VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
BÙI THẾ QUÂN
ĐÌNH LÀNG THẾ KỶ XVII – XVIII Ở GIA LÂM (HÀ NỘI)
NHỮNG GIÁ TRỊ LỊCH SỬ VÀ VĂN HÓA
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHẢO CỔ HỌC
HÀ NỘI – 2016
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
BÙI THẾ QUÂN
ĐÌNH LÀNG THẾ KỶ XVII – XVIII Ở GIA LÂM (HÀ NỘI)
NHỮNG GIÁ TRỊ LỊCH SỬ VÀ VĂN HÓA
Chuyên ngành: Khảo cổ học Mã số: 62 22 03 17
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHẢO CỔ HỌC
1. TS LÊ ĐÌNH PHỤNG 2. PGS. TS NGUYỄN VĂN TIẾN
HÀ NỘI – 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu nêu trong luận án là trung thực; các nhận xét và kết luận
đƣợc rút ra một cách tự nhiên và độc lập; những phát hiện mới trong luận án
chƣa từng đƣợc ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Hà Nội, ngày 15 tháng 06 năm 2016
Tác giả luận án
Bùi Thế Quân
MỤC LỤC
Trang
i
ii
Lời cam đoan
iv
Mục lục
v
Danh mục các bảng trong luận án
xvi
Danh mục bản đồ, bản ảnh, bản vẽ, bảng thông kê
Danh mục chữ cái viết tắt
MỞ ĐẦU...................................................................................................................
1
1
2
1. Tính cấp thiết của đề tài...................................................................
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án................
2
2
2.1. Mục đích nghiên cứu............................................................
2
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu...........................................................
2
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án...............................
3
3.1. Đối tượng nghiên cứu...........................................................
3
3.2. Phạm vi nghiên cứu..............................................................
3
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án.......
4
4.1. Phương pháp luận................................................................
4
4.2. Phương pháp nghiên cứu.....................................................
5
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án...........................................
5
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án.........................................
6
7. Cơ cấu của luận án............................................................................
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
6
16
1.1. Vài nét về đình làng........................................................................
29
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu...................................................
36
1.3. Khái niệm thƣờng sử dụng trong luận án....................................
1.4. Tiểu kết chƣơng 1...........................................................................
38
CHƢƠNG 2
ĐÌNH LÀNG THẾ KỶ XVII – XVIII Ở GIA LÂM...................................
38
45
2.1. Vài nét về vị trí địa lý và lịch sử vùng đất Gia Lâm....................
94
2.2. Những đình làng tiêu biểu ở Gia Lâm thế kỷ XVII – XVIII......
2.3. Tiểu kết chƣơng 2...........................................................................
CHƢƠNG 3
97
NHỮNG GIÁ TRỊ LỊCH SỬ - VĂN HÓA CỦA ĐÌNH LÀNG Ở GIA
LÂM THẾ KỶ XVII – XVIII.......................................................................
98
3.1. Những đặc trƣng chung của đình làng thế kỷ XVII - XVII ở
Gia Lâm..................................................................................................
104
3.2. Đình làng ở Gia Lâm thế kỷ XVII – XVIII trong hệ thống
135
kiến trúc đình làng Việt Nam...............................................................
147
3.3. Giá trị lịch sử và văn hóa của các ngôi đình ở Gia Lâm.............
3.4. Định hƣớng hoạt động đối với các di tích đình làng thế kỷ
153
XVII – XVIII ở Gia Lâm......................................................................
154
3.5. Tiểu kết chƣơng 3...........................................................................
KẾT LUẬN.....................................................................................................
157
TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................
DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG LUẬN ÁN
Bảng 2.1: Kích thƣớc cắt dọc của đại đình đình Xuân Dục
Bảng 2.2: Kích thƣớc cắt ngang của đại đình đình Xuân Dục
Bảng 2.3: Các đề tài sử dụng trang trí đình Xuân Dục
Bảng 2.4: Kích thƣớc cắt dọc của đại đình đình Công Đình
Bảng 2.5: Kích thƣớc cắt ngang của đại đình đình Công Đình
Bảng 2.6: Các đề tài sử dụng trang trí đình Công Đình
Bảng 2.7: Kích thƣớc cắt dọc của đại đình Tình Quang
Bảng 2.8: Kích thƣớc cắt ngang của đại đình Tình Quang
Bảng 2.9: Các đề tài sử dụng trang trí đình Tình Quang
Bảng 2.10: Kích thƣớc cắt dọc của đại đình Trân Tảo
Bảng 2.11: Kích thƣớc cắt ngang của đại đình đình Trân Tảo
Bảng 2.12: Các đề tài sử dụng trang trí đình Trân Tảo
Bảng 2.13: Kích thƣớc cắt dọc của đại đình Thanh Am
Bảng 2.14: Kích thƣớc cắt ngang của đại đình Thanh Am
Bảng 2.15: Các đề tài sử dụng trang trí đình Thanh Am
Bảng 3.1: So sánh tổng số đo cắt dọc của Đại đình đình Tình Quang, Thanh
Am, Xuân Dục, Trân Tảo, Công Đình
Bảng 3.2: So sánh tổng số đo cắt ngang của Đại đình
đình Tình Quang, Thanh Am, Xuân Dục, Trân Tảo, Công Đình
Bảng 3.3: Kích thƣớc mặt cắt dọc của Đại đình đình Tây Đằng
Bảng 3.4: Kích thƣớc cắt dọc của đại đình đình Trân Tảo
Bảng 3.5: Kích thƣớc cắt dọc của đại đình đình Phù Lƣu
DANH MỤC BẢN ĐỒ, BẢN ẢNH, BẢN VẼ, BẢN THỐNG KÊ
1. Bản đồ:
Bản đồ số 1: Bản đồ huyện Gia Lâm – Hà Nội (Cổng thông tin điện tử thành
phố Hà Nội)
Bản đồ số 2: Bản đồ phân bố đình làng ở Gia Lâm (UBND huyện Gia Lâm)
Bản đồ số 3: Bản đồ phân bố 5 ngôi đình tiêu biểu ở Gia Lâm (UBND huyện
Gia Lâm)
2. Bản ảnh:
Bản ảnh số 1: Cổng đình Xuân Dục (Tác giả)
Bản ảnh số 2: Đình Xuân Dục (Toàn cảnh phía trƣớc) (Tác giả)
Bản ảnh số 3: Đình Xuân Dục (Toàn cảnh phía sau) (Tác giả)
Bản ảnh số 4: Kết cấu vì nóc đình Xuân Dục (Tác giả)
Bản ảnh số 5: Trang trí trên cốn phía sau đình Xuân Dục (Đề tài: tiên múa)
(Tác giả)
Bản ảnh số 6: Trang trí trên xà nách gian đốc phía trƣớc đình Xuân Dục (Đề
tài: vân xoắn) (Tác giả)
Bản ảnh số 7: Trang trí “Cánh gà” gian giữa phía sau đình Xuân Dục (Đề tài:
tiên cƣỡi rồng) (Tác giả)
Bức ảnh số 8: Trang trí “Cánh gà” gian cạnh phía sau đình Xuân Dục (Đề tài:
tiên cƣỡi rồng) (Tác giả)
Bản ảnh số 9: Kết cấu cốn, kẻ phía sau đình Xuân Dục (Tác giả)
Bản ảnh số 10: Trang trí đầu dƣ gian cạnh đình Xuân Dục (Đề tài: rồng) (Tác
giả)
Bản ảnh số 11: Trang trí diệp thƣợng gian cạnh đình Xuan Dục (Đề tài: rồng)
(Tác giả)
Bản ảnh số 12: Trang trí “Cánh gà” gian cạnh đình Xuân Dục (Đề tài: tiên
cƣỡi rồng) (Tác giả)
Bản ảnh số 13: Trang trí ván gió hậu gian cạnh đình Xuân Dục (Đề tài: cá
chép hoá rồng) (Tác giả)
Bản ảnh số 14: Trang trí ván gió hậu gian cạnh đình Xuân Dục (Đề tài: cá
chép hoá rồng) (Tác giả)
Bản ảnh số 15: Trang trí ván gió hậu gian cạnh đình Xuân Dục (Đề tài: cá
chép hoá rồng chầu tiền múa) (Tác giả)
Bản ảnh số 16: Trang trí thân kẻ đình Xuân Dục (Đề tài: rồng) (Tác giả)
Bản ảnh số 17: Sắc phong Cảnh Trị thứ 8 (1671) đình Xuân Dục (Đề tài:
rồng) (Tác giả)
Bản ảnh số 18: Trang trí “Cánh gà” gian cạnh phía sau đình Xuân Dục (Đề
tài: rồng) (Tác giả)
Bản ảnh số 19: Trang trí “Cánh gà” gian cạnh phía trƣớc đình Xuân Dục (Đề
tài: rồng) (Tác giả)
Bản ảnh số 20: Trang trí cốn gian cạnh phía sau đình Xuân Dục (Đề tài: tùng
hoá long) (Tác giả)
Bản ảnh số 21: Trang trí cốn gian giữa phía sau đình Xuân Dục (Đề tài: mai
hoá long, ban thờ) (Tác giả)
Bản ảnh số 22: Trang trí cốn gian giữa phía sau đình Xuân Dục (Đề tài: hồi
văn lá lật) (Tác giả)
Bản ảnh số 23: Chân tảng kê cột hiên phía trƣớc đình Xuân Dục tu sửa thời
Nguyễn (Giáp Tuất niên: 1934) (Tác giả)
Bản ảnh số 24: Đình Công Đình (Toàn cảnh phía trƣớc) (Tác giả)
Bản ảnh số 25: Đình Công Đình (Toàn cảnh phía đầu hồi) (Tác giả)
Bản ảnh số 26: Trang trí góc mái đình Công Đình (đề tài lân, lá lật, hoa
chanh) (Tác giả)
Bản ảnh số 27: Kết cấu vì nóc gian giữa đình Công Đình (Tác giả)
Bản ảnh số 28: Kết cấu cốn gian giữa phía sau đình Công Đình (Tác giả)
Bản ảnh số 29: Kết cấu cốn gian giữa phía trƣớc đình Công Đình (Tác giả)
Bản ảnh số 30: Lòng câu đầu gian giữa đình Công Đình (Ghi niên đại khởi
dụng năm Cảnh Trị thứ 6 (1668) (Tác giả)
Bản ảnh số 31: Trang đầu dƣ gian giữa đình Công Đình (Đề tài: đầu rồng)
(Tác giả)
Bản ảnh số 32: Trang trí cửa võng gian giữa đình Công Đình (Đề tài: lƣỡng
long chầu hổ phù) (Tác giả)
Bản ảnh số 33: Trang trí “Cánh gà” gian giữa đình Công Đình (Đề tài: đầu
rồng) (Tác giả)
Bản ảnh số 34: Trang trí đầu dƣ, “Cánh gà” gian giữa đình Công Đình (Đề
tài: đầu rồng) (Tác giả)
Bản ảnh số 35: Trang trí kẻ phía sau gian cạnh đình Công Đình (Tác giả)
Bản ảnh số 36: Trang trí cốn góc phía sau đình Công Đình (Tác giả)
Bản ảnh số 37: Trang trí kẻ hiên gian giữa đình Công Đình (Tác giả)
Bản ảnh số 38: Bia đá đình Công Đình (Thế kỷ XVII) (Tác giả)
Bản ảnh số 39: Bia đá “Hậu thần bi ký” đình Công Đình (Cảnh Hƣng thứ 3 –
1742) (Tác giả)
Bản ảnh số 40: Trang trí cốn gian cạnh đầu hồi đình Công Đình (Đề tài: vân
xoắn) (Tác giả)
Bản ảnh số 41: Kẻ gian đầu hồi đình Công Đình (Đề tài: không trang trí) (Tác
giả)
Bản ảnh số 42: Trang trí đầu dƣ gian cạnh đầu hồi phía trƣớc đình Công Đình
(Đề tài: đầu rồng) (Tác giả)
Bản ảnh số 43: Trang trí đầu dƣ gian cạnh phía sau đình Công Đình(Tác giả)
Bản ảnh số 44: Trang trí giếng trời đình Công Đình (Đề tài: bầu trời nhị thập
bát tú) (Tác giả)
Bản ảnh số 45: Nghi môn đình Tình Quang (Tác giả)
Bản ảnh số 46: Đình Tình Quang (Toàn cảnh phía trƣớc) (Tác giả)
Bản ảnh số 47: Tả vu đình Tình Quang (Tác giả)
Bản ảnh số 48: Hữu vu đình Tình Quang (Tác giả)
Bản ảnh số 49: Trang trí đầu đao, đầu guột đình Tình Quang (Tác giả)
Bản ảnh số 50: Đình Tình Quang (Đầu hồi khi giải hạ) (Tác giả)
Bản ảnh số 51: Kết cấu cốn gian đốc đình Tình Quang (Tác giả)
Bản ảnh số 52: Trang trí đầu dƣ gian giữa đình Tình Quang (Đề tài: đầu rồng)
(Tác giả)
Bản ảnh số 53: Trang trí đầu dƣ gian đốc đình Tình Quang (Đề tài: đầu rồng
ngoảnh vào) (Tác giả)
Bản ảnh số 54: Trang trí trên cốn đình Tình Quang (Đề tài: Tiên cƣỡi rồng)
(Tác giả)
Bản ảnh số 55: Trang trí dƣờng trên cốn gian giữa đình Tình Quang (Đề tài:
đao lá, cúc) (Tác giả)
Bản ảnh số 56: Trang trí giƣờng trên cốn gian giữa đình Tình Quang (Đề tài:
ngƣời cƣỡi đầu thú) (Tác giả)
Bản ảnh số 57: Trang trí trên cốn gian giữa đình Tình Quang (Đề tài: rồng ổ)
(Tác giả)
Bản ảnh số 58: Trang trí trên cốn gian giữa đình Tình Quang (Đề tài: lân,
rồng, tiên cƣỡi rồng)
Bản ảnh số 59: Trang trí trên cốn gian giữa đình Tình Quang (Đề tài: Lân)
(Tác giả)
Bản ảnh số 60: Trang trí trên nghé gian giữa đình Tình Quang (Đề tài: đầu
rồng) (Tác giả)
Bản ảnh số 61: Trang trí trên cốn gian cạnh đình Tình Quang (Đề tài: Lân)
(Tác giả)
Bản ảnh số 62: Trang trí trên cốn gian cạnh đình Tình Quang (Đề tài: Lân)
(Tác giả)
Bản ảnh số 63: Trang trí trên kẻ hiên gian cạnh đình Tình Quang (Đề tài:
phƣợng) (Tác giả)
Bản ảnh số 64: Trang trí trên kẻ hiên gian cạnh đình Tình Quang (Đề tài: đao,
vân xoắn) (Tác giả)
Bản ảnh số 65: Trang trí trên kẻ hiên gian giữa đình Tình Quang (Đề tài: trúc
hoá long) (Tác giả)
Bản ảnh số 65: Trang trí trên kẻ hiên gian cạnh đình Tình Quang (Đề tài: Lân)
(Tác giả)
Bản ảnh số 66: Lăng đá tại đình Tình Quang (Thế kỷ 18) (Tác giả)
Bản ảnh số 67: Bia đá tại đình Tình Quang (Thế kỷ 17) (Tác giả)
Bản ảnh số 68: Cổng đình Trân Tảo (Tác giả)
Bản ảnh số 69: Toàn cảnh phía trƣớc đình đình Trân Tảo (Tác giả)
Bản ảnh số 70: Nhà Tả vu đình Trân Tảo (Tác giả)
Bản ảnh số 71: Toàn cảnh phía sau đình đình Trân Tảo (Tác giả)
Bản ảnh số 72: Kết cấu vì nóc đình Trân Tảo (Tác giả)
Bản ảnh số 73: Trang trí cốn gian giữa phía trƣớc, mặt bên phải đình Trân
Tảo (Đề tài: Rừng thú) (Tác giả)
Bản ảnh số 74: Trang trí cốn gian giữa phía trƣớc, mặt bên trái đình Trân Tảo
(Đề tài: “Tam đa”, Tùng, hƣơu, dơi (Tác giả)
Bản ảnh số 75: Trang trí cốn gian giữa phía trƣớc, mặt nhìn vào giữa đình
Trân Tảo (Đề tài: Tiên cƣỡi rồng) (Tác giả)
Bản ảnh số 76: Trang trí cốn gian cạnh phía sau, mặt nhìn vào giữa đình Trân
Tảo (Đề tài: Tiên múa) (Tác giả)
Bản ảnh số 77: Trang trí cốn gian cạnh phía sau, mặt bên đình Trân Tảo. (Đề
tài: Rồng mây chầu mặt trời) (Tác giả)
Bản ảnh số 78: Trang trí cốn gian cạnh phía trƣớc, mặt bên đình Trân Tảo (Đề
tài: Hồi văn đồ thờ) (Tác giả)
Bản ảnh số 79: Trang trí cốn gian cạnh phía trƣớc, mặt bên đình Trân Tảo (Đề
tài: Tùng, trúc, cúc) (Tác giả)
Bản ảnh số 80: Trang trí cốn gian cạnh phía sau, mặt bên đình Trân Tảo (Đề
tài: Rồng, vân xoắn) (Tác giả)
Bản ảnh số 81: Trang trí đầu dƣ gian giữa đình Trân Tảo (Đề tài: đầu rồng)
(Tác giả)
Bản ảnh số 82: Trang trí đầu dƣ gian cạnh đình Trân Tảo (Đề tài: Đầu rồng)
(Tác giả)
Bản ảnh số 83: Trang trí cốn gian giữa phía trƣớc, mặt bên phải đình Trân
Tảo (Đề tài: Hổ vồ nai) (Tác giả)
Bản ảnh số 84: Trang trí rƣờng cốn gian giữa phía trƣớc, mặt nhìn vào giữa
đình Trân Tảo (Đề tài: Lân cầm rắn) (Tác giả)
Bản ảnh số 85: Trang trí rƣờng cốn gian giữa phía trƣớc, mặt nìn vào giữa
đình Trân Tảo (Đề tài: Trẻ vui đùa) (Tác giả)
Bản ảnh số 86: Trang trí rƣờng cốn gian cạnh phía trƣớc, mặt nhìn ra đình
Trân Tảo (Tác giả)
Bản ảnh số 87: Trang trí cột trụ cốn gian góc phía trƣớc, mặt nhìn vào đình
Trân Tảo (Đề tài: Tiên cƣỡi rồng) (Tác giả)
Bản ảnh số 88: Trang trí rƣờng cốn gian góc phía sau, mặt nhìn vào đình Trân
Tảo (Đề tài: ngƣời và khỉ) (Tác giả)
Bản ảnh số 89: Trang trí rƣờng cốn gian cạnh phía sau, mặt nhìn vào đình
Trân Tảo (Đề tài: sƣ tử hý cầu) (Tác giả)
Bản ảnh số 90: Trang trí rƣờng cốn gian cạnh phía trƣớc, mặt nhìn vào đình
Trân Tảo (Đề tài: sƣ tử) (Tác giả)
Bản ảnh số 91: Trang trí rƣờng cốn gian cạnh phía sau, mặt nhìn vào đình
Trân Tảo (Đề tài: Rồng) (Tác giả)
Bản ảnh số 92: Trang trí ván cốn gian cạnh phía trƣớc, mặt nhìn ra đình Trân
Tảo (Đề tài: đàn nai) (Tác giả)
Bản ảnh số 93: Trang trí nghé gian cạnh phía trƣớc, mặt nhìn vào đình Trân
Tảo (Đề tài: Lá lật) (Tác giả)
Bản ảnh số 94: Trang trí đầu kẻ gian giữa, mặt nhìn ra đình Trân Tảo. (Đề tài:
Mai hoá long) (Tác giả)
Bản ảnh số 95: Cổng đình Thanh Am (Tác giả)
Bản ảnh số 96: Toàn cảnh đầu hồi đình Thanh Am (Tác giả)
Bản ảnh số 97: Toàn cảnh đầu hồi đình Thanh Am (Tác giả)
Bản ảnh số 98: Đầu hồi đình Thanh Am (Tác giả)
Bản ảnh số 99: Kết cấu vì nóc đình Thanh Am (Tác giả)
Bản ảnh số 100: Kết cấu và trang trí cốn phía trƣớc gian cạnh đình Thanh Am
(Đề tài: cụm vân, lá lật) (Tác giả)
Bản ảnh số 101: Trang trí cốn phía trƣớc gian giữa đình Thanh Am (Đề tài:
rồng) (Tác giả)
Bản ảnh số 102: Trang trí đầu dƣ phía trƣớc gian giữa đình Thanh Am (Đề
tài: đầu rồng) (Tác giả)
Bản ảnh số 103: Trang trí đầu dƣ phía sau gian cạnh đình Thanh Am (Đề tài:
đầu rồng) (Tác giả)
Bản ảnh số 104: Trang trí nghé phía trƣớc gian giữa đình Thanh Am (Đề tài:
đầu rồng) (Tác giả)
Bản ảnh số 105: Trang trí kẻ phía trƣớc gian giữa đình Thanh Am (Đề tài: lá
lật) (Tác giả)
Bản ảnh số 106: Trang trí kẻ phía trƣớc gian cạnh đình Thanh Am (Đề tài: tứ
linh) (Tác giả)
Bản ảnh số 107: Trang trí đình Thanh Am cốn gian giữa phía sau bên phải,
mặt nhìn vào. (Đề tài: Rồng mây) (Tác giả)
Bản ảnh số 108: Trang trí đình Thanh Am cốn gian giữa phía sau bên phải,
mặt nhìn ra (Đề tài: Trúc, cuốn thƣ) (Tác giả)
Bản ảnh số 109: Trang trí đình Thanh Am cốn gian giữa phía sau bên trái,
mặt nhìn vào (Đề tài: tùng, cuốn thƣ) (Tác giả)
Bản ảnh số 110: Trang trí đình Thanh Am cốn gian giữa phía sau trái, mặt
nhìn ra (Đề tài: cúc) (Tác giả)
Bản ảnh số 111: Dấu vết mộng sàn cột cái đình Thanh Am (Tác giả)
Bản ảnh số 112: Dấu vết mộng sàn cột quân đình Thanh Am (Tác giả)
Bản ảnh số 113: Trang trí đầu kẻ bên trái gian giữa mặt nhìn vào đình Thanh
Am. (Đề tài: Ly) (Tác giả)
Bản ảnh số 114: Trang trí đầu kẻ bên phải gian giữa mặt nhìn vào đình Thanh
Am (Đề tài: Rùa cõng cuốn sách) (Tác giả)
Bản ảnh số 115: Trang trí đầu kẻ bên trái gian giữa mặt nhìn ra đình Thanh
Am (Đề tài: Rùa cõng sách) (Tác giả)
Bản ảnh số 116: Trang trí đầu kẻ bên phải gian giữa mặt ra vào đình Thanh
Am (Đề tài: Ly) (Tác giả)
Bản ảnh số 117: Trang trí đầu kẻ gian cạnh bên trái mặt nhìn vào (Tác giả)
Bản ảnh số 118: Trang trí Lân trên rƣờng vì nóc đình Thuỵ Phiêu (Đình làng
vùng châu thổ Bắc Bộ, Nxb. Thế giới).
Bản ảnh số 119: Trang trí đầu dƣ đình Thuỵ Phiêu (Đề tài: rồng) (Đình làng
vùng châu thổ Bắc Bộ, Nxb. Thế giới).
Bản ảnh số 120: Trang trí ván cốn vì nóc đình Thuỵ Phiêu (Đề tài: Tiên cƣỡi
rồng) (Đình làng vùng châu thổ Bắc Bộ, Nxb. Thế giới).
Bản ảnh số 121: Trang trí ván cốn vì nóc đình Lỗ Hạnh (Đề tài: phƣợng)
(Đình làng vùng châu thổ Bắc Bộ, Nxb. Thế giới).
Bản ảnh số 122: Trang trí ván cốn vì nóc đình Lỗ Hạnh (Đề tài: tiên cƣỡi
rồng) (Đình làng vùng châu thổ Bắc Bộ, Nxb. Thế giới).
Bản ảnh số 123: Trang trí ván cốn vì nóc đình Tây Đằng (Đề tài: tiên cƣỡi
rồng) (Đình làng vùng châu thổ Bắc Bộ, Nxb. Thế giới).
Bản ảnh số 124: Trang trí trụ đấu vì nách đình Tây Đằng (Đề tài: ngƣời cầm
rắn) (Đình làng vùng châu thổ Bắc Bộ, Nxb. Thế giới).
Bản ảnh số 125: Trang trí vì nách đình Thổ Hà (Đề tài: tiên cƣỡi rồng) (Đình
làng vùng châu thổ Bắc Bộ, Nxb. Thế giới).
Bản ảnh số 126: Trang trí vì nách đình Thổ Hà (Đề tài: tiên cƣỡi rồng, tiên
cƣỡi phƣợng) (Đình làng vùng châu thổ Bắc Bộ, Nxb. Thế giới).
Bản ảnh số 127: Trang trí “cánh gà” đình Thanh Lũng (Đề tài: rồng) (Đình
làng vùng châu thổ Bắc Bộ, Nxb. Thế giới).
Bản ảnh số 128: Trang trí kẻ hiên đình Chu Quyến (Đề tài: thú) (Đình làng
vùng châu thổ Bắc Bộ, Nxb. Thế giới).
Bản ảnh số 129: Trang trí rƣờng vì nách đình Chu Quyến (Đề tài: ngƣời bám
râu rồng) (Đình làng vùng châu thổ Bắc Bộ, Nxb. Thế giới).
Bản ảnh số 130: Trang trí “cánh gà” đình Dƣ Hàng, Hải Phòng (Đề tài: rồng)
(Đình làng vùng châu thổ Bắc Bộ, Nxb. Thế giới).
Bản ảnh số 131: Trang trí vì nách đình Dục Tú (Đề tài: rồng) (Đình làng vùng
châu thổ Bắc Bộ, Nxb. Thế giới).
3. Bản vẽ:
Bản vẽ số 1: Bản vẽ mặt bằng kiến trúc đình Xuân Dục (Công ty cổ phần
Nguyễn An)
Bản vẽ số 2: Mặt đứng trục 1-12 đình Xuân Dục (Công ty cổ phần Nguyễn
An)
Bản vẽ số 3: Mặt đứng trục M-A đình Xuân Dục (Công ty cổ phần Nguyễn
An)
Bản vẽ số 4: Mặt cắt 1-1 đình Xuân Dục (Công ty cổ phần Nguyễn An)
Bản vẽ số 5: Mặt cắt 2-2 đình Xuân Dục (Công ty cổ phần Nguyễn An)
Bản vẽ số 6: Bản vẽ mặt bằng kiến trúc đình Công Đình (Công ty cổ phần xây
dựng và tôn tạo công trình văn hóa)
Bản vẽ số 7: Mặt cắt 1-1 đình Công Đình (Công ty cổ phần xây dựng và tôn
tạo công trình văn hóa)
Bản vẽ số 8: Mặt cắt 2-2 đình Công Đình (Công ty cổ phần xây dựng và tôn
tạo công trình văn hóa)
Bản vẽ số 9: Mặt đứng trục 1 đình Công Đình (Công ty cổ phần xây dựng và
tôn tạo công trình văn hóa)
Bản vẽ số 10: Mặt đứng trục A đình Công Đình (Công ty cổ phần xây dựng
và tôn tạo công trình văn hóa)
Bản vẽ số 11: Bản vẽ mặt bằng kiến trúc đình Tình Quang (Công ty cổ phần
đầu tƣ - xây dựng công trình văn hóa và đô thị)
Bản vẽ số 12: Bặt cắt A-A đình Tình Quang (Công ty cổ phần đầu tƣ - xây
dựng công trình văn hóa và đô thị)
Bản vẽ số 13: Mặt cắt B-B đình Tình Quang (Công ty cổ phần đầu tƣ - xây
dựng công trình văn hóa và đô thị)
Bản vẽ số 14: Bản vẽ mặt bằng kiến trúc đình Trân Tảo (Công ty cổ phần tu
bổ di tích và thiết bị văn hóa Trung ƣơng)
Bản vẽ số 15: Mặt đứng đình Trân Tảo (Công ty cổ phần tu bổ di tích và thiết
bị văn hóa Trung ƣơng)
Bản vẽ số 16: Mặt bên đình Trân Tảo (Công ty cổ phần tu bổ di tích và thiết
bị văn hóa Trung ƣơng)
Bản vẽ số 17: Chi tiết vì trục 6 đình Trân Tảo (Công ty cổ phần tu bổ di tích
và thiết bị văn hóa Trung ƣơng)
Bản vẽ số 18: Chi tiết vì trục C8-5 đình Trân Tảo (Công ty cổ phần tu bổ di
tích và thiết bị văn hóa Trung ƣơng)
Bản vẽ số 19: Bản vẽ mặt bằng kiến trúc đình Thanh Am (Công ty cổ phần
xây dựng và phục chế công trình văn hóa)
Bản vẽ số 20: Mặt đứng trục 1-16 đình Thanh Am (Công ty cổ phần xây dựng
và phục chế công trình văn hóa)
Bản vẽ số 21: Mặt đứng trục A-N đình Thanh Am (Công ty cổ phần xây dựng
và phục chế công trình văn hóa)
Bản vẽ số 22: Mặt cắt 1-1 đình Thanh Am (Công ty cổ phần xây dựng và
phục chế công trình văn hóa)
Bản vẽ số 23: Mặt cắt 2-2 đình Thanh Am (Công ty cổ phần xây dựng và
phục chế công trình văn hóa)
4. Bảng thống kê một số đình làng ở Gia Lâm có thông tin tƣ liệu xây
dựng vào thế kỷ XVII - XVIII
DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ
CKĐL Chạm khắc đình làng
CN Con ngƣời
CTQG Chính trị Quốc gia
GS Giáo sƣ
H. Hình
HT Hình tƣợng
HTCN Hình tƣợng con ngƣời
HTNT Hình tƣợng nghệ thuật
KHXH Khoa học Xã hội
NCKH Nghiên cứu khoa học
NCS Nghiên cứu sinh
Nxb Nhà xuất bản
PGS Phó giáo sƣ
PGS.TS Phó giáo sƣ. Tiến sĩ
PL Phụ lục
T/c Tạp chí
TK Thế kỷ
Tr Trang
Tp. HCM Thành phố Hồ Chí Minh
TS Tiến sĩ
VHDT Văn hóa Dân tộc
VHTT Văn hóa Thông tin
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng đất nƣớc theo hƣớng Công nghiệp
hóa - Hiện đại hóa, Đảng đã xác định vai trò quan trọng của di sản văn hóa đối
với sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội. Giữ gìn bản sắc văn hóa dân
tộc đƣợc đặt ra nhƣ một vấn đề quan trọng của quốc gia. Thái độ ứng xử với di
sản văn hoá cũng phản ánh quan điểm, đƣờng lối, chính sách của quốc gia,
dân tộc trong từng thời điểm nhất định. Chúng ta cần phải tìm hiểu sâu sắc và
giới thiệu các loại hình kiến trúc truyền thống để có cái nhìn toàn diện và sâu
sắc hơn về những giá trị kết tinh tiềm ẩn trong tinh hoa văn hóa dân tộc của
ông cha ta để lại cho hậu thế. Đây là việc làm hết sức cần thiết trong thời kỳ
hiện nay, bởi bất kỳ ngƣời nào muốn bƣớc tới tƣơng lai đúng hƣớng đều phải
nhìn lại quá khứ. Theo định hƣớng đó, thời gian gần đây các di tích lịch sử
văn hóa nhƣ: các di chỉ khảo cổ học, các địa điểm ghi dấu chứng tích lịch sử,
các công trình kiến trúc nghệ thuật v.v…đã và đang là đối tƣợng đƣợc đặc biệt
quan tâm nghiên cứu, trong đó có đình làng.
Cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về đình làng - một di sản
kiến trúc văn hóa tín ngƣỡng của cộng đồng làng xã Việt Nam trên nhiều phƣơng
diện khác nhau. Những công trình nghiên cứu này đã và đang góp phần khẳng
định giá trị văn hóa đặc sắc, độc đáo của đình làng Việt Nam, cũng trên cơ sở đó
giúp chúng ta hiểu biết thêm về làng xã truyền thống, về bản sắc văn hóa Việt
Nam. Nghiên cứu đình làng và khai thác các giá trị của đình làng dƣới góc độ
khảo cổ học lịch sử sẽ góp phần cung cấp nguồn tƣ liệu khoa học cho việc bảo
tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của làng Việt cổ truyền.
Những ngôi đình làng thế kỷ XVII - XVIII ở Gia Lâm là những công
trình có nhiều giá trị về lịch sử - văn hóa. Mặc dù những ngôi đình này đã
đƣợc xếp hạng di tích cấp quốc gia, song đến nay chƣa có một công trình
2
nghiên cứu nào toàn diện, sâu sắc từ góc độ khảo cổ học. Để khẳng định giá trị
và tìm hiểu một cách có hệ thống, góp phần vào sự nghiệp bảo tồn và phát huy
giá trị của di tích trong giai đoạn hiện nay, tôi xin chọn đề tài: “Đình làng thế
kỷ XVII – XVIII ở Gia Lâm (Hà Nội) - những giá trị lịch sử và văn hoá” là
đối tƣợng để nghiên cứu của luận án này.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án đặt ra bốn mục tiêu nghiên cứu nhƣ sau:
- Tập hợp, hệ thống hóa tƣ liệu và kết quả nghiên cứu của các tác giả đi
trƣớc nghiên cứu về đình làng nói chung và đình làng thế kỷ XVII - XVIII ở
Gia Lâm (Hà Nội).
- Nghiên cứu, đánh giá giá trị lịch sử và những giá trị văn hóa – nghệ
thuật đƣợc biểu hiện dƣới dạng vật thể và phi vật thể của các đình làng thế kỷ
XVII – XVIII ở Gia Lâm, tìm ra những đặc trƣng cơ bản của các di tích này,
xác định vai trò của nó đối với cộng đồng làng xã và các vùng lân cận.
- Xác định niên đại khởi dựng qua tƣ liệu và phong cách nghệ thuật.
- Đề xuất phƣơng hƣớng và giải pháp bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị
văn hóa, lịch sử của các ngôi đình này.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khảo sát điền dã, ghi vẽ hiện trạng kiến trúc và tổng hợp các tài liệu
Để đạt đƣợc các mục tiêu nghiên cứu đề ra, nhiệm vụ cần thực hiện là:
nghiên cứu đã có để xác định và hệ thống hoá đặc điểm cơ bản của đình làng
thế kỷ XVII – XVIII ở Gia Lâm.
- Thống kê, khảo tả hiện trạng kiến trúc, trang trí trên kiến trúc làm cơ
sở đánh giá giá trị về lịch sử, văn hoá của các đình làng thế kỷ XVII – XVII ở
Gia Lâm trong đời sống xã hội, làm cơ sở cho việc thực hiện các nghiên cứu
tiếp theo.
3
- Thu thập những thông tin về những đình làng khác ở Gia Lâm, vùng
phụ cận liên quan để so sánh sự tƣơng đồng và khác biệt về kiến trúc và trang
trí kiến trúc.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Tập trung nghiên cứu tổng quan và chuyên sâu về 5 đình làng tiêu biểu
thế kỷ XVII – XVIII ở Gia Lâm (Hà Nội). Cụ thể là đình Xuân Dục (xã Yên
Thƣờng), đình Tình Quang (phƣờng Giang Biên), đình Thanh Am (phƣờng
Thƣợng Thanh), đình Trân Tảo (xã Phú Thị), đình Công Đình (xã Đình
Xuyên).
- Mở rộng đối tƣợng nghiên cứu đến một số đình làng khác ở Gia Lâm và
phụ cận để so sánh các giá trị lịch sử, văn hóa cùng các giá trị chính trị - xã
hội của các ngôi đình làng trong đời sống xã hội hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển cùng giá
trị văn hóa nghệ thuật của các đình làng thế kỷ XVII – XVIII ở Gia Lâm (Hà
Nội) từ khi khởi dựng cho đến nay. Đặc điểm kiến trúc, hệ thống di vật trong
đình làng.
- Phạm vi thời gian và không gian: Tập trung khảo sát, nghiên cứu các
đình làng thế kỷ XVII – XVIII ở Gia Lâm ( Hà Nội), sau đó mở rộng phạm vi
nghiên cứu đối với các di tích đình làng ở khu vực phụ cận liên quan.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Phương pháp luận
- Phƣơng pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử đƣợc sử dụng
để lý giải các vấn đề thuộc lịch sử, văn hoá và quá trình hình thành, phát triển
của đình làng Việt Nam và đình làng thế kỷ XVII – XVIII ở Gia Lâm.
4
- Phƣơng pháp đƣợc triển khai qua những tiếp cận đa ngành, liên ngành,
trong đó chú trọng việc kết hợp giữa các tiếp cận nghiên cứu khảo cổ học, sử
học, mỹ thuật học, dân tộc học, bảo tàng học, văn hóa học với ứng dụng khoa
học kỹ thuật trong việc đánh giá hiện trạng, ghi vẽ kiến trúc.
4.2. Phương pháp nghiên cứu của luận án
- Phƣơng pháp tập hợp, hệ thống hóa những kết quả nghiên cứu của các
tác giả, các công trình nghiên cứu có liên quan của những ngƣời đi trƣớc.
- Phƣơng pháp Khảo cổ học truyền thống: điều tra, quan sát, tham dự,
miêu tả, đo vẽ, chụp ảnh, phỏng vấn, nghiên cứu các tƣ liệu cổ, tƣ liệu Hán
Nôm liên quan...
- Phƣơng pháp điền dã thực tiễn từ đời sống xã hội của các cộng đồng
dân cƣ ở trong các làng xã, dòng họ nơi các di tích tồn tại và phát triển.
- Phƣơng pháp khảo cứu trực tiếp tại các đình làng thông qua các hoạt
động lễ hội tín ngƣỡng thƣờng niên và các hoạt động văn hóa – xã hội đã và
đang diễn ra tại các đình làng ở Gia Lâm.
- Phƣơng pháp so sánh, phân tích tổng hợp tƣ liệu.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Luận án chính là công trình đầu tiên giới thiệu có hệ thống và đầy đủ về 5 di tích đình làng thế kỷ XVII – XVIII ở Gia Lâm (Hà Nội) dƣới góc độ Khảo cổ học.
- Luận án xác định tổng quan giá trị lịch sử - văn hóa của các di tích
thông qua tài liệu và phong cách nghệ thuật.
- Nghiên cứu toàn diện giá trị lịch sử, văn hóa của đình làng thế kỷ XVII – XVIII ở Gia Lâm (Hà Nội), góp phần bổ sung và làm rõ những nghiên cứu về đình làng thế kỷ XVII – XVIII và đình làng Việt Nam nói chung.
- Kết quả nghiên cứu của luận án cũng góp một phần quan trọng trong
việc xác định, đánh giá vai trò của hệ thống di tích lịch sử - văn hóa nói chung,
hệ thống di tích đình làng nói riêng trong quá trình đô thị hóa, Công nghiệp
5
hóa – Hiện đại hóa đất nƣớc ở một địa bàn quan trọng của Thủ đô, góp phần
bảo tồn và phát huy giá trị của di tích.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Đóng góp vào lịch sử nghiên cứu về đình làng Việt Nam nói chung,
đình làng ở Gia Lâm (Hà Nội) nói riêng từ góc độ kiến trúc, trang trí kiến trúc
với giá trị lịch sử và văn hoá dƣới góc độ khảo cổ học. Thông qua việc so
sánh sự tƣơng đồng và khác biệt để thấy rõ cái riêng và cái chung của đình
làng ở Gia Lâm so với các đình làng khác trong vùng và đình làng cùng niên
đại thế kỷ XVII – XVIII vùng phụ cận liên quan.
- Thông qua nghiên cứu khảo cổ học, luận án cung cấp thông tin đầy đủ hơn về cấu trúc, niên đại xây dựng đình làng, bƣớc phát triển về đình làng Việt Nam và đặc biệt bổ sung vào “phần khuyết’’ ngôi đình đầu thế kỷ XVII, những ngôi đình thời Vĩnh Trị, Cảnh Trị làm cơ sở nở rộ các ngôi đình làng vào thời Chính Hòa.
- Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần cung cấp cơ sở khoa học cho các hoạt động về bảo tồn và phát huy giá trị của chính những ngôi đình làng nói riêng và các di tích đình, đền, chùa nói chung trong điều kiện hiện nay. 7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
nghiên cứu của luận án đƣợc chia làm ba chƣơng:
Chƣơng 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu (33 trang). Chƣơng 2. Đình làng thế kỷ XVII – XVIII ở Gia Lâm (62 trang) Chƣơng 3. Những giá trị lịch sử - văn hoá của các đình làng thế kỷ XVII -
XVIII ở Gia Lâm (53 trang)
6
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Vài nét về đình làng
Trong các công trình kiến trúc tín ngƣỡng, tôn giáo ở mỗi làng quê Việt
Nam, đình làng có một vị trí quan trọng. Đây là công trình kiến trúc tín
ngƣỡng chung mang đặc tính riêng Việt của mỗi cộng đồng, đƣợc xây dựng
trên vị trí trang trọng, linh thiêng nhất, quy mô lớn và đảm nhận nhiều chức
năng khác nhau. Theo nhiều nhà nghiên cứu đình làng là công trình kiến trúc
công cộng của làng xã, dùng làm nơi diễn ra các hoạt động chính trị tinh thần
– văn hóa xã hội của nhân dân ở nông thôn làng xã dƣới thời phong kiến. Với
vị thế đó ngôi đình đã trở thành một trong những công trình có vẻ oai nghiêm
nhất trong phong cảnh Việt Nam [113], và đƣợc coi là nơi hội tụ của nguồn
gốc tƣ tƣởng Việt thuần khiết [30].
1.1.1. Khái quát nguồn gốc và sự hình thành, phát triển của đình
làng Việt Nam
Cho đến nay, các nhà nghiên cứu, đình làng xuất hiện ở Việt Nam từ
bao giờ vẫn là câu hỏi chƣa có lời giải đáp cụ thể. Song, trên thực tế, đình
làng hẳn đã có một bề dày lịch sử lâu đời. Một trong những nguyên nhân
khiến việc xác định cội nguồn của đình làng gặp nhiều khó khăn là bởi vì đến
thời điểm hiện tại, chúng ta vẫn chƣa tìm đƣợc một di tích có đủ độ tin cậy, để
xác định một cách chính xác thời điểm xuất hiện của đình làng Việt Nam
Thời điểm xuất hiện và nguồn gốc của đình làng Việt Nam đến nay vẫn
có nhiều giả thuyết khác nhau. Từ “đình” xuất hiện sớm nhất trong lịch sử
Việt Nam là vào thế kỷ II – III. Theo “Lục bộ tập kinh” của Khƣơng Tăng
Hội có đoạn viết: “Đêm đến ông lặng lẽ chốn đi. Đi hơn trăm dặm vào nghỉ ở
một ngôi đình trống. Ngƣời giữ đình hỏi: “Ông là ngƣời nào”. Ông trả lời:
“Tôi là ngƣời xin nghỉ nhờ” [66, tr.23]. Đoạn văn trên cho biết, đình ở đây là
7
ngôi đình trạm. Theo Nguyễn Văn Huyên “Cái đình ngày xƣa là nhà nghỉ
chân của vua khi nhà vua đi tuần thú trong vùng. Ở tỉnh có hành cung để vua
dừng chân nghỉ ngơi. Ở các làng ven đƣờng cũng có những ngôi nhà có chức
năng nhƣ hành cung. Ví dụ hành cung Lỗ Giang của vua Trần ở Thái Bình.
Về sau vua ít đi tuần thú, dân làng đã sử dụng các hành cung này để thờ
thần”. Ông cho rằng: “Những đình hiện nay có bốn đại tự “Thánh cung vạn
tuế” có nguồn gốc từ đó”. Ý kiến thứ hai : dựa vào dòng chữ ghi trên kẻ của
đình Phù Lƣu, Bắc Ninh “...kẻ nào cho khách đi đƣờng và bọn công thƣơng
trú ngụ (trong đình) thì xin thần linh tru diệt”, căn cứ vào đó Chu Quang Trứ
cho rằng đình làng không có nguồn gốc từ đình trạm. Ý kiến thứ ba cho rằng
đình làng là một kiểu nhà chung, một sản phẩm của làng kiểu trung đại từ sau
Lê Sơ. Thuộc ý kiến này có hai tác giả là Nguyễn Quân và Phan Cẩm
Thƣợng. Ý kiến thứ tƣ của L.Bezacier cho đình làng Việt Nam là một trong
những vết tích của ngƣời Anh-đô-nê-diêng xƣa kia cƣ trú ở miền Đông Nam
Á, về sau có một số ảnh hƣởng của Trung Hoa ghép thêm vào. Tất cả các ý
kiến nêu trên, Hà Văn Tấn cho rằng: “Mặc dù còn thiếu chứng cứ, ta tin rằng
đình – ngôi nhà chung của làng xã đã xuất hiện từ lâu đời, nếu không phải là
thời tiền sử thì cũng là thời sơ sử của dân tộc. Tất nhiên thời đó chƣa đƣợc gọi
là đình, một từ vay mƣợn của Trung Hoa”[66, tr.31].
Tài liệu lịch sử cho biết vào thời nhà Đinh – thế kỷ X, ở kinh đô Hoa
Lƣ đã có dựng đình cho sứ thần nghỉ chân trƣớc khi vào chầu. Sau này đƣợc
gọi là dịch đình. Đình cho ngƣời đi đƣờng nghỉ chân gọi là đình trạm, xuất
hiện ở thế kỷ XIII [13, tr.87].
Trên thực tế ở châu thổ Bắc Bộ còn tồn tại Quán đình. Quán đình
thƣờng lợi dụng dƣới gốc cây cổ thụ giữa cánh đồng, hoặc ở đầu làng, ngƣời
ta dựng một ngôi nhà bằng tranh tre nứa lá hoặc xây bằng gạch đơn sơ để làm
8
chỗ cho trẻ chăn trâu và ngƣời đi làm đồng về dừng chân nghỉ ngơi. Những
quán đình nêu trên chắc chắn không phải là nguồn gốc của đình làng.
Theo nhiều sử liệu, đình làng ra đời từ nhu cầu quản lý hành chính của
triều đình đối với đơn vị hành chính làng với sự gia nhập của vị Thành Hoàng
vào công trình kiến trúc công cộng. Bia ký của đình Quảng Văn ở Kinh đô
Thăng Long có ghi rằng: “Nay nhà vua lo chính sự nhiều, thần dân đông,
không thể bảo tận mặt, nói tận tai đƣợc, nên mới gọi thợ vẽ kiểu, dùng tài ông
Thuỳ, khéo ông Thâu, xây dựng lên ngôi đình ở cửa Đại Hƣng” [12, tr.7]. Nội
dung văn bia nói lên ý nghĩa thực tiễn của ngôi đình trong việc công bố chính
lệnh của nhà nƣớc đƣơng thời. Và, về mặt nào đó cũng phản ánh đƣợc việc
sáng tạo ra một kiến trúc mới. Tạm có thể cho rằng, đây là tiền đề của ngôi
đình làng về sau.
Bia đình Thanh Hà (Hà Nội), vốn xƣa thuộc làng Thanh Hà cổ, nay
thuộc phố Ngõ Gạch, quận Hoàn Kiếm. Bia đề năm Thuận Thiên thứ 3 (1433)
đƣợc coi là tấm bia cổ nhất ghi chép về ngôi đình. Các cứ liệu trên cho phép ta
khẳng định đình làng đã có mặt từ thời Lê Sơ, đầu thế kỷ XV. Điều này hoàn
toàn phù hợp với bối cảnh xã hội thời đó, khi nhà Lê, với chính sách quân điền
(1429) và chính sách lộc điền (1477) đã đẩy mạnh quá trình tan rã của chế độ
thái ấp, điền trang thời Lý - Trần; đồng thời bắt đầu sử dụng Nho giáo làm hệ
tƣ tƣởng chính thống. Với cơ cấu tổ chức xã hội kiểu phụ quyền (trong đó,
quốc gia là một đại gia đình, nhà vua đứng đầu quốc gia nhƣ một ngƣời “cha”
chung), các tổ chức xã hội địa phƣơng nhƣ làng, xã đều có một ngƣời đứng
đầu. Và để khẳng định vai trò quyền lực tập trung của nhà vua cũng nhƣ của
chính quyền trung ƣơng (tức triều đình), cần phải có những dạng kiến trúc nhƣ
đình làng, đảm nhiệm chức năng trụ sở của chính quyền để ban bố chính lệnh
của triều đình. Nhƣ vậy đình làng có thể xuất hiện vào thế kỷ XV và trƣớc đó,
những đình làng hiện biết có niên đại thế kỷ XVI : đình Tây Đằng thuộc xã
9
Tây Đằng, thị trấn Quốc Oai đƣợc dựng vào thế kỷ XVI, trên một đầu cột có
dòng chữ Hán “Quý Mùi niên tạo”. Nhiều ngƣời cho rằng đình dựng năm
1583. Đình Thụy Phiêu ở thôn Thụy Phiêu, xã Thụy An, Ba Vì, Hà Nội. Đình
có niên đại tuyệt đối, niên hiệu Đại Chính của Mạc Thái Tông (1530 – 1540).
Đình Lỗ Hạnh ở thôn Lỗ, xã Đông Lỗ, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang. Đình
có niên đại Sùng Khang của Mạc Mậu Hợp năm thứ 11 (1576). Đình La Phù,
tên nôm là đình Là, thuộc thôn La Uyên, xã Tân Minh, huyện Thƣờng Tín, Hà
Nội. Niên hiệu Diên Thành thứ 4 của Mạc Mậu Hợp (1581). Dựa vào tài liệu
bi ký còn biết thêm: Đình Đại Đoan xã Đoan Bái, huyện Gia Lƣơng, Bắc
Ninh dựng năm Quý Tỵ, niên hiệu Diên Thành của Mạc Mậu Hợp (1583).
Đình Trƣờng Hoài huyện Thái Thụy, Thái Bình dựng năm Diên Thành thứ 8
(1585). Đình Nghênh Phúc, xã Lam Cầu, huyện Gia Lộc, Hải Dƣơng dựng
năm Hƣng Trị thứ 4 của Mạc Mậu Hợp (1591). Đến thế kỷ XVII, đình làng
mọc lên khắp nơi. Có thể nói thế kỷ XVII là thế kỷ của đình làng.
- Đình là nơi thờ các vị Thành Hoàng. Thành Hoàng có thể là nhân thần
nhƣ Trần Hƣng Đạo, Phạm Ngũ Lão, Quang Trung v.v. Có đình thờ ngƣời
góp phân nhƣ ở Đồng Kỵ.
- Đình là nơi họp làng để tổ chức lễ hội, trung tâm cố kết các thành viên
trong một cộng đồng làng xã.
- Về sau đình làng là một trung tâm chính trị, một trụ sở hành chính để
định sƣu thuế, bắt phu, bắt lính.
- Đến thời kỳ Cách mạng nhiều đình trở thành một nơi họp bí mật của
Đảng nhƣ “ Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào” .
1.1.2. Chức năng và vai trò của đình làng trong đời sống văn hoá
Việt Nam
Đình làng là một thiết chế văn hóa – tín ngƣỡng tổng hợp, có ba chức
năng cơ bản: Hành chính, văn hóa, tín ngƣỡng. Ba chức năng đan xen, hòa
10
quyện với nhau tạo thành một chỉnh thể thống nhất tạo nên nền tảng văn hóa
của mỗi cộng đồng cƣ dân.
Làng quê Việt trƣớc đây là những công xã nông thôn, nay đã trở thành
những đơn vị hành chính cơ sở truyền thống. Tổ chức nhà nƣớc đƣợc củng cố
chặt chẽ theo hƣớng quy mô hơn. Với việc xác lập lại hệ thống hành chính
theo mô hình nhà nƣớc phong kiến trung ƣơng tập quyền, thì phần nào đình
làng đã đƣợc Nho giáo hoá để trở thành nơi thờ cúng Thành hoàng làng, vị
vua tinh thần, thần hộ mệnh của làng. “Thành hoàng” vốn du nhập từ Trung
Quốc với vai trò là vị thần bảo vệ thành lũy. Tuy nhiên, tới Việt Nam, từ này
lại mang ý nghĩa khác. Thành Hoàng làng là “vị thần cai quản, che chở, định
đoạt phúc hoạ cho một cộng đồng ngƣời sống trong một đơn vị hành chính”
[34, tr.69]. Mỗi làng, với tƣ cách là một đơn vị hành chính, thƣờng thờ một
đến hai vị Thành hoàng, nhƣng cũng có một số ngôi đình do đặc điểm lịch sử
của địa phƣơng nên thờ nhiều vị Thành hoàng, nhƣ đình Thổ Khối (Gia Lâm)
thờ sáu vị là: Linh Lang, Cao Sơn, Bố Cái, Bạch Đa, Dị Mệ, Đào Đại vƣơng.
Các vị Thành hoàng làng đƣợc thờ trong đình đều phải đƣợc sự công nhận
của nhà nƣớc, phải đƣợc nhà vua phong tƣớc vị. Nhƣ vậy, việc phong tƣớc vị
cho các thần để họ trở thành Thành hoàng làng cùng với sự xuất hiện của các
ngôi đình làng và nhà nƣớc phong kiến đã chính thức hoá việc thờ cúng các vị
thần này ở các vùng quê của ngƣời Việt. Triều đình thực hiện việc “sắc
phong” cho Thành hoàng bao giờ cũng kèm theo thần phả, ghi lại “lý lịch”,
công tích của thần đối với làng xã. Bản thần phả đƣợc đọc một cách trang
nghiêm, kính cẩn tại lễ tế thần ở đình, không chỉ cho thấy uy lực linh thiêng
của vị thần đƣợc thờ, nó còn chứng tỏ uy quyền của Nhà vua, của chính
quyền trung ƣơng đối với cộng đồng làng. Cũng thông qua việc chính thức
hoá vị Thành hoàng nhƣ là ngƣời đại diện của nhà nƣớc, chính quyền phong
kiến đã thống trị ngƣời dân về mặt thần quyền của triều đình. Với những ý
nghĩa đó, ta có thể xem làng xã nhƣ là một đơn vị trung gian giữa quốc gia và
11
gia đình. Vì vậy, làng có tính độc lập tự chủ tƣơng đối. Bởi thế, dân gian mới
có câu: “Phép vua thua lệ làng”; Hay “Trống làng nào làng ấy đánh; Thánh
làng nào làng ấy thờ”.
Các vị thần đƣợc thờ ở đình đều đƣợc gọi chung là Thành hoàng làng
và đều có cội nguồn từ tín ngƣỡng dân gian ngƣời Việt. Thành hoàng làng có
thể là một nhân vật trong lịch sử, hay là một nhân vật hƣ cấu, nhƣ thần sông,
thần nƣớc, thần biển, thần mƣa, thần gió, thần mây, thần đất, thần đá, thần
núi…
Một trong những nét văn hoá đặc thù của vùng Đông Nam Á nói
chung, Việt Nam nói riêng là tục thờ cúng tổ tiên. Một dạng thức thờ cúng
nhân thần đầu tiên, đã đƣợc nhiều nhà nghiên cứu khẳng định đã xuất hiện từ
thời tiền sử, bên cạnh hệ thống các nhiên thần. Vì vậy, việc thờ cúng tổ tiên,
cộng đồng dòng họ đã là một hành vi, tập quán nằm sâu trong tâm thức của
mỗi con ngƣời Việt. Nó đã xuất hiện và tồn tại trong đời sống tinh thần và xã
hội của các cộng đồng làng từ xa xƣa, trƣớc khi có sự xuất hiện của các vị
Thành hoàng làng. Do đó, những vị Thành hoàng làng đƣợc thờ ở đình làng
sau này có thể coi là những “tổ tiên” của họ, sau khi đã đƣợc khắc hoạ thêm
những đƣờng nét linh thiêng và huyền bí. Ngƣời Việt tin rằng, mọi sự việc
trong đời sống hàng ngày đều phụ thuộc vào sự giúp đỡ của các vị tổ tiên;
mọi họa, phúc của cá nhân hay cộng đồng đều đƣợc giải thích nhƣ là một hậu
quả tất yếu về sự trừng phạt hay ban ơn của các vị thần.
Nhƣ vậy, Thành hoàng làng ra đời trên cơ sở kết hợp cả tín ngƣỡng thờ
cúng nhiên thần và nhân thần, vốn là những tín ngƣỡng bản địa nguyên thủy
của ngƣời Việt. Nhƣng dù đƣợc hiện diện trong diện mạo nào, thì cũng là sản
phẩm của tinh thần, thể hiện sự mong ƣớc mà cả cộng đồng làng hƣớng tới.
Vì vậy, việc thờ cúng Thành hoàng làng bao giờ cũng là sự kiện trọng đại và
vô cùng linh thiêng đối với mọi ngƣời dân làng, đƣợc thể hiện qua những nghi
12
lễ, hành vi đƣợc thực hiện ở các buổi tế lễ thần; cũng nhƣ qua việc chọn vị trí
xây cất ngôi đình… Trong những lần cúng tế Thành hoàng, mỗi ngƣời dân
đều ý thức mình là một thành viên, một nhân tố trong cộng đồng làng, mà ở đó,
mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng gắn bó mật thiết với nhau. Phẩm chất
này, qua thời gian đã in sâu vào tâm thức của mỗi con ngƣời và có một vị thế
vững chắc trong cộng đồng làng của ngƣời Việt. Nhƣ vậy, với những hoạt động
thờ cúng diễn ra thƣờng xuyên, đình làng không đơn thuần chỉ là nơi thờ Thành
hoàng làng, mà còn trở thành biểu tƣợng tâm linh của cả cộng đồng làng.
Ngoài chức năng thờ và cúng tế Thành hoàng làng, với tƣ cách là một
cơ sở hành chính của chính quyền phong kiến, đình làng còn là nơi để triều
đình ban bố các sắc lệnh xuống toàn thể ngƣời dân trong làng, là nơi họp bàn
những vấn đề hành chính có tính nội bộ của làng (nhƣ chia ruộng công; phân
bổ thuế khoá; sƣu dịch; quyên góp tiền của xây dựng các công trình công
cộng cho làng cũng nhƣ để cúng tế Thành hoàng…); là nơi xử án, phạt vạ
những ngƣời dân vi phạm lệ làng; nơi diễn ra các hoạt động vui chơi trong các
dịp hội làng sau lễ tế Thành hoàng.v.v..
Hệ thống trật tự, đẳng thứ đƣợc xác lập rất rõ ràng trong việc tổ chức
thờ cúng Thành hoàng. Nguyên tắc trật tự tôn ti, đẳng thứ phụ quyền theo lối
gia đình mở rộng của Nho giáo đã thể hiện đậm nét trong ngôi đình. Đó là
một chế độ đẳng cấp, mà quyền lực và uy tín, các mối quan hệ giữa các cá
nhân, vị thế và vai trò, cách ứng xử, sự phân công lao động và các nghĩa
vụ… đƣợc xác định theo giới tính, tuổi tác, chức sắc và thứ hạng. Thông qua
những vị trí đã đƣợc xác định khá cụ thể cho mỗi thành viên tham dự lễ thờ
cúng Thành hoàng, tại ngôi đình làng, ngƣời ta cũng có thể nhận biết vị trí
của họ trong xã hội làng xã trên tinh thần của thể chế Nho giáo. Trật tự này
còn đƣợc biểu thị rất rõ ở các đám rƣớc thần…
13
Đám rƣớc, dù thuộc dạng nào, đều đƣợc phân thành nhiều bộ phận, mỗi
bộ phận phụ trách một thể loại nghi trƣợng, hay thủ một thể loại vai có liên
quan đến chi tiết đƣợc dựng lại. Mà mỗi bộ phận nhƣ thế lại gồm trai tráng
của một giáp. Trong khi đó, các vị chức sắc, dù đã từng là vị thành niên của
giáp nào, đều tập trung với nhau, đi theo kiệu, kẻ trƣớc, ngƣời sau, tuỳ theo
thứ tự phẩm trật [34, tr.127].
Nhƣ vậy, ngôi đình làng với trật tự tôn ti đẳng cấp trong lễ tế đã phản
ánh rõ nét những ảnh hƣởng của tƣ tƣởng Nho giáo ở làng quê, một đơn vị
hành chính của nhà nƣớc phong kiến. Mặt khác, do Thành hoàng là hiện thân
cho những khát vọng, mong ƣớc của cả cộng đồng làng, đồng thời là nhân tố
quyết định sự thƣởng phạt trong cộng đồng, nên sự hiện diện của thần ở ngôi
đình làng cũng mang ý nghĩa nhƣ là sự chỉ dẫn về phép tắc cƣ xử và đạo lý
chung cho mọi ngƣời dân trong làng. Với việc thực hiện các hành vi mang
tính biểu tƣợng hóa trong “giao tiếp” với Thành hoàng, ngôi đình đã trở thành
nơi truyền thụ những giá trị, chuẩn mực, phép tắc ứng xử chung của làng. Trật
tự và hiệu quả xã hội của làng theo hệ tƣ tƣởng Nho giáo, nhờ đó đã đƣợc
đảm bảo.
