BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ VIỆN DƯỢC LIỆU

BÙI THỊ THU HÀ NGHIÊN CỨU TÁC DỤNG KHÁNG U THỰC NGHIỆM CỦA RỄ CỦ TAM THẤT (PANAX NOTOGINSENG (BURK.) F.H. CHEN, ARALIACEAE) TRỒNG Ở VIỆT NAM TRƯỚC VÀ SAU CHẾ BIẾN LUẬN ÁN TIẾN SĨ DƯỢC HỌC

HÀ NỘI, NĂM 2022

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ VIỆN DƯỢC LIỆU

BÙI THỊ THU HÀ NGHIÊN CỨU TÁC DỤNG KHÁNG U THỰC

NGHIỆM CỦA RỄ CỦ TAM THẤT (PANAX

NOTOGINSENG (BURK.) F.H. CHEN, ARALIACEAE)

TRỒNG Ở VIỆT NAM TRƯỚC VÀ SAU CHẾ BIẾN

LUẬN ÁN TIẾN SĨ DƯỢC HỌC CHUYÊN NGÀNH: DƯỢC LÝ – DƯỢC LÂM SÀNG MÃ SỐ: 972.02.05 Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Vũ Mạnh Hùng

GS. TS. Nguyễn Thanh Hải

HÀ NỘI, NĂM 2022

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan

Luận án “Nghiên cứu tác dụng kháng u thực nghiệm của rễ củ Tam thất

(Panax notoginseng (Burk.) F.H. Chen, Araliaceae) trồng ở Việt Nam trước và sau

chế biến” là công trình nghiên cứu của tôi với sự hướng dẫn khoa học của tập thể

thầy hướng dẫn.

Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và được công bố trong

các bài báo khoa học của nhóm nghiên cứu. Luận án chưa từng được công bố,

không trùng lặp với luận văn, luận án hoặc bất kỳ công trình nghiên cứu khoa học

của các tác giả nào khác. Nếu có điều gì sai tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Hà Nội, ngày 25 tháng 7 năm 2022

Tác giả

Bùi Thị Thu Hà

LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình thực hiện Luận án này, tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp

đỡ, động viên từ các thầy cô giáo, các đồng nghiệp, gia đình và bạn bè.

Lời đầu tiên, tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Thầy hướng dẫn

PGS. TS. Vũ Mạnh Hùng - nguyên Chủ nhiệm Bộ môn Dược lý, Học viện Quân y

và GS. TS. Nguyễn Thanh Hải - Phó Hiệu trưởng trường Đại học Y Dược, Đại học

Quốc gia Hà Nội, đã hết lòng hướng dẫn, chỉ bảo, định hướng, giúp đỡ tôi ngay từ

những ngày đầu tiên trong quá trình học tập, nghiên cứu và thực hiện luận án.

Tôi xin trân trọng cảm ơn các cán bộ, nhân viên Khoa phân tích-tiêu chuẩn,

Viện Dược liệu; các cán bộ, kỹ thuật viên Bộ môn Dược lý - Học viện Quân y, đã

hết lòng giúp đỡ, tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho tôi trong quá trình học tập,

công tác.

Tôi xin trân trọng cảm ơn Lãnh đạo Viện Dược liệu, Thủ trưởng Bệnh viện

19-8 và Bệnh viện Y học Cổ truyền - Bộ Công an đã tạo mọi điều kiện thuận lợi

cho tôi trong quá trình học tập và thực hiện luận án.

Từ đáy lòng mình, xin cảm ơn gia đình, cảm ơn chồng, các con, bố mẹ hai

bên cùng toàn thể gia đình đã luôn tin tưởng, động viên, chia sẻ, ủng hộ và giúp đỡ

trong mọi lúc, mọi nơi.

Xin cảm ơn tất cả những người thân, bạn bè, đồng nghiệp đã ủng hộ, giúp đỡ

tôi trong quá trình thực hiện luận án này.

Xin trân trọng cảm ơn!

Bùi Thị Thu Hà

MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT

DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU

DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ

ĐẶT VẤN ĐỀ ....................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1 ........................................................................................................... 3

TỔNG QUAN ........................................................................................................ 3

1.1. TỔNG QUAN VỀ BỆNH UNG THƯ ........................................................... 3

1.1.1. Tình hình ung thư trên thế giới và Việt Nam ........................................... 3

1.1.2. Ung thư với đáp ứng miễn dịch ................................................................. 4

1.2. TỔNG QUAN VỀ TAM THẤT .................................................................. 11

1.2.1. Tổng quan thực vật................................................................................... 11

1.2.2. Hóa thực vật rễ củ Tam thất .................................................................... 14

1.2.3. Các tác dụng dược lý của Tam thất ......................................................... 16

1.2.3.1. Tác dụng chống ung thư ........................................................................ 16

1.2.3.2.Tác dụng tăng cường miễn dịch .............................................................. 18

1.2.3.3. Tác dụng chống oxy hóa và bảo vệ tế bào gan ....................................... 19

1.2.3.4. Các tác dụng khác .................................................................................. 21

1.3. TỔNG QUAN VỀ CÁC MÔ HÌNH THỰC NGHIỆM ĐÁNH GIÁ TÁC

DỤNG KHÁNG U .............................................................................................. 22

1.3.1. Các mô hình nghiên cứu in vitro .............................................................. 22

1.3.2. Các mô hình nghiên cứu in vivo ............................................................... 26

CHƯƠNG 2 ........................................................................................................ 31

CHẤT LIỆU, ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ..................... 31

2.1. CHẤT LIỆU VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU ........................................ 31

2.1.1. Chất liệu nghiên cứu ................................................................................. 31

2.1.2.Đối tượng nghiên cứu ................................................................................ 35

2.1.3. Thiết bị, dụng cụ, hóa chất sử dụngtrong nghiên cứu ............................ 35

2.1.3.1. Thiết bị, dụng cụ sử dụng trong nghiên cứu .............................................. 35

2.1.3.2. Hóa chất sử dụng trong nghiên cứu .......................................................... 37

2.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............................................................... 39

2.2.1. Nghiên cứu ảnh hưởng của phương pháp chế biến bằng hấp nhiệt đến

hàm lượng saponin của rễ củ Tam thất............................................................. 39

2.2.1.1. Chiết xuất, phân lập và xác định cấu trúc các saponin chính có trongcác

mẫu Tam thất hấp và không hấp. ....................................................................... 39

2.2.1.2. Nghiên cứu sự biến đổi hàm lượng hoạt chất trong Tam thất trước và sau khi

hấp ở các điều kiện khác nhau bằng phương pháp sắc ký lỏng hiệu năng cao (HPLC).

............................................................................................................................. 40

2.2.1.3. Định lượng hàm lượng saponin trong 2 mẫu cao NP(O) và NP(H) bằng HPLC

............................................................................................................................. 42

2.2.2. Nghiên cứu tác dụng kháng u thực nghiệm của các dạng cao định lượng

và một số saponin phân lập từ rễ củ Tam thất. ................................................ 42

2.2.2.1. Đánh giá tác dụng kháng u của 6 saponin đã phân lập và cao định lượng

NP(O), NP(H) trên một số dòng tế bào ung thư người ....................................... 42

2.2.2.2. Đánh giá khả năng gây độc tế bào và khả năng kích thích chết tế bào

theo chương trình (apoptosis) của cao định lượng NP(H) trên dòng tế bào ung

thư mô liên kết chuột sarcoma TG180. ............................................................... 44

2.2.2.3. Nghiên cứu tác dụng ức chế phát triển u của các cao định lượng NP(H)

và NP(O) trên chuột nhắt trắng mang khối u rắn sarcoma TG 180. .................. 48

2.2.2.4. Đánh giá tác dụng của các cao định lượng NP(H) và NP(O) lên hệ miễn

dịch của chuột mang khối u rắn sarcoma TG180. .............................................. 50

2.2.2.5. Đánh giá tác dụng chống oxy hoá của các cao định lượng NP(H) và

NP(O) trên chuột mang khối u rắn sarcoma TG180. ......................................... 52

2.2.2.6. Xác định thời gian sống thêm của chuột mang khối u rắn sarcoma TG180. 53

2.2.3. Đánh giá độc tính cấp, độc tính bán trường diễn của cao định lượng

NP(H)……………………………………………………………………………...54

2.2.3.1. Đánh giá độc tính cấp của cao định lượng NP(H) trên chuột nhắt trắng

............................................................................................................................. 54

2.2.3.2. Đánh giá độc tính bán trường diễn của cao định lượng NP(H) trên chuột

cống trắng. ........................................................................................................... 55

2.3. XỬ LÝ SỐ LIỆU ......................................................................................... 56

2.4. ĐỊA ĐIỂM, THỜI GIAN NGHIÊN CỨU .................................................. 56

CHƯƠNG 3 ......................................................................................................... 59

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ................................................................................... 59

3.1. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của phương pháp chế biến đến hàm lượng

saponin của rễ củ Tam thất ............................................................................... 59

3.1.1. Kết quả chiết xuất, phân lập và xác định cấu trúc các saponin chính có

trong các mẫu Tam thất hấp và không hấp ...................................................... 59

3.1.1.1. Phân lập các saponin từ rễ củ Tam thất (dược liệu không xử lý hấp) ... 59

3.1.1.2. Phân lập các saponin rễ Tam thất sau khi hấp ở nhiệt độ cao .............. 61

3.1.1.3. Đặc trưng vật lý và dữ liệu phổ các hợp chất phân lập được ................. 64

3.1.1.4. Biện giải cấu trúc các hợp chất phân lập từ rễ củ Tam thất .................. 72

3.1.2. Kết quả nghiên cứu sự biến đổi hàm lượng hoạt chất trong Tam thất khi hấp

ở các điều kiện khác nhau bằng phương pháp sắc ký lỏng hiệu năng cao (HPLC)

……………………………………………………………………………...78

3.1.2.1. Lựa chọn điều kiện sắc ký ...................................................................... 78

3.1.2.2. Xây dựng đường chuẩn .......................................................................... 79

3.1.2.3. Kết quả định lượng các saponin chính từ Tam thất hấp ở các điều kiện khác

nhau ..................................................................................................................... 82

3.1.3. Hiệu suất chiết cao và kết quả định lượnghàm lượng saponin trong 2

mẫu cao định lượng NP(O) và NP(H) bằng HPLC. ......................................... 86

3.1.3.1. Hiệu suất chiết cao từ các mẫu dược liệu .............................................. 86

3.1.3.2. Định lượng các mẫu cao chiết ................................................................ 87

3.2. Kết quả nghiên cứu tác dụng kháng u thực nghiệm của các dạng cao định

lượng và một số saponin phân lập từ rễ củ Tam thất. .......................................... 88

3.2.1. Kết quả đánh giá tác dụng kháng u của 6 saponin đã phân lập và cao

định lượng NP(O), NP(H) trên một số dòng tế bào ung thư người ................. 88

3.2.2. Kết quả đánh giá khả năng gây độc tế bào và khả năng kích thích chết tế

bào theo chương trình (apoptosis) của cao định lượng NP(H) trên dòng tế bào

ung thư mô liên kết chuột sarcoma TG180. ...................................................... 91

3.2.2.1. Kết quả đánh giá khả năng gây độc tế bào của cao định lượng NP(H) . 91

3.2.2.2. Kết quả đánh giá khả năng kích thích chết tế bào theo chương trình

(apoptosis) của cao định lượng NP(H) trên dòng tế bào ung thư mô liên kết

chuột sarcoma TG180. ........................................................................................ 94

3.2.3. Kết quả nghiên cứu tác dụng kháng u của các cao định lượng NP(H) và

NP(O) trên chuột nhắt trắng mang khối u rắn sarcoma TG 180..................... 97

3.2.3.1. Kết quả tạo mô hình khối u sarcoma TG 180 trên chuột ....................... 97

3.2.3.2. Ảnh hưởng của cao định lượng NP(H) và NP(O) đến trọng lượng cơ thể

của chuột mang khối u rắn sarcoma TG 180. ..................................................... 98

3.2.3.3. Ảnh hưởng của cao định lượng NP(H) và NP(O) đến sự phát triển khối

u rắn sarcoma TG 180. ........................................................................................ 99

3.2.4. Kết quả đánh giá tác dụng của cao định lượng NP(H) và NP(O) lên miễn

dịch trên chuột mang khối u rắn Sarcoma TG180 ......................................... 103

3.2.4.1. Kết quả đánh giá số lượng và công thức bạch cầu trong máu chuột .. 103

3.2.4.2. Kết quả đánh giá nồng độ IL-2 và TNF-α máu. ................................... 104

3.2.4.3. Kết quả đánh giá một số chỉ tiêu huyết học .......................................... 105

3.2.4.4. Kết quả đánh giá cân nặng của lách và tuyến ức . ............................... 107

3.2.5. Kết quả đánh giá tác dụng chống oxy hóa củacao định lượngNP(H) và

NP(O)trên chuột mang khối u rắn sarcoma TG 180. ..................................... 108

3.2.5.1. Hàm lượng MDA, GSH, SOD và CAT trong gan chuột mang khối u rắn

sarcoma TG180. ................................................................................................ 108

3.2.5.2. Hoạt độ các enzym ALT, AST trong máu chuột mang khối u rắn

sarcoma TG180. ................................................................................................ 110

3.2.5.3. Ảnh hưởng của cao định lượng NP(H) và NP(O) đối với hình thái đại

thể và vi thể của gan chuột trên chuột mang khối u rắn sarcoma TG 180. ...... 111

3.3.6. Kết quả đánh giá tác dụng kéo dài thời gian sống thêm của cao định

lượng NP(H) và NP(O) trên chuột mang khối u rắn sarcoma TG 180. ......... 113

3.4. Kết quả đánh giá độc tính của cao định lượng NP(H) ............................. 116

3.4.1. Kết quả xác định độc tính cấp (LD50) của NP(H) ................................ 116

3.4.2. Kết quả đánh giá độc tính bán trường diễn của NP(H) ........................ 117

CHƯƠNG 4 ....................................................................................................... 126

BÀN LUẬN ....................................................................................................... 126

4.1. Về ảnh hưởng của phương pháp chế biến hấp nhiệt đến hàm lượng các

saponin của rễ củ Tam thất ............................................................................. 128

4.1.1. Hàm lượng saponin của Tam thất chưa hấp ......................................... 128

4.1.2. Hàm lượng saponin của Tam thất sau hấp ........................................... 129

4.1.3. Ảnh hưởng của các điều kiện hấp nhiệt đến hàm lượng saponin của rễ củ

Tam thất ............................................................................................................ 130

4.2. Về tác dụng kháng u thực nghiệm của các dạng cao định lượng và một số

saponin phân lập từ rễ củ Tam thất. ............................................................... 132

4.2.1. Về tác dụng kháng u của 6 saponin đã phân lập và cao định lượng

NP(O), NP(H) trên một số dòng tế bào ung thư người ................................... 132

4.2.2. Về kết quả đánh giá khả năng kích thích chết tế bào theo chương trình

(apoptosis) của cao định lượng NP(H) trên dòng tế bào ung thư mô liên kết

chuột sarcoma TG180. ..................................................................................... 134

4.2.3. Về kết quả nghiên cứu tác dụng kháng u của các cao định lượng NP(H)

và NP(O) trên chuột nhắt trắng mang khối u rắn sarcoma TG 180. ............. 136

4.2.3.1. Về mô hình nghiên cứu ........................................................................ 136

4.2.3.2. Về liều dùng của cao định lượng NP(H) và NP(O).............................. 138

4.2.4. Về tác dụng của cao định lượng NP(H) và NP(O) lên miễn dịch trên

chuột mang khối u rắn Sarcoma TG180 ......................................................... 141

4.2.5. Về kết quả đánh giá tác dụng chống oxy hóa trên chuột mang khối u rắn

sarcoma TG 180................................................................................................ 145

4.2.6. Về tác dụng kéo dài thời gian sống thêm của chuột mang khối u rắn

sarcoma TG 180................................................................................................ 147

4.3. Về kết quả đánh giá độc tính của cao định lượng NP(H). ....................... 153

4.3.1. Về độc tính cấp của cao định lượng NP(H). .......................................... 153

4.3.2. Về độc tính bán trường diễn của cao định lượng NP(H). ..................... 154

KẾT LUẬN ........................................................................................................ 159

KIẾN NGHỊ ....................................................................................................... 161

TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT

STT Viết tắt Viết đầy đủ tiếng nước ngoài Viết đầy đủ tiếng Việt

1 ALT Alanine aminotransferase

2 AST Aspartate aminotransferase

3 AKP Alkaline Phosphatase

4 CAT Catalase

5 CC Column chromatography Sắc kí cột

6 CHO Cholesterol

7 ĐCSH Đối chứng sinh học

7 ESI-MS Electron Spray Ionization Mass Spectrometry Phổ khối lượng phun mù điện tử

8 GC Gas Chromatography Sắc kí khí

9 GSH Glutathione reductase

10 HLD High-density lipoprotein cholesterol Cholesterol trọng lượng phân tử cao

11 HE Haematoxylin and eosin

Performance Liquid 12 HPLC Sắc kí lỏng hiệu năng cao High Chromatography

13 IL-2 Interleukin-2

14 IR Infra red Phổ hồng ngoại

15 LD50 Lethal dose, 50% Liều gây chết trung bình

16 LDL Low-density lipoprotein cholesterol Cholesterol trọng lượng phân tử thấp

17 LTN Lô uống thuốc tham chiếu

18 MDA Malondialdehyde

Histocompatibility 19 MHC Major Complex Phức hợp kháng nguyên phù hợp tổ chức của người

20 MP Melting point Điểm nóng chảy

21 MS Mass spectrometry Khối phổ

22 NK Natural killer cell Tế bào tiêu diệt tự nhiên

23 NMR Nuclear magnetic resonance Phổ cộng hưởng từ hạt nhân

24 OA Oleanolic acid

25 OD Optical Density Mật độ quang học

26 OT Otillol

27 PPD Protopanaxadiol

28 ROS Reactive oxygen species

29 SL Lô chứng sinh lý

30 SOD Superoxide dismutase

31 SRB Sulforhodamine B

32 TC Triglycerid

33 TCL Cytotoxic T lymphocyte Tế bào T gây độc

34 TLCT Trọng lượng cơ thể

35 TG Total Cholesterol Cholesterol toàn phần

36 TLC Thin Layer Chromatography Sắc ký lớp mỏng

37 TNF α Tumor necrosis factor Yếu tố hoại tử khối u

38 UT Lô gây u không điều trị

39 UV-VIS Ultraviolet-Visible Tử ngoại – Khả kiến

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Trang

Bảng 1.1 Thống kê tóm tắt năm 2020 về tình hình ung thư tại Việt Nam 4

Bảng 2.1 Dải nồng độ thử nghiệm của chế phẩm NP(H) 45

Bảng 2.2 46

Sơ đồ thí nghiệm đánh giá khả năng kích thích apoptosis của NP(H) trên dòng tế bào ung thư mô liên kết chuột sarcoma TG 180

Bảng 2.3 Thang đánh giá hiệu lực kháng u của H. Itokawa 50

Bảng 3.1 60 Kết quả thu được sau khi tiến hành sắc kí cột thô của cắn n- BuOH

Bảng 3.2 64

Bảng 3.3

Bảng 3.4. Một số tính chất vật lý, dữ kiện phổ khối của các hợp chất PN1-PN6 Dữ kiện phổ 1H và 13C-NMR của các hợp chất PN1, PN2, PN6 64 Dữ kiện phổ 1H và 13C-NMR của các hợp chất PN3, PN4, PN5 68

Bảng 3.5 Kết quả xây dựng đường chuẩn. 80

Bảng 3.6 82

Bảng 3.7 83

Bảng 3.8 84

Bảng 3.9 85 Kết quả định lượng saponin trong mẫu Tam thất khô, hấp ở mức nhiệt 1000C tại các thời điểm hấp khác nhau Kết quả định lượng saponin trong mẫu Tam thất tươi, hấp ở mức nhiệt 100°C tại các thời điểm hấp khác nhau Kết quả định lượng saponin trong mẫu Tam thất khô, hấp ở mức nhiệt 120°C tại các thời điểm hấp khác nhau Kết quả định lượng saponin trong mẫu Tam thất tươi, hấp ở 120°C tại các thời điểm hấp khác nhau

Bảng 3.10 Hiệu suất chiết cao từ các mẫu dược liệu 87

Bảng 3.11 88

Bảng 3.12 89

Bảng 3.13 94 Hàm lượng các saponin trong 2 mẫu cao định lượng NP(O) và NP(H) (Mean ± SD) IC50 của 6 mẫu saponin và 2 cao định lượng NP(O), NP(H) trên 6 dòng tế bào ung thư người đã được thử nghiệm Tỷ số tăng sinh (A%) và giá trị IC50 các mẫu nghiên cứu trên dòng Sarcoma TG 180

Bảng 3.14 Tỷ lệ % tế bào Apoptosis Bảng 3.15 Tỷ lệ tế bào Appotosis sớm 95 96

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 3.16 Tỷ lệ tế bào Appotosis muộn Trang 97

Bảng 3.17 98

Bảng 3.18 99 Trọng lượng cơ thể chuột và thể tích khối u trong giai đoạn gây u (5 ngày đầu). (Mean ± SD, n =10) Trọng lượng cơ thể chuột trong giai đoạn uống thuốc (Mean ± SD, n =10)

Bảng 3.19 100

Bảng 3.20 102

Thể tích trung bình khối u của chuột trong giai đoạn uống thuốc (từ ngày 7 đến ngày 21) (Mean ± SD, n =10) Hiệu lực kháng u tại ngày 21 sau tiêm gây u ở các lô điều trị (n =10) Số lượng và công thức bạch cầu chuột (Mean ± SD, n =10) Bảng 3.21 104

Bảng 3.22 105 Kết quả đánh giá nồng độ IL-2 và TNF-α máu (n = 10, Mean ± SD)

106

x

Bảng 3.23 Kết quả đánh giá một số chỉ tiêu huyết học (n = 10, ± SD)

Bảng 3.24 107 Cân nặng tương đối của lách và tuyến ức chuột các lô chuột nghiên cứu (n = 10, Mean ± SD)

Hàm lượng MDA, GSH, SOD và CAT trong mô gan chuột Bảng 3.25 109 (n = 10, Mean ± SD)

Bảng 3.26 Hoạt độ các enzym ALT, AST trong máu chuột (n = 10) Bảng 3.27 110 113

Bảng 3.28 115

Số chuột sống sót ở các lô nghiên cứu Thời gian sống trung bình (n = 20, Mean ± SD) và thời gian sống kéo dài thêm của chuột (%) Bảng 3.29 Độc tính cấp theo đường uống của NP(H) Bảng 3.30 Trọng lượng cơ thể chuột ở các lô nghiên cứu 116 117

Bảng 3.31 118

Bảng 3.32 119 Ảnh hưởng của cao định lượng NP (H) đối với các chỉ số của hồng cầu Ảnh hưởng của cao định lượng NP (H) đối với số lượng bạch cầu và số lượng tiểu cầu

Bảng 3.33 Ảnh hưởng của NP (H) đối với hoạt độ enzym AST và ALT Bảng 3.34 Ảnh hưởng của NP (H) đối với nồng độ albumin máu Bảng 3.35 Ảnh hưởng của NP (H) đối với nồng độ cholesterol máu Bảng 3.36 Ảnh hưởng của NP(H) đối với nồng độ creatinin máu 120 121 121 122

DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ ĐỒ THỊ

Trang

Hình 1.1 Một số hình ảnh về Tam thất Lào Cai (tự chụp) 13

Hình 1.2 Sơ đồ sự biến đổi các saponin của Tam thất do hấp nhiệt 15

Hình 1.3 Các đặc điểm phân tích chết tế bào theo chương trình (Apoptosis) 24

Hình 2.1 Mẫu Tam thất khô, hấp ở 100ºC (A) 31

Hình 2.2 Mẫu Tam thất khô, hấp ở 120ºC (B) 32

Hình 2.3 Mẫu Tam thất tươi, hấp ở 100ºC (C) 32

Hình 2.4 Mẫu Tam thất tươi, hấp ở 120ºC (D) 32

Cao định lượng NP(O) và cao định lượng NP (H) Hình 2.5 33

Các saponin phân lập từ Tam thất Hình 2.6 34

Hình 2.7 49 Khối u ở đùi chuột tạo ra sau cấy ghép dòng tế bào ung thư sarcoma TG 180

Hình 3.1 61 Sơ đồ phân lập các hợp chất 1,2,3,4 từ Tam thất không hấp

Hình 3.2 Sơ đồ phân lập các hợp chất 5,6 từ Tam thất hấp nóng 63

Hình 3.3 74

Các hợp chất phân lập từ thân rễ Tam thất (PN1, PN2, PN6) và phổ HMBC chọn lọc của hợp chất PN1 Các hợp chất phân lập từ thân rễ Tam thất (P. notoginseng) (PN3, Hình 3.4 78 PN4, PN5) và phổ HMBC chọn lọc của hợp chất PN4

Hình 3.5 79 Sắc ký đồ một số mẫu dịch chiết Tam thất

Hình 3.6 Đồ thị biểu diễn đường chuẩn của các saponin đối chiếu 81

Hình 3.7 86

Đồ thị biểu diễn sự biến đổi hàm lượng Rh1 và Rg3 theo thời gian trong 4 điều kiện khảo sát Sắc ký đồ các cao Tam thất 87

Hình 3.8 Hình 3.9 Hình thái tế bào Sarcoma TG 180 91

Hình 3.10 92 Hình thái tế bào Sarcoma TG 180 dưới tác dụng của cao định lượng NP(H) và thuốc chứng dương Taxol tại thời điểm 48 giờ

Hình 3.11 Hình ảnh mô bệnh học khối u sarcoma TG 180 ở đùi chuột. 103

DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ ĐỒ THỊ

Trang

111

112

114

Hình 3.12 Hình ảnh đại thể gan chuột ở các lô nghiên cứu Hình 3.13 Hình ảnh vi thể gan chuột ở các lô nghiên cứu (HE x 400) Hình 3.14 Biểu đồ tỷ lệ chuột sống sót theo thời gian Hình 3.15 Hình ảnh đại thể gan, lách, thận của chuột ở các lô nghiên cứu 123

Hình 3.16 Hình ảnh vi thể gan của chuột ở các lô nghiên cứu 123

Hình 3.17 Hình ảnh vi thể lách của chuột ở các lô nghiên cứu 124

Hình 3.18 Hình ảnh vi thể thận của chuột ở các lô nghiên cứu 124

Hình 4.1 Sơ đồ biến đổi một số saponin trong Tam thất 130

ĐẶT VẤN ĐỀ

Ung thư và bệnh tim mạch là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trên thế

giới, trong đó ung thư đang dần có xu hướng vượt bệnh tim mạch trở thành nguyên

nhân hàng đầu gây tử vong sớm ở hầu hết các quốc gia [1]. Theo thống kê của Cơ

quan nghiên cứu ung thư quốc tế, năm 2020 ước tính thế giới có 19,3 triệu ca ung

thư mới và gần 10 triệu ca tử vong do ung thư [2]. Tại Việt Nam, trong năm 2020

ước tính số ca ung thư mới là 182563 (0,19 % dân số) và số người chết ước tính là

122690 (0,13% dân số) [3]. Gánh nặng ung thư ở Việt Nam đã tăng gấp ba lần

trong 30 năm qua [4]. Do tính chất ác tính của bệnh, những tác dụng phụ của hóa

trị liệu và xạ trị, giá thành cao của các thuốc điều trị ung thư, việc điều trị ung thư

là một gánh nặng lớn cho bệnh nhân, gia đình và xã hội.

Tam thất (Panax notoginseng) từ lâu được biết đến là một dược liệu quý với

công năng chủ yếu là tán ứ, hoạt huyết, chỉ huyết [5]. Tam thất còn có tên kim bất

hoán, nhân sâm tam thất, sâm tam thất. Tên kim bất hoán (vàng không đổi), ý nói là

vị thuốc Tam thất rất quý, vàng cũng không thể đổi được [6]. Các nghiên cứu dược

lý hiện đại đã chứng minh Tam thất có nhiều tác dụng quý trong điều trị ung thư,

rối loạn tim mạch, huyết ứ, giảm viêm, phù nề và giảm đau...[7]. Tác dụng chống

ung thư của các hoạt chất trong Tam thất gần đây được quan tâm nghiên cứu, cho

thấy tiềm năng tốt trong điều trị ung thư [8], [9]. Đặc biệt, một số tác giả báo cáo

việc hấp hơi rễ Tam thất làm tăng hoạt tính chống ung thư [10], [11], [12].

Ở Việt Nam, cây Tam thất đã được di thực từ những năm 1964 từ Trung

Quốc. Cây được nhập trồng ở tỉnh Hà Giang, Cao Bằng, Lào Cai nhưng chưa được

quan tâm phát triển nên dược liệu Tam thất ở nước ta vẫn chủ yếu nhập từ Trung

Quốc. Là một trong những cây thuốc quan trọng của vùng Tây Bắc, Tam thất gần

đây đang được quan tâm và khôi phục lại việc trồng trọt và phát triển ở một số vùng

dược liệu trong nước, đặc biệt là ở huyện Si Ma Cai, tỉnh Lào Cai. Việc nghiên cứu

tác dụng định hướng điều trị ung thư của dược liệu quý này góp phần nâng cao giá

1

trị và tạo đầu ra cho dược liệu Tam thất trồng tại vùng Tây Bắc Việt Nam. Hơn

nữa, thực tế về gánh nặng điều trị bệnh ung thư hiện nay rất cần những sản phẩm từ

dược liệu có hiệu quả tốt trong điều trị ung thư, ít tác dụng phụ, giá thành phù hợp.

Cho đến nay, chưa có nghiên cứu một cách bài bản, có hệ thống về các thông số

trong quá trình hấp hơi nóng tác động đến hàm lượng các saponin và các hoạt tính

định hướng điều trị ung thư của Tam thất trồng tại Việt Nam.

Từ thực tế trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu tác

dụng kháng u thực nghiệm của rễ củ Tam thất (Panax notoginseng, (Burk.)

F.H. Chen, Araliaceae) trồng ở Việt Nam trước và sau chế biến”, với mục tiêu:

1. Nghiên cứu ảnh hưởng của phương pháp chế biến hấp nhiệt đến hàm

lượng saponin của rễ củ Tam thất.

2. Nghiên cứu tác dụng kháng u thực nghiệm của các dạng cao định lượng

và một số saponin phân lập từ rễ củ Tam thất.

3. Đánh giá độc tính cấp, độc tính bán trường diễn của cao định lượng sau

hấp nhiệt.

2

CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN

1.1. TỔNG QUAN VỀ BỆNH UNG THƯ

1.1.1. Tình hình ung thư trên thế giới và Việt Nam

Ung thư được xếp là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu và là rào cản quan

trọng đối với việc tăng tuổi thọ ở mọi quốc gia trên thế giới [1]. Theo thống kê của

Cơ quan Nghiên cứu Ung thư Quốc tế [2], trên toàn thế giới ước tính có khoảng

19,3 triệu trường hợp ung thư mới (18,1 triệu trường hợp không bao gồm ung thư

da không tế bào hắc tố) và gần 10 triệu trường hợp tử vong do ung thư (9,9 triệu

trường hợp không bao gồm ung thư da không phải ung thư biểu mô) xảy ra vào

năm 2020. Ung thư vú đã vượt qua ung thư phổi là loại ung thư được chẩn đoán

phổ biến nhất, với ước tính có khoảng 2,3 triệu ca mới (11,7%), tiếp theo là ung thư

phổi (11,4%), đại trực tràng (10,0%), tuyến tiền liệt (7,3%) và dạ dày (5,6%). Ung

thư phổi vẫn là nguyên nhân gây tử vong do ung thư hàng đầu, với ước tính 1,8

triệu ca tử vong (18%), tiếp theo là ung thư đại trực tràng (9,4%), gan (8,3%), dạ

dày (7,7%) và ung thư vú ở nữ (6,9%). Gánh nặng ung thư toàn cầu dự kiến sẽ là

28,4 triệu ca vào năm 2040, tăng 47% so với năm 2020, với sự gia tăng lớn hơn ở

các quốc gia đang phát triển (64% lên 95%) so với các quốc gia phát triển (32% lên

56%). Sự đa dạng bất thường của bệnh ung thư tiếp tục cung cấp bằng chứng cho

những nguyên nhân cơ bản nhưng cũng củng cố nhu cầu về nỗ lực ngày càng leo

thang trên toàn cầu để kiểm soát căn bệnh này [13], [14].

Tại Việt Nam, gánh nặng ung thư đã tăng gấp ba lần trong 30 năm qua và tình

trạng này có thể được giải thích một phần là do sự gia tăng của các yếu tố nguy cơ cũ và

mới [4], [15]. Bên cạnh virus viêm gan B, nhiều yếu tố nguy cơ quan trọng khác như

virus u nhú ở người, sử dụng thuốc lá, lười vận động và chế độ ăn uống không hợp lý

vẫn chưa được kiểm soát ở Việt Nam. Tại Việt Nam, trong năm 2020 ước tính số ca

ung thư mới là 182563 (0,19% dân số), và số người chết ước tính là 122690 (0,13% dân

số) [3]. Những ung thư mắc tỷ lệ cao là ung thư gan, ung thư phổi, ung thư vú, ung thư

dạ dày, ung thư đại tràng và ung thư tiền liệt tuyến (Bảng 1.1).

3

Bảng 1.1. Thống kê tóm tắt năm 2020 tình hình ung thư tại Việt Nam

(nguồn Global Cancer Observatory -Vietnam Population fact sheets [3])

Nam Nữ Cả 2 giới

Dân số 48 598 254 48 740 329 97 338 583

Số ca ung thư mới mắc 98 916 83 647 182 563

Tỷ lệ mắc được chuẩn hóa theo độ tuổi (thế giới) 191,5 135,5 159,7

Nguy cơ phát triển ung thư trước 75 tuổi (%) 19,5 13,6 16,3

Số ca chết do ung thư 74481 48209 122690

Tỷ lệ chết được chuẩn hóa theo độ tuổi (thế giới) 144,5 74,8 106,0

Nguy cơ chết ung thư trước 75 tuổi (%) Số ca hiện mắc trong 5 năm 15,0 162 822 8,0 191 004 11,2 353 826

Gan Vú Gan

5 loại ung thư có số ca mắc cao nhất ngoại trừ ung thư da không hắc tố Phổi Phổi Phổi

Dạ dày Đại tràng Vú

Đại tràng Dạ dày Dạ dày

Tiền liệt tuyến Gan Đại tràng

1.1.2. Ung thư với đáp ứng miễn dịch

Hệ miễn dịch là hàng rào bảo vệ cơ thể trước bất kỳ một kẻ lạ mặt nào xuất

hiện trong cơ thể, bao gồm vi khuẩn, virus, nấm, ký sinh trùng, hóa chất, thức ăn,

cũng những tế bào do cơ thể sinh ra như tế bào ung thư [16].

Đáp ứng miễn dịch là một quá trình bảo vệ quan trọng và phức tạp của cơ thể

sinh vật. Ở người, đáp ứng miễn dịch chia hai loại: đáp ứng miễn dịch bẩm sinh và

đáp ứng miễn dịch thích ứng. Miễn dịch bẩm sinh (innate immunity) là khả năng tự

bảo vệ sẵn có và mang tính di truyền trong các cơ thể cùng một loài. Cơ thể loại trừ

các kháng nguyên (vi khuẩn, virus…) gây bệnh thông qua hàng rào vật lý, hoá học,

tế bào, thể chất. Miễn dịch thích ứng (adaptive immunity) là trạng thái miễn dịch

xuất hiện do kháng thể đặc hiệu tương ứng với từng kháng nguyên được tạo ra sau

khi cơ thể tiếp xúc với kháng nguyên (KN). Miễn dịch thích ứng gồm hai phương

4

thức là đáp ứng miễn dịch dịch thể do các tế bào lympho B đảm nhiệm với các

globulin miễn dịch và đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào do tế bào lympho T

đảm nhiệm với các cytokin do chúng tiết ra [16], [17].

Kháng nguyên ung thư cũng như các kháng nguyên khác, khi có mặt trong cơ

thể sẽ chịu sự kiểm soát của hệ thống miễn dịch. Mặc dù một số ung thư có thể lẩn

tránh sự kiểm soát này nhưng phần lớn ung thư có đáp ứng miễn dịch [18]. Cả đáp

ứng miễn dịch bẩm sinh và đáp ứng miễn dịch thích ứng đều liên quan tới kiểm soát

miễn dịch ung thư [17]. Với đáp ứng miễn dịch bẩm sinh, các tế bào miễn dịch có khả

năng ly giải các tế bào ung thư một cách tự nhiên mà không cần mẫn cảm trước. Các

tế bào hiệu ứng miễn dịch tự nhiên gồm đại thực bào, tiểu thực bào và tế bào tiêu diệt

tự nhiên NK (nature killer), có thể gây độc tế bào làm cho tế bào ung thư ly giải hoặc

bị kìm hãm, ức chế sự phát triển [17]. Với đáp ứng miễn dịch thích ứng, cả đáp ứng

miễn dịch trung gian tế bào và miễn dịch dịch thể đều có hiệu quả kháng u [18]. Đáp

ứng miễn dịch dịch thể có thể tham gia vào phá hủy các tế bào u thông qua sự hoạt hóa

bổ thể và gây độc tế bào phụ thuộc kháng thể bởi các tế bào NK. Trong khi đó, tế bào

T gây độc (cytotoxic T lymphocyte - hay gọi tắt là TCL) có vai trò quan trọng trong

đáp ứng miễn dịch tế bào chống ung thư. Ở người, chúng giữ vai trò bảo vệ chống lại

các u gây nên do virus, ví dụ như u lympho Burkitt do Epstein-Barr virus (EBV) và

các u do human papilloma virus (HPV). TCL nhận biết kháng nguyên trên bề mặt tế

bào ung thư nhờ phức hợp kháng nguyên phù hợp tổ chức của người (Major

Histocompatibility Complex - MHC). Các protein MHC hiện diện trên bề mặt tế bào

ung thư là mục tiêu để tế bào lympho T nhận biết kháng nguyên và tiêu diệt tế bào ung

thư. Như vậy TCL và tế bào ung thư phải có cùng MHC. Khả năng đáp ứng miễn dịch

của Tc đối với ung thư đều có đáp ứng lần 2, vì sau một lần mẫn cảm bởi kháng

nguyên ung thư sẽ hình thành TCL trí nhớ. Vì vậy ở những lần sau, khả năng gây độc

của TCL tăng nhanh hơn lần đầu [19].

5

Hiện nay, liệu pháp miễn dịch ung thư (Cancer imunotherapy, CI), là kỹ

thuật kích thích hệ miễn dịch của cơ thể chống lại các tế bào ác tính, đang là một

trong những biện pháp điều trị mở ra nhiều triển vọng. Liệu pháp miễn dịch ung

thư có thể được thực hiện thông qua thuốc chủng ngừa vaccine ung thư, điều trị

bằng kháng thể hoặc sử dụng các cytokine kích hoạt các tế bào miễn dịch như tế

bào tiêu diệt tự nhiên (tế bào NK), tế bào T gây độc, tế bào tua (DC)...để giúp hệ

thống miễn dịch tiêu diệt được tế bào ung thư. Thay vì nhắm trực tiếp để tiêu diệt tế

bào ung thư, liệu pháp CI có thể tạo ra khả năng cho tế bào miễn dịch của cơ thể

tấn công chống lại tế bào ung thư [19].

Bên cạnh đó, nhiều dược liệu có tác dụng điều hòa miễn dịch và khả năng

kích hoạt hệ thống miễn dịch, giúp cơ thể chống lại các bệnh đa yếu tố như ung thư

đang ngày càng được quan tâm nghiên cứu [20], [21]. Nhiều dược liệu được chứng

minh có tác dụng tăng cường đáp ứng miễn dịch chống ung thư, cả đối với miễn

dịch bẩm sinh và miễn dịch thích ứng. Đối với miễn dịch bẩm sinh, dược liệu được

chứng minh có tác dụng làm tăng cường đại thực bào (macrophages), tế bào tua

(dendritic cells), tế bào giết tự nhiên (natural killer) và tế bào ức chế có nguồn gốc

từ tuỷ bào (myeloid-derived suppressor cells – MDSCs), giúp cơ thể chống lại các

mầm bệnh và tế bào khối u bên ngoài, ngăn chặn sự phát triển và di căn của tế bào

ung thư. Đối với miễn dịch thích ứng, dược liệu được chứng minh có tác dụng tăng

cường các tế bào lympho T CD4+/CD8+, tế bào T điều hòa và tế bào B. Đáp ứng

miễn dịch thích ứng là một phản ứng miễn dịch đặc hiệu cao đối với một kháng

nguyên cụ thể, có liên quan đến việc loại bỏ vi khuẩn gây bệnh và tế bào khối u,

giúp cơ thể chống khối u bằng cách điều chỉnh sự biệt hóa của tập hợp con tế bào T

và bài tiết cytokine [22].

1.1.3. Ung thư với stress oxy hóa và chống oxy hóa

Stress oxy hóa được biết đến như một trạng thái sinh lý trong đó mức độ cao

của các loại oxy hoạt động (reactive oxygen species – ROS) và các gốc tự do được

6

tạo ra do quá trình trao đổi chất chống oxy hóa [23]. Sự trao đổi chất bình thường

của tế bào tạo ra ROS và các gốc tự do và đóng một vai trò quan trọng trong các con

đường tín hiệu tế bào. Ty thể, bộ máy lớn nhất của tế bào, tạo ra ROS khi tạo ra

adenosine triphosphate (ATP), theo đó các điện tử phản ứng với oxy (O2) và sau đó

hình thành anion superoxide (O2−) [24]. Stress oxy hóa có vai trò cốt lõi trong cơ chế

bệnh sinh của nhiều bệnh lý ở người [25]. Ung thư là bệnh mà một nhóm tế bào phân

chia quá mức kiểm soát, dẫn đến xâm lấn, phá hủy các mô lân cận và có thể di căn

thông qua hệ thống hạch lympho hoặc dòng máu. Sự tăng sinh không kiểm soát này

thường bắt đầu từ sự kiện bất thường trên con đường tín hiệu điều hòa và kiểm soát

tăng trưởng tế bào, gây kích hoạt gene tiền ung thư (pro-oncogene) hoặc bất hoạt

gene ức chế ung thư (anti –oncogene) dẫn đến việc kéo dài tín hiệu tăng sinh, phá vỡ

cơ chế kìm hãm sinh trưởng, cũng như mất kiểm soát chu kỳ tế bào [26]. Tác nhân

gây ung thư có nhiều bản chất khác nhau nhưng hậu quả chung là chúng đều làm

tăng các dạng oxy hoạt động, gây stress oxy hóa [27]. Stress oxy hóa được xem là

nguyên nhân chính gây tổn thương các phân tử DNA, thay đổi đường truyền tín hiệu

và sự tiến triển của nhiều bệnh ung thư khác nhau [28], [29]. Hơn nữa, có báo cáo

rằng toàn bộ phân tử DNA có thể liên kết với các gốc hydroxyl, và do đó, làm hỏng

cấu trúc deoxyribose, bao gồm các gốc purine và pyrimidine. Trong quá trình gây hại

này, 8-OH deoxyguanosine (8-OHdG) có thể được tạo ra, có thể làm tăng đáng kể

nguy cơ đột biến [30]. Các phân tử 8-OHdG cũng được sử dụng làm chất chỉ thị để

phát hiện các gốc tự do trong quá trình gây đột biến DNA và được coi là một công

cụ phát hiện sớm sự tiến triển của ung thư [30], [31]. Điều quan trọng là 8-OHdG có

thể biến đổi cặp GC thành cặp TA khi sao chép DNA, có thể gây đột biến nếu tồn tại

các tổn thương oxy hóa, sau đó gây ra ung thư [32].

Tế bào ung thư thể hiện sự cân bằng nội môi oxy hóa khử không bình

thường, nhưng trong khi ROS là yếu tố gây ung thư, thì mức ROS cao lại gây độc

tế bào [33]. Sự tăng sinh quá mức của các tế bào khối u đi kèm với việc sản xuất

7

ROS cao, nhưng chúng thích nghi để phát triển mạnh trong các điều kiện mà gánh

nặng oxy hóa này đẩy cân bằng oxy hóa khử ra khỏi trạng thái giảm; các tế bào

khối u đạt được điều này bằng cách tăng tình trạng chống oxy hóa để tối ưu hóa sự

tăng sinh ROS, đồng thời tránh các ngưỡng ROS có thể gây ra lão hóa, apoptosis

hoặc ferroptosis [34], [35]. Nhiều bằng chứng cho thấy ROS có thể thúc đẩy cũng

như ngăn chặn sự tồn tại của các tế bào ung thư. Đầu tiên, ROS được biết đến để

điều chỉnh từng bước phát triển của khối u bao gồm biến đổi, tồn tại, tăng sinh,

xâm lấn, di căn và hình thành mạch. Thứ hai, viêm mạn tính, một trong những tác

nhân chính gây ung thư, được điều chỉnh bởi ROS. Thứ ba, ROS được biết là điều

chỉnh các phân tử tín hiệu cần thiết cho sự tiến triển của chu kỳ tế bào. Thứ tư, sự

biểu hiện của các gen ức chế khối u khác nhau nằm trong tầm kiểm soát của ROS.

Thứ năm, mức ROS cao có thể ngăn chặn sự phát triển của khối u thông qua việc

kích hoạt bền vững các chất ức chế chu kỳ tế bào. Thứ sáu, hầu hết các chất hóa trị

liệu và xạ trị liệu hiện có đều tiêu diệt tế bào ung thư bằng cách làm tăng căng

thẳng ROS. Do đó, cả hai chiến lược làm tăng ROS và loại bỏ ROS đã được phát

triển để ứng dụng trong điều trị ung thư [36].

Trong số các phương pháp điều trị ung thư thông thường, hóa trị liệu thường

được thực hiện để điều trị ung thư. Tuy nhiên, thuốc chống ung thư có liên quan đến

rất nhiều tác dụng phụ. Mỗi loại thuốc, trong mỗi nhóm, đều có những phản ứng phụ

riêng có thể khiến bệnh nhân không tuân thủ và giảm chất lượng cuộc sống. Một

trong những nguyên nhân chính gây ra các phản ứng có hại, đặc biệt là đối với các

loại thuốc nhắm vào DNA, là việc sản xuất quá mức các loại oxy phản ứng (ROS) và

sau đó hình thành stress oxy hóa. Để hạn chế những tác dụng phụ không mong muốn

này, một số chất bổ sung trong chế độ ăn uống đã được thử nghiệm, trong đó chất

chống oxy hóa ngày càng phổ biến như một chất bổ trợ trong hóa trị. Chất chống oxy

hóa là những phân tử ổn định đủ để nhận hoặc nhường electron cho các gốc tự do và

trung hòa chúng, do đó làm giảm hoặc mất khả năng gây hại tới tế bào của ROS. Hệ

8

thống gồm các chất chống oxy hóa có bản chất enzym (SOD, CAT, Peroxidase,

Glutathion peroxidase – GPx, …) và có bản chất phi enzym (nhóm các polyphenol,

Vitamin E- α-tocoferol, các flavonoid, β-caroten, Vitamin C, …) [37]. Liệu pháp

chống oxy hóa giúp làm giảm các tác hại gây ra do stress oxy hóa, hỗ trợ quá trình

điều trị bệnh và cải thiện sức khỏe con người. Có những lo ngại cho rằng việc sử

dụng các chất chống oxy hóa có thể gây trở ngại cho các phương thức tiêu diệt ung

thư bằng cách tạo ra các gốc tự do. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu tổng quan từ 174

bài báo trong đó có 93 thử nghiệm lâm sàng với số lượng tích lũy 18208 bệnh nhân

cho thấy chất chống oxy hóa có tiềm năng vượt trội trong việc cải thiện độc tính gây

ra trong liệu pháp hóa trị [38]. Việc bổ sung chất chống oxy hóa trong quá trình hóa

trị liệu cũng hứa hẹn hiệu quả điều trị cao hơn và tăng thời gian sống cho bệnh nhân.

Việc bổ sung chất chống oxy hóa trong quá trình điều trị bệnh có thể làm giảm bớt

các độc tính từ những phương pháp điều trị ung thư, chẳng hạn như hóa trị, xạ trị

hoặc phẫu thuật. Ngoài ra, nó cũng giúp ngăn ngừa quá trình oxy hóa trong cơ thể, từ

đó ngăn chặn các gốc tự do tiếp tục làm tổn thương tới những tế bào khỏe mạnh khác

trong cơ thể và giúp kìm hãm sự phát triển ồ ạt của khối u.

Gan là một cơ quan quan trọng trong cơ thể, tuy nhiên rất dễ bị tổn thương

trong stress oxy hóa. Sự sản xuất các gốc tự do quá mức gây stress oxy hóa trong gan

có thể dẫn đến tổn thương gan [39]. Sự tiến triển của các bệnh gan khác nhau chủ yếu

liên quan đến quá trình peroxy hóa lipid, tổn thương axit deoxyribonucleic (DNA), tín

hiệu của các chất trung gian gây viêm và cuối cùng là tạo ra các gốc tự do. Vai trò

không thể phủ nhận của các yếu tố độc hại trong bệnh gan có thể được chứng minh

bằng sự gia tăng mức độ của các dấu ấn sinh học của stress oxy hóa, như là

malondialdehyde (MDA) và 4-hydroxynonenal (4-HNE). Bên cạnh đó, việc sử dụng

các cơ chế chống oxy hóa nội sinh để chống đỡ tình trạng stress oxy hóa làm giảm

mức độ của superoxide dismutase (SOD), glutathione peroxidase (GPx), catalase

(CAT) và glutathione (GSH) [40]. Bệnh lý ung thư với sự gia tăng stress oxy hóa làm

9

tăng nguy cơ tổn thương gan. Không chỉ vậy, việc điều trị bằng hóa chất, xạ trị càng

làm tăng tổn thương gan trong điều trị ung thư. Một số dược liệu cũng như hoạt chất

tổng hợp có tác dụng chống oxy hóa được nghiên cứu về tác dụng hỗ trợ điều trị ung

thư thông qua việc triển khai đánh giá về tác dụng chống oxy hóa bảo vệ gan trên

chuột mang khối u, chuột được xạ trị hoặc hóa trị [41], [42], [43].

1.1.4. Vai trò của dược liệu trong điều trị ung thư

Các dược liệu và các hoạt chất chiết xuất của chúng ngày càng được công nhận là

phương pháp điều trị bổ sung hữu ích cho bệnh ung thư. Các nhà khoa học trên thế giới

đã tìm kiếm, phát hiện ra và đưa vào điều trị nhiều thuốc chống ung thư có nguồn gốc tự

nhiên như Paclitaxel (Taxol), Vinblastin và Vincristin, Camptothecin, Compretastatin…

và các dẫn chất của chúng. Isoflavone được tìm thấy rất nhiều trong hạt đậu nành được

chứng minh có tác dụng giảm nguy cơ ung thư vú và ung thư nội mạc tử cung [44].

Flavonoid từ trà xanh đã được báo cáo có tác dụng ức chế sự hình thành, phát triển và di

căn trong một số bệnh ung thư [45], [46]. β-glucan chiết xuất từ nấm có tác dụng kích

thích miễn dịch, chống khối u, chống oxy hóa... được cấp phép sử dụng trong điều trị

ung thư ở Trung Quốc và Nhật Bản [47], [48], [49]. Ngoài ra còn rất nhiều các hợp chất

khác có nguồn gốc từ thảo dược như curcumin, epigallocatechin gallate, berberine,

artemisinin, ginsenosidRg3, ursolic axit, silibinin, emodin, triptolide, cucurbitacin B,

tanshinone I, oridonin, shikonin, axit gambogic, artesunate, wogonin, β-elemene và

cepharanthine... đã được báo cáo về hiệu quả chống ung thư [50]. Wei Liu và cộng sự

(2019) đã tổng kết kết quả nghiên cứu về mười loại dược liệu được sử dụng phổ biến

của Trung Quốc trong nhiều thế kỷ dùng điều trị ung thư [51]. Các dược liệu bao gồm

bạch hoa xà thiệt thảo (Oldenlandia diffusa), nghệ (Curcuma longa), hoàng kỳ

(Astragalus membranaceus), nhân sâm (Panax ginseng), nấm linh chi (Ganoderma

lucidum), đương quy (Angelica sinensis), tam thất (Panax notoginseng), bán chi liên

(Scutellaria barbata D. Don), cam thảo (Licorice), đan sâm (Radix Salvia miltiorrhiza).

Kết quả cho thấy các dược liệu có khả năng thúc đẩy quá trình tự chết của tế bào ung

10

thư, ức chế sự di căn của chúng, kích hoạt khả năng miễn dịch chống ung thư của bệnh

nhân và đồng thời tăng hiệu quả của liệu pháp hóa trị và xạ trị thông thường khi được sử

dụng kết hợp. Những dược liệu này và các hoạt chất sinh học của chúng có hiệu quả

chống lại nhiều loại ung thư thông qua nhiều cơ chế khác nhau, cải thiện hiệu quả chất

lượng cuộc sống của bệnh nhân mà không có tác dụng phụ đáng kể [51]. Việt Nam có

nguồn tài nguyên thực vật đa dạng, có tiềm năng tốt cho việc nghiên cứu phát triển các

thuốc từ dược liệu dùng trong điều trị ung thư [52]. Nhiều dược liệu đã được chứng

minh có hiệu quả trong ức chế tế bào ung thư, tăng cường miễn dịch, chống oxy hóa...

được sử dụng phòng ngừa và hỗ trợ điều trị ung thư như cây xạ đen, cây sói rừng, lá cây

na rừng,...[53], [54], [55].

1.2. TỔNG QUAN VỀ TAM THẤT

1.2.1. Tổng quan thực vật

* Vị trí phân loại cây Tam thất:

Cây Tam thất (Panax notoginseng (Burk.) F. H. Chen là một loài thuộc chi

Panax. Chi Panax L. là một chi nhỏ trong họ Nhân sâm Araliaceae. Vị trí của chi

Panax L trong hệ thống phân loại thực vật được tóm tắt như sau [56].

Ngành Ngọc lan: Magnoliophyta

Lớp Ngọc lan: Magnoliopsida

Phân lớp Hoa hồng: Rosidae

Bộ hoa tán: Aplales

Họ Nhân Sâm: Araliaceae

Chi Panax. L

* Đặc điểm thực vật:

Cây thảo sống nhiều năm, cao khoảng 0,5m. Thân đơn, lá mọc vòng từ 3 – 4

lá, lá kép hình chân vịt, cuống dài 3 – 6 cm mang từ 3 – 7 lá chét, mép lá có khía

răng cưa nhỏ, cuống lá chét dài 0,6 – 1,2 cm, trên gân chính rải rác có gân cứng

thành gai.

11

Cụm hoa hình tán mọc ở đầu cành mang hoa. Có hoa đơn tính, hoa lưỡng

tính cùng tồn tại. Lá đài 5, màu xanh. Cánh hoa 5 màu xanh nhạt. Nhị 5, bao phấn

dạng thuân, dài 1,3 – 1,5 mm, rộng 0,6 – 0,8 mm, đĩa rộng, phẳng hay lõm. Bầu

dưới 2 ngăn. Mùa hoa: tháng 5 – 7.

Quả mang hình thận, khi chín màu đỏ, trong có 2 hạt hình cầu. Mùa quả

tháng 8-10 [56], [57].

* Trồng cây Tam thất tại Việt Nam:

Tam thất là cây thuốc đã được trồng từ lâu đời ở Trung Quốc, chủ yếu ở vùng

núi cao 1200 – 2000 m ở tỉnh Vân Nam từ 23,5˚ Bắc tới 104˚ Tây. Từ trước năm

1964, cộng đồng người Hoa sống ở dọc biên giới thuộc huyện Đồng Văn và Mèo

Vạc (Hà Giang) đã lấy giống Tam thất từ Trung Quốc về trồng ở vườn gia đình.

