HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HOÀNG NGỌC PHƯƠNG
HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ MỘT ĐẢNG NỔI TRỘI -
GIÁ TRỊ THAM KHẢO CHO VIỆT NAM
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÀNH: CHÍNH TRỊ HỌC
Mã số: 9 31 02 01
HÀ NỘI - 2021
Công trình được hoàn thành
tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS,TS. Nguyễn Viết Thông
2. TS. Tống Đức Thảo
Phản biện 1: ..................................................................
..................................................................
Phản biện 2: ..................................................................
..................................................................
Phản biện 3: ..................................................................
..................................................................
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án
cấp Học viện họp tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Vào hồi...... giờ....... ngày...... tháng...... năm 20.....
Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện Quốc gia
và Thư viện Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ khi Cách mạng Tháng Tám thành công cho tới nay, Đảng Cộng
sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội, là nhân tố
quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Vị trí, vai trò lãnh đạo
của Đảng trong thực tiễn cách mạng Việt Nam là một tất yếu lịch sử
khách quan, được khẳng định nhất quán trong các văn kiện đại hội Đảng,
được Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 2013
ghi nhận.
Với sự lãnh đạo của Đảng, công cuộc đổi mới ở Việt Nam gần 35 năm
qua đã đạt được những thành tựu quan trọng cả về kinh tế, văn hóa, xã hội...
Song song đó, yêu cầu đổi mới về hệ thống chính trị - cũng là một trong
những nhiệm vụ quan trọng của một đảng cầm quyền. Nghị quyết Trung
ương 6 khóa XII của Đảng Về một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ
chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả
đã nhấn mạnh đến việc đổi mới từng bước, thận trọng, có nguyên tắc và
không chủ quan, nóng vội.
Trong quá trình đổi mới, hệ thống chính trị Việt Nam đã bảo đảm vai
trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, có nhiều thành tựu được ghi
nhận, đã phát huy quyền làm chủ của nhân dân, góp phần quan trọng vào
những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới, xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.
Tuy nhiên, những năm qua, nhiều chủ trương, cơ chế về xây dựng tổ
chức bộ máy của hệ thống chính trị còn một số yếu kém, bất cập, dẫn đến
việc tổ chức, sắp xếp, kiện toàn chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác
của các tổ chức trong hệ thống chính trị chưa được phân định rõ ràng, cần
điều chỉnh hợp lý hơn.
Trong điều kiện mới hiện nay, việc nghiên cứu, tham khảo có chọn
lọc kinh nghiệm của các nước trong xây dựng hệ thống chính trị không chỉ
2
là yêu cầu xuất phát từ thực tiễn hiện nay của Việt Nam sau gần 35 năm tiến
hành đổi mới đất nước mà còn là xu hướng chung của thế giới. Trong bối
cảnh đó, Việt Nam phải chịu những sức ép không nhỏ từ cả bên ngoài và
nội tại để đổi mới, hoàn thiện và nâng cao hơn nữa hiệu quả, hiệu lực của hệ
thống chính trị, bảo đảm hội nhập quốc tế thành công. Sự phát sinh và diễn
biến phức tạp của các vấn đề khi hội nhập quốc tế, đòi hỏi hệ thống chính trị
phải đủ mạnh và linh hoạt để kịp thời ứng phó với những vấn đề xuất hiện
trong quá trình hội nhập, đáp ứng mục tiêu và nhu cầu phát triển bền vững
của dân tộc, đất nước trong bối cảnh mới.
Trước sự phong phú và đa dạng của các mô hình hệ thống chính trị trên
thế giới (cả về thực tiễn và lý luận), để đảm bảo không chệch hướng về mặt
chính trị, định hướng phát triển; kế thừa và vận dụng linh hoạt những kinh
nghiệm quốc tế trong xây dựng hệ thống chính trị, Đảng ta khi nghiên cứu và
tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm của các nước cần phải dựa trên các cơ sở
sau: Bảo đảm sự biện chứng giữa cái phổ biến và cái đặc thù, cái lịch sử và
cái lô-gic một cách cụ thể trên phương diện đổi mới hệ thống chính trị là
nguyên tắc cần được tuân thủ hết sức nghiêm ngặt. Trong đó, tính phù hợp và
hiệu quả là mục tiêu, là thước đo trình độ của việc đổi mới một cách tổng thể
và trực tiếp đổi mới chính trị.
Hệ thống chính trị ở Việt Nam và hệ thống chính trị ở một số quốc
gia có một đảng nổi trội cầm quyền có một số điểm tương đồng. Về mặt
hình thức, các quốc gia có hệ thống chính trị một đảng nổi trội đều tồn
tại theo cơ chế đa đảng nhưng có một đảng chính trị nổi trội nắm quyền
lãnh đạo, điều hành và vận hành hệ thống chính trị trong một thời gian
dài như Đảng Hành động Nhân dân (PAP) ở Singapore, Đảng Dân chủ
Tự do (LDP) ở Nhật Bản, Đảng dân chủ ở Hàn Quốc. Từ những nước
nghèo và kém phát triển, lại là những nước thuộc địa, các nước này đã
có những bước tiến ngoạn mục để trở thành những con rồng, con hổ ở
châu Á.
3
Đã có nhiều câu hỏi đặt ra đối với sự phát triển của những quốc gia
này. Bằng cách nào đảng nổi trội cầm quyền trong suốt thời gian dài có
thể xây dựng và chèo lái đất nước từ nước nghèo trở thành những nền
kinh tế phát triển nhanh ở châu Á cũng như trên thế giới, bằng cách nào
quốc gia nhỏ đa sắc tộc, đa tôn giáo, đa ngôn ngữ lại có thể giữ được ổn
định chính trị lâu dài, và đặc biệt hơn, bằng cách nào quốc gia với các
giá trị châu Á làm nền tảng và một đảng duy nhất cầm quyền từ ngày
độc lập lại có được mức độ ổn định chính trị và kinh tế phát triển vượt
bậc như vậy.
Ở những quốc gia như Singapore, Nhật Bản, Hàn Quốc,...đảng nổi
trội cầm quyền thành công trong quá trình vận hành hệ thống chính trị
được biết đến như nền hành chính gọn nhẹ, khắc phục được tham nhũng,
chế độ đối với cán bộ thuộc bộ máy hành chính nhà nước,... và những
kinh nghiệm trong quá trình vận hành hệ thống chính trị ở các quốc gia có
một đảng nổi trội có giá trị tham khảo đối với quá trình đổi mới hệ thống
chính trị Việt Nam hiện nay.
Tình hình quốc tế và trong nước tạo ra cả thời cơ, thuận lợi và thách
thức, khó khăn tác động đan xen đến sự phát triển đất nước, đến quá trình
đổi mới hệ thống chính trị, đặc biệt là công tác xây dựng Đảng và phương
thức lãnh đạo của Đảng. Tình hình đó đòi hỏi Đảng ta phải đổi mới mạnh
mẽ tổ chức, phương thức lãnh đạo để nắm bắt thời cơ, vượt qua khó khăn,
thách thức, đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, đưa đất nước
phát triển nhanh và bền vững
Theo đó, việc nghiên cứu về hệ thống chính trị ở một số quốc gia
có một đảng nổi trội, nghiên cứu vai trò của đảng nổi trội cầm quyền
quan trọng như thế nào trong quá trình vận hành của cả hệ thống chính
trị một quốc gia; từ đó có thể gợi mở một số giá trị mang tính tham khảo
cho hệ thống chính trị Việt Nam. Do vậy, tác giả đã chọn đề tài: “Hệ
thống chính trị một đảng nổi trội - Giá trị tham khảo cho Việt Nam”
4
làm đề luận án của mình dưới cách tiếp cận tài nghiên cứu của bộ môn
Chính trị học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận hệ thống chính trị, làm rõ những vấn
đề mang tính đặc trưng, đặc thù của hệ thống chính trị một đảng nổi trội;
và qua việc khảo sát, đánh giá một số trường hợp điển hình nổi bật của hệ
thống chính trị một đảng nổi trội để đưa ra một số giá trị tham khảo đối
với việc đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ của luận án là:
- Thứ nhất, nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lý luận và đặc trưng
của hệ thống chính trị một đảng nổi trội.
