Häc viÖn chÝnh trÞ - Hµnh chÝnh quèc gia Hå ChÝ Minh
ALoun Bounmixay nh÷ng gi¸ trÞ v¨n hãa chÝnh trÞ truyÒn thèng lµo vµ ý nghÜa ®èi víi c«ng cuéc ®æi míi ë CéNG HßA d©n chñ nh©n d©n lµo hiÖn nay
luËn ¸n tiÕn sÜ chÝnh trÞ häc
Hµ Néi - 2013
Häc viÖn chÝnh trÞ - Hµnh chÝnh quèc gia Hå ChÝ Minh
ALoun bounmixay nh÷ng gi¸ trÞ v¨n hãa chÝnh trÞ truyÒn thèng lµo vµ ý nghÜa ®èi víi c«ng cuéc ®æi míi ë CéNG HßA d©n chñ nh©n d©n lµo hiÖn nay
Chuyªn ngµnh : ChÝnh trị học M· số : 62 31 20 01
luËn ¸n tiÕn sÜ chÝnh trÞ häc
Ng êi h íng dÉn khoa häc: 1. gS.TS. NguyÔn V¨n Huyªn
2. PGS.TS. Lª Minh Qu©n
Hµ Néi - 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu trong luận án là trung thực. Những
kết luận nêu trong luận án chưa từng được công bố ở bất
cứ công trình khoa học nào khác.
T¸c gi¶ luËn ¸n ALOUN BOUNMIXAY
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1
6 Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài 6
1.2. Tình hình nghiên cứu ở Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào 19
29 TIỂU KẾT CHƢƠNG 1
30 Chƣơng 2: VĂN HÓA CHÍNH TRỊ VÀ CƠ SỞ HÌNH THÀNH, PHÁT
TRIỂN VĂN HÓA CHÍNH TRỊ TRUYỀN THỐNG LÀO
2.1. Những vấn đề lý luận chung về văn hóa chính trị 30
2.2. Cơ sở hình thành và phát triển của văn hóa chính trị truyền thống 50
Lào
66 TIỂU KẾT CHƢƠNG 2
67 Chƣơng 3: NHỮNG GIÁ TRỊ TIÊU BIỂU CỦA VĂN HÓA CHÍNH TRỊ
TRUYỀN THỐNG LÀO
3.1. Những nét khái quát của văn hóa chính trị truyền thống Lào 67
3.2. Những giá trị: độc lập và tự chủ, tự lực và tự cường 80
3.3. Những giá trị: yêu nước và đoàn kết dân tộc 93
3.4. Những giá trị: đề cao đạo lý, tôn trọng chính nghĩa và bảo vệ công 103
lý
3.5. Những giá trị: hòa bình và hữu nghị, hợp tác và phát triển 112
125 TIỂU KẾT CHƢƠNG 3
126 Chƣơng 4: Ý NGHĨA CỦA NHỮNG GIÁ TRỊ VĂN HÓA CHÍNH TRỊ
TRUYỀN THỐNG LÀO VỚI CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở
CỘNG HOÀ DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO HIỆN NAY
4.1. Những giá trị văn hóa chính trị truyền thống Lào góp phần định 126
hướng cho công cuộc đổi mới ở Cộng hoà Dân chủ Nhân dân lào
hiện nay
4.2. Những giá trị văn hóa chính trị truyền thống Lào với việc xây dựng 135
và phát triển đội ngũ cán bộ ở Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào
hiện nay
4.3. Những giá trị văn hóa chính trị truyền thống Lào trong việc phát 146
triển văn hóa chính trị ở Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay
160 TIỂU KẾT CHƢƠNG 4
KẾT LUẬN
161
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ
164
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
165
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TRONG LUẬN ÁN
CHDCND : cộng hòa dân chủ nhân dân
NDCM : nhân dân cách mạng
VHCT : văn hóa chính trị
XHCN : xã hội chủ nghĩa
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Lào là quốc gia có lịch sử lâu đời, có một nền văn hóa dân tộc đặc sắc,
gắn liền với quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước oanh liệt hàng ngàn
đời của nhân dân các bộ tộc Lào. Chính những giá trị văn hóa nói chung,
những giá trị văn hóa chính trị (VHCT) truyền thống Lào nói riêng, đã được
hình thành và phát triển trong lịch sử dân tộc anh hùng đó, đã góp phần vào sự
nghiệp đấu tranh bảo vệ nền độc lập dân tộc xây dựng và phát triển đất nước,
là vũ khi để nhân dân Lào thực hiện các cuộc đấu tranh chống những âm mưu
xâm lược, đồng hóa của các thế lực ngoại bang. Cũng như ở các quốc gia khác
trên thế giới, VHCT Lào không chỉ là yếu tố rất quan trọng đối với đời sống
chính trị, mà còn góp phần quyết định đối với đời sống xã hội của nhân dân
các bộ tộc Lào. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu
rộng ngày nay, ranh giới giữa các quốc gia về mọi mặt của đời sống xã hội,
nhất là đời sống tinh thần dường như ngày càng trở nên "phẳng" hơn thì văn
hóa nói chung, VHCT nói riêng của mỗi quốc gia, dân tộc càng trở nên yếu tố
quan trọng trong việc giữ gìn các sắc thái để thể hiện sự khác biệt, tính độc
đáo, tính riêng cần phải có của các quốc gia, dân tộc.
Trong thời kỳ đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân Cách
mạng (NDCM) Lào, nhân dân các bộ tộc Lào đã nỗ lực phấn đấu vươn lên,
đạt được nhiều thành tựu to lớn về kinh tế - xã hội. Cùng với quá trình dân
chủ hóa xã hội, trình độ dân trí nói chung, trình độ VHCT nói riêng của các
tầng lớp nhân dân ngày càng được nâng cao. Mỗi người dân Lào hiểu rõ hơn
về quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của mình trong sự nghiệp xây dựng
đất nước, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa (XHCN). Đảng và Nhà nước Lào
đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm bảo tồn, lưu giữ và phát
2
triển nền văn hóa đặc sắc của dân tộc, trong đó có nền VHCT nhân dân Lào.
Nhờ đó, ý thức chính trị của các tầng lớp nhân dân Lào ngày càng được
nâng cao, các giá trị VHCT truyền thống Lào đã thực sự trở thành nền tảng
tinh thần vững chắc, làm nên sức mạnh tinh thần to lớn, không chỉ góp phần
định hướng cho công cuộc đổi mới của Đảng NDCM Lào, mà nó còn là
động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự nghiệp cách mạng Lào đi lên cùng các quốc
gia trong khu vực và trên thế giới.
Trong những năm gần đây, kinh tế thị trường ở Cộng hoà Dân chủ
Nhân dân (CHDCND) Lào đã phát huy sức mạnh của mọi nguồn lực trong
xã hội, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng
kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường cũng đã xuất hiện
nhiều yếu tố tác động tiêu cực đến đời sống xã hội như phân hóa giàu nghèo
ngày càng gay gắt; lối sống ích kỷ, thực dụng ngày càng gia tăng; đạo đức
xã hội và những giá trị văn hóa, trong đó có giá trị VHCT truyền thống dân
tộc bị coi nhẹ; tinh thần tập thể, ý thức cộng đồng có lúc, có nơi thể hiện sự
giảm sút đáng lo ngại. Những biểu hiện nêu trên nếu không được kịp thời
khắc phục sẽ làm ảnh hưởng đến văn hóa nói chung, VHCT nói riêng, ảnh
hưởng đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội, cản trở sự phát triển của đất
nước Lào. Do đó, vấn đề đấu tranh khắc phục những nguy cơ nêu trên để
giữ gìn bản sắc VHCT dân tộc, đồng thời kế thừa và phát huy những giá trị
VHCT truyền thống của đất nước Lào, xây dựng VHCT Lào tiên tiến, thực
sự là nền tảng tinh thần vững chắc của nền chính trị, phục vụ đắc lực cho sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển nền kinh tế thị
trường và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, ngày càng trở nên cấp bách
ở CHDCND Lào hiện nay.
VHCT là một vấn đề mới cả về lý luận và thực tiễn ở CHDCND Lào,
đòi hỏi sự nghiên cứu một cách nghiêm túc để phác hoạ những giá trị của
3
VHCT Lào, làm cơ sở cho việc tiếp tục xây dựng, phát triển nền VHCT Lào,
góp phần tăng cường và phát huy tính tích cực chính trị của mọi người dân
trong quá trình tham gia quản lý nhà nước và xã hội, đồng thời củng cố, nâng
cao năng lực lãnh đạo của đội ngũ cán bộ đảng viên ở CHDCND Lào. Mặt
khác, nếu xây dựng được một nền VHCT phù hợp với yêu cầu mới và với điều
kiện chính trị mới ở Lào, một nền VHCT vừa tiên tiến, vừa đậm bản sắc dân
tộc Lào, đặc biệt là một nền VHCT Lào được nâng cao theo yêu cầu và trình
độ quốc tế và khu vực thì nó sẽ có vị trí, vai trò quan trọng đối với quá trình
đổi mới để phát triển đất nước ở CHDCND Lào hiện nay.
Với các lý do và những yêu cầu bức thiết nêu trên và với nhận thức về
tầm quan trọng của VHCT trong sự nghiệp cách mạng Lào, nghiên cứu sinh
chọn đề tài: Những giá trị văn hóa chính trị truyền thống Lào và ý nghĩa đối
với công cuộc đổi mới ở Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay làm đề tài
nghiên cứu của luận án tiến sĩ Chính trị học của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích của luận án:
Trên cơ sở lý luận về VHCT, luận án phân tích làm rõ cơ sở hình thành
và phát triển VHCT truyền thống Lào, xác định những giá trị chủ yếu của
VHCT truyền thống Lào, từ đó phân tích ý nghĩa của chúng đối với công cuộc
đổi mới ở CHDCND Lào hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ:
Để thực hiện được mục đích nêu trên, luận án sẽ giải quyết các nhiệm vụ
chủ yếu sau đây:
- Làm rõ lý luận về VHCT và cơ sở hình thành VHCT truyền thống Lào.
- Xác định những giá trị chủ yếu của VHCT truyền thống Lào.
- Phân tích ý nghĩa của những giá trị VHCT truyền thống Lào đối với
công cuộc đổi mới ở CHDCND Lào hiện nay.
4
3. Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu của luận án
- Đối tượng nghiên cứu: Luận án tập trung nghiên cứu VHCT Lào với những
giá trị truyền thống tiêu biểu của nó và hướng kế thừa, phát huy giá trị VHCT
truyền thống Lào phục vụ công cuộc đổi mới ở CHDCND Lào hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận án nghiên cứu làm rõ những giá trị VHCT
truyền thống của nhân dân các bộ tộc Lào và ý nghĩa của chúng đối với công
cuộc đổi mới hiện nay (từ 1986 đến nay).
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận:
Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng Cay Xỏn PhômViHản và các văn kiện, các nghị quyết
của Đảng NDCM Lào, Đảng Cộng sản Việt Nam v.v... về văn hóa và VHCT.
4.2. Phương pháp nghiên cứu:
Luận án sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử, trong đó đặc biệt chú ý các phương pháp nghiên cứu cụ thể như lôgíc và
lịch sử, phân tích và tổng hợp, phương pháp hệ thống, phương pháp so sánh
v.v... trong từng vấn đề đã đặt ra.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Trên cơ sở những vấn đề lý luận chung về VHCT truyền thống, luận án
đã phân tích, nhằm xác định và rút ra được những giá trị VHCT truyền thống
Lào, từ đó phân tích và làm rõ những ý nghĩa và vai trò to lớn của các giá trị
VHCT truyền thống trong công cuộc đổi mới ở CHDCND Lào hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận:
Luân án cung cấp thêm những luận chứng khoa học cho việc làm rõ cơ
sở hình thành VHCT Lào; xác định các giá trị truyền thống VHCT Lào và ý
nghĩa của các giá trị đó đối với công cuộc đổi mới ở CHDCND Lào hiện nay.
5
6.2. Ý nghĩa thực tiễn:
Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các hoạt động thực
tiễn trong việc lãnh đạo và quản lý của Đảng và Nhà nước Lào; làm tài liệu
tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy trong trường đại học, cao đẳng
và các cơ sở đào tạo về chuyên đề VHCT.
7. Kết cấu của Luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án
gồm 4 chương, 12 tiết.
6
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở NƢỚC NGOÀI 1.1.1. Một số nghiên cứu chủ yếu ở phƣơng Đông và ở phƣơng Tây
VHCT được hình thành và phát triển gắn liền với đời sống chính trị, nó
là những dấu hiệu phân biệt, thể hiện tính đặc trưng cho nhận thức chính trị,
cũng như mọi hoạt động chính trị - xã hội của con người trong một xã hội;
trung tâm của VHCT không chỉ là tổng số những tri thức của con người về
chính trị, mà còn là những định hướng cho việc lựa chọn chính trị; do đó thể
hiện ý thức hệ, thái độ, cách thức phong cách chính trị của các chủ thể chính
trị, của các cá nhân; VHCT cũng thể hiện khả năng hoạt động chính trị, kể cả
những ứng xử theo thói quen của họ. Những tư tưởng này được nghiên cứu và
xác định rõ dần trong nhiều tác phẩm của các nhà tư tưởng cả ở phương Đông
và cả ở phương Tây.
Ở phương Đông, Khổng Tử (551 - 471 TCN) là một trong những nhà tư
tưởng đầu tiên đề cập đến VHCT với cách tiếp cận chính trị - đạo đức. Vấn đề
căn bản trong học thuyết của ông là người quân tử (người cầm quyền) với
những chuẩn mực cần thiết về ứng xử trong chính trị. Niềm tin của ông gắn
chặt với luân thường đạo lý và đạo đức cá nhân. Khổng Tử cho rằng, chỉ
những người quân tử liêm khiết và tuân theo đạo của người quân tử hay là
người có văn hóa mới được cầm quyền, tư cách của những nhân vật đó phải
kiên định với địa vị trong xã hội. Triều đại tốt cốt ở chỗ: vua làm tròn bổn phận
của vua, bề tôi làm tròn bổn phận của bề tôi, cha làm tròn bổn phận cha và con
làm tròn bổn phận của con. Học thuyết chính trị - đạo đức này thể hiện VHCT
của Khổng Tử qua những nội dung chủ yếu của các phạm trù như "nhân" "lễ"
và "chính danh", tôn trọng người hiền, v.v... Học thuyết tư tưởng thể hiện quan
7
niệm về VHCT của Khổng Tử chứa đựng những giá trị nhân văn và ý nghĩa
thời đại sâu sắc, gắn liền với VHCT ở Trung Quốc và nhiều nước khác ở
phương Đông.
Lão Tử (580 - 500 TCN) cũng là nhà tư tưởng đề cập đến đạo trị nước
theo phương châm "vô vi nhi trị" trên cơ sở nhận thức và hành động theo "đạo"
- theo quy luật vận động và phát triển tự nhiên của xã hội. Tuy chưa đề cập đến
khái niệm VHCT, nhưng điều đó không có nghĩa là Lão Tử không có quan
niệm về VHCT. Thực ra, khi bàn về chính trị, về kế sách chính trị, về hoạt
động chính trị, Lão Tử đã thể hiện quan niệm về VHCT, về các nội dung của
chính trị. Phương châm "vô vi nhi trị" của Lão Tử, thực chất đã thể hiện một
quan niệm mới về VHCT, nó thể hiện trong cách thức trị nước của Lão Tử
theo yêu cầu về các chuẩn mực ứng xử của người trị nước ở tầm của VHCT.
Ở phương Tây, Platôn (428 - 328 TCN) và Arixtốt (384 - 322 TCN) là
những người đầu tiên xem chính trị vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật. Mặc dù
triết lý chính trị - xã hội của các ông có những hạn chế lịch sử, nhưng ở đó vẫn
chứa đựng hạt nhân hợp lý trong quan niệm về VHCT. Platôn, trong tác phẩm
Nền cộng hoà (The Republic) cho rằng, tất cả những chế độ chính trị theo
truyền thống như dân chủ (democracy), quân chủ (monachy), chính thể đầu sỏ
(oligarchy), vốn đã đồi bại, tham nhũng và giờ đây, nhà nước nên được điều
hành bởi tầng lớp những người cầm quyền mới, đó là các triết gia được giáo
dục tốt. Các triết gia là những người được đào tạo từ thời trẻ và được lựa chọn
dựa trên năng lực: "những người có kỹ năng đặc biệt về quan sát tổng quan xã
hội". Aristốt - triết gia Hy Lạp cổ đại trong tác phẩm Chính trị (The Politic)
quả quyết rằng về bản chất, con người là một động vật chính trị. Ông cho rằng,
luân thường và chính trị có sự liên kết chặt chẽ với nhau và một đời sống thật
sự đạo đức chỉ có thể có ở những người tham gia vào chính trị.
Giống như Platôn, Aristốt thấy rằng có nhiều hình thức nhà nước khác
nhau và ông cho rằng hình thức đúng của nhà nước có thể biến thành một hình
8
thức nhà nước lệch lạc, nơi mà thể chế bị mục nát. Theo ông, chế độ quân chủ,
có một người cai trị, sẽ biến thành chuyên chế; chế độ quý tộc, với một nhóm
nhỏ người cai trị, sẽ biến thành chính thể đầu sỏ; xã hội có tổ chức do nhiều
người dân cùng cai trị thì sẽ biến thành chế độ dân chủ trị. Theo nghĩa này,
Aristốt không dùng từ "democracy" hay nghĩa rộng như hiện nay, mà nó mang
nghĩa đen là demos, hay thường dân cai trị. Một cái nhìn chính xác hơn về dân
chủ mà Aristốt đề cập đến chỉ là chính quyền quần chúng (ochlocracy).
N.Machiavelli, nhà lý luận chính trị người Ý thời Phục Hưng, trong tác
phẩm Quân vương (The Prince) của mình đã đề nghị cần có một tầm nhìn
thế giới về chính trị để miêu tả các phương pháp thực tế cho chế độ chuyên
quyền để giành và giữ quyền lực chính trị. Ông thường được xem là người
phản đối quan điểm đạo đức truyền thống đối với người cầm quyền. Đối với
Machiavelli, không có nền tảng đạo đức mà ở đó, việc phân xử sự khác nhau
giữa việc sử dụng quyền lực hợp pháp hay bất hợp pháp. Thuật ngữ được
Machiavellian sử dụng đó cũng có nghĩa là hành vi chính trị xảo quyệt, nó
đề cập đến một loại người thiếu đạo đức, hay dùng các thủ thuật mánh khoé
để cố thủ quyền hành. Học thuyết của ông đã được nhiều nhà lãnh đạo học
tập và thực hành, kể cả những nhà lãnh đạo chuyên chế toàn trị, những
người đã biện hộ cho những hành động tàn bạo của mình và coi đó là vì mục
đích an toàn quốc gia.
Tuy nhiên, các quan niệm có liên quan với VHCT được biết đến nhiều
hơn đối với người phương Tây trong một số công trình nghiên cứu của các
nhà tư tưởng nổi tiếng như G.Bôđanh, S.L.Môngtécxkiơ, v.v... khi việc
nghiên cứu VHCT gắn liền với đạo đức và lịch sử. Tuy nhiên, khái niệm
VHCT lần đầu tiên được biết đến trong tác phẩm Tư tưởng triết học lịch sử
của loài người (1784 - 1791) của I.G.Gerzer, khi VHCT được nghiên cứu
trong mối quan hệ với tư tưởng, dư luận xã hội, tâm lý cá nhân và tính cách
dân tộc.
9
J.S.Mill, sinh vào thế kỷ XIX, là người đi tiên phong trong việc dùng
khái niệm tự do trong chính trị. Ông đã thấy được rằng dân chủ sẽ là sự phát
triển chính trị chủ chốt trong thời đại của ông. Trong tác phẩm Luận về tự do
(On Liberty) của mình, ông đã cổ vũ cho việc bảo vệ tốt hơn các quyền cá nhân
và chống lại ảnh hưởng của nhà nước và sự cầm quyền của đa số. J.S. Mill cho
rằng tự do là quyền quan trọng nhất của loài người. Có ý kiến cho rằng cuốn
Luận về tự do như là một lời bảo vệ hùng hồn và mạnh mẽ nhất cho chủ nghĩa
tự do. Tư tưởng VHCT của Mill là một nền chính trị tự do.
Đến những năm 50 của thế kỷ XX, nhà chính trị học Mỹ G.Almond đã
đưa khái niệm VHCT vào khoa học chính trị. G.Almond đã tập trung nghiên
cứu hành vi chính trị của các cá thể, phân tích xem động cơ hành động của họ
là gì, từ đó định nghĩa VHCT là tập hợp các lập trường và các xu hướng cá
nhân của những người tham gia trong một hệ thống nào đó, là lĩnh vực chủ
quan làm cơ sở hành động chính trị và làm cho hoạt động chính trị có ý nghĩa.
Năm 1956, trong tác phẩm Các hệ thống chính trị so sánh (Comparative
Political Systems) của mình, G.Almond cho rằng VHCT gồm các yếu tố về
nhận thức, tình cảm và giá trị. Nó hàm chứa nhận thức và ý kiến, quan niệm
giá trị và tinh thần đối với chính trị. Đáng kể nhất phải nói đến tác phẩm Văn
hóa công dân (The Civic Culture), (1963), của các nhà chính trị học Mỹ
S.Verba và G.Almond - tác phẩm này có ý nghĩa kinh điển cho nghiên cứu về
VHCT ở phương Tây cho đến nay. Tác phẩm của D.Kavanagh với nhan đề
Văn hóa chính trị, London, Basinstocke, Macmillan, 1972 và các công trình
nghiên cứu của L.Pye, T.Pason và E.Silzer cũng có những đóng góp đáng kể
cho sự hình thành và phát triển các quan niệm, khái niệm và cấu trúc của
VHCT. Tuy nhiên, cần nói rằng những nghiên cứu của G.Almond và S.Verba
về VHCT nói chung và văn hóa công dân nói riêng thực sự đặt nền móng cho
những nghiên cứu hiện đại về VHCT trên thế giới.
10
C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin tuy chưa đưa ra một khái niệm đầy đủ về
VHCT nhưng đã đề cập tới một số nội dung cơ bản làm cơ sở cho việc tiếp cận
khái niệm này một cách khoa học như vấn đề đấu tranh giành quyền lực, vấn
đề cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, vấn đề xây dựng con người XHCN,
vấn đề dân chủ XHCN. Mục đích của VHCT XHCN là hình thành những
người cộng sản chân chính, khâu đầu tiên là hình thành ở con người đó tri thức
chính trị cơ bản, có hệ thống mà cốt lõi của nó là những nguyên lý cơ bản của
chủ nghĩa Mác - Lênin về chính trị. Đó là trình độ ý thức hệ, tư duy chính trị,
phân tích, khái quát hóa kinh nghiệm xã hội, khả năng nhận thức những hiện
tượng mới; là tâm lý, tình cảm, niềm tin đối với những tri thức chính trị và khả
năng hoạt động chính trị hàng ngày. VHCT ở phương Tây hiện nay được kích
thích bởi nhiều nhân tố khách quan, như sự phát triển của kinh tế, của "văn hóa
kinh tế", của triết học và sự phát triển của bản thân nền văn hóa đó.
Cho đến nay, VHCT và những vấn đề, những chủ đề có liên quan đến
VHCT đặt ra cho giới nghiên cứu vẫn là nguồn gốc của khái niệm VHCT; có
những cách tiếp cận cơ bản nào đối với khái niệm VHCT; khái niệm VHCT có
liên quan như thế nào đối với các lý thuyết phát triển xã hội hiện đại; tiếp cận
VHCT chỉ ở nhận thức, thái độ, niềm tin hay còn hành vi; VHCT có những đặc
trưng nào; v.v... Trong hơn ba thập kỷ qua, cuộc tranh luận về VHCT từ góc độ
của các nền dân chủ đa nguyên ở phương Tây diễn ra với những khuynh hướng
lý giải khác nhau. Ở các nước thuộc Liên Xô trước đây cũng diễn ra những
trao đổi có tính học thuật về VHCT với tính cách một bộ phận cấu thành của
đời sống chính trị ở các nước đang chuyển đổi này. Có thể nêu một số nghiên
cứu của các tác giả Nga và Đức như: Batalov E.Ia với Văn hóa chính trị của xã
hội Mỹ hiện đại, Nxb Khoa học, Mátxcơva, 1990; Pivovarov Iu.S. với Văn hóa
chính trị: phương pháp luận nghiên cứu, Nxb Inhion, Mátxcơva, 1994; Mayer
G. Với Nước Đức - một quốc gia hai nền văn hóa chính trị, Tạp chí khoa học
Trường Đại học tổng hợp Mátxcơva, số 4, năm 1994, v.v...
11
Nhìn chung, VHCT trên thế giới được tiếp cận nghiên cứu từ hai cách
chính - tiếp cận từ góc độ vĩ mô (tổng thể luận) và từ góc độ vi mô (hành vi
luận). Cách tiếp cận tổng thể luận nghiên cứu VHCT của những quốc gia, giai
cấp hay cộng đồng đông người nhất định. Cách nghiên cứu này nhằm đưa ra
các triết lý về VHCT và xây dựng các mô hình VHCT mong đợi phục vụ lợi
ích của các giai cấp cầm quyền trong xã hội. Cách nghiên cứu này thường
được sử dụng phổ biến trong giới nghiên cứu theo trường phái mác xít. Trong
khi đó, cách tiếp cận nghiên cứu VHCT từ góc độ vi mô lại hướng vào các
hành vi cá nhân hay hành vi của các nhóm trong đời sống chính trị hiện thực.
Cách nghiên cứu này tìm cách giải thích nguyên nhân của sự khác biệt trong
hành động của mỗi cá nhân hay nhóm khi tham gia vào đời sống chính trị từ
góc độ văn hóa. Cách nghiên cứu này thường được sử dụng phổ biến trong giới
nghiên cứu chính trị học phương Tây.
Chung quy lại, VHCT, dù được triển khai nghiên cứu từ cách tiếp cận
nào, đều trở thành đối tượng nghiên cứu của các môn khoa học chính trị, trong
đó có chính trị học. Các nghiên cứu về VHCT đều hướng tới lý giải các giá trị
có tính bền vững, ổn định và trở thành nền tảng mang tính định hướng nằm ở
tầng sâu của các sự kiện và hoạt động chính trị.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
Trong những năm gần đây, việc nghiên cứu, giảng dạy về VHCT ở
Việt Nam ngày càng được quan tâm. Từ nhiều góc độ, các nhà khoa học đã
đề xuất nhiều cách tiếp cận, khám phá và chỉ ra những đặc trưng, đặc điểm
của VHCT Việt Nam truyền thống và hiện đại. Trong đó khoảng 10 năm
trước lại đây, việc nghiên cứu về VHCT cũng được nhiều tác giả quan tâm và
đã có nhiều công trình làm rõ bản chất, nội hàm khái niệm của VHCT, những
vấn đề và những nội dung xây dựng và phát triển VHCT, đặc biệt là vận dụng
VHCT vào phát triển con người chính trị, đào tạo cán bộ đảng viên, nhất là cán
bộ lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước. Có thể kể đến một số công trình
12
đã được công bố như sách, bài viết trên các tạp chí và trong các kỷ yếu đề
tài khoa học sau đây:
Một số sách, giáo trình, giáo khoa đã xuất bản:
Văn hóa chính trị và việc bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở nước ta
hiện nay của PGS, PTS. Phạm Ngọc Quang (chủ biên) (1995), Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách làm sáng tỏ nội dung khoa học của phạm trù
VHCT và vai trò của nó trong hoạt động chính trị, trong quá trình xây dựng
CNXH, trong việc nâng cao năng lực và bản lĩnh lãnh đạo của đội ngũ cán bộ;
từ đó, đề ra phương hướng bồi dưỡng VHCT cho cán bộ lãnh đạo ở Việt Nam.
Đây là một công trình nghiên cứu có ý nghĩa, phục vụ cho việc nghiên cứu,
giảng dạy, học tập và là tài liệu tham khảo bổ ích. Song, cuốn sách chỉ mới nêu
lên vấn đề, còn việc giải quyết vấn đề thực sự khoa học đòi hỏi phải dày công
nghiên cứu hơn nữa.
Văn hóa chính trị Việt Nam, truyền thống và hiện đại của GS. Nguyễn
Hồng Phong (1998), Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội. Đây là công trình
nghiên cứu tổng kết có tính chất chiến lược thuộc Chương trình khoa học công
nghệ cấp Nhà nước KX - 06 "Văn hóa, văn minh vì sự phát triển và tiến bộ xã
hội". VHCT truyền thống Việt Nam là một đề tài của công trình, phân tích ảnh
hưởng lớn và lâu dài của Khổng giáo nguyên thuỷ tới VHCT truyền thống ở
Việt Nam, tác giả nhấn mạnh những truyền thống nhân văn, dân chủ mà những
tư tưởng tiêu biểu là nhân nghĩa; lòng yêu nước; lòng dân là ý trời; dân là quý;
dân là gốc nước; vua là thuyền, dân là nước, nước chở thuyền, nhưng nước
cũng làm đắm thuyền. Tác giả đã nghiên cứu sự biến đổi của tương quan giữa
quốc gia - công hữu và tư hữu về ruộng đất trong xã hội Việt Nam suốt thời
trung đại. Tác giả khẳng định đặc trưng của văn minh Việt là Làng - Nước
(làng - nước chứ không phải là nước - nhà như Trung Hoa).
Văn hóa Việt Nam - truyền thống và hiện đại của Lê Huy Hòa - Hoàng
Đức Nhuận (2000), Nxb Văn hóa, Hà Nội. Cuốn sách tập hợp những bài viết
13
công phu, độc đáo, giàu tính khoa học của các chuyên gia, các giáo sư, học giả,
các nhà nghiên cứu khoa học nhân văn, các nhà văn, nhà báo trong văn hóa
Việt Nam đã nghiên cứu về lịch sử dựng nước, giữ nước và trong quá trình
thực hiện sự nghiệp đổi mới của dân tộc Việt Nam. Nội dung cuốn sách nhấn
mạnh văn hóa vừa là nền tảng vừa là động lực tinh thần của nhân loại nói
chung và dân tộc Việt Nam nói riêng. Văn hóa giữ một vai trò quan trọng, nó
là cơ sở, là tiền đề cho những định hướng phát triển xã hội. Cùng với quá trình
thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh,
v.v... là quá trình phấn đấu cho một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Vai trò văn hóa trong hoạt động chính trị của Đảng ta hiện nay do GS,
TS. Trần Văn Bính chủ biên (2002), Nxb Lao động, Hà Nội. Vai trò văn hóa
trong hoạt động chính trị là một trong những đề tài có tính thời sự cao, do một
tập thể tác giả tham gia nghiên cứu và được Khoa Văn hóa xã hội chủ nghĩa,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh chủ trì. Đây là một hướng tiếp cận
còn rất mới mẻ và phức tạp, nhưng đã được các tác giả đi sâu phân tích trên
tinh thần tư duy mới. Công trình đã khái quát được nhiều vấn đề cơ bản về văn
hóa trong lãnh đạo chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay; tìm hiểu
quan niệm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của văn hóa
trong lãnh đạo chính trị của Đảng Cộng sản; văn hóa với sự nghiệp chính trị
của Chủ tịch Hồ Chí Minh; công tác xây dựng Đảng dưới góc độ văn hóa;
công tác cán bộ, nhìn từ khía cạnh văn hóa và bồi dưỡng văn hóa cho người
lãnh đạo, quản lý ở các nước tư bản. Qua công trình này đã gợi mở, lý giải
được nhiều vấn đề bổ ích và kịp thời cung cấp tài liệu tham khảo cho công tác
nghiên cứu, học tập mà bạn đọc hiện nay đang quan tâm.
Nâng cao VHCT của cán bộ lãnh đạo quản lý ở nước ta hiện nay của
TS. Lâm Quốc Tuấn (2006), Nxb Văn hóa - Thông tin và Viện Văn hóa, Hà
Nội. Nội dung cuốn sách cho rằng, đề cập đến văn hóa là đề cập đến vấn đề
14
con người. Trong VHCT, đó là các chủ thể chính trị mà cán bộ lãnh đạo là một
lớp chủ thể quan trọng. Cán bộ luôn được xem là một nhân tố quyết định sự
thành công hay thất bại của sự nghiệp cách mạng. Cuốn sách nêu vấn đề nâng
cao VHCT của cán bộ lãnh đạo quản lý ở Việt Nam hiện nay góp phần hệ
thống hóa và phân tích những quan điểm, luận điểm cơ bản về VHCT, về tính
tất yếu phải nâng cao VHCT, cũng như phương hướng, nội dung và những giải
pháp cơ bản nhằm nâng cao VHCT của cán bộ lãnh đạo quản lý ở Việt Nam
hiện nay. Về cấu trúc VHCT, theo tác giả có thể được xem xét dưới hai góc độ
tiếp cận cơ bản: VHCT gắn liền với chủ thể chính trị (văn hóa tổ chức, thiết
chế và văn hóa cá nhân) và VHCT với tư cách là hệ giá trị, là một hệ thống
phản ánh đầy đủ các dấu hiệu chân, thiện, mỹ.
Tập bài giảng Chính trị học, của Viện Chính trị học (2007), do PGS. TS.
Nguyễn Văn Vĩnh chủ biên, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội, xác định chính trị
học là môn khoa học nghiên cứu chính trị như một chỉnh thể nhằm nhận thức
và vận dụng những quy luật và tính quy luật chung nhất vào các hoạt động
chính trị, trong đó có VHCT. Cuốn sách cung cấp những kiến thức ở mức cơ
bản và cần thiết về VHCT nói chung và VHCT Việt Nam nói riêng.
Nguồn gốc văn hóa truyền thống Việt Nam của PGS. TS. Lê Văn Quán
(2007), Nxb Lao động, Hà Nội. Cuốn sách là một công trình tập hợp những kết
quả nghiên cứu và khảo sát về văn hóa Việt Nam trải dài trong nhiều thế kỷ.
Nó là những tìm tòi và suy ngẫm được tích luỹ trong mấy chục năm của tác giả
về các hiện tượng văn hóa độc đáo mang bản sắc của dân tộc Việt Nam nằm
trong cái nói chung của văn hóa phương Đông. Tìm ra mối quan hệ xuyên suốt
mang tính lịch sử của các hiện tượng văn hóa nhằm giải thích một cách khoa
học và khách quan các hiện tượng văn hóa Việt Nam ở thời kỳ hiện đại chính
là nội dung cơ bản của cuốn sách. Không thể giải thích các hiện tượng văn hóa
ở mỗi giai đoạn cũng như văn hóa hiện đại nếu tách rời chúng khỏi những mối
quan hệ khăng khít với truyền thống. Nói một cách khác, sẽ vô cùng phiến diện
15
và sai lầm nếu xem xét các hiện tượng văn hóa một cách biệt lập. Cuốn sách là
tài liệu bổ ích cho những ai quan tâm tới cội nguồn văn hóa truyền thống và sự
phát triển của văn hóa Việt Nam hiện đại.
Chính trị học - những vấn đề lý luận và thực tiễn của Viện Chính trị
học, Học viện chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh do GS. TS.
Nguyễn Văn Huyên chủ biên và tập thể tác giả (2007), Nxb Lý luận Chính
trị, Hà Nội. Theo cuốn sách, chính trị học là khoa học nghiên cứu toàn bộ
lĩnh vực hoạt động chính trị nhằm khái quát lên những quy luật chung nhất
hay những tính quy luật của đời sống chính trị, tìm ra những mối quan hệ,
các cơ chế tác động, phương thức sử dụng, nói chung là khoa học và nghệ
thuật chính trị, nhằm hiện thực hóa những quy luật chung đó vào hoạt động
thực hiện mục tiêu chính trị. Trong số các nội dung của cuốn sách đã đề cập
đến VHCT như là một trong những đối tượng nghiên cứu của chính trị học
nói chung và ở Việt Nam nói riêng.
Tư tưởng chính trị của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh
của PGS. TS. Lê Minh Quân (2009), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Cuốn
sách xem tư tưởng chính trị của Mác, Ăngghen, Lênin và Hồ Chí Minh là nội
dung cốt lõi của VHCT, nhất là VHCT XHCN. Trong cuốn sách tác giả nêu
lên ba phần, thứ nhất: Tư tưởng chính trị của Mác, Ăngghen, Lênin và Hồ Chí
Minh. Đây là phần tổng quan tư tưởng chính trị của các ông; thứ hai: Giới
thiệu một số tác phẩm của Mác, Ăngghen, Lênin và Hồ Chí Minh về chính trị;
thứ ba: Mác, Ăngghen và Lênin với cuộc đấu tranh bảo vệ và phát triển tư
tưởng chính trị của chủ nghĩa Mác. Để làm rõ hơn những quan điểm về chính
trị của các ông, công trình đã đi sâu phân tích những luận điểm của các ông về
nhiều vấn đề chính trị cụ thể thông qua việc lựa chọn giới thiệu một số tác
phẩm chủ yếu về chính trị, trong đó có các tác phẩm luận chiến, chống lại
những kẻ thù của tư tưởng chính trị của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong đó có đề
cập đến những vấn đề của VHCT.
16
Phát triển văn hóa Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020, PGS.TS. Phạm Duy
Đức chủ biên (2009), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Công trình nghiên cứu
này mang tính chất dự báo, mang tầm chiến lược và được tiếp cận văn hóa từ
bình diện lý luận chính trị; quán triệt sâu sắc quan điểm cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển văn hóa; kế thừa
và phát huy một cách sáng tạo quan điểm, đường lối, chính sách văn hóa của
Đảng và Nhà nước và tiến hành tổng kết thực tiễn xây dựng và phát triển nền
văn hóa Việt Nam. Cuốn sách đưa ra những dự báo và xác định những tầm
nhìn có ý nghĩa chiến lược về phát triển văn hóa Việt Nam giai đoạn 2011 -
2020. Sự phát triển mạnh mẽ của xu thế toàn cầu hóa và kinh tế tri thức cùng
với sự đi sâu vào kinh tế thị trường sẽ tạo nên nhiều biến động trên mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội, trong đó có văn hóa. Nghiên cứu vấn đề này, đòi hỏi
không phải như một dự báo mang tính lý thuyết mà là một dự báo mang tính
hành động. Công trình này nhằm góp phần xác định phương hướng và nêu lên
những giải pháp cụ thể, thiết thực để phát triển văn hóa Việt Nam giai đoạn
2011 - 2020 và đóng góp thực sự vào việc hoạch định chính sách phát triển văn
hóa của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Bước đầu tìm hiểu những giá trị văn hóa chính trị truyền thống Việt
Nam của GS. TS. Nguyễn Văn Huyên, PGS. TS. Nguyễn Văn Vĩnh và TS.
Nguyễn Hoài Văn (2009), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Nội dung cuốn
sách phân tích nhiều giá trị cốt lõi của VHCT truyền thống Việt Nam. Theo
các tác giả, lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của nhân dân Việt Nam,
lịch sử đấu tranh cho những khát vọng của con người Việt Nam đã hình thành
nên những giá trị VHCT truyền thống Việt Nam. Những giá trị VHCT Việt
Nam được xây dựng trên cơ cấu xã hội nhà - làng - nước; Một nền chính trị
yêu nước, thương dân, dân là gốc; Tư tưởng chính trị đấu tranh cho độc lập, tự
do, tự lực, tự cường; Tinh thần tự hào dân tộc, tự tôn nền văn hiến quốc gia,
trọng trí tuệ, quy tụ người hiền; Một nền chính trị đạo lý, tôn trọng chính
17
nghĩa, bảo vệ công lý; vừa đề cao đức trị vừa đề cao pháp trị, hình thành tư
tưởng về một nền chính trị pháp quyền; tư tưởng và hành vi chính trị khoan
dung, độ lượng, vị tha; hoà hợp, hữu nghị, hợp tác vì sự phát triển và tiến bộ.
Những giá trị, phẩm chất và năng lực đó hợp thành một nền chính trị nhân đạo,
nhân văn, tất cả vì con người của VHCT Việt Nam. Cuốn sách còn nêu ra
những quan điểm và giải pháp phát triển VHCT Việt Nam trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay.
Văn hóa chính trị và lịch sử dưới góc nhìn VHCT của PGS, TS. Phạm
Hồng Tung (2010), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Trong khoa học chính trị
hiện nay, VHCT giữ vị trí quan trọng, vừa với tính cách là một đối tượng của
khoa học chính trị, vừa là một hướng tiếp cận liên ngành, có ý nghĩa phương
pháp luận đối với một số ngành khoa học xã hội khác. Công trình này là một
tập hợp có hệ thống của 14 chuyên luận, đề cập tới những vấn đề về nghiên
cứu VHCT. Trên cơ sở của cách tiếp cận VHCT, tác giả làm rõ một số khái
niệm cơ bản được sử dụng phổ biến trong khoa học chính trị phương Tây, giới
thiệu một số lý thuyết khoa học, cách tiếp cận và các luận điểm cơ bản của giới
học giả phương Tây về VHCT Á Đông và chỉ ra những khía cạnh mới, nhận
định mới về những vấn đề liên quan.
Một số công trình khoa học đăng trên tạp chí chuyên ngành:
Văn hóa chính trị, một bình diện hợp thành của đối tượng và nội dung
nghiên cứu của chính trị học của Hoàng Chí Bảo trong "Một số vấn đề về khoa
học chính trị" (1992), Viện Mác - Lênin; Văn hóa chính trị - một cách nhìn
trong thời kỳ đổi mới (1998) của Trần Đình Huỳnh, Tạp chí Xây dựng Đảng,
số 10,11; Vai trò của VHCT trong việc hình thành phẩm chất và năng lực của
người cán bộ lãnh đạo chính trị (2003) của Nguyễn Văn Vĩnh, Thông tin
Chính trị học; Về văn hóa chính trị (2004) của Văn Hải, Tạp chí Lý luận chính
trị, số 5; "Văn hóa Đảng và xây dựng văn hóa trong Đảng", Kết quả Tọa đàm
của Ban Tư tưởng - Văn hóa số 12/2004 và số 1, 2/2005; Văn hóa Hồ Chí Minh
18
và sự rèn luyện nhân cách văn hóa của thanh niên (2005), T/C Lịch sử Đảng, số
12 và Văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh - giá trị và ý nghĩa (2005) của Phạm Hồng
Chương, Tạp chí Cộng sản, số 15; Tiếp cận triết học về VHCT và xây dựng
VHCT Việt Nam hiện nay (2005) của Nguyễn Văn Huyên, Thông tin Chính trị
học, số 1; Hệ giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam trong đổi mới và hội nhập
(2009) của Hoàng Chí Bảo, Tạp chí Cộng sản số 7/97; Tư tưởng về một nền
chính trị pháp quyền trong VHCT truyền thống Việt Nam (2010), của Nguyễn
Hoài Văn, Tạp chí Lý luận chính trị, số 3, v.v...
Một số luận văn, luận án khoa học đã bảo vệ:
Văn hóa chính trị Việt Nam và vai trò của nó đối với công cuộc đổi mới
ở nước ta hiện nay (1998), Luận văn thạc sĩ của Lê Tấn Lập, Học viện Chính
trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh; Quá trình hình thành và phát triển giá
trị của chủ nghĩa yêu nước trong tiến trình văn hóa Việt Nam (1998), Luận văn
thạc sĩ của Phạm Bá Toàn, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí
Minh; VHCT của đội ngũ giảng viên đại học nước ta hiện nay - thực trạng và
giải pháp (2004), luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Thanh Thuỷ;
Các công trình khoa học trên, tập trung nghiên cứu về sự hình thành,
phát triển, cấu trúc, đặc điểm, vai trò của văn hóa, VHCT của Việt Nam từ
truyền thống đến hiện đại. Có một số công trình khoa học đã đi chuyên sâu vào
sự phát triển văn hóa Việt Nam trong tương lai, đã đưa ra quan điểm, phương
pháp và vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng và phát triển nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Ngoài ra, còn có một số
đề tài nghiên cứu khoa học nghiên cứu về những vấn đề gần gũi với đề tài luận
án này như: Chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh trong thời kỳ mở cửa, hội nhập
quốc tế (2008), Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài khoa học cấp Bộ
năm 2008, Viện Hồ Chí Minh, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ
Chí Minh; v.v...
19
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở CỘNG HOÀ DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
Ở CHDCND Lào trong những năm qua, việc tiếp cận văn hóa nói chung,
VHCT nói riêng còn hạn chế, nhưng cũng có một số công trình nghiên cứu và
một số luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ và các tài liệu của Đảng và Nhà nước đã
đề cập, tiêu biểu là:
Lịch sử Lào (1998), Viện Nghiên cứu Đông Nam Á hợp tác với các nhà
khoa học xã hội Lào đã nghiên cứu thành công đề tài liên quan đến vấn đề lịch
sử, văn hóa Lào từ thời tiền sử đến hiện nay. Trong đó các nhà khoa học đã
nghiên cứu từ những di tích văn minh thời tiền sử và sơ sử đến sự hình thành
các mường cổ đại trên đất Lào; Vương quốc Lào Lạn Xạng thời kỳ xây dựng
và bảo vệ đất nước; Nước Lào trong thời kỳ thuộc Pháp (1893 - 1954); Cuộc
đấu tranh của Nhân dân Lào chống chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ dưới sự
lãnh đạo của Đảng NDCM Lào. Thắng lợi vĩ đại năm 1975 và sự lựa chọn, thử
nghiệm biện pháp và con đường phát triển của Lào trong 20 năm sau cách
mạng giải phóng dân tộc Lào (1976 - 1995). Do tập hợp được sự đóng góp trí
tuệ của nhiều nhà khoa học mà cuốn sách có nội dung phong phú, chuẩn xác về
thực tiễn lịch sử, là tài liệu quý giá không chỉ đối với những người dân các bộ
tộc Lào mà còn góp phần quan trọng vào việc phát triển bộ môn Lào học ở
Việt Nam. Công trình này là cơ sở lịch sử cho việc làm rõ những giá trị VHCT
truyền thống Lào.
Văn hóa nghệ thuật và vai trò của nó trong sự nghiệp đổi mới ở nước
CHDCND Lào hiện nay, Luận án tiến sĩ triết học của Sỉ Bun Hương
PhanĐaVông (1999) Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
Theo đó, trong công cuộc đổi mới hiện nay ở nước CHDCND Lào, vai trò của
văn hóa nói chung, văn hóa nghệ thuật nói riêng đang từng bước được khẳng
định như là một nhân tố bên trong của quá trình phát triển của các bộ tộc anh
em trên đất nước Lào. Vì vậy, việc nghiên cứu toàn diện và sâu sắc về văn hóa
nghệ thuật, nhận thức đầy đủ vai trò và tác động của nó đối với sự nghiệp
20
đổi mới đất nước, trên cơ sở đó đề xuất các biện pháp, nhất là các biện pháp
về phương diện lãnh đạo và quản lý để phát huy sức mạnh của văn hóa nghệ
thuật trong công cuộc đổi mới hiện nay là một vấn đề vừa có ý nghĩa lý
luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn, động lực thúc đẩy sự phát triển đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân Lào, tiến lên theo hướng đổi mới đất nước do
Đảng NDCM Lào đề ra.
Luận án trên đã xác định được nội dung khái niệm văn hóa nghệ thuật -
một khái niệm xuất hiện trong nền mỹ học Xô - Viết từ những năm 70 thế kỷ
XX; làm rõ cơ cấu, chức năng xã hội của nó; đồng thời phân tích mối quan hệ
biện chứng giữa văn hóa nghệ thuật và các lĩnh vực khác của xã hội. Giới thiệu
khái quát những nét tiêu biểu trong tiến trình lịch sử văn hóa Lào xem đó là bối
cảnh văn hóa - lịch sử của sử nghiệp xây dựng nền văn hóa nghệ thuật Lào,
theo phương châm dân tộc, khoa học và đại chúng. Trình bày về thực trạng văn
hóa nghệ thuật Lào thời kỳ đổi mới (từ năm 1986 đến nay), trong đó có nêu lên
mặt mạnh, mặt yếu và những tồn tại cần vượt qua. Giới thiệu các đường lối,
quan điểm của Đảng NDCM Lào và Nhà nước CHDCND Lào trên lĩnh vực
văn hóa nghệ thuật, chủ yếu là từ Đại hội Đảng lần thứ IV (1986) đến nay. Đề
xuất được các phương hướng và giải pháp nhằm phát huy tác dụng của văn hóa
nghệ thuật, góp phần vào sự nghiệp xây dựng đất nước Lào giàu mạnh, xã hội
công bằng, văn minh. Qua khảo sát, đánh giá, khái quát thực trạng văn hóa
nghệ thuật hiện đang diễn ra ở nước CHDCDN Lào, luận án đã nêu lên những
quy luật nội tại của văn hóa nghệ thuật trong thời kỳ đổi mới hiện nay, đề xuất
các giải pháp, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của văn hóa nghệ thuật,
cung cấp cơ sở khoa học cho các cơ quan lãnh đạo và quản lý về văn hóa nghệ
thuật ở CHDCND Lào hiện nay. Văn hóa nghệ thuật Lào được hình thành có
liên quan chặt chẽ với VHCT Lào.
Xây dựng và phát triển nền văn hóa thẩm mỹ ở nước CHDCDN Lào
trong điều kiện đổi mới và hội nhập quốc tế, Luận án tiến sĩ triết học của Xi
21
Lửa BunKhăm (2001), Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí
Minh. Luận án chứng minh rằng, nền văn hóa thẩm mỹ là một bộ phần tinh tế
và nhạy cảm của văn hóa tinh thần; nó phản ánh sâu sắc đời sống thẩm mỹ
gắn liền với các giá trị đặc thù độc đáo của các dân tộc; do đó văn hóa thẩm
mỹ là một bộ phận quan trọng và tinh tế của văn hóa dân tộc. Nền văn hóa
dân tộc được hợp thành bởi sự thống nhất của VHCT, văn hóa đạo đức, văn
hóa khoa học, văn hóa giáo dục và văn hóa thẩm mỹ, v.v... tất cả đều hướng
tới cái chân, cái thiện và cái mỹ. Công trình đã luận giải, trong quá trình xây
dựng nền văn hóa mới ở Lào, vấn đề xây dựng nền văn hóa thẩm mỹ tiên tiến
giàu bản sắc dân tộc là một trong những nhiệm vụ cấp bách, góp phần giữ
gìn, phát huy truyền thống thẩm mỹ tốt đẹp của các bộ tộc Lào, xây dựng môi
trường thẩm mỹ lành mạnh cho sự phát triển thịnh vượng và phồn vinh của
đất nước Lào.
Ở CHDCND Lào, việc nghiên cứu về văn hóa thẩm mỹ và nền văn hóa
thẩm mỹ chưa được chú ý, việc xây dựng và phát triển nền văn hóa thẩm mỹ ở
nước CHDCND Lào trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế lại càng là vấn
đề mới mẻ. Vì vậy, đây là một công trình mới cấp bách, có ý nghĩa lý luận thực
tiễn đối với việc xây dựng nền văn hóa mới ở CHDCND Lào hiện nay. Công
trình đã làm sáng tỏ khái niệm nền văn hóa thẩm mỹ và quy luật vận động,
phát triển của nó; khảo sát, phân tích và đánh giá thực trạng nền văn hóa thẩm
mỹ ở nước Lào trong thời gian từ năm 1986 đến nay; đề xuất phương hướng,
nhiệm vụ và giải pháp nhằm xây dựng và phát triển nền văn hóa thẩm mỹ ở
nước CHDCND Lào trong điều kiện đổi mới và hội nhập quốc tế.
Đây là công trình bước đầu khảo sát, đánh giá thực trạng và đề xuất
phương hướng xây dựng và phát triển nền văn hóa thẩm mỹ ở nước Lào. Tuy
nhiên kết quả đạt được có thể dùng làm tài liệu cho các nhà lãnh đạo và quản
lý văn hóa, cho các công trình nghiên cứu giảng dạy và học tập ở các Học viện
chính trị cũng như các trường Đại học khoa học xã hội - nhân văn. Đồng thời,
22
đây cũng là một công trình tham gia góp phần bảo vệ bản sắc văn hóa nói
chung, văn hóa thẩm mỹ nói riêng ở nước CHDCND Lào hiện nay.