Năm 1964-1973, Viện Dược Liệu và một số địa phương ở tỉnh Hà Giang và Cao

Bằng mới chính thức nhập hạt giống “Tam thất” về trồng tại các huyện Sa Pa, Si Ma

Cai (Lào Cai); Phó bảng (Hà Giang); Hà Quảng và Thông Nông (Cao Bằng) [56],

[57].

Vào mùa thu, trước khi cây ra hoa, đào về rửa sạch, cắt rễ nhánh và thân rễ để riêng

rồi phơi sấy cho đến khô (độ ẩm khoảng 12%) rồi phân loại.

Một số hình ảnh về cây Tam thất:

12

Tiêu bản cây Tam thất

Vườn cây Tam thất trồng ở Simacai, Lào Cai.

Lá Cành mang hoa

Hoa Củ Tam thất tươi

Củ Tam thất đã sơ chế

13

Hình 1.1. Một số hình ảnh về Tam thất Lào Cai (tự chụp)

1.2.2. Hóa thực vật rễ củ Tam thất

Các thành phần hóa học trong cây Tam thất khá đa dạng. Trong các bộ phận của

cây như rễ, hoa, lá đều chứa các hợp chất saponin, flavonoid, acid amin, polysaccharid,

acid béo…. Trong số các thành phần hóa học của cây Tam thất thì saponin triterpen

tetracyclic nhóm dammaran là thành phần chính có tác dụng sinh học.

Thành phần chính của Tam thất là saponin thuộc nhóm dammaran mà phần

aglycon là các khung 20(S)-protopanaxadiol hoặc 20(S)-proropanaxatriol.Tổng hàm

lượng saponin trong Tam thất là 10%. Các saponin này được xếp thành các khung cơ

bản như ginenosid, notoginsenosid và gypenosid. Một số saponin chính trong Tam

thất như: notoginsenosid R1 (7 - 10%), ginsenosid Rb1 (30 - 36%), Rg1 (20 - 40%), Rd

(5 - 8.4%) và Re (3.9 - 6%) [58]– chiếm 90% tổng saponin được sử dụng để đánh giá

các hoạt tính. Các saponin khác nhau phân bố các các bộ phận khác nhau của Tam

thất, như Rb1 có ở tất cả các bộ phận rễ, thân rễ, nụ hoa, Rg1 tập trung chủ yếu ở rễ và

thân rễ, tuy nhiên Rb3 là thành phần chính của nụ hoa [59], [60].

Trong rễ Tam thất, saponin toàn phần chiếm từ 9,7-14,9% khối lượng khô.

Ginsenosid Rg1, Rb1, Rd và notoginsenosid R1 là những saponin có hàm lượng

cao nhất. Bốn saponin này có tổng hàm lượng lên đến 80% lượng saponin toàn

phần. Ginsenosid Rb1 chiếm 32,32%, Ginsenosid Rg1 chiếm 25,38%, tiếp đó là

ginsenosid Rd 11,17% [61], [62].

Các yếu tố nhiệt độ và độ ẩm có thể dẫn đến sự thủy phân các liên kết

glycosyl và mất nước ở C-6 và C-20. Trong điều kiện hấp nhiệt, quá trình thủy

phân liên kết xylosyl tại C-6 của notoginsenoside R1 và thủy phân liên kết

rhamnosyl tại C-6 của ginsenoside Re tạo thành ginsenoside Rg1. Ginsenoside Rb1

bị thủy phân liên kết glucosyl tại C-20 tạo ra ginsenoside Rd. Như vậy Rg1 và Rd

có thể là hợp chất ban đầu của saponin mới hình thành. Rg1 tiếp tục bị thủy phân

liên kết glucosyl tại C-20 tạo ra Rh1, sau đó tạo thành Rh4 và Rk3 sau khi khử

14

nước tại C-20. Tương tự, quá trình thủy phân liên kết glucosyl ở C-20 của Rd tạo ra

Rg3, và Rg3 tiếp tục khử nước ở C-20 tạo ra Rg5 và Rk1 [63].

Do tính chất bất đối xứng của C-20, các saponin mới được tạo ra sau quá

trình hấp nhiệt là các đồng phân quang học. Liên kết glucosyl tại C-20 bị thủy phân

tạo thành các đồng phân quang học như 20 (S) - / 20 (R) -ginsenoside Rg3 và 20

(S) - / 20 (R) -ginsenoside Rh2, hoặc bị mất nước ở C-20 thành đồng phân hình

học, tức là đồng phân cis-trans như ginsenoside Rk3 và Rh4, Rk1 và Rg5, Rk2 và

R1

Re

Rb1

Thủy phân liên kết glucosyl tại C-6

Thủy phân liên kết rhamnosyl tại C-6

Rh3, v.v…[63].

Rd

Rg1

Thủy phân liên kết glucosyl tại C-20

Thủy phân liên kết glucosyl tại C-20

Rg3

Rh1

Khử nước tại C- 20

Rh4

Rk3

Rh4

Rk3

Thủy phân liên kết xylosyl tại C-6

Hình 1.2. Sơ đồ sự biến đổi các saponin của Tam thất do hấp nhiệt

Như vậy sau khi hấp nhiệt, các saponin cũ giảm dần (ginsenosid Rg1, Rb1,

Rd, Revà notoginsenosid R1), một số saponin mới được hình thành là 20 (S) -Rh₁,

20 (R) -Rh₁, Rk₃, Rh₄, 20 (S) -Rg₃, 20 (R) -Rg₃, Rk₁ và Rg₅…Đây là những

saponin duy nhất chỉ tồn tại trong Tam thất đã hấp, không tồn tại trong saponin

chưa hấp [63], [64], [65].

15

1.2.3. Các tác dụng dược lý của Tam thất

1.2.3.1. Tác dụng chống ung thư

Tam thất là một vị thuốc có nhiều tác dụng quý nên còn có tên gọi là “kim

bất hoán” tức là vàng không đổi được [6]. Trong số các tác dụng rất đa dạng của

Tam thất, tác dụng tiêu u, hóa ứ đã được sử dụng trong y học cổ truyền từ lâu,

nhiều phần tương ứng với tác dụng chống ung thư trong dược lý hiện đại được

quan tâm nghiên cứu nhiều hiện nay. Tam thất là một trong số 10 dược liệu được

sử dụng phòng chống u phổ biến trong y học cổ truyền Trung Quốc từ nhiều thế kỷ,

với nhiều tác dụng nổi bật [51]. Y học hiện đại cũng có nhiều nghiên cứu về tác

dụng phòng chống ung thư của Tam thất [8].

Các saponin chiết xuất từ Tam thất được báo cáo có các tác dụng ức chế

sự gia tăng và chống di căn của các tế bào ung thư. Wang J.-R. và cộng sự

(2014) nuôi cấy tế bào 4T1 (dòng tế bào ung thư biểu mô tuyến vú của chuột)

với saponin chiết xuất từ Tam thất ở các nồng độ khác nhau, từ 50 đến 400

µg/ml, được ủ trong 48 giờ cùng với đối chứng [66]. Kết quả cho thấy ở nồng

độ 50 μg/ml không có sự thay đổi đáng kể về khả năng sống sót của tế bào 4T1,

trong khi giảm khoảng 75, 60, 30 và 10% khả năng sống sót của tế bào 4T1 ở

các nồng độ 400, 300, 200 và 100 μg/ml, tương ứng. Các tác giả cũng đã quan

sát thấy giảm đáng kể sự di chuyển của tế bào 4T1 ở nồng độ 50μg/ml, và mức

giảm lớn nhất được báo cáo ở nồng độ 200 μg/ml [66]. Nghiên cứu của Lee và

cộng sự (2017) cho thấy khả năng sống sót của các tế bào ung thư đại trực

tràng của người HCT-116 sau khi xử lý với notoginsenosid R1 ở nồng độ 75,

150 hoặc 300µmol/l là tương đương với khả năng sống sót của đối chứng trong

48 giờ ủ [67]. Tuy nhiên, ở nồng độ 500µmol/l, notoginsenosid R1 gây ra mức

giảm đáng kể khả năng sống sót của tế bào HCT-116 (58 ± 7,26%) so với đối

chứng (100%) trong thời gian ủ 48h. Ngoài ra, khi ủ với notoginsenosid R1

nồng độ 150 hoặc 300µmol/l trong 24h đã giảm đáng kể lần lượt là 35 và 68%

16

biểu hiện MMP-9 trong các dòng tế bào HCT-116 so với nhóm đối chứng

(100%) (p <0,01). Kết quả nói trên chỉ ra rằng notoginsenosid R1 ức chế sự di

chuyển và xâm nhập của tế bào ung thư đại trực tràng người HCT-116 bằng

cách điều chỉnh sự biểu hiện MMP-9 trong các dòng tế bào này [67]. Nghiên

cứu tổng quan của Ming-Ming Tan và cộng sự (2021) cho thấy các ginsenosid

chiết xuất từ Tam thất có tác dụng ức chế nhiều dòng tế bào ung thư khác nhau

như ung thư gan, ung thư vú, ung thư đại trực tràng, ung thư tử cung, ung thư

buồng trứng, ung thư thần kinh đệm [8]. Sáu saponin chính chiết xuất từ Tam

thất bao gồm ginsenosid Rb1, Rd, Rg3, Rh2, Rh4 và notoginsenosid R1 được

chứng minh làm thay đổi đáng kể các dấu hiệu chết tế bào theo chương trình

(apoptotic) bao gồm caspase-3, Bax, p53, p21, ROS và TEER, ngăn ngừa sự

hình thành khối u [8].

Tác dụng chống ung thư của rễ Tam thất đã được chứng minh là tăng

cường đáng kể sau khi hấp hơi nóng. Sun và cộng sự (2010) báo cáo cao chiết

của rễ Tam thất ức chế đáng kể sự tăng sinh của tế bào ung thư đại trực tràng ở

người SW-480, trong khi cao chiết Tam thất không hấp ức chế không đáng kể.

IC50 của dịch chiết rễ Tam thất hấp trong 1, 2, 4 và 6 giờ ở 120°C lần lượt là

259,2, 131,4, 123,7 và 127,1μg/ ml. Phân tích sự di chuyển của tế bào đã chứng

minh rằng tỷ lệ cảm ứng tế bào apoptotic của tế bào SW-480 là 56,3% và

64,4% với nồng độ lần lượt 150,0 và 200,0 μg/ml cao chiết Tam thất hấp trong

6 giờ [10]. Nghiên cứu của Toh và cộng sự (2011) cũng cho thấy Tam thất hấp

có tác dụng chống tăng sinh tế bào ung thư gan (SNU449, SNU182 và HepG2)

nhiều hơn so với dạng chưa hấp [11]. Tác dụng chống ung thư của rễ Tam thất

được tăng cường có liên quan mật thiết đến sự biến đổi thành phần hóa học khi

hấp. Hấp làm giảm hàm lượng notoginsenosid R1, ginsenosid Rg1, Re, Rb1,

Rc, R2, Rb3 và Rd, nhưng làm tăng hàm lượng Rh1, Rg2, 20R-Rg2, Rg3 và

Rh2. Đặc biệt hấp có ảnh hưởng đáng kể đến sự biến đổi của Rg3, một hợp

17

chất chống ung thư, trong rễ Tam thất [10], [11]. Saponin chiết xuất từ Tam thất

trồng ở Việt Nam được chứng minh có tác dụng chống ung thư vú gây ra do 7,12-

dimethylbenz(a) anthracene ở chuột với bằng chứng là giảm thể tích khối u [68].

1.2.3.2.Tác dụng tăng cường miễn dịch

Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra các polysaccharid và saponin chiết xuất từ Tam

thất thể hiện tác dụng tăng cường miễn dịch. Sanchinan A, một polysaccharid được

phân lập từ rễ của Tam thất có tác dụng kích hoạt hệ thống lưới nội mô [69].

Polysaccharid của Tam thất kích thích sự tăng trưởng của tế bào lympho T in vivo và

in vitro. Ngoài ra, nó thúc đẩy sự hình thành kháng thể và sự sản xuất interleukin

[70]. Bốn polysaccharid (PF3111, PF3112, PBGA11 và PBGA12) có trọng lượng

phân tử 27 đến 760 kDa được cấu trúc bởi các phân tử đường như glucose, galactose,

arabinose, mannose và xylose với các tỷ lệ mol khác nhau; ngoại trừ PBGA11, các

polysaccharid này đều có tác dụng trong việc sản xuất interferon-γ khi có

concanavalin A.Notoginsenosid-D, -G, -H và –K làm tăng nồng độ IgG huyết thanh

trong ovalbumin gà gây miễn dịch ở chuột. Saponin từ Tam thất kích thích sự tăng

sinh của bạch cầu nội biểu bì khi có concanavalin A và bổ trợ hoạt động miễn dịch

của cơ thể [71]. Sun HX và cộng sự (2003) đánh giá tác dụng của saponin chiết xuất

từ Tam thất (PNS) trên các đáp ứng miễn dịch đối với chuột được tiêm dưới da

ovalbumin (OVA). Kết quả cho thấy nhóm chuột được tiêm OVA và PNS (liều 50,

100, 200 µg/kg thể trọng) có nồng độ kháng thể IgG cao hơn đáng kể (p<0,01) so với

nhóm chuột chỉ nhận được chủng ngừa OVA [72]. Dịch chiết nước từ rễ Tam thất

được chứng minh có tác dụng chống lại sự lây nhiễm của virus Cúm A bằng cách

tăng cường các phản ứng miễn dịch qua trung gian kháng virus và hoạt động của tế

bào giết tự nhiên [73]. Tác dụng tăng cường miễn dịch của Tam thất cũng được xem

là một trong những cơ chế tác dụng trong điều trị ung thư. Nghiên cứu của Bosung

Kim và cộng sự (2018) cho thấy Panax notoginseng ức chế sự phát triển của khối u

thông qua việc kích hoạt đại thực bào thành phân cực M1 [74]. Các Ginsenosid được

18

chứng minh có tác dụng điều hòa chức năng các tế bào ức chế miễn dịch dòng tủy

trong vi môi trường khối u [75].

Tác dụng tăng cường miễn dịch của Tam thất được thể hiện tốt hơn khi được

chế biến hấp. Zejun Zhang và cộng sự (2020) đã báo cáo kết quả nghiên cứu cho

thấy Tam thất hấp làm giảm tình trạng thiếu máu ở chuột mắc hội chứng thiếu máu

thông qua việc điều chỉnh các yếu tố tạo máu và con đường JAK-STAT [76]. Các

Ginsenosid Rg3 có tác dụng nổi trội trong việc thúc đẩy miễn dịch tế bào ở chuột

mang u gan H22 [77]. Ginsenosid Rk3 và ginsenosid Rh4 có tác dụng rõ rệt chống

thiếu máu trên chuột bị thiếu máu do ribavirin [78]. Các Ginsenosid Rg3, Rk3 và

Rh4 là các saponin mới được tạo ra trong Tam thất sau quá trình hấp [64], [65].

1.2.3.3. Tác dụng chống oxy hóa và bảo vệ tế bào gan

Dịch chiết toàn phần của Tam thất thể hiện hoạt động chelat ion sắt mạnh và

các hoạt động quét các gốc tự do chống lại hydro peroxit, các gốc hydroxyl, đồng

thời cũng thể hiện hoạt động chống lại anion superoxid và các gốc tự do DPPH

[79]. Saponin chiết xuất từ Tam thất được chứng minh có tác dụng tốt dọn dẹp gốc

tự do 1,1-diphenyl-2-picrylhydrazyl và gốc hydroxyl trong thử nghiệm chống oxy

hóa in vitro [80]. Tác dụng chống oxy hóa của Tam thất hấp tốt hơn so với Tam thất

chưa hấp [81], [82], [83].

Tác dụng chống oxy hóa của Tam thất có vai trò quan trọng trong dự phòng

và điều trị nhiều bệnh lý. Saponin chiết xuất từ rễ Tam thất có tác dụng chống oxy

hóa mạnh đối với quá trình lão hóa ở tế bào thần kinh, giúp cải thiện triệu chứng

bệnh lý trên mô hình gây bệnh Alzheimer ở chuột [84]. Các saponin trong Tam thất

giúp bảo vệ thận khỏi bệnh tiểu đường thông qua kích hoạt các protein chống oxy

hóa ở chuột [85]. Trilinolein là một triacylglycerol tự nhiên được phân lập từ Tam

thất, có tác dụng chống thiếu máu cục bộ, chống loạn nhịp tim và chống oxy hóa,

được sử dụng trong điều trị các bệnh lý tim mạch [86]. Saponin chiết xuất từ Tam

thất có tác dụng bảo vệ tế bào nội mô vi mạch não chống lại sự suy giảm chức năng

19

rào cản do oxy-glucose/tái tưới máu thông qua việc kích hoạt đường dẫn tín hiệu

chống oxy hóa PI3K/Akt/Nrf2 [87]. Trên mô hình gây ung thư vú thực nghiệm,

saponin chiết xuất từ Tam thất trồng ở Việt Nam làm giảm thể tích khối u kèm theo

giảm mức độ peroxy hóa lipid và tăng trọng lượng cơ thể, và tăng hoạt động chống

oxy hóa của enzym superoxide dismutase, catalase, glutathione peroxidase trong

mô vú chuột [68]. Tác dụng bảo vệ của saponin chiết xuất từ Tam thất trên tổn

thương gan cấp tính do etanol có liên quan đến cải thiện sự tích tụ lipid ở gan và

giảm stress oxy hóa qua trung gian etanol [88].

Gan là cơ quan chính bị các loại oxy phản ứng (ROS) tấn công [89]. Các tế bào

nhu mô là các tế bào nguyên sinh bị tổn thương do stress oxy hóa trong gan. Ti thể,

microsome và peroxisome trong tế bào nhu mô có thể tạo ra ROS, điều hòa PPARα,

liên quan chủ yếu đến biểu hiện gen oxy hóa axit béo ở gan. Hơn nữa, tế bào Kupffer,

tế bào sao gan và tế bào nội mô có khả năng tiếp xúc hoặc nhạy cảm hơn với các phân

tử liên quan đến stress oxy hóa. Một loạt các cytokine như TNF-α có thể được tạo ra

trong tế bào Kupffer do stress oxy hóa gây ra, có thể làm tăng chứng viêm và quá trình

apoptosis. Đối với tế bào gan hình sao, sự tăng sinh và tổng hợp collagen của tế bào

hình sao gan được kích hoạt bởi quá trình peroxy hóa lipid gây ra bởi stress oxy hóa

[90],[91],[92]. Khi ROS tăng quá mức, cân bằng nội môi sẽ bị rối loạn, dẫn đến stress

oxy hóa, đóng vai trò quan trọng trong các bệnh gan và các rối loạn thoái hóa và mạn

tính khác [91]. Stress oxy hóa không chỉ gây ra tổn thương gan bằng cách gây ra sự

thay đổi không thể phục hồi của lipid, protein và nội dung DNA và quan trọng hơn,

điều chỉnh các con đường kiểm soát các chức năng sinh học bình thường [89]. Vì vậy,

những chất có tác dụng chống oxy hóa như GSH, vitamin E, silymarin...được sử dụng

làm thuốc bảo vệ gan. Tam thất cũng thể hiện tác dụng bảo vệ gan thông qua tác dụng

chống oxy hóa. Dịch chiết nước nóng của Tam thất được chứng minh có tác dụng bảo

vệ tế bào gan chuột bị gây nhiễm độc gan mạn tính bằng ethanol, thông qua việc ức

chế sản xuất các gốc oxy tự do gây ra quá trình peroxy hóa lipid [93]. Các chuột được

20

điều trị bằng saponin chiết xuất từ Tam thất (100 hoặc 300 mg/kg) một lần mỗi ngày

trong 7 ngày liên tục trước khi uống ethanol làm giảm đáng kể tổn thương gan do

nhiễm độc ethanol cấp gây ra, thông qua chỉ tiêu làm giảm các enzym AST và ALT

trong máu chuột. Đồng thời, saponin chiết xuất từ Tam thất ngăn chặn sự gia tăng sản

xuất các loại oxy phản ứng (ROS) và hàm lượng malondialdehyde (MDA), giảm mức

TNF-α và IL-6, khôi phục mức glutathione (GSH), tăng cường hoạt động của

superoxide dismutase (SOD) trong gan, và loại bỏ cảm ứng cytochrome P450 2E1

(CYP2E1) [88]. Các chiết xuất từ methanol và nước của Tam thất cho thấy có tác

dụng bảo vệ tế bào gan rõ rệt trên chuột bị tổn thương gan bằng carbon tetrachloride

[94], [95]. Nhiều hoạt chất chiết xuất từ Tam thất như acidic polysaccharid,

ginsenosid-Re và ginsenosid Rk3 được chứng minh có tác dụng tốt trong bảo vệ tế bào

gan trên các mô hình gây tổn thương gan khác nhau cũng như theo nhiều cơ chế khác

nhau nhưng đều có liên quan đến tác dụng chống oxy hóa [95], [96], [97]. Các saponin

trong Tam thất còn được chứng minh có tác dụng thúc đẩy quá trình tái tạo gan thông

qua việc kích hoạt con đường tăng sinh tế bào PI3K/AKT/mTOR và điều chỉnh con

đường sống sót của tế bào AKT/Bat ở chuột [98].

1.2.3.4. Các tác dụng khác

Tam thất có một số tác dụng sinh học khác như: chống huyết khối [99], ngăn

ngưng kết tiểu cầu [100], chống viêm [101], hạ đường huyết [102], hạ lipid máu

[103], chống béo phì [104]...

Các tác dụng của Tam thất liên quan chặt chẽ với sự biến đổi hoạt chất sau

hấp. Tam thất ở dạng thô chưa hấp có tác dụng cầm máu, chống đông máu và

chống viêm tốt hơn, trong khi Tam thất hấp thể hiện các tác dụng kháng u, tăng

sinh tế bào máu, tăng miễn dịch, chống oxy hóa và bảo vệ tế bào gan tốt hơn [10],

[83], [84]. Đối với bệnh nhân bị ung thư, ngoài tác dụng kháng u thì các tác dụng

tăng sinh tế bào máu, tăng miễn dịch, chống oxy hóa và bảo vệ tế bào gan đều có

21

vai trò quan trọng và hỗ trợ điều trị. Vì vậy, Tam thất hấp được xem là một đối

tượng tiềm năng giúp hỗ trợ điều trị ung thư cần được nghiên cứu đánh giá.

1.3. TỔNG QUAN VỀ CÁC MÔ HÌNH THỰC NGHIỆM ĐÁNH GIÁ TÁC

DỤNG KHÁNG U

Để nghiên cứu tác dụng kháng u trên thực nghiệm của các chế phẩm nghiên

cứu, các nghiên cứu thường tiến hành trên mô hình nuôi cấy tế bào in vitro và trên

mô hình động vật thực nghiệm in vivo.

1.3.1. Các mô hình nghiên cứu in vitro

In vitro là phương pháp nghiên cứu đối với các vi sinh vật, tế bào, hoặc các

phân tử sinh học trong điều kiện trái ngược với bối cảnh sinh học bình thường của

chúng, được gọi là "thí nghiệm trong ống nghiệm". Các nghiên cứu in vitro cho

phép sàng lọc nhanh các hoạt chất có tác dụng chống ung thư, phân tích chi tiết cụ

thể, đơn giản hơn, thuận tiện hơn so với việc thực hiện với toàn bộ cơ thể [105].

Tuy nhiên, các kết quả thu được từ các thí nghiệm trong ống nghiệm có thể không

dự đoán đầy đủ hoặc chính xác tác động trên toàn bộ cơ thể.

Trong mô hình in vitro, các chế phẩm được thử bằng cách ủ trực tiếp với các

dòng tế bào ung thư có nguồn gốc từ người hay động vật. Các tế bào ung thư này

được nuôi cấy ở điều kiện đặc biệt và môi trường thích hợp để tạo dạng đơn lớp

(2D) hay dạng khối cầu (3D). Phương pháp nuôi cấy 2D là phương pháp cơ bản

nhất nhưng có nhiều hạn chế vì không mô phỏng được điều kiện in vivo của cơ thể.

Các tế bào trong mô hình nuôi cấy 3D phát triển trong không gian ba chiều, mô

phỏng lại cấu trúc tự nhiên của các mô, cơ quan trong cơ thể do đó việc thử nghiệm

phản ánh đầy đủ các mối quan hệ giữa tế bào với tế bào, tế bào với chất nền ngoại

bào và tế bào với môi trường dinh dưỡng như trong cơ thể bình thường. Nghiên

cứu bước đầu có thể tiến hành sàng lọc trên mô hình 2D, thu được kết quả khả quan

bước đầu tạo tiền đề để tiếp tục thử nghiệm trên mô hình 3D. Nghiên cứu sử dụng

mô hình 3D để đánh giá sàng lọc, tuyển chọn các chất tự nhiên có khả năng kháng

22

u [106]. Trong mô hình này, các chỉ số như tỷ lệ tế bào sống/chết, chỉ số IC50, tỷ số

tăng/giảm kích thước khối cầu các tế bào ung thư và các ảnh hưởng của chế phẩm

lên hình thái tế bào sẽ được đánh giá.

Trong phương pháp đánh giá in vitro, các bước tiến hành như sau:

- Hoạt hóa và nhân nuôi dòng tế bào ung thư: dòng tế bào ung thư thường

được lưu trữ ở trạng thái đông lạnh. Khi triển khai thử nghiệm, tế bào được rã đông

ở 37oC sau đó đem ly tâm để thu cặn tế bào, hoạt hóa và đưa và nhân nuôi ở các

môi trường nuôi cấy phù hợp.

- Đánh giá khả năng gây độc tế bào của mẫu thử nghiệm trên dòng tế bào

ung thưnuôi cấy. Các mẫu thử nghiệm được chuẩn bị ở nồng độ gốc, sau đó được

pha loãng trong điều kiện vô trùng để có dải nồng độ ở các đĩa pha mẫu. Tại các

giếng thử, tế bào ung thư được ủ với mẫu thử ở các nồng độ khác nhau. Giếng

không có chất thử nhưng có tế bào ung thư (180 µl) được sử dụng làm đối chứng.

Sau một thời gian ủ nhất định, tế bào được cố định, nhuộm và đo quang để đánh giá

các chỉ số như tỷ lệ tế bào sống/chết, chỉ số IC50...

Để đánh giá sâu hơn về khả năng kích thích chết tế bào theo chương trình

(apoptosis), các kỹ thuật Flow cytometry hoặc nhuộm hóa mô miễn dịch được áp

dụng. Apoptosis là một quá trình diễn ra tự nhiên trong cơ thể, bao gồm một chuỗi

các bước được kiểm soát để cuối cùng tế bào tự hủy diệt (tự sát) một cách có chủ

đích. Cơ thể dùng apoptosis để giám sát và cân bằng tự nhiên quá trình phân chia tế

bào (nguyên phân) hoặc tiếp tục phát triển và tái tạo tế bào. Quá trình apoptosis

được đặc trưng bởi các đặc điểm hình thái nhất định, bao gồm: những thay đổi

trong màng sinh như mất đối xứng màng và mất sự gắn kết màng, sự cô đặc của tế

bào chất và nhân và sự phân cắt DNA. Trong giai đoạn cuối, các phân mảnh tế bào,

được loại bỏ nhanh chóng bởi tế bào thực bào mà không tạo ra đáng kể tổn thương

viêm cho các tế bào xung quanh. Suy giảm apoptosis làm tăng tỷ lệ sống sót của tế

bào, dẫn đến ung thư phát triển. Do đó mục tiêu apoptosis là một tiêu chuẩn mới

23

trong phát triển thuốc điều trị ung thư. Các thuốc thử và công nghệ phát hiện

apoptosis, đo lường các chỉ số về apoptosis tại các giai đoạn khác nhau đã được

phát triển dựa trên các đặc điểm đặc biệt của quá trình apoptosis, gồm: thay đổi

Hoạt hoá Caspases

Thay đổi màng Plasma

Tế bào còn hoạt động sống (Live Cells)

Thay đổi ty thể

Chết tế bào theo chương trình

(Apoptosis)

Hoạt hoá Caspases

Tế bào dừng hoạt động sống (Fixed Cells)

Phân mảnh ADN

màng Plasma, thay đổi ty thể, hoạt hoá Caspases, sự phân mảnh AND [107].

Hình 1.3. Các đặc điểm phân tích chết tế bào theo chương trình (Apoptosis)

Thay đổi màng Plasma

Những thay đổi trong màng sinh chất là một trong những đặc điểm sớm nhất

của quá trình apoptosis. Trong tế bào apoptotic, màng phospholipid,

phosphatidylserine (PS), được chuyển vị trí từ trong ra ngoài của màng sinh chất, do

đó bộc lộ PS với môi trường tế bào bên ngoài. Annexin V là một protein liên kết

phospholipid phụ thuộc Ca2+, có ái lực cao với PS và liên kết với các tế bào có PS bộc

lộ ra ngoài. Annexin V có thể được liên hợp với các fluorochromes như FITC và PE,

hoặc với biotin hoặc được gắn với EGFP (protein huỳnh quang xanh tăng cường).

Việc liên hợp này vừa giữ lại ái lực cao của chúng với PS, vừa cung cấp tín hiệu để

phân tích các tế bào đang trải qua quá trình apoptosis. Sự hình thành bên ngoài PS xảy

ra trong giai đoạn sớm hơn của quá trình apoptosis, phương pháp nhuộm Annexin V

có thể xác định được quá trình apoptosis ở giai đoạn sớm hơn so với các thử nghiệm

dựa trên những thay đổi ở nhân như phân mảnh DNA. Do đó, nhuộm Annexin V kết

hợp với thuốc nhuộm propidium iodide (PI) hoặc 7-amino-actinomycin D (7-AAD)

24

cho phép xác định các tế bào apoptosis sớm (Annexin V dương tính, PI hoặc 7-AAD

âm tính), và những tế bào trong giai đoạn sau của quá trình apoptosis hoặc đã chết

(Annexin V dương tính, PI hoặc 7-AAD dương tính) [108].

Thay đổi ty thể: Thay đổi điện thế màng ty thể

Ty thể đóng một vai trò quan trọng trong quá trình apoptosis bằng cách giải

phóng cytochrome C và các protein khác cần thiết để kích hoạt pro-caspase-9 và

thực hiện quá trình apoptosis. Một trong những dấu hiệu sớm nhất của quá trình

apoptosis qua trung gian ty thể là sự thay đổi điện thế màng ty thể. Sự khử cực này

được theo sau bởi sự gia tăng tính thấm màng ty thể và sau đó giải phóng các

protein liên màng hòa tan khác nhau vào tế bào chất, như cytochrome C, AIF,

Smac/DIABLO và nhiều pro-caspases khác nhau [109]. Bộ BD™ MitoScreen Kit

(chứa JC-1) dựa trên huỳnh quang để phát hiện và đo lường các tế bào trong giai

đoạn đầu của quá trình apoptosis. Thuốc nhuộm cation ưa béo thấm qua màng JC-1

được sử dụng làm đầu dò điện thế màng Dym. Thuốc nhuộm này có thể tồn tại ở

hai trạng thái khác nhau: tập hợp hoặc đơn phân, và mỗi trạng thái được đặc trưng

với một phổ phát xạ khác nhau. Các ty thể bình thường, khỏe mạnh hấp thụ thuốc

nhuộm, dẫn đến hình thành các tập hợp dẫn đến phát huỳnh quang màu đỏ cao

được đo bằng FL2. Sự chuyển đổi của ty thể từ phân cực sang khử cực (do quá

trình apoptosis hoặc các sự kiện sinh lý khác) dẫn đến rò rỉ chất nhuộm màu ra khỏi

ty thể vào tế bào chất, dẫn đến giảm huỳnh quang màu đỏ. JC-1 không tích lũy

trong ty thể với khử cực Dym và tồn tại trong tế bào chất dưới dạng đơn phân dẫn

đến phát huỳnh quang màu đỏ thấp.

Hoạt hoá capases

Một trong những đặc điểm sớm của quá trình apoptosis là sự kích hoạt một

loạt các protease tế bào, các caspase, phân cắt nhiều cơ chất protein, dẫn đến mất

cấu trúc và chức năng tế bào, và cuối cùng dẫn đến chết tế bào. Đặc biệt, các

caspase -3, -8 và -9 có liên quan đến quá trình apoptosis: caspase-9 trong con

25

đường ty thể, caspase-8 trong con đường Fas/CD95, và caspase-3. Hoạt hoá

Caspase-3 là dấu hiệu các tế bào đang trải qua quá trình apoptosis, caspase-3 là một

protease quan trọng được kích hoạt trong giai đoạn đầu của quá trình apoptosis

[110]. BD Bioscineces cung cấp kháng thể phát hiện Caspase-3 hoạt hoá hoặc sử

dụng BD™ CBA’s (cytometric bead arraya) để phân tích đa thông số trong con

đường apoptosis (Human Apoptosis Kit (Cleaved PARP, Bcl-2, Active Caspase-3),

Cat.No. 557816).

Phân mảnh DNA

Một trong những bước sau của quá trình apoptosis là phân mảnh DNA, là kết

quả của việc kích hoạt các endonuclease trong apoptosis. Những nuclease này làm

suy giảm cấu trúc nhiễm sắc bậc cao thành các đoạn có kích thước ~ 300 kb và sau

đó thành các đoạn DNA nhỏ hơn khoảng 50 bp. Một phương pháp thường được sử

dụng để phát hiện DNA phân mảnh sử dụng phản ứng được xúc tác bởi exogenous

terminal transferase, TdT, thường được gọi là “End-labeling” hoặc “TUNEL”

(terminal deoxynucleotidyltransferase dUTP nick end labeling). APO-BrdU và

Apo-Direct kit phát hiện sự phân mảnh DNA trong các tế bào bám dính và trong

các tế bào phát triển ở trạng thái huyền phù bằng cách sử dụng phép đo dòng chảy

kết hợp với phân tích chu kỳ tế bào [111].

1.3.2. Các mô hình nghiên cứu in vivo

Thực tế cho thấy có những hợp chất có tác dụng, biểu hiện hoạt tính khi

thửnghiệm in vitro nhưng chưa chắc đã có kết quả mong muốn khi áp dụng lên cơ

thể động vật thí nghiệm. Vì vậy, thử nghiệm in vivo vẫn được coi là bước thử

nghiệm cần thiết để đánh giá tác dụng của chế phẩm nghiên cứu sau khi đã tiến

hành thử nghiệm in vitro cho các kết quả khả quan. Trong lĩnh vực nghiên cứu ung

thư thực nghiệm, mô hình nghiên cứu in vivo là mô hình nghiên cứu bắt buộc để có

thể đưa ra các số liệu khoa học tin cậy về một chất có thực sự tác động và biểu hiện

hoạt tính chống lại ung thư hay không, trước khi tiến hành thử nghiệm trên người

26

[112], [113]. Các mô hình nghiên cứu gây khối u trên động vật (in vivo) cho được

chia ra làm các nhóm như sau:

* Nhóm 1: Khối u phát triển tự nhiên trên một số loài động vật (cả loài gặm

nhấm và không gặm nhấm); do tỷ lệ bắt gặp thấp (khoảng 1%), khối u phát triển tự

nhiên trên động vật rất khó ứng dụng trong việc đánh giá hiệu quả của các tác nhân

điều trị/dự phòng.

* Nhóm 2: Khối u phát triển do các tác nhân ngoại sinh: hai tác nhân ngoại

sinh quan trọng gây ra khối u là chế độ ăn và hóa chất. Chẳng hạn “Chế độ ăn

phương Tây” (“Western diet”) với đặc điểm là tăng chất béo, giảm calci và vitamin

D, cho chuột ăn trong thời gian trên 12 tuần làm tăng sinh các tuyến nhú đại tràng

(colonic crypts) ở chuột cống và chuột nhắt. Hóa chất gây khối u được tiến hành

trên nhiều mô hình. Hợp chất 1,2-dimethylhydrazine (DMH) và chất chuyển hóa

của nó, azoxymethane (AOM), là hai chất gây ung thư được sử dụng phổ biến nhất

để gây ung thư đại trực tràng ở chuột cống và chuột nhắt. N-methyl-N-nitro-N-

nitrosoguanidine và N-methyl-N-nitrosourea: (viết tắt là MNU và NMU) là những

chất gây ung thư tác động trực tiếp được dùng cho cả chuột cống và chuột nhắt để

gây ra các khối u ở nhiều cơ quan. Khi dùng đường uống, ung thư phát triển ở dạ

dày, ruột non, đại tràng, thận, da, phổi và tuyến ức. Khi tiêm MNU gây ung thư

tuyến tiền liệt và ung thư vú. Ở thời điểm 14 ngày tuổi, các chuột nhắt trắng đực

được gây ung thư biểu mô gan bằng cách tiêm phúc mạc một liều

diethylnitrosamine (DEN) 35mg/kg, pha trong dung dịch đệmnước muối sinh lý

phosphat vô khuẩn (sterile phosphate buffered saline - PBS). Mặc dù các phương

pháp gây u bằng hóa chất có những ưu điểm nhất định, nhưng thực tế nghiên cứu

cho thấy mô hình này vẫn còn bộc lộ một số nhược điểm. Phương pháp gây u sử

dụng hóa chất thường phải tiêu tốn nhiều thời gian, công sức vì phải sau một thời

gian dài từ lúc cho chuột uống hóa chất (có thể lên tới 8-12 tháng) mới tạo thành

khối u, hóa chất thường không tạo ra một khối u đơn thuần mà lại có thể gây ra

27

nhiều khối u ở phổi và ở nhiều cơ quan khác nên rất khó đánh giá khi chỉ muốn

nghiên cứu về một loại u cụ thể, tỷ lệ chuột chết cao nhất là khi sử dụng liều cao vì

các hóa chất gây u đều rất độc… Quá trình cho động vật sử dụng các chất gây ung

thư kéo theo sự nguy hại cho người tiến hành thí nghiệm, chất thải độc hại ra môi

trường hoặc xử lý rác thải rất tốn kém.

* Nhóm 3: Các mô hình gây khối u do sự biến đổi gen ở chuột theo các cách

khác nhau.

- Mô hình gây đột biến dòng tế bào mầm gây ra bởi các chất gây đột biến,

các đột biến trong tế bào được truyền sang con cái. Ví dụ chuột nhắt ApcMin được

tạo ra từ đột biến ở chuột C57Bl/6J do ethylnitrosurea (ENU). Vì sự giống nhau về

mặt bệnh học và phân tử của mô hình ApcMin với bệnh lý đa polyp tuyến gia đình

(familial adenomatous polyposis –FAP), một bệnh lý mà nếu không điều trị sẽ

100% tiến triển thành ung thư đại trực tràng.

- Chuột nhắt biến đổi di truyền cung cấp khả năng tổng hợp lại chính xác các

phân tử liên quan đến căn nguyên bệnh ở người, giúp các nhà nghiên cứu lựa chọn

các chuột biến đổi gen kiểm soát được loại hình, thời gian, vị trí biến đổi gen phù

hợp tạo ra mô hình ung thư theo mục đích nghiên cứu.

Các chuột ung thư do biến đổi gen mặc dù có nhiều ưu điểm, nhưng việc tạo

ra khối u trên chuột biến đổi gen là một kỹ thuật khó, chi phí cao và đòi hỏi sự quản

lý nghiêm ngặt. Chính vì vậy, các mô hình gây khối u do sự biến đổi gen ở chuột

hiện nay vẫn chưa được thực hiện tại Việt Nam.

* Nhóm 4: Các mô hình gây khối u theo cách cấy ghép khối tế bào ung thư

vào chuột. Có các hình thức cấy ghép u sau:

- Mô hình ghép dị loài: Mô hình này sử dụng chuột thiếu hụt miễn dịch để

cấy ghép tế bào ung thư người trên cơ thể động vật. Đây được xem là một bước đột

phá trong nghiên cứu ung thư. Trên các mô hình này, các khối ung thư tạo ra trên

chuột mang các đặc tính cơ bản giống khối ung thư trên người, nên nó tiệm cận gần

28

hơn trong việc đánh giá tác dụng điều trị của các thuốc mới dự định áp dụng điều

trị ung thư trên người. Về cơ bản, hầu hết các loại ung thư người đều có thể được

ghép tạo khối u trên chuột thiếu hụt miễn dịch [112], [113].

Bắt đầu được tạo ra từ năm 1966 bởi Flanagan, chuột Balb/c nude có biểu

hiện bên ngoài khác biệt là không có lông, suy giảm hoặc mất chức năng tuyến ức

dẫn đến sự suy giảm hệ miễn dịch nghiêm trọng, các tế bào lympho T nguồn gốc

tuyến ức thiếu hụt còn gây ảnh hưởng tới khả năng hoạt động của các tế bào

lympho B và tế bào gốc tủy xương [114]. Chính vì vậy, các đáp ứng liên quan đến

đáp ứng của hệ miễn dịch bị ảnh hưởng bao gồm:

+ Hình thành kháng thể liên quan đến tế bào lympho T: CD4+ helper.

+ Đáp ứng qua miễn dịch trung gian tế bào cần sự có mặt của lympho T: CD4+

và/hoặc CD8+ (đáp ứng quá mẫn muộn, tiêu diệt virus hoặc phản ứng thải ghép).

Như vậy, với mô hình ghép dị loài, đánh giá tác dụng của các chế phẩm

nghiên cứu thông qua tác động tới hệ miễn dịch bị hạn chế. Nhiều dược liệu, bài

thuốc cũng như các chế phẩm sinh học có tác dụng trên hệ thống miễn dịch, cần

được đánh giá tác dụng kháng u của chế phẩm thông qua hàng loạt các cơ chế

miễn dịch. Để đánh giá tác dụng của các chế phẩm như vậy, cần tiến hành

nghiên cứu trên mô hình động vật mang u có hệ thống miễn dịch đầy đủ.

Cấy chuyển các dòng tế bào ung thư động vật (mô hình ghép đồng loài): Các

dòng tế bào ung thư thực nghiệm đã có từ khá lâu. Các nhà khoa học nhận thấy tế

bào ung thư dù ở trong cơ thể động vật hay nuôi cấy trong ống nghiệm vẫn giữ

được đặc tính mô bệnh học của nó và khi cấy chuyển những tế bào này vào cá

thểcùng loài thì tạo nên khối u mới có đặc tính của khối u nguyên phát [112]. Hiện

nay, hai dòng tế bào sarcoma TG180 và Lewis Lung Carcinoma được sử dụng

nhiều trong các mô hình ung thư thực nghiệm. Với mô hình này, tế bào ung thư

được cấy chuyển lên chuột bình thường không bị các tác nhân biến đổi gen hay hóa

chất làm suy giảm hệ thống miễn dịch. Cũng do hệ thống miễn dịch của chuột còn

29

tốt, vấn đề nuôi dưỡng, chăm sóc chuột cũng thuận tiện hơn nhiều so với các chuột

suy giảm miễn dịch. Tế bào ung thư cấy ghép là tế bào đồng loài nên hầu như tránh

được việc thải loại ghép, tỷ lệ cấy ghép thành công đạt mức cao. Chuột sau khi phát

triển khối u, yếu tố chính ảnh hưởng đến miễn dịch ở chuột là khối u chứ không

phải các yếu tố khác. Chính vì thế khi nghiên cứu chế phẩm trên mô hình này cho

phép đánh giá tác dụng của chế phẩm trên hệ miễn dịch của chuột mang u và mối

liên hệ giữa tác dụng trên hệ miễn dịch với tác dụng kháng u của chế phẩm.

Nhìn chung, có rất nhiều mô hình giúp nhà nghiên cứu có được những hiểu

biết có giá trị về ung thư ở người và đánh giá tác dụng kháng ung thư của các chế

phẩm nghiên cứu. Tuy nhiên, không có một mô hình đơn lẻ nào có được đầy đủ các

khía cạnh của bệnh lý trên người, do đó các nhà nghiên cứu phải lựa chọn cẩn thận

mô hình phù hợp nhất cho mục tiêu nghiên cứu của mình.

Trong các mô hình nghiên cứu in vivo, các chỉ tiêu như tỷ số phát triển u

(GR%), tỷ số thoái lui u (IR%), thời gian sống thêm (ILS) cũng như sự ảnh hưởng

của chế phẩm tới tình trạng sức khỏe chung của động vật thí nghiệm (sự tăng trọng,

chỉ tiêu sinh lý máu, sự biến đổi các cơ quan nội tạng, miễn dịch…) sẽ được khảo

sát. Mô hình in vivo có ưu điểm nổi bật là đánh giá được chính xác tác động của

thuốc lên khối u cũng như lên cơ thể do sự tương tác của cả 3 yếu tố: khối u, thuốc

và hệ miễn dịch của động vật thí nghiệm, đồng thời có thể đánh giá được tác động

chống oxy hóa của thuốc nghiên cứu trên cơ thể động vật mang u...

30

CHƯƠNG 2

CHẤT LIỆU, ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. CHẤT LIỆU VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU

2.1.1. Chất liệu nghiên cứu

* Mẫu dược liệu nghiên cứu

Mẫu dược liệu nghiên cứu là rễ củ 4 năm của cây Tam thất (Panax

notoginseng (Burk.) F.H.) được trồng tại Simacai, Lào Cai. Mẫu nghiên cứu đã

được PGS. TS. Phạm Thanh Huyền, Khoa Tài nguyên dược liệu - Viện Dược liệu

thẩm định tên khoa học. Mẫu tiêu bản số HTV2-072015 được lưu tại Khoa Hóa

thực vật - Viện Dược liệu (Phụ lục 2).

Các mẫu Tam thất hấp được chuẩn bị như sau:

Mẫu tươi: rễ củ Tam thất tươi được thái lát, chia thành các phần nhỏ được

bọc bằng gạc, mỗi phần khoảng 150g. Tiến hành hấp ở nhiệt độ 100°C (hoặc

120°C) trong nồi hấp. Sau mỗi 4 giờ, lấy 01 phần đựng dược liệu ra, sấy khô ở

nhiệt độ 45°C, bảo quản trong túi nilon kín, phục vụ quá trình nghiên cứu.

Mẫu khô: rễ củ Tam thất tươi được thái lát, sấy khô ở 45°C đến độ ẩm 

10%, thu được mẫu Tam thất khô. Mẫu khô được xay thành bột, chia thành các

phần nhỏ, mỗi phần khoảng 30g. Tiến hành hấp ở nhiệt độ 100°C (hoặc 120°C)

trong nồi hấp. Sau mỗi 4 giờ, lấy 01 phần đựng dược liệu ra, sấy khô ở nhiệt độ

45°C, bảo quản trong túi nilon kín, phục vụ quá trình nghiên cứu.

31

Hình 2.1: Mẫu Tam thất khô, hấp ở 100ºC

Hình 2.2: Mẫu Tam thất khô, hấp ở 120ºC

Hình 2.3: Mẫu Tam thất tươi, hấp ở 100ºC

32

Hình 2.4: Mẫu Tam thất tươi, hấp ở 120ºC

* Cao định lượng NP(O) và NP(H)

Cân khoảng 1 kg bột Tam thất, chiết hồi lưu với dung môi ethanol 70%, tỷ lệ

dung môi/dược liệu: 10/1 (thể tích/khối lượng), 3 lần, mỗi lần 3 giờ. Gộp các dịch

chiết, cô thu hồi dung môi dưới áp suất giảm thu được cao đặc.

Hiệu suất chiết cao đặc từ bột Tam thất được xác định dựa trên công

thức:

Mcao x (100-acao) x 100 H= Mdl x (100-adl)

Trong đó: H: hiệu suất chiết cao (%)

Mcao, Mdl: khối lượng cao, khối lượng dược liệu (g)

acao, adl: độ ẩm cao, độ ẩm dược liệu (%)

- Cao định lượng từ bột rễ củ Tam thất không hấp được ký hiệu là NP(O).

- Cao định lượng từ bột rễ củ Tam thất hấp được ký hiệu là NP(H).

33

NP(H)

NP(O)

Hình 2.5. Cao định lượng NP(O) và cao định lượng NP(H)

* Các saponin đã phân lập:

- 2 saponin Rg3 và Rh1 thu được từ rễ củ Tam thất đã hấp hơi nóng;

- 4 saponin Rg1, Re, Rd và Rb1 thu được từ rễ củ Tam thất chưa xử lý qua hơi nóng;

Hình 2.6. Các saponin phân lập từ Tam thất

34

2.1.2. Đối tượng nghiên cứu

- Các dòng tế bào ung thư người: ung thư ruột kết (HT29), ung thư tế bào gan

(HepG2), ung thư vú (MCF-7), ung thư cơ (RD), ung thư biểu mô đáy phế nang

phổi (A549), ung thư biểu mô tuyến phổi (SK-LU-1): (ATCC, Hoa Kỳ), được bảo

quản tại Viện Công nghệ sinh học thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Việt Nam.

- Dòng tế bào ung thư mô liên kết chuột Sarcoma TG180:(ATCC, Hoa Kỳ),

được bảo quản tại Bộ môn Sinh học Tế bào, Khoa Sinh học, Trường Đại học Khoa

học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội.

- Chuột nhắt trắng chủng Swiss, cả hai giống, khỏe mạnh, cân nặng từ 20 -

22 gam, do Học viện Quân y cung cấp,dùng trong nghiên cứu độc tính cấp và

nghiên cứu tác dụng kháng u đùi thực nghiệm.

- Chuột cống trắng trưởng thành, dòng Wistar, không phân biệt giống, đạt

tiêu chuẩn thí nghiệm, cân nặng 180 - 220g, do Học viện Quân y cung cấp, dùng

trong nghiên cứu độc tính bán trường diễn.

Chuột được nuôi 7- 14 ngày để thích nghi với môi trường và điều kiện chăn

nuôi của phòng thí nghiệm trước khi tiến hành nghiên cứu. Nhiệt độ phòng nuôi 25

± 50C. Động vật được ăn thức ăn dạng viên và uống nước sạch, tự do (ad libitum).

2.1.3. Thiết bị, dụng cụ, hóa chất sử dụngtrong nghiên cứu

2.1.3.1. Thiết bị, dụng cụ sử dụng trong nghiên cứu

* Thiết bị, dụng cụ sử dụng trong nghiên cứu ảnh hưởng của phương pháp chế biến hấp

nhiệt đến hàm lượng saponin của rễ củ Tam thất

- Các dụng cụ dùng trong quá trình thực nghiệm như bình gạn, bình nón,

phễu lọc, cốc có mỏ, ống nghiệm, ống đong, pipet, kim tiêm.

- Cột sắc ký các kích thước.

- Máy cất quay Rotavapor R-220, Rotavapor R-200 (BUCHI).

- Tủ sấy Memmert, Binder-FD115.

- Bếp điện, bếp đun cách thủy.

35

- Cân kĩ thuật Precisa BJ 610C, cân phân tích Precisa 262SMA-FR, cân xác

định độ ẩm Precisa HA60.

- Đèn UV-Vilber lourmat, máy chụp ảnh UV.

- Máy scan CanoScan LiDe 100 (Trung Quốc).

- Máy siêu âm Power sonic 405 (Hàn Quốc).

- Máy UV-VIS 1800 dải đo 190nm-800nm, hãng Shimadzu-Nhật Bản; Máy

đo điểm chảy Kofler micro-hotstage, Viện Hoá học các hợp chất Thiên nhiên, Viện

Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VHLKH&CNVN).

- Máy đo phổ cộng hưởng từ hạt nhân (NMR): BRUKER AVANCE AM500

FT – NMR (Công ty Bruker, Billerica, MA, Mỹ), và BRUKER – DRX-300 (Công

ty Bruker, Billerica, MA, Mỹ), của Viện Hoá học, Viện Hàn lâm Khoa học và

Công nghệ Việt Nam, chất nội chuẩn là tetramethyl silan.

- Máy đo phổ khối lượng phun mù điện tử (Electron Spray Ionization

MassSpectrometry, ESI-MS) được đo trên máy AGILENT 1100 LC-MSD Trap

(Mỹ) của Viện Hoá các Hợp chất Thiên nhiên, Viện Khoa học và Công nghệ Việt

Nam.

- Máy UV-VIS 1800 dải đo 190nm- 800nm, hãng Shimadzu (Nhật Bản)

- Máy sắc ký lỏng hiệu năng cao phân tích Shimadzu LC10 TVP, detector

diod array SPD-M10Avp (Nhật Bản).

- Nồi hầm hơi nước OCOO OC-8000RV (Hàn Quốc)

* Thiết bị, dụng cụ sử dụng trong nghiên cứu tác dụng kháng u thực nghiệm, độc tính

cấp và bán trường diễn của các mẫu thử

- Buồng đếm tế bàoMalassez, Pháp.

- Máy đọc Elisa (SpectraMAX Plus 384 - Mỹ)

- Máy đếm tế bào BDFACS-Lysis của hãng BD - Mỹ

- Đĩa nuôi cấy tế bào 35, 100 mm; Chai nuôi cấy tế bào T25 (Corning, Mỹ).

36

- Hệ thống phòng thí nghiệm phục vụ nuôi cấy TB: phòng sạch, tủ ấm CO2, kính

hiển vi soi ngược, máy ly tâm, tủ mát 40C, tủ âm -200C, -800C, bình chứa nitơ lỏng…

- Máy xét nghiệm huyết học Vet abcTM Animal Blood Counter của hãng

ABX-Diagnostic (Pháp).

- Máy xét nghiệm sinh hóa 3000 Evolution (Biochemical Systems

International, Ý).

- Kính hiển vi huỳnh quang Nikon Eclipse Ti2 (Nhật Bản).

- Máy nhuộm tiêu bản tự động Leica Autostainer XL- ST5010, Đức.

- Máy đọc đĩa ELISA Chromate 4300, Awareness Technology, Mỹ.

- Máy rửa tự động Stat Fax- 2600®, Awareness Technology, Mỹ.

- Máy ủ và lắc trộn Stat Fax- 2200, Awareness Technology, Mỹ.

- Kính hiển vi phẫu thuật đa năng YSX- 107; Richy- Trung Quốc.

- Máy ly tâm lạnh Universal 320R; Hettich- Đức.

- Máy nghiền mô-tế bào-Homogenizer-D160-DLAB ( Mỹ).

- Tủ ấm Memmert INB 500; Memmert- Đức.

- Cân phân tích Ohaus PA 214C (d = 0,0001 g); Ohaus (Mỹ), Sartorius (Đức).

- Dụng cụ cho động vật uống thuốc (kim cong đầu tù các cỡ).

- Micropipet các cỡ, đầu côn, ống falcon các loại.

- Thước kẹp caliper dùng đo kích thước khối u đùi chuột.

- Dụng cụ phẫu thuật các cỡ, kim tiêm, chỉ, dao, kéo… và một số dụng cụ,

máy móc chuyên dụng khác.

2.1.3.2. Hóa chất sử dụng trong nghiên cứu

* Dung môi, hóa chất dùng trong chiết xuất và phân lập: Methanol (MeOH),

ethanol, n-hexan, aceton, dicloromethan (DCM), chloroform, ethyl acetat (EtOAc),

n-butanol (n-BuOH)…và các thuốc thử.

* Dung môi, hóa chất dùng trong định lượng:

- Acetonitril (Merck), methanol (Merck), acid phosphoric (Merck)

37

- Silica gel cho sắc ký cột (0,04-0,063 mm, Merck)

- Bản mỏng silica gel tráng sẵn (MERCK): Pha thuận (Silica gel 60 F254) và pha

đảo (Silica gel 60 RP-18 F254 s) hoạt hóa trong tủ sấy ở nhiệt độ 105-110°C trong 60 phút.

* Dung môi hóa chất dùng trong nghiên cứu in vitro, in vivo:

- Trichloracetic acid - TCA (Sigma), Sulforhodamine B - (Sigma).

- Thuốc tham chiếu: Lentinan (Carbosynth Limited., Anh; Batch: FL

333211401), Mã sản phẩm FL33321; CAS No.37339-90-5), sử dụng làm chất tham

chiếu trong nghiên cứu in vivo.

- Chất tham chiếu: Ellipticine (Sigma – Mỹ), sử dụng làm chất tham chiếu

cho thử nghiệm đánh giá tác dụng kháng ung thư của 6 saponin đã phân lập và cao

định lượng NP(O), NP(H) trên một số dòng tế bào ung thư người.

