LỜI CAM ĐOAN

Luận án này được hoàn thành tại Trường

Đại học Khoa học - Đại học Huế, dưới sự hướng

dẫn của quý thầy PGS.TS. Nguyễn Văn Hợp và

PGS. TS. Nguyễn Đình Luyện. Tôi xin cam

đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Các

kết quả trong luận án là trung thực, được các

đồng tác giả cho phép sử dụng và chưa từng

được ai công bố trước đó.

Tác giả

Nguyễn Mậu Thành

i

LỜI CẢM ƠN

Luận án được hoàn thành dưới sự hướng dẫn hết sức tận tình và đầy nhiệt

tâm của quý Thầy PGS.TS Nguyễn Văn Hợp và PGS.TS Nguyễn Đình Luyện.

Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Thầy và gia đình.

Tác giả xin gửi lời cảm ơn đến Ban Giám hiệu Trường Đại học Khoa học-

Đại học Huế, Phòng Sau đại học, Khoa Hóa học và GS. Đinh Quang Khiếu cùng

quý thầy cô giáo giảng dạy lớp nghiên cứu sinh đã tận tình giúp đỡ, tạo mọi điều

kiện thuận lợi trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu.

Tác giả xin chân thành cảm ơn các bạn đồng nghiệp gần xa đã giúp đỡ, động

viên, khích lệ tác giả trong suốt quá trình làm luận án.

Cuối cùng, tác giả xin dành tình cảm đặc biệt đến gia đình, người thân và các

người bạn của tác giả, những người đã luôn mong mỏi, động viên và tiếp sức cho

tác giả để hoàn thành bản luận án này.

Trân trọng!

Huế, tháng 12 năm 2020

Nguyễn Mậu thành

ii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................................ i

LỜI CẢM ƠN ................................................................................................................. ii

MỤC LỤC ...................................................................................................................... iii

DANH MỤC HÌNH ....................................................................................................... vi

DANH MỤC BẢNG .................................................................................................... viii

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT .......................................................................................... x

MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1

Chương 1. TỔNG QUAN ............................................................................................... 6

1.1. Giới thiệu về phương pháp von-ampe hòa tan ......................................................... 6

1.1.2. Phương pháp von-ampe hòa tan anot .................................................................... 9

1.1.3. Phương pháp von-ampe hòa tan hấp phụ ............................................................ 12

1.1.5. Các điện cực làm việc thường dùng trong phương pháp von-ampe hòa tan ......... 20

1.2. Nguồn phát sinh và độc tính của các kim loại trong môi trường ........................... 24

1.2.1. Nguồn phát sinh Cu, Pb, Cd và Zn trong môi trường ......................................... 25

1.2.2. Độc tính của các kim loại Cu, Pb, Cd và Zn ....................................................... 26

1.3. Các phương pháp xác định lượng vết Cu, Pb, Cd và Zn ........................................ 27

1.3.1. Các phương pháp phân tích quang phổ nguyên tử .............................................. 27

1.3.2. Các phương pháp phân tích điện hóa – Phương pháp von-ampe hòa tan ........... 30

1.4. Kết luận phần tổng quan và định hướng các nội dung nghiên cứu ........................ 33

Chương 2. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................................... 35

2.1. Nội dung nghiên cứu .............................................................................................. 35

2.2. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................ 36

2.2.1. Chuẩn bị điện cực làm việc ................................................................................. 36

iii

2.2.2. Tiến trình phương pháp von-ampe hòa tan anot và định lượng .......................... 38

2.2.3. Tiến trình phương pháp von-ampe hòa tan hấp phụ và định lượng .................... 39

2.2.4. Phương pháp khảo sát ảnh hưởng của các yếu tố đến tín hiệu von-ampe hòa

tan của kim loại ............................................................................................................. 41

2.2.5. Phương pháp đánh giá độ tin cậy của phương pháp phân tích ........................... 44

2.2.6. Phương pháp phân tích thống kê ......................................................................... 46

2.3. Thiết bị, dụng cụ và hóa chất ................................................................................. 47

2.3.1. Thiết bị và dụng cụ .............................................................................................. 47

2.3.2. Hóa chất .............................................................................................................. 47

Chương 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN .................................................................... 49

3.1. Đặc tính von-ampe và động học các phản ứng điện cực trong phương pháp von-

ampe vòng ..................................................................................................................... 49

3.1.1. Đặc tính von-ampe của các kim loại trên điện cực BiFE.................................... 49

3.1.2. Động học các quá trình điện cực ......................................................................... 51

3.2. Phương pháp ASV xác định đồng thời các kim loại trên điện cực BiFE .............. 57

3.2.1. Ảnh hưởng của các yếu tố đến đáp ứng hòa tan anot của các kim loại .............. 57

3.2.2. Độ tin cậy của phương pháp DP-ASV/BiFE ...................................................... 76

3.2.3. So sánh phương pháp DP-ASV/BiFE với các phương pháp khác ...................... 81

3.2.4. Quy trình phân tích đồng thời các kim loại bằng phương pháp DP-ASV/BiFE. 82

3.3. Đặc tính von-ampe hấp phụ và động học các phản ứng điện cực trong phương

pháp von-ampe vòng ..................................................................................................... 83

3.3.1. Đặc tính von-ampe hấp phụ phức kim loại MII-oxine trên điện cực BiFE ........ 84

3.3.2. Động học các quá trình điện cực ......................................................................... 85

3.4. Phương pháp Von-Ampe hòa tan hấp phụ (AdSV) xác định đồng thời các kim loại 90

iv

3.4.1. Ảnh hưởng của các yếu tố đến đáp ứng von-ampe hòa tan hấp phụ của

các kim loại .................................................................................................................. 90

3.4.2. Đánh giá độ tin cậy của phương pháp SqW-AdSV/BiFE ................................. 105

3.4.3. So sánh phương pháp SqW-AdSV/BiFE với các phương pháp khác ............... 109

3.4.4. Quy trình phân tích đồng thời Pb, Cd và Zn theo phương pháp SqW-

AdSV/BiFE ................................................................................................................. 110

3.5. Áp dụng thực tế .................................................................................................... 111

3.5.1. Chuẩn bị mẫu .................................................................................................... 111

3.5.2. Kiểm soát chất lượng phương pháp phân tích .................................................. 112

3.5.3. Nồng độ các kim loại độc trong một số mẫu nước tự nhiên ............................. 116

KẾT LUẬN ................................................................................................................. 118

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ... 120

TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................... 122

PHỤ LỤC .................................................................................................................... 139

v

DANH MỤC HÌNH

Hình 3.1. Các đường von-ampe vòng đối với các kim loại khảo sát. ......................50

Hình 3.2. (a). Các đường von-ampe vòng của Cu, Pb, Cd và Zn ở các pH khác

nhau; (b) Ảnh hưởng của pH đến Epc; (c) Ảnh hưởng của pH đến Ipc của các kim

loại; các thanh vuông góc ở mỗi điểm thí nghiệm trên hình (c) thể hiện độ lệch

chuẩn  S (n  3). .....................................................................................................52

Hình 3.3. (a) Các đường von-ampe vòng ở các tốc độ quét thế khác nhau; (b) Sự

phụ thuộc giữa dòng đỉnh catot (Ipc) và tốc độ quét thế v; (c) Sự phụ thuộc giữa thế

đỉnh catot (Epc) và lnv; (d) Sự phụ thuộc giữa Ipc và v1/2. .........................................55

Hình 3.4. Ảnh hưởng của [BiIII] đến Ip của các kim loại ..........................................60

Hình 3.5. Biểu diễn mặt đáp ứng (Ip) theo các yếu tố (biến) khảo sát đối với Zn: (a):

Ip(Zn) là hàm của x1, x2; (b) Ip(Zn) là hàm của x1, x3; (c) Ip(Zn) là hàm của x1, x4..........67

Hình 3.6. (a) Điều kiện tối ưu của 4 biến khảo sát (x1 – x4) và giá trị Ip cực đại của

Zn; (b) Các đường von-ampe hòa tan của các kim loại Me ở điều kiện tối ưu. .......68

Hình 3.7. (a) Các đường DP-ASV và (b) các đường hồi quy tuyến tính Ip – [MeII]

đối với Cu, Pb, Cd và Zn. ..........................................................................................78

Hình 3.8. (a) Các đường DP-ASV và (b) các đường hồi quy tuyến tính Ip – [MeII]

đối với Cu, Pb, Cd và Zn. ..........................................................................................79

Hình 3.9. Quy trình phân tích đồng thời Cu, Pb, Cd và Zn trong mẫu nước tự nhiên

bằng phương pháp DP-ASV/BiFE với các thông số kỹ thuật thích hợp: (*) .............82

Hình 3.10. Đường von-ampe vòng của các kim loại M (Pb, Cd, Zn) khi sử dụng

điện cực GCE và BiFE trong trường hợp có mặt oxine (BiFE + Oxine và GCE +

Oxine) và không có mặt oxine (BiFE và GCE). .......................................................85

Hình 3.11. Các đường von-ampe vòng của Pb, Cd, Zn ở các pH khác nhau. ..........86

Hình 3.12. (a) Các đường von-ampe vòng ở các tốc độ quét thế khác nhau; (b) sự

phụ thuộc của Epc theo lnv. ĐKTN: Như ở hình 3.10. ..............................................88

Hình 3. 13. Biểu diễn mặt đáp ứng (Ip) theo các yếu tố (biến) khảo sát đối với Pb:

(a): Ip(Pb) là hàm của x1, x2; (b) Ip(Pb) là hàm của x1, x3; (c) Ip(Pb) là hàm của x2, x3. ..95

Hình 3.14. (a) Điều kiện tối ưu của 3 biến khảo sát (x1 – x3) và giá trị Ip cực đại của

Pb; (b) Các đường von-ampe hòa tan của các kim loại M ở điều kiện tối ưu. .........96

vi

Hình 3.15. Ảnh hưởng của Eđp đến Ip của các kim loại Pb, Cd và Zn .....................97

Hình 3.16. Ảnh hưởng của tđp đến Ip của các kim loại M. ......................................98

Hình 3.17. Ảnh hưởng của Ehp đến Ip của kim loại M. ......................................... 100

Hình 3.18. Ảnh hưởng của thời gian hấp phụ thp đến Ip của các kim loại M. ....... 101

Hình 3.19. Ảnh hưởng của tốc độ quay điện cực () đến Ip của các kim loại M. 102

Hình 3.20. Các đường von-ampe hòa tan hấp phụ sóng vuông của các kim loại (n 

7): (a) [PbII] = [CdII] = [ZnII] = 10 ppb; (b) [PbII] = [CdII] = [ZnII] = 20 ppb; (c)

[PbII] = [CdII] = [ZnII] = 30 ppb. Các ĐKTN khác như ở bảng 3.30. .................... 106

Hình 3.21. (a) Các đường von-ampe hòa tan hấp phụ sóng vuông của các kim loại M

([MII] tăng dần như ở bảng 3.31); (b) Đường hồi quy tuyến tính giữa Ip và [MII]. .. 107

Hình 3.22. Quy trình phân tích đồng thời Pb, Cd và Zn trong mẫu nước tự nhiên

bằng phương pháp SqW-AdSV/BiFE với các thông số kỹ thuật thích hợp: (*) ..... 110

Hình 3.23. Các đường von-ampe hòa tan đối với mẫu CR1. ................................ 114

Hình 3.24. Các đường von-ampe hòa tan hấp phụ sóng vuông của Pb, Cd, Zn ... 115

vii

DANH MỤC BẢNG Bảng 1.1. Các phương pháp AAS xác định Cu, Pb, Cd và Zn .. ..............................28

Bảng 1.2. Các nghiên cứu xác định Cu, Pb, Cd và Zn bằng phương pháp ASV và

AdSV sử dụng điện cực BiFE ...................................................................................31

Bảng 3.1. Dòng đỉnh Ipc trung bình của Cu, Pb, Cd và Zn ở các pH khác nhau (n  3) .. 53

Bảng 3.2. Thế đỉnh Epc trung bình của Cu, Pb, Cd và Zn ở các pH khác nhau (n  3) .... 53

Bảng 3.3. Các giá trị Ipc trung bình đối với Cu, Pb, Cd và Zn ở các tốc độ quét thế

khác nhau (*) ....................................................................................................................... 55

Bảng 3.4. Các giá trị Epc trung bình của Cu, Pb, Cd và Zn ở các ln v khác nhau(*) ....... 56

Bảng 3.5. Các điều kiện thí nghiệm cố định ban đầu trong phương pháp DP-

ASV/BiFE .......................................................................................................................... 59

Bảng 3.6. Dòng đỉnh hòa tan anot (Ip) của các Me ở các [BiIII] khác nhau(*) ................. 60

Bảng 3.7. Các mức thí nghiệm với yếu tố (hay 4 biến) x1, x2, x3 và x4* ........................ 63

Bảng 3.8. Ma trận thí nghiệm với 4 yếu tố và các kết quả Ip của các kim loại .............. 64

Bảng 3.9. Kết quả tính các hệ số hồi quy và kiểm định t ................................................ 65

Bảng 3.10. Ảnh hưởng của Co đến Ip của các kim loại Me(*) ......................................... 70

Bảng 3.11. Ảnh hưởng của Cu đối với Zn, Cd, Pb(*) ....................................................... 72

Bảng 3.12. Giá trị Ip và độ lệch chuẩn tương đối (RSD) đối với các kim loại Me ở các

chế độ làm sạch bề mặt điện cực khác nhau(*) .................................................................. 76

Bảng 3.13. Giá trị Ip của các kim loại Me khi tăng dần nồng độ một kim loại trong

phương pháp DP-ASV/BiFE(*) .......................................................................................... 77

Bảng 3.14. Giá trị Ip của các kim loại Me khi tăng dần đồng thời nồng độ cả 4 kim loại

trong phương pháp DP-ASV/BiFE(*) ................................................................................ 79

Bảng 3.15. LOD, LOQ và độ nhạy của phương pháp DP-ASV/BiFE(*) ........................ 80

Bảng 3.16. So sánh LOD của các phương pháp von-ampe hòa tan anot (ASV) ........... 81

Bảng 3.17. Độ lớn dòng đỉnh catot (Ipc) của kim loại M theo các pH khác nhau(*) ....... 86

Bảng 3.18. Ảnh hưởng của tốc độ quét thế (v) đến dòng đỉnh catot (Ipc) của

kim loại M(*) ..................................................................................................................... 88

Bảng 3.19. Các điều kiện thí nghiệm cố định ban đầu trong phương pháp SqW-

AdSV/BiFE ......................................................................................................................... 91

viii

Bảng 3.20. Các mức thí nghiệm với yếu tố (hay 3 biến) x1, x2 và x3 ............................. 92

Bảng 3.21. Ma trận thí nghiệm bằng phần mềm minitab và kết quả thí nghiệm ........... 93

Bảng 3.22. Kết quả các hệ số hồi quy và kiểm định t ...................................................... 93

Bảng 3.23. Kết quả xác định Ip của kim loại M ở các Eđp khác nhau(*) .......................... 96

Bảng 3.24. Kết quả xác định Ip của các kim loại M ở các tđp khác nhau(*) ..................... 98

Bảng 3.25. Kết quả xác định Ip của các kim loại M ở các Ehp khác nhau(*) ................... 99

Bảng 3.26. Kết quả xác định Ip của các kim loại M ở các thp khác nhau(*) .................. 101

Bảng 3.27. Kết quả xác định Ip của các kim loại M ở các ω khác nhau(*) ................... 102

Bảng 3.28. Kết quả xác định Ip của các kim loại M ở các nồng độ NiII khác nhau(*) . 103

Bảng 3.29. Kết quả xác định Ip của các kim loại M ở các nồng độ CoII khác nhau(*) 104

Bảng 3.30. Kết quả xác định đo độ lặp lại của phương pháp SqW-AdSV dùng

điện cực BiFE (*) ............................................................................................................ 105

Bảng 3.31. Các giá trị Ip của các kim loại M khi tăng dần đồng thời nồng độ

các MII (*) ........................................................................................................................ 107

Bảng 3.32. Kết quả xác định LOD, LOQ và độ nhạy (b) của phương pháp SqW-

AdSV/BiFE đối với các kim loại M(*) ............................................................................ 108

Bảng 3.33. So sánh LOD và khoảng tuyến tính của phương pháp SqW-AdSV/BiFE

với các phương pháp khác .............................................................................................. 109

Bảng 3.34. Thông tin mẫu và vị trí lấy mẫu nước sông, hồ ở tỉnh Quảng Bình(*) ...... 111

Bảng 3.35. Kết quả xác định Cu, Pb, Cd, Zn (ppb) trong mẫu CR1 ........................... 113

Bảng 3.36. Kết quả xác định Pb, Cd, Zn (ppb) trong mẫu HoNL theo phương pháp

SqW-AdSV/BiFE và GF-AAS(*) .................................................................................... 114

Bảng 3.37. Kết quả phân tích các kim loại Me trong các mẫu nước tự nhiên ............ 116

Bảng 3.38. Kết quả phân tích các kim loại trong các mẫu nước tự nhiên ................... 117

ix

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

STT Tiếng Việt Tiếng Anh Viết tắt

1 Đồng, Chì, Cadimi, Kẽm Copper, Lead, Cadmium, Zinc

2 Von-Ampe hoà tan Stripping Voltammetry Cu, Pb, Cd, Zn SV

3 Von-Ampe hoà tan anot Anodic Stripping Voltammetry ASV

4 Von-Ampe hoà tan hấp phụ AdSV Adsorptive Stripping Voltammetry

5 Xung vi phân Differential Pulse DP

6 Sóng vuông Square Wave SqW

7 Điện cực làm việc 8 Độ lệch chuẩn tương đối 9 Điện cực màng bismut Working Electrode Relative Standard Deviation Bismuth Film Electrode WE RSD BiFE

12 Điện cực màng thuỷ ngân Mecury Film Electrode MFE

13 Điện cực đĩa than thủy tinh Glassy carbon disk electrode GCE

14 Tốc độ quay của điện cực 

The rotating speed of working electrode Limit of Detection Limit of Quantification Stripping peak curent Stripping peak potential Adsorption potential

Cleaning potential

15 Giới hạn phát hiện 16 Giới hạn định lượng 17 Dòng đỉnh hòa tan 18 Thế đỉnh hòa tan 19 Thế hấp phụ 20 Thời gian hấp phụ làm giàu Adsorption time 21 Thế làm sạch điện cực 22 Thời gian làm sạch điện cực Cleaning time LOD LOQ Ip Ep Ead tad Eclean tclean

24

23 GF-AAS

25

AFS Quang phổ hấp thụ nguyên tử không ngọn lửa Quang phổ huỳnh quang huỳnh quang nguyên tử Graphite Furnace – atomic absorption spectroscopy Atomic fluorescence spectrphotometry

26

ICP-OES Quang phổ phát xạ plasma cặp cảm ứng Inductively couple plasma- optical emission spectroscopy

ICP-MS Phổ khối plasma cặp cảm ứng Inductively couple plasma- mass spectroscopy

x

MỞ ĐẦU

Phát triển dân số, kinh tế - xã hội và đô thị hóa là nhu cầu cấp thiết của bất

kỳ quốc gia nào trên thế giới. Song, sự phát triển đó ngày càng gia tăng các áp lực

lên môi trường, do phát sinh ngày càng nhiều các chất thải (nước thải, khí thải và

chất thải rắn), gây lo lắng về sự ô nhiễm môi trường và tác động bất lợi đến sức

khỏe và các hệ sinh thái. Để giảm nhẹ các áp lực và các tác động đến môi trường,

ngoài nghiên cứu áp dụng các biện pháp kỹ thuật và công nghệ để kiểm soát ô

nhiễm, một trong những nhiệm vụ quan trọng khác là phải phát triển các phương

pháp/kỹ thuật phân tích cho phép xác định nhanh và chính xác nồng độ/hàm lượng

các chất ô nhiễm, đặc biệt là các chất ô nhiễm lượng vết và siêu vết như các chất ô

nhiễm hữu cơ tồn lưu (POPs – persistant organic pollutants) và các kim loại nặng

trong các đối tượng sinh hóa và môi trường.

Trong số các kim loại nặng (Cu, Pb, Cd, Zn, Ni, Cr, As, Cd, Hg...), các kim

loại thường có mặt phổ biến trong hầu hết các đối tượng môi trường là Cu, Pb, Cd

và Zn. Các kim loại nặng nói chung và 4 kim loại đó nói riêng trong các mẫu môi

trường thường có mặt ở mức vết (< 1 ppm, ppm  mg/L hoặc mg/kg) hoặc siêu vết

(< 1 ppb, ppb  µg/L hoặc µg/kg), nên để xác định chính xác những nồng độ rất nhỏ

đó, cần thiết phải nghiên cứu và phát triển các phương pháp phân tích có độ nhạy và

độ chọn lọc cao. Để đáp ứng đòi hỏi đó, các phương pháp phân tích quang phổ

nguyên tử thường được sử dụng như: quang phổ hấp thụ nguyên tử lò graphit (GF -

AAS), quang phổ phát xạ nguyên tử cảm ứng plasma (ICP-OES hoặc ICP-MS),

huỳnh quang nguyên tử (AFS)...[9], [11], [44], [43]. Trong đó, phương pháp GF-

AAS và AFS là những phương pháp phân tích đơn nguyên tố, mỗi phép phân tích

chỉ cho phép xác định một kim loại. Phương pháp ICP-OES và ICP-MS cho phép

phân tích đồng thời nhiều kim loại và phi kim loại. Song, trong nhiều mẫu môi

trường, đặc biệt là nước tự nhiên, nồng độ các kim loại độc thường rất nhỏ, cỡ ppb

và nhỏ hơn ppb, nên nhiều khi bắt buộc phải chiết tách hoặc làm giàu trước, rồi mới

áp dụng phương pháp GF-AAS và ICP-OES để phân tích và do vậy, làm phức tạp

quy trình phân tích. Mặt khác, các phương pháp quang phổ nguyên tử đó đòi hỏi các

thiết bị phức tạp, đắt tiền (hay giá thành cao), nên hạn chế khả năng sử dụng chúng

1

cho phân tích tại hiện trường.

Trong nhiều năm qua, cùng với các phương pháp quang phổ nguyên tử,

nhiều nghiên cứu tập trung phát triển các phương pháp phân tích điện hoá hiện

đại, điển hình là các phương pháp von-ampe hoà tan (SV). Các phương pháp SV

được thừa nhận là một trong những phương pháp phân tích có độ chọn lọc và độ

nhạy cao, giới hạn phát hiện (LOD) thấp, đạt được cỡ dưới ppb đến n ppb (n  1 -

9), nên rất thích hợp cho phân tích vết và siêu vết [110], [5]. Mặt khác, một ưu

điểm nổi trội của các phương pháp SV so với các phương pháp quang phổ nguyên

tử là có giá thành thiết bị rẻ hơn, thiết bị gọn nhẹ hơn, nên có thể sử dụng để phân

tích tại hiện trường và trong nhiều trường hợp, nó cũng cho phép phân tích đồng

thời một số kim loại hoặc một số hợp chất hữu cơ [29], [33], [34]. Trong nhóm

các phương pháp SV, hai phương pháp được nghiên cứu phát triển và ứng dụng

nhiều nhất là phương pháp von-ampe hòa tan anot (ASV) và von-ampe hòa tan

hấp phụ (AdSV). Phương pháp ASV cho phép phân tích thuận lợi khoảng 20 kim

loại, đặc biệt là những kim loại dễ tạo hỗn hống với thủy ngân như Cu, Pb, Cd,

Zn, Ga, In, Tl, Bi…[22] trong khi đó phương pháp AdSV (do có kết hợp với sử

dụng tác nhân tạo phức), nên cho phép phân tích được hàng chục kim loại, phi kim

loại và hàng trăm hợp chất hữu cơ [153], [67], [98]. Hiện nay, phương pháp ASV

sử dụng điện cực giọt thủy ngân treo (HMDE) hoặc điện cực màng thủy ngân

(MFE) được xem là phương pháp chuẩn phân tích vết các kim loại Pb, Cd và Zn

trong nước và nước thải [46].

Trong các phương pháp ASV và AdSV, điện cực làm việc thường dùng là

các điện cực thủy ngân như HDME hoặc điện cực giọt thủy ngân tĩnh (SMDE),

MFE. Nhưng do độc tính cao của thủy ngân và muối của nó, nên gây lo lắng về ô

nhiễm môi trường và không thích hợp cho phân tích tại hiện trường. Với lí do đó,

trong nhiều năm qua đã có nhiều nghiên cứu phát triển phương pháp ASV và AdSV

theo hướng tìm kiếm các điện cực mới (gọi chung là các điện cực phi thủy

ngân/mercury-free electrode), thân thiện với môi trường và có thể thải bỏ tại hiện

trường. Nhiều loại điện cực phi thủy ngân đã và đang được nghiên cứu áp dụng cho

các phương pháp ASV và AdSV như: các điện cực màng kim loại (màng Bi, Ag,

Sb…), vi điện cực (Ag, Au, Pt, C…) và các điện cực biến tính. Do có độc tính rất

2

thấp và có thế hoà tan khá dương, dương hơn so với thế hòa tan của nhiều kim loại

(Pb, Cd, Zn…), nên điện cực màng bismut (BiFE) được xem là một trong những

điện cực thân thiện với môi trường, có thể thải bỏ tại hiện trường và do vậy, được

ưa thích phát triển trong nhiều nghiên cứu về phương pháp von-ampe nói chung và

phương pháp ASV, AdSV trong nhiều năm qua [37], [116], [65], [82], [148].

Từ những năm đầu của thế kỷ 21 đến nay, trên thế giới đã có nhiều nghiên

cứu phát triển điện cực BiFE trên nền vật liệu carbon (than thủy tinh/glassy carbon,

than nhão/paste carbon), kim cương và điện cực BiFE biến tính cho các phương

pháp SV xác định các kim loại và phi kim loại trong các mẫu sinh hóa và môi

trường [140], [54], [81], [102], [139]. Đa số các công bố đến nay đều cho rằng, điện

cực BiFE được tạo ra kiểu in situ có nhiều ưu điểm hơn so với kiểu ex situ do nó đạt

được độ nhạy cao hơn, thao tác thí nghiệm dễ dàng hơn…[139], [141].

Ở nước ta, cũng đã có nhiều nghiên cứu phát triển các phương pháp SV dùng

các điện cực làm việc khác nhau để xác định lượng vết các kim loại như: Ni và Co

(AdSV và điện cực MFE ex situ), Pb (ASV và điện cực BiFE in situ), Cd (AdSV và

điện cực BiFE in situ) [4], As (ASV và điện cực màng vàng ex situ và in situ) [5],

Cr (AdSV và điện cực BiFE in situ) [7], Cr (AdSV và điện cực nano vàng) [4] …

Tuy vậy, hầu hết các nghiên cứu nói trên chủ yếu xác định hoặc một kim loại/phi

kim loại hoặc xác định đồng thời 2 kim loại/phi kim loại, mà ít nghiên cứu phát

triển phương pháp SV dùng các điện cực làm việc khác nhau để xác định đồng thời

3 - 4 kim loại thường bắt gặp trong môi trường như Cu, Pb, Cd và Zn. Một số

nghiên cứu xác định đồng thời 3 kim loại Pb, Cd, Zn bằng phương pháp ASV hoặc

AdSV chủ yếu sử dụng các loại điện cực BiFE biến tính như: BiFE biến tính với

nafion [33], [69], mảng vi điện cực carbon phủ màng bismut [145], BiFE trên nền

vật liệu carbon biến tính [149], [150].

Như vậy, nếu phát triển được điện cực BiFE cho phương pháp ASV và

AdSV xác định đồng thời lượng vết 3 - 4 kim loại đó trong các mẫu sinh hóa và môi

trường, sẽ đóng góp tích cực vào lĩnh vực phân tích (hoặc quan trắc) các kim loại

độc trong các đối tượng khác nhau ở nước ta. Song, để có thể mở rộng khả năng áp

dụng phương pháp vào thực tế để xác định nhanh các kim loại độc đó tại hiện

trường bằng phương pháp von-ampe hòa tan, cần thiết phải nghiên cứu phát triển

3

điện cực BiFE sao cho có thể tạo ra nó một cách dễ dàng và lặp lại. Theo hướng

này, nên tập trung nghiên cứu sử dụng điện cực BiFE kiểu in situ trên nền đĩa than

thủy tinh, vì nó đơn giản và dễ tạo ra tại phòng thí nghiệm cũng như ở hiện trường.

Với điện cực đó và thiết bị phân tích điện hóa xách tay, sẽ cho phép phân tích/quan

trắc 3 – 4 kim loại độc nói trên tại hiện trường. Trong nhiều năm qua, Phòng thí

nghiệm Ứng dụng Tin học trong Hóa học, Viện Hóa học, Viện Hàn lâm Khoa học

và Công nghệ Việt Nam đã chủ động chế tạo được thiết bị phân tích điện hóa, trong

đó có cả thiết bị xách tay và do vậy, nếu thành công trong nghiên cứu xác định đồng

thời lượng vết các kim loại Cu, Pb, Cd, Zn bằng phương pháp ASV và AdSV dùng

điện cực BiFE nói trên, sẽ góp phần mở ra khả năng ứng dụng phương pháp để phân

tích/quan trắc nhanh tại hiện trường.

Xuất phát từ những vấn đề trên, đề tài “Nghiên cứu phát triển phương pháp

von-ampe hoà tan sử dụng điện cực màng bismut để xác định đồng thời một số kim

loại nặng trong các mẫu nước tự nhiên” được nghiên cứu nhằm đóng góp tích cực

vào phát triển phương pháp von-ampe hòa tan trong lĩnh vực phân tích đồng thời

vết các kim loại nặng thường gặp trong môi trường ở nước ta.

Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu nghiên cứu của luận án là xây dựng được phương pháp ASV và

AdSV sử dụng điện cực BiFE in situ để xác định đồng thời lượng vết các kim loại

thường gặp trong môi trường (Cu, Pb, Cd, Zn).

Nội dung nghiên cứu chính của luận án

Để đạt được mục tiêu của đề tài, các nội dung nghiên cứu chính bao gồm:

i) Khảo sát đặc tính von-ampe hòa tan và von-ampe hòa tan hấp phụ của các

kim loại (Cu, Pb, Cd, Zn) trên điện cực BiFE in situ để tìm hiểu khả năng phân tích

đồng thời chúng;

ii) Khảo sát ảnh hưởng của các điều kiện thí nghiệm đến tín hiệu hòa tan của

các kim loại trên điện cực BiFE in situ trong phương pháp ASV và AdSV nhằm tìm

được các điều kiện thích hợp;

iii) Đánh giá độ tin cậy của phương pháp phân tích và xây dựng quy trình

phân tích theo phương pháp ASV và AdSV dùng điện cực BiFE in situ để xác định

đồng thời lượng vết các kim loại;

4

iv) Áp dụng quy trình xây dựng được vào thực tế để xác định đồng thời các

kim loại khảo sát trong một số mẫu nước tự nhiên.

Điểm mới của luận án

- Lần đầu tiên đã phát triển được phương pháp ASV dùng điện cực BiFE in

situ xác định đồng thời lượng vết bốn kim loại Cu, Pb, Cd và Zn trong nước tự nhiên;

- Ngoài phương pháp ASV, đã xây dựng được phương pháp AdSV trên điện

cực BiFE in situ với phối tử oxin cho phép xác định đồng thời lượng vết Pb, Cd và

Zn trong nước tự nhiên.

5

Chương 1. TỔNG QUAN

Trong lĩnh vực phân tích điện hóa, các phương pháp phân tích điện hóa hòa

tan (stripping electrochemical anslysis) được nghiên cứu phát triển nhiều hơn do

chúng đạt được độ nhạy cao hơn, nên thuận lợi trong phân tích vết và siêu vết. Các

phương pháp phân tích điện hóa hòa tan được chia thành hai nhóm lớn là phân tích

hòa tan đo thế (potentiometric stripping anslysis) – tín hiệu cho phân tích là thế phát

sinh của chất phân tích trên điện cực làm việc trong bước hòa tan, và von-ampe hòa

tan – tín hiệu cho phân tích là dòng hòa tan của chất phân tích trong bước hòa tan

(dòng được ghi là hàm của thế trên điện cực làm việc). Song, do khả năng dễ áp

dụng vào thực tế hơn và thường đạt được độ nhạy cao hơn, nên phương pháp von-

ampe được ưa thích nghiên cứu phát triển và ứng dụng hơn [140], [141]. Dưới đây

sẽ đề cập đến phương pháp von-ampe hòa tan.

1.1. Giới thiệu về phương pháp von-ampe hòa tan

1.1.1. Nguyên tắc chung của phương pháp von-ampe hòa tan

Phương pháp von-ampe hòa tan là phương pháp cho phép kết hợp cả quá

trình làm giàu và định lượng chất phân tích ngay trong cùng một dung dịch hay

trong cùng một phép phân tích (analysis run), tức là không cần giai đoạn tách, chiết

hay làm giàu trước khi định lượng và do vậy, có nhiều thuận lợi hơn: giảm thời gian

phân tích, tránh nhiễm bẩn hoặc mất chất phân tích, thao tác thí nghiệm đơn giản…

và đạt được độ nhạy cao.

Trong phương pháp von-ampe hòa tan, người ta sử dụng tế bào điện hóa (hay

bình điện phân) gồm 3 điện cực: điện cực làm việc (WE – Working Electrode); điện

cực so sánh (RE – Reference Electrode), thường dùng điện cực bạc – bạc clorua bão

hòa (Ag/AgCl/KClbh) và điện cực phụ trợ (CE – Counter Electrode hoặc AE –

Auxiliary Electrode), thường là điện cực dây Pt. Ba điện cực đó được ghép nối với

bộ phận kiểm soát dòng-thế (potentiostat). Bộ phận này cho phép kiểm soát thế (cố

định thế hoặc quét thế tùy chọn) và đo dòng. Toàn bộ hệ thống (các điện cực, các bộ

phận kiểm soát dòng-thế, khuyếch đại, chuyển đổi tín hiệu tương tự/analog thành

tín hiệu số/digital) được ghép nối với một máy tính để điều khiển hoạt động tự động

nhờ một chương trình được đưa vào từ bàn phím máy tính. Với chương trình đưa

6

vào, người nghiên cứu hoàn toàn chủ động chọn các điều kiện làm việc: chọn thế

điện phân cố định hoặc quét thế với hướng quét, khoảng quét thế và tốc độ quét tùy

ý, chọn thời gian điện phân (hoặc hấp phụ) làm giàu, thời gian nghỉ, tốc độ quay

điện cực, chọn các thông số kỹ thuật von-ampe ghi tín hiệu hòa tan… Điện cực làm

việc (WE) được ghép với điện cực so sánh (RE) có thế không đổi thành mạch đo thế

để đo thế trên WE. Điện cực đối (CE) được ghép nối với WE thành mạch điện phân

cho phép các phản ứng nghiên cứu xảy ra trên WE, còn phản ứng phụ xảy ra trên

CE, chẳng hạn, trên WE xảy ra phản ứng khử (phản ứng catot), thì trên CE xảy ra

phản ứng oxi hóa (phản ứng anot). Sản phẩm của phản ứng xảy ra trên CE không

ảnh hưởng gì đến các phản ứng nghiên cứu trên WE [139].

Quá trình phân tích theo phương pháp von-ampe gồm 2 giai đoạn: giai đoạn

làm giàu và giai đoạn hòa tan [137], [91], [77].

i) Giai đoạn làm giàu:

Trong giai đoạn này, chất phân tích (trong dung dịch) được tập trung lên trên

bề mặt điện cực làm việc (từ đây, để cho gọn, gọi tắt là điện cực) ở một thế và thời

gian xác định. Trong giai đoạn này, dung dịch được khuấy trộn đều bằng khuấy từ

hoặc cho điện cực quay với tốc độ không đổi để tạo điều kiện thuận lợi cho sự

chuyển khối – chuyển chất phân tích từ trong lòng dung dịch đến bề mặt điện cực.

Trong dung dịch, nồng độ chất phân tích rất nhỏ (cỡ lượng vết và siêu vết), nhưng

khi được tích lũy lên bề mặt điện cực thì nồng độ của chất trên bề mặt điện cực (tính

trên một đơn vị diện tích bề mặt) rất lớn và do vậy, chất được làm giàu trên điện

cực. Phản ứng hay quá trình làm giàu chất phân tích lên bề mặt điện cực có thể bằng

hai cách:

- Điện phân làm giàu: Chất phân tích đến bề mặt điện cực và bị oxi hóa khử

ngay trên điện cực ở thế xác định (được gọi là thế điện phân làm giàu). Trường hợp

chất phân tích là kim loại như Cu, Pb, Cd, Zn…, thì ion kim loại bị khử thành kim

loại bám trên bề mặt điện cực (hoặc tan vào thủy ngân tạo hỗn hống nếu dùng điện

cực HMDE hoặc MFE). Trường hợp kim loại có nhiều mức oxi hóa khác nhau như

Fe, Mn, Ce, Cr… thì nó bị oxi hóa lên mức oxi hóa cao hơn (ở thế xác định), rồi tạo

kết tủa (với anion có sẵn trong lớp dung dịch sát bề mặt điện cực) và bám trên bề

mặt điện cực. Các chất hữu cơ có tính oxi hóa – khử và có khả năng tích lũy trên bề

7

mặt điện cực cũng có thể được làm giàu theo cách này.

- Hấp phụ làm giàu: Chất phân tích tạo phức với phối tử (vô cơ hoặc hữu cơ)

có sẵn trong dung dịch, rồi phức chất tạo thành được hấp phụ lên bề mặt điện cực ở

một thế xác định (được gọi là thế hấp phụ làm giàu). Cách này thường được dùng

để xác định nhiều kim loại và phi kim loại có khả năng tạo phức với các phối tử hữu

cơ. Theo cách này, chất phân tích cũng có thể là chất hữu cơ khi nó có khả năng tạo

phức với một kim loại nào đó và được hấp phụ làm giàu trên bề mặt điện cực. Kết

thúc giai đoạn làm giàu, ngừng quay điện cực (hoặc ngừng khuấy dung dịch phân

tích) trong 15 - 30 s để bề mặt điện cực ổn định. Lúc này thế trên điện cực vẫn giữ

nguyên như thế điện phân làm giàu. Sự ổn định ở đây được hiểu là chất phân tích

hoặc phức của nó phân bố ổn định hay chiếm chỗ ổn định (chiếm các vị trí có năng

lượng thấp) trên bề mặt điện cực hay lúc này các quá trình bề mặt đạt đến cân bằng

và đồng thời thế (hay điện tích) phân bố đều trên bề mặt điện cực [77].

ii) Giai đoạn hòa tan: Trong giai đoạn này, dung dịch được để yên tĩnh và tiến hành quét thế trên

điện cực biến thiên tuyến tính theo một chiều xác định (chiều anot – dương dần

hoặc chiều catot – âm dần) để hòa tan chất phân tích khỏi bề mặt điện cực, đồng

thời ghi tín hiệu hòa tan (dòng là hàm của thế) bằng một kỹ thuật von-ampe nào đó.

Kỹ thuật thường dùng là von-ampe xung vi phân (DP) hoặc von-ampe sóng vuông

(SqW). Phản ứng hay quá trình hòa tan thường là quá trình ngược với quá trình làm

giàu. Chẳng hạn, nếu quá trình làm giàu là quá trình khử kim loại, thì quá trình hòa

tan là quá trình oxi hóa kim loại thành ion tan vào dung dịch; Nếu quá trình làm

giàu là quá trình hấp phụ phức kim loại với phối tử hữu cơ, thì quá trình hòa tan là

quá trình khử phức chất đó và lúc này, kim loại trong phức chất bị khử về kim loại

bám trên điện cực, nhưng phối tử bị hòa tan vào dung dịch…

Về tên gọi của phương pháp:

Nếu quá trình hòa tan là quá trình anot và kỹ thuật ghi tín hiệu hòa tan là von-

ampe xung vi phân hoặc von-ampe sóng vuông, thì tương ứng được gọi là phương

pháp von-ampe hòa tan anot xung vi phân (DP-ASV/Diferential Pulse Anodic

Stripping Voltammetry) hoặc phương pháp von-ampe hòa tan anot sóng vuông

(SqW-ASV/Square-Wave Anodic Stripping Voltammetry). Nếu quá trình làm giàu

8

là hấp phụ và dùng kỹ thuật ghi tín hiệu hòa tan là DP hoặc SqW, thì tên tương ứng là

phương pháp von-ampe hòa tan hấp phụ xung vi phân (DP-AdSV/Diferential Pulse

Adsorptive Stripping Voltammetry) hoặc phương pháp von-ampe hòa tan hấp phụ

sóng vuông (SqW-AdSV/Square-Wave Adsorptive Stripping Voltammetry).

Tín hiệu cho phân tích:

Tín hiệu hay đường von-ampe hòa tan thu được có dạng đỉnh (peak). Thế

đỉnh hòa tan (Ep hay Up) và độ lớn của dòng đỉnh hòa tan (Ip) phụ thuộc vào nhiều

yếu tố như: thành phần nền (chất điện ly nền, pH), chất tạo phức, kiểu điện cực làm

việc, thế và thời gian điện phân (hoặc hấp phụ) làm giàu, điều kiện thủy động học

(khuấy dung dịch hoặc quay điện cực) trong giai đoạn làm giàu và các thông số kỹ

thuật DP hoặc SqW trong giai đoạn hòa tan. Thế đỉnh hòa tan (Ep) là đại lượng

không phụ thuộc vào nồng độ chất phân tích, mà chỉ phụ thuộc vào bản chất điện

hóa của chất phân tích, nên nó là thông tin được dùng cho phân tích định tính. Dòng

đỉnh hòa tan (Ip) là đại lượng tỷ lệ thuận với nồng độ chất phân tích trong dung dịch,

nên nó là thông tin cho phân tích định lượng. Phương pháp định lượng thường dùng

là phương pháp thêm chuẩn với 3 – 4 lần thêm.

Dưới đây sẽ trình bày chi tiết hơn về phương pháp ASV và AdSV.

1.1.2. Phương pháp von-ampe hòa tan anot 1.1.2.1. Nguyên tắc

Quá trình phân tích theo phương pháp ASV gồm hai giai đoạn: giai đoạn làm

giàu và giai đoạn hòa tan [134], [55].

 Giai đoạn làm giàu: Tiến hành điện phân để tập trung chất phân tích lên bề

mặt điện cực ở một thế và thời gian xác định. Lúc này dung dịch được khuấy trộn

đều bằng cách cho điện cực quay hoặc dùng khuấy từ. Nếu chất phân tích là kim

) thành kim loại (Me)

loại, thì trong giai đoạn này xảy ra phản ứng khử ion kim loại (Men+) hoặc khử phức

của kim loại với phối tử vô cơ hoặc hữu cơ nào đó (MeLx

(quá trình làm giàu là quá trình catot). Kim loại tạo thành (Me) được tích lũy trên bề

mặt điện cực và do vậy nó được làm giàu:

Do oxy hòa tan (thường có mặt trong dung dịch phân tích ở nồng độ cỡ n

9

ppm) cũng bị khử ở những thế âm hơn – 200 mV thành hydroperoxit (H2O2) và

nước (H2O) hoặc OH- tùy thuộc vào pH của dung dịch, nên nó có thể cản trở quá

trình làm giàu. Trong trường hợp cản trở, bắt buộc phải có biện pháp thích hợp để

loại oxy hòa tan khỏi dung dịch trước khi thực hiện quá trình điện phân làm giàu.

Việc đuổi oxy hòa tan có thể được thực hiện bằng cách sục khí trơ (thường dùng khí

N2 sạch) qua dung dịch khoảng vài phút hoặc thêm chất khử vào dung dịnh (thường

dùng Na2SO3) [5]. Kết thúc giai đoạn làm giàu là thời gian nghỉ hay thời gian cân

bằng (rest time/equilibrium time)  ngừng khuấy dung dịch (hoặc ngừng quay điện

cực) trong khoảng thời gian 15 - 30 s để ổn định bề mặt điện cực. Lúc này thế trên

điện cực vẫn giữ nguyên như thế điện phân làm giàu.

 Giai đoạn hòa tan: Kết thúc thời gian nghỉ, tiến hành quét thế trên điện cực

biến thiên tuyến tính theo chiều anot (dương dần) với tốc độ không đổi (thông

thường, thế bắt đầu quét trùng với thế điện phân làm giàu; khoảng quét thế là

khoảng từ thế bắt đầu đến thế kết thúc đủ dương) để hòa tan chất phân tích khỏi bề

mặt điện cực và đồng thời ghi tín hiệu hòa tan bằng một kỹ thuật von-ampe nào đó

(thường dùng DP hoặc SqW). Trong giai đoạn này, thường không khuấy dung dịch.

Nếu chất phân tích là kim loại (Me), thì trong giai đoạn này, Me bị oxy hóa thành

Men+ hòa tan vào dung dịch (quá trình hòa tan là quá trình anot) và do vậy, làm phát

sinh dòng hòa tan:

Trong phương pháp ASV, để chọn thế điện phân làm giàu (Eđp), người ta dựa

vào phương trình Nernst hoặc một cách gần đúng có thể dựa vào giá trị thế bán

sóng (E1/2) trên sóng cực phổ của chất phân tích: Eđp được chọn âm hơn so với E1/2

của cặp oxi – hóa khử Men+/Me trong thành phần nền xác định.

Tín hiệu (hay đáp ứng) von-ampe hòa tan anot có dạng đỉnh và dòng đỉnh

hòa tan (Ip) tỉ lệ thuận với nồng độ chất phân tích trên bề mặt điện cực WE (C*),

nhưng C* tỉ lệ với nồng độ chất phân tích trong dung dịch (C), nên Ip tỉ lệ thuận

với C theo phương trình: Ip = kC; trong đó k là hệ số tỉ lệ hay độ nhạy của phương

pháp đối với chất phân tích. Chất phân tích được định lượng bằng phương pháp

thêm chuẩn.

10

Với nguyên tắc trên, phương pháp ASV có thể xác định đồng thời nhiều kim

loại trong cùng một dung dịch phân tích. Trong trường hợp đó, đường von-ampe

hòa tan sẽ xuất hiện nhiều đỉnh ở các thế đỉnh khác nhau và độ lớn mỗi đỉnh tỉ lệ

với nồng độ của ion kim loại tương ứng có mặt trong dung dịch.

1.1.2.2. Ứng dụng của phương pháp von-ampe hòa tan anot

Trong phương pháp ASV, quá trình điện hóa làm giàu và hòa tan là hai qúa

trình ngược nhau, nên phương pháp ASV chỉ thích hợp để xác định các chất mà cặp

(hay hệ) oxy hóa – khử liên hợp của nó trên điện cực là hệ thuận nghịch hay hệ

nhanh như các cặp kim loại CuII/Cu, PbII/Pb, CdII/Cd, ZnII/Zn…[134].

Trong nhiều năm qua, phương pháp ASV với các điện cực làm việc khác

nhau đã được áp dụng thành công để phân tích thuận lợi lượng vết khoảng từ 15

– 20 kim loại và phi kim loại trong nhiều đối tượng mẫu khác nhau, kể cả nước

tự nhiên [35], [38].

Các nghiên cứu áp dụng phương pháp ASV xác định lượng vết các kim loại

Cu, Pb, Cd, Zn... trong nhiều mẫu sinh hóa và môi trường được tổng hợp ở bảng 1.2

Nhiều nghiên cứu cho rằng, phương pháp ASV có độ nhạy cao hơn và giới hạn phát

hiện thấp hơn so với các phương pháp quang phổ nguyên tử như GF-AAS, ICP-

OES khi phân tích một số kim loại nặng nói chung và các kim loại độc nói riêng.

Mặt khác, trong phương pháp ASV, có thể giảm ảnh hưởng cản trở của pha nền

(matrix) hay các chất cản bằng cách chọn các điều kiện thí nghiệm thích hợp như

thế điện phân làm giàu, thành phần nền, pH [9], [10].

Cũng cần thấy rằng, trong nước tự nhiên, kim loại hòa tan thường tồn tại ở

hai dạng – dạng bền (bound form) và dạng kém bền (labile form) [109]. Phương

pháp ASV thường chỉ cho phép xác định dạng kim loại kém bền trong nước tự nhiên,

vì chỉ phần kim loại ở dạng đó mới dễ bị khử trong giai đoạn làm giàu [139], [141].

Để xác định được tổng kim loại hòa tan (total disolved metal), tức là bao

gồm cả dạng bền và kém bền, bằng phương pháp ASV, cần phân hủy mẫu (bằng kỹ

thuật thích hợp) để chuyển toàn bộ các dạng kim loại thành dạng vô cơ đơn giản

trước khi phân tích. Chỉ khi kim loại ở dạng vô cơ đơn giản, nó mới dễ dạng bị khử

trên điện cực làm việc [141], [139]. Kỹ thuật phân hủy mẫu thường dùng là phân

hủy bằng bức xạ UV khi có mặt axit trong mẫu [141], [139].

