VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ THỊ THU HƢƠNG
NGHIÊN CỨU TƢ LIỆU HÁN NÔM
VỀ KHUYẾN HỌC CỦA NGHỆ AN
LUẬN ÁN TIẾN SĨ HÁN NÔM
HÀ NỘI - 2020
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ THỊ THU HƢƠNG
NGHIÊN CỨU TƢ LIỆU HÁN NÔM
VỀ KHUYẾN HỌC CỦA NGHỆ AN
Ngành: Hán Nôm
Mã số: 9 22 01 04
LUẬN ÁN TIẾN SĨ HÁN NÔM
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
GS. TS. Đinh Khắc Thuân
PGS.TS. Nguyễn Tuấn Cƣờng
HÀ NỘI - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng:
- Bản Luận án Tiến sĩ này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi dƣới sự hƣớng
dẫn của GS.TS. Đinh Khắc Thuân và PGS.TS. Nguyễn Tuấn Cƣờng, chƣa từng
đƣợc công bố trong các công trình nghiên cứu của ai khác.
- Luận án đã đƣợc tiến hành nghiên cứu một cách nghiêm túc, cầu thị.
- Kết quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu khác đã đƣợc tiếp thu chân
thực, cẩn trọng trong luận án.
Tác giả
Lê Thị Thu Hƣơng
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám đốc, các thầy cô đang giảng dạy, công tác
tại Học viện Khoa học xã hội đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong thời gian học tập và
nghiên cứu tại Học viện.
Tôi xin đƣợc bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới GS.TS. Đinh Khắc Thuân và PGS.
TS. Nguyễn Tuấn Cƣờng là hai thầy hƣớng dẫn khoa học đã tận tình hƣớng dẫn, chỉ
bảo tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận án.
Tôi xin trân trọng cám ơn Lãnh đạo Viện Nghiên cứu Hán Nôm, các bậc nghiên
cứu tiền bối, cùng bạn bè, đồng nghiệp đã tạo điều kiện thuận lợi và luôn động viên
khích lệ trong quá trình học tập và viết luận án.
Nghiên cứu sinh xin trân trọng gửi lời cảm ơn tới quý thầy cô trong Hội đồng
đánh giá luận án. Kính nhận những góp ý của quý thầy cô để giúp cho nghiên cứu
sinh học tập và nghiên cứu đạt đƣợc kết quả tốt.
Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, ngƣời thân, bạn bè đã giúp đỡ, động
viên để tôi hoàn thành luận án này.
Hà Nội, ngày tháng năm 2020
Tác giả luận án
Lê Thị Thu Hương
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT
EFEO Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp
KHNA Khuyến học của Nghệ An
KHXH Khoa học xã hội
Nxb Nhà xuất bản
t. tờ
TLHN Tƣ liệu Hán Nôm
tr. Trang
TTKHXH Thƣ viện Viện Thông tin Khoa học xã hội
UBND Ủy ban nhân dân
VHTT Văn hóa thông tin
VNCHN Viện Nghiên cứu Hán Nôm
DANH MỤC BẢNG, BIỂU, HÌNH ẢNH TRONG LUẬN ÁN
Bảng 2.1. Thống kê số lƣợng văn bản tục lệ Hán Nôm ............................................ 41
Bảng 2.2. Tƣ liệu đăng khoa lục đại khoa và số ngƣời đỗ đại khoa của Nghệ An ... 45
Bảng 2.3. Tƣ liệu địa chí Nghệ An và số lƣợng ngƣời đỗ đại khoa của Nghệ An ... 47
Bảng 2.4. Bảng thống kê tên phủ chép ở bìa sách và tờ 1a trong sách tục lệ ........... 55
Bảng 2.5. Sự phân bố về mặt niên đại các văn bản tục lệ khuyến học của Nghệ An ...... 58
Bảng 2.6. Niên đại Cảnh Hƣng ngụy tạo trong văn bia khuyến học của Nghệ An .. 60
Bảng 2.7. Niên đại Vĩnh Thịnh ngụy tạo trong văn bia khuyến học của Nghệ An .. 61
Bảng 2.8. Thống kê tỷ lệ % văn bia có ghi soạn giả/không ghi soạn giả ................. 63
Bảng 2.1. Thống kê số lƣợng văn bản tục lệ Hán Nôm ............................................ 41
Bảng 2.2. Tư liệu đăng khoa lục đại khoa và số người đỗ đại khoa của Nghệ An
................................................................................................................................... 45
Bảng 2.3. Tƣ liệu địa chí Nghệ An và số lƣợng ngƣời đỗ đại khoa của Nghệ An ... 46
Bảng 2.4. Bảng thống kê tên phủ chép ở bìa sách và tờ 1a trong sách tục lệ ....... 55
Bảng 2.5. Sự phân bố về mặt niên đại các văn bản tục lệ khuyến học của Nghệ An
................................................................................................................................... 58
Bảng 2.6. Niên đại Cảnh Hƣng ngụy tạo trong văn bia khuyến học ........................ 60
Bảng 2.7. Niên đại Vĩnh Thịnh ngụy tạo trong văn bia khuyến học của Nghệ An .. 61
Bảng 3.1. Bảng thống kê sự xuất hiện của các nội dung khuyến học ……………107
Ảnh 4.1. Lễ tuyên dƣơng học sinh giỏi quốc tế, quốc gia do Tỉnh ủy - UBND tỉnh
Nghệ An tổ chức………………………………………………………………… 129
Ảnh 4.2. Hòm khuyến học đặt tại nhà thờ dòng họ Nguyễn Phùng xã Xuân Tƣờng,
huyện Thanh Chƣơng……………………………………………………………..132
Ảnh 4.3. Thực trạng khu di tích đình xã Võ Liệt…………………………………137
Ảnh 4.4. Cán bộ Ban quản lý Di tích giới thiệu sản phẩm tƣ liệu Hán Nôm đƣợc
phục chế sau số hóa……………………………………………………………….139
MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1 Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI n1.1. Khái niệm khuyến học, tƣ liệu Hán Nôm về khuyến học của Nghệ An ...... 7 1.1.1. Khái niệm khuyến học ...................................................................................... 7 1.1.2. Khái niệm tƣ liệu Hán Nôm về khuyến học của Nghệ An ............................. 10 1.2. Khái lƣợc quá trình phát triển của khuyến học ..………………………… 18 1.3. Giới thiệu về địa giới hành chính tỉnh Nghệ An …………………………...17 1.4. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài……………………..18 1.4.1. Tình hình nghiên cứu khuyến học ở một số nƣớc phƣơng Đông ................... 18 1.4.2. Tình hình nghiên cứu khuyến học ở Việt Nam ............................................... 22 1.4.3. Nghiên cứu về khuyến học của Nghệ An ...................................................... 31 1.5. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ..……………………..35 1.6. Định hƣớng nghiên cứu của luận án .............................................................. 37 Tiểu kết chƣơng 1 .................................................................................................... 38 Chƣơng 2 KHẢO SÁT NGUỒN TƢ LIỆU HÁN NÔM VỀ KHUYẾN HỌC CỦA NGHỆ AN 2.1. Thực trạng nguồn tƣ liệu ................................................................................. 39 2.1.1. Nguồn tƣ liệu thƣ tịch ..................................................................................... 39 2.1.2. Nguồn tƣ liệu văn bia ...................................................................................... 52 2.2. Một số đặc điểm văn bản tƣ liệu Hán Nôm về khuyến học của Nghệ An ... 53 2.2.1. Định dạng văn bản .......................................................................................... 53 2.2.2. Niên đại ........................................................................................................... 57 2.2.3. Tác giả ............................................................................................................. 62 2.2.4. Văn tự .............................................................................................................. 65 Tiểu kết chƣơng 2 .................................................................................................... 66 Chƣơng 3 NỘI DUNG VÀ ĐẶC ĐIỂM TƢ LIỆU HÁN NÔM VỀ KHUYẾN HỌC CỦA NGHỆ AN 3.1. Nội dung khuyến học qua tƣ liệu Hán Nôm của Nghệ An ........................... 67 3.1.1. Dựng trƣờng, mở lớp....................................................................................... 67 3.1.2. Chế độ khen thƣởng ........................................................................................ 76 3.1.3. Chế tài xử phạt ................................................................................................ 96 3.2. Đặc điểm nội dung tƣ liệu Hán Nôm về khuyến học của Nghệ An ........... 104 3.2.1.Khuyến học của Nghệ An gắn liền với nền giáo dục khoa cử Nho học, trọng Nho học truyền thống………………………………………………………..……102 3.2.2. Nội dung khuyến học đa dạng, phong phú……………………………….. 104 3.2.3. Nội dung khuyến học mang tính linh hoạt, phù hợp với thời cuộc…….…..109 3.2.4. Nội dung khuyến học mang tính đặc điểm vùng …………………………...….110 Tiểu kết chƣơng 3………………………………………………………………. 114
Chƣơng 4 GIÁ TRỊ TƢ LIỆU HÁN NÔM VỀ KHUYẾN HỌC CỦA NGHỆ AN VÀ VẤN ĐỀ BẢO TỒN, PHÁT HUY GIÁ TRỊ TƢ LIỆU ĐỐI VỚI KHUYẾN HỌC HIỆN NAY 4.1. Giá trị tƣ liệu Hán Nôm về nghiên cứu khuyến học của Nghệ An ............ 115 4.1.1. Những giá trị nhân văn của tƣ liệu Hán Nôm về khuyến học của Nghệ An.115 4.1.2. Một số hạn chế về tƣ tƣởng khuyến học của Nghệ An xƣa trong bối cảnh hiện nay .... 125 4.2. Bảo tồn và phát huy giá trị tƣ liệu Hán Nôm về khuyến học của Nghệ An đối với khuyến học hiện nay .................................................................................128 4.2.1.Thực trạng khuyến học và việc bảo lƣu nguồn tƣ liệu Hán Nôm về khuyến học Nghệ An hiện nay .................................................................................................... 128 4.2.2. Một số vấn đề đặt ra đối với việc bảo tồn, phát huy giá trị tƣ liệu Hán Nôm về khuyến học của Nghệ An trong xã hội hiện nay………………………………….138 Tiểu kết chƣơng 4………………………………………………………………..146 KẾT LUẬN………………………………………………………………………147 DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ............................................................................................................151 TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………………151 PHỤ LỤC LUẬN ÁN
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong lịch sử phát triển giáo dục nƣớc nhà, khuyến học, khuyến tài là động lực
quan trọng trong chiến lƣợc phát triển con ngƣời. Khuyến học là một nhu cầu thực
tiễn trong đời sống văn hóa giáo dục của ngƣời dân Việt Nam. Không chỉ có thời
nay, mà từ xa xƣa, khuyến học đã ra đời, tồn tại và phát triển, luôn đƣợc xã hội đặc
biệt quan tâm. Khuyến học giai đoạn 1075-1919, gắn liền với nền giáo dục khoa cử
Nho học, góp phần tạo ra truyền thống hiếu học cho dân tộc Việt Nam.
Nghệ An, một tỉnh nằm ở phía Bắc của Trung Bộ, nổi tiếng là đất học, nơi đây
đã sản sinh nhiều danh nhân lịch sử, nhà khoa bảng, nhà khoa học, nhà văn hóa nổi
tiếng, góp phần vào sự nghiệp dựng nƣớc và bảo vệ đất nƣớc. Qua nhiều thế hệ,
vùng đất Nghệ An luôn dẫn đầu phong trào khuyến học từ dòng họ, thôn, xã, đến
huyện, tỉnh và đƣợc ghi chép cụ thể trong các tƣ liệu Hán Nôm (TLHN).
Viện Nghiên cứu Hán Nôm (VNCHN) hiện lƣu trữ nhiều thƣ tịch và thác bản
văn bia, có giá trị nghiên cứu về các lĩnh vực nhƣ văn học, lịch sử, địa lý, tôn giáo,
giáo dục, khoa cử nói chung và khuyến học nói riêng. Qua tìm hiểu kho sách Hán Nôm
và kho thác bản văn bia tại VNCHN, Thƣ viện Thông tin Khoa học xã hội (TTKHXH),
Thƣ viện Quốc gia, Thƣ viện tỉnh Nghệ An và tại địa phƣơng, chúng tôi thấy một trữ
lƣợng không nhỏ TLHN có nội dung khuyến học của Nghệ An (KHNA). Việc tìm
hiểu, nghiên cứu phông tƣ liệu này một cách hệ thống, không chỉ có ý nghĩa khoa học,
mà còn có ý nghĩa thực tiễn trong hoạt động khuyến học hiện nay, cùng với việc bảo
tồn và phát huy văn hóa truyền thống dân tộc Việt Nam.
Nội dung nguồn TLHN về KHNA thể hiện rõ những quy định mang tính chính
sách về khuyến học, có giá trị về mặt tinh thần và vật chất mà ngƣời dân Nghệ An
đã thực hiện trong quá khứ. Những chính sách đó đã góp phần tạo động lực, lan tỏa
tinh thần hiếu học, truyền thống khoa bảng; từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm
hữu hiệu đối với chính sách giáo dục cũng nhƣ phát triển nguồn nhân lực của Nghệ
An nói riêng và cả nƣớc nói chung. Từ những vấn đề nêu trên, chúng tôi chọn đề tài
Nghiên cứu tư liệu Hán Nôm về khuyến học của Nghệ An để thực hiện luận án Tiến
1
sĩ ngành Hán Nôm.
Những kết quả nghiên cứu chuyên sâu về đặc điểm TLHN, cũng nhƣ giá trị
nội dung KHNA, hy vọng sẽ làm phong phú thêm nội dung khuyến học ở Việt
Nam; từ đó, có thể làm rõ hơn vai trò của nghiên cứu Hán Nôm trong việc kết nối
văn hóa truyền thống giữa quá khứ và hiện tại.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án nghiên cứu một cách toàn diện nguồn TLHN về KHNA, bao gồm:
đặc điểm văn bản, giá trị nội dung cũng nhƣ việc bảo tồn, phát huy giá trị tƣ liệu đó
đối với công tác khuyến học, khuyến tài hiện nay. Từ đó, luận án góp phần tìm hiểu
giá trị của di sản Hán Nôm nói chung, TLHN về KHNA nói riêng trong nghiên cứu
khoa học xã hội và nhân văn, phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc trong công
cuộc xây dựng và phát triển đất nƣớc hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa nguồn TLHN có nội dung KHNA một cách đầy đủ nhất từ
trƣớc đến nay. Nguồn tƣ liệu này gồm thƣ tịch và bi kí, hiện lƣu trữ tại VNCHN,
TTKHXH, Thƣ viện Quốc gia, Thƣ viện Nghệ An và tại cơ sở địa phƣơng.
- Nghiên cứu đặc điểm văn bản theo các phƣơng diện: định dạng văn bản (bản
in, bản viết tay, văn khắc), sự phân bố theo thời gian và không gian, văn tự (chữ
Hán, chữ Nôm), tác giả…
- Giới thiệu nội dung khuyến học đƣợc ghi chép trong TLHN (thƣ tịch và bi
kí), với các nội dung chủ yếu nhƣ: dựng trƣờng mở lớp; chế độ khen thƣởng (lƣu
danh khoa bảng, vinh quy bái tổ, lễ cầu khoa, tạ khoa, miễn sƣu sai tạp dịch, biếu
phần, lễ cầu khoa); chế tài xử phạt (ngƣời lƣời học, mƣợn danh đi học, coi thƣờng Nho
học, khoa bảng) nhằm đem lại hiệu quả học tập. Từ đó nêu ra những đặc điểm nội dung
TLHN về KHNA (đa dạng, phong phú; linh hoạt, phù hợp với thời cuộc, thiên về Nho
học, mang tính đặc điểm vùng).
- Nghiên cứu giá trị nội dung khuyến học, đề xuất những biện pháp nhằm bảo
tồn, phát huy giá trị TLHN về KHNA trong xã hội hiện nay.
- Phiên dịch một số TLHN có nội dung khuyến học mang tính tiêu biểu.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
2
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Toàn bộ TLHN có nội dung khuyến học của tỉnh Nghệ An lƣu trữ tại VNCHN,
TTKHXH, Thƣ viện Quốc gia, Thƣ viện Nghệ An và tại địa phƣơng (gồm 96 kí hiệu thƣ
tịch và 100 đơn vị bi kí).
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu TLHN về KHNA chúng tôi tập trung vào một số vấn đề: xác định
các khái niệm cơ bản; tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến khuyến học ở
Nghệ An, Việt Nam và một số nƣớc đồng văn nhƣ Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật
Bản; khảo sát, hệ thống hóa nguồn tƣ liệu; nghiên cứu đặc điểm văn bản; nội dung
khuyến học và đặc điểm nội dung TLHN về KHNA; giá trị nội dung khuyến học và
đề xuất những biện pháp bảo tồn và phát huy nguồn TLHN về KHNA trong xã hội
đƣơng đại.
3.3. Phạm vi sử dụng tư liệu
Phạm vi tƣ liệu chủ yếu của luận án là thƣ tịch (tục lệ, đăng khoa lục, địa chí,
gia huấn, gia phả, sách sử…) và bi ký có nội dung về KHNA trong giáo dục Nho
học lƣu trữ tại VNCHN, TTKHXH, Thƣ viện Quốc gia, Thƣ viện Nghệ An và tại cơ
sở địa phƣơng do chúng tôi khảo sát, đƣợc tính đến thời điểm hiện nay (2019) làm nguồn
tƣ liệu chính trong nghiên cứu của luận án.
Ngoài ra, luận án cũng sử dụng các bộ sách công cụ nhƣ Di sản Hán Nôm Việt
Nam thư mục đề yếu do Trần Nghĩa và François Gros đồng chủ biên, Di sản Hán
Nôm Việt Nam thư mục đề yếu (Bổ di, quyển Thƣợng, Hạ) do Trần Nghĩa chủ biên,
Thư mục hương ước của TTKHXH, Thư mục thác bản văn khắc Hán Nôm Việt Nam
do Trịnh Khắc Mạnh chủ biên…; các luận văn, luận án, sách đã xuất bản; các bài
nghiên cứu công bố trên các tạp chí chuyên ngành về khuyến học nói chung, khuyến
học Nghệ An nói riêng.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận
- Xác định cơ sở lý thuyết dựa trên quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc Việt
Nam trong việc sƣu tầm, bảo tồn, nghiên cứu khai thác và phát huy văn hóa truyền
thống, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
- Vận dụng những tri thức về Ngữ văn Hán Nôm, văn bản học, văn tự học, thƣ
tịch học, văn hóa học, nghiên cứu liên ngành đã đƣợc vận dụng lý thuyết nghiên
3
cứu khoa học trong luận án.
- Kế thừa thành quả nghiên cứu của ngƣời đi trƣớc từ các công trình khoa học
đã đƣợc công bố liên quan đến đề tài.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình triển khai đề tài, chúng tôi sử dụng các phƣơng pháp
nghiên cứu sau:
- Phƣơng pháp văn bản học: là phƣơng pháp đầu tiên và quan trọng đối với
những ngƣời làm công tác Hán Nôm nói riêng, các ngành khoa học liên quan đến
văn bản cổ nói chung. Chính vì vậy, trong quá trình nghiên cứu văn bản TLHN về
KHNA, luận án luôn đặt nhiệm vụ xác định đƣợc thiện bản làm tiêu chí hàng đầu,
từ đó nghiên cứu giá trị nội dung văn bản, đảm bảo độ tin cậy khoa học cao.
- Phƣơng pháp phiên dịch học: đó là quá trình chuyển ngữ văn bản từ chữ Hán
và chữ Nôm sang tiếng Việt. Việc biên dịch các văn bản Hán Nôm là hết sức quan
trọng, đòi hỏi sự công phu đảm bảo “tín, đạt, nhã”; giúp chúng ta thấu hiểu văn bản,
minh giải sâu văn bản và là cơ sở tƣ liệu cho quá trình phân tích, nghiên cứu.
- Phƣơng pháp thống kê, định lƣợng: việc thống kê, định lƣợng với con số cụ
thể có ý nghĩa quan trọng trong quá trình xử lý tƣ liệu. Những số liệu thống kê, định
lƣợng sẽ giúp chúng ta có cái nhìn tổng thể về các mặt nhƣ: số lƣợng thƣ tịch, số
lƣợng bi ký có nội dung khuyến học; tổng số các điều ƣớc khuyến học; sự phân bố
về không gian, thời gian các văn bản tục lệ khuyến học, v.v... Qua đó có thể thấy
đƣợc nét khái quát, hình thức cũng nhƣ nội dung của nguồn tƣ liệu.
- Phƣơng pháp giáo dục học: là khoa học về giáo dục con ngƣời, nhằm nghiên
cứu bản chất, hoạt động giáo dục con ngƣời; cùng những mục đích, nội dung và tổ
chức nhằm đáp ứng yêu cầu giáo dục của xã hội. Thông qua nội dung khuyến học
trong TLHN của Nghệ An tìm hiểu cách thức sử dụng nguồn lực trong giáo dục,
việc xây trƣờng mở lớp, các hình thức khuyến khích để giáo dục ngƣời học.
- Phƣơng pháp liên ngành: để tìm hiểu và vận dụng tri thức của nhiều ngành
khoa học khác nhau nhƣ sử học, văn hóa dân gian, dân tộc học, v.v... nhằm đánh giá
toàn diện nhất giá trị TLHN về KHNA.
- Phƣơng pháp điều tra điền dã: tiến hành sƣu tầm bổ sung các thƣ tịch tại địa
phƣơng Nghệ An, đọc và in rập tại thực địa một số văn bia để giải quyết những nghi
vấn về mặt văn bản, bổ sung một số thác bản văn bia VNCHN hiện chƣa có thác
4
bản, phỏng vấn những ngƣời phụ trách trách KHNA trong giai đoạn hiện nay.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Nghiên cứu TLHN về KHNA có giá trị về mặt khoa học và ý nghĩa thực tiễn đối
với công tác giáo dục, khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập. Đóng góp cụ
thể của luận án nhƣ sau:
- Tổng quan tình hình nghiên cứu về khuyến học nói chung, KHNA nói riêng.
- Lần đầu tiên hệ thống hóa nguồn TLHN có nội dung KHNA hiện đang lƣu trữ
tại VNCHN, TTKHXH, Thƣ viện Quốc gia, Thƣ viện Nghệ An và tại cơ sở địa
phƣơng.
- Triển khai nghiên cứu TLHN về KHNA một cách toàn diện, mang tính hệ thống
từ đặc điểm văn bản cho đến giá trị nội dung. Về văn bản: nêu những đặc điểm văn bản
của TLHN về KHNA nhƣ: loại hình văn bản, phân bố về không gian và thời gian, xác
định thiện bản, v.v... Về nội dung khuyến học: thể hiện ở những chính sách, nhƣ: dựng
trƣờng mở lớp, chế độ khen thƣởng và chế tài xử phạt.
- Nghiên cứu những đặc điểm nội dung TLHN về KHNA: thể hiện tính chủ động
trong công tác khuyến học với những hình thức đa dạng, phong phú; linh hoạt, phù hợp
với thời cuộc; đề cao tinh thần Nho giáo.
- Nêu lên thực trạng khuyến học ở Nghệ An trên cơ sở kế thừa truyền thống
khuyến học, từ đó đề xuất việc bảo tồn và phát huy giá trị nguồn TLHN về KHNA
trong giai đoạn hiện nay.
- Phần phụ lục trích dịch một số văn bản thƣ tịch và bi kí có nội dung khuyến
học tiêu biểu.
- Luận án sẽ là hƣớng mở cho các công trình nghiên cứu liên quan đến khuyến
học ở các địa phƣơng và trên cả nƣớc nói chung.
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận án
Trong suốt chiều dài lịch sử của nền giáo dục khoa cử Nho học, khuyến học là
chính sách quốc gia, là động lực trong chiến lƣợc phát triển nhân tài đất nƣớc, đƣợc
nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên, chƣa có nghiên cứu nào đi sâu
vào nội dung KHNA qua TLHN.
Nội dung khuyến học qua TLHN của Nghệ An giúp chúng ta thấy đƣợc những
chính sách khuyến học mà ngƣời dân Nghệ An thực hiện trong quá khứ, rộng khắp
5
từ thôn xóm đến hội giáp. Những chính sách đó mang lại những giá trị vô cùng quý
giá, nhƣ đề cao tinh thần tự học, coi trọng việc học, đề cao giá trị của Nho học
truyền thống, tác động tích cực đến thành tựu khoa bảng của Nghệ An.
Nêu ra những mặt tích cực cũng nhƣ những điểm còn hạn chế về mặt tƣ tƣởng
của khuyến học xƣa, liên hệ với thực tiễn, đƣa ra những giải pháp, nhằm bảo tồn và
phát huy giá trị của nguồn tƣ liệu; góp phần đƣa công tác khuyến học, khuyến tài
của Nghệ An nói riêng, cả nƣớc nói chung đạt đƣợc những kết quả tốt nhất.
7 . Bố cục của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung của
luận án gồm 4 chƣơng:
Chƣơng 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án:
Nêu khái quát chung về tình hình nghiên cứu khuyến học nói chung ở các nƣớc
đồng văn (Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản), ở Việt Nam, tình hình nghiên cứu
TLHN về khuyến học, cùng sự nghiên cứu về TLHN về KHNA, từ đó định hƣớng
nghiên cứu của luận án.
Chƣơng 2: Khảo sát nguồn tƣ liệu Hán Nôm về khuyến học của Nghệ An: Khảo
sát, thống kê thƣ tịch và bi kí có nội dung KHNA tại VNCHN, TTKHXH, Thƣ viện
Quốc gia, Thƣ viện Nghệ An và cơ sở địa phƣơng; nêu một số đặc điểm văn bản
của nguồn tƣ liệu này.
Chƣơng 3: Nội dung và đặc điểm tƣ liệu Hán Nôm về khuyến học của Nghệ An:
Giới thiệu nội dung khuyến học đƣợc thể hiện bằng những chính sách cụ thể nhƣ:
dựng trƣờng mở lớp, chế độ khen thƣởng và chế tài xử phạt. Qua đó thấy đƣợc đặc
điểm nội dung TLHN về KHNA: đa dạng, phong phú về mặt chính sách, chủ động
linh hoạt phù hợp với thời cuộc, mang tính đặc điểm vùng, nội dung khuyến học
gắn liền với giáo dục khoa cử Nho học.
Chƣơng 4: Giá trị tƣ liệu Hán Nôm về khuyến học của Nghệ An và vấn đề
bảo tồn, phát huy giá trị tƣ liệu đối với khuyến học hiện nay: Thông qua những
những giá trị tích cực cũng nhƣ những hạn chế về mặt tƣ tƣởng khuyến học, luận án
tìm hiểu thực trạng hoạt động KHNA, tính kế thừa từ truyền thống đến hiện tại, đƣa
6
ra một số giải pháp bảo tồn, phát huy giá trị tƣ liệu đó trong giai đoạn hiện nay.
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Khuyến học là chính sách, là nhu cầu thực tiễn trong đời sống văn hóa giáo dục,
trải qua nhiều thời đại, ở nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Trong những năm gần
đây, khuyến học nhận đƣợc sự quan tâm của nhiều học giả trong nƣớc cũng nhƣ một số
nƣớc phƣơng Đông. Trong chƣơng này, chúng tôi chọn một số tác phẩm tiêu biểu về
khuyến học làm cơ sở triển khai nội dung ở các chƣơng tiếp theo.
Nhận thức đƣợc giá trị của khuyến học, các học giả Việt Nam và một số nƣớc
phƣơng Đông đã để tâm nghiên cứu, công bố nhiều công trình khoa học liên quan đến
khuyến học. Trƣớc khi tiến hành tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề
tài, chúng tôi xác định khái niệm về khuyến học, khái niệm TLHN về KHNA.
1.1. Khái niệm khuyến học, tƣ liệu Hán Nôm về khuyến học của Nghệ An
1.1.1. Khái niệm khuyến học
Ở Trung Quốc
Từ điển Từ nguyên 辭源 giải thích: 勸學: 鼓勵勤於學習 (khuyến học: cổ vũ,
khích lệ chăm chỉ học tập). [306. tr.208].
Khuyến học: thời cổ đại nên tách làm hai từ: “khuyến” có nghĩa là khuyên giải,
khích lệ, “học” đƣơng nhiên là học tập; hai từ đó hợp lại, là thuyết phục và khích lệ
ngƣời khác nỗ lực học tập. Xã hội Trung Quốc từ cổ đại đến nay, học tập luôn là
vấn đề trọng yếu đối với sự phát triển của mỗi cá nhân, thậm chí là điều kiện mang
tính quyết định, “học giỏi thì làm quan” luôn là mục tiêu lý tƣởng của ngƣời đi học,
nên khuyến học trở thành một hiện tƣợng văn hóa, một loại tƣ tƣởng truyền thống
kéo dài liên tục”. [316, tr.6].
Cũng theo tác giả Tống Tƣờng “Khuyến học là phƣơng thức giáo dục đặc sắc
của Trung Quốc cổ đại, hình thành tƣ tƣởng khuyến học một cách hệ thống, có tác
dụng tƣơng đối lớn trong quá trình bồi dƣỡng nhân tài thời kỳ cổ đại. Trong xã hội
hiện đại, đặc biệt đối với giáo dục cơ sở, khuyến học vẫn có tác dụng chỉ đạo và gợi
7
mở rất lớn”. [317, tr.136].
Ngô Dân Tƣờng và Lộ Thế Bằng cho rằng: “Khuyến học là thuyết phục, khích
lệ, động viên ngƣời khác nỗ lực học tập”. [318, tr.77].
Trƣơng Thứ Đệ đƣa ra quan niệm về khuyến học Nho gia: “Khuyến học trong
văn hóa Nho gia là chỉ Nho gia Trung Quốc cổ đại dùng một hình thức nhất định để
cổ vũ, khích lệ cá nhân hoặc tập thể thực hiện lòng nhân, tu lễ, chú trọng đạo đức,
học tập, bao gồm hai phƣơng diện là hình thức khuyến học và nội dung khuyến
học”. [309, tr.28].
Điền Kiến Bình cho rằng: “Tuân Tử viết thiên “Khuyến học” nổi tiếng, dốc
tâm sức khuyên mọi ngƣời cố gắng nỗ lực tìm tòi học vấn. Bản thân khuyến học
thực ra không phải mục đích, mục đích là bồi dƣỡng, giáo dục nhân tài. Rõ ràng,
Tuân Tử cho rằng, chỉ có thông qua khổ học mới có thể trở thành tài, không học thì
chắc chắn không thành ngƣời tài đƣợc”. Trong “khuyến học” chữ khuyến là trọng
tâm, Tuân Tử cho rằng “khuyên từ đầu đến cuối, khuyên mãi khuyên hoài không
chán, khuyên đi khuyên lại, sử dụng hết ví dụ này đến ví dụ khác, hết lời khuyên
bảo, tuần tự tăng tiến, ân cần dạy bảo, mục đích là khuyên mọi ngƣời học tập”. [314,
tr.95].
Ở Việt Nam
Từ điển tiếng Việt viết: “Khuyến học: khuyến khích việc học”. Từ “khuyến
khích” đƣợc từ điển này giải thích thêm: khuyến khích: tác động đến tinh thần để
gây phấn khởi, tin tƣởng mà cố gắng hơn; tạo điều kiện thuận lợi để phát triển mạnh
mẽ hơn. [133, tr.540].
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: “Khuyến học là việc cổ vũ và nâng đỡ việc
học”. [174, tr.473].
Ghi chép về hoạt dộng khuyến học đƣợc nhà sử học Phan Huy Chú ghi chép
cụ thể trong Lịch triều hiến chương loại chí, mục Khoa mục chí, với các nghi thức:
xƣớng danh Tiến sĩ; ban mũ, áo, cân đai; ban yến và lễ vinh quy bái tổ đời Lê Trung
hƣng, có giá trị khuyến học sâu sắc. [15, tr.55-59].
Quan điểm của các nhà Nho Việt Nam về việc học, khuyến học đƣợc ghi chép
trong các thƣ tịch cổ. Thám hoa Nguyễn Đức Đạt trong Cần kiệm vựng biên 勤儉彙
8
編 (mục Cần học) đã viết: “Việc học giỏi bởi chuyên cần, không chuyên cần thì
chẳng khác gì không học. (Hiểu biết) sâu rộng hay hạn hẹp, há chơi đùa mà có thể có đƣợc sao. Học mà để làm quan, làm quan để mà học, khác lối cùng đƣờng”.1
Tiến sĩ Hồ Phi Tích trải qua cuộc sống nghèo cùng, nhƣng ông vẫn nỗ lực trong việc
học “ Cái nghèo không thay đổi đƣợc niềm vui của ta, thà chịu nghèo mà đƣợc biết sự vất
vả của việc đọc sách; cái cùng càng làm cho lòng ta thêm vững, không lìa bỏ chí hƣớng cao xa”2 . Sách Lê triều Nguyễn tướng công gia huấn ca 黎朝阮相八家訓歌3 có Bài
ca khuyên học trò phải chăm học: “Bậc thánh hiền ấy không dám ví/ Song làm
ngƣời có chí thì nên/ …Sớm khuya ở chốn văn phòng/ Bút nghiên, giấy mực bạn
cùng chân tay/ Bài kinh nghĩa cùng bài văn sách/ Tinh phú, thơ, mọi vẻ văn chƣơng/ Một đèn, một sách, một giƣờng/ Rèn đèn, mài sắt nên gang có ngày”4.
Cao Xuân Dục trong tác phẩm Nhân thế tu tri 人世須知, mục Vụ học tổng hợp
những lời nói hay, những tấm gƣơng tốt trích trong các sách Kinh, Sử, Tử, Tập về
việc học, hiếu học, nhƣ: “ Phàm những ngƣời hiếu học tuy chết đi, nhƣng tinh thần
vẫn còn, ngƣời không học thì dẫu còn cũng chỉ là cái thây đi, cục thịt chạy mà thôi”.
Hay “Thuyết Uyển: nhỏ mà ham học nhƣ mặt trời mới ló, lớn mà ham học nhƣ trời sáng ban ngày, già mà ham học nhƣ ánh sáng ngọn đuốc” 5.
Sổ tay khuyến học của Hội Khuyến học Việt Nam định nghĩa: “Khuyến học là
khuyến khích học tập. Cụ thể nó là một khái niệm dùng để chỉ những hoạt động tạo
điều kiện thuận lợi về tinh thần và vật chất của cá nhân hay tổ chức để khích lệ, giúp đỡ ngƣời học nghe theo, làm theo cùng nhau thúc đẩy việc học tập”. [47, tr.1].
Trong cuốn Cấu trúc của mô hình xã hội học tập ở Việt Nam của Hội Khuyến
1 “學精於勤、不勤不如勿學、博之約之豈嬉而能獲哉. 學而仕、仕而學、異徑同術”,
勤儉彙編,VHv.708, t.17a.
2 “然貧不改樂、寕知黄卷之勞、窮且貧堅、不堕青雲之志”窮達家訓 , A.3076, tr.46b. 3 黎朝阮相公家訓 歌 Lê triều Nguyễn tướng công gia huấn ca, kí hiệu AB.406 là một tập hợp 6 bài ca theo chủ điểm giáo dục gia đình. Xem thêm Hoàng Văn Lâu.1984, “Ai viết gia huấn ca”, Tạp chí Hán Nôm, số 1, tr.112-120.
4 “堛聖賢𧘇空監啻、雙 爫𠊛固志時𢧚 (…) 𣋽虧 於准文房、筆硯絏墨伴共蹎拪、排精 義共排文策、精賦詩每𨤔文章、沒畑沒冊沒床、鍊畑𥕄鉄𢧚鋼固𣈗”, 黎朝阮相八家訓歌, AB.406. tr.23b, 24a
5 “拾遺記:夫人好學雖死若存, 不學者雖存謂之行尸走肉耳”; “ 說苑:少而好學如日出
之, 陽壯而好學如日中之 , 老而好學如炳燭之明”, 人世須知, VHv.352/4, t.11b, 12a.
9
học Việt Nam diễn giải về “khuyến học” nhƣ sau: “Khuyến học là sự khuyên bảo,
hƣớng dẫn, khích lệ, giúp đỡ của các tổ chức và cá nhân để ngƣời ta hứng thú nghe
theo, làm theo, cùng nhau thúc đẩy việc học tập và vận động các nguồn lực để tạo
cơ hội và điều kiện cho mọi ngƣời đƣợc học và tự học. Học thƣờng xuyên, học suốt
đời; học chữ, học nghề, học làm ngƣời, học để biết, để làm việc, để làm ngƣời, để
chung sống và phát triển ở cộng đồng, góp phần xây dựng cả nƣớc trở thành một xã
hội học tập…”. [48, tr.100].
Qua một số định nghĩa và quan niệm về khuyến học nêu trên, theo chúng tôi,
khái niệm khuyến học đƣợc xác định nhƣ sau: Khuyến học là hoạt động hoặc chính
sách trong lĩnh vực giáo dục, nhằm cổ vũ, khích lệ cá nhân hoặc tập thể nỗ lực học
tập, cụ thể là những hoạt động tạo điều kiện thuận lợi về tinh thần và vật chất của cá
nhân hay tổ chức để ngƣời học hứng thú cùng nhau thúc đẩy việc học tập; vận động
các nguồn lực để tạo cơ hội và điều kiện cho mọi ngƣời đƣợc học, góp phần xây
dựng một xã hội học tập.
1.1.2. Khái niệm tư liệu Hán Nôm về khuyến học Nghệ An: TLHN về
KHNA là những loại hình tƣ liệu đƣợc viết bằng chữ Hán và chữ Nôm có nội dung
về khuyến học của tỉnh Nghệ An. Luận án tập trung khai thác những thông tin của
TLHN về KHNA qua các nguồn tƣ liệu nhƣ tục lệ, đăng khoa lục, gia phả, gia huấn,
địa chí và bi ký, các nguồn tƣ liệu này gắn liền với nền giáo dục khoa cử Nho học
cho đến những năm đầu thế kỷ XX, khi khoa cử Nho học kết thúc và mở đầu của
giai đoạn cải lƣơng hƣơng chính (1919-1921). Đặc biệt khai thác sâu nội dung tƣ
liệu, nhƣ tƣ liệu đăng khoa lục, từ thông tin về đăng khoa lục thấy đƣợc ý nghĩa
khuyến khích và nêu gƣơng, truyền thống đỗ đạt của địa phƣơng, bổ sung những
thông tin hữu ích để chỉnh lý những sự kiện, nhân vật khoa bảng cho chính xác hơn.
1.2. Khái lƣợc quá trình phát triển của khuyến học
Ở Trung Quốc
Thời nhà Chu, khuyến học Nho gia trở thành một trong những hệ thống biểu
đạt kết hợp giữa tƣ tƣởng với thực tiễn, ngƣời sáng lập là Khổng Tử. Khổng Tử đại
biểu cho khuyến học Nho gia thời kỳ sớm nhất, nội dung khuyến học chủ yếu là
nhấn mạnh nhân và đức. Trong tác phẩm Luận ngữ, Khổng Tử đã dùng chính cuộc
đời mình để khái quát về việc học “ta 15 tuổi mới chuyên tâm vào việc học, ba
10
mƣơi tuổi mới tự lập, bốn mƣơi tuổi mới thấu hiểu mọi sự lý trong thiên hạ, năm
mƣơi tuổi mới hiểu đƣợc mệnh trời, sáu mƣơi tuổi mới có kiến thức và kinh nghiệm
hoàn hảo để có thể phán đoán ngay đƣợc mọi sự lý và nhân vật, mà không thấy có
điều gì chƣớng ngại khi nghe đƣợc, bảy mƣơi tuổi mới có thể nói hay làm những
điều đúng theo ý muốn của lòng mình mà không ra ngoài khuôn khổ đạo lý”. [309,
tr.28]. Muốn đạt tới khả năng nhận thức và thực hành, ở mỗi lứa tuổi ngƣời ta phải
đƣợc giáo dục và tự mình chuyên tâm vào việc học, học liên tục ngay từ khi còn trẻ
cho đến lúc tuổi già.
Khuyến học Khổng Tử rất coi trọng việc “lấy mình làm gƣơng”, với việc học
“học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ?” (học mà thƣờng xuyên luyện tập, chẳng
vui lắm sao?”, “học nhi bất yếm, hối nhân bất quyện” (học mà không chán, dạy
ngƣời mà không thấy mệt).
Thời Chiến quốc, khuyến học của Mạnh Tử phát triển có tính sáng tạo, lấy
phƣơng thức đề cao nhân cách cá thể để dẫn dắt chính trị quốc gia. Để thuận lợi cho
việc thực thi khuyến học, Mạnh Tử thẳng thắn cho rằng cần phải tham gia vào chính
trị quốc gia, tức làm quan, làm thầy đế vƣơng.
Thời Tiên Tần không ít ngƣời đề xƣớng việc học tập, nhƣng phải đến thiên
“Khuyến học”của Tuân Tử mới lƣu lại dấu ấn lịch sử sâu sắc. Khuyến học của Tuân
Tử là tƣ tƣởng khuyến học tiêu biểu thời kỳ đó, lấy “việc học để cầu tài năng” làm
mục tiêu học tập.
Thời nhà Hán, khuyến học Nho gia là một biểu hiện của đời Hán, tƣ tƣởng
Nho gia trở thành tƣ tƣởng chính trị thống trị quốc gia, Nho học trở thành quan học,
đúng với thực tế tên gọi. Hán học lấy phƣơng thức cổ vũ, khích lệ, kêu gọi mọi
ngƣời thông hiểu kinh sử, lấy quan chức để khuyến học, thời kỳ đó dẫn đến không
khí Nho học rất sôi nổi. Khuyến học Nho gia thời nhà Hán lấy hình thức chính trị
hóa quốc gia nên cổ vũ ngƣời học thông Nho học, Nho điển. Nho sĩ cũng muốn
thông qua kinh điển để đƣợc trọng dụng, đƣợc tham gia vào hoạt động chính trị.
Thời Minh Thanh, giáo dục nhà trƣờng và khảo thí khoa cử có sự kết hợp mật
thiết, đó là biểu hiện chế độ khoa cử giáo dục quốc gia, của khuyến học Nho gia.
11
[309, tr.29-32].
Ở Việt Nam
So với các nƣớc chịu ảnh hƣởng của giáo dục Nho học Trung Hoa, khuyến
học ở Việt Nam có ảnh hƣởng lâu dài và liên tục. Tuy nhiên, thể chế, biện pháp
khuyến học có sự thay đổi, phù hợp với từng thời kỳ, từng triều đại và tình hình
giáo dục khoa cử nƣớc nhà.
Thời Bắc thuộc, vào thế kỷ VIII và IX, chữ Hán đƣợc học và sử dụng rộng rãi
ở Việt Nam, ngƣời Việt sử dụng chữ Hán nhƣ chữ viết của mình. Nhờ tinh thần
hiếu học, không ít ngƣời Việt có trình độ học vấn cao và thi đỗ trong các kì thi do
triều đình phƣơng Bắc tổ chức, nhƣ: Phùng Đái Trí, Khƣơng Công Phụ, Khƣơng
Công Phục, Liêu Hữu Phƣơng, v.v... [121, tr.135], những tấm gƣơng đó có tác dụng
cổ vũ, khuyến khích học tập đối với hậu thế.
Triều Lý, năm 1070, triều đình cho dựng Văn miếu ở kinh thành Thăng Long
thờ Khổng Tử và các vị Thánh hiền và là nơi học tập của Hoàng thái tử “Năm Canh
Tuất niên hiệu Thần Vũ thứ 2 (1070) đời Lý Thánh Tông, mùa thu, tháng Tám dựng
Văn miếu, đắp tƣợng Khổng Tử, Chu Công và Tứ phối, vẽ tranh Thất thập nhị hiền,
bốn mùa cúng tế, Hoàng thái tử đến học ở đây”. [17, tr.275]. Nhƣ vậy, ngoài chức
năng thờ tự các bậc Tiên Thánh, tiên sƣ của đạo Nho, Văn miếu còn mang chức
năng của một trƣờng học hoàng gia. Năm 1076, Lý Nhân Tông cho lập trƣờng Quốc
tử giám ở bên cạnh Văn miếu, có thể coi đây là trƣờng đại học đầu tiên ở Việt Nam.
Ban đầu trƣờng chỉ dành riêng cho con vua và con các bậc quyền quý, sau vua Trần
Thái Tông đổi Quốc tử giám thành Quốc học viện cho mở rộng thu nhận cả con các
nhà thƣờng dân có sức học xuất sắc.
Đại Việt sử ký toàn thư ghi lại, nhà Lý trong 200 năm trị vì đã tổ chức đƣợc 7
kỳ thi tuyển, đó là: khoa Minh kinh Bác học và thi Nho học tam trƣờng vào các năm
Ất Mão, niên hiệu Thái Ninh thứ 4 (1075); khoa Bính Dần năm Quảng Hựu thứ 2
(1086); khoa Nhâm Ngọ năm Đại Định thứ 23 (1162); khoa Nhâm Dần năm Trinh
Phù thứ 7 (1182); khoa Ất Tỵ năm Trinh Phù thứ 10 (1185); khoa Quý Sửu năm
Thiên Tƣ Gia Thụy thứ 8 (1193) và khoa Ất Mão năm Thiên Tƣ Gia Thụy thứ 10
12
(1195). [17, tr.277-330].
Trải theo chiều dài lịch sử đất nƣớc, tiếp theo các triều Trần, Lê, Mạc, Nguyễn
ngoài việc thƣờng xuyên tổ chức các khoa thi để lựa chọn nhân tài, còn có những
chính sách nhằm khuyến khích việc học.
Triều Trần, năm 1227, mở khoa thi Tam giáo (Nho, Phật, Đạo) để chọn ngƣời
giỏi. Khoa thi Nho học đầu tiên của triều Trần tổ chức vào tháng Hai năm Nhâm
Thìn niên hiệu Kiến Trung thứ 8 (1232), kết thúc là khoa Thái học sinh năm Quý
Dậu (1393). Để khuyến khích việc học tập của các sĩ tử vùng xa kinh đô, khoa thi
Thái học sinh năm Nguyên Phong thứ 6 (1256) quy định lấy 2 Trạng nguyên: 1 Trạng nguyên Kinh và 1 Trạng nguyên Trại 6: “Hồi sơ quốc cử ngƣời chƣa phân
kinh trại, ngƣời đỗ đầu cho danh hiệu Trạng nguyên. Đến nay chia Thanh Hóa,
Nghệ An làm trại, cho nên có phân biệt kinh, trại”. [18, tr.27]. Cuộc kháng chiến
chống Nguyên Mông gây ra những xáo trộn trong học tập, khoa cử, vua Trần Nhân
Tông “xuống chiếu cho sĩ nhân trong nƣớc ôn luyện để đợi thi”. [17, tr.78]. Khoa
thi Thái học sinh lớn nhất đƣợc mở vào năm Giáp Thìn Hƣng Long năm thứ 12
(1304) với 44 ngƣời đỗ Thái học sinh “dẫn 3 ngƣời đỗ đầu ra cửa Long Môn của
Phƣợng Thành đi du ngoạn đƣờng phố 3 ngày, còn 330 ngƣời khác thì ở lại học
tập”.[18,tr.88]. Cuối triều Trần, vua Trần Thuận Tông đƣa ra chính sách dùng ruộng
công thu hoa lợi cấp cho trƣờng học, quy định “phủ châu lớn thì 15 mẫu, phủ châu
vừa 12 mẫu, chủ châu nhỏ 10 mẫu”. [267].
Triều Lê, triều đình đặc biệt chú trọng đến giáo dục, đào tạo nhân tài. Năm Thuận
Thiên thứ 1 (1428), ngoài Quốc tử giám ở kinh đô, Lê Thái Tổ hạ chiếu các nơi trong
nƣớc đều dựng học đƣờng ở các phủ để dạy dỗ nhân tài. Năm 1484, việc cho dựng bia
ghi tên các Tiến sĩ đánh dấu sự ra đời của văn bia liên quan đến khuyến học Việt Nam.
Quy định về vinh quy bái tổ là ân điển lớn đƣợc duy trì đến triều Nguyễn, là điểm nhấn
quan trọng trong hoạt động khuyến học. Năm Quý Mùi niên hiệu Quang Thuận thứ 4
(1463) “ bắt đầu định lệ ba năm một lần thi Hội” với quy mô lớn chƣa từng có “bấy giờ
ngƣời dự thi có tới 4.400 ngƣời, lấy đỗ 44 ngƣời”. [18, tr.398]. Từ khoa thi này, lễ
truyền loa xƣớng danh các tân Tiến sĩ và ban ân mệnh cho từng ngƣời, đem bảng vàng
6 Tứ trấn ở miền Bắc gọi là Kinh, miền Thanh Hóa và Nghệ An gọi là Trại.
13
treo ngoài cửa Đông Hoa cho các sĩ nhân biết, đƣợc coi là thƣờng lệ.
Một sự kiện lớn là việc dựng bia đề danh Tiến sĩ tại Văn miếu - Quốc tử giám
Thăng Long do sáng kiến của vua Lê Thánh Tông năm 1484: “vua cho là từ năm
Đại Bảo thứ 3 triều Thái Tông đến giờ, việc dựng bia, đề tên Tiến sĩ các khoa vẫn
chƣa làm đƣợc, sai Lễ bộ Thƣợng thƣ Quách Đình Bảo biên rõ họ tên, thứ bậc các
Tiến sĩ thi đỗ, kể từ khoa Nhâm Tuất Đại Bảo thứ 3 (1442) triều Thái Tông, khoa
Mậu Thìn năm Thái Hòa thứ 6 triều Nhân Tông, khoa Quý Mùi năm Quang Thuận
thứ 4, khoa Bính Tuất năm thứ 7, khoa Kỷ Sửu năm thứ 10, khoa Nhâm Thìn năm
Hồng Đức thứ 3, khoa Ất Mùi năm thứ 6, khoa Mậu Tuất năm thứ 9, khoa Tân Sửu
năm thứ 12, khoa Giáp Thìn năm nay, khắc vào bia đá, v.v… Vua y tờ tâu, sai Công
bộ khởi công dựng tạc bia”. [18, tr.491- 492].
Triều Mạc, các vua rất chú trọng việc mở các khoa thi Tiến sĩ để tuyển chọn
nhân tài. Ngay cả khi nhà Mạc và nhà Lê Trung hƣng xảy ra cuộc chiến, các khoa
thi Tiến sĩ vẫn đƣợc mở đều đặn. Năm Kỷ Sửu niên hiệu Mạc Minh Đức thứ 3
(1529): “Họ Mạc mở khoa thi Hội, lấy 3 ngƣời đỗ Tiến sĩ cập đệ, 8 ngƣời đỗ Tiến sĩ
xuất thân và 16 ngƣời đỗ Đồng Tiến sĩ xuất thân. [19, tr.113]. Năm Nhâm Thìn,
niên hiệu Mạc Hồng Ninh thứ 2 (1592), họ Mạc mở khoa thi Hội, lấy 4 ngƣời đỗ
Tiến sĩ xuất thân, 13 ngƣời đỗ Đồng Tiến sĩ xuất thân. [19, tr.174].
Triều Tây Sơn, vua Quang Trung khi vừa lên ngôi (1788) đã ban Chiếu lập
học, thể hiện sự coi trọng giáo dục thời kỳ này, với những chính sách cụ thể, phổ
cập việc học và đào tạo thực tài. Chiếu lập học là một chính sách rất kịp thời và tiến
bộ nhằm cải cách giáo dục dƣới triều Tây Sơn. [162, tr.75-77]. Bên cạnh đó, chủ
trƣơng mở trƣờng, đặt chức Đốc học ở các trấn Bắc Thành [289] thể hiện rõ việc
chăm lo, khuyến khích việc học của triều đại này.
Triều Nguyễn, sau khi Gia Long lên ngôi, tình hình chính trị, xã hội có nhiều
biến động, việc học hành thi cử mất vài năm mới dần đƣợc khôi phục. Ngoài các
khoa thi Tiến sĩ nhƣ các triều đại trƣớc, triều Nguyễn còn đặt ra một số Ân khoa và
Chế khoa bác sĩ. Kể từ khoa thi Hội đầu tiên năm Minh Mệnh thứ 3 (1822) đến
khoa thi cuối cùng năm Khải Định thứ 4 (1919), nhà Nguyễn đã tổ chức đƣợc 39
khoa thi Hội, lấy đỗ 558 vị Tiến sĩ. [166, tr.23]. Trong 23 tỉnh có ngƣời đỗ đại khoa
triều Nguyễn, tỉnh Nghệ An có số ngƣời đỗ nhiều nhất với 91 ngƣời, vƣợt hẳn tỉnh
14
thứ 2 là Thừa Thiên (60 ngƣời), Hà Tĩnh (44 ngƣời). [167, tr.385]. Triều Nguyễn tổ
chức đƣợc 47 khoa thi Hƣơng trên cả nƣớc, trƣờng thi Nghệ An tổ chức đƣợc 42 khoa, lấy đậu 802 Cử nhân, 562 là ngƣời Nghệ An, còn lại là các tỉnh khác. [167,
tr.74, 85].
Năm Đinh Mão niên hiệu Gia Long thứ 6 (1807), khoa thi Hƣơng đầu tiên của
triều Nguyễn đƣợc tổ chức trên phạm vi cả nƣớc, lấy đỗ 56 Hƣơng cống, nhà nƣớc
định lệ 6 năm tổ chức một khoa thi Hƣơng, về sau đổi lại là 3 năm. [127, tr.111].
Năm Nhâm Ngọ niên hiệu Minh Mệnh thứ 3 (1822), khoa thi Hội đầu tiên của
triều Nguyễn đƣợc tổ chức. Chức danh Phó bảng đƣợc ra đời từ khoa Kỷ Sửu niên
hiệu Minh Mệnh thứ 10 (1829), để chỉ những ngƣời lấy thêm ở mỗi khoa thi, có số
điểm gần sát với hạng Đệ Tam giáp. Tuy đƣợc chọn trong kỳ thi đại khoa, nhƣng
quyền lợi và sự đãi ngộ của những ngƣời này không đƣợc bằng ngƣời đỗ chính
bảng. Đến đời Tự Đức, ngoài các khoa thi Hội mở theo đúng định lệ, vua cho đặt
Ân khoa, nghĩa là các khoa thi đƣợc vua đặc ân cho mở thêm ngoài các năm quy
định và Chế khoa cát sĩ dành cho các Cử nhân, Giám sinh đang học tại Quốc tử
giám (Huế), Giáo thụ, Huấn đạo ở các phủ, huyện, Tiến sĩ, Phó bảng đang ở tại quê
nhà chƣa ra làm quan và cả các Cử nhân, Tú tài đạt điểm qua một kỳ khảo hạch sơ
bộ. Khoa này phép thi có phần khó hơn, đặc ân đƣợc ban cũng trọng hậu hơn chính
khoa Tiến sĩ. [157, tr.15, 16]. Khoa thi Hội năm Kỷ Mùi Khải Định thứ 4 (1919) trở
thành khoa thi cuối cùng trong lịch sử khoa cử Việt Nam.
Ngoài việc tổ chức các khoa thi để tuyển chọn nhân tài, chính quyền triều
Nguyễn còn đặt ra những chính sách chăm lo đến giáo dục, cụ thể nhƣ: đặt các chức
Huấn đạo Nho học ở các huyện vào năm Gia Long thứ 2 (1803); chức Giáo chức ở
các trấn thuộc Bắc Thành năm Gia Long thứ 3 (1804), mỗi trấn đặt thêm viên Trợ
giáo, Đốc học để chăm lo công việc giảng dạy. Để tạo cơ sở vững vàng cho phát triển
giáo dục nói chung, khuyến học nói riêng, vua Gia Long định phép khảo khóa học trò
vào hai kỳ Xuân, Thu, miễn binh đao cho những ngƣời thông văn lý để khuyến khích.
[146, tr.565].
Dƣới triều Nguyễn, năm Ất Sửu, niên hiệu Tự Đức thứ 18, định rõ lại lệ bổ
quan cho những viên Tiến sĩ và Phó bảng: Cử nhân, Giám sinh mà trúng nhất giáp,
Đệ nhất danh, (tức Trạng nguyên) bắt đầu thụ hàm Thị độc; Đệ nhị danh (tức Bảng
15
nhãn) bắt đầu thụ hàm Thừa chỉ, đợi Chỉ kén dùng; Đệ tam giáp (tứcThám hoa) bắt
đầu thụ hàm trƣớc tác, lập tức bổ ngay Tri phủ (…); Phó bảng, thụ hàm kiểm thảo,
đầy 1 năm thăng Tri huyện, thự Đồng Tri phủ. [142, tr.905]. Đổi định lệ “đỗ Cử nhân
có phân số bổ làm Huấn đạo, lĩnh Giáo thụ, hoặc Chánh bát phẩm lĩnh tƣ vụ, biên tu,
kinh lịch; đầy 1 năm thì đƣợc thực thụ; 2 năm thăng thụ đồng tri, lĩnh huyện, châu
thông phán tu soạn; hoặc bổ đồng tri, trƣớc tác, chủ sự. Ai không dự có phân số, cũng
bổ Huấn đạo, hoặc Chánh bát phẩm lĩnh các chức nhƣ trên, đủ 2 năm đƣợc thực thụ.
Lại đầy năm nữa, thăng bổ huyện, châu, hậu bổ các tỉnh, đều thụ Hàn lâm điển tịch,
đến khi bổ huyện, châu đều theo bổ quan”. [142, tr.935].
Tại Nghệ An
Khuyến học còn đƣợc cụ thể hóa qua việc xây dựng, trùng tu Văn miếu, Văn
từ, Văn chỉ, dựng bia đề danh khoa bảng từ cấp tỉnh đến làng xã, ghi danh ngƣời đỗ
đạt các cấp trong sách đăng khoa lục, lập điều ƣớc khuyến học trong bản tục lệ,
khuyến khích học tập trong các dòng họ khoa bảng, v.v… Tƣ liệu khuyến học sớm
nhất là bản Hội khoán của thôn Quỳnh Đôi, xã Quỳnh Lƣu đƣợc lập năm Vĩnh Thọ
thứ 3 (1660), có tác dụng khuyến khích khoa cử, tôn sùng Nho học. Cùng với sự
phát triển của Nho học cấp làng xã, các tƣ liệu thƣ tịch và bi ký về KHNA tiếp tục
tồn tại, phát triển cho đến đầu thế kỷ XX, điển hình là năm Duy Tân thứ 5 (1911) ra
đời và tái biên rất nhiều hƣơng ƣớc.
Tóm lại, khuyến học đã đƣợc hình thành ở Việt Nam từ rất sớm. Phùng Trí Đái,
Khƣơng Công Phụ, Khƣơng Công Phục, v.v… là những tấm gƣơng điển hình về trí
tuệ, học vấn, tinh thần ham học hỏi của ngƣời dân Việt Nam trƣớc thời quân chủ. Trải
theo chiều dài lịch sử đất nƣớc, ngƣời đứng đầu các triều đại Lý, Trần, Lê, Mạc, Lê
Trịnh, Nguyễn luôn đề ra những chính sách riêng để khuyến khích việc học: xây dựng
Văn miếu - Quốc tử giám vào triều Lý; quy định về việc lấy thêm học vị Trại Trạng
nguyên vào triều Trần; dựng bia đề danh Tiến sĩ dƣới triều Lê; vua Quang Trung ban
Chiếu lập học; dựng trƣờng ở cấp phủ, cấp huyện dƣới triều Nguyễn; chính sách
khuyến học lan tỏa từ trung ƣơng xuống các phủ, huyện, thôn, xóm. Tại các tỉnh, trong
đó có Nghệ An, ngƣời dân học tập, tiếp thu, cải biến các chính sách khuyến học cho
phù hợp với tình hình địa phƣơng, cụ thể nhƣ: xây dựng Văn từ, Văn chỉ, dựng trƣờng
16
mở lớp ngay tại thôn xã, lập điều ƣớc khuyến học trong các bản tục lệ, khuyến học
trong các dòng họ, v.v… từ đó, tạo động lực thúc đẩy việc học ngày càng rộng khắp và
đạt hiệu quả cao.
Có thể nói, khuyến học Việt Nam nói chung, KHNA nói riêng có lịch sử phát
triển khá lâu đời, đƣợc thực hiện rộng khắp từ trung ƣơng đến địa phƣơng, với sự nỗ
lực từ ngƣời cai trị đất nƣớc cho đến ngƣời dân nghèo. Khuyến học Trung Hoa mang
tính tƣ tƣởng, khuyến học Việt Nam đi sâu vào chính sách cụ thể.
1.3. Giới thiệu về địa giới hành chính tỉnh Nghệ An
Vùng đất Nghệ An có lịch sử diên cách khá phức tạp. Theo Dư địa chí của
Nguyễn Trãi: “Nghệ An là đất của Cửu Chân thời Hán, đất của quận Cửu Đức thời
Tấn, thời Tùy là đất quận Nhật Nam, đời Đƣờng là đất Hoan Châu và Diễn Châu,
thời Đinh Lê vẫn gọi là Hoan Châu. Năm Thiên Thành thứ 3 (1030) đời Lý Thái
tông, đổi Hoan Châu ra Nghệ An (tên Nghệ An bắt đầu có từ đó). Năm Long Khánh
thứ 2 (1374) đời Trần Duệ tông đổi Diễn Châu thành Diễn Châu lộ, đổi Hoan Châu
thành các lộ Nghệ An Nam, Bắc, Trung. Năm Quang Thái thứ 10 (1397) đời Trần
Thuận tông đổi Nghệ An làm trấn Lâm An, đổi Diễn Châu thành trấn Vọng Giang.
[172, tr.134-135]. Sách Đồng Khánh dư địa chí ghi: Năm Quang Thuận thứ 10
(1469) đặt Nghệ An thừa tuyên (sau đổi là xứ) gồm 8 phủ, 18 huyện, 2 châu. Triều
Nguyễn, năm Gia Long 1 (1802) lấy lại tên cũ là trấn Nghệ An. Năm Minh Mệnh
thứ 12 (1832) chia đặt tỉnh hạt trong toàn quốc, tách hai phủ Đức Thọ và Hà Hoa
làm tỉnh Hà Tĩnh, phần còn lại làm tỉnh Nghệ An. Năm Tự Đức 6 thứ (1853) tách
phủ Đức Thọ trƣớc thuộc Hà Tĩnh sang Nghệ An. Tỉnh Nghệ An thời Đồng Khánh
giữ nguyên nhƣ đời Tự Đức. [156, tr.1229]. Theo Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ
XIX, trấn Nghệ An gồm 5 phủ, 16 huyện, 17 tổng và 1.125 xã: phủ Hà Hoa (huyện
Kỳ Hoa, Thạch Hà), phủ Đức Giang (huyện Thanh Chƣơng, Chân Lộc, Thiên Lộc,
Hƣơng Sơn, La Sơn, Nghi Xuân), phủ Anh Đô (huyện Hƣng Nguyên, Nam Đƣờng),
phủ Diễn Châu (huyện: Quỳnh Lƣu, Đông Thành) và phủ Trà Lân (huyện: Tƣơng
Dƣơng, Vĩnh Hòa, Hội Nguyên, Kỳ Sơn). [150, tr.104].
Địa danh hành chính tỉnh Nghệ An từ ngày 12/8/1991, gồm: 18 đơn vị hành
chính, thành phố Vinh và 17 huyện: Anh Sơn, Con Cuông, Diễn Châu, Đô Lƣơng,
Hƣng Nguyên, Kỳ Sơn, Nam Đàn, Nghi Lộc, Nghĩa Đàn, Quế Phong, Quỳ Châu,
17
Quỳ Hợp, Quỳnh Lƣu, Tân Kỳ, Thanh Chƣơng, Tƣơng Dƣơng và Yên Thành. [2,
tr.549]. Về cơ bản, địa danh trên vẫn là những vùng đất truyền thống của Nghệ An.
Để phù hợp với nguồn TLHN về KHNA đƣợc sƣu tập chủ yếu tại các địa phƣơng
trƣớc năm 1921. Về địa danh hành chính tỉnh Nghệ An, trong luận án, chúng tôi căn
cứ vào thời điểm hiện nay, gồm 1 thành phố Vinh, 3 thị xã và 17 huyện.
Hình 1. Bản đồ hành chính tỉnh Nghệ An7
1.4. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Khuyến học là chính sách, là nhu cầu thực tiễn trong đời sống văn hóa giáo dục,
trải qua nhiều thời đại, ở nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Nhận thức đƣợc giá
trị của khuyến học, các học giả Việt Nam và một số nƣớc phƣơng Đông đã để tâm
nghiên cứu, công bố nhiều công trình khoa học liên quan đến khuyến học. Trong
chƣơng này, chúng tôi chọn một số tác phẩm tiêu biểu, làm cơ sở để triển khai đề
tài ở các chƣơng sau.
1.4.1. Tình hình nghiên cứu khuyến học ở một số nước phương Đông
Ở Trung Quốc
Khuyến học hay khuyến học Nho gia đƣợc khởi nguồn từ Trung Quốc và phát
7 Bản đồ hàn chính tỉnh Nghệ An, nguồn http://bandohanhchinh.com/wp- content/uploads/
2018/03/ bandoNAend-e1521478928108.jpg (ngày truy cập 23/04/2019).
18
triển thành hệ tƣ tƣởng. Khổng Tử và Mạnh Tử là những ngƣời tiên phong về
khuyến học. Thời Tiên Tần với thiên Khuyến học 勸學, thiên đầu tiên trong sách
Tuân Tử 荀子, khuyến học mới thực sự gây ảnh hƣởng lớn trong xã hội. Khuyến
học của Tuân Tử là thiên tản văn nổi tiếng thời Tiên Tần, là viên ngọc quý trong
kho tàng văn học cổ đại Trung Quốc, nội dung sách bàn về đƣờng lối và mục đích
học tập của ngƣời quân tử, chủ yếu dùng lối thí dụ để thuyết minh các lý lẽ, sách
đƣợc các nhà nghiên cứu thực sự quan tâm. [312, tr.118].
Thời nhà Tống, Khuyến học thi 劝学詩 của 宊真宗 Tống Chân Tông với
“mục đích học giỏi để làm quan” làm động lực khuyến khích học tập. Khuyến học
thiên 劝学篇 của Trƣơng Chi Động 張之洞 phát triển thành tƣ tƣởng khuyến học
“học để tìm sức mạnh, không chịu khuất phục”. [318, tr.78, 80].
Trong những năm gần đây, một số bài viết nghiên cứu về khuyến học Nho gia
và tƣ tƣởng khuyến học đáng đƣợc chú ý, nhƣ Trƣơng Thứ Đệ 張次第 trong bài
Nho gia khuyến học đích đương đại xã hội giá trị 儒家劝学的当代社会价值 đã
nêu bật đƣợc giá trị xã hội đƣơng đại của khuyến học Nho gia, chủ yếu thể hiện ở
mấy điểm: tạo ra con ngƣời có nhân cách đạo đức tốt đẹp, đề cao tố chất đạo đức,
nâng cao trình độ văn hóa của dân tộc Trung Hoa. [309, tr.28-33].
Ngô Dân Tƣờng, Lộ Thế Bằng 吴民祥。路世鵬 trong bài Trung Quốc cổ đại
khuyến học tư tưởng đích lưu biến dữ giáo dục nội dung chi biến thiên 中国古代劝
学思想的流变与教育內容之变迁 đã phân tích diễn biến của nội dung khuyến học
phản ánh tƣ tƣởng khuyến học, hình thành phong cách học, phong cách kẻ sĩ khác
nhau trong mỗi thời kì. Tác giả đƣa ra ba tƣ tƣởng khuyến học trong ba tác phẩm
khuyến học tiêu biểu, đó là: Khuyến học của Tuân Tử với tƣ tƣởng lấy “việc học để
cầu tài năng”, Thơ khuyến học của Tống Chân Tông với mục đích “học mà giỏi thì
làm quan” và Thiên khuyến học của Trƣơng Chi Động phát triển thành tƣ tƣởng
khuyến học “học để tìm sức mạnh, không chịu khuất phục”. [318, tr.77- 82].
Thiên Khuyến học trong sách Tuân Tử bàn về đƣờng lối và mục đích học tập
của ngƣời quân tử, chủ yếu dùng lối thí dụ để thuyết minh các lý lẽ với tiêu chí
“việc học không thể dừng đƣợc”. Điền Kiến Bình trong bài Khuyến học chi khuyến
劝学之劝 cho rằng, dù thiên Khuyến học của Tuân Tử đã lƣu truyền hơn 2000 năm,
trải qua nhiều triều đại nhƣng xã hội vẫn tồn tại phổ biến hiện tƣợng không học.
19
Điều này một mặt chứng minh tầm nhìn xa, rộng, dự báo sáng suốt của Tuân Tử khi
viết thiên khuyến học, một mặt càng cho thấy tính khó khăn của “khuyến học” loài
ngƣời. [314, tr.95].
Khuyến học của Tuân Tử đƣợc đƣa vào trong sách giáo khoa Ngữ văn Trung
học trong nhiều năm Khuyến học cai khuyến học sinh thập ma 劝学 “該劝学生学什
么”là trăn trở của của tác giả Trần Ngọc Lợi 陳宝利. Theo tác giả, để lĩnh hội sâu
sắc tác phẩm, phải để cho học sinh nhận thức đƣợc nội dung giáo dục phẩm chất
đạo đức, khai thác đƣợc ý nghĩa đạo đức của thiên văn học đó, từ đó hƣớng dẫn học
sinh về lời nói, hành động trong suốt cuộc đời sau này. [312, tr.118-119].