- Chất tham chiếu: Taxol (Sigma – Mỹ), sử dụng làm chất tham chiếu cho

thử nghiệm đánh giá tác dụng độc tính của cao định lượng NP(H) trên dòng tế bào

ung thư mô liên kết chuột sarcoma TG180.

- Kit định lượng các chỉ số hóa sinh trong máu: ALT, AST, Albumin, Cholesterol,

Bilirubin, Creatinin của hãng Hospitex Diagnosics (Italy) và hãng Dialab GmbH (Áo).

- Dung dịch xét nghiệm huyết học ABX Minidil LMG cho chuột của hãng

ABX – Diagnostics.

- Kít định lượng IL-2 (mã: RAB0287-1KT), TNF-α (mã: REF KMC3011)

cho chuột của hãng Invitrogen (Mỹ).

- Các hóa chất sử dụng trong nuôi cấy tế bào: Môi trường nuôi cấy RPMI

1640 (Gibco, Mỹ), PBS (Phosphate Buffered Saline) (Gibco, Mỹ), Trypsin –

EDTA (Gibco, Mỹ), FBS (Fetal Bovine Serum) (Invitrogen, Mỹ).

- Blue Trypan (Gibco, Mỹ).

- DMSO (Dimethyl Sulfoxide) (Prolabo, Mỹ).

- CellTiter 96® Non-Radioactive Cell Proliferation Assay (Promega, Mỹ)

- Annexin V-FITC Apoptosis Detection Kit.

38

2.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.2.1. Nghiên cứu ảnh hưởng của phương pháp chế biến bằng hấp nhiệt đến

hàm lượng saponin của rễ củ Tam thất.

2.2.1.1. Chiết xuất, phân lập và xác định cấu trúc các saponin chính có trongcác

mẫu Tam thất hấp và không hấp.

* Phương pháp chiết xuất

Củ Tam thất (khô, đã nghiền bột) được chiết 3 lần với methanol 80% bằng

phương pháp chiết nóng ở nhiệt độ sôi. Tiến hành lọc loại bã dược liệu, gộp dịch lọc và

cất thu hồi dung môi dưới áp suất giảm ở 45-50oC thu được cao đặc. Cao đặc này đem

phân tán trong nước rồi lắc lần lượt với các dung môi có độ phân cực tăng dần, cất thu

hồi dung môi dưới áp suất giảm thu được các phân đoạn tương ứng dùng cho nghiên

cứu phân lập và tinh chế các chất.

* Phương pháp phân lập các chất

- Phân lập các hợp chất trong củ Tam thất bằng sắc ký cột (CC), theo dõi các

phân đoạn sắc ký bằng sắc ký lớp mỏng (SKLM).

- Sắc ký cột được tiến hành với chất hấp phụ là silica gel pha thường (0,040-

0,063mm, Merck) với các hệ dung môi thích hợp.

- SKLM được thực hiện trên bản mỏng tráng sẵn DC-Alufolien 60G F254

(Merck, ký hiệu 105715) và RP18 (Merck). Phát hiện chất dùng thuốc thử là dung

dịch H2SO4 10% trong ethanol.

- Kết tinh lại trong hệ dung môi.

- Độ tinh khiết của các chất phân lập được kiểm tra sơ bộ bằng SKLM, nhận

biết bằng đèn tử ngoại, phun dung dịch H2SO4 10% - hơ nóng, đo điểm chảy.

* Phương pháp xác định cấu trúc hóa học của các hợp chất phân lập được

- Xác định cấu trúc các hợp chất phân lập được dựa trên tính chất cảm quan, các

thông số vật lý (nhiệt độ nóng chảy) và các phương pháp phổ bao gồm: phổ khối

lượng (APCI-MS hoặc ESI-MS), phổ cộng hưởng từ hạt nhân một chiều và hai chiều

39

(1H, 13C và DEPT, HMBC, COSY…) và so sánh dữ liệu phổ thu được với các dữ liệu

phổ đã công bố.

- So sánh SKLM với chất đối chiếu trong cùng điều kiện.

2.2.1.2. Nghiên cứu sự biến đổi hàm lượng hoạt chất trong Tam thất trước và sau khi

hấp ở các điều kiện khác nhau bằng phương pháp sắc ký lỏng hiệu năng cao (HPLC).

Hàm lượng hoạt chất trong Tam thất trước và sau khi hấp ở các điều kiện

khác nhau được đánh giá bằng phương pháp sắc ký lỏng hiệu năng cao (HPLC).

Các yếu tố được khảo sát là thời gian hấp (0, 4, 8, 12, 16, 20, 24h), nhiệt độ hấp

(1000C, 1200C), mẫu Tam thất tươi hoặc khô [115].

Các chất đối chiếu là các chất tinh khiết đã được chiết xuất và phân lập từ

mẫu nghiên cứu (mục 3.1.1). Phương pháp định lượng được tham khảo tài liệu của

Dong Wang và cộng sự có điều chỉnh cho phù hợp với mẫu nghiên cứu [116].

Chuẩn bị mẫu:

Dung dịch chuẩn: Cân chính xác 15,0 mg mỗi chất đối chiếu, hòa tan riêng

trong 5ml methanol, thu được các dung dịch chuẩn gốc có nồng độ 3mg/ml. Phối hợp

các dung dịch chuẩn gốc thu được dung dịch hỗn hợp chuẩn. Pha loãng dung dịch hỗn

hợp chuẩn với methanol, thu được các dung dịch chuẩn làm việc có nồng độ thích hợp.

Dung dịch thử: Cân chính xác khoảng 2,0 g bột dược liệu, cho vào bình nón,

thêm 100ml dung môi methanol. Chiết hồi lưu trong 2 giờ. Để nguội, lọc dịch chiết

vào bình định mức 100ml, thêm dung môi đến vạch thu được dung dịch thử.

Các dung dịch chuẩn và dung dịch thử được lọc qua màng lọc kích thước

0,45µm trước khi triển khai sắc ký.

Điều kiện sắc ký:

Hệ thống HPLC của hãng Shimadzu, Nhật Bản

Nhiệt độ buồng cột: 28°C

Tốc độ dòng: 1,0ml/phút

40

Thể tích tiêm mẫu: 20µl

Bước sóng phát hiện: 205nm

Pha tĩnh: Cột Agilent C18 (250 x 4,6mm; 5µm)

Pha động: acetonitril (A) – Acid phosphoric 0,1% trong nước (B), rửa giải theo chương trình sau:

Thời gian (phút) Acetonitril (%) Acid phosphoric 0,1% trong nước (%)

0-20 20-22 80-78

20-45 22-46 78-54

45-55 46-55 54-45

55 45

55-70 Tiến hành:

Tiêm các dung dịch hỗn hợp chuẩn, ghi nhận sắc ký đồ. Xây dựng đường

chuẩn biểu diễn sự phụ thuộc giữa diện tích pic của các chất đối chiếu và nồng độ

của chúng trong dung dịch.

Tiêm các dung dịch thử, tiến hành sắc ký, ghi nhận sắc ký đồ.

Hàm lượng một chất trong mẫu dược liệu Tam thất được xác định dựa trên

công thức:

100 100 Y-b X (%)= x H x k x x m x 1000000 100-a A

Trong đó:

X: hàm lượng chất cần phân tích tính theo dược liệu khô kiệt (%)

Y: diện tích pic của chất cần phân tích trên sắc ký đồ mẫu thử

A,b: các hệ số của phương trình đường chuẩn, xác định bằng thực nghiệm

H: độ tinh khiết của chất đối chiếu (tính theo diện tích pic)

k: hệ số điều chỉnh thực nghiệm

m: khối lượng dược liệu mang chiết (g)

41

a: độ ẩm của dược liệu (%)

2.2.1.3. Định lượng hàm lượng saponin trong 2 mẫu cao NP(O) và NP(H) bằng HPLC

* Chuẩn bị mẫu

Dung dịch chuẩn:chuẩn bị như ở mục 2.2.1.2.

Dung dịch thử: Cân chính xác khoảng 200mg cao chiết, thêm ethanol 70%, siêu

âm cho tan hoàn toàn, chuyển vào bình định mức 25ml, thêm dung môi đến vạch.

Các dung dịch chuẩn và dung dịch thử được lọc qua màng lọc kích thước

0,45µm trước khi triển khai sắc ký.

Điều kiện sắc ký: như ở mục 2.2.1.2.

Tiến hành: như ở mục 2.2.1.2.

Hàm lượng một chất trong mẫu cao Tam thất được xác định dựa trên công thức:

X (%)= x H x k x x Y-b A 25 m x 1000 100 100-a

Trong đó:

- X: hàm lượng chất cần phân tích tính theo khối lượng cao khô kiệt (%)

- Y: diện tích pic của chất cần phân tích trên sắc ký đồ mẫu thử

- A,b: các hệ số của phương trình đường chuẩn, xác định bằng thực nghiệm

- H: độ tinh khiết của chất đối chiếu (tính theo diện tích pic)

- k: hệ số điều chỉnh thực nghiệm

- m: khối lượng cao chiết (mg)

- a: độ ẩm của cao chiết (%)

2.2.2. Nghiên cứu tác dụng kháng u thực nghiệm của các dạng cao định lượng

và một số saponin phân lập từ rễ củ Tam thất.

2.2.2.1. Đánh giá tác dụng kháng u của 6 saponin đã phân lập và cao định lượng

NP(O), NP(H) trên một số dòng tế bào ung thư người

Theo phương pháp được mô tả bởi Monks A và cộng sự (1991) [117].

Nguyên lý của phép thử: tiến hành xác định hàm lượng protein tế bào tổng số dựa

42

vào mật độ quang học (OD – Optical Density) đo được khi thành phần protein của

tế bào được nhuộm bằng Sulforhodamine B (SRB). Giá trị OD máy đo được tỉ lệ

thuận với lượng SRB gắn với phân tử protein, lượng tế bào càng nhiều (lượng

protein càng nhiều) thì giá trị OD càng lớn.

* Hoạt hóa và nhân nuôi tế bào ung thư người

Tế bào ở trạng thái đông lạnh được rã đông ở 37oC sau đó đem ly tâm ở vận

tốc 1300rpm trong 5 phút để thu cặn tế bào. Kết tủa tế bào sau đó được đánh tan

trong môi trường nuôi cấy sao cho khả năng phân tán của các tế bào là tốt nhất. Các

dòng tế bào ung thư người: ung thư ruột kết (HT29), ung thư tế bào gan (HepG2),

ung thư vú (MCF-7), ung thư cơ (RD), ung thư biểu mô đáy phế nang phổi (A549),

ung thư biểu mô tuyến phổi (SK-LU-1) sau đó được nuôi cấy trên môi trường thích

hợp. Các dòng tế bào dòng tế bào này đều bám dính vào bề mặt đĩa nuôi, được thay

môi trường 3 ngày 1 lần cho đến khi số lượng tế bào phủ kín trên 80% diện tích đáy

đĩa nuôi cấy tế bào sẽ được tách khỏi chai nuôi bằng Trypsin EDTA 0,04% và cấy

chuyển sang đĩa nuôi cấy mới. Chu trình được lặp lại hoàn toàn tương tự cho đến

khi thu được lượng tế bào đủ để sử dụng cho các thí nghiệm tiếp theo. Một số tế

bào thu được được đem bảo quản trong môi trường nuôi cấy hoàn chỉnh bổ sung

5% DMSO và được lưu trữ ở trong bình chứa Nitơ lỏng.

Thu hoạch tế bào ung thư nuôi cấy trên đĩa nuôi cấy tế bào đường kính 10 cm

bằng Trypsin EDTA, sau đó li tâm để loại bỏ môi trường, thu tế bào và hòa đều vào

trong môi trường tương ứng. Mật độ tế bào trong môi trường được xác định bằng

cách sử dụng buồng đếm Neubauer và kính hiển vi quang học.

* Tiến hành thử nghiệm

Các mẫu thử nghiệm gồm 6 saponin tinh khiết (Mẫu đánh số từ 1 đến 6) và

hai mẫu cao định lượng NP(O) và NP(H) được chuẩn bị ở nồng độ gốc là 10 mg/ml

trong DMSO100%. Sau đó, mẫu được pha loãng trong điều kiện vô trùng bằng môi

trường cơ bản (DMEM) không có FBS (Fetal Bovin Serum) để có dải nồng độ ở đĩa

pha mẫu là 100-20-4-0,8 µg/ml; Cuối cùng, 20 µl mẫu từ đĩa pha mẫu ở trên được

43

đưa vào các giếng của đĩa thử nghiệm 96 giếng, thêm 180 µl dịch tế bào đã điều

chỉnh nồng độ phù hợp ở trên vào các giếng này sao cho nồng độ cuối cùng của mẫu

thử trong giếng là 10,0 µg/ml; 2,0 µg/ml; 0,4 µg/ml và 0,08 µg/ml. Giếng không có

chất thử nhưng có tế bào ung thư (180 µl) sẽ được sử dụng làm đối chứng ngày 0.

Giếng đối chứng ngày 0 này, tế bào được cố định bằng Trichloracetic acid - TCA

20% trong 1h. Ủ trong tủ ấm 72 giờ, sau đó tế bào được cố định bằng TCA trong 1

giờ, được nhuộm bằng SRB trong 30 phút ở 37oC, rửa 3 lần bằng acetic acid rồi để

khô ở nhiệt độ phòng. Thêm 100µL unbuffered Tris base 10 mM để hòa tan lượng

SRB, lắc nhẹ trong 10 phút.Đọc kết quả mật độ quang học (OD) ở bước sóng 540

nm trên máy ELISA Plate Reader (Biotek).

Tỷ lệ (%) ức chế sự phát triển của tế bào khi có mặt chất thử được xác định

bằng công thức: [OD (chất thử) – OD (ngày 0)] x 100

(%) ức chế = 100% - OD (đối chứng âm) – OD (ngày 0)

Các mẫu được thực hiện lặp lại 3 lần và tính giá trị trung bình.

Giá trị IC50 (nồng độ ức chế 50% sự phát triển) sẽ được xác định bởi phần

mềm máy tính TableCurve 2Dv4.

Trong cùng điều kiện thử nghiệm, thuốc chống ung thư Ellipticine ở các

nồng độ 10 µg/ml; 2 µg/ml; 0,4 µg/ml và 0,08 µg/ml được dùng làm chất đối chứng

dương; dung dịch DMSO 10% được dùng làm đối chứng âm.

2.2.2.2. Đánh giá khả năng gây độc tế bào và khả năng kích thích chết tế bào

theo chương trình (apoptosis) của cao định lượng NP(H) trên dòng tế bào ung

thư mô liên kết chuột sarcoma TG180.

* Hoạt hóa và nhân nuôi dòng tế bào Sarcoma TG180

Tế bào ở trạng thái đông lạnh được rã đông ở 37oC sau đó đem ly tâm ở vận

tốc 1300 vòng/phút trong 5 phút để thu cặn tế bào. Kết tủa tế bào sau đó được đánh

tan trong môi trường nuôi cấy RPMI 1640, có bổ sung 10% FBS, 1% kháng sinh 44

sao cho khả năng phân tán của các tế bào là tốt nhất. Huyền phù được chuyển vào

chai nuôi cấy chai nuôi cấy 75cm2 và được giữ trong tủ ấm 37oC, 5% CO2.

Tế bào được thay môi trường nuôi cấy mỗi lần sau hai ngày và cấy chuyển

khi tế bào 60 – 70% trong môi trường nuôi cấy, khi đạt được số lượng đủ, tiến hành

thu và làm thí nghiệm.

** Đánh giá khả năng gây độc tế bào của cao định lượng NP(H) trên dòng tế bào

Sarcoma TG180 nuôi cấy

Để đánh giá khả năng gây độc tế bào của mẫu thử trên dòng tế bào nghiên

cứu, chúng tôi sử dụng bộ kit CellTiter 96® Non-Radioactive Cell Proliferation

Assay của hãng Promega, Mỹ (gọi tắt là phương pháp MTT).

Nồng độ mẫu thử nghiệmđược trình bày ở bảng 2.1.

Bảng 2.1. Dải nồng độ thử nghiệm của các mẫu thử

[Cµg/ml] Dãy nồng độ thử(*) [Cµg/ml]

C1 C2 C3 C4 C5 C6 Chất thử

2000 1000 500 250 125 62,5 NP(H)

2 1 0,5 0,25 0,125 0,0625 Taxol

20 20 20 20 20 20 ĐCSH(RPMI)

0,5% 0,5% 0,5% 0,5% 0,5% 0,5% ĐCDM(DMSO)

[Cµg/ml] – Nồng độ thử nghiệm tính đơn vị µg/1ml.

ĐCSH là viết tắt của đối chứng sinh học,khi tế bào được nuôi cấy bình

thường trong môi trường nuôi cấy RPMI 1460 (Gibco, Mỹ).

ĐCDM là viết tắt của đối chứng dung môi, khi tế bào có ủ với dung môi pha

thuốc DMSO (Prolabo, Mỹ).

 Quy trình thí nghiệm:

45

 Nạp tế bào: tiến hành nạp tế bào vào trong các giếng của đĩa nuôi cấy 96

giếng với nồng độ 7.000 tế bào/180 µl môi trường nuôi cấy, sau đó ủ trong

37oC, 5% CO2 cho tế bào ổn định trong 24h trước khi tiến hành thử thuốc.

 Ủ với thuốc thử: Bổ sung 20µl thuốc thử tương ứng để đạt nồng độ thuốc cần

thiết. Gõ nhẹ vào thành đĩa cho thuốc phân bố đều rồi ủ trong 48h ở trong tủ

ấm 37oC, 5% CO2.

 Sau 48h, bổ sung vào 40μl dung dịch nhuộm MTS. Gõ nhẹ đĩa và ủ trong 2-

4h ở 37oC. Ở bước này, dung dịch cần được bọc kín để tránh sáng.

 Đo mật độ quang học của dung dịch trong giếng bằng máy Microplate

Reader ở bước sóng 490 nm.

 Dựa vào giá trị mật độ quang học, ta xác định được % tỷ số tăng sinh (A) của

tế bào, từ đó đánh giá được độ độc đối với tế bào của mẫu thử. A được tính

theo công thức:

A(%) = x 100 T VH

VH: giá trị trung bình của mật độ quang học ở các giếng thử với dung môi dùng

pha mẫu thử.

T: giá trị trung bình của mật độ quang học ở các giếng thử với mẫu thử.

Nếu A = 50% có nghĩa là mẫu thử có tác dụng gây độc và làm chết 50% tế bào.

Nồng độ mẫu thử mà tại đó giá trị A đạt 50% gọi là liều gây chết 50% tế bào, ký hiệu là

IC50. Giá trị IC50 càng thấp chứng tỏ khả năng gây độc tế bào của mẫu thử càng cao.

*** Đánh giá khả năng kích thích chết tế bào theo chương trình (apoptosis) của

cao định lượng NP(H) trên dòng tế bào ung thư mô liên kết chuột sarcoma TG180

Khả năng kích thích chết tế bào theo chương trình (apoptosis) của cao định

lượng NP(H) trên dòng tế bào ung thư mô liên kết chuột sarcoma TG180 được

đánh giá bằng kỹ thuật Flow cytometry trên máy BDFACS-Lyric. Tế bào ung thư

mô liên kết chuột Sarcomma 180 được ủ với cao định lượng NP(H) tại nồng độ ½

46

giá trị IC50 (IC50NP(H)/Sar180= 206,65µg/ml) là 103,3µg/ml, với các khoảng thời

gian ủ là 12h, 24h và 48h. Thí nghiệm được lặp lại 2 lần.

Sơ đồ thí nghiệm được trình bày ở bảng 2.2

Bảng 2.2. Sơ đồ thí nghiệm đánh giá khả năng kích thích apoptosis của NP(H)

trên dòng tế bào ung thư mô liên kết chuột sarcoma TG180

Mẫu thử (nồng độ)thời gian ủvới tế bào Sarcoma TG180

NP(H) NP(H) NP(H)

(103,03µg/ml) (103,03µg/ml) (103,03µg/ml) ĐCSH

12h 24h 48h

NP(H) NP(H) NP(H)

(103,03µg/ml) (103,03µg/ml) (103,03µg/ml) ĐCSH

12h 24h 48h

ĐCSH là viết tắt của đối chứng sinh học, khi tế bào được nuôi cấy bình

thường trong môi trường nuôi cấy RPMI 1640 (Gibco, Mỹ).

Chỉ số đánh giá:

Để xác định tỉ lệ tế bào chết theo chương trình chúng tôi sử dụng bộ kít anti-

annexin V gắn chất phát huỳnh quang là Fluorescein isothiocyanate (FITC) và chất

nhuộm nhân tế bào phát huỳnh quang là 7-Amino Actinomycin D (7AAD). Quy

trình chạy flow cytometrytheo hướng dẫn của bộ kit Annexin V Apoptosis

Detection (BD) trên máy đếm tế bào BDFACS-Lysis Của hãng BD Mỹ, tại Labo

Sinh học phân tử- Bộ môn Sinh lý bệnh, Học viện Quân Y. Các tế bào apoptosis

sớm (xác định bởi Annexin V dương tính, PI âm tính), và các tế bào apoptosis

muộn (trong giai đoạn sau của quá trình apoptosis hoặc đã chết, xác định bởi

Annexin V dương tính, PI dương tính) được đánh giá tự động bởi máy đo, từ đó

tính toán ra tỷ lệ % tế bào apoptosis sớm, tỷ lệ % tế bào apoptosis muộn và tỷ lệ %

tế bào apoptosis.

47

2.2.2.3. Nghiên cứu tác dụng ức chế phát triển u của các cao định lượng NP(H)

và NP(O) trên chuột nhắt trắng mang khối u rắn sarcoma TG 180.

* Phương pháp tạo khối u rắn sarcoma TG180 trên chuột nhắt trắng

Tế bào ung thư Sarcoma TG180 sau khi được hoạt hóa và nhân nuôi đảm

bảo đủ số lượng sẽ được dùng để gây u trên chuột theo phương pháp của Lapis và

cộng sự [118]. Cụ thể:

- Tế bào ung thư sarcoma TG 180 được bảo quản trong nitơ lỏng ở -198°C.

Đưa tế bào về 37°C cho rã đông. Tế bào ung thư sarcoma TG 180 sau đó được

hoạt hóa, nuôi cấy tăng sinh đạt mật độ và số lượng như mong muốn. Ngay

trước khi tiêm tế bào gây u, tiến hành li tâm bỏ dịch bảo quản, rửa tế bào 2 lần

bằng dung dịch đệm PBS, sau đó pha loãng trong dung dịch PBS. Dùng

micropipet hút một lượng nhỏ, cho vào buồng đếm để xác định mật độ tế bào.

Pha loãng hỗn dịch tế bào sao để có 5×106 tế bào/ml;

- Lắc nhẹ bơm tiêm để các tế bào phân tán đều trong hỗn dịch trước khi tiêm.

Các chuột được tiêm 0,1ml hỗn dịch tế bào vào dưới da đùi sau bên phải của chuột,

tương ứng với lượng 5×105 tế bào sarcoma TG 180 mỗi chuột.

- Theo dõi trong 5 ngày đầu sau tiêm hỗn dịch tế bào sarcoma TG 180. Đánh

giá theo dõi sự hình thành và phát triển khối u tại vị trí tiêm (đùi phải) bằng quan

sát, sờ nắn. Những chuột có sự xuất hiện khối u phát triển tại đùi tại chỗ tiêm

(thường sau 3 ngày bắt đầu phát hiện rõ khối u), và thể tích khối u tăng dần theo

thời gian, được đánh giá là gây u thành công và được đưa vào nghiên cứu.

* Đánh giá tác dụng ức chế phát triển u của các cao định lượng NP(H) và NP(O)

Chuột gây u bằng cách tiêm vào dưới da đùi tế bào sarcoma TG180 như mô

tả trên. Các chuột gây u thành công được chia ngẫu nhiên thành 6 lô, thêm 01 lô

chuột không gây u, tổng cộng có 7 lô chuột nghiên cứu, mỗi lô 10 con.

- Lô 1 - chứng sinh lý (SL): chuột không gây u, uống nước muối sinh lý 0,3 ml/20g.

- Lô 2 - ung thư (UT): chuột gây u, uống nước muối sinh lý 0,3 ml/20g.

48

- Lô 3 - Letinan (LTN): chuột gây u, uống Lentinan liều 240 mg/kg/ngày.

- Lô 4 - NP(O)-1: chuột gây u, uống NP(O) liều 300 mg/kg/ngày.

- Lô 5 - NP(O)-2: chuột gây u, uống NP(O) liều 900 mg/kg/ngày.

- Lô 6 - NP(H)-1: chuột gây u, uống NP(H) liều 300 mg/kg/ngày.

- Lô 7 - NP(H)-2: chuột gây u, uống NP(H) liều 900 mg/kg/ngày.

Chế phẩm NP(O), NP(H), Lentinan và nước muối sinh lý được cho chuột uống

(theo phân lô) từ ngày thứ 6 kể từ khi tiêm tế bào sarcoma TG180, và cho uống liên

tục trong 16 ngày.

Đánh giá tác dụng ức chế khối u dựa trên các chỉ tiêu:

- Quan sát các biểu hiện, hoạt động, tập tính ăn uống vận động của chuột.

- Cân chuột để đánh giá tình trạng cân nặng của chuột.

- Thể tích khối u: Đo kích thước khối u bằng thước kẹp Caliper, xác định

đường kính lớn nhất và đường kính nhỏ nhất của khối u (Hình 2.7). Tính thể tích

khối u rắn theo công thức của Bagley và cộng sự [119]: V= 0,52.a2.b.

Trong đó: a: đường kính nhỏ nhất của khối u (mm); b: đường kính lớn nhất

B

của khối u (mm); V: thể tích khối u (mm3).

Hình 2.7. Khối u

đùi chuột tạo ra

A

C

sau cấy ghép

dòng tế bào ung thư sarcoma TG180.

(A) Đo kích thước khối u bằng thước kẹp; (B) Khối u ở chuột; và (C) khối u được mổ

ra từ đùi chuột.

49

- Vào thời điểm kết thúc thí nghiệm, phẫu tích bóc tách lấy khối u khỏi đùi

chuột, cân bằng cân phân tích 10-4 để xác định cân nặng khối u (W). Làm tiêu bản

nhuộm HE ngẫu nhiên 4 khối u bóc tách từ 4 chuột ở mỗi lô để đánh giá. Tiêu bản

mô bệnh học khối u chuột được thực hiện và đọc tại Bộ môn - Khoa Giải phẫu

bệnh – Pháp y, bệnh viện 103.

- Đánh giá hiệu lực kháng u theo tiêu chuẩn của Itokawa và cộng sự [120]:

+ Xác định tỷ số phát triển khối u (GR-Growth Ratio):

GR (%) = V(W) nghiên cứu/V(W) đối chứng x 100 (%)

+ Xác định tỷ số ức chế khối u (IR-Inhibition Ratio):

IR (%) = 100% - GR(%)

Hiệu lực kháng u được đánh giá theo thang đánh giá của H. Itokawa

Bảng 2.3. Thang đánh giá hiệu lực kháng u của H. Itokawa

IR (%) Hiệu lực kháng u

0 – 30 -

31 – 60 +

61 – 90 ++

91 – 100 +++

2.2.2.4. Đánh giá tác dụng của các cao định lượng NP(H) và NP(O) lên hệ miễn

dịch của chuột mang khối u rắn sarcoma TG180.

Tác dụng tăng cường miễn dịch của Tam thất được xem là một trong những

cơ chế tác dụng trong điều trị ung thư [76], [77]. Để đánh giá tác dụng của các cao

định lượng NP(H) và NP(O) lên hệ miễn dịch gắn liền với vai trò trong điều trị ung

thư,nghiên cứu tiến hành đánh giá trên chuột mang khối u rắn sarcoma TG180, là

mô hình gây ung thư trên chuột còn hệ miễn dịch đầy đủ. Thử nghiệm được thực

hiện theo phương pháp được mô tả bởi Stefanova T.H. [121].

50

Chuột gây u bằng cách tiêm vào dưới da đùi tế bào sarcoma TG180 như mô tả

ở phần 2.2.2.3. Các chuột gây u thành công được chia ngẫu nhiên thành 6 lô, thêm

01 lô chuột không gây u, tổng cộng có 7 lô chuột nghiên cứu, mỗi lô 10 con.

- Lô 1 - chứng sinh lý (SL): chuột không gây u, uống nước muối sinh lý 0,3 ml/20g.

- Lô 2 - ung thư (UT): chuột gây u, uống nước muối sinh lý 0,3 ml/20g.

- Lô 3 - Letinan (LTN): chuột gây u, uống Lentinan liều 240 mg/kg/ngày.

- Lô 4 - NP(O)-1: chuột gây u, uống NP(O) liều 300 mg/kg/ngày.

- Lô 5 - NP(O)-2: chuột gây u, uống NP(O) liều 900 mg/kg/ngày.

- Lô 6 - NP(H)-1: chuột gây u, uống NP(H) liều 300 mg/kg/ngày.

- Lô 7 - NP(H)-2: chuột gây u, uống NP(H) liều 900 mg/kg/ngày.

Chế phẩm NP(O), NP(H), Lentinan và nước muối sinh lý được cho chuột uống

(theo phân lô) từ ngày thứ 6 kể từ khi tiêm tế bào sarcoma TG180, và cho uống liên

tục trong 16 ngày. Vào thời điểm kết thúc thí nghiệm, tiến hành lấy mẫu để đánh giá

các chỉ số nghiên cứu.

- Lấy máu ở xoang mạch dưới hốc mắt (Orbital Sinus) của chuột bằng kỹ thuật

retro-orbital blood collection [122] để định lượng IL-2, TNF-α và xét nghiệm các chỉ

số huyết học. Định lượng IL-2, TNF-α bằng kỹ thuật ELISA, sử dụng kít định lượng

IL-2 (mã: RAB0287-1KT), TNF-α (mã: REF KMC3011) cho chuột của hãng

Invitrogen (Mỹ), tiến hành theo hướng dẫn của nhà sản xuất. Các chỉ số huyết học

được xét nghiệm bằng máy xét nghiệm huyết học Vet abcTM Animal Blood Counter

của hãng ABX-Diagnostic (Pháp), với phần mềm xét nghiệm sử dụng cho chuột.

- Sau khi lấy máu, chuột được giết bằng cách làm lệch đốt sống cổ. Bộc lộ

lách, tuyến ức, lọc sạch các tổ chức xung quanh, dùng gạc thấm khô rồi đem cân.

Ghi lại trọng lượng lách, tuyến ức của từng chuột. Tính trọng lượng tương đối của

lách (TLTĐL) và trọng lượng tuyến ức tương đối (TLTĐTƯ) (được tính là trọng

lượng lách, tuyến ức ứng với 100g thể trọng chuột).

51

2.2.2.5. Đánh giá tác dụng chống oxy hoá của các cao định lượng NP(H) và

NP(O) trên chuột mang khối u rắn sarcoma TG180.

Chống oxy hóa cũng được xem là một trong những cơ chế tác dụng trong điều

trị ung thư. Nhiều dược liệu cũng như hoạt chất tổng hợp có tác dụng chống oxy hóa

được nghiên cứu về tác dụng hỗ trợ điều trị ung thư thông qua việc triển khai đánh giá

về tác dụng chống oxy hóa trên chuột mang khối u, chuột được xạ trị hoặc hóa trị [41],

[42], [43]. Với mục tiêu nghiên cứu liên quan tới tác dụng kháng u thực nghiệm, tác

dụng chống oxy hoá của các cao định lượng NP(H) và NP(O) được đánh giá trên

chuột mang khối u rắn sarcoma TG180. Thử nghiệm được tiến hành theo phương

pháp được mô tả bởi Zhao và cộng sự [79].

Chuột gây u bằng cách tiêm vào dưới da đùi tế bào sarcoma TG180 như mô tả

ở phần 2.2.2.3. Các chuột gây u thành công được chia ngẫu nhiên thành 6 lô, thêm

01 lô chuột không gây u, tổng cộng có 7 lô chuột nghiên cứu, mỗi lô 10 con.

- Lô 1 - chứng sinh lý (SL): chuột không gây u, uống nước muối sinh lý 0,3 ml/20g.

- Lô 2 - ung thư (UT): chuột gây u, uống nước muối sinh lý 0,3 ml/20g.

- Lô 3 - Letinan (LTN): chuột gây u, uống Lentinan liều 240 mg/kg/ngày.

- Lô 4 - NP(O)-1: chuột gây u, uống NP(O) liều 300 mg/kg/ngày.

- Lô 5 - NP(O)-2: chuột gây u, uống NP(O) liều 900 mg/kg/ngày.

- Lô 6 - NP(H)-1: chuột gây u, uống NP(H) liều 300 mg/kg/ngày.

- Lô 7 - NP(H)-2: chuột gây u, uống NP(H) liều 900 mg/kg/ngày.

Chế phẩm NP(O), NP(H), Lentinan và nước muối sinh lý được cho chuột uống

(theo phân lô) từ ngày thứ 6 kể từ khi tiêm tế bào sarcoma TG180, và cho uống liên

tục trong 16 ngày. Vào thời điểm kết thúc thí nghiệm, tiến hành lấy mẫu để đánh giá

các chỉ số nghiên cứu.

- Lấy máu ở xoang mạch dưới hốc mắt (Orbital Sinus) của chuột bằng kỹ

thuật retro-orbital blood collection [122] để định lượng men gan AST (Aspartate

transaminase) và ALT (Alanine transaminase).

52

- Sau khi lấy máu, chuột được giết bằng làm lệch đốt sống cổ. Phẫu tích lấy

gan, lọc sạch các tổ chức xung quanh, dùng gạc thấm khô rồi đem cân. Một phần

được cắt riêng, cố định trong đệm formalin trung tính 10% để làm tiêu bản nhuộm

HE. Một phần gan được cân và nghiền đồng thể trong dung dịch đệm potassium

phosphate (50 mM, pH 7,5) để được dịch đồng thể 10%. Dịch đồng thể được li tâm

1500 g trong 10 phút ở 40C, thu lấy phần nổi, định lượng MDA, SOD, GSH và

CAT, sử dụng bộ kit xét nghiệm của hãng Sigma, Hoa kỳ .

2.2.2.6. Xác định thời gian sống thêm của chuột mang khối u rắn sarcoma TG180.

Hiệu quả điều trị ung thư, ngoài cải thiện các triệu chứng bệnh, một chỉ số

rất quan trọng đó là thời gian sống thêm, là kết quả đạt được của tổng hòa các tác

dụng của chế phẩm nghiên cứu trên cơ thể sinh học mang khối ung thư.

Chuột gây u bằng cách tiêm vào dưới da đùi tế bào sarcoma TG180 như mô

tả ở phần 2.2.2.3. Các chuột gây u thành công được chia ngẫu nhiên thành 6 lô, mỗi

lô 20 con. Trong đó:

- Lô 1 - ung thư (UT): chuột được cấy truyền tế bào Sarcoma TG180 nhưng

không được điều trị, uống nước muối sinh lý 0,3 ml/20g.

- Lô 2 - Letinan (LTN): chuột được cấy truyền tế bào Sarcoma TG180, uống

Letinan liều 240 mg/kg/ngày.

- Lô 3 - NP(O)-1: chuột được cấy truyền tế bào tế bào Sarcoma TG180, uống

NP(O) liều 300 mg/kg/ngày.

- Lô 4 - NP(O)-2: chuột được cấy truyền tế bào tế bào Sarcoma TG180, uống

NP(O) liều 900 mg/kg/ngày.

- Lô 5 - NP(H)-1: chuột được cấy truyền tế bào tế bào Sarcoma TG180, uống

NP(H) liều 300 mg/kg/ngày.

- Lô 6 - NP(H)-2: chuột được cấy truyền tế bào tế bào Sarcoma TG180, uống

NP(H) liều 900 mg/kg/ngày.

Chế phẩm NP(O), NP(H), Letinan và nước muối sinh lý được cho chuột uống (theo

phân lô) từ ngày thứ 6 kể từ khi cấy truyền thành công tế bào ung thư Sarcoma TG180.

53

Các chuột tiếp tục được nuôi dưỡng, chăm sóc và theo dõi hằng ngày đến khi

chuột chết, tính trung bình thời gian sống của mỗi lô, xác định % thời gian sống

kéo dài thêm theo phương pháp của Geran và cộng sự [123].

Ts - 1 x 100 (%) ILS (%) = Cs

Trong đó:

Ts: thời gian sống trung bình của lô chuột ung thư có điều trị.

Cs: thời gian sống trung bình của lô chuột ung thư không điều trị

ILS: thời gian sống tăng thêm (Increased Life Span)

2.2.3. Đánh giá độc tính cấp, độc tính bán trường diễn của cao định lượng NP(H).

2.2.3.1. Đánh giá độc tính cấp của cao định lượng NP(H) trên chuột nhắt trắng

Xác định độc tính cấp (LD50) của NP(H) trên chuột nhắt trắng bằng đường

uống theo quy định của Bộ Y tế Việt Nam và WHO [124], [125].

Trước khi làm thí nghiệm, NP(H) được pha ở các mức nồng độ tăng dần, xác

định các mức thể tích tối đa có thể đưa vào dạ dày chuột trong một lần và trong 24h

bằng kim cong tày đầu do Nhật Bản sản xuất.

Chuột nhắt trắng chủng Swiss, cả hai giống, khoẻ mạnh, đạt tiêu chuẩn thí

nghiệm.Trước khi tiến hành thí nghiệm, cho chuột nhịn ăn qua đêm. Từng lô chuột

nhắt trắng, mỗi lô 10 con, được uống mẫu nghiên cứu theo liều tăng dần. Tìm liều

cao nhất không gây chết chuột (0%), liều thấp nhất gây chết chuột hoàn toàn

(100%) và các liều trung gian. Theo dõi tình trạng chung của chuột (hoạt động, ăn

uống, bài tiết …) và số lượng chuột chết ở mỗi lô trong vòng 72 giờ sau khi cho

chuột uống thuốc và tiếp tục theo dõi tiếp trong vòng 14 ngày. Xây dựng đồ thị

tuyến tính để xác định LD50 của mẫu thử (nếu có).

54

2.2.3.2. Đánh giá độc tính bán trường diễn của cao định lượng NP(H) trên chuột

cống trắng.

Căn cứ vào số liệu vừa thu được về liều thử độc tính cấp và các quy định,

hướng dẫn của Bộ y tế Việt Nam và của Tổ chức Y tế Thế giới, chúng tôi xây dựng

các mức liều để khảo sát độc tính bán trường diễn thực nghiệm [124], [125].

Độc tính bán trường diễn của cao định lượng NP(H) được đánh giá trên chuột

cống trắng chủng Wistar, cả hai giống. Tất cả các chuột mỗi giống được chia ngẫu

nhiên vào 3 lô, mỗi lô 10 con.

- Lô 1: lô chứng sinh lý, uống nước cất với lượng 4 ml/kg.

- Lô 2: uống NP(H) liều 200mg/kg/ngày.

- Lô 3: uống NP(H) liều 900mg/kg/ngày.

Chuột được uống nước cất (lô chứng 1) hoặc mẫu nghiên cứu (lô 2, 3) một

lần/ngày vào buổi sáng, uống liên tục trong 90 ngày.

- Chỉ tiêu đánh giá:

Thể trạng chung của chuột, các dấu hiệu ngộ độc được theo dõi trong suốt thời

gian nghiên cứu, ít nhất 2 lần/ngày, đầu buổi sáng và cuối buổi chiều. Trọng lượng

chuột được cân để đánh giá tại các thời điểm xuất phát, ngày thứ 30, 60 và 90.

Chuột được nhịn ăn qua đêm trước khi lấy máu xét nghiệm. Các mẫu máu

được lấy từ tĩnh mạch đuôi chuột (có hoặc không chống đông, tùy theo từng yêu

cầu của loại xét nghiệm), vào các thời điểm: ngày thứ 0, 45 và 90 ở tất cả các lô.

Các chỉ số huyết học (số lượng hồng cầu- RBC; hematocrit- HCT, hemoglobin-

HBG, thể tích trung bình hồng cầu-MCV, số lượng bạch cầu- WBC, công thức

bạch cầu, và số lượng tiểu cầu- PLT) được phân tích trên máy xét nghiệm huyết

học Vet abcTMAnimal Blood Counter (hãng ABX-Diagnostic, Pháp) với phần

mềm xét nghiệm cho chuột, sử dụng bộ hóa hóa chất xét nghiệm huyết học ABX

Minidil LMG cho chuột (hãng ABX). Các chỉ số sinh hóa (triglycerid, cholesterol,

alanin aminotransferase- ALT, aspartattransaminase- AST, creatinin, albumin)

được phân tích trên máy xét nghiệm sinh hóa 3000 Evolution (hãng Biochemical

55

SystemsInternational, Ý), sử dụng các kit xét nghiệm của hãng Hospitex

Diagnosics, Ý và hãng Dialab GmbH, Áo.

Sau khi lấy máu vào cuối thời điểm ngày thứ 90, động vật được giết và phẫu

tích để đánh giá đại thể và làm tiêu bản nhuộm HE đánh giá vi thể mô gan, lách,

thận của ngẫu nhiên 30% số chuột ở mỗi lô.

2.3. XỬ LÝ SỐ LIỆU

* Số liệu về chuột sống sót tích lũy theo thời gian được biểu thị bằng đường

cong sống sót Kaplan–Meier, vẽ bằng phần mềm PRISM. So sánh thời gian sống

sót tích lũy giữa các lô sử dụng Log-rank (Mantel–Cox) test. Sự khác biệt có ý

nghĩa thống kê khi p < 0,05.

* Các số liệu khác được trình bày dưới dạng giá trị trung bình (Mean) ± SD, sử

dụng thuật toán thống kê thích hợp với số liệu thu được, cụ thể như sau:

- So sánh sự khác biệt về giá trị trung bình giữa các lô sử dụng phân tích

phương sai 1 chiều (One-way ANOVA) và Post Hoc least- significant differences

(LSD) test với trường hợp phương sai đồng nhất, sử dụng One-way ANOVA và

Dunnett’s T3 test với trường hợp phương sai không đồng nhất.

- So sánh sự khác biệt về giá trị trung bình giữa các thời điểm nghiên cứu

trong cùng một lô sử dụng phép so sánh theo cặp (Paired sample T test).

Các kết quả xử lý thống kê được tính toán trên phần mềm IBM SPSS

Statistics 20.0. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê khi p < 0,05.

2.4. ĐỊA ĐIỂM, THỜI GIAN NGHIÊN CỨU

Nghiên cứu sự ảnh hưởng của các phương pháp chế biến Tam thất (hấp hoặc

không hấp nhiệt) đến hàm lượng saponin của Tam thất trồng tại Việt Nam được

tiến hành tại khoa Hoá phân tích- tiêu chuẩn, Viện Dược liệu, Bộ Y tế và đo phổ tại

Viện hóa học - Viện Hàn lâm Khoa học và và Công nghệ Việt Nam từ tháng 12

năm 2016 đến tháng 6 năm 2017.

Đánh giá tác dụng kháng ung thư của 6 saponin đã phân lập và cao định

lượng NP(O), NP(H) trên một số dòng tế bào ung thư ngườiđược tiến hành tại 56

Viện công nghệ sinh học, Viện Hàn lâm Khoa học và và Công nghệ Việt Nam

(04/2019).

Đánh giá độc tính và khảo sát khả năng kích thích apoptosis của cao định

lượng NP(H) trên dòng tế bào ung thư mô liên kết chuột sarcoma TG180 được

tiến hành tại phòng Nghiên cứu Ung thư học Thực nghiệm, Bộ môn Sinh học Tế

bào, Khoa Sinh học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà

Nội (từ 08/2021 – 10/2021).

Quy trình chạy flow cytometry theo hướng dẫn của bộ kit Annexin V

Apoptosis Detection (BD) trên máy đếm tế bào BDFACS-Lysis Của hãng BD

Mỹ, được thực hiện tại Labo Sinh học phân tử - Bộ môn Sinh lý bệnh, Học viện

Quân Y.

Nghiên cứu độc tính cấp, bán trường diễn và các tác dụng của cao định lượng

NP(H) và NP(O) trên động vật thực nghiệm được tiến hành tại Bộ môn Dược lý,

Viện Đào tạo Dược, Học Viện Quân y (từ 6/2019 đến 10/2020).

Tiêu bản nhuộm HE đánh giá mô bệnh học của gan, lách, thận và tiêu bản

mô bệnh học khối u của chuột được tiến hành tại Bộ môn - Khoa Giải phẫu bệnh –

Pháp Y - Bệnh viện 103 - Học Viện Quân y.

57

Sơ đồ tổng thể quá trình nghiên cứu như sau:

Rễ củ 4 năm của cây Tam thất (Panax notoginseng (Burk.) F.H.) được trồng tại Simacai, Lào Cai; các saponin phân lập được; cao chiết định lượng bào chế từ Tam thất hấp và không hấp

Nghiên cứu ảnh hưởng của phương pháp chế biến bằng hấp nhiệt đến hàm lượng saponin của rễ củ Tam thất

Nghiên cứu tác dụng kháng u thực nghiệm của các dạng cao định lượng và một số saponin phân lập từ rễ củ Tam thất

Đánh giá độc tính cấp, độc tính bán trường diễn của cao định lượng sau hấp nhiệt NP(H).

Đánh giá độc tính cấp của cao định lượng NP(H) trên chuột nhắt trắng

Đánh giá độc tính bán trường diễn của cao định lượng NP(H) trên chuột cống trắng

Chiết xuất, phân lập và xác định cấu trúc các saponin chính có trong các mẫu Tam thất hấp và không hấp

Định lượng hàm lượng saponin trong 2 mẫu cao NP(O) và NP(H) bằng HPLC

Nghiên cứu sự biến đổi hàm lượng hoạt chất trong Tam thất trước và sau khi hấp ở các điều kiện

Xác định thời gian sống thêm của chuột mang khối u rắn sarcoma TG 180

Đánh giá tác dụng kháng u của 6 saponin đã phân lập và 2 mẫu caoNP(O) , NP(H) trên một số dòng tế bào ung thư người

Nghiên cứu tác dụng ức chế phát triển u của các cao định lượng trên chuột nhắt trắng mang khối u rắn sarcoma TG 180

Đánh giá tác dụng chống oxy hoá của các cao định lượng trên chuột mang khối u rắn sarcoma TG180

Đánh giá tác dụng của các cao định lượng lên hệ miễn dịch của chuột mang khối u rắn sarcoma TG 180

Đánh giá khả năng gây độc tế bào và khả năng kích thích chết tế bào theo chương trình (apoptosis) của cao định lượng NP(H) trên dòng tế bào ung thư mô liên kết chuột sarcoma TG180

58

CHƯƠNG 3

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

3.1. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của phương pháp chế biến đến hàm lượng

saponin của rễ củ Tam thất

3.1.1. Kết quả chiết xuất, phân lập và xác định cấu trúc các saponin chính có

trong các mẫu Tam thất hấp và không hấp

3.1.1.1. Phân lập các saponin từ rễ củ Tam thất (dược liệu không xử lý hấp)

Mẫu 400 g bột Tam thất đem chiết hồi lưu với MeOH 80% (12 L x 3 lần,

3h/lần). Gộp dịch chiết, lọc qua giấy lọc và cất thu hồi dịch chiết MeOH dưới áp

suất giảm ở nhiệt độ 40˚C thu được cao methanol tổng (51,12 g). Cao này sau đó

được hòa với 400 ml nước, sau đó lắc với n-hexan 3 lần (800ml, 600 ml, 400 ml)

để loại chất béo. Gộp các phần chiết, cất lại n-hexan dưới áp suất giảm thu được

phần chiết n-hexan (7,27 g). Dịch chiết sau khi loại chất béo được đem lắc tiếp với

n-BuOH 3 lần (800 ml, 600 ml, 300 ml). Gộp dịch chiết n-BuOH của cả 3 lần, đem

cô giảm áp tới khối lượng không đổi thu được cắn n-BuOH (P, 39,64 g). Cắn n-

BuOH (P, 30 g) được hòa tan trong lượng dung môi methanol tối thiểu và tẩm với

90 g silicagel rồi làm khô dung môi trên máy cất quay chân không.

Sau khi chuẩn bị cột (cột thủy tinh cao 65 cm có đường kính 7 cm phía

dưới có nhồi bông), cân 450 g silicagel (cỡ 40 – 63μm) cho vào cốc thủy tinh.

Nhồi silicagel bằng phương pháp nhồi cột ướt. Thêm CHCl3 vào tạo thành một

hỗn dịch, dùng đũa thủy tinh khuấy cho hết bọt khí, sau đó đưa hỗn hợp silicagel

tẩm chất lên cột. Giải hấp phụ bằng hệ dung môi CHCl3 – MeOH (gradient -

CHCl3 giảm dần từ 100%→30%), hứng từng 30ml bằng bình nón. Sau khi khảo

sát bằng sắc kí lớp mỏng (CHCl3 – MeOH – H2O (64:32:4) đã thu được 7 nhóm

phân đoạn kí hiệu P1→P7, cất quay dưới áp suất thấp ở nhiệt độ 35˚C thu được

các cắn P1→P7 (bảng 3.1)

59

Bảng 3.1: Kết quả thu được sau khi tiến hành sắc kí cột thô của cắn n-BuOH

STT Kí hiệu Dải phân đoạn Khối lượng (g)

1 P1 6 – 25 8,2

2 P2 26 – 55 8,4

3 P3 56 – 71 7,1

4 P4 72 – 89 6,5

5 P5 90 – 115 10,0

6 P6 116 – 132 6,5

7 P7 133 – 155 4,4

Phân đoạn P2 (4,19 g) cô cho bay hơi hết dung môi, tiếp tục tiến hành sắc ký cột

mini với chất hấp phụ silicagel, hệ dung môi rửa giải dichlomethan/methanol/H2O

(65/35/10), sau đó kết tinh lại thu được hợp chất PN1 (152 mg). Phân đoạn P3

(3,57 g) cô cho bay hơi hết dung môi, xử lý loại màu bằng dung môi aceton, kết

tinh lại thu được hợp chất PN2 (77 mg). Phân đoạn P4 (3,27 g) cô cho bay hơi hết

dung môi, tiếp tục tiến hành sắc ký cột mini với chất hấp phụ silica gel RP-18, hệ

dung môi rửa giải methanol/H2O (3/1), kết tinh lại thu được hợp chất PN3 (89 mg).

Phân đoạn P5 (501 mg) cô cho bay hơi hết dung môi, tiếp tục tiến hành sắc ký cột

mini với chất hấp phụ silica gel RP-18, hệ dung môi rửa giải methanol/H2O (3/1),

kết tinh lại thu được hợp chất PN4 (135 mg).

Sơ đồ chiết tách các saponin từ Tam thất chưa hấp được trình bày ở hình 3.1.

60

Chiết hồi lưu 3 lần x12 lít MeOH 80%, 3h,700C

Bột Tam thất 400g

Bốc hơi dung môi, 400C, P giảm

Dịch chiết MeOH

Phân tán/ 400mlH2O lắc với n-Hexan; n-Butanol

Cắn MeOH (51,12g)

Cắn nHexan (7,27g)

Cắn Butanol (39,64g)

SK cột, silica gel pha thường (40-60 µm); DCM- Me 100-30%, v/v

Loại màu bằng aceton, kết tinh

SK cột, silica gel pha thường; DCM-Me-H2O (65:35:10, v/v)

SK cột silica gel pha đảo, RP18, MeOH - H2O (3:1, v/v)

SK cột silica gel pha đảo, RP18, MeOH - H2O (3:1, v/v)

P5 (0,5g) P4 (3,27g) P3 (3,57g) P2 (4,19g)

Hợp chất 1 (152mg)

Hợp chất 3 (89mg)

Hợp chất 4 (135mg)

Hợp chất 2 (77mg)

Hình 3.1. Sơ đồ phân lập các hợp chất 1,2,3,4 từ Tam thất không hấp

3.1.1.2. Phân lập các saponin rễ Tam thất sau khi hấp ở nhiệt độ cao

Mẫu sau khi hấp (1 mẫu, 500 g) ở nhiệt độ 120oC trong 8 h, được tiến hành

chiết lấy saponin toàn phần tương tự như mục 3.1.1 thu được cao n-butanol (43,01

g, ký hiệu PB). 30,0 g cắn n-BuOH của cao chiết methanol 80% (PB) rễ Tam thất

sau khi hấp được phân lập trên sắc ký cột (tiến hành tương tự mục 3.1.1) với chất

hấp thụ silica gel, giải hấp phụ bằng hệ dung môi CHCl3 – MeOH (gradient -

CHCl3 giảm dần từ 100%→50%), hứng từng 30 ml bằng bình nón. Sau khi khảo sát

61

bằng sắc kí lớp mỏng đã thu được 9 nhóm phân đoạn kí hiệu PB1→PB9, cất quay

dưới áp suất thấp ở nhiệt độ 35˚C thu được các cắn PB1→PB9.

Phân đoạn PB2 (12,2 g) cô cho bay hơi hết dung môi, tiếp tục tiến hành sắc ký cột

mini với chất hấp phụ silica gel, hệ dung môi rửa giải dichlomethan/methanol/H2O

(64:32:4), sau đó kết tinh lại thu được hợp chất PN5 (78 mg). Phân đoạn PB4 (6,3 g)

cô cho bay hơi hết dung môi, tiếp tục tiến hành sắc ký cột mini với chất hấp phụ

silica gel, hệ dung môi rửa giải dichlomethan/methanol/H2O (64:32:1), sau đó kết

tinh lại thu được hợp chất PN6 (85 mg).

Sơ đồ chiết tách các saponin từ Tam thất hấp được trình bày ở hình 3.2.

62

Hấp 1200C, 8h, sấy khô,

nghiền mịn

Củ Tam thất (500g)

Chiết hồi lưu 3 lần x12 lít MeOH 80%, 3h,700C

Bột Tam thất

Bốc hơi dung môi, 400C, P giảm

Dịch chiết MeOH

Phân tán/ 400mlH2O lắc với n-Hexan; n-Butanol

Cắn MeOH

Cắn n-Hexan

Cắn n-Butanol (43.01g)

SK cột, silica gel pha thường (40-60 µm); DCM-Me 100-50%, v/v

SK cột, silica gel pha thường; DCM-Me- H2O (64:32:4, v/v)

SK cột, silica gel pha thường; DCM-Me- H2O (64:32:1, v/v)

P2 (12,2g) P4 (6,3g)

Hợp chất 5 (78mg)

Hợp chất 6 (85mg)

Hình 3.2. Sơ đồ phân lập các hợp chất 5,6 từ Tam thất hấp nóng

63

3.1.1.3. Đặc trưng vật lý và dữ liệu phổ các hợp chất phân lập được

Hình dạng, tính chất vật lý, dữ kiện phổ khối, phổ NMR của các hợp chất phân lập được chi tiết như trong

bảng 3.2 và 3.3, 3.4.