- Thứ hai, khảo sát, đánh giá hiệu quả vận hành của hệ thống chính
trị một đảng nổi trội qua mô hình một số quốc gia châu Á điển hình như
Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore.
- Thứ ba, gợi mở một số giá trị tham khảo từ các trường hợp khảo
cứu cho việc đổi mới hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là hệ thống chính trị một đảng nổi
trội, giá trị tham khảo cho Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: các quốc gia Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc.
- Về thời gian: trong giai đoạn một đảng nổi trội cầm quyền ở các mô
hình nghiên cứu, cụ thể như: Đảng Hành động Nhân dân của Singapore,
Đảng Dân chủ Tự do của Nhật Bản và Đảng dân chủ ở Hàn Quốc.
- Về nội dung: “Giá trị” mà luận án nghiên cứu mô hình hệ thống
chính trị một đảng nổi trội ở một số quốc gia châu Á điển hình như Nhật
5
Bản, Hàn Quốc, Singapore là giá trị ứng dụng cho việc đổi mới hệ thống
chính trị Việt Nam hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về hệ thống chính trị. Đặc biệt, luận án bám sát đến những
quan điểm biện chứng, khách quan, toàn diện, lịch sử - cụ thể, quan điểm
của các học giả tư sản về hệ thống chính trị nói chung và hệ thống chính
trị một đảng nổi trội nói riêng để triển khai các ý tưởng nghiên cứu.
Các phương pháp cụ thể được sử dụng, bao gồm:
- Phương pháp phân tích - tổng hợp được sử dụng để phân tích bản
chất, nội hàm của các khái niệm hệ thống chinh trị, hệ thống chính trị một
đảng nổi trội; làm rõ các đặc trưng cụ thể của hệ thống chính trị một đảng
nổi trội.
- Phương pháp logic-lịch sử được sử dụng để làm rõ quá trình hình
thành, phát triển của hệ thống chính trị một đảng nổi trội ở một số quốc
gia, từ đó rút ra những đánh giá chung về sự tồn tại, phát triển của các
quốc gia này.
- Phương pháp so sánh được sử dụng nhằm làm rõ sự khác biệt giữa
hệ thống chính trị một đảng nổi trội, hệ thống chính trị một đảng, hệ thống
chính trị lưỡng đảng, làm rõ những giá trị tiêu biểu của hệ thống chính trị
một đảng nổi trội.
- Phương pháp phân tích tài liệu sẽ giúp cho quá trình tổng thuật tài
liệu, khai thác những dữ liệu đã có trong các công trình nghiên cứu đi
trước cũng như qua báo cáo của các tổ chức, các cơ quan có thẩm quyền
để phục vụ cho việc nghiên cứu của luận án.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Khái quát những đặc trưng, những nét nổi bật của hệ thống chính
trị một đảng nổi trội các nước mang tính điển hình ở châu Á.
6
- Những giá trị tham khảo từ quá trình vận hành hệ thống chính trị
một đảng nổi trội được luận án tổng kết sẽ có ý nghĩa tham khảo cho quá
trình đổi mới chính trị ở Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
- Luận án có ý nghĩa khoa học thể hiện ở khía cạnh:
Thứ nhất, hệ thống hóa một số lý thuyết, cách tiếp cận và quan điểm
trên thế giới liên quan tới hệ thống chính trị, đảng chính trị, đảng cầm
quyền; đặc trưng của hệ thống chính trị một đảng nổi trội.
Thứ hai, làm rõ sự cần thiết của nghiên cứu thực chứng, nghiên cứu
so sánh trường hợp trong nghiên cứu hệ thống chính trị nói chung và hệ
thống chính trị một đảng nổi trội, phân tích điểm nổi bật về của hệ thống
chính trị một đảng nổi trội qua mô hình một số nước châu Á điển hình
như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore.
Thứ ba, đưa ra những giá trị tham khảo, bổ sung về mặt nhận thức
trong các nghiên cứu về đổi mới hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay.
- Ý nghĩa thực tiễn của luận án thể hiện ở hai góc độ sau:
Thứ nhất, luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc
nghiên cứu và giảng dạy chuyên ngành Chính trị học, các bộ môn khoa
học xã hội và nhân văn có liên quan.
Thứ hai, kết quả nghiên cứu của luận án sẽ cung cấp những luận
chứng, luận cứ khoa học giúp cho chủ thể cầm quyền ở nước ta trong
thực tiễn đổi mới chính trị hiện nay, trên cơ sở tham khảo những kinh
nghiệm về thành công và hạn chế của hệ thống chính trị một đảng nổi trội
qua mô hình một số nước châu Á điển hình.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án
gồm 4 chương, 10 tiết
7
Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH CỨU VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
NÓI CHUNG
1.1.1. Những công trình cứu về hệ thống chính trị :Hồ Văn Thông (1998), Hệ thống chính trị ở các nước tư bản phát triển hiện nay, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Dương Xuân Ngọc, Lưu Văn An (2003) (chủ biên), Thể chế chính trị thế giới đương đại, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Viện Khoa học Pháp lý (2005), Thiết chế chính trị và bộ máy nhà nước một số nước trên thế giới, Người dịch: Phạm Văn Lợi, Hoàng Thị Ngân, Nxb. Tư pháp, Hà Nội; Tô Huy Rứa (2008) (chủ biên), Mô hình tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị một số nước trên thế giới, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Lưu Ngọc Trịnh (2012) (chủ biên), Kinh tế và chính trị thế giới đến năm 2020, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, v.v...