Giai đoạn cuối nhà Thanh, Trung Quốc thực hiện cách tân giáo dục ở các phủ,
châu, huyện. một trong những việc làm cụ thể đó là lập Sở khuyến học. Khuyến học
sở thám tích 劝学所探析 là tên luận văn Thạc sĩ của học viên Cao học Lƣu Phúc
Sâm 刘 福 森 thực hiện năm 2008. Tác giả đi sâu tìm hiểu quá trình ra đời, phát
triển của sở khuyến học, bộ phận tổ thành của hành chính giáo dục địa phƣơng. Nội
dung chủ yếu là: phát triển giáo dục sơ đẳng, bao gồm giáo dục tiểu học và giáo dục
xã hội, trong phạm vi hành chính cấp huyện. [311].
Ở Hàn Quốc
Khuyến học đƣợc các học giả quan tâm ở nhiều góc độ khác nhau. Kim Kyong
Ho trong bài“Vấn đề khuyến học trong truyền thống Nho học ở Đông Á- Kế thừa và
biến dung của truyền thống” cho rằng chủ đề về học vấn và sự học, khuyến khích học
tập, không thể hạn định trong luận điểm về tính thực thể của học vấn, cũng không thể
tách rời khỏi những băn khoăn về toàn bộ cuộc sống đang diễn ra trong thực tại
đƣơng thời. Đối với “những ngƣời đang dạy và học” đƣơng thời cần phải phân tích
một hiện tại có nền tảng truyền thống mang tính lịch sử và đƣa ra những biến dung
mang tính sáng tạo, nhằm hƣớng đến một tƣơng lai lâu bền hơn. Từ đó, cần phải suy
nghĩ về các chủ đề nhƣ “học tập và “khuyến khích học tập”, nội dung và phƣơng
pháp, mục đích của học tập. Tóm lại, để việc khuyến khích học nhằm nâng cao chất lƣợng cuộc sống, cần phải tăng cƣờng tính cần thiết của 利學 lợi học đồng thời cần
phải mƣu cầu “học vấn nhằm thực tiễn các đạo lý làm ngƣời”. Đây chính là công việc
hƣớng tới con ngƣời, mà nó bao hàm cả các vấn đề về “văn minh” và “giá trị”. Từ
dòng chảy của nho học Tống Minh, đến Nho học Choson và thời kỳ cận đại, có thể cho
thấy khuynh hƣớng “khuyến học” nhằm đảm bảo cho ý thức cải cách mang tính xã hội
20
và những lo lắng mang tính học vấn về “khai hóa” và “giá trị”. [322].
Nghiên cứu Khuyến học của Tuân Tử - nhà tƣ tƣởng, nhà giáo dục có cống
hiến lớn đối với việc phổ cập và truyền thừa học vấn, Lee Kyu Sang trong bài “Tìm
hiểu triết học giáo dục trong thiên Khuyến học của Tuân Tử” cho rằng, trong các
triết gia Trung Quốc, Tuân Tử là ngƣời nhấn mạnh hơn ai hết tính quan trọng của giáo
dục. Theo Tuân Tử, thông qua giáo dục có thể hoàn thiện đạo đức của con ngƣời, đồng
thời đạt đƣợc một sự phát triển mang tính văn hóa trong xã hội. Thiên khuyến học đề
cập đến ý nghĩa và tính cần thiết, mục đích, nội dung, phƣơng pháp, khả năng và hiệu
quả của giáo dục. Theo Tuân Tử, phƣơng pháp học tập thuận lợi nhất chính là học theo thầy, việc thầy hƣớng dẫn học tập đƣợc coi trọng hơn hết thảy, so với việc tƣ biện 思 辨 thì việc học 學 (học tập một cách cụ thể và kinh nghiệm) đƣợc nhấn mạnh hơn; so với
trí 知 (tri thức) thì hành 行 (hành động), tức là thực tiễn đƣợc coi trọng hơn. Hành, tức là
nắm vững đƣợc cấp bậc cao nhất của nhận thức, học tập, và thông qua hành vi ứng xử
mà có thể nắm bắt đƣợc những tri thức thấu triệt và đạt tới sự thông tuệ chân chính. Ông
nhấn mạnh việc học tập để thực hành, đặc biệt để nhằm đạt đến sự hoàn thiện, việc học
tập liên tục và chuyên nhất, cho thấy rõ giá trị của việc giáo dục. [323].
Ở Nhật Bản
“Đến thời Edo (1603-1868), Nho giáo phát triển đến cực thịnh, song hành
với nó là chế độ Mạc phủ có phần coi trọng tầng lớp chiến binh (Samurai). Các
nhà triết học Kumazawa (1619-1691) và Yamaga Soko (1622-1685) đã nhìn nhận
thấu đáo vai trò của giáo dục nhân văn trong cộng đồng nên đã phát triển Nho học
Nhật Bản thành hệ thống triết học chỉnh hợp văn nghiệp và võ nghiệp. Các chiến
binh Samurai bắt đầu đƣợc khuyến khích để học kinh điển Nho gia, cốt để tạo ra
một thế hệ Samurai vừa tráng kiện, dũng mãnh vừa hàm chứa đầy đủ các giá trị
Nho giáo nhƣ Trung, Hiếu, Nghĩa, Trí, Dũng, làm những nhân tố tích cực để kiến tạo xã hội lấy đức hạnh làm trung tâm”8. Những thập niên cuối của thế kỷ XIX (năm 1872-1876) tác phẩm Khuyến học của Fukuzawa Yukichi ra đời đƣợc đánh
giá cuốn sách có tầm ảnh hƣởng sâu rộng nhất đối với ngƣời dân Nhật. Cho dù đã
hơn một thế kỷ kể từ khi cuốn sách đƣợc ra mắt, Khuyến học vẫn là tài liệu đầy
chất thời sự cho những đất nƣớc, những con ngƣời đạt đến văn minh bằng giáo
8 Dẫn theo Nguyễn Ngọc Thơ, Khuyến học và Giáo dục nhân văn ở Việt Nam xưa và nay,
nguồn website:hcmussh.edu.vn
21
dục. Cuốn sách đã đề cập đến tinh thần cơ bản của con ngƣời và mục đích thực thụ
của học vấn, các chƣơng viết về sự bình đẳng, quyền con ngƣời, phận sự của học
giả và bổn phận của công dân đối với quốc gia, v.v… đã làm lay chuyển tâm lý
ngƣời Nhật Bản dƣới thời Minh Trị, vốn bị trói buộc bởi đẳng cấp, thân phận và
phục tùng. Fukuzawa Yukichi khẳng định mọi ngƣời sinh ra đều bình đẳng và nếu
có khác biệt là do trình độ học vấn, có tri thức và giáo dục, bất kỳ ai cũng có thể
"đạt đƣợc cả những tiện nghi vật chất lẫn sự nâng cao tinh thần con ngƣời". Về
học vấn, Fukuzawa Yukichi phê phán lối học "từ chƣơng" không thực tế, nhấn
mạnh Nhật Bản phải xây dựng nền học vấn dựa trên “thực tế”. Nền học vấn thực
học phải gắn liền với cuộc sống hằng ngày, phải dựa trên tinh thần khoa học, tinh
thần độc lập, tính thực dụng. Việc tiếp thu văn minh phƣơng Tây phải có chọn lọc.
Cuốn sách này đã làm thay đổi cách suy nghĩ, học tập của toàn ngƣời Nhật. [324].
Nằm trong khối văn hóa đồng văn Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc đều
có những nghiên cứu về khuyến học ở những mức độ khác nhau. Nhìn chung,
nghiên cứu khuyến học ở các nƣớc phƣơng Đông đều gắn với Nho học. Khuyến
học của Tuân Tử đƣợc các nhà nghiên cứu đặc biệt quan tâm. Nghiên cứu khuyến
học ở Trung Quốc đƣợc nâng lên tầm tƣ tƣởng, ở Hàn Quốc đƣợc chú ý ở góc độ
kế thừa và biến dung, Nhật Bản nhấn mạnh vấn đề thực học.
1.4.2. Tình hình nghiên cứu khuyến học ở Việt Nam
Vì nội dung khuyến học khá đa dạng, một cuốn sách có nội dung khuyến học
có thể bao quát nhiều chủ đề và nghiên cứu đan xen, nên ở đây chúng tôi tổng quan
tình hình tƣ liệu nghiên cứu khuyến học theo định danh tài liệu.
1.4.2.1. Sách chuyên khảo
Năm 2009, Nxb Khoa học xã hội (KHXH) cho ra mắt cuốn Giáo dục và khoa
cử Nho học thời Lê ở Việt Nam qua tài liệu Hán Nôm của Đinh Khắc Thuân. Cuốn
sách giới thiệu khái quát về lịch sử giáo dục và khoa cử Nho học ở Việt Nam, đồng
thời đi sâu phân tích và hệ thống một số khía cạch về giáo dục và khoa cử Nho học
thời Lê, nhƣ: thể chế giáo dục, việc tổ chức trƣờng học, v.v… Ngoài Văn miếu ở
Thăng Long - Hà Nội, tác giả khảo cứu về hệ thống học hiệu ở phủ lộ cùng những
chính sách khuyến học ở các địa phƣơng nhƣ học điền, hƣơng học, điều lệ khuyến
học trong hƣơng ƣớc của nhiều làng xã dƣới triều Lê. [166].
Năm 2010, Nguyễn Hữu Mùi với cuốn Truyền thống hiếu học và hệ thống Văn
22
miếu, Văn từ, Văn chỉ ở Vĩnh Phúc đã chỉ ra đƣợc những nhân tố tác động đến truyền
thống hiếu học ở Vĩnh Phúc; tiểu sử ngƣời đỗ đại khoa ngạch văn và ngạch võ, ngƣời đỗ
trung khoa thời Lê và Nguyễn ở Vĩnh Phúc. Phần 2 của cuốn sách giới thiệu hệ thống
Văn miếu, Văn từ, Văn chỉ trong phạm vi tỉnh Vĩnh Phúc. [108].
Năm 2010, dự án Tủ sách “Thăng Long ngàn năm văn hiến” đã giới thiệu
cuốn Giáo dục và khoa cử nho học Thăng Long - Hà Nội của Bùi Xuân Đính. Sách
cung cấp cho ngƣời đọc những kiến thức cơ bản cùng bức tranh toàn cảnh về truyền
thống giáo dục và khoa cử của Thăng Long - Hà Nội. Trong đó, có những khảo cứu
về những chính sách khuyến học, một trong những nhân tố tác động đến sự thành
công về học tập, khoa cử của ngƣời Thăng Long - Hà Nội. Đây là một công trình có
ý nghĩa khoa học và thực tiễn giúp cho ngƣời đọc có những hiểu biết đầy đủ và
đúng đắn về truyền thống học hành, thi cử của vùng đất kinh đô, qua đó rút ra
những bài học kinh nghiệm của quá khứ đối với việc học, khuyến học, đào tạo nhân
tài cho đất nƣớc. [21].
Năm 2010, Vũ Duy Mền giới thiệu cuốn Hương ước cổ làng xã đồng bằng
Bắc bộ. Không dừng ở việc công bố tƣ liệu nhƣ các sách Hương ước Hà Tĩnh,
Hương ước Nghệ An, Hương ước Thái Bình, tác giả đã chọn hƣơng ƣớc làm đối
tƣợng nghiên cứu trực tiếp, qua đó ngƣời đọc có thể hiểu rõ hơn thuật ngữ hƣơng
ƣớc, nguồn gốc và nội dung của hƣơng ƣớc, ảnh hƣởng của đạo lý Nho gia, vai trò
của hƣơng ƣớc đối với đời sống cộng đồng làng xã. Trong phần quy ƣớc về các hoạt
động văn hóa - xã hội (các việc trong làng xã), tác giả cũng đề cập đến những yếu tố
ảnh hƣởng đến khuyến học nhƣ việc khao vọng, mừng ngƣời đỗ đạt, thành quan,
hƣơng ẩm, vị thứ đình trung. [97].
Năm 2012, Nxb Dân trí đã xuất bản cuốn Khuyến học của Phạm Tất Dong.
Cuốn sách đề cập đến vấn đề khuyến học, khuyến tài và giáo dục của Việt Nam từ
thời phong kiến cho đến hiện nay, với 3 nội dung chính: mô hình giáo dục Việt
Nam dƣới thời phong kiến, giáo dục Việt Nam thời kì Pháp thuộc (1888 - 8/1945)
và cuộc vận động giáo dục dƣới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Phần nội dung
đáng chú ý của sách là “Đạo lý khuyến học, khuyến tài” (tr.82 - 96) đã điểm qua
những chủ trƣơng, chính sách khuyến học của các vƣơng triều, từ triều Lý, Trần, Lê
với chiếu cầu hiền của Lê Lợi, chiếu khuyến học của Lê Thánh Tông, chiếu cầu
23
hiền của vua Quang Trung, bia Văn miếu Quốc tử giám. [27].
Năm 2017, Vũ Hoa Tƣơi biên soạn cuốn Cẩm nang công tác khuyến học và
giới thiệu những tấm gương hiếu học, phong trào khuyến học hiện nay. Đúng với
tiêu đề “cẩm nang”, sách tập hợp đƣợc nhiều vấn về cần thiết trong lĩnh vực khuyến
học hiện nay. Sách chia làm 10 phần, trọng tâm là phần 1, 2, 3, 5, 8, tập hợp các
điều lệ, tổ chức, hoạt động, các quyết định của Thủ tƣớng chính phủ, thông báo của
Văn phòng chính phủ liên quan đến Hội Khuyến học, đề án, mô hình và tiêu chí xây
dựng xã hội học tập. Sách dành phần 4, 6, 7 đề cập đến những tƣ tƣởng lớn về xã
hội học tập, học thƣờng xuyên, học suốt đời, những gƣơng sáng khuyến học, phong
trào khuyến học, gia đình, dòng họ hiếu học của Việt Nam. Đây là tài liệu tổng hợp,
đặc biệt có giá trị đối với những ngƣời làm công tác khuyến học hiện nay. [177].
Năm 2014, trong cuốn Tiếp cận di sản Hán Nôm, Trịnh Khắc Mạnh có mục
“Bi ký Hán Nôm Việt Nam góp phần nghiên cứu đời sống văn hóa xã hội”, bài viết
cho thấy tinh thần khuyến học, tôn sƣ trọng đạo, phát huy năng lực nho sĩ là một
trong những nội dung đƣợc phản ánh khá nhiều trong văn bia Hán Nôm Việt Nam.
[88, tr.627- 636].
Năm 2016, Nxb KHXH cho ra mắt cuốn Di sản Hán Nôm trong đời sống văn
hóa xã hội Việt Nam do Trịnh Khắc Mạnh chủ biên. Trong mục “Di sản Hán Nôm
góp phần nghiên cứu văn hóa, giáo dục, đào tạo” cuốn sách có đề cập đến văn bia
khuyến học với những nội dung xây dựng trƣờng lớp cho học sinh học tập, đặt học
điền, chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần của ngƣời thầy giáo trong làng. [90,
tr.448-450].
Năm 2007, cuốn Thư mục thác bản văn khắc Hán Nôm Việt Nam, tập 2 do
Trịnh Khắc Mạnh chủ biên, giới thiệu đƣợc 67 văn bia Nghệ An, trong đó có 23 bia
có nội dung khuyến học mà luận án quan tâm nghiên cứu. [83].
1.4.2.2. Kỷ yếu hội thảo
Năm 2008, kỷ yếu Hội thảo khoa học Văn miếu và truyền thống hiếu học ở
Vĩnh Phúc quy tụ 30 bản tham luận của các nhà khoa học và các nhà quản lý, trong
đó có nhiều bài bàn về khuyến học của Vĩnh Phúc. Nguyễn Hữu Mùi với bài “Tìm
hiểu việc khuyến học ở Vĩnh Phúc qua nguồn tài liệu Hán Nôm”, với nguồn tài liệu
24
chủ yếu là văn bia và một số ít tục lệ lƣu giữ tại VNCHN, tác giả đã giới thiệu về hoạt động khuyến học nơi đây qua những chủ trƣơng, chính sách của địa phƣơng. [106, tr.120-128]. Nguyễn Thị Oanh trong tham luận “Bƣớc đầu tìm hiểu chính sách
khuyến học thời Nguyễn và sự thực thi chủ trƣơng trên ở tỉnh Phúc Yên” trên cơ sở
các văn bản tục lệ chữ Hán của các tổng thuộc phủ Yên Lãng, tỉnh Vĩnh Yên tác giả
đã nêu bật đƣợc việc thực thi chính sách khuyến học ở tỉnh Phúc Yên với những nội
dung cụ thể nhƣ giảm sƣu dịch cho ngƣời đi học, đặt học điền, khen thƣởng bằng
vật chất, vinh quy bái tổ, chỗ ngồi nơi đình trung, v.v… [131, tr.129-142]. Bài “Lệ
khuyến học ở tỉnh Vĩnh Phúc” của Lã Minh Hằng với nguồn tƣ liệu hƣơng ƣớc cải
lƣơng của 4 huyện: Bình Xuyên, Tam Dƣơng, Lập Thạch và Yên Lạc lƣu giữ tại
TTKHXH, có bản viết bằng chữ Quốc ngữ, có bản viết bằng chữ Hán hoặc Nôm,
chứa đựng nhiều nội dung khuyến học. [40]. Các bài “Làng khoa bảng Nhật Chiêu”,
“Các nhà khoa bảng tỉnh Vĩnh Phúc qua nguồn tƣ liệu văn bia Tiến sĩ tại di tích Văn
miếu - Quốc tử giám Hà Nội”, “Văn bia Tiến sĩ ở Văn từ huyện Lập Thạch, huyện
Yên Lạc” , v.v… là những bài viết có nội dung khuyến học đƣợc in trong cuốn kỉ
yếu này. Bài viết của Nguyễn Tá Nhí với tiêu đề “Vài nét về chính sách giáo dục
đào tạo nhà Nguyễn đối với các phủ huyện thuộc tỉnh Vĩnh Phúc” phân tích, dẫn
chứng cụ thể những chính sách của triều đình nhà Nguyễn áp dụng cho giáo dục tại các phủ huyện nói chung, tỉnh Sơn Tây9 nói riêng, đó là: bổ nhậm các nhà khoa bảng có đủ năng lực về làm Giáo thụ, Huấn đạo; xây dựng cơ sở học trƣờng ở các
phủ huyện. Nhờ các chính sách đó, dƣới triều Nguyễn, nơi đây xuất hiện nhiều làng
khoa bảng nhƣ Văn Trƣng, Nhật Chiêu, Đinh Xá, Thụ Ích. [127, tr.111- 119].
1.4.2.3. Luận văn, luận án về khuyến học
Năm 1996, đánh dấu sự ra đời của Hội Khuyến học Việt Nam, cùng với việc
ban hành Chỉ thị của Thủ tƣớng Chính phủ “Về việc phát huy vai trò của Hội
Khuyến học Việt Nam trong sự nghiệp phát triển giáo dục” [160], khuyến học đƣợc
đặc biệt quan tâm về cả phƣơng diện chính sách cũng nhƣ lĩnh vực nghiên cứu. Trƣớc hết phải kể đến Luận án Tiến sĩ Ngữ văn của Nguyễn Hữu Mùi với nhan đề Nghiên cứu văn bia khuyến học Việt Nam (từ thế kỉ XV đến những năm đầu thế kỷ
XX). Tác giả luận án đã thống kê đƣợc 874 văn bia thuộc 23 tỉnh hiện lƣu giữ tại
VNCHN mang nội dung khuyến học, đây đƣợc coi là nguồn tƣ liệu thành văn có giá
9 Thời Nguyễn, trƣớc khi thành lập tỉnh Vĩnh Yên thì các huyện của tỉnh Vĩnh Phúc bấy giờ chủ
yếu thuộc về tỉnh Sơn Tây.
25
trị khoa học để nghiên cứu về khuyến học của Việt Nam từ thế kỉ XV đến những
năm đầu thế kỉ XX. Các văn bia này chủ yếu đƣợc dựng tại các di tích nhƣ Văn
miếu, Văn từ, Văn chỉ, Võ chỉ từ cấp trung ƣơng đến địa phƣơng. Tác giả nghiên
cứu từ hình thức văn bản đến giá trị nội dung, trên cơ sở ấy rút ra một số nét đặc
trƣng chính của văn bia khuyến học. Ngoài ra, luận án bổ sung tiểu sử một số vị đỗ
đại khoa, tƣ liệu về sự ra đời và phát triển của Hội Tƣ văn ở làng xã Việt Nam, đối
với tỉnh Nghệ An, luận án thống kê đƣợc 20 văn bia khuyến học. Đây là một luận
án có giá trị khoa học và thực tiễn về nghiên cứu văn bia ở Việt Nam nói chung, bia
khuyến học nói riêng. [105].
Năm 2014, Nguyễn Đình Mạnh chọn Khuyến học qua văn hóa dòng họ xứ Thanh làm đề tài luận án Tiến sĩ Văn hóa học. Theo tác giả: “Học tập không chỉ là ƣớc vọng của cá nhân ngƣời học mà còn là khát khao, sở nguyện của gia đình, dòng
tộc. Họ tộc kế thế đăng khoa là vinh dự, cũng là niềm tự hào để con cháu noi theo,
nhƣng mặt khác, đó cũng chính là tấm gƣơng, sự khích lệ các sĩ tử của các họ tộc
khác cùng nhau phấn đấu vƣơn lên”. [91, tr.5]. Tiếp thu kết quả nghiên cứu của
những ngƣời đi trƣớc, khảo sát thực tế tại địa phƣơng, đối sánh với một số dòng họ
tiêu biểu ở một số địa phƣơng khác, tác giả luận án giải mã đƣợc nguyên nhân thành
công trong việc khuyến khích học tập của các dòng họ, nguyên nhân nào khiến
dòng họ trở thành nền tảng, cơ sở nuôi dƣỡng tinh thần hiếu học, tại sao khuyến học
lại trở thành một nét văn hóa dòng họ. Luận án đƣa ra một số giải pháp nhằm phát
huy giá trị văn hóa dòng họ về khuyến học ở xứ Thanh trong xã hội hiện nay. [91].
1.4.2.4. Những bài nghiên cứu về khuyến học trên những tạp chí khoa học
Năm 1991, Tạp chí Hán Nôm số 1 có đăng bài “Vài nét về cụm văn bia ở Văn
chỉ làng Nguyệt Áng” giới thiệu hai tấm bia khắc tên ngƣời đỗ đạt khoa trƣờng của
làng Nguyệt Áng, huyện Thanh Trì để khuyến khích học sinh trong làng phấn đấu
học tập. [173, tr.23-25].
Cũng trong năm 1991, Nguyễn Hữu Mùi với bài “Về những văn bản văn bia
khuyến khích việc học tập trong nền giáo dục khoa cử thời kỳ phong kiến ở nƣớc
ta”, đã thống kê đƣợc 20 văn bia có nội dung khuyến học (bia học điền, bia ghi việc
xây dựng trƣờng học) hiện lƣu giữ tại VNCHN. Bài viết đã cung cấp tƣ liệu có giá
trị về việc đặt học điền và xây dựng trƣờng trƣờng lớp của các làng xã ở Việt Nam.
26
[103, tr.26-28].
Năm 1994, Nguyễn Hữu Mùi có bài viết giới thiệu về bản khoán lệ liên quan
đến vấn đề học tập của xã Tƣ Vi, tổng Chi Nê, huyện Tiên Du (nay là xã Tân Chi
huyện Tiên Sơn tỉnh Bắc Ninh). Nội dung khoán lệ có 20/55 điều lệ khuyến học,
với tƣ tƣởng tiến bộ về việc học nhƣ: quy định tuổi đi học; cho con gái đến trƣờng
học chữ Quốc ngữ, toán, nữ công, phép tắc; coi việc học là trách nhiệm của mọi
ngƣời. [104, tr.47-51].
Năm 1997, Trƣơng Đức Quả giới thiệu cuốn gia phả họ Nguyễn ở xóm Đông,
thị trấn Tây Đằng, huyện Ba Vì: 21 điều lệ là những quy định chặt chẽ mà dòng họ
đặt ra, cùng nhau thực hiện. Đáng chú ý trong đó có 2 điều lệ (điều 18-19) về việc
thƣởng tiền cho học trò thi đỗ và thƣởng cho ngƣời đỗ từ tiểu khoa đến trung khoa,
mức thƣởng từ 5 quan đến 60 quan cùng câu đối, nhằm khuyến khích Nho phong.
[135, tr.476 -483].
Năm 1997, Nguyễn Văn Huyên với bài “Khuyến học ở làng xã xƣa qua một số
bản hƣơng ƣớc”, giới thiệu điều lệ khuyến học trong hƣơng ƣớc của một số làng xã
thuộc các tỉnh Bắc bộ và Bắc Trung Bộ nhƣ: làng Mộ Trạch, tỉnh Hải Dƣơng; làng
Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lƣu, tỉnh Nghệ An; xã Hoàng Lộc, huyện Hoằng Hóa,
tỉnh Thanh Hóa… qua đó thấy đƣợc mối tác động qua lại giữa khuyến học và khoa
bảng ở các làng xã xƣa. [71, tr.63-65].
Năm 1998, Hoàng Lê trong bài “Một tấm bia đề cao truyền thống tôn sƣ trọng
đạo”, giới thiệu về tấm bia ở thôn Tiền xã Minh Nghĩa, huyện Nông Cống, tỉnh
Thanh Hóa do tác giả sƣu tầm. Nội dung tấm bia ghi nhận truyền thống tốt đẹp với
đạo lý thầy trò của hội nghĩa với các môn đồ đặt 4 sào ruộng để thờ thầy Trƣờng
Xuyên sau khi thầy qua đời. [73, tr.75-76].
Năm 2001, Nguyễn Thúy Nga công bố bài “Bia Văn miếu Hƣng Yên” đề cập
đến cụm văn bia dựng tại Văn miếu Xích Đằng, tỉnh Hƣng Yên. Bài viết bổ sung
thông tin một số ngƣời đỗ Tiến sĩ Nho học của tỉnh Hƣng Yên chƣa đƣợc ghi tên
trong sách đăng khoa lục. Tác giả coi việc dựng bia đề danh ở Văn miếu nhằm mục
đích khuyến khích học tập trong địa bàn tỉnh. [117, tr.57-64].
Thăng Long Hà Nội là kinh đô của đất nƣớc, trung tâm văn hóa của cả dân
tộc, truyền thống học tập của đất kinh kỳ xƣa luôn đƣợc phát huy mạnh mẽ.
“Truyền thống hiếu học của ngƣời Hà Nội xƣa qua hƣơng ƣớc” tác giả Nguyễn Thế
27
Long minh chứng tinh thần hiếu học và truyền thống khuyến học của ngƣời dân Hà
Nội đã có từ lâu đời, đƣợc các bản hƣơng ƣớc ghi lại khá chi tiết. Qua bài viết
chúng ta thấy đƣợc những điều thiết thực, nhân văn trong hoạt động khuyến học của
kinh đô Thăng Long, nhƣ: thành lập ấu trĩ viên cho trẻ nhỏ đến chơi và tập thể thao
cho khỏe mạnh, thành lập trƣờng Pháp - Việt, trƣờng Quốc ngữ, trích tiền công để
mua sách giáo khoa cho con nhà nghèo mƣợn, v.v…, đó là những điểm khác biệt so
với tục lệ khuyến học tại một số tỉnh thuộc đồng bằng Bắc bộ và Bắc Trung Bộ, nơi
hoạt động khuyến học gắn liền với những sinh hoạt làng xã của những vùng quê
thuần nông. [77, tr.63-65].
Năm 2003, trong bài “Lập học chiếu và chính sách giáo dục triều Tây Sơn” Đinh Khắc Thuân giới thiệu bản chiếu của triều Tây Sơn, do Ngô Thì Nhậm soạn,
nói về việc học. Đây là một trong những chiếu chỉ vua Quang Trung ban ngay sau
khi xƣng đế (1788), với những khẳng định “Xây dựng đất nƣớc lấy dạy học làm
đầu, tìm lẽ trị bình tuyển nhân tài làm gấp”. Nội dung chiếu ban bố chính sách và
biện pháp cụ thể để phổ cập việc học và đào tạo thực tài, quy định các xã đƣợc đặt
chức giảng dụ để lo việc dạy học, chủ trƣơng này rất tiến bộ, nhằm mở rộng việc
học đến mọi làng xã dƣới thời Tây Sơn. [162, tr.75-77].
Năm 2006, Phạm Thị Thùy Vinh trong bài “Các nhà khoa bảng và Nho học ở
làng xã Việt Nam qua tƣ liệu văn khắc Hán Nôm” cho thấy, một trong những loại văn
bia quan trọng nhất của làng xã về khuyến khích Nho học là bia Văn chỉ, ghi danh tính
những ngƣời đỗ đạt của cả làng và bia học điền. Với những chế độ khuyến khích ngƣời
đi học, học cao để đỗ đạt, là một thành công của Nho học ở thôn quê Việt Nam. [185,
tr. 330-342].
Năm 2008, bài “Học xã điền thổ bi ký, tấm bia đề cập đến việc dựng trƣờng
dân lập và đặt học điền sớm nhất ở nƣớc ta” giới thiệu tấm bia Học xã điền thổ bi kí
學舍田土碑記, dựng năm Nhâm Ngọ niên hiệu Chính Hòa (1702), đặt ở Văn chỉ
chung cho hai xã Văn Trƣng và Lăng Trƣng của huyện Vĩnh Tƣờng tỉnh Vĩnh Yên (N0.14252-14253). Đây là văn bia có niên đại sớm nhất đề cập đến đặt học điền cấp làng xã ở nƣớc ta. [107, tr.700 -707].
Năm 2009, Đinh Khắc Thuân trong bài “Truyền thống hiếu học và khoa bảng
Nho học ở làng xã ngƣời Việt” đề cập đến những làng xã ở vùng trung du và đồng
bằng Bắc bộ, nơi có truyền thống hiếu học và khoa bảng, góp phần đào luyện nhiều
28
nhân tài cho đất nƣớc trong các thời kì lịch sử. Tôn sùng Nho học đƣợc thể hiện ở
việc xây dựng Văn miếu ở kinh đô, ở các tỉnh, Văn từ, Văn chỉ ở các địa phƣơng để
thờ Khổng Tử, Thánh hiền và các bậc Tiên hiền. Việc thành lập Quốc tử giám ở
trung ƣơng và hệ thống trƣờng ở các phủ, huyện, xã, v.v… đào tạo các tầng lớp Nho
sĩ phục vụ bộ máy chính quyền và phát triển văn hóa tƣ tƣởng Nho gia. Tác giả đi
sâu phân tích những điều ƣớc khuyến học trong bản hƣơng ƣớc làng Mộ Trạch (Hải
Dƣơng), làng Thƣợng Cát (Từ Liêm), bia khuyến học của xã Phù Chính (Vĩnh Tƣờng,
Vĩnh Phúc) để thấy rõ tác động của qua lại của khuyến học và khoa bảng. [165, tr.816-
830].
Năm 2011, Nguyễn Đình Bƣu trong bài “Công tác khuyến học, khuyến tài ở
Thanh Hóa hƣớng tới mục tiêu xây dựng xã hội học tập” đã đƣa ra đƣợc một số biện
pháp cụ thể, đem lại hiệu quả cao trong khuyến học ở Thanh Hóa giai đoạn 2006-
2011 nhƣ: công tác tuyên truyền, vận động đƣợc đặt lên hàng đầu, quy mô tổ chức
Hội Khuyến học và Hội viên Hội Khuyến học liên tục phát triển, chất lƣợng ngày
càng cao, các phong trào xây dựng gia đình hiếu học, dòng họ hiếu học đƣợc nhân
rộng v.v… Tác giả bài viết chính là Chủ tịch Hội Khuyến học tỉnh, nên thông tin
mang tính cập nhật và có giá trị thực tế cao. [8, tr.52-53].
Năm 2013, Nguyễn Thúy Nga có bài viết “Giáo dục và khoa cử thời Tây Sơn”
đã đề cập đến những nội dung quan trọng, cụ thể, phản ánh chính sách giáo dục của
triều Tây Sơn qua Chiếu lập học của vua Quang Trung. Bài viết giới thiệu về khoa
thi Hƣơng duy nhất thời Tây Sơn và kì khảo khóa dƣới triều vua Cảnh Thịnh, danh
sách 25 ngƣời đỗ trong các kỳ thi của vƣơng triều Tây Sơn…. Đây đƣợc coi là
những tƣ liệu quý để tìm hiểu về giáo dục và khoa cử thời Tây Sơn. [119].
Khuyến học là một hoạt động của nhiều dòng họ, đặc biệt là dòng họ khoa
bảng. Dòng họ Triệu ngƣời Dao ở làng Phùng Sơn, xã Phùng Châu, huyện Ngọc
Lặc, tỉnh Thanh Hóa là điển hình về khuyến học dòng họ. Nguyễn Đình Mạnh trong
bài viết “Dòng họ Triệu ngƣời Dao với việc khuyến học” đã tìm hiểu về khuyến học
của dòng họ, vai trò và ý nghĩa của khuyến học, một số đề xuất nhằm phát huy các
giá trị khuyến học trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. [91, tr.72 -78].
Năm 2014, qua công tác sƣu tầm, điền dã Nguyễn Hữu Mùi đã phát hiện ra
một “Văn bia lập Hƣơng học ở một xã ven đô (Quỳnh Đô, Thanh Trì, Hà Nội)”, bia
29
lập năm Thiệu Trị thứ 3 (1843), ghi về việc xây dựng trƣờng lớp và đặt học điền.
Đây là ngôi trƣờng dân lập đầu tiên của xã, dành cho con em những gia đình không
Năm 2014, Nguyễn Hữu Mùi trong bài “Nghiên cứu hoạt động khuyến học
có điều kiện đến trƣờng tƣ thục học tập. [110, tr.66-71].
của các dòng học nƣớc ta trong nền giáo dục và khoa cử Nho học” đã bổ khuyết
mảng tƣ liệu gia phả và văn bia dòng họ. Với phƣơng pháp khảo sát, thống kê,
nghiên cứu liên ngành, tác giả đã đƣa 35 đơn vị tƣ liệu dòng họ ở Đồng bằng Bắc
bộ và Bắc Trung Bộ có thông tin khuyến học, cung cấp tƣ liệu mới trong nghiên
cứu về khuyến học của các dòng họ phản ánh qua TLHN.[109, tr.28-35].
Năm 2015, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử đăng tải bài viết của Nguyễn Hữu Mùi
về hoạt động khuyến học của tỉnh Ninh Bình. Với 121/270 văn bản tục lệ chứa
thông tin liên quan đến khuyến học, tác giả nêu bật nội dung của hoạt động khuyến
nơi đây, với các hình thức (đặt học điền, trợ cấp cho ngƣời đi học, vinh quy bái tổ..).
Thông qua nguồn tƣ liệu tục lệ, bài viết đƣa ra cái nhìn tổng quan về khuyến học tại
một tỉnh thuộc đồng bằng Bắc Bộ. [111, tr.3- 10].
Kỉ yếu Hội nghị Thông báo Hán Nôm học năm 2015, Lê Thị Thu Hƣơng có
bài giới thiệu “Khuyến học của huyện Đông Sơn Thanh Hóa qua các văn bản tục lệ
hiện lƣu trữ tại Viện nghiên cứu Hán Nôm”. [60, tr.327-330]. Năm 2016, bài
“Khuyến học của thôn Lễ Môn, tổng Bố Đức Đông Sơn Thanh Hóa qua văn bản tục
lệ” cung cấp cái nhìn khái quát về hoạt động khuyến học ở vùng đất Thanh Hóa.
[61, tr.304-312].
Hội Tƣ văn là tổ chức của những ngƣời có học, đóng vai trò quan trọng trong
hoạt động làng xã Việt Nam. Hoạt động chủ yếu của Hội là đảm nhận việc tạo lập,
duy trì nơi thờ tự của Nho giáo, tham dự việc soạn hƣơng ƣớc, tế tự, đón rƣớc thần
sắc và khuyến học, thay chính quyền địa phƣơng đề ra các hình thức khuyến học.
Với hai nguồn tƣ liệu văn bia do EFEO và VNCHN sƣu tầm, năm 2016, Nguyễn
Hữu Mùi trong bài “Tìm hiểu về Hội Tƣ văn và vai trò của hội trong hoạt động làng
xã qua nguồn tài liệu bi ký” đã chỉ ra đƣợc sự ra đời của Hội vào thế kỷ 16, dƣới
triều Mạc, đƣợc thành lập theo 3 cấp: huyện, tổng, xã; đến cuối 18 sang thế kỷ 19,
có thêm Hội Tƣ văn của làng. Tổ chức hội này có cơ cấu và điều lệ riêng, có vai trò
tích cực trong hoạt động khuyến học ở địa phƣơng. [112, tr.3-11].
Học điền là loại ruộng phục vụ mục đích học tập trong nền giáo dục Nho học
30
Việt Nam giai đoạn 1075-1919, đƣợc đặt từ phủ lộ cho đến làng, xã. Năm 2016, với
bài viết “Lập Thạch Sơn Bình tổng học điền kí 立石山屏總學田記”, Nguyễn Hữu
Mùi cho biết, học điền đƣợc đặt ở cấp tổng, cụ thể 6 xã trong địa bàn tổng Sơn
Bình, huyện Lập Thạch cùng Cai tổng Hoàng Tĩnh đặt 16 mẫu ruộng làm học điền
cho tổng Sơn Bình, sự kiện này diễn ra vào năm 1854 dƣới triều Tự Đức. [113,
tr.18- 25].
Hiếu học và khoa cử là những yếu tố liên quan, tác động qua lại với khuyến
học. Năm 2016, trong Tạp chí Hán Nôm, số 2, Nguyễn Thúy Nga có bài “Nguồn tài
liệu Hán Nôm ghi danh ngƣời đỗ thi Hƣơng”, bài viết cho biết, hiện không có tài
liệu khoa lục chính thống nào ghi chép về những ngƣời đỗ thi Hƣơng; tên tuổi, quê
quán, sự nghiệp của họ đƣợc ghi chép rải rác ở 2 nguồn tài liệu Hán Nôm là thƣ tịch
và bi kí. 184 tài liệu thƣ tịch (đăng khoa lục, địa chí, gia phả, thi văn tập, sử) và hơn
1000 bia (đăng khoa lục, Tiên hiền, Văn miếu, Văn chỉ, Hội Tƣ văn…) là nguồn tƣ
liệu quý về ngƣời đỗ thi Hƣơng nƣớc ta. [120, tr.41-51].
Nhìn chung, tại Việt Nam, những nghiên cứu chuyên sâu về khuyến học còn
rất ít, chủ yếu đƣợc lồng ghép trong các nghiên cứu về giáo dục, khoa cử truyền
thống. Một số luận án, bài viết về khuyến học chỉ đƣợc khai thác dƣới một loại hình
tƣ liệu (văn bia hoặc tục lệ, đăng khoa lục…), hoặc trong phạm vi một dòng họ. Tuy
vậy, những nghiên cứu này có giá trị tham khảo, định hƣớng cho nghiên cứu về
KHNA.
1.4. 3. Nghiên cứu về khuyến học của Nghệ An
1.4.3.1. Sách chuyên khảo
Nghệ An kí là bộ địa lý, lịch sử ghi chép về trấn Nghệ An (gồm cả Nghệ An và
Hà Tĩnh ngày nay). Sách chủ yếu trình bày các mặt diên cách, lịch sử, núi sông,
nhân vật và văn thơ…. Nghệ An kí đƣợc coi là tác phẩm đáng tin cậy trong loại địa
phƣơng chí và đƣợc sự quan tâm của các nhà nghiên cứu thời cận hiện đại. Năm
1993, Nguyễn Thị Thảo dịch, Bạch Hào hiệu đính. [76].
Năm 1997, tác giả Phan Tƣơng trong cuốn Họ Phan trong cộng đồng dân tộc
Việt Nam đã giới thiệu tộc phả họ Phan ở Nghệ An từ vị thủy tổ sơ khai, các danh
nhân họ Phan từ triều Trần - Lê đến ngày nay, đó là những tấm gƣơng khoa bảng,
khuyến khích tinh thần học tập, không chỉ trong dòng họ Phan mà trong cả cộng
31
đồng dân tộc Việt Nam. [178].
Năm 1998, Hương ước Nghệ An là tập hợp bản dịch 37 bản hƣơng ƣớc của
các thôn xã thuộc 9 huyện, sƣu tập tại: VNCHN, TTKHXH, kho tài liệu của Tổ
nghiên cứu lịch sử địa lý tỉnh Nghệ An, Bảo tàng xã Quỳnh Đô, kho lƣu trữ
UBND tỉnh Nghệ An. Đây là nguồn tƣ liệu tham khảo tin cậy, bởi phần lớn các
dịch giả là những nhà Hán Nôm học gạo cội, các hƣơng ƣớc đƣợc dịch trên văn
bản gốc, có kí hiệu thƣ viện. [35].
Nghiên cứu về khoa bảng là cách để hiểu hơn về truyền thống hiếu học, khuyến
học và tôn sƣ trọng đạo. Năm 2000, Đào Tam Tỉnh cho ra mắt cuốn Khoa bảng Nghệ
An (1075-1919), tác giả đã dành một phần viết về truyền thống khoa bảng Nghệ An và
danh mục đăng khoa, với 1.164 vị khoa bảng, trong đó 190 ngƣời đỗ đại khoa. Tác giả
dành cả một chƣơng giới thiệu về các dòng họ khoa bảng trên đất Nghệ An nhƣ họ Hồ
ở Quỳnh Lƣu, họ Ngô ở Lý Trai, họ Nguyễn Trọng ở Trung Cần. [167].
Năm 2004, Văn bia Nghệ An do Ninh Viết Giao chủ biên, giới thiệu 167 văn bia đƣợc tập hợp từ các nguồn: EFEO in dập, tại Thƣ viện Nghệ An, bia của nhóm
công trình sƣu tầm, điền dã. Số văn bia này đƣợc chia ra: bia thần từ; bia nhà thờ
họ; bia văn từ, từ vũ, nhà thánh; bia đình; bia chùa; bia cầu; bia giếng… Mỗi văn
bia đƣợc giới thiệu dƣới dạng: tiểu dẫn, phiên âm (hoặc không phiên âm), dịch
(hoặc lƣợc dịch, hoặc tóm tắt nội dung). Cuốn sách bổ sung thêm đƣợc một số
lƣợng đáng kể thác bản bia thực địa hiện chƣa có trong kho thác bản của VNCHN,
đây là nguồn tƣ liệu hữu ích đối với nghiên cứu của luận án. [37].
Năm 2004, Quỳnh Đôi cổ kim sự tích hương biên ra đời, Hồ Văn Khuê sƣu
tầm, biên khảo lại trên cơ sở bản đánh máy của ông Hồ Đức Lĩnh và tƣ liệu sách
báo đã in, những chỗ vênh nhau thì đối chiếu với bản chữ Hán, tham khảo “Hồ tộc
khoa danh trƣờng biên” và một số tƣ liệu khác. Sách chia làm 4 phần và 1 phục lục,
phần thứ 3 là bản dịch khoán ƣớc, phong tục, lệ làng với nhiều điều ƣớc về khuyến
học. [44].
Năm 2005, Nguyễn Xuân Đƣờng trong bài “Phát huy truyền thống hiếu học
trong sự nghiệp xây dựng xã hội học tập ở Nghệ An” đã đƣa ra đƣợc một số giải
pháp nhằm phát huy truyền thống hiếu học ở Nghệ An, cụ thể nhƣ: khơi dậy niềm
tự hào, đem lại niềm vui đƣợc học tập, xây dựng gia đình hiếu học, phong trào hiếu
32
học ở cộng đồng. [31, tr.7-8].
Năm 2013, Lê Tài Hòe (sƣu tầm, biên khảo) cuốn Nghệ An toàn chí, tập 8:
Phong tục, tập quán Xứ Nghệ. Sách giới thiệu khá đầy đủ phong tục, tập quán ở Xứ
Nghệ từ xƣa đến nay: phong tục, lễ tục, tín ngƣỡng dân gian, v.v… Chƣơng IV với
tiêu đề “Cổ vũ học hành”, tác giả đã nhận diện việc học ở Xứ Nghệ trƣớc năm 1945,
truyền thống “đất học” của con ngƣời Xứ Nghệ, việc cổ vũ học hành trong hƣơng
ƣớc ở Nghệ An. [43, tr.607- 610].
1.4.3.2. Bài viết trên các tạp chí
Năm 2001, Nguyễn Hƣơng Thoan trên Tạp chí Hán Nôm có bài „Tấm bia đạo
thầy trò trên đất Nghệ An”, giới thiệu về tấm bia do các môn sinh Hán học của nhà
giáo, Cử nhân Nguyễn Thế Cát dựng, ca ngợi và tƣởng nhớ công ơn của ngƣời thầy.
[159, tr.74 ].
Nguyễn Minh Tuân, năm 2015, đã giới thiệu thân thế và sự nghiệp Tiến sĩ
Nguyễn Trọng Thƣờng, xã Trung Cần, huyện Thanh Chƣơng nay là xã Nam Trung,
huyện Nam Đàn, ngƣời con dòng họ Nguyễn Trọng có truyền thống hiếu học và
khoa bảng nổi tiếng ở Xứ Nghệ xƣa. [175, tr.78- 82].
Năm 2016, Đào Tam Tỉnh có bài “Văn miếu Nghệ An” giới thiệu bức tranh
toàn cảnh về Văn miếu: toà nhà, tam quan, hoành phi, câu đối, đặc biệt là quả
chuông đƣợc đúc vào năm Gia Long thứ 11 (1812) do Hoàng giáp Bùi Dƣơng Lịch,
cựu Đốc học Nghệ An soạn:“mỗi khi nghe tiếng chuông vang, dân chúng trong bản
trấn tƣởng nhớ đến các bậc Tiên hiền đời trƣớc, làm vẻ vang cho truyền thống của
bản trấn”. [169, tr.53].
Năm 2016, Đào Tam Tỉnh trong bài “Văn thánh các huyện, làng, xã Nghệ An”
đã khái quát nội dung, tác giả, niên đại của 7 tấm bia tại các Văn thánh ở Nghệ An
đƣợc chép trong cuốn Hoan Châu bi ký. Nguồn tƣ liệu này có giá trị, tôn vinh
truyền thống hiếu học, khuyến học, tôn sƣ trọng đạo và khoa bảng của ngƣời dân
Xứ Nghệ. [170, tr.53 -55].
Cũng trong năm 2016, Đào Tam Tỉnh công bố bài “Họ Nguyễn và dòng phái
khoa bảng ở Cổ Bái” (nay là xã Phúc Thọ, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An), dòng họ
khoa bảng với nhiều ngƣời học giỏi, đỗ đạt, nổi tiếng trên quan trƣờng, nhƣ: Tiến sĩ
Nguyễn Khuê triều Lê, Tiến sĩ Nguyễn Ngọc đỗ đầu thi Hội, thi Đình dƣới triều
Nguyễn. Hiện tại nhà thờ họ Nguyễn ở làng Cổ Bái có tấm bia đá khắc tên tuổi, công
33
trạng các bậc danh nhân tiên tổ, các nhân vật khoa bảng. [168, tr.42 -45].
Năm 2017, trong Kỷ yếu Hội nghị Thông báo Hán Nôm học 2016, Lê Thị
Thu Hƣơng có bài “Danh mục bia khuyến học tỉnh Nghệ An tại Viện Nghiên cứu
Hán Nôm” giới thiệu 37 bia có nội dung KHNA với các tiêu chí: tên bia, địa điểm,
niên đại, kí hiệu thƣ viện. Nội dung bia chủ yếu viết về việc xây dựng, trùng tu Văn
chỉ, Văn từ; khắc tên ngƣời đỗ đạt; ghi tiểu sử danh nhân. [62, tr.304 -213].
Tạp chí Khoa học công nghệ Nghệ An số 1 năm 2017 đăng bài “13 vị Trạng
Nguyên ở Thanh Chƣơng Nghệ An qua tƣ liệu Hán Nôm” của Lê Thị Thu Hƣơng.
Thông qua nguồn tƣ liệu trong các sách địa chí nhƣ Thanh Chương huyện chí, Nghệ
An nhân vật chí, Nghệ Tĩnh tạp ký, Nghệ An ký và sách đăng khoa lục, tác giả hệ
thống tiểu sử 13 vị Tiến sĩ của huyện Thanh Chƣơng một cách đầy đủ, chi tiết nhất,
bổ sung đƣợc nhiều thông tin so với cuốn Các nhà khoa bảng Việt Nam của Ngô
Đức Thọ nhƣ tên tự, hiệu, biệt hiệu, năm sinh, năm mất, phẩm hàm, chức tƣớc, tƣ
liệu gia phả, tƣ liệu đi sứ, v.v… [63, tr.47 -55].
Lê Thị Thu Hƣơng trong Nghiên cứu Hán Nôm năm 2017 có bài “Các nhà
khoa bảng Nghệ An qua tài liệu địa chí Hán Nôm”. Bài viết gồm 2 phần: phần 1
giới thiệu tƣ liệu (3 sách quốc chí và 11 cuốn địa phƣơng chí) của tỉnh Nghệ An với
các yếu tố: văn bản, tác giả, niên đại, văn tự, thể loại; phần 2, thông qua nguồn tƣ
liệu, thống kê sự xuất hiện của 63 nhân vật khoa bảng đại khoa trong từng cuốn
sách, theo thứ tự khoa thi, số ngƣời đỗ đại khoa trong từng triều đại, từng sách, từng
huyện. Bài viết bổ sung đƣợc nhiều thông tin hữu ích về các nhà khoa bảng của
Nghệ An so với tài liệu đăng khoa lục truyền thống. [65, tr.45 -59].
Năm 2017, Tạp chí Hán Nôm, số 4 đăng bài “Đôi nét về văn bia có nội dung
khuyến học của Nghệ An” của Lê Thị Thu Hƣơng, bài viết giới thiệu về 100 văn bia,
gồm: 24 bia Văn miếu Thăng Long, 21 bia Văn miếu Huế đề danh các vị Tiến sĩ quê
Nghệ An, 53 văn bia tại địa phƣơng. Nội dung khuyến học đƣợc thể hiện ở việc xây
dựng, trùng tu Văn từ, Văn chỉ, ghi danh ngƣời đỗ đạt khoa trƣờng của địa phƣơng, ghi
tiểu sử danh nhân, hoạt động của Hội Tƣ văn. [64, tr.70 - 82].
Năm 2018, tác giả Lê Thị Thu Hƣơng thông qua nguồn tƣ liệu tục lệ đã viết
bài “Khuyến học của tỉnh Nghệ An qua nguồn tài liệu tục lệ Hán Nôm” đăng trên
Tạp chí Hán Nôm, số 4. Với 276 văn bản tục lệ chữ Hán lƣu trữ tại VNCHN,
TTKHXH và tại địa phƣơng, bài viết khái quát đƣợc nội dung khuyến học mà ngƣời
34
dân Nghệ An thực hiện trong quá khứ, cụ thể: tạo điều kiện về vật chất (mở trƣờng,
học điền, thƣởng bút giấy, v.v...) và khuyến khích về mặt tinh thần (vinh quy bái tổ,
chỗ ngồi nơi đình trung, lƣu danh khoa bảng) khiến nơi đây trở thành điểm sáng về
khuyến học của cả nƣớc. [66, tr.71- 83].
Nghiên cứu Hán Nôm năm 2018 với bài “Tìm hiểu về trƣờng học tại các làng
xã ở Nghệ An trƣớc năm 1919 qua tƣ liệu tục lệ và văn bia”, tác giả Lê Thị Thu
Hƣơng cho biết: tại Nghệ An, bên cạnh hệ thống trƣờng công do nhà nƣớc đứng ra
tổ chức, nhiều làng xã đã tự dựng trƣờng, mở lớp trên diện tích đất công của địa
phƣơng hoặc lấy Văn từ, Văn chỉ làm nơi dạy học, mỗi trƣờng đặt ra những quy định riêng: mời thầy, thƣởng phạt, tu bổ, giám trƣờng, v.v... Ngoài ra, các nhà khoa bảng nhƣ Tiến sĩ Nguyễn Đức Đạt, Tiến sĩ Nguyễn Nguyên Thành, thầy Hồ Mậu
Đức, sau khi thoái quan trở về quê đã mở lớp dạy con em trong làng, ngoài xã và
những vùng lân cận. [67, tr.394-408].
Năm 2018, Tạp chí Khoa học Công nghệ Nghệ An, số 4 có bài “Bia Văn miếu,
Văn từ, Văn chỉ của Nghệ An” của Lê Thị Thu Hƣơng. Bài viết giới thiệu về 24 tấm
bia, 1 chuông ghi lại việc xây dựng, di dời, trùng tu 1 Văn miếu, 21 Văn từ, Văn chỉ
trên địa bàn tỉnh Nghệ An. Nội dung văn bia chủ yếu nói về việc tôn thờ đạo Nho,
sùng kính tiên sƣ, xây dựng di dời, nêu gƣơng hiền tài và khuyến khích hậu học.
[69, tr.47 -50].
Năm 2019, bài “Lễ cầu khoa qua tƣ liệu tục lệ cổ truyền tỉnh Nghệ An” trên
Chuyên san Khoa học xã hội và nhân văn Nghệ An của Lê Thị Thu Hƣơng, giới
thiệu về lễ cầu khoa, một hoạt động mang tính tâm sâu sắc đƣợc thực hiện tại các
thôn xã trƣớc mỗi kỳ thi, nhằm tạo tâm lý ổn định, giúp sĩ tử yên tâm, tự tin bƣớc
vào kỳ thi sau những tháng ngày rùi mài kinh sử. Lễ cầu khoa còn thể hiện sự tôn
kính, sùng bái văn học, coi trọng phong hóa của các thôn xã nơi đây. Lễ cầu khoa
đƣợc chép trong tục lệ của 24 thôn xã ở Nghệ An, với nội dung: thời gian, địa điểm,
lễ vật, thành phần tham gia. [70, tr.55 - 60].
Các nghiên cứu về KHNA đã đƣợc chú ý khai thác trên nền TLHN, tuy nhiên
các sách chỉ dừng lại ở mức độ dịch thuật, sơ khảo nhƣ Văn bia Nghệ An, Hương
ước Nghệ An; một số bài viết giới thiệu về Văn miếu, Văn chỉ, hay các danh nhân
khoa bảng, văn bia khuyến học mà chƣa có những nghiên cứu mang tính tổng quát
35
hoặc chuyên sâu.
Trên đây là những sách, chuyên khảo, luận án, bài viết tiêu biểu liên quan đến
đề tài mà chúng tôi đã tìm hiểu đƣợc tính đến thời điểm hiện nay. Tổng quan tình
hình nghiên cứu liên quan đến đề tài giúp chúng tôi nắm bắt đƣợc các nhà nghiên
cứu đi trƣớc đã quan tâm đến khuyến học ở góc độ nào, khai thác ra sao, từ đó kế
thừa và tiếp tục triển khai đề tài nghiên cứu của mình.
1.5. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Qua các sách chuyên khảo, kỷ yếu hội thảo, luận văn, luận án, sách dịch,
các bài nghiên cứu về khuyến học đăng trên các tạp chí khoa học của các nhà
nghiên cứu đi trƣớc, chúng tôi có một số nhận xét, đánh giá về các kết quả
nghiên cứu nhƣ sau:
- Ở một số nƣớc phƣơng Đông nhƣ Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, khuyến
học hình thành tƣ tƣởng có tính hệ thống. Khuyến học là một hình thức nhất định của
văn hóa Nho gia, các nghiên cứu tập trung vào nghiên cứu tƣ tƣởng khuyến học.
Khuyến học của Tuân Tử đƣợc các nhà nghiên cứu Trung Quốc và Hàn Quốc đặc biệt
quan tâm, để lại nhiều nghiên cứu có giá trị, có sự liên hệ với xã hội cận, hiện đại. Tại
Nhật Bản, tác phẩm Khuyến học của Fukuzawa Yukichi có ảnh hƣởng sâu rộng đối với
ngƣời dân Nhật, cho dù ra đời hơn đƣợc hơn một thế kỷ, nhƣng cuốn sách vẫn mang
tính thời sự về giáo dục. Nghiên cứu khuyến học của Nhật Bản thoát ra khỏi lý thuyết
trìu tƣợng, gắn với thực tế, mang tính thực dụng và tiếp thu có chọn lọc văn minh
phƣơng Tây.
- Ở Việt Nam, các nghiên cứu chuyên sâu về khuyến học rất ít, chủ yếu đƣợc
lồng ghép trong các nghiên cứu về giáo dục, khoa cử Nho học. Gần đây có một số
sách chuyên khảo đƣợc viết dƣới dạng cẩm nang, luận án về khuyến học đƣợc đặt
trong bối cảnh văn hóa dòng họ, hoặc một loại hình tƣ liệu (nhƣ văn bia).
- Các văn bản Hán Nôm về khuyến học chƣa có sự khảo sát, hệ thống hóa một
cách toàn diện, chỉ là những nghiên cứu đơn lẻ, bài giới thiệu về danh nhân, dòng
họ, về một bản khoán ƣớc hay một văn bia. Khuyến học của một số địa phƣơng nhƣ
Hà Nội, Vĩnh Phúc, Ninh Bình, Bắc Ninh, Thanh Hóa… đã đƣợc các nhà nghiên
cứu lƣu tâm, song chỉ là các bài viết sơ lƣợc đăng trên các tạp chí.
- Về dịch thuật TLHN: có một số sách dịch về tục lệ, văn bia, địa chí, chƣa
36
có tuyển tập biên dịch về khuyến học chuyên biệt.
- TLHN về KHNA đƣợc giới thiệu qua một số bài viết đăng trên các tạp chí
khoa học, nhƣng mới chỉ dừng lại ở việc giới thiệu một loại hình tƣ liệu (văn bia,
tục lệ, địa chí) hoặc một nội dung khuyến học (trƣờng học, lễ cầu khoa), v.v.. Tƣ
liệu văn bia, tục lệ, địa chí trên phạm vi tỉnh Nghệ An mới chỉ đƣợc giới thiệu, dịch
thuật, tóm tắt nội dung, chƣa có khảo cứu công phu, chƣa đƣợc nghiên cứu về văn
bản, nêu đặc điểm giá trị nội dung cũng nhƣ những ảnh hƣởng, tác động của nó đối với
công tác khuyến học, khuyến tài. Đó là những vấn đề cần đƣợc quan tâm giải quyết
trong trong luận án này.
1.6. Định hƣớng nghiên cứu của luận án
TLHN về KHNA là nguồn tƣ liệu có giá trị khoa học và thực tiễn đối với
nghiên cứu khuyến học, giáo dục, góp phần xây dựng xã hội học tập. Từ đó, chúng
tôi đặt ra những vấn đề cần nghiên cứu trong luận án nhƣ sau:
Hệ thống hóa nguồn TLHN về KHNA hiện đang lƣu giữ tại VNCHN,
TTKHXH, Thƣ viện Quốc gia, Thƣ viện Nghệ An và tại cơ sở địa phƣơng.
Trên cơ sở khảo sát, thống kê, tác giả luận án chia thành 2 nhóm tƣ liệu (ở đây
chúng tôi chia theo loại hình văn bản): thƣ tịch (96 kí hiệu sách), văn bia (100 đơn
vị văn bia). Nghiên cứu đặc điểm văn bản TLHN về KHNA (định dạng văn bản,
niên đại, tác giả, văn tự), từ đó xác định văn bản tin cậy để nghiên cứu, xác định
niên đại tuyệt đối hoặc tƣơng đối với những thác bản văn bia bị ngụy tạo niên đại
trong quá trình in dập.
Nghiên cứu nội dung khuyến học và đặc điểm nội dung của TLHN về KHNA.
Đề xuất các biện pháp bảo tồn và phát huy giá trị TLHN về KHNA đối với
37
công tác giáo dục, khuyến học, khuyến tài trong giai đoạn hiện nay.
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1
Khuyến học hình thành và phát triển lâu đời, gắn liền với nền giáo dục khoa
cử Nho học giai đoạn 1075-1919, góp phần tạo ra truyền thống hiếu học của dân tộc
Việt Nam nói chung, tỉnh Nghệ An nói riêng. Trong nhiều năm qua, khuyến học đã
thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học, các công trình nghiên cứu khá phong
phú và đa dạng. Chúng tôi tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài trên
ba vấn đề: tình hình nghiên cứu khuyến học ở một số nƣớc phƣơng Đông, tình hình
nghiên cứu khuyến học ở Việt Nam, tình hình nghiên cứu KHNA. Phải thừa nhận
rằng, mặc dù các nghiên cứu còn chƣa toàn diện, chuyên sâu, nhƣng đã đem lại
nhiều góc nhìn về khuyến học, những tri thức này làm cơ sở, gợi mở cho những
nghiên cứu của chúng tôi.
Nhìn chung, các nghiên cứu TLHN về khuyến học trong nƣớc còn chƣa nhiều,
nghiên cứu TLHN về KHNA mới chỉ dừng lại ở một số bản dịch về tục lệ, địa chí,
văn bia; một số bài viết giới thiệu về danh nhân, dòng họ khoa bảng, Văn từ, Văn
chỉ, v.v… mà chƣa có sự khảo sát, thống kê, đánh giá về mặt trữ lƣợng; đặc điểm
văn bản cũng nhƣ giá trị nội dung; việc bảo tồn, phát huy giá trị nguồn tƣ liệu trong
xã hội hiện nay chƣa đƣợc quan tâm đúng mức. Từ thực tế đó, chúng tôi xác định rõ
nhiệm vụ cụ thể cần thực hiện trong luận án, góp phần nghiên cứu TLHN về KHNA
trên một số vấn đề còn bỏ ngỏ, hƣớng đến nghiên cứu một cách toàn diện về
38
KHNA, góp phần nghiên cứu khuyến học, khuyến tài trên cả nƣớc nói chung.
Chƣơng 2
KHẢO SÁT NGUỒN TƢ LIỆU HÁN NÔM
VỀ KHUYẾN HỌC CỦA NGHỆ AN
TLHN về KHNA gồm thƣ tịch và bi ký. Trong chƣơng này chúng tôi thực
hiện hai nhiệm vụ chính: Tìm hiểu thực trạng nguồn TLHN về KHNA hiện lƣu giữ
tại VNCHN, TTKHXH, Thƣ viện Quốc gia, Thƣ viện Nghệ An và tại cơ sở địa
phƣơng; từ đó, nêu một số đặc điểm văn bản của nguồn tƣ liệu này qua các phƣơng
diện: định dạng văn bản, niên đại, tác giả và văn tự.
2.1.Thực trạng nguồn tƣ liệu
KHNA đƣợc phản ánh qua nguồn TLHN khá phong phú về nội dung và đa
dạng về thể loại. Tính đến thời điểm hiện nay, kết quả khảo sát, thống kê của chúng
tôi nhƣ sau:
- Về thƣ tịch có 96 kí hiệu, gồm: tục lệ: 60 kí hiệu văn bản; đăng khoa lục: 13
kí hiệu văn bản; địa chí: 10 kí hiệu văn bản; lịch sử: 5 kí hiệu văn bản; gia huấn: 3
kí hiệu văn bản; gia phả: 5 kí hiệu văn bản.
- Về văn bia có 100 đơn vị thác bản, gồm: 59 thác bản bia đề danh khoa bảng;
14 thác bản bia thờ Tiên hiền; 10 thác bản bia trùng tu Văn từ, Văn chỉ; 10 thác bản
văn bia ghi tiểu sử các nhà khoa bảng; 7 thác bản văn bia của Hội Tƣ văn.
2.1.1. Nguồn tư liệu thư tịch
Trong 6 loại hình thƣ tịch (tục lệ, đăng khoa lục, địa chí, lịch sử, gia huấn và
gia phả) có nội dung KHNA, sách tục lệ chiếm số lƣợng lớn nhất (60/96 kí hiệu
sách, tƣơng đƣơng 62,5%). Nội dung khuyến học trong tục lệ đƣợc thể hiện cụ thể,
chi tiết qua các điều ƣớc. Vì vậy, trong phần khảo sát tƣ liệu cũng nhƣ nghiên cứu
giá trị nội dung khuyến học, chúng tôi tập trung chủ yếu vào mảng tục lệ KHNA.
2.1.1.1 .Tư liệu tục lệ
Tục lệ còn có các tên gọi khác là khoán lệ, hƣơng khoán, khoán ƣớc, hƣơng
ƣớc… chỉ chung một loại hình văn bản, trong đó ghi chép một cách có hệ thống
những quy ƣớc chung, liên quan đến đời sống nhiều mặt của từng cộng đồng làng xã ngƣời Việt, chủ yếu ở đồng bằng, trung du Bắc bộ và Bắc Trung Bộ. [183, tr.1]. Bản thân mỗi tên gọi đã hàm chứa nội dung riêng hay những quy định chung về
39
nhiều mặt hoạt động của làng xã, một tổ chức xã hội ở làng xã, trong đó có quy định
liên quan đến khuyến học. Tƣ liệu tục lệ hiện còn lƣu giữ khá nhiều ở các thƣ viện
trung ƣơng, thƣ viện địa phƣơng, thôn xã, tủ sách tƣ nhân…
Trong luận án này, chúng tôi tập trung vào các văn bản tục lệ Hán Nôm cổ
truyền của Nghệ An, trƣớc giai đoạn cải lƣơng hƣơng chính năm (1921), hiện lƣu
giữ tại 3 nơi: VNCHN, TTKHXH và tại địa phƣơng.
Tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm: Tục lệ của Nghệ An chủ yếu tập trung ở kho
AF, các văn bản đƣợc chép tay từ nhiều địa phƣơng, trong dịp sƣu tầm và xây dựng
kho TLHN của EFEO tại Hà Nội những năm đầu thế kỷ XX. Các văn bản đƣợc viết
trên chất liệu giấy dó, đóng bìa bằng giấy tây màu nâu. Bìa và trang đầu ghi địa
danh nơi lập tục lệ, trang cuối ghi ngày tháng năm lập hoặc sao chép tục lệ, đƣợc
đóng thành từng tập, số trang nhiều ít khác nhau tùy thuộc vào các điều ƣớc và các
đợt bổ sung, có quyển chép riêng tục lệ của từng thôn, phƣờng, giáp. Hình thức biên
soạn, cũng giống nhƣ hầu hết tục lệ của các địa phƣơng khác, tục lệ Nghệ An có
phần mở đầu ghi địa danh, họ tên các vị chức sắc, nêu lý do lập tục lệ rồi đến các
điều khoản liên quan đến các hoạt động của địa phƣơng, trong đó có điều khoản về
khuyến học.
Chỉ tính riêng kho AF, Nghệ An có 31 kí hiệu sách, gồm tục lệ của 4 huyện: huyện Đông Thành (AF.b1/1), huyện Chân Lộc (AF.b1/2), huyện Hƣng Nguyên
(AF.b1/3 - 22) và huyện Nghi Lộc (AF.b1/23 - 31). [123, tr.52-72].
Trong kho sách tổng hợp, có 13 kí hiệu sách, gồm tục lệ của 6 huyện: Thanh
Chƣơng (VHv.1201- 09, VHv.2677); Lƣơng Sơn (VHv.1825, VHv.2679, VHv.2654);
Nam Đàn (VHv.1210); Quỳnh Lƣu (A.3154, VHv.2675/1-2, VHv.1824); Đông Thành
(VHv.1218); Yên Thành (VHv.2763, VHv.1216, VNv.7/1-2).
Tại Thư viện Thông tin Khoa học xã hội: Căn cứ vào Thư mục hương ước
Việt Nam: Văn bản Hán Nôm [183] và khảo sát trên từng văn bản, chúng tôi thống
kê đƣợc 13 kí hiệu thƣ viện từ HƢN.803 đến HƢN.815; nội dung ghi chép về tục lệ
của 15 thôn xã thuộc 8 huyện: Đông Thành, Hƣng Nguyên, Lƣơng Sơn, Nam Đàn,
Nghĩa Đàn, Nghi Lộc, Quỳnh Lƣu, Yên Thành của tỉnh Nghệ An.
Tại địa phương: Cuốn Tục lệ Nghệ An gồm 30 văn bản tục lệ chữ Hán, chữ
Nôm có nội dung khuyến học. [35] Sau khi rà soát, loại bỏ những văn bản trùng lặp,
bổ sung đƣợc 3 văn bản mới, đó là: khoán lệ thôn Phú Nghĩa, xã Hoàn Hậu, tổng
40
Phú Hậu, huyện Quỳnh Lƣu; tục lệ làng Xuân Lai, xã Gia Hộ, tổng Thái Trạch,
huyện Đông Thành, lƣu giữ tại xã Đô Thành, huyện Yên Thành; tục lệ làng Kim
Âu, xã Đông Câu, phủ Diễn Châu lƣu giữ tại UBND tỉnh Nghệ An.
Tổng hợp từ 3 nơi trên, có 60 kí hiệu sách (xem Phụ lục 2.1), chép tổng cộng
357 văn bản tục lệ của các thôn, xã, giáp, Hội Tƣ văn, phƣờng, trại của 10 huyện
thuộc tỉnh Nghệ An.