Bảng 3.2. Một số tính chất vật lý, dữ kiện phổ khối của các hợp chất PN1-PN6

PN1 Ginsenosid Rg1

PN2 Ginsenosid Re

PN3 Ginsenosid Rd

PN4 Ginsenosid Rb1

PN5 Ginsenosid Rg3

PN6 Ginsenosid Rh1

Hình dạng

Bột màu trắng (H2O-MeOH)

Bột màu trắng (H2O-MeOH)

Bột màu trắng (H2O-MeOH)

Bột màu trắng (H2O-MeOH)

Bột màu trắng (H2O-MeOH)

Bột màu trắng (H2O-MeOH)

Đ.n.c (°C)

194–196

201-203

182-183

170-171

236-238

190–192

ESI-MS (m/z)

823.6 [M+Na]+ C42H72O14

969.7 [M+Na]+ C48H82O18

1132.2 [M+Na]+ C54H92O23

657.4 [M+H2O+H]+ C36H62O9

789.6 [M+5H]5+ C42H72O13

983.4 [M+2H2O+H]+ C48H82O18

Bảng 3.3. Dữ kiện phổ 1H và 13C-NMR của các hợp chất PN1, PN2, PN6

PN1

PN2

PN6

Vị trí C

13C-NMR

TLTK [14]

13C-NMR

13C-NMR

1H-NMR

1H-NMR

1H-NMR

1

40,2

38,44

40,3

40,2

1,09 (1H) 1,76 (1H)

1,09(1H) 1,75 (1H)

1,07(1H) 1,75 (1H)

2

27,6

26,59

27,5

27,6

1,61 (1H) 1,66 (1H)

1,62 (1H) 1,67 (1H)

1,61 (1H) 1,66 (1H)

3

79,9

3,14 (1H)

79,8

77,08

79,9

3,15 (1H, dd, 4,5, 11,5 Hz)

3,12 (1H, dd, J=4,5; 11,5 Hz)

4

40,5

40,4

38,70

40,5

5

61,8

1,15 (brs)

61,5

1,14 (brs)

59,89

61,8

1,14(brs)

64

PN1

PN2

PN6

Vị trí C

13C-NMR

1H-NMR

TLTK [14]

13C-NMR

1H-NMR

13C-NMR

1H-NMR

6

72,56

79,2

3,53 (1H, m)

77,7

3,29 (1H, m)

80,9

4,12 (1H, td, J = 3,0; 10,5)

7

45,3

44,57

46,1

45,4

2,10 (1H) 1,66 (1H)

1,68 (1H) 1,84 (1H)

2,04 (1H) 1,66 (1H)

8

41,9

39,66

41,9

41,9

9

1,50 (1H, dd)

1,49 (1H, dd)

1,49 (1H, dd)

50,6

48,45

50,3

50,9

10

40,4

38,60

40,3

40,4

11

31,4

29,86

31,7

31,9

1,67 (1H) 1,15 (1H)

1,67 (1H) 1,12 (1H)

1,67 (1H) 1,14 (1H)

12

71,2

3,45(1H)

68,88

71,2

3,36 (1H)

72,1

3,57 (1H, m)

13

49,3

1,77 (1H)

48,04

49,3

1,76 (1H)

48,6

1,75 (1H)

14

52,5

50,60

52,5

52,5

15

30,9

30,06

30,9

31,7

1,86 (1H) 1,22 (1H)

1,20 (1H) 1,88(1H)

1,88(1H) 1,22 (1H)

16

27,3

25,77

27,3

27,4

1,41 (1H) 1,95 (1H)

1,42 (1H) 1,96 (1H)

1,41 (1H) 1,95 (1H)

17

53,1

2,30 (1H, m)

50,29

53,1

2,31 (1H, m)

55,1

2,05 (1H, m)

18

17,7

1,12 (3H, s)

16,57

17,7

1,12 (3H, s)

16,1

1,02(3H, s)

19

17,8

1,02 (3H, s)

15,35

17,9

1,64 (3H, s)

17,1

0,96 (3H,s)

20

84,9

81,90

84,9

74,4

21

22,8

1,37 (3H, s)

21,48

22,8

1,37 (3H, s)

26,5

1,17 (3H, s)

22

36,7

1,79 (1H)

35,17

36,6

1,83 (1H)

36,3

1,42 (1H)

65

PN1

PN2

PN6

Vị trí C

13C-NMR

1H-NMR

TLTK [14]

13C-NMR

13C-NMR

1H-NMR

1H-NMR

1,67 (1H,)

1,65 (1H)

1,55 (1H)

23

24,2

2,09 (2H, m)

22,09

24,2

2,10 (2H, m)

23,3

24

125,7

5,13 (1H,t, J=7,0 Hz)

125,28

126,2

5,16 (1H,t, J=7,0 Hz)

125,8

5,13 (1H,t, J=7,0 Hz)

25

130,10

131,9

132,3

132,3

26

1,70 (3H,s)

1,70 (3H,s)

25,9

25,9

25,36

25,9

1,70 (3H,s)

27

1,65 (3H, s)

1,64 (3H, s)

17,8

17,9

17,60

17,9

1,01 (3H, s)

28

1,35 (3H, s)

1,37 (3H, s)

31,4

31,9

30,88

31,5

1,35 (3H, s)

29

1,03 (3H, s)

0,99 (3H, s)

17,6

17,2

15,96

16,1

1,11 (3H, s)

30

0,98 (3H, s)

0,96 (3H, s)

17,7

17,3

16,57

17,1

1,64 (3H, s)

101,6

99,74

105,6

105,6

4,37 (1H, d, J=7,5 Hz)

6-O-Glc - 1′

4,37 (1H, d, J=8,0 Hz)

4,66 (1H, d, J=7,0 Hz)

2′

3,22 (1H)

79,2

77,06

75,5

3,53 (1H, m)

75,5

3,22 (1H, t, J=8,0 Hz)

3′

3,36 (1H)

3,36 (1H)

80,9

78,3

77,06

79,1

4,11 (1H, td, J=3,0; 10,5; 13,5 Hz)

4′

3,71 (1H)

3,69 (1H)

71,7

71,8

70,70

71,9

3,30 (1H)

5′

3,24 (1H)

3,33(1H)

79,1

78,1

76,46

78,3

3,36 (1H)

6′

62,9

62,96

63,1

62,5

3,66 (1H) 3,83 (1H)

3,88(1H, dd) 3,71 (1H, m)

3,84(1H, dd) 3,66 (1H, dd, J= 5,5; 12,0 Hz)

99,74

101,6

5,33 (1H, s)

2′-Rha(or Xyl) 1′′′

66

PN1

PN2

PN6

Vị trí C

13C-NMR

1H-NMR

TLTK [14]

13C-NMR

13C-NMR

1H-NMR

1H-NMR

2′′′

70,31

3,37 (1H)

72,5

3′′′

70,11

3,36 (1H)

72,2

4′′′

71,95

74,9

4,38 (1H, td, J = 3,0; 5,5 Hz)

5′′′

67,66

4,11 (1H, m)

69,7

6′′′

17,59

18,0

1,25 (3H, d, J = 6,0 Hz)

96,47

98,3

98,3

20-O-Glc- 1′′

4,62 (1H, d, J=8,0 Hz)

4,62 (1H, d, J= 7,5 Hz)

2′′

75,4

73,79

3,12 (1H)

75,4

3,10 (1H , t, J= 8,0 Hz)

3′′

77,9

77,06

3,22 (1H)

3,36 (1H)

78,3

4′′

71,7

69,90

3,29(1H)

3,92 (1H,d)

71,9

5′′

77,7

77,83

3,29(1H)

3,23(1H)

77,9

6′′

62,9

61,69

62,6

3,66 (1H, m) 3,80 (1H, dd)

3,65 (1H, dd) 3,80 (1H, dd)

Ðiều kiện đo

237MHz DMSO

500 MHZ CD3OD

125MHZ CD3OD

125MHZ CD3OD

500 MHZ CD3OD

125MHZ CD3OD

500 MHZ CD3OD

67

Bảng 3.4. Dữ kiện phổ 1H và 13C-NMR của các hợp chất PN3, PN4, PN5

Vị trí C

PN3

PN5

PN4

1H-NMR

13C-NMR

13C-NMR

1H-NMR

13C-NMR

1H-NMR

TLTK [2]

PN4

1

40,3

39,2

40,3

40,1

1,05 (1H) 1,75 (1H)

1,03 (1H) 1,76 (1H)

1,07 (1H) 1,75 (1H)

2

27,9

1,48 (2H)

26,7

27,3

27,4

1,75 (1H) 1,92 (1H)

1,34 (1H) 1,89 (1H)

3

91,3

3,21 (1H)

89,0

91,3

3,21 (1H)

91,3

3,21 (1H)

4

40,6

40,1

40,6

40,6

5

57,6

0,88 (1H)

56,4

57,6

57,6

0,80 (1H, brd, J=11,5 Hz)

0,82 (1H, brd, J=11,0 Hz)

6

19,3

18,5

19,3

19,2

1,55 (1H) 1,59 (1H)

1,51 (1H) 1,59 (1H)

1,50(1H) 1,59 (1H)

7

35,9

35,2

35,9

35,9

1,33 (1H) 1,61(1H)

1,32 (1H) 1,59(1H)

1,33 (1H) 1,60(1H)

8

41,0

39,8

40,9

40,9

9

51,1

1,50 (1H)

50,3

51,1

1,50 (1H)

51,4

1,50 (1H)

10

37,9

37,0

37,9

37,9

11

31,6

30,8

31,5

32,0

1,07 (1H) 1,62 (1H)

1,06 (1H) 1,60 (1H)

1,07 (1H) 1,57 (1H)

12

71,2

3,36 (1H)

70,2

71,9

3,22 (1H)

72,1

3,56 (1H)

13

49,8

1,77 (1H)

49,5

49,7

1,75 (1H)

48,7

1,76 (1H)

14

52,5

51,7

52,4

52,6

68

Vị trí C

PN3

PN4

PN5

1H-NMR

13C-NMR

13C-NMR

13C-NMR

1H-NMR

1H-NMR

15

30,8

31,0

30,8

32,0

1,24 (1H) 1,85 (1H)

1,26 (1H) 1,83 (1H)

1,28 (1H) 1,86 (1H)

16

26,7

27,2

27,3

27,3

2,01 (1H) 1,42 (1H)

2,01 (1H) 1,36 (1H)

1,77 (1H) 2,02 (1H)

17

0,82 (1H)

51,4

53,2

2,31 (1H)

52,9

55,1

2,05 (1H)

18

1,05 (3H, s)

16,1

16,3

1,03 (3H, s)

16,3

16,2

1,03 (3H, s)

19

0,88 (3H, s)

16,4

16,7

0,88 (3H, s)

16,7

16,8

0,88 (3H, s)

20

83,3

84,9

84,9

74,4

21

1,37 (3H, s)

22,5

22,8

1,39 (3H, s)

22,5

26,5

1,17 (3H, s)

22

36,3

36,7

36,8

36,3

1,67 (1H) 1,84 (1H)

1,56 (1H) 1,82 (1H)

1,41 (1H) 1,55 (1H)

23

2,10 (2H)

23,3

24,2

23,9

23,3

2,17 (1H) 2,07 (1H)

2,18 (1H) 2,03 (1H)

24

125,9

125,9

126,0

126,2

5,13 (1H, t, J = 6,5 Hz)

5,16 (1H, t, J = 7,0 Hz)

5,16 (1H, t, J = 7,0 Hz)

25

131,0

132,3

132,3

131,9

26

1,71 (3H, s)

25,9

25,8

1,71 (3H, s)

25,9

25,9

1,71 (3H, s)

27

1,65 (3H, s)

18,1

17,9

1,65 (3H, s)

18,0

17,7

1,64 (3H, s)

28

1,09 (3H, s)

28,2

28,4

1,09 (3H, s)

28,4

28,4

1,09 (3H, s)

29

0,95 (3H, s)

16,7

16,7

0,95 (3H, s)

16,7

16,7

0,95 (3H, s)

30

0,95 (3H, s)

17,5

17,2

0,95 (3H, s)

17,4

17,1

0,95 (3H, s)

3-O-glc-l′

104,5

105,1

104,5

104,6

4,69 (1H, d, J =

4,70 (1H, d, J =

4,69 (1H, d, J =

69

Vị trí C

PN3

PN4

PN5

1H-NMR

13C-NMR

13C-NMR

13C-NMR

1H-NMR

1H-NMR

8,0 Hz)

8,0 Hz)

8,0 Hz)

2′

83,5

81,2

81,1

81,2

3,58 (1H, t, J = 6,0 Hz)

3,59 (1H, t, J = 6,5 Hz)

3,58 (1H, t, J = 5,5 Hz)

3′

3,55 (1H)

77,9

78,3

3,37 (1H)

77,9

78,5

3,55 (1H)

4′

3,31 (1H)

71,5

71,6

3,22 (1H)

71,9

71,6

3,27 (1H)

5′

3,26 (1H)

78,1

78,3

3,29 (1H)

77,7

78,3

3,53 (1H)

6′

62,8

62,8

62,8

62,9

3,88 (1H) 3,66 (1H)

3,88 (1H) 3,66 (1H)

3,87 (1H) 3,66 (1H)

2′-O-glc-1′′

105,4

105,9

104,9

105,4

4,46 (1H, d, J = 7,0 Hz)

4,37 (1H, d, J= 7,5 Hz)

4,46 (1H, d, J= 7,0 Hz)

2′′

3,40 (1H)

77,1

76,3

3,24 (1H)

76,3

76,3

3,24 (1H)

3′′

3,58 (1H)

78,3

78,5

3,58 (1H)

78,3

77,9

3,27 (1H)

4′′

3,69 (1H)

71,6

71,9

3,75 (1H)

71,6

71,9

3,56 (1H)

5′′

3,29 (1H)

78,3

77,7

3,23 (1H)

78,3

77,7

3,37 (1H)

6′′

62,7

63,1

62,8

63,1

3,85 (1H) 3,63 (1H)

3,83 (1H) 3,65 (1H)

3,83 (1H) 3,65 (1H)

98,1

98,3

98,1

20-O-glc- l′′′

4,62 (1H, d, J= 7,5 Hz)

4,61 (1H, d, J= 7,5 Hz)

2′′′

74,9

75,4

75,1

3,10 (1H, t, J= 13,5 Hz)

3,14 (1H, t, J= 8,0Hz)

3′′′

3,27 (1H)

78,3

78,3

3,58 (1H)

78,3

4′′′

3,69 (1H)

71,7

71,9

3,22 (1H)

71,7

70

Vị trí C

PN3

PN5

PN4

1H-NMR

13C-NMR

13C-NMR

1H-NMR

13C-NMR

1H-NMR

77,9

3,37 (1H)

5′′′

77,1

76,8

3,45 (1H)

62,6

6′′′

69,7

70,3

3,78 (1H) 3,81 (1H)

3,81 (1H) 4,09 (1H, dd)

105,3

105,4

6′′′-O-glc- 1′′′′

4,46 (1H, d, J= 7,5 Hz)

2′′′′

75,3

75,3

3,23 (1H)

3′′′′

78,3

78,3

3,55 (1H)

4′′′′

71,7

71,5

3,75 (1H)

5′′′′

79,3

78,5

3,58 (1H)

6′′′′

62,8

63,1

3,83 (1H) 3,63 (1H)

Điều kiện đo

100MHZ Pyridine

500 MHZ CD3OD

125MHZ CD3OD

500 MHZ CD3OD

125MHZ CD3OD

125MHZ CD3OD

500 MHZ CD3OD

71

3.1.1.4. Biện giải cấu trúc các hợp chất phân lập từ rễ củ Tam thất

* Hợp chất PN1

Hợp chất PN1 thu được dưới dạng chất rắn dạng bột. Phổ 1H-NMR xuất hiện

các tín hiệu chồng chập tại vùng trường cao điển hình của một hợp chất có khung

damaran, trong đó có 8 tín hiệu singlet của các nhóm methyl bậc ba tại δ 1,12 (H-

18),1,02 (H-19),1,37 (H-21), 1,70 (H-26),1,65 (H-27),1,35 (H-28), 1,03 (H-29) và

0,98 (H-30), một nối đôi thế ba lần với sự có mặt của tín hiệu proton methin tại

δ5,13 (1H, t, J= 7,0 Hz, H-24). Hai tín hiệu của hai nhóm methyl dịch chuyển

mạnh về phía trường thấp hơn tạiδ 1,70 (H-26) và 1,65 (H-27) gợi ý rằng chúng

đều được gắn vào nối đôi. Ngoài ra, trên phổ này còn xuất hiện các tín hiệu cộng

hưởng trong vùng từδ 3,09- 4,57 ppm đặc trưng cho sự có mặt của các proton

oxymethin và oxymethylen của hai phân tử đường cũng như proton oxymethin

khác. Hai phân tử đường glucose được nhận biết bởi các tín hiệu proton anome tại

δ 4,37 (1H, d, J = 8,0 Hz, H-1′) và 4,62 (1H, d, J = 8,0 Hz, H-1′′).

Trên phổ 13C-NMR xuất hiện tín hiệu của 42 nguyên tử cacbon, trong đó 12

tín hiệu được xác định thuộc vào 2 phân tử đường glucose [6-Glc: δ 105,6 (C-1′),

75,5 (C-2′), 79,1 (C-3′), 71,9 (C-4′), 78,3 (C-5′), 62,5 (C-6′); 20- Glc: δ 98,3 (C-

1′′),75,4 (C-2′′), 77,9 (C-3′′), 71,7 (C-4′′), 77,7 (C-5′′), 62,9 (C-6′′)], và 30 tín hiệu

còn lại thuộc vào phần aglycon với nối đôi duy nhất tại δ 125,7 (C-24) và 132,3

(C-25). Phân tích phổ 13C-NMR và phổ DEPT cho thấy sự có mặt của tín hiệu

cacbon bậc ba nối với nguyên tử oxy tại δ 84,9 (C-20) cùng với tín hiệu của cacbon

CH tại δ 53,1 (C-17) điển hình cho hợp chất có khung dammaran mà phân tử

đường glucose nối vào vị trí C-20 [126], [127]. Ba tín hiệu khác của các cacbon

oxymethin tại δ 79,9 (C-3), 80,9 (C-6) và 71,2 (C-12) cũng được xác định.

Với những dữ kiện phân tích trên, công thức phân tử dự kiến của PN1 sẽ là

C42H72O14 với khối lượng phân tử tương ứng M = 800 đvC. Kết quả đo phổ khối

lượng thu được pic với cường độ mạnh nhất tại m/z 823 [M+Na]+ hoàn toàn phù

72

hợp với công thức phân tử dự đoán. Với các phân tích cụ thể về tương tác HMBC

O-[β-D-glucopyranoside]-20-O-[β-D-glucopyranosyl]-

3β,6α,12β,

20S-

Tetrahydroxydammar-24-en} hay ginsenosid Rg1.

(Hình 3.3) kết hợp tham khảo tài liệu [128] cho phép đưa ra cấu trúc của PN1 là {6-

*Hợp chất PN2

Phổ NMR của hợp chất PN2 cho các pic cộng hưởng có độ chuyển dịch

giống như của hợp chất PN1 (xem bảng 3.3), thêm vào đó là các pic cộng hưởng

của một vòng đường rhamnose đặc trưng bởi tín hiệu proton methyl δ 1,25 (3H, d, J

= 6,0 Hz, H-6′′′), anomer δ 5,33 (1H, s, H-1′′′) cùng tín hiệu của 6 carbon δ 101,6

(C-1′′′), 72,5 (C-2′′′), 72,2 (C-3′′′), 74,9 (C-4′′′), 69,7 (C-5′′′), 18,0 (C-6′′′). Đường

này liên kết với đường glucose trong PN1 tại vị trí 2′ thông qua liên kết HMBC

giữa H1′′′ (δ 5,33) và C-2′ (δ 79,1).

Phổ khối phun mù điện tử của hợp chất PN2 xuất hiện pic ion 969.7 [M+Na]+

tương ứng khối lượng phân tử M = 946 đvC phù hợp với công thức phân tử là

C48H82O18

Từ các dữ kiện phổ được dẫn ra tại bảng 3.3 kết hợp tài liệu tham khảo [129] có thể

kết luận hợp chất PN2 là {6-O-[β-D-glucopyranosyl (1→2)-(α-L-rhamnopyranosyl)]-20-O-

[β-D-glucopyranosyl]- 3β,6α,12β, 20S-tetrahydroxydammar-24-ene} hay ginsenosid Re.

*Hợp chất PN6

Hợp chất PN6 có phổ của phần aglycon tương tự như phổ của hợp chất PN1

và PN2, điều khác biệt ở đây là số lượng các phân tử đường. Ở hợp chất PN6, chỉ

xuất hiện duy nhất tín hiệu của một đường glucose liên kết với phần aglycon ở vị

trí carbon số 6. Điều này có thể thấy rõ qua kết quả phổ khối lượng với píc ion m/z

(positive) ở 657.4 [M+H2O+H]+ tương ứng với khối lượng phân tử M = 638 đvC,

phù hợp với công thức phân tử C36H62O9. Kết hợp với việc phân tích các dữ kiện

phổ 1H, 13C-NMR, DEPT, HSQC, HMBC và tài liệu tham khảo [130] cho phép kết

73

luận về cấu trúc của hợp chất PN6 là 6-O-[β-D-glucopyranosyl-3β,6α,12β,20S-

tetrahydroxydammar-24-ene} hay ginsenosid Rh1.

Hình 3.3. Các hợp chất phân lập từ thân rễ Tam thất (PN1, PN2, PN6)

và phổ HMBC chọn lọc của hợp chất PN1

* Hợp chất PN3

74

Cũng như các hợp chất PN1, PN2, PN6, phổ cộng hưởng từ 1D-NMR của

hợp chất PN3, PN4, PN5 cũng cho những nét đặc trưng của saponin với phần

aglycon khung dammaran liên kết với các phân tử đường.

Trên phổ 1H-NMR của PN3, các tín hiệu các tín hiệu chồng chập tại vùng

trường cao điển hình của một hợp chất có khung damaran, trong đó có 8 tín hiệu

singlet của các nhóm methyl bậc ba tại δ 1,05 (H-18), 0,88 (H-19),1,37 (H-21),

1,71 (H-26), 1,65 (H-27),1,09 (H-28), 0,95 (H-29) và 0,95 (H-30), một nối đôi thế

ba lần với sự có mặt của tín hiệu proton methin tại δ5,13 (1H, t, J= 6,5 Hz, H-

24).Hai tín hiệu của hai nhóm methyl dịch chuyển mạnh về phía trường thấp hơn

tạiδ 1,71 (H-26) và 1,65 (H-27) gợi ý rằng chúng đều được gắn vào nối đôi. Ngoài

ra, trên phổ này còn xuất hiện các tín hiệu cộng hưởng trong vùng từ δ 3,09- 4,70

ppm đặc trưng cho sự có mặt của các proton oxymethin và oxymethylen của các

phân tử đường cũng như proton oxymethin khác. Ba phân tử đường glucose được

nhận biết bởi các tín hiệu proton anome tại δ4,69 (1H, d, J = 8,0 Hz, H-1′), 4,46

(1H, d, J = 7,0 Hz, H-1′′) và 4,62 (1H, d, J= 7,5 Hz, H-1′′′).

Trên phổ 13C-NMR xuất hiện tín hiệu của 48 nguyên tử cacbon, trong đó 18

tín hiệu được xác định thuộc vào 3 phân tử đường glucose [3-Glc: δ 104,5 (C-1′),

81,2 (C-2′), 7 8 , 3 (C-3′), 7 1 , 6 (C-4′), 78,3 (C-5′), 62,8 (C-6′); 2'- Glc: δ 105,4 (C-

1′′),76,3 (C-2′′), 78,5 (C-3′′), 71,9 (C-4′′), 77,7 (C-5′′), 63,1 (C-6′′); 20- Glc: 98,3

(C-1′′′), 75,4 (C-2′′′), 78,3 (C-3′′′), 71,9 (C-4′′′), 77,9 (C-5′′′), 62,6 (C-6′′′),và 30 tín

hiệu còn lại thuộc vào phần aglycon với nối đôi duy nhất tại δ 125,9 (C-24) và

132,3 (C-25). Phân tích phổ 13C-NMR và phổ DEPT cho thấy sự có mặt của tín

hiệu cacbon bậc ba nối với nguyên tử oxy tại δ 84,9 (C-20) cacbon CH tại δ 53,1

(C-17) điển hình cho hợp chất có khung dammaran mà phân tử đường glucose nối

vào vị trí C-20 [126], [127]. Hai tín hiệu khác của các cacbon oxymethin tại δ 91,3

(C-3) và 71,2 (C-12) cũng được xác định.

75

Điểm khác biệt trên 13C-NMR của hợp chất PN3 so với PN1 là sự xuất hiện

của một nhóm methylen δ 19,3 (C-6) thay vì nhóm methin ở δ 80,9 (C-6) trong

PN1, và độ chuyển dịch về trường cao hơn của cacbon methin tại C-3 (δ 91,3)

trong PN3 so với PN1 (δ 79,9)chứng tỏ vị trí liên kết của đường với khung

dammaran chuyển từ vị trí C-6 (ở PN1) sang vị trí C-3 trong PN3. Nhận định này

được làm sáng tỏ hơn khi phân tích các tương quan HMBC của hợp chất này.

Phổ ESI-MS của hợp chất PN3 cho pic ion m/z 983.4 [M+2H2O+H]+ tương

ứng với khối lượng M= 946 đvC và công thức phân tử C48H82O18.

Bằng cách khảo sát, phân tích dữ kiện phổ 1D-NMR, các tương tác C-H trên

HMBC, HSQC cùng với việc tham khảo tài liệu [131] đối với PN3, cho phép kết

luận hợp chất PN3 là 3-O-[β-D-glucopyranosyl (1→2)-β-D-glucopyranosyl]-20-O-

β-D-glucopyranosyl-3β, 12β,20β-trihydroxydammar-24-ene hay Ginsenosid Rd.

* Hợp chất PN4

Phổ NMR của hợp chất PN4 cho các pic cộng hưởng có độ chuyển dịch

giống như của hợp chất PN3 (xem bảng 3.4), ngoài ba đường glucose với vị trí liên

kết tương tự hợp chất PN3, ở hợp chất PN4 còn có thêm một vòng đường glucose

nữa liên kết với C-6′′′ của PN3 thông qua liên kết O-glucoside. Điều này được thể

hiện rõ nét qua tương quan HMBC của hợp chất PN4. Thêm vào đó, phổ khối

lượng của PN4 cho pic ion: m/z 1132.2 [M+Na]+, (M= 1108 đvC; C54H92O23), như

vậy PN4 có khối lượng lớn hơn PN3 là 162 đvC đúng bằng khối lượng của một

phân tử đường bị đề hydrat hóa khi tạo liên lết O-glucoside.

Từ các dữ kiện phổ được dẫn ra tại bảng 3.4 kết hợp tài liệu tham khảo [131]

có thể kết luận hợp chất PN4 là 3-O-[β-D-glucopyranosyl (1→2)-β-D-

glucopyranosyl]-20-O-[β-D-glucopyranosyl (1→6)-β-D-glucopyranosyl]-3β, 1 2β,

2 0β- trihydroxydammar-24-ene hay Ginsenosid Rb1

* Hợp chất PN5

76

Hợp chất PN5 có phổ của phần aglycon tương tự như phổ của hợp chất PN3

và PN4, Tuy nhiên ở hợp chất PN5, chỉ xuất hiện tín hiệu của 2 phân tử đường

glucose liên kết với phần aglycon ở vị trí carbon số 3. Độ chuyển dịch của cacbon ở

vị trí số 20 về trường cao hơn (δ 74,4) ở PN5 so với PN3 và PN4 (δ 84,9) cho dự

đoán về sự biến mất của đường tại vị trí này. Điều này có thể thấy rõ hơn qua kết

quả phổ khối lượng với píc ion m/z (positive) ở m/z: 789.6 [M+5H]5+ , tương ứng

với khối lượng phân tử M= 784 đvC, phù hợp với công thức phân tử C42H72O13. Kết

hợp với việc phân tích các dữ kiện phổ 1H, 13C-NMR, DEPT, HSQC, HMBC và tài

liệu tham khảo [132] cho phép kết luận về cấu trúc của hợp chất PN5 là3-O-[β-D-

glucopyranosyl (1→2)-β-D-glucopyranosyl]-3β, 1 2β, 2 0β- trihydroxydammar-24-

ene hay Ginsenosid Rg3.

77

24

22

21 CH3

HO CH2 O

O

OH

26 CH3

24

21 CH3

22

HO

26 CH3

20

1"'

OH

20

OH

CH3 27

CH3

27

OH

17

OH 12

13

17

18

11 18 CH3

1

19 CH3 9

14

CH3

14

1

13 19 CH3

9

15

8

15

6'

5

10

8

3

5

10 4

CH3 30

7

CH3 30

4

CH2OH O O

6' CH2OH O O

OH

OH

1'

1'

3 H3C CH3 28 29

2'

H3C CH3 29

2'

28

OH

O

HOH2C

O

O

OH CH2OH O

OH

1"

OH

1"

OH

PN5-Rg3

OH

OH

PN3-Rd

OH

CH2OH O

CH2OH O O

22

24

21 CH3

CH3

OH

OH

O CH2 O

26 CH3

CH2 O

O

CH3

1""

OH

OH

O 1"'

20

OH

OH

OH

CH3

OH

OH

OH

CH3 27

OH

OH

OH

OH 12

17

13

CH3

CH3

19 CH3

11 18 CH3

14

1

9

10

8

CH2OH

CH3

3

6'

5

CH3 30

4

O

O

CH2OH O O

OH

CH3

OH

H3C

1'

OH

H3C CH3 29

28

2'

OH

O

O

HOH2C

HOH2C

O

O OH

HMBC collerations of PN4

OH

1"

OH

OH

PN4-Rb1

OH

OH

Hình 3.4. Các hợp chất phân lập từ thân rễ Tam thất (P. notoginseng)

(PN3, PN4, PN5) và phổ HMBC chọn lọc của hợp chất PN4

3.1.2. Kết quả nghiên cứu sự biến đổi hàm lượng hoạt chất trong Tam thất khi hấp

ở các điều kiện khác nhau bằng phương pháp sắc ký lỏng hiệu năng cao (HPLC)

3.1.2.1. Lựa chọn điều kiện sắc ký

Tiến hành sắc ký như mô tả ở mục 2.2.1.2, thu được sắc ký đồ như hình 3.5.

78

Hình 3.5. Sắc ký đồ một số mẫu dịch chiết Tam thất (1: Rg1, 2: Re, 3: Rd, 4: Rb1, 5: Rg3, 6: Rh1)

Hình ảnh trên sắc ký đồ cho thấy với điều kiện sắc ký đã chọn, các chất cần phân

tích cho các pic tách nhau rõ ràng, có thể dùng để định lượng các mẫu nghiên cứu.

3.1.2.2. Xây dựng đường chuẩn

Tiến hành như đã mô tả ở mục 2.2.1.2. Kết quả được trình bày ở bảng 3.5 và

hình 3.6.

79

Bảng 3.5. Kết quả xây dựng đường chuẩn

Diện tích pic

Rg1 Re Rb1 Rh1 Rd Rg3 Nồng độ (µg/ml)

237420 203246 248534 367547 213028 314887 50

482741 411054 577000 881443 376099 615333 100

1194066 1022877 946749 1783151 929541 1491191 250

3562974 3055435 2633396 5134706 2639867 4283532 750

4782154 4099647 3611931 6889350 3544766 5693495 1000

6285688 4690307 4245554 8146239 4381079 6951359 1250

7972059 5341087 5073620 9795781 5276054 8323176 1500

y=5181.3 x-124483 y=3661.5 x+126065 y=3304.7 x+163421 y=6470.5 x+184682 y=3486.9 +39266 y=5524.3 x+86267

0.9955 0.9917 0.9982 0.9987 0.9999 0.9997 Phương trình đường chuẩn R2

80

Hình 3.6. Đồ thị biểu diễn đường chuẩn của các saponin đối chiếu

81

Dựa trên bảng 3.5 và hình 3.6, có thể thấy cả 6 chất cần phân tích đều có sự

tương quan tuyến tính giữa diện tích pic trên sắc ký đồ với nồng độ trong dung

dịch. Vì vậy có thể dùng phương pháp này để xác định hàm lượng các chất trên

trong các mẫu Tam thất chưa chế biến và đã chế biến.

3.1.2.3. Kết quả định lượng các saponin chính từ Tam thất hấp ở các điều kiện khác

nhau

So sánh sự biến đổi hàm lượng hoạt chất saponin trong Tam thất khô và Tam

thất tươi khi hấp ở các điều kiện nhiệt độ và thời gian khác nhau.

* Mẫu khô, hấp ở mức nhiệt 100°C

Kết quả định lượng được trình bày ở bảng 3.6.

Bảng 3.6. Kết quả định lượng saponin trong mẫu Tam thất khô, hấp ở mức nhiệt 1000C tại các thời điểm hấp khác nhau

Hàm lượng một số saponin trong Tam thất (%)

Thời gian hấp (giờ)

Rg1 Re Rb1 Rh1 Rd Rg3

ND

4,52 ± 0,04 0,76 ± 0,01 4,94 ± 0,05 0,03 ± 0,00 1,29 ± 0,01 4,51 ± 0,01 0,71 ± 0,01 4,97± 0,01 0,10 ± 0,00 1,24 ± 0,02 0,27 ± 0,01 4,26 ± 0,00 0,60 ± 0,01 4,71± 0,05 0,26 ± 0,01 1,23 ± 0,02 0,93 ± 0,01 3,49 ± 0,02 0,46 ± 0,01 4,13 ± 0,04 0,46 ± 0,01 1,14 ± 0,04 1,71 ± 0,01 2,98 ± 0,01 0,43 ± 0,00 3,67 ± 0,01 0,53 ± 0,01 1,08 ± 0,02 2,33 ± 0,02 1,96 ± 0,01 0,18 ± 0,00 2,89 ± 0,02 0,80 ± 0,01 0,84 ± 0,01 3,48 ± 0,04 1,49 ± 0,00 0,09 ± 0,00 2,66 ± 0,01 1,00 ± 0,01 0,77 ± 0,01 4,44 ± 0,03 0 4 8 12 16 20 24

Ghi chú: ND: không phát hiện được

Nhận xét:

Theo thời gian hấp tăng dần, các saponin cũ như Rg1, Re, Rb1, Rd giảm dần,

các saponin mới hình thành như Rg3, Rh1 tăng dần.

Tốc độ chuyển hóa các saponin thấp. Sau 24h hấp, 4 saponin cũ vẫn đang

giảm, chưa chuyển hóa hoàn toàn. Hai saponin mới là Rg3 và Rh1 vẫn đang tăng,

chưa đạt đỉnh.

82

** Mẫu tươi, hấp ở mức nhiệt 100°C

Kết quả được trình bày ở bảng 3.7.

Bảng 3.7. Kết quả định lượng saponin trong mẫu Tam thất tươi, hấp ở mức

nhiệt 100°C tại các thời điểm hấp khác nhau

Hàm lượng một số saponin trong Tam thất (%)

Thời gian hấp (giờ)

Re Rd Rg1 Rh1

Rg3 ND

Rb1 4,52 ± 0,04 0,76 ± 0,01 4,94 ± 0,05 0,03 ± 0,00 1,29 ± 0,01 2,44 ± 0,02 0,31 ± 0,01 4,49 ± 0,05 0,63 ± 0,01 1,08 ± 0,01 1,45 ± 0,01 1,50 ± 0,01 0,12 ± 0,00 3,53 ± 0,03 1,01 ± 0,01 0,99 ± 0,01 2,38 ± 0,01 2,43 ± 0,02 1,22 ± 0,01 0,90 ± 0,00 3,04 ± 0,01 0,67 ± 0,01 1,47 ± 0,01 1,22 ± 0,02 0,74 ± 0,00 3,57 ± 0,02 0,24 ± 0,00 1,30 ± 0,00 1,45 ± 0,00 0,45 ± 0,00 3,71 ±0,02 0,19 ± 0,01 0,94 ± 0,01 1,52 ± 0,00 0,43 ± 0,01 3,74 ± 0,03 0,14 ± 0,00 ND ND ND ND 0 4 8 12 16 20 24

Ghi chú: ND: không phát hiện được

Nhận xét:

Theo thời gian hấp tăng dần, các saponin cũ như Rg1, Re, Rb1, Rd giảm dần,

các saponin mới hình thành như Rg3, Rh1 tăng dần

Tốc độ chuyển hóa các saponin cao hơn so với mẫu khô. Sau 24h hấp, 4

saponin cũ đã giảm xuống gần đáy đồ thị. Hai saponin mới là Rg3 và Rh1 đã tăng

cao và có dấu hiệu đạt đỉnh.

*** Mẫu khô, hấp ở 120°C

Kết quả được trình bày ở bảng 3.8.

83

Bảng 3.8. Kết quả định lượng saponin trong mẫu Tam thất khô, hấp ở mức nhiệt 120°C tại các thời điểm hấp khác nhau

Hàm lượng một số saponin trong Tam thất(%)

Re Rd Rg1 Rh1

Rg3 ND

Rb1 4,52 ± 0,04 0,76 ± 0,01 4,94 ± 0,05 0,03 ± 0,00 1,29 ± 0,01 0,43 ± 0,01 ND ND ND ND ND 1,03 ± 0,01 1,13 ± 0,01 1,25 ± 0,01 6,11 ± 0,05 0,29 ± 0,00 1,07 ± 0,01 1,09 ± 0,01 7,71 ± 0,02 0,20 ± 0,01 1,04 ± 0,01 0,76 ± 0,01 7,84 ± 0,04 0,10 ± 0,00 0,92 ± 0,01 0,53 ± 0,00 8,03 ± 0,05 0,08 ± 0,00 0,65 ± 0,02 0,08 ± 0,00 8,24 ± 0,05 8,36 ± 0,04 ND ND ND ND ND ND 0,58 ± 0,01 ND ND

Thời gian hấp (giờ) 0 4 8 12 16 20 24

Ghi chú: ND: không phát hiện được

Nhận xét:

Tốc độ chuyển hóa các saponin cao hơn so với mẫu tươi và khô hấp ở 1000C.

Sau 8-12h, 1 số saponin cũ đã giảm xuống chạm đáy đồ thị.

Saponin Rg3 gần đạt đỉnh sau 8-12h, và không tăng nhiều sau 24h hấp.

Saponin Rh1 đạt đỉnh sau 8-12h và giảm xuống khi tăng thời gian hấp

**** Mẫu tươi, hấp ở 120°C

Mẫu Tam thất tươi, được hấp ở 120°C có sự biến đổi thành phần hóa học

trong quá trình chế biến.

Kết quả được trình bày ở bảng 3.9.

84

Bảng 3.9. Kết quả định lượng saponin trong mẫu Tam thất tươi, hấp ở 120°C tại các thời điểm hấp khác nhau

Hàm lượng một số saponin trong Tam thất (%)

Thời gian hấp (giờ)

Rg1 Rh1 Rd Re

Rb1 4,52 ± 0,04 0,76 ± 0,01 4,94 ± 0,05 0,03 ± 0,00 1,29 ± 0,01 Rg3 ND

ND ND ND ND ND ND ND ND ND ND ND ND 0,64 ± 0,01 1,45 ± 0,01 0,23 ± 0,01 3,26 ± 0,01 0,52 ± 0,01 1,00 ± 0,02 0,02 ± 0,00 4,15 ± 0,03 5,21 ± 0,03 0,47 ± 0,01 0,68 ± 0,01 5,72 ± 0,04 0,41 ± 0,00 0,52 ± 0,01 7,03 ± 0,05 0,31 ± 0,00 0,48 ± 0,01 7,52 ± 0,03 0,20 ± 0,01 0,37 ± 0,01 ND ND ND ND 0 4 8 12 16 20 24

Nhận xét:

-Khi thời gian được hấp tăng dần, cả mẫu tươi và mẫu khô, ở 2 điều kiện 2

mức nhiệt 1000C và 1200C, các saponin Rg1, Re, Rb1, Rd giảm dần, các saponin

mới hình thành Rg3, Rh1 tăng dần

-Tốc độ chuyển hóa saponin mẫu tươi cao hơn so với mẫu khô tương ứng. Sau

4h, các saponin cũ đã giảm xuống, gần chạm đáy đồ thị.

Saponin Rh1 đã đạt đỉnh sau 4h và giảm nhanh khi tiếp tục hấp.

Saponin Rg3 tăng dần và đạt đỉnh sau 24h hấp, khác với mẫu khô.

Sự biến đổi hàm lượng Rh1 và Rg3 theo thời gian trong 4 điều kiện khảo sát

được trình bày ở hình 3.7.

85

9

)

8

%

7

( t ấ h t

6

0h

4h

5

8h

4

12h

16h

3

20h

m a t g n o r t n i n o p a s ố s t ộ m g n ợ ư

2

24h

l

m à H

1

0

Rh1-dk1 Rg3-dk1 Rh1-dk2 Rg3-dk2 Rh1-dk3 Rg3-dk3 Rh1-dk4 Rg3-dk4 Saponin Rh1 và Rg3 tại các thời điểm hấp khác nhau

Hình 3.7. Đồ thị biểu diễn sự biến đổi hàm lượng Rh1 và Rg3 theo thời gian trong 4 điều kiện khảo sát

Dk1: mẫu khô-1000C Dk2: mẫu tươi-1000C

Dk3: mẫu khô-1200C Dk4: mẫu tươi-1200C

3.1.3. Hiệu suất chiết cao và kết quả định lượng hàm lượng saponin trong 2

mẫu cao định lượng NP(O) và NP(H) bằng HPLC.

3.1.3.1. Hiệu suất chiết cao từ các mẫu dược liệu

Hiệu suất chiết cao từ các mẫu dược liệu được trình bày trong bảng 3.10. Kết quả

cho thấy hiệu suất chiết của hai mẫu không hấp và mẫu hấp gần tương đương nhau,

tương ứng lần lượt là 44,66% và 41,28%.

86

Bảng 3.10. Hiệu suất chiết cao từ các mẫu dược liệu

Tên mẫu

Khối lượng (g) Độ ẩm dược liệu (%) Khối lượng cao (g) Hiệu suất chiết (%)

Độ ẩm cao (%)

988,00 4,30 468,70 44,66 9,90 Mẫu không hấp

970,00 13,05 372,78 41,28 6,60 Mẫu hấp

3.1.3.2. Định lượng các mẫu cao chiết

Lựa chọn điều kiện sắc ký

Tiến hành sắc ký như mô tả ở mục 2.2.1.2, thu được sắc ký đồ như hình sau.

Hình 3.8. Sắc ký đồ các cao Tam thất

A: Hỗn hợp mẫu chuẩn B: Cao chiết từ mẫu cao định lượng NP(O) C: Cao chiết từ mẫu cao định lượng NP(H)

Hình ảnh trên sắc ký đồ cho thấy với điều kiện sắc ký đã chọn, các chất cần phân

tích cho các pic tách nhau rõ ràng, có thể dùng để định lượng các mẫu nghiên cứu.

Kết quả định lượng Saponin trong các mẫu cao được trình bày ở bảng 3.11.

87

Bảng 3.11. Hàm lượng các saponin trong 2 mẫu cao định lượngNP(O) và

NP(H)(Mean ± SD)

Hàm lượng các chất trong cao (%)

Tên mẫu Độ ẩm (%) Re Rb1 Rh1 Rd Rg3 Tổng

9,90 NP(O) 32,32 ± 0,41 1,81 ± 0,01 14,89 ± 0,18 0,30 ± 0,01 3,23 ± 0,08 0,38 ± 0,01 Rg1 11,70a ± 0,16b

6,60 ND ND NP(H) 5,30 ± 0,07 2,57 ± 0,12 0,83 ± 0,03 16,16 ± 0,07 24,62 ± 0,20

Ghi chú: a: hàm lượng trong mẫu (%),

b: độ lệch chuẩn (%, n=3),

ND: không phát hiện được

Rg1: ginsenosid Rg1, Re: ginsenosid Re, Rb1: ginsenosid Rb1, Rh1: ginsenosid

Rh1, Rd: ginsenosid Rd, Rg3: ginsenosid Rg3.

3.2. Kết quả nghiên cứu tác dụng kháng u thực nghiệm của các dạng cao định

lượng và một số saponin phân lập từ rễ củ Tam thất.

3.2.1. Kết quả đánh giá tác dụng kháng u của 6 saponin đã phân lập và cao

định lượng NP(O), NP(H) trên một số dòng tế bào ung thư người

Tác dụng ức chế các dòng tế bào ung thư người của các mẫu thử được đánh giá 3

lần thử nghiệm lặp lại với mỗi mẫu ở một mức nồng độ. Giá trị IC50 (nồng độ ức

chế 50% sự phát triển) được xác định bởi phần mềm máy tính TableCurve 2Dv4.

Kết quả được trình bày ở bảng sau.

88

Bảng 3.12. IC50 của 6 mẫu saponin và 2 cao định lượng NP(O), NP(H)

trên 6 dòng tế bào ung thưngười đã được thử nghiệm

Dòng tế bào UT MCF7 HepG2 HT29 RD A549 IC50 ( µg/ml)

Mẫu(1)Rg1

Mẫu(2)Re

Mẫu (3)Rd

Mẫu(4)Rb1

Mẫu(5)Rg3

Mẫu(6)Rh1

14,87 ±3,20 12,84 ± 3,85 8,21 ± 0,39 8,09 ± 0,81 5,14 ± 0,41 8,58 ± 0,59 12,57 ± 1,84 8,89 ± 0,60 0,36 ± 0,02 12,32 ±3,20 11,13 ± 2,94 12,57 ± 2,151 11,23 ± 2,48 4,54 ±0,42 7,31 ± 0,59 12,16 ± 2,74 9,11 ± 0,44 0,41 ± 0,04 13,59 ±3,20 11,85 ± 2,17 12,34 ± 3,22 12,36 ± 2,52 5,08 ± 0,48 9,19 ± 0,82 13,21 ± 1,17 7,03 ± 0,82 0,40 ± 0,04 12,21 ±3,20 14,79 ± 3,25 9,17 ± 0,56 8,34 ± 0,37 4,44 ± 0,42 6,48 ± 0,63 11.34 ± 2,23 11,84 ±3,24 0,45 ± 0,05 SK LU1 12,63 ±3,20 6,83 ±0,81 11,95 ±3,22 13,68 ±1,05 9,88 ±0,47 8,14 ±0,45 10,41 ± 2,26 8,57 ±0,27 0,39 ±0,05 11,87 ±3,45 7,92 ±0,37 12,11 ±1,21 12,56 ±3,81 8,01 ±0,58 10,64 ±0,32 10,32 ± 2,68 7,62 ±0,46 0,33 ±0,03 Mẫu chưa hấpNP(O) Mẫu đãhấp NP(H) Ellipticine/tham chiếu (+)

Từ các kết quả thu được trong cùng điều kiện thử nghiệm in vitro:

* So sánh hoạt tính ức chế sự phát triển của các dòng tế bào ung thư người

của 6 saponin đã thử nghiệm,kết quả cho thấy:

Mẫu thử Rg1(1) có hoạt tính ức chế yếu sự phát triển của các dòng tế bào

ung thư đã thử nghiệm ở các nồng độ đã được thử (IC50>10 µg/ml).

Mẫu thử Re (2)thể hiện hoạt tính ức chế sự phát triển đối với dòng tế bào SK

LU1 với giá trị IC50 là 6,83 ±0,81µg/ml và đối với dòng tế bào A549 là 7,92 ±

0,37µg/ml; các dòng tế bào còn lại sự ức chế phát triển đều ở mức yếu (IC50>10

µg/ml).

Mẫu thử Rd (3)cũng thể hiệnhoạt tính ức chế sự phát triển của các dòng tế

bào ung thư MCF7 và RD đã thử nghiệm với giá trị IC50 từ 8,21± 0,39 µg/ml đến

89

9,17± 0,56 µg/ml và chưa thể hiện hoạt tính trên các dòng HepG2, HT-29, SK LU1

và A549 ở các nồng độ đã được thử (IC50>10 µg/ml).

Mẫu thử Rb1 (4) thể hiện hoạt tính ức chế sự phát triển của các dòng tế bào

ung thư MCF7 và RD đã thử nghiệm với giá trị IC50 từ 8,09 ± 0,81µg/ml đến 8,34

± 0,37 µg/ml và chưa thể hiện hoạt tính trên các dòng HepG2, HT-29, SK LU1 và

A549 ở các nồng độ đã được thử (IC50>10 µg/ml).

Mẫu thử Rg3 (5) có hoạt tính ức chế sự phát triển của các dòng tế bào ung

thư thử nghiệm với giá trị IC50 từ 4,44 ± 0,42 µg/ml đến 9,88± 0,47 µg/ml;

Mẫu thử Rh1 (6) có hoạt tính ức chế sự phát triển của 5 dòng tế bào ung thư đã

thử nghiệm với giá trị IC50 từ 6,48 ± 0,63 µg/ml đến 9,19 ± 0,82 µg/ml.

Như vậy đối với 6 hợp chất tinh khiết phân lập được thì có 4 hợp chất là

Rg1, Re2, Rd3 và Rb1có hoạt tính ức chế các dòng tế bào ung thư đã thử nghiệm in

vitro tương đối yếu so với 2 hợp chất tinh khiết thu được sau khi hấp qua hơi nóng

thu được là Rg3 và Rh1.

Nói một cách khác, 2 hợp chất Rg3 và Rh1 thu được sau khi Tam thất đã xử

lý hấp qua hơi nóng ở 120 độ C trong vòng 8 giờ có hoạt tính kháng các dòng tế

bào ung thư mạnh hơn so với 4 hợp chất Rb1, Rd, Re và Rg1 khi được thử trên 6

dòng tế bào ung thư trong cùng điều kiện.

** So sánh hoạt tính ức chế sự phát triển của các dòng tế bào ung thư người đã thử

nghiệm với 2 cao định lượng NP(O), NP(H), kết quả cho thấy

So sánh hoạt tính ức chế sự phát triển của các dòng tế bào ung thư người đã

thử nghiệm,cao định lượng NP(H) (cao định lượng Tam thất sau khi hấp) có hoạt

tính ức chế tương đối mạnh sự phát triển của 5 dòng tế bào ung thư là HT29,

HepG2, MCF7, SK LU1 và A549 đã thử với giá trị IC50 từ 7,03 đến 9,11 µg/ml, chỉ

chưa thể hiện hoạt tính trên một dòng tế bào ung thư là RD ở các nồng độ đã được

thử (IC50>10 µg/ml).

Trong khi đó NP(O) (cao định lượng Tam thất chưa qua hấp) không thể hiện

hoạt tính ức chế sự phát triển của cả 6 dòng tế bào ung thư đã được thử ở tất cả các

90

nồng độ đã sử dụng (với tất cả các dòng này đều có IC50>10 µg/ml).

3.2.2. Kết quả đánh giá khả năng gây độc tế bào và khả năng kích thích chết tế

bào theo chương trình (apoptosis) của cao định lượng NP(H) trên dòng tế bào

ung thư mô liên kết chuột sarcoma TG180.

3.2.2.1. Kết quả đánh giá khả năng gây độc tế bào của cao định lượng NP(H)

*Ảnh hưởng của cao định lượng NP(H) tới hình thái tế bào

Sự biến đổi hành thái đặc trưng của tế bào là một chỉ tiêu quan trọng để đánh

giá độc tính của các chất lên các tế bào ung thư nuôi cấy.

A

B

Hình 3.9. Hình thái tế bào Sarcoma TG180

(A) Tế bào đối chứng sinh học.

(B) Tế bào được xử lý với dung môi 0,5% DMSO tại thời điểm 48h (VK10X15)

Qua hình 3.11, không có sự sai khác giữa 2 giếng: tế bào đối chứng sinh học

(Hình 3.11A) và tế bào được xử lý với môi trường 0.5% DMSO (Hình 3.11B), điều

này cho thấy môi trường chứa 0,5% DMSO (dung môi pha thuốc) không có tác

động đáng kể nào lên tế bào.

91

Tế bào Sarcoma TG180 dưới tác dụng của NP(H) tại các nồng độ thử nghiệm

(A)

(B)

(C)

(D)

(E)

(F)

2000µg/ml

1000µg/ml

500µg/ml

250µg/ml

125µg/ml

62,5µg/ml

Tế bào Sarcoma TG180 dưới tác dụng của Taxol tại các nồng độ thử nghiệm

(A1)

(B1)

(C1)

(D1)

(E1)

(F1)

2µg/ml

1µg/ml

0,5µg/ml

0,25µg/ml

0,125µg/ml

0,0625µg/ml

Hình 3.10. Hình thái tế bào Sarcoma TG180 dưới tác dụng của cao định lượng NP(H) và thuốc chứng dương Taxol tại thời điểm 48h (VK10X15)

Qua hình thái tế bào thu được sau 48h ủ với cao định lượng NP(H), chúng tôi

(hình 3.12 A) và 1000µg/ml (hình 3.12 B), số lượng tế bào giảm rõ rệt, hình thái không

nhận thấy NP(H) có thể hiện rõ tác dụng gây độc cho tế bào. Tại các nồng độ 2000µg/ml

còn nguyên vẹn, phần lớn, đến 90% tế bào đã vỡ, phân mảnh. Khi giảm nồng độ xuống

½, cụ thể tại Hình 3.12 C, D, E và F, hình thái tế bào phục hồi dần, tạo cụm đặc trưng. Ở

nồng độ 250µg/ml (hình 3.12 D) mật độ tế bào đạt khoảng 40% so với giếng đối chứng.

Khi giảm đến nồng độ 125 µg/ml (hình 3.12 E) và nồng độ 62,5 µg/ml (hình 3.12

F), mật độ tế bào đạt mức như giếng đối chứng.

Với thuốc chứng dương Taxol ở những nồng độ 2µg/ml (hình 3.12 A1), và

1µg/ml (hình 3.12 B1), mật độ tế bào cũng giảm nhiều, số lượng chỉ khoảng 15-

20%, tuy nhiên những tế bào quan sát thấy, vẫn tròn đều, màng sáng, có xu hướng

tạo cụm đặc trưng. Khi giảm dần nồng độ thuốc thử, mật độ tế bào cũng tăng dần

92

và hình thái trở về trạng thái sinh lý bình thường (hình 3.12 C1 và hình 3.12 D1).

Khi giảm đến nồng độ 0,125 µg/ml(hình 3.12 E1) và nồng độ 0,0625 µg/ml (hình

3.12 F1), mật độ tế bào đạt mức như giếng đối chứng.

* Kết quả thử nghiệm MTS

MTS[3-(4,5-dimethylthiazol–2-yl)–5-(3- carboxymethoxyphenyl)-2-(4-sulfophenyl) -

2H-tetrazolium] là một loại mới của muối tetrazolium, nó có thể bị khử bởi các tế bào sống tạo

ra sản phẩm là formazan hòa tan trực tiếp trong môi trường nuôi cấy tế bào.

Thuốc thử tetrazolium này được sử dụng kết hợp với thuốc thử nhận điện tử

trung gian là phenazine methyl sulfate (PMS) hoặc phenazine ethyl sulfate (PES),

có thể xâm nhập vào các tế bào sống, bị khử trong tế bào chất hoặc ở bề mặt tế bào

và giải phóng ra khỏi tế bào nơi chúng có thể chuyển đổi tetrazolium thành sản

phẩm formazan hòa tan.

Nồng độ formazan hình thành được đo bằng máy quang phổ ở bước sóng

490nm. Quá trình khử xảy ra dưới sự xúc tác của enzym trong ty thể trong tế bào

sống, theo đó hàm lượng của chất tạo ra tỷ lệ thuận với số lượng tế bào sống tham

gia phản ứng.

Phương pháp MTS có ưu điểm là độ nhạy và độ chính xác cao, các bước

thực hiện đơn giản, trong thời gian ngắn, do đó thường sử dụng kiểm tra độc tính

để sàng lọc thuốc với số lượng lớn, trên nhiều nồng độ thuốc khác nhau. Kết quả

thu được cho ra giá trị IC50, từ đó đánh giá được độ độc của thuốc cần nghiên cứu.

Như ở phần phương pháp đã nêu ở trên, chúng tôi thử độc tính các mẫu

nghiên cứu gồm 6 nồng độ, nồng độ thử cao nhất là 2000µg/ml đối với cao định

lượng NP(H), 2µg/ml đối với thuốc chứng dương Taxol và giảm dần mỗi nồng độ

được giảm ½ nồng độ trước nó.

Sau 48h ủ thuốc, bằng phương pháp MTS, chỉ số OD được đo tại bước sóng

490, bằng máy đọc ELISA (SpectraMAX Plus 384).

93

Kết quả OD đo được tương đối phù hợp với kết quả định tính so sánh hình

thái ở trên, bằng các phương pháp thống kê trong Excel chúng tôi xử lý số liệu và

thu được kết quả về % tế bào sống (A%) tương ứng với các nồng độ thử, kết quả

thể hiện qua bảng 3.13.

