệp 4.0, phải là một cuộc cách mạng xanh với khoa học và công nghệ là trung tâm. Nông nghiệp 4.0 sẽ cần xem xét cả cầu và cung, sử dụng công nghệ không chỉ đơn giản là vì
sự đổi mới mà còn cải thiện và giải quyết nhu cầu thực sự của người tiêu dùng và tái
cấu trúc chuỗi giá trị. Các trang trại hiện đại và hoạt động nông nghiệp sẽ hoạt động
khác nhau, chủ yếu là do những tiến bộ trong công nghệ, bao gồm cảm biến, thiết bị,
16
máy móc và công nghệ thông tin. Nông nghiệp trong tương lai sẽ sử dụng các công
nghệ tinh vi như robot, cảm biến nhiệt độ và độ ẩm, hình ảnh trên không và công nghệ
GPS. Những tiến bộ này sẽ giúp các doanh nghiệp có lợi nhuận cao hơn, hiệu quả hơn,
an toàn hơn và thân thiện với môi trường hơn. Những tiến bộ kỹ thuật số và công nghệ này đang chiếm lĩnh ngành kinh tế này, nâng cao toàn bộ chuỗi giá trị thực phẩm. Nông nghiệp 4.0 có ba xu hướng chung bao gồm: 1. Sản xuất bằng cách sử dụng các
kỹ thuật mới. 2. Sử dụng các công nghệ mới để đưa thực phẩm đến người tiêu dùng, tăng hiệu quả trong chuỗi thực phẩm. 3. Kết hợp các công nghệ và ứng dụng trong
công nghiệp chế biến.
Trong nghiên cứu về công nghệ nông nghiệp hiện đại Tầm quan trọng của công
nghệ nông nghiệp hiện đại, vai trò và cách thức sử dụng để cải tiến trong nông nghiệp (2016 ) [124], các tác giả đã chỉ ra những thay đổi do công nghệ nông nghiệp hiện đại
tạo ra trong nông nghiệp như con người vận hành máy móc, định vị GPS; hệ thống
giám sát máy tính và chương trình tự điều khiển cho phép điều khiển các máy móc tiên
tiến nhất với độ chính xác cao và ít lãng phí hơn trong việc sử dụng nhiên liệu, phân
bón hoặc hạt giống. Trong tương lai, có thể sản xuất hàng loạt máy kéo không người
lái và máy móc nông nghiệp khác sử dụng cảm biến điện tử và bản đồ GPS.
1.1.1.4. Nghiên cứu chuyển đổi nông nghiệp thích ứng với biến đổi khí hậu
Nghiên cứu của FAO Làm thế nào để nuôi được thế giới đến năm 2050 (How to
Feed the World in 2050) (2009) [130], lại đề cập đến vấn đề an ninh lương thực và những tác động của biến đổi khí hậu đến nông nghiệp trên thế giới. Đến năm 2050,
dân số thế giới sẽ đạt 9,1 tỷ người, bùng nổ dân số xảy ra chủ yếu ở các nước đang
phát triển. Báo cáo này lập luận rằng sự tăng trưởng trong sản xuất lương thực có thể
đạt được nếu tập trung vào các chính sách cho SXNN tại chỗ. Nhiều quốc gia sẽ tiếp
tục dựa vào tự do thương mại quốc tế để đảm bảo an ninh lương thực. Ước tính rằng
đến năm 2050, các nước đang phát triển sẽ nhập khẩu lượng ngũ cốc gấp đôi từ 135 triệu tấn lên 300 triệu tấn (2050).
Theo FAO Nông nghiệp thông minh với khí hậu (Climate Smart Agriculture - CSA)(2017), tập trung vào nông dân để cải thiện năng suất và thu nhập, giúp nông dân thích ứng với khí hậu thay đổi và góp phần giảm thiểu lượng khí thải nhà kính (GHG) [134]. Với phương thức tiếp cận tổng hợp, CSA có thể đảm bảo an ninh lương thực và
ứng phó biến đổi khí hậu theo 3 mục tiêu: tăng trưởng sản lượng; thích ứng với biến đổi khí hậu; giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu. CSA đã được áp dụng trong bối cảnh khu vực để được lợi ích về cả lĩnh vực nông nghiệp và cộng đồng. Nghiên cứu
17
này cung cấp một cái nhìn bao quát về CSA trên nhiều khu vực khác nhau (Bắc và
Đông phi, Trung Á, châu Á và Thái Bình Dương, Châu Âu và Trung Á) cho thấy cách
quản lý các trang trại, cây trồng, chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản đảm bảo cân bằng
các nhu cầu an ninh lương thực ngắn hạn và lâu dài với các ưu tiên cho nông dân cũng như xây dựng thích ứng với biến đổi khí hậu và góp phần giảm nhẹ lượng phát thải khí nhà kính.
Hướng nghiên cứu này đề cập những chuyển đổi của nông nghiệp tại các nước đang phát triển nhằm thích ứng với biến đổi khí hậu toàn cầu như tài liệu Chỉ dẫn về
khí hậu thông minh ứng dụng trong nông nghiệp của tổ chức FAO [131] (Climate-
smart Agriculture Sourcebook); báo cáo của Cơ quan Phát triển Quốc tế của Hoa Kỳ
(USAID, 2013) về “Sông Mê kông thích ứng và ứng phó với biến đổi khí hậu (Mekong ARCC)”( Mekong Adaptation and Resilience to Climate change (Mekong ARCC)
[159] các vấn đề về thâm canh và chuyên canh nông nghiệp ở các nước đang phát
triển (vì các nước này dễ bị tổn thương nhất đối với sự thay đổi của khí hậu), việc
phát triển nền nông nghiệp theo hướng hàng hóa, thương mại (commercial agriculture)
do các quốc gia này có ít nguồn lực để thích ứng với biến đổi khí hậu toàn cầu như
công nghệ, tài chính và một phần do các vấn đề xã hội cần phải giải quyết như lao
động, việc làm, di cư…
Trong nghiên cứu của J.Sundaresan, S.Seekesh, Al.Ramanathan, L.Sonnenschein,
R.BooJh, Biến đổi khí hậu và tính dễ bị tổn thương của các đảo và vùng ven bờ ở
Croastal (2012) 143], biến đổi khí hậu là một trong những áp lực đến người nông dân
ven biển vốn là những đối tượng dễ bị tổn thương nhất do họ có năng lực thích ứng hạn
chế và thường sinh sống ở những vùng địa lí dễ bị tổn thương bởi thiên tai, trong khi lại
thiếu các nguồn lực cần thiết để đương đầu với các rủi ro này.
1.1.1.5. Nghiên cứu chuyển đổi nông nghiệp theo hướng nông nghiệp đô thị
Theo FAO nông nghiệp đô thị bao quát bao gồm nông nghiệp trung tâm, ngoại ô và vùng lân cận đô thị. Nông nghiệp đô thị bao gồm nông nghiệp nội thị và nông nghiệp ngoại thị với các hoạt động chủ yếu là trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp và thủy sản. Các nghiên cứu của FAO như Agro-industrial supply chain management: concepts and applications (Quản lý chuỗi cung ứng nông-công nghiệp: khái niệm và ứng dụng) [129] đã phân tích chuỗi giá trị hàng hóa trong nông nghiệp đảm bảo những đặc điểm của nông nghiệp đô thị cung cấp một phần nhỏ cho nhu cầu lương thực của thành phố.
18
Luc J.A. Mougeot (1999) Nông nghiệp đô thị: khái niệm, thực trạng, tiềm năng
và rủi ro, và thách thức chính sách [139] đã phân tích những đặc điểm chính của nông
nghiệp đô thị là bổ sung sản phẩm lương thực, thực phẩm địa phương; hội nhập với
kinh tế địa phương; tạo ra các sản phẩm có giá trị hàng chục triệu USD ở các trung tâm đô thị chính; là một nguồn thu nhập đáng kể, có lợi hơn nhiều so với vùng nông thôn dựa trên SXNN. Cho đến nay, việc phát triển nông nghiệp đô thị đã được hỗ trợ
chủ yếu bởi các chính sách về nông nghiệp, giảm nghèo và an ninh lương thực. Một số xu hướng phát triển hiện nay sẽ góp phần củng cố sự tăng trưởng của nông nghiệp đô
thị trên toàn thế giới, những rủi ro và lợi ích của ngành nông nghiệp phải được giải
quyết thông qua hoạt động chính sách và các giải pháp thực hiện.
René Van Veenhuizen (2006) trong Nông nghiệp đô thị trong tương lai: nông nghiệp đô thị cho thành phố xanh và hiệu suất đã đề cập đến sự đa dạng của các hệ
thống SXNN trong và ven các thành phố với các sản phẩm như thịt, trứng, sữa và rau
ăn lá [149]. Nông nghiệp đô thị có cả mặt tích cực lẫn tiêu cực tác động đến xã hội,
môi trường và kinh tế. Những rủi ro về nông nghiệp đô thị liên quan đến sức khỏe con
người và môi trường. Sự đóng góp quan trọng nhất của nông nghiệp đô thị là góp phần
đảm bảo an ninh lương thực và thực phẩm an toàn. Sản xuất nông nghiệp trong thành
phố là một trong những cách giúp người nghèo đô thị tiếp cận với lương thực, thực
phẩm tại chỗ. Các chi phí về cung cấp và phân phối thực phẩm từ các vùng nông thôn
đến khu vực đô thị hoặc nhập khẩu thực phẩm cho các thành phố sẽ làm gia tăng chi
phí sản phẩm và có thể làm giảm an ninh lương thực ở đô thị.
Ngân hàng thế giới khảo sát nông nghiệp đô thị tại bốn nước Ấn Độ, Kenya,
Ghana và Peru (2012) [157] đã phân tích tác động của nông nghiệp đô thị đến thu nhập và chi tiêu, an ninh lương thực và dinh dưỡng; đánh giá các tác động xã hội cũng như
việc xây dựng các thành phố xanh và bền vững.
Trong đánh giá của Nghị viện Châu âu (2017) [127] ước tính đến năm 2050, 67%
dân số thế giới sẽ sống ở khu vực thành thị, đồng thời trong bối cảnh biến đổi khí hậu vai trò của nông nghiệp trong tương lai sẽ có nhiều thay đổi. Nông nghiệp đô thị bao gồm nhiều hình thức như nông hộ, mô hình vườn cây trên sân thượng, các trang trại và có sự khác biệt cơ bản giữa nông nghiệp đô thị (khu vực trung tâm) và vùng ven đô thị (nông nghiệp ở rìa của các thành phố). Nông nghiệp đô thị hiện nay phải đối mặt với một số thách thức, chẳng hạn như áp lực về thu hẹp đất nông nghiệp, nguồn ô nhiễm phát sinh từ hoạt động công nghiệp và ô nhiễm đất.
19
1.1.2. Ở Việt Nam
1.1.2.1. Nghiên cứu về chuyển đổi nông nghiệp ở Việt Nam
Khảo sát nông nghiệp Việt Nam giai đoạn 2008-2014, các tác giả của chuyên
khảo Báo cáo Phát triển Việt Nam – Chuyển đổi nông nghiệp Việt Nam: tăng giá trị, giảm đầu vào (2016) [64] cho rằng nông nghiệp Việt Nam cần phải tạo thêm giá trị về
mặt kinh tế, nâng cao lợi ích cho nông dân và người tiêu dùng nhưng cần sử dụng ít tài
nguyên, nhân công và đầu vào trung gian phải ít độc hại hơn. Điều này càng quan
trọng khi Việt Nam là nước xuất khẩu hàng đầu các mặt hàng nông sản và lương thực
nhưng tăng trưởng nông nghiệp còn thấp thể hiện qua tỉ suất lợi nhuận của nông dân
thấp, tỷ lệ thiếu việc làm cao, chất lượng sản phẩm thấp. Nghiên cứu đã đề xuất một số
khuyến nghị về chính sách nhằm tạo ra những giá trị về mặt kinh tế cho nông dân và
người tiêu thụ, đồng thời sử dụng ít tài nguyên, hóa chất, vật tư trong nông nghiệp.
Công trình của FAO “Chuyển đổi nông nghiệp của các nền kinh tế thu nhập
trung bình ở châu Á: Đa dạng hóa, quy mô trang trại và cơ giới hóa” (2015) [132] có
nghiên cứu tại Việt Nam cho thấy rằng việc thực hiện cơ giới hóa còn trở ngại do
qui mô trang trại nhỏ, qui mô trang trại nhỏ gây cản trở cho việc thực hiện đa dạng
hóa các sản phẩm trong trồng trọt chăn nuôi và thủy sản trong mở rộng thương mại
quốc tế. Vì thế chính phủ của các quốc gia trong đó có Việt Nam là đưa ra các
quyết định về thương mại quốc tế phù hợp để có thể hỗ trợ nông dân khi tham gia
xuất khẩu nông sản.
Đào Thế Anh (2012) [4] đã đưa ra các nội dung chính của quá trình CĐNN là: (1)
Chuyển đổi cơ cấu cây trồng, phát triển cây thức ăn gia súc nhằm phát triển chăn nuôi,
nuôi trồng thuỷ sản; (2) Chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, đa dạng hoá nông sản
phục vụ thị trường trong nước và xuất khẩu; (3) Phát triển công nghiệp chế biến nhằm
thúc đẩy chuỗi giá trị nông sản nông nghiệp; (4) Phát triển công nghiệp, dịch vụ nông
thôn nhằm đa dạng nguồn thu nhập của nông dân và đẩy nhanh CNH, HĐH; (5) Phát triển các khu công nghiệp và phân bố hợp lý ở ven đô nhằm giảm sự tập trung ở vùng trung tâm đô thị lớn; (6) Đầu tư vốn vào con người thông qua giáo dục, dạy nghề nhằm nâng cao trình độ chuyên môn hoá cho người nông dân.
Theo hướng chuyển đổi về cơ cấu kinh tế nông nghiệp có các đề tài như Lê Đình Thắng (1998) “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn - Những vấn đề lí luận và thực
tiễn” [86], “Nghiên cứu dự báo chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp, nông thôn và
các giải pháp giải quyết việc làm trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH và đô thị hóa”,
của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2003) “Nghiên cứu luận cứ khoa học của
20
chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn theo hướng CNH, HĐH” tác giả Lê
Xuân Bá (2012) [5] bàn về những vấn đề lí luận cơ bản và thực tiễn của cơ cấu kinh tế
và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn trong những không gian, thời
gian nhất định và trong những điều kiện kinh tế xã hội nhất định Từ đó, đề xuất các giải pháp tạo việc làm cho nông dân, nông thôn trong quá trình CNH-HĐH đất nước.
Phạm Đình Hổ (2003) “Kinh tế Nông nghiệp - Lý luận và thực tiễn” [43] và Đinh
Phi Hổ (2011); “Phương pháp nghiên cứu định lượng và những nghiên cứu thực tiễn trong kinh tế phát triển - nông nghiệp” [44], đã bàn về những vấn đề lí luận cơ bản như
khái niệm, vai trò, đặc điểm, nguồn lực chủ yếu, những vấn đề tổ chức sản xuất và quản
lý nông nghiệp. Đây là cơ sở lý luận cho những khái niệm về kinh tế nông, lâm, thủy sản
trong luận án.
Chuyển đổi nông nghiệp, chuyển đổi cơ cấu lãnh thổ nông nghiệp theo quan điểm
địa lý học cũng đã từng được các nhà địa lý phân tích và trình bày trong các giáo trình
như Nguyễn Viết Thịnh và Đỗ Thị Minh Đức với chuyên khảo “Phân tích kiểu địa lí
KT - XH cấp tỉnh và cấp huyện ở Việt Nam” (2005) [87] đã nêu lên đặc điểm, vai trò
của các nhân tố ảnh hưởng đến sự thay đổi của tổ chức lãnh thổ, trong đó có tổ chức
lãnh thổ nông nghiệp Việt Nam đây là tiền đề để phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến
quá trình chuyển đổi nông nghiệp ở Việt Nam. Đặng Văn Phan (2008) [67] với giáo
trình “Tổ chức lãnh thổ Nông nghiệp Việt Nam” nghiên cứu về quan niệm, các nhân tố
ảnh hưởng, các hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp trên thế giới và liên hệ ở Việt
Nam. Cuốn sách phân tích thực trạng tổ chức lãnh thổ nông nghiệp, chuyển đổi cơ cấu
lãnh thổ nông nghiệp ở Việt Nam và một số hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp chủ
yếu hiện nay. 1.1.2.2. Nghiên cứu chuyển đổi nông nghiệp theo hướng nông nghiệp an toàn
Trong Báo cáo Các chính sách Nông nghiệp Việt Nam năm 2015 của OECD [66]
đã đánh giá bối cảnh và xu hướng của chính sách nông nghiệp Việt Nam giai đoạn 1976
– 2015. Báo cáo đã xác định cách hỗ trợ cho nông nghiệp Việt Nam thông qua phương pháp mà OECD đã áp dụng cho các nước không phải là thành viên của OECD. Việt Nam cần đưa ra các chính sách về nông nghiệp để tăng chất lượng đầu ra và khả năng cạnh tranh, nâng cao thu nhập cho nông dân, hỗ trợ nông nghiệp bởi một loạt các trợ cấp đầu vào về thủy lợi, giống và tín dụng trong bối cảnh nông nghiệp giai đoạn 1976-2015 để hướng đến nông nghiệp an toàn, ứng dụng công nghệ cao, sản xuất theo qui trình thực hành sản xuất tốt GlobalGAP (thực hành nông nghiệp tốt toàn cầu).
Đề án “Quy hoạch tổng thể ngành nông nghiệp cả nước đến năm 2020 và tầm
21
nhìn 2030” (2012) [16] nghiên cứu về quy hoạch nông nghiệp dựa theo hiện trạng về sử
dụng đất đai; hiện trạng thủy lợi; qua đó phân vùng sinh thái nông nghiệp của Việt Nam
đã đặt mục tiêu xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, bền
vững, sản xuất hàng hoá lớn trên cơ sở phát huy các lợi thế so sánh; áp dụng khoa học công nghệ để tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài, đáp ứng nhu cầu đa dạng
trong nước và xuất khẩu; nâng cao hiệu quả sử dụng đất đai, lao động và nguồn vốn; tăng nhanh thu nhập và đời sống của nông dân, ngư dân, diêm dân và người trồng rừng.
Nông nghiệp hữu cơ là một hướng nghiên cứu trong nông nghiệp an toàn. Trong
Đề án “Phát triển nông nghiệp hữu cơ giai đoạn 2020 – 2030”[18], với mục tiêu là đến
năm 2030 Việt Nam lọt vào bảng xếp hạng 15 của thế giới về nông nghiệp hữu cơ, Việt Nam đã đưa những khung tiêu chuẩn chung, có tiêu chuẩn riêng cho một số sản phẩm
như: gạo, chè, sữa nhưng chưa có tiêu chuẩn đối với các sản phẩm thủy sản, dược liệu,
mỹ phẩm, rau, quả, cà phê, hồ tiêu. Trong đề án, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn cũng đề xuất cần có quy trình sản xuất nông nghiệp hữu cơ (NNHC) để sản xuất
với quy mô lớn. Đề án cũng đề xuất những giải pháp hỗ trợ nông dân cung cấp thông tin
quản lý chứng nhận, hỗ trợ sản xuất và chứng nhận đạt tiêu chuẩn sản phẩm hữu cơ.
Trong nghiên cứu Nông nghiệp hữu cơ: Triển vọng, thách thức và giải pháp [46]
Nguyễn Xuân Hồng cho rằng Việt Nam có đầy đủ các điều kiện thuận lợi để được công
nhận là nước có sản xuất NNHC (Theo IFOAM). Năm 2015, Việt Nam có 76.666 ha đất
canh tác NNHC, tương đương 0,7% diện tích đất nông nghiệp và 3.816 nông dân có sản
xuất hữu cơ. sản phẩm NNHC của Việt Nam chủ yếu là gạo, cà phê, cacao, dừa, chè,
rau, quả, quế, hồi, tôm, sữa [137]. Trong canh tác hữu cơ, người nông dân chỉ được dùng phân bón hữu cơ, phòng trừ sâu bệnh, cỏ dại, bằng biện pháp thủ công nên khó
thực hiện trên diện rộng, trong điều kiện khí hậu nóng ẩm thuận lợi cho sâu bệnh phát
triển. Hơn nữa thu nhập và mức sống của người Việt Nam chưa cao và nhu cầu về
NNHC chưa nhiều, vấn đề an toàn thực phẩm làm cho người tiêu dùng chưa có lòng tin nên sản xuất hữu cơ cho thị trường trong nước sẽ khó khăn. Bên cạnh đó, chính sách hỗ trợ NNHC ở nước ta còn chậm được triển khai hoặc khi thực hiện còn nhiều vướng mắc. Công trình nghiên cứu của Phân Viện Quy hoạch và thiết kế nông nghiệp miền Nam Quy hoạch chuyển đổi cơ cấu sản xuất trên đất lúa vùng ĐNB & tầm nhìn 2020 nhằm sử dụng hợp lý và nâng cao hiệu quả sử dụng đất” (2008) [68] đã tập trung đánh giá tổng hợp các giá trị và nguồn lợi của nông nghiệp, những thuận lợi và khó khăn trong phát triển nông nghiệp, từ đó đề ra các giải pháp nhằm quy hoạch tài nguyên phục
22
vụ cho quá trình phát triển ngành nông nghiệp mới; phân vùng sinh thái nông nghiệp,
chuyển đổi nông nghiệp theo hướng sản xuất nông nghiệp hàng hóa, nông nghiệp an
toàn.
Dưới góc độ địa lí kinh tế, các nhà địa lí Lê Thông, Nguyễn Minh Tuệ trong ấn phẩm “Địa lí nông, lâm, thủy sản Việt Nam” [81] đã hệ thống được vai trò, đặc điểm của các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển và phân bố nông nghiệp; đặc điểm sinh thái
nông nghiệp của cây trồng, vật nuôi để tổ chức sản xuất nông nghiệp cho phù hợp với các vùng nông nghiệp của Việt Nam. Đây là cơ sở lí luận có tính chất định hướng để
NCS vận dụng trong đề tài.
1.1.2.3. Nghiên cứu chuyển đổi nông nghiệp theo hướng nông nghiệp công nghệ cao
Những nghiên về chuyển đổi nông nghiệp theo hướng nông nghiệp công nghệ cao được thể hiện trong các đề tài là Nghiên cứu luận cứ khoa học của chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn(2003) [10], Đề án Tái cơ cấu ngành nông nghiệp hướng tới giá trị gia tăng lớn hơn và phát triển bền vững (2012) [15] , và Quy hoạch tổng thể phát triển ngành nông nghiệp cả nước đến năm 2020 và tầm nhìn đến 2030 [16]. Cơ giới hóa nông nghiệp được xác định là giải pháp quan trọng. Phấn đấu đến năm 2020 tỷ lệ cơ giới hóa khâu làm đất tăng từ 70% năm 2010 lên 95%; khâu gieo trồng, chăm bón từ 25% lên 70%, khâu thu hoạch từ 30% lên 70%, khâu chế biến từ 30% lên 80%. Cơ giới hóa góp phần thúc đẩy NN Việt Nam theo hướng chuyên canh, phát triển cánh đồng mẫu lớn và cơ giới hóa trong tất cả các khâu từ sản xuất, bảo quản, chế biến, vận chuyển và tiêu thụ sản phẩm.
Một số đề tài nghiên cứu về nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao như công nghệ tưới nhỏ giọt cải tiến, tự động hoặc bán tự động; công nghệ sinh học trong chọn giống; công nghệ quản lý cây trồng ứng dụng luân canh cây trồng trong nhà lưới phù hợp, giảm thiểu sâu, bệnh hại... Đề tài “Nghiên cứu ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất một số loại rau phục vụ nội tiêu và xuất khẩu ở các tỉnh phía bắc” của Đoàn Xuân Cảnh và cộng sự [30] đã xác định được một số công nghệ có thể ứng dụng tại Việt Nam.
Đề tài “Hoàn thiện và phát triển công nghệ sản xuất củ giống khoai tây chế biến bắt nguồn từ công nghệ nuôi cấy mô kết hợp với công nghệ khí canh” [84] đã đề xuất quy trình sản xuất giống khoai tây chống dịch bệnh, chủ động giống ở quy mô công nghiệp cho toàn bộ vùng trồng khoai tây ở miền Bắc với giá chỉ bằng 1/3 giá sản phẩm nhập khẩu.
Đề tài “Nghiên cứu trồng rau thủy canh công nghệ cao trong điều kiện nhà có mái che sản xuất trong nước phục vụ phát triển kinh tế-xã hội các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam” của Lê Sĩ Lợi [58] đã đánh giá ưu điểm của phương pháp thủy canh
23
đồng thời nhấn mạnh đến hạn chế là giá thành cao do đầu tư ban đầu lớn khó mở rộng sản xuất nên tiêu thụ cũng khó khăn. Đây là một trong những công nghệ được áp dụng nhiều hiện nay trong nông nghiệp công nghệ cao tại các tỉnh, thành phố. Có thể nói nông nghiệp công nghệ cao là xu hướng mới của nông nghiệp Việt Nam trong các năm trở lại đây, đặc biệt ở các tỉnh, thành phố có điều kiện về khoa học kĩ thuật như Hà Nội, TP.HCM. 1.1.2.4. Nghiên cứu về chuyển đổi nông nghiệp thích ứng với biến đổi khí hậu
Chính phủ đã phê duyệt“Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí
hậu” (2008) [95], tập trung vào một số vấn đề trong đó có đánh giá mức độ và tác động của biến đổi khí hậu đối với các lĩnh vực, ngành và địa phương và xác định các giải
pháp ứng phó. Trong Khung hướng dẫn xây dựng Kế hoạch hành động ứng phó với biến
đổi khí hậu [23] đã hướng dẫn xây dựng kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí
hậu đặc biệt trong các lĩnh vực dễ bị tổn thương và tác hại nặng nề như nông nghiệp. Trong Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011 – 2020 và tầm nhìn đến
năm 2050(2012) [97] cũng nhấn mạnh đến nền nông nghiệp xanh, nhằm hướng đến
mục tiêu “..tăng trưởng xanh, tiến tới nền kinh tế các-bon thấp… phát triển kinh tế bền
vững”
Nghiên cứu của nhóm tác giả Lê Đình Phùng, Hoàng Mạnh Quân (2011) [70] đã
đi sâu làm rõ biểu hiện của BĐKH và tác động của nó đến sản xuất nông nghiệp; hình
thức thích ứng với BĐKH trong SXNN, cuối cùng phân tích các chính sách nông nghiệp
Việt Nam trong bối cánh hiện nay để chủ động ứng phó với BĐKH.
Trong báo cáo của UNDP (2011)“Tăng cường năng lực hoạt động để giảm rủi
ro thiên tai, phối hợp và và thích ứng với biến đổi khí hậu trong nông nghiệp ở vùng
núi phía bắc Việt Nam” đã đưa ra các dự báo về tác động của biến đổi khí hậu đến
hoạt động nông nghiệp của Việt Nam [158]. Chương trình nhằm nâng cao năng lực để
thích ứng, giảm thiểu tác hại của biến đổi khí hậu, đảm bảo nền nông nghiệp bền vững,
ổn định SXNN, an ninh lương thực, củng cố hạ tầng kinh tế, kỹ thuật và phòng chống thiên tai. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng đã thông qua "Kế hoạch hành động khung cho thích ứng và giảm nhẹ của khí hậu trong ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn giai đoạn 2008 - 2020 ". 1.1.2.5. Nghiên cứu về chuyển đổi nông nghiệp theo hướng nông nghiệp đô thị
Trong công trình của OECD [66], trong chuyên khảo “Báo cáo Phát triển Việt Nam 2016 – Chuyển đổi nông nghiệp Việt Nam: tăng giá trị, giảm đầu vào” [64] đều
có những phần riêng về nông nghiệp đô thị tại các thành phố lớn của Việt Nam, tập
24
trung vào các khía cạnh như cung cấp lương thực, thực phẩm tại chỗ, vấn đề việc làm,
thu nhập chi tiêu và tác động của đô thị hóa. Nông nghiệp trong các thành phố lớn
không chỉ góp phần đảm bảo an ninh lương thực, giải quyết việc làm mà còn tạo ra
vành đai xanh bao quanh các thành phố lớn. Từ đó, các nghiên cứu đề xuất các chính sách cần thiết cho phát triển nông nghiệp tại các đô thị.
Một số công trình nghiên cứu về nông nghiệp đô thị gắn với phát triển đô thị
bền vững như Những vấn đề kinh tế – xã hội và môi trường vùng ven các đô thị lớn trong quá trình phát triển bền vững của tác giả Nguyễn Ngọc Tuấn (2003) [82], đô thị
sinh thái trong nghiên cứu tác giả Vũ Xuân Đề (2006) [36] Nghiên cứu xây dựng các
mô hình nông nghiệp sinh thái phù hợp trong tiến trình công nghiệp hóa -hiện đại hóa
và đô thị hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh; Nghiên cứu sự phát triển nông nghiệp đô thị ở Hà Nội (2014) [42] của Vũ Thị Mai Hương, Phát triển nông, lâm, thủy sản ở thành
phố Hà Nội (2017) [33] của Lê Mỹ Dung đã phân tích thực trạng phát triển nông
nghiệp ở các thành phố ở Việt Nam là TP.HCM, Hà Nội; những đóng góp của nông
nghiệp vào vấn đề sinh kế, an ninh lương thực, lao động nông nghiệp; xác định chính
sách, vốn là những nhân tố phát triển nông nghiệp đô thị.
1.1.3. Ở thành phố Hồ Chí Minh
Trong lịch sử nghiên cứu về nông nghiệp, trên thế giới và Việt Nam đã có rất
nhiều đề tài với các hướng nghiên cứu khác nhau về nông nghiệp và CĐNN. Ở
TP.HCM, các hướng nghiên cứu chủ yếu nông nghiệp biến đổi khí hậu, nông nghiệp
sinh thái, nông nghiệp hữu cơ theo hướng công nghệ cao tại thành phố. Cho đến thời
điểm này những công trình nghiên cứu về CĐNN còn chưa nhiều.
- Nghiên cứu chuyển đổi nông nghiệp dựa trên chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp, cơ
cấu cây trồng, vật nuôi
Nghiên cứu về nông nghiệp và chuyển dịch cơ cấu trong nông nghiệp đã có một số đề tài do Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thành phố Hồ Chí Minh và các nhà khoa học nghiên cứu như: “Tình hình phát triển cơ khí hóa nông nghiệp, nông thôn ở TP.HCM " và “Chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp ở TP.HCM”[75][76] do Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn TP.HCM nghiên cứu; Trung tâm khuyến nông TP.HCM với chương trình “Hoạt động khuyến ngư trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi ở hai huyện Nhà Bè và Cần Giờ TP.HCM” bàn về chuyển đổi cơ cấu SXNN ở ngoại thành theo hướng nông nghiệp công nghệ cao, định hướng giảm diện tích đất lúa năng suất thấp sang đất nuôi tôm, trồng hoa, cây cảnh, tập trung vào các loại nông sản chủ lực nhằm định hình cho việc hình thành nông nghiệp ngoại thành.
- Nghiên cứu chuyển đổi nông nghiệp theo hướng nông nghiệp an toàn
25
Trong các đề án, qui định của thành phố từ giai đoạn 2005-2017 như Quy hoạch
sản xuất nông nghiệp phát triển nông thôn trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh đến
năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2025 [104]; Đề án phát triển nông nghiệp đô thị trên
trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2025 [105]; Chương trình ứng dụng và phát triển công nghệ sinh học phục vụ nông nghiệp - nông thôn trên địa bàn thành phố đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2025 [108]; đã đưa ra
mục tiêu đến năm 2025 cơ cấu lại và đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp; tập trung nghiên cứu, ứng dụng công nghệ sinh học để sản xuất giống cây, giống con chất
lượng và năng suất cao; phát triển sản xuất kết hợp du lịch sinh thái, bảo vệ môi
trường. Định hướng phát triển nông nghiệp theo hướng an toàn, nông nghiệp sinh thái
thân thiện với môi trường là mục tiêu chính của thành phố trong định hướng phát triển
Nông nghiệp sinh thái cũng là một hướng nghiên cứu theo nông nghiệp an toàn.
Đề án Phát triển nông nghiệp sinh thái đô thị gắn với du lịch trong quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế ở ngoại thành TP.HCM (2009) [74] của Sở NN&PTNT TP.HCM
đặt ra mục tiêu phát triển sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp cây
trồng vật nuôi theo hướng nông nghiệp sinh thái đô thị bền vững nhằm cung ứng các
sản phẩm nông nghiệp có chất lượng cao để phục vụ và phát triển các hoạt động du
lịch khu vực ngoại thành. Thành phố đã xây dựng các mô hình nông nghiệp sinh thái
phục vụ du lịch cho như mô hình nông – lâm - ngư kết hợp; làng Sinh vật cảnh ở
Trung An – Phú Hoà Đông huyện Củ Chi; Cụm du lịch sinh thái nhà vườn ở Thạnh
Lộc (Q.12), Cụm du lịch sinh thái Long Phước, Long Thạnh Mỹ (Q.9); Cụm du lịch
sinh thái Bình Mỹ - Trung An (Củ Chi) kết hợp với các sản phẩm nông nghiệp hiện có
tại các địa bàn.
- Nghiên cứu chuyển đổi nông nghiệp theo hướng nông nghiệp công nghệ cao
Đinh Sơn Hùng (2005) [49] “Một số giải pháp phát triển nông nghiệp, nông thôn ngoại thành TP Hồ Chí Minh trên cơ sở khoa học - công nghệ cao và phù hợp sinh thái” đã đánh giá thực trạng và đề xuất các giải pháp phát triển nông nghiệp, nông thôn TP.HCM trên các khía cạnh hợp sinh thái, khoa học - công nghệ cao. Tác giả đã tập trung đánh giá tổng hợp các giá trị và nguồn lợi của nông nghiệp, những thuận lợi và khó khăn trong phát triển nông nghiệp ở TP.HCM, từ đó đề ra các giải pháp nhằm quy hoạch tài nguyên phục vụ cho quá trình phát triển ngành nông nghiệp mới: theo hướng nông nghiệp an toàn.
- Nghiên cứu chuyển đổi nông nghiệp theo hướng nông nghiệp đô thị
Trong Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới tại TP.HCM
26
giai đoạn 2010 – 2020 (2010) [106], Chương trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp,
theo hướng nông nghiệp đô thị trên địa bàn thành phố giai đoạn 2011 – 2015 (2011)
[109], TP.HCM đặt ra các mục tiêu định hướng chuyển từ nông thôn mới sang đô thị
thông minh có nông nghiệp công nghệ cao, sản xuất nông nghiệp theo hướng chuyên sâu.
Trong quá trình xây dựng nông nghiệp đô thị, phát triển nông thôn mới cũng là
một hướng nghiên cứu ở TP.HCM. Trần Tiến Khai trong đề tài Xây dựng nông thôn mới ở Thành phố Hồ Chí Minh: Thực trạng và giải pháp phát triển bền vững (2015)
[52] đã phân tích hiện trạng xây dựng nông thôn mới, các vấn đề về cơ chế, chính sách, định hướng nguồn lực xã hội tham gia xây dựng nông thôn mới và giải pháp bền vững cho vấn đề này. Hoàng Thị Mai trong Nghiên cứu bổ sung, nâng chất các tiêu chí nông
phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ; đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực, tạo đột phá để HĐH – CNH.
thôn mới theo đặc thù thành phố Hồ Chí Minh (2015) [60] đã phân tích các tiêu chí góp phần quan trọng xây dựng nông thôn mới góp phần hình thành đô thị theo hướng hiện đại,
Vũ Xuân Đề (2003) [36]“Nghiên cứu xây dựng các mô hình nông nghiệp sinh
thái phù hợp trong tiến trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa và đô thị hoá ở Thành
phố Hồ Chí Minh” đánh giá thực trạng và đưa ra các giải pháp phù hợp các mô hình
SXNN đô thị; định hình các khu vực SXNN tập trung theo hướng sinh thái trên cơ sở
phân tích đánh giá đặc điểm của các vùng nông nghiệp sinh thái của TP.HCM.
- Nghiên cứu chuyển đổi nông nghiệp theo hướng nông nghiệp thích ứng với biến
đổi khí hậu
Báo cáo tóm tắt của Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) Thành phố Hồ Chí Minh
thích nghi với biến đổi khí hậu (2010) [1] phân tích tác động của biến đổi khí hậu ảnh
hưởng đến nông nghiệp TP.HCM khi đất nông nghiệp bị ngập lụt, xâm nhập mặn dẫn đến diện tích bị thu hẹp. Hầu hết những vùng SXNN của TP.HCM như huyện Bình
Chánh, huyện Hóc Môn, một phần huyện Củ Chi, Cần giờ sẽ bị ảnh hưởng. Các loại cây trồng, vật nuôi phát triển theo mô hình nông nghiệp công nghệ cao sẽ bị ảnh hưởng. Nghiên cứu đưa ra những dự báo về biến đổi khí hậu đến năm 2050, mặc dù không đánh giá tính khả thi của những biện pháp kiểm soát ngập lụt của thành phố nhưng chú ý đến khả năng dễ bị tổn thương của thành phố.
Nhóm tác giả Vũ Thùy Linh, Phạm Thị Ánh Ngọc, Hồ Minh Dũng, Nguyễn Kim Lợi trong bài báo “Thích ứng với biến đổi khí hậu trong mô hình quản lý đô thị tại thành phố Hồ Chí Minh” [55] đã đánh giá khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu của ngành
27
nông nghiệp TP.HCM thông qua điểm số tính toán từ kết quả điều tra cộng đồng trên 10
quận/huyện có hoạt động nông nghiệp và các cơ quan quản lý. Kết quả cho thấy, các
quận huyện có khả năng thích ứng cao và trung bình tập trung ở các huyện Củ Chi, quận
9 và quận 12. Trong đó cao nhất là Huyện Củ Chi với giá trị thích ứng tổng thể là 0,86 do có sự hỗ trợ từ chính quyền và khả năng tiếp cận các nguồn hỗ trợ cao nhất trong số 10 quận/huyện. Trong khi đó, Bình Chánh, Gò Vấp, Thủ Đức nằm trong khu vực có khả
năng thích ứng thấp với biến đổi khí hậu. 1.2. Cơ sở lý luận về chuyển đổi nông nghiệp
1.2.1. Về nông nghiệp
1.2.1.1. Khái niệm nông nghiệp, nông nghiệp an toàn, nông nghiệp đô thị
Từ điển Bách khoa Việt Nam (1995) định nghĩa: “Nông nghiệp là ngành sản xuất
vật chất cơ bản của xã hội; sử dụng đất đai để trồng trọt, chăn nuôi; khai thác cây trồng
và vật nuôi làm tư liệu và nguyên liệu lao động chủ yếu tạo ra lương thực, thực phẩm
và một số nguyên liệu cho công nghiệp” [45].
Phạm Đình Hổ (2003), nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản của xã hội,
sử dụng đất đai để trồng trọt và chăn nuôi, khai thác cây trồng và vật nuôi làm tư liệu
và nguyên liệu lao động chủ yếu để tạo ra lương thực thực phẩm và một số nguyên liệu
cho công nghiệp. Nông nghiệp là một ngành sản xuất lớn, bao gồm nhiều chuyên ngành: trồng trọt, chăn nuôi, sơ chế nông sản; theo nghĩa rộng, còn bao gồm cả lâm
nghiệp, thủy sản [43].
Trần Ngọc Ngoạn (2008), nông nghiệp hữu cơ là nền nông nghiệp mà loài người
dùng kĩ thuật tự nhiên để tạo nên những loại đất khỏe hơn, sản xuất ra những loại thực
phẩm sạch, nền nông nghiệp hữu cơ dựa trên cơ sở lấy các sản phẩm phụ của nông
nghiệp và chất thải của sinh vật làm phân bón, thực hiện nền sản xuất vừa có thể bảo
vệ độ phì nhiêu của đất vừa có thể bảo vệ sản lượng nông sản [62].
Theo IFOAM (2005) nông nghiệp an toàn là một hệ thống sản xuất duy trì hệ sinh thái của đất và con người, dựa trên quá trình đa dạng sinh học và các chu trình phù hợp với điều kiện từng địa phương, hạn chế sử dụng các sản phẩm đầu vào có tác dụng phụ. Nông nghiệp an toàn kết hợp với nông nghiệp truyền thống, đổi mới khoa học, công nghệ để đem lại lợi ích cho môi trường và thúc đẩy mối quan hệ cân bằng và chất lượng cuộc sống tốt hơn cho tất cả các bộ phận có liên quan [137].
Nguyễn Đăng Nghĩa (2011) quan niệm nông nghiệp đô thị là sự thống nhất của
hai bộ phận cấu thành: nông nghiệp nội thị và nông nghiệp ngoại thị. Nông nghiệp nội thị ám chỉ các diện tích nhỏ (các lô đất trống, sân vườn, thảm cỏ, ban công, sân
28
thượng) trong các TP lớn, được sử dụng để trồng cây hoặc chăn nuôi gia súc nhỏ, bò
sữa nhằm tự tiêu thụ hoặc bán cho các chợ lân cận. Nông nghiệp ngoại thị để chỉ
những đơn vị nông nghiệp ở gần TP, sản xuất theo hình thức thâm canh, cung cấp cho
thị trường đô thị các sản phẩm tươi sống như rau, hoa, quả, thịt, trứng, sữa [61]. 1.2.1.2. Khái niệm về cơ cấu nông nghiệp
Ngô Thắng Lợi (2012) [57] cho rằng: cơ cấu kinh tế được hiểu là tổng thể các bộ
phận hợp thành của nền kinh tế cùng các mối quan hệ chủ yếu về định tính và định lượng, ổn định và phát triển giữa các bộ phận ấy với nhau hay của toàn bộ hệ thống
trong những điều kiện của nền sản xuất xã hội và trong những khoảng thời gian nhất
định. Cơ cấu kinh tế không chỉ thể hiện ở quan hệ tỷ lệ về mặt số lượng mà quan trọng
hơn là mối quan hệ tác động qua lại giữa các bộ phận hợp thành nền kinh tế.
Lê Đình Thắng (1998) [86] cho rằng: cơ cấu kinh tế nông nghiệp là tổng thể bao
gồm các quan hệ tương tác giữa các yếu tố của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
thuộc lĩnh vực nông nghiệp - lâm nghiệp - ngư nghiệp trong khoảng thời gian và điều
kiện KT - XH cụ thể. Nó được biểu hiện bằng sự tương quan về số lượng và chất
lượng của mối quan hệ trên. Cơ cấu nông nghiệp bao gồm các bộ phận chủ yếu: cơ cấu
ngành, cơ cấu lao động, cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu lãnh thổ… các bộ phận này
có mối quan hệ tương tác lẫn nhau. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, các
mối quan hệ hữu cơ giữa các bộ phận trong nông nghiệp sẽ thay đổi dẫn đến tăng năng
suất lao động, thúc đẩy sự phân công lao động xã hội và hình thành các tổ chức sản
xuất mới. Cơ cấu nông nghiệp là một phạm trù kinh tế tổng hợp nhiều mặt, nhiều mối
quan hệ của nhiều lĩnh vực khác nhau trong ngành kinh tế nông nghiệp.
Kinh tế nông nghiệp bao gồm cơ cấu theo ngành, cơ cấu theo lãnh thổ và thành phần kinh tế. Cơ cấu theo ngành phản ánh số lượng, vị trí, tỉ trọng các bộ phận cấu
thành nên ngành kinh tế nông nghiệp. Cơ cấu theo lãnh thổ thể hiện mối quan hệ về số
lượng, vị trí, tỉ trọng của các đơn vị lãnh thổ nông nghiệp trong nền kinh tế nông
nghiệp; tiềm năng và khả năng khai thác các tiềm năng đó cho mục tiêu phát triển của các lãnh thổ; được hình thành dựa vào sự bố trí không gian SXNN trên các vùng lãnh thổ. Cơ cấu theo thành phần kinh tế phản ánh mối quan hệ về số lượng, vị trí, tỉ trọng của các thành phần kinh tế tạo thành nền kinh tế nông nghiệp; được hình thành dựa trên chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất, bao gồm kinh tế nhà nước, kinh tế ngoài nhà nước và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
29
1.2.1.3. Khái niệm về chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, tái cơ cấu nông nghiệp
Lê Đình Thắng (1998) [86], chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp là
quá trình làm thay đổi các quan hệ số lượng, vị trí, tỷ trọng và mối quan hệ tương tác
của các ngành kinh tế trong nông nghiệp phù hợp với sự tiến bộ của KH - CN, nhu cầu thị trường nhằm sử dụng có hiệu quả mọi yếu tố nguồn lực của đất nước.
Theo Đề án Tổng thể tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh giai đoạn 2013 - 2020 [98] thì tái cơ cấu ngành nông nghiệp là quá trình sắp xếp lại các yếu tố liên quan
đến chuỗi giá trị của ngành hàng nông nghiệp từ khâu quy hoạch, cơ sở hạ tầng, tổ
chức sản xuất, chuỗi cung ứng dịch vụ sản xuất, thu hoạch, thu mua, chế biến, bảo
quản và tiêu thụ. Trên phương diện khác, tái cơ cấu ngành nông nghiệp là một quá trình trong SXNN, tạo ra sự đổi mới về chất lượng theo hướng chuyên sâu, nâng cao
giá trị gia tăng và hướng đến nông nghiệp phát triển bền vững, an toàn.
Trong Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng
và phát triển bền vững [99] tái cơ cấu gắn với tăng trưởng theo lộ trình và bước đi phù
hợp để hình thành mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu, bảo đảm chất lượng,
nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Theo xu hướng chung của
toàn nền kinh tế, ngành nông nghiệp cũng đứng trước nhu cầu tái cơ cấu. Theo đó, Đề
án tập trung vào hai nội dung chính: thứ nhất tái cơ cấu các lĩnh vực trồng trọt, chăn
nuôi, thủy sản, lâm nghiệp, sản xuất muối, phát triển công nghiệp chế biến và ngành
nghề nông thôn trên cả 3 khía cạnh “kinh tế”, “xã hội” và “môi trường” theo hướng
sinh thái, an toàn. Nội dung thứ hai là đẩy mạnh thực hiện chương trình nông thôn mới
để đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông dân, nông thôn. 1.2.2. Về chuyển đổi nông nghiệp
1.2.2.1. Khái niệm về chuyển đổi nông nghiệp
Theo Schultz (1964) CĐNN là sự tăng nhanh về sản lượng nông nghiệp, khả
năng hiện đại hóa ngành nông nghiệp trước xu thế toàn cầu hóa, đi với đổi mới công nghệ và thể chế; môi trường với nông nghiệp nhằm kích thích sự tăng trưởng, góp phần giảm đói nghèo, bất bình đẳng, cung cấp an ninh lương thực và giảm thiểu các vấn đề về môi trường [155].
Theo Timmer (1988) thì CĐNN là một quá trình bao gồm 4 giai đoạn mà trong trong đó ở mỗi giai đoạn nông nghiệp lại đóng vai trò quan trọng trong sự tăng trưởng của nền kinh tế, từ một nền kinh tế thuần nông nghiệp sang nền kinh tế hiện đại, thông qua các chính sách thuế và đầu tư công để bảo hộ nông nghiệp. Quá trình đó làm lực
30
lượng lao động lao động của nông nghiệp giảm đi nhưng thu nhập trên đầu người từ
nông nghiệp thì tăng lên [146].
Theo Sietze Vellema (2011) chuyển đổi để nông nghiệp là tất yếu để tiến đến sự
bền vững trong nông nghiệp và đòi hỏi có sự hỗ trợ của nhiều bên liên quan và nỗ lực để hiện thực hóa quá trình chuyển đổi, qua đó chuyển đổi nông nghiêp cũng cần có một số mô hình quản trị hiệu quả để quản lý các bên tham gia, kết hợp giữa lý thuyết
với thực tiễn một cách hiệu quả [154].
Theo Ngân hàng thế giới (WB) (2016), CĐNN là quá trình chuyển đổi nền nông
nghiệp toàn diện đi kèm với sự biến động về đất đai, nhu cầu tiêu thụ sản phẩm, sản
xuất, lưu thông, việc làm trong ngành nông nghiệp kết hợp với những thay đổi về thể
chế, chính sách cần thiết cho sự tăng trưởng của sản phẩm nông nghiệp. Quá trình này hướng tới việc phát triển nền nông nghiệp hiệu quả và nâng cao thu nhập cho lao động
nông nghiệp ở thành thị và nông thôn. Ở khu vực các thành phố lớn, quá trình chuyển
đổi này diễn ra nhanh hơn để thích nghi với quá trình đô thị hóa, CNH và HĐH [64].
Theo Viện nghiên cứu chính sách thực phẩm quốc tế (IFPRI), CĐNN là một quá
trình bao gồm 6 giai đoạn mà vai trò của nông nghiệp trong từng giai đoạn đóng góp
đáng kể vào sự tăng trưởng của nền kinh tế vĩ mô mà bắt đầu là nền nông nghiệp lạc
hậu và kết thúc là nền nông nghiệp bền vững. Trong mỗi giai đoạn, sự đóng góp của
nông nghiệp vào nền kinh tế thể hiện ở vai trò an ninh lương thực, cung cấp thực phẩm
cho dân số ngày càng tăng của các quốc gia ở Châu Á, Châu Phi và Mỹ La tinh [126].
Như vậy, qua các nghiên cứu của thế giới và Việt Nam có thể hiểu CĐNN là một
quá trình bao gồm sự chuyển đổi đất đai, sự biến động về cơ cấu sử dụng đất; sự
chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, đa dạng hoá nông sản; nuôi trồng thuỷ sản phục vụ thị trường trong nước và xuất khẩu; sự phát triển của chuỗi giá trị nông sản
trong nông nghiệp; sự chuyển đổi mô hình SXNN và chuyển đổi cơ cấu lãnh thổ nông
nghiệp.
1.2.2.2. Mục tiêu và nội dung của chuyển đổi nông nghiệp
a) Mục tiêu của chuyển đổi nông nghiệp Mục tiêu của CĐNN là chuyển từ SXNN truyền thống, sức cạnh tranh thấp sang nền nông nghiệp hiện đại theo hướng nông nghiệp an toàn, sinh thái, công nghệ cao; có cơ cấu hợp lý giữa các ngành trong nông nghiệp để phát triển một nền nông nghiệp bền vững có hàm lượng chất xám cao, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao; phù hợp với đặc thù nông nghiệp của một đô thị lớn.
31
Mục tiêu của CĐNN nằm trong mục tiêu chung của kinh tế. Trong điều kiện của
nền kinh tế, việc CĐNN không chỉ đáp ứng mục tiêu về lợi nhuận, GTSX lớn hơn, thu
nhập tốt hơn mà còn đáp ứng phải đáp ứng các mục tiêu về xã hội như tạo công ăn
việc làm, xóa đói giảm nghèo, bảo vệ tài nguyên môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu; tạo ra một hệ thống các ngành, nghề mới trong ngành nông nghiệp phù hợp điều kiện tự nhiên, KT- XH của mỗi vùng trong thành phố.
CĐNN giúp cho việc khai thác hợp lí mọi tiềm năng, lợi thế của TP.HCM để sản xuất hàng hóa tiêu dùng nội địa và xuất khẩu. Trong hoạt động SXNN rất cần các yếu tố
nguồn lực: đất đai, lao động, vốn, khoa học - kĩ thuật. Để duy trì các hoạt động sản xuất
diễn ra bình thường; việc sản xuất hàng hóa gắn với việc tập trung ruộng đất quy mô lớn
đòi hỏi trình độ lao động có tay nghề kĩ năng sản xuất hiện đại và công nghệ sản xuất tiên tiến, tính chuyên môn hóa cao. Vì vậy, CĐNN sẽ giúp giảm giá thành đầu vào, tăng giá trị
nông sản đầu ra và từ đó nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường.
b) Nội dung của chuyển đổi nông nghiệp
Nội dung của CĐNN trên nhiều quan điểm khác nhau nhưng đều tập trung vào
các vấn đề chính sau đây:
- Quá trình chuyển đổi đất đai, sự biến động cơ cấu sử dụng đất. - Quá trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, đa dạng hoá nông sản; nuôi
trồng thuỷ sản phục vụ thị trường trong nước và xuất khẩu; - Sự phát triển của chuỗi giá trị nông sản nông nghiệp; - Chuyển đổi mô hình SXNN và chuyển đổi cơ cấu lãnh thổ nông nghiệp trong
quá trình CĐNN.
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chuyển đổi nông nghiệp 1.2.3.1. Vị trí địa lý và phạm vi lãnh thổ
Vị trí địa lý và phạm vi lãnh thổ ảnh hưởng nhiều đến quá trình chuyển đổi nông nghiệp. Vị trí thuận lợi, đặc biệt là các tỉnh (thành phố) trực thuộc trung ương sẽ thúc
đẩy nhanh quá trình chuyển đổi diễn ra, thu hút đầu tư, mở rộng thị trường. Mỗi vùng có những điều kiện về vị trí địa lý khác nhau cho phép phát triển một số ngành sản xuất, tạo ra những lợi thế so sánh với các vùng khác của đất nước. Vị trí địa lý có ảnh hưởng đến sự hình thành vận động và biến đổi của CĐNN, vị trí gần hay xa biển, gần khu vực dân cư, đường giao thông, chợ đầu mối, gần vùng nông sản cũng ảnh hưởng đến quá trình CĐNN.
Mỗi quốc gia, mỗi vùng có vị trí địa lý khác nhau, do đó điều kiện tự nhiên cũng khác nhau, từ đó dẫn đến sự khác nhau về năng suất, chất lượng, quy mô, số lượng các
32
sản phẩm nông nghiệp... Vị trí địa lý thuận lợi và các tài nguyên thiên nhiên phong phú
của mỗi vùng là điều kiện thuận lợi cho nông nghiệp phát triển. Nhưng tốc độ phát triển
của nông nghiệp nhanh hay chậm còn chịu sự chi phối của nhiều yếu tố khác.
1.2.3.2. Điều kiện tự nhiên a) Địa hình Địa hình quyết định đến SXNN. Địa hình bằng phẳng tạo điều kiện cho việc hình
thành vùng chuyên canh nông nghiệp quy mô lớn với điều kiện canh tác thuận lợi và bố trí các loại cây trồng phù hợp. Địa hình có độ dốc lớn không thích hợp cho việc
canh tác, tưới tiêu, ảnh hưởng đến việc phân bố các loại cây trồng. Yếu tố địa hình
nâng cao hiệu quả quá trình CĐNN, xác định loại cây, con phù hợp với địa phương.
b) Đất Đất là cơ sở tự nhiên, là tiền đề đầu tiên của mọi quá trình sản xuất. Trong nông
nghiệp, đất là tư liệu sản xuất chủ yếu không thể thay thế được. Chính vì thế, nhân tố
quan trọng hàng đầu đối với CĐNN là đất rồi mới đến khí hậu và nguồn nước. Đất ảnh
hưởng quyết định đến quy mô, cơ cấu và phân bố nông nghiệp (đặc biệt là với ngành
trồng trọt). Tùy theo các nhân tố, điều kiện hình thành và sự tác động của con người
mà các loại đất trên có sự phân hóa khác nhau. Đất đặc trưng bởi độ phì tự nhiên và độ
phì nhân tạo. Con người có thể cải tạo đất thông qua việc nâng cao độ phì cho đất bằng
cách bón phân hữu cơ, canh tác hợp lý. Hiện nay tại các đô thị lớn do quá trình đô thị
hóa, công nghiệp hóa, quá trình chuyển đổi cơ cấu đất nông nghiệp theo hướng sản
xuất quy mô lớn sẽ thúc đẩy CĐNN theo lãnh thổ, phát triển các hình thức như: trang
trại, hợp tác xã và doanh nghiệp nông nghiệp. Đất nông nghiệp được chuyển một phần
sang đất phi nông nghiệp. Đất trồng lúa, cây ăn quả, rau màu, hoa, cây cảnh, chăn nuôi, nuôi thủy sản nước ngọt không mang lại thu nhập cao cũng bị chuyển đổi. Đồng
thời quá trình tích tụ, tập trung ruộng đất là yếu tố hình thành nông nghiệp sản xuất
hàng hóa lớn khắc phục tình trạng manh mún ruộng đất, tránh lãng phí đất; tăng cường
khả năng ứng dụng công nghệ cao trong quá trình CĐNN.
c) Khí hậu Khí hậu ảnh hưởng đến quá trình SXNN thông qua việc cung cấp lượng bức xạ, nguồn ánh sáng dồi dào, nguồn nhiệt phong phú cho cây trồng phát triển quanh năm và cho năng suất cao. Các chỉ tiêu của khí hậu tác động đến nông nghiệp như nhiệt độ, ánh sáng, lượng mưa, độ ẩm. Độ ẩm không khí cao, lượng mưa dồi dào cho phép cây trồng có sức tái sinh mạnh mẽ, thúc đẩy nở hoa, kết trái. Cũng trong điều kiện nóng - ẩm còn giúp cho cây ngắn ngày tăng thêm từ 1 đến 2 vụ/năm; đối với cây dài ngày có
33
thể khai thác được nhiều đợt, nhiều lứa/năm. Ở mỗi vùng khí hậu lại có sự tác động
khác nhau đến SXNN. Tính chất biến động và sự phân hóa về khí hậu cũng dẫn đến
các tai biến thiên nhiên như bão, lũ, hạn hán, xâm nhập mặn. Biến đổi khí hậu cũng là
nhân tố ảnh hưởng đến SXNN, đòi hỏi nông nghiệp chuyển đổi để chọn ra cây, con phù hợp để thích ứng với những tác động đó. Trong những năm gần đây biến đổi khí hậu lại có chiều hướng gia tăng, đặt ra thách thức cho quá trình CĐNN ở Việt Nam,
đòi hỏi chúng ta phải khắc phục và đề ra những kịch bản ứng phó.
d) Nguồn nước
Đối với CĐNN, nước rất cần thiết, ảnh hưởng trực tiếp đến việc phân bố cây
trồng, phục vụ cho việc thâm canh, tăng vụ, tăng năng suất cây trồng. Như ông cha ta
đã nói “nhất nước, nhì phân”, làm nông nghiệp cần quan tâm đến nguồn nước, đặc biệt với nông nghiệp thông minh, nông nghiệp công nghệ cao, nước sạch lại càng quan
trọng. Tác động của nguồn nước mặt và nước ngầm đến hoạt động tưới tiêu cần được
xem xét đầy đủ để đảm bảo quá trình CĐNN được diễn ra thuận lợi. Mặc dù Việt Nam
có nhiều sông ngòi, kênh rạch, tài nguyên nước phong phú, nhưng lại phân bố không
đều cả về thời gian và không gian. Vào mùa lũ, lượng nước chiếm tới 70 - 80%, mùa
kiệt chỉ 20 - 30% tổng lượng nước. Đây là một khó khăn rất lớn đối với nền nông
nghiệp đặc biệt là nông nghiệp theo hướng công nghệ cao. Để hạn chế việc thiếu và dư
thừa nước cần phải xây dựng các công trình thuỷ lợi để chủ động tưới - tiêu nước.
Ngoài ra, chất lượng nước ở một số sông, hồ nguồn nước đang bị ô nhiễm nặng cũng
là thách thức của quá trình CĐNN.
e) Sinh vật
Nguồn tài nguyên động, thực vật phong phú là điều kiện thuận lợi cho nhân dân thuần chủng và lai tạo giống mới có năng suất cao và chống chịu hạn hán tốt. Sự đa
dạng về nguồn tài nguyên động thực vật là cơ sở để CĐNN phù hợp với đặc điểm sinh
thái của từng vùng. Tuy nhiên, trong quá trình CĐNN phải tận dụng triệt để các điều
kiện khí hậu, nguồn nước, nhiệt độ, độ ẩm để đảm bảo các giống cây trồng vật nuôi thích nghi với điều kiện của từng vùng nông nghiệp. 1.2.3.3. Điều kiện kinh tế - xã hội
a) Dân cư và nguồn lao động Nguồn lao động là nhân tố quyết định trong quá trình CĐNN ở các thành phố lớn. Quá trình này nhanh hay chậm phụ thuộc vào trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật của con người. Ở những nơi người lao động có trình độ tay nghề, canh tác cao hơn thì sẽ có điều kiện thuận lợi để CĐNN nhanh hơn và sẽ có điều kiện thuận
34
lợi cho sự CĐNN theo hướng hiện đại. Ngoài ra mật độ dân số và số lượng lao động
của từng vùng nhiều hay ít cũng ảnh hưởng tới CĐNN. Những vùng có mật độ lao
động cao sẽ tạo điều kiện để lựa chọn các ngành sản xuất đòi hỏi nhiều lao động. Nếu
mật độ dân số, mật độ lao động quá cao đòi hỏi CĐNN đô thị phải chuyển đổi nhanh nhằm giải quyết việc làm và khai thác, sử dụng có hiệu quả hơn các nguồn lực khác. Ngược lại, ở những vùng mật độ lao động thấp thì thường chọn những ngành đòi hỏi
sử dụng ít lao động.
Ngoài ra, mức sống và thu nhập cũng là yếu tố có ảnh hưởng nhất định đến
CĐNN ở các thành phố lớn. Những nơi có mức sống và thu nhập thấp thì sự CĐNN
sẽ chậm chạp và gặp khó khăn. Ngược lại, ở những nơi có mức sống và thu nhập cao
thì việc chuyển đổi sẽ thuận lợi, dễ dàng và nhanh chóng hơn. Do nhu cầu về sữa,
rau, hoa quả chất lượng cao và an toàn tăng lên.
b) Thị trường
Trong nền kinh tế thị trường, nhân tố thị trường có vai trò quyết định tới sự
phát triển kinh tế, sự hình thành và biến đổi cơ cấu kinh tế nói chung và CĐNN nói
riêng. Xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu tiêu dùng của con người ngày càng cao
và đa dạng đòi hỏi thị trường phải đáp ứng cho được nhu cầu đó. Điều này quy định
sự cần thiết phải CĐNN theo hướng phù hợp với xu hướng biến động của nhu cầu thị
trường. Ngoài nhu cầu về lương thực, thì các nhu cầu về thịt, cá, trứng, sữa, rau quả,
thức uống… có xu hướng tăng lên, sẽ tác động đến cơ cấu cây trồng (tăng sản lượng
lương thực phục vụ chăn nuôi, phát triển các vườn cây ăn quả, mở rộng các vùng sản
xuất rau, đậu…) Nhu cầu của thị trường còn đòi hỏi nhiều sản phẩm ngoài nông
nghiệp, tất yếu một bộ phận lao động nông nghiệp sẽ chuyển sang làm ngành nghề
khác, khôi phục và phát triển triển các làng nghề truyền thống, phát triển tiểu thủ
công nghiệp… Như vậy, thị trường đã tác động đến quá trình này làm chuyển đổi
nền nông nghiệp độc canh, thuần nông sang đa canh, mở rộng ngành nghề và dịch vụ
nông nghiệp.
Nói cách khác CĐNN được hình thành và biến đổi theo tiếng gọi của thị
trường, hay nhu cầu của thị trường là một trong những nhân tố quyết định sự hình
thành và biến đổi của CĐNN. Bên cạnh đó, bản thân nền kinh tế thị trường cũng
chứa đựng những tiêu cực tác động đến sản xuất, giá cả thị trường trong nước và thế
giới luôn biến động, không dự báo được nhu cầu dài hạn để hướng dẫn lựa chọn
CĐNN một cách hợp lý, dẫn đến vòng lẩn quẩn “trồng” rồi lại “chặt” ở một số cây
trồng, làm kìm hãm sự CĐNN. Như vậy bản thân thị trường cũng chứa đựng những
35
mặt tích cực, lẫn tiêu cực tác động đến sản xuất, ảnh hưởng đến CĐNN. Để quá trình
CĐNN có hiệu quả, cần phát huy tối đa mặt tích cực của thị trường, đồng thời tìm ra
những giải pháp hữu hiệu ổn định sản xuất, hạn chế tối đa mặt tiêu cực của nó, làm
được điều đó sản xuất sẽ ổn định.
c) Khoa học và công nghệ
Ngày nay KH - CN có vai trò to lớn đối với quá trình CĐNN. Việc phát KH -
CN cùng với khả năng ứng dụng vào nông nghiệp, nông thôn sẽ làm thay đổi chất
lượng, năng suất và hiệu quả SXNN. Nổi bật là việc tạo ra các giống cây trồng, vật
nuôi mới có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao hơn. Việc cơ giới hóa, thủy lợi hóa,
hóa học hóa và áp dụng các giống mới có năng suất cao trong nông nghiệp được tiến
hành rộng rãi. Nghiên cứu về sản phẩm nông nghiệp theo không gian và thời gian sẽ
tạo điều kiện cho sự CĐNN. Tiến bộ khoa học kĩ thuật giúp hạn chế ảnh hưởng của
các điều kiện tự nhiên, nâng cao tính chủ động của CĐNN, làm tăng năng suất, chất
lượng và sản lượng nông sản, giúp nền nông nghiệp phát triển theo chiều sâu.
Nhờ ứng dụng các thành tựu KH - CN đặc biệt là công nghệ sinh học trong sản
xuất như tạo ra cây giống, con giống mới, công nghệ chế biến vào bảo quản nông sản
hàng hóa… sẽ làm thay đổi cơ cấu sản xuất, thực hiện phân công lại lao động xã hội ở
nông thôn, tạo thêm nhiều ngành nghề mới, giải quyết việc làm nông thôn. Chính sự
tác động của KH - CN sẽ thúc đẩy quá trình đa dạng hóa cơ cấu SXNN, hình thành
nhiều ngành nghề phi nông nghiệp, làm quá trình CĐNN theo hướng hiện đại và có hiệu quả hơn. Sự xuất hiện của “Nông nghiệp 4.0” bao gồm các thông tin ở dạng số hóa được xử lý, phân tích phần lớn tự động qua mạng internet. Được gọi là “Nông
nghiệp thông minh” hay“Canh tác số hóa”, cuộc cách mạng này trong nông nghiệp sẽ
phối hợp với các thiết bị chính xác, kết nối vạn vật (IoT), cảm biến, định vị toàn cầu
(GPS), quản lý dữ liệu lớn (Big data), thiết bị bay không người lái (Drone), người máy
(robot)... tạo điều kiện cho nông dân tăng thêm giá trị đầu ra, hướng tới nông nghiệp
theo hướng an toàn [114].
d) Cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng phát triển sẽ đảm bảo cho kinh tế hàng hóa phát triển, nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần cho cư dân nông thôn. Cơ sở hạ tầng có ảnh hưởng rất lớn
tới sự hình thành và phát triển của các ngành kinh tế, các vùng kinh tế, chi phối trình
độ kỹ thuật và công nghệ… do đó nó là một trong những nhân tố quan trọng có ảnh
hưởng và chi phối sự hình thành, vận động và CĐNN. Thực tiễn đã chứng minh, ở
36
những vùng có cơ sở hạ tầng phát triển, đặc biệt là các công trình hạ tầng kỹ thuật phát
triển thì ở đó có điều kiện phát triển các ngành chuyên môn hóa, là điều kiện để ứng
dụng tiến bộ kỹ thuật và công nghệ tiên tiến vào quá trình CĐNN một cách hiệu quả.