Thành hoàng “là hiện thân của cái quyền lực cao thiêng bắt nguồn và
tiếp thu sức mạnh từ bản thân xã hội (...), là sợi dây liên kết mọi thành viên của
làng xã lại thành một khối, một thứ nhân cách tinh thần mà mọi thuộc tính chủ
yếu đều thấy có ở mỗi cá nhân” [34, tr. 135]. Song hành với việc phổ biến, giáo
dục những quy tắc, chuẩn mực chung của xã hội, ngôi đình còn là nơi xử án, xử
tội những ngƣời đã vi phạm lệ làng; đồng thời cũng là nơi hòa giải bất đồng
trong nội bộ. Thành hoàng đã trở thành ngƣời “chứng giám” tối thƣợng, và
ngôi đình đã đƣợc coi nhƣ một “pháp đình”. Ta còn có thể chứng kiến ở đình
những cuộc xét xử tranh chấp, hòa giải những xích mích xảy ra trong cuộc
sống hàng ngày của làng, do các viên kỳ mục làm chủ toạ. “Việc phát thệ dù
14
đơn giản hay có tính chất pháp lý thì vẫn là một sự kiện tôn giáo đƣợc tiến
hành trƣớc bàn thờ thần, và sau khi tuyên thệ thì việc tranh chấp coi nhƣ chấm
dứt” [34, tr. 137].
Mặc dù ngôi đình không tiến hành việc rửa tội cho các thành viên của
làng nhƣ ở những nhà thờ Thiên chúa giáo, nhƣng khi giao cảm với thần
trƣớc bàn thờ, mỗi ngƣời đều có thể tìm lại sự giải đáp và tái khẳng định việc
làm và ứng xử của mình. Xét trên phƣơng diện này, ngôi đình cũng là nơi để
các thành viên trong làng có thể tự điều chỉnh các hành vi, việc làm của cá
nhân cho phù hợp với những chuẩn mực đạo đức, giá trị của xã hội.
Ngôi đình còn là nơi công nhận hôn thú cho các cặp trai gái trong làng
cả về mặt pháp lý (tục lệ làng) và tín ngƣỡng (đƣợc Thành hoàng làng chứng
giám, bảo trợ). Theo lệ tục của các làng ngƣời Việt xƣa, chú rể phải “nộp
cheo”, giống nhƣ một thứ thuế hay phí hôn nhân, tại đình. Nếu chú rể kết hôn
với ngƣời cùng làng, thì nộp cheo ít hơn là khi kết hôn với ngƣời khác làng.
Chỉ khi cheo nộp là tiền hay hiện vật đƣợc đặt lên bàn thờ Thành hoàng ở
đình, cùng các lễ vật thờ cúng, thì đôi trai gái mới nhận đƣợc sự chuẩn y,
đƣợc Thành hoàng bảo trợ và đƣợc chính quyền làng xã cho phép nhƣ là một
vật chứng về tính hợp pháp cho cuộc hôn nhân của họ. Cũng bởi vậy mà dân
gian thƣờng lƣu truyền:
Có cưới mà chẳng có cheo
Dẫu rằng có giết mười heo cũng hoài.
Trong những sinh hoạt của cộng đồng làng, tính lễ giáo cũng đƣợc quy
định rất nghiêm ngặt. Một ngƣời đàn ông trong làng đã đủ tiêu chuẩn lên lão
(tức 50 tuổi) nhƣng nếu không làm lễ khao vọng, tức không mang lễ vật lên
đình, báo cáo với Thành hoàng, thì anh ta mãi cũng chỉ là bạch đinh. Hay nhƣ
một ngƣời đã thi đỗ trạng, nhƣng không về làm lễ khao vọng (Khao làng,
vọng thần) “vinh qui bái tổ” với Thành hoàng làng thì anh ta cũng không
15
đƣợc sự công nhận của cả làng. Có thể thấy, mọi sự chuyển đổi vị thế xã hội
của các thành viên trong làng chỉ có giá trị khi đƣợc sự chứng nhận của Thành
hoàng làng.
Ngoài những chức năng đã nêu, đình làng còn là nơi diễn ra các hoạt
động văn hóa văn nghệ, vui chơi giải trí…đƣợc gọi là “hội hè đình đám” của
ngƣời dân. Hội hè, với vô số trò chơi, cùng với các loại hình văn nghệ dân
gian, nhằm tạo không khí vui vẻ, sảng khoái sau những tháng ngày làm việc
vất vả. Với ngƣời nông dân xƣa, hội hè là dịp duy nhất để họ có thể quên đi
cuộc sống đầy lo toan, là dịp để họ vƣơn tới một đời sống văn hóa tinh thần
cao hơn; đồng thời, đó cũng là dịp để mọi năng lực sáng tạo tiềm ẩn trong mỗi
con ngƣời có điều kiện thể hiện và thăng hoa.
Do đều đƣợc tiến hành bởi các nhóm xã hội của cả cộng đồng, nên
ngoài giải trí, các hoạt động vui chơi, văn nghệ... còn củng cố, tăng cƣờng và
làm bền chặt hơn những mối liên hệ giữa các thành viên trong làng. Mọi
ngƣời trong làng càng thêm gắn bó, thân thiện với nhau hơn. Vào những dịp
hội hè bao giờ cũng đi kèm với những bữa cỗ “đình đám”. Ở đó, mọi đàn ông
đã thành niên của làng đều đƣợc tham dự theo hệ thống phân định ngôi thứ đã
đƣợc ấn định chặt chẽ và đƣợc chia phần. Với những bữa ăn ấy, mỗi ngƣời
dân làng chẳng những ý thức sâu sắc về cội nguồn chung của mình (có chung
một vị thần thành hoàng - một ngƣời cha tinh thần) mà còn ý thức đƣợc vị trí,
cũng nhƣ nghĩa vụ và trách nhiệm của họ đối với cộng đồng làng.
Với những chức năng nhƣ đã nêu trên, đình làng thực sự đã trở thành
một biểu tƣợng có ý nghĩa đặc biệt: nơi thể hiện đậm nét những đặc điểm
mang tính truyền thống của cả cộng đồng làng: Nơi ngự trị của vị thần bảo trợ
của mỗi làng xã, là trung tâm đời sống cộng đồng của làng, đây là nơi các kỳ
hào hội họp, nơi bàn định những vấn đề hành chính và tƣ pháp thuộc nội bộ
16
làng xã; nơi tiến hành những nghi lễ tôn giáo, nói tóm lại là nơi thực hiện tất
cả những sự kiện của đời sống xã hội làng [12, tr.7].
Sự xuất hiện của đình làng và mở rộng về chức năng cho ta thấy, đình
làng ra đời từ nhu cầu phát triển của xã hội ngƣời Việt. Đình làng phát triển
và biến đổi theo sự phát triển chung của lịch sử, xã hội. Điều này sẽ càng sáng
tỏ hơn khi chúng ta tìm hiểu quy mô kiến trúc và nghệ thuật điêu khắc trang
trí của ngôi đình làng.
Từ những vấn đề nêu trên, tựu chung lại đình làng có ba chức năng cơ
bản, đó là:
- Chức năng tín ngƣỡng thờ thành hoàng làng của cộng đồng làng xã.
- Chức năng là trung tâm hành chính của chính quyền làng xã thời
phong kiến.
- Chức năng là trung tâm văn hóa làng của làng xã.
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Trong khoảng một thế kỷ qua, nghiên cứu về đình làng và những giá trị tiêu
biểu của loại hình kiến trúc này đã đƣợc nhiều nhà khoa học quan tâm, những
kết quả nghiên cứu đã đƣợc xuất bản thành sách hoặc đăng tải trên các tạp chí
nghiên cứu trong và ngoài nƣớc.
1.2.1. Nghiên cứu về đình làng trước năm 1954
Dƣới thời Pháp thuộc, có một số học giả phƣơng Tây, điển hình là
P.Giran, Clayes J.Y, P.Gourou... Về phía Việt Nam có Nguyễn Văn Huyên,
Nguyễn Bá Lăng, Nguyễn Văn Khoan...
Trƣớc năm 1954, đình làng ít đƣợc quan tâm nghiên cứu. Một số học
giả nêu trên, nghiên cứu về đình làng chỉ tập trung vào hai lĩnh vực: tín
ngƣỡng và kiến trúc nghệ thuật. Kết quả mới chỉ dừng lại nghiên cứu cơ bản.
1.2.2. Nghiên cứu về đình làng từ năm 1954 đến nay
Từ sau cách mạng tháng Tám (1945), nghiên cứu đình càng đƣợc quan
tâm nhiều hơn. Đặc biệt sau năm 1954 nhiều cán bộ khoa học mới đã đi sâu
hơn về đình làng, song chủ yếu chỉ dừng lại ở mô tả. Tới tận những năm 60
17
của thế kỷ XX, lực lƣợng nghiên cứu mới đã phát triển mạnh, bên cạnh ngành
Khảo cổ học, ngành Bảo tồn Bảo tàng thì với sự vƣơn lên của các ngành có
liên quan, nhất là một hệ thống chân rết ở địa phƣơng đƣợc hình thành, đã cho
chúng ta thấy rõ hơn về thực chất và thực trạng của kiến trúc đình làng.
1.2.2.1. Nghiên cứu về đình làng dưới góc độ kiến trúc và nghệ thuật
điêu khắc
Trong giáo trình của kiến trúc sƣ Ngô Huy Quỳnh của trƣờng Đại học
Kiến trúc, ông cho rằng, các kiến trúc sƣ dựng đình là những bậc thầy của
Khoa kiến trúc đô thị [64] .
Trƣớc năm 1975, ở miền Nam giới nghiên cứu đình làng có Nguyễn
Đăng Thục, ngƣời khởi xƣớng thuật ngữ “Văn hoá đình làng” để chỉ văn hoá
Việt Nam thời quân chủ cho rằng cái đình và cái chùa là một trong những
kiến trúc có ý nghĩa nhất ở Bắc Việt [72].
Năm 1972, có một cuộc trƣng bày các tác phẩm “Điêu khắc gỗ dân
gian Việt Nam” hoạ sĩ Nguyễn Đỗ Cung và các nhà nghiên cứu trẻ đã giới
thiệu 91 bản tuyển chọn từ 32 di tích – trong đó có 12 đình làng, góp phần
nhận định đƣợc phong cách “Nghệ thuật đình làng” qua các thời đại [20].
Cuốn Về tính dân tộc của nghệ thuật tạo hình (1973),do Trần Đình Thọ
(chủ biên) và nhóm tác giả tập hợp nhiều bài viết về tính dân tộc trong các tác
phẩm nghệ thuật tạo hình. Có nhiều bài đề cập tới chạm khắc đình làng nhìn
từ góc độ văn hóa. Các tác giả cho rằng, các chủ đề thể hiện trong những công
trình kiến trúc đình, đền, chùa đều mang hình tƣợng thực sự của hiện thực…
Nó là hình tƣợng của một cảnh sinh hoạt cụ thể, nhƣng lại mang tinh thần của
thời đại [71] .
Bài viết “Điêu khắc đình làng” trong Tạp chí Văn hóa dân gian, số 3
(1984), tác giả Trƣơng Duy Bích đã nhận định, sự phát triển của phù điêu đình làng không chỉ đơn thuần nhằm giải quyết trang trí, làm giảm nhẹ cảm
18
giác nặng nề của các cấu kiện kiến trúc mà đã làm bật lên một tiếng nói mới. Tiếng nói của tâm tƣ, tình cảm ngƣời lao động; về những suy nghĩ, nguyện ƣớc của cuộc đời thƣờng, bằng âm điệu tƣơi mát, mộc mạc, nhƣ cỏ hoa nói lời của đất [5].
Cuốn sách Về tính dân tộc của nghệ thuật tạo hình (1989), gồm nhiều
bài viết về tính dân tộc trong các tác phẩm nghệ thuật tạo hình. Ngoài góc độ
văn hóa, nhiều bài viết đã đề cập tới những giá trị nghệ thuật của chạm khắc
đình làng thông qua cách thức thể hiện. Hình chạm không cầu kỳ, không tỉa
gọt tỉ mỉ, nhƣng đầy sức sống, có sức thu hút mọi ngƣời mạnh mẽ. “Tâm hồn
Việt Nam” mà các nghệ sĩ xƣa có đƣợc đã truyền đọng trong từng nhát đục và
thớ gỗ khiến tác phẩm của họ mang màu sắc dân tộc rõ nét [71].
Trong cuốn sách Hình tượng con người trong nghệ thuật tạo hình
truyền thống Việt (1993), tác giả Trần Lâm Biền đã đi sâu phân tích về hình
tƣợng con ngƣời trong các loại hình nghệ thuật truyền thống, trong đó có nghệ
thuật chạm khắc đình làng Việt. Tác giả khẳng định, chạm khắc đình làng
phát triển rực rỡ nhất là vào TK.XVII, gắn liền với các đề tài về con ngƣời và
những cảnh sinh hoạt thƣờng nhật, chứ ít thấy các đề tài về vua quan phong
kiến. Tìm hiểu những bức chạm khắc đó, chúng ta đều có cảm giác chúng nhƣ
tái hiện diện mạo xã hội đƣơng thời. Tác giả đã chỉ ra một số đề tài thƣờng
thấy trên các chạm khắc đình làng thời kỳ đó nhƣ: vũ nữ thiên thần, cảnh đấu
võ (đấu vật, đấu khiên, cƣỡi ngựa đấu giáo…), săn đấu với thú dữ, chèo
thuyền, chọi gà, các trò vui ngày hội (chơi cờ, hát cửa đình, đá cầu, uống
rƣợu), cảnh múa nhạc. Nhƣng nổi bật hơn cả là cảnh trai gái tình tự, đàn bà
khỏa thân. Qua việc miêu tả một số mảng chạm về đề tài này trên các đình,
tác giả nhấn mạnh: Những hình ảnh nhƣ nêu trên thực ra không phải để nói về
hiện tƣợng dâm bôn hay một hình thức đả phá trực tiếp vào đạo đức Nho giáo
(…) Chúng ta nghĩ tới những điều cầu mong phồn thực cho hạnh phúc của cƣ
19
dân nông nghiệp nƣớc ta. Ngƣời đàn bà với các bộ phận sinh nở và nuôi
dƣỡng đƣợc thể hiện sung mãn, nhƣ chứa đựng ở trong đó một nguồn của cải
bất tận. Tuy nhiên, bởi ý nghĩa của các hình ảnh đƣợc bảo lƣu một cách vô
thức, và thời gian đã làm phai mờ dần tính chất linh thiêng của buổi khởi
nguyên để nghệ nhân tạo nên nhiều nét dí dỏm [7].
Cũng cùng chung quan điểm này, tác giả Trần Lâm trong cuốn Mỹ thuật
thời Mạc (1993), đã đƣa ra và phân tích về các đặc điểm của trang trí thời Mạc
trên một số ngôi đình. Đó chính là những hoạt cảnh ngƣời, thể hiện rất rõ tính
chất dân dã: đồng thời đề tài này nhƣ nét khởi đầu cho sự phát triển rầm rộ
của nghệ thuật tạo hình nhiều nét dân gian cuối TK.XVII [8].
Nguyễn Duy Hinh trong cuốn Tín ngưỡng thành hoàng Việt Nam
(1996), bên cạnh việc nêu lên nguồn gốc, ý nghĩa, sự tích cũng nhƣ hình thức
thờ cúng Thành hoàng làng tại các ngôi đình Việt, đã đƣa ra một số nhận định
về nghệ thuật chạm khắc đình làng. Theo tác giả, các mảng trang trí đình vốn là
một hệ thống tranh liên hoàn có nội dung tổng thể rõ ràng và phân thành từng
cảnh riêng biệt nhau. Tuy nhiên, thời gian đã làm hủy hoại, thay đổi khá nhiều
diện mạo chạm khắc của đình làng, khiến giờ ngôi đình làng chỉ còn những
mảng còn lọt lại rời rạc, từng cảnh nhỏ trở nên khó hiểu và lạc ý ban đầu. Mặc
dù vậy, chạm khắc đình làng vẫn mang nhiều ý nghĩa, đặc biệt là về mỹ thuật
[34].
Nhà phê bình mỹ thuật Thái Bá Vân trong cuốn Tiếp xúc với nghệ thuật
(1997), qua bài nghiên cứu “Điêu khắc đình làng” đã viết một cách rất sâu sắc
về nền nghệ thuật điêu khắc đình làng. Theo đó, ông nhận định về loại hình
nghệ thuật này dƣới góc độ văn hóa, là sự tiếp nối nền mỹ thuật truyền thống
của dân tộc, có đủ mặt những đóng góp hàng dọc của nghệ thuật Lý, Trần,
Mạc.... Điều đó chứng tỏ sự phát triển liên tục của một dòng nghệ thuật. Tác
giả cũng khẳng định, nghệ thuật điêu khắc đình làng mang tính truyền thống,
20
có kế thừa và phát triển trong suốt chiều dài lịch sử, đó chính là biểu hiện của
sự tiếp diễn văn hóa, của mạch nguồn văn hóa dân tộc tuôn chảy qua nhiều
thời kỳ. Căn cứ vào cấu trúc tạo hình, vào cách dựng đƣờng viền cởi mở, cách
dàn bố cục từ nhiều điểm mắt, dụng ý vứt bỏ đăng đối để diễn bằng những
nhịp lệch, lối tạo đƣờng hình chuyển động, phƣơng pháp vạc những mặt khối
thô dỡ, xếp các lớp ra vào đƣờng đột, dùng tầm sâu để tả tầm rộng, làm cho
không gian của những bức phù điêu đƣợc mở ra nhiều chiều [100].
Họa sĩ Ngô Quang Nam trong bài viết Nghệ thuật chạm khắc cổ Việt
Nam thuộc cuốn Hỏi và đáp về văn hóa Việt Nam (1998), đã nêu một cách
khái quát về nghệ thuật chạm khắc của các nghệ sĩ dân gian trên các kiến trúc
truyền thống. Đặc biệt nhấn mạnh rằng, ngôi đình làng với những đề tài xã
hội đƣợc thể hiện trên các thành phần kiến trúc nhƣ đầu bẩy, vì kèo, cửa
võng. Đó là những con vật rất gần gũi với ngƣời nông dân nhƣ mèo, tôm, cá,
chó, lợn, gà, v.v. hoặc tả cảnh ngày hội xuống đồng, cảnh bắn hổ, cảnh đá
cầu. Tác giả còn nhận định về những hình chạm thể hiện tính phồn thực qua
góc nhìn văn hóa truyền thống của ngƣời Việt. Ngƣời nghệ sĩ dân gian đã
miêu tả cảnh trai gái tình tự, hoặc đùa giỡn đƣợc chạm lộng trên các đầu bẩy.
Từ những biểu hiện đó, tác giả đặt vấn đề phải chăng tính phồn thực này bắt
nguồn từ thời Hùng Vƣơng, trải qua hàng nghìn năm vẫn sống mãi trong dân
gian. Đặc biệt trong các mảng chạm khắc đã đƣợc các nghệ sĩ dân gian đua tài
mô phỏng trên những hiện vật đặt ở chốn tôn nghiêm nhất [57].
Trong sách Trang trí trong mỹ thuật truyền thống của người Việt
(2001), tác giả Trần Lâm Biền và các tác giả khác đã kết luận về hoa văn
trang trí hình tƣợng con ngƣời trong chạm khắc trang trí truyền thống nhƣ
sau: Về đề tài con ngƣời, tổ tiên chúng ta đã đi từ những con ngƣời vũ trụ
(thần linh hoặc linh nhân nơi thiên quốc) là những nhạc sĩ thiên thần, vũ nữ
thiên thần, nhạc công đầu ngƣời mình chim… đang chuyển dần sang thiên
21
thần dƣới dạng thế nhân. Để rồi từ TK.XVI, nhất là trong TK.XVII, sự náo
nức làm ồn ào tâm tƣởng đƣợc thể hiện qua các hoạt cảnh gắn với đời thƣờng,
là các cảnh vui chơi và ƣớc vọng trong ngày hội. Đặc biệt là cảnh tình tự nam
nữ quá mạnh bạo, khiến chúng ta ngờ vực về vai trò của đạo Nho trong xã hội
bình dân, mà chuyển sự suy tƣ sang mối quan hệ âm dƣơng. Phải chăng đó là
một gợi ý, đầy chất linh thiêng, cho Trời cha Đất mẹ giao hoan để muôn loài
hƣởng phúc. Trong cuốn này dành hẳn một chƣơng nói về những hình tƣợng
con ngƣời trong chạm khắc kiến trúc làng Việt, trong đó có ngôi đình làng.
Nhóm tác giả đã so sánh hình tƣợng này nhìn từ góc độ mỹ thuật ở các thời
kỳ lịch sử khác nhau. Nếu nhƣ TK.XVI, XVII là: Trong hoạt cảnh con ngƣời
đã mang hình thức tƣợng trƣng với tỷ lệ nhƣ không theo chuẩn mực nào cả,
tuy nhiên vẫn thể hiện một bố cục sống động. Cách chạm tự nhiên, thoải mái,
rõ ràng đã tạo đƣợc một phong cách, hầu nhƣ không biểu lộ về “bài bản” có
sẵn nào, mà vẫn phản ánh đƣợc thực tế cuộc sống. Tới cuối TK.XVIII, đầu
TK.XIX, những đề tài về hình tƣợng con ngƣời đã: mang nét nghiêm trang,
mất đi sự dí dỏm, thiếu hẳn sự mạnh bạo… Điều đáng lƣu ý là trong sự thể
hiện đề tài lúc này đã xuất hiện một quan niệm mới về luật xa gần [11].
Tác giả Chu Quang Trứ, trong cuốn Văn hóa Việt Nam nhìn từ Mỹ
thuật, tập1(2002), nói về tính dân tộc trong các tác phẩm nghệ thuật tạo hình
TK.XVI. Những hình tƣợng nghệ thuật thời kỳ này đã bỏ qua các quy định
nghiêm ngặt, khắt khe của chế độ đƣơng thời. Điều này không chỉ đƣợc biểu
hiện ở hình chạm hoa lá, chim muông mà còn ở hình tƣợng con ngƣời dân dã:
Con ngƣời trở thành trung tâm của nghệ thuật, đặc biệt là ngƣời lao động luôn
đƣợc thể hiện hồn nhiên nhất, yêu đời nhất. Những đôi trai gái ở lứa tuổi yêu
đƣơng đàng hoàng tự tin, những cặp vợ chồng đang âu yếm nhau, những bà
mẹ trìu mến chăm sóc bầy con, những cảnh lao động của ngƣời dân, những
trai làng bơi thuyền và đấu vật thật là hào hứng [96].
22
Trong cuốn sách Cảm luận nghệ thuật (2002), tác giả Trần Duy đã nói
về văn hóa đình làng trong nền văn hóa Việt Nam. Đặc biệt, qua việc phân
tích những hình chạm khắc trên kết cấu đình làng, tác giả đã đƣa ra nhiều
nhận định sâu sắc về ý nghĩa, vai trò của những mảng chạm khắc đó. Tiêu
biểu, khi nói tới hình ảnh ngƣời phụ nữ xƣa đƣợc hiện diện trong những mảng
chạm khắc tại ngôi đình làng tôn kính (nơi vốn dĩ chỉ dành cho đàn ông, phụ
nữ không đƣợc tới), ông thấy đƣợc biểu hiện văn hóa, quan niệm của ngƣời
nghệ nhân dân gian đƣợc thể hiện rất rõ ràng. Ông khẳng định, đình là nơi
ngƣời phụ nữ xuất hiện tự khẳng định giá trị cơ thể và trí tuệ của mình. Tính
tiến bộ của văn hóa đình bắt đầu từ cách định hƣớng giá trị thật của con
ngƣời, nhất là ngƣời phụ nữ [26].
Trong bài viết “Một số đồ án trang trí trong nghệ thuật cổ Việt Nam”
Kỷ yếu hội thảo đồ họa ứng dụng (2002), tác giả Nguyễn Hải Phong đã phân
tích một số đồ án trang trí ở các công trình kiến trúc nghệ thuật cổ Việt Nam
theo những nguyên tắc chi phối nghệ thuật trang trí, cụ thể là thành ba
nhóm: lạ hóa bề mặt, bổ ô trang trí và phân tầng trang trí. Ở mỗi nhóm,
ngoài phân tích những trang trí ở chùa, tác giả còn nhấn mạnh tính đặc thù
rất độc đáo của các trang trí trên phù điêu đình làng. Về nguyên tắc phân
chia theo tầng và khu vực rõ nét ở các đình với trung tâm trang trí hƣớng
vào gian giữa, nơi đặt bàn thờ Thành hoàng, có nguyên một tổ hợp cửa võng
gồm nhiều môtip hoa văn trang trí, kết hợp với những hoành phi và câu đối
tạo nên sự hài hòa, đăng đối và không khí tôn nghiêm trong đình. Việc phân
tầng, chia ô trang trí còn thể hiện ở những hình trang trí trên “liên ba” (là
phần kiến trúc chạy dài tới hai đầu hồi, bề mặt phẳng, mỏng, ghép với nhau
thành mảng lớn từ nhiều ô chữ nhật, to nhỏ khác nhau) [59].
Trong cuốn Cơ sở văn hóa Việt Nam (2004), do Trần Quốc Vƣợng (chủ
biên) và nhóm tác giả đã nhận định về sự phát triển của các ngành văn hóa
23
nghệ thuật nói chung, chạm khắc đình làng nói riêng ở TK.XVI - XVII mang
phong cách dân gian đậm nét, bên cạnh những chủ đề tâm linh nhân thế, điêu
khắc đình làng thời kỳ này còn có những hoa văn phản ánh sinh hoạt văn hóa đời
thƣờng. Khi so sánh về nghệ thuật chạm khắc đình làng TK.XVIII với những
thời kỳ trƣớc đó đã kết luận nhƣ sau: Những ngôi chùa, những đình làng đƣợc
xây dựng trong giai đoạn này nhƣ đình Thạch Lỗi (Mỹ Văn, Hƣng Yên), đình
làng Đình Bảng (Bắc Ninh)… nổi tiếng thể hiện đƣợc phong cách điêu khắc
TK.XVII, cảnh sinh hoạt ít dần trong hoa văn trang trí nhƣng nghệ thuật trang
trí thì vẫn tự nhiên, thoải mái [108].
Hà Văn Tấn, trong cuốn sách Đến với lịch sử - văn hoá Việt Nam (2005),
đã đề cập tới đình Việt Nam, trong đó có nghệ thuật chạm khắc đình làng.
Không chỉ nổi bật với sự đa dạng của chủ đề, những bức chạm miêu tả cảnh
sinh hoạt của con ngƣời nhƣ đốn củi, cày voi, đuổi hổ, bắt rắn, chồng ngƣời
làm xiếc, chèo thuyền uống rƣợu, nam nữ bá vai nhau.v.v.. Tác giả còn nhấn
mạnh đến sự tinh xảo và điêu luyện của kỹ thuật chạm khắc. Đồng thời, ông
cũng cho rằng, ở đình làng Bắc Bộ, nghệ thuật điêu khắc cũng chính là nghệ
thuật trang trí, bởi lẽ bản chất của những ngƣời thợ chỉ là xây dựng ngôi đình
nhƣng ở đây, họ còn đảm nhiệm vai trò trang trí, tô điểm cho ngôi đình thêm
đẹp. Do đó, điêu khắc gắn liền một cách hài hoà và tinh tế với kiến trúc [69].
Trong cuốn Nghiên cứu về mỹ thuật (2006), Nguyễn Đức Bình và
nhóm tác giả đã đi sâu phân tích một thể loại của mỹ thuật, đó là chạm khắc.
Trong rất nhiều môtip trang trí của chạm khắc thời kỳ này, ông nhận định:
hình tƣợng con ngƣời là hình ảnh luôn đóng vai trò chủ đạo và đƣợc đề cao.
Dƣới góc nhìn mỹ thuật, phù điêu đình làng thời Mạc thể hiện rõ sự thay đổi
về khối. Từ những mảng chạm nông chuyển dần sang chạm bong kênh. Hình
khối nhƣ muốn thoát ly khỏi không gian trên mặt phẳng. Tuy phóng khoáng
về nhát đục, nhát chạm về đề tài thể hiện, nhƣng dƣờng nhƣ trong một khuôn
24
hình thì nhân vật và không gian trang trí nhƣ muốn bật ra khỏi bố cục. Trong
một không gian nhỏ, khép kín đồng hiện nhiều hoạt cảnh, nhiều nhân vật [16].
Cuốn Mỹ thuật đình làng đồng bằng Bắc Bộ (2006), Nguyễn Văn
Cƣơng đã miêu tả nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc đình làng theo sự phân
cắt các biểu tƣợng với những tƣ liệu hết sức phong phú. Theo tác giả, các yếu
tố văn hoá đã chi phối các giá trị thẩm mỹ, mô thức thẩm mỹ của ngƣời Việt
khi nghiên cứu mỹ thuật đình làng từ góc độ nghệ thuật học. Cụ thể hơn, đó
là: Tâm thức phồn thực của cƣ dân nông nghiệp trồng lúa nƣớc (mà cơ sở của
nó là tín ngƣỡng phồn thực và triết lý âm - dƣơng); những yếu tố địa - văn
hoá; việc sáng tạo, lựa chọn và sử dụng những mô tip trang trí có tính biểu
tƣợng. Những yếu tố văn hoá hình thành từ những hệ quả của quá trình thích
nghi với môi cảnh tự nhiên (các yếu tố tự nhiên) và xã hội (lịch sử, chính trị,
kinh tế, lối sống) thể hiện ở tƣ duy khái quát, năng lực biểu tƣợng hoá và mô
típ thẩm mỹ…Tác giả đã nhận thấy rằng: Qua những thủ pháp tạo hình đa
dạng, điêu khắc đình làng để lại những dấu ấn đặc sắc, có nhiều yếu tố
thuần Việt, không có sự lặp lại ở các nền mỹ thuật khu vực. Tác giả đã đƣa
ra những chủ đề đa dạng trong chạm khắc đình làng từ TK.XVI đến
TK.XIX, trong đó, con ngƣời với những hoạt cảnh đời sống thƣờng nhật
đƣợc tái hiện rất sinh động, giàu hình ảnh và đầy biểu cảm qua các đôi tay
khéo léo, sáng tạo của các nghệ nhân. Không chỉ thế, ngƣời thợ dân gian
xƣa còn rất linh hoạt và tinh tế khi sử dụng các kỹ thuật chạm (chạm thủng,
chạm nông, chạm kênh bong, chạm lộng) để ý tƣởng của mình đƣợc
chuyển tải đầy đủ nhất [22].
Trong cuốn “Diễn biến kiến trúc truyền thống Việt (vùng châu thổ sông Hồng)”, Trần Lâm Biền đã cho thấy sự ra đời, hƣng thịnh và chuyển đổi chức năng của ngôi đình làng trong lịch sử. Bên cạnh đó giới thiệu kiến trúc cổ
25
truyền cơ bản của ngƣời Việt, đặc biệt là những diễn biến kiến trúc đình làng qua các thời kỳ [13].
Cuốn Văn minh vật chất của người Việt (2011), nhà phê bình mỹ thuật
Phan Cẩm Thƣợng đã nêu lên nguồn gốc các chủ đề sinh hoạt thƣờng nhật
của con ngƣời trên những mảng chạm khắc trang trí kiến trúc đình làng dƣới
góc độ văn hoá học. Ông cho rằng, những ngƣời thợ dân gian xƣa đã khéo
léo, khôn ngoan đƣa những đề tài dân gian vào chạm khắc đình làng dƣới bức
màn tôn giáo. Qua quá trình tìm hiểu thần phả của nhiều làng xã, ông cho
rằng phù điêu đình làng còn có thể coi là một cuốn dã sử tái hiện lại cuộc
sống của những ngƣời dân lúc bấy giờ: cái nhìn tín ngƣỡng và Nho giáo dƣới
góc độ dân gian vẫn là hình thức bên ngoài cũng những bức phù điêu, nhƣng
bên trong đầy rẫy những hoạt cảnh dung tục và ngày thƣờng nhƣ ngƣời dân
đang sống và vẫn sống nhƣ thế [74].
Bài viết “Từ đặc trƣng và giá trị mỹ thuật của các di tích kiến trúc nghệ thuật trên địa bàn Hà Nội” thuộc cuốn sách Thế giới biểu tượng trong di sản văn hóa Thăng Long - Hà Nội (2011), Trần Lâm Biền đã thông qua việc nêu ra một số di tích kiến trúc tại Hà Nội để nhấn mạnh giá trị về văn hóa cũng nhƣ mỹ thuật của những công trình này. Theo ông, những ngôi đình làng ở Thủ đô thƣờng có niên đại khoảng cuối TK.XVII, đầu TK.XVIII (giai đoạn phát triển rực rỡ của nghệ thuật đình làng). Các đề tài đƣợc chạm trổ sinh động và vui mắt. Đáng chú ý nhất là hình tƣợng nam giới mặc váy (đình Tây Đằng, Dục Tú…). Ông cho rằng: Đây là một biểu hiện có tính lịch sử về phục trang trong chạm khắc cổ của ngƣời Việt. Đây là một chi tiết rất đáng quan tâm, giúp cho chúng ta xác nhận lại về một khía cạnh của phục trang ngày trƣớc, từ đó cũng đóng góp nhiều cho các phim lịch sử và sân khấu [14].
1.2.2.2. Nghiên cứu về đình làng dưới góc độ dân tộc học, văn hóa, tín
ngưỡng
Với Lê Văn Hảo trong cuốn chuyên luận “Mở đầu việc nghiên cứu ngôi đình và phƣơng diện dân tộc học”. Mặc dù, chủ đích của công trình Dân tộc
26
học này dành cho việc miêu tả các hoạt động tinh thần ở đình làng, nhƣng Lê Văn Hảo đã cố gắng đƣa ra một đề cƣơng toàn diện cho việc nghiên cứu ngôi đình và ca ngợi đình làng chiếm vị trí hàng đầu trong nền kiến trúc Việt Nam [31].
Nhà triết học Kim Định đã đặt tên cho tập sách của ông là “Triết lí cái đình” và coi nó là nơi hội tụ của nguồn gốc tƣ tƣởng Việt thuần khiết, không hề có màu sắc nhập ngoại Trung Hoa [30].
Tiếp sau đó, Chu Quang Trứ và Trịnh Cao Tƣởng với bút danh Phƣơng Anh – Thanh Hƣơng đã giới thiệu các đình làng đẹp nhất của Hà Bắc trong hai tập sách “Hà Bắc ngàn năn văn hiến” in trong các năm 1973, 1976. Đó là các đình: Đình Bảng, Thổ Hà, Diềm, Hồi Quan, Thắng, Phù Lƣu, Cao Thƣợng,...[40].
Trần Lâm Biền qua bài “Quanh ngôi đình làng – lịch sử” trong Tạp chí
Nghiên cứu nghệ thuật, số 4 (1983) đƣợc coi là bài viết gần nhƣ sớm nhất, có
tính nghiên cứu sâu và tổng hợp bàn về lịch sử hình thành ngôi đình làng [12].
* Từ sau cách mạng tháng Tám (1945), nghiên cứu đình càng đƣợc quan tâm nhiều hơn. Đặc biệt sau năm 1954 nhiều cán bộ khoa học mới đã đi sâu hơn về đình làng, song chủ yếu chỉ dừng lại ở mô tả. Tới tận những năm 60 của thế kỷ XX, lực lƣợng nghiên cứu mới đã phát triển mạnh. Đáng chú ý, nghiên cứu về đình làng dƣới góc độ tín ngƣỡng, nghệ thuật có một bƣớc tiến lớn so với thời kỳ trƣớc năm 1954.
1.2.2.3. Nghiên cứu về đình làng dưới góc độ khảo cổ học lịch sử
Luận án Phó tiến sĩ của Trịnh Cao Tƣởng với đề tài “Đình làng Phù Lão – Hà Bắc trong nền cảnh đình làng Bắc Bộ” (Hà Nội - 1994). Luận án nghiên cứu sâu về đình làng Phù Lão, một ngôi đình điển hình của vùng đất trung du đồng bằng Bắc Bộ, dƣới các góc độ: vị trí địa lý, kiến trúc, điêu khắc đã góp phần xây dựng lý luận mới về sự phát triển của lịch sử kiến trúc, sự phát triển văn hóa trong bối cảnh của kinh tế xã hội Việt Nam thời hậu Lê. Trong luận án, tác giả cũng đã thống kê 42 ngôi đình có niên đại từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII ở các tỉnh Hà Tây, Hà Bắc, Vĩnh Phú, Hải Hƣng, Nam Hàm Hải Phòng,
27
Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Ninh so sanh với đình Phù Lão từ đó đã rút ra những đặc trƣng cơ bản của đình làng Việt Nam.
Luận án Phó tiến sĩ của Nguyễn Anh Tuấn với đề tài “Cụm đình Tam Canh trong hệ thống đình làng ở Vĩnh Phú” (Hà Nội – 1996). Luận án tập trung nghiên cứu 3 ngôi đình Hƣơng Canh, Ngọc Canh, Tiên Hƣờng trên vùng đất văn hóa cổ truyền đại diện vùng Trung du Bắc Bộ. Qua nghiên cứu so sánh đã đƣa ra những đặc trƣng chung của hệ thống đình làng thế kỷ XVII – XVIII.
Luận án Tiến sĩ của Phan Xuân Thành với đề tài “Đình Võ Liệt trong bối cảnh đình làng Nghệ An” (Hà Nội – 2002). Luận án nêu những đặc trƣng kiến trúc đình làng xứ Nghệ nói chung và kiến trúc đình làng thời Nguyễn nói riêng. Góp phần tìm hiểu nguồn gốc đình làng, sự phát triển cùng vai trò của đình làng trong đời sống hiện tại.
Luận án tiến sĩ của Nguyễn Hồng Kiên “Những ngôi đình làng thế kỷ
XVI ở Việt Nam” năm 2003 đã góp phần đi sâu nghiên cứu về loại hình kiến
trúc đình làng trong lịch sử. Đặc biệt luận án đi sâu nghiên cứu những kiến trúc
đình làng có niên đại sớm ở nƣớc ta, đặt tiền đề cho việc nghiên cứu hệ thống
kiến trúc đình làng những giai đoạn sau.
* Nhìn chung các luận án nghiên cứu về đình làng nêu trên trong không
gian rộng, thời gian dài từ thế kỷ XVI đến XVIII, đã bƣớc đầu khái quát diện
mạo loại hình kiến trúc đặc trƣng trong kiến trúc cổ truyền dân tộc. Đặc biệt
nghiên cứu đình làng ở châu thổ Bắc Bộ sẽ là những tƣ liệu chân xác góp phần
đối chiếu về đặc điểm kiến trúc, nghệ thuật điêu khắc trang trí cho các ngôi đình
ở Gia Lâm.
1.2.3. Tình hình nghiên cứu về đình làng ở Gia Lâm
* Đình làng là công trình kiến trúc tiêu biểu đƣợc gìn giữ ở mỗi làng quê
trên đất Gia Lâm. Nằm cận kề vùng đất trung tâm văn hóa của đất nƣớc, cho
nên những ngôi đình ở Gia Lâm đƣợc nhiều thế hệ học giả, nhiều cơ quan
quan tâm chú ý. Trong những khóa luận tốt nghiệp Đại học khoa Bảo tàng
Trƣờng Đại học Văn hoá Hà Nội của Nguyễn Văn Anh với đề tài “Tìm hiểu
28
di tích lịch sử văn hoá đình Thanh Am’’ năm 2007; Lê Thu Phƣơng với đề tài
“Tìm hiểu di tích lịch sử văn hoá đình Tình Quang’’ năm 2008; Nguyễn Thuý
Hồng có đề tài “Tìm hiểu di tích lịch sử văn hoá đình Trƣờng Lâm’’, năm
2010 và gần đây Luận văn Thạc sĩ của Lê Quốc Vụ với đề tài “Đình Tình
Quang kiến trúc và điêu khắc” năm 2015. Những luận văn nêu trên nghiên
cứu đơn lẻ, độc lập từng ngôi đình và mới chỉ dừng lại bƣớc đầu tìm hiểu đƣa
ra một số nhận xét nhất định, chƣa có tính nghiên cứu tổng thể.
* Từ năm 2006 đến nay, chính quyền cơ sở đã chỉ đạo tổ chức các hội thảo
khoa học đánh giá giá trị của các di tích, những thực trạng và đƣa ra nhữngc giải
pháp quy hoạch, tu bổ cho từng di tích hoặc cụm di tích. Trong các hội thảo ấy có
những hội thảo chuyên đề về một số di tích đình nhƣ: đình Thanh Am, đình Tình
Quang, đình Hội Xá, đình Thổ Khối, đình Xuân Đỗ Hạ, đình Nha, đình Trạm, đình
Tƣ Đình, đình Bình Minh với Hành Cung Cổ Bi... Tại các hội thảo đã có rất nhiều
tham luận của một số nhà khoa học. Các tham luận tại các hội thảo cũng đã nghiên
cứu về vị thế địa – văn hoá, giá trị của kiến trúc, giá trị về văn hoá vật thể, văn hoá
phi vật thể ... đồng thời đánh giá hiện trạng của từng di tích và đƣa ra giải pháp
nhằm quy hoạch, tu bổ tôn tạo cho từng di tích hoặc cụm di tích. Các tham luận của
các nhà nghiên cứu cũng đã đƣa ra một số giá trị nhất định của đình làng. Tuy nhiên
mục đích chủ yếu phục vụ cho công tác quy hoạch, tu bổ, tôn tạo di tích.
* Năm 2006, Nhà xuất bản Sự Thật xuất bản cuốn sách “Di tích lịch sử
văn hoá và cách mạng kháng chiến quận Long Biên’’ do Uỷ ban nhân dân
quận Long Biên làm chủ biên với sự tập hợp các bài viết của nhiều tác giả.
Tuy nhiên cuốn sách chỉ dừng lại góc độ giới thiệu các di tích trên địa bàn
quận Long Biên, trong đó có các ngôi đình tiêu biểu ở đây.
Năm 2010, Nhà xuất bản Thời Đại đã xuất bản cuốn sách “Cổ vật Long
Biên’’ do UBND quận Long Biên và Bảo tàng lịch sử Việt Nam tập hợp kết
quả các đợt giám định cổ vật. Cuốn sách chỉ dừng lại giới thiệu kết quả các
29
đợt giám định và một số hình ảnh về cổ vật tiêu biểu tại các đình, chùa, đền
trên địa bàn.
Cũng năm 2010, nhân kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội,
UBND huyện Gia Lâm đã giới thiệu cuốn sách “Di tích lịch sử văn hoá –
cách mạng kháng chiến huyện Gia Lâm’’ do Sở Thông tin và Truyền thông
Hà Nội cấp phép và cuốn sách cũng dừng lại giới thiệu các di tích trên địa bàn
huyện Gia Lâm.
Những ngôi đình đƣợc giới thiệu trong sách nói trên và cả trong hồ sơ xếp
hạng di tích cũng chỉ mang tính chất sơ lƣợc.
Những công trình nghiên cứu và những tài liệu trên đây cho ta thấy, tới
nay những di tích đình làng thế kỷ XVII – XVIII ở Gia Lâm (Hà Nội) vẫn
chƣa có một chuyên khảo nào giới thiệu đầy đủ về những giá trị lịch sử và văn
hoá của nó. Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu ấy đã giúp cho tác giả
luận án một số vấn đề sau:
- Những công trình nghiên cứu về đình làng làm căn cứ khoa học, giúp
cho tác giả luận án có tính định hƣớng tiếp tục nghiên cứu về đình làng nói
chung và làm cơ sở so sánh khi nghiên cứu về đình làng ở Gia Lâm (Hà Nội)
thế kỷ XVII – XVIII với những giá trị lịch sử và văn hóa nói riêng.
- Nghiên cứu về về đình làng ở Gia Lâm (Hà Nội) thế kỷ XVII – XVIII
với những giá trị lịch sử và văn hóa, tác giả luận án tiếp thu một số thành quả
các học giả đi trƣớc góp phần tìm hiểu sự tƣơng đồng và khác biệt giữa đình
làng ở Gia Lâm với những ngôi đình khác. Đặc biệt luận án là công trình đầu
tiên dƣới góc độ khảo cổ học, nghiên cứu sâu và mang tính chất tổng quan về
đình làng ở Gia Lâm.
1.3. Khái niệm thƣờng sử dụng trong luận án
Trong luận án này, tác giả sử dụng một số thuật ngữ, khái niệm cơ bản
khi tiếp cận nghiên cứu đình làng.
30
- Dĩ: không gian giữa (2) cột cái và (2) cột quân ở đầu hồi, thƣờng nằm
- Chân tảng: (hay còn gọi là đá tảng) là những khối đá lớn, kê dƣới
Thuật ngữ sử dụng trong kiến trúc: - Gian: là một đơn vị tổ chức không gian mặt bằng, xác định quy mô, tầm cỡ của các kiến trúc cổ truyền thống của ngƣời Việt. Kiến trúc càng có nhiều (không) gian càng đƣợc coi là to lớn. Giới hạn gian đƣợc qui định bởi khoảng cách hai bộ vì (một tổ hợp liên kết các cấu kiện theo mặt cắt ngang của một kiến trúc) liền sát nhau xác định đơn vị 01 gian. Vì vậy, số lƣợng vì luôn là một số chẵn và số gian bao giờ cũng là một số lẻ. - Chái: là một gian đặc biệt, nằm ở hai đầu hồi của kiến trúc, là khoảng không gian đƣợc giới hạn bởi một vì có chân các cột chống xuống chân tảng của mặt nền và 1 vì lửng (các cột trốn chân, đứng trên một xà dọc chứ không chống xuống nền). dƣới mái bên. chân các cột mặt nền. - Cột: là những thân gỗ lớn, dài , đứng song hàng từng cặp trên chân
tảng đặt trên mặt nền. Các cột là cấu kiện chính của kết cấu bộ khung chịu
lực, gánh chịu phần lớn tải trọng của hệ mái, làm xƣơng sống cho mọi liên kết
và tạo nên chiều cao - tầm vóc công trình. Cột còn là cấu kiện ít biến đổi nhất,
có các loại cột cơ bản nhƣ sau:
+ Cột cái: là những cây cột có tiết diện và kích thƣớc lớn nhất, đƣợc
dựng thành hàng, theo mặt cắt dọc ở trung tâm nội thất kiến trúc. Nhiều vùng
gọi tên loại cột này theo vị trí cột: cột lòng/hàng nhất. Cột cái có công năng
chủ yếu là nâng đỡ vì nóc, đồng thời tạo nên các điểm liên kết khung kết cấu
theo chiều dọc kiến trúc .
+ Cột quân (còn gọi là cột con, cột thành, cột lòng/ hàng nhì): nhỏ và
ngắn hơn cột cái. Đảm bảo chức năng đỡ vì nách và tạo thêm các điểm liên
kết theo ở một cao độ thấp hơn so với cột cái .
31
+ Cột hiên: có kích thƣớc nhỏ hơn, hoặc bằng cột quân. Công năng
chính là nâng đỡ mái hiên.
+ Cột trốn là hình thức trốn chân, chân cột không trốn thẳng xuống nền.
- Bộ vì: là yếu tố cơ bản của kết cấu khung gỗ, liên kết tất cả các cấu
kiện (cột - xà- kẻ - bẩy). Các bộ vì chính là kết cấu chịu lực nâng đỡ mái.
Theo mặt cắt ngang, một bộ vì đƣợc chia thành ba phần:
+ Vì nóc: là liên kết các cấu kiện ở khoảng không gian giữa hai cột cái,
đỡ nóc và nửa mái phía trên. Khoảng không gian ấy có hình một tam giác cân,
giới hạn bởi câu đầu.
+ Vì nách: là liên kết các cấu kiện ở khoảng không gian hình một tam
giác vuông, đƣợc tạo thành giữa cột cái và cột quân. Tam giác vuông này
cạnh dài là xà nách cấu kiện liên kết cột cái và cột quân theo mặt cắt ngang,
cạnh ngắn là độ dài hơn của cột cái so với cột quân và cạnh huyền là độ dài
phần mái phía dƣới.
- Hiên: là liên kết các cấu kiện để phần đua vƣơn ra ở hàng hiên, tính từ
Hệ thống dầm sạp gỗ ở kiến trúc đình làng cũng là những cấu kiện có
cột quân ra hết chân mái giọt gianh. - Xà dọc: cấu kiện gỗ liên kết các cột theo mặt cắt dọc, làm hình thành một hệ thống “giằng” cố định các bộ phận thành một khung chịu lực. Nhiều khi các cấu kiện này còn đƣợc gọi là xà đai vì chúng đánh đai các cột ở nhiều cao độ khác nhau. Các xà dọc ăn mộng ở phần đầu các cột cái có tên là xà thượng, các xà dọc ở đầu các cột quân có tên là xà trung, các xà dọc ở đầu các cột hiên có tên là xà hạ, các xà dọc ở phần chân các cột hiên có tên là xà ngưỡng. tác dụng liên kết, cố định làm bộ khung gỗ chịu lực thêm vững chãi. - Vì giá chiêng: là một thuật ngữ kiến trúc cổ, chỉ kiểu liên kết các cấu kiện theo hình thức của các giá cheo chiêng trống cổ truyền (có nơi, dân gian lại nhìn nhận hình dáng kiểu này giống cái quang đèn). Đây là kiểu kiến trúc liên kết vì nóc có niên đại sớm nhất trong các kiến trúc cổ bằng gỗ hiện còn.
32
- Câu đầu: một loại xà ngang, đƣợc dùng để liên kết hai đầu một cặp cột cái ở các kiến trúc có niên đại sớm, câu đầu chỉ kê trên đầu cột cái qua một đấu vuông thót đáy; muộn hơn về sau câu đầu mới ăn mộng xuống đầu cột cái.
- Đầu dư: phần kết cấu gắn với các cột cái trong ngôi đình thƣờng đƣợc
chạm lộng để tạo tính mỹ thuật cho công trình kiến trúc.
- Cửa võng: nếu nói chữ thì đây đƣợc gọi là cái long môn, thuật ngữ chỉ
toàn bộ khung trang trí phía trƣớc của nơi thờ thành hoàng.
- Con rường: là những thân gỗ ngắn, nằm ngang trong các kết cấu vì
nóc và vì nách. Đầu các con rường tạo điểm đỡ hoành mái.
- Ván nong/dong: là những tấm ván gỗ dày, kê giữa các cấu kiện. Công
năng kiến trúc của cấu kiện này chƣa thật rõ, có lẽ (theo nhƣ tên gọi) đây
cũng là một biện pháp cân chỉnh, kê kích các cấu kiện lớn, tƣơng tự nhƣ các
đấu hay guốc hoành. Nhiều khi hai mặt của ván nong đƣợc chạm khắc trang
trí.
- Hoành mái: là những thân gỗ (hoặc có hình dạng tự nhiên của các
thân gỗ nhỏ, hoặc có hình vuông do đƣợc xẻ từ những thân gỗ lớn) gác qua
các bộ vì theo chiều dọc công trình. Chiều dài một hoành bằng chiều rộng của
một gian. Cấu kiện này tạo thành mặt phẳng mái.
- Guốc/dép hoành: là những khúc gỗ nhỏ, có thể ngắn - dài, cao - thấp
tùy trƣờng hợp cụ thể, thƣờng đƣợc tạo hình đẹp, kê dƣới các hoành mái.
Công năng của cấu kiện này là cân chỉnh mặt phẳng mái.
- Cốn chồng rường: là một kiểu thức liên kết các cấu kiện ở vì nách.
Các con rường nằm chồng lên nhau qua các đấu vuông thót đáy và trốn cột.
Vì nách có nhiều kiểu liên kết khác nhau, riêng chồng rường đƣợc gọi là cốn.
- Bẩy hiên: là những thân gỗ đặt chéo, ăn mộng qua đầu các cột ở hiên (cột quân hoặc cột hiên). Phần đuôi bẩy (có tên gọi riêng là nghé bẩy) tỳ lực vào dạ xà nách, thân bẩy chạy chéo vuông, vƣơn dài ra đỡ những hoành mái
33
cuối cùng. Theo chúng tôi, chỉ cấu kiện có nghé đội vào dạ xà nách, gác một điểm tựa duy nhất ở mộng trên đầu cột quân (hay cột hiên) dùng sức nặng của mái trên đè xuống, bẩy lên đỡ chân mái theo đúng nghĩa đòn bẩy mới gọi là bẩy hiên. Trong các trƣờng hợp thân gỗ chạy chéo này gác tới hai mộng (một ở đầu cột hiên, một ở đầu cột quân) thì lại là cấu kiện có tên là Kẻ. - Tâm/tim cột: trong kiến trúc cổ truyền Việt, khoảng cách thƣờng đƣợc xác định từ các tâm hình tròn của các cột, tim các tƣờng gạch xây. Cách đo này giúp tránh đƣợc các sai số vì thông thƣờng các hàng cột không dựng vuông góc với mặt nền mà “thượng thu - hạ thách”. - Tàu mái: là những tấm ván gỗ dày, nối nhau, ăn mộng chốt vào bẩy hay kẻ hiên (hoặc ván nong trên đó). Thực chất, có thể coi đây là cây hoành cuối cùng của mái. Tàu mái thuộc không gian của các gian đƣợc gọi là tàu gian, thuộc phần hồi nhà đƣợc gọi là tàu hồi. Tàu gian chỉ là một tấm ván dày, thẳng; còn tàu hồi là nhiều tấm ván ghép chồng nối với nhau, déo cong lên góc mái (Déo cong là một thuật ngữ kiến trúc cổ chỉ sự vƣơn cao, uốn cong, vuốt nhỏ dần về một đầu). Nhiều nơi gọi tàu hồi là tàu đao. - Rui: là những thanh gỗ mỏng (kích thƣớc theo mặt cắt thƣờng là 0,02 x 0,10m; dài tùy ý) dải nằm vuông góc trên các thân hoành mái, chạy theo chiều dốc của mái.. Công năng của cấu kiện này tạo nên mặt phẳng để lợp ngói. - Mè/gộp rui: là những thanh gỗ nhỏ (tiết diện 0,03m x 0,04m; dài tùy theo gỗ đƣợc sử dụng). Đƣợc gác vuông góc trên rui, song song với hoành và cũng chạy suốt chiều dọc mái nhƣ hoành. Công năng chính của cấu kiện này là chống sự xô, tụt ngói lót.. - Ván gió: đƣợc gọi là ván gió hoặc ngắn gọn là lá gió. Theo vị trí cấu
kiện này còn đƣợc gọi là diệp thượng, diệp hạ.
Thuật ngữ sử dụng trong nghệ thuật:
- Hình tượng: sự phản ánh hiện thực một cách khái quát bằng nghệ
thuật dƣới hình thức những hiện tƣợng cụ thể, sinh động, điển hình, nhận thức
trực tiếp bằng cảm tính.
34
- Hình tượng nghệ thuật: phạm trù cơ bản của mỹ học, dùng để chỉ một
hình thức phản ánh hiện thực đặc thù bằng các phƣơng tiện nghệ thuật. Hình
tƣợng nghệ thuật khác với các phạm trù của tƣ duy khoa học (khái niệm, phán
đoán, diễn dịch), do tính chất trực tiếp của nó. Đồng thời, nó cũng khác với
các phạm trù khác nhƣ: cảm giác, tri giác, biểu tƣợng, vì ngoài sự phản ánh
trực tiếp hiện thực, nó còn nhằm tổng hợp các hiện tƣợng của đời sống theo
một kiểu riêng. Nó thâm nhập vào bản chất của các hiện tƣợng đó và làm sáng
rõ ý nghĩa sâu xa của chúng. Hình tƣợng nghệ thuật làm xuất hiện trong một
sự thống nhất khăng khít các yếu tố của nhận thức trực quan tích cực và tƣ
duy trừu tƣợng, nhƣng đồng thời nó cũng khác về bản chất cả với cái này và
cái kia.
- Nghệ thuật tạo hình: là nghệ thuật đƣa tới thị giác những tác phẩm có
không gian hai hoặc ba chiều nhƣ: hội họa, điêu khắc, kiến trúc, đồ họa, nghệ
thuật trang trí ứng dụng.
- Nghệ thuật dân gian truyền thống: các môn nghệ thuật truyền từ đời này
sang đời khác theo phƣơng pháp “cha truyền con nối” trong các làng xóm,
phƣờng xã… Kiểu mẫu cổ truyền thƣờng đƣợc giữ mãi, ít khi bị thay đổi. Ở Việt
Nam có nghệ thuật làm đồ chơi, nghệ thuật hát chèo, nghệ thuật in tranh Đông
Hồ, Nghệ thuật chạm khắc.
- Nghệ nhân: ngƣời làm nghệ thuật theo lối truyền thống. Họ tạo ra sản
phẩm dựa trên kinh nghiệm “cha truyền con nối” bằng sự khéo léo của đôi tay
với những công cụ máy móc đơn giản nhƣ bàn xoay, dao khắc… Đặc biệt, mỗi
sản phẩm của nghệ nhân làm ra đều mang nét độc đáo riêng, không có cái nào
giống cái nào, dù rằng chúng cùng một mẫu. Hầu hết các nghệ nhân không qua
các trƣờng lớp đào tạo mà học theo kiểu truyền nghề.
- Họa tiết: hình vẽ đã đƣợc cách điệu hóa, dung để trang trí .
- Hoa văn: hình vẽ trang trí đƣợc thể hiện trên các đồ vật .
35
- Chạm: là tạo nên những đƣờng nét hoặc hình khối nghệ thuật trên mặt
vật rắn bằng cách đục, khắc. Chạm còn là kỹ thuật điêu khắc, đục xuống mặt
vật liệu (đá, gỗ, ngà…) để làm nổi bật lên các hình tƣợng nghệ thuật muốn
diễn tả, ở sau phù điêu bằng chạm nổi. Các kỹ thuật chạm chủ yếu là chạm
nổi (cao, vừa và thấp), chạm bong hay chạm kênh, chạm lộng hay chạm
thủng. Những kỹ thuật này phổ biến trong mỹ thuật Việt Nam và thế giới .
- Chạm thủng: mặt ván thƣờng không dày, các hình thƣờng phẳng và
nền bị đục thủng, chỉ còn lại các hình trang trí. Kỹ thuật này cho phép diễn tả
hoa lá, mây nƣớc, chim thú, rồng, phƣợng… rất tinh tế, mềm mại, thanh nhã,
với hiệu quả trang trí cao, lại có giá trị sử dụng khi làm cánh cửa, cửa thông
gió, tƣờng ngăn nhỏ hay bình phong…
- Chạm nông: bề mặt gỗ phẳng và các chi tiết đƣợc chạm nổi ở trên đó.
Các bức chạm vuông vức trên các ván bƣng, hoành phi, câu đối… thƣờng
dùng lối chạm này, rất thuận tiện cho việc sơn son thếp vàng. Kỹ thuật chạm
nông cho phép các hình trang trí đƣợc bố cục trải đều phủ kín mà không làm
giảm chịu lực của cấu kiện gỗ.
- Chạm kênh bong: kỹ thuật chạm khắc để tạo ra các hình trang trí
nhiều lớp từ thân gỗ chịu lực. Các hình rồng, phƣợng, mây, hoa lá gắn với các
khối lớn hoặc ở các xà kèo lớn thƣờng đƣợc tách ra, có khi theo nhiều lớp
chồng lên nhau. Kỹ thuật này tạo ra cảm giác các hình nhƣ mọc ra từ thân gỗ,
kết hợp với hiệu quả ánh sáng gây cảm giác trang trí uốn lƣợn rất cầu kỳ, hơn
hẳn cách chạm nông hay chạm thủng. Nhiều khi ngƣời ra kết hợp với kiểu
chạm kênh bong bằng việc gắn thêm phía ngoài những chi tiết khắc rời, tạo
hiệu quả tầng tầng lớp lớp cho mảng trang trí. Kiểu chạm kênh bong khá phổ
biến ở phù điêu trang trí đình làng.
Chạm bong (chạm kênh, chạm kênh bong) thuật ngữ kỹ thuật dân gian
chỉ hình thức chạm khắc trên gỗ mà một số thành phần của bức chạm đƣợc
36
chạm trồi cao nên gần nhƣ tách ra khỏi mặt nền. Lối chạm này tạo nên nhiều
lớp cao thấp nhằm diễn tả chiều sâu không gian, khẳng định những hình
tƣợng chủ yếu của các bức chạm. Kiểu chạm này đƣợc chạm nhiều trên các
thành phần kiến trúc ở đình, chùa cổ Việt Nam .