Bảng 3.13. Tỷ số tăng sinh (A%) và giá trị IC50 các mẫu nghiên cứu trên dòng Sarcoma TG180

Sarcoma TG180/chất thử(*)

Nồng độ thử(µg/ml) NP(H) Taxol

A% Lần 1 A% Lần 2 A% Lần 1 A% Lần 2

14,41 13,73 23,79 20,64 2000

21,02 21,83 37,79 36,24 1000

32,42 33,36 49,55 53,45 500

47,83 50,82 56,19 59,08 250

62,75 61,18 62,75 68,66 125

101,47 91,77 104,61 92,62 62,5

TB IC50 IC50=206,65±10,11 (µg/ml) R2=0,96 IC50=0,701 ±0,266 (µg/ml) R2=0,98

3.2.2.2. Kết quả đánh giá khả năng kích thích chết tế bào theo chương trình

(apoptosis) của cao định lượng NP(H) trên dòng tế bào ung thư mô liên kết

chuột sarcoma TG180.

Sau thời gian 12h, 24h và 48h ủ tế bào ung thư mô liên kết chuột Sarcoma

180 với cao định lượng NP(H) tại nồng độ 103,3 µg/ml, tiến hành thu tế bào từ các

giếng thí nghiệm cũng như đối chứng.

Để xác định tỉ lệ tế bào chết theo chương trình chúng tôi sử dụng bộ kít anti-

annexin V gắn chất phát huỳnh quang là Fluorescein isothiocyanate (FITC) và chất

94

nhuộm nhân tế bào phát huỳnh quang là 7-Amino Actinomycin D (7AAD). Quy

trình chạy flow cytometrytheo hướng dẫn của bộ kit Annexin V Apoptosis

Detection (BD) trên máy đếm tế bào BDFACS-Lysis Của hãng BD Mỹ, tại Labo

Sinh học phân tử- Bộ môn Sinh lý bệnh, Học viện Quân Y.

Các tế bào apoptosis được nhận biết bằng sự dương tính với Annexin V

(Annexin V-FITC+). Kết quả đánh giá tỷ lệ % tổng tế bào Apoptosisđược trình bày

ở bảng 3.14.

Bảng 3.14. Tỷ lệ % tế bào apoptosis

Tỷ lệ tế bào apoptosis (%)

Nhóm TN Tỷ lệ %so với đối chứng Mẫu 1 Mẫu 2 Trung bình

4,75 3,41 4,08 Chứng 100%

6,13 5,91 6,02 147,55 12h

9,58 8,44 9,01 220,83 24h

10,08 8,62 9,35 229,17 48h

Kết quả ở bảng 3.14 cho thấy cao định lượng NP(H) có khả năng kích thích

tế bào Sarcoma TG180 chết theo kiểu apoptosis. Cùng một nồng độ thuốc thử (cao

định lượng NP(H) tại nồng độ 103,3 µg/ml), thời gian ủ càng lâu thì tỷ lệ tế bào

apoptosis càng cao. Cụ thể tại thời điểm sau 12h, 24h và 48h ủ, tỷ lệ tế bào

apoptosis tương ứng là147,55%; 220,83% và 229,17% so với đối chứng.

Các tế bào apoptosis được phân chia ra thành những tế bào apoptosis sớm

và tế bào apoptosis muộn. Tế bào apoptosis sớm là những tế bào mà sự chết được

cảm ứng, khởi phát và được định hướng ngay giai đoạn đầu hay giai đoạn sớm

của quá trình apoptosis, lúc này trong tế bào mọi hoạt động sống vẫn diễn ra.

Những thay đổi trong màng sinh chất là một trong những đặc điểm sớm nhất của

quá trình apoptosis, do đó ở các tế bào apoptosis sớm chỉ có sự dương tính với

Annexin V (Annexin V-FITC+).Sự phân mảnh DNA trong nhân tế bào apoptosis

95

sớm chưa xảy ra, do đó tế bào âm tính với thuốc nhuộm nhân 7-

aminoactinomycin (7-AAD-).

Kết quả đánh giá tỷ lệ % tế bào Apoptosis sớm được trình bày ở bảng 3.15.

Bảng 3.15. Tỷ lệ tế bào Appotosis sớm

Tỷ lệ chết apoptosis sớm % Nhóm TN Tỷ lệ apoptosis so với đối chứng

Mẫu 1 Mẫu 2 1,36 1,89 3,00 3,38 1,08 1,90 2,71 3,78 Trung bình 1,22 1,90 2,86 3,58 Chứng 12h 24h 48h 100% 155,74 234,43 293,44

Kết quả ở bảng 3.15 cho thấy cao định lượng NP(H) làm tăng tỷ lệ tế bào

Appotosis sớm. Cùng một nồng độ thuốc thử (cao định lượng NP(H) tại nồng độ

103,3 µg/ml), thời gian ủ càng lâu thì tỷ lệ tế bào apoptosis sớm càng cao. Cụ thể

tại thời điểm sau 12h, 24h và 48h ủ, tỷ lệ tế bào apoptosis sớm tương ứng là

155,74%; 234,43% và 293,44% so với đối chứng.

Tế bào apoptosis muộn là những tế bào mà quá trình apoptosis đã ở giai đoạn

muộn,có những thay đổi đáng kể về hình thái xảy ra và một đặc trưng cơ bản là sự

phân mảnh DNA trong nhân sau sự cô đặc thể nhiễm sắc, các hoạt động sống của tế

bào gần như đã dừng, màng tế bào lúc này không còn các phản ứng chọn lọc. Khi

không kiểm soát, đồng nghĩa với việc tế bào cho tất cả các chất qua màng, chính vì

vậy ngoài dương tính với Annexin V (Annexin V-FITC+), tế bào còn dương tính

với thuốc nhuộm nhân 7- aminoactinomycin (7-AAD+).7-AAD là thuốc nhuộm

huỳnh quang có ái lực cao với DNA sợi kép, khi được kích thích bằng nguồn sáng thích

hợp, tế bào chết biểu hiện cường độ huỳnh quang, dễ dàng nhận biết và đếm bằng

phương pháp đo tế bào dòng chảy.

Kết quả đánh giá tỷ lệ % tế bào Apoptosis muộn được trình bày ở bảng 3.16.

96

Bảng 3.16. Tỷ lệ tế bào chết Appotosis muộn

Tỷ lệ (%) apoptosisso với đối chứng Nhóm TN Tỷ lệ chết apoptosis muộn% Mẫu 1 Mẫu 2 Trung bình

3,39 4,24 6,58 6,7 2,33 4,01 5,73 4,84 2,86 4,13 6,16 5,77 Chứng 12h 24h 48h 100 144,41 215,38 201,75

Kết quả ở bảng 3.16 cho thấy cao định lượng NP(H) làm tăng tỷ lệ tế bào

Appotosis muộn. Cùng một nồng độ thuốc thử (cao định lượng NP(H) tại nồng độ

103,3 µg/ml), ban đầu tỷ lệ tế bào apoptosis muộn tăng theo thời gian ủ, tuy nhiên

sau đó khi tiếp tục ủ lâu hơn thì tỷ lệ tế bào apoptosis muộn lại giảm. Cụ thể tại thời

điểm sau 12h, 24h và 48h ủ, tỷ lệ tế bào apoptosis muộn tương ứng là 144,41%;

215,38% và 201,75% so với đối chứng.

3.2.3. Kết quả nghiên cứu tác dụng kháng u của các cao định lượng NP(H) và

NP(O) trên chuột nhắt trắng mang khối u rắn sarcoma TG 180.

3.2.3.1. Kết quả tạo mô hình khối u sarcoma TG 180 trên chuột

Đánh giá theo dõi sự phát triển khối u tại vị trí tiêm (đùi phải) bằng quan sát,

sờ nắn và đo kích thước khối u bằng thước kẹp Caliper. Kết quả tạo mô hình thực

nghiệm cho thấy chuột nhắt trắng sau 3 ngày được tiêm huyền dịch chứa 5 x 105 tế

bào sarcoma TG 180 vào dưới da đùi phải đều đã xuất hiện những khối ung thư

phát triển tại dưới da đùi phải và sau 5 ngày khối u hình thành rõ. Theo dõi chặt chẽ

trong 5 ngày đầu gây u, chỉ lựa chọn các chuột có khối u hình thành rõ và có sự

phát triển khối u rõ rệt, được đánh giá là chuột gây u thành công và đưa vào nghiên

cứu. Tỷ lệ chuột gây u thành công là 98%.

97

Bảng 3.17. Trọng lượng cơ thể chuột và thể tích khối u trong giai đoạn

gây u (5 ngày đầu). (Mean ± SD, n =10).

Lô chuột Ngày 1 Ngày 5

Thể tích khối u (mm3) Ngày 5 Ngày 3 - -

SL UT LTN

> 0,05 > 0,05 > 0,05 > 0,05 > 0,05 Trọng lượng cơ thể chuột (g) Ngày 3 21,28 ± 0,42 25,34 ± 0,54 27,65 ± 0,65 21,31± 0,67 25,26± 1,14 27,31± 1,06 303,35 ±44,60 527,01 ± 73,70 21,22 ± 0,74 24,81 ± 0,92 26,48 ± 1,22 289,85 ± 38,13 516,65 ± 82,03 NP(O)-1 21,36 ± 0,42 25,18 ± 0,99 26,81 ± 1,06 299,10 ± 28,99 519,45 ± 55,92 NP(O)-2 21,39 ± 0,46 24,72 ± 0,70 26,32 ± 1,02 293,27 ± 29,29 508,84 ± 63,20 NP(H)-1 21,24 ± 0,43 24,95 ± 0,48 26,71 ± 0,48 296,80 ± 33,16 522,91 ± 71,66 NP(H)-2 21,13 ± 0,39 24,32 ± 0,73 26,13 ± 1,12 288,26 ± 46,50 524,91 ± 60,58 pgiữa các lô

Trong 5 ngày đầu kể từ khi tiêm tế bào sarcoma TG 180 để gây u cho chuột, trọng

lượng cơ thể chuột ở các lô tăng đều, không có sự khác biệt giữa các lô chuột (p > 0,05).

Ở các lô tiêm tế bào sarcoma TG 180, ngày thứ 3 các chuột đã xuất hiện khối u, thể tích

trung bình khối u ở các lô đạt 288 mm3 đến 303 mm3. Các khối u phát triển nhanh, ở

ngày thứ 5 thể tích trung bình khối u ở các lô đạt từ 509 mm3 đến 527 mm3.

Tiếp tục theo dõi cho thấy thể tích khối u tăng dần theo thời gian gây u. Động

vật mang u vào giai đoạn muộn có biểu hiện bỏ ăn, suy kiệt, xù lông.

3.2.3.2. Ảnh hưởng của cao định lượng NP(H) và NP(O) đến trọng lượng cơ thể

của chuột mang khối u rắn sarcoma TG 180.

Sau khi xác định gây u thành công ở ngày thứ 5, các chuột được cho uống

thuốc theo phân lô bắt đầu từ ngày thứ 6. Tiến hành cân chuột 2 ngày/lần.

98

Bảng 3.18.Trọng lượng cơ thể chuột trong giai đoạn uống thuốc

(Mean ± SD, n =10).

Lô chuột

SL Ngày 7 31,09 ± 0,79 Ngày 9 34,18 ± 1,55 Trọng lượng cơ thể chuột (g) Ngày Ngày 17 11 44,53 37,62 ± 1,37 ± 1,56 Ngày 13 41,51 ± 1,42 Ngày 15 43,36 ± 1,37 Ngày 19 44,96 ± 1,44 Ngày 21 45,32 ± 1,44

UT 30,97 ± 1,22 34,02 ± 1,45 37,46 ± 2,28 41,33 ± 2,27 43,14 ± 1,95 44,12 ± 1,74 44,36 ± 1,63 44,51 ± 1,48

LTN

NP(O)-1

NP(O)-2

NP(H)-1

NP(H)-2 30,23 ± 1,43 30,72 ± 1,36 30,18 ± 1,46 30,57 ± 0,97 30,06 ± 0,81 43,67 ± 1,12 43,83 ± 1,89 43,45 ± 1,06 43,61 ± 1,14 43,16 ± 1,08 36,35 ± 1,55 36,83 ± 1,48 36,21 ± 0,89 36,62 ± 0,82 36,05 ± 0,86 33,09 ± 1,58 33,75 ± 1,33 33,12 ± 0,97 33,51 ± 0,74 33,03 ± 0,84 43,28 ± 0,99 43,66 ± 1,95 43,12 ± 1,08 43,34 ± 1,03 43,02 ± 0,97 42,33 ± 1,06 42,51 ± 1,68 42,19 ± 0,94 42,34 ± 1,38 42,03 ± 1,08

43,45 40,63 ± 1,04 ± 1,08 43,83 41,02 ± 1,94 ± 1,59 43,36 40,88 ± 1,04 ± 0,91 43,54 40,97 ± 1,04 ± 1,43 43,16 40,18 ± 1,02 ± 1,13 pgiữa các lô > 0,05 > 0,05 > 0,05 > 0,05 > 0,05 > 0,05 > 0,05 > 0,05

Nhận xét: Cân nặng của chuột ở lô SL (không gây u) và lô UT (gây u không

dùng thuốc) tăng đều sau mỗi lần cân. Các lô gây u có dùng thuốc, trọng lượng cơ

thể chuột từ ngày 7 đến ngày 17 đều tăng sau mỗi lần cân, ngày 19 trọng lượng cơ

thể có xu hướng giảm nhẹ sau đó lại tăng ở ngày 21. So sánh giữa các lô tại cùng

một thời điểm đo, trọng lượng cơ thể chuột ở các lô khác biệt không có ý nghĩa

thống kê (p> 0,05).

3.2.3.3. Ảnh hưởng của cao định lượng NP(H) và NP(O) đến sự phát triển khối

u rắn sarcoma TG 180.

99

Bảng 3.19. Thể tích trung bình khối u củachuột trong giai đoạn uống thuốc (từ

ngày 7 đến ngày 21) (Mean ± SD, n =10).

Thể tích trung bình khối u của chuột (mm3)

Lô chuột Ngày 9 Ngày 11 Ngày 13 Ngày 15 Ngày 17 Ngày 19 Ngày 21 Ngày 7

858,99 ± 196,05

1016,88 ± 188,69

1315,94 ± 404,59

1741,88 ± 502,20

1963,01 ± 464,01

2480,70 ± 386,12

3184,01 ± 536,99

3254,29 ± 544,01

791,00 ± 192,47

839,37* ± 181,94

855,70▲ ± 195,11

892,00Δ ± 243,74

973,99 Δ ± 287,85

1017,08 Δ ± 301,38

1085,11 Δ ± 314,85

1164,54 Δ ± 393,88

UT (1)

829,00 ± 158,76

862,00* ± 129,21

884,00▲ ± 145,67

958,98Δ ± 141,98

1157,00 Δ ± 178,71

1296,02 Δ† ± 207,68

1452,02 Δ† ± 275,00

1507,62 Δ† ± 273,95

LTN (2)

771,90 ± 165,45

837,98* ± 153,41

890,70▲ ± 152,34

938,99 Δ ± 138,43

1041,86 Δ ± 138,74

1247,01Δ ± 286,84

1288,02Δ ± 254,56

1316,19 Δ ± 254,24

NP(O)- 1 (3)

797,99 ± 138,35

834,01* ± 140,05

852,03▲ ± 157,84

861,34 Δ ± 156,57

936,99Δ(cid:0) ± 191,89

1099,03Δ(cid:0) ± 197,65

NP(O)- 2 (4)

893,57 Δ(cid:0) ± 163,48

998,99 Δ(cid:0) ± 198,23

743,05 ± 143,11

808,00* ± 134,36

813,94▲ ± 134,90

826,10 Δ ± 153,34

858,41Δ¥ ± 145,19

885,99Δ¥ ± 144,08

896,00Δ¥ ± 141,90

913,44Δ¥β± 150,99

NP(H)- 1 (5)

NP(H)- 2 (6)

Ghi chú: *,▲, Δ – p < 0,05, p < 0,01 và p < 0,001 (tương ứng) so với (1); † = p < 0,05 so với (2); (cid:0) = p < 0,01 so với (3) và < 0,05 so với (4); ¥ = p < 0,001 so với (3) và < 0,01 so với (4); β = p < 0,05 so với (5).

Nhận xét:

Các chuột bắt đầu được cho uống thuốc ở ngày thứ 6 sau tiêm gây u. Ở ngày

đo thứ 7 (ngày uống thuốc thứ 2), thể tích trung bình của khối u ở các lô chuột

dùng thuốc nhỏ hơn chưa có ý nghĩa thống kê so với gây ung thư không điều trị. Ở

các ngày sau, lô gây ung thư không điều trị (UT): thể tích tăng liên tục và rất nhanh

sau mỗi lần đo. Các lô dùng Lentinan (LTN), cao Tam thất không hấp (NP(O)-1 và

NP(O)-2), cao Tam thất hấp (NP(H)-1 và NP(H)-2), thể tích trung bình khối u cũng

tăng nhưng tăng chậm. Ngày thứ 9 và ngày thứ 11 (ngày uống thuốc thứ 4 và thứ

100

6), thể tích trung bình khối u của các lô dùng thuốc nhỏ hơn có ý nghĩa thống kê so

với lô gây ung thư không dùng thuốc, với p < 0,05 và p < 0,01, tương ứng. Bắt đầu

từ ngày 13 (ngày uống thuốc thứ 8) trở đi, thể tích trung bình khối u của các lô

dùng thuốc nhỏ hơn có ý nghĩa thống kê so với lô gây ung thư không dùng thuốc

với p< 0,001. Các lô dùng cao Tam thất hấp (NP(H)-1 và NP(H)-2, thể tích trung

bình khối u tăng chậm nhất. Kết quả đo ở các ngày thứ 15, 17, 19 và 21, ở lô dùng

cao Tam thất hấp liều thấp NP(H)-1, thể tích trung bình khối u nhỏ hơn so với ở

các lô dùng cao Tam thất không hấp (NP(O)-1 và NP(O)-2), với p< 0,01 và p <

0,05, tương ứng. Ở lô dùng cao Tam thất hấp liều cao NP(H)-2, thể tích trung bình

khối u nhỏ hơn so với ở các lô dùng cao Tam thất không hấp (NP(O)-1 và NP(O)-

2), với p< 0,001 và p < 0,01. Tại ngày thứ 21, thể tích trung bình khối u ở lô dùng

cao Tam thất liều cao nhỏ hơn so với ở lô dùng cao Tam thất hấp liều thấp, với p<

0,05. Ở lô dùng cao Tam thất không hấp liều cao, thể tích trung bình khối u nhỏ

hơn không có ý nghĩa thống kê so với ở lô dùng cao Tam thất không hấp liều thấp

(p< 0,05). Thể tích trung bình khối u ở các lô dùng cao Tam thất hấp (NP(H)-1 và

NP(H)-2), cao Tam thất không hấp liều cao (NP(O)-2 tương đương so với ở lô

dùng Lentinan (LTN) (p> 0,05). Tuy nhiên, tại ngày đo 17, 19, 21, thể tích trung

bình khối u ở lô dùng cao Tam thất không hấp liều thấp NP(O)-1 lớn hơn so với ở

lô dùng Lentinan (LTN) (p < 0,05).

Kết quả đánh giá hiệu lực kháng u tại ngày 21 được trình bày ở bảng sau.

101

Bảng 3.20. Hiệu lực kháng u tại ngày 21 sau tiêm gây u ở các lô điều trị (n =10)

Lô chuột Hiệu lực kháng u Thể tích trung bình khối u tại ngày 21 (mm3) Tỷ số ức chế u tính theo thể tích (%) Tỷ số ức chế u tính theo cân nặng (%)

- - - UT (1)

64,31 ++ LTN (2) 64,56

53,66 + NP(O)-1 (3) 53,90

59,54 + NP(O)-2 (4) 3254,29± 544,01 1164,54Δ± 393,88 1507,62Δ†± 273,95 1316,19Δ ± 254,24 Cân nặng trung bình khối u tại ngày 21(g) 3,451± 0,575 1,223Δ ± 0,415 1,591Δ† ± 0,288 1,402Δ ± 0,269 59,37

66,18 ++ NP(H)-1 (5) 66,59

72,09 ++ NP(H)-2 (6) 1099,03Δ(cid:0) ± 197,65 913,44Δ¥β ± 150,99 1,153Δ(cid:0) ± 0,206 0,958Δ¥β ± 0,160 72,24

Ghi chú: Δ – p < 0,001 so với (1); † = p < 0,05 so với (2); (cid:0) = p < 0,01 so với (3) và < 0,05 so với (4); ¥ = p < 0,001 so với (3) và < 0,01 so với (4); β = p < 0,05 so với (5).

Tại ngày 21 sau tiêm gây u (sau 16 ngày uống thuốc), thể tích trung bình khối

u cũng như cân nặng trung bình khối u ở lô dùng NP(H) nhỏ hơn so với ở lô dùng

NP(O) cùng mức liều (p < 0,01 và p < 0,001). Thể tích trung bình khối u cũng như

cân nặng trung bình khối u ở lô dùng NP(H)-2 nhỏ hơn so với ở lô dùng NP(H)-1

(p < 0,05). Các lô LTN, NP(H)-1 và NP(H)-2 có tỷ số ức chế u tính theo thể tích

lần lượt là 64,31%; 66,18% và 72,09%; và tỷ số ức chế u tính theo cân nặng lần

lượt là 64,56%; 66,59% và 72,24%, đều đạt hiệu lực kháng u (++) theo thang đánh

giá của H.Itokawa. Tỷ số ức chế u của lô NP(H)-2 là lớn nhất (72,09% tính theo thể

tích và 72,24% tính theo cân nặng khối u). Lô NP(O)-1 và NP(O)-2 có tỷ số ức chế

u tính theo thể tích lần lượt là 53,66%;59,54%; và tỷ số ức chế u tính theo cân nặng

102

lần lượt là 53,90%; 59,37% đạt hiệu lực kháng u (+) theo thang đánh giá của

H.Itokawa.

A

B

C

D

E

F

Hình ảnh mô bệnh học khối u

Hình 3.11. Hình ảnh mô bệnh học khối u sarcoma TG 180 ở đùi chuột.

A, B, C, D, E, F lần lượt là ký hiệu chỉ các lô UT, LTN, NP(O)-1, NP(O)-2,

NP(H)-1 và NP(H)-2. Mũi tên chỉ các tế bào u với nhân quái nhân chia

Kết quả mô bệnh học cho thấy nhiều hình ảnh tế bào u với nhân quái nhân chia,

trong đó ở lô UT các tế bào u gặp nhiều hơn so với ở các lô dùng thuốc. Không có sự

khác biệt nhiều về hình ảnh mô bệnh học khối u giữa các lô dùng thuốc.

3.2.4. Kết quả đánh giá tác dụng của cao định lượng NP(H) và NP(O) lên miễn

dịch trên chuột mang khối u rắn Sarcoma TG180

3.2.4.1. Kết quả đánh giá số lượng và công thức bạch cầu trong máu chuột

Kết quả được trình bày ở bảng 3.21

103

Bảng 3.21. Số lượng và công thức bạch cầu chuột (Mean ± SD, n =10).

Công thức bạch cầu

Lô nghiên cứu NEU (%) LYM(%) MONO (%) EOS (%) BASO (%) Số lượng bạch cầu (G/L)

7,26 ± 1,44 74,25 ± 5,92 19,02 ± 1,65 4,91 ± 0,36 0,56 ± 0,04 0,58 ± 0,16 SL (1)

10,14 ± 2,90 75,53 ± 5,26 18,61 ± 1,80 4,75 ± 0,62 0,51 ± 0,05 0,62 ± 0,17 UT (2)

7,54± 1,48 74,36 ± 6,10 18,65 ± 1,59 5,19 ± 0,83 0,52 ± 0,02 0,61 ± 0,09 LTN (3)

NP(O)-1 (4) 8,03 ± 1,26 74,90 ± 6,74 18,83 ± 1,72 5,31 ± 0,27 0,55 ± 0,04 0,51 ± 0,13

NP(O)-2 (5) 7,90 ± 0,91 74,66 ± 6,63 18,68 ± 1,58 5,41 ± 0,27 0,55 ± 0,01 0,51 ± 0,14

NP(H)-1 (6) 7,41 ± 1,38 75,04 ± 6,24 18,41 ± 1,54 5,45 ± 0,22 0,57 ± 0,04 0,53 ± 0,16

NP(H)-2 (7) 7,38 ±1,37 74,45 ±6,93 19,04 ± 2,01 5,42 ± 2,47 0,54 ±0,07 0,56 ± 0,18

> 0,05 > 0,05 > 0,05 > 0,05 > 0,05 p p-2< 0,05

Nhận xét:

- Ở lô chuột gây u không điều trị (lô UT), số lượng bạch cầu tăng cao, khác

biệt có ý nghĩa thống kê so với lô chứng sinh lý (lô SL) với p < 0,05. Các lô gây u

được điều trị bằng Letinan (lô LTN), cao định lượng (NP(H)-1 và NP(H)-2, và cao

định lượng (lô NP(O)-1 và lô NP(O)-2),số lượng bạch cầu thấp hơn so với lô UT (p

< 0,05), trở về tương đương so với lô SL (p > 0,05).

- Công thức bạch cầu không có sự thay đổi nhiều giữa các lô (p > 0,05).

3.2.4.2. Kết quả đánh giá nồng độ IL-2 và TNF-α máu.

Kết quả được trình bày ở bảng 3.22.

104

Bảng 3.22. Kết quả đánh giá nồng độ IL-2 và TNF-α máu (n = 10, Mean ± SD).

IL-2 (pg/ml) TNF-α (pg/ml)

Lô nghiên cứu SL (1)

UT (2)

LTN (3)

NP(O)-1 (4)

NP(O)-2 (5)

NP(H)-1 (6)

7,22 ± 0,68 8,03▲ ± 0,88 9,68**Δ± 1,02 8,72* Δ± 0,49 8,89* Δ± 0,58 9,54** Δ±0,77 9,93** Δ ± 0,99 25,38 ± 2,39 27,45▲ ± 1,43 30,72**Δ ±2,34 28,84*Δ±1,35 29,01*Δ±1,04 31,55**Δ±3,03 31,70**Δ ± 2,94 NP(H)-2 (7)

▲ : p < 0,05 so với lô SL; Δ : p < 0,01 so với lô SL; *: p < 0,05 so với lô UT; **: p < 0,01 so với lô UT

p p6,7,3-4,5< 0,05; p6,7-3> 0,05 p6,7,3-4,5< 0,05; p6,7-3> 0,05

Nhận xét:

- Ở lô gây u không điều trị (UT), nồng độ IL-2 và TNF-α máu tăng so với lô

chứng sinh lý (SL) (p < 0,05).

- Các lô dùng thuốc, nồng độ IL-2 và TNF-α máu tiếp tục tăng và khác biệt

có ý nghĩa thống kê so với lô UT (p < 0,01 với các lô LTN, NP(H)-1 và NP(H)-2; p

< 0,05 với các lô NP(O)-1 và NP(O)-2. Nồng độ IL-2 và TNF-α máu chuột ở các lô

LTN, NP(H)-1 và NP(H)-2 cao hơn có ý nghĩa thống kê so với ở các lô NP(O)-1 và

NP(O)-2 (p < 0,05).

- Nồng độ IL-2 và TNF-α máu giữa các lô LTN, NP(H)-1 và NP(H)-2 khác

biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).

3.2.4.3. Kết quả đánh giá một số chỉ tiêu huyết học

Kết quả được trình bày ở bảng 3.23

105

x

Bảng 3.23. Kết quả đánh giá một số chỉ tiêu huyết học (n = 10, ± SD).

Hb (g/L) Hct (%) MCV(fl) Số lượng tiểu cầu (G/L) Lô nghiên cứu Số lượng hồng cầu (T/L)

7,74 ± 1,30 168,24 ± 16,90 44,20 ± 3,63 SL (1) 51,35 ± 4,51

141,30 Δ ± 14,3140,14▲ ± 3,06 51,19 ± UT (2)

LTN (3)

NP(O)-1 (4) NP(O)-2 (5) NP(H)-1 (6) NP(H)-2 (7)

▲ : p < 0,05 so với lô SL; Δ : p < 0,01 so với lô SL; *: p < 0,05 so với lô UT; **: p < 0,01 so với lô UT

153,18*▲± 9,61 153,04*▲± 9,92 154,12*▲ ± 10,83 164,08**± 13,02 166,14** ± 14,29 p6,7-3,4,5< 0,05 42,95*± 2,24 42,89* ± 2,05 43,01*± 2,38 43,68*± 3,20 44,05*± 3,12 p6,7-3,4,5> 0,05 4,03 51,22 ± 4,35 51,24 ± 3,98 51,27 ± 4,36 51,31 ± 3,97 51,33 ± 4,41 > 0,05 584,81 ± 150,01 838,60▲± 238,85 628,34* ± 123,89 619,68*± 154,82 608,21*± 136,50 603,19*± 120,55 615,29*± 136,70 p6,7-3,4,5> 0,05 p 5,89 Δ ± 0,90 6,73*▲ ± 0,76 6,66*▲ ± 0,74 6,72*▲ ± 0,75 7,49**± 0,95 7,59**± 1,06 p6,7-3,4,5 < 0,05

Nhận xét:

- So với lô chứng sinh lý (lô SL), ở lô gây u không điều trị (lô UT) có số

lượng hồng cầu và hemoglobin giảm (p < 0,01), hematocrit giảm (p < 0,05), số

lượng tiểu cầu tăng cao (p < 0,05).

- So với lô UT, các lô NP(H)-1và NP(H)-2 có số lượng hồng cầu và

hemoglobin tăng (p < 0,01), hematocrit tăng (p < 0,05), số lượng tiểu cầu giảm (p <

0,05). Các chỉ số này thay đổi về mức tương đương so với lô SL.

- Các lô LTN,NP(O)-1 và NP(O)-2 có số lượng hồng cầu và hemoglobin

tăng (p < 0,05), hematocrit tăng (p < 0,05), số lượng tiểu cầu giảm (p < 0,05) so

106

với lô UT. Tuy nhiên, số lượng hồng cầu và hemoglobin ở các lô này vẫn cón thấp

hơn so với lô SL cũng như các lô NP(H)-1 và NP(H)-2 (p < 0,05).

- Số lượng tiểu cầu, số lượng hồng cầu, hemoglobin và hematocrit giữa các

lô LTN, NP(O)-1 và NP(O)-2 khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).

- Thể tích trung bình hồng cầu giữa các lô chuột nghiên cứu không có sự

khác biệt có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).

3.2.4.4. Kết quả đánh giá cân nặng của lách và tuyến ức .

Kết quả được trình bày ở bảng 3.24.

Bảng 3.24. Cân nặng tương đối của lách và tuyến ức chuột các lô chuột nghiên

cứu (n = 10, Mean ± SD).

Lô nghiên cứu

▲: p < 0,05 so với lô SL; Δ : p < 0,01 so với lô SL; *: p < 0,05 so với lô UT; **: p < 0,01 so với lô UT

SL (1) UT (2) LTN (3) NP(O)-1 (4) NP(O)-2 (5) NP(H)-1 (6) NP(H)-2 (7) p Cân nặng tương đối của lách chuột (mg) 3,97 ± 0,31 4,27▲± 0,32 4,88** Δ ± 0,35 4,57* Δ± 0,29 4,59* Δ± 0,26 4,88**Δ± 0,26 4,92**Δ ± 0,27 p6,7,3-4,5< 0,05; p6,7-3> 0,05 Cân nặng tương đối của tuyến ức chuột (mg) 1,95 ± 0,15 2,16▲± 0,18 2,66**Δ ± 0,34 2,35* Δ± 0,23 2,37* Δ± 0,25 2,63** Δ± 0,34 2,71** Δ± 0,37 p6,7,3-4,5< 0,05; p6,7-3> 0,05

Nhận xét:

- Ở lô gây u không điều trị (lô UT), trọng lượng tương đối của lách và tuyến

ức chuột tăng có ý nghĩa thống kê so với lô chứng sinh lý (lô SL) (p < 0,05).

- Các lô dùng thuốc, trọng lượng tương đối của lách và tuyến ức chuột tiếp

tục tăng và khác biệt có ý nghĩa thống kê so với lô UT (p < 0,01 với các lô LTN,

NP(H)-1 và NP(H)-2; p < 0,05 với các lô NP(O)-1 và NP(O)-2. Cân nặng tương đối

107

của lách và tuyến ức chuột ở các lô LTN, NP(H)-1 và NP(H)-2 cao hơn có ý nghĩa

thống kê so với ở các lô NP(O)-1 và NP(O)-2 (p < 0,05).

- Trọng lượng tương đối của lách và tuyến ức chuột giữa các lô LTN, NP(H)-

1 và NP(H)-2 khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). 3.2.5. Kết quả đánh giá tác dụng chống oxy hóa củacao định lượngNP(H) và

NP(O) trên chuột mang khối u rắn sarcoma TG 180.

Tác dụng chống oxy hóa của các cao định lượng NP(H) và NP(O) được

đánh giá gắn liền với tác dụng bảo vệ tế bào gan trên chuột mang khối u rắn

sarcoma TG180. Chuột mang khối u với diễn biến bệnh âm ỉ, tiến triển nặng

dần, làm gia tăng stress oxy hóa do đó làm tăng hàm lượng malondialdehyd

(MDA - một dấu ấn sinh học của tình trạng stress oxy hóa), giảm các chất chống

oxy hóa như superoxid dismutase (SOD), catalase (CAT), glutathion reductase

(GSH) trong gan, gây tổn thương tế bào gan [133]. Đây là cơ sở cho việc nghiên

cứu đánh giá về tác dụng chống oxy hóa thông qua tác dụng bảo vệ gan của các

chế phẩm sử dụng trong hỗ trợ điều trị ung thư [134].

3.2.5.1. Hàm lượng MDA, GSH, SOD và CAT trong gan chuột mang khối u rắn

sarcoma TG180.

Kết quả được trình bày ở bảng 3.25

108

Bảng 3.25. Hàm lượng MDA, GSH, SOD và CAT trong mô gan chuột

(n = 10, Mean ± SD).

Hàm lượng SOD (µg/g mô) Hàm lượng MDA (µmol/g mô ) Hàm lượng GSH (µg/g mô) Hàm lượng CAT (µg/g mô)

Lô nghiên cứu p p P P Mean ± SD Mean ± SD Mean ± SD Mean ± SD

SL (1) p1-2 < 0,01 p1-2 < 0,01 p1-2 < 0,01 p1-2 < 0,01

333,1 3 ± 44,09 31,6 5 ± 5,35 33,04 ± 4,42 171,70 ± 27,30

p2-3 < 0,05 p2-3 < 0,05 p2-3 < 0,05 p2-3 < 0,05 UT (2) 265,2 8 ± 37,96 22,6 3 ± 5,41 26,42 ± 3,68 242,26 ± 51,83

p3-1 < 0,05; p3-6,7 < 0,05 p3-1 < 0,05; p3-6,7 < 0,05 p3-1 < 0,05; p3-6,7 < 0,05 p3-1 < 0,05; p3-6,7 < 0,05 296,9 9 ± 20,15 30,60 ± 2,61 202,44 ± 20,67 LTN (3)

27,2 4 ±2,9 4

NP(O) -1 (4) 294,7 5 ± 20,26 26,9 9±3, 23 29,24 ± 2,05 203,64 ± 22,74

p4-5 > 0,05; p4,5-2 < 0,05 p4,5-1< 0,05; p4,5-3 > 0,05 p4-5 > 0,05; p4,5-2 < 0,05 p4,5-1< 0,05; p4,5-3 > 0,05 p4-5 > 0,05; p4,5-2 < 0,05 p4,5-1< 0,05; p4,5-3 > 0,05 p4-5 > 0,05; p4,5-2 < 0,05 p4,5-1< 0,05; p4,5-3 > 0,05 NP(O) -2 (5) 300,1 1 ± 22,13 27,6 9±2, 73 29,30 ± 1,92 198,58 ± 24,15

NP(H)- 1 (6) 319,0 4 ± 26,16 30,1 6±3, 08 31,33 ± 2,37 184,29 ± 16,86

p6-7 > 0,05; p6-4 < 0,05; p7-5 < 0,05 p6,7-2 < 0,01 p6-7 > 0,05; p6-4 < 0,05; p7-5 < 0,05 p6,7-2 < 0,01 p6-7 > 0,05; p6-4 < 0,05; p7-5 < 0,05 p6,7-2 < 0,01 p6-7 > 0,05; p6-4 < 0,05; p7-5 < 0,05 p6,7-2 < 0,01 NP(H) -2 (7) 325,6 4 ± 30,68 31,2 1 ± 4,40 31,89 ± 2,51 179,65 ± 14,44

Nhận xét:

109

- Ở lô gây u không điều trị (lô UT), hàm lượng MDA trong mô gan chuột cao

hơn, hàm lượng GSH, SOD và CAT trong mô gan chuột thấp hơn so với ở lô chứng

sinh lý (SL) có ý nghĩa thống kê với p < 0,01.

- Ở các lô NP(H)-1 và NP(H)-2, hàm lượng MDA gan chuột thấp hơn, hàm

lượng GSH, SOD và CAT gan chuột cao hơn có ý nghĩa thống kê so với ở lô UT (p

< 0,01), trở về tương đương so với lô SL (p > 0,05).

- Ở các lô NP(O)-1 và NP(O)-2, hàm lượng MDA gan chuột thấp hơn, hàm

lượng GSH, SOD và CAT gan chuột cao hơn có ý nghĩa thống kê so với ở lô UT (p

< 0,05), tuy nhiên còn khác biệt có ý nghĩa thống kê so với ở lô SL cũng như so với

ở các lô NP(H)-1 và NP(H)-2 cùng mức liều tương ứng (p < 0,05).

- Ở lô LTN, hàm lượng MDA gan chuột thấp hơn, hàm lượng GSH, SOD và

CAT gan chuột cao hơn có ý nghĩa thống kê so với ở lô UT (p < 0,05), tương

đương với ở các lô NP(O)-1 và NP(O)-2 (p > 0,05), tuy nhiên còn khác biệt có ý

nghĩa thống kê so với ở lô SL cũng như so với các lô NP(H)-1 và NP(H)-2 (p <

0,05).

3.2.5.2. Hoạt độ các enzym ALT, AST trong máu chuột mang khối u rắn sarcoma

TG180.

Kết quả được trình bày ở bảng 3.26.

Bảng 3.26. Hoạt độ các enzym ALT, AST trong máu chuột (n = 10).

Mean ± SD 62,20± 9,81 86,20 ± 16,85 Mean ± SD 32,80± 5,22 45,40± 9,11 Lô nghiên cứu SL (1) UT (2)

71,70± 7,75 37,70±4,06 LTN (3)

72,90± 8,82 38,30±4,85 NP(O)-1 (4)

71,10± 8,65 64,90±6,52 37,50±4,50 34,10±3,48 NP(O)-2 (5) NP(H)-1 (6)

62,80± 8,51 33,10±4,58 NP(H)-2 (7) Nồng độ AST (U/L) P p1-2 < 0,01 p2-3 < 0,05 p3-1 < 0,05; p3-6,7 < 0,05 p4-5 > 0,05; p4,5-2,1< 0,05; p4,5-3 > 0,05 p6-7 > 0,05; p6-4 < 0,05; p7-5 < 0,05;

Nồng độ ALT (U/L) p p1-2 < 0,01 p2-3 < 0,05 p3-1 < 0,05; p3-6,7 < 0,05 p4-5 > 0,05; p4,5-2,1< 0,05; p4,5-3 > 0,05 p6-7 > 0,05; p6-4 < 0,05; p7-5 < 0,05; 110

p6,7-2 < 0,01 p6,7-2 < 0,01

Nhận xét:

- Ở lô gây u không điều trị (lô UT), nồng độ ALT, AST máu chuột cao hơn so

với ở lô chứng sinh lý (SL) với p < 0,01.

- Ở các lô NP(H)-1 và NP(H)-2, nồng độ ALT, AST máu chuột thấp hơn so

với ở lô UT (p < 0,01), trở về tương đương so với lô SL (p > 0,05).

- Ở các lô NP(O)-1 và NP(O)-2, nồng độ ALT, AST máu chuột thấp hơn so

với ở lô UT (p < 0,05), tuy nhiên cao hơn so với ở lô SL cũng như so với ở các lô

NP(H)-1 và NP(H)-2 cùng mức liều tương ứng (p < 0,05).

- Ở lô LTN, nồng độ ALT, AST máu chuột thấp hơn so với ở lô UT (p <

0,05), tương đương với ở các lô NP(O)-1 và NP(O)-2 (p > 0,05), tuy nhiên cao hơn

so với ở lô SL cũng như so với các lô NP(H)-1 và NP(H)-2 (p < 0,05).

3.2.5.3. Ảnh hưởng của cao định lượng NP(H) và NP(O) đối với hình thái đại

thể và vi thể của gan chuột trên chuột mang khối u rắn sarcoma TG 180.

*Hình ảnh đại thể gan chuột

Hình 3.12. Hình ảnh đại thể gan chuột ở các lô nghiên cứu

1. Lô SL (chuột 5), 2. Lô UT (chuột 17), 3. Lô LTN (chuột 24), 4. Lô NP(O)-1

(chuột 32), 5. Lô NP(O)-2 (chuột 44), 6. Lô NP(H)-1 (chuột 54), 7. Lô NP(H)-2

(chuột 66)

111

Nhận xét: Chuột ở lô gây u không điều trị (lô UT) (Hình 3.12-2) quan sát đại

thể thấy hình ảnh gan nhạt màu hơn, bề mặt xù xì, kém nhẵn hơn so với ở lô chứng

sinh lý (Hình 3.12-1) cũng như so với các lô gây u được điều trị bằng Letinan (Hình

3.12-3), cao Tam thất không hấp (Hình 3.12-4 và 3.12-5), cao Tam thất hấp (Hình

3.12-6 và 3.12-7). Ở các lô gây u được cho uống cao Tam thất (cả hấp và không

hấp ở hai mức liều) cũng như ở lô được cho uống thuốc tham chiếu Lentina (Hình

3.12-3 đến 3.12-7), đại thể gan chuột màu đỏ sậm, bề mặt nhẵn, không khác biệt so

với lô chứng sinh lý (Hình 3.12-1).

*Hình ảnh vi thể gan chuột

Hình 3.13. Hình ảnh vi thể gan chuột ở các lô nghiên cứu (HE x 400)

1. Lô SL (chuột 6), 2. Lô UT (chuột 12), 3. Lô LTN (chuột 22), 4. Lô NP(O)-1

(chuột 32), 5. Lô NP(O)-2 (chuột 48), 6. Lô NP(H)-1 (chuột 56), 7. Lô NP(H)-2

(chuột 64)

Nhận xét: Ở lô UT gây u không điều trị (Hình 3.13-2) có hình ảnh thoái hóa

nhẹ tế bào gan (mũi tên đen) và rải rác tế bào hồng cầu trong lòng mạch (mũi tên

đỏ). Ở các lô gây u được điều trị bằng Letinan (Hình 3.13-3), cao Tam thất không

hấp (Hình 3.13-4 và 3.13-5), cao Tam thất hấp (Hình 3.13-6 và 3.13-7), hình ảnh vi

thể gan nhuộm HE cho thấy cấu trúc tiểu thùy gan bình thường, các tế bào gan bình

112

thường, không có hình ảnh viêm, thoái hóa, không có sự khác biệt so với ở lô chứng

sinh lý (Hình 3.13-1).

3.3.6. Kết quả đánh giá tác dụng kéo dài thời gian sống thêm của cao định

lượng NP(H) và NP(O) trên chuột mang khối u rắn sarcoma TG 180.

Kết quả được trình bày ở bảng 3.27, 3.28 và hình 3.14.

Bảng 3.27. Số chuột sống sót ở các lô nghiên cứu

Số ngày sau uống thuốc Lô chuột 1 32 42 52 62 72 82 92 102 122 142 145 149 22

19 17 12 8 3 1 0 0 0 0 0 0 0 n 20

UT (1) 85 60 40 15 5 0 0 0 0 0 0 0 % 100 95

20 19 16 14 11 9 8 6 3 1 0 0 0 n 20

LTN (2) 5 0 0 0 % 100 100 95 80 70 55 45 40 30 15

20 18 16 13 11 8 6 5 2 0 0 0 0 n 20

NP(O)-1 (3) 0 0 0 0 % 100 100 90 80 65 55 40 30 25 10

20 19 17 14 12 9 7 5 3 1 0 0 0 n 20

NP(O)-2 (4) 5 0 0 0 % 100 100 95 85 70 60 45 35 25 15

20 20 17 15 12 9 8 6 4 1 1 0 0 n 20

NP(H)-1 (5) 5 5 0 0 % 100 100 100 85 75 60 45 40 30 20

20 20 18 16 13 10 8 6 4 2 1 1 0 n 20

NP(H)-2 (6) 10 5 5 0 % 100 100 100 90 80 65 50 40 30 20

113

p2,3,4-1< 0,05; p5,6-1< 0,01;

0,05 < p5,6-2,3,4< 0,1

Hình 3.14. Biểu đồ tỷ lệ chuột sống sót theo thời gian

Nhận xét:

- Lô UT gây ung thư không điều trị có cá thể chuột đầu tiên chết vào ngày

22, và tiếp tục có số chuột chết vào các ngày tiếp theo nhiều hơn so với các lô gây

ung thư có điều trị. Cá thể chuột cuối cùng của lô UT chết vào ngày 82.

- Các lô gây ung thư được điều trị bằng Letinan (LTN), cao định lượng Tam

thất không hấp (NP(O)-1 và NP(O)-2), cao định lượng Tam thất hấp (NP(H)-1 và

NP(H)-2) xuất hiện cá thể chuột chết ở ngày muộn hơn, các ngày tiếp theo số lượng

chuột chết ít hơn so với lô UT gây ung thư không điều trị.

- Tại ngày 142, ở các lô NP(H)-1 và NP(H)-2 vẫn còn 01 cá thể chuột sống

sót; tại ngày 122 ở các lô LTN và PNO-2 vẫn còn 01 cá thể chuột sống sót; trong

khi ở lô UT ngày 82 đã không còn cá thể chuột nào sống sót. Điều thú vị là vào

114

ngày 145, chỉ còn lại 1 cá thể chuột trong nhóm PNO-2, và vào ngày 149, cá thể

chuột cuối cùng này đã chết.

- So với lô UT, tỷ lệ chuột sống sót tích lũy ở các lô LTN, NP(O)-1 và

NP(O)-2 đều lớn hơn có ý nghĩa thống kê với p < 0,05, tỷ lệ chuột sống sót tích lũy

ở các lô NP(H)-1 và NP(H)-2 lớn hơn có ý nghĩa thống kê với p < 0,01.

- So với các lô LTN, NP(O)-1, NP(O)-2, tỷ lệ chuột sống sót tích lũy ở các lô

NP(H)-1 và NP(H)-2 lớn hơn có xu hướng có ý nghĩa thống kê (0,1 > p > 0,05).

Bảng 3.28. Thời gian sống trung bình (n = 20, Mean ± SD) và thời gian sống kéo

dài thêm của chuột (%)

Lô chuột p Thời gian sống trung bình (ngày) Thời gian sống kéo dài thêm (%)

51,25 ± 15,85 - UT (1) p2,3,4-1< 0,05

72,10 ± 31,40 40,68 LTN (2) p5,6-1< 0,01 69,50 ± 27,26 35,61 NP(O)-1 (3) p5,6-2,3,4,> 0,05

72,40 ± 31,09 41,27 NP(O)-2 (4) 0,05 < p5,6-2,3,4< 0,1

75,95 ± 29,46 48,20 NP(H)-1 (5) p6-5> 0,05

79,50 ± 31,90 55,12 NP(H)-2 (6)

Nhận xét:

-So với lô UT, các lô LTN, NP(O)-1 và NP(O)-2 có thời gian sống trung

bình lớn hơn có ý nghĩa thống kê với p < 0,05; các lôNP(H)-1 và NP(H)-2 có thời

gian sống trung bình lớn hơn có ý nghĩa thống kê với p < 0,01.

- So với các lô LTN, NP(O)-1, NP(O)-2, thời gian sống trung bình ở các lô

NP(H)-1 và NP(H)-2 lớn hơn có xu hướng có ý nghĩa thống kê (0,1 > p > 0,05).

- Các lô NP(H)-1 và NP(H)-2 có % thời gian sống kéo dài thêm lớn nhất

(tương ứng là 48,20% và 55,12%).

115

3.4. Kết quả đánh giá độc tính của cao định lượng NP(H)

3.4.1. Kết quả xác định độc tính cấp (LD50) của NP(H)

Kết quả xác định độc tính cấp của NP(H) trên chuột nhắt trắng được trình bày ở bảng sau:

Bảng 3.29. Độc tính cấp theo đường uống của NP(H)

Số chuột sống/chết Lô chuột Số chuột Tổng liều (mg/kg/24h) Sau 24 giờ Sau 72 giờ

10 1000 10/0 10/0 Lô 1

10 2000 10/0 10/0 Lô 2

10 3000 10/0 10/0 Lô 3

10 4000 10/0 10/0 Lô 4

10 5000 10/0 10/0 Lô 5

10 6000 10/0 10/0 Lô 6

Nhận xét:

Kết quả bảng 3.29 cho thấy: với các mức liều NP(H) tăng dần từ 1000 mg/kg

thể trọng/ngày đến 6000 mg/kg thể trọng/ngày, tại tất cả các lô không có chuột nào

chết sau 24 giờ và sau 72 giờ uống thuốc. Như vậy, chuột đã uống đến liều 6000

mg/kg thể trọng là liều tối đa có thể dùng được theo thể tích bằng đường uống để

đánh giá độc tính cấp của NP(H) nhưng không có chuột nào chết.

Ngoài ra, khi theo dõi đến 14 ngày sau khi uống liều cuối cùng, chuột ở các lô

đều khỏe mạnh, không xuất hiện triệu chứng bất thường hoặc dấu hiệu ngộ độc nào.

Các chuột đều vận động bình thường, thở bình thường, lông mượt, mắt trong, phân khô.

Như vậy, chưa tìm thấy LD50 của NP(H) theo đường uống trên chuột nhắt

trắng. Với mức liều cao nhất NP(H) có thể cho chuột uống trong 24 giờ là 6000

mg/kg thể trọng không xuất hiện độc tính cấp.

116

3.4.2. Kết quả đánh giá độc tính bán trường diễn của NP(H)

- Ảnh hưởng của NP(H), đối với thể trạng chung, dấu hiệu ngộ độc và trọng

lượng cơ thể chuột cống.

Theo dõi trong suốt thời gian nghiên cứu thấy: thể trạng chung của chuột

bình thường, không thấy bất kì chuột nào có các dấu hiệu ngộ độc hoặc chết trong

tất cả các lô. Tất cả các chuột ở lô chứng, lô trị 1 và lô trị 2 đều ăn, uống bình

thường, lông mượt, mắt trong, phân khô.

Trọng lượng cơ thể chuột ở các lô được trình bày trong bảng sau.

Bảng 3.30. Trọng lượng cơ thể chuột ở các lô nghiên cứu

Trọng lượng cơ thể chuột (g)

Thời điểm p (giữa các lô)

Lô chứng (n = 10) Lô trị 1 (n = 10) Lô trị 2 (n = 10)

p > 0,05 188,20 ± 5,83 186,60 ± 5,38 186,10 ± 5,43 Xuất phát điểm

p > 0,05 208,10 ± 5,63 210,70 ± 7,76 208,30 ± 8,90 Ngày thứ 30

p > 0,05 218,50 ± 6,31 219,10 ± 7,67 217,60 ± 7,76 Ngày thứ 60

p > 0,05 226,80 ± 5,39 228,60 ± 5,91 227,40 ± 6,00 Ngày thứ 90

p > 0,05 p > 0,05 p > 0,05 p (giữa các thời điểm)

Nhận xét:

Bảng trên cho thấy, không có sự khác biệt có ý nghĩa (p > 0,05) về trọng

lượng cơ thể chuột giữa các lô ở cùng thời điểm đánh giá trong suốt thời gian

nghiên cứu. Chuột ở các lô chuột có sự tăng trọng lượng tương đương nhau.

- Ảnh hưởng của NP(H) đối với hệ thống cơ quan tạo máu: được đánh giá thông

qua các chỉ số huyết học

+Một số chỉ số của hồng cầu:

117

Ảnh hưởng của NP(H) tới số lượng hồng cầu, huyết sắc tố (hemoglobin), tỉ

lệ thể tích hồng cầu/ thể tích máu toàn bộ (hematocrit) và thể tích trung bình hồng

cầu máu chuột được trình bày trong bảng sau.

Bảng 3.31. Ảnh hưởng của cao định lượng NP(H) đối với các chỉ số của hồng

cầu

Chỉ số p (giữa cáclô) Lô chứng (n = 10) Lô trị 1 (n = 10) Lô trị 2 (n = 10)

RBC(T/L) 6,98 ± 0,98 6,85 ± 0,70 6,94 ± 0,53 > 0,05

HGB (g/L) 130,10 ± 11,35 129,20 ± 12,13 126,80 ± 12,83 > 0,05

HCT (%) 32,68 ± 3,60 32,83 ± 2,38 32,40 ± 3,14 > 0,05 Xuất phát điểm MCV (fL) 47,07 ± 2,24 46,82 ± 3,01 46,26 ± 3,18 > 0,05

RBC (T/L) 6,86 ± 0,93 7,10 ± 0,97 7,20 ± 0,85 > 0,05

HGB (g/L) 128,20 ± 14,79 129,10 ± 12,13 131,50 ± 19,12 > 0,05

HCT (%) 32,39 ± 1,79 33,02 ± 2,35 33,07 ± 3,25 > 0,05 Ngày thứ 30

MCV (fL) 46,18 ± 3,18 46,72 ± 2,64 47,05 ± 2,42 > 0,05

RBC (T/L) 6,94 ± 1,07 7,12 ± 1,09 7,21 ± 1,07 > 0,05

HGB (g/L) 129,40 ± 18,17 130,30 ± 14,82 131,00 ± 20,84 > 0,05

Ngày thứ 60 HCT (%) 32,79 ± 3,17 32,93 ± 2,61 33,09 ± 2,45 > 0,05

MCV (fL) 46,64 ± 2,18 46,89 ± 3,16 46,99 ± 2,53 > 0,05

RBC (T/L) 6,97 ± 0,69 7,17 ± 0,67 7,24 ± 0,73 > 0,05

HGB (g/L) 127,90 ± 9,27 129,50 ± 11,17 130,90 ± 17,34 > 0,05

Ngày thứ 90 HCT (%) 32,30 ± 2,86 33,01 ± 1,91 33,15 ± 2,05 > 0,05

MCV (fL) 46,50 ± 1,75 46,96 ± 3,37 47,07 ± 1,90 > 0,05

(giữa các

thời

> 0,05 > 0,05 > 0,05 p điểm)

(Ghi chú: RBC: Số lượng hồng cầu; HBG: hemoglobin; HCT: hematocrit; MCV:

thể tích trung bình hồng cầu).

Nhận xét:

118

Khi so sánh giữa các lô, kết quả cho thấy các chỉ số: số lượng hồng cầu,

huyết sắc tố, hematocrit và thể tích trung bình hồng cầu máu chuột giữa các lô

trong cùng một thời điểm nghiên cứu sự khác biệt không có ý nghĩa (p > 0,05;

ANOVA).

Khi so sánh giữa các thời điểm trong cùng một lô, kết quả cho thấy số lượng

hồng cầu, huyết sắc tố, hematocrit và thể tích trung bình hồng cầu máu chuột giữa

các thời điểm cũng khác nhau không có ý nghĩa (p > 0,05).

+ Số lượng bạch cầu và số lượng tiểu cầu:

Ảnh hưởng của NP(H) đối với số lượng bạch cầu và số lượng tiểu cầu máu

chuột ở các lô theo thời gian được trình bày trong bảng sau.