Ngược lại, những vùng có cơ sở hạ tầng kém phát triển thì quá trình hình thành và phát
triển của các ngành sản xuất, các vùng chuyên môn hóa cũng như quá trình đưa tiến bộ
kỹ thuật và công nghệ vào quá trình CĐNN bị kìm hãm.
e) Cơ sở vật chất kĩ thuật
Cơ sở vật chất kĩ thuật bao gồm hệ thống thủy lợi, các trạm giống, thú y, các xí
nghiệp chế biến cũng được xem là nền tảng cho CĐNN. Muốn CĐNN theo hướng
công nghệ cao thì hệ thống thủy lợi, các trạm giống có tính chất quyết định. CĐNN
liên quan đến chuỗi giá trị hàng hóa như các cơ sở chế biến tại chỗ để cung cấp cho thị
trường. Vì vậy, nơi nào có cơ sở vật chất kĩ thuật tốt thì ở đó sản phẩm nông nghiệp sẽ
đạt hiệu quả cao, có chất lượng, đáp ứng nhu cầu thị trường đảm bảo cung ứng đủ cho
chuỗi giá trị từ đồng ruộng đến bàn ăn trong nông nghiệp.
f) Nguồn vốn đầu tư
Nếu như con người là nhân tố quyết định, thì vốn giữ vai trò đặc biệt quan trọng
trong việc hình thành và CĐNN. Trong quá trình CĐNN đòi hỏi phải có những điều
kiện vật chất nhất định, tương ứng với các yêu cầu hình thành và chuyển đổi của nó.
Nguồn vốn đầu tư để hình thành và CĐNN bao gồm: nguồn vốn tự có của các chủ thể
kinh tế nông nghiệp, nguồn vốn ngân sách, nguồn vốn đi vay, nguồn vốn đầu tư trực
tiếp hay gián tiếp của nước ngoài. Do ngành nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào điều
kiện tự nhiên nên tốc độ tăng trưởng thấp, mức độ rủi ro cao, lợi nhuận thấp nên vấn
đề thu hút vốn đầu tư cho nông nghiệp còn gặp nhiều khó khăn. Kinh nghiệm nhiều
nước cho thấy, giải quyết tốt vấn đề vốn là một trong những điều kiện quan trọng để
phát triển nông nghiệp, tác động trực tiếp đến việc nâng cao trình độ kĩ thuật công
nghệ trong nông nghiệp, ảnh hưởng tới sự hình thành và CĐNN hợp lí để khai thác tốt
các nguồn lực của khu vực kinh tế nông nghiệp tại các thành phố lớn.
g) Chính sách của nhà nước
Đường lối chính sách của Nhà nước có tác động trực tiếp đến CĐNN. Là một nước
nông nghiệp, vì thế từ lâu nông nghiệp được Đảng và Nhà nước coi là mặt trận hàng
đầu. Từ đại hội Đảng lần thứ VI (12/1986) với đường lối đổi mới toàn diện đã khắc
phục những sai lầm của công cuộc cải tạo XHCN trong nông nghiệp trước đó và đưa
ngành này lên một bước phát triển mới (khoán 10). Để thực hiện được các mục tiêu phát
37
triển vạch ra trong các chiến lược, các kế hoạch, các dự án phát triển nông nghiệp, Nhà
nước sử dụng một hệ thống các chính sách kinh tế làm công cụ tác động vào cơ chế vận
động của nền nông nghiệp. Tùy cách tiếp cận khác nhau, người ta có thể phân loại các
chính sách kinh tế trong nông nghiệp theo những tiêu thức khác nhau:
- Theo nội dung, có thể phân loại các chính sách theo cách gọi tên cụ thể như:
chính sách đất đai, chính sách đầu tư vốn, chính sách tín dụng,…
- Theo lĩnh vực, có thể phân loại thành các nhóm chính sách nông nghiệp thuộc
lĩnh vực tiền tệ (giá cả, lãi suất,…); lĩnh vực tài chính (thuế, đầu tư, trợ cấp sản
xuất…); lĩnh vực xuất, nhập khẩu (chính sách thuế, hạn ngạch, tỷ giá hối đoái…).
- Theo quan hệ của chính sách đối với quá trình sản xuất, có thể phân thành
các chính sách đầu vào (đầu tư, vật tư, trợ giá khuyến nông…); các chính sách đầu
ra (thị trường và giá cả, chính sách xuất khẩu…); các chính sách về tổ chức quá trình sản xuất (chính sách đổi mới cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, chính
sách đổi mới cơ cấu quản lý…).
Nền kinh tế nói chung và CĐNN nói riêng, nếu chỉ có sự tác động của các quy
luật thị trường thì CĐNN chỉ hình thành và biến đổi một cách tự phát, làm lãng phí
việc sử dụng các nguồn lực. Do vậy, để CĐNN đúng hướng để sử dụng có hiệu quả
các nguồn lực ở nông thôn, nhà nước buộc phải can thiệp vào thông qua việc ban hành
các chính sách kinh tế vĩ mô để thúc đẩy việc hình thành CĐNN một cách hợp lý và có
hiệu quả. Các chính sách kinh tế vĩ mô nhằm phát triển nông nghiệp và kinh tế nông
nghiệp, cùng với hệ thống pháp luật kinh tế, sẽ tạo môi trường kinh tế thuận lợi và
kích thích lợi ích kinh tế để các chủ thể sản xuất kinh doanh theo định hướng của nhà
nước. Hệ thống chính sách kinh tế như: chính sách đất đai, chính sách về vốn tín dụng,
chính sách đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, chính sách khuyến nông, chính
sách tiêu thụ sản phẩm, chính sách xoá đói, giảm nghèo nếu ban hành kịp thời, đồng
bộ và phù hợp với từng giai đoạn phát triển nhất định, sẽ có tác dụng làm chuyển biến mạnh mẽ CĐNN. Ngược lại, sẽ giảm động lực, không phát huy hết mọi tiềm năng, thế
mạnh của từng vùng cho sự phát triển, sẽ hạn chế và làm chậm quá trình CĐNN theo hướng CNH, HĐH.
Ngoài ra, nhà nước cần có chính sách khuyến khích việc khôi phục và phát triển triển các ngành nghề truyền thống, các làng nghề nhằm khai thác nguồn nguyên liệu tại chỗ, tạo điều kiện thúc đẩy ngành thương mại - dịch vụ phát triển để phục vụ cho sự phát triển nông nghiệp và công nghiệp ở nông thôn, từ đó hình thành CĐNN theo hướng hiện đại và hiệu quả.
38
h) Công nghiệp hóa và đô thị hóa
Sự phát triển các khu công nghiệp và đô thị là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng
tới CĐNN. Bởi lẽ phát triển các khu công nghiệp và đô thị sẽ làm tăng nhu cầu và làm
phát sinh những nhu cầu mới về các loại sản phẩm, dịch vụ kéo theo sự phân bố lại sản xuất để đáp ứng nhu cầu cung cấp sản phẩm cho sản xuất và đời sống ở đô thị. Đây là nhân tố kích thích CĐNN sang nền nông nghiệp hàng hóa, nông nghiệp công nghệ cao.
Mặt khác, sự phát triển các khu công nghiệp và đô thị tạo ra khả năng cung cấp kỹ thuật, công nghệ ngày càng tiên tiến, cùng với đội ngũ trí thức, các chuyên gia kỹ thuật và
nguồn vốn đầu tư ngày càng dồi dào cho khu vực nông nghiệp, góp phần thúc đẩy quá
trình hình thành và CĐNN nhanh hơn và hoàn thiện hơn.
Qua phân tích những nhân tố ảnh hưởng tới sự hình thành và CĐNN, chúng ta thấy rằng các nhân tố có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, cùng tác động tới quá trình
CĐNN. Do vậy quá trình CĐNN có thành công hay không, không chỉ phụ thuộc vào
sự lựa chọn ngành ưu tiên hợp lý, mà còn phụ thuộc rất lớn vào những điều kiện tự
nhiên và đặc điểm KT - XH của từng vùng nông thôn. Cho nên, con người cần nhận
thức đầy đủ để tác động vào nó, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi để đẩy nhanh
quá trình CĐNN theo hướng hợp lý và hiệu quả.
1.2.4. Một số hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp
Có nhiều hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp với những đặc trưng khác nhau,
nhưng trong luận án, NCS chỉ tập trung vào các hình thức phổ biến hiện nay ở
TP.HCM là: hộ gia đình (nông hộ), trang trại, hợp tác xã (HTX), doanh nghiệp nông
nghiệp (DNNN), vùng chuyên canh (VCC), tiểu vùng nông nghiệp. 1.2.4.1. Hộ gia đình (nông hộ)
Hộ gia đình tuy là hình thức ở trình độ thấp, nhưng có vai trò quan trọng với đời
sống, kinh tế và xã hội của một quốc gia. Hiện nay, trong nền nông nghiệp hàng hóa,
hình thức nông hộ đã có chuyển biến tích cực, từ tự cấp tự túc sang sản xuất hàng hóa nhỏ, dần dần đến sản xuất hàng hóa lớn. Một số hộ gia đình đã có quy mô sản xuất lớn hơn, tích lũy được nhiều vốn hơn, thực hiện chuyên môn hóa sản xuất và có xu hướng chuyển đổi sang hình thức trang trại Kinh tế hộ gia đình là một tổ chức kinh doanh thuộc sở hữu của hộ gia đình, các thành viên trong đó có tài sản chung, cùng đóng góp công sức để hoạt động kinh tế
chung trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hoặc một số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh
khác do pháp luật quy định. Đây là một mô hình kinh tế có vị trí quan trọng trong quá
39
trình chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế vĩ trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước.
Đặc điểm của kinh tế hộ là thường tồn tại phổ biến ở nông thôn, hoạt động trong
lĩnh vực nông, lâm thủy sản hoặc dịch vụ nông, lâm, thủy sản. Quy mô sản xuất của thường nhỏ, vốn ít, đầu tư không cao; sản mang tính tự cung tự cấp, tính hàng hóa chưa nhiều. chủ hộ sẽ là một trong các thành viên của gia đình. Trong hoạt động sản
xuất, hộ gia đình có thể tiến hành tất cả các khâu của quá trình sản xuất và tái sản xuất. Chủ hộ điều hành mọi quá trình sản xuất và chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của
mình, có thể thuê thêm lao động. Canh tác và công cụ sản xuất còn dựa vào sức lao
động thủ công và công cụ truyền thống nên năng suất lao động thấp, chủ yếu sản xuất
theo kinh nghiệm gia truyền, áp dụng công nghệ chưa nhiều nhận thức về luật pháp, về kinh doanh, thị trường của chủ hộ còn hạn chế.
1.2.4.2. Trang trại
Ban kinh tế Trung ương cho rằng "Trang trại là một hình thức tổ chức kinh tế
trong nông- lâm-ngư nghiệp phổ biến được hình thành trên có sở phát triển kinh tế hộ nhưng mang tính sản xuất hàng hóa rõ rệt". Sự hình thành trang trại xuất phát từ đòi hỏi khách quan của quá trình CNH. CNH càng cao thì kinh tế trang trại càng phát
triển.
Kinh tế trang trại là tổng thể các yếu tố sản xuất kinh doanh và các mối quan hệ
kinh tế nảy sinh trong quá trình hoạt động của trang trại. Kinh tế trang trại góp phần quan trọng trong quá trình chuyển dịch sản xuất từ nhỏ lẻ sang sản xuất lớn, sản xuất
hàng hóa, tập trung nguồn lực thông qua quá trình tích tụ ruộng đất, gắn liền với thu
hút lao động ở nông thôn, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi và chuyển dịch cơ
cấu nông nghiệp [67].
Các tiêu chí xác định trang trại như sau: [67]
- Có diện tích trên mức hạn điền, tối thiểu là 3,1 ha đối với vùng Đông Nam Bộ và
Đồng bằng Sông Cửu Long; 2,1 ha đối với các tỉnh còn lại.
- Giá trị sản lượng hàng hóa đạt 700 triệu đồng/năm. Đối với cơ sở chăn nuôi phải
đạt giá trị sản lượng hàng hóa từ 1.000 triệu đồng/năm trở lên.
- Đối với cơ sở sản xuất lâm nghiệp phải có diện tích tối thiểu 31 ha và giá trị sản
lượng hàng hóa bình quân đạt 500 triệu đồng/năm trở lên.
- Trang trại có tỷ trọng giá trị sản lượng nông sản hàng hóa của ngành chiếm trên 50% cơ cấu giá trị sản lượng hàng hóa của trang trại trong năm. Trường hợp không có
40
ngành nào chiếm trên 50% cơ cấu giá trị sản lượng hàng hóa thì được gọi là trang trại
tổng hợp.
- Có qui mô sản xuất tương đối lớn so với mức trung bình của kinh tế hộ tại địa phương, tương ứng với từng ngành sản xuất cụ thể như trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản.
- Có sử dụng lao động làm thuê thường từ 2 lao động/năm. Nếu lao động thời vụ
thì quy mô qui đổi thành lao động thường xuyên
- Chủ trang trại phải là người có kiến thức, kinh nghiệm về nông, lâm, ngưnghiệp
và trực tiếp điều hành sản xuất tại trang trại.
- Lấy sản xuất hàng hóa làm hướng chính và có thu nhập vượt trội so với trung
bình của kinh tế hộ tại địa phương. 1.2.4.3. Hợp tác xã
Theo Luật HTX năm 2013 thì HTX là tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở hữu, có tư
cách pháp nhân, do ít nhất 07 thành viên tự nguyện thành lập và hợp tác tương trợ lẫn
nhau trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm nhằm đáp ứng nhu cầu chung
của thành viên, trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong
quản lý hợp tác xã [71].
Đặc điểm của HTX nông nghiệp
- HTX là một tổ chức kinh tế tự chủ mang tính tương trợ được thành lập để tiến
hành hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, lợi nhuận là mục tiêu quan trọng.
- Nguyên tắc hoạt động của HTX là hợp tác tương trợ lẫn nhau giữa các xã viên. - Các xã viên HTX khi tham gia vào HTX vừa phải góp vốn, vừa phải góp sức, cùng nhau sản xuất, kinh doanh và làm các dịch vụ, họ phân phối lợi nhuận theo
nguyên tắc “lời ăn lỗ chịu”. Mối quan hệ theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng giúp
đỡ tương trợ lẫn nhau và cùng có lợi.
- Có số lượng thành viên tối thiểu là 7 thành viên. - Có tư cách pháp nhân và chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi vốn của mình.
Doanh nghiệp nông nghiệp (DNNN) là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh. DNNN được hiểu là một tổ chức kinh tế, có tư cách pháp nhân hoặc không, thực hiện các hoạt động kinh doanh theo qui định của pháp luật, nhằm đạt được những mục tiêu nhất định [72].
1.2.4.4. Doanh nghiệp nông nghiệp
41
Doanh nghiệp nông nghiệp là những doanh nghiệp có hướng đầu tư vào lĩnh vực
nông nghiệp – thủy sản. DNNN là hình thức mới trong những năm gần đây và có xu
hướng phát triển mạnh. DNNN đóng vai trò là chủ thể tham gia trong chuỗi giá trị
nông sản của nông nghiệp đảm bảo đầu ra cho nông sản tại thị trường Việt Nam. 1.2.4.5. Vùng chuyên canh
Theo Từ điển điện tử “Bách khoa nông nghiệp Việt Nam” thì “Vùng chuyên
canh là: vùng tập trung phát triển một hoặc vài loại cây trồng gắn với nguồn tài nguyên
thiên nhiên (đất, nước, khí hậu...),... nhưng sản phẩm được cung cấp ra khỏi vùng”.
Theo Ngô Doãn Vịnh, 2004 “Vùng chuyên canh nông nghiệp được định nghĩa là
trên một lãnh thổ xác định có ranh giới ước lệ, các hoạt động nông nghiệp được tổ
chức một cách hợp lí, có sự tập trung cao và có quy mô lớn hoặc tương đối lớn nhằm
đem lại hiệu quả cao trên cơ sở có kết cấu hạ tầng tốt và gắn vùng nguyên liệu với
công nghiệp chế biến có tính tới sức chứa của lãnh thổ.
Vùng chuyên canh là hình thức TCLT sản xuất có ý nghĩa to lớn trong nền nông
nghiệp sản xuất hàng hóa, tương đối phổ biến ở Việt Nam. Đặc điểm của vùng chuyên
canh là đất đai thuận lợi được tập trung để phát triển một cây trồng, vật nuôi nào đó và
sản xuất cho năng suất cao. Mối liên kết kinh tế được thể hiện rõ giữa các nhà máy chế
biến và vùng nguyên liệu. Có sự phối hợp giữa doanh nghiệp, nhà máy chế biến với
các nông hộ về hỗ trợ vốn, giống, vật tư nông nghiệp, tiến bộ kỹ thuật, thị trường.
Doanh nghiệp sẽ đảm bảo thu mua nông sản với giá cả hợp lý. Tại các vùng chuyên canh, SXNN sẽ mang tính đồng bộ, nhờ đó chất lượng sản phẩm được nâng cao và tạo
thị trường ổn định. Cùng với các tiến bộ khoa học và công nghệ được sử dụng tập
trung; đội ngũ lao động được chuyên môn hóa và có điều kiện để nâng cao trình độ tay
nghề. Tuy nhiên, vùng chuyên canh cũng có nhiều thách thức mới như sâu bệnh gây
hại tập trung, tác động của thiên tai.
1.2.4.6. Tiểu vùng nông nghiệp
Tiểu vùng nông nghiệp là những lãnh thổ sản xuất nông nghiệp tương đối đồng nhất về các điều kiện tự nhiên và KT - XH, được hình thành với mục đích phân bố hợp lí và chuyên môn hoá đúng đắn sản xuất nông nghiệp trên cơ sở sử dụng đầy đủ và có hiệu quả nhất các điều kiện sản xuất của các vùng trong cả nước cũng như trong nội bộ từng tiểu vùng (Vũ Đình Thắng, 2006).
Tiểu vùng nông nghiệp là một bộ phận lãnh thổ của địa phương (một tỉnh) bao gồm những lãnh thổ có sự tương đồng về: điều kiện sinh thái nông nghiệp (khí hậu, đất đai, nguồn nước...); điều kiện KT - XH (số lượng, chất lượng và sự phân bố dân cư, LĐ
42
nông nghiệp, kinh nghiệm và truyền thống sản xuất); trình độ thâm canh, CSVCKT, chế
độ canh tác; cơ cấu sản xuất nông nghiệp, các sản phẩm chuyên môn hoá.
Việc phân chia các tiểu vùng nông nghiệp có ý nghĩa to lớn nhằm phân bố hợp lí
cây trồng, vật nuôi sao cho phù hợp với các điều kiện sinh thái nông nghiệp, điều kiện KT - XH và hình thành các vùng chuyên môn hoá nông nghiệp sản xuất hàng hoá. 1.2.5. Các chỉ tiêu đánh giá chuyển đổi nông nghiệp vận dụng cho TP.HCM
1.2.5.1. Chỉ tiêu đánh giá cơ cấu và hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
Chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất tự nhiên của một lãnh thổ thường bao gồm: đất
nông nghiệp, đất phi nông nghiệp, đất chưa sử dụng. Chỉ tiêu này phản ánh mức độ
hợp lí và ảnh hưởng của các quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa đối với tài nguyên
đất cả một lãnh thố. Theo xu hướng chung, diện tích đất sản xuất nông nghiệp sẽ giảm xuống, tăng diện tích các loại đất phi nông nghiệp. Cách tính: diện tích đất từng loại/
tổng diện tích tự nhiên (%).
Chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất nông nghiệp là chỉ tiêu đánh giá hiệu quả
chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất nông nghiệp. Theo cơ cấu đất nông nghiệp bao gồm
đất SXNN, đất lâm nghiệp, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối và đất nông nghiệp
khác. Trong đó đất SXNN bao gồm đất trồng cây hàng năm và đất trồng cây lâu năm.
Cách tính: diện tích đất từng loại đất/ tổng diện tích đất nông nghiệp (%). Xu hướng
chính trong chuyển đổi cơ cấu diện tích đất SXNN là cơ cấu diện tích đất trồng lúa
giảm, thay vào đó là diện tích đất trồng cây hàng năm tăng lên do diện tích đất trồng
lúa kém hiệu quả chuyển sang trồng cây hàng năm, cây lâu năm hoặc nuôi trồng thủy
sản có hiệu quả kinh tế cao hơn. 1.2.5.2. Chỉ tiêu đánh giá một số hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp
Tổng cục Thống kê và Bộ NN và PTNT đã đưa ra các chỉ tiêu trong Tổng điều
tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản (2005, 2011, 2016) áp dụng cho cả nước.
- Đối với hộ N, L, TS và trang trại, các chỉ tiêu chính là:
+ Số lượng (hộ, trang trại) + Sử dụng đất: bình quân 1 hộ, 1 trang trại (m2 hay ha); đất thuê mướn + LĐ và LĐ bình quân/1 hộ và trang trại + Thu nhập bình quân của hộ hoặc của trang trại (triệu đồng) - Đối với doanh nghiệp và HTX, các chỉ tiêu chính là: + Số lượng doanh nghiệp, HTX + LĐ làm việc/1 doanh nghiệp hay 1 HTX + Tổng vốn (triệu đồng) và vốn bình quân trên 1 doanh nghiệp hay 1 HTX
43
+ Tổng doanh thu (triệu đồng hoặc tỉ đồng), doanh thu bình quân trên 1 doanh
nghiệp hay 1 HTX (triệu đồng)
+ Lợi nhuận sau thuế (tỉ đồng hay triệu đồng), lợi nhuận sau thuế bình quân trên 1
doanh nghiệp hay 1 HTX (triệu đồng) 1.2.5.3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của chuyển đổi nông nghiệp
Giá trị SXNN: là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh kết quả hoạt động SXKD của ngành
nông nghiệp dưới dạng vật chất và dịch vụ một thời gian nhất định, thường là một năm. Nó bao gồm giá trị sản phẩm của nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và giá trị các dịch
vụ có liên quan hoạt động này. Được tính theo 2 loại giá: thực tế và so sánh.
Tốc độ tăng GTSX nông nghiệp: Đây là chỉ tiêu nhằm so sánh độ lớn về GTSX
nông nghiệp giữa thời điểm này với thời điểm trước đó. Đơn vị tính là % hay là số lần tăng. Đây là chỉ tiêu phản ánh sự phát triển, hiệu quả của SXNN. Tốc độ này thường
thấp hơn so với các ngành công nghiệp và dịch vụ, bởi nông nghiệp là ngành phụ thuộc
nhiều vào các điều kiện tự nhiên, các yếu tố này lại có những giới hạn nhất định. Do vậy
tốc độ tăng trưởng của ngành nông nghiệp còn phản ánh trình độ cơ giới hóa, hiện đại
hóa và hiệu quả của việc ứng dụng KH - CN vào sản xuất - những yếu tố làm tăng năng
suất lao động, khắc phục được những hạn chế của tự nhiên. Để loại trừ những yếu tố bất
thường cho sản xuất và tiêu thụ sản phẩm (thiên tai, biến động giá cả...) người ta thường
tính tốc độ tăng GTSX nông nghiệp bằng giá cố định (giá so sánh 2010).
Cơ cấu GTSX nông nghiệp: Chỉ tiêu này được tính theo giá thực tế, đây là chỉ
tiêu trực tiếp và chủ yếu phản ánh mối tương quan về GTSX giữa các ngành sản xuất
trong kinh tế nông nghiệp, thể hiện mối quan hệ hữu cơ và tác động qua lại cả về số
lượng và chất lượng giữa các bộ phận đó với nhau. Người ta sử dụng chỉ tiêu này thông qua tổng GTSX và tỉ trọng đóng góp của mỗi thành phần vào GTSX của cả nền
kinh tế nông nghiệp, xem xét, đánh giá sự thay đổi tỷ trọng theo thời gian giữa 3 lĩnh
vực sản xuất (nông, lâm, thủy sản). Xu thế của chúng theo thời gian sẽ tạo nên sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Xu hướng chuyển dịch chung của cả nước sẽ giảm tỷ trọng nông nghiệp tỷ trọng thủy sản.
- Chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp: sự thay đổi tỷ trọng giữa trồng trọt - chăn nuôi và dịch vụ nông nghiệp; sự thay đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi hay thay đổi lĩnh vực dịch vụ nông nghiệp. Cách tính: GTSX của từng bộ phận/ GTSX của toàn ngành nông nghiệp (%)
- Chuyển dịch cơ cấu ngành lâm nghiệp: sự thay đổi tỷ trọng giữa ngành khai thác - trồng rừng - dịch vụ lâm nghiệp. Theo xu hướng chung, ngành khai thác sẽ giảm
44
dần, trồng và bảo vệ rừng sẽ tăng dần tỷ trọng nhằm bảo vệ môi trường sinh thái. Cách
tính: GTSX của từng bộ phận/ GTSX của toàn ngành lâm nghiệp (%).
- Chuyển dịch cơ cấu ngành thủy sản: sự thay đổi tỷ trọng giữa ngành khai thác -
nuôi trồng - dịch vụ thủy sản. Cách tính: GTSX của từng bộ phận/ GTSX toàn ngành thủy sản (%) 1.3. Cơ sở thực tiễn về chuyển đổi nông nghiệp
1.3.1. Chuyển đổi nông nghiệp ở một số quốc gia trên thế giới
1.3.1.1. Kinh nghiệm của Nhật Bản
Nhật Bản là quốc gia có nền nông nghiệp với những đặc điểm như trình độ kỹ
thuật cao, quy mô canh tác nhỏ, tỉ lệ nông dân làm nông nghiệp bán thời gian cao, mức
độ bảo hộ cao, tỉ lệ tự cấp lương thực tính theo Calo thấp, chi phí sản xuất cao. Hiện nay, nông nghiệp Nhật Bản chỉ chiếm hơn 1% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và
khoảng 4% lực lượng lao động. Nhật Bản đã là áp dụng các biện pháp mạnh mẽ từ
những năm 60 để CĐNN hiệu quả nhằm làm tăng giá trị SXNN, nâng cao thu nhập của
nông dân, rút ngắn khoảng cách thu nhập giữa nông thôn và thành thị, đáp ứng tốt hơn
nhu cầu về lương thực thực phẩm trong nước.
Quá trình chuyển đổi kinh tế là quá trình định hình liên tục vai trò của nông nghiệp,
công nghiệp và dịch vụ. Theo mô hình chuyển đổi của các quốc gia trên thế giới ở những
nước phát triển thấp ở Châu Á, Châu Phi đóng góp của ngành nông nghiệp vào (GDP) và
việc làm là rất lớn; đối với nước phát triển tỉ lệ đó sẽ giảm xuống khi. Song song đó
khoảng cách giữa tỉ trọng nông nghiệp trong GDP và tỉ lệ ngành này trong lực lượng lao
động là rất lớn. Khi GDP/người tăng, thì đóng góp của nông nghiệp vào tăng trưởng kinh tế cũng giảm do các khu vực phi nông nghiệp tăng trưởng nhanh hơn. Chuyển đổi nông
nghiệp của Nhật Bản cũng tương tự qui luật này. Khi sự đóng góp của nông nghiệp vào
nền kinh tế giảm dần thì nông nghiệp lại được hỗ trợ bởi các ngành kinh tế khác. Thực tế
là từ sau năm 1960 , sự suy giảm nông nghiệp thể hiện qua tỷ trọng của nông nghiệp trong
GDP và trong lao động. Đóng góp của nông nghiệp vào GDP của Nhật Bản đã giảm nhanh chóng, từ 9% năm 1960 xuống còn 1% năm 2000 và giữ ở mức đó cho đến năm 2005. Lao động nông nghiệp còn giảm nhanh hơn nữa, từ 27% xuống còn gần 4% trong cùng thời kỳ (OECD, 2009) [145]. Tỷ trọng của lao động nông nghiệp cao gần gấp 4 lần tỷ trọng GDP của nông nghiệp trong nền kinh tế đã phản ánh mức tăng năng suất trong ngành nông nghiệp thấp hơn nhiều so với các ngành khác. Đất nông nghiệp đã giảm gần 30% trong giai đoạn 1960-2005, số nông hộ giảm 53%, dân số nông nghiệp giảm 76%, số người hoạt động chính trong nông nghiệp cũng giảm gần 77% trong cùng giai đoạn.
45
Riêng diện tích đất canh tác trung bình cho một nông hộ thì đã tăng từ 1 ha năm 1960 lên
1,64 ha năm 2005 và tiếp tục tăng lên 1,83 ha năm 2007[145]. Những phần sau sẽ nói chi
tiết hơn về những thay đổi này. Hiện nay, đóng góp của nông nghiệp vào GDP của Nhật
Bản đã giảm nhanh chóng, từ 9% năm 1960 xuống còn 1% năm 2000 và giữ ở mức đó cho đến năm 2005. Đất nông nghiệp của Nhật đã giảm gần 30% trong giai đoạn 1960 – 2005 nhưng diện tích đất canh tác trung bình cho một nông hộ thì đã tăng từ 1 ha năm
1960 lên 1,83 ha năm 2007 (OECD 2009). Nguyên nhân là do lao động nông nghiệp giảm nhanh hơn, từ 27% xuống còn gần 4% trong cùng thời kỳ (OECD 2009) [145].
Điếm nhấn đầu tiên trong quá trình chuyển đổi Nhật Bản là tập trung vào cơ cấu
sản phẩm nông nghiệp. Mục tiêu của chính phủ Nhật Bản là nhằm đa dạng hóa sản
phẩm nông nghiệp. Bên cạnh lúa gạo là sản phẩm chính, chính phủ Nhật Bản đã khuyến khích các loại sản phẩm như rau xanh, sản phẩm chăn nuôi, đi đôi với khuyến
khích quản lý nông trại có hiệu quả.
Trong xu thế chuyển đổi, Nhật Bản tập trung vào mô hình nông hộ. Theo định
nghĩa của Bộ Nông, Lâm, Ngư nghiệp Nhật Bản(MAFF) thì nông hộ là một hộ gia đình có đất canh tác từ 0,1 ha (1.000 m2) trở lên hoặc có hóa đơn chứng minh giá trị bán nông phẩm ở một mức nào đó cho dù họ không đáp ứng về tiêu chí đất canh tác. Nông hộ
được phân chia thành hộ làm nông nghiệp toàn thời gian và hộ làm nông nghiệp bán
thời gian. Từ sau cuộc điều tra năm 1990 thì nông hộ lại được phân loại thành nông
hộ tự cấp và nông hộ sản xuất để bán (gọi là nông hộ thương phẩm). Nông hộ thương
phẩm lại được chia thành 3 loại. Loại thứ nhất là nông hộ chuyên kinh doanh nông
nghiệp; loại thứ hai là nông hộ bán kinh doanh nông nghiệp (cả hai loại nông hộ này
đều có thành viên trong gia đình dưới 65 tuổi tham gia làm nông nghiệp trên 60 ngày trong một năm); loại thứ ba là nông hộ coi kinh doanh nông nghiệp là nghề phụ
(không có ai dưới 65 tuổi tham gia làm nông nghiệp tới 60 ngày trong một năm).
Trong chuyển đổi về mô hình SXNN, Nhật Bản tập trung vào các nông trại. Nhật
Bản đã áp dụng Luật nông nghiệp năm 1961 để hỗ trợ tối đa cho hoạt động của các nông trại. Theo thống kê nông trại có quy mô dưới 0,5 ha chiếm 39%, nông trại có từ 0,5 đến 1 ha chiếm 33%, trên 1 ha là 28% [144]. Sau một thời gian thực hiện luật này, tỉ lệ của các nông trại có quy mô dưới 1 ha lại tăng lên do diện tích đất bị thu hẹp.
Trong cơ cấu sử dụng đất, để khuyến khích việc sử dụng đất trồng trong nông nghiệp, năm 2003 chính phủ đã cho phép các công ty cổ phần tham gia vào kinh doanh nông nghiệp với những điều kiện nhất định. Hiện nay, dựa trên những chuyển đổi nông nghiệp đã thực hiện, Nhật Bản đang áp dụng những chính sách mới để nông nghiệp phát
46
triển bền vững và có hiệu quả hơn, khuyến khích việc tập trung đất nông nghiệp cho nông
dân có khả năng canh tác nông nghiệp, áp dụng biện pháp chi trả trực tiếp đối với nông hộ
có quy mô canh tác rộng lớn ở một mức độ nhất định. Chính nhờ chính sách quan tâm đến
các mô hình nông nghiệp từ nông hộ đến trang trại, cộng thêm hướng đi đúng trong việc tập trung vào một số cây, con nhất định, nông nghiệp Nhật Bản đã có những bước tiến vượt bậc.
1.3.1.2. Kinh nghiệm của Thái Lan
Thái Lan là nước xuất khẩu lương thực lớn của Châu Á (chỉ sau Trung Quốc)
nhưng lại quốc gia đứng đầu trong SXNN ở một số lĩnh vực quan trọng trong cây
trồng, vật nuôi, lâm nghiệp và thủy sản. Thái Lan có vai trò quan trọng trong nền kinh
tế nông nghiệp thế giới. Nước này thu hút được nhiều đầu tư trực tiếp nước ngoài, với gần 600 triệu USD cho nông nghiệp, phục vụ cho 9.000 nông trường với hơn 120.000
nhân công. Những sản phẩm chính bao gồm gạo, bột sắn, bột mì, hải sản và dứa đóng hộp, ngô, xoài và mía [142]. Với giải pháp lấy nông nghiệp là bệ đỡ cho nền kinh tế, các trường đại học của Thái Lan như Chulalongkorn ưu tiên đầu tư nghiên cứu về
nông nghiệp, kĩ thuật canh tác, chuyển giao công nghệ. Nhà vua Thái Lan rất quan tâm
đến phát triển nông nghiệp và cuộc sống của người nông dân.
Thái Lan rất tập trung vào việc đầu tư công nghệ mới; cải tạo đất trồng; nghiên
cứu các giống mới năng suất cao thích ứng với vùng đất bạc màu, khô hạn; sử dụng
phân bón hữu cơ, phân vi sinh, thuốc trừ sâu sinh học đã giúp tốc độ tăng trưởng nông
nghiệp của Thái Lan tăng nhanh. Thái Lan còn khuyến khích các tổ chức tham gia vào
nông nghiệp.
Bên trong các viện nghiên cứu, các nhà khoa học Thái Lan đang nghiên cứu
những thế hệ cây trồng năng suất cao, cải thiện chất lượng giống thông qua kỹ thuật
chuyển gene; công nghệ di truyền, công nghệ nuôi cấy mô như tại trung tâm Công
nghệ gene ở Thái Lan đã nghiên cứu ra những giống lúa có khả năng chịu mặn cao và gieo trồng được ở vùng Đông Bắc (nơi đất nhiễm bị nhiễm mặn). Chính phủ Thái theo
đuổi mục tiêu sản xuất nông sản sạch, chất lượng cao với công nghệ sinh học phục vụ cho xuất khẩu [142].
Giải pháp tối ưu mà nông nghiệp Thái Lan đang thực hiện đó là chính sách trợ giá nông sản với những ưu đãi về vốn, bảo hiểm, thuế nông nghiệp được bãi bỏ, hỗ trợ tìm kiếm địa chỉ xuất khẩu, đồng bộ hóa để bảo đảm tính liên thông từ khâu gieo trồng, sản xuất đến bao tiêu xuất khẩu và giảm rủi ro cho người nông dân. Chính phủ Thaisi Lan thực hiện trợ giá đối với các nông sản chủ yếu như gạo, cao su, trái cây…
47
Nông dân còn được hưởng những ưu đãi như mua phân bón với giá thấp, miễn cước
vận chuyển phân bón, được cung cấp giống mới có năng suất cao, được vay vốn lãi
suất thấp từ ngân hàng nông nghiệp. Chính phủ còn sử dụng các chuyên viên cao cấp
phụ trách giám sát từ việc sản xuất, phân phối, chế biến, giá cả cho đến tìm thị trường xuất khẩu mới.
Mô hình chuyển đổi hiệu quả là đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và
công nghệ trong nông nghiệp nhằm cải tạo đất trồng, lai tạo các giống mới có khả năng thích ứng với những vùng đất canh tác bạc màu, khô hạn. Để nâng cao độ phì
nhiêu đất, chính phủ sử dụng các loại phân bón hữu cơ, phân vi sinh và thuốc trừ sâu
sinh học, giảm nhập khẩu phân bón và xuất khẩu nông sản hữu cơ sạch. Ở Thái Lan cơ
giới hóa đã đến từng thửa ruộng, thành công của nông dân Thái Lan là sự kết hợp giữa kinh nghiệm canh tác truyền thống với việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công
nghệ (công nghệ biến đổi gien, lai tạo giống cây trồng, vật nuôi…).
Bước chuyển đổi kế tiếp là cơ cấu lại công nghiệp nông thôn tập trung vào các
việc cơ cấu lại ngành nghề, tập trung phát triển các ngành mũi nhọn như sản xuất
hàng nông sản, thủy sản, hải sản phục vụ xuất khẩu, công nghiệp chế biến thực phẩm
Thái Lan phát triển mạnh nhờ thực hiện các chương trình như “Mỗi làng một sản
phẩm” (One tambon, One product – OTOP); chương trình “Thái Lan là bếp ăn của
thế giới” kiểm soát chất lượng vệ sinh thực phẩm, đảm bảo an toàn cho hàng nông
sản [142].
Giải pháp cuối cùng là mở rộng thị trường thu hút đầu tư nước ngoài đặc biệt là
công nghiệp chế biến thực phẩm hướng ra xuất khẩu. Để thực hiện được, Thái Lan áp
trợ cấp ban đầu cho các nhà máy chế biến, đầu tư kết cấu hạ tầng như cảng, kho lạnh, phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. Cuối cùng là đẩy mạnh chuyển giao công nghệ
cho nông dân, đào tạo kỹ thuật, nâng cao nhận thức cho người nông dân, mở các khóa
học về kỹ thuật canh tác, nhằm thu hút và nâng cao trình độ nguồn nhân lực cho nông
nghiệp mà đóng vai trò chính là các trường đại học, cao đẳng nổi tiếng tại Thái Lan. 1.3.1.3. Kinh nghiệm của Israel
Israel là nước có diện tích rất nhỏ, trên 20.000 km2, tức là chỉ lớn hơn tỉnh Nghệ An của Việt Nam. Israel là một nước xuất khẩu lớn của thế giới về nông sản có công nghệ hiện đại trong nông nghiệp. Hơn 50% diện tích đất đai là sa mạc, khí hậu khắc nghiệt và thiếu nước trầm trọng, không thích hợp cho phát triển nông nghiệp. Tính đến năm 2014, 24,2% diện tích Israel là đất nông nghiệp. Hiện nay, nông nghiệp Israel chiếm 2,5% GDP và 3,6% giá trị xuất khẩu, lao động trong nông nghiệp chỉ chiếm
48
3,7% tổng lao động trong nước, Israel đã sản xuất được 95% nhu cầu thực phẩm, còn
lại được bổ sung từ việc nhập khẩu thịt, cà phê, ca cao, đường, ngũ cốc, các loại hạt
lấy dầu [69].
Nông nghiệp Israel được hình thành dựa trên một mô hình SXNN rất hiệu quả là sự hợp tác của các cơ sở nông nghiệp. Theo thống kê, khoảng 80% cơ sở này hoạt động được điều hành bởi các Kibbutz (Công xã hiện đại kiểu Israel: sinh hoạt, làm
việc chung; không tài sản riêng), và các Moshav (HTX, gia đình vẫn là đơn vị cốt lõi của xã hội, tham gia hợp tác với nhau trong sinh hoạt, sản xuất); 20% còn lại hầu hết là
các moshava (cộng đồng nông nghiệp phi hợp tác gồm các hộ nông dân riêng biệt, sở
hữu cá nhân và tự sản xuất, tự hưởng thụ sản phẩm) gồm các khu rừng nhỏ trồng cam
quýt ở miền trung đất nước thuộc về các công ty tư nhân lớn và các làng Arab (loại hình nông thôn phi hợp tác) [69]. Các mô hình hợp tác được quy định cụ thể trong
Đăng ký Hợp tác Quốc gia. Với những chính sách nông nghiệp hiệu quả, Israel đã thu
được nhiều thành tựu từ ứng dụng KH - CN vào nông nghiệp: tổng diện tích đất trồng
trọt tăng lên, số lượng cộng đồng nông thôn kibbutz tăng lên, tăng trưởng nông nghiệp
ổn định.
Như vậy, nhờ các mô hình chuyển đổi nông nghiệp hiệu quả, Israel đã thu được
nhiều thành tựu lớn dù là một đất nước với những điều kiện tự nhiên về đất đai, nguồn
nước, nhiệt độ đều không thuận lợi cho phát triển nông nghiệp, nhưng hầu hết lương
thực thực phẩm ở Israel đều được sản xuất trong nước, chỉ nhập khẩu một phần rất
nhỏ. Nông dân Israel đã biết cách phát triển các sản phẩm có hàm lượng công nghệ
cao, có giá trị, để tăng năng suất nông nghiệp, cạnh tranh hiệu quả trên thị trường xuất
khẩu. 1.3.2. Chuyển đổi nông nghiệp ở Việt Nam
Ngành nông nghiệp Việt Nam là ngành đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong
nền kinh tế để giải quyết vấn đề an ninh lương thực. Trải qua nhiều giai đoạn, nông
nghiệp có những bước chuyển đổi để phù hợp với xu thế của từng giai đoạn phát triển cùng nền kinh tế của đất nước
Giai đoạn 1945-1975, nền nông nghiệp Việt Nam giai đoạn này còn lạc hậu so với các nước khác do nhiệm vụ chính trong giai đoạn này là đảm bảo lương thực cho bộ đội nơi chiến trường, vì mục tiêu thống nhất đất nước.
Giai đoạn 1975 - 1986, đất nước thống nhất và thực hiện xây dựng nền kinh tế tự cung tự cấp, đóng cửa hoàn toàn với kinh tế thế giới. Kinh tế bị rơi vào khủng hoảng năm 1985, nông nghiệp Việt Nam rơi vào trì trệ. Từ tháng 12-1986 tại Đại hội Đảng
49
lần thứ VI, nhà nước thực hiện chủ trương đổi mới nền kinh tế. Đối với ngành nông
nghiệp, chế độ khoán 10 và sau là khoán 100 với chủ trương giao đất cho nông dân,
lấy hộ nông dân là đơn vị kinh tế. Quá trình CĐNN đánh dấu bằng sự tăng nhanh của
cây lương thực. Năm 1989, sau quá trình CĐNN (từ tự cấp, tự túc đến giao khoán cho nông dân), nước ta trở thành nước xuất khẩu gạo (gần 1 triệu tấn) trong khi năm 1988, nước ta phải nhập đến 450 nghìn tấn lương thực. Thành tựu trong sản xuất lương thực
đã trở thành cơ sở cho quá trình CĐNN, cơ cấu cây trồng thay đổi, gia tăng nhanh cây lương thực, cây công nghiệp hàng năm, cây công nghiệp lâu năm và ăn quả gia tăng.
Giai đoạn 1990 đến 1999, ngành nông nghiệp nói riêng đã có những phát triển ở
mức trung bình so với nước khác trong khu vực và trên thế giới. Trong chiến lược công
nghiệp hoá là tăng tỷ trọng của ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng của ngành nông nghiệp trong GDP của cả nước. Thực hiện chính sách đổi mới trong nông
nghiệp, thành tựu nông nghiệp Việt Nam đạt được cụ thể là tốc độ tăng trưởng bình
quân đạt 4,3%/năm, riêng năm 1999 tốc độ tăng bình quân 5,5%, đạt 89 nghìn tỷ đồng,
chiếm 22,3% GDP. Về xuất khẩu nông sản, tốc độ tăng bình quân 13,05%/năm, đạt 3 tỷ
USD (1999); Việt Nam đứng vị trí thứ hai thế giới về xuất khẩu gạo với 4,4 triệu tấn.
Bảng 1.1. Quan hệ tăng trưởng GDP và tổng sản phẩm nông nghiệp giai đoạn 2005-2018
Năm
2005
2007
2009
2010
2012
2013
2015
2018
Tăng GDP (%)
8,44
8,46
65,32
6,78
5,02
5,42
6,7
7,08
Tăng SPNN
3,69
3,76
1,82
2,78
2,92
2,96
2,4
3,76
Nguồn: [93]
Giai đoạn 2000-2018, CĐNN thể hiện qua việc thâm canh, tăng năng suất lúa gạo,
góp phần xóa đói giảm nghèo, đảm bảo an ninh lương thực. Năng suất nông sản tăng
cao, Việt Nam trở thành nước xuất khẩu lớn của thế giới với các mặt hàng như tôm, cà
phê (đứng thứ hai thế giới), hồ tiêu, gạo và hạt điều. Trình độ SXNN của Việt Nam đã
có nhiều tiến bộ so với trước đây, hình thành nhiều vùng sản xuất hàng hoá tập trung
như: vùng lúa gạo đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long, vùng cà phê Tây Nguyên, vùng cao su Đông Nam Bộ, vùng chè trung du và miền núi phía Bắc... Những thay đổi trong qui mô sản xuất và năng suất đã làm thay đổi một cách tích cực về nông nghiệp, đời sống của người dân được cải thiện, thu nhập bình quân đầu người tăng lên, tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống còn 10 - 11% [93]. Trình độ dân trí được nâng cao, cơ sở hạ tầng và đời sống của người dân được cải thiện hơn.
Quá trình CĐNN ở Việt Nam bị nhiều điều chi phối như thị trường, nhu cầu tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, tăng trưởng nông nghiệp chủ yếu dựa vào mở rộng sản xuất, tăng cường sử dụng tài nguyên, sử dụng khá nhiều phân bón, hóa chất. Do vậy,
50
tăng trưởng nông nghiệp lại đi kèm với những tác động xấu về môi trường, ô nhiễm
nguồn nước, suy thoái tài nguyên đất. Nông nghiệp Việt Nam gặp phải sự cạnh tranh
gay gắt với các nước trong khu vực. Do vậy, chi phí nhân công, chi phí sản xuất, chi
phí vật tư, các vấn đề môi trường tác động đến năng lực cạnh tranh và khả năng tăng năng suất lao động của Việt Nam.
Đề án Tái cơ cấu ngành nông nghiệp của Việt Nam được Thủ tướng phê duyệt
vào tháng 6/2013 đã đề ra ba mục tiêu phát triển cho nông nghiệp Việt Nam bao gồm phát triển kinh tế, đi đôi với phát triển xã hội nhưng vẫn bảo đảm phát triển môi trường
bền vững. Nếu giai đoạn trước, nông nghiệp được đặc trưng bởi tốc độ khai thác tài
nguyên và mở rộng quy mô sản xuất, thì đến giai đoạn hiện nay, chủ trương của Chính
phủ trong đề án này là đa dạng hoá ngành nghề, đa dạng hoá các nông sản, áp dụng công nghệ hiện đại, nâng cao hiệu quả sản phẩm nhờ ứng dụng kỹ thuật.
CĐNN ở Việt Nam thể hiện rõ nhất ở quá trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất và cơ
cấu sử dụng đất nông nghiệp. Việt Nam đã chuyển đổi đất nông nghiệp sang cho mục
đích công nghiệp, thủy điện, phát triển đô thị. CĐNN còn thể hiện ở việc đa dạng hóa
cây trồng, nhưng lúa vẫn là cây trồng chủ đạo để đảm bảo an ninh lương thực. Chuyển
đổi cơ cấu cây trồng theo hướng tích cực, giống lúa mới chất lượng cao đang dần thay
thế giống lúa truyền thống (theo tiêu chuẩn VietGap). Mặc dù diện tích gieo trồng lúa
giảm nhưng năng suất tăng nên sản lượng lúa vẫn tăng. Nông nghiệp đang ở giai đoạn
đầu của quá trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng từ loại cây có giá trị thấp sang loại cây
có giá trị cao; nuôi trồng thủy sản tập trung chuyển sang các loài làm nguyên liệu chế
biến xuất khẩu, đặc biệt là nuôi tôm nước lợ. Quá trình chuyển đổi đất phục vụ cho
SXNN sang nuôi trồng thủy sản giúp nâng cao GTSX gấp 2,3 lần (chuyển đổi 1 ha đất canh tác lúa sang nuôi tôm sẽ nâng cao giá trị gấp 5 lần).
Hiện nay, SXNN tại Việt Nam được thực hiện dưới các hình thức tổ chức sản xuất
khác nhau bao gồm hộ nông nghiệp gồm 7,8 triệu hộ năm 2016 (năm 2011 là 8,9 triệu
hộ). Tính đến hết năm 2018, cả nước có trên 35.113 trang trại; doanh nghiệp nông nghiệp: cả nước có 9.235 doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp; HTX nông nghiệp: gồm 13.856 đơn vị (năm 2001 là 7.237), các cơ sở khác, gồm các trạm do UBND xã và các cơ quan khác quản lý, các doanh nghiệp và cá nhân người nước ngoài [93].
Trong quá trình chuyển đổi, nông nghiệp Việt Nam còn sử dụng quá nhiều vật tư nông nghiệp. Vấn đề sử dụng quá nhiều phân bón và thuốc trừ trong nông nghiệp cũng dẫn đến tình trạng lãng phí nguồn vật tư nông nghiệp. Phân bón là khoản chi phí lớn nhất trong tổng các chi phí cho các loại cây trồng. Phân bón sử dụng quá nhiều cho
51
cây trồng cũng làm cho một phần lớn lượng dư thừa bị đưa vào nguồn nước mặt và
nước ngầm gây đến tình trạng thoái hóa đất, ô nhiễm nguồn nước
Trong quá trình CĐNN, chuỗi giá trị nông sản còn thiếu sự liên kết giữa các khâu
tham gia, còn tồn tại nhiều công đoạn và khâu trung gian làm tăng chi phí không cần thiết. Ở hộ gia đình, phân bón được người nông dân sử dụng quá lãng phí. Nông dân quá quan tâm đến hóa chất, các vật tư đầu vào khác thay vì tăng hiệu quả bằng cách
tăng năng suất và giảm chi phí cho vật tư nông nghiệp. Các HTX và các tổ hợp tác thu mua nông sản của dân bán lại cho các doanh nghiệp tư nhân. Các HTX cũng gặp phải
những vấn đề về quản lý, định hướng kinh doanh. Khi các HTX hoạt động không hiệu
quả thì chi phí cho các giao dịch tăng lên do doanh nghiệp chế biến phải thu mua qua
thương lái do doanh nghiệp chế biến không gắn kết, quản lý và theo dõi việc thu mua với các hộ nông dân. Hợp đồng thu mua nông sản giữa nông dân và các doanh nghiệp
thu mua còn rất ít, đa phần là hợp đồng miệng với thương lái. Hợp đồng sẽ giảm thiểu
rủi ro về thị trường biến động, giá cả, lãng phí vật tư, đảm bảo chất lượng nông sản sau
thu hoạch, đảm bảo chất lượng của chuỗi giá trị hàng hóa nơi các hộ nông dân giữ vai
trò quan trọng. Xuất khẩu nông sản của Việt Nam tăng đáng kể nhưng chất lượng hàng
hóa không đảm bảo nguyên nhân chủ yếu xuất khẩu vẫn dựa vào các doanh nghiệp nhà
nước. Vai trò của các công ty tư nhân tham gia chuỗi giá trị bị hạn chế.
Năm 2018, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,76%, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 8,85%, khu vực dịch vụ tăng 7,03% [93]. Giá trị sản xuất ngành trồng trọt tăng 2,52%, giá trị sản xuất ngành chăn nuôi tăng 3,98%, giá trị sản
xuất ngành thủy sản tăng 6,5% (mục tiêu 5,29%), giá trị sản xuất lâm nghiệp đạt mức
tăng 6,1%Nông nghiệp vẫn dựa chủ yếu vào nông hộ nhỏ, thiếu liên kết, dễ tổn thương trước biến động của thị trường và thiên tai, dịch bệnh. Chất lượng và khả năng cạnh
tranh của nhiều loại nông sản chưa cao.
Hạn chế thứ hai là nông thôn phát triển không đồng đều, cơ sở hạ tầng chưa đáp
ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội. Bên cạnh đó, thu nhập và đời sống của phần lớn nông dân còn thấp, có nơi tỷ lệ hộ nghèo còn cao, chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn chưa đạt yêu cầu. Năm 2017, thu nhập bình quân của nông dân chỉ bằng 78% bình quân chung cả nước, tỷ lệ hộ nghèo còn cao trên 30%, lao động nông nghiệp vẫn chiếm 40,2% trong tổng số lao động xã hội.
Trong tương lai ngành nông nghiệp phải đảm bảo "tăng giá trị, giảm đầu vào, tăng trưởng sẽ dựa trên hiệu quả, tạo thêm giá trị mới, nhiều giá trị kinh tế mang lại hiệu quả cao hơn cho nông dân nhưng lại sử dụng ít hơn tài nguyên, lao động và hóa
52
chất độc hại. Nhà nước cần tập trung ruộng đất để giảm chi phí trong chuỗi giá trị,
giúp các nông hộ đảm bảo mức sống trung bình từ SXNN. Khuyến khích đa dạng hóa
nông nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu về thực phẩm, việc làm và cải thiện thu nhập. Hỗ
trợ đổi mới sáng tạo trong kinh doanh nông nghiệp. Quá trình chuyển đổi từ tăng trưởng dựa trên tài nguyên sang tăng trưởng dựa trên tri thức đòi hỏi cách tiếp cận từ trên xuống với vai trò chủ đạo của cơ quan nhà nước. khuyến khích các doanh nghiệp
tư nhân đầu tư vào công tác bảo vệ môi trường khi vấn đề bảo vệ môi trường trở nên cấp bách, các chiến lược chủ động về nông nghiệp sinh thái nhằm giảm suy thoái môi
trường, áp dụng các nguyên tắc này để xây dựng tại các vùng cây công nghiệpvà vùng
nông-lâm nghiệp như Đông Nam Bộ, Tây Nguyên. Kết lại, trong giai đoạn tới, Việt
Nam cần giải quyết bài toán giữa phát triển nông nghiệp bền vững và môi trường, đòi hỏi phải có sự phối hợp hành động của các cơ quan liên quan. Các chính sách của Nhà
nước trong đất đai, vốn sẽ khuyến khích nông dân và các doanh nghiệp tư nhân đầu tư
vào nông nghiệp.
1.3.3. Chuyển đổi nông nghiêp ở các thành phố của Việt Nam
Các thành phố khác, tùy theo điều kiện tự nhiên và KT - XH của địa phương mà
đều có những mô hình CĐNN khác nhau. Trong đề án tái cơ cấu của Chính phủ cũng đề
cập đến quá trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, đa dạng hóa SXNN (trồng trọt, chăn
nuôi) phát huy lợi thế từng vùng miền để thực hiện chiến lược phát triển bền vững, ứng
phó biến đổi khí hậu, khai thác lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới. Qua đó, phát triển
các vùng chuyên canh theo hình thức trang trại, khu nông nghiệp công nghệ cao, kết nối
sản xuất với chế biến, bảo quản với tiêu thụ sản phẩm và chuỗi giá trị toàn cầu. Từ đó,
tạo ra các sản phẩm có khả năng cạnh tranh trên thị trường như: lúa gạo, cà phê, cao su, cá da trơn, tôm, hạt tiêu, hạt điều, các loại hải sản khác, các loại rau, quả nhiệt đới. Tiếp
tục hoàn thiện thể chế, chính sách cho phát triển nông nghiệp theo định hướng thị
trường. Hiện nay, nhiều tỉnh thành trong cả nước đã có những mô hình chuyển đổi hiệu
quả như Hải Phòng, Hà Nội, Cần Thơ, Đà Nẵng.
Thành phố Hải Phòng nằm ở ven biển, thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng. Vị trí địa lý của Hải Phòng có nhiều ưu thế cho việc xây dựng thành phố cảng hiện đại, trung tâm chính trị, kinh tế của vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ. CĐNN ở Hải Phòng tập trung vào những cây con chủ lực như lúa chất lượng cao; rau, củ, quả thực phẩm chất lượng; hoa - cây cảnh. Năm 2018, chăn nuôi lợn thịt có 361,7 nghìn con, gia cầm có 7,9 nghìn con; thuốc lào; khai thác thủy sản có 94,8 nghìn tấn gồm nhóm nhuyễn thể (mực), nhóm cá đáy; nuôi thủy sản như tôm nước lợ, cá rô phi; chế biến gồm tôm
53
đông lạnh, mực khô, nước mắm. Với tiềm năng đất đai đa dạng (17 loại đất khác
nhau), thuận lợi cho phát triển các loại cây trồng; khí hậu có nền nhiệt cao, lượng mưa
nhiều, độ ẩm lớn là điều kiện thuận lợi phát triển ngành nông nghiệp đa dạng. Năm
2018, tốc độ tăng trưởng GDP nông lâm thủy sản bình quân tăng 2,77%. Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2018 (giá so sánh 2010) đạt 14.897 tỷ đồng; giá trị gia tăng trên 1 đơn vị diện tích đất nông nghiệp đạt 160 triệu đồng/ha (giá so
sánh 2010); tỷ lệ lao động nông nghiệp chiếm khoảng 10 - 15% tổng số lao động của thành phố. Bình quân mỗi năm thành phố đào tạo nghề cho 35.000 lao động nông
thôn. Tỷ lệ lao động qua đào tạo khu vực nông thôn chiếm 70-80%. Theo quy hoạch
đã được UBND thành phố phê duyệt, đến năm 2030 sẽ giảm khoảng 10.000 ha [27].
Nông nghiệp ưu tiên sử dụng đất theo hướng chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất lúa (chuyển đổi giống lúa nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất). Mục tiêu của Thành phố
Hải Phòng là phát triển nông nghiệp theo hướng đô thị sinh thái, bảo vệ môi trường
gắn với du lịch cộng đồng và thích ứng với biến đổi khí hậu.
Thành phố Hà Nội có vị tri địa lý tiếp giáp với các tỉnh Vĩnh Phúc, Thái
Nguyên ở phía bắc; Hòa Bình và Hà Nam ở phía nam; Bắc Ninh, Bắc Giang, Hưng
Yên ở phía đông; Phú Thọ và Hòa Bình ở phía tây. Thủ đô Hà Nội có diện tích
3.324,92km², là trung tâm chính trị, kinh tế, khoa học, văn hóa, đầu mối giao thông
quan trọng của Việt Nam. Trong nông nghiệp, thành phố Hà Nội ưu tiên chuyển đổi
theo hướng nông nghiệp công nghệ cao; tập trung phát triển các vùng sản xuất quy mô
hàng hóa lớn, phát triển sản xuất theo chuỗi giá trị, an toàn thực phẩm, tạo các sản
phẩm chủ lực, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Thành phố đang chuyển đổi theo
hướng đẩy mạnh các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh như lúa chất lượng cao, hoa, cây
cảnh, rau an toàn kết hợp phát triển các mô hình du lịch sinh thái. Năm 2018, tổng
GTSX nông, lâm, thủy sản đạt 35.959 tỷ đồng (giá so sánh năm 2010). Các vùng sản
xuất lúa, ngô, rau an toàn, hoa, cây cảnh tập trung tại các huyện ngoại thành như:
Đông Anh, Ứng Hòa, Phú Xuyên, Mỹ Đức, Thanh Oai, Ba Vì, Sóc Sơn, Chương Mỹ.
Cây ăn quả phát triển theo hướng sản xuất ứng dụng công nghệ cao với bưởi, cam,
nhãn, chuối tại các vùng đồi gò, đất bãi và một số vùng chuyển đổi sản xuất từ đất lúa.
Thành phố đã hình thành các vùng chuyên canh trồng cây dược liệu ở huyện Sóc Sơn,
Ba Vì, Chương Mỹ tạo chuỗi liên kết sản xuất đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất
khẩu. Trong chăn nuôi, thành phố khuyến khích chăn nuôi hữu cơ, xa khu dân cư; xây
dựng các cơ sở giống chất lượng cao theo chuỗi giá trị, phát triển thương hiệu sản
phẩm; bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm, bảo vệ môi trường. Các loài vật nuôi chủ
54
yếu như bò thịt (136 nghìn con, 2018); bò sữa (14,1 nghìn con); chăn nuôi lợn (1,64
triệu con); chăn nuôi gia cầm (25,6 triệu con/năm) theo hướng VIETGAP, sinh học và
hữu cơ. Nuôi trồng thủy sản được phát triển theo hướng bền vững, bảo vệ nguồn lợi
thủy sản tự nhiên gắn các hoạt động dịch vụ du lịch [26]. Các HTX nông nghiệp được
khuyến khích phát triển theo mô hình sản xuất tổng hợp từ đầu vào đến đầu ra; phát
triển kinh tế trang trại theo chuỗi liên kết phát triển du lịch trải nghiệm gắn với tiêu thụ
sản phẩm làng nghề góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng đất. Công nghiệp chế biến
được ưu tiên phát triển, tạo điều kiện cho doanh nghiệp nông nghiệp xây dựng chuỗi
liên kết từ sản xuất, chế biến đến tiêu thụ sản phẩm. Thành phố khuyến khích các hình
tổ chức sản xuất (HTX, tổ đội sản xuất), ưu tiên phát triển làng nghề như: mây tre đan,
đồ gỗ gốm sứ, sơn mài, khảm trai. Hiện nay, Hà Nội đẩy mạnh phát triển nông nghiệp
đô thị đi đôi với chủ động phòng chống giảm nhẹ thiên tai, nâng cao hiệu quả quản lý
rủi ro thiên tai (quy hoạch đê điều, thủy lợi…).
Thành phố Đà Nẵng là trung tâm kinh tế, văn hoá, giáo dục, khoa học và công
nghệ lớn của vùng duyên hải Nam Trung Bộ; phía bắc giáp tỉnh Thừa Thiên-Huế; phía
tây và nam giáp tỉnh Quảng Nam, phía đông giáp biển Đông. Năm 2018, GTSX nông
nghiệp đạt 2.679 tỷ đồng. Thành phố ưu tiên phát triển NN theo hướng công nghệ cao;
tập trung vào vùng trồng lúa hữu cơ (diện tích từ 800 – 1.000 ha), chuyên canh rau an
toàn, vùng trồng hoa, cây cảnh, vùng NTTS. TP chuyển đổi vùng đất lúa kém hiệu quả
sang trồng các loại cây có giá trị cao như: dưa hấu, đậu xanh, ngô. TP cũng đẩy mạnh
cơ giới hóa và bảo quản sau thu hoạch. Thành phố đã đầu tư trung tâm ươm tạo giống,
SXNN theo tiêu chuẩn VietGAP, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm; quy hoạch, quản
lý vùng nuôi an toàn môi trường; phát triển chăn nuôi, tập trung công tác phòng chống dịch bệnh trên gia súc, gia cầm. Năm 2018, tổng số đàn gia súc, gia cầm là 18,2 nghìn
con bò; 59,2 nghìn con lợn; 1,6 nghìn con cừu và 0,3 triệu gia cầm. CĐNN của thành
phố còn tập trung vào khai thác xa bờ, chuyển đổi cơ cấu tàu thuyền, cơ cấu khai thác theo hướng phát triển bền vững với bảo vệ môi trường, trở thành trung tâm nghề cá lớn của miền Trung đi đôi với bảo vệ an ninh quốc phòng vùng biển, đảo. Thành phố ưu tiên phát triển sinh kế cho nông dân, đầu tư phát triển công nghiệp chế biến hiện đại, hạn chế xuất khẩu nông sản thô; hình thành mạng sản xuất và chuỗi cung ứng, kết nối sản xuất, chế biến và phân phối sản phẩm. Đà Nẵng đang CĐNN theo hướng ưu tiên những sản phẩm nông nghiệp hữu cơ, thu hút doanh nghiệp nông nghiệp đầu tư vào sản xuất, xây dựng nhãn hiệu để nâng cao tính cạnh tranh [25].
55
Thành phố Cần Thơ là đầu mối giao thông của vùng Tây nam bộ về đường bộ,
đường thủy, đường hàng không; có vị trí trung tâm của cả vùng với phía Nam và Tây
– Nam giáp tỉnh Hậu Giang, phía Bắc giáp tỉnh An Giang, phía Đông giáp tỉnh Đồng
Tháp và Vĩnh Long, phía Tây giáp tỉnh Kiên Giang. Thành phố là trung tâm kinh tế, đào tạo, khoa học của ĐBSCL. Năm 2018, diện tích trồng lúa của TP đạt 237,3 nghìn ha. Lúa là cây trồng chủ lực với tổng sản lượng đạt 1,4 triệu tấn. Sản xuất rau màu
với diện tích 10,9 nghìn ha; cây ăn quả là 17,2 nghìn ha; thủy sản là 8,5 nghìn ha sản lượng đạt 198 nghìn tấn, đàn lợn đạt 130,1 nghìn con, gia cầm 1,8 triệu con [24]. Khi
diện tích đất SXNN bị thu hẹp và ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đòi hỏi ngành nông
nghiệp phải CĐNN theo hướng chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi để nâng cao
GTSX trên cùng diện tích; ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản; phát huy vai trò của các HTX và kinh tế tập thể. CĐNN ở Cần Thơ tập
trung vào các sản phẩm chủ đạo là lúa; rau an toàn ở vùng ven đô; các loại cây ngắn
ngày; các loại cây hoa màu và cây ăn quả trên đất phù sa ven sông Hậu. Thành phố
định hướng cung cấp giống hoa cảnh (nhập nội và lai tạo mới, chủ yếu là hoa lan),
giống cây ăn quả, giống lúa, giống rau cho toàn vùng CĐNN theo hướng nông
nghiệp đô thị. Chăn nuôi áp dụng công nghệ cao với chuyển đổi phương thức từ hộ
sang nuôi công nghiệp - bán công nghiệp và trang trại. Từ đó xử lý tốt chất thải, hạn
chế ô nhiễm môi trường, xây dựng các khu chăn nuôi xa dân cư. Chuyển đổi mô hình
nuôi trồng thủy sản nước ngọt như luân canh với lúa; nuôi trong ao; nuôi trên bãi bồi
ven sông và kênh lớn; nuôi bè trên sông rạch (xuất khẩu cá da trơn). Chuyển đổi mô
hình chế biến tại chỗ như chế biến lúa gạo, chế biến thức ăn gia súc và NTTS, chế
biến sản phẩm chăn nuôi, chế biến rau - quả, chế biến thủy sản đa dạng hoá sản phẩm, đáp ứng nhu cầu tiêu thụ, hình thành chuỗi giá trị nông nghiệp. Thành phố đã
đẩy mạnh liên kết nông dân với doanh nghiệp giúp ổn định được đầu ra sản phẩm;
ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, giảm giá thành, nâng cao chất lượng, sức
cạnh tranh của nông sản bước đầu hình thành chuỗi giá trị nông sản ở vùng trọng điểm lương thực của cả nước. 1.3.4. Bài học kinh nghiệm với chuyển đổi nông nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh
Từ thực tiễn CĐNN ở một số nước trên thế giới, ở Việt Nam và các thành phố
trực thuộc Trung ương ở Việt nam, có thể kết luận một số xu hướng CĐNN đang diễn
- Xu hướng về chuyển đổi đất đai, sự biến động cơ cấu sử dụng đất.
ra hiện nay:
56
- Xu hướng giảm diện tích cây lương thực có năng suất thấp (chủ yếu là cây lúa),
tăng nhanh nhóm rau, đậu phục vụ cho nhu cầu hàng ngày của người dân thành phố.