- Chạm lộng: là cách chạm khắc đòi hỏi kỹ thuật cao, sự công phu, tỉ
mỉ của ngƣời thợ. Đây cũng là kỹ thuật chạm khắc đầy tính biểu cảm, có
hiệu quả không gian và khối cao nhất. Các hình khối chạm lộng thƣờng là
những nhân vật và các con vật linh… Chúng gần nhƣ những pho tƣợng tròn,
lồi hẳn ra, chồng chéo nhiều lớp cực kỳ phức tạp, làm mất cảm giác về nền
vốn có của bức chạm. Cả thân cây gỗ đƣợc đục rỗng, tạo ra những khoảng
trống luồn lách trong khối tƣợng. Các bức chạm khắc đƣợc chạm lộng
thƣờng là những phần hấp dẫn nhất của điêu khắc trang trí đình làng.
Chạm lộng (chạm thủng): chỉ những bức chạm (phần nhiều bằng gỗ,
ngà, sừng) mà các hình tƣợng nghệ thuật đƣợc thể hiện vẫn nằm trên mặt
phẳng nhƣng liên kết với nhau qua sự tiếp dính của các thành phần. Mặt nền
đƣợc đục thủng để hằn rõ đƣờng viền của các hình tƣợng, đồng thời làm cho
bức chạm thông thoáng, nhẹ nhõm. Chạm lộng đƣợc thể hiện nhiều trên các
bức chạm ở cánh cửa, đƣờng diềm trang trí trên các đồ gỗ, đặc biệt áp dụng
để đục các cửa võng ở phía trên bàn thờ gian giữa .
- Chạm nổi: một hình thức nghệ thuật mà hình tƣợng đƣợc diễn tả trên
mặt phẳng bằng độ đục chạm (trên gỗ, sừng, ngà, đá, kim loại…) nông sâu
khác nhau.
1.3. Tiểu kết chƣơng 1
Đình làng từ trƣớc đến nay đã có một lịch sử nghiên cứu khá dày và
công phu của nhiều tác giả, tập trung nghiên cứu ở các lĩnh vực:
- Nghiên cứu đình làng tiếp cận về kiến trúc và nghệ thuật điêu khắc.
Các tác giả nghiên cứu mang tính tổng quan, cơ bản đã đƣa ra đặc điểm riêng
37
Việt của loại hình kiến trúc đình làng. Với những kết quả nghiên cứu về kỹ
thuật chạm khắc, đề tài trang trí là cơ sở để xác định khung niên đại cho kiến
trúc đình làng, đồng thời làm nền tảng cho việc nghiên cứu từng đình làng cụ
thể.
- Nghiên cứu đình làng tiếp cận dƣới góc độ dân tộc học, văn hóa, tín
ngƣỡng đã đạt đƣợc những thành tựu nổi bật về vai trò, chức năng của đình
làng: chức năng hành chính, tín ngƣỡng và văn hóa cộng đồng làng. Điều này
cho ta thấy sức hấp dẫn về giá trị về lịch sử, văn hoá của đình làng.
- Nghiên cứu về đình làng tiếp cận dƣới góc độ khảo cổ học mới chỉ có
một số tác giả đề cập. Những công trình này nghiên cứu một đình làng cụ thể
nhƣ luận án Phó tiến sĩ của Trịnh Cao Tƣởng về đình làng Phù Lão (Hà Bắc)
hay luận án Tiến sĩ của Phan Xuân Thành về đình làng Võ Liệt (Nghệ An).
Nghiên cứu về một cụm đình của một địa phƣơng nhỏ nhƣ luận án Phó tiến sĩ
của Nguyễn Anh Tuấn về cụm đình Tam Canh (Vĩnh Phú). Mặc dù luận án
Tiến sĩ của Nguyễn Hồng Kiên nghiên cứu về nhiều đình làng nhƣng chỉ
dừng lại ở những ngôi đình thế kỷ XVI.
- Nghiên cứu đình làng ở Gia Lâm (Hà Nội) nói chung và những ngôi
đình làng thế kỷ XVII – XVIII nói riêng còn rất ít ngƣời quan tâm mà đặc biệt
dƣới góc độ khảo cổ học. Những vấn đề nghiên cứu đình làng ở Gia Lâm mới
chỉ dừng lại mang tính chất miêu tả và khái lƣợc giá trị, chƣa nêu đƣợc tính
tổng quan có tính hệ thống và chuyên biệt.
- Luận án đã giới thiệu chung về nguồn gốc ngôi đình, cũng nhƣ vai trò
của nó trong đời sống xã hội và tinh thần của ngƣời dân làng Việt, đánh dấu
một bƣớc phát triển của cơ cấu làng xã cổ truyền. Nó là biểu tƣợng của tính
cộng đồng và dân chủ làng xã, là trung tâm văn hóa và là nơi tập trung và lƣu
truyền các giá trị văn hóa dân tộc, các phong tục tập quán tốt đẹp của cộng
đồng làng.
38
Những khái niệm, thuật ngữ có liên quan đến kiến trúc, chạm khắc đình
làng sử dụng trong quá trình nghiên cứu của luận án đƣợc làm rõ. Đây là những
tiền đề, cơ sở lý luận đóng vai trò là nền tảng để tác giả luận án tiếp tục nghiên
cứu vấn đề ở các khía cạnh khác nhau trong những phần sau của luận án.
39
CHƢƠNG 2
ĐÌNH LÀNG THẾ KỶ XVII – XVIII Ở GIA LÂM
2.1. Vài nét về vị trí địa lý và lịch sử vùng đất Gia Lâm
2.1.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên 2.1.1.1.Vị trí địa lý Gia Lâm là huyện ngoại thành và nằm ở phía Đông Bắc Thủ đô Hà Nội. Ngăn cách nội thành Hà Nội bởi sông Hồng. Huyện Gia Lâm có 31 xã và 4 thị trấn đƣợc giới hạn nhƣ sau: phía Đông, Đông Bắc giáp với tỉnh Bắc Ninh; phía Nam, Đông Nam giáp tỉnh Hƣng Yên; phía Tây giáp sông Hồng (nối với trung tâm Hà Nội qua cầu Long Biên, Chƣơng Dƣơng, Thanh Trì; cầu Đuống, cầu Phù Đổng nối các tỉnh phía Bắc); phía Bắc giáp huyện Đông Anh. Từ năm 2004, do sự phát triển kinh tế xã hội, địa bàn huyện Gia Lâm cũ tách thành 2 đơn vị hành chính độc lập là huyện Gia Lâm và quận Long Biên. Quận Long Biên điều chỉnh thành 14 phƣờng và huyện Gia Lâm điều chỉnh thành 20 xã, 2 thị trấn trên cơ sở các đơn vị định hình chia cắt huyện Gia Lâm (Bản đồ số 1).
Từ xa xƣa, Gia Lâm là địa bàn quan trọng nằm trên các con đƣờng
“Thiên lý” từ Thăng Long đi các tỉnh phía Bắc, Đông Bắc và cả Tây Bắc. Trên địa bàn có các trạm Hoài Viễn ở Long Biên, Gia Thƣợng để các sứ thần trƣớc khi vào Thăng Long yết kiến triều đình đều phải dừng chân ở đây. Mặc dù có đôi lần “xuất nhập” nhƣng từ xƣa vẫn luôn là địa danh thuộc xứ Kinh Bắc – Bắc Ninh. Do vị trí địa lý nêu trên nên đất ngƣời Gia Lâm đã tạo cho mình có một sắc thái văn hoá riêng, vừa mang đặc thù văn hoá Kinh Bắc vừa chịu ảnh hƣởng của sự giao lƣu, giao thoa văn hoá giữa các tiểu vùng và kinh đô Thăng Long.
2.1.1.2. Điều kiện tự nhiên * Địa hình: Địa hình Gia Lâm tƣơng đối bằng phẳng, thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam theo hƣớng chung của địa hình vùng đồng bằng Bắc Bộ và theo hƣớng của dòng chảy sông Hồng. Nhìn chung, địa hình huyện Gia Lâm cũng nhƣ địa hình thành phố Hà Nội nói chung là tƣơng đối đơn giản và kém đa
40
dạng, thuận lợi cho việc xây dựng các công trình dân dụng, thƣơng mại - dịch vụ cao cấp và các khu công nghệ cao. Bên cạnh đó, với hệ thống đê bao, các bãi bồi và hệ thống sông, Gia Lâm có khả năng phát triển các loại hình du lịch, dịch vụ gần gũi với tự nhiên.
Sông Hồng và sông Đuống tạo thuận lợi về giao thông đƣờng thuỷ nhƣng cũng chia tách Gia Lâm với các quận nội thành. Đặc điểm này về địa hình yêu cầu một sự đầu tƣ lớn từ phía nhà nƣớc về giao thông đƣờng bộ và đƣờng thuỷ.
* Khí hậu, thuỷ văn: Nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc bộ, Gia Lâm mang sắc thái đặc trƣng của khí hậu vùng nhiệt đới ẩm, gió mùa. Từ tháng 5 đến tháng 10 là mùa hạ, mƣa nhiều. Từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau là mùa đông lạnh, thời kỳ đầu thƣờng hanh khô nhƣng đến nửa cuối của mùa đông lại thƣờng ẩm ƣớt.
Nền nhiệt độ trong khu vực đồng đều và cũng khá cao, tƣơng đƣơng với nhiệt độ chung của toàn Thành phố. Nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 23 - 24OC. Biên độ nhiệt trong năm khoảng 12 - 13 OC, biên độ dao động nhiệt giữa ngày và đêm khoảng 6 - 7OC.
Độ ẩm trung bình hàng năm của Gia Lâm và của thành phố Hà Nội nói chung là khoảng 82%, ít thay đổi theo các tháng, thƣờng chỉ dao động trong khoảng 78- 87%. Lƣợng mƣa trung bình năm khoảng 1.600 - 1.800 mm.
Gia Lâm chịu ảnh hƣởng chế độ thuỷ văn của sông Hồng và sông Đuống: lƣu lƣợng trung bình nhiều năm là 2.710 m³/s, mực nƣớc mùa khô thƣờng từ 2.5 - 3.5m, mùa lũ thƣờng cao từ 9 - 12m (độ cao trung bình mặt đê là 14 - 14,5m). Nhìn chung, điều kiện khí hậu và thuỷ văn không ảnh hƣởng nhiều đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Gia Lâm. Tuy vậy, sự chênh lệch lớn về mực nƣớc giữa mùa khô và mùa lũ cũng ảnh hƣởng nhất định đến nông nghiệp sinh thái ở các vùng bãi.
2.1.2. Vài nét về lịch sử vùng đất Gia Lâm Gia Lâm đƣợc Quốc sử quán triều Nguyễn nói gọn ở sách Đại Nam nhất thống chí là: Từ thời Lý đã thành tên một quận, điều này dễ làm ngƣời ta - trong nhận thức hiện đại về vị thế tƣơng đƣơng giữa quận và huyện trên
41
thang bậc danh phận và cấp bậc hành chính rằng: vùng đất Gia Lâm có thể đã đƣợc đặt định từ thời Lý.
Tuy nhiên, vào thời Lý, Gia Lâm chỉ xuất hiện lần đầu tiên với tƣ cách là tên gọi một miền đất nhỏ đƣợc dùng làm Phủ đệ cho một công chúa nhà Lý. Đó là công chúa Thiên Cực ở Gia Lâm đệ, cùng chồng là quan Nội hầu Vƣơng Thƣợng.
Di chỉ toà Gia Lâm đệ đời Lý hiện chƣa đƣợc khai quật khảo cổ học, nên ta chƣa rõ quy mô của thực thể (đất đai, kiến trúc...) đƣợc mang tên gọi “Gia Lâm” khi ấy là nhƣ thế nào. Nhƣng một số quan sát và ghi nhận đƣợc trên thực địa nhƣ trình bày dƣới đây, sẽ có thể sơ bộ cho biết đôi điều về địa danh “Gia Lâm” ở buổi đầu xuất hiện, đã liên quan đến những vấn đề địa lý, lịch sử của địa bàn huyện Gia Lâm. Hiện thuộc địa giới xã Lệ Chi - xã địa đầu, cực đông của huyện Gia Lâm bây giờ - vẫn còn và có một làng (thôn) mang tên gọi Gia Lâm. Tên nôm na và cổ xƣa của làng (thôn) Gia Lâm này là “Kẻ Lầm”. Chính từ tố “Lầm” trong địa danh “Kẻ Lầm” này có thể đƣa dẫn tới ít nhất hai lĩnh vực nhận hiểu.
Thứ nhất, về mặt địa lý học - lịch sử, “Lầm” (lầm lội, lầy lội...) luôn là tên gọi của một vùng đất có nhiều nƣớc, “Kẻ Lầm”, sở dĩ có và mang tên gọi này bởi vì đây chính là địa điểm nằm trên ngã ba sông Đuống và sông Dâu. Trƣớc khi mất vị trí này, vì sự cạn dòng hết nƣớc của con sông Dâu (Liên Lâu, Ly Lâu, Luy Lâu...) nhƣ ngày nay đang thấy thì Lâu chính là một vị trí chiến lƣợc về mặt quân sự và kinh tế. Nhà Lý và tiếp liền theo là nhà Trần đã chọn nơi đây làm nơi đặt “Phủ đệ” của quý tộc và vƣơng triều, chính là bởi lý do đó.
Thứ hai, về mặt địa danh học - lịch sử, thì Lầm, chính là cơ sở ngôn ngữ học để cho ra đời địa âm, và “mỹ tự hoá” về mặt tu từ của “Lầm”. Tức thị Lâm (trong từ kép Gia Lâm) là một biến âm, để phiên âm về mặt ngữ âm (chứ không phải là một dịch nghĩa về mặt ngữ nghĩa) của Lầm (Kẻ Lầm).
* Về địa lý tự nhiên: đây là vùng châu thổ đƣợc hình thành bởi hệ thống sông ngòi chằng chịt. Địa hình tƣơng đối bằng phẳng nên vị trí xây
42
dựng các công trình kiến trúc, trong đó có đình làng đƣợc lựa chọn trên những vùng đất cao, thuận tiện giao thông đƣờng thủy, đƣờng bộ, đáp ứng yêu cầu phong thủy của kiến trúc.
Nhƣ vậy, trở lại với lịch sử thời Lý và thời Trần liền sau đấy thì với “Gia Lâm đệ” ở sách Đại Việt sử lƣợc (và với cả “Gia Lâm tự” trong bài thơ của quan Tƣ đồ nhà Trần là Văn Huệ vƣơng Trần Quang Triều, vịnh ngôi chùa, nay vẫn còn và có tên là “Chùa Lầm” thuộc làng (thôn) Gia Lâm bây giờ, có thể thấy rằng, Gia Lâm trƣớc khi trở thành tên gọi của huyện (địa danh cấp huyện) nhƣ đang thấy bây giờ thì nguyên thuỷ chỉ là tên của một địa điểm (tức: vùng đất nhỏ) nhƣng rất quan trọng, nhờ vị thế chiến lƣợc của mình và có quy mô tƣơng tự (tƣơng đƣơng) một thôn (làng) ở thời gian về sau này. Đó là đất “Kẻ Lầm” (thuộc thôn Gia Lâm, xã Lệ Chi, huyện Gia Lâm ngày nay). Tra tìm trong sách Dƣ địa chí của Nguyễn Trãi soạn năm 1435, có thể thấy ở đây những cứ liệu quan trọng đối với sự kiện này. Ở điều thứ 23 của chính văn “Dƣ địa chí”, khi nói về Đạo Kinh Bắc (trong 15 “đạo” của đất nƣớc đƣơng thời), Nguyễn Trãi đã cho biết: “đạo” này có 4 phủ, 21 huyện, và 1147 làng xã. Lời “Cẩn án” của Nguyễn Thiên Tích là rõ sách này, kể ra tên phủ Thuận An trong số 4 lộ phủ đó và cho biết phủ này có 5 huyện, 322 xã. Liền đấy, xuất hiện tên huyện Gia Lâm của phủ Thuận An này.
Vậy là, căn cứ vào thƣ tịch cổ về địa lý chính thống của Nhà nƣớc, bắt đầu thấy sự rõ ràng có địa danh Gia Lâm với tƣ cách là một tên huyện. Tuy nhiên, vẫn có thể tìm ra một thời điểm sớm hơn chút nữa cho sự thể này nếu tin vào sự ghi chép của thƣ tịch Trung Hoa lộn xộn về việc: Triều đình nhà Minh, năm Vĩnh Lạc thứ 6 (1408), trong khi tổ chức cai trị nƣớc ta, có đặt ra một Châu gọi là “Châu Gia Lâm” và lại có một Phủ nữa gọi là “phủ Bắc Giang”, với hai huyện, tên là “Huyện Siêu Loại” và “Huyện Gia Lâm”. Trong sách “Đất nƣớc Việt Nam qua các đời”, học giả Đào Duy Anh dựa vào đây, đã suy luận rằng: “Vì nhà Minh đặt phủ, châu, huyện ở nƣớc ta, đại khái là căn cứ vào tình hình ở thời thuộc Minh và do đó mà suy ra tình hình ở thời Trần mạt, trƣớc cuộc cải cách của Hồ Quý Lý”.Nhƣ thế, Gia Lâm, với tƣ cách là một tên huyện, không những chắc chắn đã có từ năm 1435, mà còn có thể
43
đã xuất hiện bắt đầu từ năm 1408, thậm chí, từ cuối thế kỷ XIV (thời Trần mạt).
Chuyển sang nghiên cứu tiếp về thực thể (vùng, miền đất đai) cấp huyện, có tên là Gia Lâm từ cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV, thì có thể chắc chắn thêm một điều nữa: khi ấy (và sau đấy), huyện Gia Lâm có khá nhiều tách ra nhập vào (tức thị: không hoàn toàn trùng khớp) so với huyện Gia Lâm bây giờ. Vào năm 1435, huyện Gia Lâm có 69 xã, 2 sở và 3 trại. Sách Đại Việt dƣ toàn biên của Nguyễn Văn Siêu (khắc in năm 1890) thì lại thấy nói: Huyện Gia Lâm có tới 77 xã - là huyện lớn nhất trong số 5 huyện của phủ Thuận An, và đứng thứ nhì (sau huyện Đông Ngàn: 82 xã) trong số 20 huyện của 4 phủ, làm nên Thừa Tuyên Kinh Bắc ở thời Lê Hồng Đức (1470-1497). Tham khảo nhiều tài liệu, sách “Địa chí Hà Bắc” đã cho biết cụ thể: Đến đầu thời Nguyễn (đầu thế kỷ XIX), huyện Gia Lâm với 10 tổng là các tổng: Nhƣ Kinh, Kim Sơn, Đặng Xá, Gia Thị, Cự Linh, Đông Dƣ, Lạc Đạo, Cổ Biện, Đa Tốn, Nghĩa Trai và 79 xã. Rõ ràng là đã trùm nhiều ra ngoài địa giới huyện Gia Lâm thời hiện đại.
Hiện nay trên bản đồ huyện Gia Lâm hiện đại - miền đất giữ lại căn cốt của những huyện Gia Lâm qua các thời xƣa - với diện tích 175,7 km², gồm 31 xã và 4 thị trấn. Cuối năm 2003, Nhà nƣớc đã tách các xã, thị trấn của huyện Gia Lâm để thành lập quận Long Biên. Với vị thế và lợi thế địa lý ấy, ngƣợc dòng lịch sử về tới lát cắt ở đáy thời gian của hai giai đoạn bắt đầu hình thành xã hội và văn minh trên đất cổ Gia Lâm sẽ thấy đƣợc rất nhiều chứng tích quan trọng và thú vị của việc lập cƣ và tham gia vào quá trình dựng nƣớc, giữ nƣớc đầu tiên của những “ngƣời Gia Lâm” đầu tiên ở thời đại Hùng Vƣơng - Văn hoá Đông Sơn. Từ dƣới lòng đất Gia Lâm, đã xuất lộ hàng loạt di vật bằng đồng thau, bằng đất nung... ở Thị trấn Gia Lâm; công cụ và vũ khí đồng thau chôn trong lòng mộ của ngƣời xƣa ở Thạch Bàn, đƣợc đựng bằng đồng, mảnh gốm có hoa văn “nhăn tàn ong”; thạp đồng, rìu đồng hình chữ nhật, giáo đồng hình búp đa.... ở Đa Tốn; trống đồng ở Trung Mầu và rất đặc biệt là chiếc trống đồng Giao Tất tìm đƣợc ở Keo (Kim Sơn)...trong buổi đầu dựng nƣớc.
44
Đến thế kỷ sau Công nguyên, với việc dần dà hình thành con đƣờng từ biên giới phía Bắc, men thung lũng sông Thƣơng, qua Yên Thƣờng, Yên Viên, Thƣợng Thanh, Đức Giang, Ngọc Thuỵ, Bồ Đề... từng đƣợc mệnh danh là: “Con đƣờng xâm lƣợc” mà gặp Sông Hồng - tiền thân của quốc lộ 1; đặc biệt là con đƣờng chiến lƣợc tiền thân của quốc lộ số 18 - dẫn từ vùng cửa sông Bạch Đằng qua Lục Đầu Giang về đến trung tâm Dâu - Keo (Liên Lâu - Giao Châu), chạy tiếp qua Phú Thị (Sủi), Đặng Xá, Dƣơng Xá... mà gặp sông Hồng, đã khiến cho miền đất cổ Gia Lâm nổi lên thành một địa bàn quan trọng ở giữa trung tâm châu thổ sông Hồng.
Sang đến đầu thiên niên kỷ thứ hai sau Công nguyên, thì vị thế của địa bàn quan trọng này lại là: ở vào giữa sức hút của hai trung tâm chính trị - xã hội chủ yếu của lịch sử và đất nƣớc đƣơng thời. Đó là đất phát tích của nhà Lý – Đình Bảng, Tiên Sơn ở “bên kia sông Đuống” trên mạn Bắc và đất dựng nghiệp của dòng họ và triều đại này - Kinh đô Thăng Long - ở “bên kia sông Hồng” thuộc bờ Nam.
Trong vai trò - lúc này đã trở thành - một “vùng đệm” (vùng ảnh hƣởng) giữa hai trung tâm đó, ở buổi đầu theo quán tính và truyền thống, miền huyện Gia Lâm có xu hƣớng gắn bó nhiều hơn (tức: có thiên hƣớng bị hút nhiều hơn về và với mạn Bắc, đặc biệt là khi miền đất “quý hƣơng” ở nơi ấy nhận đƣợc chủ trƣơng của triều đình “nâng cấp” (thăng hoa) thành “Phủ Thiên Đức” rồi trở thành hạt nhân của những là “Lộ Bắc Giang”, “Kinh Bắc Thừa Tuyên”, “Trấn Kinh Bắc”, rồi “Tỉnh Bắc Ninh”. Bởi thế, Gia Lâm hiện nay trong phần lớn thiên niên kỷ thứ hai, luôn là “thuộc Huyện” của những đơn vị hành chính ấy.
Nhƣng cùng với đà vận động của lịch sử, theo thời gian Kinh đô Thăng Long - nơi nhà Lý chọn đất buổi đầu dựng nghiệp - trải các triều đại Trần, Lê... kế tục đã ngày càng nổi trội lên trong vai trò đô thị trung tâm hàng đầu (“Thủ đô”) đất nƣớc với sức hút và nhu cầu vừa thu hút vừa lan toả cực kỳ mạnh mẽ của mình. “Trạm Hoài Viễn” - địa điểm “đô thị vệ tinh” của triều đình Thăng Long, “phòng chờ” (tiền sảnh) của việc ngoại giao ở Kinh đô cần đến đất Cự Linh (Thạch Bàn) để đặt định. “Tổng hành dinh” của nghĩa quân
45
Lam Sơn trong chiến dịch giải phóng Kinh thành, cũng đã chọn Bồ Đề ở ngay trên sông Hồng làm chỗ đứng chân. Đến nhƣ quân Minh, để bảo vệ cho Đông Đô - Đông Quan bị chúng tạm chiếm, cũng biết “hút về” đây đất Gia Thƣợng (Ngọc Thuỵ) làm tiền đồn: thành Điêu Diêu! Cuộc dịch chuyển ngoạn mục - theo với thời gian - địa điểm thủ phủ của huyện Gia Lâm: từ Đặng Xá, qua Phú Thị về đến Ái Mộ, là thao tác khá điển hình của xu hƣớng ngày càng gắn bó (hút về) nhiều hơn mạn nam của huyện Gia Lâm. Và sự thể, từ giữa thế kỷ cuối cùng của thiên niên kỷ thứ hai (năm 1961), huyện Gia Lâm trở thành bộ phận hữu cơ của Thủ đô Hà Nội và đến cuối năm 2003, tách một phần đất của huyện Gia Lâm để thành lập quận Long Biên - một trong 12 quận của Thủ đô Hà Nội hiện nay, chính là cái chấm son trên quá trình chuyển biến nhƣ thế. Với điều kiện tự nhiên cùng bề dày lịch sử của vùng đất, trong quá trình hình thành bản sắc văn hóa dân tộc, ngƣời dân Gia Lâm đã khai thác điều kiện tự nhiên phục vụ cho đời sống tình thần và vật chất của mình. Theo năm tháng song hành cùng văn hóa dân tộc, những ngôi đình ở Gia Lâm đƣợc xây dựng trên vùng đất đã phản ánh nhiều mặt đời sống của cƣ dân và duy trì cho đến ngày nay. 2.2. Những đình làng tiêu biểu ở Gia Lâm thế kỷ XVII - XVIII 2.2.1. Tổng quan về hệ thống đình làng ở Gia Lâm Theo số liệu thống kê năm 2014, ở Gia Lâm có 335 di tích lịch sử - văn hoá. Trong đó đình làng là 123 (huyện Gia Lâm: 88 đình, quận Long Biên 35 đình) chiếm 36,5% tổng số di tích. Số đình đƣợc xếp hạng là 68 chiếm tỷ lệ 55,3% trong tổng số đình làng. Số xếp hạng cấp quốc gia là 42, cấp thành phố là 26 (Gia Lâm là 44, Long Biên là 24). Số lƣợng đình đƣợc phân bố không đồng đều giữa các xã, phƣờng, thị trấn. Lý do địa phƣơng nào có nhiều thôn (làng) cũ thì số lƣợng đình nhiều. Điều này khẳng định hầu nhƣ làng nào cũng có đình (Bản đồ số 2).
Trong hệ thống đình làng ở Gia Lâm nêu trên, 5 ngôi đình: Xuân Dục, Tình Quang, Thanh Am, Công Đình, Trân Tảo bƣớc đầu khảo sát nghiên cứu đƣợc coi là những công trình tiêu biểu về kiến trúc, nghệ thuật điêu khắc trang trí và niên đại xây dựng (Bản đồ số 3).
46
2.2.2. Những đình làng tiêu biểu thế kỷ XVII - XVIII
2.2.2.1.Đình Xuân Dục
a. Lịch sử hình thành và phát triển
Đình Xuân Dục thuộc địa phận thôn Xuân Dục, xã Yên Thƣờng,
huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội. Trƣớc đây, Xuân Dục thuộc xã Yên
Thƣờng, tổng Yên Thƣờng, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc
(thời Lê), tỉnh Bắc Ninh (thời Nguyễn).
Theo các già làng cho biết, đình Xuân Dục đƣợc khởi dựng từ đầu thế
kỷ XVII. Thế kỷ XVIII và XIX đình đƣợc tu bổ và đến thời Bảo Đại năm
1934, dân làng Xuân Dục lại công đức tiền của để sửa chữa ngôi đình (Bản
ảnh số 23).
Đình làng Xuân Dục tôn thờ Nam Phổ đại vƣơng và Lý Tam Lang,
ngƣời có nhiều công lao với nƣớc, với làng. Khi xây dựng đình, dân làng
Xuân Dục đã tôn thờ hai vị làm thành hoàng làng.
b. Kiến trúc
* Mặt bằng kiến trúc
Đình Xuân Dục tọa lạc trên một khu đất cao, rộng rãi, hiện nay ở giữa
làng, quay hƣớng Nam, phía trƣớc có hồ rộng, trƣớc sân là một ao nhỏ hình
bán nguyệt, khu đình chiếm lĩnh vị trí trung tâm (Bản ảnh số 2). Trƣớc đây,
đình Xuân Dục có quy hoạch kiến trúc hoàn chỉnh với nghi môn gạch bề thế,
một phƣơng đình hai tầng tám mái cong, nằm ngay phía trƣớc tòa đại đình.
Về sau, tháng năm và binh hỏa đã hủy hoại hai kiến trúc này. Sau xây cổng
bên cạnh (Bản ảnh số 1).
Đình Xuân Dục hiện có quy mô kiến trúc lớn, thể hiện qua diện tích
mặt bằng và chiều cao vƣợt trội trên kiến trúc xóm làng. Đình có quy hoạch
khá độc đáo, kiểu chữ Công, gồm đại đình, thiêu hƣơng và hậu cung. Các
kiến trúc này đƣợc liên kết với nhau bằng hệ thống tƣờng bao khép kín, trong
đó khu trung tâm là tòa đại đình (Bản ảnh số 3). Do điều kiện lịch sử, các
47
công trình kiến trúc đƣợc xây dựng và sửa chữa nhiều thời kỳ khác nhau.
Riêng đại đình là công trình kiến trúc trung tâm bảo lƣu đƣợc những yếu tố
ban đầu, phản ánh đƣợc những giá trị lịch sử văn hóa của di tích. Do vậy chỉ
4
3
2
5
1
Ghi chú: 1. Giếng đình 2. Đại đình 3. Thiêu hƣơng 4. Hậu cung 5. Cổng đình
tập trung nghiên cứu về tòa đại đình.
Sơ đồ mặt bằng khu di tích đình Xuân Dục
* Nền móng kiến trúc
Nền tòa đại đình đƣợc tôn cao 0,60m so với mặt sân, quanh nền là hệ
thống bó vỉa, bậc dƣới cùng lát bằng những phiến đá lớn, màu xanh xám,
hoặc trắng. Đình có mặt bằng rộng, kích thƣớc 27,5m x 11m. Gian giữa để
lòng thuyền, tạo sự thuận lợi cho việc tế lễ, các gian kế bên tôn nền cao, là nơi
hội họp mỗi khi có việc làng (Bản vẽ số 1). Trƣớc đây, đình Xuân Dục có hệ
thống sàn gỗ khá vững chắc. Ngày nay, vẫn có thể nhận biết đƣợc dấu tích
của lớp sàn này qua những lỗ mộng đầm lớn trên thân cột.
Bảng 2.1: Kích thƣớc cắt dọc của đại đình đình Xuân Dục (Bản vẽ số 2)
Các đơn vị không gian Số đo
Gian giữa 4,00m
Gian bên bên phải cạnh gian giữa 3,40m
Gian bên bên trái cạnh gian giữa 3,40m
Gian bên bên phải kế tiếp 3,40m
48
Gian bên bên trái kế tiếp 3,40m
Chái bên phải 4,95m
Chái bên trái 4,95m
Bảng 2.2:Kích thƣớc cắt ngang của đại đình đình Xuân Dục (Bản vẽ số 3)
Khoảng cách giữa các cột Số đo
Cột cái – cột cái 4,25m
Cột cái – cột quân phía trƣớc 2,00m
Cột cái – cột quân phía sau 2,00m
Cột quân phía trƣớc – cột hiên phía trƣớc 1,55m
Cột quân phía sau – cột hiên phía sau 1,55m
*Kết cấu bộ khung kiến trúc
Bộ khung gỗ của tòa đại đình rất bề thế, vững chắc. Sáu bộ vì chính và
phần kết cấu của hai mái hồi đƣợc liên kết chặt chẽ bằng hệ thống xà đai
thƣợng, hạ, chạy ngang dọc khắp các gian. Các bộ vì đƣợc làm giống nhau,
dạng “Thƣợng chồng rƣờng giá chiêng hạ kẻ”. Điểm độc đáo nhất trong kiến
trúc gỗ của đình là, trên toàn bộ 12 hàng cột cái, phần dƣới xà thƣợng đều lắp
các “cánh gà” cũng có tác dụng chịu lực. Khoảng hoành mái kiểu “ Thƣợng tứ
hạ ngũ” (trên 4 dƣới 5). Chiều cao của mái từ thƣợng lƣơng đến nền là 6,70m,
chiều cao từ giọt gianh đến nền là 2,40m. Tỷ lệ giữa chiều cao của mái so với
chiều cao của giọt gianh xấp xỉ 2,792 lần. Nhƣ vậy mái đình rộng, chiều cao
đình thấp.
- Liên kết ngang kiến trúc
Nối giữa cột cái với cột cái là câu đầu, hai đầu câu đầu bám mộng vào
đầu cột cái. Giữa cột cái với cột quân đƣợc liên kết bởi xà nách, một đầu xà
nách đánh mộng vào thân cột cái, một đầu ăn mộng sập vào cột quân. Giữa
cột quân với cột hiên cũng đƣợc gắn kết bởi kẻ, hai đầu kẻ đánh mộng sập
vào đầu cột quân và đầu cột hiên. Phía dƣới chân cột cái, cột quân trƣớc đây
49
có làm ván sàn (hiện vẫn còn dấu vết lỗ mộng), cũng có chức năng liên kết
các cột với nhau. Bộ vì có kết cấu “Thƣợng chồng rƣờng giá chiêng, hạ kẻ”,
giá chiêng đƣợc tạo ra từ hai cột trốn đặt trên câu đầu, các rƣờng nách đặt
thƣa qua một đấu kê dày, kẻ hiên đƣợc làm cong, để nhô đầu nghé dƣới xà
nách, trên kẻ có ván gỗ dày để đỡ hoành. Mỗi bộ vì gồm 6 hàng chân, mái
phân khoảng hoành thƣợng tứ, hạ ngũ. Cột có kích thƣớc lớn, hình đòng
đòng. Cột cái có chu vi 1,85m, cột quân 1,60m, cột hiên 1,30m. Đá kê chân
cột gồm hai loại: vị trí cột của hai bộ vì giữa đƣợc kê bằng đá màu xám đen.
Các cột hiên kê bằng đá tảng. Kết cấu ở hai gian chái của đại đình là hệ thống
rƣờng, kẻ để đỡ mái hồi. Các con rƣờng đƣợc đặt trên một thanh xà to, nối cột
cái và cột góc. Rƣờng có một đầu ăn mộng sâu vào thân cột trốn, đầu kia để
đỡ hoành. Kẻ đƣợc làm cong giống nhƣ trên các bộ vì chính. Các góc mái có
kẻ khá dài, tạo sự vững chắc cho kết cấu (Bản vẽ số 4).
- Liên kết dọc kiến trúc
Để gắn kết các bộ vì với nhau, đình Xuân Dục đã sử dụng các xà dọc
(thƣợng, hạ) với hình thức đánh mộng tạo độ giằng kiên cố. Phần gian chái để
tạo góc đao đã sử dụng kẻ góc, một đầu ăn mộng vào cột cái, đầu ngoài kê
trên cột góc hồi và liên kết với tàu mái nhằm đảm bảo tính chịu lực phần chái.
Chân các cột quân có xà ngƣỡng cũng là những cấu kiện có tác dụng liên kết
làm bộ khung gỗ (Bản vẽ số 5).
- Kỹ thuật mộng
Trên kiến trúc đình Xuân Dục cũng chủ yếu đƣợc sử dụng 3 loại mộng
làm gắn kết các cấu kiện kiến trúc: Loại thứ nhất là mộng sập: Câu đầu chƣa
sử dụng đánh mộng vào cột cái mà đƣợc kê trên đầu cột cái thông qua đấu
vuông thót đáy. Ở đầu dƣ đƣợc sử dụng mộng sập vào khe cột cái và kẻ hiên
sập mộng vào đầu khe cột quân và cột hiên. Loại thứ hai là mộng xuyên: loại
mộng này sử dụng để liên kết các hoành mái, các xà dọc với nhau, xà nách
vào cột cái và cột quân. Ở các “Cánh gà” đƣợc sử dụng mộng xuyên qua thân
50
cột, vƣơn ra hai phía, đỡ dạ các xà dọc. Loại thứ ba là mộng chốt: sử dụng ở
Tàu mái nhằm liên kết ván gỗ dày với kẻ hiên.
* Đánh giá đặc điểm: Gian giữa đình rất lớn với số đo (4,00m x 4,25m)
và gian chái với kích thƣớc cắt dọc là 4,95m. Đây là ngôi đình có quy mô lớn.
c. Điêu khắc trang trí kiến trúc
Dựa vào bộ phận kiến trúc tạo nên kết cấu bộ khung, điêu khắc trang trí
đình Xuân Dục đƣợc chú trọng trên các bộ phận chính.
* Trang trí vì nóc
Hai bộ vì nóc gian giữa do che lấp bởi “ván trời” nên chỉ còn thể hiện
trang trí phía ngoài gian cạnh. Tất cả các con rƣờng và câu đầu đều đƣợc
chạm nổi, hơi bong kênh ở hai đầu những lá cúc lật. Các đấu vuông đƣợc
chạm tỉa thành biểu tƣợng cánh sen. Lòng bụng câu đầu bên trái đƣợc chạm
nổi những dải sen với cánh, lá, nụ sen có đƣờng nét dứt khoát, mềm mại.
Lòng bụng câu đầu bên phải đƣợc chạm nổi đề tài “Ngũ phúc khánh tiền”.
Hai đầu của phần bụng câu đầu đƣợc chạm viền hồi văn, phía trong nổi lên
văn cuốn tỏa hai bên và viền ngƣợc vào trong. Mang hai đầu câu đầu đƣợc
chạm lá cúc lật, kèm đó là là nhành trúc và nhành mai. Các vì nóc gian bên
với lối chạm nổi cùng với hình tƣợng lá cúc lật, đi kèm là cụm mây lớn. Lòng
bụng câu đầu để trơn không trang trí mà chỉ thể hiện ở hai đầu bằng đƣờng
nét hình viền lá đề. Hai mang hai đầu của câu đầu chạm nổi lá cúc lật (Bản
ảnh số 4)).
* Trang trí đầu dư
Các đầu dƣ nguyên thời khởi dựng đã đƣợc thay thế bằng đợt trùng tu
vào thời Nguyễn. Về cơ bản các đầu dƣ đƣợc chạm nổi, bong kênh hình tƣợng
đầu rồng. Mũi rồng nổi khối, miệng rộng có răng cƣa đang ngậm ngọc minh
châu. Rồng có đôi chân khuỳnh đạp tựa vào cột cái với các móng vuốt sắc
nhọn. Mũi rồng nổi khối dạng mũi sƣ tử, đôi mắt quỷ chạm hạt tròn. Các đao
51
cằm xoắn lƣợn về phía cổ tiếp giáp hai chân trƣớc. Các đao mang, đao tóc và
vây cổ lƣng tạo lƣợn về phía sau (Bản ảnh số 10).
* Trang trí cốn
- Các cốn gian giữa
Hai mặt của 4 bức cốn nách gian giữa thể hiện đề tài tứ linh (long, ly,
quy, phƣợng), tứ quý (tùng, cúc, trúc, mai).
+ Cốn phía trước bên trái
Mặt phía ngoài gian bên cạnh: Trên cùng đuôi của đầu dƣ xuyên qua
cột cái tạo thành phần sau của rồng. Phần này chỉ thể hiện một chân rồng
đang đạp về phía sau, đuôi rồng dạng các đao lƣợn sóng. Phía dƣới là 2 mảnh
gỗ dày khép kín tạo thành ván mê và đƣợc chạm nổi đề tài “Cúc hóa long”.
Hình tƣợng rồng chỉ đƣợc thể hiện đầu có sự gồ ghề, toàn thân rồng là cây
cúc với các đốt xù xì nở ra đầy nụ, hoa.
Mặt phía trong chầu vào gian giữa: Vẫn thể hiện kiểu cách phía trên là
đuôi rồng. Phần ván mê dày do hai tấm gỗ dày khép khít nhau đƣợc chạm nổi
đề tài “Trúc hóa long”. Đầu rồng đƣợc chạm nổi với vài nét chạm khắc đơn
sơ đã thể hiện rõ ngay từ gốc trúc đang tiến triển thành rồng. Thân trúc uốn
lƣợn tạo thành thân rồng. Các đốt trúc tạo thành đao vây rồng, đuôi rồng là
ngọn trúc. Với cách chạm nổi, tuy rất đơn giản nhƣng đã thể hiện hình tƣợng
rồng một cách phóng khoáng nhƣng chặt chẽ về bố cục trong một không gian
định bởi diện tích ván mê.
+ Cốn phía trước bên phải
Mặt ngoài phía gian bên cạnh: cũng nhƣ phía mặt ngoài nhƣng phần
con rƣờng này thể hiện đuôi rồng. Phần ván mê phía dƣới chạm nổi đề tài
“Mai hoá long”. Gốc mai đƣợc thể hiện đầu rồng đang ngó đầu bay về phía
trƣớc. Thân và đuôi rồng là thân mai uốn lƣợn, có cành lƣợn lên trên, cành
ngọn lƣợn xuống dƣới tạo hình tƣợng đuôi rồng. Đề tài này đƣợc chạm khắc
rõ nét của phong cách chạm nổi đề tài rồng (Bản ảnh số 21).
52
Mặt trong chầu vào gian giữa: ở đây đƣợc thể hiện đề tài “Tùng hoá
long”, với phong cách chạm khắc nhƣ ở mặt phía bên. Đầu rồng cũng đƣợc
thể hiện từ gốc tùng và nhƣng nhành, cánh tạo thành thân uốn lƣợn là đuôi
rồng. Với lối chạm mạch lạc đã thể hiện rõ hình tƣợng rồng khoẻ khoắn (Bản
ảnh số 20).
+ Cốn phía sau bên trái
Mặt ngoài phía gian bên cạnh: Cốn đƣợc chia làm hai phần. Phần trên
là ván mê do các mảnh gỗ dầy ghép khít nhau tạo thành một mảng trang trí
hoàn chính với đề tài “Tứ linh”, với những đƣờng nét kết hợp giữa chạm nổi,
bong kênh đã mô phỏng rất tỉ mỉ hình tƣợng rồng trong tƣ thế bƣơn trải, với
thân rồng uốn lƣợn thoải mái, đầu rồng do mảnh gỗ khác ghép lại có vẻ dữ
tợn. Thân rồng đƣợc phủ lớp vẩy cá đi kèm là những đao mây. Đuôi rồng
dạng đuôi vân xoắn lƣợn mềm mại uốn về phía dƣới. Phía trên trƣớc đầu rồng
là hình tƣợng phƣợng đang trong tƣ thế dang rộng cánh bay. Phía dƣới đầu
rồng là hình tƣợng ly đang vờn quả cầu chạy lô xô trên sóng nƣớc. Phía dƣới,
tiếp giáp với chân trƣớc rồng là hình đầu rùa đang nhô khỏi mặt nƣớc, trên
lƣng cõng “Hà đồ”. Xà nách đƣợc chạm nổi với đầu rồng nổi khối tại phần
tiếp giáp với cột quân. Đuôi rồng là dải lá cúc lƣợn ngoặt lên phía trƣớc tạo
thành thân rồng trong tƣ thế lƣợn mềm mại. Phần dƣới là mảng chữ nhật do
phân cách giữa mảng ván mê trên bởi xà ngang đồng thời là xà nối phần hậu
cung. Phần chữ nhật này chạm nổi hình tƣợng của “ban thờ”. Trang trí đƣợc
thể hiện ở giữa là mâm ngũ quả, hai bên là lọ hoa. Cả ba hiện vật này đặt trên
hồi văn cách điệu mặt bàn thờ. Mặt trong chầu vào gian giữa cũng với đề tài
“tứ linh” với hình thức chạm nổi, bong kênh.
+ Cốn phía sau bên phải
Mặt ngoài phía gian bên cạnh: cũng thuộc dạng cốn ván mê và đƣợc
chạm nổi đặc tả toàn bộ hồi văn. Hồi văn có đƣờng nét rộng, mạnh mẽ, điểm
53
ở các khúc ngoạt hồi văn nảy lên những mầm lá, cụm mây nhỏ và điểm xuyết
một vài lá cúc lật lớn (Bản ảnh số 22).
Mặt trong chầu vào gian giữa: cũng đƣợc làm dạng hồi văn. Nhƣng hồi
văn đƣợc uốn khúc khuỷ để tạo thành một con rồng. Viền hồi văn mọc lên
những vây và lá cúc lật. Đầu hồi văn đƣợc đặc tả đầu rồng. Cuối hồi văn lại là
một đầu rồng đang uốn khúc lên trên. Đây đƣợc thể hiện dạng “hoàn long”.
Dƣới hồi văn là hình tƣợng chân rồng trong tƣ thế khuỳnh ra hai bên. Nhìn
chung đề tài rồng hồi văn kết hợp với lá đã làm giảm đi sự thô cứng trong
chạm khắc hình tƣợng rồng.
- Các cốn gian khác
Các cốn này đƣợc làm theo kiểu cốn chồng rƣờng. Các con rƣờng đƣợc
chạm nổi lá cúc lật, cụm lá dải tựa dây bí, hồi văn chữ Thọ cách điệu, cụm
vân xoắn lớn (Bản ảnh số 9) và đi kèm có những đao mập (Bản ảnh số 6) các
con rƣờng đƣợc tạo hình ngƣời có cánh (Bản ảnh số 5). Nhìn chung đây là
những đề tài trang trí còn giữ đƣợc của các cấu kiện trên cốn từ thời khởi
dựng.
* Trang trí “Cánh gà”
Hiện trên kiến trúc đình Xuân Dục còn giữ lại đƣợc 12 “cánh gà”. Đề
tài trang trí chủ đạo là các hình rồng (Bản ảnh số 7), rồng ổ, động vật, Tiên có
cánh, cảnh sinh hoạt nhƣ chuốc rƣợu, hát múa, ngƣời cƣỡi ngựa, tiên cƣỡi
rồng (Bản ảnh số 8, số 11). Hình tƣợng con rồng đƣợc phủ kín toàn bộ bề mặt
của tảng gỗ dày. Rồng có đầu to, mũi hơi tẹt, mắt lồi, tai trâu, môi dƣới hình
răng cƣa (Bản ảnh số 18). Thân rồng hơi mập, tay và chân tròn lẳn giống tay
ngƣời (Bản ảnh số 19). Tóc và râu rồng kết thành những đao mác uốn khúc
nhiều lần và vƣơn xa ra phía ngoài. Xen lẫn trên thân và đầu đao của rồng là
các hình tƣợng động vật, hoạt cảnh sinh hoạt của con ngƣời (Bản ảnh số 12).
54
* Trang trí ván lá gió
Trên kiến trúc đình còn hai ván gió hậu ở hai gian cạnh gian giữa. Với
đƣờng nét chạm nổi khúc triết, ván gió bên phải thể hiện “Lƣỡng long triều
nhật hoặc nguyệt”. Rồng đƣợc thể hiện cá đang hoá rồng. Đầu và thân rồng
đƣợc đặc tả, duy phần đuôi còn đang trong tƣ cách đuôi cá chép (Bản ảnh số
13, số 14). Hình tròn toả sáng với mỗi bên 3 chiếc đao bay lƣợn đuôi nheo
sang bên, giữa những cánh đao điểm một vài hạt tròn nhỏ tựa tinh tú. Ván gió
bên trái đƣợc chạm nổi những cụm lá cuộn đang nối nhau. Những cành lá bên
và dƣới đƣợc biến hoá thành những đao lƣợn mập. Ván lá gió phía bên phải
đƣợc chạm lộng, nổi, bong kênh “Lƣỡng long với nàng tiên”. Hai bên là rồng
đƣợc chạm nhìn nghiêng với thân uốn lƣợn phủ vảy cá, các đao mang, đao
mắt bay thẳng về phía sau. Mắt rồng nổi khối, miệng rộng, đầu rồng gần tiếp
giáp với ngƣời nhƣ tạo sự nâng đỡ (Bản ảnh số 15).
* Trang trí xà nách
Xà nách đƣợc chạm nổi đề tài chủ đạo là rồng và cụm lá cúc. Xà nách
hai vì gian giữa đƣợc chạm 2 loại rồng. Hình tƣợng rồng đƣợc chạm ở đầu
phía cột quân. Phần tiếp giáp cột quân đƣợc chạm bo mang với viền lá tựa
mang rồng nhƣng nó đƣợc tách biệt đầu rồng thể hiện dạng thân rồng đang
uốn cong hình nửa vòng tròn và nhập vào đầu rồng. Đầu rồng đƣợc chạm nổi
với trán nổi khối, miệng ngậm lá thiêng dạng lá cúc. Các đao mang lƣợn lại
phía sau mềm mại. Phía trƣớc đầu rồng là dải lá cúc lƣợn mềm. Phía tiếp giáp
với cột quân chỉ để trơn bào soi vỏ măng. Mặt bên kia lại với hình tƣợng rồng
cũng với cách thức viền tựa thân rồng lá đang uốn ngƣợc lên, qua đầu hất về
phía trƣớc. Các mang tai là lá lƣợn về phía sau. Cổ rồng đƣợc chạm dạng
cánh lá. Miệng rồng đang ngậm dải lá cúc. Phía trƣớc mặt rồng cũng có dải lá
cúc lớn bay lƣợn. Đặc điểm đầu rồng ở đây khác đầu rồng mặt bên ở chỗ
miệng rồng nhìn nghiêng giống mỏ vịt, kết hợp với cổ lƣợn đã đặc tả đầu rồng
rất mềm mại, ấm cúng mà không có nét gai góc. Xà nách các gian còn lại
55
đƣợc chạm ở phần tiếp giáp cột quân cụm lá cúc xoè sang hai bên. Đoạn giữa
lòng bụng các xà nách đƣợc chạm nổi mỗi xà nách một hình tƣợng của “Bát
bửu”: sách bút, sáo, khánh, tù và... với dải lụa đƣợc cách điệu bằng dải lá cúc
mềm.
* Trang trí các kẻ
Kẻ trên kiến trúc đình Xuân Dục đƣợc chia làm hai loại. Loại thứ nhất
gồm hai kẻ gian giữa và loại thứ hai là các kẻ các gian còn lại.
- Trang trí hai kẻ gian giữa
Hai kẻ này đƣợc thay thế dƣới thời Nguyễn. Kỹ thuật chạm khắc với đề
tài rồng. Rồng đƣợc chạm lộng, bong kênh phủ kín toàn thân kẻ. Hình tƣợng
rồng với mắt quỷ, miệng lang, sừng nai, tai thú, trán lạc đà, vảy cá chép, chân
chim ƣng với các móng vuốt sắc nhọn. Rồng trong tƣ thế uốn lƣợn trong nền
của nhiều đao mác lƣợn kết hợp với các đao nheo đuôi tạo dáng rồng không
bị thô cứng mà uyển chuyển trong nền trời vần vũ. Đầu nghé đƣợc trang trí
dạng đầu rồng với miệng, mũi hếch lên phía trên. Mắt rồng nổi khối, hai chân
khuỳnh đạp về phía sau. Các đao tóc, đao mang, đao gáy, đao bay ra từ mắt
lƣợn mềm lại phía sau kết thúc gần cột quân. Đầu kẻ hiên đƣợc chạm dạng
đầu rồng cũng trong tƣ thế hếch mõm lên phía tàu mái. Lòng bụng kẻ đƣợc
chạm nổi hoa và dải lá cúc lƣợn sang hai bên (Bản ảnh số 16).
- Trang trí trên các kẻ khác
Hệ thống kẻ các gian khác đƣợc chạm nổi ở hai đầu tiếp giáp với cột
quân và cột hiên. Hình tƣợng chạm nổi là lá cúc, viền mây và cụm vân xoắn
lớn. Đầu nghé chạm viền lƣợn kẻ soi, đầu kẻ cũng đƣợc chạm viền vân xoắn,
viền lƣợn kẻ soi.
Bảng 2.3: Các đề tài sử dụng trang trí đình Xuân Dục
STT Đề tài trang trí Vị trí trang trí
1 “Ngũ phúc khánh tiền”, sen, hồi văn, lá cúc Câu đầu, đấu vuông
lật, nhành cúc, nhành mai, cụm mây, viền lá ở vì nóc, cốn, xà
56
đề, vân xoắn nách, kẻ
2 Đầu rồng Đầu dƣ
3 Tứ linh, “Mai hóa long”, “Trúc hóa long”, Cốn
“Tùng hóa long”, “Cúc hóa long”, chữ Thọ
cách điệu
4 Rồng, , động vật, cảnh sinh hoạt: chuốc rƣợu, Cánh gà, xà nách
múa hát, ngƣời cƣỡi ngựa, tiên cƣỡi rồng
5 “Lƣỡng long triều nhật (nguyệt)”, “Lƣỡng Ván gió, xà nách
long với nàng tiến”, “Bát bửu”
d. Hệ thống di vật liên quan
Ngoài những giá trị về mặt kiến trúc, trong đình Xuân Dục hiện còn lƣu
giữ đƣợc nhiều di vật, cổ vật gắn với các thời kỳ lịch sử, có giá trị lịch sử, văn
hóa và khoa học khá tiêu biểu, nhƣ: 2 cuốn thần tích; 1 đỉnh đồng, niên đại thế
kỷ XIX; 1 đôi câu đối; 2 long ngai chạm rồng chầu, tứ linh, hoa dây, niên đại
thế kỷ XVIII và 34 đạo sắc phong thần, có niên đại nằm trọn trong 4 thế kỷ
XVII, XVIII, XIX và XX. Trong số này, quan trọng nhất là đạo sắc có niên
đại Cảnh Trị thứ 8 (1671) (Bản ảnh số 17). Đây là một trong những căn cứ để
xác định niên đại khởi dựng đình Xuân Dục.
e. Niên đại
Từ những truyền thuyết về lịch sử xây dựng đình, qua khảo sát và so
sánh về mặt bằng kiến trúc, nghệ thuật điêu khắc trang trí. Đặc biệt sự so sánh
“cánh gà’’, “ván lá gió’’ còn lại ở hai gian cạnh gian giữa với hình thức chạm
nổi, bong kênh, thể hiện đề tài rồng, tiên cƣỡi rồng, lƣỡng long triều nguyệt có
nét tƣơng đồng, kế thừa phong cách kiểu cánh gà ở đình Tây Đằng, đình
Thanh Lũng (niên đại thế kỷ XVI) và nhƣ cầu nối với những cánh gà của một
số kiến trúc có niên đại vào cuối thế kỷ XVII mà điển hình ở đình Công Đình.
Trong đó có sự so sánh nét tƣơng đồng về trang trí của “cánh gà’’ đình Phù
Lƣu (Từ Sơn, Bắc Ninh). Về hiện vật, đình Xuân Dục còn lƣu giữ nhiều sắc
57
phong có niên đại sớm, trong đó có sắc niên đại Cảnh Trị thứ 8 (1671). Đã cho
thấy niên đại xây dựng đình Xuân Dục vào đầu thế kỷ XVII theo tƣ liệu lịch
sử là phù hợp.
2.2.2.2. Đình Công Đình
a. Lịch sử hình thành và phát triển
Đình Công Đình trƣớc thuộc xã Công Đình, tổng Hạ Dƣơng, huyện
Đông Ngàn. Nay thuộc xã Đình Xuyên, huyện Gia Lâm (Hà Nội).
Theo các già làng Công Đình cho biết, đình làng Công Đình đƣợc dựng
vào khoảng giữa thế kỷ XVII. Truyền thuyết kể lại, sau khi đánh thắng giặc
Bầu, Tả Phụ tƣớng quân đã mang gỗ nhà khách của giặc Bầu mang về làm
đình, khởi đầu ngôi đình đƣợc dựng theo kiểu chữ “Nhất” với 3 gian. Sang
thế kỷ XVIII, đình đƣợc tu sửa. Văn bia hiện còn tại đình có niên đại Lê Cảnh
Hƣng thứ 3 (1742) có ghi lại tƣớng công Đào Công Luận ngƣời làng Phù
Ninh đã cúng 200 quan cổ tiền, 60 cây gỗ quý, 30 sào ruộng tốt để sửa sang
mở rộng ngôi đình thành 3 gian 2 chái và Hậu cung. Trên thực tế, nhiều mảng
chạm khắc đã đƣợc thay thế. Điều này phù hợp với nội dung văn bia nêu trên.
Tuy nhiên, hiện nay hậu cung không còn để lại dấu vết vật chất nào có niên
đại thế kỷ XVIII. Có khả năng cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, đình đƣợc bổ
sung toà phƣơng đình phía trƣớc đồng thời đã sửa mới hậu cung.
Vì có công với nƣớc và là ngƣời mang gỗ về làm đình nên khi mất Tả
Phụ đƣợc dân làng tôn thờ làm thành hoàng làng.
b. Kiến trúc
* Mặt bằng kiến trúc
Đình Công Đình đƣợc dựng trên một khu đất rộng, phía trƣớc và hai
bên là đƣờng làng, phía sau tiếp giáp với khu dân cƣ. Qua nghi môn dạng “Tứ trụ lồng đèn” là một sân khoảng 3.000m2 lát gạch Bát Tràng. Thực chất sân
rộng này đƣợc cải tạo vào thời Nguyễn để nó phục vụ sinh hoạt văn hóa của
cộng đồng mà đặc biệt là hội làng. Bằng vào hồi cố của các già làng cho biết:
58
phía trƣớc đình là một ao lớn đã bị lấp và sau này mở rộng thành đƣờng đi và
khu chợ làng. Về cơ bản mặt bằng đình hiện nay có kết cấu hình chữ “Đinh”
(Bản ảnh số 25), sát trƣớc mặt có Phƣơng đình (Bản vẽ số 6), (Bản ảnh số
24). Cũng nhƣ nhiều đình làng khác, các công trình kiến trúc đƣợc xây dựng
và sửa chữa nhiều thời kỳ khác nhau. Riêng đại đình là công trình kiến trúc
trung tâm bảo lƣu đƣợc những yếu tố ban đầu, phản ánh đƣợc những giá trị
4
3
2
5
Ghi chú: 1. Cổng đình 2. Phƣơng đình 3. Đại đình 4. Hậu cung 5. Bia đá
1
lịch sử văn hóa của di tích. Do vậy chỉ tập trung nghiên cứu về tòa đại đình.
Sơ đồ mặt bằng khu di tích đình Công Đình
* Nền móng kiến trúc
Toà Đại đình với kiến trúc 3 gian 2 chái với 6 hàng chân cột, dựng cao
hơn sân 0,6 m. Trƣớc đây đình có sàn gỗ ở gian bên nhƣng nay đƣợc tôn nền
và thay nền đất bằng cách lát gạch. Các cột gỗ đƣợc kê trên chân tảng đá
vuông tròn. Để tải lực ở các cột, phía dƣới chân tảng xử lý nện đất kè gạch
vỡ. Tƣờng bao xung quanh chủ yếu có tác dụng che chắn, không có tác dụng
chịu lực vì toàn bộ mái đƣợc đặt trên bộ khung gỗ với hệ thống vì và đƣợc
giằng với nhau do hệ thống các xà.
Bảng 2.4: Kích thƣớc cắt dọc của đại đình đình Công Đình (Bản vẽ số 7)
Các đơn vị không gian Số đo
Gian giữa 3,80m
59
Gian bên bên phải cạnh gian giữa 3,35m
Gian bên bên trái cạnh gian giữa 3,35m
Chái bên phải 4,50m
Chái bên trái 4,50m
Hiên hồi bên phải 0,85m
Hiên hồi bên trái 0,85m
Bảng 2.5: Kích thƣớc cắt ngang của đại đình đình Công Đình (Bản vẽ số 8)
Khoảng cách giữa các cột Số đo
Cột cái – cột cái 3,65m
Cột cái – cột quân phía trƣớc 2,20m
Cột cái – cột quân phía sau 2,32m
Cột quân phía trƣớc – cột hiên phía trƣớc 1,30m
Cột quân phía sau – cột hiên phía sau 1,23m
* Kết cấu bộ khung kiến trúc
Đình Công Đình, các bộ vì nóc đã đƣợc thay thế, hiện nay theo kiểu
thức “Vì kèo trụ trốn” bào trơn đóng bén, tất cả đều là ván xẻ, với hệ thống
trụ trốn (một lớn hai nhỏ) có đòn tay kết nối. Phần vì nóc tạo dáng tam giác
cân, phần đáy tam giác là ván xẻ đặt trên câu đầu, ván xẻ hai cạnh trên tam
giác đỡ lấy hệ thống hoành mái phần trên (Bản ảnh số 27). Các cốn đều đƣợc
tạo cốn chồng rƣờng với các con rƣờng chồng thƣa thông qua đấu vuông thót
đáy, một đầu ăn mộng vào cột cái đỡ lấy các hoành mái phần dƣới (Bản ảnh
số 28, số 29). Các kẻ đƣợc nối đầu cột quân với cột hiên, phía trên có ván
nong dày đỡ lấy các hoành còn lại. Khoảng hoành kiểu “Thƣợng tam hạ tứ”
(trên 3, dƣới 4). Chiều cao của mái từ thƣợng lƣơng đến nền là 6,28m, chiều
cao từ giọt gianh đến nền là 2,05m. Tỷ lệ giữa chiều cao của mái so với chiều
cao của giọt gianh là 3,06 lần. Nhƣ vậy mái đình dài, chiều cao đình thấp.