11

1.1.3. Phương pháp von-ampe hòa tan hấp phụ

1.1.3.1. Nguyên tắc

Phương pháp von-ampe hòa tan hấp phụ (AdSV) khác với phương pháp

ASV ở quá trình (hay phản ứng) làm giàu và hòa tan. Trong phương pháp AdSV,

chất phân tích (chẳng hạn kim loại) được làm giàu không phải bằng quá trình điện

) trong dung dịch lên bề mặt điện cực ở một thế xác định

phân mà bằng quá trình hấp phụ phức chất của ion kim loại với phối tử tạo phức

hữu cơ hoặc vô cơ (MeLx

và trong thời gian nhất định (được gọi là thế hấp phụ và thời gian hấp phụ làm

giàu). Trong giai đoạn làm giàu, dung dịch được khuấy trộn đều bằng cách quay

điện cực hoặc khuấy dung dịch bằng khuấy từ. Kết thúc giai đoạn làm giàu, tương

tự như trong phương pháp ASV, nghỉ 15 - 30 s để ổn định bề mặt điện cực, rồi tiến

hành quét thế biến thiên tuyến tính (với tốc độ không đổi) theo chiều catot (âm dần)

để thực hiện quá trình hòa tan và đồng thời ghi tín hiệu hòa tan bằng một kỹ thuật

 hoặc chỉ khử ion kim loại (Men+) trong phức chất hoặc chỉ khử

von-ampe nào đó (DP hoặc SqW). Trong giai đoạn hòa tan, xảy ra sự khử - khử

phức chất MeLx

phối tử (L) trong phức chất và do vậy, làm phát sinh dòng hòa tan [140]. Do quá

trình hòa tan là quá trình catot (quá trình khử), nên đôi khi người ta còn gọi tên

phương pháp này là von-ampe hòa tan hấp phụ catot (Adsorptive Cathodic

Stripping Voltammetry/AdCSV). Song, thuật ngữ «von-ampe hòa tan hấp phụ» và

ký hiệu AdSV được dùng phổ biến hơn [102], [98], [137], [136], [138]

Trong phương pháp AdSV, hai giai đoạn - làm giàu và hòa tan - có thể xảy ra

theo nhiều cơ chế khác nhau như sau [102], [98], [51] :

i) Giai đoạn làm giàu: Trong giai đoạn này, thế trên điện cực được giữ không đổi trong một khoảng

thời gian thích hợp, tương ứng được gọi là thế hấp phụ làm giàu (Ehp) và thời gian

hấp phụ làm giàu (thp). Trong thời gian đó, dung dịch được khuấy trộn đều hoặc cho

điện cực quay với một tốc độ không đổi. Các cơ chế có thể xảy ra trong giai đoạn

làm giàu như sau (giả sử chất phân tích là kim loại):

 Cơ chế 1: Phản ứng tạo phức giữa ion kim loại Men+ và phối tử L trong

dung dịch (dd) là phản ứng hóa học (giả sử phối tử tạo phức L là trung hòa điện và

số phối tử tạo phức là x):

12

(1.1)

Phối tử L có thể là chất hữu cơ hoặc vô cơ được thêm vào hay có sẵn trong

dung dịch phân tích. Tiếp theo, phức chất đã hình thành được hấp phụ (hp) lên bề

mặt của điện cực làm việc:

(1.2)

Trong thực tế, hai quá trình (tạo phức và hấp phụ) có thể xảy ra gần như

đồng thời hoặc quá trình tạo phức xảy ra trước. Cơ chế làm giàu này được dùng để

xác định trực tiếp kim loại hoặc xác định gián tiếp phối tử tạo phức (thông qua sự

khử ion kim loại trong phức chất).

 Cơ chế 2: Sự hấp phụ phối tử tạo phức (L) lên bề mặt điện cực xảy ra trước

khi tạo thành phức chất. Cơ chế này thường xảy ra khi phối tử L là hợp chất hữu cơ:

(1.3)

Sau đó, phối tử đã bị hấp phụ phản ứng với Men+ tạo thành phức chất (đây là

phản ứng hóa học):

(1.4)

Nếu tốc độ của hai giai đoạn  hấp phụ và phản ứng hóa học tạo phức tương

đương nhau, thì sự hấp phụ và sự tạo phức xảy ra đồng thời. Cơ chế làm giàu này

cũng được dùng để xác định trực tiếp kim loại hoặc phối tử L.

 Cơ chế 3: Ion kim loại (Men+) không tạo phức với phối tử L, mà sản phẩm

của quá trình oxi hóa hoặc khử điện hóa của nó mới tạo phức với phối tử L. Cơ chế

này thường xảy ra đối với các kim loại đa hóa trị như Co, Cr, V, Ti, Mo, U, As,

Fe,… Vì vậy, nhất thiết phải oxi hóa hoặc khử kim loại bằng cách điện phân trong

dung dịch phân tích hoặc bằng phản ứng hóa học (khi thêm vào dung dịch các tác

nhân oxy hóa hoặc khử). Theo cơ chế này, các phản ứng xảy ra như sau:

Cơ chế này có thể xảy ra theo kiểu phản ứng xúc tác (tác nhân xúc tác là chất

oxi hóa hoặc khử thêm vào dung dịch) và do vậy, làm tăng dòng đỉnh hòa tan Ip. Cơ

13

chế làm giàu này cũng thường dùng để xác định trực tiếp các ion kim loại và có thể

đạt được giới hạn phát hiện rất thấp (hay độ nhạy khá cao).

 Cơ chế 4: Cơ chế làm giàu hỗn hợp, tức là bao gồm cả hai cơ chế 2 và 3.

Lúc này, các phản ứng xảy ra như sau:

Ngoài các cơ chế làm giàu đề cập ở trên (còn được gọi là cơ chế làm giàu

truyền thống), trong nhiều trường hợp, để nâng cao độ nhạy của phương pháp

AdSV xác định một số kim loại, người ta sử dụng cơ chế làm giàu khác, được gọi là

cơ chế làm giàu hai bước - điện phân và hấp phụ [103]. Theo cơ chế này, trước hết,

điện phân dung dịch ở một thế (Eđp) và thời gian điện phân (tđp) xác định để tập

trung kim loại lên bề mặt diện cực. Trong bước điện phân này, dung dịch được

khuấy trộn đều hoặc cho điện cực quay với tốc độ không đổi. Lúc này, xảy ra phản

ứng điện phân:

(1.11)

Kết thúc thời gian điện phân, ngừng khuấy dung dịch hoặc ngừng quay điện

cực, rồi chuyển ngay (hay chuyển đột ngột) thế trên điện cực đến thế đủ dương -

dương hơn so với thế oxi hóa-khử của cặp Men+/Me. Khi đó, kim loại (Me) trên WE

sẽ bị oxi hóa thành dạng ion Men+ và nó sẽ kết hợp với phối tử L có mặt trong lớp

 được hấp phụ ngay lên bề mặt điện cực (quá trình hấp phụ

dung dịch sát bề mặt điện cực (hoặc đã được hấp phụ trên bề mặt điện cực), tạo

thành phức chất MeLx

xảy ra rất nhanh):

Hoặc:

Như vậy, khác với các cơ chế trên, trong bước hấp phụ làm giàu ở đây,

không phải khuấy dung dịch để chuyển chất phân tích (ion kim loại) từ trong dung

14

dịch đến bề mặt điện cực, mà kim loại đã có sẵn trên điện cực hay được làm giàu

trước trên điện cực (sau bước điện phân), nên hiệu quả làm giàu tăng lên và do vậy,

làm tăng độ nhạy của phương pháp.

Cuối cùng, cần thấy rằng, bản chất của sự hấp phụ chất phân tích hoặc phức

chất của nó trên bề mặt điện cực không phải là đơn giản. Sự hấp phụ có thể xảy ra

theo cơ chế vật lý (tương tác phân tử-phân tử, tương tác tĩnh điện) hoặc cơ chế hấp

phụ hóa học (chemisorb) [98].

ii) Giai đoạn hòa tan:

Trong giai đoạn hòa tan, tiến hành quét thế tuyến tính theo chiều catot và

đồng thời ghi tín hiệu von-ampe hòa tan theo một kỹ thuật von-ampe thích hợp để

khử các tiểu phần điện hoạt (đã hấp phụ) trên bề mặt điện cực. Sự khử này có thể

xảy ra theo một trong ba cơ chế sau [98], [102].

1) Khử ion kim loại trong phức chất:

Hoặc:

Cơ chế này thường xảy ra khi xác định trực tiếp ion kim loại hoặc xác định

gián tiếp phối tử tạo phức.

2) Khử phối tử trong phức chất:

L ở vế phải của phản ứng là sản phẩm của sự khử phối tử trong phức chất.

Theo cách này, có thể xác định trực tiếp phối tử L hoặc xác định gián tiếp ion

kim loại.

3) Khử xúc tác hydro:

Bản chất chung của sự khử hydro là kim loại đóng vai trò xúc tác cho phản

ứng khử proton ở thế dương hơn quá thế hydro trong điều kiện xác định:

Hoặc kim loại đóng vai trò xúc tác cho quá trình khử hydro trong nhóm thiol

(-SH) của phối tử hữu cơ. Cơ chế này có thể xảy ra khi xác định trực tiếp kim loại

hoặc các chất hữu cơ có chứa S và/ hoặc N.

15

1.1.3.2. Các phối tử dùng trong phương pháp von-ampe hòa tan hấp phụ

Một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự thành công của phương

pháp AdSV xác định các kim loại là chọn được phối tử tạo phức (L) thích hợp. Phối

tử tạo phức càng chọn lọc và phức chất tạo thành (giữa ion kim loại và phối tử) hấp

phụ càng mạnh lên bề mặt điện cực làm việc, thì độ chọn lọc và độ nhạy của

phương pháp càng tăng lên. Do lĩnh vực tổng hợp hữu cơ rất phát triển, trong đó có

tổng hợp các thuốc thử hữu cơ cho hóa học phân tích, nên đã tạo điều kiện cho

người nghiên cứu dễ lựa chọn được những phối tử phù hợp cho phương pháp AdSV

xác định các kim loại.

Đến nay, đã có rất nhiều phối tử được dùng trong phương pháp AdSV như

pyrocatechol, các chất màu hydroxyazo, dimetylglyoxim, 8-hydroxyquinolin, axit

dimetylentriamin penta axetic chứa N và O, các hợp chất chứa S cũng được sử dụng

nhiều như: 2,5-dimecapto-1,3,4-thiodiazol (DMTD), amoni pyrolidin dithiocacbamat

(APDC), 2-quinolinthiol…[16], [26], [52], [121], [122].

Thông thường, các phối tử dùng trong phương pháp AdSV là những chất

hoạt động bề mặt, có khả năng hấp phụ tốt lên bề mặt điện cực làm việc hoặc có thể

phản ứng hóa học với kim loại của điện cực làm việc. Chính vì vậy, phức chất của

kim loại với phối tử có thể bị hấp phụ vật lý hoặc hấp phụ hóa học lên bề mặt điện

cực. Sự có mặt của electron π trong phân tử của phối tử sẽ làm tăng quá trình hấp

phụ, trong khi đó sự có mặt của lưu huỳnh (S) có thể làm tăng quá trình hấp phụ

hóa học [52], [121], [122], [128].

Trong số các phối tử được dùng trong phương pháp AdSV, một số phối tử có

tính điện hoạt, tức là có thể bị oxi hóa-khử trên điện cực. Khi đó, thế oxi hóa-khử của

phối tử đó sẽ khác thế oxi hóa-khử của phức chất kim loại-phối tử và thế oxi hóa-khử

kim loại. Thông thường các phối tử có tính điện hoạt được dùng rất hữu hiệu để xác

định các kim loại không bị khử hoặc khó bị khử trong vùng thế khảo sát [52], [138].

Cuối cùng, phức chất tạo thành giữa phối tử với ion kim loại phải bền và

phải có tính điện hoạt. Động học của quá trình tạo phức phải đủ nhanh để tạo điều

kiện hấp phụ nhanh phức đó lên bề mặt điện cực [138].

16

1.1.3.3. Ứng dụng của phương pháp von-ampe hòa tan hấp phụ

Do có những điểm khác biệt về bản chất của quá trình làm giàu và hòa tan,

nên ngoài những ưu điểm giống như phương pháp ASV, phương pháp AdSV còn có

ưu điểm khác: bằng cách lựa chọn các phối tử thích hợp, có thể xác định được rất

nhiều kim loại theo phương pháp AdSV và nếu phối tử tạo phức rất bền với ion kim

loại, thì có thể xác định được tổng kim loại hòa tan (total dissolved metal) trong

nước tự nhiên, tức là gồm cả dạng kim loại bền và kém bền [98]. Trong khi đó,

phương pháp ASV chỉ cho phép xác định dạng kim loại kém bền, vì chỉ phần kim

loại ở dạng đó mới dễ bị khử trong giai đoạn làm giàu khi thực hiện phương pháp

ASV. Phương pháp AdSV có thể phân tích được trên 60 kim loại và phi kim loại,

trong đó có những kim loại rất khó phân tích theo ASV như: Hg, Pt, Ni, Co, Cr, Se,

Ti, Mo, W, V, Nb, Sn, U, Th, La, Ce...và hàng trăm chất hữu cơ [98], [67].

Do có độ chọn lọc cao và giới hạn phát hiện (LOD) thấp, điển hình là cỡ

ppb và nhỏ hơn ppb (hay cỡ 10-9 - 10-10 M), nên phương pháp AdSV được xem là

phương pháp phân tích điện hóa có triển vọng nhất hiện nay và có thể cạnh tranh

được với các phương pháp phân tích hiện đại khác trong lĩnh vực phân tích

lượng vết [59], [127], [146].

1.1.4. Các kỹ thuật von-ampe thường dùng trong phương pháp von-ampe hòa tan

Trong phương pháp von-ampe hòa tan (ASV và AdSV), để ghi tín hiệu (hay

đáp ứng) hòa tan (còn gọi là đường von-ampe hòa tan), người ta có thể dùng các kỹ

thuật von-ampe khác nhau như: quét thế tuyến tính (LS/Linear Scan), von-ampe

xung vi phân (DP), von-ampe sóng vuông (SqW)... Một cách tương ứng, nếu dùng

phương pháp ASV, lúc này tên phương pháp được gọi là von-ampe hòa tan anot

quét thế tuyến tính (Linear Scan Anodic Stripping Voltammetry: LS-ASV), von-

ampe hòa tan xung vi phân (DP-ASV), von-ampe hòa tan sóng vuông (SqW-

ASV)… Tuy vậy, hai kỹ thuật von-ampe được dùng nhiều nhất là DP và SqW [5].

Dưới đây sẽ đề cập đến kỹ thuật DP và SqW.

1.1.4.1. Kỹ thuật von-ampe xung vi phân

Kỹ thuật von-ampe xung vi phân (DP) là một trong những kỹ thuật được

dùng phổ biến nhất hiện nay. Theo kỹ thuật DP (khi ghi tín hiệu von-ampe của quá

trình khử ion kim loại trên điện cực, mà không có giai đoạn làm giàu trước), những

17

xung thế có biên độ như nhau khoảng 10 - 100 mV, bề rộng xung 40 - 100 ms và

biên độ xung 30 - 100 mV được đặt chồng lên mỗi bước thế biến thiên tuyến tính

trên điện cực (hình 1.1). Dòng được đo ở hai thời điểm t1 (trước lúc nạp xung) và t2

(trước khi ngắt xung). Thời gian đo dòng thường khoảng 5 - 20 ms [5], [137].

Ở thời diểm t1 , dòng ghi được là I1 = Ikt1+ Ic1 (1.19)

Ở thời diểm t2 , dòng ghi được là I2 = Ikt2+ Ic2 (1.20)

Với Ikt1, Ikt2 và Ic1, Ic2 tương ứng là dòng khuếch tán (hay dòng phát sinh do

electron chạy trong mạch, nhưng được kiểm soát hay được quyết định bởi sự

khuyếch tán) và dòng tụ điện (phát sinh do hình thành lớp điện kép trên bề mặt điện

cực) ở hai thời điểm t1 và t2.

Dòng thu được (I) là hàm của thế (U) áp lên điện cực làm việc I = f(U) và có

giá trị là hiệu của hai giá trị dòng I1 và I2: I = I2 – I1. Sự biến thiên thế theo thời gian

và dạng tín hiệu (hay đường) von-ampe được thể hiện ở hình 1.1.

Khi xung thế được áp vào, dòng tổng cộng trong hệ sẽ tăng lên do sự tăng của

dòng Faraday (If) – dòng phát sinh do electron chạy trong mạch và dòng tụ điện (Ic).

Khi đó,

Ic tỷ lệ thuận với e-t/RC* và If tỷ lệ thuận với t-1/2 (1.21)

với t là thời gian (s), R là điện trở (), C* là điện dung của lớp kép.

Trong đó, Ustcp: bước nhảy thế (mV); Ustart: thế đầu (mV); Uamp: biên độ xung (mV); tpulse: bề rộng xung (ms); Ustep: bước thế; tstep: thời gian mỗi bước thế (s); tmeas1 và tmeas2: thời gian đo dòng (ms) ở thời điểm 1 và thời điểm 2; Up và Ip: thế đỉnh và dòng đỉnh.

Hình 1.1. (a) Sự biến thiên thế theo thời gian; (b) Dạng đường von-ampe trong phương pháp von-ampe xung vi phân (DP)

18

Theo (1.21), dòng tụ điện giảm nhanh hơn nhiều so với dòng Faraday, do đó,

dòng tụ điện ghi được trước khi nạp xung và trước khi ngắt xung là gần như nhau

(Ic1 ≈ Ic2) nên hiệu số dòng ghi được chủ yếu là dòng Faraday. Như vậy, kỹ thuật

DP cho phép loại trừ tối đa ảnh hưởng của dòng tụ điện. Theo kỹ thuật DP, dòng

đỉnh (Ip) đạt được ở thế đỉnh (Up) ứng với thế bán sóng (E1/2) của sóng cực phổ của

quá trình khử ion kim loại trên điện cực giọt thủy ngân rơi. Trong phương pháp DP-

ASV hoặc DP-AdSV, tín hiệu von-ampe hòa tan có dạng tương tự như ở hình 1.1.

(b). Lúc này, Ip và Up tương ứng là thế đỉnh và dòng đỉnh hòa tan.

1.4.1.2. Kỹ thuật von-ampe sóng vuông

Trong kỹ thuật SqW (khi ghi tín hiệu von-ampe của quá trình khử ion kim

loại trên điện cực, mà không có giai đoạn làm giàu trước), điện cực được phân cực

bởi một điện áp xoay chiều dạng vuông góc (vì thế có tên là von-ampe sóng vuông),

có tần số khoảng 10 - 100 Hz và biên độ sóng vuông khoảng 10 - 50 mV được đặt

chồng lên mỗi bước thế. Cường độ dòng được ghi trong khoảng thời gian hẹp cuối

nửa chu kì dương (dòng I1) và cuối nửa chu kì âm (dòng I2). Dòng ghi được là hiệu

của 2 giá trị dòng đó (I = I2 – I1) và là hàm của thế trên điện cực làm việc. Bằng

cách ghi dòng như vậy, phương pháp này cũng loại trừ tối đa ảnh hưởng của dòng

tụ điện [137]. Sự biến thiên thế theo thời gian và dạng tín hiệu (hay đường) von-

ampe theo kỹ thuật SqW được nêu ở hình 1.2.

Hình 1.2. (a) Sự biến thiên thế theo thời gian; (b) Dạng đường von – ampe trong

Trong đó, Uampl (mV): biên độ sóng vuông; Ustep (mV): bước thế ;Ustart (mV): thế đầu; tstep (s): thời gian mỗi bước thế; tmeas (ms): thời gian đo dòng; Frequency (f): tần số sóng vuông (Hz); Ip (nA): dòng đỉnh Up (mV): thế đỉnh.

phương pháp SqW.

19

Trong mỗi chu kì sóng vuông, dòng được đo ở hai thời điểm rất ngắn (khoảng

5 – 30 ms) là t1 (thu được dòng I1) và t2 (thu được dòng I2):

Ở thời diểm t1 : thu được dòng I1 = Ikt1+ Ic1 (1.22)

Ở thời diểm t2 : thu được dòng I2 = Ikt2+ Ic2 (1.23)

Dòng thu được (I) là hàm của thế (U) đặt lên điên cực làm việc I = f(U) và có

giá trị là hiệu của hai giá trị dòng đó: I = I2 – I1.

Với cách ghi dòng như vậy, dòng tụ điện gần như bị triệt tiêu và dòng ghi

được có dạng đỉnh [5], [137]. Dòng đỉnh (Ip) đạt được ở thế đỉnh (Up) ứng với thế

bán sóng (E1/2) của sóng cực phổ của quá trình khử ion kim loại trên điện cực giọt

thủy ngân rơi. Trong phương pháp SqW-ASV hoặc SqW-AdSV, tín hiệu von-ampe

hòa tan có dạng tương tự như ở hình 1.2. (b). Lúc này, Ip và Up tương ứng là thế

đỉnh và dòng đỉnh hòa tan.

1.1.5. Các điện cực làm việc thường dùng trong phương pháp von-ampe hòa tan

Trong phương pháp von-ampe hòa tan nói chung và phương pháp ASV,

AdSV nói riêng, người ta có thể sử dụng nhiều kiểu điện cực làm việc khác nhau.

1.1.5.1. Điện cực thủy ngân

i) Điện cực giọt thủy ngân treo (HMDE)

HMDE là loại điện cực được dùng phổ biến nhất trong phương pháp ASV và

AdSV. HMDE là một giọt thủy ngân hình cầu, có kích thước nhỏ, được treo trên

đầu cuối của một mao quản có đường kính trong 0,15 ÷ 0,50 mm. Sau mỗi phép đo,

giọt thủy ngân bị cưỡng bức rơi ra khỏi mao quản và được thay thế bằng một giọt

mới tương tự [5].

Điện cực HMDE có ưu điểm là có quá thế hydro lớn (khoảng -1500 mV

trong môi trường kiềm và trung tính, -1200 mV trong môi trường axit), nên khoảng

thế điện hoạt rộng và do đó cho phép phân tích được nhiều chất. Mặt khác, điện cực

HMDE cho kết quả đo có độ chính xác và độ lặp lại cao, nên được sử dụng phổ biến

để xác định nhiều kim loại, phi kim loại và các hợp chất hữu cơ bằng phương pháp

ASV và AdSV [46], [64], HMDE được dùng thuận lợi nhất cho phương pháp ASV

xác định các kim loại có thể hòa tan trong Hg tạo hỗn hống như Cu, Pb, Cd, Zn, In,

Ga, Tl, Bi,… Phương pháp DP-ASV dùng điện cực HMDE được xem là phương

pháp chuẩn phân tích Pb, Cd và Zn trong nước và nước thải [14], [46], [76].

20

Điểm hạn chế của HMDE là khó chế tạo, vì rất khó tạo ra các giọt thủy ngân

có kích thước lặp lại một cách hoàn hảo và trong quá trình sử dụng hay gặp rắc rối

do tắc mao quản hoặc do thủy ngân bị nhiễm bẩn. Ngoài ra, điện cực HMDE không

cho phép xác định các kim loại có thế hòa tan dương hơn thủy ngân như Au, Ag…

và giá thành của chúng thường khá đắt [46].

ii) Điện cực màng thủy ngân (MFE)

Điện cực MFE là một màng thủy ngân mỏng (bề dày khoảng 10 - 1000

nm) gồm các hạt thủy ngân nhỏ li ti (có đường kính khoảng từ < 0,1 mm đến 1

mm) phủ trên bề mặt điện cực rắn đĩa có đường kính 2 - 4 mm, thường là các vật

liệu trơ như than thủy tinh (glassy carbon), than nhão (paste carbon), graphite,...

Điện cực MFE được tạo ra một cách dễ dàng bằng cách điện phân dung dịch muối Hg2+ có nồng độ cỡ 10-3 - 10-5 M ở thế thích hợp (khoảng -800 đến -1300

mV so với điện cực bạc – bạc clorua) và trong một khoảng thời gian thích hợp

(điển hình là 1 - 2 phút) để tập trung Hg lên bề mặt điện cực rắn đĩa [153].

Ngoài những ưu điểm như đối với điện cực HMDE, điện cực MFE còn có

một số ưu điểm khác (khi phân tích kim loại bằng phương pháp ASV): do nồng độ

của kim loại trong hỗn hống (màng thủy ngân) cao hơn so với trong giọt thủy ngân

(khi dùng HMDE), nên tốc độ khuếch tán của kim loại (trong giai đoạn hòa tan) ra

khỏi điện cực MFE nhanh hơn hay nói cách khác, điện cực MFE có đặc điểm của

quá trình điện hóa lớp mỏng. Mặt khác, có thể cho điện cực MFE quay (trong khi

với điện cực HMDE, nó không quay được, mà chỉ có thể khuấy dung dịch bằng

khuấy từ), nên điều kiện đối lưu và sự chuyển khối tốt hơn, và do đó điện cực MFE

có độ nhạy và độ phân giải cao hơn so với điện cực HMDE, đặc biệt là khi phân

tích các kim loại tan được trong thủy ngân tạo thành hỗn hống [153].

Tuy vậy, điện cực MFE cũng có nhược điểm là các hợp chất “gian kim loại”

(intermetallic compound) dễ hình thành trên nền đĩa rắn (khi phân tích các kim loại

theo phương pháp ASV) và do đó có thể làm biến dạng tín hiệu von-ampe hòa tan

và gây sai số phân tích. Trong khi đó điện cực HMDE lại khắc phục được điều này.

Mặt khác, độ hồi phục của các phép đo khi đi từ điện cực MFE này đến điện cực

MFE khác thường kém hơn so với điện cực HMDE [5], [3].

Điện cực MFE có thể tạo ra theo hai kiểu:

21

- Điện cực MFE kiểu in situ: Màng thủy ngân được tạo ra đồng thời với quá

trình điện phân (hoặc hấp phụ) làm giàu kim loại trên nền điện cực rắn trong cùng

dung dịch phân tích có thành phần nền xác định; Do cặp Hg2+/Hg có thế oxy hóa-

khử khá dương (dương hơn -50 đến 100 mV), nên Hg2+ bị khử sớm hơn hoặc đồng

thời với các ion kim loại cần phân tích và do vậy, tạo ra màng thủy ngân đồng thời

với quá trình tích lũy các kim loại trên nên điện cực rắn, tạo ra điện cực MFE in

situ. Sau mỗi phép đo, khi màng thủy ngân lại được hòa tan đồng thời với quá trình

hòa tan các kim loại vào dung dịch (trong giai đoạn hòa tan của phương pháp ASV).

Trong phương pháp AdSV, màng thủy ngân được hòa tan vào dung dịch phân tích

bằng phương pháp điện hóa, tức là áp vào điện cực làm việc một thế đủ dương

(dương hơn 300 mV) để oxy hóa hòa tan hoàn toàn thủy ngân vào dung dịch phân

tích, sau đó lặp lại việc tạo ra điện cực MFE in situ theo cách như trên. Kiểu điện

cực này có nhiều thuận lợi hơn kiểu điện cực ex situ, vì nó được tạo ra đơn giản hơn

hay thao tác thí nghiệm đơn giản hơn.

- Điện cực MFE kiểu ex situ: Màng thủy ngân được tạo ra bằng cách điện

phân dung dịch muối Hg2+ riêng để kết tủa Hg trên nền điện cực rắn, tạo ra điện cực

MFE ex situ. Sau đó, tia rửa điện cực bằng nước sạch, rồi nhúng vào dung dịch

phân tích để thực hiện phương pháp ASV hoặc AdSV. Như vậy, điện cực kiểu ex

situ được tạo ra trước, rồi mới dùng cho phân tích và do vậy, thao tác thí nghiệm

phức tạp hơn so với điện cực kiểu in situ.

1.1.5.2. Các điện cực màng kim loại phi thủy ngân

i) Điện cực màng bismut (BiFE)

Điện cực BiFE được nghiên cứu phát triển từ năm 2000 với mục đích tạo ra

các điện cực ít hoặc không độc để khắc phục nhược điểm về độc tính cao của thủy

ngân. Điện cực BiFE có nhiều ưu điểm: tạo ra điện cực rất đơn giản (theo cách

tương tự như tạo ra điện cực MFE), tức là bằng cách điện phân dung dịch muối Bi3+

để tạo ra màng bismut bám trên nền đĩa rắn; bismut có độc tính rất thấp hay không

đáng kể, nên được xem là loại điện cực thân thiện với môi trường và có thể thải bỏ

trong phòng thí nghiệm cũng như ở hiện trường, hay nói cách khác, nó thích hợp

cho các phép đo tại hiện trường [149]. Theo cách tương tự như đối với điện cực

MFE, điện cực BiFE cũng có thể được tạo theo hai kiểu in situ và ex situ (viết tắt là

22

điện cực BiFE in situ và BiFE ex situ). Do cặp oxy-hóa khử Bi3+/Bi có thế oxy hóa-

khử khá dương (khoàng -100 đến 0 mV), nên điện cực BiFE in situ được tạo ra

đồng thời với quá trình điện phân (hoặc hấp phụ) làm giàu các kim loại trong cùng

dung dịch phân tích. Điện cực BiFE ex situ được tạo ra trước bằng cách điện phân

dung dịch muối Bi3+ riêng trên nền điện cực rắn, rồi tia rửa bằng nước sạch và

nhúng vào dung dịch phân tích để thực hiện phương pháp ASV hoặc AdSV [138].

Nhiều nghiên cứu cho rằng, phương pháp ASV và AdSV dùng điện cực BiFE in

situ cho độ nhạy và độ lặp lại cao hơn so với điện cực BiFE ex situ. Sở dĩ vậy là

do màng bismut ex situ trên nên điện cực rắn dày hơn, dẫn đến diện tích bề mặt

thấp hơn so với màng bismut in situ; Mặt khác, sau mỗi phép đo, màng bismut in

situ lại được tạo ra mới, chứ không cố định như màng bismut ex situ, nên cho độ

lặp lại cao hơn [138], [135].

Trong nhiều năm qua, điện cực BiFE in situ đã được nghiên cứu áp dụng cho

phương pháp ASV và AdSV xác định nhiều kim loại như được tổng hợp ở bảng 1.2.

ii) Các điện cực màng kim loại khác:

Ngoài điện cực BiFE, một số kiểu điện cực màng kim loại khác cũng được

nghiên cứu phát triển cho phương pháp ASV và AdSV như :

- Điện cực màng vàng (AuFE) dùng cho phương pháp ASV xác định As [3],

xác định Cd [128].

- Điện cực màng antimon (SbFE) cho phương pháp AdSV xác định Ni [27], [71].

- Điện cực màng chì (PbFE) cho phương pháp AdSV xác định Mo(VI) [74],

U(VI), Co và Ni [73]; Điện cực màng hỗn hống Ag-Hg (Hg/AgFE) cho phương

pháp AdSV xác định Co và Ni [5], Cr(VI) [97].

1.1.5.3. Điện cực biến tính

Những thành công trong tổng hợp các vật liệu mới, đặc biệt là các vật liệu

kích thước nano và vật liệu xốp (mesopore) đã tạo điều kiện cho nhiều nghiên cứu

phát triển các điện cực biến tính (modified electrode) và thân thiện với môi trường

cho phương pháp ASV và AdSV xác định các kim loại, phi kim loại và nhiều hợp

chất hữu cơ [35], [15], [50], [86].

Các kiểu điện cực biến tính có thể được tạo ra như sau:

- Vật liệu nền là nano cabon ống (nano-carbon tube) hoặc graphen, graphen

23

oxit (hoặc graphen oxit dạng khử) được ép/nén vào ống Teflon thành điện cực làm

việc, hoặc được phủ lên bề mặt rắn đĩa trơ (thường là đĩa than thủy tinh) thành điện

cực làm việc cho phương pháp ASV [70], [101].

- Vật liệu nano kim loại được trộn với (hoặc được phủ lên) oxit kim loại tạo ra

điện cực vật liệu tổ hợp (composite electrode) trên nền đĩa rắn trơ (thường là than

thủy tinh) cho phương pháp ASV [101], [132].

- Vật liệu nền là graphit hoặc than nhão hoặc cacbon nano được trộn với phối tử

tạo phức theo tỷ lệ xác định bằng phương pháp cơ học; Sau đó, khối vật liệu được

nhồi vào ống làm bằng Teflon và nén thành điện cực làm việc cho phương pháp

AdSV [101], [108]. Phối tử tạo phức được hòa tan trong dung môi hữu cơ dễ bay hơi

được phủ lên bề mặt vật liệu nền (than thủy tinh, graphit, than nhão); Sau đó làm bay

hơi dung môi để tạo ra điện cực làm việc cho phương pháp AdSV [40], [120].

- Vật liệu graphen, graphen oxit (hoặc graphen oxit dạng khử) được biến tính

với một nhóm chức năng có khả năng tạo phức hoặc trao đổi ion (với các ion kim

loại cần phân tích) được phủ lên vật liệu nền là đĩa rắn than thủy tinh tạo thành điện

cực làm việc cho phương pháp ASV và AdSV [101]. Trong một số trường hợp, để

tăng độ dẫn điện của vật liệu điện cực, người ta phối trộn thêm một polime dẫn điện

vào vật liệu điện cực (chẳng hạn, Nafion - polyme trao đổi ion và trơ về hóa học, có

thể thấm nước, không tan trong nước nhưng tan trong rượu) [69], …

1.2. Nguồn phát sinh và độc tính của các kim loại trong môi trường

Các kim loại Cu, Pb, Cd và Zn là những kim loại độc thường bắt gặp trong

các đối tượng sinh hóa và môi trường. Thuật ngữ “kim loại độc” thường được sử

dụng trong những nghiên cứu về hóa học và độc học môi trường để chỉ một phân

nhóm gồm các kim loại thường gặp và có độc tính mạnh đối với người và sinh vật

như Hg, Cd, As, Ni, Cr, Cu, Pb, Zn….[41]. Thuật ngữ “kim loại nặng” cũng được

dùng khá phổ biến để chỉ một nhóm kim loại được chia thành 3 phân nhóm: các

kim loại độc, kim loại quý (Pd, Pt, Au, Ag, Ru…) và kim loại phóng xạ (U, Th,

Ra, Am,…) [92]. Các kim loại quý và kim loại phóng xạ cũng có khả năng gây

độc khi chúng có mặt trong cơ thể người và sinh vật ở ngưỡng nhất định [36].

Dưới đây chỉ đề cập đến các nguồn phát sinh và độc tính của các kim loại Cu, Pb,

Cd và Zn trong môi trường.

24

1.2.1. Nguồn phát sinh Cu, Pb, Cd và Zn trong môi trường

Các nguồn phát sinh các kim loại độc nói chung và các kim loại Cu, Pb, Cd,

Zn nói riêng trong môi trường bao gồm các nguồn tự nhiên và nhân tạo.

- Các nguồn tự nhiên phát tán các kim loại đó bao gồm [84]:

+ Sự rửa trôi hay xói mòn (khi có mưa lũ) các vật chất chứa các kim loại phát

sinh từ hoạt động của núi lửa hoặc xói mòn đất, các lớp đá trầm tích hoặc các

mỏ/khoáng kim loại… đưa dạng hòa tan của các kim loại vào các nguồn nước

(nước mặt và nước dưới đất);

+ Sự hòa tan các kim loại trong lòng đất và các lớp đá trầm tích đi vào các

nguồn nước dưới đất, do qúa trình ngâm chiết trong thời gian dài. Các kim loại

trong pha trầm tích các nguồn nước mặt (sông, hồ, biển ven bờ…) cũng có thể

phóng thích vào pha nước, do các hoạt động hóa-lý-sinh xảy ra trong pha trầm tích.

- Các nguồn nhân tạo bao gồm các chất thải (nước thải, khí thải và chất thải

rắn) chứa các kim loại phát sinh từ các hoạt động sản xuất công nghiệp, khai

khoáng và luyện kim, nông nghiệp, đô thị và dịch vụ [42]. Các nguồn đó có thể là

nguồn điểm – là nguồn xác định được vị trí và đặc điểm của chúng (chẳng hạn,

nước thải phát sinh từ một cơ sở sản xuất công nghiệp được thu gom và xử lý, rồi

đổ vào nguồn tiếp nhận nước thải như sông, hồ, biển ven bờ…), hoặc nguồn không

điểm – là nguồn khó xác định được vị trí và đặc điểm của chúng như nước chảy tràn

qua khu mỏ, khu công nghiệp, vùng canh tác nông nghiệp… Bộ Tài Nguyên và Môi

Trường nước ta đã ban hành danh sách những ngành sản xuất, chế biến có nước thải

chứa các kim loại độc (Thông tư số 06/2013/TT-BTNMT ngày 7/5/2013), bao gồm:

thuộc da và tái chế da, khai thác than, khai thác và chế biến khoáng sản kim loại,

nhuộm vải sợi, sản xuất hóa chất, xi mạ, chế tạo pin/ắc quy…

Khi đi vào pha nước trong các nguồn nước, do được pha loãng, nên các kim

loại độc thường có nồng độ rất thấp (cỡ dưới ppb đến ppm) và chúng tồn tại ở nhiều

dạng hóa-lý khác nhau. Các dạng đó (metal speciation) thường được chia thành 2

nhóm [126], [80], [106].

- Các dạng kém bền (labile form) gồm các ion kim loại đơn giản và phức

kém bền giữa ion kim loại và các phối tử vô cơ (cacbonat, clorua, sunphat…);

chúng có thể ở dạng tan hoặc dạng hấp phụ hoặc liên kết yếu trên các chất rắn lơ

25

lửng trong nước. Do ở dạng kém bền, nên các kim loại dạng này dễ hấp thu bởi các

sinh vật, tích lũy sinh học và theo chuỗi thức ăn gây độc đối với người và động vật.

Cũng do vậy, dạng kim loại này còn được gọi là dạng dễ tích lũy sinh học

(bioavailable metal form) và có nguy cơ gây độc đối với môi trường [32], [126].

- Các dạng bền (bound form) gồm các dạng phức bền giữa ion kim loại và các

phối tử hữu cơ (có nguồn gốc nhân tạo như EDTA, DTPA, NTA…) hoặc tự nhiên

(axit humic, axit fulvic, các chất hữu cơ là sản phẩm của các quá trình phân hủy

động/thực vật…) [7]. Các phức chất đó có thể ở dạng tan hoặc dạng hấp phụ hoặc

liên kết trên các chất rắn lơ lửng trong nước. Do ở dạng bền, nên các dạng kim loại

này được xem là ít gây độc đối với môi trường hơn. Tuy vậy, khi điều kiện môi

trường thay đổi, chẳng hạn xảy ra các quá trình oxy hóa-khử hoặc thay đổi điều

kiện hiếu khí hoặc kỵ khí…, các dạng kim loại đó có thể chuyển thành dạng kém

bền và gây độc đối với môi trường.

Sự ô nhiễm môi trường nước bởi các chất thải chứa KLĐ sẽ ảnh hưởng tiêu

cực đến đời sống của nhiều loài sinh vật thủy sinh, tiếp theo đó là những ảnh hưởng

gián tiếp đến các sinh vật ở những môi trường khác thông qua sự tích lũy độc chất

trong chuỗi thức ăn. Sinh vật khi tích lũy một lượng lớn các KLĐ sẽ dần thoái hoá

hoặc biến dị làm ảnh hưởng đến sự tồn tại của giống loài. Con người có vị trí cuối

cùng trong chuỗi thức ăn sẽ không thể tránh khỏi những nguy cơ về sức khỏe từ sự

ô nhiễm do chính mình gây ra [154]. Do đó, để bảo vệ môi trường cũng như sức

khỏe của con người, cần thiết phải giám sát chặt chẽ hàm lượng các KLĐ trong

nước nhằm phát hiện và ngăn chặn kịp thời các vấn đề về ô nhiễm môi trường [75]

1.2.2. Độc tính của các kim loại Cu, Pb, Cd và Zn

Như đề cập ở trên, từ các nguồn phát thải tự nhiên và nhân tạo, các kim loại

có thể có mặt trong không khí, trong nước, tích lũy trong sinh vật (thực vật, động

vật) và theo chuỗi thức ăn, cuối cùng sẽ đi vào cơ thể và gây độc đối với người và

dộng vật theo các cơ chế khác nhau.

Tác hại phổ biến nhất của đồng đến sức khỏe con người là gây đau dạ dày.

Khi cơ thể hấp thu một lượng đồng cao thông qua hệ tiêu hóa, sẽ gây ra các triệu

chứng như đau bụng, chóng mặt, nôn mửa và tiêu chảy. Tiếp xúc với bụi đồng trong

thời gian dài sẽ gây kích ứng đường hô hấp, ho, hắt hơi, chảy nước mũi, xơ hóa

26

phổi và tăng tưới máu niêm mạc mũi gây ra bệnh chảy máu mũi. Nặng hơn, có thể

bị ngộ độc mãn tính đồng dẫn tới mắc bệnh Wilson với các biểu hiện đặc trưng như:

xơ gan, tổn thương não, suy thận và lắng đọng đồng trong giác mạc [41].

Chì có khả năng ức chế hoạt tính của nhiều loại enzym. Chì vô cơ được hấp

thu chủ yếu theo đường hô hấp và tiêu hóa mà không trải qua sự chuyển đổi sinh

học, trong khi chì hữu cơ như chì-tetraethyl (được sử dụng làm chất tăng hệ số

chống kích nổ trong xăng) đi vào cơ thể chủ yếu là do tiếp xúc với da và đường hô

hấp, sau đó được chuyển hóa ở gan. Các triệu chứng điển hình của nhiễm độc chì

bao gồm mệt mỏi nói chung, run, nhức đầu, buồn nôn, động kinh, xuất hiện các

đường màu xanh-đen trên mô nướu và đau bụng. Chì cũng cản trở tổng hợp

hemoglobin và nghiêm trọng nhất là làm cản trở chức năng của thận. Chì còn ảnh

hưởng đến khả năng tồn tại và sự phát triển của bào thai [92], [94]

Cadimi xâm nhập vào cơ thể người chủ yếu qua đường tiêu hóa, khi sử dụng

các thức ăn nhiễm cadmi. Cadmi trong bụi, khí có khả năng xâm nhập qua hệ hô

hấp và gây ra các tổn thương cho phổi, rồi từ phổi sẽ thấm vào máu và phân tán vào

các cơ quan trong cơ thể. Phần lớn cadmi được đào thải thông qua thận, chỉ một

phần nhỏ (khoảng 1%) được lưu chuyển và tích lũy trong các mô. Khi hàm lượng

cadmi cao, sẽ gây ra quá trình thay thế ZnII trong các enzym thiết yếu cho sự sống

và gây ra quá trình rối loạn tiêu hóa, rối loạn chức năng thận, thiếu máu, tăng huyết

áp, gây tổn thương tủy sống và thậm chí, gây ung thư [115].

Kẽm là nguyên tố thiết yếu đối với người và sinh vật (động vật/thực vật),

nhưng khi thiếu hụt hoặc dư thừa kẽm, sẽ gây ra các tác động bất lợi đối với sinh

vật và sức khỏe người. Khi hấp thu một lượng kẽm quá mức, sẽ làm giảm chức

năng của sắt và gây rối loạn quá trình chuyển hóa đồng, gây suy giảm hệ miễn dịch,

buồn nôn, loét dạ dày [41], [115], …

1.3. Các phương pháp xác định lượng vết Cu, Pb, Cd và Zn

1.3.1. Các phương pháp phân tích quang phổ nguyên tử

1.3.1.1. Phương pháp quang phổ hấp thụ nguyên tử (AAS)

Phương pháp AAS có thể phân tích trực tiếp nhiều nguyên tố (khoảng 71

nguyên tố) trong các đối tượng mẫu khác nhau, trong đó chủ yếu là các kim loại và

phi kim loại. Cũng có thể phân tích gián tiếp các anion và các chất hữu cơ (khoảng

27

trên 200 chất khác nhau) với độ nhạy cao hay giới hạn phát hiện thấp [6], [125].

Theo phương pháp AAS, trước hết mẫu được nguyên tử hóa để chuyển các

kim loại cần phân tích thành dạng hơi nguyên tử, sau đó chiếu ánh sáng đơn sắc (𝜆)

thích hợp đi qua đám hơi nguyên tử đó. Đo độ hấp thụ ánh sáng và xác định nồng

độ của các kim loại theo phương pháp đường chuẩn hoặc thêm chuẩn. Nguồn năng

lượng nguyên tử hóa mẫu có thể là ngọn lửa (lúc này phương pháp được gọi là

quang phổ hấp thụ nguyên tử ngọn lửa/F-AAS), hoặc nguyên tử hóa mẫu bằng nhiệt

điện (phương pháp được gọi là quang phổ hấp thụ nguyên tử không ngọn lửa/GF-

AAS) hoặc ET-AAS [46]. Giới hạn phát hiện (LOD) và khoảng nồng độ thích hợp

của phương pháp AAS xác định Cu, Pb, Cd và Zn được nêu ở bảng 1.1.

Kim

Bước sóng

Khoảng nồng độ

Phương pháp

LOD

loại

λ (nm)

thích hợp

F-AAS

0,2 - 2 ppm

0,01 ppm

Zn

213,9

GF-AAS

0,2 - 4 ppb

0,1 ppb

F-AAS

0,05 - 2 ppm

0,01 ppm

Cd

GF-AAS

228,8

0,5 - 2 ppb

0,05 ppb

ET-AAS

0,25 - 2,5 ppb

0,02 ppb

F-AAS

1 -10 ppm

0,1 ppm

Pb

GF-AAS

283,3

5 - 20 ppb

1 ppb

ET-AAS

10 - 50 ppb

1,2 ppb

F-AAS

0,5 - 5 ppm

0,05 ppm

Cu

324,8

GF-AAS

5 - 20 ppb

0,5 ppb

Bảng 1.1. Các phương pháp AAS xác định Cu, Pb, Cd và Zn [6], [125], [57]

Do có độ nhạy kém hơn so với phương pháp GF-AAS (hay có LOD cao hơn,

cỡ 10 - 100 ppb), nên phương pháp F-AAS chỉ thích hợp để phân tích các kim loại

trong các mẫu rắn môi trường (đất, trầm tích, sinh vật) và nước thải. Để phân tích

lượng vết các kim loại trong nước tự nhiên bằng phương pháp F-AAS, bắt buộc

phải có giai đoạn chiết làm giàu mẫu, chẳng hạn bằng kỹ thuật chiết dung môi hoặc

chiết pha rắn [123], [107]. Phương pháp GF-AAS tuy đạt được độ nhạy cao đối với

các kim loại (LOD cỡ 0,05 – 1 ppb), nhưng không cho phép phân tích đồng thời các

kim loại và trong một số trường hợp, chẳng hạn phân tích lượng siêu vết (< ppb) Cd

28

và Pb trong nước tự nhiên, vẫn cần thiết phải làm giàu bằng kỹ thuật thích hợp và

do vậy, làm phức tạp quy trình phân tích [123], [107].

1.3.1.2. Phương pháp quang phổ phát xạ nguyên tử plasma cặp cảm ứng

Phương pháp quang phổ phát xạ nguyên tử plasma cặp cảm ứng là phương

pháp cho phếp phân tích đồng thời nhiều nguyên tố (kim loại và phi kim loại).

Nguyên lý chung của phương pháp này là mẫu được nguyên tử hóa trong ngọn lửa

plasma (6000 – 10000 K) để chuyển các kim loại/phi kim loại thành trạng thái

plasma (các nguyên tử, ion). Ở trạng thái plasma, kim loại/phi kim loại phát ra các

bức xạ đặc trưng và được ghi bởi detector. Cường độ bức xạ đặc trưng cho tỷ lệ

thuận với nồng độ kim loại/phi kim loại trong dung dịch mẫu và định lượng lượng

bằng phương pháp đường chuẩn [114], [109].

Theo nguyên lý chung đó, phương pháp này được tách ra thành hai phương

pháp điển hình [114], [88], [109].

- Phương pháp quang phổ phát xạ plasma cặp cảm ứng (ICP-OES/

Inductively Coupled Plasma – Optical Emission Spectrometry): Theo phương

pháp này, các bức xạ đặc trưng của các kim loại/phi kim loại được ghi đồng thời

bởi detector và tín hiệu đo tỷ lệ thuận với nồng độ kim loại/phi kim loại trong

mẫu. Phương pháp ICP-OES có độ nhạy tương đương với phương pháp F-AAS,

nên cũng chỉ thích hợp khi phân tích đồng thời các kim loại/phi kim loại trong các

mẫu rắn môi trường.