Vai trò của văn hóa đối với sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở
CHDCND Lào hiện nay, Luận án tiến sĩ triết học của Son Tha Nu
ThămMaVông (2004), Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
Trong thời đại ngày nay, văn hóa được thừa nhận vừa là mục tiêu, vừa là động
lực của quá trình phát triển nói chung, của phát triển kinh tế nói riêng; hơn
nữa, văn hóa còn được xem là hệ thống điều tiết quá trình đó. Thực tiễn đời
sống hiện thực của CHDCND Lào trong 30 năm đổi mới cho thấy vai trò của
văn hóa đang được khẳng định như nhân tố bên trong của quá trình phát triển
kinh tế - xã hội. Đảng NDCM Lào đã nhận định, phát triển tách khỏi cội nguồn
văn hóa dân tộc thì nhất định sẽ lâm vào nguy cơ tha hóa; đi vào kinh tế nhiều
thành phần, hiện đại hoá đất nước mà xa rời những giá trị văn hóa truyền thống
sẽ làm mất bản sắc dân tộc, gây bất bình trong nhân dân, tạo mảnh đất cho sự
xâm nhập của văn hóa độc hại, ngoại lai. Trên cơ sở làm rõ vai trò của văn hóa
đối với sự phát triển kinh tế và thực trạng phát huy vai trò của văn hóa đối với
sự phát triển kinh tế nhiều thành phần ở CHDCND Lào, luận án đã làm rõ vai
trò của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế; phân tích thực trạng phát huy vai
trò của văn hóa đối với sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở CHDCND
Lào từ năm 1986 đổi mới đến nay; đề xuất một số nguyên tắc và giải pháp
nhằm phát huy hơn nữa vai trò của văn hóa đối với sự phát triển của nền kinh
tế nhiều thành phần ở CHDCND Lào.
Kết quả nghiên cứu của công trình làm rõ thêm vai trò của văn hóa đối
với sự phát triển kinh tế trong sự vận dụng cụ thể vào điều kiện của CHDCND
Lào, từ đó góp phần khắc phục cả xu hướng tách rời văn hóa với kinh tế lẫn xu
hướng xem văn hóa chỉ là sản phẩm thụ động của kinh tế; công trình cũng có
đóng góp về lý luận và thực tiễn cho các cơ quan hoạch định chính sách kinh tế
23
và văn hóa, cũng như công tác giảng dạy trong các trưởng lý luận và trong hệ
thống các trường đại học ở CHDCND Lào.
Văn hóa chính trị của đội ngũ ®¶ng viªn tỉnh Xa Văn Na Khệt Cộng hoà
Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay, Luận văn thạc sĩ chính trị học của Băng Lít
KhămLiêngChănThiLạt (2004), và Văn hóa chính trị của cán bộ lãnh đạo
tỉnh Khăm Muộn Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào giai đoạn hiện nay, Luận
văn thạc sĩ chính trị học của Bun Thắng NiTiPhông (2009), Học viện Chính trị
- Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh. Theo đó sự nghiệp đổi mới mà Đảng
NDCM Lào đề ra năm 1986 là một cuộc cách mạng sâu sắc, toàn diện và triệt
đề nhất. Nó diễn ra không chỉ trong lĩnh vực chính trị, kinh tế mà cả trong lĩnh
vực văn hóa và xã hội, nhằm biến đổi cả đời sống vật chất lẫn tinh thần của xã
hội. Thực hiện đường lối đổi mới đó trong gần 30 năm qua, CHDCND Lào đã
đạt được những thành tích to lớn trong nhiều lĩnh vực: Kinh tế tăng trưởng
nhanh, văn hóa - xã hội phát triển, an ninh chính trị ổn định và đã đúc kết được
nhiều bài học quý báu, để vận dụng nhằm nâng cao và hoàn thiện hơn nữa
đường lối đổi mới của Đảng. Bên cạnh thành công cũng đã bộc lộ những hạn
chế: sự không ngang tầm năng lực lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ đảng
viên so với thực tiễn đổi mới đặt ra, nổi bật là sự yếu kém về tư duy lý luận.
Trong nghệ thuật lãnh đạo, quản lý các quá trình chính trị, văn hóa - xã hội,
mỗi giai đoạn cách mạng đòi hỏi ở đội ngũ cán bộ những phẩm chất và năng
lực tương xứng với giai đoạn đó. Để tương xứng với sự nghiệp đổi mới, trước
hết phải có đội ngũ cán bộ đảng viên đủ phẩm chất, đạo đức cách mạng, năng
lực lãnh đạo, trực tiếp nhất là trình độ VHCT của họ phải đáp ứng được những
đòi hỏi của thực tiễn cách mạng hiện nay.
Thực tế ở hai tỉnh Xa Văn Na Khệt và tỉnh Khăm Muộn hiện nay, những
tri thức và kỹ năng lãnh đạo, quản lý của một số cán bộ ở cấp tỉnh đến huyện
còn yếu, có tình trạng thiếu gương mẫu trong lối sống, phẩm chất đạo đức của
24
một phần cán bộ, giảm sút tinh thần trách nhiệm đối với nhiệm vụ của Đảng và
Nhà nước giao cho. Do vậy, việc nghiên cứu, nhận thức về VHCT của đội ngũ
cán bộ lãnh đạo của các công trình trên đã góp phần trực tiếp tới sự ổn định và
phát triển của tỉnh Xa Văn Na Khết và tỉnh Khăm Muộn, góp phần đảm bảo
cho sự nghiệp đổi mới theo định hướng XHCN tới thắng lợi với những mục
tiêu mà Đảng và Nhà nước Lào đặt ra. Trên cơ sở hệ thống hóa một số vấn đề
lý luận chung về văn hóa, về chính trị và VHCT, các tác giả phân tích thực trạng
VHCT của đội ngũ cán bộ và đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu
nhằm nâng cao VHCT của đội ngũ cán bộ đảng viên ở tỉnh Xa Văn Na Khệt và
tỉnh Khăm Muộn, CHDCND Lào hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của các công trình nêu trên đã góp phần xác lập
được những tiêu chí khoa học trong cấu trúc VHCT của người cán bộ lãnh đạo,
đề xuất những phương hướng, giải pháp chủ yếu để nâng cao VHCT của chủ
thể chính trị này, đồng thời cung cấp cơ sở cho việc nghiên cứu và học tập
trong các chuyên ngành khoa học như: Chính trị học, Văn hóa học, Nhà nước
pháp luật ở CHDCND Lào.
Văn hóa chính trị ở Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào trong giai đoạn
hiện nay, Luận án tiến sĩ chính trị học của Khăm Mặn ChănThạLăngSỷ
(2002), Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh. Theo đó,
VHCT là một khái niệm gần đây được giới khoa học chính trị quốc tế và
Việt Nam rất quan tâm. Trong quá trình nghiên cứu về tình hình chính trị
qua các giai đoạn, các thời kỳ lịch sử khác nhau của các quốc gia, các dân
tộc, các nhà khoa học đã chú ý nhiều đến mối quan hệ giữa truyền thống văn
hóa và hoạt động chính trị. Tuy mới chỉ là bước đầu, nhưng nhiều nhà
nghiên cứu đã đề cập đến rất nhiều nội dung căn bản của VHCT. Xu thế
chung của các nhà khoa học gần đây cũng rất quan tâm nhấn mạnh vai trò
và tác động của VHCT đối với sự phát triển của các quốc gia, các dân tộc,
25
trước hết là tác động đến hoạt động chính trị của hệ thống chính trị. Ở
CHDCND Lào, vấn đề nhận thức về VHCT còn rất mới, cho đến nay chỉ có
một số công trình bước đầu nghiên cứu về vấn đề này. Việc tiếp thu và học
tập VHCT của các nước khác, đặc biệt là của Việt Nam, một nước có nhiều
điểm tương đồng và có mỗi quan hệ hữu nghị đặc biệt với CHDCND Lào là
một vấn đề bức thiết hiện nay.
Nhiều công trình về VHCT ở Lào hiện nay khẳng định rằng, VHCT ở
CHDCND Lào mang tính chất XHCN. Đó là những công trình nghiên cứu VHCT Lào
từ khi Đảng NDCM Lào ra đời và tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và vận dụng trong thực tiễn đất nước Lào. Những công trình này
chứng minh rằng, ngay từ khi thành lập, Đảng NDCM Lào đã lấy chủ nghĩa
Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hoạt động chính trị
của mình. Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, VHCT ở nước CHDCND Lào
đang đứng trước thời cơ và thách thức mới do sự tác động của các nhân tố bên
ngoài và nhân tố bên trong. Vì vậy, việc nhận thức toàn diện và sâu sắc về sự
tác động của các nhân tố này là cơ sở để đánh giá và đề xuất các phương
hướng, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của VHCT ở Lào
trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay.
Một số công trình nghiên cứu, đánh giá về vai trò của VHCT trong đối
sống nhân dân. Các tác giả cho rằng quá trình, đổi mới, mở cửa, giao lưu hợp
tác quốc tế đã tạo cho nhân dân Lào tiếp cận với văn hóa, văn minh của nhân
loại, góp phần nâng cao hiểu biết, nâng cao sự nhạy cảm trong giao tiếp, ứng
xử và đánh giá các mối quan hệ và các sự kiện trong cuộc sống. Nhưng đồng
thời lại xuất hiện những tiêu cực là coi nhẹ công tác nhà nước, chú trọng vào
công việc liên doanh - liên kết quốc tế, coi nhẹ phẩm chất đạo đức cách
mạng. Tinh thần trung với nước, hiếu với dân có chiều hướng suy giảm. Cho
nên trong giai đoạn đổi mới hiện nay, VHCT có vai trò hết sức quan trọng
26
trong giáo dục và đào tạo đội ngũ cán bộ để lãnh đạo và tổ chức thành công
sự nghiệp đổi mới ở nước CHDCND Lào. Việc Nâng cao trình độ VHCT và
giáo dục VHCT cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân sẽ góp phần
trực tiếp tới sự ổn định và phát triển của CHDCND Lào, góp phần đảm bảo
cho sự nghiệp đổi mới theo định hướng XHCN tới thắng lợi với những mục
tiêu mà Đảng NDCM Lào đã đặt ra.
Nghiên cứu về VHCT ở CHDCND Lào trong giai đoạn hiện nay là một
công trình nghiên cứu rất nhiều các lĩnh vực khác nhau trong đời sống VHCT.
Đó là vấn đề lý luận cơ bản về VHCT, phân tích thực trạng và đề xuất các giải
pháp nhằm xây dựng và phát triển VHCT trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
đất nước Lào, chủ yếu biểu hiện tập trung ở các phương diện cơ bản là ý thức
chính trị, thiết chế, thể chế chính trị, sự tham gia hoạt động chính trị của đội
ngũ nhân sự và vai trò của nhân dân. Cụ thể là hệ thống hoá và làm sáng rõ
khái niệm VHCT, những biểu hiện và tác động của nó đối với sự nghiệp đổi
mới đất nước ở nước CHDCND Lào; Khảo sát, phân tích và đánh giá thực
trạng VHCT ở nước CHDCND Lào từ năm 1986 đến năm 2002; Đề xuất
phương hướng và giải pháp nhằm phát triển VHCT ở nước CHDCND Lào
trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.
Luận án này góp phần nhận thức sâu sắc và toàn diện hơn về VHCT và
phương hướng giải pháp xây dựng VHCT ở Lào trong sự nghiệp đổi mới đất
nước hiện nay. Qua đó góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng NDCM
Lào, góp phần củng cố hoàn thiện bộ máy nhà nước và phát huy vai trò VHCT
để xây dựng chế độ chính trị xã hội vững mạnh ở CHDCND Lào. Kết quả
nghiên cứu của công trình đã cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn cho các cơ
quan lãnh đạo và quản lý của Đảng và Nhà nước, làm tài liệu tham khảo cho
công tác giảng dạy và nghiên cứu chính trị học và VHCT trong các trường
chính trị và trường đại học ở Lào hiện nay.
27
Nhiều tài liệu nghiên cứu khác đề cập đến VHCT được công bố trong
các tác phẩm: Tính dân tộc của văn hóa Lào của Bua Ban Vo La Khun (xuất
bản năm 1998); Sự hình thành của các dân tộc Lào, tập I (2006), tập II (2009)
của Bun Mi Thạp Si Mương; Tài liệu văn hóa và phát triển (2008), Bộ Văn
hóa - Thông tin Lào; Ko Ola Bun về vấn đề tư tưởng chính trị và văn hóa
(2008), Bộ Văn hóa - Thông tin Lào; Tổng kết chiến tranh nhân dân dưới sự
lãnh đạo của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào từ năm 1945 - 1975 (2004), Ban
Tuyên huấn Trung ương Lào; Lịch sử Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2010),
Viện Khoa học Xã hội quốc gia Lào. Các công trình nêu trên đã phân tích và
khẳng định về giá trị VHCT truyền thống Lào và nêu lên ý nghĩa của nó đối
với công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước Lào hiện nay.
Có thể nói, những vấn đề về VHCT, từ bản chất đến đặc điểm, cấu trúc,
chức năng, nhiệm vụ, vai trò của nó trong đời sống chính trị ở trên thế giới đã
được nghiên cứu từ khá lâu. Ở CHDCND Lào, tình hình nghiên cứu VHCT nói
chung, VHCT truyền thống của Lào nói riêng chưa nhiều, thiếu hệ thống, chưa
căn bản, chưa đáp ứng được đòi hỏi xây dựng và phát triển nền VHCT Lào nói
riêng, góp phần vào việc xây dựng và phát triển nền văn hóa dân tộc Lào nói
chung, đặc biệt là phục vụ cho việc xây dựng đội ngũ cán bộ Lào hiện nay. Đối
với, lĩnh vực nghiên cứu về VHCT truyền thống, việc đi sâu nghiên cứu để rút
ra các giá trị VHCT truyền thống của các dân tộc trên thế giới cũng như ở Việt
Nam chưa được quan tâm nhiều. Đặc biệt, ở CHDCND Lào, việc nghiên cứu
VHCT có thể nói là chưa có mấy công trình; còn nghiên cứu về giá trị VHCT
truyền thống Lào, cho đến nay chưa có công trình khoa học cũng như các luận
án, luận văn nào.
Những thành tựu nghiên cứu nêu trên về VHCT với nhiều khía cạnh,
nhiều góc độ khác nhau trên thế giới, ở Việt nam và kể cả ở Lào là nguồn tài
liệu quý báu cho nghiên cứu sinh kế thừa thực hiện luận án của mình.
28
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1
Nghiên cứu vấn đề những giá trị VHCT truyền thống Lào và ý nghĩa nó
đối với công cuộc đổi mới ở CHDCND Lào hiện nay, trong Chương 1 của luận
án, đã phân tích tổng quan tình hình nghiên cứu các công trình khoa học liên
quan đến đề tài của các nhà nghiên cứu của các nước trên thế giới, trong đó có
Việt Nam và Lào. Các công trình khoa học nêu trong luận án, đã được các nhà
khoa học công bố thông qua các tác phẩm, sách tham khảo, chuyên luận, công
trình khoa học cấp nhà nước, cấp bộ, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, các ấn
phẩm trên tạp chí, các bài viết đã đề cập, tiếp cận, nghiên cứu phân tích từ
nhiều góc độ khác nhau như: vấn đề lịch sử, chính trị học, triết học, văn hóa
học, văn hóa nghệ thuật, văn hóa thẩm mỹ và các công trình khác về VHCT đi
sâu vào hệ thống chính trị, quyền lực chính trị, VHCT của cán bộ lãnh đạo và
đảng viên ở Việt Nam và Lào hiện nay.
Cho dù các vấn đề nêu trên thực tế một số đã được đặt ra từ rất sớm ở cả
phương Đông và phương Tây, nhưng ngành khoa học chính trị hiện đại, với
tính cách là một ngành khoa học độc lập, và cùng với nó là môn nghiên cứu
VHCT chỉ ra đời ở phương Tây từ sau cuộc Chiến tranh thế giới thứ II. Ở Việt
Nam, nhất là ở CHDCND Lào, ngành khoa học chính trị học còn đang trong
quá trình hình thành và phát triển. Trong điều kiện đó, việc nghiên cứu, kế thừa
các thành tựu của giới nghiên cứu khoa học chính trị ở phương Tây của
CHDCND Lào, là việc làm có ý nghĩa quan trọng.
Những quan niệm, khái niệm và lý thuyết về VHCT, các phương pháp
và cách tiếp cận về VHCT, giá trị của VHCT được các nhà nghiên cứu trên
thế giới cũng như ở Việt Nam giới thiệu, kể cả các công trình nghiên cứu về
VHCT và giá trị VHCT ở CHDCND Lào thời gian qua là nguồn tư liệu quý
giá để tác giả kế thừa, phát triển, phục vụ cho việc hoàn thành luận án tiến sĩ
của mình.
29
Chƣơng 2
VĂN HÓA CHÍNH TRỊ VÀ CƠ SỞ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN
VĂN HÓA CHÍNH TRỊ TRUYỀN THỐNG LÀO
2.1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VĂN HÓA CHÍNH TRỊ
2.1.1. Khái niệm văn hóa
VHCT là một loại hình của văn hóa, nghĩa là nó thể hiện khía cạnh
chính trị của văn hóa, là sự thẩm thấu của văn hóa vào chính trị, là chính trị
có tính văn hóa. Như vậy, để tiếp cận được khái niệm VHCT một cách cơ
bản nhất, bản chất nhất, chúng ta cần thiết phải tìm hiểu, làm rõ các khái
niệm công cụ, nền tảng cơ bản nhất như văn hóa, chính trị, quan hệ giữa văn
hóa và chính trị từ đó mới có thể làm rõ khái niệm VHCT.
Thuật ngữ "văn hóa" xuất hiện từ xa xưa trong ngôn ngữ của nhân loại,
xuất phát từ chữ Latinh "cultus", nghĩa gốc là "trồng trọt", được dùng theo hai
nghĩa cultus và agri là "trồng trọt ngoài đồng" và cultus animi là "trồng trọt
tinh thần". Như vậy, nguồn gốc của thuật ngữ văn hóa có liên quan đến lao
động, hoạt động tích cực cải tạo của con người, tức là sự giáo dục, giáo dưỡng,
bồi dưỡng tâm hồn, tính cách, phẩm chất, nhân cách con người, mà như Hồ
Chí Minh đã nói, đó là "trồng người".
Với nghĩa rộng, văn hóa là toàn bộ sản phẩm có giá trị xã hội do con
người sáng tạo ra trong quá trình hoạt động sống cùng với các phương thức
hoạt động sống khác của các cộng đồng người tạo nên văn minh vật chất và
văn minh tinh thần trong quá trình phát triển xã hội loại người. Nói về nghĩa
hẹp, văn hóa là khái niệm chỉ hình thái ý thức và thượng tầng kiến trúc của xã
hội. Có nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa, mỗi định nghĩa phản ánh một
cách nhìn nhận và đánh giá khác nhau. Năm 1952, hai nhà nhân loại học Mỹ là
Alfred Kroeber và Clyde Kluckhohn đã thống kê có tới 164 định nghĩa khác
nhau về văn hóa trong các công trình nổi tiếng thế giới. Văn hóa được đề cập
30
trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu như dân tộc học, nhân loại học, dân gian học,
địa văn hóa học, triết học, xã hội học và bản thân văn hóa học. Và trong mỗi
lĩnh vực nghiên cứu đó, định nghĩa về văn hóa cũng khác nhau. Cách tiếp cận
và định nghĩa về văn hóa khác nhau đến nỗi ngay cả cách phân loại các định
nghĩa về văn hóa cũng khác nhau. Tuy nhiên, có thề nêu lên một số cách phân
loại định nghĩa về văn hóa dưới các dạng chủ yếu như sau:
Định nghĩa miêu tả: Định nghĩa văn hóa theo những gì mà văn hóa bao
hàm, chẳng hạn nhà nhân loại học người Anh Bumett Tylor (1832 - 1917) đã
định nghĩa văn hóa như sau: văn hóa hay văn minh hiểu theo nghĩa rộng trong
dân tộc học là một tổng thể phức hợp gồm kiến thức, đức tin, nghệ thuật, luật
pháp, phong tục và bất cứ những khả năng, tập quán nào mà con người thu
nhận được với tư cách là một thành viên của xã hội.
Định nghĩa lịch sử: Văn hóa là những gì được truyền từ đời này qua đời
khác. Một nền văn hóa được hình thành qua nhiều thế hệ vốn có tính bền vững
và lâu dài. Nhấn mạnh các quá trình kế thừa xã hội, truyền thống dựa trên quan
điểm về tính ổn định của văn hóa. Một trong những định nghĩa đó là của tác
giả người Mỹ Edward Sapir (1884 - 1939): Văn hóa chính là bản thân con
người, cho dù là những người hoang dã nhất sống trong một xã hội tiêu biểu
cho một hệ thống phức hợp của tập quán, cách ứng xử và quan điểm được bảo
tồn theo truyền thống.
Định nghĩa nguồn gốc: Ví dụ, định nghĩa của Sorokin (1889 - 1968),
nhà xã hội học người Mỹ gốc Nga cho rằng, với nghĩa rộng nhất, văn hóa là
khái niệm chỉ một tổng thể những gì được tạo ra, hay được cải biến bởi hoạt
động có ý thức hay vô ý thức của hai hay nhiều cá nhân tương tác với nhau và
tác động đến lối ứng xử của nhau.
Dựa vào sự phân tích quá trình hoạt động thực tiễn của xã hội loài người
trong lịch sử, A.I.Acnondov cho rằng, "văn hóa là hiện tượng phức tạp và đa
diện. Nó bao gồm cả hoạt động sáng tạo, tức là toàn bộ quá trình sản xuất ra tư
31
tưởng và vật chất hóa các tư tưởng đó; cả những tính cách của con người như
một chủ thể hoạt động; và cả bản thân nội dung những giá trị vật chất và tinh
thần được tạo ra trong quá trình hoạt động ấy" [1, tr.32]. Trên cơ sở đó,
A.I.Acnondov đưa ra định nghĩa rằng: "Văn hóa là hoạt động sáng tạo tích cực
của con người (cá thể, nhóm xã hội, giai cấp, dân tộc, xã hội nói chung) thực
hiện trong các lĩnh vực sản xuất vật chất và tinh thần, nhằm nắm bắt và khai
thác thế giới, quá trình này sẽ sản xuất, bảo quản, phân phối, trao đổi và tiêu
thụ những giá trị vật chất và tinh thần mang ý nghĩa xã hội. Đồng thời nó là
một tổng hợp chính những giá trị đã vật thể hóa hoạt động sáng tạo đó của con
người" [1, tr.33].
Với cái nhìn bao quát các nền văn hóa và các giá trị văn hóa trên thế
giới, năm 2002, UNESCO đã đưa ra quan niệm về văn hóa rằng, văn hóa
được đề cập đến như là một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật
chất, tri thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội
và nó chứa đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức
chung sống, hệ thống giá trị, truyền thống và đức tin. Cũng trong khi đó
Tổng giám đốc UNESCO Federico Mayor định nghĩa một cách khái quát
nhất: "Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt động trong quá khứ và trong
hiện tại. Qua các thế hệ hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên hệ thống
các giá trị, các truyền thống và thị hiếu, những yếu tố xác định đặc tính riêng
của mỗi dân tộc" [66, tr.109].
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, bản chất văn hóa được thể
hiện trong mối quan hệ giữa con người với thế giới mà ở đó con người khẳng
định mình với tính cách là con người thông qua các hoạt động sống, sáng tạo
và phát minh. Về vấn đề này, C.Mác và Ph.Ăngghen đã từng đề cập đến trong
các tác phẩm "Gia đình thần thánh" và "Hệ tư tưởng Đức", trong đó các ông
cho rằng để tồn tại và phát triển, con người phải quan hệ với tự nhiên thông qua
lao động. Nguồn gốc của văn hóa chính là lao động, lao động đã sáng tạo ra con
32
người, lao động đã sáng tạo ra văn hóa. Văn hóa gắn liền với sức sáng tạo và
năng lực của con người và sự sáng tạo đó bao giờ cũng bắt đầu từ lao động. Căn
cứ vào mức độ tự nhiên được con người khai thác, cải tạo thì có thể xét được
trình độ văn hóa chung của con người.
Theo Hồ Chí Minh, "Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích sống, loài người
mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học,
tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn,
mặc, ở và các phương thức sinh sống, v.v... Toàn bộ những sáng tạo và phát
minh đó tức là văn hóa" [49, tr.431].
Phát triển quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, Hồ Chí Minh cho rằng
văn hóa là một kiến trúc thượng tầng, những cơ sở hạ tầng của xã hội có kiến
thiết rồi văn hóa mới kiến thiết được và đủ điều kiện phát triển được. Văn hóa
phải gắn liền với lao động, sản xuất. Khi cách mạng mới thành công, trong công
cuộc xây dựng xã hội mới, Hồ Chí Minh đã nâng văn hóa cùng với kinh tế,
chính trị, xã hội thành bốn lĩnh vực quan trọng hàng đầu. Văn hóa ở đây được
hiểu theo nghĩa hẹp là đời sống tinh thần của xã hội, thuộc về kiến trúc thượng
tầng "Trong công cuộc kiến thiết nước nhà, có bốn vấn đề cần chú ý đến, cũng
phải coi là quan trọng ngang nhau: Chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa. Nhưng
văn hóa là một kiến trúc thường tầng" [48, tr.293]. Từ phương diện thực tiễn xây
dựng đất nước, Hồ Chí Minh muốn nhấn mạnh văn hóa như một lĩnh vực của
đời sống xã hội. Theo Hồ Chí Minh, phải tiến hành cách mạng chính trị trước,
có nghĩa là tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, từ đó giải
phóng văn hóa, mở đường cho văn hóa phát triển. "Văn hóa với chính trị có
quan hệ chặt chẽ với nhau. Có chính trị mới có văn hóa, xưa kia chính trị bị đàn
áp nền văn hóa của ta vì thế không nảy sinh được" [47, tr.10].
Trong những năm gần đây, ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu về văn hóa
cũng có những quan niệm khác nhau về văn hóa. Theo đó, văn hóa là những
phương thức sản xuất, cách thức sinh hoạt khác nhau của cộng đồng người, hội
33
tụ tri thức, sáng tạo ra văn minh tinh thần và văn minh vật chất. Văn hóa có
đặc điểm của tính lịch sử, tính truyền thống, tính dân tộc, v.v...
"Văn hóa là hệ thống giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng
tạo, tích luỹ, lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác trong hoạt động
sản xuất, nếp suy nghĩ, cách sống, và sự tương tác giữa con người với
môi trường tự nhiên và xã hội. Văn hóa có ý nghĩa khác nhau đối với
các dân tộc khác nhau, bởi vì khái niệm văn hóa bao gồm những chuẩn
mực, giá trị, tập quán, v.v..." [58, tr.11].
Nói văn hóa không có nghĩa chỉ nói đời sống tinh thần dân tộc mà đó là
động lực vật chất - tinh thần của cả hình thức tổ chức xã hội, của các phương
thức hoạt động và phương thức sống của toàn dân tộc, các năng lực hoạt động
và trình độ phát triển người của cả cộng động, quốc gia, dân tộc. "Văn hóa là
phạm trù người, nó chỉ toàn bộ đời sống con người trong quan hệ giữa chính
con người và với thế giới bên ngoài, ở đó kết tinh toàn bộ giá trị, các phương
thức sống, năng lực hoạt động và trình độ phát triển người, v.v... của một cộng
đồng, một dân tộc, một thời đại" [9, tr.256].
Cũng từ các giá trị đã có, văn hóa tạo nên ở mỗi con người những tiềm
năng tinh thần. Các tiềm năng đó được huy động trong mỗi hoạt động vật chất
và tinh thần, trong các hoạt động có tính xã hội cũng như hành vi cá nhân của
từng con người. Văn hóa là toàn bộ hiểu biết của con người tích lũy được trong
quá trình hoạt động thực tiễn - lịch sử, được đúc kết lại thành các giá trị và
chuẩn mực xã hội, gọi chung là hệ giá trị xã hội, biểu hiện thông qua vốn di
sản văn hóa và hệ thống ứng xử văn hóa của cộng đồng người. Hệ giá trị xã
hội là một thành tố cơ bản làm nên bản sắc riêng của một cộng đồng xã hội,
nó có khả năng chi phối đời sống tâm lý và mọi hoạt động của những con
người sống trong cộng đồng xã hội ấy"... Văn hóa là một trong bốn lĩnh vực
hoạt động sống của xã hội: Kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Và như thế,
văn hóa là một bộ phận của đời sống con người - lĩnh vực tinh thần của đời
34
sống xã hội" [9, tr.305]. "Văn hóa là một hệ thống giá trị xã hội, biểu hiện và
phát triển những năng lực bản chất của con người trong quá trình cải tạo tự
nhiên - xã hội và làm chủ bản thân. Những năng lực ấy được thể hiện trong
hoạt động sáng tạo của con người và trong những kết quả của hoạt động đó,
nhằm thúc đẩy sự phát triển và hoàn thành của cá nhân và xã hội theo hướng
chân - thiện - mỹ" [33, tr.15].
Với nghĩa rộng, nhiều tác giả đã nêu lên những quan niệm và có những
cách diễn đạt riêng, song tựu trung lại có thể khái quát thành 4 nội dung cơ
bản. Theo đó, văn hóa theo nghĩa rộng bao gồm cả văn hóa vật chất và văn hóa
tinh thần; văn hóa hiểu theo nội dung bao gồm cả khoa học, kỹ thuật, giáo dục,
văn học nghệ thuật; văn hóa đặt trong phạm vi nếp sống, lối sống, đạo đức xã
hội, văn hóa nghệ thuật; văn hóa xét từ vai trò của nó vừa là kết quả, vừa là
nguyên nhân của sự phát triển xã hội, nó không chỉ là mục tiêu mà còn là động
lực của sự nghiệp xây dựng đất nước.
Văn hóa còn được hiểu là thiên nhiên thứ hai, được loài người sáng
tạo ra trong đó chia thành hai hệ thống hoạt động là hoạt động sản xuất vật
chất và hoạt động sản xuất tinh thần, cốt lõi chi phối các hoạt động này là hệ
giá trị xã hội của nó. "Văn hóa là sự tổng hoà của mọi giá trị tinh thần do
con người tạo ra, là nền tảng tinh thần của mỗi con người cũng như của xã
hội" [14, tr.37]. Văn hóa là môi trường thứ hai, trong đó mỗi người được sinh
ra và lớn lên. Môi trường văn hóa tác động trực tiếp tới sự hình thành nhân
cách, sự phát huy mọi năng lực sáng tạo, khả năng giao tiếp giữa con người với
con người, giữa con người với tự nhiên.
Trên cơ sở tổng hợp những quan niệm nêu trên, có thể hiểu văn hóa là
toàn bộ những thành quả hoạt động sáng tạo của con người trong quá khứ và
hiện tại, biểu hiện thành hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần của xã hội.
Hệ thống giá trị có khả năng chi phối đời sống tâm lý và mọi hoạt động của
những con người sống trong cộng động xã hội ấy. Các lĩnh vực đặc thù của đời
35
sống hay của hoạt động con người cũng được thể hiện bằng các khái niệm văn
hóa khác nhau, chẳng hạn, văn hóa lao động, văn hóa giao tiếp, văn hóa pháp
quyền, văn hóa dân chủ, v.v... Văn hóa chính trị cũng được đề cập từ phương
diện này.
2.1.2. Khái niệm chính trị và quan hệ giữa văn hóa và văn hóa
chính trị
* Khái niệm chính trị
Chính trị là tất cả những hoạt động, những vấn đề gắn với quan hệ giai
cấp, dân tộc, quốc gia và các nhóm xã hội xoay quanh một vấn đề giành, giữ
và sử dụng quyền lực nhà nước. Hiện nay trên thế giới đã hình thành bốn cách
hiểu khác nhau về chính trị - chính trị là nghệ thuật của phép cai trị, những
công việc của chung, sự thoả hiệp và đồng thuận, quyền lực và cách phân phối
tài nguyên hay lợi ích.
Chính trị theo nghĩa rộng hơn là hoạt động của con người nhằm xây
dựng, gìn giữ và điều chỉnh những luật lệ chung mà những luật lệ này tác động
trực tiếp lên cuộc sống của những người góp phần làm ra, gìn giữ và điều
chỉnh những luật lệ chung đó. Với cách hiểu như thế này thì dù trong xã hội
cộng sản, chính trị vẫn còn tồn tại và vẫn giữ vai trò hết sức quan trọng đối với
từng con người cũng như toàn xã hội. Trong bất kỳ xã hội nào thì cũng cần
những luật lệ chung để hoạt động nhịp nhàng và khoa học, tránh tình trạng vô
tình hay cố ý xâm phạm quyền lợi, lợi ích, tài sản, sức khỏe hay thậm chí tính
mạng của người khác hay của cộng đồng.
Trong lịch sử phát triển của xã hội, chính trị là một hiện tượng lịch sử
mang tính tất yếu liên quan chặt chẽ với sự xuất hiện và hoạt động của xã hội
có phân chia giai cấp. Trong đó, vai trò đặc biệt quan trọng trong cuộc đấu
tranh giai cấp thuộc về nhà nước. Cuộc đấu tranh này trước hết là nhằm giúp
cho một giai cấp chiếm được quyền lực nhà nước và sau đó là quá trình gìn
giữ, củng cố và sử dụng nó. Nếu quan niệm rằng chính trị chỉ là những hoạt
36
động xoay quanh vấn đề giành giữ và thực thi quyền lực nhà nước thì, theo lý
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong xã hội cộng sản tương lai sẽ không có
chính trị bởi vì lúc đó nhà nước đã tiêu vong. Nói cách khác, chính trị sẽ dần
dần trở nên thừa và mất hẳn trong xã hội lý tưởng của nhân loại - xã hội cộng
sản. Điều này không mâu thuẫn với nhận định ở trên của chúng tôi rằng, dù
trong xã hội cộng sản, chính trị vẫn còn tồn tại và vẫn giữ vai trò hết sức quan
trọng đối với từng con người cũng như toàn bộ xã hội. Ở đây khái niệm "chính
trị" theo chúng tôi quan niệm là toàn dân làm chính trị, tự quản nhà nước, tự
quản xã hội.
Chính trị là lĩnh vực hoạt động phổ biến, quan trọng của xã hội mà nhân
lõi của nó là khoa học và nghệ thuật giành, giữ và thực thi quyền lực chính trị,
nhằm thực hiện mục đích giai cấp, dân tộc, quốc gia. Chính trị là một hiện
tượng xã hội đặc biệt. Nó xuất hiện từ khi xã hội phân chia giai cấp và nhà
nước. Chính trị theo nguyên nghĩa tiếng Hy Lạp (politica) có nghĩa là những
công việc thành bang (poliz), là nghệ thuật cai trị nhà nước, là phương pháp
nhất định để thực hiện các mục tiêu của quốc gia.
Từ thời cổ đại đến hiện nay, các nhà tư tưởng đã đưa ra nhiều quan niệm
khác nhau về chính trị, mỗi quan niệm có những yếu tố hợp lý riêng và có
những cách tiếp cần riêng. Nhưng thực sự, chỉ đến khi chủ nghĩa Mác - Lênin
ra đời, những quan niệm đúng đắn và khoa học về chính trị mới được khẳng
định. Theo đó "... giai cấp nào muốn nắm quyền thống trị - ngay cả khi quyền
thống trị của nó đòi hỏi phải thủ tiêu toàn bộ hình thức xã hội cũ và sự thống
trị nói chung, như trong trường hợp của giai cấp vô sản - thì giai cấp ấy trước
hết phải chiếm lấy chính quyền để đến lượt mình, có thể biểu hiện lợi ích của
bản thân mình như là lợi ích phổ biến, điều mà giai cấp ấy buộc phải thực hiện
trong bước đầu" [7, tr.7].
Như vậy, chính trị bao giờ cũng gắn liền với giai cấp. Giai cấp nào muốn
nắm được chính quyền, xóa bỏ xã hội cũ và xây dựng xã hội mới thì trước hết
37
đều phải giành lấy chính quyền. Theo V.I.Lênin, chính trị là "lĩnh vực của
những mỗi quan hệ của tất cả giai cấp, các tầng lớp với nhà nước và chính phủ,
lĩnh vực của những mỗi quan hệ giữa tất cả các giai cấp với nhau" [40, tr.101].
Như vậy, bất kỳ một vấn đề xã hội nào cũng đều mang tính chính trị nếu việc
giải quyết chúng, trực tiếp hay gián tiếp gắn với lợi ích giai cấp, với vấn đề
quyền lực. Chính trị xuất hiện khi xuất hiện giai cấp và đấu tranh giai cấp. Và
chừng nào giai cấp còn tồn tại thì chính trị cũng tồn tại với tư cách là một hình
thức hoạt động xã hội đặc biệt. Vì vậy, có thể xem chính trị là lĩnh vực hoạt
động gắn liền với mối quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc và giữa các tập
đoàn xã hội khác nhau mà hạt nhân là vấn đề giành, giữ và thực thi quyền lực
nhà nước.
Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định, chính trị thực chất là vấn đề quyền
lực thuộc về giai cấp nào, là quan hệ giai cấp và đấu tranh giai cấp diễn ra
xung quanh vấn đề chính quyền, vấn đề quyền lực, mà trước hết là quyền lực
nhà nước. Xét đến cùng, mọi căn nguyên của quyền lực chính trị đều tìm thấy
ở kinh tế, tất yếu kinh tế quy định tất yếu chính trị, mọi cuộc đấu tranh chính
trị bao giờ cũng nhằm giải quyết lợi ích kinh tế trong sự thống nhất với chính
trị. Chính trị và kinh tế có mối quan hệ biện chứng nhưng không phải lúc nào
cũng thống nhất với nhau, mà có khi tồn tại nhiều mâu thuẫn. Chính trị là biểu
hiện tập trung của kinh tế, nhưng chính trị không thể không giữ vị trí ưu tiên so
với kinh tế. Đó là quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về chính trị xét
trong mối quan hệ biện chứng với kinh tế.
Trong đời sống thực tiễn, chính trị còn được hiểu là những quan điểm
chính trị; những lý luận, lý tưởng chính trị; hệ tư tưởng chính trị; các chuẩn
mực chính trị; các thiết chế chính trị; đường lối, chính sách và hoạt động chính
trị thực tiễn, v.v... Một đường lối chính trị bao giờ cũng mang bản chất giai
cấp, phản ánh lợi ích, nguyện vọng, ý chí của xã hội, đóng vai trò hướng dẫn
và thực hiện sự phát triển kinh tế. Chính trị luôn liên quan đến số phận của
38
hàng triệu con người. Đồng thời chính trị là sự nghiệp của hàng triệu con
người, sự nghiệp của quần chúng. Chính trị vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật,
khoa học và nghệ thuật không chỉ trong nhận thức, tổ chức mà còn thể hiện cả
trong đời sống chính trị. Bởi vì chính trị là vấn đề lãnh đạo, quản lý nên mọi
quyết sách chính trị phải có khả năng đi vào cuộc sống, tăng lên không ngừng
khả năng phát huy tính tích cực của quần chúng và khả năng tham gia của quần
chúng vào công việc nhà nước.
Khái quát lại, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, chính trị là
mối quan hệ giữa các giai cấp, quốc gia xoay quanh vấn đề giành, giữ và thực
thi quyền lực chính trị, mà tập trung nhất là quyền lực nhà nước. Chính trị là
một lĩnh vực hoạt động rộng lớn và hết sức quan trọng, nó quyết định chủ
trương, đường lối phát triển của đất nước, do đó quyết định lớn đến qúa trình
phát triển của xã hội. Trình độ xử lý các tình huống chính trị một cách khoa
học và nghệ thuật không chỉ đem lại sự độc lập và ổn định chính trị mà còn là
điều kiện cho việc phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, phát triển con người,
xây dựng và phát triển đất nước. Bản chất chính trị, lý tưởng chính trị, trình độ
hoạt động chính trị hướng tới một xã hội nhân đạo, nhân văn, tất cả vì sự phát
triển và tiến bộ của xã hội và con người, tất cả những nội dung đó nói lên
VHCT của một nền chính trị.
* Quan hệ gi÷a văn hóa vµ chính trị
Văn hóa và chính trị là hai lĩnh vực hoạt động chủ yếu của xã hội loài
người và có quan hệ hữu cơ với nhau, từ đó nảy sinh vấn đề chính trị trong văn
hóa, chính trị với văn hóa và văn hóa trong chính trị.
Thứ nhất, vấn đề chính trị trong văn hóa: Văn hóa và tư tưởng là cặp
phạm trù sinh đôi, mà chính trị là mặt trực tiếp của hệ tư tưởng. Có quan điểm
cho rằng, "văn hóa là một lĩnh vực mà trong đó chính trị, tư tưởng quyết định
phương hướng và chất lượng" [66, tr.109]. Chính trị là bộ phận đặc thù trong
văn hóa, phản ánh một lĩnh vực hoạt động phức tạp của xã hội thông qua sự in
39
đậm dấu ấn của minh vào văn hóa theo hướng tích cực hoặc tiêu cực, tùy
thuộc vào sự tiến bộ, cách mạng hoặc lạc hậu, phản động của chính trị. Sự
biểu hiện nổi bật của chính trị trong văn hóa chính là sự tác động của chính
trị vào cơ cấu văn hóa của cá nhân hay cơ cấu văn hóa của xã hội. Nó quy
định tính giai cấp của các hoạt động và các hiện tượng văn hóa. Như vậy,
văn hóa không thề không mang dấu ấn của chính trị, và do đó không thề
không mang bản chất chính trị, đặc biệt là khi xã hội còn phân chia giai
cấp, còn đấu tranh dân tộc gắn liền với đấu tranh giai cấp. Trong mối quan
hệ với văn hóa, quan hệ chính trị trong văn hóa, quan hệ văn hóa với chính
trị thì, chính trị có vai trò kim chỉ nam; nếu là chính trị chân chính thì kim
chỉ nam của nó luôn chỉ về sự sáng tạo và nhân văn, vươn tới sự tiễn bộ và
phát triển.
Thứ hai, vấn đề văn hóa trong chính trị, văn hóa với chính trị: Mọi quan
điểm và đường lối chính trị, công nghệ chính trị đều là sự thể hiện trình độ văn
hóa của một giai cấp, một tổ chức, một cá nhân trong một giai đoạn lịch sử
nhất định. Trong sự phát triển của mình, chính trị chỉ được xem là văn hóa khi
gắn với trình độ, năng lực sáng tạo tích cực của con người trong chính trị, thúc
đẩy sự phát triển tiến bộ xã hội. Cùng với sự phát triển xã hội, văn hóa trong
địa hạt chính trị đã được định hình như một vấn đề của nhận thức và thực tiễn
khi nhà nước bước vào giai đoạn hiện đại của nó.
Những giá trị văn hóa nhân loại, đặc biệt là những giá trị của chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đã và luôn là bó đuốc soi đường cho
cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức cho những lý
tưởng cao đẹp của con người. Những nhà cách mạng tiêu biểu với lý tưởng xã
hội, với những tư tưởng cách mạng nhằm giải phóng áp bức, bóc lột đã hành
động và ứng xử hoàn toàn khác với nền văn hóa phong kiến và tư sản. Văn hóa
của họ, sự nghiệp cách mạng của họ, lý luận cách mạng và khoa học của họ là
vũ khí sắc bén để lên án chế độ thực dân đế quốc, để tuyên truyền và tổ chức
40
quần chúng nhân dân đứng lên làm cách mạng, lật đổ chế độ cũ, xây dựng chế
độ xã hội mới XHCN.
Văn hóa là nguồn ánh sáng và sức mạnh tạo khả năng cho các dân tộc bị áp
bức nhận thấy sức mạnh của đoàn kết để xây dựng tình đoàn kết, vùng dậy với
sức mạnh, khả năng sáng tạo và lòng dũng cảm để tiến hành sự nghiệp giải phóng
dân tộc, giải phóng giai cấp; giải phóng nhân dân, làm nên sự nghiệp cách mạng
mới. Trong điều kiện đảng cầm quyền, vấn đề đặt ra là văn hóa phải làm thế nào
để ai cũng hiểu và thấm nhuần lý tưởng tự chủ, độc lập, tự do, văn hóa phải làm
thế nào cho toàn thể quốc dân có tinh thần vì nước quên mình, vì lợi ích chung mà
quên lợi ích riêng. Đồng thời, văn hóa phải giúp cho nhà lãnh đạo, quản lý và
người cầm quyền thực thi quyền lực thông qua các giá trị văn hóa, đảm bảo cho
chính trị và quyền lực chính trị không bị tha hóa, không bị biến dạng, v.v... Với ý
nghĩa đó, "Văn hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng
ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị" [51, tr.368 - 369].
Có thể nói, VHCT thuộc về phạm trù con người, xã hội loài người phải
phát triển đến trình độ nhất định khi xã hội phân chia thành giai cấp và nhà
nước thì mới xuất hiện VHCT. VHCT có nhiều nội dung biểu hiện khác nhau,
nhưng tựu chung lại, nó được biểu hiện ở trình độ phát triển của con người
trong mối quan hệ giữa văn hóa và chính trị. Văn hóa với chính trị có mối quan
hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau. Văn hóa phục tùng chính trị, văn hóa đi
vào chính trị với tính cách là động lực và mục tiêu của hoạt động chính trị;
chính trị lãnh đạo văn hóa, chính trị gắn liền với văn hóa và sự tồn tại của
chính trị khi nó còn là mặt hợp lý trong văn hóa; văn hóa và chính trị thống
nhất hữu cơ với nhau và tác động qua lại lẫn nhau trong việc thực hiện mục
tiêu phát triển và tiến bộ của con người.
2.1.3. Văn hóa chính trị
VHCT, là một loại hình của văn hóa, thể hiện phương diện văn hóa của
chính trị. VHCT không phải là bản thân chính trị, bản thân văn hóa, hay là sự
41
cộng gộp hai lĩnh vực này, mà là chính trị bao hàm chất văn hóa từ bản chất
bên trong của nó. VHCT thể hiện ở hai phương diện cơ bản:
Một là, chính trị với ý nghĩa là chính trị dân chủ, tiến bộ hướng tới mục
đích cao nhất là vì con người, giải phóng con người, tôn trọng quyền con
người, tạo điều kiện cho con người phát triển tự do, toàn diện, hài hoà. Đây là
tính nhân văn sâu s¾c của một nền chính trị có văn hóa.
Hai là, những tư tưởng chính trị tốt đẹp không phải là những ý niệm
trừu tượng mà là những tư tưởng thiết thực, cụ thể, có khả năng đi vào cuộc
sống. Nghĩa là nó phải thấu triệt trong hệ tư tưởng chính trị, thể hiện của
đường lối, chính sách của đảng cầm quyền và nhà nước quản lý, trong ứng xử
và trong việc triển khai các kế hoạch nhằm phát triển xã hội, phục vụ cuộc
sống của cá nhân cũng như của cộng đồng.
VHCT làm cho sự tác động của chính trị đến đời sống xã hội giống như
sức mạnh của văn hóa. Đó là loại sức mạnh không dựa vào quyền lực hay ép
buộc mà thông qua cảm hóa, khơi dậy tinh thần sáng tạo, ý thức tự giác của các
tầng lớp xã hội. Việc nhận thức và xây dựng VHCT phải chú trọng đồng thời
cả ba phương diện: Giá trị xã hội được lựa chọn, năng lực chính trị và trình độ
phát triển về VHCT của chủ thể chính trị.
VHCT là sản phẩm của sự thẩm thấu, chuyền hóa lẫn nhau giữa văn hóa
với chính trị, chính trị với văn hóa trong việc tập trung các giá trị sáng tạo của
nhân dân để xây dựng, phát triển quyền lực chính trị của các giai cấp, các đảng
phái chính trị, cũng như phát huy tính tích cực tham dự vào hoạt động chính trị
của đông đảo quần chúng nhân dân.
VHCT là những dấu hiệu phân biệt, đặc trưng cho nhận thức chính trị,
cũng như mọi hoạt động chính trị - xã hội của con người trong một xã hội.
Trung tâm của VHCT không chỉ là tổng số những tri thức của con người về
chính trị, mà còn là những định hướng tự do và ý thức hệ của cá nhân, khả
năng hoạt động chính trị, kể cả những ứng xử theo thói quen của họ. VHCT
42
không chỉ nói lên trình độ nhất định của sự phát triển cá nhân mà cũng thể hiện
trình độ và sắc thái chính trị của cộng đồng chính trị.
VHCT biểu hiện khả năng, năng lực của con người trong việc giác ngộ lợi
ích giai cấp, lợi ích dân tộc; trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống tổ chức
quyền lực nhằm hiện thực hóa lợi ích giai cấp hay lợi ích nhân dân phù hợp với
mục tiêu chính trị và tiến bộ xã hội. VHCT còn thể hiện khả năng, mức độ điều
chỉnh các quan hệ chính trị phù hợp với truyền thống và chuẩn mực giá trị xã hội
do đời sống xã hội đặt ra. Với cách tiếp cận này, VHCT là trình độ phát triển của
con người thể hiện ở trình độ hiểu biết về chính trị, trình độ tổ chức và vận hành
hệ thống tổ chức quyền lực theo những chuẩn mực xã hội nhất định, nhằm điều
hoà các quan hệ lợi ích giữa các giai cấp và tầng lớp xã hội, bảo vệ lợi ích của giai
cấp cầm quyền, phù hợp với xu thế phát triển và tiến bộ xã hội.
Từ cách tiếp cận vi mô, VHCT thể hiện các hành vi của con người khi
họ tham gia vào đời sống chính trị. Người đặt nền móng cho cách nghiên cứu
này là G.Almond và S.Verba trong tác phẩm Văn hóa công dân (1963), để từ
đó nhiều nhà nghiên cứu tiếp tục cách nhìn này và đưa ra những định nghĩa
khác nhau về VHCT. S.Verba và L.Pye trong Văn hóa chính trị và sự phát
triển chính trị (Political Culture and Political Development) (1965), định
nghĩa VHCT là hệ thống các niềm tin mang tính kinh nghiệm, những biểu
tượng và giá trị định hình nên môi trường trong đó diễn ra những hành động
chính trị. Còn D.Kavanagh trong Văn hóa chính trị (Political Culture),
London, Basinstocke, Macmillan, 1972, xem VHCT là những thái độ, giá trị,
niềm tin và những thiên hướng hành vi, cách ứng xử của các cá nhân, tổ chức
hay cộng đồng đối với đời sống chính trị. Hệ giá trị ở đây có thể là các quy tắc,
chuẩn mực của đời sống chính trị được người dân sử dụng trong những nhóm
xã hội cụ thể. Cách tiếp cận vi mô, coi VHCT là những thái độ, niềm tin và
thiên hướng hành vi, cách ứng xử của các cá nhân, tổ chức hay cộng đồng đối
với đời sống chính trị.
43
Các định nghĩa VHCT có ảnh hưởng rộng rãi trong chính trị phương
Tây. Chẳng hạn, Trier - nhà khoa học chính trị người Đức cho rằng, "VHCT
được hiểu là những mã số giá trị và những tư tưởng được diễn ngôn quy định
các hành vi chính trị của các thành viên của xã hội". Một trường phái chính trị
học ở Anh nêu định nghĩa "VHCT là hệ giá trị mà trong đó một hệ thống chính
trị được vận hành". Trong khi đó quan điểm của một trường phái khoa học
chính trị ở Canada coi: "VHCT dùng để chỉ những ý kiến, thái độ và những giá
trị chung của các cá nhân đối với quá trình chính trị" [80, tr.30].
Theo Từ điển Chính trị rút gọn của Liên Xô, "VHCT là trình độ và tính
chất của những hiểu biết chính trị, những nhận định, những hành vi của công
dân, cũng như nội dung, chất lượng của những giá trị xã hội, những chuẩn mực
xã hội và sự hoàn thiện của hệ thống tổ chức quyền lực, phù hợp với sự phát
triển và tiến bộ xã hội, góp phần điều chỉnh hành vi và quan hệ xã hội" [15,
tr.228-229]. Từ đây, VHCT còn được xác định bởi nhu cầu, thói quen tham gia
một cách tự giác, chủ động vào các hoạt động chính trị - xã hội; nó còn thể
hiện ở sự tham gia của cá nhân vào các sinh hoạt chính trị - xã hội để góp phần
hình thành dư luận xã hội, tích cực đấu tranh chống lại các hành vi gây tổn hại
đến lợi ích chung của đời sống cộng động.