1.1.2. Những công trình cứu về đảng chính trị Các hệ thống chính trị Đông Âu và Các hệ thống chính trị Tây Âu (W. Ismayr chủ biên, 2002-2003); Các chính Đảng Châu Âu trong hợp tác và hội nhập (chủ biên K.M. Johanson/ P. Zervakí, ed., 2002). Một số đảng chính trị trên thế giới (chủ biên Ngô Đức Tính, Nxb. Chính trị Quốc gia, 2004); Thể chế đảng cầm quyền - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn (Chủ biên Đặng Đình Tân, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006); Đảng chính trị phương Tây và Cộng hòa liên bang Đức (chủ biên Lương Văn Kế, 2009); Một số vấn đề về các đảng chính trị trên thế giới (chủ biên Tạ Ngọc Tấn, Nxb. Lý luận Chính trị, Hà Nội, 2012)
1.1.3. Những công trình cứu hệ thống chính trị một đảng nổi trội Tinh Tinh (2002) (chủ biên), Cải cách chính phủ - Cơn lốc chính trị cuối thế kỷ XX, Nxb.Công an Nhân dân; Đỗ Tiến Sâm (2003) (chủ biên), Cải cách thể chế chính trị ở Trung Quốc (1978-2003), Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội; Doãn Trung Khanh (2012), Chế độ chính trị Trung Quốc, Người dịch: Nguyễn Mạnh Sơn, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh; Đỗ Tiến Sâm (2013) (Chủ biên), Chính trị Trung Quốc trong quá trình trỗi dậy và
8
những vấn đề đặt ra cho Việt Nam, Nxb. Từ điển Bách Khoa, Hà Nội, v.v. Đề tài KX. 10-10 “Mô hình tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị ở một số nước trên thế giới” do Tô Huy Rứa làm Chủ nhiệm đề tài; có đề tài khoa học cấp cơ sở của Viện Chính trị học - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh “Các nền dân chủ ở phương Đông dưới góc nhìn chính trị học so sánh” do TS. Ngô Huy Đức làm Chủ nhiệm, Hồ Sĩ Quí (2014), Một số vấn đề về dân chủ, độc tài và phát triển, Nxb. Lý luận Chính trị, Hà Nội. 1.2. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU HỆ THỐNG CHÍNH
TRỊ VIỆT NAM
1.2.1. Các công trình nghiên cứu về hệ thống chính trị Việt Nam
và đổi mới hệ thống chính trị Việt Nam
Trần Xuân Trường (2000), Xây dựng hệ thống chính trị theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Quân đội Nhân dân; Nguyễn Duy Quý (Chủ biên) (2008), Hệ thống chính trị nước ta trong thời kỳ đổi mới, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Lê Minh Thông (Chủ biên) (2008), Cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội v.v... và các bài viết trên các tạp chí như Phạm Hồng Chương (2004), “Xây dựng hệ thống chính trị theo tư tưởng Hồ Chí Minh”, Tạp chí Cộng sản, số 22; Nguyễn Trọng Phúc (2013), “Hệ thống chính trị ở Việt Nam trong tiến trình cách mạng và những vấn đề đặt ra hiện nay”, Tạp chí Tuyên giáo, số 6 v.v...
1.2.2. Các công trình nghiên cứu về những quan điểm, nguyên
tắc, giải pháp để đổi mới hệ thống chính trị Việt Nam
Tô Huy Rứa, Nguyễn Cúc, Trần Khắc Việt (đồng chủ biên, 2003), Giải pháp đổi mới hoạt động của hệ thống chính trị ở các tỉnh miền núi nước ta hiện nay, Nxb.Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Trần Đình Hoan (chủ biên) (2008), Quan điểm và nguyên tắc đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam giai đoạn 2005 - 2020, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Nguyễn Phương Hồng (2005), “Tính tất yếu và một số nguyên tắc cơ bản của việc đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Triết học, số 12; Nguyễn Văn Huyên (2014), “Quan điểm của Đảng về đổi mới hệ thống chính trị”, Tạp chí Lý luận Chính trị, số 3; Lê Hữu Nghĩa (2013), “Tiếp tục
9
đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Tạp chí Lý luận Chính trị, số 1 v.v..
1.2.3. Các công trình nghiên cứu về vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam
“Vị trí đảng cầm quyền và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong điều kiện mới” của Đỗ Hoài Nam (chủ biên); “Những điều kiện cơ bản bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Phạm Thế Lực; “Một đảng duy nhất cầm quyền - sản phẩm tất yếu của thực tiễn chính trị - xã hội ở Việt Nam” của Phạm Ngọc Quang; “Đảng hóa thân vào Nhà nước” trong đổi mới phương thức cầm quyền của Đảng ta” của Nguyễn Hữu Đổng; “Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân” của Phạm Ngọc Quang, Ngô Kim Ngân đồng chủ biên.
1.3. GIÁ TRỊ NHỮNG CÔNG TRÌNH ĐÃ NGHIÊN CỨU VÀ CÁC
VẤN ĐỀ CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
1.3.1. Những giá trị của các công trình đã nghiên cứu
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu tập trung vào việc nghiên cứu những vấn đề lý luận về hệ thống chính trị của các quốc gia có đảng chính trị nổi trội cũng như vai trò, chức năng của đảng chính trị trong tổng thể quá trình vận hành của hệ thống chính trị trong lịch sử cũng như trong điều kiện nền kinh tế thị trường cũng như những tác động của nó đến các quốc gia khác.
Thứ hai, nghiên cứu về hệ thống chính trị một đảng nổi trội cầm quyền trên thế giới đã đạt được thành tựu đáng ghi nhận. Việc lựa chọn mô hình, cơ cấu tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị là vấn đề của riêng các quốc gia trên thế giới.
Thứ ba, các công trình nghiên cứu đã làm sáng tỏ sự hình thành hệ thống chính trị, những đặc điểm, đặc trưng; những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị Việt Nam.
Thứ tư, trên cơ sở bối cảnh quốc tế, khu vực và trong nước, các công trình nghiên cứu đã đưa ra luận chứng, nhận định về xu thế mới, yêu cầu khách quan, tất yếu phải đổi mới hệ thống chính trị Việt Nam.
10
Thứ năm, ở một số công trình nghiên cứu, bài viết đã đưa ra quan điểm, nguyên tắc và giải pháp để đổi mới và hoàn thiện hơn nữa hệ thống chính trị Việt Nam.
1.3.2. Những vấn đề luận án tiếp tục nghiên cứu Thứ nhất, trên cơ sở những vấn đề lý luận cơ bản về hệ thống chính trị nói chung và hệ thống chính trị một đảng nổi trội, cần khái quát những đặc trưng của hệ thống chính trị một đảng nổi trội.
Thứ hai, khảo sát mô hình của một số hệ thống chính trị một đảng nổi trội ở một số quốc gia để từ đó có cái nhìn khái quát về vai trò của đảng cầm quyền trong quá trình phát triển xã hội.
Thứ ba, trên cơ sở những thành tựu cũng như hạn chế của thực trạng hoạt động của hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay, cần rút ra những giá trị tham khảo từ mô hình hệ thống chính trị một đảng nổi trội trên thế giới để vận dụng vào Việt Nam nhằm mục đích đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị đất nước.
Chương 2 LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ MỘT ĐẢNG NỔI TRỘI VÀ ĐẢNG CẦM QUYỀN TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ MỘT ĐẢNG NỔI TRỘI
2.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VÀ
HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ MỘT ĐẢNG NỔI TRỘI
2.1.1. Những vấn đề chung về hệ thống chính trị 2.1.1.1. Khái niệm hệ thống chính trị Khái niệm “Hệ thống chính trị” dùng để phân tích các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng tới việc đưa ra và thực hiện các quyết định chính trị trong chỉnh thể của chúng, phù hợp với sự biến đổi của môi trường. Khả năng thích ứng với môi trường thể hiện sức sống của một hệ thống chính trị. Các mô hình hệ thống chính trị khác nhau có các cách hoạt động và thích ứng khác nhau, và vì vậy, luôn là đối tượng nghiên cứu quan trọng của cả các nhà khoa học cũng như các nhà hoạt động chính trị.
11
2.1.1.2. Phân loại mô hình hệ thống chính trị Có nhiều tiêu chí được sử dụng để phân loại các mô hình hệ thống
chính trị.
Cách phân loại thứ nhất lấy tiêu chí về hệ tư tưởng chủ đạo, có thể
phân loại thành mô hình xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa.