- Xu hướng đa dạng hóa các loại cây trồng để tăng hiệu quả sử dụng đất như các
loại hoa, cây cảnh, cây ăn quả đảm bảo nguồn cung cho thị trường và xuất khẩu. Xu
hướng tập trung vào những cây, con chủ lực để thu hút vốn đầu tư từ các doanh nghiệp
vào nông nghiệp.
- Xu hướng hình thành và phát triển của chuỗi giá trị nông sản nông nghiệp; - Xu hướng hình thành các vùng chuyên canh theo hướng phục vụ xuất khẩu; khu
nông nghiệp ứng dụng sản xuất công nghệ cao; gắn liền giữa sản xuất, chế biến và nơi
tiêu thụ.
Bên cạnh những xu hướng trên, vẫn còn một số vấn đề thành phố Hồ Chí Minh
cần quan tâm đến trong quá trình CĐNN là:
- Mỗi địa phương có những ưu thế riêng về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, KT -
XH. Vì vậy, cần tập trung nguồn nhân lực vào những loại cây, con chủ lực để đáp ứng
yêu cầu của thị trường, đồng thời giảm thiểu những rủi ro khi đầu tư dàn trải không
hiệu quả khi thị trường có biến động.
- Áp dụng KH - CN, đặc biệt là công nghệ cao trong trồng trọt, chăn nuôi tạo ưu
thế cạnh tranh với chất lượng tốt đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.
- Vấn đề sử dụng quá nhiều vật tư nông nghiệp như phân bón thuốc trừ sâu cũng
dẫn đến tình trạng lãng phí; gây đến tình trạng thoái hóa đất, ô nhiễm nguồn nước.
- Xây dựng chuỗi giá trị nông sản hiệu quả từ sản xuất đầu vào, khâu trung gian
đến khâu tiêu thụ sản phẩm; đảm bảo tính liên kết chặt chẽ giữa các khâu.
Tiểu kết chương 1
Trong chương 1, tác giả tổng quan những lí luận, cơ sở thực tiễn về chuyển đổi nông nghiệp, các hướng chuyển đổi nông nghiệp tại các nước trên thế giới và các thành phố tại Việt Nam. Từ kinh nghiệm của các nước, quan điểm và hướng phát triển nông nghiệp của Việt Nam, tác giả đã vận dụng vào nghiên cứu chuyển đổi nông nghiệp tại TP.HCM.
Chuyển đổi nông nghiệp luôn gắn liền với quá trình quá trình chuyển đổi kinh tế của một quốc gia. Những thay đổi về CĐNN ở khu vực đô thị chịu tác động của quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa gây ra sự biến động về dân số, việc làm, thu nhập, nhu cầu thực phẩm. Các nghiên cứu của thế giới và Việt Nam xem CĐNN là một quá
57
trình bao gồm sự chuyển đổi đất đai, sự chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, sự phát
triển của chuỗi giá trị nông sản trong nông nghiệp; sự chuyển đổi mô hình SXNN và
chuyển đổi cơ cấu lãnh thổ nông nghiệp.
Chuyển đổi nông nghiệp chịu sự tác động của các nhân tố như vị trí địa lí; điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên và nân tố KT – XH; gắn liền với một số hình thức tổ chức lãnh thổ như hộ nông dân, HTX, trang trại, doanh nghiệp nông nghiệp, vùng
chuyên canh và tiểu vùng nông nghiệp.
Quá trình CĐNN bị ảnh hưởng bởi các nhân tố như thị trường, nhu cầu tiêu thụ
sản phẩm nông nghiệp, tăng trưởng nông nghiệp (chủ yếu dựa vào mở rộng sản xuất,
tăng cường sử dụng tài nguyên, sử dụng nhiều vật tư nông nghiệp). Sự biến động về
đất đai, sự chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất chủ yếu do tác động của quá trình đô thị hóa,
công nghiệp hóa (biến đất nông nghiệp thành đất phi nông nghiệp đe dọa tình hình an
ninh lương thực thế giới). Tăng trưởng nông nghiệp lại đi kèm với những tác động xấu
về môi trường, suy thoái tài nguyên đất, ô nhiễm nguồn nước.
CĐNN ở thế giới và Việt Nam hướng đến việc áp dụng KH - CN, đặc biệt là
công nghệ cao trong trồng trọt, chăn nuôi tạo ưu thế cạnh tranh đảm bảo vệ sinh an
toàn thực phẩm. Mỗi thành phố với những ưu thế riêng cần tập trung nguồn lực vào
những loại cây, con chủ lực để đáp ứng yêu cầu của thị trường, giảm thiểu những rủi
ro, xây dựng chuỗi giá trị nông sản hiệu quả từ sản xuất đầu vào đến đầu ra.
58
CHƯƠNG 2. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHUYỂN ĐỔI NÔNG NGHIỆP TP.HCM
2.1.Vị trí địa lý, phạm vi lãnh thổ
Thành phố Hồ Chí Minh là đô thị đặc biệt trực thuộc trung ương, là “bản lề” nối vùng Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ, tổng diện tích 2.095,5 km². Nằm trong hệ toạ độ địa lý khoảng 10010’B – 10038’B và 106022’Đ – 106054 Đ [28]. Giáp Bình Dương ở phía bắc, giáp Tây Ninh ở phía tây bắc, Đông và Đông Bắc giáp tỉnh Đồng Nai, Đông
Nam giáp tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu, Tây và Tây Nam giáp tỉnh Long An và Tiền Giang.
Thành phố nằm sát với vùng trọng điểm lương thực, thực phẩm lớn nhất cả nước là
Đồng bằng sông Cửu Long, Các tỉnh ở Đông Nam Bộ cũng có nhiều điều kiện thuận
lợi cho sản xuất nông nghiệp và đều là những tỉnh sản xuất nhiều nông sản cung cấp
cho TP.HCM.
Sự thuận lợi về giao thông vận tải còn làm dân cư Thành phố dễ tiếp cận hơn với
các nông sản nhập và sản xuất nông nghiệp của thành phố phải thích ứng tốt hơn với
điều kiện cạnh tranh. Vì vậy, nền nông nghiệp TP.HCM đặt ra yêu cầu phải chuyển
đổi theo hướng nông nghiệp công nghệ cao gắn liền với sự thay đổi về chất lượng,
dịch vụ, khả năng cạnh tranh cao với các tỉnh lân cận, cũng như tính bền vững với
môi trường.
Thứ nhất là lợi thế về vị trí “địa kinh tế”: TP.HCM có vị trí địa lý đặc biệt của
vùng Nam bộ, là “bản lề” nối vùng Đông Nam bộ và Tây Nam bộ. Lợi thế này còn
được tăng cường hơn nữa khi thành phố là đầu mối giao thông vận tải đường bộ,
đường thủy và đường hàng không nối hai vùng trọng điểm kinh tế lớn của cả nước
miền Đông Nam bộ - và Đồng bằng sông Cửu Long, là cửa ngõ giao thông quốc tế bao gồm tuyến đường bộ Xuyên Á, sân bay quốc tế (Tân Sơn Nhất) và cảng biển Sài Gòn,
Soài Rạp, Cát Lái thuận lợi cho TP.HCM mở cửa hội nhập, giao lưu thương mại với tất cả các vùng miền và với các nước trên thế giới [28].
Thứ hai là về vị trí địa tự nhiên: vị trí địa lý qui định TP.HCM nằm trong vùng gió mùa cận xích đạo với nền nhiệt, ẩm cao, trong năm có hai mùa mưa - khô rõ ràng, chi phối môi trường cảnh quan sâu sắc, thiên nhiên phong phú, là cơ sở để phát triển ngành nông nghiệp đa dạng cơ cấu cây trồng, tăng năng suất, CĐNN thuận lợi. Tuy
nhiên, vị trí địa lý TP.HCM còn một vài điều bất lợi: phải ứng phó với mực nước biển dâng dẫn đến nguy cơ ngập lụt, nhiễm mặn tăng, kết hợp với triều cường tạo ra các đỉnh lũ cao hơn. Vị trí địa lý của Thành phố cũng gây ra nhiều bất lợi về tự nhiên như
59
ngập úng do thủy triều, mưa nhiều, tần suất ngập lụt gia tăng gây khó khăn đối với
ngành nông nghiệp, đặc biệt là sự phát triển nông nghiệp công nghệ cao trong quá
trình CĐNN.
2.2. Điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên
2.2.1. Địa hình
Thành phố Hồ Chí Minh nằm ở đồng bằng hạ lưu sông Đồng Nai - Sài Gòn, giữa
khu vực chuyển tiếp từ cực Nam Trung Bộ sang đồng bằng sông Cửu Long. Đặc điểm
địa hình là đồng bằng thấp, nhiều chỗ còn thấp trũng, bề mặt tương đối bằng phẳng và
bị chia cắt bởi mạng lưới sông ngòi, kênh rạch dày đặc. Địa hình có xu hướng thấp dần
từ tây bắc xuống đông nam, nhưng độ dốc nhỏ. Địa hình của thành phố có nhiều kiểu
với nguồn gốc hình thành khác nhau. Địa hình đồi bóc mòn phân bố nhiều nhất ở khu
vực phường Long Bình quận Thủ Đức. Địa hình đồng bằng thềm với 3 bậc khác nhau
ở các độ cao trung bình từ 1m đến 25m ở ở Bình Chánh, Hóc Môn, Củ Chi, Thủ Đức.
Thềm bậc 1 phân bố ở Bình Chánh, Đông Hóc Môn, Nam Củ Chi, Thủ Đức và toàn bộ
huyện Nhà Bè với độ cao trung bình 1 m được cấu tạo bởi trầm tích hỗn hợp sông và
biển. Thềm bậc 2 phân bố chủ yếu ở phía tây nội thành và chạy dọc theo thung lũng
sông thuộc huyện Củ Chi, độ cao trung bình tăng dần từ nội thành (3 - 3,5m) ra đến Củ
Chi (6 - 8m). Vật liệu chính tạo nên dạng địa hình này là trầm tích sét bột có nguồn gốc hỗn hợp sông - biển. Thềm bậc 3 có độ cao khác nhau tùy từng khu vực, từ 5 -10m
ở Hóc Môn cho đến 10 - 25m ở Củ Chi, một phần Thủ Đức và được tạo nên bởi trầm
tích cuộn sỏi, cát sét, cát bột. Với các dạng địa hình này thuận lợi cho việc xây dựng
vùng nông nghiệp đô thị chuyên canh hoa, cây cảnh, rau, chăn nuôi bò, hình thành các
vùng trồng lan cắt cành, vùng ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao ở huyện Củ Chi,
Hóc Môn [28]. Dạng địa hình đồng bằng đầm lầy kéo dài từ xã Thái Mỹ (Củ Chi) đến
nông trường Lê Minh Xuân (Bình Chánh); địa hình bãi bồi đầm lầy sú vẹt với độ cao
0,5 - 1,0m tập trung ở huyện Cần Giờ và địa hình giồng cát ven biển. Với dạng địa hình này, thành phố xác định phải chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi có giá trị thay cho cây lúa năng suất thấp. Ở giai đoạn đầu, việc CĐNN được thực hiện với 2 cây (rau và dứa), 2 con (bò sữa và tôm sú). Sau đó, chuyển sang cá cảnh, cá sấu và hoa nhiệt đới (như các loại lan Dendrobium, Mokara...).
60
2.2.2. Đất
2.2.2.1 Các nhóm đất
Theo quy hoạch đất của TP.HCM đến năm 2020 đã xác định với diện tích tự nhiên
209,5 nghìn ha, đất đai của Thành phố được chia thành 8 nhóm đất với 20 phân loại đất [28]. Cụ thể là:
Nhóm đất phèn là nhóm đất chính chiếm 49,28% diện tích tự nhiên với 9 loại đất
chủ yếu gồm: đất phèn hoạt động nông, đất phèn hoạt động sâu, đất phèn tiềm tàng sâu
mặn trung bình, đất phèn tiềm tàng nông, đất phèn tiềm tàng nông mặn trung bình, đất
phèn tiềm tàng nông dưới rừng ngập mặn, đất phèn tiềm tàng nông mặn nhiều, đất
phèn tiềm tàng sâu, đất phèn tiềm tàng sâu mặn trung bình. Trong đó, chiếm diện tích
lớn nhất là đất phèn tiềm tàng nông dưới rừng ngập mặn 22,2%, phân bố chủ yếu ở
huyện Cần Giờ là đất hình thành dưới rừng ngập mặn có độ mặn cao, hàm lượng dinh
dưỡng rất cao song lại chứa nhiều độc tố đến mức gây độc cho hầu hết các loại cây
trồng nông nghiệp nên chỉ thích hợp làm vuông nuôi tôm (nước mặn) hoặc trồng rừng
ngập mặn. Đất phèn tiềm tàng sâu chiếm 14,85% phân bố nhiều quận huyện trong
thành phố như Bình Chánh, Củ Chi, Hóc Môn, Nhà Bè, Quận 12, Quận 2… có dinh
dưỡng khá cao, hạn chế là tầng glây nông, sắt và nhôm hòa tan cao ảnh hưởng xấu đến
cây trồng khi mực nước hạ thấp thích hợp cho trồng lúa 2 vụ/năm, có thể kết hợp nuôi
trồng thủy sản nước ngọt…
Nhóm đất xám bạc màu chiếm 25,82% diện tích tự nhiên với 2 loại đất chủ yếu là đất xám trên phù sa cổ chiếm 15,82% và đất xám glây chiếm 10% tập trung chủ yếu
ở Củ Chi, Hóc Môn, Bình Chánh, Quận 12. Đất xám trên phù sa cổ có cơ giới nhẹ, dễ
cải tạo, dễ canh tác thích hợp với nhiều loại cây trồng nhiệt đới như cao su, điều, xoài,
sầu riêng, đậu phộng, bắp… đều sinh trưởng tốt. Nhóm đất này còn thích hợp cho phát
triển trang trại với mô hình 2 cây (rau và cây cảnh), 2 con (bò sữa và cá cảnh) ở các
huyện như Củ Chi, Hóc Môn, Bình Chánh, Quận 12. Còn đất xám glây thường có mùn và đạm cao hơn, chua vừa, độ phì khá thích hợp với trồng lúa nước và lúa - màu.
Nhóm đất phù sa: chiếm tỉ trọng 12,88% với 3 loại đất chủ yếu là đất phù sa, đất phù sa có tầng loang lổ và đất phù sa glây. Trong đó chiếm diện tích lớn nhất là đất phù sa có tầng loang lổ 9,37% với đặc tính cơ giới nặng, các yếu tố dinh dưỡng khá cao, phân bố địa hình bằng phẳng như các huyện Bình Chánh, Nhà Bè, Quận 7, Quận
9 thích hợp trồng lúa, lúa - màu hoặc cây ăn quả. Đất phù sa glây tính chất chua phân
bố ven sông Sài Gòn thích hợp cho các cây trồng cạn. Ít nhất là đất phù sa chỉ có ở
Quận 9 thích hợp với trồng lúa.
61
Nhóm đất đỏ vàng chiếm tỉ trọng nhỏ, chủ yếu là đất nâu vàng trên phù sa cổ
(2,6%), phân bố ở khu đông thành phố bao gồm Q9 và Quận Thủ Đức thích hợp cho
phát triển cây ăn quả, hoa màu lương thực. Tuy nhiên, đây là vùng có quá trình đô thị
hóa nhanh, nên nông nghiệp chuyển đổi từ lúa, cây ăn quả sang cây cảnh như hoa mai, hoa lan cắt cành…
Nhóm đất mặn chỉ có ở huyện Nhà Bè chiếm 0,74% diện tích đất tự nhiên, có độ
mặn trung bình, độ chua thấp, khó khăn cho SXNN do cần nguồn nước ngọt để rửa mặn. Nhóm đất cát chỉ có ở huyện Cần Giờ gồm đất cát biển và đất cát có mạch mặn
chiếm tỉ trọng 0,37% diện tích chủ yếu là đất cát có mạch mặn chiếm 0,27%, đất cát
không có khả năng phát triển nông nghiệp chỉ thích hợp trồng rừng ngập mặn, kết hợp
phát triển du lịch sinh thái rừng - biển tại Cần Giờ. 2.2.2.2. Chuyển đổi đất đai, biến động cơ cấu sử dụng đất
Trong quá trình CĐNN, biến động đất cơ cấu sử dụng đất là tác nhân quan trọng
ảnh hưởng đến chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, đến quy hoạch phát triển kinh tế
- xã hội của thành phố. Hiện nay, đất nông nghiệp chiếm 54,7% tổng diện tích tự nhiên
toàn TP.HCM. Đất phi nông nghiệp chiếm 44,8% tổng diện tích tự nhiên, diện tích đất
19 quận nội thành chiếm 23,5%; 5 huyện chiếm 76,5% diện tích do đất nông nghiệp
chiếm phần lớn.
Đất nông nghiệp của TP.HCM có sự thay đổi đáng kể theo hướng giảm đi đối với
đất sản xuất nông nghiệp, tăng lên đối với đất lâm nghiệp và mặt nước nuôi trồng thủy sản. Do đô thị hóa, công nghiệp hóa nên một phần đất nông nghiệp (trong đó có đất
trồng lúa) được chuyển sang đất phi nông nghiệp; phần đất còn lại do hiệu quả trồng
lúa thấp, không mang lại thu nhập cao nên người dân chuyển đổi hình thức sử dụng
sang loại cây, con khác như trồng rau, hoa, cây cảnh, chăn nuôi bò sữa, nuôi tôm.
Trong giai đoạn 2005 - 2017, đất SXNN của TP.HCM đã có nhiều sự biến động
với xu hướng chung là giảm diện tích đất trồng lúa, đất trồng cây lâu năm sang đất trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản. Sự biến động này gắn liền với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, phát triển nền nông nghiệp đô thị, nông nghiệp theo hướng công nghệ cao nhưng vẫn đảm bảo an toàn, thân thiện với môi trường. Với quỹ đất nông nghiệp lớn, TP.HCM có nhiều tiềm năng để CĐNN hiệu quả trong việc thu hút đầu tư vào nông nghiệp. Việc sản xuất nông nghiệp tại TP.HCM
theo hướng sản xuất hàng hóa sẽ thúc đẩy phát triển hình thức trang trại, hợp tác xã và
doanh nghiệp nông nghiệp. Quá trình tập trung ruộng đất là một trong những nhân tố
hình thành nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn. Trên cơ sở ứng dụng khoa học và
62
công nghệ, cơ giới hóa vào canh tác sẽ khắc phục tình trạng manh mún ruộng đất,
tránh lãng phí đất làm giảm chi phí trong việc đầu tư vào nông nghiệp tại TP.HCM.
2.2.3. Khí hậu
Thành phố Hồ Chí Minh nằm trong vùng khí hậu cận xích đạo gió mùa. Cũng như
các tỉnh ở Nam bộ, đặc điểm chung của khí hậu TP.HCM là nhiệt độ cao đều trong năm
và có hai mùa mưa - khô rõ ràng làm tác động chi phối môi trường cảnh quan sâu sắc.
Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau.
2.2.3.1. Chế độ nhiệt, số giờ nắng
Theo Trung tâm Khí tượng Thủy văn Nam Bộ, lượng bức xạ tại TP.HCM dồi dào, trung bình khoảng 140 Kcal/cm2/năm. Số giờ nắng trung bình/tháng 198,5 giờ nắng. Nhiệt độ không khí trung bình từ 2005 đến nay là 28,40C. Tháng 4 có nhiệt độ trung bình cao nhất là 29,90C, tháng 1 có nhiệt độ trung bình thấp nhất khoảng 27,10C. Hàng năm có tới trên 330 ngày có nhiệt độ trung bình 25-280C. Ðiều kiện nhiệt độ và ánh sáng đảm bảo đủ cho cây sinh trưởng và phát triển quanh năm, là cơ sở để người
dân thực hiện các biện pháp luân canh, xen canh, tăng vụ. Nền nhiệt độ cao trung bình trên 250C thuận lợi cho sự phát triển các chủng loại cây trồng nhiệt đới và vật nuôi đạt năng suất sinh học cao. Nền nhiệt này thích hợp đối với các loại cây trồng hàng năm
như rau, hoa, cây cảnh, cây lâu năm như cao su, điều và cây ăn quả quanh năm.
Bảng 2. 1 Lượng mưa, nhiệt độ, số giờ nắng trung bình của TPHCM năm 2018
Tháng/
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12 Cả năm
Chỉ số
Lượng
mưa
22,1
26,5
36,2 123,7
193,4
184,7
245,7
308,5
322,4
346,3
239,8
75,7
2078,7
(mm)
Nhiệt
27,1
27,7
28,9
29,9
29,8
29,0
28,3
28,4
28,2
27,9
28,0
27,3
28,4
độ (°C)
Số giờ
nắng
165,3 194,3 242,0 213,3
189,6
166,4
168,3
174,6
146,1
145,6
154,2
144,2 2103,9
(giờ)
Nguồn: Trung tâm Khí tượng Thủy văn Nam Bộ (2005-201́8)
2.2.3.2. Chế độ mưa
Lượng mưa trung bình năm ở TP.HCM khá lớn, lượng mưa phổ biến từ 1800 - 2000 mm/năm. Số ngày mưa trung bình/năm là 159 ngày [28]. Khoảng 90% lượng mưa hàng năm tập trung vào các tháng mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11; trong đó tháng 9 thường có lượng mưa cao nhất (322,4 mm). Các tháng 1, 2, 3 mưa rất ít, lượng
63
mưa không đáng kể. Chế độ mưa kết hợp với chế độ nhiệt có ảnh hưởng sâu sắc đến
CĐNN ở TPHCM thể hiện rõ ở chuyển đổi cơ cấu cây trồng và mùa vụ.
Vào mùa mưa, lượng mưa lớn, nền nhiệt cao nên thời gian sinh trưởng và phát
triển của cây trồng ngắn lại; mùa này thường xảy ra dông, lốc gây ảnh hưởng đến cây trồng đặc biệt là rau ăn lá, hoa, cây cảnh nhưng có thể khắc phục được bằng cách chuyển đổi sang trồng trong nhà kính, nhà lưới. Vào mùa khô, lượng mưa ít, nền nhiệt
độ cao, cây trồng có điều kiện sinh trưởng tốt hơn nhưng nguy cơ thiếu nước cao. Trong những năm gần đây do tình hình biến đổi khí hậu nên hoạt động nông nghiệp của Thành
phố cũng có những ảnh hưởng nhất định đặc biệt là việc sản xuất rau, hoa, cây cảnh.
cao. Khô hạn thường xảy ra trong mùa khô, đặc biệt đối với khu vực có điều kiện tưới
tiêu không thuận lợi như huyện Cần Giờ, Nhà Bè lại còn bị ảnh hưởng bởi xâm nhập mặn thì việc CĐNN là cần thiết để khắc phục tình trạng này vào mùa khô.
2.2.3.3. Chế độ ẩm, chế độ gió
Độ ẩm tương đối của không khí bình quân/năm 79,5%; bình quân mùa mưa
80% và trị số cao tuyệt đối tới 100%; bình quân mùa khô 74,5% và mức thấp tuyệt
đối xuống tới 20%. Về gió, TP.HCM chịu ảnh hưởng bởi hai hướng gió chính và chủ
yếu là gió mùa Tây - Tây Nam và Bắc - Đông Bắc. Gió Tây -Tây Nam từ Ấn Độ
Dương thổi vào trong mùa mưa, khoảng từ tháng 6 đến tháng 10, tốc độ trung bình
3,6m/s và gió thổi mạnh nhất vào tháng 8, tốc độ trung bình 4,5 m/s. Gió Bắc- Đông
Bắc từ biển Đông thổi vào trong mùa khô, khoảng từ tháng 11 đến tháng 2, tốc độ
trung bình 2,4 m/s. Ngoài ra có gió tín phong, hướng Nam - Đông Nam, khoảng từ
tháng 3 đến tháng 5 tốc độ trung bình 3,7 m/s. Về cơ bản TP.HCM thuộc vùng không
có gió bão. Điều này thuận lợi cho cây trồng vật nuôi có điều kiện sinh trưởng, phát triển nhanh, cơ cấu cây trồng, vật nuôi phong phú.
2.2.4. Nguồn nước
2.2.4.1. Nước mặt
Hệ thống sông rạch chằng chịt với tổng chiều dài 7.955 km. Tổng diện tích mặt nước ước chiếm 16% tổng diện tích thành phố. Mật độ dòng chảy trung bình 3,80 km/km2. Như vậy, phần diện tích thấp, trũng, có độ cao dưới 2 m và mặt nước chiếm đến 61% diện tích tự nhiên, lại nằm ở vùng cửa sông, nguy cơ ngập, úng rất lớn. Vì thế ở những chân ruộng thấp đất bị nhiễm mặn không phù hợp với canh tác nông nghiệp, thành phố có định hướng chuyển đất trồng lúa một vụ sang nuôi tôm nước lợ (tôm sú, tôm thẻ chân trắng) tại huyện Cần Giờ.
64
Về nguồn nước mặt, TPHCM nằm ở vùng hạ lưu hệ thống sông Ðồng Nai - Sài
Gòn, có mạng lưới sông ngòi kênh rạch rất phát triển. Sông Ðồng Nai hàng năm cung cấp 15 tỷ m3 nước, là nguồn nước ngọt chính của TPHCM. Sông Sài Gòn với chiều dài 200 km, bắt nguồn từ vùng Hớn Quản, chảy qua thành phố Thủ Dầu Một (Bình Dương), chảy dọc trên địa phận TP.HCM dài 80 km. Lưu lượng trung bình vào khoảng 54 m3/s với rất nhiều các chi lưu. Sông Sài Gòn có bề rộng tại thành phố thay đổi từ 225m đến 370m và độ sâu tới 20m. sông Sài Gòn nối thông với sông Đồng Nai ở phần nội thành mở rộng, bởi hệ thống kênh Rạch Chiếc. Sông Nhà Bè hình thành từ
chỗ hợp lưu của sông Sài Gòn và sông Ðồng Nai, cách trung tâm thành phố khoảng
5km về phía Ðông Nam. Sông Sài Gòn chảy ra biển Ðông bằng hai ngả chính: ngả
sông Lòng Tàu đổ ra vịnh Gành Rái, dài 56km, bề rộng trung bình 0,5km, lòng sông sâu, là đường sông chính cho tàu bè ra vào bến cảng Sài Gòn. Ngả còn lại là sông Soài
Rạp dài 59km, bề rộng trung bình 2km, lòng sông cạn, tốc độ dòng chảy chậm.
Ngoài các sông chính kể trên ra, TP.HCM còn có mạng lưới kênh rạch chằng chịt
đã giúp cho việc tưới tiêu nông nghiệp, là nhân tố quan trọng trong hoạt động tưới tiêu
cho nông nghiệp, đặc biệt đối với nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp đô thị rất cần
nguồn nước sạch cho các loại rau an toàn và hoa, cây cảnh. Tiêu biểu có thể kể đến ở hệ
thống sông Sài Gòn gồm có các rạch Láng The, Bàu Nông, rạch Tra, Bến Cát, An Hạ,
Tham Lương, Cầu Bông, Nhiêu Lộc-Thị Nghè, Bến Nghé, Lò Gốm, Kênh Tẻ, Tàu Hũ,
Kênh Ðôi; cùng với hệ thống kênh cấp 3, 4 của kênh Ðông (Củ Chi) và các kênh đào An
Hạ, kênh Xáng, Bình Chánh. Phía nam Thành phố thuộc địa bàn các huyện Nhà Bè, Cần
Giờ mật độ kênh rạch dày đặc cùng với hệ thống kênh cấp 3 - 4 của kênh Ðông - Củ Chi
và các kênh đào An Hạ, kênh Xáng-Bình Chánh là nơi tiêu thoát nước cho thành phố vào mùa mưa và cung cấp nước tưới vào mùa khô.
2.2.4.2. Nước ngầm
Nguồn nước ngầm ở TP.HCM được đánh giá rất dồi dào, đại bộ phận khu vực nội
thành cũ có nguồn nước ngầm rất đáng kể, nhưng chất lượng nước không tốt lắm. Tuy nhiên, trong khu vực này, nước ngầm vẫn thường được khai thác ở ba tầng chủ yếu: 0 - 20m, 60 - 90m và 170 - 200m. Tại các Quận 12, huyện Hóc môn và Củ Chi có trữ lượng nước ngầm rất dồi dào, chất lượng nước rất tốt, thường được khai thác ở tầng 60 - 90m. Nước ngầm được sử dụng nhiều vào mùa khô (khi trên các sông, suối cạn khô do vào mùa kiệt). Ở các huyện ngoại thành, nước ngầm quan trọng để tưới tiêu, trồng trọt và chăn nuôi theo hướng nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp công nghệ cao (hệ thống tưới nhỏ giọt). Hiện nay, quá trình đô thị hóa đã làm nguồn nước trên mặt bị ô nhiễm,
65
nước dưới đất bị suy giảm cả về trữ lượng. Việc khai thác nước ngầm còn thiếu quy
hoạch và tùy tiện tại các quận, huyện vùng ven (nơi chưa có hệ thống nước máy) sử
dụng cho sinh hoạt và nông nghiệp khiến cho mực nước ngầm hạ thấp đặc biệt vào mùa
khô. Điều này làm ảnh hưởng đến hoạt động nông nghiệp của Thành phố, nhiều nơi có nguy cơ thiếu nước vào mùa khô. Ngoài ra, đất nền còn dễ bị sụt, lún do mạch nước ngầm bị phá vỡ.
2.2.4.3. Thủy triều Hầu hết các sông, kênh rạch của TP.HCM đều chịu ảnh hưởng bởi dao động thủy
triều (bán nhật triều) của biển Đông. Mỗi ngày, thủy triều lên xuống hai lần nên xâm
nhập sâu vào các kênh rạch, gây nên tác động đối với SXNN và làm hạn chế việc tiêu
thoát nước ở khu vực nội thành. Thủy triều đã ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động tưới tiêu, ảnh hưởng đến sự trao đổi dòng chảy giữa hai sông Sài Gòn và sông Vàm Cỏ
Đông. Những nơi có biên độ triều lớn, khả năng tiêu thoát cao tập trung dọc sông Sài
Gòn. Với khu vực phía nam huyện Bình Chánh và huyện Nhà Bè, chịu tác động chủ yếu
của thủy triều, người dân ở đây chủ yếu tưới, tiêu nhờ năng lượng thủy triều, nguồn
nước mưa và nước ngầm dưới đất. Điều này, có ý nghĩa rất lớn đến hoạt động CĐNN
của Thành phố.
2.2.5. Sinh vật
Thành phố Hồ Chí Minh có ba hệ sinh thái rừng tiêu biểu gồm rừng nhiệt đới ẩm,
rừng úng phèn và rừng ngập mặn. Các thảm thực vật rừng nguyên sinh hiện tại hầu như
không còn. Tiêu biểu nhất trong 3 hệ sinh thái là hệ sinh thái rừng ngập mặn. Rừng ngập
mặn tập trung ở huyện Cần Giờ (phía nam Thành phố) vốn là rừng nguyên sinh, xuất hiện đã lâu năm theo lịch sử của quá trình hình thành bãi bồi cửa sông ven biển. Ngoài
ra, ở phía bắc huyện Cần Giờ thuộc vùng nước lợ, rải rác người dân trồng dừa nước,
tràm, bạch đàn và cây điều. Rừng ngập mặn ở TPHCM là "lá phổi" điều hòa khí hậu,
điều tiết nước mặt và ổn định dòng chảy ngầm, cân bằng sinh thái trong điều kiện khí
hậu thay đổi khắc nghiệt, phục vụ phát triển du lịch. Hệ sinh thái biển vùng ven biển Cần Giờ, xã đảo Thạnh An là nơi có thể nuôi trồng thủy sản. TPHCM cũng có các hệ cây trồng vật nuôi rất phong phú, đặc biệt khi thành phổ trở thành trung tâm nghiên cứu giống cây trồng, vật nuôi cho cả khu vực phía nam. 2.3. Nhân tố kinh tế - xã hội
2.3.1. Dân cư và nguồn lao động
2.3.1.1. Dân cư
Theo Tổng cục Thống kê, năm 2018 TPHCM có số dân đông nhất cả nước với
66
8,6 triệu dân (80% dân số thành thị, còn lại ở nông thôn) và có mật độ dân số cao nhất cả nước với trên 3900 người/km2[28]. Tốc độ tăng dân số bình quân của Thành phố là 2,15% năm, mỗi năm thành phố tăng khoảng 170.000 người, gần bằng dân số của một
quận quy mô nhỏ. Phân bố dân cư ở TPHCM không đồng đều, ngay cả các quận trung tâm. Trong khi các quận 3, 4, 5 hay 10, 11 có mật độ lên tới trên 40.000 người/km² thì các quận 2, 9, 12 chỉ khoảng 2.000 tới 6.000 người/km². Các huyện thuộc khu vực
nông thôn có diện tích lớn nhưng dân số ít như Cần Giờ chiếm đến 33,6% diện tích thành phố nhưng dân số chỉ chiếm 0,92% và mật độ dân số có chỉ 106 người/km². Với
quy mô dân số lớn, sức mua lớn, lối sống người dân thay đổi, nhu cầu về sản phẩm
nông nghiệp sạch, an toàn, tươi sống, đặc biệt vào các dịp lễ, tết tăng cao.
Tuy có quy mô dân số lớn nhưng TP.HCM đang bước vào giai đoạn già hóa dân số, điều này gây khó khăn cho việc kéo dài giai đoạn “dân số vàng”, tạo ra nhiều thách
thức cho nguồn lao động trong tương lai để tiến hành chuyển đổi cơ cấu kinh tế nói
chung và cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói riêng. TP.HCM có đến 44 dân tộc thiểu số:
người Hoa (428,8 nghìn người, chiếm gần một nửa số người Hoa trong cả nước); người
Chăm (5,92 nghìn người); người Khơ-me (4,76 nghìn người); người Tày (1,6 nghìn
người)... [28], trong đó có: 89,9% là người Việt; 9,8% là người Hoa; 0,1% là người
Chăm; 0,07% là người Khmer; 0,1% là các tộc người khác (gồm người Tày: 0,02%,
người Mường: 0,01%)… Thành phố cũng là nơi có sự đa dạng về văn hóa, vì có nhiều
dân tộc với các tập quán sản xuất khác nhau, nhưng chủ yếu là trong lĩnh vực dịch vụ và
công nghiệp (lĩnh vực kinh doanh thương mại chủ yếu là người Hoa cư trú tại Quận 5,
Quận 6, Quận 11…). Người Việt chiếm cơ cấu dân số đông nhất, có nhiều kinh nghiệm
trong hoạt động SXNN, nuôi trồng và đánh bắt thủy hải sản.
2.3.1.2. Nguồn lao động
Lực lượng lao động là 4,6 triệu người (chiếm 52,1% tổng dân số), trong đó lao
động nữ chiếm 47,8%. Tỷ lệ thất nghiệp năm 2018 ước tính là 3,8%; năng suất lao
động năm 2018 ước tính tăng 5,47% so với năm 2017. Lực lượng lao động của TPHCM rất đông đảo, đang làm việc trong khu vực ngoài nhà nước chiếm 74,3%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 21,4% và khu vực nhà nước 4,3%; lao động làm việc trong khu vực dịch vụ chiếm 54,0%, khu vực công nghiệp - xây dựng 45,5%. Khu vực nông, lâm, thủy sản chiếm tỉ lệ thấp nhất là 0,5%. và có xu hướng giảm, tuy nhiên số lượng vẫn tăng lên đáp ứng tốt nhu cầu chuyển đổi nông nghiệp của Thành phố trong giai đoạn tới. Lao động nông nghiệp hiện có trình độ cao hơn, thuận lợi để chuyển giao KHCN và xây dựng mô hình liên kết công - nông nghiệp.
67
2010
Chỉ tiêu lao động
2015
2018
7396,4
Dân số (nghìn người)
8247,8
8831,9
3820,1
Trong đó: Nữ (người)
4298,2
4503,2
3934,7
Lực lượng lao động (người)
4250,0
4516,3
3803,1
Tổng số
lao động đang
làm
4201,9
4443,4
việc (người)
Bảng 2.2. Chỉ tiêu về lao động của Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2010-2018
Nguồn: [28]
Năm 2018, dân số thành phố là 8,8 triệu người thì lực lượng lao động chiếm
51,1% số dân (trong đó lao động nữ là 4,5 triệu người). Năm 2018, trong tổng số lao động đang làm việc, chuyên môn kỹ thuật bậc cao chiếm 15,20%; chuyên
môn kỹ thuật bậc trung chiếm 5,90%; các nghề giản đơn và thợ chiếm 41,40% và các loại công việc khác chiếm 33,10%. Chất lượng lao động là khía cạnh quan
trọng tác động đến chuyển đổi nông nghiệp. Lực lượng lao động tại khu vực kinh
tế nông, lâm, thủy sản chiếm 2,55% tổng lực lượng lao động đang làm việc và có xu hướng giảm dần, trình độ chuyên môn của lao động tăng nhưng trong ngành
nông, lâm, thủy sản vẫn chủ yếu là lao động phổ thông, đây là trở ngại rất lớn
trong vấn đề chuyển giao khoa học, kỹ thuật vào SXNN, áp dụng nông nghiệp
công nghệ cao, công nghệ 4.0 vào nông nghiệp.
Lực lượng lao động của thành phố phần lớn di cư từ các tỉnh, thành phố lân cận
vào TP.HCM tìm việc làm, hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ.
Tuy nhiên cũng có những lao động nông nghiệp từ các tỉnh ĐBSCL như Long An,
Bên Tre, Trà Vinh,…đang làm trong các trang trại nông nghiệp của Thành phố. Lực
lượng này giúp cho thành phố giải quyết vấn đề thiếu lao động trong lĩnh vực nông
nghiệp. Trong xu thế cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, nhu cầu nhân lực trong khu
vực Nông, lâm, thủy sản sẽ phải tập trung vào chất lượng lao động có trình độ kỹ
thuật, chất xám, phát triển theo xu hướng nông nghiệp hiện đại áp dụng kỹ thuật công nghệ cao, ứng dụng công nghệ sinh học nên không cần nhiều lao động phổ
thông. 2.3.2. Thị trường
Thị trường ở TPHCM được phân chia thành thị trường nội địa bao gồm (thị trường trong thành phố và ngoại tỉnh) và thị trường nước ngoài. Trong đó thị trường trong thành phố có vai trò quan trọng nhất ảnh hưởng đến chuyển đổi nông nghiệp. Hiện nay, nhu cầu và sức mua các sản phẩm nông sản đang tăng lên, đặc biệt là các
68
nông sản sạch, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Điều này đòi hỏi trong quá trình chuyển
đổi nông nghiệp một mặt phải đảm bảo nhu cầu về các mặt hàng nông sản cho dân cư
thành phố, mặt khác phải đầu tư theo chiều sâu về khoa học-công nghệ để tạo ra
những nông sản theo hướng công nghệ cao. 2.3.2.1. Thị trường nội địa
• Trong thành phố Thành phố Hồ Chí Minh là đô thị đặc biệt, trung tâm lớn về kinh tế, KH - CN, đầu mối giao lưu và hội nhập quốc tế, là đầu mối lưu thông và tiêu thụ một lượng lớn thực phẩm sản xuất trong nước và nhập khẩu phục vụ nhu câu tiêu dùng của người dân thành phố. Nhu cầu tiêu thụ thịt hàng ngày của người dân thành phố từ 1.000 - 1.200 tấn, trong đó heo từ 8.000 - 10.000 con; trâu, bò từ 800 - 900 con; gia cầm từ 100.000 - 120.000 con; thực phẩm đông lạnh nhập khẩu khoảng 264.000 tấn/nãm. Nhu cầu tiêu thụ rau của Thành phố khoảng 1.000.000 tấn/năm và thủy sản là khoảng 170.000 tấn/năm [116], nhu cầu tiêu dùng của người dân thành phố về rau rất lớn. Hiện sản lượng rau tại thành phố mới chỉ đáp ứng 33,3% nhu cầu, đạt 482.537 tấn/năm so với nhu cầu là 1.448.620 tấn/năm (2018). Như vậy, phần còn lại phải chuyển từ các tỉnh, các vùng hoặc nhập khẩu. Cụ thể: rau, củ, quả sản xuất chỉ đáp ứng được 30%; động vật sống: 10%; thủy sản và sản phẩm thủy sản: 15 - 20%. Mỗi tháng, nguồn nông sản thực phẩm các tỉnh cung cấp cho thành phố khoảng 71.500 tấn rau, quả/tháng (chiếm 69% tổng nhu cầu rau, quả của thành phố); khoảng 13.600 tấn thịt heo/ tháng (chiếm 78,8% tổng nhu cầu thịt heo của thành phố); 4.976 tấn thịt gà/tháng (chiếm 86,5% tổng nhu- cầu thịt gà của thành phố); 76,9 triệu quả trứng gia cầm/tháng (chiếm 71,1% tổng nhu câu trứng của Thành phố); khoảng 16.721 tấn thủy sản /tháng (chiếm 75,3% tổng nhu cầu thủy sản của Thành phố).Vì thế, TP.HCM còn gặp nhiều khó khăn trong giám sát, quản lý và truy xuất nguồn gốc khi có vấn đề về an toàn thực phẩm nông, lâm thủy sản. Vì vậy, muốn cung cấp đủ cho nhu cầu cho thành phố, ngành nông nghiệp phải chọn những mô hình chuyển đổi để đạt được năng suất cao, chất lượng tốt. Đây là động lực chính để nông nghiệp thành phố thực hiện chuyển đổi.
Dự báo giai đoạn 2020-2025 nhu cầu tiêu thụ cho các nhóm sản phẩm này tương ứng là: 828 tấn/ngày; 460 tấn/ngày và 3.128 tấn/ngày [28]. Do đó, việc khai thác có hiệu quả thị trường tại chỗ có ý nghĩa quan trọng trong chiến lược xúc tiến thương mại tiêu thụ các sản phẩm nông lâm và thủy sản của Thành phố. Các kênh tiêu thụ tạo nên thị trường của TP.HCM rất đa dạng từ các chợ, siêu thị, các trạm thu mua nông sản, HTX đến các nhà hàng, khách sạn, quán ăn. Bên cạnh đó là thị trường xuất khẩu, do TP.HCM là cửa ngõ ra vào của vùng Đông Nam Bộ. Với các chợ đầu mối, tại
69
TP.HCM đã có 10 chợ đầu mối chuyên bán buôn nông sản với gần 1600 hộ kinh doanh, sau đó là các chợ bán lẻ dày đặc phủ khắp các quận, huyện của Thành phố, đây là kênh tiêu thụ hàng nông sản cho các hộ gia đình.
Các kênh tiêu thụ nông sản ở TPHCM rất đa dạng, từ các chợ, siêu thị, các trạm thu mua nông sản, HTX đến các nhà hàng, khách sạn, quán ăn. TPHCM đã có 10 chợ đầu mối chuyên bán buôn nông sản, 247 chợ truyền thống lớn nhỏ, 142 siêu thị, hơn 200 cửa hàng tiện ích, hơn 2.000 cửa hàng tạp hóa, gần 200 điểm, khu vực mua bán tự phát, 25 trung tâm thương mại. Tuy nhiên, các mặt hàng thực phẩm hàng ngày của người dân vẫn chủ yếu được trao đổi ở các chợ truyền thống. Thành phố cũng đã đẩy mạnh xuất khẩu nông sản như hoa, cây cảnh, rau củ quả, nấm, trái cây. Ngược lại, các nhà bán lẻ nước ngoài ồ ạt đầu tư vào các hệ thống siêu thị, trung tâm thương mại như Aeon của Nhật Bản, Lotte của Hàn Quốc, Big C của Thái Lan kéo theo sự cạnh tranh gay gắt của mặt hàng nông sản nước ngoài vào TPHCM.
Bên cạnh chợ, còn có các trung tâm thương mại, hệ thống siêu thị nhỏ phân bố
rộng khắp các địa bàn của Thành phố, đã góp phần thay đổi thói quen mua sắm cho bữa
ăn hàng ngày của người tiêu dùng. Kết nối giữa chợ với người nông dân là các tư
thương hay thương lái. Các HTX lại có vai trò hướng dẫn các hộ gia đình CĐNN,
chuyển đổi cơ cấu cây trồng, hỗ trợ các thông tin về giống, phân bón, thị trường tiêu thụ.
Cuối cùng là kênh tiêu thụ của hệ thống khách sạn, nhà hàng, công ty và các trường học.
Với số lượng đông khách du lịch đến TP.HCM thăm quan, dẫn đến nhu cầu ăn uống,
mua sắm tăng cao, đây cũng là kênh tiêu thụ nông sản đặc biệt, có nhiều hứa hẹn cho
các mặt hàng chủ lực của Thành phố.
• Thị trường ngoại tỉnh
Thành phố Hỗ Chí Minh có vị trí địa lý đặc biệt, là đầu mối lưu thông liền kề
vùng Duyên hải Nam Trung Bộ, là vùng chuyển tiếp với Tây Nguyên, cầu nối với
Đồng bằng Sông Cửu Long nên lợi thế chính của Thành phố là cung cấp giống cây
trồng và vật nuôi cho các vùng lân cận. Theo nghiên cứu của Sở NN&PTNT mặc dù
công nghiệp dịch vụ chỉ chiếm 8% diện tích đất của Thành phố nhưng tạo ra đến 99%
GDP, trong khi đất nông nghiệp chiếm đến 55% diện tích nhưng chỉ tạo ra 0,8% GDP.
Vì vậy, mục tiêu của Thành phố là trở thành trung tâm nghiên cứu giống, tạo ra giống
cây trồng và vật nuôi đủ đáp ứng cho tất cả các vùng lân cận, là động lực kéo theo sự
phát triển chung cho cả vùng Đông Nam Bộ và các vùng lân cận.
2.3.2.2. Thị trường nước ngoài
70
Cùng với thế mạnh và tiềm năng xuất khẩu nông sản của Việt Nam, các mặt hàng
nông sản của Thành phố được xuất khẩu đi nhiều nước trong khu vực và trên thế giới.
Việt Nam cũng đang thực hiện đây đủ các cam kết của WTO, tham gia Hiệp định Đối
tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP), Cộng đồng kinh tế ASEAN
(AEC); FTA giữa khối ASEAN với Hồng Kông (Trung Quốc)... Đây là cơ hội rất lớn
cho việc xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam nói chung và TP.HCM nói riêng. Các
loại cây tiêu biểu như như hoa lan (Mokara, Dendrobium), mai vàng, bonsai, cây cảnh,
hoa nền, rau củ quả, nấm, cây ăn trái. Thành phố chủ yếu kết hợp phát triển các sản
phẩm giống cây trồng (hạt giống rau củ quả; giống cây trồng và các sản phẩm chăn
nuôi như sữa tươi, thịt heo, thịt bò, giống vật nuôi (bò thịt giống, bò sữa giống, heo
giống) phục vụ cho xuất khẩu.
2.3.3. Khoa học công nghệ
TPHCM tập trung hơn vào nghiên cứu ứng dụng phát triển các sản phẩm công
nghệ cao, chú trọng phát triển những mô hình trồng rau, hoa; nuôi cá cảnh, bò sữa, lợn
thịt năng suất cao đạt lợi nhuận nhiều. Các thành tựu khoa học về giống cây trồng, vật
nuôi, phân bón, hóa chất… đã được các nông hộ ứng dụng và đem về hiệu quả cao.
Thành phố đã xác định mô hình chuyển giao thành tựu công nghệ mới nhất trong lĩnh
vực nông nghiệp đến toàn vùng như chương trình phát triển rau an toàn với ứng dụng
kỹ thuật mới (giống lai F1, phân hữu cơ vi sinh, hữu cơ sinh học, hệ thống nhà lưới, hệ
thống tưới, phủ bạt), góp phần nâng cao năng suất hoa, cây cảnh [108]. Thành phố đã
hình thành các vùng trồng hoa lan cắt cành (Mokara, Dendrobium), các vùng trồng
mai vàng ghép, chuyển giao kỹ thuật cấy mô invitro cây lan Hồ điệp, kỹ thuật trồng và
chăm sóc dưa lưới. Các quy trình sản xuất ứng dụng công nghệ cao và mô hình trình
diễn (dưa lưới, hoa lan, cây ăn quả, hoa cảnh đô thị, nấm linh chi, cà chua bi, ớt
chuông) giá trị kinh tế lớn đem về thu nhập đến vài tỷ đồng/ha/năm; như chuyển đổi từ
cây mía sang trồng mai (321 ha) tại xã Bình Lợi (huyện Bình Chánh); nuôi tôm hai
giai đoạn công nghệ cao đạt 135 tấn/ha/năm (nuôi bán thâm canh năng suất chỉ 36
tấn/ha/năm).
Thành phố có xu hướng phát triển nông nghiệp công nghệ cao gắn với đào tạo
nguồn nhân lực, đào tạo nghề cho khu vực nông thôn, kết hợp du lịch sinh thái, bảo vệ
môi trường, nâng cao chất lượng các tiêu chí xây dựng nông thôn mới. Trung tâm
Công nghệ sinh học, Khu Nông nghiệp công nghệ cao tiếp tục thực hiện nghiên cứu
71
KH-CN. Các chương trình chuyển đổi nông nghiệp theo hướng ứng dụng công nghệ
cao, hỗ trợ sản xuất theo quy trình VietGAP, khuyến khích chuyển dịch cơ cấu nông
nghiệp, công nhận vùng nông nghiệp công nghệ cao. Để phát triển bền vững, ngành
nông nghiệp thành phố tập trung ứng dụng công nghệ thông tin trong nông nghiệp.
Trong đó, thành phố tập trung triển khai để nâng tỷ lệ diện tích ứng dụng nhà màng,
nhà lưới, nhà kính trong sản xuất rau, cây cảnh ổn định năng suất, chất lượng cao. Qua
đó, nâng tỷ trọng SXNN ứng dụng công nghệ cao từ 60% đến 70% trong tổng giá trị
sản xuất nông nghiệp của cả thành phố [114].
2.3.4. Cơ sở hạ tầng
2.3.4.1. Giao thông vận tải
TPHCM là đầu mối giao thông vận tải quan trọng của các tỉnh phía Nam với các
tuyến giao thông hình nan quạt như quốc lộ 22 sang Campuchia; quốc lộ 13,14 lên Tây
Nguyên; quốc lộ 20 đi Đà Lạt; quốc lộ 51 đi Vùng Tàu; các tuyến cao tốc đi từ Sài
Gòn đến Trung Lương, Sài Gòn - Long Thành - Dầu Giây. Các mặt hàng nông sản
được trao đổi thuận lợi giữa TPHCM với các tỉnh thuộc vùng ĐBSCL, ĐNB. TPHCM
cũng có hệ thống giao thông nông thôn rất phát triển. Tất cả các xã (trừ xã đảo Thạnh
An) có đường đến trụ sở UBND xã được nhựa/bê tông hóa và có các tuyến đường hoạt
động quanh năm [94]. Đây là điều kiện hết sức thuận lợi cho phát triển nông nghiệp,
vận chuyển hàng hóa đến nơi tiêu thụ.
Chính phủ đang tiến hành xây dựng đường vành đai 3 dài gần 90 km đi qua 4 địa
phương bao gồm Đồng Nai, TP.HCM, Bình Dương và Long An (điểm đầu là Bến Lức
- Long An, điểm cuối là Long Thành – Đồng Nai) với tổng vốn khoảng 55.805 tỉ đồng.
Đường vành đai 4 với quy hoạch dài 198 km đi qua 4 tỉnh (thành): TP.HCM, Đồng
Nai, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu với tổng đầu tư khoảng 99.000 tỉ đồng gồm:
quốc lộ 13 - quốc lộ 22 (gần 23 km, vốn 11.000 tỉ đồng), quốc lộ 22 - Bến Lức (dài
41,6 km, vốn 23.000 tỉ đồng), Bến Lức - Hiệp Phước (gần 36 km, vốn 20.000 tỉ đồng),
Phú Mỹ - Trảng Bom (45,5 km, vốn 21.000 tỉ đồng), đoạn Trảng Bom - quốc lộ 13
(gần 52 km, vốn 24.000 tỉ đồng). Giải pháp này góp phần hạn chế xe vào trung tâm
thành phố, rút ngắn thời gian đi lại giữa các tỉnh, giảm ùn tắc, thúc đẩy vùng kinh tế
trọng điểm phía Nam. Việc hình thành mạng lưới giao thông sẽ thúc đầy quá trình
CĐNN diễn ra nhanh hơn do cơ sở hạ tầng hoàn thiện. Vành đai 4 còn có vai trò thúc
đẩy liên kết vùng giữa vùng kinh tế trọng điểm phía Nam với vùng kinh tế trọng điểm
72
ĐBSCL.
Về hệ thống giao thông nông thôn, các chỉ số của TP.HCM đều rất cao và cao
nhất so với các tỉnh trong vùng Đông Nam Bộ. Cụ thể xã có đường đến trụ sở UBND xã
được nhựa/bê tông hóa là 98,3%, xã có đường ô tô đến quang năm là 98,3% [94]. Quan
trọng là hệ thống đường giao thông đến các huyện ngoại thành được chú trọng phát
triển, đây là điều kiện hết sức thuận lợi cho phát triển nông nghiệp, vận chuyển hàng hóa
đến nơi tiêu thụ… Cùng mạng lưới xe buýt, dự án tàu điện ngầm TP.HCM cũng được
đang tiến hành. Theo dự kiến, thành phố sẽ có bốn tuyến, tổng chiều dài 54 km, 6 đường
ray và 22 nhà Ga.
Bên cạnh hệ thống đường bộ, đường sắt, TP.HCM cũng là khu vực có giao thông đường sông phát triển, gồm có 2 sông chính là sông Đồng Nai và sông Sài Gòn. Ngoài
ra còn có khoảng 50 bến đò, phà phục vụ giao thông hành khách, có bốn cảng biển
chính: Sài Gòn, Bến Nghé, Nhà Bè, Tân Cảng cùng các cảng sông Bình Đông, Tân
Thuận, Tôn Thất Thuyết, Bình Lợi, Bình Phước... Vận tải đường sông kết nối sông Sài
Gòn sông Vàm Cỏ, tuyến du lịch đường sông quan hệ, có các tuyến cao tốc đi từ Sài
Gòn đến Trung Lương, quốc lộ 22 sang Campuchia, quốc lộ 13,14 sang Campuchia,
quốc lộ 20 đi Đà Lạt, quốc lộ 51 đi Vùng Tàu… tạo điều kiện cho việc vận chuyển nông
sản theo đường sông từ ĐBSCL, Đông Nam Bộ về TP.HCM.
Thành phố Hồ Chí Minh có đường bờ biển dài khoảng 24 km nằm trên địa bàn
huyện Cần Giờ. Vịnh Gành Rái là cửa ngõ ra biển của TP. HCM nói riêng và miền
Nam nói chung. Hợp lưu giữa sông Đồng Nai và sông Sài Gòn hình thành sông Nhà
Bè chảy ra biển Đông qua 2 nhánh là sông Lòng Tàu và sông Soài Rạp nối liền
TP.HCM với các nước, đảm bảo cho tàu 30.000DWT đầy tải, tàu 50.000DWT giảm
tải, lưu thông, sản lượng hàng hóa thông qua cảng biển giai đoạn 2011 - 2015 đạt
388,23 triệu tấn. Cảng Sài Gòn chiếm 25% trong tổng khối lượng hàng hóa thông qua
các cảng biển của cả nước. Đây là động lực thúc đẩy cho hoạt động CĐNN của
TP.HCM, tăng cường hoạt động xuất khẩu hàng hóa ra thị trường nước ngoài.
2.3.4.2. Thông tin liên lạc
So với các địa phương khác trong cả nước, TPHCM có cơ sở hệ thống thông tin liên lạc rất phát triển. Hiện nay, truyền hình đạt 193,4 nghìn thuê bao và 1.011,9 nghìn thuê bao Internet qua hệ thống cáp quang. Hệ thống thông tin liên lạc ở vùng ngoại thành đã được quan tâm đầu tư, tỷ lệ hộ nông thôn có điện thoại và sử dụng internet
73
tăng rất nhanh. Tỷ lệ thôn có nhà sinh hoạt cộng đồng là 99,8%, tỉ lệ xã có loa truyền
thanh đến thôn là 99,5%, 100% các xã của TPHCM có điểm kinh doanh internet tư
nhân và các trụ sở xã có máy vi tính có kết nối internet [94]. Đây là nhân tố giúp cho
người nông dân có điều kiện nắm bắt thông tin để tìm thị trường, tiếp cận kĩ thuật mới trong nông nghiệp để thực hiện quá trình chuyển đổi. Hệ thống bưu chính viễn thông có thể đáp ứng được yêu cầu kết nối thông tin liên lạc của từng xã, huyện với cả nước.
Tổng số thuê bao điện thoại trên toàn thành phố đạt 16 triệu thuê bao di động, mật độ điện thoại ước đạt 177 máy/100 dân [94].
2.3.4.3. Cung cấp điện
Hiện nay, tất cả các huyện, xã tại TPHCM có điện lưới quốc gia, tỷ lệ hộ dùng điện
lưới quốc gia đạt 99,8% (trừ xã đảo Thạnh An). TPHCM đã hoàn chỉnh sơ đồ kết cấu lưới điện theo từng cấp hạ, trung, cao thế [94]. Tại vùng ven biển huyện Cần Giờ, thành phố
đang có dự án xây điện gió. Điện dùng trong nông nghiệp đã phát triển nhanh, tất cả các
hộ nông dân của TPHCM đều sử dụng điện để phục vụ sản xuất nông nghiệp như chiếu
đèn trong khu trồng hoa, ấp trứng, sấy sưởi, bảo quản nông sản. Đây cũng là điều kiện
quan trọng giúp sản xuất nông nghiệp thành phố được điện khí hóa, cơ giới hóa, thủy lợi
hóa, sản xuất với quy mô lớn hơn; tạo môi trường tốt, phù hợp với cây trồng, vật nuôi;
thay đổi nền nông nghiệp từ quy mô nhỏ, thủ công sản phẩm giản đơn chuyển đổi sang
một nền nông nghiệp quy mô lớn, sản phẩm đa dạng, hiện đại.
2.3.5. Cơ sở vật chất kĩ thuật
2.3.5.1. Công trình thủy lợi:
Tổng chiều dài kênh mương thủy lợi trên địa bàn các xã là 1,8 nghìn km, trong
đó HTX quản lý 1,4 nghìn km [28]. Các công trình lớn như Hồ thủy lợi Dầu Tiếng, hệ thống kênh Đông tưới trực tiếp cho khoảng 15 nghìn ha tại huyện Củ Chi. Các hệ
thống kênh cấp 1, cấp 2, cấp 3 và cấp 4 và kênh nhánh được quản lý có hiệu quả, giải
quyết nước tưới vào mùa khô và tiêu nước vào mùa mưa cho các vùng ngoại thành
như Hóc Môn, Bình Chánh, quận 12, Cần Giờ, Nhà Bè. Hệ số sử dụng đất do vậy cũng tăng lên đáng kể. TPHCM mở rộng thêm hệ thống tưới Tân Hưng để tăng diện tích tưới 10,7 nghìn ha và 41 nghìn ha ven sông Sài Gòn và Vàm Cỏ. Vào thời điểm mùa khô, hồ góp phần làm giảm mức độ ô nhiễm, hạn chế xâm nhập mặn trên sông Sài Gòn và hệ thống kênh rạch trong vùng. Nhờ hệ thống thủy lợi được đảm bảo nên nhiều mô hình nông nghiệp của thành phố được nhân rộng. Nhiều hộ nông dân đã chuyển đổi sang trồng nhiều loại trái cây, rau sạch, hoa cảnh, nuôi cá cảnh, chăn nuôi bò sữa, nuôi trồng, đánh bắt thủy sản cho chất lượng cao.
74
2.3.5.2. Các cơ sở chế biến nông, lâm thủy sản
TPHCM có 569 cơ sở chế biến nông sản, tỷ lệ xã có cơ sở chuyên chế biến
nông sản/lâm sản/thủy sản/làm muối trên địa bàn xã là 98,8%; cao nhất của vùng
Đông Nam Bộ. Số cơ sở chuyên chế biến nông sản bình quân 1 xã là 9,81 cơ sở, số xã có doanh nghiệp/chi nhánh. Doanh nghiệp chế biến nông sản/lâm sản/thủy sản/làm muối trên địa bàn xã là 19/58 xã [94]. Một số ngành chế biến chính là sản
xuất, chế biến thực phẩm, cao su, thuốc lá… chủ yếu nguồn nguyên liệu đến từ các tỉnh lân cận. Các cơ sở chế biến tăng nhanh tại các huyện, các xã ngoại thành góp
phần quan trọng trong hoạt động chế biến và tiêu thụ sản phẩm, tăng việc làm, thu
nhập, thúc đẩy quá trình chuyển đổi nông nghiệp, chuyển đổi cơ cấu kinh tế ở vùng
nông thôn của TPHCM. 2.3.5.3 Trạm, trại giống
Hiện nay thành phố có hơn 50 trại giống có khả năng sản xuất hơn 500 triệu con
giống mỗi năm (tôm sú, cá rô phi), xuất khẩu nhiều giống cá cảnh đáp ứng nhu cầu thị
trường các nước như Mỹ, Pháp, Singapore tạo nguồn thu lớn ngoại tệ và mở ra hướng
phát triển cho lĩnh vực thủy sản của thành phố. Trung Tâm Khuyến nông thành phố có
120 câu lạc bộ Khuyến nông – VAC tại các xã, phường có sản xuất nông nghiệp.
Trung tâm có vai trò chuyển giao khoa học kĩ thuật vào sản xuất theo kế hoạch phù
hợp với điều kiện thực tế của địa phương, nắm bắt nhu cầu sản xuất, nguyện vọng của
bà con nông dân, chủ động đề xuất giải pháp thực hiện. Trung tâm cũng tiến hành xây
dựng các mô hình trình diễn ứng dụng công nghệ mới; xây dựng Câu lạc bộ Khuyến
nông – VAC. Từ đó, các nhóm hộ nông dân xoá đói giảm nghèo ra đời góp phần tương
trợ sản xuất. Trung tâm còn phối hợp với các hội, đoàn tổ chức tổ chức các hội thi thúc đẩy ứng dụng KHKT vào sản xuất, quản lý, bồi dưỡng kiến thức kinh tế, kỹ thuật,
thông tin, báo cáo kịp thời tình hình thực hiện kế hoạch khuyến nông, tình hình sản
xuất và nguyện vọng của bà con nông dân cho lãnh đạo Trung Tâm và UBND quận,
huyện. 2.3.6. Nguồn vốn đầu tư
Năm 2018, tổng vốn đầu tư cho nông nghiệp của TPHCM là 987,7 tỷ đồng, chiếm 0,3% tổng số vốn đầu tư, chiếm tỉ trọng khiêm tốn so với dich vụ 75,2% và công nghiệp - xây dựng là 24,6%, Tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cho nông nghiệp là 39,2 triệu USD trong đó hình thức 100% vốn đầu tư nước ngoài chiếm đa số (23,9 triệu USD) [28]. Đây là tín hiệu vui cho ngành nông nghiệp thành phố trong quá trình chuyển đổi. Bên cạnh đó, TPHCM cũng thực hiện chính sách hỗ
75
trợ vay vốn theo các chương trình như mô hình HTX được hỗ trợ tổng vốn vay là
7.749,628 tỷ đồng. Chính sách này đã tác động không nhỏ đến quá trình chuyển đổi cơ
cấu nông nghiệp. Giai đoạn từ 2010 đến 2018, đã có 11 doanh nghiệp tư nhân của
Thành phố đầu tư cho sản xuất nông nghiệp với tổng số vốn hơn 1,2 nghìn tỷ đồng. Thành phố tập trung đẩy mạnh thu hút nguồn vốn FDI và vốn tư nhân vào nông nghiệp đô thị theo hướng công nghệ cao.
2.3.7. Đường lối, chính sách
Nông nghiệp là một trong những ngành chiến lược chủ chốt của Việt Nam nên
những chính sách về nông nghiệp được chia ra thành nhiều giai đoạn từ khi đất nước
thống nhất vào năm 1975 có thể được chia thành năm giai đoạn: từ1976 - 1986 nông
nghiệp được tổ chức theo các HTX và nông trường quốc doanh, với các doanh nghiệp nhà nước; từ 1986-1993: vai trò của nông nghiệp được nâng lên thành một
ngành quan trọng, trọng tâm quản lý nông nghiệp chuyển từ mô hình HTX sang các
hộ nông dân; từ 1993-2000: khuyến khích mở rộng SXNN, bãi bỏ các HTX, thành
lập hệ thống khuyến nông Quốc gia, các cơ sở tín dụng cho nông dân; năm 2000-
2008: khởi đầu việc CĐNN từ mở rộng sản xuất sang hướng tập trung vào nâng cao
năng suất, chất lượng và giá trị để tạo ra một ngành nông nghiệp hiện đại. Cụ thể là
Nghị quyết số 09/2000/NQ-CP của Thủ tướng Chính phủ về một số chủ trương và
chính sách về chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp nêu rõ về
chủ trương chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp đến năm 2010; Từ 2008 đến nay: chính
sách nông nghiệp thể hiện ở các nghị quyết, đó là: Nghị quyết số 26/2008/NQ-TD và
Nghị quyết số 63/2009/NQ-CP. Nghị quyết đã nhấn mạnh phát triển nền kinh tế thị
trường theo định hướng XHCN nhằm đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, đảm bảo cung cấp đầy đủ lương thực (chủ yếu là gạo), kế hoạch tái cơ cấu ngành nông nghiệp
theo hướng gia tăng giá trị và phát triển bền vững đã được đưa ra [66].
Tại Hội nghị lần thứ 7 BCH TW khóa X đã ban hành Nghị quyết Trung ương 7,
Khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn (Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 5-8- 2008) đã xác định: “…cơ cấu lại ngành nông nghiệp, gắn sản xuất với chế biến và thị trường. Phát triển sản xuất với quy mô hợp lý các loại nông sản hàng hóa xuất khẩu có lợi thế nông sản thay thế nhập khẩu. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, ứng dụng KH - CN hiện đại, công nghệ sinh học, thuỷ lợi hóa, cơ giới hóa, thông tin hóa, thay thế lao động thủ công, thay đổi tập quán canh tác lạc hậu để sử dụng có hiệu quả đất đai, tài nguyên, lao động, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nông sản”. Đây là nhân tố có tác động mạnh đến CĐNN, tạo ra
76
những chuyển biến tích cực, thúc đẩy sự phát triển của ngành nông nghiệp mang đến
một hướng đi mới cho nông thôn.
Năm 1993, Luật đất đai được ban hành rồi sửa đổi bổ sung qua các năm, gần
nhất là năm 2013. Đây là chính sách tác động mạnh đến ngành nông nghiệp, ảnh hưởng trực tiếp đến CĐNN, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, mùa vụ, giúp nông dân yên tâm đầu tư, tự chủ trong sản xuất, áp dụng khoa học kỹ thuật vào đồng ruộng, giải
phóng sức lao động, tăng năng suất, chất lượng sản phẩm, tăng hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp. Từ năm 1993 đến nay, nhà nước đã ban hành hơn 200 văn bản quy
phạm pháp luật về quản lý và sử dụng đất đai, cùng với đó UBND các Tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương cũng đã ban hành nhiều văn bản để tổ chức thực hiện ở
địa phương.