Các nhà nghiên cứu Việt Nam trong những năm gần đây đã vận dụng
phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh để xây
dựng một quan niệm đầy đủ về VHCT. Đặc biệt, những quan niệm của Chủ tịch
Hồ Chí Minh về xã hội XHCN thực sự có ý nghĩa xuất phát điểm cho quá trình
tìm tòi, nghiên cứu đó, song cũng cần thấy đây vẫn còn là một vấn đề mới mẻ và
phức tạp cả về lý luận cũng như nhận thức. Quan niệm nổi bật nhất và đặc sắc
nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh về VHCT là xã hội mới phải có con người mới
đại diện cho nó: "Muốn có CNXH, phải có con người XHCN. Muốn có con
người XHCN, phải có tư tưởng XHCN" [73, tr.228]. Xây dựng thành công con
người mới XHCN là xác lập cơ sở bền vững của VHCT mới.
44
VHCT cũng là loại hình văn hóa hướng con người làm việc thiện, gắn
với các lợi ích kinh tế, chính trị, nhưng nó phải là sự hài hoà, sự liên hiệp giữa
cộng đồng và cá nhân, giữa truyền thống với hiện đại, giữa kinh tế và văn hóa,
giữa giá trị vật chất và giá trị tinh thần, giữa bản sắc văn hóa dân tộc với sự
tiếp biến văn hóa quốc tế, v.v... trên nền tảng giá trị chân, thiện, mỹ. Trên cơ sở
quan niệm nêu trên, các nhà nghiên cứu Việt Nam đã đưa ra nhiều cách diễn
đạt về khái niệm VHCT. Có quan niệm cho rằng:
"VHCT là chất lượng tổng hợp của tri thức và kinh nghiệm hoạt động
chính trị, là tình cảm và niềm tin của mỗi cá nhân tạo thành ý thức
chính trị công dân, thúc đẩy họ tới những hành động chính trị tích
cực phù hợp với lý tưởng chính trị của xã hội. VHCT còn là nhu cầu
thói quen tham gia một cách tự giác, chủ động vào các hoạt động
chính trị - xã hội, trở thành giá trị xã hội của công dân, góp phần
hướng dẫn họ trong cuộc đấu tranh vì lợi ích chung của xã hội, tiến
bộ và phát triển" [3, tr.115-116].
VHCT có thể được biểu hiện thông qua nhiều hình thức khác nhau.
Chẳng hạn, hình thức tổ chức quyền lực nhà nước và hệ thống chính trị nói
chung, những chuẩn mực chính trị và pháp quyền, các thiết chế tổ chức
chính trị, các phương tiện và phương thức hoạt động chính trị, thủ thuật và
công nghệ quản lý các quá trình chính trị, sự nhạy bén, sáng tạo trong hoạt
động và lãnh đạo chính trị. "Văn hóa chính trị là tổng hợp những giá trị
chính trị được hình thành, được sử dụng trong thực tiễn chính trị" [61,
tr.20]. Có người cho rằng:
"VHCT là một phương diện của văn hóa trong xã hội có giai cấp, nói
lên tri thức, năng lực sáng tạo trong hoạt động chính trị dựa trên nhận
thức sâu sắc các quan hệ chính trị hiện thực để thực hiện lợi ích chính
trị cơ bản của giai cấp hay của xã hội phù hợp với sự phát triển lịch
45
sử. VHCT được phản ánh trong hệ ý thức chính trị, trong các hình
thức, các kiểu tổ chức hoạt động chính trị, trong các thiết chế chính
trị và giá trị vật chất cũng như tinh thần do hoạt động chính trị sáng
tạo ra" [69, tr.29].
Đối với CHDCND Lào, vấn đề nhận thức và nghiên cứu về VHCT còn
rất mới, mặc dù gần đây đã có một số nhà nghiên cứu, đã bước đầu nghiên
cứu vấn đề này. Trước hết, VHCT được đề cập trong tác phẩm "Sự hình
thành của các dân tộc Lào" của Bun My Thệp Si Mương (xuất bản tập I, tập
II, 2006, 2010) và tác phẩm "Tính dân tộc của văn văn hóa Lào" của Bua Ban
Vo la Khun (1998). Trong quá trình nghiên cứu VHCT, các tác giả Lào đã
tham khảo thành tựu của các nước trên thế giới, đặc biệt là của Việt Nam,
một nước có truyền thống văn hóa lâu đời, có nhiều điểm tương đồng và có
mối quan hệ hữu nghị đặc biệt với nước CHDCND Lào. Các quan niệm về
VHCT nói trên tuy có sự khác nhau ở một hay một vài khía cạnh nào đó,
nhưng có thể tìm thấy mạch chung nhất trong tư duy của các tác giả. Đó là
việc chú ý vào nghĩa hẹp của văn hóa (văn hóa tinh thần) khi định nghĩa
VHCT; xem VHCT là một phương diện biểu hiện của văn hóa trong lĩnh vực
chính trị của đời sống xã hội có giai cấp; khai thác và tiếp cận những giá trị
tinh thần do con người sáng tạo ra trong lĩnh vực chính trị.
Trong luận án về VHCT ở CHDCND Lào trong giai đoạn hiện nay của
Khăm Mặn Chăn Tha Lăng Sỷ, trên cơ sở tổng hợp các cách tiếp cận khác
nhau về VHCT và đã quan niệm:
"VHCT là một bộ phận của văn hóa dân tộc, phản ánh mối quan hệ
biện chứng giữa văn hóa dân tộc và hoạt động chính trị của các giai
cấp; nó chỉ ra tác động của một loại hình văn hóa xã hội nhất định đối
với hệ thống chính trị và hành vi chính trị của công dân (bao gồm
người dân thường và người lãnh đạo Nhà nước). VHCT thể hiện qua
46
sự hiểu biết chính trị, tình cảm chính trị, giá trị chính trị, niềm tin và
thái độ chính trị của các công dân đối với các hiện tượng chính trị và
hệ thống chính trị. VHCT còn biểu hiện khả năng, mức độ điều chỉnh
các quan hệ chính trị phù hợp với truyền thống và những chuẩn mực
xã hội do nền văn hóa dân tộc tạo ra" [105, tr.24].
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, cùng với việc kế thừa các giá trị trong quan niệm về VHCT của các
nhà nghiên cứu gần đây, có thể khái quát VHCT là tổng hoà những giá trị
chính trị (cả giá trị vật chất và tinh thần) do hoạt động chính trị của con người
sáng tạo ra trong xã hội có giai cấp. Theo tác giả luận án, VHCT là một bộ
phận, một phương diện của văn hóa trong xã hội có giai cấp, nói lên chất
lượng tổng hợp những giá trị vật chất và tinh thần với hạt nhân là các giá trị
chính trị nhân văn được con người sáng tạo và sử dụng trong thực tiễn chính
trị, để thực thi trong quan hệ về quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước nhằm
thực hiện lợi ích chính trị cơ bản của giai cấp hay của nhân dân phù hợp với
sự phát triển lịch sử. VHCT còn là cái phản ánh trình độ trưởng thành nhân
cách chính trị của các chủ thể chính trị trong đời sống xã hội.
2.1.4. Giá trị văn hóa chính trị truyền thống
* Truyền thống và giá trị truyền thống
Trong các tư điển của Trung Quốc, khái niêm truyền thống được định
nghĩa như sau: Truyền thống là sức mạnh của các tập quán xã hội được lưu
truyền từ lịch sử xa xưa, nó tồn tại trong các lĩnh vực chế độ xã hội, tư tưởng,
văn hóa, đạo đức. Truyền thống có sức mạnh khống chế vô hình song hết sức
mạnh mẽ đối với hành vi cá nhân và xã hội của con người. Truyền thống biểu
hiện tính kế thừa và là sản phẩm của quá trình kế thừa lâu đời của lịch sử
(Xem. Phan Huy Lê. Trần Quốc Vương, Lịch sử Việt Nam. H. 1991). Rõ ràng,
truyền thống không thống nhất với tất cả những gì đã diễn ra, mà chỉ là những
47
yếu tố, những giá trị đã được lưu truyền lại. Truyền thống là những cái đã trở
thành nếp, được truyền lại và kế thừa từ đời này sang đời khác theo tinh thần
vừa lặp lại với một tần số nhất định, vừa được biến đổi từng bước, từng thời
gian và địa điểm cụ thể.
Truyền thống tồn tại thông qua hoạt động, sản xuất, lối sống, sự tìm tòi
và xác định những giá trị và quá trình vận dụng chúng vào trong đời sống xã
hội, các lĩnh vực sinh hoạt hàng ngày. Nó là sản phẩm của sự thống nhất giữa
các điều kiện khách quan và chủ quan, chỉ sự chi phối của môi trường tự nhiên,
các điều kiện địa lý, lịch sử, xã hội, v.v… chúng luôn mang các đặc trưng như
tính cộng đồng, tính ổn định, bền vững, lưu truyền từ đời này sang đời khác.
Truyền thống mang dấu ấn của thời đại và thường xuyên phát triển theo các
lớp bảo tồn theo chế độ xã hội, cuộc sống con người.
Khái quát lại, truyền thống là tập hợp những tư tưởng và tình cảm, những
tập quán và thói quen trong tư duy, lối sống, cách ứng xử của con người, của
một cộng đồng người nhất định, được hình thành trong lịch sử và đã trở nên ổn
định, được truyền từ đời này sang đời khác. Những giá trị truyền thống tốt đẹp,
đó là những giá trị truyền thống của cộng đồng, được hình thành, giữ gìn và phát
huy trong qúa trình lịch sử gắn với các giá trị chân - thiện - mỹ, phù hợp với các
chuẩn mực của đời sống xã hội, thúc đẩy sự phát triển. Bởi vì, khi những cơ sở
tạo nên truyền thống thay đổi thì sớm hay muộn, các giá trị truyền thống cũng
phải biến đổi theo cho phù hợp với hoàn cảnh mới, hoặc bổ sung thêm những
giá trị mới. Trong một thời điểm nhất định, truyền thống bao gồm cả mặt tích
cực - phản ánh sự phát triển của xã hội và mặt tiêu cực - phản ánh sự lạc hậu,
bảo thủ của thói quen trong xã hội. Vì vậy truyền thống có thể kìm hãm hoặc có
thể thúc đẩy sự phát triển xã hội. Đây chính là phép biện chứng của truyền thống
đối với quá trình hình thành, biến đổi và phát triển của bản thân truyền thống,
quá trình biến đổi và phát triển cũng diễn ra liên tục trong suốt tiến trình lịch sử
của cộng đồng, dân tộc, quốc gia.
48
* Giá trị văn hóa chính trị truyền thống
Khái niệm giá trị truyền thống thực chất thể hiện toàn bộ các giá trị của
văn hóa truyền thống và cũng do đó, thể hiện các giá trị của VHCT truyền
thống. Bởi vì quốc gia dân tộc nào mà không được hình thành từ lịch sử đấu
tranh của nền chính trị của mình. Giá trị VHCT truyền thống của một cộng
đồng là những truyền thống tốt đẹp mà cộng đồng, dân tộc đó tích lũy được
trong toàn bộ hoạt động của đời sống chính trị. Tất cả các giá trị VHCT đó
được lưu giữ, lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ đời này sang đời
khác của lịch sử cộng đồng, dân tộc. Đó là sự kết tinh toàn bộ những tinh hoa
văn hóa nói chung, tinh hoa của dân tộc, như ước mơ, lý tưởng, trình độ, năng
lực, ý chí, bản lĩnh, phong cách tư duy, phương pháp hành động của lịch sử
chính trị của một dân tộc, nhằm thực hiện mục đích chính trị cao cả của cộng
đồng, dân tộc.
Với cấu trúc như vậy, giá trị VHCT truyền thống của một dân tộc
bao giờ cũng chữa đựng tiềm năng và sức mạnh của mỗi dân tộc trong quá
trình hoạt động, tồn tại, vận động và phát triển của nó. Giá trị VHCT là cái
giữ thế bền vững, đồng thời là cái chỉ đạo tư tưởng và hành động, củng cố
và phát triển tinh thần, ý chí và bản lĩnh chính trị của dân tộc. Do vậy,
những giá trị của VHCT truyển thống này có thể lưu truyền qua không
gian, thời gian, chúng cần được giữ gìn, phát huy và phát triển cho phù hợp
với các đòi hỏi, yêu cầu của thời đại mới, đáp ứng những đòi hỏi của nền
chính trị hiện đại.
Trong giai đoạn hiện nay, kế thừa các giá trị VHCT truyền thống kết
hợp với việc tiếp thu các giá trị VHCT truyền thống không chỉ của cộng đồng
mình, dân tộc mình, mà cả các giá trị VHCT truyền thống các cộng đồng, dân
tộc khác cũng sẽ trở thành cơ sở vững chắc cho sự vận động của xã hội hiện
đại, cho sự phát triển của đất nước theo hướng bền vững.
49
2.2. CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA VĂN HÓA CHÍNH TRỊ
TRUYỀN THỐNG LÀO
2.2.1. Cơ sở tự nhiên và xã hội
2.2.1.1. Cơ sở tự nhiên
CHDCND Lào thuộc bán đảo Đông Dương, nằm sâu trong lục địa, thuộc khu vực nhiệt đới gió mùa ở Đông Nam Á, có diện tích 236.800 km2, với
đường biên giới dài 4.825 km, giáp với 5 nước - phía bắc giáp với Trung Quốc
có đường biến giới dài 505 km, phía tây bắc giáp với Myanma dài 236 km,
phía tây giáp với Thái Lan dài 1.835 km, phía đông giáp với Việt Nam dài
2.069 km và phía nam giáp với Cămpuchia với đường biên giới dài 435 km.
Chiều dài từ Bắc xuống Nam khoảng hơn 1.700 km, chỗ rộng nhất 500 km,
chỗ hẹp nhất 140 km. Như vậy, nước Lào nằm ở trung tâm Đông Nam Á, giữa
nhiều nước và không có biển.
Lào được chia thành 4 vùng: Vùng Đông - Bắc, vùng Tây - Bắc, vùng
Trung Lào và vùng Nam Lào. Mỗi vùng có điều kiện địa lý, đất đai, khí hậu,
thời tiết, v.v... khác nhau. Vùng Đông Bắc, bao gồm các tỉnh Phông Xa Lỳ, Luông Pha Băng, Xiêng Khoảng, Hủa Phăn, diện tích tự nhiên khoảng 66.960 km2,
trong đó núi chiếm hơn 90%. Trong năm có hơn bốn tháng mùa mưa, bốn
tháng mùa khô, có 2 - 3 tháng khô hạn. Đất đai phần lớn là đất núi màu nâu.
Vùng Tây Bắc, gồm các tỉnh: Luông Nặm Tha, Uđôm Xay, Bò Kẹo, Xay Nha Bu Ly. Diện tích tự nhiên 47. 280 km2, trong đó địa hình núi chiếm 90%. Có
hơn bốn tháng mùa mưa, bốn tháng mùa khô, có 2 - 3 tháng khô hạn. Đất đai
có đất núi, đất xám và đất xám bạc màu trên phù sa cổ. Vùng Trung Lào, bao
gồm các tỉnh: Thành phố Viêng Chăn, tỉnh Viêng Chăn, Bo Ly Khăm Xay, Khăm Muộn, Xa Vẳn Na Khệt. Diện tích tự nhiên 78.775 km2. Có bốn tháng
mùa mưa, hơn tháng mùa khô, có 3 - 4 tháng khô hạn. Đất đai gồm: Đất phù
sa, đất xám bạc màu trên phù sa cổ. Vùng Nam Lào, gồm các tỉnh: Xa La Văn, Sê Kông. Chăm Pa Xắc và Át Ta Pư. Diện tích tự nhiên 47.000 km2, trong đó
50
núi chiếm 70%. Có bốn tháng mùa mưa, bốn tháng mùa khô, có 3 - 4 tháng
khô hạn. Các loại đất đỏ bazan và đất núi màu nâu vàng.
Nhìn từ trên cao, Lào được xem như một thung lũng lớn, được hợp
thành bởi nhiều thung lũng nhỏ, vừa nằm kế tiếp nhau ở các phù lưu và dọc
theo sông Mê Kông. Dòng sông Mê Kông cùng hệ thống các chi lưu và phù
lưu của nó đóng vai trò như một hệ thống tuần hoàn chuyển tải và giao lưu văn
hóa giữa các tộc người từ bắc xuống nam, từ đông sang tây và ngược lại. Địa
hình của Lào đa dạng và hiểm trở do nhiều sông và núi cao ngăn cách. Miền
Bắc có nhiều núi đồi trùng điệp. Bình độ núi tương đối cao, có nhiều suối chảy
dọc thung lũng, núi cao nhất ở tỉnh Xiêng Khoảng là Phu Bía cao 2.820 m. Núi
ở miền Bắc chạy theo hướng Đông Bắc - Tây Nam, thấp dần. Nửa phía Nam Lào tiếp giáp với biên giới Cămpuchia có diện tích 82.180 km2, trong đó phần
lớn là rừng. Bình độ ở các tỉnh Nam Lào tương đối thấp, ít núi, có nhiều đồng
bằng và thung lũng rộng.
Khí hậu của Lào có sự khác biệt rõ rệt giữa hai miền. Miền Bắc là vùng
núi cao, khí hậu có tính chất nửa nhiệt đới ẩm và khô. Miền Nam Lào có khí
hậu nhiệt đới gió mùa ở phía Đông và nhiệt đới ẩm khô ở phía Tây dọc sông
Mê Kông. Lào có hai mùa mưa và khô rõ rệt. Mùa mưa bắt đầu từ giữa tháng 4
kéo dài đến cuối tháng 10. Mùa khô bắt đầu từ tháng 11 đến cuối tháng 3 đầu
tháng 4. Giữa hai mùa có một chu kỳ chuyển tiếp. Sự luân chuyển các mùa tạo
nên nhịp điệu cuộc sống cho các cư dân nông nghiệp.
Lào có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú. Nhờ có khí hậu nhiệt
đới nóng và ẩm, đất đai phần lớn là đất đồi núi, rừng tự nhiên phát triển
mạnh. Trong rừng có nhiều loại gỗ và lâm, thổ sản quý hiếm. Hệ sinh vật gắn
bó với rừng cũng rất phong phú, đặc biệt là voi. Lào là đất nước Triệu voi và
hoa Chăm Pa. Nước Lào không có biển nhưng có nhiều sông suối, đặc biệt là
sông Mê Kông là sông lớn nhất chảy qua đất Lào dài 1.835 km, thuận lợi cho
51
việc đi lại và vận chuyển. Nhân dân Lào không chỉ làm nghề trồng trọt nương
rẫy mà còn có nghề chài lưới, có khả năng thích ứng nhanh với sự biến đổi
của tự nhiên.
Điều kiện địa lý, khí hậu và nguồn tài nguyên thiên nhiên của Lào đã
ảnh hưởng sâu sắc đến quá trình hoạt động và sáng tạo văn hóa của các bộ tộc
Lào. Sự phát triển từ sớm của cây lúa, lúa nương, lúa nước chứng minh trình
độ hiểu biết của con người Lào từ xa xưa về nghề nông, nghề rừng, nghề thủ
công mỹ nghệ. Chính vì vậy, dù xét từ góc độ nào thì người Lào cũng được
quy vào cư dân nông nghiệp. Mặc dù từ vài thập kỷ trở đây, văn hóa nói
chung, VHCT Lào nói riêng đã có sự giao lưu với các nền văn hóa khác,
nhưng văn hóa Lào vẫn còn là nền văn hóa nông nghiệp. Cho nên, đến ngày
nay, ba hằng số lớn của lịch sử dân tộc Lào là kinh tế nông nghiệp, cư dân
nông nghiệp, xã hội nông nghiệp. §ây cũng là những chỉ số quan trọng để
nhận diện con người và văn hóa Lào.
Điều kiện tự nhiên ảnh hưởng lớn đến sự hình thành và phát triển
văn hóa nói chung và VHCT nói riêng của người Lào. Có thể thấy những
biểu hiện của những tác động của phương thức sống của cư dân nông thôn,
nông nghiệp (không thuần tuý là lúa nước) đối với văn hóa và VHCT là
đoàn kết, cộng đồng, hiền hòa và bao dung (chín bỏ làm mười), nhưng ít
cạnh tranh, giao lưu và phát triển. Lào là quốc gia nhỏ, nhưng diện tích
bình quân đầu người lại lớn do dân số ít, người Lào (nhất là người Lào
truyền thống) sống chủ yếu dựa vào thiên nhiên, bằng lòng với cuộc sống
có tính tự nhiên vốn có, ít có nhu cầu cạnh tranh phát triển. Lào là quốc gia
không có biển, địa hình phần lớn là đồi núi cao, do vậy điều kiện và khả
năng giao lưu văn hóa với thế giới bị hạn chế. Địa bàn sinh sống của cư
dân có những khác biệt lớn về địa hình và các vùng tiểu khí hậu, giao
thông đi lại khó khăn nhưng các khối dân cư vẫn giữ được các mối liên lạc,
đoàn kết và gắn bó với nhau trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước.
52
2.2.1.2. Cơ sở xã hội
CHDCND Lào hiện nay có dân số khoảng 6,6 triệu người (số liệu năm
2010), là quốc gia đa tộc người với 49 bộ tộc, thuộc ba khối lớn - Lào Lùm,
Lào Thơng và Lào Xủng, cùng sinh sống. Về ngôn ngữ chia thành 4 khối
tiếng nói. Khối nói tiếng dân tộc Lào Lùm - Tày có 8 bộ tộc, chiếm 55% dân
số cả nước. Khối này sinh hoạt ở đồng bằng và các sông, suối, sinh sống bằng
làm ruộng là chủ yếu, phần lớn theo đạo Phật. Khối nói tiếng dân tộc người
Lào Thơng (Mon - khơme), có 32 bộ tộc, chiếm 27% của dân số. Các bộ tộc
khối này phần lớn dựa vào vùng đồng bằng và miền núi, sinh sống lẫn lộn với
các bộ tộc khác, làm nương là chủ yếu và một số bộ tộc sinh sống ở đồng
bằng làm ruộng thành nghề. Khối tiếng nói Hơ Mông - Ưu Miên có 2 bộ tộc,
chiếm 6,89% của dân số, phần lớn sinh sống ở vùng miền núi phía Bắc, một số
sinh sống ở miền Trung như Tỉnh Viêng Chăn, Bô Li Khăm Xay và tỉnh Khăm
Muộn, bộ tộc này làm nương và chăn nuôi để sinh sống. Khối tiếng nói Trung -
Ti Bệt có 7 bộ tộc, chiếm 11,1% của dân số cả nước, sinh sống ở miền Bắc Lào
như các tỉnh Phong Sa Lỳ, Luông Nặm Thà, Bò Kẹo và U Đôm Xay, sinh sống
bằng làm nương trồng lúa tẻ, ngô và chăn nuôi.
Các bộ tộc trong xã hội Lào trong quá trình dựng nước và giữ nước đã
cùng nhau đoàn kết xây dựng quốc gia ngày càng vững mạnh. Tuy nhiên, khác
với các nước Đông Nam Á khác, trong cơ cấu tộc người trong xã hội Lào, vai
trò của tộc người chủ thể (người Lào) thường không lớn về số lượng và chênh
lệch về trình độ phát triển xã hội. Về nguồn gốc, chủng tộc cũng như về mặt
thể chế xã hội vốn không đồng nhất. Phong tục, tập quán, lối sống, tín ngưỡng
và lợi ích tộc người rất đa dạng và phức tạp. Đây là cơ sở căn bản của một nền
văn hóa chính trị đa tâm lý, đa tính cách, nhiều khát vọng và ước mơ, nhiều xu
hướng tư tưởng, nhiều mô hình tổ chức - thực hành và cũng nhiều tài năng do
nhiều tố chất tộc người hội lại.
53
Ở khía cạnh cơ sở xã hội, sự ảnh hưởng của các yếu tố tộc người, ngôn
ngữ đến văn hóa và VHCT là rất đáng kể. Việc không có tộc người chủ thể,
không có chênh lệch về trình độ phát triển, đa dạng về phong tục tập quán, lối
sống và tín ngưỡng nhưng không có xung đột, hơn nữa còn hội tụ được những
tinh hoa từ các tộc người trong quá trình hình thành quốc gia - dân tộc. Điều
này hình thành và củng cố truyền thống đoàn kết, tương thân tương ái và bình
đẳng - bình đẳng tộc người, bình đẳng nam nữ, v.v... của người Lào trong quá
trình xây dựng và bảo vệ đất nước. Kết cấu xã hội, đời sống xã hội ổn định
cũng ảnh hưởng đến kết cấu chính trị, đời sống chính trị với cả nghĩa tích cực
và hạn chế của nó, tạo ra những kết cấu chính trị, đời sống chính trị ổn định và
theo đó là những yếu tố bảo thủ, trì trệ. Sự liên kết của các cộng đồng dân cư
và giữa các cộng đồng dân cư tương đối hài hoà, ít tồn tại kiểu văn hóa làng,
co cụm và tự quản cao như ở nhiều nước Châu Á khác.
Văn hóa nói chung và VHCT truyền thống của người Lào nói riêng, là sự
kết hợp giữa tính hiền hòa của cư dân lúa nước với tính phóng khoáng như cư dân
cao nguyên, từ đây hình thành nên những nét văn hóa mang tính chan hòa của
người Lào truyền thống. Cho đến nay, xã hội Lào cơ bản vẫn mang những đặc tính
truyền thống, gắn liền với những yếu tố huyết thống, bộ tộc, bộ lạc. Xã hội công
dân hay xã hội dân sự mới bắt đầu hình thành và còn chưa phát triển, điều này cản
trở không nhỏ đến việc hình thành và phát triển những yếu tố cơ bản của VHCT
Lào - văn hóa dân chủ, văn hóa công dân, văn hóa pháp luật, hay nói cách khác,
những đặc điểm tộc người, cơ cấu và tổ chức xã hội, nhất là các cơ sở về tính cách
con người, lối sống cộng đồng của các bộ tộc Lào đã hình thành nên các giá trị
truyền thống VHCT Lào đặc sắc cho đến tận ngày nay.
2.2.2. Cơ sở kinh tế và chính trị
2.2.2.1. Về cơ sở kinh tế
CHDCND Lào là một trong những nước nghèo và chậm phát triển nhất
thế giới. Nền kinh tế Lào là nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, kinh tế tự nhiên
54
và nửa tự nhiên là phổ biến. Trước ngày giải phóng, nhân dân Lào đã phải
sống dưới ách thống trị của bọn phong kiến Xiêm, thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ. Trong những thế kỷ các thực dân đô hộ, họ không quan tâm đến việc phát
triển kinh tế, mà chỉ khai thác những cơ sở kinh tế nhằm phục vụ ý đồ xâm
lược của chúng, bắt nhân dân Lào phải nộp nhiều thứ thuế nặng nề. Giao thông
vận tải ở Lào rất kém phát triển. "Năm 1942, toàn bộ chiều dài của màng lưới
đường sá ở Lào là 3.514 km. Tuy độ dài của đường sá có tăng, song sự liên lạc
giữa các địa phương trong nước Lào vẫn rất khó khăn, vì chất lượng đường sá
quá kém, hầu hết chỉ đi lại được trong mùa khô" [44, tr.248].
Trước đây, Lào có nhiều điều kiện thuận lợi để trồng trọt và chăn nuôi,
nhưng do chính sách "ăn xổi" của thực dân Pháp đã làm cho chúng không thể
phát triển được ngay cả những cây công nghiệp có giá trị xuất khẩu cao, khi
đòi phải đầu tư vốn. Trong công nghiệp xuất khẩu thì cả phê chiếm hàng đầu,
nhân dân Lào có nhiều điều kiện sản xuất cà phê, nhưng do bị thực dân Pháp
chiếm độc quyền và nguồn lợi to lớn này. Chúng chỉ chú trọng thu được nhiều
lợi nhuận, không đầu tư nhiều vốn và công nghệ kỹ thuật, do đó sản lượng cà
phê ở Lào tương đối thấp. Ngoài cà phê, các loại cây công nghiệp khác như
cao su, thuốc lá, trẩu, chè, cây ký sinh, các loại cây có sợi, v.v... đã không được
kinh doanh trên một phạm vi đáng kể. Trong kinh tế nông nghiệp, thực dân
Pháp chỉ chú trọng chăn nuôi, năm 1939, riêng đàn gia súc có sừng có đến
550.000 con. Bởi vì điều kiện phát triển ngành này không đòi hỏi quá cao và
phức tạp và nhân dân Lào đã có tập quán chăn nuôi gia súc từ lâu đời. Nhưng,
do nhà cầm quyền thiếu hướng dẫn, thiếu những biện pháp bảo vệ, cải tiến
giống nên gia súc bị chết nhiều.
Ngành kinh tế hàng đầu của Lào mà tư bản Pháp đã thâm nhập là ngành
lâm nghiệp. Rừng là nguồn lợi thiên nhiên to lớn, chiếm 63% diện tích cả
nước, giá trị lớn nhất là những khu rừng gỗ tếch, gỗ trắc, rừng này cung cấp gỗ
55
quý và cánh kiến. Do chính sách thực dân, việc khai thác những nguồn lợi về
rừng chỉ được tiến hành ở những khu vực dễ đi lại, vì thiếu đường giao thông
và phương tiện chuyên chở. Do việc khai thác không có kế hoạch và bữa bãi,
cho nên nhiều giống quý bị cạn dần. Lào có nhiều khoáng sản như thiếc, đồng,
vàng, than đá, kẽm, chì, bô xít, Angtimoan Tungten, v.v... có lẽ cả dầu hoả
nữa. Nhưng thực dân Pháp chưa có một cuộc thăm do nào cơ bản và chịu bỏ
vốn nhiều vào việc khai thác, vì cho rằng không có lợi nhanh và nhiều. Họ chỉ
chú ý khai thác mỏ thiếc Phôn Tịu và Bò Nèng Khăm Muộn với hàm lượng
cao (50%). Ngành công nghiệp chế biến cũng vắng mặt ở Lào, mặc dù Lào có
nhiều nguyên liệu quý. Một vải cơ sở có ít nhiều tính chất nửa công nghiệp và
thủ công nghiệp như: một số xưởng cưa, nhà máy xay xát, v.v... Một vài cơ sở
điện nước chỉ được xây dựng ở trung tâm hành chính, đô thị, nhằm phục vụ
bọn thống trị.
Đặc điểm kinh tế nêu trên đã hình thành nền VHCT Lào về những giá trị
VHCT Lào nói riêng - văn hoá lúa nước, khai thác rừng, tinh thần lao động cần
cù, lối sống sản xuất nhỏ, v.v... Sau ngày giải phóng (2/12/1975), Đảng NDCM
Lào đã tiến hành cải tạo XHCN, xây dựng quan hệ sản xuất mới với cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp. Chính phủ Lào đã thực hiện kế hoạch khắc phục hậu
quả chiến tranh và phát triển kinh tế.
Công cuộc đổi mới do Đảng NDCM Lào khởi xướng, bắt đầu từ Đại hội
IV của Đảng (1986). Đường lối đổi mới là tiến hành chuyển đổi cơ chế quản lý
tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế mới - cơ chế thị trường vận hành theo
qui luật kinh tế, hạch toán kinh doanh. Đại hội lần thứ VI, VII, VIII của Đảng
NDCM Lào đều nhấn mạnh rằng, "nền kinh tế Lào là nền kinh tế nhiều thành
phần, nhiều cách sở hữu và nhiều hình thức tổ chức kinh tế cùng tồn tại lâu dài,
v.v... để chuyển kinh tế hàng hoá tự nhiên sang kinh tế hàng hoá phải có đẩy
đủ chính sách khuyến khích từng bộ phận kinh tế, trong đó coi gia đình là điểm
56
xuất phát, làm cho gia đình trở thành mẫu sản xuất, chế biến hàng hóa và dịch
vụ phát triển rộng rãi" [100, tr.31]. Đại hội lần thứ IX của Đảng NDCM Lào
(2011) chỉ rõ: "Tiếp tục kiên trì phát triển kinh tế làm trung tâm để đầy mạnh
mở rộng lực lượng sản xuất, chuyển kinh tế tự nhiên trở thành kinh tế hàng
hóa, xây dựng và ngày càng hoàn thiện hơn kinh tế thị trường theo định hướng
XHCN" [101, tr.18].
Tư duy kinh tế mới nêu trên chính là sự thể hiện một tư duy VHCT mới
của Đảng NDCM Lào, nó đi vào đời sống kinh tế - xã hội, làm cho VHCT có
bước phát triển mới
Sau gần 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới mà trước hết là thực hiện
các nhiệm vụ kinh tế - xã hội do các Đại hội IV,V,VI,VII,VIII và IX của Đảng
NDCM Lào đề ra, kinh tế của Lào đã có sự phát triển đáng kể, góp phần làm
cho bộ mặt của đất nước và đời sống của nhân dân các bộ tộc có phần thay đổi,
cơ sở hạ tầng và các tiềm lực kinh tế của đất nước đã được khai thác, động
viên được đội ngũ trí thức cống hiến tài năng nhằm góp phần đẩy nhanh sự
phát triển kinh tế, các nhà doanh nghiệp giỏi trên từng lĩnh vực đã xuất hiện.
Đây là tiền đề và điều kiện quan trọng cho sự chuyển đổi nhận thức, tư duy
kinh tế, song cũng là nền tảng cho sự hình thành những nét VHCT mới ở cán
bộ, đảng viên, các nhà doanh nghiệp.
Có thể nói, nền sản xuất nông nghiệp của nhân dân các tộc người Lào từ
thời xa xưa đến nay vẫn là yếu tố cơ bản quy định sự hình thành, phát triển của
văn hóa nói chung, VHCT ở Lào nói riêng. Nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu,
mạnh mún, tự cung tự cấp ảnh hưởng có ý quyết định đến văn hóa và VHCT
truyền thống của người Lào. Sự đơn giản trong chế độ sở hữu ruộng do diện
tích tự nhiên và canh tác bình quân đầu người cao; sự phụ thuộc vào thiên
nhiên, sống dựa vào các sản vật sẵn có trong tự nhiên rất lớn; mức thu nhập
bình quân đầu người thấp, các nhu cầu tiêu dùng đơn giản. Chính điều kiện và
đặc điểm kinh tế như vậy đã quy định những đức tính không tham lam và
57
không ích kỷ làm giàu cho riêng mình, hướng theo lối sống vừa đủ với triết
lý biết đầy đủ là sung sướng (tri túc túc nhi lạc lạc); và những tư duy mới
tạo ra sự phát triển mới trong kinh tế của sự nghiệp đổi mới cũng đã hình
thành nhiều nết VHCT mới phù hợp với xu thế phát triển của kinh tế - xã
hội hiện nay.
2.2.2.2. Cơ sở chính trị
Từ trong lịch sử, sự phân hoá và mâu thuẫn trong xã hội Lào không lớn,
đã tạo điều kiện cho sự liên kết và đoàn kết dân tộc. Đời sống chính trị nói
chung, nhà nước nói riêng ở Lào cơ bản ở trong trạng thái ổn định dựa trên
những chuẩn mực, giá trị và niềm tin chung của các tộc người sống trên lãnh
thổ Lào. Người Lào từ trong truyền thống luôn khao khát và tôn trọng độc lập
và chủ quyền cho quốc gia dân tộc mình. Thống nhất quốc gia và đoàn kết dân
tộc luôn luôn là xu hướng chủ đạo trong tình cảm và ý thức của nhân dân các
tộc người ở Lào. Sự chia cắt đất nước, sự song tồn của nhiều loại chính quyền
đều là hậu quả của các chính sách xâm lược và thôn tính của các thế lực ngoại
bang đối với đất nước và nhân dân Lào. Trong tổ chức và hoạt động của Nhà
nước ở Lào từ trong lịch sử có sự tiếp biến các giá trị từ bên ngoài cho phù hợp
với điều kiện của Lào. Các thể chế chính trị ở Lào là sự tồn tại hàng thế kỷ của
các chế độ phong kiến quân chủ, chế độ thực dân nửa phong kiến - hậu quả của
các cuộc xâm lược từ ngoại bang hàng thập kỷ, và ngày nay là chế độ dân chủ
nhân dân - thành quả của các cuộc kháng chiến lâu dài và gian khổ của nhân
dân các tộc người Lào dưới sự lãnh đạo của Đảng NDCM Lào. Những đặc
điểm chính trị nêu trên đã hình thành nên những đặc điểm đầu tiên của nền
VHCT Lào.
Trước khi giải phóng năm 1975, xã hội Lào là một xã hội thực dân nửa
phong kiến và đã từng trải qua các thời kỷ đô hộ của phong kiến Xiêm, thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ. Vì vậy, trình độ phân hoá giai cấp chưa cao, chưa
sâu sắc. Nhân dân Lào bị chịu ảnh hưởng sâu đậm của những tư tưởng, tập tục
58
phong kiến, tập tục của những người mất quyền, xa lạ với thiết chế dân chủ và
quyền cơ bản của con người. Nước Lào còn trải qua hàng chục năm chiến
tranh tàn phá nên đã để lại những tổn thất về người và vật chất rất nặng nề.
Hàng vạn gia đình liệt sĩ, hàng vạn thương binh các loại cùng với hàng vạn
người già cô đơn và trẻ mồ côi, v.v... Những đặc điểm trên một mặt hạn chế
đời sống dân chủ, song cũng chính ở đó tiềm ẩn những khát vọng độc lập, tự
do, dân chủ của nhân dân, làm cơ sở cho sự hình thành những giá trị truyền
thống của dân tộc Lào.
Dưới chế độ mới, nhất là từ khi có đường lối đổi mới của Đảng (năm
1986 đến nay), cơ cấu xã hội và tương quan lực lượng giai cấp đã và đang có
những biến đổi: Giai cấp phong kiến và tầng lớp tư sản quan liêu quân phiệt đã
bị lật đổ, giai cấp công nhân và nhân dân lao động đang tăng dần về số lượng
và chất lượng ngày càng nâng cao. Tuy nhiên số lượng công nhân còn quá ít,
trình độ tay nghề còn thấp; giai cấp nông dân đông, nhưng trình độ văn hóa và
chính trị thấp, đã ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng ứng dụng khoa học kỹ
thuật vào sản xuất, cũng như việc nhận thức và vận dụng đường lối, quan
điểm, nghị quyết của Đảng vào cuộc sống.
Để giải quyết được vấn đề xã hội này đòi hỏi nền kinh tế phải có nhịp độ
tăng trưởng cao. Mặt khác, đại bộ phận cán bộ đảng viên của Đảng NDCM
Lào chủ yếu xuất thân từ nông dân đã qua rèn luyện và thử thách trong phong
trào đấu tranh giải phóng dân tộc, tiếp thu lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, đã
giác ngộ lập trường giai cấp công nhân trở thành người cách mạng. Phát triển
xã hội ngày nay bao gồm sự tăng trưởng kinh tế, sự hoàn thiện thể chế chính
trị, nâng cao văn hóa, văn minh, quá trình hiện đại hoá đất nước nhưng phải
hướng theo những giá trị nhân văn, nghĩa là xây dựng một xã hội giàu mạnh,
độc lập dân tộc nhưng phải công bằng trong đời sống xã hội và phải thực sự
văn minh. Đây là cơ sở thực tiễn quan trọng cho sự hình thành những giá trị
VHCT Lào từ trong lịch sử và trong thời đại mới.
59
Sau thắng lợi hoàn toàn của sự nghiệp đấu tranh giải phóng đất nước
năm 1975, Đảng NDCM Lào chủ trương xây dựng chế độ dân chủ nhân dân.
Chấm dứt chế độ quân chủ lỗi thời, thành lập chế độ mới - chế độ dân chủ
nhân dân, chuẩn bị tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nhà nước kiểu mới của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân được thiết lập. Đảng NDCM Lào đã lựa
chọn hình thức tổ chức quyền lực nhà nước theo chế độ Cộng hoà Dân chủ
Nhân dân. Về cơ bản đó là một chính thể được tổ chức theo mô hình cộng hoà
nghị viện tập quyền. Với hình thức tổ chức quyền lực nhà nước gắn với chủ thể
là nhân dân, chủ quyền thuộc về nhân dân. Quyền lực này không phân chia mà
tập trung thống nhất vào Quốc hội - cơ quan quyền lực cao nhất do nhân dân
trực tiếp bầu ra. Các cơ quan khác của Nhà nước như Chính phủ và cơ quan tư
pháp đều do quốc hội trao quyền và chịu sự giám sát của Quốc hội.
Để đáp ứng yêu cầu bức xúc mà xã hội đặt ra trong quá trình xây dựng
và bảo vệ chế độ xã hội mới, Đại hội IV của Đảng NDCM Lào (1986) đã đề ra
đường lối đổi mới toàn diện và có nguyên tắc nhằm tạo động lực phát triển lực
lượng sản xuất và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Từ đó bắt đầu kỷ
nguyên mới, kỷ nguyên xây dựng nước Lào Hoà bình - Độc lập - Dân chủ -
Thống nhất - Thịnh vượng. Đảng NDCM Lào đã từng bước đổi mới tư duy lý
luận về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện mới. Đảng
NDCM Lào xác định: "Trước đây chúng ta xác định giai đoạn mới của cách
mạng Lào là thời kỳ quá độ trực tiếp lên chủ nghĩa xa hội, bỏ qua giai đoạn tư
bản chủ nghĩa, nay trên cơ sở tư duy mới, giai đoạn mới của cách mạng là phải
tiếp tục củng cố, phát triển và hoàn thiện nền dân chủ nhân dân để từng bước
quá độ lên chủ nghĩa xã hội" [96, tr.321].
Đến Đại hội Đảng V của Đảng NDCM Lào (1991) những quan điểm về
đổi mới càng được thực hiện có hiểu quả. Những tư tưởng, quan điểm lý luận
đó được khẳng định rằng: "Hiện nay nhiệm vụ của cách mạng Lào là tiếp tục
60
xây dựng và phát triển chế độ dân chủ nhân dân, từng bước xây dựng tiền đề
cần thiết để tiến lên chủ nghĩa xã hội" [97, tr.323].
Nghị quyết các Đại hội VI, VII, VIII và IX của Đảng NDCM Lào luôn
khẳng định và đề ra những chủ trương lớn, để ra những nhiệm vụ đối nội và
đối ngoại, nhằm tiếp tục thực hiện đường lối cơ bản, xây dựng và phát triển
chế độ dân chủ nhân dân, tạo cơ sở và vị thế vững chắc tiến vào thế kỷ XXI.
Đảng đã từng bước hoàn thiện đường lối tổ chức của Đảng phù hợp với đường
lối chính trị, nhằm xây dựng Đảng NDCM Lào ngày càng vững mạnh, thực sự
trở thành hạt nhân lãnh đạo hệ thống chính trị của chế độ dân chủ nhân dân.
Nội dung chủ yếu của cách mạng Lào trong giai đoạn này là tiếp tục xây dựng
và phát triển chế độ dân chủ nhân dân.
Ở khía cạnh cơ sở chính trị, sự ảnh hưởng của các yếu tố chính trị đến
văn hóa nói chung và VHCT nói riêng là rất trực tiếp. Yêu nước, đoàn kết, tự
tôn dân tộc từ lâu đã trở thành truyền thống của VHCT của người Lào. Tuy
nhiên, sự mới mẻ của chế độ, nhà nước và pháp luật trong chế độ dân chủ nhân
dân nên nhiều nội dung và biểu hiện của văn hóa nói chung và CHCT mới còn
đang hình thành. Sự thống nhất và đoàn kết dân tộc là xu thế chủ đạo, sự phân
hoá và mâu thuẫn xã hội không lớn có nhu cầu và xu hướng hình thành và
củng cố nhà nước quốc gia thống nhất, đời sống chính trị - xã hội ổn định. Tuy
nhiên, những điều kiện và động lực cho cạnh tranh và phát triển trong chính trị
lại không lớn.
2.2.3. Lịch sử dựng nƣớc và giữ nƣớc
Trải qua hàng chục vạn năm, những con người cổ sinh sống trên lãnh
thổ Lào đã từng bước vừa cải tạo mình, vừa cải tạo và chinh phục thiên nhiên
để sinh tồn và phát triển. Họ đã đề lại đến nay những di tích văn hóa vật chất
chứng minh trên lãnh thổ Lào đã từng diễn ra một quá trình phát triển liên tục
từ thời đại đồ đá cũ qua thời đại đồ đá mới đến thời đại đồng thau và thời đại sắt.
Trong những di tích văn hóa đó, những di tích văn hóa thuộc thời đại đồng thau,
61
thời đại sắt và những di tích văn hóa cự thạch là những cơ sở vật chất làm tiền
đề cho sự ra đời của các Mường cổ đại trên khắp lãnh thổ Lào vào những thế kỷ
sau Công nguyên. Có thể thấy lịch sử Lào qua các thời kỳ sau đây:
a) Nước Lào thời kỳ các Mường cổ:
Trong khoảng thời gian lâu dài ở giai đoạn đầu Công nguyên, trước khi vua
Phạ Ngừm thống nhất được các thế lực cát cứ, để lần đầu tiên hình thành một
Vương quốc Lào thống nhất (1353). Nước Lào ngày nay đã từng tồn tại hàng loạt
hệ thống tổ chức chính trị - xã hội kiểu các Mường cổ, mà trong đó tiêu biểu nhất
là ba mường lớn: Mường Xoa (Luông Pha Bang), Mường Phuôn (Xiêng Khoảng),
và trước đó là Mường Xỉ Khốt Tạ Boong (từ trung Lào trở xuống).
Mường Xoa - Lạn Xạng: theo các nguồn tài liệu được nhiều nhà Lào học
trình bày, Mường Xoa tức là Mường Xiêng Động - Xiêng Thoong, dưới thời trị
vì của Khun Xoa được gọi là Mương Xoa. Đến khi Vương quốc Lạn Xạng ra
đời, Mường Xoa lại được đổi thành Mường Xiêng Động - Xiêng Thoong và
sau này là Luông Pha Bang. Đây là một miền có đất đai màu mỡ, các cư dân về
đây sinh sống từ rất lâu đời.
Mường Phuôn Xiêng Khoảng: nằm ở phía đông, Xiêng Khoảng là một
mường cổ của nước Lào. Trung tâm của mường này là Xiêng Đông Đăng. Tại
đây có di tích khảo cổ về cự thạch rất nổi tiếng, đó là trên cao nguyên Xiêng
Khoảng có chum đá hơn 300 chum. Theo truyền thuyết về Thao Hùng, Thao
Chương, các chum đá đó được Khun Chương dùng để đựng rượu: thời kỳ Xay
Pu Xiêng Khoảng vào thế kỷ XII. Theo các nhà khảo cổ, niên đại của chum đá
đã có khoảng cách rất xa trước khi Khun Chương.
Mường Xỉ Khốt Tạ Boong: tên cũ của Xỉ Khốt Ta Boong là Khô Tạ Bu
Lạ. Theo nghĩa của tiếng Sanskrít có nghĩa là phía mặt trời mọc, được người
xưa (cư dân nói ngôn ngữ Môn - Khơme) dùng để gọi một tiểu quốc ở phía
đông, mà đối xứng theo trục địa lý với tiểu quốc này là Vương quốc Tha Ra Va
Đi của người Môn ở phía tây. Tiểu quốc này được hình thành vào khoảng thế
62
kỷ VI. Theo các nhà nghiên cứu, thủ phủ đầu tiên được thiết lập ở Khột Tạ
Bun, tại vùng của sông sê Bangphay, thuộc tỉnh Xa Vẳn Na Khệt ngày nay. Từ
đó cho đến thế kỷ XIII, tiểu quốc này có một quá trình phát triển rất lâu dài,
lúc thịnh lúc suy, dọc theo các vùng ở hai bên bở sông Mê Kông từ Viêng
Chăn cho đến thác Li Phị. Tiểu quốc này về sau được gọi là Xỉ Khốt Tạ Boong
và được gọi theo kiểu tổ chức chính trị xã hội cổ truyền thuộc hệ thống Lào -
Thái: Mường Xỉ Khốt Tạ Boong.
b) Thời kỳ thống nhất đầu tiên của Vương quốc Lào Lạn Xạng:
Vào giữa thế kỷ XIV, nhân lúc CămPuChia đang có mâu thuẫn gay gắt
với Ayu Than Ha, Phạ Ngừm đã chỉ huy đạo quân "10 ngàn người" từ
CămPhuChia tiến về. Đạo quân của Phạ Ngừm đã thâm nhập vào thung lũng
sông Mê Kông và chính phục được hàng loạt tiểu quốc như: Mường Pạc Cột,
Mường Ca Boong, Mường Pha Nặm Hùng, Mường Phuôn, rồi tiến lên đông
bắc Lào sát tận Phông Sa Lỳ, sau đó trở xuống Pạ Cu Sát Kinh Xiêng Đông,
Xiêng Thoong.
Sau khi Chậu Phạ Ngừm qua đời, con trai cả của ông là Ún Hươn (ông
mang danh hiệu là Phạ nha Xảm Xẻn Thay) lên ngôi vua từ năm 1376 - 1418.
Sau khi Xảm Xẻn Thay mất, em trai nhà vua là Khăm Đẻng lên kế ngôi 11
năm, sau đó khoảng 30 năm triều đình Lạn Xạng bước vào giai đoạn rối ren.
c) Thời kỳ nhân dân Vương quốc Lào Lạn Xạng kháng chiến chống
xâm lược:
Năm 1535 và năm 1540, vua Ayu Thaya hai lần cất quân sang lãnh Lào
Lạn Xạng hai lần mới chiếm được. Năm 1560, vua Xay Nha Xêt Tha Thi Lạt
chuyển Thủ đô từ Luổng Pha Bang sang Viêng Chăn. Từ năm 1563 - 1592
nhân dân Lào Lạn Xạng ba lần kháng chiến chống quân Ava (Myanma). Tới
năm 1623 khi Xu Li Nha Vông Xạ Thăm Mi Kạ Lạt lên ngôi vua Lào Lạn
Xạng mới tương đối ổn định, và dưới triều đại của vua Xu Li Nha Vông Xạ,
Lào Lạn Xạng được phát triển và trở nên hưng thịnh.
63
d) Vương quốc Lào Lạn Xạng bước vào thời kỳ suy yếu và đất nước bị
Vua Xu Li Nha Vông Xạ qua đời, vì không có người nối dõi, các lực
chia cắt trong thế kỷ XVIII:
lượng chống đối nhà vua đã nổi dậy ở khắp nơi. Năm 1707 vương quốc Lạn Xạng
đã bị chia thành ba tiểu vương: Viêng Chăn, Luổng Pha Bang và Chăm Pa Xắc.
Hơn một thế kỷ (từ năm 1778 - 1893) Lào Lạng Xạng bị rơi vào ách xâm lược
của phong kiến Xiêm. Trong lúc rối ren, chia cắt và nằm dưới ách đô hộ của
người Xiêm, ở Lào Lạn Xạng đã xuất hiện Chậu A Nu Vông (1803 - 1827) người
về sau đã lật đổ ách đô hộ của người Xiêm, lập lại sự thịnh vượng và thống
nhất đất nước Lào.
đ) Xã hội Lào dưới ách xâm lược và thống trị của thực dân Pháp và
phát xít Nhật:
Nửa sau thế kỷ XIX, khi Pháp tiến hành xâm lược Việt Nam, chúng
còng đẩy mạnh quá trình xâm lược Lào. Nhân dân các bộ tộc Lào đã đứng lên
đấu tranh giải phóng dân tộc, tiêu biểu là: cuộc khởi nghĩa của nhân dân Xa Vẳn
Na Kệt dưới sự lãnh đạo của Phò Cà Đuột (1901 - 1902); cuộc khởi nghĩa dưới
sự lãnh đạo của Ông Kẹo, Ông Kôm Ma Đặm (1901 - 1937); cuộc khởi nghĩa
ở Bắc Lào dưới sự lãnh đạo của Chậu Phạ Pát Chay (1918 - 1922).
Tháng 8 năm 1940, Toàn quyền Jean Decoux ký hiệp ước thừa nhận
đặc quyền của Nhật ở Đông Dương để đổi lấy việc Nhật hứa tôn trọng quyền
thống trị của Pháp đối với Lào, Việt Nam và Cămpuchia. Nhật tuyên bố nước
Lào "độc lập", gây phong trào thân Nhật, mưu mê hoặc nhân dân và dùng
người Lào trị người Lào.
Ngày 12 tháng 10 năm 1945, tại thủ đô Viêng Chăn, chính phủ Lào Ít
Xa La được thành lập do Pha Nha Khăm Mạo làm Thủ tướng trịnh trọng công
bố trước quốc dân và thế giới bản "Tuyên bố độc lập", ban bố bản Hiến pháp
tạm thời, quốc ca và quốc kỳ Lào.