Cách phân loại thứ hai lấy tiêu chí cách thức tổ chức nhà nước (tức cách thức phân quyền - quyền lực thực sự thuộc về ai và thể chế nào), có 2 nhóm nước: Nhóm 1: Một số ít các hệ thống chính trị đi theo mô hình tập trung quyền lực như các nước xã hội chủ nghĩa, một số nước Hồi giáo (Iran, các Tiểu Vương Quốc Ả Rập thống nhất), chính quyền quân sự (Bangladesh, Pakistan v.v.). Nhóm 2: Đa số các nước khác có sự phân chia quyền lực nhà nước thành: lập pháp - hành pháp - tư pháp.
Cách phân loại thứ ba lấy tiêu chí số lượng đảng chính trị tham gia vào hệ thống chính trị (một đảng hay đa đảng). Đây cũng là cách tiếp cận chính của nội dung luận án để nhấn mạnh vai trò của đảng cầm quyền nổi trội trong hệ thống chính trị.
2.1.2.2. Các yếu tố tác động đến sự hình thành của hệ thống chính
Yếu tố khách quan: Một là, do hoàn cảnh, điều kiện lịch sử. Hai là,
2.1.2. Hệ thống chính trị một đảng nổi trội 2.1.2.1. Quan niệm về hệ thống chính trị một đảng nổi trội Nội dung cốt lõi của hệ thống chính trị một đảng nổi trội là “đảng nổi trội đã nắm quyền lực (quyền hành pháp) trong một thời gian dài”, là nội dung được sự chấp thuận của mọi nhà khoa học. trị một đảng nổi trội sự phân tán của các đảng đối lập. Ba là, sự hỗ trợ từ bên ngoài. Yếu tố chủ quan: Một là, do sự linh hoạt về mặt chính sách của đảng cầm quyền. Hai là, việc sử dụng nguồn lực của chính phủ của đảng cầm quyền. Ba là, nội lực của đảng cầm quyền trong các cuộc bầu cử.
2.2. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐẢNG CHÍNH TRỊ, ĐẢNG CẦM QUYỀN TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ MỘT ĐẢNG NỔI TRỘI
2.2.1. Đảng chính trị 2.2.1.1. Khái niệm “đảng chính trị” Đảng chính trị là bộ phận tích cực nhất, có tổ chức nhất của một giai cấp hay một bộ phận của một giai cấp, làm công cụ đấu tranh cho lợi ích của giai cấp.
12
2.2.1.2. Đặc trưng, đặc điểm đảng chính trị Đảng chính trị nào cũng có hệ tư tưởng (Ideology) với vai trò là tư tưởng tiên phong của giai cấp) và cương lĩnh hành động. Đảng chính trị là một hệ thống tổ chức được thành lập và hoạt động trên nguyên tắc cụ thể. Là một bộ phận cấu thành của kiến trúc thượng tầng xã hội, đảng chính trị hoạt động bằng thuyết phục, truyền bá các quan điểm, tư tưởng; tập hợp những người cùng chí hướng. Thông thường, để đi tới quyền lực, các đảng chính trị sử dụng hai phương thức đấu tranh bạo lực và đấu tranh nghị trường.
2.2.1.3. Chức năng của đảng chính trị - Các đảng chính trị là nền tảng cho hoạt động của chính phủ, quốc
hội có thể thực hiện được trên thực tế.
- Các đảng chính trị xây dựng các chính sách công cộng. - Các đảng chính trị giúp định hướng và hỗ trợ công luận. - Các đảng chính trị góp phần tạo nên ổn định chính trị. - Các đảng chính trị giúp chiêu mộ những nhà lãnh đạo toàn diện. 2.2.1.4. Vai trò các đảng chính trị trong đời sống chính trị hiện nay Đảng chính trị bao giờ cũng gắn liền với việc đấu tranh giành, giữ và sử dụng chính quyền. Chức năng của các đảng là: Về chính trị: Vạch ra đường lối, cương lĩnh, chương trình hành động. Về tổ chức: Tổ chức đảng và cử người vào bộ máy nhà nước để thực hiện các mục tiêu của mình. Về tư tưởng: Tuyên truyền, lôi kéo các bộ phận dân cư khác hưởng ứng, đi theo hệ tư tưởng của mình.
2.2.2. Đảng cầm quyền Đảng cầm quyền là khái niệm của khoa học chính trị, chỉ một đảng chính trị đại diện cho một giai cấp đang nắm giữ và lãnh đạo chính quyền để điều hành, quản lý đất nước nhằm trước hết phục vụ lợi ích của giai cấp mình. 2.2.3. Đảng cầm quyền trong hệ thống chính trị một đảng nổi trội Một đảng nổi trội nghĩa là đảng đó phải chiếm ưu thế trong bốn chỉ số để đo lường hệ thống chi phối của đảng: (1) Đảng nổi trội phải chiếm ưu thế về số lượng, phải giành được nhiều ghế hơn đảng đối lập, chỉ có bên nhận đa số ghế mới đủ điều kiện để trở thành đảng thống trị; (2) Các đảng nổi trội phải có một vị trí đàm phán chi phối. Ngay cả khi nó không có đa số tuyệt đối trong quốc hội, nó vẫn ở vị trí chiến lược. Không thể xây dựng bất kỳ thành phần chính phủ nào nếu nó bị loại trừ; (3) Các đảng nổi trội phải tiếp tục thống trị trong thời gian, nó phải là cốt lõi của chính phủ trong một thời gian dài, không chỉ một vài năm, ít nhất là 20 năm; (4) Một
13
đảng chính trị nổi trội phải chiếm ưu thế trong chính phủ, vì nó nằm ở trung tâm quyền lực của chính phủ trong một thời gian dài, đảng chính trị nổi trội có thể hoàn thành nguyên nhân lịch sử chính và thay đổi tiến trình chính trị của đất nước bằng cách huy động sự ủng hộ của cộng đồng.
Tiểu kết chương 2
Có thể nói, hệ thống chính trị bao gồm nhiều thành phần khác nhau, các bộ phận, nhân tố tham gia vào quá trình chính trị đều đóng một vai trò quan trọng ảnh hưởng đến kết quả chính trị, đặc biệt là yếu tố đảng chính trị. Việc nghiên cứu hệ thống chính trị cũng giống như các phạm trù khác trong lĩnh vực Chính trị học, có nhiều quan điểm và lập luận khác nhau, thậm chí đối nghịch nhau. Tuy nhiên, cách phân tích của các nhà nghiên cứu chính trị đều thống nhất ở chỗ, đảng cầm quyền giữ vai trò quan trọng trong một hệ thống chính trị, nó là yếu tố quyết định đến sự “sống còn” của mỗi chế độ, mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Đảng chính trị nào giữ được quyền hành pháp, đảng đó là đảng cầm quyền.
Đảng chính trị cầm quyền trong mô hình hệ thống chính trị nói chung và mô hình hệ thống chính trị một đảng nổi trội hiện nay biểu hiện một số đặc trưng nhất định, mang lại hiệu quả cầm quyền cho đảng. Trong mô hình hệ thống chính trị một đảng nổi trội, sự hình thành từ các yếu tố chủ quan hay khách quan của việc cầm quyền lâu dài của một đảng đã chứng tỏ nội lực của bản thân chính đảng đó.