- Phương pháp phổ khối - plasma cặp cảm ứng (ICP-MS /Inductively

Coupled Plasma Mass Spectrometry): Trong phương pháp này, trạng thái plasma

của chất phân tích (kim loại/phi kim loại) được đưa qua thiết bị phân

tích khối lượng để phân tách các mảnh (các ion tích điện) dựa vào tỷ số khối

lượng/điện tích (m/z) của chúng. Phổ khối lượng của các mảnh đó được ghi bởi

detector và cường độ bức xạ của mảnh m/z đặc trưng của kim loại/phi kim loại

được chọn để định lượng bằng phương pháp đường chuẩn. Phương pháp ICP-MS

đạt được độ nhạy cao (cỡ dưới ppb đến ppb), nên cho phép phân tích trực tiếp và

đồng thời nhiều kim loại/phi kim loại trong các mẫu nước tự nhiên. Song, do giá

thành thiết bị cao, nên không dễ được áp dụng trong các phòng thí nghiệm được

trang bị chưa tốt.

29

1.3.2. Các phương pháp phân tích điện hóa – Phương pháp von-ampe hòa tan

Phương pháp ASV và AdSV là những phương pháp phân tích điện hóa hiện

đại có độ nhạy cao (đạt được LOD cỡ dưới ppb đến ppb), tương đương với độ nhạy

của phương pháp ICP-MS phân tích nhiều kim loại và do vậy, thích hợp cho phân

tích lượng vết và siêu vết các kim loại độc thường gặp trong môi trường. Bảng 1.2

tổng hợp các nghiên cứu phân tích các kim loại Pb, Cd và Zn, trong các đối tượng

khác nhau bằng phương pháp ASV và AdSV sử dụng điện cực BiFE.

Các thông tin ở bảng 1.2 cho thấy:

- Về phương pháp ASV:

+ Đa số các nghiên cứu phát triển phương pháp DP-ASV và SqW-ASV đều

sử dụng điện cực BiFE in situ, thành phần nền là đệm axetat (pH  4,5) và đều đạt

được LOD đối với các kim loại khá thấp, khoảng 0,1 - 3 ppb.

+ Hầu hết các nghiên cứu chỉ xác định một hoặc hai kim loại (Pb và Cd); chỉ

một vài nghiên cứu xác định đồng thời 3 kim loại Pb, Cd và Zn; chưa có nghiên cứu

nào nghiên cứu xác định đồng thời cả 4 kim loại Cu, Pb, Cd và Zn. Một số nghiên

cứu cho rằng, Cu là kim loại cản trở khi xác định đồng thời Pb, Cd, Zn bằng

phương pháp ASV dùng điện cực BiFE [2], [147].

+ Đối tượng phân tích khá đa dạng: mẫu chuẩn, các mẫu môi trường (đất,

nước máy, nước biển, nước dưới đất) và các mẫu khác (tóc, rau quả…).

- Về phương pháp AdSV: Các phương pháp DP-AdSV và SqW-AdSV chủ yếu

sử dụng điện cực BiFE in situ phối tử tạo phức là oxin (hay 8-hydroxy quinoline),

chỉ một số nghiên cứu sử dụng phối tử tạo phức khác. Thành phần nền sử dụng, một

số nghiên cứu sử dụng thành phần nền khác nhau. Các nghiên cứu chủ yếu xác định

và nói chung, đạt được độ nhạy cao hơn so với phương pháp ASV (LOD khoảng Do

Cu cản trở mạnh, nên phương pháp AdSV dùng điện cực BiFE chỉ cho phép phân

tích đồng thời Pb, Cd và Zn [8], [90].

Rõ ràng, các nghiên cứu sử dụng điện cực BiFE in situ cho phương pháp ASV

và AdSV xác định đồng thời các kim loại thường bắt gặp trong môi trường (Cu, Pb,

Cd và Zn) là rất cần thiết, đặc biệt là trong các mẫu nước tự nhiên vì nồng độ của

chúng trong đó rất thấp.

30

STT

Kim loại

Thành phần nền, phối tử

LOD (ppb)

Phương pháp/ điện cực

Đối tượng áp dụng

[Tài liệu tham khảo]

[105]

Pb

Đệm axetat 0,1M (pH= 4,5)

Pb: < 20

Sữa

1

SqW-ASV/ BiFE

Pb

Đệm axetat 0,1M (pH= 5,5)

Pb: 2

Nước mặt

[130]

2

SqW-ASV/ BiFE

Pb, Cd

Đệm axetat 0,1M (pH= 4,5)

Pb: 2,5; Cd: 3,6

Nước thải

[119]

3

SqW-ASV/ BiFE

Pb, Cd

Đệm axetat 0,2 M (pH= 5,0)

AdSV/AuNPs-CD-GS/GCE

Pb: 10,6; Cd: 24,8

Nước sông

[104]

4

Pb, Cd

Đệm axetat 0,1M (pH= 4,5)

Pb: 0,11; Cd: 0,27

Gạo

[68]

5

ASV/ BiFE

6 Cd, Pb

Đệm axetat 0,1M (pH= 4,5)

Pb: 0,25; Cd: 0,4

[124]

DP-ASV/ BiFE

Nước dưới đất

Pb, Cd

Đệm axetat 0,1M (pH= 4,5)

Pb: 0,13; Cd: 0,12

Mẫu chuẩn

[140]

7

SqW-ASV/ BiFE

Pb, Cd

Đệm axetat 0,1M (pH= 4,5)

Pb: 0,26; Cd: 0,71

Nước máy

[60]

8

SqW-ASV/ BiFE

Pb, Cd

Đệm axetat 0,1M (pH= 4,5)

Nước hồ

[95]

9

SqW-ASV/BiFE/ NanoSiO2 Pb: 0,2; Cd: 0,6

10 Pb, Cd, Zn

Đệm axetat 0,1M (pH= 5,0)

Nước sông

[17]

SqW-ASV/ BiFE

11 Pb, Cd, Zn

Đệm axetat 0,1M (pH= 4,5)

[118]

SqW-ASV/ BiFE

Nước máy, tóc

12 Pb, Cd, Cu

Đệm axetat 0,1M (pH= 4,5)

DP-ASV/RGO-CS/PLL/GCE

Nước máy

[53]

13 Pb, Cd, Cu

Nước hồ

[87]

Na2SO4, 0,1M

SqW-ASV /Ti/TiO2/GCE

14 Pb, Cd, Cu

Đệm axetat 0,1M (pH= 5)

Nước thải

[143]

Pb: 0,09; Cd: 0,05; Zn: 0,4 Pb: 0,2; Cd: 0,2; Zn: 0,7 Pb: 0,02; Cd: 0,01; Cu: 0,02 Pb: 29; Cd: 18; Cu: 6,4 Pb: 2,9; Cd: 22; Cu: 11

DP-ASV /Graphene/CeO2/GCE

Bảng 1.2. Các nghiên cứu xác định Cu, Pb, Cd và Zn bằng phương pháp ASV và AdSV sử dụng điện cực BiFE

31

15 Pb, Cd, Zn

KCl 0,1M

Nước sông

[95]

SqW- ASV/HgBi/SWNTs/GCE

16 Pb, Cd, Zn

Đệm axetat 0,1M (pH= 4,5)

Bi/EG/GCE/ DPASV

Nước máy

[79]

17

Đệm axetat 0,1M (pH= 5,5)

DP-ASV/ rGO/Bi/CPE

Nước hồ

[112]

Cu, Pb, Cd, Zn

18 Pb, Cd, Zn

Đệm axetat 0,1M (pH= 4,5)

Nước máy

[78]

DP-ASV/ Fe2O3/Gra/GCE

Pb: 0,98; Cd: 0,98; Zn: 2 Pb: 0,11; Cd: 0,18; Zn: 0,80 Cu: 26; Pb: 0,55; Cd: 2,8; Zn: 17 Pb: 0,07; Cd: 0,08; Zn: 0,11

19 Pb, Cd

Đệm axetat 0,1M (pH= 4,5)

Pb: 0,13; Cd: 0,7

Nước uống

[21]

AdSV/GO-Fe3O4- PAMAM/GCE

20 Pb, Cd, Zn

Đệm axetat 0,1M (pH= 4,5)

ASV/ Hg-Bi-SWNTs/GCE

Nước sông

[95]

Pb: 1,3; Cd: 0,98; Zn: 0,13

21 Pb, Cd

Đệm axetat 0,1M (pH= 4,5)

DP-ASV/ N@LEG/GCE

Pb: 0,16; Cd: 1,08

Nước hồ

[83]

22 Pb, Cd, Cu

Đệm axetat 0,1M (pH= 5,0)

Nước sông

[151]

SqW-ASV/ Alk-Ti3C2/GCE

23 Pb, Cd, Cu

Đệm axetat 0,1M (pH= 4,5)

DP-ASV/NG/GCE

Nước máy

[144]

Pb: 8,5; Cd: 11; Cu: 2,1 Pb: 1,04; Cd: 5,6; Cu: 0,32

23 Pb, Cd

AdSV/ HMDE

Pb: 0,04; Cd: 0,015

Nước biển

[39]

HEPES(1) 0,01 M (pH = 7,6) / 8- hydroxyquinoline

24 Pb

TES(2) (pH = 7,0)/ Calcein Blue

AdSV/ HMDE

Pb: 0,002

Nước hồ

[49]

25 Cd, Zn

AdSV/ HMDE

Cd: 1,7; Zn: 1,8

[45]

/

tổng

26 Cd, Cu

AdSV/ HMDE

Cd: 0,9; Cu: 0,4

[20]

Acetate 0,05 M (pH = 5,4) / Xylenol Orange 0,2 μM Amoni 1 mM (pH = 9,5) Thymolphthalexone 2,0 μM

sinh

27 Cd

MPATD(3) (pH = 7,0)/ HEPES

AdSV/ HMDE

Cd: 4,67

[129]

Nước, hợp kim Sợi hợp Mẫu học

(1) HEPES: 2 – [4 – (2- hydroxylethyl) – 1 – piperazinyl] – ethanesulfonic acid (2) TES: N – [tris (hydroxymethyl) methyl] – 2 – aminoethanesulfonic acid (3)2-mercapto 5-phenil-ammino -1,3,4-thiadiazole

32

1.4. Kết luận phần tổng quan và định hướng các nội dung nghiên cứu

Trên cơ sở tổng quan các vấn đề liên quan đến các kim loại trong môi trường

và các phương pháp xác định lượng vết các kim loại độc, đặc biệt là phương pháp

von-ampe hòa tan (ASV và AdSV), cần có các kết luận chung để định hướng cho

các nội dung nghiên cứu chính của đề tài luận án.

- Các kim loại được quan tâm nghiên cứu nhiều là các kim loại thường bắt gặp

trong môi trường như Cu, Pb, Cd, Zn… Nồng độ các kim loại đó trong các đối

tượng môi trường thường rất nhỏ, đặc biệt là trong nước tự nhiên (cỡ dưới ppb đến

ppb), nên để phân tích chúng, cần sử dụng các phương pháp phân tích có độ nhạy

cao như phương pháp quang phổ nguyên tử (GF-AAS, ICP-MS), von-ampe hòa tan

(ASV, AdSV). Phương pháp GF-AAS có độ nhạy cao, nhưng chỉ cho phép phân

tích trực tiếp đơn kim loại. Phương pháp ICP-MS có độ nhạy rất cao và cho phép

phân tích đồng thời nhiều kim loại, nhưng đòi hỏi thiết bị đắt tiền. Trong khí đó,

phương pháp ASV và AdSV cũng có độ nhạy cao tương đương với phương pháp

ICP-MS, cho phép phân tích đồng thời 2 – 3 kim loại và chi phí thiết bị rẻ hơn so

với các phương pháp quang phổ nguyên tử, nên việc lựa chọn phương pháp ASV và

AdSV cho nghiên cứu của luận án là cần thiết. Mặt khác, do chưa có nghiên cứu

nào xác định đồng thời 4 kim loại (Cu, Pb, Cd, Zn), nên hướng nghiên cứu phát

triển phương pháp von-ampe hòa tan xác định đồng thời bốn kim loại đó là hấp dẫn.

- Tuy có nhiều kiểu điện cực làm việc khác nhau đã và đang được nghiên cứu

áp dụng cho phương pháp ASV và AdSV, nhưng để mở rộng khả năng ứng dụng

các phương pháp đó trong phòng thí nghiệm cũng như trong phân tích/quan trắc các

kim loại tại hiện trường, cần nghiên cứu phát triển điện cực thân thiện với môi

trường, có thể thải bỏ tại hiện trường và dễ chế tạo. Theo hướng đó, điện cực BiFE

in situ nên được lựa chọn cho nghiên cứu của luận án. Mặt khác, một số nghiên cứu

cho rằng, Cu ảnh hưởng mạnh đến phép phân tích đồng thời Pb, Cd, Zn trên điện

cực BiFE in situ. Như vậy, để xác định đồng thời cả 4 kim loại (Cu, Pb, Cd, Zn),

cần khảo sát ảnh hưởng của Cu đến đáp ứng hòa tan của các kim loại Pb, Cd, Zn

nhằm tìm được điều kiện thí nghiệm thích hợp để xác định đồng thời cả 4 kim loại.

- Đối với phương pháp ASV, nên lựa chọn thành phần nền đã và đang được

33

sử dụng phổ biến là đệm axetat (pH  4 – 5). Đối với phương pháp AdSV, tuy có

nhiều lựa chọn phối tử tạo phức khác nhau, nhưng để giảm thời gian và chi phí

nghiên cứu, nên ưu tiên lựa chọn phối tử được dùng phổ biến như oxine. Với phối

tử này, nhiều nghiên cứu trước đây chỉ xác định một hoặc đồng thời 2 kim loại như

Pb, Cd hoặc Zn, Cd…, mà chưa có nghiên cứu nào xác định đồng thời 3 kim loại

Pb, Cd, Zn và do vậy, cần tập trung nghiên cứu xác định đồng thời cả 3 kim loại Pb,

Cd, Zn. Mặt khác, trong phương pháp AdSV, cần khảo sát để lựa chọn được thành

phần nền và các điều kiện thí nghiệm thích hợp thích hợp để nâng cao độ nhạy của

phương pháp AdSV dùng điện cực BiFE in situ xác định đồng thời 3 kim loại (Pb,

Cd, Zn). Về kỹ thuật làm giàu, luận án này tập trung nghiên cứu áp dụng kỹ thuật 2

bước: điện phân – hấp phụ (thay cho kỹ thuật làm giàu truyền thống).

- Về kỹ thuật von-ampe ghi tín hiệu hòa tan, cả kỹ thuật DP và SqW đã và

đang được áp dụng nhiều, nên trong nghiên cứu của luận án, cả hai kỹ thuật DP và

SqW cần thiết được nghiên cứu để lựa chọn được kỹ thuật phù hợp cho phương

pháp ASV và AdSV.

Xuất phát từ các vấn đề trên, các nội dung nghiên cứu của chính của đề tài

tập trung vào phát triển điện cực BiFE in situ cho phương pháp ASV (với nền đêm

axetat) và AdSV (với phối tử tạo phức oxine) xác định đồng thời các kim loại Cu,

Pb, Cd và Zn trong các mẫu nước tự nhiên. Đối với phương pháp AdSV, cần tập

trung nghiên cứu áp dụng kỹ thuật làm giàu 2 bước để nâng cao độ nhạy của

phương pháp. Mặt khác, để ghi tín hiệu hòa tan trong phương pháp ASV và AdSV,

34

nên nghiên cứu áp dụng cả kỹ thuật DP và SqW.

Chương 2. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Nội dung nghiên cứu

Trên cơ sở các kết luận phần tổng quan và để đạt được mục đích của nghiên

cứu luận án, các nội dung nghiên cứu chủ yếu bao gồm:

i) Khảo sát đặc tính von-ampe của các kim loại trên điện cực BiFE in situ (viết

tắt là BiFE) bằng phương pháp von-ampe vòng:

- Đặc tính thuận nghịch/bất thuận nghịch của các phản ứng điện cực của các

kim loại (Cu, Pb, Cd và Zn);

- Ảnh hưởng của pH và tốc độ quét thế đến đáp ứng von-ampe của các kim

loại (dòng đỉnh và thế đỉnh) và số electron (điện tử), số proton (ion H+) tham gia

vào phản ứng điện hóa trên bề mặt điện cực.

ii) Khảo sát ảnh hưởng của các điều kiện thí nghiệm (hay yếu tố) đến đáp ứng

von-ampe hòa tan của các kim loại trong phương pháp ASV dùng điện cực BiFE in situ

(viết tắt là phương pháp ASV/BiFE) xác định đồng thời 4 kim loại (Cu, Pb, Cd và Zn):

- Khảo sát ảnh hưởng của nồng độ BiIII dùng để tạo điện cực BiFE, thế và

thời gian điện phân làm giàu, kiểu làm sạch điện cực làm việc, các thông số kỹ thuật

von-ampe xung vi phân (DP), các chất cản trở;

- Xác định độ nhạy, độ lặp lại, khoảng tuyến tính, giới hạn phát hiện (LOD)

và giới hạn định lượng (LOQ) của phương pháp ASV/BiFE đối với 4 kim loại.

iii) Khảo sát đặc tính von-ampe hấp phụ của phức các kim loại với phối tử

oxine trên điện cực BiFE:

- Đặc tính thuận nghịch/bất thuận nghịch của các phản ứng điện cực của các

kim loại (Pb, Cd và Zn);

- Ảnh hưởng của pH và tốc độ quét thế đến đáp ứng von-ampe của các kim

loại (dòng đỉnh và thế đỉnh), số electron trao đổi trong phản ứng điện hóa…

iv) Khảo sát ảnh hưởng của các điều kiện thí nghiệm đến đáp ứng von-ampe

hòa tan hấp phụ của các kim loại (Pb, Cd và Zn) trong phương pháp AdSV dùng

điện cực BiFE (viết tắt là phương pháp AdSV/BiFE) xác định đồng thời 3 kim loại

Pb, Cd và Zn:

35

- Khảo sát ảnh hưởng của các thành phần nền, pH, nồng độ BiIII dùng để tạo

điện cực BiFE, nồng độ phối tử tạo phức (oxine), thế và thời gian điện phân - hấp

phụ làm giàu, các thông số kỹ thuật von-ampe sóng vuông (SqW), các chất cản trở.

- Xác định độ nhạy, độ lặp lại, khoảng tuyến tính, LOD và LOQ.

v) Xây dựng quy trình phân tích và áp dụng thực tế:

- Xây dựng quy trình phân tích theo phương pháp ASV/BiFE để xác định đồng

thời 4 kim loại Cu, Pb, Cd và Zn trong nước tự nhiên và quy trình phân tích theo

phương pháp AdSV/BiFE xác định đồng thời 3 kim loại Pb, Cd và Zn trong nước tự

nhiên, bao gồm: xử lý mẫu, chuẩn bị điện cực và ghi đường von-ampe hòa tan,

phương pháp định lượng.

- Kiểm soát chất lượng của phương pháp phân tích (ASV/BiFE và

AdSV/BiFE) khi phân tích mẫu thực tế: kiểm tra độ đúng và độ lặp lại.

- Áp dụng phương pháp ASV/BiFE và AdSV/BiFE để xác định nồng độ các

kim loại (Cu, Pb, Cd, Zn) trong một số mẫu thực tế - nước tự nhiên (sông, hồ).

- So sánh hai phương pháp ASV/BiFE và AdSV/BiFE, và so sánh chúng với

phương pháp GF-AAS (phương pháp chuẩn phân tích các kim loại).

2.2. Phương pháp nghiên cứu

2.2.1. Chuẩn bị điện cực làm việc

2.2.1.1. Chuẩn bị điện cực nền

Trước hết, chuẩn bị điện cực nền là điện cực đĩa than thủy tinh có đường kính

2,8 ± 0,1 mm. Điện cực nền đĩa than thủy tinh được mài bóng với bột Al2O3 chuyên

dụng có kích thước hạt 0,05 μm; Sau đó ngâm điện cực trong dung dịch HNO3 2M,

rồi rửa bằng etanol, nước cất hai lần. Cuối cùng, để khô tự nhiên ở nhiệt độ phòng

và điện cực đạt yêu cầu để sử dụng. Sau một loạt phép đo (khoảng 40 - 50 phép đo),

lặp lại việc chuẩn bị điện cực nền đĩa than thủy tinh như trên.

2.2.1.2. Chuẩn bị điện cực làm việc BiFE

- Khi thực hiện phương pháp ASV:

Điện cực nền đĩa than thủy tinh (gọi tắt là điện cực nền) được nhúng vào bình

điện phân (với 3 điện cực) chứa đồng thời: đệm axetat, BiIII, các kim loại CuII, PbII,

CdII và ZnII (do phần lớn ion kim loại trong dung dịch phân tích đều tồn tại ở dạng

phức, chỉ một phần rất nhỏ tồn tại ở dạng ion đơn giản Me2+, nên từ đây trở đi, sử

36

dụng chỉ số trên II và III cạnh ký hiệu kim loại với hàm ý  hóa trị của kim loại

trong dung dịch là 2 và 3). Tiếp theo, trong giai đoạn điện phân làm giàu ở thế điện

phân và thời gian điện phân xác định, màng bismuth được hình thành trên bề mặt

điện cực nền, tạo thành điện cực BiFE in situ (viết tắt là BiFE) đồng thời với sự kết

tủa các kim loại Me (Me  Cu, Pb, Cd, Zn) trên điện cực:

(dd) + MeII

(dd) + 5e  Me/BiFE (2.1)

BiIII

Sau đó, trong giai đoạn hòa tan, khi quét thế về phía anot (quét dương dần từ

thế điện phân đến thế +300 mV) để hòa tan các Me vào dung dịch, thì Bi cũng sẽ bị

hòa tan khỏi bề mặt điện cực nền theo phản ứng:

(dd) + MeII

(dd) (2.2)

Me/BiFE  5e  BiIII

Kết thúc mỗi phép đo, cần làm sạch điện cực. Nhiều nghiên cứu trước đây

thường làm sạch bằng điện hóa theo kiểu một bước: áp thế cố định (khoảng +200

đến +500 mV) trong vài phút để hòa tan hoàn toán các kim loại Me và Bi ra khỏi bề

mặt điện cực nền. Bằng thực nghiệm đã thấy rằng, cách làm sạch theo kiểu 2 bước -

kết tủa và hòa tan - hiệu quả hơn so với kiểu một bước ở trên, tức là cho kết quả đo

lặp lại hơn. Cách làm sạch theo kiểu 2 bước được sử dụng trong phương pháp ASV

như sau: Khi kết thúc quá trình hòa tan, áp vào điện cực một thế đủ âm (-1400 mV)

trong khoảng 30 s để điện phân kết tủa Bi và các kim loại Me lên bề mặt điện cực

nền; Tiếp theo, đưa thế đột ngột đến +300 mV trong 30 s (chứ không quét thế chậm

như trong quá trình hòa tan của phương pháp ASV) để oxi hóa hòa tan nhanh và

hoàn toàn Bi và các Me khỏi bề mặt điện cực nền. Theo chúng tôi, theo kiểu làm

sạch 2 bước, quá trình hòa tan nhanh các Me ở +300 mV có thể hỗ trợ sự hòa tan Bi

ra khỏi bề mặt điện cực nền hoàn toàn hơn, tức là làm sạch tốt hơn. Trong các phép

đo ASV sau này, điện cực BiFE được tạo ra và được làm sạch theo kiểu 2 bước

tương tự trên.

- Khi thực hiện phương pháp AdSV:

Điện cực điện cực nền được nhúng vào bình điện phân (với 3 điện cực) chứa

đồng thời: dung dịch đệm HEPES (2-[4-(2-hydroxyethyl)-1-piperazinyl]-

ethanesulfonic acid – là một đệm bazơ hữu cơ), BiIII, phối tử tạo phức oxine, các kim

loại MII (M  Pb, Cd, Zn). Bằng thực nghiệm đã thấy rằng, việc hoạt hóa bề mặt điện

cực nền trước khi đo theo AdSV sẽ làm cho bề mặt điện cực sạch hơn và do vậy, cho

37

kết quả lặp lại hơn. Cách hoạt hóa bề mặt điện cực nền như sau (lúc này không quay

điện cực): quét thế vòng 3 chu kỳ từ -1500 mV đến +500 mV (chiều dương dần) và

ngược lại từ +500 mV đến -1500 mV (chiều âm dần) với tốc độ nhanh 100 mV/s,

cuối cùng dừng lại ở thế +500 mV trong 30 s. Theo cách này, khi quét theo chiều

âm dần, các kim loại M và Bi bị kết tủa trên bề mặt điện cực nền, nhưng rồi lại bị

hòa tan thành MII và BiIII (khi quét theo chiều dương dần) và cuối cùng, ở thế +500

mV các kim loại M và Bi tiếp tục bị hòa tan hoàn toàn khỏi bề mặt điện cực nền.

Sau một loạt phép đo AdSV (khoảng 20 – 30 phép đo), cần lặp lại việc hoạt hóa

điện cực theo cách như trên.

Tiếp theo, trong giai đoạn làm giàu 2 bước – điện phân và hấp phụ, màng

bismut được tạo ra đồng thời với sự kết tủa các M trên điện cực nền (trong bước

điện phân ở thế và thời gian xác định) tạo ra điện cực BiFE in situ (viết tắt là

 MLx

 (dd)  BiLy

(dd)  5e  M/BiFE; L: phối tử oxin (2.3)

điện cực BiFE):

Trong bước hấp phụ làm giàu ngay sau đó ở thế xác định (thế đủ âm để không

hòa tan Bi kim loại, nhưng đủ dương để hòa tan các kim loại M và hấp phụ các

 M/BiFE  xL(dd)  5e  MLx

(hp)/BiFE (2.4)

phức kim loại-phối tử), điện cực BiFE lúc này vẫn giữ nguyên:

Trong giai đoạn hòa tan (quét thế âm dần), các phức chất kim loại - phối tử

oxin (đã hấp phụ trên BiFE) bị khử và kim loại M tạo thành được kết tủa lại trên

 MLx

(hp)/BiFE  5e  M/BiFE  xL(dd) (2.5)

điện cực BiFE:

Kết thúc mỗi phép đo, tiến hành làm sạch điện cực bằng cách điện phân ở thế

+300 mV trong 60 s (đồng thời quay điện cực) để hòa tan các kim loại M và Bi khỏi

bề mặt điện cực nền. Trong phép đo tiếp theo, điện cực BiFE được tạo ra và làm sạch

theo cách tương tự trên.

2.2.2. Tiến trình phương pháp von-ampe hòa tan anot và định lượng

Dung dịch nghiên cứu chứa đồng thời BiIII, ZnII, CdII, PbII, CuII và đệm axetat

(pH = 5) được đưa vào bình điện phân gồm 3 điện cực: điện cực nền, điện cực so

sánh Ag/AgCl/KCl 3M và điện cực phụ trợ dây Pt. Tiến trình thực hiện phương

pháp ASV/BiFE như sau:

38

 Giai đoạn làm giàu: Tiến hành điện phân ở thế xác định (Eđp) trong khoảng

thời gian xác định (tđp) để kết tủa đồng thời Bi và các kim loại Me (Me  Zn, Cd,

Pb, Cu) lên bề mặt điện cực nền. Trong giai đoạn điện phân, điện cực quay với tốc

độ không đổi. Lúc này, Bi kim loại kết tủa trên bề mặt điện cực nền tạo ra điện cực

BiFE, hỗ trợ thuận lợi cho các kim loại Me kết tủa trên màng bismut. Phản ứng điện

phân làm giàu xảy ra như ở phản ứng (2.1) ở trên. Kết thúc giai đoạn này, ngừng

quay điện cực 15 - 30 s để bề mặt điện cực ổn định

 Giai đoạn hòa tan: Tiến hành quét thế tuyến tính theo thời gian với tốc độ

không đổi theo chiều anot (từ thế điện phân Eđp đến +300 mV) và đồng thời ghi tín

hiệu (hay đường) von-ampe hòa tan bằng kỹ thuật DP hoặc SqW với các thông số

kỹ thuật thích hợp. Trong giai đoạn này các kim loại Me và Bi bị oxi hóa tan vào

dung dịch theo phản ứng như phản ứng (2.2) ở trên.

Kết thúc giai đoạn hòa tan, tiến hành làm sạch điện cực theo kiểu 2 bước: Áp

lên điện cực thế -1400 mV (Eclean1) trong thời gian 30 s (tclean1), lúc này các kim loại

MeII và BiIII bị khử và bám lên bề mặt điện cực; Sau đó đưa thế trên điện cực đến

+300 mV (Eclean2) trong thời gian 30 s (tclean2) để hòa tan hoàn toàn các kim loại Me

và Bi khỏi bề mặt điện cực nền.

Cuối cùng, xác định thế đỉnh hòa tan (Ep) và độ lớn dòng đỉnh hòa tan (Ip) của

các kim loại từ đường von-ampe hòa tan thu được. Đường von-ampe hòa tan của

mẫu trắng (hay nền) – là mẫu có thành phần tương tự như dung dịch nghiên cứu,

nhưng không chứa các kim loại nghiên cứu – cũng được tiến hành tương tự như

trên. Các kim loại Cu, Pb, Cd và Zn được định lượng bằng phương pháp thêm

chuẩn (3 đến 4 lần thêm). Đối với mỗi phép ghi đường von-ampe hòa tan, trong mọi

trường hợp, luôn bỏ kết quả của phép ghi đầu tiên, vì nó không ổn định. Lí do của

điều này là chưa được hiểu rõ. Toàn bộ tiến trình thực hiện theo phương pháp ASV

được thực hiện tự động theo một chương trình được lập sẵn từ bàn phím của máy

tính ghép nối với hệ thiết bị. Mặt khác, trong mọi phép đo, đều thực hiện 2 – 3 phép

đo lặp lại để lấy giá trị Ep và Ip trung bình.

2.2.3. Tiến trình phương pháp von-ampe hòa tan hấp phụ và định lượng

Tất cả các thí nghiệm theo phương pháp AdSV/BiFE đều được được thực hiện

ở nhiệt độ phòng, 25 – 26 0C. Dung dịch nghiên cứu chứa đồng thời BiIII và các kim

39

loại MII (M  Pb, Cd, Zn), đệm HEPES, phối tử oxin được đưa vào bình điện phân

gồm 3 điện cực tương tự như trong phương pháp ASV/BiFE ở trên. Tiến trình thực

hiện phương pháp AdSV/BiFE như sau:

 Giai đoạn làm giàu (kiểu 2 bước – điện phân và hấp phụ):

Điện cực nền được nhúng vào bình điện phân (cấu hình 3 điện cực) chứa

đồng thời BiIII và các kim loại MII (M  Pb, Cd, Zn), đệm HEPES, phối tử oxin.

Trước hết, tiến hành hoạt hóa bề mặt điện cực nền (không quay điện cực): quét thế

vòng 3 chu kỳ từ -1500 mV đến +500 mV và ngược lại với tốc độ 100 mV/s, rồi

dừng lại ở thế +500 mV trong 30 s. Việc hoạt hóa bề mặt điện cực nền như trên chỉ

được thực hiện sau một loạt phép đo AdSV (khoảng 20 – 30 phép đo).

Tiếp theo, cho điện cực quay với tốc độ không đổi và tiến hành điện phân ở

thế xác định (thế điện phân làm giàu) và thời gian xác định (thời gian điện phân làm

giàu) để kết tủa Bi (tạo ra điện cực BiFE) và đồng thời làm kết tủa các kim loại M

trên bề mặt điện cực. Lúc này xảy ra phản ứng như phản ứng (2.3) ở trên. Ngay sau

đó, ngừng quay điện cực trong khoảng 10 s và đưa thế điện cực đến thế dương hơn

(được gọi là thế hấp phụ làm giàu) trong thời gian xác định (được gọi là thời gian

hấp phụ làm giàu) để hòa tan các kim loại M thành các ion MII (ở thế này Bi chưa bị

. Phức chất đó được hấp phụ ngay

hòa tan). Các ion MII đó tạo phức ngay với phối tử oxin (L) có mặt trong lớp dung

dịch sát bề mặt điện cực, tạo thành phức MLx

trên điện cực BiFE theo phản ứng (2.4) ở trên và do vậy, kim loại được làm giàu

trên điện cực.

 Giai đoạn hòa tan: Kết thúc thời gian hấp phụ làm giàu, tiến hành quét thế

trên điện cực làm việc (theo chiều âm dần) biến thiên tuyến tính theo thời gian (với

tốc độ quét không đổi) và đồng thời ghi đường von-ampe hòa tan bằng kỹ thuật DP

 (đã hấp phụ trên BiFE) bị khử thành kim loại M kết tủa trên điện cực

hoặc SqW với các thông số kỹ thuật thích hợp. Lúc này, ion kim loại MII trong phức

chất MLx

BiFE theo phản ứng (2.5) ở trên. Tiếp theo, tiến hành làm sạch điện cực bằng cách

điện phân ở thế +300 mV trong 60 s để hòa tan các kim loại M và Bi khỏi bề mặt

điện cực nền.

Cuối cùng, xác định thế đỉnh hòa tan (Ep) và độ lớn dòng đỉnh hòa tan (Ip) của

các kim loại từ đường von-ampe hòa tan thu được. Đường von-ampe hòa tan của

40

mẫu trắng cũng được ghi tương tự như trên. Các kim loại M được định lượng bằng

phương pháp thêm chuẩn (3 đến 4 lần thêm). Cũng tương tự như trong phương pháp

ASV/BiFE, luôn bỏ kết quả của phép ghi đầu tiên, vì nó không ổn định. Toàn bộ

tiến trình thực hiện theo phương pháp AdSV/BiFE được thực hiện tự động theo một

chương trình được lập sẵn từ bàn phím của máy tính ghép nối với hệ thiết bị. Trong

mọi phép đo, luôn thực hiện 2 phép đo lặp lại để lấy giá trị Ep và Ip trung bình.

2.2.4. Phương pháp khảo sát ảnh hưởng của các yếu tố đến tín hiệu von-ampe

hòa tan của kim loại

Trong nghiên cứu của luận án, sử dụng phương pháp đơn biến và quy hoạch

hóa/tối ưu hóa thí nghiệm đa biến để khảo sát ảnh hưởng của các yếu tố đến tín hiệu

von-ampe hòa tan của các kim loại.

i) Phương pháp đơn biến:

Theo phương pháp này, chỉ thay đổi (hay biến thiên) yếu tố khảo sát trong một

khoảng xác định và dựa vào sự thay đổi của tín hiệu dòng đỉnh hòa tan (Ip) và độ lặp

lại của Ip để quyết định lựa chọn điều kiện thích hợp. Điều kiện thích hợp (đối với yếu

tố khảo sát) là điều kiện mà ở đó Ip lớn nhất và có độ lặp lại tốt (độ lặp lại được đánh

giá qua độ lệch chuẩn tương đối RSD, %). Phương pháp đơn biến được dùng khá phổ

biến trong hầu hết các nghiên cứu phát triển phương pháp ASV và AdSV.

ii) Phương pháp quy hoạch hóa và tối ưu hóa thí nghiệm đa biến:

Trong thực tế của phương pháp ASV và AdSV, không chỉ một yếu tố mà

nhiều yếu tố (như pH, thế và thời gian điện phân làm giàu, nồng độ phối tử tạo

phức…) có ảnh hưởng đồng thời đến dòng đỉnh hòa tan của kim loại khảo sát. Để

đánh giá ảnh hưởng đồng thời của nhiều yếu tố (hay đa biến) đến tín hiệu đo Ip

(được gọi là hàm mục tiêu), phương pháp quy hoạch hóa thí nghiệm đa biến đã

được thừa nhận là một phương pháp hiệu quả. Sau khi quy hoạch hóa thí nghiệm, áp

dụng phương pháp tối ưu hóa thí nghiệm, sẽ tìm được điều kiện tối ưu (đối với các

yếu tố khảo sát) để thu được tín hiệu đo (hàm mục tiêu) cực đại. Ngoài những ưu

điểm đó, phương pháp quy hoạch hóa và tối ưu hóa thí nghiệm còn cho phép giảm

đáng kể số lượng thí nghiệm [93]. Tiến trình của phương pháp quy hoạch hóa và tối

ưu hóa thí nghiệm đa biến như sau [89], [152]:

- Quy hoạch hóa thí nghiệm (factor experimental design):

41

+ Trước hết, tiến hành thí nghiệm theo phương pháp đơn biến để khảo sát sơ

bộ ảnh hưởng của mỗi yếu tố đến tín hiệu hòa tan (Ip) của các kim loại. Từ đó, xác

định khoảng biến thiên của các yếu tố khảo sát - từ mức thấp (- hoặc -1) đến mức

cao (+ hoặc +1) cho thí nghiệm quy hoạch hóa tiếp theo. Trong nghiên cứu của luận

án, trên cơ sở khảo sát ảnh hưởng theo phương pháp đơn biến, sẽ tìm ra 3 – 4 yếu tố

(hay 3 – 4 biến x1, x2, x3, x4) có ảnh hưởng mạnh đến hàm mục tiêu y (dòng đỉnh

hòa tan Ip) để thực hiện quy hoạch hóa đa biến [85]. Hàm mục tiêu y là hàm đa biến

2 +

bậc 2 có dạng (giả sử có 4 biến x1, x2, x3 và x4):

2 + b33x3

2 + b44x4

y  bo + b1x1 + b2x2 + b3x3 + b4x4 + b11x1x2 + b22x2

b12x1x2 + b13x1x3 + b14x1x4 + b23x2x3 + b24x2x4 + b34x3x4 (2.6)

Phương trình (3.6) còn được gọi là phương trình hồi quy. Trong đó, bo: hệ số

thể hiện ảnh hưởng trung bình của 4 biến (ở mức 0 của chúng – là mức giữa mức

cao (+1) và mức thấp (-1) đến y; các hệ số bi (với i  1 - 4): thể hiện ảnh hưởng (tác

động) chính của các biến xi đến y (tác động bậc 1); bij (với i  1 - 4, j  1 - 4) thể

hiện tác động bậc 2 (của mỗi biến) và tác động đồng thời của 2 biến đến y. Các hệ

số bo, bi và bij còn được gọi là các hệ số hồi quy; Nếu hệ số âm (< 0), nó có tác động

tiêu cực đến y và ngược lại, nếu hệ số dương (> 0), nó có tác động tích cực đến y.

+ Tiếp theo, tiến hành thí nghiệm ảnh hưởng đồng thời của 4 yếu tố (4 biến)

đến y ở mức thấp và mức cao của chúng. Để tăng tính ngẫu nhiên của các thí nghiệm

và tránh mắc sai số hệ thống, các thí nghiệm được thiết kế một cách ngẫu nhiên theo

mô hình thiết kế thí nghiệm trung tâm BBD (Box-Behnken Central Design) với số thí

nghiệm N  2k (k  1)  no (với k là số yếu tố, no là số thí nghiệm lặp lại ở trung tâm,

tức là ở mức 0) [28], [47], [48]. Với 4 yếu tố (k  4) và thí nghiệm lặp lại ở mức 0 là

3 (no  3), thì tổng số thí nghiệm là N  27 [93], [152], [113].

+ Từ ma trận thí nghiệm thu được (các giá trị y ở các mức: mức 0, mức cao và

mức thấp của 4 biến, kể cả ở 3 thí nghiệm lặp lại ở mức 0), trước hết áp dụng phương

pháp bình phương tối thiểu sẽ tính toán được các hệ số hồi quy bo, bi và bij, và các sai

số của chúng (thể hiện qua độ lệch chuẩn), tức là thiết lập được phương trình (2.6).

Song, trong phương trình này, chỉ giữ lại các hệ số có nghĩa – là những hệ số có giá

trị lớn hơn sai số của chúng (sai số này được tính từ tất cả các kết quả thí nghiệm đo

y), sử dụng kiểm định t (t-test): Kiểm định t cho phép xác định sự có nghĩa của các hệ

42

số hồi quy (t  hệ số hồi quy/độ lệch chuẩn của nó, và giá trị t này ứng với một xác

suất p xác định): chỉ giữ lại hệ số khi xác suất p tính được (hay p value) < 0,05 và khi

p càng nhỏ hơn 0,05, hệ số càng có ý nghĩa thống kê; ngược lại, khi p tính được càng

lớn hơn 0,05, thì hệ số càng không có nghĩa và nên loại bỏ trong phương trình (2.6).

+ Tiếp theo, cần đánh giá tính phù hợp của phương trình hồi quy thu được (sau

khi đã loại bỏ các hệ số hồi quy không có nghĩa) dựa vào hệ số xác định (R2) – thể

hiện phần trăm phương sai (hay biến động) của y được giải thích bởi phương trình

hồi quy thu được: R2 càng gần 1 (hay 100%) càng tốt. Mặt khác, cần so sánh

phương sai của phương trình hồi quy thu được với phương sai thí nghiệm hay sai số

dư (thể hiện qua phương sai được tính toán từ các giá trị y của tất cả các thí

nghiệm), dùng phương pháp phân tích phương sai (ANOVA) với kiểm định F (F-

test): (i) So sánh phương sai hồi quy với sai số dư (hay phương sai dư): phương

trình hồi quy chỉ phù hợp khi phương sai hồi quy lớn hơn nhiều phương sai dư, tức

là ứng với p < 0,05 và p càng nhỏ hơn 0,05, phương trình càng phù hợp và ngược

lại; (ii) So sánh sai số dư với sai số của phép đo y (sai số phép đo y là phương sai

được tính toán từ các phép đo y lặp lại ở mức trung tâm); Phép kiểm định này còn

được gọi là kiểm định tính thiếu phù hợp (lack-of-fit), nghĩa là khi giá trị p tính

được càng lớn hơn 0,05 thì độ lệch giữa phương sai dư và phương sai phép đo y là

không có ý nghĩa thống kê, hay nói cách khác, mô hình hồi quy có giá trị hay phù

hợp với kết thí nghiệm.

- Tối ưu hóa thí nghiệm (experimental optimization): Sau khi đã lập được

phương trình hồi quy, bước tiếp theo là áp dụng tối ưu hóa thí nghiệm để tìm điều

kiện tối ưu của các yếu tố (hay biến) sao cho thu được giá trị y (hàm mục tiêu) cực

đại đối với mỗi kim loại. Tất cả các tính toán quy hoạch hóa và tối ưu hóa thí

nghiệm đều được thực hiện theo mô hình BBD sử dụng phần mềm Minitab (version

16.2). Từ phương trình hồi quy thu được, áp dụng thuật toán với Hàm mong muốn

(desiability function) để tính toán (hay dự báo) điều kiện tối ưu của các biến, mà ở

đó hàm mục tiêu (y) đạt cực đại. Các điều kiện tối ưu (hay giá trị dự báo tối ưu) của

các biến đối với một mặt đáp ứng được chuyển dạng thành các khoảng cách di

(không có đơn vị); di nhận các giá trị giữa d  0 (ứng với giá trị của biến đáp ứng y

không mong muốn) và d  1 (ứng với giá trị của biến đáp ứng y hoàn toàn mong

43

muốn); Tiếp theo, tính toán hàm mong muốn D là tổ hợp của các giá trị mong muốn

di (áp dụng trung bình hình học): D  (d1 × d2 × d3 ×…)1/m. Cuối cùng, áp dụng

thuật toán đại số cho hàm khoảng cách D để xác định một tập các biến (xi) sao cho

thu được giá trị cực đại của hàm D.

- Kiểm định mô hình: Sau khi đã có các điều kiện tối ưu của các biến, cần kiểm

định mô hình, sử dụng kiểm định t như sau:

+ Tiến hành 3 thí nghiệm lặp lại (n  3) để xác định y ở điều kiện tối ưu của

các biến;

+ So sánh độ lệch giữa giá trị trung bình thu được (y trung bình thí nghiệm) và

giá trị của y tính toán từ phương trình hồi quy (y lý thuyêt), sử dụng kiểm định t.

Nếu giá trị t tính toán được nhỏ hơn giá trị t tới hạn (t ở mức ý nghĩa 0,05 và bậc tự

do f  n  1  2) hay giá trị p tính toán được lớn hơn 0,05, thì độ lệch đó không có ý

nghĩa thống kê hay nói cách khác, mô hình hồi quy thu được có giá trị.

2.2.5. Phương pháp đánh giá độ tin cậy của phương pháp phân tích

Trước khi áp dụng một phương pháp phân tích bất kỳ vào thực tế, bắt buộc

phải kiểm tra (hay xác định) các thông số thể hiện năng lực của phương pháp phân

tích (performance parameters) như: giới hạn phát hiện (LOD) và giới hạn định

lượng (LOQ), độ lặp lại, khoảng tuyến tính và độ đúng của phương pháp đối với

mỗi chất phân tích (kim loại).

2.2.5.1. Giới hạn phát hiện và giới hạn định lượng

Giới hạn phát hiện của phương pháp phân tích (LOD / Limit of Detection) là

nồng độ nhỏ nhất của chất phân tích mà có thể xác định được một cách tin cậy.

LOD thể hiện khả năng định tính của phương pháp phân tích, tức là có thể phân biệt

được mẫu chứa chất phân tích với mẫu trắng. Theo định nghĩa này, LOD được xác

định theo “quy tắc 3” [131], [89]. Tín hiệu đo ứng với LOD (yLOD) = tín hiệu mẫu

trắng (yB) + 3độ lệch chuẩn (S) của yB (B hoặc SB); tức là:

(2.7)

yLOD = yB + 3SB

Theo quy tắc này, có nhiều cách xác định LOD. Trong phân tích điện hóa,

thường xác định LOD dựa vào các thông tin (hay thông số) thu được từ hồi quy tuyến

tính và chỉ sử dụng các số liệu thu được ở vùng gần gốc tọa độ, tức là vùng có nồng

độ chất phân tích không lớn hơn nhau quá 30 lần [89]. Theo hồi quy tuyến tính: yB

44

được chấp nhận bằng đoạn cắt trên trục tung (a) của đường hồi quy tuyến tính, còn SB

được chấp nhận bằng sai số chuẩn của tín hiệu đo trên trục tung (Sy); từ đó tính được

LOD theo (2.8) [89]:

(2.8) LOD = 3Sy/b

Trong đó, b là độ dốc của đường hồi quy tuyến tính.

Giới hạn định lượng (LOQ/Limit of Quantitation) là thông số thể hiện khả

năng định lượng của phương pháp phân tích. LOQ được định nghĩa là nồng độ nhỏ

nhất trên một đường chuẩn tin cậy và nó được tính toán từ LOD [89]:

LOQ  (3 - 4)  LOD (2.9)

2.2.5.2. Độ lặp lại

Độ lặp lại (precision) thể hiện độ lệch của mỗi kết quả đo riêng lẻ (xi) so với

kết quả trung bình (xTB). Nó phản ánh sai số ngẫu nhiên của phương pháp phân tích

và được đánh giá qua độ lệch chuẩn tương đối (RSD) [131]:

(2.10) RSD (%) = S*100/xTB

Trong đó, S là độ lệch chuẩn.

Độ lặp lại thường được chia thành: Độ lặp lại trong điều kiện thí nghiệm

đồng nhất (repeatability) hay độ chụm (một số trường hợp gọi là độ lặp lại trong nội

bộ phòng thí nghiệm/PTN) và độ lặp lại trong điều kiện thí nghiệm không đồng nhất

(reproducibility) hay độ tái lặp (độ lặp lại trong nhiều PTN hoặc khi thay đổi điều

kiện trong PTN như hóa chất, thiết bị…). Theo (2.10), độ lặp lại (đánh giá qua

RSD) phụ thuộc vào nồng độ chất phân tích (C). Khi C càng nhỏ, độ lặp lại (hay sai

số ngẫu nhiên càng lớn. Phương pháp phân tích đạt được độ lặp lại tốt (hay thỏa

mãn yêu cầu) khi RSD ≤ ½ RSDHorwitz, với RSDHorwitz là độ lệch chuẩn tương

đối tính theo hàm Horwitz [57], [58]:

RSDHorwitz  2(1  0,5log10C) ; với C được biểu diễn bằng phân số (2.11)

Cũng có thể đánh giá độ chụm qua so sánh với mức quy định của AOAC

(Hiệp hội các Nhà khoa học Phân tích Hoa Kỳ) [12], [131], [18]: RSD thu được

phải nhỏ hơn so với quy định của AOAC và RSD phụ thuộc vào nồng độ (C)

chất phân tích.

2.2.5.3. Độ đúng

Độ đúng (accuracy/trueness) của phương pháp phân tích là độ gần của kết quả

45

đo với giá trị thực của nó [131]. Độ đúng của một phương pháp được đánh giá theo

ba cách [72], [131]: (i) Phân tích mẫu vật liệu so sánh được cấp chứng chỉ (CRM)

(hay gọi tắt là mẫu chuẩn); (ii) Phân tích mẫu thực tế được thêm chuẩn (spiked

sample) và (iii) So sánh phương pháp đang dùng với một phương pháp chuẩn nào đó.