64
e) Thời kỳ chống sự xâm lược trở lại của thực dân Pháp, sự can thiệp
của đế quốc Mỹ và xây dựng chế độ dân chủ nhân dân:
Nước Lào độc lập ra đời và cuộc kháng chiến của nhân dân Lào chống
thực dân Pháp xâm lược lần thứ hai năm 1945 - 1954 diễn ra trong tình hình
quốc tế có những thay đổi lớn. Ngày 20 tháng 1 năm 1949, đội quân cách
mạng đầu tiên, Quân giải phóng Lào tự do mang tên Lát Xa Vông được thành
lập, do đồng chí Cay Xỏn PhômViHản lãnh đạo (ngày nay là Quân đội Nhân
dân Lào). Ngày 13 tháng 8 năm 1950, Đại hội Quốc dân kháng chiến quyết
định thành lập Mặt trận Lào Ítxala (Lào tự do), sau đổi thành Neo Lào Hắc
Xạt (Mặt trận Lào yêu nước). Ngày 11 - 19 tháng 2 năm 1951, tại Tỉnh Tuyên
Quang (Việt Nam) Đại hội lần thứ II của Đảng Cộng sản Đông Dương được
triệu tập. Trong Đại hội lần này có đại biểu Mặt trận Lào và Cămpuchia đến dư
và ba nước Đông Dương đã quyết định thành lập khối liên minh nhân dân Lào
- Việt - Cămpuchia. Đảng Nhân dân Lào (nay là Đảng NDCM Lào) đã được
thành lập ngày 22 tháng 3 năm 1955. Đồng chí Cay Xỏn PhômViHản trở thành
Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng Nhân dân Lào. Ngày mùng 2 tháng 12 năm
1975, cách mạng giải phóng dân tộc Lào giành thắng lợi trọn vẹn. Nước
CHDCND Lào ra đời và bước vào thời kỳ mới của lịch sử dân tộc.
Văn hóa dân tộc nói chung và VHCT Lào nói riêng của người Lào đã
được hình thành và tồn tại gắn liền với lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ
nước anh dũng của nhân dân các bộ tộc Lào. Lịch sử đấu tranh anh dũng chống
xâm lược của nhân dân Lào đã hun đúc nên các giá trị truyền thống trong văn
hóa nói chung, VHCT Lào nói riêng.
65
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2
VHCT là khái niệm của chính trị học hiện đại xuất hiện gần đây trong
khoa học chính trị trên thế giới, trong đó có Việt Nam và Lào. Ra đời trong quá
trình nghiên cứu so sánh các hệ thống chính trị, khái niệm VHCT đã có tác
động trong quá trình nghiên cứu chính trị học. Khái niệm VHCT cần phải đặt
trong sự nhận thức chung về phạm trù văn hóa và chính trị. Những quan niệm
cơ bản về văn hóa và chính trị là cơ sở, điểm xuất phát cho nhận thức VHCT.
Nhận thức về cơ sở tự nhiên và xã hội, cơ sở kinh tế và chính trị, cơ sở
lịch sử và văn hóa truyền thống của Lào là quan điểm nền tảng rất cần thiết cho
việc nhận thức về những giá trị tiêu biểu của VHCT truyền thống Lào. Trong
những cở sở hình thành văn hóa Lào, có thể thấy yếu tố lịch sử đấu tranh dựng
nước và giữ nước của nhân dân các bộ tộc qua bao thời đại là bộ phận cốt lõi
tạo nên những giá trị VHCT truyền thống Lào.
Nói tóm lại, trong Chương 2 của luận án, tác giả đã trình bày một cách
khái quát, làm rõ những vấn đề chung nhất về VHCT, từ các khái niệm văn
hóa, khái niệm chính trị, khái niệm VHCT. Từ đó, tác giả luận án đã phân tích
các cơ sở hình thành các nét tiêu biểu về VHCT của nhân dân Lào, đó là các cơ
sở địa lý, tự nhiên, đời sống kinh tế và xã hội, nhất là các điều kiện chính trị và
lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của nhân dân Lào đối với thực dân
Pháp, phát xít Nhật và thời kỳ lịch sử hiện đại là đế quốc Mỹ.
Chính các điều kiện tự nhiên và xã hội, kinh tế và chính trị đã hun đúc
nên tinh thần yêu nước, ý chí quật cường và những giá trị truyền thống quý báu
của nhân dân Lào. Và đó cũng chính là những nét tiêu biểu của VHCT truyền
thống Lào.
66
Chƣơng 3
NHỮNG GIÁ TRỊ TIÊU BIỂU CỦA VĂN HÓA CHÍNH TRỊ TRUYỀN THỐNG LÀO
3.1. NHỮNG NÉT KHÁI QUÁT CỦA VĂN HÓA CHÍNH TRỊ TRUYỀN
THỐNG LÀO
3.1.1. Văn hóa chính trị truyền thống Lào mang đậm sắc thái của
nền nông nghiệp lúa nƣớc và nền văn hóa Phật giáo
VHCT truyền thống Lào được hình thành từ khi các luồng chuyển dịch
cư dân Malayo - Polinesien qua Lào, nhưng những dấu tích còn lại đều cho
biết từ khoảng thế kỷ VIII về trước "nền tảng văn hóa Lào là nền tảng văn hóa
của cư dân Môn - Khơme" [87, tr.15]. Trên một nền tảng văn hóa Môn -
Khơme, người Lào - Thái đã đem tới đây kỹ thuật trồng lúa nước và một thiết
chế xã hội hết sức năng động, thiết chế bản - mường - liên mường, thêm vào
đó là nét bao dung, tính chất hoà đồng của Phật giáo. Các dân tộc Lào có
truyền thống văn hóa lâu đời. Nét nội bật trong truyền thống VHCT của nhân
dân Lào là lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết dân tộc, ý thức tự tôn dân tộc, lối
sống hoà đồng và lòng nhân ái, v.v… VHCT truyền thống Lào là nền văn hóa
của đất nước triệu voi cùng với cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước oanh
liệt là những nét văn hóa, hoa chăm pa, ở nhà sản, ăn cơm nếp, thổi kèn và
múa lăm vông. Chính những điều này góp phần làm nên bản sắc VHCT truyền
thống Lào và hình thành các giá trị đặc sắc của VHCT truyền thống Lào.
Tuy nhiên, do điều kiện địa lý tự nhiên nằm trong vùng khí hậu nhiệt
đới, gió mùa, bao gồm núi cao, cao nguyên, đồng bằng, v.v... trong đó đồi núi
chiếm 3/4 diện tích đất Lào, đất nước trải rộng dài theo dòng sông Mê Kông.
Điều kiện tự nhiên đó đã tạo nên hệ thống sông ngòi thoát nước dày đặc từ Bắc
đến Nam. Nếu điểm chung của nền văn minh lúa nước trong khu vực Đông
Nam Á với phức thể gồm ba yếu tố núi, đồng bằng và biển, thì có thể nói rằng
67
văn hóa lúa nước của Lào được cấu tạo bởi núi, sông và đồng bằng. Và đây là
cơ sở đầu tiên để hình thành truyền thống VHCT Lào; và do đó, cũng chính là
nền tảng vững chắc của những giá trị đặc sắc của VHCT Lào trong quá khứ
cũng như trong tương lai.
Khi xét đến yếu tố điều kiện tự nhiên có thể thấy rõ, nước Lào là một
nước có những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển nông nghiệp. Chính vì
vậy, người Lào đã sớm lựa chọn nông nghiệp làm nghề sống chính của mình
suốt mấy ngàn năm qua. Mặt khác, việc tìm kiếm thức ăn đối với người nông
dân Lào là điều không khó khăn do điều kiện tự nhiên thiên nhiên ưu đãi, như
người dân Lào thường nói "cá đầy nước, lúa đầy đồng, con thú đầy rừng". Câu
nói này thể hiện sự trù phú và không còn cảnh đói nghèo của đất nước. Quan
niệm này dường như có đã ảnh hưởng lớn đến sự hình thành những giá trị
VHCT truyền thống Lào như cách sống thoải mái, làm việc ít nghỉ ngơi được
chấp nhận nhiều hơn trong cộng đồng người Lào, đặc biệt là ở nông thôn. Điều
đó còn được coi là một phần quan trọng của lẽ sống của người Lào. Và nếu lối
sống là một giá trị văn hóa truyền thống nói chung, thì đó cũng là một giá trị
VHCT truyền thống của Lào.
Sự thuận lợi của yếu tố tự nhiên với cách sống yên bình, thoải mái của
người Lào đã ảnh hưởng đến sự hình thành một đời sống kinh tế, xã hội thoải
mái với những cái vốn có của mình. Đây là một đặc điểm văn hóa truyền
thống, về sau ăn sâu vào những giá trị VHCT truyền thống - người Lào yêu
cuộc sống thanh bình, yên ổn, hơn là thay đổi. Khi lẽ sống, cách ứng xử đã trở
thành thói quen, thành phong tục tập quán hoặc trở thành những yếu tố quan
trọng của đời sống tinh thần thì dù có biến đổi, chúng cũng thay đổi chậm hơn
so với sự thay đổi trong lĩnh các vực kinh tế và chính trị, v.v... Do vậy, bên
cạnh mặt tích cực thì đặc điểm đó cũng có mặt hạn chế trong sự hình thành nên
những giá trị VHCT mới, nhất là nó sẽ là một thách thực lớn trong sự hình
68
thành VHCT mới, khi nó phải đối mặt với sự thay đổi nhanh chóng, sự đòi hỏi
cao hơn của thời đại.
Các bộ tộc Lào - Thái xưa kia cũng như sau này nằm ở "khu đệm" giữa
một bên là các cư dân Môn - Khơme và bên kia phía bắc là các cư dân Mạn -
Tạng, tiếp giáp với hai nền văn hóa lớn châu Á, Ấn Độ về phía đông nam,
Trung Quốc về phía Bắc. Đây có thể gọi là khu vực tiếp xúc giữa nhiều nền
VHCT và có vị trí chiến lược quan trọng. Do nằm ở vị trí giao tiếp và sự phân
bố như vậy, từ lâu nước Lào đã là một quốc gia có nhiều cộng đồng sắc tộc với
những đặc trưng VHCT khác nhau. Theo sự xác minh của các nhà dân tộc học,
hiện Lào có 49 bộ tộc, mỗi bộ tộc có tiếng nói riêng, có phong tục tập quán
riêng, có lối sống riêng, v.v... Trong các bộ tộc này có những tộc người bản địa
như người Môn, người Khóm đã từng có mặt rất sớm trên lãnh thổ Lào và họ
đã từng xây dựng quốc gia Môn - Khóm với nền văn hóa nổi tiếng, ví như văn
hóa Cự Thạch với người La Vạ ở Lào. Có những bộ tộc di cư đến Lào vào
những thời kỳ lịch sử khác nhau như cư dân Lào - Thái, Lào Xủng người Ấn,
v.v... đã tạo cho vùng đất Lào một nền VHCT mới - nền văn hóa nhiều bộ tộc,
nhiều sắc thái. Song, các khối người Lào vẫn là bộ tộc chủ thể vì chiếm số
lượng đông và đạt trình độ phát triển kinh tế - xã hội cao hơn so với các bộ tộc
khác. Mặc dù vậy, nhiều bản sắc riêng về ý thức chính trị của mỗi bộ tộc vẫn
được giữ gìn, phát huy, những yếu tố lành mạnh trong phong tục tập quán của
mỗi dân tộc vẫn được tôn trọng trong nền chính trị. Đó là sự thống nhất trong
tính đa dạng của nền VHCT Lào. Đây là đặc điểm tạo điều kiện cho sự phát
triển một nền VHCT Lào với đặc tính đa dạng, nhiều lối tư duy khác nhau,
mặc dù tất cả điều vì mục đích chính trị chung.
VHCT truyền thống Lào đã được nhân dân các bộ tộc Lào tạo lập ngay
từ thời xa xưa gắn liền với lịch sử dựng nước và giữ nước. Nó phát triển thông
qua quá trình tiếp xúc và giao lưu với các nền văn hóa khác, trước hết là thông
qua quốc gia Môn - Khóm. Vương quốc Lạn Xạng của người Lào đã tiếp nhận
69
những yếu tố văn hóa Ấn Độ và ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa do chính
cư dân Lào - Thái mang lại để xây dựng một nền văn hóa dân tộc độc đáo và
đa dạng. "Nhờ so sánh với văn hóa Việt Nam và các nước trong khu vực mà
chúng ta phát hiện ra cơ tầng Đông Nam Á trong văn hóa Lào và quá trình tích
hợp văn hóa tộc người nhất là cư dân Môn - Khóm và Lào - Thái những nhân
tố cơ bản để hình thành nhà nước Lạn Xạng trong sự tiếp xúc với văn hóa Ấn
Độ tạo thành một nền VHCT quốc gia dân tộc có cấu trúc gồm hai dòng: "Văn
hóa bác học chịu ảnh hưởng của từ chương học Ấn Độ trên biểu tầng qua
ngươi Môn, người Khóm và văn hóa dân gian là dòng đã bảo lưu được những
yếu tố bản địa dưới cơ tầng và mối quan hệ tương hỗ giữa chúng để tạo nên sắc
thái riêng biệt của nền văn hóa Lào khác với người đồng tộc của họ ở Thái
Lan" [44, tr.15]. Nét đặc sắc này của văn hóa Lào làm nền tảng cho sự hình
thành một nền VHCT Lào được tích hợp bởi nhiều sắc thái phong phú.
Các tộc người Lào từ xa xưa với lao động sản xuất của mình đã biết chế
ngự thiên nhiên làm nơi ăn chỗ ở, biết khai thác thiên nhiên bằng công cụ sản
xuất. Ngành khảo cổ học đã tìm thấy nhiều công cụ lao động ở các thời đại đồ
đá cũ hậu kỳ, thời kỳ đồ đá giữa, thời kỳ đồ đá mới và thời kỳ kim khí. Chẳng
hạn như chum đá cánh đồng chum (tỉnh Xiêng Khoảng) là công trình độc đáo
khá công phu. Hiện nay còn lại hơn 300 chum, có chiều cao trung bình 2 mét,
có chum cao tới 3,2 mét, rộng 3 mét và nặng tới 14 tấn. Các công trình khác
như Tháp Phu (Chăm Pa Sắc) và Tháp Luông (Viêng Chăn). Đây là những
công trình độc đáo công phu, đòi hỏi phải có một trình độ kỹ thuật nhất định,
phải có một tổ chức chặt chẽ trong việc thực thi và phải có công cụ lao động
bằng kim khí để làm. Hệ thống các hiện vật văn hóa vật thể trên đây thể hiện
văn hóa tinh thần độc đáo và phong phú của đời sống nhân dân Lào, nó thể
hiện những giá trị truyền thống nói lên tình cảm, ý thức, đời sống tinh thần
hướng thiện của con người Lào. Các giá trị VHCT truyền thống Lào tạo nên
VHCT Lào thông qua lịch sử đấu tranh chống xâm lược và xây dựng đất nước.
70
Trong lao động sản xuất tất yếu hình thành nên các mối quan hệ kinh tế -
xã hội là gia đình, bản làng và mường. Gia đình là tế bào kinh tế và xã hội ở
Lào. Gia đình của người Lào không thuộc loại đại gia đình như một số dân tộc
khác nhưng tập trung ở đó tất cả các mối quan hệ giữa người với người trong
sản xuất tái sản xuất, quan hệ kế thừa, v.v... Với chế độ tiểu gia đình phụ
quyền, quyền lực thuộc về người chồng. Song phụ nữ Lào vẫn có một số
quyền hành nhất định. Trong gia đình người Lào có sự phân công lao động,
mặc dù mỗi tộc người, mỗi miền có khác nhau đôi chút, nhưng nhìn chung
phân công lao động đều theo giới và lứa tuổi. Sự phân công lao động phản
ánh khá rõ nền kinh tế nông nghiệp, tự cấp, tự túc, trong đó mỗi gia đình là
một đơn vị kinh tế hầu như khép kín. Nhưng người Lào thường có quan hệ
với họ hàng xa gần rất thân thiện như câu nói rằng, "ngọc không dũa ba năm
thành sỏi đá, bà con không đi lại ba năm hóa người dưng". Đây chính là giá
trị văn hóa truyền thống thể hiện lối sống hòa mục, cuộc sống đoàn kết, gắn
bó keo sơn không chỉ giữa những người huyết thống, mà cả cộng đồng dân
cư. Chính giá trị này góp phần quan trọng làm phong phú các giá trị truyền
thống của VHCT Lào.
Bản là cơ sở thấp nhất trong tổ chức xã hội Lào từ xưa đến nay. Bản hình
thành từ 4 - 5 hộ gia đình cho đến hàng trăm hộ. Mối quan hệ trong Bản, dù
không cùng chung huyết thống nhưng lại có rất nhiều quan hệ ràng buộc với
nhau trong cuộc sống lao động sản xuất. Các thành viên trong Bản coi việc giúp
đỡ nhau là nghĩa vụ, là đạo lý làm người, không ai nghĩ rằng mình sẽ được trả
ơn sau này. Như câu tục ngữ người Lào thường nói "gỗ một cây rào giậu không
kín", lúc thiếu thốn thì "con cá nhỏ bằng ngón tay út cũng chia đôi". Đây có thể
coi là giá trị tốt đẹp của người Lào được duy trì qua nhiều thế hệ và ngày càng
được phát triển. Các giá trị văn hóa này cũng hình thành và thực tế chúng có mặt
trong hệ thống các giá trị VHCT truyền thống Lào - một nền VHCT đạo lý,
tương trợ, giúp đỡ nhau, cưu mang nhau cùng tồn tại và phát triển.
71
Từ thời xa xưa người Lào đã yêu chuộng cuộc sống hiền hòa, êm ái, ít
va chạm, xô xát lẫn nhau, mọi sự tranh chấp đều được hòa giải một cách êm
thấm, họ biết dựa vào nhau, đùm bọc nhau trong cuộc sống, trong đấu tranh để
sinh tồn. Đây là một trong những bản sắc của dân tộc Lào, xuất phát từ nền
kinh tế nông nghiệp với trình độ sản xuất còn thấp kém. Tuy vậy, những nét
đặc sắc này quy định cách nghĩ, cách nhìn và cách hành động trong đời sống
xã hội cũng như trong đời sống chính trị, làm nên những giá trị VHCT truyền
thống các dân tộc Lào. Cùng với quan hệ gia đình và bản mường, v.v... người
Lào còn theo đạo Phật (thứ phút) và coi đạo Phật là giá trị tinh thần của nhân
dân các bộ tộc, góp phần tạo nên một khối thống nhất về mặt tư tưởng. Thế
giới quan Phật giáo, các giáo lý Phật giáo, các điều răn trong các kinh kệ của
Phật giáo vì thế chỉ đạo đời sống tinh thần, chỉ đại suy nghĩ và hành vi con
người theo lý tưởng nhân đạo, nhân văn. Đây là những yếu tố cực kỳ quan
trọng hình thành và quy định các giá trị VHCT truyền thống của đồng bào các
dân tộc Lào trong quá khứ và cả ngày nay.
Nói đến các giá trị VHCT truyền thống Lào, còn phải nói đến các giá trị
gốc của VHCT truyền thống Lào như lễ hội (bun), chẳng thế mà ngày nay ở Lào
người ta có ý thức khuyến khích bun hội để bảo tổn văn hóa dân tộc và xây dựng
nền chính trị mới. Người Lào thích vui (khôn Lào mắc muôn), người Lào thích
hội. Ở đây hội được gọi là bun. Bun có nghĩa là may, là phúc. Có thể từ này xuất
phát từ quan niệm của đạo Phật như đi lễ đi hội để làm phúc, làm phúc để được
phúc. Ở Lào quanh năm có bun, tuy nhiên bun theo nghĩa chỉ có phần lễ thì nhiều,
còn bun vừa có phần lễ lại vừa có phần hội, hoặc gọi chung là hội lễ thì ít hơn. Có
thể thống kê được các kỳ lễ hội chính trong một năm như bun Pi Mày, bun Phà
Vệt, bun Băng Phay, bun Khấu Xạc, bun Khấu Pa Đắp Đin, bun Khấu Phăn Xạ,
bun Óc Phăn Xạ, bun Xuống Hưa và bun Thạt Luộng, v.v... Các giá trị văn hóa
truyền thống đó quy lại làm nên các giá trị của VHCT truyền thống Lào.
72
Trong những bun trên đây, có những bun mang đậm tính chất của Phật
giáo và nặng về lễ như bun Phà Vệt. Nội dung chính của bun này là đọc Kinh
Phà Vệt để kỷ niệm ngày Thích Ca thành Phật và bun Khấu có nội dung chính
là lễ cho mọi người hiến tế đồ vật, tiền bạc, cho nhà chùa để cầu phúc. Trong
bun hội cũng như trong cuộc sống thường ngày của người Lào đặc biệt thích
lăm, thích khặp và hát, múa. Cứ ở đâu có tiếng kèn, tiếng trống, tiếng nhạc là
người Lào đến dự để khặp, lăm và hát, múa. Ở Lào có nhiều loại khặp, lăm:
khặp Săm Nưa, khặp Ngựm, lăm Vay, lăm Loong, lăm Tới, lăm Tặt, lăm Xi
Phăn Đon, lăm Xa La Văn, lăm Tăng Oai, v.v... Mỗi loại có một cách khặp lăm
riêng, nhưng nhìn chung không khó khăn lắm, trong không khí của ngày hội,
mọi người có thể nhập cuộc được. Đời sống lễ hội nói lên lý tưởng hướng
nhân, hướng thiện của dân tộc Lào; nó là kho tàng quý báu và chắc chắn làm
nên những giá trị VHCT Lào cũng hướng nhân, hướng thiện - đó là những giá
trị VHCT thương người, yêu người, đấu tranh và bảo vệ cái tốt, đấu tranh và
bảo vệ cái đẹp.
3.1.2. Văn hóa chính trị truyền thống Lào có sự kết hợp các giá trị
của lịch sử đấu tranh dựng nƣớc và giữ nƣớc với sự tiếp nhận các giá trị
hiện đại theo tinh thần đổi mới của Đảng
Từ những năm cuối thế kỷ XIX đến năm 1975 (trước giải phóng), văn
hóa Lào đã có cuộc giao lưu với nền văn hóa tư sản phương Tây, chủ yếu là
văn hóa Pháp và văn hóa Mỹ, thông qua sự xâm lược Đông Dương trong đó có
nước Lào. Quá trình tiếp xúc với VHCT phương Tây thông qua VHCT Pháp,
Mỹ là chủ yếu cũng đem lại cho VHCT truyền thống Lào một số yếu tố mới.
Trước hết nó đã mang vào Lào tư tưởng dân chủ tư sản, tăng cường nhân tố
duy lý, tư duy phân tích và một số phương pháp giáo dục khoa học và có tính
thực dụng. Sự có mặt của VHCT phương Tây còn góp phần gạt bỏ nhiều tục
lệ, lễ nghi, phong tục tập quán cũ kỹ, lạc hậu ra khỏi cuộc sống của nhân dân
73
các bộ tộc Lào. Cùng với yếu tố tích cực đó, thực tế xâm lược của thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ cũng hình thành những lối tư duy chính trị với đấu tranh
giải phóng dân tộc, tinh thần độc lập, tự do, tinh thần dân tộc, tinh thần phấn
đấu vươn lên.
Ngoài những mặt tích cực mà VHCT phương Tây đã bổ sung cho
VHCT truyền thống Lào, thì không ít mặt tiêu cực cũng đã du nhập vào Lào.
Các tư tưởng chính trị tư sản phương Tây như chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa
hiện sinh, chủ nghĩa thực dân v.v... tạo ra cơ sở cho một lối sống thực dụng, lối
sống chạy theo đồng tiền, nhất là ở khu vực nguỵ quyền. Thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ với chiến lược xâm chiếm nước Lào, chúng tiến hành đầu độc nhân
dân Lào bằng các sản phẩm phản văn hóa có tính độc hại như các tác phẩm
văn học đồi truỵ, phản động, chúng đã cho phép mở các nhà mại dâm, tiêm
hút thuốc phiện, sòng bạc nhằm triệt hạ các phong tục tập quán và truyền
thống văn hóa tốt đẹp của các bộ tộc Lào và đó cũng là một trong những âm
mưu xâm chiếm đất nước Lào của bọn đế quốc. Giá trị yêu nước, tinh thần
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người trong VHCT
truyền thống Lào với tư cách là các giá trị chống lại văn hóa đế quốc cũng
được hình thành và phát triển từ đây.
Sau ngày đất nước được giải phóng, nhất là trong quá trình đổi mới, Đảng
NDCM Lào đã có quan điểm chỉ đạo rõ ràng đối với nền VHCT Lào: "Đảng ta
coi văn hóa là cơ sở xã hội, bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của dân tộc,
vừa là động lực quan trọng thúc đầy vừa là mục tiêu phát triển xã hội" [90,
tr.63]. Nhờ có quan điểm chỉ đạo chiến lược của Đảng mà VHCT Lào từng
bước góp phần tích cực vào quá trình đổi mới kinh tế - xã hội của đất nước.
Quá trình dân chủ hóa ngày càng mở rộng trong các hoạt động VHCT. Quá
trình dân chủ hóa trong đời sống chính trị và đời sống kinh tế đã tác động sâu
sắc đến đời sống VHCT hiện đại. Nhu cầu hưởng thụ VHCT của các tầng lớp
74
nhân dân ngày một tăng lên, các hoạt động VHCT từng bước đã đáp ứng được
những nhu cầu mới của đời sống chính trị. Các hoạt động văn hóa cổ truyền
được khôi phục, các hình thức mới xuất hiện, nhiều chùa chiền, công trình văn
hóa được tu bổ và xây dựng mới, đặc biệt là các công trình văn hóa ở nhà
trường góp phần làm phong phú, đậm đà các giá trị VHCT truyền thống. Các
phương tiện truyền thông, nhất là hệ thống phát thanh, truyền hình được củng
cố về nội dung và hình thức. Một số hoạt động văn hóa quần chúng được tổ
chức trên phạm vi cả nước đã thu hút được đông đảo nhân dân cùng tham gia,
nhân dân từng bước làm chủ các tài sản văn hóa hữu hình và vô hình của dân
tộc với tư cách là nhiệm vụ chính trị. Phong trào xây dựng bản làng văn hóa,
bảo vệ môi trường hình thành các hoạt động chính trị bước đầu thu được kết
quả khả quan. Đây chính là quá trình phong phú hóa và hiện đại hóa nền
VHCT truyền thống Lào theo hướng hiện đại hóa.
Việc xã hội hóa các hoạt động văn hóa cả nước trong thời gian vừa qua
theo mục tiêu chính trị có ý nghĩa hết sức to lớn đối với sự nghiệp phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước, giúp cho nhân dân vận dụng được các giá trị
VHCT truyền thống cho chính trị hiện đại như tinh thần yêu nước, yêu chế độ
mới, yêu chủ nghĩa xã hội. Trong báo cáo chính trị tại Đại hội VI của Đảng
NDCM Lào đã nhấn mạnh: "Thúc đẩy và khuyến khích toàn xã hội tham gia
giữ gìn và phát huy di sản văn hóa của dân tộc và các bộ tộc gắn với việc tiếp
thu những tinh hoa văn hóa thế giới; xây dựng nền văn hoá mang tính dân tộc,
tính quần chúng và tiến bộ" [98, tr.94]. Điều đó có nghĩa là, Đảng NDCM Lào
tiếp tục xây dựng và phát triển nền VHCT Lào hiện đại trên cơ sở các gía trị
VHCT truyền thống Lào.
Thông qua các lĩnh vực hoạt động văn hóa văn nghệ, quá trình giữ gìn
và phát huy các mặt văn hóa tốt đẹp của dân tộc đã được khơi dậy. Quan hệ
quốc tế về văn hóa được mở rộng và tăng cường về nhịp độ, do đó các giá trị
75
VHCT tốt đẹp và phù hợp của nhân loại được thâm nhập vào VHCT Lào, đáp
ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu phát triển VHCT và vận dụng VHCT trong
đời sống chính trị hiện nay. Đồng thời, các giá trị VHCT truyền thống tiêu
biểu của Lào từng bước được giới thiệu ra thế giới. Các hoạt động văn hóa
quần chúng được củng cố và phát triển, đặc biệt là khôi phục các lễ hội văn
hóa cổ truyền của dân tộc. Nhìn chung quá trình dân chủ hóa và xã hội hóa,
các hoạt động văn hóa diễn ra trong các lĩnh vực chính trị của đất nước đã
góp phần đáng kể vào sự vận động và phát triển của nền VHCT Lào nói riêng
trong những năm qua và làm cơ sở cho việc xây dựng và phát triển VHCT
Lào trong những năm tới.
VHCT truyền thống của người Lào chịu ảnh hưởng tất yếu và mạnh mẽ
từ văn hóa dân tộc nói chung với tính cách những giá trị kết tinh phẩm chất,
năng lực và trình độ trong lối sống và cách sống của nhân dân Lào. Văn hóa
truyền thống nói chung của người Lào không chỉ ảnh hưởng mà có thể nói là
nhân lõi chủ yếu hình thành nền VHCT truyền thống của họ, tạo ra những giá
trị mang những biểu hiện và đặc điểm của VHCT Lào thời kỳ hiện đại mà
những nết tiêu biểu mang tính tích cực là yêu nước, thương người, đề cao giá
trị và lợi ích cộng đồng, tôn trọng sự ổn định và hài hòa, tích cực tham gia các
sinh hoạt chính trị (tham chính), tinh thần độc lập, tự do, hy sinh, phấn đấu cho
đất nước giàu mạnh, văn minh, phát triển, v.v...
Khi nghiên cứu nền văn hóa của các tộc người Lào nói chung, VHCT
truyền thống Lào nói riêng, một điều đặc biệt cần lưu ý là yếu tố quan trọng và
sâu sắc của Phật giáo trong quá trình hình thành và phát triển văn hóa của nước
này: "Phật giáo giữ vai trò rất quan trọng trong đời sống văn hóa tinh thần của
nhân dân Lào" [44, tr.16]. Đó là do Phật giáo tiểu thừa được truyền bá vào Lào
từ rất sớm, trước khi quốc gia Lào Lạn Xạng thống nhất ra đời. Sau đó, Phật
giáo tiếp tục phát triển tại các mường Lào cổ đại, nhất là các mường nằm ven
76
các con sông lớn có giao thông đường thuỷ thuận lợi. Nhưng phải đến đầu thế
kỷ XIV quốc gia Lào Lạn Xạng ra đời, Phạ Ngừm vua Vương quốc Lào Lạn Xạng
đã biến đạo Phật thành một quốc giáo và coi đây là một trong những yếu tố quan
trọng để củng cố sự thống nhất quốc gia về mặt tinh thần. Từ đó Phật giáo đã trở
thành giá trị tinh thần nói chung, giá trị chính trị nói riêng của nhân dân các bộ tộc
Lào từ các triều đại phong kiến cho đến ngày nay (CHDCND Lào). Phật giáo giữ
vai trò rất quan trọng trong đời sống tinh thần của nhân dân Lào do đó nó cũng có
vai trò quan trọng trong VHCT Lào. Chỉ tính đến năm 1975, theo số liệu thống kê
của Ban Nghi lễ ở Lào có tới 2.139 ngôi chùa lớn, nhỏ, trong đó có những ngôi
chùa nổi tiếng như: Vắt Si Xa Kệt, Vát Phạ Kẹo, Vát Ông Tự, Vát Si Mương, Vát
May, Vát Xiêng Thoong, v.v... chúng là các giá trị văn hóa truyền thống và luân
luân là phần đích thân trong hệ thống giá tri VHCT truyền thống Lào.
Đạo Phật tiểu thừa, từ khi truyền bá vào Lào, đã có ảnh hưởng sâu đậm
trong các tầng lớp nhân dân, trước hết là qua các Phật tử. Các Phật tử Lào cố noi
theo Đức Phật, với "Tứ diệu đế" (4 chân lý quý giá). Đế thứ nhất nói rằng cuộc
đời là khổ, lão, bệnh và tử. Đế thứ hai là cái khổ nói trên sinh ra do "Tan ha" dục
vọng và luyến tiếc những việc trần thế. Đế thứ ba là dứt "Tan ha" thì sẽ cắt đứt
được đâu khổ và chấm dứt được vòng luân hồi. Đế thứ tư là muốn giải thoát
được bản thân mình thì phải theo Bát chánh đạo. Đạo Phật đến Lào theo nhiều
giai đoạn và đạo Phật hiện nay ở Lào thuộc ngành Tiểu Thừa (Theravađa). Đạo
Phật tiểu Thừa chủ trương dựa vào uy tín của các nhà chùa và mục đích là duy
trì các giáo huấn của đức Phật, được truyền qua bộ Kinh Tripikata (Tam tạng)
bằng tiếng Pali. Cũng như các nước Phật giáo khác, ngôi chùa có một vị trí rất
quan trọng trong đời sống của cộng đồng bản làng. Chùa là trường học, là bệnh
viện, là nơi tu thân tích cực, là nơi hội hè đinh đám và là nơi bảo tồn và phát
triển văn hóa của cộng đồng. Bởi thế chùa là trung tâm cố kết của cộng đồng.
Chính các giá trị Phật giáo đã là nền tảng quan trọng cho sự hình thành và phát
triển các giá trị hòa bình, hòa hợp của VHCT truyền thống Lào.
77
Mặc dù Phật giáo mặc nhiên được coi như là quốc giáo ở Lào từ thế kỷ
XIV đến nay, nhưng Phật giáo và các tôn giáo khác không hề đối kháng mà Phật
giáo và các tín ngưỡng dân gian đã hoà quyện vào nhau. Các tín đồ theo đạo
Phật hàng ngày vẫn thực hành những nghi lễ cúng ma mà vẫn tin rằng mọi thực
thể đều có linh hồn, nhất là con người. Họ cho rằng mỗi một con người có nhiều
vía (khuăn). Khi người nào đó có ít nhất là một vía bị lạc, người đó sẽ bị đau,
ốm. Để cho vía không "lang thang", không thất lạc, không bị các phù thuỷ có
bùa ngải hoặc các vị thần linh bắt giữ, làm cho người có vía lạc bị ốm, đau,
người Lào có một tục lệ rất phổ biến, đây là tục làm lễ (Ba Xỉ). Khi một đứa bé
mới ra đời, một thành viên trong nhà hoặc trong làng đi xa hoặc đi xa trở về
hoặc khi có khách quý đến nhà đến làng, v.v... người Lào đều tổ chức lễ Ba Xỉ.
Nội dung của lễ này là cầu các vị thần linh phù hộ độ trì cho các vía (có nghĩa là
cho người thụ lễ) được khoẻ mạnh, không bệnh tật, ốm đâu. Nghi thức quan
trọng của lễ này là mọi người dùng sợi chỉ buộc vào cổ tay cho người thụ lễ với
ý nghĩa là cột vía vào thể xác để vía khỏi thất lạc. Cũng trong quan niệm hồn,
vía, người Lào còn có tục gọi vía. Khi có người ốm có nghĩa là vía người ốm bị
bắt, vì thế gia chủ nhờ thầy phù thuỷ làm lễ để gọi vía trở về.
Đa số người Lào đi theo đạo Phật. Đạo lý Phật giáo đã dạy cho người
Lào sống ôn hòa và lương thiện, tránh điều ác. Các nhà chùa vừa là trung tâm
phổ biến đạo lý Phật giáo, vừa là nơi giáo dục đào tạo tay nghề, vừa là trung
tâm sinh hoạt văn hóa của người Lào. Phật giáo với giá trị từ bi, hỉ xả, nhân từ,
bác ái, đã ảnh hưởng rất lớn đối với người Lào nói chung, về việc hình thành các
giá trị VHCT nhân đạo, nhân văn nói riêng. Hơn nữa, Phật giáo từ bao đời nay
đã trở thành giá trị tinh thần của nhân dân các bộ tộc Lào, là sức mạnh to lớn
góp phần giải phóng đất nước, như Tổng Bí thư Cay Xỏn PhômViHản nói (tết
năm mới Lào 1975) rằng, niềm tự hào trong cuộc đấu tranh kiên cường của dân
tộc ta là vai trò vị sư sãi, đã đoàn kết đạo lý nhà phật với lòng yêu nước, tinh
thần đoàn kết dân tộc cao cả, đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp cứu nước.
78
Phật giáo có ảnh hưởng đến đạo đức truyền thống trong xã hội Lào. Phật
giáo dạy người Lào làm điều tốt, làm điều thiện thì sẽ có phúc, ngược lại làm
điều xấu, làm điều ác sẽ bị trừng phạt. Con người hướng tới cái tốt, cái thiện,
cái phúc và tránh xa cái xấu, cái ác, tội lỗi. Ngoài ra, Phật giáo còn dạy con
người phải sống trung thực, thật thà, không tham lam lấy của người khác. Đây
được coi là giá trị từ bi, bác ái của đạo đức Phật giáo; nó ảnh hưởng rất lớn đối
với người dân Lào, đồng thời nó là một yếu tố tạo nên mối quan hệ tốt đẹp
giữa người với người trong xã hội, trong hoạt động lao động, trao đổi, sản xuất.
Những giá trị văn hóa tốt đẹp này đã được Đảng, Nhà nước và nhân dân các bộ
tộc Lào phát huy trong xây dựng môi trường văn hóa, chính trị và tất cả những
điều này đã góp phần hạn chế những mặt trái của đời sống xã hội trong thời kỳ
đổi mới hiện nay.
Ngoài ra, khi xâm chiếm Lào, thực dân Pháp tiến hành truyền bá đạo Cơ
đốc do cha cố người Pháp truyền giáo. Tại một số đô thị như Viêng Chăn,
Luông Pha Bang, Xa Văn Na Khệt, Pác Sê xuất hiện một số nhà thờ. Sau khi
thực dân quay lại xâm lược Lào lần thứ hai (1946 - 1953), ở miền Nam Lào
xuất hiện một số cha cố người Mỹ, Ca Na Đa truyền bá đạo Tin lành. Nhưng
khi đế cuốc Mỹ can thiệp và xâm lược Lào, họ đã chủ động đưa một khoản
ngân sách lớn để sử dụng triển khai các hoạt động về tôn giáo. Một mặt, bọn
đế quốc bỏ tiền cho xây dựng nhiều nhà thờ, đưa cha cố vào truyền bá đạo tin
lành, thiên chúa giáo Ki - tô và các đạo Hồi ở phần lớn các đô thị ở Lào.
Những giá trị VHCT Lào truyền thống cũng như hiện đại được hình thành
từ Phật giáo với cả hai hướng tích cực và hạn chế. Ở hướng tích cực, Phật giáo
là trường học văn hóa và đạo đức của người Lào; góp phần hình thành nên hệ
thống các giá trị, niềm tin và chuẩn mực sống của người Lào theo tinh thần dĩ
hòa vi thượng, nhân ái và hòa hữu. Ở hướng hạn chế, Phật giáo hướng người
Lào đến lối sống an phận thủ thường hơn là phấn đấu vươn lên, chấp nhận thực
tế hơn là cải tạo thực tiễn, dường như thụ động và trông chờ (!).
79
3.2. NHỮNG GIÁ TRỊ: ĐỘC LẬP VÀ TỰ CHỦ, TỰ LỰC VÀ TỰ CƢỜNG
Lịch sử Lào trong quá trình dựng nước và giữ nước nhiều ngàn năm qua
là quá trình lịch sử trải qua nhiều thời kỳ hưng thịnh, thời kỳ đen tối và đất
nước bị chia cắt. Hơn hai phần ba thời gian phải đương đầu với các thế lực bên
ngoài luôn tìm cách thôn tính và đồng hoá. Con người Lào, với trí tuệ và sức
mạnh sáng tạo, nhân cách và bản lĩnh đã được hình thành trong các phong trào
giải phóng dân tộc; và đến lượt mình, chúng kết tinh trong tư tưởng và sức
mạnh đấu tranh cho độc lập tự do, trong quá trình đấu tranh xây dựng và bảo
vệ đất nước. Những giá trị và những tình cảm và tinh thần đó kết tụ thành các
giá trị văn hóa truyền thống, thành tư tưởng chủ đạo trong đường lối giữ nước
và khôi phục đất nước, thành nội dung chính trị của các nhà chính trị và các
triều đại trong lịch sử dân tộc Lào. Độc lập, tự chủ, tự lực và tự cường thực sự
trở thành những giá trị VHCT đặc sắc của truyền thống chính trị Lào.
3.2.1. Tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực và tự cƣờng của nhân dân
Lào trong thời kỳ Vƣơng quốc Lào Lạn Xạng (đầu thế kỷ XVI - cuối thế
kỷ XVIII)
Nhân dân Lào đã trải qua bao cuộc đấu tranh sinh tử trong quá trình
dựng nước và giữ nước. Trong lịch sử nhân loại, nhân dân các bộ tộc Lào
thuộc về các dân tộc phải chịu dựng nhiều thử thách khốc liệt và hy sinh to lớn
cho cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do. Từ đấy, tinh thần độc lập, tự chủ, tự
lực, tự cường của con người Lào đã được tôi luyện và được khẳng định một
cách thuyết phục. Tổng kết chiến tranh nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng
NDCM Lào, có tác giả đã khẳng định, "từ trước đến nay, nhân dân các bộ tộc
Lào đều cùng sống trong tinh thần cộng đồng, hiền hòa, thanh bình, cần cù lao
động sáng tạo, yêu hòa bình, yêu đất nước, nhưng rất dũng cảm và không chịu
đầu hàng" [109, tr.69].
Nét nổi bật trong tư tưởng của người Lào là sự tự ý thức về vai trò và vị
trí của mình trước tổ tiên và cộng đồng dân tộc về độc lập và chủ quyền quốc
80
gia. Có thể thấy những thời kỳ lịch sử tiêu biểu như triều Chậu Phạ Ngừm từ
thế kỷ XIV, triều Xảm Xẻn Thay (1376 - 1418), triều Nạng Mạ Hả Thê Vi,
triều Vi Sun Lạ Rạt (1502 - 1520); thời kỳ kháng chiến chống Ayu Thaya và
quân A Vạ (Myama), triều vua Pho Thi Xa Rát (1520 - 1550), triều vua Xệt
Tha Thi Lát (1550 - 1598); thời kỳ toàn thịnh của Vương quốc Lào Lạn Xạng
dưới triều Xu Li Nha Vông Xả Thăm Mi Ka Lạt (thế kỷ XVII ); thời chống
quân xâm lược Xiêm thế kỷ XVIII, Phục hưng vương quốc Lào Lạn Xạng thế
kỷ XIX dưới triều Chậu A Nu Vông (1804 - 1828); phong trào đấu tranh của
nhân dân Lào chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ; và thời xây dựng và phát
triển đất nước trong hòa bình và đổi mới hiện nay.
Nhìn lại lịch sử có thể thấy từ thế kỷ XIV, khi Chậu Phạ Ngừm trở về
đất Lào, nuôi chí lớn thống nhất đất nước và xây dựng chính quyền, củng cố
độc lập chủ quyền. Dưới thời Chậu Phạ Ngừm Phật giáo được du nhập và
hoằng dương đã làm cho tinh thần chính trị trong nước dịu đi, các cuộc chống
đối đều lắng xuống. Có thể nói Chậu Phạ Ngừm không chỉ là người thống nhất
quốc gia mà còn là người đã đưa Phật giáo lên địa vị quốc giáo ở Lào. Khi đạo
Phật trở thành quốc giáo của nhà nước Lạn Xạng, nó đã tạo điều kiện thống
nhất về tinh thần và tư tưởng, góp phần quan trọng vào việc củng cố nhà nước
thống nhất mới ra đời. Việc mở mang các bang giao với thế giới được thúc
đẩy, Chậu Phạ Ngừm phải tiến hành nhiều cuộc chiến tranh chinh phạt và việc
xây dựng, phát triển đất nước, nhưng nhà vua cũng vẫn chú ý tới việc đặt quan
hệ đối ngoại tốt với Cămpuchia và Đại Việt.
Sự thống nhất đất nước Lạn Xạng vào thời kỳ Chậu Phạ Ngừm là một
bước ngoặt lịch sử vô cùng quan trọng đối với quá trình phát triển của đất nước
Lào. Từ đấy, Lào Lạn Xạng đã bước vào một thời kỳ tiến triển mạnh mẽ và đã
viết nên nhiều trang sử vẻ vang. Tuy vậy, nhà nước Lạn Xạng thống nhất so
với các nước phong kiến tập quyền phương đông khác thì ít tính chất tập trung
hơn. Các mường hợp thành vương quốc này vẫn giữ được khá nhiều tính độc
81
lập của nó. Các chậu mường vẫn duy trì được quyền thế tập của mình. Vì thế
sự thống nhất chưa được vững chắc. Những người kế nghiệp Chậu Phạ Ngừm
sau này thường phải dựa vào một trong những nhóm quý tộc này để chinh phục
và trừng phạt một nhóm quý tộc khác. Ngoài ra, yếu tố địa hình tạo thêm điều
kiện để duy trì các tình trạng cát cứ địa phương trong hoàn cảnh kinh tế chưa
thật sự phát triển.
Từ đầu thế kỷ XVI, tình hình Lào Lạn Xạng tương đối ổn định, nhân
dân được sống trong hoà bình và xây dựng đất nước. Tinh thần độc lập vẫn
được đặt lên hàng đầu, tuy nhiên, tinh thần tự lực, tự cường cũng thể hiện nổi
bật. Đây cũng là thời kỳ Phật giáo có điều kiện để ngày càng phát triển ở Lào.
Dưới triều đại Vi Sun Lạ Rạt (1502 - 1520) Tam tạng kinh đã được chính nhà
vua dịch từ tiếng Pa Li Xăng Xcrít sang tiếng Lào. Bộ Ni Than Khún Bu Lôm
(bộ sử Lào đầu tiên) do Phạ Mạ Hả Thệp Luổng, Mạ Hả Mung Khun, vua Vi
Xun Lạ Rạt và các quan triều thần cùng tham gia biên soạn. Do cuộc sống hoà
bình, thơ ca cũng rất phát triển ở thời kỳ này. Đời sống tinh thần và tâm linh
một mặt thể hiện khát vọng hướng thiện của nhân dân Lào, song khát vọng về
một đất nước yêu hoà bình và thịnh vượng chiếm vị trí ưu thế.
Sau đó, Chậu Phô Thi Xả Rạt lên nối ngôi. Dưới triều đại của ông, Phật
giáo càng phát triển mạnh. Đặc biệt, Phật giáo có nguồn gốc Xiềng Mại được
ưu tiên phát triển hơn. Phô Thi Xả Rạt cũng là ông vua đầu tiên quy định các
nhà vua phải tu trước khi lên ngôi. Vai trò của Phật giáo được nhà vua nâng
cao, vua đồng thời là Phật, thần quyền và vương quyền được đồng nhất. Để
nâng cao hơn nữa vai trò của Phật giáo, năm 1527, vua Phô Thi Xả Rạt đã ra
sắc lệnh cấm thần dân trong nước thờ Phì, mà chỉ được phép thờ Phật. Với sắc
lệnh trên, việc thờ phì từ xa xưa của nhân dân Lào bị bãi bỏ. Các đền xưa miếu
cũ bị đập đi để xây dựng chùa. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Lào, Phật giáo
được đưa lên địa vị độc tôn và hoàn toàn thắng thế đối với các tôn giáo khác ở
Lào, và đây cũng là thời kỳ Phật giáo có nguồn gốc Xiêng Mại, có điều kiện
82
phát triển ở Lào Lạn Xạng. Vua Phô Thi Xả Rạt sau một thời gian ở Xiêng
Mại, đã cho rước tượng Phật Kẹo Mo Là Cột (tượng phật ngọc bích) và tượng
phật xẹckhăm (tượng phật bằng vàng) về Xiêng Thoong. Các hoạt động mang
tinh chất sùng bái Phật giáo của vua Phô Thi Xả Rạt đã khiến cho Phật giáo
phát triển mạnh mẽ ở Lào Lạn Xạng. Cùng với giá trị tinh thần và tâm linh của
nhân dân, đạo Phật phát triển và trở thành quốc giáo đã tạo nên sức mạnh tổng
hợp của toàn dân tộc để thúc đẩy sự nghiệp chấn hưng đất nước, xây dựng xã
hội thanh bình. Điều đó chứng minh rõ, trong đời sống thực tế, ở thế kỷ XVII -
thời kỳ toàn thịnh của Vương quốc Lào Lạn Xạng, và nhất là khi vua Xu Li
Nha Vông Xả Thăm Mi Ka Lạt lên ngôi (1633) Lào Lạn Xạng bước vào thời
kỳ ổn định và phát triển phồn vinh.
Tinh thần độc lập, tự lực, tự cường của chính trị Lào cũng thể hiện sự lựa
chọn đời sống và giá trị tinh thần của dân tộc - đó là sự lựa chọn Phật giáo. Phật
giáo đã được người Lào tiếp nhận từ thời kỳ Lào còn là các mường địa phương.
Khi Chậu Phạ Ngừm thống nhất quốc gia, Phật giáo được tôn lên địa vị quốc
giáo. Thế kỷ XVI, dưới thời Phô Thi Xả Rạt, Phật giáo đã được đưa lên địa vị
độc tôn ở Lào Lạn Xạng. Với sự hưng thịnh của vương quốc dưới triều Xu Li
Nha Vông Xả Phật giáo đã được phát triển đến định cao với sự thống nhất của tổ
chức tăng giới Phật giáo toàn vương quốc. Người đứng đầu tổ chức tăng giới
Phật giáo là Phật vương. Chức Phật vương được gọi là Phạ Mạ Hả Xả Mị. Tăng
giới Phật giáo được phân cấp từ Trung ương đến địa phương.
Khi tăng giới Phật đã được thống nhất trên cả nước với sự hoằng dương
mạnh mẽ của Phật giáo thì Viêng Chăn cũng đã trở thành một trung tâm Phật
giáo của toàn khu vực. Bấy giờ ở Viêng Chăn đã có nhiều nhà sư học rộng,
thông hiểu giáo lý Phật. Các nhà sư rất có uy tín trong xã hội và từng tham gia
trọng trách của quốc gia như việc tham gia hoạch định biên giới Lào - Xiêm.
Trong số những nhà sư danh tiếng ở Lào Lạn Xạng thời kỳ này người được coi
là tài cao học rộng nhất là Phạ Mạ Hạ Yót Kẹo Phôn Sa Mệc.
83
Sự hưng thịnh của vương quốc là sự phát triển mạnh mẽ của Phật giáo
Lào thế kỷ XVI - XVII đã ảnh hưởng có tính chất quyết định đối với ngôn ngữ
- văn tự Lào. Cùng với sự phát triển của phật giáo và văn minh Ấn Độ, tiếng
Pali - Xăng Xcrit đã theo đường Xrilanca đến xứ sở của người Môn ở Nam
Myanma và Tây Lào. Tại đây, người Môn đã kết hợp giữa tiếng Pali Xăng Crit
với ngôn ngữ của mình để tạo nên một loại chữ dùng chép kinh Phật. Trên cơ
sở chữ Myanma và chữ Xiềng Mại, người Lào đã biết kết hợp với tiếng Lào để
tạo nên chữ Thăm dùng chép kinh Phật, nhưng đọc theo âm Lào. Từ đó, chữ
Lào chính thức ra đời và nó được dùng không chỉ để chép kinh Phật mà còn
được dùng trong sáng tác văn học. Mặc dù đã có chữ Thăm, song có lẽ do
muốn diễn đạt kinh Phật sát nghĩa hơn - hoặc là tầng lớp trên của xã hội Lào
muốn có một loại văn tự khác với quảng đại quần chúng, nên các trí thức Lào
đã sáng tạo ra một loại chữ chép kinh trên bia là chữ Thăm - Pali.
Giá trị VHCT độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường đất nước của nền chính
trị Lào cũng thể hiện rõ và đậm nét trong đời sống luật pháp. Từ thế kỷ XVII,
bộ luật cổ đầu tiên của Lào ra đời. Đó là bộ luật dưới triều Xu Li Nha Vông Xả
Thăm Mi Kạ Lạt, dựa trên nền tảng giáo lý đạo Phật, răn dạy con người phải từ
bi bác ái và phải nhìn nhận tội trạng một cách khách quan, những người thi
hành luật phải xét xử đúng tội danh, không gây oan uổng cho người vô tội. Nói
chung các điều luật đều phù hợp với tâm lý, tình cảm vị tha của người Lào.
