BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TÀI CHÍNH
--------------------
HỌC VIỆN TÀI CHÍNH
NGUYỄN THỊ HỒNG VÂN
HOÀN THIỆN VIỆC CÔNG BỐ THÔNG TIN BÁO CÁO
BỘ PHẬN TRONG HỆ THỐNG BÁO CÁO TÀI CHÍNH
TẠI CÁC DOANH NGHIỆP CỔ PHẦN NIÊM YẾT
TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
HÀ NỘI - 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TÀI CHÍNH
--------------------
HỌC VIỆN TÀI CHÍNH
NGUYỄN THỊ HỒNG VÂN
HOÀN THIỆN VIỆC CÔNG BỐ THÔNG TIN BÁO CÁO
BỘ PHẬN TRONG HỆ THỐNG BÁO CÁO TÀI CHÍNH
TẠI CÁC DOANH NGHIỆP CỔ PHẦN NIÊM YẾT
TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
Chuyên ngành : Kế toán
Mã số
: 62.34.03.01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS,TS. PHẠM THỊ THU THỦY
2. PGS,TS. NGUYỄN MINH PHƯƠNG
HÀ NỘI - 2017
LỜI CẢM ƠN
Luận án này đã không thể hoàn thành nếu thiếu sự hướng dẫn, cổ vũ động
viên và hỗ trợ của nhiều cá nhân và tổ chức.
Trước tiên, tôi xin bày tỏ sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc tới PGS-TS
Phạm Thị Thu Thuỷ và PGS-TS Nguyễn Minh Phương, hai Cô đã hướng dẫn,
động viên giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu và viết luận án này. Những nhận
xét và đánh giá của các Cô, đặc biệt là những gợi ý về hướng giải quyết vấn đề
trong suốt quá trình nghiên cứu, thực sự là những bài học vô cùng quý giá đối với
tôi không chỉ trong quá trình viết luận án mà cả trong hoạt động nghiên cứu
chuyên môn sau này.
Tôi xin cảm ơn Ban Giám hiệu, lãnh đạo và tập thể giảng viên Khoa Kế
toán, học viện Tài chính, nơi tôi đang công tác, các Thầy Cô đã giúp đỡ, góp ý
và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi trong quá trình nghiên cứu và viết luận án
của mình, những đồng nghiệp đã chia sẻ, động viên, giúp đỡ để tôi hoàn thành
luận án này.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn gia đình, chồng và các con đã động viên và hỗ
trợ tôi rất nhiều về mặt thời gian, hy sinh về vật chất lẫn tinh thần để giúp tôi hoàn
thành luận án này.
Hà Nội, tháng 09 năm 2017
Tác giả luận án
Nguyễn Thị Hồng Vân
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu do chính tôi thực hiện dưới sự
hướng dẫn của người hướng dẫn khoa học.
Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận án là trung thực và chưa từng
được công bố trong công trình khoa học nào, ngoại trừ một số kết quả được công bố
trong các công trình khoa học của chính tác giả và người hướng dẫn.
Những nội dung tham khảo từ tài liệu khác đều được tác giả ghi nguồn cụ thể
trong Danh mục các tài liệu tham khảo.