Trong nghiên cứu của luận án, độ đúng được đánh giá theo cả cách (ii) và (iii).

 Đánh giá độ đúng bằng cách phân tích mẫu thực tế được thêm chuẩn:

Trước hết phân tích một phần mẫu thực tế, được kết quả x1. Tiếp theo, thêm chuẩn

kim loại cần phân tích vào phần mẫu đó (nồng độ thêm chuẩn là xo; dung dịch

chuẩn được pha chế từ hóa chất tinh khiết ở PTN), rồi tiến hành phân tích mẫu đã

thêm chuẩn, được kết quả x2. Từ đó, tính độ thu hồi (recorvery, viết tắt là Rev) theo

công thức (2.12):

(2.12) Rev(%) = (x2 – x1)*100/xo

Phương pháp phân tích được xem là đạt được độ đúng tốt khi tuân thủ quy

định của AOAC về Rev (Rev phụ thuộc vào nồng độ chất phân tích trong mẫu) [14]

[131]: Khi phân tích những nồng độ cỡ 100 ppb – 1 ppm, 10 ppb và 1 ppb, nếu đạt

được Rev tương ứng trong khoảng 80 – 110 %, 60 – 115 % và 40 – 120 % là

phương pháp đạt được độ đúng tốt.

 Đánh giá độ đúng bằng cách so sánh với phương pháp chuẩn: Theo cách

này, tiến hành phân tích nhiều mẫu thực tế có nồng độ kim loại khác nhau bằng

phương pháp đang dùng (ASV hoặc AdSV) và phương pháp chuẩn (GF-AAS). Sau

đó so sánh kết quả của 2 phương pháp bằng kiểm định t theo cặp (paired-t-test) [89].

2.2.5.4. Khoảng tuyến tính

Khoảng tuyến tính của phương pháp đối với một chất phân tích xác định là

khoảng nồng độ của chất mà trong đó, có tương quan tuyến tính giữa tín hiệu đo (y)

và nồng độ (x). Để thiết lập phương trình hồi quy tuyến tính (y  a  bx), cần áp

dụng phương pháp bình phương tối thiểu để tính a và b. Phép hồi quy được đánh giá

qua hệ số xác định R2, sai số chuẩn của y (Sy), hệ số a và b và phân tích phương sai

(ANOVA) dùng F-test: Chỉ khi phương sai hồi quy lớn hơn so với phương sai dư,

tức là mức ý nghĩa thống kê (p) tính toán được nhỏ hơn 0,05, thì phép hồi quy mới

có giá trị [89].

2.2.6. Phương pháp phân tích thống kê

46

Sử dụng phần mềm MS Excel với công cụ Data Analysis để phân tích thống

kê các số liệu: tính toán các đại lượng thống kê mô tả (trung bình số học, độ lệch

chuẩn, biên giới tin cậy 95%); phân tích tương quan và hồi quy tuyến tính; kiểm

định thống kê (t-test, F-test) …

2.3. Thiết bị, dụng cụ và hóa chất

2.3.1. Thiết bị và dụng cụ

- Máy phân tích điện hóa CPA–HH5 Computerized Polarography Analyzer

với cấu hình 3 điện cực (PTN Ứng dụng Tin học trong Hóa học, Viện hàn lâm Khoa

học và Công nghệ Việt Nam chế tạo); Và máy 746 VA Trace Analyzer của hãng

Metrohm (Thụy Sĩ);

- Máy phân hủy mẫu bằng bức xạ UV: UV digester (Metrohm). Máy siêu âm

Cole – Parmer 8890 dùng để rửa dụng cụ thủy tinh;

- Cân phân tích Precisa XB 220A, Thụy Sĩ; Máy cất nước hai lần Aquatron

(Bibby Sterilin, Anh); máy đo pH 340 WTW (Đức);

- Các điện cực và bình điện phân: điện cực đĩa rắn quay than thuỷ tinh

(đường kính 2,8 ± 0,1 mm); điện cực so sánh Ag/AgCl/KCl 3 M; điện cực phụ trợ

là dây Pt; bình điện phân dung tích 50 mL;

- Micropipet các loại: 10 - 100 μL; 100 - 1000 μL; 1000 - 5000 μL của hãng

Labnet, Hoa Kỳ;

- Các dụng cụ thuỷ tinh như buret, pipet, bình định mức... và các chai thủy

tinh, chai nhựa PET đựng hóa chất đều được rửa sạch trước khi dùng bằng cách ngâm

qua đêm trong dung dịch HNO3 2 M, sau đó siêu âm và rửa lại bằng nước cất 2 lần.

2.3.2. Hóa chất

- Nước dùng để pha chế hóa chất và tráng rửa dụng cụ là nước cất 2 lần và

được bảo quản trong chai nhựa PET hoặc chai thủy tinh sạch;

- Các dung dịch chuẩn kim loại BiIII, CuII, PbII, CdII, ZnII, FeIII… là loại dùng

cho phương pháp quang phổ hấp thụ nguyên tử (AAS) của hãng Merck (Đức), có

nồng độ 1000 mg/L. Các dung dịch trung gian và dung dịch làm việc được pha hàng

ngày từ các dung dịch chuẩn đó;

- Các dung dịch axit HNO3 (d = 1,41 g/mL), HCl (d = 1,18 g/mL) và

CH3COOH (d = 1,05 g/mL); các hóa chất NaOH, CH3COONa đều là của hãng

47

Merck (Đức).

- Dung dịch đệm HEPES được pha từ HEPES rắn loại tinh khiết phân tích

(Dojindo, Nhật Bản) trong đệm amoni;

- Dung dịch HCl và NH3 tinh khiết (dùng để pha đệm amoni) được chuẩn bị như

sau: Đặt 2 cốc Teflon sạch – cốc (1) chứa nước cất sạch và cốc (2) chứa dung dịch

NH3 đặc (hoặc HCl đặc), trong bình hút ẩm có nắp kín; Lúc này NH3 (hoặc HCl) tự

bay hơi từ cốc (2) và được hấp thụ vào nước cất sạch ở cốc (1). Sau một thời gian (6

– 7 ngày), lấy cốc (1) đem chuẩn độ theo phương pháp axit – bazơ để xác định chính

xác nồng độ của dung dịch NH3 (hoặc HCl) tinh khiết thu được. Nồng độ HCl và

NH3 trong dung dịch tinh khiết thu được tương ứng là 4,280 M và 5,200 M.

- Dung dịch oxine 0,010 M được pha từ oxine rắn (Merck) trong HCl 0,015 M

48

(HCl được pha từ HCl tinh khiết thu được ở trên).

Chương 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

3.1. Đặc tính von-ampe và động học các phản ứng điện cực trong phương pháp

von-ampe vòng

Khi nghiên cứu phát triển phương pháp von-ampe nói chung và phương pháp

von-ampe hòa tan nói riêng, trước hết cần áp dụng phương pháp von-ampe vòng

(cyclic voltammetry) để khảo sát đặc tính von-ampe hòa tan và động học các quá

trình điện cực của chất phân tích trên điện cực đang nghiên cứu. Các kết quả thu

được từ những khảo sát theo phương pháp von-ampe vòng sẽ cung cấp các thông tin

có giá trị về khả năng xác định các kim loại (Cu, Pb, Cd và Zn) trên điện cực BiFE

theo phương pháp ASV và AdSV như: tính thuận nghịch/bất thuận nghịch của các

cặp Men+/Me (Me là kim loại), số proton và số electron trao đổi trong các phản ứng

điện cực, hệ số chuyển điện tích (), hằng số tốc độ truyền electron dị thể (ks), các

phản ứng điện hóa, phản ứng hóa học của phối tử tạo phức, thành phần nền… xảy ra

trong khoảng thế nghiên cứu… [25], [56].

3.1.1. Đặc tính von-ampe của các kim loại trên điện cực BiFE

Đặc tính von-ampe của Cu, Pb, Cd và Zn trong phương pháp von-ampe vòng

(CV) được khảo sát trên thiết bị CPA–HH5 Computerized Polarography Analyzer

với cầu hình 3 điện cực – điện cực đĩa than thủy tinh, điện cực so sánh

Ag/AgCl/KCl và điện cực phụ trợ Pt. Điện cực làm việc là điện cực BiFE - điện cực

màng bismut được tạo ra theo kiểu in situ trên nền đĩa than thủy tinh trong quá trình

điện phân ở thế đủ âm trước quét thế vòng. Tiến hành khảo sát đường von-ampe

vòng trong hai trường hợp: (1) Có giai đoạn điện phân trước ở thế -1,40 V trong 120

s (khuấy dung dịch với tốc độ không đổi trong quá trình điện phân) và dung dịch chỉ

chứa nền đệm axetat 0,10 M (pH = 4,5); (2) Tương tự như trường hợp (1), nhưng

dung dịch chứa nền đệm axetat 0,10 M (pH = 4,5), 500 ppb BiIII và 15 ppm mỗi kim

loại MeII (Me  Cu, Pb, Cd, Zn). Kết thúc giai đoạn điện phân trước, tiến hành quét

thế vòng bắt đầu từ –1,40 V đến 0,20 V và ngược lại, thu được các đường von-ampe

49

vòng như ở hình 3.1.

Điều kiện thí nghiệm (ĐKTN): Trường hợp (1) - Dung dịch chỉ chứa đệm axetat 0,10 M (lúc này điện cực làm việc là điện cực đĩa than thủy tinh/GCE) - ứng với đường GCE; Trường hợp (2) - Dung dịch chứa 500 ppb BiIII và 15 ppm mỗi kim loại trong đệm axetat 0,10 M; pH 4,5 (lúc này điện cực làm việc là BiFE) - ứng với đường BiFE; Trong cả 2 trường hợp, tốc độ quay điện cực trong giai đoạn điện phân trước (ở -1,40 V trong 120 s) là 2000 vòng/phút; Giai đoạn quét thế vòng được thực hiện với tốc độ quét thế v  0,20 V/s.

Hình 3.1. Các đường von-ampe vòng đối với các kim loại khảo sát.

Từ hình 3.1 cho thấy:

- Trong trường hợp (1), thành phần nền (đệm axetat) không gây ra phản ứng

điện hóa nào trên điện cực GCE và do vậy, không xuất hiện đỉnh nào trên đường

von-ampe vòng;

- Trong trường hợp (2), khi quét thế về phía dương dần, xuất hiện 5 đỉnh tách

biệt nhau ứng với quá trình anot (quá trình oxi hóa) của lần lượt 5 kim loại Zn, Cd,

Pb, Bi và Cu với các thế đỉnh anot tương ứng là Epa(Zn)  -1,140 V; Epa(Cd)  -0,820

V; Epa(Pb)  -0,530 V; Epa(Bi)  -0,260 V và Epa(Cu)  -0,082 V. Khi quét thế về phía

âm dần, cũng lần lượt xuất hiện 5 đỉnh tách biệt nhau của quá trình catot (quá trình

khử) lần lượt Cu2+, Bi3+, Pb2+, Cd2+ và Zn2+. Do độ chênh lệch giữa thế đỉnh catot

Epc và thế bán đỉnh Epc/2 (thế ứng với nửa chiều cao đỉnh catot, Ipc/2) đối với cả 4

kim loại và Bi đều xấp xỉ 0,030 V (theo lý thuyết, độ chênh lệch thế đó đối với hệ

thuận nghịch là 0,056/n V ở 25 oC; n là số electron trao đổi trong phản ứng điện

50

cực [25], [23]), nên bước đầu có thể cho rằng, các cặp kim loại đó trong điều kiện

thí nghiệm là các hệ thuận nghịch hoặc gần thuận nghịch (quasi-reverible). Số

electron trao đổi trong các phản ứng khử các ion kim loại MeII được chấp nhận là

n  0,056/0,030  2. Song, để khẳng định chắc chắn về tính thuận nghịch của các

cặp oxi hóa khử MeII/Me, cần khảo sát ảnh hưởng của dòng đỉnh catot (Ipc) đến tốc

độ quét thế (điều này được đề cập chi tiết ở mục 3.1.2 dưới đây).

- Do nồng độ BiIII nhỏ hơn nhiều so với các kim loại khác, nên đỉnh anot và

catot của nó nhỏ hơn nhiều so với các kim loại khác. Song, có thể thấy rằng, dù ở

nồng độ nhỏ, nhưng BiIII rất dễ bị khử và Bi kim loại dễ bị hòa tan trên bề mặt

điện cực nền đĩa than thủy tinh (GCE). Điều này sẽ tạo thuận lợi cho việc sử dụng

màng bismut tạo thành trên GCE làm điện cực làm việc cho phương pháp ASV

khi trong dung dịch, nồng độ BiIII cao hơn nhiều nồng độ các kim loại cần phân

tích (Me). Cũng cần thấy rằng, do cặp CuII/Cu có thế oxi hóa khử dương hơn so

với cặp BiIII/Bi, nên trong giai đoạn điện phân trước ở -1,40 V, đầu tiên CuII bị

khử, tiếp theo là BiIII bị khử và tạo thành màng hỗn hợp Bi-Cu trên bề mặt GCE.

Màng hỗn hợp đó (trên bề mặt GCE) tạo thành điện cực làm việc sẽ tạo điều kiện

cho quá trình khử tiếp theo các ion kim loại PbII, CdII và ZnII và do vậy, tạo thành

hỗn hợp các Me và Bi trên bề mặt GCE.

Như vậy, trong khoảng thế khảo sát (-1,40 V đến 0,20 V), thành phần nền

không ảnh hưởng gì đến phản ứng điện hóa của các kim loại trên điện cực làm

việc. Khi có giai đoạn điện phân làm giàu trước ở -1,40 V, các kim loại Me và Bi

được tập trung lên bề mặt GCE (do chúng đều bị khử ở thế -1,40 V trên bề mặt

GCE) và khi quét thế vòng, các cặp kim loại MeII/Me và BiIII/Bi đều thể hiện đặc

tính thuận nghịch hoặc gần thuận nghịch, nên hoàn toàn có thể xác định chúng

theo phương pháp ASV [19]. Mặt khác, do có sự tách các đỉnh hòa tan anot rõ rệt,

nên có thể xác định đồng thời chúng theo phương pháp ASV trong nền đệm axetat

0,10 M (pH = 4,5).

3.1.2. Động học các quá trình điện cực

3.1.2.1. Ảnh hưởng của pH

pH dung dịch ảnh hưởng đến dạng tồn tại của kim loại trong dung dịch và do đó

cũng ảnh hưởng đến các quá trình điện cực của chúng, tức là ảnh hưởng đến thế đỉnh

51

và dòng đỉnh của quá trình oxi hóa - khử các kim loại trên bề mặt điện cực. Mặt khác,

ion H+ trong dung dịch cũng có thể tham gia vào phản ứng hóa học trước hoặc sau

hoặc đồng thời với phản ứng chuyển electron dị thể trên bề mặt điện cực. Phương

pháp von-ampe vòng không chỉ cung cấp thông tin về ảnh hưởng của pH, mà còn cho

phép xác định số proton (hay số ion H+) trao đổi trong phản ứng hóa học kèm theo

phản ứng truyền electron (hay phản ứng điện cực).

Hình 3.2. (a). Các đường von-ampe vòng của Cu, Pb, Cd và Zn ở các pH khác

nhau; (b) Ảnh hưởng của pH đến Epc; (c) Ảnh hưởng của pH đến Ipc của các kim

loại; các thanh vuông góc ở mỗi điểm thí nghiệm trên hình (c) thể hiện độ lệch

ĐKTN: 500 ppb BiIII; 15 ppm mỗi kim loại (CuII, PbII, CdII, ZnII); đệm axetat 0,10 M; Điện phân làm giàu trước ở -1,40 V trong 120 s; Tốc độ quét thế v  0,20 V/s;

52

chuẩn  S (n  3).

Kết quả khảo sát ảnh hưởng của pH trong khoảng 4 - 8 (đệm axetat) theo

phương pháp von-ampe vòng trên điện cực BiFE cho thấy:

- Khoảng pH thích hợp là 5 – 6, vì trong khoảng này, dòng đỉnh canot (Ipc) của

các kim loại đều lớn. Riêng Cu và Pb, ở pH < 5, cho giá trị Ipc cao hơn, nhưng

không nhiều (hình 3.2(c) và bảng 3.1). Có thể trong dung dịch axit hơn (pH < 5), Cu

và Pb tồn tại ở dạng dễ bị khử hơn so với những pH > 5 và do vậy, nó được làm

giàu hiệu quả hơn, dẫn đến Ipc cao hơn;

- Ở những pH > 6, dòng đỉnh canot Ipc của cả 4 kim loại (Cu, Pb, Cd, Zn) đều

giảm mạnh. Ở pH < 5, Ipc của Cd và Zn cũng giảm (hình 3.2(c) và bảng 3.1). Mặt

khác, khi tăng pH, thế đỉnh canot (Epc) của các kim loại chuyển dịch về phía thế âm

hơn: trong khoảng pH  4 – 8, đối với cả 4 kim loại, Epc âm hơn khoảng 0,20 – 0,24

V (hình 3.2(b) và bảng 3.2). Có thể khi tăng pH, các kim loại tồn tại ở dạng khó bị

khử hơn và do vậy, sự làm giàu kém hiệu quả hơn, dẫn đến các giá trị Ipc thấp hơn,

nhưng chúng dễ bị hòa tan hơn, nên Epc âm hơn. Giá trị pH = 5 được chọn cho các

nghiên cứu tiếp theo.

pH

Ipc(Cu) (µA)

Ipc(Pb) (µA)

Ipc(Cd) (µA)

Ipc(Zn) (µA)

1,611

2,457

0,919

1,379

4

1,543

2,339

2,333

1,863

5

1,572

2,165

2,248

1,836

6

1,242

0,705

0,781

0,87

7

1,264

0,725

0,813

0,694

8

(*) ĐKTN: Như ở hình 3.2

Bảng 3.1. Dòng đỉnh Ipc trung bình của Cu, Pb, Cd và Zn ở các pH khác nhau (n  3)(*)

Bảng 3.2. Thế đỉnh Epc trung bình của Cu, Pb, Cd và Zn ở các pH khác nhau (n  3)(*)

(*) ĐKTN: Như ở hình 3.2

53

Epc(Cu) (V) -0,019 -0,049 -0,123 -0,184 -0,220 Epc(Pb) (V) -0,549 -0,607 -0,687 -0,729 -0,789 Epc(Cd) (V) -0,824 -0,886 -0,925 -0,997 -1,029 Epc(Zn) (V) -1,101 -1,189 -1,268 -1,295 -1,342 pH 4 5 6 7 8

Số proton trao đổi trong phản ứng hóa học kèm theo phản ứng truyền

electron: Từ kết quả ở bảng 3.2, thiết lập được các phương trình hồi quy tuyến tính

biểu diễn sự phụ thuộc giữa thế đỉnh catot Epc (V) và pH như ở (3.1a – 3.1d) (các

đường hồi quy tuyến tính được thể hiện ở hình 3.2.(b)):

(3.1a); R2 (hệ số xác định) = 0,977 Epc.Cu = (0,20 ± 0,03) + (-0,054 ± 0,004)pH

(3.1b); R2 = 0,990 Epc.Pb = (-0,31 ± 0,02) + (-0,060 ± 0,003)pH

(3.1c); R2 = 0,984 Epc.Cd = (-0,62 ± 0,02) + (-0,052 ± 0,003)pH

(3.1d); R2 = 0,941 Epc.Zn = (-0,87 ± 0,05) + (-0,059 ± 0,007)pH

Với giả thiết, phản ứng truyền electron và phản ứng hóa học có sự tham gia

của proton (ion H+) xảy ra rất nhanh và do vậy, trên bề mặt điện cực luôn đạt được

oC), mối quan hệ giữa thế đỉnh Epc (V) và pH của một cặp oxi hóa khử O/R thuận

cân bằng động hay quá trình điện cực tuân theo Nernst, thì ở nhiệt độ 298 K (25

nghịch (O và R tương ứng là dạng oxi hóa và dạng khử) như sau [25], [24]:

0,0591

p

aOx + ne- +pH+  bR (3.2)

𝑛

𝑜𝑥𝑎 𝑅𝑏 − 0,0592

n

(3.3) 𝑙𝑜𝑔 pH 𝐸𝑝𝑐 = 𝐸𝑂 +

𝒑

Trong đó, p: số proton trao đổi, n: số điện tử trao đổi.

𝐧

𝐩𝐇 (3.4) Phương trình (3.2) được viết lại như sau: 𝐄𝐩𝐜 = 𝐄𝒐′ − 𝟎, 𝟎𝟓𝟗𝟐

Từ (3.4) và độ dốc (hệ số trước pH) của các phương trình hồi quy tuyến tính

3.1a – 3.1d, xác định được giá trị p/n đối với Cu, Pb, Cd và Zn tương ứng là 0,91;

1,01; 0,88 và 0,99. Các giá trị này xấp xỉ bằng 1, nên có thể cho rằng, trong phản ứng

(3.2), số proton (p) bằng số điện tử trao đổi (n).

3.1.2.2. Ảnh hưởng của tốc độ quét thế

Trong phương pháp von-ampe vòng, tốc độ quét thế có thể ảnh hưởng đến

đáp ứng von-ampe (dòng đỉnh và thế đỉnh) và do vậy, ảnh hưởng đến động học của

phản ứng điện hóa xảy ra trên bề mặt điện cực [31]. Việc khảo sát ảnh hưởng của

tốc độ quét thế đến đáp ứng von-ampe trong phương pháp von-ampe vòng sẽ cung

cấp thông tin về đặc trưng điện hóa của các kim loại trên bề mặt điện cực. Kết quả

ghi đường von-ampe vòng của các kim loại ở các tốc độ quét thế khác nhau (từ 0,20

54

đến 0,60 V/s) được nêu ở hình 3.3(a).

Hình 3.3. (a) Các đường von-ampe vòng ở các tốc độ quét thế khác nhau; (b) Sự

phụ thuộc giữa dòng đỉnh catot (Ipc) và tốc độ quét thế v; (c) Sự phụ thuộc giữa thế

ĐKTN: Đệm axetat (pH  5); Các ĐKTN khác như ở hình 3.2. Các thanh vuông góc ở

mỗi điểm thí nghiệm trên hình (b) và (d) thể hiện độ lệch chuẩn (n  3).

đỉnh catot (Epc) và lnv; (d) Sự phụ thuộc giữa Ipc và v1/2.

Bảng 3.3. Các giá trị Ipc trung bình đối với Cu, Pb, Cd và Zn ở các tốc độ quét thế

khác nhau (*)

v (V/s) Ipc(Cu) (µA) Ipc(Pb) (µA) Ipc(Cd) (µA) Ipc(Zn) (µA)

1,639 1,543 0,2 1,843 2,333

1,722 1,635 0,3 1,943 2,362

1,754 1,726 0,4 2,014 2,392

1,795 1,751 0,5 2,101 2,398

ĐKTN: Như hình 3.3

55

1,859 1,827 0,6 2,269 2,412

Bảng 3.4. Các giá trị Epc trung bình của Cu, Pb, Cd và Zn ở các ln v khác nhau(*)

ln v Epc(Cu) (V) Epc(Pb) (V) Epc(Cd) (V) Epc(Zn) (V)

-1,61 -0,061 -0,512 -0,800 -1,105

-1,20 -0,049 -0,500 -0,794 -1,096

-0,92 -0,043 -0,496 -0,784 -1,093

-0,69 -0,038 -0,491 -0,777 -1,084

ĐKTN: Như ở hình 3.3.

-0,51 -0,036 -0,486 -0,774 -1,080

i) Về tính thuận nghịch và yếu tố kiểm soát tốc độ quá trình điện cực (quá

trình catot):

Theo Randles-Sevcik, đối với hệ thuận nghịch, khi dạng oxi hóa (các ion kim

loại MeII, với Me  Cu, Pb, Cd, Zn) tan trong dung dịch và tốc độ của quá trình điện

cực (quá trình catot) được quyết định bởi sự khuyếch tán bán giới hạn (bán giới hạn

ở đây được hiểu là khuyếch tán của MeII đến bề mặt bị giới hạn bởi điện cực), ở

25oC giữa Ipc và v1/2 có tương quan tuyến tính theo phương trình (3.5) [99]:

(3.5) Ipc = 2,69.105.n3/2.A.C*.D1/2. v1/2

Trong đó, A là điện tích bề mặt điện cực (cm2); n là số điện tử trao đổi; D là

hệ số khuếch tán của dạng oxi hóa MeII (cm2/s), C* là nồng độ của MeII trên bề mặt

điện cực (mol/cm3), v là tốc độ quét thế (V/s) và Ipc là dòng đỉnh catot (Ampe).

Từ các kết quả ở bảng 3.3, giữa Ipc và v1/2 có tương quan tuyến tính chặt (với

R2  0,87 – 0,98) theo các phương trình hồi quy tuyến tính như sau (các đường hồi

quy tuyến tính được nêu ở hình 3.3(d)):

(3.6a) Ipc,Cu = (1,37 ± 0,07) + (1,10 ± 0,10) · v1/2 , R2 = 0,958

(3.6b) Ipc,Pb = (2,26 ± 0,02) + (0,19 ± 0,04) · v1/2 , R2 = 0,867

(3.6c) Ipc,Cd = (1,35± 0,03) + (0,63 ± 0,04) · v1/2 , R2 = 0,980

(3.6d) Ipc,Zn = (1,14 ± 0,04) + (0,91 ± 0,06) · v1/2 , R2 = 0,981

Như vậy, có thể khẳng định rằng, quá trình catot (quá trình khử) các ion kim

loại (MeII) ở đây được kiểm soát bởi sự khuyếch tán và các hệ oxi hóa khử MeII/Me

trên bề mặt điện cực đều là hệ thuận nghịch.

56

Mặt khác, các kết quả ở bảng 3.4 và hình 3.3(c), đối với cả 4 kim loại (Me),

giữa Epc hầu như không thay đổi theo lnv (hoặc v), nên càng cho phép khẳng định

chắc chắn rằng, các hệ MeII/Me trên điện cực làm việc là thuận nghịch [24], [25].

ii) Giả thiết về các phản ứng xảy ra trên bề mặt điện cực làm việc:

Từ các kết quả thu được ở trên, có thể giả thiết về các phản ứng xảy ra trên

bề mặt điện cực đĩa than thủy tinh (GCE) trong giai đoạn quét thế âm dần và dương

dần trong phương pháp von-ampe vòng như sau:

- Khi quét thế âm dần và đạt đến thế đủ âm để các ion kim loại bị khử:

CuII + 2e  Cu/GCE (3.7a)

BiIII + 3e  Bi/GCE (tạo thành điện cực BiFE) (3.7b)

MeII + BiIII  5e  Me/BiFE (với Me  Cu, Pb, Cd và Zn) (3.7c)

- Khi quét thế dương dần và đạt đến thế đủ dương để hòa tan lần lượt các

+ Cd-Pb-Cu/BiFE + 2e + 2H+ (3.7d)

kim loại:

+ Pb-Cu/BiFE + 2e + 2H+ (3.7e)

Me/BiFE + 2CH3COOH  Zn(CH3COO)2

+ Cu/BiFE + 2e + 2H+

Cd-Pb-Cu/BiFE + 2CH3COOH  Cd(CH3COO)2

+ Cu/GCE + 3e + 3 H+

(3.7f) Pb-Cu/BiFE + 2CH3COOH  Pb(CH3COO)2

+ 2e + 2H+

(3.7g) Cu/BiFE + 3 CH3COOH  Bi(CH3COO)3

(3.7h) Cu/GCE + 2CH3COOH  Cu(CH3COO)2

Trong phương pháp von-ampe vòng, mỗi phản ứng xảy ra ở trên (ứng với

phản ứng oxi hóa hoặc khử mỗi kim loại), sẽ làm phát sinh dòng điện và do vậy,

xuất các đỉnh anot hoặc catot tương ứng. Mặt khác, các phản ứng giả thiết ở trên sẽ

là cơ sở cho phương pháp ASV dùng điện cực BiFE xác định đồng thời các kim loại

Me được đề cập dưới đây.

3.2. Phương pháp ASV xác định đồng thời các kim loại trên điện cực BiFE

3.2.1. Ảnh hưởng của các yếu tố đến đáp ứng hòa tan anot của các kim loại

Như đã đề cập ở mục 2.2.2 về tiến trình phương pháp ASV dùng điện cực

BiFE in situ (viết tắt là BiFE) xác định các kim loại Me (Me  Cu, Pb, Cd, Zn), ở

đây sử dụng kỹ thuật von-ampe hoà tan xung vi phân (DP) để ghi đáp ứng hay tín

hiệu hòa tan (để cho gọn, viết tắt tên phương pháp là DP-ASV/BiFE). Song, để tìm

được các điều kiện thích hợp cho phương pháp DP-ASV/BiFE xác định đồng thời

57

các kim loại Me, trước hết cần khảo sát ảnh hưởng của các yếu tố đến đáp ứng hòa

tan anot (dòng đỉnh hòa tan Ip và thế đỉnh hòa tan Ep) của các Me, bao gồm: Nồng

độ BiIII dùng để tạo điện cực màng BiFE, thế điện phân và thời gian điện phân làm

giàu, tốc độ quét thế, các thông số kỹ thuật von-ampe xung vi phân...

Khi thí nghiệm khảo sát ảnh hưởng của các yếu tố đến đáp ứng hòa tan của

các kim loại Me, đối với mỗi thí nghiệm (ở một mức của yếu tố khảo sát), đều được

thực hiện lặp lại 4 lần (hay 4 phép đo đáp ứng hòa tan). Song, trong mọi thí nghiệm,

luôn bỏ đi kết quả của phép đo đầu tiên, vì nó không được ổn định. Sở dĩ vậy là do

các kim loại mới hình thành trên bề mặt GCE có thể chưa phân bố đều hoặc còn

dịch chuyển đến các vị trí có năng lượng thấp hơn, hoặc tương tác với nhau tạo

thành các cụm kim loại hoặc hợp kim... và do vậy bề mặt điện cực chưa ổn đinh.

Điều này cũng được thông báo trong nhiều nghiên cứu trước đây khi nghiên cứu

trên điện cực BiFE [140]. Sau đó, lấy giá trị trung bình của 3 phép đo còn lại (n  3)

để thu được dòng đỉnh hòa tan anot (Ip) và thế đỉnh hòa tan anot (Ep) trung bình. Kết

thúc giai đoạn hòa tan (hay kết thúc mỗi thí nghiệm), tiến hành làm sạch điện cực

theo kiểu 2 bước: Áp lên điện cực thế đủ âm (Eclean1) trong thời gian xác định (tclean1)

để kết tủa các kim loại Me và Bi lên bề mặt GCE, sau đó đưa thế trên điện cực đến

thế đủ dương (Eclean2) trong thời gian xác định (tclean2) để hòa tan hoàn toàn các kim

loại Me và Bi khỏi bề mặt điện cực nền (GCE).

Khi khảo sát ảnh hưởng của các yếu tố đến đáp ứng hòa tan của các kim loại

Me, các điều kiện thí nghiệm cố định ban đầu trong phương pháp DP-ASV/BiFE

58

được nêu ở bảng 3.5.

STT

Điều kiện thí nghiệm

Ký hiệu

Giá trị

Đơn vị

Giai đoạn làm giàu:

Thế điện phân làm giàu

1

-1400

mV

Eđp

Thời gian điện phân làm giàu

2

120

s

tđp

Tốc độ quay điện cực

ω

3

2000

vòng/phút

Thời gian nghỉ

4

15

s

trest

Giai đoạn hòa tan:

Khoảng quét thế

5

-1400 đến +300

mV

Erange

Tốc độ quét thế

v

6

20

mV/s

Các thông số kỹ thuật DP:

- Biên độ xung

∆E

50

mV

- Bề rộng xung

50

ms

tpulse

7

- Bước nhảy thế

6

mV

Ustep

- Thời gian mỗi bước thế

0,3

s

tstep

- Thời gian đo dòng

5

ms

tmeas

Giai đoạn làm sạch bề mặt điện cực nền (GCE) theo kiểu 2 giai đoạn:

Giai đoạn 1: Áp thế đủ âm

-1400

mV

Bảng 3.5. Các điều kiện thí nghiệm cố định ban đầu trong phương pháp DP-ASV/BiFE

8

Thời gian áp thế

30

s

Eclean1

Giai đoạn 2: Áp thế đủ dương

9

300

mV

tclean1

Thời gian áp thế

30

s

Eclean2

tclean2

3.2.1.1. Ảnh hưởng của nồng độ BiIII

Bismut kim loại (Bi) sẽ kết tủa trên bề mặt đĩa than thủy tinh (GCE) tạo ra điện

cực BiFE (điện cực làm việc) trong giai đoạn điện phân làm giàu. Điện cực làm việc

trong bất kỳ phương pháp phân tích điện hóa nào cũng luôn đóng vai trò quan trọng,

ảnh hưởng nhiều đến sự thành công của phương pháp phân tích. Do vậy, nồng độ BiIII

(ký hiệu là [BiIII]) là yếu tố quan trọng để tạo ra điện cực BiFE và nó ảnh hưởng đến

Ip của các kim loại Me. Các kết quả khảo sát ảnh hưởng của nồng độ BiIII ([BiIII])

trong khoảng 100 ppb − 1000 ppb đến dòng đỉnh hòa tan (Ip) của các kim loại Me ở

bảng 3.5 và hình 3.4 cho thấy:

- [BiIII] thích hợp là 400 − 1000 ppb; trong khoảng này, các giá trị Ip của các

59

kim loại Me ít thay đổi và có độ lặp lại tốt với RSD < 7% (n  3);

Cu

Pb

Cd

Zn

[BiIII] (ppb)

Ip (µA) RSD(%)

Ip (µA) RSD(%)

Ip (µA) RSD(%)

Ip (µA) RSD(%)

0

0

-

0

-

0

-

0

-

100

0,354

11

1,208

4,0

1,392

4,5

1,386

0,6

200

0,461

1,7

1,268

2,7

1,490

3,1

1,455

6,0

300

0,932

1,8

1,348

1,0

2,081

2,1

1,334

3,7

400

1,319

6,8

1,624

3,8

2,140

3,2

1,299

0,6

500

1,346

0,9

1,891

1,2

2,105

0,5

1,467

5,8

600

1,289

3,1

1,931

5,0

1,974

2,2

1,491

5,8

700

1,397

4,0

1,882

4,2

2,026

2,3

1,597

0,8

800

1,407

5,0

1,930

2,9

2,142

1,1

1,661

4,2

900

1,479

6,4

1,829

4,0

1,975

1,1

1,699

1,0

1000

1,631

1,700

2,045

1,963

2,8

5,5

3,3

2,9 (*) Các giá trị Ip trong bảng là Ip trung bình (n  3); RSD (độ lệch chuẩn tương đối của các

giá trị Ip với n  3).

ĐKTN: Máy CPA–HH5 Computerized Polarography Analyzer; Đệm axetat 0,10 M (pH 

5); Thể tích dung dịch trong bình điện phân (V) là 10 mL; Nồng độ các kim loại trong dung dịch ([MeII]): [CuII]  [CdII]  [PbII]  10 ppb, [ZnII]  20 ppb; Các ĐKTN khác như bảng 3.5.

Bảng 3.6. Dòng đỉnh hòa tan anot (Ip) của các Me ở các [BiIII] khác nhau(*)

ĐKTN: Như ở bảng 3.6, các thanh vuông góc ở mỗi điểm thí nghiệm thể hiện độ lệch chuẩn (n  3)

60

Hình 3.4. Ảnh hưởng của [BiIII] đến Ip của các kim loại

- Trong khoảng [BiIII]  100 – 400 ppb, các giá trị Ip của các kim loại Me

tăng khi tăng [BiIII]. Điều này chứng tỏ rằng, sự tăng [BiIII] đã làm tăng hiệu quả

làm giàu các Me trên bề mặt điện cực và do vậy, đã làm tăng Ip.

Khi nghiên cứu sử dụng điện cực BiFE để xác định Pb bằng phương pháp

ASV, Đ. V. Khánh [2] đã cho rằng, nồng độ BiIII thích hợp là 200 − 800 ppb. Kết

quả này cũng phù hợp với các kết quả thu được ở trên. Song, trong hệ nghiên cứu

không chỉ có mặt Pb, mà còn có mặt cả Cu, Cd và Zn, nên cần nồng độ BiIII cao hơn

(400 – 1000 ppb) để tăng hiệu quả làm giàu trên bề mặt điện cực làm việc. Mặt

khác, một số nghiên cứu cho rằng, trong quá trình điện phân làm giàu, trên bề mặt

đĩa than thủy tinh (GCE), bismut kim loại (Bi) tạo hợp kim kép (bialloy) với Pb, Cd

và Zn, nhưng nó không tạo hợp kim kép với Cu, mà kết tủa cạnh tranh chiếm chỗ

trên bề mặt GCE với Cu và do vậy, nồng độ BiIII ảnh hưởng mạnh đến Ip của Cu

[19], [2]. Hiện tượng đó cũng quan sát được trong nghiên cứu này: Do cạnh tranh

chiếm chỗ trên bề mặt GCE, nên khi tăng nồng độ BiIII trong khoảng 100 – 400 ppb,

Ip của Pb, Cd và Zn tăng đáng kể, nhưng Ip của Cu tăng ít hơn (hình 3.4). Mặc dù bị

chiếm chỗ cạnh tranh, nhưng sự có mặt của lượng lớn Bi trên bề mặt GCE ([BiIII]

cao hơn 10 – 40 lần [CuII]) cũng tạo điều kiện cho sự kết tủa Cu trên bề mặt đó và

do vậy, khi tăng nồng độ BiIII, Ip của Cu cũng tăng theo. Các kết quả ở trên cho

phép khẳng định rằng, sự có mặt của màng Bi trên bề mặt điện cực nền GCE đã tạo

ra kiểu điện cực làm việc BiFE, hỗ trợ hiệu quả sự làm giàu các kim loại Cu, Pb, Cd

và Zn trên bề mặt điện cực trong phương pháp DP-ASV/BiFE. Nồng độ 500 ppb

BiIII được chọn cho các nghiên cứu tiếp theo.

3.2.1.2. Ảnh hưởng của thế điện phân làm giàu, thời gian điện phân làm giàu,

biên độ xung và tốc độ quét thế

Trong phương pháp DP-ASV, các yếu tố như thế điện phân làm giàu (Eđp),

thời gian điện phân làm giàu (tđp) trong giai đoạn làm giàu, biên độ xung (E) và tốc

độ quét thế (v) trong giai đoạn hòa tan có ảnh hưởng mạnh đến độ lớn dòng đỉnh hòa

tan (Ip) của các kim loại Me (Cu, Pb, Cd, và Zn). Do vậy, để đánh giá ảnh hưởng của

4 yếu tố (hay 4 biến) đó đến Ip của các Me, phương pháp quy hoạch hóa thí nghiệm

với mô hình Box-Behnken Design (BBD – thiết kế thí nghiệm theo mô hình ngẫu

61

nhiên đầy đủ của Box-Behnken) được áp dụng. Các thí nghiệm liên quan đều được

thực hiện trên máy CPA–HH5 Computerized Polarography Analyzer với các điều

kiện thí nghiệm khác (ngoại trừ Eđp, tđp, E và v) được cố định như ở bảng 3.5.

- Xác định khoảng biến thiên (hay mức thí nghiệm) của mỗi yếu tố: Để xác

định khoảng biến thiên (mức thấp và mức cao) của mỗi yếu tố khảo sát, trước hết

cần thực hiện các thí nghiệm đơn biến, tức là khảo sát ảnh hưởng của mỗi yếu tố

đến Ip của các kim loại Me. Các kết quả thí nghiệm cho thấy (các số liệu chi tiết

không đưa ra ở đây):

+ Đối với thế điện phân làm giàu (biến x1): Mức thấp (-1) và mức cao (+1)

tương ứng là -2,00 và -1,00 V; Khi tăng thế điện phân âm dần trong khoảng từ -1,00

V đến -2,00 V, độ lớn Ip của Cd, Pb và Cu đều tăng (do chúng đều bị khử bắt đầu ở

thế -1,00 V và do vậy, xuất hiện dòng đỉnh hòa tan khi quét thế dương dần), trong

khi đó, dòng đỉnh hòa tan Ip của Zn chỉ xuất hiện ở những thế âm hơn -1,30 V (vì

bắt đầu từ thế này, ZnII mới bị khử trên điện cực làm việc và do vậy, mới xuất hiện

dòng hòa tan của Zn). Tuy nhiên, khi thế điện phân càng âm (âm hơn -1,60 V) sẽ

thúc đẩy sự khử ion H+ trong dung dịch tạo thành bọt khí H2 trên bề mặt điện cực,

và có thể cản trở quá trình làm giàu. Mặt khác, ở những thế âm đó, có thể các ion

kim loại khác như CoII, NiII… (nếu có mặt trong dung dịch) cũng bị khử và kết tủa

Co, Ni trên bề mặt điện cực và có thể cũng ảnh hưởng đến quá trình làm giàu các

kim loại Me.

+ Đối với thời gian điện phân làm giàu (biến x2): Mức thấp (-1) và mức cao

(+1) tương ứng là 20 và 180 s; Khi tăng thời gian điện phân làm giàu trong khoảng

20 – 180 s, dòng đỉnh hòa tan Ip của các Me đều tăng tuyến tính: Giữa Ip và thời

gian điện phân có tương quan chặt với R2  0,935 – 0,999; p < 0,0001 đối với cả 4

kim loại).

+ Đối với biên độ xung vi phân (biến x3): Mức thấp (-1) và mức cao

(+1) tương ứng là 0,010 và 0,090 V; Khi tăng biên độ xung vi phân trong khoảng

0,010 – 0,090 V, dòng đỉnh hòa tan Ip của các Me đều tăng tuyến tính: Giữa Ip và

biên độ xung vi phân có tương quan chặt với R2  0,993 – 0,998; p < 0,0001 đối

với cả 4 kim loại).

+ Đối với tốc độ quét thế (biến x4): Mức thấp (-1) và mức cao (+1) tương

62

ứng là 0,010 và 0,030 V/s; Khi tăng tốc độ quét thế trong khoảng 0,010 – 0,030 V/s,

dòng đỉnh hòa tan Ip của các Me đều tăng, nhưng tăng không nhiều và đường nền có

xu thế dốc hơn, làm giảm độ phân giải đỉnh.

Bảng 3.7. Các mức thí nghiệm với yếu tố (hay 4 biến) x1, x2, x3 và x4*

Thế làm Thời gian Biên độ Tốc độ quét

giàu (x1, V) làm giàu (x2, s) xung (x3, V) (x4, V·s–1)

Mức cao (+1) –1,0 20 0,01 0,01

Mức trung tâm (0) –1,5 100 0,05 0,02

* nồng độ của Zn, Cd, Pb và Cu là 15 ppb trong đệm acetate 0,10 M (pH 5) và 500 ppb Bi

Mức thấp (–1) –2,0 180 0,09 0,03

- Kết quả quy hoạch hóa thí nghiệm: Các tính toán và biểu diễn kết quả theo

mô hình BBD được thực hiện nhờ phần mềm Minitab (phiên bản 16.0). Theo mô

hình BBD, tổng số thí nghiệm cần thực hiện là 27, trong đó có 24 thí nghiệm cơ sở

và 3 thí nghiệm ở mức trung tâm (chi tiết tính toán và diễn giải được nêu ở mục

63

2.2.4). Các kết quả thí nghiệm được nêu ở bảng 3.8.

Bảng 3.8. Ma trận thí nghiệm với 4 yếu tố và các kết quả Ip của các kim loại

Các mức thí nghiệm Độ lớn dòng đỉnh hòa tan, Ip (µA)

Thí nghiệm Cu Pb Cd Zn x1 x2 x3 x4

0 + – 0 + 0 – 0 + 0 + + 0 – – 0 0 + 0 0 0 0 – 0 0 – 0 – 0 – – 0 0 0 0 0 + – + 0 + 0 – + 0 + – 0 0 0 0 + 0 0 0 – 0 – + – – – 0 – 0 0 0 0 0 0 0 0 + + + 0 0 + 0 + 0 – 0 0 0 0 – 0 + – 0 0 0 0 0 + + – + 0 0 – 0 – + + 0 0 2,291 2,053 2,543 2,297 2,513 2,254 2,524 2,532 1,991 2,554 1,988 2,250 3,302 2,773 2,831 2,509 2,516 2,259 3,077 2,766 2,811 3,358 2,554 3,082 2,783 3,046 3,342 2,294 2,079 2,531 2,305 2,596 2,317 2,612 2,562 2,066 2,560 1,999 2,307 3,359 2,806 2,804 2,451 2,556 2,312 3,101 2,781 2,862 3,332 2,587 3,057 2,775 3,064 3,338 1,332 1,233 1,510 1,336 1,531 1,401 1,483 1,488 1,181 1,577 1,241 1,326 2,022 1,719 1,699 1,533 1,567 1,377 1,863 1,748 1,624 2,022 1,485 1,893 1,667 1,871 2,032 0,918 0,789 1,104 0,909 1,101 0,980 1,076 1,059 0,788 1,090 0,770 0,959 1,532 1,185 1,189 1,073 1,105 0,966 1,357 1,226 1,230 1,537 1,099 1,407 1,179 1,356 1,530 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27

Từ các kết quả ở bảng 3.8, tính toán được các hệ số hồi quy của phương trình

hồi quy đa biến thể hiện sự phụ thuộc giữa dòng đỉnh hòa tan (Ip) của các kim loại

Me và các biến x1, x2, x3, x4 nêu ở Phụ lục 1.Tiếp theo, sử dụng kiểm định t (t-test)

để xác định các hệ số hồi quy có nghĩa (là những hệ số lớn hơn sai số của nó hay giá

64

trị t tính được ứng với p < 0,05) để giữ lại và loại bỏ các hệ số hồi quy không có

nghĩa (là những hệ số nhỏ hơn sai số của nó hay giá trị t tính được ứng với p > 0,05).

Kết quả tính các hệ số hồi quy (giá trị thực) và kiểm định t ở bảng 3.9 cho thấy:

Bảng 3.9. Kết quả tính các hệ số hồi quy và kiểm định t

Cu Pb Cd Zn

Yếu tố (biến) Hệ số hồi quy Giá trị p Hệ số hồi quy Giá trị p Hệ số hồi quy Giá trị p Hệ số hồi quy Giá trị p

3,33 3,34 ≤ 0,001 2,03 ≤ 0,001 1,53 ≤ 0,001  0,001

–0,27 ≤ 0,001 –0,25 ≤ 0,001 –0,16 ≤ 0,001 –0,14 ≤ 0,001 Hằng số x1

0,13 ≤ 0,001 0,15 ≤ 0,001 0,08 ≤ 0,001 0,07 ≤ 0,001 x2

0,26 ≤ 0,001 0,25 ≤ 0,001 0,17 ≤ 0,001 0,15 ≤ 0,001 x3

2

0,13 ≤ 0,001 0,11 ≤ 0,001 0,09 ≤ 0,001 0,06 ≤ 0,001 x4 2 –0,53 ≤ 0,001 –0,51 ≤ 0,001 –0,33 ≤ 0,001 –0,30 ≤ 0,001 x1

2

–0,41 ≤ 0,001 –0,42 ≤ 0,001 –0,24 ≤ 0,001 –0,24 ≤ 0,001

–0,26 ≤ 0,001 –0,24 ≤ 0,001 –0,16 ≤ 0,001 –0,15 ≤ 0,001 x2 x3

–0,40 ≤ 0,001 –0,40 ≤ 0,001 –0,26 ≤ 0,001 –0,22 ≤ 0,001 x4

2 x1·x2

0,01 0,556 0,556 0,313 –0,03 0,005 0,03 ≤ 0,001

–0,02 0,270 0,270 0,056 –0,02 0,032 0,01 0,129 x1·x3

0,00 0,857 0,857 0,347 0,00 0,634 0,02 0,001 x1·x4

0,01 0,335 0,335 0,055 –0,03 0,005 –0,01 0,026 x2·x3

0,01 0,381 0,381 0,063 –0,03 0,017 –0,02 0,002 x2·x4

0,900 0,900 0,131 0,05 ≤ 0,001 0,02 ≤ 0,001

0,654 0,541 0,086 0,132 0,00 x3·x4 Độ thiếu phù hợp (Lack of fit)

+ Đối với Cu và Pb: Chỉ các hệ số hồi quy thể hiện ảnh hưởng của các biến

độc lập (cả bậc một và bậc hai) – được gọi là các ảnh hưởng chính (main effects) -

mới có ý nghĩa thống kê (với p < 0,001) và chúng được giữ lại trong các phương trình

hồi quy; Song, đa số các ảnh hưởng bậc một là các ảnh hưởng thuận (các hệ số đều

dương), ngoại trừ biến x1 (thế điện phân làm giàu, có giá trị âm) thể hiện ảnh hưởng

âm, tức là khi tăng thế về phía dương dần từ -2,00 đến -1,00 V, thì y (dòng đỉnh hòa

tan) giảm xuống; Các ảnh hưởng bậc hai đều là ảnh hưởng nghịch, tức là khi tăng

biến, đáp ứng (y) đều giảm (do các hệ số hồi quy đều âm); Các hệ số hồi quy thể hiện

ảnh hưởng tương tác (interactive effects) giữa các biến x1.x2, x1.x3… đều không đáng

kể (giá trị p đối với Cu và Pb tương ứng  0,270 – 0,90 và 0,055 – 0,347) và do vậy,

65

chúng bị loại bỏ trong phương trình hồi quy;

+ Đối với Cd và Zn: Các ảnh hưởng chính cũng tương tự như đối với Cu và

Pb, tức là các ảnh hưởng bậc một là ảnh hưởng thuận (ngoại trừ biến x1) với p <

0,001, nhưng các ảnh hưởng bậc hai là ảnh hưởng nghịch (p < 0,001); Các ảnh hưởng

tương tác của các biến phức tạp hơn:

* Đối với Cd: Các ảnh hưởng tương tác x1.x2, x1.x3, x2.x3, x2.x4 và x3.x4 đều

có ý nghĩa thống kê với p  < 0,001 – 0,05;

* Đối với Zn: Các ảnh hưởng tương tác x1.x2, x1.x4, x2.x3, x2.x4 và x3.x4 đều

có ý nghĩa thống kê với p  < 0,001 – 0,026.