Năm tiêu đề lớn của bộ luật là ngũ giới của Phật như Pa Na Ti Bát (Luật về
những hành động sát sinh), A Thin Na Than (Luật về những hành vi trộm cắp),
Mút Xa Chan (Luật về sự dâm ô), Mu Xa Vạt (Luật về những sự lửa đào), Xu
Ra (Luật về rượu). Mặc dù mang tiêu đề ngũ giới Phật, nhưng nội dung của bộ
luật quy định về xét xử các hành vi phạm tội, các hành vi trái với tục lệ của
bản, mường và vương quốc. Bộ luật quy định những quyền lợi và nghĩa vụ của
vua quan và tướng lĩnh đối với nước, với dân và thể hiện chính sách tiến bộ
của vương triều Xu Li Nha Vông Xả Thăm Mi Ka Lạt.
84
Các giá trị VHCT truyền thống về độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường của
Lào cũng được thể hiện trong các lĩnh vực văn học nghệ thuật - mới phản ánh
một cách sâu sắc và sinh động tư tưởng và đời sống chính trị của dân tộc. Thời
kỳ hưng thịnh mọi mặt là chính trị - xã hội - văn hóa của vương quốc Lào cũng
là thời kỳ văn học nghệ thuật Lào phát triển rực rỡ. Do Phật giáo phát triển đến
đỉnh cao nên văn học Lào thời kỳ này chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của Phật giáo.
Đó là các tác phẩm văn học Phật giáo mà phần lớn là các câu chuyện kể về tiền
kiếp của đức Phật (các Jataka) du nhập vào Lào và được biến đổi phù hợp với
tình cảm của người Lào. Đó là truyện về những người anh hùng xây bản lập
mường, bảo vệ đất nước, đánh đuổi các loài ác quỷ, bảo vệ cuộc sống cho nhân
dân, về thân phận của người phụ nữ, ca ngợi chính nghĩa, thấm đượm triết lý
và đạo đức nhà Phật.
Ở thế kỷ XVII, sự độc lập dân tộc và sự phồn thịnh của vương quốc thể
hiện rất rõ và đặc sắc trong đời sống nghệ thuật của dân tộc, đồng thời đó cũng
là nền tảng cho sự phát triển rực rỡ của nghệ thuật Lào. Đó là sự phát triển
mạnh mẽ của kiến trúc, điêu khắc và hội hoạ Lào. Về kiến trúc, nền kiến trúc
Phật giáo Lào thời kỳ này là kết quả xây dựng của nhân dân Lào qua 3 thế kỷ -
từ thời Chậu Phạ Ngừm đến thời Xu Li Nha Vông Xả. Thế kỷ XVI, sau khi dời
đô về Viêng Chăn, Xay Xệt Thạ Thi Lạt đã cho xây dựng các cung điện, chùa
tháp, trong đó có Thạt Luổng Viêng Chăn và tháp Mạc Mô ở Luổng Phạ Bang.
Ngoài những kiến trúc chùa tháp là những kiến trúc chính của Phật giáo, dưới
thời Xu Li Nha Vông Xả, lâu đài cung điện của nhà vua cũng được xây dựng
rất nguy nga, tráng lệ, nhưng do thời gian và chiến tranh nên tất cả bị tàn phá.
Về mặt điêu khắc, nền điêu khắc Lào thế kỷ XVII chủ yếu thể hiện trên
điêu khắc gỗ và tượng tròn, trong đó nhiều pho tượng không chỉ là báu vật của
nhân dân Lào mà còn của nhân loại. Về hội hoạ Lào thế kỷ XVII, nền hội hoạ
Lào thời kỳ này thường được thể hiện trên trần hoặc tường các Aham, hoặc
trên các mảng tường trước cửa Aham hoặc đầu hồi các Aham của các chùa
85
Lào. Đề tài của các bức bích hoạ này thường được lấy từ các tích Phật, các câu
chuyện kể dân gian, và ở đó cũng toát lên tinh thần, khát vọng độc lập, tự chủ
của con người, v.v... Truyền thống hội hoạ đó còn được tiếp tục phát triển
trong các chùa Lào ở các giai đoạn sau.
Về văn hóa dân gian, đến thế kỷ XVII những lễ hội (bun) dân gian và lễ
hội Phật giáo ở Lào đã trở nên phổ biến và chịu ảnh hưởng của văn hóa cung
đình. Cư dân Lào là cư dân làm nông nghiệp, cho nên lễ hội Lào cũng chủ yếu
là những lễ hội nông nghiệp. Từ khi du nhập vào Lào, Phật giáo đã tự thích
nghi với đời sống của cư dân nông nghiệp ở đây và dần dần hòa nhập với các
lễ hội nông nghiệp khiến cho trong các lễ hội Lào có sự kết hợp giữa Phật giáo
và dân gian, làm cho đời sống tâm linh của nhân dân Lào càng thêm phong
phú. "Chúng ta thấy rằng, từ những nghi lễ tôn giáo cho đến nghi lễ tạ ơn, tống
tiễn hội mùa nông nghiệp bao giờ cũng xen kẽ vào đó và kết thức bằng cuộc
vui chơi trong quần chúng nhân dân. Nó trở thành ngày hội văn hóa dân tộc.
Cho đến nay, ngày hội vẫn được nhân dân Lào các bộ tộc bảo lưu bền vững và
thể hiện đậm nét bản sắc dân tộc" [53, tr.329,330].
Năm 1804 sau khi lên ngôi, Chậu A Nu Vông đã ra sức khuyến khích
nhân dân Lào xây dựng Viêng Chăn thành một mường thịnh vượng. Cùng với
việc xây dựng hoàng cung ở kinh đô Viêng Chăn, khắp nơi trong nước nhân
dân xây dựng chùa chiền, cầu cống. Dưới sự trị vì của Chậu A Nu Vông,
Viêng Chăn đã trở thành một nơi rất thịnh vượng, Ý tưởng của Chậu A Nu
Vông là Viêng Chăn có vững mạnh và hưng thịnh mới lật đổ được ách đô hộ
của Xiêm, giành độc lập cho Lào Lạn Xạng.
Những năm tiếp theo, mặc dầu cuộc nổi dậy của nhân dân Lào Lạn Xạng
do Chậu A Nu Vông lãnh đạo bị thất bại, nhưng cuộc nổi dậy đó mang ý nghĩa
lịch sử to lớn về tinh thần độc lập, tự chủ của nhân dân Lào. Cuộc nổi dậy đã
thể hiện ý chí ngoan cường chống kẻ thù xâm lược, mong muốn giành độc lập,
86
thống nhất tổ quốc của nhân dân Lào Lạn Xạng hồi đầu thế kỷ XIX. Vì những
mục tiêu cao cả đó mà nhân dân Lào Lạn Xạng không quản ngại gian nan,
không nhụt ý chí trước cảnh bản mường bị tàn phá, trước sự bạo ngược của kẻ
thù. Chậu A Nu Vông, vị vua đồng thời là người con ưu tú của nhân dân Lào
Lạn Xạng mặc dầu bị hy sinh, nhưng ông đã trở thành người anh hùng của
nhân dân Lào. Ông luôn sống mãi trong lòng dân và đất nước Lào Lạn Xạng.
Ông trở thành tấm gương sáng cho các thế hệ sau noi theo trong các phong trào
đấu tranh chống kẻ thù xâm lược, giải phóng đất nước.
3.2.2. Tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực và tự cƣờng của nhân dân
Lào trong thời kỳ đấu tranh chống thực dân xâm lƣợc (1890 - 1975)
Độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường là những giá trị VHCT truyền thống.
Chúng được thể hiện ngay từ trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước xa
xưa. Song tinh thần độc lập dân tộc, tự lục tự cường đất nước của nhân dân các
bộ tộc Lào thể hiện đậm nét trong thời hiện đại. Trước hết, tinh thần độc lập
dân tộc thể hiện trong công cuộc chống ngoại xâm.
Phong trào đấu tranh của nhân dân Lào chống thực dân Pháp trước khi
Đảng cộng sản Đông Dương ra đời (1930) đã diễn ra trên khắp đất nước Lào.
Nổi bật là Cuộc khởi nghĩa của nhân dân Xa Vẳn Na Khết do sự lãnh đạo của
Phò Cà Đuột (1901 - 1902), cuộc khởi nghĩa của nhân dân cực Nam Lào dưới sự
lãnh đạo của Ông Kẹo và Ông Kôm Ma Đăm (1901 - 1937), cuộc khởi nghĩa ở
Bắc Lào dưới sự lãnh đạo của Chậu Phạ Pát Chay (1918 - 1922), v.v… Với việc
thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương và sau này là Đảng NDCM Lào, tổ
chức tiên phong của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Lào, cách mạng
Lào bước vào một giai đoạn mới, giai đoạn nhân dân và các dân tộc Lào đấu
tranh hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ, xây dựng một nước Lào hòa
bình, độc lập, thống nhất và phồn vinh. Khi Đảng của giai cấp công nhân và
nhân dân Lào ra đời đã gánh vác trách nhiệm lãnh đạo nhân dân Lào đấu tranh
87
chống Thực dân Pháp, Phát xít Nhật và Đế quốc Mỹ, giành độc lập và tự do
cho đất nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng NDCM Lào, nhân dân các bộ tộc
Lào đã làm nên thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 và
Chính phủ Lào Ít Xa La tuyên bố độc lập ngày 12 tháng 10 năm 1945. Thắng
lợi vĩ đại ấy có ý nghĩa lịch sử to lớn, đánh dấu một bước ngoặt cơ bản trong
quá trình phát triển của phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc và phát
triển đất nước Lào. Đồng chí Tổng Bí thư Đảng NDCM Lào Cay Xỏn
PhômViHản khẳng định:
"Thắng lợi đó có một ý nghĩa lịch sử vô cùng con trọng. Đây là lần
đầu tiên nhân dân ta trở lại làm chủ đất nước và vận mệnh của mình
sau hơn 100 năm sông dưới ách nô lệ và đất nước vì chia cắt. Thắng
lợi đó đã mở đầu một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên mà nhân dân ta
được huy động và tự giác tham gia vào cuộc chiến đấu sống còn với
kẻ thù để cứu nhà, cứu nước" [89, tr.14,15].
Thắng lợi của nhân dân Lào đấu tranh chống thực dân Pháp quay trở lại
xâm lược và chống sự can thiệp Lào của đế quốc Mỹ (1945 - 1954). Chiến
thắng Điện Biên Phủ của Việt Nam đã thúc đẩy cao trào tiến công và nổi dậy
mới trên khắp các chiến trường Đông Dương. Ở Lào, hơn một nửa đất đai và
nửa dân số được giải phóng. Cuộc đấu tranh của nhân dân Lào chống chủ
nghĩa thực dân mới của Mỹ dưới sự lãnh đạo của Đảng NDCM Lào và kết thúc
với thắng lợi vĩ đại ngày mùng 2, tháng 12, năm 1975.
Ngay trong thời kỳ đấu tranh chống xâm lược, giải phóng đất nước,
nhân dân các bộ tộc Lào dưới sự lãnh đạo của Đảng NDCM Lào đã vượt qua
mọi khó khăn thiếu thốn cả vật chất lẫn tinh thần. Song, toàn Đảng, toàn quân,
toàn dân Lào đã nêu cao tinh thần tự lực, tự cường, với truyền thống tự lực, tự
cường trong VHCT truyền thống, nhân dân các bộ tộc Lào đã hàn gắn vết
thương chiến tranh, xây dựng và phát triển nền kinh tế vốn nghèo nàn và lạc
88
hậu, cải tạo lực lượng sản xuất, cải tạo quan hệ xã hội, xây dựng và phát triển
nền văn hóa đậm đà bản sắc nhân dân các bộ tộc Lào. Vì vậy, cùng với thực
hiện đấu tranh giành độc lập, xây dựng nền hòa bình, nhân dân các bộ tộc Lào
đã khôi phục được nền kinh tế, xây dựng được đời sống văn hóa, xã hội, chính
trị ngày càng ổn định, ngày càng phát triển theo hướng XHCN.
3.2.3. Tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cƣờng của nhân dân Lào
trong thời kỳ đổi mới hiện nay
Trong thời kỳ đổi mới, nhận thức lại và vận dụng sáng tạo lý luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Lào, nắm bắt và hội nhập
vào xu thế mới của thời đại. Đảng từng bước tìm tòi, thử nghiệm những giải
pháp nhằm phát triển kinh tế- xã hội, khắc phục sự trì trệ lạc hậu của nền
kinh tế truyền thống tự cung tự cấp, tình trạng bị cô lập của đất nước với thị
trường thế giới. Với tinh thần "kiên quyết từ bỏ thói quen và phương pháp
cũ mà thực tiễn chứng minh là không còn phù hợp và áp dụng những tư
tưởng mới", năm 1985, cải cách giá và lương, thử nghiệm cơ chế quản lý
kinh tế mới ở một số cơ sở quốc danh, v.v... đã bắt đầu một sự thay đổi thực
sự. Đại hội IV của Đảng NDCM Lào năm 1986 đã mở đầu một giai đoạn
mới của quá trình xây dựng chế độ xã hội mới - giai đoạn phát triển trong
đổi mới, nhằm củng cố phát triển và hoàn thiện chế độ dân chủ nhân dân,
từng bước quá độ lên CNXH.
Trong những năm đổi mới từ 1986 đến nay, Lào đã trải qua các kế hoạch
5 năm phát triển kinh tế - xã hội (1986 - 1990; 1991 - 1995; 1996 - 2000; 2001
- 2005; 2006 - 2010 và đang thực hiện kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế - xã
hội lần thứ 7 2011 - 2015). Sau nhiều năm xây dựng chế độ mới theo định
hướng XHCN, Đảng NDCM Lào đã xác định vấn đề có ý nghĩa quan trọng
trong việc hoạch định các chính sách kinh tế - xã hội là phải đánh giá được
khách quan, chính xác trình độ phát triển kinh tế và thực trạng xã hội. Với tinh
89
thần đổi mới tư duy, Đảng đã từng bước tìm tòi thử nghiệm các biện pháp,
bước đi thích hợp đưa công cuộc đổi mới ở Lào giành được những thắng lợi
quan trọng và có ý nghĩa lịch sử.
Những cải tiến về chính sách và cơ chế kinh tế trong những năm trước
Đại hội IV (1979 - 1985) là tiền đề và cơ sở thực tiễn cho Lào thực hiện đổi
mới toàn diện. Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, thực tiễn cách mạng Lào,
những bài học và kinh nghiệm của các nước trong khu vực và trên thế giới
v.v... là cơ sở hình thành quan điểm, đường lối đổi mới. "Với những bước đi
phù hợp, đổi mới kết hợp chặt chẽ giữa kinh tế, chính trị với quốc phòng an
ninh và đối ngoại; giữ vững sự ổn định về an ninh, chính trị để tập trung nỗ lực
phát triển kinh tế - xã hội " [64, tr.15].
Đại hội V (năm 1991), Đại hội VI (năm 1996), Đại hội VII (năm 2001)
và Đại hội VIII (năm 2006) của Đảng NDCM Lào đã khẳng định con đường
phát triển trong giai đoạn hiện nay là tiếp tục xây dựng và phát triển chế độ dân
chủ nhân dân. Về kinh tế, thay đổi cơ cấu kinh tế, thực hiện cơ chế kinh tế thị
trường có sự điều tiết của Nhà nước, sử dụng mọi thành phần kinh tế và quan
hệ tiền - hàng, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại. Sự thay đổi này có nghĩa là
xây dựng nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu,
nhiều loại hình tổ chức, nhiều quy mô và trình độ phát triển, bình đẳng trước
pháp luật; xoá bỏ triệt đề cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, xây dựng
cơ chế quản lý mới phát huy khả năng và vai trò của mọi thành phần kinh tế,
mọi tổ chức xã hội và mọi cá nhân vào phát triển đất nước, từng bước hiện đại
hoá nền kinh tế. Về chính trị, phát huy dân chủ mọi mặt trong đời sống xã hội,
nâng cao vai trò của tổ chức quần chúng và xã hội; xây dựng bộ máy Nhà nước
pháp quyền của dân, do dân và vì dân, kiện toàn vai trò lãnh đạo của Đảng
trong hệ thống chính trị, thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật. Về văn hoá -
xã hội, tăng cường chính sách đại đoàn kết trong mặt trận xây dựng đất nước,
kế thừa và phát huy di sản văn hóa của các bộ tộc, xoá bỏ phong tục tập quán
90
lạc hậu, tiếp thu có chọn lọc thành tựu văn hoá hiện đại, nâng cao trình độ dân
trí, phúc lợi và công bằng xã hội.
Đại hội IX của Đảng NDCM Lào (năm 2011) tiếp tục khẳng định xây
dựng và phát triển chế độ dân chủ nhân dân; tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo
thiết thực trong việc tổ chức thực hiện đường lối, chính sách của Đảng - Nhà
nước, tạo được sự chuyển biến trong sự phát triển đảm bảo tốc độ tăng trưởng
thích hợp, ổn định và mang tính bền vững; kiên định lãnh đạo sự đổi mới toàn
diện một cách vững chắc; vừa kiên quyết, sáng tạo trong việc khai thác sức
mạnh tổng hợp và tận dụng mọi thời cơ để tạo cho được 4 bước đột phá:
"Trước hết là đột phá về mặt tư duy bằng việc giải phóng, xử lý
quan điểm, tư tưởng giáo điều, duy lý, lười biếng, cực đoan. Hai là
đột phá mạnh mẽ về phát triển nguồn nhân lực, nhất là trong đào
tạo và bổi dưỡng nâng cao trình độ năng lực mọi mặt của cán bộ
cho tương xứng với nhu cầu của phát triển. Ba là đột phá về mặt
cải thiện chế độ thủ tục hành chính, quản lý còn kìm hãm, cản trở
sản xuất kinh doanh và dịch vụ một cách triệt để và Bốn là đột phá
trong việc xóa nghèo cho nhân dân bằng cách khai thác các nguồn
vốn và với chính sách khuyến khích đặc biệt, xây dựng cơ sở hạ
tầng kinh tế - xã hội một cách có trọng tâm, trọng điểm, nhằm tạo
sức mạnh thức đầy mạnh mẽ sự phát triển trong các lĩnh vực khác.
Khâu đột phá trong các mặt phải được tiến hành đồng thời và hài
hòa, không phải chỉ đột phá một mặt nào đó mà thôi. Điều quan
trọng là Ban Chấp hành Trung ương Đảng và cấp uỷ Đảng các cấp
cần phải lãnh đạo, chỉ huy thống nhất thực tế và thiết thực" [101,
tr.69,70].
Nhìn lại quá trình xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội ở Lào từ sau
giải phóng năm 1975 đến nay đã trải qua hai giai đoạn. Trước năm 1986, căn
cứ vào đặc điểm, bối cảnh tình hình trong nước và thế giới, Đảng đã đề ra
91
đường lối đưa đất nước tiến thẳng lên CNXH, không qua giai đoạn phát triển
tư bản chủ nghĩa. Dưới sự lãnh đạo của Đảng NDCM Lào và Nhà nước
CHDCND Lào, được sự ủng hộ tích cực của cộng đồng thế giới và viện trợ có
hiệu quả của nhiều nước XHCN, nhân dân các bộ tộc Lào đã giành được nhiều
thành tựu. Kinh tế được phục hội, đảm bảo cơ bản tự túc nhu cầu lương thực,
khôi phục sản xuất công nghiệp, từng bước ổn định và cải thiện đời sống nhân
dân. Thành quả cơ bản của cách mạng trong giai đoạn này là đã giữ vững được
chính quyền dân chủ nhân dân; duy trì được hoà bình và sự ổn định cơ bản về
chính trị - xã hội.
Sau năm 1986, thực hiện đường lối đổi mới để tiếp tục củng cố và phát
triển chế độ dân chủ nhân dân, CHDCND Lào tiếp tục đạt được nhiều thành
tựu quan trọng: Chính trị, kinh tế, xã hội và quan hệ quốc tế có nhiều chuyển
biến tích cực; đời sống nhân dân, nhất là ở vùng đô thị và đồng bằng được cải
thiện từng bước; tinh thần yêu nước, yêu chế độ mới và khối đoàn kết trong
nhân dân được củng cố vững chắc; quan hệ quốc tế được mở rộng. Sau những
thay đổi về chính sách có tính chất bước ngoặt từ năm 1988 đến nay, nền kinh
tế có đà phát triển tương đối ổn định. Trung bình hằng năm (2006 - 2010) đạt
7,9%, trung bình đầu người hằng năm (2009 - 2010) đạt 1.069 USD. Tinh thần
độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường trong chính trị Lào đã đem lại những thành
tựu quan trọng trong quá trình đổi mới đất nước Lào thời gian qua.
3.3. NHỮNG GIÁ TRỊ: YÊU NƢỚC VÀ ĐOÀN KẾT DÂN TỘC
3.3.1. Nền chính trị yêu nƣớc với những giá trị văn hóa yêu nƣớc
Nếu như độc lập và dân chủ, tự lực và tự cường là những giá trị nền tảng
của nền chính trị Lào, thì lòng yêu nước, tinh thần yêu nước, ý chí và hành
động yêu nước là những yếu tố quy định và tạo nên các giá trị đó; chính lòng
yêu nước tạo nên ý thức và tinh thần độc lập và tự chủ dân tộc, tạo nên ý chí và
trí tuệ quyết tâm tự lực và tự cường, phát triển đất nước.
92
Yêu nước, trước hết là tình cảm, từ đó hình thành nên tư tưởng và ý chí
yêu nước, nó có tính phổ quát của con người, của nhân dân mọi quốc gia, dân
tộc trên thế giới. Nhưng mỗi quốc gia, dân tộc đó lại có quá trình hình thành và
phát triển tinh thần yêu nước của mình với những đặc thù khác nhau. Tuỳ
thuộc vào hoàn cảnh lịch sử và các mục đích cuộc sống, lý tưởng xã hội và con
người mà tinh thần yêu nước có thể xuất hiện sớm, muộn khác nhau và mang
những sắc thái, đặc điểm, nội dung khác nhau. Đó chính là mối quan hệ giữa
tính phổ biến và tính đặc thù của bản chất yêu nước của các quốc gia, dân tộc
trên thế giới. Nội hàm chung của lòng yêu nước đối với dân tộc, quốc gia, đó là
"Lòng yêu nước là tình yêu và sự trung thành đối với quê hương, là sự khao
khát được hiến dâng toàn bộ cuộc đời mình cho Tổ quốc. Lòng yêu nước là
một trong những tình cảm sâu sắc nhất được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch
sử phát triển của dân tộc và đất nước" [82, tr.282]. Từ đó, do mỗi quốc gia, dân
tộc tiến hành một mục tiêu chính trị khác nhau, với nội dung và cách thức khác
nhau mà giá trị yêu nước trong mỗi nền VHCT cũng có những nội dung và sắc
thái khác nhau.
Đối với đất nước con người Lào, với lịch sử đấu tranh anh dũng dựng
nước và giữ nước suốt bao thế kỷ, những giá trị tinh thần yêu nước, nâng cao
lòng yêu nước, tự hào về truyền thống anh hùng của dân tộc là lương tâm và
trách nhiệm của mỗi con người Lào chân chính. Yêu nước của nhân dân Lào
cũng thể hiện ở ý chí vươn lên quyết tâm vượt qua nghèo nàn, lạc hậu, góp phần
dựng xây đất nước phồn vinh, sớm đưa nước ra khỏi tình trạng kém phát triển,
theo kịp trình độ các nước phát triển trong khu vực và thế giới. Yêu nước đối
với mục tiêu chính trị của nhân dân Lào, nhất là đối với đội ngũ lãnh đạo, quản
lý cán bộ, đảng viên... cũng là sẵn sàng phấn đấu hy sinh cho lợi ích chung, việc
gì có lợi cho dân, cho nước, cho tập thể thí quyết chí làm, việc gì có hại thì
tránh. Làm việc gì trước hết phải đặt lợi ích của tập thể, phải nêu cao trách
nhiệm của người lãnh đạo, không tham lam, vụ lợi, vun vén cá nhân, v.v...
93
Ở CHDCND Lào, yêu nước, vì thế đã trở thành chủ nghĩa yêu nước.
Chủ nghĩa yêu nước là tình yêu đối với đất nước, lòng trung thành đối với Tổ
quốc biểu hiện ở khát vọng và hành động tích cực để phục vụ và đem lại nhiều
lợi ích cho Tổ quốc và nhân dân. Chủ nghĩa yêu nước Lào có nguồn gốc sâu xa
từ ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân, gia đình, làng bản và Tổ quốc; là đặt lời
ích của Tổ quốc, của nhân dân lên trên hết; là chăm lo xây dựng quê hương,
đất nước, thực hiện độc lập, tự chủ, tự cường, sẵn sàng chống lại ách đô hộ và
xâm lược, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, giữ gìn và phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc.
Yêu nước trong VHCT Lào từ xưa và cả ngày nay là chăm lo xây
dựng và phát triển đất nước về mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,
con người, v.v... để tạo sức mạnh bên trong nhằm bảo vệ cho sự tồn tại và
phát triển của đất nước, của dân tộc. Và chính lòng yêu nước nồng nàn,
tinh thần dân tộc sâu sắc trong đường lối chính trị của Đảng NDCM Lào đã
giúp nhân dân Lào vượt qua mọi khó khăn, chiến thắng mọi kẻ thù xâm
lược trong thời kỳ hiện đại. Chủ nghĩa yêu nước và ý thức dân tộc hòa
quyện với nhau, kết tinh thành những giá trị tiêu biểu nhất của VHCT Lào.
Chủ nghĩa yêu nước và ý thức dân tộc quê hương, làng xóm của người Lào
không chỉ là nơi để ở, là nơi làm ăn, sinh sống nên ngay từ xa xưa tình yêu
quê hương, làng xóm của người Lào đã sớm hình thành và đã trở thành một
trong những tiêu chí, một phẩm chất mà mỗi người dân Lào cần phải có.
Nói cách khác, trong suy nghĩ và tình cảm của người Lào, yêu nước trước
hết là yêu quê hương, làng xóm. Lịch sử Lào đã chứng minh bằng thực tiễn
là lịch sử chống ngoại xâm liên tục, dai dẳng và oai hùng. Vì nước Lào là
một nước nhỏ, kém xa đối thủ về sức mạnh vật chất, kỹ thuật, kinh tế,
nhưng lại thắng mọi địch thủ trước sau bằng mọi biện pháp bất biến phù
hợp với nhân cách người Lào là "lấy đại nghĩa thắng hung tàn, dùng chí
nhân thay cường bạo".
94
Lịch sử chính trị của Lào đã chứng minh các triệu đại Chậu Phạ Ngừm,
Chậu Phô Thi Lạt, Chậu Xu Li Nha Vông Xả, Chậu Xay Nha Xệt Tha Thi
Lạt, v.v... ở nước Lào trước đây đều theo đuổi một chính sách chống ngoại
xâm giành độc lập, phát huy cao độ truyền thống yêu nước, thương nòi.
Trong đối nội, các nhà vua thực hiện chính sách thân dân, đều quan tâm đào
tạo và sử dụng người hiền tài, giữ vững kỷ cương, luật lệ. Những quan điểm
chính trị, thiết chế chính trị và nhân cách chính trị đã được xây dựng phù
hợp với các giá trị văn hóa dân tộc, tạo nên sự bền vững của chế độ trong
những thời gian dài và là nhân tố có ý nghĩa quyết định sự thắng lợi trong
các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của nhân dân Lào. Tinh thần, ý chí
yêu nước của người Lào đã được thử thách liên tục, từ buổi sơ khai dựng
nước cho đến ngày nay.
Trong thời kỳ đấu tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, tinh thần
và ý chí yêu nước của người Lào được thể hiện rõ rệt trong các sự kiện lịch sử
hào hùng của dân tộc. Đó là phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ của nhân dân các bộ tộc Lào khoảng nửa thế kỷ và kết thúc trong
ngày mùng 2 - 12 - 1975; là thắng lợi của công cuộc đổi mới, xây dựng, bảo vệ
và phát triển đất nước thời gian gần đây bởi tinh thần yêu nước nồng nàn, trong
đó đặc biệt là tinh thần yêu nước của các lãnh tụ lãnh đạo như ông Xu Pha
NuVông và ông Cay Xỏn PhômViHản.
Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt là trong công
cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế, phát triển đất nước hiện nay, giá trị yêu nước
càng thể hiện là giá trị xuyên suốt trong đường lối chính trị của Đảng, trong ý
thức và ý chí chính trị của nhân dân Lào. Giá trị yêu nước thể hiện trong
VHCT Lào dưới các khía cạnh cụ thể sau đây:
+ Yêu nước là gắn bó với nhà nước: Trong kỷ nguyên đấu tranh giành
độc lập, tự chủ và thống nhất đất nước, lòng yêu nước được biểu hiện ra là sự
95
gắn bó với nhà nước chống lại ngoại xâm. Đỉnh cao của chủ nghĩa yêu nước
của nhân dân Lào là những cuộc khởi nghĩa chống lại sự đô hộ của thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ, tiến tới thắng lợi hoàn toàn năm 1975.
+ Yêu nước là không ngừng lao động sáng tạo: Cần cù lao động và luôn
luôn suy nghĩ tìm cách sáng tạo là một trong những truyền thống lâu đời của
nhân dân Lào. Muốn chiến thắng được giặc ngoại xâm bên cạnh tinh thần đoàn
kết tạo nên sức mạnh để đánh đuổi kẻ thù thì cũng phải tự mình phát huy nội
lực để phát triển đất nước vững mạnh về mọi mặt.
+ Yêu nước là tôn vinh những người có công với dân, với nước, đồng thời
nghiêm khắc lên án những kẻ phản dân hại nước: Tôn vinh người có công và lên
án kẻ có tội là hai trạng thái tình cảm xã hội hoàn toàn khác nhau nhưng có mối
quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau; tôn vinh người có công thì không thể không
lên án kẻ có tội và ngược lại. Gắn liền với quá trình không ngừng tôn vinh những
người có công với dân, với nước là quá trình tạo ra một nhận thức chung để cả xã
hội cùng đồng lòng lên án những kẻ đã can tâm hại nước, hại dân.
Chủ nghĩa yêu nước trong VHCT Lào ngày nay đã được kế thừa và phát
triển - đó là chủ nghĩa yêu nước nhất trí và đi đôi với chủ nghĩa Mác - Lênin; là
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Yêu chủ nghĩa xã hội, trong
nhân dân Lào hiện nay chính là yêu nước. Nét đặc trưng cơ bản của nội dung
yêu chủ nghĩa xã hội của người Lào thể hiện những điểm sau:
Một là: Yêu nước trước hết là yêu chủ nghĩa xã hội, là yêu chế độ dân
chủ, có sự đoàn kết thống nhất và có tinh thần giác ngộ chính trị cao. Xây dựng
chủ nghĩa xã hội mà ở đó nhân dân là chủ, tất cả lợi ích, quyền lực đều là của
dân, sự nghiệp đổi mới để có chủ nghĩa xã hội là của toàn dân, do nhân dân và
vì nhân dân.
Hai là: Yêu nước trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội phải làm
cho hệ thống chính trị vững mạnh, luôn luôn được củng cố và từng bước phát
96
triển, trong đó Đảng NDCM Lào là hạt nhân lãnh đạo và đảm bảo lợi ích chính
đáng của toàn xã hội.
Ba là: Yêu nước trong điều kiện xây dựng chủ nghĩa xã hội là bằng mọi
cách làm cho lực lượng sản xuất được giải phóng và phát triển liên tục, làm cơ
sở cho kinh tế - xã hội phát triển đến mức độ cao, văn hoá trở thành nền tảng
tinh thần, vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho sự phát triển xã hội và phát
triển con người trong đó nhà nước có quyền sở hữu toàn dân.
Bốn là: Yêu nước là làm cho xã hội bình đẳng và văn minh trong phân
phối, các thành viên trong xã hội được giải phóng mọi nguồn năng lượng, mỗi
người lao động được làm việc theo khả năng, hưởng theo kết quả công lao
đóng góp cho xã hội.
Năm là: Yêu nước theo tinh thần của chủ nghĩa xã hội cũng còn là
yêu phong tục tập quán, yêu và quý trọng văn hoá của dân tộc, sống và làm
việc theo pháp luật đồng thời theo lối sống lành mạnh của truyền thống
nhân dân Lào.
Sáu là: Yêu chủ nghĩa xã hội bằng cách làm cho nhân dân các bộ tộc
Lào có tinh thần đoàn kết và có quyền bình đẳng, liên minh công - nông và trí
thức cách mạng được củng cố vững chắc.
Bảy là: Yêu chủ nghĩa xã hội là phải tăng cường quan hệ hữu nghị và
mở rộng hợp tác với các bạn bè quốc tế, trên nguyên tắc bình đẳng hai bên
cùng có lợi, không can thiệp vào nội bộ của nhau.
Chủ nghĩa yêu nước với tư cách là một giá trị của VHCT, định hướng
giá trị thông qua các chuẩn mực và các quy tắc ứng xử trong quá trình chính
trị, nó ngày càng thâm nhập sâu sắc vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội,
chúng gợi mở sự khao khát được cống hiến cho lợi ích của Tổ quốc, quy định
cho những hành động cụ thể trong những tình huống quyết định của đời sống.
Nhờ vậy chủ nghĩa yêu nước trở thành một động lực tinh thần vô cùng mạnh
mẽ của nhân dân Lào trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước.
97
Yêu nước với tính cách một giá trị truyền thống của VHCT Lào không
phải là một tình cảm tự nhiên mà là sản phẩm của lịch sử vận hành theo một
quá trình từ tình cảm sâu sắc đối với những người ruột thịt, đối với mảnh vườn,
ngôi nhà, tới tình yêu giống nòi, đến quê hương, đất nước. Giá trị yêu nước với
hệ tư tưởng hay chủ nghĩa yêu nước trong VHCT Lào đã thực sự là giá trị
xuyên suốt lịch sử chính trị của nhân dân các bộ tộc Lào trong quá trình dựng
nước và giữ nước; nó cũng sẽ là giá trị quan trọng và xuyên suốt trong quá
trình xây dựng và phát triển đất nước trong sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện
đại hoá ngày nay.
3.3.2. Những giá trị về tinh thần đoàn kết dân tộc trong văn hóa
chính trị Lào
Trong lịch sử lao động sáng tạo và đấu tranh anh dũng dựng nước và
giữ nước của bất cứ dân tộc nào, yếu tố đoàn kết cũng gắn chặt với yếu tố
yêu nước. Bởi vì, để thực hiện mục tiêu và lý tưởng yêu nước thì phải đoàn
kết toàn dân; mặt khác, chỉ khi đoàn kết toàn dân thành một khối vững chắc
thì dân tộc mới có đủ sức mạnh để thực hiện lý tưởng, mục tiêu yêu nước
trên hiện thực. Lịch sử loài người đã chỉ ra rằng, nhiều dân tộc vốn hùng
mạnh, nhưng do một lý do nào đó mà nội bộ dân tộc, nội bộ toàn dân chia
rẽ, sẽ làm yếu đi sức đấu tranh, làm yếu sức mạnh dân tộc và dẫn đến bị kẻ
xâm lược thôn tính. Điều đó quốc gia nào cũng thấm thía và rút kinh nghiệm
cho mình: Đoàn kết dân tộc, đoàn kết toàn dân là sức mạnh bách chiến bách
thắng. Và lịch sử chính trị thế giới cũng cho thấy, nền chính trị nào cũng lấy
nguyên lý thống nhất, đoàn kết dân tộc để thực hiện mục tiêu chính trị của
mình. Do nêu cao tư tưởng Hồ Chí Minh: "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết,
thành công, thành công, đại thành công" mà nhân dân Việt Nam đã tạo nên
sức mạnh vô địch, đánh thắng mọi kẻ xâm lược trong lịch sử, đánh thắng hai
đế quốc to là Pháp và Mỹ, và từng bước xây dựng đất nước Việt Nam ngày
càng giàu mạnh, văn minh.
98
Không nằm ngoài tất yếu lịch sử đó nền chính trị của nhân dân các bộ tộc
Lào trước đây cũng như của Đảng NDCM Lào hiện nay luôn dựa vào sức mạnh
đoàn kết toàn dân tộc để thực hiện mục tiêu chính trị của mình. Tinh thần đoàn
kết với tính cách là giá trị của VHCT Lào truyền thống thể hiện ở quan niệm về
tinh thần đoàn kết của người Lào và quá trình hình thành và phát triển tinh thần
đoàn kết của người Lào với những biểu hiện và ảnh hưởng của tinh thần đoàn kết
của người Lào trong công cuộc dựng nước và giữ nước.
Ý thức cộng đồng, tinh thần đoàn kết là nhân tố tinh thần hợp thành
động lực thúc đẩy quá trình phát triển của lịch sử dân tộc Lào. Tinh thần đoàn
kết của người Lào bắt nguồn từ tinh thần yêu nước và biểu hiện của chủ nghĩa
yêu nước. Nhờ tinh thần và thực hiện đúng nguyên lý đoàn kết của cha ông ta
đã tạo nên sức mạnh tổng hợp của cả cộng đồng dân tộc trong bảo vệ và xây
dựng Tổ quốc. Đoàn kết dân tộc trên nền tảng chủ nghĩa yêu nước của nhân
dân Lào là điều kiện tất yếu và thực sự nó đã trở thành điều kiện tất yếu để bảo
tồn dân tộc, nhất là khi đất nước Lào có giặc ngoại xâm. Nhờ đoàn kết nhân
dân các bộ tộc Lào trước đây đã cùng nhau sáng tạo nên nền văn minh Lạn
Xạng, đặt cơ sở cho toàn bộ tiến trình phát triển về sau của đất nước Lào. Đoàn
kết nhân dân các bộ tộc Lào đã giúp cho nhân dân Lào vượt qua những thử
thách khắc nghiệt của thiên nhiên, phát triển sản xuất để phục vụ đời sống của
mình. Từ kinh nghiệm thực tế, nhân dân các bộ tộc Lào đã nhận thức sau rằng:
"Đoàn kết thì sống, chống lại thì chết", "một cây rào không xen chặt, dân
không thuận xây dựng đất nước không phồn vinh". Tinh thần đoàn kết toàn
dân đã thực sự là nguồn sức mạnh lớn lao để nhân dân Lào đánh thắng mọi thế
lực ngoại xâm qua hàng nghìn năm lịch sử và trong công cuộc xây dựng đất
nước theo hướng XHCN ngày nay.
Lịch sử dân tộc Lào cho thấy rằng, đứng trước các thế lực ngoại xâm mà
không thực hiện đoàn kết toàn dân, để cho mầm chia rẽ làm suy yếu đất nước
thì sự nghiệp giữ nước sẽ thất bại. Thất bại của Chậu A Nu Vông trong kháng
99
chiến chống quân Xiêm đầu thế kỷ XVIII, nguyên nhân quan trọng dẫn đến
thất bại là mất đoàn kết trong sự lãnh đạo, sự chia rẽ trong nội bộ Lào Lạn
Xạng. Sự mất đoàn kết và chia rẽ trong nội bộ dân tộc, trong giới cầm quyền
trước đây đã dẫn đến tình trạng chia cắt đất nước và cuối cùng các mường Lào
đã phải phụ thuộc Xiêm. Nay cũng do chia rẽ và mất đoàn kết khiến Chậu A
Nu Vông không tập hợp được lực lượng thống nhất mạnh mẽ của cả nước để
đủ sức lật đồ ách thống trị của người Xiêm.
Tinh thần đoàn kết trở thành lực lượng bách chiến bách thắng của dân
tộc Lào cũng đã được chứng minh bằng sự phát triển của nó qua quá trình
dựng và giữ nước của ông cha. Từ các đời vua Phạ Ngừm nhân dân Lào đã biết
đứng dậy cùng nhau đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Từ thời vua Xu Li Nha
Vông Xạ, Xay Sết Thạ Thi Lạt, v.v... cho đến Pho Ca Đuột, Ông Kẹo, Ông
Côm Ma Đăm, Chậu Phạ Pát Chay, những vị anh hùng kiên cường bất khuất
này có được chiến thắng không chỉ nhờ vào chiến lược hay mà chiến thắng của
họ có được còn nhờ vào sự ủng hộ tinh thần đoàn kết quyết tâm chống giặc của
nhân dân Lào. Đó cũng chính là động lực giúp nhân dân Lào vượt qua mọi rào
cản ngoại xâm và ngày càng khẳng định rõ hơn về quyền lãnh thổ của đất nước
bằng sự chung sức, chung lòng. Tinh thần ấy ngày càng được nâng cao khi
nước Lào qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ. Bằng những vũ khí thô
sơ nhưng một nước nhỏ bé lại có thể chiến thắng hai đế quốc hùng mạnh với
những trang bị vũ khí hiện đại là nhờ tinh thần đoàn kết toàn dân tộc của nhân
dân các bộ tộc Lào.
Đặc biệt, trong lịch sử chính trị hiện đại, cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước là một bức tranh đại đoàn kết dân tộc rất sinh động. Phát huy truyền
thống quý báu được kết tinh trong hàng nghìn năm đấu tranh anh dũng của cha
ông, toàn thể dân tộc Lào đã kết thành một khối vững chắc không gì có thể phá
vỡ nổi, trong đó Đảng NDCM Lào, lực lượng vũ trang và toàn thể nhân dân
Lào luôn đoàn kết, gắn bó máu thịt với nhau. Đảng tin vào dân, dân tin vào
100
Đảng; quân với dân một ý chí, cả nước đồng lòng, toàn dân ra trận, tất cả vì
mục tiêu "Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược". Để phát huy được sức
mạnh của mọi tầng lớp nhân dân cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước,
Đảng NDCM Lào đã sáng suốt thành lập Mặt trận yêu nước, lấy liên minh
công nông làm nền tảng, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Căn cứ vào tình hình trong nước và thế giới, ngày 22 tháng 3 năm 1955,
Đảng Nhân dân Lào ra đời, Đảng đã đề ra nhiệm vụ trong giai đoạn mới là:
"Đoàn kết toàn dân; đoàn kết các dân tộc, đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng
dân tộc, xây dựng nước Lào hòa bình, dân chủ, thống nhất và độc lập" [44,
tr.393]. Để bảo toàn và phát triển lực lượng của mình, trong văn kiện của Hội
nghị Trung ương lần thứ nhất của Đảng Nhân dân Lào đã viết: "Phát động toàn
dân đoàn kết đấu tranh đánh bại đế quốc Mỹ và bọn tay sai bán nước, thực hiện
một nước Lào hòa bình, trung lập, độc lập, dân chủ, thống nhất và thịnh vượng
đưa cách mạng tiến lên từng bước vững chắc" [44, tr.397]
Dựa vững chắc vào khối liên minh công nhân - nông dân - trí thức, dưới
sự lãnh đạo của Đảng NDCM Lào, Mặt trận yêu nước đã phát triển lực lượng
ngày càng sâu rộng trong quần chúng cơ bản của cách mạng, cả ở thành thị và
nông thôn, đồng bằng và miền núi. Mặt trận yêu nước coi việc đấu tranh cải
thiện dân sinh, tự do, tự chủ, hòa bình, trung lập là những mục tiêu phù hợp để
thu hút các tầng lớp trí thức, học sinh, sinh viên, tín đồ các tôn giáo V.V... vào
cuộc đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược. Với cương lĩnh đúng đắn, chương
trình hành động thiết thực, hình thức, phương pháp tập hợp lực lượng, tổ chức
đấu tranh phong phú, uyển chuyển, Mặt trận yêu nước đã tập hợp được ngày
càng đông đảo các tầng lớp nhân dân đoàn kết, đấu tranh giành độc lập, thống
nhất đất nước. Nhờ đó, nhân dân Lào dù ở thành thị hay nông thôn, đồng bằng
hay miền núi đều hết lòng, hết sức ủng hộ cách mạng.
Trên cơ sở đề ra đường lối đúng đắn, Đảng NDCM Lào luôn coi việc
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận yêu nước; không ngừng
101
củng cố khối liên minh công nhân, nông dân, trí thức vững mạnh; thực hiện
những sách lược mềm dẻo, linh hoạt nhằm tranh thủ, trung lập những lực
lượng có thể tranh thủ và trung lập được; phân hóa, cô lập triệt để những lực
lượng chính trị phản động, những tên đầu sỏ, ngoan cố nhất trong hàng ngũ
địch, làm cho sức mạnh đại đoàn kết dân tộc tăng lên không ngừng, thực sự là
sức mạnh vô địch, bảo đảm cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của
nhân dân Lào đi đến thắng lợi hoàn toàn.
Hiện nay, đất nước Lào đang sống trong hòa bình, thống nhất; cả
nước đang tiến hành công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, tiến hành thực hiện mục tiêu đúng đắn
của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đề ra là: "Xây dựng
Nước CHDCND Lào trở thành nước vững mạnh, nhân dân giàu có, xã hội
đoàn kết hài hoà, dân chủ, công bằng và văn minh" [101, tr.57]. Những bài
học về xây dựng và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vẫn còn nóng hổi. Hơn lúc nào hết,
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân cần tiếp tục nêu cao truyền thống yêu nước
và đoàn kết, ý chí độc lập, tự lực, tự cường, xây dựng Đảng thực sự trong
sạch, vững mạnh; xây dựng Quân đội nhân dân, từng bước hiện đại; thực
hiện toàn dân đoàn kết một lòng, biến mọi đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng thành hiện thực, để hoàn thành thắng lợi sự nghiệp bảo vệ
và xây dựng Tổ quốc.
Tinh thần đoàn kết dân tộc luôn là một truyền thống quý báu của dân tộc
được mọi người coi trọng và đề cao; đó cũng là giá trị quý bấu của VHCT của
nhân dân Lào, của nền chính trị Lào từ hàng nghìn năm trong lịch sử và ngày
nay nó càng được phát huy, phát triển và nâng cao. Với giá trị yêu nước và
đoàn kết dân tộc, sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Lào theo
hướng XHCN nhất định sẽ thành công.
102
3.4. NHỮNG GIÁ TRỊ: ĐỀ CAO ĐẠO LÝ, TÔN TRỌNG CHÍNH NGHĨA VÀ
BẢO VỆ CÔNG LÝ
3.4.1. Giá trị đề cao đạo lý
Đề cao đạo lý là giá trị phổ quát của con người cũng như của các dân tộc
trên toàn thế giới. Hân dân các bộ tộc Lào đặc biệt đề cao yếu tố đạo lý bới
nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân quyết định nhất, đó là do một đất
nước nghèo, sống trong các điều kiện khắc nghiệt cả về điều kiện tự nhiên, cả
về điều kiện kinh tế, đặc biệt là điều kiện xã hội - một đất nước bị nhiều lần
xâm chiếm, áp bức, bóc lột. Đạo lý đầu tiên của con người ở đây trước hết là giá
trị sống, bởi người ta phải tôn trọng, quý mến nhau trên tinh thần thương yêu,
đùm bọc lẫn nhau. Đạo lý trở thành yếu tố quy tụ lòng người; và tự thương
yêu, đùm bọc lẫn nhau theo nguyên tắc các quy chuẩn thoả mãn các nhu cầu
cuộc sống bình thường trong các mường, các làng, bản.
Chính giá trị truyền thống này đã đi vào cuộc sống từ đời này qua đời
khác, trở thành một trong những nét chủ đạo của cuộc sống cộng đồng, nó trở
thành chuẩn mực của việc cai trị xã hội. Do đó, mỗi chế độ chính trị, dù ai là
vua, ai cai trị xã hội thì cũng phải lấy đạo lý làm đầu, làm chuẩn mực. Suốt lịch
sử dựng nước và giữ nước của nhân dân các bộ tộc Lào, chuẩn mực và việc
thực hiện chuẩn mực đạo lý trở thành nhân tố chủ đạo, đồng thời, chính bằng
nhân tố đạo lý mà các chế độ chính trị ở các triều đại tồn tại, được nhân dân
hưởng ứng và bảo vệ. Lịch sử đấu tranh thống nhất các mường, làm nên nhà
nước Lào trong quá khứ cũng như các cuộc khởi nghĩa giành độc lập dân tộc
qua các thời đại đều lấy đạo lý làm một giá trị cốt lõi nên đã làm nên sự trường
tồn và phát triển đất nước Lào như ngày nay.
Nhân tố quyết định thứ hai làm cho đạo lý thực sự nhân lõi của nền
chính trị Lào và nó trở thành giá trị VHCT Lào tiêu biểu là đất nước Lào là đất
nước Phật giáo. Dù có nhiều tín ngưỡng, tôn giáo khác cùng tồn tại, song ở
Lào, đạo Phật là tôn giáo lớn nhất, tồn tại lâu dài nhất, có ảnh hưởng mạnh
103
nhất, và thậm chí, đã có thời đại, nó đã là quốc giáo (từ thế kỷ XIV đến nay).
Thế giới quan, nhân sinh quan Phật giáo, niềm tin Phật giáo cuối cùng được
quy tụ ở một điểm quan trọng đó là đạo lý ở đời. Lý tưởng đạo Phật là Niết
bàn, song bản chất Niết bàn - bản chất tinh thần của nó vẫn là một thế giới
nhân văn, nhân đạo nhất mà ở đó chứa đựng những giá trị tinh khiết nhất của
lòng từ bi, hỉ xả, cứu độ chúng sinh, đưa con người tới cuộc sống cực lạc. Cái
đạo lý đó ăn sâu trong con người Lào, trong cộng đồng, trong việc tổ chức xã
hội, cả trong hoạt động chính trị. Cho nên, dù là ông vua nào, dù là người cầm
quyền chính trị nào, thì khi trị vì đất nước, vạch ra đường lối, chủ trương,
chính sách cai trị đất nước, xây dựng đất nước và đời sống xã hội, tinh thần
đạo lý vẫn là tinh thần quyết định.
Giá trị đạo lý tràn đầy sức sống và làm nên đất nước nhân dân Lào đặc
biệt tôn trọng đạo lý. Và nền chính trị đạo lý của nhân dân các bộ tộc Lào đã và
đang dẫn dắt đất nước Lào đi theo chế độ XHCN tốt đẹp ngày nay, đang quyết
tâm phấn đấu đạt tới những giá trị tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội trong tương lai.
Nền VHCT Lào có giá trị đạo lý dẫn đường và toả sáng. Chính vì từ giá trị đạo
lý mà VHCT Lào có các giá trị tôn trọng chính nghĩa, bảo vệ công lý.
3.4.2. Tôn trọng chính nghĩa và bảo vệ công lý
Tôn trọng chính nghĩa, bảo vệ công lý với tính cách là giá trị của VHCT
Lào truyền thống thể hiện ở quan niệm và biểu hiện của tinh thần về chính
nghĩa, về công lý của người Lào và quá trình hình thành và phát triển của quan
niệm chính nghĩa, công lý của người Lào cũng như ý nghĩa của các quan niệm
trên trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Lào.
Lịch sử phát triển của xã hội loại người đã chỉ rõ, chính trị ra đời là một tất
yếu lịch sử và nó mất đi cũng là một tất yếu lịch sử. Chính trị là một phạm trù lịch
sử, nó chỉ xuất hiện và tồn tại khi xã hội phân chia thành các giai cấp và đồng thời
với nó là khi xã hội tổ chức theo kiểu nhà nước. Nhưng, chính trị là làm sao cho
trong đời sống cộng đồng, con người sống được và sống tốt hơn. Con người
104
muốn được giải phóng, muốn thực hiện mục đích chân chính của mình thì phải có
một nền chính trị khoa học và văn hóa. Có thể nói chính trị là lĩnh vực điều khiển
toàn bộ hoạt động của xã hội, là lĩnh vực nối dài và phản ánh tập trung của kinh
tế. Chính trị dù có nhiều khuynh hướng khác nhau, cách thực thi khác nhau, cuối
cùng cũng là nhằm tới mục tiêu phát triển kinh tế, phát triển lực lượng sản xuất,
để giải phóng con người, thực hiện các mục đích của con người, của xã hội.
Chính trị như thế là chính trị đạo lý, tôn trọng chính nghĩa, bảo vệ công lý. Chính
nghĩa là nghĩa vụ chính đáng, việc làm đúng với lẽ phải. Trái ngược với chính
nghĩa là "phi chính nghĩa" hay "bất chính".