Hà Nội, tháng 09 năm 2017
Tác giả luận án
Nguyễn Thị Hồng Vân
MỤC LỤC
Trang
Lời cảm ơn
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng, hình, sơ đồ
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................................1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC CÔNG BỐ THÔNG TIN BÁO CÁO BỘ PHẬN TRONG HỆ THỐNG BÁO CÁO TÀI CHÍNH TẠI CÁC DOANH NGHIỆP CỔ PHẦN NIÊM YẾT ....................................................................... 23
1.1. TỔNG QUAN VỀ BÁO CÁO BỘ PHẬN TRONG HỆ THỐNG BÁO
CÁO TÀI CHÍNH ........................................................................................... 23
1.1.1. Thông tin kế toán và thông tin báo cáo tài chính .................................... 23
1.1.2. Hệ thống báo cáo tài chính .................................................................... 26
1.1.3. Bộ phận và báo cáo bộ phận .................................................................. 29
1.1.4. Doanh nghiệp cổ phần niêm yết ............................................................. 34
1.2. CÔNG BỐ THÔNG TIN BÁO CÁO BỘ PHẬN ............................................ 36
1.2.1. Công bố thông tin kế toán và công bố thông tin báo cáo tài chính .......... 36
1.2.2. Công bố thông tin bộ phận..................................................................... 45
1.3. CÔNG BỐ THÔNG TIN BÁO CÁO BỘ PHẬN THEO CHUẨN MỰC KẾ TOÁN VIỆT NAM-VAS28 VÀ SỰ HOÀ HỢP CHUẨN MỰC KẾ TOÁN VIỆT NAM VỚI CHUẨN MỰC KẾ TOÁN QUỐC TẾ -IFRS 8 ........... 52
1.3.1. Công bố thông tin báo cáo bộ phận theo chuẩn mực kế toán Việt
Nam VAS 28-Báo cáo bộ phận ............................................................. 52
1.3.2. Quy định của Uỷ ban Chuẩn mực kế toán quốc tế về công bố
thông tin báo cáo bộ phận ..................................................................... 53
1.3.3. Sự khác biệt về công bố thông tin bộ phận giữa chuẩn mực kế
toán quốc tế và chuẩn mực kế toán Việt Nam ....................................... 55
1.4. MỘT SỐ LÝ THUYẾT NỀN TẢNG VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH
HƯỞNG ĐẾN CÔNG BỐ THÔNG TIN BÁO CÁO BỘ PHẬN .................... 58 1.4.1. Một số lý thuyết ứng dụng trong nghiên cứu công bố thông tin
báo cáo bộ phận .................................................................................... 58 1.4.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến công bố thông tin báo cáo bộ phận ............. 64
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ...................................................................................... 67
Chương 2: THỰC TRẠNG CÔNG BỐ THÔNG TIN BÁO CÁO BỘ PHẬN TRONG HỆ THỐNG BÁO CÁO TÀI CHÍNH TẠI CÁC DOANH NGHIỆP CỔ PHẦN NIÊM YẾT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM ............................................................................................................................. 68
2.1. TỔNG QUAN CÁC DOANH NGHIỆP CỔ PHẦN NIÊM YẾT TRÊN
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM .............................................. 68 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của doanh nghiệp cổ phần
niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam ................................... 68
2.1.2. Ðặc điểm của các doanh nghiệp cổ phần niêm yết ảnh hưởng đến
công bố thông tin trên báo cáo tài chính ................................................ 71
2.1.3. Vai trò của doanh nghiệp cổ phần niêm yết trên thị trường chứng
khoán Việt Nam.................................................................................... 73
2.2. THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH VỀ CÔNG BỐ THÔNG TIN TÀI CHÍNH VÀ THÔNG TIN BÁO CÁO BỘ PHẬN CỦA DOANH NGHIỆP CỔ PHẦN NIÊM YẾT .................................................................... 74 2.2.1. Công bố thông tin báo cáo tài chính của doanh nghiệp cổ phần
niêm yết theo luật định ......................................................................... 74
2.2.2. Công bố thông tin trên báo cáo tài chính của doanh nghiệp cổ
phần niêm yết theo quy định của khuôn mẫu kế toán ............................ 77
2.2.3. Các quy định liên quan đến công bố thông tin báo cáo bộ phận tại