Bảng 3.32. Ảnh hưởng của cao định lượng chuẩn NP(H) đối với số lượng bạch

cầu và số lượng tiểu cầu

Chỉ số

WBC (G/L) p (giữa các lô) > 0,05

PLT (G/L) > 0,05 Xuất phát điểm

WBC (G/L) > 0,05

PLT (G/L) > 0,05 Ngày thứ 30

WBC (G/L) > 0,05

PLT (G/L) > 0,05

WBC (G/L) Lô chứng (n = 10) 6,92 ± 1,26 547,60 ± 139,56 6,94 ± 1,79 514,10 ± 143,12 7,02 ± 2,31 519,30 ± 163,82 6,74 ± 0,91 > 0,05

PLT (G/L) 514,50 ± 99,64 > 0,05 Ngày thứ 60 Ngày thứ 90

> 0,05 Lô trị 1 (n = 10) 6,99 ± 2,27 529,50 ± 90,02 7,02 ± 1,40 539,40 ± 103,09 6,89 ± 1,35 527,20 ± 106,62 6,86 ± 2,30 527,90 ± 104,19 > 0,05 Lô trị 2 (n = 10) 6,84 ± 2,79 519,60 ± 105,69 7,31 ± 2,17 539,10 ± 98,65 7,10 ± 1,24 528,90 ± 110,78 7,07 ± 1,38 552,40 ± 103,85 > 0,05 p (giữa các thời điểm)

Ghi chú: WBC: số lượng bạch cầu; PLT: số lượng tiểu cầu.

Nhận xét:

119

Tại cùng một thời điểm nghiên cứu, số lượng bạch cầu và số lượng tiểu cầu

máu chuột giữa các lô đều không có sự khác biệt có ý nghĩa (p > 0,05; ANOVA).

Khi so sánh trong cùng một lô, số lượng bạch cầu và số lượng tiểu cầu máu

chuột cũng không có sự khác biệt có ý nghĩa (p > 0,05) giữa các thời điểm nghiên

cứu (p > 0,05).

- Ảnh hưởng của cao định lượng NP(H) đối với chức năng gan, thận được đánh

giá thông qua một số chỉ số sinh hóa máu

+ Đánh giá khả năng gây tổn thương tế bào gan: thông qua đánh giá hoạt

độ enzym AST (U/L) và hoạt độ enzym ALT (U/L):

Ảnh hưởng của cao định lượng NP(H) đối với hoạt độ các enzym AST

và ALT được trình bày trong bảng sau.

Bảng 3.33. Ảnh hưởng của NP(H) đối với hoạt độ enzym AST và ALT

Chỉ số p (giữa các lô) Lô chứng (n = 10) Lô trị 1 (n = 10) Lô trị 2 (n = 10)

> 0,05 AST (U/L) 96,37 ± 26,24 98,82 ± 18,38 97,62 ± 19,99

> 0,05 ALT (U/L) 73,27 ± 21,29 79,01 ± 16,50 77,64 ± 11,30 Xuất phát điểm

> 0,05 AST (U/L) 95,22 ± 20,96 94,58 ± 19,62 93,56 ± 15,88

> 0,05 ALT (U/L) 73,66 ± 20,34 71,11 ± 13,06 71,76 ± 15,01 Ngày thứ 30

> 0,05 AST (U/L) 106,19 ± 21,34 95,85 ± 18,26 93,69 ± 15,41

> 0,05 ALT (U/L) 69,37 ± 13,33 70,77 ± 14,33 75,59 ± 12,58 Ngày thứ 60

> 0,05 AST (U/L) 104,43 ± 22,28 92,34 ± 16,05 88,48 ± 19,51

> 0,05 ALT (U/L) 72,57 ± 11,56 72,37 ± 9,38 74,29 ± 19,97 Ngày thứ 90

> 0,05 > 0,05 > 0,05 p (giữa các thời điểm)

Nhận xét:

120

Bảng trên cho thấy, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p > 0,05) về

hoạt độ enzym AST và ALT khi so sánh giữa các lô trong cùng một thời điểm

nghiên cứu và khi so sánh giữa các thời điểm khác nhau trong cùng một lô.

+ Đánh giá khả năng gây ảnh hưởng chức năng gan: thông qua đánh giá nồng độ

albumin máu (g/l) và nồng độ cholesterol máu (mmol/L):

+ Nồng độ albumin (g/l):

Nồng độ albumin máu chuột của các lô được trình bày trong bảng sau.

Bảng 3.34. Ảnh hưởng của NP(H) đối với nồng độ albumin máu

Thời điểm p (giữa các lô) Lô chứng (n = 10) Lô trị 1 (n = 10) Lô trị 2 (n = 10)

22,14 ± 2,55 21,93 ± 3,17 22,09 ± 3,31 > 0,05 Xuất phát điểm

22,06 ± 2,46 22,17 ± 1,97 22,32 ± 1,60 > 0,05 Ngày thứ 30

22,36 ± 1,93 23,05 ± 1,75 22,18 ± 1,74 > 0,05 Ngày thứ 60

22,50 ± 2,69 22,03 ± 1,52 22,68 ± 1,61 > 0,05 Ngày thứ 90

> 0,05 > 0,05 > 0,05 p (giữa các thời điểm)

Nhận xét:

Kết quả bảng trên cho thấy: không có sự khác nhau có ý nghĩa (p > 0,05) về

nồng độ albumin máu giữa các lô nghiên cứu trong cùng một thời điểm. Đồng thời,

cũng không có sự khác biệt có ý nghĩa (p > 0,05) khi so sánh giữa các thời điểm

trong cùng một lô.

+ Nồng độ cholesterol (mmol/L):

Nồng độ cholesterol huyết tương của chuột được trình bày trong bảng sau.

Bảng 3.35. Ảnh hưởng của NP(H) đối với nồng độ cholesterol máu

Thời điểm p (giữa các lô) Lô chứng (n = 10) Lô trị 1 (n = 10) Lô trị 2 (n = 10)

2,01 ± 0,37 2,09 ± 0,32 2,05 ± 0,52 > 0,05 Xuất phát điểm

1,98 ± 0,47 1,92 ± 0,28 1,88 ± 0,49 > 0,05 Ngày thứ 30

121

2,03 ± 0,53 1,99 ± 0,38 1,92 ± 0,18 > 0,05 Ngày thứ 60

1,95 ± 0,36 1,90 ± 0,53 1,82 ± 0,32 > 0,05 Ngày thứ 90

> 0,05 > 0,05 > 0,05 p (giữa các thời điểm)

Nhận xét:

Kết quả bảng trên cho thấy: không có sự khác nhau có ý nghĩa (p > 0,05) về

nồng độ cholesterol máu giữa các lô nghiên cứu trong cùng một thời điểm. Đồng

thời, cũng không có sự khác biệt có ý nghĩa (p > 0,05) khi so sánh giữa các thời

điểm trong cùng một lô.

+ Đánh giá khả năng gây ảnh hưởng chức năng thận: thông qua đánh giá nồng độ

creatinin máu (mmol/L):

Nồng độ creatinin máu chuột của các lô được trình bày trong bảng sau.

Bảng 3.36. Ảnh hưởng của NP(H) đối với nồng độ creatinin máu

Nồng độ creatinin (mmoL/L)

p (giữa các lô) Thời điểm nghiên cứu Lô chứng (n = 10) Lô trị 1 (n = 10) Lô trị 2 (n = 10)

> 0,05 Xuất phát điểm 81,14 ± 11,11 84,62 ± 13,64 85,96 ± 11,21

> 0,05 Ngày thứ 30 82,44 ± 12,23 81,93 ± 13,12 83,89 ± 14,49

> 0,05 Ngày thứ 60 87,62 ± 17,02 86,69 ± 11,80 82,09 ± 16,09

> 0,05 Ngày thứ 90 84,11 ± 16,98 89,31 ± 12,93 86,92 ± 13,75

> 0,05 > 0,05 > 0,05 p (giữa các thời điểm)

Nhận xét:

Bảng trên cho thấy: không có sự khác biệt có ý nghĩa (p > 0,05) về nồng độ

creatinin giữa các lô trong cùng một thời điểm; đồng thời cũng không có sự khác biệt

có ý nghĩa (p > 0,05) khi so sánh giữa các thời điểm trong cùng một lô nghiên cứu.

122

- Ảnh hưởng của cao định lượng NP(H) đối với cấu trúc đại thể và vi thể một số

cơ quan

+ Hình ảnh đại thể gan, lách, thận

Hình ảnh đại thể gan, lách và thận của chuột đại diện ở các lô nghiên cứu

A

B

C

được trình bày trong hình 3.15.

Ghi chú: A: lô chứng (chuột số 28); B: lô trị 1 (chuột số 5); C: lô trị 2 (chuột số 16)

Hình 3.15. Hình ảnh đại thể gan, lách, thận của chuột ở các lô nghiên cứu

Hình ảnh đại thể gan, lách và thận của các lô nghiên cứu hoàn toàn bình

thường; không có sự khác biệt giữa các lô nghiên cứu. Quan sát đại thể bằng mắt

thường dưới kính lúp, cho thấy: màu sắc, hình thái của gan, lách và thận ở hai lô

dùng cao định lượng NP(H) (hình B và hình C) có màu nâu đỏ thẫm đồng đều, bề

mặt nhẵn, không có u cục hoặc xuất huyết, có đàn hồi khi ấn xuống. Không có sự

khác biệt khi so với hình ảnh gan, lách, thận của chuột ở lô chứng (hình A).

* Hình ảnh vi thể gan, lách và thận:

Kết quả nghiên cứu về mô bệnh học gan, lách, thận chuột cho thấy:

- Hình ảnh vi thể gan: Ở các lô đều thấy: các bè gan, tiểu thùy gan và tế bào

gan bình thường, không có hình ảnh thoái hóa hoặc viêm, tĩnh mạch trung tâm

không giãn, các xoang mạch nan hoa và tĩnh mạch khoảng cửa không xung huyết.

123

123

b

c

a

Ghi chú: Nhuộm HE (400X); (a): lô chứng (chuột số 29); (b): lô 2 (chuột số 04); (c):

lô 3 (chuột số 16)

-Hình ảnh vi thể lách: Tại tất cả các lô: Lách rõ cấu trúc vùng vỏ và vùng tủy,

Hình 3.16. Hình ảnh vi thể gan của chuột ở các lô nghiên cứu

vùng vỏ có các nang lympho lớn với động mạch bút lông. Không có xuất huyết,

a

b

c

hoại tử. Vi thể lách được thể hiện trong hình sau.

Ghi chú: Nhuộm HE (400X); (a): lô chứng (chuột số 21); (b): lô 2 (chuột số 08);

(c): lô 3 (chuột số 12)

Hình 3.17. Hình ảnh vi thể lách của chuột ở các lô nghiên cứu

- Hình ảnh vi thể thận: Ở tất cả các lô đều thấy: Các tiểu cầu thận với mao

cuộn mạch rõ, các tế bào ống thận bình thường. Ảnh vi thể thận được thể hiện trong

c

b

a

hình sau.

Hình 3.18. Hình ảnh vi thể thận của chuột ở các lô nghiên cứu

124

Ghi chú: Nhuộm HE (400 X); (a): lô chứng (chuột số 20); (b): lô 2 (chuột số 09);

(c): lô 3 (chuột số 22)

Hình 3.18. Hình ảnh vi thể thận của chuột ở các lô nghiên cứu

Như vậy, NP(H) dùng đường uống cho chuột cống trắng với liều 200

mg/kg/24h và 900 mg/kg/24h, uống liên tục trong 90 ngày, không gây tổn thương

trên gan, thận, lách của chuột.

125

CHƯƠNG 4

BÀN LUẬN

Tam thất được sử dụng dưới 2 dạng là Tam thất sống (raw) và Tam thất chế biến

(processed). Phương pháp chế biến phổ biến là hấp nhiệt (steamed). Nhiều tác giả đã

nghiên cứu ảnh hưởng của quá trình chế biến, đặc biệt là phương pháp hấp nhiệt đến

thành phần hoá học của Tam thất. Các yếu tố được quan tâm là nhiệt độ (100ºC và

120ºC), dạng nguyên liệu (tươi và khô), phương pháp chế biến (hấp và nướng) và thời

gian chế biến [116], [135]. Kết quả nghiên cứu của các tác giả cho thấy, hàm lượng các

ginsenosid Rg1, Rb1, Rc, Rd, Re và notoginseng R1 giảm dần trong quá trình hấp,

trong khi đó hàm lượng các notoginseng Rg3, Rh1, Rh2, Rk3, Rh4, Rk1 và Rg5 tăng

lên [63], [116]. Sự thay đổi này có thể do sự thuỷ phân nhóm glycosid ở vị trí C-20 hoặc

sự loại nhóm hydroxyl ở vị trí này. Các saponin được xem là thành phần chính tạo nên

các tác dụng dược lý của các thực vật thuộc chi Panax nói chung và của Tam thất nói

riêng. Sự thay đổi hàm lượng các ginsenosid do quá trình chế biến vì thế làm thay đổi

tác dụng của Tam thất sau khi chế biến. Tam thất chưa chế biến được cho là có tác dụng

cầm máu, ngăn ngừa xuất huyết, giảm bầm tím, cải thiện lưu thông máu, giảm sưng và

đau. Trong khi đó, dạng đã chế biến được cho là có tác dụng bổ máu, kích thích sản xuất

các tế bào máu trong trường hợp thiếu máu, tác dụng tăng cường miễn dịch, chống oxy

hóa, ức chế khối u và tế bào ung thư. Các kết quả nghiên cứu của y học hiện đại đã

chứng minh tác dụng của Tam thất thay đổi sau khi chế biến. Tam thất hấp và các

saponin có trong Tam thất hấp có tác dụng kích thích sự phát triển của tuỷ xương, tăng

cường tạo máu, tăng miễn dịch, chống oxy hóa [82], [115]. Tác dụng ức chế kết tập tiểu

cầu và chống đông máu của Tam thất dạng hấp mạnh hơn so với dạng chưa hấp, tác

dụng tăng lên cùng thời gian hấp [136]. Đặc biệt tác dụng kháng u của Tam thất tăng lên

đáng kể sau khi hấp [81], [137], [138]. Ngoài ra, tác dụng kháng u cũng tăng lên sau hấp

126

đối với các thực vật chi Panax khác như nhân sâm (Panaxginseng), sâm Mỹ (Panax

quinquefolius L.), sâm Việt Nam (Vietnamese ginseng) [139], [140], [141], [142].

Nhiều nghiên cứu công bố về hàm lượng các saponin trong Tam thất cũng

như các thực vật khác trong chi Panax khi hấp biến đổi theo hướng có lợi cho tác

dụng kháng u [138], [140], [142]. Trên cơ sở đó, nghiên cứu này của chúng tôi đã

khảo sát ảnh hưởng của phương pháp chế biến hấp nhiệt đến hàm lượng các

saponin trong rễ củ Tam thất, xác định điều kiện tối ưu của hấp nhiệt để tạo được

sản phẩm cao chiết cho tác dụng kháng u tốt. Đồng thời, chúng tôi cũng đã tiến

hành nghiên cứu đánh giá và so sánh tác dụng kháng u của các saponin phân lập từ

rễ củ Tam thất và các cao định lượng chiết xuất từ rễ củ Tam thất hấp và không

hấp, từ đó đưa ra bằng chứng về tác dụng kháng u của chế phẩm cao chiết. Bên

cạnh đó, các tác dụng tăng cường miễn dịch, chống oxy hóa là những tác dụng

cũng tăng lên ở Tam thất hấp, và đều là những tác dụng quý, làm tăng cường hiệu

quả kháng u, hỗ trợ điều trị ung thư của Tam thất. Vì vậy, nghiên cứu này cũng đã

đánh giá tác dụng tăng cường miễn dịch, chống oxy hóa ngay trên chuột mang khối

u của cao định lượng chiết từ Tam thất hấp, so sánh với các tác dụng này của cao

định lượng chiết từ Tam thất không hấp. Sau khi đã có được kết quả về quy trình

hấp nhiệt, khẳng định được tác dụng vượt trội của cao định lượng chiết từ Tam thất

hấp, cho thấy tiềm năng ứng dụng sản phẩm cao định lượng chiết từ Tam thất hấp

cho hỗ trợ điều trị ung thư. Nghiên cứu của chúng tôi đã tiến hành bước tiếp theo là

đánh giá độc tính cấp và bán trường diễn của cao định lượng chiết từ Tam thất hấp.

Việc đánh giá độc tính cấp và bán trường diễn là nghiên cứu cần phải tiến hành đối

với một dạng bào chế mới trước khi được phép đưa vào sử dụng trên lâm sàng.

127

4.1. Về ảnh hưởng của phương pháp chế biến hấp nhiệt đến hàm lượng các

saponin của rễ củ Tam thất

4.1.1. Hàm lượng saponin của Tam thất chưa hấp

Kết quả định lượng cho thấy dược liệu Tam thất khi chưa chế biến có hàm

lượng các saponin Rg1, Re, Rb1, Rh1, Rd lần lượt là 4,52; 0,76; 4,94; 0,03 và

1,29% tính theo dược liệu khô kiệt. Không phát hiện được hợp chất Rg3 trong mẫu

dược liệu chưa chế biến. Kết quả định lượng này khá phù hợp với các nghiên cứu

đã được công bố của các tác giả trong và ngoài nước.

Năm 2003, nhóm nghiên cứu của Dong T.T và cộng sự đã định lượng một số

hoạt chất trong 28 mẫu P.notoginseng thu hái ở các vùng khác nhau ở Trung Quốc,

kết quả cho thấy hàm lượng Rg1 dao động từ 2,464% đến 3,817%, Rb1 từ 2,280

đến 3,151%, Rd từ 0,544 đến 1,250% tính theo dược liệu khô kiệt [143]. Trong khi

đó hàm lượng các saponin này trong mẫu của chúng tôi lần lượt là 4,52; 4,94 và

1,29%.

Nghiên cứu của J. Guan và cộng sự trên P. notogingseng cho thấy Rg1 có hàm

lượng dao động từ 3,122 đến 3,971%; Re có hàm lượng từ 0,342 đến 0,528%; Rb1

từ 1,844 đến 2,534% và Rd từ 0,593 đến 0,877% tính theo dược liệu khô kiệt [144].

Kết quả này khá tương đồng với kết quả định lượng của chúng tôi. Kết quả nghiên

cứu của Wang Dong và cộng sự năm 2013 trên 70 mẫu P.notoginseng cho thấy

hàm lượng Rg1 dao động từ 0,71 đến 8,05%, Re từ 0,12 đến 1,72%, Rb1 từ 1,18

đến 6,50%, Rd từ 0,17 đến 1,36% tính theo dược liệu khô kiệt [145].

Nghiên cứu của Wan J.B và cộng sự năm 2006 trên 28 mẫu P. notoginseng

thu ở các vùng khác nhau cũng cho kết quả tương tự, với hàm lượng Rg1 dao động

từ 2,694 đến 3,910%, Re từ 0,338 đến 0,514%, Rb1 từ 2,670 đến 3,805%, Rd từ

0,547 đến 0,910% tính theo dược liệu khô kiệt [146]. Trong đó, nhóm tác giả cũng

không phát hiện được Rg3 trong dược liệu chưa chế biến.

128

Kết quả nghiên cứu của nhiều nhóm nghiên cứu cho thấy hàm lượng các saponin

trong Tam thất phụ thuốc nhiều yếu tố, như độ tuổi, kích thước, vùng trồng, thời

gian thu hái.

4.1.2. Hàm lượng saponin của Tam thất sau hấp

Kết quả định lượng các mẫu trong quá trình chế biến cho thấy hàm lượng các

saponin của Tam thất biến đổi trong quá trình hấp. Cụ thể, các saponin chính trong

Tam thất chưa chế biến là Rg1, Rb1 và Rd giảm dần. Trong khi đó hàm lượng các

saponin mới như Rh1 và Rg3 tăng lên. Sự biến đổi này phù hợp với các nghiên cứu

về ảnh hưởng của quá trình hấp đến sự biến đổi saponin của Tam thất đã được công

bố [10],[63], [81], [147].

Sự biến đổi các saponin này xảy ra từ rất sớm, ngay từ khi bắt đầu quá trình

hấp. Tại thời điểm 4 giờ từ khi bắt đầu hấp, hàm lượng Rg1, Re, Rb1 và Rd đã bắt

đầu giảm. Thậm chí, đối với các mẫu được hấp ở 120°C, sau 4 giờ, Rg1 và Re đã

giảm đến mức không phát hiện được. Hàm lượng Rg3 và Rh1 cũng tăng dần ngay

từ khi bắt đầu hấp.

Sự biến đổi về thành phần saponin trong Tam thất có thể giải thích dựa trên

cấu tạo của chúng.

Các hợp chất saponin của Tam thất có cấu trúc glycosid triterpenoid

tetracyclic với nhóm glycosyl dễ bị thuỷ phân. Khi hấp, quá trình thủy phân của

rhamnosyl tại C-6 của ginsenosid Re hình thành ginsenosid Rg1. Tương tự,

notoginseng R1 bị thuỷ phân xylosyl tại vị trí C-6 cũng tạo thành Rg1. Hợp chất

này bị thuỷ phân nhóm glucosyl tại vị trí C-20 để tạo thành Rh1, sau đó có thể tiếp

tục bị loại nước tại vị trí C-20 để tạo thành Rh4 và Rk3. Quá trình biến đổi tương tự

của các hợp chất Rb1, Rb2, Rc để hình thành Rd và Rg3 (hình 4.1).

129

Hình 4.1. Sơ đồ biến đổi một số saponin trong Tam thất

4.1.3. Ảnh hưởng của các điều kiện hấp nhiệt đến hàm lượng saponin của rễ củ

Tam thất

Các saponin mới thu được sau hấp là Rh1 và Rg3, là những saponin thể hiện

tác dụng kháng u thực nghiệm mạnh hơn các saponin cũ (khi chưa hấp) (bảng

3.12). Để thu được mẫu hấp có hàm lượng Rg3 và Rh1 cao nhất, chúng tôi xem xét

3 yếu tố: nhiệt độ, thời gian, loại mẫu hấp.

Ảnh hưởng của nhiệt độ hấp:

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy nhiệt độ có ảnh hưởng khá rõ rệt

đến tốc độ biến đổi các saponin. Đối với mẫu hấp ở 100°C, sau 24 giờ, vẫn phát

hiện được các saponin ban đầu như Rg1, Re hay Rd. Trong khi đó, đối với các mẫu

hấp ở 120°C, sau 8 giờ hay thậm chí 4 giờ đã không thể phát hiện được Rg1, sau 12

giờ không phát hiện được hợp chất Rd. Tốc độ hình thành các sản phẩm mới như

Rg3, Rh1 ở các mẫu Tam thất hấp ở 120°C cũng nhanh hơn rất nhiều ở các mẫu

được hấp ở 100°C. Kết quả này phù hợp với các nghiên cứu đã được công bố.

Ảnh hưởng của loại mẫu đem hấp:

130

Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng 2 dạng nguyên liệu là củ Tam thất

tươi và củ Tam thất đã được sấy khô để nghiên cứu ảnh hưởng của lượng nước

trong nguyên liệu đến sự biến đổi saponin trong quá trình hấp. Kết quả cho thấy, ở

giai đoạn đầu, các mẫu tươi có sự thay đổi về thành phần saponin nhanh hơn so với

mẫu khô, ở cùng điều kiện nhiệt độ. Ví dụ như hợp chất Rg1 trong mẫu chưa chế

biến có hàm lượng 4,52%, trong mẫu khô hấp ở 100°C trong 4 giờ là 4,51%, và ở

mẫu tươi hấp ở 100°C trong 4 giờ chỉ còn 2,44%. Hoặc hàm lượng Rh1 tăng từ

0,03% ở mẫu chưa chế biến, lên 1,13% ở mẫu khô hấp 4 giờ ở 120°C, trong khi đó

mẫu tươi hấp 4 giờ ở 120°C có hàm lượng saponin này là 1,45%. Kết quả này phù

hợp với các nghiên cứu khác đã được công bố. Nghiên cứu năm 2012 của Wang

Dong và cộng sự cho thấy ở giai đoạn đầu của quá trình hấp, tốc độ giảm các

saponin cũ và hình thành saponin mới ở các mẫu khô thấp hơn nhiều so với mẫu

tươi ở cả 2 điều kiện nhiệt độ là 100°C và 120°C.

Tuy nhiên, ở giai đoạn sau của quá trình hấp, có sự khác biệt về hàm lượng

các saponin mới ở mẫu tươi và mẫu khô ở các điều kiện nhiệt độ khác nhau. Cụ

thể, khi hấp ở 100°C, sau 24 giờ hấp, hàm lượng Rh1 và Rg3 cao hơn mẫu khô hấp

ở điều kiện tương ứng (1,00% và 4,44% so với 0,58% và 9,02%). Trong khi đó,

mẫu hấp ở 120°C, sau 24 giờ, mẫu tươi có hàm lượng Rh1 và Rg3 thấp hơn so với

mẫu khô (0,37% và 7,52% so với 0,58% và 8,36%).

Kết quả này có thể do các hợp chất Rh1 và Rg3 ở mẫu tươi hấp ở 120°C đã

tiếp tục bị biến đổi thành các saponin khác. Quá trình này được khẳng định rõ ràng

hơn khi chúng ta phân tích sự biến đổi hàm lượng Rh1. Các mẫu được hấp ở điều

kiện 100°C, hàm lượng Rh1 liên tục tăng trong suốt quá trình hấp, thậm chí sau 24

giờ hấp, hàm lượng Rh1 vẫn tiếp tục tăng. Trong khi đó, đối với các mẫu được hấp

ở 120°C, Rh1 chỉ tăng lên trong giai đoạn đầu hấp, từ thời điểm 8 giờ trở về sau,

hàm lượng saponin này giảm dần. Điều này gợi ý rằng có thể một quá trình tương

tự đã diễn ra với hợp chất Rg3 ở mẫu tươi hấp ở 120°C. Cũng có thể, quá trình biến

131

đổi các saponin mới tạo thành diễn ra ở cả mẫu tươi và mẫu khô, và ở cả 2 mức

nhiệt độ hấp. Tuy nhiên, có thể tốc độ biến đổi của 2 hợp chất này ở các mẫu được

hấp ở 100°C thấp hơn tốc độ tạo thành nên hàm lượng của chúng vẫn tiếp tục tăng

lên trong quá trình hấp. Như vậy, sử dụng mẫu khô để hấp hơi nóng sẽ thu được

hàm lượng 2 saponin là Rg3 và Rh1 ổn định hơn và cao hơn mẫu tươi

Ảnh hưởng của thời gian hấp:

Theo thời gian hấp quá trình biến đổi hóa học xảy ra càng hoàn toàn. Như đã

xác định 2 điều kiện tối ưu ở trên, chúng tôi chỉ xem xét kết quả định lượng

saponin theo thời gian đối với mẫu khô hấp ở 1200C, trong khi Rg3 tăng dần trong

quá trình hấp thì Rh1 chỉ tăng trong 8 giờ đầu và sau 12 giờ bắt đầu giảm xuống.

Như vậy 8h là khoảng thời gian tối ưu.

Như vậy, để có được mẫu Tam thất có hàm lượng Rh1 và Rg3 cao nhất, chúng

tôi lựa chọn phương pháp hấp mẫu khô ở 120°C trong 8 giờ. Đây cũng là phương

pháp chế biến với thời gian hấp không quá dài, có thể dễ dàng áp dụng để chế biến

lượng mẫu lớn hơn cho nghiên cứu phát triển sản phẩm cũng như trong sử dụng.

4.2. Về tác dụng kháng u thực nghiệm của các dạng cao định lượng và một số

saponin phân lập từ rễ củ Tam thất.

4.2.1. Về tác dụng kháng u của 6 saponin đã phân lập và cao định lượng

NP(O), NP(H) trên một số dòng tế bào ung thư người

Tác dụng kháng u thực nghiệm trong nghiên cứu của chúng tôi được thực

hiện theo từng bước. Bước đầu tiên là đánh giá tác dụng ức chế 06 dòng tế bào ung

thư người của 6 saponin đã phân lập dược liệu Tam thất hấp và Tam thất không hấp

và 2 cao định lượng NP(O), NP(H). Sáu dòng tế bào ung thư người được đánh giá

bao gồm tế bào ung thư vú MCF7, tế bào ung thư gan HepG2, tế bào ung thư đại

trực tràng HT29, tế bào ung thư cơ vân RD, tế bào ung thư phổi SK-LU-1 và tế bào

ung thư phổi A549. Tế bào SK-LU-1 là tế bào ung thư biểu mô tuyến phổi có

nguồn gốc từ phụ nữ, tế bào A549 là tế bào ung thư biểu mô tuyến phổi có nguồn

gốc từ đàn ông. Với 06 dòng tế bào ung thư người đã sử dụng trong nghiên cứu cho 132

phép đánh giá tác dụng kháng u của mẫu thử trên các loại ung thư với những đặc

điểm mô bệnh học và sinh lý bệnh khác nhau, và cũng là những ung thư thường

gặp với tỷ lệ cao hiện nay. Việc đánh giá tác dụngkháng u trên các tế bào ung thư

người cho phép suy diễn kết quả của mẫu thử trên lâm sàng chính xác hơn.

Kết quả nghiên cứu cho thấy 2 Ginsenoside Rg3 và Rh1 (thu được từ Tam

thất đã xử lý hấp qua hơi nóng ở 120 độ C trong vòng 8 giờ) có hoạt tính kháng các

dòng tế bào ung thư mạnh hơn so với 4 Ginsenoside Rb1, Rd, Re và Rg1 (thu được

từ Tam thất không xử lý hấp) khi được thử trên 6 dòng tế bào ung thư trong cùng

điều kiện (bảng 3.12). Kết quả nghiên cứu hoàn toàn phù hợp với báo cáo của một

số tác giả về tác dụng kháng u của Rg3 và Rh1 trên nhiều loại ung thư khác nhau.

Ginsenoside Rg3 có tác dụng điều chỉnh chu kỳ tế bào khối u, cụ thể là điều chỉnh

sự biểu hiện của đột biến mất điều hòa giãn mạch (ataxia telangiectasia mutation -

ATM), p53, p27, p21, p15, pRb2/p130, và hoạt động phiên mã của E2F1 trong giai

đoạn điều chỉnh của các protein liên quan đến chu kỳ tế bào đối với một số khối u

như ung thư vú, ung thư dạ dày, ung thư phổi và ung thư tuyến tiền liệt [148].

Ginsenoside Rg3 có thể điều chỉnh quá trình apoptosis của tế bào khối u. Cụ thể, 20

(S) - ginsenoside Rg3 có thể gây ra apoptosis nội sinh, điều chỉnh sự biểu hiện của

các protein pro-apoptotic Bcl-2, làm giảm khả năng xuyên màng của ty thể, giải

phóng CytC và tiếp theo là hoạt hóa caspase-9 [149]. Ginsenosides Rg3 cũng có thể

gây ra quá trình apoptosis ngoại sinh của các tế bào khối u bằng cách điều chỉnh sự

biểu hiện của p53, TRAIL-R1 (DR4), TRAIL-R2 (DR5), Fas và phối tử của nó

(FasL) để kích hoạt Casp-8 [150]. Hai con đường trên có thể kích hoạt các phân tử

Casp-3 và 7 và phân hủy PARP, dẫn đến quá trình apoptosis của các tế bào khối u.

Ginsenoside Rg3 cũng gây ra quá trình apoptosis của tế bào khối u thông qua hai

con đường khác. Đầu tiên là ginsenoside Rg3 điều chỉnh sự biểu hiện của proto-

oncogene Pim-3, chất này phosphoryl hóa nhiều cơ chất cụ thể trong tế bào ung thư

tuyến tụy để thúc đẩy quá trình phosphoryl hóa yếu tố Bad [151]. Thứ hai là

ginsenoside Rg3 làm giảm sự biểu hiện của Bcl-2 trong các tế bào ung thư vú bằng

cách bất hoạt các tín hiệu của kinase ERK/Akt điều hòa tín hiệu ngoại bào và ngăn

chặn các tín hiệu của NF-κB [152]. Thứ ba là Ginsenoside Rg3 còn được chứng

133

minh gây tác dụng lên tế bào gốc khối u, ngăn chặn sự phát triển của tế bào ung thư

đại trực tràng (CRC) cả in vitro và in vivo [153]. Ginsenoside Rh1 ức chế sự tăng

sinh, di chuyển và xâm nhập của các tế bào ung thư đại trực tràng trong thử nghiệm

in vitro và sự phát triển của khối u trong cơ thể sống. Sự ức chế này ít nhất một

phần do sự ức chế biểu hiện MMP1 và MMP3, sự gia tăng mức độ biểu hiện

TIMP3 và sự bất hoạt đường truyền tín hiệu MAPK [154]. Rh1 tạo ra tác dụng

chống ung thư tiềm năng trên các tế bào ung thư vú bằng cách gây ra quá trình bắt

giữ chu kỳ tế bào, quá trình apoptosis và autophagy thông qua ức chế con đường

PI3K/Akt [155]. Ginsenoside Rh1 ức chế sự phát triển khối u,ngăn chặn sự di cư và

xâm lấn của các tế bào ung thư vú MDA-MB-231 [156], [157].

Kết quả thử nghiệm với 2 cao định lượng NP(H) và NP(O) cho thấy cao định

lượng NP(H) có hoạt tính ức chế sự phát triển của 5 dòng tế bào ung thư là HT29,

HepG2, MCF7, SK LU1 và A549 đã thử với giá trị IC50 từ 7,03 đến 9,11 µg/ml,

còn NP(O) có giá trị IC50>10 µg/ml với cả 6 dòng tế bào ung thư đã được thử

(bảng 3.12). Kết quả này là hoàn toàn phù hợp do cao định lượng NP(H) được

chiết xuất từ Tam thất hấp, khi các ginsenosideRg1, Re, Rb1 và Rd trong Tam thất

chưa hấp được chuyển hóa thành cácginsenoside Rg3 và ginsenoside Rh1 với tác

dụng kháng u tốt hơn (bảng 3.11).

4.2.2. Về kết quả đánh giá khả năng kích thích chết tế bào theo chương trình

(apoptosis) của cao định lượng NP(H) trên dòng tế bào ung thư mô liên kết

chuột sarcoma TG180.

Sau khi sàng lọc tác dụng ức chế sự tăng sinhtrên 6 dòng tế bào ung thư

người của 6 saponin đã phân lập và cao định lượng NP(O), NP(H), nghiên cứu này

đã xác định được Tam thất hấp với các ginsenoside Rg3 và ginsenoside Rh1 cũng

như cao định lượng NP(H) chiết xuất từ Tam thất hấp có tác dụng ức chế tốt sự

phát triển của các dòng tế bào ung thư thử nghiệm. Từ kết quả này, chúng tôi định

hướng nghiên cứu vào cao định lượng NP(H), với triển vọng ứng dụng thực tiễn về

tác dụng kháng u của cao định lượng này. Khác với các hoạt chất hóa tổng hợp, các

134

cao chiết từ dược liệu thường có nhiều thành phần hóa học và có nhiều tác dụng

khác nhau. Ngoài tác dụng ức chế tăng sinh tế bào ung thư, Tam thất hấp đã được

chứng minh có tác dụng bổ máu, tăng cưỡng miễn dịch, chống oxy hóa đều có vai

trò quan trọng trong dự phòng và điều trị ung thư [81], [82], [84]. Các mô hình

chuột mang khối u tế bào ung thư của người trên chuột suy giảm miễn dịch mặc dù

cho kết quả sát với thực tế lâm sàng hơn so với mô hình chuột mang khối u tế bào

ung thư của chuột, tuy nhiên khó đánh giá về tác dụng tăng cường miễn dịch là tác

dụng mà Tam thất hấp được mong chờ với tác dụng bổ máu, tăng miễn dịch đóng

vai trò quan trọng trong điều trị ung thư. Với định hướng đánh giá tác dụng của cao

định lượng NP(H) trên chuột mang khối u tế bào ung thư mô liên kết chuột

sarcoma TG180, chúng tôi tiến hành bước tiếp theo là đánh giá tác dụng trên

invitrocủa cao định lượng NP(H), cụ thể là tác dụng kích thích chết tế bào theo

chương trình (apoptosis) trên dòng tế bào ung thư mô liên kết chuột sarcoma

TG180. Apoptosis được biết đến như là cách thức mà tế bào tự chết theo chương

trình, đảm bảo sự cân bằng của cơ thể trong quá trình phát triển, chống lại quá

trình sinh ung thư [107]. Việc tìm kiếm các tác nhân mới có khả năng nhắm đích

vào các con đường tín hiệu apoptosis luôn được quan tâm trong việc phát triển các

liệu pháp chống ung thư hiện nay [158]. Hiệu quả kháng ung thư của nhiều loại

thảo dược khác nhau đã được nghiên cứu thông qua khả năng cảm ứng quá trình

apoptosis tế bào, cho thấy nhiều loại thảo dược có khả năng can thiệp vào sự điều

hòa chu kỳ của tế bào, đưa những tế bào ung thư mất kiểm soát phân chia vào

chu trình chết apoptosis [159]. Các ginsenoside Rg3 và Rh1 cũng đã được chứng

minh có khả năng cảm ứng quá trình apoptosis tế bào [149], [150], [155]. Kết quả

nghiên cứu cho thấy cao định lượng NP(H) làm tăng tỷ lệ tế bào apoptosis sớm,

apoptosis muộn và apoptosis tổng số (bảng 3.14-3.16). Kết quả này là hoàn toàn

phù hợp với các kết quả nghiên cứu nêu trên về khả năng cảm ứng quá trình

apoptosis tế bào của các ginsenoside Rg3 và Rh1.

135

4.2.3. Về kết quả nghiên cứu tác dụng kháng u của các cao định lượng NP(H)

và NP(O) trên chuột nhắt trắng mang khối u rắn sarcoma TG 180.

Với kết quả nghiên cứu cho thấy tác dụng tốt của cao định lượng NP(H) trên

quá trình apoptosis tế bào ung thư mô liên kết chuột sarcoma TG180, chúng tôi tiến

hành nghiên cứu tác dụng kháng u của cao định lượng NP(H) trên chuột nhắt trắng

dòng Swissmang khối u rắn sarcoma TG 180, có so sánh với cao định lượng NP(O)

và thuốc tham chiếu Lentinan.

4.2.3.1. Về mô hình nghiên cứu

Dòng tế bào ung thư Sarcoma TG180 là dòng tế bào chuẩn đã được nhiều

viện nghiên cứu ung thư trên thế giới sử dụng do tế bào này có thể sống trong dịch

ổ bụng, mô liên kết, dễ xác định đặc tính di truyền và nhạy cảm với các trị liệu

chống ung thư. Dòng tế bào này do ATCC lưu trữ , được bảo quản trong nitơ lỏng

ở -198oC, sau đó được rã đông rồi nuôi in vitro trong môi trường RPMI, bổ sung

10% FBS. Tế bào sarcoma TG 180 trong môi trường nuôi cấy ở dạng trôi nổi, có

dạng hình cầu, khi đạt được số lượng trên 100 triệu tế bào mỗi đợt nuôi cấy sẽ được

lưu trữ làm tế bào giống gốc và cấy ghép để gây u cho chuột thí nghiệm. Dòng tế

bào này có thể được tiêm vào khoang bụng chuột để gây u báng hoặc tiêm vào cơ

đùi, dưới da để gây u rắn. Với mô hình gây u báng, dòng tế bào ung thư phát triển

rất nhanh nên phù hợp với nghiên cứu động học nhưng lại làm cho đời sống động

vật (thời gian sống thêm) khá ngắn [160]. Với mô hình gây u rắn, chuột sau gây u

sống thời gian dài hơn, khối u rắn phát triển dưới da thích hợp với nghiên cứu hình

thái và chức năng u [161]. Mặt khác, mô hình chuột nhắt trắng mang khối u rắn

sarcoma TG 180 là mô hình được tiến hành trên chuột nhắt trắng không gây suy

giảm miễn dịch, do đó các đáp ứng của cơ thể sinh học với diễn biến bệnh lý của

khối u, và với các thuốc tác dụng làm tăng miễn dịch, chống oxy hóa...được đánh giá

chính xác và thuận tiện hơn so với mô hình gây khối u trên chuột suy giảm miễn

dịch. Với tỷ lệ gây u thành công cao (khoảng 98%), chuột sau gây u sống thời gian

136

dài hơn cho phép sử dụng thuốc dài hơn, điều kiện chăm sóc đơn giản hơn, chi phí

nghiên cứu rẻ hơn nhiều so với mô hình gây khối u trên chuột suy giảm miễn dịch.

Các đặc điểm trên cho thấy sự phù hợp của mô hình để nghiên cứu tác dụng chống

ung thư của dược liệu.

Mô hình chuột nhắt trắng mang khối u rắn sarcoma TG 180 đã được sử dụng

trong nhiều công trình nghiên cứu sàng lọc và ứng dụng tìm kiếm các thuốc chống

ung thư từ dược liệu ở Việt Nam cũng như trên thế giới [54], [162], [163]. Đặc biệt

trên mô hình này, chúng tôi đã tiến hành đánh giá đồng bộ từ tác dụng ức chế sự

phát triển của khối u, tác dụng tăng cường miễn dịch, tác dụng chống oxy hóa trên

chuột mang u, và tác dụng làm kéo dài thời gian sống thêm của chuột. Tác dụng

làm kéo dài thời gian sống thêm của chuột được coi là kết quả tổng hợp có được từ

các tác dụng ức chế sự phát triển của khối u, tăng cường miễn dịch, chống oxy

hóa...của mẫu thử trên chuột mang khối u. Với định hướng đánh giá đồng bộ các

tác dụng liên quan đến hiệu quả điều trị ung thư (ức chế sự phát triển của khối u,

tăng cường miễn dịch, chống oxy hóa, kéo dài thời gian sống thêm của chuột) trên

chuột mang u, thuốc tham chiếu được lựa chọn cần là thuốc đã được phê duyệt và

chứng nhận về mặt khoa học có những đặc điểm tác dụng sát với các nội dung đánh

giá. Vì vậy, trong nội dung nghiên cứu tác dụng kháng u trên động vật thực

nghiệm, chúng tôi lựa chọn thuốc tham chiếu là Lentinan. Lentinan là một beta-1,3

beta-glucan với phân nhánh β-1,6, được phân lập từ nấm L. edodes. Các nghiên cứu

trên động vật thực nghiệm cho thấy Lentinan ức chế khối u tăng trưởng bằng cách

điều chỉnh hệ thống miễn dịch thông qua việc kích hoạt các tế bào miễn dịch, thúc

đẩy sự gia tăng tế bào lympho T và B và tăng cường các hoạt động của tế bào NK,

kích thích sản xuất các cytokine khác nhau. Lentinan đã được sử dụng lâm sàng để

điều trị ung thư các bệnh ung thư khác nhau, bao gồm cả ung thư phổi, ung thư dạ

dày, ung thư đại trực tràng và các bệnh ung thư khác, và đã được phê duyệt như

một chất hỗ trợ điều trị ung thư dạ dày ở Nhật Bản vào năm 1985 [47], [48]. 137

Lentinan cũng được chứng minh có tác dụng chống oxy hóa, được xem là một trong

những cơ chế góp phần quan trọng trong điều trị ung thư [164], [165].

Trong nghiên cứu đánh giá tác dụng kéo dài thời gian sống thêm của chuột,

chuột được cho uống thuốc bắt đầu từ khi khối u hình thành rõ (ngày 6 kể từ khi

tiêm tế bào gây ung thư) và theo dõi liên tục cho đến khi chết. Kết quả của nghiên

cứu này cho thấy vào ngày 22 ở lô gây u không uống thuốc bắt đầu có 1 chuột chết.

Trong các nghiên cứu về tác dụng ức chế phát triển u, tác dụng lên hệ miễn dịch,

tác dụng chống oxy hóa, chuột cũng được cho uống thuốc bắt đầu từ khi khối u

hình thành rõ (ngày 6 kể từ khi tiêm tế bào gây ung thư), và cho chuột uống liên tục

trong 16 ngày tức là đến ngày thứ 21 thì dừng và giết chuột để đánh giá các chỉ tiêu

nghiên cứu ở thời điểm kết thúc thí nghiệm. Việc dừng cho uống thuốc (sau 16

ngày uống thuốc) và kết thúc thí nghiệm ở ngày 21 kể từ khi tiêm tế bào gây ung

thư nhằm đảm bảo chuột ở các lô chưa có chuột nào bị chết, thời gian uống thuốc ở

tất cả các lô như nhau ở tất cả các chuột, giúp cho kết quả đánh giá được chính xác.

4.2.3.2. Về liều dùng của cao định lượng NP(H) và NP(O)

Trong nghiên cứu đánh giá tác dụng kháng u của cao định lượng từ rễ Tam

thất, chúng tôi sử dụng 2 mức liều là 300 mg/kg và 900 mg/kg. Cơ sở để xác định

liều dùng trong nghiên cứu này được dựa vào kết quả đánh giá độc tính cấp, cũng

như dựa trên các nghiên cứu của các tác giả trước đó đã công bố.

Theo kết quả đánh giá độc tính cấp đường uống trên chuột nhắt trắng của cao

Tam thất hấp NP(H), liều dung nạp tối đa của chuột nhắt được xác định là 6000

mg/kg. Việc xác định liều khởi đầu có tác dụng dược lý có thể được ước tính từ

mức liều cao nhất chưa gây biểu hiện độc tính, bằng cách chia cho hệ số an toàn

(safety factor). Hệ số an toàn mặc định được chấp nhận trong phần lớn các trường

hợp có giá trị là 10. Tuy nhiên, hệ số an toàn có thể được nâng lên khi có lý do gia

tăng mối quan tâm và giảm xuống khi mối quan tâm được giảm bớt vì dữ liệu có

sẵn cung cấp thêm đảm bảo an toàn [166]. Theo các tác giả Đỗ Trung Đàm, 138

Arunachalam K và cs, liều có tác dụng dược lý dao động trong giới hạn từ 1/20 đến

1/5 LD50 hoặc liều dung nạp tối đa [167], [168]. Trên cơ sở đó, nghiên cứu của

chúng tôi sử dụng cao chiết từ Tam thất với liều 1 là 300 mg/kg (bằng 1/20 liều

dung nạp tối đa) và liều 2 là 900 mg/kg (gần 1/6,7 liều dung nạp tối đa). So sánh

mức liều dùng trong nghiên cứu của chúng tôi với liều dùng trong nghiên cứu của

một số tác giả cũng cho thấy có sự tương đồng. Jizhou Zhang và cộng sự (2020)

[169] cho chuột uống saponin chiết từ Tam thất ở 3 mức liều 50 mg/kg, 100 mg/kg

và 200 mg/kg đều thể hiện tác dụng làm giảm thể tích khối u so với lô không dùng

thuốc và tác dụng này tăng theo mức liều. Nghiên cứu của Ren-Bo Ding và cs.

(2015) [88] dùng liều saponin chiết từ Tam thất là 100 mg/kg và 300 mg/kg trên

chuột nhắt cho thấy có tác dụng chống oxy hóa, bảo vệ gan. Hàm lượng saponin

trong cao chiết Tam thất không hấp NP(O) là 32,32 ± 0,41%, trong cao chiết Tam

thất hấp NP(H) là 24,62 ± 0,20% (Bảng 1). Với liều 300 mg/kg và 900 mg/kg cao

chiết, quy ra lượng saponin dùng ở mỗi mức liều của NP(O) khoảng 96,96 mg/kg

và 290,88 mg/kg; lượng saponin dùng ở mỗi mức liều của NP(H) khoảng 73,86

mg/kg và 221,58 mg/kg. Như vậy ở các mức liều dùng cao chiết trong nghiên cứu

của chúng tôi, lượng saponin ở các mức liều dùng gần tương đương so với các mức

liều dùng của các tác giả Ren-Bo Ding và Jizhou Zhang [88], [169].

4.2.3.3. Về tác dụng ức chế sự phát triển u rắn sarcoma TG180 (in vivo)

Trong nghiên cứu của chúng tôi, sự phát triển của khối u được đánh giá

bằng cách đo kích thước khối u với thước cặp có độ chính xác 0,1 mm. Thể tích

khối u có thể được ước tính tương đối chính xác từ đường kính lớn nhất và nhỏ

nhất theo công thức tính toáncủa Bagley và cộng sự [119]. Vào ngày 21, trọng

lượng chính xác của khối u được xác định sau khi mổ xẻ. Kết quả ở bảng 3.20 cho

thấy mối tương quan giữa thể tích khối u đo được và trọng lượng khối u, cụ thể là

tỷ số ức chế u tính theo thể tích (%) gần như không khác biệt nhiều so với tỷ số ức

chế u tính theo cân nặng (%). Như vậy, việc đo kích thước và thể tích khối u để

139

đánh giá sự phát triển của khối u được sử dụng trong nghiên cứu là phù hợp và có

độ chính xác cao.

Kết quả đánh giá sự thay đổi thể tích khối u cho thấy ở các lô dùng Lentinan

(LTN), cao Tam thất không hấp NP(O)-1 và NP(O)-2, cao Tam thất hấp NP(H)-1

và NP(H)-2, thể tích trung bình khối u tăng chậm hơn rõ rệt so với ở lô gây ung thư

không dùng thuốc. Hình ảnh mô bệnh học khối u cũng cho thấy ở các lô điều trị các

tế bào u với nhân quái nhân chia giảm rõ rệt so với lô ung thư không điều trị (hình

3.13). Các kết quả này chứng tỏ hiệu quả rõ rệt của các cao Tam thất cũng như

thuốc tham chiếu trong ức chế sự phát triển khối u. Cao Tam thất cả loại hấp NP(H)

và không hấp NP(O) ở cả hai mức liều 300 mg/kg và 900 mg/kg đều thể hiện tác

dụng ức chế sự phát triển của khối u. Tuy nhiên, cao Tam thất hấp thể hiện tác

dụng kháng u rõ nhất, khác biệt có ý nghĩa thống kê so với loại không hấp với p<

0,01 (Bảng 3.19). Hiệu lực kháng u của cao Tam thất hấp là (++) theo thang đánh

giá của H. Itokawa, còn của cao Tam thất không hấp chỉ là (+) (Bảng 3.20). Kết

quả này hoàn toàn phù hợp với kết quả nghiên cứu trước đó về tác dụng kháng u in

vitro của Tam thất trồng tại Việt Nam [68]. Kết quả này cũng phù hợp với kết

quả đánh giá tác dụng ức chế các dòng tế bào ung thư in vitro, cao định lượng Tam

thất hấp luôn thể hiện tác dụng tốt hơn so với cao định lượng Tam thất không hấp

(bảng 3.12), cũng như kết quả về tác dụng rõ rệt của cao định lượng Tam thất hấp

gây kích thích apoptosis đối với tế bào Sarcoma TG180 (Bảng 3.14-3.16). Kết quả

này được lý giải bởi khi sau khi hấp hơi nóng, hàm lượng các saponin có tác dụng

kháng u tốt là Rg3 và Rh1 trong NP(H) lần lượt là 16,16% và 2,57%, cao hơn hẳn

so với trong NP(O) (lần lượt là 0,38% và 0,3%) (Bảng 3.11).

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng hoàn toàn phù hợp với kết quả

nghiên cứu của các tác giả trên thế giới về tác dụng kháng u của Tam thất. Nhiều

bệnh nhân bị u xơ hoặc ung thư vú, tử cung, tuyến tiền liệt được điều trị bằng Tam

thất trong thời gian dài cho thấy kích thước khối u không tăng lên đáng kể [170], 140

[171]. Một số nghiên cứu đã chỉ ra việc hấp rễ củ Tam thất làm tăng hoạt tính

kháng u [81], [172], [173]. Ngoài ra, Tam thất còn được chứng minh có tác dụng

làm tăng độ nhạy cảm của tế bào ung thư với các liệu pháp hóa học hoặc bức xạ, vì

vậy nó có thể được sử dụng kết hợp với chúng trong điều trị bệnh nhân ung thư

[174], [175], [176].

4.2.4. Về tác dụng của cao định lượng NP(H) và NP(O) lên miễn dịch trên

chuột mang khối u rắn Sarcoma TG180

Nghiên cứu đánh giá các chỉ số huyết học bao gồm hồng cầu, huyết sắc tố,

hematocrit (đánh giá mức độ thiếu máu); bạch cầu và công thức bạch cầu (đánh giá

đáp ứng miễn dịch ở máu ngoại vi); và tiểu cầu (tế bào máu ngoại vi liên quan tới

đông chảy máu). Kết quả nghiên cứu ở bảng 3.23 cho thấy ở chuột mang khối ung

thư sarcoma 180 (lô UT), có hiện tượng thiếu máu biểu hiện bằng số lượng hồng

cầu, hemoglobin và hematocrit giảm so với lô chứng sinh lý. Quá trình bệnh lý ung

thư thường diễn ra với tình trạng khối u phát triển lấy đi dinh dưỡng của cơ thể, quá

trình chống đỡ bệnh lý cũng gây tiêu hao năng lượng và dinh dưỡng, trong khi cơ

thể mệt mỏi làm ăn uống kém, giảm khả năng hấp thu...gây ra tình trạng thiếu máu.

Lentinan mặc dù không phải thuốc bổ máu nhưng có tác dụng kháng u, tăng cường

miễn dịch [177] giúp cải thiện tình trạng bệnh trên chuột, vì vậy làm giảm tình

trạng thiếu máu trên chuột mang khối u (p < 0,05 so với lô UT). Cao chiết giàu

saponin từ Tam thất hấp và không hấp (ở cả hai mức liều) đều thể hiện tác dụng

làm tăng số lượng hồng cầu, hemoglobin và hematocrit trên chuột mang khối u,

khác biệt có ý nghĩa thống kê so với lô gây u không điều trị (p < 0,05). Trong đó,

cao chiết giàu saponin từ Tam thất không hấp có tác dụng tương đương với

Lentinan, còn cao chiết giàu saponin từ Tam thất hấp thể hiện tác dụng tốt hơn có ý

nghĩa thống kê so với Lentinan cũng như so với cao chiết giàu saponin từ Tam thất

không hấp (p < 0,05). Kết quả nghiên cứu có thể giải thích do Tam thất hấp hơi

nóng làm thay đổi thành phần hoạt chất, từ đó làm thay đổi tác dụng của Tam thất.

141

Cụ thể Tam thất hấp hơi nóng có tác dụng tốt làm bổ máu, tăng cường miễn dịch,

chống oxy hóa, và kháng u [82], [115]. Kết quả đánh giá trên tác dụng kháng u trên

nhóm chuột mang u cho thấy Letinan 240 mg/kg/ngày cũng như NP(O) và NP(H)

liều 300 mg/kg/ngày và 900 mg/kg/ngày đều làm giảm thể tích trung bình khối u (p

< 0,001 so với lô không dùng thuốc), trong đó NP(H) có tác dụng tốt hơn so với

NP(O) (mục 3.2.3.3). Ngoài tác dụng bổ máu của các hoạt chất trong Tam thất, tác

dụng kháng u cũng góp phần trong cơ chế làm giảm tình trạng thiếu máu trên chuột

mang khối u. Tác dụng vượt trội làm giảm tình trạng thiếu máu trên chuột mang

khối u của Tam thất hấp hơi nóng là một trong những cơ sở khoa học cần quan tâm

trong hỗ trợ điều trị ung thư.

Kết quả đánh giá số lượng tiểu cầu cho thấy chuột ở lô UT có số lượng tiểu

cầu tăng cao hơn so với lô SL (p < 0,05, Bảng 3.23). Có thể giải thích đây là tình

trạng tăng tiểu cầu phản ứng thường gặp khi chuột bị cấy truyền tế bào ung thư.

Các lô gây ung thư có dùng thuốc (Lentinan, cao Tam thất cả loại hấp và không

hấp) số lượng tiểu cầu bình thường, tương đương với lô SL. Các thuốc dùng thể

hiện tác dụng làm giảm, mất tình trạng tăng tiểu cầu phản ứng ở chuột cấy truyền tế

bào ung thư. Tăng số lượng tiểu cầu có thể gây rối loạn về đông máu chảy máu, do

đó việc bình thường hóa số lượng tiểu cầu trên chuột mang khối u có ý nghĩa tốt

trong điều trị.