60
- Liên kết ngang kiến trúc
Cũng giống đình Xuân Dục, liên kết giữa cột cái với cột cái là câu đầu,
giữa cột cái với cột quân là xà nách, giữa cột quân với cột hiên là kẻ, phía
dƣới chân cột có ván sàn. Sự liên kết này đƣợc đánh mộng với nhau. Vì nóc
đƣợc dựng trên câu đầu lớn, câu đầu dựng trên đầu cột cái thông qua đấu
vuông thót đáy, phía dƣới là đầu dƣ. Cốn phía mái trƣớc là các con rƣờng
chồng nhau, một đầu ăn mộng vào cột cái, đầu kia đƣợc đỡ lấy bởi đấu vuông
thót đáy. Cốn phía sau gian giữa, con rƣờng cuối một đầu ăn xuyên mộng qua
một cột non, cột non kê trên đấu vuông đặt trên xà nách mà không có cột
quân, tạo thành ô trống chữ nhật. Đỡ lấy bụng xà thƣợng là “cánh gà” dƣới
hình thức thân rồng, phần đầu đƣợc chầu vào giữa gian (Bản vẽ số 9).
- Liên kết dọc kiến trúc
Nối giữa các bộ vì là hệ thống xà thƣợng và xà hạ. Các xà ăn mộng
chắc vào cột cái và cột quân tạo thành độ giằng kiên cố. Phần gian chái để tạo
góc đao đã sử dụng kẻ góc, một đầu ăn mộng vào cột cái, đầu ngoài kê trên
cột góc hồi và liên kết với tàu mái nhằm đảm bảo tính chịu lực phần chái.
Phần gian giữa không có xà ngƣỡng do sửa chữa nhiều lần và tạo thành cửa
“Thƣợng song hạ bản” tiếp giáp nền. Các gian còn lại, xà ngƣỡng có độ cao
hơn mặt nền 0,30m. (Bản vẽ số 10).
- Kỹ thuật mộng
Liên kết các cấu kiện trên kiến trúc với nhau, đình Công Đình sử dụng
các loại mộng sập ở hệ thống để kết nối các cấu kiện lớn nhƣ “cánh gà”, đầu
dƣ. Mộng xuyên ở các xà và mộng chốt ở các cấu kiện nhỏ. Cụ thể: Loại thứ
nhất là mộng sập: Câu đầu chƣa sử dụng đánh mộng vào cột cái mà đƣợc kê
trên đầu cột cái thông qua đấu vuông thót đáy. Ở đầu dƣ đƣợc sử dụng mộng
sập vào khe cột cái và kẻ hiên sập mộng vào đầu khe cột quân và cột hiên.
Loại thứ hai là mộng xuyên: loại mộng này sử dụng để liên kết các hoành
61
mái, các xà dọc với nhau, xà nách vào cột cái và cột quân. Loại thứ ba là
mộng chốt: sử dụng ở tàu mái nhằm liên kết ván gỗ dày với kẻ hiên.
* Đánh giá đặc điểm: từ số đo khoảng gian, đây là ngôi đình có quy mô
vừa phải so với các ngôi đình cùng niên đại nhƣ đình Trân Tảo.
c. Điêu khắc trang trí kiến trúc
Dƣới thời Nguyễn (đầu thế kỷ XX), đình đƣợc tu bổ lớn. Chính bởi
vậy, giai đoạn tu bổ này đã làm mất hẳn các mảng chạm ở vì nóc, ở các ván
bƣng, ván gió nối đầu cột (theo hệ xà đai). Nghệ thuật trang trí cổ truyền của
đình chỉ còn ở các “đầu dƣ”, “cánh gà” và đặc biệt ở bức cửa võng gian giữa.
* Trang trí đầu dư
Hiện tại vẫn giữ nguyên đƣợc 6 đầu dƣ từ thời khởi dựng. Các đầu dƣ
đƣợc chạm lộng, bong kênh giống nhau. Đầu tƣ đƣợc thể hiện đầu rồng, trên
thân gỗ tròn. Thân gỗ tròn không chạm hết mà để thừa một chút khoảng 12
cm tiếp giáp với cột cái. Phía dƣới chạm nổi dạng lá đề với vài nét đục bo.
Rồng đƣợc chạm với hình thức: mũi, mồm hếch lên, miệng rộng có răng cƣa
và 4 răng nanh, miệng há ngậm viên ngọc. Hai đao râu cằm tết xoắn một phần
hai chiều dài, sau đó chạy thẳng đến tiếp giáp phần lá đề. Các đao mác kéo
dài về phía sau. Với phƣơng pháp kết hợp chạm lộng, chạm bong đã tạo thành
đề tài trang trí sống động (Bản ảnh số 31, số 42, số 43).
* Trang trí “cánh gà”
Trên kiến trúc hiện còn 8 “cánh gà” thể hiện ở các cột cái phía trƣớc và
phía sau. Bộ phận này đƣợc lắp dƣới xà hạ, phía dƣới kê bởi thanh gỗ vừa để
tán lực, giúp “cánh gà” không bị xộc xệch. Hình thức tạo tác chạm lộng, nổi,
bong kênh 2 mặt trên một thân gỗ dẹt thể hiện toàn thân rồng. Phần đầu quay
vào gian giữa (0,9m), phần đuôi ở gian bên (1,1m), thân thể hiện chui qua cột
cái. Cả phần đầu và đuôi rồng dày đặc các đao mác, đao đầu rồng thể hiện bay
cả về phía sau và hất lên phía đầu; đao đuôi dày đặc chỉ để hở đuôi rồng dạng
62
đuôi cá rất mập. Mặt rồng dẹt với miệng rộng có răng cƣa. Cứ cách một gian
hai đầu chầu vào, lại một gian hai đuôi chầu vào (Bản ảnh số 33, số 34).
* Trang trí cửa võng
Cửa võng chia làm ba phần. Phần trên cùng là ván gỗ có chiều dài bằng
lòng gian giữa, rộng 27 cm, đặt dƣới xà thƣợng và trên một con xà gỗ tròn
ngang với đầu dƣ. Kỹ thuật chạm nổi đôi phƣợng chầu mặt trời. Mặt trời ở
giữa với cụm mây phía dƣới và mỗi bên mặt trời có 3 đao chạy ngang sang
hai bên. Mỏ phƣợng dài gần kề với đao mác và toàn thân đang trong tƣ thế
dang rộng cánh bay chạy gần hết phần thanh gỗ mỗi bên, cách cột cái khoảng
13 cm. Thân phƣợng ngắn, đuôi dài chiếm 2/5 toàn bộ thân phƣợng. Mào
dƣới cổ phƣợng đƣợc chạm lƣợn mềm.
Phần giữa phía dƣới thanh gỗ tròn và trên thanh gỗ bào soi kẻ chỉ đƣợc
chạm lộng, bong kênh đề tài “Lƣỡng long chầu hổ phù”. Hổ phù đƣợc tạo tác
dƣới dạng đầu rồng với mặt chính diện mũi sƣ tử, miệng rộng ngậm ngọc,
trán lạc đà nhô thấp, tỉa vảy cá. Đỉnh thóp đƣợc thể hiện mặt trời nhỏ chạm
nổi tròn nhẵn, phía trên mặt trời có đao. Hai sừng hổ phù bay thẳng lên trên,
song song phía ngoài là hai đao mang chạy thẳng lên tiếp giáp với thanh xà gỗ
tròn. Mỗi bên mang hổ phù có 4 đao chạy thẳng hếch sang hai bên. Hai rồng
hai bên đƣợc chạm chầu vào hổ phù cũng với hình thức mặt nhìn thẳng nhƣng
có độ nghếch. Mặt rồng cũng tựa mặt hổ phù, tuy nhiên đao mang bay lƣợn
úp vào trong đỉnh. Các đao mang nheo lƣợn sau đó bay sang hai bên. Hệ
thống đao phía trong bay tiếp giáp đến đao Hổ phù, các đầu đao nọ gối kế đầu
đao kia. Các đao phía ngoài bay tiếp sát cột cái. Giữa những đao lớn lại có
đao nhỏ ngắn, phía dƣới đao cuối cùng có điểm bông cúc mãn khai. Rồng
không thể hiện phần thân mà chỉ nhấn mạnh bộ mặt và khoe đua các loại đao.
Nhìn chung các mặt hổ phù, rồng đƣợc chạm phóng khoáng và khoẻ mạnh.
Phần dƣới cùng đƣợc đặt dƣới và ốp trong thanh gỗ dƣới mảng “Lƣỡng
long chầu hổ phù”. Dƣới dải băng là hệ thống chạm kép trên dƣới, phía trên là
63
hệ thống cánh sen chạy lô xô sang hai bên đến tiếp giáp cột cái. Phía dƣới là
dải băng hoa cúc mãn khai, cứ cách một bông cúc là một cụm mây. Lòng
băng chính đƣợc chia làm 5 ô nhỏ và 4 ô lớn. Lòng các ô lớn là tấm gỗ chữ
nhật nằm khắc chữ Hán “Thánh cung vạn tuế”, 5 ô chữ nhật đứng cũng đƣợc
khắc chữ Hán. Diềm các thanh gỗ đƣợc bào soi kẻ chỉ. Dƣới cùng của mảng
trang trí này là thanh gỗ cũng đƣợc bào soi kẻ chỉ nhƣ ở thanh gỗ trên để tạo
thành dải băng trang trí với phong cách chạm lộng chia thành 3 cụm hoa cúc
mãn khai, hai bên bông cúc là lá dạng đao chạy sang hai bên (Bản ảnh số 32).
* Trang trí cốn
Cốn trên kiến trúc đƣợc chia làm hai loại. Tất cả các cốn đƣợc làm theo
kiểu chồng rƣờng, duy có hai cốn phía sau gian giữa đƣợc làm theo kiểu cốn
ván mê. Hai cốn ván mê này đƣợc thay thế dƣới thời Nguyễn trong một đợt tu
bổ.
- Trang trí cốn ở các gian
Hệ thống cốn dạng chồng rƣờng. Thân các con rƣờng đƣợc bào soi vỏ
măng, phía đầu ngoài cột quân đƣợc chạm nổi cụm vân xoắn lớn (bản ảnh số
40). Cốn góc gian chái để trơn không trang trí (Bản ảnh số 36).
- Trang trí hai cốn phía sau gian giữa
Mặt ngoài phía gian bên cạnh: đƣợc chạm nổi đề tài “Tứ linh”. Hình
tƣợng rồng thể hiện chủ đạo chiếm gần hết diện tích ván trang trí. Thân rồng
uốn lƣợn với đầu rồng chạm mặt nhìn chính diện hơi nghiêng. Toàn thân rồng
đƣợc phủ bởi vảy cá, đuôi rồng chạm tỉa thành 5 nheo lƣợn. Đi kèm với thân
rồng là các mây đao. Sau đuôi rồng là hình tƣợng phƣợng đang dang rộng
cánh bay. Phía trƣớc đầu rồng hơi chếch dƣới cổ là con ly đang trong tƣ thế
vờn mây. Phía dƣới chân rồng đƣợc chạm hình tƣợng rùa nhỏ bé đang nhô
trên mặt sóng.
Mặt chầu vào gian giữa: mặt bên phải là đề tài “Trúc hóa long”, mặt
bên trái là đề tài “Mai hóa long”. Với kỹ thuật chạm nổi, hình tƣợng Trúc và
64
Mai đƣợc thể hiện phần gốc là đầu rồng, phần thân uốn lƣợn nhƣ thể rồng
bay. Từ thân và ngọn đƣợc nảy ra các lá, hoa mãn khai.
Bảng 2.6: Các đề tài sử dụng trang trí đình Công Đình
STT Đề tài trang trí Vị trí trang trí
1 Rồng Đầu dƣ, cánh gà
2 “Lƣỡng long triều hổ phù”, phƣợng chầu Cửa võng
mặt trời, rồng, cúc mãn khai, cánh sen
4 “Tứ linh”, “Trúc hóa long”, “Mai hóa long” Cốn
d. Hệ thống di vật liên quan
Trải qua thời gian, nhất là trong những cuộc chiến tranh và nhận thức
của về di sản một thời đã làm ảnh hƣởng nhiều đến di tích. Chính bởi vậy di
vật cổ của đình hiện nay chỉ còn lại rất ít. Hiện nay đình còn lƣu lại tấm bia đá
dựng năm Cảnh Hƣng thứ 3 (1742) ghi lại tƣớng công Đào Công Luận ngƣời
làng Phù Ninh đã cúng 200 quan cổ tiền, 60 cây gỗ quý, 30 sào ruộng tốt để
sửa sang mở rộng ngôi đình thành 3 gian 2 chái và hậu cung (Bản ảnh số 38,
số 39). Đây là di vật có thông tin chính xác về quá trình mở rộng quy mô đình
Công Đình.
e. Niên đại
Lòng bụng 2 câu đầu gian giữa toà đại đình có ghi rõ: “Tuế thứ Mậu
Thân thập nhị nguyệt nhị thập lục nhật Dần thời thụ trụ thƣợng lƣơng đại cát
hảo” (Giờ Dần ngày 26 tháng 12 năm Mậu Thân dựng cột cất nóc rất là tốt
lành) và “Cảnh Trị lục niên thập nhị nguyệt nhị thập lục nhật...” (Ngày 26
tháng 12 năm Cảnh Trị thứ 6 tức năm 1668) (bản ảnh số 30). Qua phong cách
nghệ thuật trang trí với hình thức chạm nổi, chạm lộng ở “cánh gà”, đầu dƣ về
đề tài rồng và cửa võng chạm đề tài “Lƣỡng long triều hổ phù” của đình Công
Đình có sự tƣơng đồng với nghệ thuật trang trí những ngôi đình cùng thời. Từ
đó khẳng định đình Công Đình khởi dựng năm 1668. Đây là bằng chứng khảo
65
cổ học quan trọng để nghiên cứu những ngôi đình có cùng phong cách nghệ
thuật. Theo truyền thuyết tại địa phƣơng về xây dựng đình so với tƣ liệu lịch
sử là phù hợp.
2.2.2.3. Đình Tình Quang
a. Lịch sử hình thành và phát triển
Đình Tình Quang thuộc xã Giang Biên, huyện Gia Lâm, nay thuộc
quận Long Biên. Làng Tình Quang có tên nôm là Kẻ Vịa (chữ Vịa có nghĩa là
vìa, bìa tức là ven sông, sau này mỹ tự hóa chữ Hán là Giang Biên). Theo các
cụ già làng Tình Quang cho biết, trên 2 tấm bia có niên đại thế kỷ XVII, nay
đã bị vùi sâu trong lòng đất mà dân làng đã làm nhà lên trên thì đình làng
Tình Quang đƣợc xây dựng vào thời Chính Hòa (1680 -1705). Năm 1856, do
đào sông Đuống thay cho sông Thiên Đức xƣa mà thôn Tình Quang có nhiều
thay đổi. Năm 1913, đê bị vỡ phải đắp con đê quai vì vậy đình vốn ở trong
đồng trở thành một ngôi đình nằm ở ngoài bãi. Đến năm 1918 (Khải Định 3)
đình đƣợc trùng tu lớn đến năm 1922 (Khải Định 7) mới hoàn thành. Năm
1929 sửa chữa tả - hữu vu. Năm 1946, Pháp đóng ở đình (chúng phá và vứt
bỏ cả đồ thờ). Sau trận lụt năm 1971, đình đƣợc tu sửa một số bộ phận kiến
trúc và giữ nguyên cho đến nay. Năm 2010, đình đƣợc thay thế hoành, rui và
cải tạo hạ tầng phía ngoài.
Đình làng Tình Quang tôn thờ Lý Nam Đế, Đinh Điền và Lý Chiêu
Hoàng. Đây là những nhân vật trong các triều đại lịch sử Việt Nam làm thành
hoàng làng.
b. Kiến trúc
* Mặt bằng kiến trúc
Đình Tình Quang đƣợc xây dựng trên khu đất phẳng rộng (Bản ảnh số
45). Mặt bằng kiến trúc: trƣớc cửa đình là một ao lớn mang tƣ cách tụ thuỷ.
Sau quá trình tu sửa đã thu hẹp lại thành giếng có hình bán nguyệt, phần còn
lại tạo thành vƣờn cỏ (Bản ảnh số 46). Tiếp đến là nghi môn, sau đó là một
66
sân rộng lát gạch Bát Tràng. Tả - hữu vu song song và vuông góc với đầu hồi
đại đình (Bản ảnh số 47, số 48). Hậu cung 3 gian chạy dọc, nối với đại đình
tạo thành hình chữ Đinh. Mặt nền của tòa hậu cung cao hơn so với nền tòa đại
đình 0,50m. Tòa đại đình là kiến trúc trung tâm (Bản vẽ số 11). Do điều kiện
lịch sử, các công trình kiến trúc đƣợc xây dựng và sửa chữa nhiều thời kỳ
khác nhau. Riêng đại đình là công trình kiến trúc trung tâm bảo lƣu đƣợc
những yếu tố ban đầu, phản ánh đƣợc những giá trị lịch sử văn hóa của di
5
4
Ghi chú: 5. Hậu cung 6. Tả - hữu vu 7. Lăng quận công
tích. Do vậy chỉ tập trung nghiên cứu về tòa đại đình.
6
6
7
3
1
2
Ghi chú: 1. Cổng đình 2. Giếng đình 3. Nghi môn 4. Đại đình
2.2.2.3.2.2.Nền móng kiến trúc
Sơ đồ mặt bằng khu di tích đình Tình Quang
* Nền móng kiến trúc
Qua khỏi bậc tam cấp là bƣớc vào toà đại đình. Đại đình có diện tích 360 m2 bao gồm 5 gian 2 chái lớn, đƣợc dựng trên kết cấu 6 hàng chân cột.
Nền của toà đại đình đƣợc lát gạch đỏ vuông 0,30m x 0,30m. Hiện nay, tại
gian giữa vẫn còn gian lòng thuyền, thấp hơn so với nền gian khác 0,10m.
Các cột cái đều cao 6m, đƣờng kính 0,47m dựng trên chân tảng đá âm
dƣơng có kích thƣớc 0,68m x 0,68 m. Cột quân cao 3,6m, đƣờng kính 0,40m,
dựng trên chân tảng kích thƣớc 0,56m x 0,56m. Cột hiên cao 2,7m, đƣờng
kính 0,36m. Khoảng các giữa cột cái với cột quân là 2,91m, giữa cột quân với
67
cột hiên là 1,45m. Khoảng cách giữa 2 cột cái ở gian chính giữa toà đại đình
là 3,77m. Hệ thống cột đƣợc dựng trên chân tảng vuông tròn.
Bảng 2.7: Kích thƣớc cắt dọc của đại đình Tình Quang (Bản vẽ số 13)
Các đơn vị không gian Số đo
Gian giữa 3,60m
Gian bên bên phải cạnh gian giữa 3,02m
Gian bên bên trái cạnh gian giữa 3,02m
Gian bên bên phải kế tiếp 2,98m
Gian bên bên trái kế tiếp 2,98m
Chái bên phải 4,44m
Chái bên trái 4,44m
Hiên hồi bên phải 1,10m
Hiên hồi bên trái 1,10m
Bảng 2.8: Kích thƣớc cắt ngang của đại đình Tình Quang (Bản vẽ số 12)
Khoảng cách giữa các cột Số đo
Cột cái – cột cái 3,77m
Cột cái – cột quân phía trƣớc 2,91m
Cột cái – cột quân phía sau 2,91m
Cột quân phía trƣớc – cột hiên phía trƣớc 1,45m
Cột quân phía sau – cột hiên phía sau 1,45m
* Kết cấu bộ khung kiến trúc
Kết cấu khung chịu lực bằng gỗ của đại đình đƣợc hình thành trên cơ
sở các cột, các bộ vì và các cấu kiện khác (các xà dọc) liên kết các bộ vì lại
với nhau. Với 5 gian 2 chái, đình Tình Quang có 6 bộ vì theo lối triến trúc
thƣợng rƣờng hạ kẻ. Khoảng hoành mái kiểu “Thƣợng tứ, hạ ngũ” (trên 4,
68
dƣới 5). Chiều cao của mái từ thƣợng lƣơng đến nền là 6,49m, chiều cao từ
giọt gianh đến nền là 2,65m. Tỷ lệ giữa chiều cao của mái so với chiều cao
của giọt gianh là 3,14 lần. Nhƣ vậy mái đình dài, chiều cao đình thấp.
- Liên kết ngang kiến trúc
Tƣơng tự nhƣ đình Xuân Dục, liên kết ngang kiến trúc tòa đại đình
đƣợc giằng nối giữa cột cái với cột cái là câu đầu, hai đầu câu đầu bám mộng
vào đầu cột cái. Giữa cột cái với cột quân đƣợc liên kết bởi xà nách, một đầu
xà nách đánh mộng vào thân cột cái, một đầu ăn mộng sập vào cột quân. Giữa
cột quân với cột hiên cũng đƣợc gắn kết bởi kẻ, hai đầu kẻ đánh mộng sập
vào đầu cột quân và đầu cột hiên. Phía dƣới chân cột cái, cột quân trƣớc đây
có làm ván sàn (hiện vẫn còn dấu vết lỗ mộng), cũng có chức năng liên kết
các cột với nhau.
+ Vì nóc đƣợc dựng trên câu đầu dạng vì kèo cột trụ thanh vuông. Đây
là sản phẩm của lần tu bổ dƣới thời Nguyễn. Hiện tƣợng này tạo cho kiến trúc
có phần vững chãi hơn, bởi kèo và cột trụ đƣợc đóng bén ăn mộng với nhau.
Phần vì nóc tạo dạng tam giác cân đứng toàn bộ và tải lực trên một câu đầu
lớn. Phần trụ giữa đỡ lấy xà nóc thông qua một đấu hình thuyền. Phần đấu
này có chạm viền và phần cổ dƣới hở ra dạng lá đề.
+ Cốn trong các gian toà đại đình đƣợc chia làm hai loại. Loại thứ nhất
đƣợc thể hiện ở hai vì gian giữa. Loại thứ hai ở các gian bên và gian chái. Cốn
gian giữa đƣợc tạo thêm ván mê và khoảng cách các con rƣờng đƣợc chắp
khít nhau thông qua một đấu vuông thót đáy mỏng, tạo thành một mảng kín
để trang trí đồng thời nó có tác dụng chịu lực, tán lực cho các hoành mái phía
trên. Các cốn gian còn lại là hệ thống các con rƣờng, một đầu ăn mộng vào
cột cái. Đầu kia chồng nhau thông qua các đấu vuông thót đáy có độ dày hơn
(Bản ảnh số 51).
Hệ thống xà đùi, xà nách, một đầu ăn mộng vào cột cái, một đầu ăn mộng
với cột quân, đỡ dƣới là các nghé. Đây là kết cấu: “Giá chiêng vì kèo trụ trốn,
69
cốn chồng rƣờng, kẻ hiên”. Đỡ lấy câu đầu phía dƣới là đầu dƣ, đỡ lấy xà đùi,
xà nách là nghé. Hệ thống ăn mộng này có tác dụng giằng lấy các cột.
+ Đầu dƣ đƣợc tạo tác dạng đầu rồng, phần đuôi rồng đƣợc đặt trên các
cốn với hình thức mộng sập vào cột cái. Với hình thức này, nó không những
có tác dụng làm cân bằng câu đầu mà nó còn là hình thức trang trí để làm
giảm sự thô kệch trong kiến trúc.
+ Kẻ hiên đƣợc tạo dạng cong cổ ngỗng, nối cột quân với cột hiên với
hình thức sập mộng. Với hình thức lƣợn dạng cổ ngỗng có tác dụng công lực
các hoành dƣới vừa có tác dụng giằng cột quân với cột hiên..
+ Các đấu kê trên kiến trúc: đƣợc làm dƣới 2 dạng, một là đấu vuông,
hai là đấu hình thuyền. Loại đấu vuông đƣợc làm hai kích cỡ phù hợp với độ
lớn của các con rƣờng, đầu cột cái. Đấu hình thuyền chủ yếu đƣợc sử dụng ở
thƣợng lƣơng. Các đấu có tác dụng tán lực, kê chỉnh các bộ phận kiến trúc.
- Liên kết dọc kiến trúc
Theo mặt cắt dọc, các bộ vì của đại đình đình làng Tình Quang đƣợc
các xà dọc liên kết lại thành một khung chịu lực. Các cấu kiện này có công
năng làm hình thành một hệ thống giằng, cố định bộ khung gỗ ở những cao độ
khác nhau. Đầu các cột cái đƣợc liên kết với nhau bởi các xà dọc (còn gọi là
xà thƣợng), đầu các cột quân có các xà hạ, ở chân các cột có xà ngƣỡng cũng
là những cấu kiện có tác dụng liên kết làm bộ khung gỗ chịu lực thêm vững
chãi.
- Kỹ thuật mộng
Trên kiến trúc đình Tình Quang chủ yếu đƣợc sử dụng 3 loại mộng chủ
yếu:
+ Loại thứ nhất là mộng sập: đƣợc sử dụng ở đầu dƣ đóng sập vào khe
cột cái và kẻ hiên sập mộng vào đầu khe cột quân và cột hiên. Nhìn chung
hình thức này chủ yếu sử dụng ở đầu các cột.
70
+ Loại thứ hai là mộng chốt: sử dụng ở tàu mái nhằm liên kết ván gỗ
dày với kẻ hiên.
+ Loại thứ 3 là mộng xuyên: loại mộng này sử dụng để liên kết các
hoành mái, các xà dọc với nhau, xà nách vào cột cái.
* Đánh giá đặc điểm: Với 6 hàng chân cột của một kiến trúc 5 gian 2
chái, với khoảng không gian (mặt cắt dọc là 26,68m). Đây là ngôi đình có quy
mô lớn, phản ánh đƣơng thời làng Tình Quang khá giàu có, thể hiện rõ nét về
sự phát triển nghệ thuật kiến trúc đình làng thuộc xứ Bắc.
c. Điêu khắc trang trí
Dƣới thời Nguyễn, đình Tình Quang đƣợc tu sửa lớn cho nên cấu trúc
bộ vì nóc gian giữa với kiểu thức “Vì kèo trụ trốn” bào trơn đóng bén, tất cả
đều là ván xẻ, với hệ thống trụ trốn (một lớn hai nhỏ) kết nối bằng đòn tay,
tạo thành tam giác cân. Cũng từ đây các mảng chạm ở vì nóc, ở các ván bƣng,
ván gió nối đầu cột (theo hệ xà đai) đều mất hẳn, để nghệ thuật cổ truyền của
đình chủ yếu chỉ còn ở các đầu dƣ, cốn, kẻ nối giữa cột quân và cột hiên.
* Trang trí cốn
- Cốn gian giữa phía trước bên phải
Cốn này đƣợc tạo bởi các con rƣờng chồng khít nhau và trang trí ở mặt
chầu vào gian giữa. Nghệ thuật đƣợc thể hiện thông qua chạm nổi, bong kênh,
chạm lộng với nhiều đề tài. Con rƣờng trên cùng đƣợc chạm nổi khối với hình
tƣợng hai chú bé ngộ nghĩnh, khuôn mặt bầu bĩnh, đầu đội mũ “bì biện” cƣỡi
trên nghê uống rƣợu (Bản ảnh số 56). Hình tƣợng nghê chỉ thể hiện phần đầu
đang trong tƣ thế sinh động, kèm theo bên cạnh là dải mây. Con rƣờng phía
dƣới là hình tƣợng cụm mây đi với dải lá cúc lật. Dƣới cùng tiếp giáp với xà
nách là một con rƣờng lửng đƣợc chạm hình lân đang trong tƣ thế vờn dỡn
với cụm mây. Ô chữ nhật nằm làm mảng trang trí “rồng ổ” với kỹ thuật chạm
lộng, nổi, bong kênh (Bản ảnh số 57). Hình tƣợng rồng đƣợc thể hiện chính
mặt với trán lạc đà, mũi sƣ tử, miệng rộng đang ngậm viên ngọc. Các đao mác
71
bay thẳng sang hai bên, đi kèm các đao mác là rồng con đang quấn lấy đao.
Thân xà nách chạm bào soi vỏ măng, phần đầu tiếp giáp với cột quân đƣợc
chạm nổi, bong kênh đề tài lá cúc lật (Bản ảnh số 54).
- Cốn gian giữa phía trước bên trái
Phần cốn này cũng tƣơng tự nhƣ cốn bên phải đƣợc tạo bởi các con
rƣờng chống khít nhau tạo thành 4 đề tài trang trí. Con rƣờng trên cùng đƣợc
chạm hình tƣợng lân đang trong tƣ thế ngoái cổ ngoắc đầu lên, một tay đang
cầm dải mây (Bản ảnh số 59, số 61). Thân và đuôi lân đƣợc tỉa vảy tròn lô xô.
Vây đao và vây lƣng dạng vây cá xếp xuôi về phía sau, đuôi đƣợc thể hiện
nhƣ vắt từ bên kia lại.
Con rƣờng phía dƣới lại là đề tài rồng, rồng ở đây chủ yếu thể hiện
phần đầu với các đao bay lại sau, đao lông quấn lƣợn gần nhƣ che mặt rồng,
đuôi rồng dạng đuôi các rất mập. Phía dƣới cổ đao nhô ra một tay rồng đang
cầm lấy râu đao. Mặc dù là con rƣờng ngắn nhƣng đã thể hiện khá sinh động
hình tƣợng rồng đang trong tƣ thế bay.
Con rƣờng thứ ba lại là đề tài đôi rồng đang chầu nhau, trang trí tiếp
giáp với cột cái. Hình tƣợng rồng đƣợc chạm nhỏ, nhìn chung chỉ thể hiện đầu
rồng. Hai phần ba còn lại của rƣờng chạm nổi với đƣờng nét khối lƣợn kèm
theo đao lá rất khúc triết trữ tình.
Phần trang trí thứ tƣ cũng tƣơng tự nhƣ cốn bên phải là một con rƣờng
cụt kê tiếp giáp với cột quân, phía trong là mảng chữ nhật. Mặc dù là hai cấu
kiện gỗ không liền nhau nhƣng đã khép khít lại với những đƣờng nét chạm
nổi, bong kênh, chạm lộng tạo thành một đề tài hoàn chỉnh “Tiên cƣỡi rồng”.
Đầu rồng thể hiện mặt trực diện có góc độ ngoái khác nhau. Các đao bay về
phía trƣớc tuỳ theo độ nghiêng của đầu rồng. Rồng gần nhƣ không thể hiện
phần thân là do tiết diện của phần trang trí ngắn, đi kèm đầu rồng chỉ thể hiện
đuôi rồng dạng đuôi cá rất mập. Phía trên 4 con rồng lớn là hình tƣợng các
nàng tiên đang trong động tác múa với cánh tay dang rộng sang hai bên. Phía
72
dƣới hình tƣợng rồng lớn là đôi rồng con đang chầu nhau cùng với những đao
mác bay thẳng về phía sau. Xà nách cũng đƣợc trang trí nhƣ cốn bên phải với
đề tài lá cúc lật (Bản ảnh số 58).
- Cốn gian giữa phía sau bên phải
Phần cốn này cũng đƣợc tạo tác nhƣ hai cốn phía trƣớc là do các con
rƣờng chồng khít nhau. Tuy nhiên ở đây lại đƣợc trang trí hai mặt. Mặt bên
ngoài phía gian cạnh tạo tác thành một đề tài “Rồng ổ” và đƣợc chia thành
nhiều tầng khác nhau. Cũng với kỹ thuật chạm nổi, bong kênh, chạm lộng,
rồng đƣợc thể hiện rồng to với biểu đạt chủ yếu đầu rồng nhìn trực diện: mắt
quỷ, miệng lang, sừng lai, tai thú, trán lạc đà, chân chim ƣng, vẩy cá chép,
mũi sƣ tử, kèm theo đó là các đao bay ngang hai bên, bay về phía trƣớc và sau
thân rồng. Cùng với rồng lớn cũng là những đôi rồng con chầu nhau trong tƣ
thế đang cầm đao râu. Dƣới cùng cũng đƣợc thể hiện hình tƣợng “tiên cƣỡi
rồng” với đôi tay đang dang rộng múa. Xà nách đƣợc trang trí phần đầu tiếp
giáp với cột quân là lá cúc lật. Mặt phía trong chầu vào gian giữa cũng với đề
tài rồng ổ, nhiều tầng, đi kèm là những đao mác và cụm mây có đao bay hơi
lƣợn. Xà nách, phía đầu cũng trang trí lá cúc lật, phần thân lại đƣợc chạm nổi
đôi rồng đuổi nhau, đi kèm có cụm mây và hạt tròn.
- Cốn gian giữa phía sau bên trái
Mặt ngoài phía gian bên: không trang trí dày đặc nhƣ ở các cốn bên.
Cũng với kỹ thuật cham nổi, bong kênh thì con rƣờng trên cùng là hình tƣợng
lân đang trong tƣ thế trƣờn bò chầu vào trong hậu cung, nhƣng đầu lân lại
ngoảnh sang bên. Hai con rƣờng phía dƣới, phần thân đƣợc bào soi vỏ măng,
phần đầu tiếp giáp với cột quân đƣợc thể hiện nổi khối với một đao lƣợn về
phía sau, phần trang trí rất trìu tƣợng. Con rƣờng cụt phía dƣới tiếp giáp với
xà nách cũng đƣợc trang trí rồng với các đao bay về phía sau. Phía trong là ô
trang trí chữ nhật với hình tƣợng rồng chạm nổi, và ở đây con rồng phía dƣới
73
cũng thể hiện chủ yếu đầu rồng với bộ mặt nhìn chính diện. Phía trên là đôi
rồng nhỏ đang chầu nhau với những đao mác bay về phía sau.
Mặt phía trong chầu vào gian giữa cũng với kiểu thức nhƣ mặt ngoài
nhƣng phần ô chữ nhật lại đƣợc chạm nổi đề tài phƣợng hàm thƣ. Hình ảnh
phƣợng toàn thân đang dang rộng cánh bay, bƣơn trải về một bầu trời huyền
diệu. Phần xà nách cũng với đề tài lá cúc lật.
* Các cốn gian bên
Các cốn này đƣợc kết cấu dạng cốn chồng rƣờng, các con rƣờng đƣợc
kê nhau thông qua đấu vuông thót đáy. Thân các con rƣờng đƣợc chạm bào
soi vỏ măng, một đầu ăn mộng vào cột cái không trang trí, một đầu đƣợc
chạm nổi với những cụm mây, vân xoắn lớn, họa tiết trái giành. Chỉ còn một
vài con rƣờng đƣợc chạm nổi hình tƣợng rồng và lân. Trong đó có một hình
tƣợng con lân nhô mõm đang ngậm đuôi con rắn. Hình tƣợng bắt rắn, khiến
chúng ta liên tƣởng đến câu chuyện “Khấy biển sữa” của ngƣời Ấn Độ (Bản
ảnh số 62). Ở đây hình tƣợng này đƣợc thể hiện tính dân gian rất cao.
* Trang trí các đầu dư
Đầu dƣ ở đình Tình Quang đƣợc chia làm hai loại. Loại thứ nhất chiếm
gần hết số lƣợng đầu dƣ ở các gian và chúng đều là sản phẩm của nghệ thuật
tạo hình thế kỷ XVII với một phong cách tƣơng đồng. Cụ thể là các đầu dƣ
đƣợc chạm lộng, nổi với hình tƣợng đầu rồng đƣợc thể hiện hai bên với mũi
hếch lên phía trên, miệng rộng, mắt tròn nổi khối (Bản ảnh số 52). Các đao
cằm xoắn tết nhau bay hết cổ rồng, các đao mang bay về phía sau gần sát cột
cái, các đao tóc bay lƣợn về phía mang rồng. Chân rồng gần sát cột cái nắm
lấy đao râu. Loại thứ hai là đôi đầu dƣ của “vì đốc” bên trái đình đã đƣợc bố
trí đầu rồng ngoảnh chầu vào trung tâm, mà không chạy thẳng ra nhƣ các đầu
rồng khác (Bản ảnh số 53).
74
* Trang trí các kẻ
Phần đầu phía dƣới các xà nách là đầu nghé đƣợc chạm nổi hình tƣợng
đầu rồng (Bản ảnh số 60). Đầu rồng xéo lên phía trên mà không bay ngang
nhƣ đầu rồng ở đầu dƣ. Rồng cũng đƣợc thể hiện hai mặt nhìn nghiêng với
mắt quỷ tròn nổi khối, miệng lang, sừng nai, tai thú, trán lạc đà, cổ rồng dạng
cổ rắn. Hai đao mác lớn bay thẳng về phía sau sát với cột quân.
Thân kẻ đƣợc chạm bào soi vỏ măng, phần lòng bào nhẵn tròn, phía
ngoài là viền đƣợc chạm nổi, hai đầu chạm nổi gân tròn diềm mây.
Các đầu kẻ đƣợc trang trí với nhiều đề tài khác nhau. Dạng thứ nhất đƣợc
chạm nổi các cụm vân xoắn lớn (Bản ảnh số 64). Dạng thứ hai là đề tài lá cúc
lật, dạng thứ ba là hình tƣợng lân đi kèm các đao mập (Bản ảnh số 65b), dạng
thứ tƣ là phần giữa để trơn, diềm ngoài là viền kèm theo dạng đao lá và dạng
cuối cùng đƣợc thể hiện đề tài rồng, phƣợng (Bản ảnh số 63). Loại đề tài rồng
ở đây cũng chia làm nhiều loại. Loại thứ nhất là thể hiện rồng đang ẩn ở cụm
mây, phía sau là đuôi và cụm lá thiêng. Loại thứ hai là cả phần đầu kẻ dạng
rồng, viền xung quanh là hệ thống đao mác. Loại thứ ba là dạng nhiều cây trúc
mọc vƣơn lên, ngọn trúc đƣợc tạo thành đuôi rồng. Loại cuối cùng là dạng
“Trúc hoá long”, thân cây trúc mọc ra từ cụm mây, thân trúc đồng nhất với
thân rồng có những đốt xù xì khúc khỉu và ngọn trúc là đầu rồng (Bản ảnh số
65a). Các kẻ góc chủ yếu đƣợc bào soi vỏ măng, phần đầu có chạm nổi dạng
cụm mây cách điệu nổi khối.
Bảng 2.9: Các đề tài sử dụng trang trí đình Tình Quang
Đề tài trang trí Vị trí trang trí
Đầu dƣ, nghé
Cốn
STT 1 Đầu rồng 2 Rồng ổ, lân, lân bắt rắn, ngƣời cƣỡi nghê, “Tiên nữ cƣỡi rồng”, cụm mây, vân xoắn, hạt tròn, lá cúc lật,
phƣợng, sóng nƣớc
“Trúc hóa long”, rồng, phƣợng, lân, vân xoắn Đầu kẻ 3
75
d. Hệ thống di vật liên quan
Do biến động lịch sử nên phần lớn các di vật cổ đã bị thất lạc, hầu nhƣ
không còn. Hiện nay, trong khuôn viên đình còn lƣu giữ lăng đá của một vị
quan Thái giám, kèm đó là 01 bia đá phong cách nghệ thuật Lê (thế kỷ XVII),
01 bia trụ vuông có mái niên hiệu Vĩnh Thịnh (1709) và đôi chó đá (Bản ảnh
số 66, số 67).
e. Niên đại
Đình Tình Quang hiện chƣa tìm thấy tài liệu ghi niên đại khởi dựng.
Nhƣng bằng vào sự so sánh trí kiến trúc đình Công Đình và nghệ thuật điêu
khắc trang trí đình Trân Tảo (Phú Thị). Với các đề tài trang trí ở các cốn là
những hình tƣợng “Tiên cƣỡi rồng’’, các cảnh sinh hoạt dân gian nhƣ uống
rƣợu, rồi chạm khắc trên các đầu dƣ, đầu kẻ hiên hình tƣợng rồng, phƣợng,
lân, ly, trúc hóa long cho thấy nó tƣơng đồng với nghệ thuật trang trí đình
Trân Tảo (có niên đại chính xác năm Cảnh Trị nguyên niên 1663). Từ những
truyền thuyết về xây dựng đình, qua khảo sát và so sánh về mặt bằng kiến
trúc, nghệ thuật trang trí kiến trúc nêu trên cho thấy niên đại xây dựng đình
Tình Quang trƣớc thời Chính Hòa (1680 – 1705) theo tƣ liệu lịch sử là phù
hợp.
2.2.2.4. Đình Trân Tảo
a. Lịch sử hình thành và phát triển
Làng Trân Tảo có tên nôm là Táo. Đây là vùng đất có bề dày lịch sử,
một bộ phận của hƣơng Siêu Loại (Thổ Lỗi) xƣa. Theo các già làng cho biết,
đình đƣợc dựng dƣới thời Lê với chỉ một tòa đại đình. Đến thời Nguyễn, dân
làng xây dựng thêm tòa thiêu hƣơng và hậu cung. Năm 1990 xây nghi môn.
Hiện nay đại đình đang xuống cấp nghiêm trọng.
Đình làng Trân Tảo thờ tƣớng quân Lý Công Tuấn, một danh tƣớng
thời Lý Bí đánh đuổi giặc Lƣơng.
76
b. Kiến trúc
* Mặt bằng kiến trúc
Đình Trân Tảo nằm phía Tây Nam của làng Trân Tảo, xã Phú Thị,
huyện Gia Lâm. Đình xây dựng trên một thế đất cao thoáng, phía trƣớc là
cánh đồng rộng, trên cánh đồng còn dấu tích của dòng sông Cầu Giàng hay
còn gọi là sông Nghĩa Giang (Nghĩa Trụ). Cắt qua mặt đình khoảng 300 m là
con đƣờng liên xã từ Phú Thị vào Dƣơng Quang. Trƣớc đình là nghi môn
dạng “Tứ trụ lồng đèn” (Bản ảnh số 68), qua nghi môn là sân rộng, giữa sân
xây bệ đặt mã (Bản ảnh số 69). Tiếp đến là đại đình, kế liền là thiêu hƣơng và
sau thiêu hƣơng là 3 gian hậu cung, tạo mặt bằng kiến trúc kiểu chữ “Công”.
Đình không có tả vu, hữu vu nhƣng hiện nay có xây thêm dãy nhà chạy dọc
phía trƣớc bên trái đại đình với 3 gian để làm nhà khách (Bản ảnh số 70). Về
cơ bản, giá trị truyền thống chỉ còn tập trung ở toà đại đình (Bản vẽ số 14).
Do điều kiện lịch sử, các công trình kiến trúc đƣợc xây dựng và sửa chữa
nhiều thời kỳ khác nhau. Riêng đại đình là công trình kiến trúc trung tâm bảo
lƣu đƣợc những yếu tố ban đầu, phản ánh đƣợc những giá trị lịch sử văn hóa
5
4
3
6
2
1
Ghi chú: 1. Nghi môn 2. Bệ đặt mã 3. Đại đình 4. Thiêu hƣơng 5. Hậu cung 6. Nhà khách
của di tích. Do vậy chỉ tập trung nghiên cứu về tòa đại đình.
Sơ đồ mặt bằng khu di tích đình Trân Tảo
77
* Nền móng kiến trúc
Đại đình Trân Tảo dựng cao hơn so với sân 0,50m, đƣợc lát gạch Bát
Tràng kích cỡ 0,30m x 0,30m. Với kết cấu 3 gian 2 chái, 4 hàng chân cột dựng trên một diện tích 264m2 (23m x 11,5m). Gian giữa để lòng thuyền thấp
hơn gian cạnh là 0,15m. Tại các cột vẫn còn dấu vết các lỗ mộng sàn cách mặt
nền 0,25m. Cột đƣợc dựng trên tảng kê đá vuông tròn với kích thƣớc phù hợp
với kích thƣớc của cột. Do kết cấu khung gỗ nên lực tải chủ yếu ở các cột,
chính bởi vậy móng tƣờng xung quanh không xử lý kỹ thuật mà chủ yếu xử lý
nện đất gạch ở các cột nhằm gia cố tải lực.
Bảng 2.10: Kích thƣớc cắt dọc của đại đình Trân Tảo (Bản vẽ số 15)
Các đơn vị không gian Số đo
Gian giữa 4,63m
Gian bên bên phải cạnh gian giữa 4,25m
Gian bên bên trái cạnh gian giữa 4,25m
Chái bên phải 4,015m
Chái bên trái 4,015m
Bảng 2.11: Kích thƣớc cắt ngang của đại đình đình Trân Tảo (Bản vẽ số 16)
Khoảng cách giữa các cột Số đo
Cột cái – cột cái 4,86m
Cột cái – cột quân phía trƣớc (đồng thời là cột hiên) 2,44m
Cột cái – cột quân phía sau (đồng thời là cột hiên) 2,40m
* Kết cấu bộ khung kiến trúc
So với các ngôi đình Tình Quang, Thanh Am, Xuân Dục thì đình Trân
Tảo có kết cấu nhỏ hơn, chỉ với 3 gian 2 chái, 4 hàng chân cột, cột quân đồng
thời là cột hiên. Kết cấu các bộ vì đƣợc làm giống nhau theo kiểu: Vì nóc giá
chiêng (Bản ảnh số 72), cốn ván mê (ở gian chái phía trƣớc), cốn chồng rƣờng
78
(ở các gian còn lại), bẩy hiên. Do chỉ có 4 hàng chân cột nên ở kiến trúc này
không dùng kẻ mà dùng bẩy. Những bộ vì này cũng đã nhiều lần sửa chữa
nên có nhiều con rƣờng có niên đại khác nhau. Khoảng hoành mái kiểu
“Thƣợng tứ, hạ ngũ” (trên 4, dƣới 5). Chiều cao của mái từ thƣợng lƣơng đến
nền là 6,25m, chiều cao từ giọt gianh đến nền là 2,36m. Tỷ lệ giữa chiều cao
của mái so với chiều cao của giọt gianh là 2,98 lần. Nhƣ vậy mái đình dài,
chiều cao đình thấp.
- Liên kết ngang kiến trúc
Đình Công Đình chỉ có 4 hàng chân cột, sự liên kết giữa cột cái với
cột cái là câu đầu, giữa cột cái với cột quân là xà nách, phía dƣới chân cột có
ván sàn. Sự liên kết này đƣợc đánh mộng với nhau tạo độ giằng vững chãi.
Vì nóc dựng trên câu đầu thông qua đấu vuông thót đáy. Dƣới thƣợng
lƣơng là đấu hình thuyền kê trên đấu vuông thót đáy, phía dƣới đấu vuông là
con rƣờng đƣợc kê trên hai đấu vuông, con rƣờng phía dƣới ăn mộng sập vào
đầu cột trốn. Cột trốn đƣợc kê trên câu đầu thông qua đấu vuông thót đáy. Ăn
mộng phía ngoài là hai con rƣờng kê trên dƣới là đấu vuông. Con rƣờng trên
một đầu ăn mộng vào cột trốn, con rƣờng phía dƣới kê trên cột cốn thông qua
đấu vuông. Câu đầu ăn mộng vào cột cái, phía dƣới câu đầu là đầu dƣ đƣợc
sập mộng qua khe cột cái. Hệ thống cốn các gian đƣợc dạng cốn chồng rƣờng.
Các con rƣờng chồng khít nhau đặt trên xà nách. Xà nách một đầu ăn mộng
vào cột cái và đầu cột quân. Phía dƣới xà nách là nghé và đầu phía ngoài là
bẩy hiên. Cốn phía trƣớc gian chái đƣợc làm dạng cốn ván mê với ván bƣng
dày để chịu lực. Cốn gian chái phía sau là cốn chống rƣờng. Một đầu ăn mộng
vào cột trốn, một đầu kê trên nhau thông qua đấu vuông thót đáy đặt trên xà.
Đặc biệt hai đầu hồi vẫn dạng tam giác cân, nhƣng khoảng trống bịt ván kín,
tạo không gian đình có độ mờ ảo (Bản vẽ số 17).
- Liên kết dọc kiến trúc
Nối giữa các bộ vì là hệ thống xà thƣợng và xà hạ. Các xà ăn mộng
chắc vào cột cái và cột quân tạo thành độ giằng kiên cố. Phần gian chái sử
79
dụng kẻ góc, một đầu ăn mộng vào cột cái, đầu ngoài kê trên cột góc hồi và
liên kết với tàu mái nhằm đảm bảo tính chịu lực phần chái. Các xà ngƣỡng
dƣới chân các cột quân vừa để liên kết các bộ vì vừa tạo thành khoảng cửa.
Ngƣỡng cửa gian giữa thấp hơn các gian cạnh, ngƣỡng cửa các gian cạnh
nâng cao hơn tạo thành khoảng cửa con tiện (Bản vẽ số18).
- Kỹ thuật mộng
Cũng nhƣ các đình khác, đình Trân Tảo cũng chủ yếu đƣợc sử dụng 3
loại mộng làm gắn kết các cấu kiện kiến trúc.
+ Loại thứ nhất là mộng sập: câu đầu đánh mộng vào cột cái. Ở đầu dƣ
đƣợc sử dụng mộng sập vào khe cột cái.
+ Loại thứ hai là mộng xuyên: loại mộng này sử dụng để liên kết các
hoành mái, các xà dọc với nhau, xà nách vào cột cái và cột quân. Ở các “cánh
gà” đƣợc sử dụng mộng xuyên qua thân cột, vƣơn ra hai phía, đỡ dạ các xà
dọc.
+ Loại thứ ba là mộng chốt: sử dụng ở tàu mái nhằm liên kết ván gỗ
dày với kẻ hiên.
* Đánh giá đặc điểm: tuy chỉ có 3 gian, 2 chái với 4 hàng chân cột
nhƣng các bƣớc gian rất lớn: gian giữa 4,63m và các gian bên đều trên 4m.
Nhƣ vậy, khoảng rộng của gian cơ bản đã tạo không gian rộng.
c. Điêu khắc trang trí
Mặc dù đình Trân Tảo không có kiến trúc lớn nhƣ đình Xuân Dục (xã
Yên Thƣờng), đình Tình Quang (phƣờng Giang Biên) nhƣng trên kiến trúc
vẫn để lại rất nhiều mảng chạm khắc độc đáo, phản ánh những cảnh sinh hoạt
dân gian, với những đƣờng nét chạm nổi, chạm lộng, bong kênh mà nhiều
ngôi đình khác không có. Điêu khắc trang trí đƣợc thể hiện ở các bộ phận
kiến trúc.
* Trang trí vì nóc
Trang trí vì nóc chỉ tập trung ở các con rƣờng. Các con rƣờng phía trên
cột trốn đƣợc chạm hai đầu, các con rƣờng hai bên cột trốn đƣợc chạm phần
80
đầu phía ngoài. Hình thức trang trí ở đây dƣới dạng chạm nổi với những
đƣờng nét mạch lạc thể hiện dƣới dạng cụm vân xoắn lớn đi kèm lá cúc lật.
Lòng trong giữa hai cột trốn trên câu đầu đƣợc cấy ván lá mỏng tạo không
gian thu hẹp bớt đi độ trống. Lòng hai vì nóc gian giữa ken thêm con tiện tạo
không gian có vẻ huyền diệu (Bản ảnh số 72). Vì đốc dạng tam giác cân đƣợc
bƣng kín bằng ván lá không trang trí. Lòng câu đầu khắc dòng lạc khoản ghi
niên đại khởi dựng của đình.
* Trang trí các Cốn
- Cốn gian giữa phía trước bên trái
Mặt ngoài tiếp giáp gian bên cạnh: Phía trên cùng là con rƣờng đƣợc
chạm nổi, bong kênh phần sau rồng, chân và đuôi rồng phủ dầy lớp vẩy cá,
chân rồng trong tƣ thế khuỳnh đạp về phía sau. Phía dƣới là các ván dầy khép
kín tạo thành mảng trang trí với đề tài Tùng. Các cây tùng với những thân cây
cổ thụ mọc thẳng lên trên, ngọn cành các cây tùng mọc ra các đốt lá và hoa nở
mãn khai. Phía trên ngọn tùng có hình ảnh chim hạc đậu trong tƣ thế cánh
dang rộng chuẩn bị bay. Phía dƣới gốc tùng có hình lân, ly trong các tƣ thế
khác nhau (Bản ảnh số 73).
Mặt chầu vào gian giữa: đƣợc chạm lộng, bong kênh nhiều con vật.
Hình tƣợng rồng vẫn giữ vai trò chủ đạo là rồng lớn, rồng con đang trong tƣ
thế nhào lƣợn với thân rồng uốn khúc, hai chân trƣớc khuỳnh sang hai bên để
lộ 4 móng sắc nhọn. Thân rồng phủ vảy cá, các vây khủy chân hơi cong. Dƣới
rồng là một loạt các linh vật khác nhƣ lân, ly, cá, ếch đang vờn sóng nƣớc và
đi kèm đó là các dải mây.
- Cốn gian giữa phía trước bên phải
Mặt ngoài tiếp giáp gian bên cạnh: phía trên là đuôi rồng là phần sau
của đầu dƣ. Phía dƣới đƣợc chạm lộng, bong kênh đề tài “Tứ linh”. Tuy nhiên
không thấy xuất hiện rùa. Rồng vẫn chiếm vị trí chính trong mảng trang trí
với thân rồng nổi khối, đầu rồng chạm kỹ với các đao bay lƣợn, thân rồng phủ
81
kính vẩy cá, đôi chân đạp khuỳnh trong tƣ thế lƣợn khúc khuỷu. Rồng có
nhiều đao lớn mập chạy thẳng đi kèm cụm vân xoắn lớn. Phần góc tiếp giáp
với cột quân là hình tƣợng phƣợng đang bay với đôi cánh dang rộng. Giáp với
cột cái là hình tƣợng ly có khuôn mặt rồng đang bò lên ốp sát vào thân cột cái.
Phía dƣới mảng trang trí còn có dải mây lá viền ngang với xà nách.
Mặt chầu vào gian giữa: phía trên vẫn là đuôi rồng là phần đuôi của đầu
dƣ. Phần ván mê dƣới là các ván dày chạm nổi, bong kênh nhiều con vật. Đầu
rồng và đầu lân là các mảng chạm khác ghép vào, hình tƣợng rồng và lân
đƣợc nổi trên nền các mây đao dày đặc. Các chân rồng và lân khuỳnh ra trong
tƣ thế bay. Đặc biệt xà nách kết hợp với ván mê của cốn tạo thành một đề tài
trang trí. Thân xà nách chạm nổi, bong kênh hình tƣợng ly đang chạy và ngoái
đầu lại. Thân ly thể hiện mình tròn mập chạy trên sóng nƣớc. Phía sau ly là
cua, cá, rùa cõng “Hà đồ”. Hình tƣợng cua đang bò ngang, cá nhảy theo sóng
nƣớc. Dƣới cùng là các sóng nƣớc ngập tràn đang vận sóng cuốn bờ, kèm
theo các sóng nƣớc là vân xoắn.
- Cốn gian giữa phía sau bên phải
Chỉ đƣợc chạm khắc phía bên trong chầu vào gian giữa. Do phía mặt
ngoài đƣợc bít. Đây cũng là đề tài “Tứ linh”. Hình tƣợng rồng và ly đƣợc
chạm nổi bong kênh rõ với đầu ngoảnh khúc khủy, chân khuỳnh trong tƣ thế
chạy ngoắc trên nền các cụm mây dải lớn. Phía trên tiếp giáp gần góc hoành
mái là hình tƣợng phƣợng đang bay và rồng ngoái đầu lại. Đề tài ở đây không
nhìn thấy hình tƣợng rùa mà thay đó là các lá sen lớn đang úp, phía trên là
những áng mây. Xà nách phía dƣới đƣợc chạm nổi những cánh lá cúc xòe và
lật.
- Cốn gian giữa phía sau bên trái
Cũng đƣợc thể hiện một mặt nhƣ cốn đối diện. Cốn đƣợc chạm lộng,
bong kêng đề tài “Tứ linh”. Hình tƣợng rồng chiếm gần hết diện tích trang trí.
Đầu rồng do mảnh gỗ khác ghép vào với các đao tóc, đao mang, đao râu bay
82
lƣợn lại phía sau. Thân rồng phủ đầy vẩy cá với các móng vuốt nhọn đang
nắm lấy dải mây. Phía trên đầu rồng là hình tƣợng phƣợng đang bay. Phía
dƣới gần chân sau là hình tƣợng rùa đang cõng “Hà đồ”. Chếch một chút là
hình tƣợng ly đang trong tƣ thế chạy trên nền sóng nƣớc. Nền trang trí còn
đƣợc tạo các đao mác lớn mập, các cụm vân xoắn lớn.
* Các cốn gian bên cạnh
- Cốn gian cạnh bên phải phía trước mặt chầu vào gian giữa
Hệ thống trang trí đƣợc chạm nổi, bong kênh. Con rƣờng trên cùng
đƣợc chạm hình tƣợng hai ngƣời đang múa hát với đôi tay dang rộng sang hai
bên. Con rƣờng phía dƣới chạm hình tƣợng hổ đang đi với bộ mặt nhìn chính
diện, phía trong là đầu ngƣời thể hiện mặt tròn bầu bĩnh, trong cùng tiếp giáp
với cột cái là cụm vân xoắn lớn có dải lá hất ngƣợc ra phía ngoài gần đầu
ngƣời. Phần dƣới do hai mảnh ván dầy khép kín với hình tƣợng ba đầu rồng
với các đao lớn mập bay thẳng lên phía trên. Đầu rồng thể hiện miệng rộng,
môi lƣợn cong với đôi mắt tròn to, tai rồng dạng tai thú cũng dựng đứng song
song với đao mang. Cổ rồng dạng cổ rắn với đƣờng nét chạm ngấn. Cƣỡi trên
3 rồng là 3 “nàng tiên”, giữa các rồng cùng là tiên nữ dang rộng tay múa (Bản
ảnh số 75). Bên cạnh cổ rồng đƣợc chạm các con thú nhỏ. Phía ngoài là một
con hổ với đôi mắt tròn, mũi thẳng, tai vểnh, đùi hổ mập khỏe và tròn lẳn,
đuôi dài lƣợn về phía sau. Đôi tay hổ trong tƣ thế ghìm rồng, một tay kẹp cổ,
một tay cầm đầu. Thân rồng uốn quanh thân hổ, đuôi rồng dạng đuôi cá có
vây. Mảng trang trí này bị mất phần dƣới mà thay vào đó là ván mỏng hình
chữ nhật nằm đƣợc chạm nổi dải lá cúc lật lối nhau. Một phần của dải lá cúc
bị mất phần gắn vào, có khả năng là đầu rồng. Con rƣờng lửng phía ngoài
chạm nổi con tiện, phía ngoài là cụm mây xoắn lớn.
- Cốn gian cạnh bên trái phía trước mặt chầu vào gian giữa
Đây là cốn chồng rƣờng, phía trên cùng là con rƣờng đƣợc chạm vân
xoắn lớn. Con rƣờng phía dƣới chạm nổi dải lá mây lớn, đi kèm là các đao.
83
Con rƣờng dƣới, một đầu ăn mộng vào cột cái, một đầu kê trên con rƣờng
lửng đƣợc chạm cụm mây lớn và lá cúc lật. Con rƣờng lửng chạm bông cúc
mãn khai lớn chiếm gần hết diện tích. Phía ngoài đƣợc chạm cụm vân xoắn
lớn. Kẹp giữa con rƣờng trên và con rƣờng lửng là ván chữ nhật nằm đƣợc
chạm nổi hồi văn. Thân hồi văn nảy ra những cánh lá cúc ngắn. Các khúc hồi
văn đƣợc chạm những đồ thờ nhƣ bình hoa. Một số phần gắn vào dải mây bên
cạnh bị mất. Có khả năng đây là đầu con vật (Bản ảnh số 78).
- Cốn gian cạnh bên phải phía sau mặt chầu vào gian giữa
Con rƣờng trên cùng đƣợc tạo vân xoắn lớn. Hai con rƣờng dƣới đƣợc
thay thế để trơn không trang trí. Con rƣờng cuối cùng đƣợc chạm nổi, bong
kênh hệ thống những con vật trong rừng.
- Cốn gian bên phải phía sau cạnh gian chái mặt chầu vào gian giữa
Hai con rƣờng trên cùng khép kín đƣợc chạm nổi, lộng, bong kênh dày
đặc cảnh ngƣời đang múa hát. Tầng ngƣời trên đƣợc xếp hàng, tầng dƣới là
một ngƣời đang múa đứng ở giữa thân rồng. Rồng đƣợc trang trí với các đao
râu bay ngƣợc lại phía sau, đuôi rồng mập dạng đuôi cá hếch vào trong (Bản
ảnh số 80). Phía dƣới là con rƣờng lớn đƣợc bào soi vỏ măng, một đầu ăn
mộng vào cột cái, một đầu kê trên con rƣờng lửng và đƣợc chạm cụm vân
xoắn lớn có đao lá mập bay ra. Con rƣờng lửng phía dƣới đƣợc chạm bong
kênh một phần cây cúc với bông cúc lớn và đi kèm là lá và mây. Có khả năng
con rƣờng này đƣợc chắp ở đồ án trang trí khác do một lần tu sửa. Lòng ván ô
chữ nhật nằm dƣới rƣờng lớn và xà nách đƣợc chạm nổi hoa lá vân mây.