Nhiều chính sách hỗ trợ trực tiếp cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn đã
được triển khai hiệu quả như: Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 04 tháng 6 năm 2010
của Thủ tuớng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng
nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020; Quyết định số 899/ QĐ-TTg ngày 10 tháng 6
năm 2013 của Thủ tuớng Chính phủ phê duyệt Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp
theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững; Quyết định số 1384/QĐ-
BNN-KH ngày 18/6/2013 của Bộ Nông nghiệp và PTNT về ban hành Chương trình
hành động thực hiện Đề án (Quyết định 1384) và Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và
PTNT về Triển khai Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị
gia tăng và phát triển bền vững với phương hướng chuyển đổi của ngành nông
nghiệp: “…tập trung khai thác và tận dụng tốt lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới;
xây dựng và phát triển các vùng chuyên canh quy mô lớn theo hình thức trang trại, gia trại, khu nông nghiệp công nghệ cao, đạt các tiêu chuẩn quốc tế phổ biến về an
toàn vệ sinh thực phẩm, kết nối SXNN với công nghiệp chế biến, bảo quản và tiêu thụ
sản phẩm, với chuỗi giá trị toàn cầu đối với các sản phẩm có lợi thế và khả năng cạnh
tranh trên thị trường thế giới…”. Đây là những định hướng, cơ sở quan trọng để phát triển nông nghiệp theo hướng mới, đáp ứng được các mối quan hệ mới trong quá trình CĐNN theo hướng nông nghiệp công nghệ cao, giá trị cao.
• Chính sách ở thành phố Hồ Chí Minh Với mục đích xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, sản xuất hàng hóa lớn, giá trị gia tăng cao, bền vững, đáp ứng nhu cầu đa dạng trong nước và thúc đẩy xuất khẩu; nâng cao chất lượng các tiêu chí nông thôn mới trên địa bàn thành phố, trên cơ sở các chính sách của Nhà nước, TP.HCM đã ban hành các
77
chương trình, chính sách phát triển nông nghiệp như Quyết định số 36/2011/QĐ-
UBND ngày 10 tháng 6 năm 2011 (Quyết định số 36) và Quyết định số 13/2013/QĐ-
UBND ngày 20 tháng 3 năm 2013 (Quyết định số 13) thay thế Quyết định số 36 về
khuyến khích chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp đô thị trên địa bàn thành phố giai đoạn 2011 - 2015 đã chỉ rõ mục tiêu chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp trên địa bàn thành phố theo hướng “chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi có hiệu quả thấp sang các cây trồng vật nuôi có hiệu quả kinh tế cao hơn (như hoa lan, cây kiểng, cá cảnh…), góp phần nâng cao giá trị sản lượng, nâng cao thu nhập cho người dân”.
Các chính sách quy hoạch cho từng loại cây, con giống cũng được đưa ra tại các
quyết định như: Quyết định số 3328/QĐ-UBND phê duyệt Chương trình phát triển,
kiểm soát động vật hoang dã trên địa bàn thành phố giai đoạn 2011 - 2015; Quyết định Số hiệu: 3329/QĐ-UBND phê duyệt Chương trình phát triển cá sấu trên địa bàn
TP.HCM giai đoạn 2011 - 2015; Quyết định Số: 3330/QĐ-UBND phê duyệt Chương
trình phát triển hoa, cây kiểng trên địa bàn thành phố giai đoạn 2011 - 2015; Quyết
định Số: 3331/QĐ-UBND phê duyệt Chương trình mục tiêu, phát triển rau an toàn trên
địa bàn thành phố giai đoạn 2011 - 2015; Quyết định Số: 3463/QĐ-UBND phê duyệt
Chương trình Phát triển cá cảnh trên địa bàn TP.HCM giai đoạn 2011 - 2015; Quyết
định Số: 4320/QĐ-UBND về phê duyệt Chương trình phát triển chăn nuôi bò sữa trên
địa bàn TP.HCM giai đoạn 2011 - 2015… ngoài ra còn các chính sách về đất đai, về
lao động, việc làm ở vùng nông thôn luôn có ý nghĩa quan trọng trong CĐNN, như đề
án: “Quy hoạch tổng thể phát triển Nông nghiệp đô thị ở TP.HCM đến năm 2020 và
tầm nhìn đến năm 2025”. Bên cạnh đó, là các chính sách về hỗ trợ tiêu thụ nông sản,
xây dựng chuỗi giá trị nông nghiệp, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, HTX, hộ gia đình… như: Đề án nâng cao chất lượng các tiêu chí xây dựng nông thôn mới giai đoạn
2016 - 2020 trên địa bàn vùng nông thôn thành phố; Đề án nâng cao chất lượng đàn bò
sữa trên địa bàn thành phố giai đoạn 2016 - 2020; Kế hoạch trồng rừng và cây xanh
trên địa bàn thành phố giai đoạn 2016 - 2020; Chương trình xây dựng chuỗi liên kết và cung ứng trong nông nghiệp giai đoạn 2017 – 2020,… Những đề án, kế hoạch trên đã có những tác động đáng kể đến quá trình CĐNN, là động lực thúc đẩy nông nghiệp của Thành phố theo hướng sản xuất hàng hóa, tăng giá trị, giảm đầu vào.
Có thể nói kết quả của việc ban hành các chính sách là nhân tố quan trọng trong việc CĐNN tại TP.HCM, các mô hình sản xuất mới xuất hiện, giá trị nông nghiệp tăng cao, thu hút được các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp theo hướng công nghệ cao, chuyển đổi mô hình nông nghiệp kém hiệu quả sang ưu tiên các loại cây,
78
con giống có giá trị xuất khẩu; kinh tế hộ, kinh tế trang trại, HTX có vai trò to lớn
trong tạo ra việc làm cho người lao động, cũng như góp phần sử dụng hiệu quả nguồn
tài nguyên đất nông nghiệp ở khu vực nông thôn. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai
chính sách còn nhiều vấn đề bất cập do các nhân tố khách quan như thiên tai, biến đổi khí hậu, khủng hoảng kinh tế làm cho thị trường biến động. Ngoài ra, còn do các nhân tố về con người, cơ sở hạ tầng, cơ sở vật, chất, kĩ thuật… chưa thực sự đồng bộ, nên
quá trình triển khai các chính sách chưa kịp thời, nhiều quy hoạch còn chồng chéo, các thủ tục hỗ trợ cho nông nghiệp, nông dân còn rườm rà, việc cung cấp thông tin về
chính sách đến người nông dân còn chậm, gây khó khăn cho quá trình chuyển đổi.
2.3.8. Đô thị hóa
TP.HCM có tốc độ đô thị hóa nhanh, thể hiện qua việc gia tăng không ngừng cả về không gian và dân số. Quá trình đô thị hóa diễn ra ở nhiều quận, huyện của
TP.HCM như các quận 2, 7, 9, 12, Bình Tân, Tân Phú, Thủ Đức với nhiều khu đô thị
mới như Phú Mỹ Hưng, Thủ Thiêm, Nam Sài Gòn, Hiệp Phước. Nhiều khu dân cư đô
thị tự phát hình thành ở nhiều phường, xã trước đây là nông thôn vùng ven như các
phường: phường Trung Mỹ Tây (quận 12), Phú Mỹ (quận 7). Nhiều khu vực đô thị
mới được xây dựng tự phát, thiếu cơ sở hạ tầng gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng cho
đời sống nhân dân như: bị ngập nước vào mùa mưa, thiếu hệ thống xử lý các chất thải
gây ô nhiễm môi trường, nhất là không phát huy hết tiềm năng của đất đai, gây lãng
phí lớn quỹ đất của Thành phố.
Đô thị hóa tác động mạnh đến thị trường bất động sản, giá đất tăng cao tại các
khu vực quy hoạch, một số người dân nông thôn không sản xuất nông nghiệp mà tranh thủ bán đất hoặc chờ bán đất. Khi giá đất tăng lên do tác động của đô thị hóa, người
nông dân bán đất ồ ạt, nhiều ngôi nhà mới được xây lên, ảnh hưởng lớn đến việc sản
xuất nông nghiệp tại các huyện vùng ven ngoại thành như Bình Chánh, Hóc Môn,
Cần Giờ, Củ Chi. Nếu không có sự can thiệp của chính quyền thành phố sẽ ảnh
hưởng rất lớn đến quỹ đất nông nghiệp của thành phố đang có nguy cơ thu hẹp do quá trình đô thị hóa.
Dự kiến đến năm 2025, TP.HCM chỉ còn khoảng 60.000 ha đất nông nghiệp. Và hệ quả khác là vành đai xanh của Thành phố giảm đi nhanh chóng. Trong quá trình phát triển các khu đô thị mới các kênh mương ở các khu vực trên đều bị san lấp hết để mở rộng mặt bằng xây dựng, trong khi hệ thống cống tiêu thoát nước chưa được xây dựng hoàn chỉnh nên diễn ra tình trạng ngập nước. Nhiều khu công nghiệp, khu đô thị mới phát triển theo hướng tự phát ở các huyện Bình Chánh, Củ Chi với nhiều xí
79
nghiệp nằm dọc hai bên kênh rạch, sông ngòi gây ô nhiễm nghiêm trọng nguồn nước ở
nhiều khu vực. Quá trình đô thị hóa đã làm cho một bộ phận dân cư nông thôn rơi vào
tình trạng thất nghiệp, thiếu đất nông nghiệp canh tác.
2.4. Đánh giá chung 2.4.1. Thuận lợi
Vị trí địa lí thuận lợi, là vùng chuyển tiếp giữa miền Đông Nam Bộ và Tây Nam
Bộ, có điều kiện trao đổi giao lưu hàng hóa, công nghệ, lao động với các tỉnh thành trong cả nước.
Điều kiện tự nhiên thuận lợi; quỹ đất nông nghiệp đa dạng, khí hậu, nguồn nước
dồi dào cho CĐNN với cơ cấu cây trồng và vật nuôi đa dạng hình thành các vùng
trồng rau, vùng chăn nuôi, vùng hoa cảnh, hoa lan…
Nguồn lao động dồi dào, trình độ cao tạo ra nhiều lợi thế cho phát triển của nông
nghiệp theo hướng công nghệ cao tạo ra các thương phẩm an toàn, chất lượng.
Cơ sở vật chất kĩ thuật, cơ sở hạ tầng hoàn thiện, KH - CN được chú trọng tạo
động lực cho sự phát triển của ngành nông nghiệp theo chuỗi giá trị hàng hóa.
Thị trường tiêu thụ lớn, nhu cầu về nông sản sạch, chất lượng đòi hỏi nông
nghiệp thành phố phải có sự chuyển đổi mạnh mẽ.
Chính quyền thành phố đã ban hành nhiều chương trình, chính sách chuyển đổi
cơ cấu cây trồng, vật nuôi, hỗ trợ vốn vay ưu đãi cho nông dân, khuyến khích phát
triển nông nghiệp đô thị.
2.4.2. Khó khăn
Diện tích đất nông nghiệp đang có xu hướng giảm do quá trình đô thị hóa, diện
tích đất màu mỡ không nhiều nhưng đang bị thoái hóa do quá trình canh tác.
Các hiện tượng bất thường của thời tiết, sự biến đổi khí hậu gây khó khăn cho
SXNN.
Vấn đề dự báo thị trường nông sản, quản lý thị trường thực phẩm an toàn còn
nhiều trở ngại, tác động không nhỏ đến chất lượng sản phẩm tham gia chuỗi giá trị nông sản trong nông nghiệp.
Thị trường tiêu thụ nông sản còn gặp khó khăn khi sản lượng thu hoạch còn ít chưa đáp ứng được yêu cầu, chuỗi liên kết giá trị giữa nông dân, tổ hợp tác, hợp tác xã và doanh nghiệp nông nghiệp còn chưa chặt chẽ.
80
Tiểu kết chương 2
Trong chương 2, luận án tập trung phân tích ba nhóm nhân tố: vị trí địa lí, điều
kiện tự nhiên – tài nguyên thiên nhiên và kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến quá trình CĐNN ở TP.HCM.
Với vị trí thuận lợi là trung tâm kết nối giữa vùng Đông Nam Bộ và Tây Nam
Bộ, là đô thị loại đặc biệt, có dân số đông nhất cả nước, có thị trường tiêu thụ lớn đã
tạo điều kiện cho thành phố phát triển với các sản phẩm chủ lực là hoa, cây cảnh, rau,
nuôi bò và nuôi trồng thủy sản. Với điều kiện tự nhiên thuận lợi; quỹ đất nông nghiệp
đa dạng, khí hậu, nguồn nước dồi dào là cơ sở cho CĐNN với cơ cấu cây trồng và vật
nuôi đa dạng. Nguồn lao động có trình độ cao tạo ra nhiều lợi thế cho sự phát triển của
nông nghiệp theo hướng công nghệ cao, an toàn tạo ra các thương phẩm có giá trị, chất
lượng phục vụ cho xuất khẩu.
Thành phố có hệ thống cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kĩ thuật (điện, đường, trường, trạm…) hoàn thiện phục vụ cho SXNN; trình độ KH - CN tiên tiến; các
chương trình, dự án về CĐNN luôn được quan tâm và ưu tiên thực hiện; tạo động lực
cho sự phát triển của ngành nông nghiệp theo chuỗi giá trị hàng hóa. Đặc biệt các
chính sách thúc đẩy nông nghiệp từ cấp TƯ đến thành phố được thực hiện đồng bộ đã
khuyến khích tái cơ cấu nông nghiệp, thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp
giúp cho vùng nông thôn ngoại thành từng bước hình thành với các vùng sản xuất tập
trung như rau an toàn, hoa, cây cảnh, bò và cá cảnh.
Bên cạnh những thuận lợi, chuyển đổi nông nghiệp của thành phố cũng đối mặt
với những khó khăn cần phải khắc phục. Vấn đề dịch bệnh, vệ sinh, an toàn thực
phẩm, đầu ra cho sản phẩm, cơ sở thức ăn và vốn đầu tư cho SXNN tác động không
nhỏ đến quá trình CĐNN. Đầu ra cho nông sản gặp khó khăn khi sản lượng, chất
lượng chưa đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp. Chuỗi liên kết giá trị nông sản
giữa nông dân, tổ hợp tác, hợp tác xã và doanh nghiệp nông nghiệp còn chưa chặt chẽ khiến cho quá trình chuyển đổi chưa hoàn thiện. BĐKH được dự báo là ảnh hưởng
nặng nề đến hoạt động SXNN của thành phố.
81
CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG CHUYỂN ĐỔI NÔNG NGHIỆP Ở TP.HCM
3.1. Thực trạng chuyển đổi nông nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh
3.1.1. Khái quát chung
3.1.1.1. Vị trí của nông nghiệp trong nền kinh tế
Nông nghiệp được xác định là ngành kinh tế quan trọng và đóng góp tích cực cho nền kinh tế của thành phố. Quy mô GRDP của TP.HCM tăng liên tục, trong giai
đoạn 2005 - 2018 từ 165,3 tỉ đồng năm 2005 lên 463,3 tỉ đồng năm 2010 và đạt 1225,5
tỉ đồng năm 2018, đứng đầu về tổng thu ngân sách trong các tỉnh, thành phố của cả nước (chiếm 27,8% của cả nước, năm 2018).
Bảng 3.1. GRDP và tốc độ tăng trưởng GRDP của TP.HCM giai đoạn 2005-2018
Tôc độ tăng trưởng BQ năm (%)
Tiêu chí
2005
2010
2015
2018
2005- 2010
2010- 2018
GRDP (giá hiện hành) (tỉ đồng)
-
-
165,3 88,9
463,3 463,3
GRDP (giá so sánh 2010) (tỉ đồng)
879,1 720,2
1225,5 907,1
-
-
Tốc độ tăng trưởng (%)
11,09
8,9
10,9
12,0
7,72
7,89
+ N, L, TS (%)
4,95
7,6
1,8
5,0
4,95
5,94
+ Công nghiệp - xây dựng (%)
11,25
7,7
10,5
11,3
8,12
8,12
+ Dịch vụ (%)
11,27
8,8
11,4
12,7
8,01
8,01
Nguồn: Tính toán từ (Cục Thống kê TP.HCM, 2011, 2016, 2018)
Tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân năm của TP.HCM giai đoạn 2005-2010 là
11,1%, giai đoạn 2010-2018 là 8,9%, luôn cao hơn so với trung bình của cả nước. Tốc
độ tăng trưởng GRDP của nhóm ngành N, L, TS thấp hơn nhóm ngành công nghiệp -
xây dựng và dịch vụ nhưng có xu hướng tăng dần (từ 1,8% năm 2005 lên 5,94% năm 2018). Mặc dù tốc độ tăng trưởng của các ngành công nghiệp - xây dựng và dịch vụ có xu hướng giảm nhưng quy mô nền kinh tế (giá trị tuyệt đối) của TP.HCM lớn nên vẫn tạo ra sự phát triển ổn định cho các ngành.
Bảng 3.2. Quy mô và cơ cấu GRDP phân theo nhóm ngành kinh tế giai đoạn 2005 - 2018 (tỉ đồng, giá hiện hành) 2010 463,3
2018 1225,5
2015 879,1
2005 165,3
Năm Tổng GRDP (nghìn tỉ đồng – giá hiện hành) Chia ra (%)
100,0
100,0
100,0
100,0
+ N, L, TS + CN - XD + Dịch vụ +Thuế Sp
1,3 48,1 50,6 -
1,1 41,0 57,9 -
0,84 24,82 58,34 16,00
0,67 24,78 61,65 12,9
Nguồn: Tính toán từ (Cục Thống kê TP.HCM, 2011, 2016, 2018) Cơ cấu GRDP của TP đang có sự chuyển dịch đúng hướng, giảm tỉ trọng khu
82
vực N, L, TS (giảm 0,63%), tăng khu vực dịch vụ (tăng 11,05 %) và giảm khu vực công
nghiệp – xây dựng (giảm 23,3%). Tỉ trọng khu vực N, L, TS luôn chiếm tỉ trọng thấp và có xu hướng giảm dần từ 1,3% năm 2005 xuống 0,67% năm 2018, thấp nhất trong các thành phố trực thuộc TƯ. Mặc dù có tỉ trọng thấp và liên tục giảm nhưng nông nghiệp vẫn là ngành có vai trò quan trọng trong quá trình CNH-HĐH; đảm bảo lương
thực, thực phẩm có chất lượng; tạo thu nhập cho một bộ phận dân cư vùng ven đô của
TP.HCM.
3.1.1.2. Quy mô và cơ cấu giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản
Quy mô GTSX N, L, TS trong giai đoạn 2005 - 2018 của TP.HCM tăng liên tục,
từ 3.825,1 tỉ đồng năm 2005 lên 8.979,3 tỉ đồng năm 2010 và đạt 18.785,7 tỉ đồng năm
2018. Năm 2018 với GTSX của N, L, TS là 18.785,7 tỉ đồng, TP.HCM đứng thứ 3/5 TP
trực thuộc TƯ (sau TP Hà Nội và TP Hải Phòng; Bộ NN và PTNT, 2006 – 2018).
Bảng 3.3. Giá trị sản xuất và cơ cấu GTSX nông, lâm, thủy sản ở TP.HCM
giai đoạn 2005 - 2018 (giá hiện hành)
Năm
2005
2010
2015
2018
Tổng số (tỉ đồng)
3.825,1
8.979,3
17.528,6
18.785,7
Chia ra (%)
100,0
100,0
100,0
100,0
+Nông nghiệp
67,5
79,4
71,5
68,8
+Lâm nghiệp
2,5
1,2
0,8
1,9
+Thủy sản
30,0
19,4
27,7
30,3
Nguồn: Tính toán từ (Cục Thống kê TP.HCM, 2011, 2016, 2018) Cơ cấu GTSX N, L, TS của TP.HCM có nông nghiệp chiếm ưu thế mặc dù tỉ trọng không ổn định trong giai đoạn 2005 – 2010 (67,5% năm 2005 tăng lên 79,4% năm 2010), đến giai đoạn 2011 – 2018, tỉ trọng nông nghiệp lại giảm xuống 68,8% do chuyển đổi trong sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, giá trị tuyệt đối vẫn tăng liên tục. TP.HCM tập trung phát triển các nông sản chủ lực, có giá trị kinh tế cao (hoa, cây cảnh, cá cảnh, bò sữa,…), chú trọng đến thị trường xuất khẩu. Ngành lâm nghiệp không phát triển nhiều vì đa phần là rừng phòng hộ và khu dự trữ sinh quyển phải bảo
83
vệ đặc biệt, tỉ trọng chỉ chiểm 1,9%. Tỉ trọng ngành thủy sản không ổn định trong giai
đoạn 2005 – 2010 (từ 30,3% giảm xuống 19,4%), tăng lên trong giai đoạn 2015 – 2018 (27,7% và 30,3%). Nguyên nhân là do nuôi trồng thủy sản phù hợp với lợi thế của TP.HCM (có sông ngòi, kênh rạch và đường bờ biển dài 20km) với kinh nghiệm của người dân và đem lại hiệu quả kinh tế cao. 3.1.2. Chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất nông nghiệp
3.1.2.1. Thực trạng chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất nông nghiệp theo mục đích sử dụng Trong tổng số 209,55 nghìn ha diện tích tự nhiên của TP.HCM năm 2018, đất
nông nghiệp chiếm tỉ trọng khá lớn (54,5%), trong đó chủ yếu là đất sản xuất nông
nghiệp (chiếm 31,3% đất tự nhiên và 57,1% đất nông nghiệp).
Bảng 3.4. Diện tích và cơ cấu diện tích đất chia theo mục đích sử dụng của TP.HCM giai đoạn 2005 - 2018
Chuyển đổi
tăng(+), giảm (-)
Năm 2005
năm 2018
Cơ
Cơ
Cơ
cấu
Diện tích
Diện tích
Diện tích
cấu
cấu
(%)
Loại đất
(nghìn ha)
(nghìn ha)
(nghìn ha)
%
%
100
TỔNG SỐ -
209,55
209,55
100,00
-
-9,43
58,9
1.Đất nông nghiệp
123,52
114,09
-4,4
54,5
-12,35
37,2
1.1. Đất sản xuất nông nghiệp
77,95
65,6
-5,9
31,3
+1,84
16,2
1.2. Đất lâm nghiệp có rừng
33,86
35,7
+0,8
17,0
+0,93
4,7
1.3.Đất nuôi trồng thuỷ sản
9,77
10,7
+0,3
5,1
+0,15
0,9
1.5. Đất nông nghiệp khác
1,94
2,09
+0,1
1,0
+10,83
2. Đất phi nông nghiệp
83,77
40,0
94,6
+5,1
45,1
-1,41
3. Đất chưa sử dụng
2,26
1,1
0,85
-0,7
0,4
Nguồn: tính toán từ [28]
Trong cơ cấu đất nông nghiệp, đất SXNN có diện tích lớn nhất và có xu hướng giảm trong giai đoạn từ 2005-2018 (giảm 12,35 nghìn ha). Như vậy quỹ đất nông nghiệp nói chung và đất sản xuất nông nghiệp nói riêng của TP giảm đi do xu hướng chuyển đổi sang đất phi nông nghiệp, phản ánh quá trình đô thị hóa vẫn đang diễn ra nhanh chóng, có xu hướng tăng 0,8% (do diện tích rừng trồng tăng thêm).
84
Đất lâm nghiệp có rừng chiếm 17% (2018) trong diện tích đất tự nhiên, có xu
hướng tăng (năm 2005 là 16,2%). Đất này chủ yếu là rừng phòng hộ phân bố ở huyện
Cần Giờ với diện tích 20,3 nghìn ha; các loại cây chủ yếu là tràm, đước. Đất rừng sản
xuất chiếm 0,4% diện tích đất nông nghiệp, phân bố chủ yếu ở các huyện Cần Giờ, huyện Hóc Môn, huyện Củ Chi, huyện Bình Chánh và một phần nhỏ ở quận 9. Rừng sản xuất chủ yếu là rừng trồng phục vụ cho sản xuất, với các loại cây như keo, tràm và
bạch đàn.
Đất NTTS chiếm 5,1% (2018) trong diện tích đất tự nhiên, có xu hướng tăng 0,3 % do hiệu quả kinh tế cao hơn hẳn so với đất trồng trọt. Đất NTTS (nước mặn, lợ, ngọt) với diện tích 7,4 nghìn ha tập trung nhiều ở huyện Cần Giờ, Nhà Bè để nuôi tôm;
nuôi cá nước ngọt, ba ba, cá sấu ở huyện Củ Chi, Bình Chánh, Quận 12 và các khu vực ven sông Sài Gòn. Ngoài ra, người dân tận dụng các ao, hồ nhỏ trong các khu dân cư
nuôi thả cá, ếch, ba ba kết hợp tích trữ nước và tạo cảnh quan môi trường phân bố chủ
yếu ở các huyện ngoại thành (trong đó nước ngọt là 0,6 nghìn ha và nước mặn, lợ là 6,8
nghìn ha).
Đất nông nghiệp khác tăng chậm, tăng 0,1%, diện tích 2,09 nghìn ha tập trung ở
5 huyện, chủ yếu là vườn ươm, cơ sở sản xuất cây giống, con giống.
Đất chưa sử dụng giảm đáng kể (giảm 1,41 nghìn ha) do các loại đất đã được đưa
vào sử dụng trong quá trình phát triển đô thị.
Trong cơ cấu đất SXNN, đất trồng cây hàng năm chiếm tỉ lệ cao hơn đất trồng
cây lâu năm (51,7% và 48,3%). Tuy nhiên cơ cấu đất trồng cây hàng năm có xu hướng
đoạn 2010-2018). Sự chuyển đổi trong cơ cấu sử dụng đất SXNN diễn ra với các xu hướng khác nhau theo từng giai đoạn.
giảm (5,9% giai đoạn 2010-2018), nhường chỗ cho đất trồng cây lâu năm (tăng 4,3% giai
Bảng 3.5. Diện tích và cơ cấu diện tích đất nông nghiệp của TP.HCM giai đoạn 2010 - 2018
Chuyển đổi
Loại đất
Năm 2010
Năm 2018
tăng(+), giảm (-)
Diện tích
Diện tích
Cơ cấu
Diện tích
Cơ cấu
Cơ cấu
(nghìn
Tổng số
(nghìn ha)
(%)
(nghìn ha)
(%)
(%)
ha)
Đất sản xuất nông nghiệp
71,5
100
65,6
100
-5,9
1.1.Đất trồng cây hàng năm
41,2
57,6
33,9
51,7
-7,3
-
a. Đất trồng lúa
24,4
34,1
17,7
27,0
-6,7
-7,1
b. Đất cỏ dùng vào chăn nuôi
2,2
3,1
-
-
-
-
c. Đất trồng cây hàng năm khác
14,6
20,4
16,2
24,7
+1,6
+4,3
1.2. Đất trồng cây lâu năm
30,3
42,4
31,7
48,3
+1,7
+5,9
Nguồn: tính toán từ [28]
85
- Đất trồng cây hàng năm chia thành đất trồng lúa, đất cỏ dùng vào chăn nuôi,
đất trồng cây hàng năm khác.
+ Diện tích đất trồng lúa khá cao và có xu hướng giảm (chiếm 27% trong cơ
cấu đất SXNN, giảm 7,1% trong cơ cấu).
+ Đất cỏ dùng vào chăn nuôi chiếm cơ cấu thấp (3,1%, 2010). Tỉ lệ và diện tích
đất này đều giảm mạnh do cách thống kê, đất trồng cỏ được tính vào đất trồng cây
hàng năm khác.
+ Đất trồng cây hàng năm khác tăng lên 4,3% (2018) bao gồm hoa, cây cảnh,
rau đậu và cây công nghiệp ngắn ngày.
Tỉ lệ đất trồng cây hàng năm hiện nay đang có xu hướng giảm do người nông dân
chuyển đổi từ diện tích trồng lúa năng suất thấp sang các cây hàng năm khác như hoa,
cây cảnh hoặc chuyển sang đất phi nông nghiệp. Trong quy hoạch sử dụng đến 2020, Chính phủ đã cho phép TP.HCM chuyển mục đích sử dụng hơn 29.000 ha đất nông
nghiệp thành các loại đất phi nông nghiệp. Trong giai đoạn từ 2010 – 2018, TP đã
chuyển được hơn 3.000 ha, còn lại hơn 26.000 ha (chiếm 22,5% đất nông nghiệp).
- Đất trồng cây lâu năm: bao gồm đất trồng cây công nghiệp lâu năm như cao
su, điều, cà phê và cây ăn quả. Giai đoạn 2010 – 2018, diện tích đất này tăng chậm từ
30,3 lên 48,3 nghìn ha (tăng 1,7 nghìn ha). Do nhu cầu thị trường nên diện tích trồng
cây ăn quả tăng nhưng không đáng kể. Một phần do diện tích đất lúa năng suất kém
chuyển sang đất trồng cây lâu năm.
Tóm lại trong khoảng thời gian từ 2005 - 2018, diện tích đất của TP.HCM đã có sự
biến động lớn với xu hướng giảm diện tích đất nông nghiệp, đất SXNN và đất chưa sử
dụng. Sự biến động trong sử dụng đất SXNN gắn liền với các quá trình CĐNN, sự phát
triển các đô thị, các nhà máy, các khu công nghiệp tập trung, các công trình cơ sở hạ tầng dẫn đến hoạt động thu hồi đất SXNN. Trong đó, đất trồng lúa năng suất thấp và đất trồng cây hàng năm khác không hiệu quả được chuyển sang trồng và nuôi các loại cây, con có giá trị, năng suất cao hơn như rau, hoa lan, cá cảnh, bò sữa và tôm. Việc đa dạng hóa cây trồng và chuyển đổi từ các loại cây hàng năm sang các loại cây trồng khác phù hợp với quá trình CĐNN do nhu cầu của người dân chuyển sang chế độ ăn uống đa dạng hơn cùng với thu nhập người dân tăng lên.
86
3.1.2.2. Thực trạng chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất nông nghiệp theo không gian
Xu hướng chuyển đổi về mặt không gian của thành phố là hình thành các vành
đai nông nghiệp theo hướng nông nghiệp công nghệ cao, tiếp tục duy trì những vùng
đất nông nghiệp ven đô và xa đô tại các huyện Bình Chánh, Hóc Môn, Củ Chi, Cần Giờ. Đây là vành đai có vai trò cung cấp lương thực cho thành phố. Vành đai nông nghiệp này còn có vai trò quan trọng hút đầu tư vào nông nghiệp, giữ nông dân ở lại
ven đô, không dịch chuyển sâu vào nội thành. Những trọng điểm nông nghiệp của thành phố là vùng trồng rau xanh, hoa cảnh, nuôi bò sữa chất lượng cao ở Củ Chi, Hóc
Môn.
Trong tổng thể phát triển kinh tế - xã hội TP.HCM từ năm 2005- 2018, các khu
vực nội đô, ven đô và xa đô của thành phố có biến động đáng kể. Đặc biệt là sự xuất hiện của các quận nội đô mới, thu hẹp khu vực ven đô, giảm bớt các huyện xa đô do
quá trình đô thị hóa bao gồm:
Khu vực 1 (nội đô, khu nội thành hiện hữu) với 13 quận nội thành gồm các Quận
1, 3, 4, 5, 6, 8, 10, 11, Gò vấp, Bình Thạnh, Phú Nhuận, Tân Bình, Thủ Đức với tổng
diện tích khoảng 14.200 ha. Tháng 11-2003, khu vực nội đô mới (khu nội thành phát
triển) gồm 6 quận mới gồm các Quận 2, 7, 9, 12, bổ sung Bình Tân, Tân Phú (chia
tách từ huyện Bình Chánh và quận Tân Bình) với tổng diện tích khoảng 35.200 ha.
Giai đoạn 2005 – 2018, Đất SXNN ở các quận nội đô chuyển sang đất phi nông nghiệp.
Các Quận 2, quận 9 trước đây trồng lúa năng suất kém đã không còn hiện hữu. Các nhà
vườn trồng hoa, cây cảnh ở Thủ Đức, Q9 có xu hướng chuyển hướng về Bình Chánh,
Hóc Môn và Củ Chi.
Khu vực 2 (ven đô) gồm các huyện Bình Chánh, Hóc Môn, Nhà Bè. + Huyện Nhà Bè với diện tích là 100 km2, từ lâu đã quy hoạch chuyển đổi thành khu vực đô thị hóa cao, là động lực phát triển cho vùng đô thị phía nam của thành phố
bên cạnh quận 7.
+ Huyện Bình Chánh với diện tích 253 km2, được quy hoạch thành vùng chăn
nuôi tập trung của thành phố.
+ Huyện Hóc Môn có diện tích 110,18 km², phát triển thành vành đai cung cấp
thực phẩm cho TP.HCM hỗ trợ giảm áp lực dân cư cho vùng nội thành.
Khu vực 3 (xa đô) là các huyện Củ Chi, Cần Giờ. + Huyện Củ Chi với diện tích 435 km², nằm trong vùng chuyển tiếp giữa miền Đông Nam Bộ và miền Tây Nam Bộ. Huyện Củ Chi đang chuyển đổi từ đất trồng lúa năng suất thấp sang trồng cây hằng năm như rau, hoa, cây cảnh, trồng cỏ chăn nuôi bò.
87
+ Huyện Cần Giờ diện tích gần 704 km2, đa phần là rừng ngập mặn, không thích hợp phát triển chuyên canh nông nghiệp nhưng thích hợp cho nuôi trồng thủy sản
(nuôi tôm, hàu, nghêu..), phát triển nghề làm muối.
Quy mô đất SXNN ảnh hưởng trực tiếp đến cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất nông nghiệp có liên quan mật thiết đến CĐNN, dẫn đến sự biến động diện tích trồng trọt, chăn nuôi trong từng giai đoạn. Đất sản xuất nông nghiệp
hiện nay tập trung nhiều nhất tại 3 huyện là huyện Cần Giờ (44,1 nghìn ha), Củ Chi (33,3 nghìn ha) và Bình Chánh (19,4 nghìn ha). Ba huyện này là vùng chuyên canh về
NTTS, trồng trọt và chăn nuôi, đóng góp đáng kể cho GTSX nông nghiệp của TP.HCM.
Đất trồng lúa một phần ở Hóc Môn, Củ Chi đã chuyển sang trồng cây hằng năm
như rau, hoa, cây cảnh, cỏ nuôi bò có giá trị cao hơn. Đất lúa năng suất kém ở các huyện Nhà Bè, Cần Giờ thì chuyển sang nuôi trồng thủy sản, hoặc đất trồng cây lâu năm.
3.1.2.3. Đánh giá tiềm năng đất đai
Tiềm năng đất đai phục vụ cho quá trình CĐNN còn khá lớn, hiện nay, đất nông
nghiệp chiếm 54,5% tổng diện tích tự nhiên toàn TP.HCM. Đất phi nông nghiệp chiếm
45,1% tổng diện tích tự nhiên. Diện tích đất 19 quận nội thành chiếm 23,5%; 5 huyện
ngoại thành chiếm 76,5% diện tích đất tự nhiên.
Quỹ đất nông nghiệp còn khá lớn nhưng nhiều khu vực đất nông nghiệp, người
dân sử dụng không hiệu quả, sản xuất nhỏ, để trống hoặc hoang hóa. Đất nông nghiệp
không thể sản xuất vì xung quanh đã có rất nhiều nhà ở, không có hệ thống thủy lợi,
trồng trọt không đem lại hiệu quả kinh tế, gây lãng phí. Việc thu hút đầu tư vào nông
nghiệp để áp dụng các mô hình tổ chức SXNN như trang trại, HTX, doanh nghiệp
nông nghiệp cũng khó để triển khai tại những khu vực này do vướng vào qui hoạch hoặc không thể chuyển đổi.
Tình trạng chuyển đổi mục đích sử dụng đất còn nhiều khó khăn khi chi phí đầu
tư để chuyển đổi từ đất trồng cây lâu năm sang nuôi trồng thủy sản, sang trồng cây
hàng năm (hoa, rau, cây cảnh…). Đầu tư vào hệ thống các trang trại, nhà kính, nhà lưới …khá tốn kém, hơn nữa còn rủi ro về điều kiện thời tiết, khí hậu. Quá trình CĐNN, ứng dụng KH - CN đặc biệt là cơ giới hóa trong nông nghiệp tại TP.HCM gặp nhiều trở ngại.
Quy hoạch sử dụng đất của TP với những điều chỉnh trong diện tích đất SXNN (đặc biệt đất trồng cây hàng năm) sẽ tiếp tục giảm mạnh đến 2030. Để sử dụng đất nông nghiệp hiệu quả, TP cần tăng cường CĐNN, đa dạng hóa cây trồng, vật nuôi, bố trí lại sản xuất, tái cơ cấu nông nghiệp theo hướng nông nghiệp đô thị đi đôi với ứng
88
dụng công nghệ cao. Trong nội bộ từng ngành cũng cần phải có sự chuyển đổi cho phù
hợp nhằm nâng cao hiệu quả GTSX và tăng thu nhập cho người nông dân.
3.1.3. Chuyển đổi sản xuất nông nghiệp
3.1.3.1. Chuyển đổi trong nội bộ nông nghiệp
Cơ cấu GTSX trong nội bộ ngành nông nghiệp đang có những chuyển đổi tích
cực. Từ 2005-2018, ngành chăn nuôi của thành phố tăng tỉ trọng đáng kể (từ 49,7% lên
59%), mặc dù có giai đoạn tăng chậm (từ 2015- 2018) nhưng không đáng kể do ảnh hưởng của thị trường tiêu thụ.
Tỉ trọng ngành trồng trọt năm 2018 so với năm 2005 giảm từ 39,4% xuống
33,0%, tỉ trọng dịch vụ nông nghiệp giảm không liên tục từ 10,9% xuống 8,0%. Xu
hướng chuyển dịch nhanh chóng từ ngành trồng trọt sang chăn nuôi, phù hợp với định hướng CĐNN của TP.HCM. Tỉ trọng dịch vụ nông nghiệp giảm do yếu tố thị trường,
chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất theo hướng hàng hóa trong chuyển đổi của ngành
nông nghiệp.
Bảng 3.6 GTSX và cơ cấu GTSX nông nghiệp của TP.HCM giai đoạn 2005 – 2018
2005
2010
2015
2018
Năm
2583,3
7130,9
12530,0
12924,6
Tổng số
Cơ cấu (%) Bao gồm
39,4
37.9
33,1
33,0
Trồng trọt
49,7
54.7
58,6
59,0
Chăn nuôi
10,9
7,4
8,3
8,0
Dịch vụ nông nghiệp
Nguồn: Tính toán từ (Cục Thống kê TP.HCM, 2011, 2016, 2018)
a) Chuyển đổi cơ cấu cây trồng ▪ Khái quát chung
Trồng trọt là ngành đóng góp đáng kể trong cơ cấu nông nghiệp của TP.HCM
nhờ có đầy đủ các nhân tố thuận lợi về kinh tế - xã hội (nhu cầu thị trường, nguồn lao động…) và yếu tố tự nhiên (đất, nước). Trong giai đoạn 2005 – 2018, ngành nông nghiệp đã tập trung đầu tư về vật tư nông nghiệp, hỗ trợ về giống, KHCN và cơ sở hạ tầng sản xuất cho các hộ nông dân. Trong đó, TP.HCM ưu tiên cho cây cảnh, hoa lan, cây ăn quả và rau các loại.
Ngành trồng trọt đã sử dụng hiệu quả các tiến bộ mới để tiến hành thâm canh,
tăng vụ, tạo ra những mặt hàng xuất khẩu có giá trị (hoa lan, cây cảnh…) đóng góp
tích cực cho ngành nông nghiệp, đảm bảo một phần thực phẩm cho Thành phố với hơn 8 triệu dân.
89
- Về diện tích gieo trồng
Diện tích gieo trồng TP.HCM có sự biến động theo từng giai đoạn. Trong giai
đoạn 2005 – 2018, diện tích gieo trồng cây hàng năm giảm 17,2 nghìn ha do chuyển
đổi sang đất phi nông nghiệp. Cây hàng năm giảm chủ yếu là cây lương thực (giảm 22,7 nghìn ha); cây rau đậu (giảm 0,9 nghìn ha), cây công nghiệp (giảm 2,2 nghìn hag). Diện tích cây hàng năm khác (cây thức ăn cho gia súc gia cầm) có xu hướng tăng
mạnh, tăng 8,6 nghìn ha để phục vụ cho ngành chăn nuôi đang được chuyển đổi mạnh mẽ. Ngược lại, trong cùng thời gian này diện tích cây lâu năm tăng đều, nhất là cây ăn quả
do một phần chuyển đổi mục đích từ cây hàng năm sang trồng cây ăn quả, một phần do
công tác chuyển từ đất vườn trong đất ở thành đất cây lâu năm.
Bảng 3.7. Diện tích gieo trồng và cơ cấu diện tích gieo trồng cây hàng năm của TP.HCM
giai đoạn 2005 – 2018
Cây lương thực Cây rau, đậu
Cây công nghiệp
Cây hàng năm khác
Năm
%
%
%
%
Nghìn ha
Nghìn ha
Nghìn ha
Nghìn ha
Diện tích cây hàng năm 57,3 41,2 43,6 40,1
41,7 25,4 22,0 19,0
72,8 61,7 50,5 47,3
8,6 9,2 9,0 7,7
15 22,4 20,5 19,2
4,2 2,4 2,4 2,0
4,4 2,5 2,5 2,1
2,8 4,2 10,3 11,4
7,8 13,4 26,5 31,4
-17,2
-22,7
-26
-0,9
+4
-2,2
-2
+8,6
+24
2005 2010 2015 2018 Chuyển đổi +tăng, -giảm
Nguồn: Tính toán từ (Cục Thống kê TP.HCM, 2011, 2016, 2018)
- Về giá trị sản xuất
Từ năm 2005 - 2018, GTSX ngành trồng trọt có xu hướng giảm trong cơ cấu
chiếm 33% trong cơ cấu ngành nông nghiệp (2018), thấp hơn rất nhiều so với ngành
chăn nuôi (59%) (bảng 3.6). Trong cơ cấu GTSX ngành trồng trọt, cây hàng năm vẫn
chiếm ưu thế so với cây lâu năm chiếm 82,3% và cơ cấu có xu hướng tăng nhưng diện tích gieo trồng cây hàng năm lại giảm phù hợp với xu thế chuyển đổi cơ cấu ngành trồng trọt.
Trong cơ cấu cây hàng năm, GTSX cây rau đậu, hoa, cây cảnh đóng vai trò chủ đạo trong cơ cấu cây hàng năm, tăng cả tỉ trọng và GTSX (1.924,5 tỉ đồng năm 2015) và chiếm 45% trong cấu cây hàng năm, năm 2018 [28]. Điều này chứng minh ngành trồng cây rau đậu, hoa, cây cảnh đem lại lợi nhuận cao. Vì TP.HCM không chỉ là trung tâm sản xuất hoa, cây cảnh mà còn là thị trường tiêu thụ hoa, cây cảnh lớn nhất nước với diện tích hơn 1nghìn ha. Hàng năm, thành phố xuất khẩu hoa cảnh đạt doanh thu
90
hàng nghìn tỷ đồng. GTSX cây lâu năm có xu hướng tăng liên tục từ 270,7 tỉ đồng lên
gần 800 tỉ đồng nhưng trong cơ cấu GTSX ngành trồng trọt lại có xu hướng giảm [28].
Với đặc thù ngành nông nghiệp chiếm cơ cấu thấp trong GDP nhưng trồng trọt
lại có thế mạnh khá lớn về các mặt hàng rau, hoa, cây cảnh xuất khẩu đem lại lợi nhuận cao, giá trị lớn. Đây là những loại cây có lợi thế về thị trường tiêu thụ, khả năng sản xuất lớn ở vùng ven đô thị của Thành phố.
- Về khả năng chuyển đổi cơ cấu cây trồng Trong cơ cấu GTSX ngành trồng trọt, cây hàng năm vẫn chiếm ưu thế so với cây
lâu năm chiếm 82,3% (2018), cây lâu năm chiếm 19,7% GTSX ngành trồng trọt.
Chuyển đổi ngành trồng trọt ở TP.HCM được quyết định bởi cây hàng năm. Mặc dù
cơ cấu có xu hướng tăng nhưng diện tích gieo trồng lại giảm do xu thế chuyển đổi cơ cấu ngành trồng trọt trong CĐNN.
Sự chênh lệch về giá trị, quy mô và diện tích giữa cây hàng năm và cây lâu năm
được quyết định bởi điều kiện tự nhiên và nhu cầu của thị trường. Mặc dù điều kiện tự
nhiên của TP.HCM thích hợp cho cây lâu năm sinh trưởng tốt như cao su, điều, cây ăn
quả nhưng do diện tích đất dành cho cây lâu năm không nhiều như các tỉnh lân cận nên
khả năng cạnh tranh kém hơn. Các tỉnh Bình Phước, Đồng Nai, Bình Dương xem cây
ăn quả là sản phẩm chuyên môn hóa sau các cây công nghiệp lâu năm khác như cao su,
điều, cà phê.
Khả năng mở rộng diện tích cây lâu năm tại TP.HCM rất hạn chế. Cây lâu năm
yêu cầu sự đầu tư về mặt đất đai, nhiều công chăm sóc, thu hoạch, vốn đầu tư lớn, chỉ
phù hợp với các tỉnh có diên tích rộng lân cận của TP.HCM. Cây ăn quả ở vùng Đông
Nam Bộ đứng thứ hai cả nước sau Đồng bằng sông Cửu Long, được phát triển theo hình thức trang trại với các sản phẩm nổi tiếng như bưởi Tân Triều, chôm chôm Long
Khánh.
Các cây trồng hàng năm như cây công nghiệp (lạc, mía, thuốc lá) hay cây lương
thực (ngô, khoai, sắn) cũng không phải thế mạnh của thành phố. TP.HCM đang tập trung chuyển đổi sang các cây cho giá trị kinh tế cao, đòi hỏi ít nhân công nông nghiệp, ít tốn đất đai như trồng hoa cắt cành (hoa lan), cây cảnh và rau an toàn. Đặc điểm chung của các cây này là dễ trồng, chi phí đầu tư thấp, dễ thâm canh, trồng nhiều vụ trong năm, quay vòng vốn nhanh, thị trường tiêu thụ rộng lớn (trong thành phố và xuất khẩu). Hơn nữa, TP.HCM là trung tâm công nghiệp lớn nhất cả nước, các cây nông nghiệp hàng năm là nguyên liệu đầu vào cho ngành công nghiệp chế biến thực phẩm (đồ hộp rau, củ).
91
▪ Nhóm cây hàng năm
- Cây lương thực có hạt
Cây lương thực bao gồm cây lương thực có hạt (gồm lúa và ngô) và cây chất bột
lấy củ (khoai mì, khoai lang, khoai khác…). Các cây lương thực có hạt như lúa và ngô có sự khác biệt về diện tích, sản lượng. Diện tích trồng lúa giảm mạnh trong khi ngô lại tăng lên. Năng suất của lúa vẫn cao hơn ngô, với 46,5 tạ/ha trong khi ngô là 37,5
tạ/ha. Do sản lượng cây lương thực có xu hướng giảm trong khi dân số đông và tăng nhanh nên bình quân lương thực theo đầu người của Thành phố khá thấp đạt 11,24
kg/người, thấp nhất trong 5 thành phố trực thuộc Trung Ương.
Trong cây lương thực có hạt, cây lúa đóng vai trò quan trọng nhất (40,4 nghìn ha, 2005) nhưng lại là loại cây có giá trị thấp hơn trên thị trường. Trong giai đoạn 2005 – 2018 lúa chiếm trên 40% diện tích gieo trồng. Giá trị sản xuất của cây lương thực có hạt
chiếm phần nhỏ trong GTSX của ngành N, L, TS chiếm 8,4% trong cơ cấu năm 2005 (là
322,2 tỉ đồng).
Lúa hiện là cây trồng chính trong các cây hàng năm, có đóng góp lớn vào tăng
trưởng ngành trồng trọt cả về diện tích gieo trồng và GTSX. Trên địa bàn thành phố
lúa được trồng cả 3 vụ: đông xuân, hè thu và lúa mùa (thu đông). Mặc dù trong các sản
phẩm chủ lực giai đoạn 2005 - 2018 không có lúa nhưng lúa vẫn được trồng vì góp
phần đảm bảo tình hình lương thực của TP.HCM. Năm 2005, TP.HCM xác định 6 cây,
con chủ lực có lợi thế cạnh tranh là ngô lai, rau an toàn, cỏ để chăn nuôi, hoa lan, đậu
phộng và tôm sú. Tổng giá trị sản lượng 5 cây và 1 con là 3,7 nghìn tỷ đồng so với
doanh thu trồng lúa là 306 tỷ đồng, chênh lệch gấp 12 lần.
Bảng 3.8. Diện tích, sản lượng và năng suất cây lương thực có hạt giai đoạn
2005 - 2018 tại TP.HCM
Diện tích (nghìn ha)
Sản lượng (nghìn tấn)
Năm
Năng suất (tạ/ha)
2005 2010 2015 2018
Tổng số 41,4 25,3 21,3 17,7
Lúa 40,4 24,4 20,4 17,0
Ngô 1,0 0,9 1,0 0,8
Tổng số 136,9 94,8 91,6 82,1
Lúa 33,0 37,6 43,3 46,5
Ngô 33,0 34,4 32,0 37,5
Ngô 3,3 3,1 3,2 3,0
Lúa 133,6 91,8 88,3 79,1 Nguồn: Tính toán từ (Cục Thống kê TP.HCM, 2011, 2016, 2018)]
Diện tích trồng lúa chiếm 95,1 % trong tổng diện tích cây lương thực có hạt,
chiếm 46,1% trong diện tích cây hàng năm. Diện tích trồng lúa giảm xuống còn còn
17,0 nghìn ha giai đoạn 2005-2018 vì thành phố có xu hướng chuyển hầu hết diện tích
92
trồng lúa năng suất thấp sang vật nuôi hoặc cây trồng khác có năng suất, hiệu quả cao
hơn từ 5 - 6 lần như rau, cây ăn quả, hoa, cây cảnh, bò sữa, tôm sú.
Về phân bố: lúa cả năm tập trung chủ yếu ở các huyện ngoại thành. Dẫn đầu về
diện tích là huyện Củ Chi, Bình Chánh và ít nhất là huyện Cần Giờ. Trong đó, tất cả
các quận, huyện đều có diện tích lúa giảm. Giảm nhiều nhất là các huyện ven thành
phố như Củ Chi, Bình Chánh, Nhà Bè, rồi đến các quận 9, Bình Tân. Riêng quận 12
không còn trồng lúa mặc dù năm 2005 có 15 ha. Các huyện có diện tích lúa giảm
nhiều do chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất nông nghiệp phục vụ cho hoạt động phi nông
nghiệp như xây dựng khu công nghiệp Tây Bắc (Củ Chi), khu công nghiệp Linh Trung
(Thủ Đức), khu công nghiệp Tân Tạo (Bình Tân). Cho đến năm 2018, trong số 19
quận của thành phố, có 5 quận của thành phố còn trồng lúa, trong đó nhiều nhất là
Quận 9 (0,2 nghìn ha) và ít nhất là Quận Thủ Đức (0,01 nghìn ha). Với tốc độ đô thị
hóa, CNH, HĐH diễn ra, diện tích gieo trồng lúa ở các quận sẽ giảm nhanh và mất
dần.
Ngô là cây lương thực đứng thứ hai sau lúa. Diện tích gieo trồng ngô giai đoạn
hiện nay giảm. Trước năm 2018, ngô được quan tâm trồng nhiều do giá trị thương
phẩm cao, là nguyên liệu quan trọng cho công nghiệp chế biến thức ăn gia súc, công
nghiệp chế biến thực phẩm.
Năng suất ngô trung bình trong những năm gần đây đạt trên 37,5 tạ/ha (33 tạ/ha
năm 2005. Về phân bố, cây ngô được trồng chủ yếu ở các huyện ngoại thành như Củ
Chi, Hóc Môn; các giống ngô lai đã được đưa vào trồng tại TP.HCM như MN-1, LVN
14, DK 9955 thích hợp trồng ở cả ba vụ hè thu, vụ mùa và đông xuân. Tuy nhiên, hiện
nay diện tích ngô của TP.HCM có xu hướng giảm, sản lượng giảm dù năng suất tăng.
Các nhà máy chế biến ngô còn phụ thuộc vào nguồn cung cấp nguyên liệu từ bên
ngoài nên đầu ra của sản phẩm còn gặp nhiều khó khăn nên cây ngô không phải là loại
cây cho thu nhập cao. Do vậy ngô chỉ xuất hiện ở một số huyện có diện tích đất nông
nghiệp lớn, dân cư, lao động đông.
- Cây rau, đậu (cây thực phẩm) Cơ cấu cây rau đậu tăng trong cơ cấu ngành trồng trọt trong giai đoạn 2005 – 2010. Điều này phù hợp với xu thế chuyển đổi từ cây lương thực sang cây rau đậu do nhu cầu về rau xanh tăng lên đáp ứng hơn 8 triệu dân thành phố. Do trồng rau xanh theo hướng nông nghiệp công nghệ cao tận dụng được đất đai, khí hậu, lao động và
93
sản xuất nên quỹ đất trồng rau đã tăng lên (từ 8,6 lên 9,2 nghìn ha) trong giai đoạn từ
2005 – 2010.
Năng suất rau tăng mạnh (từ 19,1 lên 31,6 tấn/ha) do TP.HCM chuyển đổi cơ
cấu đất trồng; từ đất lúa sang đất trồng rau. Mặc dù vậy, giai đoạn 2010 – 2018, diện tích trồng rau lại giảm do các quận trước kia có trồng rau nhưng không còn trồng như quận 8, Tân Phú, Bình Thạnh; chủ yếu do sự thay đổi cơ cấu loại rau, áp dụng mô hình
trồng rau an toàn, điều kiện thời tiết và khí hậu.
Sản lượng rau năm 2018 tăng lên đáng kể; 243,1 nghìn tấn so với 163,9 nghìn ha
năm 2005. Mô hình trồng rau trong nhà lưới, nhà màng cũng góp phần đáng kể giúp
cho một số nông hộ trồng rau có hiệu quả, số vụ trồng tăng lên, dù diện tích giảm còn
7,7 nghìn ha (2018).
Bảng 3.9. Diện tích, năng suất và sản lượng rau các loại của TP.HCM
giai đoạn 2005 - 2018
Diện tích(nghìn ha)
Năng suất(tấn /ha)
Sản lượng (nghìn tấn)
Năm
2005
8,6
19,1
163,9
2010
9,2
22,9
210,9
2015
9,0
27,3
245,3
2018
7,7
31,6
243,1
Nguồn: Tính toán từ (Cục Thống kê TP.HCM, 2011, 2016, 2018)
Về loại rau bao gồm nhóm rau ăn lá ngắn ngày (các cây rau có thời gian sinh
trưởng dưới 60 ngày như cải xanh, cải ngọt, cải trắng rau dền, mồng tơi, tần ô, rau đay,
rau muống hạt) chiếm tỷ lệ 24,73%. Nhóm rau ăn củ quả ngắn ngày, có thời gian sinh
trưởng khoảng 4 tháng như đậu đũa, dưa leo, khổ qua, mướp… chiếm tỷ lệ 25,55%.
Nhóm rau ăn củ quả bao gồm những cây rau có thời gian sinh trưởng trên 4 tháng như
bầu, bí, cà, ớt… chiếm tỷ lệ 12%. Rau muống nước chiếm 37,72%. Rau mầm cung cấp
200 - 300 kg/ngày, trồng rên địa bàn các quận Bình Tân, huyện Bình Chánh, huyện Hóc Môn với trên 40 hộ dân.
Về phân bố: rau các loại được phân bố ở 14 quận, huyện. Ba huyện ngoại thành (Củ Chi, Hóc Môn, Bình Chánh) có thể được coi là vành đai xanh của thành phố. Đứng đầu về diện tích là các huyện Củ Chi (3,01 ha), Bình Chánh (2,5 ha) và Hóc Môn (2,1 ha).
Áp dụng KHCN trong trồng rau: trong quá trình chuyển đổi, một trong những biện pháp canh tác rau an toàn được triển khai là trồng rau trong nhà lưới. Các mô hình nhà lưới trồng rau ở ngoại thành TP.HCM được bắt đầu thực hiện từ năm 2001. Một
94
phần là các mô hình trình diễn khuyến nông do Trung tâm Khuyến nông thực hiện,
phần còn lại là do người trồng rau tự đầu tư.
Các kiểu nhà lưới trồng rau hiện nay ở ngoại thành bao gồm: loại nhà lưới kín có
ưu điểm là ngăn ngừa được côn trùng phá hoại nên giảm thuốc trừ sâu sử dụng. Loại nhà lưới hở thì chỉ che được chủ yếu trên mái hoặc một phần bao xung quanh, giảm bớt tác hại của mưa và gió giúp, có thể trồng rau được cả vào mùa mưa nhưng không
ngăn ngừa được côn trùng.
Nhìn chung, việc đưa mô hình nhà lưới trồng rau vào vùng rau ngoại thành là một
bước đột phá mới trong việc đưa các công nghệ tiên tiến vào sản xuất. Người trồng rau
đầu tư thâm canh, bón phân, chăm sóc, sử dụng giống mới và tăng vụ. Với quy mô khoảng 1.000 m2 nhà lưới, một hộ gia đình với 2 lao động có thể đảm bảo thu nhập bình quân từ 2,0 - 2,5 triệu đồng/tháng. Trồng rau trong nhà lưới thực sự có hiệu quả, cho năng
suất cao và đảm bảo thu nhập cho người lao động [109].
- Hoa, cây cảnh
Trong quá trình CĐNN, hoa cây cảnh được chọn là cây chủ lực cho phát triển của
Thành phố. TP.HCM có nhiều thuận lợi về hoa cảnh nhiệt đới và một số loại hoa cảnh á
nhiệt đới phát triển.
Bảng 3.10. Diện tích, sản lượng hoa cây cảnh giai đoạn 2010 - 2018
Sản phẩm
2010
2015
2018
Chuyển đổi
2010 - 2018
Diện tích
Diện
Cơ
Diện
Cơ
Diện
Cơ
Tăng (+)
Tăng (+)
tích
cấu
tích
cấu
cấu
gieo trồng
tích
Giảm (-)
Giảm (-)
(ha)
(ha)
(%)
(%)
(%)
(ha)
Tổng
1910
100
2250
100
2500
100
-
-
Hoa nền
780
40,8
850
37,8
870
34,8
+90
-6
Hoa mai
525
27,5
550
24,4
530
21,2
+5
-6,3
Hoa lan
190
9,9
300
13,3
400
16,0
+210
+6,1
Cây cảnh
415
21,7
550
24,4
700
28,0
+285
+6,3
Nguồn: tính toán từ [28]
Về diện tích: đến cuối năm 2018, diện tích hoa, cây cảnh trên địa bàn thành phố đạt khoảng 2.500ha. Diện tích tập trung chủ yếu vào hoa nền (870ha), cây cảnh (700ha) hoa mai (530 ha), hoa lan (400ha). Dù diện tích các cây đều có xu hướng tăng (bảng 3.10) nhưng cơ cấu lại có xu hướng giảm, tập trung ở hoa nền và hoa mai,
95
tăng chủ yếu ở hoa lan và cây cảnh (6,1% và 6,3% năm 2018).Trong xu hướng chuyển
đổi, người nông dân có xu hướng chuyển sang trồng lan cho xuất khẩu và cây cảnh
cho mảng xanh của các công trình trong đô thị.
Về sản lượng: hoa lan cung cấp hàng năm khoảng 6,7 triệu chậu và 68,9 triệu cành, đạt giá trị khoảng 613,9 tỷ đồng. Hoa mai đạt 530 ha; sản lượng mai hàng năm khoảng 3,3 triệu chậu với giá trị sản lượng đạt 544,5 tỷ đồng. Cây cảnh đạt 700 ha, sản
lượng cung ứng hàng năm đạt 940 ngàn chậu với giá trị ước đạt 189,2 tỷ đồng. Hoa nền đạt 870 ha, sản lượng hoa nền cung ứng hàng năm đạt 28,6 triệu chậu với giá trị
sản lượng đạt 486,2 tỷ đồng. Diện tích trồng hoa cảnh có tăng nhưng không đều ở các
quận huyện; diện tích trồng hoa cảnh chủ yếu chỉ tăng mạnh ở một số huyện ngoại
thành như Củ Chi, Hóc Môn, Bình Chánh và quận Bình Tân.
Về giá trị sản xuất hoa cây cảnh tăng lên đáng kể, giai đoạn 2005 – 2010 tăng 6,5
lần giai đoạn 2010 – 2018 tăng gần 1,5 lần, đạt 1,9 nghìn tỉ đồng (2018). GTSX bình
quân trên 1 ha đạt 800 – 900 triệu đồng/năm [28]. TP.HCM là nơi tập trung các trung
tâm nghiên cứu giống, cây trồng, ứng dụng mô hình kỹ thuật trong nhân giống, nuôi cấy
mô. Đặc biệt thành phố có lợi thế trong các hoạt động giao dịch thương mại, xuất khẩu
đi các nước nhiều hơn so với các tỉnh khác trong vùng ĐNB. Việc phát triển ngành nghề
hoa, cây cảnh cũng tạo công ăn việc làm cho hàng ngàn lao động. Sản xuất hoa, cây
cảnh mang đặc điểm thâm canh với cường độ cao trên cùng diện tích đất sản xuất, cho
phép sử dụng hiệu quả đất đai, thu hút nhiều nguồn vốn đa dạng.
Về phân bố: các mô hình sản xuất hoa, cây cảnh có quy mô lớn, hiệu quả cao trên
địa bàn thành phố tập trung chủ yếu tại các huyện ngoại thành như huyện Củ Chi (830
ha), huyện Bình Chánh (516 ha) và huyện Hóc Môn (150 ha), các quận huyện còn lại là 524 ha (bao gồm quận 12, quận 9, quận Thủ Đức, quận Gò Vấp). Hoa, cây cảnh tập
trung chủ yếu trong những trang trại sản xuất tập trung với quy mô từ vài ha đến vài
chục ha. Từ những trang trại hạt nhân này sẽ là đầu tàu trong việc phát triển ngành hoa
cảnh của TP.HCM. Cụ thể, nhà vườn Đặng Lê Thanh Huyền, quy mô 5ha sản xuất hoa lan tại xã An Nhơn Tây, huyện Củ Chi, lợi nhuận khoảng 4 tỷ đồng/năm; nhà vườn Trần Ngọc Tuyết, quy mô 3 ha sản xuất hoa lan tại xã Hòa Phú, huyện Củ Chi, lợi nhuận khoảng 1,8 tỷ đồng/năm; nhà vườn Trịnh Minh Tân, xã Tân Phú Trung, huyện Củ Chi, quy mô 7 ha sản xuất cây cảnh, lợi nhuận khoảng 7 tỷ đồng/năm. Hoa, cây cảnh là một trong những cây trồng có giá trị kinh tế cao, phù hợp với sự phát triển của nông nghiệp đô thị, góp phần tạo ra những sản phẩm có giá trị góp phần nâng cao thu nhập cho các nông hộ [109].
96
+ Hoa lan: tập trung phát triển hoa Dendrobium (đang phát triển mạnh, có tiềm
năng xuất khẩu và tiêu thụ nội địa) và Mokara (sử dụng cho nhu cầu nội địa)v ới tỷ lệ
cho hoa là 70%. Thu nhập từ lan rất cao do lan có thị trường và việc nắm bắt kỹ thuật
trồng lan. Huyện Củ Chi đang phát triển mạnh nghề trồng lan, mỗi hộ trồng lan cắt cành có thể thu khoảng 1 triệu đồng/tuần/1.000 m2, cao hơn nhiều so với trồng một số rau màu khác. Nhiều người trồng rau màu ngắn ngày trước đây đã chuyển đổi sang
trồng lan cắt cành để có hiệu quả kinh tế cao hơn. Việc tham gia của các đơn vị đầu tư nước ngoài giúp cho giá trị xuất khẩu của hoa lan tăng nhanh, chủ yếu là cây các giống
với trên 1 triệu USD/năm. Như vậy, ngành trồng hoa lan ngày càng tỏ rõ ưu thế trong
ngành nông nghiệp đô thị trong quá trình chuyển đổi.
+ Hoa nền tập trung một số chủng loại có khả năng phát triển lâu dài và có thị trường tiêu thụ, cả xuất khẩu lẫn nội địa như cúc, vạn thọ, huệ, layơn nhiệt đới; hoa
mai tập trung phát triển hoa mai ghép, kết hợp với các tỉnh có quỹ đất để sản xuất mai
nguyên liệu, cảnh, cây cảnh tập trung phát triển các loại cây thành phẩm có giá trị kinh
tế cao và có giá trị thẩm mỹ như mai chiếu thủy, cần thăng, vạn niên tùng, thiên tuế;
liên kết với các tỉnh có quỹ đất để sản xuất cây nguyên liệu.
- Hạn chế:
+ Ngành trồng hoa cảnh Thành phố vẫn còn nhiều khó khăn do một số các giống
hoa chưa đạt tiêu chuẩn xuất khẩu. Các giống hoa lan nội địa đang bị thoái hóa, giống
nhập về thường là những giống cũ so với mặt bằng giống của thế giới, cho nên chỉ một
thời gian ngắn là lỗi thời, lạc hậu so với nhu cầu tiêu dùng. Các cơ sở cấy mô chưa đáp
ứng đủ giống cây cả về số lượng, chất lượng, dẫn đến tình trạng giống nhập về với giá
cao. Công nghệ trồng hoa chủ yếu là trồng tự nhiên ngoài đồng, trong khi công nghệ hiện đại yêu cầu phải có nhà lưới để chủ động kiểm soát điều chỉnh nhiệt độ, ánh sáng,
thời gian nở hoa, chống sâu bệnh, mưa gió.
+ Vốn đầu tư khá lớn cho trồng hoa và cây cảnh, nhất là hoa lan, đòi hỏi và thời
gian thu hồi vốn khá dài, trong khi nông dân quen làm ăn nhỏ, lẻ, vốn ít và chủ yếu sản xuất với tính chất tự phát. Thị trường xuất khẩu chưa được mở rộng do chủng loại, kích cỡ, sự đồng đều với số lượng lớn sản phẩm cung cấp chưa đáp ứng được các nhu cầu của người tiêu dùng nước ngoài. Bình quân mỗi năm thành phố xuất khẩu khoảng 2 - 3 triệu USD. Hiện tại hoa và cây cảnh chủ yếu vẫn tiêu thụ tại thị trường nội địa.
+ Hướng đi mới là việc xây dựng làng hoa và cây cảnh gắn liền với du lịch sẽ tạo ra một mô hình hấp dẫn du khách. Việc xây dựng làng hoa và cây cảnh mang tính văn hóa xã hội cao, đồng thời cũng phục vụ công tác kinh doanh hướng đến xuất khẩu.
97
Một trung tâm triển lãm và giao dịch hoa, cây cảnh tại huyện Củ Chi cũng sẽ được xây
dựng, vừa là nơi giao dịch, vừa là địa điểm du lịch. Bên cạnh đó, TP.HCM còn có thể
liên kết với các địa phương có thế mạnh trồng hoa cảnh để đáp ứng tốt hơn cho thị
trường những sản phẩm đa dạng, phong phú về chủng loại.