Trên cơ sở 357 văn bản tục lệ của Nghệ An, chúng tôi khảo sát nội dung các
điều khoản trong từng văn bản tục lệ, chọn ra những văn bản có điều ƣớc liên quan
đến nội dung khuyến học nhƣ: dựng trƣờng, mở lớp dạy chữ Hán, chế độ khen
thƣởng (mời thầy và có chế độ đãi ngộ với thầy, đặt học điền, miễn trừ các khoản
sƣu sai tạp dịch, lễ cầu khoa, lễ vinh quy bái tổ, tôn vinh chỗ ngồi nơi đình trung),
chế tài xử phạt đối với những ngƣời không thực học, v.v… (xem Phụ lục 2.2), số
văn bản tục lệ có điều ƣớc KHNA hiện có là 276 văn bản.
Bảng 2.1. Thống kê số lượng văn bản tục lệ Hán Nôm
có điều ước khuyến học của Nghệ An
Stt
Tên huyện
Số văn bản tục lệ của xã
Số văn bản tục lệ của giáp
Số văn bản tục lệ của thôn
Số văn bản tục lệ của phƣờng
Số văn bản tục lệ của Hội Tƣ văn
Tổng số văn bản tục lệ khuyến học
7
11 9
16 9
1. 2.
Chân Lộc Đông Thành Hƣng Nguyên Lƣơng Sơn Nam Đàn Nghi Lộc Nghĩa Đàn Quỳnh Lƣu Thanh Chƣơng Yên Thành
10
15 7 6 21 1 4 7 1 67
69 17 4 22 27 11 23 193
6 2 1 9
2 1 2 4
1 1 1 3
91 26 10 43 1 36 19 25 276
3. 4. 5. 6. 7. 8. 9. 10. Cộng
Nhƣ vậy có 276/357 văn bản tục lệ của Nghệ An có điều ƣớc khuyến học,
chiếm 77,3%, gồm: 67 văn bản tục lệ của xã, 193 văn bản của thôn, 9 văn bản của
41
giáp, 4 văn bản của phƣờng và 3 văn bản của Hội Tƣ văn.
Biểu đồ 2.1. Tỷ lệ % văn bản tục lệ có điều ước khuyến học của Nghệ An
Trong số 10 huyện của tỉnh Nghệ An, huyện Hƣng Nguyên có nhiều tục lệ
khuyến học nhất, với 91 văn bản; tiếp đến là huyện Nghi Lộc 43 văn bản; huyện
Quỳnh Lƣu 36 văn bản; Lƣơng Sơn 26 văn bản; Yên Thành 25 văn bản; Nghĩa Đàn
là huyện ít tục lệ khuyến học nhất, chỉ có 1 văn bản.
Có sự chênh lệch nhất định về số lƣợng các văn bản tục khuyến học giữa các
huyện trong tỉnh Nghệ An, chúng tôi chƣa thấy đƣợc sự tƣơng quan giữa tục lệ
khuyến học và số ngƣời đỗ đạt của các địa phƣơng. Cụ thể, huyện Hƣng Nguyên có
91 văn bản tục lệ khuyến học, số ngƣời đỗ Tiến sĩ, Phó bảng và Cử nhân là 51;
Quỳnh Lƣu có 36 văn bản tục lệ khuyến học, số ngƣời đỗ đạt lên đến 365 ngƣời;
huyện Nghi Lộc có 43 văn bản tục lệ khuyến học, số ngƣời đỗ đạt từ Cử nhân trở
lên là 92 ngƣời. Nguyên nhân ở đây, có thể, về mặt địa chí, số thôn xã của các
huyện này vào thời Nguyễn chiếm số lƣợng nhiều so với các huyện khác. Cụ thể,
thời Đồng Khánh, huyện Hƣng Nguyên có số thôn xã nhiều nhất tỉnh, với 106 thôn
xã, tiếp đó là huyện Lƣơng Sơn 88 thôn xã, Đông Thành 38 thôn xã, Yên Thành 37
thôn xã [156, tr.1241, 1249], vì vậy, số văn bản tục lệ khuyến học cũng nhiều, ít
theo tỷ lệ % tƣơng thích. Mặt khác, có thể do tình hình sƣu tập ngẫu nhiên của từng
vùng. Hƣng Nguyên là huyện đồng bằng, điều kiện giao thông đi lại thuận tiện, tả
ngạn sông Lam, là 1 trong 5 huyện trong tỉnh có bến đò, 4 cầu, 1 cửa biển (139,
tr.214]. Huyện Hƣng Nguyên còn là lỵ sở của đạo Nghệ An qua các triều đại Trần -
42
Lê - Nguyễn, kéo dài suốt 300 năm. Đó phải chăng là những yếu tố giúp cho việc
sƣu tập tƣ liệu có phần dễ dàng thực hiện hơn so với các huyện khác, đặc biệt là
huyện miền núi khác nhƣ Thanh Chƣơng, Nghĩa Đàn, nơi địa hình hiểm trở, dân cƣ
thƣa thớt, khí hậu khắc nghiệt, giao thông khó khăn.
Huyện Nghĩa Đàn, từ năm Duy Tân thứ 5 (1911) do hạt ấy ngƣời Việt và
ngƣời Man sống xen lẫn, không theo cử nghiệp, chỉ cần hơi biết chữ Quốc ngữ là
học buôn bán, chính quyền đình việc đặt chức Huấn đạo ở đây. [143, tr.607]. Điều
đó ít nhiều ảnh hƣởng đến học tập nói chung, khuyến học nói riêng tại đây, đó có
thể là một trong những lý do huyện Nghĩa Đàn có số văn bản tục lệ khuyến học ít
nhất Nghệ An.
Nội dung khuyến học trong các văn bản tục lệ khá phong phú, số lƣợng điều
ƣớc của từng văn bản rất khác nhau, có những văn bản ít điều ƣớc nhƣng số điều
ƣớc khuyến học lại khá nhiều nhƣ: thôn Chính Đích 正的, tổng Đô Yên, huyện
Hƣng Nguyên (AF.b1/5) có 8/27 điều ƣớc khuyến học; thôn Đệ Nhất, tổng Thái Xá,
huyện Đông Thành (AF.b1/1) có 9/52 điều ƣớc khuyến học. Có văn bản nhiều điều
ƣớc nhƣng số lƣợng điều ƣớc khuyến học lại rất ít, nhƣ thôn Phúc Mỹ, tổng Văn
Viên, huyện Hƣng Nguyên (AFb.1/22) chỉ có 1/185 điều ƣớc khuyến học; xã Hải
Thanh, tổng La Vân, huyện Nghi Lộc (AF.b1/28) có 1/52 điều ƣớc khuyến học.
Chúng tôi đã thống kê số lƣợng điều ƣớc khuyến học có trong từng văn bản tục lệ
khuyến học, tổng cộng có 1696 điều ƣớc khuyến học. (xem Phụ lục 2.3)
Bảng thống kê cho thấy, có 58 văn bản tục lệ có 1 điều ƣớc khuyến học,
tƣơng đƣơng 21%, chiếm chỉ lệ lớn nhất; 39 bản tục lệ có 2 điều ƣớc, chiếm 14%;
văn bản tục lệ có từ 20 điều ƣớc khuyến học trở lên chiếm số lƣợng rất ít, thƣờng
chỉ từ 0,4 đến 0,7%; bản có nhiều điều ƣớc khuyến học nhất là Nghệ An tỉnh Hưng
Nguyên phủ Hải Đô tổng Thượng Nguyên thôn tục lệ 乂安省興元府海都總上溪村
俗例(AF.b1/7) có 37 điều. Tổng số 1696 điều ƣớc của 276 văn bản tục lệ mà chúng
tôi thống kê ở trên, nhiều điều có cùng một nội dung, nhƣ: vinh quy, biếu tặng, học
điền.v.v.., nhƣng mỗi địa phƣơng quy định, thực hiện theo cách thức khác nhau.
2.1.1.2. Tư liệu đăng khoa lục
Đăng khoa lục là loại sách chép về họ tên, quê quán, hành trạng của ngƣời đỗ
đạt. Lê Quý Đôn (1726-1784) đề cập đến khuyến học khi nói đến tác dụng của sách
đăng khoa lục, ông viết “Ngƣời ta có thể biết xã nào, huyện nào từng phát đạt khoa
43
bảng để tự cố sức học tập”. [26, tr.117]. Sau Lê Quý Đôn, hơn 40 năm, vào cuối thời
Cảnh Hƣng, Tế tửu Quốc tử giám Vũ Miên trong bài tựa sách Đỉnh khế Đại Việt
lịch triều đăng khoa lục 鼎 契大越歷朝登科綠 đã thể hiện rõ mục đích khuyến học
“Phàm họ tên, quê quán, tuổi đỗ, gia thế, làm quan đến chức gì đều chép đủ cả. Kẻ
sĩ có chí xem đƣợc sách này sẽ phấn phát noi gƣơng, hẳn cũng là một việc tốt trong
vòng trời đất (...) khắc in truyền rộng ra khắp cả nƣớc và truyền cho đời sau, qua đó làm rõ thịnh điển coi trọng việc học và sử dụng nhân tài của nhà nƣớc vậy”10.
Đỗ đạt trong các khoa thi không chỉ là thủ tục để đƣợc tuyển chọn ra làm quan,
thực hiện lý tƣởng đem tài năng cống hiến cho đất nƣớc mà còn là sự hiển rạng của
bản thân, gia đình, dòng họ của Nho sĩ. Việc lƣu danh những ngƣời đỗ đạt qua các
đời, do đó cũng không đơn thuần chỉ là hồ sơ hành chính mà còn có ý nghĩa biểu
dƣơng, cổ vũ. Sự ra đời của các thƣ tịch đăng khoa lục chính là để đáp ứng yêu cầu lƣu danh có tính truyền thống đó. [116, tr.12].
Trong khuôn khổ của luận án, chúng tôi không đi sâu phân tích các loại hình
văn bản sách đăng khoa lục, qua thông tin ghi chép trong sách để thấy rõ ý nghĩa
khuyến khích và nêu gƣơng, truyền thống đỗ đạt của ngƣời dân địa phƣơng, bổ sung
những thông tin để chỉnh lý tiểu sử nhân vật khoa bảng đƣợc chính xác, rõ ràng hơn.
Luận án chỉ đề cập đến những danh nhân khoa bảng Nho học, nội dung liên quan đến
võ cử, chúng tôi sẽ đề cập trong một nghiên cứu khác.
Đăng khoa lục đại khoa: Hiện nhân vật đại khoa của Nghệ An đƣợc ghi chép
trong 13 tác phẩm đăng khoa lục, trong đó 12 sách ghi các khoa thi từ triều Lê trở
về trƣớc, 1 sách ghi các khoa thi của triều Nguyễn, tất cả đều lƣu giữ tại VNCHN
(xem bảng 2.3). Trong số 13 cuốn sách này, có cuốn có 1 đơn vị tài liệu, có cuốn có
nhiều đơn vị tài liệu, trên cơ sở khảo sát văn bản nhƣ: bản in/ bản viết tay, niên đại
sách, nội dung, số quyển, số trang và tham khảo cuốn Di sản Hán Nôm Việt Nam
thư mục đề yếu [122], Các nhà khoa bảng Việt Nam [157] chúng tôi chọn ra 1 bản
nền làm đối tƣợng khảo sát, nghiên cứu. Cụ thể, các sách đăng khoa lục có ghi chép
10 Đỉnh khế Đại Việt lịch triều đăng khoa lục 鼎契大越歷朝登科綠, VHv650, quyển 1, Phần Bài tựa,
t. 2a.
44
nhân vật đỗ đại khoa của Nghệ An hiện lƣu giữ tại VNCHN nhƣ sau:
Bảng 2.2. Tư liệu đăng khoa lục đại khoa và số người đỗ đại khoa của Nghệ An
Stt
Tên sách
Kí hiệu
Khoa thi
Số ngƣời đỗ đại khoa 20
A.2040
1.
A.2105
1
2.
A. 1785
31
3.
Từ khoa Ất Mão đời Lí Nhân Tông (1075) đến khoa Mậu Tuất đời Lê Dụ Tông (1718). Khoa Nhâm Dần năm Hoằng Định 3 thứ (1602) đến khoa Quý Mùi năm Cảnh Hƣng thứ 24 (1763). Các khoa từ đời năm Hƣng Long thứ 12 (1304) đến Chính Hòa thứ 4 (1683).
50
4.
A.109/1-2
14
5.
A.2119
31
6.
A.2752/1-2 Khoa Bính Dần năm Thiệu Long thứ 9 (1266) đến khoa Đinh Mùi năm Chiêu Thống thứ 1(1787). Khoa Ất Mùi năm Hồng Đức thứ 6 (1475) đến khoa Ất Mùi năm Cảnh Hƣng thứ 36 (1775). Khoa Bính Dần năm Thiệu Long thứ 9 (1266) đến khoa Giáp Tuất năm Chính Hòa thứ 15 (1694).
VHv.652
43
7.
A.2245
2
8.
Khoa Ất Mão đời Lí Nhân Tông (1075) đến khoa Đinh Mùi năm Chiêu Thống thứ 1(1787). Cuối đời Trần (thế kỷ 14) đến đời Lê Chiêu Thống (cuối thế kỷ 18).
VHv.292
2
9.
A.3078
Ất Mão đời Lí Nhân Tông (1075) đến Lê Cảnh Hƣng thứ 13 (1752). Triều Trần đến triều nhà Mạc.
2
10.
A.485/2
Ngƣời đỗ đại khoa các trƣờng thi.
47
11.
VHv.289/1-2
Triều Lý đến Lê Trung hƣng.
46
12.
VHv.640
51
13.
Đại Việt lịch đại Tiến sĩ khoa thực lục 大越歷代 進士科書錄 Đăng khoa bi kí lục 登科 備記錄 Đăng khoa lục sao bản 登 科錄抄本 Đỉnh khế Đại Việt lịch triều đăng khoa lục 鼎鍥 大越歷朝登科錄 Lê triều lịch đại khoa Tiến sĩ đề danh bi ký 黎朝 歷 科進士題名碑記 Lịch đại đại khoa lục 歷 代大科錄 Lịch đại đăng khoa lục 歷 代登科錄 Lịch đại danh hiền phả 歷 代名賢譜 歷 朝 登 科 錄 Lịch triều đăng khoa lục11 Tam khôi bị lục 三魁 備 錄 Thiên Nam lịch triều liệt huyện đăng khoa bị khảo 天南歷朝列縣登科備考 Thiên Nam Lịch triều đăng khoa lục 天南歷朝 進士登科錄 Quốc triều khoa bảng lục 國朝科榜錄
340
TC
13 sách
Khoa Nhâm Ngọ Minh Mệnh (1822) đến khoa Kỉ Mùi Khải Định (1919).
11 Sách này cả cuốn Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu và Các nhà khoa bảng Việt Nam (1075-1919) đều ghi là Tam khôi lục 三 魁錄. Có lẽ do căn cứ vào nội dung sách ngƣời làm Thƣ mục đã đặt tên nhƣ vậy.
45
13 sách đăng khoa lục đại khoa ghi chép đƣợc tổng cộng 340 lƣợt ngƣời đỗ
đại khoa, sau khi đối chiếu, loại trừ những ghi chép trùng lặp, số còn lại là 137
ngƣời đậu đại khoa của Nghệ An. (xem Phụ lục 2.3).
Đăng khoa lục trung khoa: Đăng khoa lục trung khoa hiện có hai nhóm: đăng
khoa lục toàn quốc và đăng khoa lục địa phƣơng. Đăng khoa lục toàn quốc có duy
nhất quyển Quốc triều hương khoa lục 國朝鄉科錄 (A.36) của Cao Xuân Dục.
Sách ghi chép tổng cộng 810 Cử nhân là ngƣời Nghệ An, chiếm 15,46% số Cử nhân
của cả nƣớc, trong đó 5 khoa thi không có ngƣời Nghệ An đỗ đạt (khoa Ất Mùi,
Minh Mạng thứ 18 (1835); khoa Kỉ Dậu, Tự Đức thứ 2 (1849); khoa Giáp Tuất, Tự
Đức 27 (1874); Ân khoa Bính Tuất, Đồng Khánh thứ 1 (1886); khoa Đinh Hợi,
Đồng Khánh thứ 2 (1887), do không tổ chức thi ở trƣờng thi Nghệ An (xem Phụ lục
2.4).
Các nhân vật đỗ trung khoa của Nghệ An còn đƣợc ghi chép ở mục nhân vật
chí trong các sách địa chí, chúng tôi xin đề cập dƣới đây. Trong số 13 sách địa chí
của Nghệ An, 3 sách không có ghi chép về ngƣời đỗ đạt (Nghệ An phong thổ ký 乂
安風土記, Hoan Châu phong thổ ký 驩州峰土記 và Hoan Châu phong thổ thoại 驩
州峰土話), 10 kí hiệu sách còn lại: 4 sách địa chí cấp tỉnh (Các tỉnh chí 各省誌,
Nghệ An kí 乂安記, Nghệ An nhân vật kí 乂安人物誌, Nghệ Tĩnh tạp kí 乂靜雜 記),
4 sách địa chí cấp huyện (清章縣誌 Thanh Chương huyện chí (A.97/2, VHv.2557),
Quỳnh Lưu phong thổ ký 瓊琉風土記, Đông Thành phong thổ ký 東城風土記) và 2
sách địa chí cấp thôn (Quỳnh Đôi cổ kim sự tích hương biên 瓊琉古今事跡鄉编 và
Hương biên làng Quỳnh 鄉編郎瓊). Cụ thể tên sách, kí hiệu sách, số ngƣời đỗ đại
khoa từng triều đại nhƣ sau:
Bảng 2.3. Tư liệu địa chí Nghệ An và số lượng người đỗ đại khoa của Nghệ An
Tên sách
Kí hiệu
Tổng số ngƣời
Stt
đỗ đại khoa
Các tỉnh chí 各省誌 Đông Thành phong thổ ký 東城風土記 Hương biên làng Quỳnh 鄉編郎瓊 Nghệ An ký 乂安記
VHv.1716 VHv.1719 VNv.103 VHv.1713/1-2
11 7 11 55
1. 2. 3. 4.
46
Nghệ An nhân vật chí 乂安人物誌
VHv.1369
12
5.
Nghệ Tĩnh tạp ký 乂靜 雜 記 Quỳnh Đôi cổ kim sự tích hương biên
A.93 A.3154
56 9
6. 7.
瓊琉古今事跡鄉编
Quỳnh Lưu phong thổ ký 瓊琉風土記 Thanh Chương huyện chí 清章縣誌
1 13
8. 9.
Thanh Chương huyện chí 清章縣志
VHv.1377 VHv.2557 A.97
10
10.
10
10
175
TC
10 sách địa chí ghi chép đƣợc 175 ngƣời Nghệ An đỗ đại khoa, chúng tôi loại
bỏ những trƣờng hợp trùng lặp, còn lại 63 ngƣời, gồm: 2 nhân vật đỗ vào triều Trần,
53 nhân vật đỗ vào triều Lê và 8 nhân vật đỗ vào triều Nguyễn. Trong đó, Nghệ
Tĩnh tạp kí ghi đƣợc nhiều nhất 56/63 ngƣời, Nghệ An ký ghi đƣợc 55/63 ngƣời,
Quỳnh Lưu phong thổ ký chỉ chép 1 ngƣời (xem Phụ lục 2.5).
So với các tƣ liệu đăng khoa lục toàn quốc, số nhân vật khoa bảng trong các
sách địa chí tuy đƣợc chép ít hơn, nhƣng tiểu sử các nhân vật lại đƣợc ghi chép khá
tỉ mỉ. Điển hình nhƣ cuốn Thanh Chương huyện chí 清漳縣誌, phần khảo về Văn
miếu trong mục Kim cổ vị sự chí, từ trang 28a - 30b cung cấp thông tin đầy đủ về
cấp bậc, phẩm hàm, tƣớc vị của 13 vị Tiến sĩ triều Lê của bản huyện. Cụ thể, phần
viết về Tiến sĩ Nguyễn Trọng Thƣờng: “Ban cho Tiến sĩ khoa Nhâm Thìn, Đặc tiến
Kim tử Vinh lộc đại phu, Lại bộ Hữu thị lang, Cần Xuyên hầu, phong tặng Lại bộ
Thị lang, Cần quận công, gia tặng Công bộ Thƣợng thƣ, Trung Cần xã, Cửu Đƣờng Nguyễn tƣớng công”12. Tiến sĩ Nguyễn Đƣơng “Ban cho Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Kỉ Sửu, Đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu, phụng sai các đạo Quảng
Nam, Thuận Hóa, Chính đốc, Hàn lâm viện Thị độc, Lạp Sơn bá, phong tặng Tán
12 “賜壬辰科進士 , 特進金紫荣禄大夫 , 吏部右侍郎 , 芹川侯 , 封賜贈吏部侍郎 , 芹郡八 ,
加贈工部尚書 , 忠勤社九堂阮相八” VHv.2557, tr.29b.
13 “賜己丑科第三甲同進士出身 , 特進金紫荣祿大夫 , 奉差廣順等道 , 正督 , 翰林院侍讀 ,
苙山伯 , 封贈光等處 , 贊治丞政 , 笠山侯 , 忠勤社阮相八”.VHv.2557, tr.30a.
47
trị, Thừa chính các xứ Tuyên Quang, Lạp Sơn hầu Trung Cần xã Nguyễn tƣớng công13”. Phần văn khoa, mục Cổ kim nhân vật chí, từ trang 40a - 53a, cung cấp đầy đủ quê quán, họ tên, tự, hiệu, biệt hiệu, tƣ liệu gia phả dòng họ, truyền thuyết lƣu
truyền trong dân gian của 13 vị Tiến sĩ, v.v… So với cuốn Các nhà khoa bảng Việt
Nam, bổ sung nhiều thông tin thú vị, nhƣ:
Về quê quán: Bổ sung tên thôn, giáp, trang của 4 vị Tiến sĩ mà trong ghi chép
của bia Văn miếu Thăng Long và các sách đăng khoa lục đại khoa chỉ ghi đến đơn
vị cấp xã. Đó là: Tiến sĩ Nguyễn Thiện Chƣơng, Chu Quang Trứ ngƣời thôn Hoành
Sơn, xã Nam Hoa thƣợng; Tiến sĩ Tống Tất Thắng ngƣời trang Cần Doanh, xã Nam
Hoa thƣợng; Tiến sĩ Nguyễn Sĩ Giáo ngƣời giáp An Tuyền, xã My Sơn; Tiến sĩ
Nguyễn Đình Cổn ngƣời thôn Bàng Thị.
Tên, tên tự, hiệu, biệt hiệu: Tiến sĩ Nguyễn Lâm Thái tên là Nham 岩, tự Lâm Thái 林泰, biệt hiệu Lạc Sơn Tử 樂山子14 ; Nguyễn Trọng Thƣờng húy là Vị 位, tên Ức 億, tự Trọng Thƣờng 仲常15; Nguyễn Trọng Đƣơng 阮仲璫 húy là Chiết 晢, tự là Đƣơng 璫16; Nguyễn Đình Cổn hiệu là Thận Hiên, tên gọi khác là Nguyễn Đình Nhƣợng; Nguyễn Thế Bình húy là Truyền 傳, tự Viết Tiến 曰進, đổi gọi là Thế Bình 世平17. Bổ sung năm mất của 3 vị Tiến sĩ là Tiến sĩ Nguyễn Lâm Thái mất năm Tân Dậu (1741), Tiến sĩ Nguyễn Thế Bình mất năm Bính Ngọ (1786) và
Tiến sĩ Nguyễn Đƣờng mất năm Tân Mùi (1811).
Ngoài lƣu danh các nhân vật khoa bảng, sách địa chí còn ghi chép về trƣờng
học, khí chất, phong tục của ngƣời dân địa phƣơng đối với việc học. Thanh Chương
huyện chí (A.97), tờ 2a, chép về trƣờng học ở huyện: “Học xá tại địa phận xã Lƣơng
Trƣờng, bên cạnh huyện lỵ, lƣng dựa vào núi Thiên Nhận, bao quanh bởi sông Lam
Giang. Năm Minh Mệnh thứ 8 (1827) xây dựng ở đó, năm thứ 16 (1835) sửa sang lại”18. Bùi Dƣơng Lịch trong mục Nhân vật chí sách Nghệ An ký cho rằng: “Ngƣời Nghệ An vốn “thuần, giản mà hiếu học”, số ngƣời thi ngạch đỗ mỗi khoa khá nhiều,
những ngƣời đỗ Tiến sĩ thì đƣợc triều đình bổ dụng, ngƣời trúng trƣờng nhiều lần
14 “土豪社阮八名岩,字林泰 , 別号樂山子, VHv.2557, tr.49b. 15 “忠勤社阮八諱位 , 名億 , 字仲常”, VHv.2557, tr.45b. 16 “忠勤社阮八諱晢 , 字璫”, VHv.2557, tr.50a. 17 “葛岸社土村阮工諱傳, 字進 , 改号世平”, VHv.2557, tr.51a. 18“縣學:學舍在良場社地分縣莅之傍背倚千仞山襟带蓝江水明命捌年建設于此拾陸年
再奉遵依酌减規式捕葺” 清章縣志, A.97/2, t.2a.
48
thì đƣợc làm việc ở các phủ huyện, những ngƣời là Cống cử đƣợc dân làng suy tôn,
coi trọng, phần nhiều những công việc tục lệ trong dân thƣờng đem chất chính với họ, các quan đại thần triều đình cho đến quan ở châu quận đều lấy lễ đãi ngộ họ”19.
2.1.1.4. Tư liệu lịch sử
Chúng tôi thống kê đƣợc 5 sách lịch sử có nội dung liên quan đến KHNA: ghi
chép về trƣờng học, trƣờng thi, khoa mục, nhân vật đỗ đạt, tổ chức học tập… Cụ
thể: Đại Nam nhất thống chí 大南一統 誌(A.69/6), Lịch triều hiến chương loại chí
歷朝憲章類誌 (A.1551/1-8), Khâm định Việt sử thông giám cương mục 欽定越史
通鑑綱目(A.1/1- 9), Đại Nam liệt truyện (chính biên)大南烈傳, (VHv.1569/1-10)
và 潘佩珠年表 Phan Bội Châu niên biểu 潘佩珠年表(VHv.2138).
Nhà Nguyễn sau khi hoàn thành công cuộc thống nhất đất nƣớc, đặc biệt quan
tâm đến giáo dục và tuyển dụng nhân tài. Một trong những biện pháp giáo dục cụ
thể là lập các trƣờng thi Hƣơng và trƣờng học ở tỉnh và phủ. Sách Đại Nam nhất
thống chí 大南一統 誌 cho biết, Nghệ An thời Nguyễn có 1 trƣờng thi Hƣơng ở địa
phận thôn Hạ, xã Yên Dũng dựng năm Thiệu Trị thứ 3 (1843); 1 trƣờng học của
tỉnh ở phía đông nam tỉnh thành, trƣớc ở phía đông bắc Văn miếu; 2 trƣờng ở phủ
(Anh Sơn, Diễn Châu) và 2 trƣờng học ở huyện (Thanh Chƣơng, Quỳnh Lƣu), các
trƣờng này đều đƣợc dựng vào niên hiệu Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức. [138,
tr.171-172]. Việc xây dựng trƣờng thi, trƣờng học từ tỉnh đến phủ, huyện tại Nghệ
An tạo ra môi trƣờng học tập, khuyến khích ngƣời dân đi học, đi thi. Sách còn ghi
về việc các phủ, huyện đến xã thôn dựng Văn chỉ thờ thánh Khổng, thể hiện sự tôn
sùng Nho học; và tiểu sử 14 ngƣời đậu đại khoa của Nghệ An: triều Trần (2 ngƣời),
Lê (11 ngƣời), Nguyễn (1 ngƣời).
Lịch triều hiến chương loại chí 歷朝憲章類誌 (A.1551/1-8), mục Khoa mục
chí ghi các quy định về kỳ thi Hƣơng: “Năm Hồng Đức thứ 14 (1483) định nhật kỳ
thi Hƣơng là lệ cống sĩ, các xứ Thuận Hóa, Nghệ An mỗi xứ 60 ngƣời, lấy ngày 15
tháng 8 vào trƣờng nhì, ngày 22 vào trƣờng ba, ngày 26 vào trƣờng tƣ, ngày 1 tháng
9 yết bảng ngƣời đỗ…Với những quy định trong sắc chỉ về việc thực xét học trò để
lập danh sách xếp hạng trƣờng thi từ cấp xã phƣờng, châu huyện đến phủ, những
quy định nghiêm ngặt đối với từng học trò trong trƣờng thi…”. [15, tr.37- 42]. Các
19 Bùi Dƣơng Lịch, Nghệ An kí (bản dịch) 1993, tr.216.
49
nghi thức xƣớng danh, ban mũ, áo, đai, tiệc yến, vinh quy dành cho Tiến sĩ, nhân
vật đỗ đạt trong các khoa thi nhƣ Trại trạng nguyên Bạch Liêu, Tiến sĩ Đinh Bạt
Tụy, Tiến sĩ Hồ Sĩ Đống, Tiến sĩ Nguyễn Trí Hòa là tài liệu tham khảo quý về
khuyến học nói chung, KHNA nói riêng. Nhân vật đỗ đạt trong các khoa thi nhƣ
Trại trạng nguyên Bạch Liêu, Đinh Bạt Tụy, Hồ Sĩ Đống, Nguyễn Trí Hòa những
tấm gƣơng sáng về khoa bảng Nghệ An.
Khâm định Việt sử thông giám cương mục 欽定越史通鑑綱目(A.1/1-9) là bộ
lịch sử biên niên của Việt Nam. Phần Chính biên có nội dung liên quan đến việc tổ
chức học tập, trƣờng học: định rõ quy chế về việc dạy học (Chính biên, Q.45, mục 15),
đặt chƣơng trình học tập ở quốc học và huyện học (Chính biên, Q.43, mục 15), định thể
lệ học tập ở trƣờng quốc học và hƣơng học (Chính biên, Q.35, mục 36, 37), cấp ruộng
cho trƣờng học (Chính biên, Q.36, mục 8, 9), những quy định về khoa cử, v.v… Đây là
tài liệu có giá trị với khuyến học cả nƣớc nói chung, Nghệ An nói riêng. 大南烈傳 Đại
Nam liệt truyện (Chính biên), (VHv.1569/1-10) ngoài truyện về các Hậu phi, Hoàng
tử, ngƣời trung nghĩa, liệt nữ, mục Truyện các quan ghi chép khá tỉ mỉ về các vị đỗ
trung khoa, đại khoa của nƣớc ta thời Nguyễn, trong đó có 36 nhân vật là ngƣời
Nghệ An (16 nhân vật đại khoa, 20 nhân vật trung khoa), đây là những gƣơng sáng
về tinh thần hiếu học, đỗ đạt, thành danh.
Phan Bội Châu niên biểu 潘佩珠年表(VHv.2138) viết về cuộc đời và sự
nghiệp của Phan Bội Châu, trong đó có phần viết về trƣờng học, về những ngƣời
thầy tại Nghệ An.
2.1.1.5. Tư liệu gia huấn
Gia là nhà, huấn là dạy bảo, gia huấn là loại sách dùng để giáo dục con cháu
trong gia đình. Những gia đình có truyền thống khoa bảng, danh gia vọng tộc
thƣờng rất coi trọng chuẩn mực đạo đức làm ngƣời, các thế hệ tiền bối thƣờng soạn
sách gia huấn để lƣu truyền, răn dạy con cháu. Đối tƣợng chính của gia huấn là con
cháu trong dòng họ, nên vấn đề cốt lõi của sách là những tuyên ngôn về giáo dục,
bài học kinh nghiệm rút, tấm gƣơng hiếu học, đỗ đạt khoa trƣờng, khuyến khích học
20 Trong bài này chúng tôi thống kê đƣợc 35 cuốn gia huấn, sau này chúng tôi khảo cứu và
bổ sung, tổng cộng 74 cuốn.
50
tập, mong con cháu nối nghiệp ông cha, giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp. Trong số 74 tác phẩm gia huấn tại VNCHN [57]20 và 18 tác phẩm gia huấn tại Thƣ viện Quốc gia [59], chúng tôi chọn ra đƣợc 3 tác phẩm của Nghệ An. Đó là: Cần
kiệm vựng biên 勤儉彙編 (VHv.708), Cùng đạt gia huấn 窮達嘉訓 (A.3076) và
Nhân thế tu tri 人世須知 (VHv.352/1- 6).
Cần kiệm vựng biên 勤儉彙編 của Nguyễn Đức Đạt là tập hợp các trích dẫn từ
các sách kinh, sử, tử, tập của Trung Quốc về hai nội dung chính là “cần” và “kiệm”.
Mục Cần học (chuyên cần trong học tập) khuyên mọi ngƣời nên chuyên cần, kiên trì trong học tập, tƣơng lai có thể đóng góp tài trí cho đất nƣớc. [58].
Cùng đạt gia huấn 窮達嘉訓 của Hồ Phi Tích chép trong Hồ gia hợp tộc phả
ký 胡嘉合族譜. Nội dung sách thuật lại chuyện cũ về sự cùng khổ và thành đạt
trong cuộc đời của tác giả, dùng để răn dạy con cháu trong nhà, khuyên họ gắng sức
vào việc học. Phần Sự học trong sách Nhân thế tu tri 人世須知 của Cao Xuân Dục
nêu gƣơng những ngƣời hiếu học, trích trong các sách kinh, sử, tử, tập, với mong muốn
các thế hệ mai sau nỗ lực noi theo.
2.1.1.6. Tư liệu gia phả
Gia phả là tên gọi chung cho loại sách chép về sự hình thành và phát triển của
một dòng họ. Bên cạnh các nội dung lịch sử, thế thứ, kị húy, giỗ chạp, phần mộ, văn
chƣơng, nghề thủ công, v.v…, gia phả còn ghi chép tiểu sử các danh nhân trong
dòng họ một cách khá chi tiết, lƣu lại những tấm gƣơng về tinh thần nỗ lực học tập,
khuyến khích con cháu đời sau noi theo. Biểu dƣơng, ca ngợi các dòng họ nhiều đời
có ngƣời đỗ đại khoa, các gia đình có anh em, cha con, ông cháu nối đời thi đỗ có
giá trị khuyến học cao.
Trong số 410 cuốn gia phả tại VNCHN (từ hai nguồn: 220 cuốn từ kho sách
Hán Nôm đƣợc thành lập sau năm 1979, 190 cuốn VNCHN sƣu tầm từ năm 1992
đến nay) [80], chúng tôi tìm đƣợc 26 cuốn gia phả các dòng họ của Nghệ An, nhƣ:
họ Hồ (xã Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lƣu; xã Xuân Liễu, huyện Nam Đàn), họ Đinh
(xã Bùi Ngõa, huyện Hƣng Nguyên); họ Nguyễn (Nguyễn Cảnh, Nguyễn Hoàng,
Nguyễn Văn, Nguyễn Khắc); họ Phạm, họ Chế xã Nghi Thu, huyện Nghi Lộc); họ
Trịnh xã Nghi Đồng, huyện Nghi Lộc…, trong số đó có 3 cuốn mang nội dung
khuyến học. Đó là:
Hồ gia hợp tộc phả ký 胡嘉合族譜 (A.3076), phả ký tập hợp của dòng họ Hồ,
do Hồ Phi Hội biên tập và viết tựa năm Tự Đức thứ 5 (1852). Liên quan đến dòng
họ này còn có cuốn Hồ gia thế phả 胡家世譜 (VHv.1387), Hồ Tam Kiểm viết tựa
51
năm Đồng Khánh thứ 3 (1888) chép về nguồn gốc, gia phả và thụy hiệu của ngƣời
trong họ Hồ ở thôn Nghĩa Liệt và Hồ gia hợp tộc phả ký (D.1871). Hồ gia hợp tộc phả ký có thể coi là bản đăng khoa lục riêng của dòng họ, ghi chép các nhân vật đỗ
đạt trong suốt một thời kỳ dài, khoảng 400 năm (thế kỷ XV đến thế kỷ XIX) với 10
vị đỗ đại khoa (3 Trạng nguyên, 2 Hoàng giáp, 4 Tiến sĩ, 1 Phó bảng) và 71 nhân
vật đỗ trung khoa (25 vị đỗ tam trƣờng, tứ trƣờng khoa thi Hội; 15 Giám sinh; 16
Hƣơng cống, Giải nguyên, Tứ trƣờng khoa thi Hƣơng; 12 Cử nhân và 3 Nho sinh trúng thức. [161].
Đinh gia tộc phả 丁家族譜 hay Đinh gia hợp tộc toản biên thế phả chí 丁家合
族纂编世譜誌 (A.1209), Bùi Tồn Am 裴存音 viết tựa, Đinh Nhự 丁茹 viết chí,
chép gia phả 13 đời của họ Đinh ở thôn Thổ Ngoã, xã Bùi Khổng, huyện Hƣng
Nguyên. Thế thứ của chi thứ hai từ Đinh Bạt Tuỵ đến Đinh Bạt Thạc gồm 11
đời. Bản gia phả này cung cấp nhiều tƣ liệu quý về Đinh Bạt Tụy nhƣ năm sinh,
ngày, tháng năm mất, v.v…, 12 đạo sắc phong cho Đinh Bạt Tụy từ lúc ông bắt đầu
đỗ đạt làm quan thời Lê Trung hƣng cho đến khi ông qua đời, qua đó thấy đƣợc tấm
gƣơng về học tập, nỗ lực phấn đấu trên con đƣờng sự nghiệp.
Dòng họ Nguyễn Trọng ở Trung Cần với ba đời kế tiếp đậu Tiến sĩ và đƣợc cử đi
sứ Trung Hoa, đó là: Nguyễn Trọng Thƣờng đậu Tiến sĩ năm 1712, làm quan đến Lại
bộ Thị lang, đi sứ nhà Thanh 2 lần; Nguyễn Trọng Đƣơng con Nguyễn Trọng Thƣờng,
đậu Tiến sĩ năm 1769, cử làm Phó sứ sang nhà Thanh; Nguyễn Trọng Đƣờng cháu đích
tôn của Nguyễn Trọng Thƣờng đậu Tiến sĩ năm 1779, cháu của Nguyễn Trọng Đƣơng,
hai chú cháu làm quan cùng triều, đƣợc cử đi sứ sang nhà Thanh.
52
2.1.2. Nguồn tư liệu văn bia “Bia khuyến học là một trong những thể tài của văn bia Việt Nam, bao hàm nội dung đề cao Nho giáo, biểu dƣơng nhân tài, nêu gƣơng ngƣời tốt việc tốt trong lĩnh vực học tập cũng nhƣ khoa cử, trên cơ sở ấy động viên, khích lệ mọi ngƣời phấn đấu vƣơn lên trong học tập”. [105, tr.26]. Văn bia khuyến học đƣợc tập trung chủ yếu ở nhóm văn bia đề danh Tiến sĩ cấp trung ƣơng, địa phƣơng; văn bia ghi việc xây dựng, trùng tu Văn chỉ, Văn từ; văn bia tiểu sử danh nhân; văn bia của Hội Tƣ văn; văn bia thờ Tiên hiền. Đây đƣợc coi là nguồn tƣ liệu xác thực, đáng tin cậy, bổ sung nhiều thông tin về khuyến học. Hiện trong kho thác bản tại VNCHN và tại Nghệ An còn lƣu giữ 100 đơn vị văn bia có nội dung khuyến học. Cụ thể nhƣ sau:
2.1.2.1. Bia đề danh khoa bảng Bia Văn miếu Thăng Long và Văn miếu Huế: là văn bia đề danh Tiến sĩ cấp trung ƣơng, ghi tên những ngƣời đỗ đại khoa là ngƣời Nghệ An. 24/82 bia Văn miếu Thăng Long ghi tên 30 ngƣời; 21/34 bia Văn miếu Huế ghi tên 38 ngƣời Nghệ An đỗ đại khoa.
Bia đề danh khoa bảng tại Nghệ An: gồm 14 bia, đặt tại 4 huyện Thanh Chƣơng, Nam Đàn và Đông Thành, Yên Thành. Đáng chú ý là cụm bia tại đình xã Võ Liệt, huyện Thanh Chƣơng, đề danh các nhân vật khoa bảng từ trung khoa đến đại khoa của tổng Võ Liệt.
2.1.2.2. Bia thờ Tiên hiền: bia đặt tại Văn chỉ, Văn từ. Nội dung nói về việc thờ Khổng Tử, các bậc Tiên hiền, Tiên nho của làng, xã, tổng, huyện. Tổng cộng có 14 văn bia.
2.1.2.3. Bia trùng tu Văn từ, Văn chỉ: với mong muốn có nơi thờ tự riêng của địa phƣơng mình, các văn thân, Nho sĩ, Hội Tƣ văn bỏ công, góp của xây dựng, trùng tu Văn chỉ, Văn từ. Hiện chúng tôi thống kê đƣợc 10 bia có nội dung ghi lại việc di dời, trùng tu này.
2.1.2.4. Bia Hội Tư văn: Hội Tƣ văn là tổ chức hội của những văn thân, Nho sĩ
tại địa phƣơng. Tại Nghệ An, hiện có 7 văn bia của Hội Tƣ văn ghi lại các quy định,
hoạt động của Hội, danh sách những ngƣời đỗ đạt của địa phƣơng.
2.1.2.5. Bia tiểu sử các nhà khoa bảng: gồm 10 văn bia, ghi lại tiểu sử của
những nhân vật khoa bảng nhƣ Tiến sĩ Nguyễn Đức Đạt, Tiến sĩ Đinh Bạt Tụy, Hồ
Phi Tích, thƣờng do học trò của họ là Tiến sĩ, Phó bảng, Cử nhân, Tú tài… soạn và
dựng bia ca ngợi, ghi ân công đức thầy dạy. (Xem Phụ lục 2.6).
2.2. Một số đặc điểm văn bản tƣ liệu Hán Nôm về khuyến học của Nghệ An
Qua khảo sát nguồn tƣ liệu ở mục 2.1, chúng tôi phân tích một số đặc điểm
chính về văn bản của TLHN về KHNA dựa theo các phƣơng diện: định dạng văn
bản, niên đại, tác giả, văn tự.
2.2.1. Định dạng văn bản
2.2.1.1. Văn bản in
Trong số 96 kí hiệu sách (tục lệ, khoa bảng, địa chí, gia phả, gia huấn, lịch
sử…) khảo sát ở trên, sách khắc in rất ít, chỉ có 6 sách (chiếm 6,2%): Đại Nam liệt
53
truyện (chính biên), Nghệ An ký, Cần kiệm vựng biên, Đỉnh khế Đại Việt lịch triều
đăng khoa lục, Quốc triều khoa bảng lục và Quốc triều Hương khoa lục. Nghệ An
ký hiện có 4 bản in, trong đó 1 bản lƣu giữ tại VNCHN, kí hiệu VHv.1732, 3 bản
hiện lƣu trữ ở Paris (Cộng hòa Pháp).
Đại Nam liệt truyện (chính biên) đƣợc in năm Tự Đức thứ 5 (1852) theo chỉ
truyền “Hữu ty chọn ngày tốt, giao khắc in, rồi do Sử quán kiểm tra kỹ, đóng thành
quyển để truyền đời sau”. [136, tr.8]. Nghệ An kí có lẽ bắt đầu biên soạn vào những
năm Bùi Dƣơng Lịch làm Đốc học Nghệ An, bổ sung hoàn chỉnh trong thời gian khi
ông làm Đốc học, nhƣng mãi sau khi ông mất, khoảng đời Tự Đức (1847-1883)
sách mới đƣợc khắc in. [76, tr.13]. Cần kiệm vựng biên có 4 bản in, Nguyễn Đức
Đạt biên tập, bình luận và viết tựa vào năm Tự Đức thứ 23 (1870) và khắc in vào
tháng 10 năm Tân Tỵ niên hiệu Tự Đức (1881). Đỉnh khế Đại Việt lịch triều đăng
khoa lục gồm 7 bản in, 1 bản viết tay. Có thể sách đã đƣợc khắc ván gỗ, nhƣng công
việc không đƣợc làm liên tục hoặc vì khó khăn nào đó mà phải gác lại, sớm nhất
đến khoảng năm Chiêu Thống thứ 1 (1787) hoặc mấy năm đầu thời Tây Sơn, toàn
bộ ván gỗ mới đƣợc khắc xong. [157, tr.21]. Hiện 2 văn bản (VHv.2140/1-3;
A.2752/1-2) đƣợc coi là bản đầy đủ nhất, trong đó VHv.2140 in ra từ bộ ván khắc
cuối Lê đầu Tây Sơn, chữ in không bị đục bỏ để kiêng húy triều Nguyễn: chữ Tông
宗, Hoa 華, Thực 實 vẫn còn nguyên vẹn đủ nét; bản A.2752/1-2 bổ sung các khoa
thi Hội dƣới triều Nguyễn và đƣợc khắc in dƣới triều Nguyễn, đục bỏ những chữ vi
phạm lệ kiêng húy triều Nguyễn. [157, tr.22]. Quốc triều khoa bảng lục và Quốc
triều Hương khoa lục của Cao Xuân Dục đƣợc nhà in Long Cƣơng tổ chức vào năm
Thành Thái Giáp Ngọ (1894) và Thành Thái Quý Tỵ (1893). Nhƣ vậy, trong số 6
sách khắc in kể trên, chỉ có Đỉnh khế Đại Việt lịch triều đăng khoa lục (VHv. 2140)
khắc in cuối triều Lê đầu Tây Sơn, còn lại đều khắc in vào triều Nguyễn, đời vua Tự
Đức và Thành Thái.
2.2.1.2. Văn bản chép tay
Thƣ tịch Hán Nôm về KHNA chủ yếu là tục lệ, địa phƣơng chí, gia phả và gia
huấn… nội dung sách thƣờng tập trung trong phạm vi hẹp (gia đình, dòng tộc, thôn
xã), có lẽ vì vậy, cũng nhƣ tình trạng chung của mảng tƣ liệu này ở các tỉnh khác,
thƣ tịch Hán Nôm về KHNA chƣa đƣợc đầu tƣ in ấn nhiều.
100% văn bản tục lệ là bản chép tay, đây là điểm hạn chế về mặt văn bản, có
54
sự sai lệch nhất định, đặc biệt là về địa danh. Qua khảo sát tƣ liệu, chúng tôi nhận
thấy tên địa danh (cấp phủ, huyện) giữa tờ bìa và tờ 1a trong nhiều bản tục lệ không
có sự thống nhất, nhƣ:
Bảng 2.4. Bảng thống kê tên phủ chép ở bìa sách và tờ 1a trong sách tục lệ
TT
1.
Kí hiệu AF.a1/3
2.
3.
AF.a1/3 AF.a1/4
4.
AF.a1/5
Tên phủ ở bìa sách 乂安省興元府都安總 美裕社美村俗例 乂安省興元府都安總 安福社俗例 乂安省興元府都安總 成功村俗例 乂安省興元府都安總 玉笏村俗例
5.
乂安省興元府文園總
AF.a1/21
Niên đại Gia Long thứ 5(1806) Gia Long thứ 4(1805) Gia Long thứ 4 (1805) Gia Long thứ 5(1806) Minh Mệnh thứ 11(1830)
Tên phủ ở tờ 1a 英都府興元縣都安 總美裕社美村俗例 英都府興元縣都安 總安福社富文村俗例 英都府興元縣都安 總陰功社成功村俗例 英都府興元縣都安 總美真社玉笏村俗例 英山府興元縣花園 總潮口社福川村 英山府真禄縣安場
6.
AF.a1/2
Tự Đức thứ 6
富川村俗例 乂安省興元府安場總 永安社俗例
總永安社
(1853)
7.
乂安省興元府安場總
AF.a1/2
Tự Đức thứ 9
祿多社 社俗例
英山府真禄縣梧場 總祿多社永安鄉
(1856)
Theo Đại Nam nhất thống chí, phần ghi về phủ Anh Sơn “Thời Lê là phủ Anh
Đô, năm Minh Mệnh thứ 3 (1822) đổi tên hiện nay”, viết về phủ Hƣng Nguyên “Năm
Thành Thái thứ 10 (1898) đổi gọi là phủ Hƣng Nguyên, quản lý cả hai huyện Hƣng
Nguyên và Nghi Lộc”. [138, tr.138]. Nhƣ vậy, vào thời điểm lập tục lệ, các thôn Phú
Văn, Thành Công, Ngọc Hốt, xã Lộc Điền, xã Đức Thịnh, v.v.. (bảng trên) chƣa có
tên phủ Hƣng Nguyên, các địa danh trên đều thuộc phủ Anh Sơn nhƣ ghi chép tờ 1a
trong các văn bản tục lệ.
Tục lệ thôn Đức Thịnh (AF.b1/2) lập năm Đồng Khánh thứ 2 (1886), bìa sách
ghi 乂安省興元府安場總德盛社俗例, tờ (1a) sách ghi 英山府真祿縣安場總德盛 社. Theo Đồng Khánh dư địa chí, xã Đức Thịnh thuộc tổng Yên Trƣờng, huyện
Chân Lộc, phủ Anh Sơn, trùng khớp với tên địa danh ghi tại tờ 1a, không thuộc phủ
Hƣng Nguyên nhƣ ghi ngoài bìa sách. [28, tr.1246].
Về tên gọi cấp huyện, năm Thành Thái thứ 1(1889) huyện Chân Lộc đổi tên
thành huyện Nghi Lộc [3, tr.234]. Tục lệ xã Lộc Châu 乂安省宜祿縣鄧舍總祿洲
社俗例(AF.b1/23) lập năm Tự Đức thứ 33 (1880), tục lệ thôn Chính Vĩ, thôn Hòa
55
Cam 乂安省宜祿縣鄧舍總各社村俗例 (AF.b1/25) lập năm Tự Đức thứ 23 (1870),
Thiệu Trị thứ 1 (1841) trang bìa sách đều ghi là huyện Nghi Lộc, tờ (1a) ghi là
huyện Chân Lộc.
Nhƣ vậy, có thể đƣa ra giả thiết, địa danh cấp phủ, cấp huyện ghi ngoài bìa
sách là tên gọi của phủ, huyện đó trong thời gian sao chép các văn bản tục lệ. Ngƣời
sao chép tục lệ đã dùng tên gọi của phủ, huyện vào thời điểm sao chép thay thế cho
tên gọi địa danh cũ đƣợc ghi ở tờ 1a của sách.
Ngoài ra, hạn chế của các viết tay là sử dụng từ đồng âm không đúng nghĩa, sử
dụng chữ có gần tự dạng, dùng lƣợng từ chƣa chuẩn xác… Ví dụ: để chỉ từ trầu cau, có bản viết “芙留”có bản viết 芙榔 , 新榔21; cùng từ “khoa sắc” trong cùng một văn bản khi thì viết là “科色” khi thì viết là “科敕”22; từ “sắc mệnh “敕命” có bản viết “
色命”; tục lệ thôn Xuân Kiều khi dùng lƣợng từ để chỉ con lợn, chỗ ghi là “猪一隻” chỗ ghi”猪一口”23; hiện tƣợng viết sai chữ có tự dạng gần giống nhau: chữ “芙” chỉ trầu cau trong tục lệ thôn Trƣờng Lãng, tổng Hải Đô viết là quan “关”24… Do từ
ngữ trong các bản tục lệ thƣờng gần gũi với đời sống hàng ngày của ngƣời dân, nên
khi xử lý văn bản, chúng tôi không gặp nhiều khó khăn trong việc nhận diện, từ đó
có những chú giải để hiểu đƣợc nội dung văn bản một cách chính xác nhất.
2.2.1.3. Văn bản văn bia
Trong 24 văn bia Văn miếu Thăng Long Hà Nội có khắc tên ngƣời Nghệ An
đỗ đại khoa, Thuận Bình lục niên Giáp Dần chế khoa đề danh kí 順平公年甲寅制
科題名記 (N01357) là 1 trong 12 tấm bia đƣợc khắc lại vào năm 1863. [118, tr.28-
35], ghi tên Tiến sĩ Đinh Bạt Tụy, Phan Tất Thông và Chu Quang Trứ quê Nghệ
An. Những tấm bia này chỉ khắc lại một nửa bên trái của bia, phần ghi niên đại và
tên ngƣời đỗ Tiến sĩ, do có tài liệu đăng khoa lục đối chiếu, nửa bên phải của bia
gồm tiêu đề phụ, bài ký cùng hoa văn trang trí xung quanh vẫn giữ nguyên theo
hiện trạng cũ, rất mờ mòn, nhìn trên bia hiện vật khó phát hiện đƣợc nhƣng trên
21月井社俗例, AF.b1/10, t.20a 22 福川村俗例, AF.b1/21, t.1a, 6a. 23 春喬村俗例, AF.b1/10, t 40a,b. 24 長朗村俗例, AF.b1/8, t.21a.
56
thác bản thấy rõ sự tƣơng phản. [105, tr.9].
Bia Lịch đại đại khoa bi ký 歷代大科碑記 ở đình làng Võ Liệt, hiện chƣa có
thác bản tại VNCHN bổ sung đƣợc tiểu sử 3 vị Tiến sĩ mà các sách đăng khoa lục
đại khoa, sách Các nhà khoa bảng Việt Nam còn bị khuyết. Đó là Phan Nhân Tƣờng
ngƣời xã Hoàng Xá, huyện Thanh Chƣơng đậu Tiến sĩ Chế khoa năm Nguyên Hòa
thứ 14 (1546); Lê Đình Chức ngƣời xã Thanh La, huyện Thanh Chƣơng, đậu Phó
bảng Ân khoa khoa Kỷ Sửu Tự Đức thứ 2 (1849) và Phan Đình Trác ngƣời xã Võ
Liệt, đậu Phó bảng Ân khoa, khoa Tân Hợi Tự Đức thứ 4 (1851). Ngoài một số thác
bản văn bia bị làm giả niên đại (chúng tôi trình bày ở phần sau, mục 2.2.2.2), số văn
bia khuyến học còn lại là những tƣ liệu có xuất xứ, niên đại, nội dung xác thực,
không có hiện tƣợng tam sao thất bản nhƣ một số văn bản thƣ tịch chép tay, đó là
nguồn tƣ liệu đáng tin cậy, có giá trị, bổ sung nhiều thông tin quý để nghiên cứu về
khuyến học của Nghệ An.
2.2.2. Niên đại
Trong phần này, chúng tôi tập trung chủ yếu vào niên đại các văn bản tục lệ và
ngụy tạo niên đại trong các thác bản văn bia.
2.2.2.1. Niên đại trong các văn bản tục lệ khuyến học của Nghệ An
Khác với các loại hình thƣ tịch khác, các văn bản tục lệ thƣờng xuất hiện khá
sớm, song việc văn bản hóa để thi hành và lƣu truyền thƣờng diễn ra muộn hơn.
Cùng với sự phát triển của xã hội, những biến chuyển trong cuộc sống sinh hoạt của
ngƣời dân, tục lệ của nhiều địa phƣơng đã đƣợc sửa đổi, bổ sung thêm những điều
lệ mới cho phù hợp với thời cuộc. Có văn bản tục lệ do thời gian bị rách nát, thiên
tai, hỏa hoạn không còn giữ đƣợc, các địa phƣơng đã tổ chức sao chép lại theo khẩu
truyền…Vì vậy, trong một văn bản tục lệ, có thể có một, hai, ba hoặc rất nhiều niên
đại: có thể là niên đại lập, niên đại tái lập, niên đại bổ sung, niên đại sửa đổi, niên
đại sao (sao theo lệ cũ, sao theo khẩu truyền). Ở đây, chúng tôi quan tâm đến niên
đại lập tục lệ trong mối tƣơng quan với các niên đại khác trên cùng một văn bản.
Trên cơ sở khảo sát 276 văn bản tục lệ khuyến học, chúng tôi đã thống kê,
phân loại niên đại theo 13 tiêu chí: không có niên đại; niên đại lập (niên đại lập +
57
niên đại bổ sung, niên đại lập + niên đại bổ sung + niên đại tái lập, niên đại lập +
niên đại bổ sung + niên đại sao, niên đại lập + niên đại sửa đổi…); niên đại sao
(niên đại sao theo lệ cũ, niên đại sao theo khẩu truyền, niên đại sao theo khẩu truyền
+ niên đại lệ cũ). Sự phân bố về mặt niên đại của 276 văn bản tục lệ KHNA đƣợc
thể hiện nhƣ sau:
Bảng 2.5. Sự phân bố về mặt niên đại các văn bản tục lệ khuyến học của Nghệ An
Stt
Số lƣợng văn bản
Tỷ lệ %
Phân bố Phân loại
Không có niên đại Niên đại lập Niên đại lập + tái lập Niên đại lập + bổ sung Niên đại lập + bổ sung + tái lập Niên đại lập + bổ sung + sao Niên đại lập + sửa đổi Niên đại lập + sửa đổi + tái lập Niên đại lập + Niên đại sao
1. 2. 3. 4. 5. 6. 7. 8. 9. 10. Niên đại sao 11. Niên đại chép theo lệ cũ 12. Niên đại soạn theo khẩu truyền 13. Chép theo khẩu truyền + lệ cũ
10 134 1 43 1 2 15 3 4 36 7 19 2 276
3,6 48,5 0,36 15,5 0,36 0,72 5,4 1,08 1,4 13 2,5 6,88 0,72 100%
TC
Các văn bản tục lệ KHNA 100% là bản chép tay, 266 văn bản (96,4%) có
thông tin đầy đủ về mặt niên đại, 10 văn bản (3,6%) không có niên đại. Tuy phần
lớn là bản sao, song các điều khoản có niên đại sớm đều đƣợc ghi chép đầy đủ. Trên
cơ sở các thông tin về mặt niên đại xuất hiện trên các văn bản, chúng tôi dựa trên
nguyên tắc: những sách nào có niên đại lập, niên đại bổ sung, niên đại tái lập, niên
đại sao khác nhau thì chọn theo niên đại lập; những văn bản có nhiều niên đại sao
thì sẽ chọn niên đại sao sớm nhất. Từ tiêu chí đó, thống kê đƣợc 3 văn bản niên đại
thế kỷ XVII (1,1%), 3 văn bản niên đại thế kỷ XVIII (1,1%), 159 văn bản niên đại
58
thế kỷ XIX (57,6%), 101 văn bản niên đại thế kỷ XX (36,6%). Kết quả cho thấy,
phần lớn tục lệ KHNA có niên đại vào thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, khi làng xã
ngƣời Việt vùng đồng bằng Bắc bộ phát triển về cả văn hóa, kinh tế và tín ngƣỡng.
Biểu đồ 2.2: Sự phân bố về mặt niên đại các văn bản tục lệ khuyến học của Nghệ An
Văn bản có niên đại lập sớm nhất là bản Hương khoán thôn Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lƣu đƣợc lập vào triều Lê, năm Dƣơng Hòa thứ 4 (1638); văn bản có niên đại lập muộn nhất là tục lệ thôn Cổ Bái 古沛, xã Xuân Dƣơng 春陽 và tục lệ xã Hải Yến 海燕 chép trong Nghệ An tỉnh Nghi Lộc huyện Đặng Xá tổng các xã tục lệ 乂安省宜 祿縣鄧舍總各社俗例 (AF.b1/24), lập năm Khải Định thứ 5 (1920).
Một điều đáng chú ý, năm Duy Tân thứ 5 (1911), số tục lệ lập mới và sao chép
theo lệ cũ, sao chép theo khẩu truyền tăng đột biến. Chúng tôi thống kê đƣợc 86/276
văn bản tục lệ có niên đại Duy Tân thứ 5 (chiếm 31,2%), trong đó 27 bản có niên
đại lập, còn lại là niên đại sao theo lệ cũ đƣợc văn bản hóa. Cuối thế kỷ XIX, đầu
thế kỉ XX việc tìm hiểu, nghiên cứu, đặc biệt là nghiên cứu trên thực địa về văn hóa
phƣơng Đông đã trở thành một nhu cầu bức thiết đối với các nhà khoa học phƣơng
Tây. EFEO quan tâm nghiên cứu văn hóa dân gian và phong tục, tập quán của
ngƣời Việt, đặc biệt là ở Trung Kỳ [78, tr.13, 65]. Ngày 26/2/1901, EFEO đƣợc
thành lập trên cơ sở của tổ chức đoàn Khảo cổ học Đông Dƣơng. Kể từ khi thành
lập, EFEO đã triển khai một cách có hiệu quả công tác điều tra, sƣu tầm, nguồn tƣ
liệu có giá trị nhất trong thƣ viện EFEO là các cuốn sách viết tay. EFEO đã thu thập
đƣợc rất nhiều các văn bản viết tay (…) với sự kiên trì và chi phí không nhỏ, EFEO
đã sao lại các tƣ liệu, thu thập và thuê chép lại những văn bản chƣa xuất bản, những
tƣ liệu truyền miệng trong dân gian, tƣ liệu về làng xã và về các dòng họ tại các địa
59
phƣơng. Những cuốn sách này phần lớn là bản viết tay bằng chữ Hán, chữ Nôm.
EFEO đã thu gom, sao chép khá nhiều sách Hán Nôm và hình thành kho sách Hán
Nôm, trong đó có khoảng hơn 700 cuốn sách tục lệ mang kí hiệu AF, hiện lƣu giữ
tại VNCHN. [78, tr.18]. Chúng tôi đƣa ra giả thuyết, có lẽ đây là lý do mà số tục lệ
khuyến học của các tỉnh từ Nghệ An trở ra đƣợc sao chép nhiều vào năm 1911.
2.2.2.2. Niên đại văn bia khuyến học của Nghệ An
Nhóm văn bia do EFEO sƣu tầm hiện lƣu giữ tại VNCHN một số thác bản
hiện tƣợng làm giả niên đại. Việc ngụy tạo ở đây nhằm mục đích đẩy niên đại văn
lên sớm hơn so với thực tế, chứng tỏ bia có niên đại triều Lê và che dấu những
thông tin liên quan đến triều Nguyễn. Dựa trên kết quả nghiên cứu công bố trong
Thư mục thác bản văn khắc Hán Nôm Việt Nam (tập 2) [83] và Khảo sát giám định niên đại văn bia bia [125, tr.24 - 283], chúng tôi đã thống kê đƣợc 19 thác bản bia
ngụy tạo niên đại. Niên đại bị ngụy tạo nhiều nhất là Cảnh Hƣng (11 văn bia), Vĩnh
Thịnh (6 bia), Bảo Thái (2 bia), niên đại ƣớc đoán của 19 thác bản văn bia này đều là
triều Nguyễn. Cụ thể:
Bảng 2.6. Niên đại Cảnh Hưng ngụy tạo trong văn bia khuyến học
Tên bia
Kí hiệu
Niên đại ƣớc đoán
Tt
Niên đại trên thác bản
1.
N0.2638-39 Cảnh Hƣng thứ 5 (1744)
Thành Thái thứ 5, Quí Tị (1893)
Tự Đức thứ 22 (1880)
2.
N0.2655-56 Cảnh Hƣng thứ 33 (1772)
thứ 9
3.
Thành Thái (1897) Tự Đức thứ 34 (1881)
4.
Tự Đức thứ 16 (1863)
5.
N0.2671-72
N0.2653-54 Cảnh Hƣng thứ 9 (1748) N0.2657-58 Cảnh Hƣng thứ 34 (1773) Cảnh Hƣng thứ 16 (1755)
năm
6.
Đời Nguyễn> 1828
N0.2411- 14 Cảnh Hƣng thứ 15 (1754)
7.
Đời Nguyễn > năm 1861 Thiệu Trị thứ 6 (1846)
8.
N0. 2374
9.
N0.2394-97 Cảnh Hƣng thứ 15 (1754) Cảnh Hƣng thứ 16 (1755) N0.2628-29 Cảnh Hƣng Đinh Sửu
Đời Nguyễn > năm 1855
禮巖道齋阮先生壽藏 Lễ nham đạo trai Nguyễn tiên sinh thọ tàng 山 堂 先 生 自 卜 壽 藏 Sơn Đường tiên sinh tự bốc thọ tàng 純 忠 總 文 址 碑 記 Thuần Trung tổng Văn chỉ bi kí 純忠社碑記 Thuần Trung xã bi kí 長美社碑記/ 士會仝碑記 Trường Mĩ xã bi kí / Sĩ hội đồng bi kí 大科列位/ 校生秀才列位 Đại khoa liệt vị / Hiệu sinh Tú tài liệt vị 黄 舍 社 文 會 碑 記 Hoàng Xá xã văn hội bi kí 鄧舍總祠宇碑記 Đặng Xá tổng từ vũ bi kí 會心村文會/文址碑記 Hội Tâm thôn văn hội / Văn chỉ bi kí
60
10.
Tự Đức thứ 7 (1854)
N02818 -21 Cảnh Hƣng thứ 7 (1746)
11.
Tự Đức thứ 9 (1856)
N0.2826-27
Cảnh Hƣng thứ 9 (1748)
尚書少保裔郡八胡相八祠 堂碑記 Thượng thư Thiếu bảo Duệ Quận công Hồ Tướng công từ đường bi kí 按察胡仲濬碑記/ 先慈笵 恭人誄文 Án sát Hồ Trọng Tuấn bi kí/ Tiên từ Phạm cung nhân lũy văn
Sau niên đại Cảnh Hƣng, 6 văn bia thời Nguyễn bị ngụy tạo thành niên đại
Vĩnh Thịnh, trong đó 5/6 bia có niên đại ƣớc đoán là Tự Đức, với năm thứ tƣơng đƣơng, ví dụ: Vĩnh Thịnh thứ 13 ƣớc đoán Tự Đức thứ 13, Vĩnh Thịnh thứ 30 ƣớc
đoán là Tự Đức thứ 30. 2 thác bản ngụy tạo niên đại Bảo Hƣng: Quỳnh Lưu huyện trùng tu từ vũ bi kí 瓊瑠縣重修祠宇碑記 (N0..2823), Trùng tu từ vũ bi kí/ Trùng tu
từ vũ quyên cúng bi kí 重修祠宇碑記/重修祠宇捐供碑記(N0.2832-33). Cụ thể:
Bảng 2.7. Niên đại Vĩnh Thịnh ngụy tạo trong văn bia khuyến học của Nghệ An
Stt
Tên bia
Kí hiệu
Niên đại trên thác
Niên đại ƣớc đoán
bản
N0.2661-62
Tự Đức thứ 13 (1860)
1.
Vĩnh Thịnh thứ 13 (1717)
Tự Đức thứ 16 (1863)
2.
thứ
Tự Đức thứ 31 (1878)
3.
N0.23101- 2401 N0.2423-24
4.
N0.2392- 2425 N0.2659-60
Thời Nguyễn, trƣớc năm 1868 Tự Đức thứ 9 (1856)
5.
N0.2667-70
Vĩnh Thịnh thứ 16 (1720) Vĩnh Thịnh 3125 Vĩnh Thịnh thứ 3 (1707) Vĩnh Thịnh thứ 9 (1713) Vĩnh Thịnh thứ 30
6.
Tự Đức thứ 30 (1877)
N0..2823
thứ
Thành Thái thứ 1
7.
Bảo Hƣng 1(1801)
N0.2832-33
Thiệu Trị thứ 5 (1845)
8.
Bảo Hƣng thứ 5 (1805)
Đô Lương tổng bi kí/ Đô Lương tổng tế điền bi chí 都 梁總碑記/都梁總祭田碑記 Văn Tập thôn nho tiên bi kí 雲集村儒先碑記 Văn Tập Văn chỉ bi kí 雲集 文址碑記 Lý Nhân văn hội bi 里仁文 會碑 Lương Sơn huyện bi kí 梁山 縣碑記 Lăng xã Văn chỉ bi kí/ An lăng xã Văn hội bi kí 安陵社文址 碑記/安陵社文會碑記 An Quỳnh Lưu huyện trùng tu từ vũ bi kí 瓊瑠縣重修祠宇 碑記 Trùng tu từ vũ bi kí/ Trùng tu từ vũ quyên cúng bi kí 重 修祠宇碑記/ 重修祠宇捐 供碑記
25 Niên hiệu Vĩnh Thịnh chỉ có đến năm thứ 16 (1719)
61
Niên đại của 100 đơn vị văn bia đƣợc chúng tôi thống kê nhƣ sau:
Bảng 2.8. Phân bố về niên đại văn bia khuyến học của Nghệ An
Niên đại Lê Sơ Lê Trung hƣng Nguyễn Không ghi niên đại Tổng cộng
Số văn bia 1 27 63 9 100
Tỷ lệ % tính lại 1 27 63 9 100%
Nhƣ vậy, số văn bia không có thông tin niên đại chiếm tỷ lệ tƣơng đối ít (9%),
bia khuyến học chủ yếu tập trung chủ yếu ở triều Nguyễn (63%), trùng với thời kỳ giáo
dục, khoa bảng của Nghệ An đạt đến đỉnh cao, điều đó phần nào thể hiện đƣợc sự tác
động của Nho học, khuyến học đối với khoa bảng.
2.2.3. Tác giả
Về tác giả các TLHN về KHNA, trƣớc hết là tác giả sách tục lệ nói chung, tục
lệ KHNA nói riêng thƣờng là một tập thể tham gia soạn thảo, gồm các vị quan trong
triều (nếu có), văn thuộc (thành viên Hội Tƣ văn, Tƣ võ), xã (thôn) trƣởng, chức
dịch, hƣơng lão, v.v… những ngƣời có chức tƣớc, phẩm hàm, ngƣời cao tuổi, đƣợc
nhân dân trọng vọng, tin tƣởng giao phó, cùng toàn thể dân thôn bàn bạc, thuận lập.