- Cốn gian bên phải phía trước cạnh gian chái mặt chầu vào gian giữa
Con rƣờng trên cùng đƣợc chạm thành vân xoắn lớn. Phía dƣới là ván
mê đƣợc chạm nổi, bong kênh đề tài “Phúc Lộc Thọ”. Lòng trang trí chạm 3
cây tùng lớn, từ thân cây tùng mọc ra các cành và hoa nở mãn khai. Mỗi gốc
cây tùng lớn lại mọc một mầm tùng con theo kiểu “Trực phụ tử”. Dƣới gốc
tùng là các con hƣơu đang vui đùa hồn nhiên, cảnh hổ vồ nai (Bản ảnh số 74,
84
số 83). Diềm bo trên, bên cạnh phía ngoài đƣợc chạm con dơi đang dang rộng
cánh bay biểu tƣợng cho Ngũ phúc. Đề tài này rất độc đáo trong kiến trúc
đình Trân Tảo, nó là biểu tƣợng của Tam đa: Dơi – Phúc, Hƣơu – Lộc, Tùng
– Thọ. Bên cạnh đó còn một số hình ảnh các con vật khác nhƣ ly, sóc và cụm
cây cỏ (Bản ảnh số 73).
* Các cốn gian chái
Là các con rƣờng chồng nhau, một đầu ăn mộng vào cột cái, một đầu
đƣợc kê nhau trên các con rƣờng cụt. Các con rƣờng này đƣợc chạm cụm vân
xoắn lớn.
* Trang trí đầu dư
Đầu dƣ đƣợc chia làm hai loại. Loại thứ nhất ở hai vì gian giữa, loại
thứ hai ở các gian khác.
- Các đầu dư vì gian giữa
Đƣợc tạo tác giống nhau do cùng đợt tu bổ dƣới thời Nguyễn. Đầu dƣ
chạm lộng, bong kênh đầu rồng mũi hếch lên, miệng rộng ngậm ngọc có hàm
răng cƣa đều nhau, mắt rồng tròn nổi, các đao tóc lƣợn sóng bay về phía sau,
các đao mang dải lƣợn nhịp nhàng bay về sau tiếp giáp với cột cái. Hai chân
trƣớc rồng khuỳnh sang với các móng nhọn đang quắp lấy lá đề. Lá đề nhỏ từ
phía dƣới tiếp giáp với thân cột cái (Bản ảnh số 81).
- Các đầu dư gian còn lại
Các đầu dƣ này đƣợc chạm lộng, bong kênh trong hình thức đầu rồng.
Mũi rồng hếch, miệng há rộng với hàm răng đều nhau, cằm rồng chạm nổi
vảy cá. Các đao tóc, đao râu, đao cằm chạy thẳng về phía sau sát với cột cái.
Tuy nhiên mỗi đầu dƣ, hình tƣợng rồng có biến thể khác nhau ở phần miệng
rồng và có phủ thêm lá ở miệng (Bản ảnh số 82).
* Trang trí xà nách
Các xà nách đƣợc chạm nổi, bong kênh với nhiều cách thức khác nhau.
Phần đầu một số xà nách tiếp giáp cột quân chạm lá cúc lật hoặc chạm hai
85
viền lá cúc, kèm trên là rồng, phƣợng đuôi lá. Một số tiếp giáp với cột cái
chạm rồng lá cúc, một số chạm ly, công, chim tƣớc kèm theo dải lá.
* Trang trí đầu nghé
Các đầu nghé đƣợc chạm nổi, bong kênh hai mặt với mỗi đầu nghé là
một hình tƣợng khác nhau nhƣ long, ly, phƣợng đi kèm đó là những dải lá và
cụm mây (Bản ảnh số 89, số 90, số 91. số 93).
* Trang trí bẩy hiên
Chạm khắc trang trí hiện còn trên 4 bẩy hiên phía trƣớc ở hai vì gian
giữa và hai vì gian bên cạnh gian giữa. Các đầu này đƣợc chạm lộng, bong
kênh với các đề tài khác nhau. Đầu bẩy phía tay phải gian giữa chạm đề tài
rồng, mây, cá, cua, rùa và các cụm mây đao. Đầu bẩy gian bên phía tay phải
chạm đề tài “Tứ linh” (long, ly, quy, phƣợng). Đầu bẩy phía tay trái gian giữa
chạm hình tƣợng rồng lá, toàn bộ thân rồng là dải gân lá, hai bên nảy ra các
đao vây và kết thúc phần đuôi là các đao lá lƣợn áp vào. Đầu bẩy gian bên
phía tay trái chạm nổi “Mai hoá long”(Bản ảnh số 94).
Bảng 2.12: Các đề tài sử dụng trang trí đình Trân Tảo
STT Đề tài trang trí Vị trí trang trí
1 Vân xoắn, lá cúc Con rƣờng ở vì nóc,
cốn
2 Rồng, lá đề Đầu dƣ
3 Rồng, tùng, hạc, rồng, lân, ly, cua, cá, ếch, rùa, Cốn, xà nách, bẩy
dải mây, “Tứ linh”, sen, “tiên cƣỡi rồng”, rồng hiên
đuôi cá, hồi văn có kèm đồ thờ ( bình hoa, bình
hƣơng), cúc mãn khai, chim, hổ, nai, chồn, sóc,
sóng nƣớc, “Tam đa”( dơi, hƣơu, tùng), cây cỏ
d. Hệ thống di vật liên quan
Trong quá trình tồn tại, đình đƣợc tu sửa nhiều lần, hầu nhƣ hệ thống
đồ thờ bị thất lạc. Hiện ở đình những đồ thờ cổ còn lại là kiệu bát cống có
86
niên đại thế kỷ XVIII là bằng chứng quá trình tồn tại, phát triển của đình làng
gắn với lễ hội.
e. Niên đại
Trang trí kiến trúc đình Trân Tảo có những chủ đề “Tiên cƣỡi rồng’’,
Hổ vồ nai, quản tƣợng, các cảnh sinh hoạt dân gian ở các cốn nhƣ ở đình Tình
Quang. Các đầu dƣ chạm rồng có nét tƣơng đồng với đầu dƣ đình Công Đình
(khởi dựng năm 1668). Đặc biệt trên câu đầu gian giữa còn lƣu lại dòng lạc
khoản ghi rõ niên đại khởi dựng “Tuế tại Lê triều Quý Mão niên thập nhị
nguyệt Ất Sửu nhị thập nhị nhật Canh Thân thụ trụ thƣợng lƣơng đại cát”
(Dựng cột cất nóc vào ngày 22 (ngày Canh Thân) tháng 12 (tháng Ất Sửu)
năm Quý Mão triều Lê tức năm 1663). Có thể khẳng định, đình Trân Tảo
đƣợc khởi dựng vào năm 1663. Nhƣ vậy so với truyền thuyết xây dựng đình
của nhân dân địa phƣơng là phù hợp.
2.2.2.5. Đình Thanh Am
a. Lịch sử hình thành và phát triển
Thanh Am là một làng cổ có tên nôm là Đuống, nằm ngay sát tả ngạn
sông Đuống. Trƣớc đây Thanh Am thuộc xã Thƣợng Thanh huyện Gia Lâm,
nay thuộc quận Long Biên. Vào thời Mạc (thế kỷ XVI), Trình quốc công
Trạng Nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm ra làm quan ở Thăng Long đã đƣa con
cháu tới định cƣ, mở rộng làng thành một vùng trù phú, và ông đã đặt tên mới
cho làng là Hoa Am. Đến thời Nguyễn Thiệu Trị đổi tên là Thanh Am. Theo
các già làng cho biết thì đình làng đƣợc dựng từ thế kỷ XVII. Đến thời
Nguyễn, đình đƣợc tu sửa lớn. Năm 1998, đình đƣợc sửa chữa và thay thế
một số đầu dƣ. Năm 2009, đình Thanh Am đƣợc tu bổ hệ thống hạ tầng, thay
thế hoành, rui, ngói.
Do có nhiều công đức với dân làng nên sau khi mất, Nguyễn Bỉnh
Khiêm đƣợc tôn thờ làm Thành hoàng làng. Đình Thanh Am còn tôn thờ Đào
Kỳ - một danh tƣớng của Hai Bà Trƣng và Phƣơng Dung phu nhân. Trƣớc
87
đây miếu thờ Đào Kỳ ở sát đê sông Đuống nhƣng do miếu đổ, dân làng rƣớc
về thờ tại đình.
b. Kiến trúc
* Mặt bằng kiến trúc
Đình Thanh Am đƣợc xây dựng trên một khu đất bằng phẳng và rộng
rãi ở rìa làng (Bản ảnh số 95). Ngay trƣớc đình là hồ nƣớc rộng và khu vực
canh tác, phía sau là xóm làng (Bản ảnh số 96, số 97). Hiện tại, mặt bằng của
di tích bao gồm: giếng, sân gạch rộng, đại đình, thiêu hƣơng (dạng phƣơng
đình) nằm sau đại đình nối với hậu cung, hai bên thiêu hƣơng có hai dãy dải
vũ song song. Hai bên dải vũ có hai dãy nhà oản. Xét về hệ thống kiến trúc cụ
thể, tuy mặt bằng của ngôi đình hiện theo dạng chữ “công”, nhƣng kiến trúc
bên trên lại đƣợc dựng thành ba toà khác nhau và theo kiểu “trùng thiềm điệp
ốc” và đại đình là kiến trúc trung tâm. Do điều kiện lịch sử, các công trình
kiến trúc đƣợc xây dựng và sửa chữa nhiều thời kỳ khác nhau. Riêng đại đình
là công trình kiến trúc trung tâm bảo lƣu đƣợc những yếu tố ban đầu, phản
ánh đƣợc những giá trị lịch sử văn hóa của di tích. Do vậy chỉ tập trung
8
5
nghiên cứu về tòa đại đình.
7
7
6
6
4
3
2
Ghi chú: 1. Cổng đình 2. Giếng đình 3. Đại đình 4. Thiêu hƣơng 5. Hậu cung 6. Dải vũ 7. Nhà oản 8. Cổng nách
1
Sơ đồ mặt bằng khu di tích đình Thanh Am
88
* Nền móng kiến trúc
Đại đình có quy mô kiến trúc lớn, gồm 5 gian 2 chái trên diện tích 328m2. Nền nhà đại đình đƣợc tôn cao 0,50m so với mặt sân. Gian giữa lớn
hơn cả để thực hiện các nghi lễ thờ thành hoàng làng. So với gian giữa, nền
các gian bên đƣợc tôn cao 0,30m, mặt nền hiện nay không còn ván sàn mà
đƣợc lát gạch đỏ. Cột đặt trên đá tảng to; cột cái cao 5,1m, chu vi 1,8m; cột
quân chu vi 1,4m; cột hiên 1,20m (Bản vẽ số 19).
Bảng 2.13: Kích thƣớc cắt dọc của đại đình Thanh Am (Bản vẽ số 20)
Các đơn vị không gian Số đo
Gian giữa 3,80m
Gian bên bên phải cạnh gian giữa 3,50m
Gian bên bên trái cạnh gian giữa 3,50m
Gian bên bên phải kế tiếp 3,50m
Gian bên bên trái kế tiếp 3,50m
Chái bên phải 4,70m
Chái bên trái 4,70m
Bảng 2.14: Kích thƣớc cắt ngang của đại đình Thanh Am (Bản vẽ số 21)
Khoảng cách giữa các cột Số đo
Cột cái – cột cái 4,30m
Cột cái – cột quân phía trƣớc 2,10m
Cột cái – cột quân phía sau 2,10m
Cột quân phía trƣớc – cột hiên phía trƣớc 1,30m
Cột quân phía sau – cột hiên phía sau 1,30m
* Khung gỗ kết cấu
Đại đình là một ngôi nhà lớn với 5 gian 2 chái lớn với 6 hàng chân. Vì
nóc theo kiểu “Vì giá chiêng ”, vẫn sử dụng “câu đầu” kê trên cột cái qua một
89
đấu lớn, mà vẫn chƣa sử dụng quá giang (Bản ảnh số 99). Hệ thống kết cấu
nối giữa cột cái và cột quân, hiện nay chủ yếu với dạng cốn chồng rƣờng và
“cốn mê” bằng ván. Nối giữa cột quân ra cột hiên là những kẻ cong kiểu cổ
ngỗng (Bản vẽ số 22). Khoảng hoành mái kiểu “Thƣợng tứ, hạ ngũ” (trên 4,
dƣới 5) (Bản ảnh số 100). Chiều cao của mái từ thƣợng lƣơng đến nền là
6,25m, chiều cao từ giọt gianh đến nền là 2,24m. Tỷ lệ giữa chiều cao của mái
so với chiều cao của giọt gianh là 2,79 lần. Nhƣ vậy mái đình dài, chiều cao
đình thấp.
- Liên kết ngang kiến trúc
Nối giữa cột cái với cột cái là câu đầu, hai đầu câu đầu bám mộng vào
đầu cột cái. Giữa cột cái với cột quân đƣợc liên kết bởi xà nách, một đầu xà
nách đánh mộng vào thân cột cái, một đầu ăn mộng sập vào cột quân. Giữa
cột quân với cột hiên cũng đƣợc gắn kết bởi kẻ, hai đầu kẻ đánh mộng sập
vào đầu cột quân và đầu cột hiên. Phía dƣới chân cột cái, cột quân trƣớc đây
có làm ván sàn (hiện vẫn còn dấu vết lỗ mộng), cũng có chức năng liên kết
các cột với nhau.
Vì giá chiêng đƣợc tạo thành bởi hai cột trốn đặt trên câu đầu to, dầy.
Hai cốn gian giữa đƣợc làm kiểu ván mê dày đỡ lấy các hoành mái. Cốn các
gian bên là cốn chồng rƣờng, các rƣờng đƣợc chồng thƣa với một đầu ăn
mộng vào cột cái, đầu kia chồng nhau thông qua các đấu vuông thót đáy và đỡ
các khoảng hoành. Kẻ hiên đánh mộng qua đầu cột quân và cột hiên, phía trên
có ván nong dày để đỡ hoành (Bản vẽ số 23).
- Liên kết dọc kiến trúc
Cũng nhƣ nhiều ngôi đình, các bộ vì ở đây đƣợc liên kết bởi các xà dọc
ăn mộng vào các cột cái, cột quân và cột hiên. Chân các cột quân có xà
ngƣỡng cũng là những cấu kiện có tác dụng liên kết làm bộ khung gỗ chịu lực
thêm vững chãi. Chạy song song với các xà dọc là các hoành mái vừa có tác
dụng đỡ lấy rui vừa là sự liên kết các vì với nhau.
90
- Kỹ thuật mộng
Cũng nhƣ ở đình Tình Quang, trên kiến trúc đình Thanh Am chủ yếu sử
dụng 3 loại mộng: mộng xuyên, mộng sập, mộng chốt làm gắn kết các cấu
kiện kiến trúc.
* Đánh giá đặc điểm: so với đình Tình Quang thì đây là ngôi đình có
quy mô khá đồ sộ, khoảng cách các gian khá đồng đều (gian giữa và các gian
bên), tuy nhiên gian chái vẫn lớn hơn so với các gian khác. Đó là đặc điểm để
đáp ứng nhu cầu, chức năng của nó.
c. Điêu khắc trang trí
Đình Thanh Am, cũng có thể đƣợc xếp vào diện một công trình có giá
trị về mặt chạm khắc với kỹ thuật chạm bong kênh, nổi, lộng thuộc nhiều đề
tài ẩn chứa nhiều ý nghĩa ở các bộ phận kiến trúc.
* Trang trí các vì nóc
Các vì nóc đình Thanh Am đƣợc làm theo kiểu vì “Giá chiêng” và đƣợc
chạm khắc giống nhau. Các con rƣờng đƣợc bào soi, đầu các con rƣờng đƣợc
chạm nổi với khối xoắn lớn. Các khối đƣợc chạm nổi cuộn ngƣợc chiều kim
đồng hồ, sau đó từ trung tâm bay ra đƣờng nét dạng lá và lƣợn ngƣợc hất lên.
Các con rƣờng phía trong cột trốn đƣợc chạm khắc hai đầu, các con rƣờng
bên ngoài cột trốn chỉ chạm khắc một đầu, đầu còn lại ăn mộng vào cột trốn
(Bản ảnh số 99).
* Trang trí câu đầu
Các câu đầu cũng đƣợc trang trí giống nhau. Phần giữa đƣợc tạo phình
khoẻ khoắn, ấm cúng. Lòng dƣới bào lõm tạo thành khoảng chữ nhật chiếm
một phần ba chiều dài, hai mặt bên đƣợc chạm nối đề tài lá cúc lật. Lá cúc
đƣợc chạm nổi mềm mại uyển chuyển.
* Trang trí các cốn
- Cốn gian giữa phía trước bên trái
91
Mặt ngoài phía gian bên cạnh. Phần trên cùng là đuôi của đầu dƣ là
dạng đuôi rồng, phía dƣới là ván mê do các mảnh gỗ dầy ghép khít nhau tạo
thành một mảng trang trí hoàn chính với đề tài “Tứ linh”. Ván mê phía dƣới
với những đƣờng nét kết hợp giữa chạm nổi, bong kênh đã mô phỏng rất tỉ mỉ
hình tƣợng rồng trong tƣ thế bƣơn trải, với thân rồng uốn lƣợn thoải mái, đầu
rồng do mảnh gỗ khác ghép lại có vẻ dữ tợn (Bản ảnh số 101). Thân rồng
đƣợc phủ lớp vẩy cá đi kèm là những đao mây. Đuôi rồng dạng đuôi vân xoắn
lƣợn mềm mại uốn về phía dƣới. Phía trên trƣớc đầu rồng là hình tƣợng
phƣợng đang trong tƣ thế dang rộng cánh bay. Phía dƣới đầu rồng là hình
tƣợng ly đang vờn quả cầu chạy lô xô trên sóng nƣớc. Phía dƣới, tiếp giáp với
chân trƣớc rồng là hình đầu rùa đang nhô khỏi mặt nƣớc, trên lƣng cõng “Hà
đồ”. Xà nách đƣợc chạm nổi với đầu rồng nổi khối tại phần tiếp giáp với cột
quân. Đuôi rồng là dải lá cúc lƣợn ngoặt lên phía trƣớc tạo thành thân rồng
trong tƣ thế lƣợn mềm mại.
Mặt trong chầu vào gian giữa: là đề tài “Đào lựu”. Phía trên là con
rƣờng thể hiện phần đuôi rồng để kết hợp với đầu dƣ thành một con rồng
hoàn chỉnh. Phía dƣới là các ván mê dày ghép khít nhau để thể hiện các cây
đào và lựu uốn lƣợn đan xen và gần nhƣ không rạch ròi các thân cây đào và
lựu. Bằng những đƣờng nét đục chạm nổi có vẻ tỉa tót kỹ càng đã thể hiện các
nhành cây tƣởng nhƣ khô cằn nhƣng ở những đoạn thân cây mọc ra những
lộc, nụ và hoa. Đề tài này tƣợng trƣng cho sức sống mãnh liệt, cho sự sinh sôi
phát triển.
- Cốn gian giữa phía trước bên phải
Mặt ngoài gian bên cạnh: cũng nhƣ cốn đối diện, phần trên cùng là con
rƣờng đƣợc chạm khắc phần sau con rồng để kết hợp với đầu dƣ thành con
rồng hoàn chỉnh. Tuy nhiên ở đây lại đƣợc chạm nổi, bong kênh thể hiện rõ
nhất chân con rồng với 4 móng trong tƣ thế đạp lại phía sau. Chân rồng chạm
kín vẩy cá, khúc triết, khoẻ khoắn, kèm theo phía trên đùi là cụm mây, phía
92
sau bàn chân hở ra đuôi rồng dạng cụm dải xoắn và lƣợn mềm xuống dƣới.
Phần ván mê phía dƣới chạm nổi, bong kênh đề tài “Tứ linh”. Tuy nhiên ở
đây không thấy xuất hiện hình tƣợng rùa mà chỉ thấy rồng, phƣợng và ly. Vẫn
theo lối thể hiện rồng có kích thƣớc chiếm ƣu thế diện tích của mảng trang trí.
Đầu rồng do mảnh gỗ đƣợc gắn vào chạm theo lối bong kênh rất tinh xảo, tỉa
tót kỹ càng với bộ mặt nhìn trực diện trông dữ dằn, các đao tóc, đao mang bay
lƣợn. Trên nền hoạt cảnh rồng đƣợc chạm nổi những cành nụ đào và một vài
áng mây. Phần trên phía trƣớc đối ứng với đầu rồng là hình tƣợng phƣợng
đang dang rộng cánh bay. Phía dƣới là hình tƣợng ly đang trong tƣ thế vờn
cầu, quả cầu đƣợc chạm tròn nổi khối và đƣợc quấn dải lụa, đầu dải lụa đƣợc
tạo lƣợn mềm mại bay lên trên.
Mặt trong chầu vào gian giữa: cũng nhƣ phía mặt ngoài nhƣng phần
con rƣờng này thể hiện đuôi rồng theo cách khác, phần tiếp giáp với cột cái là
hai cụm mây quấn chồng nhau, phía sau là đuôi rồng với 5 dải lƣợn mềm.
Phần ván mê phía dƣới chạm nổi đề tài “Mai hoá long”. Gốc mai đƣợc thể
hiện đầu rồng đang ngoái đầu lại phía sau, cành mai phía trên tƣợng cho đao
tóc, hai nhành mai dƣới trông tựa hai chân trƣớc của rồng. Thân và đuôi rồng
là thân mai uốn lƣợn. Giữa thân rồng đƣợc chạm hai ô chữ nhật đè góc nhau,
lòng chữ nhật khắc chữ Thọ cách điệu. Nhìn chung đề tài này đƣợc chạm
khắc thoáng đạt, khúc triết nhƣng rất trữ tình.
- Cốn gian giữa phía sau bên trái
Mặt phía ngoài gian bên cạnh: cũng nhƣ các cốn khác, phần trên cùng
là phần trang trí thể hiện đuôi rồng của đầu dƣ. Phía dƣới là ván mê đƣợc
chạm nổi dạng hồi văn làm nền cho trang trí đề tài “Trúc hóa long”. Tuy
nhiên những cành trúc vẫn nổi rõ và đôi khi những cành và lá đƣợc chạm đè
lên viền của hồi văn. Đầu rồng đƣợc chạm nổi với vài nét chạm khắc đơn sơ
đã thể hiện rõ ngay từ gốc trúc đang tiến triển thành rồng. Thân trúc uốn lên
phía trƣớc cách điệu hình rồng tƣ thế bay lƣợn. Nhiều cụm lá trúc với nhánh
93
khuỳnh nhƣ thể vuốt móng rồng. Ở các góc tam giác ván mê và cạnh dƣới
viền ngoài hồi văn nấp nó những cụm lá mây. Nhìn chung đề tài trang trí khúc
triết tƣởng nhƣ khô cứng nhƣng với tài nghệ của ngƣời nghệ nhân xƣa đã tạo
nên một bức tranh huyền diệu.
Mặt bên trong chầu vào gian giữa: với kiểu thức phía trên nhƣ mặt phía
ngoài là đuôi rồng, phần ván mê phía dƣới đƣợc chạm nổi, bong kênh với đề
tài “Tùng hóa long”. So với mặt bên kia thì ở đây không tạo nền bằng hồi văn
mà bằng tài nét chạm đục thể hiện hình tƣợng rồng khá rõ nét. Mặt rồng nhìn
chính diện với mắt quỷ, miệng lang, sừng nai, tai thú, trán lạc đà, với đôi chân
khuỳnh sang hai bên và đƣợc chạm vảy cá. Tƣ thế của rồng trông khỏe mạnh
hung dữ. Một chân rồng trong tƣ thế đạp nghiêng, móng vuốt chân phía bên
phủ bởi cụm mây. Phía trên tiếp giáp với phần đuôi đầu dƣ đƣợc chạm nổi dải
mây lớn. Phía dƣới trƣớc đầu rồng cùng đƣợc chạm những áng mây, dƣới
cùng là những cụm sóng nƣớc và đang nhô lên những cụm lá thiêng. Phần góc
tam giác gần cột quân là những cành tùng đƣợc chạm khắc tỉa tót, tuy có nét
rạch ròi nhƣng điểm xuyết một vài cụm mây nhỏ.
- Cốn gian giữa phía sau bên phải
Mặt phía ngoài gian bên cạnh: Cũng với kiểu thức phía trên là phần
đuôi rồng, phía dƣới là ván mê đƣợc chạm nổi, bong kênh đề tài “Mai hóa
long”. Hình tƣợng rồng đƣợc chạm toàn thân quay vào phía trong hậu cung.
Đầu rồng là do miếng gỗ khác ghép vào đã thể hiện nhô ngoảnh và nghếch lên
áp lấy phía dƣới hoành mái. Đầu rồng cũng đƣợc chạm theo kiểu mắt quỷ,
miệng lang, sừng nai, tai thú, trán lạc đà, mũi sƣ tử gồ ghề, hai đao bay ra từ
mắt lƣợn cong lại đằng sau đƣợc chạm dải tròn, các đao mang, đao râu và đao
gáy lƣợn mềm. Thân rồng mập phủ vây cá với 4 chân khuỳnh trong tƣ thế
bồng bềnh trên nền, kết hợp với dải lá cúc lật của xà nách tạo thành một nền
thiêng. Phần đuôi rồng đƣợc đặc tả phần còn lại của ngọn cây mai với những
nhánh nụ, đôi lúc nụ mai dải rác phía dƣới thân rồng. Đặc biệt phía dƣới cổ
94
rồng và chân trƣớc là đóa mai đi kèm cụm mây. Tất cả nhƣ lột tả về một đề tài
thanh cao, tao nhã.
Mặt phía trong chầu vào gian giữa: Phần đuôi của đầu dƣ không chạm
theo đuôi rồng mà kết hợp với ván mê phía dƣới tạo thành đề tài “Tứ linh”.
Với những đƣờng nét chạm nổi, bong kênh, hình tƣợng rồng đang trong tƣ thế
đạp lại phía sau để bƣơn trải bơi về phía trƣớc. Phủ lên thân rồng là những
áng mây, chỉ để hở 4 dải xoắn thể hiện đuôi rồng. Phía trên, đằng sau rồng là
phƣợng trong tƣ thế dang rộng cánh bay của nền mây. Thực chất khoảng
trang trí này là phần đuôi của đầu dƣ. Phía dƣới chân sau rồng là hình tƣợng
rùa đang bơi trên sóng nƣớc, miệng rùa đang ngậm dải lá thiêng. Một chân
trƣớc rồng đang khuỳnh đạp, một chân để hở 3 móng đang cầm cụm mây.
Phía trƣớc cổ rồng là hình tƣợng ly đang chạy vờn cụm dải lá, hếch mang tai
là dải mây tiếp giáp với hoành mái. Cả đầu rồng và đầu ly đƣợc thể hiện nổi
khối, những đƣờng nét tỉa tót các dải đao trông mạnh mẽ. Đây cũng là một đề
tài khá chủ đạo trong trang trí ở đình Thanh Am.
* Các cốn gian còn lại
Tất cả cốn các gian cạnh, gian chái có kết cấu chồng rƣờng. Các con
rƣờng đƣợc chạm nổi hơi bong kênh lá cúc lật và cụm mây. Con rƣờng cụt
đƣợc tạo ô chữ nhật soi chữ Thọ cách điệu. Những con rƣờng trên cùng đƣợc
chạm hai cánh sen lớn lô xô vào phía cột cái, dƣới là hai cánh sen nhỏ ngửa
lòng, các cánh sen đƣợc chạm bên cạnh cụm vân xoắn lớn. Đề tài trang trí rất
đơn giản nhƣng đã thể hiện một không gian thiêng (Bản ảnh số 100).
* Trang trí đầu dư
Đầu dƣ trên kiến trúc đình Thanh Am đều đƣợc chạm khắc đầu rồng và
chia làm hai loại. Một loại là 4 đầu dƣ ở hai gian tiếp giáp với chái có phong
cách chạm khắc giống nhau (Bản ảnh số 103). Loại thứ hai đƣợc thể hiện ở tất
cả các gian còn lại.
95
Các đầu dƣ ở gian tiếp giáp với chái đƣợc chạm lộng, bong kênh với
hình tƣợng đầu rồng. Mũi rồng nổi khối, miệng rộng đang ngậm ngọc thể hiện
tính thiêng. Các đao tóc, đao mang chạy thẳng về phía sau tiếp giáp với cột
cái. Đao râu cằm lại đƣợc chia làm hai loại. Một loại phần đầu xoắn tết, sau
đó chạy thẳng về phía cột cái. Loại thứ hai là các đao râu này chạy thẳng về
phía cổ cũng tiếp giáp với cột cái (Bản ảnh số 102).
Các đầu dƣ ở các gian còn lại thể hiện đầu rồng và hai đôi chân khuỳnh
đạp tựa vào cột cái. Đầu rồng đƣợc thể hiện gồ ghề với miệng há rộng hếch
lên để hở hàm răng đang ngậm ngọc minh châu. Mũi rồng nổi khối dạng mũi
sƣ tử, đôi mắt quỷ chạm hạt tròn. Các đao mang, đao tóc và vây cổ lƣng lƣợn
về phía sau. Các đao cằm xoắn lƣợn về phía cổ tiếp giáp hai chân trƣớc. Một
số rồng còn đƣợc thể hiện đôi chân sau đang nắm lấy đao râu.
* Trang trí xà nách
Tất cả các xà nách đƣợc trang trí một mô típ chung với kỹ thuật chạm
nổi. Một đầu xà ăn mộng cột cái không trang trí, phần phía cột quân đƣợc
chạm lá cúc lật. Toàn thân xà nách đƣợc bào soi vỏ măng.
* Trang trí trên hệ thống kẻ
Kẻ đƣợc trang trí thành hai loại. Một loại là hai kẻ gian giữa phía trƣớc
đƣợc chạm khắc tỉ mỉ và các kẻ gian khác đƣợc trang trí đơn giản hóa.
Đầu nghé của hai vì gian giữa đƣợc chạm khắc với đầu rồng. Rồng với
nhiều đao mác nhƣ đao râu, đao mang, đao tóc và đao từ mắt rồng đƣợc bay
lƣợn mềm mại ra phía sau, có bốn đôi đao mang bay lƣợn tiếp giáp với cột
quân. Đôi chân rồng chụm khuỳnh trong tƣ thế quắp lấy cụm dải mây (Bản
ảnh số 104).
- Kẻ ở hai gian giữa
Kẻ hiên phía bên trái: thân và đầu kẻ hiên phía ngoài tiếp giáp gian bên
đƣợc chạm khắc nổi, bong kênh hình tƣợng toàn bộ con rồng đang bƣơn chầu
vào phía trong. Phần thân trƣớc của rồng đƣợc thể hiện đầu và chân trƣớc trên
96
nền mây. Đầu rồng do mảng chạm khác ghép vào, đƣợc tỉa tót kỹ càng trông
sắc xảo. Phía sau chân trƣớc là những cụm mây. Phần đầu kẻ hiên đƣợc thể
hiện đuôi rồng. Trƣớc phần đuôi tiếp giáp với cột quân là những cụm mây
vờn lƣợn, sau đuôi cũng dạng thức cụm mây, trên đó thể hiện đuôi rồng mập
xoắn bằng 5 dải lƣợn đuôi nheo. Sau đuôi rồng là hình tƣợng rùa đang cõng
sách bút, miệng ngậm cọng lá (Bản ảnh số 115). Phía trên rùa, sau đuôi rồng
là quả đào đƣợc quấn dải lụa mềm mại. Hếch tiếp giáp với tàu mái là cụm lá
thiêng.
Mặt kẻ hiên chầu vào gian giữa đƣợc chạm nổi, bong kênh đề tài “Tứ
linh”. Phần thân kẻ giữa cột quân và cột hiên là phần đầu rồng và hình tƣợng
phƣợng. Rồng đang trong tƣ thế trƣờn vào phía trong với đôi chân bƣơn trải
đạp trên những cụm mây. Thân và chân rồng phủ vẩy cá. Đầu rồng là mảng
chạm khác đƣợc ghép vào (hiện đầu rồng bị mất). Hình tƣợng phƣợng đƣợc
chạm trong lối khoáng đạt với đôi cánh bay dang rộng. Chân phƣợng đạp trên
nền mây, đuôi phƣợng dải lƣợn dƣới cụm mây. Đầu kẻ thể hiện phần đuôi
rồng với khúc uốn lƣợn. Chân sau rồng bám lấy cụm dải mây. Các đao vây
chân, vây lƣng rồng dạng vây cá xô lƣợn về phía sau. Dải mây tiếp giáp cột
hiên đƣợc bao che lá cúc lật. Đuôi rồng xoắn lại bằng các dải đuôi. Sau chân
dƣới cùng của rồng là hình tƣợng ly đang vờn cầu (Bản ảnh số 113). Đầu ly là
mảnh gỗ khác ghép vào trông sắc xảo, tỉa tót kỹ càng. Thân ly nhƣ đang dƣớn
mạnh làm động tác xoay trƣờn, dƣới chân sau ly là dải mây lụa. Phần mũi của
đầu kẻ hiên đƣợc chạm nổi hình tƣợng rùa đang cõng trên lƣng cuốn bút sách.
Hình tƣợng rùa đang bò từ giọt gianh trƣờn xuống dƣới (Bản ảnh số 106, số
114).
Kẻ hiên phía bên phải: phần mặt gian chầu vào gian giữa, cũng đƣợc
chạm nổi, bong kênh đề tài “Tứ linh” giống với mặt chầu vào bên trong của
kẻ đối diện. Chỉ có khác, vị trí lý thay chỗ cho rùa. Hình tƣợng rùa đang cõng
97
sách bút ở phía dƣới sau đuôi rồng và hình tƣợng ly ở trên đầu kẻ tiếp giáp
với tàu mái và đi kèm là quả đào, dải lụa.
Mặt gian phía gian bên cạnh: đƣợc chạm nổi hơi bong kênh ở viền bo.
Đây là đề tài rồng lá. Toàn bộ thân và đầu kẻ là hình tƣợng rồng cách điệu
bằng lá cúc lật. Các đao, vây là biến thể của các dải lá cúc kế tiếp nhau. Đề tài
khoáng đạt nhƣ thể hiện tài năng của một nhóm hiệp thợ khác cùng trang trí
cho một ngôi đình (Bản ảnh số 117).
- Kẻ các gian còn lại
Các gian khác đều đƣợc làm theo một mô típ. Đầu kẻ đỡ lấy cột quân là
nghé, một số để trơn không trang trí, một số bào soi vỏ măng một số chạm lá
cúc lật đi kèm cụm mây lớn. Kẻ góc để trơn không trang trí (Bản ảnh số 105).
Thân các kẻ đƣợc trang trí viền lá cúc lật, đầu kẻ hiên đƣợc chạm nổi
viền dạng lá cúc và dải mây, lòng trong để trơn.
Bảng 2.15: Các đề tài sử dụng trang trí đình Thanh Am
STT Đề tài trang trí Vị trí trang trí
1 Vân xoắn, lá cúc Con rƣờng ở vì nóc,
câu đầu, kẻ
2 Đầu rồng Đầu dƣ
3 Tứ linh, tứ quý: “Mai hóa long”, “Trúc hóa Cốn, kẻ
long”, “Tùng hóa long”, “Cúc hóa long”, đào,
lựu, chữ Thọ cách điệu
d. Hệ thống di vật liên quan
Do thiên tai, lũ lụt cho nên đình Thanh Am hiện không còn nhiều đồ
thờ tự cổ. Tuy nhiên cũng còn một số đạo sắc phong dƣới thời Cảnh Hƣng 44
(1774), Quang Trung nguyên niên (1789) là một trong những tƣ liệu xác định
quá trình tồn tại và phát triển của đình Thanh Am.
98
e. Niên đại của di tích
Từ những truyền thuyết về lịch sử xây dựng đình qua khảo sát và so
sanh về mặt bằng kiến trúc, nghệ thuật điêu khắc trang trí. Đặc biệt, hiện trên
thân cột vẫn còn dấu tích mộng sàn. Một số đầu dƣ đƣợc chạm nổi, bong kênh,
lộng với đề tài rồng có nét tƣơng đồng với đầu dƣ đình Tình Quang. Cho thấy
niên đại ngôi đình đƣợc xây dựng vào cuối thế kỷ XVII – đầu thế kỷ XVIII
theo tƣ liệu lịch sử là phù hợp.
2.3. Tiểu kết chƣơng 2
Qua khảo sát, nghiên cứu 5 đình làng trên, có thể nói đây là những đình
làng tiêu biểu thế kỷ XVII – XVIII trong tổng số 123 đình làng hiện còn ở Gia
Lâm. Những ngôi đình này có những đặc điểm sau:
- Về vị trí xây dựng, những đình làng tiêu biểu thế kỷ XVII – XVIII ở
Gia Lâm dựng ở khá gần sông. Đình Xuân Dục, đình Thanh Am, đình Tình
Quang, đình Công Đình nằm gần sông Thiên Đức (sông Đuống hiện nay),
đình Trân Tảo gần sông Cầu Giàng (Nghĩa Giang). Đồng thời các ngôi đình
đều đƣợc dựng trên một thế đất thoáng rộng theo thuật phong thủy. Đình
thƣờng quay hƣớng Nam, Tây Nam, Đông Nam tức là có yếu tố Nam. Duy
nhất đình Tình Quang vì lý do biến đổi dòng sông, cải tạo đê nên đã đổi ra
hƣớng Bắc để tránh nhà dân che mặt.
- Về quy mô kiến trúc: đây là công trình văn hóa tín ngƣỡng có quy mô
lớn nhất làng. Khởi đầu, những ngôi đình này chỉ có tòa đại đình kết cấu hình
chữ “Nhất’’, dƣới thời Nguyễn bổ sung các hạng mục khác nhƣ thiêu hƣơng,
hậu cung, tả - hữu vu, phƣơng đình để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt cộng đồng
và do biến động về chức năng của đình làng.
- Đại đình thƣờng có 5 gian, 2 chái với 6 hàng chân cột. Gian giữa
thƣờng lớn hơn các gian cạnh để phục vụ tế lễ. Gian chái lớn hơn các gian
khác vì nó có kẻ góc, cốn góc để tạo đầu đao, mái hồi. Vậy thì những ngôi
đình này thƣờng có tầu đao, lá mái. Riêng đình Trân Tảo chỉ có 3 gian, 2 chái
99
với 4 hàng chân cột. Nhƣ vậy, cũng có đình to, đình nhỏ do phụ thuộc vào 2
yếu tố cơ bản: điều kiện kinh tế và số lƣợng dân đinh ít nhiều.
- Khởi dựng đình sử dụng sàn gỗ, sau này thay thế bằng lát nền gạch. Ở
chân các cột vẫn còn dấu vết các lỗ mộng sàn. Bên cạnh đó chƣa sử dụng
tƣờng bao, ván đố mà để trống xung quanh. Tƣờng bao chỉ bổ sung dƣới thời
Nguyễn và bổ sung hậu cung do chức năng thờ cúng mang nặng tính đền.
- Tỷ lệ so sánh giữa chiều cao từ nóc thƣợng lƣơng xuống nền so với
chiều cao từ giọt gianh xuống nền gần gấp trên dƣới 3 lần. Chứng tỏ thân đình
thấp, mái đình rộng.
- Tỷ lệ phân chia hoành mái thƣờng theo kiểu thức “Thƣợng tứ, hạ ngũ’’
(trên 4, dƣới 5), tổng lại là con số 9, con số ảnh hƣởng của văn hóa Trung Hoa
biểu tƣợng số nhiều, số phiếm chỉ. Mặt khác phần mái trên có 4 hoành cộng
với thƣợng lƣơng, biểu đạt của “Ngũ phúc’’ (Phú, quý, thọ, khang, ninh). Tuy
nhiên đình Trân Tảo có 4 hàng chân nhƣng chia khoảng hoành “Thƣợng tứ,
hạ ngũ”. Bên cạnh đó Công Đình, mặc dù có 6 hàng chân cột nhƣng lại chia
khoảng hoành thành “Thƣợng tam, hạ tứ” (trên 3, dƣới 4). Nhƣ vậy việc phân
chia khoảng hoành không phụ thuộc vào kích thƣớc cắt ngang mà do từng
quan niệm của địa phƣơng.
- Về điêu khắc trang trí, những ngôi đình này có nhiều chủ đề miêu tả
cảnh sinh hoạt dân gian, những hình tƣợng con thú, cây cỏ, hoa lá. Hình tƣợng
rồng chiếm số lƣợng lớn trong các mảng trang trí. Đi kèm với rồng là những
đao mác, vân xoắn. Chƣa thấy hình tƣợng rùa, đặc biệt chƣa có đề tài “Tứ
linh” trong các mảng trang trí. “Tứ linh” chỉ xuất hiện ở những mảng chạm
đƣợc thay thế dƣới thời Nguyễn.
- Kỹ thuật điêu khắc thƣờng sử dụng chạm bong, chạm lộng.
- Về niên đại khởi dựng, hai ngôi đình Trân Tảo và Công Đình đƣợc khởi
dựng dƣới thời Cảnh Trị (1663 – 1671) đƣợc ghi lại trên câu đầu và bia ký.
Đình Xuân Dục đƣợc xác định khởi dựng đầu thế kỷ XVII thông qua sự so
100
sánh về đề tài trang trí, kỹ thuật điêu khắc và kết quả nghiên cứu của các nhà
nghiên cứu đi trƣớc. Đình Tình Quang tuy chƣa xác định chính xác niên đại
khởi dựng nhƣng nó có những nét tƣơng đồng về điêu khắc, đề tài trang trí với
đình Trân Tảo và Công Đình. Có khả năng đình Tình Quang khởi dựng cùng
thời với đình Trân Tảo và Công Đình. Riêng đình Thanh Am, tuy không giữ
lại đƣợc nhiều mảng chạm khắc nhƣng về cơ bản còn giữa lại đƣợc hệ thống
cột với những lỗ mộng sàn và một vài đầu dƣ đã cho thấy đình khởi dựng cuối
thế kỷ XVII, sang đầu thế kỷ XVIII đƣợc tu sửa. Đây là vấn đề tồn nghi để
tiếp tục nghiên cứu.
Từ những đặc điểm nêu trên, với những giá trị của nó làm cơ sở để
nghiên cứu những đình làng cùng niên đại, những ngôi đình khác trong vùng
và đình làng Việt Nam nói chung trong sự so sánh về vị trí xây dựng, quy mô
kiến trúc, nghệ thuật điêu khắc trang trí và niên đại xây dựng ở chƣơng sau
của luận án.
101
Chƣơng 3
NHỮNG GIÁ TRỊ LỊCH SỬ - VĂN HÓA CỦA ĐÌNH LÀNG
THẾ KỶ XVII – XVIII Ở GIA LÂM
Khảo sát, nghiên cứu thực tế tại các đình làng ở Gia Lâm, ngoài 5 ngôi
đình tiêu biểu nhƣ đình Trân Tảo (Phú Thị), đình Công Đình (Đình Xuyên),
đình Xuân Dục (Yên Thƣờng), đình Thanh Am (Thƣợng Thanh), đình Tình
Quang (Giang Biên) thì còn nhiều ngôi đình đƣợc dựng từ thế kỷ XVII –
XVIII. Xác định đƣợc niên đại nêu trên, dựa vào một số tƣ liệu sau:
- Đình làng có niên đại chính xác niên đại khởi dựng là đình Ninh Giang
(xã Ninh Hiệp) hiện còn giữ lại những mảng chạm khắc tinh tế và lời văn bia
“Hậu thần bi ký” lập năm Canh Tuất đời vua Cảnh Trị thứ 8 (1670) cho biết
đình khởi công năm 1665, hoàn thành năm 1667.
- Những đình làng còn lƣu giữ những mảng chạm khắc lúc khởi dựng
nhƣ đầu dƣ, con rƣờng phải kể đến đình Ngô (Thạch Bàn), đình Lệ Mật (Việt
Hƣng), đình Dƣơng Đình (Dƣơng Xá).
- Những đình làng còn lƣu giữ đƣợc tƣ liệu bi ký ghi việc xây dựng đình
nhƣ đình Thƣợng Cát, đình Gia Quất (Thƣợng Thanh), đình Ngọc Động (Da
Tốn).
- Những đình làng không còn giữ lại kiến trúc nhƣng còn hiện vật minh
chứng nhƣ bia đá, sắc phong, đồ thờ tự phải kể đến đình Thổ Khối, đình Xuân
Đỗ Hạ (Cự Khối), đình Mai Phúc (Phúc Đồng), đình Tế Xuyên (Đình Xuyên),
đình Lê Xá (Đa Tốn), đình Vàng (Cổ Bi)...
- Bên cạnh đó, những ngôi đình đƣợc trùng tu tôn tạo tuy đã bị thay thế
cấu kiện nhƣng về dáng vẻ kiến trúc vẫn mang phong cách lúc khởi dựng nhƣ
đình Thuận Tốn (Đa Tốn), đình To Khê (Phú Thị), đình Chử Xá (Văn Đức),...
hoặc thông qua một số đơn nguyên kiến trúc nhƣ nghi môn, giếng là căn cứ
xác định thời gian khởi dựng từ thế kỷ XVII – XVIII nhƣ đình Sài Đồng, đình
Mai Phúc (Phúc Đồng), đình Cự Linh (Thạch Bàn), đình Đông Dƣ Hạ (Đông
Dƣ)... và nhiều ngôi đình khác.
102
Những đình làng ở Gia Lâm đƣợc xác đình xây dựng vào thế kỷ XVII –
XVIII, có những đặc trƣng chung về vị trí xây dựng, quy mô kiến trúc, nghệ
thuật điêu khắc trang trí và niên đại xây dựng.
3.1. Những đặc trƣng của đình làng thế kỷ XVII - XVIII ở Gia Lâm
3.1.1. Vị trí xây dựng
Vị trí xây dựng đình làng vào thế kỷ XVII – XVIII ở Gia Lâm phụ
thuộc rất nhiều vào vị thế địa tự nhiên, thuật phong thủy cho nên yếu tố sông
nƣớc rất quan trọng. Tuy chỉ là một huyện nhƣng ở Gia Lâm có rất nhiều sông
lớn chảy qua nhƣ sông Hồng, sông Đuống và hệ thống chi lƣu của nó. Các chi
lƣu ấy là mạng lƣới chằng chịt các con sông nhỏ nhƣ sông Nghĩa Trụ nối sông
Hồng thông ra sông Đuống thuộc địa phận Giang Biên. Đoạn sông này từ Cầu
Bây chạy dọc lên Long Biên, Bồ Đề mà nay còn sót lại dải đầm lớn ở khu sân
bay Gia Lâm. Một nhánh khác của sông Nghĩa Trụ chảy qua Phú Thị, Đặng
Xá, Dƣơng Xá gọi là sông Cầu Giàng rồi nhập vào sông Đuống thuộc thôn
Chi Đông xã Lệ Chi. Một con sông khác là sông Đài Bi, cũng là chi lƣu của
sông Hồng đã bị “chết’’, nay chỉ còn là dải đầm lớn chạy dọc các thôn của xã
Đa Tốn. Trƣớc đây con sông này gặp sông Nghĩa Trụ ở miếu Cầu Vƣơng (Đa
Tốn). Nhân dân nơi đây vẫn còn truyền câu đồng dao: “Cầu Vƣơng có chốn
thanh nhàn, có sông tắm mát có hàng nghỉ ngơi. Tháng tám thì đi xem bơi,
tháng hai xem hội, tháng mƣời đúc chuông’’. Chính bởi có nhiều sông hồ nhƣ
vậy do Gia Lâm là vùng đất trũng. Ngay danh từ Gia Lâm, Hoa Lâm, Ngọc
Lâm là sự biến thể, thông âm của từ tố Kẻ Lầm (lầm lội, lầy lội). Bên cạnh
các dòng sông thì Gia Lâm còn có rất nhiều dải đầm nhƣ đầm Trƣợng, đầm
Trành chạy suốt từ Cự Khối đến bến Bồ Đề. Dải đầm Cọ chạy từ Đông Dƣ
xuống Đa Tốn.
Trên thực tế, khảo sát cụ thể một số ngôi đình ở Gia Lâm đƣợc ghi
nhận xây dựng vào thế kỷ XVII – XVIII nhƣ đình Xuân Đỗ Hạ (Cự Khối) còn
tấm bia Vĩnh Tộ (1619 - 1628) hiện đặt cạnh giếng đình nhƣ một khẳng định
với chúng ta Đình đã đƣợc xây dựng ở đây ít nhất tới gần 400 năm. Xuân Đỗ
103
là một làng cổ, nằm bên bờ Bắc sông Hồng. Làng có tên nôm là Đậu Hạ.
Làng quê này xƣa kia vốn là đất bãi sông Hồng. Trải qua thời gian, sau những
lần đắp đê chống lụt, Xuân Đỗ trở thành một làng trong đê. Phần sót của con
đê cổ là đoạn đƣờng gom cầu Thanh Trì chứng tích của thời gian. Dòng biên
niên sử của Đại việt sử ký toàn thƣ cũng ghi lại địa danh bãi Xuân Đỗ nhƣ
sau: "Vì năm trƣớc 1523 là năm Nhâm Ngọ, theo lệ có khoa thi Hƣơng,
nhƣng trong nƣớc loạn lạc, không mở khoa thi đƣợc. Nay, xuống chiếu cho
học trò 4 xứ Sơn Nam, Sơn Tây, Hải Dƣơng, Kinh Bắc cùng tới Xuân Đỗ này
để vào thi". Ở “Bên kia sông Đuống” có đình Ninh Giang (Ninh Hiệp) dựng
vào thời Cảnh Trị Trị (khởi công năm 1665, hoàn thành năm 1667) theo nhƣ
lời văn bia “Hậu thần bi ký” lập năm Canh Tuất, đời Cảnh Trị thứ 8 (1670)
hiện đặt phía trƣớc sân bên phải đình có ghi lại. Khảo sát vị trí đƣợc biết, phía
trƣớc đình Ninh Giang nguyên là ao tự nhiên và hệ thống hồ đầm, trận lụt
năm 1971 đã bồi lấp tạo thành bãi phẳng, dần về sau dân làng chuyển đến
sinh sống. Ngay sát bên phải đoạn đầu sông Đuống có đình Thƣợng Cát còn
gọi là đình Tăng Phúc (Thƣợng Thanh) đƣợc dựng dƣới thời Vĩnh Trị (1676 –
1679), văn bia “Tăng Phúc đình bi ký’’lập năm Vĩnh Trị thứ 3 (1678) hiện đặt
phía trƣớc bên trái đình ghi lại việc dựng đình năm Vĩnh Trị thứ nhất (1676)
nhƣ sau: “... khi ấy xóm làng ngày càng trù mật, kinh tế phát triển, nên dân
thôn Thƣợng đã cùng góp công góp của để dựng đình, gọi là Tăng Phúc vì:
Lúa nhà nông đƣợc mùa sung túc, hàng hóa chất đầy, nhà nhà no đủ, ngƣời
ngƣời an khang. Bậc tiền bối đinh ninh lấy tên đất Tăng Phúc đặt làm tên
đình. Nhân đó khắc vào bia đá để truyền mãi về sau”. Ngay cả sự tích ở Công
Đình (Đình Xuyên) ghi lại việc đức Tả Phụ đánh giặc Bầu, sau đó lấy nhà
khách của giặc về dựng đình làng, việc chuyên chở nhà đi theo đƣờng sông về
làng qua đoạn sông Thiên Đức bè bị mắc, phải cầu khấn thần Cây Gạo. Ngoài
ra, ở Gia Lâm có rất nhiều đình làng thế kỷ XVII – XVIII nhƣ đình Ngô
(Thạch Bàn) cạnh sông Cầu Bây, đình Đông Dƣ Hạ (Đông Dƣ) dựng ven đê
104
sông Hồng, đình Tế Xuyên (Đình Xuyên) gần sông Đuống, đình Ngọc Động
(Đa Tốn) gần sông Nghĩa Trụ (sông Đào Xuyên)...
* Khảo sát các đình làng thế kỷ XVII - XVIII trên thấy rằng, sự giống
nhau bao giờ đình cũng đƣợc xây dựng ở bìa làng, một nơi thoáng đãng, phía
trƣớc thƣờng là cánh đồng, cánh bãi, không bị nhà dân che mặt, gần sông
nƣớc. Các dòng sông vừa là điều kiện giao thông để giao lƣu, giao thƣơng
phát triển kinh tế, vừa là điều kiện để vận chuyển nguyên vật liệu nhƣ gỗ lớn
để làm đình thời kỳ này. Câu đồng giao vẫn còn lƣu truyền “Lênh đênh hai ba
mũi thuyền kề, thuyền ra sông Nhị thuyền về sông Dâu”. Sông nƣớc với các
khúc quanh co lắng đọng, tạo nên các thế đất, với nhân tố nƣớc làm căn cốt
của thuật phong thủy “Thè lè lƣỡi trai chẳng sai đƣợc nó, khum khum gọng
vó chẳng nó thì ai” để cho thấy đình làng ở Gia Lâm giai đoạn này đƣợc xây
dựng gắn với vị trí gần sông nƣớc.
Ngoài việc chọn vị trí xây dựng đình làng thì việc chọn hƣớng cũng là
vấn đề quan trọng. Những đình làng ở Gia Lâm thế kỷ XVII – XVIII thƣờng
quay hƣớng Tây, hƣớng Nam hoặc hƣớng Tây Nam. Duy nhất trong các ngôi
đình đƣợc khảo sát có đình Tình Quang quay hƣớng Bắc nhìn ra sông Đuống.
Theo các già làng cho biết, trên cơ sở đoạn sót lại của dòng Thiên Đức xƣa đã
kè thẳng thành sông Đuống dƣới thời Tự Đức (1856) cho nên làng nằm ở
ngoài đê. Đoạn đê cổ vẫn còn ngay cạnh đình, bên cạnh đó vào năm 1929
nhân dân tu sửa lại đình, xây dựng nhà Tả vu – Hữu vu nên đình đƣợc dựng
quay ra sông Đuống theo hƣớng Bắc để tránh nhà dân che mặt đình. Về cơ
bản, đây không phải là hƣớng truyền thống của ngôi đình này từ khởi dựng.
3.1.2. Quy mô kiến trúc
Đình làng ở Gia Lâm thế kỷ XVII – XVIII có quy mô kiến trúc lớn,
mặc dù khởi nguyên chỉ có tòa Đại đình dựng theo kiểu chữ “nhất”. Đình
Xuân Dục: hiện có quy mô kiến trúc lớn, thể hiện qua diện tích mặt bằng và
chiều cao vƣợt trội trên kiến trúc xóm làng. Đình có quy hoạch khá độc đáo,
nay theo kiểu chữ “công”, gồm Đại đình, Thiêu hƣơng và Hậu cung. Đình
105
Công Đình khởi đầu đình cũng đƣợc dựng theo kiểu chữ “nhất”, sau đó xây
thêm Hậu cung. Về cơ bản mặt bằng đình hiện nay có kết cấu hình chữ
“đinh”, sát trƣớc mặt có Phƣơng đình. Đình Tình Quang đƣợc xây dựng trên
khu đất phẳng rộng. Hiện nay, tại di tích là một quần thể các công trình kiến
trúc, trong đó tòa Đại đình giữ vai trò trung tâm. Đình Trân Tảo cũng đƣợc
dựng theo kiểu chữ “nhất”, sau này vào thời Nguyễn đã cấy thêm 3 gian thiêu
hƣơng và 3 gian hậu cung tạo mặt bằng của ngôi đình hiện theo dạng chữ
“công”. Đình Thanh Am đƣợc xây dựng trên một khu đất bằng phẳng và rộng
rãi ở rìa làng. Ngay trƣớc đình là hồ nƣớc rộng và khu vực canh tác, phía sau
là xóm làng. Đại đình tọa lạc ở vị trí trung tâm, các kiến trúc ra đời muộn nhƣ
thiêu hƣơng, hậu cung đƣợc xây dựng liền sau đại đình. Hiện tại, mặt bằng
của đình hiện theo dạng chữ “công”. Sự thay đổi của mặt bằng kiến trúc theo
thời gian chứng tỏ sức sống của loại hình di tích này trong đời sống tinh thần
của cộng đồng làng xóm.
Để đánh giá đặc điểm chung về quy mô kiến trúc các đình làng ở Gia
Lâm thế kỷ XVII – XVIII, xin đƣa ra số đo mặt cắt dọc và số đo mặt cắt
ngang của Đại đình.
Bảng 3.1: Tổng số đo cắt dọc của đại đình
Tên đình Số đo
Đình Tình Quang 26,68m
Đình Thanh Am 27,20m
Đình Xuân Dục 27,50m
Đình Trân Tảo 21,16m
Đình Công đình 21,20m
Bảng 3.2: Tổng số đo mặt cắt ngang của đại đình
Khoảng cách Tên đình
giữa các cột Tình Quang Thanh Am Xuân Dục Trân Tảo Công Đình
106
Cột cái – cột cái 3,77m 4,30m 4,25m 4,86m 3,65m
Cột cái – cột quân 2,91m 2,10m 2,00m 2,44m 2,20m
phía trƣớc
Cột cái – cột quân 2,91m 2,10m 2,00m 2,40m 2,32m
phía sau
Cột quân phía 1,45m 1,30m 1,55m 0 1,30m
trƣớc – cột hiên
phía trƣớc
Cột quân phía sau 1,45m 1,30m 1,55m 0 1,23m
– cột hiên phía sau
Tổng cộng 12,49m 11,10m 11,35m 9,70m 10,70m
* Từ những tƣ liệu trên cho thấy, gian giữa các đình đều lớn hơn so với
các gian bên. Gian chái có số đo lớn hơn các gian khác. Đây là đặc điểm kích
thƣớc các gian của những đình làng ở Gia Lâm thế kỷ XVII - XVIII. Khoảng
mặt cắt ngang giữa các cột cái với cột cái là lớn nhất tuy không thống nhất
giữa các đình. Về cơ bản khoảng cách giữa các cột cái với cột quân đều trên
2,00m; khoảng cách giữa các cột quân với cột hiên khoảng từ trên 1,20m
nhƣng lệ thuộc vào mặt cắt dọc của kiến trúc. Nó đáp ứng diện tích khoảng
gian để phục vụ sinh hoạt. Mặc dù có đình to, đình nhỏ nhƣng tựu chung lại
đình làng ở Gia Lâm thế kỷ XVII – XVIII có quy mô khá lớn so với các loại
hình di tích khác.
3.1.3. Nghệ thuật điêu khắc trang trí
Trong điêu khắc trang trí trên kiến trúc, những ngôi đình này có những
đặc trƣng chung ở hai khía cạnh:
- Kỹ thuật chạm khắc: đa phần trang trí trên các ngôi đình sử dụng kỹ
thuật chạm lộng, bong kênh ở đầu dƣ, nghé, đầu kẻ, cốn, cánh gà. Những
đƣờng nét chạm khắc chắc khỏe, khối gọn, mềm mại và ấm cúng.
- Đề tài trang trí khá phong phú phản ánh nhiều mặt đời sống tinh thần xã
hội là những cảnh sinh hoạt cộng đồng nhƣ múa hát, “Tiên cƣỡi rồng’’ thể
107
hiện ở đình Trân Tảo, đình Tình Quang, đình Xuân Dục. Chứng tỏ phản ánh
tính dân gian rất cao. Những hình tƣợng con thú nhƣ: hổ, lân bắt rắn, hƣơu,
nai, chim, sóc. Những hình tƣợng cây cỏ, hoa lá nhƣ cúc, lá cúc, tùng, trúc,
mai đƣợc thể hiện trên các cốn. Trúc là biểu tƣợng của chính nhân quân tử,
tùng biểu tƣợng của đấng trƣợng phu. Hình tƣợng này chịu ảnh hƣởng của nho
giáo. Nhƣ vậy, ít nhiều có tác động của tầng lớp nho sĩ.
- Đề tài thể hiện nhiều nhất là hình tƣợng rồng có nhiều đao mác bay về
phía sau và đầu hếch phía trƣớc. Đặc biệt hình tƣợng rồng thƣờng đi kèm với
rồng con, hình tƣợng ngƣời và linh thú khác. Một đề tài cũng nổi bật là những
cụm mây, vân xoắn. Mặc dù trong trang trí có rất nhiều hình tƣợng rồng, lân,
ly, phƣợng nhƣng chƣa thấy hình tƣợng rùa để tạo thành bộ “Tứ linh” hoàn
chỉnh.