Đảng cầm quyền trong hệ thống chính trị một đảng nổi trội, bên cạnh những đặc trưng, chức năng, vai trò của một đảng chính trị tham gia vào đời sống chính trị xã hội, “nó” còn mang những biểu hiện đặc sắc, riêng biệt, là yếu tố góp phần duy trì sự thống nhất, bền vững của một hệ thống chính trị nhất định
Trong những quan điểm, những định hướng về phát triển quốc gia mà các đảng cầm quyền nổi trội đưa ra, đã cho thấy được vai trò và mối quan hệ của đảng chính trị nổi trội với hệ thống chính trị. Những hình thức vận hành, đưa ra quyết sách cũng như đặc điểm của đảng chính trị nổi trội trong hệ thống chính trị là khá đa dạng và phong phú nhưng tất cả đều gắn liền với mục tiêu chung của quốc gia đó, góp phần tạo ra sức mạnh xã hội, sức mạnh quốc gia phù hợp với xu hướng phát triển của nhân loại.
14
Chương 3 KHẢO CỨU MỘT SỐ TRƯỜNG HỢP HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ MỘT ĐẢNG NỔI TRỘI ĐIỂN HÌNH
3.1. TRƯỜNG HỢP NHẬT BẢN 3.1.1. Khái quát về tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị ở Nhật
Bản và những đặc trưng chủ yếu
3.1.1.1. Về tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị Mô hình thể chế chính trị Nhật Bản hiện tại dựa trên chế độ lưỡng viện đa đảng. Quyền lực chính trị bao gồm quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp là độc lập với nhau. Măc dù Nhật Bản vẫn giữ chế độ Thiên hoàng, nhưng Thiên hoàng Nhật Bản chỉ có địa vị tượng trưng cho đất nước Nhật Bản và sự thống nhất của nhân dân Nhật Bản (Điều 1 Hiến pháp Nhật Bản); Thiên hoàng không can dự vào công việc chính trị của đất nước (Điều 4 Hiến pháp Nhật Bản).
Mặc dù là chế độ đa đảng nhưng trên thực tế, hệ thống chính trị Nhật Bản đã tồn tại theo cách thức chưa được biết đến trong các nền dân chủ ở châu Âu và Bắc Mỹ, đó là sự thống trị của một đảng - Đảng Dân chủ Tự do Nhật Bản (LDP). Kể từ khi thành lập vào năm 1955, Đảng Dân chủ Tự do Nhật Bản đã gần như liên tục nắm quyền lãnh đạo hệ thống chính trị Nhật Bản, ngoại trừ một chính phủ liên minh tồn tại trong một thời gian ngắn gần 11 tháng vào năm 1993 và trong giai đoạn 3 năm từ tháng 8 năm 2009 đến tháng 12 năm 2012.
3.1.1.2. Đặc trưng của chính đảng Nhật Bản Đảng Dân chủ Tự do Nhật Bản (LDP 自由民主党): là chính đảng tư sản bảo thủ lớn nhất hiện nay ở Nhật Bản được thành lập vào ngày 15 tháng 11 năm 1955 trên cơ sở của Liên minh Bảo thủ (hoshu godo).
Về hình thức, Đảng Dân chủ Tự do Nhật Bản được tổ chức theo mô hình ba cấp (trung ương, tỉnh và cơ sở). Hệ thống này mang nặng tính chất hành chính, chủ yếu hướng vào mục đích tranh cử. Về phương diện tổ chức, Đảng Dân chủ Tự do Nhật Bản là điển hình của loại đảng “tinh hoa” nên hầu như không có hệ thống tổ chức hoàn chỉnh từ trung ương tới cơ sở, không có hệ thống tổ chức quần chúng. Đảng viên phần lớn là các chính khách cao
15
cấp, thuộc tầng lớp thượng lưu, được sự hậu thuẫn của những tập đoàn tài phiệt hoặc được sự ủng hộ của dòng tộc và đặc biệt là của cử tri ở những địa phương vốn là đất "bản bộ" của dòng tộc nhất định. Mối quan hệ giữa đảng viên với quần chúng, vì vậy, chủ yếu là mối quan hệ có tính chất cá nhân.
Đảng này không có nền tảng ý thức hệ rõ ràng mà cá nhân đảng viên hoặc những nhóm đảng viên cố kết lại với nhau dựa trên những lợi ích chung xác định, và qua đó tạo thành một phe đa số luôn luôn đủ sức chi phối quá trình hoạch định chính sách trong Quốc hội cũng như trong các cơ quan quyền lực khác. Những lợi ích chung này được thể hiện trong tuyên ngôn của đảng. Chính vì vậy mà LDP còn được gọi là loại hình "đảng lợi ích".
Một trong những biện pháp để luôn giữ được vị thế chi phối trong quốc hội của LDP là cách thức phát triển đảng viên. Trong quá trình tranh cử ở Nhật Bản, để tranh thủ số đông cử tri vốn không ưa đảng phái, có nhiều ứng viên không biểu thị thái độ rõ rệt ủng hộ cho đảng nào, đã tranh cử với tư cách là ứng cử viên độc lập, không đảng phái. Nhưng sau khi đắc cử, các nghị sĩ độc lập này lại muốn được tham gia mạnh mẽ hơn vào quá trình chính sách và để bảo vệ lợi ích của chính mình nên họ lại có nhu cầu tham gia đảng phái. Đảng Dân chủ Tự do Nhật Bản đã tận dụng cơ hội này để kết nạp nhiều ông nghị vào đảng mình. Rõ ràng, việc gia nhập đảng của nhiều chính khách đã xuất phát từ lợi ích của chính cá nhân họ. Và cũng bằng cách này, LDP liên tục mở rộng uy thế chính trị, giữ vững địa vị cầm quyền của mình suốt nhiều thập kỷ ở Nhật Bản. Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân dẫn tới tình trạng hệ thống chính trị Nhật Bản tuy là đa nguyên, đa đảng nhưng chỉ có một đảng chiếm ưu thế.
3.1.1.3. Về đặc trưng chủ yếu của hệ thống chính trị Nhật Bản Quốc hội có rất ít quyền hành thực sự; theo truyền thống, các phe phái trong Đảng Dân chủ Tự do có tầm quan trọng hơn các đảng chính trị khác; Các cuộc họp Nội các thường là ngắn gọn và chủ yếu là nghi lễ.
Thủ tướng Nhật Bản được coi là có quyền lực yếu hơn so với đối tác của mình trong các nền dân chủ khác và thường tại vị trong thời gian rất ngắn (Thủ tướng Tsutomu Hata chỉ tại vị 3 tháng vào năm 1994).
Vì đảng nắm quyền hầu như không thay đổi nên các cuộc xung đột, thường rất gay gắt, đã xảy ra chủ yếu trong Đảng Dân chủ Tự do Nhật Bản hơn là giữa các đảng chính trị khác.
16
3.1.2. Quá trình cải cách tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị
ở Nhật Bản trong thế kỷ XXI và một số kết quả nổi bật
3.1.2.1. Quá trình đổi mới Mối quan hệ bên trong một bộ, giữa một bộ với các đối tác thuộc thẩm quyền của nó cũng như các bên liên quan khác đã trở nên mạnh mẽ đến mức hình thành một loại cộng đồng gần gũi có xu hướng cố gắng bảo vệ các lợi ích hiện có mang tính cục bộ.
Cần có những thay đổi và cải cách mạnh mẽ để toàn bộ Chính phủ dưới sự lãnh đạo của Thủ tướng và Nội các có thể đưa ra các quyết định phối hợp và thực hiện chúng một cách tốt nhất.
Vào tháng 4 năm 1999, Nội các Obuchi Keizo (từ 30 tháng 7 năm 1998 tới 5 tháng 4 năm 2000) đã đệ trình lên Quốc hội Nhật Bản 17 dự luật về tái cấu trúc và hợp lý hóa các bộ và cơ quan chính phủ trung ương cũng như tăng cường các chức năng của Nội các và vai trò lãnh đạo của Thủ tướng. Theo dự luật, cơ cấu chính quyền trung ương lúc đó, bao gồm Văn phòng Thủ tướng Chính phủ và 22 tổ chức cấp bộ trưởng trong Nội các, sẽ được đổi thành Văn phòng Nội các và 12 tổ chức cấp bộ trưởng.