“Hội họp nhất trí, trƣớc hết chọn trong làng các vị khoa trƣờng, chức sắc, kỳ lão,
những ngƣời có học hành; tiếp đó chọn các vị cựu thí sinh, biền binh, chức dịch đã
tham dự Hội Tƣ văn, ngõ hầu phép tắc, lễ nghi gắn bó với đạo lý nhân văn, nhân nghĩa, từ nhƣợng, tạo thành phong tục đẹp”26. Quỳnh Đôi cổ kim sự tích hương biên
là bản tục lệ đƣợc nhiều thành phần chức quan tham gia bàn bạc, biên soạn. Do có
bổ biên điều lệ nên thành phần tham gia soạn hƣơng ƣớc thay đổi, bổ sung: “Ngày
20 tháng 6 năm Dƣơng Hòa thứ 4 (1638), Viên Ngoại lang Bộ Công là Phan Khuê
hợp với thôn thƣợng hạ, làm việc đặt thêm khoán ƣớc. Ngày 11 tháng 12 năm Chính
Hòa thứ 23 (1702) quý quan trong triều (Quỳnh Quận công) và các quan viên đội ở
Kinh trình với quan viên, Giám sinh, hƣơng lão toàn thôn của bản thôn họp xét.
62
26乂安省興元府都安總正的村俗例, AF.b1/5, t.1a.
Ngày 14 tháng 10 năm Cảnh Hƣng thứ 19 (1758) Hiến sát Phó sứ là Hồ Phi Triển
họp với bản thôn thƣợng hạ cùng bàn; Quan Tri Binh phiên Hàn lâm viện Hiệu lí họ
Hồ (Giác Quận công) hợp với quan Hiến phó sứ là Hồ Phi Thống cùng toàn thôn
thƣợng hạ cùng bàn; Tri huyện Hồ Sĩ Thích, Huấn đạo Hồ Tất Tố, Huấn đạo Phạm Phan Trù, Giám sinh Nguyễn Đăng hợp cùng trên dƣới trong bản thôn cùng bàn”27.
Việc liệt kê một tập thể tham gia soạn thảo tục lệ là khá phổ biến, thông tin về
những nhân vật có phẩm hàm, chức tƣớc là tƣ liệu quý để nghiên cứu chế độ quan
chức, bộ máy chức dịch, hệ thống tầng bậc các tổ chức xã hội của Việt Nam thời
phong kiến. Thành phần tham gia biên soạn tục lệ phần nào đánh giá đƣợc giá trị
văn bản, những bản tục lệ có nhiều thành phần quan chức, ngƣời đỗ đạt khoa trƣờng
biên soạn câu chữ chuẩn chỉ, chính xác hơn những tục lệ do Lý trƣởng, hƣơng lão,
dân thôn soạn.
Đối với những bản tục lệ không có thông tin niên đại, việc xác định rõ tác giả,
phẩm hàm, chức tƣớc, thành phần chức dịch trong bộ máy hàng xã (Xã trƣởng, Xã
chính, Xã khán, Lí dịch) tham gia soạn thảo sẽ gián tiếp xác định niên đại văn bản
tục lệ một cách tƣơng đối.
Trong số các tác giả thƣ tịch Hán Nôm có nội dung KHNA, nhiều ngƣời học
rộng, học vị cao (Thám hoa Nguyễn Đức Đạt, Hoàng giáp Hồ Phi Tích, Cử nhân
Cao Xuân Dục), đa số là ngƣời Nghệ An. Họ mang tâm huyết, nguyện vọng gửi
gắm vào tác phẩm, mong truyền lại cho con cháu những bài học kinh nghiệm,
những tấm gƣơng hiếu học, để mong con cháu cố gắng phấn đấu học tập, trau dồi
bản thân để có thể “trị quốc”. Bản thân con ngƣời cũng nhƣ tác phẩm của họ là
nguồn động lực, khuyến khích các thế hệ học trò nơi đây nỗ lực học tập, vƣợt qua
những khó khăn, thử thách trong cuộc sống để đạt đƣợc những vị trí cao trong xã
hội, góp phần làm rạng danh quê hƣơng Xứ Nghệ.
Văn bia không ghi ngƣời soạn, chúng tôi thống kê đƣợc 21 bia Văn miếu Huế
27琼堆今事跡鄉編小引, A.3154, t. t.30a, 33a, 38a, 41a, 43a
63
+ 17 bia dựng tại Nghệ An không có thông tin về soạn giả.
Bảng 2.9. Thống kê tỷ lệ % văn bia có ghi soạn giả/không ghi soạn giả
Soạn giả
Số bia
Tỷ lệ %
Có ghi soạn giả
62
62%
Không ghi soạn giả
38
38%
Tổng cộng
100
100%
Soạn giả văn bia KHNA nhiều ngƣời có học vị cao trong xã hội. Cụ thể:
Bảng 2.10. Bảng thống kê học vị các tác giả văn bia khuyến học của Nghệ An
TT
Họ tên
Kí hiệu thác bản
Học vị cao nhất
Nguyễn Trực 阮直 (1417-1474) Cao Quýnh 高炯 (1439-?) Nguyễn Đăng Cảo 阮登鎬 (1619- ?) Nguyễn Quý Ân 阮貴恩 (1673-1722) Nguyễn Nham 阮巖 (1676-?) Dƣơng Bật Trạc 楊弼擢 (1684-?) Bùi Sĩ Tiêm 裴仕暹 (1690-?) Nguyễn Kiều 阮翹 (1695-1752) Bùi Dƣơng Lịch 裴楊瓑 (1758-?)
1. 2. 3. 4. 5. 6. 7. 8. 9. 10. Đỗ Quang 28 杜光 (1784-1863) 11. Văn Đức Giai29文德佳 (1807- ?)
Trạng nguyên N0.47636 Tiến sĩ Thám hoa Tiến sĩ Tiến sĩ Tiến sĩ Tiến sĩ Tiến sĩ Tiến sĩ Tiến sĩ Tiến sĩ
12. Nguyễn Ngọc 阮鈺 (1815-?) 13. Nguyễn Đức Đạt 阮德達 (1825-1887)
Tiến sĩ Tiến sĩ
14. Nguyễn Thành30阮 城 (1825- ?) 15. Nguyễn Hữu Chính 阮有政(1829-1887) 16. Dƣơng Thúc Hạp 楊叔珨 (1835-?) 17. Trần Đình Phong 陳廷楓 (1843-1919) 18. Phạm Nhƣ Xƣơng 笵如昌 (1844-?) 19. Lê Bá Hoan 黎伯懽 (1864-?) 20. Nguyễn Thúc Dinh 阮叔營(1877-1954) 21. Nguyễn Trung Tỉnh 阮忠省 22. Nguyễn Trọng Tựu 阮仲就
Tiến sĩ Tiến sĩ Tiến sĩ Tiến sĩ Tiến sĩ Tiến sĩ Phó bảng Cử nhân Cử nhân
N0.1353 N0.1357 N0.1335 N0.1321, 1342 N0.1327, 1330 N0.1320, N0.1341 N0.1317 VHv.277 N0.2659-60 N0.2832-33; N0.2848-49; N0.2818-2821 VHv.277 N0.2398-2401; N0.2661-62 N0.2657-58 N0.2375/2383 N0.2823 N0.2430-31 Văn bia Nghệ An Văn bia Nghệ An Văn bia Nghệ An N0.2423-2424 N0.2653-54
28 Đỗ Quang: Bia Văn miếu Huế: Hoàng triều Minh Mệnh thập tam niên Nhâm Thìn hội thí khoa Tiến sĩ đề danh bi (1832), N0.05697 ghi là Đỗ Tông Quang. Chữ Tông trong bia bị đục do kiêng húy, về sau có tài liệu ghi ông là Đỗ Quang.
29 Văn Đức Giai còn gọi là Văn Đức Khuê. 30 Nguyễn Thành tức Nguyễn Nguyên Thành, ngƣời xã Đô Lƣơng huyện Lƣơng Sơn tỉnh Nghệ An.
Nay là xã Đông Sơn huyện Đô Lƣơng tỉnh Nghệ An.
64
N0.2671-72 N0.2394-97 VHv.277 Văn bia Nghệ An Văn bia Nghệ An N0.2628-29 N0.2423-2424
Cử nhân Cử nhân Cử nhân Cử nhân Cử nhân Tú tài Tú tài
23. Nguyễn Đăng Dƣơng 阮登杨 24. Lê Huy Toản 黎輝纘 25. Phạm Đình Toái 笵廷碎 (1818-1901) 26. Nguyễn Trung Quán 阮忠冠 27. Ngô Trí Khƣơng 吳致姜 28. Hồ Chu Cát 胡周吉 29. Cao Song Thức 高雙式 Soạn giả văn bia khuyến học Nghệ An có học vị Tiến sĩ chiếm số lƣợng nhiều
nhất, tiếp đến là Trạng nguyên, Phó bảng, Cử nhân và Tú tài:
Học vị Trạng nguyên Tiến sĩ Phó bảng Cử nhân Tú tài Tổng cộng
Số lƣợng 1 18 1 7 2 29
Tỷ lệ % 3.5 62 3.5 24 7 100%
Qua bảng trên chúng ta thấy đƣợc vai trò, uy tín của các nhà khoa bảng, thân
thế, sự nghiệp của họ là những tấm gƣơng sáng về tinh thần hiếu học, khích lệ tinh
thần học tập đối với lớp lớp các thế hệ của Nghệ An.
2.2.4. Văn tự
Có 257/276 văn bản tục lệ (chiếm 93%), 13 sách đăng khoa lục, 10 sách địa
chí, 5 sách lịch sử, 3 sách gia huấn, 5 sách gia phả và toàn bộ văn bia khuyến học
viết bằng chữ Hán. 3 văn bản Vân Tụ tổng các xã thôn hương lệ (VNv.7/1-2) 雲岫
總各社村鄉例, Hương biên làng Quỳnh 鄉編郎瓊(VNv.103) và 5 tờ cuối sách
Quỳnh Đôi hương biên 瓊堆鄉編(VHv.1377) viết bằng chữ Nôm; chữ Nôm dùng
65
để ghi tên ngƣời, tên địa danh ở một số thƣ tịch và văn bia KHNA.
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2
TLHN về KHNA khá nhiều về số lƣợng, đa dạng về thể loại. Trong chƣơng
này, chúng tôi đã tập trung vào các vấn đề chính nhƣ sau: kết quả khảo sát, thống kê
có 96 kí hiệu sách, gồm: tục lệ: 60 kí hiệu; đăng khoa lục:13 kí hiệu; địa chí: 10 kí
hiệu; lịch sử: 5 kí hiệu; gia phả: 5 kí hiệu và gia huấn: 3 kí hiệu. Văn bia có 100 đơn
vị thác bản, gồm: 59 văn bia đề danh khoa bảng; 14 bia thờ Tiên hiền; 10 bia trùng
tu Văn từ, Văn chỉ; 7 bia Hội Tƣ văn; 10 bia tiểu sử các nhà khoa bảng. Nguồn tƣ
liệu trên hiện đang lƣu giữ tại VNCHN, TTKHXH, tại địa phƣơng và 3 văn bia
đƣợc giới thiệu trong Chuyên san Khoa học xã hội nhân văn Nghệ An. Chúng tôi
thực hiện điền dã để giải quyết những vấn đề còn tồn nghi về mặt văn bản, bổ sung
tƣ liệu hiện các thƣ viện còn thiếu. Số văn bản chép tay chiếm tỷ lệ lớn (93%), nên
có những hạn chế nhất định: tam sao thất bản, không thống nhất về địa danh cấp
phủ, huyện trong cùng một văn bản, dùng lẫn từ đồng âm khác nghĩa, v.v... Tục lệ
có thông tin niên đại chiếm 96,4%; 159 bản thuộc thế kỷ XIX (57,6%) chiếm tỷ lệ
nhiều nhất; 101 bản thế kỷ XX (36,6%). Hương khoán thôn Quỳnh Đôi, huyện
Quỳnh Lƣu (A.3154) lập năm Dƣơng Hòa thứ 4 (1638) là bản có niên đại sớm nhất;
tục lệ thôn Cổ Bái, xã Xuân Dƣơng và Hải Yến (AF.b1/24) có niên đại muộn nhất,
lập năm Khải Định thứ 5 (1920). Hiện tƣợng bổ biên điều ƣớc xuất hiện trong nhiều
văn bản tục lệ, vì vậy, một văn bản thƣờng có nhiều niên đại. 19 thác bản văn bia do
EFEO sƣu tầm ngụy tạo niên đại, mục đích đẩy niên đại lên sớm hơn so với thực tế,
nhằm nâng giá trị lịch sử của văn bia. Tác giả TLHN về KHNA phần lớn là những
ngƣời có học vị cao, có chức tƣớc, phẩm hàm; soạn giả, ngƣời biên tập là ngƣời
Nghệ An chiếm số lƣợng khá nhiều. TLHN về KHNA chủ yếu đƣợc viết bằng chữ
Hán, chỉ có 3 văn bản viết bằng chữ Nôm (Vân Tụ tổng các xã thôn tục lệ, Hương
biên làng Quỳnh và Quỳnh Đôi hương biên diễn âm); chữ Nôm còn đƣợc sử dụng
66
để ghi tên ngƣời, tên địa danh trong thƣ tịch và văn bia.
Chƣơng 3
NỘI DUNG VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA TƢ LIỆU HÁN NÔM
VỀ KHUYẾN HỌC CỦA NGHỆ AN
Với 96 kí hiệu thƣ tịch và 100 đơn vị văn bia viết bằng chữ Hán, chữ Nôm là
nguồn tƣ liệu phong phú để nghiên cứu nội dung KHNA. Trong chƣơng này, chúng
tôi tập trung vào 2 nội dung chính: nội dung khuyến học và đặc điểm nội dung của
TLHN về KHNA.
3.1. Nội dung khuyến học qua tƣ liệu Hán Nôm của tỉnh Nghệ An
Nghệ An là một địa phƣơng nghèo, vì vậy, khuyến học mang ý nghĩa thiết
thực, góp phần tạo nền tảng và thúc đẩy học tập. Nội dung khuyến học qua TLHN
của tỉnh Nghệ An gồm: dựng trƣờng mở lớp, chế độ khen thƣởng (đặt học điền,
biếu lộc sau kì tế lễ, lƣu danh khoa bảng, đón rƣớc vinh quy bái tổ, chỗ ngồi nơi
đình trung, miễn sƣu sai tạp dịch, cầu khoa, tang ma thờ tự) và chế tài xử phạt.
3.1.1. Dựng trường, mở lớp
Dựng trƣờng, mở lớp đƣợc coi là bƣớc mở đầu trong việc khuyến học bằng vật
chất. Khi Nho học phát triển lan về đến các làng xã, việc học hành thi cử trở thành
con đƣờng tiến thân, thoát khỏi cuộc sống đói nghèo, nhu cầu đến trƣờng, đến lớp
càng trở lên cấp thiết. Việc dựng trƣờng, mở lớp là một nhu cầu tất yếu. Bên cạnh
hệ thống trƣờng công do nhà nƣớc bỏ tiền ra xây dựng, đƣợc lập ở kinh đô, phủ lộ,
có các học quan trông coi hệ thống trƣờng lớp ở các thôn xã cũng dần hình thành,
do địa phƣơng xây dựng và quản lý. Theo TLHN về KHNA, nơi ở đây tồn tại 2 loại
trƣờng: trƣờng công lập và dân lập.
3.1.1.1.Trường công lập
Ngay từ thời Bắc thuộc, việc học ở nƣớc ta đã bƣớc đầu phát triển, một số
trƣờng đƣợc các quan đô hộ thành lập, nhƣ: Lƣu Hy, Hứa Tĩnh mở trƣờng dạy học
ở Luy Lâu; Thứ sử Đỗ Tuệ Độ mở trƣờng truyền bá Nho học. [79, tr.17]. Triều Lý
(1010-1225), việc dựng Quốc tử giám bên cạnh Văn miếu đánh dấu sự ra đời của
trƣờng quốc lập ở Việt Nam thời tự chủ. Việc học tập ngày càng đƣợc khuyến khích
và mở rộng. Quốc học viện thời Trần - Hồ, Quốc tử giám ở Thăng Long và Phú
Xuân (Huế) là cơ quan giáo dục cao nhất trong nƣớc. Bên cạnh Quốc tử giám ở kinh
67
đô, triều Trần có Tƣ thiện đƣờng, là nhà học giành riêng cho Thái tử, Hoàng tử. Thời
Hậu Lê sơ, có Ngự tiền cận thị cục, Chiêu Văn quán, Tú Lâm cục, Trung Thƣ giám,
Sùng Văn quán, Sùng Chính viện. Nhà Nguyễn có Dƣỡng Tâm viện, Tập Hiền viện,
Dục Đức đƣờng, Tôn Học đƣờng.v.v... là những nơi nuôi dƣỡng, đào tạo nhân tài cho
đất nƣớc.
- Trường học ở phủ, huyện: Bên cạnh các trƣờng công ở Kinh đô, tại các địa
phƣơng, trƣờng công lập cũng đƣợc mở ra. Năm 1281, Trần Nhân Tông (1279-
1292) cho lập nhà học ở phủ Thiên Trƣờng. Năm 1397, vua Trần Thuận Tông
(1388-1398) cho lập trƣờng học ở các châu trấn và đặt chức học quan để trong coi
việc học. Thời Lê Sơ (1428-1527) và Lê Trung hƣng (1533-1788) triều đình chăm
lo nhiều hơn đến việc học tại các địa phƣơng, trƣờng học đƣợc mở nhiều ở các vùng
đồng bằng và xung quanh kinh đô. Chức Đốc học, Giáo thụ, Huấn đạo đƣợc đặt ra
để trong coi việc học ở các trấn, phủ, huyện. Triều Tây Sơn (1788-1802), vua
Quang Trung ban Chiếu lập học để khuyến khích các xã mở Nhà xã học và chọn Xã
giảng dụ để giảng dậy. [79, tr.25-26]. Triều Nguyễn, sau khi lên ngôi, vua Gia Long
yêu cầu các trấn Bắc Thành, Thanh Hóa, Nghệ An, Quy Nhơn đặt chức đốc học để
chấn chỉnh nền nếp học tập. Từ triều Gia Long cho đến Tự Đức, đặc biệt là triều
Minh Mệnh, trƣờng học cấp tỉnh, phủ, huyện đƣợc rải khắp trên phạm vi toàn quốc,
từ thành thị tới nông thôn. Năm Quý Mùi, Minh Mệnh thứ 4 (1823) “Đặt nhà học ở
phủ huyện, sai Bộ Công gửi quy thức cho mà làm. (Nhà học ở phủ 3 gian 2 trái, chi
tiền 300 quan; nhà học ở huyện, các bề cao rộng dài ngang có hơi giảm, chi tiền 250
quan”. Năm Giáp Thân, năm Minh Mệnh thứ 5 (1824): “Dựng học đƣờng ở các
dinh trấn, sai Bộ Công gửi quy thức để làm (một nhà giảng đƣờng 3 gian 2 chái,
một nhà vuông 1 gian 2 chái). [141, tr.300, 342]. Thời Gia Long, các phủ huyện
trong cả nƣớc đều đặt một trƣờng, do viên Giáo thụ phụ trách, ở cấp huyện thì chỉ
những huyện đông ngƣời học mới mở trƣờng. [127, tr.115].
Sách Đại Nam nhất thống chí cho biết, tỉnh Nghệ An có 5 trƣờng học, gồm 1
trƣờng cấp tỉnh, 2 trƣờng cấp phủ và 2 trƣờng cấp huyện: “Trƣờng tỉnh: ở phía
Đông Nam tỉnh thành, trƣớc ở phía đông bắc Văn miếu, năm Thiệu Trị thứ 7 (1847)
dời đến chỗ hiện nay. Trƣờng học phủ Anh Sơn: ở phía Nam phủ thành, trƣớc ở
phía Tây phủ thuộc địa phận huyện Nam Đƣờng, năm Tự Đức thứ 4 (1851) dời đến
chỗ hiện nay. Trƣờng học phủ Diễn Châu: ở phía Nam phủ thành, dựng từ năm
68
Minh Mệnh thứ 5 (1824). Trƣờng học huyện Thanh Chƣơng: ở phía Tây huyện
lỵ, năm Tự Đức thứ 4 (1851) bỏ chức Huấn đạo, đặt làm trƣờng phủ, năm thứ 6
(1853) lại đặt Huấn đạo và để làm trƣờng huyện nhƣ cũ. Trƣờng học huyện
Quỳnh Lƣu: ở phía Tây huyện lỵ, dựng từ năm Minh Mệnh thứ 12 (1831). [20,
tr.171-172]. Qua đó cho thấy, trƣờng học ở Nghệ An đƣợc xây dựng tƣơng đối
sớm và mật độ khá cao.
- Trường học tại các thôn xã: Giữa thế kỷ XIX, năm 1853, vua Tự Đức ra chỉ
dụ “Chuẩn cho các địa phƣơng có nơi để ruộng công, tƣ làm trƣờng hƣơng học, để
dạy con em trong làng, trọng giáo hóa, hậu phong tục, thì đều cho tùy theo sự tiện
lợi của dân”. [142, tr.291]. Tiếp đó, năm Thành Thái thứ 18 (1906) triều đình cho
mở đại hội bàn về việc các xã thôn tự lập trƣờng Ấu học, trẻ em các xã thôn từ 6
đến 12 tuổi, cứ 60 đứa trở lên, lập một trƣờng và học và nuôi một giáo viên để
những trẻ em ấy học tập. Cho Hào lý các thôn đƣợc tùy tiện dự trù ngân sách để chi
phí cho trƣờng ấy. [143, tr.487]. Năm Khải Định thứ 4 (1919) chỉ dụ, “Đặt trƣờng
dạy học, mở rộng việc dạy phải hợp với thời nghi. (….) tất cả lƣơng giáo viên và
chi phí dựng trƣờng đều do dân xã gánh vác (…) xã nào tài chính khó khăn muốn
cùng xã bên cạnh dựng chung trƣờng Sơ học cấp thứ nhất cũng cho, nhƣng chi phí
trong trƣờng phải đều chia phần gánh vác”. [144, tr.242]. Những chính sách về
trƣờng học của chính quyền nhà Nguyễn đã tác động tích cực đến việc xây dựng
trƣờng lớp tại nhiều địa phƣơng, trong đó có Nghệ An. Các ngôi trƣờng công lập ở
Nghệ An đƣợc lập lên hoàn toàn do làng xã đảm nhiệm, không có sự trợ giúp từ
phía nhà nƣớc.
Theo TLHN về KHNA, các ngôi trƣờng chủ yếu đƣợc dựng vào thế kỷ XIX
đến nửa đầu thế kỷ XX. Tuy là trƣờng làng, trƣờng xã, nhƣng mỗi trƣờng đều có
những quy định cụ thể về địa điểm, nội quy, kinh phí, mời thầy, thƣởng phạt, v.v...
nhằm đem lại hiệu quả cao trong việc dạy và học.
+ Địa điểm: Trƣờng học ở các thôn xã thƣờng đƣợc dựng trên quỹ đất công, có
khi dùng chính là Văn từ, Văn chỉ của bản xã. “Dựng trƣờng học một nhà ba gian tại
27 “設立學場一屋三间在本村八土, 或何家有子 宜將至場呈師受教, 無費損一毛”, 乂安省興元府
海都賀溪村俗例, AF.b1/7, t.9a.
69
đất công của bản thôn, nếu nhà nào có con nên đem đến trƣờng trình thầy nhận sự dạy bảo, không mất một hào”31. Thôn Thƣợng Khê, xã Hƣơng Cái, tổng Hải Đô dựng một ngôi trƣờng ở địa phận bản giáp. Thôn Bùi Châu, xã Bùi Ngõa, tổng Hải Đô “Trƣờng
học lấy Văn từ bản xã làm nơi học, trong xã ngƣời nào có con cháu đến học, chỉ có lễ theo mùa, nhiều ít tùy tâm”32. Qua đây có thể thấy sự đa đạng và linh hoạt trong việc sử dụng địa điểm làm trƣờng học tại Nghệ An. Việc sử dụng Văn từ, Văn chỉ làm nơi dạy
học vừa tiết kiệm đƣợc tiền xây dựng trƣờng lớp, vừa lấy nơi thờ tự ngƣời khai mở việc
học (Khổng Tử) để giáo dục tinh thần học tập cho học sinh. Đó là sự sáng tạo trong
hoạt động KHNA nói riêng, một số địa phƣơng thuộc đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung
Bộ của nƣớc ta nói chung.
+ Nội quy trƣờng học: Các trƣờng đều đặt ra những nội quy riêng rất cụ thể,
chặt chẽ. Thôn Ngọc Điền, xã Do Lễ, tổng Thông Lãng quy định: “Chọn bầu 2
ngƣời kiểm sát, đến cuối tháng thân chinh đến trƣờng kiểm tra. Ai học tập chuyên
cần, văn chƣơng tiến bộ thƣởng 1 quan diên tiền; ngƣời nào ăn chơi phạt 30 roi. Nếu không thay đổi và tái phạm thì đuổi khỏi trƣờng để làm nghiêm việc học”33. Các thôn xã thuộc tổng Vân Tụ, huyện Yên Thành bầu ra một ngƣời giám trƣờng
trông nom trƣờng học và lo các công việc hiếu hỷ của nhà thầy.
+ Kinh phí hoạt động: Để có kinh phí tu bổ, duy trì hoạt động của nhà trƣờng,
các thôn xã có nhiều biện pháp, nhƣ: trích từ quy công, thu tiền của sĩ tử mới nhập
học, bán thóc lúa dự trữ, trích thuế ruộng, v.v… Thôn Lỗ Điền, tổng Hải Đô quy
định “Trƣờng học 1 ngôi, hàng năm trích lấy tiền công 100 quan để tu bổ, (… ) sĩ tử
nhập học thu mỗi ngƣời cả năm 6 quan để hỗ trợ, thiếu bao nhiêu, toàn dân phát bán
thóc lúa phụ vào hoặc trích tiền thuế mỗi mẫu nửa phƣơng để cung cấp. Chiếu
trƣớng và bút giấy các khoản, thu thêm của sĩ tử cũng đƣợc hoặc Lý trƣởng liệu chi, đợi có khoản chi phí nào chiếu theo khấu trừ bớt cũng đƣợc”34. Điều đó thể hiện đƣợc sự linh hoạt trong việc huy động kinh phí, duy trì hoạt động của trƣờng lớp
đƣợc thƣờng xuyên và lâu dài.
+ Mời thầy: Nhà Nguyễn đặc biệt quan tâm đến việc phổ cập học tập đến tận
32 “其學場以本社文祠為所, 社內何人有子孫就學者,只有時節之禮,多少隨心” , 乂安省興元府海
都總裴𤬪社裴洲村俗例, AF.b1/12, t.38b.
33 “擇保檢察二員、至月底親來學場檢察。何係學習專勤文章日進、定賞铅錢一貫。何係遊蕩 者 定 罰 三 十 笞 。 若 不 悛 而 再 犯 者 、 即 逐 以 嚴 學 例 ” 乂 安 省 興 元 府 通 朗 總 由 礼 社 玉 田 村 俗 例 , AF.b1/17, t 43a.
34 “學校一座, 遞年摘取八消一百貫修捕, (…) 入學士子炤收每名全年公貫以助, 存欠干全民發買 巡霜栗附入, 或摘稅每畝半方以供給. 再席帳與筆紙各款增捕在士子 亦可或里長支料, 俟有何支費炤扣, 亦可”, 乂安省興元府海都總魯田村俗例, AF.b1/8, t.18a.
70
làng xã. Mỗi làng có một thầy đồ, mỗi huyện, mỗi tỉnh có một chức quan chuyên
trách việc học. [142, tr.10]. Giáo viên phải đƣợc Hào lý xã thôn tự chọn. Hào lý và
quan phải khai rõ tên họ, tuổi tác, quê quán, bằng cấp của giáo viên đƣợc chọn cử
ấy cùng mức lƣơng cấp dƣỡng”. [143, tr.487]. Năm Duy Tân thứ 5 (1911), lập Nha
học chính, chia làm hai, một chuyên về dạy học, một chuyên về kiểm soát các việc
học vụ. Trợ giáo là giáo viên ở xã thôn, chuyên dạy sơ học, chọn những ngƣời trúng
nhất trƣờng thi Hƣơng (…) lƣơng tháng do xã thôn chi cấp, nếu dạy dỗ học trò có tiến
bộ sẽ đƣợc thƣởng thụ phẩm hàm”. [143, tr.600]. Nhờ chính sách đó, đội ngũ thầy trò
đƣợc hình thành và phát triển khắp thôn xã trên toàn quốc, trong đó có Nghệ An.
TLHN về KHNA cho thấy, việc chọn thầy thƣờng do các vị quan viên, Lý dịch,
Kỳ mục cùng toàn dân chọn mời, “nên chọn ngƣời trong xã hoặc trong huyện, là quan về hƣu hoặc Tiến sĩ, Cử nhân”35; “thầy dạy có thể là ngƣời trong xã hoặc xã khác (…) là Cử nhân, Tú tài hoặc ngƣời đỗ nhất nhị trƣờng, phải là ngƣời có học thức, hạnh kiểm, mới có thể làm thầy dạy đƣợc” 36, “những viên chức có học hành của bản thôn cũng đƣợc bầu làm thầy, dạy cho con em trong làng” 37 nhƣ quy định của thôn Thƣợng An, huyện Quỳnh Lƣu. Thôn Lỗ Điền, tổng Hải Đô “mời thầy giáo 2 ngƣời
dậy đại tập, mỗi tháng dạy một kỳ, cứ đến ngày 15 hàng tháng, tập trung tại đình để
thi (…) mời 2 thầy giáo chuyên dạy sơ tập cho trẻ nhỏ, mỗi tháng 2 kỳ sẽ thi, hoặc câu đối, hoặc thơ phú tùy theo thầy ra đề”38.
Chế độ đãi ngộ với thầy đƣợc các làng xã đặc biệt quan tâm. Có nơi trích 2-3
mẫu ruộng công, nơi trích 10 mẫu làm học điền, giao trực tiếp cho thầy quản lý
hoặc giao cho ngƣời dân trồng cấy, lấy hoa lợi trả lƣơng thầy hoặc nộp lúa sau khi
thu hoạch, hoặc trích 100 quan ở kho thóc dự trữ để trả lƣơng thầy. Toàn dân thôn
Bùi Châu, xã Bùi Ngõa “Đặt 3 mẫu học điền để trả lƣơng cho thầy, giao cho một
đinh nam gánh nƣớc cho thầy hoặc thầy sai khiến khi có việc, cũng đặt hai sào
35 “其社內要擇社內或縣內休官或進士舉人”, 乂安省興元府通朗總由礼社玉田村俗例, AF.b1/17,
t.43a.
36 “其熟師或社內人或別社人 (…) 或舉人、秀才,一二場、必須學識行檢可為人之師範”裴洲社
俗例, AF.b1/12, t.38b.
37 “一本村員聀有學行者保為學師, 教習鄉中子弟”, 上安村鄉例, VHv.2675/1, t.5a. 38 “一筵請教師二員 教大習、每月進益課一期。據伊某月十五日就亭所考課 (...) -一筵二教師專 教小童初習、每月二期考課, 或對聯或詩賦隨教師意見命題”, 乂安省興元府海都總魯田村俗例, AF.b1/8, t.18a,b.
71
ruộng cho phép ngƣời đó canh tác để lấy hoa lợi”. Xã Yên Pháp, tổng Đô Yên còn
miễn tạp dịch cho những ngƣời đến 20 tuổi theo nghề thầy giáo và tập trung tâm trí
vào việc dạy học.
3.1.1.2. Trường dân lập
Thời phong kiến, trƣờng dân lập đƣợc coi là cơ sở giáo dục, đào tạo chủ yếu ở
nƣớc ta. Trƣờng lớp đƣợc mở ra khắp nơi, từ kinh đô đến thôn xóm, hỗ trợ đắc lực
cho hệ thống trƣờng công lập. Nhờ những ngôi trƣờng này mà con em nhà nghèo, ở
nơi xa xôi, hẻo lánh, không có điều kiện theo học ở phủ, huyện có cơ hội đƣợc đi
học. Địa điểm học có thể là những gia đình khá giả hoặc chính nhà riêng của thầy.
Các nhà Nho có thể mở lớp dạy học mà không cần xin phép chính quyền địa
phƣơng hay học quan sở tại. Tùy theo trình độ của thầy mà lớp học có thể dạy từ
khai tâm đến trình độ cao hơn. [79, tr.29].
Tại Nghệ An có hai dạng trƣờng dân lập: một là, trƣờng do các nhà khoa bảng
(Tiến sĩ, Cử nhân, Tú tài). Sau khi đỗ đạt ra làm quan, họ tranh thủ những lúc rảnh rỗi
dạy thêm con cháu mình hoặc con cái các bạn đồng liêu; hoặc những ngƣời đã từng
làm quan, nhƣng vì lý do riêng; hoặc không muốn ở lại quan trƣờng, lui về mở trƣờng
dạy học ở chốn quê nhà, lấy việc truyền thụ tri thức làm thú vui tinh thần. Hai là, những
ngƣời dù chăm chỉ học hành nhƣng không may mắn trong các kỳ thi, chỉ là những ông
đồ, thầy khóa, họ cũng mở lớp học để mƣu sinh. [21, tr.32-33].
Nghệ An nổi tiếng với nhiều thầy giỏi, thầy càng giỏi thì trò càng đông.
Tên và học vị của thầy thƣờng gắn liền với tên trƣờng học, nhƣ trƣờng Tú Viên ở
Thanh Chƣơng, trƣờng cụ Cử Kiều ở Nam Đàn, trƣờng cụ Nghè Ôn ở Đông
Thành. [167, tr.39].
Qua TLHN về KHNA, chúng tôi khảo sát, thống kê đƣợc 31 ngƣời thầy mở
lớp dạy học trên đất Nghệ An, các thầy đều có học vị từ Tú tài trở lên: 5 vị đỗ đại
khoa, 6 Giám sinh, 3 Cử nhân, 4 Tú tài (xem Phụ lục 3.1). 31 thầy quê ở 6 huyện:
Quỳnh Lƣu,Thanh Chƣơng, Lƣơng Sơn, Nam Đàn và Diễn Châu. Làng Quỳnh Đôi
huyện Quỳnh Lƣu có đông thầy nhất (23/31 ngƣời), riêng họ Hồ Sĩ có đến 5 thầy.
Điều đó, phần nào lý giải tại sao họ Hồ là dòng họ khoa bảng đứng đầu trong các
dòng họ; làng Quỳnh Đôi nổi danh khoa bảng trên khắp đất Việt.
Nói đến thầy ở Quỳnh Lƣu, phải kể đến thầy Phan Hữu Tính, đỗ Đệ tam giáp
Đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Nhâm Ngọ “Giữ việc giảng dạy bậc đại học, học trò trƣớc
72
sau tới học, (ngƣời đỗ) Tiến sĩ vẻ vang nhƣ: Phan Thanh Giản ở Vĩnh Long, Hoàng
Văn Thu ở Thừa Thiên, Hoàng Đình Tá, Hoàng Đình Chuyên, Võ Văn Lý ở Hà Nội,
Nguyễn Văn Tố ở Hải Dƣơng, Võ Văn Tuấn ở Bắc Ninh. Phó bảng: Đinh Văn Minh ở
Định Tƣờng, Nguyễn Trang Trạch ở Văn Giang. Cử nhân: Trƣơng Đình Hội, Hồ Bỉnh
Vy ở bản thôn, Giang Văn Hiển, Phan Khánh Hội ở Hải Dƣơng, Lƣơng Quốc Quang ở
Định Tƣờng, Dƣơng Trí Trạch ở Hà Nội, Nguyễn Tất Khắc ở Nam Định, Nguyễn Đức
Huy ở huyện Đông Thành; Tú tài không thiếu ngƣời, kế tiếp nhau lên nơi triều đình,
giữ chức Thƣợng thƣ, Tổng đốc, Tham tri, Tuần phủ, cùng nhiều ngƣời giữ chức Bố chánh, Án sát ở các phủ, huyện”.39 Giám sinh Hồ Trọng Điển đào tạo ra nhiều học trò
là Tiến sĩ, Thƣợng thƣ, số ngƣời thi đỗ ra làm quan khó kể hết “ Ông cũng làm nghề
dạy học, học trò vui vẻ theo học, lần lƣợt đều có ngƣời phát đạt, (…) học trò trƣớc sau
năm, sáu trăm ngƣời, có ngƣời đỗ Tiến sĩ (Phan Hữu Tính ngƣời bản thôn, Lê Huy
Phác ngƣời Đông Lũy), có ngƣời làm Thƣợng thƣ Nguyễn Trung Hậu ở Đông Thành, ngƣời thi đỗ làm quan khó kể hết”40. Số học trò của Giám sinh Dƣơng Chung Tú lên đến 700 - 800 ngƣời, nhiều ngƣời thành đạt41. Sách Quỳnh Đôi cổ kim sự tích hương biên tiểu dẫn ghi, tiên sinh tên tự là Tri Phủ, hiệu là Độn Am42 “Năm Kỷ
Sửu (niên hiệu) Minh Mệnh, ông miễn chức quan trở về, lấy việc dạy học làm vui,
dạy ngƣời không biết mệt mỏi. Học trò ở đâu cũng nhiều nhƣ cây rừng, trƣớc sau
kế tục, phần nhiều làm quan vinh hiển, nói về ngƣời thầy mẫu mực xứ Hoan Diễn thì ắt là ông vậy”43.
Huyện Nam Đàn có 4 ngƣời thầy nổi tiếng: Cử nhân Nguyễn Kiều (thầy dậy
của Phan Bội Châu), cha con Phan Bội Châu và Tiến sĩ Nguyễn Phùng Thìn. Phan
39 “講筵通國士子前後及門者進士永隆潘清簡、承天黃文收、河内黃廷佐、黃廷專、武文理、 海陽阮文 做、北寧武文俊。副榜定祥丁文明、文江阮莊泽 。舉人本村張廷会、胡秉為、海陽江文 顯、潘慶会、定祥梁國光、河內陽致澤、南定阮必兊、東城縣阮德輝等及秀才不乏其人,相繼登于朝: 尚書、總督、參知、巡撫、与布按府縣者多” 琼堆古今事跡鄉編小引, A.3154, t.97a.
40 “八亦以教習為業、士子樂從、次第各召顯達 (…) 前後五公百人、有中進士第(本村潘有性、
東累黎輝璞)有位為尚書(店東城阮中懋)登科出仕難以悉舉” 琼堆古今事跡鄉編小引, A.3154, t.90b.
41琼堆古今事跡鄉編小引, A.3154, t.82b. 42 Hiện tại chúng tôi chƣa tra đƣợc họ tên của ông. 43 “明命己丑免官歸、以講學為樂、教人不倦、門第所在林立、前後相繼、多以科宦顯、驩演
称師範者必為焉” 琼堆古今事跡鄉編小引, A.3154, t.95b.
73
Bội Châu viết về ngƣời thầy đáng kính của mình trong cuốn Phan Bội Châu niên
biểu nhƣ sau: “Cha tôi muốn cho tôi theo học những trƣờng lớn, có các thầy nổi
tiếng, nhƣng các làng chung quanh đấy không có trƣờng lớn nào, vả lại vì nghèo
không đi học xa đƣợc, nên tôi vẫn ở nhà học cha tôi và xin tập văn ở trƣờng Nguyễn
tiên sinh tại làng Xuân Liễu. Tiên sinh tên là Kiều, rất thâm thúy về Hán học, đã đỗ
Cử nhân và đƣợc bổ chức Biên tu, sau bỏ quan về nhà dạy học. Tiên sinh rất yêu
tôi, nhiều lúc ngƣời đi mƣợn sách quý của các nhà đại gia về cho tôi đọc văn chƣơng Hán học, nhờ thế tôi đƣợc hiểu biết thêm nhiều” 44. Cha của Phan Bội Châu
cũng là thầy giáo. Ông đi dạy học ở xa, thƣờng ăn ở tại nhà chủ, cả năm không mấy khi ở nhà, khi ông lên 6 tuổi đƣợc cha cho theo đến nơi dạy học45. Bản thân Phan
Bội Châu cũng từng làm thầy giáo “Năm tôi 21 đến 31 tuổi (...) do hoàn cảnh gia
đình khó khăn (…) cha tôi già ốm, dựa vào tôi mà sống, tôi là ngƣời hiếu thảo rất
kính mến cha, phàm việc gì có thể liên lụy đến cha là tôi hết sức tránh, vì thế nên tôi chuyên chú ý về việc dạy học trò và bán văn bài” 46.
Nói đến huyện Thanh Chƣơng không thể không nhắc đến thầy giáo Nguyễn
Đức Đạt, khi cha mẹ già qua đời, ông xin về cƣ tang, rồi mở trƣờng dạy học. Học trò
nghe danh tiếng gần xa đến xin theo học rất đông. [157, tr.724]. Những năm sau đó,
Nguyễn Đức Đạt “đăng trƣớng thụ đồ” ông nhận lời dạy học ở làng Hƣơng Vân
(Nam Đàn), dân làng Lãng Đông dựng sẵn một ngôi trƣờng rồi gánh lễ sang đón mời
ông đến dạy. Năm 1876, ông lấy cớ ốm đau, bệnh tật, xin cáo quan trở về. Dân làng
Hoành Sơn dựng ngay ngôi trƣờng năm gian để đón ông về làng dạy học. Từ đó đến
những năm cuối đời, ông dành hết tâm huyết cho ngôi trƣờng này. Học trò của ông
đông lên từng ngày, không chỉ bên Hƣng Nguyên, Nam Đàn mà cả bên Hƣơng Sơn,
Đức Thọ, Can Lộc. Học trò nghe tiếng cụ Đốc Thám nhất về quê dạy học thì kéo đến
44 “予父欲令予就業於諸大先生之门、然鄰社村無大塾館。以貧故不能遠遊、仍隨父塾兼請於 春柳阮先生之門。先生諱喬、深於漢学、以舉人補編修、旋業官(…) 隱居授徒。得予甚愛之,時為予 借諸大家藏書、令予讀漢學之文、因是大有得”, 潘佩珠年表, VHv.2135, t.7a,7b.
45 “予父嘗遠客業塾舘師(…)年公歲予父带予至塾舘授漢字書”, 潘佩珠年表, VHv.2135, t.5a,b. 46 “年二十一歲至三十一歲 (…) 為家庭苦境。。。父老病貧緣依予為命。予天性孺墓孝、故凡
有連累及父之嫌者一切避之。因是專業授徒及賣文金頗豐”, 潘佩珠年表, VHv.2135, t.10a, b.
74
ùn ùn, học trò ngồi cả ra sân, mỗi khóa có đến cả trăm ngƣời. Học trò của ông nhiều
ngƣời thành đạt nhƣ Hoàng giáp Đặng Văn Thụy, Tiến sĩ Đinh Văn Chất, Hoàng giáp
Nguyễn Đức Qúy, v.v… [158].
Thầy Tôn Đức Tiến ngƣời xã Võ Liệt, huyện Thanh Chƣơng thi Hƣơng mấy
lần chỉ đậu Tú Tài, nhƣng ông đƣợc sử sách đánh giá là một trong những ngƣời thầy
uyên bác: “Tôn Đức Tiến, hiệu Lỗ Xuyên, ngƣời huyện Thanh Chƣơng, tỉnh Nghệ
An, mấy lần thi đỗ Tú tài ở nhà dạy học, yên phận nghèo nàn kiệm ƣớc, chỉ chăm
chắm vào việc dẫn bảo hậu học về các kinh sử, chƣ tử bách gia cho đến cửu lƣu
(…) không sách gì không nghiên cứu tinh vi, nên ngƣời đời sau khen là văn học sâu
rộng, học trò đƣợc hiển đạt có mấy trăm ngƣời”. [137, tr.481].
Ông Hồ Mậu Đức thi đỗ kì thi Hƣơng, đƣợc bổ làm Huyện lệnh huyện Đông
Triều “mẹ ông cao tuổi, ông xin về phụng dƣỡng, lấy việc dạy học làm vui, học trò
theo học rất đông có nhiều ngƣời thành đạt. Ngày 27 tháng 10 năm Tân Sửu (1841) mẹ
ông mất, ông trở lại kinh làm Huyện doãn huyện Hƣơng Sơn. Ở đó, những lúc rảnh rỗi
ông cùng học trò luận bàn văn học (…) con trai ông cùng học trò là Cử nhân, Tú tài, ấm sinh, khóa sinh thuộc 2 tỉnh Nghệ An, Thanh Hóa tất cả 270 ngƣời”47.
Với uy tín, năng lực, đức độ và tâm huyết cho sự nghiệp giáo dục Nho học, lớp
học do các thầy mở ra đã giúp cho Nghệ An biết bao thế hệ học trò giỏi giang, thành đạt, chấn hƣng phong trào khuyến học trên phạm vi rộng lớn.
Những năm nửa cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX là thời kỳ các trƣờng công
lập, dân lập Nho học đƣợc mở ra khá nhiều trên đất Nghệ An. Hệ thống trƣờng công
lập, trƣờng dân lập với quy mô vừa và nhỏ đã trở thành nơi học tập chung cho cả
làng, cả xã, thậm chí nhiều xã lân cận trong vùng, góp phần mở rộng môi trƣờng
học tập, đƣa trƣờng học đến gần hơn với ngƣời dân, đến với con em nhà nghèo.
Trƣờng tƣ của những ngƣời thầy nổi tiếng đã đào tạo đƣợc nhiều thế hệ học trò
thành đạt. Thực chất hệ thống trƣờng công và trƣờng tƣ không có gì khác nhau
47 “太夫人年高乞歸養 , 記歸以教習為樂 , 所在諸生林立出其門多有成達 . 辛丑十月二十丂日太夫 人壽終, 服闋上京平調香山縣尹 . 其在縣八暇慑與諸生論文講學 (…)長子松協與乂清二省門生舉人 , 秀 才 , 蔭生 , 課生 該二百丂十員人 ”, Vô đề, N0.2848-49.
75
ngoài việc trƣờng tƣ tự trả lƣơng cho thầy, chƣơng trình, cách thức học tập giống
nhau, trong kỳ thi không có sự phân biệt giữa trƣờng công, trƣờng tƣ, tất cả phải thi
chung một trƣờng với cùng một đề thi nhƣ nhau. [166, tr.53]. Có trƣờng, có lớp, có
thầy, ngƣời dân Nghệ An có cơ hội đƣợc học chữ Thánh hiền, học đạo lý Nho gia,
tiền đề cho con đƣờng khoa cử. Các ngôi trƣờng đƣợc mở ra với những quy định
chặt chẽ (địa điểm, học phí, mời thầy, trả lƣơng thầy, tu bổ trƣờng, ngƣời trông coi
trƣờng, tiền sách bút, thƣởng, phạt cho học sinh) đã góp phần thúc đẩy phổ cập giáo
dục, nâng cao trình độ dân trí, dần xóa bỏ sự chênh lệch về trình độ Nho học của sĩ
tử trên cả nƣớc và duy trì sự ổn định xã hội tại Nghệ An.
3.1.2. Chế độ khen thưởng
3.1.2.1. Khen thưởng về vật chất
+ Thưởng cho sĩ tử
Để sĩ tử bớt phần khó khăn, nhiều thôn xã thƣởng những đồ dùng học tập cơ
bản nhƣ giấy, bút, sách vở, mực để họ yên tâm đi học, đi thi. Thôn xã sẽ định ngày,
tập trung sĩ tử các trƣờng tƣ tại đình để sát hạch, tùy vào mức đỗ đạt mà mức
thƣởng khác nhau, giấy dao động từ 50 trang đến 300 trang, số bút thƣởng từ 1
chiếc đến 5 chiếc, nhƣ: “Trúng tuyển sinh bản thôn thƣởng 1 chiếc bút 100 tờ giấy;
trúng khóa sinh thƣởng 5 chiếc bút 300 tờ giấy; mời đến đình thƣởng để tỏ sự khuyến khích”48. Mỗi địa phƣơng, tùy tình hình kinh tế hoặc chính sách khuyến học khác nhau mà định mức thƣởng khác nhau. Cùng trúng thí sinh, thôn Đông, xã Bùi
Khổng “thƣởng l00 trang giấy, 1 chiếc bút, 1 lọ mực”; thôn Sơn Lãng, tổng Hải Đô “thƣởng 100 tờ giấy, 5 chiếc bút, 1 lọ mực”49. Ngoài thƣởng giấy trắng, bút thƣợng hạng, nhiều thôn xã thƣởng thêm cả tiền “Ngƣời hạng nhất thƣởng 3 quan tiền văn
cùng 300 tờ giấy trắng, 2 ống bút thƣợng hạng; ngƣời hạng hai, thƣởng 2 quan tiền
48 “中選生本村賞筆壹株紙壹百張、中課生赏筆五株紙叁百張、請來亭所賞以示勸”, 乂安省興
元府都安總美裕社巨村俗例, AF.b1/4, t.16b.
49 “一中試生本村賞紙一百張,筆一枝,墨一丸”, 乂安省興元府海都總裴孔社東村俗例, AF.b1/9,
t.10b; “ 賞紙二百引、筆五株, 墨壹丸”, 乂安省興元府海都總山朗村, AF.b1/8, t.27b.
50 “一項者賞錢文三貫並白紙[11a]三百, 上項筆二卷. 二項者, 賞錢文二貫並白紙二百, 上項筆一 卷. 三項者錢文一貫,白紙一百, 上項筆一卷”, 乂安省興元府文園總各社村俗例 (福江村), AF. b1/22, t.10b.
76
văn cùng 200 tờ giấy trắng, 1 ống bút thƣợng hạng; ngƣời hạng 3, thƣởng 1 quan tiền văn, 100 tờ giấy trắng, 1 ống bút thƣợng hạng”50. Thôn Ngọc Điền, xã Do Lễ
cấp tiền cho học sinh tự mua giấy bút mực, mỗi tháng là 1 quan; thôn Đông, xã Bùi Khổng “bản thôn thƣởng 6 mạch tiền để mua bút giấy”51.
+ Thưởng các vị tân khoa
Thƣởng cho các vị tân khoa là lệ đƣợc các thôn xã ở Nghệ An đặc biệt coi
trọng. Trong 276 văn bản tục lệ khuyến học, chúng tôi thống kê đƣợc 217 văn bản
có điều ƣớc liên quan đến việc thƣởng cho các vị tân khoa, chiếm 78,6%. Lễ vật để
thƣởng thƣờng là câu đối, trƣớng, tiền, trầu rƣợu, trà, pháo; có nơi thƣởng xôi, lợn,
bò, ruộng, v.v... Thôn Cự, xã Mỹ Dụ quy định mức thƣởng khác nhau đối với học
sinh trƣờng làng, trƣờng huyện và Quốc tử giám “Trong thôn, ngƣời nào trúng
Tƣờng sinh mừng 1 đôi câu đối thêu màu đỏ, một hũ rƣợu to, 100 quả cau, 30 quan
tiền văn (…). Ngƣời nào trúng Giám sinh, mừng 1 bức trƣớng thêu màu đỏ, 3 bình rƣợu to, 100 quả cau cùng 60 quan tiền văn, hát ca chúc mừng 1 chiếu”52. Các giáp Thọ, Phú, Khang, Ninh của thôn Thƣợng, xã Mỹ Dụ, tổng Đô Yên quy định về mức
thƣởng đối với các vị từ Tú tài, Cử nhân đến đại khoa “Trong giáp ngƣời nào trúng
Tú tài mừng 1 đôi câu đối bằng vải thô đỏ, 3 quan tiền, trầu cau 1 buồng, 2 hũ
rƣợu(…). Ngƣời nào trúng Cử nhân (…) biện lễ 1 đôi câu đối thêu, 1 buồng cau, 4
hũ rƣợu, 6 quan tiền, 3 bánh pháo đỏ, toàn giáp trên dƣới đến chúc mừng. Ngƣời
nào trúng đại khoa (…) kính biện một bức trƣớng lụa hoa thêu kim tuyến, 2 buồng
cau, 10 hũ rƣợu 10 quan tiền, 4 bánh pháo, 2 gói chè ngon loại thƣợng đẳng, toàn giáp đến chúc mừng”53.
Tùy vào điều kiện kinh tế hoặc chính sách khuyến học của từng nơi mà mức
thƣởng đối với cùng mức đỗ đạt có sự khác nhau: xã Châu Lộc, tổng Đô Yên mừng
ngƣời trúng đại khoa 3 quan, Cử nhân 2 quan, Tú tài 1 quan; thôn Khoa Đà, tổng
Hải Đô mừng Tú tài 3 quan, Cử nhân 6 quan, Phó bảng 6 quan; thôn Phú Lƣơng,
tổng Phú Hậu thƣởng những vị đại khoa lên đến 120 quan “Thi ngạch văn trúng đại
51 “一中 課本村賞錢陸陌以買筆紙”, 英山府興元縣海都總裴孔社東村, AF.b1/9, t.10b. 52 “一村內某生中庠生(…) 賀紅繡對一聯, 酒一大樽, 榔一百菓,錢文三十貫 (…) 某中監生 (...) 賀 紅繡帳一幅, 酒大三樽, 榔一百菓並錢文陸十貫, 喜賀唱歌一席”, 乂安省興元府都安總各社俗例 (巨村 ), AF.b1/4, t.17a.
53 “一甲內某員中秀才者, 賀紅布對一聯, 錢三貫, 芙榔一房, 酒二圩(…). 一某員中舉人者 (…) 整卞 繡對一聯, 檳榔一房, 酒四圩,錢公貫. 一某員中大科者 (…) 敬卞金線大花繡帳一幅, 榔二房, 酒十圩, 錢十 貫, 滿地紅炮四, 上等名茶二包, 全甲並就拜賀”, 乂安省興元府都安總各社俗例 (美裕村,寧甲 ), AF.b1/4, t. 33b-34a.
77
khoa, đỗ Phó bảng đƣợc cấp tiền 120 quan, trúng Cử nhân đƣợc cấp tiền 80 quan,
trúng Tú tài cấp 40 quan”54. Có thôn xã dùng lợn, bò để mừng “Trong thôn ngƣời nào thi ngạch văn trúng Tiến sĩ, ngày vinh quy, bản thôn mừng 1 con bò to; ngƣời nào trúng Tứ trƣờng mừng một con bò nhỏ; trúng Tam trƣờng mừng 1 con lợn” 55. Nhiều thôn xã còn dành một phần ruộng, không thu thuế má để khuyến khích học
tập, dầy thêm phong tục, phần ruộng đó đƣợc gọi là học điền. (xem mục Đặt học
điền).
Lệ thƣởng cho các vị tân khoa đƣợc hầu hết các thôn xã ở Nghệ An quy định
trong hƣơng ƣớc, mức thƣởng khá lớn, vƣợt lên trên lễ mừng thọ, lễ mà nhiều làng
xã Việt Nam xƣa rất coi trọng. Điều đó thể hiện sự thay đổi trong xã hội, khi chế độ
quân chủ thâm nhập sâu vào các làng xã, nhiều nguyên lý xã hội có phần đảo lộn,
trong đó nguyên lý trọng tƣớc, trọng xỉ phần nào đƣợc thay thế bằng trọng khoa,
Nghệ An là một minh chứng rõ ràng.
+ Đặt học điền
Học điền hay còn gọi là ruộng học, ruộng khoa mục, là loại ruộng do nhà
nƣớc hay làng xã, dòng họ, v.v..., dành riêng để trồng cấy, lấy hoa lợi để chi phí cho
việc học. Từ thời nhà Trần, năm Đinh Sửu, Quang Thái thứ 10 (1397) nhận thấy
“Quy chế giáo dục ở kinh đô đã đủ mà ở châu huyện còn thiếu” vua Trần Thuận
Tông đã xuống chiếu về việc đặt ruộng công phục vụ cho việc học “Lệnh cho các
phủ lộ Sơn Nam, Kinh Bắc, Hải Đông đều đặt một học quan, ban cho quan điền
theo thứ bậc khác nhau: Phủ châu lớn thì 15 mẫu, phủ châu vừa 12 mẫu, phủ châu
nhỏ 10 mẫu để chi dùng cho việc học trong phủ châu mình, một phần để cúng ngày mồng một, một phần cho nhà học, một phần cho đèn sách” . [18, tr.192]. Tuy nhiên cho đến những năm 1723 (thời Lê Trung hƣng) và 1790 (thời Quang Trung) loại
ruộng này mới đƣợc thực hiện tƣơng đối đầy đủ, từ thế kỷ XVIII đến thế kỷ XIX
phổ biến trong các làng xã Việt Nam. Thông thƣờng, học điền đƣợc dùng để trả
lƣơng thầy, mua giấy bút, thƣởng những ngƣời đỗ đạt và đƣợc xem nhƣ sở hữu của làng xã .
Tại Nghệ An, qua tƣ liệu tục lệ và văn bia, 34 thôn xã thuộc 8 huyện: Hƣng
54 “一文中大科,副榜者資錢壹百貳拾貫、中舉人資錢捌拾貫、中秀才肆拾貫”, 富良村鄉例,
VHv.2675/2, t.7a
55 “ 村內某員文中進士, 荣歸日, 本村賀太牢一隻 (…); 某中四場有賀例少牢一隻 (…) 某中三場有
賀猪一口”乂安省興元府都安總各社俗例 (安法社), AF.b1/6, t.47a,b.
78
Nguyên, Đông Thành, Thanh Chƣơng, Chân Lộc, Lƣơng Sơn, Yên Thành, Nam
Đàn, Quỳnh Lƣu có thông tin về học điền (xem Phụ lục 3.2). Tính đến thời điểm
hiện nay, có thể nói, Nghệ An là tỉnh đứng đầu cả nƣớc trong việc đặt học điền phản ánh qua tƣ liệu tục lệ Hán Nôm cổ truyền56. Huyện Hƣng Nguyên đứng đầu tỉnh với 19 thôn xã đặt học điền, tiếp đến là huyện Thanh Chƣơng, Quỳnh Lƣu. Trong số
526 cuốn địa bạ (kí hiệu AG, lƣu giữ tại VNCHN), vốn là tài liệu kê khai ruộng đất
của 22 tỉnh từ Nghệ An trở ra Bắc, hoàn toàn không đề cập gì đến học điền. Số văn
bia học điền của cả nƣớc, theo thống kê của Nguyễn Hữu Mùi chỉ là 33 bia. [105,
tr.143].
Học điền tại các làng xã của Nghệ An với mục đích chung là khuyến học, cụ
thể: khuyến khích ngƣời đi học, thƣởng cho ngƣời đỗ đạt khoa trƣờng, chi tiền giấy
bút cả năm, cấp học bổng, trả lƣơng thầy, v.v… 25/34 thôn, xã (chiếm 73,5%) đặt
học điền với mục đích thƣởng những ngƣời đỗ đạt khoa trƣờng, thể hiện tinh thần
trọng khoa, sâu xa hơn là hƣớng tới việc thực học, vì thực học mới có kết quả thi
tốt. Học điền ở Nghệ An chủ yếu đƣợc trích từ ruộng công của xã; ngoài ra do dòng
họ và cá nhân góp. Tùy từng địa phƣơng, đối tƣợng đƣợc cấp học điền đƣợc quy
định khác nhau, có nơi ngƣời dự thi đƣợc cấp, nơi trúng Tú tài trở lên mới đƣợc
cấp, đỗ càng cao, ruộng càng nhiều. Thôn Trƣờng Lãng, huyện Hƣng Nguyên “Cấp
đều học điền 8 sào, ngƣời nào đã có dự thi mới đƣợc cấp. Cấp đều học điền (cho
ngƣời) trúng Tú tài là 1 mẫu 2 sào; cấp học điền (cho ngƣời) trúng Cử nhân 1 mẫu 5
sào. Cấp học điền (cho ngƣời) trúng Phó bảng 1 mẫu 8 sào; cấp học điền (cho ngƣời) trúng Tiến sĩ là 2 mẫu 5 sào”57. Số học điền dùng để thƣởng nhiều ít cũng tùy vào quy định, quỹ đất của từng địa phƣơng. Thôn Lỗ Điền, tổng Hải Đô, huyện
56 Nguyễn Hữu Mùi trong bài “Tìm hiểu hoạt động khuyến học trong nền giáo dục, khoa cử Nho học ở Ninh Bình qua nguồn tài liệu tục lệ” đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, tác giả cho rằng Ninh Bình là địa phƣơng đứng đầu cả nƣớc về việc đặt học điền với 25 địa phƣơng phản ánh qua nguồn tài liệu tục lệ [Nguyễn Hữu Mùi. 2015, tr.5,9].
57 “一均給學田八高, 何人已有應試方給. 一均給學田中秀才一畝二高. 一給學田中舉 人一畝五高. 一給學田中副榜一畝兪高. 一給學田中進士二畝五高”, 乂安省興元府海都長朗村俗例, AF.b1/8, t.11b. 58 “一 學田一所拾畝 , 全民炤次輪流以供學 俸”,乂 安省興元府通朗總由 礼社玉田村俗例 ,
AF.b1/17, t.43a.
79
Đông Thành “Một thửa học điền rộng 10 mẫu, toàn dân chiếu theo lần lƣợt canh tác để cung cấp học bổng”58. Đây là địa phƣơng có số học điền nhiều nhất tại Nghệ An, vƣợt xa so với xã Yên Mô, huyện Yên Mô, địa phƣơng đặt học điền nhiều nhất của tỉnh Ninh Bình với 6 mẫu. [111, tr.5]. Những nơi đặt học điền ít hơn, nhƣ: xã Lãng
Khê, huyện Nam Đàn 5 sào; làng Phú Văn, huyện Yên Thành 3 sào; xã Khán Sơn,
xã Lộc Điền, huyện Hƣng Nguyên 1 sào.
Khi ngƣời hƣởng học điền qua đời, có nơi cho phép gia đình tiếp tục canh tác
đến khi mãn tang, có nơi cho canh tác đến hết 2 đời rồi trả lại cho dân “Trong thôn
ngƣời nào thi trúng Cử nhân, dân thôn định lệ biếu ngƣời đó 5 sào ruộng khoa mục,
ruộng này ngƣời đó (đƣợc) canh tác đến hết đời. Sau con hoặc cháu họ cũng đƣợc
phép canh tác đến mãn tang” hoặc “Thôn vốn đặt ruộng đại khoa là 1 mẫu 5 sào.
Nếu trong thôn, ngƣời nào có phúc mà (trúng) đại khoa, ruộng này giao cho canh tác hết 2 đời mới trả lại cho dân” 59.
Học điền còn đƣợc dùng với mục đích trả lƣơng cho thầy, nhƣ thôn Bùi Châu, xã Bùi Ngõa “Toàn dân đặt học điền 3 mẫu trả lƣơng cả năm cho thầy”60; thôn Hạ Khê, tổng Hải Đô, huyện Hƣng Nguyên “Gia đình nào có con đi học (…) đã có học điền, thu hạ hai vụ đƣợc 2 mẫu 6 sào 7 thƣớc 6 tấc, cấp cho thầy chi biện cả năm” 61.
Thôn Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lƣu; thôn Phú Văn, xã Tiên Thành, huyện
Yên Thành dùng học điền để khuyến khích ngƣời đi học “Học trò bản thôn cùng đi học, cấp ruộng công 3 sào giúp đỡ chi phí, để tỏ rõ sự khuyến khích"62. Khi địa phƣơng đó chƣa có ngƣời đỗ đạt, thí sinh nhất, nhị trƣờng đƣợc quyền canh tác nhƣng
phải bỏ tiền sắm lễ cúng tại Văn chỉ vào dịp tết Nguyên đán “Bản xã đặt học điền tại xứ
Cấp Tứ (…) nếu khoa mục chƣa kế tiếp, thời gian đó có thí sinh nhất, nhị trƣờng đƣợc
quyền nhận canh tác. Hàng năm xuất tiền 10 quan, nhận biện lễ lợn, xôi, thứ phẩm gửi
vào lễ Nguyên đán ở Văn chỉ, đợi khi có khoa bảng lập tức chiếu theo (lệ) cũ lại nhận canh tác”63.
Ngoài việc trích ruộng công của địa phƣơng làm học điền, tại Nghệ An, cá nhân,
59 “村內何人試中舉人者, 民村定俵伊員科田五高, 其這田伊員耕徵滿代. 若後其子或孫亦許耕 徵滿 喪”và “村原置大科田一畝五高, 如村內,何人有福而舉大科者, 其這田交耕徵二代滿者还民”, 乂安省興 元府通朗總約礼社 俗例, AF. b1/17, t.40a,b.
60 “全民置學田三畝為熟師歲俸”, 乂安省興元府海都總裴𤬪社裴洲村俗, AF.b1/12, t.38b. 61 “何家有子受教 (…) 已有學田, 秋夏二務得二畝公高丂尺公寸, 㨿全年給與教師支辨 ”,乂安省
興元府海都賀溪村俗例, AF.b1/7, t.9a
62 “本村士人同受業者應給八田三高助費以示勸激”, 安城縣關中總富文鄉約, HUN.807, tr.12. 63 “ 本社例置學田在給賜處(…)壹畝, 何係文中科場均認耕作以勸後學. 如科目未繼間有一二場試 生 聽權認耕作. 遞年出錢拾陆貫認辨猪炊庶品附入文址正旦禮,俟有科榜卽照舊認耕”, 眞祿縣安陽總安 留社券例, t.16.
80
dòng họ cũng đặt học điền. Điển hình là Tiến sĩ Hồ Sĩ Dƣơng “Từng đặt ruộng học ở
các xứ (ruộng ở địa phận Đồng Trƣớc bản thôn, tục gọi là xứ Cửa Chợ, hơn hai mẫu;
xứ Tra Bút hơn bảy mẫu, cả hai xứ mƣời mẫu) để khuyến khích cho con cháu có thể đọc sách để thi cử đỗ đạt”64. Dòng họ Hồ ở Quỳnh Đôi dùng học điền để chu cấp cho những ngƣời đỗ đạt khoa trƣờng của dòng họ “Bản thôn ruộng giỗ là 4 mẫu 1 sào 5
khẩu, nay lại đặt ruộng giỗ, ruộng hƣơng đăng, ruộng khuyến học (…) ruộng khuyến học để thƣởng chung cho ngƣời dự trúng khoa trƣờng trong dòng họ”65.
Nghệ An với nền kinh tế lấy nông nghiệp là cơ bản, ruộng đất đƣợc coi là
nguồn tài nguyên quý giá. Thụ hƣởng những quyền lợi về ruộng đất là những lợi ích
thiết thực đối với đời sống của ngƣời dân, nhất là trong hoàn cảnh xã hội có nhiều
khó khăn. Ruộng đất giúp họ kế sinh nhai, ổn định về kinh tế, yên tâm học tập. Đó
là thành tựu không thể phủ nhận của học điền đối với khuyến học tại Nghệ An.
+ Biếu lộc sau lễ tế
Tục thờ Thành hoàng, thờ Hậu thần, tế Đinh vào hai kì Xuân, Thu, các lễ tế
liên quan đến tín ngƣỡng nông nghiệp nhƣ: lễ Thƣợng nguyên, Đoan ngọ, Đoan
dƣơng, Hạ điền, Thƣợng điền, Thƣờng tân, v.v... là những hoạt động không thể
thiếu trong sinh hoạt của các làng xã ngƣời Việt nói chung, Nghệ An nói riêng.
Điều đó đƣợc ghi chép cụ thể trong các văn bản tục lệ. Thông thƣờng, sau mỗi kì tế lễ,
một phần lễ phẩm đƣợc dùng để biếu, phần còn lại chia cho những ngƣời có mặt, hoặc
ngƣời dân cùng nhau ăn uống tại đình. Ngƣời xƣa có câu “Một miếng lộc thánh bằng
một gánh lộc trần” thể hiện sự vinh dự, linh thiêng, sự trân trọng của làng xã đối với
những ngƣời đƣợc nhận phần biếu. Tùy từng địa phƣơng, danh sách đƣợc biếu phần có
khác nhau, nơi trọng xỉ thì biếu những vị cao niên, nơi trọng tƣớc thì biếu các vị quan
chức.
Tại Nghệ An, trong 276 văn bản tục lệ khuyến học, chúng tôi thống kê đƣợc 138
văn bản có điều ƣớc ghi lại việc biếu lộc (chiếm tỉ lệ 50%.) sau kỳ tế lễ. Đứng đầu danh
sách những ngƣời đƣợc biếu lộc là các vị đỗ đạt khoa trƣờng, sau đó đến chức dịch, các
cụ cao niên, v.v... điều đó cho thấy, ngƣời dân nơi đây “trọng khoa hơn trọng xỉ”.
Thủ con vật tế (thủ lợn, thủ bò, thủ gà) đƣợc coi là phần biếu cao quý nhất,
64 “嘗置學田 (田在本村同𨎟地分俗号𨴦𢄂處貳畝餘、渣筆處柒畝餘、 貳處該拾畝 為世世子孫
能讀書取科第者”, 尚書少保裔郡八胡相八祠堂碑記, N0.2818.
65 “本村忌田肆畝壹高五口,茲又置祀田、香燈、勸學等田 (。。。)勸學田族內匀利預中科場者
賞”, 按察胡仲濬碑記/先慈笵恭人誄文, N0 2826.