Các quan niệm "chính nghĩa", "công lý" tuy rộng hẹp khác nhau,
nhưng chúng đều có dấu hiệu nội hàm cơ bản đồng nhất với nhau. Đạo lý là
lẽ phải, chính nghĩa cũng điều phải, nghĩa là đứng về lẽ phải, là tranh đấu
cho lẽ phải phải thắng. Chính nghĩa cũng là lẽ phải. Chính nghĩa cũng là đặt
cái lợi ích chung lên trên cái lợi ích riêng, vì đại nghĩa là dám hy sinh cá
nhân cho đất nước. Và như vậy mới là đạo lý làm người, đạo lý của dân tộc.
Mạnh Tử cho rằng, nghĩa là điều phải làm, sống là điều ta ưa thích, nghĩa
cũng là điều ta ưa thích, nhưng nếu trong hai điều ấy phải bỏ một lấy một,
thì ta bỏ cái sống để lấy cái nghĩa. Còn Mặc Tử thì nói: Đánh giá một hành
vi nào, thì nên lấy công lợi, lợi ích chung làm tiêu chuẩn, hễ lợi chung thì
nên làm, ấy là làm việc nghĩa.
Như vậy, vấn đề vì nghĩa thực chất là vấn đề để cái chung lên trên cái
riêng, nếu cần, để vì cái chung, khi nói "nghĩa khí" là nói đến cái nỗ lực vượt
ra ngoài lợi ích nhỏ bé của mình, khi nói "đại nghĩa" là nói cái đối lập với tiểu
kỷ. Công lý trước hết là sự công bằng. Công bằng hiểu theo chiều ngang là
việc đối xử như nhau với những người có điều kiện như nhau. Theo chiều dọc
công bằng là sự đối xử khác nhau với những người có điều kiện không giống
nhau. Khi bàn về công lý thì không thể bỏ qua khái niệm công lý là gì? công lý
nằm ở đâu, con đường nào để người dân tiếp cận công lý và với phương tiện
105
gì? Cho dù hai từ "công lý" không xa lạ với bất cứ ai khi người ta đánh giá việc
giải quyết tranh chấp hay xử lý sự vi phạm pháp luật của nhà nước. Rộng hơn
nữa, khi nói đến công lý người ta đồng nghĩa nó với toà án và mặc dù toà án
chỉ là nơi cuối cùng công lý hiện diện và được thực thi.
Công lý là những giá trị về công bằng, lẽ phải, phù hợp với lợi ích
chung, với đạo lý được xã hội và pháp luật thừa nhận. Đây cũng là những tiêu
chuẩn làm thước đo cho một hệ thống pháp luật, cho cách hành xử của nhân
viên công quyền trong mối quan hệ với công dân. Trong lịch sử, không phải
không có những quan niệm khác nhau về công lý. Người phương Tây quan
niệm công lý trước hết là một phạm trù đạo đức: Đó là thái độ, cách ứng xử tôn
trọng chân lý và tự do của người khác. Thái độ này có nguồn gốc bẩm sinh của
mỗi người. Bất công, nếu có chỉ được chấp nhận khi muốn tránh một bất công
khác lớn hơn.
Dưới góc độ pháp luật, công lý là sự công bằng, bình đẳng, là nền tảng
của xã hội dân sự. Giáo sư Jonh Rawls của Đại học Havard, Hoa Kỳ trong
cuốn sách nổi tiếng Luận thuyết về Công lý (A Theory of Justice) xuất bản năm
1971 cho rằng: Công lý là đức hạnh thứ nhất cho các định chế xã hội cũng như
chân lý là của các hệ thống lý thuyết. Một lý thuyết dù có lộng lẫy đến đâu
nhưng nó sai thì phải bị bác bỏ cũng như luật pháp và định chế có hoàn chỉnh
đến đâu cũng cần phải bị dẹp bỏ nếu nó là bất công.
Trong truyền thống người châu Phi và châu Á cũng có những quan niệm
khác nhau về công lý. Nếu người châu Phi coi công lý là sự xử sự phù hợp với
truyền thống, tập quán của tiền nhân thì người Ấn Độ cổ đại coi công lý là sự
tôn trọng và chấp nhận đẳng cấp trong xã hội. Những người theo Ki - tô giáo
thì cho rằng công lý là sự công bằng, sự liêm khiết, sự phán quyết khách quan,
công minh phù hợp với pháp luật và cao hơn tất cả là phù hợp với lề luật thiên
chúa và luật tự nhiên.
106
Các quan niệm trên đều đã tiếp cận đến các khía cạnh khác nhau của
công lý. Tuy nhiên, cái cần phải làm rõ và quan tâm đầu tiên, đó chính là
nguồn gốc của công lý, là giải quyết câu hỏi tại sao trong mỗi thời kỳ lịch sử,
trong mỗi xã hội khác nhau người ta có quan niệm không giống nhau về công
lý? Nói cách khác, nếu công lý là công bằng, là lẽ phải thì thế nào là công bằng
và lẽ phải lại có những quan niệm khác nhau? Để giải quyết mâu thuẫn này
trước hết phải khẳng định công lý là phạm trù lịch sử tự nhiên. Nó không phải
là sản phẩm của thế lực siêu nhiên thần bí, không phải là một thứ có sẵn nằm ở
đâu đó trong tự nhiên.
Một trong những nguồn gốc hiện thực của quan niệm về công lý trước
hết là vấn đề lợi ích. Mỗi nhóm xã hội có lợi ích khác nhau thì có những quan
niệm tương ứng về công lý. Lợi ích bao gồm lợi ích chung và lợi ích riêng.
Tuy nhiên, công lý đích thực với tư cách là giá trị phổ quát được xây dựng trên
cơ sở những lợi ích chung nhưng cũng không thể bỏ qua việc thừa nhận và tôn
trọng những lợi ích riêng của những kẻ yếu thế hơn trong xã hội bởi Công lý
bùng nổ để bảo vệ kẻ yếu.
Công lý liên quan mật thiết với pháp luật. Nói cách khác pháp luật là
hiện thân của công lý nhưng công lý không đồng nhất với pháp luật, không
phải có pháp luật tức là sẽ có công lý, thực thi đúng pháp luật tức là đã thực
thi được công lý. Chỉ khi nào pháp luật chuyển tải được toàn bộ những giá trị
công bằng, lẽ phải, nhân đạo, v.v... của công lý thì lúc đó pháp luật mới là
biểu hiện của công lý. Ngược lại, một thứ pháp luật không bảo vệ cho kẻ yếu
chỉ nhằm bảo vệ quyền lợi cho thiểu số kẻ mạnh có quyền lực ấy là thứ pháp
luật bất công.
Phân tích những vấn đề trên cho thấy, các vấn đề chính nghĩa, công lý
luôn luôn liên quan chặt chẽ với vấn đề công bằng; và công bằng, công lý, chính
nghĩa lại liên quan chặt chẽ với lợi ích của các đối tượng xã hội khác nhau.
107
Quan niệm như thế nào về các vấn đề nêu trên của chính trị (chủ thể chính trị,
chế độ chính trị) sẽ thể hiện vị trí, vai trò của các vấn đề đó trong VHCT.
Ở Lào, chính nghĩa, công lý bao giờ cũng là các giá trị lớn lao của người
Lào, của nhân dân Lào; "vì nghĩa" là một đức tính lớn, một giá trị tinh thần
truyền thống của dân tộc. Từ khi lập nước, dân tộc Lào đã vì chính nghĩa, vì
công lý, vì nghĩa khí dân tộc mà luôn luôn đứng lên đấu tranh anh dũng, chiến
thắng oanh liệt, đánh bại tất cả các lực lượng ngoại xâm. Nếu chỉ kể từ khi năm
1353 chậu Phà Ngừm đã vì nghĩa mà đứng lên đấu tranh, thống nhất đất nước,
lập nên vương quốc Lạn Xạng, chậu Xu Li Nha Vông Xả, chậu Say Xệt Thả Thi
Lạt, chậu A Nu Vông lãnh đạo nhân dân kháng chiến chống quân Myanma và
quân Xiêm thế kỷ XVI - XVIII. Vì sao Lào là một nước nhỏ, quân ít lại có
những thắng lợi trước một kẻ thù lớn hơn? Điều trước tiên đó chính là chủ nghĩa
yêu nước truyền thống mà nhân lõi của nó chính là các giá trị chính nghĩa, công
lý, tức là vì nghĩa, vì cái chung; bên cạnh đó cũng phải thấy rằng trong hoạt
động chính trị thực tiễn của các nhà lãnh đạo, họ luôn nhận thức được sức mạnh
vĩ đại của nhân dân trong chiến tranh cũng như các giá trị hòa bình, công lý,
nhận thức rõ mục đích "chính nghĩa" và "công lý", từ đó các nhà lãnh đạo qua
các thời kỳ đó xác định và vạch ra đúng mục tiêu chính trị và đường lối chính trị
nhân nghĩa, luôn kiên trì chiến đấu, vượt mọi gian khổ để đi đến thắng lợi cuối
cùng và triệt để vì những giá trị công bằng, chính nghĩa, bảo vệ công lý.
Lịch sử dân tộc Lào là lịch sử đấu tranh anh dũng chống lại các lực
lượng xâm chiếm nước Lào. Nhân dân các bộ tộc Lào không bao giờ đi xâm
chiếm lãnh thổ của một đất nước nào khác, mà chỉ bảo vệ đất nước mình vì sự
bình yên. Điều đó nói lên gì. Điều đó nói lên một thực tế hết sức có ý nghĩa, đó
là vì nhân dân Lào luôn luôn tôn trọng và quý trọng độc lập, chủ quyền, tự do
của dân tộc mạnh; và cũng chính từ đó, luôn luôn quý trọng các giá trị chính
nghĩa và công lý; thà hy sinh tất cả chứ không chịu mất nước, luôn luôn hy
sinh đấu tranh bảo vệ công lý và chính nghĩa.
108
Những chuẩn mực mang giá trị chính nghĩa, công lý trong hoạt động
chính trị thực tiễn của Lào qua các thời kỳ thề hiện ở chỗ lấy nhân nghĩa để
cứu nước, cứu dân, dựa vào dân mà cứu nước. Đến giai đoạn kháng chiến
chống thực dân Pháp, Đảng NDCM Lào luôn thể hiện nguyện vọng tha thiết
của nhân dân Lào là đôc lập dân tộc, hoà bình và phát triển đất nước, nhưng
phía thực dân Pháp thì muốn xâm chiếm, đô hộ nước Lào, đè đầu cưỡi cổ nhân
dân Lào. Nhân dân Lào thì muốn hoà hoãn để bớt đổ máu cho hai bên, Lào
càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, buộc Đảng NDCM Lào phải
phát động toàn quốc kháng chiến và khi cuộc kháng chiến chống Pháp thắng
lợi thì Đảng NDCM Lào cũng xác định chỉ có thực dân Pháp là kẻ thù, còn
nhân dân Pháp và loài người tiến bộ là bạn của nhân dân Lào. Thất bại của
thực dân Pháp là thất bại của tư tưởng xâm lược, không tôn trọng độc lập, chủ
quyền, nhất là không biết đến các giá trị của chính nghĩa, của công lý, của họ.
Thắng lợi của nhân dân Lào, của Đảng NDCM Lào là thắng lợi của cuộc đấu
tranh chính nghĩa, bảo vệ công lý, vì nhân đạo và nhân văn. Đó cũng là thắng
lợi của nền VHCT Lào đã thấm được các phẩm chất nhân đạo, nhân văn; thắng
lợi của các gái trị chính nghĩa, công lý của nền VHCT Lào.
Đến thời kháng chiến chống đế quốc Mỹ cứu nước, Đảng NDCM Lào đã
chủ trương dùng "ba đòn bẩy chiến lược", theo đó, Trung ương Đảng hạ quyết
tâm chiến lược giành chính quyền trong toàn quốc. Phương hướng giành chính
quyền ở Lào là: "Khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền cơ sở từng địa
phương, tạo điều kiện tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước"
[44, tr.498] đã tạo thời cơ cho Mỹ rút trên danh dự vào năm 1975.
Trong 20 năm, đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược đất nước Lào,
nhân dân các bộ tộc Lào đấu tranh đỏi hòa hợp dân tộc có tác dụng rất quan
trọng trong việc ngăn chặn và hạn chế âm mưu chiến tranh của địch. Trong
Tác phẩm chọn lọc, tập 1, đồng chí Cay Xỏn PhômViHản viết: "Mỗi lần lực
lượng chúng ta vào hòa hợp là mỗi lần chính nghĩa của cách mạng thêm sáng
109
tỏ, là mỗi lần cao trào quần chúng ủng hộ cách mạng và đấu tranh chống chính
sách phản động của địch càng sôi sục, làm cho lực lượng đối phương càng bị
phân hoá sâu sắc và địch cô lập hơn trước" [91, tr.215]. Đó là những giá trị
nhân văn và cũng là cuộc đấu tranh chính nghĩa mà Đảng NDCM Lào đã kế
thừa, phát huy và được nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới ủng hộ
trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ của nhân dân Lào.
Nhìn lại các bước đường nhân dân Lào đã trải qua trong lịch sử, có thể
dễ dàng thấy được sức mạnh tinh thần lớn lao của chính nghĩa, tôn trọng chính
nghĩa, bảo vệ công lý. Kẻ thù của dân tộc dù mạnh đến đau cũng không làm
sao khuất phục nổi khí tiết truyền thống cao đẹp của người Lào: uy vũ, tiền tài
điều không làm sa đọa nổi; nhân dân vẫn hướng về chính nghĩa, đạo lý và bảo
vệ công lý. Các giá trị truyền thống đó của nhân dân, của dân tộc Lào được
nhân lên mãi mãi sau này, chúng ngày càng làm đậm đà thêm các giá trị truyền
thống của nền VHCT của nhân dân Lào.
Vì nhận thức được một cách sâu sắc rằng, cách mạng vì sự nghiệp của
nhân dân, của dân tộc là chính nghĩa, thực dân xâm lược là phi nghĩa, cho nên
những người cách mạng Lào đã hy sinh chiến đấu hết sức ngoan cường để quét
sạch thực dân xâm lược, bảo vệ chính nghĩa và công lý. Tư tưởng đó, tinh thần
cao đẹp đó thực sự đã trở thành một đặc tính nổi bật của người Lào, cho nên
cũng thực sự trở thành một giá trị cao đẹp của VHCT Lào. Vì nhận thức được
cách mạng là chính nghĩa cho nên nhân dân Lào chịu đựng và vượt qua mọi
khó khăn thách thức, tin tưởng ở thắng lợi của cách mạng dân tộc, luôn giữ
vững tấm lòng trung thành đối với cách mạng, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ
đánh và chống giặc ngoại xâm, dựng nước và giữ nước suốt chiều dài lịch sử
từ thời cổ đại cho đến sau này.
Giá trị VHCT truyền thống về tôn trọng chính nghĩa của các bộ tộc Lào
được vận dụng và phát huy cao độ trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở CHDCND Lào. Đường lối chính trị của Đảng NDCM Lào là quyết tâm xây
110
dựng một đất nước chứa đựng tất cả các giá trị cao đẹp mà loài người hằng
mong muốn. Chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc muốn xóa bỏ chủ nghĩa
xã hội ở CHDCND Lào. Nhân dân Lào quyết tâm bảo vệ và phấn đấu cho
những giá trị của chủ nghĩa xã hội. Đó chính là tinh thần bảo vệ những giá
trị chính nghĩa. Chính nghĩa không chỉ là giá trị của một dân tộc nào, mà
của tất cả các dân tộc tiến bộ trên toàn thế giới, trong quá khứ và hiện tại.
Giá trị chính trị cao quý nhất của nhân dân Lào, đó là giàu mạnh, văn minh,
hành phúc. Đó là những giá trị đúng đắn và vô cùng thiêng liêng của con
người, của loài người, và cũng chính của nhân dân Lào. Nhân dân Lào đã hy
sinh giành độc lập dân tộc, nay cũng hy sinh phấn đấu cho được các giá trị
chân chính, chính nghĩa của mình. Đấu tranh chống lại các thế lực thù địch
với chủ nghĩa xã hội ở CHDCND Lào vì vậy là cuộc đấu tranh quyết liệt
bảo vệ chính nghĩa. Trong ngoại giao, Đảng NDCM Lào luôn luôn bảo vệ
chính nghĩa, công lý, đấu tranh cho chính nghĩa, công lý của đất nước, của
nhân dân Lào, và cho cả phong trào xây dựng chủ nghĩa xã hội của tất cả
các nước đi theo con đường XHCN trên thế giới.
Các giá trị chính nghĩa, bảo vệ công lý cũng thường xuyên diễn ra trong
cuộc đấu tranh xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước Lào. Công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội là hết sức gian khổ, là cuộc đấu tranh giữa cái mới và
cái cũ, tiến bộ và lạc hậu, giữa những tư tưởng khoa học và tư tưởng phản khoa
học, thậm chí giữa các tư tưởng cách mạng và phản cách mạng. Dù phải hy
sinh, song nhân dân Lào và Đảng NDCM Lào luôn coi các giá trị đó là mục
tiêu phấn đấu của mình.
3.5. NHỮNG GIÁ TRỊ: HÒA BÌNH VÀ HỮU NGHỊ, HỢP TÁC VÀ PHÁT TRIỂN
3.5.1. Giá trị hòa bình và hữu nghị
Hòa bình và hữu nghị của người Lào với tính cách là các giá trị của
VHCT truyền thống Lào, thể hiện ở quan niệm tư tưởng và những biểu hiện
trong chủ trương, đường lối chính trị hòa bình và hữu nghị của người Lào,
111
đồng thời chúng cũng được thể hiện ra trong quá trình hình thành và phát triển
của quan niệm trên với những ý nghĩa của các quan niệm trên trong công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Lào.
Hòa bình là trạng thái xã hội không có chiến tranh, không dùng vũ lực
để giải quyết các tranh chấp trong quan hệ giữa các quốc gia, dân tộc, các
nhóm chính trị xã hội. Hòa bình đối ngược với chiến tranh. Nếu như trong xã
hội có nhiều chính đảng, thì hòa bình cũng được thể hiện bởi mối quan hệ giữa
các đảng phái trong sự tôn trọng lẫn nhau theo các nguyên tắc và luật lệ quốc
gia và quốc tế, mà chuẩn mực của sự tôn trọng đó là mục tiêu chính trị của
quốc gia, dân tộc, quốc tế. Tuy nhiên, trong lịch sử thế giới, nhìn chung hòa
bình thường không liên tục, luôn bị gián đoạn bởi các cuộc chiến tranh.
Người Lào cũng quan niệm khái niệm hòa bình theo nghĩa rộng, ở đó
không chỉ thể hiện một xã hội không có chiến tranh mà còn là một xã hội
không có sự xung đột. Xung đột chính trị gây mất ổn định chính trị và xã hội,
thậm chí còn gây nên các cuộc chiến tranh tàn khốc. Trong xã hội luôn luôn
xảy ra những mâu thuẫn, nếu không có các cách thức đúng đắn để giải quyết
thì các mâu thuẫn đó rễ dẫn tới xung đột không thể bảo đảm cho một xã hội có
hòa bình. Khái niệm hòa bình cũng được áp dụng vào trạng thái của con người
trong các điều kiện địa lý, chính trị cụ thể của họ, các cuộc nội chiến hay
khủng bố, các xung đột khác cũng đe dọa đến hòa bình ở cấp độ trong nước.
Lịch sử Lào là lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước triền miên. Từ
thời xa xưa, nhân dân các bộ tộc Lào đã phải tiến hành các cuộc đấu tranh với
các âm mưu và thế lực chi rẽ đất nước. Lào Lạn Xạng đấu tranh với các vương
quốc láng giềng; Chậu Phạ Ngừm lãnh đạo nhân dân đứng lên đấu tranh thống
nhất đất nước; cuộc đấu tranh và củng cố, xây dựng đất nước dưới triều Xảm
Xen Thay; đến thời kỳ đất nước rơi vào loạn lạc dưới triều Nang Maha Thê Vi,
v.v…Trong cả thế kỷ XVI, nhân dân Lào Lạn Xạng lại phải tiếp tục tiến hành
các cuộc kháng chiến chống xâm lược: Cuộc kháng chiến chống Ayu ThiYa;
112
ba lần kháng chiến chống quân Ava (Myanma), đem lại thời kỳ thịnh vượng
cho vương quốc Lào Lạn Xạng ở thế kỷ thứ XVII. Nhưng đến thế kỷ thứ
XVIII, nước Lào lại rơi vào tình trạng chia cắt; nước Xiêm xâm lược Lào; Lào
Lạn Xạng mất độc lập chủ quyền; tiếp đó, vương quốc dưới triều Chậu A Nu
Vông lại phục hưng đất nước mới bằng cuộc đấu tranh chống xâm lược Xiêm.
Thế kỷ XIX đất nước lào lại chìm trong thời kỳ Pháp thuộc, và trong
thời kỳ đó, bao nhiêu biết bao nhiêu cuộc khởi nghĩa đã bùng lên bảo vệ độc
lập và chủ quyền, nhằm đưa đất nước trở lại cuộc sống hòa bình và xây dựng
đất nước. Đặc biệt, sự ra đời của Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1930 đã
đưa phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp và phát xít Nhật. Trong thời kỳ
hiện đại, dưới sự lãnh đạo của Đảng NDCM Lào, nhân dân các bộ tộc Lào đã
đánh tan cuộc xâm lược của đế quốc Mỹ, đi đến Hiệp nghị quốc tế Giơnevơ về
Lào vào năm 1962. Cuộc đấu tranh hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân trong cả nước, lập nên nước CHDCND Lào năm 1975.
Toàn bộ lịch sử đấu tranh anh dũng, kiên cường dựng nước và giữ nước
đó của nhân dân Lào một mặt thể hiện khát vọng hòa bình và hữu nghị trong
nước và giữa các dân tộc trên toàn thế giới. Nhân dân Lào chỉ khát khao hòa
bình và hữu nghị. Nhân dân chiến đấu hy sinh cũng chỉ vì mục đích hòa bình
và hữu nghị. Mặt khác, khát vọng hòa bình và hữu nghị của nhân dân được các
lãnh tụ, các đảng cách mạng, thể chế hóa thành chủ trương, đường lối cách
mạng, nhằm thực hiện mục đích chính trị của dân tộc là hòa bình và hữu nghị.
Nền chính trị Lào mang tư tưởng truyền thống đó là nền chính trị được xây
dựng trên nền tảng của các giá trị hòa bình và hữu nghị. Chính đường lối chính
trị hòa bình và hữu nghị đã đem lại cho các lực lượng chính trị quốc gia, dân
tộc những thành tựu trong đấu tranh và xây dựng đất nước, đấu tranh và xây
dựng chế độ chính trị - xã hội. Có thời kỳ đất nước lâm nguy, bị thôn tính,
nhưng với các giá trị VHCT truyền thống hòa bình và hữu nghị mà nhân dân
113
Lào lại lấy lại được đất nước, khôi phục được quốc gia thịnh vượng. Hòa bình
và hữu nghị là các giá trị có tính nhân loại. Nhưng đúng là mỗi quốc gia, do
nhiều hoàn cảnh lịch sử, chính trị, xã hội khác nhau mà các giá trị hòa bình,
hữu nghị của mỗi quốc gia cũng có những sắc thái khác nhau, do đó chúng
cũng có ý nghĩa khác nhau. Đối với đất nước Lào - đất nước hay xảy ra chiến
tranh thì hòa bình và hữu nghị ở Lào thực sự là các giá trị VHCT nổi bật, đặc
sắc và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Người Lào cũng quan niệm hòa bình và hữu nghị liên quan chặt chẽ với
vấn đề phát triển. Đây là một cơ sở nữa để củng cố, khuyến khích những
nghiên cứu hòa bình là phát triển. Trong những diễn đạt về phát triển, người ta
cho rằng chính trị, văn hóa và sự tăng trưởng kinh tế sẽ đưa những nước kém
phát triển ra khỏi nghèo khó, tạo đà cho các nước đó vươn lên theo kịp các
nước giàu có hơn; từ đó tạo nên một thế giới tốt đẹp hơn, ở đó bảo đảm sự hòa
bình, hữu nghị, an sinh, v.v… Chính quan niệm này của nhân dân các bộ tộc
Lào đã thấm đậm vào trong tư duy chính trị của con người, của các thế hệ cầm
quyền, lãnh đạo chính trị của đất nước. Từ đó, các quan niệm, quan điểm chính
trị của các chế độ chính trị trong lịch sử, nhất là trong các thời kỳ cận đại và
hiện đại, các yếu tố phát triển xã hội và phát triển văn hóa luôn luôn được đưa
vào trong mục đích, đường lối chính trị. VHCT truyền thống Lào vì vậy cũng
thấm đậm giá trị phát triển trong quan điểm hòa bình và hữu nghị của nền
chính trị Lào. Có lẽ trên nền tảng của tư tưởng đạo Phật mà người Lào gắn chặt
đời sống con người với thế giới thiên nhiên, cho nên, theo quan niệm của
người Lào, bảo vệ môi trường cũng là một cách giữ nền hòa bình, vì hòa bình
không chỉ là vấn đề chính trị mà còn là vấn đề bao trùm công cuộc sống, giá trị
của muôn loài. Cái khía cạnh "được cho là đúng" này nói rằng hủy diệt môi
trường tự nhiên hay làm đảo lộn trạng thái cân bằng của bất kỳ sự sống nào,
đều được xem như là một hình thức bạo lực phá hoại hòa bình. Khía cạnh này
114
làm trung tâm cho quan niệm hòa bình trong "thế giới tự nhiên", cái nhìn này
xem hòa bình và hữu nghị là của muôn loài chứ không chỉ riêng của con người.
Phải chăng triết lý đạo Phật, các giá trị văn hóa Phật của nhân dân Lào làm
hình thành nên quan niệm phóng khoáng, nhân đạo, rộng rãi đến thế về hòa
bình và hữu nghị trong hoạt động chính trị và trở thành những giá trị VHCT
truyền thống và cả hiện đại.
Về khía cạnh chính trị, tư tưởng hòa bình và hữu nghị của chính trị Lào
càng thể hiện rõ nét. Chúng ta sẽ điểm qua điều đó bằng một thí dụ. Sau khi
thành lập Đảng NDCM Lào chủ trương hợp tác với chính quyền Viêng Chăn,
với các lực lượng tiến bộ khác để cùng nhau thực hiện Hiệp định đình chiến
1954, bảo vệ độc lập chủ quyền của Lào. Đảng NDCM Lào xác định kẻ thù
của dân tộc là đế quốc Mỹ và bọn tay sai bán nước, phản dân tộc. Căn cứ vào
tình hình trong nước và thế giới, Đảng NDCM Lào đã đề ra nhiệm vụ tổng
quát trong giai đoạn mới của cách mạng Lào là đoàn kết toàn dân; đoàn kết các
dân tộc, đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước Lào
thành một đất nước hòa bình, dân chủ, thống nhất và độc lập, và đường lối
chính trị của Đảng là thực hiện chính sách hữu nghị để kiến thiết đất nước.
Những xu thế vận động chủ yếu của thế giới ngày nay được Đảng
NDCM Lào xác định đúng đắn là: hòa bình, hữu nghị, ổn định và hợp tác để
phát triển. Với bản chất của nền VHCT mang đậm chất hòa bình và hữu nghị,
Đảng NDCM Lào không chỉ nhận thức rằng, các xu thế nêu trên ngày càng trở
thành đòi hỏi bức xúc của các dân tộc và quốc gia trên thế giới, mà Đảng còn
kêu gọi các nước dành ưu tiên cho phát triển kinh tế, coi phát triển kinh tế có ý
nghĩa quyết định đối với tăng cường sức mạnh tổng hợp; các quốc gia lớn, nhỏ
đều tham gia ngày càng nhiều vào quá trình hợp tác và liên kết khu vực, liên
kết quốc tế và kinh tế, thương mại và nhiều lĩnh vực khác. Tất nhiên, trong
kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế hiện nay hoà bình và hữu nghị không thể
115
là một chiều hoặc lệ thuộc. Trong môi trường đó, hợp tác ngày càng tăng,
nhưng cạnh tranh cũng rất gay gắt. Đường lối chính trị của Đảng NDCM Lào
nhận thức rõ: Xu hướng này trở thành đòi hỏi khách quan và bức bách đối với
tất cả các nước trong khu vực và cộng đồng quốc tế, bởi chúng chịu sự tác
động của xu thế toàn cầu hóa, quốc tế hóa đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay trên
thế giới. Quan điểm của Đảng NDCM Lào là các dân tộc nâng cao ý thức độc
lập tự chủ, tự lực, tự cường, đấu tranh chống sự áp đặt và can thiệp của nước
ngoài, bảo vệ độc lập chủ quyền quốc gia và nền văn hóa dân tộc. Các nước
XHCN, các đảng cộng sản và công nhân, các lực lượng cách mạng, tiến bộ trên
thế giới kiên trì đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội. Hòa bình, hữu nghị, ổn định và phát triển là nhu cầu của các dân tộc. Các
nước có chế độ chính trị - xã hội khác nhau vừa hợp tác, vừa đấu tranh trong
bầu không khí cùng tồn tại hòa bình và hữu nghị. Hợp tác đấu tranh là hai mặt
trong quan hệ quốc tế và chi phối phương thức quan hệ giữa các nước trong
quá trình hội nhập và giao lưu quốc tế.
Tư tưởng và các giá trị hòa bình và hữu nghị không chỉ là các điểm sáng
trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước trong quá khứ, nó cũng được thể
hiện đậm nét và phổ quát trong tư tưởng và đường lối chính trị của Đảng NDCM
Lào thời kỳ hiện nay.Từ việc xác định hai nhiệm vụ chiến lược là bảo vệ Tổ quốc
và xây dựng đất nước, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng NDCM
Lào đã xác định nhiệm vụ trên lĩnh vực đối ngoại là: "Ra sức kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh của thời đại, v.v... tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi cho
sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước, đồng thời tích cực góp phần vào
cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ
và chủ nghĩa xã hội" [95, tr.153]. Trên cơ sở quan điểm đổi mới Đại hội IV của
Đảng tiếp tục khẳng định kiên trì đường lối độc lập, tự chủ, giữ vững hòa bình,
thực hiện hữu nghị giữa các nước, tranh thù thời gian và điều kiện thuận lợi để
từng bước ổn định và phát triển kinh tế - xã hội.
116
Đường lối đối ngoại nêu trên của Đảng NDCM Lào lại tiếp tục được
khẳng định lại tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX: "Đảng ta tiếp tục thực
hiện chính sách đối ngoại và tích cực mở rộng quan hệ quốc tế. Trước hết là kiên
trì đường lối đối ngoại hòa bình, độc lập, hữu nghị và luôn luôn hợp tác, khuyến
khích sự hợp tác hữu nghị, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa với nước ngoài
trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau và hai bên cùng có lợi" [101, tr.40]. Sau hơn 26 năm
đổi mới và mở cửa, quan hệ hợp tác hữu nghị với các nước trong khu vực và quốc
tế của nước CHDCND Lào ngày càng tăng cường. Hiện nay, Lào đã có quan hệ
hợp tác với 122 nước trên thế giới (năm 1976 chỉ có 44 quốc gia); tính chất
quan hệ là nhiều mặt, nhiều mức độ khác nhau. Điều đó làm cho vai trò của Lào
được nâng lên trong khu vực và quốc tế.
3.5.2. Giá trị hợp tác và phát triển
Hợp tác và giúp đỡ nhau vì sự tồn vong và phát triển đất nước, từ xa xưa
trong lịch sử các bộ tộc Lào đã trở thành những giá trị chính trị của nhân dân
Lào. Tinh thần hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau với tính cách là giá trị của VHCT
truyền thống Lào thể hiện ở quan niệm, quá trình hình thành và phát triển cũng
như ý nghĩa của tinh thần hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau trong xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Lào.
Điều kiện kinh tế khó khăn và lạc hậu, đời sống vật chất của con người
hết sức thiếu tốn đó hình thành trong xã hội Lào những giá trị quý báu - đó là
tinh thần hợp tác và giúp đỡ nhau trong cộng đồng. Trong đời sống chính trị,
tinh thần hợp tác và giúp đỡ nhau trong chống ngoại xâm và kiến thiết đất
nước lại càng là nguyên lý quan trọng: Không đoàn kết và giúp đỡ nhau thì
người ta khó mà tồn tại, chưa nói đến việc phát triển cuộc sống vững mạnh.
Cho nên, hợp tác và giúp đỡ nhau là tinh thần từ ngàn đời xưa đã đi vào cuộc
sống hàng ngày của nhân dân và trở thành một yếu tố quan trọng làm nên
thắng lợi của việc thực hiện các quan điểm và chính sách chống ngoại xâm và
117
xây dựng đất nước, cuộc sống người Lào. Các giá trị đó trở thành các giá trị
quý báu của cách mạng Lào và trở thành những giá trị tiêu biểu trong nền
VHCT Lào.
Trong sự nghiệp cách mạng giải phóng đất nước, cũng như trong sự
nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ quốc, Đảng NDCM Lào luôn luôn coi trọng
Mặt trận yêu nước trước đây và Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc hiện nay,
bởi vì trong hệ thống chính trị Lào, Mặt trận Lào là tổ chức có sức mạnh cao
nhất trong việc tập hợp lực lượng nhân dân các bộ tộc để hợp tác và giúp đỡ
lẫn nhau giữa các bộ tộc làm nghĩa vụ giải phóng đất nước và bảo vệ Tổ
quốc. Trong thời kỳ đất nước mới được giải phóng Mặt trận tiếp tục củng cố
và mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc, bao gồm cả các thành phần khác như
nhân sĩ, trí thức, tù trưởng, tộc trưởng và các hội Phật giáo. Phát huy chiến
lược hòa hợp dân tộc, đầy mạnh công tác tuyên truyền và tăng cường nền
quốc phòng toàn dân, chính quyền cách mạng và chủ quyền quốc gia được
giữ vững từ cấp cơ sở.
Ngày nay trong công cuộc đổi mới đất nước, Mặt trận Lào xây dựng
Tổ quốc càng có vị trí, vai trò cực kỳ quan trọng về mọi mặt của đất nước,
vai trò của Mặt trận càng phải được thể hiện rõ hơn, nhất là trong việc thực
hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân các bộ tộc Lào. Mặt trận là
một tổ chức đoàn kết thống nhất các tầng lớp nhân dân trong xã hội Lào;
nó vừa là phương thức, vừa là môi trường để nhân dân thực hiện quyền lực
chính trị của mình. Xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc và phát huy vai trò
quyền làm chủ của nhân dân thông qua Mặt trận là vấn đề có ý nghĩa chiến
lược để tập hợp lực lượng, phát huy sức mạnh có tổ chức, huy động tiềm
lực to lớn, sáng tạo của nhân dân trong suốt tiến trình của cách mạng Lào
và thực hiện quyền lực của nhân dân các bộ tộc Lào trong sự nghiệp đổi
mới đất nước hiện nay.
118
Xuất phát từ điều kiện lịch sử tự nhiên - xã hội đặc thù của đất nước,
nhân dân Lào luôn phải đấu tranh chống kẻ thù, thiên tai, dịch hoạ nên cộng
đồng dân tộc Lào phải gắn bó với nhau trong lao động và chiến đấu để dựng
nước và giữ nước. Suốt chiều dài lịch sử hàng ngàn năm của dân tộc đã dạy
cho mỗi người trong cộng đồng Lào ý thức được rằng "chia rẽ thì chết, đoàn
kết thì sống". Đồng chí Khăm Tay SỉPhănĐon - Chủ tịch Đảng NDCM Lào,
Chủ tịch nước CHDCND Lào từng khẳng định:
"Nhìn lại rất rõ lịch sử phát triển đất nước ta, khi nào tinh thần yêu
nước được phát huy cao độ, sự đoàn kết trong nội bộ được thắt chặt
thì lúc đó đất nước ta thịnh vượng, nhân dân ta có cuộc sống ấm no,
hạnh phúc. Ngược lại, nếu tinh thần yêu nước không được nâng cao,
mất sự đoàn kết trong nội bộ nhân dân thì lúc đó đất nước ta bị tàn phá
chà đạp, nhân dân ta bị áp bức bóc lột và nghèo khổ" [104, tr.52].
Với tư cách Mặt trận là một liên minh chính trị, là khối đại đoàn kết dân
tộc và là cơ quan hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau giữa các bộ tộc trong nước.
Trong các thời kỳ khác nhau chức năng nhiệm vụ của Mặt trận có những thay
đổi phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của từng thời kỳ cách mạng.
Thời kỳ chống thực dân cũ (1945 - 1954) Mặt trận Neo Lào Ít Xa La có
nhiệm vụ tập hợp sự đoàn kết toàn dân để trở thành một lực lượng to lớn, đoàn
kết đặc biệt với quân đội và nhân dân Việt Nam, đoàn kết ba nước Đông Dương
và các nước XHCN, làm tròn sứ mệnh lịch sử vẻ vang là giải phóng ách thống
trị của thực dân kiểu cũ giành lấy độc lập tự do cho đất nước năm 1954.
Thời kỳ chống thực dân kiểu mới, Mặt trận Lào Hắc Xạt (Lào yêu nước)
có nhiệm vụ tập hợp sự đoàn kết toàn dân để đánh thắng đế quốc kiểu mới, lúc
này Mặt trận có vai trò vừa là Quốc hội vừa là Chính phù kháng chiến hoạt động
trên ba mặt: chính trị, quốc phòng và ngoại giao, thực hiện khẩu hiệu là: hòa bình,
độc lập, tự do và thịnh vượng. Mặt trận Lào yêu nước đã làm tròn sự nghiệp
119
quang vinh của mình dân đánh đuổi thực dân mới, lật đổ và xóa bỏ chế độ cũ,
chế độ phong kiến, thiết lập chế độ mới, chế độ dân chủ nhân dân năm 1975.
Khi có Nhà nước (Quốc hội, Chính phủ) thì chức năng, nhiệm vụ của Mặt trận
có sự thay đổi mà nhiệm vụ chính là tập hợp đại đoàn kết toàn dân, vận động các
tầng lớp nhân dân thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng, phát triển và
bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ thành quả cách mạng.
Trong thời kỳ xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, do nhu cầu đổi mới
đất nước của Đảng, để tập hợp lực lượng toàn dân tham gia thực hiện chiến
lược phát triển đất nước và bảo vệ thành quả cách mạng, Mặt trận Lào yêu
nước đã đổi tên thành Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc, nhiệm vụ chính là
tập hợp đại đoàn kết toàn dân, thực hiện và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân các bộ tộc Lào trong việc phát huy và tăng cường sự thống nhất về
tư tưởng, chính trị của toàn dân. Động viên, tuyên truyền giáo dục ý thức
làm chủ của nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, Hiến pháp
pháp luật của Nhà nước.
Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc có chính sách phát triển truyền
thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, giác ngộ tinh thần tự lực tự cường,
xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, không phân biệt tầng lớp, dân tộc tôn
giáo, kể cả người Lào sinh sống ở nước ngoài có sự ủng hộ, đồng tâm với
sự nghiệp đổi mới của Đảng NDCM Lào, cùng nhau thực hiện hai nhiệm
vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc làm cho đất nước hòa bình, độc
lập, dân chủ, thống nhất và thịnh vượng. Mặt trận Lào xây dựng Tổ quốc là
cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, là một tổ chức liên hiệp công -
nông - trí thức và các tầng lớp xã hội khác để tập hợp quần chúng nhân dân
vào trong một tổ chức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Mặt trận có chức năng
phát huy tình đoàn kết, tăng cường sự thống nhất về mặt chính trị, tư tưởng
của toàn dân.
120
Sự đoàn kết thống nhất là yếu tố quyết định sự trưởng thành và phát
triển của nước ta. Vì thế, đường lối chính trị đã chú trọng tập hợp các tầng lớp
nhân dân, các bộ tộc thành một khối đại đoàn kết thống nhất, một lòng một dạ,
phát huy tinh thần yêu nước, thương nòi của nhân dân các bộ tộc Lào thành
một sức mạnh tổng hợp để thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược. Trong lịch sử,
nước Lào cũng như các nước Đông Dương đã thường có kẻ thù xâm lược và
nhiều lần nhân dân nổi dậy chống kẻ ngoại xâm. Điều đó đã đem lại cho nền
văn hoá nội dung đấu tranh giai cấp, đấu tranh chống kẻ thù xâm lược thành
truyền thống tốt đẹp.
Truyền thống yêu nước, đoàn kết và đấu tranh anh hùng của dân tộc là
một trong những nguyên nhân cơ bản làm cho nhân dân Lào có khả năng
khắc phục được mọi khó khăn phức tạp để bảo vệ và xây dựng đất nước. Vì
vậy, trong văn kiện Đại hội VII của Đảng NDCM Lào đã xác định rằng:
"Việc tăng cường đoàn kết giữa các bộ tộc, tầng lớp, lứa tuổi, tôn giáo trong cả
nước là nhiệm vụ chiến lược cơ bản, lâu dài của chúng ta" [99, tr.38]. Để thực
hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội từ nay đến năm 2020 đưa đất nước
thoát khỏi tình trạng đói nghèo, Đảng và Nhà nước Lào đã đề ra chính sách đối
ngoại là: hòa bình, độc lập, hữu nghị và hợp tác với tất cả các nước trong khu
vực và trên thế giới trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và không can thiệp
vào công việc nội bộ của nhau; bình đẳng, hai bên cùng có lợi và cùng sống
với nhau trong hòa bình.
Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu của sự nghiệp đổi mới, tình hình quốc tế
đã có sự thay đổi sâu sắc, so sánh lực lượng trên thế giới đã bị đảo ngược, bởi
vì Liên Xô, vốn là trụ cột của hệ thống XHCN thế giới, và các nước XHCN
Đông Âu bị sụp đổ. Sử nghiệp đổi mới đã gặp những khó khăn thử thách và
nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp, nhưng Đảng NDCM Lào đã quyết tâm, đứng
trên lập trường cách mạng và khoa học xem xét tình hình toàn diện sâu sắc, từ
121
đó khẳng định rằng, bản chất của thời đại là không thay đổi, loài người vẫn
đang trong thời kỳ quá độ từ tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội. Đảng đánh
giá hòa bình, hợp tác vẫn là khuynh hướng chủ yếu trên thế giới. Trên cơ sở
đó, Đảng NDCM Lào khẳng định:
"Thực hiện chính sách mở rộng quan hệ hợp tác với các nước
trên thế giới, nhằm thu hút và áp dụng nguồn vốn giúp đỡ, vay
mượn và sự đầu tư của nước ngoài cho hiệu quả tăng lên để thúc
đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước, thực hiện theo hướng mở
rộng quan hệ với nước ngoài phải đảm bảo sự làm chủ và hiệu
quả tốt, đảm bảo an ninh, chính trị, quốc phòng Tổ quốc và bảo
vệ nội bộ tốt" [99, tr.165].
Trong thời đại ngày nay, kinh tế mạnh là tiền đề, điều kiện bảo đảm
cho độc lập tự chủ, giữ vững độc lập chủ quyền. Thực hiện kinh tế mạnh
không chỉ bằng cách phát triển kinh tế theo kiểu khép kín, "đóng cửa", trái
lại phải phát triển nền kinh tế mở, tham gia sâu và rộng phân công lao động
quốc tế. Hơn nữa, do yêu cầu phát triển kinh tế của mình, mỗi nước cần tiếp
cận với thế giới bên ngoài, thực thi nền kinh tế mở, nhằm tranh thủ mọi
nguồn lực (vốn, khoa học - công nghệ hiện đại, kinh nghiệm tổ chức và
quản lý tiên tiến, v.v...) cùng với những ưu thế của phân công lao động quốc
tế để khai thác và phát huy các nguồn lực trong nước, phát triển kinh tế là
tất yếu và hợp quy luật. Đại hội VIII của Đảng NDCM Lào (2006) nhấn
mạnh: "Muốn phát triển đất nước thoát khỏi tình trạng đói nghèo, chúng ta
phải mở rộng quan hệ hợp tác với nước ngoài, lấy kinh tế của đất nước gắn
liền với kinh tế thế giới để phát triển lực lượng sản xuất, làm cho kinh tế
hàng hóa phát triển với tốc độ nhanh, xây dựng đội ngũ công nhân - kỹ
thuật, cán bộ và tiến lên xây dựng cơ cấu kinh tế quốc dân" [100, tr.16]. Đại
hội IX của Đảng NDCM Lào (2011) nhấn mạnh rằng:
122
"Trước sau như một tích cực thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng
và Nhà nước, tạo điều kiện môi trường bên ngoài cho việc phát triển
kinh tế - xã hội và việc bảo vệ Tổ quốc; thực hiện vững chắc chính sách
quan hệ hợp tác kinh tế với khu vực và quốc tế. Trong đó phải tăng
cường hợp tác trong khối ASEAN, hợp tác trong khu vực các nước
sông Mê Kông (GMS); chuẩn bị và tiến tới trở thành thành viên Tổ
chức Thương mại quốc tế (WTO), v.v..." [101, tr.89, 90].
Thực hiện những quan điểm nêu trên, trước hết Lào phải phát huy sức
mạnh của đất nước một cách tích cực, trong đó phải phát huy sức mạnh và đặc
điểm tốt nhất của chế độ dân chủ nhân dân, chủ yếu là chỉnh đốn và phát huy
những bản chất tốt đẹp như: phát huy quyền làm chủ của nhân dân các bộ tộc
Lào, đảm bảo ổn định chính trị và an ninh xã hội cho vững mạnh để tạo điều
kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đưa đất nước
từng bước đi lên và tiến tới hiện đại, đời sống nhân dân được giải quyết tốt
hơn, xã hội có sự đoàn kết và công bằng.
Cần phát huy ưu thế truyền thống VHCT của dân tộc Lào, chủ yếu là
truyền thống yêu nước, đoàn kết, dũng càm và cần cụ chịu khó, chung thuỷ yêu
thương, tinh thần vui vẻ và lòng mến khách, v.v... trên cơ sở phát huy thế mạnh
tài nguyên khoáng sản như: đất, rừng, nguồn nước, khoáng sản, phong cảnh tự
nhiên và môi trường sinh thái, phát huy thế mạnh về vị trí địa lý của đất nước,
xây dựng các trung tâm dịch vụ quốc tế, tăng cường quan hệ hợp tác trao đổi
kinh tế, thương mại và du lịch, mang lại lợi ích cho Tổ quốc.
Thắng lợi của sự nghiệp cải cách, đổi mới, cũng như sự vững mạnh
của chế độ chính trị, sự vững chắc của cơ sở kinh tế đất nước; sự phồn vinh
- bình đẳng về xã hội, sự phong phú về văn hóa; sự vững mạnh về bảo vệ Tổ
quốc và uy tín của đất nước trong diễn đàn quốc tế sẽ ngày càng vang lên và
thu hút sự chú ý, sự ủng hộ của nhân dân các nước trên thế giới. Đảng
123
NDCM Lào xác định sức mạnh của các nước XHCN là yếu tố quan trọng
đối với sự phát triển của nhân loại và là sức mạnh chủ yếu của thời đại. Do
vậy các bộ ngành từ Trung ương đến địa phương phải chú ý đến việc kết
hợp sức mạnh đó nhằm tăng cường hợp tác giúp đỡ lẫn nhau về chính trị,
kinh tế, kỹ thuật - công nghệ, khoa học, văn hóa - giáo dục, an ninh quốc
phòng, ngoại giao, v.v...
Phát huy vai trò của giá trị VHCT truyền thống trong quá trình hợp tác
giúp đỡ trong khu vực và quốc tế là biểu hiện quyết tâm của Đảng và Nhà
nước Lào trong việc đưa đất nước tiến lên theo xu thế của thời đại, tham gia
cạnh tranh và hợp tác với các nước, làm cho nước Lào hội nhập với khu vực và
thế giới, tận dụng sự giúp đỡ và hợp tác trong các lĩnh vực cần thiết và có nhu
cầu, khai thác những tiềm năng trong nước để kết hợp với sức mạnh bên ngoài,
phấn đấu đưa nước CHDCND Lào thoát khỏi danh sách các nước nghèo và
chậm phát triển nhất thế giới.
124
TIỂU KẾT CHƢƠNG 3
VHCT truyền thống Lào hình thành từ trong cội nguồn truyền thống
dân tộc với lịch sử hàng ngàn năm mà nhân dân các bộ tộc Lào cùng nhau
xây dựng và giữ gìn đất nước, được phát triển từ trong thực tiễn đổi mới đã
tác động tích cực trên nhiều mặt, thúc đẩy tiến trình đổi mới và hiện đại hóa
của đất nước.
Lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của các bộ tộc Lào đã hun đúc
nên nhiều giá trị truyền thống quý báu. Dân tộc Lào là một dân tộc có tinh thần
độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường; có lòng yêu nước và đoàn kết; tôn trọng chính
nghĩa, tôn trọng công lý; có tinh thần yêu hòa bình, hữu nghị và hợp tác để tồn
tại và phát triển. Lịch sử của dân tộc Lào là lịch sử chống ngoại xâm dai dẳng
và lâu dài, hai phần ba của thời gian lịch sử dân tộc phải đương đầu với các thế
lực bên ngoài luôn tìm cách thôn tính và đồng hóa. Con người Lào, trí tuệ và
sức mạnh sáng tạo của nhân dân Lào được hình thành trong các phong trào đấu
tranh giải phóng dân tộc và, đến lượt mình, chúng kết tinh trong tư tưởng và
sức mạnh đấu tranh cho độc lập, tự do của tổ quốc, dân tộc, trong bảo vệ và
xây dựng đất nước.
Những giá trị và những tình cảm nói trên kết tụ thành những giá trị
VHCT truyền thống, thành tư tưởng chủ đạo trong đường lối giữ nước và dựng
nước, thành nội dung chính trị của các nhà chính trị, các triều đại trong lịch sử
dân tộc Lào. Đây là vốn giá trị vô giá của nhân dân các bộ tộc Lào nó không
chỉ góp phần làm phong phú kho tàng giá trị VHCT Lào đối với VHCT của các
quốc gia khác trong khu vực và quốc tế, mà còn là kho tàng giá trị to lớn như
là sức mạnh vô giá cho công cuộc bảo vệ đất nước, phát triển kinh tế, xã hội,
văn hóa của nhân dân Lào trong giai đoạn phát triển đất nước theo mục tiêu
XHCN hiện nay và cả trong tương lai.
125
Chƣơng 4
Ý NGHĨA CỦA NHỮNG GIÁ TRỊ VĂN HÓA CHÍNH TRỊ TRUYỀN THỐNG LÀO VỚI CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở CỘNG HOÀ DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO HIỆN NAY
4.1. NHỮNG GÍA TRỊ VĂN HÓA CHÍNH TRỊ TRUYỀN THỐNG LÀO GÓP
PHẦN ĐỊNH HƢỚNG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở CỘNG HOÀ DÂN CHỦ NHÂN
DÂN LÀO HIỆN NAY
4.1.1. Những giá trị văn hóa chính trị truyền thống Lào là nền tảng
tinh thần cho công cuộc đổi mới của Lào
Chủ nghĩa Mác - Lênin và các chủ trương đường lối của Đảng NDCM
Lào đã khẳng định vai trò, tầm quan trọng và tính tất yếu của việc kế thừa, phát
huy các giá trị truyền thống, các di sản tốt đẹp của các thế hệ đi trước trong
việc xây dựng và phát triển quốc gia, dân tộc. Sự phát triển của xã hội, bao giờ
cũng do nhiều nhân tố thúc đẩy. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, rõ ràng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng XHCN đang là mục
tiêu hướng tới của toàn đảng, toàn dân và là một nhiệm vụ lịch sử trọng đại của
cả dân tộc trong những thập niên đầu của thế kỷ XXI.
Để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì cần phải có
nhiều yếu tố: tài nguyên khoáng sản, nguồn vốn, kỹ thuật công nghệ tiên tiến,
v.v... nhưng yếu tố quan trọng nhất vẫn là con người. Con người là nhân tố
hàng đầu, nằm ở trung tâm của sự phát triển. Bởi xét đến cùng các nguồn lực
khác tuy rất quan trọng, nhưng niếu không có những con người có đầy đủ trí
thức văn hóa và đạo đức cách mạng đúng đắn thì cũng không thể phát huy tác
dụng một cách có hiệu quả. Muốn phát huy tối đa nguồn lực con người phục
vụ cho sự phát triển, nhất thiết chúng ta phải làm sống dậy và phát huy sức
mạnh của văn hóa truyền thống trong đó có những giá trị VHCT truyền thống -
yếu tố đã từng làm nên cội nguồn của sức mạnh dân tộc, giúp dân tộc Lào vượt
126
qua muôn vàn khó khăn trong lịch sử. Các văn kiện Đại hội Đảng NDCM Lào
cũng đã khẳng định vấn đề này là: phát huy và giữ gìn truyền thống bản sắc
văn hóa dân tộc; đảm bảo cơ bản phúc lợi xã hội, nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực, phát triển nhân tài, đáp ứng về cơ bản nhu cầu cho công cuộc phát
triển đất nước; củng cố vững chắc an ninh xã hội và hệ thống chính trị dân chủ
nhân dân; mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế và hội nhập vào xu thế phát triển
chung của thời đại.