Việt Nam .............................................................................................. 80
2.3. THỰC TRẠNG CÔNG BỐ THÔNG TIN BÁO CÁO BỘ PHẬN VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN MỨC ĐỘ CÔNG BỐ THÔNG TIN BỘ PHẬN TRÊN BÁO CÁO TÀI CHÍNH TẠI CÁC DOANH NGHIỆP CỔ PHẦN NIÊM YẾT .................................................................... 82 2.3.1. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................... 82 2.3.2. Thực trạng đánh giá tính hữu ích của việc công bố thông tin bộ phận, nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin bộ phận - Kết quả nghiên cứu định tính .............................................................. 89
2.3.3. Thực trạng về mức độ công bố thông tin bộ phận và các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin bộ phận - Kết quả nghiên cứu định lượng .......................................................................... 96 2.4. THẢO LUẬN TỪ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ............................................. 110
2.4.1. Đánh giá thực trạng công bố thông tin bộ phận trên báo cáo tài
chính của các doanh nghiệp cổ phần niêm yết ..................................... 110
2.4.2. Nguyên nhân của thực trạng công bố thông tin bộ phận trong báo
cáo tài chính tại các doanh nghiệp cổ phần niêm yết ........................... 114 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 .................................................................................... 115
Chương 3: HOÀN THIỆN VIỆC CÔNG BỐ THÔNG TIN BÁO CÁO BỘ PHẬN TRONG HỆ THỐNG BÁO CÁO TÀI CHÍNH TẠI CÁC DOANH NGHIỆP CỔ PHẦN NIÊM YẾT Ở VIỆT NAM ........................................................... 116
3.1. SỰ CẦN THIẾT HOÀN THIỆN CÔNG BỐ THÔNG TIN BÁO CÁO BỘ PHẬN CỦA CÁC DOANH NGHIỆP CỔ PHẦN NIÊM YẾT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM ................................. 116
3.1.1. Yêu cầu của thị trường đối với việc hoàn thiện việc công bố
thông tin của doanh nghiệp cổ phần niêm yết ..................................... 116
3.1.2. Lợi ích của việc hoàn thiện công bố thông tin báo cáo bộ phận
trong báo cáo tài chính ........................................................................ 120
3.2. QUAN ĐIỂM, NGUYÊN TẮC HOÀN THIỆN CÔNG BỐ THÔNG TIN BÁO CÁO BỘ PHẬN TRÊN BÁO CÁO TÀI CHÍNH TẠI CÁC DOANH NGHIỆP CỔ PHẦN NIÊM YẾT ................................................... 122
3.2.1. Quan điểm hoàn thiện .......................................................................... 123
3.2.2. Nguyên tắc hoàn thiện ......................................................................... 125
3.3. GIẢI PHÁP VẬN DỤNG CHUẨN MỰC KẾ TOÁN QUỐC TẾ VỀ
CÔNG BỐ THÔNG TIN BÁO CÁO BỘ PHẬN .......................................... 127
3.3.1. Xác định bộ phận hoạt động và bộ phận cần báo cáo .. 128_Toc497474524
3.3.2. Thông tin bộ phận cần công bố ............................................................ 134
3.4. GIẢI PHÁP NÂNG CAO MỨC ĐỘ CÔNG BỐ THÔNG TIN BỘ PHẬN TRÊN BÁO CÁO TÀI CHÍNH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP CỔ PHẦN NIÊM YẾT ................................................................................. 143
3.4.1. Hoàn thiện các quy định pháp lý .......................................................... 143
3.4.2. Hoàn thiện về chuẩn mực nghề nghiệp ................................................ 143
3.4.3. Nâng cao vai trò, trách nhiệm của Nhà nước và các cơ quan chức năng ....... 144
3.4.4. Nâng cao vai trò, trách nhiệm của các doanh nghiệp cổ phần
niêm yết trên thị trường chứng khoán ................................................. 148
3.4.5. Nâng cao vai trò, trách nhiệm của các đối tượng sử dụng báo cáo
tài chính trên thị trường chứng khoán ................................................. 151
3.5. HẠN CHẾ CỦA LUẬN ÁN VÀ HƯỚNG NGHIÊN CỨU TIẾP THEO .......... 154
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 .................................................................................... 155
KẾT LUẬN ........................................................................................................................... 156
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TT TỪ VIẾT TẮT TIẾNG ANH TIẾNG VIỆT
