BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
ĐINH THỊ THÙY DUNG
MẠNG LƯỚI TRƯỜNG HỌC
PHỔ THÔNG Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN ÁN TIẾN SĨ ĐỊA LÍ HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2020
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
ĐINH THỊ THÙY DUNG
MẠNG LƯỚI TRƯỜNG HỌC
PHỔ THÔNG Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành
: Địa lí học
Mã số
: 62 31 05 01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ ĐỊA LÍ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS.TS. NGUYỄN VIẾT THỊNH
Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết quả nghiên
cứu, các số liệu được trình bày trong luận án là trung thực, khách quan và chưa từng
được sử dụng để bảo vệ ở bất kỳ học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc hoàn thành luận án đã được
cảm ơn, các thông tin trích dẫn trong luận án này đều được chỉ rõ nguồn gốc.
TP.Hồ Chí Minh, ngày 15 tháng 08 năm 2020
Tác giả luận án
ĐINH THỊ THÙY DUNG
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục bảng biểu
Danh mục bản đồ
Danh mục hình
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................................... 1
2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................. 2
3. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................................... 3
4. Tổng quan tài liệu ...................................................................................................... 3
4.1. Trên thế giới ................................................................................................. 3
4.2. Ở Việt Nam ................................................................................................ 12
5. Quan điểm nghiên cứu ............................................................................................. 16
5.1. Quan điểm tổng hợp ................................................................................... 16
5.2. Quan điểm lịch sử, viễn cảnh ..................................................................... 17
5.3. Quan điểm lãnh thổ .................................................................................... 17
5.4. Quan điểm hệ thống ................................................................................... 17
5.5. Quan điểm sinh thái và phát triển bền vững .............................................. 18
6. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................................... 18
6.1. Tổng quan (hồi cứu) các công trình đã công bố về lý luận và về
thực tiễn liên quan đến nội dung luận án ................................................... 18
6.2. Phương pháp thống kê ............................................................................... 19
6.3. Phương pháp bản đồ và hệ thông tin địa lí (GIS) ...................................... 19
6.4. Phương pháp thực địa và điều tra xã hội học ............................................. 20
6.5. Phương pháp tham vấn chuyên gia ............................................................ 21
6.6. Phương pháp dự báo .................................................................................. 21
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu .............................................. 22
7.1. Ý nghĩa khoa học của đề tài nghiên cứu ...................................................... 22
7.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài nghiên cứu ...................................................... 22
8. Cấu trúc của luận án ................................................................................................ 22
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ MẠNG LƯỚI
TRƯỜNG HỌC PHỔ THÔNG ............................................................ 23
1.1. Một số vấn đề chung về giáo dục và đổi mới giáo dục phổ thông ....................... 23
1.1.1. Những quy định có liên quan trong Luật Giáo dục .................................. 23
1.1.2. Vấn đề đổi mới giáo dục phổ thông .......................................................... 27
1.2. Quan niệm về khu vực dịch vụ và về dịch vụ giáo dục ........................................ 29
1.2.1. Giáo dục trong cơ cấu ngành dịch vụ ....................................................... 29
1.2.2. Dịch vụ giáo dục và đào tạo ..................................................................... 31
1.2.3. Đặc điểm của dịch vụ giáo dục ................................................................. 34
1.3. Một số chỉ tiêu về tiếp cận dịch vụ giáo dục và kết quả giáo dục ........................ 39
1.3.1. Một số chỉ tiêu chính phản ánh tiếp cận dịch vụ giáo dục ........................ 39
1.3.2. Một số chỉ tiêu chính phản ánh kết quả giáo dục ..................................... 42
1.3.3. Các chỉ tiêu đánh giá quy mô và chất lượng dịch vụ giáo dục ................. 44
1.4. Các vấn đề liên quan đến mạng lưới trường học phổ thông ................................. 45
1.4.1. Quy hoạch mạng lưới trường học phổ thông ............................................ 45
1.4.2. Vấn đề phát triển mạng lưới trường học phổ thông .................................. 48
1.5. Các nhân tố kinh tế - xã hội tác động đến mạng lưới trường học
phổ thông ............................................................................................................ 49
1.5.1. Số học sinh đi học theo từng cấp học ....................................................... 50
1.5.2. Vốn đầu tư cho giáo dục ........................................................................... 52
1.5.3. Quỹ đất ...................................................................................................... 54
1.5.4. Quy hoạch mạng lưới trường .................................................................... 56
1.5.5. Sự hài lòng của phụ huynh và học sinh .................................................... 56
1.6. Một số chỉ tiêu thống kê đánh giá mạng lưới trường học phổ thông ở cấp
tỉnh, vận dụng cho Thành phố Hồ Chí Minh ........................................................ 57
Tiểu kết chương 1 ...................................................................................................... 62
Chương 2. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG VÀ THỰC TRẠNG MẠNG
LƯỚI TRƯỜNG HỌC PHỔ THÔNG Ở THÀNH PHỐ HỒ
CHÍ MINH .............................................................................................. 64
2.1. .Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển giáo dục và mạng lưới trường
học ở Thành phố Hồ Chí Minh ........................................................................... 64
2.1.1. Khái quát về vị trí địa lí, tổ chức lãnh thổ hành chính.............................. 64
2.1.2. Điều kiện tự nhiên ..................................................................................... 64
2.1.3. Dân cư ....................................................................................................... 67
2.1.4. Di cư.......................................................................................................... 74
2.1.5. Xu hướng đô thị hóa ................................................................................. 86
2.1.6. Trình độ phát triển kinh tế ........................................................................ 89
2.2. Thực trạng phát triển giáo dục phổ thông ở Thành phố Hồ Chí Minh ................. 90
2.2.1. Tiếp cận dịch vụ giáo dục ......................................................................... 90
2.2.2. Số học sinh bình quân một giáo viên và bình quân một lớp học .............. 96
2.2.3. Học phí và khả năng chi trả cho giáo dục ................................................. 98
2.2.4. Mức độ đảm bảo chất lượng dịch vụ giáo dục ......................................... 99
2.2.5. Sự hài lòng của người hưởng dịch vụ giáo dục ...................................... 104
2.2.6. Quỹ đất .................................................................................................... 106
2.2.7. Vốn đầu tư .............................................................................................. 107
2.2.8. Tâm lý của các đối tượng tham gia hoạt động giáo dục ......................... 109
2.3. Thực trạng mạng lưới trường học phổ thông ở Thành phố Hồ Chí Minh .......... 112
2.3.1. Quy hoạch mạng lưới trường ................................................................. 112
2.3.2. Số trường, lớp học phổ thông ................................................................ 115
2.3.3. Bình quân sĩ số học sinh một lớp (phân theo cấp học và quận,
huyện) .................................................................................................... 116
2.3.4. Khái quát về mạng lưới trường .............................................................. 118
2.3.5. Đặc điểm phân bố không gian mạng lưới cơ sở trường phổ thông ....... 121
2.3.6. Khoảng cách học sinh Tiểu học di chuyển từ nhà đến trường .............. 126
Tiểu kết chương 2 .................................................................................................... 133
Chương 3. ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP TỔ CHỨC HỢP LÝ MẠNG LƯỚI
TRƯỜNG HỌC PHỔ THÔNG Ở THÀNH PHỐ HỒ
CHÍ MINH ............................................................................................ 135
3.1. Cơ sở để đề xuất giải pháp ................................................................................. 135
3.1.1. Các văn bản pháp quy ............................................................................ 135
3.1.2. Xu hướng phát triển của Thành phố Hồ Chí Minh trong những
năm tới ................................................................................................... 137
3.1.3. Việc hiện thực hóa cơ chế đặc thù cho giáo dục do Sở Giáo dục -
đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh đề xuất .............................................. 139
3.1.4. Phân hóa học sinh theo hướng học nghề ............................................... 140
3.2. Những nhóm giải pháp để tổ chức hợp lý mạng lưới trường học phổ
thông ở Thành phố Hồ Chí Minh ...................................................................... 142
3.2.1. Giải pháp liên quan đến vấn đề dân số .................................................. 142
3.2.2. Giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông .............................. 146
3.2.3. Giải pháp phát huy nguồn “vốn xã hội” trong giáo dục ........................ 148
3.2.4. Giải pháp tổ chức hợp lý mạng lưới trường học phổ thông khi
chính sách quy hoạch vùng được thực hiện ........................................... 150
3.2.5. Giải pháp tổ chức mạng lưới trường học phổ thông về mặt xã hội ........ 151
3.2.6. Giải pháp tổ chức hợp lý mạng lưới trường học phổ thông khi
học sinh phân hóa cao theo hướng học nghề ......................................... 153
Tiểu kết chương 3 .................................................................................................... 155
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ......................................................................... 156
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................... 159
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Đại học ĐH
Đại học quốc gia ĐHQG
Giáo dục GD
GD&ĐT, GD-ĐT Giáo dục - đào tạo
Giáo dục phổ thông GDPT
Giáo viên GV
Học sinh HS
Kinh tế - xã hội KT-XH
Nghiên cứu sinh NCS
Phổ thông PT
Tổng cục thống kê TCTK
Tiểu học TH
Trung học cơ sở THCS
Trung học phổ thông THPT
Thành phố TP
Thành phố Hồ Chí Minh TPHCM
Ủy ban nhân dân UBND
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1. Tỷ trọng của khu vực dịch vụ và của ngành GD&ĐT trong cơ cấu
GDP và trong lực lượng lao động đang làm việc trong nền kinh tế ....... 30
Bảng 1.2. Tỷ lệ đi học chung chia theo cấp học, thành thị - nông thôn .................. 40
Bảng 1.3. Tỷ lệ đi học đúng tuổi chia theo cấp học, thành thị - nông thôn ............ 41
Bảng 1.4. Quy định về quy mô tối thiểu của các công trình dịch vụ đô thị
cơ bản ...................................................................................................... 48
Bảng 1.5. Các chỉ tiêu công trình công cộng, dịch vụ trong trường học
phổ thông ................................................................................................ 48
Bảng 1.6. Tỉ trọng của chi sự nghiệp giáo dục, đào tạo trong cơ cấu chi ngân
sách nhà nước .......................................................................................... 52
Bảng 2.1. Hiện trạng sử dụng đất phân theo quận, huyện (đến 31/12/2017) .......... 65
Bảng 2.2. Dân số Thành phố Hồ Chí Minh qua một số năm 2001-2017 ................ 68
Bảng 2.3. Tỉ suất gia tăng dân số chung, gia tăng tự nhiên và gia tăng cơ học ...... 70
Bảng 2.4. Di cư ở TPHCM giai đoạn 1994-1999 phân theo quận, huyện .............. 75
Bảng 2.5. Cơ cấu dân số trong độ tuổi học phổ thông phân theo tình trạng di
cư và theo quận, huyện, năm 1999 ......................................................... 77
Bảng 2.6. Các phường/xã có tỉ lệ trẻ nhập cư chiếm hơn 30% số trẻ trong độ
tuổi đi học ở tất cả các cấp học, năm 1999 ............................................ 78
Bảng 2.7. Di cư ở TPHCM giai đoạn 2004-2009 phân theo quận, huyện .............. 80
Bảng 2.8. Cơ cấu dân số trong độ tuổi học phổ thông phân theo tình trạng di
cư và theo quận, huyện, năm 2009 ......................................................... 84
Bảng 2.9. Các phường/xã có tỉ lệ trẻ nhập cư chiếm hơn 30% số trẻ trong độ
tuổi đi học ở tất cả các cấp học, năm 2009 ............................................. 86
Bảng 2.10. Tổng số học sinh phổ thông các năm học ............................................... 92
Bảng 2.11. Tỉ lệ đi học đúng tuổi của cả nước và Đông Nam Bộ ............................ 93
Bảng 2.12. Tỉ lệ trẻ em đang đi học ở từng độ tuổi (6-17) phân theo tình trạng
di cư, năm 2009....................................................................................... 94
Bảng 2.13. Tỉ lệ đi học đúng tuổi ở TPHCM phân theo tình trạng di cư .................. 94
Bảng 2.14. Tỷ lệ học sinh phổ thông đi học đúng tuổi phân theo cấp học và
phân theo giới tính .................................................................................. 96
Bảng 2.15. Số học sinh bình quân 1 giáo viên và bình quân 1 lớp học .................... 97
Bảng 2.16. Tỷ lệ học sinh phổ thông lưu ban, bỏ học phân theo cấp học ................. 98
Bảng 2.17. Phân bổ phiếu hỏi phụ huynh học sinh ................................................. 101
Bảng 2.18. Thống kê mô tả về thái độ của phụ huynh học sinh đối với các điều
kiện đảm bảo chất lượng giáo dục của nhà trường ............................... 102
Bảng 2.19. Tỉ lệ học sinh trả lời về mức độ được tham gia ngoại khóa, trải
nghiệm (% số người được hỏi) ............................................................ 104
Bảng 2.20. Mức độ hài lòng của phụ huynh học sinh đối với chất lượng dịch
vụ giáo dục ............................................................................................ 105
Bảng 2.21. Số trường học, lớp học phổ thông ở TPHCM qua các năm học ........... 108
Bảng 2.22. Quỹ đất dành cho giáo dục, phân theo khu vực quy hoạch .................. 112
Bảng 2.23. Nhu cầu về cơ sở vật chất, phân theo khu vưc quy hoạch .................... 113
Bảng 2.24. Số học sinh phổ thông bình quân 1 lớp học phân theo quận/huyện
và phân theo cấp học năm học 2017 – 2018 ......................................... 117
Bảng 2.25. Một số chỉ tiêu về mạng lưới trường phân theo quận, huyện 2017 ...... 119
Bảng 2.26. Thời gian trung bình để đi học và về nhà (% số trường hợp
được hỏi) ............................................................................................... 121
Bảng 2.27. Đoạn đường trung bình học sinh Tiểu học di chuyển từ nhà đến
trường ở các quận/huyện trong năm học 2017 - 2018 .......................... 128
Bảng 2.28. Khoảng cách trung bình học sinh quận Phú Nhuận di chuyển từ nhà
đến trường ............................................................................................. 130
DANH MỤC BẢN ĐỒ
Bản đồ 1. Bản đồ hành chính Thành phố Hồ Chí Minh .......................................... 63
Bản đồ 2. Bản đồ gia tăng mật độ dân số phân theo quận, huyện, giai đoạn
2010 - 2017 ............................................................................................. 73
Bản đồ 3. Những “điểm nóng” do sức ép của người nhập cư lên khả năng đáp
ứng nhu cầu học tập của trẻ em năm 1999 ............................................. 79
Bản đồ 4. Bản đồ các phường, xã thu hút mạnh nhất người nhập cư giai đoạn
2004-2009 ............................................................................................... 82
Bản đồ 5. Những “điểm nóng” do sức ép của người nhập cư lên khả năng đáp
ứng nhu cầu học tập của trẻ em năm 2009 ............................................. 85
Bản đồ 6. Các khu vực quy hoạch mạng lưới trường phổ thông (theo Quyết
định số 02/2003/QĐ-UB của UBND TP. Hồ Chí Minh)...................... 114
Bản đồ 7. Bản đồ mạng lưới trường tiểu học ở Thành phố Hồ Chí Minh ............ 123
Bản đồ 8. Bản đồ mạng lưới trường trung học cơ sở ở Thành phố Hồ
Chí Minh ............................................................................................... 124
Bản đồ 9. Bản đồ mạng lưới trường trung học phổ thông ở Thành phố Hồ
Chí Minh ............................................................................................... 125
DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1. Sơ đồ khung cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân ...................................... 25
Hình 1.2. Sơ đồ các ngành dịch vụ ........................................................................... 29
Hình 1.3. Sơ đồ các nhân tố kinh tế - xã hội tác động đến mạng lưới trường
học phổ thông ............................................................................................ 50
Hình 1.4. Độ đàn hồi của các nhu cầu dịch vụ lớn hơn nhiều so với nhu cầu về
sản phẩm nông-lâm-ngư nghiệp và công nghiệp chế tạo .......................... 51
Hình 2.1. Sự thay đổi mật độ dân số phân theo quận, huyện, 2010-2017 ................ 72
Hình 2.2. Số lượng học sinh nhập học phân theo cấp học và loại hình trường ........ 92
Hình 2.3. Số học sinh phổ thông bình quân 1 lớp học phân theo quận/huyện và
phân theo cấp học năm học 2017 – 2018 ................................................ 117
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục - đào tạo là cái nôi của sự phát triển kinh tế - xã hội, là loại ngành
dịch vụ mà với vai trò của giáo dục thì một mặt là dịch vụ công (vì nó nhằm đào tạo
các thế hệ công dân của một quốc gia, nhằm phát triển nâng cao dân trí, bồi dưỡng
nhân tài, đào tạo nguồn nhân lực vì lợi ích của quốc gia), một mặt giáo dục là dịch vụ
cá nhân, mà mỗi cá nhân và gia đình nhìn thấy ở các cơ sở dịch vụ giáo dục này khả
năng đáp ứng yêu cầu đào tạo bản thân mình hay con em mình để phát triển nhân
cách (cả về thể lực, trí lực, năng khiếu, thái độ tình cảm, quan niệm sống, kĩ năng
sống,…) mà họ kì vọng. Chính vì vậy, nhiều quốc gia trên thế giới từ lâu đã xem
giáo dục như “quốc sách hàng đầu” và Việt Nam cũng không ngoại lệ. Thành phố Hồ
Chí Minh - một trung tâm kinh tế, văn hóa, giáo dục quan trọng của Việt Nam cũng
cần có hướng đầu tư cho giáo dục một cách hợp lý. Hầu như không có sự phân bố
nào trên thế giới là hoàn toàn hợp lý, tuy nhiên một số vẫn nằm trong giới hạn cho
phép, trong khi một thực tế là hiện nay sự tổ chức các trường học phổ thông ở
TPHCM còn có quá nhiều bất cập: nơi thiếu trường, nơi tập trung quá nhiều trường,
nơi thì trường dư chỉ tiêu, nơi thì trường thiếu học sinh,…
TPHCM là TP lớn của cả nước, trong những năm qua có mức gia tăng dân số
nhanh, nhưng quỹ đất không tăng đã dẫn đến nguy cơ HS đúng tuyến thiếu chỗ học.
Thêm vào đó, việc thực hiện quy hoạch mạng lưới trường học của TP trong thời gian
qua tiến hành với tốc độ chậm, số lượng trường học không tăng đang là thách thức
đối với các nhà quản lý, là áp lực lớn với các trường chất lượng cao, trường chuẩn
quốc gia. Những gia đình có điều kiện ở cả nội và ngoại thành đã "đổ xô" xin cho
con vào các trường điểm. Nhiều phụ huynh phải tìm mọi cách xoay trường, chạy lớp
cho con, bởi tâm lý mong cho con em mình được học trường tốt, bất kể khoảng cách
địa lí xa gần.
Theo Phó Chủ tịch Thường trực UBND TPHCM Lê Thanh Liêm, thay mặt lãnh
đạo TPHCM trong buổi làm việc với đoàn Công tác Trung ương khảo sát kết quả 5
năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khoá XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục – đào tạo, ngày 7/8/2018:
2
“Thành phố xác định Giáo dục và đào tạo là động lực quan trọng để thành phố phát
triển bền vững và phấn đấu đến năm 2030, hệ thống Giáo dục và đào tạo thành phố
được chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, hội nhập với các nền giáo dục tiên tiến
trong khu vực và trên thế giới, đưa thành phố trở thành trung tâm Giáo dục và đào
tạo chất lượng cao của cả nước và khu vực Đông Nam Á”. Cũng theo ông Lê Thanh
Liêm, muốn làm được việc này, trong thời gian tới, TP phải xây dựng được các
trường học có cơ sở vật chất hiện đại, đầy đủ các thiết bị dạy học thiết yếu như: các
phòng học thông minh, phòng đa năng, nhà thể chất… và hệ thống hạ tầng và thiết bị
công nghệ thông tin đồng bộ. HS được học thông qua các ứng dụng công nghệ thông
tin hiện đại, bằng những phương pháp giảng dạy tiên tiến của thế giới nhằm bảo đảm
phát triển năng lực bản thân một cách toàn diện.
Năm học 2016-2017, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Công văn
2449/BGDĐT-GDTH để tham mưu Ủy ban nhân dân các tỉnh, TP: “Đảm bảo các
điều kiện nâng cao chất lượng các trường; mở thêm trường, thêm lớp để giảm áp lực
tuyển sinh ở những địa bàn đông dân cư”. Tất cả những lý do trên cho thấy việc tổ
chức mạng lưới trường học phổ thông hợp lý đang là vấn đề cấp bách, nhất là
TPHCM là TP lớn của cả nước, trong những năm qua có mức gia tăng dân số nhanh,
quỹ đất lại không tăng; thực trạng HS đúng tuyến thiếu chỗ học đã và đang là “vấn
nạn” của giáo dục địa phương.
Với những lý do trên, NCS đã chọn đề tài “Mạng lưới trường học phổ thông ở
Thành phố Hồ Chí Minh” làm hướng nghiên cứu để làm rõ thực trạng mạng lưới
trường học phổ thông ở TPHCM hiện nay; đồng thời phân tích những nhân tố ảnh
hưởng đến sự tổ chức các trường chưa hợp lý; từ đó nêu ra những giải pháp thiết
thực nhằm giải quyết vấn đề này một cách hiệu quả nhất để TPHCM mãi là TP văn
minh, hiện đại và phát triển xa hơn.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu
Phân tích thực trạng mạng lưới các trường phổ thông ở TPHCM từ góc độ địa lí
dịch vụ, coi giáo dục là một ngành dịch vụ đặc biệt. Trên cơ sở đó đưa ra những giải
pháp góp phần hoàn thiện mạng lưới các trường phổ thông ở TPHCM trong những
thập kỷ tới.
3
2.2. Nhiệm vụ
- Tổng quan có chọn lọc cơ sở lý luận và thực tiễn về địa lí dịch vụ áp dụng cho
dịch vụ giáo dục và mạng lưới trường học phổ thông.
- Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển giáo dục và mạng lưới
trường học; đồng thời làm rõ thực trạng phát triển giáo dục phổ thông và thực trạng
mạng lưới trường học phổ thông ở Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đề xuất những giải pháp để góp phần hoàn thiện mạng lưới trường học phổ
thông ở TPHCM.
3. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi lãnh thổ: 24 quận, huyện ở TPHCM hiện nay.
- Thời gian nghiên cứu: chủ yếu trong giai đoạn 5 năm trở lại đây: từ năm học
2013-2014 đến 2017-2018. Trong một số trường hợp cần thiết có sử dụng số liệu các
giai đoạn trước đó.
- Nội dung nghiên cứu:
+ Nghiên cứu thực trạng phân bố các trường học phổ thông trên địa bàn các
quận, huyện ở TPHCM trong mối quan hệ với yêu cầu đáp ứng nhu cầu học tập của
học sinh ngày càng cao cả về số lượng học sinh và chất lượng giáo dục.
+ Phân tích những nhân tố kinh tế - xã hội tác động đến hiệu quả tổ chức mạng
lưới các trường phổ thông ở TPHCM.
+ Chủ yếu đề xuất những giải pháp ở tầm vĩ mô để tổ chức hợp lý mạng lưới
trường học phổ thông ở TPHCM.
4. Tổng quan tài liệu
4.1. Trên thế giới
Trên thế giới, những vấn đề về giáo dục và về hệ thống giáo dục luôn là mối
quan tâm của các nhà khoa học, các tổ chức về văn hóa giáo dục như UNESCO,
chính phủ các nước và cộng đồng xã hội. Vì thế, khó có thể bao quát được các khía
cạnh về giáo dục có liên quan đến luận án. NCS chỉ điểm qua được những công trình
mà bản thân được đọc, được tiếp xúc trực tiếp và cũng có thể có tác phẩm NCS dẫn
lại theo công trình của người khác.
a) Trước hết là các nghiên cứu về triết lý giáo dục và về giáo dục học so sánh,
4
những nghiên cứu có tính gợi mở rất rõ cho các nhà giáo dục vận dụng vào hoàn
cảnh của nước mình, địa phương mình.
Công trình đầu tiên cần nhắc đến là tác phẩm “Dân chủ và giáo dục: Một dẫn
nhập vào triết lý giáo dục” của John Dewey (1916), đã được tái bản nhiều lần và đã
được dịch sang tiếng Việt [27]. John Dewey là triết gia vĩ đại và là nhà giáo dục sâu
sắc. Những triết lý giáo dục mà ông đề xuất từ cách nay 100 năm vẫn còn nguyên giá
trị, và còn những điều mà nền giáo dục hiện đại vẫn chưa hiện thực hóa được. Dewey
cho rằng trong giáo dục, chúng ta phải cho trẻ em (HS) trải nghiệm cùng người lớn,
dưới sự hướng dẫn của người lớn. Trẻ em cũng phải được tham gia các hoạt động xã
hội, từ đó nhận thức rõ hơn vai trò của bản thân và điều chỉnh hành vi của mình.
Công trình “Các xu hướng trong giáo dục trung học ở các nước công nghiệp: Các
xu hướng này có phù hợp cho các nước châu Phi không?” (“Trends in secondary
education in industrialized countries: Are they relevant for African countries?”)
[100] của Briseid O, Caillods F. (2004) đã phân tích những biến đổi lớn lao trong
giáo dục phổ thông trung học ở các nước OECD từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai
đến nay và những bài học kinh nghiệm cho các nước châu Phi. Các tác giả nhấn
mạnh rằng: ngày nay, giáo dục có một sứ mệnh quan trọng là cung cấp cho thế hệ trẻ
kiến thức và những kỹ năng cần thiết để sống trong một xã hội công nghệ tiên tiến, là
chuẩn bị cho họ bước vào thế giới làm việc và học tiếp nối, là truyền lại những giá trị
văn hóa và đạo đức cần thiết mà mọi công dân cần phải có để hội nhập và tham gia
tích cực vào một xã hội dân chủ. Đáng lưu ý là hệ thống giáo dục hiện nay ở các
nước OECD định hình được phải trải qua thời gian hàng chục năm. Và các nước
OECD có nguồn lực mạnh, có cơ chế năng động để có thể làm thay đổi nền giáo dục.
Còn các nước châu Phi có nguồn lực hạn chế, bối cảnh xã hội còn nhiều vấn đề chưa
ổn định. Do vậy, các bài học kinh nghiệm rút ra có tính chất gợi ý ở đường nét lớn,
còn các nước sẽ căn cứ điều kiện cụ thể của mình để thảo luận và quyết định.
Công trình “Giáo dục trung học ở các ngã rẽ: các quan điểm quốc tế phù hợp
với vùng Châu Á – Thái Bình Dương” (“Secondary education at the crossroads:
international perspectives relevant to the Asia-Pacific region”) [113] do Phillip
Hughes chủ biên (2006) nằm trong một series về các vấn đề giáo dục vùng châu Á –
5
Thái Bình Dương. Trong thời đại ngày nay, xã hội có nhiều biến đổi, có nhiều yếu tố
bất định, có những cơ hội mới nhưng cũng nhiều thách thức to lớn. Cải cách giáo dục
chính là cách thích ứng với sự thay đổi đó. Những mối quan tâm hàng đầu là chương
trình và cộng đồng, trong đó cộng đồng là nhân tố có ảnh hưởng lớn. Ở trong luận án
này, NCS chú ý đến quan điểm của các tác giả về cộng đồng. Đó là cộng đồng xung
quanh nhà trường và ngay nhà trường cũng được coi là một cộng đồng. Chính mối
quan hệ giữa nhà trường với cộng đồng rộng lớn tác động quan trọng đến bản chất
của nhà trường và sức mạnh của nhà trường tác động đến sự thay đổi. Các tác giả đã
đặc biệt lưu ý đến công trình nổi tiếng của Robert Putnam (2000) (cuốn “Bowling
alone: The collapse and revival of American community”) và nhận xét của Putnam
rằng: “Vốn xã hội, mức độ của niềm tin xã hội, sự kết nối cá nhân, đó là các biến dự
đoán mạnh mẽ nhất về sự thành công giáo dục”.
b) Nghiên cứu về giáo dục và phát triển
Ngân hàng Thế giới (WB) đã công bố nhiều nghiên cứu về mối quan hệ giữa
giáo dục và sự phát triển kinh tế, năng suất lao động xã hội. Rất đáng chú ý là các
nghiên cứu của Jamison D.T, Lau L.J và cộng sự (1982, 1991) [116], [117]. Công
trình “Giáo dục nông gia và hiệu quả của trang trại” (“Farmer education and farm
efficiency”) (1982) [117] dựa trên khảo cứu ở Thái Lan, Malaysia và Hàn Quốc.
Trong công trình này, các tác giả đã sử dụng hàm sản xuất gộp để chứng minh rằng
đầu tư cho giáo dục ở vùng nông thôn sẽ đem lại hiệu quả kinh tế cao. Công trình
“Giáo dục và năng suất lao động ở các nước đang phát triển: Cách tiếp cận hàm
sản xuất gộp” (“Education and productivity in developing countries: An aggregate
production function approach”) [116] do Lau L.J., Jamison D.T. và Louat F. F. đồng
chủ biên (1991) dựa trên việc phân tích số liệu của 58 nước đang phát triển từ 1960
đến 1986. Hàm sản xuất được dựa trên các biến độc lập là số lượng vốn, lao động,
đất đai, trình độ học vấn trung bình của lực lượng lao động, và trật tự thời gian.
Nghiên cứu này đi đến kết luận rằng giáo dục là định thức quan trọng của sản lượng
thực gộp và năng suất gộp, nhưng hiệu lực của nó biến thiên đáng kể giữa các quốc
gia và vùng lãnh thổ.
6
Một nghiên cứu khác cũng do Ngân hàng Thế giới công bố là cuốn “Giáo dục
và phát triển: Bằng chứng mới cho các ưu tiên” (“Education and Development:
Evidence for new priorities”) (1990) [108] của Wadi D.Haddad, Martin Carnoy, R.
Rinaldi và Omporn Regel. Trong thời đại ngày nay, sự phát triển dưới mọi hình thức:
kinh tế, xã hội, văn hóa – phụ thuộc ngày càng nhiều vào giáo dục, vì các ngành kinh
tế công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ ngày càng sử dụng nhiều tri thức. Tuy nhiên,
khoảng cách giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển, giữa các nước
giàu và nước nghèo ngày càng giãn rộng. Ngân hàng Thế giới, với vai trò của mình,
là nhà tài trợ lớn cho giáo dục. Đó cũng chính là lý do tại sao Ngân hàng Thế giới có
những nghiên cứu về giáo dục, vì họ cần có cơ sở để đưa ra các chính sách cho vay.
Bài báo “Lợi nhuận đối với đầu tư trong giáo dục: tiếp tục cập nhật”
(“Returns to investment in education: A further update”) [125] của Psacharopoulos
G., và Patrinos H. A. (2004) tiếp tục cập nhật các nghiên cứu từ nhiều năm trước đó
của tác giả Psacharopoulos G. về mức lợi nhuận trong đầu tư vào giáo dục, ở các khu
vực khác nhau trên thế giới và tính chung toàn cầu. Nghiên cứu này cho thấy mức lợi
nhuận ở các trường tư luôn cao hơn nhiều so với các trường công, và lợi nhuận cao
nhất chính ở bậc tiểu học. Các tác giả đã tính lợi nhuận riêng (private returns) bao
gồm chi phí mà sinh viên (và gia đình họ) phải trả và lợi ích mà người tốt nghiệp
nhận được. Nghiên cứu cho thấy lợi nhuận riêng cao nhất ở nhóm nước có thu nhập
bình quân đầu người trung bình 4.852 USD/người, có thể hiểu rằng đó chính là các
nước có nền kinh tế mới nổi. Đối với nhóm này, lợi nhuận riêng ở giáo dục tiểu học
lên tới 35%, giáo dục trung học là 23%, giáo dục đại học là 21%. Về lợi nhuận xã hội
(social returns), ngoài lợi nhuận riêng còn cộng thêm chi phí và lợi ích từ phần còn
lại của nền kinh tế (đặc biệt là của những người đóng thuế). Lợi nhuận xã hội có mức
cao nhất ở các nước nghèo, và thấp nhất ở các nước có thu nhập cao.
c) Nghiên cứu về địa lí giáo dục
Bài báo “Giáo dục học so sánh và nhân tố địa lí” (“Comparative education
and geographical factor”) [101] của Colin Brocks (2013) khá thú vị. Tác giả nhận
xét sự tương đồng giữa giáo dục học và địa lí học ở chỗ đây là hai khoa học phức
hợp và tích hợp. Giáo dục học có bản chất là “phổ biến tri thức”, còn địa lí học có
7
bản chất “không gian”. Việc lĩnh hội tri thức và kỹ năng cũng như việc phổ biến
chúng luôn có chiều cạnh không gian, gắn liền với không gian diễn ra các quá trình
giáo dục này: trong lớp học, thông qua chương trình truyền hình, thông qua
internet,... Tác giả cũng lưu ý rằng các nhà địa lí cần quan tâm đến sự bất bình đẳng
không gian trong việc cung cấp dịch vụ giáo dục, mà việc khắc phục sự bất bình
đẳng này đóng góp quan trọng cho các chính sách quốc gia. Trong một xã hội học
tập, học suốt đời, các thay đổi trong dịch vụ giáo dục và nhu cầu giáo dục làm xuất
hiện vấn đề về không gian -thời gian. Về phương diện này, địa lí giáo dục liên quan
đến lịch sử, địa lí văn hóa và địa lí chính trị.
Một công trình nghiên cứu khá toàn diện và độc đáo là cuốn “Địa lí xã hội của
sự biến đổi giáo dục” (“Social Geographies of Educational Change”) (2004) [110]
do F. Hernandez và I.F. Goodson chủ biên. Theo quan điểm của các tác giả, khi sử
dụng khái niệm “địa lí xã hội” trong phương diện giáo dục, họ đang nhấn mạnh đến
tầm quan trọng của các không gian tự nhiên và không gian xã hội để hiểu người ta đã
tạo ra và phản ứng với các thay đổi giáo dục như thế nào. Bằng việc sử dụng khái
niệm “địa lí xã hội” các tác giả cố gắng giải thích các hình mẫu không gian và các
quá trình cho phép hay hạn chế các cấu trúc và các hành động của sinh hoạt hàng
ngày, vì nó cung cấp một cách giải trình về các phương thức trong đó các quá trình
phức tạp về văn hóa-xã hội, kinh tế và chính trị vận hành thông qua thời gian và
không gian [tài liệu đã dẫn, tr. xi].
Các tác giả nhấn mạnh rằng, khi sử dụng khái niệm “địa lí xã hội” trong bối
cảnh của sự thay đổi giáo dục, chúng ta cần luôn ghi nhớ:
- Các sáng kiến trong lớp học hay trong các cơ sở giáo dục bị ảnh hưởng bởi
khung cảnh xung quanh nhà trường, địa phương hay quốc gia như thế nào;
- Các đổi mới sáng tạo được lan truyền hay phổ biến từ trường này sang trường
khác như thế nào;
- Làm thế nào và liệu các cải cách có thể mở rộng quy mô từ một số ít trường
lên toàn bộ hệ thống;
8
- Các cuộc cải cách bề ngoài đã được chuẩn hóa có ảnh hưởng đến các nhà
trường theo cách khác nhau như thế nào tùy thuộc vào chỗ các trường này được phân
bố ở đâu;
- Các trường ảnh hưởng lẫn nhau như thế nào;
- Các bản sắc của các trường và các quan hệ tương hỗ giữa các trường bị ảnh
hưởng như thế nào bởi công nghệ, các nguyên tắc của cạnh tranh và lựa chọn thị
trường và các sáng kiến khác.
Trong cuốn sách nêu trên, phần II “Vượt ra khỏi các bức tường của nhà
trường: sáng tạo các mạng lưới trong giáo dục” là phần rất có ý nghĩa với luận án.
Mạng lưới trường ở đây được hiểu là một hình thức của các mạng lưới xã hội.
Giáo dục ở thành phố luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt bởi tính chất đặc
thù và vai trò tiên phong của nó. Cuốn sách “Giáo dục ở đô thị: cẩm nang cho các
nhà giáo dục và cha mẹ học sinh” (“Urban education: a handbook for educators and
parents”) của Donna Adair Breault và Louise Anderson Allen (2008) [99] viết về
giáo dục ở các thành phố Hoa Kỳ, dưới tác động của các luật liên bang như “Luật
không trẻ em nào bị bỏ lại phía sau”. Giáo dục ở các thành phố Hoa Kỳ chịu sức ép
rất lớn, khi mà đô thị hóa tiếp tục tạo ra các luồng chuyển cư từ nông thôn đến các
trung tâm đô thị hay ven đô làm cho việc tuyển sinh tăng nhanh với tốc độ chóng mặt
(“tốc độ tên lửa”). Thêm vào đó, các luồng nhập cư vào Hoa Kỳ cũng tăng lên đột
ngột, mà hầu hết những người mới nhập cư lại định cư ở các thành phố, tạo thành các
cộng đồng tộc người. Sức ép này đặc biệt lớn đối với các trường công. Những sức ép
này ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng giáo dục. Trong khi đó, yêu cầu là tạo ra sự
khác biệt trong giáo dục ở đô thị. Rất thú vị là phân tích của tác giả về đặc điểm giáo
dục ở đô thị Hoa Kỳ: các hệ thống giáo dục ở đô thị Hoa Kỳ là các tổ chức quan liêu
theo nghĩa kinh điển. Bộ máy quản lý cồng kềnh, nhất là ở cấp trung tâm. Do quan
liêu, đáng lẽ phải chú ý đến sự khác biệt khá nhiều giữa các nhà trường, những người
ra quyết định lại có tâm trạng muốn “một cỡ áo vừa cho mọi người” khi quyết định
các vấn đề về chương trình, dạy học, nhân sự, và các khía cạnh khác trong điều hành
các ngôi trường của họ.
9
Những vấn đề cụ thể hơn của giáo dục ở đô thị Hoa Kỳ được đề cập trong công
trình của nhiều tác giả “Những thách thức của giáo dục ở đô thị và hiệu quả của cải
cách trường học” (“Challenges of urban education and efficacy of school reform”)
[114] do Richard C. Hunter, Frank Brown làm chủ biên (2003).
d) Nghiên cứu về phân tích không gian, mạng lưới xã hội và mạng lưới trường
Phân tích không gian là một lĩnh vực của GIS (hệ thông tin địa lí) [109], [126],
trong đó có hai công cụ mà luận án có thể sử dụng, đó là phân tích phân bố (location
analysis) và phân tích mạng lưới (network analysis) [105]. Trong phân tích mạng
lưới, người ta có thể dùng hàm khoảng cách (distance function), sử dụng mô hình
hấp dẫn (gravity model). Những ý tưởng này rất hữu ích trong các nghiên cứu về địa
lí xã hội. Mọi mạng lưới xã hội đều được hình thành trên những địa điểm có thực của
thế giới, và vì thế, chúng có bản chất địa lí, và điều này rất phổ biến ở môi trường đô
thị. Phân tích mạng lưới xã hội (social network analysis) là một lĩnh vực khoa học
liên ngành, hình thành từ tâm lý học xã hội, xã hội học và lý thuyết graph. Do ứng
dụng trong địa lí, nên xuất hiện khái niệm về các mạng lưới địa-xã hội (Geo-social
network) [121].
Vấn đề về mạng lưới trường là mối quan tâm của các nhà quản lý giáo dục.
Cuốn sách “Vượt ra khỏi lớp học: Xây dựng các mạng lưới trường học mới”
(“Beyond the classroom: building new school networks”) [98] của Rosalyn Black
(2008) đã phản ánh những nỗ lực của các nhà giáo dục Australia. Theo tác giả, muốn
giúp thanh thiếu niên vượt qua các rào cản để có được thành tích trong học hành,
Ôxtrâylia cần có sự hồi đáp tập thể cho các nhu cầu giáo dục của thanh thiếu niên.
Điều này bao gồm cả sự cộng tác giữa các trường ở địa phương, giữa các hệ thống
trường, giữa giáo dục trong nhà trường và các lĩnh vực khác hỗ trợ học tập và điều
kiện sống, đặc biệt cho những người bị yếu thế. Chính phủ có vai trò trung tâm trong
việc củng cố và mở rộng các cấu trúc mạng lưới để kết nối các nhóm khác nhau đang
làm việc hỗ trợ cho tương lai của thanh thiếu niên, nhưng đồng thời các nhóm này
cũng cần am hiểu về tình hình địa phương và có sự cam kết đối với các mạng
lưới này.
10
Cuốn “Phát triển cộng đồng trường học kết nối: Một chỉ dẫn cho việc hiện thực
hóa tầm nhìn” (“Developing a Networked School Community: A guide to realising
the vision”), do Mal Lee và Glenn Finger làm đồng chủ biên (2010) [118] lại đề cập
đến vấn đề xây dựng cộng đồng trường học kết nối trong điều kiện của thời đại công
nghệ số đầy thách thức. Rõ ràng là trong điều kiện của cách mạng công nghiệp 4.0,
các nhà trường phải thay đổi, và các nhà trường truyền thống cần phá đi bức tường
để kết nối, đảm bảo cho nhà trường phát triển liên tục, uyển chuyển và tiến hóa
không ngừng. Việc kết nối nhà trường và gia đình cũng cần có nhiều sáng kiến, vì
rằng trong điều kiện có thể học online, học sinh có thể học ở nhà nhiều hơn, và các
bậc cha mẹ học sinh không chỉ tạo điều kiện cho học sinh học online, mà còn phải
tăng cường kiểm soát các hoạt động này của trẻ.
Một công trình khác “Cải thiện các nhà trường thông qua các mạng lưới:
Cách tiếp cận mới đối với cải cách trường học ở đô thị (bản tóm tắt)”(“Improving
schools through networks: A new approach to urban school reform (summary))” của
Priscilla Wohlstetter, Courtney L Malloy và cộng sự [133] lại phân tích những bài
học của sự thành công hay không thành công trong việc xây dựng và vận hành các
mạng lưới trường học từ các dự án nghiên cứu ở Anh.
e) Nghiên cứu về giáo dục như một loại hình dịch vụ
Trước hết là các công trình về các ngành dịch vụ. Trong cuốn “The world
economy: Geography, business, development” (2012) [127] của Frederick P. Stutz,
Barney Warf, các tác giả đã phân tích sâu sắc các nhân tố chi phối sự tăng trưởng
dịch vụ, đó là thu nhập tăng lên, nhu cầu về chăm sóc sức khỏe và giáo dục, sự phân
công lao động ngày càng phức tạp, khu vực dịch vụ công, sự xuất khẩu dịch vụ.
Các tác phẩm về marketing dịch vụ cung cấp nhiều tri thức nền tảng về đặc
điểm của dịch vụ và sản phẩm dịch vụ, về đánh giá chất lượng sản phẩm dịch vụ,
đánh giá sự hài lòng của khách hàng, về chiến lược marketing tốt,… [96], [103],
[111], [120]. Các tác phẩm này gợi ra nhiều ý tưởng về marketing dịch vụ giáo dục.
Trong kinh tế học và xã hội học giáo dục, vấn đề chọn trường luôn được chú
trọng nghiên cứu. Khi mà sự cạnh tranh trong giáo dục ngày càng khốc liệt, thì việc
thu hút học sinh (mà đối với các trường tư, là học sinh từ các gia đình có khả năng
11
chi trả) là rất quan trọng. Đối với các học sinh và cha mẹ học sinh, thông qua việc
chọn trường, họ đã thể hiện các quan điểm riêng về đánh giá chất lượng giáo dục so
với kỳ vọng của họ, về niềm tin của họ đối với trường họ chọn,… Vấn đề chọn
trường có liên quan mật thiết với vấn đề sự thay đổi cung và cầu đối với một cơ sở
giáo dục, hay một cộng đồng các cơ sở giáo dục trên một lãnh thổ.
Cuốn sách The Economics of School Choice, do Caroline M. Hoxby chủ biên
(2003) [112] đã đề cập nhiều khía cạnh quan trọng của vấn đề chọn trường: cuộc
cạnh tranh của các trường công có tác động đến chất lượng giáo viên không? Vấn đề
chọn trường và tính minh bạch của nhà trường có cùng tồn tại một cách tích cực?
Những thử nghiệm về các chương trình học bổng trợ giúp học sinh nghèo, vấn đề
chọn trường đối với các trường công trên địa bàn và các hệ thống trường liên
quận,…
Cuốn School Choice: The Findings của Herbert J. Walberg (2007) viết về các
phát hiện mới của tác giả đối với việc chọn trường, trong sự đa dạng của các cơ sở
giáo dục Hoa Kỳ. Đáng chú ý là chương 6 về Sự hài lòng của khách hàng (cha mẹ
học sinh), trong đó có phân tích sự không hài lòng của cha mẹ học sinh đối với các
trường công, và điều này thôi thúc họ chọn trường; trong khi đó, các bậc phụ huynh
học sinh tỏ ra hài lòng với các trường tư.
Cuốn School choice and competition: markets in the public interest? của Philip
Woods, Carl Bagley và Ron Glatter (1998) [134] lại bàn về việc chọn trường và cạnh
tranh vì lợi ích của công chúng, trong bối cảnh nước Anh tiến hành các cải cách định
hướng thị trường từ thập niên 1980 và nửa đầu thập niên 1990. Các cải cách này đặt
các nhà trường vào trong môi trường như là thị trường, cạnh tranh hơn, bất định hơn.
Và những thay đổi này thể hiện ở các thành tố như: 1/ Vai trò quản lý các trường học
của cơ sở (phường - xã, quận - huyện), đặc biệt trong việc đảm bảo ngân sách; 2/ Rót
tiền dựa trên quy mô học sinh và tuổi của học sinh; 3/ Tuyển sinh mở hơn; 4/ Sự lựa
chọn của cha mẹ học sinh; 5/ Sự đa dạng loại hình trường; 6/ Cung cấp nhiều thông
tin hơn đến “khách hàng”: về thành tích giáo dục của nhà trường và các báo cáo
thanh tra giám sát; về xếp hạng trường theo kết quả giáo dục,…
12
Ngoài các công trình đã nêu trên, còn có các công trình khác bàn về các khía
cạnh khác nhau của việc chọn trường như: chọn trường ngoài công lập - các quan hệ
đối tác công-tư [102]; việc chọn trường như là sự thể hiện các quyền của cha mẹ
(học sinh), có nền tảng là quan điểm dân chủ tự do của Dewey, là phương thức để có
được sự bình đẳng cơ hội của học sinh [107]; phân tích thực tiễn chọn trường ở nhiều
nước trên thế giới [132]; về chính sách chọn trường và kết quả, nhìn từ góc độ thực
nghiệm và triết học [106].
Các công trình trên có một số gợi ý cho luận án:
- Mối quan hệ giữa điều kiện ở và mạng lưới trường. Một mặt là mạng lưới
trường phụ thuộc vào sự phân bố dân cư. Mặt khác, có sự khác biệt về điều kiện ở. Ở
các thành phố lớn, môi trường sinh thái đô thị đã hình thành những khu ở của người
có thu nhập cao, những khu ở cho người thu nhập trung bình và những khu ở của
người thu nhập thấp. Ở những khu nhà ở cao cấp, sẽ tập trung các trường học có chất
lượng cao, đáp ứng nhu cầu và khả năng chi trả của dân cư ở đây. Còn ở những khu
của người lao động thu nhập thấp, thì khó có thể nói đến sự đầu tư cho các trường
chất lượng cao, cơ sở vật chất hiện đại,… Các nhà đầu tư bất động sản đều rất coi
trọng việc xây dựng và vận hành các tiện ích, trong đó có trường mầm non, trường
phổ thông chất lượng cao, và đây còn là một chính sách để nâng cao giá trị của bất
động sản. Trong trường hợp khác, sự hình thành một trường phổ thông chất lượng
cao ở một địa phương sẽ giúp thay đổi nhiều mặt ở địa phương đó, trong đó có giá trị
đất ở,… Điều này có thể quan sát được ở những vùng chỉnh trang đô thị.
- Phần lớn các nước đều có nguyên tắc tổ chức mạng lưới trường dựa vào đặc
điểm phân bố dân cư, tức là có phân định khu vực tuyển sinh của các trường. Điều
này càng rõ rệt đối với học sinh tiểu học. Nhiều bậc phụ huynh phải chuyển chỗ ở
(thuê nhà) để con được quyền vào học ở các trường như mong muốn.
4.2. Ở Việt Nam
a) Những nghiên cứu về chiến lược phát triển giáo dục
GS.TSKH Phạm Minh Hạc trong công trình “Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng
cửa thế kỷ XXI” (1999) [33] đã chỉ ra những thành công và khiếm khuyết không nhỏ
của nền GD Việt Nam, đặc biệt là sự phát triển không cân xứng và thiên lệch trong
13
cấu trúc. Sự yếu kém và thiếu thốn dịch vụ GD đang đặt ra nhiều thách thức lớn cho
sự phát triển bền vững của GD Việt Nam và sự phát triển kinh tế nước nhà trong bối
cảnh kinh tế tri thức. Trong một nghiên cứu khác “Đôi điều suy nghĩ về triết lý và đổi
mới tư duy giáo dục trong thời kỳ đổi mới” [34], ông đã tổng kết những triết lý từ
thời cổ đại hay thời Phục hưng, từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến cuối thế kỷ
XX, suy nghĩ “Tiến tới thế kỷ XXI”, tác giả đã đề xuất phát triển GD nước nhà theo
hướng: chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa, đa dạng hóa.
Cũng thuộc hướng nghiên cứu này, có thể kể đến chuyên khảo của Vũ Ngọc
Hải, Đặng Bá Lãm, Trần Khánh Đức (đồng chủ biên) “Giáo dục Việt Nam đổi mới
và phát triển hiện đại hóa” [37], các công trình của Đỗ Văn Chấn “Quy hoạch phát
triển giáo dục - đào tạo” (1999) [13]; “Tài chính cho giáo dục, dự báo, quy hoạch và
kế hoạch phát triển giáo dục”[14]; “Một số vấn đề về lý luận và phương pháp dự báo
quy mô phát triển giáo dục - đào tạo trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở Việt
Nam” [35], của Nguyễn Đông Hanh; “Dự báo phát triển giáo dục” [32] của tác giả
Nguyễn Công Giáp...
Những nghiên cứu này, đặc biệt là các nghiên cứu của các chuyên gia giáo dục
ở Viện Khoa học giáo dục Việt Nam, Học viện Quản lý giáo dục đã góp phần không
nhỏ cho việc soạn thảo Chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam 2011-2020.
b) Những nghiên cứu về lịch sử giáo dục và giáo dục học so sánh
Chuyên khảo "Giáo dục Thăng Long - Hà Nội quá trình, kinh nghiệm lịch sử và
định hướng phát triển" do PGS.TSKH Nguyễn Hải Kế và cộng sự hoàn thành trong
khuôn khổ đề tài cấp Nhà nước đã tổng quát những vấn đề về giáo dục đào tạo của
Thủ đô trong suốt chiều dài lịch sử, các bài học kinh nghiệm cho việc định hướng
phát triển GD-ĐT của Thủ đô trong thời kỳ mới.
Các tác giả của Viện Khoa học giáo dục Việt Nam như Nguyễn Lộc, Đào Thái
Lai, Nguyễn Anh Dũng, Nguyễn Thị Hồng Vân, Bùi Đức Thiệp đã có những nghiên
cứu chuyên đề về GD phổ thông của các nước: Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc,
Malaysia, Xingapo, Trung Quốc, Liên bang Nga, Italia, Hà Lan, Phần Lan, về các
khía cạnh như xu hướng phát triển chương trình GD phổ thông, chi phí quốc gia cho
giáo dục, chế độ học phí, chính sách đối với nhà giáo,… Nguyễn Thị Hạnh trong Đề
14
tài cấp Bộ: “Xu thế phát triển giáo dục tiểu học của một số nước trên thế giới”[36]
lại đi sâu vào những vấn đề về GD tiểu học của các nước Trung Quốc, Hàn Quốc,
Singapo, Anh, Pháp, Đức, Canada, Hoa Kỳ (bang Michigan), đồng thời liên hệ với
thực trạng hội nhập với xu thế quốc tế của GD tiểu học Việt Nam hiện tại, từ đó đề
xuất những nguyên tắc, định hướng vận dụng kinh nghiệm GD tiểu học của các nước
trên vào việc phát triển GD tiểu học ở Việt Nam giai đoạn sau 2015.
Các tác giả nước ngoài cũng quan tâm đến lịch sử giáo dục Việt Nam, như
Jonathan D. London với chuyên khảo “Education in Vietnam, Chapter 1: Education
in Vietnam: Historical roots, recent trends” (2011) [119]. Trong chương 1 được đề
cập ở trên, Jonathan D. London đã khai thác các nguồn tư liệu rộng rãi về lịch sử
giáo dục Việt Nam và đề cập theo bề rộng nhiều vấn đề còn “bề bộn” của giáo dục
Việt Nam hiện nay.
c) Các nghiên cứu đánh giá tiếp cận dịch vụ giáo dục và thành quả giáo dục
Tiếp cận dịch vụ giáo dục là một chiều cạnh quan trọng trong Kết quả khảo sát
mức sống dân cư [69], được Tổng cục Thống kê tiến hành hai năm một lần. Trong
các bản báo cáo, Phần II- Giáo dục trước đây có 10 bảng tổng hợp, đến Báo cáo
2016 có 8 bảng. Trong số này có các bảng về tỷ lệ đi học chung và tỷ lệ đi học đúng
tuổi (chia theo cấp học, thành thị - nông thôn, vùng, giới tính và dân tộc của chủ hộ);
Cơ cấu loại trường đang học (chia theo thành thị - nông thôn, vùng, 5 nhóm thu
nhập, giới tính, nhóm tuổi, dân tộc, cấp học và tình trạng đăng ký hộ khẩu); Tỷ lệ
lượt người đi học trong 12 tháng qua được miễn giảm học phí hoặc các khoản đóng
góp (chia theo lý do miễn giảm, thành thị - nông thôn, vùng, 5 nhóm thu nhập, giới
tính, nhóm tuổi dân tộc của chủ hộ, cấp học và tình trạng đăng ký hộ khẩu); Chi giáo
dục, đào tạo bình quân 1 người đi học trong 12 tháng qua (chia theo cấp học, thành
thị - nông thôn, giới tính, 5 nhóm thu nhập và vùng); Chi giáo dục, đào tạo bình quân
1 người đi học trong 12 tháng qua (chia theo loại trường học, thành thị - nông thôn,
vùng, 5 nhóm thu nhập, 5 nhóm chi tiêu, giới tính và tình trạng đăng ký hộ khẩu).