81
dành để biếu các vị đại đỗ đạt khoa trƣờng, có nơi biếu nguyên cả chiếc, có nơi chia
làm 2 phần, 4 phần. Thôn xã đó chƣa có ngƣời đỗ thì biếu ngƣời đƣợc nhận sắc
mệnh, văn bằng “Lệ định cả năm tế tự, nếu nhƣ có dùng con vật tế, việc kính biếu
đều khác nhau, mãi làm lệ thƣờng: Thủ con vật tế chia làm 2 phần, kính biếu nhƣ
sau: Biếu ngƣời khoa trƣờng một nửa, chƣa có ngƣời khoa trƣờng, biếu ngƣời (đƣợc nhận) sắc mệnh, chƣa có ngƣời đƣợc sắc mệnh biếu những ngƣời (có) văn bằng”66. Thôn Nghĩa Sơn, tổng Phù Long cũng quy định biếu thủ lợn đối với các vị đại khoa
“Phàm có tế lễ mà dùng lợn, thì thủ lợn cử biếu viên khoa trƣờng, chƣa có viên
khoa trƣờng cử biếu thí sai; nếu chƣa có thí sai cử biếu ngƣời nhất nhị trƣờng hoặc
viên chức, kỳ lão. Có ngƣời (trúng) Cử nhân, phần trên của cổ lợn biếu Cử nhân, phần dƣới biếu Tú tài cùng các viên khoa trƣờng, sắc mệnh”67. Phần biếu tuy giá trị vật chất không nhiều, nhƣng đem lại giá trị tinh thần lớn, là một trong những hình
thức khuyến học đem lại hiệu quả cao, đƣợc lồng ghép trong đời sống sinh hoạt
thƣờng ngày của ngƣời dân nơi thôn xã.
+ Miễn sưu sai, tạp dịch, binh lính
Sƣu sai tạp dịch gồm những việc nhƣ đắp đê, làm đƣờng, tu sửa cầu cống, đi
lính, v.v…đều đổ lên đầu ngƣời dân, khiến cho đời sống của họ đã khó khăn lại
càng thêm khốn đốn. Theo quy định của làng xã xƣa, con trai từ 18 tuổi trở lên đƣợc
xếp vào hạng tráng đinh, phải chịu sƣu sai tạp dịch nhƣ mọi thành viên khác trong
làng xã. Đề cập đến vấn đề này, nhà sử học Phan Huy Lê cho rằng: “Ngoài thuế
ruộng đất và thuế nhân đinh có định ngạch rõ ràng, ngƣời dân trong chế độ phong
kiến còn phải nai lƣng đóng góp nhiều thứ tạp thuế, sai dịch khác rất phức tạp và
không có thể lệ quy định rõ ràng….”. [74, tr.89].
Để khuyến học, vua Lê Thánh Tông đề ra chính sách mở rộng đối tƣợng học
tập xuống đến con em bình dân ở các địa phƣơng và học sinh đƣợc miễn lao dịch.
Sử sách ghi lại “Tháng Hai năm Giáp Dần niên hiệu Thiệu Bình (1434), Lê Thái
66 “一例定全年祭祀, 如有用牲者, 其敬俵各有差等, 永為恒式. 一牲首分為二分, 敬俵以下: 一俵科 場諸員一半,未有科場者俵敕命諸員,未有敕命者俵文憑諸人”, 乂安省興元府海都總福隆村俗例, AF.b1/7, t.4b.
67 “凡 有 祭 禮 用 猪 者, 其 猪 首 舉 俵 科 場 員, 未 有 科 場 舉 俵 試 差 . 一 未 有 試 差 者 舉 俵 一 二 場 或 員 織 耆 老 . 一 有 舉 人 者, 其 頸 上 俵 舉 人, 下 頸 俵 秀 才 並 科 場 敕 命 諸 員 人”, 義 山 村 俗 例 , AFb1/16, t.14b.
82
Tông lệnh cho các lộ khảo sát học sinh lấy hơn 1000 ngƣời giỏi, chia làm ba hạng:
hạng nhất và hạng nhì thì đƣa lên Quốc tử giám học tập, hạng ba thì giữ lại ở trƣờng
của phủ lộ, học sinh đều đƣợc miễn lao dịch”. [145, tr.871].
Nghệ An đất xấu, dân nghèo, thƣờng xuyên mất mùa, dân đói kém. Năm Minh
Mệnh thứ 4 (1823) vua dụ Bộ Hộ “giảm cho tiền thuế thân năm nay 5 phần 10, ai
thiếu thì hoãn đến sang năm”. [141, tr.296]. Để khuyến khích việc học, năm Thành
Thái thứ 10 (1898), định ngạnh thí sinh ở 12 tỉnh, phủ, trong đó Nghệ An có số thí
sinh nhiều nhất, lên đến 1200 ngƣời. Triều đình “chọn những ngƣời trúng cách cho
trừ sƣu thuế, chuyên việc học tập để chờ đến khoa thi”. [143, tr.227]. Những ngƣời
đỗ hạng cao đƣợc miễn công sƣu 3 năm liên tiếp, sĩ tử nào chƣa đến tuổi chịu sƣu
mà trúng hạng, có thể nhƣờng lại cho ngƣời trong họ hàng, nhƣng phải đƣợc kì dịch
bản quán thuận mới đƣợc. [143, tr.491]. Chính sách miễn giảm sƣu thuế từ trung
ƣơng tác động trực tiếp đến các địa phƣơng, trong đó có Nghệ An.
Qua tƣ liệu tục lệ KHNA, chúng tôi thống kê đƣợc 76 thôn xã có điều ƣớc liên
quan đến việc miễn trừ sƣu sai, tạp dịch với mục đích khuyến học. Đối tƣợng đƣợc
miễn giảm sƣu thuế có sự khác nhau giữa các địa phƣơng. Có nơi miễn cho tất cả
những ngƣời đi học; có nơi miễn cho ngƣời đi học theo độ tuổi 16, 20 hoặc 30 tuổi;
khóa sinh, thí sinh, sĩ tử trúng hạng bình trở lên; có nơi miễn cho ngƣời có văn
bằng, thí sinh trúng nhất trƣờng trở lên… “Ngƣời nào đến 20 tuổi nhập hƣơng ẩm,
vốn theo thầy học nghiệp, thời học tập chuyên cần, tạp dịch trong xã đều đƣợc trừ; nếu (học hành) thất thƣờng thì không theo lệ đó” 68. Các thôn Thƣợng Thị, Yên
Sơn, An Lộc thuộc xã Thƣợng Xá, tổng Thƣợng Xá, huyện Nghi Lộc miễn tạp dịch
không chỉ với ngƣời theo học chữ Hán, mà cả ngƣời theo học tiếng Pháp “Trong xã
học trò ngƣời nào đang theo học hoặc chữ Hán hoặc chữ Pháp, tạp dịch cả năm, bản xã đều chƣớc miễn để đốc thúc văn phong”69. Xã Phú Mỹ, thôn Thƣợng An, huyện
68 “係何人至二十歲而入鄉飲者, 本從師受業, 時習弥專, 其社內雜役一皆並除, 若一暴十寒,不在此
例”, 乂安省興元府 安場總永安社俗例, AF.b1/2, t.15a,b.
69 “一社內士人何人現當從學或漢字或法字,其全年雜役本社並行斫免以篤文風”, 乂安省宜祿縣
上舍總文舍社俗例, AF.b1/30, t.8a.
70 “身稅係是課生應除半年,試生除一年,一二場除三年”, 瓊瑠縣各社鄉例(富美社), VHv.2675/1,
t.6a.
83
Quỳnh Lƣu có lệ “Thuế thân, hễ là khóa sinh ứng trừ nửa năm, thí sinh trừ 1 năm, trúng nhất nhị trƣờng trừ 3 năm”70 hay “Bản thôn có khảo hạch học trò để miễn trừ
sƣu dịch. Nếu trúng hạng ƣu, hạng bình, quy định (trừ) 1 năm; (ngƣời nào) trúng hạng thứ, quy định trừ nửa năm, để biểu thị thực học”71. Khuyến học, vào các năm
có khoa tổ chức khoa thi, nhiều thôn xã đã định ra mức miễn trừ sƣu dịch khác nhau
đối với ngƣời đỗ đạt, đỗ càng cao trừ công dịch càng nhiều; ngƣời ứng thí đƣợc trừ
1 năm công dịch; ngƣời trúng nhất trƣờng đƣợc trừ 2 năm, ngƣời trúng nhị trƣờng
đƣợc trừ 3 năm để biểu thị sự khích lệ học tập. Thôn Mạnh Sơn miễn sƣu sai cho
phụ huynh có nuôi dƣỡng con thành đạt “Trong thôn ngƣời nào nuôi dƣỡng con
thành đạt nhƣ dự các khoa trúng thức, văn khoa, võ khoa, giáo khoa, đều đƣợc miễn
sai tại sổ bạ. Ngƣời đó còn đƣợc dân gọi là cha quan viên, có phần biếu làm dầy phong tục và khích lệ tƣơng lai”72. Lệ miễn sƣu dịch còn khuyến khích cả đối tƣợng
không may thi trƣợt, mang tính nhân văn sâu sắc, động viên khích lệ họ tiếp tục nỗ
lực học tập nhƣ quy định trong tục lệ xã Văn Viên, phủ Hƣng Nguyên.
Đi lính là trách nhiệm và nghĩa vụ của nam thanh niên đến tuổi trƣởng thành.
Tuy vậy, một số địa phƣơng, do thiếu ngƣời nên cả những thanh niên chƣa đủ 18
tuổi cũng có thể bị liệt vào danh sách đi lính. Để bảo vệ quyền lợi của ngƣời dân,
đặc biệt là những học trò vốn có học thức, xã Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lƣu quy
định “Học trò (là ngƣời) vốn có học thức, chƣa đến 18 tuổi mà bị bắt đi lính thì hợp
sức lại không cho bắt, chỉ nộp tiền. Nếu vì tình riêng mà cố bắt thì bản hội sẽ đồng lòng dốc sức, lấy nguyên tiền trả lại để tuân theo mệnh lệnh sáng suốt”73.
Chính sách ƣu đãi về sƣu dịch, phu lính tạo điều kiện về thời gian, sức lực,
tiền bạc để sĩ tử yên tâm dồn tâm trí vào việc học. Điều đó mang ý nghĩa khuyến
học thiết thực và nhân văn sâu sắc.
3.1.2.2. Khen thưởng về tinh thần
71 “一係遞年正月初肆日, 本村課習士人饒除搜役. 其中優項, 平項, 定準一年. 中次項者, 定除半年
以表寔學”, 上安村鄉例, VHv.2675/1, t.12a.
72 “何人教養兒子及見成達如預諸科中式,文科,武科,教科具著免差在簿.其父親尚民項称為官員
父,預有俵分以敦風俗而勸將來”, 孟山村俗例/ VHv.2675/2, t.4a.
73 “一士人預有學識、年未十兪而替為兵者、当併力不許、出錢或被生情私捉者即叶心同力捉放
原錢還之以遵明命”, 瓊堆古今事跡鄉編小引, A.3154,t.22a.
84
+ Lưu danh khoa bảng
Lƣu danh khoa bảng một trong những hình thức khuyến học tiêu biểu, có giá
trị tinh thần, tạo động lực giúp sĩ tử nỗ lực, quyết tâm cao hơn trong học tập, thi cử,
đƣợc thể hiện dƣới những hình thức: đề danh bi kí, ghi danh trong sách đăng khoa
lục, trong gia phả, gia huấn, v.v...
Đề danh bi kí: Việc dựng bia đề danh ở Văn miếu, Văn chỉ, Văn từ là một
cách lƣu danh hậu thế, khuyến khích sĩ khí nho phong. 71 vị Tiến sĩ là ngƣời Nghệ
An đƣợc khắc tên trong 46 văn bia dựng tại Văn miếu Thăng Long và Văn miếu
Huế cùng 14 bia đề danh các nhân vật khoa bảng dựng tại Nghệ An nhƣ Lịch đại
đại khoa bi ký, Lê triều Hương cống bi chí, Tiền triều khoa bi, Kim triều khoa bi,
v.v... có giá trị nêu cao tinh thần tôn sƣ trọng đạo, khuyến khích hậu học, khuyên
răn kẻ sĩ. Đáng chú ý là cụm 6 văn bia đề danh khoa bảng, hiện đƣợc đặt lại đình xã
Võ Liệt, huyện Thanh Chƣơng, ghi lại họ, tên, địa chỉ của 455 vị đỗ đạt của tổng
gồm 377 Hiệu sinh, Sinh đồ, Tú tài, 63 Hƣơng cống (Cử nhân), 2 Tiến sĩ và 3 Phó bảng của tổng Võ Liệt từ thời Lê đến thời Nguyễn.
Ở Nghệ An, ngoài bia đề danh khoa bảng tại Văn chỉ, Văn từ; tại phần mộ, từ
đƣờng một số dòng họ còn có 10 văn bia ghi tiểu sử danh nhân, thể hiện tinh thần
uống nƣớc nhớ nguồn, khuyến khích học tập, nhƣ bia Thượng thư Thiếu bảo Duệ
Quận công Hồ Tướng công từ đường bi kí 尚書少保裔郡八胡相八祠堂碑 ghi tiểu
sử Tiến sĩ Hồ Sĩ Dƣơng, Đinh tướng công bi chí 丁相八碑誌 ghi tiểu sử Tiến sĩ
Đinh Bạt Tụy, Tam đại hoàng hoa tứ đại sứ Nguyễn Trọng 三代黃花三代使阮仲
chép về 3 vị Tiến sĩ Nguyễn Trọng Thƣờng, Nguyễn Trọng Đƣờng và Nguyễn
Trọng Đƣơng. Việc khắc tên vào bia đá có ý nghĩa khuyến học rất sâu sắc, một mặt giúp cho “kẻ sĩ chiêm ngƣỡng, hâm mộ hứng khởi, rèn luyện danh tiết”74, các sinh
viên khăn đóng áo cài “ngày sau chú mục vào bia này, mắt xem miệng đọc ai là chẳng cảm kích hứng khởi, lấy khoa mục mà đặt kỳ vọng cho mình”75.
Tấm bia Lịch đại đại khoa 歷代大科 dựng tại đình xã Võ Liệt bổ sung đƣợc 3
74 “俾多士仰瞻歆羨興起敦厲名節”, 大寶三年壬戌 科 進 士 題 名 碑 記, N0 1358 75 “他日章掖諸生目之瞩之口之誦之莫不感激興起以科目自期以致”, 慶德肆年庚寅 科 進 士 題
名 碑 記, N0 1311a.
85
nhân vật đại khoa so với cuốn Các nhà khoa bảng Việt Nam (bản tái bản có bổ sung
chỉnh lý) xuất bản năm 2006, đó là: Tiến sĩ Phan Nhân Tƣờng ngƣời xã Hoàng Xá76, huyện Thanh Chƣơng, đậu Tiến sĩ chế khoa năm Nguyên Hòa 14 (1546); Tiến sĩ Lê Đình Chức ngƣời xã Thanh La77, huyện Thanh Chƣơng, đỗ Phó bảng Ân khoa
khoa Kỷ Dậu Tự Đức 2 (1849) và Tiến sĩ Phan Đình Trác ngƣời xã Võ Liệt huyện
Thanh Chƣơng, đỗ Phó bảng Ân khoa khoa Tân Hợi Tự Đức 4 (1851). Tấm bia này
hiện chƣa có thác bản tại VNCHN, trong đợt điền dã vừa rồi chúng tôi có chụp lại
đƣợc, chữ viết trên bia khá mờ.
Ảnh 3.1: Bia Lịch đại đại khoa dựng tại đình xã Võ Liệt huyện Thanh Chƣơng
Lưu danh trong các sách đăng khoa lục, địa phương chí và gia phả: 138 nhân vật
khoa bảng là ngƣời Nghệ An đƣợc ghi chép trong 15 sách đăng khoa lục đại khoa, 10 vị
đỗ đại khoa, 71 vị đỗ trung khoa chép trong Hồ gia hợp tộc phả kí, danh sách ngƣời đỗ
đạt của dòng họ Đinh ở thôn Thổ Ngõa, xã Bùi Khổng, huyện Hƣng Nguyên, v.v... là
những điển hình về sự nỗ lực trong học tập, khuyến khích thế hệ sau noi theo gƣơng
sáng.
Đề danh bi ký và lƣu danh khoa bảng trong các thƣ tịch là một hình thức vinh
danh ngƣời học, có tác động đến hai đối tƣợng: Một là, bản thân ngƣời đỗ đạt sẽ cố
gắng phát huy năng lực, tiếp tục học tập, rèn luyện để có những thành tích cao hơn,
không xấu hổ với khoa bảng và thẹn với lòng mình. Hai là, giúp cho lớp lớp các thế
76 Xã Hoàng Xá: nay là xã Thanh Hà, huyện Thanh Chƣơng. 77 Xã Thanh La: nay là xã Thanh Lĩnh, huyện Thanh Chƣơng
86
hệ hậu học thấy đƣợc tên tuổi của những ngƣời nơi mình sinh ra, tên tuổi của chính
ông, cha mình, v.v…, tạo động lực cho họ tiếp bƣớc, noi theo các vị tiền bối với
niềm tự hào, kiêu hãnh!
+ Tôn vinh nơi đình làng
Đình là nơi tập trung uy quyền lớn nhất của làng, nơi thực thi các nghi thức
cúng rƣớc thần, tổ chức lễ hội, hát xƣớng, ăn khao, hội họp chức sắc, v.v... Vì vậy,
thứ bậc ở đình trung hết sức quan trọng, đƣợc xem nhƣ tiểu triều đình. Việc tôn
vinh chỗ ngồi ở đình là một hình thức khuyến khích tinh thần học tập nơi làng xã.
Từ bao đời nay, ở nhiều làng quê Việt Nam, một trong những biểu hiện của văn hóa
làng là tục trọng xỉ. Do đặc điểm nƣớc ta là nƣớc nông nghiệp, yếu tố thời tiết, thiên
nhiên luôn có ảnh hƣởng trực tiếp đến sản xuất, ngƣời nắm bắt đƣợc quy luật của tự
nhiên, ngƣời tích lũy đƣợc vốn kinh nghiệm không ai khác là các cụ già, chính vì
vậy ngƣời già trở thành trụ cột, lòng tôn trọng, sự hãnh diện đối với dân làng. Chịu ảnh
hƣởng sâu sắc từ những triết lý Nho gia, dân gian thƣờng có câu “triều đình trọng tƣớc,
hƣơng đảng trọng xỉ” (triều đình xem trọng chức tƣớc, hƣơng đảng xem trọng tuổi tác),
trọng xỉ đã hình thành và phát triển thành văn hóa làng. Tuy nhiên, tùy theo điều kiện,
quan niệm của từng nơi mà nó đƣợc biểu hiện khác nhau. [152].
Khi đạo lý Nho gia thâm nhập sâu vào làng xã, đặc biệt là từ thời Lê Thánh
Tông, nửa sau thế XV, dần hình thành tục trọng tƣớc (coi trọng những ngƣời có
quan tƣớc, chức tƣớc). Từ thế kỷ XVII, tục trọng tƣớc đã lấn át tục trọng xỉ trong
nhiều làng xã ở Việt Nam, dù tục trọng xỉ vẫn đƣợc bảo lƣu nhƣng phải nhƣờng vị
trí hàng đầu cho tục trọng tƣớc. [96, tr.808]. Nửa cuối thể kỷ XIX, niên hiệu Tự
Đức thứ 14 (1861), triều đình tiến hành nghị bàn điều lệ về thứ tự chỗ ngồi ở các
làng xã khi hội họp và ban sắc mệnh về việc quy định thứ tự chỗ ngồi nhƣ sau:
“Quan Văn từ thất phẩm trở lên và Ấm sinh, Giám sinh, Tú tài xuất thân hàm bát
cửu phẩm; quan võ từ Suất đội trở lên; các Cử nhân văn, Cử nhân võ trở lên, đều
chia tả hữu ngồi ở gian giữa đình. Ngƣời nào có việc công đi vắng, phải để trống
chỗ đó. Tuổi từ 70 trở lên và quan võ chức Đội trƣởng hàm thất phẩm, quan văn các
chức tá tạp hàm bát cửu phẩm, các chức Thiên hộ, Bá hộ, Chánh tổng, Ấm sinh, Tú
tài, Quan viên tử; các chức Thiên hộ, Bá hộ miễn sai dịch do nộp tiền mà có, ngồi
gian bên tả. Hạng cùng hàng, chƣa đến 70 trở xuống và Lý trƣởng, xã dân đều ngồi
87
ở gian bên hữu, phân biệt thứ tự theo tuổi tác (...). Nếu có kẻ phạm tội đồ trở lên,
cho ngồi riêng ra một chiếu, kẻ nào làm trái, giải lên quan chiếu luật chống lại quy chế mà trị tội”78. Trên cơ sở sắc mệnh đó, các thôn xã đã đƣa ra những quy định
riêng về vị trí nơi đình trung của địa phƣơng mình, cụ thể hóa bằng điều ƣớc trong
các bản tục lệ.
Kết quả khảo sát từ nguồn tài liệu tục lệ các làng xã vùng Đồng bằng Bắc Bộ
và Bắc Trung Bộ cho thấy, tƣ liệu thành văn sớm nhất đề cập đến vấn đề này là xã
Mộ Trạch, huyện Đƣờng An, tỉnh Hải Dƣơng. Năm Cảnh Hƣng thứ 32 (1771),
ngƣời dân Mộ Trạch đã quy định rõ chỗ ngồi quan trong triều đình với các thành phần khác, phân biệt giữa ngạch văn với ngạch võ, Tạo sĩ ngồi sau Tiến sĩ79. Thông
thƣờng trong mỗi ngôi đình, dù là 3 gian, 5 gian hoặc 9 gian, gian giữa là nơi trang
trọng nhất, là nơi “thập mục sở thị”, chức sắc địa phƣơng sẽ dùng làm chỗ ngồi của
chủ tế, trợ tế; bên phải là của các vị khoa trƣờng đỗ đạt; bên trái là chỗ của các cụ
thƣợng thọ, các chức dịch hàng xã, v.v.... Tuy vậy cũng có sự xuất nhập khác nhau.
Thôn xã trọng Nho hơn trọng xỉ đã dành những vị trí cao nhất nơi đình trung cho
những ngƣời đỗ đạt khoa trƣờng, nhƣ: chiếu thứ nhất hàng bên trái kính đãi văn
khoa trƣờng; chiếu thứ hai trở xuống thì đãi thí sinh, khóa sinh. Sự ƣu ái chỗ ngồi
nơi đình làng đối với những ngƣời đỗ đạt khoa trƣờng là một minh chứng cho
truyền thống trọng học và là động thái khuyến học mạnh mẽ của ngƣời dân Nghệ
An.
Hai xã Đào Viên và Hạnh Lâm, tổng Cao Xá, huyện Đông Thành lập riêng
một bản khoán ƣớc về các việc ở đình, trong đó quy định rất rõ về thứ tự chỗ ngồi
nơi đình trung “Đình lớn một nhà 5 gian, chính giữa 1 gian, phải trái hai hàng, hàng
bên trái thứ tự chỗ ngồi mỗi chiếu trên dƣới có khác nhau. Chiếu trên cùng (dành
78 “文丂品以上竝兪九品之廕監秀才出身、武出隊以上、科場文武舉人以上、各分左右列坐亭
正中間。如八出宜留置虛席。年丂十以上並武丂品之隊長、文兪九品之佐雜人、九品之千百戶、正
總、廕監秀才員子並納捐之; 千百戶免差免徭 均列在左間。相同尚齒年未丂十以下及里長社民均列在
右間、以齒為序(…)如有徒罪以上、別席列坐、違者解官炤違制律治”, 國朝律例撮要(卷中), R.1547,
t.27a,b.
79 Đinh Khắc Thuân. 2006, Tục lệ cổ truyền làng xã Việt Nam, tr.475.
88
cho các vị ngạch) văn đỗ đại khoa, Phó bảng, quan có (hàm) tứ phẩm trở lên; Chiếu
thứ 2 (dành cho) quan viên ngũ, lục thất phẩm đang ở quê, Cử nhân, Giám sinh; Chiếu thứ 3 (dành cho) viên chức (hàm) bát, cửu phẩm ở quê, Tú tài” 80. Xã Văn
Viên, phủ Hƣng Nguyên “trọng khoa hơn trọng tƣớc”, quy định “Phàm có khoa sắc ngồi thứ nhất, hào dịch ngồi thứ 2, thí khóa sinh ngồi thứ 3, hạng dân ngồi thứ 4”81.
Trân trọng đấng sinh thành của các vị khoa bảng, những ngƣời đã dày công nuôi
nấng, dạy dỗ để con em họ đƣợc học hành, đỗ đạt, thôn Quỳnh Đôi, xã Phú Hậu còn
dành vị trí trang trọng nơi đình trung cho những ngƣời có con đăng khoa “Ngƣời
trúng nhất nhị trƣờng và ngƣời có con đăng khoa ngồi gian bên trái đình; tiếp đến
thí sinh, khóa sinh ngồi bên trái của gian trái; tiếp đến là các vị 70, 60, 50 trở lên ngồi gian bên phải đình”82. Sau các kỳ tế lễ nhƣ: nhập tịch, tế thần, cầu phúc, hội
hè… vào mùa xuân, mùa thu hàng năm, các làng xã thƣờng chiếu theo sổ hƣơng ẩm
để làm cỗ và có những quy định cụ thể về việc hƣởng cỗ đó, nhƣ thôn Thiện Kỵ, xã
Hoàng Mai quy định các vị đỗ từ trung khoa trở lên thì mỗi ngƣời một cỗ, đỗ Tú tài
thì hai ngƣời một cỗ.
Ngôi đình, biểu tƣợng của làng xã Việt Nam, trong tâm thức của ngƣời dân, đình
còn là nơi thờ Thành hoàng, là chỗ để chức sắc trong làng bàn định công việc. Vị trí,
thứ bậc trong hƣơng đảng thƣờng đi cùng những lợi ích về vật chất, tinh thần và uy thế
của mỗi cá nhân. Khác với tục lệ một số nơi nhƣ hƣơng ƣớc xã Bồng Trung, huyện
Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa, hƣơng ƣớc làng Mộ Trạch (Bình Giang, Hải Dƣơng), Kim
Đôi (Quế Võ, Bắc Ninh), Đông Ngạc (Từ Liêm, Hà Nội) những nơi đó tục trọng xỉ,
trọng tƣớc luôn đƣợc đề cao; tại Nghệ An tục trọng khoa đặc biệt đƣợc coi trọng trong
các bản hƣơng ƣớc, đặc biệt vào giai đoạn cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Việc dành
một chỗ ngồi cao nhất cho ngƣời đỗ đại khoa đã thể hiện rõ tinh thần trọng học, trọng
80 “大亭壹屋五間正中壹間左右二行左行坐次每席上下有差上一席文大科副榜四品官以上第二 席五公丂品官員在貫舉人監生第三席兪九品員職在貫秀才 ”, 桃園杏林二社四派亭中事例券約 , HƢN.809, t.1,2.
81 “ 凡有科敕坐次第一, 豪役 坐次第二, 試課生坐次第三, 民項坐次第四”, 乂安省興元府文園文
園社俗例, AF.b1/21, t.16b.
82 “一二場與有子登科者均坐在亭之左間、至如試生課生坐在左边之左、其庶老年登丂十以至
公十五十以上坐次在亭之右間”, 瓊堆村鄉例, VHv.2675/1, t.3a.
89
khoa, vƣợt lên truyền thống trọng xỉ, trọng tƣớc vốn tồn tại lâu dài tại nhiều địa phƣơng
khác. Việc ƣu tiên chỗ ngồi nơi đình trung là chính sách khuyến học về mặt tinh thần,
mang lại hiệu quả cao mà ngƣời dân Nghệ An đã thực hiện.
+ Đón rước vinh quy bái tổ
Lễ tạ vinh quy là một lễ do Bộ Lễ đứng ra chủ trì, lễ vinh quy bái tổ đƣợc tổ
chức lần đầu vào tháng 5 năm Hồng Đức thứ 12 (1481) và đƣợc các triều sau tiếp
tục thực hiện. Sau khi các Tiến sĩ tân khoa đƣợc ban áo mũ cân đai, đƣợc dự yến,
đƣợc dạo chơi vƣờn thƣợng uyển và thăm phố phƣờng kinh đô thì Bộ Lễ tổ chức
nghi lễ này). [15, tr.16]. Các nghi thức đó thể hiện sự đãi ngộ vẻ vang, điển lễ long
trọng của vua chúa đối với Nho sĩ. Sau nghi thức các vị Tiến sĩ lễ tạ vinh quy, các vị
tân khoa đƣợc ngƣời dân địa phƣơng đem kiệu, võng lọng đến rƣớc về quê để bái
tổ.
Qua khảo sát thƣ tịch Hán Nôm cho thấy, việc đón rƣớc Tiến sĩ vinh quy bái
tổ sớm nhất ở làng xã nƣớc ta là vào thế kỷ XVII, phản ánh qua khoán lệ của xã Mộ Trạch, huyện Đƣờng An, lập ngày 20 tháng 2 năm Cảnh Trị thứ 3 (1665)83. Dƣới
triều Nguyễn, đặc biệt từ thời Minh Mệnh trở về sau, khi thi Hƣơng, thi Hội đi vào
ổn định, số ngƣời đỗ Cử nhân, Tiến sĩ ngày càng đông, lễ đón rƣớc ngƣời đỗ khoa
trƣờng trở thành công việc quan trọng. Các làng xã ở vùng đồng bằng Bắc Bộ và
Bắc Trung Bộ đều tổ chức long trọng lễ đón rƣớc các vị tân khoa, có tác động tích
cực đến khuyến học đƣơng thời.
Vinh quy bái tổ không chỉ là vinh dự cho bản thân vị tân khoa, cho cha mẹ họ
hàng, làng xóm, là dịp để họ tỏ lòng biết ơn với tổ tiên, thầy dậy, cha mẹ đã có công
nuôi dƣỡng họ nên ngƣời. Thông qua hoạt động này, tạo động lực cho ngƣời học,
ngƣời thi, các bậc ông bà, cha mẹ thƣờng khuyên con cháu mình gắng công đèn sách,
để không chỉ học đƣợc chữ Thánh hiền mà còn “dƣơng danh dĩ hiển phụ mẫu” (nêu
cao tên tuổi để cha mẹ đƣợc hiển vinh). Vinh quy bái tổ với những nghi thức long trọng
đã trở thành một sự kiện trọng đại trong đời sống tinh thần của ngƣời dân Nghệ An.
83 Dẫn theo “Danh hƣơng khoán lệ” trong Tục lệ cổ truyền làng xã Việt Nam, Nxb KHXH, Hà Nội,
tr.452-453.
90
125/ 276 văn bản tục lệ KHNA có điều ƣớc liên quan đến lễ vinh quy bái tổ, chiếm
45,3%, đều do thôn xã thực hiện, không ghi nhận lễ đón rƣớc ở hàng tổng, huyện nhƣ tổng Đồng Than, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hƣng Yên84; huyện Phƣợng Nhãn và Bảo Lộc tỉnh Bắc Giang85.
Những quy định về địa điểm đón rƣớc đƣợc các địa phƣơng quy định rõ ràng,
cụ thể. Khoảng cách xa gần tính từ bản thôn đến điểm đón tiếp, tùy thuộc vào học vị
của tân khoa, đỗ càng cao quãng đƣờng đón tiếp càng dài, thông thƣờng Tú tài sẽ
đƣợc đón tiếp ở đầu bản xã, Cử nhân đƣợc đón ở đầu huyện, Tiến sĩ đƣợc đón ở đầu
tỉnh. Dân thôn Bùi Châu, xã Bùi Ngõa quy định ngƣời đỗ đại khoa từ đệ nhất giáp
đến đệ nhị giáp đƣợc đón tiếp tại tỉnh; thôn Yên Vinh, tổng Yên Trƣờng “Ngƣời
nào đỗ đại khoa, ngày vinh quy (...) toàn dân ra ngoài địa phận thôn nghênh đón;
ngƣời đỗ trung khoa, ngày vinh quy (...) toàn dân ra ngoài đầu xã đón; ngƣời đỗ tiểu
khoa, ngày bái yết thần, toàn dân hội họp tại đình, biện lễ 1 buồng cau đến chúc mừng để (biểu thị) sự trọng khoa mục”86.
Thành phần đón tiếp vị tân khoa trong ngày vinh quy rất phong phú, thông
thƣờng là các vị quan viên, chức sắc, Lý dịch, Kỳ mục, kỳ lão, viên chức bàn một,
bàn hai, tuần phu, đinh phu và ngƣời dân trong thôn, xã. Xã Tùng Sơn, tổng Phù
Long chọn viên chức bàn một cùng dân phu; thôn Yên Vinh, tổng Yên Trƣờng; thôn Phƣơng Xá và thôn Long Xuyên, tổng Phù Long87 lại chọn viên chức, kỳ lão
bàn 2 cùng dân phu. Số đinh phu đƣợc cử đi đón rƣớc các vị tân khoa thậm chí lên
đến 300 ngƣời nhƣ thôn Cổ Đan, tổng Đặng Xá, nếu trúng Tú tài bắt 100 đinh phu,
trúng Cử nhân 200 đinh phu, trúng Tiến sĩ 300 đinh phu đi đón tiếp. Tiếp đón các vị
tân khoa, nhiều nơi còn đƣa ra những quy định về việc sức cho dân sửa sang đƣờng sá,
84 Điều lệ của thân hào tổng Đồng Than huyện Yên Mỹ đóng trong tục lệ thôn Thƣợng xã Đồng Than,
AF.a 3/1.
85 Văn chỉ bi ký 文址碑記, tạo năm Tự Đức thứ 12 (1859), N0.20630 , Điều 2. 86 “何員登大科者, 榮歸日 (...) 全民盡出地分外隨便迎回; 中科者, 榮歸日 (…) 全民盡出地頭迎 回整 [17a]; 登小科者,拜謁神日,全民會合在亭,整卞新榔一房來賀以重科目”, 乂安省興元府安榮村俗例, AF.b1/21, t.16b, 17a.
87 乂安省興元府扶龍總松山社俗例, 乂安省興元府扶龍總芳舍村俗例 và 乂安省興元府扶龍總東
洲村俗, AF.b1/13, t 7b, 8b.
91
xây cầu mới, mở chợ mới, nhƣ cái mốc đánh dấu sự thay đổi của làng xã khi có ngƣời đỗ
đạt. “Nếu đỗ Đại khoa, phải bắt hết dân phu lập trạm ở đình làm nơi đón tiếp, xong việc nên xây cầu mới, mở chợ mới để dầy dặn thêm phong tục”88.
Việc tổ chức đón rƣớc các vị tân khoa luôn đƣợc các làng xã đặc biệt coi
trọng, liên quan đến phong tục mỗi làng, thể hiện niềm kiêu hãnh, vinh dự, tự hào
của địa phƣơng. Cùng với các nghi thức trang trọng là những khoản vật chất có giá
trị (chúng tôi đã đề cập trong phần Thưởng cho các vị tân khoa) làm dấy lên tƣ
tƣởng sùng chuộng với kẻ sĩ, tạo ra tâm lý hiếu học cho ngƣời dân địa phƣơng. Tuy
nhiên, lệ này cũng tạo ra mặt trái nhất định trong xã hội, đó là tâm lý đố kị, kèn cựa
giữa các dòng họ, giữa các làng với nhau. Dòng họ có nhiều ngƣời đỗ đạt, con cháu
nảy sinh lòng tự tôn dòng họ, coi thƣờng họ tộc khác; giữa các dòng họ khoa bảng
cũng mâu thuẫn với nhau. Đó là việc “con gà tức nhau tiếng gáy” trong khuyến học
cho đến việc làng, phần nào làm mất đi sự gắn kết trong cộng đồng làng xã.
+ Tang ma, thờ tự
Tang lễ là một nghi thức lớn, một trong những việc trọng đại không thể thiếu ở
các làng quê, đƣợc các chức dịch, hƣơng lý họp bàn, quy định cụ thể trong tục lệ,
hƣơng ƣớc. Việc tang chế nơi làng xã vùng đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ đa
phần đều giống nhau, chủ yếu là những quy định về thời gian để tang, đối tƣợng
chịu tang, tang phục, nghi thức, v.v... song không ít địa phƣơng, việc tổ chức tang
chế thực hiện về chi tiết có một số điểm khác biệt do tập tục lƣu truyền, điều kiện
kinh tế. Tại Nghệ An, quy định về tang ma, thờ tự có điểm khác biệt so với nhiều
tỉnh khác, đƣợc ghi chép trong nhiều bản hƣơng ƣớc, đó là quy định về lễ phúng
viếng, lệ thờ tự đối với những ngƣời đỗ đạt khoa trƣờng, thể hiện tinh thần trọng
học, trọng khoa có ý nghĩa khuyến học và nhân văn sâu sắc.
Đối tƣợng khoa bảng đƣợc đƣa vào điều lệ tang ma là những ngƣời đỗ đạt từ Tú
tài trở lên cho đến đại khoa, lễ vật phúng điếu thƣờng là trầu rƣợu, câu đối trắng,
thủ lợn, tiền mặt, v.v.., học vị càng cao lễ phúng càng trọng. Xã Thanh Phong,
88乂安省興元府海都總方賴村俗例,須尽扒民夫故立驛亭俟行迎接.事清,宜築新橋,開新市風惇
俗”, 乂安省興元府海都總裴孔社東村俗例, AF.b1/9, t.26b.
92
huyện Hƣng Nguyên quy định: “Trong xã ngƣời nào trúng Cử nhân (...) hễ ngày
nào ngƣời đó trăm tuổi, toàn dân chỉnh biện 1 đôi câu đối trắng, 3 quan tiền xanh,
100 miếng trầu cau, 1 bình rƣợu cùng hƣơng nến đến viếng để tỏ ý trọng đạo. Lệ
trong xã ngƣời nào trúng đại khoa (...) hễ ngày nào ngƣời đó trăm tuổi, toàn dân
biện lễ 1 câu đối trắng, 1 thủ lợn tƣơng đƣơng 6 quan tiền xanh, 1 bàn xôi tƣơng
đƣơng 10 đấu gạo, 6 bình rƣợu, 100 miếng trầu cau cùng hƣơng nến, toàn dân đến phúng”89. Có nơi, nhƣ thôn Ngọc Lâm, lễ phúng viếng các vị khoa trƣờng đƣợc quy
định tƣơng đƣơng với các cụ cao niên trong thôn xã “Các vị khoa mục cùng các cụ 70,80 tuổi trở lên, ai quy tiên, phúng câu đối cùng trầu rƣợu”90
+ Lễ cầu khoa
Lễ cầu khoa đƣợc tổ chức để cầu xin Thần, Phật phù hộ, mong gặp may mắn
và đạt kết quả cao trong kỳ thi. Tại Nghệ An, qua tƣ liệu tục lệ, chúng tôi đã thống
kê đƣợc 24 bản có ghi chép những thông tin liên quan đến lễ cầu khoa. (xem Phụ
lục 3.3). Lễ cầu khoa đƣợc thực hiện hầu khắp các huyện trên địa bàn tỉnh, nhƣ
huyện Đông Thành, Hƣng Nguyên, Lƣơng Sơn, Nghi Lộc, Quỳnh Lƣu, Thanh
Chƣơng và Yên Thành, chủ yếu đƣợc lập vào triều Nguyễn, từ năm Gia Long thứ 3 (1804) đến năm Thành Thái thứ 16 (1904)91. Vào triều Nguyễn, khi Gia Long lên
ngôi, việc học hành thi cử mất mấy năm mới dần dần khôi phục. Năm Đinh Mão
Gia Long 6 (1807) mới tổ chức đƣợc khoa thi Hƣơng đầu tiên của triều Nguyễn,
năm Nhâm Ngọ Minh Mệnh 3 (1822) mới mở khoa thi Hội đầu tiên; cả triều Minh
Mệnh, Thiệu Trị, 3 năm mới mở một khoa thi Hội vào các năm Thìn, Tuất, Sửu,
Mùi. [157, tr.15]. Vì vậy không phải năm nào cũng có khoa thi và năm nào Nghệ
An cũng có ngƣời ứng thí, chỉ vào những năm thôn, xã đó có ngƣời dự thi địa
phƣơng mới tổ chức lễ cầu khoa. Lễ cầu khoa đƣợc tổ chức theo những quy định cụ
89 “一例社內何員試中舉人者 (…) 係何日伊員百歲, 全民整卞白对一聯, 青錢三貫,芙蒥 一百口, 酒壹坪並香烛各來行吊以重仗道. 一例社內何員試中大科者, (…) 何日該員百歲, 全民 整卞白 对一聯, 猪一頭 當青錢陸貫, 𥸷一般當糯米十斗, 酒陸坪, 芙蒥一百口 並香烛全民均 來 行吊 禮” 乂安省興元府海都總清風社俗例, AFb1/11, t.36a,b.
90 “科員並丂兪十以上某有樂仙者吊对聯並芙酒”, 玉林村俗例, VHv.2677, t.2a. 91 Bản tục lệ có thông tin lễ cầu khoa, niên đại sớm nhất là 乂安省興元府扶龍總福厚村俗例
(AF.b1/6), bản có niên đại muộn nhất 朗田口傳例摺 (朗田社), VHv.2654.
93
thể về thời gian, địa điểm, lễ vật, thành phần tham gia.
Thời gian tổ chức lễ cầu khoa thƣờng là ngày tốt tháng Giêng trƣớc kỳ thi “Lễ
cầu khoa: hễ năm có khoa thi Hƣơng (...) (chọn) ngày tốt tháng Giêng năm đó hành lễ cầu khoa”92, thƣờng thì năm nào thôn xã có sĩ tử trúng sát hạch đƣợc dự thi Hƣơng
thì bản thôn mới biện lễ cầu khoa. Tại Nghệ An, lễ cầu khoa thƣờng đƣợc tổ chức ở
Văn miếu, Văn chỉ, nơi thờ tự Khổng Tử cùng các vị Tiên hiền, những ngƣời khai
mở việc học; hoặc ở đình, đền nơi thƣờng diễn ra các hoạt động tế lễ của địa
phƣơng. Xã Kim Ổ, tổng Thƣợng Xá, huyện Nghi Lộc “Năm nào có kỳ thi bản thôn biện lễ trầu rƣợu đến Văn chỉ cầu đảo để đốc thúc văn phong”93. Thôn Phúc Hậu,
tổng Phù Long, huyện Đông Thành “Học trò nhập trƣờng nhất, bản thôn xuất tiền
công 6 quan, mua sắm gà, tiền vàng, hƣơng đăng, hoa quả bày lễ đến đình cầu khoa”94. Lễ vật trong lễ cầu khoa tùy từng địa phƣơng quy định khác nhau, thƣờng
là xôi gà, hoa quả, hƣơng đăng, trầu rƣợu, tiền vàng, có nơi quy định số tiền cụ thể
dùng vào việc sắm lễ. Các giáp của thôn Thƣợng Khê, xã Hƣơng Cái, tổng Hải Đô
quy định cụ thể hơn “Bản giáp lệ định hễ đến trƣớc kỳ thi Hƣơng đều nên thành tâm
gà 1 con, xôi 2 cân, hƣơng 2 phong, nến 1 bao, biện xôi, trầu rƣợu đủ dùng, trong giáp tu chỉnh khăn áo làm lễ cầu khoa95. Thành phần tham gia lễ cầu khoa khác nhau,
thôn Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lƣu; thôn Phúc Long, tổng Hải Đô là các viên chức
trong hội Tƣ văn, có nơi giao cho Thủ từ “Có học trò ứng thí bản thôn xuất tiền công mỗi kỳ 3 quan giao Thủ từ biện lễ vật cầu khoa 96. Thôn Thƣợng Khê, tổng Hải Đô do
ngƣời trong giáp làm lễ; xã Thổ Hào, tổng Thổ Hào, huyện Thanh Chƣơng giao cho
92 “一祈科礼:係是年鄉科(…)各於是年正月蠲吉日祈科礼 ”, 英山府清漳縣南金總南金社 ,
VHv.1208, tr.3a.
93 “一祈科禮係至何年試期本村修辨芙酒就文址壇祈禱以篤文風”, 乂安省宜祿縣上舍總金塢村
俗例, AFb1/30, tr.7b.
94 “一 士 子 入 第 一 場, 在 本 村 出 八 錢 公 貫, 買 卞 娤 雞, 金 銀, 香 灯 , 花 果 設 禮 在 亭 祈 科”, 福
厚 村 俗 例, AF.b1/16, tr.11b.
95 “一本甲例定係屆科鄉前, 各宜誠心雞一頭, 𥸷二斤,香二封, 蠟一包, 卞𥸷芙酒用足, 甲內修整衣
冠行祈科礼”, 乂安省興元府海都總總上溪村俗例, AF.b1/7, t.20b.
96 “一 條 議 定 有 士 子 應 試 本 村 出 八 錢 每 期 三 貫 交 守 祠 買 卞 禮 物 祈 科”, 乂安省興元府扶
龍總安居 村俗例, AF.b1/16, t.12b.
94
chính sĩ tử thực hiện.
Cầu khoa là một hình thức khuyến học về mặt tinh thần, một hoạt động mang
tính tâm linh, tạo tâm lý ổn định, tự tin cho các sĩ tử tin bƣớc vào kỳ thi sau những
tháng ngày rùi mài kinh sử, cầu mong một kì khoa cử rực rỡ. Lễ cầu khoa còn thể
hiện sự tôn kính, sùng bái văn học, coi trọng phong hóa của các thôn xã nơi đây.
Thiết nghĩ đó cũng là nét đẹp trong sinh hoạt làng xã nói chung, truyền thống
khuyến học nói riêng, cần đƣợc phát huy và nhân rộng.
+ Hội Tư văn
Hội Tƣ văn là tổ chức gồm những ngƣời đỗ đạt và Nho sĩ, họ đã trải qua quan
trƣờng và về trí sĩ hoặc không tham gia quan trƣờng ở lại quê tham gia vào bộ máy
chức dịch, làm thầy đồ dạy học, làm thầy thuốc trị bệnh cứu ngƣời. [189, tr.167].
Hội Tƣ văn ra đời vào thế kỉ XVI, phát triển mạnh ở thế kỷ XVII theo ba cấp độ:
huyện, tổng, xã, trong đó Hội Tƣ văn cấp xã phát triển mạnh nhất, tập trung chủ yếu
ở những địa phƣơng có truyền thống hiếu học và khoa bảng. [112]. Ở một số làng
có truyền thống khoa bảng nhƣ Mộ Trạch, Kim Đôi, Đông Ngạc, Quỳnh Đôi .v.v…
Hội Tƣ văn thƣờng tham gia vào việc tổ chức các kì khảo hạch sĩ tử trƣớc kỳ thi
Hƣơng.
Tại Nghệ An, theo ghi chép của TLHN mà chúng tôi khảo sát, hiện có 33 Hội
Tƣ văn của các thôn xã. Thông thƣờng, địa phƣơng nào Hội Tƣ văn có nhiều thành
viên, tổ chức quy củ, sẽ đặt ra điều ƣớc của Hội. Về cách thức, khoán ƣớc Hội Tƣ
văn cũng giống nhƣ hƣơng ƣớc của làng, song về nội dung khác nhau, chủ yếu là
những quy ƣớc về hoạt động riêng của hội nhƣ điều kiện vào hội, đóng góp tiền xây
dựng Văn chỉ, Văn từ, quy định tế lễ hai kỳ tế Xuân, Thu hàng năm, quy định
thƣởng đối với thành viên trong Hội đỗ đạt khoa trƣờng, thành quan, lên lão, phúng
viếng…[189, tr.170].
Quy định về điều kiện ra nhập Hội Tƣ văn, điều kiện tiên quyết phải là ngƣời
biết chữ Hán, chữ Nôm “Hễ ai vui với việc học và có chút hiểu biết về văn tự cho phép nhập Hội Tƣ văn”97, cao hơn nữa là những ngƣời có văn bằng, sắc mệnh, khoa trƣờng, thi trúng nhị trƣờng, tam trƣờng mới cho phép nhập hội. Thôn Xuân Thịnh,
97 “係某有樂從學與捎識文字者並許望入斯文”, 玉枝村鄉例, VHv.2675/2, t.1a.
95
tổng Đô An “ngƣời nào trúng liền nhất, nhị trƣờng mới đƣợc dự Hội Tƣ văn”; thôn
Hiệu Mỹ “con quan viên đang theo học và thí khóa sinh mới đƣợc nhập vào sổ Hội”98.
Bên cạnh việc thƣởng ngƣời đỗ đạt khoa trƣờng của các thôn xã, Hội Tƣ văn
nhiều nơi có những quy định thƣởng rất cụ thể. Thôn Phù Xá, tổng Phù Long “
ngƣời nào đỗ Cử nhân, Câu đƣơng chỉnh biện một bức trƣớng gấm, 1 bàn trầu rƣợu,
6 quan tiền đến chúc mừng; ngƣời nào trúng Tiến sĩ, Câu đƣơng chỉnh biện một bức
trƣớng gấm, 1 bàn cau, 1 bàn rƣợu, 10 quan tiền, 2 phong pháo, 1 bàn chè Bắc, ngày vinh quy, Câu đƣơng thông báo đến bản Hội đón tiếp chúc mừng”99.
Hội Tƣ văn nhiều địa phƣơng đặt quy định về việc đặt ruộng của Hội. Số ruộng đó
có thể dùng để chi dùng các việc tế tự, mừng thƣởng ngƣời đỗ đạt trong Hội. Hội Tƣ văn
thôn Phúc Hậu quy định “Lệ định trong thôn cả năm có hai kỳ tế Đinh xuân, thu, từ đời
trƣớc các vị tiền nhân có cúng 1 thửa ruộng 6 sào đặt làm ruộng Tƣ văn. Phàm ngƣời nào
có học, xin nhập Hội Tƣ văn cứ luân phiên theo thứ tự nhận canh tác hết lƣợt này đến
lƣợt khác. Hàng năm ngƣời nhận canh tác đó mời bản thôn đến tập trung ở đình bản thôn chiếu theo số ruộng nhận canh tác đã đƣợc giao mà mua sắm lễ vật”100. Hội Tƣ văn cùng các văn thân, hào trƣởng đứng lên lo liệu việc xây dựng, trùng tu Văn từ, Văn
chỉ - biểu tƣợng của Nho học, đề cao tinh thần hiếu học tại địa phƣơng “Hội Tƣ văn
cùng các vị thân hào trong tổng lo đặt ruộng để phụng thờ, khuyên tiền đƣợc 1600 quan, đặt 5 mẫu ruộng”101. Tế tự vào ngày Đinh hai tiết xuân, thu, lễ cầu an, cầu phúc, lễ hội làng… là việc hệ trọng ở các làng quê. Trong các dịp đó, Hội Tƣ văn
luôn đứng ra chu tất từ sắm sửa lễ vật, viết văn tế, vai trò chủ tế, giữ đồ tế khí, biếu
phần, v.v… Hội Tƣ văn còn đề ra những quy định về lễ vinh quy bái tổ “Trong Hội
98 “ 某有試生連中一二場方得預斯文會”, 乂安省興元府都安總春盛村俗例, AF.b1/5, t.13a; “何 人
係 官 員 子 孫 當 從 學 問 並 試 課 生 方 得 望 入 文 簿”, 校 美 村 俗 例, AF.b1/16, t.6a.
99 “一某員中舉人 者勾當整繡帳一幅芙酒一盤錢陸 貫致賀; 一某員中進士 者勾當整卞錦帳一幅 芙榔一盤酒一盤 錢拾 貫大炮二封北茶一盤荣回之日勾當通本會齊往迎接 致賀”, 乂安省興元府扶龍總 扶舍 村俗例, AF.b1/14, t.9b.
100 “一 约 村 內 仝 年 有 春 秋 二 丁. 從 前 先 人 有 供 二 務 田 一 所 公 高 置 為 斯 文 田 .凡 何 人 有 學 咱 入 文 会 者 據 輪 次 耕 田, 终 而 復 始. 遞 年 伊 人 耕 田 請 本 村 就 亭 炤 併 交 伊 耕 田 買 卞 禮 物”, 福 厚 村 俗 例 , AF. b1/16.
101 純忠總文址碑記 , N0 2654
96
ngƣời trúng nhị, tam trƣờng, ngƣời trúng Cử nhân ngày vinh quy bản hội mũ giầy
chỉnh tề, áo dài tay màu xanh lam cùng đợi đón tiếp. Lại biện lễ mừng gồm 1 đôi câu đối, 1 buồng cau, 5 quan tiền, 2 bánh pháo đến chúc mừng”102.
Hội Tƣ văn thôn Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lƣu có bản khoán hội riêng, với
nhiều điều ƣớc khuyến học. Điều lệ của Hội luôn thay đổi, phù hợp với tình hình xã
hội thực tế, nhằm đạt đến hiệu quả khuyến học cao nhất. (xem mục 3.2.3).
Hội Tƣ văn, hội của những ngƣời trí thức Nho học ở làng xã, đóng vai trò nòng cốt
trong các hoạt động giáo dục, văn hóa, thấm đậm tinh thần Nho giáo ở làng quê. Các
hình thức khen thƣởng gồm hỗ trợ về vật chất, động viên về tinh thần của Hội đã
đem lại giá trị khuyến học cao. Dân làng tôn trọng hƣơng ƣớc, thực hiện đúng những
quy định về hình thức khuyến học. Ngƣời học giỏi, đỗ đạt cao đƣợc kính trọng, hậu đãi
đã tạo hiệu ứng xã hội, lan tỏa khắp xóm làng.
3.1.3. Chế tài xử phạt
Phạt là biện pháp cƣỡng chế nhằm tƣớc bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của
ngƣời mắc lỗi, thông qua các hình phạt cụ thể, giáo dục mọi ngƣời ý thức tuân theo
những quy tắc, chuẩn mực trong cuộc sống, giáo dục con ngƣời tôn trọng luật lệ,
hƣớng đến cuộc sống tốt đẹp hơn. Trong các văn bản tục lệ KHNA, bên cạnh các
điều ƣớc với nội dung mừng, thƣởng, các thôn xã đều đƣa ra những hình thức phạt
cụ thể, nhằm mục đích răn đe, buộc mọi ngƣời phải tuân thủ, hơn cả là hƣớng đến
đích “thực học”, tôn trọng khoa mục và Nho học. So với khen thƣởng, các chế tài
phạt chiếm tỷ lệ ít hơn. Các hình thức phạt đƣợc ghi chép khá chi tiết nhƣ: phạt tiền,
phạt roi, phạt lợn, phạt rƣợu, trầu cau, phạt không cho canh tác học điền, v.v...,
trong đó phạt tiền chiếm tỷ lệ nhiều nhất. Mức phạt tiền nhẹ nhất là 3 mạch đối với
những ngƣời không ngồi đúng vị trí nơi đình trung, cao nhất lên đến 30 quan đối
với ngƣời để học điền cằn cỗi. Phạt tiền là một hình thức gọn nhẹ, hiệu quả so với
nhiều hình thức phạt khác nhƣ phạt roi, phạt bằng hiện vật (lợn, rƣợu, trầu cau).
Mọi cá nhân trong cộng đồng làng xã, khi vi phạm đều phải chịu hình thức phạt nêu
trên, tội nhƣ nhau, mức phạt nhƣ nhau. Đối tƣợng chịu phạt có thể là học sinh lƣời
học, ngƣời canh tác để học điền cằn cỗi, ngƣời mƣợn danh học để trốn sƣu dịch,
ngƣời tham gia đón rƣớc các vị tân khoa vinh quy bái tổ, ngƣời không ngồi đúng vị
102 “一例會中二三場諸員,試中舉人者, 榮歸之日, 本會齊整冠履著長袖藍衣同候迎接.又卞繡對
一聯,榔一房,錢五貫,喜炮二封, 致賀”, 乂安省興元府都安總成功村俗例, AF.b1/4, t.31b.
97
trí nơi đình trung, v.v...
3.1.3.1. Phạt người lười học
Năm Giáp Tý, Tự Đức thứ 7 (1864), triều đình định lệ phạt với ngƣời lƣời học
“Nếu ai học tập trễ nải, không đủ hạn 10 chữ nhƣ trƣớc, phải phạt 10 roi, cứ 10 chữ
lại thêm lên 1 bậc. Kỳ thứ 2, còn thiếu số, chiểu lệ đánh roi trách phạt và mỗi tháng
giảm đi 1 quan về tiền cấp cho ăn học”. [142, tr.867]. Tại Nghệ An, lệ phạt đƣợc quy
định rõ ràng “Trong xã đã chọn 2 ngƣời giám sát, đến cuối tháng, trực tiếp đến trƣờng
học kiểm tra (...) ngƣời nào rong chơi, quy định phạt 30 roi. Nếu không thay đổi mà tái phạm thì đuổi (khỏi trƣờng) để làm nghiêm việc học”103. Việc học phải thƣờng xuyên, tránh thất thƣờng "Học nên chuyên cần, không nên thất thƣờng. Phàm trong thôn học
trò xác thực có học, sức có thể dự thi, chƣớc trừ tƣ dịch để biểu thị sự khích lệ; nếu
ngƣời nào có học nghiệp nhƣng không chăm chỉ, bút nghiên sơ sài bản thôn định lệ phạt 3 quan để biểu thị sự trừng phạt”104.
Khuyến khích học trò chuyên tâm vào học tập các thôn xã có quy định về việc
trừ công dịch “nếu vừa canh tác vừa học, hết thảy không tha. Thêm nữa, lệ đầu xuân
có khảo hạch, ngƣời nào thi đỗ, ứng miễn sƣu dịch cả năm; ngƣời nào không trúng, mà xác định là thực học, cũng thuận theo xem xét miễn”105. Thôn Thiện Kỵ, xã Hoàng Mai đặt ra hạn định miễn trừ tạp dịch cho ngƣời đi học là 10 năm “ngƣời nào
nhập vào sổ hƣơng bạ xin đi học, lấy 10 năm làm hạn, các việc tƣ dịch tƣ hành của
bản thôn đƣợc chƣớc miễn. Phải chuyên tâm vào học, nếu trong hạn ai không
chuyên tâm vào nghề, mà làm nghề khác, (để) thi không trúng, chiếu phạt tiền 3 quan, lại truy thu tiền dao dịch mỗi năm 1 quan, để biểu thị sự răn đe”106. Xã Nguyệt Tỉnh, tổng Hải Đô, phủ Hƣng Nguyên “nếu ngƣời nào (học hành) thất
thƣờng, mƣợn danh đi học, định lệ phạt ngƣời đó lợn, rƣợu chuẩn 20 văn tiền cổ
103 “社內已擇保檢察二員至月底親來學場檢察(...) 何係遊蕩者, 定罰三十笞。若不悛而再犯者即逐
以嚴”, 乂安省興元府通朗總由礼社 玉田村俗例, AF.b1/17, t.43a.
104 “一欵學宜加勤不應以暴寒間。凡村內士人確有學,力可待科期, 酌除其私役以示勸。若某有
學業弗勤筆研荒疎本村定罰叁貫以示懲”, 壽榮村俗例, VHv.1824, t.19a.
105 “一士人專一從學, 除八役, 最緊一各酌免. 若且耕且學, 一概不恕. 再春首例有課習, 其有預中格
者, 應酌全年搜役. 其不中, 而確係寔學, 亦從酌免”, 上安村鄉例, VHv.1675/1, t.2a.
106 “某有著入鄉簿請從學業者,以拾年為限,其及本村私役茲行酌免。俾敦素業,若限內某有不專 本業雜以他 藝, 不中試[…] 炤罰錢叁貫,再行追收徭役錢,每年壹貫,以示勸懲”, 黃梅社善騎村, VHv.1824, t.37a.
98
cùng trầu cau, thông báo đến mọi ngƣời trong xã đối với ngƣời lƣời biếng, mƣợn
danh theo học, thông báo đến mọi ngƣời trong thôn” 107. Ngƣời lƣời học còn chịu phạt roi “Trong giáp lập một ngôi trƣờng học ở địa phận bản giáp, sức cho học sinh
từ 12 tuổi trở lên đƣợc phép đến trƣờng, nếu bỏ bê, lƣời biếng không chăm chỉ phạt 50 roi”108. Những ngƣời không chuyên tâm vào học, vừa học vừa canh tác đều bị phạt, tùy theo tuổi tác mà mức phạt khác nhau “Sĩ tử không theo học phạt nộp cho
Lềnh trƣởng 3 quan. Nếu vừa canh tác vừa học (mà ngƣời đó) 19 tuổi Lềnh trƣởng thu một nửa, 19 tuổi trở lên thu cả suất”109. 3.1.3.2. Phạt người mượn danh đi học
Theo quy định của nhiều làng xã xƣa, nam giới có độ tuổi từ 18 tuổi trở lên
đƣợc xếp vào hạng tráng đinh và phải chịu sƣu sai tạp dịch nhƣ mọi thành viên khác
trong cộng đồng làng xã. Đó cũng là độ tuổi phổ biến của ngƣời đi học trong nền
giáo dục khoa cử nƣớc ta thời đó, vì vậy, việc miễn sƣu sai tạp dịch giúp họ giảm
gánh nặng kinh tế, có nhiều thời gian tập trung cho việc học.
Lợi dụng những ƣu đãi của chính sách miễn sƣu sai, tạp dịch, nhiều ngƣời
mƣợn danh đi học để hƣởng lợi. Để tránh việc làm đó, nhiều thôn xã đã đề ra những
hình phạt thích đáng để răn đe “Trong xã lấy văn học làm trọng, hễ ngƣời nào đến
20 tuổi mà vẫn còn theo học, xét hễ thời chăm chỉ, chuyên cần thì năm đó sƣu dịch
trong xã đều đƣợc miễn; nếu ngƣời đó học hành thất thƣờng, bản xã phạt 112 văn, năm sau thu phí gấp đôi, để phạt tội trốn lệ và khuyến khích lòng hiếu học”110.
Thôn Ngọc Chi, xã Bảo Ngọc, huyện Quỳnh Lƣu ngoài phạt tiền và rƣợu,
ngƣời mƣợn danh học vẫn phải chịu quan dịch nhƣ bình thƣờng “Trong thôn ngƣời
nào thích đi học, bất kể lớn bé, bản thôn đều cho miễn việc sƣu dịch. Nếu ngƣời nào
107 “若伊名一暴十寒,詐名從學者, 定罰伊名猪, 酒準古錢二十文並芙榔, 通報村內諸人”, 乂安省
興元府海都總月井社俗例, AF.b1/10, t.20a.
108 “甲內設立學場一所居在本甲地分, 經飾士子自十二歲以上, 咱入學者. 若廢曠懈怠不勤議罰笞
五十茲定”, 英山府興元縣海都總香葢社上溪村, AFb1/7, t.23b.
109 “一款士人素從學業伐納令長錢三貫. 若且耕且學, 拾九歲令長受八搜受半, 拾九歲以上受正
”, 黃梅總各社村鄉俗 (金籠社), VHv.1824, t.63b.
110 “ 社內以文學為重, 係何人年届二十而尚從學業察, 係時集弥專如名社內同年力役一皆酌免,若 伊 一 暴 十 寒 , 本 社 定 罰 一 百 十 二 文 並 後 年 需 費 加 收 倍 二 , 以 懲 漏 俗 以 勸 學 心 ”, 福 江 村 俗 例 , AF.b1/22,t.22a.
99
trong sổ tịch lấy việc học để trốn tránh quan dịch, bản thôn phát giác, phạt trầu rƣợu
chuẩn tiền 3 mạch, ngƣời đó sƣu dịch vẫn phải chịu nhƣ nhau”111. Xã Nguyệt Tỉnh,
tổng Hải Đô không chỉ phạt lợn, rƣợu đối với ngƣời mƣợn danh đi học mà còn
thông báo cho mọi ngƣời trong thôn biết “Trong xã ngƣời nào đến tuổi còn theo
học, thời chăm chỉ chuyên cần, mọi việc trong xã đều đƣợc miễn trừ. Nếu ngƣời đó
(học hành) thất thƣờng, mƣợn danh theo học, định phạt ngƣời đó lợn, rƣợu chuẩn tiền 20 văn cùng trầu cau, thông báo cho mọi ngƣời trong thôn cùng biết”112.
3.1.3.3. Phạt người coi thường khoa mục, coi thường đạo Nho
TLHN về KHNA có niên đại chủ yếu thuộc triều Nguyễn, vƣơng triều lựa
chọn Nho giáo làm học thuyết “trị nƣớc”, xây dựng mô hình giáo dục mang đậm
yếu tố Nho giáo. Nho học đƣợc đặt lên vị trí hàng đầu, giáo dục Nho học đƣợc phổ
cập trong cộng đồng dân cƣ từ Nam ra Bắc. Những ngƣời coi thƣờng đạo Nho, coi
thƣờng khoa mục sẽ bị cộng đồng làng xã xử phạt.
Tại Nghệ An, những ngƣời không tham gia đón rƣớc những vị tân khoa, không
ngồi đúng thứ tự nơi đình trung, không chăm lo học điền, v.v... sẽ có những chế tài
xử phạt thích đáng.
Đón rƣớc các vị tân khoa trở về quê hƣơng bái lạy tổ tiên là hoạt động chung
của cả làng xã, thể hiện phong tục tốt đẹp. Xã thôn hoặc cá nhân nào sơ xuất, coi
thƣờng không tham gia sẽ bị xử phạt “Bản thôn lệ định, ngƣời nào đăng khoa hoặc
thƣởng sắc văn, trong thôn chọn cử chức dịch 2, 3 ngƣời, khăn áo chỉnh tề, cùng
dân phu 5 ngƣời, đều mặc áo khăn màu đen, chuẩn bị chiêng trống, cờ võng tựu tại cổng trƣờng đón tiếp, nếu sơ xuất sẽ chịu tội”113. Thôn Phƣơng Lại, tổng Hải Đô đã
quy định “Trong xã ngƣời nào thi trúng ngạch Văn, từ Tiến sĩ trở lên, trong làng
biết tin vui, lập tức giao Chánh Lý trƣởng cùng Phó lý, biện lễ 1 buồng cau, 2 bình
trà bắc, 1 phong pháo giấy (…) tập trung ở đầu bản huyện đón tiếp. Nếu ngƣời nào
111 “一例村內某員樂從學業不拘長少本村並許免役。若某藉以學若影避官役,本村覺得定捉芙酒
准錢叁陌, 其搜役同受如一”, 玉枝村鄉例, VHv.2675/2, t.8b.
112 “ 社人何人至歲而尚從學者時習弥專其如社內力從役一皆並除。若伊名一暴十寒詐名從學者, 定罰伊名猪酒準古錢二十文並芙榔, 通報村內諸人”, 乂安省興元府海都總月井社俗例, AFb.1/10, t.20a. 113 “本村例定某員登科或赏敕文,村內擇舉聀役二三人,備整衣巾並民夫五人,各具有純黑衣巾, 備
將𨨨鼓,棋輞就場門迎接,若疎率有咎”, 英山府興元縣海都總香葢社上溪村). AFb.1/7, 10b.
100
coi thƣờng khoa mục, không chịu đón tiếp, toàn dân bắt phạt 1 quan 2 mạch tiền,
100 miếng trầu cau, đến tạ lỗi với quan tân khoa. Tiền phạt đó giao cho Lý trƣởng nhận, ghi vào sổ công, sau này có việc công, toàn dân lấy để chi”114. Hình thức xử
phạt còn liên quan đến cả con cháu họ “Hễ ngƣời nào không theo đạo lý, có chửi
bới về đạo, con cháu ngƣời đó đến nhà nào xin học, nhà đó không đƣợc nhận; hoặc
có ứng thí mà thi đỗ, bản Hội cũng không cho vào Hội Tƣ văn. Nhà đó có việc vui
mừng, ma chay, có mời Hội Tƣ văn hoặc có mời riêng, không đƣợc áo mũ chỉnh tề đi làm lễ để tỏ ý răn đe, trừng phạt”115.
Không coi trọng khoa mục còn thể hiện ở việc không ngồi đúng thứ tự nơi
đình trung mỗi khi làng xã có việc. Thôn An Phú, xã Vụ Duyệt, tổng Hoàng Mai
“Sau khi tế xong ở đình hoặc ở miếu, chiếu trên bên trái của gian giữa dành cho
ngƣời khoa trƣờng sắc mệnh; chiếu tiếp theo dành cho ngƣời trong Hội Tƣ văn;
chiếu trên bên phải gian giữa dành cho các cụ thƣợng thọ; chiếu tiếp theo dành cho
các cụ từ 60 tuổi trở lên đã nạp vọng và bồi tế; chiếu tiếp theo dành cho Biền binh;
chiếu dƣới dành cho nhiêu mãi; chiếu trên hai gian phải trái dành cho ngƣời từ 50
tuổi chƣa nộp vọng và Chánh phó Lý trƣởng; chiếu tiếp theo dành cho Thủ dịch,
lãnh phó hộ theo thứ tự tuổi tác. Nếu ai ngồi không theo thứ tự định phạt 3 mạch. Nay đặt điều ƣớc”116
Một trong những mục đích của việc đặt học điền là để lấy kinh phí cấp học
bổng. Ngƣời nhận canh tác ruộng không gắng sức làm, để cằn cỗi sẽ bị phạt “Đặt
học điền 1 thửa 10 mẫu, toàn dân chiếu theo lần lƣợt canh tác để cấp học bổng. Nếu
ngƣời nào nhận cày cấy, nên đến trƣờng trình thầy giáo giao cho bút tích hoặc xin
114: “一例社內若有何試中文自進士以上, 鄉中得捷音者, 即委正里長與副里整辨新榔一、北茶二 坪、紙砲一封 (...) 就本縣地頭迎接。倘若何人慢視科目, 不肯迎接者、全民捉罰青錢一貫二陌、芙蒥 一百口, 致謝伊新科官。其錢交與里長認守, 編入八簿內, 後有八需, 全民充支”, 乂安省興元府海都總 方賴村俗例, AF.b1/12, t.19a.