▪ Cây công nghiệp hàng năm
Bảng 3.11. Diện tích và sản lượng của cây công nghiệp ở TP.HCM giai đoạn 2005 – 2018
Diện tích (ha)
Sản lượng (tấn)
Năm
Thuốc lá Mía
Thuốc lá
Lạc
Lạc
Mía
1488 272 204 118
80 102 65 75
4457 739 616 362
2561 2024 2097 1783
151 179 132 196
139.7 124,8 149,9 131,5
2005 2010 2015 2018 Chuyển đổi
-1370
-5
-778
-4095
+45
-8,2
tăng, giảm 2018/2005 (ha)
tăng, giảm 2018/2005 (lần)
1,3
1,06
12,6
1,07
1,43
12,3
Nguồn: tính toán từ [28]
Lạc, thuốc lá và mía là các cây công nghiệp hàng năm của TP.HCM. Trong xu
thế chuyển dịch từ trồng trọt sang chăn nuôi thì diện tích các loại cây này cũng có
xu hướng giảm như lạc giảm 1,3 nghìn ha, thuốc lá giảm 5 ha và mía giảm 778 ha
từ 2005 - 2018. Dù diện tích giảm nhưng sản lượng thuốc lá có xu hướng tăng 45
tấn trong vòng 13 năm. Trong khi đó sản lượng lạc giảm 4,1 nghìn tấn (2018). Một
trong những nguyên nhân là giá trị thương phẩm không cao nên người nông dân không ưu tiên trồng mà chuyển sang các cây hàng năm khác có giá trị cao hơn như
rau, hoa, cây cảnh ở các huyện vùng ven thành phố…
▪ Cây công nghiệp lâu năm
GTSX của cây công nghiệp lâu năm chiếm 19,7% GTSX của ngành trồng trọt,
mỗi năm mang về gần 900 tỉ đồng (năm 2018). Cây lâu năm của thành phố trước đây có cao su, điều, hồ tiêu. Trong quá trình chuyển đổi, diện tích đất trồng cây lâu năm giảm đi nhanh chóng do chuyển đổi sang trồng cây hàng năm.
Cây ăn quả chiếm diện tích lớn trong diện tích cây công nghiệp lâu năm. Diện tích cây ăn quả trên địa bàn thành phố tiếp tục mở rộng, tập trung chủ yếu tại các huyện Củ Chi, Bình Chánh, Cần Giờ, Hóc Môn với các chủng loại chủ lực như xoài, chôm chôm, dứa, măng cụt... thời vụ trồng bắt đầu vào đầu mùa mưa. Năng suất dự kiến là 9 tấn/ha và sản lượng dự kiến là 90.000 tấn.
Về phân bố: cây ăn quả tập trung tại các xã, phường ven sông Sài Gòn thuộc các
98
huyện Củ Chi, huyện Hóc Môn, Quận 12, Quận Thủ Đức; ven sông Đồng Nai tại các
phường thuộc Quận 9; giồng cát ven biển tại các xã thuộc huyện Cần Giờ và các xã
vùng phèn Tây Nam thuộc huyện Bình Chánh, với tổng diện tích là 10.000 ha, gồm:
+ Vùng ven sông Sài Gòn: 3.326 ha, là vùng có truyền thống lâu đời với những vườn cây ăn trái lâu năm như: chôm chôm, sầu riêng, bưởi, măng cụt. Hiện người dân đang trồng mới thêm một số chủng loại khác: nhãn, xoài, chanh, mận.
+ Vùng ven sông Đồng Nai: 1.170 ha với các vườn chôm chôm, sầu riêng, nhãn,
xoài, bưởi, cam quýt, mãng cầu xiêm tại Quận 9.
+ Vùng giồng cát ven biển: 302 ha, nhà vườn đã có từ lâu đời và nổi tiếng với
chất lượng của trái xoài, mãng cầu, nhãn tại 2 xã Long Hòa, Cần Thạnh (Cần Giờ).
+ Vùng phèn Tây Nam: 3.240 ha, trồng dứa tại huyện Bình Chánh. Việc xác định các sản phẩm chủ lực, mang tính chất của nông nghiệp công nghệ
cao là mục tiêu quan trọng của ngành trồng trọt của TP.HCM trong giai đoạn tới. Đồng
thời hướng đi mới của nông nghiệp TP là xây dựng một trung tâm nghiên cứu, phân
phối về giống cây trồng, trình diễn các sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao. Một số
sản phẩm thị trường có nhu cầu lớn như rau, hoa, cây cảnh, cây ăn quả có tốc độ chuyển
đổi còn chậm, quy mô sản xuất chưa lớn, tính cạnh tranh yếu và chưa đảm bảo hoàn
toàn về chất lượng cũng như nhu cầu tiêu thụ của Thành phố. Nguồn cung về sản phẩm
trồng trọt của Thành phố vẫn đến từ các tỉnh lân cận của vùng đồng bằng sông Cửu
Long và Tây Nguyên.
Như vậy, cơ cấu ngành trồng trọt đã có sự chuyển đổi tích cực giảm tỷ trọng và
diện tích cây trồng ít giá trị hàng hóa như lúa, ngô, lạc mía… tập trung vào các cây
trồng có giá trị kinh tế cao, nhu cầu lớn của thị trường như rau an toàn, hoa, cây cảnh và cây ăn quả. Trên cơ sở tận dụng tối đa những lợi thế về mặt tự nhiên cũng như KT -
XH cho trồng trọt và tận dụng tính đa dạng của sản phẩm, ngành trồng trọt của
TP.HCM vẫn chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu của người dân thành phố, cung cấp
nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và xuất khẩu.
b) Chuyển đổi cơ cấu mùa vụ
▪ Về cơ cấu mùa vụ cấy lúa
Trong cơ cấu mùa vụ, vụ đông xuân gieo trồng diện tích thấp nhất (4,9 nghìn ha); cao nhất là lúa mùa (6,5 nghìn ha). Diện tích lúa ở tất cả các vụ đều có xu hướng giảm, giảm mạnh nhất là lúa mùa (17,2 nghìn ha từ năm 2005-2018), diện tích giảm xuống gần 4 lần. Về cơ cấu diện tích ba vụ lúa gieo trồng ở thành phố không chênh lệch nhiều, tuy nhiên nếu duy trì thường xuyên 3 vụ lúa sẽ không đảm bảo thời
99
gian cho đất nghỉ. Điều này dễ gây ra thoái hóa đất, sâu bệnh trên lúa, mặt khác do ảnh
hưởng của BĐKH, xâm nhập mặn ngày càng phức tạp dẫn đến hiệu quả kinh không cao.
Vì vậy, giải pháp chuyển đổi cơ cấu mùa vụ trên đất lúa, thay thế trồng lúa 1 vụ năng suất
thấp bằng các cây rau an toàn hoặc nuôi tôm trên đất lúa (ở những vùng ven biển như huyện Cần Giờ, huyện Nhà Bè...)
Bảng 3.12. Diện tích, năng suất và sản lượng lúa đông xuân, lúa hè thu, lúa mùa của
TP.HCM giai đoạn 2005 - 2018 (ĐVDT:ha)
Diện tích (nghìn ha)
Năng suất (tạ/ha)
Sản lượng (nghìn tấn)
Lúa
Lúa
Lúa
Lúa
Lúa
Lúa
Lúa
Lúa
Lúa
đông
hè
đông
hè
đông
hè
Năm
mùa
mùa
mùa
xuân
thu
xuân
thu
xuân
thu
9,4
7,3
23,7
39,9
30,1
31,3
37,5
22,1
74,1
2005
6,6
6,5
11,3
43,9
38,4
33,5
29,0
25,0
37,7
2010
4,9
7,2
8,3
48,0
43,5
40,4
23,6
31,5
33,2
2015
4,9
5,6
6,5
50,5
74,0
43,8
24,6
26,1
28,4
2018
Chuyển đổi tăng,
-4,5
-1,7
-17,2 +10,6 +43,9 +12,6
-12,9
+4,1
-45,7
giảm 2018/2005
Nguồn: tính toán từ [28] - Vụ đông xuân bắt đầu từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau, đây là thời điểm mùa
khô của vùng Nam Bộ nên sản lượng không cao do thiếu nước tưới, nhưng cây trồng
được chăm sóc chu đáo hơn, thời tiết ổn định không có các hiện tượng bất thường như
dông, lốc, bão nên năng suất thường cao nhất trong 3 vụ. Hiện nay, vào vụ đông xuân,
bên cạnh việc trồng lúa duy trì lương thực, các nông hộ có xu hướng chuyển sang
trồng rau, đậu, hoa cắt cành, cây cảnh có giá trị thương phẩm cao hơn, thị trường tiêu
thụ tốt hơn đặc biệt vào dịp Tết nguyên đán. Vấn đề nước tưới được giải quyết bằng hình thức tưới tưới nhỏ giọt hay trồng trong nhà lưới.
- Vụ mùa từ tháng 5 đến tháng 11, đây là vụ chính ở vùng Nam Bộ, diện tích lúa mùa thường cao nhất (với các giống lúa dài ngày). Là thời điểm mùa mưa ở Nam bộ nên đảm bảo nước tưới cho cây trồng, thích hợp cho các loại cây sinh trưởng và phát triển nhanh. Các loại cây hàng năm khác như rau, đậu; cây công nghiệp hàng năm như lạc, mía, thuốc lá cũng được gieo trồng vào vụ này (khoảng tháng 5,6 đầu mùa mưa và thu hoạch trước khi lũ về vào tháng 9 dương lịch). Nhiệt độ trung bình không quá cao
100
hoặc quá thấp (từ 25 đến 300C), lượng mưa vụ này trung bình từ 1800 - 2000 mm đảm
bảo cây hàng năm có thể sinh trưởng tốt, không lo về nước tưới.
- Vụ hè thu là một vụ ngắn ngày, bắt đầu từ tháng 4 và thu hoạch vào trung tuần
tháng 8,9 vụ lúa hè thu diện tích cao hơn vụ đông xuân nhưng năng suất không bằng vụ đông xuân (43,8 ha năm 2018), vụ hè thu có mưa nhiều thời gian sản xuất ngắn, sản lượng cao hơn vụ đông xuân, các loại cây hàng năm như hoa (hoa nền), rau ăn lá ít
trồng ở vụ này do mưa nhiều, thời tiết không ổn định, chủ yếu là ngô, khoai, sắn…
▪ Về năng suất: năng suất lúa mùa tăng từ 31,3 lên 43,8 tạ/ha do áp dụng biện
pháp canh tác mới vào đồng ruộng. Tuy vậy, ít nhiều có sự phân hóa theo mùa vụ và
theo lãnh thổ. Vụ đông xuân thường cho năng suất cao nhất (50,5 tạ/ha năm 2018) và
năng suất thấp nhất là vụ mùa (43,8 tạ/ha năm 2018). Giữa các quận huyện cũng có sự
khác nhau về năng suất.
▪ Về cơ cấu sản lượng lúa cả năm: vụ mùa dẫn đầu về sản lượng với 28,4 nghìn
tấn, vụ đông xuân là 24,6 nghìn tấn. Vụ hè thu với sản lượng tăng hơn 1,5 nghìn tấn so
với vụ Đông Xuân nhưng lại có năng suất thấp hơn (năm 2018 là 43,8 tạ/ha).
▪ Về chuyển đổi giống lúa: có khoảng 26 giống lúa được gieo trồng, trong đó trên
70% các giống lúa được trồng phổ biến như: OM 4900 (25,4%), OM 6162 (15,7%),
Nàng hoa (10,6%), OM 576 (10,6%). Đây là các giống lúa triển vọng, vừa có năng
suất cao, kháng sâu bệnh tốt, vừa có phẩm chất tốt như: OM6162, OM4900… thay thế
cho các giống lúa cũ năng suất thấp. Các sinh vật gây hại chủ yếu cho lúa là rầy nâu,
sâu cuốn lá, bọ trĩ, bọ xít hôi, sâu phao, bệnh đạo ôn, bệnh đốm vằn, ốc bươu vàng và
chuột. Công tác phòng chống bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá hại lúa đạt kết quả tốt, do
ngay từ đầu vụ ngành nông nghiệp phối hợp với chính quyền địa phương đã vận động
nông dân áp dụng các biện pháp phòng trừ kịp thời và hiệu quả.
Như vậy, chuyển đổi cơ cấu giống lúa và cơ cấu mùa vụ đã góp phần quan trọng vào kết quả sản xuất lúa. Diện tích gieo trồng có xu hướng giảm nhưng năng suất lúa liên tục tăng ở cả 3 vụ lúa trong năm giai đoạn từ 2005 – 2018. Một phần do diện tích trồng lúa giảm nên sản lượng lúa của Thành phố cũng giảm. Sản lượng lúa mùa giảm nhiều nhất (50% sản lượng) sau đó đến lúa đông xuân. Riêng lúa hè thu lại có xu hướng tăng nhưng chậm ( từ 22,1 nghìn ha lên 26,1 nghìn ha).
c) Chuyển đổi cơ cấu vật nuôi ▪ Khái quát
101
GTSX của ngành chăn nuôi tăng nhanh liên tục, nâng tỉ trọng ngành chăn nuôi
lên 58% (0 2018) trong GTSX chung của ngành nông nghiệp (lên 7,8 nghìn tỉ đồng
năm 2018). Tốc độ tăng trưởng của ngành chăn nuôi bình quân giai đoạn 2005 - 2018
là 9%/năm. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng không ổn định, chủ yếu do ảnh hưởng của dịch bệnh và giá thức ăn chăn nuôi có nhiều biến động.
Cơ cấu ngành nông nghiệp của thành phố giai đoạn 2005 - 2018 tập trung chủ
yếu vào lợn, bò sữa và gia cầm (gà hướng trứng, hướng thịt và gà thả vườn lông màu). Chăn nuôi phát triển theo hướng công nghệ mới thích ứng với biến đổi khí hậu, phát
triển trang trại. Chăn nuôi có xu hướng di chuyển về các huyện ngoại thành, tập trung
chủ yếu tại huyện Củ Chi, Bình Chánh, Hóc Môn. Tại đây, hình thành các trang trại
chăn nuôi tập trung, các cơ sở chăn nuôi, giảm các hộ chăn nuôi nhỏ, phát triển trang trại theo hướng sinh học, công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Quy mô đàn lợn nái là 5,73
con/hộ, lợn thịt là 28,23 con/hộ và bò sữa là 9,13 con/hộ.
• Chăn nuôi bò
Chăn nuôi bò đứng thứ hai trong các vật nuôi về GTSX sau chăn nuôi lợn tại
TP.HCM (chiếm 42%). Số lượng bò liên tục tăng từ 80,3 nghìn con lên 130,6 nghìn
con từ 2005 – 2018. Năm 2018, đàn bò sữa tăng lên 81,3 nghìn con. Sản lượng sữa bò
tươi tăng mạnh (2,3 lần) từ 2005-2018, chứng tỏ nhu cầu về sữa và các phẩm từ sữa
của thành phố tăng nhanh.TP.HCM chiếm 27,6% tổng đàn bò sữa của Việt Nam (đứng
đầu cả nước). Nghề nuôi bò sữa đang mang lại giá trị kinh tế cao cho người nông dân
tại các huyện Hóc Môn, Củ Chi và Nhà Bè. Thịt bò chất lượng cao đạt 5 nghìn tấn
hàng năm; cung ứng gần 7 nghìn con giống cho ngành chăn nuôi tại TP.HCMvà các
tỉnh; các giống bò lai như Drought Master, Brahman hay BBB có trọng lượng xuất
chuồng đạt 300 - 350 kg/con.
Sản lượng đàn bò sữa của thành phố có xu hướng tăng liên tục từ 56,2 nghìn con
lên 81,3 nghìn con (2018). Đàn bò sữa được thuần hóa bằng các dòng tinh của
Holstein Friesland của Canada, Israel, Mỹ; chọn lọc những giống bò sữa chất lượng
cao.
Về phân bố: bò sữa, bò thịt được phát triển nhiều ở các huyện ngoại thành của
TP.HCM như huyện Củ Chi, Bình Chánh, Hóc Môn và Cần Giờ. Trong đó, Củ Chi là
huyện có số lượng bò sữa và bò thịt lớn nhất. Củ Chi trở thành trung tâm nuôi bò sữa
với đồng cỏ rộng lớn dành cho chăn nuôi (20 xã, thị trấn của huyện Củ Chi đã phát
triển nhờ nghề nuôi bò sữa). Nhiều trang trại bò sữa được hình thành với quy mô từ 30
102
đến hơn 200 con/1trang trại. Xã Tân Thạnh Đông hiện có đàn bò sữa 20 ngàn con - lớn
nhất thành phố. Nghề nuôi bò sữa giúp cho 1.600 hộ nông dân trực tiếp chăn nuôi có
đời sống khá hơn và tạo thu nhập ổn định cho hàng ngàn hộ trồng cỏ nuôi bò ở đây.
Hình 3.1. Biểu đồ số đàn bò sữa và sản lượng sữa bò tươi của TP.HCM
giai đoạn 2005 – 2018
Về khó khăn: tình hình chăn nuôi nói chung và chăn nuôi bò nói riêng trên địa
bàn TP.HCM phát triển tương đối ổn định. Mặc dù tình hình dịch bệnh khác trên đàn
gia súc trong khu vực diễn biến phức tạp. Rất nhiều cơ sở chăn nuôi bò tại các huyện
Bình Chánh, Củ Chi đã thực hiện tốt phòng chống dịch bệnh nên có giai đoạn giá sữa
bò và giá bò thịt giảm thì các hộ chăn nuôi ở TP.HCM vẫn mạnh dạn đầu tư tăng đàn.
Huyện Củ Chi hiện đã có trên 8 nghìn hộ đầu tư nuôi bò sữa, nhiều hộ nuôi từ 30 đến
300 con bò.
Có hàng chục HTX trên địa bàn huyện Củ Chi tham gia thu mua nhỏ lẻ. Sản lượng sữa bò toàn huyện đạt trên 400 tấn/ngày. Các doanh nghiệp vẫn đang ký hợp đồng thu mua sữa với hộ, trang trại chăn nuôi mới. Còn đối với các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ, doanh nghiệp thu mua đề nghị phải thành lập tổ chăn nuôi để doanh nghiệp thu gom sản phẩm. Chính quyền địa phương vận động các hộ chăn nuôi bò sữa nhỏ lẻ thành lập
tổ chăn nuôi, HTX chăn nuôi đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp, cũng như hỗ trợ kỹ thuật chăm sóc, tăng sản lượng sữa chất lượng cao, an toàn, đảm bảo cho các hộ chăn nuôi có đầu ra ổn định.
• Chăn nuôi lợn
103
Chăn nuôi lợn đứng đầu trong ngành chăn nuôi của TP.HCM về cơ cấu GTSX,
số đàn và sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng. Năm 2018, chăn nuôi chiếm 52% GTSX
toàn ngành nông nghiệp. Theo số liệu thống kê hiện nay năm 2018 tổng đàn lợn cả
nước là 28,9 triệu con, riêng TP.HCM có khoảng 290 nghìn con, chiếm 1,07% trên đàn lợn cả nước. Tốc độ tăng đàn lợn trong thành phố những năm gần đây có xu hướng chững lại. Mỗi năm chỉ tăng bình quân 0,2%, trong khi đó lượng lợn cả nước lại
tăng 5,4 %. Trong cơ cấu đàn lợn, lợn thịt chiếm ưu thế với 259,6 nghìn con (chiếm 83,9% năm 2016), tiếp theo là lợn nái chiếm 15,7% và lợn đực chiếm 0,4%. Hiện nay
đầu đàn lợn nuôi tại các trại quốc doanh chiếm 15% tổng đàn của Thành phố, và đàn
nái chiếm 20%. Chủ yếu đàn lợn giống này là đàn giống thuần, gốc, năng suất cao.
Hàng năm, các trại này sản xuất được khoảng 50.000 con giống bố mẹ để cung cấp cho thị trường tiêu thụ.
Hình 3.2. Biểu đồ số đàn lợn và sản lượng thịt lợn hơi của TP.HCM
giai đoạn 2005 – 2018
Từ năm 2005 đến 2018, đàn lợn tăng 54,6 nghìn con, đàn lợn thịt 49,3 nghìn con,
thịt lợn hơi tăng 20,5 nghìn tấn. Nhưng nếu xét về mặt sản lượng thịt hơi thì đàn lợn
của thành phố có mức tăng trưởng tương đối cao, khoảng 74%. Đặc biệt là tỷ lệ nạc
cao, chất lượng thịt tốt, trọng lượng bình quân lợn thịt xuất chuồng là 80kg/con (cao
hơn 21% so với cả nước). Điều này chứng minh ngành chăn nuôi lợn thành phố đã
thành công khi áp dụng những tiến bộ kỹ thuật trong khâu tuyển chọn, nhân giống,
cũng như quy mô nuôi ngày càng được cải thiện. Một phần nguyên nhân do nhu cầu về
104
thịt lợn tăng cao trong các bữa ăn hàng ngày; do người dân tự động tăng đàn khi giá
thịt tăng cao và thương lái thu mua nhiều. Giống cung cấp cho thị trường thành phố
vẫn chủ yếu là từ nguồn các doanh nghiệp Nhà nước như Công ty Nông nghiệp Sài
Gòn, Công ty Vissan sẽ tập trung lai tạo; nhập con giống, gia công, hệ thống sản xuất
thức ăn cung ứng. Giá lợn giống tại TP.HCM luôn cao nên thị trường miền Đông Nam
Bộ đang có xu hướng nhập lợn giống từ các tỉnh phía bắc (nhất là Hưng Yên, Thái
Bình).
Bảng 3.13. Bảng số lượng và cơ cấu đàn lợn, thịt lợn hơi của TP.HCM
giai đoạn 2005 – 2018 (đơn vị: nghìn con)
2005
2010
2015
2018
Số lượng (nghìn con) - Lợn + % so với cả nước - Đàn lợn thịt + % so với cả nước
235,6 1,1 195,4 1,1
293,4 1,3 245,3 1,04
306,4 1,1 264,3 1,1
290,2 1,0 244,7 1,0
2018/2005 Tăng+, giảm- +54,6 -0,1 +49,3 -0,1
- Thịt lợn hơi (nghìn tấn)
34,6
66,3
45,5
55,1
+20,5
+% so với cả nước
2,1
2,2
1,3
1,4
-0,7 Nguồn: tính toán từ [28]
Chăn nuôi nhỏ lẻ, giống lợn cao, chi phí thức ăn cho chăn nuôi còn cao nên giá
thành phẩm rất cao làm cho chăn nuôi gặp nhiều khó khăn. Chăn nuôi lợn phát triển
theo mô hình chuỗi giá trị nông sản từ trang trại đến bàn ăn; nguồn cung thịt lợn được
kiểm soát từ các tỉnh lân cận vào TP.HCM; các lò giết mổ lợn được giám sát trước khi
vào các chợ đầu mối để cung cấp cho thị trường tiêu thụ. Mô hình sản xuất của ngành
chăn nuôi TP.HCM đang chuyển đổi từ chăn nuôi quảng canh sang thâm canh, quy mô
chăn nuôi trong hộ gia đình từ 50 lên đến 100 nái hoặc từ 100 lên đến 300 lợn thịt.
Thành phố cũng tạo điều kiện để hình thành các vùng chăn nuôi tập trung, thúc đẩy
ngành chăn nuôi phát triển ổn định.
c) Chăn nuôi gia cầm Cơ cấu GTSX của ngành chăn nuôi gia cầm ở TP.HCM hiện nay đang có xu hướng giảm trong cơ cấu GTSX của ngành chăn nuôi từ 5% năm 2005 xuống 0,8% năm 2018. Mặc dù vậy, GTSX thực tế lại có xu hướng tăng (61,2 lên 85,2 tỉ đồng) do số lượng đàn gia cầm tăng lên đáng kể. Nguyên nhân chủ yếu là nhu cầu về thịt gia cầm của Thành phố tăng cao do dân số thành phố ngày một gia tăng.
105
Số lượng gia cầm tăng trong giai đoạn 2005 - 2018, từ 599,3 nghìn con năm 2005
lên 785,4 nghìn con. Chăn nuôi gia cầm chủ yếu là gà, vịt, ngan, ngỗng, chim cút và đà
điểu. Với tổng đàn giống cung ứng và thu lại nguồn sản phẩm trứng và thịt là 137.000
con giống gà GP và PS, để tạo ra 16 triệu con gà 1 ngày tuổi, trong đó đàn giống hướng trứng là 2 triệu con; đàn giống hướng thịt lông trắng là 9 triệu con và đàn giống hướng thịt lông màu là 5 triệu con. Năm 2018, số gà của Thành phố là 715 nghìn con, chủ yếu
là gà thịt với 661,2 nghìn con, gà đẻ trứng là 54 nghìn con, sản lượng trứng là 1,2 triệu quả. Vịt với 10,8 nghìn con, ngan là 1,1 nghìn con, 0,8 nghìn con ngỗng, 63 nghìn con
chim cút, đà điểu là 6 con.
Về phân bố và phương thức chăn nuôi: đàn gia cầm giống hướng trứng và hướng
thịt được nuôi tại huyện Củ Chi, Bình Chánh, Cần Giờ thành phố Hồ Chí Minh. Phương thức chăn nuôi có xu hướng thay đổi từ chăn nuôi theo hộ gia đình (nuôi gà thả vườn)
sang tập trung phát triển chăn nuôi gia cầm quy mô công nghiệp, chuồng kín, đảm bảo
các điều kiện về an toàn sinh học, có sự kiểm soát chặt chẽ của cơ quan thú y.
Tại TP.HCM, kể từ dịch cúm gia cầm năm 2003 đến nay, UBND thành phố có quy
định không cho nuôi gia cầm ở nội thành. Các khu vực ngoại thành như Hóc Môn, Củ
Chi, Bình Chánh mới có những trang trại nuôi gà, vịt với số lượng khoảng 239.000 con.
Tuy nhiên, tại ngoại thành, người dân phải xin phép và được sự đồng ý của địa phương,
sau đó được Chi cục Thú y thẩm định về điều kiện vệ sinh chuồng trại, giám sát vệ sinh
dịch tễ mới được nuôi[110].
Về khó khăn:
+ Phương thức chăn nuôi nhỏ lẻ, phân tán còn phổ biến và tình trạng chăn nuôi
tự phát không đảm bảo vệ sinh chưa được xử lý triệt để, ảnh hưởng đến công tác quản lý giống, dịch tễ và tiêm phòng .
+ Tình hình dịch bệnh từ các tỉnh thành lân cận và trong cả nước luôn tạo áp lực
cho thành phố trong kiểm dịch vận chuyển động vật và kiểm soát sản phẩm động vật
nhập vào thành phố, cũng như ảnh hưởng không nhỏ đến kiểm soát an toàn dịch bệnh cho các trại chăn nuôi trên địa bàn thành phố. Dịch cúm gia cầm vẫn diễn biến phức tạp, virút cúm gia cầm phát triển nhiều biến thể như H5N6, H7N9.
d) Đối với các vật nuôi khác
Dê, ngựa, thỏ, cá sấu, chim yến là một số vật nuôi góp phần vào đa dạng hóa sản
xuất chăn nuôi cũng là một hướng đi mới vào những sản phẩm có giá trị hàng hóa lớn
phục vụ nhu cầu của thành phố và các tỉnh.
106
Đối với đàn dê, thành phố hiện đang duy trì đàn dê ở mức 2.849 con tập trung tại
huyện Hóc Môn, Củ Chi, Bình Chánh. Đàn cá sấu duy trì khoảng 200.000 con đến năm
2020, tập trung tại quận 9, 12, Thủ Đức, huyện Củ Chi, Bình Chánh, Cần Giờ phục vụ
chủ yếu cho thị trường trong nước. Đàn ngựa đang có 37 con, số lượng ngựa giảm
nhanh do Trường đua Phú Thọ không còn duy trì đua ngựa như thời gian trước. Đàn thỏ
giảm từ 10.008 con xuống còn 2737 con do nhu cầu thị trường giảm.
Nuôi chim yến là một trong những hình thức phát triển ở TP.HCM trong giai đoạn
hiện nay. Tổ chim yến đem lại giá trị kinh tế cao (có giá trị từ 2,2 triệu – 3,5 triệu/gr tổ
yến thành phẩm), cung cấp cho thị trường nguồn hàng chất lượng. Tập trung chủ yếu tại
các huyện ngoại thành như Cần Giờ, Bình Chánh, Nhà Bè; số nhà nuôi yến khoảng 550
nhà và sản lượng tổ yến khoảng 12.000 kg (2018).
• Đánh giá
Như vậy từ năm 2005 đến năm 2018, cơ cấu ngành chăn nuôi của TP.HCM
chuyển dịch theo chiều hướng tích cực, tăng tỷ trọng những sản phẩm chăn nuôi có giá
trị lớn. Tuy nhiên sự chuyển đổi này gặp nhiều khó khăn do tác động của quá trình đô
thị hóa và các dịch bệnh trên gia súc, gia cầm. Ngành chăn nuôi gặp phải một số vấn
đề như lo ngại của người tiêu dùng về sử dụng chất cấm, an toàn thực phẩm và dịch
bệnh. Vì vậy, các cơ sở chăn nuôi được đưa ra khỏi dân cư, chuyển về các huyện ngoại
thành như huyện Hóc Môn, Củ Chi, Bình Chánh, Nhà Bè và huyện Cần Giờ để giảm
nguy cơ lây bệnh từ vật nuôi sang người. Quá trình này vẫn còn mất nhiều thời gian do
các hộ gia đình vẫn chăn nuôi nhỏ lẻ trong các quận thành phố. Chất thải trong chăn
nuôi cũng là một nỗi lo đối với sức khỏe con người.
3.1.3.2. Chuyển đổi trong nội bộ ngành lâm nghiệp
GTSX ngành lâm nghiệp chiếm tỷ trọng nhỏ trong cơ cấu GTSX nông, lâm, thủy
sản của TP.HCM chỉ khoảng 1,9% (2018). Cơ cấu GTSX của ngành lâm nghiệp giảm
từ 2,5% năm 2005 lên 1,9% năm 2018.
Tổng diện tích rừng của Thành phố là 34,4 nghìn ha chiếm 16,7% diện tích tự nhiên của Thành phố, diện tích rừng đang có xu hướng giảm, trong đó diện tích rừng tự nhiên là 13,4 nghìn ha, diện tích rừng trồng mới là 21 nghìn ha. Nguyên nhân diện tích rừng giảm là do diện tích rừng trồng giảm do người dân chuyển đổi mục đích từ trồng rừng sang nuôi tôm (giảm 5,8 ha trong 10 năm), lâm nghiệp có vị trí rất khiêm tốn trong nền kinh tế của TP.HCM với chức năng của rừng được xác định là nhiệm vụ
phòng hộ.
107
Trong lâm nghiệp, hai hoạt động chính là trồng - nuôi rừng và khai thác lâm sản.
Diện tích rừng tự nhiên chỉ còn 13,4 nghìn ha, chủ yếu là rừng mới trồng sau giải
phóng tập trung tại huyện Cần Giờ. Rừng không phải cho khai thác gỗ mà để bảo tồn
các nguồn gen, hệ sinh thái và cảnh quan tại khu dự trữ sinh quyển Cần Giờ. Ngoài ra còn phục vụ cho mục đích nghiên cứu, tham quan, du lịch..
Trong cơ cấu GTSX lâm nghiệp của TP.HCM, phần đóng góp chủ yếu thuộc về
ngành khai thác gỗ và chế biến lâm sản (chiếm 94,3% năm 2018), ngành trồng và
chăm sóc rừng GTSX có biến động từ năm 2005-2008, sau đó phục hồi lại và đạt 11,8
tỉ đồng năm 2014; tỉ trọng ngành này có xu hướng giảm nhanh chỉ còn 3,7 tỉ đồng năm
2018. Ngành dịch vụ lâm nghiệp có tỉ trọng giảm liên tục từ 2011 trở lại đây, GTSX
không ổn định (3,3 tỉ đồng).
a) Ngành khai thác gỗ và chế biến lâm sản
Đối với TP.HCM, nhiệm vụ của ngành lâm nghiệp chủ yếu là trồng và bảo vệ
rừng, do vậy các sản phẩm khai thác từ rừng chủ yếu là gỗ có xu hướng giảm từ
14.041m3 xuống 10.962m3, củi cũng giảm nhanh chóng, giảm từ 2005 - 2018. Bên
cạnh đó là tre, trúc, lồ ô, lá dừa nước, măng tươi… cũng giảm đáng kể.
Bảng 3.14. Sản lượng gỗ và lâm sản ngoài gỗ của TP.HCM giai đoạn 2005 - 2018
Chuyển đổi
(tăng+,
Sản phẩm
Đơn vị tính
2005
2010
2015
2018
giảm-)
Gỗ- Trong đó:
m3
14.041
13.453
10.761
10.962
-3.079
+ Khu vực kinh tế nhà nước
12.000
12.032
10.761
10.962
-1.308
Củi- Trong đó:
Ste
25.581
9.460
2.809
3.148
-22.433
+ Khu vực kinh tế nhà nước
5.421
6.791
2.083
2.397
-3.024
Tre, trúc, lồ ô
nghìn cây
4.027
4460
936
-3.152
875
Lá dừa nước
nghìn lá
-
-
1087
812
Măng tươi
tấn
-
-
485
479
Nguồn: tính toán từ [28]
108
b) Trồng và bảo vệ rừng
Diện tích rừng phòng hộ chủ yếu là rừng ngập mặn Cần Giờ và rừng phòng hộ tại
hai huyện Bình Chánh, Củ Chi. Đối với TP.HCM việc trồng rừng phải được thực hiện
thường xuyên và liên tục vì diện tích rừng trồng của TP.HCM đang có xu hướng giảm
đặc biệt là rừng phòng hộ giảm 65,9 ha (2018), do nhiều hộ dân tại Cần Giờ phá rừng
làm ruộng muối, ruộng nuôi tôm khi giá muối, giá tôm tăng cao trong. Đây là hệ quả
của mô hình chuyển đổi trong nuôi trồng thủy sản. Diện tích rừng sản xuất có xu
hướng tăng nhưng không đáng kể, rừng đặc dụng từ năm 2013 chuyển thành rừng
phòng hộ chủ yếu tại Bình Chánh. Diện tích đất có rừng giai đoạn 2014-2018 tăng
2.226 ha (tăng bình quân 1,3%/năm). Tỷ lệ che phủ rừng năm 2018 đạt 17,48% (tăng
bình quân 1,3%/năm), tỷ lệ che phủ rừng và cây xanh 2018 đạt 40,18% (tăng bình
quân 0,3%/năm).
Bảng 3.15. Diện tích rừng và phân loại diện tích theo rừng của TP.HCM giai đoạn
2005-2018
Chuyển đổi
Năm
2005
2010
2015
2018
(tăng, giảm)
- Trồng rừng tập trung (ha)
164
134
19
93
+74
- Phân theo loại rừng
+ Rừng sản xuất
19
164
134
93
+74
+ Rừng phòng hộ
-
-
-
-
-
+ Rừng đặc dụng
-
-
-
-
-
Nguồn: tính toán từ [28]
Ngoài chức năng điều hòa không khí, rừng ngập mặn còn có vai trò rất quan trọng
trong việc ứng phó với các tác động của biến đổi khí hậu. Trong đó, các bãi bồi có ý
nghĩa quan trọng trong việc phát triển rừng, bảo tồn, tạo thành những lớp bao bọc để chắn sóng, chống sạt lở, giữ đất khi nước biển dâng và triều cường. Rừng ngập mặn có mật độ dày đặc vừa cố định đất và hạn chế sạt lở, thúc đẩy quá trình bồi tụ ở vùng bãi bồi. rừng phòng hộ Cần Giờ cần được tập trung khoanh nuôi, tái sinh trên đất bãi bồi ven biển để nâng cao giá trị rừng ngập mặn cũng như mở rộng diện tích rừng. Giai đoạn 2011 - 2018, có 1.000 ha rừng tự nhiên đã được xúc tiến, khoanh nuôi, tái sinh, đa dạng hóa.
109
Mô hình phát triển rừng của thành phố là phát triển rừng phòng hộ đi đôi với bảo
vệ môi trường. Quá trình CĐNN đi đôi với việc bảo vệ các mảng xanh của thành phố
với hệ sinh thái đa dạng có chức năng phòng hộ ven biển, cơ sở cho việc phát triển đô
thị bền vững, điều hòa mật độ mảng xanh cho thành phố, hạn chế ô nhiễm khói, bụi từ các hoạt động công nghiệp [109]. 3.1.3.3. Chuyển đổi trong nội bộ ngành thủy sản
Tỉ trọng của ngành thủy sản trong cơ cấu GTSX nông, lâm, thủy sản của Thành phố có sự biến động đáng kể, trong đó năm 2011 giảm xuống thấp nhất là 20,5%, tốc
độ tăng trưởng trung bình là 8,9%/ năm, đứng đầu trong ngành nông nghiệp.
Quy mô GTSX ngành thủy sản của Thành phố liên tục tăng từ 1,2 nghìn tỉ đồng
lên 5,1 nghìn tỉ đồng.Thủy sản TP.HCM trải qua hai giai đoạn phát triển rõ nét; giai
đoạn đầu chủ yếu khai thác tài nguyên; giai đoạn thứ hai, bắt đầu nghề nuôi trồng.
Thủy sản được xác định là một trong những sản phẩm chủ lực của thành phố.
Diện tích mặt nước dành cho thủy sản của Thành phố khá cao là 6.000 - 7.000 ha
trên tổng diện tích quy hoạch là 10.000 ha. Nuôi trồng thủy sản tập trung chủ yếu ở
huyện Cần Giờ với 6,6 nghìn ha mặt nước, chưa kể vùng biển. Cần Giờ có 96% dân số
làm nghề thủy sản; nuôi tôm, cá, nhuyễn thể, giống. Các huyện còn lại như huyện Bình
Chánh, Củ Chi cũng có diện tích nuôi trồng; riêng huyện Nhà Bè do tốc độ đô thị hóa
nhanh nên diện tích không còn nhiều.
Ngành nuôi trồng giữ vai trò chủ đạo chiếm 75,8% trong cơ cấu GTSX thủy sản nhưng có xu hướng giảm. Năm 2018, ngành khai thác chiếm 24,2% và có xu hướng
tăng. Tình hình phát triển ngành thủy sản của thành phố diễn ra theo xu hướng biến
động do tác động của nhu cầu thị trường. Mặc dù GTSX của ngành nuôi trồng liên tục
nhưng GTSX của ngành nuôi trồng còn chưa tương xứng với tiềm năng của địa phương.
GTSX của ngành nuôi trồng thủy sản thường cao hơn ngành khai thác do khắc
phục được những hạn chế do phụ thuộc vào môi trường tự nhiên và thiên tai. Dịch vụ thủy sản chiếm tỷ trọng không đáng kể, có xu hướng không ổn định do các hoạt động dịch vụ chế biến thủy sản tại chỗ chưa hỗ trợ được hoạt động này của thành phố.
a) Nuôi trồng thủy sản Diện tích nuôi trồng thủy sản năm 2018 là 7939 ha, trong đó khoảng 3.300 ha ao
nuôi, sản lượng bình quân thu hoạch 13.093 tấn/năm (gần 9%/năm).
+Thủy sản nước mặn với sản lượng 23,3 nghìn tấn, nước lợ cao hơn với 29,8 nghìn tấn chủ yếu là tôm sú, tôm thẻ chân trắng, các loại nhuyễn thể (hàu, nghêu, cua, sò huyết, ốc hương) chủ yếu ở huyện Nhà Bè, Cần Giờ, với vật nuôi chủ lực. Huyện
110
Bình Chánh có một số hộ nuôi tôm thẻ chân trắng theo hình thức bán thâm canh.
+ Thủy sản nước ngọt có sản lượng thấp nhất là 7,4 nghìn tấn chủ yếu là cá cảnh,
cá tra, cá trê, cá sặt rằn, lươn và tôm càng xanh chủ yếu ở Quận 9, Quận 2, Bình Thạnh
Bình Chánh, Củ Chi, Thủ Đức.
Nuôi tôm của TP.HCM chủ yếu tập trung tại huyện Cần Giờ. Các mô hình nuôi thủy sản theo công nghệ mới phù hợp với điều kiện của huyện đã từng bước được đầu
tư. Có sự chuyển đổi đối tượng nuôi trồng như đối với nuôi tôm từ nuôi tôm sú sang nuôi tôm thẻ chân trắng; mô hình thâm canh với diện tích nuôi tăng. Các mô hình nuôi
thâm canh như: mô hình nuôi theo quy chuẩn VietGAP, theo công nghệ Việt-Úc, nuôi
hữu cơ. Diện tích nước mặt nuôi thả trên 6.000 ha, nuôi thâm canh là 2.500 ha, nuôi
luân canh theo mô hình tôm - muối, tôm – lúa là 536 ha, nuôi tôm theo hướng quảng canh.
Một số chủng loài thủy sản khác như loài nhuyễn thể chủ yếu là hàu, ốc hương,
nghêu và sò đang được nuôi chủ yếu tại xã đảo Thạnh An, Cần Thạnh, Lý Nhơn và
Long Hòa. Trong đó, nuôi hàu phát triển mạnh (bình quân sản lượng tăng 56%/năm,
đạt 5.400 tấn/năm). Ngoài ra còn có nuôi cá chẽm, nuôi cua, cá bớp, cá dứa bước đầu
mang lại hiệu quả tạo thuận lợi cho việc triển khai đầu tư thả nuôi với quy mô lớn
trong thời gian tới. Thành phố tập trung chủ yếu nuôi tôm là chính, ngoài ra phát triển
nuôi cá cảnh. Nuôi cá cảnh theo hướng nông nghiệp đô thị với diện tích nuôi nhỏ, áp
dụng công nghệ hiện đại, mang lại hiệu quả và thu nhập cao cho người dân phục vụ
chủ yếu cho xuất khẩu.
Các mô hình chuyển đổi trong ngành thủy sản như từ lúa - tôm, từ lúa - cá đã
được thực hiện và mang lại hiệu quả cao, đặc biệt đối với nuôi tôm sú ở Nhà bè, Cần
giờ. Công tác phát triển giống cho thủy sản góp phần lai tạo, sản xuất con giống cho
ngành nuôi trồng. Hiện nay thành phố có hơn 50 trại giống có khả năng sản xuất hơn
500 triệu con giống mỗi năm (tôm sú, cá rô phi), xuất khẩu nhiều giống cá cảnh đáp
ứng nhu cầu thị trường các nước như Mỹ, Pháp, Singapore tạo nguồn thu lớn ngoại tệ
và mở ra hướng phát triển cho lĩnh vực thủy sản của thành phố. Từ 2014-2018, số
lượng cá cảnh là 102 triệu con (bình quân tăng 17,9%/năm). Nuôi trồng thủy sản tăng
tăng bình quân 7,8%/năm, khai thác giảm bình quân 2,4%/năm.
b) Đánh bắt hải sản:
Sản lượng khai thác của huyện Cần Giờ bình quân 20.000 tấn/năm. Trước đây ở
vùng ven biển huyện Cần Giờ, ngư dân tập trung chủ yếu phát triển đánh bắt ven bờ với
111
hiệu quả kinh tế không cao. Nhưng trữ lượng khai thác ngày càng giảm, ngư trường chủ
yếu ven bờ, phương tiện có công suất nhỏ. Hiện nay, huyện đã có bước chuyển đổi sang
đánh bắt hải sản xa bờ.
Số lượng tàu đánh bắt có 561 tàu thuyền với công suất bình quân là 84 CV/tàu,
bình quân khai thác là 49 tấn tàu/năm (bình quân cả nước là 49 CV/tàu, khai thác là 17,5
tấn tàu/năm) (2018). Giai đoạn từ 2013-2018, đánh bắt ở vùng xa bờ phát triển chậm,
không thường xuyên, hiệu quả thấp, sản lượng khai thác giảm từ 21,7 nghìn tấn xuống
19,8 nghìn tấn; trong khi sản lượng nuôi trồng tăng lên 40,6 nghìn tấn.
Nguồn nguyên liệu cho chế biến chủ yếu từ đánh bắt ven bờ với nguồn cung ổn
định cho tiêu thụ hàng ngày. Vì thế, các chủ phương tiện sau thời gian hoạt động đã chủ
động đầu tư, cải tạo máy móc và thay đổi công cụ đánh bắt phù hợp với thời vụ khai
thác. Đến nay, sản lượng thủy sản khai thác được 70% là do đánh bắt xa bờ.
Bảng 3.16. GTSX và cơ cấu GTSX thủy sản và tốc độ tăng trưởng GTSX từ 2005 - 2018 (tỉ đồng, giá hiện hành)
Tiêu chí
2005
2010
2015
2018
GTSX thủy sản
11467
1741,84
4849,9
5697,5
(tỉ đồng, giá hiện hành)
khai thác
186,5
401,6
1278,9
1367,4
nuôi trồng
916,6
1308,1
3571,0
4330,1
Dịch vụ
43,6
32,1
-
-
Nguồn: tính toán từ [28]
Về công nghiệp chế biến hỗ trợ: tại Cần Giờ hiện có 279 cơ sở công nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp, 70 cơ sở chế biến với 750 lao động. Sản phẩm thủy sản chế biến, sản
phẩm muối đã có thương hiệu như khô cá dứa, yến sào Cần Giờ.
Nghề sản xuất muối: diện tích làm muối từ 2005-2018 liên tục tăng, sản lượng cũng tăng 2,34 lần trong 7 năm. Năng suất bình quân tăng từ 43,4 tấn/ha lên 80,13 tấn/ha. Về phương thức sản xuất cũng có sự thay đổi từ làm muối trên ruộng đất sang làm muối trên ruộng lót bạt giúp cho lợi nhuận cao hơn hẳn gấp 82 lần. Tuy nhiên với giá muối bấp bênh và không cạnh tranh được trên thị trường nên sản xuất muối cũng còn nhiều khó khăn. Nhiều nơi, người dân còn phá rừng để làm muối khi giá muối tăng cao, điều này không chỉ ảnh hưởng đến diện tích rừng phòng hộ ven biển của Thành phố mà còn gây tác động không nhỏ đến quy hoạch của Thành phố về ngành nông nghiệp. Vì vậy, quá trình chuyển đổi còn cần tính đến giải pháp tạo mô hình sản
112
xuất hiệu quả kết hợp với bảo vệ môi trường tự nhiên, trong đó có bảo vệ rừng mới
phát huy hiệu quả của CĐNN.
* Như vậy, trong khoảng thời gian từ 2005 - 2018, tốc độ tăng trưởng khác nhau
của các ngành nông, lâm, thủy sản dẫn đến một số thay đổi trong cơ cấu tổng sản lượng nông nghiệp theo hướng giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp, tăng tỷ trọng ngành thủy sản. Trong nội bộ từng ngành đã có sự chuyển dịch tích cực theo hướng tăng các
sản phẩm mang giá trị thương phẩm cao, nhu cầu thị trường lớn, tận dụng được nhiều điều kiện thuận lợi của vùng, giảm các sản phẩm kém chất lượng, năng suất thấp. Tuy
nhiên, quá trình CĐNN cũng bộc lộ sự chậm chạp trong quá trình chuyển đổi của một
số ngành, việc gắn kết sản phẩm nông nghiệp với công nghiệp chế biến và thị trường
còn yếu làm cho chuỗi giá trị nông sản còn rời rạc. 3.1.4. Chuyển đổi tổ chức sản xuất và tổ chức lãnh thổ nông nghiệp
3.1.4.1. Chuyển đổi trong chuỗi giá trị sản phẩm
Để hình thành chuỗi giá trị nông sản trong nông nghiệp cần có sự tham gia của
nhiều chủ thể khác nhau.Về cơ bản sự hình thành và phát triển các chuỗi giá trị nông
sản cũng giống như sự hình thành và phát triển các chuỗi giá trị sản phẩm công
nghiệp. Tuy nhiên do những đặc điểm riêng từ khâu nuôi, trồng, thu hoạch tới chế biến
và tiêu thụ mà chuỗi giá trị hàng nông sản sản có những đặc điểm riêng [83]:
Đặc điểm về tính mùa vụ và bảo quản: sản phẩm nông nghiệp làm ra có tính mùa
vụ nên chuỗi giá trị sản phẩm nông nghiệp thường không liên tục và thay đổi rất nhanh
về chất lượng khối lượng. Vào vụ thu hoạch, giá nông sản trên thị trường hạ do khối
lượng nông sản tăng nhanh, chất lượng cao và nhu cầu bán ra thị trường lớn; ngược lại
khi hết vụ thì giá bán trên thị trường lại cao do hàng hóa giảm, chất lượng không cao.
Điều này làm cho phân phối hàng hóa trở nên khó khăn và giá cả không ổn định. Nông
sản dễ bị hỏng sau khi thu hoạch, việc vận chuyển đi xa khó khăn nếu không được chế
biến, bảo quản. Đặc điểm này gây ra nhiều khó khăn cho người sản xuất và hạn chế sự phát triển mở rộng của chuỗi giá trị. Nhà sản xuất, kinh doanh phải có công nghệ cao về chế biến và bảo quản (đông lạnh, bảo quản bằng hóa chất hoặc chân không) đồng thời giá cả tiêu thụ phải tăng lên do chi phí để bảo quản tăng.
Đặc điểm về tác động của thời tiết, bệnh dịch và an toàn thực phẩm: nhân tố khí hậu, nhiệt độ, ánh sáng và các nguồn lực khác như đất đai, nguồn nước sẽ ảnh hưởng
trực tiếp và mạnh mẽ đến kết quả sản xuất làm cho tính ổn định của chuỗi giá trị trở
nên không bền vững và biến động mạnh theo thời gian. Sự phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên đã làm cho sản xuất nông sản bị hạn.Chính vì vậy, chuỗi giá trị nông sản thường
113
mang tính địa phương rất cao. Vấn đề dịch bệnh, đòi hỏi về an toàn thực phẩm do ảnh
hưởng trực tiếp đến sức khỏe, đời sống người tiêu dùng.
Trong giai đoạn từ 2005-2018, dịch bệnh trên vật nuôi như heo tai xanh, lở mồm
long móng, dịch heo Châu Phi, cũng ảnh hưởng đến giá cả, năng suất chăn nuôi và niềm tin của người tiêu dùng. Vì thế, việc tăng cường giám sát dịch bệnh, đầu tư hệ thống cảnh báo sớm, hình thành mô hình chăn nuôi khép kín phòng ngừa dịch bệnh
cũng là giải pháp cho ngành chăn nuôi tại thành phố. Tính đến năm 2018, TP.HCM có khoảng 240 chợ đang hoạt động. Vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm được các ban quản
lý các chợ, đặc biệt tại các chợ đầu mối cần giám sát, kiểm tra chất lượng hàng hóa,
sản phẩm. Bên cạnh lượng thịt lợn do các trang trại cung cấp, TP.HCM còn nhập thịt
lợn đông lạnh, lợn chủ yếu được nhập khẩu ở châu Âu, Brazil và Mỹ. Việc ký kết các Hiệp định tự do thương mại, nhiều rào cản của thị trường quốc tế bị xóa bỏ nên giá thịt
lợn nhập khẩu rẻ hơn giá thịt lợn trong nước.Hiện nay, thịt lợn nhập khẩu về TP.HCM
được dùng chủ yếu trong chế biến như xúc xích, giò chả. Có một số lượng nhỏ được
trực tiếp bán ra thị trường, đáp ứng được 25% nhu cầu của thị trường. Nếu nguồn cung
trong chuỗi giá trị nông sản ở thành phố bị thay thế do hàng nhập khẩu thì việc xây
dựng chuỗi giá trị nông sản sẽ khó khăn (mối liên kết giữa các nhà kinh doanh với
người sản xuất không còn). Luật An toàn thực phẩm ra đời năm 2010 quy định về
quyền và nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức trong bảo đảm an toàn thực phẩm; điều kiện
đối với thực phẩm kinh doanh và nhập khẩu, xuất khẩu; kiểm nghiệm; phòng ngừa và
khắc phục sự cố về an toàn thực phẩm.
Đặc điểm về sản xuất: quá trình sản xuất thường có sự tham gia của số lượng rất
đông các hộ nông dân với trình độ sản xuất rất khác nhau làm cho chuỗi giá trị trở nên phức tạp và rất khó điều chỉnh để tạo ra khối lượng lớn sản phẩm đồng nhất về chất
lượng như ở các quốc gia đông dân như Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam, Thái Lan,
Inđônêsia. Theo Sở NN&PTNT TPHCM, mỗi ngày thành phố tiêu thụ khoảng 1000-
1200 tấn thịt, trong đó lợn khoảng từ 8-10 nghìn con, bò là 800-900 con, gia cầm từ 100-120 nghìn con. Mỗi năm thành phố cần lượng thực phẩm đông lạnh khoảng 264 nghìn tấn/năm, 130 nghìn tấn thịt gia cầm, 170 nghìn tấn thủy sản, 1 triệu tấn rau củ quả. Do vậy có thể thấy: chuỗi giá trị nông sản còn thiếu sự nhất quán giữa các khâu tham gia. Trong chuỗi giá trị nông nghiệp tại thành phố hiện nay, còn tồn tại nhiều công đoạn và khâu trung gian lãng phí làm tăng chi phí không cần thiết. Một số hạn chế chủ yếu là:
114
+ Ở hộ gia đình, phân bón được người nông dân sử dụng quá lãng phí. Nông dân
quá quan tâm đến hóa chất, các vật tư đầu vào khác thay vì tăng hiệu quả bằng cách tăng
năng suất và giảm chi phí cho vật tư nông nghiệp. Các hộ áp dụng công nghệ mới phục vụ
SXNN như công nghệ tưới tự động, tưới nhỏ giọt kết hợp bón phân để tiết kiệm nước, đạt hiệu quả cao, phù hợp nhiều loại địa hình. Do hạn chế những chi phí phát sinh do phân bón và hóa chất nông dân thu được năng suất và lợi nhuận cao hơn.
+ Các HTX và các tổ hợp tác thu mua nông sản của dân bán lại cho các DNNN. Xu hướng các hộ nông dân liên kết lại tham gia vào tổ hợp tác để tăng sản lượng, giá
cả ổn định và kí các hợp đồng lâu dài hơn với các doanh nghiệp chế biến nông sản.
Tuy nhiên, Các HTX cũng gặp phải những vấn đề về quản lý, định hướng kinh doanh.
Khi các HTX hoạt động không hiệu quả thì chi phí cho các giao dịch tăng lên do doanh nghiệp chế biến phải thu mua qua thương lái do doanh nghiệp chế biến không
gắn kết, quản lý và theo dõi việc thu mua với các hộ nông dân. Việc thiếu sự liên kết
giữa các hộ nông dân cũng khiến cho chuỗi giá trị nông sản còn lỏng lẻo, chưa thực sự
gắn kết, thiếu hoạt động tập thể của nông dân.
+ Hợp đồng thu mua nông sản giữa nông dân và các doanh nghiệp thu mua còn
rất ít, đa phần là hợp đồng miệng với thương lái. Hợp đồng liên quan đến cam kết
trong mua và bán, cung cấp vật tư cho quá trình sản xuất của nông dân (Doanh nghiệp
hoặc thương lái sẽ cung cấp khoản vay để cho các hộ mua phân bón, hóa chất), hợp
đồng nông sản sau thu hoạch. Hợp đồng sẽ giảm thiểu rủi ro về thị trường biến động,
giá cả, lãng phí vật tư, đảm bảo chất lượng nông sản sau thu hoạch, đảm bảo chất
lượng của chuỗi giá trị hàng hóa nơi các hộ nông dân giữ vai trò quan trọng.
+ Hợp đồng hiện nay chủ yếu áp dụng ở các trang trại có quy mô lớn như trang trại nuôi bò sữa, trồng hoa cắt cành, hoa nền, nuôi trồng thủy sản, nuôi cá cảnh xuất
khẩu, chăn nuôi lợn. Trong chuỗi giá trị nông sản hiện nay, các hình thức hợp tác vẫn
còn nhiều khâu trung gian (thương lái, đại lý…) cam kết giữa người bán và người mua
khó thực hiện, khó đảm bảo rằng nguồn gốc sản phẩm an toàn và bền vững. Khi chuỗi giá trị không kiểm soát được nguồn cung ứng thì khách hàng không biết được nguồn gốc sản phẩm. Trong khi nhu cầu về truy xuất nguồn gốc nông sản với các hộ tiêu dùng ở TP.HCM là rất lớn.
Điều cần quan tâm là thay đổi tư duy của nhà nông, đổi mới cách sản xuất của người nông dân, hình thành sự liên kết theo chuỗi giá trị nông sản với mối liên kết giữa nhà cung cấp (cung ứng vật tư) đầu vào với nhà sản xuất (HTX, trang trại, nông dân), nhà buôn (thương lái), doanh nghiệp chế biến, nhà phân phối (bán lẻ, thương
115
mại,), người tiêu dùng. Thúc đẩy và hỗ trợ chuỗi giá trị phát triển là ngành nông
nghiệp, công thương, liên minh HTX, hội nông dân, ngân hàng, nhà khoa học. Thực tế
ở thành phố, các HTX có liên kết thường đạt hiệu quả cao hơn các HTX hoạt động độc
lập như thu hút được mức vốn sản xuất cao, bình quân doanh thu cao hơn 5,7 lần, bình quân lợi nhuận cao hơn 1,55 lần. Để SXNN theo hướng công nghệ cao phát triển bền vững cần tập trung chuyển giao công nghệ giúp nông dân tiếp cận công nghệ mới ứng
dụng thực tế. Thay vì trực tiếp hỗ trợ vốn thì thành phố nên có chính sách hỗ trợ vật tư cho nông nghiệp giúp các HTX bán được nông sản một cách bền vững, ổn định.
Đặc điểm về chế biến và lưu giữ sản phẩm: công nghệ chế biến cao, chi phí đầu
tư lớn, giá thành sản phẩm nông sản qua chế biến cao, làm cho hiệu quả của chuỗi giá
trị có thể giảm, lợi ích của các chủ thể, nhất là những nông dân có thể sẽ mất đi tạo. Sự chênh lệnh về giá tiêu thụ rất lớn giữa nơi sản xuất và nơi tiêu thụ những người nông
dân tham gia sản xuất ở những chuỗi nông sản này thường chịu rủi ro và thua thiệt lớn
khi thị trường biến động. Hiện nay, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã tham
gia đoàn thẩm định chuỗi thực phẩm an toàn tại các cơ sở sản xuất trồng trọt, chăn
nuôi, thủy sản. Lũy kế đến nay đã có 99 cơ sở được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện
tham gia chuỗi thực phẩm an toàn với tổng sản lượng thit động vật khoảng 77.524
tấn/năm và 518.940.284 quả trứng gà/năm; có 27 cơ sở lĩnh vực thủy sản đã được
chứng nhận đủ điều kiện tham gia chuỗi an toàn thực phẩm của thành phố. Tiếp tục
theo dõi đề án truy xuất nguồn gốc tại các đơn vị, bao gồm: Hợp tác xã sản xuất
thương mại dịch vụ Phú Lộc, Hợp tác xã sản xuất thương mại và dịch vụ Phước An,
Liên tổ rau an toàn Tân Trung, Hợp tác xã thương mại dịch vụ sản xuất nông nghiệp
Mai Hoa, Hợp tác xã Nông nghiệp Nấm Việt, Hợp tác xã Nga Ba Giòng.
Xuất khẩu nông sản của TP.HCM tăng đáng kể nhưng chất lượng hàng hóa
không đảm bảo nguyên nhân chủ yếu xuất khẩu vẫn dựa vào các DNNN. Vai trò của
các công ty tư nhân tham gia chuỗi giá trị bị hạn chế. Gần đây, khi nhu cầu về sản
phẩm nông sản chất lượng cao đã thúc đẩy các thương hiệu đầu tư vào mặt hàng nông sản như Vinmart, Coopmart…Tuy nhiên, ngành nông nghiệp còn gặp những khó khăn, thách thức như việc đầu tư nông nghiệp công nghệ cao đòi hỏi vốn đầu tư lớn, trong khi người dân, hợp tác xã, doanh nghiệp đầu tư khó tiếp cận vốn vay ngân hàng, khó khăn khi hình thành vùng sản xuất nông nghiệp tập trung, ứng dụng và chuyển giao khoa học công nghệ mới; thiếu nguồn nhân lực; xây dựng trên đất sản xuất nông nghiệp; kết cấu hạ tầng nông thôn chưa theo kịp cho phục vụ vận chuyển lưu thông
116
hàng hóa ảnh hưởng đến đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng nông
nghiệp đô thị, nông nghiệp công nghệ cao, công nghệ sinh học.
Như vậy, ở các thành phố lớn như TP.HCM nhu cầu về lương thực như gạo
giảm, các sản phẩm chăn nuôi lại có xu hướng tăng lên đáng kể. Điều này cũng thúc đẩy tính cạnh tranh của các công ty cung ứng nông sản cho TP.HCM. Những rủi ro về thực phẩm bẩn, khả năng nhiễm bệnh, dư lượng hóa chất còn lại trong vật nuôi cũng
tăng lên khi nhu cầu của các hộ gia đình tăng cao.Vì người tiêu dùng không thể tự đánh giá độ an toàn và chất lượng của sản phẩm nên có xu hướng sử dụng các thương
hiệu uy tín, có chất lượng đã khẳng định được như Saigon Coop hay Vinmart, Vissan.
Nhờ đó, chuỗi giá trị nông sản trong chăn nuôi được nâng cao. Mô hình quản lý theo
chuỗi, giám sát từ đầu vào cho đến đầu ra (nguồn nguyên liệu sơ chế cho đến sản xuất, chế biến, bảo quản) mới bảo đảm được chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm. 3.1.4.2 Chuyển đổi trong tổ chức lãnh thổ nông nghiệp
HTX nông nghiệp là mô hình đang được khuyến khích phát triển để trở thành mô
hình chủ đạo của nông nghiệp TP HCM mặc dù HTX đóng góp chưa tới 5% giá trị
ngành nông nghiệp. Hiện nay, mô hình kinh tế nông hộ đóng góp trên 77% vào giá trị
ngành. Doanh nghiệp nông nghiệp chiếm 15% và kinh tế trang trại 3%, tuy có hiệu quả
kinh tế cao nhưng khó nhân rộng.
a) Hợp tác xã nông nghiệp
Ở Việt Nam HTX ra đời từ năm 1958 và đã trải qua quá trình phát triển với nhiều
thăng trầm. Hiện nay, HTX ra đời lấy kinh tế hộ gia đình và trang trại gia đình làm cơ
sở tồn tại, hoạt động trong cơ chế thị trường, tự chủ, không bị giới hạn bởi phạm vi
quản lý hành chính, hoạt động theo Luật HTX năm 2012. Các HTX chủ yếu làm dịch
vụ và theo từng ngành riêng, hoạt động kinh doanh độc lập như HTX nông nghiệp,
HTX hoa - cây cảnh, chăn nuôi… Trong nền nông nghiệp hàng hóa thì các HTX nông
nghiệp đã có nhiều đóng góp tích cực trong quá trình phát triển kinh tế nông nghiệp của TP.HCM, là cầu nối giữa người tiêu dùng và người sản xuất, định hướng cho sản xuất phát triển. Thực tế tại TP.HCM cho thấy mô hình HTX đóng vai trò làm đầu mối
để tổ chức cho hộ nông dân tổ chức sản xuất và tiêu thụ nông sản cho các hộ nông dân để giao cho doanh nghiệp. HTX ra đời giúp hoàn thiện chuỗi giá trị nông sản cho việc cung cấp sản phẩm vệ sinh an toàn thực phẩm đạt chuẩn VietGap, Vietgahp của Thành phố. Thực tế HTX đóng vai trò là đơn vị tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm, là đầu mối ký kết hợp đồng tiêu thụ sản phẩm với doanh nghiệp, là đầu mối xây dựng thương hiệu sản phẩm nông nghiệp cho hộ nông dân. Vì vậy giá bán sản phẩm của hộ nông
117
dân tham gia vào HTX ổn định và cao hơn so với các hộ độc lập là khoảng từ 7,4 -
10,2%.
Năm 2018, TP.HCM hiện có 86 HTX N, L,TS với 2.389 thành viên (bình quân
28 thành viên/HTX) hoạt động trong 10 ngành nghề gồm: nấm, rau an toàn, hoa - cây cảnh, chăn nuôi, trồng trọt chăn nuôi hỗn hợp, thủy sản, ngành nghề nông thôn, diêm nghiệp, dịch vụ nông nghiệp và kinh doanh tổng hợp. Trong đó, ngành nghề có số
lượng HTX tham gia nhiều nhất là kinh doanh tổng hợp với 25 HTX.
TP.HCM hiện có 41 HTX đang hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, thu hút
15% hộ nông dân. Khảo sát cho thấy thu nhập của xã viên cao hơn sản xuất độc lập.
Sản xuất rau an toàn, nông hộ khi tham gia vào HTX đạt lợi nhuận cao hơn khoảng
35% nhờ được tiêu thụ sản phẩm với giá ổn định. Đối với nuôi bò sữa, cũng có thu nhập khá hơn nhờ năng suất và giá bán cao hơn thị trường do người nông dân được
hướng dẫn thường xuyên quy trình nuôi mới.
Vốn điều lệ của 41 HTX là 257.058 triệu đồng bình quân 6,128 triệu đồng/HTX.
Tổng diện tích đất sản xuất của 31/41 HTX là 596 ha, bình quân 19ha/HTX. Tổng diện tích nhà xưởng của 41 HTX là 27.646 m2, bình quân 674 m2/HTX. Tổng diện tích trụ sở hoạt động của 41 HTX là 11.157 m2, trong đó diện tích trụ sở thuộc quyền sở hữu của HTX chiếm 49,9% còn lại là đang thuê mướn, được chính quyền hỗ trợ hay tạm
mượn mặt bằng của thành viên HTX. Về nguồn nhân lực: tổng số lao động là 410
người (gồm 125 lao động quản lý và 285 lao động chuyên môn), bình quân 10 lao
động/HTX. Số lao động đã qua đào tạo (từ trung cấp trở lên) là 150 người (đại học: 86
người, cao đẳng: 22 người, trung cấp: 42 người), chiếm 36,6% tổng số lao động, bình
quân 1 HTX có gần 3 lao động đã qua đào tạo.
Nếu TP tiếp tục duy trì kinh tế nông hộ thì không thể cạnh tranh với nông sản
toàn cầu và tác động của biến đổi khí hậu. Người nông dân muốn tồn tại phải tham gia
HTX để xây dựng thương hiệu, nắm bắt thị trường, tiếp cận vốn vay, được chuyển
giao tiến bộ khoa học kỹ thuật. Hiện nay, lao động trong lĩnh vực nông nghiệp TP HCM liên tục giảm từ 140.000 lao động (2000) xuống 43.000 và dự báo tiếp tục giảm. Khó khăn: Tại TP HCM cho thấy mức vốn góp HTX cao, bình quân 115 triệu đồng/thành viên. Tuy nhiên, mức góp vốn cao thì nông dân tham gia ngày càng ít. Việc duy trì HTX chưa thực sự minh bạch, thông tin chưa được cung cấp đầy đủ để nông dân tin tưởng và tham gia vào HTX. HTX vừa chuyển sang hình thức mới nên hoạt động hầu như chưa đạt hiệu quả cao, chưa chủ động trong việc tìm thị trường, tạo mối quan hệ sản xuất. Một số HTX bộc lộ những yếu kém như năng lực còn hạn chế,
118
phạm vi hoạt động thu hẹp. Do vậy quy mô hoạt động của các HTX nông nghiệp hiện nay
đang có xu hướng giảm. Do gặp nhiều khó khăn, do ảnh hưởng của quá trình đô thị
hóa, đất đai canh tác giảm, giá vật tư nông nghiệp tăng cao, thời tiết không thuận lợi
nên có 21/86 HTX dự kiến giải thể với 362 thành viên, bình quân 17 thành viên/HTX. Hiện nay, các HTX nông nghiệp đã có sự chuyển đổi nhanh chóng để thích nghi với các hoạt động sản xuất, thương mại nông nghiệp, cung ứng vật tư và các dịch vụ
hàng hóa nông nghiệp. Các HTX nông nghiệp đã góp phần nâng cao GTSX ngành nông nghiệp; giải quyết việc làm, góp phần xóa đói giảm nghèo; góp phần đảm bảo
nguồn thực phẩm an toàn cho thành phố; đầu mối tiếp nhận chuyển giao khoa học kỹ
thuật; hỗ trợ đầu vào, đầu ra cho các thành viên, hộ nông với với giá cả tốt nhất.