APEC 1 Asia-Pacific Economic Cooperation Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương
ASEAN 2 Association of Southeast Asian Nations Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á
Báo cáo bộ phận BCBP 3
Báo cáo tài chính BCTC 4
BCTN 5 Báo cáo thường niên
CBTT 6 Công bố thông tin
Big4 7 KPMG, PWC, E&Y (Ernst&Young), Deloitte Bốn công ty kiểm toán hàng đầu thế giới
8 CODM Người ra quyết định hoạt động Chief Operating Decision Maker
Doanh nghiệp DN 9
Doanh nghiệp niêm yết DNNY 10
FASB 11 Ủy Ban Chuẩn mực kế toán tài chính Hoa Kỳ Financial Accounting Standards Board
GAAP 12 Generally Accepted Accounting Principles Những nguyên tắc được chấp nhận chung
Hội đồng quản trị HĐQT 13
HNX 14 Sàn giao dịch chứng khoán Hà Nội
15 HOSE Ho Chi Minh Stock Exchange Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh
Chuẩn mực kế toán quốc tế IAS 16 International Accounting Standard
IASB 17 International Accounting Standards Board Ủy ban chuẩn mực kế toán quốc tế
IASC 18 International Accounting Standards Committee Hội đồng chuẩn mực kế toán quốc tế
Liên đoàn kế toán quốc tế IFAC 19 The International Federation of Accountants
IFRS 20 International Financial Reporting Standards Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế
KQHĐ Kết quả hoạt động 21
KTV Kiểm toán viên 22
LoB 23 Bộ phận theo lĩnh vực kinh doanh
NĐT Nhà đầu tư 24
SEC Ủy ban chứng khoán Hoa Kỳ 25 U.S. Securities and Exchange Commission
SFAS 26 Statement of Financial Accounting Standards Chuẩn mực kế toán tài chính Hoa Kỳ
SPSS 27 Statistical Package for the Social Sciences phần mềm máy tính phục vụ công tác phân tích thống kê
TGĐ Tổng giám đốc 28
TT Thị trường 29
TTCK 30 Thị trường chứng khoán
TTTC Thông tin tài chính 31
VAA 32 Vietnam Association of Accountants and Auditors Hội kế toán và kiểm toán Việt Nam
VAS Vietnam Accounting Standars Chuẩn mực kế toán Việt Nam 33
WTO World Trade Organization Tổ chức thương mại thế giới 34
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 1.1: Sự khác biệt giữa VAS 28 và IFRS 8 ............................................................ 55 Bảng 2.1: Số lượng DNNY sàn HOSE phân theo lĩnh vực hoạt động. ......................... 70 Bảng 2.2: Số lượng DNNY trên sàn HNX phân theo lĩnh vực hoạt động .................... 71 Bảng 2.3: Đo lường các biến của mô hình ..................................................................... 86 Bảng 2.4: Giả thuyết mối tương quan giữa các biến độc lập và mức độ công bố
thông tin BCBP ............................................................................................ 86
Bảng 2.5: Tính hữu ích của thông tin, các đặc điểm định tính của thông tin,
tóm tắt câu trả lời ......................................................................................... 90
Bảng 2.6: Tổng hợp đánh giá mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đặc tính
doanh nghiệp đến mức độ công bố thông tin BCBP của các DNNY .......... 92 Bảng 2.7: Bảng tổng hợp kết quả thảo luận sâu với các chuyên gia ............................. 93 Bảng 2.8: Đo lường các biến của mô hình ..................................................................... 94 Bảng 2.9: Giả thuyết mối tương quan giữa các biến độc lập và mức độ công bố
thông tin BCBP ............................................................................................ 95 Bảng 2.10: Công bố thông tin bộ phận theo ngành nghề kinh doanh ............................ 97 Bảng 2.11: Lý do không công bố thông tin bộ phận...................................................... 98 Bảng 2.12: Nội dung thông tin bộ phận công bố theo yêu cầu của VAS 28 (dữ
liệu năm 2015) ........................................................................................... 103 Bảng 2.13: So sánh năm 2011 và 2015 về mức độ công bố thông tin bộ phận ........... 104 Bảng 2.14: So sánh các chỉ tiêu của bộ phận năm 2011 và 2015 ................................ 105 Bảng 2.15: Kết quả hồi quy theo phương pháp OLS (bình phương bé nhất) .............. 106 Bảng 2.16: Kết quả ước lượng mô hình REM ............................................................. 109 Bảng 2.17: Kết quả ước lượng hồi quy cho giai đoạn 2011 - 2015 ............................. 109 Bảng 3.1: Đánh giá tính hữu ích của thông tin BCBP ................................................. 122 Bảng 3.2: Minh hoạ việc áp dụng tiêu chuẩn định lượng quyết định bộ phận