Từ các kết quả trên, sau khi loại bỏ các hệ số hồi quy không có nghĩa, các

2 –

phương trình hồi quy thu được đối với các kim loại như sau:

Ip,Zn = 1,53 – 0,14·x1 + 0,07·x2 + 0,15·x3 + 0,06·x4 – 0,30·x1

2 – 0,15·x3

2 – 0,22·x4

2 + 0,03·x1·x2 + 0,02·x1·x4 –

R2 = 0,999 (3.8) 0,24·x2

2 –

0,01·x2·x3 – 0,02·x2·x4 + 0,02·x3·x4

Ip,Cd = 2,02 – 0,16·x1 + 0,08·x2 + 0,17·x3 + 0,09·x4 – 0,33·x1

2 – 0,16·x3

2 – 0,26·x4

2 – 0,03·x1·x2 – 0,02·x1·x3 –

R2 = 0,998 (3.9) 0,24·x2

2 –

0,01·x2·x3 – 0,03·x2·x4 + 0,05·x3·x4

2

2 – 0,24·x3

2 – 0,40·x4

2 –

Ip,Pb = 3,34 – 0,25·x1 + 0,15·x2 + 0,25·x3 + 0,11·x4 – 0,51·x1 R2 = 0,999 (3.10) 0,42·x2

2

2 – 0,26·x3

2 – 0,40·x4

Ip,Cu = 3,33 – 0,27·x1 + 0,13·x2 + 0,26·x3 + 0,13·x4 – 0,53·x1 R2 = 0,998 (3.11) 0,41·x2

Các kết quả ở trên cũng cho thấy, các hệ số xác định (R2) đối với các phương

trình hồi quy đều khá lớn (0,998 – 0,999), chứng tỏ rằng, đối với cả 4 kim loại, các

phương trình hồi quy thu được mô tả được hầu hết các biến động (hay phương sai)

trong tất cả các thí nghiệm. Mặt khác, kiểm định tính thiếu phù hợp (lack of fit) cho

thấy, các giá trị p đều lớn hơn 0,05 (bảng 3.9), nên có thể khẳng định rằng, các

phương trình hồi quy thu được đều có giá trị hay mô tả tốt thí nghiệm.

- Kết quả tối ưu hóa thí nghiệm: Từ các phương trình hồi quy thu được ở

trên, sử dụng thuật toán tối ưu hóa để tìm điều kiện tối ưu của y (dòng đỉnh hòa tan

Ip) – là điều kiện của các biến xi mà ở đó y đạt cực đại. Song, theo kết quả thu được

ở trên, trong số 4 kim loại khảo sát, đối với Zn, sự phụ thuộc giữa y và các biến xi là

66

phức tạp nhất, vì y phụ thuộc vào cả các ảnh hưởng chính và ảnh hương tương tác.

Do vậy và để đơn giản hóa khi tối ưu hóa thí nghiệm, ở đây chỉ tìm điều kiện tối ưu

đối với trường hợp của Zn. Kết quả tính toán cho thấy, điều kiện tối ưu đối với Zn

như sau: y đạt cực đại (dòng đỉnh hòa tan Ip của Zn cực đại là 1,59 µA) ở điều kiện

x1 (thế điện phân làm giàu) là -1,60 V; x2 (thời gian điện phân làm giàu) là 110 s; x3

(biên độ xung vi phân) là 0,070 V và x4 (tốc độ quét thế) là 0,020 V/s. Các biểu diễn

mặt đáp ứng (y) phụ thuộc vào mỗi cặp biến đối với Zn được nêu ở hình 3.5 (a)-(c).

Kết quả xác định điều kiện tối ưu đối với Zn được nêu ở hình 3.7(a). Điều kiện tối

ưu này (đối với cả 4 biến x1 – x4) được chấp nhận là điều kiện tối ưu cho phương

pháp DP-ASV/BiFE xác định đồng thời cả 4 kim loại Me (Cu, Pb, Cd và Zn).

- Kết quả kiểm định mô hình: Kiểm định mô hình ở đây là nhằm đánh giá

tính lặp lại của mô hình xây dựng được, sử dụng kiểm định t: so sánh giá trị trung

bình Ip của Zn (thu được từ 3 thí nghiệm lặp lại đối với dung dịch chứa đồng thời 4

kim loại ở điều kiện tối ưu ở trên) với giá trị Ip cực đại xác định được từ mô hình ở

cùng điều kiện tối ưu (Ip  1,59 µA, còn gọi là giá trị lý thuyết). Kết quả cho thấy:

các giá trị Ip của Zn thu được từ thí nghiệm lần lượt là 1,55; 1,57 và 1,60 µA (các

đường von-ampe hòa tan được nêu ở hình 3.6 (b); Giá trị Ip trung bình là 1,57 µA (n

 3); Giá trị này không khác giá trị lý thuyết với p  0,37. Như vậy, có thể khẳng

định rằng, mô hình thu được mô tả tốt thí nghiệm.

(a )

(b )

(c )

Hình 3.5. Biểu diễn mặt đáp ứng (Ip) theo các yếu tố (biến) khảo sát đối với Zn: (a):

67

Ip(Zn) là hàm của x1, x2; (b) Ip(Zn) là hàm của x1, x3; (c) Ip(Zn) là hàm của x1, x4.

(a)

Hình 3.6. (a) Điều kiện tối ưu của 4 biến khảo sát (x1 – x4) và giá trị Ip cực đại của

Zn; (b) Các đường von-ampe hòa tan của các kim loại Me ở điều kiện tối ưu.

Cuối cùng, cũng cần thấy rằng, điều kiện tối ưu tìm được ở trên là đối với

Zn, nhưng trong thực tế, ở thế -1,40 V các ion ZnII, CdII, PbII, CuII và BiIII đã bị khử

và các kim loại được làm giàu trên bề mặt điện cực BiFE và do vậy, có thể chọn thế

điện phân làm giàu thích hợp trong khoảng -1,40 đến -1,60 V.

3.2.1.3. Ảnh hưởng của các chất cản trở

Trong các mẫu thực tế (các mẫu nước mặt như sông, hồ…), thường có mặt các

3- (nồng độ cỡ ppm)… và các chất hữu cơ, các chất hoạt động bề mặt

kim loại như FeIII (nồng độ cỡ ppm), CoII, NiII (nồng độ cỡ ppb)..., nhiều anion như

2-, PO4

Cl-, SO4

(nồng độ cỡ ppb). Các chất đó có thể ảnh hưởng cản trở đến dòng đỉnh hòa tan (Ip)

của các kim loại Me (Cu, Pb, Cd và Zn) và do đó, ảnh hưởng đến phương pháp

phân tích. Mặt khác, các kim loại khảo sát (Cu, Pb, Cd và Zn) cũng có thể ảnh

hưởng qua lại lẫn nhau và chúng thường có mặt trong các mẫu nước mặt với nồng

độ cỡ ppb. Nguyên nhân của những ảnh hưởng cản trở đến phương pháp phân tích

có thể là do: Thế oxi hóa khử của các kim loại khác gần với thế oxi hóa khử các cặp

MeII/Me, hay có thế đỉnh hòa tan gần với thế đỉnh hòa tan của các kim loại Me, nên

đỉnh hòa tan bị xen phủ nhau; Sự tạo thành các hợp chất gian kim loại (intermetallic

compound) làm biến dạng đỉnh hòa tan của các Me; Các anion và các chất hữu cơ

có thể tạo phức bền hoặc kết tủa với kim loại cần phân tích, làm ảnh hưởng đến quá

trình điện phân làm giàu; Chất hoạt động bề mặt có thể hấp phụ mạnh lên bề mặt

điện cực làm việc, gây cản trở quá trình làm giàu và/hoặc quá trình hòa tan các

68

kim loại Me trong phương pháp DP-ASV. Vì vậy, cần thiết phải khảo sát ảnh

hưởng của các chất cản trở (ở những nồng độ thường gặp trong các mẫu nước mặt)

đến phép xác định các kim loại Me và ảnh hưởng qua lại giữa chúng.

Ảnh hưởng của các chất cản trở đến tín hiệu hòa tan của các kim loại Me (Cu,

Pb, Cd và Zn) được đánh giá qua độ sai lệch của dòng đỉnh hòa tan (Ip) của kim loại

khi có mặt và không có mặt chất cản trở trong dung dịch nghiên cứu.

o) và có

Để đánh giá ảnh hưởng của chất cản trở, sử dụng kiểm định t (t-test): so

o

sánh giá trị dòng đỉnh hòa tan của kim loại khi chưa có mặt chất cản trở (Ip

mặt chất cản trở (Ip). Nồng độ chất cản trở được xác định khi ở nồng độ đó, Ip

khác Ip có ý nghĩa thống kê với p < 0,05 và ngược lại, khi p > 0,05 nồng độ đó

chưa cản trở phép phân tích kim loại. Dưới đây là các kết quả khảo sát ảnh hưởng

của các chất cản trở.

3.2.1.3.1. Ảnh hưởng của các kim loại

(i) Ảnh hưởng Co, Ni và Fe

Sắt (Fe) thường có mặt trong các mẫu nước tự nhiên với nồng độ tổng sắt tan

dao động trong khoảng rộng, cỡ 0,3 - 2 mg/L (ppm), và dạng FeII/FeIII có thể bị oxi

hóa hoặc khử trong khoảng thế làm việc và do vậy, có thể ảnh hưởng đến giai đoạn

làm giàu hoặc hòa tan, dẫn đến ảnh hưởng đến phép phân tích các kim loại bằng

phương pháp DP-ASV/BiFE. Mặt khác, NiII và CoII cũng thường có mặt trong nước

tự nhiên và chúng có thể bị khử ở những thế âm hơn -1,20 V (gần với thế khử ZnII)

và do vậy, chúng cũng bị kết tủa trên bề mặt điện cực làm việc trong giai đoạn điện

phân làm giàu và có thể ảnh hưởng đến Ip của các kim loại Me (Cu, Pb, Cd, Zn).

- Ảnh hưởng của Co (bảng 3.10): Co ảnh hưởng mạnh đến Ip của Zn và Cd khi

nồng độ CoII trong dung dịch cỡ 5 ppb (hay bằng ¼ - ½ nồng độ ZnII và CdII); Co

ảnh hưởng đến Ip của Pb khi tỷ lệ nồng độ [CoII]/[PbII] (ppb/ppb) > 1,5, nhưng hầu

như không hưởng đến Ip của Cu ngay cả khi tỷ lệ [CoII]/[CuII] (ppb/ppb)  6. Khi

tăng nồng độ CoII trong dung dịch, Ip của các kim loại Me đều giảm mạnh.

- Ảnh hưởng của Ni (các kết quả chi tiết được nêu ở Phụ lục 2; ĐKTN như ở

bảng 3.10): Ni cũng ảnh hưởng mạnh đến Ip của các kim loại Me ở những nồng độ

NiII  5 ppb. Khi tăng nồng độ NiII trong khoảng 5 – 60 ppb, giá trị Ip của Pb, Cd,

Zn đều giảm mạnh, riêng Ip của Cu có xu thế tăng lên, nhưng không nhiều. Nói

69

chung, ảnh hưởng của Ni đến Ip của các kim loại Me là khá phức tạp và bản chất

của điều này chưa được hiểu rõ. Có thể trạng thái hóa-lý của Ni trên bề mặt mặt

điện cực làm việc (BiFE) khác nhau (chẳng hạn, kích thước hạt kết tủa, tương tác Ni

với kim loại khác trên bề mặt điện cực, năng lượng tự do…) trong các phép đo DP-

ASV/BiFE và do vậy, ảnh hưởng của nó đến quá trình làm giàu và hòa tan của các

kim loại Me cũng khác nhau.

0

[CoII], ppb

5

15

30

45

60

1,757

1,282

0,726

0,323

0,123

0

Bảng 3.10. Ảnh hưởng của Co đến Ip của các kim loại Me(*)

-

16 (0,004) 344 (< 10-4) 3326 (<10-4) 45 (<10-4)

- (< 10-4)

ttính (p)

1,167

1,190

0,829

0,314

0,171

0

Ip(Zn), μA

-

5 (0,039)

17 (0,004)

171 (<10-4) 87 (<10-4)

- (< 10-4)

ttính (p)

2,041

2,106

1,722

1,069

0,867

0,811

Ip(Cd), μA

-

3 (0,096)

4 (0,058)

24 (0,002) 84 (<10-3) 20 (0,002)

ttính (p)

2,413

2,515

2,461

2,293

2,279

2,452

Ip(Pb), μA

-

3 (0,096)

4 (0,058)

3 (0,096)

4 (0,058)

3 (0,096)

ttính (p)

(*) Các giá trị Ip trong bảng là trung bình số học của 3 phép đo lặp lại (n  3). ĐKTN: Đệm axetat 0,10 M (pH  5); [BiIII]  500 ppb; [CdII]  [PbII]  [CuII]  10 ppb, [ZnII]  20 ppb; Eđp  -1,60 V; tđp  110 s; E  0,070 V; v  0,020 V/s. Các ĐKTN khác như ở bảng 3.5.

Ip(Cu), μA

- Ảnh hưởng của Fe (các kết quả chi tiết được nêu ở Phụ lục 3; ĐKTN như ở

bảng 3.10): Ảnh hưởng của Fe đến Ip của các kim loại Me cũng khá phức tạp

và không có quy luật; Khi tăng nồng độ FeIII trong khoảng 200 – 1.500 ppb,

các giá trị Ip của các Pb, Zn đều giảm mạnh, Ip của Pb và Cu cũng giảm nhưng

ít hơn; Fe ảnh hưởng hưởng đến Ip của Zn và Cd khi tỷ lệ [FeIII]/[ZnII] và

[FeIII]/[CdII] (ppb/ppb) tương ứng ≥ 10 và ≥ 5; Song, Fe chỉ ảnh hưởng đến Ip của

Pb và Cu khi tỷ lệ [FeIII]/[PbII] và [FeIII]/[CuII] (ppb/ppb) tương ứng > 50 và > 20.

Cũng cần thấy rằng, tuy các kim loại Co, Ni và Fe ảnh hưởng mạnh đến các

dòng đỉnh hòa tan (Ip) của các kim loại Me, nhưng trong thực tế, vẫn có thể định

lượng được các kim loại Me, nếu giữa Ip và nồng độ MeII có tương quan tuyến tính

tốt và độ đúng, độ lặp lại của phương pháp DP-ASV/BiFE thỏa mãn yêu cầu. Nói

70

cách khác, trước khi áp dụng vào thực tế, bắt buộc phải kiểm tra các thông số thể

hiện năng lực của phương pháp phân tích như độ đúng, độ lặp lại, khoảng tuyến

tính, giới hạn phát hiện (LOD)…

(ii) Ảnh hưởng tương hỗ giữa các kim loại Me (Cu, Pb, Cd, Zn):

Wang. J [140], Prior C. [103] và Đ.V. Khánh [2] cho rằng: Trong quá trình

điện phân làm giàu, các kim loại Zn và Cd tạo hợp kim kép với Bi (riêng Pb có thể

tạo dung dịch rắn với Bi) trên bề mặt điện cực nền GCE; Trong khi đó, Cu không

tạo hợp kim kép với Bi, mà cạnh tranh chiếm chỗ trên bề mặt điện cực với Bi; Cu

dễ tạo hợp chất gian kim loại với Cd, Pb, đặc biệt là Zn và do vậy, có thể ảnh

hưởng đến đáp ứng hòa tan của các kim loại đó. Mặt khác, trong nước tự nhiên,

nồng độ của CuII và ZnII thường lớn hơn PbII và CdII, nên cần xem xét ảnh hưởng

tương hỗ của Cu và Zn đến đáp ứng hòa tan của các kim loại khi chúng cùng có

mặt trong dung dịch.

Ở đây tiến hành khảo sát ảnh hưởng của Cu đến dòng đỉnh hòa tan (Ip) của Pb,

Cd, Zn trong trường hợp dung dịch chỉ chứa riêng biệt một kim loại và chứa đồng thời

cả 3 kim loại đó. Ảnh hưởng của Zn đến Ip của Cu, Pb và Cd khi chúng có mặt đồng

thời trong dung dịch cũng được xem xét. Các điều kiện thí nghiệm như ở bảng 3.10.

- Ảnh hưởng của Cu đối với Pb khi dung dịch chỉ chứa 10 ppb PbII và CuII (các

số liệu chi tiết được nêu ở Phụ lục 4): Cu ảnh hưởng mạnh đến Ip của Pb khi tỷ lệ

[CuII]/[PbII] (ppb/ppb)  1 (với p < 0,001). Khi tăng nồng độ CuII trong khoảng 10 –

40 ppb, Ip trung bình (n  2) của Pb giảm mạnh so với khi không có mặt CuII (giảm

từ 3,105 µA đến 0,183 µA). Mặt khác, khi tăng nồng độ CuII trong dung dịch, Cu sẽ

kết tủa nhiều hơn trên bề mặt điện cực nền (GCE) trong giai đoạn điện phân làm

giàu và do vậy, làm giảm dòng đỉnh hòa tan của Bi (số liệu chi tiết không đưa ra ở

đây). Rõ ràng, Cu đã cạnh tranh chiếm chỗ trên bề mặt điện cực với Bi và điều này

cũng phù hơp với thông báo của Wang. J [140], Prior C. [103] và Đ.V. Khánh [2].

- Ảnh hưởng của Cu đối với Cd khi dung dịch chỉ chứa 10 ppb CdII và CuII

(các số liệu chi tiết được nêu ở Phụ lục 5): Cu ảnh hưởng mạnh đến Ip của Cd khi tỷ

lệ [CuII]/[CdII] (ppb/ppb)  1 với p  0,004. Khi có mặt CuII trong khoảng 4 – 20

ppb, Ip trung bình (n  2) của Cd giảm mạnh so với khi không có mặt CuII (giảm từ

7,355 đến 0,207 µA), thậm chí giảm đến 0 (tức là mất đỉnh hòa tan của Cd) ở nồng

71

độ 30 ppb CuII và 5 ppb CdII.

- Ảnh hưởng của Cu đối với Zn khi dung dịch chỉ chứa 20 ppb ZnII và CuII (các

số liệu chi tiết được nêu ở Phụ lục 6): Cũng tương tự như đối với Pb và Cd, Cu cũng

ảnh hưởng mạnh đến Ip của Zn ngay cả khi tỉ lệ [CuII]/ [ZnII] (ppb/ppb)  1/10 với p

 0,01. Khi tăng nồng độ CuII trong khoảng 0 – 20 ppb, Ip trung bình (n  2) của Zn

giảm mạnh từ 6,284 µA đến 1,786 µA.

- Ảnh hưởng của Cu đối với Pb, Cd, Zn khi dung dịch chứa đồng thời PbII,

CdII, ZnII và CuII (bảng 3.11):

[CuII], ppb

0

2

4

6

8

10

15

20

8,822

Ip(Zn), μA

-

ttính (p)

5,862

Ip(Cd), μA

-

ttính (p)

3,204

IpPb), μA

-

ttính (p)

6,822 10 (0,06) 4,711 21 (0,03) 2,463 135 (<0,01)

5,764 322 (<10-5) 3,972 158 (<0,01) 2,058 36 (0,02)

5,111 67 (<0,01) 3,415 129 (<0,01) 2,061 114 (<0,01)

4,398 170 (<10-4) 2,799 322 (<0,01) 2,012 114 (<0,01)

3,787 229 (<0,01) 2,225 1454 (<10-4) 1,895 138 (<0,01)

2,510 701 (<0,01) 1,279 3055 (<10-4) 1,558 75 (<0,01)

1,675 72 (0,01) 0,777 328 (<0,01) 1,220 165 (<0,01)

(*) Giá trị Ip trong bảng là trung bình số học của 2 phép đo lặp lại (n  2); ĐKTN: [CdII]  [PbII]  10 ppb; [ZnII]  20 ppb; Các ĐKTN khác như ở bảng 3.5.

Bảng 3.11. Ảnh hưởng của Cu đối với Zn, Cd, Pb(*)

Ảnh hưởng của Cu đến Ip của Pb, Cd, Zn trong trường hợp dung dịch chứa

đồng thời các MeII mạnh hơn so với trường hợp dung dịch chi chứa riêng biệt một

kim loại. Ở nồng độ CuII  2 - 4 ppb (tức là xấp xỉ 1/5 -1/2 nồng độ PbII, CdII và

bằng 1/5 nồng độ ZnII), nó đã làm giảm mạnh Ip của Pb, Cd và Zn (p < 0,05). Theo

chúng tôi, có thể có hai nguyên nhân gây ra điều đó:

+ Khi tăng nồng độ CuII, Cu kim loại sẽ cạnh tranh chiếm chỗ với Bi trên bề

mặt điện cực nền GCE và Cu không hỗ trợ tốt cho sự làm giàu các kim loại Pb, Cd,

Zn trên bề mặt điện cực (trong khi Bi hỗ trợ tốt hơn sự làm giàu các kim loại đó như

đã nêu ở mục 3.2.1.1), dẫn đến làm giảm Ip của các kim loại đó;

+ Có tương tác mạnh giữa Cu và các kim loại Pb, Cd và Zn trên bề mặt điện cực

làm việc, chẳng hạn, tạo thành các hợp chất gian kim loại hoặc tạo đa lớp kim loại kết

tủa trên bề mặt điện cực và do vậy, đã làm giảm độ lớn Ip của các kim loại đó.

72

Cũng cần thấy rằng, mặc dù CuII bị khử trước BiIII (do thế oxi hóa khử của cặp

CuII/Cu dương hơn so với cặp BiIII/Bi) trên điện cực nền GCE khi điện phân làm

giàu các kim loại Me, nhưng chỉ màng Bi tạo thành (chứ không phải màng Cu) mới

hỗ trợ tốt cho sự làm giàu đó và do vậy, việc cho rằng, điện cực làm việc trong

phương pháp DP-ASV đang nghiên cứu là BiFE - là hoàn toàn chấp nhận được.

- Ảnh hưởng của Zn đối với Cu, Pb, Cd khi dung dịch chứa đồng thời CuII,

PbII, CdII và ZnII (các kết quả chi tiết được nêu ở Phụ lục 7): Khác với ảnh hưởng

của Cu, khi có mặt ZnII với nồng độ 10 ppb, Ip của Cu, Pb và Cd tăng lên so với khi

không có mặt ZnII trong dung dịch (p < 0,01), nhưng tăng không nhiều; Khi tăng

nồng độ ZnII trong khoảng 10 – 80 ppb, Ip của Cu có xu thế tăng lên nhưng không

đáng kể, còn Ip của Pb và Cd hầu như không thay đổi (p > 0,05). Nói chung, có thể

cho rằng, Zn ảnh hưởng không nhiều đến Ip của Cu, Cd và Pb.

Như vậy, khi tăng nồng độ CuII và ZnII trong dung dịch, tuy chúng có ảnh

hưởng mạnh đến Ip của các kim loại còn lại, nhưng trong thực tế, vẫn có thể xác

định đồng thời cả 4 kim loại khi chúng cùng có mặt trong dung dịch và nồng độ BiIII

thích hợp (như đã nêu ở mục 3.2.1.1). Mặt khác, cần tiếp tục khảo sát để khẳng định

rằng, giữa Ip và nồng độ các MeII có tương quan tuyến tính tốt, độ đúng và độ lặp lại

của phương pháp đạt yêu cầu, thì vẫn có thể xác định được đồng thời các kim loại

Me (Cu, Pb, Cd, Zn).

3- ở những nồng

3.2.1.3.2. Ảnh hưởng của các anion

2-, PO4

Trong nước tự nhiên thường có mặt các anion Cl-, SO4

độ cỡ ppm (mg/L) và chúng có thể tạo phức với các kim loại MeII, nên có thể ảnh

hưởng đến quá trình điện phân làm giàu và/hoặc hòa tan kim loại trong phương

pháp DP-ASV/BiFE. Ở đây khảo sát ảnh hưởng của các anion đến Ip của các kim

loại Me với các điều kiện thí nghiệm như ở bảng 3.8.

(i) Ảnh hưởng của Cl- (các kết quả chi tiết được nêu ở Phụ lục 8):

- Ion Cl- ảnh hưởng đến Ip của Zn và Cd ở những nồng độ Cl-  1000 ppm (p <

0,01), tức là khi [Cl-] lớn hơn [ZnII] và [CdII] tương ứng cỡ trên 50.000 lần và

100.000 lần;

- Ion Cl- ảnh hưởng ít hơn đến Ip của Pb và Cu: Ở những nồng độ Cl-  500

ppm, nó ảnh hưởng đến Ip của Cu (p < 0,001) và ở nồng độ Cl-  5000 ppm (hay 5

73

‰), nó ảnh hưởng đến Ip của Pb (p < 0,0001).

2- (các kết quả chi tiết được nêu ở Phụ lục 9):

(ii) Ảnh hưởng của SO4

2- ảnh hưởng đến Ip của Zn và Cd ở những

- Từ phụ lục 9 cho thấy, ion SO4

2- ≥ 100 ppm (p < 0,01); ảnh hưởng đến Ip của Cu và Pb ở những

2- ≥ 200 ppm (p < 0,01).

nồng độ SO4

3- (các kết quả chi tiết được nêu ở Phụ lục 10):

nồng độ SO4

(iii) Ảnh hưởng của PO4

3- ảnh hưởng đến Ip của các kim loại Me mạnh hơn so với ảnh hưởng

3-] ≥ 70 ppb (p < 0,01), đến

Ion PO4

2-: Ảnh hưởng đến Ip của Zn khi [PO4

3-]  10 – 200 ppb, ion

của ion Cl- và SO4

3-] ≥ 50 ppb; Trong khoảng [PO4

Ip của Cd và Pb khi [PO4

3- hầu như không ảnh hưởng đến Ip của Cu (p > 0,05).

PO4

3.2.1.3.3. Ảnh hưởng của chất hoạt động bề mặt

Sự có mặt của các chất hữu cơ nói chung và các chất hoạt động bề mặt nói

riêng trong các mẫu nước tự nhiên có thể ảnh hửng đến đáp ứng hòa tan của các

kim loại Me trong phương pháp DP-ASV/BiFE. Khi chất hữu cơ tạo phức bền với

các ion kim loại MeII, sẽ ảnh hưởng đến quá trình điện phân làm giàu, do các phức

đó khó bị khử trên điện cực làm việc. Các chất hoạt động bề mặt có thể bị hấp phụ

lên bề mặt điện cực làm việc và do vậy, cản trở quá trình làm giàu và hòa tan các

kim loại Me.

Có nhiều loại chất hoạt động bề mặt (HĐBM) khác nhau như chất HĐBM

không ion (Triton X-100, gelatin…), chất HĐBM cation (cetyl trimethyl amoni

bromit/CTAB, tetrabutylamoni bromit…), chất HĐBM anion (natri dodecyl

sunphat). Khi nghiên cứu ảnh hưởng của các chất HĐBM đến đáp ứng hòa tan của

các chất phân tích trong phương von-ampe nói chung và von-ampe hòa tan nói

riêng, người ta thường dùng Triton X-100 (có tên theo IUPAC là polyetylen glycol

mono [p - (1,1,3,3-tetramethylbutyl) phenyl] ether).

Kết quả khảo sát ảnh hưởng của Triton X-100 cho thấy (các kết quả chi tiết

được nêu ở Phụ lục 11): Ở những nồng độ Triton X-100 cỡ n – 10 ppb (n  1 – 9),

nó đã ảnh hưởng mạnh đến Ip của Zn và Cd (p < 0,05); Khi tăng nồng độ Triton X-

trong từ 10 đến 150 ppb, Ip của Zn và Cd giảm khoảng 50 - 70 %; Triton X-100

cũng ảnh hưởng đến Ip của Cu và Pb khi tỷ lệ [Triton X-100]/[CuII] và [Triton X-

100]/[PbII] (ppb/ppb) tương ứng ≥ 7 và ≥ 2 (p < 0,05).

74

Để loại bỏ ảnh hưởng của các chất hữu cơ nói chung và các chất HĐBM nói

riêng, trước khi tiến hành phân tích các kim loại Me theo phương pháp DP-

ASV/BiFE, nhất thiết phải phân hủy mẫu trong hỗn hợp các axit hoặc hỗn hợp axit

và H2O2 có trợ giúp của bức xạ UV hoặc vi sóng [5].

3.2.1.4. Ảnh hưởng của chế độ làm sạch bề mặt điện cực

Kết quả thí nghiệm cho thấy, khi kết thúc mỗi phép đo, nếu chỉ làm sạch bề

mặt điện cực nền GCE ở +300 mV trong 30 – 60 s và sau đó tiếp tục thực hiện

phép đo thứ 2, 3…, trong nhiều trường hợp, độ lặp lại của Ip không tốt (đối với cả 4

kim loại). Các kết quả khảo sát ảnh hưởng của các kim loại Co, Ni, Fe và ảnh

hưởng tương hỗ giữa các kim loại Me (Cu, Pb, Cd, Zn) ở trên (mục 3.2.1.3) cho

thấy, tương tác giữa các kim loại kết tủa trên bề mặt điện cực nền GCE (trong giai

đoạn điện phân làm giàu) là khá phức tạp và do vậy, chế độ làm sạch đó vẫn chưa

hòa tan hoàn toàn lượng vết các kim loại Me, Bi và các kim loại khác (có thể có)

khỏi bề mặt điện cực GCE. Rõ ràng, để cải thiện độ lặp lại của Ip của các kim loại

Me, cần có chế độ làm sạch điện cực thích hợp hơn.

Tiến hành khảo sát chế độ làm sạch bề mặt điện cực theo hai cách:

- Làm sạch một giai đoạn: Khi kết thúc mỗi phép đo (hay kết thúc giai đoạn

hòa tan), làm sạch điện cực ở +300 mV (Eclean) trong 30 s (tclean) và quay điện cực

trong thời gian đó với tốc độ không đổi ();

- Làm sạch hai giai đoạn: Khi kết thúc mỗi phép đo, trước hết đưa thế trên điện

cực đến -1400 mV (Eclean1) và giữ ở đó trong 30 s (tclean1) để tiếp tục khử các tiểu phần

MeII và BiIII ở lớp sát bề mặt điện cực; Tiếp theo, đưa thế điện cực đến +300 mV

(Eclean2) trong 30 s (tclean2) để hòa tan Bi và các kim loại Me khỏi bề mặt điện cực.

Trong cả hai giai đoạn này đều quay điện cực với tốc độ không đổi ().

Mặt khác, để so sánh, phép đo không có chế độ làm sạch điện cực cũng được

khảo sát (tức là khi kết thúc giai đoạn hòa tan ở +300 mV, tiếp tục thực hiện các phép

đo tiếp theo). Các kết quả ở bảng 3.12 cho thấy, chế độ làm sạch hai giai đoạn cho kết

quả tốt hơn so với chế độ làm sạch một giai đoạn và không có chế độ làm sạch: các giá

75

trị Ip cao hơn và độ lặp lại của Ip tốt hơn với RSD < 4 % (đối với cả 4 kim loại).

Bảng 3.12. Giá trị Ip và độ lệch chuẩn tương đối (RSD) đối với các kim loại Me ở các chế độ làm sạch bề mặt điện cực khác nhau(*)

Ip, μA RSD, %

Ip, μA RSD, %

Ip, μA RSD, %

Ip, μA

Zn Cd Pb Cu

RSD, %

6,7

11,7

14,4

0,502

1,768

0,547

1,556

2,6

7,5

0,709

0,943

2,230

1,818

4,6

7,3

3,5

1,144

2,097

1,040

2,269

1,1

3,5

3,8

2,5

Chế độ làm sạch bề mặt điện cực

Không làm sạch Làm sạch 1 giai đoạn Làm sạch 2 giai đoạn (*) Các giá trị Ip trong bảng là trung bình số học của 7 phép đo lặp lại (n = 7). ĐKTN: Sử dụng thiết bị 746 VA Trace Analyzer (Metrohm); [BiIII] = 500 ppb; [CuII]  [CdII]  [PbII]  10 ppb, [ZnII]  20 ppb; Các ĐKTN khác như ở bảng 3.5.

3.2.2. Độ tin cậy của phương pháp DP-ASV/BiFE

Độ tin cậy của phương pháp DP-ASV/BiFE xác định đồng thời các kim loại

Me được đánh giá qua độ lặp lại, khoảng tuyến tính, LOD, LOQ và độ nhạy. Các

nghiên cứu này được thực hiện trên máy CPA–HH5 Computerized Polarography

Analyzer ở các điều kiện thí nghiệm thích hợp: Đệm axetat 0,10 M (pH  5); [BiIII]

= 500 ppb; Eđp  -1,60 V; tđp  110 s; E  0,070 V; v  0,020 V/s; Các ĐKTN

khác như ở bảng 3.5.

3.2.2.1. Độ lặp lại

Kết quả thực hiện 25 phép đo lặp lại trong một dung dịch chứa 15 ppb mỗi

kim loại MeII cho thấy (các kết quả chi tiết được nêu ở Phụ lục 12): Phương pháp

DP-ASV/BiFE đạt được độ lặp lại tốt đối với dòng đỉnh hòa tan (Ip) của các kim

loại: RSD (n  25) với Cu, Pb, Cd và Zn tương ứng là 0,8 %; 1,1%; 1,3 % và 1,7 %.

3.2.2.2. Khoảng tuyến tính

Khoảng tuyến tính đối với các kim loại Me trong phương pháp DP-ASV/BiFE

được khảo sát trong 2 trường hợp (ở các điều kiện thí nghiệm thích hợp): Trường

hợp 1 (tăng dần nồng độ một kim loại và cố định nồng độ 3 kim loại còn lại);

Trường hợp 2 (tăng dần nồng độ cả 4 kim loại).

(i) Trường hợp 1: Kết quả thu được ở bảng 3.13 và hình 3.7 cho thấy: Trong

76

khoảng nồng độ kim loại [MeII]  5 – 110 ppb, giữa dòng đỉnh hòa tan (Ip) và [MeII]

có tương quan tuyến tính tốt (với R2  0,996 – 0,999; p < 0,001) theo các phương

trình hồi quy tuyến tính như sau:

Bảng 3.13. Giá trị Ip của các kim loại Me khi tăng dần nồng độ một kim loại trong phương pháp DP-ASV/BiFE(*)

[ZnII], ppb

[CdII], ppb

[PbII], ppb

[CuII], ppb

Ip(Zn), μA

Ip(Cd), μA

Ip(Pb), μA

Ip(Cu), μA

Zn(a) Cd(b) Pb(c) Cu(d)

5 0,900 5 0,672 5 1,505 5 0,705

10 1,340 10 2,066 10 2,998 10 2,941

15 1,835 15 3,666 15 4,627 15 5,287

20 2,394 20 5,041 20 5,957 20 7,859

30 3,334 30 8,080 30 9,040 30 12,992

40 4,272 40 11,288 40 12,091 40 17,978

50 5,440 50 13,067 50 14,051 50 21,040

70 7,249 70 17,041 70 19,008 70 30,043

90 8,666 90 23,019 90 23,010 90 40,082

(*) Các giá trị Ip trong bảng là trung bình số học của 3 phép đo lặp lại (n  3); ĐKTN: (a) [CuII]  [PbII]  [CdII] = 10 ppb; (b) [CuII]  [PbII]  10 ppb và [ZnII]  20 ppb; (c) [CuII]  [CdII]  10 ppb và [ZnII]  20 ppb; (d) [CdII]  [PbII]  10 ppb và [ZnII]  20 ppb.

110 10,331 110 27,025 110 28,008 110 51,073

Các phương trình hồi quy tuyến tính biểu diễn sự phụ thuộc giữa Ip và nồng

độ kim loại [MeII] như sau:

(3.12a); R² = 0,996; p < 0,001 Ip(Cu) = (-0,6 ± 0,6) + (0,439 ± 0,009)·[CuII]

(3.12b); R² = 0,999; p < 0,001 Ip(Pb) = (0,12 ± 0,03) + (0,278 ± 0,001).[PbII]

(3.12c); R² = 0,999; p < 0,001 Ip(Cd) = (-0,57 ± 0,05) + (0,251 ± 0,001)·[CdII]

(3.12d); R² = 0,998; p < 0,001. Ip(Zn) = (0,58 ± 0,03) + (0,091 ± 0,001)·[ZnII]

77

(các giá trị sau dấu  là biên giới tin cậy 95%)

ĐKTN: Như ở bảng 3.13.

78

Hình 3.7. (a) Các đường DP-ASV và (b) các đường hồi quy tuyến tính Ip – [MeII] đối với Cu, Pb, Cd và Zn.

(ii) Trường hợp 2: Khi tăng dần đồng thời nồng độ cả 4 kim loại, trong

khoảng nồng độ [MeII]  5 – 110 ppb, giữa dòng đỉnh hòa tan (Ip) và [MeII] cũng

có có tương quan tuyến tính tốt (với R2  0,989 – 0,999; p < 0,001). Mặt khác,

phương pháp đạt được độ lặp lại tốt đối với Ip của các Me (với RSD < 2,3 %)

(bảng 3.14 và hình 3.8):

Bảng 3.14. Giá trị Ip của các kim loại Me khi tăng dần đồng thời nồng độ cả 4 kim

loại trong phương pháp DP-ASV/BiFE(*)

Zn(a) Cd(b) Pb(c) Cu(d)

[MeII], ppb Ip, μA RSD,% Ip, μA RSD,% Ip, μA RSD,% Ip, μA RSD,%

5 0,969 0,811 1,669 0,964 1,96 2,22 0,30 0,83

10 1,381 2,292 3,230 3,237 0,80 0,70 0,84 0,25

15 2,158 4,142 4,704 5,506 0,46 0,48 0,21 0,27

20 2,495 5,150 6,041 8,217 0,96 0,17 0,45 0,21

30 3,569 8,349 9,284 13,057 0,70 0,29 0,18 0,02

40 4,510 11,475 12,559 18,318 0,16 0,10 0,09 0,05

50 6,032 13,124 14,886 21,420 0,36 0,22 0,13 0,12

70 7,959 17,529 19,476 30,610 0,09 0,10 0,01 0,08

90 9,171 23,842 23,604 41,155 0,25 0,12 0,08 0,02

10,852 27,068 28,573 51,238 0,13 0,05 0,03 0,03

110 (*) Các giá trị Ip trong bảng là trung bình số học của 3 phép đo lặp lại (n  3);

Hình 3.8. (a) Các đường DP-ASV và (b) các đường hồi quy tuyến tính Ip – [MeII]

ĐKTN: Như ở bảng 3.13.

79

đối với Cu, Pb, Cd và Zn.

Các phương trình hồi quy tuyến tính biểu diễn sự phụ thuộc giữa Ip và nồng

độ kim loại [MeII] như sau:

Ip(Cu) = (-1,3 ± 0,2) + (0,456 ± 0,005)·[CuII] (3.13a); R² = 0,999; p < 0,001

(3.13b); R² = 0,996; p < 0,001 Ip(Pb) = (3,2 ± 0,2) + (0,232 ± 0,005)·[PbII]

(3.13c) ; R² = 0,989; p < 0,001 Ip(Cd) = (0,01 ± 0,29) + (0,260 ± 0,009)·[CdII]

(3.13d); R² = 0,999; p < 0,001. Ip(Zn) = (0,6 ± 0,1) + (0,093 ± 0,001)·[ZnII]

(các giá trị sau dấu  là biên giới tin cậy 95%)

Các kết quả trên cho thấy, mặc dù Cu ảnh hưởng mạnh đến Ip của Pb, Cd và

Zn (như đề cập ở mục 3.2.1.3.1), nhưng khi dung dịch có mặt đồng thời cả 4 kim

loại, giữa dòng đỉnh hòa tan (Ip) và nồng độ kim loại MeII vẫn có tương quan

tuyến tính tốt và do vậy, hoàn toàn có thể xác định đồng thời chúng trong cùng

một dung dịch.

3.2.2.3. Giới hạn phát hiện, giới hạn định lượng và độ nhạy

- Giới hạn phát hiện (LOD) và giới hạn định lượng (LOQ): LOD của phương

pháp DP-ASV/BiFE đối với mỗi kim loại MeII được tính toán theo “quy tắc 3 » và

dựa vào hồi quy tuyến tính (như đã nêu ở mục 2.2.5.1), nhưng chỉ lấy các kết quả ở

vùng gần gốc tọa độ với [MeII]  5 – 40 ppb. LOD và LOQ trong hai trường hợp

(trường hợp 1 - tăng dần nồng độ một kim loại và cố định nồng độ 3 kim loại còn lại

và trường hợp 2 - tăng dần nồng độ cả 4 kim loại) thể hiện ở bảng 3.15 cho thấy:

Bảng 3.15. LOD, LOQ và độ nhạy của phương pháp DP-ASV/BiFE(*)

Các đại lượng thống kê

CuII

0,170

1,03

3,44

Trường hợp Kim loại a ± sa, µA b ± sb, µA/ppb Sy, µA LOD, ppb LOQ, ppb

PbII

0,740

0,73

2.45

-1,9 ± 0,2 0,494 ± 0,009

Trường hợp 1

CdII

0,060

0,61

2,02

0,02 ± 0,73 0,301 ± 0,004

ZnII

0,035

1,07

3,57

-0,84 ± 0,06 0,297 ± 0,003

CuII

0,148

0,91

3,03

0,38 ± 0,03 0,099 ± 0,002

PbII

0,103

1,02

3,41

-1,6 ± 0,1 0,487 ± 0,008

Trường hợp 2

CdII

0,208

2,08

6,69

0,16 ± 0,10 0,302 ± 0,005

ZnII

0,107

3,07

10,24

-0,64 ± 0,20 0,30 ± 0,01

(*) a, b và Sy: tương ứng là đoạn cắt trên trục tung, độ dốc và sai số chuẩn của y của đường hồi quy tuyến tính đối với mỗi kim loại MeII.

80

0,4 ± 0,1 0,105 ± 0,006

Từ bảng 3.15 cho thấy:

+ LOD trong trường hợp 1 (tương ứng đối với CuII, PbII, CdII và ZnII là 1,03;

0,73; 0,61 và 1,07 ppb) nhỏ hơn so với trường hợp 2 (tương ứng đối với CuII, PbII,

CdII và ZnII là 0.91; 1,02; 2,08 và 3,07 ppb), trừ CuII. Tổng hợp cả hai trường hợp,

LOD đối với CuII, PbII, CdII và ZnII tương ứng là 0,91 – 1,03 ppb; 0,73 – 1,02 ppb;

0,61 – 2,08 ppb và 1,07 – 3,07 ppb. Từ các LOD đó, tính toán được LOQ của

phương pháp đối với các kim loại MeII như nêu ở bảng 3.15;

+ Phương pháp DP-ASV/BiFE đạt được LOD thấp đối với cả 4 kim loại và

do vậy, có thể sử dụng nó để xác định trực tiếp các MeII trong nước tự nhiên.

- Độ nhạy: Một cách tổng quát, độ nhạy là biến thiên đáp ứng (tín hiệu đo)

trên trục tung (y) khi có biến thiên của thông số trên trục hoành (x) [5]. Như vậy,

độ nhạy của phương pháp phân tích chính là độ dốc (giá trị b) của đường hồi quy

tuyến tính. Đối với cả hai trường hợp 1 và 2, độ nhạy theo thứ tự tăng dần của

phương pháp DP-ASV/BiFE đối với các kim loại như sau (bảng 3.15): ZnII (0,099 –

0,105 µA/ppb)  CdII (0,297 – 0,30 µA/ppb) < PbII (0,301 – 0,302 µA/ppb) < CuII

(0,487 – 0,494 µA/ppb).

3.2.3. So sánh phương pháp DP-ASV/BiFE với các phương pháp khác

Các kết quả so sánh LOD của phương pháp DP-ASV/BiFE trong nghiên cứu

này (xác định đồng thời 4 kim loại) với các phương pháp ASV khác (chủ yếu xác

định đồng thời 2 – 3 kim loại) nêu ở bảng 3.16 cho thấy, phương pháp DP-ASV đạt

được LOD khá thấp, hay nói cách khác, không thua kém các phương pháp khác.

Bảng 3.16. So sánh LOD của các phương pháp von-ampe hòa tan anot (ASV)

TLTK Điện cực Phương pháp LOD (ppb) PbII CdII CuII ZnII

0,1 0,1 1,0 - G/PANI/SPE Sq-WASV [111]

DP-ASV 39 16,6 9,6 14,7 [133] GCE

1,3 0,98 2 - Hg–Bi/SWNTs/GCE SqW-ASV [96]

1,64 0,82 0,08 - SqW-ASV [100] BiFE

0,41 0,49 – [61] - SqW-ASV BiFE

81

DP-ASV 0,9-1,1 0,7-1,3 0,6-2,1 1,1-3,1 BiFE Nghiên cứu này

3.2.4. Quy trình phân tích đồng thời các kim loại bằng phương pháp DP-

ASV/BiFE

Từ các kết quả khảo sát ảnh hưởng của các yếu tố và các chất cản trở đến dòng

đỉnh hòa tan (Ip) của các kim loại Me trong phương pháp DP-ASV/BiFE và kết quả

đánh giá độ tin cậy của phương pháp, quy trình phân tích đồng thời các kim lại Cu,

Mẫu nước (được axit hóa bằng HNO3 đặc, 1mL HNO3/ 500 mL mẫu), lọc qua màng lọc sợi thủy tinh   0,45 µm

Lấy ra 10 mL mẫu, thêm 0,5 mL HNO3 đặc và 0,25 mL H2O2; chiếu xạ UV trong 60 phút (thiết bị UV digester) hoặc phân hủy mẫu trong lò vi sóng

Lấy một thể tích mẫu xác định, Vmẫu  1 – 4 mL

Pb, Cd và Zn trong nước tự nhiên được đề xuất ở hình 3.9.

- Chuẩn bị dung dịch phân tích: Cho mẫu vào bình điện phân (BĐP) với 3 điện cực (GCE, Ag-AgCl và dây Pt) sao cho nồng độ đệm axetat là 0,10 M (pH  5); [BiIII]  500 ppb; tổng thể tích dung dịch trong BĐP: Vbđp10 mL.

- Ghi đường von-ampe hòa tan (ghi lặp lại với n  2, đã bỏ phép ghi đầu tiên):

Thêm chuẩn

i) Giai đoạn làm giàu: Điện phân ở Eđp -1,60 V trong thời gian tđp 120 s; điện cực quay với tốc độ 2000 vòng/phút; Kết thúc, nghỉ 15 s (ttres);

ii) Giai đoạn hòa tan: Quét thế trong khoảng Erange-1,60 mV đến 0,30 V với tốc độ quét thế v  0,02 V/s và ghi tín hiệu hòa tan theo kỹ thuật DP với các thông số thích hợp.(*)

iii) Làm sạch điện cực (kiểu 2 giai đoạn): Ở Eclean1-1,40 V trong tclean1  30 s; Tiếp theo ở Eclean2  0,30 V trong tclean2  30 s;

Định lượng: Phương pháp thêm chuẩn, 3 – 4 lần thêm; Mỗi lần, nồng độ kim loại MeII thêm vào khoảng 2 – 5 ppb.