Định hướng trong thời gian tới của TP là giảm dần số hộ có quy mô sản xuất nhỏ lẻ, khuyến khích nông dân tham gia tổ hợp tác, HTX; vận động các trang trại (nông hộ
có quy mô lớn) làm nòng cốt thành lập HTX mới, phát triển bình quân 4 HTX/năm.
Một số giải pháp được ngành nông nghiệp đưa ra là thu hút người tài về làm quản lý HTX, hỗ trợ tín dụng,… Tuy nhiên, chuỗi liên kết này vẫn còn một số hạn chế như HTX chưa liên kết tốt với các đơn vị cung ứng nguyên liệu đầu vào, chưa chủ động tạo nguồn cung chất lượng cũng như chưa có giá cạnh tranh. Việc điều hành, quản lý HTX còn yếu kém, ít gắn kết, lại cạnh tranh, tỷ lệ lao động qua đào tạo hạn chế (chỉ 33,5%),
không thể phối hợp để cung ứng đơn hàng lớn theo yêu cầu của doanh nghiệp, nên
việc sản xuất càng gặp khó khăn.
Một số mô hình HTX hiệu quả: HTX Thỏ Việt với 108ha sản xuất rau an toàn,
thấp nhất là HTX Ngọc Điểm với 0,85ha trồng hoa kiểng. HTX Phước An đang tham
gia 3 khâu của chuỗi cung ứng rau an toàn: Liên kết cung ứng đầu vào như thuốc bảo vệ thực vật, phân bón; liên kết sản xuất, sau khi ký kết hợp đồng tiêu thụ sản phẩm
giữa HTX với doanh nghiệp, HTX xây dựng kế hoạch sản xuất chung và kế hoạch sản
xuất cho từng thành viên, lịch thời vụ và giao cho các tổ sản xuất thực hiện; Liên kết
thu gom, sơ chế và tiêu thụ sản phẩm.
TPHCM đã có không ít chủ trương, chính sách nhằm hỗ trợ cho các HTX nông nghiệp như hỗ trợ cơ sở vật chất ban đầu, hỗ trợ cán bộ có trình độ đại học, cao đẳng về làm việc tại HTX, hỗ trợ vốn tín dụng ưu đãi về lãi suất... Qua đó, đã có tác động nhất định đến việc đổi mới, phát triển HTX nông nghiệp. Một số HTX, tổ hợp tác nông nghiệp đã nhanh nhạy nắm lấy cơ hội, phát huy nội lực, tranh thủ các điều kiện để phát triển. Nhiều HTX nông nghiệp có xu hướng chuyển dần từ hình thức tổ chức sản xuất, tiêu thụ, sang cung cấp dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống của thành viên. Việc
119
chuyển đổi này phù hợp với sự thay đổi của nền kinh tế thị trường, với tính chất đặc
thù của nông nghiệp đô thị thành phố có tốc độ đô thị hóa rất nhanh, đã giúp thành
viên hạ giá thành sản phẩm, ổn định sản xuất và có niềm tin vào HTX.
b) Doanh nghiệp nông nghiệp
Trên địa bàn TP.HCM, các doanh nghiệp nông nghiệp hoạt động với nhiều ngành
nghề kinh doanh khác nhau như: cá cảnh, rau củ quả, nấm, chăn nuôi, thủy sản, sản
xuất giống… TP.HCM có 22 doanh nghiệp xuất khẩu rau, quả với sản lượng khoảng 11.113 tấn/năm ước tính 330 tỷ đồng/năm, thị trường chủ yếu là Trung Quốc, Nhật và
các nước Châu Âu. Ngoài ra các doanh nghiệp kinh doanh hoa cảnh hàng năm xuất
khẩu 3 công-ten-nơ bon sai, 20.000 cành lan Mokara, giá trị xuất khẩu đạt khoảng 1,4
tỷ đồng/năm, thị trường chủ yếu là Campuchia, Thái Lan, Malaysia, Hàn Quốc. Các
doanh nghiệp ở TP.HCM còn có thế mạnh là sản xuất giống với 28 doanh nghiệp sản xuất giống kinh doanh vật nuôi, ươm tạo giống thủy sản, cá cảnh… hàng năm cung
cấp cho thị trường thành phố và các tỉnh lân cận khoảng 1 triệu con giống heo, 24.000
con giống bò sữa, 500 triệu con cá bột và 100 triệu con cá giống nước ngọt các loại,
130 triệu con cá cảnh, xuất khẩu 15 triệu con cá cảnh cho thị trường Châu Á, Âu, Mỹ, qua đó nâng cao thu nhập cho doanh nghiệp, nông dân, góp phần tăng năng suất, sản
lượng cho nhiều tỉnh, thành của cả nước.
Vốn sản xuất bình quân của các doanh nghiệp là 27,6 tỷ đồng/doanh nghiệp, thấp
hơn so với mặt bằng chung của doanh nghiệp TP.HCM (bình quân 36,9 tỷ đồng/doanh
nghiệp). Quy mô lao động bình quân là 12 lao động/doanh nghiệp thấp hơn so với mặt
bằng chung của doanh nghiệp TP.HCM (bình quân 19 lao động/doanh nghiệp). Vì vậy,
doanh thu của doanh nghiệp nông nghiệp chỉ đạt 6,1 tỷ đồng/ doanh nghiệp.
Hiện nay, có 87% doanh nghiệp sản xuất độc lập và 13% doanh nghiệp có tổ chức
liên kết với hộ nông dân, HTX theo chuỗi giá trị nông sản. Phương thức này làm tăng
giá trị sản phẩm từ sản phẩm thô được nông dân sản xuất trở thành sản phẩm qua sơ chế, chế biến ra thị trường, đồng thời tạo thêm việc làm và tăng thu nhập cho các hộ. Tuy nhiên khó khăn của phương thức này là việc quản lý hàng nghìn hộ nông dân với lực lượng lao động hạn chế sẽ rất khó khăn cho vùng nguyên liệu của doanh nghiệp.
Một số ít doanh nghiệp liên kết với HTX làm đầu mối (chiếm 2,2% trong tổng số doanh nghiệp nông nghiệp). Doanh nghiệp không ký hợp đồng trực tiếp với hộ nông dân mà ký hợp đồng trực tiếp bao tiêu sản phẩm với HTX. HTX sẽ tổ chức
cho nông dân khi tham gia vào HTX sản xuất theo quy trình, kế hoạch sản xuất của HTX đảm bảo về số lượng, chất lượng quy cách sản phẩm bán cho doanh nghiệp.
120
Phương thức liên kết này thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc quản lý vùng
nguyên liệu, tiết kiệm sử dụng lao động quản lý (do HTX làm đầu mối thực hiện
quản lý nông dân cho doanh nghiệp).
Mô hình doanh nghiệp thể hiện sự vượt trội so với các mô hình quản lý khác về năng lực tài chính mạnh, hoạt động có hiệu quả kinh tế cao, tổ chức được chuỗi cung ứng giá trị nông sản từ sản xuất đến tiêu thụ, phân phối sản phẩm.
Tuy nhiên doanh nghiệp ở TP.HCM chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ, năng lực hoạt động còn thấp hơn so với mặt bằng chung của doanh nghiệp TP.HCM. các
doanh nghiệp chưa đủ mạnh để tiếp cận với thị trường tiêu thụ ở nước ngoài để đỡ đầu
cho nông dân, nguồn nhân lực có hạn không thể hỗ trợ trao đổi, mua bán sản phẩm với
25.000 hộ nông dân. Vì vậy các doanh nghiệp cần liên kết với các hộ nông dân thông qua một đầu mối là HTX.
c) Trang trại
Những năm trước đây, do sự đổi mới về các chính sách đất đai cùng với sự tác
động của công nghiệp hóa, đô thị hóa, đã tạo cho kinh tế trang trại ở thành phố có
nhiều thay đổi theo chiều hướng tích cực cả về số lượng lẫn chất lượng. Năm 2005, TPHCM có 2.494 trang trại, tập trung chủ yếu tại các quận 9, quận 12, quận Thủ Đức
và các huyện Nhà Bè, huyện Củ Chi, huyện Hóc Môn... Trong đó, nhiều nhất là loại
hình trang trại thủy sản chủ yếu ở huyện Bình Chánh và huyện Cần Giờ.
Năm 2005, trang trại tập trung nhiều nhất là huyện Cần Giờ gần 70%, chủ yếu là
thủy sản và trồng trọt. Sau đó là huyện Củ Chi chiếm gần 12%, chủ yếu là trang trại
chăn nuôi; huyện Hóc Môn chiếm gần 10%, chủ yếu là chăn nuôi; quận Thủ Đức với
chiếm 5 % chủ yếu là dịch vụ nông nghiệp và chăn nuôi; quận 9 chuyên về chăn nuôi
(3%). Quy mô các trang trại chủ yếu là vừa và nhỏ (trung bình 2,78 ha/trang trại (của
cả nước là 5,7 ha/trang trại năm 2005). Trong đó, quy mô các trang trại dưới 0,5ha
chiếm 42% và trên 5ha chỉ chiếm 6%, từ 0,5 –3ha chiếm 46%, từ 3-5ha chiếm 6%.
Huyện Cần Giờ với quy mô trung bình 10,57ha/trang trại trong khi huyện Nhà Bè chỉ có 2,1ha/trang trại. Đặc biệt các trang trại tập trung ở huyện Củ Chi có diện tích có thể lên đến gần 30 ha trong khi ở quận 12 chỉ có khoảng 0,4ha/ trang trại. Diện tích đất bình quân dành cho các trang trại có sự khác biệt giữa các quận, huyện do nguồn gốc đất đai, phương hướng kinh doanh và sản xuất của trang trại. Ngoài ra còn do điều kiện tự nhiên và điều kiện kinh tế xã hội từng địa phương.
Đến năm 2018 theo qui định mới của Chính phủ về diện tích trang trại phải đạt tối thiểu 1ha nên số lượng trang trại ở TP.HCM giảm xuống còn 239 trang trại. Trong
121
đó trang trại thủy sản là 31 trang trại, trang trại tổng hợp là 205 trang trại và trang trại
chăn nuôi là 3 trang trại.
Mô hình trang trại nuôi trồng thủy sản với sản phẩm chủ yếu là tôm, cá, cá sấu,
baba, rắn… Các trang trại chăn nuôi (bò sữa, bò thịt) và trồng trọt (cây cảnh, hoa lan, cây ngắn ngày…) cũng phát triển không kém. Hiện nay, mô hình trang trại tổng hợp phát triển nhiều hơn do xu hướng liên kết giữa nông – lâm – ngư nghiệp trong các
trang trại. Tỷ suất lợi nhuận (thu nhập/vốn) trong năm của mô hình trang trại tại TP.HCM tăng cao với nhiều trang trại kỹ thuật tiên tiến với sản phẩm có giá trị cao
như hoa lan, hoa mai ghép cành, trang trại nuôi chim, cây, cá cảnh, trang trại chăn nuôi
nuôi bò sữa, nuôi lợn sạch và trồng rau sạch…
Hiện nay, mặc dù diện tích các trang trại có quy mô không lớn nhưng do vốn đầu tư lớn nên đa phần mô hình trang trại đều tạo ra giá trị sản xuất cao hơn so mô hình
nông hộ. Hình thức liên kết giữa các trang trại và hộ chăn nuôi nhỏ, lẻ chủ yếu theo
phương thức: trang trại cung cấp con giống, các hộ chăn nuôi gia đình chăn nuôi và
sản xuất lợn thịt cung cấp cho thị trường theo chuỗi giá trị nông sản. Các hình thức sản
xuất liên doanh, liên kết, kinh doanh nhượng quyền từ đó được hình thành. Tuy nhiên
do những qui định mới về thu nhập và diện tích các trang trại, cũng như diện tích đất
nông nghiệp có xu hướng giảm tại TP.HCM khiến cho mô hình này phát triển không
bằng các tỉnh, thành khác tại vùng Đông Nam Bộ.
d) Vành đai nông nghiệp đô thị
Trong những năm gần đây, nền nông nghiệp thành phố được chú trọng phát triển,
khu vực sản xuất tập trung dần được hình thành và có sự phân hóa theo lãnh thổ do địa
tô chênh lệch và giá nhân công lao động. Đây là cơ sở để hình thành nên vành đai
nông nghiệp xung quanh thành phố. Tuy nhiên, vành đai nông nghiệp ở TP.HCM hình
thành chưa rõ nét so với các đô thị khác như Hà Nội, Hải Phòng... Tùy thuộc vào điều
kiện tự nhiên, điều kiện giao thông đi lại và vị trí địa lý so với các quận trung tâm thành phố, có thể xác định TP.HCM hiện nay có 3 khu vực SXNN khác nhau:
- Vành đai nông nghiệp nội đô: bao gồm toàn bộ các quận nội thành có SXNN (Quận 2, Tân Bình, Tân Phú, Gò Vấp, Bình Thạnh). Đặc điểm khu vực này là tận dụng các mảnh đất trống diện tích nhỏ, khoảng trống trên sân thượng các nhà cao tầng để trồng nhằm đáp ứng một phần rau xanh cho nhu cầu gia đình. Mô hình trồng trọt nhỏ lẻ, phân tán có ưu điểm là sản phẩm an toàn (trồng rau thủy canh), giúp người trồng
thư giãn, giải trí ngoài giờ làm việc, nhưng chỉ là hình thức tự cung tự cấp, và không
122
phải gia đình nào cũng có điều kiện áp dụng. Vì vậy vành đai này trồng chủ yếu là rau
(rau an toàn), hoa, cây cảnh, làm đẹp cho cảnh quan đô thị.
- Vành đai nông nghiệp ven đô thị trung tâm: nằm gần trung tâm thành phố
nhất so với các vành đai khác. Nó cung cấp rau an toàn và các sản phẩm chăn nuôi (thịt, trứng và sữa từ chăn nuôi gia cầm, bò và lợn) cho người dân thành phố. Vành đai này bao gồm quận Bình Tân, Quận 12, quận Thủ Đức, Quận 9, một phần của huyện
Nhà Bè, huyện Hóc Môn, huyện Bình Chánh… Đặc điểm của vành đai này là nơi ảnh hưởng mạnh mẽ nhất của quá trình đô thị hóa - công nghiệp hóa nên diện tích đất nông
nghiệp giảm nhanh nhất. Tuy nhiên khi hình thành thành phố mới Thủ Đức thì vành
đai nông nghiệp này xó xu hương dịch chuyển và thay đổi. Do vậy, những quận này
phải tích cực đẩy mạnh CĐNN theo hướng hàng hóa để phục vụ tiêu dùng cho thành phố. Số lượng lao động nông nghiệp tại các quận này cũng giảm nhanh chóng, vì vậy
không những phải đa dạng hóa sản xuất nông - lâm – ngư nghiệp mà còn đa dạng hóa
kinh tế để tạo việc làm cho người lao động.
Vành đai nông nghiệp xa đô thị trung tâm: nằm liền kề vành đai nông nghiệp
ven đô. Cây lương thực chủ yếu là cây lúa, ngô và khoai các loại. Vành đai này bao
gồm một số xã thuộc huyện Củ Chi, Hóc Môn, Bình Chánh, Nhà Bè và Cần Giờ. Nhìn
chung hiệu quả kinh tế thấp nên vành đai lương thực này đang có sự chuyển đổi mạnh
mẽ sang cây trồng, vật nuôi khác phù hợp với nền nông nghiệp đô thị như nuôi trồng
thủy sản (nuôi tôm) tập trung tại khu vực huyện Cần Giờ và ven sông Sài Gòn, Đồng
Nai. Vành đai này cung cấp nguồn thủy sản tươi sống cho dân cư đô thị, gồm cả thủy
sản nước ngọt, lợ và mặn. Vành đai này cũng bao gồm hệ thống rừng sinh thái, rừng
phòng hộ và vườn cây ăn trái phân bố tại các khu vực ven thành phố như huyện Củ Chi, Bình Chánh, Cần Giờ. Đây là vành đai có ý nghĩa quan trọng về trong việc bảo vệ
môi trường sinh thái cho thành phố.
e) Vùng chuyên canh và sản xuất tập trung
Từ sản xuất phân tán, manh mún, lãnh thổ sản xuất nông, lâm, thủy sản của TP.HCM đang có sự chuyển biến tích cực căn cứ vào thực tế sản xuất, vùng ven thành phố đã hình thành một số vùng chuyên canh theo hướng đầu tư vào một số sản phẩm có giá trị kinh tế cao để phục vụ nhu cầu của Thành phố. Những lãnh thổ này hình thành dựa vào sự tương đồng về điều kiện sản xuất như quỹ đất, điều kiện sinh thái, kinh nghiệm sản xuất của người lao động và nhu cầu của thị trường tiêu thụ. Những vùng chuyên canh này đã tạo ra những sản phẩm mang giá trị hàng hóa lớn, có đan xen
kết hợp giữa sản xuất lương thực với chăn nuôi và sản xuất giống cây trồng, vật nuôi,
123
rau đậu với hoa, cây cảnh… nhằm tận dụng những điều kiện phát triển, đa dạng hóa
cây trồng, vật nuôi trên một lãnh thổ tạo ra hiệu quả về KT- XH và môi trường. Hiện
nay, về cơ bản, trong trồng trọt và chăn nuôi, TP.HCM có tám vùng chuyên canh và
sản xuất tập trung sau:
• Vùng sản xuất rau
Rau, đậu các loại được phân bố ở 14 quận, huyện. Ba huyện ngoại thành (Bình Chánh, Hóc Môn, Củ Chi) có thể được coi là vành đai xanh của thành phố. Năm 2018,
đứng đầu về diện tích là các huyện Củ Chi, Bình Chánh và Hóc Môn. Năm 2018 diện
tích canh tác rau thành phố 7.915 ha. Diện tích gieo trồng 18.756 ha; năng suất 29,1
tấn/ha, sản lượng 230,5 nghìn tấn/năm. Tuy nhiên, thành phố vẫn chưa xây dựng được
vùng chuyên canh sản xuất rau tập trung, sản xuất rau chưa ổn định do chịu ảnh hưởng của thời tiết bất thường, giá cả vật tư đầu vào biến động, giá thị trường không ổn định,
thiếu lao động ở nông thôn. Hoạt động của một số tổ hợp tác, HTX có hiệu quả chưa
cao. Hiện nay, rau an toàn được trồng tại chủ yếu 3 huyện ngoại thành Bình Chánh, Hóc
Môn, Củ Chi; ven sông Sài Gòn, Đồng Nai. các kênh dẫn nước của thành phố như kênh
Đông, kênh Thầy Cai, kênh N25, N25-2, N38 có vai trò điều tiết thủy lợi cung cấp nước
tưới cho những vùng trồng rau, đặc biệt là RAT. Huyện trồng nhiều rau nhất là Củ Chi.
Năm 2017 diện tích canh tác rau là 2.600 ha (cụ thể tại các xã Tân Phú Trung, Trung
Lập Thượng, Trung Lập Hạ, Nhuận Đức, Bình Mỹ, Phước Thạnh, Thái Mỹ, Tân Thông Hội, Phước Vĩnh An, Tân Thạnh Đông); huyện Bình Chánh, năm 2017 diện tích canh
tác rau an toàn là 685 ha; (cụ thể tại các xã Hưng Long, Tân Nhựt, Bình Lợi, Quy
Đức,Tân Quý Tây); huyện Hóc Môn, năm 2017 diện tích canh tác rau an toàn là 480 ha
(cụ thể tại các xã Nhị Bình Xuân,Thới Tam Thôn,Thới Sơn)
• Vùng chuyên canh hoa, cây cảnh
Thành phố Hồ Chí Minh có vai trò là đầu mối và xuất khẩu hoa, cây cảnh cho cả
nước đồng thời là thị trường tiêu thụ lớn nhất nước với nhiều loại hoa phong phú. Từ lâu, đã hình thành các địa điểm cung cấp hoa tập trung như chợ hoa Hồ Thị Kỷ, chợ Bà Chiểu, Đầm Sen và hệ thống các cửa hàng kinh doanh hoa.
Đến cuối năm 2018, diện tích hoa, cây cảnh trên địa bàn thành phố đạt 2.395ha, tăng 1,3 lần so năm 2010 (1.910ha). Các huyện trồng hoa, cây cảnh chủ yếu là huyện Củ Chi: 700ha, Bình Chánh: 570ha, Hóc Môn: 250ha, Quận 12: 300ha, Quận Thủ Đức: 180ha, Quận 9: 60ha, huyện Nhà Bè: 50ha và các quận huyện khác là 30ha.
124
• Vùng sản xuất cây lương thực (lúa, ngô, khoai, sắn)
Nhược điểm của cây lúa trồng ở TP.HCM là năng suất thấp. Nhưng thực tế cho thấy, không phải diện tích trồng lúa nào cũng có thể chuyển đổi. Tại TP.HCM, có những
vùng trũng, phèn, ngập nước thì khó có cây trồng nào khác phù hợp thổ nhưỡng bằng
trồng cây lúa. Như vậy, mặc dù cây lúa có năng suất thấp nhưng thành phố vẫn duy trì để
đáp ứng nhu cầu tại chỗ của dân cư và cung cấp cho công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm.
Diện tích trồng lúa có xu hướng giảm mạnh từ 2005 - 2018. Về phân bố, diện
tích gieo trồng lúa cả năm tập trung chủ yếu ở các huyện ngoại thành. Năm 2005, có
11 quận, huyện trồng lúa bao gồm quận 2, quận 9, quận 12, Bình Thạnh, Thủ Đức,
Bình Tân, Huyện Củ Chi, Hóc Môn, Bình Chánh, Nhà Bè, Cần Giờ. Đến năm 2017, quận 12 không còn trồng lúa mà chuyển sang trồng rau, hoa cây cảnh và chăn nuôi,
các quận còn lại vẫn trồng nhưng có xu hướng giảm mạnh đặc biệt ở các quận gần
trung tâm như quận 2, quận 9, Thủ Đức. Cho đến năm 2018, trong số 19 quận của
Thành phố, có 4 quận của Thành phố còn trồng lúa, trong đó nhiều nhất là Quận 9
(0,1 nghìn ha) và ít nhất là Quận Thủ Đức (39 ha). Các huyện ngoại thành vẫn duy trì
trồng lúa dù diện tích giảm, sản lượng giảm nhưng năng suất tăng cao do áp dụng các
giống lúa cao sản. Dẫn đầu về diện tích là huyện Củ Chi, Bình Chánh và ít nhất là
huyện Cần Giờ.
• Vùng trồng cây công nghiệp hàng năm
Cây công nghiệp ưu thế ở TP.HCM là cây ngắn ngày, do quá trình CĐNN diện
tích cây công nghiệp có xu hướng giảm nhường chỗ cho rau, hoa cây cảnh, chăn nuôi
bò, lợn, gia cầm. Tuy nhiên, thành phố vẫn duy trì một vài cây công nghiệp ngắn ngày
như cây mía và cây thuốc lá. Đến năm 2018, diện tích trồng mía là là 1955 ha, sản
lượng là 144,5 nghìn tấn; diện tích giảm 606 ha. Mía được trồng chủ yếu ở các huyện
ngoại thành ven thành phố như Bình Chánh, Hóc Môn, Củ Chi để phục vụ cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Cây thuốc lá có xu hướng tăng diện tích gieo trồng lên 144 ha năm 2017, tăng 68 ha so với 2005; sản lượng năm 2018 là 1.950 tấn, tăng 400 tấn so với năm 2005.
• Vùng trồng cây ăn quả
Năm 2018, diện tích trồng cây ăn quả trên địa bàn thành phố là 4980 ha, với các quả chính như xoài (1713 ha), cam (48 ha), nhãn (530ha), vải, chôm chôm (310ha).
Mùa vụ trồng thường bắt đầu vào đầu mùa mưa. Năng suất trung bình là 9 tấn/ha, với
sản lượng là 42.963 tấn chủ yếu là xoài (17.310 tấn), nhãn (4.216 tấn), vải và chôm
125
chôm (2.914 tấn). Vườn cây ăn quả tập trung ở các phường, xã ven sông Đồng Nai tại
các phường thuộc Quận 9 (phường Long Phước, Long Trường, Long Bình, Long
Thạnh Mỹ); ven sông Sài Gòn thuộc các huyện Củ Chi (các xã Phú Hòa Đông, Phú
Mỹ Hưng, An Nhơn Tây, Hòa Phú, An Phú, Trung An, Bình Mỹ); huyện Hóc Môn (Nhị Bình, Đông Thạnh), Quận 12 (Thạnh Xuân, Thạnh Lộc,Thới An, An Phú Đông); Quận Thủ Đức (Hiệp Bình Phước, Hiệp Bình Chánh, Linh Đông); ven biển thuộc
huyện Cần Giờ (thị trấn Cần Thạnh, xã Long Hòa) nổi tiếng với chất lượng xoài, mãng cầu, nhãn và vùng đất phèn của huyện Bình Chánh với quả dứa tại xã Phạm Văn Hai,
Lê Minh Xuân; trồng xoài tại các xã Tân Quý Tây, Bình Chánh, Đa Phước, Phong
Phú, Hưng Long.
• Vùng chăn nuôi bò sữa
Năm 2018, tổng đàn bò sữa của thành phố là 81,3 nghìn con, nghề nuôi bò sữa đã
mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người nông dân ở các xã, thị trấn của huyện Củ Chi,
Hóc Môn, Bình Chánh. Tại huyện Củ Chi do diện tích đất nông nghiệp ngày càng
giảm, nên quy hoạch chăn nuôi bò sữa vẫn lẫn trong khu dân cư tại các xã Trung An,
An Phú, Phú Hòa Đông, Tân Thạnh Đông, Tân Thạnh Tây, Tân An Hội với quy mô từ
30 đến hơn 200 con, đây là nguồn cung cấp sữa bò chủ yếu cho các công ty sản xuất
sữa có uy tín tại Việt Nam như Vinamilk, Dutch Lady. Tại huyện Hóc Môn, bò sữa
được nuôi tại các xã Xuân Thới Thượng, Đông Thạnh, Thới Tam Thôn. Tại huyện Bình Chánh tập trung chăn nuôi tại các xã Vĩnh Lộc A, Vĩnh Lộc B, Phạm Văn Hai,
trong đó có một trang trại theo công nghệ Israel
• Vùng chăn nuôi lợn tập trung
Lợn được nuôi ở các huyện ngoại thành của TP.HCM, tập trung nhiều nhất ở Củ
Chi, Hóc Môn, rồi đến Nhà Bè, quận 9, quận 12 với 302,8 nghìn con. Đây là nơi có
diện tích rộng, quỹ đất cho nông nghiệp còn nhiều, thích hợp hình thành các trang trại
chăn nuôi đảm bảo an toàn không dịch bệnh. Huyện Củ Chi có đàn lợn với hơn 200.000 con (2018), tập trung tại các xã Tân Thạnh Đông, An Phú, Nhuận Đức, Phạm Văn Cội, Phú Hòa Đông, Tân An Hội, Tân Phú Trung, Thái Mỹ. Tại huyện Hóc Môn chủ yếu tại các xã Nhị Bình, Xuân Thới Thượng, Đông Thạnh, Tân Thới Nhì, Thới Tam Thôn. Tại huyện Bình Chánh có đàn lợn với 28.000 con tại các xã Phạm Văn Hai, Vĩnh Lộc A, Vĩnh Lộc B. Huyện Cần Giờ có đàn lợn với hơn 9.000 (2018) chủ yếu tại Long Hòa, Bình Khánh, Cần Thạnh và An Thới Đông. Huyện Nhà Bè có đàn lợn hơn 10.000 con năm 2018 tại xã Nhơn Đức, Hiệp Phước. Các quận, huyện còn lại chủ yếu vào các quận 9, 12, Thủ Đức. Mô hình chăn nuôi lợn kết hợp xây dựng hầm biogas để
126
bảo vệ môi trường và tận dụng nguồn khí đốt phục vụ sinh hoạt và sản xuất.
• Vùng nuôi trồng thủy sản, sản xuất muối
Năm 2018, sản lượng thủy sản đạt 63,5 nghìn tấn. Hiện nay nghề nuôi tôm nước lợ
của Thành phố đang phát triển, không những về diện tích mặt nước, sản lượng và năng
suất nuôi tăng vượt bậc. Một số quận huyện như Nhà Bè, Bình Chánh do tốc độ đô thị hóa
nhanh, quy hoạch đô thị đang triển khai, điều kiện quy hoạch nuôi tôm chưa hội đủ, nên quy hoạch vùng nuôi tôm tại TP.HCM tập trung vào huyện Cần Giờ (thị trấn Cần Thạnh
và 6 xã: Bình Khánh, An Thới Đông, Lý Nhơn, Tam Thôn Hiệp, Long Hòa và Thạnh
An). TP.HCM quy hoạch vùng chuyên canh làm muối tại huyện Cần Giờ, diện tích sản
xuất muối từ 2005-2018 liên tục tăng tập trung tại hai xã đảo Thạnh An và Lý Nhơn.
Toàn huyện Cần Giờ hiện có 735 hộ làm nghề muối với tổng sản lượng thu hoạch được trong năm 134.190 tấn. Năng suất bình quân tăng từ 43,4 tấn/ha lên 80,13 tấn/ha.
3.2. Khảo sát thực trạng chuyển đổi nông nghiệp ở hai huyện Củ Chi và huyện
Hóc Môn
3.2.1. Khảo sát mô hình CĐNN ở hai huyện Củ Chi và Hóc Môn
Nghiên cứu sinh khảo sát 110 nông hộ tại hai huyện Củ Chi và Hóc Môn,
TP.HCM, trong đó có các hộ chuyển đổi mô hình sản xuất từ trồng trọt sang chăn nuôi
hoặc chuyển đổi từ các loại cây trồng có năng suất thấp sang cây trồng có năng suất cao
bằng việc sử dụng bảng hỏi hộ gia đình (phụ lục).
Về đặc điểm của nông hộ: các hộ điều tra phần lớn là ở Củ Chi (60 phiếu trên 3 xã
Phạm Văn Cội, Tân Phú Trung và Tân Thông Hội) và Hóc Môn (50 phiếu trên 2 xã
Xuân Thới Sơn và Xuân Thới Thượng). Quy mô các hộ có từ 4 - 6 nhân khẩu/hộ chiếm
56,4% số hộ được hỏi. Về trình độ học vấn của chủ hộ, có hơn một nửa số người được
hỏi (55,5%) có trình độ THCS, 35,5% là có trình độ từ THPT chỉ có 9% có trình độ đại
học. Đây là điều kiện tương đối thuận lợi để hộ nông dân có thể tiếp thu tiến bộ KH -
CN trong hoạt động chuyển giao công nghệ mới, chuyển đổi mô hình sản xuất.
Về quỹ đất sản xuất dành cho nông nghiệp: Trong tổng diện tích đất của 110 hộ khảo sát thì trong đó bình quân diện tích đất vườn là 469 m2, diện tích bình quân diện tích đất trồng cây lương thực là 532 m2, đất trồng cây lâu năm là 279 m2, diện tích đất trồng cây hàng năm là 430 m2, diện tích mặt nước trung bình là 295 m2 (chỉ có ở Củ Chi, Hóc Môn hầu như không có). Như vậy, các hộ khảo sát có quy mô đất SXNN tương đối thấp. Nhiều nhất vẫn là đất vườn với tổng diện tích là 51,6 nghìn m2, ít nhất là đất trồng cây lâu năm.
Bảng 3.17. Quy mô đất trung bình theo huyện
127
Diện tích đất
Diện tích
Diện tích
Diện tích đất
Diện tích
Diện tích
vườn (m2)
đất trồng
đất trồng
trồng cây
mặt nước
thổ cư (m2)
cây LT
cây lâu năm
hàng năm
(m2)
Huyện
(m2)
(m2)
(m2)
Trung bình Trung bình Trung bình Trung bình Trung bình Trung bình
Củ Chi
357
675
256
111
540
216
Hóc Môn
602
360
306
814
0
179
Tổng cộng
469
532
279
430
295
199
Nguồn: kết quả điều tra của tác giả
3.2.2. Về thực trạng chuyển đổi
Chuyển đổi mục đích sử dụng đất: trong 10 năm trở lại đây, có 48 hộ/110 hộ có
chuyển đổi mục đích sử dụng đất, trong đó chuyển sang trồng cây khác hoặc nuôi con
khác có 15 hộ, mua bán, chuyển nhượng có 12 hộ, cho thuê lại là 6 hộ và 15 hộ còn lại
là chuyển đổi với mục đích khác.
Hình 3.3. Biểu đồ thể hiện cơ cấu sử dụng đất theo kết quả điều tra phân theo huyện năm 2018
Về các loại máy móc: được áp dụng trong quá trình SXNN thì có 21/110 hộ được hỏi đã có đầu tư các loại máy phục vụ cho trồng trọt như máy cày (5 hộ), máy
xới đất (4 hộ) máy phun thuốc (4 hộ), máy cắt cỏ (5 hộ) như máy tuốt lúa (1 hộ) phục vụ cho trồng trọt cũng chiếm số lượng đáng kể trong các hộ dân được hỏi. Đối
128
với các loại máy còn chăn nuôi như máy ấp trứng (1 hộ), máy xay cỏ (1 hộ), máy
vắt sữa (3 hộ) thì chiếm rất ít… xe tải (1 hộ) nên việc chủ động chuyên chở vận
chuyển hàng hóa từ hộ nông dân ra thị trường tiêu thụ là rất ít, đa phần các nhà
buôn mua ngay tại hộ nông dân.
Về giống sản xuất: trong quá trình CĐNN, các hộ nông dân rất cần các nguồn giống. Tuy nhiên, chỉ có 18,2% hộ mua từ các công ty giống, 26,4% mua qua tư nhân,
thương lái, còn lại hơn 2/3 số hộ được hỏi là tự sản xuất giống có nghĩa là tự mua giống từ các nguồn khác nhau hoặc tự sản xuất giống cây trồng. Một phần do khó khăn
về vốn đầu tư chi phí về giống, một phần do thói quen sản xuất của các hộ nông dân
khi tự tìm thị trường tiêu thụ cho nông sản nên chưa quan tâm nhiều đến giống. Chỉ có
khoảng 20 hộ nông dân áp dụng mô hình nông nghiệp công nghệ cao trong nhà màn, nhà lưới quan tâm mua giống từ các công ty giống. Có 29 hộ chọn cách mua qua tư
nhân, thương lái khi các hộ gia đình bán sản phẩm cho thương lái nên thương lái có
thể cho các hộ vay tiền để mua giống hoặc cung cấp giống cho các hộ rồi trừ vào sau
khi tiền bán sản phẩm của hộ sau khi thu hoạch.
Bảng 3.18. Nguồn gốc giống sản xuất của các hộ nông dân
Giống sản xuất
Tự sản xuất
Mua từ các công
Mua qua tư
Từ các nguồn
Huyện
giống
ty giống
nhân, thương lái
khác
Số hộ %
Số hộ
%
Số hộ
%
Số hộ %
Củ Chi
44
40.0%
12
10.9%
14
12.7%
5
4.5%
Hóc Môn
37
33.6%
8
7.3%
15
13.6%
2
1.8%
Tổng cộng
81
73.6%
20
18.2%
29
26.4%
7
6.4%
Nguồn: kết quả điều tra của tác giả
Về cơ sở vật chất phục vụ cho sản xuất: 52/110 hộ nông dân được hỏi có máy tính có kết nối internet, tuy nhiên việc sử dụng máy tính để phục vụ cho sản xuất kinh doanh không nhiều, vì chỉ 10/52 hộ có sử dụng internet để trao đổi buôn bán qua mạng, giao dịch bằng điện tử… một phần do trình độ chuyên môn của lao động còn thấp, một phần do thói quen bán buôn qua kênh phân phối truyền thống là thương lái và chợ địa phương.
Các nông sản chính của huyện: chủ yếu là sản phẩm về chăn nuôi với 44 (hộ) có nuôi bò, lợn có 19 (hộ), gà có 12 (hộ). Sau đó là các hộ chuyên về trồng trọt như
lúa có 7 (hộ), cây thức ăn gia súc có 3 (hộ), hoa cảnh có 4 (hộ), nấm có 1(hộ) còn lại
129
có một vài hộ nhỏ, lẻ chăn nuôi dê có 1 (hộ), nuôi trăn có 1 (hộ). Từ các sản phẩm
chính này cho thấy đa số các hộ đang chuyển đổi từ mô hình trồng lúa kém hiệu quả
sang chăn nuôi (chủ yếu là bò) cho GTSX cao hơn, một số nông hộ chuyển sang
trồng hoa cảnh, trồng nấm, trồng cây thức ăn cho gia súc (chủ yếu là trồng cỏ sữa cho chăn nuôi bò). Sự chuyển đổi này phù hợp với mô hình chuyển đổi của thành phố đang thực hiện từ việc chọn những vật nuôi, cây trồng có giá trị thay cho cây lúa,
trong giai đoạn đầu, chuyển đổi cơ cấu sản xuất được thực hiện với 2 cây (cây rau và cây cảnh), 2 con (con bò sữa và tôm sú) ở một số huyện chuyển đổi cơ cấu sản xuất
chuyển dần sang cá cảnh, cá sấu và cây hoa nhiệt đới (các loại lan Dendrobium,
Mokara...). Như vậy ở Củ Chi và Hóc Môn sản phẩm chuyên môn hóa chủ yếu là cây
cảnh, hoa lan và bò (bò sữa và bò thịt).
Về hình thức tiêu thụ hàng hóa nông sản từ các nông hộ: Trên cơ sở khảo
sát tại địa bàn hai huyện Củ Chi và Hóc Môn, đa phần các hộ được hỏi chọn hình
thức bán cho nhà buôn (60/110 hộ), sau đó là bán tại chợ địa phương (44/110 hộ),
đây là hình thức tiêu thụ phổ biến và trở thành quen thuộc với các nông hộ ở đây.
Các nhà buôn sẽ thu gom hàng từ các nông hộ, sau đó bán lại cho các nhà máy chế
biến, các công ty hoặc các chủ vựa để hưởng chênh lệch. Cách thức trao đổi của họ
thường là mua số lượng linh hoạt, tùy vào thời điểm, giờ giấc bất kì, phụ thuộc vào
nông hộ, vào tận vườn của nông dân để thu gom và người nông dân có thể nhận được
tiền ngay sau khi bán. Vì vậy, đa phận các hộ nông dân chọn hình thức này. Tuy
nhiên, có một nhược điểm lớn của hình thức này là nông hộ không chủ động được số
lượng, giá cả và thời điểm thu hoạch. Tất cả phải phụ thuộc vào nhà buôn, nông hộ
không có nhiều quyền lợi trong hợp đồng buôn bán này.
Bảng 3.19. Hình thức tiêu thụ hàng hóa nông sản từ các nông hộ
Tiêu thụ sản phẩm
Bán tại
Bán theo
Bán cho nhà
Nhà máy thu
Bán cho
Bán cho nhà
chợ địa
hợp động
buôn
mua tại chỗ
công ty
hàng
phương
Củ Chi
28
14
29
4
8
1
Hóc Môn
16
7
31
1
1
1
Tổng
44
21
60
5
9
2
Nguồn: kết quả điều tra của tác giả
Tiếp đến là hình thức là bán tại chợ địa phương với 43,6%, bán theo hợp đồng có
20,8%, nhà máy thu mua tại chỗ là 5%, bán cho công ty 8,9% và bán cho nhà hàng
2%. Như vậyngười nông dân vẫn phải tự tìm đầu ra cho sản phẩm nông sản của mình
130
khi bán tại các chợ địa phương. Tính chủ động hầu như không có, sự bấp bênh, thiếu
linh hoạt khiến cho người nông dân luôn chịu thiệt thòi khi chấp nhận “được mùa mất
giá, được giá thì mất mùa”.
Với 110 hộ được khảo sát, tỉ lệ hộ bán theo hợp đồng chỉ có 21 hộ, như vậy có nghĩa đây là những hộ đã có hợp đồng được ký kết trước với các công ty trước, họ không phải lo lắng đầu ra cho sản phẩm. Hình thức này chủ yếu là các công ty sẽ ứng trước vốn (để mua vật tư như phân bón, hóa chất) hoặc cung ứng luôn vật tư, đến vụ thu hoạch họ sẽ mua lại (có lợi nhuận), trong thời gian trồng trọt hoặc chăn nuôi, công ty sẽ theo dõi sát sao qui trình trồng trọt hoặc chăn nuôi để đảm bảo sản phẩm phải đảm bảo chất lượng từ khâu đầu vào đến đầu ra và đến tay người tiêu dùng theo qui trình. Hiện nay có một vài công ty đã làm theo hình thức này như Công ty Vissan, siêu thị Co.opmart, Lotte, tập đoàn Vingroup, Công ty Sông Xanh. Hình thức thu mua này cũng có những khó khăn là khi công ty ký kết các hợp đồng bao tiêu với người dân thì phía công ty chỉ có thể đảm bảo thu mua với những nông hộ có sản phẩm số lượng nhiều, số nông hộ còn lại, sản phẩm ít, không theo các tiêu chuẩn của doanh nghiệp đề ra thì không thể thu mua. Vì các sản phẩm sau khi thu mua sẽ được công ty sơ chế nên công ty luôn cần một lượng lớn, sản phẩm bán cho công ty cũng phải đúng tiêu chuẩn, quy cách. Điều này khiến cho nhiều nông hộ không mặn mà với hình thức này do họ phải có điều kiện về vốn, đất đai và nhân công.
Về vốn, doanh thu: Qua khảo sát cho thấy doanh thu trung bình hàng năm có sự khác biệt giữa hai huyện, huyện Củ Chi doanh thu hàng năm vào khoảng 70 triệu, trong khi Hóc Môn là 83 triệu, lợi nhuận của Hóc Môn cao hơn với 63 triệu, trong khi Củ Chi là gần 50 triệu, trong khi vốn đầu tư xấp xỉ nhau là hơn 100 triệu. Doanh thu bình quân trên nhân khẩu ở Củ Chi phần lớn là tư 16,7 triệu - 25 triệu người/ năm (21 hộ), còn dưới 16,7 triệu là 39 hộ, trong khi Hóc Môn có sự chênh lệch về số hộ giữa hai nhóm thu nhập chủ yếu từ 16,7 triệu trở lên (21 hộ) với dưới 16,7 triệu cũng 29 hộ. Điều này cho thấy nhóm thu nhập thấp vẫn tập trung chủ yếu ở các huyện xa trung tâm, như giữa Củ Chi và Hóc Môn thì thu nhập khá hơn vẫn là Hóc Môn.
Bảng 3.20. Vốn, lợi nhuận, doanh thu trung bình một năm theo huyện
Huyện
Củ Chi Trung bình 70
Hóc Môn Trung bình 83
Doanh thu hàng năm
49
63
Lợi nhuận
102
101
Tổng số vốn một năm
Nguồn: kết quả điều tra của tác giả
Trong các nguồn vốn đầu tư chủ yếu thì vốn chủ sở hữu chiếm đến 101 hộ được
131
hỏi, sau đó còn nguồn vốn vay từ bạn bè (29 hộ), vốn vay ngân hàng rất ít chỉ có 17 hộ. Trong đó, vốn chủ sở hửu chủ yếu rơi vào các hộ có nguồn thu chủ yếu từ chăn nuôi (47 hộ), trồng trọt có 40 hộ. vốn vay ngân hàng tập trung chủ yếu ở các hộ chăn nuôi 11 hộ và trồng trọt có 5 hộ. Vốn vay bạn bè người thân đối với nông hộ trải đều ở cả hai loại hình hộ trồng trọt và chăn nuôi, vốn khác ở đây hầu như không có.
Hình 3.4. Biểu đồ thể hiện doanh thu trung bình một năm theo huyện
Bảng 3.21. Nguồn vốn đầu tư chủ yếu của các hộ
Vốn vay
Vốn vay bạn
Vốn vay ngân
Huyện
Vốn chủ sở hữu
Nguồn khác
Tổng
bè
hàng
Số hộ
Số hộ
Số hộ
Số hộ
Số hộ
Củ Chi
54
15
12
0
58
Hóc Môn
47
14
5
1
50
Tổng cộng
101
29
17
1
108
Nguồn: kết quả điều tra của tác giả
Như vậy, có thể thấy để phát triển sản xuất chăn nuôi đòi hỏi vốn đầu tư lớn, nên đa phần hộ có chăn nuôi đều nghĩ đến việc vay ngân hàng ngoài vốn chủ sở hữu. Tuy nhiên có thể thấy trong quá trình chuyển đổi từ trồng trọt sang chăn nuôi vẫn còn nhiều hộ e dè mặc dù biết hiệu quả của nó lớn hơn nhưng khả năng thiếu hụt về vốn, khả năng tiếp cận về vốn vay ưu đãi và thị trường tiêu thụ cũng khiến nhiều hộ nông dân ngại chuyển đổi.
132
Hình 3.5.Biểu đồ thể hiện mối quan hệ giữa doanh thu hàng năm và tổng số vốn một năm theo kết quả điều tra ở địa bàn khảo sát
3.2.3. Đánh giá quá trình chuyển đổi
Trong 10 năm, ở hai huyện Củ Chi và Hóc Môn, có 48 hộ/110 hộ có chuyển đổi
mục đích sử dụng đất, có 17 hộ/110 hộ có sự chuyển đổi và có lợi nhuận từ 10% trở lên.
Nếu xét trên các biểu hiện của quá trình chuyển đổi, như vậy có 43,6% hộ tham gia khảo
sát có thực hiện CĐNN nhưng để đạt được giá trị nông sản cao vẫn còn khiêm tốn
(35,4%).Trong các hộ có chuyển đổi, khảo sát về mặt lợi nhuận tăng thêm khoảng 10%
rơi vào các hộ có chăn nuôi (ở đây chủ yếu là nuôi bò thịt), từ 11 - 40% lợi nhuận rơi
vào các hộ chăn nuôi bò sữa, các hộ trồng rau cũng có tăng nhưng không đáng kể. Như vậy, mô hình chuyển đổi từ lúa-rau, lúa-bò là mô hình chính ở các địa bàn khảo sát của
hai huyện Củ Chi và Hóc Môn.
Về dự định mở rộng quy mô sản xuất: mặc dù có sự thay đổi về lợi nhuận một
cách đáng kể nhưng khi được hỏi có dự định mở rộng quy mô sản xuất không thì 66 hộ
trả lời là không (60%). Có thể thấy, vấn đề CĐNN sang mô hình khác là có nhưng thay đổi quy mô chuồng trại, diện tích trồng trọt đối với người dân là rất khó khăn do còn nhiều vấn đề về vốn, đầu ra cho sản phẩm và nguồn lao động.
Bảng 3.22. Sản phẩm chính và tỉ lệ lợi nhuận tăng thêm
Sản phẩm chính
Tỉ lệ lợi nhuận tăng thêm
Bò sữa
Bò thịt
Rau
Số hộ
Số hộ
Số hộ
133
đến 10%
0
4
2
11 - 20%
2
0
1
31 - 40%
1
0
1
trên 40%
0
0
0
Nguồn: kết quả điều tra của tác giả
Về động lực chuyển đổi của các hộ: Việc CĐNN ngoài vấn đề về vốn, thị trường
còn là các chính sách của địa phương. Vậy giải pháp cho đầu ra của các nông sản ở hai
huyện này chính là tăng cường liên kết, hợp tác giữa các hộ nông dân thành các tổ hợp
tác, hoặc HTX. Có thể thấy khi đại diện các hộ nông dân đứng ra thu mua sản phẩm từ
các nông hộ rôi ký kết hợp đồng với các công ty thì số lượng sản phẩm sẽ tăng lên, chất
lượng sản phẩm sẽ được quan tâm do các công ty sẽ kiểm soát về mặt chất lượng, giá
thành sản phẩm cũng tăng lên và lợi nhuận cho nông dân cũng khá hơn. Có 63 hộ đồng ý tham gia tổ hợp tác vì họ cho rằng khi tham gia họ sẽ có được nơi tiêu thụ sản phẩm
(33 hộ), tập huấn kỹ thuật, hướng dẫn nuôi trồng (22 hộ) tư vấn mua bán giống cây
trồng (7 hộ). Có 49 hộ được hỏi sẽ tham gia HTX vì có nơi tiêu thụ sản phẩm (21 hộ),
tập huấn kỹ thuật, hướng dẫn nuôi trồng (17 hộ), có thể thấy số lượng các hộ tham gia
HTX còn ít so với tổ hợp tác do những qui định trong quá trình tham gia HTX so với tổ
hợp tác có nhiều khó khăn về quy chuẩn theo thị trường của sản phẩm nên người dân
còn e dè chưa dám tham gia.
Mô hình tổ hợp tác sẽ liên kết giữa hoạt động khuyến nông trang bị cho hội viên
về kỹ thuật trong quá trình sản xuất nhưng khi tham tổ hợp tác, nông dân phải đăng ký
các tiêu chuẩn như VietGap. Như vậy, các hộ sẽ liên kết, phối hợp nhau cùng sản xuất,
cùng tham gia vào tổ hợp tác để tạo chuỗi liên kết nông sản cung cấp cho các chuỗi
siêu thị trong thành phố.
Về nguồn lực phục vụ CĐNN: Mô hình HTX giúp các xã viên đưa các sản phẩm
nông sản của mình ra thị trường, có cơ hội giao lưu trao đổi học tập kinh nghiệm với HTX các địa phương khác, được nhận các chính sách hỗ trợ phát triển của địa phương.
Hiện nay ở TP.HCM có các HTX như: Phước An (huyện Bình Chánh) với sản phẩm rau củ quả, HTX Phú Lộc (huyện Củ Chi) có em truy xuất nguồn gốc VietGAP, các sản phẩm của các HTX này được bày bán tại các hệ thống siêu thị Saigon Co.op, siêu thị Lotte siêu thị AEON... Về chăn nuôi có HTX Tân Thông Hội, HTX Chăn nuôi heo an toàn Tiên Phong, HTX Phước An… Nhờ vậy, các HTX đã giải quyết được vấn đề sản xuất theo nhu cầu của thị trường, tránh để tình trạng nông sản sản xuất ra không có
134
nơi tiêu thụ được vì không đáp ưng nhu cầu tiêu dùng, các sản phẩm của HTX đã tạo
ra giá trị cho sản phẩm, thu được hiệu quả cao về mặt kinh tế.
Bảng 3.23. Lợi ích khi hộ nông dân tham gia tổ hợp tác, HTX
Tham gia tổ hợp tác, HTX
Tổ hợp tác HTX
Lợi ích khi tham gia Số hộ % Số hộ %
Có nơi tiêu thụ sản phẩm 33 86.8% 21 80.8%
Tư vấn mua bán giống cây
trồng 7 18.4% 6 23.1%
Tập huấn kỹ thuật, hướng
dẫn nuôi trồng 22 57.9% 17 65.4%
Nguồn: kết quả điều tra của tác giả
Lý do khác 6 15.8% 5 19.2%
• Khó khăn và nguyện vọng:
Có 84/110 hộ được hỏi lo lắng về giá cả bất ổn, 42/110 hộ cũng trả lời thiếu
thông tin về thị trường tiêu thụ sản phẩm, có thể thấy đầu ra cho sản phẩm luôn là nỗi
lo lớn nhất của hộ nông dân, mặc dù chính quyền thành phố đang có chính sách ưu tiên
phát triển thị trường đầu ra cho nông sản, áp dụng các mô hình SXNN công nghệ cao
vào nông nghiệp nhưng do quỹ đất SXNN ít, chủ yếu là các hộ nông dân nhỏ lẻ, chi
phí đầu tư cho canh tác lớn, ngươi nông dân bán cho thương lái hay cho chợ đầu mối
nông sản luôn bị ép giá nên người nông dân mong mỏi thành phố có những chính sách
hỗ trợ nông dân bán nông sản cho các kênh tiêu thụ khác có giá tốt và đầu ra ổn định
hơn (60 hộ/110 hộ có nhu cầu về những chính sách hỗ trợ nông dân)
Có 42/110 hộ trả lời khó khăn về thiếu vốn do hộ nghèo hoặc cần chuyển đổi mô
hình sản xuất, nhưng vốn chủ sở hữu không đủ, đặc biệt là các hộ chăn nuôi bò sữa đòi
hỏi vốn lớn. Vì vậy, có 51/110 hộ hộ yêu cầu được hỗ trợ vay vốn. Đây là tín hiệu đáng mừng cho quá trình CĐNN của thành phố do nông hộ đã quan tâm đến quá trình
thay đổi cơ cấu SXNN, mô hình nông nghiệp thông qua vay vốn đầu tư.
Có 39 hộ/110 hộ trả lời thiếu đất sản xuất và có 31 hộ yêu cầu được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Khi đất canh tác ngày càng bị thu hẹp do biến động về đất đai và chủ trương chuyển đổi đất SXNN của Thành phố sang mục đích khác thì lo lắng này của hộ nông dân là có cơ sở. Chuyển đổi mô hình sản xuất từ cá thể sang tập
135
thể, quy hoạch vùng SXNN và tận dụng nguồn đất đai sẵn có là cơ sở để CĐNN một
cách hiệu quả tại TP.HCM.
Có 35/110 hộ trả lời thiếu kiến thức và kỹ thuật đối với nhiều loại cây trồng mới
đặc biệt là trồng rau theo các tiêu chuẩn như VietGap. Hộ nông dân biết rằng trồng rau theo công nghệ cao sẽ đầu ra của nông sản, nhưng không phải hộ nào cũng làm được vì vốn đầu tư ban đầu khá cao, cần có kỹ thuật canh tác. Do đó, nếu được hỗ trợ về cơ
sở vật chất, hướng dẫn kỹ thuật canh tác, sản phẩm làm ra được bán cho công ty theo hợp đồng sẽ tránh được tình trạng bị thương lái ép giá. Do vậy, có 68/110 hộ yêu cầu
được hỗ trợ về khoa học kiến thức và đào tạo về kiến thức.
Có 10 hộ khó khăn về lao động, số lượng lao động trong các hộ nông dân giảm
nhưng trong khảo sát quy mô các hộ có từ 4 - 6 nhân khẩu/hộ chiếm 56,4% nên nhân công cho nông nghiệp không phải là khó khăn lớn của hai huyện này, đặc biệt khi áp
dụng nông nghiệp công nghệ cao thì nhu cầu về lao động càng không nhiều. Lao động
làm nông nghiệp tại huyện ngoại thành của TP.HCM còn kiêm thêm một số nghề phụ
như buôn bán tại nhà, thợ xây, thợ may…Có 8/110 hộ khó khăn về giống cây trồng,
vật nuôi nhưng có 17 hộ có nhu cầu được hỗ trợ về giống. Như vậy, có thể thấy giống
cây trồng, vật nuôi trong CĐNN tại TP.HCM đã gần như được đảm bảo và đây không
phải là khó khăn của các hộ nông dân trong quá trình sản xuất chuyển đổi mô hình
nông nghiệp.
Bảng 3.24. Khó khăn và nguyện vọng của các hộ nông dân Huyện
Tiêu chí
Củ Chi
Hóc Môn
Tổng
Thiếu đất
20
19
39
Thiếu vốn
28
15
43
Thiếu kiến thức và kỹ thuật
18
17
35
Khó Khăn
Thiếu thông tin tiêu thụ sản phẩm
19
23
42
Thiếu giống
5
3
8
Thiếu lao động
6
4
10
Giá cả bất ổn
41
43
84
Được cấp giấy CNQSD đất
14
17
31
Được cho vay vốn
32
19
51
Nguyện
Được hỗ trợ tiêu thụ
26
34
60
vọng
Được hỗ trợ về KHKT
26
14
40
Được hỗ trợ dịch vụ về giống
13
4
17
Được hỗ trợ đào tạo kiến thức
16
12
28
Được hỗ trợ thông tin thị trường
30
28
58
Được hỗ trợ lãi suất ngân hàng
20
9
29
Nguồn: kết quả điều tra của tác giả
136
3.3. Đánh giá chung
3.3.1. Thành tựu
Chuyển đổi cơ cấu kinh tế của TP.HCM đang theo hướng tích cực: giảm tỷ
trọng nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ. Điều này phản ánh đặc thù của nông nghiệp đô thị trong quá trình CNH, HĐH; tăng trưởng mang tính
chu kỳ do tính chất sản xuất nhỏ lẻ, phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên (đất đai, khí
hậu, nguồn nước). Do tốc độ tăng trưởng thấp nên tỷ trọng khu vực nông, lâm, thủy sản nhiệp giảm. Trong các thành phố trực thuộc Trung ương, TP.HCM có tỉ trọng
nông nghiệp thấp nhất với 0,67% (2018), đây là sự chuyển dịch nhanh chóng tích
cực theo hướng công nghiệp hóa, gắn SXNN với thị trường, khai thác thế mạnh của
Thành phố.
Có sự chuyển đổi theo hướng chuyên môn hóa trong cơ cấu ngành nông nghiệp
đã, giảm những ngành có hiệu quả thấp, tăng những ngành có khả năng tạo ra sản
phẩm có giá trị hàng hóa, chất lượng cao. Xu hướng chuyển dịch nhanh chóng từ
ngành trồng trọt sang chăn nuôi, phù hợp với định hướng CĐNN của TP.HCM. Tỉ
trọng dịch vụ nông nghiệp giảm do yếu tố thị trường, chưa đáp ứng được yêu cầu sản
xuất theo hướng hàng hóa trong chuyển đổi của ngành nông nghiệp. Trong ngành
trồng trọt, cây hàng năm vẫn chiếm ưu thế so với cây lâu năm. Trong cơ cấu cây hàng
năm, GTSX cây rau đậu, hoa, cây cảnh đóng vai trò chủ đạo trong cơ cấu cây hàng
năm. TP.HCM không chỉ là trung tâm sản xuất hoa, cây cảnh mà còn là thị trường tiêu
thụ hoa,cây cảnh lớn nhất nước.
Xu hướng chuyển đổi là tăng những cây đem lại giá trị hàng hóa cao như rau, hoa, cây cảnh, thức ăn cho gia súc. Ngành chăn nuôi phát triển theo xu hướng tập trung vào trang trại hoặc hộ gia đình. Tuy nhiên, ngành chỉ đáp ứng được 18 % - 20 % nhu cầu thực phẩm của TP.HCM. Chuyển đổi theo hướng giảm tỉ trọng chăn nuôi
gia cầm, tăng tỉ trọng chăn nuôi bò (bò sữa), lợn. Số lượng đàn gia súc, gia cầm đều tăng phục vụ cho ngành công nghiệp chế biến và nhu cầu thực phẩm của Thành phố.
Về các hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp, TP.HCM đang phát triển các mô hình như HTX, trang trại, vùng chuyên canh, vùng SXNN, khu nông nghiệp công nghệ cao và các vành đai nông nghiệp. HTX nông nghiệp là mô hình đang được khuyến
137
khích phát triển để trở thành mô hình chủ đạo của nông nghiệp TP HCM (HTX đóng
góp chưa tới 5% giá trị ngành nông nghiệp); mô hình kinh tế nông hộ đóng góp trên
77%; doanh nghiệp nông nghiệp chiếm 15%. Kinh tế trang trại chiếm 3%, tuy có hiệu
quả kinh tế cao nhưng khó nhân rộng do diện tích đất không đảm bảo.
Trong quá trình khảo sát 110 nông hộ tại hai huyện Củ Chi và Hóc Môn, TP.HCM, người nghiên cứu nhận thấy có 48 hộ/110 hộ có chuyển đổi mục đích sử
dụng đất (trong 10 năm có 17 hộ/110 hộ có sự chuyển đổi về mặt nông nghiệp và có lợi nhuận), đây là con số còn khiêm tốn trong số hộ được khảo sát. Trong các hộ có
chuyển đổi, khảo sát về mặt lợi nhuận tăng thêm khoảng 10% rơi vào các hộ có chăn
nuôi (ở đây chủ yếu là nuôi bò thịt), từ 11 - 40% lợi nhuận rơi vào các hộ chăn nuôi bò
sữa, các hộ trồng rau cũng có tăng nhưng không đáng kể. Như vậy, mô hình chuyển đổi từ lúa - rau, lúa – bò, dự báo là mô hình chính ở hai huyện Củ Chi và Hóc Môn.
CĐNN sang mô hình khác là có nhưng thay đổi quy mô chuồng trại, diện tích trồng
trọt đối với người dân là rất khó khăn do còn nhiều vấn đề về vốn, đầu ra cho sản
phẩm và lao động…Giống cho cây trồng, vật nuôi trong CĐNN tại TP.HCM đã gần
như được đảm bảo trong quá trình chuyển đổi mô hình nông nghiệp do thành phố có
xu hướng hình thành trung tâm giống, cây trồng vật nuôi cho cả ĐNB.
3.3.2. Tồn tại, hạn chế
Chuyển đổi N, L, TS còn chậm so với tiềm năng, thế mạnh của thành phố. Cơ cấu
các sản phẩm nông nghiệp chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường tại chỗ, đầu ra của
các sản phẩm chưa được đảm bảo, bấp bênh do biến động thị trường xuất khẩu.
Cơ cấu lãnh thổ chuyển biến còn chậm, quy mô nhỏ, mức độ tập trung chưa cao
và hiệu quả sản xuất hàng hóa chưa lớn. Thành phố chưa hình thành những vùng sản
xuất những sản phẩm chủ lực theo hướng chất lượng cao, độc đáo mang tính chuyên
biệt của Thành phố. Thị trường tiêu thụ của Thành phố rất lớn cũng làm nảy sinh
những tiêu cực trong SXNN: sản xuất ồ ạt, sản phẩm không an toàn, ô nhiễm môi
trường… Đồng thời khó xác định được sản phẩm chủ lực do sự tương đồng về điều
kiện sản xuất với các địa phương khác trong vùng.
Các cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp, nông dân còn chưa
đồng bộ, nhất là chính sách về tín dụng, đất đai, thị trường và KH - CN. Nguồn vốn đầu
tư cho nông nghiệp còn thấp, gây trở ngại cho sự phát triển của nông nghiệp theo hướng
hàng hóa và nông nghiệp đô thị sinh thái - đòi hỏi vốn lớn cho xây dựng cơ sở vật chất
kĩ thuật và cơ sở hạ tầng. Công tác đào tạo bồi dưỡng kiến thức nông nghiệp cho nông
dân còn hạn chế. Đội ngũ cán bộ quản lý chuyên môn nghiệp vụ còn thiếu.
138
Đất SXNN của Thành phố đang có xu hướng giảm do công nghiệp hóa và đô thị
hóa, diện tích đất màu mỡ không nhiều nhưng đang bị thoái hóa do quá trình canh tác.
Quá trình đô thị hóa đã làm cho một bộ phận dân cư nông thôn rơi vào tình trạng thất
nghiệp, thiếu đất nông nghiệp canh tác. Bình quân đất nông nghiệp trên đầu người
ngày càng thu hẹp, gây khó khăn cho việc hình thành các trang trại kiểu mới, số lượng
trang trại giảm đi đáng kể do qui định về diện tích. Quy mô trang trại nhỏ, không ổn
định, trình độ sản xuất còn yếu. Nếu không có sự can thiệp của chính quyền thành phố,
những điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến quỹ đất nông nghiệp của Thành phố đang có
nguy cơ thu hẹp.
Nông dân quá quan tâm đến hóa chất, các vật tư đầu vào khác thay vì tăng hiệu quả
bằng cách tăng năng suất và giảm chi phí cho vật tư nông nghiệp. Các HTX cũng gặp phải
những vấn đề về quản lý, định hướng kinh doanh, hoạt động không hiệu quả thì chi phí
cho các giao dịch tăng lên do doanh nghiệp chế biến phải thu mua qua thương lái do
doanh nghiệp chế biến không gắn kết, quản lý và theo dõi việc thu mua với các hộ nông
dân. Việc thiếu sự liên kết giữa các hộ ND cũng khiến cho chuỗi giá trị nông sản còn lỏng
lẻo, chưa thực sự gắn kết, thiếu hoạt động tập thể của nông dân.
Hợp đồng thu mua nông sản giữa nông dân và các doanh nghiệp thu mua còn rất
ít, đa phần là hợp đồng miệng với thương lái. Khi chuỗi giá trị không kiểm soát được
nguồn cung ứng thì khách hàng không biết được nguồn gốc sản phẩm. Xuất khẩu nông
sản tăng đáng kể nhưng chất lượng hàng hóa không đảm bảo nguyên nhân chủ yếu
xuất khẩu vẫn dựa vào các DNNN. Vai trò của các công ty tư nhân tham gia chuỗi giá
trị bị hạn chế.
Nhiều nhà máy, xí nghiệp nằm dọc hai bên kênh rạch, sông ngòi đã xả nước thải
trực tiếp gây ô nhiễm nghiêm trọng nguồn nước. Các khu công nghiệp, khu đô thị mới
phát triển theo hướng tự phát ở các huyện Bình Chánh, huyện Củ Chi, quận 9, Thủ Đức
ảnh hưởng đến việc trồng rau sạch cung cấp cho thành phố, xa hơn là việc phát triển
nông nghiệp theo hướng công nghệ cao bị ảnh hưởng nghiêm trọng do nguồn nước cũng
là một trong những nhân tố quyết định phát triển nông nghiệp hữu cơ.
Dịch bệnh trên gia súc, gia cầm luôn tiềm ẩn nguy cơ bùng phát trong thành phố
khiến ngành chăn nuôi luôn ở trong tình trạng bấp bênh, biến động. Diện tích nuôi
trồng thủy sản suy giảm do dịch bệnh, ô nhiễm môi trường biển và các bất thường của
thời tiết, biến đổi của khí hậu làm thay đổi chế độ nhiệt ẩm, tần suất, cường độ, mực
nước biển dâng.
139
Rừng phòng hộ ven biển và chăm sóc rừng ngập mặn trong Khu dự trữ sinh
quyển tại Cần Giờ là nhiệm vụ quan trọng. Tuy nhiên, người dân mở rộng diện tích
canh tác nuôi tôm trong rừng ngập mặn làm thu hẹp diện tích rừng tự nhiên, biến đổi
hệ sinh thái đe dọa môi trường nghiêm trọng.
Khó khăn chính của các nông hộ theo khảo sát là giá cả bất ổn, thiếu thông tin về thị
trường tiêu thụ, khó khăn về thiếu vốn do hộ nghèo hoặc cần chuyển đổi mô hình sản
xuất, nhưng vốn chủ sở hữu không đủ, đặc biệt là các hộ chăn nuôi bò sữa đòi hỏi vốn lớn.