Đại hội IV Đảng NDCM Lào năm 1986 đánh dấu sự trưởng thành của
Đảng trong chỉ đạo cách mạng bảo vệ và xây dựng chế độ dân chủ nhân dân.
Sau những thử nghiệm từ năm 1979, được thực tiễn và lý luận cách mạng kiểm
chứng, quan điểm đổi mới chính sách và cơ chế quản lý kinh tế được thừa nhận
chính thức trong Đảng tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 6 (khoá
III). Đường lối đổi mới được chính thức tuyên bố tại Đại hội Đảng lần thứ IV.
Những quyết sách chủ yếu của Đại hội về điều chỉnh cơ cấu kinh tế, đổi mới cơ
chế quản lý kinh tế và quan hệ kinh tế với nước ngoài là những nội dung cơ bản
của đổi mới kinh tế. Trong những năm đổi mới từ 1986 đến nay, Lào đã trải qua
các kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế - xã hội (1986 - 1990; 1991 - 1995; 1996 -
2000; 2001 - 2005; 2006 - 2010 và tiến hành thực hiện kế hoạch 5 năm từ 2011 -
2015). Sự phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn này là kết quả của công
cuộc đổi mới đất nước do Đảng NDCM Lào khởi xướng và lãnh đạo.
Để đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ đổi mới, những con người Lào
hiện nay trước hết cần đến các tri thức và năng lực mới. Đó là tinh thần năng
động, sáng tạo dựa trên bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác -
Lênin và chủ trương đường lối của Đảng NDCM Lào; là những thành tựu mới
của khoa học, công nghệ hiện đại; là lòng yêu nước thiết tha của thời kỳ mới
xây dựng đất nước; là ý chí vươn lên vì tương lai của bản thân và tiền đồ phát
triển của dân tộc. Nhưng các yếu tố nêu trên đều liên quan đến truyền thống,
127
đều có sự tác động qua lại với truyền thống, bởi con người dù hiện đại, cũng
đều từ truyền thống đi lên, bản thân họ có nhiều sợi dây hữu hình và vô hình
ràng buộc với truyền thống. Như vậy trong xã hội hiện nay, cả hiện đại và
truyền thống đều là sức sống, sức mạnh tạo nên động lực, trong đó những giá
trị hiện đại là điều kiện cơ bản quy định nội dung và tính chất của công cuộc
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, còn những giá trị VHCT truyền thống là một
trong những cơ sở quy định bước đi và tốc độ của chính quá trình đó.
Theo lẽ thường, những giá trị truyền thống tác động rất mạnh mẽ đến
đời sống hiện đại, đương nhiên là cả mặt tích cực lẫn mặt tiêu cực. Nó có thể
kìm hãm, níu kéo, cũng có thể phát huy, thúc đẩy sự phát triển của hiện tại.
Điều đó phụ thuộc vào truyền thống nào - truyền thống tích cực hay truyền
thống tiêu cực. Điều cần chú ý là, sự tác động tiêu cực từ những thói quen xấu,
những thủ tục lạc hậu thường là tự phát và chi phối hành vi con người một
cách vô thức; còn sự tác động tích cực của truyền thống chỉ thực sự có ý nghĩa
lớn khi nó được thẩm định và phát huy một cách chủ động và tự giác, đúng đắn
và phù hợp
Còn nói đến giá trị văn hóa truyền thống là nói đến mặt tích cực của
chúng. Cũng giống như nói truyền thống và giá trị truyền thống. Truyền thống
thì có giá trị truyền thống tốt đẹp, có giá trị, chúng chứa đựng các yếu tố tích
cực, song chúng cũng chứa đựng nhiều cái lạc hậu, thậm chí là xấu (phong tục,
tập quán lỗi thời chẳng hạn). Còn nói đến giá trị truyền thống thì có nghĩa là ở
đó chỉ bao gồm các yếu tố tốt đẹp, có giá trị, nên chỉ có ý nghĩa tích cực, tất
nhiên vấn đề còn phải là vận dụng, sử dụng chúng như thế nào cho phù hợp thì
yếu tố tích cực mới được phát huy cao độ.
Khi nói đến giá trị, có nghĩa là ta nói tới những gì có ích, có lợi cho con
người, cộng đồng, cho cuộc sống, quốc gia. Không thể nói giá trị xấu, mà chỉ
có thể nói giá trị tốt đẹp. Đây là điều mà cho đến nay nhiều người vẫn hiểu
nhầm, hiểu không đúng, do đó, đã vận dụng vào lý giải các vấn đề lý luận và
128
thực tiễn thiếu chuẩn xác. Giá trị VHCT truyền thống là những giá trị tốt đẹp,
chứa đựng các yếu tố tốt đẹp, tích cực, chúng giúp cho việc hình thành và phát
triển các giá trị chính trị mới, một nền chính trị mới.
Các giá trị chính trị truyền thống và hiện đại của nhân dân Lào và của
nền chính trị Lào là những cái tốt đẹp, tích cực, giúp cho các chủ thể chính trị
(người lãnh đạo, quản lý, nói riêng, tất cả các con người tham gia, thực hiện
các nhiệm vụ chính trị nói chung) hiện nay có được những nhận thức và quan
điểm đúng đắn về chính trị, từ đó tạo cho họ năng lực chính trị tốt, phương
pháp chính trị khoa học, phong cách chính trị phù hợp và hiệu quả cao trong
hoạt động chính trị của mình.
Đối với công cuộc đổi mới để phát triển, để chấn hưng đất nước, phát
triển dân tộc Lào trong thế kỷ XXI, để mở cửa và hội nhập quốc tế, nhất định
chúng ta phải quảng bá những di sản văn hóa, nhưng tinh vinh hoa tư tưởng
chính trị Lào trong giao lưu, tiếp xúc và đối thoại với các nền văn hóa, nền
chính trị của các dân tộc trên thế giới. Điều đó không chỉ có ý nghĩa thuần tuý
về văn hóa, về chính trị mà còn có ý nghĩa to lớn về nhiều mặt kinh tế - xã hội
và đối với sự nghiệp đổi mới của đất nước hiện nay.
Sự nghiệp đổi mới đất nước của nhân dân Lào nói chung, của Đảng
NDCM Lào nói riêng là sự nghiệp đưa đất nước đi lên theo đúng chủ trương,
đường lối, cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Đây là một sự nghiệp đòi hỏi trí tuệ, tài năng, ý chí và lòng quyết tâm lớn
không chỉ của Đảng, Nhà nước, mà là của toàn dân tộc. Nếu đổi mới mà không
xác định các nội dung đổi mới, không vạch ra được đúng và hợp lý đường đi
và các cách thức tiến hành một cách khoa học và phù hợp, thì kết quả của sự
nghiệp đổi mới sẽ chệch hướng hoặc là bế tắc. Điều đó nói lên vai trò to lớn và
quyết định của VHCT nói chung, VHCT của cán bộ, nhân dân Lào nói riêng.
Tri thức chính trị, ý thức chính trị, lý tưởng chính trị, niềm tin chính trị của
VHCT Lào sẽ giúp cho người lãnh đạo, quản lý, cho Đảng NDCM Lào xác
129
định đúng mục tiêu của công cuộc đổi mới, trong hội nhập quốc tế, trong kinh
tế thị trường định hướng XHCN; giúp cho họ vạch ra được các nội dung và
cách thức thực hiện một cách hiệu quả quá trình đổi mới trong tất cả các lĩnh
vực từ kinh tế, chính trị cho đến văn hóa, xã hội. Hệ thống các giá trị VHCT
truyền thống của nhân dân các bộ tộc Lào và của nền chính trị Lào sẽ là sức
mạnh cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân Lào đẩy mạnh công cuộc đổi mới,
làm cho đất nước phát triển không ngừng.
Các giá trị độc lập và tự chủ, tự lực và tự cường là nền tảng tinh thần
cho nhân dân Lào trong giai đoạn hiện nay tăng thêm ý chí và niềm tin quyết
tâm xây dựng chủ nghĩa xã hội, biến chúng thành những giá trị độc lập và tự
do, dựa vào sức mình là chính, tất nhiên tận dụng sự giúp đỡ của các nước anh
em, bạn bè trong khu vực và thế giới, để phát triển đất nước. Lòng yêu nước
cùng với tinh thần đoàn kết dân tộc sẽ giúp con người, nhân dân Lào tăng thêm
nghị lực, làm cho đất nước nhanh chóng giàu mạnh, văn minh. Các giá trị hòa
bình và hữu nghị, hợp tác, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ sẽ mở đường cho nhân
dân Lào hội nhập quốc tế thành công, hợp tác với các nước trong khu vực (như
Việt Nam, Trung quốc, Cămpuchia, Thái Lan, Myanma, v.v...) và các nước
khác trên thế giới để phát triển nhanh đất nước.
Nói tóm lại, VHCT nói chung, VHCT truyền thống của nhân dân Lào
nói riêng là công cụ tinh thần hết sức to lớn và quyết định cho sự phát triển các
đối tượng, các chủ thể, các khía cạnh sau đây của chính trị:
- Giá trị VHCT truyền thống góp phần định hướng giá trị cho hoạt động
của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân trong công cuộc đổi mới;
- Giá trị VHCT truyền thống góp phần định hướng giá trị cho việc xây
dựng và hoàn thiện hệ thống tổ chức bộ máy của Đảng, Nhà nước và đoàn thể
nhân dân trong công cuộc đổi mới;
- Giá trị VHCT truyền thống góp phần định hướng giá trị cho hoạt động
(hành vi) cán bộ và nhân dân Lào trong công cuộc đổi mới;
130
4.1.2. Những giá trị văn hóa chính trị truyền thống Lào là hệ tiêu
chí, hệ chuẩn mực điều tiết quá trình phát triển đất nƣớc Lào hiện nay
VHCT Lào được hình thành từ trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ
nước từ hàng nghìn năm của nhân dân các bộ tộc Lào. Nó là sự kết tinh văn
hóa dân tộc của tất cả các bộ tộc Lào; nghĩa là nó kết tinh toàn bộ những giá trị
đặc sắc và phong phú của các bộ tộc. Đồng thời, lịch sử của đồng bào các dân
tộc Lào là lịch sử đấu tranh anh dũng chống ngoại xâm. Cho nên, lịch sử chính
trị Lào là lịch sử của tinh thần yêu nước và ý chí bảo vệ tổ quốc. Chính từ đó
đã hình thành nên một nền VHCT với rất nhiều các giá trị đã trở thành truyền
thống rất lâu đời của các dân tộc, trở thành truyền thống VHCT Lào. Tinh thần
độc lập và tự chủ, tinh thần tự lực và tự cường là các yếu tố đầu tiên quan trọng
nhất tạo nên tầm vóc oanh liệt của nhà nước CHDCND Lào hiện nay. Các tinh
thần đề cao chính nghĩa và trọng đạo lý chính là các yếu tố tạo nên ý chí quyết
tâm bảo vệ công lý - đó là tinh thần chỉ biết thừa nhận và chấp nhận cái đúng,
đấu tranh đến cùng loại bỏ cái sai. Các giá trị yêu hòa bình, hữu nghị và hợp
tác giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, tất cả chúng là hệ quả của tất cả các giá trị nền
tảng đã nói ở trên. Chỉ có yêu nước, thương dân mới hình thành được các giá
trị độc lập và tự chủ, tự lực và tự cường; và chỉ có tinh thần độc lập và tự chủ
mới đề cao tinh thần tự lực, tự cường, xây dựng và chấn hưng đất nước, làm
cho đất nước thịnh vượng. Chỉ có tinh thần hòa bình và hữu nghị, tương trợ và
giúp đỡ nhau cùng phát triển và tiến bộ mới có được một đất nước độc lập và
tự do, tự chủ.
Có thể nói, toàn bộ hệ thống các giá trị VHCT truyền thống nêu trên của
nền VHCT Lào đều được hình thành và phát triển trong quá trình dựng nước
và giữ nước oai hùng của dân tộc, đồng thời, đến lượt mình, những giá trị đó
lại là hệ quả, hệ tiêu chí và hệ chuẩn mực cho công cuộc đổi mới, xây dựng và
phát triển đất nước Lào ngày hôm nay. Công cuộc đổi mới của nước CHDCND
Lào ngày nay phải được tiến hành trên cơ sở của hệ thống các giá trị: yêu
131
nước, thương dân. Không có tư duy và giá trị yêu nước và thương dân làm tiêu
chí, công cuộc đổi mới chắc chắn sẽ đi chệch hướng - hướng XHCN. Công
cuộc đổi mới ở CHDCND Lào hiện nay phải kết hợp tinh thần độc lập dân tộc
với chủ nghĩa xã hội. Không xây dựng xã hội theo hướng XHCN thì cũng khó
mà thực hiện được mong ước độc lập và tự do cho dân tộc. Ngược lại, độc lập
dân tộc vừa là tiêu chí lại vừa là sức mạnh để nhân dân Lào xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội trên đất nước Lào.
Tự lực, tự cường là tư tưởng lớn quyết định sự thành công của sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Không ai ở bên ngoài lại có thể đem lại
cho nhân dân Lào những thành quả của mình. Chính nhân dân Lào phải tự lấy
sức mình, tài trí của nhân dân để thực hiện công cuộc phát triển kinh tế, đổi
mới và nâng cao đời sống xã hội, phát triển con người, phát triển nền văn hóa
cao quý của dân tộc mình. Tất nhiên, tự lực và tự cường không có nghĩa là
đóng cửa, tự biệt lập mình với thế giới bên ngoài. Đóng cửa, tự biệt lập đất
nước sẽ dẫn đến cô độc, không tiếp nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ của các
nước anh em, bạn bè, của cộng đồng thế giới, không có được các kinh nghiệm
quý báu trong xây dựng và phát triển xã hội của các nước trên thế giới.
Không có sức mạnh bên ngoài đó sẽ hạn chế rất lớn đến kết qua của quá trình
xây dựng và phát triển đất nước.
Hòa bình và hữu nghị là những giá trị quý báu của nền VHCT truyền
thống Lào, chúng không chỉ có ý nghĩa đối với quá khứ dựng nước và giữ
nước mà con hết sức có ý nghĩa trong thời kỳ hiện đại, chúng lại rất phù hợp
với những giá trị và xu thế vận động và phát triển của xã hội hiện đại. Ngày
nay trên thế giới, mặc dù ở đó không thể không xẩy ra những xung khắc, xung
đột. Lợi thế này của VHCT truyền thống Lào là các tiêu chí và các hệ chuẩn
mực để Đảng NDCM Lào tận dụng, phát huy nhằm tăng nhanh quá trình phát
triển xã hội theo mục tiêu hòa bình, độc lập, thống nhất, thịnh vượng của nhân
dân các bộ tộc Lào. Điều đặc biệt quan trọng là các giá trị VHCT truyền thống
132
Lào sẽ làm những nội dung cốt lõi cho các nội dung phát triển kinh tế thị
trường định hướng XHCN ở CHDCND Lào; xây dựng và phát triển nhà nước
pháp quyền XHCN và xây dựng, phát triển nền văn hóa tiên tiến và đậm bản
sắc của các dân tộc Lào hiện nay.
Các giá trị VHCT truyền thống Lào, như đã phân tích ở trên, chính là bộ
lọc để phát triển đúng hướng nền văn hóa Lào, phát triển một xã hội Lào đúng
các phẩm chất như các giá trị VHCT truyền thống Lào đã có; chúng ngăn cản
sự du nhập, các loài giá trị VHCT truyền thống bên ngoài không phù hợp với
các giá trị VHCT truyền thống Lào và truyền thống đạo đức, pháp luật, lối
sống của con người, của nhân dân Lào; đồng thời chúng sẽ phát huy các giá trị
VHCT truyền thống tốt đẹp trong quá trình hội nhập quốc tế nhằm thực hiện sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng như hội nhập quốc tế để phát triển
nhanh đất nước Lào.
Nói cách khác, các giá trị VHCT truyền thống Lào thực sự trở thành bộ
điều tiết toàn bộ quá trình đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước của Đảng
và nhân dân Lào. Nước CHDCND Lào cũng giống như một số nước nghèo
phấn đấu để đi lên chủ nghĩa xã hội, có nhiều nét giống với Việt Nam. Điều
quan trọng nhất là mục tiêu chính trị của hai nước đều là đi lên chủ nghĩa xã
hội - xây dựng đất nước giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Các giá trị
VHCT truyền thống Lào là hệ thống giá trị làm bộ điều tiết quan trọng cho
mục tiêu phát triển đó. Đảng NDCM Lào, toàn dân toàn quân Lào tiếp thu
kinh nghiệm của Việt Nam, cùng với tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự
cường, phát huy tinh thần và năng lực sáng tạo của toàn dân tộc để sử dụng
bộ tiêu chí, bộ điều tiết trong VHCT truyền thống của dân tộc mình, chắc
chắn sẽ hướng sự nghiệp đổi mới đất nước đúng hướng, bảo đảm phẩm chất
tiến bộ của một xã hội tiến bộ - xã hội XHCN.
VHCT truyền thống Lào là toàn bộ những giá trị, năng lực, trình độ,
phương thức chính trị của con người - dân tộc Lào trong lịch sử; là năng lực,
133
trình độ, phương thức hoạt động chính trị mang trong mỗi chủ thể chính trị của
dân tộc lào; và từ đó cũng thể hiện trình độ phát triển toàn diện các phẩm chất
của các chủ thể chính trị. Bản chất, năng lực của nền chính trị, của các chủ thể
chính trị dân tộc lại trở thành những giá trị VHCT truyền thống của dân tộc
Lào, kho báu để các thế hệ sau kế thừa sự nghiệp của thế hệ trước, các thế hệ
kế tiếp nhau thúc đầy nền văn hóa phát triển.
Kế thừa phát triển những ý nghĩa VHCT truyền thống trong công cuộc
đổi mới ở Lào hiện nay, đòi hỏi phải thấm nhuần quan điểm và các biện pháp
về phát triển, xử lý nhuần nhuyễn mối quan hệ giữa cái cũ và cái mới, giữa kế
thừa và phát triển các giá trị VHCT truyền thống. Kế thừa phát triển những ý
nghĩa VHCT truyền thống và xây dựng VHCT mới trở thành một bộ phận
không tách rời của chiến lược xây dựng và phát triển văn hóa, trước hết cần
chú trọng đặc biệt tới các ý nghĩa tốt đẹp cùng tồn tại trong quá trình phát triển
lịch sử của nhân dân các bộ tộc Lào như: tinh thần yêu nước, tinh thần cộng
đồng, lối sống văn hóa, giá trị Phật giáo, v.v… Các giá trị đó đã góp phần thúc
đẩy những vấn đề nổi bật và bức xúc trong công cuộc đổi mới ở nước
CHDCND Lào hiện nay.
Tiến hành tuyên truyền những ý nghĩa VHCT truyền thống gắn liền mật
thiết giữa giáo dục tuyên truyền đường lối quan điểm của Đảng, chính sách
pháp luật của Nhà nước với việc nâng cao ảnh hưởng thực tế của đường lối
chính sách ấy trong đời sống xã hội, thực hiện công phu và lâu dài việc giáo
dục ý thức chính trị, giáo dục đạo đức và tình cảm cách mạng, nâng cao trình
độ học vấn và dân trí nói chung để quần chúng tham gia vào hoạt động chính
trị một cách chủ động, tích cực và sáng tạo.
Thực hành rộng rãi những giá trị VHCT truyền thống một cách thiết
thực, cụ thể hiện nay là thực hành dân chủ, là đấu tranh với tệ nạn quan liêu và
tham nhũng. Đấu tranh với mọi biểu hiện vi phạm dân chủ và quyền làm chủ
của dân, vi phạm pháp luật, kỷ luật, sự suy thoái của tư tưởng, đạo đức, lối
134
sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên nhất là những người có chức
có quyền. Đó là cách tốt nhất để mỗi người thể hiện thái độ chính trị tích cực,
bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước, chế độ và nhân dân. Để làm cho văn hóa, trong
đó có giá trị VHCT truyền thống thấm sâu vào lời sống nhân dân trước hết
phải chú trọng giáo dục VHCT trong Đảng, trong Nhà nước và trong các đoàn
thể chính trị xã hội của quần chúng, đặc biệt là trong Đảng, từ các tổ chức
Đảng ở cơ sở đến toàn Đảng. Cán bộ đảng viên phải làm gương mẫu cho quần
chúng nên việc giáo dục và thực hành VHCT trong Đảng, trong các cơ quan
Nhà nước phải được chú trọng và thực hành thường xuyên. Việc vận động xây
dựng Đảng trong sạch vững mạnh và xây dựng Nhà nước pháp quyền thấm
nhuần những giá trị VHCT phải đạt được những chuyển biến căn bản, được
nhân dân thừa nhận, tin tưởng và được thiết phục bởi hành động của từng cán
bộ, đảng viên ra sức làm điều lợi cho nhân dân và mưu cầu hạnh phúc cho dân,
lời nói phải đi đôi với việc làm.
Kế thừa phát triển những ý nghĩa VHCT truyền thống trong công cuộc đổi
mới phải chú trọng đầy đủ những tiêu chuẩn, những giá trị và chuẩn mực, trước
hết là đạo đức cách mạng, là năng lực trong công tác thực tế, là năng lực vận động
quần chúng và đề cao trách nhiệm với dân. Thực sự quan tâm và thường xuyên
bồi dưỡng VHCT của người cầm quyền, người lãnh đạo, quản lý của công chức
nhà nước. Cùng với VHCT của tổ chức, của đoàn thể để góp phần ngăn chặn tình
trạng biến dạng, tha hóa quyền lực của những người cầm quyền.
4.2. NHỮNG GIÁ TRỊ VĂN HÓA CHÍNH TRỊ TRUYỀN THỐNG LÀO VỚI
VIỆC XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ CÁN BỘ Ở CỘNG HOÀ DÂN CHỦ
NHÂN DÂN LÀO HIỆN NAY
4.2.1. Những giá trị văn hóa chính trị truyền thống Lào với sự phát
triển đội ngũ cán bộ ở Lào nói chung
Công cuộc đổi mới ở CHDCND Lào đòi hỏi một tổng lực của sức mạnh
toàn dân dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng NDCM Lào. Đảng NDCM Lào
135
vạch ra đường lối và cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Nhà nước Lào thể chế hóa đường lối và cương lĩnh xây dựng đất
nước đó. Toàn quân toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng phát huy mọi lực
lượng từ tài trí đến của cải, thời gian, con người, thực hiện công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, trong cái tổng lực sức mạnh đó cán bộ là lực lượng chủ
chốt và quyết định của việc thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới. Cán bộ
là một đội ngũ đông đủ, bao gồm những người lãnh đạo, quản lý, trong đó
có cán bộ lãnh đạo cấp cao ở trung ương, cán bộ ở các địa phương (tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương, thành phố thuộc tỉnh; có cán bộ chính
quyền (cán bộ nhà nước các cấp); có cán bộ đảng (cũng từ trung ương đến
cơ sở); có cán bộ các ngành (kinh tế, xã hội, văn hóa, công nghiệp, nông
nghiệp, lâm nghiệp, v.v...); có cán bộ đoàn thể (Mặt trận, thanh niên, phụ
nữ, công đoàn, v.v...). Đó là đội ngũ những người giữ những vị trí, vai trò và
thực hiện các chức năng, nhiệm vụ thuộc lĩnh vực mình được Đảng và Nhà
nước, Đoàn thể giao phó, nhằm hoàn thành các công việc, sự nghiệp chung
của cả hệ thống chính trị, cuối cùng là hoàn thành sự nghiệp đổi mới đất
nước, đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Cán bộ ở mỗi cấp, mỗi ngành đều có các chức năng và nhiệm vụ khác
nhau, do đó cần đến những phẩm chất, những năng lực và các yêu cầu thực tế
khác nhau. Nhưng chung quy lại, cán bộ dù ở cấp nào đều phải có phẩm chất
đạo đức, trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, Nhà nước, nhân dân,
suốt đời tận tuỵ phục vụ Đảng, Nhà nước, nhân dân; muốn vậy, thứ nhất, cán
bộ phải là người chí công vô tư, cần kiệm liêm chính, có tinh thần phục vụ
nhân dân vô điều kiện, nếu cần thì vì Tổ quốc, vì nhân dân mà sẵn sàng hy sinh
quyền lợi, lợi ích cá nhân. Thứ hai, để hoàn thành công việc được giao, cán bộ
phải có trình độ và năng lực chuyên môn ở mức độ đáp ứng được tốt công việc
tương ứng với chức vụ của mình. Vì vậy cán bộ luôn luôn phải nâng cao trình
136
độ, hiểu biết, tri thức, từ đó nâng cao năng lực chuyên môn. Có như vậy người
cán bộ mới có thể hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước và nhân
dân tin tưởng giao phó.
Nói tóm lại, cán bộ của hệ thống chính trị của nước CHDCND Lào phải
đáp ứng các yêu cầu về đức và tài để thực hiện tốt các trọng trách của hệ thống
chính trị. Đó thực sự là những con người có văn hóa: văn hóa chung, văn hóa
dân tộc, văn hóa chuyên môn, văn hóa lao động, văn hóa lối sống, văn hóa ứng
xử, văn hóa pháp luật, văn hóa đạo đức, văn hóa thẩm mỹ, v.v… Nhưng một
loại văn hóa chung nhất và đặc thù nhất của cán bộ, đó là văn hóa chính trị.
Người lãnh đạo lại phải có văn hóa lãnh đạo, người quản lý phải có văn hóa
quản lý; trong lãnh đạo lại phải có văn hóa lãnh đạo chính trị; trong quản lý
phải có văn hóa quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, v.v…
Văn hóa chính trị Lào với các giá trị truyền thống quý báu của nó có vai
trò cực kỳ quan trọng trong việc hình thành, cổ vũ, phát triển các phẩm chất về
đức và tài của người cán bộ, đặc biệt nó có vai trò to lớn trong việc hình thành
và phát triển các phẩm chất VHCT của đội ngũ cán bộ Lào hiện nay.
Chức năng và nhiệm vụ của cán bộ lãnh đạo trong công cuộc đổi mới là
rất quan trọng và nặng nề. Hồ Chí Minh từng căn dặn rằng, cán bộ là cái gốc
của mọi thành công. Không phải bất kỳ người nào cũng có thể trở thành cán bộ
lãnh đạo mà phải là những ai đáp ứng được yêu cầu và những phẩm chất nhất
định mới có thể gánh vác được nhiệm vụ vinh quang nhưng cũng khó khăn
phức tạp này. Yêu cầu VHCT của đội ngũ cán bộ ở nước CHDCND Lào hiện
nay là hướng đến xây dựng người cán bộ lãnh đạo vững mạnh, kiên định với
mục tiêu và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, là người tiêu biểu cho lý
tưởng cách mạng, có lòng trung thành tuyệt đối với Tổ quốc và nhân dân,
trung thành với lý tưởng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của
toàn dân tộc. Thực tiễn sự nghiệp đổi mới của nhân dân Lào sẽ phát triển các
phẩm chất VHCT ở đội ngũ cán bộ. Mặt khác, dưới sự lãnh đạo của Đảng
137
NDCM Lào, những giá trị VHCT truyền thống với đội ngũ cán bộ được phát
triển, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới của đất nước. VHCT truyền
thống Lào sẽ:
- Phát triển ở đội ngũ cán bộ giác ngộ về lý tưởng chính trị: Người cán
bộ lãnh đạo ở nước Lào phải là người giác ngộ sâu sắc về lý tưởng Cộng sản
chủ nghĩa. Phải đạt được trình độ giác ngộ chính trị để có thể nhận thức rõ
chức trách thiêng liêng và sứ mệnh cao cả của bản thân, từ đó trang bị cho
mình những phẩm chất cần có của nhà chính trị mác xít, dù trước bất kỳ sóng
gió nào cũng giữ vững sự kiên trì và tỉnh táo về mạt chính trị, không bị lạc
phương hướng chính trị. Sự giác ngộ về lý tưởng, lòng trung thành vô hạn với
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Cay Xỏn PhônViHản và quan điểm của Đảng
NDCM Lào và sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản là thước đo quan
trọng nhất để phân biệt đội ngũ cán bộ lãnh đạo của nước Lào hiện nay.
- Phát triển đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ nói chung, cán bộ
lãnh đạo, quản lý nói riêng: §ội ngũ cán bộ là người phát huy ảnh hưởng lớn
đối với quần chúng nhân dân. Phẩm chất đạo đức vừa là một phương diện quan
trọng quyết định giá trị của bản thân đội ngũ lãnh đạo vừa là nguồn gốc chủ
yếu sinh ra những ảnh hưởng mang tính tự nhiên đối với người khác. Đội ngũ
cán bộ lãnh đạo với tư cách là một tổ chức có nhận được sự ủng hộ nhiệt tình
của các thành viên hay không, trên một mức độ rất lớn được quyết định bởi sự
tu dưỡng phẩm cách đạo đức của người đó. Chỉ có phẩm cách tốt mới có thể
khiến cho quần chúng thừa nhận, từ đó mà giao cho quyền lực tương ứng. Hồ
Chí Minh cực kỳ quan tâm đến vấn đề đạo đức cách mạng, Người viết "Người
cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được
nhiệm vụ cách mạng vẻ vang" [50, tr.253]. Đạo đức trở thành một nhân tố có
tính quyết định, mọi việc thành hay bại là do cán bộ thấm nhuần đạo đức cách
mạng hay không.
138
VHCT của đội ngũ cán bộ Lào hiện nay có sự chuyển biến mang tính
bước ngoặt, đặc biệt là về phẩm chất đạo đức của những người lãnh đạo. Nhiều
chuẩn mực đạo đức của đội ngũ cán bộ theo truyền thống và đạo đức lãnh đạo
thời kỳ bao cấp đã được thay đổi căn bản theo quan niệm mới. Công cuộc đổi
mới đã giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất, khơi dậy tiềm năng của mỗi cá
nhân, kích thích và thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển VHCT mới. Sự
kết hợp giữa phát triển kinh tế vừa kế thừa và phát huy những giá trị VHCT
truyền thống tốt đẹp đã và đang diễn ra trong công cuộc đổi mới ở Lào hiện
nay, mang lại những tác động hết sức tích cực; nó được phản ánh thông qua kết
quả hoạt động của đội ngũ cán bộ đảng viên trên các lĩnh vực của đời sống xã
hội - từ lĩnh vực kinh tế đến lĩnh vực chính trị, xã hội, văn hóa, khoa học, giáo
dục, y tế, thể dục thể thao, v.v…
- Nâng cao rình độ và năng lực hoạt động (lãnh đạo, quản lý, thực hiện
các nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước, Nhân dân giao phó) của người cán bộ:
Công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước Lào trong điều kiện toàn cầu hoá, hội
nhập quốc tế, nhất là trong điều kiện của nền kinh tế thị trường - môi trường và
điều kiện hoàn toàn mới đối với truyền thống Lào, trong điều kiện xây dựng
nhà nước pháp quyền, đòi hỏi ở người cán bộ nói chung và cán bộ lãnh đạo,
quản lý nói riêng một trình độ hoàn toàn mới - phải có kiến thức về kinh tế,
văn hóa, xã hội; có hiểu biết sâu về các lĩnh vực lãnh đạo, quản lý trong các
lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, trong hoạt động chuyên môn.
Đó là các yêu cầu về năng lực hoạt động của đội ngũ cán bộ đáp ứng sự
nghiệp đổi mới ở Lào hiện nay. Quá trình hoạt động thực tiễn sẽ từng bước
nâng cao chất lượng về năng lực của đội ngũ cán bộ, song mặt khác, bản thân
mỗi người cán bộ lại phải không ngừng hoạ tập, rèn luyện để không ngừng
nâng cao khả năng, kỹ năng hoạt động đáp ứng các công việc cụ thể của mỗi
người thích hợp với nhiệm vụ được giao. VHCT với các giá trị phong phú và
quý báu sẽ giúp cho mỗi người cán bộ được nâng cao về từng phẩm chất, từng
năng lực và các kỹ năng cần thiết của họ.
139
- Hình thành và hoàn thiện phong cách, nhân cách mới của đội ngũ cán
bộ: Việc đánh giá đội ngũ cán bộ không chỉ căn cứ vào chỗ người đó làm gì,
mà còn căn cứ vào đội ngũ đó làm việc như thế nào? Đó chính là phong cách
được hiểu theo nghĩa là những cung cách làm việc, hoạt động, sinh hoạt, ứng
xử, xử sự tạo nên cái riêng ở một người hay một loại người nào đó. Và phong
cách lãnh đạo chính là kiểu hoạt động lãnh đạo được hình thành trên cơ sở kết
hợp chặt chẽ và tác động qua lại biện chứng giữa yếu tố tâm lý chủ quan của
người lãnh đạo và yếu tố môi trường xã hội trong hệ thống lãnh đạo.
Bản chất của phong cách lãnh đạo là hệ thống những phương pháp, thủ
thuật, kiểu nhận thức, phản ứng, hành động tương đối ổn định của đội ngũ cán
bộ trong hoạt động, chúng quy định sự khác biệt của cá nhân. Nó giúp cá nhân
thích ứng với môi trường sống để tồn tại và phát triển. Phong cách lãnh đạo
của đội ngũ cán bộ Lào hiện nay được quy định bởi chức năng, nhiệm vụ, tổng
thể những phẩm chất, tri thức, điều kiện hoạt động và điều kiện sinh sống của
người lãnh đạo, của người cán bộ.
4.2.2. Những giá trị văn hóa chính trị truyền thống Lào với sự phát
triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
Với bản chất của công cuộc đổi mới, người lãnh đạo, quản lý trong bất
cứ lĩnh vực nào, tình huống nào cũng phải là những chủ thể hội đủ các phẩm
chất và năng lực tương ứng. Người lãnh đạo, quản lý là người chịu trách nhiệm
tổ chức những người dưới quyền thực hiện các nhiệm vụ do Đảng, Nhà nước,
cơ quan, tổ chức giao cho; là đầu não biết lựa chọn những giải pháp tối ưu để
chỉ huy, điều khiển bộ máy hoạt động một cách có hiệu quả nhất. Lãnh đạo
công cuộc đổi mới là công việc lớn lao, trọng đại và đầy tính sáng tạo, ở đó
phải kết hợp một cách nhuần nhuyễn giữa khoa học và nghệ thuật, cần năng
lực nhìn nhận và phân tích, biết liên kết và tổng hợp, điều hòa vô vàn mối quan
hệ để vạch ra được chủ trương, đường lối, chiến lược, sách lược, từ đó điều
hành toàn bộ công việc nhằm đạt mục tiêu cao nhất. VHCT Lào với các giá trị
140
của một số người lãnh đạo, quản lý có điều kiện phát triển nhanh các yếu tố
nêu trên.
Người lãnh đạo trong công cuộc đổi mới phải vừa là chủ thể có những
phẩm chất phù hợp với xã hội hiện đại, vừa phải có đủ năng lực để lãnh đạo
cấp dưới thực hiện nhiệm vụ cách mạng này. Phẩm chất và năng lực, dù là xuất
sắc của người lãnh đạo, quản lý trong các giai đoạn trước đây không thể đáp
ứng được những đòi hỏi của xã hội hiện đại. Người lãnh đạo, quản lý Lào hiện
nay phải là chủ thể làm chủ các phương tiện khoa học, công nghệ, thông tin
hiện đại, nắm được cơ cấu và phương thức vận hành của các quá trính sản
xuất, của công nghiệp hóa và hiện đại hóa, của nền sản xuất XHCN; vừa phải
nâng cao tính độc lập, vừa đặt mình trong tổng thể cơ cấu thống nhất của một
xã hội được tổ chức và vận hành ở trình độ cao. Các giá trị VHCT truyền thống
Lào có thể giúp những người lãnh đạo, quản lý từng bước tiếp cận các phẩm
chất và năng lực đó của họ.
Phẩm chất của người lãnh đạo, quản lý, theo nghĩa rộng chứa đựng toàn
bộ tri thức, văn hóa, tình cảm, trình độ chuyên môn cũng như các yếu tố về khí
chất, tinh thần, đạo đức. Bởi vì trong công cuộc đổi mới, tri thức và văn hóa là
các yếu tố rất quan trong quyết định ý thức và đạo đức của người lãnh đạo,
quản lý; nhân cách người lãnh đạo, quản lý không chỉ là phẩm chất, ý thức, đạo
đức, mà còn là hành động và tài năng cống hiến cho xã hội. VHCT Lào thấm
đậm và hình thành các yếu tố đó ở người lãnh đạo, quản lý của Lào trong môi
trường hiện nay.
Trong công cuộc đổi mới, lý tưởng chính trị - xã hội là yếu tố quyết định
phẩm chất của người lãnh đạo, quản lý, vì nó chi phối suy nghĩ, hành động và
mục tiêu vươn tới của người lãnh đạo, quản lý. Lý tưởng của người lãnh đạo là
lý tưởng cộng sản chủ nghĩa. Lý tưởng này là thực hiện thành công sự nghiệp
đổi mới theo hướng XHCN. Trung thành với lý tưởng đó là phẩm chất bắt
bước đối với người lãnh đạo, quản lý hiện nay. Người lãnh đạo phải hiểu được
141
tính tất yếu của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời cũng phải hiểu
được tính khó khăn phức tạp của quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa,
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tinh thần quyết tâm xây dựng đất nước trong
VHCT Lào là cơ sở cho sự hình thành phẩm chất nêu trên.
Lý tưởng XHCN, sự nhận thức sâu sắc bản chất của công nghiệp hóa và
hiện đại hóa với khả năng phát triển nền kinh tế, xã hội và con người, chính là
cơ sở tạo niềm tin vững chắc vào công cuộc đổi mới, tạo nên tinh thần tự
nguyện thực hiện mục tiêu chủ nghĩa xã hội. Ý chí độc lập, tự chủ, tự lực tự
cường của VHCT Lào là nguồn sức mạnh bên trong tạo nên sức mạnh, động
lực vật chất để chủ thể lãnh đạo, quản lý triển khai kế hoạch, thực hiện mục
tiêu đổi mới. Từ đó, người lãnh đạo, quản lý phát huy cao độ tính tích cực, chủ
động tìm tòi, vượt qua mọi trở ngại, khám phá và sáng tạo, quyết tâm chiếm
được mục tiêu của sự nghiệp đổi mới đất nước.
Những phẩm chất của người lãnh đạo, quản lý trong công cuộc đổi mới đất
nước hiện nay được các giá trị VHCT Lào như tinh thần yêu nước, lòng thương
dân, yêu công lý, trong chính nghĩa, yêu hoà bình và hữu nghị và hợp tác v.v... sẽ
hình thành, bồi đắp nên ý chí quyết tâm vượt khó, khám phá và sáng tạo, nhằm
thực hiện công cuộc đổi mới, đưa đất nước tới giàu mạnh, văn minh.
Để thực hiện được công cuộc đổi mới, người lãnh đạo, quản lý cũng
phải thật sự vì nước, vì dân, lo trước thiên hạ, vui và hưởng sau thiên hạ; cần
kiệm liêm chính, chí công vô tư, hết lòng cống hiến sức lực và tài năng cho
Đảng, cho nhân dân, hết lòng trung thành với Đảng, với nhân dân. Đây là
những phẩm chất phù hợp với những giá trị của VHCT Lào, chúng tương tác
lẫn nhau trong quá trình hình thành và phát triển các phẩm chất của người lãnh
đạo, quản lý.
Những phẩm chất quan trọng của người lãnh đạo, quản lý đáp ứng công
cuộc đổi mới biểu hiện sâu sắc trong nền VHCT cao, thể hiện trong cả xu hướng
và mục tiêu chính trị đúng đắn và khoa học trong văn hóa cầm quyền, xây dựng
142
hệ thống chính trị, thiết chế chính trị, trong văn hóa dân chủ, văn hóa pháp luật,
văn hóa ứng xử, v.v... VHCT cao vừa là yêu cầu vừa là phương tiện để người
cán bộ lãnh đạo, quản lý thực hiện xuất sắc các nhiệm vụ của mình.
Nhưng, các phẩm chất cách mạng như lý tưởng, niềm tin, ý chí, đạo
đức và VHCT, chỉ có tác dụng thúc đẩy bởi nguồn năng lượng cao độ bên
trong của mối chủ thể lãnh đạo, quản lý, đó chính là năng lực của bản thân
người lãnh đạo, quản lý. Năng lực của bản thân người lãnh đạo, quản lý là
khả năng thực hiện công việc, nhiệm vụ được cấp trên giao cho chủ thể lãnh
đạo, quản lý.
Yếu tố đầu tiên của năng lực của người lãnh đạo, quản lý là tri thức
chung - nền kiến thức tổng hợp do kiến thức và kinh nghiệm của loài người và
của cả dân tộc đem lại tạo nên trình độ hiểu biết rộng và sâu. Yếu tố thứ hai
của người lãnh đạo, quản lý đáp ứng yêu cầu đổi mới là chuyên môn - cái nền
kiến thức khoa học và trường đời rộng lớn làm nên kỹ năng của người lãnh
đạo, quản lý. Trình độ chuyên môn phải ngang tầm thời đại mà chúng ta thực
hiện công cuộc đổi mới. Điều này quy định thiên hướng lãnh đạo, quản lý
riêng của cá nhân người lãnh đạo, quản lý; mỗi người lãnh đạo, quản lý có một
lĩnh vực chuyên sâu, đó là cái tạo nên thế mạnh riêng của từng người lãnh đạo,
quản lý mà không ai có thể thay thế. VHCT Lào vốn phong phú các giá trị làm
nền tảng kiến thức, kinh nghiệm cho sự phát triển các yếu tố nêu trên của
người lãnh đạo, quản lý.
Tri thức chung và chuyên môn hợp thành trí tuệ người lãnh đạo, quản
lý, cùng với các phẩm chất đạo đức và trí tuệ làm thành các phẩm chất đức -
tài tổng hợp, gọi là năng lực ở một người lãnh đạo, quản lý, đáp ứng yêu cầu
của công cuộc đổi mới ở Lào hiện nay. Năng lực không chỉ nằm yên ở trạng
thái tĩnh, nó phải được bộc lộ ra trong hoạt động của người lãnh đạo, quản lý,
đó là năng lực hoạt động thực tiễn. Người lãnh đạo, quản lý tỏ rõ tài năng
lãnh đạo, quản lý của mình khi anh ta vận dụng toàn bộ các tiềm năng sáng
143
tạo vào trong quá trình điều hành công việc lãnh đạo, quản lý, v.v... Vai trò,
giá trị của người lãnh đạo, quản lý thể hiện ở kết quả và hiệu quả lãnh đạo,
quản lý đó.
Người lãnh đạo về đảng trong công cuộc đổi mới thể hiện trình độ, năng
lực lãnh đạo của mình trong định hướng, xã định kế hoạch, biện pháp, động
viên, huy động quần chúng, người dưới quyền thực hiện. Người quản lý nhà
nước thể hiện năng lực quản lý của mình trong việc hoạch định chính sách nhà
nước, các mục tiêu kinh tế - xã hội phù hợp với các điều kiện thực tế của đất
nước Lào, với xu thế chung của thời đại và các nước trên thế giới, với nguyện
vọng và lợi ích của nhân dân. Người lãnh đạo chính trị giỏi là người có khả
năng phân tích tình hình, phát hiện mâu thuẫn xã hội, mâu thuẫn giai cấp, quan
hệ dân tộc và quốc tế, đề ra kế hoạch đúng đắn và phù hợp, dùng khoa học và
nghệ thuật chính trị để xử lý các tình huống một cách khéo léo, tổ chức quần
chúng thực hiện tốt các nhiệm vụ, đem lại kết quả chính trị cao. Tiếp thu và
vận dụng các giá trị VHCT truyên thống Lào sẽ giúp người lãnh đạo, quản lý
phát triển và phát huy được các yêu cầu nêu trên.
Những yêu cầu và đòi hỏi của công cuộc đổi mới đất nước đối với người
lãnh đạo, quản lý là hết sức to lớn. Người lãnh đạo, quản lý đáp ứng công cuộc
đổi mới còn là phải có tư duy lý luận, là cầu nối giữa nhà khoa học và nhà tác
nghiệp, biết vận dụng lý luận, quan điểm, đường lối của đảng, chính sách của
nhà nước vào lĩnh vực lãnh đạo, quản lý cụ thể của mình. Người lãnh đạo
chính trị phải có xu hướng chính trị đúng đắn, giới vận dụng khoa học và nghệ
thuật chính trị vào tổ chức, điều hành bộ máy mà mình hoạt động, thực hiện
hiệu quả mục tiêu chính trị của đảng và nhà nước. Người lãnh đạo chính trị còn
phải có khả năng sử dụng quyền lực của đảng, nhà nước và nhân dân để tổ
chức, chỉ huy tập thể dưới quyền, phải có khả năng sử dụng quyền lực vào việc
thực thi đường lối, chính sách của đảng và nhà nước theo hướng tiến bộ của xã
144
hội. VHCT Lào là nền tảng và tiêu chí cho sự hình thành và phát triển các yếu
tố quan trọng nêu trên ở người cán bộ lãnh đạo, quản lý.
VHCT truyền thống Lào sẽ là nền tảng, điều kiện cho sự hình thành và
phát triển ở người cán bộ lãnh đạo, quản lý các phẩm chất sau:
- Có tầm nhìn thời đại, có trình độ và khả năng phù hợp với bản chất và
đòi hỏi của công cuộc đổi mới đất nước;
- Có nhân cách lãnh đạo, quản lý phù hợp với tinh thần, tính chất, nhịp
độ của công nghiệp hoá và hiện đại hoá và với những đặc điểm của thời đại;
- Có tư duy khoa học phù hợp với tư duy hiện đại, phù hợp với tính chất
và đặc điểm của xã hội công nghiệp, kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền;
- Có lối sống phù hợp với lối sống hiện đại, biểu hiện trong năng lực và
tư duy nhanh nhạy, sắc bén, uyển chuyển và sáng tạo;
- Phát triển các tư chất đặc thù của người lãnh đạo, quản lý như: vững
vàng về tinh thần, phát triển sâu và phong phú về thế giới nội tâm, hài hoà giữa
lý trí và tình cảm;
- Có tri thức và kinh nghiệm phát triển tương ứng với tính chất công việc
được phân công, có tri thức tổng hợp và chuyên sâu;
- Có trình độ cao cả về hiểu biết cũng như các thao tác, kỹ thuật lãnh đạo
và quản lý, xử lý tình huống chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá, v.v...;
- Có khả năng thu hút mọi người và quy tụ họ xung quanh mình, tổ chức
và huy động, phát huy sức mạnh tổng hợp của tập thể để thực hiện các mục
tiêu chung;
- Biết chỉ đạo những vấn đề, hiện tượng có thể xảy ra trong hiện tại và
tương lai; đồng thời dự báo xu hướng và phương thức giải quyết chúng trong
những điều kiện khó khăn, phức tạp, v.v...;
- Hình thành các tính cách quyết đoán, táo bạo, chắc chắn trong việc đưa
ra những quyết định cũng như chỉ đạo và hành động thực tiễn.
145
4.3. NHỮNG GIÁ TRỊ VĂN HÓA CHÍNH TRỊ TRUYỀN THỐNG LÀO
TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN VĂN HÓA CHÍNH TRỊ Ở CỘNG HOÀ DÂN CHỦ
NHÂN DÂN LÀO HIỆN NAY
Trong điều kiện đổi mới toàn diện theo định hướng XHCN ở nước
CHDCND Lào, chúng ta phải tìm ra cách phát triển theo triết lý phát triển phù
hợp với con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa,
chưa có tiền lệ trong lịch sử nhân loại. Một triết lý đảm bảo thành công ở nước
Lào không thể không dựa trên cơ sở kế thừa những giá trị VHCT truyền thống
tốt đẹp của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, nhất là những thành
tựu của văn minh đương đại. Nhưng cũng phải xác định đây là một quá trình
cách mạng đầy khó khăn, phức tạp đòi hỏi nhiều thời gian, nhiều giải pháp,
phải thực hiện kiên trì, đồng bộ. Cụ thể:
Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng NDCM Lào nhằm kế thừa
những giá trị VHCT truyền thống trong việc phát huy những mặt tích cực, hạn
chế những mặt tiêu cực: Sự phát triển của văn hóa và VHCT chịu sự quy định
của cơ sở kinh tế - xã hội. Nếu tách rời cơ sở kinh tế - xã hội sẽ không thể hiểu
được nội dung và bản chất của VHCT. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
nhằm phát huy vai trò của VHCT trong việc khắc phục những hạn chế của kinh
tế thị trường là tiếp tục phát huy sức mạnh về nhận thức tư tưởng chính trị,
khoa học và việc triển khai những tư tưởng chỉ đạo bằng chủ trương, chính
sách cụ thể vào cuộc sống; đồng thời tiến hành kiểm tra, tổng kết để chuẩn bị
cho việc xây dựng chủ trương, chính sách mới. Điều quan trọng trong sự lãnh
đạo của Đảng là phải đổi mới tư duy về phát triển VHCT trong điều kiện phát
triển nền kinh tế thị trường hiện nay; phải thấy rằng, VHCT không phải là lĩnh
vực phi sản xuất vật chất, không phải là cái đuôi của kinh tế mà là một động
lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội; VHCT còn là nhân tố tạo tiền lệ cho
sự phát triển, nó vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
146
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng NDCM Lào nhằm phát huy vai trò
của VHCT trong việc khắc phục những hạn chế của kinh tế - xã hội phải gắn
liền với việc xây dựng chỉnh đốn Đảng, nâng cao trình độ nhận thức của cán
bộ, đảng viên về chính trị nói chung, VHCT nói riêng; đồng thời cán bộ, đảng
viên phải đi đầu trong xây dựng nếp sống văn minh, tác phong dân chủ, thấm
nhuần tư tưởng "phục vụ nhân dân", hoàn thiện nhân cách. Theo đó, phải làm
trong sạch đội ngũ đảng viên, xây dựng cho được một nề nếp VHCT trong
Đảng, trong bộ máy nhà nước. Mỗi cán bộ đảng viên dù ở cương vị công tác
nào đều phải thấy hết trách nhiệm của mình, không ngừng tự rèn luyện, tự
phấn đấu để nâng cao đạo đức cách mạng, khắc phục chủ nghĩa cá nhân. Các
tổ chức đảng phải kịp thời biểu dương những cán bộ, đảng viên thực hiện tốt
điều lệ và cương lĩnh của Đảng, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, thường
xuyên nêu gương những điển hình tiên tiến, nhưng đồng thời Đảng cũng kiên
quyết xử lý kỷ luật những cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất, vi phạm điều
lệ Đảng và pháp luật Nhà nước, bất kể họ là ai, ở cương vị nào.
Như vậy, chất lượng và hiệu quả sự lãnh đạo của Đảng trong lĩnh vực
VHCT đã và sẽ là nhân tố quyết định sự thành công trong sự nghiệp xây dựng
nền VHCT Lào vừa tiên tiến, vừa đậm đà bản sắc dân tộc, vừa đóng góp vào
việc khắc phục những hạn chế của kinh tế - xã hội ở nước Lào.