cần báo cáo ................................................................................................. 130 Bảng 3.3: Quan niệm về bộ phận theo khu vực địa lý ................................................. 135 Bảng 3.4: Trích dẫn thông tin BCBP theo IFRS trên thuyết minh BCTC .................. 137 Bảng 3.4a: Trích dẫn thông tin BCBP năm 2009 ........................................................ 138 Bảng 3.4b: Trích dẫn thông tin BCBP năm 2008 ....................................................... 139 Bảng 3.4c: Trích dẫn thông tin BCBP theo khu vực địa lý ......................................... 139 Bảng 3.4d: Trích dẫn thông tin BCBP về các chỉ tiêu bộ phận .................................. 140 Bảng 3.4e: Trích dẫn thông tin BCBP về tài sản bộ phận .......................................... 141 Bảng 3.4f: Trích dẫn thông tin BCBP Doanh thu phân bổ từng bộ phận ................... 141
DANH MỤC CÁC HÌNH
Trang
Hình 2.1: Doanh nghiệp niêm yết công thông tin bộ phận .................................................... 97
Hình 2.2: Tuân thủ VAS 28 ................................................................................................... 101
Hình 2.3: Nội dung báo cáo chính yếu .................................................................................. 102
Hình 2.4: So sánh các chỉ tiêu của bộ phận năm 2011 và 2015 ............................................ 105
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
Trang
Sơ đồ 1.1: Thông tin doanh nghiệp công bố và các mối quan hệ liên quan ........................... 38
Sơ đồ 1.2: Phân loại thông tin BCTC ...................................................................................... 40
Sơ đồ 2.1: Giá trị vốn hoá thị trường theo thời gian ................................................................ 69
Sơ đồ 2.2: Số lượng DNNY theo thời gian ............................................................................. 70
Sơ đồ 3.1: Các bước xác định bộ phận báo cáo ..................................................................... 133
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự phát triển của thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam đòi hỏi tính đồng
bộ, chính vì thế, chỉ cần việc công bố thông tin các doanh nghiệp niêm yết (DNNY)
không được thực hiện hoặc thực hiện nhưng không nghiêm theo Luật Chứng khoán và
các quy định hiện hành sẽ ảnh hưởng rất lớn đến tính minh bạch, công khai và sự phát
triển bền vững của thị trường. Hiện nay, việc công bố thông tin của các DNNY trên
TTCK Việt Nam được thực hiện theo Luật Chứng khoán và Thông tư số 155/2015/TT-
BTC hướng dẫn công bố thông tin trên TTCK, thay thế Thông tư số 52/2012/TT-BTC
ngày 05/04/2012 của Bộ Tài chính hướng dẫn công bố thông tin trên TTCK. Xét về cả
quy định và thực tiễn, việc công bố thông tin các DNNY còn tồn tại một số bất cập,
ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính minh bạch, công khai và sự phát triển bền vững của
TTCK Việt Nam. Một trong những bất cập đó là, công bố thông tin Báo cáo bộ phận
(BCBP) ở Việt Nam chưa được quan tâm đúng mức.
Hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) ban hành đến năm 2006 có đề
cập đến yêu cầu công bố BCBP (được quy định trong VAS 28), tuy nhiên việc nghiên
cứu và khảo sát thực tế các DNNY có tuân thủ những nguyên tắc trong công bố thông
tin BCBP hay không, có đáp ứng được yêu cầu của nhà đầu tư cũng như nhiều đối
tượng cần sử dụng thông tin khác hay không thì lại chưa được các nhà nghiên cứu thực
sự quan tâm. BCBP rất cần thiết trong đánh giá rủi ro và lợi ích kinh tế của những
doanh nghiệp có nhiều ngành nghề khác nhau, những doanh nghiệp có cơ sở ở nước
ngoài hoặc những doanh nghiệp hoạt động ở nhiều vùng địa lý khác nhau. BCBP hỗ
trợ người sử dụng báo cáo tài chính hiểu rõ tình hình hoạt động qua các năm của doanh
nghiệp, đánh giá đúng về những rủi ro, lợi ích kinh tế của doanh nghiệp, từ đó sẽ có
đánh giá chính xác về năng lực của doanh nghiệp.