Các số liệu được hệ thống hóa qua các cuộc Khảo sát từ năm 2006 đến năm 2016 sẽ
cho nhiều thông tin về những tiến bộ trong tiếp cận giáo dục, đồng thời cũng cho
thấy rõ sự khác biệt giữa thành thị - nông thôn và giữa các vùng.
15
Từ năm 2001, Việt Nam đã công bố các Báo cáo quốc gia về phát triển con
người (năm 2001, 2011, 2015) [84], [90], [91] trong đó các chỉ tiêu về giáo dục luôn
chiếm vị trí quan trọng. Có thể thấy rằng các chỉ tiêu về giáo dục đã được thay đổi và
bổ sung qua các báo cáo phát triển con người. Trong Báo cáo năm 2001, dựa trên số
liệu năm 1999, có các chỉ tiêu về Tỷ lệ người lớn biết chữ, Tỷ lệ nhập học ròng (net)
của học sinh cấp 1; Tỷ lệ nhập học ròng (net) của học sinh cấp 2; Tỷ lệ nhập học
ròng (net) của học sinh cấp 3; Số người có trình độ đại học trở lên (trên 100.000
dân); Tỷ lệ sinh viên nhập học đại học (% so với tổng số sinh viên) năm 1995; Số
sinh viên nhập học đại học (trên 100.000 dân) năm 1995; Tỷ lệ sinh viên nhập học
đại học (% so với tổng số sinh viên) năm 1998; Số sinh viên nhập học đại học (trên
100.000 dân) năm 1998.
Trong Báo cáo năm 2011, trong thành phần về giáo dục (thành tố của HDI), có
hai chỉ tiêu là tỷ lệ người lớn biết chữ (% số người từ 15 tuổi trở lên) và Tỷ lệ nhập
học chung (các cấp). Đồng thời trong phân tích thực trạng, có cả vấn đề tỉ lệ nhập
học đúng tuổi, vấn đề học sinh bỏ học,… Báo cáo năm 2011 là về dịch vụ xã hội
phục vụ phát triển con người, vì thế, cuốn sách có hai phần, thì phần 2 dành để phân
tích sâu về dịch vụ y tế và giáo dục.
Báo cáo năm 2015 có tiêu đề rất ấn tượng: Tăng trưởng vì mọi người: Báo cáo
Phát triển con người Việt Nam 2015 về tăng trưởng bao trùm. Trong Báo cáo này,
vấn đề giáo dục được đề cập đến ở “Chương 2.4 Nâng cao năng lực thông qua cải
thiện y tế và giáo dục” và ở mục “3.2. Cải thiện dịch vụ giáo dục và y tế làm nền
tảng của tăng trưởng bao trùm”. Có thể nói, Nhà nước đã ngày càng đánh giá đúng
vị trí, tầm quan trọng của giáo dục và tìm các giải pháp hữu hiệu để nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực thông qua giáo dục.
Có những công trình đề cập đến những khía cạnh riêng, có thể là góc khuất của
sự phát triển giáo dục Việt Nam, như vấn đề học sinh bỏ học và các em sẽ làm gì sau
khi bỏ học (Le Thuc Duc và Tran Ngo Minh Tam) [104]. Nguyễn Đức Thành (2004)
đã nghiên cứu về lợi nhuận riêng và lợi nhuận xã hội đối với đầu tư vào giáo dục ở
Việt Nam giai đoạn 1993-2002 [128]. Nhóm nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới
gồm Harry Anthony Patrinos, Pham Vu Thang, Nguyen Duc Thanh trong báo cáo
16
dài về kinh tế giáo dục ở Việt Nam (12/2018) [123] đã phân tích rất cụ thể (và có so
sánh với các nước trong khu vực) về lợi nhuận riêng và lợi nhuận xã hội, so sánh
năm 1992 và 2010. Kết quả phân tích chỉ ra rằng mức lợi nhuận ở giáo dục phổ
thông giảm nhiều, nhưng mức lợi nhuận ở tiểu học vẫn cao hơn nhiều so với bậc
trung học. Trong khi đó, xu hướng ở giáo dục đại học hoàn toàn ngược lại: tăng
mạnh. Năm 2010, mức lợi nhuận đối với tiểu học là 6,1%, trung học là 2,0% và giáo
dục đại học là 17,8%. Các mức sinh lợi so sánh giữa các nhóm nước có thu nhập
thấp, thu nhập trung bình,…; tính chung mức sinh lợi nhuận trong đầu tư giáo dục ở
Việt Nam ở mức trung bình của thế giới, nhưng cao hơn hầu hết các nước trong khu
vực, cho thấy rằng tiếp tục đầu tư cho giáo dục hẳn là một ưu tiên.
d) Những nghiên cứu về Thành phố Hồ Chí Minh
Tác giả Nguyễn Kim Hồng trong nghiên cứu “Phát triển dân số và phát triển
giáo dục ở Thành phố Hồ Chí Minh” (1995) [41] đã phân tích sâu sắc sự phát triển
dân số của TPHCM, đồng thời đưa ra những mối quan hệ thuận nghịch giữa sự phát
triển dân số với sự phát triển GD ở TPHCM, trên cơ sở đó đề xuất phương hướng
giải quyết nhằm phát triển dân số một cách hợp lý, phù hợp với sự phát triển kinh tế -
xã hội nói chung và phát triển GD nói riêng ở TPHCM.
Dương Kiều Linh (2007) [45] đã có nghiên cứu chuyên đề về “Hệ thống giáo
dục ngoài công lập ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay - thực trạng và xu hướng
phát triển”.
Những bài viết, bài báo, sách tham khảo,… trên là nguồn tư liệu chính yếu và
quý giá cho tác giả trong suốt quá trình nghiên cứu. Các tài liệu đã tạo tiền đề lý luận
và thực tiễn có giá trị cho việc quy hoạch, tổ chức mạng lưới trường học trên địa
bàn từng quận, huyện và toàn TPHCM.
5. Quan điểm nghiên cứu
5.1. Quan điểm tổng hợp
Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế, văn hóa, giáo dục quan trọng của
Việt Nam. Trong đó, dân cư và giáo dục TPHCM luôn có mối quan hệ mật thiết với
nhau. Khi dân số tăng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến giáo dục, đồng thời khi giáo dục
được đầu tư phát triển cũng sẽ tác động mạnh mẽ đến chất lượng dân cư. Hơn nữa,
17
khi nghiên cứu sự phát triển dân số và giáo dục của một vùng, một quốc gia cần phải
dựa trên nhiều yếu tố tác động đến chúng và cần phải xem xét chúng trong mối quan
hệ tổng hợp của tự nhiên, kinh tế, xã hội,... để làm sao cho gia tăng dân số phù hợp
với sự phát triển của giáo dục.
5.2. Quan điểm lịch sử, viễn cảnh
Bất kỳ sự vật hiện tượng nào đều có quá trình hình thành, phát triển và thay đổi
không ngừng theo thời gian và không gian. TPHCM có lịch sử hình thành và phát
triển hơn 300 năm với nhiều giai đoạn tăng giảm dân số khác nhau. Mỗi giai đoạn
lịch sử mang một bản sắc riêng do tác động của nhiều nguyên nhân và ảnh hưởng
đến giáo dục mức độ khác nhau. Dựa trên quan điểm lịch sử, viễn cảnh chúng ta có
thể biết được tình trạng và xu hướng phát triển của dân cư và mạng lưới trường tiểu
học để từ đó đưa ra những dự báo và những giải pháp kiến nghị thích hợp nhất.
5.3. Quan điểm lãnh thổ
Từng quận ở Thành phố Hồ Chí Minh có những đặc điểm dân cư và giáo dục
khác nhau và chịu sự tác động của các nhân tố tự nhiên, kinh tế, xã hội cũng khác
nhau. Trên cơ sở quan điểm lãnh thổ, tác giả xác định được chính xác vị trí những
quận nội thành và cụ thể những trường tiểu học trên địa bàn quận để tập trung nghiên
cứu đúng trọng tâm đề tài. Qua đó, tác giả làm bật được những vấn đề bất hợp lý
giữa phân bố dân cư và phân bố các trường tiểu học thông qua đoạn đường đến
trường của học sinh.
5.4. Quan điểm hệ thống
Các đối tượng, hiện tượng địa lí đều có sự tác động qua lại lẫn nhau trong một
hệ thống nhất định, khi một thành phần của hệ thống bị tác động làm nó thay đổi
phát triển thì nó gây ra những ảnh hưởng đến các thành phần khác của hệ thống, làm
cho các thành phần đó cũng thay đổi theo và cuối cùng làm cho cả hệ thống thay đổi.
TPHCM là một trong hai đô thị lớn nhất và có tầm ảnh hưởng quan trọng nhất
trong hệ thống đô thị Việt Nam. Trong quá trình chuyển dịch từ nền kinh tế bao cấp
sang cơ chế thị trường, TPHCM đã có những thay đổi lớn về dân số và giáo dục,…
Do đó, khi nghiên cứu mối tương quan giữa dân số và mạng lưới trường tiểu học thì
tác giả phải nghiên cứu trong mối quan hệ tương hỗ, tác động qua lại lẫn nhau trong
18
hệ thống kinh tế, xã hội không chỉ riêng TPHCM mà còn rộng hơn là vùng Đông
Nam Bộ và cả nước nói chung.
5.5. Quan điểm sinh thái và phát triển bền vững
Gia tăng dân số và số lượng trường tiểu học có ảnh hưởng rất lớn đến môi
trường. Gia tăng quá mức mà không phù hợp với sự phát triển kinh tế, xã hội hoặc
gia tăng về số lượng mà không quan tâm đến chất lượng sẽ gây ra hậu quả nghiêm
trọng lên môi trường sinh thái như cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, ô nhiễm môi
trường sống,… Khi nghiên cứu về phát triển dân số và giáo dục cần phải tìm hiểu sự
tăng trưởng cả về chất và lượng của chúng; đồng thời gắn liền với bảo vệ và phát
triển môi trường sinh thái bền vững, không làm tổn hại đến môi trường. Các giải
pháp đưa ra phải dựa trên quan điểm sinh thái và phát triển bền vững để làm giảm tác
động đến mức thấp nhất vào môi trường tự nhiên TPHCM.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Tổng quan (hồi cứu) các công trình đã công bố về lý luận và về thực tiễn
liên quan đến nội dung luận án
Các công trình nghiên cứu về GD có nhiều. Trong luận án này, GD của
TPHCM được nhìn nhận như một loại hình dịch vụ (dịch vụ GD), và được xem xét
dưới góc độ địa lí KT-XH. Vì thế, các công trình nghiên cứu được tổng quan thuộc
về các nhóm chính:
- Các công trình về triết lý GD, về GD học so sánh, về GD và phát triển, về địa
lí GD.
- Các công trình liên quan đến đổi mới quản lý GD ở nước ta.
- Các công trình về ngành dịch vụ, về dịch vụ GD.
- Các công trình nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển GD và
phân bố các cơ sở trường lớp, chủ yếu là các nghiên cứu về dân cư, di cư, về sự phát
triển KT-XH đối với GD.
- Các công trình nghiên cứu liên quan đến các vấn đề cụ thể của GD và dịch vụ
GD ở Việt Nam nói chung và TPHCM nói riêng.
Trên cơ sở đó, tác giả luận án đã xây dựng nên cơ sở lý luận cho luận án, vận
dụng cho trường hợp của TPHCM.
19
6.2. Phương pháp thống kê
Trong nghiên cứu địa lí KT-XH, phương pháp thống kê được sử dụng rộng rãi,
các kết quả xử lý thống kê không chỉ được trình bày bằng các bảng tổng hợp, các
biểu đồ, mà còn là số liệu đầu vào để thành lập các bản đồ thống kê chuyên đề.
Trong luận án này, phương pháp thống kê được sử dụng như sau:
- Xác định các chỉ tiêu thống kê GD cần thiết cho đề tài luận án, các chỉ tiêu
thống kê về dân cư và KT-XH của TPHCM.
- Thu thập, sàng lọc và hệ thống hóa các số liệu thống kê đã thu thập được. Các
nguồn số liệu thống kê từ các cơ quan chức năng có thẩm quyền như Tổng cục
Thống kê, Cục Thống kê TPHCM, các cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở của
TPHCM, các cuộc điều tra riêng về dân cư hoặc về KT-XH. Xử lý, phân tích tổng
hợp tạo ra các chỉ tiêu phái sinh theo yêu cầu của nội dung luận án.
- Xử lý thống kê đối với các kết quả điều tra xã hội học do NCS tiến hành.
- Xây dựng cơ sở dữ liệu thống kê (thông tin thuộc tính) cho các đối tượng
được thể hiện trên bản đồ chuyên đề của luận án.
6.3. Phương pháp bản đồ và hệ thông tin địa lí (GIS)
Trong nghiên cứu này, NCS đã xác định tọa độ định vị của các trường học ở
TPHCM thông qua Google Earth và Wikimapia, có kiểm chứng bằng các điều tra
mặt đất. Từ đó đã xây dựng cơ sở dữ liệu địa lí về các trường học gồm 1021 đơn vị
trường. Dữ liệu gồm các trường (fields) là: Quận/huyện; Phường/xã; Tên trường;
Loại hình (Tiểu học, THCS, THPT, các loại hình liên cấp THCS-THPT và TH-
THCS-THPT), Longitude_X, Lagitude_Y, Ghi chú (Công lập, Ngoài công lập). Trên
cơ sở đó đã thành lập các bản đồ chuyên đề về mạng lưới trường tiểu học, trường
THCS, trường THPT, khả năng bao quát không gian dịch vụ của các đơn vị trường
đối với các khu vực phân bố dân cư xung quanh, từ đó có thể nhận xét về tính hợp lý
và chưa hợp lý của mạng lưới trường hiện tại.
Luận án cũng sử dụng rộng rãi các nguồn số liệu thống kê để thành lập các bản
đồ có mức độ chi tiết khác nhau về các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển GD và
mạng lưới trường, trong đó đặc biệt là các bản đồ về đô thị hóa ở TPHCM, về di cư,
về sự thay đối cấu trúc không gian đô thị trong những thập niên gần đây, về sự phát
20
triển kinh tế - xã hội của thành phố. Những số liệu từ các cuộc Tổng điều tra dân số
và nhà ở TPHCM (1999, 2009) đã được xử lý bằng SPSS, sau đó được xây dựng
thành cơ sở dữ liệu địa lí, để thành lập các bản đồ liên quan đến dân cư và di cư của
TPHCM trong các giai đoạn nghiên cứu. Phần mềm được sử dụng để thành lập bản
đồ chuyên đề là MapInfo 10.5, MapInfo 15 (để khai thác các tiện ích mới), có kết
hợp với ArGIS 10.1 trong phân tích không gian.
6.4. Phương pháp thực địa và điều tra xã hội học
Phương pháp thực địa và điều tra xã hội học được sử dụng kết hợp trong luận
án, nhằm thu thập các dữ liệu sơ cấp liên quan trực tiếp đến nội dung luận án. Là một
giáo viên làm việc và sinh sống ở TPHCM, việc thực địa được NCS tiến hành nhiều
lần ở các quận/huyện, nhằm quan sát sự phân bố các cơ sở trường phổ thông và
những biểu hiện quan sát được về sức ép của nhu cầu học tập của học sinh đối với
các trường học hiện có. Phương pháp điều tra xã hội học trong nghiên cứu địa lí đã
trở nên phổ biến. Đối với luận án này, khi xem GD là một ngành dịch vụ, thì việc
điều tra, khảo sát ý kiến của các bên liên quan, nhất là của phụ huynh và học sinh là
cần thiết, không chỉ để phân tích thực trạng, mà còn làm cơ sở cho việc đề xuất các
giải pháp.
Việc điều tra xã hội học trong khuôn khổ luận án không nhằm mục đích suy
rộng, mà để nhìn nhận những vấn đề cần khảo sát ở những địa phương cụ thể. Trong
trường hợp “cái riêng” này phản ánh “cái chung” của thành phố, thì các phân tích
thống kê sẽ cho những gợi ý về chính sách khá rõ ràng.
- Đối tượng điều tra: Phụ huynh HS và HS,
- Về phương thức điều tra: Chủ yếu điều tra bằng phiếu hỏi, phỏng vấn trực
tiếp, có kết hợp một phần với điều tra online (đối với phiếu hỏi cha mẹ học sinh).
- Địa bàn điều tra: căn cứ trên Quy hoạch mạng lưới trường phổ thông của
Thành phố đến năm 2020 [88], các quận được lựa chọn đại diện cho các vùng quy
hoạch, với các điều kiện đảm bảo chất lượng GD khác nhau. Các trường thuộc các
phường cụ thể được chọn dựa trên sự cân nhắc về các vấn đề nóng hoặc tính đại diện
của địa bàn khảo sát.
21
- Nội dung phiếu hỏi: Các phiếu hỏi được trình bày ở Phụ lục 1 và Phụ lục 2.
Các phiếu này được thiết kế để người trả lời có thể trả lời nhanh, là loại phiếu nửa
cấu trúc, tức là bên cạnh các câu hỏi đóng (trong đó có các câu nhiều lựa chọn), còn
có các câu hỏi mở để người trả lời nêu ngắn gọn ý kiến của mình. Trọng tâm của
phiếu hỏi cha mẹ học sinh là về ý kiến đánh giá của họ đối với chất lượng dịch vụ
GD, trong đó có hai mảng lớn: 1/ về tiêu chí chọn trường cho con; 2/ đánh giá về
thực tế dịch vụ giáo dục. Phiếu hỏi học sinh liên quan đến điều kiện đi đến trường,
đánh giá của các em về dịch vụ giáo dục ở ngôi trường các em học.
- Tiến hành điều tra: tác giả luận án sau khi sơ thảo các phiếu hỏi, đã đi khảo
sát có tính chất thăm dò, từ đó điều chỉnh cả nội dung phiếu hỏi và cả địa bàn phỏng
vấn. Việc điều tra đại trà được thực hiện trong tháng 4 và tháng 5/2019.
- Xử lý kết quả điều tra: Các phiếu điều tra sau khi thu được, đã được kiểm tra
lại, nhập thông tin vào cơ sở dữ liệu SPSS. Phiên bản được sử dụng là IBM SPSS
20.0. Dữ liệu được làm sạch và sau đó được phân tích thống kê. Kết quả phân tích
thống kê được trình bày xen kẽ trong Chương 2 của luận án.
6.5. Phương pháp tham vấn chuyên gia
Trong luận án, NCS đã tham vấn ý kiến của các chuyên gia giáo dục, các nhà
giáo, các cán bộ quản lý giáo dục của địa phương. Nội dung tham vấn liên quan đến
những vấn đề vĩ mô của giáo dục Việt Nam hiện nay, những vấn đề cụ thể của giáo
dục TPHCM có liên quan đến việc quy hoạch mạng lưới trường phổ thông, như vấn
đề tuyển sinh vào các trường, sức ép của trẻ em nhập cư theo bố mẹ đến TPHCM đối
với một số xã, phường, các giải pháp nhằm giảm áp lực đối với mạng lưới trường,…
Danh sách chuyên gia và các nội dung tham vấn được tóm tắt trong Phụ lục 3.
Do các chuyên gia thuộc các cơ quan, tổ chức khác nhau, nên NCS sử dụng
phương pháp phỏng vấn trực tiếp, với các câu hỏi mở.
6.6. Phương pháp dự báo
Để đưa ra các định hướng, giải pháp cho vấn đề tổ chức mạng lưới trường phổ
thông ở TPHCM, tác giả luận án đã cố gắng thực hiện dự báo về nhu cầu học tập của
HS ở TPHCM trong khoảng 5-10 năm tới và nhu cầu phát triển mạng lưới trường
trong khoảng thời gian đó. Việc dự báo này dựa trên một số giả định ban đầu:
22
- Tốc độ đô thị hóa, gia tăng dân số và di cư trong những năm tới không cao
hơn so với hiện nay;
- Tốc độ phát triển số phòng học không có đột biến;
- Quy định về quy mô lớp học chưa thay đổi so với quy định hiện hành của Bộ
Giáo dục và Đào tạo và của thành phố.
Việc dự báo này dựa trên mô hình ngoại suy theo hàm xu thế.
Đi sâu hơn nữa, việc dự báo sẽ còn căn cứ vào các quy hoạch đã được duyệt về
phát triển không gian đô thị, về phát triển kinh tế - xã hội của thành phố trong
khoảng 10 năm tới, các xu hướng mới trong mô hình giáo dục,...
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
7.1. Ý nghĩa khoa học của đề tài nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu mạng lưới trường học phổ thông ở TPHCM từ góc độ của
địa lí dịch vụ, đưa ra các tiêu chí đánh giá sự hợp lý và tính thích ứng của mạng lưới
các trường phổ thông của thành phố lớn nước ta qua trường hợp của TPHCM. Trên
cơ sở đó đưa ra những giải pháp cụ thể góp phần vào hoàn thiện quy hoạch mạng
lưới trường phổ thông ở TPHCM.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài nghiên cứu
Đề tài góp phần đánh giá thực trạng mạng lưới trường học phổ thông ở
TPHCM, làm cơ sở khoa học cho các cấp quản lý ngành giáo dục và quản lý lãnh thổ
(quận, huyện, thành phố) điều chỉnh quy hoạch mạng lưới trường phổ thông một
cách thích hợp.
8. Cấu trúc của luận án
Ngoài mở đầu, kết luận và khuyến nghị, luận án “Mạng lưới trường học phổ
thông ở Thành phố Hồ Chí Minh” có 3 chương chính:
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn về mạng lưới trường học phổ thông. Chương 2. Các nhân tố ảnh hưởng và thực trạng mạng lưới trường học phổ
thông ở Thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 3. Đề xuất giải pháp tổ chức hợp lý mạng lưới trường học phổ thông
ở Thành phố Hồ Chí Minh.
23
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
MẠNG LƯỚI TRƯỜNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Một số vấn đề chung về giáo dục và đổi mới giáo dục phổ thông
1.1.1. Những quy định có liên quan trong Luật Giáo dục
Luật Giáo dục của nước ta được Quốc hội thông qua năm 2005 (Luật Giáo dục,
2005) [51], được sửa đổi, bổ sung một số điều để đáp ứng những yêu cầu mới của sự
phát triển giáo dục và nhu cầu của xã hội trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu vào
nền kinh tế thế giới (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục, 2009)
[54]. Luật Giáo dục 2019 [57], có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2020 sẽ thay thế
Luật Giáo dục 2005. Như vậy, hệ thống giáo dục sẽ phải có những thay đổi thích ứng
với các quy định trong điều luật mới. Dưới đây, tác giả luận án chỉ nhấn mạnh một số
điểm có liên quan trực tiếp đến nội dung luận án.
a) Trước hết, mục tiêu giáo dục đã khẳng định yêu cầu hình thành phẩm chất,
năng lực cho học sinh, thể hiện rõ sự tiếp nối giữa nâng cao dân trí (liên quan nhiều
đến giáo dục phổ thông) và phát triển nguồn nhân lực (ở giai đoạn đào tạo nghề và
đào tạo bậc đại học, sau đại học), và nhấn mạnh thêm yêu cầu hội nhập quốc tế.
Luật Giáo dục 2005 Luật Giáo dục 2019
Điều 2. Mục tiêu giáo dục Điều 2. Mục tiêu giáo dục
Mục tiêu giáo dục là đào tạo con Mục tiêu giáo dục nhằm phát triển toàn
người Việt Nam phát triển toàn diện, diện con người Việt Nam có đạo đức, tri
có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm thức, văn hóa, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề
mỹ và nghề nghiệp, trung thành với nghiệp; có phẩm chất, năng lực và ý thức
lý tưởng độc lập dân tộc và chủ công dân; có lòng yêu nước, tinh thần dân
nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
tộc, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; phát huy tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế.
24
b) Hệ thống giáo dục quốc dân tuy vẫn gồm 4 bậc, nhưng Luật giáo dục 2019
nhấn mạnh tính mở, liên thông của hệ thống giáo dục, đồng thời có thay đổi giữa
giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học. Bậc cao đẳng, theo Luật giáo dục 2005
thuộc giáo dục đại học, nhưng theo Luật giáo dục 2019 lại thuộc giáo dục nghề
nghiệp.
Luật Giáo dục 2005 Luật Giáo dục 2019
Điều 4. Hệ thống giáo dục quốc dân Điều 6. Hệ thống giáo dục quốc dân
1. Hệ thống giáo dục quốc dân gồm (trích)
giáo dục chính quy và giáo dục 1. Hệ thống giáo dục quốc dân là hệ
thường xuyên. thống giáo dục mở, liên thông gồm giáo
2. Các cấp học và trình độ đào tạo của dục chính quy và giáo dục thường xuyên.
hệ thống giáo dục quốc dân bao gồm: 2. Cấp học, trình độ đào tạo của hệ thống
a) Giáo dục mầm non có nhà trẻ và giáo dục quốc dân bao gồm:
mẫu giáo; a) Giáo dục mầm non gồm giáo dục nhà
b) Giáo dục phổ thông có tiểu học, trẻ và giáo dục mẫu giáo;
trung học cơ sở, trung học phổ thông; b) Giáo dục phổ thông gồm giáo dục tiểu
c) Giáo dục nghề nghiệp có trung cấp học, giáo dục trung học cơ sở và giáo
chuyên nghiệp và dạy nghề; dục trung học phổ thông;
d) Giáo dục đại học và sau đại học c) Giáo dục nghề nghiệp đào tạo trình
(sau đây gọi chung là giáo dục đại độ sơ cấp, trình độ trung cấp, trình độ
học) đào tạo trình độ cao đẳng, trình cao đẳng và các chương trình đào tạo
độ đại học, trình độ thạc sĩ, trình độ nghề nghiệp khác;
tiến sĩ. d) Giáo dục đại học đào tạo trình độ đại
học, trình độ thạc sĩ và trình độ tiến sĩ.
Sơ đồ cấu trúc hệ thống giáo dục quốc dân (theo Luật Giáo dục 2019) có thể
trình bày khái lược ở hình 1.1, và ta có thể nhận thấy vị trí của giáo dục phổ thông
trong toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân.
Bậc tiểu học (từ lớp 1 đến lớp 5). Học sinh đi học đúng tuổi là 6 tuổi vào lớp
1, tròn 10 tuổi học hết lớp 5.
Bậc trung học cơ sở (từ lớp 6 đến lớp 9). Học sinh đi học đúng tuổi là 11 tuổi
25
vào lớp 6, tròn 14 tuổi học hết lớp 9.
Bậc trung học phổ thông (từ lớp 10 đến lớp 12). Học sinh đi học đúng tuổi là
15 tuổi vào lớp 10, tròn 17 tuổi học hết lớp 12.
Hình 1.1. Sơ đồ khung cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân
(theo Luật Giáo dục 2019)
c) Loại hình trường
Trước đây, trong hệ thống giáo dục chỉ có các trường công lập. Thực hiện chủ
trương xã hội hóa giáo dục, các loại hình trường được đa dạng hóa. Trong Luật Giáo
dục 2005 (Điều 12) chỉ ghi khái quát “Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong phát triển
sự nghiệp giáo dục; thực hiện đa dạng hóa các loại hình trường và các hình thức giáo
dục; khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tham gia phát triển
sự nghiệp giáo dục”. Phải đến Nghị định số 75/2006/NĐ-CP ngày 2/8/2006 “Quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Giáo dục” [15], ở Điều 18
mới nêu cụ thể các loại hình cơ sở giáo dục gồm a) Cơ sở giáo dục công lập; b) Cơ
sở giáo dục dân lập và c) Cơ sở giáo dục tư thục.
Thực tiễn xã hội hóa giáo dục vào những năm đầu thập niên 1990 đã giúp giải
quyết những khó khăn lúc bấy giờ của giáo dục công lập do huy động được những
26
đóng góp sáng tạo của các tổ chức và cá nhân trong xã hội cho giáo dục, và hình
thành các cơ sở giáo dục dân lập, bán công. Dần dần, thị trường giáo dục được hình
thành, thu hút ngày càng nhiều các nhà đầu tư giáo dục. Các định nghĩa về các loại
hình ngoài công lập ngày càng rõ hơn và cơ cấu các cơ sở giáo dục phổ thông cũng
được xác định đầy đủ hơn. Từ sau Luật Giáo dục 2005, không còn loại hình trường
bán công, mà được xác định lại thành trường công lập tự chủ tài chính. Xu hướng
tăng cường tính tự chủ của các trường, trong đó có tự chủ tài chính, tăng lên.
Trong Luật Giáo dục 2019, Điều 16, khoản 2 có ghi: “2. Nhà nước giữ vai trò
chủ đạo trong phát triển sự nghiệp giáo dục. Thực hiện đa dạng hóa các loại hình cơ
sở giáo dục và hình thức giáo dục; khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để tổ
chức, cá nhân tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục; khuyến khích phát triển cơ sở
giáo dục dân lập, tư thục đáp ứng nhu cầu xã hội về giáo dục chất lượng cao”. Câu
này ngầm định rằng các cơ sở dân lập, tư thục được lập ra nhằm mục tiêu giáo dục
chất lượng cao, và điều này không tránh khỏi mục tiêu lợi nhuận từ giáo dục, và việc
phát triển giáo dục ngoài công lập sẽ tác động mạnh hơn ở các khu vực thành thị, tác
động rõ nhất ở các thành phố lớn. Trong Luật (Điều 47) quy định loại hình trường
dân lập chỉ áp dụng đối với cơ sở giáo dục mầm non. Đồng thời cũng xác định một
loại hình trường mới là trường tư thục không vì lợi nhuận và “Chỉ chuyển đổi loại
hình nhà trường từ trường tư thục sang trường tư thục hoạt động không vì lợi nhuận”.
Đây là điểm mới nhưng cũng sẽ ảnh hưởng, thậm chí gây xáo động ở mức độ nào đó
hệ thống cơ sở giáo dục phổ thông ở các thành phố lớn, nơi có nhiều trường tư thục.
Trường phổ thông chủ yếu là các trường một cấp học (trường tiểu học, trường
trung học sơ sở, trường trung học phổ thông). Trước đây, ở các vùng nông thôn,
miền núi, có thể có những điều kiện thiếu thốn về cơ sở vật chất và đội ngũ giáo
viên, cũng như do dân cư ở rải rác, nên xuất hiện các trường phổ thông có nhiều cấp
học, mà phổ biến là trường Cấp II+III (nay là trường liên cấp THCS và THPT). Tuy
nhiên, hiện nay, nhất là các trường tư thục ở các thành phố, thường lập thành hệ
thống trường có nhiều cấp học. Trường có nhiều cấp học gồm:
+ Trường phổ thông cơ sở là trường có cấp Tiểu học và THCS, tuyển sinh từ
lớp 1 đến lớp 9.
27
+ Trường trung học là trường có cấp THCS và THPT, tuyển sinh từ lớp 6 đến
lớp 12.
+ Trường phổ thông liên cấp là có đủ các lớp của hệ thống giáo dục phổ thông,
tuyển sinh từ lớp 1 đến lớp 12.
Trong hệ thống giáo dục còn tồn tại các trường chuyên biệt gồm: a) Trường phổ
thông dân tộc nội trú, trường phổ thông dân tộc bán trú; b) Trường chuyên, trường
năng khiếu; c) Trường dành cho người tàn tật, khuyết tật; d) Trường giáo dưỡng. Bên
cạnh đó là các cơ sở giáo dục khác.
d) Quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục
Trong Luật Giáo dục (2005, 2019) xác định rõ Ủy ban nhân dân các cấp phạm
vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện quản lý nhà nước về giáo dục theo phân
cấp của Chính phủ, trong đó có việc quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục (Điều 100
Luật Giáo dục 2005, Điều 52 Luật Giáo dục 2019).
Trong Nghị định 75/2006/NĐ-CP “Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một
số điều của Luật Giáo dục” [15] “Điều 17. Quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục” có
xác định rõ: Quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục là phân bố, sắp xếp các cơ sở giáo
dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân theo vị trí địa lí, vùng lãnh thổ, trên toàn quốc
và từng địa phương, cho từng thời kỳ để cụ thể hóa chiến lược phát triển giáo dục,
làm căn cứ xây dựng kế hoạch phát triển giáo dục. Nghị định này cũng quy định các
nguyên tắc và nội dung chủ yếu của quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục. Theo đó,
quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục có 4 nội dung chủ yếu là: a) Cơ cấu hệ thống
giáo dục và quy mô đào tạo theo cấp học, ngành học, trình độ đào tạo, loại hình cơ sở
giáo dục; b) Phân bố các cơ sở giáo dục theo tính chất, đặc điểm kinh tế - xã hội từng
vùng, từng địa phương; c) Đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục; d) Cơ sở vật
chất - kỹ thuật.
1.1.2. Vấn đề đổi mới giáo dục phổ thông
Nền kinh tế - xã hội của nước ta chuyển biến sâu sắc trong những thập niên
gần đây, từ khi đất nước đổi mới, mở cửa nền kinh tế, hội nhập ngày càng sâu rộng
vào đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa toàn cầu. Thế giới cũng chuyển biến hết sức
mạnh mẽ, vừa có những tiến bộ vượt bậc, vừa có những biến đổi khó dự đoán trước.
28
Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đặt ra nhiều cơ hội và thách thức mới đối với sự
phát triển của các quốc gia. Nước ta tuy đạt được những thành tựu to lớn, những vẫn
ở trong nhóm các nước có thu nhập trung bình thấp (theo phân loại nước của WB,
2019), và để thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình thì vai trò của giáo dục – đào tạo là
rất quan trọng. Một bối cảnh khác thôi thúc sự đổi mới giáo dục – đào tạo, đó là từ
năm 2005, nước ta bước vào thời kỳ dân số vàng là thời kỳ cơ cấu dân số thuận lợi
nhất cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Thời kỳ dân số vàng ở nước ta sẽ kết thúc
trước năm 2050, mà với xu hướng già hóa dân số nhanh, có những ý kiến lo ngại
rằng nước ta có thể “già trước khi giàu”. Việc đổi mới giáo dục - đào tạo kịp thời sẽ
giúp nước ta tranh thủ được những lợi thế của thời kỳ dân số vàng cho phát triển lâu
dài, nhưng nếu không đạt được những kỳ vọng trong phát triển giáo dục, thì các cơ
hội phát triển sẽ qua đi.
Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khóa
XI) đã thông qua Nghị quyết số 29/NQ-TW ngày 4 tháng 11 năm 2013 về đổi mới
căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại
hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc
tế [24]. Tiếp đó, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 88/2014/QH13 ngày 28 tháng
11 năm 2014 về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông, góp phần
đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Ngày 27 tháng 3 năm 2015, Thủ
tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 404/QĐ-TTg phê duyệt Đề án đổi mới
chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông. Chương trình giáo dục phổ thông
mới đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành kèm theo Thông tư số 32/2018/TT-
BGDĐT ngày 26/12/2018.
Việc đổi mới chương trình và sách giáo khoa phổ thông chỉ là bước ban đầu, dù
là rất quan trọng của quá trình đổi mới giáo dục phổ thông. Vì để dạy học tốt chương
trình và sách giáo khoa mới sẽ cần có các điều kiện đảm bảo tốt thiểu: đội ngũ nhà
giáo và cán bộ quản lý giáo dục phải đủ về số lượng, cơ cấu, phải được đào tạo và
đào tạo lại để đáp ứng cách tiếp cận giáo dục mới: hình thành và phát triển các phẩm
chất và năng lực cho học sinh; phải đổi mới phương pháp giáo dục và đánh giá chất
lượng giáo dục; nhà trường phải được quy hoạch và đầu tư để học sinh được học 2
29
buổi, nhất là ở khu vực thành thị; phải có nhiều hơn các trường đạt chuẩn quốc gia và
nâng cấp các điều kiện vật chất – kỹ thuật của nhà trường, không chỉ đáp ứng yêu
cầu giáo dục từ quan điểm của các nhà quản lý, mà còn phải đáp ứng kỳ vọng của
phụ huynh học sinh, của xã hội nói chung, trong điều kiện sự cạnh tranh trong thị
trường giáo dục tăng lên.
Những vấn đề về đổi mới giáo dục phổ thông đã được luật hóa, thể hiện toàn
diện trong Luật Giáo dục 2019, sẽ có hiệu lực thi hành từ 1/7/2020 [57].
1.2. Quan niệm về khu vực dịch vụ và về dịch vụ giáo dục
1.2.1. Giáo dục trong cơ cấu ngành dịch vụ
Khu vực dịch vụ, còn gọi là khu vực III, là khu vực có cơ cấu kinh tế hết sức đa
dạng, ngày càng phát triển. Tất cả các ngành nào không thuộc về khu vực I (khai thác
trực tiếp tài nguyên, như nông-lâm-thủy sản) hay khu vực II (chế biến, như công
nghiệp và xây dựng) thì đều thuộc về khu vực dịch vụ.
CÁC NGÀNH DỊCH VỤ
Dịch vụ công Dịch vụ người tiêu dùng Dịch vụ kinh doanh
C á c
C á c
V ậ n
b á n
d ị c h
t ả i
d ị c h
l ẻ
v à
v ụ
v ụ
v à
c á
B á n
T à i c h í n h
N g h ề
Y
G i á o
,
C h í n h p h ủ
d ị c h
k i n h
v à t h ô n g
t ế
n h â n
b ấ t đ ộ n g
b ả o
b u ô n
v ụ
d ụ c
t i n
n g h i ệ p
s ả n
d o a n h
n h ỏ
k h á c
h i ể m
l ẻ
k h á c
Dịch vụ Bán buôn và Dịch vụ người sản xuất cá nhân bán lẻ
Hình 1.2. Sơ đồ các ngành dịch vụ [60]
Ở Hoa Kỳ, một nước có kinh tế dịch vụ rất phát triển, các ngành dịch vụ được
chia thành 3 nhóm chính là dịch vụ tiêu dùng, dịch vụ kinh doanh và dịch vụ công,
và có thể chia ra thành một số nhóm nhỏ hơn (xem Hình 1.2). Sơ đồ phân loại ngành
dịch vụ này có tính chất phổ biến, và có thể vận dụng vào điều kiện của nước ta.
30
Ở Hoa Kỳ, GD được xếp vào nhóm loại hình dịch vụ cá nhân, bởi vì nó được
phục vụ trước hết cho các nhu cầu của cá nhân, các gia đình và cộng đồng phải chi
trả phần đáng kể cho dịch vụ này.
Ở nước ta, quan niệm về dịch vụ giáo dục có những thay đổi đáng kể trong mấy
thập niên gần đây. Việt Nam trước năm 1993 thực hiện hạch toán nền kinh tế quốc
dân theo hệ thống cân đối kinh tế quốc dân, còn gọi là Hệ thống sản phẩm vật chất
(MPS – Material Products System). Khi đó, các ngành dịch vụ, trong đó có giáo dục,
chỉ làm nhiệm vụ phân phối lại các giá trị mà xã hội đã tạo ra, và không được quan
niệm rằng giáo dục tạo ra giá trị gia tăng. Từ năm 1993, nước ta thực hiện hạch toán
theo hệ thống tài khoản quốc gia (SNA - System of National Accounts). Các ngành
dịch vụ, trong đó có giáo dục, tạo ra giá trị thị trường của sản phẩm dịch vụ cuối
cùng, và do đó đóng góp phần tương xứng vào quy mô và cơ cấu GDP.
Bảng 1.1 cho thấy rằng ngành giáo dục – đào tạo đã thu hút lực lượng lao động
to lớn, chiếm 3,8% trong toàn bộ lao động đang làm việc trong nền kinh tế, tương
đương 11,14% lao động trong khu vực dịch vụ (2017), đồng thời đóng góp trong
GDP là 3,55%, tương ứng là 8,60% giá trị tăng thêm của khu vực dịch vụ.
Bảng 1.1. Tỷ trọng của khu vực dịch vụ và của ngành GD&ĐT trong cơ cấu
GDP và trong lực lượng lao động đang làm việc trong nền kinh tế
Đơn vị: %
Sơ bộ 2005 2010 2015 2017
Tỷ trọng dịch vụ trong cơ cấu GDP 42,56 36,96 39,74 41,26
3,55 Tỷ trọng của GD-ĐT trong cơ cấu GDP 2,95 2,33 3,26
8,60 Tỷ trọng của GD-ĐT trong cơ cấu dịch vụ 6,93 6,30 8,20
34,1 27,1 29,5 33,1
Tỷ trọng lao động dịch vụ trong toàn bộ lực lượng lao động
2,9 3,4 3,6 3,8
10,70 11,53 10,88 11,14
Tỷ trọng lao động GD-ĐT trong toàn bộ lực lượng lao động Tỷ trọng lao động GD-ĐT trong khu vực dịch vụ
Xử lí từ Cơ sở dữ liệu của Tổng cục Thống kê [136]
31
Ở Việt Nam, xác định vị trí của ngành giáo dục trong hệ thống các ngành dịch
vụ không đơn giản. Hiện nay, hệ thống các trường công lập vẫn chiếm tỷ lệ áp đảo.
Theo Kết quả Khảo sát mức sống dân cư Việt Nam năm 2016 [69], 95,9% số người
học đang theo học ở các trường công lập, được đảm bảo kinh phí hoạt động từ ngân
sách nhà nước, thuộc lĩnh vực dịch vụ công, HS học ở các trường công chỉ đóng học
phí thấp, nói riêng là so với mức thu nhập của gia đình HS. Bên cạnh các trường
công, hệ thống các trường tư thục đã có bước phát triển tốt, ở khu vực thành thị (năm
2016) thu hút 8,4% số người học và được khuyến khích bằng các chính sách phát
triển GD từ trung ương đến địa phương. HS học các trường tư phải đóng học phí rất
cao, có thể gấp hàng chục lần so với học trường công. Như vậy các trường tư thực sự
là dịch vụ người tiêu dùng, với các đối tượng gia đình HS có khả năng chi trả tốt.
Ngoài ra, HS còn có thể học thêm các kiến thức, kĩ năng khác tùy theo nguyện vọng
cá nhân và sự định hướng của gia đình, tại các trung tâm, các câu lạc bộ khác nhau,
và chi trả lớn hơn nhiều lần so với học phí của trường công. HS và các gia đình HS
còn có thể đến các trung tâm tư vấn GD các loại để được tư vấn và chi trả cho các
dịch vụ tư vấn đó.
1.2.2. Dịch vụ giáo dục và đào tạo
Trong sách “Tìm hiểu một số thuật ngữ trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XII của Đảng” [50] có đề cập:
Dịch vụ GD&ĐT, theo nghĩa rộng, là toàn bộ hoạt động GD&ĐT thuộc khu
vực dịch vụ (trong tương quan với hai khu vực khác là công nghiệp và nông nghiệp).
Trong Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ (GATS - General Agreement on
Trade in Services) mà Việt Nam đã ký kết khi tham gia vào Tổ chức Thương mại
Thế giới (WTO) cũng đã xếp GD&ĐT vào lĩnh vực dịch vụ.
Theo nghĩa hẹp, dịch vụ GD&ĐT gắn với các hoạt động GD&ĐT cụ thể. Quá
trình GD&ĐT được thực hiện với sự tham gia của rất nhiều các yếu tố, quá trình
khác nhau, có thể là vật chất (như cơ sở vật chất, trang thiết bị,...), có thể là phi vật
chất (như quá trình truyền thụ tri thức, giảng dạy trực tiếp,...), có thể là chứa đựng cả
hai yếu tố vật chất và phi vật chất (như nội dung chương trình, sách giáo khoa cho
GD&ĐT,...). Các yếu tố, quá trình GD&ĐT phi vật thể được gọi là dịch vụ thuần;
32
các sản phẩm là hàng hóa vật thể gọi là hàng hóa thuần; còn các sản phẩm chứa đựng
cả yếu tố vật chất và yếu tố phi vật chất được gọi chung là hàng hóa dịch vụ không
thuần. Vì vậy, trong GD&ĐT có rất nhiều các loại dịch vụ cụ thể phục vụ cho nhà
trường, phục vụ cho người dạy, phục vụ cho người học, phục vụ cho quá trình
GD&ĐT. Hiện nay, trên thế giới hình thành và phát triển thị trường hàng hóa dịch vụ
GD&ĐT rất đa dạng: dịch vụ tư vấn thiết kế và xây dựng cơ sở vật chất GD&ĐT;
dịch vụ cung cấp trang thiết bị cho nghiên cứu - giảng dạy - học tập; dịch vụ cung
cấp các chương trình GD&ĐT; dịch vụ cung cấp phương pháp GD&ĐT; dịch vụ
cung cấp các khóa GD&ĐT; dịch vụ kiểm tra, đánh giá và kiểm định chất lượng;
dịch vụ tư vấn GD&ĐT; tư vấn du học; dịch vụ tư vấn quản trị cơ sở GD&ĐT; các
dịch vụ hỗ trợ cho nhà trường, cho giáo viên và cho người học,...
Các dịch vụ GD&ĐT có thể được cung cấp theo phương thức bao cấp miễn phí
(chủ yếu do Nhà nước cung cấp); có thể theo phương thức phi lợi nhuận; có thể theo
phương thức có lợi nhuận ở mức hạn chế; có thể hoàn toàn theo cơ chế thị trường.
Trên thực tế, có thể có các phương án kết hợp khác nhau giữa các phương thức trên;
đồng thời, có loại dịch vụ người thụ hưởng được miễn phí hoàn toàn, có loại phải
đóng một phần nào đó, có loại người thụ hưởng phải đóng đầy đủ chi phí.
Trong Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ, khoản 3, Điều 10 nêu rõ: Trừ
hoạt động GD có nguồn tài trợ hoàn toàn của quốc gia; còn lại tất cả các hoạt động
GD có thu học phí, hoặc mang tính thương mại đều thuộc phạm trù thương mại GD.
Trong GATS cũng nêu lên bốn phương thức cung cấp dịch vụ GD&ĐT là:
- Cung ứng xuyên quốc gia: Là sự cung cấp dịch vụ GD&ĐT từ nước này sang
nước khác (như cung ứng về nội dung, chương trình, thiết bị GD,...).
- Tiêu dùng ngoài lãnh thổ: Là người của nước này sang tiêu dùng dịch vụ
GD&ĐT ở nước khác (như đi du học ở nước ngoài,...).
- Hiện diện thương mại: Là các chủ thể ở nước này đầu tư xây dựng các cơ sở
GD&ĐT ở nước khác để cung cấp dịch vụ (có thể là chi nhánh, cơ sở liên doanh
hoặc cơ sở 100% vốn nước ngoài).
- Hiện diện thể nhân: Là sự di chuyển nhân lực làm GD&ĐT từ nước này sang
nước khác (như giáo viên, chuyên gia GD,...).
33
Trong xu thế hội nhập quốc tế về GD&ĐT ngày càng mạnh mẽ, cả bốn phương
thức cung ứng dịch vụ GD&ĐT trên đều đang có sự phát triển rất đa dạng về hình
thức và quy mô.
Hiện nay, có năm phân ngành của dịch vụ GD&ĐT: tiểu học, trung học, đại
học, GD cho người lớn và các dịch vụ GD khác. Trong các phân ngành đó, chỉ có
dịch vụ GD bắt buộc và GD phổ cập khi được Nhà nước bao cấp hoàn toàn (như GD
tiểu học và trung học cơ sở thuộc GD phổ cập bắt buộc) mới được coi là dịch vụ
công cộng thuần túy (hay còn gọi là dịch vụ công cộng hoàn hảo) vì nó đáp ứng đầy
đủ hai tính chất không loại trừ và không cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ công cộng
thuần túy. Còn đa số các dịch vụ GD&ĐT khác, nhất là ở các trình độ cao, không
đáp ứng đầy đủ hai tính chất này nên thường gọi là dịch vụ công cộng không hoàn
hảo. GATS cho phép các thành viên được quyền lựa chọn không tự do hóa lĩnh vực
dịch vụ GD&ĐT nào hoặc mở cửa thị trường đối với những lĩnh vực dịch vụ
GD&ĐT cụ thể. Cho đến nay, không có một nước thành viên nào của GATS cam kết
mở cửa toàn phần thị trường dịch vụ GD&ĐT. Mỗi nước đều có thể đặt ra những
giới hạn nào đó đối với việc mở cửa thị trường GD&ĐT.
Khi tham gia WTO và GATS, Việt Nam chỉ cam kết mở cửa GD&ĐT ở các
lĩnh vực kỹ thuật, khoa học tự nhiên và công nghệ, quản trị kinh doanh và khoa học
kinh doanh, kinh tế học, kế toán, luật quốc tế và đào tạo ngôn ngữ.
Đại hội XII của Đảng xác định: "Giáo dục là quốc sách hàng đầu. Phát triển
Giáo dục và Đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
Chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ yếu từ trang bị kiến thức sang phát triển toàn
diện năng lực và phẩm chất người học; học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn.
Phát triển Giáo dục và Đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, với tiến bộ khoa học - công nghệ, yêu cầu phát triển nguồn
nhân lực và thị trường lao động".
Đại hội đề ra chủ trương: "Khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển
mạnh các dịch vụ y tế, giáo dục, văn hóa, nghệ thuật, thể thao..., nhất là dịch vụ chất
lượng cao về đào tạo nguồn nhân lực và chăm sóc sức khỏe”; "Đổi mới và hoàn thiện
cơ chế, chính sách giá dịch vụ Giáo dục và Đào tạo. Đẩy mạnh xã hội hóa, trước hết
34
đối với giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học” [11].
Bất cứ ngành dịch vụ nào cũng đều có thị trường dịch vụ. Thị trường dịch vụ bị
quy định trước hết bởi quan hệ cung cầu về các sản phẩm dịch vụ, với sự thỏa thuận
của bên cung (bên bán) sản phẩm dịch vụ và bên cầu (bên mua) sản phẩm dịch vụ
đó. Và như vậy, một cách khách quan là có sự tồn tại của thị trường giáo dục. Trong
thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp, ở nước ta không có thị trường GD,
nhưng khi chuyển sang kinh tế thị trường, thị trường GD từng bước được hình thành,
và ở giai đoạn giao thời, không ít người làm kinh doanh GD có thể thu lợi nhuận lớn
mà lại trốn thuế. Chúng ta cũng cần phân biệt giữa việc “thị trường hóa” GD và thừa
nhận sự tồn tại của thị trường GD. Thị trường hóa GD là một quan điểm cổ xúy cực
đoan cho việc áp dụng cơ chế thị trường trong hoạt động GD, làm méo mó các quan
hệ thầy trò, gia đình và nhà trường trong các hoạt động GD, do sự chi phối của đồng
tiền. Còn công nhận sự tồn tại của thị trường GD là để điều hành tốt hơn một nền GD
có chất lượng trong một xã hội đầy chuyển biến. Tác giả Nguyễn Khánh Trung trong
bài “Khái niệm thị trường giáo dục và các tác nhân” (2011) [82] đã nêu định nghĩa
ngắn gọn: “Gọi là thị trường vì trong giáo dục có các tác nhân khác nhau, có cung
và cầu, có sự cạnh tranh, có sự lựa chọn, có cơ chế điều tiết,...”. Thừa nhận có tồn
tại thị trường GD, gắn với sự phát triển của GD như là ngành dịch vụ, thì có thể thấy
rằng như một quy luật, thị trường GD phát triển trước hết ở các thành phố lớn, mà
tiêu biểu là TPHCM.
1.2.3. Đặc điểm của dịch vụ giáo dục
a) Sản phẩm dịch vụ giáo dục
Những đặc điểm của sản phẩm dịch vụ phân biệt với hàng hóa được phân tích
kỹ trong các giáo trình về marketing dịch vụ, chẳng hạn trong chương 3, sách
Services Marketing: Concepts, Strategies, & Cases của K. Douglas Hoffman và John
E. G. Bateson [111]. Sản phẩm dịch vụ là sản phẩm phi vật thể. Tính phi vật thể là
đặc điểm quan trọng nhất, chi phối các đặc điểm khác như tính không thể phân chia,
tính đa tạp và khó định lượng, tính không tàng trữ được. Sản phẩm dịch vụ GD có
đầy đủ những đặc điểm chung ấy của sản phẩm dịch vụ.