Hai là, Kế thừa những giá trị VHCT truyền thống Lào phải xây dựng
môi trường VHCT lành mạnh để khắc phục những hạn chế của nền kinh tế thị
trường: Xây dựng môi trường VHCT lành mạnh để khắc phục những hạn chế
của kinh tế thị trường là một nhiệm vụ có quan hệ khăng khít với việc xây
dựng con người mới. Môi trường VHCT được tạo nên bởi nhiều yếu tố mà yếu
tố trung tâm chính là con người văn hóa và các quan hệ xã hội của nó. Muốn
xây dựng môi trường VHCT lành mạnh để khắc phục những hạn chế của nền
kinh tế thị trường trước hết cần có một môi trường xã hội lành mạnh và môi
trường sinh thái trong sạch. Môi trường trong sạch, lành mạnh sẽ đảm bảo cho
147
cuộc sống lâu dài của con người. Một môi trường xã hội thật sự lành mạnh,
dân chủ, tiến bộ, văn minh, không có sự tồn tại phổ biến của tệ nạn xã hội,
trong đó "sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do
của tất cả mọi người" được coi là những thành tố cơ bản, cốt lõi cấu thành môi
trường VHCT. Xây dựng môi trường VHCT lành mạnh để khắc phục những
hạn chế của nền kinh tế thị trường cũng có nghĩa là phải tạo ra một môi trường
mà trong đó mọi tiềm năng sáng tạo của con người lao động, nhà sản xuất kinh
doanh trong mọi thành phần kinh tế được giải phóng, phát huy và nâng lên
trong mọi hoạt động, mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Việc xây dựng môi trường VHCT lành mạnh nhằm khắc phục những
hạn chế của nền kinh tế thị trường ở CHDCND Lào muốn thành công phải
thực hiện được những giải pháp như sau:
- Thực hiện nhất quán sự bình đẳng, dân chủ giữa các thành phần kinh
tế: Thực hiện sự bình đẳng, dân chủ thực sự trong hoạt động kinh tế, làm cho
chủ thể trong các thành phần kinh tế yên tâm hoạt động sản xuất kinh doanh
đúng pháp luật. Một nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế thị trường là người kinh
doanh căn cứ vào tín hiệu thị trường và pháp luật để tự quyết định, lựa chọn
hình thức kinh doanh sản xuất cái gì, tiêu thụ ở đâu, tự chịu trách nhiệm về
hiệu quả kinh doanh và làm tròn nghĩa vụ với nhà nước. Thiếu quyền tự chủ
kinh doanh không thể có thị trường năng động. Đó là sự thể hiện tính dân chủ,
tự do trong hoạt động kinh tế và cũng là điều kiện giải phóng mọi năng lực sản
xuất, khuyến khích mọi người đem hết khả năng về sức lao động, vốn, kỹ
thuật, v.v... vào trong hoạt động kinh tế để làm lợi cho mình và cả xã hội. Quá
trình thực hiện chính sách bình đẳng, dân chủ, giữa các thành phần kinh tế, tất
yếu phát triển quan hệ hợp tác bổ sung cho nhau, cạnh tranh nhau. Nhà nước
phải tạo môi trường cạnh tranh hợp pháp, bình đẳng, hạn chế độc quyền kinh
doanh. Sự bình đẳng về mặt pháp lý và chính sách Nhà nước đối với tất cả các
thành phần kinh tế sẽ tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh.
148
Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường ở Lào hiện nay, từ một nền
kinh tế lạc hậu phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần phải
chú ý khuyến khích, tạo sự công bằng, bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế,
đồng thời phải tạo động lực trên cơ sở kết hợp hài hoà giữa lợi ích chung và lợi
ích riêng, phải có trật tự, kỷ cương và phải tạo được sự phát triển cân đối giữa
các ngành, các vùng khác nhau. Để đảm bảo sự bình đẳng, dân chủ thật sự
đúng đắn trong hoạt động kinh tế, đảm bảo cho môi trường kinh doanh phát
triển lành mạnh thì cần phải xây dựng và bổ sung các hệ thống luật pháp trong
lĩnh vực kinh tế - xã hội.
- Từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao hiệu quả thi
hành pháp luật: Một nền kinh tế còn trong tình trạng tự nhiên, tự cấp tự túc
là chủ yếu, chuyển sang nền kinh tế thị trường, các quan hệ kinh tế của cơ
chế mới đang dần hình thành và phát triển, hệ thống các loại thị trường chưa
được hoàn thiện như nước CHDCND Lào, nếu các công cụ và biện pháp
điều tiết của Nhà nước đặc biệt là pháp luật chưa hoàn thiện và đầy đủ sẽ
làm tăng những yếu tố tự phát của nền kinh tế. Vì vậy, việc hoàn thiện hệ
thống pháp luật và nâng cao hiệu lực thi hành pháp luật là biện pháp để nâng
cao vai trò của VHCT, đạo đức trong đời sống xã hội nói chung, trong hoạt
động kinh tế, kinh doanh nói riêng và là biện pháp quan trọng trong sự hình
thành nhân cách con người. Bởi lẽ, pháp luật bao giờ cũng là biện pháp để
khẳng định một chuẩn mực đạo đức, và biến nó thành thói quen. Pháp luật
và đạo đức đều là những quy phạm xã hội nhằm điều chỉnh các quan hệ xã
hội, duy trì và bảo vệ trật tự xã hội, gắn với xã hội cụ thể trong một giai
đoạn nhất định của lịch sử.
Do vậy, đối với nước CHDCND Lào trên con đường đổi mới, đặc biệt là
đổi mới về kinh tế ngày càng đi vào chiều sâu, việc hoàn thiện hệ thống pháp
luật một cách đúng đắn, kịp thời, có tính khoa học, tính thực tiễn cao, có ý
nghĩa quan trọng trong việc đề ra và thực hiện những nguyên tắc, chuẩn mực,
149
giá trị VHCT của dân tộc Lào, khắc phục những hạn chế của kinh tế thị
trường hiện nay. Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật và thi hành pháp luật một
cách nghiêm minh sẽ tạo điều kiện cho người lao động, các chủ thể trong phát
triển các thành phần kinh tế tiến hành kinh doanh những gì mà pháp luật không
cấm, các quan hệ kinh tế sẽ được điều chỉnh, các tranh chấp sẽ được giải quyết,
đồng thời tạo môi trường thuận lợi, an toàn trật tự cho hoạt động kinh tế. Hơn
nữa, nó sẽ góp phần điều chỉnh một cách tự giác các hoạt động kinh tế để làm
sao cạnh tranh nhưng phải lành mạnh, không xảy ra tình trạng cạnh tranh bất
chấp tất cả, "cá lớn nuốt cá bé" một cách tự do; phải làm cho các chủ thể kinh
tế không triệt tiêu nhau mà cùng có trách nhiệm tạo điều kiện cho đối tác cạnh
tranh cùng tồn tại và phát triển. Điều này không chỉ làm cho xã hội trở nên
lành mạnh mà kinh tế cũng sẽ phát triển.
Cùng với các giải pháp nêu trên tất nhiên phải củng cố, hoàn thiện văn
hóa nói chung, VHCT nói riêng - nền tảng tinh thần của xã hội trên cơ sở
làm lành mạnh hóa xã hội, khắc phục những hình thức phát triển kinh tế
tách rời văn hóa; và muốn làm được như vậy đòi hỏi phải tiến hành một số
biện pháp như sau:
+ Phải kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng. Tham nhũng là hành vi
lợi dụng quyền lực để nhũng nhiễu - lấy của Nhà nước và nhân dân phục vụ
cho lợi ích cá nhân. Tham nhũng có nhiều hình thức khác nhau như: tham
nhũng cá nhân, tham nhũng tập thể, tham nhũng trực tiếp, tham nhũng gián
tiếp, tham nhũng có ý thức, tham nhũng không có ý thức, tham nhũng chủ
động, tham nhũng bị động, v.v... dù tham nhũng theo hình thức nào cũng làm
thiệt hại cho sự phát triển chung của đất nước. Về mặt chính trị, tham nhũng
tới một mức độ nào đó sẽ phá vỡ cả thể chế của một nước. Về mặt kinh tế,
tham nhũng sẽ làm cho kinh tế thiệt hại, rỗng mọt, đi chệch hướng và không
có khả năng phát triển. Về mặt xã hội, tham nhũng làm đảo lộn luân thường
đạo lý, khinh nhờn luật pháp, làm biến đổi quan hệ sở hữu, biến của công
150
thành của tư, hình thành tầng lớp tư nhân làm giàu bất chính. Tham nhũng là
một hành vi xấu gắn liền với những người có chức có quyền trong các cơ
quan Nhà nước nhưng lại thoái hoá về lối sống, về đạo đức, ăn cắp tiền của
dân dưới nhiều hình thức khác nhau, từ tham ô, hối lộ, cắt xén của công để tư
túi cá nhân. Ở nước CHDCND Lào, từ khi bước sang cơ chế thị trường, tệ
nạn tham nhũng phát triển một cách đáng lo ngại. Tệ nạn tham nhũng xảy ra
ở mọi ngành mọi cấp từ Trung ương đến địa phương. Mặc dù Đảng, Nhà
nước đã có chủ trương, nghị quyết về chống tham nhũng, lãng phí và tiêu
cực, nhưng nhìn chung tình hình vẫn chưa suy giảm mà ngày càng lún sâu và
trở thành thách thức đối với sự phát triển của đất nước nói chung, phát triển
kinh tế thị trường nói riêng.
Tham nhũng xảy ra vì nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chủ yếu
xuất phát từ chủ nghĩa cá nhân, vị kỷ, từ sự thoái hóa, biến chất của một số cán
bộ đảng viên; chế độ tuyển chọn cán bộ, công chức, viên chức thiếu quy chế
chặt chẽ; luật pháp chưa đầy đủ và đồng bộ, chưa bao quát hết các lĩnh vực
hoạt động của đất nước để quy định hành lang hoạt động và hành vi cho mọi
người; tiền lương quá thấp, không đủ sống, nhiều cán bộ, công chức, viên chức
phải đi tìm việc làm khác để có thu nhập thêm; công tác chống tham nhũng
chưa có chỗ dựa vững chắc. Mặc dù có nhiều văn bản chống tham nhũng trong
đó tỏ thái độ kiên quyết ngăn chặn, trừng trị thích đáng bọn tham nhũng,
nhưng thực tế, câu hỏi ai tham nhũng và ai là người chống tham nhũng vẫn
chưa phân biệt rõ ranh giới và chưa có câu giải đáp rõ ràng, nên hiệu quả công
tác phòng chống và xử lý tham nhũng chưa cao. Những nguyên nhân này khiến
cho việc chống tham nhũng gặp nhiều khó khăn. Ở CHDCND Lào cũng như
nhiều nước trên thế giới cần phải chống tham nhũng bằng cách: xây dựng quy
chế tổ chức, quy chế hoạt động, bảo đảm thực thi nhiệm vụ chống tham nhũng
có hiệu quả thông qua việc thành lập uỷ ban chống tham nhũng. Uỷ ban này
vừa là cơ quan tham mưu cho Đảng và Chính phủ, vừa là cơ quan đặc quyền
151
đề nghị xử lý kỷ luật hoặc khởi tố trước pháp luật những đơn vị, cá nhân tham
nhũng. Một uỷ ban chống tham nhũng như vậy đòi hỏi phải bao gồm những
cán bộ lãnh đạo cao cấp chủ chốt, có uy tín và quyền lực, có khả năng bao
quát, quyết đoán được mọi vấn đề, theo đúng luật pháp, đối với mọi cấp, mọi
ngành và mọi người khi phạm tội tham nhũng. Đảng, Quốc hội và Chính phủ
cần dành cho uỷ ban này một cơ chế hoạt động đặc biệt với những quy định cụ
thể rõ ràng về quyền hạn và trách nhiệm chống tham nhũng.
+ Kiên quyết đấu tranh khắc phục các tệ nạn xã hội. Tệ nạn xã hội là
hiện tượng xã hội hết sức phức tạp, giải quyết vấn đề này không bao giờ đơn
giản. Các tệ nạn xã hội như rượu chè, cờ bạc, mê tín dị đoan, ma tuý, mại dâm
v.v... nảy sinh từ nhiều nguyên nhân khác nhau: nguyên nhân từ kinh tế, môi
trường xã hội, gia đình; sự bất cập của công tác quản lý nhà nước có nguyên
nhân từ bên trong, có nguyên nhân tác động từ bên ngoài. Trong những năm
gần đây, ở CHDCND Lào, tệ nạn xã hội phát triển khá nhanh. Đất nước
chuyển sang nền kinh tế thị trường và mở cửa hội nhập với thế giới, kinh tế thị
trường bên cạnh mặt tích cực là cơ bản, cũng có mặt trái là kích thích tâm lý
sống gấp, hưởng thụ, kích thích lòng ham muốn làm giàu bằng mọi cách và
mọi giá, bất chấp đạo lý và pháp luật. Đáng chú ý là việc kinh doanh ma tuý và
mại dậm v.v... lại có thể mang đến lợi nhuận cao hơn bất kỳ một ngành kinh
doanh nào khác. Tuy nhiên, nguyên nhân rõ nhất dẫn đến tệ nạn xã hội phát
triển tràn lan hiện nay lại là sự yếu kém về quản lý của Nhà nước trong nhiều
mặt chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng của nhân dân, đặc biệt là ở
thành phố; chưa tạo được công ăn việc làm cho người lao động; không có biện
pháp quản lý chặt chẽ và có hiệu lực các mặt xã hội, đặc biệt là các ngành dịch
vụ, du lịch giải trí. Như vậy, có thể nói rằng ở bất kỳ nước nào, khi quản lý nhà
nước bị buông lỏng, hệ thống luật pháp chưa chặt chẽ; sự chênh lệch giàu
nghèo vẫn còn, dân trí thấp, thì còn tạo điều kiện cho các tệ nạn xã hội nảy
sinh và gia tăng.
152
Giải quyết vấn đề tệ nạn xã hội là công việc không phải của riêng ai mà
là công việc của toàn xã hội, nó liên quan đến nhiều ngành, nhiều tổ chức, cá
nhân, nên phải có nhiều biện pháp tiến hành một cách đồng bộ với phương
châm vừa "phòng" vừa "chống", trong đó lấy phòng ngừa là chính. Công cuộc
bài trừ tệ nạn xã hội cần được tiến hành trên cơ sở kết hợp các biện pháp giáo
dục, tuyên truyền, xử phạt và phát triển các chương trình kinh tế - xã hội, đồng
thời cần chú trọng xây dựng một môi trường xã hội lành mạnh, tập trung sức
lực đẩy mạnh phát triển kinh tế, thực hiện các chương trình quốc gia về xoá đói
giảm nghèo gắn với việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. Nhà
nước cần phải có chính sách xã hội để giải quyết những hậu quả của quá trình
phát triển kinh tế như: chính sách tạo công ăn việc làm cho người lao động;
chính sách thực hiện xoá đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, bảo hiểm xã hội
và các hoạt động nhân đạo; chính sách bảo vệ sức khoẻ và chăm sóc sức khoẻ
nhân dân, chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình. Nếu thực hiện tốt các
chính sách đó sẽ là một trong những bảo đảm chắc chắn cho nền kinh tế thị
trường phát triển bền vững, đồng thời cũng có ý nghĩa to lớn về văn hoá - xã
hội ở nước CHDCND Lào trong giai đoạn hiện nay.
+ Phải đẩy mạnh thực thi các biện pháp bảo vệ môi trường, môi sinh.
Lào là một nước có tài nguyên thiên nhiên phong phú, phân bố ở các vùng từ
bắc đến nam. Đây là một điều kiện hết sức thuận lợi, một thế mạnh cho sự phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, trong những năm qua, do tác động
của nền kinh tế thị trường, người lao động, các chủ thể sản xuất kinh doanh do
thiếu ý thức bảo vệ môi trường, chỉ thấy lợi ích trước mắt đã có những hoạt
động tiêu cực chạy theo lợi nhuận thuần tuý, đã làm huỷ hoại môi trường tự
nhiên, khiến cho môi trường sinh thái ngày càng bị ô nhiễm, tài nguyên rừng
ngày một bị cạn kiệt, môi trường sông, suối bắt đầu có dấu hiệu bị ô nhiễm do
khai thác khoáng sản bừa bãi, ô nhiễm môi trường địa chất, sụt, lở đất đá, v.v...
Ngoài ra, các chất thải công nghiệp và sinh hoạt ở một số nhà máy xí nghiệp,
153
khu dân cư đông người chưa có biện pháp xử lý đang gây hậu quả tiêu cực đối
với môi trường sống hiện tại và thế hệ tương lai. Môi trường tự nhiên, môi
trường sinh thái bị tàn phá, ô nhiễm sẽ gây tác hại rất lớn cho đời sống con
người nói chung, cho sự phát triển kinh tế nói riêng. Kinh nghiệm của các nước
trên thế giới cho rằng, các dự án công nghiệp nếu không tính đến biện pháp xử
lý chất thải thì lợi nhuận của dự án không đủ bù đắp sự tổn hại về môi trường.
Do vậy, muốn phát triển kinh tế một cách bền vững thì phải có biện pháp hữu
hiệu trong việc bảo vệ môi trường tự nhiên, môi trường sinh thái. Những vấn đề
về phát triển bền vững phải bao quát: "công bằng xã hội", "phúc lợi"; "nền kinh
tế xanh", "môi trường tin cậy", "khả năng trường tồn", "chất lượng không khí",
"môi trường trong lành". Để đạt được điều đó đối với nước Lào phải thực hiện
các biện pháp như sau: Trước hết, cần phải kế hoạch hóa công tác bảo vệ môi
trường; phải khuyến khích nhân dân Lào nói chung, các chủ thể sản xuất kinh
doanh trong các thành phần kinh tế nói riêng tham gia bảo vệ môi trường và sử
dụng hợp lý tài nguyên; phải tập trung bảo vệ môi trường đô thị, các khu công
nghiệp và các đơn vị sản xuất kinh doanh.
Cùng với biện pháp trên cần tiến hành nhiều biện pháp khác như: sớm
hoàn thiện tổ chức quản lý thống nhất về môi trường từ Trung ương đến địa
phương cơ sở, đưa các tổ chức này vào hoạt động có nề nếp; tổ chức tuyên
truyền giáo dục cho mọi đối tượng có nhận thức đúng đắn về công tác môi
trường, thấy rõ vị trí và mối quan hệ của nó với sự phát triển xã hội, có ý thức
đầu tư xây dựng, gìn giữ bảo vệ môi trường xung quanh; tăng cường đào tạo
cán bộ, bao gồm cả cán bộ quản lý chuyên môn về lĩnh vực môi trường; có
chính sách đãi ngộ hợp lý cho những người làm công tác về môi trường ở
những nơi khó khăn và phải sớm hoàn chỉnh các luật về bảo vệ môi trường để
ngăn chặn tình trạng xuống dốc của môi trường sinh thái trên đất nước Lào. Để
thực hiện các giải pháp nêu trên cần tập trung đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu,
đào tạo và phổ biến thông tin về phát triển bền vững. Đây là việc làm đòi hỏi
154
phải được tiến hành thường xuyên, liên tục nhằm nâng cao nhận thức về tầm
quan trọng trong bảo vệ tài nguyên môi trường.
Ba là, kế thừa những giá trị VHCT truyền thống trong việc phát triển
VHCT ở Lào hiện nay phải hạn chế những rủi ro, tác động tiêu cực của nền
kinh tế thị trường. VHCT của dân tộc Lào là sắc thái riêng của nhân dân các bộ
tộc Lào, là tổng hòa các giá trị, các yếu tố vừa đa dạng vừa lâu bền của dân tộc.
VHCT Lào không ra đời một cách ngẫu nhiên. Nó hình thành và phát triển thông
qua quá trình lịch sử lâu dài, anh dũng của dân nhân Lào. Để có những giá trị tạo
nên VHCT, dân nhân các bộ tộc Lào đã vượt qua những khó khăn và thách thức
lớn. Vì vậy, nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước và nhân dân Lào là cần bảo vệ lưu giữ
và phát triển VHCT của dân tộc trong điều kiện đổi mới nói chung, trong quá
trình phát triển kinh tế thị trường nói riêng. Đây là yêu cầu khách quan của một
dân tộc khi gia nhập vào quá trình toàn cầu hoá hiện nay.
Để vai trò của VHCT dân tộc trở thành động lực phát triển kinh tế - xã
hội, chúng ta cần phải kế thừa và phát huy những giá trị VHCT dân tộc như
tinh thần yêu nước, lòng vị tha, đức tính cần cù, chịu khó, v.v... Kinh nghiệm
lịch sử cho thấy, một dân tộc biết bảo tồn, kế thừa và phát huy các giá trị
VHCT truyền thống sẽ tạo nên được những xung lực nội tại để phát triển và
tiếp biến VHCT nhân loại. Ngược lại, nếu tự bỏ, đánh rơi các giá trị VHCT
truyền thống sẽ dẫn xã hội đến tình trạng mất ổn định, thiếu nền tảng cho sự
phát triển bền vững.
Việc kế thừa và phát huy vai trò của VHCT nhằm khắc phục những thất
bại của nền kinh tế thị trường hiện nay là phát huy những giá trị tốt đẹp của
truyền thống, biến các giá trị tiềm ẩn của nền VHCT thành hiện thực của đời
sống đương đại, đồng thời phải nỗ lực vun trồng, phát triển các nguồn lực nhân
văn tạo nên nội lực phát triển của mỗi người và cả cộng đồng dân tộc Lào. Các
giá trị truyền thống VHCT như: tinh thần yêu nước, yêu dân tộc, tính cố kết
155
cộng đồng trong bản làng, tinh thần sống hoà hợp với thiên nhiên, đặc biệt là
giá trị trong Phật giáo đã từng tồn tại trong đời sống xã hội và đời sống kinh tế
của người Lào hàng ngàn năm lịch sử. Các giá trị ấy cần phải được kế thừa,
phát huy và vận dụng một cách sáng tạo khi đất nước bước vào thời kỳ mở
cửa, để khắc phục những khuyết tật của nền kinh tế thị trường. Bởi lẽ, xu
hướng phát triển bền vững chỉ diễn ra khi có sự hài hoà giữa giá trị vật chất và
giá trị tinh thần, giữa giá trị văn hóa và kinh tế. Việc đảm bảo lợi ích vật chất
và tinh thần trong quá trình khắc phục những hạn chế của nền kinh tế thị
trường ở Lào hiện nay chính là cơ sở, tiền đề cho nền kinh tế Lào tồn tại và
phát triển bền vững.
Do đó việc kế thừa, phát huy VHCT dân tộc với các giá trị truyền thống
phải được coi trọng và phát huy hơn nữa. Tinh thần yêu nước cần phải được
khơi dậy, bởi vì yêu nước chính là làm cho "dân giàu, nước mạnh" như khẩu
hiệu của Đảng NDCM Lào đề ra. Các chủ thể sản xuất kinh doanh trong các
thành phần kinh tế phải biết kết hợp lợi ích cá nhân, lợi ích cộng đồng với lợi
ích đất nước. Những kẻ chỉ biết vì lợi ích cá nhân mà làm tổn hại đến lợi ích
cộng đồng, chà đạp lên lợi ích xã hội như: kinh doanh phi pháp, kinh doanh mà
phá hoại môi trường, cảnh quan, di sản văn hoá; những kẻ tham nhũng đổi lấy
sự giàu có nhanh chóng bằng mọi giá, không thể gọi là nhà kinh doanh yêu
nước. Ngược lại, chúng ta phải tôn vinh, cổ vũ những người làm ăn chính
đáng, những người đem lại sự thịnh vượng cho đất nước, cuộc sống ấm no
hạnh phúc cho mọi người dân.
Cùng với việc kế thừa và phát huy VHCT truyền thống dân tộc, Đảng và
Nhà nước Lào chủ trương tăng cường giao lưu và tiếp thu những tinh hoa
VHCT nhân loại. Trong sự nghiệp phát triển đất nước nói chung, khắc phục
những hạn chế của nền kinh tế thị trường nói riêng, cần phải biết kết hợp và
phát huy sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại; ngoài việc tận dụng, phát huy
156
các yếu tố vốn, sức lao động, tài nguyên khoáng sản trong nước, cần kế thừa
những thành tựu khoa học - công nghệ, những phương thức kinh doanh tiên
tiến, những biện pháp quản lý hiệu quả từ nước ngoài. Điều đó chỉ có thể được
thực hiện khi có giao lưu và hội nhập với thế giới. Tuy nhiên, trong hội nhập
quốc tế, khi tiếp thu những tinh hoa văn minh nhân loại nói chung, tinh hoa
VHCT nói riêng, cần phải biết chắt lọc, tiếp thu những giá trị phù hợp với điều
kiện cụ thể của Lào. Tiếp thu văn minh, VHCT nhân loại là học hỏi, vận dụng
những đỉnh cao của trí tuệ và sự sáng tạo của nhân dân các nước trên tất cả các
lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa v.v..., làm giàu thêm, làm phong phú
hơn VHCT dân tộc Lào.
Trong quá trình kế thừa, tiếp thu đó, điều quan trọng là phải theo nguyên
tắc phát triển, tồn tại phát triển trong đa dạng chứ không chấp nhận trở thành
bản sao đồng dạng với các nền văn hoá khác, dân tộc khác. Các yếu tố ngoại
sinh như vốn, kỹ thuật, khoa học - công nghệ, kinh nghiệm quản lý kinh tế,
nghệ thuật kinh doanh, sẽ trở thành động lực khắc phục những hạn chế của
kinh tế thị trường của Lào, nếu chúng được tiếp thu và sử dụng phù hợp với
điều kiện cụ thể của nước Lào, mà trung tâm là con người Lào hiện đại nhưng
lại mang đậm sắc thái văn hoá Lào đã được hun đúc qua nhiều thế hệ. VHCT
Lào sẽ bảo tồn được sắc thái của mình trong môi trường kinh tế thị trường khi
nhân dân Lào biết vận dụng một cách sáng tạo cả yếu tố nội sinh và yếu tố
ngoại sinh, biết khơi dậy tiềm năng sáng tạo của con người Lào với những giá
trị chân - thiện - mỹ.
Như vậy, phát huy vai trò VHCT dân tộc nhằm khắc phục những hạn
chế của nền kinh tế thị trường ở CHDCND Lào hiện nay không phải là vấn đề
đơn giản, đòi hỏi phải tiến hành những biện pháp đồng bộ sau:
- Đảng và Nhà nước phải có chủ trương đường lối, chính sách phát triển
kinh tế - xã hội và phát triển văn hóa đúng đắn phù hợp với hoàn cảnh cụ thể đất
nước, phải có cơ chế, quy định cụ thể để phát huy những giá trị VHCT truyền
157
thống tiêu biểu, phù hợp và có tác dụng tích cực đối với sự phát triển nền kinh tế
thị trường.
- Tiếp thu những tinh hoa VHCT nhân loại phù hợp với truyền thống,
VHCT dân tộc, biến cái "ngoại sinh" thành cái "nội sinh" qua "màng lọc" tri
thức dân tộc để đổi mới VHCT dân tộc.
- Chống lại những ảnh hưởng tiêu cực, phản động của VHCT ngoại lai;
có biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn ảnh hưởng xấu từ âm mưu diễn biến hoà
bình của các thế lực thù địch trong lĩnh vực tư tưởng, chính trị.
- Phát huy giá trị VHCT truyền thống dân tộc kết hợp với việc tiếp thu
tinh thần dân chủ, cởi mở của VHCT nhân loại; bù đắp những thiếu hụt của
VHCT truyền thống, tạo ra những giá trị mới để làm giàu bản sắc, hiện đại hóa
VHCT dân tộc.
Tóm lại, các giá trị VHCT truyền thống Lào có ý nghĩa rất quan trọng
trong việc khắc phục những hạn chế của kinh tế thị trường ở CHDCND Lào
trên con đường phát triển đất nước khi bước vào thế kỷ XXI. Những nguyên tắc
và giải pháp chủ yếu nêu trên là một thể thống nhất nhằm phát huy vai trò của
VHCT truyền thống Lào trong điều kiện nền kinh tế đang chuyển đổi. Những
nguyên tắc và giải pháp đó chỉ có thể trở thành động lực để khắc phục những
hạn chế của nền kinh tế thị trường hiện nay, khi nó được kết hợp nhuần nhuyễn
giữa chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Cay Xỏn Phômvihản và chủ trương đường
lối của Đảng NDCM Lào về VHCT, với việc tiếp thu tinh hoa VHCT nhân loại
và biết vận dụng các tư tưởng đó một cách khách quan phù hợp với điều kiện
phát triển của nước CHDCND Lào trong thời kỳ đổi mới.
158
VHCT của CHDCND Lào là một nền VHCT phong phú và đặc sắc, nó
TIỂU KẾT CHƢƠNG 4
được hình thành và kết tinh từ quá trình lao động, sản xuất, đấu tranh dựng
nước và giữ nước lâu đời của nhân dân các bộ tộc Lào. Giờ đây, chính các giá
trị VHCT truyền thống đó lại thấm sâu, toả sáng trong tất cả các loại hoạt
động, trong tất cả các lĩnh vực của công cuộc xây dựng và phát triển xã hội
mới XHCN theo nội dung của công cuộc đổi mới do Đảng NDCM Lào đề
xướng và lãnh đạo thực hiện.
Các giá trị của VHCT truyền thống trước hết định hướng chiến lược
cho việc lựa chọn mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước CHDCND Lào,
mà cụ thể trong giai đoạn hiện nay là công cuộc đổi mới đất nước trên tất cả
các lĩnh vực - chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, quân sự, ngoại giao, an ninh,
quốc phòng, v.v… Từ định hướng đó, các giá trị VHCT truyền thống Lào đề
ra những nội dung của công cuộc đổi mới các lĩnh vực nêu trên một cách
đúng đắn, khoa học, phù hợp với điều kiện đất nước, để công cuộc đổi mới đi
đến thành công. Các giá trị đó cũng chính là sức mạnh, động lực phát huy
mọi năng lực của nhân dân lao động để giải quyết các nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội.
Một nội dung cũng quan trọng khác là các giá trị VHCT truyền thống
Lào là cơ sở lý luận và nền tảng tinh thần, trí tuệ, khoa học đối với việc xây
dựng và phát triển đội ngũ cán bộ của đảng, nhà nước, các tổ chức chính trị -
xã hội, đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới ở CHDCND Lào hiện nay.
Chính VHCT truyền thống đã hình thành và phát triển các phẩm chất, năng
lực, kỹ năng hoạt động cho đội ngũ cán bộ nói chung, đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý nói riêng. Và cuối cùng, VHCT truyền thống Lào đến lượt mình lại là
cơ sở, nền tảng tinh thần cho sự tiếp tục xây dựng và phát triển nền VHCT Lào
theo hướng vừa tiên tiến vừa đậm đà bản sắc Lào.
159
KẾT LUẬN
Hoạt động chính trị về bản chất là hoạt động rất tinh tế, phức tạp, liên
quan đến sứ mệnh của hàng triệu con người, nó đòi hỏi rất cao về ý thức trách
nhiệm, vì thế càng không thể thiếu yếu tố văn hóa và VHCT. Sự nghiệp đổi
mới với hàng loạt vấn đề về chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội, trong đó phát
triển VHCT trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và nhà
nước pháp quyền XHCN ở CHDCND Lào là vấn đề mới, việc giải quyết nó
vừa có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, vừa có tính chiến lược lâu dài, vừa cấp
bách hiện nay.
VHCT là một khái niệm mới của khoa học Chính trị học. Việc nghiên
cứu VHCT không chỉ giới hạn ở việc làm rõ các vấn đề lý luận như văn hóa,
chính trị, VHCT, mà còn cần chú trọng nghiên cứu tư duy chính trị, hành vi
chính trị gắn liền với quá trình hoạt động chính trị trong đời sống thực tiễn của
con người. Trong các suy nghĩ và hành vi chính trị, con người phải coi trọng
các nhân tố văn hóa, tâm lý cá nhân và cộng đồng. Tuy nhiên, cách hiểu và
định nghĩa về VHCT hiện nay cũng khác nhau tuỳ thuộc vào mục đích và yêu
cầu nghiên cứu của các nhà khoa học. Theo chủ nghĩa Mác - Lênin và những
thành tựu khoa học gần đây, VHCT là một bộ phận của văn hóa xã hội, phản
ánh mối quan hệ thống nhất giữa văn hóa dân tộc và hoạt động chính trị của
các giai cấp. VHCT được biểu hiện thông qua sự hiểu biết chính trị, tình cảm
chính trị, niềm tin và thái độ chính trị của các công dân đối với các hiện tượng
chính trị và hệ thống chính trị. VHCT còn biểu hiện ở khả năng, mức độ điều
chỉnh các mối quan hệ chính trị phù hợp với truyền thống và chuẩn mực xã hội
do văn hóa dân tộc tạo ra. VHCT của Lào hiện nay vừa là kết quả của sự vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn chính trị và đời sống văn
hóa của dân tộc Lào, vừa là quá trình tự đổi mới liên tục của các chủ thể chính
160
trị nhằm phát huy hết tiềm năng và nội lực của dân tộc Lào để đáp ứng với yêu
cầu phát triển của đất nước.
VHCT truyền thống của CHDCND Lào được hình thành và phát triển
trong suốt lịch sử lao động, đấu tranh dựng nước và giữ nước của nhân dân các
bộ tộc Lào. Với các điều kiện tự nhiên, xã hội, kinh tế, văn hóa, con người,
nhất là từ đặc điểm lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm, giải phóng và thống
nhất đất nước của nhân dân Lào, VHCT Lào hình thành nên một hệ thống các
giá trị hết sức độc đáo và phong phú, đa dạng, v.v... Đó là những tư tưởng,
những giá trị như độc lập và tự chủ, tự lực và tự cường dân tộc; đó là các giá trị
nhân lõi xuyên suốt VHCT Lào như yêu nước và đoàn kết dân tộc; những tư
tưởng và giá trị đề cao đạo lý, tôn trọng chính nghĩa và bảo vệ công lý; đó
cũng là tư tưởng và các giá trị yêu hòa bình, hữu nghị, hợp tác và giúp đỡ nhau
cùng tồn tại và phát triển.
Những giá trị VHCT truyền thống Lào là sản phẩm quý báu của dân
tộc, của nhân dân các bộ tộc Lào. Trong thời kỳ chấn hưng đất nước và
bảo vệ Tổ quốc Lào, đặc biệt là trong công cuộc đổi mới đất nước theo
mục tiêu XHCN ngày nay, các giá trị VHCT truyền thống Lào có ý nghĩa
vô cùng quan trọng. Nó định hướng chính trị đúng đắn cho công cuộc đổi
mới; nó xác định những nội dung quan trọng của công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội phù hợp với tính chất thời đại, với các điều kiện cụ thể của
đất nước, với kinh tế, văn hóa, xã hội và con người Lào; nó cũng là mục
tiêu và động lực cho việc thực hiện các mục tiêu kinh tế, xã hội, văn hóa,
chính trị của Lào.
VHCT Lào cũng là nền tảng tinh thần và tri thức cho việc xây dựng và
phát triển đội ngũ cán bộ nói chung, cán bộ lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà
nước Lào. Bản thân các giá trị VHCT truyền thống Lào, trong điều kiện hiện
nay, có vai trò to lớn trong quá trình tiếp tục phát triển các giá trị nói chung,
161
nền VHCT Lào nói riêng, làm cho VHCT Lào ngày càng phong phú, tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc Lào.
Xây dựng, phát triển những giá trị VHCT truyền thống của dân tộc Lào
hiện nay là phát huy truyền thống yêu nước và tinh thần đại đoàn kết dân tộc,
kiên trì mục tiêu XHCN. Trong hoạt động chính trị thấm đượm yếu tố văn hóa,
nhất là tính nhân văn, nhân đạo, tinh thần khoan dung, hòa đồng. Phát huy vai
trò của văn hóa phải gắn với định hướng chính trị mà định hướng chính trị hiện
nay của Lào là định hướng XHCN. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Cay Xỏn
PhômViHản và quan điểm, đường lối của Đảng NDCM Lào chính là nền tảng
tư tưởng để xây dựng một nền VHCT kiểu mới nhằm phát triển đất nước Lào
trở thành nước vững mạnh, nhân dân giàu có, xã hội đoàn kết hài hòa, dân chủ,
công bằng và văn minh.
162
CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Aloun Bounmixay (2012), "Những đặc điểm cơ bản của văn hóa chính trị
nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào". Lý luận chính trị, (8),tr.91-93.
2. Aloun Buonmixay (2012), "Văn hóa truyền thống Lào và việc giữ gìn, phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc Lào giai đoạn hiện nay". Giáo dục lý luận,
(189), tr. 61-63 và 79.
3. Aloun Bounmixay (2013), "Sự tác động lấn nhau giữa văn hóa chính trị
với kinh tế thị trường và một số giải pháp". Ko sang phak (Xây dựng
Đảng), Ban Tổ chức Trung ương đảng Lào, có dịch sang tiếng việt (135),
tr. 25-26 và 31.
4. Aluon Buonmixay (2013), “Một số vấn đề về cơ sở hình thành văn hóa
chính trị truyền thống Lào”. Alun may (cộng sản), Ban tuyên huấn Trung
ương đảng Lào, có dịch sang tiếng việt (167), tr. 33 - 39.
163
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Danh mục tài liệu tham khảo tiếng Việt
1. A.I.Acnondov (1981), Cơ sở lý luận văn hóa Mác - Lênin, Nxb Văn hóa,
Hà Nội.
2. Báo Cứu quốc (ngày 08, tháng 10, năm 1945).
3. Hoàng Chí Bảo (1992), Văn hóa chính trị, một bình diện hợp thành của đối
tượng và nội dung nghiên cứu của Chính trị học. Sách "Một số vấn
đề về khoa học chính trị", Tài liệu của Viện Mác - Lênin.
4. Hoàng Chí Bảo (2005), "Văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh - giá trị và ý nghĩa",
Tạp chí Cộng sản, (11).
5. Hoàng Chí Bảo (2005), "Văn hóa Hồ Chí Minh và sự rèn luyện nhân cách
văn hóa của thanh niên", Tạp chí Lịch sử Đảng, (12).
6. Hoàng Chí Bảo (2009), "Hệ giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam trong
đổi mới và hội nhập", Tạp chí Cộng sản, (797).
7. Trần Văn Bính (chủ biên) (2000), Vai trò của văn hóa trong hoạt động
chính trị của Đảng ta hiện nay, Nxb Lao động, Hà Nội.
8. Phạm Văn Bính (2004), "Văn hóa với tư cách là động lực, mục tiêu và hệ
điều tiết của sự phát triển xã hội", Lý luận chính trị, (3).
9. Các chuyên đề bài giảng chính trị học (2010), Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
10. Cay Xỏn PhômViHản (1975), Nước Lào đang tiến bước trên con đường
vẻ vang của thời đại, Nxb Neo Lào Hắc Xạt (Bản dịch của Uỷ ban
Khoa học xã hội Việt Nam).
11. Cay Xỏn PhômViHản (1976), "Lời chào mừng tại Đại hội Đảng lao động
Việt Nam lần thứ IV", Báo Nhân Dân.
12. Cay Xỏn PhômViHản (1978), Xây dựng một nước Lào hoà bình, độc lập
và xã hội chủ nghĩa, Nxb sự thật, Hà Nội.
164
13. Cay Xỏn PhômViHản (1990), Một số vấn đề quản lý kinh tế hiện nay ở Lào
(1990), Nxb Sự thuật, Hà Nội.
14. Chính trị học đại cương (1997), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
15. Chính trị học đại cương (1999), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. Cù Huy Chừ (1995), Kế thừa giá trị truyền thống văn hóa dân tộc trong
việc xây dựng nền văn hóa nghệ thuật Việt Nam hiện nay, Luận án
PTS khoa học triết học. Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
17. Phạm Hồng Chương (2005), "Tác động của văn hóa truyền thống tới sự lựa
chọn con đường và mục tiêu cách mạng của Hồ Chí Minh", Tạp chí
Cộng sản, (15).
18. Trần Kim Cúc (2009), "Giao lưu văn hóa quốc tế nhìn từ góc độ quản lý",
Lý luận chính trị, (4).
19. Phạm Đức Dương (1947-1997), Nửa thế kỷ tiếp cận văn hóa Lào từ cảm
nhận đến nhận thức, Bài phát biểu kỷ niệm 50 năm ngày chuyên gia
kháng chiến ở Lào.
20. Hà Đăng (2005), "Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với vấn đề xây dựng
văn hóa trong Đảng hiện nay", Tạp chí Cộng sản, (15).
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp
hành Trung ương khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. Nguyễn Khoa Điềm (2001), Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam
tiên tiễn đậm đà bản sắc dân tộc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Phạm Duy Đức (1996), Giao lưu văn hóa đối với sự phát triển văn hóa
nghệ thuật ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Phạm Thanh Hà (2011), Giữ gìn bản sắc dân tộc Việt Nam trong bối cảnh
toàn cầu hóa hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
25. Văn Hải (2001), "Về văn hóa chính trị", Tạp chí Lý luận chính trị, (5).
165
26. http://.www.goole.com/ (11.10.2010), Bài phát biểu của đồng chí Nông
Đức Mạnh, Tổng Bí Thư Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dịp kỷ
niệm lần thứ 113 ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, khi đến thăm
Học viện CT -HCQG Hồ Chí Minh
27. http://.www.goole.com/ (28 - 4 - 2010), Đại đoàn kết toàn dân.
Nguồn sức mạnh vô địch bảo đảm thắng lợi cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước.
28. Đỗ Huy (1989), Sự chuyển đổi hệ giá trị trong văn hóa Việt Nam, Tạp chí
Triết học, (3).
29. Đỗ Huy (1992), Giao tiếp văn hóa và hệ giải pháp hình thành những giá
trị văn hóa mới ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
30. Đỗ Huy (1995), Sự thay đổi các chuẩn giá văn hóa khi kinh tế Việt Nam
chuyển sang kinh tế thị trường, Tạp chí Triết học, (1).
31. Nguyễn Văn Huyên (2004), "Về phẩm chất và năng lực của người cán bộ
lãnh đạo đáp ứng yêu cầu sự nghiệp đổi mới" Tạp chí Lý luận
chính trị, (4).
32. Nguyễn Văn Huyên (2005), "Tiếp cận triết học về văn hóa chính trị và xây dựng
văn hóa chính trị Việt Nam hiện nay", Thông tin Chính trị học, (1).
33. Nguyễn Văn Huyên (2006), "Văn hóa chính trị - một số quan niệm, một số
vấn đề", Thông tin Chính trị học, (2).
34. Nguyễn Văn Huyên (chủ biên) (2007), Chính trị học - những vấn đề lý
luận và thực tiễn, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
35. Nguyễn Văn Huyên (chủ biên) (2009), Bước đầu tìm hiểu những giá trị văn
hóa chính trị truyền thống Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
36. Trần Đình Huỳnh (1998), "Văn hóa chính trị - một cách nhìn trong thời kỳ
đổi mới", Tạp chí Xây dựng Đảng, (10,11).
37. Khoa Chính trị học, Phân viện Báo chí và Tuyên truyền (1999), Chính trị
học đại cương, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
166
38. Nguyễn Văn Khoan (2008), Việt - Lào hai nước chúng ta, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
39. Lê Tấn Lập (1998), Văn hóa chính trị Việt Nam và vai trò của nó đối với
công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, Luận văn thạc sĩ, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
40. V.I.Lênin (1975), Toàn tập, tập 6, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
41. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tập 12, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
42. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 36, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
43. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 41, Nxb tiến bộ, Mátxcơva.
44. Lịch sử Lào (1998), Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
45. C.Mác và Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
46. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 16, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
47. Hồ Chí Minh (1993), Biên niên tiểu sử, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
48. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
49. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 3, in lần thứ 2, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
50. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
51. Hồ Chí Minh (1997), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
52. Trình Mưu, Vũ Quang Vinh (2005), Quan hệ quốc tế những năm đầu Thế
kỷ XXI, Nxb Lý luận chính trị.
53. Hoài Nguyên (1997), Lào - đất nước con người, Nxb Thuận hoá.
54. Hoài Nguyên (2008), Lào đất nước - con người, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
55. Đức Ninh (1997), Ngôi chùa phật giáo trong sự bảo tồn và phát triển văn
hóa Lào, Viện nghiên cứu Đông Nam Á xuất bản, Hà Nội.
167
56. Lương Ninh (chủ biên) (1996), Đất nước Lào, lịch sử và văn hóa, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
57. Nguyễn Hồng Phong (1998), Văn hóa chính trị Việt Nam - truyền thống và
hiện đại, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
58. Lê Văn Quán (2007), Nguồn văn hóa truyền thống Việt Nam, Nxb Lao
động, Hà Nội.
59. Lê Minh Quân (2009), Tư tưởng chính trị của C.Mác, Ph.Ănggen,
V.I.Lênin và Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
60. Lê Minh Quân (2010), Hoà bình - hợp tác và phát triển - xu thế lớn trên
thế giới hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
61. Phạm Ngọc Quang (1995), Văn hóa chính trị và việc bồi dưỡng đội ngũ cán
bộ lãnh đạo ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
62. Lưu Văn Quảng (2009), "Khái niệm và cách phân loại văn hóa chính trị",
Thông tin Chính trị học, (1).
63. Nguyễn Thị Lệ Thuỷ (2000), Văn hóa chính trị với việc nâng cao chất lượng
cán bộ của Thành phố Đà Nẵng trong giai đoạn đổi mới hiện nay,
Luận văn thạc sĩ, Học viện CTQG Hồ Chí Minh.
64. Tìm hiểu lịch sử - văn hóa nước Lào (1981), tập II, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
65. Tìm hiểu lịch sử - văn hóa nước Lào (1984), tập III, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
66. Hoàng Trinh (1996), Vấn đề văn hóa và phát triển, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
67. Hà Xuân Trường (1994), Văn hóa, khái niệm và thực tiễn, Nxb Văn hóa
thông tin, Hà Nội.
68. Lâm Quốc Tuấn (2001), "Văn hóa chính trị và sự phát triển con người",
Tạp chí Lý luận chính trị, (4).
168
69. Lâm Quốc Tuấn (2006), Nâng cao văn hóa chính trị của cán bộ lãnh đạo
quản lý ở nước ta hiện nay, Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.
70. Phạm Hồng Tung (2010), Văn hóa chính trị và lịch sử dưới góc nhìn văn
hóa chính trị, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
71. Văn hóa xã hội chủ nghĩa (1994), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
72. Văn hóa xã hội chủ nghĩa (1996), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
73. Viện Khoa học chính trị, Học viện CTQG HCM, Chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh về chính trị (1999), Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
74. Hoàng Vinh (1996), Một số vấn đề lý luận văn hóa thời kỳ đổi mới, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
75. Nguyễn Văn Vĩnh (2003), "Vai trò của văn hóa chính trị trong việc hình
thành phẩm chất và năng lực của người cán bộ lãnh đạo chính trị",
Thông tin Chính trị học, (4).
76. Trần Quốc Vương (chủ viên) (1996), Văn hóa học đại cương và cơ sở văn
hóa Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
B. Danh mục tài liệu tham khảo tiếng Anh
77. Almond G.A. (1956), Comparative Political Systems, Journal of Politics,
1956, NO. 4.
78. Almond G.A. (1963), The Study of Political Culture/ G.A. Almond//
Political Culture in Germany, ed by D. Berg - Schlosser, R
Rytlewski - L.The Macmillan Press Ltd.
79. Almond G.A. (1963) The Civic Culture: Political Attitrudes and
Democracy in Five Nations/ G.A.Almond, S.Verba. - Princeton:
Priceton University Press.
80. Dalton R.J. (1988), Citizen Politics in Western Democracies/ R.J. Dalton. -
Chatam, New Jersey.
169
81. Dennis Kavanagh (1972), Political Culture, London Basinstocke,
Macmillan, 1972.
82. Encyclopaedia of the social sciences, volumes XIII-XIV, (1957), the
Macmillan Company - New York.
83. Lucian Pye & Sidney Verba (1965), Political Culture and Political
development, Princeton University Press.
C. Danh mục tài liệu tham khảo tiếng Lào (dịch sang tiếng Việt)
84. Ban Chấp hành Trung ương Đảng NDCM Lào Nghị quyết 7, khoá VIII
(2008), Vấn đề Giáo dục, Y tế, Thông tin - Văn hóa và Lao động
thương vinh xã hội, Viêng Chăn.
85. Băng Lit Khăm Liêng ChănThiLat (2004), Văn hoá chính trị của đội ngũ
đảng viên tỉnh Xa Van Na Khet (CHDCND Lào) hiện nay, Luận
văn thạc sĩ, Học viện CTQG HCM.
86. Bua Ban VoLaKhun (1998), Tính dân tộc của văn hóa Lào, Nxb Quốc gia
Lào.
87. Bun My ThệpSiMương, tác phẩm tập I, (2006), Sự hình thành của các dân
tộc Lào, Nxb Quốc gia Lào.
88. Bun My ThệpSiMương, tác phẩm tập II, (2009), Sự hình thành của các
dân tộc Lào, Nxb Quốc gia Lào.
89. Cay Xỏn PhômViHản (1979), Một số bài kinh nghiệm chính và một số vấn
đề phương hướng của cuộc cách mạng Lào, Nxb Quốc gia Lào,
Viêng Chăn.
90. Cay Xỏn PhômViHản (1980), Hai mươi năm lăm chiến đấu và thắng lợi của
Đảng NDCM Lào, Nxb Quốc gia Lào, Viêng Chăn.
91. Cay Xỏn PhômViHản (1985), Tuyển tập, tập 1, Viêng Chăn.
92. Cay Xỏn PhômViHản (1987), Tuyển tập, tập 2, Viêng Chăn.
170
93. Cay Xỏn PhômViHản (1997), Tuyển tập, tập 3, Viêng Chăn.
94. Cay Xỏn PhômViHản (2005), Tuyển tập, tập 4, Viêng Chăn.
95. Đảng NDCM Lào (1982), Văn kiện Đại hội lần thứ III, Viêng Chăn.
96. Đảng NDCM Lào (1986), Văn kiện Đại hội lần thứ IV, Viêng Chăn.
97. Đảng NDCM Lào (1991), Văn kiện Đại hội lần thứ V, Viêng Chăn.
98. Đảng NDCM Lào (1996), Văn kiện Đại hội lần thứ VI, Viêng Chăn.
99. Đảng NDCM Lào (2001), Văn kiện Đại hội lần thứ VII, Viêng Chăn.
100. Đảng NDCM Lào (2006), Văn kiện Đại hội lần thứ VIII, Viêng Chăn.
101. Đảng NDCM Lào (2011), Văn kiện Đại hội lần thứ IX, Viêng Chăn.
102. "Giữ gìn và phát triển bản sắc văn hóa dân tộc là trách nghiệm của mọi
người Lào" (10-2004), Tạp chí Văn hóa Lào, (1).
103. K.O. La Bun (2008), Về vấn đề chính trị, tư tưởng và văn hóa, Bộ Thông
tin - Văn hóa Lào, Viêng Chăn.
104. Khăm Tay SỉPhănĐon (2001), Bài phát biểu tại Đại hội lần thứ VII, Mặt
trận Lào xây dựng Tổ quốc, Viêng Chăn.
105. Khăm Mặn ChănThạLăngSỷ (2002), Văn hóa chính trị ở CHDCND Lào
trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, Tài liệu văn hoá và phát triển (2008), Bộ Văn hóa
- Thông tin Lào.
106. Năm bài học của Đảng NDCM Lào, đối với việc lãnh đạo sự nghiệp đổi
mới (2000), Nxb Ban Tuyên giáo Trung ương, Viêng Chăn.
107. Tổng kết 30 năm kỷ niệm Quốc khánh nước CHDCND Lào (2005),
Viêng Chăn.
108. Tổng kết 50 năm kỷ niệm ngày thành lập Đảng NDCM Lào (2005),
Viêng Chăn.
109. Tổng kết chiến tranh nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân
Cách mạng Lào (1945 - 1975) (2004), Nxb Ban Tuyên giáo Trung
ương, Viêng Chăn.
171
110. Tuyên bố của Đại hội đại biển nhân dân toàn quốc Lào (2-12-1975),
Viêng Chăn.
111. Nghị định số 174 của Thủ tướng đối với di sản văn hóa, lịch sử và tự
nhiên (13/11/1993), Viêng Chăn.
112. Lịch sử Lào, biên tập Sy Sụ Phăn Bxăng Xơ Khơ La Bót, năm 1934.
113. Lịch sử Lào, đất nước và con người Lào, biên tập Đuông Xay Đuông Pha
sỷ, năm 1995.
114. Lịch sử quan hệ đặc biệt Lào - Việt, Việt - Lào (1930-2007), (2011), Nxb
Sự thật, Hà Nội.
115. Lịch sử quan hệ đặc biệt Lào -Việt, Việt - Lào (1930-1945), Tập 1, Nxb
Sự thật, Hà Nội.
116. Bộ Văn hóa - Thông tin Lào (2008), Tài liệu văn hóa và phát triển,
Viêng Chăn.