115 “一條不道之人、有凌罵者、其彼之子孫或有就某堂受学者、本堂不得規習傳授或有应之科 应试中者、本会不许入斯文。彼之喜賀喪祭或有請斯文者有私請者、不得整飾衣帽行, 以示懲戒”, 瓊堆古今事跡鄉編小引, A.3154, t.22a.
116 “一祭畢之後亭中或廟所中間左邊上席科場敕命、次席文會以次定坐、中間有邊上席上壽, 次席老自公十以上已有納望及陪祭次席弁兵下席饒買左右兩間上席、自五十未有納望並正副里長,次 席守役令副戶項, 仍以齒為序.若某有失次者定罰叁陌”, 安富村俗例, VHv.1824, t.44b.
101
nộp thời vụ, đều nên gắng sức làm. Nếu ruộng học điền ngày càng cằn cỗi, phạt
ngƣời nhận canh tác 30 quan để mua phân bón ruộng đó, rồi mới cho phép nhận canh tác tiếp”.117
Nhƣ vậy, bên cạnh chế độ khen thƣởng, chế tài xử phạt trong các văn bản tục
lệ mang ý nghĩa khuyến học sâu sắc. Có thƣởng có phạt, có khuyến có trừng, hoạt
động khuyến học ở Nghệ An đã đạt đƣợc kết quả tốt nhất, tạo ra ý thức tự học, thực
học, tác động tích cực đến truyền thống hiếu học và khoa bảng nơi đây. Bên cạnh
đó, việc thƣởng, phạt còn nhằm mục đích nêu cao tính pháp chế của hƣơng ƣớc.
Các quy ƣớc đƣợc chính dân làng thỏa thuận đặt ra, phản ánh quyền lợi và nghĩa vụ
cũng nhƣ trách nhiệm của dân làng với nhau và với nhà nƣớc. Song sự hạn chế
trong việc thực thi của hƣơng ƣớc nếu chỉ dựa vào tính tự giác, tinh thần tự quản
của ngƣời dân, mà cần phải có những quy ƣớc mang tính pháp chế cụ thể. [97,
tr.293].
3.1.3.4. Phạt đối với thầy không có tài, đức: Dƣới triều Nguyễn, giáo dục đào
tạo rất đƣợc quan tâm. Thời Tự Đức, triều đình định lệ bổ nhiệm Giáo chức đối với
Cử nhân đã từng thi Hội từ 40 tuổi trở lên; học quan phải đạt yêu cầu là Tiến sĩ, Phó
bảng; đội ngũ học quan đƣợc mở rộng ở các miền biên ải và vùng dân tộc thiểu số
“chọn ngƣời làm thày dạy, hoặc sai mời thày dạy riêng, hoặc sai đến tận nơi giảng
tập”. Đi cùng với việc phát triển độ ngũ học quan là những quy chế thƣởng phạt rõ
ràng nhằm không ngừng nâng cao năng lực đội ngũ thầy đồ cũng nhƣ phát triển
giáo dục. [17, tr.401].
Xuất phát từ quan niệm thầy dạy phải giỏi thì trò mới giỏi, nên ngƣời đứng
đầu các triều đại, đặc biệt là triều Nguyễn đã ban hành những quy chế cụ thể, chặt
chẽ về việc tuyển chọn, khảo hạch việc giảng dạy của giáo chức từ cấp tỉnh xuống
phủ, huyện. Các ông vua triều Nguyễn luôn lựa chọn hai tiêu chí năng lực chuyên
môn và đạo đức để tuyển dụng “khoa mục xuất thân” nhƣng phải “học rộng biết
117 “一學田一所拾畝, 全民炤次輪流以供學俸。如何人認耕干宜就學校呈教師,付許筆跡或乞納 辰務, 各宜尽力。若這學田日以瘦損, 定罰领耕人三十貫以糞其田再許認管”, 魯田村俗例, AF.b1/8, t.18b.
102
nhiều” “gƣơng mẫu” để “học trò tin theo”. [16, tr.401].
Thôn Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lƣu, nơi có nhiều thầy dậy nhất tỉnh Nghệ
An, thôn đã đề những chế tài rất cụ thể với thầy dậy “Một khi đã làm bậc thầy thì
nên lấy đạo làm trọng, mỗi cử chỉ về lời nói việc làm không nên cẩu thả, nếu càn rỡ
tự cho mình là bậc tôn quý đòi hỏi quá nhiều, một khi không vừa ý thì lăng nhục
chủ nhà, có ý riêng thế nào, tai tiếng đồn vang, làm thƣơng tổn đạo Nho, ngƣời có
tên trong sổ Hội thì tƣớc bỏ tên ra, ngƣời không dự tên trong sổ Hội thì đánh 30 gậy và đƣa giấy sang nơi khác phải nhất thiết đuổi đi ”118. Xã Yên Pháp, tổng Đô Yên
quy định không miễn sƣu dịch cho những ngƣời thầy không chuyên tâm vào công
việc “ nếu ngƣời đó theo nghề giáo, tập trung tâm trí vào việc, bản xã xem xét miễn
dịch; nếu ngƣời đó xác định là không chuyên tâm thì không đƣợc xét theo lệ này”119. Những chủ nhà không cẩn trọng trong việc chọn thầy, dẫn đến chọn sai
ngƣời, chủ nhà cũng bị phạt 1 quan 2 mạch, đó là quy định của xã Tri Lễ, tổng
Đặng Sơn.
Chế tài xử phạt có tác dụng răn đe, ngăn ngừa sĩ tử lƣời học, mƣợn danh học,
lợi dụng việc học để chuộc lợi cho bản thân, tạo ra tiền lệ xấu. Điều này thể hiện sự
thƣợng tôn pháp luật trong đời sống cộng đồng tại Nghệ An. Thông qua hình thức
thƣởng, phạt, phần nào phản ánh tình hình kinh tế của địa phƣơng trong thời kỳ lịch
sử nhất định. Những quy ƣớc về thƣởng và phạt nói chung, trong hoạt động khuyến
học nói riêng, thể hiện tính nghiêm khắc của lệ làng, đề cao những chuẩn mực của
hƣơng ƣớc trong mọi mặt đời sống của làng xã. Chế tài xử phạt giúp ngƣời dân tích
cực hơn trong học tập, chống lại những thói hƣ tật xấu, ảnh hƣởng đến việc học nói
riêng, đến lợi ích của cộng đồng nói chung, củng cố thêm tính cộng đồng bền chặt của
118 “一係我村多出文人專行教授成業師、各宜以道自重、言行舉止不可苟然。若妄自尊大要求 多事一不如意、坐凌家主 (…) 及有私情何事、声說沸勝頗虧吾道、預会藉者削出其名不預会藉者杖 三十下并移詞他方一切驱去”, 琼堆今事跡鄉編小引, A.3154, t.45a.
119 “若伊名役師業時習弥專其社內力役一皆酌免。若依名確係一暴十寒不在此例”, 乂安省興
元府都安總安法社俗例, AF.b1/6, t.19a,b.
103
làng xã ngƣời Việt.
Nội dung khuyến học đa dạng, phong phú mà ngƣời dân Nghệ An thực hiện
trong quá khứ, đã đáp ứng yêu cầu thực tiễn, từng bƣớc kiện toàn hệ thống giáo dục
của địa phƣơng nói riêng. Mô hình giáo dục của làng xã tồn tại song song với giáo
dục của nhà nƣớc. Giáo dục đƣợc xã hội hóa, trƣờng học đƣợc mở ra tƣơng đối
nhiều, số ngƣời đi học tăng cao, số ngƣời bỏ học ngày một giảm, chất lƣợng nguồn
nhân lực nâng lên, ngƣời lớn ở thôn xã cũng đƣợc tham gia học, mọi ngƣời dân
đƣợc hƣởng sự công bằng trong giáo dục, xây dựng không khí học tập và các quan
hệ lành mạnh trong cộng đồng dân cƣ, tạo ra sự ổn định. [92, tr.120].
3.2. Đặc điểm nội dung tƣ liệu Hán Nôm về khuyến học của Nghệ An
3.2.1. Khuyến học của Nghệ An gắn liền với nền giáo dục khoa cử Nho học,
trọng Nho học truyền thống.
Nền giáo dục khoa cử Việt Nam kéo dài từ 1075 năm 1919, trở thành một
trong những quốc gia có nền giáo dục Nho học thuộc loại lâu đời. Song hành với
nền giáo dục đó là chính sách khuyến học nhằm khuyến khích ngƣời dân, trƣớc hết
là tầng lớp sĩ tử đi theo con đƣờng học tập, nâng cao hiểu biết. Khởi đầu hoạt động
khuyến học là nông dân cùng đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, trong đó có
Nghệ An, nơi chịu ảnh hƣởng sâu đậm Nho giáo cũng nhƣ Nho học.
Nòng cốt của hoạt động KHNA hoàn toàn do ngƣời dân tạo ra, trên cơ sở thực
tiễn của nền giáo dục khoa cử đƣơng thời. Ban đầu với mục đích nâng cao sự hiểu
biết, tƣơng thân tƣơng ái trong xóm làng. Sau khi Nho giáo, Nho học đƣợc đề cao,
khuyến học đƣợc đặt ra với mục đích cao hơn: khuyến học để tạo ra những con
ngƣời có kiến thức, tham dự khoa trƣờng, đỗ đạt làm quan, đem lại vinh quang
không chỉ cho bản thân, dòng tộc mà cả xóm làng, quê hƣơng.
Giáo dục khoa cử nƣớc ta, đạo học lấy chữ Nho làm trọng, đạo lý Khổng
Mạnh làm kim chỉ nam, Tứ thư, Ngũ kinh làm kinh điển. Khi Nho giáo trở thành hệ
tƣ tƣởng thống trị trong đời sống xã hội Việt Nam, các Nho sĩ Việt Nam đã tiếp
nhận những yếu tố tích cực của Nho giáo để xây dựng một quốc gia độc lập, tự chủ,
104
mang đậm bản sắc dân tộc. Một trong những hoạt động của Nho sĩ trong quá trình
truyền bá tƣ tƣởng Nho giáo là việc biên soạn các trƣớc tác để phổ biến trong đời
sống nhân dân [180, tr.7] và TLHN về KHNA là một trong những minh chứng đó.
Ngƣời Nghệ An từ xa xƣa đã mang trong mình tâm lý không mê đạo Phật, chỉ
thờ thánh Khổng, tinh thần ham học của ngƣời Nghệ An có ý nghĩa lớn đối với tƣ
tƣởng Nho gia, góp phần xây dựng xã hội học tập. Tôn thờ Khổng Tử - ngƣời sáng
lập Nho học, Nghệ An xƣa, từ phủ đến huyện xã thôn nào cũng có Văn chỉ, hệ
thống Văn chỉ, Văn từ, Văn miếu đƣợc ngƣời dân đặc biệt coi trọng, thƣờng xuyên
trùng tu và xây mới. Văn miếu Nghệ An nằm “ở địa phận xã Yên Dũng, phía đông tỉnh thành, phía tây là đền Khải Thánh, dựng năm Gia Long thứ 2” [20, tr.188], đó là miếu điện chính của cả trấn Nghệ An (gồm Nghệ An và Hà Tĩnh) thờ Khổng Tử,
các vị tiên triết, Tiên nho, Tiên hiền (Trại Trạng nguyên Bạch Liêu, ngƣời khai
khoa cho đất Nghệ An, Trạng nguyên Đào Tiêu, Hồ Tông Thốc. [169, tr.65 - 66]. Nghệ An trấn Văn miếu chung 乂安鎮文廟鐘 (N030455/abcd) do Hoàng giáp Bùi Dƣơng Lịch, cựu Đốc học trấn Nghệ An soạn, đúc xong năm Gia Long Nhâm Thân
(1812) với mong muốn mỗi khi nghe tiếng chuông vang, dân chúng trong bản trấn
tƣởng nhớ đến các bậc Tiên hiền các đời trƣớc đã làm vẻ vang cho truyền thống của
bản trấn.
24 bia (chiếm 44% số bia tại địa phƣơng) dựng tại 21 Văn từ, Văn chỉ trên địa
bàn tỉnh Nghệ An, gồm: 7 Văn từ cấp huyện, 3 Văn từ hàng tổng và 11 Văn chỉ cấp
thôn xã, nội dung nói về việc tôn thờ đạo Nho, sùng kính tiên sƣ. Một trong những
lý do để dân xã xây mới, trùng tu Văn chỉ, Văn từ là muốn có nơi thờ phụng các vị
Tiên hiền, Tiên Thánh, phụ thờ các thầy dậy, các nhà khoa bảng của địa phƣơng
mình. Xã Cổ Chu, tổng Đặng Xá, huyện Nghi Lộc từ thời Lê Cảnh Hƣng về trƣớc vốn không có Văn chỉ, việc tế lễ sau đó tiến hành tùy tiện rồi cố định. Năm Kỉ Tị120 quan viên trong làng bàn nhau giao cho Tú tài Nguyễn Thế Diên và hƣơng thân
Nguyễn Đình Liên đứng ra tổ chức quyên góp lƣơng bổng, tiền bạc của các quan
viên để xây dựng ngôi đền 3 gian 2 chái lợp ngói, đặt bài vị thờ Tiên Thánh, Tiên
hiền và làm nơi cúng tế hàng năm. Thôn Hội Tâm, xã An Lăng, huyện Yên Thành
120 Bia Cổ ấp Văn miếu bi ký 本邑文廟碑記 (N02375-2383), dòng niên đại trên bia có lẽ bị xóa, niên đại ƣớc đoán là Tự Đức 28 (1875), theo suy đoán năm Kỷ Tỵ là năm 1869. (xem Thư mục thác bản văn khắc Hán Nôm Việt Nam, tập II, tr.116)
105
xây dựng Văn chỉ tại xứ Đồng Cửa vào thời Gia Long, sau đó các vị hào trƣởng
trong thôn góp tiền của sửa sang lại thành tòa nhà lợp ngói, thờ phụng các vị Tiên
hiền, khắc bia liệt kê tên 7 vị Hiệu sinh và Sinh đồ đƣợc thờ ở Văn chỉ.
Ngoài chức năng là nơi thờ các vị tổ sƣ của Nho giáo nhƣ Khổng Tử và các vị tứ
phối, thập triết, Văn miếu, Văn từ, Văn chỉ còn là nơi thờ phụng những ngƣời đỗ đạt
khoa trƣờng của địa phƣơng: “Đầu tháng 7 khởi công, Tổng lý, suất phu trong huyện
dựng đền thờ của ba xã. Nhà trên 3 gian, ở giữa đắp tƣợng Khổng Tử, tả hữu đắp tƣợng tứ phối, thập triết121; nhà dƣới, hai bên lƣỡng vu thờ các vị Tiên hiền, Tiên nho và các vị đỗ đại khoa, trung khoa của huyện”122. Văn chỉ thôn Hội Tâm, xã An Lăng, tổng Vân Tụ, huyện Yên Thành phụ thờ vị 7 hiệu sinh và Sinh đồ đƣợc thờ ở Văn chỉ của
thôn “ Hiệu sinh, Sinh đồ của bản phủ thời tiền Lê: Thái Khắc Khoan tiên sinh, Nguyễn
Đình Liêu tiên sinh, Nguyễn Công Nho tiên sinh, Nguyễn Công Tín tiên sinh, Trịnh Văn Dung, Nguyễn Đình Điển tiên sinh, Thái Đăng Ngân tiên sinh” 123. Việc phụng thờ những ngƣời kiến lập biểu thị tinh thần tôn sƣ trọng trọng đạo, khuyến khích đời
sau cố gắng học hành, phát huy truyền thống khoa bảng của địa phƣơng, bởi “Việc
sùng kính tiên sƣ, nêu khen hiền tài, khuyến khích kẻ hậu tiến, đều là ở việc ấy cả, vì có quan hệ trọng đại với danh giáo, không thể một ngày không có đƣợc”124. Nội dung xuyên suốt trong TLHN về KHNA là tinh thần đề cao Nho giáo: tôn sƣ trọng đạo,
đề danh khoa bảng, chỗ ngồi nơi đình trung hay lễ vinh quy bái tổ, tang ma thờ tự
chu đáo, v.v... thể hiện tinh thần Nho gia. Vậy có thể nói rằng, khuyến học Nghệ An
là khuyến học Nho gia truyền thống, vì vậy có những ảnh hƣởng tích cực cũng nhƣ
tiêu cực của tƣ tƣởng Nho gia.
3.2.2. Nội dung khuyến học đa dạng, phong phú
Mục 3.1 cho thấy, nội dung KHNA rất đa dạng, phong phú, thể hiện trên cả
hai phƣơng diện: hỗ trợ về mặt vật chất và động viên về mặt tinh thần. Những chế
121 Tứ phối: Nhan Tử, Tử Tƣ, Tăng Tử, Mạnh Tử. Thập triết: N.han Uyên, Mẫn Tử Khiêm, Nhiễm Ná
Ngƣu, Trong Cung, Tế Ngã, Tử Cống, Nhiễm Hữu, Quý Lộ, Tử Du, Tử Hạ.
122 “丂月初起工集總里率縣夫建于三社灵祠、上堂三間、中塑正献位, 左右塑四配十哲位、次
堂至两廡祀先賢先儒、及縣大中科”, 驩州碑記, VHv.277. t.10b.
123 “ 前黎本府校生生徒蔡兊寬先生、阮廷僚先生、阮功信先生、鄭文庸、阮廷典先生、蔡登銀
先生…”, 文址碑記 (N0.2628).
124 “崇報先師、表名賢、激勵後進、皆於此乎在、其有關於名教甚大誠不可一日無也 ”,
南壇縣文祠碑, VHv.277, t.20b.
106
tài xử phạt thích đáng, mang tính răn đe cao, đem lại hiệu cao trong học tập. Nội
dung khuyến học và số văn bản ghi chép nội dung đó, chúng tôi tổng hợp lại nhƣ
sau:
Bảng 3.1. Bảng thống kê sự xuất hiện của các nội dung khuyến học trong 276 văn bản tục lệ
Vật chất
Nội dung khuyến học Dựng trƣờng, mời thầy Thƣởng cho sĩ tử Thƣởng cho các vị tân khoa
Số văn bản Tỷ lệ % 24 17 217
8.7 6,2 78,6
Thƣởng Phạt
Học điền Biếu phần Miễn sƣu sai, tạp dịch Tinh thần Xây dựng trùng tu Văn từ, Văn chỉ Lƣu danh khoa bảng Vị trí nơi đình trung Vinh quy bái tổ Tang ma thờ tự Lễ cầu khoa, tạ khoa Hội tƣ văn Lƣời học Mƣợn danh đi học Coi thƣờng khoa mục, đạo Nho Phạt ngƣời thầy không có tài, có đức
34 138 76 24 102 37 125 24 25 33 6 4 8 4
12 50 27,5 8,7 37 13 45 8,7 9,0 12 2,2 1,4 2,8 1,4
Bảng thống kê cho thấy, chế độ khen thƣởng nhiều hơn chế tài xử phạt, hỗ trợ
về mặt vật chất luôn song hành với khích lệ về mặt tinh thần, tạo ra sự phong phú,
toàn diện về mọi mặt trong đời sống nói chung, học tập nói riêng.
Khen thƣởng các vị tân khoa chiếm tỷ lệ lớn nhất trong các điều lệ khuyến
học, 217/276 văn bản (78.6%), tiếp đến là biếu lộc sau các kỳ tế lễ 138/276 văn bản
(50%) thể hiện tinh thần trọng học, trọng khoa, diễn ra khắp các thôn xã trên quê
hƣơng Nghệ An.
Dùng vật chất làm động lực thúc đẩy học tập: Giáo dục khoa cử Nho học ở
Nghệ An nói riêng, cả nƣớc nói chung, tập chung chủ yếu vào những môn khoa học
xã hội. Thời gian thi cử lấy ba năm làm một kỳ tuyển chọn, để đạt đƣợc học vị cao
nhất, sĩ tử phải trải qua ba kỳ thi Hƣơng, thi Hội, thi Đình, tốn rất nhiều thời gian và
công sức. Hơn nữa, sĩ tử của Nghệ An phần lớn là con những dân nghèo, chân lấm
tay bùn, sống ở nông thôn, điều kiện khí hậu khắc nghiệt, đất đai cằn cỗi, đời sống
bấp bênh, chi phí cho học tập tốn kém, v.v... những chính sách hỗ trợ bằng vật chất
107
đã góp phần giảm gánh nặng về kinh tế, tạo động lực học tập cho sĩ tử.
Để ngƣời đi học yên tâm theo đuổi đèn sách, các thôn xã ở Nghệ An chú trọng
đến việc dùng vật chất làm động lực thúc đẩy việc học. Những quy định, chính sách
thiết thực, liên quan trực tiếp đến học tập đƣợc ghi rõ trong các văn bản hƣơng ƣớc,
nhƣ: dựng trƣờng mở lớp, thƣởng (bút, giấy, mực) cho các sĩ tử, tạo môi trƣờng dạy
và học tốt nhất cho thầy trò. Sĩ tử thi đậu nhất, nhị trƣờng, đƣợc tạo điều kiện tốt để
tiếp tục học tập, phấn đấu cho các kỳ thi tiếp theo. Nhiều thôn xã miễn sƣu sai tạp
dịch, miễn binh lính để việc học tập của sĩ tử không bị gián đoạn. Khi đỗ đạt, thành
danh, các vị tân khoa đƣợc làng xã trích quỹ thƣởng (tiền, ruộng, trâu, bò, rƣợu, câu
đối, trƣớng). Sau các kỳ tế Đinh xuân, thu, các tiết Nguyên đán, cầu phúc, cầu an,
cơm mới, v.v…, phần lễ trọng nhất dành biếu cho các vị khoa bảng. Nhìn chung, sự
khuyến khích bằng vật chất một mặt giúp ngƣời đi học trang trải cuộc sống hàng
ngày, mặt khác động viên, khuyến khích họ hăng hái vƣơn lên trong học tập.
Khuyến khích về mặt tinh thần, tạo tâm lý sùng chuộng việc học: Tinh thần là
yếu tố quan trọng góp phần tạo ra thành công của con ngƣời. Để khuyến khích về
mặt tinh thần, chính sách KHNA tập trung ở các yếu tố: tạo ra tâm lý sùng chuộng
việc học, ổn định tinh thần cho ngƣời đi thi, tôn vinh ngƣời đỗ đạt. Xây dựng, trùng
tu Văn chỉ, Văn từ, Văn miếu, nơi thờ tự các vị Tiên hiền, Tiên nho diễn ra khắp các
làng xã cho đến huyện tỉnh tại Nghệ An. Chúng tôi đã thống kê đƣợc 14 văn bia ghi
về việc thờ tự các vị Tiên hiền, Tiên nho; 10 văn bia chép về việc di dời, xây mới,
trùng tu Văn từ, Văn chỉ. Hệ thống Văn miếu, Văn từ, Văn chỉ đóng vai trò rất quan
trọng trong việc khuyến học bằng tinh tinh thần của các làng xã. Không chỉ thờ tự
Khổng Tử, Tứ phối, Thập triết, những ngƣời có công khai mở việc học, đây còn là
nơi thờ tự những ngƣời địa phƣơng đỗ đạt qua các kỳ thi, nơi dựng bia ghi đề danh
khoa bảng, với mục đích biểu dƣơng khuôn phạm cho đời trƣớc, vun trồng thanh
danh cho đời sau, giúp cho phong tục thêm phồn thịnh.
Lễ cầu khoa thƣờng xuyên đƣợc tổ chức trƣớc mỗi khoa thi, tạo ra tâm lý ổn
định cho các sĩ tử, khiến họ yên tâm, vững tin bƣớc vào các kỳ thi quan trọng. Mỗi
khi làng xã có ngƣời đỗ đạt, để biểu dƣơng việc học, mỗi địa phƣơng thƣờng tổ
chức đón rƣớc về quê kính cáo với tổ tiên, xóm làng, với nghi lễ trang trọng. Ngƣời
đỗ đạt đƣợc đề danh khoa bảng, đƣợc giành vị trí trang trọng ở đình làng, biếu lộc
sau mỗi kỳ tế lễ, v.v… đều là những hình thức vinh danh ngƣời học, mang giá trị
108
tinh thần sâu sắc.
3.2.3. Nội dung khuyến học mang tính linh hoạt, phù hợp với thời cuộc
Để có đƣợc những bản hƣơng ƣớc với nội dung phong phú, phù hợp với thời
cuộc, mỗi làng xã đều phải trải qua quá trình tự điều chỉnh, tự bổ sung, vì quyền lợi
của mọi ngƣời dân cũng nhƣ sự ổn định chung của cả cộng đồng. Theo ghi chép của
các bản tục lệ, phần lớn các thôn xã trƣớc đây vốn đã có điều lệ, nhƣng việc tuân
theo chƣa mấy thuận tiện, nay họp bàn tăng thêm các khoản để phù hợp hơn với
thời cuộc. Thời cuộc ở đây có thể hiểu là những biến đổi về kinh tế, văn hóa, nhận
thức của làng xã và những thay đổi của các triều đại phong kiến. Sự điều chỉnh và
bổ sung nội dung hƣơng ƣớc, trong đó có điều ƣớc khuyến học nhằm đạt đến sự phù
hợp với tình hình thực tế của địa phƣơng, giữa lệ làng và phép nƣớc, đem lại hiệu
quả khuyến học cao nhất.
Chúng tôi thống kê đƣợc 64 bản tục lệ có bổ sung điều ƣớc, trong đó 38 bản
bổ sung điều ƣớc khuyến học (chiếm 59%), (xem Phụ lục 4.1). Bảng thống kê cho
thấy, khá nhiều thôn xã ở Nghệ An thực hiện việc điều chỉnh và bổ sung hƣơng ƣớc,
nhiều nhất là huyện Hƣng Nguyên. Bản Hương khoán thôn Quỳnh Đôi, huyện
Quỳnh Lƣu lập vào năm Dƣơng Hòa thứ 4 (1638) sung nhất điều ƣớc nhiều nhất,
tổng cộng là 44 lần trong thời gian là 218 năm, trải qua 11 triều vua, từ năm Dƣơng
Hòa thứ 4 (1638) cho đến năm Tự Đức thứ 9 (1856). Điều đó cho thấy, cùng sự phát
triển của về kinh tế, văn hóa, xã hội, khuyến học ở làng xã cũng cần phải thay đổi, cải
biến để phù hợp với tình hình thực tế.
Hội Tƣ văn thôn Quỳnh Đôi, tổ chức hội của những ngƣời tri thức. Trƣớc đây,
điều kiện gia nhập Hội là những ngƣời có khoa trƣờng, tuổi từ 30 trở lên. Đến cuối
thế kỉ XVIII, trƣớc bão táp của phong trào Tây Sơn, đất nƣớc có nhiều biến đổi, dân
làng Quỳnh ít ngƣời đi học, ít ngƣời đỗ đạt khoa trƣờng, Hội Tƣ văn phải hạ thấp
tiêu chuẩn vào Hội “con em các bậc danh gia, có văn học” hoặc “đầu năm khảo
hạch, ngƣời nào trúng hạng trung bình trở lên cũng cho ghi vào sổ hội, để tỏ sự
khuyến khích, làm cho văn chƣơng đƣợc phấn chấn”. Sự linh hoạt đó khiến cho Hội
Tƣ văn vẫn đƣợc duy trì. Về sau, khi tình hình làng nƣớc tƣơng đối yên ổn, Hội Tƣ
văn trở lại thực thi lệ cũ, ai có khoa trƣờng mới đƣợc nhập Hội. [94, tr.54].
Những biến động của làng xã cùng với những nhu cầu của nhà nƣớc phong
kiến đã đƣợc sử dụng thành hệ quy chiếu cho việc điều chỉnh, bổ sung các điều ƣớc
109
khuyến học. Hội Tƣ văn thôn Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lƣu quy định “Ngày 20
tháng 12 năm Quang Trung thứ 3 (1790) cùng bàn: Từ trƣớc các hội viên, ai dự
trúng khoa trƣờng thì ghi vào sổ Hội. Nhƣng nay khoa mục từ lâu thƣa ít, vậy cùng
bàn: phàm con em các bậc danh gia, có chút văn học thì chiếu theo tiền vọng lệ cũ,
cho vào sổ hội. Phàm các việc tế lễ, áo mũ chỉnh tề hành lễ để mở rộng đạo Nho,
kéo dài mạch văn. Cùng là một mạch văn, cốt phải nhún nhƣờng. Phàm những
ngƣời trong sổ hội không đƣợc vì ý riêng làm càn, cho là bên đứng đắn bên phức tạp lấn bức nhau là bất kính, ai làm trái sẽ bị phạt, ai chống lại thì tƣớc sổ Hội”125. Sau 10 năm, đến năm Cảnh Thịnh thứ 8 (1800) Hội lại đƣa ra những thay đổi:
“Theo lệ cũ những ngƣời có khoa trƣờng đƣợc phép ghi vào sổ Hội. Từ khi có binh
biến đến nay khoa mục sơ sài, ngƣời theo học ngày càng lƣời nhác. Nay phỏng theo
các ý lựa chọn ở làng, theo hƣơng lệ, đầu xuân khảo hạch đã thành quy định. Định
ra hễ ai dự trúng hạng ƣu trở lên cho nộp tiền vọng, theo lệ cũ đƣợc nhập vào sổ của hội để tỏ sự khuyến khích, làm chấn hƣng văn phong”126. Năm Gia Long thứ 10 (1811), Hội lại cho phép, phàm những ngƣời trong sổ Hội, cho phép con em của
ngƣời không có ngƣời nối dõi, nộp 8 quan tiền, 1 sào ruộng sẽ, đƣợc phụ thờ cùng
các bậc hậu hiền, xuân thu đƣợc phụ tế, để đầy thêm đạo.
Tính linh hoạt đƣợc thể hiện trong việc đặt học điền, cùng một mục đích
thƣởng cho ngƣời đỗ đạt khoa trƣờng, nhƣng xã Khánh Sơn, tổng Văn Viên quy
định nếu thôn (xã) nào chƣa có ngƣời đỗ đạt thì giao cho khóa sinh, chƣa có khóa
sinh thì giao cho Lý trƣởng canh tác để tiêu vào công việc và giấy bút cả năm. Xã
Yên Lƣu, tổng Yên Trƣờng cũng quy định “Bản xã đặt học điền tại xứ Cấp Tứ 1
mẫu, ngƣời nào hễ văn trúng khoa trƣờng, nhận canh tác để khuyến khích hậu học.
Nếu chƣa có khoa bảng nhƣng là thí sinh nhất nhị trƣờng, đƣợc quyền nhận canh
125 “光中三年十二月二十日共议:係從前久会員為預中科場者、著入会籍。第茲科目久疎、仍共 議、凡諸為家子弟、頗有文学、应炤舊例望錢许入会籍。凡有祭礼齊整衣帽 以弘斯道、杂文脉。係 是斯文一脉務在遜讓。凡有会籍、無得变狹、私意以正雜相陵涉於不遜,逆者有罰、振強者削其会 籍”, 会券、瓊堆古今事跡鄉編小引, A.3154, t.26a.
126 “景盛兪年正月十三日共議:舊例預有科場、許入会籍、自兵變以來、科目久蔬預有優中項以
上、許納望錢依舊著入会籍、以示激切、而振文風”, 会券、瓊堆古今事跡鄉編小引, A.3154, t.26b.
127 “本社例置學田在給賜處五度次貳壹畝,何係文中科場均認耕作以勸後學。如科目未繼間有一 二場試生聽權認耕作(遞年出錢拾陆貫, 認辨猪炊庶品附入文址正旦禮, 俟有科榜卽照舊認耕”, 眞祿縣 安陽總安留社券例, HUN.813, tr.16.
110
tác. Hàng năm xuất tiền 10 quan biện lễ cúng dịp tết Nguyên đán tại Văn chỉ, đợi khi có khoa bảng thì chiếu theo lệ cũ nhận canh tác”127.
Trong lệ biếu lộc, nhiều thôn xã cũng rất linh hoạt, chủ động chuyển dịch phần biếu đến các đối tƣợng khác nhau, nhƣ xã Bùi Khổng “Thủ lợn tế chia làm 3 phần, 2 phần có lƣỡi biếu ngƣời đỗ đại khoa, chƣa có đại khoa biếu Cử nhân, Tú tài, chƣa có những ngƣời đó (thì) biếu khóa sinh”128. Thôn Thanh Liệt quy định thủ con vật tế dùng để biếu ngƣời đỗ đại khoa, nếu chƣa có thì biếu Cử nhân, Tú tài, hoặc chƣa có ngƣời khoa trƣờng thì biếu ngƣời có sắc mệnh, kỳ lão, tùy thuộc vào tình hình thực tế của địa phƣơng thời điểm bấy giờ “Bản thôn định lệ phàm tế lễ dùng con vật tế, thủ con vật đó biếu ngƣời thi Hội, chƣa có thi Hội biếu Cử nhân hoặc Tú tài; nếu chƣa có ngƣời (đỗ) khoa trƣờng (thì) biếu ngƣời sắc mệnh, những ngƣời có phẩm hàm cao thì biếu”129. Hội Tƣ văn thôn Thái Lão, tổng Đô Yên quy định “Trong thôn ngƣời nào dự thi đại khoa cùng Cử nhân, Tú tài, sau khi 100 tuổi, đƣợc bản xã rƣớc linh nhập bên hậu Văn chỉ để thờ tự, không có các thứ hạng đó, không đƣợc dự. Nếu ngƣời nào học hành không đỗ đạt, (nhƣng) có phẩm vọng khả quan, con cháu tình nguyện xin nhập hậu, Hội Tƣ văn của toàn xã phải cùng ký kết. Con cháu ngƣời đó gửi 100 quan tiền, 1 mẫu ruộng để làm ruộng tế, sau đó mới đƣợc thờ tự, ai làm trái lệ thì sẽ dừng (việc gửi tế)”130.
Qua thống kê cho thấy, việc điều chỉnh và bổ sung các điều ƣớc KHNA đƣợc diễn ra chủ yếu vào cuối thế kỷ XIX, nhiều nhất là thời Tự Đức. Điều lệ đƣợc bổ sung nhiều nhất là lệ thƣởng đối với ngƣời đỗ đạt khoa trƣờng. Điều đó phản ánh sự biến đổi và tác động mạnh mẽ của xã hội đối với sự tồn tại, phát triển của làng xã. Nhờ sự chủ động và linh hoạt trong các chính sách mà hoạt động KHNA luôn đem lại sự hài lòng, đồng thuận của ngƣời dân, đạt đƣợc hiệu quả khuyến học cao. Trong quá trình tồn tại, phát triển, điều chỉnh hƣơng ƣớc Nghệ An không tránh khỏi những ảnh hƣởng của Nho học truyền thống.
128 “一牲首分為三分, 二分有舌俵大科員.若未有咱其俵舉人,秀才.若未有咱其俵試課生”, 裴孔
社上村俗例, AFb1/9, t.9b.
129 “一 本 村 例 定 凡 祭 禮 用 牲 者, 其 牲 首 俵 會 科 員, 未 有會 科俵 舉 人 或 秀 才,一 未 科 場 者 俵
敕 命 隨 品 衛 高 者 舉 俵”, 清 烈 村 俗 例 , AF.b1/16, t.11b. .
130 “一係社内何員人預有大科並舉人秀才百歲後本社迎入文址扁後祀。無有此項不得預。倘何 人學行不弟其人品望有可觀,子孫情願迎入後食, 仝社文會要順記结。伊子孫借錢一百貫, 田一畝以為 祭田, 後然得祀、違例則止.”, 乂安省興元府都安總蔡老社俗例, AF.b1/5, t.5b,6a.
111
3.2.4. Nội dung khuyến học mang tính đặc điểm vùng Căn cứ vào nội dung khuyến học từng huyện của Nghệ An, chúng tôi nhận thấy, mỗi nơi chú trọng đến một nội dung riêng, có thể coi đó là thế mạnh khuyến học của từng vùng.
Trong danh sách 31 thầy mở trƣờng dậy học ở Nghệ An (xem Phụ lục 3.1) có đến 23 thầy là ngƣời xã Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lƣu. Với một đơn vị hành chính cấp xã nhƣ Quỳnh Đôi, 23 lớp học đƣợc mở ra, tạo ra môi trƣờng học tập khắp thôn xóm, cơ hội học tập đến gần hơn với ngƣời dân. Xã Quỳnh Lƣu thuộc huyện Quỳnh Lƣu cũng là một trong 2 huyện của Nghệ An có trƣờng học ở huyện lỵ, dựng năm Minh Mệnh thứ 12 (1931). [139, tr.171]. Phong trào học tập nở rộ khắp nơi, tác động đến mỗi cá nhân, từng gia đình, tạo ra hiệu ứng khuyến học mạnh mẽ. Những lớp học đó chính là cái nôi nuôi dƣỡng, đào tạo nhân tài, tạo ra đội ngũ các nhà khoa bảng với 9 Tiến Sĩ, 5 Phó bảng, 43 Cử nhân, đứng đầu các xã khoa bảng ở Nghệ An, vƣợt xa xã Võ Liệt đứng thứ 2, với 1 Tiến sĩ, 2 Phó bảng và 21 Cử nhân. [167, tr.365].
Triều Nguyễn, vƣơng triều đầu tiên trong lịch sử trung đại thực hiện chính sách giáo dục đối với các dân tộc ít ngƣời trên đất nƣớc ta. Bắt đầu từ vua Minh Mệnh, tiếp đến là Thiệu Trị, Tự Đức, mục tiêu của chính sách này nhằm xây dựng một nền giáo dục Nho học thống nhất trong cả nƣớc, không phân biệt ngƣời Kinh với ngƣời thiểu số, không phân việt đẳng cập, xóa dần hủ nạn trì truệ, cục bộ ở các vùng sâu, xa. Từ đó, tiến tới phổ cập giáo dục Nho học, trình độ sơ cấp, đồng thời đào tạo bộ máy quan chức thiểu số, ngƣời Kinh cho các vùng dân tộc và miền núi. [189, tr.580]. Tỉnh Nghệ An cũng áp dụng chủ trƣơng, chính sách đó trong hoạt động khuyến học.
131 鄧山朗田二總各社村鄉俗例 (南山社安富村), VHv.1825, t.55a; 鄧山朗田二總各社村鄉俗例 (南
山社陽隆村), VHv.1825, t.67b.
132 鄧山社可封村, VHv.1825, t.44b. 133 南山社安富村, VHv.1825, t.55a; 南山社知禮村, VHv.1825, t.80b.
112
Lƣơng Sơn là huyện miền núi nghèo, kinh tế khó khăn, giao thông hiểm trở, đời sống ngƣời dân vô cùng khó khăn, song số văn bản tục lệ khuyến học nơi đây nhiều hơn các huyện Yên Thành, Thanh Chƣơng, Nam Đàn, Chân Lộc. Để khuyến khích học tập, huyện đã dùng biện pháp giảm sƣu trừ thuế cho ngƣời dân, giúp họ đỡ đi phần nào gánh trong cuộc sông, yên tâm học tập. Có 11/26 thôn xã có tục lệ khuyến học đề ra những quy định liên quan đến sƣu dịch. Nhiều thôn xã miễn trừ hết công dịch cho học sinh, khóa sinh, thí sinh131; có nơi quy định về mức miễn sƣu dịch rất cụ thể nhƣ “học trò nhỏ đƣợc miễn, khóa sinh đƣợc miễn nửa tiền sƣu, thí sinh đƣợc miễn hết tiền sƣu”132; thôn Yên Phú, thôn Tri Lễ, xã Sơn Nam thì miễn hết cho cả học sinh, khóa sinh, thí sinh để khuyến khích kẻ sĩ và đẹp phong hóa133. Xã Cấm Vọng, tổng Lãng Điền còn miễn việc binh cho anh em 1 đời đối với những học trò thực học, trúng nhất
nhị trƣờng134. Giảm gánh nặng sƣu thuế, ngƣời dân vùng dân tộc này yên tâm giành thời gian, công sức cho việc học.
Để tạo ra sự gắn kết giữa học trò với nhau, giữa học trò với thầy dạy, đem lại hiệu quả khuyến học cao, 15 thôn xã thuộc tổng Vân Tụ, huyện Yên Thành đặt lệ đồng môn trong các văn bản hƣơng ƣớc. Đây là huyện có nhiều thôn xã nhất trong tỉnh Nghệ An có quy định này. Ngoài ra chúng tôi có ghi nhận lệ đồng môn ở xã Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lƣu; các huyện khác không thấy có lệ đó trong các văn bản tục lệ. Thông thƣờng, 5 đến 10 ngƣời học trò cùng học một thầy hợp nhau lại thành một hội, đề ra những quy định chung: đóng mỗi ngƣời 1- 2 quan tiền, bầu 1 ngƣời giám trƣờng giữ sổ ghi chép tên học trò, số tiền đóng góp, khi thầy có việc vui, buồn qua để chúc mừng, thăm viếng. Hội đồng môn thôn Phong Niên, xã Tiên Cảnh khi thầy có việc, thời học trò đem tiền gạo đến, khi thầy chết mặc áo trắng để tang thầy135; Hội đồng môn xã Hiệp Hòa, tổng Vân Tụ đóng mỗi ngƣời 1 quan khi nào thầy chết, mỗi năm làm giỗ thầy một lần136. Hội đồng môn thôn Yên Cƣ, xã Phù Long có những quy định chi tiết “ Thầy có hôn sự đồng môn đến mừng 5 quan tiền diên, 1 bàn trầu rƣợu. Thầy có việc hiếu của cha mẹ, đồng môn phúng 15 quan tiền diên, 1 bàn trầu rƣợu. Thầy có việc chúc mừng cha mẹ, đồng môn mừng tiền 5 quan, 1 bàn trầu rƣợu. Thầy không may qua đời, đồng môn tập trung lo việc tắm rửa, áo quần, khâm niệm, quan quách. Bàn định, đồng môn đóng tiền mỗi ngƣời 6 mạch (...) mua 1 con lợn trị giá 15 quan tiền diên; mua tiền, vàng, trầu, rƣợu mỗi thứ 3 quan cùng hƣơng 2 mạch, nến trắng 1 bao 6 mạch tiền diên, 2 vuông vải trắng trị giá 1 quan 2 mạch (để đến viếng)137.
134朗田口傳例摺 (禁妄社), VHv.2654, t.3b 135 安城縣雲岫總仙境社豐年村, VNv.7/2, t.4b. 136 縣安城總雲岫社洽和 , VNv.7/2, t.4b. 137 “一先生婚事同門喜鉛錢五貫芙酒一盘 ; 一先生有孝父母, 同門吊鉛錢十五貫, 芙酒一盘, 對一 联用白布 ; 一先生有慶賀父母, 同門賀喜錢五貫,芙酒一盘; [16a]一先生不幸捐世, 同門齊就定料沐浴, 衣 復,身屍襟 歛, 棺槨. 一議定同門逗錢每人公陌共 (…) 一 買猪一頭值鉛錢十五貫 . 一買金銀芙酒各三貫 並香二陌,白蠟一包鉛錢公陌 , 一白布二方值鉛錢一貫二陌”, 乂安省興元府扶龍總安居 村俗例, AF b1/1, tr.15b.
113
Lệ đồng môn không chỉ tăng sự gắn kết giữa những ngƣời cùng học với nhau, mà còn thể hiện tinh thần tôn sƣ trọng đạo, tri ân với những ngƣời thầy. Bởi hơn ai hết, các thế hệ học trò đều hiểu đƣợc ý nghĩa của câu thành ngữ “không thầy đố mày làm nên”.
TIỂU KẾT CHƢƠNG 3
Nội dung khuyến học qua TLHN của tỉnh Nghệ An tập trung chủ yếu ở mảng
tục lệ khuyến học và văn bia tại địa phƣơng. Với một địa phƣơng nghèo nhƣ Nghệ
An, việc dựng trƣờng mở lớp, chế độ khen thƣởng (đặt học điền, biếu lộc sau tế lễ,
đề danh khoa bảng, vinh quy bái tổ, lễ cầu khoa, v.v...) và những chế tài xử phạt
(phạt ngƣời không thực học, mƣợn danh học, không coi trọng khoa mục, coi thƣờng
đạo Nho) là sự kết hợp nhuần nhuyễn, thiết thực, nhằm đem lại hiệu quả khuyến
học cao.
Nội dung TLHN về KHNA thể hiện đƣợc tính đa dạng, phong phú về mặt
chính sách. Các chính sách đó tạo ra một vòng tròn khép kín: dựng trƣờng, mở lớp,
tạo điều kiện đi học, đi thi, thi đạt kết quả đƣợc thƣởng, đƣợc biếu phần, vinh danh,
đón rƣớc, tang ma, thờ phụng chu đáo, v.v... theo suốt cả cuộc đời con ngƣời. Điều
khoản khuyến học thể hiện đƣợc sự chủ động, linh hoạt, phù hợp với điều kiện thực
tế là đặc điểm nổi trội của nội dung khuyến học ở Nghệ An. Việc bổ biên, điều
chỉnh các điều ƣớc khuyến học đƣợc thực hiện ở nhiều địa phƣơng, nhằm đem lại
sự đồng thuận của ngƣời dân, phù hợp giữa phép nƣớc với lệ làng. Tuy nhiên, mỗi
vùng miền có thế mạnh khuyến học khác nhau, nơi coi trọng việc mở lớp, nơi đề
cao việc miễn dịch, nơi hội đồng môn hoạt động mạnh..v.v..., tạo ra tính đặc trƣng,
thế mạnh khuyến học của từng vùng miền.
Đề cao Nho học, đề cao thực học cũng là nội dung xuyên suốt trong chính
sách khuyến học mà ngƣời dân Nghệ An đã thực hiện từ xa xƣa trên khắp các thôn
xóm, giáp hội. Từ những nội dung khuyến học trên, chúng tôi hƣớng đến nghiên
cứu giá trị khuyến học cũng nhƣ việc bảo tồn và phát huy giá trị TLHN về KHNA
114
trong giai đoạn hiện nay ở chƣơng tiếp theo.
Chƣơng 4
GIÁ TRỊ TƢ LIỆU HÁN NÔM VỀ KHUYẾN HỌC CỦA NGHỆ AN
VÀ VẤN ĐỀ BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ TƢ LIỆU
ĐỐI VỚI KHUYẾN HỌC HIỆN NAY
Khuyến học là chính sách liên quan đến giáo dục có từ lâu đời của dân tộc
Việt Nam, đƣợc thực hiện rộng khắp từ trung ƣơng đến địa phƣơng. Ngày nay, khi
đất nƣớc bƣớc vào thời kỳ của nền kinh tế tri thức, công cuộc “vì lợi ích trăm năm
trồng ngƣời” luôn cần sự chung tay của toàn xã hội, nhằm mục đích “nâng cao dân
trí, đào tạo nhân lực, bồi dƣỡng nhân tài” nhƣ tôn chỉ, mục đích của Hội Khuyến
học Việt Nam đã đề ra. [49]. TLHN về KHNA là di sản văn hóa thành văn có giá trị
về mặt lịch sử, giáo dục và văn hóa. 100 đơn vị văn bia và 96 kí hiệu sách với nội
dung khuyến học phong phú, chứa đựng nhiều giá trị tích cực cần bảo tồn, phát huy.
Bên cạnh đó cũng còn những hạn chế về tƣ tƣởng cần phải khắc phục, nhằm đem lại
hiệu quả khuyến học cao nhất. Trong chƣơng này, chúng tôi trình bày hai nội dung:
Giá trị TLHN về nghiên cứu KHNA và việc bảo tồn phát huy giá trị nguồn tƣ liệu
đó trong giai đoạn hiện nay.
4.1. Giá trị tƣ liệu Hán Nôm về nghiên cứu khuyến học của Nghệ An
TLHN về KHNA chịu ảnh hƣởng của giáo dục Nho học truyền thống, bên
cạnh những giá trị nhân văn đối với cá nhân và xã hội, nhƣ: đề cao tinh thần hiếu học,
coi trọng việc học; tạo ra ý thức tự học; bảo lƣu truyền thống tôn sƣ, trọng đạo; tác
động đến khoa cử truyền thống, v.v.... nguồn tƣ liệu này còn những hạn chế nhất định
về mặt tƣ tƣởng nhƣ: không khuyến khích phụ nữ đi học, đi thi; quá đề cao vị trí nơi
đình trung; quan niệm học để ra làm quan, thay đổi thân phận, v.v… đè nặng lên tâm lý
ngƣời đi học, đi thi khiến họ phải “khổ học”.
4.1.1.1. Giá trị nhân văn của tư liệu Hán Nôm về khuyến học của Nghệ An đối
với cá nhân.
115
+ Tạo ra ý thức thực học
Thực học có nghĩa là học thật, là học vấn có thực, trái với hƣ văn, học vì bản
thân của chính sự học, không vì cái gì khác. Thực học là việc học nhằm trang bị cho
mình nền tảng kiến thức, trên cơ sở đó, có thể ứng dụng và phát huy trong công
việc, trong cuộc sống; không phải sự hiểu biết hời hợt, chỉ dừng lại ở hành vi bên
ngoài. Để các sĩ tử có ý thức trong việc học, từ năm Tân Mùi niên hiệu Hồng Thuận
(1511) vua Lê Tƣơng Dực ban hành quy định cụ thể ở Quốc tử giám “các Giám
sinh đến ngày rằm, mồng 1 phải mặc áo mũ để điểm danh, ngƣời nào ham chơi, lƣời
học, vắng 1 lần thì phạt 140 tờ giấy trung chỉ, vắng 2 lần thì phạt 200 tờ giấy trung
chỉ, vắng 3 lần thì đánh 40 roi, 4 lần thì giao cho Bộ Hình xét hỏi, vắng 5 lần thì bắt
sung quân”. [18, tr.530].
TLHN về KHNA luôn đề cao tinh thần thực học, ngƣời giả danh học mƣu cầu
danh lợi sẽ bị xử phạt. Mục đích của việc học là tiếp thu kiến thức chứ không phải là đối
phó, cầu may. Nếu không học thực sĩ tử không thể vƣợt qua các kỳ thì với kinh, sử, tử,
tập, thơ phú, chiếu, biểu và không thể đỗ đạt, thành danh.
Thực học ngoài tinh thần tự giác, nỗ lực của bản thân các sĩ tử, không thể
không kể đến chính sách khuyến học bằng vất chất và tinh thần, chế tài xử phạt
thích đáng đối với những kẻ lƣời học, mƣợn danh học, vừa học vừa canh tác, viện
cớ học để trốn binh lính, trốn sƣu dịch (xem Mục 3.2, phần Chế tài xử phạt). Nhờ sự
cộng hƣởng, tác động hai chiều giữa quyền lợi và trách nhiệm, giữa thƣởng và phạt,
các sĩ tử Nghệ An luôn đặt mục đích học tập lên hết, họ học thực, thi thực và gặt hái
thành công trên con đƣờng khoa cử.
+ Tôn vinh người tài đức, khoa bảng
123 văn bản tục lệ KHNA ghi chép về lễ đón rƣớc ngƣời đỗ đạt vinh quy bái tổ
với những quy định cụ thể về thành phần, địa điểm, nghi lễ đón rƣớc, đỗ càng cao lễ
càng trọng. Sự ƣu ái chỗ ngồi ở đình làng, nơi đƣợc coi “tiểu triều đình” đối với những
ngƣời đỗ đạt khoa bảng; những đặc quyền về hƣơng ẩm, về lệ biếu lộc mỗi khi làng có
hội hè, tế tự, thể hiện vị thế của họ trong cộng đồng làng xã. Đó là động thái khuyến
116
học vô cùng mạnh mẽ, tác động trực tiếp đến ngƣời học, ngƣời thi.
Ngoài ra, nhiều dòng họ, nhiều thôn xã ở Nghệ An có ngƣời đỗ đạt đã dựng
bia đề danh. Tài liệu địa phƣơng chí, gia phả, gia huấn ghi danh ngƣời đỗ đạt để lƣu truyền và khích lệ kẻ sĩ. Bia Đại khoa liệt vị/Hiệu sinh Tú tài liệt vị (N0.2411-
2114) tại thôn Ngọc Lâm, xã Hoàng Xá khắc tên 3 vị đại khoa, 36 vị Tú tài của 5
thôn trong xã. Thôn Vân Tập, xã Quỳ Xá dựng bia Vân tập thôn nho tiên bi ký (N0.2398-2401) khắc họ tên, lí lịch của 1 vị đại khoa, 5 vị Hƣơng giai, 12 vị Hƣơng
tƣờng trong xã. Văn bia Tiền triều khoa bi đặt ở nhà Thánh tổng Xuân Liễu ghi tên
chức quan 16 vị Hƣơng cống, 46 vị Sinh đồ, Hiệu sinh là ngƣời trong tổng. Sách
Thanh Chương huyện chí ghi chép tỉ mỷ về 13 vị Tiến sĩ triều Lê của bản huyện
v.v… Việc lƣu danh khoa bảng có tác động hai chiều, bản thân ngƣời đƣợc vinh
danh và hậu thế: ngƣời đƣợc vinh danh thấy cần phát huy năng lực hơn nữa để xứng
đáng với khoa bảng và không hổ thẹn với bản thân; các thế hệ con cháu coi đó là
tấm gƣơng sáng, là bài học lớn về tinh thần hiếu học, cần phải trân quý, gìn giữ và
phát huy. Tất cả những điều đó tạo ra động lực về mặt tinh thần, tạo ra sức hấp dẫn
vô hình, tác động trực tiếp đến nhiều tầng lớp sĩ tử đang theo đuổi con đƣờng học
vấn.
+ Đề cao tinh thần hiếu học, coi trọng việc học
Ngƣời xƣa có câu “nhân bất học, bất tri lý” (ngƣời không học không biết đƣợc
lý lẽ) câu nói đó nói lên tầm quan trọng của việc học. Giáo dục Nho học xƣa nhằm
tạo ra những con ngƣời tu, tề, trị, bình (tu dƣỡng bản thân để quản lý tốt gia đình,
tham gia cai quản đất nƣớc, thu phục thiên hạ). Điều đó giúp cho các sĩ tử ham
muốn học tập để đƣợc “lập danh, lập công, lập ngôn, lập đức”. Nội dung TLHN về
KHNA đã thể hiện rõ đƣợc tinh thần hiếu học của ngƣời dân nơi đây. Nghệ An “đất
xấu, dân nghèo”, cuộc sống của đa phần ngƣời dân vô cùng khốn khó, nhƣng họ vẫn
nỗ lực vƣơn lên trong học tập, dành đƣợc thành tích cao trong khoa cử. Điển hình
nhƣ cha con Tiến sĩ Hồ Phi Tích, cha ông “Tuy làm quan tại hai huyện Kỳ Hoa,
117
Hƣơng Sơn, nhƣng lộc thƣờng chỉ đủ dùng, làm quan thanh bần nhƣ học trò nghèo.
Để lại cho con chẳng qua sách cũ một tráp, nhà dột một gian mà thôi”138. Bản thân
Hồ Phi Tích “Năm Tân Dậu ta mồ côi cha, nhà ở không che đƣợc gió mƣa, bữa ăn
cơm cháo không đủ, thật vừa nghèo vừa cùng. Nhƣng cái nghèo không thay đổi
đƣợc niềm vui của ta, thà chịu nghèo mà đƣợc biết sự vất vả của việc đọc sách, cái
cùng càng làm cho lòng ta thêm vững, không lìa bỏ chí hƣớng cao xa… ta vui thú cảnh nghèo, gắng sức vào việc học, mƣợn đó để nuôi thân”139. Tiến sĩ Hồ Sĩ Dƣơng
vƣợt lên hoàn cảnh khó khăn dốc chí vào việc học “Mẹ ông là Hoàng thị, nhà
nghèo, thƣờng đi làm thuê kiếm ăn (…), khi ông lớn, thông minh và thuần hậu,
cƣơng nghị mà khoan hòa, dốc chí vào việc học, cùng với ngƣời trong họ là Hồ Sỹ Anh, Hồ Thiện Mƣu là bạn cùng chí hƣớng”140. Trần Dực ngƣời xã Ngải Lăng, đỗ
Hội nguyên khoa Nhâm Tuất niên hiệu Cảnh Thống thứ 5 (1502). Gia phả nhà ông
chép “Lúc trẻ hàn vi, đi ở chăn trâu, ông thƣờng cho trâu ăn ở bên cầu, gần trƣờng,
rồi mƣợn sách để học, chỉ trong vài năm, ông học rất giỏi và đỗ Hƣơng cống. Khi
vào Kinh thi Hội, ông giấu họ tên, làm thuê, gánh đồ đạc, thổi cơm cho một Hƣơng
cống xứ khác. Hôm vào trƣờng thi, ông đƣa Hƣơng cống ấy vào trƣờng thi xong, rồi mới
vào. Đến khi yết bảng, ông đỗ đầu, mà ngƣời thuê ông vẫn không biết. Đến khi biết, thì lấy làm kinh ngạc”141.
Coi trọng việc học là một trong những giá trị mà TLHN về KHNA hƣớng đến.
Nguyễn Đức Đạt trong mục Cần học (sách Cần kiệm vựng biên) cho rằng “Hiểu
biết sâu rộng hay hạn hẹp, há chơi đùa mà có thể có đƣợc sao? Học để mà làm quan, làm quan để mà học, khác lối nhƣng cùng đƣờng”142. Nhiều nhân vật hiếu học,
138 “故雖任奇華歷香山二縣滿考、然常祿僅足、在官清貧亦如寒士。遺下衆子、不過舊書一篋、
陋屋五間而已”, 窮達家訓 , A.3076, t.46a.
139 “我于辛酉年失怙、所居不敝風雨、所食不具饘粥、貧且窮矣。然貧不改樂、寧知黃卷之 勞、窮且貧堅、不墮青雲之志 (…) 益樂貧中之趣、勉于力學、藉以舌耕”, 窮達家訓, A.3076, t.46a,b. 140 “八母黄氏、家貧常傭功以度口(…) 八長聰明而純粹、英毅而寬和、篤志于學、與族人胡士
英、胡善謀為同志友”, 瓊堆古今事跡鄉編小引, A.3154, t.71a.
141 “私譜云: 少寒賤為人牧牛, 橋畔近塾借書讀之。數年學大進遂領鄉貢、詣京會試 自匿姓名為 他處鄉貢傭擔執爨、入場日、先護雇主就場然後入、榜出首選、其人猶不知、及覺驚愕”, 乂安記, VHv. 1713/2, t.32a,b.
142 “博之約之豈嬉而能獲哉、學而仕、仕而學異径同街”, 勤儉彙编, VHv.708, t.17a.
118
đƣợc Nguyễn Đức Đạt trích dẫn từ các sách, truyện của Trung Quốc nhƣ Hán thư,
Tấn thư, Đổng Trọng Thư truyện, Chu Mãi Thần truyện, Nhan thị gia huấn làm
gƣơng truyền dạy cho con cháu, nhƣ “Khuông Hành hiếu học, nhà nghèo không có
nến, nhà hàng xóm có nến mà không sáng tới (nhà ông), ông bèn đục tƣờng để ánh sáng chiếu vào mà đọc sách”143; hay “Nhiệm Mạt năm 14 tuổi không có thầy dạy,
thƣờng cõng hòm sách theo, dựa gốc cây, biện cỏ mao làm lều, vót cây kinh làm
bút, trích nhựa cây làm mực, đêm dùng ánh sáng trăng sao, trăng mờ thì bó cây gai
lại đốt lửa chiếu sáng đọc sách. Đọc sách nếu thấy chỗ nào chƣa hợp ý thì ghi lại
trên quần áo, học trò vui vì sự chăm học của ông đem áo sạch đến để đổi. Lúc sắp
mất ông dặn: ngƣời hiếu học tuy chết nhƣng vẫn nhƣ còn sống, ngƣời không học tuy sống mà là thân xác di động vậy”144. Tấm gƣơng hiếu học Vƣơng Thiều Chi
“Thiều Chi nhà nghèo, hiếu học, từng ba ngày hết lƣơng thực mà vẫn ôm sách
không buông, ngƣời nhà trách ông rằng: sao không cày ruộng? Ông nói: ta đang tự cày (sách vở) đây.145
+ Góp phần bảo lưu truyền thống tôn sư, trọng đạo
Thấm nhuần nhận thức “công cha, nghĩa mẹ, ơn thầy”, sĩ tử Nghệ An luôn tâm
niệm thầy là ngƣời dạy dỗ, giúp ta thành công trên con đƣờng sự nghiệp. Vì vậy, ơn
thầy cũng giống nhƣ ơn cha mẹ sinh thành, nuôi dƣỡng. Hội đồng môn là nét riêng
về đạo lý thầy trò của Nghệ An mà một số tỉnh nhƣ Hà Nội, Hƣng Yên, Thanh Hóa,
Bắc Ninh đều không thấy có trong các văn bản tục lệ. Hội đồng môn đƣợc lập ra với
nhóm ít thì năm ba ngƣời, nhiều thì chục ngƣời, cùng học chung một thầy. Họ nhóm
nhau lại, đề ra những quy định, chủ yếu xoay quanh việc lễ tết, thăm hỏi thầy lúc
ốm đau, khi gia đình thầy có việc, khi thầy qua đời, giỗ chạp thầy: “Thầy có việc
cƣới hỏi, đồng môn mừng 5 quan tiền diên, 1 bàn trầu rƣợu; thầy có việc hiếu cha
mẹ, đồng môn đến viếng 12 quan tiền diên, 1 bàn trầu rƣợu, 1 đôi câu đối dùng bải
143 “匡衡好學貧無燭隣舍有燭而不逮及穿壁引其光以照書而讀”, 勤儉彙编, VHv.708, t.17b。 144 “任末年十四辰學無常師、負笈不遠阻險或依林木之下、編茅為庵、削荆為筆、尅樹汁為墨、
夜則照星望月、暗則縛麻篙以自照。观書有合意者記于衣裳、門徒悅其勸學更以凈衣易之。臨終誡 曰:夫人好學雖死若存、不学雖存謂之行尸走肉耳”, 勤儉彙编,VHv.708, t.19a,b.
145“韶之家貧好學嘗三日絶糧而执卷不輟、家人誚之曰:何不耕、答曰:我嘗自耕耳”, 勤儉彙编,
VHv.708, t.20b.
119
bố trắng; thầy có việc chúc mừng cha mẹ, đồng môn mừng tiền 5 quan, trầu rƣợu 1
bàn; thầy không may qua đời, đồng môn tập trung lo tắm rửa, (chuẩn bị) áo quần, khâm niệm, chuẩn bị quan quách” 146. Học trò thôn Quỳnh Đôi đến lễ thầy vào ngày
mồng 2 tết, bất kể thầy còn sống hay đã mất. Học trò nhiều thôn xã của tổng Vân
Tụ, ngày mồng 5 tết mang tiền, gạo đến nhà lễ tết thầy. Học trò để tang thầy nhƣ để
tang cha mẹ mình, ngày thầy chết thời mặc đồ trắng đến đƣa, làm câu đối, cỗ xôi
đến phúng; khi giỗ chạp, đến cúng thầy. Những việc làm đó là đạo lý, nghĩa tình, là
những bài học sâu sắc về tinh thần tôn sƣ trọng đạo, đƣợc lƣu truyền mãi đến mai
sau.
Các thầy mở lớp, dạy dỗ bao thế hệ học trò, không phân biệt sang hèn, giầu
nghèo, mà cốt ở lễ nghĩa: “Nhà nào có con nên đem đến trƣờng trình thầy xin học, không phí tổn một hào”147, lễ cho thầy chỉ là những vật phẩm theo mùa, nhiều ít tùy
tâm. Nhớ công ơn thầy, khi trƣởng thành, đỗ đạt, trò không bao giờ quên ơn ngƣời
khai tâm khai trí cho họ. Nhiều ngƣời thành đạt, làm quan, quyền cao chức trọng,
họ vẫn nhớ về thầy với suy nghĩ “không thầy đố mày làm nên”.
Tƣ liệu văn bia KHNA ghi lại, học trò là Tú tài, Cử nhân, Phó bảng, v.v… đã
cùng nhau góp công xây mộ, lập nhà thờ, dựng bia ghi lại tiểu sử, ca ngợi công đức
của thầy Nguyễn Đức Đạt, Hồ Mậu Đức, Nguyễn Nguyên Thành. Những tấm bia đó148 nhƣ lời ghi lòng tạc dạ của bao thế hệ học trò, nhắc nhở họ cũng nhƣ thế hệ
mai sau luôn nhớ đến công ơn trời biển của những ngƣời thầy, đề cao và nối dài tinh
thần tôn sƣ trọng đạo.
4.1.1.2. Giá trị nhân văn của tư liệu Hán Nôm về khuyến học của Nghệ An đối
với xã hội.
146 “一條本村有例定同門例以下 : 一先生婚事同門喜鉛錢五貫芙酒一盘 ; 一先生有孝父母同門吊鉛 錢十五貫,芙酒一盘, 對一联用白布 ; 一先生有慶賀父母同門賀喜錢五貫,芙酒一盘; 一先生不幸捐世同門齊 就定料沐浴,衣復,身屍襟 歛, 棺槨”, 乂安省興元府扶龍總安居 村俗例, AF.b1/16.
147 “何家有子,宜將至場呈師受教, 無費損一毛”, 興元縣海都總香葢社賀溪村, AFb1/7, t.9a. 148 禮巖道齋阮先生壽藏 , N02638-39; 先生自卜壽藏 , N0 2655-56, v.v…
120
+ Đem lại những tác động không nhỏ đối với giáo dục, khoa cử Nho học
Phần lớn TLHN về KHNA đƣợc soạn, lập vào triều Nguyễn, vì vậy, các chính
sách khuyến học nơi đây đƣợc thực thi chủ yếu giai đoạn này. Một thực tế không
thể phủ nhận, chính sách khuyến học đã tác động tích cực đến khoa cử Nghệ An,
kết quả số ngƣời đỗ đại khoa đứng đầu cả nƣớc.
- Tác động về mặt xã hội: Nhiều làng xã ở Nghệ An mở trƣờng học, địa
phƣơng đảm nhận hoàn toàn, không có sự giúp đỡ nào từ phía nhà nƣớc. Ngƣời dân
trích ruộng đất công để xây dựng trƣờng, đề ra quy định chặt chẽ trong việc dạy và
học, thƣởng và phạt, v.v.... Môi trƣờng học tập đến gần hơn với ngƣời dân, số lƣợng
học sinh tăng cao, sĩ tử đi thi, đỗ đạt cũng vì thế mà tăng lên.
Nhiều các nhà khoa bảng bên cạnh mong muốn mang kiến thức truyền dạy
cho học trò, họ coi dạy học là nghề mƣu sinh. Nghệ An nổi tiếng với nhiều thầy
giỏi, có thể kể đến nhƣ thầy Hồ Sĩ Dƣơng, Nguyễn Đức Đạt, Dƣơng Tồn, Hồ Sĩ
Đống, Dƣơng Thúc Hạp, Trần Đình Phong, v.v... Nhiều thế hệ học trò sau khi thành
danh, lại truyền dạy cho các thế hệ tiếp sau, nhƣ: Hoàng giáp Đặng Văn Thụy, lúc
nhỏ học với cha, sau học với cụ Án Cao trong làng, rồi học Nguyễn Đức Đạt. Sau
khi đỗ Đình nguyên, đƣợc bổ chức Tế tửu Quốc tử giám. Từ quan, ông trở về quê
mở trƣờng dạy học. Học trò có nhiều ngƣời đỗ đạt, thành danh. [124, tr.13]. Phan
Bội Châu học cha mình, học thầy Nguyễn Kiều, sau đó ông cũng làm nghề giáo.
Thầy càng giỏi càng thu hút đƣợc nhiều học sinh đến học, học trò của Giám sinh
Dƣơng Tú Chung “có đến 700 - 800 ngƣời, nhiều ngƣời thành đạt”, học trò của
Tiên sinh tự Tri Phủ ngƣời xã Quỳnh Đôi “học trò ở đâu cũng nhiều nhƣ cây rừng”, học trò của Tiến sĩ Phan Hữu Tính rất nhiều ngƣời đậu đại khoa149. Có trƣờng lớp,
có thầy giỏi ngay tại địa phƣơng, học trò đƣợc học chữ Thánh hiền ngày càng nhiều,
lan tỏa từ thôn này đến xã khác. Đó là mô hình giáo dục vô cùng thiết thực, hiệu
quả không chỉ thời xƣa, mà còn có giá trị cho đến ngày nay.
- Tác động đối với dòng họ: Nhiều gia đình Xứ Nghệ dẫu còn đói nghèo
149 琼堆古今事跡鄉編小引, A.3154, t.82b, 95b, 97a. Xem thêm bảng Thống kê danh sách các thầy mở
lớp dậy học tại Nghệ An (Phụ lục 4.1)
121
nhƣng vẫn chắt chiu từng hạt gạo, củ khoai để nuôi con ăn học nên ngƣời. Nhiều
“ông Nghè, ông Cống sống bởi ngọn khoa; anh Học, anh Nho, nhai hoài lộc đỗ
nhƣng niềm khát vọng vƣơn lên trong khoa bảng của họ rất mãnh liệt”. [167, tr.30].