3.1.2.2. Một số kết quả nổi bật - Tăng cường sự lãnh đạo chính trị trong mọi tổ chức cấp bộ - Củng cố chức năng Nội các và vai trò lãnh đạo của Thủ tướng - Tái cơ cấu quyết liệt các bộ và cơ quan - Tinh giản và hợp lý hóa các tổ chức và hoạt động của chính phủ. 3.2. TRƯỜNG HỢP HÀN QUỐC 3.2.1. Khái quát về tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị Hàn Quốc Hàn Quốc có chế độ đa đảng, hệ thống quyền lực theo chế độ tam quyền phân lập giữa lập pháp, hành pháp, tư pháp. Hệ thống chính quyền của Hàn Quốc có chính quyền Trung ương và chính quyền tự quản địa phương.
3.2.2. Khái quát các đặc trưng các chính đảng của Hàn Quốc 3.2.2.1. Về các chính đảng Hàn Quốc hiện có 32 đảng hoạt động chính thức, trong đó có đảng cầm quyền (Đảng Dân chủ: 118 ghế trong Quốc hội), đảng đối lập (Đảng Hàn Quốc tự do: 115 ghế trong Quốc hội) và các đảng phái khác, trong đó chỉ có 7 đảng có ghế trong Quốc hội, còn lại 25 đảng không có ghế trong Quốc hội.
17
3.2.2.2. Về phương thức lãnh đạo của một số chính đảng ở
Hàn Quốc
Đối với nội bộ đảng, phương thức lãnh đạo của một số chính đảng ở
Hàn Quốc có những điểm rất đáng chú ý:
Một là, hầu hết các chính đảng ở Hàn Quốc đều coi trọng các cơ quan nghiên cứu, các chuyên gia, nhà khoa học trong việc tư vấn, góp ý đường lối, chính sách của đảng. Hai là, coi trọng tín nhiệm, uy tín đội ngũ cán bộ lãnh đạo của đảng, đặc biệt là đội ngũ lãnh đạo chủ chốt ở cả trung ương và địa phương. Ba là, các chính đảng ở Hàn Quốc đều chú trọng công tác phát triển đảng viên, đặc biệt là việc thu hút thanh niên, trí thức trẻ vào đảng.
3.2.3. Một số nhận xét Hàn Quốc đã có bước phát triển “thần kỳ”, từ một nước nghèo, lạc hậu bị chiến tranh tàn phá sau 30 năm đã vươn lên trở thành nước phát triển. Hàn Quốc luôn xác định khoa học và công nghệ là nguồn lực quan trọng nhất để phát triển nhanh, nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của kinh tế đất nước, do đó, có nhiều chính sách hỗ trợ, khuyến khích để phát triển khoa học, công nghệ.
Hàn Quốc đặc biệt quan tâm đến mở rộng dân chủ và các quyền chính trị khác của người dân, lắng nghe ý kiến của người dân, các tầng lớp xã hội, các chuyên gia, các nhà khoa học để điều chỉnh chính sách; xây dựng bộ máy nhà nước liêm chính, trong sạch, giữ gìn hình ảnh, uy tín của quan chức chính phủ, của đảng cầm quyền; xác định phòng, chống tham nhũng là chương trình trọng điểm quốc gia.
3.3. TRƯỜNG HỢP SINGAPORE 3.3.1. Khái quát về tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị Singapore Hệ thống chính trị của Singapore theo thể chế: Cộng hòa nghị viện, Quốc hội 1 viện, theo hệ thống Westminter của Anh quốc, đại diện cho các khu vực bầu cử. Hiến pháp Singapore thiết lập ra một nền dân chủ đại diện.
Học thuyết đối ngoại cân bằng nước lớn và ý thức khủng hoảng nước nhỏ của Singapore: Đây là nét đặc trưng của nền đối ngoại Singapore: cho rằng vì nội lực yếu, Singapore buộc phải chấp nhận chính sách đối ngoại phụ thuộc vào một nước lớn nào đó và cân bằng nước lớn được coi là điểm trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Singapore.
18
3.3.2. Khái quát các đặc trưng các chính đảng của Singapore Hệ thống chính trị của Singapore tồn tại cơ chế đa nguyên, đa đảng nhưng chỉ có một đảng nổi trội. Hiện ở quốc gia này có khoảng 30 đảng chính trị đang hoạt động. Ngoài đảng cầm quyền còn rất nhiều đảng đối lập tuyên bố theo con đường chủ nghĩa xã hội tự do, các đảng Malay, có đảng đặt mục tiêu cạnh tranh trong các cuộc bầu cử và có những đảng không bao giờ tranh cử.
Tại sao Đảng Hành động Nhân dân đã có thể đáp ứng với những áp lực, thách thức và phát triển thành công, câu trả lời nằm ở phần quan trọng trong chính sự biến đổi của chính Nhà nước. Các tầng lớp chính trị của Singapore được củng cố nắm giữ quyền lực của họ bằng cách tháo dỡ các cấu trúc đảng cũ và phương pháp bầu cử huy động ủng hộ việc sát nhập đảng và nhà nước
3.3.3. Tư tưởng, đường lối, chính sách của đảng cầm quyền 3.3.3.1. Hệ tư tưởng của Đảng Hành động Nhân dân Singapore đã đưa ra bốn điểm chính trong “hệ tư tưởng” của Đảng Hành động Nhân dân gồm: Chủ nghĩa thực dụng; Chế độ nhân tài; Chủ nghĩa đa sắc tộc; Các giá trị châu Á hay chủ nghĩa cộng đồng; 3.3.3.2. Đường lối, chính sách của đảng cầm quyền Singapore là quốc gia có nhiều sắc tộc và tôn giáo, quan niệm giá trị đa dạng và phức tạp, cho nên đoàn kết toàn dân, ngưng tụ lòng người là nhiệm vụ quan trọng nhất của đảng lãnh đạo. Đảng Hành động Nhân dân đặt lợi ích của dân tộc lên trên hết, bình thường không ra mặt lãnh đạo, không có biểu hiện tranh giành vai trò này mà đề xuất quan niệm giá trị “Quốc gia tối thượng; xã hội trước hết; gia đình là nền tảng; xã hội là gốc rễ; quan tâm xã hội; tôn trọng cá nhân; bàn bạc đồng thuận; tránh va chạm; khoan dung sắc tộc; tôn giáo hòa hợp nhau”. Đảng tìm ra con đường trung gian giữa giữ gìn tính nhất trí xã hội (tính tập thể) với giữ gìn mức độ tự do nhất định của cá tính (tính cá nhân); đường lối này có tính bao dung và tính linh hoạt rất lớn, do đó được đông đảo dân ủng hộ và có hiệu quả rõ rệt.
Tiểu kết chương 3
Bên cạnh những ưu điểm do một đảng chính trị cầm quyền lâu dài mang lại ổn định cao cho toàn bộ đời sống xã hội thì những mầm mống, nguy cơ tiềm ẩn cũng hiện tồn trong “cơ thể chính trị” đó, có thể bộc phát làm ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống chính trị - xã hội. Cụ thể là:
19
Thứ nhất, về ưu điểm: do là đảng duy nhất lãnh đạo chính trị, đường lối chủ trương của đảng cầm quyền, lãnh đạo đất nước được nhà nước thể chế hóa, các tổ chức chính trị - xã hội triển khai thực hiện tạo nên sự thống nhất trong việc đề ra và thực hiện các quyết sách chính trị.