35
- Tính phi vật thể của dịch vụ: Người tiêu dùng sản phẩm dịch vụ không thể “sờ
mó” hay nhìn thấy sản phẩm như cách họ có thể làm đối với hàng hóa. Người tiêu
dùng chỉ có thể đánh giá sau khi họ trải nghiệm, và các đánh giá của họ mang tính
chủ quan nhiều hơn là tính khách quan. Trong dịch vụ GD, điều này đã được vận
dụng theo những cách khác nhau: Các bậc phụ huynh và học sinh thường tham khảo
ý kiến của các học sinh đã được học ở nhà trường mà họ dự kiến cho con theo học
(đó là mượn sự trải nghiệm của bạn bè, tìm các thông tin có thể tin cậy được), đồng
thời đến trực tiếp nhà trường, tiếp xúc với giáo viên, lãnh đạo nhà trường, tham quan
cơ sở vật chất của trường để có cảm nhận trực tiếp. Nhiều cơ sở đào tạo tổ chức các
ngày hội tuyển sinh, và tạo ra những kênh thông tin khác nhau giới thiệu với các
khách hàng tiềm năng về uy tín, tiếng tăm của nhà trường, về các điều kiện dạy học,
về các sản phẩm dịch vụ GD được cung ứng, về chi phí, về chế độ ưu đãi, về triển
vọng tươi sáng của các HS được học ở nhà trường,… Không ít các trung tâm luyện
thi mời người học đến dự học một số buổi không thu tiền để họ trải nghiệm (và tìm
hiểu thông tin từ người khác) trước khi quyết định ghi tên theo học hay không. Nói
chung, trong điều kiện thị trường GD cạnh tranh, các nhà trường ngày càng chú trọng
hơn đến công việc marketing, minh bạch thông tin để phụ huynh yên tâm gửi con
đến học, và HS cũng có tâm thế phấn khởi ngay từ đầu. Tuy nhiên, do tính phi vật
thể của sản phẩm dịch vụ, nên thực tế đã có cả sự lừa đảo trong dịch vụ giáo dục, rất
tinh vi và đa dạng.
- Tính không thể phân chia: sản phẩm dịch vụ được sản xuất ra và tiêu thụ đồng
thời. Và như vậy, khác với hàng hóa được sản xuất trước và bán sau, sản phẩm dịch
vụ được bán trước và sau đó được sản xuất và tiêu dùng đồng thời. Đối với người
mua một tour du lịch chẳng hạn, sau khi được xem quảng cáo về tour, họ đặt tour, trả
tiền trước. Sau đó, tour du lịch được thực hiện theo lịch trình, sản phẩm dịch vụ du
lịch được bắt đầu từ khi đón khách và kết thúc sau khi trả khách. Người mua dịch vụ
đã “đặt cược” lòng tin của mình vào bên cung cấp dịch vụ. Còn bên cung ứng dịch
vụ đã nhận “tạm ứng” lòng tin của khách hàng. Trong dịch vụ GD cũng có thể hiểu
một sự tương tự. Người học đăng ký vào học ở một trường, nộp hồ sơ, có thể đóng
một phần học phí, họ cũng “đặt cược” lòng tin và kỳ vọng của mình vào nhà trường.
36
Như vậy, việc không để giảm lòng tin từ phía gia đình HS, từ phía cộng đồng là rất
quan trọng. Cần duy trì các kênh liên lạc để nhà trường nhận được các phản hồi của
gia đình HS và cộng đồng, nhằm nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ GD.
- Tính đa tạp trong cảm nhận và đánh giá sản phẩm dịch vụ của khách hàng:
Bên cung cấp dịch vụ luôn muốn đảm bảo sản phẩm dịch vụ có chất lượng ổn định,
“trước sau như một”. Nhưng rất khó đạt được kết quả là khách hàng cảm nhận các
sản phẩm dịch vụ của các lần khác nhau là giống nhau, cũng như hai khách hàng
cùng cảm nhận một dịch vụ là giống nhau. Để giải quyết các thách thức do tính đa
tạp gây ra, bên cung cấp dịch vụ thường có hai cách tiếp cận: hoặc là tùy biến dịch
vụ theo khách hàng (thiết kế dịch vụ phù hợp với nhu cầu của khách hàng) hoặc là
chuẩn hóa dịch vụ để đạt tới chỗ mọi khách hàng về cơ bản nhận được cùng kiểu
dịch vụ và ở cùng trình độ chất lượng. Đối với dịch vụ GD, điều này cũng có thể
được vận dụng, ví dụ: tránh các “sự cố kỹ thuật”, “tai nạn nghề nghiệp” có thể làm
hỏng thanh danh, uy tín của nhà trường hay của các thành viên của trường; chú ý đến
quan điểm dạy học phân hóa (nhìn từ góc độ cung ứng dịch vụ); tạo ra sự khác biệt
trong chương trình/hoạt động giáo dục của nhà trường để nhận được đánh giá cao
hơn từ phía xã hội.
- Khó định giá sản phẩm dịch vụ, bởi vì giá của dịch vụ trước hết là giá của lao
động, bởi vì không có hàng hóa nào được bán. Đối với GD, điều này một lần nữa
khẳng định vai trò của chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý nhà trường.
Các cơ sở GD ngoài công lập có thể đưa ra các mức học phí rất khác biệt, chính là do
họ khẳng định chất lượng cao của dịch vụ GD, do có đội ngũ giáo viên có chất lượng
tốt. Điều này cũng tạo ra các thách thức khác: đó là sự cạnh tranh nguồn nhân lực
chất lượng cao giữa các cơ sở giáo dục, mà động cơ chính là mức lương/thu nhập/chế
độ đãi ngộ; việc tìm cách cắt giảm chi phí nhân lực mà vẫn đảm bảo chất lượng dịch
vụ (ví dụ, bằng cách thuê lao động bán thời gian, trả lương theo giờ dạy, hoặc giao
nhiều việc cho GV, thậm chí quá tải, tương ứng với mức lương cao họ được
hưởng,…).
- Tính không tàng trữ được: sản phẩm dịch vụ không thể lưu kho như hàng hóa
trong trường hợp có sự mất cân bằng cung cầu để chờ bán sản phẩm vào thời điểm
37
được giá hơn. Điều này đòi hỏi trong quy hoạch GD phải tính đến tổng cung và tổng
cầu về dịch vụ GD cả trong ngắn hạn và dài hạn (chẳng hạn của toàn TPHCM),
nhưng cũng phải có những phương án riêng cho những địa bàn có nhiều người nhập
cư, hay đang được đô thị hóa mạnh.
b) Đặc điểm hành vi của người sử dụng dịch vụ giáo dục phổ thông
Trong lý luận dạy học, nhất là ở trường phổ thông, người ta hay nhắc đến quan
điểm “lấy người học làm trung tâm” (learner-centered) thay cho quan điểm “lấy
người dạy làm trung tâm” (teacher-centered), và điều này được cắt nghĩa từ góc độ
bản chất của quá trình dạy học. Nhìn rộng ra, đối với dịch vụ nói chung, dịch vụ giáo
dục phổ thông nói riêng, cần chuyển từ quan điểm coi trọng sự vận hành của bên
cung cấp dịch vụ (operations-dominated) sang tiếp cận hướng tới khách hàng
(customer-oriented). Ở nước ta, khi chuyển sang kinh tế thị trường, người ta hay nói
câu cửa miệng “khách hàng là Thượng đế”. Nói như thế không có nghĩa là mọi dịch
vụ phải chiều theo khách hàng (quan niệm này sẽ có thể dẫn đến các quan hệ méo
mó trong dịch vụ giáo dục), mà phải hiểu được vai trò quan trọng của khách hàng
trong sự vận hành của toàn bộ hệ thống dịch vụ, cũng như sự cần thiết phải hiểu hành
vi của khách hàng. Trong môi trường kinh tế cạnh tranh, hơn bao giờ hết cần hiểu
được khách hàng, xem họ đã lựa chọn dịch vụ từ các dịch vụ khác nhau chào mời họ
như thế nào, và họ đã đánh giá các dịch vụ này một khi họ nhận được dịch vụ ra sao.
Quá trình ra quyết định của khách hàng được chia thành 3 giai đoạn: trước khi
mua dịch vụ, tiêu dùng dịch vụ và đánh giá sau khi mua [111].
Giai đoạn trước khi mua dịch vụ gồm có một số pha: trước hết, cá nhân nhận
được sự kích cầu, đó có thể là tín hiệu thương mại (khuyến mãi), tín hiệu xã hội (từ
bạn bè), tín hiệu sinh lí (sự đói, sự khát,…). Sau đó, họ xác định xem họ có thực sự
có nhu cầu về một sản phẩm nào đó. Tiếp đến là pha tìm kiếm thông tin: người tiêu
dùng dựa vào kinh nghiệm trong quá khứ, sự tiện lợi, hiểu biết của mình để đưa ra
một danh sách các phương án lựa chọn, và rút ngắn dần danh sách này để cân nhắc.
Tiếp nữa là pha đánh giá các phương án chọn lựa. Trong giai đoạn này có thể bao
gồm cả việc khách hàng cảm nhận rủi ro khi đưa ra quyết định.
38
Trong dịch vụ giáo dục hiện nay, có thể quan sát thấy rất đông đảo bậc cha mẹ
học sinh trăn trở khi chuẩn bị các quyết định cho con vào học ở trường nào. Có
những trường hợp khi con mới đi nhà trẻ đã lo cho con vào học lớp 1 ở đâu, và cũng
như thế, các lo toan cho các lớp đầu cấp của con cứ đeo đuổi họ năm này qua năm
khác.
Đến giai đoạn mua dịch vụ, pha quan trọng nhất là quyết định chọn mua. Đối
với dịch vụ giáo dục, đó là quyết định chọn trường. Trong thực tế, có thể thấy các
quyết định chọn trường cho con được quyết định chủ yếu bởi cha mẹ học sinh, nhất
là đối với trẻ vào học tiểu học hay THCS, nhưng tiếng nói của trẻ cũng ngày càng
được bậc cha mẹ chú ý lắng nghe. Sở dĩ phải chú ý nhiều hơn đến nguyện vọng và
tiếng nói của trẻ, vì nhà trường không chỉ là nơi các em gắn bó như ngôi nhà thứ hai,
nơi có các quan hệ trong nhà trường, cũng là một phần các quan hệ xã hội mà trẻ trải
nghiệm, nơi trẻ hình thành nhân cách. Trong điều kiện học hai buổi, ảnh hưởng của
môi trường giáo dục trong nhà trường càng lớn. Hơn nữa, nhà trường phải đảm bảo
các điều kiện an toàn cho trẻ, trong đó có việc tuân thủ nghiêm túc những quy định
nhà nước về y tế và bảo vệ sức khỏe cho học sinh.
Giai đoạn tiêu dùng dịch vụ trong dịch vụ giáo dục không giống nhiều dịch vụ
khác, nó kéo dài toàn bộ thời gian mà trẻ và gia đình gắn bó với nhà trường, có thể là
một năm học, một cấp học, có thể là liên cấp học (với các trường có nhiều cấp học).
Và như vậy, ở đây có sự đan xen giữa giai đoạn tiêu dùng dịch vụ và giai đoạn đánh
giá sau khi mua dịch vụ.
Giai đoạn đánh giá sau khi mua dịch vụ: trong giai đoạn này, khách hàng sẽ đối
chiếu giữa các kỳ vọng với những cảm nhận của họ về dịch vụ. Nếu cảm nhận về các
yếu tố của dịch vụ vượt điều họ mong đợi, thì họ thỏa mãn, họ hài lòng. Đối với các
nhà cung cấp dịch vụ, họ luôn cần nắm bắt, phân tích được sự đánh giá của khách
hàng, cả sự hài lòng và chưa hài lòng, vì điều này rất quan trọng cho sự phát triển
của dịch vụ ở các chu kỳ, các bước tiếp sau. Trong dịch vụ nói chung hiện nay, các
dịch vụ “hậu mãi” (sau khi mua hàng) trở nên phổ biến bởi đây là một cách để tạo ra
lớp khách hàng trung thành.
39
Đối với các nhà trường, sự hài lòng của HS và cha mẹ HS qua năm tháng sẽ tạo
nên danh tiếng của nhà trường. Danh tiếng là một tiêu chí có tính rất tổng hợp, thể
hiện sự đánh giá của cộng đồng, của xã hội đối với nhà trường, về chất lượng dịch vụ
giáo dục và đóng góp của nhà trường cho sự phát triển.
Việc minh bạch các tiêu chí về chất lượng giáo dục mà nhà trường cam kết,
việc tổ chức đánh giá ngoài đối với các cơ sở giáo dục, kiểm định chất lượng giáo
dục, việc công nhận trường đạt chuẩn quốc gia,… cũng như việc đánh giá mức độ
hài lòng của HS và phụ huynh HS đang giúp cho nâng cao chất lượng dịch vụ giáo
dục một cách thực chất. Tuy nhiên, cũng cần nhấn mạnh rằng các đánh giá về mức
độ hài lòng luôn có tính chủ quan, không tránh khỏi cảm xúc.
1.3. Một số chỉ tiêu về tiếp cận dịch vụ giáo dục và kết quả giáo dục
Các chỉ tiêu chính về tiếp cận dịch vụ giáo dục và kết quả giáo dục được đưa
vào trong các báo cáo phát triển con người toàn thế giới (do UNDP công bố) [130]
và trong báo cáo phát triển con người quốc gia [84], [90], [91], các báo cáo khảo sát
mức sống dân cư [69], các báo cáo phân tích kết quả của các cuộc Tổng điều tra dân
số và nhà ở. Tùy theo yêu cầu phân tích, còn có nhiều chỉ tiêu phản ánh chi tiết hơn
các khía cạnh này.
1.3.1. Một số chỉ tiêu chính phản ánh tiếp cận dịch vụ giáo dục
- Tình trạng đi học: đang đi học; đã thôi học; chưa đi học. Khi phân tích tình
trạng đi học chung của dân số, ta xác định được tình hình tiếp cận giáo dục (của
người đang đi học) và học vấn đạt được (của người đã thôi học). Việc phân tích tình
trạng đi học của những người trong độ tuổi đi học phổ thông còn cho biết về tình
trạng HS bỏ học giữa chừng,…
- Tỷ lệ đi học chung (của một cấp học): là tỷ lệ % giữa số trẻ em đang học cấp
học nhất định so với tổng số trẻ em trong độ tuổi đi học cấp học đó. Như vậy:
Tỷ lệ đi học chung cấp tiểu học là tỷ lệ % số học sinh đang học cấp tiểu học so
với tổng dân số ở độ tuổi cấp tiểu học từ 6-10 tuổi.
Tỷ lệ đi học chung cấp THCS là tỷ lệ % giữa số người đang học THCS so với
tổng dân số trong độ tuổi cấp trung học cơ sở từ 11-14 tuổi.
40
Tỷ lệ đi học chung cấp THPT là tỷ lệ % giữa số người đang học THPT so với
tổng dân số trong độ tuổi cấp trung học phổ thông từ 15-17 tuổi.
Tỷ lệ đi học chung (đặc biệt là đối với cấp tiểu học) có thể lớn hơn 100%. Điều
này liên quan đến việc có những em đi học muộn tuổi và sớm tuổi (đặc biệt là muộn
tuổi). Chính vì thế, tỉ trọng đi học chung bậc tiểu học ở nông thôn thường cao hơn ở
thành thị.
Bảng 1.2. Tỷ lệ đi học chung chia theo cấp học, thành thị - nông thôn
Đơn vị: %
Tiểu học
THCS
THPT
Thành thị 2006
101,2
96,7
85,7
2008 2010
101,1 100,0
96,9 96,4
86,9 84,4
2012 2014
101,3 100,4
95,2 98,1
83,6 86,5
2016 Nông thôn 2006
100,0 106,0
95,9 95,8
87,1 70,1
2008 2010
105,1 101,6
95,6 93,3
70,0 67,6
2012 2014
104,0 102,1
90,9 93,0
67,7 71,7
2016
101,3
95,7
70,1
Nguồn: Kết quả khảo sát mức sống dân cư Việt Nam năm 2016 [69]
-Tỷ lệ đi học đúng tuổi: là tỷ lệ % giữa số người trong độ tuổi của một cấp học
xác định đang học cấp học đó so với dân số trong độ tuổi của cấp học.
Tỷ lệ học sinh đi học đúng tuổi cấp tiểu học là số phần trăm số học sinh tuổi từ
6-10 tuổi đang học cấp tiểu học so với tổng dân số trong độ tuổi cấp tiểu học từ 6-10
tuổi.
Tỷ lệ học sinh đi học đúng tuổi cấp THCS là số phần trăm số học sinh tuổi từ
11-14 tuổi đang học cấp THCS so với tổng dân số trong độ tuổi cấp THCS từ 11-14
tuổi.
41
Tỷ lệ học sinh đi học đúng tuổi cấp THPT là số phần trăm số học sinh tuổi từ
15-17 tuổi đang học cấp THPT so với tổng dân số trong độ tuổi cấp THPT từ 15-17
tuổi.
Các tỷ lệ này cho phép đánh giá tỷ lệ huy động HS đi học đúng tuổi. Trong các
cuộc Khảo sát mức sống dân cư (2 năm một lần), cả hai chỉ tiêu này đều được công
bố. Tỷ lệ đi học đúng tuổi đều dưới 100% và giảm dần từ tiểu học đến THPT.
Các chỉ tiêu về tỷ lệ đi học nêu trên có thể tính riêng cho thành thị, nông thôn,
cho các biến phân tổ khác như thành phần dân tộc của chủ hộ,… [69].
Hiệu số giữa tỷ lệ đi học chung và tỷ lệ đi học đúng tuổi cho biết tỷ lệ đi học
sớm tuổi và đi học muộn tuổi.
Ngoài ra, trong các báo cáo phát triển con người của Liên Hợp Quốc còn có chỉ
tiêu tỉ lệ đi học chung bậc đại học tính bằng phần trăm số người đang học đại học/cao
đẳng so với dân số trong độ tuổi quy định đang học đại học (18-22 tuổi).
Bảng 1.3. Tỷ lệ đi học đúng tuổi chia theo cấp học, thành thị - nông thôn
Đơn vị: %
Tiểu học
THCS
THPT
Thành thị
2006
89,7
82,8
66,3
2008
89,2
82,6
66,4
2010
92,8
86,0
69,6
2012
92,6
85,0
70,2
2014
93,6
88,9
73,2
2016
97,6
93,9
79,6
Nông thôn
2006
89,1
77,7
50,3
2008
88,1
77,1
50,6
2010
91,6
79,7
54,4
2012
92,4
80,1
55,6
2014
92,8
82,7
59,3
2016
96,8
89,0
64,5
Nguồn: Kết quả khảo sát mức sống dân cư Việt Nam năm 2016 [69]
42
- Tỷ lệ đi học gộp các cấp: Trong Báo cáo phát triển con người của Liên Hợp
Quốc (2007-2008) có đưa ra chỉ tiêu này. Tỷ lệ đi học gộp các cấp được tính bằng
tổng số người đang đi học ở tất cả các bậc học tiểu học, trung học và đại học không
kể tuổi chia cho số người ở độ tuổi đi học về mặt lý thuyết cho cả ba bậc học này (%)
(dân số tuổi 6-22). Đó là vì tuổi lý thuyết: học phổ thông: (tròn) 6 – 17, tính cộng
thêm 5 năm sau độ tuổi phổ thông để học xong đại học, tức là 22 tuổi tròn.
- Tỷ lệ học sinh bỏ học bậc tiểu học: Đó là tỉ lệ phần trăm số học sinh thuộc
một đoàn hệ nhất định (một “lứa”) đã nhập học trường tiểu học, nhưng đã bỏ lớp
trước khi học lớp cuối cấp. Chỉ tiêu này được tính bằng 100 trừ đi tỷ lệ HS còn học
đến lớp cuối cấp và giả định rằng tỷ suất bỏ học quan sát được không thay đổi trong
suốt cuộc đời của đoàn hệ và rằng những người đã bỏ học không tái nhập học. Chỉ
tiêu này có trong các báo cáo phát triển con người từ phiên bản 2010 trở lại đây. Ví
dụ, trong Báo cáo phát triển con người 2018, chỉ tiêu này tính trung bình giai đoạn
2007-2016 [130].
1.3.2. Một số chỉ tiêu chính phản ánh kết quả giáo dục
- Tỷ lệ người lớn biết chữ (biết đọc biết viết): Trong Báo cáo phát triển con
người của Liên Hợp Quốc, tỷ lệ người lớn biết chữ là tỷ lệ phần trăm dân số tuổi từ
15 trở lên có thể hiểu, đọc và viết một câu ngắn trong đời sống thường nhật của họ.
Trong Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam (2009), một người được coi là biết
đọc và biết viết nếu người đó có khả năng đọc, viết và hiểu đầy đủ những câu đơn
giản bằng chữ quốc ngữ, chữ dân tộc hoặc chữ nước ngoài.
Tùy theo các mục đích phân tích sâu về thành tựu giáo dục, người ta còn tính tỷ
lệ thanh thiếu niên 15-24 tuổi biết chữ (UNDP - Báo cáo phát triển con người) hay tỷ
lệ dân số nam hay dân số nữ tuổi 25-64 biết chữ (WB - Các chỉ tiêu phát triển thế
giới).
- Số năm đi học trung bình: Trong Báo cáo phát triển con người của Liên Hợp
Quốc có định nghĩa: số năm đi học trung bình là số năm mà dân số tuổi từ 25 trở lên
nhận được trong cuộc đời mình, dựa trên trình độ học vấn cao nhất đạt được của dân
cư, được chuyển đổi thành số năm đi học dựa trên thời gian lý thuyết để đạt được
trình độ học vấn ở từng bậc học. Ví dụ, nếu tốt nghiệp đại học, thì về mặt lý thuyết,
43
thời gian đi học là 12 + 5 = 17 năm. Trong báo cáo phát triển con người do Liên Hợp
Quốc công bố từ phiên bản năm 2010 trở lại đây, chỉ tiêu này được dùng thay cho chỉ
tiêu tỷ lệ người lớn biết chữ khi tính toán chỉ số phát triển con người (HDI).
- Số năm đi học kỳ vọng: là số năm đi học mà một đứa trẻ bước vào tuổi đến
trường có thể kỳ vọng nhận được nếu như hình mẫu chủ đạo của tỷ suất nhập học đặc
trưng theo tuổi không thay đổi trong suốt cuộc đời của đứa trẻ [130]. Trong báo cáo
phát triển con người do Liên Hợp Quốc công bố từ phiên bản năm 2010 trở lại đây,
chỉ tiêu này cùng với chỉ tiêu về số năm đi học trung bình được dùng để tính ra chỉ số
giáo dục, một thành phần của chỉ số phát triển con người (HDI).
- Trình độ học vấn là một trong những chỉ tiêu quan trọng phản ánh chất lượng
dân số. Trong các cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở của nước ta, trình độ học vấn
được chia thành: (1) chưa học xong tiểu học, (2) tốt nghiệp tiểu học, (3) tốt nghiệp
THCS, (4) tốt nghiệp THPT trở lên. Theo phần giải thích khái niệm, thuật ngữ được
sử dụng trong Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009 [1], thì:
Một người được coi là Chưa học xong tiểu học, nếu người đó đã từng đi học
nhưng chưa tốt nghiệp tiểu học, kể cả người học lớp cuối cùng của bậc tiểu học
nhưng chưa đỗ tốt nghiệp.
Một người được coi là Tốt nghiệp tiểu học, nếu người đó đã từng đi học và tốt
nghiệp tiểu học, kể cả người đã từng học THCS nhưng chưa đỗ tốt nghiệp bậc học
này.
Một người được coi là Tốt nghiệp trung học cơ sở, nếu người đó đã từng đi học
và tốt nghiệp THCS, kể cả người đã từng học THPT nhưng chưa đỗ tốt nghiệp bậc
học này.
Một người được coi là Tốt nghiệp trung học phổ thông trở lên là người đã từng
đi học và tốt nghiệp THPT, hoặc đã hay chưa tốt nghiệp các bậc học cao hơn THPT
như cao đẳng, đại học, thạc sỹ, tiến sỹ.
Những người tốt nghiệp sơ cấp nghề được tính là tốt nghiệp THCS. Những
người tốt nghiệp trung cấp nghề được tính là tốt nghiệp THPT.
Trong Báo cáo phát triển con người những năm gần đây còn có chỉ tiêu: Tỉ lệ
dân số 25 tuổi trở lên có tốt nghiệp trung học phổ thông trở lên. Theo Báo cáo phát
44
triển con người 2018, tỷ lệ này của Việt Nam là 69,4%, cao hơn Thái Lan (44,8%),
Inđônêxia (48,8%) nhưng thấp hơn Philippin (73,2%), Malaysia (80,0%) và Trung
Quốc (77,4%) [130].
-Trình độ chuyên môn kỹ thuật: được phân thành 5 nhóm gồm: không có trình
độ chuyên môn kỹ thuật, sơ cấp, trung cấp, cao đẳng, đại học trở lên. Trong Tổng
điều tra dân số và nhà ở năm 2009 [1], các khái niệm này được định nghĩa như sau:
Một người được coi là người có trình độ “Sơ cấp”, nếu trình độ chuyên môn kỹ
thuật cao nhất đã được đào tạo và được cấp chứng chỉ là sơ cấp hoặc dạy nghề dưới 3
tháng.
Một người được coi là người có trình độ “Trung cấp”, nếu trình độ chuyên môn
kỹ thuật cao nhất đã được đào tạo và được cấp bằng là trung cấp chuyên nghiệp hoặc
trung cấp nghề.
Một người được coi là người có trình độ “Cao đẳng”, nếu trình độ chuyên môn
kỹ thuật cao nhất đã được đào tạo và được cấp bằng là cao đẳng hoặc cao đẳng nghề.
Một người được coi là người có trình độ “Đại học trở lên”, nếu người đó đã
được đào tạo và được cấp bằng đại học, thạc sỹ hoặc tiến sỹ.
1.3.3. Các chỉ tiêu đánh giá quy mô và chất lượng dịch vụ giáo dục
Để đánh giá quy mô dịch vụ giáo dục của quốc gia và ở cấp độ địa phương, có
nhiều chỉ tiêu, trong đó có các chỉ tiêu sau:
- Tổng số học sinh đi học, chia ra theo cấp, lớp đối với học sinh phổ thông, bậc
đào tạo đại học và giáo dục chuyên nghiệp
- Số học sinh, sinh viên tính trên một vạn dân
Để đánh giá chất lượng giáo dục, có các chỉ tiêu:
- Số học sinh bình quân một lớp học ở từng cấp học
- Bình quân số giáo viên cho một lớp (giáo dục phổ thông)
- Số học sinh phổ thông bình quân một giáo viên
- Trình độ của giáo viên
- Trang thiết bị trường học
- Tỉ lệ trường học đạt chuẩn quốc gia (đây là một chỉ tiêu tổng hợp)
- Chi phí đào tạo bình quân một học sinh, sinh viên
45
1.4. Các vấn đề liên quan đến mạng lưới trường học phổ thông
1.4.1. Quy hoạch mạng lưới trường học phổ thông
1.4.1.1. Khái niệm về quy hoạch
Trong Luật Quy hoạch được Quốc hội thông qua năm 2017 [55], “Quy hoạch là
việc sắp xếp, phân bố không gian các hoạt động kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh
gắn với phát triển kết cấu hạ tầng, sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường trên lãnh
thổ xác định để sử dụng hiệu quả các nguồn lực của đất nước phục vụ mục tiêu phát
triển bền vững cho thời kỳ xác định” (Điều 3). Luật Quy hoạch cũng xác định nhiều
loại quy hoạch khác nhau:
- Quy hoạch tổng thể quốc gia
- Quy hoạch không gian biển quốc gia
- Quy hoạch sử dụng đất quốc gia
- Quy hoạch vùng
- Quy hoạch tỉnh
- Quy hoạch có tính chất kỹ thuật, chuyên ngành
Trong Luật Quy hoạch, Điều 5 xác định hệ thống quy hoạch quốc gia và Điều 6
xác định mối quan hệ giữa các loại quy hoạch.
1.4.1.2. Quy hoạch phát triển giáo dục
Trong quan hệ với quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH, quy hoạch phát triển
GD&ĐT thuộc quy hoạch phát triển các ngành và là một bộ phận của quy hoạch phát
triển KT-XH nói chung. Quy hoạch phát triển ngành GD&ĐT là bản luận chứng
khoa học về quá trình phát triển của hệ thống GD&ĐT trong thời kỳ quy hoạch. Trên
cơ sở đánh giá những thực trạng GD, phân tích được những điểm mạnh, điểm yếu,
những cơ hội và những nguy cơ, những thách thức. Quy hoạch phát triển GD&ĐT
phải xác định được nguồn lực. Từ đó đưa ra các quan điểm, mục tiêu phương hướng,
những giải pháp phát triển và phân bố toàn bộ hệ thống GD&ĐT, trong đó đặc biệt
chỉ rõ yêu cầu nâng cao chất lượng GD&ĐT, phát triển lực lượng giáo viên, phân bố
theo các bước đi và không gian đáp ứng yêu cầu phát triển toàn diện con người và
phù hợp với khả năng, điều kiện cụ thể để phát triển KT-XH của địa phương, của cả
nước.
46
a) Mục đích của quy hoạch phát triển GD&ĐT
- Quy hoạch phát triển GD&ĐT nhằm tạo cơ sở khoa học, giúp các nhà quản lý
GD hoạch định chủ trương, chính sách, kế hoạch phát triển GD cho từng giai đoạn,
từng khâu, từng bước tạo thế chủ động trong điều hành hệ thống GD để GD thực
hiện đi trước, đón đầu trong sự nghiệp phát triển KT-XH của địa phương, đất nước.
- Gắn quy hoạch GD&ĐT vào quy hoạch tổng thể KT-XH nhằm làm cho GD
phát triển cân đối, phù hợp với phát triển KT-XH.
b) Yêu cầu của quy hoạch phát triển GD&ĐT:
- Quy hoạch phát triển GD&ĐT phải được xây dựng trên cơ sở đường lối chiến
lược phát triển KT-XH của quốc gia và đường lối, chiến lược, định hướng phát triển
GD&ĐT của Đảng và Nhà nước.
- Quy hoạch GD là bộ phận không thể thiếu của quy hoạch KT-XH. Chính vì
vậy, một mặt nó phải tuân theo các nguyên tắc cơ bản của khoa học quy hoạch, mặt
khác nó phải gắn với quy hoạch dân cư, quy hoạch lao động, quy hoạch vùng kinh tế.
Quy hoạch GD kết hợp hài hòa với quy hoạch các ngành và lãnh thổ. Nó đảm bảo sự
tương thích giữa quy hoạch với các ngành khác, lấy quy hoạch các ngành khác làm
cơ sở, đồng thời là cơ sở để quy hoạch các ngành khác.
- Quy hoạch phát triển GD&ĐT phải được xây dựng sao cho các hệ thống con
của hệ thống GD được phát triển cân đối đồng bộ với nhau, hỗ trợ và thúc đẩy nhau
cùng phát triển. Tạo cho hệ thống GD phát triển bền vững.
- Quy hoạch phát triển GD phải phù hợp và đáp ứng được các yêu cầu của quy
hoạch phát triển KT-XH nói chung.
c) Nội dung quy hoạch phát triển GD&ĐT
Xét một cách tổng quát, nội dung của quy hoạch GD&ĐT bao gồm một số lĩnh
vực chủ yếu sau:
- Xác định quy mô học sinh cho từng thời kỳ kế hoạch.
- Quy hoạch về mạng lưới trường lớp.
- Quy hoạch về đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý.
- Quy hoạch về cơ sở vật chất cho sự phát triển GD&ĐT.
Vì thế, trong bản Quy hoạch đều có các phân tích về:
47
- Đặc điểm KT-XH tác động đến sự phát triển hệ thống GD&ĐT.
- Thực trạng phát triển của hệ thống GD&ĐT (về các khía cạnh: quy mô học
sinh và xu hướng biến động theo từng cấp học, hình thức học; chất lượng đội
ngũ giáo viên; cơ sở vật chất của hệ thống GD&ĐT; tài chính cho GD&ĐT; hiệu quả
của GD&ĐT).
- Phương hướng phát triển và phân bố hệ thống GD&ĐT trong thời kỳ quy
hoạch.
- Kiến nghị hệ thống chính sách và biện pháp phát triển hệ thống GD&ĐT.
1.4.1.3. Quy hoạch mạng lưới trường học phổ thông
Quy hoạch mạng lưới trường học phổ thông là bản luận chứng khoa học về dự
báo phát triển và sắp xếp, bố trí hợp lý theo không gian và thời gian hệ thống này của
địa phương. Trên cơ sở đánh giá thực trạng, phân tích những điểm mạnh, điểm yếu,
những cơ hội và những nguy cơ, cùng với việc đánh giá xem xét các nhân tố ảnh
hưởng đến hệ thống trường lớp phổ thông. Từ đó đưa ra những quan điểm, mục tiêu,
phương hướng quy hoạch và những giải pháp thực hiện quy hoạch. Quy hoạch mạng
lưới trường học phổ thông là bộ phận của quy hoạch phát triển GD&ĐT. Nó phải đáp
ứng toàn bộ mục đích, yêu cầu, nguyên tắc của quy hoạch phát triển GD, đồng thời
phải đáp ứng quy định của Điều lệ trường học, tiêu chuẩn trường chuẩn quốc gia của
các cấp học do Bộ GD&ĐT ban hành.
1.4.1.4. Các tiêu chuẩn trong quy hoạch và xây dựng
Theo Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về quy hoạch xây dựng [11], các công trình
dịch vụ đô thị phục vụ trong đơn vị ở (trường học, chợ…) cần đảm bảo bán kính
phục vụ không quá 500m. Riêng đối với khu vực có địa hình phức tạp, bán kính phục
vụ của các loại công trình này không quá 1,0km. Các công trình dịch vụ khác trong
đô thị phải phù hợp với cấu trúc đô thị và có mối liên kết với các khu chức năng khác
trong đô thị. Chiều cao công trình phải tuân thủ quy chuẩn QCVN 06:2010/BXD.
Đối với khu vực có quy mô dân số từ 20.000 người trở lên, cần bố trí ít nhất 01
trường trung học phổ thông.
48
Bảng 1.4. Quy định về quy mô tối thiểu của các công trình dịch vụ đô thị cơ bản
Chỉ tiêu sử dụng công trình
Chỉ tiêu sử dụng đất
tối thiểu
tối thiểu
Trường
Cấp quản lý
Đơn vị tính
Chỉ tiêu Đơn vị tính Chỉ tiêu
Đơn vị ở
chỗ/1.000 người
65
m2/1 chỗ
15
Tiểu học
Đơn vị ở
chỗ/1.000 người
55
m2/1 chỗ
15
THCS
Đô thị
chỗ/1.000 người
40
m2/1 chỗ
15
THPT
Bảng 1.5. Các chỉ tiêu công trình công cộng, dịch vụ trong trường học phổ thông
Chỉ tiêu cấp điện
Tỷ lệ đất tối thiểu trồng
Bán kính phục vụ
Không có điều hòa
Có điều hòa
cây xanh
tối đa
nhiệt độ
nhiệt độ
30%
0,1kW/HS
0,15kW/HS
1 km
Nguồn: [11]
1.4.2. Vấn đề phát triển mạng lưới trường học phổ thông
Mạng lưới các trường học phổ thông được tổ chức trên cơ sở quy hoạch mạng
lưới cơ sở giáo dục của một địa phương, do vậy, vấn đề đầu tiên là phân tích sự phù
hợp của mạng lưới trường phổ thông với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương (được phê duyệt hay được điều chỉnh). Đồng thời, đánh giá tác động của
mạng lưới trường hiện có đến chất lượng phục vụ nhu cầu tiếp cận giáo dục của trẻ
em ở địa phương (và có thể của địa phương lân cận). Trên cơ sở đó, có thể phát triển
mạng lưới trường phổ thông “theo chiều rộng” mà đặc điểm chủ yếu là mở rộng quy
mô chung của mạng lưới cũng như của từng cơ sở giáo dục, tăng số lượng cơ sở
trường lớp, đa dạng hóa loại hình dịch vụ giáo dục phổ thông.
Việc đa dạng hóa các loại hình trường theo Luật Giáo dục có thể thuận lợi hơn
trong thời gian tới, khi mà việc xã hội hóa giáo dục có được hành lang pháp lý rõ
ràng hơn, trách nhiệm quản lý nhà nước trong việc đầu tư và quản lý hệ thống các
trường ngoài công lập cũng chặt chẽ và minh bạch hơn. Việc lập thêm các cơ sở
trường mới sẽ đòi hỏi nhiều thời gian hơn, vì theo “Điều 49. Điều kiện thành lập nhà
trường và điều kiện được phép hoạt động giáo dục” Khoản 1 đã ghi rõ:
49
“1. Nhà trường được thành lập khi có đề án thành lập trường phù hợp với quy
hoạch phát triển kinh tế - xã hội và quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục theo quy
định của Luật Quy hoạch.
Đề án thành lập trường xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ, chương trình và nội
dung giáo dục; đất đai, cơ sở vật chất, thiết bị, địa điểm dự kiến xây dựng trường, tổ
chức bộ máy, nguồn lực và tài chính; phương hướng chiến lược xây dựng và phát
triển nhà trường”.
Đối với các thành phố, nơi có điều kiện đầu tư, mạng lưới trường học phổ
thông còn song song phát triển “theo chiều sâu”, với các khía cạnh như nâng cấp,
đồng bộ hóa, hiện đại hóa cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có, hoàn chỉnh về mặt cơ cấu,
thể chế, chính sách và chất lượng dịch vụ; nâng cao năng lực của cán bộ quản lý,
nhân viên, giáo viên; đầu tư mua sắm thiết bị dạy học, áp dụng công nghệ mới nhằm
cải thiện chất lượng dịch vụ giáo dục.
1.5. Các nhân tố kinh tế - xã hội tác động đến mạng lưới trường học phổ thông
Giáo dục thuộc lĩnh vực dịch vụ, nên mặc dù việc tổ chức mạng lưới trường
học phổ thông có chịu ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên, nhưng ảnh hưởng chính
yếu vẫn là từ các nhân tố kinh tế - xã hội. Trên cơ sở phân tích các tài liệu lý thuyết
và quan sát thực tiễn, trong đó có thực tiễn phát triển giáo dục phổ thông ở TPHCM,
NCS đã đề xuất một sơ đồ mang tính lý thuyết về các nhân tố kinh tế - xã hội tác
động đến mạng lưới trường học phổ thông (Hình 1.3). Trong sơ đồ này, các nhân tố
ở vòng trong được coi là các nhân tố tác động trực tiếp đến mạng lưới trường học
phổ thông. Các nhân tố ở vòng ngoài tác động vào các nhân tố ở vòng trong và thực
sự tạo nên môi trường kinh tế - xã hội rộng lớn hơn tác động tới mạng lưới trường
học phổ thông. Ở chừng mực nào đó, có thể thấy quan hệ nhân – quả rõ ràng giữa
các nhân tố ở vòng ngoài và các nhân tố ở vòng trong. Do vậy, trong nghiên cứu của
luận án, NCS cố gắng tìm ra các mối quan hệ này để vận dụng vào trường hợp cụ thể
của TPHCM.
50
Hình 1.3. Sơ đồ các nhân tố kinh tế - xã hội tác động đến
mạng lưới trường học phổ thông
1.5.1. Số học sinh đi học theo từng cấp học
Trong quy hoạch giáo dục ở nước ta, chúng ta luôn đặt mục tiêu tăng tỉ lệ trẻ
em đi học, đặc biệt là tỉ lệ đi học đúng tuổi, điều này liên quan trực tiếp đến mục tiêu
phổ cập giáo dục. Đối với việc tổ chức mạng lưới trường học phổ thông, việc xác
định số HS đi học ở từng cấp học được xác định dựa trên xác định số trẻ em ở trong
độ tuổi đi học ở từng cấp học, tỉ lệ đi học đúng tuổi (thực tế và kỳ vọng). Việc dự báo
cho những giai đoạn trong tương lai còn phải dựa trên việc tính toán “trượt tuổi”
từng năm và từng giai đoạn.
Quy mô, cơ cấu tuổi của dân số, sự gia tăng dân số (cả gia tăng tự nhiên và gia
tăng cơ học) là “định thức” để xác định tổng cầu về học tập ở từng cấp học. Còn sự
phân bố dân cư tạo ra cơ sở để tính toán số HS và ước tính số trường lớp cần thiết ở
mỗi địa bàn cụ thể, cũng như để hoạch định, cũng như điều chỉnh phạm vi tuyển sinh
51
“đúng tuyến” của các trường. Đối với các thành phố lớn như TPHCM, gia tăng cơ
học có ảnh hưởng rất rõ nét và có thể tạo ra các “điểm nóng” về nhu cầu giáo dục
phổ thông ở những quận/huyện, phường/xã có quy mô và tỉ lệ người nhập cư cao,
nhất là nhập cư ngoại tỉnh. Nếu căn cứ vào các tiêu chuẩn định mức về quy mô học
sinh cho một lớp học ở một cấp học, về bình quân giáo viên một lớp, thì có thể xác
định mức cung cần thiết về cơ sở trường lớp, giáo viên, điều kiện vật chất kỹ thuật để
có thể duy trì chất lượng giáo dục như mong đợi. Ngược lại, nếu cung không đáp ứng
được cầu, thì sẽ xảy ra tình trạng HS phải học lớp đông hoặc quá đông, nhất là với
các trường có danh tiếng ở địa phương, và một bộ phận HS không được nhập học,
phải đi học ở các trung tâm giáo dục thường xuyên. Kết quả là xã hội phải trả giá về
chất lượng giáo dục.
Mức sống của dân cư ảnh hưởng rất lớn đến việc huy động HS đi học và cơ cấu
trường lớp. Khi mức sống cao hơn, các gia đình sẽ có điều kiện và có nhu cầu đầu tư
vào việc học hành của con cái cao hơn cả tốc độ tăng thu nhập thực tế (điều này đúng
với nhiều ngành dịch vụ, và đã được nói nhiều trong các giáo trình về kinh tế dịch
vụ) (Hình 1.4).
Hình 1.4. Độ đàn hồi của các nhu cầu dịch vụ lớn hơn nhiều so với nhu cầu về
sản phẩm nông-lâm-ngư nghiệp và công nghiệp chế tạo [127]
Chính đặc điểm này của ngành dịch vụ (trong đó có dịch vụ giáo dục) đã giúp
giải thích một thực tế ở nước ta trong những năm qua: ở các thành phố lớn, thu nhập
của một bộ phận dân cư tăng nhanh, cũng như sự phân tầng xã hội ngày càng rõ rệt.
Vì thế, đã có một xu hướng là phát triển các trường cung cấp “dịch vụ giáo dục chất
lượng cao”, “trường có yếu tố nước ngoài”, có mức thu học phí rất cao so với các
trường công lập hoặc tư thục khác, nhưng vẫn thu hút nhiều HS.
52
1.5.2. Vốn đầu tư cho giáo dục
Luật Giáo dục 2019 [57] đã xác định rõ:
“Điều 17. Đầu tư cho giáo dục
1. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển. Đầu tư trong lĩnh vực giáo dục là
hoạt động đầu tư thuộc ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện và được ưu đãi,
hỗ trợ đầu tư theo quy định của pháp luật.
2. Nhà nước ưu tiên đầu tư và thu hút các nguồn đầu tư khác cho giáo dục; ưu
tiên đầu tư cho phổ cập giáo dục, phát triển giáo dục ở miền núi, hải đảo, vùng đồng
bào dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, địa bàn có
khu công nghiệp.
Nhà nước khuyến khích và bảo hộ các quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân trong nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài
đầu tư cho giáo dục.
3. Ngân sách nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong tổng nguồn lực đầu tư cho giáo
dục”.
Như vậy, nguồn vốn ngân sách nhà nước là nguồn quan trọng nhất trong đầu tư
cho giáo dục. Theo Tổng cục Thống kê, chi sự nghiệp giáo dục, đào tạo luôn là
khoản chi lớn nhất trong các khoản mục chi phát triển sự nghiệp kinh tế - xã hội, và
tỉ lệ này đã tăng lên từ 10,89% (2005) lên đến mức cao nhất là 15,83% (2014), năm
2017 sơ bộ cũng xấp xỉ 15%.
Bảng 1.6. Tỉ trọng của chi sự nghiệp giáo dục, đào tạo trong
cơ cấu chi ngân sách nhà nước
Đơn vị: %
Sơ bộ
2005
2010
2014
2015
2016
2017
Chi phát triển sự nghiệp
50,37
58,05
65,52
61,51
61,52
62,0
Kinh tế - xã hội
Trong đó:
Chi sự nghiệp giáo dục,
10,89
12,05
15,83
14,01
14,38
14,84
đào tạo
Nguồn: TCTK, Niên giám thống kê 2010, 2017
53
Theo báo cáo từ Vụ Kế hoạch – Tài chính (Bộ GD&ĐT) [141], ngân sách nhà
nước chi cho GD&ĐT tối thiểu ở mức 20% tổng chi ngân sách được Quốc hội và
Chính phủ duy trì, trong đó chi thường xuyên cho GD&ĐT ở Trung ương bình quân
khoảng 11% (thực tế năm 2017 là 14,84%), địa phương khoảng 89% của tổng ngân
sách nhà nước chi cho GD&ĐT. Quy mô ngân sách cho giáo dục tăng liên tục qua
các năm, tổng quyết toán chi ngân sách cho lĩnh vực giáo dục năm 2013 là 155.604
tỷ đồng và năm 2017 là 248.118 tỷ đồng. Trong cơ cấu chi ngân sách địa phương
khoảng 32,7% cho tiểu học, 25,3% cho THCS, 12% cho THPT.
Nguồn thứ hai là các nguồn xã hội hóa, bao gồm nguồn vốn đầu tư, đóng góp
của cá nhân, tổ chức trong nước và nước ngoài. Tuy nhiên, theo đánh giá của Bộ
GD&ĐT (được dẫn trong [141]), nguồn ngân sách từ xã hội hóa mới đạt khoảng
4.700 tỉ đồng (bằng 2% ngân sách chi cho giáo dục). TPHCM là địa phương thực
hiện xã hội hóa giáo dục thành công nhất, năm học 2017-2018 huy động được
khoảng 1.455 tỷ đồng (bằng 30% nguồn vốn xã hội hóa của cả nước). Điều đáng nói
là tính chung cả nước, nguồn vốn xã hội hóa chủ yếu vẫn dành cho giáo dục đại học
và giáo dục nghề nghiệp.
Nguồn vốn từ các tổ chức, cá nhân đầu tư cho giáo dục còn hạn chế, có thể thấy
một số lý do như sau:
- Đầu tư trong lĩnh vực giáo dục là hoạt động đầu tư thuộc ngành, nghề đầu tư
kinh doanh có điều kiện (theo Luật Giáo dục), mặc dù Nhà nước tuyên bố là được ưu
đãi, hỗ trợ đầu tư theo quy định của pháp luật.
- Sự hình thành và phát triển thị trường dịch vụ giáo dục còn rất hạn chế. Cho
đến nay, thu hút chủ yếu vẫn là ở giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp. Tuy
nhiên, nếu theo phân tích ở [125] đã được nhắc ở chương Mở đầu, thì hiệu quả kinh
tế trong đầu tư vào giáo dục tiểu học là cao nhất, rồi đến giáo dục trung học và ít hơn
ở giáo dục đại học, rất hy vọng đầu tư cho giáo dục phổ thông sẽ có sức sống mới.
Vốn đầu tư cho giáo dục bị chi phối rất mạnh bởi sự phát triển KT-XH và quy
hoạch tổng thể phát triển KT-XH của đất nước và của từng địa phương. Trong những
năm qua, nền kinh tế nước ta duy trì tăng trưởng tốt, các cấp lãnh đạo Đảng và Chính
phủ đều thống nhất đánh giá vai trò của giáo dục, về đầu tư cho giáo dục là đầu tư
54
phát triển, để có thể tạo động lực tăng trưởng lâu dài cho nền kinh tế, trong điều kiện
của cạnh tranh toàn cầu, nền cách mạng công nghiệp 4.0, dân số Việt Nam đang
trong giai đoạn dân số vàng nhưng già hóa nhanh. Chính vì thế, ngân sách chi cho
giáo dục đã tăng lên cả về giá trị và tỉ trọng trong chi phát triển sự nghiệp KT-XH.
Đối với các địa phương có nguồn thu lớn như TPHCM, tỉ lệ chi cho giáo dục trong
ngân sách chi thường xuyên chỉ chưa đến 30%, thấp hơn các địa phương có nhiều
khó khăn, nhưng cũng lên tới hơn 10 nghìn tỉ đồng (năm 2017), không chỉ để chi trả
những khoản chính là lương giáo viên và cán bộ nhân viên ngành giáo dục, mà còn
để nâng cấp cơ sở vật chất kỹ thuật của các nhà trường. Trong khi đó, ở các địa
phương cần xin cân đối ngân sách từ trung ương, mặc dù tỉ lệ chi cho giáo dục cao
hơn, nhưng chủ yếu vẫn là tiền lương.
1.5.3. Quỹ đất
Quỹ đất bao gồm các diện tích đất thuộc quyền quản lý, sử dụng của Bộ, ngành,
địa phương, doanh nghiệp nhà nước; các diện tích đất hiện hữu thuộc quy hoạch xây
dựng chi tiết của các địa phương do một hay nhiều thành phần đang quản lý, sử
dụng, kể cả hộ dân, doanh nghiệp.
Quỹ đất sạch là quỹ đất đã được Nhà nước thu hồi đất, thực hiện bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư, giải phóng mặt bằng theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã
được cấp thẩm quyền phê duyệt.
Quỹ đất công là diện tích đất mà Nhà nước đã thu hồi, bồi thường xong nhưng
chưa giao, chưa cho thuê; quỹ đất đã giao cho Tổ chức Phát triển quỹ đất quản lý,
khai thác; đất đã chuyển đổi công năng sử dụng hoặc không còn nhu cầu sử dụng của
các cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức sự nghiệp
công.
Về quỹ đất xây dựng trường học: theo Đề án 20 do Chính phủ phê duyệt ngày
1/2/2008 về kiên cố hoá trường học và nhà công vụ cho giáo viên nêu rõ: UBND các
tỉnh, thành phố phải chủ động và chịu trách nhiệm với Thủ tướng Chính phủ trong tổ
chức, chỉ đạo triển khai thực hiện từ khâu xây dựng đề án, lập kế hoạch huy động các
nguồn vốn, dành quỹ đất có mặt bằng và địa điểm thuận lợi để xây dựng các trường
học, diện tích đất cần thiết đối với từng loại trường học theo quy định trong điều lệ
55
trường học và quyết định số 1475/QĐ-BTNMT ngày 28/9/2007 của Bộ Tài nguyên
và Môi trường.
Quỹ đất để xây mới và mở rộng trường lớp chịu ảnh hưởng có tính chi phối của
quá trình đô thị hóa và quy hoạch xây dựng.
Quá trình đô thị hóa không chỉ dẫn đến các luồng di cư nông thôn – thành thị và
các luồng di cư thành thị - thành thị, mà còn thúc đấy quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, với việc tăng trưởng nhanh các ngành công nghiệp, dịch vụ, củng cố cơ sở
kinh tế của đô thị, tạo ra nhiều việc làm. Đô thị hóa gắn liền với việc chỉnh trang đô
thị, trong đó có việc di dời các cơ sở công nghiệp gây ô nhiễm hoặc hiệu quả sử dụng
đất không cao ra ngoại thành, thay vào đó là các khu đô thị với các nhà cao tầng, các
công trình dịch vụ. Đô thị hóa gắn liền với việc phát triển mạng lưới giao thông đối
nội và giao thông đối ngoại của đô thị, trong đó rất ấn tượng là các tuyến đường vành
đai (vành đai 1, vành đai 2, vành đai 3,…) kết nối với các tuyến đường xuyên tâm.
Dọc theo các tuyến đường vành đai thường mọc lên các trung tâm dịch vụ mới, các
khu đô thị mới, và theo cách đó, thành phố từng bước được mở rộng.
Đô thị hóa hiện đại gắn liền với hoạt động của thị trường bất động sản. Trong
các thành phố lớn thường có các chung cư thương mại, các nhà biệt thự, khu nhà
thấp tầng đắt tiền, các “cộng đồng khép kín” (gated communities); ở đó thường có
các tiện ích phong phú, trong đó có các trường học chất lượng cao (phần nhiều các
trường này là các trường tư thục). Các đại gia bất động sản đều biết rằng các tiện ích
phong phú sẽ làm giá bất động sản tăng lên, và các trường chất lượng cao với học phí
“cao ngất ngưởng” vẫn tìm được khách hàng ngay trong khu vực đó, do vậy họ đều
chú ý dành quỹ đất cho xây trường khi quy hoạch. Nhưng trong đô thị cũng hình
thành các khu nhà ở xã hội, các “khu giãn dân” trong đó phần đông là các gia đình có
thu nhập thấp và trung bình, và ở các khu vực này thường không có các trường học
chất lượng cao.
Quy hoạch xây dựng là văn bản pháp lý rất quan trọng để xác định quỹ đất cho
xây dựng mới và mở rộng trường. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy các quy hoạch đã
được phê duyệt vẫn có thể bị thay đổi, và các thành phố lớn thường trình các bản quy
hoạch được điều chỉnh để cấp có thẩm quyền phê duyệt với lý do là quy hoạch cũ đã
56
trở thành “chiếc áo chật” cho đô thị. Điều này rất ảnh hưởng đến việc dành quỹ đất
cho giáo dục vì đất cho giáo dục không phải là đất sinh lời dưới con mắt các nhà đầu
tư bất động sản.
1.5.4. Quy hoạch mạng lưới trường
Trong mục 1.4 đã trình bày về vấn đề quy hoạch mạng lưới trường như là bộ
phận của quy hoạch phát triển ngành giáo dục và phải tuân thủ quy hoạch xây dựng,
và phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Chính
do nhiều ràng buộc nên quy hoạch mạng lưới trường là một việc khó khăn, đòi hỏi
nhiều thời gian và phải triển khai từng bước.