3.1.4. Niên đại của các ngôi đình
Trong các đình làng thế kỷ XVII – XVIII ở Gia Lâm, duy nhất có đình
làng Xuân Dục (Yên Thƣờng) đƣợc xây dựng sớm nhất vào đầu thế kỷ XVII
thông qua sự so sánh về trang trí trên kiến trúc. Nó nhƣ kế thừa gần gũi về
phong cách, đề tài trang trí với những ngôi đình thời Mạc. Bên cạnh đó đa số
đình làng đƣợc xây dựng vào nửa cuối thế kỷ XVII, thời Cảnh Trị (1663 –
1671) nhƣ đình Trân Tảo (Phú Thị), đình Ninh Giang (Ninh Hiệp), đình Công
Đình (Đình Xuyên). Những dấu tích vật chất minh chứng niên đại chính xác
khởi dựng đình còn đƣợc ghi lại trên Câu đầu, bia ký...cũng nhƣ qua sự so
sánh về kiến trúc, nghệ thuật điêu khắc trang trí. Cũng có đình đƣợc xây dựng
dƣới thời Vĩnh Trị (1676). Ngoài những ngôi đình nêu trên còn có nhiều đình
đƣợc dựng đầu thế kỷ XVIII nhƣ đình Ngô (Thạch Bàn), đình Đông Dƣ Hạ
(Đông Dƣ), đình Tế Xuyên (Đình Xuyên)...Từ việc xác định niên đại xây
dựng đình làng thế kỷ XVII – XVIII ở Gia Lâm cho thấy những ngôi đình này
có những đặc điểm chung về thời gian xây dựng sau:
- Hiện tại chƣa phát hiện đƣợc ngôi đình nào xây dựng trƣớc thế kỷ
XVII mà chủ yếu đƣợc dựng từ nửa cuối thế kỷ XVII trở về sau. Bên cạnh
108
đình Xuân Dục đƣợc xác nhận xây dựng vào đầu thế kỷ XVII thì ở Gia Lâm
có đình Xuân Đỗ Hạ (Cự Khối) hiện còn bia đá mang niên đại Vĩnh Tộ (1619
-1628), bia đã mờ chữ nên không xác định đƣợc nội dung, các công trình kiến
trúc của đình đƣợc làm lại dƣới thời Nguyễn, hiện chỉ còn 2 cỗ ngai và bài vị
mang phong cách nghệ thuật Lê. Ngôi đình này còn tồn nghi trong nghiên cứu
nhƣng nếu quả ngôi đình này đƣợc dựng dƣới thời Vĩnh Tộ thì đây cũng là tƣ
liệu bổ sung phần khuyết cho những đình làng đầu thế kỷ XVII.
- Cũng trong giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVII đã phát hiện rất nhiều đình
làng ở Gia Lâm dựng trƣớc thời Chính Hòa nhƣ nêu trên.
* Từ kết quả trên cho thấy đình làng ở Gia Lâm thế kỷ XVII – XVIII
đƣợc ra đời trong bối cảnh chung của sự nở rộ các đình làng.
3.2. Đình làng ở Gia Lâm thế kỷ XVII – XVIII trong hệ thống kiến trúc
đình làng Việt Nam
3.2.1. Mối quan hệ với hệ thống đình làng ở Gia Lâm
3.2.1.1. Vị trí xây dựng
Trong hệ thống đình làng ở Gia Lâm, cũng có những ngôi đình đƣợc
dựng dƣới thời Nguyễn. Xin đƣợc điểm qua hai đình làng cụ thể để có sự so
sánh về vị trí xây dựng giữa đình làng thế kỷ XVII – XVII trong hệ thống
đình làng ở Gia Lâm.
- Trƣờng hợp thứ nhất là đình làng Trạm (Long Biên), qua khảo sát kiến
trúc thấy dòng chữ đƣợc ghi ở “quá giang” bên tả có đề: “Hoàng triều Gia
Long thập thất niên, thập nhất nguyệt, nhị thập nhị nhật, lƣơng thời thụ trụ
thƣợng lƣơng đại cát’’ cho biết niên đại hoàn thành cụ thể của đình này vào
ngày 22 tháng mƣời một âm lịch năm Gia Long thứ 17 (tức năm 1818). Kiến
trúc đình làng của thời Gia Long ở Gia Lâm hiện còn lại rất ít, có khi là độc
nhất. Ngôi đình này quay hƣớng Tây, nằm ngay sát chân đê nhìn ra sông
Hồng, phía sau là khu dân cƣ. Các già làng cho biết, trƣớc đây uốn quanh
đình có dòng lạch của sông Nghĩa Trụ. Sau trận lụt vỡ đê năm 1926 đã đắp lại
109
đê và lấp luôn dòng chảy đó. Hiện vẫn còn đoạn sót dải đầm lớn là hồ sân bay
Gia Lâm.
- Trƣờng hợp thứ hai là đình làng Vàng (Cổ Bi). Ngôi đình này quay
hƣớng Tây Nam nhìn vào xóm làng, lƣng dựa vào đê sông Đuống. Trên
thƣợng lƣơng đại đình còn ghi rõ “Hoàng triều Tự Đức Canh Thân niên nhị
nguyệt nhị thập bát nhật Thìn thời thụ trụ thƣợng lƣơng đại cát” tức là dựng
đình vào giờ Thìn ngày 28 tháng Hai âm lịch năm Canh Thân đời vua Tự Đức
(1860), Quy mô kiến trúc lớn gồm nghi môn, sân gạch rộng, tả mạc, đại đình,
trung đình và hậu cung.
Ngoài 2 đình làng nêu trên, đƣợc biết đình Thổ Khối (Cự Khối) đƣợc
các cụ kể lại là nằm ở vị trí gò má con rồng. Đình Thƣợng Cát (Thƣợng
Thanh) thì xây dựng ở trên lƣng con rùa, đầu rùa nhô ra giếng đình. Đình
Thanh Am (Thƣợng Thanh) thì xây trên thế đất “Quy xà hội tụ’’. Đình Xuân
Đỗ Hạ (Cự Khối) lại chọn ở vị trí đƣợc ghi lại bằng đôi câu đối trƣớc đình
“Tây hƣớng Nhĩ Hà nam mã thủ, đông tựa Thạch Kiều bắc hoàn long”. Đình
Lệ Mật (Việt Hƣng) đƣợc chọn vị thế nhƣ theo lời “Hậu thần bi ký” tại đình
lập năm Dƣơng Đức thứ 3 (1674) có ghi “Tiền Chu Tƣớc, hậu Huyền Vũ tứ
thần bao bọc, tả Thanh Long, hữu Bạch Hổ tám ngả chầu về”.
* Nhìn chung đình làng ở Gia Lâm đều đƣợc xây dựng ở những vị trí
đặc biệt của làng, đƣợc thế phong thủy. Trong thành ngữ cổ, ngƣời Việt
thƣờng nói “Lấy vợ hiền hòa, làm nhà hƣớng Nam’’. Do đó có thể thấy rằng
hƣớng Nam là yếu tố chi phối quan trọng để lấy “Phong thủy”, đƣợc yếu tố tụ
thủy tức tụ phúc của dòng sông nƣớc, đƣợc làn gió nồm (Nam) mát mẻ, tránh
trực diện của ánh sáng mặt trời. Bên cạnh đó các đình làng ở Gia Lâm cũng
thƣờng quay hƣớng Tây. Hƣớng Tây là hƣớng của sự hòa hợp âm dƣơng, bởi
lẽ mặt Thánh thuộc dƣơng – hƣớng Tây thuộc âm, lƣng Thánh thuộc âm –
hƣớng Đông thuộc dƣơng, tay phải Thánh thuộc dƣơng – hƣớng Bắc thuộc
âm, tay trái Thánh thuộc âm – hƣớng Nam thuộc dƣơng. Nhƣ vậy âm – dƣơng
giao hòa mới sinh sôi phát triển. Trong tâm thức của ngƣời dân nếu chọn
110
đƣợc hƣớng tốt thì sẽ sinh sôi phát triển, nếu hƣớng đình không tốt thì ảnh
hƣởng đến sức khỏe của cả làng, dân gian có câu “Mắt toét đổ tại hƣớng đình,
cả làng mắt toét có mình em đâu’’.
Trƣờng hợp đặc biệt, có đình Tình Quang quay hƣớng Bắc. Hƣớng
đình hiện không theo truyền thống do thay đổi về dòng chảy sông Đuống, để
tránh nhà dân che mặt đình. Về mặt tâm linh, đình lƣng dựa vào làng cũng
hàm nghĩa Thánh vì dân làng, vì chống lũ lụt cho dân, bảo trợ cho dân làng
mà tồn tại.
Từ thời Nguyễn về sau, hƣớng của các ngôi đình cũng đa dạng, không
theo truyền thống, mà đình hƣớng ra đƣờng cái nhƣ đình Trung thôn (Cự
Khối) là trƣờng hợp điển hình. Có lẽ do nhận thức truyền thống bị suy lạc,
mang tính thực dụng hoặc giai đoạn này ngôi đình do chuyển chức năng nặng
tính Đền thờ nhiều hơn.
* Về vị trí xây dựng, đình làng thế kỷ XVII – XVIII ở Gia Lâm thƣờng
ở gần các dòng sông. Đó cũng là đặc điểm chung do yếu tố địa lý và ảnh
hƣởng của thuật phong thủy. Đến thời Nguyễn do những nhân tố phát triển
kinh tế, đi kèm đó là dân số tăng, nhiều nơi có hiện tƣợng tách làng nhƣ
trƣờng hợp làng Xuân Đỗ Thƣợng tách ra từ Xuân Đỗ Hạ, làng Hạ Trại tách
một phần dân cƣ từ làng Cầu Bây ra khai dân ở ngoài đê thuộc Cự Khối là
những trƣờng hợp điển hình. Những làng mới này cũng dựng đình nhƣng do
vị trí xa sông nên những ngôi đình này không dựng ở gần sông. Đó cũng là
yếu tố khác biệt về vị trí xây dựng những ngôi đình dƣới thời Nguyễn so với
đình làng ở Gia Lâm vào thế kỷ XVII – XVIII.
3.2.1.2. Quy mô kiến trúc
Có thể nói từ giữa thế kỷ XVIII trở đi, ở Gia Lâm không thấy xuất hiện
thêm ngôi đình nào mới, mà ở các làng quê vẫn bảo tồn những ngôi đình đã
dựng từ thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII. Trong giai đoạn cuối thế kỷ XVIII,
Gia Lâm chịu ảnh hƣởng của cuộc khởi nghĩa nông dân mà địa bàn của Quận
He Nguyễn Hữu Cầu? Chính bởi vậy, nhiều kiến trúc công cộng nhƣ đình,
111
chùa cũng bị tàn phá. Văn bia “Hậu Phật bi ký” tại chùa Trạm (Long Biên)
dựng năm Cảnh Hƣng thứ 7 (1746) đặt tại gian đốc Tam bảo chùa có đoạn ghi
“... do mấy năm trƣớc có binh hỏa nên cảnh chùa tan hoang, tƣợng phật đổ
nát...”. Sang đầu thế kỷ XIX, ở Gia Lâm hiện chỉ xác nhận đƣợc ngôi đình
Trạm dựng năm Gia Long thứ 17 (1818) có kết cấu hình chữ Đinh với tòa đại
đình với 3 gian 2 dĩ tƣờng hồi bít đốc, hậu cung 3 gian chạy dọc. Cũng ở địa
bàn này có ngôi đình Nha đƣợc bố cục theo kiểu chữ “tam” không đều nhau,
bố cục chung máng tạo cho không gian nội thất trở nên thống nhất theo kiểu
“Trùng thiềm điệp ốc”. Đại đình kết cấu theo kiểu 5 gian tƣờng hồi bít đốc,
niên đại ghi dƣới bụng câu đầu vào đời Minh Mạng thứ 3 (1822). Ngoài ra, ở
Gia Lâm còn nhiều đình làng đƣợc dựng mới dƣới thời Nguyễn, hoặc có nơi
đƣợc tu tạo gần nhƣ làm mới, chỉ còn lại một vài cấu kiện nhƣ đầu dƣ, con
rƣờng. Đình có quy mô vừa và nhỏ. Kiến trúc của những ngôi đình này chủ
yếu 3 gian hoặc 5 gian tƣờng hồi bít đốc. Về mặt cắt ngang thƣờng cột quân
đồng thời là cột hiên hoặc có nơi tƣờng xây bổ trụ thay cột.
- Đình làng thế kỷ XVII – XVIII ở Gia Lâm với mái rộng, thân đình
thấp do thời kỳ này với bộ vì nóc sử dụng câu đầu kê trên cột cái. Đến thời
Nguyễn thân đình cao hơn bởi thời kỳ này, kiến trúc đã sử dụng “quá giang’’
đã tạo cho vì nóc đƣợc nâng lên.
- Những ngôi đình đƣợc làm dƣới thời Nguyễn, không chỉ xây đại đình
hình chữ “nhất’’mà ngay từ đầu đã xây luôn cả hậu cung dạng chuôi vồ thành
một thể thống nhất, các công trình phụ trợ khác nhƣ tả - hữu vu. Tạo cho bố
cục mặt bằng có kết cấu hình chữ “đinh’’ hoặc chữ “tam’’. Trong thời kỳ này,
những đình làng thế kỷ XVII – XVIII cũng đƣợc bổ sung các công trình nêu
trên. Đây là đặc điểm chung cho sự mở rộng quy mô kiến trúc đình làng ở Gia
Lâm.
Nhƣ vậy, đình làng ở Gia Lâm thế kỷ XVII – XVIII vẫn là công trình
kiến trúc có quy mô lớn hơn các ngôi đình đƣợc xây dựng sau này. Nhìn
chung, đình làng ở Gia Lâm nói chung so với các công trình có tính chất tôn
112
giáo, tín ngƣỡng khác vẫn là công trình kiến trúc có quy mô lớn nhất làng,
ngoại trừ một số làng có công trình khác to lớn nhƣ đền, chùa do triều đình
cho xây dựng hoặc có sự tham góp của một số quý tộc nhƣ chùa đền Bà Tấm
(Dƣơng Xá), chùa Đại Dƣơng tức chùa Sủi (Phú Thị), đền Gióng (Phù Đổng).
3.2.1.3. Nghệ thuật điêu khắc trang trí
Qua chuyên khảo những ngôi đình khá tiêu biểu ở Gia Lâm thế kỷ
XVII – XVII, có thể minh chứng cho sức sáng tạo nghệ thuật của ngƣời dân
xứ Kinh Bắc xƣa. Những ngôi đình này phản ánh khá rõ nét bối cảnh xã hội
đƣơng thời, mà nổi lên trên hết là ƣớc vọng khát khao của ngƣời nông dân về
cuộc sống ấm no, hạnh phúc, nhƣ trên trang trí với những đề tài “Lƣỡng long
chầu Hổ phù” ở đình Công Đình, rồi những cảnh sinh hoạt bình dị với những
ƣớc muốn “thơ mộng” đƣợc thể hiện trên những bức Cốn ở đình Xuân Dục,
Trân Tảo và Tình Quang về đề tài con ngƣời đang múa thông qua những bức
chạm “Tiên cƣỡi rồng”. Rồi nhƣ muốn đƣợc hoà vào thiên nhiên với những
hoạt cảnh con vật hổ, hƣơu, con ngƣời cùng với những cây cỏ hoa lá. Ƣớc
vọng cầu mƣa, cầu mùa cho mùa màng bội thu của cƣ dân nông nghiệp lúa
nƣớc thông qua hình tƣợng rồng, mây. Ƣớc vọng của con ngƣời để vƣơn tới
cuộc sống tốt đẹp, tồn tại cùng đất trời, thể hiện sức sống vĩnh cửu thông qua
việc cầu Thọ, cầu Phúc với những hình ảnh về cây Tùng, con Hạc, con Dơi.
Trên trang trí kiến trúc chƣa thấy những hình tƣợng miêu tả chiến tranh, chắc
rằng đây hẳn là ƣớc vọng hoà bình v.v.. và còn nhiều những ƣớc mơ khác
nữa.
Những đình làng ở Gia Lâm thế kỷ XVII - XVIII đƣợc tu sửa nhiều lần
dƣới thời Nguyễn, do vậy nhiều mảng chạm khắc đã đƣợc thay thế. Hiện
tƣợng vì nóc đƣợc thay hoàn toàn bằng ván xẻ, bào trơn đóng bén không có
trang trí. Nghệ thuật trang trí chỉ còn thể hiện ở các cốn, đầu dƣ, kẻ, nhƣ
trƣờng hợp đình Tình Quang (Giang Biên), đình Công Đình (Đình Xuyên).
Hiện tƣợng này đã đơn giản hóa mà ngƣời ta chủ yếu thay thế cấu kiện để cho
kiến trúc thêm chắc khỏe. Một số đình cũng đƣợc thay thế vì nóc (tuy vẫn sử
113
dụng dạng vì Giá chiêng) nhƣng điêu khắc trang trí cũng đơn giản hóa rất
nhiều, những cột trốn, con rƣờng, đấu kê hầu nhƣ cũng để trơn nhƣ đình Trân
Tảo (Phú Thị), đình Ninh Giang (Ninh Hiệp). Nhiều đình bỏ hẳn ván lá gió ở
diệp thƣợng. Ở diệp hạ, nhiều khi thay thế bằng ván để trơn. Duy nhất đình
Xuân Dục vần còn giữ lại 2 ván gió hậu tại diệp hạ ở 2 gian bên cạnh gian
giữa với đề tài trang trí lƣỡng cá chép hóa rồng chầu mặt trăng. Cũng do sửa
chữa dƣới thời Nguyễn, nhiều đình đã bỏ hẳn bộ phận Cánh gà. Mặc dù bộ
phận Cánh gà có chức năng đỡ bụng các xà dọc, nhƣng nó lại đƣợc trang trí
công phu với đề tài rồng và có cảnh sinh hoạt dân gian nhƣ đình Xuân Dục
(Yên Thƣờng), đình Công Đình (Đình Xuyên), đình Ninh Giang (Ninh Hiệp).
Nhiều đình thay lại toàn bộ cốn, kẻ nhƣ đình Thanh Am (Thƣợng Thanh),
hoặc thay một số Cốn nhƣ đình Tình Quang (Giang Biên), những bức cốn
không còn sử dụng dạng các con rƣờng chồng khít nhau mà thay vào đó là cốn
dạng ván mê với đề tài trang trí “Tứ linh”, “Tứ quý” nhƣ ở đình Thanh Am
(Thƣợng Thanh), đình Tình Quang (Giang Biên). Bên cạnh đó, nhiều Cốn
đƣợc sửa lại một phần cũng đƣợc chạm khắc nhƣng không khớp với đề tài
trang trí ban đầu mà nó “khập khễnh” nhƣ đình Trân Tảo (Phú Thị), đình Tình
Quang (Giang Biên), đình Ninh Giang (Ninh Hiệp). Các Đầu dƣ cũng bị thay
thế nhiều, chúng đƣợc thay thế dƣới thời Nguyễn, vẫn dạng đầu rồng, nhƣng
không đƣợc ấm cúng mà có phần gai góc. Một số đình đƣợc tu sửa lớn, có khi
là dựng lại toàn bộ chỉ mang dáng vẻ lúc khởi dựng với dạng kiến trúc có gian
chái và 4 góc tàu đao lá mái, trên cơ sở giữ lại hệ thống cột chính nhƣ đình
Thanh Am (Thƣợng Thanh), đình Thổ Khối (Cự Khối). Tuy nhiên, góc hồi ở
đình Thanh Am đƣợc cải biến thành mái đua ra để che sự thô cứng của kiến
trúc. Nhiều đình chỉ còn giữ lại một vài đầu dƣ nhƣ đình Lệ Mật (Việt Hƣng),
đình Thanh Am (Thƣợng Thanh), đình Ngô (Thạch Bàn), thay vào đó là toàn
bộ kiến trúc, nghệ thuật điêu khắc mang nghệ thuật của thời Nguyễn.
Chuyển sang những đình làng ở Gia Lâm đƣợc dựng dƣới thời Nguyễn,
nó khác xa với những ngôi đình trƣớc đó từ đề tài trang trí đến kỹ thuật chạm
114
khắc. Trƣớc hết về đề tài trang trí. Những ngôi đình vắng hẳn những đề tài
trang trí nhƣ cảnh sinh hoạt múa hát dân gian, những hƣơu, hổ... nhƣ đình làng
ở Gia Lâm thế kỷ XVII – XVIII mà thay vào đó những đề tài có tính quy
phạm, đề cao phú quý nhƣ “Tứ linh”, “Tứ quý”, “Ngũ phúc khánh tiền”, “Tam
đa” (Phúc, lộc, thọ), rồi hình tƣợng mang tính chất tâm linh có các đồ thờ bát
hƣơng, cây đèn, mâm ngũ quả, nhƣ ở đình Trƣờng Lâm (Việt Hƣng), hậu cung
đình Thanh Am (Thƣợng Thanh) hay đề tài “Bát vật” (Long, ly, quy, phƣợng,
lân, cua, cá, chim) nhƣ ở đình Nha, đình Tƣ Đình (Long Biên), đình Thổ Khối
(Cự Khối), đình Mai Phúc (Phúc Đồng). Cũng có đình, phần vì nóc không làm
dạng vì Giá chiêng, vì chồng rƣờng biến thể mà thay vào đó là vì dạng ván mê
dày chạm khắc hình tƣợng Hổ phù, nhƣ đình Ngô (Thạch Bàn), đình Báo Đáp
(Kiêu Kỵ). Nhiều đình, phần Cốn dạng ván mê chạm khắc hồi văn lá lật. Sự
khác biệt cơ bản giữa hình tƣợng rồng đình làng thế kỷ XVII – XVIII với hình
tƣợng rồng thời Nguyễn là khá rõ nét. Rồng thế kỷ XVII – XVIII có những
đƣờng nét với những khúc thân uốn mềm mại, mập mạp với nhiều đao mác
bay phía sau và bay hếch phía trƣớc, đuôi rồng thƣờng là dạng đuôi cá, thì
rồng ở đình thời Nguyễn chủ yếu thể hiện phần đầu dáng vẻ dữ tợn, gai góc
với những đao đuôi nheo tỉa sắc nhọn, phần đuôi đã đƣợc biến thể dạng 5
nhánh.
Về kỹ thuật chạm khắc, những đình làng thế kỷ XVII – XVIII thƣờng sử
dụng lối chạm bong, chạm lộng thì sang thời Nguyễn lại thƣờng sử dụng chạm
nông, chạm soi đƣờng chỉ hoặc một số trƣờng hợp chạm lộng sử dụng trong
đề tài “Bát vật”. Những đề tài “Tứ linh” ở các Cốn thƣờng sử dụng chạm nổi,
phần đầu các con vật thƣờng đƣợc tạo riêng (chạm tròn) sau đó gắn vào phần
thân. Đƣờng nét chạm khắc của những đình làng thế kỷ XVII – XVIII tạo sự
chắc khỏe, mập mạp, ấm cúng bao nhiêu thì kỹ thuật chạm khắc dƣới thời
Nguyễn có vẻ đơn giản, sắc nét nhƣng có phần gai góc. Đây là đặc điểm khác
biệt cơ bản về nghệ thuật điêu khắc trang trí so với những đình làng đƣợc sửa
chữa hoặc làm mới dƣới thời Nguyễn trong hệ thống đình làng ở Gia Lâm.
115
3.2.1.4.Niên đại
Xung quanh niên đại đình làng ở Gia Lâm chúng tôi đã đề cập ở phần
trên để đánh giá về vị trí xây dựng, quy mô kiến trúc và nghệ thuật điêu khắc
trang trí, để mở rộng sự so sánh giữa các đình làng ở Gia Lâm có niên đại thế
kỷ XVII – XVIII với các đình làng đồng đại và hệ thống đình làng ở Gia Lâm
nói chung. Về niên đại khởi dựng, hiện chƣa tìm thấy ngôi đình nào đƣợc
dựng trƣớc thế kỷ XVII. Bên cạnh đó đã xác nhận đƣợc đình làng Xuân Dục
dựng đầu thế kỷ XVII. Kế tiếp là đình làng Xuân Đỗ Hạ (Cự Khối), mặc dù
chỉ còn tấm bia mang niên đại Vĩnh Tộ (1619 – 1628) nhƣ khẳng định ngôi
đình này đã đƣợc xây dựng gần 400 trăm năm. Tuy nhiên đó cũng là dấu hiệu
có thể ngờ rằng ở Gia Lâm, vào đầu thế kỷ XVII cùng có một vài ngôi đình
đƣợc khởi dựng. Hiện chƣa tìm thấy ngôi đình nào ở Gia Lâm đƣợc dựng vào
giữa thế kỷ XVII, có khả năng vào giai đoạn này các làng quê chƣa đủ điều
kiện về kinh tế để xây dựng công trình lớn nhƣ đình làng, mặc dù trƣớc đó vào
đầu thế kỷ XVII ở Xuân Dục và gần với Gia Lâm không xa có đình Phù Lƣu
(Bắc Ninh) đã ra đời. Sang đến giai đoạn cuối thế kỷ XVII, ở Gia Lâm đã cho
ra đời hàng loạt ngôi đình có trƣớc thời Chính Hòa nhƣ đình Trân Tảo (Phú
Thị), đình Ninh Giang (Ninh Hiệp), đình Công Đình (Đình Xuyên) vào thời
Cảnh Trị (1663 – 1671), rồi đình Gia Quất (Thƣợng Thanh) hiện không còn
kiến trúc do binh hỏa nhƣng tấm bia “Ký sự bi ký’’ dựng năm Cảnh Trị cửu
niên (1671) ghi lại việc dựng đình trong thời kỳ này. Cũng ở Thƣợng Thanh
có đình Thƣợng Cát (đình Tăng Phúc) đƣợc xây dựng năm Vĩnh Trị (1676)
đƣợc ghi lại trong bia “Tăng Phúc đình bi ký’’. Nhƣ vậy, cũng trong giai đoạn
cuối thế kỷ XVII, ở Gia Lâm đã có nhiều đình đƣợc dựng trƣớc thời Chính
Hòa (1680 – 1704). Bên cạnh đó có một số đình làng đƣợc dựng giai đoạn
cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII nhƣ đình Ngô (Thạch Bàn), đình Đông Dƣ
Hạ (Đông Dƣ), đình Tế Xuyên (Đình Xuyên), đình Ngọc Đông (Đa
Tốn)...Tuy nhiên, ở Gia Lâm chƣa tìm thấy đình làng nào có niên đại chính
116
xác đƣợc khởi dựng vào thời Chính Hòa mà chỉ dự đoán thông qua sự so sánh
về kiến trúc và nghệ thuật điêu khắc trang trí.
Sau thời Chính Hòa đến hết thế kỷ XVIII, ở Gia Lâm cũng chƣa tìm
thấy ngôi đình nào đƣợc khởi dựng. Chỉ đến thời Cảnh Hƣng, một số đình
làng đƣợc tu sửa. Văn bia ở đình làng Thổ Khối lập năm Cảnh Hƣng thứ 39
(1778) có đoạn ghi: “... Nghe nói đình thờ thần làng ta tu sửa, khang trang
mới mẻ, chùa thờ phật quyên gom kinh sách, bèn cùng mọi ngƣời làm phúc
quả. Ở tỉnh hạt lúa gạo đƣợc chia thêm cho các hộ dƣới, tiền tài không tích trữ
làm của riêng. Đấy là cái đức thiện, ý hạnh...”.
Sang thời Nguyễn, một số đình đƣợc xây dựng, ở Gia Lâm cũng chỉ xác
đình đƣợc một vài đình làng dựng đầu thế kỷ XIX nhƣ đình Trạm (Long
Biên) dựng vào năm Gia Long thứ 17 (1818), rồi đình Nha cũng ở Long Biên
dựng năm Minh Mệnh thứ 3 (1822). Một số đình làng khác dựng muộn hơn
nhƣ đình Xuân Độ Thƣợng, đình Trung thôn, đình Hạ Trại ở Cự Khối do có
sự tách làng. Nhƣ vậy, dƣới thời Nguyễn ở Gia Lâm cũng có hiện tƣợng xây
dựng đình mới nhƣng đặc biệt chủ yếu vẫn là việc tu sửa đình đi kèm đó là
xây dựng mới, mở rộng quy mô các hạng mục Hậu cung, Phƣơng đình, Tả -
Hữu vu và một số công trình phụ trợ khác.
3.2.2. Mối quan hệ với hệ thống kiến trúc đình làng Việt Nam Trƣớc hết là vấn đề lịch sử, chính trị và bƣớc đi của tôn giáo, tín ngƣỡng
Vào thế kỷ XVII, giai đoạn lịch sử đã và đang rơi vào tình cảnh Trịnh –
Nguyễn phân tranh, những cuộc nội chiến nồi da nấu thịt. Dẫn đến khủng
hoảng lòng tin vào Nho giáo, ít nhiều đã phá vỡ trật tự cố hữu ở nông thôn.
Mặt khác chính lòng tin vào đạo Phật cũng đã bị khủng hoảng mà chúng ta
thấy bắt đầu từ thời Lý mà đặc biệt mạnh mẽ hiện tƣợng vật chất hóa ngôi
chùa và kiếp tu thông qua hiện tƣợng công đức lớn của tầng lớp trên. Hiện
tƣợng này về tƣ tƣởng nhƣ là sự khoán ƣớc với thần linh, khiến cho nhận thức
đạo đức của nhà Phật cũng nhƣ nhận thức về Phật triết bị xói mòn. Trƣớc đây
hệ tƣ tƣởng chính thống ở Việt Nam không dựa vào Phật giáo thì dựa vào Nho
117
giáo. Dẫn tới Nho – Phật phải dung hội để chi phối đến hệ thống tƣ tƣởng
chính thống và bình dân của xã hội. Sự xác nhận đã cho thấy mở đầu hiện
tƣợng này ngay từ phái Thảo Đƣờng (thời Lý Thánh Tông). Đó là một Phật
phái đem nhà Nho đến Phật đài. Tiền lệ ấy phát triển ở nhà Trần với xu thế
Nho giáo và địa vị của Nho sĩ ngày càng cao lên, vua Trần Nghệ Tông đã phải
kêu lên: bọn học trò mặt trắng không theo truyền thống của tổ tông mà cái gì
cũng theo phƣơng Bắc cả (theo Đại Việt sử ký toàn thƣ). Cho tới khi cuộc đại
khủng hoảng hệ chính trị xã hội dƣới thời Mạc khiến một số nhà Nho cũng
phải đi vào con đƣờng “vô vi” của Đạo Lão để tìm cân bằng cho tƣ tƣởng, mà
điển hình: Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Dữ, Nguyễn Hàng. Từ hiện tƣợng
này nhƣ một khởi đầu báo hiệu cho cả lòng tin vào Phật và Nho đều khủng
hoảng. Ngôi chùa ở nông thôn nhƣ trở thành một nơi đáp ứng yêu cầu chủ yếu
của nữ giới thì đình làng mà chúng ta đã biết: manh nha từ thời Lê sơ, định
hình thế kỷ XVI, mà thực tế mới chỉ tìm đƣợc còn lại mà dấu tích khoảng dƣới
10 ngôi. Chính do đình làng thích hợp với tính chất “Uống nƣớc nhớ nguồn’’,
một hiện tƣợng mở rộng của tục thờ cúng tổ tiên đã đƣợc ngƣời Việt mà đặc
biệt là giới đàn ông nông thôn và tầng lớp Nho sĩ cấp thấp hội tâm, hội lực
thúc đẩy cho phát triển đến đỉnh cao; để bùng nổ vào cuối thế kỷ XVII. Cái
chung của đình làng là nó trở về với bản thể của tâm hồn Việt, đi tìm lấy bản
sắc dân tộc không bị lệ thuộc vào bất kể một hệ thống tôn giáo du nhập nào từ
bên ngoài. Chính các ngôi đình ở Gia Lâm đã cơ bản trong giai đoạn này. Nó
đã phản ánh tính chất thờ Thành hoàng làng là một dạng ông tổ của cộng đồng
làng xã. Cũng từ điều kiện cơ bản ấy, đình làng ở Gia Lâm thế kỷ XVII –
XVIII đƣợc ra đời cũng có tính kế thừa, phát triển, cùng có những đặc điểm
chung và riêng so với những ngôi đình trƣớc đó và sau này trong hệ thống
đình làng Việt Nam mà đặc biệt ở vùng châu thổ Bắc Bộ về các mặt vị trí xây
dựng, quy mô kiến trúc, nghệ thuật điêu khắc trang trí.
118
3.2.2.1. Vị trí xây dựng
Có thể thấy, đình làng là công trình kiến trúc có quy mô lớn nhất của
cộng đồng làng xã đáp ứng nhiều chức năng văn hóa, tín ngƣỡng tôn giáo,
hành chính... cho nên những đình làng thế kỷ XVII - XVIII ở Gia Lâm cũng
nhƣ các đình làng cùng niên đại ở Việt Nam thƣờng quan tâm đến vị trí xây
dựng để đáp ứng các chức năng của nó.
Trƣớc hết là đình Phù Lƣu (Từ Sơn- Bắc Ninh), ngôi đình này đƣợc biết
đến có niên đại đầu thế kỷ XVII. Theo hai tác giả Phƣơng Anh và Thanh
Hƣơng, ngôi đình này dựng vào cuối thế kỷ XVI, đầu thế kỷ XVII [40, tr.40].
Đình Phù Lƣu đƣợc dựng khang trang, bề thế trong một không gian thoáng
đãng, nổi trội hơn so với xóm làng. Làng Phù Lƣu không có gò đồi nhƣng có
chợ Giầu cạnh đƣờng cái quan, nơi giao thƣơng buôn bán sầm uất, ngôi làng
này bên cạnh sông Tiêu Lƣơng xƣa [40, tr.34]. Chính bởi điều kiện địa lý
“Nhất cận thị nhị cận giang” ấy với kinh tế phát triển của một làng trọng võ
lẫn văn chƣơng nên đã sớm cho ra đời ngôi đình bề thế nhƣ vậy.
Một ngôi đình khác ở xứ Bắc cũng đƣợc biết đến dựng dƣới thời Mạc
(1576) và đƣợc sửa chữa năm 1692 [40, tr.27]. Đình Lỗ Hạnh dựng trên thế
đất lƣng hình con rùa, ngƣời Lỗ Hạnh đã huyền thoại hóa đất làng thành hình
ảnh con rùa khổng lồ, bốn chân bám vào bốn làng: Chằm, Chúng, Khoát,
Chùa, đầu nhìn quay về hƣớng tây trông ra các bãi đất có thế cờ, loa, nghiên,
bút, tạo ra cái mạch đẹp “văn vua làng Hạnh”. Chính ở vị trí lƣng rùa đất,
nhân dân đã dành để xây dựng công trình văn hóa chung cho mấy làng là đình
cả Lỗ Hạnh [40, tr.24].
Cũng ở xứ Bắc có ngôi đình Phù Lão đƣợc dựng năm 1688, tác giả Trịnh
Cao Tƣởng cho biết: “Ta có thể dễ dàng nhận thấy ngay đình Phù Lão đƣợc
đặt ở bậc thềm của một dòng sông cổ. Nơi sông uốn mình cong lại, tạo nên
mặt nƣớc phẳng lặng êm đềm. Tiếc rằng, trong trí nhớ của mọi ngƣời ở làng
không còn ai nhớ đƣợc tên gọi của con sông xƣa. Sự sụt lở của nhiều nơi trong
nền đình đã cho thấy ngƣời Phù Lão đã không dựng công trình của làng mình
119
trên đỉnh đồi laterit rắn chắc mà dựng ngay trên nền phù sa cổ phong hóa chƣa
nhiều. Chắc hẳn, khi xây dựng ngƣời thợ đã phải bỏ không biết bao công sức
tạo mặt bằng cho nền đình đƣợc vững vàng. Những ngƣời xây dựng thời hiện
tại chắc chẵn sẽ không có ai đặt công trình của mình ở chỗ ấy. Vì, chỉ cần lùi
lại hai chục mét nữa, lên cao một chút nữa trên nền đồi bị phong hóa họ sẽ có
một mặt bằng kiến trúc vững chắc. Hẳn không phải những ngƣời thợ xây dựng
đình Phù Lão không biết điều đó. Có lẽ, qui tắc chọn lựa đất dựng đình mà ta
quen thuộc trong vốn văn hóa cổ truyền của các dân tộc sống ở vùng Đông
Nam Á- đặt ngôi nhà của mình gần nơi nguồn nƣớc và mang biểu tƣợng của
yếu tố nƣớc – vùng thấp: con rùa, con trâu, con thuyền đã buộc họ mất thêm
công sức, tiền của vào việc xây dựng” [83, tr.17-18].
Một ngôi đình tiêu biểu ở xứ Đoài đƣợc dựng thời Mạc (thế kỷ XVI)
đƣợc Nguyễn Hồng Kiên đánh giá rất kỹ về vị trí xây dựng nhƣ sau: “Đình
làng Tây Đằng quay về hƣớng Nam – Nam Tây, hƣớng về núi Ba Vì, nơi ngự
của đức Thánh Tản Viên, Thành hoàng của làng Tây Đằng (và nhiều làng
khác nữa quanh chân núi này). Cách đây chƣa lâu lắm, khoảng những năm 60
của thế kỷ XX, ngôi đình này vẫn còn nằm ở rìa phía Nam của làng Tây Đằng
cổ. Trƣớc kia, theo lời các bậc cao niên của làng, phía trƣớc đình là một không
gian mở, rộng thoáng, với những cánh đồng lúa trải dài tới tận chân núi Ba Vì.
Cách đình khoảng 100 m có hàng cây gạo (bốn cây do bốn thôn trồng). Cho
đến những năm 1951 – 1952, hàng cây gạo cổ thụ trƣớc đình mới bị chặt hạ.
Có cụ già làng còn khẳng định rằng trƣớc năm 1966 chƣa hề có ngôi nhà nào
dám dựng ở phía trƣớc đình. Trải thời gian, với sự gia tăng dân số, làng Tây
Đằng đƣợc mở rộng về phía Nam, nhà cửa đƣợc xây dựng thêm nên đình làng
hiện nằm lọt trong khu dân cƣ. Dòng Tích Giang bây giờ chảy cách đình
khoảng 1 km về phía Nam. Không rõ vào thời gian nào, Tích Giang đã chuyển
dòng nhƣng cả trên bản đồ và trên thực tế vẫn có thể thấy rất rõ những ao, hồ
liên tiếp là dấu ấn của dòng chảy cổ. Nếu nối liền dải ao – hồ này thì cả chiếc
hồ ngay sát sân đình hiện nay (qua nhiều lần cải tạo, nắn lại, nên hiện có hình
120
khá vuông vắn) cùng thuộc về dòng chảy cổ ấy. Những khúc uốn của dòng
chảy cổ hiện vẫn còn lƣu lại dấu vết khá rõ ở cách khu vực đình khoảng 1 km
(về phía thƣợng nguồn) và khoảng 1,5 km (về phía hạ lƣu). Theo phong thủy,
nếu lấy đình làm điểm quy chiếu thì con sông chảy từ Phải/Dƣơng sang
Trái/Âm. Và thế đất đƣợc dựng đình làng Tây Đằng xƣa kia là khá đắc địa-
thế tụ thủy. Thực tế này đã chi phối cả hƣớng đình, một yếu tố rất đƣợc coi
trọng vì có ý nghĩa quyết định đến sự sinh tồn và sự phát triển của cả làng. Có
lẽ chính vì vậy mà đình làng Tây Đằng không quay hƣớng chính Nam mà hơi
chếch Tây, trông thẳng vào núi Tản” [48, tr.45-46].
Đến với cụm đình Tam Canh với 3 ngôi đình Hƣơng Canh, Ngọc Canh
và Tiên Canh đƣợc dựng cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII thuộc xã Tam
Canh, huyện Tam Đảo, Vĩnh Phú đƣợc biết vị trí xây dựng “Đình Hƣơng, đình
Tiên và đình Ngọc đƣợc dựng lên mặt bằng cao hơn ruộng, ngay ở trên lƣng
của “rồng”, nơi thế đất tụ linh, tụ phúc. Gò đất cao đƣợc dân địa phƣơng xem
là Dƣơng, yếu tố Dƣơng, còn sông Kẻ Cánh kia là Âm, yếu tố Âm. Thế đất
dựng đình ở đây là hòa hợp, cân bằng, giao hòa, giao cảm Âm – Dƣơng.
Không rõ khi chọn đất dựng đình xƣa, các thầy địa lý đã lý đã lý giải thế đất
này nhƣ vậy hay sau khi có đình rồi thì thuyết “phong thủy và “Âm Dƣơng”
mới đƣợc viện ra để giải thích nhƣ chúng ta thƣờng thấy khá phổ biến ở các
đình làng khác vùng châu thổ Bắc Bộ. Khi đến khu di tích này, quan sát một
vùng rộng lớn hơn, chúng ta đã bắt gặp ở đây cảnh non nƣớc giao hòa, cảnh bề
thế của ngôi đình, cảnh gần gũi của đình với những mái nhà ngói lô xô trong
khu dân cƣ, tạo khung cảnh hiền hòa, nhộn nhịp của vùng quê no đủ” [70,tr.9].
Đến với ngôi đình xứ Nghệ - đình Võ Liệt đƣợc dựng năm 1859 – 1860
ở bên bờ sông Lam thuộc huyện Thanh Chƣơng, Nghệ An là một ngôi đình
tiêu biểu xứ Nghệ dƣới thời Nguyễn. Theo Phan Xuân Thành, tác giả Luận án
“Đình Võ Liệt trong bối cảnh đình làng Nghệ An”, vị trí xây dựng đình Võ
Liệt: “ Đình Võ Liệt đƣợc dựng lên trên mặt bằng cao hơn ruộng lúa 1m trong
khuôn viên đẹp. Phía sau đình Võ Liệt cách 50 m có mộ ông Phan Đà tƣớng
121
giỏi thời Lê. Thế đất này là thế đất tụ linh, tụ phúc. Núi non thế đất đƣợc dân
địa phƣơng gọi là dƣơng. Sông Lam, khe Bạch Xà, gọi là âm, yếu tố âm. Thế
đất dựng đình ở đây là sự cân bằng giao hòa, giao cảm giữa âm và dƣơng”.
Trở về vị trí xây dựng những đình làng ở Gia Lâm thế kỷ XVII – XVIII
thƣờng dựng ở gần sông. Đình Xuân Dục (Yên Thƣờng), đình Thanh Am,
đình Tăng Phúc, đình Gia Quất (Thƣợng Thanh), Tình Quang (Giang Biên),
đình Công Đình, đình Tế Xuyên (Đình Xuyên), đình Ninh Giang (Ninh Hiệp),
đình Lệ Mật (Việt Hƣng) nằm gần sông Đuống (Thiên Đức), đình Trân Tảo
gần sông Cầu Giàng (Nghĩa Giang), đình Ngọc Động (Đa Tốn) nằm gần sông
Đào Xuyên. Từ đặc điểm này có thể thấy rằng yếu tố sông nƣớc đã chi phối sự
hình thành những ngôi đình này. Một là ảnh hƣởng của thuật phong thủy. Hai
là, dòng sông ngày xƣa là huyết mạch giao thông rất quan trọng để vận chuyển
nguyên vật liệu mà trong đó là vật liệu gỗ từ miền ngƣợc chuyển về. Ba là,
những làng gần sông nƣớc có vị trí thuận lợi để phát triển thƣơng mại gắn với
thƣơng thuyền “Nhất cận thị, nhị cận giang’’. Đặc biệt dòng Thiên Đức xƣa là
“cầu nối’’ từ Nhị Hà (sông Hồng/sông Cái) về sông Dâu. Sự dập dềnh sông
nƣớc ấy, sự buôn bán thông thƣơng ấy để giao lƣu, giao thoa đã tạo sự phát
triển kinh tế - xã hội để sớm cho sự ra đời những ngôi đình to lớn vào thế kỷ
XVII – XVIII.
Đình cũng đƣợc xây dựng trên thế đất thiêng đƣợc biểu trƣng trên các
con vật thiêng trên thế đất lƣng hình con rùa nhƣ đình Thƣợng Cát (Thƣợng
Thanh), đình Lỗ Hạnh (Bắc Giang); rồi trên đất cong uốn lƣợn hình con rồng
nhƣ đình Thổ Khối (Cự Khối), cụm đình Tam Canh (Vĩnh Phúc)...Hầu hết các
đình từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII đều đƣợc dựng ở không gian thoáng
đãng, cao hơn xung quanh, thƣờng không phải là vị trí trung tâm của làng,
phía trƣớc có đầm ao, xa hơn là cánh đồng cánh bãi để đình không bị che bởi
nhà dân. Vì vậy đất dựng đình vô cùng quan trọng. Nhiều ngƣời cho rằng đình
là trung tâm của làng. Sự thật không hẳn nhƣ thế. Vị trí của đình phụ thuộc
vào đất dựng đình. Mà đất dựng đình đƣợc chọn theo quan niệm “phong thủy”
122
trong tín ngƣỡng truyền thống. Nếu chọn sai thế đất thì ảnh hƣởng đến cả cộng
đồng nhƣ bị bệnh hay hỏa hoạn.
3.2.2.2.Quy mô kiến trúc
Đình làng ở Gia Lâm thế kỷ XVII – XVIII là sản phẩm của thời kỳ lịch
sử, là hiện tƣợng lịch sử do vậy cũng nhƣ các đình làng ở châu thổ Bắc Bộ nó
có sự hình thành, phát triển và suy thoái. Chính bởi vậy về quy mô kiến trúc,
mặt nào đó nó chịu ảnh hƣởng hay kế thừa của các ngôi đình trƣớc đó, mặt
khác do điều kiện kinh tế, số lƣợng dân đinh trong làng và cả đáp ứng chức
năng của nó trong cộng đồng làng xã nên tùy từng địa phƣơng thì quy mô kiến
trúc có đình to, đình nhỏ khác nhau. Bên cạnh đó, những ngôi đình ra đời
trƣớc, sau cũng có những quy mô khác nhau. Để có sự đánh giá, so sánh giữa
đình làng ở Gia Lâm thế kỷ XVII – XVIII với các ngôi đình qua các thời kỳ
thì trƣớc hết phải nghiên cứu một vài đình làng tiểu biểu đƣợc xây dựng từ thế
kỷ XVI, đầu thế kỷ XVII, những đình làng cùng thời, đình làng dƣới thời
Nguyễn ở châu thổ Bắc Bộ. Trong sự so sánh cũng chỉ dừng lại sự đánh giá
quy mô kiến trúc của tòa Đại đình là công trình kiến trúc khởi nguyên.
Trƣớc hết là đình Tây Đằng (Ba Vì). Đại đình là một tòa nhà lớn, có mặt
nền rộng 11,89 m (thuật ngữ kiến trúc cổ gọi là mặt cắt ngang), dài 23,18 m
(thuật ngữ kiến trúc cổ gọi là mặt cắt dọc). Đại đình Tây Đằng có 3 gian 2 chái
lớn [48, tr.48].
Bảng 3.3: Kích thƣớc mặt cắt dọc của đại đình đình Tây Đằng
Các đơn vị không gian Số đo
Gian giữa 4,10 m
Gian bên bên phải 4,05 m
Gian bên bên trái 4,03 m
Chái bên phải 3,25 m
Chái bên trái 3,30 m
Hiên hồi bên phải 1,97 m
Hiên hồi bên trái 1,82 m
123
Đình Trân Tảo (Phú Thị) cũng đƣợc xây dựng 3 gian 2 chái, là một ngôi
đình có quy mô nhỏ nhất so với những đình làng ở Gia Lâm thế kỷ XVII –
XVIII. Có thể so sánh số liệu sau:
Bảng 3.4: Kích thƣớc cắt dọc của đại đình đình Trân Tảo
Các đơn vị không gian Số đo
Gian giữa 4,63m
Gian bên bên phải cạnh gian giữa 4,25m
Gian bên bên trái cạnh gian giữa 4,25m
Chái bên phải 4,015m
Chái bên trái 4,015m
Chƣa tính hiên hồi
Có thể nói so với đình Trân Tảo thì qui mô kiến trúc 2 ngôi đình này có
kích thƣớc tƣơng đƣơng nhau và cũng đƣợc xây dựng 3 gian 2 chái. Từ đó
thấy rằng đình Tây Đằng có kiến trúc không lớn.
Chuyển sang ngôi đình Lỗ Hạnh (xứ Bắc) xây dựng dƣới thời Mạc
(1576) và đƣợc sửa chữa năm 1692 [40, tr.27]. Ngày nay đình đƣợc bố cục
hình chữ “công” nhƣng rất dễ nhận ra hậu cung mới đƣợc dựng thêm, chắp nối
với đại đình một cách gƣợng gạo. Đình Lỗ Hạnh không có tả vu, hữu vu (mới
làm về sau cũng đã bị phá). Rất dễ hiểu đƣợc đình Lỗ Hạnh vốn xƣa dựng
theo kiểu chữ “nhất” chỉ có một dãy đại đình duy nhất nằm ngang nhƣ những
đình cùng loạt với nó, mãi sau, khi tế lễ phát triển mới sửa cho thêm hậu cung
vào.
Đình Lỗ Hạnh chạy dài 5 gian 2 chái, lớn nhỏ là 7 gian, cả thảy có 8 vì
kèo, mỗi vì có 6 hàng chân cột, cộng tất cả là 48 cột. Trên một số cột, ở đoạn
gần chân có lõ mộng lắp đầm sàn. Nhân dân còn nhớ sàn mới bị bóc. Công
trình văn hóa này của làng Hạnh vào loại lớn, nền đình dài 23,5 m, rộng 12,3
m, chiều cao tính đến xà nóc là 6,6 m, từ nền đến diềm mái là 2,1 m. Ngày nay
sân đình đƣợc tôn cao lên làm sân phơi hợp tác, nhƣng trƣớc đây, nền đình
vƣợt lên trên sân là 0,7 m. Lòng đình rộng 12,3 m, gián cách giữa các cột
124
trong một vì nhƣ sau: hai cột cái cách nhau 4,5 m, cột cái cách cột quân 2,5 m,
cột quân cách cột hiên đình tới 1,7 m. Các cột ấy khá to cao: cột cái chu vi
1,42 m, cao 4, 61 m, cột quân chu vi 1,08 m, cao 2,7 m (chiều cao kể cả đấu).
Tám vì kèo trong đình kết cấu không giống nhau. Các vì gian giữa đều theo lối
chồng rƣờng -giá chiêng, các vì gian bên kiểu kẻ truyền- giá chiêng [40, tr.25].
Có thể thấy rằng, khởi đầu đình đƣợc dựng có quy mô không lớn nhƣng hơn
100 năm sau, tức là vào năm 1692 đình đƣợc tu sửa và mở rộng quy mô để trở
thành ngôi đình “Đệ nhất Kinh Bắc”.
Đình Phù Lƣu (Từ Sơn – Bắc Ninh) là ngôi đình cách không xa Gia
Lâm. Đây là ngôi đình có niên đại cuối thế kỷ XVI, đầu thế kỷ XVII đƣợc tu
sửa nhiều lần, nhƣng đáng lƣu ý hơn cả là lần tu sửa lớn vào năm 1798 và
năm 1933.
Về qui mô kiến trúc, đình Phù Lƣu có quy mô bề thế với toà đại đình khá đồ
sộ với 5 gian 2 chái. Tất cả 70 cột lớn nhỏ đứng trên tảng đá xanh hình trụ
tròn theo kiểu đôn ngồi vững chãi, mái lợp ngói mũi hài, bờ dải hoa chanh, 4
đầu đao cong vút thanh thoát. Toàn bộ công trình kiến trúc đƣợc dựng trên nền bó đá tảng xanh có diện tích 426,7m2 và cao hơn mặt sân 0,25m. Chiều dài 31,1m, chiều rộng 12,3m.
Bảng 3.5: Kích thƣớc cắt dọc của đại đình đình Phù Lƣu
Các đơn vị không gian Số đo
Gian giữa 4,00m
Gian bên bên phải cạnh gian giữa 3,65m
Gian bên bên trái cạnh gian giữa 3,65m
Gian bên kế tiếp bên phải 3,65m
Gian bên kế tiếp bên trái 3,65m
Chái bên phải 5,15m
Chái bên trái 5,15m
Hiên hồi bên phải 1,10m
Hiên hồi bên trái 1,10m
125
So với đình làng Gia Lâm ở Gia Lâm thế kỷ XVII - XVII thì đình Phù
Lƣu có qui mô lớn hơn cả (mặt cắt dọc là 31,10m), nhƣng mặt cắt ngang lại
nhỏ hơn so với đình Xuân Dục (Gian giữa đình Phù Lƣu là: 3,60m; đình Xuân
Dục là: 4,25m). Nhìn chung với những ngôi đình lớn nhƣ vậy nó là sản phẩm
của một cộng đồng dân cƣ có kinh tế khá phát triển ở đƣờng thời.
Từ những đình làng tiêu biểu nêu trên, có thể thấy rằng đình làng xây
dựng thời Mạc có quy mô kiến trúc không lớn nhƣ đình Tây Đằng (xứ Đoài),
đình Lỗ Hạnh (xứ Kinh Bắc) là một vài trƣờng hợp điển hình. Chỉ bƣớc sang
thế kỷ XVII, với sự nở rộ của nó ở cuối thế kỷ XVII, đầu XVIII thì những
đình làng đƣợc ra đời với quy mô kiến trúc lớn mà trong đó phải kể đến hệ
thống đình làng ở Bắc Ninh, Bắc Giang và trong đó không thể không kể đến
những đình làng ở Gia Lâm (trƣớc thuộc xứ Bắc). Đặc biệt, ngay từ đầu thế kỷ
XVII đã xuất hiện những ngôi đình to lớn, đồ sộ nhƣ đình Xuân Dục (Yên
Thƣờng), đình Phù Lƣu (Từ Sơn – Bắc Ninh).
Về tầm cao của kiến trúc đình, có thể thấy rằng đình làng thế kỷ XVII –
XVIII ở Gia Lâm có bộ mái rộng, thân đình thấp với bốn góc mái đao uốn
cong. Các khoảng hoành đƣợc phân chia không thống nhất, có đình chia
khoảng hoành kiểu “thƣợng tam, hạ tứ”, có đình chìa kiểu “thƣợng tứ, hạ
ngũ”. Đây là đặc điểm của từng đình, từng địa phƣơng, không chỉ ở Gia Lâm.
Tuy nhiên bởi xuất phát từ dân gian nên ngoài cái chung cơ bản ấy, đình
làng còn có cái riêng do lệ thuộc vào hoàn cảnh kinh tế và nhận thức của từng
làng xã nên đã xây dựng đình to, đình nhỏ khác nhau. Những làng gần với
sông hay thuận tiện với việc tiếp cận với đƣờng sông, đƣờng bộ và thị trấn là
điều kiện để phát triển kinh tế và cũng thuận tiện cho việc vận chuyển nguyên
vật liệu để xây dựng đình làng. Tuy nhiên bởi xuất phát từ dân gian nên giá trị
biểu tƣợng chung vẫn chƣa vƣợt ra ngoài tƣ duy nông nghiệp. Bởi các làng
thuần nông không đủ kinh phí cho việc xây dựng đình làng to lớn nhƣ vậy.
Một đặc điểm chung, ta thấy là Thành hoàng làng không phải là những
đấng cao viễn mà nhƣ là một ngƣời “cha’’ tinh thần chung của cộng đồng, dù
126
cho có sự tham gia của Nho sĩ và tầng lớp chính quyền để “Ngài’’ trở thành
ông vua tinh thần của làng xã. Hiện tƣợng này vừa phù hợp với tinh thần đề
cao của quần chúng và một phần Nho sĩ và phù hợp với nhu cầu hiện diện của
nhà vua trong chính thể quân chủ chuyên chế. Do vậy “Ngài’’ đƣợc ban nhiều
sắc phong của triều đình. Với tƣ cách ấy “Ngài’’ có tính chất hai mang, vừa
đại diện cho dân để quan hệ với trời đất, vừa nhƣ đại diện cho tầng lớp trên để
giữ sự ổn định cho chính thể đƣơng thời. Song, ngƣời Việt chƣa đẩy “Ngài’’
lên thành đấng cao viễn ở tầng trời mà nhìn xuống để ban ân huệ nhƣ ở lẽ
thƣờng của các tôn giáo. “Ngài’’ gần gũi và chƣa xa lìa thế gian, còn là biểu
hiện một tƣ tƣởng dung hòa của ngƣời Việt nên kiến trúc đình liên quan đến
“Ngài’’ dù có to nhất trong kiến trúc tôn giáo, tín ngƣỡng ở nông thôn xƣa thì
nó cũng chƣa có xu hƣớng vƣơn lên chiều cao mà trƣớc sự mênh mông của
đồng ruộng, sân đình mà ta vẫn cảm nhận nhƣ bị hút xuống để gần đất hơn
trời, dù cho các góc đao của mái đình thế kỷ XVII - XVIII cong lên nhƣ muốn
cõng cả ngôi đình bay bổng (một cụ thể hiển hiện ở đình Chu Quyến) có 4 đầu
kẻ góc đao đình đã đƣợc chạm thành phƣợng để tạo sự bay lên cho kiến trúc
này. Đình làng Việt, nhất là ở cuối thế kỷ XVII, đầu XVIII là những sản phẩm
riêng Việt, hầu nhƣ không có bất kể ở trên không gian phi Việt nào, dù cho
đình có thể rất sớm nhƣng đình làng là sản phẩm của xã hội, lịch sử, mang tâm
hồn, ƣớc vọng Việt.
Một điểm khác là theo thời gian khởi dựng: khởi đầu đình làng không có
tƣờng bao mà chủ yếu có gác thờ lửng, hậu cung kiểu chuôi vồ còn ít thấy
đƣợc xuất hiện ở thế kỷ XVII - XVIII này. Giai đoạn phát triển của đình làng
dần qua đi theo sự kiêm tính ruộng đất của tầng lớp địa chủ khiến kinh tế của
cộng đồng làng xã bị co hẹp khiến nhiều đình làng đƣợc xây dựng phải cần có
sự hỗ trợ của tƣ nhân. Gần với Gia Lâm là tại Từ Sơn có đình Đình Bảng
(1736) với sự tham gia của nhà buôn kiêm địa chủ Nguyễn Thạc Lƣợng, rồi
đình Đồng Kỵ cũng tƣơng tự. Tuy nhiên những biểu tƣợng sâu xa gắn với ƣớc
vọng hồn nhiên của nông nghiệp đã bị hạn chế rất nhiều mà chỉ tập trung đề
127
cao những biểu tƣợng nhƣ đƣợc quy định và từ đấy ngôi đình đã ít nhiều mang
tính chất của ngôi đền nặng về tinh thần thờ cúng mà sinh hoạt cộng đồng bị
hạn chế dần. Mà cụ thể những Hậu cung kiểu chuôi vồ nảy sinh, việc tế lễ kiểu
“Hƣơng đảng tiểu triều đình’’ dần định hình và phát triển. Ý thức khác biệt ấy
còn ảnh hƣởng đến cả cấu trúc nhƣ bƣng kín để tạo sự thâm nghiêm hoặc nảy
sinh kiến trúc đình dạng “Tƣờng hồi bít đốc’’ và đâu còn “Qua đình ngả nón
trông đình, đình bao nhiêu tuổi thƣơng mình bấy nhiêu’’. Một kiến trúc lớn bề
thế uy nghi riêng Việt dần bị tàn phai theo dòng chảy của lịch sử.
3.2.2.3.Nghệ thuật điêu khắc trang trí
Nhƣ chúng ta đƣợc biết, hiện nay chƣa phát hiện đƣợc ngôi đình nào
trƣớc thế kỷ XVI, mà chỉ tìm thấy khoảng 10 ngôi đình dƣới thời Mạc. Chính
bởi vậy việc nghiên cứu nghệ thuật điêu khắc trang trí đình làng ở Gia Lâm
thế kỷ XVII - XVIII chỉ có thể so sánh với một vài ngôi đình tiêu biểu dƣới
thời Mạc trở về sau này.
Đầu tiên phải kể đến đình làng Thụy Phiêu thuộc thôn Thụy Phiêu xã
Thuỵ An (Ba Vì, Hà Nội). Ngôi đình này đƣợc xác định tu sửa vào năm Đại
Chính thứ 2 (1531) và sau đó đƣợc tu sửa nhỏ nhiều lần vào các thế kỷ XVII,
XVIII, XIX và gần đây nhất vào thập niên đầu thế kỷ XXI. Nghệ thuật điêu
khắc trên kiến trúc đình đƣợc thể hiện trên khắp các cấu kiện kiến trúc. Các
tác phẩm điêu khắc ở đây đƣợc tạo tác tỉ mỉ, sinh động và mang đậm dấu ấn
của thời đại. Có niên đại xƣa nhất ở đây là các bức chạm trên các tấm ván
bƣng giữa cột trốn trên các bộ vì nóc của tòa Đại đình, và các đầu dƣ chạm
lộng ở các gian bên. Những bức chạm này đƣợc làm theo phong cách chạm
lộng, chạm bong với các đề tài: rồng, lân (Bản ảnh số 118), tiên cƣỡi rồng
(Bản ảnh số 120) , hoa cúc, lá đề...Niên đại tạo tác của các tác phẩm này có
thể đƣợc làm vào lần tu sửa đình năm 1531. Tiếp theo là các bức chạm lộng,
chạm nổi trên thân bẩy hiên, trên thân cột và xà sàn gác lửng cung cấm theo đề
tài “Lƣỡng long chầu nguyệt”, mả táng hàm rồng, lân, hổ, lợn... mang nghệ
thuật điêu khắc thế kỷ XVII. Các đầu dƣ ở đầu 4 cột cái chính của đình là các
128
đầu rồng đồ sộ, miệng rộng, mũi hếch, trán dô, râu tóc bờm bay xuôi ra sau
từng lớp (Bản ảnh số 119)...theo phong cách điêu khắc thế kỷ XVIII, XIX của
những lần tu sửa dƣới thời Nguyễn. Có thể nhận thấy rằng, ngay ở đình Thụy
Phiêu đã có những đề tài trang trí với nhiều phong cách nghệ thuật trải dài từ
thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX. Nghệ thuật điêu khắc trang trí ở đình Xuân Dục
có những nét tƣơng đồng với ngôi đình này và dƣờng nhƣ nó đƣợc kế thừa của
đình thời Mạc, nhất là hình tƣợng điêu khắc rồng trên Cánh gà, đầu dƣ, ván
gió hậu.