Tính nồng độ MeII trong mẫu (CMeII): CMeII  [MeII]  Vbđp/Vmẫu

 Thu được đáp ứng von-ampe hòa tan (dòng I là hàm của thế E trên điện cực làm việc) dạng đỉnh; Độ lớn của dòng đỉnh hòa tan (Ip) tỉ lệ thuận với [MeII] (nồng độ trong BĐP).

Hình 3.9. Quy trình phân tích đồng thời Cu, Pb, Cd và Zn trong mẫu nước tự nhiên

E  0,070 V; tpulse  50 ms; Ustep  0,006 V; tmeas  5 ms.

82

bằng phương pháp DP-ASV/BiFE với các thông số kỹ thuật thích hợp: (*)

Trong trường hợp nồng độ kim loại MeII rất nhỏ (nhỏ hơn LOD của phương

pháp phân tích), sẽ không xuất hiện đỉnh hòa tan của kim loại. Lúc này, để phân tích

được kim loại, cần có thêm giai đoạn làm giàu, chẳng hạn, trước khi chiếu xạ UV,

cô giảm thể tích mẫu 5 - 10 lần. Song, trong trường hợp này, để tính nồng độ kim

loại trong mẫu, cần tính đến hệ số làm giàu. Mặt khác, trước khi áp dụng vào thực

tế, nhất thiết phải kiểm soát chất lượng của phương pháp phân tích (DP-ASV/BiFE)

qua độ đúng và độ lặp lại.

3.3. Đặc tính von-ampe hấp phụ và động học các phản ứng điện cực trong

phương pháp von-ampe vòng

Phương pháp von-ampe hòa tan hấp phụ (AdSV) được xem là một trong

những phương pháp có nhiều triển vọng nhất trong số các von-ampe hòa tan đã và

đang nghiên cứu hiện nay, do nó có độ nhạy cao và đặc biệt là độ chọn lọc cao, do

có thể lựa chọn các phối tử tạo phức thích hợp để chỉ tạo phức với các kim loại cần

phân tích và do vậy, giảm được ảnh hưởng cản trở của các kim loại khác [5]. Vấn

đề đặt ra là có thể phân tích đồng thời các kim loại Me (Cu, Pb, Cd, Zn) theo

phương pháp AdSV dùng điện cực BiFE được không ?. Nếu phát triển được phương

pháp AdSV xác định đồng thời các kim loại Me, sẽ mở ra khả năng ứng dụng của

điện cực BiFE, tức là không chỉ sử dụng nó cho phương pháp ASV, mà còn dùng

được cho cả phương pháp AdSV.

Song, trong phương pháp AdSV, khi thực hiện giai đoạn hòa tan, người ta

không quét thế về phía dương dần như trong phương pháp ASV (để hòa tan các kim

loại Me và Bi), mà quét thế về phía âm dần để trên điện cực làm việc xảy ra quá

trình catot – quá trình khử MeII hoặc khử phức MeII-phối tử (bản chất của phương

pháp được đề cập đến ở mục 1.1.3 và tiến trình của phương pháp AdSV được đề

cập ở mục 2.2.3). Để làm giàu các kim loại Me trên điện cực BiFE trong phương

pháp AdSV, ở đây thực hiện theo kiểu 2 giai đoạn – điện phân và hấp phụ làm giàu:

(i) trước hết điện phân ở thế đủ âm (Eđp) trong thời gian xác định (tđp) để kết tủa các

kim loại Me lên điện cực BiFE (màng Bi ở đây cũng được tạo ra theo kiểu in situ);

(ii) tiếp theo oxi hóa hòa tan các Me ở thế đủ dương (được gọi là thế hấp phụ làm

giàu Ehp) trong thời gian xác định (thời gian hấp phụ làm giàu thp) thành MeII và

83

MeII tạo phức với phối tử oxine có sẵn trong lớp dung dịch sát bề mặt điện cực

BiFE, rồi hấp phụ ngay trên bề mặt điện cực BiFE và do vậy chúng được làm giàu.

Do thế hấp phụ Ehp được chọn sao cho không hòa tan Bi khỏi bề mặt điện cực BiFE,

nên phương pháp AdSV ở đây không áp dụng để xác định Cu (vì Cu có thế hòa tan

dương hơn so với Bi).

Để xây dựng được phương pháp AdSV xác định đồng thời ba kim loại M (M

 Pb, Cd, Zn), trước hết cần khảo sát đặc tính von-ampe hấp phụ và động học các

phản ứng của các kim loại và phức của chúng với oxine (phối tử tạo phức) trong

nền đệm HEPES theo phương pháp von-ampe vòng (CV) theo cách tương tự như

khi nghiên cứu xây dựng phương pháp ASV xác định đồng thời bốn kim loại Me.

Các khảo sát trong phương pháp CV được thực hiện trên thiết bị CPA–HH5

Computerized Polarography Analyzer.

3.3.1. Đặc tính von-ampe hấp phụ phức kim loại MII-oxine trên điện cực BiFE

Các đường von-ampe vòng thu được ở hình 3.10 cho thấy:

- Đối với điện cực GCE: Khi không có mặt và có mặt oxine trong dung dịch,

đáp ứng von-ampe của các kim loại M đều không xuất hiện. Điều này chứng tỏ

rằng, các phức MII-oxine không được làm giàu trên điện cực GCE và do vậy, GCE

không thích hợp cho phương pháp AdSV xác định các kim loại M;

- Đối với điện cực BiFE: Khi không có mặt oxine, các ion kim loại MII vẫn

được hấp phụ trên bề mặt điện cực BiFE, nhưng hiệu quả hấp phụ thấp, nên dòng

đỉnh rất thấp (cả dòng catot và dòng anot). Khi có mặt oxine, hiệu quả hấp phụ làm

giàu tăng lên rõ rệt, nên dòng đỉnh catot và anot đều tăng lên nhiều (so với trường

hợp không có mặt oxine): dòng đỉnh catot lớn hơn, lớn hơn tương ứng đối với Pb,

Cd và Zn là 3,8, 4,6 và 5,1 lần. Do các kim loại M được tích lũy trên điện cực (khi

quét thế âm dần), nên dòng đỉnh anot của các kim loại M cũng tăng lên nhiều so với

khi không có mặt oxine trong dung dịch (đối với Pb, Cd và Zn tăng tương ứng là

3,4, 2,9 và 2,3 lần). Điều đó cũng cho phép khẳng định rằng, phức của các kim loại

MII với phối tử oxin đã hình thành và được hấp phụ làm giàu trên điện cực BiFE.

Hằng số bền của phức MII và oxine () được thông báo như sau: Phức PbII–oxine có

lg1  9,02; Phức CdII–oxine có lg1  7,2 và lg1,2  13,4; Phức ZnII–oxine có lg1 

8,5 và lg1,2  16,72 [157]. Oxine có công thức phân tử là C9H7NO và khối lượng

84

mol là 145 g/mol.

Các kết quả trên cho thấy, có thể xác định đồng thời các kim loại M theo

phương pháp AdSV dùng điện cực BiFE với phối tử oxine trong đệm HEPPES. Mặt

khác, các hệ oxi hóa khử MII/Me (hay hệ phức MII-oxine/Me) trên điện cực BiFE

đều có đặc trưng của hệ thuận nghịch hoặc gần thuận nghịch.

Hình 3.10. Đường von-ampe vòng của các kim loại M (Pb, Cd, Zn) khi sử dụng

điện cực GCE và BiFE trong trường hợp có mặt oxine (BiFE + Oxine và GCE +

ĐKTN: Làm giàu 2 giai đoạn với Eđp  -1,50 V; tđp = 240 s; quay điện cực khi điện phân

với tốc độ   2000 vòng/phút; Ehp  -0,70 V; thp  10 s (ngừng quay điện cực trong giai

đoạn hấp phụ làm giàu); Quét thế vòng với v  0,20 V/s trong khoảng từ 0 đến -1,60 V và ngược lại; [BiIII]  500 ppb; đệm HEPES  0,01 M (pH  6); [Oxine]  3 µM; [PbII]  [ZnII]  10 ppb; [CdII]  5 ppb.

Oxine) và không có mặt oxine (BiFE và GCE).

3.3.2. Động học các quá trình điện cực

3.3.2.1. Ảnh hưởng pH

Kết quả khảo sát ảnh hưởng của pH trong khoảng 4,2 – 7,8 (dùng dung dịch

NH3 5,200 M hoặc HCl 4,280 M để điều chỉnh pH; đo pH bằng máy đo pH với điện

cực thủy tinh) đến dòng đỉnh catot (Ipc) của kim loại M (Pb, Cd, Zn) cho thấy (bảng

85

3.17 và hình 3.11):

- Khi tăng pH, giá trị Ipc của Pb và Cd tăng lên, nhưng của Zn lại giảm

xuống, nhưng không nhiều; Có thể sự tăng pH đã làm tăng cạnh tranh tạo phức giữa

oxine và ion OH- trong dung dịch, nên đã làm giảm nồng độ phức PbII-oxine và

CdII-oxine trong dung dịch và trên bề mặt điện cực làm việc, dẫn đến làm giảm hiệu

quả hấp phụ làm giàu và do vậy làm giảm Ipc của Pb và Cd; Trong khi đó, đối với

Zn lại ngược lại;

- Khoảng pH thích hợp là 6 – 7, vì trong khoảng pH này, đối với cả 3 kim

loại, các giá trị Ipc đều lớn. Giá trị pH  6 được chọn cho các nghiên cứu tiếp theo.

Hình 3.11. Các đường von-ampe vòng của Pb, Cd, Zn ở các pH khác nhau.

ĐKTN: Như ở hình 3.10.

Bảng 3.17. Độ lớn dòng đỉnh catot (Ipc) của kim loại M theo các pH khác nhau(*)

pH Ipc(Pb), µA Ipc(Cd), µA Ipc(Zn), µA

4,2 2,332 ± 0,073 2,233 ± 0,066 3,655 ± 0,129

5,1 1,920 ± 0,079 2,100 ± 0,032 2,900 ± 0,185

6,0 2,400 ± 0,092 2,400 ± 0,160 2,790 ± 0,121

6,9 4,000 ± 0,135 2,700 ± 0,119 2,500 ± 0,053

(*) Giá trị trong bảng là Ipc trung bình và độ lệch chuẩn (n  3). ĐKTN: Như ở hình 3.10.

86

7,8 3,200 ± 0,189 3,000 ± 0,185 2,600 ± 0,123

* Số proton trao đổi trong phản ứng hóa học kèm theo phản ứng truyền electron:

Theo cách tiếp cận tương tự như khi khảo sát ảnh hưởng của pH đến thế đỉnh trong

phương pháp von-ampe vòng đối với hệ chứa đồng thời 4 kim loại (Cu, Pb, Cd, Zn),

ở đây khảo sát ảnh hưởng của pH đến thế đỉnh catot (Epc) của hệ chứa đồng thời 3

kim loại M (Pb, Cd, Zn). Các kết quả thu được cho thấy (chi tiết được nêu ở Phụ lục

13), khi tăng pH trong khoảng 4,2 – 7,8 giá trị Epc của cả 3 kim loại M đều dịch

chuyển về phía thế âm hơn. Có thể sự tăng pH đã cản trở phần nào sự khử các phức

MII-oxine trên bề mặt điện cực BiFE và do vậy cần những thế âm hơn để khử các

phức đó, nên làm cho giá trị Epc dịch chuyển về âm hơn. Từ các kết quả thu được,

đã thiết lập được các phương trình hồi quy tuyến tính biểu diễn sự phụ thuộc giữa

Epc và pH ở 25 oC:

; R2 = 0,990 (3.14a) Epc(Pb) = (–0,270 ± 0,030) + (–0,062 ± 0,004)pH

; R2 = 0,990 (3.14b) Epc(Cd) = (–0,480 ± 0,040) + (–0,065 ± 0,007)pH

; R2 = 0,993 (3.14c) Epc(Zn) = (–1,037 ± 0,009) + (–0,050 ± 0,006)pH

Từ các phương trình cho thấy, khi tăng pH, giá trị Epc giảm dần đối với cả 3

kim loại. Mặt khác, từ độ dốc của phương trình hồi quy tuyến tính ở trên (các hệ số

trước pH), xác định được giá trị p/n đối với Pb, Cd và Zn tương ứng là 1,05, 1,10 và

0,85. Các giá trị đó xấp xỉ bằng 1, nên có thể cho rằng, số proton (p) tham gia vào

phản ứng hóa học bằng số electron trao đổi (n) trong phản ứng truyền electron. Ở

phần trước, đã xác định được n bằng 2 (chỉ ion kim loại MeII bị khử), nên p cũng

bằng 2. Phản ứng tạo phức giữa phối tử oxine và kim loại MII (PbII, CdII, ZnII) được

87

giả thiết như sau:

3.3.2.2. Ảnh hưởng của tốc độ quét thế vòng

Các kết quả khảo sát ảnh hưởng của tốc độ quét thế (v) trong khoảng 0,20 –

0,40 V/s đến dòng đỉnh catot (Ipc) và thế đỉnh catot (Epc) được nêu ở hình 3.12, bảng

3.18 và Phụ lục 14).

Hình 3.12. (a) Các đường von-ampe vòng ở các tốc độ quét thế khác nhau; (b) sự phụ thuộc của Epc theo lnv. ĐKTN: Như ở hình 3.10.

Bảng 3.18. Ảnh hưởng của tốc độ quét thế (v) đến dòng đỉnh catot (Ipc) của kim loại M(*)

v (V/s) Ipc(Cd), µA Ipc(Pb), µA Ipc(Zn), µA

0,20 2,394 ± 0,307 3,844 ± 0,359 2,419 ± 0,068

0,25 2,728 ± 0,27 4,274 ± 0,176 2,704 ± 0,189

0,30 3,084 ± 0,031 3,516 ± 0,02 3,26 ± 0,056

0,35 3,584 ± 0,122 4,788 ± 0,332 3,499 ± 0,007

(*) Giá trị trong bảng là Ipc trung bình và độ lệch chuẩn (n  3). ĐKTN: Như ở hình 3.10.

0,40 3,591 ± 0,301 5,791 ± 0,356 3,672 ± 0,386

i) Về tính thuận nghịch và yếu tố quyết định tốc độ của phản ứng điện cực:

Từ các kết quả ở bảng 3.18, thiết lập được các phương trình hồi quy tuyến

tính - Ipc là hàm của v1/2:

; R2 = 0,980 (3.15a) Ipc(Pb) = (–0,7 ± 1,4) + (7,1 ± 2,6). v1/2

88

; R2 = 0,972 (3.15b) Ipc(Cd) = (-0,8 ± 1,2) + (7,2 ± 2,2). v1/2

; R2 = 0,978 (3.15c) Ipc(Zn) = (–0,5 ± 1,1) + (7,3 ± 2,1). v1/2

Sự phụ thuộc tuyến tính giữa Ipc và v1/2 (tức là tuân theo phương trình

Sandles-Sevcik) cho phép khẳng định rằng:

- Hệ MII/M trên điện cực làm việc là hệ thuận nghịch; Các giá trị Epc đối với

các kim loại M hầu như không thay đổi khi thay đổi v hay lnv (hình 3.12(b)) cũng

cho phép khẳng định thêm về điều này [25], [24].

- Tốc độ quá trình điện cực được kiểm soát bởi sự khuyếch tán (do đoạn cắt

trên trục tung chứa giá trị thực của Ipc, nghĩa là khi v  0, Ipc  0) [30]. Như vậy,

không chỉ phức MII-oxine có sẵn trên bề mặt điện cực (do hấp phụ), mà cả phức

MII-oxine trong lớp dung dịch gần bề mặt điện cực cũng bị khử (do khuyếch tán đến

bề mặt điện cực).

ii) Về các phản ửng xảy ra trên điện cực làm việc BiFE: Từ các kết quả trên,

có thể giả thiết về các phản ứng xảy ra trên điện cực BiFE như sau:

- Giai đoạn điện phân – hấp phụ làm giàu (2 giai đoạn):

+ Tạo phức kim loại – phối tử và khử phức trong giai đoạn điện phân làm

giàu ở thế -1,50 V:

BiIII + Oxine → Bi(Oxine)3 + 3 H+

MII + 2 Oxine → M(Oxine)2 + 2H+ ; (M  Pb, Cd, Zn)

Bi(Oxine)3 + 3e + 3H+ → Bi/GCE (hay BiFE) + 3 Oxine

M(Oxine)2 + 2e + 2H+ → M/BiFE + 2 Oxine

+ Hấp phụ làm giàu các phức kim loại ở thế -0,70 V

M/BiFE - 2e + 2Oxine → M(Oxine)2(hấp phụ)/BiFE + 2H+

(một phần phức M(Oxine)2 bị hòa tan và/hoặc bị giải hấp vào lớp dung

dịch gần bề mặt điện cực).

Bi(Oxine)3 + 3e + 3H+ → BiFE + 3 Oxine

- Giai đoạn hòa tan – quá trình catot (xảy ra khi quét thế âm dần):

M(Oxine)2(hấp phụ)/BiFE + 2H+ + 2e → M/BiFE + 2Oxine

M(Oxine)2(dung dịch)/BiFE + 2H+ + 2e → M/BiFE + 2Oxine

89

Bi(Oxine)3 + 3e + 3H+ → BiFE + 3 Oxine

3.4. Phương pháp von-ampe hòa tan hấp phụ (AdSV) xác định đồng thời các

kim loại

3.4.1. Ảnh hưởng của các yếu tố đến đáp ứng von-ampe hòa tan hấp phụ của

các kim loại

Để tìm được các điều kiện thích hợp cho phương pháp von-ampe hòa tan hấp

phụ (AdSV), sử dụng kỹ thuật von-ampe sóng vuông (SqW) và điện cực màng

bismut in situ (viết tắt là phương pháp SqW-AdSV/BiFE) xác định đồng thời các

kim loại M (Pb, Cd, Zn), trước hết cần khảo sát ảnh hưởng của các yếu tố đến đáp

ứng von-ampe hòa tan hấp phụ của các kim loại M trong nền đệm HEPES 0,010 M

và có mặt phối tử tạo phức oxine. Đáp ứng hòa tan được xem xét ở đây là thế đỉnh

hòa tan (Ep) và dòng đỉnh hòa tan (Ip).

Trong giai đoạn làm giàu của phương pháp SqW-AdSV/BiFE, sử dụng cách

làm giàu 2 giai đoạn – điện phân và hấp phụ làm giàu (như nêu ở mục 2.2.3). Kết

thúc mỗi phép đo, tiến hành làm sạch điện cực nền GCE bằng cách điện phân dung

dịch ở thế +0,30 V trong 60 s. Sau một loạt phép đo (20 – 30 phép đo), cần hoạt hóa

điện cực (theo cách được trình bày ở mục 2.2.1): quét thế vòng trong khoảng -1,50

V đến +0,50 V với tốc độ 0,10 V/s, cuối cùng dừng ở thế +0,50 V trong 30 s. Các

điều kiện thí nghiệm cố định ban đầu như ở bảng 3.19. Các khảo sát ảnh hưởng của

một yếu tố theo phương pháp đơn biến được thực hiện trên thiết bị 746 VA Trace

Analyzer (Metrohm); Các nghiên cứu quy hoạch hóa thí nghiệm (khảo sát ảnh

hưởng đồng thời của nhiều yếu tố) được thực hiện trên thiết bị phân tích điện hóa

90

CPA–HH5 Computerized Polarography Analyzer.

TT Các điều kiện thí nghiệm

Kí hiệu

Đơn vị

Giá trị

1 Nồng độ đệm HEPES

[HEPES]

M

0,01

2 Nồng độ oxine

[oxine]

μM

3

3

pH

-

-

6

Giai đoạn làm giàu – điện phân và hấp phụ

4 Thế điện phân làm giàu

V

-1,50

Eđp

5 Thời gian điện phân làm giàu

s

240

tđp

6 Tốc độ quay điện cực làm việc

ω

vòng/ phút

2000

7 Thời gian nghỉ

s

10

trest

8 Thế hấp phụ làm giàu

V

-0,70

Ehp

9 Thời gian hấp phụ làm giàu

s

10

thp

Giai đoạn hòa tan (quét thế âm dần)

10 Khoảng quét thế

V - V

-0,35 đến -1,50

Erange

11 Tốc độ quét thế

ν

20

mV/ s

Ghi đáp ứng hòa tan theo kỹ thuật SqW:

Biên độ sóng vuông

ΔE

mV

50

Tần số sóng vuông

f

Hz

50

12

Bước thế

mV

Ustep

Thời gian mỗi bước thế

s

tstep

Thời gian đo dòng

ms

tmeas

13 Làm sạch điện cực nền:

6 0,3 5

Thế làm sạch

V

+0,30

Eclean

Thời gian làm sạch điện cực

s

60

tclean

Bảng 3.19. Các điều kiện thí nghiệm cố định ban đầu trong phương pháp SqW-AdSV/BiFE

3.4.1.1. Ảnh hưởng của nồng độ BiIII, pH và nồng độ oxine

Trong phương pháp SqW-AdSV/BiFE, giai đoạn làm giàu được thực hiện theo

kiểu 2 bước (hay 2 giai đoạn) – điện phân và hấp phụ và do vậy, tuy giai đoạn này

rất quan trọng, nhưng rất khó đưa vào quy hoạch hóa thí nghiệm, nghĩa là phải khảo

sát theo kiểu đơn biến. Mặt khác, 3 yếu tố quan trọng cũng ảnh hưởng nhiều đến

dòng đỉnh hòa tan (Ip) của các kim loại M (Pb, Cd, Zn) là nồng độ BiIII (biến x1) để

tạo điện cực màng BiFE, pH của dung dịch (biến x2) và nồng độ phối tử tạo phức

oxine (biến x3). Các kết quả khảo sát ảnh hưởng của pH trong phương pháp von-

91

ampe vòng cho thấy, pH  6 – 7 là thích hợp, song cần xác định giá trị pH tối ưu để

thu được dòng đỉnh hòa tan Ip của các kim loại M sao cho lớn nhất trong phương

pháp SqW-AdSV/BiFE. Để đánh giá ảnh hưởng đồng thời của 3 yếu tố (hay 3 biến)

đó đến dòng đỉnh hòa tan Ip (hay hàm mục tiêu y), phương pháp quy hoạch hóa thí

nghiệm bậc hai với 3 yếu tố được thực hiện. Cũng tương tự như quy hoạch hóa thí

nghiệm trong phương pháp DP-ASV/BiFE (mục 3.2.1.2), mô hình BBD (Box-

Behnken Design) cũng được áp dụng ở đây với 12 thí nghiệm cơ sở và 3 thí

nghiệm ở mức trung tâm (mỗi thí nghiệm được thực hiện 3 lần). Trong các thí

nghiệm này, nồng độ các kim loại được cố định như sau: [ZnII]  [PbII]  20 ppb;

[CdII]  10 ppb; các điều kiện thí nghiệm khác (ngoại trừ nồng độ BiIII, pH và nồng

độ oxine) được cố định như ở bảng 3.19. Các tính toán theo mô hình BBD đều được

thực hiện nhờ phần mềm Minitab (phiên bản 16.0).

- Xác định khoảng biến thiên (hay mức thí nghiệm) của mỗi yếu tố: Các kết

quả khảo sát đơn biến - ảnh hưởng của mỗi yếu tố (hay biến x1, x2 và x3) đến Ip của

các kim loại M cho thấy (các số liệu chi tiết không đưa ra ở đây):

+ Đối với nồng độ BiIII (biến x1): Mức thấp (-) và mức cao (+) tương ứng là

200 ppb và 1.000 ppb; Mức gốc hay mức trung tâm (mức 0) là 600 ppb;

+ Đối với pH (biến x2): Mức thấp (-) và mức cao (+) tương ứng là 4 và 8;

Mức gốc là 6;

+ Đối với nồng độ oxine (biến x3): Mức thấp (-) và mức cao (+) tương ứng

là 145 ppb ( 1 µM) và 1016 ppb ( 7 µM); Mức gốc là 581 ppb ( 4 µM).

Các mức thí nghiệm đối với 3 biến x1, x2 và x3 được nêu ở bảng 3.20.

- Kết quả quy hoạch hóa thí nghiệm: Các kết quả thí nghiệm (được thực hiện

ngẫu nhiên) được nêu ở bảng 3.21.

Bảng 3.20. Các mức thí nghiệm với yếu tố (hay 3 biến) x1, x2 và x3

[BiIII], ppb [oxine], ppb pH

(x2) (x3) (x1)

6 581 Mức gốc 600

2 336 400 Khoảng biến thiên

8 1016 Mức cao (+1) 1000

92

4 145 Mức thấp (-1) 200

Bảng 3.21. Ma trận thí nghiệm bằng phần mềm minitab và kết quả thí nghiệm

Các mức thí nghiệm Độ lớn dòng đỉnh hòa tan Ip (µA)(a)

Thí nghiệm Zn Cd Pb x1 x2 x3

1,96 ± 0,34(a) 1,92 ± 0,31 0,93 ± 0,52 1,01 ± 0,11 2,00 ± 0,11 1,26 ± 0,21 1,18 ± 0,41 1,43 ± 0,25 1,46 ± 0,35 1,31 ± 0,32 1,10 ± 0,28 1,43 ± 0,43 2,03 ± 0,11 1,28 ± 0,18 1,63 ± 0,24 1,97 ± 0,44 1,99 ± 0,32 0,94 ± 0,33 1,02 ± 0,41 2,00 ± 0,15 1,26 ± 0,25 1,19 ± 0,17 1,43 ± 0,22 1,47 ± 0,38 1,32 ± 0,26 1,10 ± 0,31 1,44 ± 0,42 2,04 ± 0,44 1,29 ± 0,20 1,64 ± 0,35 0 + - - 0 0 - 0 0 + - + 0 + 0 0 0 - 0 0 - 0 + - 0 + + 0 - + 0 + 0 - 0 - + - + - 0 0 0 0 + 1,92 ± 0,31 1,78 ± 0,52 0,91 ± 0,41 1,08 ± 0,25 1,95 ± 0,35 1,23 ± 0,41 1,16 ± 0,15 1,39 ± 0,25 1,43 ± 0,35 1,28 ± 0,32 1,07 ± 0,31 1,40 ± 0,42 1,98 ± 0,38 1,25 ± 0,26 1,59 ± 0,18 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 (a) Các giá trị Ip trong bảng là trung bình số học ± độ lệch chuẩn (n = 3).

Các hệ số hồi quy và kết quả kiểm định t về mức ý nghĩa thống kê của các hệ

số đó được nêu ở bảng 3.22.

Bảng 3.22. Kết quả các hệ số hồi quy và kiểm định t

Pb Cd Zn

2

2

Yếu tố (biến) Giá trị p Giá trị p Giá trị p

Hệ số hồi quy 1,95 0,08 0,19 0,12 -0,35 -0,44 -0,19 0 0 0,11 <0,001 0,003 <0,001 0,001 <0,001 <0,001 <0,001 0,866 1,000 0,004 < 0,001 Hệ số hồi quy 2,00 0,08 0,22 0,16 -0,37 -0,44 -0,18 0 0 0,13 Hệ số hồi quy 2,00 0,08 0,21 0,15 -0,36 -0,45 -0,19 0 0 0,11 - <0,001 0,039 0,001 0,004 <0,001 <0,001 0,007 0,929 1,000 0,048 < 0,001 <0,001 0,064 0,001 0,006 0,001 <0,001 0,016 0,939 1,000 0,050 < 0,001

93

- - - 0,294 Hằng số x1 x2 x3 2 x1 x2 x3 x1x2 x1x3 x2x3 Hồi quy Độ thiếu phù hợp

Kết quả ở bảng 3.22 cho thấy, đối với cả 3 kim loại (Pb, Cd và Zn), các ảnh

hưởng chính (cả bậc một và bậc hai) của biến x1, x2, x3 và ảnh hưởng tương tác x2x3

đều có ý nghĩa thống kê (với p  < 0,001 – 0,05); Hai ảnh hưởng tương tác x1x2 và

x1x3 đều không có ý nghĩa thống kê với p tương ứng bằng 0,87 và 1,0; Các ảnh

hưởng chính bậc một và ảnh hưởng tương tác x2x3 là ảnh hưởng tích cực, tức là khi

tăng biến, sẽ làm tăng y và ngược lại các ảnh hưởng bậc hai là ảnh hưởng tiêu cực;

Từ các kết quả trên, cuối cùng thu được phương trình hồi quy đối với kim

Ip(Pb) = 1,95 + 0,08x1 + 0,19x2 + 0,12x3 – 0,35x1

2 – 0,44x2

2 – 0,19x3

2 + 0,11x2x3

(3.16)

Ip(Cd) = 2,00 + 0,08x1 + 0,22x2 + 0,16x3 – 0,37x1

2 – 0,44x2

2 – 0,18x3

Ip(Zn) = 2,00 + 0,08x1 + 0,21x2 + 0,15x3 – 0,36x1

2 – 0,45x2

2 – 0,19x3

(R2  0,994) 2 + 0,13x2x3 (3.17) (R2 = 0,976) 2 + 0,11x2x3 (3.18) (R2 = 0,982) Các phương trình hồi quy đối với kim loại M đều phù hợp với các kết quả thí

loại M như sau:

nghiệm với p < 0,001. Kiểm tra độ thiếu phù hợp (lack of fit) đối với Pb cho thấy,

độ thiếu phù hợp không có ý nghĩa thống kê với p  0, 294, nghĩa là, phương trình

hồi quy mô tả tốt thí nghiệm.

- Kết quả tối ưu hóa thí nghiệm: Do các kết quả Ip của Pb trong bảng 3.22

thấp hơn so với Ip của Zn, Cd và để đơn giản hóa khi tối ưu hóa thí nghiệm, ở đây

chỉ tìm điều kiện tối ưu đối với trường hợp của Pb. Kết quả tính toán cho thấy, điều

kiện tối ưu đối với Pb như sau: y đạt cực đại (dòng đỉnh hòa tan Ip của Pb cực đại là

2,003 µA) ở điều kiện x1 (nồng độ BiIII) là 640 ppb; x2 (pH dung dịch) là 6,5; x3

(nồng độ oxine) là 5 μM. Các biểu diễn mặt đáp ứng (y) phụ thuộc vào mỗi cặp biến

đối với Pb được nêu ở hình 3.13(a)-(c). Kết quả xác định điều kiện tối ưu đối với Pb

được nêu ở hình 3.14(a). Điều kiện tối ưu này (đối với cả 3 biến x1 – x3) được chấp

nhận là điều kiện tối ưu cho phương pháp SqW-AdSV/BiFE xác định đồng thời cả 3

kim loại M (Pb, Cd và Zn).

94

- Kết quả kiểm định mô hình: Kiểm định mô hình ở đây là nhằm đánh giá

tính lặp lại của mô hình xây dựng được, sử dụng kiểm định t: so sánh giá trị trung

bình Ip của Pb (thu được từ 3 thí nghiệm lặp lại đối với dung dịch chứa đồng thời 3

kim loại M ở điều kiện tối ưu ở trên) với giá trị Ip cực đại xác định được từ mô hình

ở cùng điều kiện tối ưu (Ip  2,003 µA, còn gọi là giá trị lý thuyết). Kết quả cho

thấy: các giá trị Ip của Pb thu được từ thí nghiệm lần lượt là 2,162; 1,834 và 1,867

µA (các đường von-ampe hòa tan được nêu ở hình 3.14(b)); Giá trị Ip trung bình là

1,954 µA (n  3); Giá trị này không khác giá trị lý thuyết với p  0,687. Như vậy,

có thể khẳng định rằng, mô hình thu được mô tả tốt thí nghiệm.

(a)

(b)

(c)

95

Hình 3. 13. Biểu diễn mặt đáp ứng (Ip) theo các yếu tố (biến) khảo sát đối với Pb: (a): Ip(Pb) là hàm của x1, x2; (b) Ip(Pb) là hàm của x1, x3; (c) Ip(Pb) là hàm của x2, x3.

(a)

Hình 3.14. (a) Điều kiện tối ưu của 3 biến khảo sát (x1 – x3) và giá trị Ip cực đại của Pb; (b) Các đường von-ampe hòa tan của các kim loại M ở điều kiện tối ưu.

3.4.1.2. Ảnh hưởng của thế điện phân và thời gian điện phân làm giàu

Ảnh hưởng của thế điện phân làm giàu (Eđp):

Thế điện phân làm giàu các kim loại M trên bề mặt điện cực làm việc (BiFE)

phải được chọn âm hơn thế khử của các ion MII (hay âm hơn thế bán sóng E1/2 của

các cặp MII/M trên sóng cực phổ). Kết quả khảo sát ảnh hưởng của Eđp trong khoảng

-1,40 đến -1,80 V ở bảng 3.23 và hình 3.15 cho thấy:

Bảng 3.23. Kết quả xác định Ip của kim loại M ở các Eđp khác nhau(*)

Pb Cd Zn Eđp, V Ip(Pb), μA RSD, % Ip(Cd), μA RSD, % Ip(Zn), μA RSD, %

-1,40 2,193 7,5 2,000 39 0,776 12

-1,50 2,350 1,3 4,256 24 2,074 26

-1,60 4,547 0,5 1,994 7,1 1,679 8,9

-1,70 4,368 0,9 1,412 1,5 1,726 4,2

(*) Các giá trị Ip và RSD trong bảng là trung bình số học và độ lệch chuẩn tương đối của 2 phép đo lặp lại (n = 2); ĐKTN: [HEPES] = 0,010 M; pH  6,5; [BiIII] = 640 ppb; [PbII]  [ZnII]  20 ppb; [CdII]  10 ppb; [oxine] = 5 μM; các ĐKTN khác như ở bảng 3.19.

96

-1,80 3,444 22 2,067 7,9 1,843 9,7

Hình 3.15. Ảnh hưởng của Eđp đến Ip của các kim loại Pb, Cd và Zn

ĐKTN: Như ở bảng 3.23. Các thanh đứng là độ lệch chuẩn ( S) của các giá trị Ip.

- Ip của Cd giảm mạnh, trong khi Ip của Pb và Zn thay đổi không nhiều; Ip

của Pb lớn hơn so với Ip của Cd và Zn; Ở những thế Eđp âm hơn -1,50 V, ion H+ có

thể bị khử và nhiều ion kim loại khác có mặt trong dung dịch (chẳng hạn NiII,

CoII…) cũng có thể khử và cạnh tranh chiếm chỗ trên bề mặt điện cực BiFE và do

vậy, có thể ảnh hưởng đến giai đoạn điện phân làm giàu và giai đoạn hấp phụ tiếp

theo, nên làm giảm Ip của Zn và Cd. Riêng đối với Pb, ở những thế âm hơn -1,60 V,

sự khử H+ và các kim loại khác mới ảnh hưởng và làm giảm Ip của nó, song không

đáng kể, nên Ip của Pb lớn hơn nhiều so với của Cd và Zn.

- Ở những thế dương hơn -1,50 V, hiệu quả điện phân làm giàu cũng giảm,

dẫn đến làm giảm Ip của cả 3 kim loại; Độ lặp lại của Ip (đối với Cd và Zn) giảm

mạnh với RSD  12 - 39 % (n  2). Thế điện phân làm giàu Eđp = -1,60 V được

chọn cho các nghiên cứu tiếp theo.

Ảnh hưởng của thời gian điện phân làm giàu (tđp):

Khi tđp  60 s, Ip của Zn chưa xuất hiện; Khi tăng tđp, lượng kim loại tích lũy

trên bề mặt điện cực BiFE tăng lên, dẫn đến làm tăng Ip của các kim loại M (bảng

3.24 và hình 3.16). Song, ở những tđp  300 s, có thể hình thành đa lớp kim loại hoặc

tạo thành các hợp chất “gian kim loại” trên bề mặt điện cực, làm ảnh hưởng đến quá

97

trình hòa tan, dẫn đến làm giảm Ip của chúng. Để giảm hiện tượng đó, nên chọn tđp

trong khoảng tăng gần tuyến tính giữa Ip và tđp, khoảng tđp  120 - 240 s. Trong

khoảng này, độ lặp lại của Ip tốt với RSD < 8,7 % (đối với cả 3 kim loại). Giá trị tđp =

240 s được chọn cho các nghiên cứu tiếp theo.

Bảng 3.24. Kết quả xác định Ip của các kim loại M ở các tđp khác nhau(*)

Pb Cd Zn tđp, s Ip(Pb), μA RSD, % Ip(Cd), μA RSD, % Ip(Zn), μA RSD, %

60 0,3661 5,6 0,304 9,9 - -

120 0,752 5,0 0,999 5,4 0,549 0,4

180 1,953 7,9 0,813 4,2 0,808 0,9

240 2,908 0,4 1,344 8,7 1,057 6,2

300 2,350 1,3 4,256 24 2,074 26

360 4,018 20 2,143 7,9 1,603 4,6

420 3,115 1,761 8,7 13 32

2,372 (*) Các giá trị Ip và RSD trong bảng là trung bình số học và độ lệch chuẩn tương đối của 2 phép đo lặp lại (n = 2); ĐKTN: Eđp  -1,60 V; các ĐKTN khác như ở bảng 3.23.

Hình 3.16. Ảnh hưởng của tđp đến Ip của các kim loại M. ĐKTN: Như ở Bảng 3.24.

3.4.1.3. Ảnh hưởng của thế và thời gian hấp phụ làm giàu

Ảnh hưởng của thế hấp phụ làm giàu (Ehp):

Kết thúc giai đoạn điện phân làm giàu, ngừng quay điện cực làm việc (BiFE) và

98

chuyển ngay sang giai đoạn hấp phụ làm giàu. Trong giai đoạn này, thế của điện cực

được chuyển đến thế Ehp (Ehp phải dương hơn thế E1/2 của các cặp MII/M, nhưng phải

âm hơn so với thế hòa tan Bi, tức là âm hơn -0,10 V) và giữ thế đó trong khoảng thời

gian xác định (được gọi là thời gian hấp phụ làm giàu thp) để hòa tan các kim loại M

thành MII. Các ion MII tạo phức ngay với phối tử oxine (có sẵn trong lớp dung dịch

sát bề mặt điện cực và/hoặc hấp phụ sẵn trên bề mặt điện cực) và phức tạo thành MII–

oxine được hấp phụ làm giàu ngay trên bề mặt điện cực. Kết quả khảo sát Ehp trong

khoảng -0,40 V đến -0,90 V ở bảng 3.25 và hình 3.17 cho thấy:

- Khi Ehp âm hơn -0,70 V, là những thế gần với thế oxi hóa khử của các cặp

MII/M, nên các kim loại M khó hòa tan hơn, nên hiệu quả hấp phụ làm giàu giảm,

dẫn đến làm giảm Ip của chúng. Cũng cần thấy rằng, ở những thế Ehp âm hơn -0,70

V, là thế gần với thế khử PbII, nên theo lý thuyết, Pb kim loại sẽ khó hoặc không bị

hòa tan và phức PbII–oxine chưa hình thành và tích lũy trên bề mặt điện cực BiFE.

Song, ngay sau khi hấp phụ làm giàu, việc quét thế lại bắt đầu từ -0,35 V đến -1,50

V, nên có thể trong thời gian ngắn khi chuyển thế trên điện cực từ thế hấp phụ làm

giàu (Ehp) đến -0,35 V (và cả trong thời gian quét thế từ -0,35 đến -0,50 V), Pb đã bị

hòa tan rất nhanh (do cặp PbII/Pb là hệ thuận nghịch trong điều kiện thí nghiệm), và

phức của nó vẫn được hấp phụ trên điện cực và do vậy, khi quét thế âm dần, vẫn

xuất hiện đỉnh hòa tan của Pb.

Bảng 3.25. Kết quả xác định Ip của các kim loại M ở các Ehp khác nhau(*)

Pb Cd Zn Ehp, V Ip(Pb), μA RSD, % Ip(Cd), μA RSD, % Ip(Zn), μA RSD, %

-0,40 1,212 15 1,241 0,2 0,356 1,7

-0,50 1,912 14 1,495 8,1 0,580 3,7

-0,60 2,300 5,8 1,649 6,0 0,770 5,0

-0,70 2,256 1,3 2,000 24 1,309 26

-0,80 1,921 14 1,495 8,1 0,630 3,4

-0,90 1,079 0,435 1,6 2,0 8,7

99

1,468 (*) Các giá trị Ip và RSD trong bảng là trung bình số học và độ lệch chuẩn tương đối của 2 phép đo lặp lại (n = 2); ĐKTN: Eđp  -1,60 V; tđp  240 s; các ĐKTN khác như ở bảng 3.23.

Hình 3.17. Ảnh hưởng của Ehp đến Ip của kim loại M. ĐKTN: Như ở bảng 3.25.

- Ở những thế dương hơn -0,70 V, tuy lượng kim loại M trên bề mặt điện cực

BiFE hòa tan nhiều hơn, nhưng hiệu quả hấp phụ lại giảm xuống, dẫn đến làm giảm

Ip của các kim loại M. Riêng Ip của Pb chỉ giảm ở những thế Ehp dương hơn -0,6 V.

Thế Ehp  -0,70 V là thích hợp.

Ảnh hưởng của thời gian hấp phụ làm giàu (thp):

- Khi thp  15 s, sự hấp phụ phức MII–oxine trên bề mặt điện cực BiFE có

xu thế đạt được bão hòa, nên Ip của các kim loại M thay đổi không nhiều (bảng

3.26 và hình 3.18);

- Khi thp  10 s, Ip của Cd và Zn giảm (Ip của Zn giảm mạnh hơn). Có thể sự

hấp phụ phức CdII–oxine và ZnII–oxine trên bề mặt điện cực BiFE nhanh đạt được

bão hòa và do vậy, khi kéo dài thời gian hấp phụ thp, có thể hình thành sự hấp phụ

đa lớp trên bề mặt BiFE, dẫn đến làm giảm Ip của Cd và Zn. Từ các kết quả trên,

giá trị thp = 10 s là thích hợp. Tuy vậy, ở thp này, độ lặp lại của Ip (đối với Pb) kém

với RSD = 28 % (n = 2); trong khi độ lặp lại của Ip (đối với Cd và Zn) tốt hơn với

100

RSD < 4 % (n = 2).

Bảng 3.26. Kết quả xác định Ip của các kim loại M ở các thp khác nhau(*)

Pb Cd Zn thp, s Ip(Pb), μA RSD, % Ip(Cd), μA RSD, % Ip(Zn), μA RSD, %

5 3,168 13 2,180 45 1,292 3,5

10 2,585 28 1,930 3,7 3,167 3,9

15 3,848 26 1,738 12 1,883 14

20 4,321 16 1,858 0,4 1,526 0,2

30 4,880 0,9 1,180 0,8 1,255 0,5

40 4,166 0,890 0,4 40 14

ở bảng 3.23.

1,270 (*) Các giá trị Ip và RSD trong bảng là trung bình số học và độ lệch chuẩn tương đối của 2 phép đo lặp lại (n = 2); ĐKTN: Eđp  -1,60 V; tđp  240 s; Ehp  0,70 V; các ĐKTN khác như

Hình 3.18. Ảnh hưởng của thời gian hấp phụ thp đến Ip của các kim loại M. ĐKTN: Như ở bảng 3.26.

3.4.1.4. Ảnh hưởng của tốc độ quay điện cực

Tốc độ quay điện cực (ω) là điều kiện thủy động học quan trọng, do nó ảnh

hưởng đến sự chuyển khối, nên tác động đến quá trình điện phân làm giàu các kim

loại M. Thông thường, khi tăng ω, sự chuyển khối tốt hơn, dẫn đến làm tăng hiệu

quả quá trình điện phân làm giàu. Song, trong phương pháp von-ampe hòa tan nói

chung, người ta thường sử dụng những giá trị ω < 2500 vòng/ phút [13].

Kết quả khảo sát trong khoảng ω = 1.600 – 2.400 vòng/ phút cho thấy, khi ω

lớn hơn 2.000 vòng/phút, Ip của các kim loại M giảm xuống (bảng 3.27 và hình

101

3.19). Giá trị ω = 2000 vòng/ phút là thích hợp.

Bảng 3.27. Kết quả xác định Ip của các kim loại M ở các ω khác nhau(*)

Pb Cd Zn ω

(vòng/ phút) Ip(Pb), μA RSD, % Ip*Cd), μA RSD, % Ip(Zn), μA RSD, %

1,835 13 1,685 11 0,829 32 1600

2,585 28 1,930 3,7 3,167 39 2000

(*) Các giá trị Ip và RSD trong bảng là trung bình số học và độ lệch chuẩn tương đối của 2 phép đo lặp lại (n = 2); ĐKTN: Eđp  -1,60 V; tđp  240 s; Ehp  0,70 V; thp = 10 s; các

ĐKTN khác như ở bảng 3.23.

1,965 10 1,569 4,3 0,997 1,9 2400

ĐKTN: Như ở bảng 3.27.

Hình 3.19. Ảnh hưởng của tốc độ quay điện cực () đến Ip của các kim loại M.

3.4.1.5. Ảnh hưởng của các chất cản trở

Tương tự như trong phương pháp DP-ASV/BiFE, ở đây trong phương pháp

SqW-AdSV/BiFE, chỉ khảo sát ảnh hưởng của các chất cản trở của các kim loại có

có thế oxi hóa khử gần với thế oxi hóa khử của các cặp MII/M như Ni, Co. NiII và

CoII thường có mặt trong nước tự nhiên và chúng có thể bị khử ở những thế âm

hơn -1,20 V (rất gần với thế khử của ZnII, hay nói cách khác, khi quét thế về phía

âm dần, thế khử ZnII, NiII và CoII rất gần nhau) và do vậy, chúng ảnh hưởng đến

dòng đỉnh hòa tan (Ip) của các kim loại M. Trong giai đoạn điện phân làm giàu của

phương pháp SqW-AdSV/BiFE, NiII và CoII bị khử thành Ni và Co kết tủa trên bề

102

mặt điện cực làm việc và có thể làm thay đổi bề mặt điện cực BiFE, và do vậy,

ảnh hưởng đến Ip của các kim loại M. Mặt khác, nếu trong dung dịch có mặt NiII

và CoII, chúng cũng tạo phức với oxine: Phức NiII–oxine có lg 1  9,9 và lg 1,2 

18,7; Phức CoII–oxine có lg 1  9,1 và lg 1,2  17,2 [157] và các phức đó cũng

có thể hấp phụ lên bề mặt điện cực BiFE và như thế, sẽ ảnh hưởng đến sự hấp phụ

làm giàu các phức MII–oxine lên bề mặt điện cực BiFE (trong giai đoạn hấp phụ

làm giàu) và tác động đến Ip của các kim loại M. Dưới đây là khảo sát ảnh hưởng

của NiII, CoII và chất hoạt động bề mặt Triton X-100 đến Ip của các kim loại M.

(i) Ảnh hưởng của NiII:

Bảng 3.28. Kết quả xác định Ip của các kim loại M ở các nồng độ NiII khác nhau(*)

[NiII], ppb 0 5 10 20 40 60 Kim loại

1,508 1,479 1,468 1,680 1,695 1,705 Ip, μA

10 12 15 16 19 Pb - (0,063) (0,053) (0,042) (0,039) (0,033) ttính (p)

1,269 1,264 1,298 1,343 1,389 1,421 Ip, μA

7 10 14 15 15 Cd - (0,090) (0,063) (0,045) (0,042) (0,042) ttính (p)

1,298 1,302 1,113 1,109 1,115 0,937 Ip, μA

(*) Các giá trị Ip trong bảng là trung bình số học của 2 phép đo lặp lại (n = 2); ĐKTN: [HEPES] = 0,010 M; pH  6,5; [BiIII] = 640 ppb; [PbII]  [ZnII]  20 ppb; [CdII] 

10 ppb; [oxine] = 5 μM; Eđp  -1,60 V; tđp  240 s; Ehp  0,70 V; thp = 10 s;   2,000

vòng/phút; các ĐKTN khác như ở bảng 3.23.

10 16 15 14 18 Zn - (0,063) (0,039) (0,042) (0,045) (0,035) ttính (p)

Kết quả khảo sát trong khoảng nồng độ NiII ([NiII])  5 - 60 ppb đến Ip của

các kim loại M khi dung dịch chứa đồng thời cả 3 kim loại M (PbII, CdII, ZnII) ở

bảng 3.38 cho thấy:

- NiII chỉ ảnh hưởng đến Ip của Pb và Cd khi tỷ lệ [NiII]/ [PbII] (ppb/ ppb)  1

và [NiII]/ [CdII] (ppb/ ppb)  2 (với p < 0,05);

- NiII ảnh hưởng đến Ip của Zn mạnh hơn so với Pb và Cd ngay khi tỷ lệ

103

[NiII]/ [ZnII] (ppb/ ppb)  1/2 (với p < 0,05).