Chính do thời gian triển khai quy hoạch mạng lưới trường đòi hỏi nhiều năm,
thậm chí từ khi phê duyệt đến khi khánh thành một ngôi trường mới mất cả thập kỷ,
nên cần tính đến độ trễ này trong tổ chức mạng lưới trường.
1.5.5. Sự hài lòng của phụ huynh và học sinh
Như trong mục 1.2.3 đã phân tích, sự hài lòng của phụ huynh và HS sẽ chi phối
hành vi của họ đối với dịch vụ giáo dục. Ở nước Mỹ chẳng hạn, có những gia đình
không tin tưởng vào nền giáo dục Mỹ hoặc họ tin tưởng vào khả năng tự giáo dục
nhiều hơn, nên họ đã lựa chọn “home schooling” (đi học tại nhà). Tất nhiên ở Việt
Nam không thừa nhận HS không đến trường mà vẫn được thi lên lớp hay tốt nghiệp
bậc học. Nhưng sự hài lòng của phụ huynh và HS sẽ ảnh hưởng rất lớn đến việc họ
chọn trường cho con học, việc thay đổi trường học của con. Sức thu hút HS trong
tuyển sinh của trường sẽ chịu ảnh hưởng rất lớn bởi sự đánh giá của cộng đồng, đặc
biệt là của cha mẹ HS. Như vậy, sự hài lòng của phụ huynh và HS sẽ tác động rất
mạnh đến quan hệ cung cầu dịch vụ giáo dục đối với từng cơ sở giáo dục và đối với
địa phương. Trong nhiều trường hợp, cấp quản lý giáo dục đã phải sử dụng một số
giải pháp nhằm nâng cao sự hài lòng của phụ huynh và HS đối với một cơ sở giáo
dục cụ thể, ví dụ như điều động giáo viên giỏi, hiệu trưởng giỏi đến, nâng cấp cơ sở
vật chất kỹ thuật, tăng mức độ cam kết của nhà trường về chất lượng giáo dục,…
Sự hài lòng của phụ huynh và HS luôn là kết quả của sự đánh giá có tính chủ
quan của người mua / hưởng dịch vụ giáo dục. Sự hài lòng này xuất hiện ngay từ giai
đoạn họ cân nhắc chọn trường học cho con, rồi được củng cố hay thay đổi trong quá
57
trình con học ở trường và phụ huynh giao tiếp với lãnh đạo và giáo viên của trường,
và sau đó phản ánh khi con học hết năm học và hết cấp học.
Những tiêu chí ảnh hưởng quyết định chọn trường cho con của PH, tùy theo lứa
tuổi của trẻ, hoàn cảnh kinh tế của gia đình, kỳ vọng mà gia đình đặt vào nhà trường
mà được đặt ra và sắp xếp thứ tự ưu tiên. Có thể liệt kê những tiêu chí chính như sau:
- Vị trí của trường (gần nhà, thuận tiện đi lại,…)
- Môi trường giáo dục (trong trường và xung quanh trường), đặc biệt là sự đảm
bảo an toàn cho trẻ
- Danh tiếng của trường
- Những điều kiện đảm bảo chất lượng giáo dục (đội ngũ giáo viên, cơ sở vật
chất kỹ thuật)
- Quan hệ thày trò, bạn bè của con
- Chương trình giáo dục của nhà trường
- Học phí và khả năng chi trả của gia đình
Trong quá trình cho con học, theo dõi các bước tiến và các vấn đề của con
trong học tập và hình thành nhân cách, phụ huynh thường đối chiếu lại với những kỳ
vọng khi chọn trường cho con, nhưng chú ý nhất đến việc đánh giá chất lượng giáo
dục của nhà trường, hiệu quả giáo dục đối với con họ. Họ cũng đối chiếu giữa kỳ
vọng về chất lượng giáo dục, hiệu quả giáo dục với mức học phí và các chi phí khác
mà họ đã đầu tư cho con. Sự hài lòng hay không hài lòng này rất dễ lan truyền trong
cộng đồng phụ huynh HS theo các kênh khác nhau, kể cả trên mạng xã hội.
Sau khi HS học xong một lớp học, một cấp học, phụ huynh HS có điều kiện trấn
tĩnh lại và đánh giá toàn diện về sự đúng đắn hay sai lầm khi họ đã chọn trường cho
con học, về mức độ hài lòng của họ. Các nhà trường rất cần có các cách để thu được
các thông tin ấy để điều chỉnh, cải tiến việc cung ứng dịch vụ giáo dục và nâng cao
hiệu quả dịch vụ - cả cho xã hội, cho cộng đồng và cho nhà trường.
1.6. Một số chỉ tiêu thống kê đánh giá mạng lưới trường học phổ thông ở cấp
tỉnh, vận dụng cho Thành phố Hồ Chí Minh
Sử dụng các chỉ tiêu thống kê giáo dục cấp quốc gia và cấp tỉnh, NCS đưa ra
các chỉ tiêu sau đây về đánh giá mạng lưới trường học phổ thông ở cấp tỉnh, vận
dụng cho trường hợp TPHCM.
58
1. Tổng số và cơ cấu trường, lớp học phân theo cấp học và loại hình trường
2. Quy mô và cơ cấu HS đang đi học phân theo cấp học và loại hình trường
3. Sĩ số trung bình của lớp học (phân theo cấp học), đối chiếu với quy định của
Bộ GD&ĐT (Theo Điều lệ trường tiểu học [1], ở tiểu học, sĩ số của lớp không được
quá 35 HS. Còn theo Điều lệ trường trung học cơ sở, phổ thông và trường phổ thông
có nhiều cấp học [4], mỗi lớp ở các cấp THCS và THPT có không quá 45 học sinh)
và đối chiếu với định hướng quy hoạch phát triển giáo dục đào tạo của TPHCM.
4. Khoảng cách trung bình học sinh di chuyển từ nhà đến trường
Điều lệ Trường tiểu học (2010) [2], Điều 45 quy định rõ: Địa điểm đặt trường
phải đảm bảo yêu cầu a) Phù hợp với quy hoạch phát triển giáo dục của địa phương;
b) Độ dài đường đi của học sinh đến trường: đối với khu vực thành phố, thị xã, thị
trấn, khu công nghiệp, khu tái định cư không quá 500m; đối với khu vực ngoại
thành, nông thôn không quá 1km; đối với vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt
khó khăn không quá 2km; c) Môi trường xung quanh không có tác động tiêu cực đối
với việc giáo dục, giảng dạy, học tập và an toàn của giáo viên và học sinh.
Điều lệ trường trung học cơ sở, phổ thông và trường phổ thông có nhiều cấp
học (2011) [3], điều 43 cũng quy định rõ yêu cầu về địa điểm, diện tích của trường.
Khoảng cách đến trường gắn liền với việc tính toán tiết kiệm thời gian đi học
và về học, trong đó có tính đến các tình huống bất thường như thời tiết xấu, tình
trạng kẹt xe giờ cao điểm,… Đó là chưa kể, hiện nay nhiều HS còn đi học thêm, làm
cho chi phí thời gian trên đường tăng lên, gây mệt mỏi cho HS và ảnh hưởng đến
việc tiếp thu kiến thức.
NCS đã tính khoảng cách trung bình giữa 2 trường kế cận nhau theo công thức
của T.V.Zvonkova
a = √𝑃 𝐾
Trong đó: P là diện tích vùng nghiên cứu (km2)
K là số lượng trường học trong phạm vi vùng nghiên cứu.
5. Mức độ đảm bảo chất lượng dịch vụ giáo dục
Bộ GD&ĐT đã có loạt văn bản về kiểm định chất lượng giáo dục và công nhận
59
trường đạt chuẩn quốc gia, một công cụ hữu hiệu để đánh giá chất lượng giáo dục
của các nhà trường và minh bạch thông tin đối với xã hội, như Thông tư 18/2018/TT-
BGDĐT quy định về kiểm định chất lượng giáo dục và công nhận đạt chuẩn quốc gia
đối với trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường phổ thông có
nhiều cấp học [8]; Thông tư 17/2018/TT-BGDĐT quy định về kiểm định chất lượng
giáo dục và công nhận đạt chuẩn quốc gia đối với trường tiểu học [7] Trong khảo sát
ý kiến của HS (Phụ lục 2), NCS dựa vào các thông tư này để tìm hiểu sự đánh giá
của bản thân HS đối với các điều kiện đảm bảo chất lượng giáo dục của nhà trường.
NCS cũng đã thu thập thông tin chi tiết về các trường đạt chuẩn quốc gia ở TPHCM,
phân tích sự phân bố cũng như tỉ lệ của các trường này theo từng quận, huyện và
theo cấp học.
6. Mức độ hài lòng của phụ huynh và HS đối với dịch vụ giáo dục
Tại Quyết định 3982/QĐ-BGDĐT năm 2013 Bộ GD&ĐT đã phê duyệt Đề án
"Xây dựng phương pháp đo lường sự hài lòng của người dân đối với dịch vụ giáo
dục công" [6], mà NCS đã hệ thống thành bộ tiêu chuẩn và tiêu chí sau:
Tiêu chuẩn 1: Tiếp cận dịch vụ
Tiêu chí 1.1: Tiếp cận thông tin
Tiêu chí 1.2: Các thủ tục khi nhập học, chuyển cấp và ra trường
Tiêu chí 1.3: Thủ tục, quy trình trong tiếp cận dịch vụ
Tiêu chí 1.4: Tiếp cận địa điểm các cơ sở giáo dục
Tiêu chí 1.5: Chi phí và các chính sách hỗ trợ tài chính
Tiêu chuẩn 2: Cơ sở vật chất, trang thiết bị
Tiêu chí 2.1: Phòng học
Tiêu chí 2.2: Phòng chức năng
Tiêu chí 2.3: Máy tính, mạng internet
Tiêu chí 2.4: Trang thiết bị phục vụ dạy-học
Tiêu chí 2.5: Thư viện
Tiêu chí 2.6: Khu vui chơi, giải trí và khu vệ sinh
Tiêu chuẩn 3: Môi trường giáo dục
Tiêu chí 3.1: Công bằng
60
Tiêu chí 3.2: Minh bạch, công khai
Tiêu chí 3.3: Hợp tác, kết nối và tham gia
Tiêu chí 3.4: An toàn
Tiêu chuẩn 4: Hoạt động giáo dục
Tiêu chí 4.1: Nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục
Tiêu chí 4.2: Đội ngũ giáo viên, nhân viên nhà trường
Tiêu chí 4.3: Công tác quản lý và đội ngũ cán bộ quản lý
Tiêu chí 4.4: Kiểm tra đánh giá kết quả hoạt động giáo dục
Tiêu chí 4.5: Mối quan hệ liên quan trong hoạt động giáo dục
Tiêu chuẩn 5: Kết quả của giáo dục
Tiêu chí 5.1: Kết quả học tập
Tiêu chí 5.2: Khả năng thích ứng của người học
Tiêu chí 5.3: Khả năng thực hiện nghĩa vụ công dân
Mức độ hài lòng của người dân được thể hiện ở các giá trị của câu trả lời theo
thang Likert: 1 = “rất không hài lòng”, 2= “không hài lòng”, 3 = bình thường, 4 = hài
lòng và 5 = rất hài lòng đối với từng tiêu chí.
Trong Quyết định 3982/QĐ-BGDĐT nói trên có đề cập đến hai chỉ số:
- Chỉ số hài lòng của người dân
+ Chỉ số hài lòng với dịch vụ giáo dục công là tỷ lệ phần trăm số người có
phương án trả lời “hài lòng” và “rất hài lòng” cho câu hỏi khảo sát mức độ hài lòng
của người dân với dịch vụ công nói chung, trên tổng số mẫu điều tra xã hội học được
trả lời theo đúng quy trình khảo sát hợp lệ.
+ Chỉ số hài lòng với từng nội dung của dịch vụ giáo dục công được xác định
bằng tỷ lệ phần trăm số người có phương án trả lời “hài lòng” và “rất hài lòng” đối
với câu hỏi khảo sát mức độ hài lòng của người dân với nội dung đó, trên tổng số
mẫu điều tra xã hội học được trả lời theo đúng quy trình khảo sát hợp lệ.
- Mức độ hài lòng của người dân được thể hiện qua phương án trả lời (từ mức 1
đến mức 5 tương ứng với “rất không hài lòng”, “không hài lòng”, “bình thường”,
“hài lòng” và “rất hài lòng” ) cho từng câu hỏi tương ứng với các tiêu chí.
61
Trong luận án này, các tiêu chí được đề ra trong Đề án nêu trên đã được NCS
chọn lựa để đưa vào phiếu phỏng vấn nhanh cha mẹ HS về mức độ hài lòng của họ
đối với chất lượng dịch vụ giáo dục của nhà trường, nơi con em họ đang theo học
(Phụ lục 1) đồng thời, bên cạnh việc xử lý thông tin về chỉ số hài lòng, mức độ hài
lòng được đánh giá thông qua giá trị trung bình của từng mức độ hài lòng. Nếu giá trị
trung bình càng lớn hơn 3,0, có nghĩa rằng đánh giá tích cực nhiều hơn. Còn nếu
càng nhỏ hơn 3,0, thì mức độ hài lòng không lấn át được mức độ không hài lòng.
62
Tiểu kết chương 1
Trong cơ sở lý luận về mạng lưới trường học PT, vấn đề được xem xét đa
chiều. Các chính sách vĩ mô về KT-XH của đất nước, các chủ trương đổi mới GDPT
là những nhân tố “phi lãnh thổ” nhưng có tác động phổ quát và được vận dụng trong
hoàn cảnh cụ thể của TPHCM.
Trường học PT chính là các địa điểm cụ thể cung cấp dịch vụ GDPT cho HS và
gia đình các em. Mạng lưới trường học PT, ở khía cạnh dịch vụ GD, chính là mạng
lưới các cơ sở dịch vụ. Vì thế, trong chương này đã phân tích làm rõ đặc điểm đặc
thù của dịch vụ GD - một loại hình dịch vụ xã hội. Các chỉ tiêu thống kê đã được đề
cập liên quan đến việc đánh giá định lượng mức độ tiếp cận dịch vụ GD, kết quả GD,
quy mô và chất lượng dịch vụ GD. Bên cạnh đó, luận án cũng đề cập đến những khía
cạnh xã hội, chủ yếu là đánh giá định tính, liên quan đến hành vi của những người
thụ hưởng và những người mua dịch vụ GD, đó là HS và phụ huynh HS. Mức độ hài
lòng của HS và phụ huynh HS, sự sẵn lòng chi trả học phí và các loại “phí giáo dục”
khác sẽ đặt ra nhiều gợi ý quan trọng đối với việc cải thiện chất lượng dịch vụ GD,
trong đó có vấn đề về điều kiện dạy học, mạng lưới trường lớp,…
Trong chương này cũng đề cập đến các nhân tố KT-XH tác động đến mạng lưới
trường học PT. Những nội dung này đã được chọn lọc, đối chiếu với những tài liệu lý
luận chung và những văn bản pháp quy, từ đó gợi ý cho nghiên cứu ở chương sau về
việc vận dụng cho hoàn cảnh của TPHCM.
63
Bản đồ 1. Bản đồ hành chính Thành phố Hồ Chí Minh
64
Chương 2. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG VÀ THỰC TRẠNG
MẠNG LƯỚI TRƯỜNG HỌC PHỔ THÔNG Ở
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển giáo dục và mạng lưới trường học
ở Thành phố Hồ Chí Minh
2.1.1. Khái quát về vị trí địa lí, tổ chức lãnh thổ hành chính
2.1.1.1. Vị trí địa lí, phạm vi lãnh thổ
TPHCM có tọa độ 10°10' – 10°38' Bắc và 106°22' – 106°54' Đông, phía bắc
giáp tỉnh Bình Dương, tây bắc giáp tỉnh Tây Ninh, đông và đông bắc giáp tỉnh Đồng
Nai, đông nam giáp tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, tây và tây nam giáp tỉnh Long An và
Tiền Giang. Với vị trí tâm điểm của khu vực Đông Nam Á, TPHCM là một đầu mối
giao thông quan trọng về cả đường bộ, đường thủy và đường không, nối liền các tỉnh
trong vùng và còn là một cửa ngõ quốc tế.
2.1.1.2. Tổ chức lãnh thổ hành chính
TPHCM hiện nay bao gồm 19 quận nội thành là quận 1, quận 2, quận 3, quận 4,
quận 5, quận 6, quận 7, quận 8, quận 9, quận 10, quận 11, quận 12, Phú Nhuận, Bình
Tân, Thủ Ðức, Tân Phú, Bình Thạnh, Tân Bình, Gò Vấp, và 5 huyện ngoại thành là
Hóc Môn, Bình Chánh, Nhà Bè, Củ Chi, Cần Giờ. Như vậy, có tổng số 24 đơn vị
hành chính cấp huyện.
Từ sau năm 1975, tổ chức lãnh thổ hành chính của TPHCM có những thay đổi.
Xét ở cấp huyện, huyện Cần Giờ nguyên là huyện Duyên hải tỉnh Đồng Nai, được
sáp nhập vào TPHCM tháng 12/1978. Quận 2, quận 9 và quận Thủ Đức được thành
lập tháng 1/1997 trên cơ sở chia tách huyện Thủ Đức lúc bấy giờ. Quận Bình Tân
được tách ra từ đất của huyện Bình Chánh, và quận Tân Phú được tách ra từ quận
Tân Bình, cùng chiểu theo Nghị định 130/2003/NĐ-CP ngày 5/11/2003.
2.1.2. Điều kiện tự nhiên
2.1.2.1. Địa hình, đất đai
TPHCM nằm trong vùng chuyển tiếp giữa miền Đông Nam Bộ và đồng bằng
sông Cửu Long, địa hình thành phố thấp dần từ bắc xuống nam và từ tây sang đông.
65
Vùng cao nằm ở phía bắc - đông bắc và một phần tây bắc, trung bình 10 đến 25 mét.
Xen kẽ có một số gò đồi, cao nhất lên tới 32 mét như đồi Long Bình ở quận 9.
Ngược lại, vùng trũng nằm ở phía nam - tây nam và đông nam thành phố, có độ cao
trung bình trên dưới 1 mét, nơi thấp nhất 0,5 mét. Các khu vực trung tâm, một phần
các quận Thủ Đức, quận 2, toàn bộ huyện Hóc Môn và quận 12 có độ cao trung bình,
khoảng 5 tới 10 mét.
Bảng 2.1 dưới đây cho thấy rằng ở TP Hồ Chí Minh, tổng diện tích tự nhiên là
209.539,3 ha (2017), trong đó khu vực nội thành 49.400,9 ha, ngoại thành 160.138,4
ha. Ở khu vực nội thành, diện tích đất lâm nghiệp có thể coi là không còn, diện tích
đất sản xuất nông nghiệp tuy còn 7.146 ha, nhưng tập trung chủ yếu chỉ ở các quận:
quận 9, quận 12, quận 2, Bình Tân, Thủ Đức, còn ít hơn nhiều ở các quận Bình
Thạnh, quận 7, Gò Vấp, Tân Phú. Bảy quận hoàn toàn không còn quỹ đất nông
nghiệp. Những diện tích chưa sử dụng về cơ bản là diện tích mặt nước kênh rạch,…
Những con số này cho thấy rằng khả năng chuyển đổi đất nông nghiệp sang đất phi
nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa đã không còn ở phần lớn các quận nội thành,
chỉ có thể ở mức độ nào đó ở các quận được nêu ở trên. Điều này cũng góp phần giải
thích tại sao ở TPHCM, quy hoạch các “đô thị nén” với các nhà cao tầng đang là một
lựa chọn, và ở nhiều quận phải rất khó khăn để tìm ra quỹ đất xây mới hay mở rộng
các cơ sở trường lớp.
Bảng 2.1. Hiện trạng sử dụng đất phân theo quận, huyện (đến 31/12/2017)
Đơn vị tính: ha
Trong đó:
Tổng diện
tích tự
Đất sản
Đất
Đất lâm
Đất thổ
Đất chưa
nhiên
xuất nông
chuyên
nghiệp
cư
sử dụng
nghiệp
dùng
TỔNG SỐ
209539,3
66001,9
35684,6
34492,4
28173,3
45187,1
Nội thành
49400,9
7146,0
18399,9
17589,2
6265,8
-
Quận 1
771,8
-
496,3
205,4
70,1
-
Quận 2
4979,4
619,0
1747,2
1374,5
1238,7
-
Quận 3
492,3
-
248,2
221,9
22,2
-
66
Trong đó:
Tổng diện
tích tự
Đất sản
Đất
Đất lâm
Đất thổ
Đất chưa
nhiên
xuất nông
chuyên
nghiệp
cư
sử dụng
nghiệp
dùng
-
168,3
180,8
68,7
417,8
-
Quận 4
-
248,3
162,3
16,7
427,3
-
Quận 5
-
331,7
350,0
32,1
713,8
-
Quận 6
1514,5
1021,0
-
892
3569,6
142,1
Quận 7
668,9
823,3
347,1
-
1911,4
72,1
Quận 8
11397,3
3294,6
3301,4
2597,0
2204,3
-
Quận 9
-
321,8
244,7
5,6
572,1
-
Quận 10
-
264,3
238,2
10,1
513,7
1,1
Quận 11
-
1437,7
2379
263,7
5273,9
1193,5
Quận 12
-
109
690,5
1102,4
1973,3
71,4
Gò Vấp
-
1541,5
673,4
22,2
2243,1
6,0
Tân Bình
-
693,6
821,7
27,1
1597,2
54,8
Tân Phú
-
582,9
868,1
376,9
Bình Thạnh 2078,6
250,7
-
224,6
247,6
13,8
-
Phú Nhuận
486,0
-
1883,8
1959
388,8
4780,2
548,6
Thủ Đức
-
2034,4
2118,9
156,7
5202,1
892,1
Bình Tân
Ngoại
160138,4
58855,9
35684,6
16092,5
10584,1
38921,3
thành
2965,2
2011
Củ Chi
43477,2
31240,9
40,0
7220,1
-
2232
2982,6
480,7
Hóc Môn
10917,2
5221,9
4038,3
2956
2520,7
Bình Chánh
25256
14678,6
1062,4
-
1914,4
1077,5
3489,2
Nhà Bè
10042,7
3561,6
Cần Giờ
70445,3
4152,9
34582,2
687,7
602,8
30419,7
Nguồn: Niên giám thống kê TP Hồ Chí Minh 2017 [21]
2.1.2.2. Thủy văn
Nằm ở vùng hạ lưu hệ thống sông Ðồng Nai - Sài Gòn, TPHCM có mạng lưới
sông ngòi kênh rạch rất đa dạng như: sông Ðồng Nai, sông Sài Gòn, sông Nhà Bè,…
Ngoài các con sông chính, TPHCM còn có một hệ thống kênh rạch chằng chịt: Nhiêu
67
Lộc-Thị Nghè, Bến Nghé, Lò Gốm, Kênh Tẻ, Tàu Hũ, Kênh Ðôi... Hệ thống sông,
kênh rạch giúp TPHCM trong việc tưới tiêu, nhưng do chịu ảnh hưởng chế độ bán
nhật triều, vào những ngày triều cường, thủy triều thâm nhập sâu đã gây nên những
tác động xấu tới sản xuất nông nghiệp và hạn chế việc tiêu thoát nước ở khu vực nội
thành. Có những ngày mưa lớn, lại gặp triều cường, nhiều tuyến đường bị ngập lụt,
làm tăng sự ách tắc giao thông, nhất là vào giờ cao điểm, cũng là giờ đưa đón trẻ đi
học.
2.1.2.3. Khí hậu, thời tiết
TPHCM có 2 mùa: mùa mưa và mùa khô rõ rệt. Mùa mưa được bắt đầu từ
tháng 5 tới tháng 11, còn mùa khô từ tháng 12 tới tháng 4 năm sau. Trung bình,
TPHCM có 160 tới 270 giờ nắng một tháng, nhiệt độ trung bình 27°C, cao nhất lên
tới 40°C, thấp nhất xuống 13,8°C.
TPHCM chịu ảnh hưởng bởi hai hướng gió chính là gió mùa tây – tây nam và
bắc – đông bắc. Nói chung, điều kiện khí hậu ở TPHCM rất thích hợp với đặc điểm
sinh lý người, tuy nhiên, vào mùa mưa, có thể xuất hiện một số bệnh dịch như sốt
xuất huyết, đặc biệt có thể ảnh hưởng đến sức khỏe của trẻ nhỏ.
2.1.3. Dân cư
2.1.3.1. Quy mô và cơ cấu dân số
TPHCM là thành phố đông dân nhất cả nước, năm 2017 là hơn 8,6 triệu người,
chiếm hơn 9% dân số cả nước; nói riêng dân số thành thị là gần 7 triệu người, bằng
21% dân số thành thị của cả nước [21]. Theo Quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH
của thành phố [18], dân số toàn thành phố đến năm 2020 đạt 9,2 triệu người và đến
năm 2025 đạt 10 triệu người (không kể khách vãng lai và người tạm trú dưới 06
tháng). Tuy nhiên, ngưỡng 10 triệu người có thể đến sớm hơn, tùy theo tốc độ đô thị
hóa, cũng như ảnh hưởng của sự chênh lệch vùng giữa TPHCM và các địa phương
khác trong cả nước, đặc biệt là so với Đồng bằng sông Cửu Long và Đông Nam Bộ.
Năm 2001, dân số toàn thành phố là 5.489 nghìn người. Năm 2017 (sơ bộ) là
8.634 nghìn người. Tính trung bình, cứ mỗi 5 năm, dân số thành phố tăng thêm
khoảng 1 triệu người.
68
Dân số phân theo thành thị - nông thôn: theo Niên giám thống kê TPHCM 2017
[21], từ năm 2001 đến 2017, khu vực thành thị luôn chiếm trên 80% dân số toàn
thành phố. Năm 2003, do việc thành lập quận mới Bình Tân, tách ra từ diện tích và
dân số của huyện Bình Chánh, nên dân số khu vực thành thị đã tăng thêm khoảng
255 nghìn người, tỉ lệ dân thành thị đạt cao nhất là 87,5%. Tuy nhiên, những năm sau
đó, tỉ trọng của khu vực thành thị liên tục giảm, do mức tăng dân số chung ở khu vực
nông thôn cao hơn ở khu vực thành thị; năm 2017, khu vực thành thị chiếm 80,9%.
Bảng 2.2. Dân số Thành phố Hồ Chí Minh qua một số năm 2001-2017
Đơn vị: nghìn người
Tổng số
Nam
Thành thị
Nông thôn
Nữ
5489
2642
4606
883
2847
2001
6541
3155
5492
1049
3386
2006
7590
3647
6295
1295
3943
2011
8442
4042
6859
1583
4400
2016
8643
4139
6988
1655
4504
Sơ bộ 2017
Nguồn: Niên giám thống kê TP Hồ Chí Minh 2017 [21]
TP Hồ Chí Minh có cơ cấu dân số theo giới tính có phần mất cân đối, dân số
nam từ năm 2013 trở lại đây chỉ chiếm 47,9% dân số, trong khi dân số nữ chiếm
52,1%. Tỉ số giới tính (số nam/100 nữ) là một đại lượng có thể so sánh rất rõ theo
không gian và thời gian. Ở khu vực thành thị, tỉ số giới tính năm 2000 là 91,9/100,
sau đó dao động, có xu hướng tăng, đạt đến 94,6/100 (năm 2009), rồi liên tục giảm,
năm 2017 chỉ còn 91,5/100. Trong thời gian này, tỉ số giới tính ở khu vực thành thị
của toàn quốc là 95,0/100 (năm 2000), 94,4/100 (2009) , 94,5/100 (2017), như vậy, tỉ
số này của khu vực thành thị ở TPHCM thấp hơn nhiều. Tỉ số giới tính ở vùng nông
thôn TPHCM năm 2000 (97,5/100) tương đương trung bình cả nước (97,3/100),
nhưng sau đó, trong khi tỉ số này ở vùng nông thôn cả nước dao động từ 98,2-
99,4/100, thì ở vùng nông thôn TPHCM dao động trong khoảng 93-94/100. Một
trong những lý do để tỉ số giới tính ở TPHCM thấp là do ảnh hưởng của các luồng
nhập cư ngoại tỉnh, với tỉ lệ lao động nữ cao hơn hẳn so với tỉ lệ lao động nam nhập
69
cư. Do dân số khu vực thành thị chiếm hơn 80% dân số toàn thành phố, nên tỉ số giới
tính toàn thành phố rất gần với tỉ số giới tính của khu vực thành thị.
2.1.3.2. Gia tăng dân số chung, gia tăng dân số tự nhiên và gia tăng cơ học
Năm 2001, tỉ suất gia tăng dân số chung là 51,6‰, nhưng sau đó giảm nhanh,
đến năm 2017 chỉ còn 23,3‰. Tuy nhiên, trong thời gian đó, có những “đợt sóng
nhẹ” làm tăng mức gia tăng dân số chung, liên quan nhiều hơn đến các làn sóng nhập
cư vào TPHCM, như các năm 2006, 2007 (bảng 2.3).
Tỉ suất sinh thô của TPHCM hiện nay là rất thấp, đã giảm từ 17,3‰ (năm
2000) xuống 15,7‰ (2005) và 11,4‰ (2017). Do tỉ suất sinh thô phụ thuộc vào cơ
cấu tuổi và giới tính của dân số, nên tổng tỉ suất sinh (TFR – số con trung bình tính
trên 1 phụ nữ ở độ tuổi sinh đẻ) sẽ phản ánh tốt hơn. TPHCM có tổng tỉ suất sinh
thấp nhất cả nước. Năm 2005, TFR = 1,52, dưới mức sinh thay thế khá xa. Năm
2016, TFR = 1,24 [140]. Trong khi mức sinh thay thế theo lý thuyết TFR = 2,1.
Mặc dù có những năm TFR tăng chút ít, nhưng tính trung bình giai đoạn 2005-
2017, TFR chỉ hơn 1,4. Với tổng tỉ suất sinh rất thấp như trên, TPHCM đối diện trực
tiếp nhất tình trạng già hóa dân số nhanh, điều này sẽ ảnh hưởng lâu dài đến sự phát
triển kinh tế - xã hội của thành phố. TPHCM đang có khẩu hiệu khuyến khích “mỗi
gia đình sinh đủ hai con”. Mặt khác, việc bù đắp cho tình trạng dân số già sẽ thông
qua việc thu hút người nhập cư, nhưng chính sách thu hút người nhập cư phải phù
hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội của thành phố, trong đó có vấn đề việc làm,
đảm bảo dịch vụ xã hội cho người nhập cư,…
70
Bảng 2.3. Tỉ suất gia tăng dân số chung, gia tăng tự nhiên và gia tăng cơ học
Tổng số (‰)
Thành thị (‰)
Nông thôn (‰)
Tỉ trọng của GTCH (%)
Năm
GTTN GTCH
GTTN
GTCH
GTTN GTCH Chung
Thành thị Nông thôn
GTDS chung
GTDS chung
GTDS chung
51,6
55,5
13,0
13,4
38,2
42,5
31,0
15,0
16,0
74,03
76,58
51,61
2000
32,5
33,5
12,9
13,0
19,5
20,6
27,3
13,1
14,2
60,00
61,49
52,01
2001
30,0
-3,6
12,3
12,7
17,3
-15,9
174,3
13,2
161,1
57,67
-
92,43
2002
35,5
28,0
11,5
11,8
23,7
16,5
66,4
13,2
53,3
66,76
58,93
80,27
2003
32,2
86,7
11,8
12,0
20,2
75,0
-283,2
13,3
-296,4
62,73
86,51
-
2004
28,4
27,2
11,1
11,5
16,9
16,1
34,7
13,2
21,6
59,51
59,19
62,25
2005
46,1
32,3
10,4
10,8
35,4
21,9
118,2
12,7
105,6
76,79
67,80
89,34
2006
35,0
29,4
10,7
11,0
24,1
18,7
63,5
12,6
51,0
68,86
63,61
80,31
2007
31,7
30,3
9,8
10,3
21,4
20,4
38,9
12,6
26,2
67,51
67,33
67,35
2008
27,9
26,2
10,2
10,4
17,5
16,0
36,1
11,2
24,9
62,72
61,07
68,98
2009
26,3
26,0
10,3
10,4
16,0
15,7
28,1
10,4
17,6
60,84
60,38
62,63
2010
25,5
22,7
9,7
9,8
15,7
13,0
39,1
10,3
28,8
61,57
57,27
73,66
2011
25,9
18,7
10,2
10,1
15,8
8,6
59,2
9,7
49,5
61,00
45,99
83,61
2012
18,6
19,0
9,0
9,1
9,6
10,0
17,2
9,2
8,0
51,61
52,63
46,51
2013
16,4
11,9
8,0
8,3
8,1
4,0
36,8
9,4
27,4
49,39
33,61
74,46
2014
21,3
16,7
7,9
8,2
13,1
8,8
41,7
9,5
32,2
61,50
52,69
77,22
2015
23,0
18,7
7,2
7,6
15,4
11,5
41,6
9,1
32,5
66,96
61,50
78,13
2016
23,3
67,81
62,16
15,8
34,0
18,5
11,5
43,4
9,3
7,4
7,0
2017
78,34 Ghi chú: GTDS: gia tăng dân số; GTTN: gia tăng tự nhiên; GTCH: gia tăng cơ học. Những ngoại lệ GTCH âm vào các năm 2002,
2004 đều liên quan đến việc điều chỉnh địa giới hành chính giữa khu vực nội thành và khu vực ngoại thành. Nguồn [21]
71
Bảng 2.3 cho biết là tỉ suất di cư thuần (gia tăng cơ học) vào khu vực thành thị
đã giảm, và duy trì ở mức 12-15‰/năm. Trong khi đó, tỉ suất gia tăng cơ học ở khu
vực nông thôn thường xuyên cao hơn rõ rệt so với khu vực thành thị. Điều đáng chú
ý là thông qua đại lượng về tỉ trọng của gia tăng cơ học so với gia tăng dân số chung
(tính bằng %), thì trung bình giai đoạn 2000-2017, tỉ trọng này cho toàn thành phố là
hơn 63%, ở khu vực thành thị là hơn 60%, khu vực nông thôn là hơn 70%. Như trên
đã phân tích, ước tính cứ mỗi 5 năm, thành phố tăng thêm khoảng 1 triệu người, thì
trong đó 600-630 nghìn người là do nhập cư. Điều này cho thấy là ngành giáo dục
phải tính đến nhu cầu học hành rất lớn của con em người nhập cư, mà người nhập cư
lại phân bố tập trung vào một số địa phương, nên vấn đề càng phức tạp hơn.
2.1.3.3. Phân bố dân cư
Năm 2017, mật độ dân số khu vực nội thành là 13.910 người/km2, trong khi ở
khu vực ngoại thành chỉ 1.106 người/km2. Tính chung toàn thành phố, mật độ dân số
trung bình là 4.126 người/km2 [21]. Tuy nhiên, ngay trong khu vực nội thành, phân
bố dân cư rất không đều: có 9 quận có mật độ dân số rất cao (trên 30.000 người/km2)
là quận 3, quận 4, quận 5, quận 6, quận 10, quận 11, quận Gò Vấp, quận Tân Phú,
quận Phú Nhuận. Các quận có mật độ thấp chỉ vài nghìn người/km2 là quận 2 và
quận 9. Các quận khác có mật độ dân số chỉ xấp xỉ mức trung bình của nội thành là
quận 7, quận 12, quận Thủ Đức và quận Bình Tân (Hình 2.1).
Tương ứng với tốc độ gia tăng dân số là sự tăng mật độ dân số ở các địa bàn
quận, huyện (Hình 2.1, Bản đồ 2). Đáng chú ý là các quận, huyện có mật độ dân số
thấp, thì mật độ dân số cũng chỉ tăng chút ít, mặc dù ở đây còn có quỹ đất khá lớn
cho phát triển đô thị và cơ sở hạ tầng. Mức tăng dân số cao, dẫn đến tăng mật độ dân
số mạnh nhất là các quận Gò Vấp và Tân Phú. Ở một nghĩa nào đó, đây là các quận
“ven nội đô”, dân số tăng mạnh do thu hút người nhập cư ngoại tỉnh và cả nhập cư
nội tỉnh (giữa các quận, huyện trong thành phố), do chỉnh trang đô thị, cấu trúc lại
không gian đô thị.
72
Hình 2.1. Sự thay đổi mật độ dân số phân theo quận, huyện, 2010-2017
Điều đáng chú ý là các quận lõi của nội thành (quận 1, quận 3, quận 5) có mức
gia tăng mật độ dân số trong cùng giai đoạn (2010-2017) không kém gì các quận
vùng ven là quận 12 và quận Bình Tân, và vượt xa các quận, huyện còn lại. Những
khu vực mật độ dân số gia tăng mạnh, lại là những quận có mật độ dân số đã cao sẽ
đặt ra nhiều vấn đề trong phát triển mạng lưới trường để đáp ứng nhu cầu tăng mạnh
của trẻ trong độ tuổi đi học, trong khi quỹ đất để xây mới và mở rộng trường rất
hạn hẹp.
73
Bản đồ 2. Bản đồ gia tăng mật độ dân số phân theo quận, huyện,
giai đoạn 2010 - 2017
74
2.1.4. Di cư
TPHCM là một điểm đến thu hút rất mạnh người nhập cư từ hầu hết các tỉnh,
thành phố trong cả nước trong nhiều thập kỷ qua [63], [87]. Đồng thời, việc chỉnh
trang đô thị, hình thành các khu dân cư mới, di dời các cơ sở công nghiệp từ nội
thành ra vùng ven trong mấy thập kỷ gần đây còn tạo ra các luồng di dân nội tỉnh rất
mạnh. Di cư ở TPHCM không chỉ là một quá trình nhân khẩu học, mà thông qua đó
có thể nhận ra nhiều nguyên nhân và hệ quả kinh tế - xã hội, trong đó có vấn đề phát
triển dịch vụ giáo dục. Bởi vì, hoàn cảnh và vị thế xã hội của những người nhập cư
vào TPHCM rất đa dạng, có những gia đình người nhập cư có điều kiện kinh tế tốt,
nhanh chóng hội nhập vào cuộc sống ở nơi đến, nhưng có không ít gia đình nhập cư
(trong số đó nhiều người là lao động ở các khu công nghiệp) có điều kiện kinh tế hạn
hẹp và họ phải chật vật trong việc cho con em tiếp cận giáo dục.
Bảng 2.4 cho thấy rằng, trong giai đoạn 1994-1999 có 917,6 nghìn người tham
gia di chuyển trên địa bàn TPHCM, trong đó, luồng di chuyển quan trọng nhất là
những người nhập cư ngoại tỉnh (gần 433,8 nghìn người, tỉ lệ nhập cư là 9,30%).
Tiếp đến là luồng di chuyển giữa các quận/huyện trong nội bộ thành phố (gần 315,6
nghìn người, tỉ lệ di chuyển là 6,77%).
Trong giai đoạn 1994-1999, hai quận Tân Bình và Gò Vấp có dân số bị “xáo
trộn” hơn cả, cả về số người di chuyển và tỉ lệ di cư chung, trong đó nổi bật là những
người nhập cư ngoại tỉnh và nhập cư từ các quận/huyện khác của thành phố.
Các quận khác chịu tác động mạnh của người nhập cư là Bình Chánh, Thủ Đức và
quận 12.
75
Bảng 2.4. Di cư ở TPHCM giai đoạn 1994-1999 phân theo quận, huyện
Số người nhập cư (người)
Tỉ lệ nhập cư (%)
Đơn vị
Trong đó:
Trong đó:
Tổng
Tỉ lệ
hành
số
Di cư
Di cư
Di cư
Di cư
Di cư
Di cư
di cư
chính
người
trong
trong
ngoại
trong
trong
ngoại
chung
di cư
huyện
tỉnh
huyện
TP
TP
tỉnh
Quận 1
24955
3822
7068
13777
11,78
3,34
6,50
1,80
Quận 2
13278
1222
5772
6205
14,19
6,17
6,63
1,31
Quận 3
30264
4653
9006
16315
14,51
4,32
7,82
2,23
Quận 4
22881
9670
4681
8347
12,84
2,63
4,68
5,43
Quận 5
30628
5785
9695
14756
15,60
4,94
7,51
2,95
Quận 6
33880
8890
10417
14264
14,47
4,45
6,09
3,80
Quận 7
21134
3273
8789
8989
20,50
8,52
8,72
3,17
Quận 8
38340
8357
13265
16436
12,62
4,37
5,41
2,75
Quận 9
36162
6051
6002
23996
26,31
4,37
17,46
4,40
Quận 10
39748
7051
12736
19569
17,68
5,67
8,71
3,14
Quận 11
32902
8389
12368
10743
14,88
5,59
4,86
3,79
Quận 12
44168
2047
17607
23304
28,61
11,40
15,09
1,33
Gò Vấp
95536
12246
39687
41432
33,46
13,90
14,51
4,29
Tân Bình 170520
33723
55884
78477
31,84
10,44
14,65
6,30
Bình
75548
17582
26254
31313
20,11
4,68
6,99
8,34
Thạnh
Phú
34439
5778
13619
14741
20,03
3,36
7,92
8,57
Nhuận
Thủ Đức
53766
4351
10989
38291
27,55
5,63
19,62
2,23
Củ Chi
12947
3310
3198
6299
5,54
1,37
2,69
1,42
Hóc Môn 21643
3941
7887
9735
11,57
4,22
5,21
2,11
Bình
78454
5729
38914
33528
25,97
1,90
12,88
11,10
Chánh
Nhà Bè
4018
1058
1174
1767
7,01
2,05
3,08
1,84
Cần Giờ
2427
373
559
1481
4,61
1,06
2,81
0,71
157301
315571
433765
19,67
6,77
9,30
3,37
Toàn TP 917638
Nguồn: Xử lý số liệu từ [74]
76
Số liệu trong bảng là do cộng những người di cư ở nơi đến. Trong bảng không
kể những người từ nước ngoài về và những người “không xác định”.
Tỉ lệ nhập cư (%) được tính bằng tỉ lệ những người nhập cư trên địa bàn trong
giai đoạn 1994-1999 (độ tuổi từ 5 tuổi trở lên) so với dân số từ 5 tuổi trở lên của địa
bàn đó vào thời điểm Tổng điều tra dân số 1-4-1999.
Bảng 2.5 dưới đây phân tích rõ hơn ảnh hưởng của người di cư đến thành phần
dân số trong độ tuổi đi học (tiểu học 6-10 tuổi; THCS 11-14 tuổi, THPT 15-17 tuổi).
Trước hết là với đối tượng trẻ em 6-10 tuổi, là những trẻ em cần đi học ở các trường
gắn với địa bàn cư trú, thì tỉ lệ trẻ em là con của các gia đình di cư chiếm khá cao (từ
22,2% đến 26,5%) ở các quận Gò Vấp, Tân Bình và quận 12, ít hơn một chút là ở
huyện Bình Chánh và quận 7.
Đối với trẻ em ở độ tuổi đi học THCS, sức ép của người nhập cư lên mạng lưới
trường lớp lớn nhất là ở Gò Vấp và Tân Bình (trên 24%), ít hơn một chút là ở quận
12 và Bình Chánh. Trong khi đó sức ép của trẻ em ở độ tuổi học THPT cao hơn đối
với các độ tuổi khác (tính chung toàn thành phố).
Tác giả luận án đã lọc ra các phường, xã có tỉ lệ trẻ em là con của các gia đình
nhập cư chiếm trên 20% tổng số trẻ em trong độ tuổi đi học theo từng cấp học của
từng địa bàn, như là các “điểm nóng” về nhập cư tác động lên khả năng đáp ứng nhu
cầu học tập của trẻ. Bản đồ 3 cho thấy cụ thể hơn bức tranh này phân theo phường.
Tỉ lệ cao của trẻ em nhập cư trong tổng số trẻ em trong độ tuổi đi học của một cấp
học nhất định còn có tác động lâu dài hơn, trong 5-10 năm sau đó, khi trẻ tiếp tục
học lên.
77
Bảng 2.5. Cơ cấu dân số trong độ tuổi học phổ thông
phân theo tình trạng di cư và theo quận, huyện, năm 1999
Đơn vị: %
Tiểu học (6-10 tuổi)
THCS (11-14 tuổi)
THPT (15-17 tuổi)
Không
Không
Không
Di cư
Di cư
Di cư
di cư
di cư
di cư
Quận 1
92,9
7,1
7,6
89,0
11,0
92,4
Quận 2
89,0
11,0
10,2
87,7
12,3
89,8
Quận 3
90,6
9,4
9,5
84,8
15,2
90,5
Quận 4
89,5
10,5
10,6
87,3
12,7
89,4
Quận 5
90,3
9,7
10,1
85,3
14,7
89,9
Quận 6
89,8
10,2
9,9
87,4
12,6
90,1
Quận 7
82,3
17,7
16,5
81,8
18,2
83,5
Quận 8
91,3
8,7
8,5
88,3
11,7
91,5
Quận 9
84,5
15,5
13,9
79,1
20,9
86,1
Quận 10
89,7
10,3
10,9
83,8
16,2
89,1
Quận 11
89,3
10,7
10,6
87,1
12,9
89,4
Quận 12
77,8
22,2
19,6
74,3
25,7
80,4
Gò Vấp
73,5
26,5
24,1
69,1
30,9
75,9
Tân Bình
75,6
24,4
24,3
68,7
31,3
75,7
Bình Thạnh
84,8
15,2
14,4
81,3
18,7
85,6
Phú Nhuận
86,0
14,0
14,5
81,7
18,3
85,5
Thủ Đức
85,3
14,7
13,6
76,8
23,2
86,4
Củ Chi
96,5
3,5
2,9
96,6
3,4
97,1
Hóc Môn
91,5
8,5
7,8
91,0
9,0
92,2
Bình Chánh
80,7
19,3
17,0
78,9
21,1
83,0
Nhà Bè
96,4
3,6
3,8
95,3
4,7
96,2
Cần Giờ
97,7
2,3
2,0
96,9
3,1
98,0
Toàn TP
86,1
13,9
13,1
82,4
17,6
86,9
Nguồn: Xử lý số liệu từ [74]
78
Bảng 2.6 lọc ra những phường/xã có tỉ lệ trẻ nhập cư chiếm hơn 30% số trẻ
trong độ tuổi đi học ở tất cả các cấp học, tổng số có 12 phường, xã.
Bảng 2.6. Các phường/xã có tỉ lệ trẻ nhập cư chiếm hơn 30% số trẻ
trong độ tuổi đi học ở tất cả các cấp học, năm 1999
Đơn vị: %
Quận, huyện
Phường, xã
Độ tuổi học
Độ tuổi học
Độ tuổi học
tiểu học
THCS
THPT
Quận 7
P. Tân Phong
39,68
34,38
35,45
Quận 9
P. Phước Long B
33,31
33,94
42,16
Quận 12
P. Tân Thới Hiệp
32,52
31,39
33,64
Gò Vấp
P. 11
35,74
31,15
41,60
Gò Vấp
P. 12
36,51
31,82
40,18
Gò Vấp
P. 17
34,45
31,15
42,30
Tân Bình
P. 14
32,24
33,64
37,59
Tân Bình
P. 15
41,36
41,17
45,60
Tân Bình
P. 16
38,76
36,84
41,55
Tân Bình
P. 18
41,37
41,38
46,11
Bình Chánh
Bình Trị Đông
41,11
37,91
42,15
Bình Chánh
Bình Hưng Hòa
48,27
45,31
50,14
Nguồn: Xử lý số liệu từ [74]
79
Bản đồ 3. Những “điểm nóng” do sức ép của người nhập cư lên khả năng đáp ứng
nhu cầu học tập của trẻ em năm 1999
80
Cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở 1-4-2009 phản ánh những diễn biến mới trong giai đoạn 10 năm sau cuộc Tổng điều
tra dân số và nhà ở năm 1999. Trong giai đoạn 2004-2009, hơn 1,7 triệu người đã tham gia chuyển cư trên địa bàn TPHCM,
trong đó hơn 1 triệu người là người nhập cư ngoại tỉnh và gần 513 nghìn người chuyển cư giữa các quận, huyện trong thành phố.
Chỉ tính riêng số người nhập cư ngoại tỉnh (2004-2009) đã chiếm 15,6% dân số toàn thành phố.
Bảng 2.7. Di cư ở TPHCM giai đoạn 2004-2009 phân theo quận, huyện
Số người nhập cư (người)
Trong đó:
Đơn vị hành chính
Tổng số người di cư Tỉ lệ di cư chung Trong TP Di cư ngoại tỉnh Trong TP
23.022 40.469 26.202 14.310 27.332 31.264 88.392 74.914 64.563 43.027 34.876 122.809 161.024 88.646 Di cư trong huyện 2.874 7.418 3.260 5.371 4.308 7.213 12.119 11.592 9.183 5.538 6.643 7.938 23.229 12.768 6.756 11.698 8.331 3.085 9.106 10.618 26.060 28.481 12.976 10.720 13.407 42.583 46.697 22.804 12.969 20.900 14.289 5.650 13.590 13.006 49.356 34.269 42.238 26.482 14.643 71.818 90.474 52.447 Từ nước ngoài 187 98 177 31 189 236 606 115 85 218 73 140 163 163 Không xác định 236 355 145 173 139 191 251 457 81 69 110 330 461 464 13,60 30,10 14,70 8,40 16,90 13,30 39,40 19,90 27,40 20,00 16,40 33,50 33,70 22,90 Tỉ lệ nhâp cư (%) Trong đó: Từ Di cư nước ngoại ngoài tỉnh 7,70 0,10 4,00 15,50 0,10 8,70 0,10 8,00 4,70 0,00 3,30 1,80 0,10 8,40 5,60 0,10 5,50 4,50 11,60 22,00 0,30 9,10 7,60 0,00 18,00 0,00 5,50 12,30 0,10 5,00 6,30 0,00 6,90 11,60 19,60 0,00 18,90 0,00 9,80 13,60 0,00 5,90 Di cư trong huyện 1,70 5,50 1,80 3,20 2,70 3,10 5,40 3,10 3,90 2,60 3,10 2,20 4,90 3,30 Không xác định 0,10 0,30 0,10 0,10 0,10 0,10 0,10 0,10 0,00 0,00 0,10 0,10 0,10 0,10 Quận 1 Quận 2 Quận 3 Quận 4 Quận 5 Quận 6 Quận 7 Quận 8 Quận 9 Quận 10 Quận 11 Quận 12 Gò Vấp Tân Bình
81
224 384 400 79 152 211 220 47 6
109.361 85.185 31.915 160.056 264.039 43.496 71.390 126.713 20.943 2.531 65.414 50.068 12.787 122.143 172.468 27.747 27.799 81.338 9.306 1.592 11.316 15.806 5.615 9.905 15.037 6.771 6.530 8.239 1.146 460
Tân Phú Bình Thạnh Phú Nhuận Thủ Đức Bình Tân Củ Chi Hóc Môn Bình Chánh Nhà Bè Cần Giờ Tổng số 32.223 18.511 13.035 27.572 76.046 8.096 36.252 36.751 10.454 452 1.756.479 200.279 512.714 1.032.793 4.204 184 416 78 357 336 671 589 338 31 27 6.489 30,00 20,10 19,30 39,40 50,00 13,70 22,60 32,90 23,20 3,90 26,60 3,10 3,70 3,40 2,40 2,80 2,10 2,10 2,10 1,30 0,70 3,00 17,90 0,10 8,80 11,80 0,10 4,40 0,20 7,80 7,90 6,80 30,10 0,00 14,40 32,70 0,00 0,10 8,70 2,60 8,80 11,40 0,10 9,60 21,10 0,00 11,60 10,30 0,00 2,50 0,70 15,60 0,10 7,80 0,10 0,10 0,00 0,10 0,10 0,20 0,20 0,10 0,00 0,00 0,10
Nguồn: Xử lý số liệu từ [81]
Số liệu trong bảng là do cộng những người di cư ở nơi đến.
Tỉ lệ nhập cư (%) được tính bằng tỉ lệ những người nhập cư trên địa bàn trong giai đoạn 2004-2009 (độ tuổi từ 5 tuổi trở
lên) so với dân số từ 5 tuổi trở lên của địa bàn đó vào thời điểm Tổng điều tra dân số 1-4-2009.
Bảng 2.7 cho thấy những quận chịu sức ép mạnh nhất của người nhập cư giai đoạn 2004-2009 là Bình Tân, Thủ Đức, tiếp
đến là quận 7, quận Gò Vấp, rồi quận 12, Bình Chánh, quận 2, quận Tân Phú, quận 9. Nếu xét riêng những người nhập cư ngoại
tỉnh, thì các quận thu hút mạnh nhất người nhập cư ngoại tỉnh là Bình Tân, Thủ Đức, tiếp sau là quận Gò Vấp, huyện Bình
Chánh. Nếu xét riêng những người chuyển cư giữa các quận/huyện, thì quận Bình Tân thu hút mạnh nhất, vượt xa các
quận/huyện khác, tiếp đến là Gò Vấp, quận 12, Bình Chánh, Hóc Môn.