Bên cạnh đó là thiếu đất sản xuất và vấn đề cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Khi
đất canh tác ngày càng bị thu hẹp do biến động về đất đai và chủ trương chuyển đổi đất
SXNN của Thành phố sang mục đích khác thì lo lắng này của hộ nông dân là có cơ sở.
Chuyển đổi mô hình sản xuất từ cá thể sang tập thể, quy hoạch vùng SXNN và tận dụng
nguồn đất đai sẵn có là cơ sở để CĐNN một cách hiệu quả tại TP.HCM.
Các hộ nông dân còn thiếu kiến thức và kỹ thuật đối với nhiều loại cây trồng
mới đặc biệt là trồng rau theo các tiêu chuẩn như VietGap. Do đó, nếu được hỗ trợ về
cơ sở vật chất, hướng dẫn kỹ thuật canh tác, sản phẩm làm ra được bán cho công ty
theo hợp đồng sẽ tránh được tình trạng bị thương lái ép giá. Số lượng lao động trong
các hộ nông dân giảm nhưng khi áp dụng nông nghiệp công nghệ cao thì nhu cầu về
lao động tại nông thôn không nhiều.
Tiểu kết chương 3
Trong chương 3, luận án tập trung vào thực trạng chuyển đổi nông nghiệp ở
TP.HCM nhất là ở hai huyện Củ Chi và huyện Hóc Môn. Chuyển đổi trong nông
nghiệp TP.HCM giai đoạn 2005 – 2018 có nhiều thay đổi từ nông nghiệp truyền thống
nhỏ lẻ sang nền nông nghiệp đô thị gắn liền với khoa học và công nghệ hiện đại. Từ
đó, nông nghiệp thành phố thoát khỏi tình trạng trì trệ, phục hồi và phát triển ứng dụng
nông nghiệp công nghệ cao vào SXNN. Vùng nông thôn ngoại thành từng bước hình
thành các vùng sản xuất tập trung như rau an toàn, hoa, cây cảnh, bò, tôm và cá cảnh.
Ngành trồng trọt tập trung vào các cây trồng chủ lực như rau an toàn, hoa, cây
cảnh, lúa chất lượng cao, giảm các cây trồng cho sản lượng và tính thương phẩm thấp
như lúa, ngô, khoai, lạc, mía. Ngành chăn nuôi chuyển đổi cả về chất và lượng, tăng số
lượng đàn gia súc (bò sữa, bò thịt và lợn), đặc biệt là lợn và bò nhằm cung cấp cho các
công ty chế biến trong thành phố. Ngành chăn nuôi thành phố hình thành những trang
trại nuôi lợn, bò theo quy chuẩn đảm bảo chất lượng cung cấp; giảm số lượng đàn trâu,
140
gia cầm. Tuy nhiên, ngành vẫn còn nhiều khó khăn do vấn đề dịch bệnh, vệ sinh, an
toàn thực phẩm, đầu ra cho sản phẩm, cơ sở thức ăn, vốn.
Ngành thủy sản đẩy mạnh nuôi trồng thủy sản nước lợ, nhuyễn thể (sò, hàu,
nghêu), quy hoạch khu nông nghiệp công nghệ cao về thủy sản. Tuy nhiên, tỉ trọng
đánh bắt giảm do thời tiết biến động (thiên tai, biến đổi khí hậu), môi trường bị ô
nhiễm làm nghêu, hàu chết, dịch bệnh trên tôm. Ngành nuôi trồng tỉ trọng tăng do nhu
cầu thị trường tiêu thụ, cơ sở chế biến được đầu tư hơn.
Ngành lâm nghiệp kết hợp phát triển du lịch sinh thái với bảo tồn tại rừng ngập
mặn Cần Giờ. Công tác quản lý, chăm sóc và bảo vệ rừng cần được thực hiện nghiêm
ngặt để không có hiện tượng phá rừng ngập mặn nuôi tôm không theo quy hoạch của
Thành phố.
Tại TP.HCM, chuỗi giá trị nông sản còn thiếu sự nhất quán giữa các khâu tham
gia. Trong chuỗi giá trị nông nghiệp tại thành phố hiện nay, còn tồn tại nhiều công
đoạn và khâu trung gian lãng phí làm tăng chi phí không cần thiết. Điều cần quan tâm
là thay đổi tư duy của nhà nông, đổi mới cách sản xuất của người nông dân, hình thành
sự liên kết theo chuỗi giá trị nông sản với mối liên kết giữa nhà cung cấp (cung ứng
vật tư) đầu vào với nhà sản xuất (HTX, trang trại, nông dân), nhà buôn (thương lái),
doanh nghiệp chế biến, nhà phân phối (bán lẻ, thương mại), người tiêu dùng. Thúc đẩy
và hỗ trợ chuỗi giá trị phát triển là ngành nông nghiệp, công thương, liên minh HTX,
hội nông dân, ngân hàng, nhà khoa học.
Về các hình thức sản xuất và tổ chức lãnh thổ nông nghiệp: TP.HCM đang phát
triển các mô hình như hộ gia đình, trang trại, DNDN, vùng chuyên canh và các vành
đai nông nghiệp quanh thành phố. HTX nông nghiệp là mô hình đang được khuyến
khích phát triển để trở thành mô hình chủ đạo của nông nghiệp tại TP.HCM. Quy mô
và số lượng HTX nông nghiệp kiểu mới ngày càng tăng. Hiệu quả hoạt động của hình
thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp ngày càng cao, giải quyết vấn đề thị trường tiêu thụ
nông sản, sơ chế, chế biến sản phẩm trước khi tiêu thụ nhằm nâng cao giá trị thương
phẩm; cung cấp đầu vào về vật tư nông nghiệp (giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực
vật) với giá thấp hơn thị trường cho nông hộ.
Chính quyền thành phố cần có các chính sách hỗ trợ cho nông hộ để đủ điều kiện SXNN theo hướng công nghệ cao. Quá trình triển khai các chính sách cần kịp thời, có các thủ tục hỗ trợ cho nông dân, doanh nghiệp nông nghiệp; cung cấp thông tin về chính sách đến nông dân kịp thời để quá trình chuyển đổi được thực hiện nhanh chóng.
141
CHƯƠNG 4. ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHUYỂN ĐỔI NÔNG NGHIỆP Ở TP.HCM
4.1. Cơ sở xây dựng định hướng và đề xuất giải pháp chuyển đổi nông nghiệp ở
TP.HCM
4.1.1. Bối cảnh thế giới và trong nước tác động đến chuyển đổi nông nghiệp ở
TP.HCM
4.1.1.1. Thị trường quốc tế và chuyển đổi nông nghiệp ở TP.HCM
Xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hóa kinh tế diễn ra ngày càng sâu
rộng trên phạm vi toàn thế giới và khu vực, đang tác động mạnh mẽ đến kinh tế Việt Nam nói chung và kinh tế TP.HCM nói riêng. Với những đặc điểm cơ bản như: gia
tăng đầu tư; mở rộng thương mại quốc tế, cạnh tranh gay gắt, công nghệ đổi mới tạo ra
sự thay đổi cơ cấu thị trường sâu sắc. Sau thời kỳ đổi mới năm 1986, với tự do hoá nền
kinh tế, Việt Nam đã thực sự tham gia vào nền kinh tế thế giới.
Các tổ chức quốc tế như FAO, WB, ADB đưa ra các nhận định về nông
nghiệp đô thị trong xu thế hội nhập. Trong đó có đề cập đến các chiến lược để phân
phối thực phẩm lành mạnh, an toàn đến từng hộ dân theo chuỗi giá trị nông sản từ
trang trại đến bàn ăn, nhu cầu tiêu thụ nông sản vẫn tăng mạnh. Các yếu tố thúc đẩy
thị trường tăng chủ yếu là tăng dân số, tăng thu nhập, đô thị hóa. Nhu cầu ăn uống
sẽ làm tăng cao về thịt, sữa, ngũ cốc. Qua đó, nông nghiệp đô thị góp phần cải thiện
kinh tế nông hộ đáng kể thông qua việc phát triển kỹ năng, tạo việc làm, và thu hút
các doanh nghiệp mới đầu tư vào nông nghiệp. Sản lượng nông sản toàn thế giới sẽ
tăng và có thể tăng nhanh hơn tốc độ tăng dân số.
Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới, gắn kết chặt
chẽ với nền kinh tế khu vực và toàn cầu, đánh dấu thời điểm nước ta hoàn thành lộ
trình cam kết gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới và cắt giảm thuế quan theo Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN, bắt đầu thực thi các cam kết FTA với mức độ cắt giảm sâu rộng. Việt Nam đã ký kết và chuẩn bị triển khai các FTA thế hệ mới như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) với những cam kết sâu rộng, tiêu chuẩn cao và mở rộng trên nhiều lĩnh vực. Những thỏa thuận FTA này tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế nước ta với độ mở cao của nền kinh tế, đồng thời tăng cường cơ hội thu hút và tận dụng dòng vốn FDI trong năm 2019 và những năm tiếp theo.
142
Hội nhập kinh tế quốc tế cũng tác động lên sản phẩm nông nghiệp, thay đổi hình
mẫu tiêu thụ. Thị trường phát triển theo xu thế tiêu thụ những mặt hàng có chất lượng
cao đảm bảo an toàn thực phẩm. Đây là xu thế phát triển mới liên quan đến SXNN đô
thị theo hướng chuyển đổi với các chứng chỉ về môi trường, các tiêu chuẩn quốc tế về sản xuất (ISO 14001).
Toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, tự do hóa thương mại làm tăng quy mô
trao đổi và buôn bán do đó khuyến khích việc khai thác sử dụng ngày càng nhiều hơn các nguồn đầu vào có nguồn gốc từ thiên nhiên và hậu quả là làm cạn kiệt tài nguyên
thiên nhiên và hủy hoại môi trường, nếu chúng ta sử dụng tài nguyên không hợp lý. Tự
do hóa thương mại còn là nguyên nhân lây lan ô nhiễm giữa các vùng, miền và quốc
gia. Mặt khác, quá trình tự do hóa thương mại cũng tạo điều kiện để bảo vệ môi trường như phổ biến các công nghệ sạch, sản phẩm thân thiện với môi trường, tăng chi phí
làm sạch môi trường, tăng cường hợp tác quốc tế để bảo vệ môi trường. Hơn nữa, áp
lực cạnh tranh trong bối cảnh tự do hóa thương mại buộc ngành nông nghiệp phải
giảm chi phí, áp dụng các tiêu chuẩn môi trường để mở rộng thị trường dẫn đến tiết
kiệm tài nguyên, tuân thủ các yêu cầu môi trường trong nước.
4.1.1.2. Thị trường nội địa và chuyển đổi nông nghiệp ở TP.HCM
Giai đoạn này, nước ta tiếp tục hội nhập vào kinh tế thế giới và khu vực về việc
tham gia nhiều Hiệp định tự do thương mại, hợp tác song phương, đa phương, Hiệp
định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), thực hiện 10 chương trình cam kết WTO,
AFTA sẽ đem lại cho ngành công nghiệp nhiều cơ hội tiếp cận các thị trường rộng lớn,
nguốn vốn và khoa học công nghệ, Tuy nhiên ngành nông nghiệp cũng đối mặt với
nhiều khó khăn, thách thức trong quá trình Hội nhập như cạnh tranh về giá cả và chất lượng với các sản phẩm nông sản thực phẩm nhập khẩu.Tình hình biến đổi khí hậu
ngày càng phức tạp, có tác động trực tiếp và khó lường đến hoạt động SXNN.
4.1.1.3. Tác động của biến động khí hậu đến chuyển đổi nông nghiệp ở TP.HCM
Theo ADB, TP.HCM là một trong 10 thành phố trên thế giới có dân cư bị ảnh hưởng nặng nề do biến đổi khí hậu [1]. Theo kịch bản của Bộ Tài nguyên và Môi trường thì hầu hết vùng SXNN của TP.HCM như huyện Bình Chánh, huyện Hóc Môn, một phần huyện Củ Chi, Cần giờ sẽ bị ảnh hưởng. Trong trường hợp này vùng SXNN còn lại của Thành phố chủ yếu là huyện Củ Chi và một phần huyện Cần Giờ. Mặc dù nông nghiệp ở TP.HCM chiếm tỷ trọng nhỏ trong cơ cấu GDP nhưng diện tích đất nông nghiệp vẫn còn 120.000 ha. Tác động của biến đổi khí hậu sẽ ảnh hưởng đến mô hình CĐNN ở TP.HCM khi đất nông nghiệp bị ngập lụt, xâm nhập mặn dẫn đến diện
143
tích bị thu hẹp. Các loại cây trồng, vật nuôi phát triển theo mô hình nông nghiệp đô thị
công nghệ cao bị ảnh hưởng. Huyện Bình Chánh được quy hoạch vùng trồng cây
kiểng lâu năm lớn nhất của thành phố với quy mô 550 ha vào năm 2025.
Chính quyền TP.HCM đã ban hành các kế hoạch hành động ứng phó với BĐKH
nhằm đưa ra những mục tiêu, giải pháp cụ thể, lồng ghép các yếu tố BĐKH vào các
Chương trình, Quy hoạch và Kế hoạch phát triển kinh tế của TP giai đoạn 2016 - 2020.
Thành phố nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng tái tạo, hướng đến phát triển xã hội
các bon thấp, xây dựng mô hình đô thị thông minh, giám sát các chỉ số môi trường góp
phần bảo vệ môi trường sống lành mạnh cho mọi người dân. Bên cạnh đó, TP.HCM
chủ động tham gia hợp tác quốc tế (Hà Lan, Nhật Bản) trong thích ứng và ứng phó
với biến đổi khí hậu.
4.1.1.4. Khoa học – công nghệ và chuyển đổi nông nghiệp ở TP.HCM
Việt Nam đã và đang tham gia các Hiệp định thương mại (WTO, AFTA, TPP,
AEC...) với các nước ngày càng sâu rộng, hội nhập quốc tế cho phép tranh thủ được
các nguồn lực bên ngoài để phát triển SXNN, đẩy mạnh hoạt động nhập khẩu như vốn,
KH - CN, kinh nghiệm tổ chức quản lý để phát triển kinh tế thị trường, nâng cao năng
lực cạnh tranh, đồng thời giải quyết đầu ra thông qua xuất khẩu.
Nâng cao năng lực nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và tạo ra các sản phẩm
công nghệ cao phục vụ phát triển lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản và gắn với
chuỗi giá trị sản phẩm an toàn. Nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng trong SXNN công
nghệ cao một cách toàn diện nhằm dẫn dắt, định hướng cho nông nghiệp của Thành
phố và khu vực theo hướng hiện đại, phục vụ sản xuất hàng hóa, có năng suất, chất
lượng, hiệu quả bền vững và sức cạnh tranh cao. Nâng tỷ trọng giá trị SXNN ứng dụng
công nghệ cao đến năm 2020 chiếm từ 60 - 70% tổng giá trị SXNN của cả thành phố.
Đến năm 2020: Phấn đấu 50 - 60% hộ nông dân, 70 - 80% doanh nghiệp tham gia
SXNN ứng dụng các biện pháp kỹ thuật mang tính công nghệ cao về giống, quy trình
canh tác, công nghệ sau thu hoạch; cơ giới hóa, tự động hóa trong quá trình chăn nuôi,
xử lý chất thải; các kỹ thuật tiên tiến, công nghệ cao trong quá trình sản xuất nuôi
trồng các đối tượng thủy sản chủ yếu. Hỗ trợ cho việc hình thành và hoạt động có hiệu
quả một số doanh nghiệp trong ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao (doanh nghiệp
trong lĩnh vực cây trồng, chăn nuôi và thủy sản).
Đến năm 2020, tập trung triển khai xây dựng 02 dự án:
144
- Khu nuôi trồng thủy sản công nghệ cao tại xã Long Hòa, huyện Cần Giờ (98
ha) cho các đối tượng thủy sản nước lợ.
- Khu Nông nghiệp Công nghệ cao tại xã Phước Vĩnh An, huyện Củ Chi (23 ha)
về lĩnh vực chế biến, bảo quản và trồng trọt.
Đến năm 2025 triển khai tiếp dự án còn lại là Khu nông nghiệp ứng dụng công
nghệ cao trong chăn nuôi, dự kiến tại huyện Bình Chánh
4.1.1.5. Quy hoạch tổng thể thát triển kinh tế - xã hội TP.HCM đến năm 2020, tầm
nhìn đến năm 2025 và chuyển đổi nông nghiệp ở TP.HCM
Mục tiêu chung là xây dựng thành phố Hồ Chí Minh văn minh, hiện đại với vai
trò đô thị đặc biệt, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, từng bước trở thành trung tâm lớn về kinh tế, tài chính, thương mại, khoa học - công nghệ của đất
nước và khu vực Đông Nam Á; góp phần đưa nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. TP.HCM sẽ trở thành trung tâm văn hóa,
thể thao, trung tâm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho Vùng Đông Nam Bộ và
cả nước; đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế theo hướng bền vững, phát triển kinh tế đi
đôi với bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội trên
địa bàn [100].
Những mục tiêu về kinh tế - xã hội theo Quy hoạch đến năm 2025 sẽ có tác
động không nhỏ đến CĐNN ở TP.HCM đặc biệt về vấn đề chuyển đổi đất đai, biến
động sử dụng đất, chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng, vật nuôi cho phù hợp với xu
hướng phát triển và hướng đến nông nghiệp an toàn, công nghệ cao và thích ứng với
biến đổi khí hậu.
- Về kinh tế:
+ Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn 2021 - 2025 đạt từ 8,5% - 9%/năm.
GDP bình quân đầu người theo giá thực tế đến năm 2025 đạt từ 13.340 - 14.285 USD.
GDP bình quân thời kỳ 2011 - 2020 cao hơn 1,5 lần mức tăng trưởng bình quân của cả nước. + Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp. Đến năm 2025: khu vực dịch vụ chiếm tỷ trọng từ 58,29% - 61,10%, khu vực công nghiệp - xây dựng chiếm tỷ trọng từ 38,29% - 41,05% và khu vực nông nghiệp chiếm tỷ trọng từ 0,61% - 0,66%. - Về xã hội:
+ Quy mô dân số thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2025 đạt 10 triệu người. Phát triển thành phố Hồ Chí Minh thành trung tâm văn hóa, giáo dục - đào tạo và y tế chất lượng
145
cao, ngang tầm với các nước phát triển khu vực Đông Nam Á. Đẩy mạnh xã hội hóa
để đảm bảo cơ sở vật chất cho giáo dục - đào tạo, y tế, văn hóa, thể dục - thể thao để
có khả năng đáp ứng nhu cầu chuyên môn cao cho cả khu vực phía Nam.
- Về hạ tầng kỹ thuật:
+ Giao thông: xây dựng và từng bước hoàn chỉnh, hiện đại hóa mạng lưới giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy và đường hàng không, đảm bảo cho thành phố phát
triển ổn định, cân bằng, bền vững, góp phần đưa thành phố Hồ Chí Minh trở thành đầu mối giao thông quan trọng của vùng, cả nước và khu vực Đông Nam Á.Xây dựng hoàn
thiện Trung tâm điều khiển giao thông hiện đại trên cơ sở ứng dụng tối đa công nghệ
tiên tiến nhất hiện nay về hệ thống giao thông thông minh, hệ thống thông tin địa lý
GIS để tích hợp quản lý. + Công nghệ thông tin và bưu chính viễn thông: Đến năm 2025, phấn đấu phát triển hạ
tầng công nghiệp phần mềm và dịch vụ công nghệ thông tin thành phố ngang bằng khu
vực.
+ Thích ứng với biến đổi khí hậu, tiết kiệm tài nguyên và bảo vệ môi trường: xây dựng
các kế hoạch thích ứng với biến đổi khí hậu, sử dụng hiệu quả, tiết kiệm các loại tài
nguyên, bảo vệ nghiêm ngặt môi trường, nâng cao chất lượng sống, đảm bảo sự phát
triển bền vững của thành phố.
4.1.2. Dự báo về nhu cầu các sản phẩm nông nghiệp ở TP.HCM đến năm 2025
Thành phố là nơi tập trung dân cư cao nhất nước, với số lượng dân khoảng 7,94
triệu người dự báo đến năm 2025 đạt 10 triệu người. Nếu định mức nhu cầu tiêu thụ
cho người trưởng thành (khoảng 0,09 kg/ngày đối với nhóm cá, thủy sản; 0,05 kg/ngày đối với nhóm thịt và 0,34 kg/ngày) thì mỗi ngày thành phố tiêu thụ khoảng
1000-1200 tấn thịt, trong đó lợn khoảng từ 8-10 nghìn con, bò là 800-900 con, gia
cầm từ 100-120 nghìn con. Mỗi năm thành phố cần lượng thực phẩm đông lạnh
khoảng 264 nghìn tấn/năm, 130 nghìn tấn thịt gia cầm, 170 nghìn tấn thủy sản, 1
triệu tấn rau củ quả.
Do đó việc khai thác có hiệu quả thị trường tại chỗ có ý nghĩa quan trọng trong chiến lược xúc tiến thương mại tiêu thụ các sản phẩm nông lâm và thủy sản của Thành phố. Cùng với thế mạnh và tiềm năng xuất khẩu nông sản của Việt Nam, các mặt hàng nông sản của Thành phố được xuất khẩu đi nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Việt Nam cũng đang thực hiện đầy đủ các cam kết của WTO tham gia Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP), Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC); FTA Việt Nam với Liên minh Châu Âu (EVFTA), với Hàn
146
Quốc (VKFTA), khối thương mại tự do châu Âu (EFTA) gồm các nước Thụy Sỹ,
Na-uy và Ai-xơ-len, FTA giữa khối ASEAN với Hồng Kông (Trung Quốc) với Liên
minh Hải quan Nga - Bê-la-lút - Ca-dắc-tan (VCUFTA) đây là cơ hội rất lớn cho
việc xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam nói chung và TP.HCM nói riêng. 4.2. Định hướng chuyển đổi chuyển đổi nông nghiệp ở TP.HCM đến năm 2025, tầm nhìn 2030
4.2.1. Quan điểm
Thực hiện quá trình CĐNN ở TP.HCM phải phù hợp với các quan điểm chung
trong phát triển nông nghiệp Việt Nam tầm nhìn đến năm 2030; đảm bảo sự thống nhất
với quan điểm phát triển KT-XH của vùng Đông Nam Bộ. Trên cơ sở đó, CĐNN ở
TP.HCM hướng đến các nội dung sau:
Thực hiện mạnh mẽ quá trình tái cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp.
Tập trung nghiên cứu, ứng dụng công nghệ sinh học để sản xuất giống cây, giống
con chất lượng và năng suất cao để hình thành trung tâm giống cây, giống con của khu
vực.
Phát triển KH - CN, nông nghiệp công nghệ cao gắn với đào tạo nguồn nhân lực
để trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0; phát triển SXNNN kết hợp du lịch sinh thái.
Nâng cao chất lượng tiêu chí xây dựng nông thôn mới, đào tạo nghề cho khu vực
nông thôn.
Hình thành các cơ sở giết mổ chuyên nghiệp hiện đại, bảo vệ môi trường, Đẩy
mạnh các hoạt động tổ chức sản xuất, sơ chế, chế biến.
Xúc tiến thương mại, phát triển thị trường; tiếp tục tạo thuận lợi hơn nữa cho phát
triển doanh nghiệp, nâng cao khả năng hội nhập TPP.
Xây dựng chương trình hỗ trợ, phát triển nhóm sản phẩm chủ lực của ngành nông
nghiệp thành phố.
Phát huy vai trò trung tâm của HTX giúp SXNN phát triển ổn định bền vững, nâng
cao thu nhập cho người dân nông thôn, ngoại thành. 4.2.2. Mục tiêu 4.2.2.1. Mục tiêu chung
Mục tiêu chung về lâu dài của TP.HCM là CĐNN theo hướng nông nghiệp đô thị hiện đại, nông nghiệp công nghệ cao, bền vững, tập trung sản xuất hàng hóa, ứng dụng khoa học công nghệ góp phần tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả và nâng cao năng lực cạnh tranh với các tỉnh trong vùng. Cải thiện đời sống người dân ngoại thành, nâng cao
147
thu nhập, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng về thực phẩm sạch, an toàn và đẩy mạnh
xuất khẩu các sản phẩm chủ lực.
4.2.2.2. Mục tiêu chuyển đổi cụ thể
- Tốc độ tăng bình quân GRDP trong nông nghiệp đạt khoảng 6%/năm; năng suất
của lao động trong nông nghiệp đạt 8,5%/năm; lao động đã qua đào tạo đạt trên 90%. - GTSX trong nông nghiệp đạt từ 900 triệu đến - 1 tỉ/ha/năm trên đất SXNN. - Thu nhập dân cư nông thôn đạt 100 triệu đồng. - Cơ cấu hộ nông dân tham gia trở thành thành viên HTX nông nghiệp đạt 20%; có
khoảng 80% HTX nông nghiệp đạt từ loại khá trở lên.
- Độ che phủ rừng đạt 18,59%.
4.2.3. Định hướng chuyển đổi 4.2.3.1. Theo ngành
a) Trồng trọt
Các sản phẩm chủ lực của ngành nông nghiệp được tổ chức sản xuất theo hình
thức chuỗi; khuyến khích phát triển nông nghiệp hữu cơ, mở rộng diện tích SXNN
công nghệ cao, ứng dụng công nghệ sinh học vào nông nghiệp thông minh; tiếp tục
xây dựng, chuyển giao các mô hình chuyển đổi từ cây trồng hiệu quả thấp như lúa,
mía, cao su sang cây trồng hiệu quả cao như rau, hoa cây cảnh.
- Rau: định hướng đến năm 2025 diện tích canh tác ước đạt 5.200 ha (diện tích
canh tác rau áp dụng nông nghiệp công nghệ cao là 1.000 ha).
- Hoa, cây cảnh: năm 2025, diện tích canh tác đạt 2.200 ha. - Cây lúa: năm 2025, diện tích canh tác giảm xuống 1.000 ha chủ yếu ở huyện Củ
Chi và Bình Chánh.
- Cây mía: năm 2025, diện tích mía chuyển sang trồng mai khoảng 150 ha, ngô
sinh khối khoảng 100 ha, cây trồng khác và cây dược liệu là 50 ha.
- Cây cao su: năm 2025, diện tích canh tác cao su giảm còn 1.500 ha. - Chuyển đổi đất nông nghiệp: + Chuyển đổi 495 ha thuộc xã Phú Hòa Đông, xã Trung An (huyện Củ Chi) nhằm phát triển hoa, cá cảnh, cây cảnh, kết hợp du lịch sinh thái; thực hiện dự án làng hoa, cá cảnh có quy mô 20 - 40ha.
+ Chuyển đổi 321 ha tại xã Bình Lợi (Bình Chánh) sang trồng mai với 180 ha và
bưởi da xanh 100 ha. b) Chăn nuôi
Hình thành các vùng chăn nuôi theo qui mô tập trung, duy trì chăn nuôi theo hộ theo phương thức chăn nuôi truyền thống kết hợp với chăn nuôi hữu cơ, chăn nuôi theo hướng
148
GAP; hỗ trợ các dự án sản xuất thức ăn cho chăn nuôi, sản xuất phân bón hữu cơ vi sinh; không để dịch bệnh xảy ra tại các cơ sở chăn nuôi; hình thành vùng chăn nuôi tập trung, ổn định; nâng cao chất lượng và năng suất sữa bò, giống bò sữa, bò thịt.
• Bò thịt: Xây dựng mô hình nuôi thử nghiệm từ các giống bò thịt như Droughtmaster, Brahman, Red Angus, BBB, Wagyu; xây dựng đàn bò cái theo hướng thịt ở Củ Chi và Bình Chánh. Đến năm 2025, đàn bò thịt có 60.000 - 65.000 con, cung cấp cho thị trường khoảng 4.500 tấn thịt bò hơi và khoảng 10.000 con bò cái giống cho thành phố và các tỉnh lân cận.
• Bò sữa Bổ sung các máy móc, thiết bị phù hợp để hỗ trợ cơ giới hóa những hộ nông dân có quy mô đàn 40 - 50 con và trên 50 con. Đến năm 2025, đàn bò sữa đạt 61.000 con, năng suất sữa bình quân đạt 7.700 kg/con/năm.
• Lợn Đến năm 2025: có khoảng 290.000 con, trong đó lợn nái khoảng 60.000 con,
cung cấp cho thị trường trên 1triệu lợn con giống các loại.
• Chim yến Đến năm 2025, có khoảng 600 nhà nuôi yến, cung cấp khoảng 15.000 kg sản
lượng tổ yến tập trung chủ yếu ở huyện Cần Giờ.
c) Thủy sản
Mục tiêu: phát triển theo hướng bền vững, nâng cao chất lượng, năng suất sản phẩm; an toàn sinh học, bảo vệ môi trường, đáp ứng thị trường và đạt chuẩn VietGAP;
nhân rộng mô hình xuất khẩu cá cảnh, doanh nghiệp chịu trách nhiệm tìm đầu ra và
tiêu thụ, liên kết với các hộ sản xuất nhỏ lẻ, làm vệ tinh cho doanh nghiệp.
Đến năm 2025:
+ Diện tích nuôi tôm đạt 5.691 ha, gồm tôm nước lợ là 5.491 ha; tôm thẻ chân trắng đạt 3.299 ha; tôm nước ngọt (tôm càng xanh) đạt 200 ha. Sản lượng tôm nuôi là 29.746 tấn (tôm nước lợ đạt 29.546 tấn; tôm nước ngọt đạt 200 tấn).
+ Sản lượng cá cảnh xuất khẩu khoảng 50 triệu con, sản xuất khoảng 300 triệu
con đạt giá trị 50 triệu USD.
+ Thủy sản nước mặn lợ: chủ yếu ở huyện Nhà Bè, Cần Giờ, chủ yếu là tôm (tôm thẻ chân trắng, tôm sú), nhuyễn thể (nghêu, hàu, sò huyết, ốc hương, cua); huyện Bình Chánh nuôi tôm thẻ chân trắng theo hình thức bán thâm canh.
149
+ Thủy sản nước ngọt: chủ yếu ở quận Thủ Đức, Bình Thạnh, Quận 9 và huyện
Củ Chi, Bình Chánh; với sản phẩm chủ lực là cá cảnh, cá nước ngọt (cá trê, cá tra, cá
sặt rằn, lươn và tôm càng xanh).
d) Lâm nghiệp
Đến năm 2025: Diện tích đất rừng là 35.989 ha (diện tích đất có rừng là 35.012
ha với rừng phòng hộ là 32.928 ha, rừng đặc dụng là 26 ha và rừng sản xuất là 2.058
ha). Diện tích cây rừng trồng ngoài quy hoạch là 3.500 ha; diện tích đất có rừng và cây
lâm nghiệp trồng ngoài quy hoạch là 38.512 ha.
e) Diêm nghiệp
Đến năm 2025: Diện tích muối còn 854 ha với100% là muối sản xuất trên đất trải
bạt; xây dựng vùng sản xuất muối tập trung ở xã Lý Nhơn và Thạnh An với 664 ha.
4.2.3.2. Theo lãnh thổ
Căn cứ vào bản đồ phân vùng sinh thái nông nghiệp, bản đồ các nhóm đất chính và
định hướng phát triển kinh tế – xã hội của TP.HCM từ nay đến năm 2025, tầm nhìn đến
năm 2030, vùng sản xuất nông nghiệp TP.HCM được chia thành 5 vùng nông nghiệp tập
trung, cụ thể là:
a) Vùng I (vùng phù sa cũ và phù sa mới ven sông Tây Bắc Sài Gòn)
Vùng I chia làm bốn tiểu vùng bao gồm:
+ Khu vực đất phù sa cổ địa hình cao gò đồi ở Củ Chi với diện tích tự nhiên: 12,3 nghìn ha, mật độ dân số 785người/km2, với tình trạng thủy lợi tốt bao gồm tưới ngầm, tưới mặt (vùng ven sông Sài Gòn) có điều kiện phát triển rau, hoa, cây cảnh, cây lâu năm,
cỏ cho chăn nuôi. Định hướng phát triển của vùng là chăn nuôi, phát triển nông nghiệp
công nghệ cao, vùng trồng cây lâu năm (cao su, cây ăn quả ven sông).
+ Khu vực đất phù sa cổ địa hình lượn sóng tập trung ở củ chi với diện tích tự nhiên: 17,5 nghìn ha, mật độ dân số 952 người/km2, được cung cấp nước tưới từ kênh Đông, hiện là loại hình sản xuất cho hiệu quả kinh tế cao có tiềm năng lớn, có điều kiện phát
triển cỏ cho chăn nuôi, lúa hai vụ, cây lâu năm, rau, hoa, thủy sản nước ngọt. Định hướng phát triển của vùng là lúa chất lượng cao, rau Vietgap, hoa và cây cảnh.
+ Khu vực đất phù sa cổ địa hình bằng phẳng tập trung ở trung tâm huyện Hóc Môn với diện tích 11,1 nghìn ha, mật độ dân số khá cao 6509 người/km2, hiện sản xuất rau, hoa, thủy sản nước ngọt. Đây là vùng chịu ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa nên định hướng phát triển là nông nghiệp đô thị phân tán.
+ Khu vực đất phèn với địa hình thấp tập trung ở Đông Nam huyện Củ Chi và huyện Hóc Môn (50%) với diện tích nhỏ 8,1 nghìn ha, mật độ dân số 815 người/km2,
150
phát triển lúa hai vụ, cá cảnh, cá thịt, rau và cỏ cho chăn nuôi. Định hướng của vùng đến
năm 2030 là vùng rau an toàn, lúa chất lượng cao, thủy sản, nông nghiệp kết hợp du lịch
sinh thái.
b) Vùng II (vùng phù sa cũ và phù sa mới ven sông Đông Bắc Sài Gòn)
Vùng II chia làm hai tiểu vùng bao gồm: tiểu vùng phù sa cổ địa hình cao với diện tích tự nhiên là 6,2 nghìn ha, mật độ dân số là 6526 người/km2 có điều kiện phát triển rau, hoa, cây cảnh, cây lâu năm và tiểu vùng phù sa mới với diện tích 11,3 nghìn ha ven sông thích hợp lúa một vụ, thủy sản ngọt, cây ăn quả, cây lâu năm, hoa tập trung ở quận
9 và quận Thủ Đức. Đây là vùng chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của quá trình đô thị hóa do
mục tiêu phát triển hướng đông của thành phố nên định hướng đến năm 2030, vùng này
sẽ phát triển theo nông nghiệp phân tán tập trung cho đô thị hóa. c) Vùng III (vùng đất phèn ven sông Tây Sài Gòn) bao gồm hai tiểu vùng:
+ Tiểu vùng đất phèn ven sông địa hình thấp tập trung chủ yếu ở huyện Củ chi
với diện tích tự nhiên 5,1 nghìn ha đang là vùng trồng rau Vietgap, lúa hai vụ, cây lâu
năm và cỏ cho chăn nuôi. Định hướng đến năm 2030 vùng này sẽ chuyển đổi sang lúa
chất lượng cao, phát triển rau an toàn và hoa.
+ Tiểu vùng đất phèn và đất phù sa sông địa hình thấp tập trung ở huyện Bình
Chánh với diện tích 13,8 nghìn ha, là vùng trồng hoa, cây cảnh, rau, thủy sản ngọt và
lúa hai vụ. Theo định hướng chung, nông nghiệp của tiểu vùng này sẽ tập trung vào
chăn nuôi, hình thành khu nông nghiệp cao về chăn nuôi của thành phố, chuyển đổi
sang hoa, cây cảnh.
d) Vùng IV (vùng đất phù sa nhiễm mặn ven sông Nam Sài Gòn) với hai tiểu vùng:
+ Tiểu vùng phù sa sông địa hình thấp chủ yếu ở nam Bình Chánh và huyện Nhà Bè với diện tích 10,5 nghìn ha, đây là vùng trồng lúa hai vụ, rau, hoa (xen cài trong
khu dân cư) và thủy sản ngọt của thành phố; mật độ dân số rất cao với 10590 người/ km2. Theo định hướng đến năm 2030, vùng này do tác động của đô thị hoa sẽ chuyển đổi sang nông nghiệp phân tán, theo quy hoạch phát triển theo hướng đông và nam của thành phố (đặc biệt ở huyện Nhà Bè).
+ Tiểu vùng đất phù sa sông nhiễm mặn phân bố ở huyện Nhà Bè đang sản xuất lúa một vụ (đa số) và nuôi trồng thủy sản nước ngọt sẽ chuyển đổi sang nông nghiệp phân tán theo quy hoạch phát triển đến năm 2030 với diện tích 7,5 nghìn ha. e) Vùng V (vùng đất phù sa nhiễm mặn ven sông Đông Nam Sài Gòn) với ba tiểu vùng:
151
+ Tiểu vùng đất phèn mặn (dưới 9 tháng, ven sông) ở phía bắc huyện Cần Giờ với
diện tích 7,3 nghìn ha, chủ yếu nuôi thủy sản nước lợ, nông nghiệp theo hướng phân tán
và mô hình nuôi chim yến; mật độ dân số thấp với 805 người/ km2. Trong tương lai tiểu
vùng này vẫn chủ yếu phát triển thủy sản nước lợ và nuôi chim yến theo qui mô tập trung. + Tiểu vùng đất phèn mặn ven sông, địa hình thấp phân bố ở phía tây huyện Cần Giờ, diện tích 7,5 nghìn ha; chịu tác động của thủy triều và nhiễm mặn quanh
năm; tiểu vùng đang nuôi trồng thủy sản nước lợ (tôm), nhuyễn thể hai mảnh vỏ như hàu, sò và đất làm muối. Theo qui hoạch tiểu vùng này sẽ tiếp tục phát triển
nuôi thủy sản nước lợ (nuôi tôm nước lợ) ven cửa sông, qui hoạch kho dự trữ muối
quốc gia và nuôi nhuyễn thể ven biển.
+ Tiểu vùng đất phèn mặn rừng ngập mặn với địa hình trũng tập trung chủ yếu ở rừng ngập mặn Cần giờ, địa phận Khu Dự trữ Sinh quyển thế giới và xã đảo Thạnh An với diện tích lớn: 32,6 nghìn ha nhưng mật độ dân số thấp nhất là 103 người/km2. Trước đây, vùng chỉ phát triển nuôi nhuyễn thể (nuôi nghêu, sò), làm muối ven biển và bảo vệ
hiện trạng rừng ngập mặn. Định hướng của thành phố đến năm 2030, sẽ tập trung bảo tồn,
không phát triển nuôi trồng thủy sản trong rừng ngập mặn, đảm bảo sự đa dạng sinh học
và phát triển bền vững khu dự trữ sinh quyển; tại xã đảo Thạnh An tập trung phát triển
nuôi thủy sản nước lợ, phát triển khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao ngành thủy
sản qui mô 89 ha.
+ Tiểu vùng đất cát giồng và địa hình cao ven biển huyện Cần Giờ, diện tích nhỏ
nhất với 1,8 nghìn ha, đây là khu vực trung tâm hành chính huyện Cần giờ, thị trấn Cần
Thạnh. Theo qui hoạch, tiểu vùng này sẽ tiếp tục phát triển đô thị ven biển ở thị trấn Cần
Thạnh, phát triển cây ăn quả xen cài trong khu dân cư, kết hợp với du lịch sinh thái vườn, phát triển khu đô thị du lịch lấn biển Cần Giờ.
4.3. Giải pháp chuyển đổi nông nghiệp ở TP.HCM
4.3.1. Chính sách nông nghiệp của chính quyền thành phố
Trong quá trình chuyển đổi, nếu chỉ áp dụng các chính sách nông nghiệp truyền thống thì khó có thể tăng sức cạnh tranh cho nông nghiệp của thành phố so với các tỉnh, thảnh khác. Quá trình CĐNN cần thực hiện những cải cách cụ thể liên quan đến đất đai (chủ yếu là quyền sở hữu về đất đai, đặc biệt trong quá trình đô thị hóa mạnh mẽ như TP.HCM), tạo điều kiện cho doanh nghiệp tư nhân đầu tư vào nông nghiệp, giảm bớt những thủ tục hành chính liên quan.
Chính quyền thành phố cần đầu tư thêm vào cơ sở hạ tầng nông thôn; hệ thống thủy lợi; các dịch vụ hành chính về đất đai; giám sát sâu bệnh, dịch hại; hỗ trợ, giám
152
định an toàn thực phẩm. Cần có chính sách tạo ra môi trường thuận lợi để huy động
vốn từ doanh nghiệp vào hoạt động nông nghiệp. Có như vậy, chuỗi giá trị nông
nghiệp mới có sự tham gia hiệu quả của các đối tượng như tư nhân, doanh nghiệp.
Nâng cao năng lực sáng tạo trong ngành nông nghiệp, tạo ra nhiều cải tiến, đột phá, chuyển giao công nghệ, nghiên cứu, kết nối con người, lao động trong chuỗi giá trị nông sản.
Sau thời gian thực hiện chuyển đổi, SXNN thành phố vẫn còn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt trong nông nghiệp công nghệ cao do đòi hỏi vốn đầu tư lớn. Nông dân vẫn khó
khăn trong tiếp cận với vốn vay ngân hàng. Những khó khăn trong hình thành vùng
SXNN tập trung; chuyển giao khoa học công nghệ và ứng dụng mới; thiếu nguồn nhân
lực; hạ tầng nông thôn chưa theo kịp lưu thông hàng hóa. Quá trình CĐNN theo hướng nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp đô thị, công nghệ sinh học còn chậm. Ngành
nông nghiệp thành phố còn gặp nhiều thách thức như năng suất thấp, thiếu vốn, thiếu
khoa học công nghệ, vấn đề cơ giới hóa, dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi.
Trong giai đoạn vừa qua, thành phố đã xây dựng các chương trình, đề án như
Chương trình phát triển nông nghiệp giai đoạn 2016-2020, tầm nhìn đến năm 2025,
Chương trình mục tiêu phát triển rau an toàn, hoa, cây kiểng; Chương trình Phát triển
nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao trên địa bàn TP.HCM giai đoạn 2016 - 2020,
định hướng đến năm 2025; Đề án nâng cấp hệ thống Thông tin thị trường nông sản
TP.HCM giai đoạn 2017-2020, Chương trình đẩy mạnh ứng dụng cơ giới hóa trong
SXNN thành phố giai đoạn 2017-2020, định hướng đến năm 2025; Đề án nâng cao
chất lượng đàn bò sữa, bò thịt, sinh vật cảnh giúp SXNN vùng ngoại thành của Thành
phố phát triển; Chương trình xây dựng chuỗi liên kết và cung ứng trong nông nghiệp giai đoạn 2017 – 2020; Chương trình đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp giai
đoạn 2016-2020; bổ sung các nội dung về cơ chế chính sách về vốn, đất đai, công
nghệ, nguồn nhân lực phù hợp với đặc thù của Thành phố giai đoạn 2019-2025; tiếp
tục giữ vững tốc độ tăng trưởng ngành nông nghiệp, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội thành phố trong thời gian tới. Với 5 dự án quy hoạch về SXNN tầm nhìn đến năm 2030 bao gồm: Phát triển thủy sản trên địa bàn TP.HCM đến năm 2030; Điều chỉnh quy hoạch sản xuất và dịch vụ nông nghiệp, phát triển nông thôn TP.HCM đến năm 2030; Vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao trên địa bàn thành phố đến năm 2030; Bố trí cây trồng, vật nuôi chủ lực trên địa bàn TP.HCM đến năm 2025 và định hướng đến năm 2030; Phát triển hoa cây cảnh trên địa bàn thành phố đến năm 2030 có thể thấy mối quan tâm của thành phố với chuyển đổi nông nghiệp tầm nhìn
153
đến năm 2030. Tuy nhiên, để những chính sách này đi vào thực tế và thúc đẩy CĐNN
cần có những nỗ lực, sự tham gia của các ban ngành, sự quan tâm, sâu sát chỉ đạo
trong từng giai đoạn và đặc biệt là lắng nghe nhu cầu của các hộ nông dân, HTX và
doanh nghiệp – những chủ thể trực tiếp tham gia các đề án phát triển này. 4.3.2. Nâng cao năng suất nông nghiệp gắn liền với tăng trưởng bền vững 4.3.2.1. Tăng hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
Tăng trưởng của nông nghiệp vẫn dựa vào nguồn nhân lực, tài nguyên, vật tư đầu vào. Sản lượng tăng cao nhưng chất lượng không ổn định, năng suất giảm, giá trị đầu
ra giảm. Như vậy, ngành nông nghiệp cần tăng giá trị đầu ra bao gồm lợi ích cho
người nông dân, hệ sinh thái, lợi ích về kinh tế bằng cách giảm nhân tố lao động, đất
đai, nguồn nước, tài nguyên và các vật tư như phân bón, hóa chất có hại cho môi trường. Điều này, yêu cầu cần tận dụng lợi thế của Thành phố về chuỗi giá trị nông sản
tăng cao do nhu cầu của người dân. Giá trị sản phẩm tăng cao sẽ nâng cao hiệu quả sử
dụng đất, nước, áp dụng mô hình SXNN theo hướng mới: nông nghiệp xanh, nông
nghiệp công nghệ cao.
Quá trình tập trung ruộng đất sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư vào
nông nghiệp, quy mô trang trại phát triển, tạo điều kiện cho quá trình cơ giới hóa, bảo
đảm sinh kế cho nông dân.
Thành phố ưu tiên phát triển nông nghiệp theo hướng công nghệ cao và chuyển
đổi cơ cấu cây trồng để khắc phục tình trạng quỹ đất nông nghiệp đang có xu hướng
giảm. Những mô hình nông nghiệp cho năng suất, chất lượng nông sản cao, có sự
tham gia đầu tư công nghệ, vốn của những doanh nghiệp. Việc phát triển các dự án
nông nghiệp công nghệ cao sản xuất rau, củ, quả hữu cơ và lúa chất lượng cao có sự tham gia phối hợp với các chuyên gia của các trường, viện nghiên cứu khoa học trong
và ngoài nước và quốc tế. Lấy nông nghiệp công nghệ cao làm khâu đột phá để nông
sản tham gia chuỗi giá trị toàn cầu là xu hướng tất yếu. Bên cạnh đó, việc từng bước
tiến hành tích tụ, tập trung đất đai cũng là một yêu cầu quan trọng, cùng với các chính sách hỗ trợ khác, để các tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân đầu tư tiến tới sản xuất lớn, nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp hiện nay. 4.3.2.2. Tăng hiệu quả sử dụng bền vững nguồn nước tưới
Nguồn nước tưới có vai trò quan trọng trong nông nghiệp. Hệ thống thủy lợi của Thành phố đã phát huy hiệu quả trong quá trình tưới tiêu đặc biệt những vùng trồng rau an toàn, chăn nuôi lớn.
154
Các hệ thống thủy lợi hiện nay còn cần đảm bảo các dịch vụ đa chức năng khác
như cung cấp cho mục đích sinh hoạt đặc biệt tại khu vực ven biển như huyện Cần
Giờ, duy trì cho hoạt động tưới tiêu, đảm bảo phục vụ nuôi trồng thủy sản.
Thành phố đã phát triển, nghiên cứu và ứng ụng các mô hình công nghệ tiết kiệm nước tưới phù hợp với mỗi loại cây trồng, mỗi loại đất như tưới nhỏ giọt, tưới phun mưa, tưới ngầm… Với phương pháp Tưới nhỏ giọt có thể cung cấp nước tưới cho rễ
cây trồng trực tiếp, giảm thiểu nước bị bốc hơi, có thể tiết kiệm 80% lượng nước tưới tiêu so với các phương pháp khác. Các biện pháp trồng cây bằng phương pháp thủy
canh hay khí canh cũng góp phẩn giảm thiểu lượng nước thất thoát trong nông nghiệp
và cho sản phẩm đảm bảo chất lượng và an toàn.
Các cán bộ khuyến nông cũng tuyên truyền, phổ biến kỹ thuật thuỷ lợi, nông nghiệp đến nông dân, đặc biệt là kỹ thuật tưới phù hợp với thời gian sinh trưởng của
cây trồng để nông dân biết cách sử dụng nước hiệu quả và tiết kiệm,
4.3.2.3 Chính sách nông nghiệp xanh
Vấn đề môi trường cũng cần quan tâm trong CĐNN. Việc sử dụng đất đai, hóa
chất, phân bón đã đẩy nhanh quá trình thoái hóa đất, ô nhiễm nguồn nước, hủy hoại rừng
ngập mặn để nuôi trồng thủy sản. Vì vậy, có thể nói việc sử dụng tiết kiệm phân bón hóa
học nhưng vẫn đảm bảo năng suất và chất lượng nông sản, đảm bảo hiệu quả kinh tế và
bảo vệ môi trường là rất quan trọng.
Dưới tác động của biến đổi khí hậu cùng với môi trường bị suy thoái sẽ tác động
trực tiếp đến sản phẩm nông nghiệp của nông dân, ảnh hưởng đến lợi nhuận, thu nhập
của nông hộ. Chính quyền thành phố cần có chiến lược trong bảo vệ môi trường sinh
thái nông nghiệp của Thành phố, dự báo những rủi ro về biến đổi khí hậu, ngăn ngừa ô nhiễm môi trường. Đối với các hộ nông dân cần tập trung lồng ghép các qui trình thực
hiện mô hình canh tác nông nghiệp xanh, kết hợp du lịch sinh thái.
Về KH-CN cần tập trung các kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi cho người dân thông
qua các trung tâm khuyến nông và tạo điều kiện cho hộ nông dân tiêu thụ hàng hóa, nông sản.
Thành phố cần thúc đẩy vai trò của các Hiệp hội trong khuyến khích phát triển nông nghiệp xanh cũng như liên kết nông dân - doanh nghiệp – nhà nghiên cứu - người tiêu dùng trong chuỗi giá trị nông sản. Các viện nghiên cứu, các trung tâm cần triển khai, trình diễn và thử nghiệm rồi đưa vào sản xuất các thành tựu khoa học công nghệ 4.0 trong nông nghiệp. Vai trò của thành phố là thực hiện đặt hàng các nghiên cứu, ứng dụng cho các trung tâm để chuyển giao đến hộ nông dân. Như vậy, mô hình
155
kinh tế xanh trong nông nghiệp cần có nhiều giải pháp từ chính sách tín dụng đến khoa
học công nghệ và thị trường.
4.3.2.4. Quản lý các rủi ro về biến đổi khí hậu trong nông nghiệp
Do có địa hình thấp chiếm đa số, TP.HCM là một trong mười thành phố bị đe doạ nhiều nhất bởi biến đổi khí hậu (theo OECD đánh giá). Các yếu tố có ảnh hưởng mạnh nhất đến TP.HCM là triều cường, lượng mưa và nhiệt độ. Dưới tác động của
biến đổi khí hậu, vấn đề xâm nhập mặn, nước biển dâng gây ngập lụt cũng gây ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động SXNN và cung cấp nước sạch. Vì vậy, nhu cầu tưới
tiêu cho nông nghiệp và nước sạch cho sinh hoạt là những thách thức cho chính
quyền TP.HCM.
Chính quyền TP.HCM đã có những kịch bản để ứng phó với biến đổi khí hậu thông qua nhiều lĩnh vực khác nhau như giao thông, năng lượng, quản lý tài nguyên
nông nghiệp, xây dựng đô thị thông minh, hoạt động giám sát các chỉ số tác động đến
môi trường. Trong hoạt động SXNN, người dân chủ động chuyển đổi mô hình nông
nghiệp như nuôi trồng các loại thủy sản chịu mặn trước tình trạng xâm nhập mặn tại
vùng cửa sông, ven biển Cần Giờ, nâng cao nhận thức về các dịch bệnh của ngành
chăn nuôi dưới tác động của biến đổi khí hậu.
Một giải pháp nữa cho TP.HCM là nghiên cứu về nông nghiệp thông minh với
khí hậu (climate smart agriculture-CSA) với mục tiêu tăng trưởng sản xuất, đảm bảo
an ninh lương thực, thích ứng và giảm thiểu biến đổi khí hậu. CSA đảm bảo an ninh
lương thực về sản lượng, lợi nhuận tăng một cách bền vững, thích ứng với biến đổi khí
hậu và giảm nhẹ biến đổi khí hậu. Các chuyên gia cũng đã chỉ ra nhiều rào cản khi
thúc đẩy nông nghiệp thích ứng với biến đổi khí hậu. Khi nông dân đầu tư vào kỹ thuật canh tác mới sẽ làm tăng giá thành sản xuất, thu hồi vốn chậm, không thể giúp nông
dân thoát nghèo. Vì vậy, cần bổ sung bằng những chính sách can thiệp khác trong
khuôn khổ chính sách thích ứng với biến đổi khí hậu.
4.3.2.5. Xây dựng nền nông nghiệp dựa trên tri thức, khoa học và công nghệ
Để có đủ khả năng thích ứng với áp lực môi trường và thị trường trong thời gian tới, cần có những chương trình nâng cao nhận thức cho nông dân để họ có thể học hỏi các thông tin kỹ thuật, mô hình nông nghiệp thông qua các hoạt động khuyến nông, tư vấn. Từ đó, quá trình chuyển đổi từ nông nghiệp truyền thống dựa trên tài nguyên sang nền nông nghiệp tri thức.
Hoạt động khuyến nông giúp chuyển giao kỹ năng thực hành và nâng cao nhận thức cho nông dân. Những hoạt động như sản xuất theo quy trình VietGAP như sản
156
xuất rau an toàn, chăn nuôi lợn, bò sữa, nuôi tôm giúp cho nông dân nâng cao trách
nhiệm và nhận thức trong quá trình sản xuất của mình. Hoạt động này hỗ trợ nông dân
cơ giới hóa nâng cao hiệu quả và năng suất lao động, giảm thiểu chi phí sản xuất trên
hoa lan, rau an toàn và trên bò sữa.
Thành phố thường xuyên tổ chức tập huấn tham quan, xây dựng mô hình cơ giới hóa, chuyển giao giống mới, chất lượng. Nhờ vậy góp phần chuyển đổi cơ cấu cây
trồng vật nuôi, lựa chọn đối tượng, vật nuôi phù hợp với nông dân trên địa bàn nhằm thực hiện chương trình CĐNN theo hướng nông nghiệp đô thị ứng dụng công nghệ cao
hình thành các vùng sản xuất tập trung quy mô lớn, hiện đại (trang trại, kinh tế hợp
tác, doanh nghiệp). Nông dân sau khi học nghề đã áp dụng được kỹ năng mới vào sản
xuất; nhiều lao động sau học nghề mạnh dạn chuyển đổi cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao, đem lại thu nhập gấp 3-4 lần trước đây.
Những thành tựu như mô hình rau an toàn VietGAP; hoa cảnh (cây kiểng, bon
sai, lan, mai,); nuôi trồng thủy sản, cá cảnh; chăn nuôi lợn GAHP; chăn nuôi bò sữa;
cơ giới hóa trong sản xuất rau an toàn ở giai đoạn tưới nước, phun thuốc, làm đất; tưới
phun trên hoa lan; vắt sữa, băm cỏ, hệ thống làm mát chuồng bò sữa. Hoạt động của
trung tâm khuyến nông trong tương lai đóng vai trò dẫn dắt, môi giới cho người nông
dân trong việc ra quyết định sản xuất khi mô hình nông nghiệp đô thị phát triển.
4.3.3. Nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường
4.3.3.1. Tăng cường đổi mới sáng tạo trong chuỗi giá trị nông nghiệp
Những nghiên cứu trong lĩnh vực ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất được chú
trọng trong thời gian qua. Các khu nông nghiệp công nghệ cao (NNCNC) ở khu vực
ngoại thành như: trồng rau thủy canh, hoa chuông, ớt ngọt, dưa lưới trên giá thể trong nhà màng với phương pháp tưới nhỏ giọt. Giai đoạn 2010 – 2026, tỷ lệ ứng
dụng nông nghiệp công nghệ cao tăng từ 10% lên 35,8%, năm 2018 là 38,2%. Dự
kiến thành phố sẽ triển khai 4 dự án: huyện Củ Chi với dự án mở rộng Khu nông
nghiệp công nghệ cao (NNCNC) (200ha) tại xã Phạm Văn Cội; tại huyện Cần Giờ với dự án đầu tư xây dựng Khu NNCNC thủy sản; tại xã Phước Vĩnh An (huyện Củ Chi) với dự án mở rộng Khu NNCNC (23ha); tại huyện Bình Chánh là dự án xây dựng Khu chăn nuôi công nghệ cao.
Tuy nhiên, phần yếu nhất trong hoạt động ứng dụng công nghệ cao là khả năng tiếp thu công nghệ của doanh nghiệp và nông dân trong quá trình CĐNN. Do nông dân và doanh nghiệp còn thiếu chủ động trong tiếp thu công nghệ nên dẫn đến những
157
khiếm khuyết trong quá trình liên kết chuỗi giá trị nông sản, khiến liên kết còn lỏng
lẻo, thiếu kết nối.
Giải pháp trong chuỗi giá trị nông nghiệp cần quyết liệt hơn và tập trung vào tháo
gỡ những vướng mắc cho các HTX, nông dân và doanh nghiệp. Trong công tác quy hoạch và quản lý vùng chuyên canh để phát nông nghiệp đô thị cần đẩy mạnh tiến độ thực hiện các dự án đầu tư vào sản xuất nông nghiệp theo hướng công nghệ cao. Chính
quyền TP cần hỗ trợ các thủ tục pháp lý để phát triển công trình trên diện tích đất nông nghiệp nhằm phục vụ công nghệ cao. Từ đó xây dựng chuỗi liên kết và cung ứng để mở rộng thị trường kết nối nông sản. TP cũng cần hướng dẫn cho nông dân chuyển từ mục đích từ đất trồng lúa sang đất nông nghiệp khác để có thể sản xuất nông nghiệp theo hướng công nghệ cao. Tài sản thế chấp để vay được trong các dự án nông nghiệp của nông dân nên xem xét có thể là nhà màng, nhà lưới được hình thành trong tương lai để nông dân có thể tiếp cận nguồn vay dễ dàng hơn.
TPHCM đang hướng đến nền nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, công nghệ
sinh học và nâng cao giá trị để phát triển bền vững với vai trò trung tâm là cây giống,
con giống chất lượng cao để cung cấp cho thành phố và các tỉnh lâm cận
4.3.3.2. Tăng cường tổ chức và quản lý về an toàn thực phẩm
Quá trình đô thị hóa, gia tăng thu nhập và thay đổi trong chế độ ăn của người tiêu
dùng làm những rủi ro về an toàn thực phẩm tăng cao ở thành thị như TP.HCM và
cũng đặt ra những yêu cầu về sự kiểm soát trong chất lượng thực phẩm. việc này đòi
hỏi ngành nông nghiệp thành phố phải thay đổi nhanh chóng để đáp ứng nhu cầu ngày
càng cao của thị trường đang tăng trưởng và biến động.
TP.HCM đã thành lập Ban quản lý an toàn thực phẩm từ năm 2016. Hiện nay,
cung cấp sản phẩm nông nghiệp cho thành phố chủ yếu phụ thuộc từ các tỉnh hoặc
nhập khẩu nên việc truy xuất nguồn gốc còn hạn chế và khó khăn trong kiểm soát chất
lượng thực phẩm từ các tỉnh trước khi đưa về thành phố tiêu thụ. TP.HCM đang đề xuất có quy định hướng dẫn chung từ các bộ như giám sát, cấp giấy chứng nhận an
toàn thực phẩm kèm theo sản phẩm. Trong tương lai, Ban quản lý an toàn thực phẩm sẽ nâng lên thành Sở An toàn thực phẩm để có đầy đủ cơ sở pháp lý, phù hợp với hoạt động thực tế.
Tuy nhiên, để có sự bảo đảm về an toàn thực phẩm trong thời gian dài thành phố cần có sự chia sẻ trách nhiệm với các thành phần tham gia trong chuỗi giá trị nông sản như việc ký kết quản lý phối hợp và kết nối nông sản, thủy sản tiêu thụ cho các cơ sở trong chuỗi cung cấp thực phẩm an toàn. Nếu có sự phối hợp giữa người tiêu dùng,
158
nông dân, các cơ sở chế biến, người lao động, doanh nghiệp trong kinh doanh nông
nghiệp. Nếu thành phố chỉ quản lý bằng việc giám sát sản phẩm đầu ra mà quên đầu
vào cũng như các chủ thể trong chuỗi thì khó có thể khuyến khích các đối tượng trong
chuỗi giá trị nông sản thực hiện tự giác về an toàn thực phẩm. Một số kinh nghiệm ở các nước mà thành phố có thể áp dụng như:
+ Cơ quan khuyến nông cần ban hành những cẩm nang về thực hiện qui trình
nông nghiệp tốt và hỗ trợ nông dân áp dụng các mô hình này trong từng trường hợp cụ thể.
+ Qui chế về xử lý khi có vấn đề về an toàn thực phẩm xảy ra ở các ngành, công
ty, cơ quan, nhà hàng, cơ sở chế biến vừa và nhỏ.
+Tập huấn chuyên môn và cấp giấy chứng nhận bồi dưỡng cho các doanh nghiệp, điều này giúp thay đổi hành vi của những người kinh doanh trong ngành
SXNN ngay cả khi không có hoạt động thanh tra của cơ quan quản lý.
+Công khai kết quả kiểm định an toàn thực phẩm tại các cơ sở chế biến và cung
cấp thực phẩm nhằm tạo dựng niềm tin cho người tiêu dùng, đồng thời nâng cao uy tín
cho các doanh nghiệp.
+ Hỗ trợ một phần chi phí cho các doanh nghiệp nông nghiệp trong hoạt động
đầu tư giúp doanh nghiệp nâng cao cơ sở vật chất và khả năng trong sản xuất đảm bảo
an toàn thực phẩm.
+ Tuyên truyền hiệu quả về an toàn thực phẩm đến người tiêu dùng, giúp họ có
kĩ năng xử lý khi xảy ra các vấn đề về an toàn thực phẩm cũng như báo cáo đến các cơ
quan chức năng về các sản phẩm không đảm bảo chất lượng.
4.3.3.3. Xây dựng chuỗi giá trị nông nghiệp dựa trên sự liên kết tập thể
Trong chuỗi giá trị nông nghiệp việc truy xuất nguồn gốc sản phẩm còn khó khăn
nên việc quản lý, điều phối chưa thực hiện được. Các mô hình như HTX, tổ hợp tác
còn chưa thể hiện được hết vai trò trong khâu trung gian cầu nối giữa doanh nghiệp
với nông dân. Đề án tái cơ cấu nông nghiệp của thành phố đã khẳng định rõ vai trò của các mô hình sản xuất này nhằm thúc đẩy quá trình liên kết trong chuỗi giá trị.
Thành phố đang tổ chức lại mạng lưới thông tin về thị trường (cung - cầu nông sản) trên cơ sở hệ thống hóa cơ sở dữ liệu trong SXNN bằng phần mềm với các tiêu chí như: cung - cầu, giá cả, năng suất, diện tích, thông tin doanh nghiệp, các trang trại của từng ngành hàng trên từng địa bàn. Doanh nghiệp và người sản xuất có thể truy cập mạng lưới và thị trường nông sản qua các Website. Thành phố còn triển khai các
159
chương trình hợp tác với các tỉnh thành trong vùng về xây dựng chuỗi cung ứng hàng
hóa giữa các tỉnh thành và TP.HCM.
Các HTX và doanh nghiệp, phải chủ động trong công tác xúc tiến thương mại;
đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển sản phẩm mới, đăng ký các tiêu chuẩn như ISO, HACCP, GMP để quản lý chất lượng; cải tiến nhãn hàng nhằm tăng thêm giá trị; đáp ứng nhu cầu thị trường; liên kết chặt chẽ với nông dân đảm bảo nguồn nguyên liệu ổn
định phục vụ cho sản xuất.
Đối với nông dân cần hợp tác trong sản xuất, đảm bảo cung cấp sản phẩm chất
lượng; theo dõi, cập nhật thông tin thị trường, sản xuất theo nhu cầu thị trường; tham
dự các khóa về kỹ thuật; tham dự các hội nghị, hội chợ xúc tiến thương mại.
Hợp đồng nông sản cần được triển khai để tăng cường tính trách nhiệm giữa các bên trong chuỗi giá trị nông sản; đảm bảo chất lượng sản phẩm từ đầu vào đến đầu ra.
Xây dựng và củng cố các mô hình liên kết giữa doanh nghiệp, HTX và các tổ hợp tác;
doanh nghiệp với doanh nghiệp; doanh nghiệp với nông dân; doanh nghiệp, ngân hàng
và nông dân
4.3.3.4. Xây dựng thương hiệu hàng nông sản trên thị trường quốc tế.
Với đề án “Chương trình mỗi xã một sản phẩm trên địa bàn vùng nông thôn
thành phố đến năm 2020” thành phố sẽ có 6 sản phẩm nông nghiệp đã được xác định
là chủ lực bao gồm: hoa cây cảnh, rau, lợn, tôm nước lợ, bò sữa và cá cảnh. Những sản
phẩm này có tiềm năng mở rộng thị trường, vừa sản xuất giống cung ứng cho thành
phố và các tỉnh trong bối cảnh thành phố đang CĐNN thành nông nghiệp đô thị chất
lượng cao. Tuy nhiên, đầu ra cho các sản phẩm trên vẫn luôn là nỗi trăn trở của các
HTX, doanh nghiệp nông nghiệp và nông dân. Trên địa bàn thành phố, tình hình tiêu
thụ rau, củ, quả qua thương lái vẫn chiếm tỷ lệ cao với 42% sản lượng. Nhu cầu tiêu
dùng của người dân thành phố hiện nay về rau là rất lớn, nhưng sản xuất chỉ đáp ứng
33,3% nhu cầu rau tại thành phố.
Phần lớn xuất khẩu của thành phố vẫn là xuất khẩu thô và ít được người tiêu
dùng biết đến. Vì vậy, việc xây dựng thương hiệu cho sản phẩm nông nghiệp của
thành phố là điều kiện cần thiết để góp phần thúc đẩy tăng trưởng nông nghiệp theo
hướng tăng giá trị, giảm chi phí đầu vào cho vật tư nông nghiệp, nhân công. Điều này
cần những chính sách hỗ trợ của thành phố trong hoạt động xúc tiên thương mại, thu
hút đầu tư các nguồn vốn như FDI vào nông nghiệp. Để có được điều đó, chính quyền
thành phố cần ban hành nhiều chính sách và chương trình nhằm hỗ trợ doanh nghiệp
trong việc đầu tư sản xuất để phát triển lĩnh nông nghiệp. Đồng thời, tiếp tục triển khai
160
các chính sách hỗ trợ, bảo hộ các sản phẩm nông nghiệp chủ lực của thành phố; mở
rộng thị trường tiêu thụ, tạo đầu ra cho hoạt động SXNN.