(ii) Ảnh hưởng của CoII :

(PbII, CdII, ZnII) ở bảng 3.29 cho thấy:

- CoII ảnh hưởng đến Ip của Pb khi tỷ lệ [CoII]/ [PbII] (ppb/ppb)  1 (p <

0,05), nhưng ít ảnh hưởng hơn đến Ip của Cd, chỉ ảnh hưởng khi [CoII] > 60 ppb

(p > 0,05);

- Tương tự như NiII, CoII cũng ảnh hưởng mạnh đến Ip của Zn ngay cả khi tỷ lệ

[CoII]/ [ZnII]  1/2 (p < 0,05).

Bảng 3.29. Kết quả xác định Ip của các kim loại M ở các nồng độ CoII khác nhau(*)

[CoII], ppb 0 10 20 40 60 Kim loại

1,429 1,368 1,580 1,645 1,605 Ip, μA

Pb - 11 (0,058) 14 (0,045) 15 (0,042) 14 (0,045) ttính (p)

1,264 1,198 1,243 1,309 1,321 Ip, μA

Cd - 11 (0,058) 10 (0,063) 12 (0,053) 13 (0,049) ttính (p)

2,098 1,483 1,327 1,263 1,011 Ip, μA

(*) Các giá trị Ip trong bảng là trung bình số học của 2 phép đo lặp lại (n = 2); ĐKTN: Như ở bảng 3.28.

Zn - 23 (0,028) 24 (0,027) 28 (0,023) 35 (0,018) ttính (p)

(iii) Ảnh hưởng của chất hoạt động bề mặt Triton X-100:

Khi có mặt Triton X-100 trong dung dịch ở nồng độ tương đương với nồng

độ các kim loại MII khảo sát, tức là khoảng 10 – 20 ppb, Triton X-100 đã ảnh

hưởng mạnh đến Ip của các kim loại (các kết quả chi tiết không đưa ra ở đây). Như

vậy, cũng tương tự như trong phương pháp DP-ASV/BiFE, các chất hữu cơ nói

chung và các chất hoạt động bề mặt nói riêng có thể hấp phụ lên bề mặt điện cực

BiFE, nên chúng cũng cản trở phương pháp SqW-AdSV/BiFE xác định các kim

loại M. Do đó, trước khi phân tích mẫu thực tế bằng phương pháp SqW-

AdSV/BiFE, nhất thiết phải phân hủy mẫu (bằng bức xạ UV hoặc có trợ giúp của

104

vi sóng) để loại bỏ các chất hữu cơ có mặt trong mẫu.

3.4.2. Đánh giá độ tin cậy của phương pháp SqW-AdSV/BiFE

Các kết quả khảo sát độ tin cậy của phương pháp SqW-AdSV/BiFE được

thực hiện trên thiết bị CPA–HH5 Computerized Polarography Analyzer (Viện Khoa

học Công nghệ Việt Nam).

3.4.2.1. Độ lặp lại

Phương pháp SqW-AdSV/BiFE đạt được độ lặp lại chấp nhận được của dòng

đỉnh hòa tan (Ip) của các kim loại M (bảng 3.30 và hình 3.20), trong đó độ lặp lại

đối với Cd (RSD  9,1 %; n  7) tốt hơn so với Pb và Zn (RSD tương ứng là 18 %

và 19 %; n  7). Độ lặp lại này kém hơn so với độ lại của phương pháp DP-

ASV/BiFE (đối với cả 4 kim loại Cu, Pb, Cd và Zn, RSD đều < 2 %, n  25).

Bảng 3.30. Kết quả xác định đo độ lặp lại của phương pháp SqW-AdSV dùng

điện cực BiFE (*)

Lần đo Ip(Pb), μA Ip(Cd), μA Ip(Zn), μA

1 1,258 2,982 3,616

2 1,428 2,811 3,356

3 1,544 2,748 3,126

4 1,727 2,577 2,819

5 1,919 2,566 2,617

6 2,019 2,389 2,384

7 2,091 2,307 2,053

Trung bình ± S 1,712 ± 0,315 2,626 ± 0,238 2,853 ± 0,552

RSD (%), n = 7 18 9,1 19

14 – 19 16 – 21 14 – 19

(*) RSDH: Độ lệch chuẩn tương đối tính theo phương trình Horwitz - là RSDH ước lượng khi phân tích những nồng độ MII cỡ 10 – 20 ppb với giả thiết Ip  k[MII]; k là hệ số tỷ lệ. ĐKTN: [HEPES] = 0,010 M; pH  6,5; [BiIII] = 640 ppb; [PbII]  [ZnII]  20 ppb; [CdII] 

10 ppb; [oxine] = 5 μM; Eđp  -1,60 V; tđp  240 s; Ehp  0,70 V; thp = 10 s;   2.000

vòng/phút; các ĐKTN khác như ở bảng 3.23.

105

(1/2 – 2/3)RSDH (%)

Hình 3.20. Các đường von-ampe hòa tan hấp phụ sóng vuông của các kim loại (n 

7): (a) [PbII] = [CdII] = [ZnII] = 10 ppb; (b) [PbII] = [CdII] = [ZnII] = 20 ppb; (c)

[PbII] = [CdII] = [ZnII] = 30 ppb. Các ĐKTN khác như ở bảng 3.30.

3.4.2.2. Khoảng tuyến tính

Trong khoảng nồng độ MII từ 2 đến 110 ppb (tăng dần đồng thời nồng độ cả

3 kim loại MII), giữa Ip và nồng độ kim loại ([MII]) có tương quan tuyến tính tốt với

R2  0,997 – 0,998; p < 0,001 (hình 3.21 và bảng 3.31). Các phương trình hồi quy

tuyến tính giữa Ip và [MII] như sau:

Ip(Pb) = (0,32 ± 0,09) + (0,086 ± 0,002).[PbII] ; R2 = 0,997; p <0,001 (3.19a)

Ip(Cd) = (-0,01 ± 0,20) + (0,225 ± 0,004).[CdII] ; R2 = 0,998; p <0,001 (3.19b)

Ip(Zn) = (-0,09 ± 0,19) + (0,151 ± 0,004).[ZnII] ; R2 = 0,997; p <0,001 (3.19c)

106

(các giá trị sau dấu  là biên giới tin cậy 95%)

Hình 3.21. (a) Các đường von-ampe hòa tan hấp phụ sóng vuông của các kim loại

M ([MII] tăng dần như ở bảng 3.31); (b) Đường hồi quy tuyến tính giữa Ip và [MII].

ĐKTN: Như ở bảng 3.30.

Bảng 3.31. Các giá trị Ip của các kim loại M khi tăng dần đồng thời nồng độ các MII (*)

[MII], ppb Ip(Pb), µA Ip(Cd), µA Ip(Zn), µA

2 0,376 0,308 0,250

4 0,610 0,791 0,570

6 0,871 1,311 0,907

8 1,136 1,837 1,132

10 1,340 2,320 1,407

20 2,005 4,446 2,073

30 3,030 6,993 4,279

40 3,855 8,860 6,185

50 4,380 10,567 7,939

70 5,905 16,574 10,997

90 7,930 20,881 13,903

(*) Các giá trị Ip trong bảng là giá trị trung bình của 3 lần đo lặp lại (n  3);

ĐKTN: Như ở bảng 3.30.

23,988 15,809 110 10,096

Như vậy, tương tự phương pháp DP-ASV/BIFE, giữa Ip và nồng độ kim loại

107

MII trong phương pháp SqW-AdSV cũng có tương quan tuyến tính tốt.

3.4.2.3. Giới hạn phát hiện, giới hạn định lượng và độ nhạy

Giới hạn phát hiện (LOD) của phương pháp SqW-AdSV/BiFE được tính

theo “quy tắc 3” và dựa vào hồi quy tuyến tính, tức là dựa vào các số liệu ở bảng

3.31, nhưng chỉ lấy các kết quả ở vùng gần gốc tọa độ với nồng độ kim loại [MII] 

2 – 30 ppb. Từ đó, xác định được LOD đối với PbII, CdII và ZnII tương ứng là 0,45

ppb, 0,17 ppb và 0,78 ppb (bảng 3.32). So với phương pháp DP-AdSV (LOD đối

với Cu, Pb, Cd và Zn tương ứng là 0,9 – 1,1; 0,7 – 1,3; 0,9 – 1,8 và 1,1 – 3,0 ppb),

phương pháp SqW-AdSV/BiFE đạt được LOD thấp hơn đáng kể.

Về độ nhạy (chính là độ dốc b của đường hồi quy tuyến tính), phương pháp

SqW-AdSV/BiFE đạt được độ nhay cao hơn đối với Cd (0,225 µA/ppb), tiếp theo là

Zn (0,151 µA/ppb) và thấp nhất là Pb (0,086 µA/ppb) (bảng 3.32 và hình 3.21). Các

độ nhạy đó kém hơn so với độ nhạy của phương pháp DP-ASV/BiFE (đối với Cu,

Pb, Cd và Zn tương ứng là 0,313 – 0,396; 0,220 – 0,262; 0,107 – 0,280 và 0,10 –

0,21 µA/ppb). Phương pháp DP-ASV/BiFE đạt được độ nhạy cao đối với Cu, tiếp

theo Pb và Cd, và kém hơn cả là Zn.

Bảng 3.32. Kết quả xác định LOD, LOQ và độ nhạy (b) của phương pháp SqW- AdSV/BiFE đối với các kim loại M(*)

Thông số Đối với Pb Đối với Cd Đối với Zn

0,32 ± 0,09 -0,01 ± 0,20 -0,09 ± 0,19 a (μA)

0,086 ± 0,002 0,225 ± 0,004 0,151 ± 0,004 b (μA/ppb)

LOD (ppb) 0,45 0,17 0,78

LOQ (ppb) 1,36 - 1,82 0,52 -0,70 2,35 - 3,14

(*) a, b: tương ứng là đoạn cắt trên trục tung và độ dốc của đường hồi quy tuyến tính. ĐKTN: Như ở bảng 3.30.

108

3.4.3. So sánh phương pháp SqW-AdSV/BiFE với các phương pháp khác

Các kết quả so sánh LOD của phương SqW-AdSV/BiFE trong nghiên cứu

này, để xác định đồng thời 3 kim loại Cd, Pb và Zn với các phương pháp AdSV

khác (chủ yếu xác định đồng thời 2 – 3 kim loại) nêu ở bảng 3.33 cho thấy, phương

pháp SqW-AdSV/BiFE đạt được LOD khá thấp, hay nói cách khác, không thua kém

các phương pháp khác.

Bảng 3.33. So sánh LOD và khoảng tuyến tính của phương pháp SqW-AdSV/BiFE

Điện cực

TLTK

Phương pháp

Khoảng tuyến tính (ppb - ppb)

LOD (ppb) 0,98

Hg–Bi/SWNTs/GCE

10 - 130

[96]

1,3

SqW- AdSV

2

0,82

5,6- 39,2

BiFE

1,64

4,1- 41,4

[100]

SqW- AdSV

0,08

2,6- 39,2

0,1

1-300

G/PANI/SPE

0,1

1-300

[111]

SqW- AdSV

1,0

1-300

2,6

2616- 36624

1,12

1120- 15680

[142]

Ƴ-AlOOH.SiO2/Fe3O4/GCE

SqW- AdSV

0,4

414- 99456

0,49

0,05-100

Bi/GCE

[61]

SqW- AdSV

0,41

0,05-100

0,07

GCN -NNBiFE

AdSV

10-70

[117]

0,08

2,03

44,1–71,6

BiFE

AdSV

[66]

2,43

78,3–204

0,01

1,0-13

NHgFE

AdSV

[90]

0,05

1,0-16

0,78

2 - 110

BiFE

0,17

2 - 110

SqW- AdSV

Nghiên cứu này

Kim loại CdII PbII ZnII CdII PbII ZnII CdII PbII ZnII ZnII CdII PbII CdII PbII CdII PbII CdII PbII CdII PbII ZnII CdII PbII

0,45

2 - 110

109

với các phương pháp khác

3.4.4. Quy trình phân tích đồng thời Pb, Cd và Zn theo phương pháp SqW-

AdSV/BiFE

Từ các kết quả khảo sát ảnh hưởng của các yếu tố và các chất cản trở đến

dòng đỉnh hòa tan (Ip) của các kim loại M và độ tin cậy của phương pháp SqW-

AdSV/BiFE, quy trình phân tích đồng thời các kim lại M (Pb, Cd, Zn) trong nước tự

Mẫu nước (được axit hóa bằng HNO3 đặc, 1mL HNO3/ 500 mL mẫu), lọc qua màng lọc sợi thủy tinh   0,45 µm

Lấy ra 10 mL mẫu, thêm 0,5 mL HNO3 đặc và 0,25 mL H2O2; chiếu xạ UV trong 60 phút (thiết bị UV digester)

Lấy một thể tích mẫu xác định, Vmẫu  1 – 4 mL

Thêm chuẩn

nhiên được đề xuất ở sơ đồ hình 3.22.

Định lượng: Phương pháp thêm chuẩn, 3 – 4 lần thêm; Mỗi lần, nồng độ kim loại MII thêm vào khoảng 2 – 5 ppb.

Tính nồng độ MII trong mẫu (CMII): II  [MII]  Vbđp/Vmẫu

CM

- Chuẩn bị dung dịch phân tích: Cho mẫu vào bình điện phân (BĐP) chứa 3 điện cực (GCE, Ag/AgCl và dây Pt) sao cho nồng độ các chất trong BĐP: Đệm [HEPES] = 0,010 M; pH = 6,5; [oxine] = 5 μM; [BiIII] = 640 ppb; Tổng thể tích dung dịch trong BĐP: Vbđp 10 mL. - Ghi đường von-ampe hòa tan (ghi lặp lại với n  2, đã bỏ phép ghi đầu tiên): i) Giai đoạn điện phân - hấp phụ làm giàu: Điện phân ở Eđp = -1,60 V; tđp = 240 s (quay điện cực với ω = 2000 vòng/phút); Nghỉ 10 s; Hấp phụ làm giàu ở Ehp -0,70 V; thp  10 s. ii) Giai đoạn hòa tan: Quét thế âm dần từ -0,350 V đến -1,50 V với tốc độ v  0,020 V/s; Ghi đáp ứng hòa tan theo kỹ thuật SqW với các thông số thích hợp.(*) iii) Giai đoạn làm sạch điện cực: Áp thế Eclean  +0,30 V trong thời gian tmeas = 60 s.

 Đáp ứng von-ampe hòa tan (dòng I là hàm của thế E trên điện cực làm việc) có dạng đỉnh; Độ lớn của đỉnh (Ip) tỉ lệ thuận với [MII] (nồng độ kim loại MII trong BĐP).

Hình 3.22. Quy trình phân tích đồng thời Pb, Cd và Zn trong mẫu nước tự nhiên

ΔE  50 mV; f  50 Hz; Ustep  6 mV ; tstep  0,3 s; tmeas  5 ms.

110

bằng phương pháp SqW-AdSV/BiFE với các thông số kỹ thuật thích hợp: (*)

Trong trường hợp nồng độ kim loại MII rất nhỏ (nhỏ hơn LOD của phương

pháp phân tích), sẽ không xuất hiện đỉnh hòa tan của kim loại. Lúc này, để phân tích

được kim loại, cần có thêm giai đoạn làm giàu, chẳng hạn, trước khi chiếu xạ UV,

cô giảm thể tích mẫu 5 - 10 lần. Song, trong trường hợp này, để tính nồng độ kim

loại trong mẫu, cần tính đến hệ số làm giàu. Mặt khác, trước khi áp dụng vào thực

tế, nhất thiết phải kiểm soát chất lượng của phương pháp phân tích (SqW-

AdSV/BiFE) qua độ đúng và độ lặp lại.

3.5. Áp dụng thực tế

Để khẳng định về khả năng áp dụng của phương pháp DP-ASV/BiFE và SqW-

AdSV/BiFE vào thực tế, ở đây tiến hành phân tích đồng thời các kim loại (Cu, Pb,

Cd, Zn) trong một số mẫu nước tự nhiên (sông, hồ) ở tỉnh Quảng Bình.

3.5.1. Chuẩn bị mẫu

(i) Thông tin về mẫu:

Các mẫu được lựa chọn và thông tin về mẫu được nêu ở bảng 3.34 (vị trí lấy

mẫu được chỉ ra ở Phụ lục 15)

STT Mẫu nước

Mô tả vị trí lấy mẫu

Ký hiệu mẫu

1

CR1

Thượng lưu Cầu Rào, thuộc phường Đồng Phú, thành phố Đồng Hới

Sông Cầu Rào

CR2

2

Hạ lưu Cầu Bệnh Viện, thuộc phường Đồng Phú, thành phố Đồng Hới

KG1

3

Sông Kiến Giang

KG2

4

Thượng lưu cầu Phong Xuân, thuộc thị trấn Kiến Giang, huyện Lệ Thuỷ Hạ lưu đập Mỹ Trung, thuộc xã Gia Ninh, huyện Quảng Ninh

NL

5

Sông Nhật Lệ

Thượng lưu cầu cũ Quán Hàu, thuộc thị trấn Quán Hàu, huyện Quảng Ninh

6

Sông Gianh

GI

HoNL

7

Hồ Nam Lý

Sông Son

Son

8

Hạ lưu cầu Sông Gianh, phường Quảng Thuận, thị xã Ba Đồn Hồ Nam Lý, thuộc phường Nam Lý, thành phố Đồng Hới Thượng lưu cầu Xuân Sơn, thuộc thị trấn Phong Nha, huyện Bố Trạch

(*) Tất cả các mẫu đều được lấy vào tháng 7/2018.

111

Bảng 3.34. Thông tin mẫu và vị trí lấy mẫu nước sông, hồ ở tỉnh Quảng Bình(*)

(ii) Kỹ thuật lấy mẫu, bảo quản và xử lý mẫu cho phân tích: Kỹ thuật lấy

mẫu và bảo quản mẫu được thực hiện theo quy định của ISO 5667–1:2006 [62] và

ISO 5667–3:2003 [63]. Theo đó, quy cách lấy mẫu như sau:

- Đối với sông: Mẫu nước sông là mẫu tổ hợp (1:1:1) từ 3 phần mẫu lấy ở 3

vị trí theo mặt cắt ngang sông; Tại mỗi vị trí, mẫu được lấy ở độ sâu 50 cm.

- Đối với hồ: Mẫu nước hồ tại mỗi vị trí cũng là mẫu tổ hợp (1:1:1) từ 3

phẫn mẫu lấy ở 3 độ sâu của hồ: dưới mặt nước 30 cm, độ sâu trung bình và cách

đáy 30 – 40 cm.

Tất cả các mẫu nước (nước sông, hồ) đều được bảo quản (ngay sau khi lấy

mẫu) bằng cách axit hóa bằng HNO3 đặc (2 mL HNO3 / 1 lít mẫu, pH  2) và đựng

trong chai nhựa PET (polietylen tere-phtalat) sạch cho đến khi phân tích.

Trước khi phân tích, tất cả các mẫu nước đều được phân hủy theo quy trình

sau: Lấy ra 10 mL mẫu, thêm 0,5 mL HNO3 đặc và 0,25 mL H2O2; Chiếu xạ UV

trong 60 phút (thiết bị UV digester). Kết thúc phân hủy mẫu, để nguội đến nhiệt độ

phòng, rồi lọc mẫu qua màng lọc sợi thủy tinh   0,45 µm, thu nước lọc và đem

phân tích. Đối với tất cả các mẫu, phần nước lọc của mỗi mẫu đều được chia làm

hai phần - một phần để xác định các kim loại bằng phường pháp von-ampe hòa tan

(DP-ASV/BiFE hoặc SqW-AdSV/BiFE), một phần để xác định các kim loại theo

phương pháp quang phổ hấp thụ nguyên tử lò graphit (GF-AAS).

Theo quy định của quốc tế, để khẳng định độ tin cậy của các kết quả phân tích

các mẫu thực tế, trước khi áp dụng một phương pháp bất kỳ, nhất thiết phải kiểm

soát chất lượng của phương pháp thông qua độ lặp lại và độ đúng của nó. Độ lặp lại

được đánh giá qua độ lệch chuẩn tương đối (RSD) và so sánh với RSD tính theo

phương trình Horwitz (ký hiệu là RSDH), còn độ đúng được đánh giá qua so sánh

phương pháp DP-ASV/BiFE hoặc SqW-AdSV/BiFE với phương pháp chuẩn –

phương pháp GF-AAS. Áp dụng kiểm định t để so sánh hai phương pháp.

3.5.2. Kiểm soát chất lượng phương pháp phân tích

3.5.2.1. Phương pháp DP-ASV/BiFE xác định đồng thời Cu, Pb, Cd và Zn

(i) Độ lặp lại của phương pháp DP-ASV/BiFE:

Để kiểm tra độ lặp lại của phương pháp, chọn ngẫu nhiên một mẫu từ các mẫu

112

nước sông/hồ được đề cập ở trên - chọn mẫu CR1 (nước sông Cầu Rào). Kết quả

phân tích mẫu nước CR1 bằng hai phương pháp DP-ASV/BiFE và GF-AAS (đối với

mỗi phương pháp, tiến hành phân tích lặp lại 3 lần, n  3) nêu ở bảng 3.35 cho thấy:

Bảng 3.35. Kết quả xác định Cu, Pb, Cd, Zn (ppb) trong mẫu CR1

Theo phương pháp DP-ASV/BiFE và GF-AAS(*)

DP-ASV/BiFE GF-AAS STT Cu Pb Cd Zn Cu Pb Cd Zn

9,14 11,92 3,60 12,51 7,23 14,53 3,22 10,93 1

11,61 14,71 2,20 12,05 8,74 18,10 3,72 13,73 2

6,65 13,33 2,93 13,03 10,24 10,91 2,74 16,53 3

TB 9,1 13,3 2,9 12,5 8,7 14,5 3,2 13,7

S (ppb) 2,5 1,4 0,7 0,5 1,5 3,6 0,5 2,8

RSD (%) 27 10 24 4 17 25 15 20

32 31 39 31 33 30 38 31 RSDH (%)

(*) TB, S và RSD: Trung bình số học, độ lệch chuẩn và độ lệch chuẩn tương đối; RSDH: Độ lệch chuẩn tương đối tính theo phương trình Horwitz; ttinh và p: Giá trị t và p tính được từ các kết quả của hai phương pháp khi phân tích một kim loại trong cùng mẫu RC1.

ĐKTN: Đối với phương pháp DP-ASV/BiFE: như ở hình 3.9; Đối với phương pháp GF- AAS như ở bảng 1.1 [7].

0,24 0,54 0,64 0,73 ttinh - - - - (p) (0,83) (0,62) (0,56) (0,50)

- Phương pháp DP-ASV/BiFE đạt được độ lại tốt đối với Pb, Cd và Zn (do

RSD < (1/2 - 2/3)*RSDH; Tuy nhiên, độ lặp lại đối với Cu kém hơn, nhưng cũng

chấp nhận được [89].

- Phương pháp GF-AAS đạt được độ lặp lại tốt đối với Cu và Cd, và chấp

nhận được đối với Pb và Zn.

(ii) Độ đúng của phương pháp DP-ASV/BiFE:

Sử dụng kiểm định t để so sánh kết quả của hai phương pháp DP-ASV/BiFE

và phương pháp chuẩn (GF-AAS) cho thấy: Phương pháp DP-ASV/BiFE đạt được

độ đúng tốt với p  0,50 – 0,83 đối với cả 4 kim loại (bảng 3.35). Các đường von-

113

ampe hòa tan anot của các kim loại đối với mẫu CR1 được nêu ở hình 3.23.

ĐKTN: Như ở hình 3.9.

Hình 3.23. Các đường von-ampe hòa tan đối với mẫu CR1.

3.5.2.2. Phương pháp SqW-AdSV/BiFE xác định đồng thời Pb Cd và Zn

(i) Độ lặp lại của phương pháp SqW-AdSV/BiFE:

Mẫu nước hồ Nam Lý (mẫu HoNL) được chọn để kiểm tra độ lặp lại của

phương pháp SqW-AdSV/BiFE và GF-AAS khi phân tích các kim loại Pb, Cd và

Zn. Kết quả ở bảng 3.36 cho thấy:

Bảng 3.36. Kết quả xác định Pb, Cd, Zn (ppb) trong mẫu HoNL theo phương pháp

SqW-AdSV/BiFE và GF-AAS(*)

STT SqW-AdSV/BiFE GF-AAS

Pb (ppb) Cd (ppb) Zn (ppb) Pb (ppb) Cd (ppb) Zn (ppb)

27,1 29,1 25 27,1 2,1 8 28 16,3 18,3 20,3 18,3 2,0 11 29 4,3 4,6 4,9 4,6 0,3 7 36

- - - 32,0 26,9 21,8 26,9 5,1 19 28 0,05 (0,96) 4,7 5,1 5,5 5,1 0,4 8 35 1,71 (0,16) 1 2 3 TB S (ppb) RSD (%) RSDH (%) ttinh p

114

16,5 20,3 24,1 20,3 3,8 19 29 0,81 (0,47) (*) TB, S, RSD, RSDH và ttinh, p: Như ở bảng 3.35. ĐKTN: Đối với phương pháp SqW-AdSV/BiFE: như ở hình 3.22; Đối với phương pháp GF-AAS: Như ở bảng 1.1.

- Phương pháp SqW-AdSV/BiFE đạt được độ lặp lại tốt đối với cả ba kim

loại (do RSD < (1/2 - 2/3) RSDH); Độ lặp lại đối với Pb và Zn kém hơn, nhưng cũng

chấp nhận được; Song, cũng cần thấy rằng, so với phương pháp DP-ASV/BiFE ở

trên, phương pháp SqW-AdSV/BiFE đạt được độ lặp lại kém hơn;

- Phương pháp GF-AAS đạt được độ lặp lại tốt đối với Pb, Cd và chấp nhận

được đối với Zn.

(ii) Độ đúng của phương pháp SqW-AdSV/BiFE:

Kết quả so sánh hai phương pháp SqW-AdSV/BiFE và GF-AAS ở bảng 3.43

cho thấy: Phương pháp SqW-AdSV/BiFE cũng đạt được độ đúng tốt với p  0,16 –

0,96 đối với cả 3 kim loại (Pb, Cd, Zn). Các đường von-ampe hòa tan hấp phụ sóng

vuông của các kim loại trong mẫu HoNL được nêu ở hình 3.24.

Hình 3.24. Các đường von-ampe hòa tan hấp phụ sóng vuông của Pb, Cd, Zn

ĐKTN: Như hình 3.22.

115

trong mẫu HoNL: (a) Ghi lần 1; (b) Ghi lần 2; (c) Ghi lần 3

Các kết quả ở trên cho thấy, cả hai phương pháp DP-ASV/BiFE và SqW-

AdSV/BiFE đều đạt được độ lặp lại tốt và độ đúng tốt khi so sánh với phương pháp

chuẩn (GF-AAS) và do vậy, hoàn toàn có thể áp dụng để phân tích các kim loại

trong nước tự nhiên. Song, phương pháp DP-ASV/BiFE có nhiều ưu điểm hơn so

với phương pháp SqW-AdSV/BiFE do không chỉ cho phép phân tích đồng thời bốn

kim loại CuII, PbII, CdII, ZnII, mà còn có độ lặp lại tốt hơn. Do vậy, phương pháp

DP-ASV/BiFE nên được lựa chọn để phân tích đồng thời lượng vết của bốn kim

loại đó trong các mẫu nước tự nhiên. Dưới đây, phương pháp DP-ASV/BiFE được

áp dụng vào thực tế để phân tích đồng thời CuII, PbII, CdII, ZnII và phương pháp

SqW-AdSV/BiFE được áp dụng vào thực tế để phân tích đồng thời PbII, CdII, ZnII

trong nước tự nhiên.

3.5.3. Nồng độ các kim loại độc trong một số mẫu nước tự nhiên

Để khẳng định chắc chắn thêm về khả năng áp dụng phương pháp DP-

ASV/BiFE khi phân tích dồng thời các kim loại MeII (CuII, PbII, CdII, ZnII) trong các

mẫu nước tự nhiên, đối với mỗi mẫu, độ lặp lại và độ đúng của phương pháp tiếp

tục được đánh giá khi so sánh với phương pháp chuẩn (GF-AAS). Kết quả phân tích

các kim loại Me trong các mẫu nước tự nhiên theo phương pháp DP-ASV/BiFE và

GF-AAS được thể hiện ở bảng 3.37.

Bảng 3.37. Kết quả phân tích các kim loại Me trong các mẫu nước tự nhiên

theo phương pháp DP-ASV/BiFE và GF-AAS(*)

DP-ASV/BiFE (ppb) GF-AAS (ppb) Mẫu Cu Pb Cd Zn Cu Pb Cd Zn

CR1 9,1 ± 2,5 13,3 ± 1,4 2,9 ± 0,7 12,5 ± 0,5 8,7 ± 1,5 14,5 ± 3,6 3,2 ± 0,5 13,7 ± 2,8

KG1 7,2 ± 3,9 17,2 ± 7,3 3,1 ± 0,9 7,8 ± 2,8 6,5 ± 2,1 18,8 ± 4,2 2,5 ± 0,6 7,3 ± 1,8

NL 8,6 ± 3,1 22,5 ± 3,6 3,1 ± 0,4 6,2 ± 2,6 9,4 ± 1,2 21,8 ± 3,1 3,5 ± 0,7 6,9 ± 1,5

GI 5,5 ± 1,8 11,2 ± 4,4 3,1 ± 1,6 7,9 ± 1,7 5,8 ± 0,9 10,2 ± 2,7 2,6 ± 0,5 8,7 ± 1,6

(*) Các kết quả trong bảng là trung bình số học và độ lệch chuẩn với n  3 (3 phép phân tích lặp lại); Kết quả đối với mẫu CR1 được trích từ bảng 3.35. ĐKTN: Như ở bảng 3.35

116

Son 4,6 ± 2,1 7,3 ± 2,1 2,9 ± 0,9 5,5 ± 1,4 4,2 ± 0,3 7,1 ± 1,2 2,1 ± 0,6 5,6 ± 1,4

Từ tết quả ở bảng 3.37 cho thấy:

Phương pháp DP-ASV/BiFE đạt được độ lặp lại và độ đúng tốt (khi so với

phương pháp GF-AAS) đối với cả 4 kim loại Me với p  0,20 – 0,79.

Bên cạnh đó, để khẳng định chắc chắn thêm về khả năng áp dụng phương

pháp SqW-AdSV/BiFE khi phân tích đồng thời các kim loại PbII, CdII và ZnII trong

các mẫu nước tự nhiên, đối với mỗi mẫu, độ lặp lại và độ đúng của phương pháp

cũng tiếp tục được đánh giá khi so sánh với phương pháp chuẩn (GF-AAS). Kết quả

được trình bày ở bảng 3.38.

Bảng 3.38. Kết quả phân tích các kim loại trong các mẫu nước tự nhiên

GF-AAS

theo phương pháp SqW-AdSV/BiFE và GF-AAS(*)

Mẫu

Pb (ppb)

Cd (ppb)

Zn (ppb)

Pb (ppb)

Cd (ppb)

Zn (ppb)

CR2

15,0 ± 8,2(a)

4,3 ± 0,7

13,6 ± 4,0

16,4 ± 4,7

3,9 ± 0,6

12,8 ± 3,6

HoNL

26,9 ± 5,1

5,1 ± 0,4

20,3 ± 3,8

27,1 ± 2,1

4,6 ± 0,3

18,3 ± 2,0

KG2

21,7 ± 4,4

3,1 ± 1,5

7,3 ± 2,6

20,0 ± 5,3

3,5 ± 0,7

8,9 ± 1,7

(*) Các kết quả trong bảng là trung bình số học và độ lệch chuẩn với n  3 (3 phép phân tích lặp lại); Kết quả đối với mẫu HoNL được trích từ bảng 3.36. ĐKTN: Như ở bảng 3.43

SqW-AdSV/BiFE

Kêt quả ở bảng 3.38 cho thấy:

Phương pháp SqW-AdSV/BiFE đạt được độ lặp lại và đúng tốt (khi so với

phương pháp GF-AAS) đối với cả 3 kim loại Me với p  0,62 – 0,97.

Tuy số mẫu nước tự nhiên còn ít, nhưng kết quả ở trên bước đầu vẫn cho

phép nhận xét rằng, các nguồn nước khảo sát ở tỉnh Quảng Bình chưa có dấu hiệu bị

ô nhiễm các kim loại Cu, Pb, Cd, Zn, do nồng độ của chúng trong các mẫu nước

đều thấp hơn nhiều so quy định trong Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về chất lượng

117

nước mặt QCVN 08-MT:2015/BTNMT.

KẾT LUẬN

Từ các kết quả thu được, đề tài luận án đi đến các kết luận chính như sau:

1) Trên cơ khảo sát đặc tính điện hóa của các kim loại bằng phương pháp von-

ame vòng, đã xác định được rằng, trên điện cực BiFE in situ, các hệ MeII/Me (Me 

Cu, Pb, Cd, Zn) trong nền đệm axetat và hệ phức MII-oxine/M (M  Pb, Cd, Zn)

trong nền đệm HEPPES đều là hệ thuận nghịch và do vậy, có thể xác định đồng thời

các kim loại Me theo phương pháp ASV và các kim loại M theo phương pháp

AdSV. Từ đó đã đề xuất cơ chế các phản ứng điện hóa xảy ra trên bề mặt điện cực

BiFE in situ trong phương pháp ASV và AdSV để làm sáng tỏ các phản ứng xảy ra

trong giai đoạn làm giàu và hòa tan khi thực hiện phương pháp ASV hoặc AdSV

xác định các kim loại Me hoặc M.

2) Kết hợp các thí nghiệm đơn biến với quy hoạch hóa thí nghiệm đa biến, đã

tìm được các điều kiện thích hợp cho phương pháp DP-ASV dùng điện cực BiFE in

situ xác định đồng thời CuII, PbII, CdII, ZnII và phương pháp SqW-AdSV dùng điện

cực BiFE in situ xác định đồng thời PbII, CdII, ZnII. Ảnh hưởng của các chất cản trở

đến dòng đỉnh hòa tan của các kim loại và độ tin cậy của hai phương pháp đó cũng

được đánh giá. Các kết quả này cho phép khẳng định rằng, hoàn toàn có thể sử dụng

điện cực BiFE in situ làm điện cực làm việc cho phương pháp DP-ASV và SqW-

AdSV xác định các kim loại.

3) Lần đầu tiên đã xây dựng được quy trình phân tích đồng thời lượng vết CuII,

PbII, CdII, ZnII bằng phương pháp DP-ASV và quy trình xác định đồng thời lượng

vết PbII, CdII, ZnII trong nước tự nhiên bằng phương pháp SqW-AdSV sử dụng điện

cực BiFE in situ và phối tử tạo phức oxine. Cả hai phương pháp đều đạt được độ

đúng và độ lặp lại tốt khi so sánh với phương pháp chuẩn – phương pháp GF-AAS.

Song, phương pháp DP-ASV có ưu điểm hơn so với phương pháp SqW-AdSV do

xác định được đồng thời bốn kim loại và có độ lặp lại tốt hơn.

4) Đã áp dụng thành công quy trình phân tích xây dựng được theo phương

pháp DP-ASV và SqW-AdSV dùng điện cực BiFE in situ để xác định đồng thời

lượng vết CuII, PbII, CdII, ZnII và PbII, CdII, ZnII trong một số mẫu nước tự nhiên

118

(sông, hồ) ở tỉnh Quảng Bình.

5) Trên cơ sở so sánh với các phương pháp liên quan đã công bố trên thế giới,

so sánh phương pháp DP-ASV và SqW-AdSV dùng điện cực BiFE in situ, đã cho

phép khẳng định rằng, phương pháp DP-ASV đạt được độ nhạy và độ lặp lại không

thua kém khi phân tích đồng thời các kim loại. Mặt khác, điện cực BiFE in situ nói

riêng và điện cực BiFE nói chung là điện cực dễ chế tạo và thân thiện với môi

trường và do vậy, nên được tiếp tục nghiên cứu phát triển làm điện cực làm việc cho

119

phương pháp phân tích von-ampe hòa tan.

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

Tạp chí trong nước

1. Nguyễn Mậu Thành, Phan Thị Ngân, Nguyễn Đình Luyện, Nguyễn Văn Hợp

(2018). Nghiên cứu phát triển điện cực màng bismut in situ cho phương pháp von-

ampe hòa tan anot xung vi phân xác định lượng vết cadimi và chì trong nước tự

nhiên, Tạp chí Hóa học, 56(6E1), tr. 117 - 121.

2. Nguyễn Mậu Thành, Nguyễn Đình Luyện, Trần Thanh Tâm Toàn, Nguyễn Văn

Hợp (2018). Nghiên cứu xác định hàm lượng kẽm trong nước tự nhiên bằng phương

pháp von-ampe hòa tan anot xung vi phân trên điện cực màng bismut in situ, Tạp

chí Hóa học, 56(6E2), tr. 228 - 232.

3. Nguyễn Mậu Thành, Nguyễn Đình Luyện, Mai Xuân Tịnh, Nguyễn Anh Thư,

Nguyễn Văn Hợp (2018). Nghiên cứu xác định hàm lượng vết chì bằng kỹ thuật

von-ampe hòa tan anot xung vi phân màng bismut in situ. Tạp chí Khoa học và

Công nghệ, Chuyên san Hoá-Sinh- Khoa học Trái đất, Trường Đại học Khoa học -

Đại học Huế, tập 13, số 2, tr. 75 - 86.

4. Nguyễn Mậu Thành. Nguyễn Đình Luyện. Nguyễn Văn Hợp (2019). Nghiên

cứu phát triển điện cực màng bismut in situ cho phương pháp von-ampe hoà tan hấp

phụ sóng vuông xác định lượng vết cadimi và chì. Tạp chí Phân tích Hóa, Lý và Sinh

học, 21(1), tr. 38 - 48.

5. Nguyễn Mậu Thành, Nguyễn Đình Luyện, Nguyễn Văn Hợp (2019). Nghiên

cứu phát triển điện cực màng bismut in situ cho phương pháp von-ampe hòa tan anot

xung vi phân xác định lượng vết đồng và chì trong nước tự nhiên, Tạp chí Khoa học -

Khoa học Tự nhiên, Đại học Huế, 128 (1C), tr. 31 – 40.

Tạp chí Quốc tế

6. Nguyen Van Hop, Nguyen Mau Thanh, Nguyen Dinh Luyen, Nguyen Hai

Phong (2019). Simultaneous determination of zinc, cadmium, lead and copper using

differential pulse anodic stripping voltammetry at in-situ bismuth film electrode,

Science and Technics Publishing House, Conference Proceedings, The 6th Analytica

Vietnam Conference 2019, pp. 31 – 40.

120

7. Nguyen Mau Thanh, Nguyen Van Hop, Nguyen Dinh Luyen, Nguyen Hai

Phong and Tran Thanh Tam Toan (2019). Simultaneous Determination of Zn(II),

Cd(II), Pb(II) and Cu(II) Using Differential Pulse Anodic Stripping Voltammetry at a

Bismuth Film-Modified Electrode, Advances in Materials Science and Engineering,

pp. 1-11. https://doi.org/10.1155/2019/1826148

8. Nguyen Mau Thanh, Nguyen Dinh Luyen, Tran Thanh Tam Toan, Nguyen Hai

Phong and Nguyen Van Hop (2019). Voltammetry Determination of Pb(II), Cd(II),

and Zn(II) at Bismuth Film Electrode Combined with 8-hydroxy quinoline as a

Complexing Agent, Journal of Analytical Methods in Chemistry, pp. 1-11.

121

https://doi.org/10.1155/2019/4593135

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

[1]. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2015), Qui chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất

lượng nước mặt, QCVN 08-MT:2015/BTNMT.

[2]. Đặng Văn Khánh (2008), Nghiên cứu phát triển và ứng dụng điện cực màng

bitmut để xác định vết chì và cadmi trong một số đối tượng môi trương, Luận

án Tiến sĩ Hóa học, Trường ĐH Khoa học Tự nhiên-ĐH Quốc gia Hà Nội.

[3]. Hoàng Thái Long (2011), Nghiên cứu xác định lượng vết Asen trong môi

trường nước bằng phương pháp von-ampe hòa tan, Luận án tiến sĩ Hóa học,

Trường ĐH Khoa học Tự nhiên- ĐH Quốc gia Hà Nội.

[4]. Nguyễn Hải Phong (2011), Nghiên cứu xác định Cd trong một số mẫu môi

trường bằng phương pháp von-ampe hòa tan hấp phụ, Trường Đại học Khoa

học Tự nhiên- ĐH Quốc gia Hà Nội.

[5]. Nguyễn Văn Hợp (2001), Phương pháp phân tích điện hóa hiện đại xác định

lượng vết Niken và Coban trong một số đối tượng môi trường, Luận án Tiến

sĩ Hóa học, Trường Đại học Khoa Học Tự nhiên- ĐH Quốc gia Hà Nội.

[6]. Phạm Luận (2006), Phương pháp phân tích phổ nguyên tử, Nxb Đại Học

Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội.

[7]. Tiêu chuẩn Việt Nam (2016), Tiêu chuẩn quốc gia TCVN 6663-3:2016

(ISO 5667-3:2012) về Chất lượng nước - Lấy mẫu - Phần 3: Bảo quản và

xử lý mẫu nước.

Tiếng Anh

[8]. Abbasi S., Khodarahmiyan K., Abbasi F. (2011), Simultaneous

determination of ultra trace amounts of lead and cadmium in food samples

by adsorptive stripping voltammetry, Food chemistry, 128(1), pp. 254-257.

[9]. Ajtony Z., Szoboszlai N., Suskó E. K., Mezei P., György K., Bencs L.

(2008), Direct sample introduction of wines in graphite furnace atomic

absorption spectrometry for the simultaneous determination of arsenic,

cadmium, copper and lead content, Talanta, 76(3), pp. 627-634.

[10]. Almeida E. S., Richter E. M., Munoz R. A. A. (2014), On-site fuel

122

electroanalysis: Determination of lead, copper and mercury in fuel

bioethanol by anodic stripping voltammetry using screen-printed gold

electrodes, Analytica chimica acta, 837, pp. 38-43.

[11]. American P. H. (1920), Standard methods for the examination of water and

wastewater, American Public Health Association.

[12]. AOAC International (2012). AOAC® Guidelines for Single Laboratory

Validation of Chemical Methods for Dietary Supplements and Botanicals

[13]. Apllication B. (2000), Voltammetric determination of chromium in small

quantities, Chemical Constituents of Aglaia lanuginose, 88, pp.212-226

[14]. Aragay G., Merkoçi A. (2012), Nanomaterials application in electrochemical

detection of heavy metals, Electrochimica Acta, 84, pp. 49-61.

[15]. Aragay G., Pons J., Merkoçi A. (2011), Enhanced electrochemical detection

of heavy metals at heated graphite nanoparticle-based screen-printed

electrodes, Journal of Materials Chemistry, 21(12), pp. 4326-4331.

[16]. Arancibia V., Alarcón L., Segura R. (2004), Supercritical fluid extraction of

cadmium as Cd–oxine complex from human hair: Determination by square

wave anodic or adsorptive stripping voltammetry, Analytica chimica acta,

502(2), pp. 189-194.

[17]. Armstrong K. C., Tatum C. E., Dansby S. R. N., Chambers J. Q., Xue Z. L.

(2010), Individual and simultaneous determination of lead, cadmium, and

zinc by anodic stripping voltammetry at a bismuth bulk electrode, Talanta,

82(2), pp. 675-680.

[18]. Association of Official Analytical Chemistry (2002), Guidelines for

single laboratory validation of chemical methods for dietary

supplements and botanicals, Washington, USA.

[19]. Awang K., Ibrahim H., Rosmy S. D., Mohtar M., Mat Ali R., Azah M. A. N.

(2011), Chemical constituents and antimicrobial activity of the leaf and

rhizome oils of Alpinia pahangensis Ridl., an endemic wild ginger from

peninsular Malaysia, Chemistry biodiversity, 8(4), pp. 668-673.

[20]. Babaei A., Babazadeh M., Shams E. (2007), Simultaneous determination of

iron, copper, and cadmium by adsorptive stripping voltammetry in the presence

123

of thymolphthalexone, Electroanalysis: An International Journal Devoted to

Fundamental Practical Aspects of Electroanalysis, 19(9), pp. 978-985.

[21]. Baghayeri M., Alinezhad H., Fayazi M., Tarahomi M., Ghanei-Motlagh

R., Maleki B. (2019), A novel electrochemical sensor based on a glassy

carbon electrode modified with dendrimer functionalized magnetic

graphene oxide for simultaneous determination of trace Pb (II) and Cd

(II), Electrochimica Acta, 312, pp. 80-88.

[22]. Banica F. G., Fogg A. G., Ion A., Moreira J. C. (1996), Cathodic stripping

voltammetry of sulphur-containing amino acids and peptides in the

presence of nickel ion. Catalytic and inhibiting effects, Analytical letters,

29(8), pp. 1415-1429.

[23]. Bard A. J. (2004), Electrogenerated chemiluminescence, CRC Press.

[24]. Bard A. J., Faulkner L. R. (2001), Fundamentals and applications,

Electrochemical Methods, 2(482), pp. 580-632.

[25]. Bard A. J., Faulkner L. R., Leddy J., Zoski C. G. (1980), Electrochemical

methods: fundamentals and applications, wiley New York.

[26]. Beltagi A. M., Ghoneim M. M. (2009), Simultaneous determination of trace

aluminum (III), copper (II) and cadmium (II) in water samples by square-

wave adsorptive cathodic stripping voltammetry in the presence of oxine,

Journal of applied electrochemistry, 39(5), pp. 627-636.

[27]. Bettinelli M., Beone G. M., Spezia S., Baffi C. (2000), Determination of

heavy metals in soils and sediments by microwave-assisted digestion and

inductively coupled plasma optical emission spectrometry analysis,

Analytica Chimica Acta, 424(2), pp. 289-296.

[28]. Bezerra M. A., Santelli R. E., Oliveira E. P., Villar L. S., Escaleira L. A.

(2008), Response surface methodology (RSM) as a tool for optimization in

analytical chemistry, Talanta, 76(5), pp. 965-977.

[29]. Bobrowski A., Kalcher K., Kurowska K. (2009), Microscopic and

electrochemical characterization of lead film electrode applied in adsorptive

stripping analysis, Electrochimica acta, 54(28), pp. 7214-7221.

[30]. Bozal B., Doğan T. B., Uslu B., Özkan S. A., Aboul E. H. Y. (2009),

124

Quantitative analysis of irbesartan in pharmaceuticals and human biological

fluids by voltammetry, Analytical letters, 42(14), pp. 2322-2338.

[31]. Brodie B. C. (1859), XIII. On the atomic weight of graphite, Philosophical

Transactions of the Royal Society of London, (149), pp. 249-259.

[32]. Buschmann J., Berg M., Stengel C., Winkel L., Sampson M. L., Trang P. T.

K., Viet P. H. (2008), Contamination of drinking water resources in the

Mekong delta floodplains: arsenic and other trace metals pose serious health

risks to population, Environment International, 34(6), pp. 756-764.

[33]. Cao G. X., Jimenez O., Zhou F., Xu M. (2006), Nafion-coated bismuth film

and nafion-coated mercury film electrodes for anodic stripping voltammetry

combined on-line with ICP-mass spectrometry, Journal of the American

Society for Mass Spectrometry, 17(7), pp. 945-952.

[34]. Carvalho L. M., Nascimento P. C., Koschinsky A., Bau M., Stefanello R. F.,

Spengler C., Bohrer D., Jost C. (2007), Simultaneous Determination of

Cadmium, Lead, Copper, and Thallium in Highly Saline Samples by Anodic

Stripping Voltammetry (ASV) Using Mercury‐Film and Bismuth‐Film

Electrodes, Electroanalysis: An International Journal Devoted to

Fundamental Practical Aspects of Electroanalysis, 19(16), pp. 1719-1726.

[35]. Chang J., Zhou G., Christensen E. R., Heideman R., Chen J. (2014),

Graphene-based sensors for detection of heavy metals in water: a review,

Analytical bioanalytical chemistry, 406(16), pp. 3957-3975.

[36]. Chapman D. V. (1996), Water quality assessments: a guide to the use of

biota, sediments, and water in environmental monitoring, CRC Press.

[37]. Chatzitheodorou E., Economou A., Voulgaropoulos A. (2004), Trace

Determination of Chromium by Square‐Wave Adsorptive Stripping

Voltammetry on Bismuth Film Electrodes, Electroanalysis: An International

Journal Devoted to Fundamental Practical Aspects of Electroanalysis,

16(21), pp. 1745-1754.