Tâm lý học để làm quan, thay đổi thân phận nghèo hèn của ngƣời nông dân quanh
năm “bán mặt cho đất, bán lƣng cho trời” đã trở thành ý chí, khát vọng của kẻ sĩ nơi
đây. Hình ảnh “võng anh đi, võng nàng theo sau”, “võng lọng, cân đai” là khát vọng
không chỉ của sĩ tử mà của cả cha mẹ, vợ con, dòng tộc. Đỗ đạt đƣợc ra làm quan
“một ngƣời làm quan cả họ đƣợc nhờ” in đậm vào tiềm thức của mỗi ngƣời dân
Nghệ An. Nhiều dòng họ quyết tâm, dồn chí cho con cháu ăn học. Sĩ tử có tƣ chất
thông minh, quyết tâm học tập, thi đỗ để không thua kém các dòng họ khác, để
đƣợc coi trọng và có một vị cao trong làng, ngoài xã. Nghệ An nổi tiếng với các
dòng họ khoa bảng, nhƣ: họ Hồ ở Quỳnh Lƣu với 10 ngƣời đỗ đại khoa (Hồ Ƣớc
Lễ, Hồ Tông Thốc, Hồ Tông Đốn, Hồ Tông Thành, Hồ Phi Tích, Hồ Sĩ Dƣơng, Hồ
Sĩ Tân, Hồ Sĩ Đống, Hồ Sĩ Tuần và Hồ Bá Ôn); 71 vị đỗ trung khoa (25 vị đỗ tam
trƣờng, tứ trƣờng khoa thi Hội; 15 Giám sinh; 16 Hƣơng cống, Giải nguyên, tứ trƣờng khoa thi Hƣơng; 12 Cử nhân và 3 Nho sinh trúng thức)150. Dòng họ Nguyễn
ở làng Hoành Sơn, xã Nam Hoa Thƣợng, tổng Trung Cần nay là xã Khánh Sơn,
huyện Nam Đàn có Nguyễn Đức Đạt đỗ Thám hoa, em họ Nguyễn Đức Quý đỗ
Hoàng giáp, em ruột Đỗ Đức Huy đỗ Cử nhân, con trai Nguyễn Đức Hiểu đỗ Cử
nhân, v.v... Dòng họ Nguyễn ở Trung Cần với 3 đời đậu Tiến sĩ: Tiến sĩ Nguyễn
Trọng Thƣờng, Tiến sĩ Nguyễn Trọng Đƣơng, Tiến sĩ Nguyễn Trọng Đƣờng.
Truyền thống khoa bảng của dòng họ đƣợc hun đúc bởi các chi phái với nhiều gia
đình, nhiều thế hệ.
Ở Nghệ An có tới 55 dòng họ chính có khoa bảng, làng Quỳnh Đôi có tới 29 họ
khoa bảng. [167, tr.146-147]. Tâm lý học để đỗ đạt, làm quan, thay đổi thân phận,
không chỉ đeo đẳng bản thân các sĩ tử từ lúc bắt đầu đi học đến lúc đi thi, mà còn biến
thành ý chí, khát khao, hy vọng của cả một dòng họ. Điều đó phần nào tạo ra áp lực
150 胡家合族譜記, A.3076.
122
tâm lý, trở thành gánh nặng trên vai ngƣời học. Công thành, danh toại không chỉ là
vinh dự của cá nhân mà còn là bổn phận, nghĩa vụ đối với dòng họ, vì hàm chứa trong
đó là sự chờ đợi, ƣớc vọng của cả một gia đình, dòng tộc về sự đổi thay thân phận. Sĩ
tử, gia đình, dòng họ đều mong chờ ngày đăng khoa, cho bõ công nuôi dƣỡng, đèn
sách. [92, tr.33]. Họ nào có nhiều ngƣời đi học, nhiều ngƣời đỗ đạt, sẽ đƣợc trọng vọng
trong làng ngoài tổng; tâm lý đó phần nào đem lại những hệ lụy trong quan hệ làng xã,
theo kiểu “con gà tức nhau tiếng gáy”, giữa các dòng họ có sự đố kỵ, kèn cựa, cục bộ,
làm mất đoàn kết, giảm tính cộng đồng.
Trong lịch sử khoa cử Nho học từ 1075-1919, tổng số ngƣời đỗ đại khoa của
Nghệ An là 137 ngƣời, thấp hơn nhiều so với các tỉnh có truyền thống khoa bảng
nhƣ Bắc Ninh 394 ngƣời, Hƣng Yên 205 ngƣời, Hải Dƣơng 491 ngƣời. Nhờ tác
động của chính sách khuyến học đƣợc thực thi hiệu quả dƣới triều Nguyễn, số
ngƣời đỗ đại khoa của Nghệ An vƣơn lên đứng đầu cả nƣớc, vƣợt xa các tỉnh kể
trên.
Tên tỉnh
Hƣng Yên Hải Dƣơng
Tổng số ngƣời đỗ đại khoa Số đại khoa triểu Nguyễn
Tỉ lệ %
Bắc Ninh 384 33 8,6%
205 6 2,9%
491 17 3,5%
Nghệ An 137 91 66,4%
Tỷ lệ % số ngƣời đỗ đại khoa của Nghệ An dƣới triều Nguyễn gấp gần 8 lần
so với tỉnh Bắc Ninh, 19 lần so với tỉnh Hải Dƣơng, 23 lần so với tỉnh Hƣng Yên,
phần nào cho thấy khuyến học có tác động không nhỏ đối với khoa cử nơi đây.
Khoa bảng Nghệ An phát triển theo chiều hƣớng tích cực, đi lên cùng thời đại, thật
đáng trân trọng!
+ Bổ sung cho nghiên cứu về khuyến học của Việt Nam
Khuyến học là hoạt động mang tính rộng khắp từ trung ƣơng đến địa phƣơng,
đƣợc hình thành và phát triển lâu đời, gắn liền với nền giáo dục khoa cử Nho học ở
Việt Nam. Trong những năm trở lại đây, với sự ra đời của Trung ƣơng Hội Khuyến học
Việt Nam, hoạt động khuyến học lan tỏa khắp 63 tỉnh thành trong cả nƣớc. Việc tìm
hiểu những tƣ liệu khuyến học truyền thống, bổ sung cho công tác khuyến học ngày
nay, đƣợc các nhà nghiên cứu đặc biệt quan tâm. Nghiên cứu về hoạt động khuyến học
123
đƣợc thực hiện dƣới dạng thể tài nhƣ tục lệ, văn bia nhƣ: Nghiên cứu văn bia khuyến
học Việt Nam (từ thế kỉ XV đến những năm đầu thế kỷ XX) [105], Truyền thống hiếu
học của người Hà Nội xưa qua hương ước [77]; nghiên cứu khuyến học tại một số địa
phƣơng, đặc biệt là những nơi có truyền thống hiếu học khoa bảng nhƣ Thăng Long - Hà
Nội, Hƣng Yên, Bắc Ninh, Hải Dƣơng; v.v…, cũng có nhiều bài viết, nghiên cứu liên
quan đến hoạt động khuyến học. TLHN về KHNA góp phần bổ sung, làm phong phú
thêm nguồn tƣ liệu cho các nhà khoa học khi nghiên cứu về khuyến học của các tỉnh Bắc
Trung Bộ nói riêng, khuyến học ở cả nƣớc nói chung trong cả chặng đƣờng dài lịch sử.
+ Góp phần bảo tồn, phát huy di sản văn hóa thành văn của dân tộc
TLHN về KHNA bao gồm thƣ tịch và bi kí viết bằng chữ Hán, chữ Nôm, là di
sản văn hóa thành văn có giá trị, một bộ phận quan trọng trong hệ thống di sản văn
hóa quý giá của dân tộc, sợi dây gắn kết giữa quá khứ và hiện tại. Với khối lƣợng tƣ
liệu khá phong phú, gồm 96 kí hiệu sách và 100 đơn vị văn bia, TLHN về KHNA
giúp cho thế hệ ngày nay và cả mai sau có cơ hội tìm hiểu về những quy định, biện
pháp, chế tài mà ngƣời dân Nghệ An xƣa đã thực hiện để khuyến khích học tập,
phát triển giáo dục.
Nội dung khuyến học qua TLHN về KHNA là nguồn tƣ liệu rất có giá trị, không
chỉ đối với ngƣời dân Nghệ An, mà còn góp phần bảo tồn và phát huy di sản văn hóa
thành văn của dân tộc, góp phần tạo nên nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc.
+ Khuyến học của Nghệ An góp phần tạo nên bản sắc văn hóa người Việt Nam.
Trong lịch sử dân tộc giai đoạn 1075-1919, cùng với các hoạt động khác, hoạt
động khuyến học chứa đựng nhiều nhân tố tích cực. Phải khẳng định rằng hoạt động
khuyến học là nhằm động viên con ngƣời Việt Nam hăng hái đi vào con đƣờng học
tập. Học tập ở đây trƣớc tiên là để làm ngƣời, biết ứng xử với nhau trong cuộc sống
đời thƣờng. Điều đó có nghĩa trong quá khứ của dân tộc, ngƣời Việt Nam vốn ham
chuộng kiến thức, đề cao sự hiểu biết và quý trọng nhân tài. Nói cách khác nhờ tục
lệ khuyến học đã tạo ra truyền thống hiếu học cho dân tộc. Khi Nho giáo chiếm vị
trí độc tôn trong đời sống xã hội, học còn để ra làm quan, làm thay đổi thân phận
124
cho bản thân. Điều này cũng xuất phát từ nhu cầu tuyển bổ nguồn nhân lực vào bộ
máy chính quyền các cấp. Theo thời gian, khuyến học truyền từ triều đại này tới
triều đại khác, từ thế hệ này sang thế hệ kia, tạo ra nét đẹp của dân tộc. Đó là giá trị
chân chính mà ngƣời Nghệ An nói riêng, Việt Nam nói chung đã dày công xây
dựng, vun đắp trong nhiều thế kỷ qua, trở thành bản sắc của ngƣời Việt Nam.
Những giá trị nhân văn mà nguồn TLHN về KHNA đối với mỗi cá nhân nói
riêng, xã hội nói chung còn nguyên giá trị cho đến ngày nay. Nền giáo dục hiện đại
với phƣơng pháp và nội dung bài giảng về căn bản khác xa với giáo dục Nho học
truyền thống. Song những giá trị cốt lõi về ý thức tự học, thực học; tinh thần tôn sƣ
trọng đạo; đề cao ngƣời tài đức vẫn nhắc nhở mỗi thế hệ học trò cần gìn giữ và phát
huy.
4.1.2. Một số hạn chế về tư tưởng khuyến học của Nghệ An xưa trong bối
cảnh hiện nay
Bên cạnh những giá trị nhân văn mà TLHN về KHNA mang lại nhƣ đã trình
bày ở trên, dƣới tác động của nền giáo dục và khoa cử Nho học, nguồn tƣ liệu này
còn bộc lộ một số mặt hạn chế về mặt tƣ tƣởng, không còn phù hợp với thực tế
khuyến học ngày nay.
+ Khuyến học Nghệ An không nhắc đến đối tượng học sinh nữ
Từ xa xƣa, vai trò vị trí của ngƣời phụ nữ đã đƣợc khẳng định trong nhiều lĩnh
vực, nhƣ: lao động sản xuất, tề gia nội trợ, chống giặc ngoại xâm. Lịch sử đã minh
chứng sự hiện diện họ trong các vai trò quan trọng của xã hội, với những nhân vật
nữ nổi tiếng nhƣ Triệu Thị Trinh, Nguyên Phi Ỷ Lan, Bùi Thị Xuân, Đoàn Thị
Điểm, Hồ Xuân Hƣơng, v.v… Cũng nhƣ nhiều địa phƣơng khác trên cả nƣớc nói
chung, Nghệ An nói riêng, do ảnh hƣởng của quan niệm Nho giáo “trọng nam khinh
nữ”, “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, ngay từ nhỏ, phụ nữ đã không đƣợc cắp
sách đến trƣờng. Cuộc sống của ngƣời phụ nữ bị bó hẹp với “tam tòng, tứ đức”, khi
nhỏ ở nhà với cha, lớn lên lấy chồng thì theo chồng, chồng chết thì theo con. Họ chỉ
biết đến những công việc đồng áng, bếp núc, lo cho chồng, cho con; học hành
125
không phải là sự lựa chọn trong cuộc đời của họ.
Hƣơng ƣớc của xã Tƣ Vi, tổng Chi Nê, tỉnh Bắc Ninh có điều ƣớc về việc tạo
điều kiện cho con gái đến trƣờng, trong làng con gái đến 7, 8 tuổi đều phải đến trƣờng học chữ Quốc ngữ, toán, nữ công phép tắc 151. TLHN về KHNA không hề
nhắc đến việc đi học, đi thi của nữ giới. Việc loại phụ nữ khỏi quá trình đào tạo, thi
cử là tình trạng chung của nhiều địa phƣơng trong cả nƣớc, khiến họ không có cơ
hội đóng góp tài năng, trí tuệ của mình. Với bản chất chịu thƣơng, chịu khó, đƣợc
sống trong môi trƣờng trọng học, trọng khoa, phụ nữ Nghệ An đã thể hiện vai trò
lớn lao của những ngƣời mẹ, ngƣời vợ đối với việc học hành thi cử của của chồng,
của con. Hình ảnh các mẹ, ngƣời vợ quanh năm tảo tần bên khung cửu, lặn lội ngoài
đồng ruộng để nuôi chồng, nuôi con ăn học. Ngày nay, thực hiện nhiệm vụ của Ban
chấp hành Trung ƣơng Đảng giao cho Hội Khuyến học Việt Nam về khuyến học,
khuyến tài, xây dựng cả nƣớc thành một xã hội học tập. Tiêu chí cơ bản là tạo cơ
hội và điều kiện thuận lợi cho mọi ngƣời, ở mọi lứa tuổi đƣợc học, không chỉ nam
giới mà tất cả nữ giới từ nhỏ đến lớn, từ trẻ đến già đều đƣợc bình đẳng trên con
đƣờng học tập. Họ có thể tham gia các cấp học, dự thi vào các trƣờng, để có cơ hội
đỗ đạt, thành danh, góp sức mình cho sự phát triển của đất nƣớc, góp tiếng nói, vai
trò của nữ quyền trong xã hội hiện đại.
+ Quá đề cao vị trí cá nhân nơi đình trung
Ngôi thứ là chỉ vị trí chỗ ngồi ở đình làng thời phong kiến xƣa. Ngƣời thi đỗ, làm
quan, có phẩm hàm và chức dịch mới có ngôi vị, ngƣời khác muốn có ngôi vị phải bỏ
tiền ra mua. Giá bán các chức danh, ngôi thứ do làng xã tự quy định theo phong tục tập
quán riêng của từng làng. Những nơi trọng nghi lễ, các ngôi chủ tế, hành văn, chủ bái
đƣợc bán giá cao; nơi trọng hành dịch các ngôi Lý trƣởng và các chức vụ sau Lý
trƣởng, các ngôi hành dịch đƣợc giá cao. Những làng xã có nhiều điền thổ gắn liền với
việc tế tự của làng xã thì giá bán danh các chức sắc cao hơn các làng khác. Việc có
đƣợc một ngôi thứ nơi đình làng có nghĩa là đã đƣợc xếp vào một bậc nào đó trong hệ
151北寧省仙遊縣芝泥總思為 社券例, AF.a8/1.
126
giá trị xã hội làng xã, không còn bị xem là bạch đinh. [39, tr.59]. Bạch đinh là chỉ
những ngƣời đàn ông không có chức vị gì ở làng xã, họ thƣờng bị sai khiến nhiều việc
nhƣ tuần đinh, canh điếm, đắp đê, làm đƣờng, v.v…, trong các kỳ hội hè, tế tự, họ
không có chỗ ngồi nơi đình làng, không đƣợc tham dự vào các bữa khao vọng.
Ngôi thứ trong làng không chỉ gắn với quyền lợi về mặt tinh thần, đƣợc ngồi
trên thiên hạ, mà còn gắn liền với những quyền lợi vật chất nhƣ dự hƣơng ẩm, phần
biếu sau các kỳ hội hè, tế tự. Hƣơng ẩm là tục lệ phân chia thứ bậc theo trật tự tôn
ty trong làng, khi làng có việc nhƣ tế tự, quan dịch thì theo đó mà sắp xếp cỗ bàn,
cắt bổ đóng góp, công dịch. Thƣờng thì mỗi làng đều có một sổ hƣơng ẩm để ghi
thứ tự ngôi vị cao thấp của các đinh nam trong làng sau khi họ đến tuổi thành đinh, thứ tự này đƣợc sắp xếp theo bàn (mâm). [4, tr.32-39]. Mỗi làng có quy định riêng,
có nơi trọng tƣớc thì các quan tƣớc ngồi bàn nhất, nơi trọng khoa thì các vị đỗ đạt
khoa trƣờng ngồi ở trên.
Tại Nghệ An, nhiều thôn xã đặt ra quy định về chỗ ngồi mỗi khi làng có cỗ.
Thôn Phú Lƣơng, tổng Phú Hậu “Văn Cử nhân, võ Suất đội trở lên ngồi một (ngƣời
một bàn); Văn Tú tài, võ Thực thụ, Đội trƣởng ngồi 2 (ngƣời một bàn); các cụ 80
tuổi trở lên ngồi 1 (ngƣời một bàn); các cụ 60 tuổi trở lên ngồi 2 ngƣời 1 bàn; các
chức dịch, binh lính, trai tráng, hƣơng hào ngồi 3 (ngƣời một bàn); hạng hộ dân
ngồi 4 (ngƣời một bàn), còn Chủ tế, Lý trƣởng, Tuần thôn, Chánh phó Quản thƣơng ngồi 1 (ngƣời một bàn)”152. Họ tên, thứ tự chỗ ngồi khi có lễ hội đƣợc ngƣời dân xã
Vĩnh Yên, huyện Hƣng Nguyên quy định “Bàn thƣợng thuộc về ngƣời khoa trƣờng
chức sắc; bàn tiếp theo thuộc các cụ 60, 70, 80 trở lên; còn lại theo thứ tự trƣớc sau,
không đƣợc vƣợt thứ tự”. Ngoài lệ hƣơng ẩm, sau các kỳ tế lễ của thôn xã nhƣ lễ
cầu phúc, cầu an, tế đinh, v.v..., những ngƣời khoa trƣờng đƣợc dân xã dành những
phần biếu rất hậu hĩnh. Tùy từng nơi, từng lễ tiết, việc biếu phần khác nhau, đỗ càng
cao, chức càng trọng thì phần biếu càng lớn, lễ vật để biếu thƣờng là thủ lợn, gà,
152 “一文舉人,武率隊以上坐一; 文秀才, 武寔受, 隊長坐二; 老兪十以上坐一; 老公十以上坐二;名 聀, 兵丁, 鄉豪坐三; 户項坐四; 存當務之主祭, 里長, 巡村, 正副管倉坐一”, 富良村鄉例, VHv.2675/2, t.6a.
127
xôi, trầu rƣợu.
Ngƣời Nghệ An trọng khoa hơn trọng xỉ, vì vậy các vị đỗ đạt khoa trƣờng
đƣợc biếu phần trọng hơn các cụ cao niên. Phần biếu cao nhất bao giờ cũng dành
cho các vị đại khoa, nếu không có ngƣời đỗ đại khoa thì biếu ngƣời trung khoa,
chƣa có ngƣời trung khoa thì biếu ngƣời tiểu khoa, chƣa có ngƣời đậu tiểu khoa mới
biếu ngƣời 70 tuổi trở lên. Mỗi năm, mỗi làng xã có hàng chục tiết tế lễ, chính vì
vậy quyền lợi về vật chất của những ngƣời có địa vị, ngôi thứ không hề nhỏ. Tâm lý
trọng danh, trọng lợi đó đã đè nặng nên vai các sĩ tử Nghệ An, nhiều gia đình bắt
con cháu mình học bằng mọi giá, thậm chí “khổ học” để đỗ đạt bằng ngƣời, mong
có đƣợc một chỗ ngồi nơi đình trung, đƣợc phần biếu mỗi khi làng có việc. Điều đó
ảnh hƣởng ít nhiều đến sự hứng khởi, tính sáng tạo trong học tập của các sĩ tử.
4.2. Bảo tồn và phát huy giá trị tƣ liệu Hán Nôm về khuyến học của Nghệ
An đối với khuyến học hiện nay
4.2.1.Thực trạng khuyến học và việc bảo lưu nguồn tư liệu Hán Nôm về
khuyến học Nghệ An hiện nay
Trên cơ sở tiếp nối những giá trị truyền thống trong đời sống văn hóa xã hội nói
chung, khuyến học nói riêng. Ngày nay, các hoạt động khuyến học của tỉnh Nghệ An
đã kế thừa, phát huy và gắn liền với hoạt động khuyến học của các thế hệ cha ông đƣợc
phản ánh qua nguồn TLHN về KHNA. Cụ thể thực trạng khuyến học và việc bảo lƣu
TLHN về KHNA nhƣ sau:
+ Thực trạng hoạt động khuyến học của Nghệ An hiện nay
Trải qua 20 năm xây dựng và phát triển (1998 – 2018), Hội Khuyến học tỉnh
Nghệ An đã đạt đƣợc những dấu ấn đáng trân trọng, đƣợc coi là “điểm sáng” trong
phong trào thi đua khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập của cả nƣớc.
Chúng tôi có may mắn đƣợc làm việc với ông Trần Xuân Bí - Chủ tịch Hội Khuyến
học tỉnh 2 nhiệm kỳ (2011- 2016) và (2016- 2021), đƣợc ông cung cấp cho rất nhiều tƣ
liệu quý về những kết quả của chặng đƣờng 20 năm khuyến học của tỉnh nhà. Cụ thể:
Hoạt động của Hội Khuyến học các cấp, Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Nghệ
An: Năm 2015, tỉnh đã tổ chức Hội nghị điển hình tiên tiến về khuyến học, khuyến
128
tài, xây dựng xã hội học tập tỉnh Nghệ An giai đoạn 2010- 2015, tôn vinh 151 tập
thể và cá nhân có thành tích xuất sắc. Sáng 26 tháng 11 năm 2018, Hội Khuyến học
Nghệ An kỉ niệm 20 năm thành lập. Nhìn lại chặng đƣờng 20 năm với những kết
quả không ngừng lớn mạnh, số lƣợng và chất lƣợng hội viên không ngừng tăng,
21/21 Hội Khuyến học cấp huyện, 480/480 Hội Khuyến học cấp xã, phƣờng, thị
trấn, đạt 100%; số lƣợng hội viên thuộc tỉnh đạt trên 630.000, chiếm 20% dân số
toàn tỉnh, có 40.000 ngƣời tham gia Ban Chấp hành hội các cấp, trong đó có trên
1.500 cán bộ chủ chốt của các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể chính trị xã hội giữ
cƣơng vị Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch Hội Khuyến học. [6, tr.8].
Ảnh 4.1. Lễ tuyên dương học sinh giỏi quốc tế, quốc gia do
Tỉnh ủy - UBND tỉnh Nghệ An tổ chức. Nguồn infonet.
Tất cả các văn phòng của Hội Khuyến học cấp huyện, thị, tỉnh đều có kết nối
Internet, duy trì hoạt động thông tin 2 chiều. UBND tỉnh trong 9 năm liên tiếp đã tổ
chức lễ tuyên dƣơng, khen thƣởng các em đạt học sinh giỏi đạt giải quốc tế, quốc
gia và điểm cao trong các kì thi vào đại học hàng năm. Hoạt động này đã góp phần
cổ vũ, động viên con em trong tỉnh phát huy truyền thống hiếu học, học giỏi, lập
thân, lập nghiệp. Hội Khuyến học thị xã Hoàng Mai là điển hình, tuy mới đƣợc
thành lập từ năm 2014, toàn thị xã có 10 hội cơ sở /10 phƣờng, 157 Chi Hội Khuyến
học /157 khối xóm, 42 ban khuyến học/ 42 đơn vị trƣờng học, hội viên Hội Khuyến
học đạt 23% dân số thị xã, ban khuyến học/ dòng họ đạt 86,4%. Tổng số quỹ huy
động trong 4 năm của Hội Khuyến học thị xã là 2.192.000.000 đồng và 104 chiếc xe
đạp. Số tiền chi trong 4 năm là 1.442.000.000 đồng. Có đƣợc con số đó là nhờ sự
129
chung tay góp sức của các doanh nghiệp trên địa bàn thị xã, của những ngƣời con
thành đạt xa quê đóng góp. Hình thức trao thƣởng đƣợc tổ chức trang trọng, có tác
động tích cực từ ngƣời trao đến ngƣời nhận. [55, tr.55].
Hoạt động khuyến học tại các trường học, cộng đồng: Nội dung TLHN về
KHNA đã phản ánh rõ hoạt động khuyến học bằng chế độ khen thƣởng: các thôn,
xã thƣởng cho sĩ tử giấy, bút, mực để họ đi học, đi thi; thƣởng tiền, ruộng... cho các
vị tân khoa, đỗ càng cao mức thƣởng càng nhiều (xem 3.1.2.1, mục Thưởng cho sĩ
tử, thưởng các vị tân khoa); hình thức khen thƣởng của Hội Tƣ văn, tổ chức hội của
những ngƣời có học tại địa phƣơng đối với những ngƣời trong hội đỗ đạt (xem
3.1.2.2, mục Hội Tư văn) mang lại hiệu quả khuyến học cao đối với các thế hệ sĩ tử
Nghệ An. Ngày nay truyền thống đó vẫn đƣợc kế thừa và phát huy. Tại trƣờng
Trung học phổ thông chuyên Phan Bội Châu, bà Nguyễn Thị Giang Chi, Phó Hiệu
trƣờng nhà trƣờng, phụ trách khuyến học của nhà trƣờng cho biết: Năm 2017-2018,
trƣờng Trung học phổ thông chuyên Phan Bội Châu tiếp tục dẫn đầu cả nƣớc về
thành tích học sinh giỏi quốc gia với 10 em đạt giải nhất, 23 em đạt nhì, 44 em giải
ba và 25 em đạt giải khuyến khích, 1 giải khuyến khích tiếng Nga quốc tế. Ngày 17
tháng 5 năm 2018, nhà trƣờng phối hợp với Hội Khuyến học tỉnh tổ chức lễ trao
thƣởng cho các thầy cô và học sinh có thành tích xuất sắc với kinh phí giải thƣởng lên đến 94,4 triệu đồng.
Hoạt động khuyến học ở vùng Giáo Xứ Thƣợng Lộc - Nghi Vạn huyện Nghi
Lộc bắt đầu từ quỹ khuyến học cho học sinh nghèo năm 2006. Lúc đầu quỹ học
bổng chỉ đầu tƣ 10 suất học bổng, mỗi suất từ 900.000 đồng đến 1.100.000-
1.800.000/ năm tùy theo cấp học, đến nay quỹ học bổng đã cấp 1,2 tỷ đồng cho
1.157 lƣợt học sinh. Riêng năm học 2017- 2018, đã cấp cho 150 học sinh của cả xã
Nghi Vạn cùng các vùng phụ cận với kinh phí 192.000.000 đồng. Ông Trần Xuân
Lữ, Chi Hội trƣởng Hội Khuyến học cho biết: nhờ công tác tuyên truyền mà nhiều
gia đình đã nhận thức đúng đắn việc chăm lo học hành, rèn luyện đạo đức của con
em. [45, tr.70].
Lễ cầu khoa hoạt động mang tính tâm linh sâu sắc, vừa có tác dụng động viên
về tinh thần, ổn định tâm lý cho sĩ tử đi thi, vừa cầu mong mùa khoa bảng thành
công rực rỡ, đƣợc ghi chép rõ trong 24 văn bản tục lệ của Nghệ An (xem 3.1.2.2,
mục Lễ cầu khoa và Phụ lục 3.3). Ngày nay, nhiều địa phƣơng tại Nghệ An vẫn duy
130
trì hoạt động này, điển hình nhƣ tại nhà Thánh làng Văn Tập, xã Diễn Bình đƣợc
xây dựng từ năm 1717, đến nay đã hơn 300 tuổi, trải qua nhiều biến cố nhƣng ngƣời
dân làng Vân Tập vẫn duy trì mỗi năm hai lần tổ chức lễ cầu khoa tại đây.
Để tăng cƣờng và nâng cao tính hiệu quả trong các hoat động khuyến học, tại
Nghệ An, ngày 9/4/2018 đã diễn ra lễ ký kết “Chƣơng trình phối hợp hoạt động
giữa Hội Khuyến học tỉnh và Hội Ngƣời cao tuổi tỉnh về đẩy mạnh học tập suốt đời
trong gia đình, dòng họ, cộng đồng giai đoạn 2018-2021”. Đây là hai tổ chức xã hội
cùng có trách nhiệm triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghệ
An lần thứ XVIII về hỗ trợ, khuyến khích phát triển giáo dục học đƣờng, chăm lo
điều kiện mở rộng cơ hội học tập. Hiện nay, đã xây dựng đƣợc 327.000 gia đình học
tập, 4.860 dòng họ học tập, 480 Trung tâm học tập cộng đồng, đã huy động đƣợc
gần 60 tỷ đồng cho Quỹ khuyến học các cấp/ năm; đã có 68% hội viên Hội Khuyến
học là ngƣời cao tuổi, có 1.250 ngƣời cao tuổi tham gia công tác quản lý, giảng dạy
hƣớng dẫn ở các trung tâm học tập cộng đồng. Nhiều ngƣời cao tuổi đã nêu tấm
gƣơng học tập suốt đời cho thế hệ trẻ noi theo [9].
Hoạt động khuyến học tại các dòng họ: Dòng họ Hồ ở Quỳnh Đôi, Quỳnh Lƣu
nổi danh khoa bảng không chỉ ở Nghệ An mà còn trên khắp cả nƣớc. Hồ gia hợp
tộc phả ký đƣợc coi nhƣ cuốn sách đăng khoa lục, là nguồn TLHN có giá trị khuyến
học về mặt tinh thần, tác động trực tiếp đến lớp lớp các thế hệ con cháu của dòng họ.
Nhiều năm trở lại đây, dòng họ Hồ này đã đặt ra những quy định về quỹ khuyến
học, khuyến tài từ các tiểu chi của dòng họ. Hàng năm, vào dịp 2/9, dòng họ tổ chức
khen thƣởng con cháu học tốt, dạy tốt từ cấp mầm non đến đại học. Cụ thể, năm học
2014- 2015, dòng họ thƣởng cho 21 học sinh đậu đại học với mức thƣởng 200.000
đồng/ngƣời; 14 học sinh đoạt giải cấp tỉnh, huyện với mức thƣởng 150.000
đồng/ngƣời; 1 học sinh giỏi cấp quốc gia thƣởng 250.000 đồng; 10 các thầy cô giáo
đạt các danh hiệu 200.000 đồng/ngƣời; 8 học sinh nghèo vƣợt khó với 200.000
đồng/ngƣời. Thành tích học tập của con cháu họ Hồ ngày càng nối dài thành tích
khoa bảng trong gia phả của dòng họ.
Vinh quy bái tổ là một trong những hoạt động khuyến học đƣợc ngƣời dân
Nghệ An xƣa rất coi trọng, thể hiện sự tôn vinh các vị tân khoa khi họ đỗ đạt trở về
quê hƣơng. Trong tổng số 276 văn bản tục lệ KHNA có 125 văn bản (chiếm 45,3% )
có điều ƣớc liên quan đến lễ vinh quy bái tổ (xem 3.1.2.2, mục Đón rước vinh quy bái
131
tổ). Tiếp nối truyền thống đó, ngày nay, vào sáng ngày 12 tháng Giêng hàng năm,
dòng họ Nguyễn ở Quỳnh Lƣu tổ chức lễ rƣớc kiệu truyền thống, kính báo lên tổ
tiên thành tích nổi trội về học tập, nhƣ: văn bằng Tiến sĩ, Giáo sƣ, Viện sĩ, danh
hiệu cao quý (học sinh đoạt giải quốc gia, Nhà giáo nhân dân, Nghệ sĩ nhân dân).
Ban khuyến học dòng họ thống kê những ngƣời đỗ đạt, có nhiều đóng góp để ghi
vào bảng vàng truyền thống, sau khi mất đƣợc ghi vào bia danh nhân của dòng họ.
[41, tr. 69-72].
Đầu Xuân năm 2019, chúng tôi có dịp đến dòng họ Nguyễn Phùng ở xã Xuân
Tƣờng, huyện Thanh Chƣơng, gặp bác Nguyễn Phùng Hồng, Chủ tịch Hội đồng gia
tộc họ, bác cho biết dòng họ có những nhiều ngƣời thành đạt, nhƣ: Giáo sƣ, Tiến sĩ,
Thiếu tƣớng Nguyễn Phùng Hồng; Tiến sĩ Sinh học Nguyễn Phùng Trân; Tổng
Giám đốc công ty thép Sài Gòn, v.v.. Trong những năm gần đây, quỹ khuyến học
dòng họ có khoảng 10 triệu đồng, hàng năm đều trích thƣởng cho các cháu học sinh
khá, giỏi, đỗ đạt học. Tại nhà thờ dòng họ đặt “hòm khuyến học”, mỗi dịp giỗ tổ,
Tết Nguyên đán, ngƣời trong họ tự nguyện bỏ tiền vào. Đây là hình thức gây quỹ
khác biệt so với dòng họ khác, các địa phƣơng khác. Thông thƣờng, tiền quyên góp
cho quỹ khuyến học ở các nơi thƣờng đƣợc chép sổ, hoặc ghi bảng trƣng tại nhà
Văn chỉ, nhà Văn hóa, nhà thờ dòng họ.
Ảnh 4.2. Hòm khuyến học đặt tại nhà thờ dòng họ Nguyễn Phùng xã Xuân Tường,
huyện Thanh Chương. Ảnh: Tác giả luận án.
Các phong trào khuyến học mang lại hiệu qua cao: Các phong trào thi đua
nhƣ “Tết khuyến học Nghệ An”, “Tháng khuyến học Nghệ An”, “Gia đình học
132
tập”, “Cộng đồng học tập”, v.v...đƣợc triển khai và hoạt động hiệu quả. Phong trào
Tết khuyến học đã tròn 15 năm, đƣợc triển khai vào cuối tháng Chạp, diễn ra vào
Tết Nguyên đán và rằm tháng Giêng, kết thúc vào trung tuần tháng Ba năm đó.
Thực tế triển khai trong nhiều năm qua cho thấy, Tết khuyến học là khoảng thời
gian quỹ khuyến học vận động đƣợc nhiều nhất trong năm. “Tháng khuyến học
Nghệ An” cũng trải qua chặng đƣờng 15 năm xây dựng và phát triển. Phong trào
này là sáng kiến, khởi phát từ Nghệ An, đƣợc Trung ƣơng Hội Khuyến học Việt
Nam nhân rộng ra cả nƣớc trong những năm qua. “Tháng khuyến học Nghệ An”
gắn với dịp khai giảng năm học mới hàng năm, nhằm vận động toàn xã hội hƣởng
ứng, chung tay, tiếp sức cho các em đến trƣờng, bƣớc vào năm học mới. Hoạt động
này nhận đƣợc sự ủng hộ nhiệt tình của mọi ngƣời, góp phần chăm lo cho các em
đến trƣờng với tinh thần 3 đủ: đủ ăn, đủ mặc, đủ sách vở. [5, tr.9]. Phong trào thi
đua “Gia đình học tập”, “Dòng họ học tập”, “Cộng đồng học tập”, “Đơn vị học tập”
thực hiện rộng khắp trên địa bàn tỉnh, với kết quả đạt đƣợc: 61% gia đình đạt gia
đình học tập, 62% dòng họ đạt dòng họ học tập, 67% cộng đồng đạt cộng đồng học
tập, v.v...
Xóa bỏ sự phân biệt về giới tính trong giáo dục: Vƣợt lên những hạn chế về
giáo dục Nho học trong việc không cho phép phụ nữ, trẻ em gái đi học, đi thi. Ngày
nay, trên phạm vi cả nƣớc nói chung, Nghệ An nói riêng, việc đến trƣờng học tập
của trẻ em gái và trẻ em trai là nhƣ nhau, sự phân biệt đối xử về giới từng bƣớc
đƣợc loại bỏ trong hệ thống giáo dục. Bé gái đƣợc đi học, sẽ tránh đƣợc những hậu
quả trực tiếp đối với trẻ em gái thất học, đó là: nạn tảo hôn, sức khỏe yếu kém, làm
mẹ sớm, thất nghiệp và nghèo đói. Tại huyện miền núi Quỳ Hợp của Nghệ An, nữ
sinh Nguyễn Châu Anh sinh năm 2001 đã xuất sắc giành học bổng Autralia trị giá
hơn 5 tỷ đồng. [33].
+ Một số hạn chế còn tồn tại của KHNA hiện nay
Khuyến học, khuyến tài có tác dụng hỗ trợ, khuyến khích tài năng, giúp đỡ kịp
thời học sinh nghèo hiếu học, xây dựng xã hội học tập. Tuy nhiên, trong thực tế
những năm gần đây, KHNA vẫn tồn tại một số bất cập, cần phải khắc phục, hạn
133
chế.
Vẫn còn trƣờng học và đơn vị thôn xã trong tỉnh còn chƣa có Chi Hội Khuyến
học. Chi Hội Khuyến học là một tổ chức có tƣ cách pháp nhân, đƣợc phép hoạt
động, có quyền vận động và thu, chi theo đúng quy định của nhà nƣớc. Một số
trƣờng vì chƣa có Chi Hội Khuyến học, sử dụng quỹ Ban đại diện cha mẹ học sinh
để chi cho công tác khuyến học, việc làm đó là vi phạm điều lệ Ban đại diện cha mẹ
học sinh do Bộ Giáo dục- đào tạo quy định. Ý thức xây dựng xã hội học tập của một
số cán bộ, giáo viên, nhân viên còn hạn chế, chƣa thực sự tâm huyết với hoạt động
khuyến học. Một số đơn vị đã thành lập Chi Hội Khuyến học, song chƣa xác định
đó là một trong những nhiệm vụ chính trị của cơ sở, không có kiểm tra, đánh giá,
xếp loại thi đua hàng năm, hoạt động đạt hiệu quả chƣa cao. Hiện nay trong nhiều
cơ quan, đơn vị, công tác khuyến học chủ yếu do Hội Khuyến học, mà Hội Khuyến
học phần lớn là cán bộ hƣu trí, sức khỏe hạn chế, sự năng động, nhạy bén trong
công tác có hạn, khó để phát huy đƣợc hết sức mạnh để đem lại hiệu quả khuyến
học cao.
Nhiều huyện, xã chƣa bố trí, phân bổ đƣợc kinh phí cho công tác triển khai
khuyến học, ảnh hƣởng không nhỏ đến việc triển khai đại trà, đặc biệt là việc kiểm
tra, đánh giá, công nhận các mô hình học tập tại địa phƣơng. Công tác khuyến học
giữa nhà trƣờng và các địa phƣơng chƣa thực sự gắn kết, vì công tác khuyến học
không chỉ thực hiện tại đơn vị học tập mà cần phải lan tỏa ra cả xã hội.
Cơ sở Hội Khuyến học còn khó khăn về phƣơng tiện làm việc, ngội ngũ cán
bộ làm công tác khuyến học còn chƣa đều, chƣa thể hiện đƣợc vai trò nòng cốt
trong việc liên kết, phối hợp, huy động các nguồn lực cho việc xây dựng xã hội học
tập. Điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị ở một số trung tâm học tập cộng đồng bị
xuống cấp, hoạt động chƣa hiệu quả nên không thu hút ngƣời dân tham gia. Công
tác tuyên truyền chƣa đƣợc quan tâm đúng mức, một bộ phận ngƣời dân chƣa thấy
đƣợc tầm quan trọng của việc học tập nâng cao trình độ.
Đối với một số huyện tại Nghệ An, nhƣ huyện Nam Đàn, do số lƣợng cán bộ
công chức ít, ngƣời làm công tác khuyến học thƣờng kiêm nhiệm các việc khác, tập
trung nhiều nhiệm vụ chuyên môn, nên tính đa dạng, liên tục trong hoạt khuyến học
134
còn hạn chế.
Các phong trào thi đua khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập đƣợc
triển khai chƣa đồng đều, phong trào diễn ra mạnh ở các khu dân cƣ, nhƣng chƣa
mạnh ở các đơn vị hành chính, sự nghiệp, đơn vị lực lƣợng vũ trang. Hoạt động
khuyến học tại các dòng họ chƣa đồng đều, chỉ tập trung ở một số dòng họ. Nhiều
dòng họ do nguồn kinh phí hạn hẹp nên hoạt động vẫn kém hiệu quả. Hoạt động
khuyến học giữa các vùng miền có sự chênh lệch, đặc biệt ở các vùng núi cao, vùng
sâu, vùng xa, giao thông đi lại, đời sống kinh tế còn nhiều khó khăn. Công tác
khuyến học, khuyến tài đối với các em học sinh, sinh viên đƣợc triển khai mạnh mẽ,
có hiệu quả; khuyến học đối với ngƣời lớn tuổi, ngƣời trong độ tuổi lao động còn
nhiều lúng túng, chƣa thiết thực và hiệu quả. Hoạt động của Hội Khuyến học cấp cơ
sở còn gặp không ít khó khăn, chƣa có cơ chế phù hợp cho hoạt động của các cấp
Hội, sự hỗ trợ của chính quyền các cấp, đặc biệt về tài chính còn hạn chế. [45].
Nguyên nhân tồn tại một số hạn chế trên là do nhận thức về ý nghĩa, tác dụng
của công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập và trách nhiệm lãnh
đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền một số địa phƣơng, ban ngành, chƣa đúng
mức. Từ đó việc phân bổ nguồn lực cho các hoạt động này chƣa đáp ứng đƣợc yêu
cầu.
Kinh phí ngân sách giành cho hoạt động khuyến học cấp hội quá ít ỏi nên
nhiều việc triển khai chƣa đầy đủ, chƣa sâu, kết quả còn hạn chế, thậm chí có việc
phải bỏ sót. Nghệ An rộng, nhiều vùng núi, vùng sâu, vùng xa… kinh tế, xã hội còn
gặp nhiều khó khăn, ảnh hƣởng đến hoạt động khuyến học. Nhiều hoạt động khuyến
học tại các địa phƣơng còn mang tính phong trào vì nguồn lực không đủ. Cơ chế
còn chƣa thực sự rõ ràng giữa các bên liên quan. Tại các Trung tâm hoạt động cộng
đồng đƣa cán bộ văn hóa, hay Hiệu trƣởng các trƣờng vào làm quản lý trung tâm,
cán bộ khuyến học chƣa phát huy đƣợc vai trò quản lý, chƣa nỗ lực động viên,
khuyến khích đƣợc ngƣời dân tham gia thực sự.
Từ những việc làm đƣợc và chƣa làm đƣợc của khuyến học Nghệ An trong
giai đoạn hiện nay cho thấy, điểm mạnh của khuyến học nơi đây tập trung ở việc
xây dựng quỹ khuyến học và vinh danh tại nhà trƣờng, dòng họ, cộng đồng. Tham
135
chiếu nội dung khuyến học của TLHN về KHNA xƣa, cần kiện toàn hơn tôn chỉ
hoạt động của Hội Khuyến học các cấp ở một số việc nhƣ: mở rộng môi trƣờng học
tập tại cộng đồng, nhất là đối với những ngƣời hết độ tuổi đi học, là lao động chính
trong các gia đình, nhằm nâng cao trình độ dân trí. Cần bổ sung thêm những hình
thức kỷ luật đối với những học sinh lƣời học, gian lận trong thi cử, mua điểm, chạy
điểm. Có những chế tài với những thầy cô không giữ đúng đạo đức nghề nghiệp
nhƣ lạm quyền, lạm chức; bạo hành với học sinh, v.v... Các phong trào khuyến học
các cấp cần đƣợc duy trì, phát huy, tránh tình trạng mang tính hình thức, đánh trống
bỏ rùi, không còn nguyên ý nghĩa tốt đẹp nhƣ khuyến học xƣa.
+ Bảo lưu nguồn tư liệu Hán Nôm về khuyến học của Nghệ An
Nguồn TLHN về KHNA lƣu giữ tại các thƣ viện lớn ở trung ƣơng và địa
phƣơng nhƣ VNCHN, TTKHXH, Thƣ viện Nghệ An đang đƣợc bảo quản khá tốt,
nhằm hạn chế tối đa những tác động của yếu tố môi trƣờng đến thƣ tịch và thác bản
văn bia. Ngoài ra, TLHN về KHNA hiện còn rải rác tại các làng xã, dòng họ, số tƣ
liệu này đang đứng trƣớc nhiều thách thức đối với việc bảo tồn và phát huy giá trị. Tƣ
liệu thƣ tịch hiện còn, phần lớn là gia phả các dòng họ khoa bảng nhƣ: gia phả họ Hồ
ở Quỳnh Lƣu, họ Nguyễn Trọng ở Trung Cần, họ Nguyễn Đức ở Hoành Sơn, họ Lê ở
Hoàng Mai, gia phả dòng họ Bùi Nam Thanh, Nguyễn Cảnh Xuân Hòa, họ Nguyễn ở
Nam Sơn, họ Chu Đại Sơn, họ Trần Yên Tứ Yên Sơn, v.v… [167, tr.330-345], ngoài
ra có sách tục lệ, gia huấn. Các thƣ tịch này, phần lớn đều đƣợc chép trên chất liệu
giấy dó, có lịch sử vài chục năm cho đến cả trăm năm, dƣới tác động của thời tiết
nóng ẩm, không đƣợc bảo quản trong chế độ nghiêm ngặt, nên rất nhiều văn bản đã bị
rách nát, mất góc, mất chữ, ảnh hƣởng đến việc nghiên cứu giá trị nội dung.
Tƣ liệu văn bia tại các di tích nhƣ nhà thờ dòng họ, đình, Văn chỉ, nhƣ: Nhân
Sơn bi ký tại đền Nhân Sơn xã Quỳnh Hồng Quỳnh Lƣu, Kim triều khoa bi đặt tại
đền Câu ở Rú Trăn xã Nam Xuân, huyện Nam Đàn, Trùng tu thánh vũ bi đặt tại nhà
họ Trƣơng, xóm Đông Trai xã Diễn Kỷ huyện Diễn Châu, Lương Sơn huyện bi ký
tại Văn chỉ thôn Ân Thịnh xã Đô Lƣơng, Đinh Tướng công bi chí tại đền thờ Đinh
Bạt Tụy ở xã Hƣng Trung huyện Hƣng Nguyên, Lý Trai xã bi tại thôn Đông Trai xã
136
Lý Trai huyện Đông Thành, Liên Trì giáp Văn từ bi ký tại xã Liên Thành huyện
Yên Thành… cũng trải qua dấu ấn của thời gian, mƣa nắng, nhiều tấm bia là “bái
vật một thời, giờ đây trán vỡ, chữ mờ, nhiều tấm chỉ còn bệ bia, nhà bia, bị cắm
trong lòng đất mà những ngƣời có trách nhiệm quản lý, bảo vệ cũng chẳng nhòm
ngó, mặc cho nắng mƣa, gió bão vẫn tơi bời va quệt và thời gian vẫn tiếp tục làm rạn nứt, bào mòn”. [37, tr.16] .
Văn miếu Nghệ An (ngƣời dân thƣờng gọi là Văn thánh Vinh) đƣợc lập từ triều
Lê ở Triều Khẩu, Lam Thành. Đến năm 1803, vua Gia Long sau khi lên ngôi cho xây
dựng lại tại Vĩnh Yên, hiện dấu tích còn lại của Văn miếu chỉ là bộ khung (cột, xà,
rui, mè, ngói) bằng gỗ 5 gian nằm trong khuôn viên cũ, nay là khuôn viên Công ty cổ
phần in Nghệ An và khu vực các hộ dân gần đó. [169, tr.65].
Di tích lịch sử cấp quốc gia Đình Võ Liệt tại xã Võ Liệt, huyện Thanh
Chƣơng, nơi có 6 tấm bia ghi danh ngƣời đỗ đạt từ Tú Tài, Cử nhân, Tiến sĩ của
tổng Võ Liệt từ triều Lê đến Nguyễn. Để bảo vệ Đình Võ Liệt trƣớc nguy cơ xuống
cấp, năm 2008, UNND tỉnh đã phê duyệt dự án đầu tƣ, xây dựng công trình, tu bổ, tôn
tạo và xây mới di tích lịch sử văn hóa Đình Võ Liệt. Ngày đầu năm 2019, chúng tôi
đến điền dã tại đây, đình ở vào tình trạng xuống cấp, cỏ dại mọc um tùm, đƣờng gạch
bị vỡ nát, đình vắng vẻ, bia đá dù đƣợc xây mái che nhƣng không đƣợc chăm chút, lau
chùi thƣờng xuyên.
Ảnh 4.3. Thực trạng khu di tích đình xã Võ Liệt
huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Ảnh: Tác giả luận án.
137
Dƣới tác động của xã hội hiện đại, khi chữ Quốc ngữ đƣợc dùng thay thế chữ
Hán, chữ Nôm, số ngƣời biết đọc đƣợc chữ Hán, Nôm ở Nghệ An hiện còn không
nhiều. Mặc dù ở Nghệ An hiện vẫn còn tồn tại các Câu lạc bộ Hán Nôm cấp xã, thị
xã, song việc khai thác, nghiên cứu TLHN nói chung, đặc biệt là TLHN liên quan
đến khuyến học vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Với sự nỗ lực của một số nhà khoa
học trong tỉnh, các công trình biên dịch, khảo cứu tƣ liệu liên quan đến khuyến học
đã ra đời, đáng chú ý là cuốn Các nhà khoa bảng Nghệ An của Đào Tam Tỉnh, Văn
bia Nghệ An của Ninh Viết Giao. Nhiều bài viết đăng trên báo Nghệ An, chuyên san
Khoa học công nghệ Nghệ An, chuyên san Khoa học xã hội và nhân văn Nghệ An…
Tuy nhiên, các nghiên cứu còn chƣa mang tính hệ thống, chƣa tƣơng xứng với
nguồn tƣ liệu vốn có và đáp ứng đƣợc lòng mong đợi của ngƣời dân Nghệ An.
Bên cạnh thực trạng đáng buồn trên, một số địa phƣơng tại Nghệ An đã có tín
hiệu đáng mừng trong việc bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống nói chung, TLHN
về khuyến học nói riêng. Nguyễn Trƣờng Tộ một danh sĩ, một ngƣơi thầy dạy chữ
Hán cho bao học trò trong Nhà Chung, Xã Đoài (nay thuộc xã Nghi Diên, huyện
Nghi Lộc). Sau khi ông mất năm 1943, Giáo sƣ Từ Ngọc Lân đứng ra kêu gọi các
bậc hiền tài đóng góp công của để xây dựng lăng mộ, khắc bia đá cho danh nhân.
Năm 1996 huyện Hƣng Nguyên đã đầu tƣ kinh phí xây dựng, nâng cấp khu di tích
với diện tích 1062 m2, gồm 2 phần: phần mộ và phần vƣờn mộ, xung quanh đƣợc
xây hàng rào bảo vệ.[179].
Thực hiện việc sƣu tầm TLHN trên địa bàn tỉnh Hƣng Nguyên, theo ông Thái
Huy Bích (Câu lạc bộ Hán Nôm Nghệ An): Năm 2011, huyện đã sƣu tầm đƣợc 210
bản sắc phong, 15 văn bia, 100 câu đối, 50 thần vị và bài vị, 20 hoành phi, câu đối,
trong đó chỉ có 1 nửa sắc phong đƣợc bảo quản tốt, số còn lại bị hƣ hỏng nặng, rách
nát, 2 văn bia bị gãy đôi chƣa đƣợc phục chế. Với kết quả đó, phòng Văn hóa thông
tin huyện Hƣng Nguyên đã đăng kí đề tài khoa học “Bảo tồn và phát huy giá trị di
sản Hán Nôm ở huyện Hƣng Nguyên” .
Dòng họ Nguyễn Trọng xã Trung Cần có truyền thống hiếu học và khoa bảng,
với ba vị đỗ đại khoa, 3 ngƣời đi sứ. Ngày 26/6/2017 tại xã Nam Trung huyện Nam
Đàn, Sở VHTT, Hội Di sản Nghệ An và con cháu dòng họ Nguyễn Trọng đã tổ chức lễ động thổ dự án tu bổ, tôn tạo di tích nhà thờ đại tôn của dòng họ. [52]. Dự án tôn tạo
138
nhà thờ họ Nguyễn Trọng ở Trung Cần thể hiện đạo nghĩa “uống nƣớc nhớ nguồn”,
“ôn cố tri tân”, bày tỏ sự biết ơn với các bậc tiền nhân, nhắc nhở con cháu chăm chỉ
học tập, nối tiếp sự nghiệp khoa bảng rực rỡ của ông cha.
4.2.2. Một số vấn đề đặt ra đối với việc bảo tồn, phát huy giá trị tư liệu Hán
Nôm về khuyến học của Nghệ An trong xã hội hiện nay
TLHN về KHNA là nguồn tƣ liệu quý, qua đó tái hiện đƣợc đƣợc những giá
trị truyền thống, làm cơ sở cho việc nghiên cứu, triển khai hoạt động khuyến học
trong giai đoạn hiện nay. Việc bảo tồn, khai thác, nghiên cứu và phát huy giá trị
nguồn tƣ liệu này là hết sức cần thiết, cụ thể nhƣ:
+ Tiếp tục công tác sưu tầm, số hóa, bảo tồn tư liệu Hán Nôm về khuyến học
của Nghệ An
Nghệ An là tỉnh lƣu giữ đƣợc khá nhiều TLHN. Để nguồn tƣ liệu đó đƣợc bảo
lƣu một cách tốt nhất, hạn chế tối đa những tác động của thời gian và môi trƣờng là vấn
đề đƣợc đặt ra một cách bức thiết. Từ năm 2015-2018, Ban quản lý Di tích tỉnh phối
hợp với Thƣ viện Khoa học tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện chƣơng trình
số hóa tài liệu Hán Nôm (giai đoạn 1), kết quả đã số hóa đƣợc 70.473 trang tƣ lƣ liệu
tại 231 xã, phƣờng, thị trấn và 473 dòng họ, đền, chùa, miếu thuộc 16 huyện, thành
phố, thị xã trên địa bàn. [72].
Ảnh 4.4. Cán bộ Ban quản lý Di tích giới thiệu sản phẩm tư liệu Hán Nôm được
phục chế sau số hóa. Nguồn ảnh: Công Kiên, báo Nghệ An.
139
TLHN hiện còn nằm rải rác tại các nơi trên địa bàn tỉnh, vì vậy công tác sƣu
tầm, hệ thống hóa, phiên âm, dịch nghĩa các văn bản Hán Nôm có nội dung KHNA
là việc làm vô cùng cần thiết. Chúng ta cần tiến hành thống kê chi tiết, tiếp tục sƣu
tầm, số hóa, từ đó có kế hoạch bảo tồn, phát huy giá trị một cách tổng thể. Việc làm
này cần có sự phối hợp chặt chẽ từ các Ban quản lý di tích, chính quyền địa phƣơng
các cấp tại Nghệ An.
Ngoài ra, việc tuyên truyền cho ngƣời dân hiểu đƣợc giá trị văn hóa, giá trị giáo
dục, hƣớng dẫn nghiệp vụ bảo quản cho chủ sở hữu di sản, nhằm lƣu giữ tƣ liệu ở tình
trạng tốt nhất, hạn chế những tác động từ thời tiết, môi trƣờng. Cơ quan có chức năng
bảo tồn cần có nguồn kinh phí nhất định để mua bản gốc, nhân bản, sao chép theo
phƣơng pháp truyền thống, số hóa theo phƣơng pháp hiện đại để bảo quản lâu dài.
Các di tích lịch sử, văn hóa liên quan đến truyền thống hiếu học, khuyến học,
truyền thống khoa bảng nhƣ Văn miếu, Văn từ, Văn chỉ, nhà thờ danh nhân, nhà thờ
họ, v.v... cần đƣợc tu bổ, sửa sang. Các gò đống thiêng, các doi đất hình cái bảng,
hình quản bút, án thƣ mà ông ta tạo ra quanh các công trình chính là cảnh quan văn
hóa để khích lệ tinh thần học tập của con em cần đƣợc khôi phục lại. Tại các dòng
họ, đặc biệt là dòng họ có truyền thống khoa bảng, nên có hoạt động biểu dƣơng,
khuyến khích học tập trong các dịp giỗ tổ, khai giảng đầu năm học.
+ Phiên âm, dịch nghĩa các văn bản Hán Nôm có nội dung khuyến học của
Nghệ An
Trên cơ sở nguồn tƣ liệu đã đƣợc sƣu tầm, thống kê một cách có hệ thống, tiến
hành đẩy mạnh việc phiên âm, dịch nghĩa, chú thích ra chữ Quốc ngữ để phục vụ
đông đảo các tầng lớp nhân dân, nhất là giới trẻ, để họ hiểu đƣợc chính sách khuyến
học xƣa mà ông cha đã thực hiện. Nguồn tƣ liệu này chỉ có thể bảo tồn và phát huy
hết giá trị khi có nhiều ngƣời hiểu đƣợc giá trị nội dung văn bản. Đó là một biện
pháp giảm thiểu nguy cơ mai một nguồn di sản văn hóa này.
+ Tiếp thu truyền thống, liên hệ với thực tế, đề ra những biện pháp khuyến học
phù hợp với thực tế hiện nay
Trên cơ sở giá trị nội dung mà nguồn TLHN về KHNA mang lại, chúng ta tiếp
thu những mặt tích cực, loại bỏ những điều còn hạn chế, từ đó đƣa ra những giải
140
pháp về khuyến học sao cho phù hợp với thực tế hiện nay, nhằm kết nối giá trị
truyền truyền thống và hiện đại, đƣa công tác khuyến học, khuyến tài đạt đƣợc hiệu
quả cao nhất. Một số giải pháp cụ thể nhƣ:
Xã hội hóa học tập, mở thêm các trường dân lập, đa dạng các mô hình học tập:
Việc mở ra các trƣờng dân lập tại Nghệ An là nhu cầu tất yếu, nhằm mở rộng môi
trƣờng học tập, khuyến khích con em những gia đình nghèo khó trong vùng có điều
kiện, cơ hội đến trƣờng, đến lớp. Thế kỷ XIX, Nghệ An mở ra rất nhiều trƣờng tƣ
thục, cũng là thời kỳ khoa bảng nơi đây đạt đƣợc những thành tựu rực rỡ nhất. Hình
thức xã hội hóa học tập đó còn giữ nguyên giá trị cho đến ngày nay, khi hệ thống
trƣờng dân lập đƣợc mở ra ở nhiều địa phƣơng trong cả nƣớc, đặc biệt là ở Thủ đô và
các thành phố lớn. Do tự chủ về tài chính, nên học phí tại các ngôi trƣờng này có cao
hơn so với hệ thống trƣờng công lập, nhƣng tại đây, điều kiện, môi trƣờng học tập rất
tốt, nhờ chính sách đãi ngộ tốt với thầy mà các trƣờng đã thu hút đƣợc các thầy giỏi,
tâm huyết với nghề. Hệ thống các trƣờng dân lập ra đời cũng là giải pháp nhằm giảm
tải áp lực đối với xã hội khi hệ thống trƣờng công không đáp ứng đủ nhu cầu học tập
của ngƣời dân.
Học tập không chỉ diễn ra trong các nhà trƣờng, tại các cơ quan, doanh nghiệp,
viện nghiên cứu, lực lƣợng vũ trang cũng nên thƣờng xuyên tạo ra các phong trào
thi đua khuyến học, khuyến tài, gắn thành tích học tập với các danh hiệu thi đua, để
việc học đƣợc lan tỏa rộng khắp. Gắn kết giữa giáo dục chính quy với không chính
quy, giữa giáo dục nhà trƣờng với giáo dục xã hội và giáo dục gia đình.
Phát huy vai trò của Hội Khuyến học trong phát triển sự nghiệp giáo dục:
Nếu xƣa kia việc khuyến học ở Nghệ An thƣờng do các thôn xã, đại diện là Hội Tƣ
văn đứng ra phụ trách, hoạt động rất hiệu quả. Ngày nay, với sự ra đời của Hội
Khuyến học, cần phát huy hơn nữa vai trò của Hội, từ trung ƣơng đến các cấp ở địa
phƣơng. Ở tỉnh có Hội Khuyến học tỉnh; huyện thị có Hội Khuyến học huyện thị;
thôn, xóm bản có Chi Hội Khuyến học các khối, xóm, thôn bản; trƣờng học, dòng
họ, cơ quan, doanh nghiệp thành lập Ban Khuyến học trực thuộc. Hội Khuyến học
các cấp cần nêu cao vai trò, trách nhiệm của mình, củng cố tổ chức, đề ra các
141
phƣơng thức hoạt động nhằm đạt hiệu quả cao nhất.
Phát triển các loại hình quỹ khuyến học cơ sở: TLHN về KHNA cho thấy, tuy
trƣớc đây các thôn xã chƣa hình thành các quỹ khuyến học, kinh phí cho khuyến
học thƣờng đƣợc trích ra từ tiền công của địa phƣơng, tiền thuế, hoa lợi thu đƣợc từ
học điền, v.v… một số ngƣời đỗ đạt, làm quan cũng trích tiền, ruộng của riêng mình
để khuyến học nhƣ Tiến sĩ Hồ Sĩ Dƣơng. Ngày nay quỹ khuyến học đƣợc hình
thành, đa đạng hóa các phƣơng thức vận động ở các cấp là việc làm thiết thực, có ý
nghĩa. Quỹ khuyến học đƣợc lập ở huyện, xã, thôn, Ban khuyến học dòng học, Ban
khuyến học hội đồng hƣơng, Ban khuyến học Hội giáo chức, v.v… Nên vận động
các cơ quan, đoàn thể, doanh nghiệp và đồng bào ở trong ngoài tỉnh, ở nƣớc ngoài
đồng hành, ủng hộ vào các dịp nhƣ Tết Nguyên đán, đầu năm học mới. Nhờ có nguồn
quỹ đó, các suất quà, suất học bổng, phần thƣởng khuyến học sẽ đến đƣợc nhiều hơn
với các em học sinh, với những đối tƣợng có thành tích trong học tập và giáo dục. Bên
cạnh ngân sách nhà nƣớc hỗ trợ công tác khuyến học, tăng cƣờng vận động các quỹ
khuyến học từ các doanh nghiệp, ngƣời hảo tâm. Khi đã có đƣợc nguồn quỹ để hoạt
động, cần có sự quan tâm, chỉ đạo, quản lý trực tiếp của các cấp chính quyền để quỹ đó
đƣợc sử dụng có hiệu quả.
Thông tin, tuyên truyền về công tác khuyến học: Đề danh khoa bảng, tổ chức
đón rƣớc, vị trí nơi đình trung… đƣợc hiểu nhƣ hình thức tuyên truyền về khuyến
học của ngƣời xƣa. Ngày nay, thông qua các phƣơng tiện thông tin đại chúng, nên
tuyên truyền các chủ trƣơng, chính sách của Đảng và nhà nƣớc về công tác khuyến
học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập. Các cơ quan báo chí nên xây dựng các
chuyên đề, chuyên mục liên quan đến công tác khuyến học, biên soạn và phát triển
các bản tin, tài liệu, các phóng sự, bài viết về những tấm gƣơng tiêu biểu trong học
tập.
Hệ thống thông tin cơ sở nhƣ đài phát thanh, đài truyền hình cấp huyện, xã
nên dành một thời lƣợng nhất lƣợng để tuyên truyền về học tập, khuyến học. Thông
qua việc tuyên dƣơng, khen thƣởng các cá nhân, đơn vị có thành tích cao trong học tập,
142
trong công tác khuyến học, xét tặng danh hiệu xuất sắc về học tập tại các trƣờng học,
cơ quan của địa phƣơng. Phối hợp với các bộ, ngành nhƣ Hội Khuyến học, Hội Phụ nữ,
UBND các cấp, Đoàn Thanh niên, v.v…, để việc thông tin, tuyên truyền về khuyến học.
Nên đƣa nội dung khuyến học, khuyến tài và xây dựng xã hội học tập vào buổi
họp phụ huynh đầu năm, đảm bảo công tác tuyên truyền đến từng cha mẹ, từng gia
đình học sinh. Từ đó, mỗi phụ huynh sẽ trở thành một hạt nhân tuyên truyền, là nhân tố
nòng cốt xây dựng gia đình học tập, xã hội học tập theo đúng chủ trƣơng của UBND
tỉnh.
Phát triển các mô hình học tập: TLHN về KHNA cho thấy tại các gia đình,
dòng họ ở Nghệ An cha ông, chú bác luôn truyền dạy kiến thức cho con cháu, điển
hình nhƣ Hƣơng cống Ngô Trí Trạch có công lớn trong việc dạy dỗ con trai là Ngô
Trí Tri, cháu là Ngô Trí Hòa cùng đậu Tiến sĩ. Gia phả họ Ngô Lý Trai ghi rõ Ngô
Trí Tri sau khi đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân làm quan tới chức Giám sát
Ngự sử đạo Quảng Nam, thăng lên làm Tả Thị lang Bộ Lễ, sau này, cụ về nghỉ tại
quê nhà, dạy bảo con cháu học hành. Nhiều vị quan chức sau khi thoái quan trở về
mở lớp dạy cho con cháu trong thôn ngoài xã và những vùng lân cận, nhƣ: Nguyễn
Đức Đạt, Nguyễn Nguyên Thành, Hồ Mậu Đức, v.v… (xem mục 3.2.1)
Tiếp thu kinh nghiệm của cha ông, ngày nay tại Nghệ An nên tổ chức các mô
hình học tập nhƣ: gia đình học tập, dòng họ tập, cộng đồng học tập cấp thôn, bản, tổ
dân phố, đơn vị học tập ở cơ sở thuộc xã, phƣờng quản lý. Gia đình, dòng họ là cái
nôi nuôi dƣỡng các thế hệ tƣơng lai của đất nƣớc. Năm 2014, Thủ tƣớng Chính phủ
đã ra quyết định 281/QĐ-TTg về “đẩy mạnh phong trào học tập suốt đời trong gia
đình, dòng họ, cộng đồng đến năm 2020” [177, tr.169], các mô hình học tập tại
nhiều gia đình, dòng họ và cộng đồng đã có những chuyển biến về nhận thức và
hành động, tạo điều kiện cho con em học tập, nỗ lực phấn đấu để thành danh, thành
tài. Nhiều gia đình, dòng họ, cộng đồng đặc biệt là những nơi giàu truyền thống
hiếu học, khoa bảng đã hỗ trợ về mặt vật chất, động viên về tinh thần đối với con
em, cƣ dân. Đó là hình thức khuyến học từ cơ sở, là nền tảng để khuyến học phát
143
triển ở các cấp, hội tiếp theo.
Đẩy mạnh công tác học tập, khuyến học, khuyến tài ở vùng sâu, vùng núi cao,
biên giới: Trƣớc đây khi khoa cử Nho học chỉ đƣợc tập trung ở các kinh trấn lớn, việc
học tập, thi cử ở Nghệ An gặp rất nhiều hạn chế. Thời nhà Trần, thi cử mở rộng ra cả ở
kinh và trại, Bạch Liêu đậu Trại Trạng nguyên, ngƣời khai khoa cho khoa bảng Nghệ
An. Hiện nay, Nghệ An có 244/481 xã miền núi, trong đó 115 xã miền núi cao đặc
biệt khó khăn với 443.000 đồng bào dân tộc thiểu số (Thái, Thổ, Khơ Mú, Mông, Ơ
đu) [6, tr.1], đây là những địa bàn cực kỳ khó khăn trong đời sống sinh hoạt nói
chung, học tập nói riêng. Do điều kiện học tập còn thiếu kém, tỉ lệ đồng bào dân tộc
thiểu số chƣa biết chữ khá nhiều, công tác xóa mù chữ và chống tái mù chữ cần
đƣợc triển khai, nên mở thêm nhiều lớp dạy chữ, đặc biệt là dạy chữ cho ngƣời lớn,
tạo điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị trƣờng học cho trẻ em có điều kiện đến
trƣờng học tập. Mỗi khi có trẻ bỏ học, nên kịp thời vận động, hỗ trợ học sinh quay
trở lại trƣờng. Thƣờng xuyên tuyên truyền để ngƣời dân hiểu đƣợc ý nghĩa, tác
dụng của việc học, việc tiếp thu tri thức, có những hình thức khuyến khích bằng vật
chất để họ hứng khởi hơn với việc học.
Vận động người dân và duy trì các lớp học tại các trung tâm học tập cộng
đồng: Thực tế hiện nay tại nhiều vùng núi, biên giới của Nghệ An, trình độ dân trí
còn thấp, tỉ lệ ngƣời cao tuổi chƣa biết chữ, chƣa tiếp cận với những thông tin mang
tính thời sự còn nhiều. Trung tâm học tập xa dân cƣ, ngƣời dân chủ yếu hoạt động
tại các nhà văn hóa, qua các buổi tuyên truyền. Vì vậy nên vận động ngƣời dân ra
lớp, tổ chức dạy học, cung cấp tài liệu học tập cho ngƣời học, cấp lƣơng cho cán bộ
hoạt động tại trung tâm học tập cộng đồng. Hoạt động này nên đƣợc duy trì liên tục,
tránh tình trạng đầu voi, đuôi chuột, không đem lại hiệu quả.