Tiếp theo là đình Lỗ Hạnh (Bắc Giang), về niên đại xây dựng, vị trí xây
dựng và quy mô kiến trúc đã đƣợc đề cập ở phần trên. Đồ án trang trí tập trung
ở 4 vì nóc, 8 bức cốn và hệ thống ván lá gió ở xà thƣợng, xà hạ với các đề tài
rồng, phƣợng, hoa lá, mây, thú, cá hóa rồng. Hình ngƣời đƣợc chạm khắc trên
đình Lỗ Hạnh không nhiều lắm, và thƣờng đơn lẻ chƣa thành cảnh sinh hoạt
hay các minh họa tích truyện. Ngoài các vị tiên nữ cƣỡi rồng (Bản ảnh số
122), phƣợng (Bản ảnh số 121), lại có thiếu nữ gảy đàn đáy. Hình chim
phƣợng chạm rất to, đuôi xòe và đứng lẫn trong các đám mây, cổ phƣợng
ngắn, đầu to, mỏ nhọn, hình hổ nằm, hình hƣơu đứng trong mây, hoặc cƣỡi
trên lƣng là một tiên nữ đang đánh đàn. Hình tƣợng rồng trên trang trí kiến
trúc khá đa dạng. Nếu ở gian giữa rồng thƣờng đƣợc thể hiện khối tròn chạy
thẳng ra phía trƣớc thì gian bên rồng ở đầu dƣ đều quay đầu vào gian giữa.
Hiện tƣợng này chỉ tồn tại tới hết giai đoạn của phong cách nghệ thuật Mạc.
Những đầu dƣ dạng này cũng thấy xuất hiện ở đầu dƣ gian chái đình Thanh
Am, đình Xuân Dục. Một kiểu tạo hình khác mang tính chất khởi đầu đó là
hình đôi cá hóa rồng với toàn thân và đuôi của cá còn đầu đã đƣợc chuyển hóa
thành rồng cùng chầu vào bông cúc mãn khai. Hiện tƣợng này là dấu ấn dân
gian trong nghệ thuật tạo hình. Ở Gia Lâm, hình thức cá hóa rồng, duy nhất
còn nhìn thấy ở ván gió hậu đình Xuân Dục. Ngoài ra trên một số cấu kiện còn
có hoa văn mây lửa, hoa cúc, với nhiều bố cục sống động. Các bức chạm
ngƣời cƣỡi ngựa, đấu võ, hoa sen, rồng, chim, tiên cƣỡi rồng là những tác
129
phẩm nghệ thuật điêu khắc có tiếng. Tiêu biểu là bức chạm “ngƣời chơi đàn
đáy” đƣợc chạm trên khuôn gỗ hình chữ nhật (dài 36 cm, rộng 24 cm). Với
nghệ thuật tả thực, kết hợp với kỹ thuật chạm nổi, vê tròn, thể hiện trên chất
liệu gỗ có màu sáng ngà, bức chạm diễn tả một cô gái đang cầm đàn để chéo
trƣớc ngực, ngồi tựa lƣng vào chú hƣơu đang trong tƣ thế quỳ phủ phục.
Trong sự so sánh nghệ thuật điêu khắc trang trí đình làng ở Gia Lâm thế
kỷ XVII – XVIII thì không thể không kể đến nghệ thuật điêu khắc trang trí
đình Tây Đằng (Ba Vì, Hà Nội). Bởi lẽ các mảng chạm trang trí trên cấu kiện
kiến trúc đình Tây Đằng dày, ít bỏ sót những chỗ có thể chạm đƣợc, tính đồng
hiện đã thể hiện khá rõ giữa các đề tài. Các đề tài đó tập trung vào ít nhất vào
ba loại hình cơ bản sau: linh vật, hình tƣợng con ngƣời, biểu tƣợng tự nhiên và
cây cỏ đƣợc “vũ trụ” hóa. Đề tài linh vật phổ biến nhất là rồng (Bản ảnh số
123), lân, hƣơu, phƣợng, voi, ngựa... Hình tƣợng rồng có mặt ở nhiều chỗ nhƣ
tại đầu dƣ, các đấu kê góc và bẩy, trên các con đệm dƣới xà (cánh gà) hoặc
làm vật cƣỡi cho các thiên thần (đặt trên đấu ba chạc). Ngƣời ta có thể thấy
rồng đƣợc chạm tròn. Trong bố cục ở đầu dƣ, chúng thƣờng dƣới hình thức
chạm lộng, nhất là đối với các đao. Ở các đầu dƣ gian bên, chúng thƣờng bò ra
rồi quay đầu nhìn vào gian giữa. Ở những cánh gà, rồng thƣờng đƣợc diễn ra
dƣới dạng bò ngang, đầu nhìn thẳng, trong nhiều cách thức khác nhau, có con
thân mang dạng cá đuôi mập và lƣợn nhẹ, có con đuôi xoắn. Nền của rồng
làng những vân xoắn lớn ken nhau. Hình tƣợng lân đƣợc thể hiện chủ yếu ở
đầu ngoài của bẩy, dƣới dạng độc lân. Chủ yếu chúng gần gũi với loại thú bốn
chân, không xa cách bao nhiêu với những con sƣ tử trong nghệ thuật Trung
Hoa. Hình tƣợng chim phƣợng đƣợc thể hiện khá ít, hiện chỉ gặp một đôi
trong tƣ thế chầu nhau trong ván lá đề của vì nóc bên phải. Cả hai đặt cân
xứng, cánh mở rộng, mỏ diều, tóc và lông cổ kết bốn cụm chải bay lƣợn nhẹ ra
phía sau. Nền của phƣợng là các cụm vân xoắn nối nhau. Điểm xuyết tại ván
gió còn có cảnh voi đi cầy (voi đứng có tính chất tƣợng trƣng, phía sau có
chiếc cầy), voi lồng với chân bƣơn ra phía trƣớc và sau, đầu quay lại, vòi vểnh
130
lên và nhƣ có nụ cƣời. Tại đình Tây Đằng cũng thoáng hiện ba con hƣơu,
trong tƣ thế chạy hay tƣ thế nằm nghỉ lẫn trong một vân xoắn...Hình tƣợng
con ngƣời đƣợc thể hiện dƣới hai dạng: tƣợng tròn và phù điêu. Các tƣợng
tròn phần lớn là các vũ nữ đƣợc gắn vào thân rồng dƣới dạng mộng ngoàm.
Phù điêu về chủ đề con ngƣời đƣợc thể hiện với những nét mộc mạc, nhƣng có
khả năng khái quát cao, tạo nên cái thần của đề tài (Bản sảnh số 124). Đó là
cảnh cƣỡi đầu rồng, chèo thuyền, đấu hổ, trẻ con, gánh con, và các hoạt thể về
tình yêu, hội hè (chèo thuyền, xiếc...). Trên bộ vì nóc bên trái, tại một số cột
trốn đã tạc nổi một ngƣời đàn bà ngồi xổm, dang rộng chân, mặc váy, hai tay
nắm lấy cổ và đuôi rắn. Hay cảnh tình yêu khác lại diễn ra giữa một ông già
(có nếp nhăn trên trán) và ngƣời phụ nữ trẻ, ông ta cầm lƣợc đang gạ trải tóc...
Cảnh này rất đáng quan tâm: với dải tóc dài kéo ra trƣớc mặt của ngƣời phụ
nữ, một hình thức nhƣ mở đầu cho một dạng tóc của thời đỉnh cao nghệ thuật
đình làng ở cuối thế kỷ XVII. Rồi hai bên có hai thiên thần có cánh nam và nữ
cũng cầm bông sen giơ chéo vào giữa, nửa dƣới của thiên thần là đuôi rồng.
Đây là hình ảnh vô cùng hiếm trong tạo hình Việt, khiến chúng ta khó tìm
đƣợc nguồn gốc. Một đề tài khác là cảnh làm xiếc với hai ngƣời đàn ông đội
mũ bì biện, mặc váy ngắn, đứng hai bên một ngƣời một ngƣời nằm giơ chân
đỡ đứa trẻ... Trong một cảnh chèo thuyền, ở con đệm dƣới rồng (ngay ở cửa
thờ) cũng có hình đàn ông mặc váy. Hiện tƣợng này đã gặp ở chùa Cói (Vĩnh
Phú) một di tích cùng thời, và sau đó, cuối thế kỷ XVII lại thấy thể hiện tại
đình Liên Hiệp (Hà Nội). Hình tƣợng ngƣời đội mũ bì biện cũng đƣợc xuất
hiện ở cốn gian giữa đình Tình Quang (Giang Biên), tuy nhiên ở đình Tình
Quang là hai chú bé đang trong động tác vui đùa ...Đàn ông mặc váy chủ yếu
chỉ có ở tầng lớp dƣới và những ngƣời liên quan tới nghệ thuật biểu diễn. Dù
sao chúng vẫn phản ánh về một hình thức trang phục còn tồn tại ở đƣơng thời,
nhƣ bắt nguồn từ gốc nông nghiệp phƣơng Nam. Trong tạo hình của đình, hoa
cỏ nổi bật nhất là cúc, ngoài ra điểm xuyết chỉ có vài cây liên quan tới hoạt
cảnh, có thể kể tới nhƣ: những cây tre với măng trong cảnh ngồi khó cho
131
măng mọc, mà dáng dấp cành lá vƣợt ra ngoài thực tế nhiều, rồi một cây tre
lớn xen giữa đôi trai gái mang tính chất linh thiêng, tại đƣờng diềm chỉ còn
hình lá hoặc cánh sen cách điệu vuông mà thôi. Trở lại với hoa cúc, chúng
xuất hiện ở mọi chỗ, chủ yếu là những bông cúc mãn khai nhìn thẳng dƣới
dạng trọn vẹn hoặc một phần, có lá kèm (nhƣ ở đầu cột trốn hai bên phƣợng)
hoặc không (ken giữa vân xoắn, giữa các đề tài khác, đầu rƣờng...). Riêng lá
cúc, đƣợc xuất hiện ở rất nhiều chỗ, trong nhiều dạng và phần nhiều nhìn
nghiêng. Biểu tƣợng gắn với lực lƣợng tự nhiên trong chạm khắc của đình nổi
lên chỉ có ba dạng: đao dài mảnh lƣợn sóng nhẹ gắn với các linh vật, loại đao
mác xuất hiện từ một vân xoắn, chúng nhƣ tiền đề của loại đao mác phổ biến
dƣới thế kỷ XVII – XVIII. Nổi lên hơn cả là dạng vân xoắn cuộn tròn đƣợc
thể hiện khắp nơi, nhất là trên mặt bẩy, đầu rƣờng ở vì nóc, cốn... chắc chắn
đây là một đề tài trang trí chính, vì chúng khá lớn và chiếm vị trí trung tâm,
mọi trang trí khác ở hai bên (trừ hoa cúc, cảnh nhổ cây, lân...) chỉ có tính chất
phụ trợ. Ở trên cao, vân xoắn ít có chi tiết phụ, song ở thấp chúng đƣợc tạo nổi
với nhiều đƣờng viền điểm lá cúc, nhiều khi tại sống vân là một hàng hạt, bao
quanh bằng hàng vân xoắn nhỏ...Đình Tây Đằng mang tƣ cách mở đầu cho
một truyền thống mới trong một bƣớc đi mới của xã hội và lịch sử kiến trúc
dân tộc.
Một ngôi đình khác ở xứ Đoài, đó là đình Thanh Lũng thuộc xã Tiên
Phong, huyện Ba Vì (Hà Nội). Đây là ngôi đình ra đời vào thế kỷ XVI và
đƣợc trùng tu nhiều lần ở các thời kỳ sau, nên điêu khắc trang trí trong kiến
trúc đình Thanh Lũng mang dấu ấn nghệ thuật điêu khắc của nhiều giai đoạn
khác nhau. Mang niên đại tạo tác xƣa nhất là các đấu đỡ hình trụ, với các
mảng chạm lộng theo đề tài “độc long” trên thân đấu. Kế tiếp là các mảng
chạm khắc, trang trí tồn tại khá phong phú, đậm đặc trên toàn bộ hệ khung.
Các đầu dƣ, con kìm trên các bộ vì đƣợc chạm hình đầu rồng theo kỹ thuật
chạm bong, chạm lộng của thế kỷ XVI – XVII, Trên các rƣờng, cốn, kẻ, bẩy
hay ván bƣng là các bức chạm theo phong cách chạm lộng, chạm nổi, chạm
132
bong kênh, với các đề tài “độc long”, lân, hổ hoặc các cụm mây cách điệu,
mây lửa hoặc các quai lá hình đao mác, mang đặc trƣng của điêu khắc gỗ của
giai đoạn này. Một mảng chạm khắc do hƣ hỏng mất mát, đã đƣợc tu sửa thay
thế trong lần tu sửa gần đây, với các đề tài hoa, dây lá cách điệu, đƣợc làm với
kỹ thuật chạm khắc đơn giản, đƣờng nét chạm lông và hơi thô. Nhƣ vậy đình
Thanh Lũng là một ngôi đình lớn của “Trung tâm đình làng” vùng xứ Đoài nói
riêng, trong cả nƣớc nói chung. Trong kiến trúc và quy mô này, có đủ mọi giá
trị tiêu biểu của một ngôi đình làng Việt. Kỹ thuật chạm khắc ở đình làng
Xuân Dục kế thừa rất gần gũi với đình Thanh Lũng này, đặc biệt thể hiện ở
Cánh gà, ván gió hậu (Bản ảnh số 127).
Trở về với ngôi đình ngay gần Gia Lâm, đó là đình Dục Tú (Đông Anh,
Hà Nội). Ngôi đình này đƣợc khởi dựng vào thời điểm nào đến nay chúng ta
vẫn chƣa xác định đƣợc một cách chính xác. Di tích tồn tại với kiến trúc chủ
yếu mang phong cách kiến trúc nghệ thuật thời Lê trung hƣng thế kỷ XVII,
đƣợc tôn tạo, bổ sung một số đơn nguyên kiến trúc ở thời Nguyễn. Hiện tƣợng
bổ sung các đơn nguyên kiến trúc thì hầu nhƣ đình nào cũng vậy, các ngôi
đình ở Gia Lâm thế kỷ XVII – XVIII cũng không nằm ra ngoài hiện tƣợng đó.
Trở lại với đình Dục Tú, qua khảo sát, trên cấu kiện kiến trúc ngƣời thợ dân
gian đã bộc lộ sự linh hoạt trong cách thể hiện. Chính yếu tố này đã làm cho
các đề tài trang trí tuy không nhiều song không đơn điệu mà phối hợp với
nhau nối vì cốn này đến vì cốn khác, từ tiền tế đến đại đình tạo nên tầng tầng
lớp lớp (Bản ảnh số 131). Trên các mảng chạm khắc có hình con chim phƣợng
lớn ở trung tâm đang trong thế múa, hai cánh xòe rộng mà mỗi lông cánh đƣợc
tỉa từng chiếc mạnh mẽ, dứt khoát, khiến cho thế phƣợng rất khỏe. Dƣới
phƣợng lại là rùa cuốn thủy đội lá sen mà các sóng nƣớc là những vân lá cúc
dây... Đây là một hình tƣợng phƣợng còn chịu nhiều ảnh hƣởng của thế kỷ
XVI, XVII, còn vân xoắn, các lá cách điệu là biểu hiện của sự cầu nguồn
nƣớc, kế thừa những quan niệm cổ truyền của cƣ dân nông nghiệp. Trên
những cốn chính, trung tâm là rồng, biểu tƣợng của bầu trời, rồng uốn lƣợn
133
làm nổi lên sự vần vũ của các cụm mây. Từ miệng rồng phun ra nguồn nƣớc
và trên dòng điểm xuyết hình cá chép đang bơi ngƣợc dòng... Mỗi linh vật có
dáng vẻ, hình thức thật đa dạng làm cho các mảng chạm đạt giá trị nghệ thuật
cao, tiêu biểu cho nghệ thuật điêu khắc thời Nguyễn. Trải qua nhiều biến có
thăng trầm của lịch sử, đình Dục Tú vẫn tồn tại và lƣu giữ cho hậu thế những
giá trị văn hóa, nghệ thuật, giá trị lịch sử từ quy mô bề thế của kiến trúc đến
các kết cấu, các mảng chạm khắc.
Để có sự so sánh phong phú hơn, cũng phải điểm qua một ngôi đình
đƣợc dựng vào thế kỷ XVIII, đó là đình Dƣ Hàng Kênh (xƣa kia là xã Dƣ
Hàng), huyện An Hải, thành phố Hải Phòng. Ngôi đình này đƣợc cho là sao
nguyên bản mẫu của đình Hàng Kênh, chỉ khác đôi nét về đƣờng nét chạm
khắc và đề tài trang trí, đƣợc dựng năm Mậu Tuất (1718) và trùng tu năm Tân
Hợi (1851). Về mặt điêu khắc, bên ngoài hiên, ngoại trừ những đầu bẩy chạm
rồng mây, trên các tấm ván dƣới chấn song có tới hàng chục mảng chạm hình
rồng mây, hoa lá cách điệu, hƣơu nai, cúc, long mã, phƣợng hàm thƣ, rùa cõng
hà đồ... Trong gần 150 mảng điêu khắc, chủ đề rồng chiếm đại đa số, theo
thống kê chƣa đầy đủ có khoảng 400 con rồng, chỉ riêng tòa Tiền tế đã có hơn
30 ổ rồng gồm rồng mẹ và rồng con quấn quýt giữa hoa cỏ và muông thú rất
đa dạng và phong phú... Trong trang trí kiến trúc, quá nửa mảng chạm đƣợc
chạm theo lối bong kênh, đặc biệt để tăng diện tích trang trí làm đẹp cho kiến
trúc ở vị trí dƣới xà thƣợng giáp với cột cái ngƣời xƣa cho dựng bộ phận cánh
gà đƣợc tạo tác bởi đấu con sơn nhả dần từ trên xuống dƣới, mô típ trang trí
đƣợc sử dụng nhiều nhất là hình rồng, và đƣợc bao phủ bởi hệ thống đao mác
(Bản ảnh số 130)... Mô típ trang trí hình rồng ở đình Dƣ Hàng vừa gắn liền với
hình ảnh với vua, vừa gần gũi với nhân dân với các đề tài nhƣ: Rồng vuốt râu,
hoa lá hóa rồng, lƣỡng long chầu nguyệt, tứ linh...Nhìn chung, rồng ở đình Dƣ
Hàng thân nhƣ bị chìm trong đao mác, đầu rồng mẹ thƣờng là trung tâm của
các bức chạm, xung quanh là rồng con...Đình Dƣ Hàng là một trong những
công trình kiến trúc nghệ thuật có quy mô đồ sộ của thành phố Hải Phòng. Nơi
134
đây còn lƣu giữ nhiều mảng chạm, trang trí kiến trúc nghệ thuật có giá trị. Di
tích này là gạch nối quan trọng trong việc nghiên cứu lịch sử, mỹ thuật cổ
truyền của giai đoạn chuyển tiếp giữa hai triều đại Lê, Nguyễn. Đây cũng là
một trong những đình làng tiêu biểu làm cơ sở cho việc nghiên cứu, so sánh
nghệ thuật điêu khắc trang trí của đình làng ở Gia Lâm thế kỷ XVII – XVIII.
Những đình làng thế kỷ XVII – XVIII ở Gia Lâm nói riêng và đình làng
trƣớc đó và đồng đại ở Việt Nam nói chung đƣợc chạm khắc nhiều đề tài
mang tính biểu tƣợng phản ánh ƣớc vọng muôn đời muôn thuở của ngƣời
nông dân Việt. Đó là ƣớc vọng đƣợc mùa trên nền tảng trí tuệ.
Hiện tƣợng cánh gà và ván lá gió có thể thấy sớm nhất đƣợc thể hiện ở
đình Tây Đằng (Hà Nội), rồi ở đình Thanh Lũng (cách đình Tây Đằng 2 km),
đó là hai di tích có cùng niên đại vào nửa cuối thế kỷ XVI. Cánh gà của đình
Xuân Dục phần nào nhƣ nối tiếp kiểu cánh gà ở đình Thanh Lũng và nhƣ cầu
nối với những cánh gà của một số kiến trúc có niên đại vào cuối thế kỷ XVII
mà điển hình ở đình Công Đình và đầu thế kỷ XVIII nhƣ ở Dƣ Hàng (Hải
Phòng).
Đề tài trang trí trên các Cốn, các mảng trang trí khác ở đình Trân Tảo,
Tình Quang là cảnh sinh hoạt dân gian múa hát, hình tƣợng lân cầm rắn, hổ...
đây là nét tƣơng đồng về phong cách tạo tác, đề tài trang trên kiến trúc nhiều
ngôi đình ở đồng bằng Bắc bộ nhƣ: đình Tây Đằng, đình Thụy Phiêu, đình
Phùng (Hà Nội), đình Lỗ Hạnh, đình Thổ Hà (Bản ảnh số 125, số 126), đình
Phù Lão (Bắc Giang), đình Liên Hiệp (Phúc Thọ, Hà Nội), đình Ngọc Canh
(Vĩnh Phúc), đình Hà Hiệp (Hà Nội). Nhƣ vậy có thể khẳng định các ngôi
đình này đƣợc làm cùng thời và là sản phẩm có trƣớc thời Chính Hoà. Đặc
biệt còn cho thấy đặc điểm những ngôi đình đƣợc làm vào thế kỷ XVII và đầu
thế kỷ XVIII đƣợc trang trí nhiều đề tài, dày đặc các mảng trang trí. Những
ngôi đình thời kỳ sau đã đơn giản hóa trang trí.
Các đầu dƣ trên kiến trúc đình Xuân Dục, Tình Quang, Thanh Am,
Trân Tảo và đình Công Đình đều đƣợc chạm lộng, bong kênh với hình tƣợng
135
đầu rồng, hệ thống đao mác đƣợc tạo tỉ mỉ có nét tƣơng đồng với đầu dƣ của
các ngôi đình đƣơng thời.
Một đặc điểm trên trang trí kiến trúc, chƣa thấy xuất hiện hình tƣợng
rùa (là một trong “tứ linh”) mà chỉ có rồng, phƣợng, lân, ly. Nhƣ vậy, trên
trang trí kiến trúc những đình làng thế kỷ XVII – XVIII ở Gia Lâm chƣa có
đề tài “tứ linh”. Đây cũng là đặc điểm của những ngôi đình đồng đại và trƣớc
đó ở châu thổ Bắc Bộ. Hiện chúng ta mới tìm thấy bộ “tứ linh” tạm thời có
niên đại sớm nhất trên khánh đồng chùa Lâm Phúc (Hoài Đức, Hà Nội), niên
đại Cảnh Hƣng thứ 6 (1745).
Nhìn chung phong cách tạo tác trên kiến trúc đình Trân Tảo, đình Công
Đình, đình Tình Quang là sự kế thừa những ngôi đình trƣớc đó và đầu thế kỷ
XVII nhƣ đình Xuân Dục (Yên Thƣờng), đình Phù Lƣu (Từ Sơn, Bắc Ninh).
Nó là “bƣớc đệm” cho các ngôi đình làm dƣới thời Chính Hoà. Với những vẻ
đẹp trên trang trí kiến trúc, bằng tài nghệ của các hiệp thợ đƣơng thời đã phản
ánh khá rõ nét “bƣớc đi” của ngôi đình làng.
Bên cạnh những đặc điểm chung thì đình làng ở Gia Lâm thế kỷ XVII
– XVIII cũng có sự khác biệt trong điêu khắc, trang trí. Cụ thể, đối với riêng
đình Thanh Am có đặc thù riêng so với các ngôi đình khác cùng thời là ở đầu
hồi đã không còn sử dụng hình thức vỉ ruồi/rốn nhện, mà thay vào đó là một
mái vảy nhỏ. Đây là một sáng kiến ít có ở nơi khác, nó vẫn đủ khả năng che
sự thô mập của bộ vì bên trong, có khả năng chống mƣa tốt hơn, đồng thời lại
gây đƣợc một điểm nhấn đẹp cho kiến trúc.
Đình Công Đình có một bức cửa võng trang trí đề tài “Lƣỡng long chầu
hổ phù”. Các nhà Dân tộc học mỹ thuật cho rằng Hổ phù là hình tƣợng của
mặt trăng. Đây là đề tài trang trí hiếm gặp ở các đình làng cùng niên đại. Hiện
tƣợng lƣỡng long chầu hoa cúc hay mặt trăng thì cũng bắt gặp ở nhiều đình
nhƣ đình Lỗ Hạnh, Tây Đằng và Xuân Dục, đây là tính tƣơng đồng trong đề
tài trang trí.
136
Rất nhiều đình làng ở châu thổ Bắc bộ có những đề tài liên quan đến
hình tƣợng chiến tranh hay hình tƣợng thúc voi ra trận, “táng mả hàm rồng”
nhƣng các ngôi đình thế kỷ XVII – XVIII ở Gia Lâm không có những hình
tƣợng này. Phải chăng do đặc thù của địa phƣơng mang tính vùng miền.
Qua nghệ thuật điêu khắc trang trí đình làng ở Gia Lâm thế kỷ XVII –
XVII, có thể thấy đây là những ngôi đình tiêu biểu, là minh chứng cho sức
sáng tạo nghệ thuật. Những ngôi đình này đã phản ánh khá rõ nét bối cảnh xã
hội đƣơng thời, mà nổi lên trên hết là ƣớc vọng khát khao của ngƣời nông dân
về cuộc sống ấm no, hạnh phúc nhƣ thể hiện trên trang trí với những đề tài
“Lƣỡng long chầu Hổ phù” ở đình Công Đình, rồi những cảnh sinh hoạt bình
dị với những ƣớc muốn thơ mộng đƣợc thể hiện trên những bức Cốn đình
Xuân Dục, Trân Tảo và Tình Quang về đề tài con ngƣời đang múa thông qua
những bức chạm “Tiên cƣỡi rồng”. Rồi nhƣ muốn đƣợc hoà vào thiên nhiên
với những hoạt cảnh con vật: hổ, hƣơu, con ngƣời đi cùng những cây cỏ hoa
lá. Ƣớc vọng cầu mƣa, cầu mùa cho mùa màng bội thu của cƣ dân nông
nghiệp lúa nƣớc thông qua hình tƣợng rồng, mây. Ƣớc vọng của con ngƣời là
cao cả để vƣơn tới cuộc sống tốt đẹp, họ đã mong sự tồn tại cùng đất trời, nhƣ
thể hiện sức sống vĩnh cửu thông qua việc cầu Thọ, cầu Phúc là những hình
ảnh về cây Tùng, con Hạc, con Dơi. Trên trang trí kiến trúc chƣa thấy những
hình tƣợng miêu tả chiến tranh, chắc rằng đây hẳn là ƣớc vọng hoà bình v.v..
và cùng nhiều ƣớc mơ khác.
3.3. Giá trị lịch sử và văn hóa của các ngôi đình ở Gia Lâm
3.3.1 Những giá trị lịch sử
Đình làng ở Gia Lâm (Hà Nội) nói riêng và đình làng Việt Nam nói
chung ra đời là hiện tƣợng lịch sử xã hội Việt Nam. Chính bởi nó là hiện
tƣợng lịch sử nên nó có quy luật chung là hình thành, phát triển và suy thoái.
Kể từ khi ra đời, đình làng còn tồn tại đến ngày nay là nguồn tƣ liệu vật chất
quan trọng để nghiên cứu lịch sử xã hội Việt Nam cũng nhƣ lịch sử làng xã
Việt Nam qua các thời kỳ. Qua nghiên cứu đình làng ở Gia Lâm thế kỷ XVII –
137
XVIII trong bối cảnh đình làng Việt Nam thì chƣa thấy ngôi đình làng nào
dựng trƣớc thế kỷ XVII. Theo đoán định của các nhà nghiên cứu thì đình thờ
thành hoàng phải ra đời vào thời Lê sơ. Cứ liệu còn quá ít để khẳng định,
nhƣng phần nào đƣợc củng cố bởi bài bia ký của Bùi Xƣơng Trạch viết vào
năm 1493 về đình Quảng Văn (Hà Nội). Nội dung bài văn ca tụng triều đình,
chủ yếu đề cao nhà vua, đồng thời nói lên thực tiễn của ngôi đình trong việc
công bố chính lệnh của nhà nƣớc đƣơng thời. Về mặt nào đó cũng phản ánh
đƣợc việc sáng tạo ra một kiến trúc mới. Tạm có thể cho rằng, đây là tiền đề
của ngôi đình làng về sau. Tất nhiên còn phải chờ lâu nữa, qua thời Mạc, sang
thời Lê trung hƣng, đặc biệt với Nguyễn Bính nghi thức và những quy định về
cách thức thờ phụng Thành hoàng, đƣợc ông thi hành đắc lực, thì các vị thần
đƣợc thờ và ngôi đình của làng xã mới gắn bó với nhau một cách mật thiết.
Trên thực tế, những ngôi đình làng sớm nhất hiện nay còn biết đƣợc, mới ra
đời từ thời Mạc (thế kỷ XVI), và tấm sắc phong sớm nhất chính là vào thời đó:
tấm sắc phong cho Thành hoàng đình Tử Dƣơng (huyện Ứng Hòa, Hà Nội)
vào năm Sùng Khang thứ 9 (1574). Có thể thấy rằng, nhiều công trình kiến
trúc nặng chất mỹ thuật, chủ yếu là kiến trúc ít nhiều có gắn với tôn giáo.
Trong xu thế chung ấy, kiến trúc đình làng cũng phát triển. Xét về số lƣợng thì
giai đoạn này, đình vẫn chƣa chiếm đƣợc vị trí độc tôn. Một bằng chứng ở Gia
Lâm, lòng ngƣời chủ yếu vẫn nƣơng nhờ cửa Phật. Hiện tƣợng nhiều ngôi
chùa đƣợc xây dựng mới. Đó là chùa Đào Xuyên (Đa Tốn) có pho tƣợng Quan
âm Nam Hải, chùa Minh Ngộ (Kiêu Kỵ) với chiếc nhang án đá hiện đặt giữa
Tiền đƣờng, chùa Thiên Phúc (Thạch Bàn) còn tấm bia niên đại Hoằng Định
thứ 10 (1609) nói về năm 1607 tu sửa chùa, chùa Hội Xá (Phúc Lợi) có bộ
tƣợng Tam thế phật, chùa Nành (Ninh Hiệp), chùa Phúc Nƣơng (Yên
Thƣờng), chùa Kiêu Kỵ (Kiêu Kỵ) cũng có tƣợng Quan âm Nam Hải...Những
ngôi chùa này cũng phần nào phản ánh kinh tế khá phát triển, làm tiền đề, điều
kiện kinh tế cho giai đoạn sau.
138
Cuối thế kỷ XVII đáng đƣợc xem là giai đoạn bản lề, nhiều bia ký đƣơng
thời xác nhận tƣ cách thắng thế của đình làng trong làng xã. Nhiều đình ra đời
có sự đóng góp của dân đinh cả làng. Đình thực sự trở thành công trình của
tập thể, và về mặt nào đó, có gắn với chế độ ruộng công, trong nhiều trƣờng
hợp, khi làng xã quyết định dựng đình, thì tất cả dân đinh, nghĩa là mọi ngƣời
đƣợc chia ruộng công, đều có nghĩa vụ phải đóng góp. Văn bia “Tăng Phúc
đình bi ký” ở Thƣợng Cát (Thƣợng Thanh, Gia Lâm) lập năm Vĩnh Trị thứ 3
(1678) hiện đặt phía trƣớc bên trái đình ghi lại việc dựng đình năm Vĩnh Trị
thứ nhất (1676) nhƣ sau: “... khi ấy xóm làng ngày càng trù mật, kinh tế phát
triển, nên dân thôn Thƣợng đã cùng góp công góp của để dựng đình, gọi là
Tăng Phúc vì: Lúa nhà nông đƣợc mùa sung túc, hàng hóa chất đầy, nhà nhà
no đủ, ngƣời ngƣời an khang. Bậc tiền bối đinh ninh lấy tên đất Tăng Phúc đặt
làm tên đình. Nhân đó khắc vào bia đá để truyền mãi về sau”. Phải nói rằng
nội dung văn bia đình Tăng Phúc đã phản ánh thực tiễn bối cảnh xã hội đƣơng
thời. Nhƣ chúng ta biết, ngôi đình nhƣ có một thích ứng với những biến động
xã hội nhiều hơn các kiến trúc khác. Dù cho những ngôi chùa thờ Quan Âm
Nam Hải (thế kỷ XVI, đầu thế kỷ XVII) gắn với những luồng thƣơng mại xuất
hiện ở ven sông, thì về cơ bản, ngôi chùa đó vẫn mang một không gian chung
để dẫn dắt tâm hồn con ngƣời khi tiếp cận với thế giới tâm linh nhƣ ở nhiều
chùa khác. Song, theo dòng chảy lịch sử chung đó thì đình làng đã phản ánh rõ
nét hơn về mối quan hệ này. Từ thực tiễn các ngôi đình ở Gia Lâm xây dựng
trong giai đoạn này còn nhƣ phản ánh một vấn đề khác liên quan đến kinh tế.
Cụ thể là những ngôi đình ở Gia Lâm thế kỷ XII, đầu thế kỷ XVIII thƣờng ở
ven các dòng sông giao thƣơng nhƣ sông Hồng, sông Đuống, sông Nghĩa Trụ
và các chi lƣu của nó, mặt nào đó cho thấy đƣơng thời kinh tế thủ công nghiệp
và thƣơng mại đã có vẻ nhƣ tƣơng đối phát triển, mặc dù, nền kinh tế này vẫn
nằm trong phạm trù kinh tế nông nghiệp. Ngƣời đi buôn giàu có chƣa dùng
vốn để tái sản xuất thủ công nghiệp hoặc thƣơng mại, mà chỉ đem về làng tậu
ruộng đất hoặc tìm vinh quang nơi thôn dã, họ đã góp tiền của để xây dựng
139
đình làng cũng nhƣ cho vào chùa, đền. Những ngôi đình ở Gia Lâm đi cùng nó
là lễ hội liên quan trong vùng này chỉ đƣợc nảy sinh, hình thành và phát triển
không thể chỉ dừng lại ở làng nông nghiệp nghèo khó, mà còn phải dựa vào
dòng kinh tế khác giàu có hơn, mà ở đây chúng ta ngầm hiểu là kinh tế liên
quan đến dòng sông (không phải là chài lƣới), có phần gắn với thƣơng thuyền.
Nhƣ chúng ta biết, rất nhiều ngôi đình nổi tiếng thƣờng ở ven sông thƣơng
mại, nhƣ sông Hồng trên con đƣờng giao thƣơng tới ngã ba Hạc, ven sông
Cầu, tƣơng đồng với thời gian ra đời của đình Lỗ Hạnh, đình Thổ Hà, rồi nơi
buôn bán khá sầm uất nhƣ Thƣờng Tín đã có đình Là ở ven sông nhỏ chảy ra
sông Đáy. Rồi ở vùng Sơn Tây còn có đình Tƣờng Phiêu gần sông Tích. Ở
Gia Lâm các ngôi đình thế kỷ XVII – XVIII rất gần sông. Nó phản ánh kinh tế
của các làng này đƣơng thời phát triển nhƣ lời văn bia đình Tăng Phúc đã nêu.
Sang thời Lê mạt (thế kỷ XVIII), việc xây dựng đình làng giảm sút hẳn.
Xét về mặt xã hội, đây là thời kỳ mà nạn kiêm tính ruộng đất ở châu thổ Bắc
Bộ phát triển mạnh mẽ, hàng vạn nông dân “bị đuổi’’ khỏi làng, đi tha phƣơng
cầu thực. Ở giai đoạn này hàng loạt “lăng quận công’’ ra đời, đây là bằng
chứng không thể chối cãi đƣợc về sự phát triển của kinh tế tƣ nhân. Ở Gia
Lâm, không thể không kể đến lăng quận Điền (Phù Đổng), lăng Giảng quận
công (Đa Tốn) và một vài lăng quận công chƣa biết tên ở Ngọc Thụy, Tình
Quang là điển hình chung. Trong điều kiện ấy, kinh tế tập thể của cộng đồng
làng xã giảm sút. Chúng ta có thể tin rằng, đây là lý do khiến cho đình làng
không có điều kiện để tiếp tục phát triển mạnh. Ở Gia Lâm chúng ta cũng chỉ
biết đến những ngôi đình Xuân Dục (đầu thế kỷ XVII) và những ngôi đình
cuối thế kỷ XVII có niên đại trƣớc thời Chính Hòa (1680 - 1705). Sau thời
Chính Hòa, chúng ta khó có thế tìm thấy ngôi đình nào đƣợc xây dựng mới ở
Gia Lâm. Có thể nói rằng, chính từ sự kiêm tính ruộng đất đã đè nén đến cuộc
sống ngƣời nông dân, về cơ bản họ bị kiêm tính ruộng đất đã dẫn đến các cuộc
khởi nghĩa nông dân nổi dậy. Một trong những cuộc khởi nghĩa nông dân ấy,
ở Gia Lâm là một trong những địa bàn của khởi nghĩa quận He Nguyễn Hữu
140
Cầu? Chính bởi vậy, sự vắng bóng của kiến trúc đình làng ở Gia Lâm giai
đoạn này đã phản ánh thực tế của lịch sử xã hội đƣơng thời. Đặc biệt cuối thế
kỷ XVIII, chiến thắng của Tây Sơn tạo ra đƣợc một thời ổn định ngắn ngủi, và
vì vậy có lẽ chƣa đủ thời gian cho làng xã phục hồi, cho nên hiếm gặp ngôi
đình đƣợc dựng lên lúc bấy giờ, mà ở Gia Lâm cũng chƣa thấy trƣờng hợp nào
đình đƣợc tu sửa dƣới thời Tây Sơn chứ chƣa nói đến việc dựng đình mới.
Sang thời Nguyễn, sau chiến tranh, trên đất Bắc cũng khá ổn định cho nên một
số nơi cũng đƣợc dựng đình mới mà trên đất Gia Lâm, cũng bắt gặp ngôi đình
Trạm dựng năm Gia Long thứ 17 (1818) và đình Nha dựng năm Minh Mệnh
thứ 3 (1822). Tuy nhiên những ngôi đình này nó không còn đƣợc bề thế nhƣ
những đình làng trong giai đoạn phát triển rực rỡ nhƣ ở thế kỷ XVII và dƣới
thời Chính Hòa. Từ việc xác định niên đại khởi dựng của đình làng ở Gia
Lâm, nó đã phản ánh khá trung thực lịch sử dân tộc. Đặc biệt đình làng ở Gia
Lâm thế kỷ XVII – XVIII là sản phẩm văn hóa của một thời kỳ lịch sử ổn
định, kinh tế phát triển nhƣ bia “Tăng Phúc đình bi ký’’ nêu trên đã ghi. Mặc
dù ở Gia Lâm có nhiều đình làng với quy mô lớn, nhƣng không phải làng nào
cũng có đình nhƣ vậy. Chỉ có những làng gần sông, có sự giao thƣơng thì kinh
tế tƣơng đối phát triển mới có những đình to lớn, còn những làng thuần nông
mà số dân đinh ít thì đình làng có quy mô nhỏ.
Cũng nhƣ bao ngôi đình khác, đình làng ở Gia Lâm là sản phẩm của lịch
sử. Mặc dù trên mảnh đất này, đình làng xuất hiện đầu tiên vào đầu thế kỷ
XVII mà đình Xuân Dục là điển hình và nở rộ vào cuối thế kỷ XVII. Nhƣng
nó là kế thừa và khẳng định là nơi ban bố chính lệnh của triều đình, đồng thời
cũng có thể là trụ sở của chính quyền địa phƣơng. Nó đƣợc coi nhƣ một kiến
trúc nảy sinh bởi sự áp đặt từ triều đình xuống xã thôn, phần nào nhƣ đã phản
ánh về một bƣớc phát triển mới trong sự chuyển đổi chế độ chính trị xã hội từ
quân chủ chuyên chế Phật giáo sang chế độ quân chủ chuyên chế Nho giáo.
Từ đó ngƣời ta có thể coi nhƣ hiện tƣợng ra đời của đình làng đã đánh dấu bàn
tay chính trị của tầng lớp thống trị muốn thò xuống xã thôn một cách mạnh mẽ
141
và chặt chẽ hơn, đó là một con đƣờng phát triển để củng cố sự thống nhất của
cộng đồng. Những ngôi đình làng ở Gia Lâm hiện vẫn còn lƣu giữ đƣợc nhiều
sắc phong của triều đình ban cho thành hoàng làng, nhƣ đình Thổ Khối còn
lƣu giữ 79 đạo sắc, đó là bằng chứng chân thực. Lịch sử đã cho thấy trong thời
quân chủ chuyên chế Phật giáo ở thời Lý và thời Trần, nhà nƣớc quản lý làng
xã chƣa thông qua một bộ máy đƣợc áp đặt từ triều đình xuống, mà còn dựa
trên cơ cấu quản lý truyền thống, nhƣng tới thời Lê Sơ thì hệ thống này ít
nhiều đã có sự thay đổi. Xã - lý trƣởng đã bắt đầu xuất hiện để mang vai trò
đại diện cho chính quyền cơ sở, mặc dù những xã - lý trƣởng đó vẫn có tính
“hai mang”: là đại diện của triều đình đối với dân và đại diện của dân đối với
triều đình. Ngôi đình làng đƣợc hội nhập vào trong xã thôn, đƣợc coi nhƣ
khẳng định về vai trò của triều đình đối với dân chúng. Song, trong quá trình
tồn tại của nó, để thích ứng với hoàn cảnh dân chủ làng xã, với sự phân hoá xã
hội chƣa cao thì ở mặt tinh thần ngƣời ta đã hội nhập dần vào ngôi đình những
tính chất vƣợt ra ngoài chức năng khởi nguyên, trong đó nổi lên là một ngôi
nhà công cộng gắn với nam giới. Vì thế hiện tƣợng sinh hoạt của nam giới ở
đình làng ở Gia Lâm cũng nhƣ ở châu thổ Bắc bộ cần phải đƣợc xem xét lại
trên nền tảng điều tra hồi cố và xã hội học, lịch sử học… kỹ càng hơn nữa.
Đình còn là nơi giải quyết việc làng. Trƣớc đó, khi đình chƣa xuất hiện, nhà
sƣ là trí thức của làng xóm và ngôi chùa là trung tâm sinh hoạt văn hoá của
làng xã, thì một số việc của thôn làng đã nhƣ đƣợc giải quyết ở trong không
gian của ngôi chùa. Nhƣng sang chế độ quân chủ chuyên chế Nho giáo, tính
pháp quyền mạnh hơn thì hầu nhƣ mọi việc của làng xã từ to đến nhỏ đều
đƣợc giải quyết ở đình làng, bao gồm cả những chuyện xích mích, việc phạm
lệ tục và những việc dân đinh, việc sƣu thuế, tô tức, phu lính đối với triều
đình… Một xu hƣớng khác thuộc tinh thần trong chế độ cũ, gần nhƣ mang
tính tất yếu, là sự hội nhập giữa vƣơng quyền với thần quyền. Hiện tƣợng này
142
không làm giảm ƣu thế của triều đình và chính quyền địa phƣơng, mà ngƣợc
lại, phần nào đã góp vào sự tôn vinh triều đình mà đại biểu là nhà vua, mặt
khác nó cũng thích ứng với yêu cầu của dân chúng. Có nghĩa là vị thần bảo vệ
làng xóm đƣợc dân chúng tôn sùng xƣa nay, mặc nhiên tới đây, có cƣơng vị rõ
rệt, có một chỗ ngồi khang trang uy thế nhất trong làng xóm và tạo thành một
thế cân bằng hơn trong hệ thống thần linh thôn dã. Khi các vị bồ tát và thần
linh liên quan cũng nhƣ các thần dân gian khác (thƣờng gắn với cõi siêu nhiên
liên quan nhiều hơn tới cuộc sống tâm linh) với khả năng hỗ trợ cho công việc
của làng xóm và việc đời phần nào bị giới hạn, thì với ngôi đình, từ nay vị
thần làng liên quan trực tiếp đến cuộc sống đời thƣờng đã có vị trí tối thƣợng,
nhƣ một bổ sung cần thiết trong hệ thống thần linh thôn dã - đó là Thành
Hoàng làng. Khởi đầu có lẽ đình làng không có Thành Hoàng làng mà chỉ từ
khi đình trở thành một thực thể văn hoá của làng xã, chủ yếu là vào thế kỷ thứ
XVI, thì liền đó Thành Hoàng làng đã xuất hiện (một ví dụ cụ thể là sự chuyển
hoá của anh hùng văn hoá nổi tiếng Tản Viên Sơn Thánh). Hiện tƣợng đƣa
thần làng vào trong đình là một trong những cơ sở quan trọng để đình làng dần
dần mang tính đa năng, làm nền cho sự tồn tại vững chắc của nó ở xã thôn.
Tuy nhiên, cũng ngay từ thời đầu đó, về với dân, đình đã có yếu tố của một
đền thờ thần bên cạnh những chức năng khác. Có nghĩa, nó đƣợc dân gian hoá
để thích ứng với tâm hồn, tƣ duy truyền thống nông nghiệp. Từ tổ chức xã hội
có tính cố hữu ở nông thôn Việt.
Nhƣ vậy, thông qua kiến trúc đình làng cũng đã phần nào phản ánh tình
hình kinh tế của làng xã đƣơng thời. Bên cạnh đó phản ánh vấn đề lịch sử,
trong mối quan hệ giữa triều đình phong kiến trung ƣơng tập quyền với cộng
đồng làng quê thông qua thành hoàng làng và các vấn đề xã hội nhƣ nêu trên.
Khi nghiên cứu xung quanh ngôi đình làng về quy mô kiến trúc, nghệ thuật
điêu khắc trang trí, những sinh hoạt ở đình, những phong tục tập quán mà đỉnh
143
cao là lễ hội thì đây là căn cứ quan trọng, khi nghiên cứu lịch sử làng xã ở Gia
Lâm nói riêng, lịch sử làng xã Việt Nam nói chung.
3.3.2. Những giá trị văn hóa
Về giá trị kiến trúc của đình làng thế kỷ XVII – XVIII ở Gia Lâm. Nhƣ
chúng ta đƣợc biết, đình làng ra đời đáp ứng nhu cầu của xã hội đƣơng thời
cho nên nó có ba chức năng chính. Đó là chức năng tín ngƣỡng, trung tâm
hành chính, trung tâm văn hóa cộng đồng. Để đáp ứng các chức của nó, khi
xây dựng đƣơng thời ngƣời ta chú ý đến vị thế, không gian, quy mô kiến trúc
và điêu khắc trang trí. Những đình làng thế kỷ XVII – XVIII ở Gia Lâm cũng
không nằm ngoài những yếu tố trên.
Trƣớc hết với chức năng tín ngƣỡng thờ Thành hoàng làng, ông vua
tinh thần bảo trợ cho làng xã nhƣng đồng thời cũng là ông vua đại diện cho
chính thể triều đình. Thông qua “ông vua” này để triều đình phong kiến trung
ƣơng tập quyền “thò tay” quản lý làng xã và ngƣợc lại dân làng tôn thờ, đề
cao Thành hoàng làng cũng là chấp hành “quy thuận” triều đình. Thành hoàng
làng đƣợc triều đình phong sắc chức năng vƣơng cũng là nâng cao vị thế
“Thánh nhân”. Chính bởi vậy đình làng thế kỷ XVII - XVIII ở Gia Lâm
thƣờng quay hƣớng có yếu tố Nam. Một mặt, nó ứng xử với khí hậu nhiệt đới
gió mùa, mặt khác hƣớng nam còn đƣợc hiểu là “Nam phƣơng Thánh diện nhi
thính thiên hạ” tức là Thánh nhân quay về hƣớng nam mà nghe lời tỏ bày, cầu
mong của chúng dân thiên hạ.
Cũng với chức năng vừa là đáp ứng tín ngƣỡng tâm linh nhƣng cũng
đáp ứng chức năng cho hoạt động của đời thƣờng nhƣ hành chính, sinh hoạt
văn hóa cộng đồng nên đình làng thế kỷ XVII – XVIII ở Gia Lâm thƣờng
đƣợc dựng ở bìa làng. Qua khảo sát thực địa, về sau này do dân số tăng, hoặc
do biến đổi về địa lý, mặt khác nhận thức truyền thống bị suy lạc nên nhiều
đình làng bị các hộ dân lấn chiếm không gian. Nếu không điều tra kỹ sẽ
không phát hiện ra yếu tố này. Đình thƣờng dựng ở bìa làng trƣớc hết để tránh
nhà dân che mặt nhƣng ở mặt nào đó, đình dựng ở bìa làng là không gian giữa
144
thiên nhiên và xã hội. Tức là phía trƣớc đình thƣờng là cánh đồng, cánh bãi
hay dòng sông và phía sau đình là nơi ở của dân. Hai yếu tố tự nhiên và xã hội
trong một thể thống nhất làm cân bằng mối quan hệ.
Đình thƣờng đƣợc dựng ở một vị trí cao hơn so với xung quanh, phía
trƣớc đình thƣờng có hồ ao tự nhiên hoặc không có, đƣơng thời ngƣời ta đào
giếng (thƣờng là giếng bán nguyệt). Vị trí cao của đình mang yếu tố dƣơng,
ao, hồ, giếng phía trƣớc thuộc âm. Đây vừa ảnh hƣởng của thuật phong thủy,
vừa ảnh hƣởng của thuyết “âm dƣơng ngũ hành”. Tức là âm dƣơng giao hòa
mới sinh sôi phát triển.
Mặt bằng đình làng ở Gia Lâm có không gian rộng. Trƣớc hết là sân
đình, đình Công Đình (Đình Xuyên) là ví dụ điển hình. Sân đình có diện tích xấp xỉ 3.000 m2. Nó đáp ứng chức năng sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Đặc biệt vào dịp hội làng, sân đình phục vụ cho việc tập hợp các đoàn rƣớc nƣớc,
rƣớc kiệu, các trò chơi dân gian, hát tuồng, chèo trƣớc cửa đình. Một số hội
nhƣ hội Lệ Mật (Việt Hƣng) phục vụ nghi thức “đả ngƣ”, múa Giảo Long,
đón “Thập tam trại”. Đình Trƣờng Lâm (Việt Hƣng) múa “lột rắn”, đình Hội
Xá (Phúc Lợi) phục vụ nghi thức múa “Ải Lao”. Ngoài ra nhiều đình khác
ngoài Gia Lâm phục vụ trò vật cầu, cƣớp kén hoặc các tục hèm khác nhƣ giã
đám hội La và các trò chơi dân gian khác. Nhƣ vậy đình làng với không gian
rộng, đảm bảo phục vụ lễ hội, thông qua hội làng và các sinh hoạt văn hóa
khác đã gắn kết các thành viên của cộng đồng làng xã.
Thứ hai là mặt bằng tòa đại đình rộng. Đại đình rộng đáp ứng nhu cầu
tế lễ vào dịp hội làng, đồng thời với số lƣợng gian để phân chia vị trí các phe
giáp, chức dịch trong làng trong dịp hội cũng nhƣ thƣờng nhật là công sở
hành chính làng xã. Mặt khác, đình làng là ngôi nhà công cộng của làng xã,
chính bởi vậy kiến trúc đình làng bao giờ cũng lớn hơn kiến trúc nhà dân,
đình làng cũng tƣơng tự nhƣ nhà Rông ở Tây Nguyên. Những ngôi đình đƣợc
làm dƣới thời Nguyễn thƣờng nhỏ hơn với tƣờng hồi bít đốc do chức năng
của đình làng có sự thay đổi, đình làng mang nặng tính Đền thờ nhiều hơn.
145
Đình làng thế kỷ XVII - XVIII ở Gia Lâm cũng nhƣ các đình làng khác
đƣơng thời thƣờng không lát nền mà có sàn gỗ. Đến thời Nguyễn, thay sàn gỗ
bằng việc lát gạch Bát Tràng. Qua khảo sát, những đình làng thế kỷ XVII –
XVIII ở Gia Lâm hiện vẫn còn dấu tích các lỗ mộng sàn. Đây là yếu tố còn
ảnh hƣởng của kiến trúc các tộc ngƣời khác nhƣ nhà sàn của ngƣời Mƣờng,
nhà Rông của Tây Nguyên theo tiến trình lịch sử di dân từ thời nguyên thủy.
Yếu tố không lát nền cho thấy, đây còn ảnh hƣởng của thuyết âm dƣơng. Nếu
lát nền thì âm dƣơng không giao hòa, âm dƣơng cách trở, không thông đƣợc
tam tầng thế giới, không dài dòng lớn họ đƣợc.
Đình làng thế kỷ XVII - XVIII ở Gia Lâm cũng nhƣ đình làng khác đƣơng thời thƣờng có gian chái với 4 góc mái đao cong. Kiến trúc cổ truyền từ thời Mạc trở về trƣớc thƣờng chƣa có tàu mái để tạo nên kết cấu góc mái déo cong thuộc kết cấu bộ khung gỗ, mà góc mái vểnh lên chủ yếu là phần phụ đƣợc đắp bổ sung vào, nhƣ đầu đao bằng con giống đất nung. Hình thức này đối với những ngôi chùa, đền nhỏ của làng xóm thì chƣa thấy bộc lộ “nhƣợc điểm cứng cỏi" của nó. Song, với ngôi đình thì hoàn toàn khác, đây là một kiến trúc lớn nhất của xã thôn, với bộ mái to lớn, nặng nề, thân đình tỏ ra quá thấp, dẫn tới hiện tƣợng này nhƣ một “bức bối” trong kiến trúc suốt thế kỷ XVI. Đình thời Mạc chƣa có hệ tàu mái dƣới ngói giọt gianh và chắc chắn nó trở nên khó thích hợp với tâm hồn truyền thống. Một dẫn chứng cụ thể về hiện tƣợng này, đƣợc chứng minh, bởi kiến trúc của đình làng Tây Đằng. Đình có những bẩy khá thấp, bẩy đƣợc đội ván nong dày, xấp xỉ thân bẩy, đã tạo nên hai mặt bên làm nền cho những mảng phù điêu lớn đậm chất biểu tƣợng trong kiến trúc thời Mạc. Từ hiện tƣợng đó, cho rằng khó có thể ở thời khởi dựng ngƣời ta đã làm nhƣ vậy, mà bộ phần tàu mái chỉ có thể là sản phẩm của thời sau đƣợc gá lắp thêm vào nhằm tạo cho ngôi đình chuyển hoá từ bờ mái thẳng, không có góc mái cong thành một kiến trúc có kết cấu với bộ khung cong góc mái. Hệ quả từ việc này cùng với kết quả điều tra ở nhiều kiến trúc thời Mạc khác đã cho chúng ta hiểu góc mái cong sớm nhất chỉ là sản phẩm (có lẽ xuất hiện từ đầu thế kỷ XVII) với một dẫn chứng cụ thể là
146
đình Tƣờng Phiêu (Phúc Thọ), đình Xuân Dục (Gia Lâm). Một hệ quả khác, từ thực tế này cho chúng ta ngờ vực về ý kiến đình làng đƣợc xuất phát từ “con thuyền úp” là chƣa đủ căn cứ thuyết phục, bởi thông qua tạo hình chúng ta nhƣ thấy tàu mái là mạn thuyền, mái đình nhƣ mái của thuyền, đình không có tƣờng bao nên cột của nó nhƣ những tay chèo, và nhƣ thế đình mang tƣ cách nhƣ một lâu thuyền (một sản phẩm gần gũi với những con thuyền buôn lớn xuôi ngƣợc ở thời kỳ phát triển thƣơng mại vào cuối thế kỷ XVI, đầu thế kỷ XVII).
Về mặt điêu khắc trang trí đình làng thế kỷ XVII - XVIII còn để lại những mảng chạm khắc với nhiều đề tài phong phú, đa dạng nhƣ linh vật: rồng, lân, phƣợng, các con vật: hổ, rắn, chim muông, hoa lá, cây cỏ..., rồi những biểu tƣợng thiêng nhƣ đao mác, vân xoắn. Đặc biệt là hình tƣợng con ngƣời: trẻ con, “Tiên cƣỡi rồng”... ở trên các cấu kiện kiến trúc thông qua kỹ thuật chạm lộng, chạm bong kênh. Những đề tài trang trí ấy là bức tranh sống động phản ánh những ƣớc vọng của ngƣời dân đƣơng thời về cầu nƣớc, cầu mùa, cầu ấm no hạnh phúc, những hình ảnh “Trúc hóa long” nhƣ ở đình Tình Quang thể hiện ƣớc vọng trƣờng sinh, những cây cỏ hoa lá nhƣ để con ngƣời đƣợc hòa vào thiên nhiên, rồi hình tƣợng rồng, hổ hai bên nhƣ ở ngƣỡng cửa đình Công Đình nhƣ muốn gợi ý đề cao học vấn, trí tuệ (rồng tƣợng cho tiến sĩ, hổ tƣợng cho cử nhân)...Những đình làng sau này còn có những đề tài “Tứ linh”, “Tứ quý”, “Bát vật”... mặc dù có tính quy phạm nhƣng đã bổ sung cho sự phong phú cả về tài trang trí cũng nhƣ sức sáng tạo của nghệ nhân dân gian đƣơng thời. Theo Ngô Huy Quỳnh cho rằng, các kiến trúc sƣ dựng đình là “những bậc thầy của Khoa kiến trúc đô thị” [111] . Những bức phù điêu trên trang trí kiến trúc đình làng ở Gia Lâm, trƣớc đây nhiều ngƣời thƣờng nghĩ, những mảng phù điêu chỉ đƣợc nhìn nhận với chức năng trang trí để làm đẹp là chính. Nhƣng thực ra những đề tài trang trí đó chuyển tải những giá trị tinh thần cao hơn nhiều. Có nghĩa là, giá trị có tính biểu tƣợng gắn với không gian tâm linh mới là tinh thần chủ yếu của nghệ thuật truyền thống Việt. Ngƣời ta có thể tìm thấy ở nơi đây những ƣớc vọng truyền đời thuộc thuộc tƣ duy nông nghiệp nhƣ việc cầu mƣa, cầu mùa
147
no đủ nhƣ hình tƣợng rồng, vân xoắn; những mối quan hệ với cả vũ trụ và cả thế giới nhân sinh của ông cha ta, có thể thấy những hình tƣợng “Tiên cƣỡi rồng” nhƣ ở đình Xuân Dục, đình Tình Quang, đình Trân Tảo, hình tƣợng “Lƣỡng long chầu hổ phù” ở đình Công Đình, hình ảnh lân cầm rắn nhƣ bắt gặp một huyền thoại đẹp đẽ về câu chuyện “Khuấy biển sữa đi tìm bát thuốc trƣờng sinh” có nguồn gốc từ Ấn Độ, rồi những cảnh sinh hoạt dân gian múa hát có ở những ngôi đình này. Nhƣ vậy, thông qua nghệ thuật điêu khắc trang trí trên kiến trúc đình làng ở Gia Lâm đã hội đủ tài năng “thao diễn” dòng chảy của tâm tƣ qua hình thức chạm lộng, bong kênh, chạm nổi. Mặt khác, ngƣời xƣa đã chú ý tới hình thức đồng hiện, không phân chia ranh giới cụ thể cho một mảng chạm, để trên đó (cùng một mặt gỗ) có nhiều không gian với các đề tài riêng, một ví dụ điển hình trên bức cốn gian giữa Đại đình đình Tình Quang vừa có đề tài “Tiên cƣỡi rồng” lại có đề tài hai chú bé đôi mũ bì biện trong tƣ thế vận động, chúng không có mối liên hệ trực tiếp về nội dung với nhau. Chỉ cần quan sát kỹ càng một chút, ngƣời xem đã có khả năng phân định một cách rành rẽ các đề tài trong cái mớ “bòng bong” ấy. Tựu lại có thể gọi chính xác hơn, đây là một dạng nghệ thuật điêu khắc đƣợc diễn ra trên không gian hai chiều và tinh thần của nó vƣợt ra ngoài yếu tố chỉ để làm đẹp đơn thuần cho kiến trúc. Theo Thái Bá Vân: “...nghệ thuật điêu khắc đình làng mang tính truyền thống, có kế thừa và phát triển trong suốt chiều dài lịch sử, đó chính là biểu hiện của sự tiếp diễn văn hóa, của mạch nguồn văn hóa dân tộc tuôn chảy qua nhiều thời kỳ” [147]. Thông qua nghệ thuật điêu khắc trang trí đình làng ở Gia Lâm, có thể thấy rằng đây là những tác phẩm đồ sộ, một kho tàng di sản văn hóa khổng lồ của dân tộc.