[38]. Chen L., Li Z., Meng Y., Zhang P., Su Z., Liu Y., Huang Y., Zhou Y., Xie

Q., Yao S. (2014), Sensitive square wave anodic stripping voltammetric

determination of Cd2+ and Pb2+ ions at Bi/Nafion/overoxidized 2-

125

mercaptoethanesulfonate-tethered polypyrrole/glassy carbon electrode,

Sensors Actuators B: Chemical, 191, pp. 94-101.

[39]. Collado S. C., Perez P. J., Gelado C. M. D., Herrera M. J. A., Hernandez

B. J. J. (1996), Rapid determination of copper, lead and cadmium in

unpurged seawater by adsorptive stripping voltammetry, Analytica

chimica acta, 320(1), pp. 19-30.

[40]. Cordeiro C. R. B., Marques A. L. B., Marques E. P., Cardoso W. S., Zhang J.

(2006), Ultra trace copper determination by catalytic-adsorptive stripping

voltammetry using an alizarin red S modified graphite electrode,

International Journal of Electrochemical Science, 1, pp. 343-353.

[41]. Cundy A., Kershaw S. (2013), Oceanography: An earth science

perspective, Routledge.

[42]. D'Silva C., Qasim S. Z. (1979), Bioaccumulation and elimination of copper

in the rock oyster Crassostrea cucullata, Marine Biology, 52(4), pp. 343-346.

[43]. D’ilio S., Petrucci F., D’Amato M., Gregorio M., Senofonte O., Violante N.

(2008), Method validation for determination of arsenic, cadmium, chromium

and lead in milk by means of dynamic reaction cell inductively coupled

plasma mass spectrometry, Analytica chimica acta, 624(1), pp. 59-67.

[44]. Davis A. C., Calloway J. C. P., Jones B. T. (2007), Direct determination of

cadmium in urine by tungsten-coil inductively coupled plasma atomic

emission spectrometry using palladium as a permanent modifier, Talanta,

71(3), pp. 1144-1149.

[45]. Ensafi A. A., Benvidi A., Khayamian T. (2004), Determination of cadmium

and zinc in water and alloys by adsorption stripping voltammetry, Analytical

letters, 37(3), pp. 449-462.

[46]. Federation (2005), Standard methods for the examination of water and

wastewater, Washington, DC, USA.

[47]. Ferreira S. L. C., Bruns R. E., Ferreira H. S., Matos G. D., David J. M.,

Brandao G. C., Silva E. G. P., Portugal L. A., Dos Reis P. S., Souza A. S.

(2007), Box-Behnken design: an alternative for the optimization of analytical

methods, Analytica chimica acta, 597(2), pp. 179-186.

126

[48]. Ferreira S. L. C., Bruns R. E., Silva E. G. P., Santos W. N. L., Quintella C.

M., David J. M., Andrade J. B., Breitkreitz M. C., Jardim I. C. S. F., Neto B.

B. (2007), Statistical designs and response surface techniques for the

optimization of chromatographic systems, Journal of chromatography A,

1158(1-2), pp. 2-14.

[49]. Fischer E., Berg C. M. G. (1999), Anodic stripping voltammetry of lead and

cadmium using a mercury film electrode and thiocyanate, Analytica Chimica

Acta, 385(1-3), pp. 273-280.

[50]. Fogg A. G. (1994), Adsorptive stripping voltammetry or cathodic stripping

voltammetry? Methods of accumulation and determination in stripping

voltammetry, Analytical Proceedings including Analytical Communications,

31(10), pp. 313-317.

[51]. Fogg A. G., Zanoni M. V. B., Barros A. A., Rodrigues J. A., Birch B. J.

(2000), Aspects of Cathodic Stripping Voltammetry at the Hanging Mercury

Drop Electrode and in Non‐Mercury Disposable Sensors, Electroanalysis:

An International Journal Devoted to Fundamental Practical Aspects of

Electroanalysis, 12(15), pp. 1227-1232.

[52]. Gholivand M. B., Nassab H. R., Mosavat A. r. (2005), Determination of

Cadmium by Differential Pulse Adsorptive Stripping Voltammetry in the

Present of Captopril, Electroanalysis: An International Journal Devoted to

Fundamental Practical Aspects of Electroanalysis, 17(21), pp. 1985-1990.

[53]. Guo Z., Luo X., Li Y., Zhao Q. N., Li M., Zhao Y., Sun T., Ma C. (2017),

Simultaneous determination of trace Cd (II), Pb (II) and Cu (II) by

differential pulse anodic stripping voltammetry using a reduced graphene

oxide-chitosan/poly-l-lysine nanocomposite modified glassy carbon

electrode, Journal of colloid interface science, 490, pp. 11-22.

[54]. Guzsvány V., Nakajima H., Soh N., Nakano K., Imato T. (2010),

Antimony-film electrode for the determination of trace metals by

sequential-injection analysis/anodic stripping voltammetry, Analytica

chimica acta, 658(1), pp. 12-17.

[55]. Hayes, H. V., Wilson, W. B., Sander, L. C., Wise, S. A., & Campiglia, A. D.

127

(2018), Determination of polycyclic aromatic hydrocarbons with molecular

mass 302 in standard reference material 1597a by reversed-phase liquid

chromatography and stop-flow fluorescence detection, Analytical Methods,

10(23), pp. 2668-2675.

[56]. Hargis L. G. (1988), Analytical chemistry: Principles and techniques.

PrenticeHall Inc, New Jersey.

[57]. Horwitz W. (2002), AOAC guidelines for single laboratory validation of

chemical methods for dietary supplements and botanicals, Gaithersburg,

MD, USA: AOAC International, pp. 12-19.

[58]. Horwitz W., Albert R. (1997), Quality IssuesThe Concept of Uncertainty as

Applied to ChemicalMeasurements, Analyst, 122(6), pp. 615-617.

[59]. Hosseinzadeh L., Abbasi S., Khani H., Khani Z. (2009), Adsorptive cathodic

stripping voltammetry determination of ultra trace levels of cobalt,

Transition metal chemistry, 34(4), pp. 425-430.

[60]. Hwang G.-H., Han W.-K., Hong S.-J., Park J.-S., Kang S.-G. J. T. (2009),

Determination of trace amounts of lead and cadmium using a bismuth/glassy

carbon composite electrode, 77(4), pp. 1432-1436.

[61]. Hwang G. H., Han W. K., Hong S. J., Park J. S., Kang S. G. (2009),

Determination of trace amounts of lead and cadmium using a bismuth/glassy

carbon composite electrode, Talanta, 77(4), pp. 1432-1436.

[62]. ISO B. (2006), Water quality-Sampling-Part 1: Guidance on the design of

sampling programmes and sampling techniques, British Standards

Institution, pp. 5667-5661.

[63]. ISO E. (2003), 5667: 1-3: Water quality. Sampling. Guidance on the

preservation and handling of water samples, International organization for

standardization, Geneva, pp.

[64]. John H. K. (1990), Analytical Chemistry: Principles, 2nd Ed, Wily, USA.

[65]. Jorge E. O., Rocha M. M., Fonseca I. T. E., Neto M. M. M. (2010), Studies

on the stripping voltammetric determination and speciation of chromium at a

rotating-disc bismuth film electrode, Talanta, 81(1-2), pp. 556-564.

[66]. Jost C. L., Martos L. M., Ferraz L., Nascimento P. C. (2016), Sequential

128

voltammetric determination of uranium, cadmium and lead by using the ex

situ bismuth film electrode: application to phosphate fertilizers,

Electroanalysis, 28(2), pp. 287-295.

[67]. Kalvoda R. (1990), Adsorptive stripping voltammetry in trace analysis,

Contemporary Electroanalytical Chemistry, pp. 403-405.

[68]. Keawkim K., Chuanuwatanakul S., Chailapakul O., Motomizu S. (2013),

Determination of lead and cadmium in rice samples by sequential

injection/anodic stripping voltammetry using a bismuth film/crown ether/Nafion

modified screen-printed carbon electrode, Food control, 31(1), pp. 14-21.

[69]. Kefala G., Economou A., Voulgaropoulos A. (2004), A study of Nafion-

coated bismuth-film electrodes for the determination of trace metals by

anodic stripping voltammetry, Analyst, 129(11), pp. 1082-1090.

[70]. Khan M. R., Khoo S. B. (2001), Optimization of the simultaneous batch

determinations of Bi (III), Hg (II) and Cu (II) at an epoxy–graphite electrode

bulk modified with 2-mercaptobenzothiazole, Analyst, 126(12), pp. 2172-2177.

[71]. Kokkinos C., Economou A., Raptis I., Speliotis T. (2009), Novel disposable

microfabricated antimony-film electrodes for adsorptive stripping analysis of

trace Ni (II), Electrochemistry Communications, 11(2), pp. 250-253.

[72]. Konieczka P., Namiesnik J. (2018), Quality assurance and quality control in

the analytical chemical laboratory: a practical approach, CRC Press.

[73]. Korolczuk M., Tyszczuk K. (2006), Application of lead film electrode for

simultaneous adsorptive stripping voltammetric determination of Ni (II) and Co

(II) as their nioxime complexes, Analytica chimica acta, 580(2), pp. 231-235.

[74]. Korolczuk M., Tyszczuk K., Grabarczyk M. (2007), Determination of

uranium by adsorptive stripping voltammetry at a lead film electrode,

Talanta, 72(3), pp. 957-961.

[75]. Kraus J. M., Schmidt T. S., Walters D. M., Wanty R. B., Zuellig R. E., Wolf

R. E. (2014), Cross‐ecosystem impacts of stream pollution reduce resource

and contaminant flux to riparian food webs, Ecological Applications, 24(2),

pp. 235-243.

[76]. Kucukkolbasi S., Temur O., Kara H., Khaskheli A. R. (2014), Monitoring of

129

Zn (II), Cd (II), Pb (II) and Cu (II) during refining of some vegetable oils

using differential pulse anodic stripping voltammetry, Food analytical

methods, 7(4), pp. 872-878.

[77]. Langhus D. L. (2001), Analytical Electrochemistry, (Wang, Joseph), ACS

Publications.

[78]. Lee S., Oh J., Kim D., Piao Y. (2016), A sensitive electrochemical sensor

using an iron oxide/graphene composite for the simultaneous detection of

heavy metal ions, Talanta, 160, pp. 528-536.

[79]. Lee S., Park S. K., Choi E., Piao Y. (2016), Voltammetric determination of

trace heavy metals using an electrochemically deposited graphene/bismuth

nanocomposite film-modified glassy carbon electrode, Journal of

Electroanalytical Chemistry, 766, pp. 120-127.

[80]. Leeuwen H. P., Town R. M., Buffle J., Cleven R. F., Davison W., Puy J.,

Riemsdijk W. H., Sigg L. (2005), Dynamic speciation analysis and

bioavailability of metals in aquatic systems, Environmental Science

Technology, 39(22), pp. 8545-8556.

[81]. Lezi N., Economou A., Dimovasilis P. A., Trikalitis P. N., Prodromidis M. I.

(2012), Disposable screen-printed sensors modified with bismuth precursor

compounds for the rapid voltammetric screening of trace Pb (II) and Cd (II),

Analytica chimica acta, 728, pp. 1-8.

[82]. Lin L., Lawrence N. S., Thongngamdee S., Wang J., Lin Y. (2005), Catalytic

adsorptive stripping determination of trace chromium (VI) at the bismuth

film electrode, Talanta, 65(1), pp. 144-148.

[83]. Lin X., Lu Z., Dai W., Liu B., Zhang Y., Li J., Ye J. (2018), Laser engraved

nitrogen-doped graphene sensor for the simultaneous determination of Cd

(II) and Pb (II), Journal of Electroanalytical Chemistry, 828, pp. 41-49.

[84]. Lu X., Wang L., Lei K., Huang J., Zhai Y. (2009), Contamination

assessment of copper, lead, zinc, manganese and nickel in street dust of

Baoji, NW China, Journal of hazardous materials 161(2-3), pp. 1058-1062.

[85]. Lundstedt T., Seifert E., Abramo L., Thelin B., Nyström Å., Pettersen J.,

Bergman R. (1998), Experimental design and optimization, Chemometrics

130

intelligent laboratory systems, 42(1-2), pp. 3-40.

[86]. Lv M., Wang X., Li J., Yang X., Zhang C. a., Yang J., Hu H. (2013),

Cyclodextrin-reduced graphene oxide hybrid nanosheets for the simultaneous

determination of lead (II) and cadmium (II) using square wave anodic

stripping voltammetry, Electrochimica Acta, 108, pp. 412-420.

[87]. Ma H., An R., Chen L., Fu Y., Ma C., Dong X., Zhang X. (2015), A study of

the photodeposition over Ti/TiO2 electrode for electrochemical detection of

heavy metal ions, Electrochemistry Communications, 57, pp. 18-21.

[88]. Mikuła B., Puzio B. (2007), Determination of trace metals by ICP-OES in

plant materials after preconcentration of 1, 10-phenanthroline complexes on

activated carbon, Talanta, 71(1), pp. 136-140.

[89]. Miller J., Miller J. C. (2018), Statistics and chemometrics for analytical

chemistry, Pearson education.

[90]. Nagles E., Arancibia V., Rojas C., Segura R. (2012), Nafion–mercury coated

film electrode for the adsorptive stripping voltammetric determination of lead

and cadmium in the presence of pyrogallol red, Talanta, 99, pp. 119-124.

[91]. Neeb R. (1969), Inverse polarographie und voltammetrie: neuere Verfahren

zur Spurenanalyse, Verlag Chemie.

[92]. Newman M. C., McIntosh A. W. (1991), Metal ecotoxicology concepts and

applications, CRC Press.

[93]. Niazi A., Khorshidi N., Ghaemmaghami P. (2015), Microwave-assisted of

dispersive liquid–liquid microextraction and spectrophotometric

determination of uranium after optimization based on Box–Behnken design

and chemometrics methods, Spectrochimica Acta Part A: Molecular

Biomolecular Spectroscopy, 135, pp. 69-75.

[94]. Nordberg G. F., Fowler B. A., Nordberg M. (2014), Handbook on the

Toxicology of Metals, Academic press.

[95]. Ouyang Ruizhuo, Liu, Xiaoyan; Xiao, Mingshu; Xu, Lina; Miao, Yuqing;

Characteristics, Applications and Determination of Bismuth, Journal of

Nanoscience and Nanotechnology, 6(7), pp. 6679-6689

[96]. Ouyang R., Zhu Z., Tatum C. E., Chambers J. Q., Xue Z. L. (2011),

131

Simultaneous stripping detection of Zn (II), Cd (II) and Pb (II) using a

bimetallic Hg–Bi/single-walled carbon nanotubes composite electrode,

Journal of electroanalytical chemistry, 656(1-2), pp. 78-84.

[97]. Panaščikaite E., Latvėnaitė I., Saulius A. (2011), Determination of chromium in

cement by catalytic adsorptive stripping voltammetry, chemija, 22(4), pp. 210-215.

[98]. Paneli M. G., Voulgaropoulos A. (1993), Applications of adsorptive

stripping voltammetry in the determination of trace and ultratrace metals,

Electroanalysis, 5(5‐6), pp. 355-373.

[99]. Paredes J. I., Villar R. S., Martínez A. A., Tascon J. M. D. (2008), Graphene

oxide dispersions in organic solvents, Langmuir, 24(19), pp. 10560-10564.

[100]. Pauliukaitė R., Brett C. M. A. (2005), Characterization and application of

bismuth‐film modified carbon film electrodes, Electroanalysis: An

International Journal Devoted to Fundamental Practical Aspects of

Electroanalysis, 17(15‐16), pp. 1354-1359.

[101]. Phong N. H., Toan T. T. T., Tinh M. X., Tuyen T. N., Mau T. X., Khieu D.

Q. (2018), Simultaneous voltammetric determination of ascorbic acid,

paracetamol, and caffeine using electrochemically reduced graphene-oxide-

modified electrode, Journal of Nanomaterials, pp. 1-25.

[102]. Ping J., Wang Y., Wu J., Ying Y. (2014), Development of an

electrochemically reduced graphene oxide modified disposable bismuth film

electrode and its application for stripping analysis of heavy metals in milk,

Food Chemistry, 151, pp. 65-71.

[103]. Prior C., Lenehan C. E., Walker G. S. (2007), Utilising gallium for enhanced

electrochemical copper analysis at the bismuth film electrode, Analytica

chimica acta, 598(1), pp. 65-73.

[104]. Qin X., Tang D., Zhang Y., Cheng Y., He F., Su Z., Jiang H. (2020), An

Electrochemical Sensor for Simultaneous Stripping Determination of Cd (II)

and Pb (II) Based on Gold Nanoparticles Functionalized β-cyclodextrin-

graphene Hybrids, Int. J. Electrochem. Sci, 15, pp. 1517-1528.

[105]. Quintana J. C., Arduini F., Amine A., Van Velzen K., Palleschi G., Moscone

D. (2012), Part two: Analytical optimisation of a procedure for lead detection

132

in milk by means of bismuth-modified screen-printed electrodes, Analytica

chimica acta, 736, pp. 92-99.

[106]. Reeve R. N. (1994), Environmental analysis, John Wiley & Sons Ltd.

[107]. Reeve R. N. (1979), Determination of inorganic main group anions by

high-performances liquid chromatography, Journal of Chromatography A,

177(2), pp. 393-397.

[108]. Ricci F., Amine A., Moscone D., Palleschi G. (2003), Prussian blue modified

carbon nanotube paste electrodes: A comparative study and a biochemical

application, Analytical letters, 36(9), pp. 1921-1938.

[109]. Roger R. (2002), Introduction to Environmental Analysis, John Wiley & Sons Ltd.

[110]. Romanus A., Müller H., Kirsch D. (1991), Application of adsorptive

stripping voltammetry (AdSV) for the analysis of trace metals in brine,

Fresenius' journal of analytical chemistry, 340(6), pp. 363-370.

[111]. Ruecha N., Rodthongkum N., Cate D. M., Volckens J., Chailapakul O.,

Henry C. S. (2015), Sensitive electrochemical sensor using a graphene–

polyaniline nanocomposite for simultaneous detection of Zn (II), Cd (II), and

Pb (II), Analytica chimica acta, 874, pp. 40-48.

[112]. Sahoo P., Panigrahy B., Sahoo S., Satpati A. K., Li D., Bahadur D. (2013), In

situ synthesis and properties of reduced graphene oxide/Bi nanocomposites:

as an electroactive material for analysis of heavy metals, Biosensors

Bioelectronics, 43, pp. 293-296.

[113]. Sahu J. N., Acharya J., Meikap B. C. (2009), Response surface modeling and

optimization of chromium (VI) removal from aqueous solution using

Tamarind wood activated carbon in batch process, Journal of hazardous

materials, 172(2-3), pp. 818-825.

[114]. Sansoni B., Brunner W., Wolff G., Ruppert H., Dittrich R. (1988),

Comparative instrumental multi-element analysis I: Comparison of ICP

source mass spectrometry with ICP atomic emission spectrometry, ICP

atomic fluorescence spectrometry and atomic absorption spectrometry for the

analysis of natural waters from a granite region, Fresenius' Zeitschrift für

analytische Chemie, 331(2), pp. 154-169.

133

[115]. Sarkar B. (2002), Heavy metals in the environment, CRC press.

[116]. Saturno J., Valera D., Carrero H., Fernández L. (2011), Electroanalytical

detection of Pb, Cd and traces of Cr at micro/nano-structured bismuth film

electrodes, Sensors Actuators B: Chemical, 159(1), pp. 92-96.

[117]. Segura R. A., Pizarro J. A., Oyarzun M. P., Castillo A. D., Díaz K. J.,

Placencio A. B. (2016), Determination of lead and cadmium in water

samples by adsorptive stripping voltammetry using a bismuth film/1-nitroso-

2-napthol/Nafion modified glassy carbon electrode, Int. J. Electrochem. Sci,

11, pp. 1707-1719.

[118]. Serrano N., Alberich A., Díaz-Cruz J. M., Ariño C., Esteban M. J. (2013),

Coating methods, modifiers and applications of bismuth screen-printed

electrodes, TrAC Trends in Analytical Chemistry, 46, pp. 15-29.

[119]. Serrano N., Alberich A., Díaz C. J. M., Ariño C., Esteban M. (2013), Coating

methods, modifiers and applications of bismuth screen-printed electrodes,

TrAC Trends in Analytical Chemistry, 46, pp. 15-29.

[120]. Shaidarova L. G., Gedmina A. V., Brusko V. V., Zabirov N. G.,

Ulakhovich N. A., Budnikov H. K. (2002), Stripping Voltammetric

Determination of Metal Ions at the Electrode Modified by Mono-and Bis-

N-thiophosphorylthioureas, Analytical Sciences/Supplements Proceedings

of IUPAC International Congress on Analytical Sciences 2001 (ICAS

2001), pp. i957-i958.

[121]. Shemirani F., Rajabi M. (2007), Use of the differential pulse cathodic

adsorptive stripping voltammetric method for the simultaneous determination

of trace amounts of cadmium and zinc, Journal of Analytical Chemistry,

62(9), pp. 878-883.

[122]. Shemirani F., Rajabi M., Asghari A., Milani H. M. R. (2005), Simultaneous

determination of traces of cadmium and zinc by adsorptive stripping

voltammetry, Can J Anal Sci Spectros, 50, pp. 175-181.

[123]. Silva F. A., Padilha C. C. F., Pezzato L. E., Barros M. M., Padilha P. M.

(2006), Determination of chromium by GFAAS in slurries of fish feces to

estimate the apparent digestibility of nutrients in feed used in pisciculture,

134

Talanta, 69(4), pp. 1025-1030.

[124]. Sosa V., Serrano N., Ariño C., Díaz C. J. M., Esteban M. (2014), Sputtered

bismuth screen-printed electrode: a promising alternative to other bismuth

modifications in the voltammetric determination of Cd (II) and Pb (II) ions in

groundwater, Talanta, 119, pp. 348-352.

[125]. Soylak M., Elci L., Dogan M. (1999), Flame atomic absorption spectrometric

determination of cadmium, cobalt, copper, lead and nickel in chemical grade

potassium salts after an enrichment and separation procedure, Journal of

trace microprobe techniques, 17(2), pp. 149-156.

[126]. Stockdale A., Tipping E., Lofts S. (2015), Dissolved trace metal speciation in

estuarine and coastal waters: comparison of WHAM/Model VII predictions

with analytical results, Environmental toxicology chemistry, 34(1), pp. 53-63.

[127]. Stozhko N. Y., Malakhova N. A., Fyodorov M. V., Brainina K. Z. (2008),

Modified carbon-containing electrodes in stripping voltammetry of metals,

Journal of Solid State Electrochemistry, 12(10), pp. 1185-1204.

[128]. Suciu P., Vega M., Roman L. (2000), Determination of cadmium by

differential pulse adsorptive stripping voltammetry, Journal of

pharmaceutical biomedical analysis, 23(1), pp. 99-106.

[129]. Suciu P., Vega M., Roman L. J. J. o. p., analysis b. (2000), Determination of

cadmium by differential pulse adsorptive stripping voltammetry, Journal of

pharmaceutical and biomedical analysis, 23(1), pp. 99-106.

[130]. Svobodova T. E., Baldrianova L., Stoces M., Svancara I., Vytras K., Hocevar

S. B., Ogorevc B. (2011), Antimony powder-modified carbon paste

electrodes for electrochemical stripping determination of trace heavy metals,

Electrochimica acta, 56(19), pp. 6673-6677.

[131]. Taverniers I., Loose M. D., Bockstaele E. V. (2004), Trends in quality in the

analytical laboratory. II. Analytical method validation and quality assurance,

Trends Analyt Chem. , 23(8), pp. 535–552.

[132]. Tian Y., Hu L., Han S., Yuan Y., Wang J., Xu G. (2012), Electrodes with

extremely high hydrogen overvoltages as substrate electrodes for

stripping analysis based on bismuth-coated electrodes, Analytica chimica

135

acta, 738, pp. 41-44.

[133]. Van Staden J. F., Matoetoe M. C. (2000), Simultaneous determination of

copper, lead, cadmium and zinc using differential pulse anodic stripping

voltammetry in a flow system, Analytica chimica acta, 411(1-2), pp. 201-207.

[134]. Wagner K., Strojek J. W., Koziel K. (2001), Processes during anodic

stripping voltammetry determination of lead in the presence of copper on a

solid electrode modified with 2, 2′-bipyridyl in polyaniline, Analytica

chimica acta, 447(1-2), pp. 11-21.

[135]. Wang J. (2000), Analytical electrochemistry, Second Edition, VCH

Publishers Inc, USA.

[136]. Wang J. (1990), Recent advances in stripping analysis, Fresenius' Journal of

Analytical Chemistry, 337(5), pp. 508-511.

[137]. Wang J. (1985), Stripping analysis: Principles, instrumentation, and

applications, Florida, USA, USA.

[138]. Wang J. (2006), Analytical Electrochemistry, 3rd Edition, John Wiley &

Sons Inc., USA.

[139]. Wang J., Deo R. P., Thongngamdee S., Ogorevc B. (2001), Effect of surface‐

active compounds on the stripping voltammetric response of bismuth film

electrodes, Electroanalysis: An International Journal Devoted to

Fundamental Practical Aspects of Electroanalysis, 13(14), pp. 1153-1156.

[140]. Wang J., Lu J., Hocevar S. B., Farias P. A. M., Ogorevc B. (2000), Bismuth-

coated carbon electrodes for anodic stripping voltammetry, Analytical

chemistry, 72(14), pp. 3218-3222.

[141]. Wang J., Thongngamdee S., Lu D. (2006), Adsorptive stripping

voltammetric measurements of trace molybdenum at the bismuth film

electrode, Electroanalysis: An International Journal Devoted to

Fundamental Practical Aspects of Electroanalysis, 18(1), pp. 59-63.

[142]. Wei Y., Yang R., Zhang Y. X., Wang L., Liu J. H., Huang X. J. (2011), High

adsorptive γ-AlOOH porous magnetic (boehmite)@ SiO2/Fe3O4

microspheres for detection of toxic metal ions in drinking water, Chemical

Communications, 47(39), pp. 11062-11064.

136

[143]. Xie Y. L., Zhao S. Q., Ye H. L., Yuan J., Song P., Hu S. Q. (2015),

Graphene/CeO2 hybrid materials for the simultaneous electrochemical

detection of cadmium (II), lead (II), copper (II), and mercury (II), Journal of

Electroanalytical Chemistry, 757, pp. 235-242.

[144]. Xing H., Xu J., Zhu X., Duan X., Lu L., Wang W., Zhang Y., Yang T.

(2016), Highly sensitive simultaneous determination of cadmium (II), lead

(II), copper (II), and mercury (II) ions on N-doped graphene modified

electrode, Journal of Electroanalytical Chemistry, 760, pp. 52-58.

[145]. Yang D., Wang L., Chen Z., Megharaj M., Naidu R. (2014),

Voltammetric determination of lead (II) and cadmium (II) using a

bismuth film electrode modified with mesoporous silica nanoparticles,

Electrochimica Acta, 132, pp. 223-229.

[146]. Yokoi K., Mizumachi M., Koide T. (1995), Determination of cadmium by

adsorptive stripping voltammetry of a cadmium-calcein blue complex,

Analytical sciences, 11(2), pp. 257-260.

[147]. Yun C., Li N. B., Luo H. Q. (2008), Simultaneous measurement of Pb, Cd

and Zn using differential pulse anodic stripping voltammetry at a

bismuth/poly (p-aminobenzene sulfonic acid) film electrode, Sensors

Actuators B: Chemical, 133(2), pp. 677-681.

[148]. Zhang Q., Zhong S., Su J., Li X., Zou H. (2013), Determination of trace

chromium by square-wave adsorptive cathodic stripping voltammetry at an

improved bismuth film electrode, Journal of the Electrochemical Society,

160(4), pp. H237-H242.

[149]. Zhang Z., Yu K., Bai D., Zhu Z. (2010), Synthesis and electrochemical

sensing toward heavy metals of bunch-like bismuth nanostructures,

Nanoscale research letters, 5(2), pp. 398-402.

[150]. Zhu L., Xu L., Huang B., Jia N., Tan L., Yao S. (2014), Simultaneous

determination of Cd (II) and Pb (II) using square wave anodic stripping

voltammetry at a gold nanoparticle-graphene-cysteine composite modified

bismuth film electrode, Electrochimica Acta, 115, pp. 471-477.

[151]. Zhu X., Liu B., Hou H., Huang Z., Zeinu K. M., Huang L., Yuan X., Guo D.,

137

Hu J., Yang J. (2017), Alkaline intercalation of Ti3C2 MXene for

simultaneous electrochemical detection of Cd (II), Pb (II), Cu (II) and Hg

(II), Electrochimica Acta, 248, pp. 46-57.

[152]. Zolgharnein J., Shahmoradi A., Ghasemi J. B. (2013), Comparative study of

Box–Behnken, central composite, and Doehlert matrix for multivariate

optimization of Pb (II) adsorption onto Robinia tree leaves, Journal of

Chemometrics, 27(1-2), pp. 12-20.

[153]. Zuhri A. Z. A., Voelter W. (1998), Applications of adsorptive stripping

voltammetry for the trace analysis of metals, pharmaceuticals and

biomolecules, Fresenius' journal of analytical chemistry, 360(1), pp. 1-9.

[154]. A.Cunningham P., "The Use Of Bivalve Molluscs In Heavy Metal Pollution

Research", in Marine Pollution: Functional Responses (Academic Press,

New York, 1979), pp. 179-221.

[155]. Bishop P. L. (2000), Pollution Prevention: Fundamentals and Practice,

McGraw-Hill, 1st ed.

[156]. Stockdale A., Tipping E., Lofts S. (2015), Dissolved trace metal speciation in

estuarine and coastal waters: comparison of WHAM/Model VII predictions

with analytical results, Environ Toxicol Chem, 34(1), pp. 53-63.

[157]. ЛурЬе Ю. Ю. (1979), СпраЬочник по аналитической химии,

138

Издательство «ХИМИЯ», Mockba, pp. 342-343.

PHỤ LỤC

1. Ảnh hưởng của các chất cản trở trong phương pháp DP-ASV/BiFE:

2 –

Phụ lục 1: Sự phụ thuộc giữa dòng đỉnh hòa tan (Ip) của các kim loại Me và các biến x1, x2, x3, x4

Ip,Zn = 1,53 – 0,14·x1 + 0,07·x2 + 0,14·x3 + 0,06·x4 – 0,30·x1

2 – 0,15·x3

2 – 0,22·x4

2 + 0,03·x1·x2 + 0,01·x1·x3 +

R2 = 0,999

0,24·x2

2 –

0,02·x1·x4 – 0,01·x2·x3 – 0,02·x2·x4 + 0,02·x3·x4

Ip,Cd = 2,02 – 0,16·x1 + 0,08·x2 + 0,17·x3 + 0,09·x4 – 0,33·x1

2 – 0,16·x3

2 – 0,26·x4

2 – 0,03·x1·x2 – 0,02·x1·x3 – 0,00·x1·x4

2 –

0,24·x2 R2 = 0,998 – 0,01·x2·x3 – 0,03·x2·x4 + 0,05·x3·x4

Ip,Pb = 3,34 – 0,25·x1 + 0,15·x2 + 0,25·x3 + 0,11·x4 – 0,51·x1

2 – 0,24·x3

2 – 0,40·x4

2 + 0,01·x1·x2 + 0,02·x1·x3 +

2 –

0,42·x2 R2 = 0.999 0,01·x1·x4 + 0,02·x2·x3 + 0,02·x2·x4 – 0,01·x3·x4

Ip,Cu = 3,33 – 0,27·x1 + 0,13·x2 + 0,26·x3 + 0,13·x4 – 0,53·x1

2 – 0,26·x3

2 – 0,40·x4

2 + 0,01·x1·x2 – 0,02·x1·x3 – 0,00·x1·x4

R2 = 0,998 0,41·x2

139

+ 0,01·x2·x3+ 0,01·x2·x4 – 0,00·x3·x4

[NiII], ppb

0

5

15

30

45

60

2,041

2,092

1,932

1,500

0,890

0,576

Ip, TB(Zn), μA

-

ttính (p)

60 (< 10-3)

154 (< 10-3)

183 (< 10-3)

7 (0,02)

5 (0,04)

1,125

1,214

1,195

0,875

0,706

1,286

Ip, TB(Cd), μA

-

20 (0,003)

11 (0,008)

30 (0,001)

5 (0,04)

22 (0,002)

ttính (p)

2,192

1,734

1,394

2,318

2,327

2,236

Ip, TB(Pb), μA

-

ttính (p)

164 (< 10-3)

13 (0,006)

56 (0,003)

842 (< 10-3)

8 (0,04)

2,635

2,417

2,716

2,748

2,680

2,617

Ip, TB(Cu), μA

-

ttính (p)

20 (0,003)

25 (0,003)

14 (0,005)

28 (0,001)

11 (0,008)

(*) Các giá trị Ip trong bảng là trung bình số học của 3 phép đo lặp lại (n  3).

ĐKTN: Như ở bảng 3.10.

Phụ lục 2. Ảnh hưởng của Ni đến Ip của các kim loại Me(*)

[FeIII], ppb

0

50

100

200

300

500

1000

1500

2,638

2,586

2,468

2,067

1,654

1,251

0,767

0,432

Ip, TB(Zn), μA

-

ttính (p)

1 (0,42)

2 (0,18)

5 (0,04)

1,559

1,660

1,870

1,867

492 (< 10-3) 1,839

185 (< 10-3) 1,696

178 (< 10-3) 1,504

98 (< 10-3) 1,374

Ip, TB(Cd), μA

-

ttính (p)

13 (0,006)

16 (0,004)

20 (0,002)

13 (0,006)

2,769

2,914

621 (< 10-3) 2,805

44 (< 10-3) 2,928

140 (< 10-3) 2,909

2,803

2,700

2,677

Ip, TB(Pb), μA

-

ttính (p)

3 (0,096)

0,3 (0,793)

4 0,057)

3 (0,096)

3 (0,096)

9 (0,012)

7 (0,020)

3,148

3,160

3,013

2,972

2,872

2,751

2,718

2,712

Ip, TB(Cu), μA

-

ttính (p)

0,1 (0,930)

2 (0,184)

2 (0,184)

5 (0,038)

7 (0,020)

5 (0,038)

5 (0,038)

(*) Các giá trị Ip trong bảng là trung bình số học của 3 phép đo lặp lại (n  3). ĐKTN: Như ở bảng 3.10.

140

Phụ lục 3. Ảnh hưởng của Fe đến Ip của các kim loại Me(*)

Phụ lục 4. Ảnh hưởng của Cu đối với Pb

[CuII], ppb 0 10 20 30 40

3,131 1,526 0,463 0,260 0,165 Ip1, (Pb), μA

3,079 1,567 0,460 0,236 0,201 Ip2, (Pb), μA

3,105 1,547 0,462 0,248 0,183 Ip, TB(Pb), μA

S, μA 0,037 0,029 0,002 0,017 0,025

- 76 1762 238 162 ttính

(*) Giá trị Ip,TB là trung bình số học của 2 phép đo lặp lại (n  2) Ip1, Ip2. ĐKTN: [PbII]  10 ppb; Các ĐKTN khác như ở bảng 3.10.

- 12,7 12,7 12,7 12,7 t(p  0,05 ; f  1)

Phụ lục 5. Ảnh hưởng của Cu đối với Cd

(*) Giá trị Ip,TB là trung bình số học của 2 phép đo lặp lại (n  2) Ip1, Ip2. ĐKTN: [CdII]  10 ppb; Các ĐKTN khác như ở bảng 3.10.

0 7,324 7,385 7,355 0,193 - - 4 6,962 6,508 6,618 0,155 7 12,7 10 3,386 3,388 3,414 0,037 151 12,7 20 0,255 0,209 0,207 0,004 2527 12,7 30 0 0 0 - - - [CuII], ppb Ip1, (Cd), μA Ip2, (Cd), μA Ip, TB(Cd), μA S, μA ttính t(p  0,05 ; f  1)

Phụ lục 6. Ảnh hưởng của Cu đối với Zn

(*) Giá trị Ip,TB là trung bình số học của 2 phép đo lặp lại (n  2) Ip1, Ip2. ĐKTN: [ZnII]  30 ppb; Các ĐKTN khác như ở bảng 3.10.

141

0 6,302 6,265 6,284 0,026 - - 3 5,786 5,628 5,707 0,112 7 12,7 6 3,978 3,907 3,943 0,050 66 12,7 10 1,501 1,365 1,433 0,096 71 12,7 15 1,474 1,241 1,358 0,165 42 12,7 20 1,857 1,715 1,786 0,100 63 12,7 [CuII], ppb Ip1, (Zn), μA Ip2, (Zn), μA Ip, TB(Zn), μA S, μA ttính t(p  0,05 ; f  1)

0

10

20

30

40

50

60

80

2,092

[ZnII], ppb Ip(Cu), μA

-

1,452

ttính (p) Ip(Cd), μA

-

ttính (p)

1,579

Ip(Pb), μA

-

ttính (p)

2,608 10 (0,010) 2,030 20 (0,003) 1,939 15 (0,004)

2,787 31 (0,001) 2,270 24 (0,002) 2,062 21 (0,002)

2,877 17 (0,003) 2,302 14 (0,002) 2,047 20 (0,003)

2,852 22 (0,002) 2,244 33 (< 10-3) 2,029 150 (< 10-3)

2,931 24 (0,002) 2,252 26 (0,002) 1,995 64 (< 10-3)

2,970 176 (< 10-3) 2,184 73 (< 10-3) 1,994 49 (< 10-3)

2,881 48 (< 10-3) 2,157 50 (< 10-3) 2,002 17 (0,003)

(*) Giá trị Ip trong bảng là trung bình số học của 3 phép đo lặp lại (n  3); ĐKTN: [CuII]  [CdII]  [PbII]  10 ppb; Các ĐKTN khác như ở bảng 3.10.

Phụ lục 7. Ảnh hưởng của Zn đối với Cd, Pb, Cu(*)

0 1,449

[Cl-], ppm Ip, TB (Zn), μA

-

ttính (p)

0,878

Ip, TB(Cd), μA

-

ttính (p)

2,120

Ip, TB(Pb), μA

-

ttính (p)

1,487

Ip, TB(Cu), μA

-

ttính (p)

500 1,387 5 (0,040) 0,944 3 (0,096) 1,965 8 (0,015) 1,245 37 (< 10-3)

1000 1,234 36 (< 10-3) 1,007 17 (0,003) 1,972 8 (0,015) 1,035 23 (0,002)

2000 1,348 16 (0,004) 1,085 15 (0,004) 2,105 10 (0,010) 0,900 98 (< 10-3)

3000 1,482 34 (< 10-3) 1,171 15 (0,004) 2,259 6 (0,027) 0,886 1203 (< 10-3)

4000 1,550 13 (0,006) 1,233 18 (0,003) 2,334 8 (0,015) 0,831 131 (< 10-3)

5000 1,567 21 (0,002) 1,238 18 (0,003) 2,471 234 (< 10-3) 0,747 20 (0,001)

(*) Giá trị Ip trong bảng là trung bình số học của 2 phép đo lặp lại (n  2); ĐKTN: [CuII]  [CdII]  [PbII]  10 ppb; [ZnII]  20 ppb; Các ĐKTN khác như ở bảng 3.10.

142

Phụ lục 8. Ảnh hưởng của Cl- đến Ip của các kim loại Me(*)

2- đến Ip của các kim loại Me(*)

2-], ppm

0

100

200

300

500

700

1000

1300

[SO4

1,279

Ip(Zn), μA

-

ttính (p)

0,657

Ip(Cd), μA

-

ttính (p)

1,953

Ip(Pb), μA

-

ttính (p)

2,056

Ip(Cu), μA

-

ttính (p)

1,608 16 (0,038) 0,926 15 (0,042) 2,134 9 (0,071) 2,251 9 (0,071)

1,853 29 (0,021) 1,074 20 (0,032) 2,280 44 (0,015) 2,297 13 (0,049)

2,019 51 (0,012) 1,192 214 (0,003) 2,374 18 (0,035) 2,294 95 (0,007)

2,077 1596 (<10-3) 1,266 610 (0,001) 2,328 23 (0,028) 2,330 37 (0,012)

2,056 91 (0,007) 1,307 28 (0,023) 2,301 24 (0,027) 2,315 14 (0,045)

1,977 140 (0,005) 1,294 98 (0,007) 2,270 79 (0,008) 2,242 14 (0,045)

1,897 88 (0,007) 1,278 44 (0,015) 2,231 29 (0,022) 2,257 101 (0,006)

(*) Giá trị Ip trong bảng là trung bình số học của 2 phép đo lặp lại (n  2); ĐKTN: [CuII]  [CdII]  [PbII]  10 ppb; [ZnII]  20 ppb; Các ĐKTN khác như ở bảng 3.10.

Phụ lục 9. Bảng 3.39. Ảnh hưởng của SO4

3- đến Ip của các kim loại Me(*)

3-], ppb

0

10

30

50

70

100

150

200

[PO4

1,864

1,933

1,904

1,933

1,811

1,727

1,674

1,603

Ip(Zn), μA

-

ttính (p)

5 (0,126)

1 (0,500)

1 (0,500)

18 (0,035)

193 (0,003)

134 (0,005)

15 (0,042)

1,288

1,411

1,663

1,787

1,889

1,910

1,930

1,887

Ip, TB(Cd), μA

-

3 (0,205)

10 (0,063)

18 (0,035)

172 (0,004)

24 (0,026)

48 (0,013)

300 (0,002)

ttính (p)

2,040

2,113

2,152

2,211

2,211

2,213

2,227

2,238

Ip, TB(Pb), μA

-

4 (0,156)

6 (0,105)

114 (0,006)

17 (0,037)

69 (0,009)

31 (0,021)

36 (0,018)

ttính (p)

2,785

2,736

2,720

2,736

2,722

2,749

2,740

2,726

Ip, TB(Cu), μA

-

1 (0,500)

7 (0,090)

9 (0,070)

3 (0,205)

1 (0,500)

8 (0,079)

8 (0,079)

ttính (p)

(*) Giá trị Ip trong bảng là trung bình số học của 2 phép đo lặp lại (n  2); ĐKTN: [CuII]  [CdII]  [PbII]  10 ppb; [ZnII]  20 ppb; Các ĐKTN khác như ở bảng 3.10.

143

Phụ lục 10. Bảng 3.40. Ảnh hưởng của PO4

0

10

20

30

50

70

100

150

[Triton X-100], ppb

2,804

2,392

2,081

1,768

1,143

0,857

0,722

0,840

Ip(Zn), μA

-

ttính (p)

82 (0,008)

90 (0,007)

32 (0,020)

53 (0,012)

140 (0,005)

2,056

1,924

1,806

1,749

1,515

3894 (<10-3) 1,393

4164 (<10-3) 1,093

0,959

Ip(Cd), μA

-

ttính (p)

5 (0,126)

31 (0,021)

19 (0,034)

72 (0,009)

15 (0,042)

55 (0,112)

183 (0,004)

2,164

2,233

2,333

2,417

2,460

2,540

2,594

2,452

Ip(Pb), μA

-

ttính (p)

5,3 (0,119)

3,9 (0,160)

16 (0,040)

17 (0,037)

16 (0,040)

36 (0,018)

5,843

5,858

5,904

5,914

5,544

5,401

860 (<10-3) 5,021

4,673

Ip(Cu), μA

-

ttính (p)

0,4 (0,758)

0,4 (0,758)

2 (0,295)

10 (0,063)

8 (0,079)

17 (0,037)

17 (0,037)

(*) Giá trị Ip trong bảng là trung bình số học của 2 phép đo lặp lại (n  2); ĐKTN: [CuII]  [CdII]  [PbII]  10 ppb; [ZnII]  20 ppb; Các ĐKTN khác như ở bảng 3.10.

144

Phụ lục 11. Ảnh hưởng của Triton X-100 đến Ip của các kim loại Me(*)

2. Ảnh hưởng của các chất cản trở trong phương pháp SqW-AdSV/BiFE

Lần đo

Ip.Cu (μA)

Ip.Pb (μA)

Ip.Cd (μA)

Ip.Zn (μA)

2,387

1,378

1

3,298

3,386

2,384

1,342

2

3,245

3,357

2,315

1,307

3

3,232

3,369

2,302

1,379

4

3,259

3,391

2,367

1,348

5

3,269

3,443

2,338

1,374

6

3,272

3,400

2,311

1,364

7

3,275

3,369

2,321

1,351

8

3,250

3,436

2,333

1,379

9

3,298

3,374

2,364

1,330

10

3,266

3,433

2,319

1,357

11

3,237

3,405

2,353

1,311

12

3,224

3,373

2,303

1,322

13

3,229

3,408

2,334

1,310

14

3,233

3,366

2,356

1,378

15

3,267

3,407

2,302

1,354

16

3,275

3,351

2,346

1,396

17

3,229

3,443

2,301

1,351

18

3,214

3,359

2,353

1,347

19

3,224

3,405

2,320

1,363

20

3,280

3,429

2,391

1,334

21

3,219

3,435

2,373

1,360

22

3,225

3,343

2,394

1,349

23

3,253

3,322

2,375

1,356

24

3,242

3,456

2,338 2,343 1,294 16

1,372 1,352 1,740 16

3,275 3,252 0,761 16

3,425 3,395 1,068 16

25 Ave. RSD (%) (½)RSDH

145

Phụ lục 12. Độ lặp lại của Ip theo các lần đo khác nhau

Phụ lục 13. Thế đỉnh catot (Epc) của Cd, Pb và Zn theo các pH khác nhau(*)

pH Epc(Pb), V Epc(Cd), V Epc(Zn), V

4,2 -1,183 ± 0,004 -0,444 ± 0,01 -0,65 ± 0,016

5,1 -1,244 ± 0,015 -0,482 ± 0,014 -0,692 ± 0,006

6,0 -1,279 ± 0,001 -0,522 ± 0,019 -0,762 ± 0,007

6,9 -1,302 ± 0,019 -0,590 ± 0,003 -0,795 ± 0,011

(*) Giá trị trong bảng là Epc trung bình và độ lệch chuẩn (n  3). ĐKTN: Như ở hình 3.10.

7,8 -1,402 ± 0,02 -0,660 ± 0,015 -0,858 ± 0,015

Phụ lục 14 .Thế đỉnh catot (Epc) của Pb, Cd và Zn theo các tốc độ quét thế (v) khác nhau(*)

v, V/s Epc(Cd), V Epc(Pb), V Epc(Zn), V

0,20 -0,673 ± 0,01 -1,387 ± 0,001 -0,876 ± 0,005

0,25 -0,675 ± 0,008 -1,387 ± 0,008 -0,878 ± 0,002

0,30 -0,684 ± 0,009 -1,396 ± 0,004 -0,894 ± 0,007

0,35 0,40 -0,683 ± 0,003 -0,689 ± 0,005 -1,399 ± 0,008 -1,406 ± 0,001 -0,892 ± 0,004 -0,89 ± 0,007

(*) Giá trị trong bảng là Ep trung bình và độ lệch chuẩn (n  3). ĐKTN: Như ở hình 3.10

146

3. Vị trí lấy mẫu nước sông, hồ ở tỉnh Quảng Bình

Phụ lục 15. Vị trí lấy mẫu nước sông, hồ

Tọa độ WGS–84

STT Mẫu nước Vị trí lấy mẫu Ký hiệu mẫu Vĩ tuyến bắc Kinh tuyến đông

1 CR1 17°28'08.1"N 106°36'40.3"E

Sông Cầu Rào

2 CR2 17°29'01.2"N 106°36'31.2"E

3 KG1 17°13'22.5"N 106°47'12.4"E

Sông Kiến Giang 4 KG2 17°20'24.9"N 106°41'50.1"E

5 NL Sông Nhật Lệ 17°24'05.0"N 106°38'38.7"E

6 GI Sông Gianh 17°43'16.9"N 106°26'01.0"E

7 HoNL Hồ Nam Lý 17°28'04.8"N 106°36'07.5"E

147

8 Sông Son Son 17°36'55.4"N 106°18'58.1"E Thượng lưu Cầu Rào, thuộc phường Đồng Phú, thành phố Đồng Hới Hạ lưu cầu Bệnh Viện, thuộc phường Đồng Phú, thành phố Đồng Hới Thượng lưu cầu Phong Xuân, thuộc thị trấn Kiến Giang, huyện Lệ Thuỷ Hạ lưu đập Mỹ Trung, thuộc xã Gia Ninh, huyện Quảng Ninh Thượng lưu cầu cũ Quán Hàu, thuộc trấn Quán Hàu, thị huyện Quảng Ninh Hạ lưu cầu Sông Gianh, phường Quảng Thuận, thị xã Ba Đồn Hồ Nam Lý, thuộc phường Nam Lý, thành phố Đồng Hới Thượng lưu cầu Xuân Sơn, thuộc thị trấn Phong Nha, huyện Bố Trạch