82
Bản đồ 4. Bản đồ các phường, xã thu hút mạnh nhất người nhập cư
giai đoạn 2004-2009
83
Bản đồ 4, đối chiếu với bản đồ quy hoạch các tuyến đường vành đai, có thể
nhận ra rằng cùng với việc mở rộng, hiện đại hóa các đường vành đai 2 và vành đai
3, tạo điều kiện kết nối không gian giữa nội đô với các quận/huyện ven nội đô, kết
nối không gian vùng đô thị TPHCM, các khu công nghiệp, các khu đô thị mới đã
được xây dựng trong phạm vi giữa vành đai 2 và vành đai 3. Kết quả là từ đầu thập
niên 2000 trở lại đây, đây là những “điểm nóng” thu hút người nhập cư – cả nhập cư
nội tỉnh và nhập cư liên tỉnh (Bản đồ 2 cũng thể hiện rõ ở cấp quận, huyện sự tăng
mạnh mật độ dân số ở không gian giữa hai tuyến vành đai này).
Bảng 2.8 cho thấy rằng, do sự thu hút người nhập cư đến những địa bàn nhất
định, nên trong giai đoạn 2004-2009 có sự tiếp tục xu hướng đã diễn ra trước đó,
nhưng có cả những xu hướng mới. Tỉ trọng trẻ nhập cư trong cơ cấu dân số trong độ
tuổi đi học ở từng cấp học phổ thông đều cao hơn giai đoạn trước, đặc biệt là đối với
trẻ trong độ tuổi học THPT, tỉ trọng này cao vượt trội.
Đối với trẻ trong độ tuổi học tiểu học, tỉ trọng trẻ nhập cư cao nhất là ở quận
Bình Tân (24,37%) và quận 7 (21,0%), theo sau là quận 12 và quận Bình Chánh.
Đối với trẻ trong độ tuổi học THCS, tỉ trọng trẻ nhập cư cao nhất là ở quận
Bình Tân (29,77%), tiếp sau là quận 7 (20,13%)
Đối với trẻ trong độ tuổi học THPT, tỉ trọng trẻ nhập cư cao nhất là ở quận
Bình Tân (50,92%), tiếp sau là Tân Phú (37,89%), Thủ Đức (36,58%), Bình Chánh
(33,27%), quận 12 (31,62%), quận 7 (30,79%).
84
Bảng 2.8. Cơ cấu dân số trong độ tuổi học phổ thông
phân theo tình trạng di cư và theo quận, huyện, năm 2009
Đơn vị: %
Tiểu học (6-10 tuổi)
THCS (11-14 tuổi)
THPT (15-17 tuổi)
Không di cư Di cư Không di cư Di cư Không di cư Di cư
91,85
8,15
88,56
11,44
Quận 1
92,26
7,74
84,74
15,26
74,11
25,89
Quận 2
85,05
14,95
91,15
8,85
86,27
13,73
Quận 3
91,49
8,51
94,58
5,42
93,29
6,71
Quận 4
93,91
6,09
89,11
10,89
85,74
14,26
Quận 5
87,44
12,56
91,93
8,07
87,46
12,54
Quận 6
91,51
8,49
79,87
20,13
69,21
30,79
Quận 7
79,00
21,00
87,77
12,23
81,26
18,74
Quận 8
87,41
12,59
85,99
14,01
75,82
24,18
Quận 9
86,57
13,43
90,13
9,87
84,65
15,35
Quận 10
89,83
10,17
89,50
10,50
88,00
12,00
Quận 11
88,91
11,09
82,63
17,37
68,38
31,62
Quận 12
80,73
19,27
84,70
15,30
71,62
28,38
Gò Vấp
82,71
17,29
89,17
10,83
74,88
25,12
Tân Bình
88,11
11,89
82,27
17,73
62,11
37,89
Tân Phú
83,54
16,46
92,44
7,56
85,92
14,08
Bình Thạnh
90,26
9,74
85,11
14,89
82,34
17,66
Phú Nhuận
86,27
13,73
83,97
16,03
63,42
36,58
Thủ Đức
83,82
16,18
70,23
29,77
49,08
50,92
Bình Tân
75,63
24,37
93,64
6,36
86,21
13,79
Củ Chi
91,59
8,41
84,78
15,22
80,25
19,75
Hóc Môn
84,17
15,83
83,21
16,79
66,73
33,27
Bình Chánh
81,79
18,21
86,85
13,15
81,64
18,36
Nhà Bè
83,90
16,10
98,16
1,84
97,67
2,33
Cần Giờ
98,47
1,53
86,45
13,55
75,09
24,91
Toàn TP
85,68
14,32
Nguồn: Xử lý số liệu từ [81]
85
Bản đồ 5. Những “điểm nóng” do sức ép của người nhập cư lên khả năng đáp ứng
nhu cầu học tập của trẻ em năm 2009
86
Nếu đặt hai bản đồ (Bản đồ 3 và Bản đồ 5) cạnh nhau, sẽ dễ dàng nhận ra rằng
sau khoảng thời gian 10 năm, các “điểm nóng” do sức ép của người nhập cư lên khả
năng đáp ứng nhu cầu học tập của trẻ em đã lan rộng về không gian rất nhiều, không
chỉ ra các quận/huyện “vùng ven đô”, mà cả ở các quận lõi của nội thành.
Bảng 2.9 liệt kê các phường, xã có tỉ lệ trẻ nhập cư chiếm hơn 30% số trẻ trong
độ tuổi đi học ở tất các cấp học phổ thông năm 2009. Mặc dù số lượng xã phường có
vẻ ít đi so với 10 năm trước (10 so với 12), nhưng ở một số phường, xã sức ép này
thật “quá sức tưởng tượng”, chẳng hạn như ở phường Tân Phong (quận 7), phường
16 (quận 8), phường Sơn Kỳ (quận Tân Phú), phường Bình Trị Đông B và phường
An Lạc (quận Bình Tân).
Bảng 2.9. Các phường/xã có tỉ lệ trẻ nhập cư chiếm hơn 30% số trẻ
trong độ tuổi đi học ở tất cả các cấp học, năm 2009
Đơn vị: %
Độ tuổi học
Độ tuổi học
Độ tuổi học
Quận, huyện
Phường, xã
tiểu học
THCS
THPT
P. Tân Phong
Quận 7
70,54
64,03
78,62
P. 16
Quận 8
38,73
50,32
58,19
P. 15
Quận 11
40,20
31,22
36,15
P. Sơn Kỳ
Tân Phú
39,56
40,80
66,51
Phú Nhuận
P. 05
32,20
32,74
32,06
P. Bình Hưng Hoà B
Bình Tân
34,31
31,29
48,97
P. Bình Trị Đông B
Bình Tân
51,12
43,42
66,16
P. An Lạc
Bình Tân
46,21
57,61
77,07
Bình Chánh
Vĩnh Lộc A
47,30
33,00
58,51
Bình Chánh
An Phú Tây
31,61
39,63
50,97
Nguồn: Xử lý số liệu từ [81]
2.1.5. Xu hướng đô thị hóa
Đô thị hóa ở TPHCM trong những năm gần đây và xu hướng trong thời gian
tới là:
87
- Gia tăng cơ học vẫn chiếm tỉ trọng lớn hơn trong tỉ lệ gia tăng dân số chung
của thành phố, ở mức trên 60% ở khu vực thành thị và khoảng 70% ở khu vực nông
thôn. Xu hướng này vẫn được duy trì, mặc dù về quy mô nhập cư có thể giảm, điều
này cũng có tính quy luật đối với các thành phố đã đạt được trình độ đô thị hóa cao,
đó là do:
+ Những cơ hội về việc làm và thu nhập, không chỉ cho các lao động có chuyên
môn kỹ thuật, mà cả cho lực lượng lao động phổ thông.
+ Sự mở rộng dịch vụ giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp, mà một bộ
phận sinh viên sau tốt nghiệp ở lại tìm việc làm trong thành phố.
+ Sự nới lỏng về chính sách hộ khẩu, đăng ký tạm trú và giải quyết tiếp cận
dịch vụ xã hội (y tế, giáo dục) đối với người tạm trú.
+ Sự hình thành các khu đô thị mới, các dự án bất động sản lớn được khởi động
như khu dân cư Tây Bắc Củ Chi và khu vực Phước Kiển, Nhà Bè được khởi động.
Trong khi đó, các dự án phía Nam Sài Gòn vẫn tiếp tục thu hút dân cư.
- Do cấu trúc lại không gian đô thị, nên sẽ tiếp tục hạn chế giảm gia tăng dân số
ở các quận lõi của thành phố, thậm chí có thể có địa bàn phải giải tỏa, giảm mật độ
dân số đã quá cao, gây áp lực lên cơ sở hạ tầng đô thị, khó chỉnh trang đô thị. Mặt
khác, tăng mật độ dân số chủ yếu ở các quận, phường vùng ven.
- Tốc độ đô thị hóa ở TPHCM trong thập niên tới sẽ chậm lại, một mặt do trình
độ đô thị hóa của thành phố đã cao, mặt khác, sự hình thành vùng đô thị TPHCM,
với các đô thị vệ tinh sẽ tạo ra xu hướng như đã xảy ra ở các nước có trình độ đô thị
hóa cao, đó là sự phát triển mạnh ở các không gian ngoại thành, giảm áp lực lên
không gian lõi của đô thị. Sự phát triển kinh tế - xã hội ở những vùng đã từng là
nguồn cung cấp chủ yếu người nhập cư ngoại tỉnh ở TPHCM sẽ làm thay đổi “lực
hút” và “lực đẩy” đối với quá trình di cư và đối với bản thân người di cư, kết quả là
sự chênh lệch trong phát triển vùng giảm đi sẽ giảm cường độ của các luồng chuyển
cư liên vùng. Tuy nhiên, cũng có một khả năng khác, đó là do tác động của biến đổi
khí hậu, mà sự phát triển KT-XH ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long sẽ có những
diễn biến bất thường và bất lợi, điều này sẽ tăng sức ép di cư lên Đông Nam Bộ,
trong đó có TPHCM.
88
Việc tăng cường kết nối giao thông vận tải giữa TPHCM và các tỉnh thành lân
cận như Đồng Nai, Long An, Bình Dương, Bình Phước, Bà Rịa - Vũng Tàu sẽ tăng
cường khả năng di chuyển lao động, tính linh động của lao động đối với các thị
trường lao động ở Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. UBND TPHCM đã chấp
thuận phương án kéo dài tuyến đường sắt đô thị kết nối từ ga Suối Tiên của tuyến
metro Bến Thành - Suối Tiên đến Biên Hòa (Đồng Nai) và Dĩ An (Bình Dương).
Không chỉ kéo dài tuyến metro số 1 tới Biên Hòa, Dĩ An, thời gian qua, đã có hàng
loạt công trình hạ tầng kết nối liên vùng giữa TPHCM, Đồng Nai, Bình Dương được
đầu tư xây dựng như tuyến đường cao tốc TPHCM - Long Thành - Dầu Giây, dự án
kết nối từ Quốc lộ 51 thuộc địa phận Biên Hòa với cao tốc hướng về TPHCM,
hay dự án cầu Cát Lái nối quận 2 của TPHCM với Nhơn Trạch của Đồng Nai đang
thực hiện.
Theo Quyết định 24/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt điều chỉnh
quy hoạch chung xây dựng TPHCM đến năm 2025, mục tiêu nhằm phát triển Vùng
TPHCM trở thành một vùng đô thị lớn phát triển năng động và bền vững; có vai trò,
vị thế quan trọng trong khu vực Đông Nam Á và hướng tới chuẩn mực quốc tế; phát
triển Vùng TPHCM trở thành vùng kinh tế hiện đại, trung tâm kinh tế lớn của cả
nước và khu vực Đông Nam Á.
TPHCM hình thành và phát triển theo hướng chia thành 3 địa bàn gồm: Địa bàn
đã đô thị hóa, địa bàn đang đô thị hóa và địa bàn nông thôn trong đô thị.
Cụ thể, địa bàn đã đô thị hóa gồm 13 quận nội thành cũ là quận 1, 3, 4, 5, 6, 8,
10, 11, Bình Thạnh, Phú Nhuận, Gò Vấp, Tân Bình và Tân Phú. Trừ các quận 1, 3, 5,
các quận còn lại phát triển tự phát và không được quy hoạch nên trong khoảng 10-15
năm, TPHCM sẽ chỉnh trang đô thị, điều tiết lại dân cư, phát triển hạ tầng kỹ thuật
và hạ tầng xã hội đô thị theo hướng văn minh hiện đại. Sau khi hoàn thành định
hướng sẽ được tổ chức lại các đơn vị hành chính theo mô hình cấp chính quyền đô
thị hoàn chỉnh.
Đối với địa bàn đang đô thị hóa gồm 6 quận là quận 2, 7, 9, 12, Thủ Đức, Bình
Tân và 2 huyện Hóc Môn và Nhà Bè, có thể phân chia thành các khu đô thị độc lập
89
kết nối với địa bàn đã đô thị hóa giúp nâng quy mô diện tích đô thị hóa gấp 4 lần so
với hiện nay vào năm 2025.
Tại đây, sẽ thành lập 4 khu đô thị (hoặc gọi là thành phố) gồm Đông, Nam, Tây
và Bắc. Mỗi khu đô thị là một cấp chính quyền đô thị trực thuộc chính quyền đô thị
TPHCM. Chính quyền 4 khu đô thị được thiết kế theo hướng phân cấp mạnh, tăng
thẩm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong ngân sách, xây dựng và quản lý, phát
triển dịch vụ đô thị.
Khu đô thị Đông (hay TP Đông) gồm quận 2, 9 và Thủ Đức với diện tích 211
km2 với trung tâm là khu đô thị mới Thủ Thiêm. Ở đây sẽ phát triển các ngành dịch
vụ cao cấp và công nghiệp kỹ thuật cao.
Khu đô thị Nam (hay TP Nam) gồm quận 7, huyện Nhà Bè và một phần diện
tích quận 8 (phần phía nam kênh Tẻ) và huyện Bình Chánh với diện tích 194 km2. Ở
đây sẽ phát triển dịch vụ cảng, gắn liền với các dịch vụ thương mại khác.
Khu đô thị Bắc (hay TP Bắc) gồm quận 12 và phần lớn huyện Hóc Môn với
diện tích 149 km2 sẽ phát triển dịch vụ, du lịch sinh thái, nông nghiệp kỹ thuật cao.
Khu đô thị Tây (hay TP Tây) gồm quận Bình Tân, một phần diện tích quận 8 và
huyện Bình Chánh với diện tích 191 km2. Đây là khu đô thị đầu mối giao lưu kinh tế
với Đồng bằng sông Cửu Long.
Đối với địa bàn nông thôn trong đô thị gồm 3 huyện Củ Chi, Bình Chánh và
Cần Giờ có diện tích khoảng 1.300 km2. Ở địa bàn này, TP đề xuất với Trung ương
đổi mới mô hình tổ chức chính quyền đô thị theo hướng: Chuyển cấp chính quyền
huyện hiện nay thành cấp hành chính, tức là không tổ chức Hội đồng nhân dân cấp
huyện và không có cơ chế tự chủ ngân sách.
Như vậy, định hướng tổ chức mạng lưới trường học phổ thông: xây dựng mạng
lưới trường học phổ thông theo hướng đa tâm; hoặc dựa trên cơ cấu lao động theo
ngành để phân bố trường học vì xu hướng phụ huynh công tác ở đâu sẽ an cư và cho
con học gần khu vực đó.
2.1.6. Trình độ phát triển kinh tế
TPHCM là trung tâm kinh tế lớn nhất cả nước. Theo số liệu tổng hợp từ Cục
Thống kê TPHCM, năm 2018, thành phố tiếp tục là đầu tàu kinh tế của cả nước, với
90
tổng sản phẩm trên địa bàn thành phố (GRDP) là 1,33 triệu tỉ đồng, bằng 24,16%
GDP của cả nước (năm 2017, TPHCM chiếm 23,5% GDP của cả nước). Tốc độ tăng
trưởng GRDP luôn ở mức cao: 8,3% (2018), thu ngân sách trên địa bàn là 369621 tỉ
đồng. Trong lúc chỉ số tăng trưởng công nghiệp năm 2018 là 8,13% - thấp hơn mức
tăng GRDP, thì rõ ràng tăng trưởng của khu vực dịch vụ là cao hơn hẳn. Trong cơ
cấu kinh tế của TPHCM, do không có số liệu mới nhất được công bố, NCS căn cứ
theo TCTK, năm 2014, trong cơ cấu GRDP, nông - lâm - ngư nghiệp chiếm 1,0%,
công nghiệp – xây dựng 39,4%, dịch vụ 59,6%. Đối chiếu với “Quy hoạch tổng thể
phát triển kinh tế - xã hội Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020, tầm nhìn đến năm
2025” [18] TPHCM tiếp tục chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng dịch vụ - công
nghiệp – nông nghiệp, có phần nhanh hơn dự kiến (có thể nói đã đạt mục tiêu năm
2025). TPHCM tiếp tục có năng suất lao động cao, năm 2018 là 293 triệu đồng/lao
động. Tổng mức doanh thu bán lẻ và dịch vụ du lịch tăng 13,2% so với năm 2017.
Từ 15/1/2018, TPHCM được thực hiện cơ chế đặc thù [56], tạo điều kiện tháo
gỡ những nút thắt trong phát triển thành phố như về quản lý đất đai, quản lý đầu tư,
quản lý tài chính – ngân sách nhà nước, cơ chế ủy quyền và thu nhập của cán bộ,
công chức, viên chức thuộc thành phố quản lý. Nói riêng đối với giáo dục phổ thông,
sẽ có cơ hội nhiều hơn cho đầu tư giáo dục, mở rộng và hiện đại hóa mạng lưới
trường. Việc áp dụng chi thu nhập tăng thêm cho giáo viên đã tạo ra động lực mới và
sự ràng buộc mới đối với đội ngũ nhà giáo để nâng cao chất lượng giáo dục.
2.2. Thực trạng phát triển giáo dục phổ thông ở Thành phố Hồ Chí Minh
2.2.1. Tiếp cận dịch vụ giáo dục
2.2.1.1. Quy mô và cơ cấu HS đang đi học phân theo cấp học và loại
hình trường
Theo Niên giám thống kê TPHCM, từ năm học 2008-2009 đến 2017-2018, số
học sinh phổ thông của toàn thành phố đã tăng từ 913,2 nghìn HS lên 1.225 nghìn
HS. Tính trung bình giai đoạn 9 năm, tốc độ tăng HS phổ thông là 3,27%, tuy nhiên,
có những năm tốc độ tăng HS phổ thông chung rất cao, như năm học 2009-2010 so
với năm học 2008-2009 tăng 5,66%, năm học 2013-2014 so với năm học 2011-2012
tăng 6,0%. Tốc độ tăng HS tiểu học cao hơn cả (3,70%), tiếp đến là học sinh THCS
91
(3,60%), thấp nhất là học sinh THPT (1,55%). Cho đến nay, học sinh học các trường
công lập vẫn là chủ yếu, năm học 2017-2018, các trường công lập thu hút 94,4% HS,
chỉ có 5,6% HS học ở các trường ngoài công lập. Hình 2.2 và Bảng 2.10 cho biết
trong loại hình trường ngoài công lập, số học sinh THPT là nhiều hơn cả; tuy nhiên,
chỉ có các trường THCS ngoài công lập có số HS tăng liên tục, còn các trường TH và
THPT số HS diễn biến thất thường. Điều này phản ánh những đặc điểm sau:
- Các trường THPT ngoài công lập được xây dựng và phát triển khá sớm, thu
hút một tỉ lệ khá cao HS học THPT nói chung (năm học 2008-2009 chiếm hơn 24%,
nhiều năm sau này biến động trong khoảng 17-18%). Do khả năng tiếp nhận HS của
các trường THPT công lập có hạn, các trường ngoài công lập giữ thế ổn định nhằm
đáp ứng nhu cầu học tập của HS; về sau này, trong cuộc cạnh tranh thị trường GD,
các trường ngoài công lập đang có nhiều nỗ lực để tạo dựng hình ảnh về chất lượng
và sự khác biệt.
- Số HS học THCS ngoài công lập tăng đều, có liên quan đến việc một số
trường trước đây là một cấp, nay phát triển thành mô hình hai cấp hoặc liên cấp.
Điều này đặc biệt quan trọng đối với các trường THPT nhằm tạo nguồn HS của nhà
trường được chủ động.
- Số HS học TH ngoài công lập chỉ chiếm tỉ trọng nhỏ (năm học 2008-2009
chiếm 4,6%, năm học 2014-2015 là 1,7%, năm học 2017-2018 là 2,5%) và hiện nay
số lượng cũng ít hơn các cấp học trên, đó là vì trong điều kiện phổ cập giáo dục tiểu
học, các trường công lập về cơ bản đủ khả năng tiếp nhận trẻ em ở độ tuổi học TH.
Các trường TH ngoài công lập muốn trụ vững, phải tạo ra chất lượng giáo dục khác
biệt, mô hình giáo dục được phụ huynh HS đánh giá cao, và thường đi kèm là học
phí cao hơn rất nhiều so với trường công lập.
92
Hình 2.2. Số lượng học sinh nhập học phân theo cấp học và loại hình trường
Đơn vị: nghìn người
Bảng 2.10. Tổng số học sinh phổ thông các năm học
2008-
2009-
2010-
2011-
2013-
2014-
2015-
2016-
2017-
2009
2010
2011
2012
2014
2015
2016
2017
2018
917,2
969,1
991,0 1022,0 1083,3 1.122,4 1163,4 1183,8 1225,0
Tổng số
học sinh
434,6
474,9
493,3
504,4
547,3
559,4
584,1
578,8
602,9
Tiểu học
Công lập
414,8
458,3
479,2
490,6
536,4
549,9
572,8
566,4
587,5
Ngoài
19,8
16,6
14,1
13,9
10,9
9,6
11,2
12,4
15,3
công lập
300,7
307,7
310,1
326,4
350,8
376,7
385,1
400,5
413,3
THCS
Công lập
292,6
296,4
298,1
314,0
338,2
363,8
371,5
385,8
396,7
Ngoài
8,2
11,4
12,0
12,4
12,6
12,9
13,6
14,7
16,6
công lập
181,9
186,5
187,6
191,1
185,2
186,3
194,3
204,5
208,9
THPT
Công lập
137,7
154,6
154,2
156,1
156,3
158,4
162,3
170,8
172,4
Ngoài
44,1
31,9
33,4
35,0
28,9
27,9
32,0
33,7
36,4
công lập
Nguồn: Niên giám thống kê TPHCM 2011, 2017 [21]
93
2.2.1.2. Tỉ lệ đi học
Đông Nam Bộ nói chung, TPHCM nói riêng luôn là địa phương có tỉ lệ HS đi
học đúng tuổi cao bậc nhất cả nước. Điều này được khẳng định qua các cuộc Khảo
sát mức sống dân cư từ năm 2006 đến năm 2016 [69].
Bảng 2.11. Tỉ lệ đi học đúng tuổi của cả nước và Đông Nam Bộ
Đơn vị: %
Tiểu học THCS THPT
CẢ NƯỚC
2006 89,3 78,8 53,9
2008 88,3 78,4 54,2
2010 91,9 81,3 58,2
2012 92,4 81,4 59,4
2014 93 84,4 63,1
2016 97 90,4 68,6
Đông Nam Bộ
2008 88,8 81,2 57,7
2010 92,7 84,4 59,7
2012 92,1 83,4 60,0
2014 93,4 87 65,1
2016 97,8 93,1 72,0
Nguồn: Kết quả khảo sát mức sống dân cư Việt Nam 2016 [69]
Tuy nhiên, trong điều kiện của TPHCM, cần chú ý đến điều kiện tiếp cận dịch
vụ giáo dục của trẻ em là con của các gia đình nhập cư ngoại tỉnh có phần khó khăn
so với trẻ em ở các gia đình không di cư hoặc di cư nội tỉnh, làm cho tỉ lệ đi học
đúng tuổi của nhóm trẻ em này thấp hơn hẳn, nhất là ở THCS và THPT, càng lên lớp
trên, tỉ lệ đi học càng giảm (bảng 2.11 và bảng 2.12).
94
Bảng 2.12. Tỉ lệ trẻ em đang đi học ở từng độ tuổi (6-17)
phân theo tình trạng di cư, năm 2009
Đơn vị: %
Tuổi tròn Không di cư Di cư trong
Di cư trong
Nhập cư
Tổng số
quận, huyện
thành phố
ngoại tỉnh
6
95,58
91,47
95,33
90,78
95,16
7
98,46
97,33
99,47
95,81
98,38
8
98,95
98,30
98,02
93,82
98,65
9
98,24
97,70
98,74
91,40
98,01
10
97,48
91,94
96,12
84,95
96,71
11
97,00
97,76
94,76
79,79
96,25
12
94,64
91,79
93,39
71,60
93,53
13
92,40
94,14
88,32
56,50
90,27
14
87,94
80,71
84,69
38,91
84,57
15
82,60
76,45
80,66
24,51
76,01
16
75,77
63,04
75,16
19,84
64,59
17
71,45
63,18
66,32
13,84
58,65
Nguồn: Xử lí từ [81]
Bảng 2.13. Tỉ lệ đi học đúng tuổi ở TPHCM phân theo tình trạng di cư
Đơn vị: %
Di cư trong
Di cư
Nhập cư
Tính chung
Không di cư
quận, huyện
khác huyện
ngoại tỉnh
toàn TP
97,7
95,6
97,5
91,6
97,4
Tiểu học
93,0
91,1
90,3
58,0
91,1
THCS
76,6
67,6
73,7
18,1
66,1
THPT
Nguồn: [81]
Tình trạng về chênh lệch tiếp cận dịch vụ giáo dục (và y tế) đã được phân tích
trong Báo cáo quốc gia về phát triển con người Việt Nam 2011 [90] (tr.84-85). Trong
hệ thống đăng ký hộ khẩu hiện nay ở Việt Nam có chia ra:
- KT1: những cư dân chính gốc tại địa bàn sinh sống,
95
- KT2: người đăng ký trong cùng một tỉnh, nhưng hiện đang sống ở một huyện/
quận khác,
- KT3: người đăng ký tại một tỉnh, nhưng được phép cư trú lâu dài tại một tỉnh
khác (KT3);
- KT4: người lao động theo mùa và sinh viên sống tạm thời ở một tỉnh khác với
tỉnh đăng ký hộ khẩu.
- Người di cư không đăng ký là những người vẫn còn tên trong hộ khẩu gia
đình ở các xã, phường gốc nhưng trên thực tế lại sống tạm thời hoặc lâu dài tại một
huyện hoặc tỉnh khác mà chưa đăng ký.
Con em của cư dân KT1 và KT2 được ưu tiên học tại các trường tốt của nhà
nước. Người di cư KT3 và KT4 và những người không đăng ký hộ khẩu có hai lựa
chọn: hoặc xin cho con vào các trường ngoài công lập với học phí cao hơn, hoặc “trả
thêm tiền” để con của họ được nhận vào các trường công; con em họ cũng không có
điều kiện để được miễn học phí trong trường hợp họ là đối tượng nghèo.
Trong Báo cáo phát triển con người nêu trên có viện dẫn trường hợp của
TPHCM, nơi 70% lao động trong các khu công nghiệp và khu chế xuất là lao động
nhập cư, cũng như lực lượng đáng kể lao động trong khu vực kinh tế không chính
thức, họ thường không đăng ký hộ khẩu và thay đổi việc làm thường xuyên. Con em
của những gia đình này chiếm 5-10% trẻ em di cư ở TPHCM.
Bảng 2.14 dưới đây cho thấy tỉ lệ HS đi học đúng tuổi ở TPHCM không những
cao (96,3%, năm học 2017-2018), mà tỉ lệ này trong những năm qua còn không
ngừng tăng lên, đặc biệt ở THPT (từ 90,6%, năm học 2013-2014, lên 95,4%, năm
học 2017-2018). Đáng chú ý là không có sự phân biệt giữa nam và nữ. Trong nhiều
trường hợp tỉ lệ đi học đúng tuổi của nữ còn cao hơn ở nam.
96
Bảng 2.14. Tỷ lệ học sinh phổ thông đi học đúng tuổi
phân theo cấp học và phân theo giới tính
Đơn vị: %
2013- 2014- 2015- 2016- 2017- Năm học 2014 2015 2016 2017 2018
Tỷ lệ đi học đúng tuổi 94,8 95,3 96,1 96,3 96,3
Trong đó: Nữ 46,6 46,8 47,1 47,4 47,4
Tiểu học 97,1 97,3 97,5 97,4 97,4
Trong đó: Nữ 46,9 46,9 47,1 47,3 47,1
Trung học cơ sở 93,4 94,3 95,4 95,6 95,1
Trong đó: Nữ 45,6 46,2 46,6 46,8 46,8
Trung học phổ thông 90,6 91,3 93,1 94,3 95,4
Trong đó: Nữ 47,3 47,3 48,2 49,0 49,4
Nguồn: Niên giám thống kê TPHCM 2017 [21]
2.2.2. Số học sinh bình quân một giáo viên và bình quân một lớp học
Đây là một tiêu chí phản ánh rất rõ điều kiện đảm bảo chất lượng dịch vụ giáo
dục. Theo Quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo (Thông tư 41/2010/TT-BGDĐT)
[1], đối với các trường tiểu học, sĩ số của lớp không được quá 35 HS. Còn theo
Thông tư 12/2011/TT-BGDĐT [4], mỗi lớp ở các cấp THCS và THPT có không quá
45 học sinh. Như vậy, theo số liệu của Cục thống kê TPHCM, thì tiêu chí này còn
chưa đạt được đối với tiểu học, còn quy mô lớp ở THCS và THPT đã nhỏ hơn mức
quy định. Từ năm học 2013-2014 đến năm học 2017-2018, các chỉ tiêu này chưa
được cải thiện, chứng minh rằng việc xây thêm lớp học cũng chỉ vừa theo kịp tốc độ
tăng số lượng HS phổ thông các cấp. Đáng chú ý là có sự khác biệt rõ rệt giữa các
trường ngoài công lập và các trường công lập: ở các trường ngoài công lập, thường
chỉ 10 HS trở xuống bình quân 1 giáo viên, dù là TH, THCS hay THPT. Quy mô lớp
thường dưới 10 em (tiểu học), dưới 25 em (THCS), chỉ khoảng 30 em (THPT).
97
Bảng 2.15. Số học sinh bình quân 1 giáo viên và bình quân 1 lớp học
Đơn vị: học sinh
2014-
2015-
2016-
2017-
2013-
2015
2016
2017
2018
2014
23,1
Số HS bình quân một GV
23,1
23,5
23,6
24
29
Tiểu học
29,5
29,4
28,7
29,3
30,2
Công lập
31
30,5
29,9
30,4
8,8
Ngoài công lập
8,8
10,2
10,2
12,1
21,8
Trung học cơ sở
21
22,1
22,8
23,2
23,4
Công lập
22,7
23,5
24,2
24,5
7,6
Ngoài công lập
7,2
8,6
9,2
10,2
15,6
Trung học phổ thông
15,8
15,9
16,5
16,5
18,4
Công lập
18,5
18,3
19,2
19,1
8,4
Ngoài công lập
8,7
9,4
9,8
10,1
Số HS bình quân một lớp
40
40,2
40,4
40,1
40,2
học
39,8
Tiểu học
39,4
40,1
39,4
39,8
40,8
Công lập
40,9
41,2
40,4
40,8
17
Ngoài công lập
14,4
17,4
18,4
20,6
41,6
Trung học cơ sở
41,4
41,5
41,5
41,2
43,1
Công lập
42,7
42,8
42,8
42,6
21,3
Ngoài công lập
22,4
22,5
22,9
23,4
38,8
Trung học phổ thông
39
38,9
39,4
39,4
41,2
Công lập
41,5
41,2
41,7
41,8
29,4
Ngoài công lập
29,4
30,3
30,8
31,2
Nguồn: Niên giám thống kê Việt Nam 2018, Niên giám thống kê TPHCM 2017
Bảng 2.15 cho thấy trong 5 năm từ năm học 2013- 2014 đến 2017-2018, tất cả
các trường phổ thông ngoài công lập đều đạt tiêu chuẩn; còn các trường công lập thì
mức độ đạt chuẩn theo thứ tự như sau: Tiểu học thấp nhất (trung bình trên 40
HS/lớp), thứ hai là THCS (trung bình trên 42 HS/lớp), mức độ đạt chuẩn cao nhất là
cấp THPT (dao động 41 HS/lớp). Lý do là càng lên cấp học cao thì các em càng có
98
sự chuyển hướng mạnh mẽ: một số em có thể nghỉ học để phụ giúp gia đình, một số
em bị lưu ban do chương trình Trung học càng lên cao càng khó, một số em có thể
chuyển sang giáo dục thường xuyên hoặc học nghề,...
Bảng 2.16. Tỷ lệ học sinh phổ thông lưu ban, bỏ học phân theo cấp học
Đơn vị: %
2012- 2013- 2014- 2015- 2016- Năm học 2013 2014 2015 2016 2017
Tỷ lệ học sinh phổ thông lưu ban 0,97 0,94 0,87 0,81 0,87
Tiểu học 0,45 0,38 0,38 0,40 0,57
Trung học cơ sở 1,38 1,30 1,34 1,31 1,35
Trung học phổ thông 1,69 1,93 1,40 1,03 0,74
Tỷ lệ học sinh phổ thông bỏ học 0,24 0,30 0,24 0,68 0,64
Tiểu học 0,01 0,03 0,02 0,03 0,04
Trung học cơ sở 0,34 0,42 0,39 1,02 0,98
Trung học phổ thông 0,69 0,89 0,60 1,96 1,64
Nguồn: Niên giám thống kê TPHCM 2017
2.2.3. Học phí và khả năng chi trả cho giáo dục
Đối với TPHCM, sự phân tầng xã hội khá rõ ràng, trong đó có sự phân tầng về
thu nhập, cơ cấu và mức chi tiêu cho các nhu cầu của hộ gia đình, khả năng chi phí
cho học hành của con cái, khả năng đầu tư cho giáo dục nói chung. Những điều này
sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến tỉ lệ HS đến trường, sự hình thành, phát triển các loại
hình trường. Hiến pháp 2013 (Điều 61, khoản 2) quy định: “giáo dục tiểu học là bắt
buộc, Nhà nước không thu học phí”. Mức trần học phí, các đối tượng được miễn,
giảm học phí được quy định rất rõ trong Thông tư liên tịch 09/2016/TTLT-BGDĐT-
BTC-BLĐTBXH ngày 30/3/2016 “Hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định
số 86/2015/NĐ-CP ngày 02 tháng 10 năm 2015 của Chính phủ quy định về cơ chế
thu, quản lý học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và
chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập từ năm học 2015 - 2016 đến
năm học 2020 – 2021” [64]. Những quy định rõ ràng này được thực hiện sẽ góp phần
giảm bớt gánh nặng chi tiêu cho giáo dục của các hộ gia đình đông con, hộ nghèo,
99
cận nghèo, hộ có hoàn cảnh khó khăn và các đối tượng ưu tiên. Bên cạnh đó, mức
thu học phí của các cơ sở giáo dục ngoài công cập có phần “thả nổi”, dựa trên sự
thỏa thuận hoặc sự sẵn lòng chi trả cho chi phí giáo dục của các gia đình HS. Như
vậy, chính mức sống cao của một bộ phận dân cư và kỳ vọng của họ đối với chất
lượng giáo dục phổ thông, định hướng cho con học tiếp sau phổ thông đã là điều kiện
quan trọng cho sự phát triển hệ thống các trường ngoài công lập ở TPHCM.
Trở lại bảng 2.10 và hình 2.2, có thể thấy rằng, các trường tiểu học ngoài công
lập mặc dù đã có khởi sắc trở lại, nhưng số HS theo học các trường này năm học
2017-2018 vẫn còn thua xa năm học 2008-2009, và thời kỳ “bắt đáy” chính là năm
học 2014-2015, chỉ 9,6 nghìn HS, bằng 1/2 so với năm học 2008-2009. Đó là vì, nếu
gia đình HS khá giả, quyết định cho con học trường tư thục ngay từ tiểu học, thì họ
đã phải tính toán dài hơi cho toàn bộ 12 năm học PT và cả những năm sau đó con đi
học nước ngoài. Nếu có hai con, thì chắc chắn phải lựa chọn cả hai con học trường tư
thục “để chúng khỏi tị nhau”. Không nhiều gia đình có thể tham gia cuộc phiêu lưu
dài như thế. Vì thế, có thể thấy nhiều gia đình trong số này đã chọn phương án cho
con học trường chất lượng cao từ THCS, dẫn đến chỗ số lượng HS ngoài công lập
bậc THCS đã tăng nhanh và liên tục từ năm học 2008-2009 đến 2017-2018 (tăng gấp
đôi, từ 8,2 nghìn HS lên 16,6 nghìn HS). Số lượng HS theo học các trường THPT
ngoài công lập cao hơn nhiều so với học sinh TH và THCS cộng lại. Điều này cho
thấy nhiều gia đình đã cân nhắc việc “đầu tư cơ hội” ở bậc THPT, chi phí chịu được
và có thể tạo ra chất lượng mới trong kết quả học tập của con họ, để hy vọng vào học
ở các trường đại học trong nước có vị thế tốt hay đi học nước ngoài.
2.2.4. Mức độ đảm bảo chất lượng dịch vụ giáo dục
Dựa trên Thông tư 18/2018/TT-BGDĐT quy định về kiểm định chất lượng giáo
dục và công nhận đạt chuẩn quốc gia đối với trường trung học cơ sở, trường trung
học phổ thông và trường phổ thông có nhiều cấp học do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và
Đào tạo ban hành [8]; Thông tư 17/2018/TT-BGDĐT quy định về kiểm định chất
lượng giáo dục và công nhận đạt chuẩn quốc gia đối với trường tiểu học do
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành [7] NCS đưa ra bộ tiêu chí sau đây:
a) Tiêu chuẩn 1: Cơ sở vật chất và thiết bị dạy học
100
- Tiêu chí 1.1: Khuôn viên, khu sân chơi, bãi tập
+ Khuôn viên đảm bảo xanh, sạch, đẹp, an toàn để tổ chức các hoạt động giáo
dục;
+ Đảm bảo an ninh trật tự; vệ sinh an toàn thực phẩm; an toàn phòng, chống tai
nạn, thương tích; an toàn phòng, chống cháy, nổ; an toàn phòng, chống thảm họa,
thiên tai; phòng, chống dịch bệnh; phòng, chống các tệ nạn xã hội và phòng, chống
bạo lực trong nhà trường; những trường có tổ chức bếp ăn cho học sinh được cấp
giấy chứng nhận đủ điều kiện an toàn thực phẩm;
+ Khu sân chơi, bãi tập có đủ thiết bị tối thiểu, đảm bảo an toàn để luyện tập
thể dục, thể thao và các hoạt động giáo dục của nhà trường.
- Tiêu chí 1.2: Phòng học, phòng học bộ môn và khối phục vụ học tập
+ Phòng học có đủ bàn ghế phù hợp với tầm vóc học sinh, có bàn ghế
của giáo viên, có bảng viết, đủ điều kiện về ánh sáng, thoáng mát; đảm bảo học nhiều
nhất là hai ca trong một ngày;
+ Có đủ phòng học bộ môn theo quy định;
+ Có phòng hoạt động Đoàn - Đội, thư viện và phòng truyền thống.
- Tiêu chí 1.3: Khu vệ sinh, hệ thống cấp thoát nước
+ Khu vệ sinh riêng cho học sinh nam, nữ; đảm bảo không ô nhiễm môi trường;
khu vệ sinh đảm bảo sử dụng thuận lợi cho học sinh khuyết tật học hòa nhập;
+ Có hệ thống thoát nước đảm bảo vệ sinh môi trường; hệ thống cấp nước sạch
đảm bảo nước uống và nước sinh hoạt cho học sinh;
+ Thu gom rác và xử lý chất thải đảm bảo vệ sinh môi trường.
- Tiêu chí 1.4: Thiết bị
+ Có đủ thiết bị dạy học đáp ứng yêu cầu học tập tối thiểu theo quy định;
+ Hiệu quả sử dụng của GV đối với các thiết bị dạy học.
b) Tiêu chuẩn 2: Về học sinh
- Tiêu chí 2.1: Đảm bảo về tuổi học sinh theo quy định
- Tiêu chí 2.2: Thực hiện các nhiệm vụ theo quy định;
- Tiêu chí 2.3: Được đảm bảo các quyền theo quy định: không có hiện tượng kỳ
thị, hành vi bạo lực, vi phạm pháp luật về bình đẳng giới trong nhà trường.
101
NCS đã tiến hành phỏng vấn 163 phụ huynh HS (nội dung Phiếu hỏi được trình
bày ở Phụ lục 1), các phiếu hỏi được tập trung nhiều ở các quận, huyện có các điểm
nóng về dịch vụ giáo dục do sức ép của số lượng HS lên mạng lưới trường hiện có
(xem bảng 2.16).
Bảng 2.17. Phân bổ phiếu hỏi phụ huynh học sinh
Quận, huyện
Số phiếu
Phần trăm
Tổng số phiếu hỏi có giá trị
163
100,0
Quận 5
49
30,1
Quận Bình Tân
17
10,4
Quận Thủ Đức
13
8,0
Huyện Bình Chánh
13
8,0
Quận Bình Thạnh
11
6,7
Quận 7
10
6,1
Quận 2
10
6,1
Các quận, huyện còn lại
40
24,5
Nguồn: Xử lý từ kết quả điều tra của NCS, quý 2/2019
Liên quan đến các câu hỏi về điều kiện đảm bảo chất lượng giáo dục của nhà
trường (từ câu b5 đến b17), với 3 phương án trả lời: 1 = không quan trọng; 2 = quan
trọng; 3 = rất quan trọng, NCS thu được kết quả như sau:
102
Bảng 2.18. Thống kê mô tả về thái độ của phụ huynh học sinh
đối với các điều kiện đảm bảo chất lượng giáo dục của nhà trường
STT N 163 Minimum Maximum Mean 2,64 1 3 Std. Deviation 0,51 1 Khu sân chơi, nhà vệ sinh đảm bảo điều kiện an toàn, vệ sinh cho trẻ
2 Môi trường xã hội xung quanh trường đảm bảo tốt 163 1 3 2,54 0,54
3 163 1 3 2,52 0,55
cho hoạt động giáo dục Trường có các phòng thí nghiệm, thư viện phục vụ học tập Trường có các giáo viên giỏi nghề, yêu trẻ
4 5 Chương trình học không bị nặng/quá tải 6 Các phòng học có các thiết bị dạy học 7 163 163 163 163 1 1 1 1 3 3 3 3 2,49 2,42 2,38 2,37 0,56 0,55 0,62 0,60 Trường chú trọng liên lạc và phối hợp với gia đình trong giáo dục
8 HS không phải học lớp quá đông 9 163 163 1 1 3 3 2,23 2,23 0,70 0,65 Trường có sân vận động, nhà tập thể dục thể thao cho HS
10 Chương trình nhà trường có nhiều hoạt động ngoại 163 1 3 2,21 0,72 khóa/trải nghiệm
11 Theo học trường này, sẽ yên tâm về tương lai học 163 1 3 2,10 0,66 lên của con
12 Các phòng học có lắp điều hòa nhiệt độ 13 Có nhiều bạn cũ học cùng trường 1 1 3 3 2,07 1,48 0,77 0,68
Valid N (listwise) 163 163 163
Nguồn: Xử lý từ kết quả điều tra của NCS, quý 2/2019
103
Trong bảng trên, đại lượng Mean (trung bình) càng lớn hơn 2, càng được coi là
rất quan trọng, nhỏ hơn 2 là ít quan trọng. Như vậy, theo phụ huynh HS trả lời, điều
kiện quan trọng số 1 liên quan đến việc đảm bảo vệ sinh và an toàn cho trẻ; thứ 2 là
về môi trường xã hội xung quanh trường, thứ 3 là điều kiện phòng thí nghiệm, thư
viện; thứ 4 là chất lượng đội ngũ giáo viên; thứ 5 là chương trình giáo dục,… Đây
cũng chính là các lý do hàng đầu mà phụ huynh đã suy nghĩ để chọn trường cho con,
bên cạnh các lý do khác về địa điểm trường,…
NCS cũng đã khảo sát 140 phiếu dành cho HS lớp 5 (TH), các lớp THCS và
THPT. Những câu hỏi này không phản ánh về mức độ trang bị cơ sở vật chất, điều
kiện đảm bảo chất lượng giáo dục của nhà trường, mà phản ánh cảm nhận của HS. Ví
dụ, thực tế là trường có phòng thí nghiệm, nhưng cá nhân HS cảm nhận rằng mình ít
được học trong phòng thí nghiệm hay có giờ thí nghiệm trên lớp,… Vì thế các phân
tích ở đây có ý nghĩa tham khảo, như là một kênh để tiếp cận thông tin từ phía những
người được thụ hưởng dịch vụ giáo dục.
Về phòng thí nghiệm: 96% số HS được hỏi trả lời rằng trường các em học có
phòng thí nghiệm, ngay đối với HS tiểu học, thì cũng 2/3 số HS trả lời “Có”. Đối với
các trường có phòng thí nghiệm, thì 46,9% số HS được hỏi trả lời “thỉnh thoảng có
được học ở phòng thí nghiệm” và 42,2% trả lời là được đến phòng thí nghiệm mỗi
khi có bài thực nghiệm. Điều này cho thấy hệ thống phòng thí nghiệm ở các trường
khá tốt, có thể tiếp nhận cả lớp đến học khi có bài thực nghiệm.
Về điều kiện vệ sinh của các khu vệ sinh, một điều rất được quan tâm của cả
gia đình và bản thân HS, kết quả khảo sát như sau: hơn 60% HS ở TH và THCS tỏ ra
chưa hài lòng với điều kiện vệ sinh của các khu vệ sinh, và trong số các lý do được
đưa ra, có lý do về việc HS sử dụng không đúng cách hoặc bộ phận dịch vụ không
kiểm soát điều kiện vệ sinh thường xuyên trong ngày. Còn đối với HS THPT, thì
75% tỏ ra hài lòng và rất hài lòng.
Về điều kiện phòng học, có thể nói về cơ bản là tốt. Từ 70-75% số HS được hỏi
trả lời là hài lòng, số HS trả lời không hài lòng dao động từ 20-25% (ở TH và
THCS), hơn 10% ở THPT. Còn lại là rất hài lòng (trên dưới 10%).
104
Về hoạt động ngoại khóa, trải nghiệm, có thể thấy là các hoạt động này ở TH là
khá tốt, nhiều HS được trải nghiệm 2 lần/học kỳ, thậm chí nhiều hơn, đó là một cố
gắng lớn của các nhà trường do công tác quản lý trẻ nhỏ khi tổ chức trải nghiệm,
ngoại khóa phức tạp. Hoạt động ngoại khóa, trải nghiệm được tăng cường đặc biệt rõ
ở THPT, có thể đây cũng là một điểm được HS đánh giá cao.
Bảng 2.19. Tỉ lệ học sinh trả lời về mức độ được tham gia
ngoại khóa, trải nghiệm (% số người được hỏi)
Mức độ được tham gia hoạt động ngoại khóa, trải nghiệm
1 lần/năm
1 lần/học kỳ
2 lần/học kỳ
1 lần/ tháng
70,8
8,3%
12,5%
8,3%
Tiểu học
75,0
21,0%
3,0%
1,0%
THCS
31,3
25,0%
25,0%
18,8%
THPT
Nguồn: Kết quả khảo sát của NCS
2.2.5. Sự hài lòng của người hưởng dịch vụ giáo dục
Trong chương 1 đã bàn nhiều về tầm quan trọng của việc đo sự hài lòng của
người tiêu dùng dịch vụ nói chung, dịch vụ giáo dục nói riêng, về các chỉ báo đo sự
hài lòng của người dân đối với dịch vụ giáo dục. Sự hài lòng của người dân đối với
dịch vụ giáo dục liên quan đến nhiều yếu tố:
- Chất lượng dịch vụ giáo dục (đo bằng các chỉ báo khách quan);
- So sánh giữa kỳ vọng và kết quả mà người tiêu dùng dịch vụ nhận được;
- So sánh giữa chi phí giáo dục và chất lượng giáo dục mà người tiêu dùng dịch
vụ cảm nhận;
- Các thông tin bên lề của cộng đồng những người tiêu dùng dịch vụ giáo dục
truyền tải đến người đánh giá.
Trong phiếu điều tra, sau khi đã khảo sát các quan điểm của phụ huynh HS (về
tầm quan trọng) đối với các tiêu chuẩn đo lường/ ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ
giáo dục, NCS đã đặt 2 câu hỏi về sự hài lòng của phụ huynh. Kết quả thu được như
sau:
105
Bảng 2.20. Mức độ hài lòng của phụ huynh học sinh
đối với chất lượng dịch vụ giáo dục
Hài lòng về cơ sở vật chất phục vụ
Hài lòng về phương pháp giáo dục
giáo dục của trường
của trường
Số trường
Phần
Số trường
Phần
Mức độ
Mức độ
hợp
trăm
hợp
trăm
Chưa thật hài lòng
Chưa thật hài lòng
39
23,9
27
16,6
104
63,8
Hài lòng
Hài lòng
117
71,8
20
12,3
Rất hài lòng
Rất hài lòng
19
11,7
163
100,0 Tổng số
Tổng số
163
100,0
Nguồn: Xử lý từ kết quả điều tra của NCS, quý 2/2019
Có thể nhận thấy rằng về cơ bản các bậc phụ huynh hài lòng về chất lượng dịch
vụ giáo dục ở các trường mà họ đã gửi con đến học, và đã gửi vào đó niềm tin, hy
vọng của mình. Điều này đặc biệt rõ ở phương pháp giáo dục của trường, đây là
điểm rất quan trọng, tạo nên điểm nhấn trong giáo dục ở TPHCM. Tuy nhiên, vẫn
còn gần 1/4 số người được hỏi chưa thật hài lòng về cơ sở vật chất phục vụ giáo dục
của nhà trường.
Đối với HS, các câu hỏi về sự hài lòng của các em đối với chất lượng giáo dục
được đo một cách gián tiếp hơn. Trước hết, thông qua câu hỏi về việc HS có đi học
thêm không, kết quả là: 87% số HS trả lời là có học thêm, và câu trả lời lại là tỉ lệ HS
tiểu học học thêm nhiều (trên 90%), và lên THCS, THPT thì giảm dần (ở THPT là
75%). Về các lĩnh vực HS học thêm, thì 64% trả lời là học thêm ngoại ngữ, 45% trả
lời là học nâng cao môn văn hóa, 20% học các môn năng khiếu. Nhiều phiếu có hai
lựa chọn: học ngoại ngữ + nâng cao văn hóa hoặc học ngoại ngữ + môn năng khiếu.
Điều này cũng phản ánh sự sôi động của thị trường dịch vụ GD ở TPHCM hiện nay.
Khi được hỏi về các lý do học thêm (câu hỏi nhiều lựa chọn), các câu trả lời
như sau: 56,6% để bồi đắp lỗ hổng kiến thức; 17,2% học theo sở thích; 9% để luyện
thi đại học; 13,9% để đi học nước ngoài.
Khi được hỏi “Em có ý định chuyển trường không”, thì dưới 10% HS trả lời là
“Có”, trong số ít ỏi này, cũng có em nêu lý do là do gia đình chuyển chỗ ở, có em
106
nêu là muốn đến học ở trường chất lượng cao hơn. Tóm lại, có thể thấy rằng HS về
cơ bản là hài lòng với trường mình đang học.
2.2.6. Quỹ đất
Quỹ đất là điều kiện cần thiết đầu tiên để xây dựng hệ thống trường học. Tuy
nhiên, không phải khu đất rộng nào cũng có thể xây dựng trường học, bởi vì vị trí
khu đất cũng tác động không nhỏ đến chất lượng giáo dục như đất càng gần khu dân
cư càng thuận tiện cho HS đến trường, môi trường xung quanh trường cần trong
sạch, tránh tiếng ồn, ô nhiễm và nhất là tệ nạn xã hội,…
Điển hình TPHCM có huyện Củ Chi và Bình Chánh là 2 nơi có diện tích đất
lớn (Củ Chi 434,77 km2 – lớn thứ 2 TP, Bình Chánh 252,56 km2 - lớn thứ 3 TP);
cộng thêm các huyện này những năm gần đây có tốc độ phát triển kinh tế rất nhanh,
đạt hiệu quả cao, Củ Chi là huyện nông thôn mới đầu tiên của TP, Bình Chánh cũng
có nhiều xã đạt chuẩn nông thôn mới như Bình Hưng,… đã tạo điều kiện thuận lợi
cho việc đầu tư xây trường học.
Ngoài ra, một số quận nội thành như quận 1, 3, 4, 5, 6, 10, 11 và Phú Nhuận, có
diện tích đất hạn hẹp mà mật độ dân cư lại rất cao nên rất khó để đầu tư xây dựng
trường học dù điều kiện kinh tế các quận này không hề khó khăn, cơ sở hạ tầng lại
rất tốt.
Với thực trạng “đất chật người đông” như TPHCM hiện nay, thì quỹ đất được
hiểu không chỉ về chiều ngang mà còn thể hiện ở chiều cao. Đó chính là lý do tại sao
rất nhiều địa phương như quận 4, Phú Nhuận có diện tích đất hạn hẹp (quận 4 là 4,18
km2 – thấp nhất TP, Phú Nhuận 4,86 km2), ít trường học phổ thông (năm học 2017-
2018: quận 4 là 24 trường, Phú Nhuận là 23 trường) nhưng lại giải quyết được một
số lượng HS rất lớn (năm học 2017-2018: quận 4 là 20.170 HS, Phú Nhuận là 21.941
HS); vì phần lớn trường phổ thông các quận trên được xây dựng sau này với nhiều
tầng lầu, nhất là các trường ngoài công lập.