Thứ hai, về hạn chế: các quốc gia theo mô hình hệ thống chính trị một đảng nổi trội, đảng chính trị sau khi giành được chính quyền dễ có xu hướng quan liêu, xa rời nhân dân.
Thứ đến là quyền lực chính trị bị phân chia. Điều này có nghĩa là các đảng chính trị phải chia sẻ quyền lực điều hành đất nước với một số đảng chính trị nhỏ hơn (khi không đạt đủ số phiếu để trở thành một đảng duy nhất cầm quyền). Tính ổn định trong các liên minh chia sẻ quyền lực trở nên mong manh bởi yếu tố áp đảo trở nên yếu hơn nếu không nói là không còn.
Và cuối cùng, vấn đề lãng phí và tham nhũng trong hệ thống chính trị
một đảng nổi trội của một số quan chức chính phủ.
Chương 4 ĐÁNH GIÁ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ MỘT ĐẢNG NỔI TRỘI VÀ MỘT SỐ GIÁ TRỊ THAM KHẢO CHO ĐỔI MỚI HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VIỆT NAM
4.1. NHỮNG NÉT NỔI BẬT CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ MỘT
ĐẢNG NỔI TRỘI QUA CÁC TRƯỜNG HỢP KHẢO CỨU
4.1.1. Tính chính đáng của đảng cầm quyền 4.1.1.1. Tính hợp lý, hợp pháp Bất cứ đảng chính trị nào muốn trở thành đảng cầm quyền, trong quá trình giành quyền lực đều phải chịu sự ràng buộc nghiêm ngặt của hiến pháp và pháp luật. Tức là, đảng cầm quyền đã có được cơ sở của tính chính đáng chính trị mang tính căn bản. Trong các cuộc bầu cử dân chủ, hợp pháp, đảng nào giành được số phiếu càng cao, thì khi đó tính chính đáng của đảng đó càng cao (tất nhiên là chỉ trong thời gian đầu cầm quyền).
4.1.1.2. Tính hiệu lực và hiệu quả Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế Thứ hai, công bằng xã hội 4.1.2. Chính sách của đảng cầm quyền Có thể nói, chính sách của các đảng nổi trội cầm quyền là chiến lược phát triển đất nước vô cùng sáng suốt, phù hợp với xu thế của thời cuộc và đáp ứng đúng những đòi hòi của đất nước và của người dân.
20
4.1.3. Bộ máy nhà nước trong hệ thống chính trị một đảng nổi trội 4.1.3.1. Bộ máy nhà nước gọn nhẹ, hiệu quả 4.1.3.2. Xây dựng bộ máy trong sạch, kiên quyết chống tham nhũng 4.1.4. Chế độ thu hút nhân tài tham gia hệ thống chính trị 4.2. MỘT SỐ GIÁ TRỊ THAM KHẢO CHO ĐỔI MỚI HỆ THỐNG
CHÍNH TRỊ VIỆT NAM
4.2.1. Tăng cường tính chính đáng của đảng cầm quyền Việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả của đảng cầm quyền trong quá trình lãnh đạo nhà nước và xã hội qua kinh nghiệm của các đảng nổi trội cho thấy, trong quá trình cầm quyền, đảng nào phát huy được hiệu lực và hiệu quả thông qua: tính nghiêm minh của hệ thống hiến pháp và pháp luật, tính công ích và hiệu quả của hệ thống chính sách công, đặc biệt là phát triển được kinh tế - xã hội, đời sống của đại bộ phận được nâng lên, công bằng xã hội duy trì, an sinh xã hội được đảm bảo.
4.2.2. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về mọi mặt Với tư cách là hạt nhân lãnh đạo của toàn bộ hệ thống chính trị, Đảng và tổ chức đảng phải thật sự trong sạch, vững mạnh. Đại hội XII xác định nhiệm vụ trọng tâm đầu tiên là “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”.
4.2.3. Xây dựng tổ chức bộ máy hệ thống chính trị tinh gọn và
hoạt động hiệu lực, hiệu quả Đổi mới hệ thống chính trị trước hết là đổi mới tư duy chính trị, đổi mới tổ chức bộ máy, đổi mới nội dung, phương thức vận hành của hệ thống chính trị, dân chủ hoá các hoạt động của hệ thống chính trị, trong sạch hoá hệ thống chính trị làm cho hệ thống chính trị thực sự vững mạnh, hiệu quả, hiệu lực, từ đó, khơi dậy và phát huy tối đa mọi nguồn lực và sự sáng tạo của xã hội, phục vụ cho sự nghiệp phát triển của Việt Nam trong những giai đoạn tiếp theo.
4.2.4. Cơ chế thu hút nhân tài tham gia hệ thống chính trị Trong hệ thống chính trị các nước có hai loại lãnh đạo rõ ràng: lãnh đạo chính trị và lãnh đạo kỹ trị hành chính. Tương ứng với đó là hai quy trình lựa chọn hết sức khác biệt. Đương nhiên các nước khác nhau có các quy trình lựa chọn khác nhau cho các vị trí khác nhau.
21
Với các lãnh đạo chính trị, nguyên tắc quan trọng nhất là quyền lực do ủy nhiệm, tức lựa chọn qua bầu cử phổ thống đầu phiếu trực tiếp hoặc gián tiếp. Trong khi đó, với các lãnh đạo kỹ trị, tức các công chức cấp cao, nguyên tắc quan trọng nhất là thẩm quyền chuyên môn, tức lựa chọn qua thi tuyển công khai, khách quan, và thông thường không được có quan điểm chính trị riêng mà phải tuân thủ đường lối của lãnh đạo chính trị do dân bầu ra.
Tiểu kết chương 4
Đổi mới hệ thống chính trị của một quốc gia là vấn đề rất lớn, rất quan trọng, có ý nghĩa chiến lược liên quan mật thiết đến những vấn đề lý luận cơ bản về phương thức lãnh đạo, phương thức cầm quyền của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Yêu cầu đổi mới hệ thống chính trị phải đồng bộ với đổi mới kinh tế; giải quyết tốt mối quan hệ biện chứng giữa nhà nước, thị trường và xã hội, liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của người dân trong thực hiện kỷ cương, pháp luật. Trên cơ sở khảo cứu một số trường hợp điển hình trên thế giới như: Nhật bản, Hàn Quốc, Singapore, tác giả đã khái quát một số nét nổi bật của hệ thống chính trị một đảng nổi trội trên các khía cạnh như: tính chính đáng của đảng cầm quyền, chính sách của đảng cầm quyền, bộ máy nhà nước trong hệ thống chính trị một đảng nổi trội, chế độ thu hút nhân tài tham gia hệ thống chính trị từ đó đưa ra một số gợi mở về: Tăng cường tính chính đáng của đảng cầm quyền; Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về mọi mặt; Xây dựng tổ chức bộ máy hệ thống chính trị tinh gọn và hoạt động hiệu lực, hiệu quả; Cơ chế thu hút nhân tài tham gia hệ thống chính trị. Đây là những nội dung có giá trị tham khảo cho việc thiết kế mô hình, đổi mới hệ thống chính trị cho Việt Nam hiện nay. Đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam luôn là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên của Đảng, do đó, quá trình xây dựng hệ thống chính trị bên cạnh việc nghiên cứu, tổng kết lý luận và thực tiễn tổ chức, hoạt động của hệ thống chính trị trong nước cần thiết phải mở rộng nghiên cứu hệ thống chính trị của nhiều nước trên thế giới để tiếp thu những giá trị tích cực, tiến bộ từ đó tiến hành đổi mới hệ thống chính trị trong nước phù hợp với tình hình cụ thể của Việt Nam, vừa đảm bảo hội nhập quốc tế.