Số lượng bạch cầu trong máu ngoại vi phản ánh cả hai phương thức đáp ứng

miễn dịch tự nhiên và đáp ứng miễn dịch đặc hiệu. Trên chuột bị cấy truyền tế bào

ung thư (lô UT), số lượng bạch cầu máu ngoại vi tăng cao (p < 0,05 so với lô SL,

Bảng 3.21). Chuột ở các lô gây ung thư có dùng thuốc (Lentinan, cao Tam thất cả

loại hấp và không hấp) có số lượng bạch cầu giảm so với ở lô UT (p < 0,05), trở về

tương đương với lô SL. Cơ chế thay đổi của bạch cầu máu ngoại vi ở lô UT có thể

do tình trạng phản ứng của cơ thể chuột khi bị tiêm truyền tế bào ung thư. Ở chuột

sử dụng thuốc, có thể do tác động điều chỉnh của thuốc đối với quá trình bệnh nên

142

số lượng bạch cầu được điều chỉnh về tương đương với lô SL. Kết quả đánh giá

công thức bạch cầu không thấy có sự biến đổi tỷ lệ % các loại bạch cầu (Bảng

3.21). Kết quả đánh giá về tác dụng lên số lượng bạch cầu chuột mang khối u

sarcoma 180 của chúng tôi tương đồng với kết quả của tác giả Trần Thị Hải Vân và

cộng sự (2013) khi đánh giá về tác dụng kháng u của cốm sói rừng [54].

Một số chỉ số miễn dịch được đánh giá trong nghiên cứu là nồng độ IL-2 và

TNF-α trong máu chuột và cân nặng lách, tuyến ức của chuột. Hệ thống miễn dịch

ngoài các cơ quan miễn dịch và các tế bào có thẩm quyền miễn dịch còn có sự tham

gia của các cytokine. Đây là những chất tiết quan trọng của các tế bào miễn dịch đã

được hoạt hóa bởi kháng nguyên. Trong số đó thì IL-2 và TNF-α là 2 cytokine có

vai trò quan trọng trong đáp ứng miễn dịch với các tế bào ung thư [178], [179].

Interleukin-2 (IL-2) do tế bào lympho Th hoạt hóa tiết ra, có tác dụng kích thích tế

bào lympho T cụ thể là các tế bào TCD4 và TCD8, đồng thời kích thích tế bào

lympho B phát triển và biệt hóa, tăng cường tế bào NK (Natural killer cells) và tế

bào LAK (Lymphokine – activated killer cells). Những kết quả nghiên cứu tiền lâm

sàng và lâm sàng đều cho thấy, IL-2 có khả năng kích thích, phát triển các tế bào

miễn dịch, tăng khả năng tiêu diệt các tế bào ung thư [178], [179]. TNF- α (yếu tố

hoại tử khối u) là một cytokine đa chức năng tham gia vào quá trình apoptosis, quá

trình viêm và đáp ứng miễn dịch của cơ thể, được tổng hợp chủ yếu ở đại thực bào.

Một số loại tế bào khác cũng tham gia vào tổng hợp TNF- α như các tế bào giết tự

nhiên, bạch cầu hạt, lympho bào T, B, tế bào mô mỡ, tế bào sao và nội mạc mạch

máu [178]. Sự tổng hợp và tiết TNF- α chủ yếu do sự kích thích khi tế bào tiếp xúc

với kháng nguyên. TNF- α ảnh hưởng đến các tế bào đích thông qua các thụ thể đặc

hiệu. Định lượng nồng độ IL-2 và TNFα trong huyết thanh chuột nhằm đánh giá tác

dụng của thuốc thử lên khả năng chế tiết cytokine. Kết quả nghiên cứu cho thấy ở

lô gây u không điều trị, nồng độ IL-2 và TNF-α máu tăng so với lô chứng sinh lý (p

< 0,05). Ở các lô dùng thuốc lentinan cũng như cao chiết giàu saponin từ Tam thất

143

(cả hấp và không hấp), nồng độ IL-2 và TNF-α máu tiếp tục tăng và khác biệt có ý

nghĩa thống kê so với lô UT (Bảng 3.22). Thuốc tham chiếu Lentinan là một

beta1,3 beta-glucan với phân nhánh β-1,6, có tác dụng chính là tăng cường miễn

dịch, chống khối u, đã được nhiều nghiên cứu chứng minh [47], [180]. Việc làm

tăng nồng độ IL-2 và TNF-α máu trên chuột mang u của Lentinan và cao Tam thất

thể hiện tác dụng tăng cường miễn dịch theo định hướng chống khối u của thuốc

thử. Ở các lô NP(O)-1 và NP(O)-2, nồng độ IL-2 và TNF-α máu chuột thấp hơn có

ý nghĩa thống kê so với ở các lô LTN, NP(H)-1 vàNP(H)-2 (p < 0,05). Điều này là

phù hợp do Tam thất không hấp chủ yếu có tác dụng “tả”, làm tan máu đông, thúc

đẩy lưu thông máu, cầm máu và giảm viêm; còn Tam thất hấp có tác dụng “bổ”,

giúp bổ máu, tăng cường miễn dịch, chống lão hóa, chống oxy hóa.

Tuyến ức và lách là hai cơ quan quan trọng của hệ thống miễn dịch. Tuyến ức

là cơ quan miễn dịch trung ương chính của sinh vật, có vai trò điều hòa quan trọng

đối với các cơ quan miễn dịch ngoại vi và tế bào miễn dịch. Lá lách, với tư cách là

cơ quan miễn dịch ngoại vi lớn nhất, điều hòa miễn dịch trên sinh vật bằng hoạt

động thực bào của đại thực bào, miễn dịch tế bào qua trung gian tế bào T và miễn

dịch dịch thể qua trung gian tế bào B. Tế bào lympho T chủ yếu được biệt hóa, phát

triển và trưởng thành trong tuyến ức, nhưng tất cả các tế bào lympho T và B ở trên

đều được hoàn thiện trong lá lách. Khi hai cơ quan này được kích thích tăng cường

hoạt động trong đáp ứng tăng cường miễn dịch của cơ thể, khối lượng của hai cơ

quan sẽ tăng lên. Vì vậy, đánh giá khối lượng tương đối của lách và tuyến ức được

xem là một chỉ số để đánh giá tác dụng tăng cường miễn dịch [181]. Kết quả

nghiên cứu cho thấy: ở lô gây u không điều trị (UT), khối lượng tương đối của lách

và tuyến ức chuột tăng so với lô chứng sinh lý (SL) (p < 0,05); ở các lô dùng thuốc,

khối lượng tương đối của lách và tuyến ức chuột tiếp tục tăng và khác biệt có ý

nghĩa thống kê so với lô UT (Bảng 3.24). Thông qua khối lượng tương đối của lách

và tuyến ức, ta thấy sự tăng cường hoạt động của lách và tuyến ức trong đáp ứng

144

miễn dịch ở lô dùng cao giàu saponin từ Tam thất hấp là tương đương so với ở lô

dùng Lentinan, và tốt hơn có ý nghĩa thống kê so với ở các lô dùng cao giàu

saponin từ Tam thất không hấp (p < 0,05). Kết quả này cũng tương đồng với kết

quả của Trần Thị Hải Vân và cộng sự [54].

4.2.5. Về kết quả đánh giá tác dụng chống oxy hóa trên chuột mang khối u rắn

sarcoma TG 180.

Nhiều bằng chứng đã chỉ ra rằng các loại oxy phản ứng (reactive oxygen

species - ROS) đóng một vai trò quan trọng trong quá trình phát triển và di căn của

khối u. ROS là nguyên nhân chính dẫn đến đột biến DNA và sự mất ổn định của hệ

gen tế bào [182]. Trong môi trường vi mô khối u, ROS được tạo ra bởi các tế bào

khối u tăng sinh nhanh chóng có thể gây ra phản ứng stress oxy hóa do làm rối loạn

chất nền tế bào, dẫn đến việc kích hoạt các tín hiệu tạo mạch, giải phóng các enzyme

tham gia vào các quá trình phát triển và xâm lấn của khối u và điều hòa biểu hiện

cytokine, thúc đẩy sự dung nạp miễn dịch và sự phát triển của khối u [183].

Để đánh giá tác dụng chống oxy hóa, chúng tôi tiến hành đánh giá các chỉ số

về oxy hóa gồm malondialdehyd (MDA), superoxid dismutase (SOD), catalase

(CAT), glutathion (GSH) trong gan và định lượng men gan đánh giá mức độ tổn

thương tế bào gan trên chuột mang khối u rắn sarcoma TG 180. Gan là một cơ quan

dễ bị tổn thương trong stress oxy hóa. Trên chuột mang khối u, sự tồn tại và phát

triển liên tục của khối u làm sự gia tăng stress oxy hóa, căn nguyên gây tổn thương

gan tồn tại liên tục. Stress oxy hóa trong gan làm giảm các chất chống oxy hóa như

superoxid dismutase (SOD), catalase (CAT), glutathion (GSH) và tăng sự peroxid

hóa lipid (LPO) trong gan [184], [185]. Nhiều nghiên cứu đánh giá về tác dụng

chống oxy hóa, bảo vệ gan của các chế phẩm sử dụng trong hỗ trợ điều trị ung thư

[133], [134]. Mặc dù tổn thương gan không mang tính cấp tính như ở các mô hình

gây viêm gan bằng hóa chất, nhưng tổn thương gan ở chuột mang khối u diễn biến

âm ỉ, liên tục, kéo dài. Kết quả các enzym AST, ALT ở lô mô hình tăng có ý nghĩa

145

thống kê so với lô chứng, tuy nhiên mức độ tăng không nhiều như các mô hình gây

tổn thương gan bằng hóa chất. Kết quả này phù hợp so với báo cáo của

Senthilkumar và cs (2008) [134]. Trong nghiên cứu của Senthilkumar và cs, chuột

mang khối u báng Ehrlich cũng có tăng các enzym AST, ALT có ý nghĩa thống kê

so với lô chứng không mang u, tuy nhiên mức độ tăng không quá cao.

Kết quả nghiên cứu cho thấy, cao định lượng Tam thất thể hiện rõ tác dụng

chống oxy hóa và tác dụng bảo vệ gan. Không có sự khác biệt khi so sánh giữa lô

dùng liều thấp và lô dùng liều cao. Ren-Bo Ding và cs. (2015) [88] đánh giá tác

dụng chống oxy hóa, bảo vệ gan của cao định lượng saponin từ Tam thất trên chuột

nhắt gây tổn thương gan cấp do rượu cũng cho kết quả tương tự. Kết quả đánh giá

của của Ren-Bo Ding cũng cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về

tác dụng chống oxy hóa, bảo vệ gan khi so sánh giữa hai lô dùng thuốc liều cao và

liều thấp cũng hoàn toàn tương tự với kết quả nghiên cứu mà chúng tôi thu được.

Tác dụng chống oxy hóa, bảo vệ gan ở lô dùng cao định lượng từ Tam thất

hấp NP(H) tốt hơn so với ở các lô dùng cao định lượng từ Tam thất không hấp

NP(O) khi so sánh cùng mức liều (p< 0,05). Quá trình hấp hơi nóng làm tăng hàm

lượng các ginsenosid Rg3, Rh1, giảm hàm lượng các ginsenosidRb, Rd, Rg1, Re

[81], [82]. Kết quả phân tích hàm lượng các saponin trong các mẫu nghiên cứu của

chúng tôi cũng cho kết quả tương tự. Do có các biến đổi về thành phần như vậy, Tam

thất ở dạng chưa hấp và Tam thất ở dạng hấp có những khác biệt về tác dụng. Tam

thất dạng hấp có tác dụng “bổ”, giúp bổ máu, tăng cường miễn dịch, chống lão hóa,

chống oxy hóa.Tam thất hấp với các thành phần Rg3, Rh1 tăng cao đi kèm với tác

dụng chống oxy hóa mạnh hơn so với Tam thất chưa hấp [81], [82]. Khả năng của

ginsenosides loại bỏ ROS được sắp xếp theo thứ tự giảm dần: Rc> Rb2> Rg2>

Rh2> Rh1> Rf> Rg3> Rg1> Rb1> Re> Rd [186]. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi

cho thấy rõ sự khác biệt về tác dụng chống oxy hóa, bảo vệ gan của Tam thất hấp so

146

với Tam thất không hấp, phù hợp với lý thuyết dược học cổ truyền cũng như kết quả

nghiên cứu của các tác giả đã công bố [82], [186].

Trong nghiên cứu chúng tôi sử dụng Lentinan làm thuốc tham chiếu. Lentinan

là một β-1,3 β-glucan với phân nhánh β-1,6, có tác dụng chính là tăng cường miễn

dịch, chống khối u. Tác dụng chống oxy hóa của Lentinan cũng được một số tác giả

báo cáo [164], [165]. Trong nghiên cứu này, tác nhân gây tăng oxy hóa, tổn thương

tế bào gan chính là khối u gây ra trên chuột. Vì vậy, thuốc ức chế sự phát triển của

khối u cũng sẽ tạo nên tác dụng hạn chế sản sinh các gốc tự do và làm giảm tổn

thương tế bào gan. Đồng thời, cả Tam thất và Lentinan đều có tác dụng chống oxy

hóa, một cơ chế quan trọng trong bảo vệ tế bào gan. Kết quả của chúng tôi cho thấy

Lentinan làm giảm AST, ALT máu, giảm MDA gan, tăng SOD, GSH và CAT gan

chuột gây u so với lô so với lô gây u không điều trị (p< 0,05), tuy nhiên tác dụng này

của Lentinan kém hơn so với cao Tam thất hấp (p< 0,05), tương đương so với cao

Tam thất không hấp. Ren-Bo Ding và cs (2015) [88] báo cáo tác dụng chống oxy

hóa, bảo vệ gan của cao saponin từ Tam thất trên chuột nhắt gây tổn thương gan cấp

do rượu. Cũng trên đối tượng nghiên cứu này, tác dụng kháng u của cao định lượng

từ Tam thất hấp tốt hơn không có ý nghĩa thống kê so với Lentinan. Với tác dụng

kháng u tương đương, kết quả Tam thất hấp có tác dụng bảo vệ gan tốt hơn Lentinan

có thể được lý giải nhờ vào tác dụng chống tổn thương oxy hóa tế bào của

ginsenosid Rg3 [187].

4.2.6. Về tác dụng kéo dài thời gian sống thêm của chuột mang khối u rắn

sarcoma TG 180.

Thời gian sống thêm sau điều trị là một chỉ số có ý nghĩa lâm sàng, được coi

là yếu tố quan trọng nhất để đánh giá hiệu quả chung của các liệu pháp điều trị ung

thư. Kết quả trong Bảng 3.27, 3.28 và Hình 3.16 cho thấy các chuột ở những lô gây

u có điều trị có thời gian sống thêm kéo dài hơn có ý nghĩa thống kê so với lô gây u

không điều trị. Trong đó, các lô gây u điều trị bằng cao định lượng Tam thất hấp

147

thể hiện tác dụng kéo dài thời gian sống thêm của chuột tốt hơn, thông qua một số

chỉ số như chuột đầu tiên cũng như chuột cuối cùng bị chết ở các lô này đều muộn

hơn so với các lô uống Lentinan hoặc cao định lượng Tam thất không hấp. So với

lô UT, các lô NP(H)-1 và NP(H)-2 có tỷ lệ chuột sống sót tích lũy theo thời gian

cũng như thời gian sống trung bình của chuột lớn hơn có ý nghĩa thống kê với p <

0,01. Các lô NP(O)-1 và NP(O)-2 và Lentinan cũng có tỷ lệ chuột sống sót tích lũy

theo thời gian và thời gian sống trung bình của chuột lớn hơn so với lô UT, nhưng

với p < 0,05. Thời gian sống kéo dài thêm ở hai lô NP(H)-1 và NP(H)-2 là cao nhất,

tương ứng là 48,20% và 55,12 %. Thời gian sống kéo dài thêm ở các lô LTN,

NP(O)-1 và NP(O)-2 nhỏ hơn, lần lượt là 40,68, 35,61% và 41,27%. So với các lô

LTN, NP(O)-1, NP(O)-2, tỷ lệ chuột sống sót tích lũy cũng như thời gian sống

trung bình của chuột ở các lô NP(H)-1 và NP(H)-2 lớn hơn có xu hướng có ý nghĩa

thống kê (0,1 > p > 0,05). Kết quả này là phù hợp với với các kết quả nghiên cứu

đã chứng minh cao định lượng Tam thất hấp cho kết quả về các tác dụng ức chế

phát triển khối u, tác dụng tăng cường miễn dịch và tác dụng chống oxy hóa trên

chuột mang khối u tốt hơn so với cao định lượng Tam thất không hấp. Kết quả

nghiên cứu cũng phù hợp với nghiên cứu của một số tác giả cho thấy tam thất, đặc

biệtginsenosid Rg3 (là saponin tăng lên trong quá trình hấp Tam thất) có tác dụng

làm tăng thời gian sống thêm của chuột mang khối u [169], [188], [189].

4.2.7. Về cơ chế tác dụng kháng u của rễ củ tam thất.

Từ rễ củ tam thất, nghiên cứu đã phân lập được 6 saponin và bào chế ra cao

định lượng NP(O), NP(H) từ rễ củ tam thất chưa hấp và rễ củ tam thất hấp. Phần

lớn các saponin phân lập từ rễ củ tam thất đều thể hiện hoạt tính ức chế đối với

các dòng tế bào ung thư người thử nghiệm (gồm HT29, HepG2, RD và MCF7, SK

LU-1 và A549) trong đó hoạt tính của hai saponin Rg3 và Rh1 thu được từ Tam

thất hấp qua nhiệt (hơi nóng) có tác dụng mạnh hơn so với 4 saponin Rg1, Re, Rd

và Rb1 thu được khi nguyên liệu không qua hấp hơi nóng (bảng 3.12). Cao định

148

lượng NP(H) thể hiện hoạt tính ức chế tương đối mạnh sự phát triển của 5 dòng tế

bào ung thư là HT29, HepG2, MCF7, SK LU1 và A549 đã thử với giá trị IC50 từ

7,03 đến 9,11 µg/ml (bảng 3.12). Như vậy, các thành phần hoạt chất saponin, trong

đó hai thành phần có hoạt tính kháng u mạnh là Rg3 và Rh1 có tác dụng trực tiếp

ức chế sự phát triển của tế bào ung thư. Apoptosis - khả năng kích thích tế bào chết

theo chương trình - được công nhận là một cơ chế thiết yếu ức chế sự phát triển của

tế bào ung thư. Kết quả nghiên cứu cho thấy cao định lượng NP(H), là cao có hàm

lượng saponin Rg3 và Rh1 cao, thể hiện rõ tác dụng cảm ứng, kích thích tế bào ung

thư Sarcoma TG180 chết theo chương trình (bảng 3.14). Tác dụng apoptosis của

cao định lượng NP(H) được đánh giá cả đối với apoptosis sớm (bảng 3.15) và

apoptosis muộn (bảng 3.16). Tế bào apoptosis sớm là những tế bào mà sự chết

được cảm ứng, khởi phát ở giai đoạn sớm của quá trình apoptosis, lúc này trong tế

bào mọi hoạt động sống vẫn diễn ra [107]. Quá trình apoptosis giai đoạn sớm có

những biến đổi của tế bào bao gồm thay đổi màng Plasma, thay đổi ty thể, hoạt hóa

Caspases, chưa có sự phân mảnh DNA [108]. Tế bào apoptosis muộn là những tế

bào mà quá trình apoptosis đã ở giai đoạn muộn, có những thay đổi đáng kể về hình

thái xảy ra và một đặc trưng cơ bản là sự phân mảnh DNA trong nhân.

Những thay đổi trong màng sinh chất (màng Plasma) là một trong những đặc

điểm sớm nhất của quá trình apoptosis. Khi đó, màng phospholipid,

phosphatidylserine (PS) được chuyển vị trí từ trong ra ngoài của màng sinh chất,

bộc lộ PS với môi trường tế bào bên ngoài. Annexin V là một protein liên kết

phospholipid phụ thuộc Ca2+, có ái lực cao với PS và liên kết với các tế bào có PS

bộc lộ ra ngoài. Trong nghiên cứu này, các tế bào apoptosis được nhận biết bằng sự

dương tính với Annexin V (Annexin V-FITC+), một dấu hiệu cho thấy có sự biến

đổi của màng sinh chất. Thay đổi ty thể, với dấu hiệu sớm của quá trình apoptosis

qua trung gian ty thể là sự thay đổi điện thế màng ty thể, sau đó giải phóng các

protein liên màng hòa tan khác nhau vào tế bào chất, như cytochrome C, AIF,

149

Smac/DIABLO và nhiều pro-caspases khác nhau [109]. Hoạt hóa Caspases là sự

kích hoạt một loạt các protease tế bào, các caspase, phân cắt nhiều cơ chất protein,

dẫn đến mất cấu trúc và chức năng tế bào, và cuối cùng dẫn đến chết tế bào. Đặc

biệt, các caspase -3, -8 và -9 có liên quan đến quá trình apoptosis: caspase-9 trong

con đường ty thể, caspase-8 trong con đường Fas/CD95, và caspase-3. Hoạt hoá

Caspase-3 là dấu hiệu các tế bào đang trải qua quá trình apoptosis, caspase-3 là một

protease quan trọng được kích hoạt trong giai đoạn đầu của quá trình apoptosis

[110]. Mặc dù nghiên cứu này chưa đánh giá cụ thể đối với sự thay đổi ty thể và

hoạt hóa Caspases, một số nghiên cứu trước đó đã báo cáo về cơ chế tác dụng theo

các con đường này của Ginsenoside Rg3. Cụ thể, 20 (S) - ginsenoside Rg3 có thể

gây ra apoptosis nội sinh, điều chỉnh sự biểu hiện của các protein proapoptotic Bcl-

2, làm giảm khả năng xuyên màng của ty thể, giải phóng CytC và tiếp theo là hoạt

hóa caspase-9 [149]. Ginsenosides Rg3 cũng có thể gây ra quá trình apoptosis

ngoại sinh của các tế bào khối u bằng cách điều chỉnh sự biểu hiện của p53,

TRAIL-R1 (DR4), TRAIL-R2 (DR5), Fas và phối tử của nó (FasL) để kích hoạt

Casp-8 [150]. Ginsenosides Rg3 và Rh1 còn được chứng minh có khả năng cảm

ứng quá trình apoptosis tế bào theo một số cơ chế khác như: điều chỉnh sự biểu

hiện của proto-oncogene Pim-3, thúc đẩy quá trình phosphoryl hóa yếu tố Bad

[151]; làm giảm sự biểu hiện của Bcl-2 bằng cách bất hoạt các tín hiệu của kinase

ERK/Akt điều hòa tín hiệu ngoại bào và ngăn chặn các tín hiệu của NF-κB [152];

ức chế con đường PI3K/Akt [155]...

Phân mảnh DNA là kết quả của việc kích hoạt các endonuclease, làm suy

giảm cấu trúc nhiễm sắc bậc cao thành các đoạn có kích thước ~ 300 kb và sau đó

thành các đoạn DNA nhỏ hơn khoảng 50 bp. Khi quá trình apoptosis đã ở giai đoạn

muộn, DNA trong nhân bị phân mảnh sau sự cô đặc thể nhiễm sắc, các hoạt động

sống của tế bào gần như đã dừng, màng tế bào lúc này không còn các phản ứng

chọn lọc. Khi đó, ngoài dương tính với Annexin V (Annexin V-FITC+), tế bào còn

150

dương tính với thuốc nhuộm nhân 7- aminoactinomycin (7-AAD+), là thuốc

nhuộm huỳnh quang có ái lực cao với DNA sợi kép, khi được kích thích bằng

nguồn sáng thích hợp, tế bào chết biểu hiện cường độ huỳnh quang, dễ dàng nhận

biết và đếm bằng phương pháp đo tế bào dòng chảy [111]. Cao định lượng NP(H)

làm tăng tỷ lệ tế bào Appotosis muộn (bảng 3.16) được nhận biết thông qua dấu

hiệu dương tính với thuốc nhuộm nhân 7- aminoactinomycin.

Ngoài cơ chế ức chế trực tiếp sự phát triển của tế bào ung thư thông qua tác

dụng cảm ứng, kích thích tế bào chết theo chương trình, tác dụng kháng u của rễ củ

tam thất có liên quan mật thiết với một số tác dụng quý của dược liệu này trên cơ

thể sống, đặc biệt là tác dụng tăng cường miễn dịch và tác dụng chống oxy hóa.

Liệu pháp miễn dịch ung thư (Cancer imunotherapy, CI), là kỹ thuật kích

thích hệ miễn dịch của cơ thể chống lại các tế bào ác tính, đang là biện pháp điều trị

mở ra nhiều triển vọng. Thay vì nhắm trực tiếp để tiêu diệt tế bào ung thư, liệu

pháp CI có thể tạo ra khả năng cho tế bào miễn dịch của cơ thể tấn công chống lại

tế bào ung thư [19]. Nghiên cứu này, cao định lượng NP(H) bào chế từ rễ củ tam

thất hấp đã được chứng minh có tác dụng rõ rệt làm tăng cường miễn dịch trên

chuột mang khối u (tăng số lượng bạch cầu, hồi phục các chỉ số huyết học; tăng IL-

2 và TNF-α máu; tăng cân nặng lách, tuyến ức - mục 3.2.4). Các nghiên cứu của

một số tác giả khác cũng cho thấy rễ củ tam thất ức chế sự phát triển của khối u

thông qua cơ chế miễn dịch như kích hoạt đại thực bào thành phân cực M1 [74],

điều hòa chức năng các tế bào ức chế miễn dịch dòng tủy trong vi môi trường khối

u [75]...

Tác nhân gây ung thư có nhiều bản chất khác nhau nhưng hậu quả chung là

chúng đều làm tăng các dạng oxy hoạt động (reactive oxygen species – ROS), gây

stress oxy hóa [27]. Ở mặt ngươc lại, mức ROS cao lại gây độc tế bào, có thể thúc

đẩy cũng như ngăn chặn sự tồn tại của các tế bào ung thư [33]. Do đó, cả hai chiến

lược làm tăng ROS và loại bỏ ROS đã được phát triển để ứng dụng trong điều trị

151

ung thư [36]. Chiến lược làm tăng ROS trong điều trị ung thư thể hiện rõ trong hóa

trị liệu và xạ trị liệu, và liên quan đến rất nhiều tác dụng phụ. Việc bổ sung chất

chống oxy hóa giúp làm giảm bớt các độc tính từ những phương pháp điều trị ung

thư như hóa trị, xạ trị hoặc phẫu thuật. Ngoài ra, nó cũng giúp ngăn ngừa quá trình

oxy hóa trong cơ thể, từ đó ngăn chặn các gốc tự do tiếp tục làm tổn thương tới

những tế bào khỏe mạnh khác trong cơ thể và giúp kìm hãm sự phát triển ồ ạt của

khối u. Việc bổ sung chất chống oxy hóa trong quá trình hóa trị liệu được chứng

minh tiềm năng vượt trội trong việc cải thiện độc tính, giúp hiệu quả điều trị cao

hơn và tăng thời gian sống cho bệnh nhân [38]. Trong nghiên cứu này, cao định

lượng NP(H) bào chế từ rễ củ tam thất hấp đã được chứng minh có tác dụng rõ rệt

chống oxy hóa, làm giảm MDA (sản phẩm của quá trình oxy hóa), tăng các enzym

chống oxy hóa (GSH, SOD và CAT), làm giảm tổn thương gan (một cơ quan quan

trọng trong cơ thể nhưng rất dễ bị tổn thương trong stress oxy hóa). Tác dụng

chống oxy hóa của tam thất giúp làm giảm độc tính, từ đó có thể nâng cao hiệu quả

điều trị và thời gian sống của bệnh nhân ung thư. Khác với các chất chống oxy hóa

thông thường có thể làm giảm mức độ gây độc của hóa trị liệu và xạ trị liệu lên tế

bào ung thư, một số nghiên cứu đã chứng minh tam thất có tác dụng làm tăng độ

nhạy cảm của tế bào ung thư với các liệu pháp hóa học hoặc bức xạ, do đó làm tăng

giá trị và hứa hẹn hiệu quả điều trị của dược liệu quý này [174], [175], [176].

Tóm lại, nghiên cứu đã chứng minh được rễ củ tam thất thể hiện tác dụng

kháng u thông qua cơ chế cảm ứng và kích thích apoptosis, gây ức chế sự phát triển

của tế bào ung thư. Ngoài ra, tam thất cũng đã được chứng minh có các cơ chế bổ

trợ như tăng cường miễn dịch, chống oxy hóa giúp làm tăng hiệu quả điều trị, giảm

độc tính trên cơ thể mang khối u. Kết quả khối u trên cơ thể chuột bị ức chế sự phát

triển, và chuột mang khối u có thời gian sống dài hơn.

152

4.3. Về kết quả đánh giá độc tính của cao định lượng NP(H).

Các kết quả nghiên cứu về tác dụng, cho thấy tác dụng vượt trội của cao định

lượng chiết từ Tam thất hấp (NP(H)) cho các tác dụng hỗ trợ điều trị ung thư. Vì

vậy, nhóm nghiên cứu lựa chọn cao định lượng NP(H) để đánh giá độc tính, từ đó

đưa ra cơ sở về tính an toàn của cao nhằm định hướng cho việc sử dụng trên lâm

sàng. Theo hướng dẫn của Bộ y tế, ngoại trừ các bài thuốc cổ phương được chiết

xuất theo phương pháp truyền thống, tất cả các thuốc có nguồn gốc từ dược liệu

đều phải đánh giá độc tính cấp và bán trường diễn trên động vật thực nghiệm trước

khi đưa vào thử nghiệm trên người. Cao định lượng NP(H) được bào chế theo

phương pháp hiện đại từ dược liệu hấp, do đó là đối tượng cần được đánh giá về

độc tính cấp và bán trường diễn [124].

4.3.1. Về độc tính cấp của cao định lượng NP(H).

Độc tính cấp là những tác dụng không mong muốn xảy ra sau khi một chất

được sử dụng trong một hoặc nhiều liều trong khoảng thời gian không quá 24 giờ

[190]. Chuột nghiên cứu được lựa chọn bao gồm cả chuột đực và chuột cái, kết quả

nghiên cứu vì thế bao hàm cho cả 2 giống. Đường đưa thuốc sử dụng là đường

uống, theo đúng như đường dự kiến sử dụng trên người. Việc theo dõi biểu hiện

độc tính và số chuột chết sau khi cho chuột dùng mẫu thử là 14 ngày, trong đó cần

theo dõi liên tục trong 72 giờ đầu để có thể phát hiện kịp thời và chính xác dấu hiệu

ngộ độc [191]. Việc phẫu tích chuột được tiến hành với các chuột chết hoặc biểu

hiện ngộ độc nhưng không chết, nhằm đánh giá nguyên nhân gây độc hoặc gây chết

chuột. Các nguyên nhân gây độc hay gây chết chuột có thể là do độc tính của thuốc

như gây kích thích thần kinh làm chuột co giật, suy hô hấp và chết; hoặc gây suy

gan, suy thận; nhưng cũng có thể do đi lỏng nhiều gây rối loạn điện giải mà chết;

do tắc ruột; do tổn thương gây chảy máu trong…[167], [191]. Trong nghiên cứu về

độc tính cấp của cao định lượng NP(H), không có chuột nào bị chết nên không có

bất kỳ các nguyên nhân nào kể trên.

153

Nghiên cứu độc tính cấp đường uống trên chuột nhắt trắng,chuột được cho

uốngcao định lượng NP(H) liều tăng dần từ 1000 mg/kg thể trọng/ngày đến 6000

mg/kg thể trọng/ngày. Chuột đã uống đến liều 6000 mg/kg thể trọng nhưng không

có chuột nào có biểu hiện độc tính hoặc bị chết. Như vậy liều dung nạp tối đa là

6000 mg/kg thể trọng và LD50 >6000 mg/kg thể trọng. Theo phân loại LD50 dựa

trên phạm vi liều, với LD50 trong khoảng 5000-15000 mg/kg được xếp vào là

không có độc [192]. Như vậy cao định lượng NP(H) được đánh giá là không có độc

trong đánh giá thử nghiệm độc tính cấp đường uống trên chuột nhắt trắng.

4.3.2. Về độc tính bán trường diễn của cao định lượng NP(H).

Nghiên cứu độc tính bán trường diễn được thực hiện bằng cách cho động vật thí

nghiệm uống thuốc thử hàng ngày, lặp lại liên tục trong một khoảng thời gian nhất

định. Thời gian dùng thuốc thử phụ thuộc vào thời gian dùng trên lâm sàng. Theo

hướng dẫn của Tổ chức Y tế thế giới [125] và quy định của Bộ y tế Việt Nam

[124], thời gian nghiên cứu bán trường diễn trên động vật thường gấp 4 lần thời

gian dự kiến dùng trên người. Tuy nhiên, nếu nghiên cứu trên động vật trong thời

gian quá dài, đặc biệt khi cho động vật dùng thuốc cưỡng bức (qua kim cong đầu

tù), một số yếu tố nhiễu có thể ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu. Vì vậy, nếu thời

gian dự định sử dụng trên người là dùng hàng ngày trên 30 ngày thì thời gian

nghiên cứu bán trường diễn trên động vật là 3 tháng [126], [193]. Nghiên cứu bán

trường diễn của cao định lượng NP(H) được thực hiện trong thời gian 3 tháng, với

mục tiêu nhằm bảo đảm việc đánh giá được tính an toàn của chế phẩm khi dự kiến

sử dụng trên người hàng ngày trên 30 ngày.

Độc tính bán trường diễn của cao định lượng NP(H) được thực hiện trên

chuột cống trắng, số lượng chuột mỗi lô là 10, và gồm 3 lô: lô chứng sinh lý uống

nước cất; lô trị 1 dùng NP(H) với mức liều 1 là 200mg/kg/ngày; lô trị 2 dùng NP(H)

với mức liều 2 là 900mg/kg/ngày. Theo kết quả nghiên cứu đánh giá tác dụng,

NP(H) dùng với liều 300 mg/kg/ngày trên chuột nhắt trắng có tác dụng kháng u,

154

tăng miễn dịch, chống oxy hóa rõ. Như vậy liều 300 mg/kg/ngày được xem là liều

tác dụng trên chuột nhắt trắng. Quy đổi ra liều trên có tác dụng trên người (hệ số

qui đổi là 12) thì liều có tác dụng trên người là 25 mg/kg/ngày. Qui đổi ra liều trên

chuột cống (hệ số qui đổi là 7) thì liều có tác dụng trên chuột cống là 175 mg/kg

[177]. Với khoảng liều dùng tương đối rộng của dược liệu, để bảo đảm khảo sát

được độc tính của mẫu thử, chúng tôi lựa chọn mức liều 1 (liều tương đương với

liều có tác dụng) là 200 mg/kg/ngày, cao hơn 1 chút so với liều tính toán 175

mg/kg. Mức liều 2 theo qui định gấp từ 3 đến5, có thể lên đến 10 lần mức liều 1

[167], [124]. Trong nghiên cứu này chúng tôi lựa chọn mức liều 2 là 900

mg/kg/ngày, gấp 4,5 lần mức liều 1. Việc lựa chọn liều ngoài dựa trên cơ sở về liều

đánh giá độc tinh theo qui định trên, còn dựa sự thuận tiện và khả thi để có được

nồng độ và thể tích cho chuột uống hàng ngày. Việc thiết kế các mức liều cho chuột

uống và số lượng chuột sử dụng trong môi lô nghiên cứu như vậy nhằm đảm bảo

độ tin cậy của nghiên cứu và tuân theo qui định của Bộ Y tế trong đánh giá tính an

toàn của thuốc từ dược liệu [167], [124].

Các chỉ tiêu để đánh giá độc tính bán trường diễn bao gồm: tình trạng chung và

thay đổi thể trọng, các chỉ số huyết học, các chỉ số sinh hoá đánh giá chức năng gan,

thận và đặc điểm giải phẫu bệnh của gan, lách, thận.

Tình trạng chung và cân nặng của động vật thực nghiệm là các chỉ số nghiên cứu bắt

buộc theo dõi trước khi dùng thuốc và định kỳ trong thời gian dùng thuốc [193]. Trong suốt

thời gian nghiên cứu, chuột ở cả ba lô đều hoạt động bình thường, lông mượt, da niêm mạc

bình thường, ăn uống bình thường, phân thành khuôn. Sự phát triển cân nặng của chuột ở

các lô bình thường.

Các chỉ số trong xét nghiệm tế bào máu ngoại vi có giá trị lớn trong việc đánh giá

chức năng tạo máu [194]. Vì vậy, chúng tôi đánh giá ảnh hưởng của cao định lượng

NP(H) đến chức phận tạo máu thông qua các chỉ số huyết học gồm: số lượng hồng cầu,

thể tích trung bình hồng cầu, hàm lượng hemoglobin, hematocrit, số lượng bạch cầu,

155

công thức bạch cầu và số lượng tiểu cầu. Ngoài ra, hình ảnh đại thể và vi thể lách, một

cơ quan quan trọng phản ánh chức năng tạo máu và đời sống của các tế bào máu [194],

cũng được đánh giá. Kết quả nghiên cứu cho thấy, xét nghiệm máu về các chỉ số huyết

học tại các thời điểm sau uống cao định lượng NP(H) trong 30, 60 và 90 ngày không

có sự khác biệt có ý nghĩa so với lô chứng và so với trước khi dùng thuốc ở tất cả các

chỉ số nghiên cứu (p > 0,05). Hình ảnh vi thể và đại thể lách chuột bình thường. Các

kết quả này phản ánh cao định lượng NP(H) ở cả hai mức liều đã dùng, không gây

ảnh hưởng xấu lên chức năng tạo máu và đời sống hồng cầu của chuột sau 90 ngày

uống mẫu thử.

Trong đánh giá độc tính, ảnh hưởng của mẫu thử tới gan và thận là yêu cầu bắt

buộc phải đánh giá [124], [191]. Thứ nhất, đây là 2 cơ quan rất quan trọng trong quá

trình chuyển hóa và thải trừ thuốc. Thứ hai, đây là hai cơ quan dễ bị tổn thương nhất khi

dùng thuốc. Gan là một tạng lớn nhất, là trung tâm chuyển hóa quan trọng của cơ

thể. Một chất khi đưa vào cơ thể, nếu có độc tính thường sẽ gây độc với gan, làm

tổn thương tế bào gan. Sự tổn thương tế bào gan làm tăng hoạt độ của một số

enzym có nguồn gốc gan trong huyết thanh, quan trọng nhất là 2 enzym ALT

(Alanin transaminase) và AST (Aspartat transaminase). ALT là enzym có nhiều

nhất ở gan, khu trú trong bào tương của tế bào nhu mô gan. Khi tổn thương hủy

hoại tế bào gan, thậm chí chỉ cần thay đổi tính thấm của màng tế bào gan, hoạt độ

ALT trong máu đã tăng cao. Khác với ALT, 2/3 AST khu trú trong ty thể

(mitochondria) và chỉ ít hơn 1/3 lượng AST khu trú ở bào tương của tế bào. Khi tổn

thương tế bào gan ở mức độ dưới tế bào, AST trong ty thể được giải phóng ra. Do

đó, khi tổn thương gan, AST và ALT đều tăng rất cao so với bình thường, nhưng

mức độ tăng của ALT cao hơn so với AST, tăng sớm trước khi có vàng da, ở tuần

đầu vàng da [195]. Trong nghiên cứu này, hoạt độ ALT và AST trong máu chuột ở

hai lô uống cao định lượng NP(H) không có sự khác biệt có ý nghĩa so với lô chứng

và khi so sánh giữa các thời điểm trước và sau khi uống thuốc thử 30, 60 và 90

156

ngày, chứng tỏ cả 2 liều cao định lượng NP(H) đã dùng đều không gây tổn thương

hủy hoại các tế bào gan. Kết quả mô bệnh học cũng phù hợp với kết quả xét

nghiệm hóa sinh máu. Hình ảnh đại thể và vi thể gan ở cả hai lô uống cao định

lượng NP(H) đều có cấu trúc tế bào gan bình thường, khoảng cửa và mạch máu

bình thường giống như lô chứng, không thấy hình ảnh tổn thương vi thể gan.

Albumin là loại protein quan trọng nhất của huyết thanh. Albumin tham gia

vào hai chức năng chính là duy trì từ 70 đến 80% áp lực thẩm thấu trong huyết

tương, đồng thời liên kết vận chuyển các chất có dạng phân tử nhỏ như bilirubin,

các acid béo hoặc thuốc có bên trong máu. Gan là nơi tổng hợp protein chính cho

nên khi nội tạng này bị tổn thương thì sẽ kéo theo chức năng gan bị suy giảm, dẫn

đến việc hấp thụ các chất dinh dưỡng protein không tốt hoặc bị đình trệ dẫn tới sự

tổng hợp Albumin kém [194]. Vì vậy, việc xét nghiệm chỉ số nồng độ Albumin có

trong máu có giá trị trong đánh giá tổn thương chức năng gan [195]. Kết quả

nghiên cứu cho thấy cao định lượng NP(H) dùng ở cả 2 mức liều dùng, trong 90

ngày không gây ảnh hưởng lên chỉ số Albumin máu chuột, chứng tỏ mẫu thử không

ảnh hưởng chức năng tổng hợp Albumin của gan.

Thận là cơ quan thải trừ, đào thải các chất ra ngoài cơ thể qua nước tiểu. Để tạo

thành nước tiểu, quá trình lọc ở thận các mô thận sẽ có nhiều máu qua nhất, thời gian và

lượng các chất chuyển hoá mà mô thận tiếp xúc thường là nhiều [194]. Mẫu thử khi qua

thận có thể gây độc và làm tổn thương thận, từ đó ảnh hưởng đến chức năng thận.

Creatinin là thành phần đạm trong máu ổn định nhất, gần như không phụ thuộc

vào chế độ ăn hoặc những thay đổi sinh lý mà chỉ phụ thuộc vào khả năng đào

thải của thận, do đó là chỉ số thường được dùng để đánh giá và theo dõi chức

năng thận [195]. Khi cầu thận bị tổn thương, nồng độ creatinin máu tăng sớm và

tin cậy. Trong thí nghiệm này, kết quảđịnh lượng creatinin trong máu chuột ở cả

2 lô uống cao định lượng NP(H) ở cả 2 mức liều dùng, sau 30, 60 và 90 ngày

uống mẫu thử không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê so với lô chứng cũng

157

như so sánh giữa các thời điểm (p > 0,05). Kết quả về xét nghiệm creatinin hoàn

toàn phù hợp với kết quả về mô bệnh học thận. Quan sát đại thể và cấu trúc vi

thể thận của chuột nghiên cứu ở hai lô uống cao định lượng NP(H) cũng như ở lô

chứng không có dấu hiện của tổn thương.

Kết quả nghiên cứu về độc tính của cao định lượng NP(H) chứng tỏ mẫu thử

có tính an toàn cả trong đánh giá độc tính cấp và độc tính bán trường diễn 90 ngày.

Một số nghiên cứu cũng cho thấy Tam thất cũng như các ginsenosid chiết xuất từ

Tam thất hầu như không gây độc tính [196], [197].

158

KẾT LUẬN

1. Về ảnh hưởng của phương pháp chế biến hấp nhiệt đến hàm lượng saponin

của rễ củ Tam thất

Từ cao n-buthanol của dịch chiết MeOH 80%, đã phân lập được 4 hợp chất từ

rễ củ Tam thất chưa chế biến là ginsenosid Rg1 (1), ginsenosid Re (2), ginsenosid

Rd (3) và ginsenosid Rb1 (4) và 2 hợp chất ginsenosid Rg3 (5) và ginsenosid Rh1

(6) từ rễ củ Tam thất sau khi hấp ở nhiệt độ 120oC trong 8h.

Khảo sát các yếu tố hấp: thời gian hấp (0, 4, 8, 12, 16, 20, 24h), nhiệt độ hấp

(1000C, 1200C), mẫu Tam thất tươi hoặc khô. Trong quá trình hấp, hàm lượng các

saponin chính trong Tam thất chưa xử lý qua hấp hơi nóng là Rg1, Rb1 và Rd, Re

giảm dần; hàm lượng các saponin mới như Rh1 và Rg3 tăng lên.

Đã lựa chọn được điều kiện chế biến hấp nhiệt để cho hàm lượng Rh1 và Rg3

cao nhất là: mẫu khô, hấp 120oC trong 8h.

Từ cao định lượng cồn ethanol, đã bào chế được hai loại cao định lượng

NP(O) từ Tam thất chưa hấp và cao định lượng NP(H) từ Tam thất đã hấp, với hiệu

suất chiết cao và hàm lượng saponin trong cao như sau:

2.Về tác dụng kháng u thực nghiệm của các dạng cao định lượng và một số

saponin phân lập từ rễ củ Tam thất.

*Đánh giá tác dụng kháng ung thư của 6 saponin đã phân lập và cao định

lượng NP(O), NP(H) trên một số dòng tế bào ung thư người.

Trong cùng điều kiện thí nghiệm: So sánh hoạt tính in vitro đối với 6 dòng tế

bào ung thư người được thử gồm HT29, HepG2, RD và MCF7, SK LU-1 và A549

hoạt tính của hai saponin Rg3 và Rh1 thu được từ Tam thất hấp qua nhiệt (hơi

nóng) có tác dụng mạnh hơn so với 4 saponin Rg1, Re, Rd và Rb1 thu được khi

nguyên liệu không qua hấp hơi nóng. Hoàn toàn thể hiện cùng chiều hướng khi so

159

sánh hoạt tính của cao định lượng NP(H) có tác dụng mạnh hơn cao định lượng

NP(O).

* Đánh giá độc tính và khảo sát khả năng kích thích apoptosis của cao định

lượng NP(H) trên dòng tế bào ung thư mô liên kết chuột sarcoma TG180.

- Chế phẩm NP(H) tác dụng gây độc với tế bào Sarcoma TG180, với giá trị IC50

thu được: IC50=206, 65±10,11µg/ml.

- Chế phẩm NP(H) ở nồng độ 103,3µg có tác dụng cảm ứng và kích thích tế bào

Sarcoma TG180 chết theo chương trình apoptosis ngay từ giai đoạn sớm thể hiện tỷ

lệ dương tính rất cao cụ thể: Tại thời điểm 24h tăng 134,4% và 48h là 193,4%, xấp

xỉ tăng 200% so với đối chứng.

*Đánh giá tác dụng kháng u trên thực nghiệm in vivo

Trên mô hình chuột mang u sarcoma TG 180, cao định lượng NP(H) có tác

dụng kháng u tốt làm giảm kích thước khối u, tăng cường miễn dịch, chống oxy

hoá bảo vệ gan, kéo dài thời gian sống của chuột. Các tác dụng này của cao định

lượng NP(H) đều mạnh hơn so với của cao định lượng NP(O).

3.Nghiên cứu độc tính cấp, độc tính bán trường diễn của cao định lượng NP(H)

* Độc tính cấp: Chưa tìm thấy LD50 của cao định lượng NP(H) theo đường

uống trên chuột nhắt trắng. Với mức liều cao nhất có thể cho chuột uống trong 24

giờ là 6000mg/kg thể trọng đã không thể hiện độc tính cấp.

* Độc tính bán trường diễn: Khi cho chuột cống trắng uống cao định lượng

NP(H) với 2 mức liều là 200mg/kg/ngày và 900mg/kg/ngày liên tục trong 90 ngày đã

không ảnh hưởng tới sự phát triển cân nặng và hoạt động của chuột, không ảnh hưởng

tới các chỉ số huyết học (số lượng hồng cầu, hemoglobin, hematocrit, thể tích trung bình

hồng cầu, số lượng bạch cầu và số lượng tiểu cầu); sinh hóa (AST, ALT, creatinin,

albumin và cholesterol) và hình thái đại thể cũng như vi thể gan, lách và thận.

160

KIẾN NGHỊ

1. Đánh giá tác dụng của cao định lượng Tam thất hấp nhiệt trên chuột mang khối

tế bào ung thư người, trên chuột mang khối u có phối hợp điều trị hóa chất, tia xạ.

2. Đánh giá tính an toàn và hiệu quả hỗ trợ điều trị ung thư của cao định lượng Tam

thất hấp nhiệt trên lâm sàng.

3. Đánh giá một số tác dụng khác của cao định lượng Tam thất hấp nhiệt: tăng

cường miễn dịch, tăng tạo huyết, chống viêm, chống oxy hóa...

161

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN TIẾN SĨ DƯỢC HỌC

STT

Tên bài báo

Tên tạp chí

1. Phân lập một số saponin từ rễ

Số tạp chí và thời điểm phát hành Tập 23, số 1/2018 (Trang 3 - 10)

Tạp chí Dược liệu

củ Tam thất (Panax notoginseng) trồng tại Việt Nam trước và sau chế biến.

2. Antioxidant and

Hepatoprotective Effects of

Journal of Medicinal Materials

2021, Vol. 26, No. 5 (pp. 311 - 316)

Ethanol Extract from Raw and

Steamed Panax notoginseng

Roots in Sarcoma 180-Bearing

Mice.

Tạp chí Sinh lý học Việt Nam

Tập 25, số 2/2021, tháng 6/2021 (Trang 27 - 36)

3. Ảnh hưởng của NP đối với một số chỉ số huyết học và miễn dịch trên chuột mang khối u rắn sarcoma TG180.

4. Đánh giá độc tính cấp và độc

Tạp chí Y Dược học Quân sự

Tập 46, số 6/2021 (Trang 20 - 28)

tính bán trường diễn của NP(H) trên thực nghiệm.

5. Antitumor Effects of Ethanol

Extract from Raw and Steaming

Vietnamese Panax notoginseng

Tropical Journal of Natural Product Research

November 2021; 5(11):1973-1978

Roots on Sarcoma 180 Tumor-

Bearing Mice.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bray, F., Laversanne, M., Weiderpass, E., & Soerjomataram, I. (2021), “The

ever-increasing importance of cancer as a leading cause of premature death

worldwide”, Cancer, 127(16), pp. 3029–3030.

2. Sung, H., Ferlay, J., Siegel, R. L., Laversanne, M., Soerjomataram, I., Jemal, A.,

& Bray, F. (2021), “Global Cancer Statistics 2020: GLOBOCAN Estimates of

Incidence and Mortality Worldwide for 36 Cancers in 185 Countries”, CA: a

cancer journal for clinicians, 71(3), pp. 209–249.

3. International Agency for Research on Cancer (IARC) (2021), Global Cancer

Observatory -Vietnam Population fact sheets.

4. Pham, T., Bui, L., Kim, G., Hoang, D., Tran, T., & Hoang, M. (2019), “Cancers

in Vietnam-Burden and Control Efforts: A Narrative Scoping Review”, Cancer

control: journal of the Moffitt Cancer Center, 26(1), pp. 1-14.

5. Nguyễn Trung Hòa (2015), Đông y toàn tập, Nhà xuất bản Thuận Hóa, tr. 105-

1053.

6. Đỗ Tất Lợi (2019), Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam (tái bản lần thứ 20),

Nhà xuất bản Hồng Đức, tr. 289-291, 307.

7. Xu, C., Wang, W., Wang, B., Zhang, T., Cui, X., Pu, Y., & Li, N. (2019),

“Analytical methods and biological activities of Panax notoginseng saponins:

Recent trends”, Journal of ethnopharmacology, 236, pp. 443–465.

8. Tan, M. M., Chen, M. H., Han, F., Wang, J. W., & Tu, Y. X. (2021), “Role of

Bioactive Constituents of Panax notoginseng in the Modulation of Tumorigenesis:

A Potential Review for the Treatment of Cancer”, Frontiers in pharmacology, 12,

pp. 738 - 914.

9. Hsieh, S.L., Hsieh, S., Kuo, Y.H., Wang, J.J., Wang, J.C. and Wu, C.C. (2016),

“Effects of Panax notoginseng on the metastasis of human colorectal cancer cells”,

The American Journal of Chinese Medicine, 44(4), pp. 851-870.

10. Sun, S., Wang, C.Z., Tong, R., Li, X.L., Fishbein, A., Wang, Q., He, T.C., Du,

W. and Yuan, C.S. (2010), “Effects of steaming the root of Panax notoginseng on

chemical composition and anticancer activities”, Food Chemistry, 118(2), pp. 307-

314.

11. Toh, D. F., Patel, D. N., Chan, E. C., Teo, A., Neo, S. Y., & Koh, H. L. (2011),

“Anti-proliferative effects of raw and steamed extracts of Panax notoginseng and

its ginsenoside constituents on human liver cancer cells”, Chinese medicine, 6(1),

pp. 4.

12. Peng, M., Yi, Y. X., Zhang, T., Ding, Y., & Le, J. (2018), “Stereoisomers of

Saponins in Panax notoginseng (Sanqi): A Review”, Frontiers in

pharmacology, 9, pp. 188.

13. World Health Organization (WHO) (2017), ‘Best buys’ and other

recommended interventions for the prevention and control of noncommunicable

diseases: updated Appendix 3 of the Global Action Plan for the Prevention and

Control of Noncommunicable Diseases 2013-2020, WHO.

14. Gelband H, Sankaranarayanan R, Gauvreau CL, et al (2016), “Costs,

affordability, and feasibility of an essential package of cancer control interventions

in low-income and middle-income countries: key messages from Disease Control

Priorities, 3rd edition”, The Lancet, 387(10033), pp. 2133- 2144.

15. Nguyen, T. P., Luu, H. N., Nguyen, M., Tran, M. T., Tuong, T., Tran, C., &

Boffetta, P. (2020), “Attributable Causes of Cancer in Vietnam”, JCO global

oncology, 6, pp. 195–204.

16. Nguyễn Ngọc Lanh và Văn Đình Hoa (2006), Miễn dịch học, Nhà xuất bản Y

học Hà Nội, tr. 21-24.

17. A. Shanker, F.M. Marincola (2011), “Cooperativity of adaptive and innate

immunity: implications for cancer therapy Cancer Immunol”, Immunother, 60(8),

pp. 1061-74.

18. Hiam-Galvez, K.J., Allen, B.M. & Spitzer, M.H(2021), “Systemic immunity in

cancer”, Nat Rev Cancer, 21(6), pp. 345–359.

19. Spurrell, E. L., & Lockley, M. (2014), “Adaptive immunity in cancer

immunology and therapeutics”, Ecancermedicalscience, 8, pp. 441.

20. Filin, I. Y., Solovyeva, V. V., Kitaeva, K. V., Rutland, C. S., & Rizvanov, A.

A. (2020), “Current Trends in Cancer Immunotherapy”, Biomedicines, 8(12), pp.

621.

21. Gomez-Cadena, A., Barreto, A., Fioretino, S., & Jandus, C. (2020), “Immune

system activation by natural products and complex fractions: a network

pharmacology approach in cancer treatment”, Cell stress, 4(7), pp. 154–166.

22. Wang, Y., Zhang, Q., Chen, Y., Liang, C. L., Liu, H., Qiu, F., & Dai, Z. (2020),

“Antitumor effects of immunity-enhancing traditional Chinese medicine”,

Biomedicine & pharmacotherapy, 121, pp. 109570.

23. Pizzino, G., Irrera, N., Cucinotta, M., Pallio, G., Mannino, F., Arcoraci, V.,

Squadrito, F., Altavilla, D., & Bitto, A. (2017), “Oxidative Stress: Harms and

Benefits for Human Health”, Oxidative medicine and cellular longevity, 2017, pp.

8416763.

24. Pisoschi A.M., Pop A (2015), “The role of antioxidants in the chemistry of

oxidative stress: A review”, Eur J Med Chem, 97, pp. 55–74.

25. Djordjević, V. B., Zvezdano-vić, L., & Cosić, V. (2008), “Srpski arhiv za

celokupno lekarstvo”, 136(2), pp. 158-165.

26. Nguyễn Bá Đức (2009), Ung Thư Học Đại Cương (dùng cho đào tạo bác sỹ đa

khoa), Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam, tr. 9-26.

27. Waris, G., & Ahsan, H. (2006), “Reactive oxygen species: role in the

development of cancer and various chronic conditions”, Journal of carcinogenesis,

5, pp. 14

28. Saed G.M., Diamond M.P., Fletcher N.M (2017), “Updates of the role of

oxidative stress in the pathogenesis of ovarian cancer”, Gynecol Oncol, 145(3), pp.

595–602.

29. Wang Z.P., Li Z.N., Ye Y.S., Xie L.J., Li W (2016), “Oxidative stress and liver

cancer: Etiology and therapeutic targets”, Oxidative Med Cell Longev, 2016, pp.

7891574.