Ngoài ra, các quận có lịch sử phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội lâu đời như
quận 1, 3, 5 thì quỹ đất đã xây dựng trường học không ít nhưng do kết cấu các
trường được thiết kế theo lối kiến trúc Pháp, Mĩ, Hoa nên thường khuôn viên trường
rất rộng, thoáng mát nhưng lại ít lớp học và ít tầng lầu; điều này cũng gây khó khăn
107
không nhỏ cho TP trong việc quy hoạch, sửa chữa để tăng lớp học đáp ứng nhu cầu
HS như hiện nay.
Tuy nhiên, ở đây việc thiếu trường học, nhất là trường công lập không hẳn là do
thiếu quỹ đất. Nguyên nhân của tình trạng này là do các chủ đầu tư chỉ quan tâm xây
dựng công trình dễ thu hồi vốn, có lợi nhuận ngay như nhà ở kinh doanh, công trình
hỗn hợp, trung tâm thương mại - dịch vụ... Còn công trình hạ tầng, cơ sở vật chất xã
hội, nếu không có cơ chế chính sách rõ ràng, quy định trách nhiệm cụ thể, thì các chủ
đầu tư đều né tránh. Thực tế, việc triển khai xây dựng các công trình xã hội tại các
khu đô thị cho thấy, một số dự án trường học, khi phê duyệt chưa xác định rõ trách
nhiệm nguồn đầu tư từ đâu (từ ngân sách hay xã hội hóa), cho nên khi nhà đã xây
dựng, người dân về ở, mà vẫn chưa có trường học, hoặc nếu có thì là trường dân lập
với mức học phí khá cao, không phù hợp với điều kiện kinh tế của người dân.
2.2.7. Vốn đầu tư
Trong cơ chế thị trường hiện nay, việc có vốn và tập trung vốn nhiều hay ít vào
đầu tư GD có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc mở rộng mạng lưới trường phổ
thông và quy hoạch mạng lưới sao cho phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương.
Đồng thời vốn cũng là nguồn lực để phát huy tài năng của những nhà quản lý GD, là
điều kiện để thực hiện các chiến lược, sách lược và nó cũng là chất keo để kết dính,
bôi trơn quá trình vận động của cỗ máy GD. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc
tế, đặc biệt những năm gần đây nền kinh tế thế giới nói chung đang phải đối mặt với
khủng hoảng và nền kinh tế Việt Nam cũng không ngoại trừ rơi vào tình trạng của
“Một năm kinh tế buồn”. Do vậy, đây chính là thách thức lớn đối với việc đầu tư xây
dựng trường học, nên vai trò của vốn lại càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Vốn
là chìa khóa, là phương tiện để biến các ý tưởng thành hiện thực. Sử dụng hiệu quả
nguồn vốn sẽ góp phần quyết định sự thành bại của một hệ thống quản lý GD, chính
vì vậy bất kỳ một nguồn vốn nào dù lớn hay nhỏ đều cần phải sử dụng một cách hiệu
quả.
GD là quốc sách hàng đầu, thể hiện sự quan tâm đặc biệt của nhà nước, được
thực thi qua một loạt các chính sách, các biện pháp, phạm vi thực hiện và nguồn
ngân sách chi cho chính sách đó. Do vậy, ngân sách Nhà nước đầu tư cho GD ngày
108
một tăng lên đáng kể. Năm 2017 là 248.118 tỷ đồng, chiếm khoảng 20% tổng chi
ngân sách Nhà nước. Với tỷ lệ chi ngân sách cho GD như trên, Việt Nam thuộc
nhóm nước có tỷ lệ chi cho GD cao nhất thế giới. Việc huy động nguồn lực trong xã
hội đầu tư cho GD thông qua chủ trương xã hội hóa đạt hiệu quả khá tốt. Các nguồn
đầu tư cho GD ngày càng được kiểm soát và tăng dần hiệu quả sử dụng.
Những năm qua, kinh tế TPHCM tiếp tục tăng trưởng mạnh (về thu ngân sách
trên địa bàn, Sở Tài chính TP cho biết, tính đến ngày 30/12/2018 số thu ngân sách
Nhà nước trên địa bàn đạt 345.287 tỷ đồng, đạt 99,25% dự toán và tăng 13,66% so
với cùng kỳ) [148]. Do đó, vốn đầu tư cho GD cũng được tăng nên số lượng trường
học phổ thông được xây dựng nhiều hơn. Bên cạnh đó, việc xã hội hóa GD cũng là
cách tăng vốn để xây dựng các trường ngoài công lập.
Bảng 2.21. Số trường học, lớp học phổ thông ở TPHCM qua các năm học
Năm học 2013-2014 2014-2015 2015-2016 2016-2017 2017-2018
922 938 944 950 952 Số trường học (Trường)
27.096 27.901 28.823 29.526 30.454 Số lớp học (Lớp)
Nguồn: Niên giám thống kê 2017
Bảng 2.21 cho thấy, số trường học phổ thông ở TPHCM ngày càng tăng qua
các năm học. Từ năm 2013-2018, TP có thêm 3.358 lớp học, 30 trường học phổ
thông; điều này chứng minh rằng một phần nguồn vốn đầu tư cho giáo dục đã được
TP sử dụng hiệu quả để xây dựng thêm trường học, lớp học.
Tuy nhiên, với thực trạng HS phổ thông ngày càng tăng nhanh và liên tục thì
với tốc độ tăng trường học, lớp học như trên vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu học tập
của các em. Do đó, đầu tư xây trường cần phải kết hợp với quản lý tốt tất cả các mặt
của đời sống xã hội thì mới có thể quy hoạch hợp lý mạng lưới trường học phổ
thông.
Với tác động biện chứng thì nếu TP tăng số lượng trường học và sử dụng
chúng một cách hiệu quả nhất sẽ giúp tăng thêm đáng kể nguồn vốn cho GD vì xét
cho cùng, GD cũng là một hoạt động dịch vụ “đặc biệt”.
109
2.2.8. Tâm lý của các đối tượng tham gia hoạt động giáo dục
GD luôn được sự quan tâm của toàn xã hội, là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn
dân. Toàn dân tham gia GD, toàn xã hội quan tâm đến GD vì đó là công việc “Trồng
người” của mỗi gia đình, mỗi họ tộc, mỗi làng xã và của toàn xã hội. Tâm lý của các
đối tượng tham gia hoạt động GD tác động đến sự phân bố mạng lưới trường học phổ
thông được biểu hiện như sau:
Hiện nay, PH không quan tâm sự phát triển tinh thần và thể chất, khả năng tiếp
cận và thế mạnh của con mình là gì để chọn trường chính xác mà chọn trường theo
tâm lý “nghe đồn” rằng đó là trường điểm, trường tốt,… Thêm vào đó, dù có thể học
đúng tuyến nhưng chính những người dân trên địa bàn (chủ yếu là các quận, huyện
ven đô) cũng chưa tin tưởng vào chất lượng dạy-học, điều kiện cơ sở vật chất,… của
các trường địa phương dẫn đến việc họ cho con em mình học trái tuyến ở các quận
trung tâm. Tất cả những điều này càng làm giảm kích thích đối với chính quyền
trong việc đầu tư xây dựng trường học chất lượng cao để phục vụ cho người dân bản
địa; còn các trường điểm, trường chuẩn quốc gia thì càng trở nên “quá tải”.
Với tâm lý “sính ngoại” hay tích cực hơn là muốn đầu tư cho con em mình
được học trong môi trường cơ sở vật chất tốt, chương trình học theo chuẩn quốc
tế,… mà nhiều gia đình có điều kiện tài chính đã đầu tư cho các con học ở các trường
ngoài công lập; điều này khiến TPHCM ngày càng xuất hiện nhiều trường dân lập, tư
thục.
Thực tế, số lượng trường ngoài công lập ở TPHCM những năm gần đây có tăng
nhưng chất lượng và hệ lụy khi học các trường này còn nhiều tranh cãi và ảnh hưởng
không nhỏ cho việc xã hội hóa GD sau này. Đó là những vấn đề:
- Nhiều PH chọn trường học phí quá cao mà không cân nhắc kỹ với thu nhập
mỗi tháng của gia đình dẫn đến việc “nửa đường đứt gánh”, khi phải chuyển sang
trường công thì các em lại học không theo kịp chương trình. Theo thông tin từ Sở
Giáo dục và đào tạo TPHCM, hàng năm có khoảng vài trăm hồ sơ từ các trường
ngoài công lập xin chuyển về trường công ở quận 1, 3, 5. Tuy nhiên, Phòng GD ở
các quận này chỉ nhận một số trường hợp HS có kết quả học tập xuất sắc, do hiện
nay sĩ số các trường công đã quá tải.
110
- Việc tổ chức dạy học và chất lượng nhiều trường dân lập, tư thục cũng là vấn
đề cần quan tâm.
NCS có một cuộc phỏng vấn nhỏ với anh Nguyễn Nam (quận 5, TPHCM) có
con học lớp 8 của trường ngoài công lập, anh cho biết: “Mỗi năm đóng khoảng 300
triệu đồng nhưng vẫn không thể hài lòng về chất lượng học của con. Đầu năm học
vừa qua, trường đã tự ý đưa môn tiếng Trung là môn học chính, rồi “sáng tạo” ra
môn tiếng Anh cho Toán và Khoa học, thậm chí cắt bớt giờ GD thể chất của các
cháu. Dù đóng tiền cao, nhưng cơ sở vật chất của trường không tương xứng. Chất
lượng giáo viên cũng rất tù mù, chỉ nói là tốt nghiệp đại học, chuyên ngành học mà
không hề nói là tốt nghiệp trường nào”.
Cùng buổi phỏng vấn, chị Thanh Hà - có con học cùng trường anh Nguyễn
Nam cũng bức xúc: “Để trả khoản tiền lớn cho con mỗi năm, PH chúng tôi đã phải
làm việc rất vất vả. Thế nhưng, chúng tôi thất vọng bởi cách áp đặt của nhà trường,
dùng con cái chúng tôi để “thí nghiệm” môn học chưa được cơ quan quản lý cấp
phép. Đã thế, trường cũng không cho phụ huynh chúng tôi lập Ban đại diện cha mẹ
học sinh. Mỗi khi PH thắc mắc, nhà trường thường gặp riêng, rồi trả lời chung
chung, hoặc đang xem xét…”.
Đỉnh điểm, vụ bé trai 6 tuổi trường Gateway tử vong trên xe đưa đón HS vào
ngày 6/8/2019 tuy xảy ra ở Hà Nội nhưng cũng tạo một làn sóng bất an cho PH và
HS đang và sẽ theo học các trường ngoài công lập ở TPHCM. Trước đây, ngày
12/11/2012, trường Melior có trụ sở tại TPHCM đột ngột đóng cửa, sau khi thu hàng
trăm triệu đồng của HS; sau đó, Sở lao động thương binh và xã hội TPHCM đã rút
giấy phép đào tạo của trường này. Trong năm 2012, Bộ GD&ĐT đã ra hàng loạt
quyết định xử phạt nhiều đơn vị hợp tác, liên kết đào tạo với nước ngoài trái phép.
Hậu quả, hàng nghìn bằng cấp của chương trình đào tạo trái phép không được công
nhận.
- Ngoài ra, học trường “quốc tế”, nhiều trẻ em dễ trở thành “khách lạ”.
Trang bị cho con em vốn ngoại ngữ và kỹ năng để hội nhập với thế giới đang là
mục tiêu của không ít PH, chỉ tiếc không ít người hiện không quan tâm đến việc cho
con học tiếng Việt, Lịch sử, Địa lí Và Đạo đức. Nhiều trẻ vào trường ngoài công lập
111
nói tiếng Anh rất lưu loát, nhưng không thể mở miệng nói ngôn ngữ mẹ đẻ quá ba
câu. Chưa kể, kiến thức về xã hội của nhiều bé rất mơ hồ.
Trường hợp của nhiều gia đình: ban đầu, thấy tự hào vì con cái có suy nghĩ độc
lập, sống tự giác và dạn dĩ trong cuộc sống. Tuy nhiên, càng lớn con càng có biểu
hiện “quá sòng phẳng” trong quan hệ bạn bè, họ hàng, thậm chí không nghe lời cha
mẹ và thường xuyên tranh luận để bảo vệ ý muốn của mình.
Rõ ràng, đến lúc các bậc PH nhận ra sự “lai hóa” của con thì đứa trẻ đã “mất”
khá nhiều. Khi chuyển sang trường công lập, những HS “toàn cầu” không biết phải
chuẩn bị bài cho ngày học mới như thế nào, chữ viết xấu, làm văn không hay và
tiếng Anh cũng chẳng có gì đặc sắc. Chỉ vì “sính ngoại”, nhiều PH đã vô tình làm hại
con mình. Chính vì thế, khi quyết định lựa chọn một trường ngoài công lập cho con,
cha mẹ nên tìm hiểu những trường có chất lượng tốt thật sự chứ không phải những
ngôi trường tư thục chỉ gắn thêm hai chữ “quốc tế”.
Không chỉ riêng PH mà tâm lý chung của xã hội hiện nay còn đánh giá chất
lượng GD qua quan niệm trường giỏi - trường dở, trường giàu - trường nghèo, những
đối tượng tham gia trực tiếp vào GD như học sinh, giáo viên, nhà quản lý GD cũng
chạy theo thành tích làm cho xã hội mất cân bằng trong môi trường vốn xem là thanh
khiết nhất – môi trường “trồng người”. Thực tế, bên cạnh nhiều trường sĩ số trung
bình lên đến 55 em/lớp thì các trường tiểu học Đinh Công Tráng trước đây (nay đã
ngưng hoạt động, thay thế bằng trường mầm non Nắng Mai), Lý Thái Tổ và Vạn
Nguyên (quận 8),... lại nằm trong số nghịch lý là số học sinh chỉ 20 - 30 học sinh/lớp.
Dù những trường này có tuyển thêm trái tuyến nhưng vẫn không đủ chỉ tiêu vì
nguyên do phòng học chật chội, xuống cấp, mỗi khi mưa to gió lớn lại dột ướt. Mặc
dù quận 8 đã được phê duyệt xong quy hoạch mạng lưới trường lớp đến năm 2020
thế nhưng cái khó nhất vẫn là kinh phí xây trường. Ngược lại, quận 12 lại tái diễn
chuyện thiếu trường lớp và 40% HS của quận phải “chạy” sang học ở quận Gò Vấp
kế bên và tất nhiên, các trường cũng san sẻ áp lực HS cùng nhau.
112
2.3. Thực trạng mạng lưới trường học phổ thông ở Thành phố Hồ Chí Minh
2.3.1. Quy hoạch mạng lưới trường
Năm 2003, UBND Thành phố Hồ Chí Minh đã ra Quyết định 02/2003/QĐ-UB
phê duyệt quy hoạch phát triển mạng lưới trường học ngành giáo dục và đào tạo
thành phố đến năm 2020 [88]. Theo Quyết định này, TPHCM được chia thành 4 khu
vực quy hoạch, với các định mức diện tích đất cho một chỗ học.
Định mức diện tích đất/chỗ học (định mức này được áp dụng cho tất cả các cấp
học, ngành học):
+ Khu vực 1 gồm: Các quận 1, 3, 4, 5, 10, 11, Phú Nhuận và Tân Bình; định
mức khoảng từ 4 m2 đến 5 m2/chỗ học;
+ Khu vực 2 gồm: Các quận 6, 8, Gò Vấp và Bình Thạnh; định mức khoảng từ
6 m2 đến 8 m2/chỗ học;
+ Khu vực 3 gồm: Các quận 2, 7, 9, 12 và Thủ Đức; định mức khoảng từ 8
m2 đến 10 m2/chỗ học;
+ Khu vực 4 gồm: Các huyện Hóc Môn, Bình Chánh, Nhà Bè, Củ Chi và Cần
Giờ; định mức khoảng từ 10 m2 đến 15 m2/chỗ học.
Dự kiến quỹ đất dành cho phát triển các cơ sở giáo dục mầm non và phổ thông
đến năm 2010 và 2020 theo bản Quy hoạch này được tổng hợp như sau:
Đơn vị: ha
Bảng 2.22. Quỹ đất dành cho giáo dục, phân theo khu vực quy hoạch
Hiện có
Tăng thêm
Tăng thêm
Quy hoạch
Quy hoạch
2003
2010
đến 2020
2010
2020
120,07
183,85
216,98
303,92
337,05
Khu vực 1
68,83
168,2
239,02
237,03
307,85
Khu vực 2
112,77
281,97
493,7
394,74
606,47
Khu vực 3
195,08
390,58
954,5
585,66
1149,58
Khu vực 4
Nguồn [88]
Cũng trong bản Quy hoạch này, UBND TP cũng đã dự kiến phát triển các cơ sở
trường phổ thông phân theo các khu vưc quy hoạch như sau:
113
Đơn vị: trường
Bảng 2.23. Nhu cầu về cơ sở vật chất, phân theo khu vưc quy hoạch
Tiểu học THCS THPT
Hiện có Quy hoạch Hiện có Quy hoạch Hiện có Quy hoạch
243 297 120 139 68 98 Khu vưc 1+2
69 161 37 73 13 49 Khu vực 3
124 262 59 117 19 80 Khu vực 4
Nguồn [88]
Tuy nhiên, tiến độ thực hiện bản Quy hoạch này không được như dự kiến. Việc
phát triển mạng lưới trường học không chỉ khó khăn với TPHCM mà còn với nhiều
địa phương khác trong cả nước. Chính vì vậy, Chính phủ đã có các chính sách ưu đãi
miễn, giảm tiền thuê đất, như là một cú huých, động lực cho việc đẩy mạnh xã hội
hóa giáo dục.
Nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cũng như tạo điều kiện, đẩy mạnh việc
thực hiện chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực
GD, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 59/2014/NĐ-CP ngày
16/6/2014 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
69/2008/NĐ-CP ngày 30/5/2008 về chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các
hoạt động trong lĩnh vực GD và đã ban hành Thông tư số 156/2014/TT-BTC ngày
23/10/2014 hướng dẫn thực hiện. Theo đó, đối với cơ sở thực hiện xã hội hóa sử
dụng đất tại các đô thị, UBND cấp tỉnh căn cứ điều kiện thực tế của địa phương và
danh mục lĩnh vực và địa bàn ưu đãi xã hội hóa của địa phương để ban hành mức
miễn, giảm tiền thuê đất theo từng lĩnh vực và khu vực địa bàn ưu đãi xã hội hóa tại
địa phương sau khi xin ý kiến của Thường trực Hội đồng nhân dân cùng cấp theo
nguyên tắc:
+ Mức tối đa: Miễn tiền thuê đất cho toàn bộ thời gian của dự án trong thời hạn
được Nhà nước cho thuê đất.
+ Mức tối thiểu: Không thấp hơn mức ưu đãi đối với dự án được ưu đãi theo
pháp luật về đầu tư quy định tại Điều 19 Nghị định số 46/2014/NĐ-CP ngày
15/5/2014 của Chính phủ quy định về thu tiền thuê đất, thuê mặt nước.
114
Bản đồ 6. Các khu vực quy hoạch mạng lưới trường phổ thông
(theo Quyết định số 02/2003/QĐ-UB của UBND TP. Hồ Chí Minh)
115
-Về chính sách ưu đãi miễn, giảm thuế thu nhập
Tại khoản 2, Điều 15 và khoản 2, khoản 3 Điều 16 Nghị định số 218/2013/NĐ-
CP quy định: Doanh nghiệp thực hiện dự án đầu tư trong lĩnh vực xã hội hóa (GD và
đào tạo, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao và môi trường) được áp dụng thuế suất
10% đối với phần thu nhập từ thực hiện hoạt động xã hội hóa. Trường hợp có dự án
đầu tư mới thuộc lĩnh vực xã hội hóa được hưởng ưu đãi miễn thuế tối đa 4 năm,
giảm 50% số thuế phải nộp tối đa 9 năm tùy thuộc địa bàn đầu tư.
- Trong các năm từ 2013 đến 2018, UBND TPHCM đã liên tục ưu tiên bố trí
kinh phí để triển khai xây dựng trường học theo quy hoạch của từng quận, huyện đã
được phê duyệt. Các quận, huyện đã đẩy nhanh tiến độ xây dựng trường lớp, trong
đó có hàng loạt dự án dự kiến sẽ khánh thành và đưa vào sử dụng từ đầu năm học
2019-2020.
2.3.2. Số trường, lớp học phổ thông
Theo Niên giám thống kê TPHCM 2017 [21], từ năm học 2013-2014 đến 2017-
2018 số trường học ở TPHCM đã tăng từ 922 lên 952 (tăng 30 trường). Tuy nhiên,
xu hướng có khác nhau giữa các cấp học và loại hình trường:
- Trường tiểu học: tổng số trường tăng từ 476 (2013-2014) lên 493 (2016-
2017), nhưng sau đó giảm xuống 489 (2017-2018). Trong lúc trường công lập tăng
lên khá đều đặn (từ 451 lên 473) thì số lượng trường ngoài công lập đã giảm khá
mạnh (từ 25 xuống 16).
- Trường trung học cơ sở: tổng số trường tăng liên tục từ 255 lên 271 trường,
trong đó, trường công lập tăng từ 254 lên 268 trường, trường ngoài công lập chưa
phát triển, từ 1 lên 3 trường.
- Trường THPT: tăng không nhiều, từ 138 lên 146 trường. Đáng chú ý là trong
cơ cấu trường THPT, các trường ngoài công lập đã chiếm hơn 1/2: cụ thể là 48/90
(năm học 2013-2014) và 49/97 (2017-2018).
-Trường phổ thông cơ sở (TH-THCS) giảm từ 5 trường xuống 4 trường. Có 1
trường công lập mới thành lập (2017-2018); trong khi trường ngoài công lập giảm từ
5 xuống còn 3.
116
- Trường trung học (THCS-THPT) là một loại hình trường khá phổ biến, nhưng
số lượng trường có xu hướng giảm, từ 48 xuống 42 trường. Đáng chú ý là ở loại hình
trường này, chủ yếu là các trường ngoài công lập, cụ thể là 36/48 (2013-2014) và
33/42 (2017-2018).
Về số lớp học tính bình quân cho một trường, tính trung bình trong giai đoạn
2013-2014 đến 2017-2018 số lớp học bình quân một trường tiểu học đã tăng từ 29
lên 31 lớp; các trường THCS tăng từ 33 lên 37 lớp; các trường THPT tăng từ 34 lên
36 lớp (nói riêng các trường THPT công lập có quy mô từ 41 đến 43 lớp, trong khi
các trường ngoài công lập có quy mô nhỏ hơn, chỉ 21-22 lớp). Như vậy là trong khi
giải pháp tăng số trường có hạn, thì một giải pháp khác thuộc về tổ chức ở nội bộ các
trường là tìm cách giải phóng không gian để tăng số lớp, đáp ứng nhu cầu học tập
tăng lên nhưng cũng có phần biến động từng năm.
2.3.3. Bình quân sĩ số học sinh một lớp (phân theo cấp học và quận, huyện)
Theo Điều 17, thông tư số 41/2010/TT-BGDĐT, Ban hành điều lệ trường Tiểu
học: Mỗi lớp học có không quá 35 học sinh; Điều 15, Thông tư số 12/2011/TT-
BGDĐT, Ban hành điều lệ trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và
trường phổ thông có nhiều cấp học: Mỗi lớp ở các cấp THCS và THPT có không quá
45 học sinh.
Dựa vào Hình 2.3 và Bảng 2.24, có thể thấy trong năm học 2017-2018, ở các
quận, huyện:
- Khối tiểu học phần lớn không đạt chuẩn, chỉ có các quận 1, 4, 10, 11, Phú
Nhuận, huyện Cần Giờ là đạt (mỗi lớp học có không quá 35 học sinh).
- Khối THCS, THPT đều đạt tiêu chuẩn; chỉ có khối THCS quận Gò Vấp là
vượt quy định (trung bình 46 học sinh/lớp).
Điều này đặt ra vấn đề rất lớn đối với khối các trường tiểu học, bởi vì đối với
HS ở lứa tuổi này, việc quan tâm hình thành nhân cách cho HS là rất tỉ mỉ, nếu lớp
học đông thì sẽ không thể đảm bảo tốt mục tiêu giáo dục, đồng thời gây quá tải lên
GV. TPHCM muốn phát triển một nền giáo dục chất lượng, thì việc giảm sĩ số HS
thực tế ở mỗi lớp, nhất là ở TH là việc làm cấp bách.
117
Hình 2.3. Số học sinh phổ thông bình quân 1 lớp học phân theo quận/huyện và
phân theo cấp học năm học 2017 – 2018
Bảng 2.24. Số học sinh phổ thông bình quân 1 lớp học phân theo quận/huyện
và phân theo cấp học năm học 2017 – 2018
Đơn vị: học sinh/lớp
Tổng số
Tiểu học
THCS
THPT
40
Tổng số
40
41
39
31
Quận 1
33
35
34
38
Quận 2
38
36
43
40
Quận 3
39
39
38
35
Quận 4
39
44
42
36
Quận 5
38
41
37
38
Quận 6
40
42
41
43
Quận 7
42
42
39
41
Quận 8
42
43
42
40
Quận 9
41
43
40
118
Tổng số
Tiểu học
THCS
THPT
Quận 10
32
31
32
37
Quận 11
37
34
39
38
Quận 12
45
47
44
39
Gò Vấp
45
45
46
42
Tân Bình
40
39
41
41
Tân Phú
42
44
42
38
Bình Thạnh
41
39
42
44
Phú Nhuận
36
34
37
37
Thủ Đức
43
44
45
40
Bình Tân
42
42
41
41
Củ Chi
40
39
41
40
Hóc Môn
45
46
45
41
Bình Chánh
38
37
41
38
Nhà Bè
39
37
43
39
Cần Giờ
32
27
35
39
Nguồn: Xử lý số liệu từ Niên giám thống kê TPHCM 2017 [21]
2.3.4. Khái quát về mạng lưới trường
Để có cái nhìn khái quát về mạng lưới trường phổ thông ở TPHCM, trên cơ sở
các con số thống kê về số lượng trường các cấp học, có phân theo các loại trường 1
cấp học, 2 cấp học và liên cấp, NCS đã tính số lượng trường bình quân 1 xã/phường
năm 2017 và ước lượng khoảng cách trung bình giữa hai trường theo công thức của
Zvonkova (Bảng 2.25).
Ở bậc tiểu học, phần lớn các phường, xã đều có trường tiểu học. Duy có quận
Phú Nhuận 3/15 phường không có trường tiểu học. Có những quận có đến 2 trường
tiểu học bình quân cho một phường hay hơn nữa, như quận 12, Thủ Đức, Bình Tân,
Hóc Môn, Cần Giờ. Những quận/huyện còn lại đều có bình quân hơn 1 trường/xã
phường.
Ở bậc THCS, tính chung toàn thành phố, mỗi xã phường có 1 trường THCS.
Tuy nhiên, trong khi chỉ tiêu này khá cao ở các quận Tân Phú, Bình Tân, quận 12,
119
quận 1, thì một số quận/huyện trung bình 2 xã phường có 1 trường THCS như quận
4, quận 10, quận 11, Phú Nhuận.
Ở bậc THPT, nhìn chung 2-3 phường xã có chung 1 trường. Tuy nhiên, có quận
đạt bình quân 1 trường/1 phường như quận 1, quận 12, thậm chí 1,6 như Tân Phú.
Bảng 2.25. Một số chỉ tiêu về mạng lưới trường phân theo quận, huyện 2017
Khoảng cách trung bình (km)
Số trường bình quân 1 xã/phường
giữa hai trường
Tiểu học
THCS
THPT
Tiểu học
THCS
THPT
0,6
Toàn TP
1,5
1,0
2,1
2,6
3,3
1,0
Quận 1
1,7
1,4
0,7
0,7
0,9
0,3
Quận 2
1,0
0,8
2,1
2,4
4,1
0,5
Quận 3
1,2
0,9
0,5
0,6
0,8
0,1
Quận 4
1,1
0,4
0,5
0,8
1,4
0,7
Quận 5
1,1
0,7
0,5
0,6
0,6
0,5
Quận 6
1,5
0,9
0,6
0,8
1,0
0,8
Quận 7
1,7
1,1
1,4
1,8
2,1
0,4
Quận 8
1,3
0,8
1,0
1,2
1,8
0,5
Quận 9
1,4
1,0
2,5
3,0
4,4
0,5
Quận 10
1,1
0,6
0,6
0,8
0,8
0,4
Quận 11
1,3
0,6
0,5
0,7
0,9
1,0
Quận 12
2,0
1,6
1,5
1,7
2,2
0,8
Gò Vấp
1,4
1,1
0,9
1,0
1,2
0,8
Tân Bình
1,9
1,1
0,9
1,1
1,4
1,6
Tân Phú
1,6
1,9
0,9
0,9
0,9
0,5
Bình Thạnh
1,3
0,8
0,3
0,4
0,5
0,3
Phú Nhuận
0,8
0,5
0,6
0,8
1,0
0,7
Thủ Đức
2,1
1,2
1,4
1,8
2,4
0,9
Bình Tân
2,3
1,6
1,5
1,8
2,4
0,3
Củ Chi
1,9
1,1
3,3
4,3
7,9
0,5
Hóc Môn
2,2
1,1
2,0
2,9
4,3
0,5
Bình Chánh
1,9
1,2
2,9
3,6
5,6
0,4
Nhà Bè
1,9
1,0
2,8
3,8
5,8
Cần Giờ
2,1
15,3
0,4
6,9
9,4
1,1 Nguồn: Tính toán từ Niên giám thống kê TPHCM 2017
120
Nếu như chỉ tiêu về số trường học bình quân 1 xã phường có ý nghĩa nhiều hơn
đối với công tác quản lý, đầu tư duy tu bảo dưỡng và xây dựng trường lớp, nhất là
đối với trường tiểu học và THCS, thì chỉ tiêu về khoảng cách trung bình giữa hai
trường phản ánh tốt hơn sự khác biệt về khoảng cách trung bình mà HS hàng ngày đi
học từ nhà đến trường phân theo các quận, huyện. Và sự phối hợp hai chỉ tiêu này
phản ánh rõ hơn đặc điểm phân bố các trường phổ thông theo quận, huyện. Đối chiếu
các con số liên quan đến các quận như quận 4, Phú Nhuận và Tân Phú, Bình Tân,
Thủ Đức, Bình Chánh sẽ thấy rõ điều này.
Trong bảng khảo sát HS, kết quả phỏng vấn học sinh TH và THCS cho thấy
trung bình khoảng 20% nhập học trái tuyến, 80% là đúng tuyến. Có nhiều lý do khác
nhau cho thực tế HS học trường trái tuyến, nhưng đây là một ước lượng có ý nghĩa
trong đánh giá mức độ hợp lý của mạng lưới trường trong quan hệ với dân cư ở địa
phương. Cũng có thể hình dung rằng, ở những địa bàn có mức tăng HS trong độ tuổi
đi học quá cao (chủ yếu do sức ép nhập cư), thì tình trạng đi học trái tuyến sẽ cao
hơn.
Do đặc điểm của giao thông thành phố hay bị tắc đường, nên ngay cả đối với
HS học THCS và THPT, tỉ lệ được cha mẹ đưa đón vẫn là trên 50%, thậm chí xấp xỉ
60%, còn đối với trẻ học TH, thì tỉ lệ này là trên 80%. Phương tiện đi đến trường và
về nhà chủ yếu là xe gắn máy (từ 60% đến trên 70%); đối với học sinh THPT, tỉ lệ
này là cao nhất (75%), phản ánh thực tế là một bộ phận HS tự đến trường bằng xe
gắn máy, mặc dù có quy định là các em chưa đủ tuổi đi xe gắn máy. Đối với HS học
THCS, tỉ lệ đi bộ và đến trường bằng xe đạp khá lớn (đến 33%), cũng do khoảng
cách ngắn và thời gian đi lại không nhiều. Với các phương tiện đi lại như kể trên, đa
phần HS chỉ mất thời gian dưới 30 phút để đi về mỗi ngày; khoảng 1/4 số trường hợp
đi về mất đến 1 giờ, số đi về xa (trên 1 giờ thường chỉ xảy ra đối với HS THPT)
(bảng 2.26). Trong điều kiện bình thường, HS không mất quá nhiều thời gian đi lại,
nhưng vào những hoàn cảnh kẹt xe, thì các ước lượng này là không áp dụng được.
Hơn nữa, phần rất đông HS lại dự các lớp học thêm, nên thời gian cho đi lại
vẫn nhiều.
121
Bảng 2.26. Thời gian trung bình để đi học và về nhà
(% số trường hợp được hỏi)
Thời gian đến trường và về nhà mỗi ngày
Dưới 30 phút
30 phút - 1 giờ
Trên 1 giờ
Total
29,2
70,8
0,0
100,0
Tiểu học
13,0
87,0
0,0
100,0
THCS
25,0
62,5
12,5
100,0
THPT
Nguồn: Kết quả khảo sát HS của NCS
2.3.5. Đặc điểm phân bố không gian mạng lưới cơ sở trường phổ thông
NCS đã tiến hành xác định các tọa độ (kinh độ, vĩ độ) của các cơ sở trường tiểu
học, THCS, THPT, các trường có 2 cấp học và các trường phổ thông liên cấp dựa
trên danh mục các cơ sở trường do các Phòng Giáo dục và Đào tạo của các quận,
huyện cung cấp và sử dụng Google Earth, Wikimapedia để lấy thông tin không gian.
Thông tin được cập nhật đến cuối năm 2017. Nếu như một trường có 2 cơ sở trở lên,
thì sẽ có tương ứng số vị trí các cơ sở trường trên bản đồ.
Mạng lưới các trường Tiểu học
Bản đồ 7 thể hiện Mạng lưới các trường tiểu học ở TPHCM, trong đó có thể
hiện các bán kính tính từ trường đến vùng xung quanh theo các cự ly đến 0,5 km; 0,5
- 1,0 km; 1,0 - 2,0 km. Các trường tiểu học được thể hiện theo các loại hình: trường
tiểu học (1 cấp học) đều là trường công lập; trường có 2 cấp học (tiểu học - THCS)
và liên cấp (TH-THCS-THPT) đều là các trường ngoài công lập.
Bản đồ 7 cho thấy HS ở các quận “lõi” của nội thành (1, 3, 4, 5, 6, 10, 11, Bình
Thạnh, Phú Nhuận) về cơ bản có thể đi học cách nhà chỉ 500m, chỉ ít trường hợp đến
1 km. Đây cũng là khu vực có nhiều trường ngoài công lập, HS và gia đình có thể có
nhiều lựa chọn phù hợp. Trong khi đó, ở những quận đã và đang trải qua giai đoạn
đô thị hóa “nóng” như Tân Bình, Bình Tân, Gò Vấp, quận 12, Thủ Đức, quận 2, quận
7, quận 9, thì chỉ có ở những khu vực có các khu đô thị mới, dọc theo các trục giao
thông thuận tiện, mới có mật độ trường học cao, trẻ em có thể đi học dưới 1 km. Ra
đến các huyện ngoại thành, các trường học thường tập trung ở trung tâm huyện, dọc
theo các tuyến giao thông. Đáng chú ý là sự phân bố các trường tiểu học phần nhiều
122
nằm “lệch” so với lãnh thổ của xã, điều này dường như cho phép trường tiểu học của
xã này có thể thuận lợi cho thu hút HS của xã bên cạnh. Đứng ở góc độ địa lí dịch
vụ, thì sự phân bố gần đường giao thông, và có thể rút ngắn quãng đường cho người
mua/hưởng dịch vụ có thể lựa chọn giữa các điểm cung ứng dịch vụ khác nhau là
điều rất tốt. Kết hợp với Bảng 2.25 và Biểu đồ trong bản đồ này, sẽ thấy rằng ở hầu
hết các quận, khoảng cách trung bình giữa các trường là dưới 1 km, riêng ở huyện
Cần Giờ, do dân cư thưa thớt hơn, diện tích xã lớn hơn, nên tính bình quân mỗi xã có
đến 2 trường tiểu học, HS vẫn phải đi học khá xa (3-4 km).
123
Bản đồ 7. Bản đồ mạng lưới trường tiểu học ở Thành phố Hồ Chí Minh
124
Bản đồ 8. Bản đồ mạng lưới trường trung học cơ sở ở Thành phố Hồ Chí Minh
125
Bản đồ 9. Bản đồ mạng lưới trường trung học phổ thông ở Thành phố Hồ Chí Minh
126
Mạng lưới các trường THCS
Tương tự bản đồ 7, bản đồ 8 thể hiện mạng lưới trường THCS với các loại hình
trường khác nhau. Trường THCS (một cấp học) thực tế là trường công lập. Trường
ngoài công lập có loại hình hai cấp học (TH-THCS và THCS-THPT) mà trong Niên
giám thống kê TPHCM gọi là trường Phổ thông cơ sở và trường Trung học; ngoài ra
còn có loại trường phổ thông liên cấp (TH-THCS-THPT). Trên bản đồ này có thể
hiện các bán kính tính từ trường học, với các cự ly 1 km, 2 km, 3 km. Do khả năng di
chuyển của học sinh THCS khá hơn nhiều so với tiểu học, nên có thể các vấn đề về
khoảng cách trường không thật lớn ở một số quận/huyện vùng ven. Tuy nhiên, đối
với HS ở “vùng lõi” nội thành, khoảng cách đi học không xa, nhưng tình trạng kẹt xe
cũng đòi hỏi chi phí nhiều thời gian trên đường, thêm vào đó, HS ở THCS và THPT
phần nhiều đều có học thêm.
Mạng lưới các trường THPT
Kết quả phân tích được thể hiện ở bản đồ 9. Bản đồ này thể hiện sự chênh lệch
không gian rất lớn giữa các cơ sở trường THPT ở khu vực nội thành và ngoại thành.
Trong chừng mực nhất định, điều này phản ánh sự không đồng đều rất rõ trong điều
kiện tiếp cận dịch vụ giáo dục phổ thông giữa nội thành và ngoại thành. Biểu đồ phụ
còn thể hiện rõ: ở các huyện ngoại thành, phần lớn HS đi học cách nhà 3-4 km, riêng
ở Cần Giờ là khoảng 8 km.
2.3.6. Khoảng cách học sinh Tiểu học di chuyển từ nhà đến trường
Theo điểm b, khoản 1, điều 45 Thông tư 41/2010/TT-BGDĐT về Điều lệ
Trường tiểu học do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành: Độ dài đường đi của học sinh
đến trường: đối với khu vực thành phố, thị xã, thị trấn, khu công nghiệp, khu tái định
cư không quá 500m; đối với khu vực ngoại thành, nông thôn không quá 1km; đối với
vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn không quá 2km.
Trong khi đó, Thông tư 12/2011/TT-BGDĐT về Điều lệ trường trung học cơ
sở, phổ thông và trường phổ thông có nhiều cấp học do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban
hành, không quy định khoảng cách cụ thể mà chỉ ghi chung chung:
127
Điều 43. Địa điểm, diện tích của trường
1. Trường học là một khu riêng được đặt trong môi trường thuận lợi cho giáo
dục. Trường phải có tường bao quanh, có cổng trường và biển trường.
2. Tổng diện tích sử dụng của trường tối thiểu đủ theo tiêu chuẩn quy định, đáp
ứng yêu cầu tổ chức các hoạt động giáo dục.
Do đó, tiêu chí đánh giá này chỉ dành cho HS Tiểu học.
Theo công thức tính khoảng cách trung bình giữa 2 trường kế cận nhau của
T.V.Zvonkova
a = √𝑃 𝐾
Trong đó: P là diện tích vùng nghiên cứu (km2)
K là số lượng trường học trong phạm vi vùng nghiên cứu.
Qua Bảng 2.25, ta thấy một số quận nội thành là quận 2, 7, 9, 12, Thủ Đức,
Bình Tân là HS phải đi học trên 500m, còn 5 huyện ngoại thành các em đều đi học
xa (trên 1 km).
Tuy nhiên, độ dài đường đi học trung bình của HS như đã tính trong Bảng 2.25
là khoảng cách theo đường chim bay, thực tế các em đi học theo đường bộ và chịu
nhiều tác động khách quan như: kẹt xe, thời tiết,… khiến thời gian đến trường còn
chiếm nhiều hơn.
Ngoài ra, trên thực tế các trường sẽ không có sự phân bố đều như vậy mà có thể
2 trường Tiểu học rất gần nhau, hoặc 2 trường xa nhau, hoặc nhà HS đến trường ở
quận kế bên còn gần hơn đến các trường trong quận (có trường hợp chỉ cách nhau
một con đường) trong khi các em phải học theo tuyến.
Ví dụ: dựa trên Google Earth, NCS xác định được khoảng cách thực tế giữa 2
trường kế cận trong quận Phú Nhuận theo bảng ma trận sau:
128
Bảng 2.27. Đoạn đường trung bình học sinh Tiểu học di chuyển từ nhà đến trường ở các quận/huyện
trong năm học 2017 - 2018
Khoảng cách trung Số trường Tiểu học Độ dài đường đi học Quận/huyện Diện tích (km2) bình 2 trường kế cận (trường) trung bình (m) nhau (m)
7,7 674 337 17 Quận 1
49,8 2.128 1.064 11 Quận 2
4,9 555 277 16 Quận 3
4,2 511 256 16 Quận 4
4,3 501 251 17 Quận 5
7,1 597 299 20 Quận 6
35,7 1.449 725 17 Quận 7
19,1 954 477 21 Quận 8
114,0 2.516 1.258 18 Quận 9
5,7 580 290 17 Quận 10
5,1 495 247 21 Quận 11
52,7 1.548 774 22 Quận 12
19,7 926 463 23 Gò Vấp
129
Khoảng cách trung Số trường Tiểu học Độ dài đường đi học Quận/huyện Diện tích (km2) bình 2 trường kế cận (trường) trung bình (m) nhau (m)
28 22,4 895 448 Tân Bình
17 16,0 969 485 Tân Phú
25 20,8 912 456 Bình Thạnh
12 4,9 636 318 Phú Nhuận
25 47,8 1.383 691 Thủ Đức
23 52,0 1.504 752 Bình Tân
39 434,8 3.339 1.669 Củ Chi
26 109,2 2.049 1.025 Hóc Môn
30 252,6 2.901 1.451 Bình Chánh
13 100,4 2.779 1.390 Nhà Bè
15 704,5 6.853 3.426 Cần Giờ
Nguồn: Xử lý số liệu từ Niên giám thống kê TPHCM 2017
Ghi chú: Độ dài đường đi học trung bình chỉ mang tính ước lượng khi xem như nhà HS là trung điểm của đoạn đường trung
bình giữa 2 trường kế cận nhau.
130
Bảng 2.28. Khoảng cách trung bình học sinh quận Phú Nhuận di chuyển từ nhà đến trường
Đơn vị: m
Sông Lô Cổ Loa Đông Ba Vạn Tường Chí Linh Lê Đình Chinh Trung Nhất Trường Tiểu học Cao Bá Quát Hồ Văn Huê Đặng Văn Ngữ Nguyễn Đình Chính Phạm Ngọc Thạch
425 0 0 425 250 425 650 800 1050 700 1150 1250 1000 1100 Vạn Tường (Cơ sở 2) 1050 1150 750 850 1400 1550 1400 1550 425 550 550 650
425 250 0 375 1100 1400 1250 1300 1000 1700 1700 700 800
800 650 375 0 1150 1450 1300 1350 1050 1750 1750 750 850
1050 700 1100 1150 0 1450 1650 1500 1400 1750 1700 1050 1200
1150 1250 1400 1450 1450 0 600 600 800 325 275 750 800
1000 1100 1250 1300 1650 600 0 250 350 550 650 600 600
1050 1150 1300 1350 1500 600 250 0 300 550 650 700 750
750 850 1000 1050 1400 800 350 300 0 800 900 400 375
1400 1550 1700 1750 1750 325 550 550 800 0 200 1000 1000
1400 1550 1700 1750 1700 275 650 650 900 200 0 1100 1100
425 550 700 750 1050 750 600 700 400 1000 1100 0 225
550 650 800 850 1200 800 600 750 375 1000 1100 225 0 Sông Lô Cổ Loa Cao Bá Quát Đông Ba Hồ Văn Huê Đặng Văn Ngữ Vạn Tường Vạn Tường (Cơ sở 2) Nguyễn Đình Chính Chí Linh Phạm Ngọc Thạch Lê Đình Chinh Trung Nhất
Nguồn: NCS xử lý số liệu từ Google Earth
Khoảng cách trung bình học sinh quận Phú Nhuận di chuyển từ nhà đến trường dưới 500m
131
Như vậy, qua bảng 2.28, ta thấy HS trong khu vực giữa các trường sau đây là
có khả năng đi học gần (dưới 500m):
- Từ trường Tiểu học Cổ Loa đến trường Tiểu học Sông Lô,
- Từ trường Tiểu học Cao Bá Quát đến trường Tiểu học Sông Lô,
- Từ trường Tiểu học Cao Bá Quát đến trường Tiểu học Cổ Loa,
- Từ trường Tiểu học Cao Bá Quát đến trường Tiểu học Đông Ba,
- Hai cơ sở của trường Tiểu học Vạn Tường,
- Từ trường Tiểu học Nguyễn Đình Chính đến 2 cơ sở của trường Tiểu học Vạn
Tường,
- Từ trường Tiểu học Chí Linh đến trường Tiểu học Đặng Văn Ngữ,
- Từ trường Tiểu học Chí Linh đến trường Tiểu học Đặng Văn Ngữ,
- Từ trường Tiểu học Phạm Ngọc Thạch đến trường Tiểu học Đặng Văn Ngữ,
- Từ trường Tiểu học Chí Linh đến trường Tiểu học Phạm Ngọc Thạch,
- Từ trường Tiểu học Lê Đình Chinh đến trường Tiểu học Sông Lô,
- Từ trường Tiểu học Lê Đình Chinh đến trường Tiểu học Nguyễn Đình Chính,
- Từ trường Tiểu học Trung Nhất đến trường Tiểu học Nguyễn Đình Chính,
- Từ trường Tiểu học Trung Nhất đến trường Tiểu học Lê Đình Chinh.
Trở lại Bảng 2.27 thì Phú Nhuận là quận có “độ dài đường đi học trung bình”
trên toàn quận là hợp lý (318 m) nhưng thực tế thì được chứng minh ở Bảng 2.28, chỉ
14/78 đoạn đường là phù hợp, chiếm 17,9%, còn lại thì HS Tiểu học phải đi đến
trường đoạn đường xa hơn 500 m. Sự phân bố bất hợp lý này cũng khá phổ biến ở
các trường Tiểu học khác trên tất cả các quận/huyện ở TPHCM.
Sở dĩ có sự phân bố chưa phù hợp như trên là do:
Hệ thống văn bản liên quan đến lĩnh vực đất đai còn nhiều điểm chưa thống
nhất, chưa nhất quán với các bộ luật khác, một số quy định phải sửa đổi, bổ sung
nhiều lần, thậm chí nhiều văn bản vừa có hiệu lực đã lạc hậu so với thực tiễn… Bên
cạnh đó trình tự, thủ tục thu hồi đất, giao đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất còn quá rườm rà nên
người dân, chủ đất chậm bàn giao.
132
Công tác quy hoạch còn nhiều hạn chế: chất lượng quy hoạch chưa tốt, công
tác lập quy hoạch còn chậm, thiếu quy hoạch phân khu, quy hoạch chi tiết và việc
điều chỉnh quy hoạch còn chưa phù hợp. Công tác quản lý, kiểm tra, giám sát chưa
chặt chẽ, thường xuyên dẫn tới tình trạng vi phạm quy hoạch diễn ra phổ biến, khó
xử lý và gây thiệt hại không nhỏ về kinh tế.
Nhiều địa phương không còn quỹ đất để xây dựng trường học, các quận chưa
tập trung quyết liệt cho việc rà soát quỹ đất tại các dự án treo, đất sử dụng sai mục
đích hoặc không hiệu quả. Sự phối hợp kiểm tra, đôn đốc triển khai của các sở liên
ngành liên quan chưa quyết liệt. Chất lượng giáo dục chưa đồng đều, gây quá tải tại
những trường có danh tiếng và có chất lượng cao.
Phát triển đô thị ở TPHCM còn mang tính tự phát theo vết dầu loang gây
nhiều khó khăn khiến các quận được mở rộng ra sau này như quận 2, 9, 12, Bình Tân
không kịp xây dựng cơ sở vật chất, đặc biệt là hệ thống trường học phổ thông. Trong
khi các quận trung tâm như quận 1, 3, 5 thì đất chật người đông, quỹ đất hạn hẹp; các
trường lại được xây dựng khá lâu đời (thời Pháp, Mỹ hoặc của người Trung Hoa di
cư sang) nên đã cũ kỹ, xuống cấp.
Tuy nhiên, ở đây việc thiếu trường học, nhất là trường công lập không hẳn là
do thiếu quỹ đất. Nguyên nhân của tình trạng này là do các chủ đầu tư chỉ quan tâm
xây dựng công trình dễ thu hồi vốn, có lợi nhuận ngay như nhà ở kinh doanh, công
trình hỗn hợp, trung tâm thương mại - dịch vụ... Còn công trình hạ tầng xã hội, nếu
không có cơ chế chính sách rõ ràng, quy định trách nhiệm cụ thể, thì các chủ đầu tư
đều né tránh. Thực tế, việc triển khai xây dựng các công trình hạ tầng xã hội tại các
khu đô thị cho thấy, một số dự án trường học, khi phê duyệt chưa xác định rõ trách
nhiệm nguồn đầu tư từ đâu (từ ngân sách hay xã hội hóa), cho nên khi nhà đã xây
dựng, người dân về ở, mà vẫn chưa có trường học, hoặc nếu có thì là trường dân lập
với mức thu phí cao, không phù hợp với điều kiện kinh tế của người dân.
133
Tiểu kết chương 2
Trong các nhân tố tác động đến mạng lưới trường học PT ở TPHCM, vị trí địa
lí tự nhiên và KT-XH tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của TP, trong đó có
GD. Các điều kiện tự nhiên về cơ bản là thuận lợi cho việc xây dựng trường học và
hoạt động dịch vụ GD. Tuy nhiên ảnh hưởng của triều cường, chế độ bán nhật triều
và TP có mạng lưới kênh rạch chằng chịt có thể gây ra những trở ngại cục bộ như
tình trạng úng ngập, làm tăng thêm ách tắc giao thông vào giờ đưa đón trẻ đi học.
Tình trạng không có nhiều đất dự trữ (từ đất nông nghiệp và đất chưa sử dụng) có thể
gây trở ngại trong xây dựng các cơ sở trường mới và mở rộng quy mô diện tích, cải
thiện cơ sở vật chất của các trường trong các quận nội thành.
Dân cư và đô thị hóa là hai nhân tố có ảnh hưởng nổi trội đối với mạng lưới
trường học PT ở TPHCM. Quy mô nhập cư vào Thành phố cao liên tục vài ba thập
kỷ gần đây, gắn liền với sự thịnh vượng và tốc độ phát triển kinh tế cao và ổn định
của thành phố đã gây ra sức ép khá lớn lên mạng lưới trường PT, đặc biệt ở các quận,
huyện vùng ven, mặc dù tỉ suất gia tăng tự nhiên của dân cư là thấp. Sự tăng quy mô
tuyển sinh quá nhanh ở các quận/ huyện, phường / xã là “điểm nóng” nhập cư có thể
làm đảo lộn các dự kiến quy hoạch mạng lưới trường và ảnh hưởng trước mắt đến
công tác tuyển sinh của Thành phố. Cho đến nay, tỉ lệ nhập học thấp ở cấp THPT đối
với con em gia đình nhập cư vẫn là vấn đề cần giải quyết.
Đô thị hóa ở TPHCM đang đi vào giai đoạn phát triển theo chiều sâu, với việc
hiện đại hóa cơ sở hạ tầng, phát triển các tiện ích đô thị, chỉnh trang đô thị - trong đó
có sự hình thành các khu đô thị mới. Những xu hướng này cũng kéo theo các luồng
di chuyển trong nội bộ thành phố, nhất là sự di chuyển từ các quận nội thành có mật
độ dân số rất cao tới các địa bàn vùng ven. Việc này một mặt đặt ra yêu cầu mới về
cơ sở trường ở những địa bàn có tốc độ đô thị hóa cao, mặt khác cũng làm xáo trộn
việc tuyển sinh cũng như các quyết định chọn trường của HS và gia đình.
Trong chương này đã phân tích những mặt đã đạt được và những hạn chế của
mạng lưới trường PT ở TPHCM hiện nay. Mặt được là Thành phố đã có quy hoạch
mạng lưới trường từ năm 2003 và đã triển khai Quy hoạch này những năm sau đó.
Mạng lưới trường khá dày đặc ở các quận nội thành, và đây cũng là nơi có nhiều cơ
134
sở GD ngoài công lập, giúp HS và gia đình có nhiều lựa chọn hơn khi chọn trường.
Tuy nhiên, tình trạng HS phải học lớp đông vẫn còn khá phổ biến, vượt định mức
chuẩn do Bộ GD-ĐT quy định, nhất là ở cấp tiểu học.
Có thể nói, còn rất nhiều việc cần giải quyết để tổ chức hợp lý mạng lưới
trường học PT, góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ GD.
135
Chương 3. ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP TỔ CHỨC HỢP LÝ
MẠNG LƯỚI TRƯỜNG HỌC PHỔ THÔNG Ở
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
3.1. Cơ sở để đề xuất giải pháp
3.1.1. Các văn bản pháp quy
Việc tổ chức hợp lý mạng lưới trường PT có vị trí đặc biệt trong việc thực hiện
quy hoạch phát triển GD của TP. Những kết quả nghiên cứu của các chương trên,
cùng với nguồn thông tin đáng tin cậy về các xu hướng phát triển KT-XH của TP,
những văn bản pháp quy từ Trung ương đến địa phương có liên quan là cơ sở để
NCS đề xuất các giải pháp tổ chức hợp lý mạng lưới trường học PT ở TPHCM trong
những năm tới, có thể là trong vòng 10 năm tới.