Cơ chế tốt đối với giáo viên, những người làm công tác khuyến học: Một
trong những hình thức khuyến học thiết thực và hiệu quả của Nghệ An xƣa đƣợc
phản ánh qua TLHN là hình thức mời thầy và có chế độ đãi ngộ tốt với thầy, cụ thể:
dùng học điền trả lƣơng cho thầy, nộp lúa để nuôi thầy, lễ tết thầy, thăm hỏi thầy
lúc ốm đau, khi gia đình thầy có việc, khi tang ma, giỗ chạp thầy. Ngày nay cũng
144
vậy, đối tƣợng khuyến học không chỉ là ngƣời học mà cả với thầy dạy, việc đào tạo,
nuôi dƣỡng và phát triển đội ngũ giáo viên, đặc biệt là giáo viên giỏi tạo là việc làm
cần thiết, tạo động lực, hiệu quả cao trong học tập.
Khi xã hội ngày càng phát triển, đời sống của ngƣời dân ngày đƣợc nâng cao,
hƣớng nghiệp cho học sinh theo đuổi ngành giáo dục, sinh viên ra trƣờng theo nghề
giáo, yêu nghề giáo; cần có những cơ chế đặc biệt để thầy cô yên tâm với nghề,
nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ. Ngoài ra, thu nhập của giáo viên là vấn đề đáng
đƣợc lƣu tâm, cần có chế độ thâm niên, phụ cấp, ƣu đãi theo tính chất, kết quả và
chất lƣợng công việc, phù hợp với từng vùng miền. Ƣu đãi đặc biệt với giáo viên
công tác ở vùng núi, hải đảo, những vùng còn gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, về
mặt tinh thần, cần tạo điều kiện để giáo viên tham gia các hoạt động tham quan,
giao lƣu để làm giàu thêm vốn sống, tri thức. Xây dựng môi trƣờng văn hóa trong
trƣờng học, hoàn thiện cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học, sắp xếp thời gian giảng
dạy hợp lý, tạo môi trƣờng cảnh quan sƣ phạm thân thiện để họ có động lực làm
việc. Để giáo viên yêu trƣờng, yêu nghề, giữ chân đƣợc giáo viên giỏi cần môi
trƣờng làm việc tốt, cách thức quản lý phù hợp, cơ chế ƣu đãi tƣơng xứng với năng
lực và thành tích của giáo viên giỏi. Giáo viên cần đƣợc tạo điều kiện tối đa về
chuyên môn, có sự kiểm tra đánh giá năng lực, tạo ra sự cạnh tranh công bằng, công
khai và thuyết phục.
Để khuyến học đạt đƣợc những thành quả tốt, không thể không nhắc đến đội
ngũ những hội viên tham gia công tác khuyến học ở các cấp. Chế độ thù lao đối với
những ngƣời chuyên trách tại Hội Khuyến học các xã, phƣờng là việc làm cần thiết,
nhằm hỗ trợ, khuyến khích, động viên họ thực hiện tốt hơn công tác của mình, thừa
145
nhận vai trò quan trọng của Hội Khuyến học nhƣ các đoàn thể chính trị, xã hội khác.
TIỂU KẾT CHƢƠNG 4
TLHN về KHNA có giá trị về mặt lịch sử, giáo dục và văn hóa. Bên cạnh giá trị tích cực cần bảo tồn và phát huy, nguồn tƣ liệu này còn những hạn chế mang tính lịch sử.
TLHN về KHNA đem lại nhiều giá trị nhân văn đối với cá nhân và xã hội trong việc khuyến học. Đó là, đề cao tinh thần hiếu học, coi trọng việc học; tạo ý thức thực học; góp phần bảo lƣu truyền thống tôn sƣ trọng đạo; tác động không nhỏ đối với khoa cử Nho học; bổ sung cho nghiên cứu về khuyến học của Việt Nam, v.v.... Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận, khuyến học Nghệ An vẫn còn một số hạn chế về mặt tƣ tƣởng đối với xã hội hiện nay, nhƣ: không nhắc đến đối tƣợng học sinh nữ; quá đề cao vị trí cá nhân nơi đình trung; tƣ trƣởng trọng khoa đè nặng nên tâm lý ngƣời dân. Nhiều gia đình, dòng họ bắt con cháu mình học bằng mọi giá, thậm chí “khổ học”, dẫn đến không phát huy đƣợc sự hứng khởi, tính sáng tạo trong học tập. Năm 2018, Hội Khuyến học tỉnh Nghệ An trải qua 20 năm hình thành và phát triển, đƣợc coi là “điểm sáng” về khuyến học của cả nƣớc. Tiếp thu truyền thống khuyến học của cha ông, các phong trào khuyến học của các thôn xã, trƣờng học, Hội Khuyến học các cấp đƣợc thực hiện rộng khắp trên địa bàn tỉnh, đạt đƣợc những thành tích đáng ghi nhận. Bên cạnh đó cũng còn tồn tại một số bất cập: nguồn nhân lực, kinh phí, phong trào khuyến học diễn ra chƣa đồng đều giữa các địa phƣơng.
146
Bảo tồn phát huy giá trị TLHN về KHNA trong xã hội hiện nay, trƣớc hết cần phải bảo lƣu nguồn tƣ liệu dƣới nhiều hình thức nhƣ: sƣu tầm, số hóa, bảo quản, dịch chú ra chữ Quốc ngữ để ngƣời dân hiểu đƣợc nội dung từ đó họ có ý thức hơn trong việc gìn giữ, phát huy giá trị tƣ liệu. Tiếp thu những giá trị tích cực, gạt bỏ những tƣ tƣởng còn hạn chế, liên hệ với thực tế, đề ra những biện pháp khuyến học cho phù hợp với hiện nay, nhƣ; xã hội hóa học tập, mở thêm trƣờng dân lập, phát triển các loại quỹ khuyến học cơ sở, thông tin tuyên truyền về công tác khuyến học, đẩy mạnh học tập, khuyến học, khuyến tài ở vùng sâu, vùng núi cao và biên giới.
KẾT LUẬN
Khuyến học là chính sách quốc gia, là động lực quan trọng trong chiến lƣợc
phát triển con ngƣời. Khuyến học đƣợc hình thành, phát triển gắn liền với nền giáo
dục khoa cử Nho học giai đoạn 1075-1919, góp phần tạo nên truyền thống hiếu học
và truyền thống khoa cử ở Việt Nam.
Nghệ An nổi tiếng hiếu học, khuyến học, điều đó đƣợc phản ánh rõ qua 96 kí
hiệu sách và 100 đơn vị văn bia. Quá trình tiếp cận tƣ liệu và khai thác tƣ liệu Hán
Nôm về khuyến học của Nghệ An đã đƣợc Nghiên cứu sinh quan tâm nghiên cứu,
nhất là từ khi triển khai thực hiện luận án. Qua nghiên cứu luận án, Nghiên cứu sinh
có một số kết luận sau đây:
1. Trƣớc khi đi vào tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài, chúng
tôi đƣa ra khái niệm khuyến học, khái niệm tƣ liệu Hán Nôm về khuyến học của
Nghệ An; giới thiệu về địa danh hành chính tỉnh Nghệ An, khái lƣợc quá trình phát
triển của khuyến học, trên cơ sở đó xác định phạm vi nghiên cứu của đề tài. Việc
tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài về khuyến học ở Việt Nam, một
số nƣớc trong khối đồng văn và khuyến học của Nghệ An, đã đƣa đến những định
hƣớng nghiên cứu toàn bộ tƣ liệu Hán Nôm về khuyến học của Nghệ An một cách
có hệ thống, toàn diện và sâu sắc.
2. Tƣ liệu Hán Nôm về khuyến học của Nghệ An gồm 96 kí hiệu sách và 100
đơn vị văn bia, hiện đƣợc lƣu giữ ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Thƣ viện Thông tin
khoa học xã hội và tại địa phƣơng. Về thƣ tịch, gồm: sách tục lệ, đăng khoa lục, địa
chí, lịch sử, gia huấn và gia phả; trong đó, sách tục lệ chiếm số lƣợng nhiều nhất với
60 kí hiệu sách. Về văn bia, gồm: văn bia đề danh khoa bảng, văn bia thờ Tiên hiền,
văn bia trùng tu Văn từ Văn chỉ, văn bia Hội Tƣ văn và văn bia tiểu sử các nhà khoa
bảng.
3. Đặc điểm chung của tƣ liệu tục lệ, địa chí, gia phả, gia huấn là sách viết tay,
6/96 sách khắc in (chiếm 6.25%), nên có những hạn chế về mặt văn bản, nhƣ: tam sao
147
thất bản, không thống nhất về địa danh cấp phủ, cấp huyện trên cùng một văn bản,
dùng sai từ đồng âm khác nghĩa, v.v... Văn bản tục lệ có thông tin niên đại chiếm
96,4%, 159 văn bản thế kỷ XIX (57,6%), 101 bản thế kỷ XX (36,6%), Hương
khoán thôn Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lƣu (A.3154) lập năm Dƣơng Hòa thứ 4
(1638) là bản có niên đại sớm nhất; văn bản tục lệ thôn Cổ Bái, xã Xuân Dƣơng và
xã Hải Yến (AF.b1/24) lập năm Khải Định thứ 5 (1920) có niên đại muộn nhất.
Hiện tƣợng bổ biên điều ƣớc xuất hiện trong nhiều văn bản tục lệ, vì vậy, xuất hiện
nhiều niên đại trên cùng một văn bản. Về văn bia, hiện tƣợng làm giả niên đại trên
thác bản tập trung ở nhóm văn bia do Viện Viễn đông Bác cổ Pháp tại Hà Nội sƣu
tầm. Việc ngụy tạo nhằm mục đích đẩy niên đại lên sớm hơn so với thực tế, chứng
tỏ văn bia có niên đại triều Lê và che dấu những thông tin liên quan đến triều
Nguyễn. Chúng tôi đã thống kê đƣợc 19 thác bản bia ngụy tạo niên đại, trong đó, 11
thác bản bia niên đại Cảnh Hƣng, 6 thác bản bia niên đại Vĩnh Thịnh và 2 thác bản
niên đại Bảo Hƣng. Tác giả tƣ liệu Hán Nôm về khuyến học của Nghệ An phần lớn
có học vị cao. Số soạn giả, ngƣời biên soạn, biên tập là ngƣời Nghệ An chiếm số
lƣợng khá nhiều. Về văn tự: tƣ liệu Hán Nôm về khuyến học của Nghệ An chủ yếu
đƣợc viết bằng chữ Hán, có 3 cuốn viết bằng chữ Nôm (Vân Tụ tổng các xã thôn tục
lệ, Hương biên làng Quỳnh và Quỳnh Đôi hương biên diễn âm), chữ Nôm còn đƣợc
sử dụng ghi tên ngƣời, tên địa danh.
4. Nội dung khuyến học qua tƣ liệu Hán Nôm của Nghệ An mang ý nghĩa thiết
thực, tạo nền tảng thúc đẩy việc học, đƣợc thể hiện bằng những chính sách cụ thể
nhƣ: dựng trƣờng mở lớp (trƣờng công lập, trƣờng dân lập), chế độ khen thƣởng
(đặt học điền, biếu lộc sau kỳ tế lễ, lƣu danh khoa bảng, vinh quy bái tổ, lễ cầu
khoa, vị trí nơi đình trung, miễn sƣu sai tạp dịch, tang ma thờ tự, v.v...), chế tài xử
phạt (phạt ngƣời lƣời học, giả danh đi học, coi thƣờng Nho học và khoa bảng).
Khuyến học của Nghệ An thể hiện sự đa dạng, phong phú, có giá trị về cả vật chất
và tinh thần. Chính sách khuyến học đƣợc vận dụng một cách linh hoạt, phù hợp với
thời cuộc. Nội dung khuyến học phù hợp với những giá trị văn hóa Nho học truyền
148
thống. Với những gì làm đƣợc, khuyến học của Nghệ An xƣa đã đáp ứng đƣợc yêu
cầu thực tiễn, từng bƣớc kiện toàn hệ thống giáo dục ở cơ sở, góp phần thúc đẩy
giáo dục đào tạo của nƣớc nhà.
5. Tƣ liệu Hán Nôm về khuyến học của Nghệ An chịu ảnh hƣởng của giáo dục
Nho học. Đề cao tinh thần hiếu học, coi trọng việc học, tạo ra ý thức tự học, góp
phần bảo lƣu truyền thống tôn sƣ trọng đạo, bảo tồn phát huy giá trị di sản văn hóa
thành văn của dân tộc, v.v... là những giá trị nhân văn mà nguồn tƣ liệu này mang
lại. Ngày nay, cùng với sự phát triển của xã hội, một số tƣ tƣởng khuyến học không
còn phù hợp trong xã hội hiện nay nhƣ: không khuyến khích phụ nữ đi học, quá đề
cao vị trí nơi đình trung, quá coi trọng ngƣời khoa bảng, coi thƣờng những ngƣời
lao động chân tay, những ngƣời góp phần không nhỏ vào sự tồn tại, phát triển toàn
diện của một vùng đất học ở Việt Nam.
6. Luận án dành một phần tìm hiểu về thực trạng khuyến học của Nghệ An
trong chặng đƣờng 20 năm (1998-2018) hình thành và phát triển. Có thể thấy rằng,
truyền thống khuyến học của cha ông đã truyền lửa cho các thế hệ ở Nghệ An hiện
nay. Nghệ An đƣợc coi là điểm sáng về khuyến học của cả nƣớc với những hình
thành tích đáng trân trọng. Hoạt động của Hội Khuyến học các cấp, các phong trào
thi đua khuyến học diễn ra ở nhiều nơi, các mô hình học tập trong cộng đồng đã
đƣợc triển khai. Tuy nhiên, do nguồn nhân lực chƣa đủ mạnh về cả số lƣợng và chất
lƣợng, nguồn kinh phí không ổn định, nhận thức về vai trò của khuyến học chƣa sâu
nên hoạt động khuyến học ở nhiều địa phƣơng chƣa đem lại hiệu quả cao, đặc biệt
là những nơi có điều kiện kinh tế khó khăn, vùng núi xa xôi.
7. Bảo tồn và phát huy giá trị tƣ liệu Hán Nôm về khuyến học của Nghệ An
cần có sự chung tay, giúp sức của cả cộng đồng, với việc cụ thể nhƣ: sƣu tầm, số
hóa, bảo quản, phiên âm, dịch nghĩa nguồn tƣ liệu có giá trị khuyến học. Xã hội hóa
học tập bằng việc mở thêm các ngôi trƣờng dân lập, đa dạng hóa các mô hình học
tập. Phát huy vai trò của Hội Khuyến học trong sự nghiệp phát triển giáo dục, phát
triển các loại hình quỹ khuyến học cơ sở, tuyên truyền, thông tin về công tác
khuyến học, tăng cƣờng hoạt động khuyến học ở các gia đình, dòng họ. Do số xã
149
miền núi ở Nghệ An chiếm số lƣợng khá lớn (244/481 xã), vì vậy cần đẩy mạnh
công tác học tập, khuyến học ở vùng sâu, vùng núi cao và biên giới. Đề ra những cơ
chế đãi ngộ đối với giáo viên và những ngƣời làm công tác khuyến học, để họ yên
tâm làm tốt hơn vai trò của mình.
8. Luận án đã tiến hành nghiên cứu một cách toàn diện tƣ liệu Hán Nôm về
khuyến học của Nghệ An hiện lƣu giữ tại các thƣ viện trung ƣơng và địa phƣơng,
tuy nhiên nguồn tƣ liệu này còn rải rác trong nhà dân, thƣ viện tƣ nhân tại các thôn
xóm, v.v... Vì vậy, trong thời gian tới, tác giả luận án sẽ dành thời gian để khảo sát,
thu thập thêm. Trên cơ sở nguồn tƣ liệu phong phú đó, khảo cứu, giới thiệu, dịch
chú một số tác phẩm, hay văn bia có nội dung khuyến học tiêu biểu là việc làm cần
thiết. Nghệ An, dải đất thuộc Bắc Trung Bộ, sau những nghiên cứu về khuyến học nơi
đây, tác giả luận án có tham vọng tiếp tục tìm hiểu về khuyến học của một số tỉnh ở
vùng đồng bằng Bắc Bộ và Nam Bộ để có cái nhìn tổng quát, cũng nhƣ nét đặc trƣng
về khuyến học của 3 miền Bắc -Trung- Nam trên đất nƣớc Việt Nam giàu truyền thống
và giàu bản sắc.
Luận án mở ra hƣớng nghiên cứu tƣ liệu Hán Nôm có nội dung khuyến học tại
nhiều địa phƣơng trong cả nƣớc, từ đó có cái nhìn đa chiều, tổng thể và so sánh về
150
khuyến học qua tƣ liệu Hán Nôm giữa các vùng miền.
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Lê Thị Thu Hƣơng. 2017. “Danh mục văn bia khuyến học tỉnh Nghệ An tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm”, Thông báo Hán Nôm học năm 2016, Nxb Thế giới, Hà Nội, tr.
304 – 312.
2. Lê Thị Thu Hƣơng. 2017. “13 vị Tiến sĩ triều Lê của huyện Thanh Chƣơng qua tƣ liệu
Hán Nôm”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Nghệ An, số 1, tr.47-55.
3. Lê Thị Thu Hƣơng. 2017. “Đôi nét về văn bia có nội dung khuyến học của Nghệ An”,
Tạp chí Hán Nôm, số 4, tr.70-82.
4. Lê Thị Thu Hƣơng. 2017. “Các nhà khoa bảng Nghệ An qua tài liệu địa chí Hán Nôm” (Kỷ yếu Hội thảo khoa học cấp quốc gia có phản biện), Nghiên cứu Hán Nôm 2017,
Nxb Thế giới, Hà Nội, tr.45-59.
5. 黎氏秋香. 2017. “勸學對越南科舉的影響 : 以乂安省為中心”, 第二屆 : 文献與進路
越南漢學工作坊 (會議論文集 ), Chiayi, Taiwan, 261-279 页.
6. Lê Thị Thu Hƣơng. 2018. “Khuyến học của tỉnh Nghệ An qua nguồn tài liệu tục lệ Hán
Nôm”, Tạp chí Hán Nôm, số 4, tr. 71-83.
7. 黎氏秋香. 2018. “探讨关于越南私立汉文学校的汉喃文字资料以乂安省為中心”, 中 國与东南亚民族言語文化研究范宏貴学术思想國际学术研讨会, 12/2018. Kỉ yếu Hội thảo, 291 - 299 页.
8. Lê Thị Thu Hƣơng. 2018. “Tìm hiểu về trƣờng học tại các làng xã ở Nghệ An trƣớc năm 1919 qua tƣ liệu tục lệ và văn bia” Kỷ yếu Hội thảo khoa học cấp quốc gia có phản
biện) , Nghiên cứu Hán Nôm 2018, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2017, tr.394-408.
9. Lê Thị Thu Hƣơng. 2019. “Lễ cầu khoa qua tƣ liệu tục lệ cổ truyền tỉnh Nghệ An”,
Chuyên san Khoa học xã hội và Nhân văn Nghệ An, số 1 +2, tr.55- 61.
10. Lê Thị Thu Hƣơng. 2019. “Tìm hiểu việc đặt học điền ở tỉnh Nghệ An qua tƣ liệu Hán
Nôm”, Tạp chí Hán Nôm, số 2, tr.66 -75.
151
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu tiếng Việt
1.
Hứa Văn Ân (và nhiều tác giả). 1998. Truyền thống tôn sư trọng đạo, Nxb Trẻ.
2.
Nguyễn Quang Ân. 1997. Việt Nam những thay đổi địa danh và địa giới các đơn vị
hành chính 1945-1997, Nxb VHTT, Hà Nội.
3.
Đào Duy Anh. 2016. Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb KHXH, Hà Nội.
4.
Trần Thị Kim Anh. 2006. “Lệ hƣơng ẩm- diễn biến lễ hƣơng ẩm tửu của Nho giáo ở
Việt Nam”, Tạp chí Hán Nôm, số 5, tr.32- 39.
5.
Trần Xuân Bí. 2018. “ Báo cáo sơ kết 3 năm thực hiện QĐ 281/2014 TTg 20/2 /2014
của Thủ tƣớng Chính phủ về “Đẩy mạnh phong trào học tập suốt đời trong gia đình,
dòng họ, cộng đồng đến năm 2020” ở Nghệ An”. Số 100BC/KHNA, in trong Tài liệu
20 năm xây dựng và phát triển Hội Khuyến học tỉnh Nghệ An. Bản do ông Trần Xuân
Bí, Chủ tịch Hội Khuyến học Nghệ An cung cấp.
6.
Trần Xuân Bí. 2018. “Báo cáo 20 năm xây dựng và phát triển Hội Khuyến học tỉnh
Nghệ An (1998- 2018) và công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập
giai đoạn 2019- 2021”. In trong Tài liệu 20 năm xây dựng và phát triển Hội Khuyến
học tỉnh Nghệ An. Bản do ông Trần Xuân Bí, Chủ tịch Hội Khuyến học Nghệ An
cung cấp.
7.
Cao Văn Biền. 1998. “Kho hƣơng ƣớc cải lƣơng hƣơng chính ở Bắc Kỳ”, Nghiên cứu
Lịch sử, số 3, tr.73-84.
8.
Nguyễn Đình Bƣu. 2011. “Công tác khuyến học, khuyến tài ở Thanh Hóa hƣớng tới
9.
mục tiêu xây dựng xã hội học tập”, Tạp chí Dạy và học ngày nay, số 8, tr.52-53. Hồng Căn. 2018. Lễ kí kết chƣơng trình phối hợp hoạt động giữa Hội Khuyến học tỉnh và Hội Ngƣời cao tuổi tỉnh về đẩy mạnh học tập suốt đời trong gia đình, dòng
họ, cộng đồng giai đoạn 2018 -2021. Nguồn:
http://www.nghean.vn:10040/wps/portal/mainportal/chitiet/!ut/p/c4/04 . Ngày truy
cập 25.10.2019
10.
Bùi Hạnh Cẩn, Minh Nghĩa, Việt Anh (biên soạn). 2002. Trạng nguyên, Tiến sĩ,
Hương cống Việt Nam, Nxb VHTT, Hà Nội.
11.
Đào Phƣơng Chi. 2013. “Bƣớc đầu tìm hiểu về cải lƣơng hƣơng tục thí điểm ở Bắc
Kỳ qua một số văn bản tục lệ bằng chữ Nôm”, Tạp chí Hán Nôm, số 1, tr.58-71.
12.
Đào Phƣơng Chi. 2013. “Thay đổi về tế tự tại một số tỉnh Bắc kỳ qua cải lƣơng
hƣơng tục thí điểm: nhìn từ văn bản tục lệ”, Tạp chí Hán Nôm, số 4, tr.64-78.
13.
Đào Phƣơng Chi. 2017. “Lệ tang tại làng xã Bắc Kỳ giai đoạn Cải lƣơng thí điểm:
152
qua văn bản tục lệ huyện Phú Xuyên tỉnh Hà Đông”, Nghiên cứu Hán Nôm năm
2017, Nxb Thế giới, Hà Nội, tr.200-211.
14.
Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, bản dịch, Nxb Giáo dục, Hà Nội,
2007, tập 1.
15.
Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, bản dịch, Nxb Giáo dục, Hà Nội,
2007, tập 2.
16.
Võ Kim Cƣơng (chủ biên). 2017, Lịch sử Việt Nam, tập 6, Nxb KHXH, Hà Nội.
17.
Đại Việt sử kí toàn thư (bản dịch), Nxb KHXH, Hà Nội, 1998, tập 1.
18.
Đại Việt sử kí toàn thư (bản dịch), Nxb KHXH, Hà Nội, 1998, tập 2.
19.
Đại Việt sử kí toàn thư (bản dịch), Nxb KHXH, Hà Nội, 1998, tập 3.
20.
Phạm Trọng Điềm (dịch), Đào Duy Anh (hiệu đính). 2006. Đại Nam nhất thống chí,
tập 2 (tái bản lần thứ 2), Nxb Thuận Hóa, Huế.
21.
Bùi Xuân Đính. 2010. Giáo dục và khoa cử nho học Thăng Long - Hà Nội, Nxb Hà
Nội.
22.
Bùi Xuân Đính, Nguyễn Viết Chức (Đồng chủ biên). 2010. Các làng khoa bảng
Thăng Long- Hà Nội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23.
Phan Đại Doãn. 1998. Một số vấn đề về quan chế triều Nguyễn, Nxb Thuận Hóa,
Huế.
24.
Phan Đại Doãn. 2006. “Thiết chế truyền thống làng Việt trong hệ thống chính trị
ngày nay”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử , số 11, tr.3-9.
25.
Phan Đại Doãn. 2009. Từ làng đến nước một hướng tiếp cận lịch sử, Nxb Đại học
Quốc gia. Hà Nội
26.
Lê Quý Đôn, Kiến văn tiểu lục, bản dịch, Nxb Sử học, Hà Nội, 1962, tr.117.
27.
Phạm Tất Dong . 2012. Khuyến học, Nxb Dân Trí, Hà Nội.
28.
Đồng Khánh địa dư chí, Ngô Đức Thọ, Nguyễn Văn Nguyên, Philippe Papin biên
dịch. 2003, tập 2, Nxb Thế giới, Hà Nội.
29.
Cao Xuân Dục. 2001. Quốc triều khoa bảng lục (bản dịch), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
30.
31.
Phạm Đức Thành Dũng - Vĩnh Cao (đồng chủ biên). 2000. Khoa cử và các nhà khoa bảng triều Nguyễn, Trung tâm Bảo tổn di tích Cố đô Huế, Nxb Thuận Hóa, Huế. Nguyễn Xuân Đƣờng. 2005. “Phát huy truyền thống hiếu học trong sự nghiệp xây
dựng xã hội học tập ở Nghệ An”, Tạp chí Giáo dục, số 123, tr.7- 8.
32.
Phan Giang. 2019. “Nghệ An: Một lớp học trƣờng miền núi nghèo đậu đại học
100%”. Nguồn: Truyền hình Nghệ An, ngày 19.8.2019.
33.
Phan Giang. 2019. “Nữ sinh miền núi Nghệ An “ẵm” học bổng hơn 5 tỷ đồng tại
Australia”. Nguồn: Truyền hình Nghệ An, ngày 27.8.2019.
34.
Ninh Viết Giao. 1995. “Văn hóa truyền thống với các dòng họ”, Tạp chí Văn hóa
153
Nghệ Thuật - Bộ VHTT, số 5, tr.31-33.
35.
Ninh Viết Giao (chủ biên). 1998. Hương ước Nghệ An, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
36.
Ninh Viết Giao. 2000. “Từ hƣơng ƣớc đến quy ƣớc trong xã hội ngày nay”, Tạp chí
Văn hóa Dân gian, số 1, tr.58- 66.
37.
Ninh Viết Giao (chủ biên). 2004. Văn bia Nghệ An, Nxb Nghệ An.
38.
Trần Văn Giáp. 1984. Tìm hiểu kho sách Hán Nôm - Nguồn tư liệu văn học sử học
Việt Nam, Nxb KHXH, Hà Nội.
39.
Nguyễn Thị Lệ Hà. 2017. “Sự thay đổi về phong tục tập quán ở làng xã Bắc Kỳ thời
Pháp thuộc”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, tr.53-61.
40.
Lã Minh Hằng. 2008. “Văn miếu và truyền thống hiếu học ở Vĩnh Phúc”, Kỉ yếu Hội
thảo khoa học “Văn miếu và truyền thống hiếu học ở Vĩnh Phúc”, Sở VHTT Vĩnh
Phúc, tr.155-164.
41.
Nguyễn Thị Hạnh. 2016. “Những hình thức khuyến học theo dòng họ hiện nay tại
làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lƣu, tỉnh Nghệ An”, Tạp chí Khoa học xã hội miền
Trung, số 5, tr.67 -73.
42.
Đỗ Thị Hảo (dịch và giới thiệu). 2010. Lệ làng Thăng Long - Hà Nội, Nxb Thời đại.
43.
Lê Tài Hòe (sƣu tầm, biên khảo). 2013. Nghệ An toàn chí, tập 8, Phong tục, tập quán
xứ Nghệ, Nxb KHXH, Hà Nội.
44.
Hồ Phi Hội - Hồ Trọng Chuyên (Hồ Đức Lĩnh dịch). 2004. Quỳnh Đôi cổ kim sự tích
hương biên. Nxb Lao động, Hà Nội.
45.
Hội Khuyến học tỉnh Nghệ An. 2018. Tài liệu Hội nghị sơ kết 03 năm (2016- 2018)
thực hiện đại trà QĐ 281/2014/TTg của Thủ tướng Chính phủ, 20 (1998- 2018) năm
xây dựng và phát triển Hội Khuyến học tỉnh Nghệ An. Tài liệu đánh máy do Hội
Khuyến học tỉnh cung cấp.
46.
Hội Khuyến học tỉnh Nghệ An. 2018. Khuyến học Nghệ An, số 2. Sở Thông tin và
truyền thông Nghệ An, Nghệ An.
47.
Hội Khuyến học Việt Nam. 2006. Sổ tay khuyến học.
48.
Hội Khuyến học Việt Nam. 2009. Cấu trúc của mô hình xã hội học tập ở Việt Nam
(Sách lƣu hành nội bộ).
49.
Hội Khuyến học Việt Nam. 2017. Điều lệ (sửa đổi, bổ sung) của Hội khuyến học
Việt Nam. (Phê duyệt kèm theo Quyết định số 151/QĐ - BNV ngày 24 tháng 01 năm
2017 của Bộ trƣởng Bộ Nội vụ).
50.
Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam. 2013. Hương ước cổ Hưng Yên, Nxb Thời đại, Hà
Nội.
51.
Nguyễn Quang Hồng (chủ biên). 1991. Văn khắc Hán Nôm Việt Nam, Nxb KHXH,
154
Hà Nội.
52.
Thanh Hùng. 2017. “Khởi công dự án tu bổ, tôn tạo nhà thờ họ Nguyễn Trọng, Trung
Cần”. Báo Truyền hình Nghệ An, ngày 26.06.2017.
53.
Trƣơng Sĩ Hùng (chủ biên). 2009. Hương ước Hà Nội, tập 1-2, Nxb Từ điển bách
khoa và Viện Văn hóa Hà Nội.
54.
Sông Hương
online. Nguồn
Nguyễn Sĩ Hùng. 2013. “Cao Xuân Dục nhà giáo dục nổi tiếng thời Nguyễn”, Tạp http://tapchisonghuong.com.vn/tin-
chí tuc/p0/c2/n12175/Cao-Xuan-Duc-nha-giao-duc-noi-tieng-thoi-Nguyen.html. Ngày truy cập 20.11.2018.
55.
Trần Thị Thanh Hƣơng. 2018. “Hội Khuyến học thị xã Hoàng Mai hình thành và phát
triển”, Tạp chí Khuyến học Nghệ An, tr.55- 56.
56.
Lê Thị Thu Hƣơng. 1996. “Sách có nội dung giáo dục gia đình hiện tàng trữ tại Viện
Nghiên cứu Hán Nôm”, Tạp chí Hán Nôm, số 3, tr.45 - 55.
57.
Lê Thị Thu Hƣơng. 1998. “Vài nét về mảng "gia huấn" đƣợc chép trong một số cuốn
gia phả”, Tạp chí Hán Nôm, số.3, tr.79-82.
58.
Lê Thu Hƣơng. 2011. Khảo cứu văn bản Cần kiệm vựng biên của Nguyễn Đức Đạt,
Luận văn Thạc sĩ Hán Nôm, Trƣờng Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn.
59.
Lê Thị Thu Hƣơng. 2013. “Sơ bộ khảo sát sách Hán Nôm có nội dung giáo dục gia
đình tại thƣ viện Quốc gia”, Thông báo Hán Nôm học 2013, Nxb Thế giới 2014,
tr.375-383.
60.
Lê Thị Thu Hƣơng. 2015. “Khuyến học ở huyện Đông Sơn Thanh Hóa qua các văn
bản Tục lệ hiện lƣu trữ tại Viện nghiên cứu Hán Nôm”. Thông báo Hán Nôm học
2014, Thế giới, Hà Nội, 2015, tr. 388 – 394.
61.
Lê Thị Thu Hƣơng. 2016. “Khuyến học ở thôn Lễ Môn, tổng Bố Đức Đông Sơn
Thanh Hóa qua văn bản tục lệ”, Thông báo Hán Nôm học 2015, Nxb Thế giới.
62.
Lê Thị Thu Hƣơng. 2017(a), “Danh mục bia khuyến học tỉnh Nghệ An tại Viện
Nghiên cứu Hán Nôm”, Thông báo Hán Nôm học năm 2016, Nxb Thế giới, Hà Nội,
tr. 304 – 313.
63.
Lê Thị Thu Hƣơng. 2017(b). “13 vị Tiến sĩ triều Lê của huyện Thanh Chƣơng qua tƣ
liệu Hán Nôm”, Tạp chí Khoa học Công nghệ Nghệ An, số 1, tr.47-55.
64.
Lê Thị Thu Hƣơng. 2017(c). “Đôi nét về văn bia có nội dung khuyến học của Nghệ
An”, Tạp chí Hán Nôm, số 4, tr.70 – 82.
65.
Lê Thị Thu Hƣơng. 2017(d). “Các nhà khoa bảng Nghệ An qua tài liệu địa chí Hán
Nôm” (Kỷ yếu Hội thảo khoa học cấp quốc gia có phản biện), Nghiên cứu Hán Nôm 2017, Nxb Thế giới, Hà Nội, tr.45-59.
66.
Lê Thị Thu Hƣơng. 2018 (a). “Khuyến học của tỉnh Nghệ An qua nguồn tài liệu tục
155
lệ Hán Nôm”, Tạp chí Hán Nôm, số 4, tr.71- 83.
67.
Lê Thị Thu Hƣơng. 2018 (b). “Tìm hiểu về trƣờng học tại các làng xã ở Nghệ An
trƣớc năm 1919 qua tƣ liệu tục lệ và văn bia”. Kỷ yếu Hội thảo khoa học cấp quốc
gia có phản biện, Nghiên cứu Hán Nôm 2018, Nxb Thế giới, Hà Nội, tr.394-408.
68.
Lê Thị Thu Hƣơng. 2018 (c). “Tìm hiểu về trƣờng tƣ thục dạy chữ Hán ở Việt Nam
(Trƣờng hợp tỉnh Nghệ An)”, Hội thảo Quốc tế “Nghiên cứu văn hóa ngôn ngữ
Trung Quốc và Đông Nam Á, Tư tưởng học thuật của học giả Phạm Hồng Quý” do
Trƣờng Đại học Dân tộc Quảng Tây Trung Quốc tổ chức, tháng 12/2018. Kỉ yếu Hội
thảo, tr.291 - 299.
69.
Lê Thị Thu Hƣơng. 2018 (d). “Bia Văn miếu, Văn từ, Văn chỉ của Nghệ An”, Tạp
chí Khoa học Công nghệ Nghệ An, số 4, tr.47-50.
70.
Lê Thị Thu Hƣơng. 2019. “Lễ cầu khoa qua tƣ liệu tục lệ cổ truyền tỉnh Nghệ An”,
Chuyên san Khoa học xã hội và Nhân văn Nghệ An, số 1 +2, tr.55-61.
71.
Nguyễn Văn Huyên. 1997. “Khuyến học ở làng xã xƣa qua một số bản hƣơng ƣớc”,
Tạp chí Nghiên cứu Văn hóa Nghệ thuật, số 3, tr.63-65.
72.
Công Kiên. 2018. Hơn 70 nghìn trang tài liệu Hán Nôm đƣợc số hóa.
Nguồn:https://baonghean.vn/hon-70-nghin-trang-tai-lieu-han-nom-duoc-so-hoa-
200882.html . Ngày truy cập 20/1/2019.
73.
Hoàng Lê. 1998. “Một tấm bia đề cao truyền thống tôn sƣ trọng đạo”, Tạp chí Hán
Nôm, số 1, tr.75-76.
74.
Phan Huy Lê. 1959. Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
75.
Phan Huy Lê, Vũ Minh Giang. 1996. Các giá trị truyền thống và con người Việt Nam
hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tập 2, tr.84.
76.
Bùi Dƣơng Lịch. 1993. Nghệ An kí, Nguyễn Thị Thảo (dịch chú, Bạch Hào hiệu
đính), Nxb KHXH.
77.
Nguyễn Thế Long. 1998. “Truyền thống hiếu học của ngƣời Hà Nội xƣa qua hƣơng
ƣớc”, Tạp chí Xưa và nay, số 56, tr.63-65.
78.
Ngô Thế Long, Trần Thái Bình. 2009. Học viện Viễn đông Bác cổ giai đoạn 1898-
1957, Nxb.KHXH, Hà Nội.
79.
Nguyễn Công Lý. 2011. Giáo dục khoa cử và quan chế ở Việt Nam thời phong kiến,
Nxb Đại học Quốc gia TPHCM.
80.
Nguyễn Kim Măng. 2015. Nghiên cứu giá trị và vai trò của nguồn tư liệu Gia phả
Hán Nôm tại Việt Nam, bài tham dự Hội nghị Hán Nôm đƣơng đại (bản thảo).
81.
82.
Trịnh Khắc Mạnh. 2006. Văn bia đề danh Tiến sĩ Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội. Trịnh Khắc Mạnh, Nguyễn Văn Nguyên, Phillippe Papin (Ban chỉ đạo chƣơng trình).
2007. Thư mục thác bản văn khắc Hán Nôm Việt Nam, tập 1, Nxb VHTT.
156
83.
Trịnh Khắc Mạnh, Nguyễn Văn Nguyên, Phillippe Papin (Ban chỉ đạo chƣơng trình).
2007. Thư mục thác bản văn khắc Hán Nôm Việt Nam, tập 2, Nxb VHTT.
84.
Trịnh Khắc Mạnh, Chu Tuyết Lan (chủ biên). 2007. Thư mục Nho giáo Việt Nam,
Nxb KHXH, Hà Nội.
85.
Trịnh Khắc Mạnh, Nguyễn Văn Nguyên, Phillippe Papin (Ban chỉ đạo chƣơng trình).
2007. Tổng tập thác bản văn khắc Hán Nôm Việt Nam, tập 3, Viện Cao học thực
hành Viện Viễn Đông Bác cổ, Hà Nội
86.
Trịnh Khắc Mạnh. 2012. Tên tự tên hiệu các tác gia Hán Nôm Việt Nam, Nxb
KHXH, Hà Nội.
87.
Trịnh Khắc Mạnh (chủ biên). 2013. Bi kí học và văn bản bi ký Hán Nôm Việt Nam,
Nxb KHXH, Hà Nội.
88.
Trịnh Khắc Mạnh. 2014. Tiếp cận di sản Hán Nôm, Nxb KHXH, Hà Nội.
89.
Trịnh Khắc Mạnh. 2014. Văn bản học Hán Nôm, Giáo trình sau Đại học, Nxb
KHXH, Hà Nội.
90.
Trịnh Khắc Mạnh (chủ biên). 2016. Di sản Hán Nôm trong đời sống văn hóa xã hội,
Nxb KHXH, Hà Nội.
91.
Nguyễn Đình Mạnh. 2013. “Dòng họ Triệu ngƣời Dao với việc khuyến học: làng
Phùng Sơn, xã Phùng Châu, huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa”, Tạp chí Bảo tàng và
nhân học, số 2, tr.72- 78.
92.
Nguyễn Đình Mạnh. 2014. Khuyến học qua văn hóa dòng họ xứ Thanh, Luận án Tiến
sĩ Văn hóa học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
93.
Vũ Duy Mền, Bùi Xuân Đính. 1982. "Hƣơng ƣớc - khoán ƣớc trong làng xã", Tạp chí
Nghiên cứu Lịch sử , số 4, tr.43-49.
94.
Vũ Duy Mền. 1985. “Vài nét về quá trình điều chỉnh và bổ sung hƣơng ƣớc làng
Quỳnh”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 6, tr.47-57.
95.
Vũ Duy Mền. 2000. “Vài nét về hình thức văn bản hƣơng ƣớc làng Việt cổ truyền”,
Tạp chí Hán Nôm, số 1, tr.21-27.
96.
Vũ Duy Mền. 2009. “Ảnh hƣởng của đạo lý Nho gia đối với hƣơng ƣớc làng xã cổ
truyền Việt Nam” in trong Nghiên cứu tư tưởng Nho gia Việt Nam từ hướng tiếp cận
liên ngành. Viện Nghiên cứu Hán Nôm Việt Nam, Viện Harvard- Yenching Hoa Kỳ.
Nxb Thế giới, Hà Nội, tr.799-814.
97.
Vũ Duy Mền. 2010. Hương ước cổ làng xã đồng bằng Bắc bộ, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
98.
Vũ Duy Mền. 2015. “Hƣơng ƣớc với việc quản lý ruộng đất ở làng xã đồng bằng Bắc
Bộ trƣớc thế kỷ XX”. Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 11, tr 19-32.
99.
Vũ Duy Mền, Trịnh Thị Hà. 2016. “Hƣơng ƣớc trong làng xã đồng bằng Bắc Bộ nửa
157
đầu thế kỷ XX”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 7, tr.65-75.
100. Vũ Duy Mền- Nguyễn Hữu Tâm. 2016 (b). “Hƣơng ƣớc trong việc quản lý làng xã
đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam (cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX)”, Tạp chí Nghiên cứu
lịch sử, số 7, tr.33-47.
101. Vũ Duy Mền, Phan Đăng Thuận. 2016 (a). “Tính tự trị của làng xã Việt Nam qua
hƣơng ƣớc”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 10, tr.66-73.
102. Shimao Minoru. 2002. “Sử liệu có liên quan đến việc tái biên hƣơng ƣớc ở Bắc Bộ
Việt Nam thời Lê”, Tạp chí Hán Nôm, số 2, tr.12-22.
103. Nguyễn Hữu Mùi. 1991. “Về những văn bản văn bia khuyến khích việc học tập trong
nền giáo dục khoa cử thời kỳ phong kiến ở nƣớc ta”, Tạp chí Hán Nôm, số 1, tr.26-
28.
104. Nguyễn Hữu Mùi. 1994. “Về một văn bản khoán lệ liên quan đến vấn đề học tập”,
Tạp chí Hán Nôm, số 2, tr.47-51.
105. Nguyễn Hữu Mùi, 2006. Nghiên cứu văn bia khuyến học Việt Nam (từ thế kỉ XV đến
những năm đầu thế kỷ XX), Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
106. Nguyễn Hữu Mùi. 2008 (a), “Tìm hiểu việc khuyến học ở Vĩnh Phúc qua nguồn tài
liệu Hán Nôm”, Kỉ yếu Hội thảo khoa học “Văn miếu và truyền thống hiếu học ở
Vĩnh Phúc , Sở VHTT Vĩnh Phúc, tr.120-128.
107. Nguyễn Hữu Mùi. 2008 (b), “Học xã điền thổ bi kí, tấm bia đề cập đến việc dựng
trƣờng dân lập và đặt học điền sớm nhất ở nƣớc ta”, Thông báo Hán Nôm học, Nxb
KHXH, tr.700 -707.
108. Nguyễn Hữu Mùi. 2010. Truyền thống hiếu học và hệ thống Văn miếu, Văn từ, Văn
chỉ ở Vĩnh Phúc, Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Vĩnh Phúc.
109. Nguyễn Hữu Mùi. 2014 (a). “Nghiên cứu hoạt động khuyến học của các dòng học
nƣớc ta trong nền giáo dục và khoa cử Nho học” Tạp chí Dân tộc học, số 5, tr. 28-35.
110. Nguyễn Hữu Mùi. 2014 (b). “Văn bia lập Hƣơng học ở một xã ven đô- Quỳnh Đô,
Thanh Trì, Hà Nội”, Tạp chí Hán Nôm, số 4, tr.66-71.
111. Nguyễn Hữu Mùi. 2015. “Tìm hiểu hoạt động khuyến học trong nền giáo dục khoa
cử nho học ở Ninh Bình qua nguồn tài liệu tục lệ”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, tr.3-
9.
112. Nguyễn Hữu Mùi. 2016 (a). “Tìm hiểu về hội Tƣ văn và vai trò của hội trong hoạt
động làng xã qua nguồn tài liệu bi ký”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 3, tr. 3-11.
113. Nguyễn Hữu Mùi. 2016 (b). “Văn bia học điền hàng tổng của tổng Sơn Bình: Nguồn
tƣ liệu có giá trị trong nghiên cứu về học điền ở nƣớc ta”, Tạp chí Hán Nôm số 1, tr.18-25.
114. Nguyễn Hữu Mùi. 2016 (c). “Văn bia học điền hàng tổng của tổng Sơn Bình: Nguồn
158
tƣ liệu có giá trị trong nghiên cứu về học điền ở nƣớc ta”, Tạp chí Hán Nôm, số 1,
tr.18 - 24.
115. Nguyễn Hữu Mùi. 2018. “Văn Trƣng và Lăng Trƣng: Hai làng Nho học tiêu biểu ở
vùng đồng bằng Bắc Bộ”, Tạp chí Hán Nôm, số 1, tr.12- 20.
116. Nguyễn Thúy Nga. 1997. “Về hai bộ “Đăng khoa lục” cổ nhất hiện còn”, Tạp chí
Hán Nôm, số 1, tr.12-17.
117. Nguyễn Thúy Nga. 2001. “Bia Văn miếu Hƣng Yên”, Tạp chí Hán Nôm, số 1, tr.57-
64.
118. Nguyễn Thúy Nga. 2002. “Việc khắc lại 12 bia Tiến sĩ ở Văn miếu Hà Nội”, Tạp chí
Hán Nôm, số 2, tr.28-35.
119. Nguyễn Thúy Nga. 2013. “Giáo dục và khoa cử thời Tây sơn”, Tạp chí Hán Nôm, số
4, tr.57-64.
120. Nguyễn Thúy Nga. 2016. “Nguồn tài liệu Hán Nôm ghi danh ngƣời đỗ thi Hƣơng”,
Tạp chí Hán Nôm, số 2, tr.41-51.
121. Trần Nghĩa. 2000. Tác phẩm chữ Hán của người Việt Nam trước thế kỷ X, Nxb Thế
giới, Hà Nội, tr.135.
122. Trần Nghĩa, François Gros (đồng chủ biên). 1993. Di sản Hán Nôm Việt Nam- Thư
mục đề yếu, Nxb KHXH, Hà Nội.
123. Trần Nghĩa (chủ biên). 2002. Di sản Hán Nôm Việt Nam thư mục đề yếu, Bổ di I,
Quyển Hạ, Nxb KHXH, Hà Nội.
124. Nguyễn Nghĩa Nguyên. 1997. Cụ Hoàng Nho Lâm - Giai thoại và truyền thuyết, Nxb
VHTT.
125. Nguyễn Văn Nguyên. 2007. Khảo sát giám định niên đại thác bản văn bia, Viện Cao
học thực hành, Viện Viễn đông Bác Cổ, Hà Nội.
126. Nguyễn Tá Nhí (dịch). 1993. Hương ước cổ Hà Tây, Bảo tàng tổng hợp Sở VHTT
thể thao.
127. Nguyễn Tá Nhí. 2008. “Vài nét về chính sách giáo dục đào tạo nhà Nguyễn đối với
các phủ huyện thuộc tỉnh Vĩnh Phúc” Kỉ yếu Hội thảo khoa học “Văn miếu và truyền
thống hiếu học ở Vĩnh Phúc” , Sở VHTT Vĩnh Phúc,tr.111-119.
128. Nguyễn Tá Nhí (chủ trì). 2010. Tuyển tập hương ước tục lệ Thăng Long Hà Nội, Nxb
Hà Nội.
129. Đỗ Văn Ninh. 2002. Văn bia Quốc tử giám Hà Nội, Nxb VHTT, Hà Nội.
130. Đỗ Văn Ninh. 2006. Từ điển chức quan Việt Nam, Nxb Thanh Niên, Hà Nội.
131. Nguyễn Thị Oanh. 2008. “Bƣớc đầu tìm hiểu chính sách khuyến học thời Nguyễn và sự thực thi chủ trƣơng trên ở tỉnh Phúc Yên”, Kỉ yếu Hội thảo khoa học “Văn miếu và truyền thống hiếu học ở Vĩnh Phúc” , Sở VHTT Vĩnh Phúc, tr.129-142.
159
132. Nguyễn Thị Oanh. 2018. "Phong tục tang ma ở Bắc Kỳ qua một số văn bản tục lệ
thuộc giai đoạn cải lƣơng hƣơng chính thí điểm của huyện Thanh Trì hiện lƣu giữ tại
Viện Nghiên cứu Hán Nôm", Tạp chí Hán Nôm, số 1, tr.21-37.
133. Hoàng Phê (chủ biên). 1998. Từ điển tiếng Việt, Nxb KHXH, Hà Nội, tr.540.
134. Nguyễn Thị Phƣợng. 1989. "Giới thiệu kho sách tục lệ Thƣ viện Viện Nghiên cứu
Hán Nôm", Tạp chí Hán Nôm, số 2, tr.40-43.
135. Trƣơng Đức Quả. 1997. “Sinh hoạt dòng họ qua một cuốn gia phả”, Thông báo Hán
Nôm học 1997, Nxb. KHXH, tr. 476-483.
136. Quốc sử quán triều Nguyễn. Đại Nam liệt truyện (bản dịch), tập 1, Nxb Thuận Hóa,
Huế.
137. Quốc sử quán triều Nguyễn. Đại Nam liệt truyện (bản dịch), tập 4, Nxb Thuận Hóa,
Huế.
138. Quốc sử quán triều Nguyễn. Đại Nam nhất thống chí (bản dịch). 2006, tập 2, Nxb
Thuận Hóa, Huế.
139. Quốc sử quán triều Nguyễn. Đại Nam nhất thống chí (bản dịch). 2006, tập 3, Nxb
Thuận Hóa, Huế.
140. Quốc sử quán triều Nguyễn. Đại Nam thực lục (bản dịch), tập 1, Tổ phiên dịch Viện
Sử học phiên dịch, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
141. Quốc sử quán triều Nguyễn. Đại Nam thực lục (bản dịch), tập 2, Tổ phiên dịch Viện
Sử học phiên dịch, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
142. Quốc sử quán triều Nguyễn. Đại Nam thực lục (bản dịch), tập 7, Tổ phiên dịch Viện
Sử học phiên dịch, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
143. Quốc sử quán triều Nguyễn. Đại Nam thực lục Chính biên Đệ lục kỷ phụ biên, Cao
Tự Thanh dịch, Nxb Văn hóa văn nghệ.
144. Quốc sử quán triều Nguyễn. Đại Nam thực lục Chính biên Đệ thất kỷ phụ biên, Cao
Tự Thanh dịch, Nxb Văn hóa văn nghệ.
145. Quốc sử quán triều Nguyễn. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (bản dịch).
2007, tập 1. Nxb Giáo dục
146. Quốc sử quán triều Nguyễn. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (bản dịch).
2007, tập 2. Nxb Giáo dục.
147. Nguyễn Thị Minh Quý. 2012. Nghiên cứu văn bản hương ước cổ truyền huyện Văn
Lâm, tỉnh Hưng Yên, Luận văn Thạc sĩ Hán Nôm, Đại học Khoa học xã hội và Nhân
văn, Hà Nội.
148. Nguyễn Thị Chân Quỳnh. 2002. Khoa cử Việt Nam (Thi Hương), tập thƣợng, An
Tiêm xuất bản lần thứ nhất, Paris.
149. Nguyễn Thị Chân Quỳnh. 2007. Khoa cử Việt Nam (Thi Hội, thi Đình), tập hạ, Nxb
160
Văn học.
150. Dƣơng Thị The- Phạm Thị Thoa (dịch và biên soạn). 1981. Tên làng xã Việt Nam
đầu thế kỷ XIX (thuộc các tỉnh từ Nghệ Tĩnh trở ra), Nxb KHXH, Hà Nội.
151. Nguyễn Ngọc Thơ. “Khuyến học và Giáo dục nhân văn ở Việt Nam xƣa và nay”.
Nguồn website:hcmussh.edu.vn, truy cập 19/05/2018.
152. Đỗ Thị Hà Thơ. 2009. “Tục trọng xỉ trong văn bản hƣơng ƣớc chữ Hán Triều Tiên
thế kỷ XVII, XVIII”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 3, tr.69-743.
153. Đỗ Thị Hà Thơ. 2015. "Hình thức xử phạt trong hƣơng ƣớc chữ Hán Choson thế kỷ
XVII-XVIII", Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 2, tr.62-71.
154. Ngô Đức Thọ. 1976. Nguyễn Đức Đạt, nhà giáo và học giả nửa cuối thế kỷ 19, Luận
văn Thạc sỹ, Ban Hán Nôm, Hà Nội.
155. Ngô Đức Thọ. 1997. Nghiên cứu chữ húy Việt Nam qua các thời đại, Nxb Văn hóa,
Hà Nội.
156. Ngô Đức Thọ, Nguyễn Văn Nguyên, Philippe Papin (biên dịch). 2003. Đồng Khánh
địa dư chí, tập 2, Nxb Thế giới, Hà Nội.
157. Ngô Đức Thọ (chủ biên). 2006. Các nhà khoa bảng Việt Nam (1075-1019), Nxb Văn
học, Hà Nội.
158. Ngô Đức Thọ. 2012. “Thám hoa Nguyễn Đức Đạt (1825-1887) và trƣờng Đông Sơn
nổi tiếng cuối thế kỷ 19”. Nguồn:http://ngoducthohn.blogspot.com/2012/10/tham-
hoa-nguyen-duc-dat-1825-1887. Ngày truy cập: 29.09.2018.
159. Nguyễn Hƣơng Thoan. 2001.“Tấm bia đạo thầy trò trên đất Nghệ An”, Tạp chí Hán
Nôm, số 1, tr.74.
160. Thủ tƣớng chính phủ. 1999. Chỉ thị về việc phát huy vai trò của Hội Khuyến học Việt
Nam trong phát triển sự nghiệp giáo dục. In trong Cẩm nang công tác khuyến học và
giới thiệu những tấm gương hiếu học, phong trào khuyến học hiện nay, , Nxb Hồng
Đức, tr.58.
161. Nguyễn Thị Anh Thƣ. 2017.“Họ Hồ ở Nghệ An và truyền thống khoa bảng”, bài
tham gia Hội thảo Nghiên cứu Hán Nôm 2017 (tƣ liệu do tác giả cung cấp).
162. Đinh Khắc Thuân. 2003. “Lập học chiếu và chính sách giáo dục thời Tây Sơn”, Tạp
chí Hán Nôm, số 3, tr.75-77.
163. Đinh Khắc Thuân. 2004. “Sự thâm nhập của Nho giáo vào làng xã Việt Nam qua tƣ
liệu hƣơng ƣớc”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 6, tr.17-21.
164. Đinh Khắc Thuân (chủ biên). 2006. Tục lệ cổ truyền làng xã Việt Nam, Nxb KHXH,
Hà Nội.
165. Đinh Khắc Thuân. 2009 (a). “Truyền thống hiếu học và khoa bảng Nho học ở làng xã ngƣời Việt”, Nghiên cứu tư tưởng Nho gia Việt Nam từ hướng tiếp cận liên ngành,
161
Nxb Thế giới, Hà Nội, tr.816- 830.
166. Đinh Khắc Thuân. 2009 (b). Giáo dục và khoa cử Nho học thời Lê ở Việt Nam qua
tài liệu Hán Nôm. Nxb KHXH.
167. Đào Tam Tỉnh. 2000. Khoa bảng Nghệ An (1075-1919), Nxb Nghệ An.
168. Đào Tam Tỉnh. 2016 (a). “Họ Nguyễn và dòng phái khoa bảng ở Cổ Bái”, Tạp chí
Khoa học Công nghệ Nghệ An, số 2, tr.42-45.
169. Đào Tam Tỉnh. 2016 (b). “Văn miếu Nghệ An”, Tạp chí Khoa học Công nghệ Nghệ
An, số 5, tr.53-55.
170. Đào Tam Tỉnh. 2016 (c). “Văn thánh các huyện, làng, xã Nghệ An”, Tạp chí Khoa
học Công nghệ Nghệ An, số 5, tr.53-55.
171. Nguyễn Văn Toại. 2000. “Lo học hành từ trong hƣơng ƣớc”, Tạp chí Văn nghệ dân
tộc và miền núi, số 11, tr.20-21.
172. Nguyễn Trãi. Ức trai di tập Dư địa chí. (Phan Duy Tiếp dịch, Hà Văn Tấn hiệu đính
và chú thích), Nxb Sử học, Hà Nội, 1960.
173. Nguyễn Thị Trang. 1991. “Vài nét về cụm văn bia ở Văn chỉ làng Nguyệt Áng”, Tạp
chí Hán Nôm số 1, tr.23-25.
174. Từ điển bách khoa Việt Nam, 2005, tập 2, Nxb Từ điển Bách khoa.
175. Nguyễn Minh Tuân. 2015. “Giới thiệu thân thế và sự nghiệp Tiến sĩ Nguyễn Trọng
Thƣờng”, Tạp chí Hán Nôm, số 2, tr.78-82.
176. Nguyễn Khắc Tuệ. 2010. Người xưa khuyến học, Nxb Lao động.
177. Vũ Thị Hoa Tƣơi. 2017. Cẩm nang công tác khuyến học và giới thiệu những tâm
gương hiếu học trong phong trào khuyến học hiện nay, Nxb Hồng Đức.
178. Phan Tƣơng. 1997. Họ Phan trong cộng đồng dân tộc Việt Nam, Nxb VHTT.
179. UBND huyện Hƣng Nguyên. Di tích bia mộ Nguyễn Trường Tộ (tƣ liệu do UBND
cung cấp).
180. Viện Nghiên cứu Hán Nôm. 2009. Nghiên cứu tư tưởng Nho gia Việt Nam từ hướng
tiếp cận liên ngành, Nxb Thế giới, Hà Nội.
181. Viện Ngôn ngữ học. 2010. Từ điển Tiếng Việt, Nxb Từ điển Bách khoa
182. Viện Thông tin KHXH. 1991. Thư mục hương ước Việt Nam thời kỳ Cận đại, Hà
Nội.
183. Viện Thông tin KHXH. 1994. Thư mục hương ước Việt Nam: Văn bản Hán Nôm, Hà
Nội.
184. Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp tại Hà Nội 1900-2000 (2000). Nhìn lại một thế kỷ
nghiên cứu khoa học, Nxb. VHTT.
185. Phạm Thị Thùy Vinh. 2006. “Văn bia Kinh Bắc thời Lê và sự đóng góp của nguồn tƣ liệu này đối với việc nghiên cứu làng xã Việt Nam”, Làng Việt Nam đa nguyên và
162
chặt, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
186. Phạm Thị Thùy Vinh. 2006. “Các nhà khoa bảng và Nho học ở làng xã Việt Nam qua
tƣ liệu văn khắc Hán Nôm”, Nho giáo ở Việt Nam (Kỉ yếu Hội thảo khoa học Quốc
tế). Nxb. KHXH, Hà Nội, tr.330-342.
187. Nguyễn Thị Hoàng Yến, Nguyễn Thị Minh Quý. 2012. “Hƣơng ƣớc tỉnh Hƣng Yên”,
Thông báo Hán Nôm học, Nxb Thế giới, tr.859- 873.
188. Nguyễn Thị Hoàng Yến. 2017. “Hoạt động khuyến học của ngƣời dân huyện Từ Liêm
xƣa (qua một số bản tục lệ, gia phả Hán Nôm)”, Tạp chí Hán Nôm, số 3, tr.20-28.
189. Trƣơng Thị Yến (chủ biên). 2017. Lịch sử Việt Nam, tập 5, Nxb KHXH.
190.
191.
192.
193.
194.
195.
196.
197.
198.
199.
200.
201.
202.
203.
204.
205.
206.
207.
208.
209.
210.
211.
212.
2. Sách Hán Nôm 安樂社條約, HƢN.805 英山府梁山縣鄧山總南山社安嶺村條約153, HƢN.803 各省誌, VHv.1716 勤儉彙編, VHv.708 窮達嘉訓, A.3076 眞祿縣安場總安留社券例, HƢN.813 名岩村鄉約, VHv.1218 陽春村鄉约簿, HƢN.804 大南烈傳, VHv.1569/1-10 大南一統 誌, A.69/6 大越歷代進士科書錄, A.2040 桃園杏林二社四派亭中事例券約, HƢN.809. 登科備記錄, A.2105 登科錄抄本, A.1785 鄧山朗田二總各社村鄉俗例, VHv.1825 丁家合族纂编世譜誌 (sách sƣu tầm) 鼎鍥大越歷朝登科錄, A.2752/1-2 都梁社鄉約, VHv.2679 東城縣各社村券例, VHv.2763 東城風土記, VHv.1719 豪傑村丞飭奉抄券約呈納, HƢN.806 黃梅總各社村鄉俗, VHv.1824 胡嘉合族譜, A.3076
153 Sách không có tên, đây là dòng chữ đầu tiên trang 1 của sách.
163
213.
214.
215.
216.
217.
218.
219.
220.
221.
222.
223.
224.
225.
226.
227.
228.
229.
230.
231.
232.
233.
234.
235.
236.
237.
238.
239.
240.
241.
242.
243.
244.
245.
246.
247.
248.
249.
250.
胡家世譜, VHv.1387 興元府扶龍總楊舍社柳川村條例, HƢN.811 興元府安場總春安社中美村條例, HƢN.810 鄉編郎瓊 , VNv.103 金溪社上村鄉約, HƢN.813 欽定越史通鑑綱目, A.1/1- 9 朗田口傳例摺, VHv.2654 黎朝歷 科進士題名碑記, A.109/1-2 歷代名賢譜, A.2245 歷代大科錄, A.2119 歷代登科錄, VHv.652 歷朝登科錄, VHv.292 歷朝憲章類誌, A.1551/1-8 南壇縣春湖社條約, HƢN.812 乂安記, VHv.1713/1-2 乂安人物誌, VHv.1369 乂安省 演州府東城縣蔡舍總各社村俗例, AF.b1/1 乂安省 興元府都安總各社村俗例, AF.b1/3– 6 乂安省 興元府海都 總各社村俗例, AF.b1/7- 12 乂安省 興元府扶龍 總各社村俗例, AF.b1/14-16 乂安省 興元府通朗 總各社村俗例, AF.b1/17-19 乂安省興元府文園總各社村俗例, AF.b1/20- 22 乂安省興元府安場總各社村俗例, AF.b1/2 乂安省宜祿縣鄧舍總各社村俗例, AF.b1/24-25 乂安省宜祿縣鄧舍總祿洲社俗例, AF.b1/23 乂安省宜祿縣金原總各社村俗例, AF.b1/26-27 乂安省宜祿縣羅雲總各社村俗例, AF.b1/28 乂安省宜祿縣上舍總各社村俗例, AF.b1/29-30 乂安省宜祿縣雲程總各社村俗例, AF.b1/31 乂靜 雜 記, A.93 人世須知, VHv.352/1- 6 潘佩珠年表. VHv.2138 國朝科榜錄, VHv.640 琼堆古今事跡鄉編小引, A.3154 瓊瑠縣各社鄉例, VHv.2675/1-2 瓊瑠縣富厚總富義上村券, HƢN.815 瓊瑠縣富厚總貴和村券例, HƢN.815 瓊瑠縣富厚總貴和村券例 ( Kho lƣu giữ UBND tỉnh Nghệ An)
164
251.
252.
253.
254.
255.
256.
257.
258.
259.
260.
261.
262.
263.
瓊琉風土記, VHv.1377 三魁 備 錄, A.3078 清章縣志, A.97 清章縣誌, VHv. 2557 清章南壇各總社村鄉例, VHv.1201-1210 善騎村約例, HƢN.808 天南歷朝進士登科錄, VHv.289/1-2 天南歷朝列縣登科備考, A.485/2 壽祿社鄉約, HƢN.814 長山村鄉例, VHv.2678 雲岫總各社村鄉例, VNv.7/1-2 春山村鄉例, VHv.1216 安城縣關中總富文鄉約, HƢN. 807
3. Văn bia Hán Nôm
266.
267.
268.
269.
270.
271.
272.
273.
274.
275.
276.
277.
278.
279.
280.
281.
282.
283.
284.
285.
286.
264. 安陵社文址碑記/ 安陵社文會碑記, N0.2667-70 按察胡仲濬碑記/先慈笵恭人誄文, N0.2826-27 265. 本邑文廟碑記, N0.2375, 2383 楊柳鄉会科碑記, N0.36522 楊先生碑記, N0.7899 大科列位/校生秀才列位, N0.2411-2114 鄧舍總祠宇碑記, N0.2374 都梁總碑記/都梁總祭田碑記, N0.2661-62 東城縣萬分社賢址碑, VHv.277 東安二縣聖宇碑, VHv.277 驩州碑記, VHv.277 黄舍社文會碑記, N0.2394- 97 會心村文會/文址碑記, N0.2628- 29 禮巖道齋阮先生壽藏, N0.2638- 39 梁山縣碑記, N0. 2659-60 里仁文會碑, N0.2392/2425 里仁文會碑, N0.55510 理齋社碑, N0.2402 南坛縣文祠碑, VHv.277 宜祿縣文祠碑記, VHv.277 儒林文士會碑記, N0.55528-29 儒林社平橫券會碑, N0.55530-31. 關中總長山村黎相八祠碑, VHv.277
165
287.
288.
289.
290.
291.
292.
293.
294.
295.
296.
297.
298.
299.
300.
301.
302.
303.
304.
305.
306. 307.
瓊瑠縣重修祠宇碑記, N0.2823 山堂先生自卜壽藏, N0.2655-56 辛酉仲秋穀日, N0.26950 仙里社裴將八祠碑, VHv.277 純忠總文址碑記, N0.2653-54 純忠社碑記, N0.2657-58 尚書少保裔郡八胡相八祠堂碑記, N0. 2818- 21, VHv.277 重修祠宇 碑記/ 重修祠宇捐供碑記, N0.2832-33 重修聖宇碑, N0.2393 重修聖宇碑, N0. 55508-09 長美社碑記/士會仝碑記, N0.2671-72 雲集文址碑記, N0.2423-24, VHv.277 雲集村儒先碑記, N0.2398-2401, VHv.277 ( 蔡舍總雲集儒先碑) 武廟碑記, N0.2830- 31 Vô đề , N0.2430-31, VHv.277 (東安二縣重修文旨碑) Vô đề, N0.2848-49 安城縣開化總偕樂社陳八祠碑, VHv.277 送進士遺跡, VBNA, tr.85-87 東桃潘先生祠堂碑, VBNA, tr.211 -217 4. Tài liệu tiếng Trung Quốc- Hàn Quốc 辭源。1999。商務印書館。 李朝暉。 2003。清代学田研究。湖南师范大学位評定委員会办八室、学校代
码 10542 学号 00022112。
308.
王薇。2004。从方志看明代直隶学田。中国地方志。2004 年第 5 期、49-55
页。
309.
張次第。2007。“儒家劝学的当代社会价值” 鄭 州大学学报(哲学社会科学
版)、第 40 卷 第 1 期, 28-33 页。
310.
李鵬輝。2008 “三字经”的劝学主題与宊代劝学文化生态”, 教育评论 2008 年
第 5 期, 140-142 页。
311.
312. 313.
刘 福 森。2008。“ 劝学所探析”河北師范大学、学历碩士、学校代码 10094。 陳宝利。2009。 “劝学”該劝学生学什么”, 文学教育。2009. 04, 118-119 页。 李占萍。2009。清末学校教育政策研究, 河北大学、博士学位論文、学校代
码 10075。
314. 315.
田建平。 2011。 “劝学”之”劝” 文化副刊, 95 页。 尹貞姬。2011。 “劝学篇”与中國近代留日高潮,日本文化研究、2011 年第 2
期 153 总 号, 119-125 页。
316.
宊祥。 2011。中国古代劝学文研究、东北師范大学、博士学位論文, 学校代
码 10200。
317.
宊祥。2012。“中国古代劝学思想及其現代价值”、社会科学家、2012 年 4
月、第 4 期、总第 180 期, 136-141 页。
318.
吴民祥。路世鵬。2015。 “中国古代劝学思想的流变与教育內容之变迁” 湖
166
州師笵学院学报、第 37 卷 第 12 期, 77-83 页。
319.
许莹莹 。2015。明代福建府、州、县学研究、福建師范大学、博士学位論
文、学校編号 10394。
320.
321.
朗燕。2016。大陸与台湾高中文言文课后练习比較研究(以人教版、沪教版、 语文版、翰林版 “劝学”為例、西北師范大学、硕士学位論文、編号 10736。 刘秀荣、高维新。2017。“清代山西学田考述”晋图学刊、2017 年 第 4 期(总
第 161 期), 61-64 页。
322.
Kim Kyong Ho, “Vấn đề khuyến học trong truyền thống Nho học ở Đông Á- Kế
thừa và biến dung của truyền thống”, http://www. earticle. net/Article.aspx?sn=153052. Ngày truy cập: 05.09.2018
323.
Lee Kyu Sang, “Tìm hiểu triết học giáo dục trong thiên Khuyến học của Tuân Tử” Link: http://kiss.kstudy.com/thesis/thesis-view.asp?key=3077332. Ngày truy cập: 05.09.2018
5. Sách dịch
324.
Fukuzawa Yukichi. Khuyến học, Chƣơng Thâu (dịch). 2013, Nxb.VHTT, Trung Tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây. Tuân Tử, Nguyễn Hiến Lê (dịch). 1994, Nxb Văn hóa.
325.
167