30. Forcados G.E., James D.B., Sallau A.B., Muhammad A., Mabeta P (2017),

“Oxidative stress and carcinogenesis: Potential of phytochemicals in breast cancer

therapy”, Nutr Cancer, 69(3), pp. 365–374.

31. Matsui A., Ikeda T., Enomoto K., Hosoda K., Nakashima H., Omae K.,

Watanabe M., Hibi T., Kitajima M (2000), “Increased formation of oxidative DNA

damage, 8-hydroxy-2′-deoxyguanosine, in human breast cancer tissue and its

relationship to GSTP1 and COMT genotypes”, Cancer Lett, 151(1), pp. 87–95.

32. Sova H., Jukkola-Vuorinen A., Puistola U., Kauppila S., Karihtala P (2010), “8-

Hydroxydeoxyguanosine: A new potential independent prognostic factor in breast

cancer”, British Journal of Cancer, 102(6), pp. 1018–1023.

33. Reczek, C. R., Birsoy, K., Kong, H., Martínez-Reyes, I., Wang, T., Gao, P.,

Sabatini, D. M., & Chandel, N. S. (2017), “A CRISPR screen identifies a pathway

required for paraquat-induced cell death”, Nature chemical biology, 13(12), pp.

1274–1279.

34. Dodson, M., Castro-Portuguez, R., & Zhang, D. D. (2019), “NRF2 plays a

critical role in mitigating lipid peroxidation and ferroptosis”, Redox biology, 23, pp.

101107.

35. Redza-Dutordoir, M., & Averill-Bates, D. A. (2016), “Activation of apoptosis

signalling pathways by reactive oxygen species”, Biochimica et biophysica acta,

1863(12), pp. 2977–2992.

36. Prasad, S., Gupta, S. C., Pandey, M. K., Tyagi, A. K., & Deb, L. (2016),

“Oxidative Stress and Cancer: Advances and Challenges”, Oxidative medicine and

cellular longevity, 2016, pp. 5010423.

37. Yadav, Anuj & Kumari, Rewa & Yadav, Ashwani & Srivastava, Dr. Seweta &

Prabha, Shashi. (2016), “Antioxidants and its functions in human body - A

Review”, Research in Environment and Life Science, 9, pp. 1328-1331.

38. Singh, K., Bhori, M., Kasu, Y. A., Bhat, G., & Marar, T. (2018), “Antioxidants

as precision weapons in war against cancer chemotherapy induced toxicity -

Exploring the armoury of obscurity”, Saudi pharmaceutical journal, 26(2), pp.

177–190.

39. Li, S., Tan, H. Y., Wang, N., Zhang, Z. J., Lao, L., Wong, C. W., & Feng, Y.

(2015), “The Role of Oxidative Stress and Antioxidants in Liver Diseases”,

International journal of molecular sciences, 16(11), pp. 26087–26124.

40. Jadeja, R. N., Devkar, R. V., & Nammi, S. (2017), “Oxidative Stress in Liver

Diseases: Pathogenesis, Prevention, and Therapeutics”, Oxidative medicine and

cellular longevity, 2017, pp. 8341286.

41. Doaa A. Ali, Nariman K. Badr El-Din & Rania F. Abou-El-magd (2015),

“Antioxidant and hepatoprotective activities of grape seeds and skin against Ehrlich

solid tumor induced oxidative stress in mice”, Egyptian Journal of Basic and

Applied Sciences, 2(2), pp. 98-109.

42. Kuo, T. H., Kuo, Y. H., Cho, C. Y., Yao, C. J., Lai, G. M., & Chuang, S. E.

(2019), “Protective Effect of Antrodia cinnamomea Extract against Irradiation-

Induced Acute Hepatitis”, International journal of molecular sciences, 20(4), pp.

846.

43. Gadjeva, V., Grigorov, B., Nikolova, G., Tolekova, A., Zheleva, A., &

Vasileva, M. (2013), “Protective effect of spin-labeled 1-ethyl-1-nitrosourea

against oxidative stress in liver induced by antitumor drugs and radiation”, BioMed

research international, 2013, pp. 924870.

44. Gómez-Zorita, S., González-Arceo, M., Fernández-Quintela, A., Eseberri, I.,

Trepiana, J., & Portillo, M. P. (2020), “Scientific Evidence Supporting the

Beneficial Effects of Isoflavones on Human Health”, Nutrients, 12(12), pp. 3853.

45. Kang N.J., Jung S.K., Lee K.W., Lee H.J (2011), “Myricetin is a potent

chemopreventive phytochemical in skin carcinogenesis”, Ann N Y Acad Sci, 1229,

pp. 124–132.

46. García E.R., Gutierrez E.A., de Melo F.C.S.A., Novaes R.D., Gonçalves R.V.

(2018), “Flavonoids effects on hepatocellular carcinoma in murine models: A

systematic review”, Evid Based Complement Altern Med, 2018, pp. 6328970.

47. Vetvicka V, Teplyakova TV, Shintyapina AB, Korolenko TA (2021), “Effects

of Medicinal Fungi-Derived β-Glucan on Tumor Progression”, Journal of Fungi,

7(4), pp. 250.

48. Ina, K., Kataoka, T., & Ando, T. (2013), “The use of lentinan for treating

gastric cancer”, Anti-cancer agents in medicinal chemistry, 13(5), pp. 681–688.

49. Li, X., He, Y., Zeng, P., Liu, Y., Zhang, M., Hao, C., Wang, H., Lv, Z., &

Zhang, L. (2019), “Molecular basis for Poria cocos mushroom polysaccharide used

as an antitumour drug in China”, Journal of cellular and molecular medicine,

23(1), pp. 4–20.

50. Luo, H., Vong, C. T., Chen, H., Gao, Y., Lyu, P., Qiu, L., Zhao, M., Liu, Q.,

Cheng, Z., Zou, J., Yao, P., Gao, C., Wei, J., Ung, C., Wang, S., Zhong, Z., &

Wang, Y. (2019), “Naturally occurring anti-cancer compounds: shining from

Chinese herbal medicine”, Chinese medicine, 14, pp. 48.

51. Liu, W., Yang, B., Yang, L., Kaur, J., Jessop, C., Fadhil, R., Good, D., Ni, G.,

Liu, X., Mosaiab, T., Yi, Z., & Wei, M. Q. (2019), “Therapeutic Effects of Ten

Commonly Used Chinese Herbs and Their Bioactive Compounds on Cancers”,

Evidence-based complementary and alternative medicine, 2019, pp. 6057837.

52. Pérez, L. B., Still, P. C., Naman, C. B., Ren, Y., Pan, L., Chai, H. B., Carcache

de Blanco, E. J., Ninh, T. N., Van Thanh, B., Swanson, S. M., Soejarto, D. D., &

Kinghorn, A. D. (2014), “Investigation of Vietnamese plants for potential

anticancer agents”, Phytochemistry reviews: proceedings of the Phytochemical

Society of Europe, 13(4), pp. 727–739.

53. Vũ Thị Nguyệt, Nguyễn Tiến Đạt, Lê Mai Hương, Trần Thị Hồng Hà, Nguyễn

Hồng Chuyên, Nguyễn Thị Hằng, Đặng Đình Kim (2018), “Đánh giá hoạt tính gây

độc tế bào ung thư của các chất chiết xuất từ thân cây xạ đen (Ehretia asperula

Zoll. & Mor)”, Tạp chí Sinh học, 40(2), tr. 145-152.

54. Trần Thị Hải Vân, Nguyễn Quỳnh Anh, Đỗ Hòa Bình, Phan Anh Tuấn (2013),

“Tác dụng kháng ung thư của cốm sói rừng trên chuột mang u sarcoma 180”, Tạp

chí Y dược học cổ truyền Việt Nam, 38, tr. 9-15.

55. Trần Mạnh Hùng, Nguyễn Hải Đăng, Trần Phương Thảo, Trần Phi Long, Jeong

Hyung Lee, Lê Phước Cường, Phạm Thanh Huyền, Phương Thiện Thương (2018),

“Bước đầu nghiên cứu hoạt tính gây độc tế bào ung thư tụy của lanostan

triterpenoid từ lá cây na rừng”, Tạp chí Dược liệu, tập 23(4), tr. 210 - 216.

56. Bộ môn Dược liệu (2004), Bài giảng dược liệu, Tập 1, Bộ môn Dược liệu

trường Đại học Dược Hà Nội, tr. 172-177.

57. Đỗ Huy Bích và cộng sự (2006), Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam,

tập 1, 2, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, tr. 775-780.

58. Qu, J., Xu, N., Zhang, J., Geng, X., & Zhang, R. (2020), “Panax notoginseng

saponins and their applications in nervous system disorders: a narrative review”,

Annals of translational medicine, 8(22), pp. 1525.

59. Wei, G., Dong, L., Yang, J., Zhang, L., Xu, J., Yang, F., Cheng, R., Xu, R., &

Chen, S. (2018), “Integrated metabolomic and transcriptomic analyses revealed the

distribution of saponins in Panax notoginseng”, Acta pharmaceutica Sinica, 8(3),

pp. 458–465.

60. Wang, Zheng & Chen, Yuan-yuan & Pan, Hui-jie & Wei, Li & Wang, You-hua

& Zeng, Chen-hong (2015), “Saponin Accumulation in Flower Buds of Panax

notoginseng”, Chinese Herbal Medicines, 7(2), pp. 179-184.

61. Wang, D., Zhu, H., Chen, K., Xu, M., Zhang, Y., & Yang, C. (2011), “Saponin

accumulation in the seedling root of Panax notoginseng”, Chinese medicine, 6(1),

pp. 5.

62. Zhang H-z, Liu D-h, Zhang D-k, Wang Y-h, Li G, Yan G-l, et al. (2016),

“Quality Assessment of Panax notoginseng from Different Regions through the

Analysis of Marker Chemicals, Biological Potency and Ecological Factors”, PLoS

ONE, 11(10), pp. e0164384.

63. Toh DF, New LS, Koh HL, Chan EC. (2010), “Ultra-high performance liquid

chromatography/time-of-flight mass spectrometry (UHPLC/TOFMS) for time-

dependent profiling of raw and steamed Panax notoginseng”, J Pharm Biomed

Anal, 52(1), pp. 43–50.

64. Chen B, Cai T, Jia XB. (2014), “Simultaneous determination of ten active

ginsenosides in steamed notoginseng by UPLC”, China J Chinese Materia Med,

39, pp. 1614–1619.

65. Wu S, Guo CL, Cui XM, Yang XY. (2015), “Simultaneous determination of ten

kinds of saponins in raw and steamed Panax notoginseng root and rhizome by

HPLC”, J Chin Med Mater, 38, pp. 1622–1625.

66. Wang, J.-R., Yau, L.-F., Gao, W.-N., Liu, Y., Yick, P.-W., Liu, L., et al.

(2014), “Quantitative Comparison and Metabolite Profiling of Saponins in

Different Parts of the Root of Panax Notoginseng”, J Agric Food Chem, 62, pp.

9024–9034.

67. Lee, C.-Y., Hsieh, S.-L., Hsieh, S., Tsai, C.-C., Hsieh, L.-C., Kuo, Y.-H., et al.

(2017), “Inhibition of Human Colorectal Cancer Metastasis by Notoginsenoside

R1, an Important Compound from Panax Notoginseng”, Oncol Rep, 37, pp. 399–

407.

68. Thu Dang Kim, Hai Nguyen Thanh, Duong Nguyen Thuy, Loi Vu Duc, Thu Vu

Thi, Hung Vu Manh, Patcharee Boonsiri, Tung Bui Thanh (2016), “Anticancer

effects of saponin and saponin–phospholipid complex of Panax notoginseng grown

in Vietnam”, Asian Pacific Journal of Tropical Biomedicine, 6(9), pp. 795-800.

69. Ohtani K., Mizutani K., Hatono S., Kasai R., Sumino R., Shiota T., Ushijima

M., Zhou J., Fuwa T., Tanaka O. (1987), “Sanchinan-A, a reticuloendothelial

system activating arabinogalactan from sanchi-ginseng (roots of Panax

notoginseng)”, Planta Medica, 53(2), pp. 166-169.

70. Li X. Y. (1991), “Immunomodulating Chinese herbal medicines”, Memorias do

Instituto Oswaldo Cruz, 86(2), pp. 159-164.

71. Gao H., Wang F., Lien E. J., Trousdale M. D. (1996), “Immunostimulating

polysaccharides from Panax notoginseng”, Pharmaceutical Research, 13(8), pp.

1196-200.

72. Sun H. X., Pan H. J., Pan Y. J. (2003), “Haemolytic activities and immunologic

adjuvant effect of Panax notoginseng saponins”, Acta pharmacologica Sinica,

24(11), pp. 1150-1154.

73. Choi, J. G., Jin, Y. H., Lee, H., Oh, T. W., Yim, N. H., Cho, W. K., & Ma, J. Y.

(2017), “Protective Effect of Panax notoginseng Root Water Extract against

Influenza A Virus Infection by Enhancing Antiviral Interferon-Mediated Immune

Responses and Natural Killer Cell Activity”, Frontiers in immunology, 8, pp. 1542.

74. Kim, B., Kim, E. Y., Lee, E. J., Han, J. H., Kwak, C. H., Jung, Y. S., Lee, S. O.,

Chung, T. W., & Ha, K. T. (2018), “Panax notoginseng Inhibits Tumor Growth

through Activating Macrophage to M1 Polarization”, The American journal of

Chinese medicine, 46(6), pp. 1369–1385.

75. Zhang, Y., Qiu, Z., Qiu, Y., Su, T., Qu, P., & Jia, A. (2019), “Functional

Regulation of Ginsenosides on Myeloid Immunosuppressive Cells in the Tumor

Microenvironment”, Integrative cancer therapies, 18, pp. 1-9.

76. Zhang, Z., Zhang, Y., Gao, M., Cui, X., Yang, Y., van Duijn, B., Wang, M.,

Hu, Y., Wang, C., & Xiong, Y. (2020), “Steamed Panax notoginseng Attenuates

Anemia in Mice With Blood Deficiency Syndrome via Regulating Hematopoietic

Factors and JAK-STAT Pathway”, Frontiers in pharmacology, 10, pp. 1578.

77. Wu R, Ru Q, Chen L, Ma B, Li C. (2014), “Stereospecificity of ginsenoside

Rg3 in the promotion of cellular immunity in hepatoma H22-bearing mice”, J Food

Sci, 79(7), pp. 1430–1435.

78. Wei B, Duan Z, Zhu C, Deng J, Fan D. (2018), “Anti-anemia effects of

ginsenoside Rk3 and ginsenoside Rh4 on mice with ribavirin-induced anemia”,

Food Funct, 9(4), pp. 2447–2455.

79. Guang-Rong Zhao, Zhi-Jun Xiang, Ting-Xiang Ye, Ying-Jin Yuan, Zhi-Xin

Guo (2006), “Antioxidant activities of Salvia miltiorrhiza and Panax notoginseng”,

Food Chemistry, 99(4), pp. 767-774.

80. He, N. W., Zhao, Y., Guo, L., Shang, J., & Yang, X. B. (2012), “Antioxidant,

antiproliferative, and pro-apoptotic activities of a saponin extract derived from the

roots of Panax notoginseng (Burk.) F.H. Chen”, Journal of medicinal food, 15(4),

pp. 350–359.

81. Xiong, Y., Chen, L., Man, J., Hu, Y., & Cui, X. (2019), “Chemical and

bioactive comparison of Panax notoginseng root and rhizome in raw and steamed

forms”, Journal of ginseng research, 43(3), pp. 385–393.

82. Xiong Y, Chen L, Hu Y and Cui X (2017), “Uncovering Active Constituents

Responsible for Different Activities of Raw and Steamed Panax notoginseng

Roots”, Front Pharmacol, 8, pp. 745.

83. You, S., Shi, X., Yu, D., Zhao, D., An, Q., Wang, D., Zhang, J., Li, M., &

Wang, C. (2021), “Fermentation of Panax notoginseng root extract polysaccharides

attenuates oxidative stress and promotes type I procollagen synthesis in human

dermal fibroblast cells”, BMC complementary medicine and therapies, 21(1), pp.

34.

84. Zhou, L., Huang, P. P., Chen, L. L., & Wang, P. (2019), “Panax Notoginseng

Saponins Ameliorate Aβ-Mediated Neurotoxicity in C. elegans through

Antioxidant Activities”, Evidence-based complementary and alternative medicine,

2019, pp. 7621043.

85. Du, Y. G., Wang, L. P., Qian, J. W., Zhang, K. N., & Chai, K. F. (2016),

“Panax notoginseng saponins protect kidney from diabetes by up-regulating silent

information regulator 1 and activating antioxidant proteins in rats”, Chinese journal

of integrative medicine, 22(12), pp. 910–917.

86. Chan, Paul & Pai Feng, Kao & Tomlinson, Brian. (2005), “Cardiovascular

Effects of Trilinolein, a Natural Triglyceride Isolated from the Herb Sanchi (Panax

Notoginseng)”, Acta Cardiologica Sinica, 21, pp. 71-76.

87. Hu S, Wu Y, Zhao B, Hu H, Zhu B, Sun Z, Li P, Du S. (2018), “Panax

notoginseng Saponins Protect Cerebral Microvascular Endothelial Cells against

Oxygen-Glucose Deprivation/Reperfusion-Induced Barrier Dysfunction via

Activation of PI3K/Akt/Nrf2 Antioxidant Signaling Pathway”, Molecules, 23(11),

pp. 2781.

88. Ding, R. B., Tian, K., Cao, Y. W., Bao, J. L., Wang, M., He, C., Hu, Y., Su, H.,

& Wan, J. B. (2015), “Protective effect of panax notoginseng saponins on acute

ethanol-induced liver injury is associated with ameliorating hepatic lipid

accumulation and reducing ethanol-mediated oxidative stress”, Journal of

agricultural and food chemistry, 63(9), pp. 2413–2422.

89. Sanchez-Valle V., Chavez-Tapia N.C., Uribe M., Mendez-Sanchez N (2012),

“Role of oxidative stress and molecular changes in liver fibrosis: A review”, Curr

Med Chem, 19, pp. 4850–4860.

90. Sakaguchi S., Takahashi S., Sasaki T., Kumagai T., Nagata K (2011),

“Progression of alcoholic and non-alcoholic steatohepatitis: Common metabolic

aspects of innate immune system and oxidative stress”, Drug Metab

Pharmacokinet, 2011(26), pp. 30–46.

91. Cichoz-Lach H., Michalak A (2014), “Oxidative stress as a crucial factor in

liver diseases”, World J Gastroenterol, 20, pp. 8082–8091.

92. Wu D., Cederbaum A.I (2009), “Oxidative stress and alcoholic liver disease”,

Semin Liver Dis, 29, pp. 141–154.

93. Lin, C. F., Wong, K. L., Wu, R. S., Huang, T. C., & Liu, C. F. (2003),

“Protection by hot water extract of Panax notoginseng on chronic ethanol-induced

hepatotoxicity”, Phytotherapy research : PTR, 17(9), pp. 1119–1122.

94. Dương Thị Ly Hương, Nguyễn Trần Giáng Hương, Phạm Xuân Sinh (2004),

“Tác dụng hồi phục các tổn thương gan gây ra bởi CCl4 của củ tam thất trên chuột

thực nghiệm”, Tạp chí Dược học, tập 334, tr. 38-41.

95. Prasain, J. K., Kadota, S., Basnet, P., Hase, K., & Namba, T. (1996),

“Hepatoprotective effects of Panax notoginseng: Ginsenosides -Re and -Rg(1) as

its active constituents in D-galactosamine/lipopolysaccharide-induced liver injury”,

Phytomedicine : international journal of phytotherapy and phytopharmacology,

2(4), pp. 297–303.

96. Wang, C., Zheng, L., Liu, S., Guo, X., Qu, Y., Gao, M., Cui, X., & Yang, Y.

(2020), “A novel acidic polysaccharide from the residue of Panax notoginseng and

its hepatoprotective effect on alcoholic liver damage in mice”, International

journal of biological macromolecules, 149, pp. 1084–1097.

97. Qu, L., Fu, R., Ma, X., & Fan, D. (2021), “Hepatoprotective effects of

ginsenoside Rk3 in acetaminophen-induced liver injury in mice by activation of

autophagy”, Food & function, 12(19), pp. 9128–9140.

98. Zhong, H., Wu, H., Bai, H., Wang, M., Wen, J., Gong, J., Miao, M., & Yuan, F.

(2019), “Panax notoginseng saponins promote liver regeneration through activation

of the PI3K/AKT/mTOR cell proliferation pathway and upregulation of the

AKT/Bad cell survival pathway in mice”, BMC complementary and alternative

medicine, 19(1), pp. 122.

99. Bui Thanh Tung, Nguyen Thanh Hai, Vu Thi Thom, Nguyen Huu Tung, Vu

Duc Loi, Vu Manh Hung, Bui Thi Thu Ha (2016), “Phytochemical and

Antithrombotic Effect of Panax notoginseng Grown in Viet Nam”, Current

Traditional Medicine, 2(1), pp. 50-58.

100. Xu, Z. Y., Xu, Y., Xie, X. F., Tian, Y., Sui, J. H., Sun, Y., Lin, D. S., Gao, X.,

Peng, C., & Fan, Y. J. (2021), “Anti-platelet aggregation of Panax notoginseng

triol saponins by regulating GP1BA for ischemic stroke therapy”, Chinese

medicine, 16(1), pp. 12.

101. Zejun Zhang, Lijuan Chen, Xiu-ming Cui, Yiming Zhang, Yupiao Hu,

Chengxiao Wang and Yin Xiong (2019), “Identification of anti-inflammatory

components of raw and steamed Panax notoginseng root by analyses of spectrum-

effect relationship”, RSC Advances, 2019(9), pp. 17950-17958.

102. Uzayisenga, R., Ayeka, P. A., & Wang, Y. (2014), “Anti-diabetic potential of

Panax notoginseng saponins (PNS): a review”, Phytotherapy research : PTR,

28(4), pp. 510–516.

103. Joo, I. W., Ryu, J. H., & Oh, H. J. (2010), “The influence of Sam-Chil-Geun

(Panax notoginseng) on the serum lipid levels and inflammations of rats with

hyperlipidemia induced by poloxamer-407”, Yonsei medical journal, 51(4), pp.

504–510.

104. Zhang, X., Zhang, B., Zhang, C., Sun, G., & Sun, X. (2021), “Effect of Panax

notoginseng Saponins and Major Anti-Obesity Components on Weight Loss”,

Frontiers in pharmacology, 11, pp. 601751.

105. Iijima, Y., Bandow, K., Sano, M., Hino, S., Kaneko, T., Horie, N., &

Sakagami, H. (2019), “In Vitro Assessment of Antitumor Potential and

Combination Effect of Classical and Molecular-targeted Anticancer Drugs”,

Anticancer research, 39(12), pp. 6673–6684.

106. Kapałczyńska, M., Kolenda, T., Przybyła, W., Zajączkowska, M., Teresiak,

A., Filas, V., Ibbs, M., Bliźniak, R., Łuczewski, Ł., & Lamperska, K. (2018), “2D

and 3D cell cultures - a comparison of different types of cancer cell cultures”,

Archives of medical science : AMS, 14(4), pp. 910–919.

107. Obeng E. (2021), “Apoptosis (programmed cell death) and its signals - A

review”, Brazilian journal of biology = Revista brasleira de biologia, 81(4), pp.

1133–1143.

108. Wilkins, R. C., Kutzner, B. C., Truong, M., Sanchez-Dardon, J., & McLean, J.

R. (2002), “Analysis of radiation-induced apoptosis in human lymphocytes: flow

cytometry using Annexin V and propidium iodide versus the neutral comet

assay”, Cytometry, 48(1), pp. 14–19.

109. Shoshan-Barmatz, V., De, S., & Meir, A. (2017), “The Mitochondrial

Voltage-Dependent Anion Channel 1, Ca2+ Transport, Apoptosis, and Their

Regulation”, Frontiers in oncology, 7, pp. 60.

110. Nichani, K., Li, J., Suzuki, M., & Houston, J. P. (2020), “Evaluation of

Caspase-3 Activity During Apoptosis with Fluorescence Lifetime-Based Cytometry

Measurements and Phasor Analyses”, CytometryPart A : the journal of the

International Society for Analytical Cytology, 97(12), pp. 1265–1275.

111. Khan, Saleem & Telang, Avinash & Kumar, Jitendra. (2013), “DNA

fragmentation, apoptosis and cell cycle arrest induced by sodium arsenite in

cultured murine Sertoli cells: Prevention by curcumin”, Toxicological and

Environmental Chemistry, 95(6), pp. 1006-1018.

112. Onaciu, A., Munteanu, R., Munteanu, V. C., Gulei, D., Raduly, L., Feder, R.

I., Pirlog, R., Atanasov, A. G., Korban, S. S., Irimie, A.,& Berindan-Neagoe, I.

(2020), “Spontaneous and Induced Animal Models for Cancer Research”,

Diagnostics (Basel, Switzerland), 10(9), pp. 660.

113. Li, Z., Zheng, W., Wang, H., Cheng, Y., Fang, Y., Wu, F., Sun, G., Sun, G.,

Lv, C., & Hui, B. (2021), “Application of Animal Models in Cancer Research:

Recent Progress and Future Prospects”, Cancer management and research, 13, pp.

2455–2475.

114. Pelleitier, M., & Montplaisir, S. (1975), “The nude mouse: a model of

deficient T-cell function”, Methods and achievements in experimental pathology, 7,

pp. 149–166.

115. Zhou S, Jiang N, Zhang M, Xiao X, Liu Z, Xu X, Gao Q, Lv W (2020),

“Analyzing Active Constituents and Optimal Steaming Conditions Related to the

Hematopoietic Effect of Steamed Panax notoginseng by Network Pharmacology

Coupled with Response Surface Methodology”, BioMed Research International,

2020, pp. 9371426.

116. Wang Dong, Peng-Ying Liao, Hong-Tao Zhu, Ke-Ke Chen, Min Xu, Ying-

Jun Zhang, Chong-Ren Yang (2012), "The processing of Panax notoginseng and

the transformation of its saponin components", Food Chemistry, 132(4), pp. 1808-

1813.

117. Monks, A., Scudiero, D., Skehan, P., Shoemaker, R., Paull, K., Vistica, D.,

Hose, C., Langley, J., Cronise, P., & Vaigro-Wolff, A. (1991), “Feasibility of a

high-flux anticancer drug screen using a diverse panel of cultured human tumor cell

lines”, Journal of the National Cancer Institute, 83(11), pp. 757–766.

118. Kopper L, Van Hanh T, Lapis K. (1982), “Experimental model for liver

metastasis formation using Lewis lung tumor”, J Cancer Res Clin Oncol, 103(1),

pp. 31-38.

119. Bagley RG, Ren Y, Kurtzberg L, Weber W, Bangari D, Brondyk W, Teicher

BA (2012), “Human choriocarcinomas: placental growth factor-dependent

preclinical tumor models”, Int J Oncol, 40(2), pp. 479-486.

120. Itokawa H, Ichihara Y, Watanabe K, Takeya K (1989), “An antitumor

principle from Euphorbia lathyris”, Planta Med, 55(3), pp. 271-272.

121. Stefanova, T. H., Nikolova, N. J., Toshkova, R. A., & Neychev, H. O. (2007),

“Antitumor and immunomodulatory effect of coumarin and 7-hydroxycoumarin

against Sarcoma 180 in mice”, Journal of experimental therapeutics & oncology,

6(2), pp. 107–115.

122. Janet Hoff. (2000), “Methods of blood collection in the mouse”, Lab Animal,

29(10), pp. 47-53.

123. Geran RI, Greenberg NH, MacDonald MM, Schumacher A, Abbott BJ

(1972), “Protocols for screening chemical agents and natural products against

animal tumors and other biological systems”, Cancer Chemother Rep, 3(2), pp. 1-

103.

124. Bộ y tế (2015), Hướng dẫn thử nghiệm tiền lâm sàng và lâm sàng thuốc đông

y, thuốc từ dược liệu, ban hành kèm theo Quyết định số 141/QĐ-K2ĐT ngày

27/10/2015 của Cục Khoa học Công nghệ và Đào tạo, Bộ y tế.

125. WHO (2000), General Guidelines for Methodologies on Research and

Evaluation of Traditional Medicine.

126. Kim D. S., Y. J. Chang, U. Zedk, P. Zhao, Y. Q. Liu, C. R. Yang (1995),

"Dammarane saponins from Panax ginseng", Phytochemistry, 40(5), pp. 1493-7.

127. Yahara Shoji, Kiyoko Kaji, Osamu Tanaka (1979), "Further Study on

Dammarane-Type Saponins of Roots, Leaves, Flower-Buds, and Fruits of Panax

ginseng C. A. Meyer", Chemical & Pharmaceutical Bulletin, 27(1), pp. 88-92.

128. Hương Trần Thu, Lê Huyền Trâm, Trần Thượng Quảng, Trần Thị Minh,

Nguyễn Tuấn Anh, Hồ Đức Cường (2009), "Ginsenosid Rg1 và L-Tryptophan từ

cây Lược vàng (Callisia fragrans)", Tạp chí Khoa học và Công nghệ các trường

Đại học Kỹ thuật, 74, pp. 107-112.

129. Kang Dong Il, Ki-Woong Jung, Seoungkeum Kim, Sung-Ah Lee, Gil-Ja Jhon,

Yangmee Kim (2007), "Tertiary structure of ginsenoside Re studied by NMR

spectroscopy", Bull. Korean Chem., 28(12), pp. 2209-2213.

130. Han M., J. G. Hou, C. M. Dong, W. Li, H. L. Yu, Y. N. Zheng, L. Chen

(2010), "Isolation, synthesis and structures of ginsenoside derivatives and their

anti-tumor bioactivity", Molecules, 15(1), pp. 399-406.

131. Cho Jin-Gyeong, Min-Kyung Lee, Jae-Woong Lee, Hee-Jung Park, Dae-

Young Lee, Youn-Hyung Lee, Deok-Chun Yang, Nam-In Baek (2010),

"Physicochemical Characterization and NMR assignments of ginsenosids Rb1,

Rb2, Rc, and Rd isolated from Panax ginseng", J. Ginseng Res, 34(2), pp. 113-121.

132. Li Gang, Xiao-xiao Zhang, Lin Lin, Xiao-ning Liu, Cheng-jun Ma, Ji Li, Chi-

bo Wang (2014), "Preparation of ginsenosid Rg3 and protection against H2O2-

induced oxidative stress in human neuroblastoma SK-N-SH cells", Journal of

Chemistry, 2014, pp. 6.

133. Reuter, S., Gupta, S.C., Chaturvedi, M.M. and Aggarwal, B.B. (2010),

“Oxidative stress, inflammation, and cancer: how are they linked?”, Free Radical

Biology and Medicine, 49(11), pp. 1603-1616.

134. Senthilkumar, N., Badami, S., Dongre, S.H. and Bhojraj, S.(2008),

“Antioxidant and hepatoprotective activity of the methanol extract of Careya

arborea bark in Ehrlich ascites carcinoma-bearing mice”, Journal of Natural

Medicines, 62(3), pp. 336-339.

135. Ge Feng, Zhuangjia Huang, Hong Yu, Yan Wang, Diqiu Liu (2016),

"Transformation of Panax notoginseng saponins by steaming and Trichoderma

longibrachiatum", Biotechnology & Biotechnological Equipment, 30(1), pp. 165-

172.

136. Lau A. J., D. F. Toh, T. K. Chua, Y. K. Pang, S. O. Woo, H. L. Koh (2009),

"Antiplatelet and anticoagulant effects of Panax notoginseng: comparison of raw

and steamed Panax notoginseng with Panax ginseng and Panax quinquefolium", J

Ethnopharmacol, 125(3), pp. 380-6.

137. Gu CZ, Qiao YJ, Wang D, Zhu HT, Yang CR, Xu M, Zhang YJ (2018), “New

triterpenoid saponins from the steaming treated roots of Panax notoginseng”, Nat

Prod Res, 32(3), pp. 294-301.

138. He F, Ding Y, Liang C, Song S B, Dou DQ. Song GY, Kim YH (2014),

“Antitumor effects of dammarane-type saponins from steamed Notoginseng”,

Pharmacogn Mag, 10(39), pp. 314-317.

139. Kim, S. J., & Kim, A. K. (2015), “Anti-breast cancer activity of Fine Black

ginseng (Panax ginseng Meyer) and ginsenoside Rg5”, Journal of ginseng

research, 39(2), pp. 125–134.

140. Wang, C. Z., Aung, H. H., Ni, M., Wu, J. A., Tong, R., Wicks, S., He, T. C.,

& Yuan, C. S. (2007), “Red American ginseng: ginsenoside constituents and

antiproliferative activities of heat-processed Panax quinquefolius roots”, Planta

medica, 73(7), pp. 669–674.

141. Wang, C. Z., Anderson, S., DU, W., He, T. C., & Yuan, C. S. (2016), “Red

ginseng and cancer treatment”, Chinese journal of natural medicines, 14(1), pp. 7–

16.

142. Le, T. H., Lee, S. Y., Lee, G. J., Nguyen, N. K., Park, J. H., & Nguyen, M. D.

(2015), “Effects of steaming on saponin compositions and antiproliferative activity

of Vietnamese ginseng”, Journal of ginseng research, 39(3), pp. 274–278.

143. Dong T. T., X. M. Cui, Z. H. Song, K. J. Zhao, Z. N. Ji, C. K. Lo, K. W. Tsim

(2003), “Chemical assessment of roots of Panax notoginseng in China: regional

and seasonal variations in its active constituents”, JAgric Food Chem, 51(16), pp.

4617-23.

144. J.Guan, C.M.Lai, S.P.Li, (2007), “A rapid method for the simultaneous

determination of 11 saponins in Panax notoginseng using ultra performance liquid

chromatography”, Journal of Pharmaceutical and Biomedical Analysis, 44(4), pp.

996-1000.

145. Wang Dong, Hwee-Ling Koh, Yan Hong, Hong-Tao Zhu, Min Xu, Ying-

JunZhang, Chong-Ren Yang (2013),“Chemical and morphological variations of

Panax notoginseng and their relationship”,Phytochemistry, 93, pp. 88-95.

146. J.B.Wan, C.M.Lai, S.P.Li, M.Y.Lee, L.Y.Kong, Y.T.Wang, (2006),

“Simultaneous determination of nine saponins from Panax notoginseng using

HPLC and pressurized liquid extraction”, Journal of Pharmaceutical and

Biomedical Analysis, 41(1), pp. 274-279

147. A. J. Lau, B. H. Seo, S. O. Woo, H. L. Koh (2004), “High-performance liquid

chromatographic method with quantitative comparisons of whole chromatograms

of raw and steamed Panax notoginseng”, Journal of Chromatography A, 1057(1-

2), pp. 141-149.

148. Park E.H., Kim Y.J., Yamabe N., Park S.H., Kim H.K., Jang H.J., Kim J.H.,

Cheon G.J., Ham J., Kang K.S (2014), “Stereospecific anticancer effects of

ginsenoside Rg3 epimers isolated from heat-processed American ginseng on human

gastric cancer cell”, J Ginseng Res, 38, pp. 22–27.

149. Yuan H.D., Quan H.Y., Zhang Y., Kim S.H., Chung S.H (2010), “20(S)-

Ginsenoside Rg3-induced apoptosis in HT-29 colon cancer cells is associated with

AMPK signaling pathway”, Mol Med Rep, 3, pp. 825.

150. Fei Z., Li M., Wu X., Hu Y., Yang C., Wang X.A., Xiang S., Li H., Lin J.,

Tan Z (2015), “20(S)-ginsenoside Rg3 promotes senescence and apoptosis in

gallbladder cancer cells via the p53 pathway”, Drug Des Dev Ther, 9, pp. 3969–

3987.

151. Jian J., Hu Z.F., Huang Y (2009), “Effect of ginsenoside Rg3 on Pim-3 and

Bad proteins in human pancreatic cancer cell line PANC-1”, Ai zheng Chinese J

Cancer, 28, pp. 461.

152. Choi Y.J., Kang L.J., Lee S.G (2014), “Stimulation of DDX3 expression by

ginsenoside Rg3 through the Akt/p53 pathway activates the innate immune

response via TBK1/IKKε/IRF3 signalling”, Curr Med Chem, 21, pp. 1050.

153. Tang Y.C., Zhang Y., Zhou J., Zhi Q., Wu M.Y., Gong F.R., Shen M., Liu L.,

Tao M., Shen B (2018), “Ginsenoside Rg3 targets cancer stem cells and tumor

angiogenesis to inhibit colorectal cancer progression in vivo.”, Int J Oncol, 52, pp.

127–138.

154. Lyu, X., Xu, X., Song, A., Guo, J., Zhang, Y., & Zhang, Y. (2019),

“Ginsenoside Rh1 inhibits colorectal cancer cell migration and invasion in vitro

and tumor growth in vivo”, Oncology letters, 18(4), pp. 4160–4166.

155. Huynh, D., Jin, Y., Myung, C. S., & Heo, K. S. (2021), “Ginsenoside Rh1

Induces MCF-7 Cell Apoptosis and Autophagic Cell Death through ROS-Mediated

Akt Signaling”, Cancers, 13(8), pp. 1892.

156. Jin, Y., Huynh, D., & Heo, K. S. (2022), “Ginsenoside Rh1 inhibits tumor

growth in MDA-MB-231 breast cancer cells via mitochondrial ROS and ER stress-

mediated signaling pathway”, Archives of pharmacal research, 45(3), pp. 174–184.

157. Jin, Yujin, Diem T.N. Huynh, Chang-Seon Myung, and Kyung-Sun Heo

(2021), "Ginsenoside Rh1 Prevents Migration and Invasion through Mitochondrial

ROS-Mediated Inhibition of STAT3/NF-κB Signaling in MDA-MB-231 Cells",

International Journal of Molecular Sciences, 22(19), pp. 10458.

158. Carneiro BA, El-Deiry WS (2020), “Targeting apoptosis in cancer therapy”,

Clinical Oncology, 17(7), pp. 395-417.

159. Safarzadeh E, Sandoghchian Shotorbani S, Baradaran B (2014), “Herbal

Medicine as Inducers of Apoptosis in Cancer Treatment”, Advanced

Pharmaceutical Bulletin, 4(5), pp. 421-427.

160. Lawal R., Ozaslan M (2021), “Effect of medicinal plants on Ehrlich ascites

carcinoma cells (a review)”, Zeugma Biological Science, 2(2), pp. 19-27.

161. Bernardes, T. , Beserra, H. , Vexenat, S. , Langoni, H. and Rocha, N. (2015),

“Phenotypic Characterization Murine Sarcoma TG-180 Immunophenotypical

Characterization Murine Sarcoma TG-180”, Open Journal of Pathology, 5, pp. 59-

64.

162. Fang, Jun & Gao, Shanghui & Islam, Rayhanul & Teramoto, Yuji & Maeda,

Hiroshi (2020), “Extracts of Phellinus linteus, Bamboo (Sasa senanensis) Leaf and

Chaga Mushroom (Inonotus obliquus) Exhibit Antitumor Activity through

Activating Innate Immunity”, Nutrients, 12(8), pp. 2279.

163. Jiang, Z., Abu, R., Isaka, S., Nakazono, S., Ueno, M., Okimura, T.,

Yamaguchi, K., & Oda, T. (2014), “Inhibitory effect of orally-administered

sulfated polysaccharide ascophyllan isolated from ascophyllum nodosum on the

growth of sarcoma-180 solid tumor in mice”, Anticancer research, 34(4), pp.

1663–1671.

164. Zi Y, Zhang B, Jiang B, Yang X, Liang Z, Liu W, He C, Liu L(2018),

“Antioxidant action and protective and reparative effects of lentinan on oxidative

damage in HaCaT cells”, Journal of Cosmetic Dermatology, 17(6), pp. 1108-1114.

165. Ren G, Xu L, Lu T, Zhang Y, Wang Y, Yin J(2019), “Protective effects of

lentinan on lipopolysaccharide induced inflammatory response in intestine of

juvenile taimen (Hucho taimen, Pallas)”, International Journal of Biological

Macromolecules, 121, pp. 317-325.

166. Jang-Woo Shin, In-Chan Seol, Chang-Gue Son (2010), “Interpretation of

Animal Dose and Human Equivalent Dose for Drug Development”, The Journal of

Korean Oriental Medicine, 31(3), pp. 1-7.

167. Đỗ Trung Đàm (2014), Phương pháp xác định độc tính của thuốc, Nhà xuất

bản y học, tr. 6-12.

168. Arunachalam, K., Sasidharan, S.P. (2021), Preclinical Drug Dose

Calculation. In: Bioassays in Experimental and Preclinical Pharmacology,

Springer Protocols Handbooks, Humana, New York, pp. 29-32.

169. Zhang, J., Zhou, B., Jin, S., Huang, Z., Ma, B., Shao, Q., & Zhu, W. (2020),

“Mechanism of action of Panax notoginoside against lung cancer in mice based on

response to CTSB gene”, BMC complementary medicine and therapies, 20(1), pp.

367.

170. Liu, Y. H., Qin, H. Y., Zhong, Y. Y., Li, S., Wang, H. J., Wang, H., Chen, L.

L., Tang, X., Li, Y. L., Qian, Z. Y., Li, H. Y., Zhang, L., & Chen, T. (2021),

“Neutral polysaccharide from Panax notoginseng enhanced cyclophosphamide

antitumor efficacy in hepatoma H22-bearing mice”, BMC cancer, 21(1), pp. 37.

171. Zhao H, Han Z, Li G, Zhang S, Luo Y (2017), “Therapeutic Potential and

Cellular Mechanisms of Panax notoginseng on Prevention of Aging and Cell

Senescence-Associated Diseases”, Aging Dis, 8(6), pp. 721-739.

172. Gu CZ, Qiao YJ, Wang D, Zhu HT, Yang CR, Xu M, Zhang YJ (2018), “New

triterpenoid saponins from the steaming treated roots of Panax notoginseng”, Nat

Prod Res, 32(3), pp. 294-301.

173. He F, Ding Y, Liang C, Song S B, Dou DQ. Song GY, Kim YH (2014),

“Antitumor effects of dammarane-type saponins from steamed Notoginseng”,

Pharmacogn Mag, 10(39), pp. 314-317.

174. XuC, LiuT, LiuH, ChenG, GuoY (2019), “Panax notoginseng saponins

radiosensitize colorectal cancer cells by regulating the SNHG6/miR-137 axis”, RSC

Adv, 9(6), pp. 38558-38567.

175. Zhang C, Tong X, Qi B, Yu X, Dong S, Zhang S, Li X, Yu M (2013),

“Components of Panax notoginseng saponins enhance the cytotoxicity of cisplatin

via their effects on gap junctions”, Mol Med Rep, 8(3), pp.897-902.

176. Wang CZ, Xie JT, Zhang B, et al (2007), “Chemopreventive effects of Panax

notoginseng and its major constituents on SW480 human colorectal cancer

cells”, Int J Oncol, 31(5), pp.1149-1156.

177. Sun M, Bu R, Zhang B, Cao Y, Liu C, Zhao W (2020), “Lentinan Inhibits

Tumor Progression by Immunomodulation in a Mouse Model of Bladder Cancer”,

Integrative cancer therapies, 19, pp. 1-7.

178. Berraondo P, Sanmamed MF, Ochoa MC et al (2019), “Cytokines in clinical

cancer immunotherapy”, Br J Cancer, 120, pp. 6–15.

179. Jiang T, Zhou C, Ren S (2016), “Role of IL-2 in cancer immunotherapy”,

Oncoimmunology, 5(6), pp. e1163462.

180. Vannucci L, Krizan J, Sima P et al (2013), “Immunostimulatory properties

and antitumor activities of glucans (Review)”, International Journal of Oncology,

43, pp. 357-364.

181. Dai J, Chen J, Qi J et al (2020), “Konjac Glucomannan from Amorphophallus

konjac enhances immunocompetence of the cyclophosphamide-induced

immunosuppressed mice”, Food Sci Nutr, 9(2), pp. 728-735.

182. Srinivas, U. S., Tan, B., Vellayappan, B. A., & Jeyasekharan, A. D. (2019),

“ROS and the DNA damage response in cancer”, Redox biology, 25, pp. 101084.

183. Aboelella, N. S., Brandle, C., Kim, T., Ding, Z. C., & Zhou, G. (2021),

“Oxidative Stress in the Tumor Microenvironment and Its Relevance to Cancer

Immunotherapy”, Cancers, 13(5), pp. 986.

184. Muriel, P. and Gordillo, K.R., (2016), “Role of oxidative stress in liver health

and disease”, Oxidative Medicine and Cellular Longevity, 2016, pp. 9037051.

185. Melekh, B., Ilkiv, I., Lozynskyi, A. and Sklyarov, A., (2017), “Antioxidant

enzyme activity and lipid peroxidation in rat liver exposed to celecoxib and

lansoprazole under epinephrine-induced stress”, Journal of Applied

Pharmaceutical Science, 7, pp. 94-99.

186. Chen, T., Li, B., Qiu, Y., Qiu, Z., & Qu, P. (2018), “Functional mechanism of

Ginsenosides on tumor growth and metastasis”, Saudi journal of biological

sciences, 25(5), pp. 917–922.

187. Li W, Wang JQ, Zhou YD, Hou JG, Liu Y, Wang YP, Gong XJ, Lin XH,

Jiang S, Wang Z, (2020), “Rare Ginsenoside 20(R)-Rg3 Inhibits D-Galactose-

Induced Liver and Kidney Injury by Regulating Oxidative Stress-Induced

Apoptosis”, The American Journal of Chinese Medicine, 48(5), pp. 1141-1157.

188. Hu, S., Zhu, Y., Xia, X., Xu, X., Chen, F., Miao, X., & Chen, X. (2019),

“Ginsenoside Rg3 Prolongs Survival of the Orthotopic Hepatocellular Carcinoma

Model by Inducing Apoptosis and Inhibiting Angiogenesis”, Analytical cellular

pathology (Amsterdam), 2019, pp. 3815786.

189. Jiang, J. W., Chen, X. M., Chen, X. H., & Zheng, S. S. (2011), “Ginsenoside

Rg3 inhibit hepatocellular carcinoma growth via intrinsic apoptotic pathway”,

World journal of gastroenterology, 17(31), pp. 3605–3613.

190. Aydιn, A., Aktay, G., & Yesilada, E. (2016), “A Guidance Manual for the

Toxicity Assessment of Traditional Herbal Medicines”, Natural product

communications, 11(11), pp. 1763–1773.

191. OECD (2002), Test No. 423: Acute Oral toxicity - Acute Toxic Class Method,

OECD Guidelines for the Testing of Chemicals, Section 4, OECD Publishing, Paris.

192. Erhirhie, E. O., Ihekwereme, C. P., & Ilodigwe, E. E. (2018), “Advances in

acute toxicity testing: strengths, weaknesses and regulatory acceptance”,

Interdisciplinary toxicology, 11(1), pp. 5–12.

193. OECD (2018), Test No. 408: Repeated Dose 90-Day Oral Toxicity Study in

Rodents, OECD Guidelines for the Testing of Chemicals, Section 4, OECD

Publishing, Paris.

194. Phạm Thị Minh Đức (2011), Sinh lý học (sách đào tạo bác sĩ đa khoa), Nhà

xuất bản Y học, Hà Nội.

195. Đại học Y Hà Nội (2013), Hóa sinh lâm sàng, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.

196. Li, W., Zhang, X., Xin, Y., Xuan, Y., Liu, J., Li, P., & Zhao, Y. (2016), “Oral

subchronic toxicity evaluation of a novel antitumor agent 25-methoxydammarane-

3, 12, 20-triol from Panax notoginseng in Sprague-Dawley rats”, Regulatory

toxicology and pharmacology : RTP, 77, pp. 240–251.

197. Murbach, T. S., Glávits, R., Endres, J. R., Hirka, G., Vértesi, A., Béres, E., &

Szakonyiné, I. P. (2019), “Toxicological Evaluation of a Mixture of Astragalus

membranaceus and Panax notoginseng Root Extracts (InnoSlim®)”, Journal of

toxicology, 2019, pp. 5723851.

PHỤ LỤC Phụ lục 1: Phiếu giám định tên khoa học của dược liệu Tam thất

Phụ lục 2: Hình ảnh tiêu bản của mẫu Tam thất

Phụ lục 3: Báo cáo kết quả điều chế cao định lượng từ rễ củ Tam thất

I. NGUYÊN LIỆU, DUNG MÔI, HOÁ CHẤT

1.1. Nguyên liệu

Các mẫu Tam thất

- Tam thất chưa chế: mẫu Tam thất được sấy khô, nghiền thành bột

- Tam thất chế: bột Tam thất được hấp ở nhiệt độ 120ºC trong 8 giờ

1.2. Dung môi, hoá chất

Dung môi dùng cho chiết xuất: ethanol (CN)

Dung môi, hoá chất dùng cho phân tích: Acetonitril, methanol, acid

phosphoric (Merck), nước cất 2 lần

1.3. Thiết bị dụng cụ

Máy chiết và máy cô chân không đa năng (Daihan, Hàn Quốc). Bình chiết và

cô thu hồi có dung tích 20 lít và 10 lít.

Hệ thống máy HPLC (Shimadu, Nhật Bản)

II. PHƯƠNG PHÁP

2.1. Phương pháp điều chế cao chiết

Cân khoảng 1 kg dược liệu, chiết hồi lưu với dung môi ethanol 70%, tỷ lệ

dung môi/dược liệu: 10/1 (thể tích/khối lượng), 3 lần, mỗi lần 3 giờ. Gộp các dịch

chiết, cô thu hồi dung môi dưới áp suất giảm thu được cao đặc.

Hiệu suất chiết cao đặc từ dược liệu được xác định dựa trên công

H=

Mcao x (100-acao) x 100 Mdl x (100-adl)

thức:

Trong đó: H: hiệu suất chiết cao (%)

Mcao, Mdl: khối lượng cao, khối lượng dược liệu (g)

acao, adl: độ ẩm cao, độ ẩm dược liệu (%)

2.2. Định lượng một số saponin chính trong các cao chiết

Chuẩn bị mẫu:

Dung dịch chuẩn: Cân chính xác 15,0mg mỗi chất đối chiếu, hòa tan riêng

trong 5ml methanol, thu được các dung dịch chuẩn gốc có nồng độ 3mg/ml. Phối

hợp các dung dịch chuẩn gốc thu được dung dịch hỗn hợp chuẩn. Pha loãng dung

dịch hỗn hợp chuẩn với methanol, thu được các dung dịch chuẩn làm việc có nồng

độ thích hợp.

Dung dịch thử: Cân chính xác khoảng 200mg cao chiết, thêm ethanol 70%,

siêu âm cho tan hoàn toàn, chuyển vào bình định mức 25ml, thêm dung môi đến

vạch.

Các dung dịch chuẩn và dung dịch thử được lọc qua màng lọc kích thước

0,45µm trước khi triển khai sắc ký.

Điều kiện sắc ký:

Hệ thống HPLC của hãng Shimadzu, Nhật Bản

Nhiệt độ buồng cột: 28°C

Tốc độ dòng: 1,0ml/phút

Thể tích tiêm mẫu: 20µl

Bước sóng phát hiện: 205nm

Pha tĩnh: Cột Agilent C18 (250 x 4,6mm; 5µm)

Pha động: acetonitril (A) – Acid phosphoric 0,1% trong nước (B), rửa giải

theo chương trình sau:

Thời gian (phút) Acetonitril (%) Acid phosphoric 0.1% trong nước (%)

0-20 20-45 45-55 55-70 20-22 22-46 46-55 55 80-78 78-54 54-45 45

Tiến hành:

Tiêm các dung dịch hỗn hợp chuẩn, ghi nhận sắc ký đồ. Xây dựng đường

chuẩn biểu diễn sự phụ thuộc giữa diện tích pic của các chất đối chiếu và nồng độ

của chúng trong dung dịch.

Tiêm các dung dịch thử, tiến hành sắc ký, ghi nhận sắc ký đồ.

Hàm lượng một chất trong mẫu Tam thất được xác định dựa trên công thức:

x H x k x x X (%)= Y-b A 25 m x 1000 100 100-a

Trong đó:

X: hàm lượng chất cần phân tích tính theo khối lượng cao khô kiệt (%)

Y: diện tích pic của chất cần phân tích trên sắc ký đồ mẫu thử

A,b: các hệ số của phương trình đường chuẩn, xác định bằng thực nghiệm

H: độ tinh khiết của chất đối chiếu (tính theo diện tích pic)

k: hệ số điều chỉnh thực nghiệm

m: khối lượng cao chiết (mg)

a: độ ẩm của cao chiết (%)

III. KẾT QUẢ

3.1. Hiệu suất chiết cao từ các mẫu dược liệu

Bảng 1: Hiệu suất chiết cao từ các mẫu dược liệu

Tên mẫu Khối lượng (g) Độ ẩm

Độ ẩm cao (%) Hiệu suất chiết (%)

dược liệu (%) 4,30 13,05 Khối lượng cao (g) 468,70 372,78 9,90 6,60 44,66 41,28 Mẫu chưa chế Mẫu đã chế 988,00 970,00

3.2. Định lượng các mẫu cao chiết

3.2.1. Lựa chọn điều kiện sắc ký

Tiến hành sắc ký như mô tả ở mục 2.2, thu được sắc ký đồ như hình 1.

A: Hỗn hợp mẫu chuẩn B: Cao chiết từ mẫu Tam thất chưa chế C: Cao chiết từ mẫu Tam thất chế

Hình 1: Sắc ký đồ các cao Tam thất

Hình ảnh trên sắc ký đồ cho thấy với điều kiện sắc ký đã chọn, các chất cần

phân tích cho các pic tách nhau rõ ràng, có thể dùng để định lượng các mẫu nghiên

cứu.

3.4.2. Xây dựng đường chuẩn

Tiến hành như đã mô tả ở mục 2.2. Kết quả được trình bày ở bảng 2. và hình 2.

Bảng 2: Kết quả xây dựng đường chuẩn

Nồng Diện tích pic

độ Rg1 Re Rb1 Rh1 Rd Rg3 (µg/ml)

50 237420 203246 248534 367547 213028 314887

100 482741 411054 577000 881443 376099 615333

250 1194066 1022877 946749 1783151 929541 1491191

750 3562974 3055435 2633396 5134706 2639867 4283532

1000 4782154 4099647 3611931 6889350 3544766 5693495

1250 6285688 4690307 4245554 8146239 4381079 6951359

1500 7972059 5341087 5073620 9795781 5276054 8323176

Phương

y=3304.7 y=6470.5 y=3486.9 y=5524.3 trình y=5181.3 y=3661.5

x+163421 x+184682 +39266 x+86267 đường x-124483 x+126065

chuẩn

R2 0.9955 0.9917 0.9982 0.9987 0.9999 0.9997

Hình 2: Đồ thị biểu diễn đường chuẩn của các saponin đối chiếu

Dựa trên bảng 2 và hình 2, có thể thấy cả 6 chất cần phân tích đều có sự

tương quan tuyến tính giữa diện tích pic trên sắc ký đồ với nồng độ trong dung

dịch. Vì vậy có thể dùng phương pháp này để xác định hàm lượng các chất trên

trong các mẫu cao Tam thất chưa chế biến và đã chế biến.

Kết quả định lượng các mẫu cao được trình bày ở bảng 3.

Bảng 3: Kết quả định lượng các cao chiết từ Tam thất

Hàm lượng các chất trong cao (%)

Tên mẫu Tổng Rg1 Re Rb1 Rh1 Rd Rg3 Độ ẩm (%)

32,32 ± 0,41 9,90 1,81 ± 0,01 14,89 ± 0,18 0,30 ± 0,01 3,23 ± 0,08 0,38 ± 0,01 11,70a ± 0,16b

24,62 ± 0,20 6,60 ND ND 5,30 ± 0,07 2,57 ± 0,12 0,83 ± 0,03 16,16 ± 0,07 Cao chiết từ Tam thất chưa chế Cao chiết từ Tam thất chế

Ghi chú: a: hàm lượng trong mẫu (%), b: độ lệch chuẩn (%, n=3), ND: không phát

hiện được

Phụ lục 4: Phiếu phân tích và kiểm nghiệm cao chiết Tam thất