Trong số các văn kiện quan trọng, phải kể đến:
- Nghị quyết 54/2017/QH14 (24/11/2017) của Quốc hội về thí điểm cơ chế,
chính sách đặc thù phát triển TPHCM. Cho đến nay, TP đã từng bước triển khai cơ
chế, chính sách đặc thù được 2 năm. Với cơ chế, chính sách đặc thù, TPHCM có điều
kiện chủ động hơn trong việc huy động và phân bổ các nguồn lực, nhất là nguồn lực
tài chính để tăng thu nhập cho cán bộ, công chức, viên chức của TP và để đầu tư phát
triển cơ sở hạ tầng. Cơ chế đặc thù này cũng tạo hành lang pháp lý cho ngành GD TP
đưa ra những sáng kiến mới để đưa GD ngang tầm với vị thế của TP về kinh tế, văn
hóa, khoa học công nghệ, chính trị,…
- Nghị quyết số 29-NQ/TW (4/11/2013) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khoá XI về đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa,
hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực
hiện Nghị quyết 29 của Trung ương, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số
88/2014/QH13 (28/11/2014) về đổi mới chương trình, sách giáo khoa GDPT. Căn cứ
Nghị quyết 88 của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
404/QĐ-TTg (27/3/2015) phê duyệt Đề án đổi mới chương trình, sách giáo khoa
GDPT. Chương trình GDPT mới (gọi là Chương trình 2018) đã được Bộ trưởng Bộ
GD-ĐT ký ban hành tại Thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT (26/12/2018). Như vậy là
136
từ năm học 2020-2021 đến năm học 2024-2025, chương trình và sách giáo khoa mới
sẽ được đưa vào nhà trường, từ TH, THCS đến THPT. Việc thực hiện chương trình
và sách giáo khoa mới, đi đôi với đổi mới phương pháp dạy học và phương pháp
đánh giá kết quả GD, sẽ đòi hỏi nhiều chuẩn mới về cơ sở vật chất, điều kiện dạy và
học. Điều này sẽ ảnh hưởng lớn đến tổ chức mạng lưới trường học PT, mà TPHCM
phải là và có điều kiện là địa phương đi đầu.
- Quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH TPHCM đến năm 2020, tầm nhìn đến
năm 2025, được phê duyệt tại Quyết định số 2631/QĐ-TTg ngày 31/12/2013 của
Thủ tướng Chính phủ. Trong Quy hoạch tổng thể này có nhiều chỉ tiêu phát triển
cũng như các định hướng quy hoạch ngành và không gian của TP. Nhưng ở đây,
NCS nhắc lại một số chỉ tiêu liên quan đến GDPT:
“b) Giáo dục - đào tạo
- Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo; hoàn thiện cơ sở vật chất,
mạng lưới trường, lớp, đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý, nội dung và phương thức
giáo dục; đẩy mạnh xã hội hóa và liên kết quốc tế, huy động mọi nguồn lực vào việc
đầu tư cho ngành giáo dục và đào tạo; đảm bảo các chuẩn về giáo viên, trường lớp và
cơ sở vật chất các ngành học, bậc học, phấn đấu đến năm 2020 xây dựng thành phố
thành một trung tâm lớn về giáo dục - đào tạo chất lượng cao của cả nước và khu vực
Đông Nam Á.
- Giáo dục mầm non, tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông: duy trì
phổ cập học sinh các bậc học theo đúng độ tuổi.
….
- Giáo dục tiểu học: Đến năm 2015, huy động 100% trẻ 6 tuổi vào lớp 1; phổ
cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi đạt 100%; học sinh được học hai buổi/ngày đạt
100%. Sĩ số học sinh không quá 35 học sinh/lớp năm 2015; 30 học sinh/lớp năm
2020; 30 học sinh/lớp năm 2025. Giáo dục trung học cơ sở (THCS): Phấn đấu đến
năm 2015, đạt tỷ lệ 100% học sinh được học hai buổi/ngày; 100% các trường THCS
đảm bảo đủ các phòng học bộ môn và các phòng phục vụ học tập. Phấn đấu một lớp
học ở bậc THCS khoảng 38 học sinh/lớp vào năm 2015; 35 học sinh/lớp năm 2020
và đạt 30 học sinh/lớp năm 2025.
137
- Giáo dục trung học phổ thông (THPT): Phấn đấu một lớp học ở bậc THPT đạt
khoảng 40 học sinh/lớp vào năm 2015; 35 học sinh/lớp đến năm 2020 và 30 học
sinh/lớp đến năm 2025.” (hết trích).
- Đề án “Phát triển dịch vụ của Thành phố Hồ Chí Minh và triển khai quy
hoạch hạ tầng dịch vụ của Thành phố giai đoạn 2020 – 2030”. Đề án này đang trong
quá trình xây dựng, nhưng việc quy hoạch hạ tầng DV (trong đó có DV GD), hướng
tới việc xây dựng TP thông minh, sẽ tạo điều kiện kết nối tốt hơn giữa các cơ sở
trường học với các đơn vị ở đô thị, với các tiện ích khác của đô thị, và cũng tạo ra
những hy vọng mới về các giải pháp đối với quỹ đất cho phát triển và hoàn thiện
mạng lưới trường học PT.
3.1.2. Xu hướng phát triển của Thành phố Hồ Chí Minh trong những năm
tới
3.1.2.1 Sự thay đổi trong xu hướng đô thị hóa, sức ép của người nhập cư, nhất
là ở các huyện ngoại thành
Những nhận xét về xu hướng đô thị hóa đã được trình bày ở mục 2.1.5. Những
dữ liệu mới công bố củng cố thêm những nhận định từ các quan sát trước đó.
Theo Kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở 1/4/2019 [2], dân số TPHCM là
8.993,1 nghìn người, trong đó khu vực thành thị là 7.125,5 nghìn người, khu vực
nông thôn là 1.867,6 nghìn người. Dân số TPHCM thời điểm 1/4/2009 có các con số
tương ứng là 7.612,9; 5.968,4 và 1.194,5 nghìn người. Như vậy, tính trung bình thời
gian 10 năm (2009-2019), mức gia tăng dân số chung của TP là 2,30%, khu vực
thành thị là 1,79%, khu vực nông thôn là 4,57%. Mặc dù tốc độ gia tăng dân số
chung của toàn TP có giảm so với giai đoạn trước đó (3,5%, theo Tổng điều tra dân
số và nhà ở 2009), nhưng vẫn ở mức cao. Mức gia tăng dân số của khu vực thành thị
chỉ khoảng 1,8%, một phần do mức sinh thấp, phần khác do gia tăng cơ học vào các
quận “lõi” của nội thành không nhiều, mà chủ yếu đến các quận như quận 2, Thủ
Đức, quận 7, quận 8, quận 12. Mức gia tăng dân số đặc biệt cao ở khu vực nông thôn
không phải là do TPHCM đã ở giai đoạn phát triển mạnh vùng ngoại thành
(suburbanization) đi đôi với sự suy giảm dân số nội thành như ở các TP đã phát triển
rất cao của các nước phát triển, mà do sự hình thành các khu đô thị mới ở các xã
138
vùng ven thuộc Hóc Môn, Bình Tân, Bình Chánh, Nhà Bè, đồng thời là do thu hút
người nhập cư ngoại tỉnh đến các khu công nghiệp.
Dân số TPHCM chủ yếu là gia tăng cơ học. Cũng theo Tổng điều tra Dân số và
nhà ở năm 2019 [2], tỉ suất nhập cư (2014-2019) ở TPHCM là 91,4‰, tỉ suất xuất cư
là 15,5‰, tỉ suất di cư thuần là 75,9‰. Với các đại lượng về gia tăng dân số chung
và về tỉ suất di cư, có thể ước lượng rằng gia tăng cơ học trung bình giai đoạn 2014-
2019 chiếm khoảng 2/3 tỉ suất gia tăng dân số chung của TP. Những ước lượng của
lãnh đạo TPHCM đã đánh giá gia tăng cơ học là một biến số quan trọng trong quy
hoạch phát triển của TP. Theo ông Nguyễn Thành Phong - Chủ tịch UBND TP
(tháng 11/2017): "Con số thống kê chỉ 8,4 triệu người, nhưng số người thường xuyên
sinh sống và làm việc trên địa bàn TP thì lên đến 13 triệu người”. Năm 2017,
TPHCM có khoảng 13 triệu người, trong đó có khoảng 3 triệu dân nhập cư. Tốc độ
tăng dân số bình quân của TP là 3,5%/năm, trong đó tốc độ tăng dân số cơ học là
2,3%/năm, gấp đôi mức tăng dân số tự nhiên. Trung bình mỗi năm, dân số TP tăng
khoảng 200.000 người. Như vậy, cứ mỗi giai đoạn 5 năm, TP tăng khoảng 1 triệu
người, tương đương dân số 1 quận [137].
Để giải quyết cân đối giữa nhu cầu học tập của trẻ em trong độ tuổi đi học và
sức ép của người nhập cư, TPHCM cần có chính sách tạo các bộ lọc đối với người
nhập cư, đồng thời có kế hoạch tăng số lượng trường lớp, nhất là ở các địa bàn có sự
gia tăng cơ học cao và đột xuất, cũng như có những điều chỉnh trong phân vùng
tuyển sinh cho các trường.
3.1.2.2 Tác động của các dự án quy hoạch vùng đô thị Thành phố Hồ Chí
Minh từ năm 2030 trở đi
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, tỉ lệ dân sống trong khu vực
thành thị là 79,2%, nhưng nếu tính thêm các khu đô thị mới ở các xã vùng ven, thì
dân số đô thị thực sự của TPHCM sẽ là trên 80%. Theo quy luật đô thị hóa, thì dân
số TPHCM sẽ tăng trưởng chậm lại. TPHCM đang thay đổi cơ cấu kinh tế theo
hướng tăng lao động có hàm lượng chất xám, tăng lao động “cổ cồn trắng”, giảm bớt
lao động thủ công. TP đang bước vào giai đoạn đô thị hóa và công nghiệp hóa theo
chiều sâu.
139
Trong vùng đô thị TPHCM, các tỉnh TP trong vùng được tăng cường kết nối
nhờ cơ sở hạ tầng giao thông hiện đại, trong đó có kết nối bằng giao thông đô thị. Sự
phát triển KT-XH của các địa phương xa hơn ở Duyên hải Nam Trung Bộ và Đồng
bằng sông Cửu Long, trong đó có việc nâng cấp các đô thị (từ loại 3 lên loại 2, từ
loại 2 lên loại 1), phát triển GD đại học, phát triển công nghiệp – dịch vụ sẽ giảm bớt
sự chênh lệch vùng giữa TPHCM và các địa phương lân cận. Trong khi đó, giá cả
sinh hoạt ở TP ngày càng đắt đỏ, đặc biệt là nhà cửa, đất đai, sức hút người dân đổ
dồn về mua đất xây nhà không còn như những năm trước nữa. Tất cả những điều này
sẽ dẫn đến giảm “lực hút” và “lực đẩy” đối với người nhập cư vào TPHCM, có thể
làm giảm quy mô các dòng nhập cư trong tương lai.
Trong điều kiện như trên, tổ chức mạng lưới trường học PT theo chiều sâu
được chú trọng: chất lượng đào tạo, đội ngũ GV, cơ sở vật chất, các dịch vụ GD kèm
theo,... phải hiệu quả, được người dân đánh giá cao thì mới có thể cạnh tranh.
3.1.3. Việc hiện thực hóa cơ chế đặc thù cho giáo dục do Sở Giáo dục - đào
tạo Thành phố Hồ Chí Minh đề xuất
Từ Nghị quyết 54/2017/QH14 của Quốc hội về thí điểm cơ chế, chính sách đặc
thù phát triển TPHCM, Sở GD&ĐT TPHCM đã kiến nghị về cơ chế đặc thù cho GD,
dưới đây là một số điểm liên quan đến GDPT [82].
Đối với Chính phủ:
- Chấp thuận cho TP thực hiện cơ chế đặc thù trong lĩnh vực GD&ĐT, TP được
phép thực hiện chương trình GD phù hợp với thực tiễn của địa phương nhưng vẫn
tuân thủ chương trình khung của Bộ GD-ĐT.
- Ban hành chính sách sử dụng lao động qua đào tạo hợp lý, cụ thể hóa chủ
trương phân luồng cho đào tạo nghề nghiệp. Có chính sách đãi ngộ thỏa đáng cho
GV và khuyến khích đối với sinh viên trung cấp chuyên nghiệp.
- Tăng cường phân cấp cho UBND TP và giữa cấp TP với các quận, huyện,
tránh chồng chéo và không rõ ràng.
- Cho phép TP thực hiện thí điểm các dự án nâng tầng trường học ở các quận
nội thành như là một giải pháp để giải quyết tình trạng thiếu phòng học ở các khu
140
dân cư đông đúc, tập trung và tránh lãng phí kinh phí đầu tư xây dựng mặt bằng
chiếm đất xây dựng.
Đối với Bộ Giáo dục - đào tạo:
- Ban hành định mức chi phí tối thiểu cho một đầu HS, sinh viên ở các cấp học,
ngành học, ngành nghề đào tạo để làm cơ sở cho việc ban hành định mức chi đối với
từng cấp, bậc học và ngành nghề đào tạo.
- Rà soát những điểm chưa hợp lý trong Thông tư liên tịch số 11/2015/TTLT-
BGDĐT-BNV ngày 29 tháng 5 năm 2015 của Bộ GD-ĐT và Bộ Nội vụ quy định về
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của Sở GD-ĐT, bổ sung cơ chế đặc
thù cho TPHCM.
- Rà soát và sửa đổi những điểm chưa hợp lý trong các Thông tư liên tịch số 20,
21 và 22/2015/TTLT-BGDĐT-BNV của Bộ GD-ĐT và Bộ Nội vụ liên quan đến chế
độ tiền lương đối với các chức danh nghề nghiệp GV mầm non, GV Tiểu học công
lập và GV trung học cơ sở công lập.
- Trình Thủ tướng ban hành chức danh, mã ngạch GV tư vấn tâm lý trong các
cơ sở GD...
Đối với Thành phố:
- Tiếp tục ưu tiên bố trí vốn nâng cấp, mở rộng và duy tu các phòng học, đảm
bảo đến năm 2020 đạt 300 phòng học/10.000 người dân TP trong độ tuổi đi học.
- Có các giải pháp tăng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm đi đôi với trách
nhiệm giải trình của các nhà trường.
Như vậy, định hướng mạng lưới trường học PT được hiểu không chỉ tổ chức về
mặt vật lý (xây dựng, chỉnh trang cơ sở vật chất) mà còn tổ chức về mặt xã hội (điều
chỉnh nhân sự, kinh phí hợp lý).
3.1.4. Phân hóa học sinh theo hướng học nghề
Theo chỉ tiêu tuyển sinh lớp 10 Sở GD&ĐT TPHCM vừa công bố, năm học
2017-2018, các trường trung học PT công lập của TP chỉ tuyển 77% trong tổng số
hơn 81.000 HS lớp 9 tốt nghiệp trung học cơ sở trên địa bàn.
141
Như vậy sẽ có khoảng 18.000 em không được vào học lớp 10 công lập. Số HS
này sẽ tiếp tục theo các trường ngoài công lập, trung tâm GD thường xuyên và học
nghề tùy theo khả năng và nhu cầu của HS [143].
Ở định hướng mới, sau khi học xong hệ THCS, HS có 2 lựa chọn cơ bản, như:
lựa chọn thứ nhất là học THPT hoặc học bổ túc văn hóa; lựa chọn thứ 2 là chuyển
sang học trung cấp.
Với quyết định đi theo lựa chọn thứ nhất, các em sẽ tốt nghiệp THPT hoặc bổ
túc văn hóa. Các em sẽ quyết định tiếp tục học trung cấp, cao đẳng, đại học hoặc đi
làm (thường với các vị trí công việc yêu cầu trình độ PT hoặc công việc tự do…).
Lựa chọn này rất phù hợp các em HS có học lực tốt, gia đình có điều kiện hỗ trợ lâu
dài.
Với việc đi theo lựa chọn thứ 2, các em sẽ gia nhập thị trường lao động sớm
hơn so với thông lệ trước kia. Ưu điểm của lựa chọn này là các em sẽ có việc làm và
thu nhập ổn định sớm hơn bạn bè trang lứa. Trong khi đó, nguyện vọng có được tấm
bằng đại học vẫn được thực hiện nếu các em chịu khó học thêm 1 số năm theo quy
định của Luật Giáo dục nghề nghiệp.
Việc thực hiện “Đề án hỗ trợ học sinh, sinh viên khởi nghiệp đến năm 2025” và
Đề án “Giáo dục hướng nghiệp và định hướng phân luồng học sinh trong giáo dục
phổ thông giai đoạn 2018 - 2025” sẽ góp phần chuyển biến mạnh mẽ công tác phân
luồng HS sau THCS và THPT. Theo các đề án này, mục tiêu đến năm 2020: (i)
khoảng 55% trường THCS, 60% trường THPT có Chương trình GD hướng nghiệp
gắn với hoạt động sản xuất, kinh doanh, DV của địa phương; (ii) khoảng 55% trường
THCS, 60% trường THPT có GV kiêm nhiệm làm nhiệm vụ tư vấn hướng nghiệp
đáp ứng yêu cầu về chuyên môn, nghiệp vụ; (iii) ít nhất 30% HS tốt nghiệp THCS
tiếp tục học tập tại các cơ sở GD nghề nghiệp đào tạo trình độ sơ cấp, trung cấp; (iv)
ít nhất 40% HS tốt nghiệp THPT tiếp tục học tập tại các cơ sở GD nghề nghiệp đào
tạo trình độ cao đẳng;
Mục tiêu đến năm 2025: (i) 100% trường THCS và THPT có Chương trình GD
hướng nghiệp gắn với sản xuất, kinh doanh, DV của địa phương; (ii) 100% trường
THCS và THPT có GV kiêm nhiệm làm nhiệm vụ tư vấn hướng nghiệp đáp ứng yêu
142
cầu về chuyên môn, nghiệp vụ; (iii) ít nhất 40% HS tốt nghiệp THCS tiếp tục học tập
tại các cơ sở GD nghề nghiệp đào tạo trình độ sơ cấp, trung cấp; (iv) ít nhất 45% HS
tốt nghiệp THPT tiếp tục học tập tại các cơ sở GD nghề nghiệp đào tạo trình độ cao
đẳng;
Như vậy, định hướng tổ chức mạng lưới trường học PT:
- Về cơ sở vật chất: ưu tiên xây dựng các trường TH, THCS.
- Về cách thức tổ chức: lồng ghép các chủ đề GD hướng nghiệp, đặc biệt là
hướng nghiệp trong thời kỳ Cách mạng công nghiệp 4.0.
3.2. Những nhóm giải pháp để tổ chức hợp lý mạng lưới trường học phổ thông ở
Thành phố Hồ Chí Minh
3.2.1. Giải pháp liên quan đến vấn đề dân số
3.2.1.1. Giải quyết hiệu quả vấn đề tăng dân số cơ học
Để góp phần giải quyết sức ép từ dân số, cần có các giải pháp kinh tế và có sự
hỗ trợ của các biện pháp hành chính để điều chỉnh quy mô dân số và phân bố dân cư.
TPHCM cần phát triển nhanh các khu dân cư mới cách xa trung tâm có đầy đủ
các tiện ích sinh hoạt, giá cả hợp lý để người dân chấp nhận được, đồng thời có chính
sách khuyến khích thỏa đáng để người dân tự nguyện di dời ra khỏi nội thành.
Thắt chặt quản lý đất đai ở TP: hạn chế tối đa việc chuyển đổi mục đích sử
dụng đất (đặc biệt từ đất nông nghiệp sang đất thổ cư), xử lý nghiêm những trường
hợp nhà “tự phát”.
Xây dựng vùng TPHCM bao gồm tiểu vùng đô thị trung tâm là TPHCM và
vùng phụ cận tại các tỉnh Long An, Bình Dương, Đồng Nai; tiểu vùng phía Đông
gồm các tỉnh Đồng Nai và Bà Rịa - Vũng Tàu; tiểu vùng phía Bắc - Tây Bắc gồm
các tỉnh Bình Phước, Tây Ninh và phía Bắc tỉnh Bình Dương; tiểu vùng phía Tây
Nam gồm các tỉnh Tiền Giang và Long An. Mục đích nhằm san sẻ bớt số lượng dân
nhập cư vào TP, với mô hình tập trung - đa cực, đảm bảo sự thống nhất, cân bằng
trong phát triển vùng; khi đó, TPHCM trở thành đô thị hạt nhân, trung tâm kinh tế,
trung tâm tri thức, kinh tế tổng hợp đa chức năng hiện đại ngang tầm với các đô thị
khu vực Đông Nam Á, cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng tăng các ngành
143
có hàm lượng chất xám cao như một cách sàng lọc người nhập cư, làm nản lòng
những lao động PT.
Phải căn cứ vào tình hình và đặc điểm phát triển KT-XH của từng quận/huyện
để có các chính sách và biện pháp hợp lý nhất giải quyết toàn diện về phân bố mạng
lưới các trường PT cũng như quy hoạch tuyển sinh cho các trường..
Trong điều kiện hiện nay, cơ sở hạ tầng giao thông đô thị có phần bị quá tải,
đặc biệt là vào những giờ cao điểm thường xảy ra tình trạng kẹt xe, việc xiết chặt
điều kiện đăng ký vào nội thành, di dời một số cơ quan, nhà máy, trường học, cơ sở
công nghiệp... ra ngoại thành và phát triển các khu ở có đầy đủ các DV tiện ích công
cộng ở những xã phường vùng ven sẽ giúp điều chỉnh phân bố dân cư, đồng thời có
điều kiện phát triển mạng lưới trường PT ở các quận huyện vùng ven, tăng cường các
trường đạt chuẩn quốc gia.
3.2.1.2. Tăng số lượng lớp học PT
a) Đối với các trường công lập
Các trường nên tận dụng tối đa công suất diện tích lớp học vốn có; tận dụng
diện tích phục vụ công cộng tổ chức các lớp học ngoài trời ở những môn học phù
hợp.
Các trường cần lập quy hoạch xin mở rộng diện tích đất (nếu có) hoặc nâng
thêm tầng, bố trí các lớp học ở tầng thấp, cán bộ, GV làm việc trên tầng cao.
Trong điều kiện di dời một số trường cao đẳng, đại học ra khu vực ngoại thành
đề nghị TP ưu tiên bàn giao cơ sở vật chất lại cho các trường PT. Trong quá trình
thực hiện di dời các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm ra khỏi nội thành, cần hạn chế việc
thay vào đó là các chung cư cao tầng, mà cần có sự hài hòa giữa việc phát triển các
khu ở với các công trình công cộng, đồng thời tạo quỹ đất trống ưu tiên xây trường.
Theo Sở GD&ĐT TPHCM, trong giai đoạn 2016 – 2020, TP thực hiện 722 dự
án xây dựng trường học với quy mô gần 12.800 phòng học nhằm thực hiện mục tiêu
đến năm 2020 đạt 300 phòng học/10.000 dân trong độ tuổi đi học. Do đó, để thực
hiện mục tiêu trên, ngành GD&ĐT cần tiến hành rà soát tại các quận, huyện về kế
hoạch đầu tư công giai đoạn 2016-2020. Đối với các phòng GD&ĐT các quận,
huyện, bên cạnh việc quy hoạch xây dựng mạng lưới trường học, TP cần có những
144
giải pháp đồng bộ và quyết liệt, trong đó tập trung giải quyết việc giải phóng mặt
bằng nhanh để các dự án xây dựng trường học sớm được thực hiện.
b) Xã hội hóa GD
Cần hoàn thiện hành lang pháp lý và môi trường hoạt động thuận lợi để triển
khai xã hội hóa GD&ĐT. Huy động nguồn lực của các ngành, các cấp, các tổ chức
KT - XH, cá nhân để phát triển GD - ĐT. Tăng cường quan hệ của nhà trường với
gia đình và xã hội; huy động trí tuệ, nguồn lực của toàn ngành, toàn xã hội vào việc
đổi mới nội dung, chương trình, thực hiện GD toàn diện.
Có chế độ chính sách ưu tiên về đất đai, thuế, huy động vốn tín dụng, miễn tiền
thuế đất cho các cơ sở GD&ĐT thực hiện xã hội hóa:
Mức miễn, giảm tiền thuê đất theo từng lĩnh vực và khu vực địa bàn ưu đãi xã
hội hóa tại địa phương:
+ Mức tối đa: Miễn tiền thuê đất cho toàn bộ thời gian của dự án trong thời hạn
được Nhà nước cho thuê đất.
+ Mức tối thiểu: Không thấp hơn mức ưu đãi đối với dự án được ưu đãi theo
pháp luật về đầu tư quy định tại Điều 19 Nghị định số 46/2014/NĐ-CP ngày
15/5/2014 của Chính phủ quy định về thu tiền thuê đất, thuê mặt nước.
-Về chính sách ưu đãi miễn, giảm thuế thu nhập: tại khoản 2, Điều 15 và khoản
2, khoản 3 Điều 16 Nghị định số 218/2013/NĐ-CP quy định: Doanh nghiệp thực
hiện dự án đầu tư trong lĩnh vực xã hội hóa (GD&ĐT, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể
thao và môi trường) được áp dụng thuế suất 10% đối với phần thu nhập từ thực hiện
hoạt động xã hội hóa. Trường hợp có dự án đầu tư mới thuộc lĩnh vực xã hội hóa
được hưởng ưu đãi miễn thuế tối đa 4 năm, giảm 50% số thuế phải nộp tối đa 9 năm
tùy thuộc địa bàn đầu tư.
Thực hiện chế độ tự chủ cho các đơn vị trường học để huy động nguồn lực tại
chỗ đầu tư cho GD để xây dựng cơ sở vật chất, xây dựng trường học đạt chuẩn quốc
gia, phát triển tin học, ngoại ngữ...; chế độ ưu đãi cho cán bộ, GV trong các cơ sở
GD&ĐT thực hiện xã hội hóa GD&ĐT; có chính sách thu hút GV giỏi.
Nếu xây dựng hệ thống GD ngoài công lập đạt chất lượng cao, với mức học phí
tương xứng, thì chính các trường ngoài công lập trở thành đối trọng, thành một tham
145
chiếu cho các trường công lập.
c) Công tác tuyển sinh
Thực tế, tình trạng thiếu trường, lớp chỉ mang tính cục bộ: đông HS ở các
trường trung tâm TP, trường chuyên, trường ở khu dân cư đông; thưa HS ở các
huyện vùng sâu. Do đó:
Các trường cần thực hiện nghiêm túc chủ trương của Sở là tất cả HS đến tuổi
vào lớp 1 đều có giấy gọi nhập học theo đúng tuyến (dựa trên địa chỉ thường trú).
Đặc biệt lưu ý những trường hợp di cư đến TPHCM thuộc diện KT3 thì họ hoàn toàn
có đủ điều kiện được sinh hoạt và hưởng đầy đủ các quyền và nghĩa vụ như một công
dân có hộ khẩu thường trú, tức được học theo đúng tuyến mà mình đăng ký tạm trú
dài hạn. Cũng tại Điều 42 Thông tư 41/2010/TT-BGDĐT về Quyền của HS: “1.
Được học ở một trường, lớp hoặc cơ sở giáo dục khác thực hiện chương trình giáo
dục Tiểu học tại nơi cư trú; được chọn trường ngoài nơi cư trú nếu trường đó có khả
năng tiếp nhận".
Hiện tại, với quy định tuyển sinh đầu cấp (lớp 1 và lớp 6) theo tuyến, Phòng
GD nhất quán nguyên tắc không nhận HS trái tuyến khi chưa nhận hết HS đúng
tuyến. Hiệu trưởng không được quyền quyết định nhận hồ sơ trái tuyến mà những hồ
sơ này đều được hội đồng tuyển sinh xét duyệt.
Các trường không được thu “sổ vàng” hoặc bất kỳ hình thức thu phí, đóng góp
nào khác trong quá trình tuyển sinh. Mọi đóng góp của phụ huynh đều phải có tổ
chức và theo tinh thần tự nguyện.
Các cấp quản lý ngành GD và từng cá nhân trong ngành GD cần đẩy mạnh
tuyên truyền, tư vấn cho cha mẹ HS về việc chọn trường để họ chọn trường cho con
em mình phù hợp với năng lực các em và hoàn cảnh gia đình.
Theo Đề án tổng thể “Xây dựng mô hình đô thị thông minh” do UBND TP
ban hành, ngành GD-ĐT cũng thực hiện Đề án “Phát triển và ứng dụng công nghệ
thông tin trong ngành GD-ĐT giai đoạn 2016-2020, tầm nhìn đến năm 2025”, trong
đó có nội dung tổ chức tuyển sinh trực tuyến:
TH và THCS: sẽ không tổ chức phân tuyến theo địa bàn cư trú (tức hộ khẩu)
như trước đây mà dựa vào khoảng cách địa lí để phân bố HS. Cụ thể, Sở GD-ĐT sẽ
146
phối hợp với Sở Giao thông Vận tải TP triển khai phần mềm xác định vị trí nhà ở,
chỗ ở của HS, sau đó hệ thống tự động dò tìm trường học có khoảng cách địa lí gần
nhất. Hình thức phân tuyến này khắc phục được tình trạng HS có nhà ở trên địa bàn
phường (hoặc quận) này nhưng khoảng cách đến trường học thuộc phường (hoặc
quận) kia gần hơn khoảng cách đến trường được phân tuyến trên cùng địa bàn. Nếu
đề xuất trên được nhân rộng, HS chỉ cần nhập địa chỉ nhà ở, phần mềm tuyển sinh sẽ
cho biết em đó được phân tuyến vào trường nào, đảm bảo khoảng cách từ nhà đến
trường luôn ngắn nhất.
Tình trạng HS chọn nguyện vọng vào trường THPT có điểm chuẩn đầu vào
thấp, sau đó học một thời gian rồi xin chuyển qua trường có điểm chuẩn cao hơn, gây
xáo trộn công tác tổ chức và ảnh hưởng quá trình học tập của chính các em. Về vấn
đề này, Sở GD&ĐT TPHCM đã có những biện pháp sau: Bắt đầu từ năm học 2017-
2018, mỗi HS trên địa bàn TPHCM được cấp một mã số quản lý. Trường hợp HS
chuyển trường, phòng GD&ĐT quận, huyện và Sở GD&ĐT TP sẽ biết được em này
chuyển đến học tập ở đơn vị nào. Sở GD&ĐT TP thường xuyên đi kiểm tra, yêu cầu
hồ sơ xin chuyển trường ngoài đồng ý của hiệu trường tại trường muốn chuyển đến
phải có thêm lý do chính đáng như HS thay đổi chỗ ở, ba mẹ/người nuôi dưỡng
thuyên chuyển công tác hoặc một số trường hợp đặc biệt khó khăn khác như nhà
nghèo không có phương tiện đi học, đau ốm bệnh tật… Trường học chỉ được tiếp
nhận HS mới khi chưa tuyển đủ chỉ tiêu tuyển sinh được giao hoặc tuyển đủ chỉ tiêu
nhưng có trường hợp HS nghỉ học.
3.2.2. Giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông
Vấn đề nâng cao chất lượng và hiệu quả GD có liên quan mật thiết với vấn đề
phát triển quy mô GD cả đại trà và mũi nhọn trên cơ sở đảm bảo chất lượng và điều
chỉnh cơ cấu đào tạo, gắn đào tạo với sử dụng; thực hiện công bằng xã hội trong GD;
đẩy mạnh xã hội hóa GD và xây dựng xã hội học tập.
Để thực hiện chủ trương GD là “quốc sách hàng đầu”, cần có những giải pháp
cụ thể như:
- Tăng kinh phí đầu tư cho GD: TP phải tự vận động kết hợp vốn, kĩ thuật của
nước ngoài, trọng dụng và bồi dưỡng nhân tài thì mới có thể thâm nhập vào hoạt
147
động chung của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Mục tiêu của ngành GD TPHCM
đến 2020 có thể đảm bảo nguồn ngân sách chi thường xuyên cho GD tăng 1,2 lần và
tăng 1,3 lần nguồn chi đầu tư phát triển; cho phép một tỷ lệ nhất định các trường có
điều kiện chuyển sang tự chủ hoàn toàn 100% và tự quyết định mức thu (có thể ở
mức cao); tự quyết định tuyển dụng và trả lương cho GV; áp dụng chính sách miễn
giảm học phí, các chính sách xã hội nhằm đảm bảo con em các gia đình khó khăn
vẫn có khả năng tiếp cận tri thức GD mà TP áp dụng.
- Tăng cường hợp tác quốc tế để thu hút các nguồn tài trợ, các dự án đầu tư cơ
sở vật chất, thiết bị dạy học cho các trường PT ở các huyện khó khăn. Hợp tác còn
giúp TPHCM có cơ hội trau dồi kinh nghiệm quản lý và chuyên môn để phát triển
GD cả về chất và lượng tương đối đồng đều ở tất cả các quận/huyện. Trong vấn đề
này, việc thu hút nguồn lực từ Việt kiều có lợi thế, tuy nhiên cần có các chính sách
mềm dẻo và hiệu quả thu hút nhân tài.
- Có những quan tâm riêng đối với những quận/huyện khó khăn, cụ thể:
+ Có chính sách ưu đãi đặc biệt khuyến khích GV giỏi về các trường khó khăn
công tác.
+ Chăm lo và đầu tư phát triển đội ngũ GV và cán bộ quản lý GD công tác tại
các vùng khó khăn.
+ Xây dựng kế hoạch và lộ trình bồi dưỡng GV, cán bộ quản lý đạt chuẩn mức
độ cao ở mỗi cấp học; tăng cường công tác bồi dưỡng thường xuyên cho GV và dự
giờ thăm lớp; đổi mới tổ chức rút kinh nghiệm giảng dạy ở các tổ chuyên môn, hội
thảo cấp trường, cụm trường, địa phương; đồng thời, chú trọng tổ chức cho GV
nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng, sáng kiến cải tiến.
+ Các địa phương đã đạt chuẩn phổ cập GD phải rà soát lại các chỉ tiêu để kịp
thời có các giải pháp giữ vững và nâng cao chất lượng, tỷ lệ đạt chuẩn phổ cập GD.
Các địa phương khó khăn cần tăng cường đầu tư kinh phí, huy động tối đa số trẻ
trong độ tuổi đi học, vận động HS bỏ học đi học trở lại, phụ đạo HS, tăng cường đội
ngũ GV, mở rộng các hình thức tổ chức dạy học theo chương trình GD thường
xuyên, đưa lớp học về các cụm dân cư; tăng cường phối hợp với các ban, ngành,
đoàn thể; tăng cường vai trò lãnh đạo, quản lý của các cấp ủy đảng, chính quyền địa
148
phương để thực hiện xã hội hóa công tác phổ cập GD.
- Nhanh chóng xây dựng rộng rãi mô hình “trường học thông minh” trước hết
đáp ứng nhu cầu cho HS có điều kiện kinh tế, sau đó là lan rộng trong toàn TP. Với
mô hình này, các lớp học áp dụng tỷ lệ 1:1 giữa HS và thiết bị công nghệ.
3.2.3. Giải pháp phát huy nguồn “vốn xã hội” trong giáo dục
a) Giải pháp trực tiếp
- Thành lập câu lạc bộ hiệu trưởng
Các nước tiên tiến trên thế giới, hiệu trưởng được coi là một nghề, được đào tạo
rất bài bản. Ở nước ta, hiệu trưởng là những người được bổ nhiệm từ những người
thầy, cô giáo làm nghề dạy học, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ. Cho nên kinh
nghiệm và kỹ năng quản lý trường học còn nhiều hạn chế. Việc thành lập Câu lạc bộ
hiệu trưởng (theo cấp học) sẽ tạo ra một diễn đàn bổ ích, giúp cho hiệu trưởng các
trường trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm, giúp đỡ, tư vấn và tổ chức triển khai nhiệm vụ
ở các nhà trường.
Câu lạc bộ hiệu trưởng hoạt động dựa trên nguyên tắc tự nguyện tham gia của
các thành viên; dân chủ trong hoạt động và quản lý tập trung. Hoạt động theo sự tổ
chức và điều hành của Ban chủ nhiệm câu lạc bộ; chịu sự quản lý, giám sát và quyết
định trực tiếp của Phòng GD&ĐT hoặc Sở GD&ĐT (đối với trường trực thuộc). Ban
chủ nhiệm câu lạc bộ chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của câu lạc bộ trước
Trưởng phòng GD&ĐT hoặc Giám đốc Sở GD&ĐT. Nội dung hoạt động của câu lạc
bộ là các chuyên đề được lựa chọn dựa trên nhiệm vụ chính trị của toàn ngành và đặc
điểm của từng cấp học; đồng thời đề xuất một số chuyên đề nâng cao chất lượng
quản lý dạy học chính khóa và ngoài giờ lên lớp đạt hiệu quả cao nhất. Câu lạc bộ có
thể giao lưu bên ngoài với các địa phương khác của huyện, tỉnh bạn để chia sẻ, học
hỏi những kinh nghiệm tốt.
Câu lạc bộ hiệu trưởng đã được tổ chức ở một số tỉnh như: Lào Cai, Bến Tre,
Kon Tum,… và mang lại hiệu quả tốt.
- GV và HS tăng cường các hoạt động giao lưu, học hỏi: ngày 24/12/2018, 17
trường THPT của TPHCM và 30 trường ĐH, THPT của Đài Loan tại TP Cao Hùng,
Đài Loan đã ký bản ghi nhớ hợp tác với các nội dung: giao lưu trao đổi giữa các GV,
149
giữa HS; học tập trực tuyến, thiết lập chương trình trao đổi học thuật ngắn hạn, đồng
thời lựa chọn các chủ đề thích hợp để xây dựng kênh thông tin,...
b) Giải pháp trực tuyến
Phát triển hệ thống “Trường học kết nối”. Với việc ứng dụng công nghệ thông
tin thống nhất, xuyên suốt từ trung ương đến địa phương, hệ thống đã kết nối giữa
các trường học, GV, HS…để chia sẻ thông tin, kinh nghiệm, góp phần thực hiện tích
cực công đổi mới phương pháp dạy và học, đồng hành cùng công cuộc đổi mới của
ngành GD.
Tại “Trường học kết nối” mỗi HS được cấp một tài khoản để tham gia các hoạt
động học tập do GV xây dựng, tổ chức và quản lý trên mạng. HS có thể lựa chọn các
bài học cũng như lựa chọn GV trong phạm vi toàn quốc để học trên mạng; được đăng
ký học cá nhân hoặc theo nhóm; được trao đổi, thảo luận với nhau và trao đổi với
GV để thực hiện các nhiệm vụ học tập; nộp kết quả học tập qua mạng để được GV
nhận xét, đánh giá.
Với GV, "Trường học kết nối" giúp cho việc đổi mới hình thức tổ chức và quản
lý các hoạt động tập huấn, bồi dưỡng GV và hoạt động sinh hoạt tổ/nhóm chuyên
môn trong nhà trường. Mỗi GV được nhận một tài khoản trên mạng, kê khai đầy đủ
thông tin cá nhân và được quản lý theo đơn vị công tác.
Với các cơ quan chức năng như Bộ GD-DT sử dụng "Trường học kết nối", để
thực hiện việc phân cấp tổ chức và quản lý các hoạt động chuyên môn qua mạng đến
các sở, phòng GD-ĐT, cơ sở GD để triển khai các nội dung tập huấn, bồi dưỡng GV;
Hỗ trợ sinh hoạt tổ/nhóm chuyên môn ở trường trung học; tổ chức diễn đàn trên
mạng về đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá; Hỗ trợ dạy học tích
cực thông qua một số học liệu điện tử.
Từ tháng 12/2015 đến nay, HS trường THCS Đức Trí (quận 1) đã có những tiết
học kết nối vô cùng thú vị với HS của các trường học trên thế giới như: Ấn Độ, Thái
Lan, Mỹ, Srilanka, Philippines, Hàn Quốc, Indonesia,…
Trường THCS Nguyễn Văn Tố (quận 10) là trường học đầu tiên ở TPHCM
tham gia đề án “Danh hiệu trường học hợp tác quốc tế tích cực - ISA” do Bộ GD -
ĐT và Hội đồng Anh tổ chức. Tùy theo đam mê, sở trường, HS các khối lớp sẽ chọn
150
lựa dự án về văn hóa lễ hội, ẩm thực, trang phục áo dài truyền thống Việt Nam, tình
yêu quê hương đất nước… để tham gia. Hòa mình vào từng dự án kết nối, HS trường
đã kết bạn, mời HS của Hàn Quốc, Singapore… đến TPHCM giao lưu thân mật, giới
thiệu hình ảnh về đất nước, con người, văn hóa, ẩm thực của Việt Nam.
3.2.4. Giải pháp tổ chức hợp lý mạng lưới trường học phổ thông khi chính
sách quy hoạch vùng được thực hiện
Dựa trên Quyết định 24/QĐ-TTg năm 2010, thì các phân khu chức năng được
chia ra, sẽ kéo theo chuyển dịch cơ cấu ngành nghề.
Do đó, việc tổ chức mạng lưới trường học PT, cần lưu ý:
Phân tuyến trường học PT cho HS không còn theo quận/huyện như hiện nay mà
theo hướng đa tâm, gồm: Khu đô thị trung tâm (nội thành cũ), khu đô thị Bắc, khu đô
thị Nam, khu đô thị Đông, khu đô thị Tây, khu đô thị sinh thái.
Cơ cấu lao động theo ngành sẽ ảnh hưởng đến phân bố dân cư và tất yếu ảnh
hưởng đến việc chọn trường đi học cho con của phụ huynh (vì nhu cầu phụ huynh
cho con học gần cơ quan để tiện đường đưa đón là rất cao). Vì vậy, để xây mới
trường học hoặc quy hoạch lại trường học, cần phải lưu ý nhu cầu này.
Khoảng cách phù hợp để bố trí trường học là nơi giao thoa giữa cơ quan công
tác của phụ huynh (cha/mẹ - những người trực tiếp đưa đón HS) và nhà ở của HS.
Điều này cũng có thể còn được lưu ý trong việc xét duyệt HS học đúng tuyến, với
việc tôn trọng sự lựa chọn của HS và gia đình.
Quyết định số 1340/QĐ-UBND ban hành Quy định về quản lý quy hoạch chung
đô thị theo đồ án điều chỉnh quy hoạch chung xây dựng TPHCM đến năm 2025, có
đưa ra định hướng xây dựng hệ thống các trường PT đáp ứng tiêu chuẩn GD toàn
diện:
+ Khu vực nội thành cũ, ngoài việc cải tạo và nâng cấp cơ sở vật chất các
trường hiện có, tăng cường diện tích xây dựng trường thông qua các dự án tái đầu tư
quỹ đất từ cải tạo khu chung cư cũ, chuyển đổi chức năng các cơ sở công nghiệp,
kho, các trụ sở cơ quan...
+ Khu đô thị mới, kiểm soát chặt chẽ việc bố trí quỹ đất xây dựng trường học
PT theo tiêu chuẩn và quy chuẩn xây dựng hiện hành.
151
Dựa trên Quyết định số 1340/QĐ-UBND, tác giả đưa ra một số giải pháp sau:
Quy hoạch giữa các trường
Nghiên cứu phương án sáp nhập trường nhỏ lại với nhau hoặc sáp nhập trường
nhỏ với trường lớn nhằm thay đổi về mặt chất lượng. Các phương án này có thể theo
hình thức sáp nhập bắt buộc hoặc sáp nhập tự nguyện, với các hỗ trợ ban đầu về mặt
đầu tư, nhân sự,…
Ưu tiên quỹ đất để xây dựng trường học khi thu hồi các kho bãi, khu đất bị bỏ
hoang, sử dụng kém hiệu quả...; bố trí quỹ đất tại các khu đô thị mới, khu tái định cư,
khu vực đông dân cư để xây dựng trường học;
TPHCM cần đẩy nhanh thực hiện thí điểm các dự án nâng cao tầng trường học
ở các quận nội thành.
Đẩy mạnh xã hội hóa GD, huy động các nguồn vốn trong dân cư, các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế và các nhà đầu tư dưới nhiều hình thức (góp
vốn xây dựng, hiến đất xây dựng, đầu tư xây dựng trực tiếp, cho vay vốn đầu tư xây
dựng,...) để góp phần giải quyết vấn đề quá tải trường lớp.
Quy hoạch trong từng trường phổ thông
Nhằm nâng cao chất lượng cung ứng DV công, nhà trường cần khảo sát mức độ
hài lòng của phụ huynh học sinh và HS về mọi mặt, trong đó có cơ sở vật chất, để tập
trung đầu tư sớm vào những yêu cầu thiết yếu trong điều kiện kinh phí hạn hẹp.
Cần bố trí lại các không gian làm việc của GV và các phòng làm công tác hành
chính với quỹ phòng học hiện có để nếu cần thì sửa chữa, cải tạo thành phòng học,
nhằm đáp ứng về số lớp học.
Thường xuyên mua sắm bổ sung các thiết bị dạy học còn thiếu, có tính đến các
thiết bị hiện đại, ứng dụng công nghệ thông tin; có định hướng xây dựng các phòng
bộ môn khi có điều kiện.
3.2.5. Giải pháp tổ chức mạng lưới trường học phổ thông về mặt xã hội
a) Đối với những trường mới thành lập và những trường thiếu nhiều HS so với
chỉ tiêu, khuyến khích GV giỏi luân chuyển với các công cụ chính sách
152
Các công cụ này cần có sức tác động đủ mạnh về tài chính (các khoản lương,
thưởng, các ưu đãi,…); về điều kiện làm việc, môi trường sư phạm, về chính sách
khen thưởng, đề bạt.
b) Có chính sách thu hút người giỏi vào sư phạm
Các chính sách này có tính vĩ mô, nhưng cũng có thể được cụ thể hóa trong
điều kiện của TPHCM, gắn liền với việc quy hoạch nhu cầu GV, sự phối hợp giữa
Sở GD&ĐT với các trường sư phạm trong việc tuyển dụng GV ,… Các đơn vị sử
dụng (nhất là các trường ngoài công lập) cần có các liên kết với các cơ sở đào tạo để
có được hiệu ứng tốt trong đổi mới đào tạo GV.
Để thực hiện chương trình GDPT mới, vấn đề bồi dưỡng, chuẩn hóa đội ngũ
GV là nhiệm vụ thường xuyên và cấp bách.
Việc thực hiện Luật Giáo dục sửa đổi có thể có tác động tích cực đến việc thu
hút nguồn nhân lực có chất lượng tốt vào các trường sư phạm và từng bước nâng cao
chất lượng đội ngũ nhà giáo.
c) Từng bước mở rộng có chọn lọc mô hình GD tại nhà (homeschool)
Mô hình GD tại nhà đã trở thành quen thuộc ở nhiều nước, đặc biệt là ở Mỹ.
Phương pháp GD tại nhà được thiết kế theo khả năng dành riêng cho trẻ. Nội dung
GD tại nhà rất thích hợp cho một số môn như ngoại ngữ, thể thao,… Một số công ty
phát triển DV GD đã đi theo hướng phát triển các chương trình GD tại nhà.
Ở Việt Nam, mô hình này còn mới lạ và cần có những tiền đề vững chắc để các
em có thể chọn lựa song song với mô hình học tại trường nhưng vẫn đạt được những
tiêu chí cơ bản của GDPT. Những tình huống bất thường và bất đắc dĩ như việc HS
phải nghỉ học dài sau Tết như là biện pháp để tránh dịch nCoV (2020) đã cho những
gợi ý rằng giải pháp này đôi khi là hữu hiệu và không chỉ áp dụng cho một tỉ lệ nhỏ
HS. Tuy nhiên, nếu thí nghiệm mô hình GD tại nhà để HS có thể lấy bằng (của các
trường trong nước hay nước ngoài, thì cần phải có các điều kiện:
- Trước tiên, về mặt pháp lý, pháp luật Việt Nam nên thừa nhận/cho phép mô
hình học tập tại nhà.
- Chương trình theo mô hình homeschool phải được thiết kế riêng cho HS Việt
Nam và được đánh giá, kiểm định và phải tương thích với Chương trình GDPT mới.
153
- Các gói DV học tại nhà do các công ty GD đưa ra phải đa dạng như học cá
nhân, học nhóm nhỏ (1 – 5 HS/nhóm) với nhiều hoạt động hấp dẫn cung cấp cả kiến
thức và chủ yếu là kỹ năng sống cho người mua DV GD (PH, HS) lựa chọn.
- Sở GD hoặc các Trung tâm sát hạch, các Viện nghiên cứu liên tục mở những
khóa khảo sát trình độ và thậm chí cấp cả bằng chứng nhận các em đã đạt trình độ
TH/THCS/THPT. Các giấy chứng nhận này phải có giá trị tương đương như các văn
bằng, chứng chỉ được quy định trong hệ thống GD quốc dân.
- GV đủ điều kiện thực hiện chương trình homeschool đa dạng từ các nguồn:
GV tốt nghiệp sư phạm chuyên ngành homeschool, GV từ các trung tâm có thẩm
quyền đào tạo, thậm chí cha mẹ HS được tập huấn qua các gói DV đào tạo
homeschool có thời gian nhàn rỗi cũng có thể dạy cho con mình.
- Đa dạng hóa các bài giảng trực tuyến để người dạy và người học tự tìm hiểu
kiến thức một cách hiệu quả nhất.
- Có giải pháp tiếp nhận những đứa trẻ homeschool được tiếp tục đến trường,
nếu quá trình tự học bị gián đoạn vì một lý do khách quan hay chủ quan nào đó.
3.2.6. Giải pháp tổ chức hợp lý mạng lưới trường học phổ thông khi học sinh
phân hóa cao theo hướng học nghề
Việc thực hiện “Đề án hỗ trợ học sinh, sinh viên khởi nghiệp đến năm 2025” và
Đề án “Giáo dục hướng nghiệp và định hướng phân luồng học sinh trong giáo dục
phổ thông giai đoạn 2018 - 2025” (đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt) tạo
bước đột phá về chất lượng GD hướng nghiệp trong GDPT, góp phần chuyển biến
mạnh mẽ công tác phân luồng HS sau THCS, tạo sự phát triển cân đối về cơ cấu đào
tạo nguồn nhân lực và cơ hội được học tập suốt đời cho mọi người phù hợp năng lực,
sở trường, nguyện vọng và hoàn cảnh cá nhân, nhằm xây dựng xã hội học tập…
Đối với TPHCM, việc đẩy mạnh GD hướng nghiệp ở trường PT cần được đặc
biệt chú ý ở cấp THPT, mặc dù cũng có thể thực hiện phần nào ở THCS. Bên cạnh
việc chú ý đến các ngành nghề có nhu cầu nhân lực trước mắt ở địa phương, cần phải
chú ý đến những nghề nghiệp xuất hiện và có thể có nhu cầu nhân lực lớn trong thời
kỳ Cách mạng công nghiệp 4.0. Có thể thấy một số lĩnh vực như sau:
154
- Những ngành hoàn toàn mới: Các ngành hoàn toàn mới xuất hiện do các công
nghệ 4.0 như trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn. Đây là những ngành có tốc độ phát triển
nhanh trong thời gian tới.
- Những ngành truyền thống sử dụng công nghệ 4.0: Các ngành truyền thống sử
dụng 4.0 để thay đổi cách thức vận hành sản xuất. Đây chính là nơi tạo việc làm có
tốc độ nhanh nhất trong nghề nghiệp 4.0. Chúng ta có thể thấy như nông nghiệp
thông minh, sản xuất thông minh.
- Những ngành công việc sử dụng các công cụ ứng dụng từ 4.0: Đặc trưng của
những công việc này sẽ sử dụng các thành tựu của 4.0 để gia tăng năng suất, hiệu
suất, chất lượng trong công việc truyền thống. Ví dụ các nhà thiết kế có thể sử dụng
in 3D để thực hiện công việc nhanh hơn hoặc hiệu quả hơn.
- Các ngành tích hợp: Xu hướng của 4.0 đó chính là tích hợp của nhiều ngành
truyền thống để tạo ra những vị trí công việc đòi hỏi kiến thức liên ngành. Ví dụ một
người chọn học ngôn ngữ có thể làm công việc nhận dạng giọng nói hay chữ viết
trong trí thông minh nhân tạo.
Việc lựa chọn GD hướng nghiệp và GD phân hóa sẽ ảnh hưởng rất lớn đến cơ
sở vật chất của các nhà trường, vấn đề tổ chức chương trình, nội dung dạy học,
phương pháp dạy học và hoạt động GD, cũng như vấn đề kiểm tra, đánh giá kết quả
GD.
155
Tiểu kết chương 3
Trong thời gian khoảng 10 năm tới hoặc dài hơn - sau năm 2030, xu hướng đô
thị hóa và di cư ở TPHCM gắn liền với quá trình đô thị hóa theo chiều sâu; sự phát
triển KT-XH của TP gắn liền với việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
thực hiện cơ chế, chính sách đặc thù của TP. Những điều này có thể làm thay đổi, ở
mức độ mạnh yếu khác nhau, đối với các dự đoán về xu hướng phát triển đã nhận
diện được trong quá khứ.