4.3.4. Huy động vốn đầu tư cho chuyển đổi nông nghiệp
Thành phố cần có các chính sách hỗ trợ vay vốn ngân hàng theo hình thức bằng
tài sản hình thành trong tương lai hoặc tín chấp; có sự liên kết theo chuỗi giữa các đơn
vị, cơ quan quản lý nhà nước, đơn vị sản xuất, cung ứng vật tư đầu vào (giống, phân
bón, công nghệ...), đơn vị tiêu thụ sản phẩm (siêu thị, doanh nghiệp,...) và ngân hàng
để phát triển một số dự án nông nghiệp có ứng dụng công nghệ cao như dưa lưới xuất
khẩu, rau thủy canh, hoa cây cảnh, nuôi tôm thẻ chân trắng thâm canh, du lịch sinh
thái, nhà máy sản xuất thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh cho bò sữa TMR. Chính quyền
thành phố cần mời gọi doanh nghiệp tham gia đầu tư, hỗ trợ vốn cho SXNN; khuyến
khích đổi mới và khởi nghiệp, áp dụng thành tựu của cách mạng công nghiệp 4.0 vào
nông nghiệp theo các hình thức như:
+ Tổ chức Hội thảo, Hội nghị về chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, HTX, tổ hợp
tác, cá nhân tiếp cận vốn vay từ tổ chức tín dụng để đầu tư SXNN.
+ Giao lưu giữa cơ sở sản xuất giống với doanh nghiệp, nông dân, HTX, trang
trại; khuyến khích nông dân sử dụng giống có nhãn hiệu, nguồn gốc.
4.3.5. Ứng dụng khoa học công nghệ trong quá trình chuyển đổi nông nghiệp
Ứng dụng công nghệ thông tin, phát triển KH - CN trong nông nghiệp góp phần xây dựng đô thị thông minh, tận dụng cơ hội cuộc cách mạng 4.0 nhằm nâng cao hiệu
quả SXNN. Thành phố đang muốn nâng cao tỷ lệ ứng dụng nhà lưới, nhà kính, nhà
màng trong sản xuất rau, hoa cây kiểng giúp đảm bảo ổn định năng suất, chất lượng cây
trồng; sản xuất rau thủy canh theo công nghệ màng mỏng dinh dưỡng NFT; mô hình
trồng rau, hoa, cây cảnh ứng dụng tưới tự động nhỏ giọt kết hợp châm phân bón tự
động; ứng dụng các thuốc trừ sâu sinh học hữu cơ, chế phẩm sinh học trong phòng trừ
dịch hại cây trồng; xây dựng nông nghiệp hữu cơ và thân thiện với môi trường.
Nâng cấp hệ thống thông tin về diện tích, loại nông sản, vùng trồng, dự kiến thu
hoạch, dự báo nhu cầu một số mặt hàng nông sản chính (rau, hoa, lợn) để cung cấp cho người SXNN, số hóa các vùng sản xuất (rau, chăn nuôi gia súc, gia cầm và thủy sản) trên địa bàn thành phố phục vụ công tác quy hoạch quản lý vùng sản xuất; quan trắc cảnh báo môi trường để phục vụ sản xuất. Từ đó, tiếp tục mở rộng ứng dụng quản lý sang các loại cây trồng khác như hoa, cây cảnh, cây công nghiệp, cây ăn quả và các vật nuôi khác. Xây dựng hệ thống truy xuất nguồn gốc nông sản: thiết kế phần mềm quản lý dữ liệu nông nghiệp phục vụ công tác quản lý và truy xuất nguồn gốc sản phẩm.
161
Đào tạo nâng cao cho đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu hội nhập đặc biệt nhân lực trong
sản xuất quản lý giống; chứng nhận chất lượng giống theo các phương pháp tiên tiến;
kiểm tra chất lượng giống bằng các kỹ thuật tiên tiến, hiện đại.
Triển khai cơ sở dữ liệu phục vụ Chương trình nông thôn mới; vùng nông nghiệp an toàn; quản lý thông tin đất đai; giống cây nông nghiệp; thông tin thị trường, xuất nhập khẩu hàng hóa; giống vật nuôi (gia súc, gia cầm), thức ăn, thông tin chăn nuôi tại
địa phương; dịch bệnh và diễn biến dịch bệnh, công tác tiêm phòng dịch trong chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản; hệ thống thông tin cơ sở dữ liệu quản lý thông tin sâu
bệnh, dịch bệnh, phòng bệnh trên cây trồng nông nghiệp, lâm nghiệp; quản lý tàu cá và
sổ nhật ký đánh cá công tác; hệ thống quản lý nông nghiệp thông minh; phần mềm
quản lý thực hiện, hỗ trợ lãi vay theo chính sách khuyến khích chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp đô thị trên địa bàn thành phố giai đoạn 2017-2020; ứng dụng công nghệ thông tin
quản lý dịch bệnh; công nghệ cảm biến trong kiểm soát ô nhiễm môi trường, cảnh báo
cơ sở chăn nuôi; hướng dẫn nông dân ứng dụng công nghệ cao liên quan lĩnh vực chăn
nuôi và thú y.
4.3.6. Đổi mới các hình thức tổ chức SXNN
Để CĐNN hiệu quả nhất thiết phải có các chương trình, đề án phát triển mô hình
HTX nông nghiệp hoạt động trên địa bàn TP.HCM. Hiện nay, thành phố đã hỗ trợ cho
các huyện Bình Chánh, Nhà Bè, Củ Chi, Hóc Môn và Cần Giờ xây dựng mô hình
HTX nông nghiệp tiên tiến đến năm 2030. Tuy nhiên, để phát huy vai trò HTX, hoạt
động hỗ trợ, liên kết giữa sản xuất với tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi giá trị giữa nông
dân, tổ hợp tác, HTX và doanh nghiệp cần được quan tâm đúng mức. Vấn đề nâng cao
thu nhập gắn liền với đầu ra cho sản phẩm của người nông dân khi tham gia HTX. Nếu lợi nhuận không đảm bảo, các hộ nông dân sẽ không tự nguyện tham gia vào HTX
theo định hướng của thành phố. Điều này sẽ khiến liên kết trong chuỗi giá trị nông sản
không chặt chẽ, gây khó khăn cho khâu tiêu thụ của nông sản.
Hiện ở TPHCM có Khu NNCNC được xây dựng năm 2004 tại xã Phạm Văn Cội, huyện Củ Chi, với diện tích 88ha. Nhưng mô hình này chưa nhân rộng ra được, mới dừng ở mức nghiên cứu, ứng dụng, thử nghiệm, chuyển giao công nghệ với quy mô nhỏ, không còn nông dân truyền thống mà sẽ hình thành nên công nhân làm nông nghiệp trong các trang trại bò sữa có quy mô lớn, sử dụng công nghệ kỹ thuật canh tác hiện đại. Đầu tư giữ lại các làng nghề truyền thống kết hợp với du lịch như gốm, đan lát, mộc mỹ nghệ, hoa lan, cây kiểng..
162
Chuyển đổi phần còn lại sang các hoạt động dịch vụ như du lịch liên quan đến
nghỉ dưỡng, chăm sóc sức khỏe, thư giãn ngắn vào cuối tuần. Loại hình nông nghiệp
cao kết hợp với làng du lịch kiểu mới là hướng phát triển bền vững, kiến tạo nên một
lớp nông dân công nghiệp hiện đại.
Tiểu kết chương 4
Chương 4, luận án tập trung khái quát định hướng và các chuyển đổi nông nghiệp
ở TP.HCM theo xu thế hội nhập.Theo nhận định của các tổ chức quốc tế như FAO,
WB, ADB với nhu cầu tiêu thụ nông sản tăng mạnh của người dân, các chính phủ cần
có các chiến lược để phân phối thực phẩm lành mạnh đến từng hộ dân theo chuỗi giá
trị nông sản từ trang trại đến bàn ăn. Từ nay đến năm 2030, thành phố tập trung
chuyển đổi đất trồng lúa, mía sang phát triển các loại cây trồng, vật nuôi chủ lực gồm
rau, hoa, cây cảnh, bò sữa, lợn, tôm nước lợ theo hướng SXNN công nghệ cao, công
nghệ sinh học.
Mục tiêu chung của thành phố là tái cơ cấu; đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu nông
nghiệp; tập trung nghiên cứu, ứng dụng công nghệ sinh học vào sản xuất giống cây,
con chất lượng, năng suất cao; từng bước hình thành trung tâm giống cây, con của cả
vùng Đông Nam Bộ; phát triển KH - CN; nông nghiệp công nghệ cao gắn với đào tạo
nguồn nhân lực để tận dụng tốt cơ hội của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Đẩy mạnh
SXNN kết hợp với du lịch sinh thái; nâng cao chất lượng xây dựng nông thôn mới, đào
tạo nghề cho khu vực nông thôn; hình thành các cơ sở giết mổ chuyên nghiệp hiện đại
và bảo vệ môi trường.
Để thực hiện được mục tiêu đó, chính quyền thành phố cần thực hiện các chính
sách nông nghiệp thiết thực, tăng tính chủ động cho doanh nghiệp và nông dân trong
chuỗi giá trị nông sản của Thành phố. Từ đó góp phần tăng hiệu quả sử dụng đất nông
nghiệp, sử dụng bền vững nguồn nước tưới; áp dụng chính sách nông nghiệp xanh;
quản lý các rủi ro về biến đổi khí hậu; xây dựng nền nông nghiệp dựa trên tri thức.
Thành phố cũng cần quản lý chặt chẽ về an toàn thực phẩm góp phần làm chuỗi
giá trị nông nghiệp được đổi mới sáng tạo dựa trên sự liên kết tập thể (chủ yếu là vai trò trung tâm của HTX); xây dựng thương hiệu hàng nông sản của Thành phố trên thị trường quốc tế. Vấn đề vốn đầu tư cho CĐNN, ứng dụng KH - CN, đổi mới hình thức tổ chức SXNN cũng là những giải pháp trong quá trình CĐNN. Cuối cùng là tăng cường liên kết giữa các hoạt động sản xuất, chế biến, xúc tiến thương mại, phát triển thị trường giúp SXNN phát triển ổn định bền vững, nâng cao thu nhập cho người nông dân ở vùng ngoại thành trong quá trình CĐNN của TP.HCM.
163
KẾT LUẬN
Trong giới hạn của luận án, tác giả chỉ đi sâu tìm hiểu nghiên cứu về CĐNN từ
nông nghiệp truyền thống sang nông nghiệp đô thị hiện đại dưới tác động của các nhân tố ảnh hưởng. Luận án đã tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về chuyển đổi nông nghiệp. Nghiên cứu đã làm rõ 4 biểu hiện của CĐNN ở
TP.HCM trong giai đoạn 2005 - 2018 đó là: (1) Chuyển đổi đất đai, sự biến động về cơ cấu sử dụng đất; (2) Chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, đa dạng hoá nông sản,
nuôi trồng thuỷ sản phục vụ thị trường trong nước và xuất khẩu; (3) Sự phát triển của
chuỗi giá trị nông sản trong nông nghiệp; (4) Sự chuyển đổi mô hình sản xuất nông
nghiệp và cơ cấu lãnh thổ nông nghiệp.
Dựa trên các khái niệm, chỉ tiêu, các nhân tố tác động đến CĐNN, nông nghiệp
đô thị TP.HCM; tác giả đưa ra những nhận định về tình hình nông nghiệp tại đây.
Trong quá trình thực hiện luận án, trên cơ sở tìm hiểu nghiên cứu hiện trạng chuyển
đổi nông nghiệp TP.HCM, tác giả rút ra một số kết luận sau:
- Thành phố Hồ Chí Minh là “bản lề” nối vùng Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ;
có đầy đủ những điều kiện thuận lợi về điều kiện tự nhiên với quỹ đất nông nghiệp
đa dạng, khí hậu, nguồn nước để phát triển cơ cấu cây trồng và vật nuôi đa dạng. Hệ
thống cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kĩ thuật hoàn thiện phục vụ cho sản xuất nông
nghiệp; trình độ khoa học – công nghệ tiên tiến tạo động lực cho chuyển đổi nông
nghiệp.
- Giai đoạn 2005 – 2018, chuyển đổi nông nghiệp TP.HCM có những thay đổi
vượt bậc từ nông nghiệp truyền thống nhỏ lẻ sang nền nông nghiệp đô thị gắn liền với khoa học và công nghệ hiện đại. Trong đó, nông nghiệp với ngành trồng trọt tập
trung vào các cây trồng chủ lực như rau an toàn, hoa, cây cảnh, lúa chất lượng cao.
Ngành chăn nuôi chuyển đổi cả về chất và lượng, tăng số lượng đàn gia súc (bò sữa,
bò thịt và lợn). Ngành thủy sản tập trung vào nuôi trồng thủy sản (tôm nước lợ, cá nước ngọt). Ngành lâm nghiệp phát triển và bảo tồn rừng ngập mặn Cần Giờ; kết hợp với phát triển du lịch sinh thái.
- Những kết quả phân tích thông qua điều tra thực tế cũng cho thấy việc phát triển các mô hình như tổ hợp tác, HTX nông nghiệp kiểu mới ngày càng tăng. Qua đó, giải quyết vấn đề thị trường tiêu thụ nông sản, sơ chế, chế biến sản phẩm trước khi tiêu thụ nhằm nâng cao giá trị thương phẩm; cung cấp đầu vào về vật tư nông
164
nghiệp với giá thấp hơn thị trường cho nông hộ. Đây cũng là giải pháp cho chuỗi giá
trị nông sản của TP.HCM trong tương lai.
- Qua nghiên cứu, tác giả đã đề xuất 6 nhóm giải pháp đẩy nhanh quá trình
chuyển đổi nông nghiệp của thành phố bao gồm: các giải pháp chung (chính sách nông nghiệp chung, chính sách nâng cao năng suất nông nghiệp, chính sách nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường); giải pháp huy động vốn đầu tư cho chuyển đổi
nông nghiệp; giải pháp về khoa học công nghệ, giải pháp đổi mới các hình thức tổ chức SXNN. Trong tổng thể các giải pháp được đề xuất, quan trọng nhất vẫn là tập
trung đẩy mạnh phát triển KT - XH của TP.HCM và thực hiện đồng bộ các mục tiêu
của Chiến lược phát triển TP.HCM tầm nhìn đến năm 2030.
165
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ
1. Đặng Văn Phan, Vũ Thị Bắc (2015), Bảo tồn hệ sinh thái rừng ngập mặn và phát
triển sinh kế bền vững nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu tại huyện Cần Giờ - TP.
Hồ Chí Minh, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Tạp Chí Cộng Sản, trang 179-185,.
2. Đặng Văn Phan, Vũ Thị Bắc (2016), Thực trạng phát triển ngành nuôi trồng thủy
sản tại huyện Cần Giờ - TP. Hồ Chí Minh và đề xuất một số giải pháp phát triển
bền vững, Kỷ yếu Hội nghị Địa lí toàn quốc lần thứ IX, NXB Khoa học kĩ thuật,
trang 491-500 (Quyển 2).
3. Vũ Thị Bắc, Đặng Văn Phan (2016), Thực trạng phát triển du lịch tại huyện Cần
Giờ - Tp.Hồ Chí Minh và đề xuất một số giải pháp phát triển du lịch bền vững, Kỷ
yếu Hội thảo khoa học Tạp Chí Cộng Sản, trang 167-175.
4. Vũ Thị Bắc (2017), Quá trình chuyển đổi ngành chăn nuôi ở thành phố Hồ Chí
Minh giai đoạn 2005-2015, Tạp chí nghiên cứu Địa lý Nhân văn, số 4(19)2017,
trang 28-34.
5. Vũ Thị Bắc, Đặng Văn Phan, Doãn Quang Dũng (2018), Quá trình chuyển đổi
ngành trồng trọt ở thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2005-2015, Kỷ yếu Hội nghị
Địa lí toàn quốc lần thứ X, NXB Khoa học Tự nhiên và Công nghệ, trang 1242-
1251 (Quyển 2).
6. Vũ Thị Bắc (2019), Các nhân tố ảnh hưởng đến chuyển đổi nông nghiệp ở thành
phố Hồ Chí Minh, Tạp chí khoa học Trường ĐH Sư Phạm Hà Nội, số 8/2019 VN,
trang 142-152.
7. Vũ Thị Bắc (2019), Factors affecting the transformation of agriculture in Ho Chi
Minh City, Kỷ yếu hội thảo quốc tế “Khoa học địa lý trong bối cảnh cách mạng
công nghiệp 4.0: cơ hội và thách thức”, NXB ĐHQG TP.HCM.
8. Nguyễn Kim Huế Nam, Tran Nguyễn Nam Hưng, Vũ Thị Bắc, Hồ Quốc Bằng
(2020), Spatiotemporal Variability of Air Quality Time Series for developing
countries: Case of Ho Chi Minh city, Vietnam, tạp chí EAI Endorsed Transactions
on Industrial Networks and Intelligent Systems, 01 2020 - 05 2020, tập 7, số 23.
166
9. Vũ Thị Bắc, Đặng Văn Phan (2020), Phân tích quá trình chuyển đổi nông nghiệp
ở thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2015-2017 hướng tới mô hình nông nghiệp đô
thị hiện đại, Kỷ yếu Hội nghị Địa lí toàn quốc lần thứ XII.
167
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu Tiếng Việt 1. ADB (Ngân hàng phát triển Châu Á) (2010), Thành phố Hồ Chí Minh thích nghi với
biến đổi khí hậu, Mandaluyong, Phillipines.
2. ADB (Ngân hàng phát triển Châu Á) (2013a), Nâng cao năng suất nông nghiệp ở Việt Nam:Chương trình cải cách, Dự án quốc gia CLMV số 12, tháng 8 năm 2013. 3. ADB (Ngân hàng phát triển Châu Á) (2013b), Nghiên cứu Chuỗi giá trị lúa gạo ở
vùng đồng bằng sông Cửu Long.
4. Đào Thế Anh, Đào Thế Tuấn, Lê Quốc Doanh (2012), “Luận cứ khoa học của chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn: hiện trạng và các yếu tố tác động ở Việt Nam”, Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế Việt Nam học lần thứ ba, trang 168 – 186.
5. Lê Xuân Bá (Chủ nhiệm đề tài) (2012), Nghiên cứu dự báo chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp, nông thôn và các giải pháp giải quyết việc làm trong quá trình đầy mạnh CNH, HĐH và đô thị hóa, Mã số: KX,02,01/06-10, Hà Nội.
6. Ban chấp hành TW Đảng (2008), Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành TW
khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, số 26 – NQTW, Hà Nội. 7. Hà Thị Thanh Bình (2002), Trồng trọt đại cương, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 8. Nguyễn Văn Bích - Chu Tấn Quang (1996), Chính sách kinh tế và vai trò của nó đối với phát triển triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
9. Nguyễn Văn Bộ, Ngô Doãn Đảm (2017), Hiện trạng sản xuất nông nghiệp hữu cơ,
Viện Kinh tế Nông nghiệp, Hà Nội.
10. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2003), Nghiên cứu luận cứ khoa học của chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Mã số: KC.07.17, Hà Nội.
11. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2009), Sổ tay hướng dẫn cho FDI vào
nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản ở Việt Nam, Hà Nội.
12. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2009), Chiến lược phát triển nông
nghiệp nông thôn giai đoạn 2011- 2020, Hà Nội.
13. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2010), Chương trình mục tiêu Quốc gia
về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020, Hà Nội.
14. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2011), Quy định về tiêu chí và thủ tục
cấp giấy chứng nhận kinh tế trang trại, Hà Nội.
168
15. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2012), Đề án Tái cơ cấu ngành nông
nghiệp hướng tới giá trị gia tăng lớn hơn và phát triển bền vững, Hà Nội.
16. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2012), Quy hoạch tổng thể phát triển
ngành nông nghiệp cả nước đến năm 2020 và tầm nhìn đến 2030, Hà Nội.
17. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2014), Báo cáo: Cơ cấu thể chế kiểm
soát an toàn thực phẩm trong chuỗi giá trị, thực phẩm, Hà Nội.
18. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2018), Đề án Phát triển nông nghiệp
hữu cơ giai đoạn 2020 – 2030”, Hà Nội.
19. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2005), Chiến lược phát triển kinh tế biển và vùng ven
biển Việt Nam đến năm 2020, Hà Nội.
20. Bộ kế hoạch và đầu tư, Viện nghiên cứu và quản lý kinh tế Trung ương (2007). Đề tài: Đánh giá đóng góp của các ngành kinh tế và chuyến dịch cơ cấu ngành tới tăng trưởng năng suất (lao động) ở Việt Nam, Hà Nội.
21. Bộ kế hoạch và đầu tư, Viện chiến lược phát triển (2009), Các vùng, tỉnh thành phố trực thuộc Trung Ương – tiềm năng và triển vọng đến năm 2020, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
22. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2012), Báo cáo tình hình đầu tư công cho nông nghiệp,
nông dân, nông thôn, Hà Nội.
23. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2009), Công văn số 3815/BTNMT-
KTTVBĐKH, Hà Nội.
24. Cục Thống kê TP Cần Thơ, Niên giám Thống kê TP Cần Thơ 2018, Nxb Thống
kê, Cần Thơ
25. Cục Thống kê TP Đà Nẵng, Niên giám Thống kê TP Đà Nẵng 2018, Nxb Thống
kê, Đà Nẵng.
26. Cục Thống kê TP Hà Nội, Niên giám Thống kê TP Hà Nội 2018, Nxb Thống kê,
Hà Nội.
27. Cục Thống kê TP Hải Phòng, Niên giám Thống kê TP Hải Phòng 2018, Nxb
Thống kê, Hải Phòng.
28. Cục Thống kê TP.HCM, Niên giám Thống kê TP.HCM từ năm 2005 -2018, Nxb
Thống kê, TP.HCM.
29. Cục thống kê TP.HCM (2012), Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản năm 2011, Ban chỉ đạo tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản TP.HCM.
30. Đoàn Xuân Cảnh (2016), “Nghiên cứu ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất một số loại rau phục vụ nội tiêu và xuất khẩu ở các tỉnh phía bắc” , Viện Cây lương thực và Cây thực phẩm, Hà Nội.
169
31. Nguyễn Diên (1996), Kinh tế hợp tác nông nghiệp, nông thôn trên thế giới và Việt
Nam, Nxb Thống kê, Hà Nội.
32. Đặng Ngọc Dinh (chủ biên) (1997), Vấn đề phát triển công nghiệp nông thôn nước
ta, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. Lê Mỹ Dung (2017), Phát triển nông, lâm, thủy sản ở thành phố Hà Nội, Luận án
Tiến sĩ, ĐH Sư Phạm Hà Nội.
34. Đàm Nguyễn Thùy Dương (2005), Tổ chức lãnh thổ trồng và chế biến cây lương thực, thực phẩm và cây công nghiệp ngắn ngày tại các huyện ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Sư Phạm TP.HCM.
35. Đại học Nông nghiệp Hà Nội 1 (2007), Phát triển nông nghiệp và chính sách đất
đai ở Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
36. Vũ Xuân Đề (2003), Nghiên cứu xây dựng các mô hình nông nghiệp sinh thái phù hợp trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa ở TP.HCM, Viện Kinh tế.
37. Nguyễn Điền (1997), Công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn các nước Châu Á
và Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
38. Đoàn Văn Điếm (2005), Khí tượng nông nghiệp, Nxb Nông nghiệp. 39. Đỗ Thị Minh Đức (2004), Quản lí tài nguyên ven biển và vấn đề xóa đói giảm nghèo trong các cộng động nghề cá ở vùng ven biển Việt Nam, đề tài hợp tác quốc tế với Viện nghiên cứu vùng và đô thị Nauy.
40. E.Stighz Joseph (1995), Kinh tế học cộng đồng, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 41. Huỳnh Thị Minh Hằng, Nguyễn Hoàng Anh (2006), “Hướng đến sự phát triển bền vững các vùng dân cư trên đất ngập nước ven biển - huyện Cần Giờ TP.HCM”, Tạp chí phát triển KH&CN, tập 9, Viện Môi trường và Tài nguyên – Đại học Quốc gia - TP.HCM.
42. Vũ Thị Mai Hương (2014), Nghiên cứu sự phát triển nông nghiệp đô thị ở Hà Nội,
Luận án Tiến sĩ, ĐH Sư Phạm Hà Nội.
43. Phạm Đình Hổ (2003), Kinh tế Nông nghiệp - Lý luận và thực tiễn, Nxb Thống kê,
Hà Nội.
44. Đinh Phi Hổ, (2011), Phương pháp nghiên cứu định lượng và những nghiên cứu thực tiễn trong kinh tế phát triển - nông nghiệp, Nxb Phương Đông, TP.HCM. 45. Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam (1995), Từ điển Bách khoa Việt Nam tập 1, Trung tâm biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam, Hà Nội. 46. Nguyễn Xuân Hồng (2019), Nông nghiệp hữu cơ: Triển vọng, thách thức và giải
pháp, Tạp chí Kinh tế nông thôn, Hà Nội.
47. Lê Mạnh Hùng - Nguyễn Sinh Cúc - Hoàng Vĩnh Lê (1998), Thực trạng công
170
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn Việt Nam, Nxb Thống kê, Hà Nội. 48. Phạm Hùng (2002), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn miền Đông Nam Bộ
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
49. Đinh Sơn Hùng (2005), Một số giải pháp phát triển nông nghiệp, nông thôn ngoại thành TP Hồ Chí Minh trên cơ sở khoa học - công nghệ cao và phù hợp sinh thái”, Viện Kinh tế TP.HCM.
50. Lâm Quang Huyên (2002), Nông nghiệp, nông thôn Nam Bộ hướng tới thế kỷ XXI,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
51. Harry T.Oshima (1989), Tăng trưởng kinh tế ở các nước Châu Á gió mùa,Viện
Châu Á- Thái Bình Dương, Hà Nội.
52. Trần Tiến Khai (2015), Xây dựng nông thôn mới ở Thành phố Hồ Chí Minh: Thực
trạng và giải pháp phát triển bền vững, Đại học Kinh tế TP.HCM. 53. Lê Văn Khoa (1999), Nông nghiệp và Môi trường, Nxb Giáo dục. 54. Vũ Tự Lập (1999), Địa lý tự nhiên Việt Nam, Nxb Giáo dục. 55. Phạm Sỹ Liêm (2009), Nông nghiệp đô thị trong quy hoạch TP Hà Nội, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế: “Hà Nội: Thành phố thân thiện và sống tốt cho cộng đồng”, Hà Nội tháng 7/2009.
56. Vũ Thùy Linh, Phạm Thị Ánh Ngọc, Hồ Minh Dũng, Nguyễn Kim Lợi (2019) “Thích ứng với biến đổi khí hậu trong mô hình quản lý đô thị tại thành phố Hồ Chí Minh, Tạp chí nông nghiệp và phát triển, tạp chí số 2 Trang: 79-89, ĐH Nông Lâm. 57. Ngô Thắng Lợi (2012), Giáo trình kinh tế phát triển, Nxb Đại học kinh tế quốc
dân, Hà Nội.
58. Lê Sĩ Lợi (2011), Nghiên cứu trồng rau thủy canh công nghệ cao trong điều kiện nhà có mái che sản xuất trong nước phục vụ phát triển kinh tế-xã hội các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam”, Đại học Thái Nguyên.
59. Trịnh Duy Luân (2004), Xã hội học đô thị, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 60. Hoàng Thị Mai (2015), Nghiên cứu bổ sung, nâng chất các tiêu chí nông thôn mới theo đặc thù thành phố Hồ Chí Minh, Chi cục phát triển nông thôn TP.HCM. 61. Nguyễn Đăng Nghĩa - Mai Thành Phụng (2011), Nông nghiệp đô thị và ven đô, Diễn đàn khuyến nông nông nghiệp lần thứ 3, Chuyên đề “Những mô hình nông nghiệp đô thị hiệu quả”, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia phối hợp với UBND tỉnh Vĩnh Long tổ chức, tr.10 - 22.
62. Trần Ngọc Ngoạn (2008), Phát triển nông thôn bền vững những vấn đề lý luận và
kinh nghiệm thế giới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
63. Phạm Thị Minh Nguyệt (2009), Kinh tế hợp tác trong nông nghiệp, Nxb Nông
nghiệp, Hà Nội.
171
64. Ngân hàng Thế giới (WB) (2016), Báo cáo Phát triển Việt Nam 2016 - CĐNN Việt
Nam: tăng giá trị, giảm đầu vào, Nxb Hồng Đức, Hà Nội.
65. Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 5-8-2008 của Ban chấp hành Trung ương Đảng
khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
66. OECD (2015), Các chính sách nông nghiệp của Việt Nam 2015, Nxb PECD, Paris. 67. Đặng Văn Phan (2008), Tổ chức lãnh thổ Nông nghiệp Việt Nam, Nxb Giáo dục. 68. Phân Viện Quy hoạch và Thiết kế nông nghiệp miền Nam (2008), Quy hoạch chuyển đổi cơ cấu sản xuất trên đất lúa vùng ĐNB & tầm nhìn 2020 nhằm sử dụng hợp lý và nâng cao hiệu quả sử dụng đất.
69. Trần Thùy Phương (2013),“Chính sách phát triển nông nghiệp công nghệ cao ở
Israel”, Tạp chí Nghiên cứu Châu Phi và Trung Đông.
70. Lê Đình Phùng, Hoàng Mạnh Quân (2011), Biến đổi khí hậu: Tác động, thích ứng
và chính sách nông nghiệp, Nxb Nông Nghiệp.
71. Quốc Hội (2012), Luật số: 23/2012/QH13, Luật Hợp tác xã, Hà Nội. 72. Quốc Hội (2014), Luật số: 68/2014/QH13, Luật Doanh Nghiệp, Hà Nội. 73. Nguyễn Thị Tố Quyên (2020), Nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong mô hình tăng trưởng kinh tế mới giai đoạn 2011 - 2020, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội. 74. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thành phố Hồ Chí Minh (2009), Đề án Phát triển nông nghiệp sinh thái đô thị gắn với du lịch trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở ngoại thành TP.HCM, TP.HCM.
75. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thành phố Hồ Chí Minh (2009), Tình hình
phát triển cơ khí hóa nông nghiệp, nông thôn ở TP.HCM, TP.HCM.
76. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thành phố Hồ Chí Minh(2010), Chuyển
đổi cơ cấu SXNN ở TP.HCM, TP.HCM.
77. Nguyễn Ngọc Sơn, Bùi Đức Tuấn (2012), Giáo trình kinh tế phát triển, Nxb Tài
chính, Hà Nội.
78. Đặng Kim Sơn (2001), Công nghiệp hóa từ nông nghiệp lý luận, thực tiễn và
chuyển vọng áp dụng ở Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
79. Lê Quốc Sử (2001), Chuyển dịch cơ cấu và xu hướng phát triển của kinh tế nông nghiệp Việt Nam theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa từ thế kỷ XX đến thế kỷ XXI trong “Thời đại kinh tế tri thức”, Nxb Thống kê, Hà Nội.
80. Nguyễn Tài (1987), Vấn đề đa canh hóa trong sản xuất nông nghiệp - Thực tiễn
các tỉnh phía Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
81. Nguyễn Minh Tuệ, Lê Thông (đồng Chủ biên) và nnc, (2013), Địa lý nông – lâm –
thủy sản Việt Nam, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
82. Nguyễn Ngọc Tuấn (2003), Những vấn đề kinh tế – xã hội và môi trường vùng ven
172
các đô thị lớn trong quá trình phát triển bền vững, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 83. Bùi Đức Tuân (2012), Tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu trong điều kiện thực thi các cam kết wto: trường hợp ngành nông nghiệp Việt Nam, Học viện chính trị - hành chính khu vực I, Hà Nội.
84. Nguyễn Quang Thạch (2016), Hoàn thiện và phát triển công nghệ sản xuất củ giống khoai tây chế biến bắt nguồn từ công nghệ nuôi cấy mô kết hợp với công nghệ khí canh”, đề tài cấp Bộ. KC.04.DA04/11-15, Hà Nội.
85. Vũ Đình Thắng (2006), Kinh tế nông nghiệp, Nxb Đại học Kinh tế Quốc dân. 86. Lê Đình Thắng (1998), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn - Những vấn đề lí
luận và thực tiễn, Nxb Nông nghiệp, Hà nội.
87. Nguyễn Viết Thịnh - Đỗ Thị Minh Đức (2005), Phân tích kiểu địa lí KT - XH cấp
tỉnh và cấp huyện ở Việt Nam, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội.
88. Nguyễn Viết Thịnh, Đỗ Thị Minh Đức, Nguyễn Tường Huy, Nguyễn Khắc Anh và Trần Thị Hồng Thuý (2005), “Phân tích các nhân tố địa lí tác động đến xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nghề cá huyện Giao Thuỷ, tỉnh Nam Định”, Tạp chí Khoa học Đại học Sư phạm Hà Nội, số 5/2005, trang 106 – 110.
89. Nguyễn Ngọc Tuấn (2003), Những vấn đề KT - XH và môi trường vùng ven các đô thị lớn trong quá trình phát triển bền vững, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 90. Vũ Hiền Thục (Chủ biên), Viên Ngọc Nam, Phan Nguyên Hồng, Vũ Thị Kim Cúc, Phục hồi rừng ngập mặn ứng phó với biến đổi khí hậu hướng tới phát triển bền vững, Nxb Nông nghiệp Hà Nội, tr 321 – 331.
91. Đoàn Xuân Thủy (Chủ biên) (2011), Chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp ở
Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr. 203.
92. Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD)(2015), Báo cáo rà soát Nông
nghiệp và Lương thực của OECD, Chính sách nông nghiệp Việt Nam 2015.
93. Tổng cục thống kê (2006-2019), Niên giám Thống kê từ năm 2005-2018, Nxb Thống
kê, Hà Nội.
94. Tổng cục Thống kê (2018), Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thuỷ sản năm
2016, Nxb Thống kê, Hà Nội.
95. Thủ tướng Chính phủ (2008), Quyết định số 158/2008/QĐ-TTg về chương trình
mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu, Hà Nội.
96. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định số 1259/QĐ-TTg về phê duyệt Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050, Hà Nội.
97. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định số Số: 1393/QĐ-TTg về chiến lược quốc
gia về tăng trưởng xanh, Hà Nội.
173
98. Thủ tướng Chính phủ (2013), Quyết định số 399/QĐ-TTg về phê duyệt Đề án Tổng thể tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh giai đoạn 2013 - 2020, Hà Nội. 99. Thủ tướng Chính phủ (2013), Quyết định số 899/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững, Hà Nội.
100. Thủ tướng Chính phủ (2013), Quyết định số 2631/QĐ-TTg về việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội Thành Phố Hồ Chí Minh đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025, Hà Nội.
101. Thủ tướng Chính phủ (2014), Nghị quyết số 02/NQ-CP về Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất của Thành phố Hồ Chí Minh 5 năm đầu (2011-2015), Hà Nội.
102. Nguyễn Hoàng Trí (2006), Sinh quyển và các khu dự trữ sinh quyển, Nxb Đại
học Sư phạm Hà Nội.
103. Lê Văn Trưởng (2008), Nhận dạng nông nghiệp đô thị Việt Nam, Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ 3, Tiểu ban nông thôn, nông nghiệp Việt Nam hiện đại, tập 4, Hà Nội, tr.272 - 280.
104. UBND TP.HCM (2009), Quy hoạch sản xuất nông nghiệp phát triển nông thôn trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2025, TP.HCM.
105. UBND TP.HCM (2010), Đề án phát triển nông nghiệp đô thị trên trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2025, TP.HCM.
106. UBND TP.HCM (2010), Chương trình mục tiêu xây dựng nông thôn mới trên địa
bàn TP.HCM giai đoạn 2010 - 2020, TP.HCM.
107. UBND TP.HCM (2010), Chương trình phát triển chăn nuôi bò sữa trên địa bàn
TP.HCM giai đoạn 2011 - 2015, TP.HCM.
108. UBND TP.HCM (2011), Chương trình Ứng dụng và Phát triển Công nghệ sinh học phục vụ nông nghiệp - nông thôn trên địa bàn thành phố đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2025, TP.HCM.
109. UBND TP.HCM (2011), Chương trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, theo hướng nông nghiệp đô thị trên địa bàn thành phố giai đoạn 2011 - 2015, TP.HCM.
110. UBND TP.HCM (2012), Kế hoạch phát triển chăn nuôi của TP.HCM tạo nguồn thực phẩm phục vụ bình ổn thị trường giai đoạn 2013 - 2015 và định hướng 2020, TP.HCM.
174
111. UBND TP.HCM (2013), Chính sách về khuyến khích chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp đô thị trên địa bàn thành phố giai đoạn 2013 - 2015, TP.HCM.
112. UBND TP.HCM (2014), Chương trình phát triển chăn nuôi bò sữa trên địa bàn
thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2015 - 2020, TP.HCM.
113. UBND TPHCM (2016), Phê duyệt chương trình an toàn thực phẩm nông lâm
thủy sản trên địa bàn TPHCM giai đoạn 2016-2010, TPHCM.
114. UBND TPHCM (2016), Chương trình phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao trên địa bàn Thành phố giai đoạn 2016 – 2020, định hướng đến năm 2025, TPHCM.
115. UBND TPHCM (2016), Sơ kết 3 năm thực hiện Đề án Tái cơ cấu ngành Nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững trên địa bàn thành phố, TPHCM.
116. UBND TP.HCM (2018), Quyết định số 4545/QĐ-UBND về việc ban hành danh
mục sản phẩm chủ lực ngành nông nghiệp thành phố; TP.HCM.
117. UBND TP.HCM (2019), Quyết định ban hành chương trình phát triển nông nghiệp giai đoạn 2019 - 2025 theo hướng cơ cấu lại và đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, TP.HCM.
118. Ủy ban tăng trưởng và phát triển của LHQ (2010), Đô thị hóa và tăng trưởng,
Ngân hàng thế giới tại Việt Nam.
119. Ngô Doãn Vịnh (2005), Bàn về phát triển kinh tế, con đường dẫn đến giàu sang,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
120. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (2014), Báo cáo nghiên cứu: Tăng năng suất lao động Việt Nam: Đặc trưng, thách thức và giải pháp, Hà Nội.
121. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (2014), Giải pháp phát triển thị
trường quyền sử dụng đất trong nông nghiệp, Hà Nội.
122. Viện Khoa học khí tượng thủy văn và môi trường (2010), Tài liệu hướng dẫn Đánh giá tác động của biến đổi khí hậu và xác định các giải pháp thích ứng, Nxb Tài nguyên - Môi trường và Bản đồ Việt Nam.
123. Viện Kinh tế học thuộc Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia (2003), Điều tra KT - XH vùng ven biển, xây dựng luận cứ khoa học cho định hướng chiến lược cho phát triển tổng thể KT - XH và môi trường vùng ven biển Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010, Hà Nội.
• Tài liệu tiếng Anh
124. Abdul Rehman, Luan Jingdong, Rafia Khatoon and Imran Hussain (2016), Modern Agricultural Technology Adoption its Importance, Role and Usage for
175
the Improvement of Agriculture, American-Eurasian J. Agric. & Environ. Sci., 16 (2): 284-288.
125. Alston J. M. and P. G. Pardey (2017), Transforming Traditional Agriculture Redux, Working Paper Series N° 260, African Development Bank, Abidjan, Côte d’Ivoire
126. David Laborde, Tess Lallemant, Kieran McDougal, Carin Smaller, Fousseini Traore (2019), Transforming agriculture in Africa and Asia: What are the policy priorities, IISD&ISFPI.
127. European Parliamentary Research Service, James McEldowney (2017), Urban agriculture in Europe, Patterns, challenges and policies, European Union.
128. EIP-AGRI (2017), Ecological approaches and organic farming, Agriresearch
factsheet, UK.
129. FAO (2007), Agro-industrial supply chain management: concepts and
applications.
130. FAO (2009), How to Feed the World in 2050, Vol. 35, No. 4 (Dec., 2009), pp.
837-839, Population and Development Review, Population Council.
131. FAO (2013), Climate-smart Agriculture Sourcebook, Washington, D.C. http: //
www.fao.org/docrep/018/i3325e/i3325e.pdf.
132. FAO (2015), Agricultural transformation of middle-income Asian economies: Diversification, farm size and mechanization, by David Dawe. ESA Working Paper No. 15-04. Rome, FAO.
133. FAO (2017), The future of food and agriculture – Trends and challenges, Rome. 134. FAO (2018), Climate-Smart Agriculture Case studies 2018 Successful
approaches from different regions, Rome, Italia.
135. Fernando P. Carvalho (2006), Agriculture, pesticides, food security and food
safety, Environmental Science & Policy 9(7-8):685-692.
136. Fred Magdoff
(2007), Ecological agriculture: Principles,practices, and constraints, Renewable Agriculture and Food Systems: 22(2); 109–117, Cambridge University Press.
137. https://www.ifoam.bio/en/organic-landmarks/definition-organic-agriculture. 138. IFOAM EU Group, FiBL and CIHEAM-IAMB (2014), Organic In Europe,
Prospects And Developments.
139. Mougeot, L. (1999), Urban Agriculture: Definition, Presence, Potential and Risks, Main Policy Challenges, Report submitted for presentation at International Workshop on Growing Cities, Growing Food, La Habana, Cuba.
176
140. Matthieu De Clercq, Anshu Vats, Alvaro Biel (2018), Agriculture 4.0: the future
of farming technology, UK.
141. Meiz-hang-xiang-yu-Guo (2010), Study on Functions of
the Agriculture Cooperative in Food Safety, International Conference on Agricultural Risk and Food Security.
142. National Economic and Social Development Board Office of the Prime Minister, The Eleventh National Economic and Social Development Plan (2012-2016). 26 October 2011. Retrieved 1 April 2016. Bangkok, Thailand.
143. J.Sundaresan, S.Seekesh., Al. Ramanathan., L. Sonnenschein., R. BooJh (2012), Climate change And Island and Croastal Vulnerability, Jointly published with Capital Publishing Company 2013, XV, 287 p. 102 illus., 52 illus. in color. 144. OECD (1995), Agriculture Policy Reform and Adjustment in Japan, Paris. 145. OECD (2009), Evaluation of Agricultural Policy Reform in Japan, Paris. 146. Peter Timmer (1988), The Agricultural tranformation, Havard University. 147. Peter Hazell (2007), Transformations in agriculture and their implications for rural development, Vol. 4, No. 1, , pp. 47-65, Imperial College London, UK. 148. Peter Oosterveer and David A. Sonnenfeld (2011), Food, Globalization and
Sustainability Routledge London, UK.
149. RUAF (2006), Cities Farming for the Future; Urban Agriculture for Green and Productive Cities; by René van Veenhuizen (ed.), RUAF Foundation, the Netherlands, IDRC, Canada and IIRR publishers, the Philippines, (460 pages). 150. Reina, Giulio; Milella, Annalisa; Rouveure, Raphaël; Nielsen, Michael; Worst, Rainer; Blas, Morten R. Ambient (2016), Awareness for agricultural robotic vehicles, Biosystems engineering 146 pp.114-132.
151. Sara Boettiger, Nicolas Denis, and Sunil Sanghvi (2017), Successful agricultural
transformations: Six core elements of planning and delivery.
152. Scherr, S.J., J.A. McNeely, editors (2007), Farming with Nature: The Science
and Practice of Ecoagriculture. Island Press, Washington D.C.
(2015) "Steps Toward Green: Policy Responses to
153. Scherr, S.J., K. Mankad, S. Jaffee and C. Negra, with case studies by T. Havemann, J. Kijtikhun, U.E. Kusumajaya, S. Nair, and S. Rosenthal. Forthcoming the Environmental Footprint of Commodity Agriculture in East and Southeast Asia”. EcoAgriculture Partners and World Bank, Washington D.C.
154. Sietze Vellema (ed.) (2011), Transformation and sustainability in agriculture,
Wageningen Academic Publishers.
155. T. Schultz (1964), Transforming Traditional Agriculture , the Economic Journal,
177
Vol. 74, No. 296 (Dec.,), pp. 996-999, Royal Economic Society, UK.
156. United States Agency for International Development (USAID) (2013), Mekong Adaptation and Resilience to Climate change (Mekong ARCC), Synthesis Report,http://www,mekongarcc,net/sites/default/files/mekongarcc_draft_synthesi s_report,pdf,
157. World Bank (2012), Urban agriculture findings from fours city case studies,
Urban Development And Resilience Unit.
158. UNDP/VIE/037/UNJ tại Hà Nội (2011), “Strengthening Capacities to Enhance Coordinated and Integrated Disaster Risk Reduction Actions and Adaptation to Climate Change in Agriculture in the Northern Mountain Regions of Viet Nam”,Ha Noi, Viet Nam.
159. United States Agency for International Development (USAID) (2013), Mekong Adaptation and Resilience to Climate change (Mekong ARCC), Synthesis Report, http://www,mekongarcc,net/sites/default/files/mekongarcc_
160. https://www.policylink.org/sites/default/files/URBAN_AG_FULLREPORT.PDF
a
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: PHIẾU ĐIỀU TRA KINH TẾ NÔNG HỘ
PHẦN 1: GIỚI THIỆU
Xin chào anh/chị, trong kế hoạch nghiên cứu của mình, tôi đến để tìm hiểu về hoạt
động nông nghiệp của bà con. Cuộc trao đổi lấy ý kiến này là hoàn toàn tự nguyện, việc
lựa chọn hộ gia đình là hoàn toàn ngẫu nhiên. Những thông tin thu thập hôm nay chỉ
phục vụ cho mục đích nghiên cứu. Trước hết xin ông/bà vui lòng trả lời một số câu hỏi
duới đây. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn sự hợp tác của ông/bà và gia đình.
PHẦN 2: BẢNG HỎI
• THÔNG TIN TỔNG QUÁT
Họ tên chủ hộ: …………………………(giớitính: Nam:
Nữ:
Trình độ học vấn: …………………………(mù chữ, tiểu học, trung học, đại học, sau đại học)
Địa chỉ khu phố (ấp): ....... …………………...Phường(Xã),………………..quận (huyện)
Nghề nghiệp chính:…………………………Nghề phụ: …………………………
• TÌNH HÌNH NHÂN KHẨU LAO ĐỘNG:
Tổng số nhân khẩu: .................... Người
Trong đó: + Lao động trong độ tuổi: .......................
Người (từ 15-60 tuổi)
+ Lao động ngoài độ tuổi: ......................
Người (trên 60 tuổi)
3. PHẦN 3. DIỆN TÍCH ĐẤT NÔNG HỘ SỬ DỤNG m2; 3.1.Tổng diện tích của hộ: ..............................
Trong đó:
3.1.a Đất vườn: :.......................................... m2; 3.1.b Đất trồng cây lương thực:.......................................... m2; 3.1.c Đất trồng cây lâu năm:.......................................... m2; 3.1.d Đất trồng cây hàng năm:.......................................... m2; 3.1.e Diện tích mặt nước:......................................... m2; 3.1.f Đất khác (thổ cư): .......................................... m2;
3.2. Trong 5 năm trở lại đây, hộ có chuyển đổi mục đích sử dụng đất không?
1. Có
2. Không
3.2.a Nếu có, xin Ông (Bà) cho biết mục đích của việc thay đổi? (đánh dấu x vào ô trả lời) (1) Chuyển sang trồng cây khác hoặc nuôi con khác (2) Mua bán chuyển nhượng (3) cho thuê lại
(4) Mục đích khác
b
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------- ---------------------------------------------------------------------------------------------------------------- 4. PHẦN MÁY MÓC, THIẾT BỊ, VẬT TƯ CHỦ YẾU CỦA NÔNG HỘ 4.1. Nông hộ có những loại máy móc nào? (liệt kê cụ thể) ---------------------------------------------------------------------------------------------------------------- ---------------------------------------------------------------------------------------------------------------- ---------------------------------------- 4.2. Nông hộ có sử dụng máy vi tính phục vụ sản xuất không? (đánh dấu x vào ô trả lời)
2. Không
2. Không
1. Có 4.3. Máy vi tính có kết nối internet không? (đánh dấu x vào ô trả lời) 1. Có 4.4. Nông hộ có giao dịch thương mại điện tử không? (đánh dấu x vào ô trả lời)
1. Có
2. Không 4.5. Nguồn cung ứng giống cho nông hộ hiện nay là:
(1) Tự sản xuất (3) Mua qua tư nhân
(2) Mua từ các công ty giống cây trồng (4) Nguồn khác
Liệt kê:------------------------------------------------------------------------------------------------------- ---------------------------------------------------------------------------------------------------------------- 5. PHẦN 5. KẾT QUẢ SẢN XUẤT VÀ DỊCH VỤ CỦA NÔNG HỘ 5.1. Tổng vốn đầu tư của gia đình trong năm là: ..........................................................triệu đồng;
b. Chăn nuôi d. Nguồn khác
Nguồn gốc của vốn đầu tư là từ: b. Vốn vay bạn bè, người thân a. Vốn chủ sở hữu c. Vay ngân hàng d. Nguồn khác (ghi rõ) ------------------------------------------------------------------------------------------------------- ------------------------------------------------------------------------------------------------------- 5.2. Doanh thu hàng năm của gia đình là:........................... triệu đồng; 5.2.a Nguồn thu chủ yếu từ: (chỉ chọn 1 phương án) a. Trồng trọt c. Thủy sản ------------------------------------------------------------------------------------------------------- -------------------------------------------------------------------------------------------------------
5.3. Tổng giá trị hàng hóa bán ra hàng năm là: ................... triệu đồng; (ước đạt)
b. 50-100 triệu d. >200 triệu
a.<50 triệu c. 100-200 triệu
5.3.a Sản phẩm chính(cây gì, con gì):................................................ 5.3.b Sản phẩm thứ 2(cây gì, con gì):................................................ 5.3.c Sản phẩm thứ 3(cây gì, con gì):................................................ 5.3.d Sản phẩm khác (cây gì, con gì):............................................... 5.4. Lợi nhuận trong năm của gia đình là: ................. triệu đồng;
a.<50 triệu c. 100-200 triệu
b. 50-100 triệu d. >200 triệu
5.5. Phương thức tiêu thụ sản phẩm hiện nay của gia đình: có thể chọn nhiều câu
a. Bán tại chợ nông thôn c. Bán cho nhà buôn c. Bán cho nhà hàng, siêu thị
b. Bán theo hợp đồng d. Nhà máy thu mua tại chỗ d. Các hình thức tiêu thụ khác
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ------------------------------------------------------------------------------------------------------- 5.6. Trong 10 năm trở lại đây Ông (Bà) có thay đổi sản phẩm trồng trọt hay chăn nuôi của gia đình hay không?
2. Không
1. Có Nếu không, sang câu tiếp theo Nếu có, xin Ông (Bà) cho biết sản phẩm thay đổi là gì? Cây: ................................=> Cây:................................... Cây :............................. .=> Con:................................... Con: ................................ => Cây:................................. Con: ............................. .=> Con:...................................
5.7. Sự thay đổi đó có giúp tăng lợi nhuận cho gia đình không?
2. Không
1. Có Nếu không xin sang câu tiếp theo Nếu có, xin Ông (Bà) cho biết lợi nhuận tăng thêm bao nhiêu %? (1) 1-10% (2) 11-20% (3) 21-30% (4) 31-40% (5) trên 41%
1. Ông (Bà) có dự định đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất không?
1. Có
2. Không
2. Ông (bà) có tham gia vào tổ hợp tác hay hợp tác xã không?
2. Hợp tác xã
1.Tổ hợp tác Nếu không xin sang câu tiếp theo Nếu có, xin Ông (Bà) cho biết lợi ích khi tham gia vào tổ hợp tác hay HTX? (1) Có nơi tiêu thụ sản phẩm, không phải lo đầu ra (2) tư vấn mua bán giống cây, con (3) Tập huấn kĩ thuật, hướng dẫn nuôi trồng 4) Lợi ích khác (Ghirõ):.............................................................................................................................. ....................................................................................................................
b.Thiếu vốn d.Thiếu thông tin tiêu thụ sản phẩ f.Thiếu giống f. Giá cả bất ổn
a. Thiếu đất c. Thiếu kiến thức về kỹ thuật e. Thiếu các dịch vụ hỗ trợ sản xuất g. Thiếu lao động h. Khó khăn khác
5.8.Những khó khăn của nông hộ hiện nay là: (Ghirõ):......................................................................................................................................... ......................................................................................................... 5.9. Mong muốn của chủ hộ đối với địa phương, các cơ quan có thẩm quyền: a. Được cấp GCNQSDĐ c. Được hỗ trợ tiêu thụ e. Được hỗ trợ dịch vụ về giống g. Được hỗ trợ thông tin thị trường i. Được hỗ trợ lãi suất ngân hàng
b. Được cho vay vốn d. Được hỗ trợ về KHKT f. Được hỗ trợ đào tạo kiến thức h. Mong muốn khác j. Khác (ghi rõ):
c
...................................................................................................................................................... ............................................................................................................... 5.10. Dự định hay kế hoạch của nông hộ về phát triển kinh tế gia đình trong những năm sắp tới là gì? ...................................................................................................................................................... ...................................................................................................................................................... ...................................................................................................................................................... ................................................................................. 5.11. Theo Ông (Bà), để đẩy mạnh phát triển kinh tế hộ gia đình tại địa phương, Chính quyền các cấp cần phải làm gì? ...................................................................................................................................................... ...................................................................................................................................................... ...................................................................................................................................................... .................................................................................
CHÚNG TÔI VÔ CÙNG BIẾT ƠN SỰ HỢP TÁC VÀ GIÚP ĐỠ QUÝ BÁU CỦA ÔNG (BÀ). CHÚC ÔNG (BÀ) SỨC KHỎE, HẠNH PHÚC VÀ THÀNH CÔNG.
d
e
Bảng phụ lục 3.1. Biến động diện tích lúa cả năm phân theo quận huyện giai đoạn 2005 – 2018 (ĐVDT: ha)
2018/2005
Năm
Tăng +, giảm -
2005
2018
Tốc độ tăng TB từ 2005 - 2018
Tổng số
-20,7
40,4
19,7
-4,6
Quận 2
-0,11
0,2
0,09
-3
Quận 9
-0,5
0,7
0,2
-0,6
Quận 12
-
15
-
Bình Thạnh
-0,1
0,2
0,1
2
Thủ Đức (ha)
-0,039
0,04
0,001
-4,8
Bình Tân
-0,1
0,4
0,3
0,9
Củ Chi
-9,6
22,2
12,8
-2,9
Hóc Môn
1,1
2,9
1,8
-4,6
Bình Chánh
-7,8
11,8
4,0
-7,3
Nhà Bè
-0,7
1,2
0,5
-18,1
Cần Giờ
-0,5
0,7
0,2
-9,9
Nguồn: tính toán từ [28]
Bảng phụ lục 3.2. Diện tích rau, đậu phân theo quận huyện giai đoan 2005 - 2018 tại TP.HCM
2005
2018
2018/ 2005, tăng+, giảm-
Năm/tổng diện tích
10012
8524
1488
6
42
Quận 2
-36
59
Quận 8
-59
59
155
Quận 9
-96
968
818
Quận 12
+150
43
305
Gò Vấp
-262
-
20
Tân Phú
-20
-
9
Bình Thạnh
-9
89
707
Thủ Đức
-618
13
34
Bình Tân
-21
3,041
2717
Củ Chi
+324
1,072
1004
Hóc Môn
+68
2,561
2590
Bình Chánh
-29
10
16
Nhà Bè
-6
53
48
Cần Giờ
+5
Nguồn: tính toán từ [28]
f
Bảng phụ lục 3.3. GTSX và cơ cấu GTSX nông nghiệp phân theo nhóm sản phẩm
giai đoạn 2005 - 2018
Năm
2005
2010
2018
Giá trị
Cơ cấu
Giá trị
Cơ
Giá trị
Cơ
cấu
cấu
(tỉ
(%)
(tỉ
(tỉ đồng)
đồng)
đồng)
(%)
(%)
Giá trị sản xuất N,
3.825,1
100
9.108,0
100
18.036,1
100
L,TS
Sản phẩm chủ lực
2.958,6
77,3
7.492,4
82,3
13.998,6 77,6
Lương thực có hạt
322,2
8,4
436,8
4,8
463,4
2,6
Rau đậu, hoa, gia vị
283,4
7,4
969,7
10,6
1.924,5
10,7
Cây lâu năm
270,7
7,1
838,1
9,2
829,5
4,6
Trâu, bò
560,4
14,7
1635,7
18,0
3476,0
19,3
Lợn
605,2
15,8
2201,4
24,2
3841,4
21,3
Nuôi trồng thủy sản
916,6
24,0
1410,7
15,5
3463,8
19,2
Sản phẩm còn lại
866,5
22,7
1615,7
17,7
4037,5
22,4
g
Bảng phụ lục 3.4. Danh sách các giống lan đang được ưa chuộng trên địa bàn thành phố
Stt
Tên tiếng Việt
Tên tiếng nước ngoài
I. Giống Mokara
Đỏ lá quặt
M. Deart Heart
1
Đỏ 28
M. Dinah Shore
2
Vàng chanh
M. Booncho Gold; M. Full Moon
3
Vàng nến
M. Sunlight Gold; M. Bangkhuntien
4
Vàng Chao
M. Chao Praya Gold
5
Tím
M. Kasem Delight
6
Vàng đồng
M. Luen Berger Gold; M. Luen New
7
Vàng Kitti
M. Kitty
8
II. Giống Dendrobium
Dendrobium hồng sọc
Dendrobium Pink Tripe
1
Dendrobium trắng
Dendrobium White 5N
2
Dendrobium tím trắng
Dendrobium Yesakul
3
Dendrobium tím trắng
Dendrobium Sonia
4
Dendrobium trắng
Dendrobium emma white
5
Dendrobium nắng (hồng phớt trắng) Dendrobium Ceasar Pink
6
Dendrobium nắng
Dendrobium Chanchrao
7
h
Bảng phụ lục 3.5 Diện tích, sản lượng, năng suất, lợi nhuận của các hộ sản xuất muối tại TP.HCM giai đoạn 2005 – 2018
ĐVT
Năm 2008
Năm 2011
Năm 2014
Năm 2018
Hạng mục
Số hộ sản xuất:
hộ
567
637
730
735
Diện tích:
ha
1.318
1.540
1.667
1.675
- Đất:
ha
1314
1.497
757
610
- Bạt:
ha
4
43
910
1.065
Sản lượng:
tấn
72.502
111.822
134.190
57.170
- Đất:
tấn
69.876
44.472
41.470
- Bạt:
tấn
2.626
67.350
92.720
Năng suất bình quân:
tấn/ha
46,7
67,1
80,1
43,4
- Đất:
tấn/ha
47
67
80
- Bạt:
tấn/ha
61
74
87
Lợi nhuận trên 1 ha:
đồng
- Đất:
ngàn
2.870
16.807
310
- Bạt:
ngàn
11.620
38.267
25.619
Nguồn: Tính toán từ [28]
Bảng phụ lục 4.1. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN MỘT SỐ CÂY TRỒNG, VẬT NUÔI GIAI ĐOẠN 2019-2025 (Ban hành kèm theo Quyết định số 1589/QĐ-UBND ngày 27 tháng 4 năm 2019 của UBND thành phố)
Định
Định
Đơn vị
Thực hiện
hướng
hướng
STT
Chỉ tiêu
tính
năm 2018
2020
2025
I TRỒNG TRỌT
Ha
6.490
3.000
1.000
1 Lúa (DT canh tác)
Ha
3.524
4.500
5.200
2 Rau (DT canh tác)
Ha
700
1.000
Trong đó Rau ứng dụng CN Cao
không còn
Ha
1.700
300
diện tích
3 Cây Mía (DT canh tác)
mía
Ha
4.250
4.160
3.800
4 Cỏ (DT canh tác)
Diện tích hoa cây kiểng
Ha
2.395
2.500
2.800
5
Trong đó:
Ha
610
530
500
Mai (Diện tích canh tác)
Ha
375
400
500
Lan (Diện tích canh tác)
Ha
840
870
900
Hoa nền (Diện tích gieo trồng)
Ha
570
700
900
Kiểng, bonsai (Diện tích canh tác)
Ha
3.250
2.500
1.500
6 Cây cao su (DT canh tác)
Ha
8.500
6.000
4.000
7 Cây ăn trái (DT canh tác)
II CHĂN NUÔI
i
1 Tổng đàn bò
Con
124.300
137.000
137.000
Trong đó: Bò thịt
Con
44.300
60.000
76.000
Bò sữa
Con
80.000
77.000
61.000
Cái vắt sữa
Con
49.200
38.500
30.500
2 Tổng đàn heo (không tính heo con theo mẹ)
290.000
300.000
290.000
Con
Trong đó: Nái sinh sản
Con
45.500
50.000
60.000
3 Nuôi chim yến lấy tổ
kg
9.500
12.000
15.000
III LÂM NGHIỆP
1 Diện tích đất lâm nghiệp, trong đó:
Ha
35.640
35.489
35.989
- Diện tích đất có rừng các loại
Ha
33.287
33.512
35.012
- Đất trống không rừng quy hoạch lâm nghiệp
Ha
2.353
1.977
977
2 Diện tích cây lâm nghiệp trồng ngoài quy hoạch
Ha
3.350
3.500
3.500
Diện tích đất có rừng và cây lâm nghiệp trồng ngoài
3
Ha
36.637
37.012
38.512
quy hoạch
4 Tỷ lệ che phủ rừng
%
17,48
17,86
18,59
IV DIÊM NGHIỆP
1 Diện tích sản xuất muối
Ha
1.558
1.000
854
V THỦY SẢN
1 Diện tích nuôi
Ha
8.850
6.806
6.828
1.1 Nuôi nước ngọt
Ha
1.150
920
940
Trong đó diện tích nuôi tôm càng xanh
Ha
50
200
1.2 Nuôi lợ mặn Trong đó:
Ha
7.700
5.886
5.888
Tôm nước lợ, Trong đó:
Ha
6.030
5.495
5.491
- Tôm sú thâm canh, bán thâm canh
81
300
500
Ha
- Tôm thẻ chân trắng thâm canh, bán thâm canh
2.547
3.012
3.299
2 Sản lượng nuôi
Tấn
44.321
44.760
51.054
2.1 Nuôi nước ngọt
Tấn
9.000
7.215
8.610
Tôm càng xanh
Tấn
50
200
2.2 Nuôi lợ mặn
Tấn
35.321
37.545
42.444
Tôm nước lợ
Tấn
14.585
25.033
29.546
- Tôm sú
Tấn
2.360
3.000
5.800
Trong đó: Thâm canh, bán thâm canh
Tấn
1.290
1.500
3.000
- Tôm thẻ chân trắng
Tấn
12.225
22.033
23.746
3 Sản lượng khai thác
Tấn
19.200
22.000
23.000
4 Cá cảnh
220
300
Triệu con
182
Trong đó xuất khẩu:
30
50
Triệu con
20
Kim ngạch
30
50
Triệu USD
22
j
Bảng phụ lục 4.2. ĐỀ XUẤT CÁC CHÍNH SÁCH, DỰ ÁN THỰC HIỆN GIAI ĐOẠN 2019 - 2025
(Ban hành kèm theo Quyết định số 1589/QĐ-UBND ngày 27 tháng 4 năm 2019 của UBND
thành phố)
Các chính sách, chương trình, đề án, quy
Đơn vị chủ trì
Đơn vị phối hợp
Ghi chú
STT
hoạch
Chính sách hỗ trợ nguồn nhân lực HTX
Các Sở - ngành liên
nông nghiệp trên địa bàn thành phố giai
Sở Nông nghiệp
quan và UBND các
1
đoạn 2018-2020. Mức hỗ trợ: gấp 3 lần mức
và Phát triển
huyện, quận có
lương tối thiểu vùng I; đối tượng hỗ trợ:
nông thôn
SXNN
Giám đốc HTX
Chính sách khuyến khích hộ nông dân tham
Các Sở - ngành liên
gia liên kết, trở thành thành viên của HTX.
Sở Nông nghiệp
quan và UBND các
2
Mức hỗ trợ: tối đa không quá 20 triệu
và Phát triển
huyện, quận có sản
đồng/thành viên. Quy định đây là tài sản
nông thôn
SXNN
không chia của HTX
Chính sách hỗ trợ chuyển dịch SXNN:
- Chuyển đổi diện tích sản xuất muối kém
hiệu quả sang nuôi trồng thủy sản: Ngân
sách thành phố hỗ trợ 100% kinh phí đầu tư
hạ tầng ban đầu (ao đào, ao nổi, lót bạt...)
Các Sở - ngành liên
Sở Nông nghiệp
nhưng không quá 70 triệu đồng/ha.
quan và UBND các
3
và Phát triển
- Chuyển đổi đất trồng cây hiệu quả thấp
huyện, quận có
nông thôn
(lúa, mía, cao su) sang trồng cây có hiệu quả
SXNN
cao hơn (rau, hoa, bắp, cỏ chăn nuôi): Ngân
sách thành phố hỗ trợ 100% kinh phí cải tạo
hạ tầng sản xuất trong vụ đầu tiên, nhưng
không quá 30 triệu đồng/ha
Các Sở - ngành liên
Đề xuất các cơ chế chính sách phát triển
Sở Nông nghiệp
quan và UBND các
4
nhóm sản phẩm chủ lực của ngành nông
và Phát triển
huyện, quận có
nghiệp thành phố
nông thôn
SXNN
Dự án Làng hoa - kiểng Trung An - Phú Hòa
UBND huyện Củ
Các Sở - ngành liên
5
Đông, huyện Củ Chi kết hợp tham quan du
Chi
quan
lịch (quy mô 20 - 30 ha)
Dự án Hoàn thiện và mở rộng chuỗi sản xuất
UBND huyện Củ
Các Sở - ngành liên
6
- tiêu thụ rau an toàn trên địa bàn huyện Củ
Chi
quan
Chi
Dự án phát triển bền vững đàn bò trên địa
UBND huyện Củ
Các Sở - ngành liên
7
bàn huyện Củ Chi
Chi
quan
Dự án nhà máy sản xuất thức ăn hỗn hợp
Công ty Cổ phần
hoàn chỉnh cho bò sữa (TMR) tại huyện Củ
Tư vấn Thiết kế
Các Sở - ngành liên
8
Chi (quy mô 6 ha, xây dựng nhà xưởng 2 ha,
xây dựng Nhật
quan
kho bãi tập kết 4 ha, tổng kinh phí dự kiến
Nam
137 tỷ)
Dự án nhà máy sản xuất phân hữu cơ vi sinh
tại huyện Củ Chi (quy mô 10 ha, công nghệ
Công ty TNHH
Các Sở - ngành liên
9
khép kín nhập khẩu từ Nhật, công suất
ViDan
quan
50.000 tấn/năm, tổng kinh phí dự kiến 251
tỷ)
k
l
MỘT SỐ HÌNH ẢNH KHẢO SÁT TẠI ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
Hình 1. Tác giả khảo sát tại trang trại “Nông trang xanh” Huyện Củ Chi
(2017) (Nguồn: tác giả)
Hình 2. Trồng nấm tại trang trại “Nông trang xanh” Huyện Củ Chi (2017) (Nguồn: tác giả)
Hình 3. Chăn nuôi bò tại trang trại “Nông trang xanh” Củ Chi (2017) (Nguồn: tác giả)
Hình 4. Chăn nuôi dê tại trang trại “Nông trang xanh” Củ Chi (2017) (Nguồn: tác giả)
m
Hình 5. Trồng dưa lưới trong nhà màng theo hướng công nghệ cao tại khu Nông nghiệp CôngNghệ cao TP.HCM, Huyện Củ Chi (2018) (Nguồn: tác giả)
Hình 6. Trồng hoa lan trong nhà màng tại khu Nông nghiệp Công Nghệ cao TP.HCM, Huyện Củ Chi (2018) (Nguồn: tác giả)
n
Hình 7. Ươm giống hoa lan trong nhà màng tại khu Nông nghiệp Công Nghệ cao TP.HCM, Huyện Củ Chi (2018) (Nguồn: tác giả)
o
p
q
r
s
t
u
v
w
x