3.4. Định hƣớng hoạt động đối với các di tích đình làng thế kỷ XVII –
XVIII ở Gia Lâm
3.4.1. Tác động đô thị hóa của Thủ đô đến hệ thống di tích và các di
tích đình làng
- Trong xu hƣớng đô thị đang diễn ra với tốc độ nhanh, việc thay đổi cơ
cấu tổ chức và cung cách quản lý thôn làng trƣớc đây, nhiều nơi đƣợc chuyển
148
thành phƣờng sẽ phải đối mặt với những khó khăn, mặt bất cập trong tổ chức
và quản lý cuộc sống, nhất là trong việc bảo vệ, giữ gìn các di sản văn hóa
truyền thống và trong tổ chức các hoạt động văn hóa. Đó là sự xáo trộn về dân
cƣ (do ngƣời các nơi về mua đất tại làng và ngƣời làng chuyển đi nơi khác)
làm suy giảm tính thuần nhất, đồng nhất trong cộng đồng cƣ dân. Sự chia nhỏ
hay “xé lẻ” thôn - làng với chi bộ, trƣởng thôn và các đoàn thể quần chúng
chung đến đây đƣợc chia thành các tổ dân phố với cơ cấu tổ chức riêng – có
vị thế nhƣ một thôn trƣớc đây, cũng dễ làm suy giảm tính thuần nhất, đồng
nhất trong cộng đồng cƣ dân. Đất đai ngày càng có giá, làm cho các di tích dễ
bị xấm lấn hoặc bị tác động về mặt xây dựng của cƣ dân đe dọa đến không
gian, cảnh quan kiến trúc của di tích.
- Không gian kiến trúc của làng ngày càng bị thu hẹp do sức ép của
việc xây dựng nhà, ảnh hƣởng đến việc tổ chức các hoạt động văn hóa, lễ hội.
- Trong bối cảnh đô thị hóa đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay, việc bảo
vệ, tôn tạo các di tích đình làng là một yêu cầu bức thiết. Trƣớc nhịp sống
công nghiệp, đô thị sôi động, gấp gáp, con ngƣời cần có những khoảng không
gian và khoảng thời gian tĩnh lặng để “xả” bớt căng thẳng, mà một trong
những yếu tố hữu hiệu là các di tích, kiến trúc thờ cúng, gắn với các lễ thức
thờ cúng và lễ hội. Các các yếu tố văn hóa này còn là cơ sở để gắn kết mọi
ngƣời thƣờng xuyên bị “hút” vào vòng quay của nhịp sống công nghịêp, nhịp
sống đô thị sôi động, ít có điều kiện giao lƣu, tiếp xúc với nhau thƣờng ngày
nhƣ cƣ dân nông nghiệp đang sống trong các làng quê.
3.4.2. Tổ chức quản lý, hoạt động tại các đình làng ở Gia Lâm
- Xây dựng quy chế quản lý chung cho tất cả các di tích, gồm các nội
dung cụ thể:
+ Quản lý cơ sở vật chất: các công trình di tích, cổ vật, đồ thờ tự và
giao trách nhiệm cụ thể cho tiểu ban quản lý di tích, UBND xã, Công an xã,
Công an huyện, Thanh tra xây dựng xã, huyện, phòng Quản lý đô thị, phòng
Tài nguyên Môi trƣờng, phòng Nội vụ, phòng văn hóa và Thông tin.
149
+ Quản lý lễ hội: quản lý lễ hội theo năm, theo tháng gắn với các tiết lễ
và thƣờng nhật. Phân công trách nhiệm quản lý của UBND huyện, UBND xã,
phòng văn hóa và Thông tin và các ngành chức năng.
- Kiện toàn Ban quản lý di tích xã, Tiểu ban quản lý di tích và xây dựng
quy chế hoạt động:
+ Kiện toàn ban quản lý di tích xã với cơ cấu: Trƣởng ban là Chủ tịch
UBND xã, các phó ban là Phó chủ tịch UBND, Chủ tịch UB.MTTQ, thành
viên là trƣởng các ngành, đoàn thể, trƣởng các Tiểu ban quản lý di tích.
- Tổ chức kiện toàn các tiểu ban quản lý di tích, tùy theo điều kiện địa
phƣơng xây dựng cơ cấu tổ chức: 01 trƣởng tiểu ban, từ 2 đến 3 phó trƣởng
tiểu ban, từ 10 đến 15 thành viên. Trƣởng tiểu ban là Trƣởng thôn, Phó trƣởng
tiểu ban là Trƣởng ban Công tác mặt trận, các thành viên đại diện cho các chi
hội, đoàn thể, thủ từ, thủ nhang.
- Xây dựng qui chế hoạt động của tiểu ban quản lý di tích, trong quy
chế phân công nhiệm vụ rõ ràng cho từng thành viên: trƣởng tiểu ban phụ
trách chung, có thẩm quyền quyết định các hoạt động của tiểu ban trên cơ sở
thống nhất ý kiến tập thể. Phân công các phó tiểu ban và thành viên phụ trách
về: an ninh trật tự, quản lý tài sản, đất đai; nguồn thu công đức, khánh tiết,
phát huy giá trị.
3.4.3. Định hướng bảo tồn và phát huy giá trị của di tích ở Gia Lâm
Xuất phát từ thực tiễn bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa, để công việc
này đi vào nề nếp, trong những năm vừa qua đã có rất nhiều quy định của Nhà
nƣớc, Chính phủ, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch liên quan đến vấn đề này
đƣợc ban hành. Riêng trong lĩnh vực bảo tồn và phát huy giá trị di tích nói
chung, đình làng nói riêng, cần phải thực hiện nghiêm: Luật di sản văn hoá
đƣợc Quốc hội thông qua ngày 29 tháng 6 năm 2001 và Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật di sản văn hóa đƣợc Quốc hội thông qua ngày 18 tháng
6 năm 2009. Nghị định số 98/2010/NĐ-CP ngày 21 tháng 9 năm 2010 của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật di sản văn hóa và
150
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật di sản văn hóa. Nghị định số
70/2012/NĐ-CP ngày 18 tháng 9 năm 2012 của Chính phủ quy định thẩm
quyền, trình tự, thủ tục lập, phê duyệt quy hoạch, dự án bảo quản, tu bổ, phục
hồi di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh. Thông tƣ số 18/2012/TT-
BVHTTDL ngày 30 tháng 12 năm 2012 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
quy định chi tiết một số quy định về bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích. Thông
tƣ số 17/2013/TT-BVHTTDL ngày 30 tháng 12 năm 2013 của Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch hƣớng dẫn xác định chi phí lập quy hoạch, dự án, báo cáo
kinh tế - kỹ thuật bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích. Quyết định số 1076/QĐ-
BVHTT ngày 24 tháng 7 năm 2001 của Bộ trƣởng Bộ Văn hóa - Thông tin
phê duyệt quy hoạch tổng thể bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử - văn
hóa và danh lam thắng cảnh đến năm 2020. Chỉ thị số 73/CT-BVHTTDL
ngày 19 tháng 5 năm 2009 của Bộ trƣởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch về
việc tăng cƣờng các biện pháp quản lý di tích và các hoạt động bảo quản, tu
bổ và phục hồi di tích.
Hệ thống văn bản quy phạp pháp luật này đã tạo cơ sở pháp lý cho hoạt
động bảo quản, tu bổ di tích. Đồng thời, đã đề ra những nguyên tắc, có thể coi
nhƣ những định hƣớng cơ bản cho hoạt động bảo quản, tu bổ di tích nói
chung, trong đó có di tích đình làng.
* Về nguyên tắc cơ bản để bảo quản, tu bổ và phát huy giá trị đình
làng ở Gia Lâm:
Nguyên tắc cơ bản là bảo tồn các yếu tố gốc cấu thành di tích, bảo vệ
cấu kiện trong suốt quá trình thi công tu bổ di tích, chỉ thay thế khi thật cần
thiết, vật liệu thay thế phải phù hợp. Vật hiệu mới có thể đƣợc sử dụng nhƣng
ở mức hạn chế và đã đƣợc thử nghiệm. Thành phần, công trình nào không có
cơ sở khoa học để phục dựng phải đƣợc giữ nguyên hoặc phỏng dựng ra một
vị trí mới.
Khi đƣa ra giải pháp khoa học cho việc bảo quản, tu bổ phải tính tới
việc phát huy các giá trị của di tích, để di tích trở thành một trung tâm văn
151
hoá, một điểm đến du lịch của địa phƣơng, trƣớc mắt, tôi xin nêu một vài đề
xuất sau đây:
- Lập dự án bảo quản, tu bổ: Trƣớc hết cần phải đầu tƣ nghiên cứu giải
mã những giá trị ẩn chứa trong di tích, để việc bảo tồn và phát huy giá trị
đƣợc tốt hơn. Dự án bảo quản, tu bổ di tích phải đƣợc lập theo đúng quy định
của pháp luật hiện hành về di sản văn hóa. Nội dung của dự án bảo quản, tu
bổ di tích phải đề xuất đƣợc biện pháp bảo quản, tu bổ, phục hồi yếu tố gốc
của di tích, cảnh quan thiên nhiên, môi trƣờng sinh thái và các yếu tố khác có
liên quan nhằm bảo vệ và phát huy giá trị di tích.
- Cần chú ý bảo quản hơn tu sửa: Việc bảo quản phải đƣợc quan tâm
thƣờng xuyên, phòng ngừa và hạn chế những nguy cơ làm hƣ hỏng mà không
làm thay đổi những yếu tố nguyên gốc vốn có của di tích. Để tránh tình trạng
di tích xuống cấp rồi mới tiến hành các biện pháp tu bổ, việc làm đó sẽ ảnh
hƣởng tới tính nguyên gốc của di tích.
- Mọi công việc bảo quản, tu bổ phải đƣợc thực hiện trên cơ sở khảo
sát, nghiên cứu kỹ lƣỡng theo quy định và không áp dụng các quy định nhƣ
trong xây dựng công trình mới. Việc bảo quản, tu bổ phải đảm bảo nguyên tắc
duy trì bố cục mặt bằng, sự sắp đặt, mối liên hệ giữa các hạng mục công trình
tiêu biểu của di tích với nhau và giữa các hạng mục công trình đó với cảnh
quan xung quanh đã đƣợc định hình qua thời gian.
Tuy nhiên, đối với các di tích kiến trúc gỗ ở Việt Nam, tu bổ là giải
pháp phù hợp nhất, nhƣng cần lƣu ý:
- Hạn chế tối đa mọi sự thay thế, chỉ thay thế khi không còn khả năng
cứu vãn, thay thế bằng vật liệu tƣơng tự vật liệu gốc;
- Giữ lại và tận dụng tối đa các thành phần của cấu trúc bị hƣ hại từng
phần, bằng phƣơng pháp nhồi bít các khoảng trống trong thân gỗ, nối, vá, gắn,
chắp các cấu kiện bị hƣ hỏng từng phần;
- Phải lắp dựng lại hoàn toàn chính xác các đặc điểm cấu tạo và liên kết
vốn có;
152
- Mọi sự thay thế hoặc bổ sung cần phải có trong hồ sơ lƣu trữ.
Trên thực tế quá trình tu bổ thƣờng chuyển sang nội dung công việc
mang tính chất khôi phục từng phần, nhƣ việc khôi phục những thành phần đã
mất hoặc việc loại bỏ những thành phần muộn và xa lạ với di tích. Những
việc này chỉ đƣợc làm hết sức thận trọng, trên cơ sở khoa học khách quan.
Cần đề cao phƣơng châm cứu chữa và duy trì lâu dài di tích là chính
yếu, tránh việc chạy theo bằng mọi giá sự hoàn chỉnh đến cùng, điều dễ dàng
dẫn đến tình trạng làm mất giá trị nguyên gốc của di tích.
Bảo quản, tu bổ di tích phải trở thành lĩnh vực hoạt động khoa học và
thực tiễn chuyên biệt. Bảo quản, tu bổ di tích phải dựa trƣớc tiên vào tri thức,
sau đó là vào phƣơng pháp, sau cùng là vào bàn tay ngƣời nghệ nhân.
Đối với di vật của di tích cần kiểm kê lập danh mục, xác định giá trị
của di vật, cổ vật tại di tích. Có phƣơng án bảo quản cũng nhƣ dự kiến đƣợc
các tình huống có thể xảy ra và cách giải quyết cho tình huống nhằm tạo sự
chủ động trong việc bảo vệ khi có sự cố.
Một vấn đề nữa cũng cần đặt ra là nâng cao về chuyên môn, nghiệp vụ
cho đội ngũ làm công tác tu bổ, đội ngũ làm công tác tu bổ, bảo vệ di tích.
Hiện nay, theo quy định: Tổ chức, cá nhân Việt Nam và nƣớc ngoài tham gia
lập quy hoạch di tích, dự án tu bổ di tích, báo cáo kinh tế - kỹ thuật tu bổ di
tích, thiết kế tu bổ di tích và thi công tu bổ di tích có đủ điều kiện năng lực theo
quy định của pháp luật về xây dựng và có Giấy chứng nhận hành nghề theo quy
định của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
Là một loại hình di tích “sống”, có những giá trị nhất định trong đời
sống thƣờng ngày, nên việc chăm lo bảo quản, tu bổ thƣờng xuyên cho mỗi
ngôi đình nói riêng và các di tích khác nói chung là điều rất cần thiết. Một hƣ
hỏng nhỏ, nếu đƣợc kịp thời sửa chữa sẽ ít tốn kém về kinh phí, tránh sự
xuống cấp nặng nề và kéo dài tuổi thọ cho công trình.
Việc bảo quản, tu bổ phải thực hiện theo đúng quy định và khoa học, với những nguyên tắc cơ bản, phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam.
153
Đối với loại hình xây dựng đặc thù này, việc chỉ định thầu, việc dành quyền thi công cho những đơn vị chuyên môn, am hiểu là hết sức cần thiết.
Bảo tồn và phát huy giá trị di tích là sự nghiệp của toàn dân, gìn giữ, bảo vệ ngôi đình làng là việc chung của cả dân làng, nhƣng nếu việc bảo vệ đó đƣợc thành lập có tổ chức, có sự hƣớng dẫn, tuyên truyền của những ngƣời làm công tác chuyên môn, sẽ tránh đƣợc nhiều sai lầm đáng tiếc trong việc bảo quản, tu bổ di tích. Khi đƣợc giải thích, chắc chắn ngƣời dân sẽ dành kinh phí để bảo quản, tu bổ di tích theo đúng quy định. 3.5. Tiểu kết chƣơng 3
Trong chƣơng này, luận án đã trình bầy khá kỹ những đặc điểm về vị trí xây dựng, quy mô kiến trúc, nghệ thuật điêu khắc trang trí, niên đại xây dựng của đình làng ở Gia Lâm (Hà Nội) thế kỷ XVII – XVIII, sau đó mở rộng sự so sánh những đặc điểm đó trong hệ thống đình làng ở Gia Lâm và hệ thống đình làng Việt Nam (chủ yếu đình làng ở châu thổ Bắc Bộ). Từ đó thấy rõ những đặc điểm chung và riêng của đình làng thông qua cách thức chọn vị trí xây dựng, chọn hƣớng đình. Bên cạnh đó cũng làm rõ những giá trị về quy mô kiến trúc và nghệ thuật điêu khắc trang trí một số đình làng tiêu biểu thế kỷ XVI, XVII, XVIII để thấy đƣợc những đặc điểm chung, tính chất riêng của đình làng ở Gia Lâm thế kỷ XVII – XVIII.
Từ việc nghiên cứu về quy mô kiến trúc, nghệ thuật điêu khắc trang trí, trong chƣơng 3 cũng đã dành một phần đánh giá giá trị về lịch sử và văn hóa của đình làng ở Gia Lâm. Thông qua giá trị về lịch sử và văn hóa của đình làng ở Gia Lâm làm cơ sở cho việc nghiên cứu lịch sử Việt Nam nói chung và lịch sử làng xã Việt Nam dƣới thời Lê, Nguyễn. Đồng thời thấy đƣợc, đình làng ở Gia Lâm là một kho tàng di sản văn hóa.
Phần cuối chƣơng cũng nêu lên sự tác động của đô thị hóa đến các di tích nói chung, đình làng nói riêng. Từ đó đƣa ra các hoạt động trong công tác quản lý di tích cũng nhƣ việc đề xuất định hƣớng bảo tồn và phát huy giá trị của di sản văn hóa nói chung, đình làng nói riêng trong điều kiện hiện nay. Trên cơ sở đó, đề ra nguyên tắc bảo quản, tu bổ và phục hồi di tích theo quy định.
154
KẾT LUẬN
Trên cơ sở những tƣ liệu và kết quả nghiên cứu đình làng thế kỷ XVII – XVIII ở Gia Lâm (Hà Nội) nhƣ đã trình bầy trong luận án, xin đƣợc nêu ra mấy vấn đề sau:
1. Đình làng thế kỷ XVII – XVIII ở Gia Lâm và đình làng Việt Nam dƣới thời Lê trung hƣng là đỉnh cao của nền kiến trúc gỗ. Đó là thời kỳ nở rộ các đình làng từ quy mô kiến trúc đến nghệ thuật điêu khắc trang trí. Kiến trúc đình làng ở Gia Lâm thế kỷ XVII – XVIII xứng đáng là một bộ phận của nền kiến trúc Việt Nam vì qua nó, bản sắc của nền kiến trúc dân tộc đã đƣợc thể hiện một cách hoàn chỉnh nhất ở tất cả các phƣơng diện xử lý không gian, bộ mái, khung gỗ, kết cấu, biểu tƣợng, điêu khắc, trang trí.
2. Đình làng là sản phẩm của một thời kỳ lịch sử, nó thích hợp với tính chất “Uống nƣớc nhớ nguồn’’, một hiện tƣợng mở rộng của tục thờ cúng tổ tiên đã đƣợc ngƣời Việt mà đặc biệt là giới đàn ông nông thôn và tầng lớp Nho sĩ cấp thấp hội tâm, hội lực thúc đẩy cho đến đỉnh cao; mà chúng ta hiểu để bùng nổ vào cuối thế kỷ XVII. Cái chung của đình làng là nó trở về với bản thể của tâm hồn Việt, đi tìm lấy bản sắc dân tộc không bị lệ thuộc vào bất kể một hệ thống tôn giáo du nhập nào từ bên ngoài. Chính các ngôi đình ở Gia Lâm đã cơ bản nằm trong giai đoạn rực rỡ này. Nó đã phản ánh tính chất thờ Thành hoàng làng là ông tổ của cộng đồng làng xã.
3. Nghệ thuật điêu khắc trang trí đình làng Việt Nam từ trƣớc đến nay đã có một lịch sử nghiên cứu khá dày và công phu của nhiều tác giả. Điều này cho thấy sức hấp dẫn và giá trị nghệ thuật điêu khắc đình làng. Bởi lẽ, đình làng là một thiết chế văn hóa tín ngƣỡng manh nha từ thế kỷ XV, định hình vào thế kỷ XVI, đạt đến đỉnh cao vào cuối thế kỷ XVII, đánh dấu một bƣớc phát triển của cơ cấu làng xã cổ truyền, là biểu tƣợng của tính cộng đồng và dân chủ làng xã, là trung tâm văn hóa, nơi tập trung và lƣu truyền các giá trị văn hóa dân tộc, các phong tục tập quán tốt đẹp của cộng đồng làng. Do đó, tác giả luận án đã tiếp cận và nghiên cứu từ góc độ khảo cổ học để làm sáng rõ hơn về quy mô kiến trúc, giá trị nghệ thuật của những mảng chạm khắc đình làng ở Gia Lâm thế kỷ XVII - XVIII. Đồng thời khẳng định, trong quá
155
trình phát triển đầy biến động của lịch sử, nghệ thuật điêu khắc trang trí đình làng là nguồn mạch văn hóa dân tộc, và cho đến ngày nay vẫn còn nguyên giá trị.
4. Bên cạnh những cái chung thì đình làng thế kỷ XVII – XVIII ở Gia Lâm cũng có cái riêng. Đó là niên đại ra đời của những ngôi đình này. Trƣớc hết việc xác định thời gian xây dựng của đình làng Xuân Dục đã góp phần bổ sung vào phần khuyết trong “bƣớc đi” của đình làng đầu thế kỷ XVII. Bên cạnh đó, qua nghiên cứu thấy rằng, trƣớc thời Chính Hòa, ở Gia Lâm đã có nhiều đình làng ra đời. Đây là đặc điểm riêng mà từ trƣớc tới nay chƣa đƣợc quan tâm.
5. Những đề tài trang trí trong nghệ thuật chạm khắc đình làng ở Gia Lâm có những yếu tố ƣớc lệ và yếu tố tả thực. Mặc dù phong phú về nội dung chủ đề và đa dạng về hình thức thể hiện, song có chung đặc trƣng cơ bản: Hồn nhiên, mộc mạc, sinh động trong phản ánh hiện thực, ít hàm chứa những ý nghĩa cao siêu hay những triết lý khó hiểu, đơn giản chỉ là những mô tả về hoạt động lao động sản xuất thƣờng nhật, những sinh hoạt đời thƣờng hay phản ánh ƣớc mong, hi vọng về một cuộc sống tƣơi đẹp.
6. Với những giá trị to lớn của đình làng thế kỷ XVII – XVIII ở Gia Lâm trong diễn trình phát triển của nền văn hóa dân tộc. Do đó, việc bảo tồn và phát huy những giá trị truyền thống này đòi hỏi phải xây dựng các chƣơng trình, đề án, kế hoạch để giới thiệu những giá của nó tới mọi tầng lớp nhân dân và bạn bè quốc tế; đồng thời, đẩy mạnh việc giáo dục cho thế hệ trẻ về những giá trị thẩm mỹ quý giá mà những di tích này đang hàm chứa nhƣ một trong những thông điệp của quá khứ về truyền thống sáng tạo của ông cha muôn đời để lại. Bên cạnh đó cũng cần phải xây dựng đề án nhằm tăng cƣờng công tác quản lý, đầu tƣ tu bổ và phát huy giá trị trong tình hình hiện nay để tránh trƣờng hợp cố tình hoặc vô thức làm “đánh mất” bản sắc văn hóa dân tộc theo tinh thần Nghị quyết Trung ƣơng 5 khóa VIII của Đảng “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”./.
156
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1. Đào Duy Anh (1964), Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb KHXH, Hà Nội.
2. Toan Ánh (1968), Hội hè đình đám, Nxb Lá Bối, Sài Gòn.
3. Nguyễn Bích (1993), Cái đình và điêu khắc đình làng, Kỷ yếu Bảo tàng
Mỹ thuật Việt Nam, Nxb Văn hóa - Thông tin, (số 8), tr. 36-39.
4. Nguyễn Bích (1996), Điêu khắc trang trí đình làng ở Bảo tàng Mỹ thuật
Việt Nam, Tạp chí VHNT (số 6), tr. 32-33.
5. Trƣơng Duy Bích (1984), Điêu khắc đình làng, Tạp chí Văn hóa dân gian
(số 3), tr. 40 - 45.
6. Trần Lâm Biền (1983), Quanh ngôi đình làng - lịch sử, Tạp chí Nghiên
cứu nghệ thuật (số 4), tr. 38- 43, 53.
7. Trần Lâm Biền (1993), Hình tượng con người trong nghệ thuật tạo hình
truyền thống Việt, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội.
8. Trần Lâm Biền (1993), Mỹ thuật thời Mạc, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội.
9. Trần Lâm Biền (1996), Đôi nét về các di tích kiến trúc Việt Nam, Tạp chí
Nghiên cứu Đông Nam Á (số 3), tr. 61-64.
10. Trần Lâm Biền (2000), Một con đường tiếp cận lịch sử, Nxb VHDT, Hà Nội.
11. Trần Lâm Biền (chủ biên) (2001), Trang trí trong mỹ thuật truyền thống
của người Việt, Nxb VHDT – Tạp chí VHNT, Hà Nội.
12. Trần Lâm Biền (2003), Quanh ngôi đình làng - nghệ thuật, Bản tin của
Trung tâm Thiết kế và Tu bổ di tích, Hà Nội, tr. 26-29.
13. Trần Lâm Biền (chủ biên) (2008), Diễn biến kiến trúc truyền thống vùng
châu thổ sông Hồng, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
14. Trần Lâm Biền, Trịnh Sinh (2011), Thế giới biểu tượng trong di sản văn
hóa Thăng Long – Hà Nội, Tủ sách Thăng Long 1000 năm, Nxb Hà Nội,
Hà Nội.
157
15. Trần Lâm Biền - Đào Hùng (1985), Con rồng trong mỹ thuật Việt Nam,
Tạp chí Mỹ thuật (số 2), tr. 47-55.
16. Nguyễn Đức Bình (20026), Nghiên cứu về Mỹ thuật, Nxb Mỹ thuật, Hà
Nội.
17. Cục Bảo tồn bảo tàng và Bảo tàng Hồ Chí Minh (1996), 50 năm bảo tồn
di sản văn hóa dân tộc, Hà Nội, tr. 7.
18. Cục Di sản văn hóa (2005, 2006, 2008, 2010, 2012), Một con đường tiếp
cận lịch sử, 6 tập, Nxb Thế giới và Xây dựng, Hà Nội.
19. Cục Di sản văn hóa (2014), Văn bản quản lý nhà nước về di sản văn hóa,
Hà Nội.
20. Nguyễn Đỗ Cung (1975), Lời tựa cho cuốn sách ảnh Việt Nam điêu khắc
dân gian thế kỷ XVI, XVII, XVIII. Hà Nội.
21. Nguyễn Văn Cƣơng (2000), Về yếu tố đặc sắc của đình làng Bắc Bộ, Tạp
chí VHNT (số 7), tr. 39-42.
22. Nguyễn Văn Cƣơng (2006), Mỹ thuật đình làng Bắc Bộ, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
23. Nguyễn Du Chi (2000), Trên đường tìm về cái đẹp của cha ông, Viện Mỹ
thuật và Nxb Mỹ thuật, Hà Nội.
24. Phan Huy Chú (1992), Lịch triều hiến chương loại chí, 3 tập, Nxb KHXH,
Hà Nội.
25. Nguyễn Đăng Duy (1978), Cái bẩy trong kiến trúc cổ, Tạp chí Nghiên
cứu nghệ thuật (số 5, 6), tr. 47-51.
26. Trần Duy (2002), Cảm luận nghệ thuật, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội.
27. Đại Việt sử lược (1960), Bản dịch, Nxb Văn Sử Địa, Hà Nội.
28. Đại Việt sử ký toàn thư (1998), Bản dịch Ngô Đức Thọ, 3 tập, Nxb
KHXH, Hà Nội.
29. Đình, chùa Tình Quang, lƣu trữ tại Cục Di sản văn hóa, Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch, Hồ sơ số 203.
158
30. Kim Định (1971), Triết lý cái đình, Nxb Lá Bối, Sài Gòn.
31. Lê Văn Hảo (1962), Mở đầu việc nghiên cứu ngôi đình về phương diện
Dân tộc học. Hội những người nghiên cứu Đông Dương. Tập 38, số 1.
Paris (bộ mới). Bản dịch tƣ liệu Viện Khảo cổ học.
32. Phạm Đức Hân (2009), Cụm di tích đình - chùa Hữu Bằng (Hà Tây) kiến
trúc và điêu khắc, Luận văn Thạc sĩ Khoa học Lịch sử.
33. Nguyễn Duy Hinh (1982), Về một số đặc điểm truyền thống của kiến trúc
cổ Việt Nam, Góp phần nghiên cứu bản lĩnh bản sắc dân tộc Việt Nam,
Nxb KHXH, Hà Nội.
34. Nguyễn Duy Hinh (1996), Tín ngưỡng thành hoàng làng Việt Nam, Nxb
KHXH, Hà Nội.
35. Diệp Đình Hoa (chủ biên) (1990), Tìm hiểu làng Việt, Nxb KHXH, Hà Nội.
36. Diệp Đình Hoa (2000), Người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ, Nxb KHXH, Hà Nội.
37. Hội đồng Quốc gia Chỉ đạo Biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam
(2007) Từ điển Bách khoa Việt Nam, Tập 1, A - Đ, Tái bản lần thứ nhất,
Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
38. Nguyễn Văn Huyên (1989), Con voi trong nghệ thuật tạo hình Việt Nam,
Tạp chí Nghiên cứu Văn hóa nghệ thuật (số 1), tr. 43-46.
39. Nguyễn Văn Huyên (1997), Địa lý hành chính Kinh Bắc, Hội Khoa học
lịch sử - Sở Văn hóa Thông tin Bắc Giang.
40. Thanh Hƣơng, Phƣơng Anh (1973, 1976), Hà Bắc ngàn năm văn hiến
(Tập 1, 2), Ty văn hóa Hà Bắc.
41. Nguyễn Hồng Kiên (1986), Đình Tường Phiêu (Hà Nội) một kiến trúc
hiếm ở đầu thế kỷ 17, Những phát hiện mới về khảo cổ học, Nxb KHXH,
Hà Nội, tr. 323-325.
42. Nguyễn Hồng Kiên (1991), Bộ vì nóc của kết cấu nhà khung gỗ cổ truyền
Việt Nam, Tạp chí VHNT (số 2), tr. 24-31.
159
43. Nguyễn Hồng Kiên (1992), Đình làng Việt, Trung tâm Thiết kế và Tu bổ
các công trình văn hoá, Hà Nội, tr. 1-13.
44. Nguyễn Hồng Kiên (1996), Đình làng Việt, Tạp chí Kiến trúc
Việt Nam (số 1), tr. 37-40.
45. Nguyễn Hồng Kiên (1996), Điêu khắc trên kiến trúc cổ truyền Việt, Tạp
chí Kiến trúc Việt Nam (số 2), tr. 40-42.
46. Nguyễn Hồng Kiên (1996), Kiến trúc gỗ cổ truyền Việt, Tạp chí Kiến
trúc (số 3), tr. 36-43.
47. Hồng Kiên (1999), Về mặt bằng những kiến trúc tôn giáo cổ truyền của
người Việt, Tạp chí VHNT (số 11), tr. 48-50.
48. Nguyễn Hồng Kiên (2003), Những ngôi đình làng Việt thế kỷ 16, Luận án
Tiến sĩ khảo cổ học.
49. Hoàng Đạo Kính (2012), Văn hóa kiến trúc, Nxb Tri thức, Hà Nội.
50. Tạ Quốc Khánh (2005), Đình làng Hạ Hiệp (Hà Tây) kiến trúc và điêu
khắc, Luận văn Thạc sĩ Khoa học Lịch sử.
51. Nguyễn Đăng Khoa (1989), Con người và tạo hình chạm khắc đình - đền
- chùa, Tạp chí Nghiên cứu văn hóa nghệ thuật (số 1), tr. 37-42.
52. Nguyễn Thị Ngọc Lan, Nguyễn Thế Cƣờng (2003), Kiến trúc cổ Trung
Quốc, Nxb TP HCM.
53. Trần Lâm - Hồng Kiên (1987), Diễn biến của các loại hình kiến trúc cổ
Việt Nam, Tạp chí Kiến trúc (số 2, 3), tr. 42-50.
54. Nguyễn Bá Lăng (1968), Cổ tích và danh thắng tỉnh Sơn Tây, Việt Nam
khảo cổ tập san (số 5).
55. Hoàng Linh (1979), Nhân đọc bài: Cái bẩy trong kiến trúc cổ Việt Nam
Bẩy và Kẻ, Tạp chí Nghiên cứu nghệ thuật, (số 4), tr. 57-57.
56. Bình Nguyễn Lộc (1971), Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam, Nxb
Lá Bối, Sài Gòn.
160
57. Ngô Quang Nam (1998), Hỏi đáp về văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa, Hà
Nội.
58. Hoàng Phê (Chủ biên) (2003), Từ điển tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học
Nxb Đà Nẵng, Trung tâm Từ điển học, Hà Nội - Đà Nẵng.
59. Nguyễn Hải Phong (2002), “ Một số đồ án trang trí trong nghệ thuật cổ
Việt Nam”, Kỷ yếu hội thảo ứng dụng, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội.
60. Nguyễn Quân, Phan Cẩm Thƣợng (1989), Mỹ thuật của người Việt, Nxb
Mỹ thuật, Hà Nội.
61. Nguyễn Quân, Phan Cẩm Thƣợng (1991), Mỹ thuật ở làng, Nxb Mỹ
thuật, Hà Nội.
62. Quốc sử quan triều Nguyễn (1997), Đại Nam nhất thống chí, 5 tập, Bản
dịch Viện Sử học, Nxb Thuận Hóa.
63. Quốc sử quan triều Nguyễn (1998), Khâm định Việt sử thông giám cương
mục, Bản dịch Viện Sử học, 2 tập, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
64. Ngô Huy Quỳnh (1986), Tìm hiểu kiến trúc Việt Nam, Nxb Xây dựng, Hà Nội.
65. Ngô Huy Quỳnh (1986), Kiến trúc Việt Nam, Nxb TP HCM.
66. Hà Văn Tấn - Nguyễn Văn Cự (1998), Đình Việt Nam, Nxb TP HCM.
67. Hà Văn Tấn (1999), Bài bia của Trương Hán Siêu và vấn đề phong Thành
hoàng, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử (số 1), tr. 42-50.
68. Hà Văn Tấn (chủ biên) (2002), Khảo cổ học Việt Nam, tập III, Khảo cổ
học lịch sử Việt Nam, Nxb KHXH, Hà Nội.
69. Hà Văn Tấn (2005), Đến với lịch sử - văn hóa Việt Nam, Nxb Hội nhà
văn, Hà Nội.
70. Phan Xuân Thành (2002), Đình Võ Liệt trong bối cảnh đình làng Nghệ
An, Luận án Tiến sĩ Khoa học lịch sử.
71. Trần Đình Thọ (1973) và các tác giả, Về tính dân tộc của nghệ thuật tạo
hình. Nxb Văn hóa, Hà Nội.
72. Nguyễn Đăng Thục (1973), Văn hóa đình làng, Tập san tƣ tƣởng (số 7).
161
73. Tiêu chuẩn quốc gia (2014), Di sản văn hóa và các vấn đề liên quan-thuật
ngữ và định nghĩa chung, xuất bản lần 1, Hà Nội.
74. Phan Cẩm Thƣợng, Văn minh vật chất của người Việt, Nxb Tri thức, Hà
Nội.
75. Tống Trung Tín (1987), Vật liệu kiến trúc Việt Nam, trong 10 thế kỷ sau
Công nguyên, Tạp chí KCH (số 4), tr. 45-60.
76. Tống Trung Tín (1997), Nghệ thuật điêu khắc Việt Nam thời Lý và thời
Trần (thế kỷ 11-14), Nxb KHXH, Hà Nội.
77. Nguyễn Anh Tuấn, Nguyễn Mạnh Cƣờng (1995), Đình làng-tính hai mặt
và quá trình biến đổi, Tạp chí KCH (số 3), tr. 62-68.
78. Nguyễn Anh Tuấn (1996), Cụm đình Tam Canh trong hệ thống đình làng
ở Vĩnh Phú, Luận án Phó tiến sĩ Khoa học lịch sử.
79. Nguyễn Quốc Tuấn (1992), Thờ cúng Thành hoàng làng Việt ở Bắc bộ:
Nhận thức nguồn gốc, Tạp chí Nghiên cứu văn hóa nghệ thuật (số 1), tr. 16-
18.
80. Nguyễn Quốc Tuấn (1992), Thờ cúng Thành hoàng làng Việt ở Bắc bộ:
Nhận thức nguồn gốc, Tạp chí Nghiên cứu văn hóa nghệ thuật (số 2), tr.
43-45.
81. Nguyễn Khắc Tụng (1981), Về cái Kẻ và cái Bẩy, T/c KCH (số 4), tr. 66-68.
82. Trần Từ (1984), Cơ cấu tổ chức của làng người Việt cổ truyền ở Bắc Bộ,
Nxb KHXH, Hà Nội.
83. Trịnh Cao Tƣởng (1979), Đình làng Phù Lão - Hà Bắc trong nền cảnh
đình làng Bắc bộ, Luận án Phó Tiến sĩ Khoa học lịch sử.
84. Trịnh Cao Tƣởng (1981), Kiến trúc đình làng, T/c KCH (số 2), tr. 56-64.
85. Trịnh Cao Tƣởng (1982), Đình làng - điểm lại bước đi ban đầu, Tạp chí
Nghiên cứu nghệ thuật (số 1), tr. 41-51.
86. Trịnh Cao Tƣởng (1982), Kiến trúc đình làng - Hình tượng, Tạp chí
Nghiên cứu nghệ thuật (số 2), tr. 36-41,62.
162
87. Trịnh Cao Tƣởng (1985), Cây thước tầm trong nền kiến trúc cổ Việt Nam,
Tạp chí KCH (số 2), tr. 57-62.
88. Trịnh Cao Tƣởng (2008), Về những dấu mã hóa trên cây thước tầm trong
nền kiến trúc cổ Việt Nam, Tạp chí DSVH (số 3), tr. 99-102.
89. Nông Thành - Quốc Vụ (2010), Thử giải mã một số đề tài chạm khắc trên
đình Chu Quyến, Tạp chí DSVH (số 3), tr. 70-74.
90. Nguyễn Đức Thiềm (1980), Tìm hiểu về cấu trúc gian - vì kèo trong nhà ở
truyền thống của người Việt, Tạp chí Dân tộc học (số 2), tr. 49-53.
91. Nguyễn Đức Thiềm (1983), Đóng góp vào việc nghiên cứu nghệ thuật
kiến trúc đình làng miền Bắc, Tạp chí Dân tộc học (số 2), tr. 33-38.
92. Nguyễn Đức Thiềm (1987), Tìm hiểu truyền thống kiến trúc dân gian và kinh
nghiệm xây dựng cổ truyền, Tạp chí Nghiên cứu văn hóa (số 2), tr. 57-68.
93. Đinh Khắc Thuân (2002), Văn bia và đình làng thế kỷ XVI, XVII, Tạp chí
VHNT (số 6), tr. 62-68, 73.
94. Phan Cẩm Thƣợng (1997), Điêu khắc cổ Việt Nam, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội.
95. Chu Quang Trứ (1999), Kiến trúc dân gian truyền thống Việt, Nxb Mỹ
thuật, Hà Nội.
96. Chu Quang Trứ (2002), Văn hóa Việt Nam nhìn từ Mỹ Thuật, tập 1, Nxb
Mỹ thuật, Hà Nội.
97. Trƣờng Đại học Mỹ thuật Hà Nội - Viện Mỹ thuật (2000), Bản rập họa
tiết Mỹ thuật cổ Việt Nam, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội.
98. Trƣờng Đại học Mỹ thuật Việt Nam (2013), Đình làng vùng châu thổ Bắc
Bộ, Nxb Thế giới, Hà Nội.
99. Thái Bá Vân (1976), Điêu khắc đình làng, Tạp chí Nghiên cứu nghệ
thuật (số 4), tr. 69-75.
100. Thái Bá Vân (1997), Tiếp xúc với nghệ thuật, Nxb Bản đồ, Hà Nội.
101. Viện Nghệ thuật (1976), Nghệ thuật chạm khắc cổ Việt Nam (qua các bản
rập), Hà Nội.
163
102. Viện Sử học (1977 - 1978), Nông thôn Việt Nam trong lịch sử, 2 tập, Nxb
KHXH, Hà Nội.
103. Lê Quốc Vụ (2006), Đình Xuân Dục - Một kiến trúc được xác nhận vào
thế kỷ XVII, Tạp chí DSVH (số 4), tr. 52-55.
104. Lê Quốc Vụ (2008), Về ba bài bị đặc biệt của đình Ngọc Động (xã Đa
Tốn, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội), Tạp chí DSVH (số 3), tr. 73-75.
105. Lê Quốc Vụ (2015), Đình Tình Quang, kiến trúc và điêu khắc, Luận văn
Thạc sĩ Khoa học lịch sử.
106. Trần Quốc Vƣợng (1998), Việt Nam cái nhìn địa - văn hoá, Nxb VHDT –
Tạp chí VHNT, Hà Nội.
107. Trần Quốc Vƣợng (2000), Văn hoá Việt Nam - tìm tòi và suy ngẫm, Nxb
VHDT – Tạp chí VHNT, Hà Nội.
108. Trần Quốc Vƣợng – chủ biên (1997), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
Tài liệu tiếng Pháp
109. Clayes J.Y. Introduction à l’estude L’ Annam et Cham. Paris 1934.
110. Giran P. Magie et Religions Annamites. BEFEO. No 1912.
111. Gourou P. Le Paysan du delta Tonkin. Paris 1936.
112. Louis Bezacier (1954), L’Art Viêtnamien, Éditions De L’Union Francaise,
3, Rue Blaise - Desgoffe - Paris - VI.
113. Louis Bezacier (1955), L’Art Vietnamien . Paris. 114. Nguyen Van Huyen, Contribution à l’étude de l’habita tion sur pilotis
dans le sus – est Asiatique. 1934.
115. Nguyen Van Khoan. Essai sur le Dinh et le culte du genie tutélaire
annamite – Ly Phuc Man. BEFEO XXXVIII, 1938.
164
PHỤ LỤC I BẢN ĐỒ
Bản đồ số 1: Bản đồ huyện Gia Lâm – Hà Nội (Nguồn: Cổng thông tin điện tử thành phố Hà Nội)
165
PHỤ LỤC II BẢN ẢNH
Bản ảnh số 1: Cổng đình Xuân Dục Nguồn: tác giả
166
Bản ảnh số 2: Đình Xuân Dục (Toàn cảnh phía trƣớc) Nguồn: tác giả Bản ảnh số 3: Đình Xuân Dục (Toàn cảnh phía sau) Nguồn: tác giả
167
Bản ảnh số 6: Trang trí trên xà nách gian đốc phía trƣớc đình Xuân Dục (Đề tài: vân xoắn)
Bản ảnh số 5: Trang trí trên cốn phía sau đình Xuân Dục (Đề tài: tiên múa)
Nguồn: tác giả
Nguồn: tác giả Bản ảnh số 4: Kết cấu vì nóc đình Xuân Dục Nguồn: tác giả
168
Bản ảnh số 7: Trang trí “Cánh gà” gian giữa phía sau đình Xuân Dục (Đề tài: tiên cƣỡi rồng) Nguồn: tác giả Bản ảnh số 8: Trang trí “Cánh gà” gian cạnh phía sau đình Xuân Dục (Đề tài: tiên cƣỡi rồng) Nguồn: tác giả
169
Bản ảnh số 10: Trang trí đầu dƣ gian cạnh đình Xuân Dục (Đề tài: rồng). Nguồn: tác giả
Bản ảnh số 11: Trang trí diệp thƣợng gian cạnh đình Xuân Dục (Đề tài: rồng)
Nguồn: tác giả
Bản ảnh số 9: Kết cấu cốn, kẻ phía sau đình Xuân Dục Nguồn: tác giả
Bản ảnh số 12: Trang trí “Cánh gà” gian cạnh đình Xuân Dục (Đề tài: tiên cƣỡi rồng)
Nguồn: tác giả
170
Bản ảnh số 13: Trang trí ván gió hậu gian cạnh đình Xuân Dục (Đề tài: cá chép hóa rồng). Nguồn: tác giả
Bản ảnh số 14: Trang trí ván gió hậu gian cạnh đình Xuân Dục (Đề tài: cá chép hóa rồng). Nguồn: tác giả
Bản ảnh số 15: Trang trí ván gió hậu gian cạnh đình Xuân Dục (Đề tài: cá chép hóa rồng chầu tiên múa). Nguồn: tác giả Bản ảnh số 16: Trang trí thân kẻ đình Xuân Dục (Đề tài: rồng)
Nguồn: tác giả Bản ảnh số 17: Sắc phong Cảnh Trị thứ 8 (1671) đình Xuân Dục (Đề tài: rồng). Nguồn: tác giả
171
Bản ảnh số 24: Đình Công Đình (Toàn cảnh phía trƣớc) Nguồn: tác giả Bản ảnh số 25: Đình Công Đình (Toàn cảnh phía đầu hồi) Nguồn: tác giả
172
Bản ảnh số 26: Trang trí góc mái đình Công Đình (đề tài lân, lá lật, hoa chanh) Nguồn: tác giả Bản ảnh số 27: Kết cấu vì nóc gian giữa đình Công Đình Nguồn: tác giả
Bản ảnh số 29: Kết cấu cốn gian giữa phía trƣớc đình Công Đình Nguồn: tác giả Bản ảnh số 28: Kết cấu cốn gian giữa phía sau đình Công Đình Nguồn: tác giả
173
Bản ảnh số 31: Trang đầu dƣ gian giữa đình Công Đình (Đề tài: đầu rồng).Nguồn: tác giả
Bản ảnh số 30: Lòng câu đầu gian giữa đình Công Đình (Ghi niên đại khởi dựng năm Cảnh Trị thứ 6 (1668). Nguồn: tác giả
Bản ảnh số 32: Trang trí cửa võng gian giữa đình Công Đình (Đề tài: lƣỡng long chầu hổ phù) Nguồn: tác giả
Bản ảnh số 33: Trang trí “Cánh gà” gian giữa đình Công Đình (Đề tài: đầu rồng). Nguồn: tác giả Nguồn: tác giả
174
Bản ảnh số 35: Trang trí kẻ phía sau gian cạnh đình Công Đình Nguồn: tác giả
Bản ảnh số 36: Trang trí cốn góc phía sau đình Công Đình Nguồn: tác giả Bản ảnh số 34: Trang trí đầu dƣ, “Cánh gà” gian giữa đình Công Đình (Đề tài: đầu rồng) Nguồn: tác giả
175
Bản ảnh số 37: Trang trí kẻ hiên gian giữa đình Công Đình
Bản ảnh số 38: Bia đá đình Công Đình (Thế kỷ XVII) Nguồn: tác giả
Bản ảnh số 39: Bia đá “Hậu thần bi ký” đình Công Đình (Cảnh Hƣng thứ 3 – 1742)
Nguồn: tác giả
Nguồn: tác giả
176
Bản ảnh số 49: Đình Tình Quang (Toàn cảnh phía trƣớc) Nguồn: tác giả Bản ảnh số 50: Đình Tình Quang (Đầu hồi khi giải hạ) Nguồn: tác giả
177
Bản ảnh số 53: Trang trí đầu dƣ gian đốc đình Tình Quang (Đề tài: đầu rồng ngoảng vào)
Bản ảnh số 52: Trang trí đầu dƣ gian giữa đình Tình Quang (Đề tài: đầu rồng)
Nguồn: tác giả Nguồn: tác giả Bản ảnh số 51: Kết cấu cốn gian đốc đình Tình Quang Nguồn: tác giả
178
Bản ảnh số 55: Trang trí dƣờng trên cốn gian giữa đình Tình Quang (Đề tài: đao lá, cúc)
Bản ảnh số 56: Trang trí dƣờng trên cốn gian giữa đình Tình Quang (Đề tài: ngƣời cƣỡi đầu thú)
Nguồn: tác giả Nguồn: tác giả
Bản ảnh số 54: Trang trí trên cốn đình Tình Quang (Đề tài: Tiên cƣỡi rồng) Nguồn: tác giả
179
Bản ảnh số 58: Trang trí trên cốn gian giữa đình Tình Quang (Đề tài: lân, rồng, tiên cƣỡi rồng)
Bản ảnh số 60: Trang trí trên nghé gian giữa đình Tình Quang (Đề tài: đầu rồng)
Bản ảnh số 59: Trang trí trên cốn gian giữa đình Tình Quang (Đề tài: Lân)
Bản ảnh số 57: Trang trí trên cốn gian giữa đình Tình Quang (Đề tài: rồng ổ) Nguồn: tác giả Nguồn: tác giả
Bản ảnh số 61: Trang trí trên cốn gian cạnh đình Tình Quang (Đề tài: Lân)
Bản ảnh số 62: Trang trí trên cốn gian cạnh đình Tình Quang (Đề tài: Lân)
Nguồn: tác giả Nguồn: tác giả
Nguồn: tác giả Nguồn: tác giả
180
Bản ảnh số 64: Trang trí trên kẻ hiên gian cạnh đình Tình Quang (Đề tài: đao, vân xoắn)
Bản ảnh số 63: Trang trí trên kẻ hiên gian cạnh đình Tình Quang (Đề tài: phƣợng)
Nguồn: tác giả
Bản ảnh số 65: Trang trí trên kẻ hiên gian cạnh đình Tình Quang (Đề tài: lân)
Bản ảnh số 65: Trang trí trên kẻ hiên gian giữa đình Tình Quang (Đề tài: trúc hóa long)
Nguồn: tác giả
Nguồn: tác giả
Bản ảnh số 66: Lăng đá tại đình Tình Quang (Thế kỷ 18) Nguồn: tác giả
Nguồn: tác giả
Bản ảnh số 67: Bia đá tại đình Tình Quang (Thế kỷ 17) Nguồn: tác giả
181
Bản ảnh số 97: Đình Thanh Am (Toàn cảnh phía trƣớc) Nguồn: tác giả
Bản ảnh số 98: Đình Thanh Am (Toàn cảnh phía đầu hồi) Nguồn: tác giả
182
Bản ảnh số 99: Kết cấu vì nóc đình Thanh Am Nguồn: tác giả
Bản ảnh số 100: Kết cấu và trang trí cốn phía trƣớc gian cạnh đình Thanh Am (Đề tài: cụm vân, lá lật) Nguồn: tác giả
183
Bản ảnh số 102: Trang trí đầu dƣ phía trƣớc gian giữa đình Thanh Am (Đề tài: đầu rồng)
Nguồn: tác giả
Bản ảnh số 101: Trang trí cốn phía trƣớc gian giữa đình Thanh Am (Đề tài: rồng).
Nguồn: tác giả
Bản ảnh số 103: Trang trí đầu dƣ phía sau gian cạnh đình Thanh Am (Đề tài: đầu rồng).
Bản ảnh số 104: Trang trí nghé phía trƣớc gian giữa đình Thanh Am (Đề tài: đầu rồng).
Nguồn: tác giả
Bản ảnh số 106: Trang trí kẻ phía trƣớc gian cạnh đình Thanh Am (Đề tài: tứ linh). Nguồn: tác giả
Bản ảnh số 105: Trang trí kẻ phía trƣớc gian giữa đình Thanh Am (Đề tài: lá lật).
Nguồn: tác giả
Nguồn: tác giả
184
Bản ảnh số 119: Trang trí đầu dƣ đình Thụy Phiêu (Đề tài: rồng). Nguồn: Đình làng vùng châu thổ Bắc Bộ, Nxb. Thế giới
Bản ảnh số 118: Trang trí Lân trên rƣờng vì nóc đình Thụy Phiêu. Nguồn: Đình làng vùng châu thổ Bắc Bộ, Nxb. Thế giới
Bản ảnh số 122: Trang trí ván cốn vì nóc đình Lỗ Hạnh (Đề tài: tiên cƣỡi rồng). Nguồn: Đình làng vùng châu thổ Bắc Bộ, Nxb. Thế giới
Bản ảnh số 123: Trang trí ván cốn vì nóc đình Tây Đằng (Đề tài: tiên cƣỡi rồng). Nguồn: Đình làng vùng châu thổ Bắc Bộ, Nxb. Thế giới
Bản ảnh số 120: Trang trí ván cốn vì nóc đình Thụy Phiêu (Đề tài: tiên cƣỡi rồng). Nguồn: Đình làng vùng châu thổ Bắc Bộ, Nxb. Thế giới Bản ảnh số 121: Trang trí ván cốn vì nóc đình Lỗ Hạnh (Đề tài: phƣợng). Nguồn: Đình làng vùng châu thổ Bắc Bộ, Nxb. Thế giới
185
Bản ảnh số 125: Trang trí vì nách đình Thổ Hà (Đề tài: tiên cƣỡi rồng). Nguồn: Đình làng vùng châu thổ Bắc Bộ, Nxb. Thế giới
Bản ảnh 124: Trang trí trụ đấu vì nách đình Tây Đằng (Đề tài: ngƣời cầm rắn). Nguồn: Đình làng vùng châu thổ Bắc Bộ, Nxb. Thế giới
Bản ảnh số 127: Trang trí “cánh gà” đình Thanh Lũng (Đề tài: rồng). Nguồn: Đình làng vùng châu thổ Bắc Bộ, Nxb. Thế giới
Bản ảnh số 126: Trang trí vì nách đình Thổ Hà (Đề tài: tiên cƣỡi rồng, tiên cƣỡi phƣợng). Nguồn: Đình làng vùng châu thổ Bắc Bộ, Nxb. Thế giới
186
Bản ảnh số 129: Trang trí rƣờng vì nách đình Chu Quyến (Đề tài: ngƣời bám râu rồng). Nguồn: Đình làng vùng châu thổ Bắc Bộ, Nxb. Thế giới
Bản ảnh 128: Trang trí kẻ hiên đình Chu Quyến (Đề tài: thú). Nguồn: Đình làng vùng châu thổ Bắc Bộ, Nxb. Thế giới
Bản ảnh số 131: Trang trí vì nách đình Dục Tú (Đề tài: rồng). Nguồn: Đình làng vùng châu thổ Bắc Bộ, Nxb. Thế giới
Bản ảnh số 130: Trang trí “Cánh gà” đình Dƣ Hàng, Hải Phòng (Đề tài: rồng). Nguồn: Đình làng vùng châu thổ Bắc Bộ, Nxb. Thế giới
187
Bản ảnh số 19: Trang trí “Cánh gà” gian cạnh phía trƣớc đình Xuân Dục (Đề tài: rồng).
Bản ảnh số 18: Trang trí “Cánh gà” gian cạnh phía sau đình Xuân Dục (Đề tài: rồng).
Bản ảnh số 21: Trang trí cốn gian giữa phía sau đình Xuân Dục (Đề tài: mai hóa long, ban thờ).
Bản ảnh số 20: Trang trí cốn gian cạnh phía sau đình Xuân Dục (Đề tài: tùng hóa long). Nguồn: Tác giả
Nguồn: Tác giả Nguồn: Tác giả
Bản ảnh số 22: Trang trí cốn gian giữa phía sau đình Xuân Dục (Đề tài: hồi văn lá lật).
Nguồn: Tác giả
tu sửa
Bản ảnh số 23: Chân tảng kê cột hiên phía trƣớc đình thời Xuân Dục Nguyễn (Giáp Tuất niên: 1934).
Nguồn: Tác giả
Nguồn: Tác giả
188
PHỤ LỤC III BẢN VẼ KIẾN TRÚC
Bản vẽ số 1: Bản vẽ mặt bằng kiến trúc đình Xuân Dục Nguồn: Công ty cổ phần Nguyễn An
189
Bản vẽ số 2: Mặt đứng trục 1-12 đình Xuân Dục Nguồn: Công ty cổ phần Nguyễn An
Bản vẽ số 3: Mặt đứng trục M-A đình Xuân Dục Nguồn: Công ty cổ phần Nguyễn An
190
Bản vẽ số 4: Mặt cắt 1-1 đình Xuân Dục Nguồn: Công ty cổ phần Nguyễn An
Bản vẽ số 5: Mặt cắt 2-2 đình Xuân Dục Nguồn: Công ty cổ phần Nguyễn An
191
Bản vẽ số 6: Bản vẽ mặt bằng kiến trúc đình Công Đình Nguồn: Công ty cổ phần xây dựng và tôn tạo công trình văn hóa
192
Bản vẽ số 7: Mặt cắt 1-1 đình Công Đình Nguồn: Công ty cổ phần xây dựng và tôn tạo công trình văn hóa
Bản vẽ số 8: Mặt cắt 2-2 đình Công Đình Nguồn: Công ty cổ phần xây dựng và tôn tạo công trình văn hóa
193
Bản vẽ số 9: Mặt đứng trục 1 đình Công Đình Nguồn: Công ty cổ phần xây dựng và tôn tạo công trình văn hóa
Bản vẽ số 10: Mặt đứng trục A đình Công Đình Nguồn: Công ty cổ phần xây dựng và tôn tạo công trình văn hóa
194
Bản vẽ số 11: Bản vẽ mặt bằng kiến trúc đình Tình Quang Nguồn: Công ty cổ phần đầu tƣ - xây dựng công trình văn hóa và đô thị
195
Bản vẽ số 12: Bặt cắt A-A đình Tình Quang Nguồn: Công ty cổ phần đầu tƣ - xây dựng công trình văn hóa và đô thị
Bản vẽ số 13: Mặt cắt B-B đình Tình Quang Nguồn: Công ty cổ phần đầu tƣ - xây dựng công trình văn hóa và đô thị
196
Bản vẽ số 14: Bản vẽ mặt bằng kiến trúc đình Trân Tảo Nguồn: Công ty cổ phần tu bổ di tích và thiết bị văn hóa Trung ƣơng
197
Bản vẽ số 15: Mặt đứng đình Trân Tảo Nguồn: Công ty cổ phần tu bổ di tích và thiết bị văn hóa Trung ƣơng
Bản vẽ số 16: Mặt bên đình Trân Tảo Nguồn: Công ty cổ phần tu bổ di tích và thiết bị văn hóa Trung ƣơng
198
Bản vẽ số 17: Chi tiết vì trục 6' đình Trân Tảo Nguồn: Công ty cổ phần tu bổ di tích và thiết bị văn hóa Trung ƣơng
Bản vẽ số 18: Chi tiết vì trục C8-5 đình Trân Tảo Nguồn: Công ty cổ phần tu bổ di tích và thiết bị văn hóa Trung ƣơng
199
Bản vẽ số 19: Bản vẽ mặt bằng kiến trúc đình Thanh Am Nguồn: Công ty cổ phần xây dựng và phục chế công trình văn hóa
200
Bản vẽ số 20: Mặt đứng trục 1-16 đình Thanh Am Nguồn: Công ty cổ phần xây dựng và phục chế công trình văn hóa
Bản vẽ số 21: Mặt đứng trục A-N đình Thanh Am Nguồn: Công ty cổ phần xây dựng và phục chế công trình văn hóa
201
Bản vẽ số 22: Mặt cắt 1-1 đình Thanh Am Nguồn: Công ty cổ phần xây dựng và phục chế công trình văn hóa
Bản vẽ số 23: Mặt cắt 2-2 đình Thanh Am Nguồn: Công ty cổ phần xây dựng và phục chế công trình văn hóa
202
PHỤ LỤC 4: BẢNG THỐNG KÊ MỘT SỐ ĐÌNH LÀNG Ở GIA LÂM
CÓ THÔNG TIN TƢ LIỆU XÂY DỰNG VÀO THẾ KỶ XVII - XVIII
Tên di tích/xã,
Nhân vật đƣợc thờ
Một số thông tin xác định niên đại
STT
phƣờng, thị trấn
xây dựng
Đình Ngọc Động,
Ba anh em họ Đào
Hiện còn 03 ngai, bài vị có niên
1
xã Đa Tốn
(tƣớng
của Hai Bà
đại cuối thế kỷ XVII
Trƣng)
Đình Thuận Tốn,
Bát Bộ Ma vƣơng, Đại
Một số đầu dƣ ở Đại đình có niên
2
xã Đa Tốn
Ma vƣơng
đại thế kỷ XVIII
Đình Lê Xá,
Đào Tam Lang
Còn 01 ngai, 01 kiệu bát cống có
3
xã Đa Tốn
niên đại đầu thế kỷ XVIII
Đình Tế Xuyên,
Đỗ Trung (danh tƣớng
Cờn 01 bia đá “Hậu thần bi ký’’
4
xã Đình Xuyên
nhà Trần)
có niên đại Chính Hòa thứ 13
(1692)
Đình Ninh Giang,
Nguyễn Nộn
Đại đình còn giữ gần nguyên vẹn
kết cấu kiến trúc khởi dựng và
xã Ninh Hiệp
5
trên câu đầu còn ghi rõ niên đại
Cảnh Trị thứ 5 (1667)
Đình Phú Viên,
Linh Lang
Còn lân đá niên đại đầu thế kỷ
6
phƣờng Bồ Đề
XVIII
Đình Thổ Khối,
Linh Lang, Cao Sơn,
Còn 6 ngai, 6 bài vị, 6 kiệu bát
7
phƣờng Cự Khối
Bạch Đa, Dị Mệ, Bố Cái,
cống niên đại cuối thế kỷ XVII
Đào Thành hoàng
Đình Xuân Đỗ Hạ,
Khoả Ba Sơn, Lâu Ly
Còn tấm bia “Hậu thần bi ký:
8
phƣờng Cự Khối
niên đại Vĩnh Tộ (1619 – 1628)
Đình Mai Phúc,
Xuân Vinh, Luân Nƣơng Còn đôi chân đền thời Mạc Diên
9
phƣờng Phúc Đồng
Thành thứ 7 (1583)
203