Chính vì thế, những định hướng nêu trong Chương 3 có thể nói là một kịch bản
“diễn ra theo quy luật”, chưa tính đến các yếu tố và hoàn cảnh có thể tạo ra những
bước tiến nhảy vọt. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, trong những năm gần đây, các bản
Quy hoạch được phê duyệt đã từng bước được triển khai, đi vào cuộc sống, dù có thể
có dự án chậm tiến độ. Điều này củng cố niềm tin rằng các định hướng và giải pháp,
dựa trên các nghiên cứu thực tiễn và dựa trên các văn bản pháp quy, các Quy hoạch
đã được duyệt, cũng như dựa trên các xu hướng phát triển giáo dục trên thế giới,
trong đó có giáo dục ở các TP lớn, là có tính khả thi.
156
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
Kết luận
Qua kết quả nghiên cứu của các chương luận án này, có thể rút ra một số kết
luận sau đây:
1. Dịch vụ GD là loại hình dịch vụ đặc biệt, thuộc phạm trù dịch vụ xã hội. Như
nhiều loại hình dịch vụ khác, ở các TP lớn như TPHCM, dịch vụ GD đang được đa
dạng hóa, với nhiều loại hình trường, nhằm đáp ứng nhu cầu tiếp cận dịch vụ GD của
nhiều tầng lớp dân cư khác nhau. Sự phát triển của thị trường GD ở TPHCM những
năm gần đây cũng làm tăng cường vai trò của marketing GD và sự cạnh tranh giữa
các cơ sở GD. Điều này làm cho bức tranh GD của TP có nhiều sắc thái mới, đồng
thời sẽ tác động đến mạng lưới trường PT trong tương lai.
2. Giáo dục phổ thông ở TPHCM có những nét tương đồng với GD đô thị của
các TP lớn khác trên thế giới, đó là quá trình đô thị hóa tăng tốc tiếp tục tạo ra các
luồng chuyển cư từ nông thôn đến các trung tâm đô thị hay ven đô làm cho việc
tuyển sinh tăng nhanh “với tốc độ chóng mặt”. Điều này đã được chứng minh ở quy
mô toàn TP và đặc biệt là ở những “điểm nóng” do sức ép của người nhập cư lên khả
năng đáp ứng nhu cầu học tập của trẻ em, được phân tích từ kết quả Tổng điều tra
dân số và nhà ở TPHCM các năm 1999 và 2009.
3. Ở TPHCM, bên cạnh nhân tố có ảnh hưởng nổi trội là dân cư (với các đặc
điểm về quy mô dân số, cơ cấu dân số, sự tăng trưởng dân số cả về tự nhiên và cơ
học, chất lượng cuộc sống của dân cư, sự phân tầng xã hội,…), các nhân tố KT-XH
khác có ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến sự phân bố và phát triển mạng lưới trường PT là
trình độ phát triển kinh tế, quy hoạch tổng thể KT-XH, quy hoạch phát triển GD, tốc
độ và xu hướng đô thị hóa, quy hoạch xây dựng,… Điều kiện địa lí tự nhiên, ở mức
độ hiện đại hóa khá cao của TP, có ảnh hưởng nói chung ở quy mô cục bộ.
4. Mạng lưới trường PT ở TPHCM hiện nay về cơ bản đáp ứng nhu cầu học tập
của trẻ em ở độ tuổi đi học. Tuy nhiên, tỉ lệ trẻ em đi học đúng tuổi chỉ thực sự cao ở
độ tuổi học tiểu học, giảm một phần ở độ tuổi THCS, và thấp hơn hẳn ở độ tuổi học
THPT. Tỉ lệ đi học đúng tuổi của con em nhập cư ngoại tỉnh đặc biệt thấp so với các
thành phần dân cư khác. Điều này cho thấy, cần có những giải pháp hiệu quả hơn
157
nữa trong việc điều chỉnh mạng lưới trường ở những địa bàn thu hút nhiều người
nhập cư, nhất là ở địa bàn có các cơ sở công nghiệp, tập trung nhiều người nhập cư
ngoại tỉnh; đồng thời cần có những thay đổi trong chính sách xã hội đối với người
nhập cư, liên quan với quy định về quản lý hộ khẩu, để đảm bảo quyền lợi đi học của
tất cả HS.
5. Sự bất cập của mạng lưới trường PT, ở một mức độ nhất định, còn thể hiện ở
tình trạng sĩ số HS trung bình một lớp học còn cao, đặc biệt là ở cấp tiểu học. Trong
nền GD hiện đại, HS tiểu học cần được quan tâm toàn diện, do đây là giai đoạn quan
trọng bậc nhất để hình thành nhân cách. Vì thế, tình trạng còn nhiều quận, huyện ở
TPHCM có sĩ số HS bình quân 1 lớp cao hơn nhiều so với chuẩn mà Bộ GD-ĐT quy
định là một tồn tại cần được cải thiện.
6. Dù TPHCM là địa phương làm rất tốt công tác xã hội hóa GD, đa dạng hóa
các loại hình trường, nhưng cho đến nay các trường ngoài công lập chỉ thu hút
khoảng trên dưới 6% tổng số HS của tất cả các trường PT của TP. Các trường ngoài
công lập phát triển tốt hơn cả ở bậc THPT và hiện đang mở rộng các mô hình trường
liên cấp và hai cấp (chủ yếu là THCS-THPT). Các trường ngoài công lập phân bố tập
trung ở các quận nội thành, vì thế không giúp giải quyết được nhiều những khó khăn
của các “điểm nóng” do người nhập cư làm gia tăng nhu cầu học tập của HS, nhưng
có tác động tích cực trong việc tăng tính cạnh tranh của thị trường dịch vụ GD, từ đó
thúc đẩy nâng cao chất lượng GDPT nói chung của TP.
Một số khuyến nghị:
Những khuyến nghị này xuất phát từ việc nhìn nhận những tồn tại trong tổ chức
mạng lưới trường PT ở TPHCM hiện nay. Vì thế, khuyến nghị này có thể như những
gợi ý chính sách, NCS với tư cách cá nhân người nghiên cứu không đề xuất trách
nhiệm đối với các cấp quản lý.
1. Cần đưa ra phương án mới về quy hoạch mạng lưới trường PT của TPHCM,
bởi lẽ bản Quy hoạch năm 2003 đã trở nên lỗi thời trong hoàn cảnh hiện nay của TP.
Một mặt cần phân tích các nguyên nhân thành công và chưa thành công của việc quy
hoạch mạng lưới trường, mặt khác cần có một bản quy hoạch mạng lưới trường phù
158
hợp với quy hoạch tổng thể phát triển ngành GD và quy hoạch tổng thể phát triển
KT-XH của TP trong điều kiện TP có cơ chế đặc thù.
2. Cần hướng tới mục tiêu nâng cao tỉ lệ trẻ em đi học đúng tuổi ở tất cả các cấp
học, ở tất cả các đối tượng HS, dù là từ những gia đình không di cư hay các gia đình
di cư (nhất là các gia đình người nhập cư ngoại tỉnh).
3. Bên cạnh việc giải quyết tình trạng HS phải học lớp đông (có sĩ số cao hơn
quy định của Bộ GD-ĐT), cần phấn đấu để sĩ số lớp học thấp hơn chuẩn của cả nước,
coi đây là một nút thắt cần được ưu tiên tháo gỡ để nâng cao chất lượng dịch vụ GD.
4. Phải tăng nhiều hơn nữa số lượng và tỉ lệ các trường đạt chuẩn quốc gia, coi
đây là một mốc quan trọng để đánh giá sự cải thiện của điều kiện dạy học.
5. Phải đẩy mạnh hơn nữa việc xã hội hóa GD, bên cạnh việc huy động các
nguồn tài lực của các thành phần xã hội khác nhau để giải quyết bài toán GD, cần
phải xây dựng mô hình học phí / chi phí GD thích hợp với khả năng chi trả của các
hộ gia đình.
6. Cần thí điểm phát triển các mạng lưới xã hội của các nhà trường để tăng
cường khả năng hỗ trợ nhau, nhất là hỗ trợ về cơ sở vật chất, GV trong những tình
huống nhất định, nâng cao hiệu quả sử dụng cơ sở vật chất trong GD, đồng thời tăng
cường quan điểm chia sẻ - điều này hoàn toàn phù hợp với xu hướng phát triển nền
kinh tế chia sẻ trong xã hội hiện đại.
159
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Ban chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở trung ương. (6/2010). Tổng điều tra
dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009: Các kết quả chủ yếu. Hà Nội.
[2] Ban chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở trung ương. (12/2019). Kết quả
Tổng điều tra dân số và nhà ở thời điểm 0 giờ ngày 01 tháng 4 năm 2019. Hà
Nội.
[3] Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2010). Điều lệ trường tiểu học.
[4] Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2011). Điều lệ trường trung học cơ sở, trường trung
học phổ thông và trường phổ thông có nhiều cấp học.
[5] Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2013). Quyết định số 1215/QĐ-BGDĐT ngày 04/4/
2013 Ban hành chương trình hành động của ngành giáo dục thực hiện chiến
lược phát triển giáo dục Việt Nam 2011-2020, Kết luận số 51-KL/TW ngày
29/10/2012 của Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI
và Chỉ thị số 02/CT-TTg ngày 22/01/2013 của Thủ tướng Chính phủ về đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
[6] Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2013). Quyết định 3982/QĐ-BGDĐT ngày
17/9/2013 phê duyệt Đề án "Xây dựng phương pháp đo lường sự hài lòng của
người dân đối với dịch vụ giáo dục công".
[7] Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2018). Thông tư 17/2018/TT-BGDĐT ngày
22/8/2018 ban hành Quy định về kiểm định chất lượng giáo dục và công nhận
đạt chuẩn quốc gia đối với trường tiểu học.
[8] Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2018). Thông tư 18/2018/TT-BGDĐT ngày
22/8/2018 ban hành Quy định về kiểm định chất lượng giáo dục và công nhận
đạt chuẩn quốc gia đối với trường trung học cơ sở, trường trung học phổ
thông và trường phổ thông có nhiều cấp học.
[9] Bộ Giáo dục và Đào tạo. (12/2018). Chương trình giáo dục phổ thông tổng
thể. (ban hành kèm theo Thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT ngày 26 tháng 12
năm 2018 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo).
[10] Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2019). Kế hoạch thực hiện đề án “Đo lường sự hài
lòng của người dân đối với dịch vụ giáo dục công giai đoạn 2016 - 2020”
160
năm 2019. (Ban hành kèm theo Quyết định số 2007/QĐ-BGDĐT ngày 15
tháng 7 năm 2019 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo).
[11] Bộ xây dựng. (03/04/2008). Quyết định số 04/2008/QĐ-BXD Về việc ban
hành Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về Quy hoạch Xây dựng.
[12] Đảng Cộng sản Việt Nam. (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII. Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.
[13] Đỗ Văn Chấn. (1999). Quy hoạch phát triển giáo dục – đào tạo. Hà Nội: NXB
Giáo dục.
[14] Đỗ Văn Chấn. (2008). Tài chính Giáo dục, dự báo, quy hoạch và kế hoạch
phát triển. Bài giảng lớp cao học Quản lý Giáo dục. Hà Nội: NXB Giáo dục.
[15] Chính phủ. (2006). Nghị định số 75/2006/NĐ-CP ngày 2/8/2006 Quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Giáo dục.
[16] Chính phủ. (2010). Quyết định số 24/QĐ-TTg ngày 6/1/2010 Phê duyệt điều
chỉnh quy hoạch chung xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2025.
[17] Chính phủ. (2012). Quyết định số 711/QĐ-TTg ngày 13/06/2012 Phê duyệt
“Chiến lược phát triển giáo dục 2011-2020”.
[18] Chính phủ. (2013). Quyết định số 2631/QĐ-TTg ngày 31/12/2013 Phê duyệt
Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội Thành phố Hồ Chí Minh đến
năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025.
[19] Chính phủ. (2016). Quyết định số 1981/QĐ-TTg phê duyệt Khung cơ cấu hệ
thống giáo dục quốc dân.
[20] Nguyễn Đình Cử, Lưu Bích Ngọc. (7/2000). Tác động của dân số đến kinh tế
ở nước ta. Tạp chí kinh tế và phát triển, Đại học Kinh tế quốc dân.
[21] Cục Thống kê TPHCM, Niên giám thống kê Thành phố Hồ Chí Minh các năm
2010, 2011, 2012, 2013, 2014, 2015, 2016, 2017.
[22] Huỳnh Thế Du. (2012). Chương 3. Quy hoạch đô thị ở Thành phố Hồ Chí
Minh. (Biên dịch: Trần Thị Kim Chi, từ The transformation of Ho Chi Minh
City: issues in managing growth, The Huynh Du - 2012 - Harvard University,
Graduate School). Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright, HCMC.
161
[23] Trương Minh Dục. (2013). Đô thị hóa ở Việt Nam và những đặc trưng cơ bản
của quản lý đô thị trong thời kỳ đổi mới. NXB Đại học quốc gia Hà Nội.
[24] Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI. (2013). Nghị
quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và
đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
[25] Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Khoa giáo Trung ương. (2006). Giáo dục -
đào tạo trong thời kì mới, chủ trương thực hiện, đánh giá. Hà Nội: NXB
Chính trị Quốc gia.
[26] David Dapice, Jose A. Gomez-Ibanez, Nguyễn Xuân Thành. (1/2010). Thành
phố Hồ Chí Minh: Những thách thức tăng trưởng, Harvard Kennedy School -
ASH Center-Vietnam Program Center for Business and Government, UNDP,
HCMC.
[27] John Dewey. (2008). Dân chủ và giáo dục: Một dẫn nhập vào triết lý giáo
dục, Dịch giả: Phạm Anh Tuấn, NXB Tri thức. Dịch từ nguyên bản tiếng Anh:
John Dewey. (1997). Democracy and Education: An introduction to the
philosophy of education. New York: The Free Press.
[28] Đỗ Thị Minh Đức. (2/2004). Di cư vào các đô thị lớn ở nước ta trong thập kỉ
90 của thế kỉ XX. Phân tích trường hợp của Thành phố Hồ Chí Minh và Hà
Nội. Tạp chí khoa học ĐHSP Hà Nội, tr. 126-132.
[29] Đỗ Thị Minh Đức, Nguyễn Viết Thịnh. (6/2008). Phân tích dòng di cư và tính
chọn lọc của di cư vào thành phố lớn ở Việt Nam trong thập kỉ 90 (thế kỉ XX)
và thập kỉ đầu thế kỉ XXI. Tạp chí khoa học ĐHSP Hà Nội, tr.3-16.
[30] Đỗ Thị Minh Đức, Nguyễn Viết Thịnh. (2009). Giáo trình Địa lí kinh tế - xã
hội Việt Nam (tập 1), tái bản (có sửa chữa bổ sung) lần thứ năm. NXB Giáo
dục.
[31] Đỗ Thị Minh Đức (chủ biên), Nguyễn Viết Thịnh, Vũ Như Vân. (2008). Giáo
trình địa lí kinh tế - xã hội Việt Nam (tập 2). NXB Đại học Sư phạm.
[32] Nguyễn Công Giáp. (2005). Dự báo phát triển giáo dục. Báo cáo lưu trữ tại
Viện Chiến lược và chương trình giáo dục.
162
[33] Phạm Minh Hạc. (1999). Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI.
NXB Chính trị Quốc gia.
[34] Phạm Minh Hạc. (3/2011). Đôi điều suy nghĩ về triết lý và đổi mới tư duy
giáo dục trong thời kỳ đổi mới. Tạp chí Khoa học giáo dục số 66.
[35] Nguyễn Đông Hanh. (1996). Một số vấn đề về lý luận và phương pháp dự báo
quy mô phát triển giáo dục - đào tạo trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở
Việt Nam. Đề tài V95-14, Viện Khoa học giáo dục.
[36] Nguyễn Thị Hạnh. (2015). Xu thế phát triển giáo dục tiểu học của một số
nước trên thế giới. Đề tài cấp Bộ, Viện khoa học giáo dục Việt Nam.
[37] Vũ Ngọc Hải, Đặng Bá Lãm, Trần Khánh Đức (đồng chủ biên). (2007). Giáo
dục Việt Nam đổi mới và phát triển hiện đại hóa. NXB Giáo dục, TPHCM.
[38] Phạm Xuân Hậu. (1997). Địa lí kinh tế - xã hội Việt Nam. Đại học Sư phạm
Thành phố Hồ Chí Minh.
[39] Nguyễn Hiền, Nguyễn Văn Phú. (2008). Quy hoạch vùng và tổ chức lãnh thổ.
Hà Nội: NXB Đại học Quốc gia.
[40] Nguyễn Thanh Hoàn. (2005). Giáo dục về sự phát triển bền vững - bức tranh
toàn cảnh. Kỉ yếu Hội thảo khoa học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
[41] Nguyễn Kim Hồng. (1995). Phát triển dân số và phát triển giáo dục ở Thành
phố Hồ Chí Minh. Đề tài cấp Bộ giáo dục và đào tạo.
[42] Nguyễn Ngọc Huy. (2006). Mối quan hệ giữa dân số và giáo dục ở nước ta.
Tổng cục Dân số Kế hoạch hóa gia đình.
[43] Nguyễn Hải Kế. (2013). Giáo dục Thăng Long – Hà Nội: Quá trình, kinh
nghiệm lịch sử và định hướng phát triển. NXB Hà Nội.
[44] Pierre Laborde. (2011). Không gian đô thị. Hà Nội: NXB Thế giới.
[45] Dương Kiều Linh. (2007). Hệ thống giáo dục ngoài công lập ở Thành phố Hồ
Chí Minh hiện nay, thực trạng và xu hướng phát triển. Đề tài khoa học cấp
Viện Nghiên cứu Xã hội TPHCM.
[46] Nguyễn Hoàng Minh. (25/10/2018). Phát triển công trình cao tầng có định
hướng gắn với không gian mở. Tạp chí Kiến trúc Việt Nam.
163
[47] Cao Minh Nghĩa. (13/01/2018). Tổng quan lý thuyết về ngành kinh tế dịch vụ -
Phần 1. Hà Nội: Viện Kinh tế.
[48] Đặng Văn Phan, Vũ Như Vân (2008). Tổ chức không gian lãnh thổ kinh tế -
xã hội Việt Nam: nhận thức và hành động hướng tới phát triển bền vững. Kỷ
yếu Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ ba. NXB Đại học quốc gia Hà Nội,
tr.606-616.
[49] Hoàng Phê. (1998). Từ điển Tiếng Việt. Viện Ngôn ngữ học, NXB Hồng Đức.
[50] Phùng Hữu Phú, Nguyễn Văn Đặng, Nguyễn Viết Thông (2016). Tìm hiểu
một số thuật ngữ trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của
Đảng. NXB Chính trị Quốc gia.
[51] Quốc hội khóa XI. (2005). Luật Giáo dục.
[52] Quốc hội khóa XIII. (2013). Luật Đất đai năm 2013.
[53] Quốc hội khóa XII. (2009). Luật Quy hoạch đô thị.
[54] Quốc hội khóa XII. (2009). Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo
dục.
[55] Quốc hội khóa XIV. (2017). Luật Quy hoạch.
[56] Quốc hội khóa XIV (2017). Nghị quyết số: 54/2017/QH14 Về thí điểm cơ chế,
chính sách đặc thù phát triển Thành phố Hồ Chí Minh.
[57] Quốc hội khóa XIV. (2019). Luật Giáo dục.
[58] Đỗ Quốc Sam. (6/2006). Về công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam. Tạp
chí cộng sản số 11.
[59] Nguyễn Hữu Thái. (2004). Quy hoạch xây dựng đô thị mới ở Việt Nam – các
bài học từ Châu Á. NXB Đại học quốc gia Hà Nội.
[60] Nguyễn Viết Thịnh. (2006). Chương Địa lí dịch vụ (trong Giáo trình địa lí
kinh tế - xã hội đại cương, Nguyễn Minh Tuệ chủ biên, Nguyễn Viết Thịnh,
Lê Thông). NXB Đại học Sư phạm.
[61] Nguyễn Viết Thịnh, Đỗ Thị Minh Đức. (5/1998). Định lượng và định tính
trong nghiên cứu địa lí kinh tế - xã hội. Tạp chí khoa học ĐHSP-ĐHQG Hà
Nội, tr. 136-146.
164
[62] Nguyễn Viết Thịnh, Đỗ Thị Minh Đức. (2001). Di cư giữa các tỉnh và các
vùng ở Việt Nam. Thông báo khoa học của các trường đại học. Địa lí /2001, tr
77-87.
[63] Phạm Thị Xuân Thọ. (2002). Di dân ở Thành phố Hồ Chí Minh và tác động
của nó đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Luận án tiến sĩ Địa lí kinh tế và
chính trị. Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
[64] Thông tư liên tịch 09/2016/TTLT-BGDĐT-BTC-BLĐTBXH ngày 30/3/2016
“Hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 86/2015/NĐ-CP ngày 02
tháng 10 năm 2015 của Chính phủ quy định về cơ chế thu, quản lý học phí đối
với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và chính sách miễn,
giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập từ năm học 2015 - 2016 đến năm học
2020 – 2021”.
[65] Lê Thông, Nguyễn Minh Tuệ. (2006). Địa lí kinh tế - xã hội Việt Nam. NXB
Đại học sư phạm Hà Nội.
[66] Tô Thị Minh Thông. (1994). Xã hội học trong quy hoạch xây dựng và quản lý
đô thị. Hà Nội: NXB Xây dựng.
[67] Tổng cục dân số - kế hoạch hóa gia đình. (2011). Truyền thông dân số kế
hoạch hóa gia đình.
[68] Tổng cục Thống kê. (2011). Giải thích hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia.
(Ban hành kèm theo Thông tư của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư số
02/2011/TT-BKHĐT ngày 10 tháng 01 năm 2011).
[69] Tổng cục Thống kê. (2/2011). Dự báo dân số Việt Nam 2009-2049. Hà Nội.
[70] Tổng cục Thống kê. Kết quả khảo sát mức sống dân cư các năm 2006, 2008,
2010, 2012, 2014, 2016. Hà Nội: NXB Thống kê.
[71] Tổng cục Thống kê. (2011). Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam 2009 -
Di cư và đô thị hóa ở Việt Nam: Thực trạng, xu hướng và những khác biệt.
[72] Tổng cục Thống kê. (2011). Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam 2009 -
Mức sinh và mức chết ở Việt Nam: thực trạng, xu hướng và những khác biệt.
[73] Tổng cục Thống kê. (9/2015). Điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ thời điểm
1/4/2014: Các kết quả chủ yếu.
165
[74] Tổng cục Thống kê, Trung tâm tính toán thống kê Trung ương. Dữ liệu & Kết
quả tổng điều tra dân số và nhà ở Thành phố Hồ Chí Minh 1/4/1999. Phiên
bản CD-ROM, 2001.
[75] Tổng cục Thống kê, UNDP. (2001). Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam
1999: Chuyên khảo về di cư nội địa và đô thị hóa ở Việt Nam.
[76] Tổng cục Thống kê, UNDP. (2001). Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam
1999: Chuyên khảo về di cư nội địa và đô thị hóa ở ViệtNam.
[77] Tổng cục Thống kê, UNDP. (2006). Điều tra di cư năm 2004: Những kết quả
chủ yếu. Hà Nội: NXB Thống kê.
[78] Tổng cục Thống kê, UNDP. (2016). Dự báo dân số Việt Nam 2014-2049. Hà
Nội: NXB Thông tấn.
[79] Tổng cục Thống kê, UNDP. (2016). Điều tra di cư nội địa quốc gia 2015:
Các kết quả chủ yếu. Hà Nội: NXB Thông tấn.
[80] Tổng cục Thống kê, Vụ Thống kê dân số và lao động. (11/2010). Dữ liệu và
kết quả mẫu 15% Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009: Toàn quốc. CD-
ROM.
[81] Tổng cục Thống kê, Vụ Thống kê dân số và lao động. (11-2010). Dữ liệu và
kết quả mẫu 15% Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009: Thành phố Hồ
Chí Minh. CD-ROM.
[82] Đặng Trinh. (21/08/2017). TPHCM kiến nghị cơ chế đặc thù về giáo dục.
Khai thác từ Báo Người Lao Động.
[83] Nguyễn Khánh Trung. (2011). Khái niệm thị trường giáo dục và vai trò các
tác nhân. Tạp chí Tia Sáng số tháng 12/2011.
[84] Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia. (2001). Báo cáo phát triển
con người Việt Nam 2001: Đổi mới và sự nghiệp phát triển con người. Hà
Nội: NXB Chính trị quốc gia.
[85] Phùng Thế Trường. (1997). Giáo trình dân số học. Hà Nội: NXB Thống kê.
[86] Trần Đức Tuấn. (2005). Giáo dục vì sự phát triển bền vững trong thời đại
toàn cầu hóa. Hà Nội: Kỉ yếu Hội thảo khoa học Giáo dục vì sự phát triển bền
vững trong thời kì toàn cầu hóa.
166
[87] Trương Văn Tuấn. (2011). Di cư và ảnh hưởng của nó đến sự phát triển kinh
tế - xã hội ở vùng Đông Nam Bộ. Luận án tiến sĩ Địa lí, Trường Đại học Sư
phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
[88] Ủy ban Nhân dân TPHCM. (2003). Quyết định số 02/2003/QĐ-UB ngày
3/1/2003 của Ủy ban Nhân dân thành phố về Phê duyệt Quy hoạch phát triển
mạng lưới trường học ngành giáo dục và đào tạo thành phố đến năm 2020.
[89] Ủy ban Nhân dân TPHCM. (2014). Kế hoạch triển khai thực hiện Quy hoạch
tổng thể phát triển kinh tế - xã hội Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020,
tầm nhìn đến năm 2025. (văn bản số 1309/KH-UBND ngày 28/3/2014).
[90] UNDP. (2011). Dịch vụ xã hội phục vụ phát triển con người: Báo cáo quốc
gia về phát triển con người năm 2011.
[91] UNDP. Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam. (2016). Tăng trưởng vì mọi
người: Báo cáo Phát triển con người Việt Nam 2015 về tăng trưởng bao trùm.
Hà Nội: NXB Khoa học xã hội.
[92] Viện nghiên cứu con người. (2003). Con người và phát triển con người trong
quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen. Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia.
[93] Ngô Doãn Vịnh. (2006). Tổ chức lãnh thổ kinh tế - xã hội, một số vấn đề lý
luận và ứng dụng. Hà Nội: Viện Chiến lược và phát triển.
Tiếng Anh
[94] Scott W. Allard. (8/2004). Access to social services: The changing urban
geography of poverty and service provision. The Brooking Institution, Survey
Series.
[95] Antman, F. (2010). Gender, educational attainment, and the impact of
parental migration on children left behind. Discussion Paper No. 6640, Bonn:
Institute for the Study of Labor. (IZA).
[96] Steve Baron và Kim Harris. (2003). Services Marketing: Text and Cases.
Second Edition, Palgrave, Macmillan, New York, USA.
[97] Mark Bils và Peter J. Klenow. (2000). Does schooling cause growth?. The
American Economic Review, Vol. 90, No. 5, December 2000, 1160-1183.
167
[98] Rosalyn Black. (2008). Beyond the classroom: building new school networks.
Acer Press, Australia.
[99] Donna Adair Breault và Louise Anderson Allen. (2008). Urban education: a
handbook for educators and parents. Greenwood Publishing Group, Inc.
[100] Briseid O, Caillods F. (2004). Trends in secondary education in industrialized
countries: Are they relevant for African countries?. Paris: UNESCO/IIEP.
[101] Colin Brocks. (2013). Comparative education and geographical factor.
Journal of International and Comparative Education, Volume 2, Issue 1.
[102] Rajashri Chakrabarti và Paul E. Peterson (editors). (2009). School choice
international: exploring public-private partnerships. Massachusetts Institute
of Technology.
[103] Saiki Danyi. (2008). Services Marketing. Oxford Book Company, India.
[104] Le Thuc Duc và Tran Ngo Minh Tam. (10/2013). Why children in Vietnam
drop out of school and what they do after that. Working Paper 102, Young
Lives – An International Study of Childhood Poverty, UK.
[105] ESRI. (2005-2010). Network Analyst Tutorial. Retrieved from
http://help.arcgis.com/en/arcgisdesktop/10.0/pdf/network-analyst-tutorial.pdf
[106] Walter Feinberg và Christopher Lubienski (editors). (2008). School choice
policies and outcomes: empirical and philosophical perspectives. State
University of New York.
[107] R. Kenneth Godwin và Frank R. Kemerer. (2002). School choice tradeoffs:
liberty, equity, and diversity. University of Texas Press, Austin.
[108] Wadi D.Haddad, Martin Carnoy, R. Rinaldi và Omporn Regel. (1990).
Education and development: Evidence for new priorities, World Bank
Discussion Paper 95.
[109] Robert Haining. (2004). Spatial Data Analysis: Theory and Practice,
Cambridge University Press, UK.
[110] F. Hernandez, I.F. Goodson (editors). (2004). Social geographies of
educational change. Kluwer Academic Publishers, Dordrecht.
168
[111] K. Douglas Hoffman và John E. G. Bateson. (2006). Services Marketing:
Concepts, Strategies, & Cases. Fourth Edition, South-Western CENGAGE
Learning. Ohio, USA.
[112] Caroline M. Hoxby (editor). (2003). The Economics of School Choice. The
University of Chicago Press, Chicago và London.
[113] Phillip Hughes. (2006). Secondary education at the crossroads: international
perspectives relevant to the Asia-Pacific region, Springer, Dordrecht.
[114] Richard C. Hunter, Frank Brown (editors). (2003). Challenges of urban
education and efficacy of school reform. JAI, An Imprint of Elsivier Science.
[115] Joe L. Kincheloe, kecia hayes, Karel Rose, Philip M. Anderson (editors).
(2006). The Praeger handbook of urban education. Volume 1&2, Greenwood
Press, Westport, Connecticut, London.
[116] Lawrence J. Lau, Dean T. Jamison và Frederic F. Louat. (1991). Education
and productivity in developing countries: An aggregate production function
approach. Policy, Research, and External Affairs, Working Papers, World
Development Report WPS 612.
[117] Dean T. Jamison và Lawrence J. Lau. (1982). Farmer education and farm
efficiency. A World Bank Research Publication, The John Hopkin Univeersity
Press, Baltomore và London.
[118] Mal Lee và Glenn Finger (editors). (2010). Developing a Networked School
Community: A guide to realising the vision. ACER Press, an imprint of
Australian Council for Educational Research Ltd, Victoria, Australia.
[119] Jonathan D. London. (2011). Education in Vietnam, Chapter 1: Education in
Vietnam: Historical roots, recent trends. Singapore: Institute of Southeast
Asian Studies.
[120] Peter Mudie và Angela Pirrie. (2006). Services marketing management. Third
Edition, Elsevier Ltd., UK.
[121] Anastasios Noulas. (2005). Social and Technological Network Analysis:
Spatial Networks, Mobility and Applications. Computer Laboratory,
University of Cambridge
169
[122] Michael Pacione. (2009). Urban geography: A global perspective. Third
edition, Routledge, London và New York.
[123] Harry Anthony Patrinos, Pham Vu Thang, Nguyen Duc Thanh. (Dec. 2018).
The economic case for education in Vietnam. WPS8679, World Bank -
Education Global Practice.
[124] William T. Pink và George W. Noblit (editors). (2007). International
handbook of urban education. Part One, Springer, Netherland.
[125] Psacharopoulos, G., & Patrinos, H. A. (2004). Returns to investment in
education: A further update. Education Economics, 12(2). 111–134.
[126] John Stillwell và Graham Clarke (editors). (2004). Applied GIS and Spatial
Analysis, John Wiley & Sons Ltd, UK.
[127] Frederick P. Stutz, Barney Warf. (2012). The world economy: Geography,
business, development, (sixth edition). Prentice Hall, USA.
[128] Nguyễn Đức Thành. (2004). Private and social returns to investments in
education in Vietnam over time: 1993-2002. MDE thesis, NEU.
[129] Tony Travers, Rebecca Tunstall và Christine Whitehead with Segolene
Pruvot. (2007). Population Mobility and Service Provision. A report for
London Councils, LSE London, February 2007.
[130] UNDP. Human Development Indices and Indicators: 2018 Statistical Update.
[131] Herbert J. Walberg. (2007). School Choice: The Findings, Cato Institute,
Washington, D.C.
[132] Patrick J. Wolf và Stephen Macedo (editors); with David J. Ferrero và Charles
Venegoni. (2004). Educating citizens: international perspectives on civic
values and school choice, Brookings Institution Press, Washington, D.C.
[133] Priscilla Wohlstetter, Courtney L Malloy, Derrick Chau và Jennifer Polhemus.
(2003). Improving schools through networks, A new approach to urban school
reform (summary). Educational Policy,17 (4). 2003 pp 399–430.
[134] Philip Woods, Carl Bagley và Ron Glatter. (1998, 2005). School choice and
competition: markets in the public interest?. Routledge.
170
[135] Valarie A. Zeithaml, Mary Jo Bitner. (2000). Services Marketing. (2nd
edition). McGraw-Hill.
Weblinks
[136] Thụy An. (16/8/2011). TPHCM: Căng thẳng trường lớp vì số học sinh tăng.
Báo điện tử Dân Trí. Khai thác từ http://dantri.com.vn/giao-duc-khuyen-
hoc/tphcm-cang-thang-truong-lop-vi-so-hoc-sinh-tang-1313749072.htm
[137] Báo điện tử VTV. (24/11/2017). Bốn cái được cho TPHCM trong cơ chế,
chính sách phát triển mới. Khai thác từ: http://vtv.vn/kinh-te/4-cai-duoc-cho-
tphcm-trong-co-che-chinh-sach-phat-trien-moi-20171123230634753.htm
[138] Bộ Nội Vụ - Viện Khoa Học Tổ Chức Nhà Nước. (24/11/2018). Khai thác từ
http://isos.gov.vn/Thongtinchitiet/tabid/84/ArticleId/653/language/vi-VN/TP-
H-Chi-Minh-d-xu-t-thanh-l-p-4-thanh-ph-v-tinh.aspx
[139] Lê Hoàng Châu. (23/05/2018). 5 năm, dân tăng thêm 1 quận và lối thoát từ
quy hoạch Vùng TPHCM. Khai thác từ https://vietnambiz.vn/5-nam-dan-tang-
them-1-quan-va-loi-thoat-tu-quy-hoach-vung-tphcm-54582.htm
[140] Cổng thông tin điện tử Tổng cục Thống kê. Khai thác từ https://gso.gov.vn/
[141] Educational Services Industry. Khai thác từ
https://collegegrad.com/industries/educational-services
[142] Hồng Hạnh. (30/9/2018). Năm 2017: Chi ngân sách cho giáo dục là 248.118
tỷ đồng. Báo Dân trí. Khai thác từ https://dantri.com.vn/giao-duc-khuyen-
hoc/chi-ngan-sach-cho-giao-duc-la-248118-ty-dong-20180930163940791.htm
[143] Thu Hoài. (06/04/2017). Tp Hồ Chí Minh thực hiện phân luồng học sinh sau
trung học cơ sở. Khai thác từ https://bnews.vn/tp-ho-chi-minh-thuc-hien-
phan-luong-hoc-sinh-sau-trung-hoc-co-so-/40241.html
[144] Hoàng Hương. (18/10/2018). Nghịch lý trường lớp ở TPHCM: nơi 4.500 học
sinh, nơi chỉ 210. Báo Tuổi trẻ online. Khai thác từ https://tuoitre.vn/nghich-
ly-truong-lop-o-tp-hcm-noi-4-500-hoc-sinh-noi-chi-210-
20181018091754435.htm
171
[145] Trần Huỳnh. (02/12/2010). Loay hoay di dời đại học ra ngoại thành. Khai
thác từ https://tuoitre.vn/loay-hoay-di-doi-dai-hoc-ra-ngoai-thanh-
413822.htm.
[146] H.Lân - N.Sỹ. (12/11/2012). Trường quốc tế tháo chạy, học viên chới với. Báo
Người Lao Động Online. Khai thác từ http://nld.com.vn/giao-duc-khoa-
hoc/truong-quoc-te-thao-chay--hoc-vien-choi-voi-20121112041912827.htm
[147] Quách Đình Liên, Lê Trung Tín. (13/1/2018). Cần đánh giá đúng thực trạng
hiện nay để có giải pháp thích hợp cho đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo
dục nước nhà. Trang tin Trường Đại học Thái Bình Dương. Khai thác từ
http://pou.edu.vn/phongkh-htdn/news/can-danh-gia-dung-thuc-trang-hien-nay-
de-co-giai-phap-thich-hop-cho-doi-moi-can-ban-va-toan-dien-nen-giao-duc-
nuoc-nha.256.
[148] Vân Nam. (15/3/2018). TPHCM: Thu nhập bình quân đầu người tăng hơn
70% trong 6 năm. Thời báo Kinh tế Sài Gòn Online 2/7/2016. Khai thác từ
https://www.thesaigontimes.vn/148424/TPHCM-Thu-nhap-binh-quan-dau-
nguoi-tang-hon-70-trong-6-nam.html.
[149] Mỹ Phương. (15/3/2018). Thu ngân sách của Tp. Hồ Chí Minh đạt 100,03%
kế hoạch. Bản tin TTXVN, đăng lại trên BNEWS.VN 30/12/2017. Khai thác
từ https://bnews.vn/thu-ngan-sach-cua-tp-ho-chi-minh-dat-100-03-ke-
hoach/72280.html.
[150] Sở Giáo dục và đào tạo TPHCM. Khai thác từ
http://edu.hochiminhcity.gov.vn
[151] Sở Quy hoạch Kiến trúc TPHCM. (21/1/2019). Điều chỉnh tổng thể quy hoạch
chung Thành phố Hồ Chí Minh: Bộ Xây dựng thống nhất đề xuất của UBND
TPHCM trình Thủ tướng Chính phủ.
[152] Sở Quy hoạch Kiến trúc TPHCM. Dữ liệu quy hoạch, gồm các quyết định
điều chỉnh quy hoạch và các bản đồ định hướng phát triển không gian của
TPHCM và các quận, huyện. Khai thác từ
https://qhkt.hochiminhcity.gov.vn/ban-do-quy-hoach.html.
172
[153] Thư Viện Học Liệu Mở Việt Nam. (2018). Khái niệm, phân loại và bản chất
của nguồn vốn đầu tư. Khai thác từ http://voer.edu.vn/m/khai-niem-phan-loai-
va-ban-chat-cua-nguon-von-dau-tu/c8e0c6d3.
DANH SÁCH CÁC BÀI BÁO KHOA HỌC
1. Đinh Thị Thùy Dung. (2013). Phân bố dân cư và phân bố các trường tiểu học ở
nội thành Thành phố Hồ Chí Minh - những bất cập và giải pháp khắc phục.
Tạp chí khoa học Trường Đại học sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, số 52(86), tr
27 - 35.
2. Đinh Thị Thùy Dung. (2016). Giáo dục phổ thông ở Thành phố Hồ Chí Minh –
Một ngành dịch vụ đặc biệt. Kỷ yếu hội nghị khoa học Địa lí toàn quốc lần thứ IX
năm 2016, Nxb Khoa học tự nhiên và công nghệ, tr 1246 – 1256.
3. Đinh Thị Thùy Dung. (2016). Phát triển bền vững nền giáo dục phổ thông ở
Thành phố Hồ Chí Minh. Kỷ yếu hội thảo khoa học Trường Đại học sư phạm
Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh,
tr 201 - 211.
4. Đinh Thị Thùy Dung. (2017). Phân bố các trường tiểu học ở nội thành Thành phố
Hồ Chí Minh – Thực trạng và giải pháp. Tạp chí khoa học Trường Đại học sư
phạm Thành phố Hồ Chí Minh, số 14(7), tr 47 - 55.
5. Đinh Thị Thùy Dung. (2018). Những cơ hội và thách thức trong việc giáo dục
nhận thức cho học sinh vùng Đồng bằng sông Cửu Long sẵn sàng thích ứng với
biến đổi khí hậu. Tạp chí khoa học Trường Đại học sư phạm Thành phố Hồ Chí
Minh, số 15(4), tr 168 - 178.
6. Đinh Thị Thùy Dung. (2018). Tác động của dân cư đến tổ chức mạng lưới trường
học phổ thông ở Thành phố Hồ Chí Minh. Kỷ yếu hội nghị khoa học
Địa lí toàn quốc lần thứ X năm 2018, Nxb Khoa học tự nhiên và công nghệ,
tr 933 - 943.
7. Đinh Thị Thùy Dung. (2018). Cơ hội và thách thức đối với giáo dục phổ thông ở
Thành phố Hồ Chí Minh trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và cơ chế, chính
sách đặc thù. Kỷ yếu hội nghị khoa học Địa lí toàn quốc lần thứ X năm 2018, Nxb
8. Đinh Thị Thùy Dung. (2019). Hướng nghiệp trong thời kỳ cách mạng công
Khoa học tự nhiên và công nghệ, tr 1578 - 1585.
nghiệp 4.0 đối với học sinh Trung học cơ sở. Kỷ yếu hội nghị khoa học Địa lí toàn
quốc lần thứ XI năm 2019, Nxb Thanh niên, tr 904 - 912.
PHIẾU SỐ…………
PHỤ LỤC
Phụ lục 1. Phiếu hỏi ý kiến cha mẹ học sinh
ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ HÀI LÒNG CỦA CHA MẸ HỌC SINH
ĐỐI VỚI CÁC DỊCH VỤ GIÁO DỤC
Xin chào quý Cha Mẹ Học Sinh!
Hiện nay, tôi đang làm đề tài luận án “Mạng lưới trường học phổ thông ở
Thành phố Hồ Chí Minh”, kính mong anh/chị dành chút thời gian để trả lời một số
câu hỏi khảo sát dưới đây. Sự hợp tác của quý anh/chị sẽ giúp tôi nghiên cứu và định
hướng những giải pháp để việc học của các em ngày càng thỏa mãn nhu cầu, để mỗi
ngày đến trường là một ngày vui.
I. THÔNG TIN CÁ NHÂN
1. Quan hệ của người trả lời với HS:
1. Cha 2. Mẹ 3. Quan hệ khác
2. Các em đang học:
a/ Lớp: ...................
b/ Số buổi: Học một buổi Học 2 buổi
c/ Tên trường:………………………………………..
d/ Trường thuộc phường (xã): ...................………..
e/ Trường thuộc quận (huyện):………………....
3. Hàng ngày, con/cháu anh/chị đến trường và về nhà bằng phương tiện/cách nào?
1. đi bộ 2. xe đạp 3. xe gắn máy/mô tô
4. xe buýt 5. ô tô 6. Phương tiện khác
II. ĐÁNH GIÁ CỦA PHỤ HUYNH VỀ DỊCH VỤ GIÁO DỤC
Xin anh/chị đánh dấu X vào ô phù hợp với ý kiến của anh/chị
II.1. Về tiêu chí chọn trường cho con học
1. Danh tiếng của trường
1 Không quan trọng 2 Quan trọng 3 Rất quan trọng
2. Thủ tục nhập học và chuyển trường không phức tạp
1 Không quan trọng 2 Quan trọng 3 Rất quan trọng
3. Địa điểm của trường thuận tiện cho việc đi lại của con đến trường và đi học về
1 Không quan trọng 2 Quan trọng 3 Rất quan trọng
4. Địa điểm của trường gần nhà để con mất ít thời gian đến trường (không quá 1 giờ
cho một lần đi)
1 Không quan trọng 2 Quan trọng 3 Rất quan trọng
5. Trường có đủ phòng học để HS không phải học lớp quá đông (trên 40 HS/lớp)
1 Không quan trọng 2 Quan trọng 3 Rất quan trọng
6. Trường có các phòng thí nghiệm, thư viện phục vụ học tập
1 Không quan trọng 2 Quan trọng 3 Rất quan trọng
7. Các phòng học có các thiết bị dạy học (máy chiếu projector, TV màn hình lớn,…)
1 Không quan trọng 2 Quan trọng 3 Rất quan trọng
8. Các phòng học có lắp điều hòa nhiệt độ
1 Không quan trọng 2 Quan trọng 3 Rất quan trọng
9. Khu sân chơi, nhà vệ sinh đảm bảo điều kiện an toàn, vệ sinh cho trẻ
1 Không quan trọng 2 Quan trọng 3 Rất quan trọng
10. Trường có sân vận động, nhà tập thể dục thể thao cho HS
1 Không quan trọng 2 Quan trọng 3 Rất quan trọng
11. Môi trường xã hội xung quanh trường đảm bảo tốt cho hoạt động giáo dục
1 Không quan trọng 2 Quan trọng 3 Rất quan trọng
12. Trường có các giáo viên giỏi nghề, yêu trẻ
1 Không quan trọng 2 Quan trọng 3 Rất quan trọng
Diễn giải ý kiến này của anh/chị...........................................................................
13. Có nhiều bạn cũ học cùng trường
1 Không quan trọng 2 Quan trọng 3 Rất quan trọng
14. Chương trình học không bị nặng/quá tải
1 Không quan trọng 2 Quan trọng 3 Rất quan trọng
15. Chương trình nhà trường có nhiều hoạt động ngoại khóa/trải nghiệm cho HS
1 Không quan trọng 2 Quan trọng 3 Rất quan trọng
16. Trường chú trọng liên lạc và phối hợp với gia đình trong giáo dục
1 Không quan trọng 2 Quan trọng 3 Rất quan trọng
17. Theo học trường này, sẽ yên tâm về tương lai học lên của con (vào trường đại
học có danh tiếng, đi học nước ngoài)
1 Không quan trọng 2 Quan trọng 3 Rất quan trọng
18. Học phí và các chi phí đóng góp khác không nhiều
1 Không quan trọng 2 Quan trọng 3 Rất quan trọng
II.2. Đánh giá thực tế của anh/ chị về dịch vụ giáo dục
19. Danh tiếng của trường có được như anh/chị kỳ vọng
1 Không như kỳ vọng 2 Như kỳ vọng 3 Cao hơn kỳ vọng
20. Hàng ngày, con anh/chị tự đi học hay phải đưa đón?
1 Tự đi học 2 Phải đưa đón
21. (Nếu phải đưa đón), anh/chị mất bao nhiêu thời gian một ngày đưa đón con đi và
về
1 Dưới 30 phút 2 30 phút – 1 giờ 3 Trên 1 giờ
22. Anh/chị có cho con đi học thêm không? 1 Có 2 Không
23. (Nếu có) Anh/chị cho cháu học thêm gì (có thể đánh dấu vào nhiều ô)
1 Học nâng cao môn văn hóa 2 Ngoại ngữ 3 Các môn năng khiếu
24. Anh/chị có hài lòng về cơ sở vật chất phục vụ giáo dục của trường con đang học
không?
1 Chưa thật hài lòng 2 Hài lòng 3 Rất hài lòng
Diễn giải thêm ......................................................................................................
25. Qua quan sát tiến bộ của con, anh/chị có hài lòng về phương pháp giáo dục của
trường không?
1 Chưa thật hài lòng 2 Hài lòng 3 Rất hài lòng
Diễn giải thêm ..........................................................
26. Qua quan sát tiến bộ của con, anh/chị dự kiến con sẽ lựa chọn phương án nào
cho tương lai
1 Học nghề 2 Học đại học trong nước 3 Đi học nước ngoài
III. NHỮNG Ý KIẾN ĐÓNG GÓP CỦA ANH/CHỊ ĐỐI VỚI GIÁO DỤC CỦA
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
Chân thành cám ơn anh/chị. Kính chúc anh/chị nhiều sức khỏe!
PHIẾU SỐ…………
Phụ lục 2. Phiếu hói ý kiến học sinh
CÂU HỎI KHẢO SÁT DÀNH CHO HỌC SINH LỚP 5 – THCS - THPT
Các em thân mến! Hi vọng các em sẽ dành chút thời gian để trả lời một số
câu hỏi sau đây nhé!
Các em vui lòng đánh dấu X vào ô phù hợp với ý kiến của các em.
I/ THÔNG TIN CÁ NHÂN
1. Các em đang học:
Lớp ……………………………..
Trường (tên trường) ……………………………………………
Phường/Xã ……………...... quận/Huyện………………………….
2. Địa chỉ nhà em đang ở thường xuyên (không nhất thiết theo hộ khẩu thường
trú):
Phường/Xã …………………………quận/Huyện………………………….
3. Em vào học ở trường là đúng tuyến hay trái tuyến? (chỉ dành cho HS lớp 5 và
THCS)
1 đúng tuyến 2 trái tuyến
4. Hàng ngày, em đến trường và từ trường về nhà chủ yếu bằng phương tiện nào?
1. đi bộ 2. xe đạp 3. xe gắn máy/mô tô
4. xe buýt 5. ô tô 6. Phương tiện khác
5. Em (chủ yếu) tự đến trường hay cha mẹ/người thân đưa đón
1 tự đến trường 2 đưa đón
6. Em đi đến trường và về nhà mỗi ngày hết khoảng bao nhiêu thời gian
1 Dưới 30 phút 2 30 phút – 1 giờ 3 Trên 1 giờ
II. ĐÁNH GIÁ CỦA HỌC SINH VỀ DỊCH VỤ GIÁO DỤC
1. Sĩ số lớp em là: ..................... học sinh
2. Theo em, lớp có sĩ số bao nhiêu bạn đã có thể làm ảnh hưởng đến việc học hành
của em
1 Dưới 30 2 30-40 3 40-50 4 trên 50
3. Trường em có phòng thí nghiệm cho HS học không?
1 Có 2 Không
4. (Nếu Không) Trong năm học em có được làm thí nghiệm trên lớp không?
1 Có 2 Không
5. (Nếu Có) Trong năm học, em có thường xuyên được học ở phòng thí nghiệm
không?
1 Chưa được học lần nào 2 Thỉnh thoảng 3 Mỗi khi có bài
thực nghiệm
6. Em có hài lòng về điều kiện vệ sinh của khu vệ sinh dành cho HS không?
1 Không hài lòng 2 Hài lòng 3 Rất hài lòng
Lý do …………………………………………………………………………..
7. Em có cảm thấy hài lòng về điều kiện phòng học không?
1 Không hài lòng 2 Hài lòng 3 Rất hài lòng
8. Trong năm học, em có thường xuyên được tham gia hoạt động ngoại khóa, trải
nghiệm không?
1 1 lần/năm 2 1 lần/học kỳ 3 2 lần/học kỳ 4 1 lần/ tháng
9. Em có đi học thêm không?
1 Có 2 Không
10. (Nếu có) em học thêm gì (có thể đánh dấu vào nhiều ô)
1 Học nâng cao môn văn hóa 2 Ngoại ngữ 3 Các môn năng
khiếu
11. (Nếu học thêm môn văn hóa) Lý do học thêm là: (có thể đánh dấu vào nhiều ô)
1 Bồi đắp những lỗ hổng kiến thức 3 Luyện thi đại học
2 Học theo sở thích 4 Để đi học nước ngoài (sau này)
12. Em có ý định năm tới chuyển trường không? (HS lớp 5, lớp 9, lớp 12 không cần
trả lời).
1 Có 2 Không
13. (Nếu Có), Lý do……………………………………………………………
14. Nếu có bạn em chuẩn bị thi chuyển cấp, em có khuyên bạn đến học trường em
đang học không?
1 Có 2 Không
Cám ơn những câu trả lời chân thành của các em và chúc các em học tốt!
Phụ lục 3. Danh sách chuyên gia giáo dục đã phỏng vấn và nội dung phỏng vấn
Họ tên, chức danh, cơ quan công tác Nội dung phỏng vấn
PGS.TS. Nguyễn Kim Hồng, nguyên Đánh giá những nhân tố ảnh hưởng đến
Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm chất lượng giáo dục.
TPHCM
PGS.TS. Phạm Xuân Hậu, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Giáo dục, Những vấn đề vĩ mô về giáo dục và giáo dục phổ thông và các vấn đề cụ thể về
Trường Đại học Sư phạm TPHCM tuyển sinh đầu cấp ở TPHCM, về học tập
trực tuyến, học theo tín chỉ có được xem
như một giải pháp để giảm áp lực trường lớp ở phổ thông, ứng dụng Công nghệ
thông tin-truyền thông trong dạy-học, về giải pháp tổ chức mạng lưới trường học
phổ thông.
Nhà giáo Mai Phú Thanh, chuyên viên Những vấn đề chung về giáo dục phổ
phòng Giáo dục trung học, Sở GD&ĐT TPHCM thông ở TPHCM dưới góc độ dịch vụ giáo dục.
Nhà giáo Lê Thanh Hải, Trưởng Phòng Những vấn đề liên quan đến quy hoạch
GD&ĐT quận 5
mạng lưới trường lớp ở quận 5, liên quan đến chỉnh trang đô thị.
Nhà giáo Cao Thị Nguyệt, chuyên viên Những vấn đề liên quan đến cung-cầu
Phòng GD&ĐT quận Tân Bình
giáo dục, thể hiện ở biến động tuyển sinh Tiểu học và THCS, những dự kiến thay
đổi phương án tuyển sinh.
Nhà giáo Vũ Thị Phương Chi, Hiệu trưởng trường THCS Văn Lang, quận 1
Quan điểm cá nhân về hình thức học tập trực tuyến, về các hình thức tuyển sinh và xã hội hóa giáo dục.
Nhà giáo Trần Ninh Gia Bảo, chuyên viên Phòng GD&ĐT quận Bình Tân
Áp lực của trẻ em nhập cư đối với các trường phổ thông của quận và giải pháp của địa phương.
Hệ thống giáo dục thường xuyên và việc đáp ứng nhu cầu học tập của HS.
Ông Trương Minh Tuấn, Giám đốc Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp-Giáo dục thường xuyên quận 11