22
KẾT LUẬN
Trong những năm gần đây, vấn đề đổi mới và kiện toàn tổ chức, hoạt động của hệ thống chính trị ở Việt Nam không những là yêu cầu lý luận mà còn là nhiệm vụ thực tiễn, là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước. Đổi mới hệ thống chính trị là nhiệm vụ chung của cả nước nhằm đưa Việt Nam phát triển một cách toàn diện và xứng tầm với các quốc gia trên thế giới. Vấn đề xây dựng Đảng và đổi mới hệ thống chính trị không chỉ là vấn đề của một dân tộc, một quốc gia mà còn là vấn đề của thời đại, của nhân loại.
Đổi mới hệ thống chính trị Việt Nam không phải là tạo ra một hệ thống chính trị mới mà trái lại, phải đổi mới để giữ vững bản chất của hệ thống chính trị hiện nay. Trên cơ sở tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị hiện nay, việc đổi mới cần được thực hiện theo hướng hoàn thiện để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động, khắc phục các mặt hạn chế, yếu kém và bất cập trong toàn bộ hệ thống và trong từng tổ chức thành viên của hệ thống chính trị; xác định chức năng, nhiệm vụ của mỗi thành viên trong hệ thống chính trị và cả hệ thống chính trị; trên cơ sở đó phải sắp xếp lại hệ thống chính trị một cách khoa học, tinh gọn, hợp lý đáp ứng các yêu cầu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân và hội nhập quốc tế.
Việc tham khảo, nghiên cứu kinh nghiệm của nước ngoài, các mô hình hệ thống chính trị, đặc biệt là hệ thống chính trị một đảng nổi trội có những nét tương đồng với Việt Nam phải được chọn lọc, bảo đảm tính lịch sử, cụ thể và phù hợp. Cần nhận định rõ, trong thực tế không có mô hình hệ thống chính trị nào là hoàn thiện, hoàn mỹ trong mọi giai đoạn, mọi quốc gia, dân tộc; mà chỉ có thể coi các mô hình ấy là phương án giải quyết các vấn đề đặt ra của xã hội trong những điều kiện lịch sử nhất định, do đó, có những thành công trong giới hạn nhất định và có những khiếm khuyết.
Nghiên cứu mô hình hệ thống chính trị một đảng nổi trội ở các quốc gia châu Á điển hình như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore đều chỉ ra rằng:
23
Đảng nổi trội cầm quyền hội trong một thời gian lâu dài vận hành hệ thống chính trị vì một mục tiêu chung là giữ vững sự ổn định chính trị - xã hội, phát triển kinh tế và mọi mặt đời sống xã hội. Theo đó, có những giá trị mang tính tham khảo cho việc thiết kế mô hình, đổi mới hệ thống chính trị cho Việt Nam hiện nay, cụ thể như: cần tăng cường tính chính đáng của đảng cầm quyền; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về mọi mặt; xây dựng tổ chức bộ máy hệ thống chính trị tinh gọn và hoạt động hiệu lực, hiệu quả, kiên quyết chống tham nhũng; cần có cơ chế thu hút nhân tài tham gia hệ thống chính trị
Tuy nhiên, cần lưu ý một số hệ lụy kèm theo của quá trình cầm
quyền lâu dài của một đảng chính trị nổi trội như:
Một là, do cầm quyền trong thời gian dài tất dễ nảy sinh chủ nghĩa bè phái làm cản trở việc thực hiện các chính sách của đảng cầm quyền và cản trở sự vận hành của bộ máy của hệ thống chính trị. Do vậy, cần phải có biện pháp ngăn chặn sự này sinh và tác động của chủ nghĩa bè phái trong đảng cầm quyền.
Hai là, xu hướng bảo vệ quyền lợi của mình theo kiểu lợi ích phe nhóm ở các bộ trong chính phủ. Điều này dẫn tới việc hình thành những “bức tường” vô hình trong quá trình vận hành, cản trở tốc độ và suy giảm sức mạnh của chính phủ và của cả hệ thống chính trị. Chính vì vậy, cải cách bộ máy của hệ thống chính trị chỉ thực sự có hiệu quả khi được tiến hành trên quy mô toàn hệ thống chứ không chỉ tiến hành cục bộ ở một bộ phận nào đó.
Ba là, sự kết nối của tam giác quyền lực (nhà chính trị, các quan chức, các doanh nghiệp), sự chi phối của các công ty, tập đoàn kinh tế “sân sau” sẽ trở thành yếu tố thao túng sự vận hành của bộ máy của hệ thống chính trị và ngăn cản mọi quá trình cải cách tiến bộ nhằm hoàn thiện bộ máy của hệ thống chính trị.
Hệ thống chính trị Việt Nam được hình thành và phát triển trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và thực tiễn cách mạng đất nước. Việc tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nhằm xây dựng và
24
hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân. Chính vì vậy, để đạt được mục tiêu đó, vấn đề đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị luôn là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên của Đảng, từng bước xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong những năm qua, những công trình nghiên cứu liên quan đến hệ thống chính trị và đổi mới hệ thống chính trị Việt Nam đã được nhìn nhận dưới nhiều khía cạnh, nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau của nhiều nhà nghiên cứu. Các công trình nghiên cứu đã thể hiện nhiều khía cạnh, quan điểm và biện pháp khác nhau nhằm nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước Việt Nam nói chung. Đây là một trong những vấn đề quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, là một trong những tiền đề quan trọng cho Việt Nam từng bước khẳng định và hội nhập với thế giới.
Chính vì vậy, trong quá trình xây dựng hệ thống chính trị, không chỉ cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn về tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị trong nước mà cần thiết phải mở rộng nghiên cứu lý luận về hệ thống chính trị ở nhiều nước trên thế giới để tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm của các nước, tiếp thu một cách cầu thị các giá trị phổ biến của nhân loại, để có cơ sở trong các suy tính về đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị vừa phù hợp với tình hình cụ thể của Việt Nam, vừa đảm bảo hội nhập quốc tế hiệu quả.
Đồng thời, đây cũng là nhân tố quyết định đến sự thành công, phát triển của đất nước, là động lực chủ yếu cho sự phát triển và tiến bộ xã hội, là nhân tố quyết định vận mệnh dân tộc. Nhận thức được vai trò và sứ mệnh to lớn đó, Đảng và Nhà nước Việt Nam cũng như những nhà nghiên cứu đã có chủ trương, chính sách nhằm phát huy vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam và toàn bộ hệ thống chính trị trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Hoàng Ngọc Phương (2019), "Quan niệm của Singapore về hiền tài và
chính sách thu hút hiền tài", Tạp chí Giáo dục lý luận, số ISSN 0868-
3492, (299), tr.67-72.
2. Hoàng Ngọc Phương (2020), "Một số suy nghĩ về đổi mới hệ thống chính
trị ở Việt Nam trong xu hướng toàn cầu hóa hiện nay", Tạp chí Thông tin
khoa học lý luận chính trị, số ISSN-2354-1040, (61), tr.71-74.