Có rất nhiều tranh luận xung quanh lợi ích cũng như chi phí khi thực hiện công
bố thông tin BCBP. Thực tế cho thấy, với sự tiếp cận mang tính quản trị, thông tin từ
các BCBP là cần thiết cho các nhà đầu tư và nhiều đối tượng sử dụng thông tin khác.
Căn cứ vào đây, các đối tượng sử dụng thông tin nói chung có thể thấy được tình hình
hoạt động của một doanh nghiệp đa diện, sát sao như chính nhà quản trị của doanh
nghiệp đó, điều này giúp các đối tượng sử dụng thông tin đưa ra được quyết định kinh
tế đúng đắn.
2
Xuất phát từ lợi ích của việc công bố thông tin BCBP và tình hình thực tiễn
TTCK Việt Nam những năm gần đây, tác giả quyết định chọn đề tài “Hoàn thiện việc
công bố thông tin báo cáo bộ phận trong hệ thống báo cáo tài chính tại các doanh
nghiệp cổ phần niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam” làm Luận án
nghiên cứu, với mong muốn giải quyết những vấn đề đang tồn tại, cả về lý luận và thực
tiễn, góp phần thực hiện tốt việc công bố thông tin bộ phận trên báo cáo tài chính
(BCTC) của các DNNY.
2. Tổng quan nghiên cứu
Công bố thông tin BCBP trên BCTC của các DNNY là vấn đề đã được rất
nhiều tác giả nghiên cứu, cả tác giả trong nước và tác giả quốc tế, công trình của họ
thuộc nhiều cấp độ. Để có cái nhìn toàn cảnh về những công trình nghiên cứu liên quan
đến đề tài của Luận án, tác giả xin chọn giới thiệu một số công trình tiêu biểu, chỉ ra
khoảng trống nghiên cứu của từng đề tài.
2.1. Nghiên cứu nước ngoài liên quan đến công bố thông tin Báo cáo bộ
phận trên BCTC
Trong những năm gần đây, nghiên cứu tính hữu ích của việc công bố thông tin
BCBP, mức độ công bố thông tin BCBP, và các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công
bố thông tin BCBP của cả DNNY và doanh nghiệp chưa niêm yết, đã được nhiều nhà
nghiên cứu trong lĩnh vực kế toán thực hiện. Trong nội dung này của Luận án, tác giả
sẽ trình bày những nghiên cứu của các tác giả nước ngoài về tính hữu ích, mức độ công
bố và nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin BCBP.
2.1.1. Tính hữu ích của việc công bố thông tin báo cáo bộ phận trong các qui
định của SFAS No.131, IAS 14, và IFRS 8
Thông tin BCBP là thông tin tài chính quan trọng, phục vụ cho việc ra quyết
định của nhiều đối tượng sử dụng thông tin. Nhiều tác giả trong các nghiên cứu gần
đây đã khẳng định, thông tin BCBP giúp nhà đầu tư hiểu rõ kết quả hoạt động của
doanh nghiệp theo từng bộ phận kinh doanh, lĩnh vực hoạt động, để họ có thể dự báo
dòng tiền tương lai chính xác hơn. Đánh giá tính hữu ích của việc công bố thông tin
BCBP trên TTCK, tác giả đã nghiên cứu một số nội dung sau:
2.1.1.1. Công bố thông tin báo cáo bộ phận tăng chất lượng thông tin BCTC
Về nội dung này, phải kể đến công trình của nhóm tác giả Street và Nicholas,
nghiên cứu tập trung vào việc xem xét tác động của quy định IAS 14 đến việc công bố
thông tin BCBP ở các DNNY trên TTCK Châu Âu. Thực tế là có đến 30% DNNY
3
thực hiện việc công bố thông tin BCBP không xác định các bộ phận cần báo cáo,
không phân biệt thông tin bộ phận chính yếu, thứ yếu; tuy nhiên quy định của IAS 14
đã giải quyết được thực trạng này, tác động rất lớn đến việc công bố thông tin BCBP.
Cụ thể, trong nghiên cứu, nhóm tác giả kết luận rằng, việc áp dụng IAS 14 làm tăng
đáng kể số lượng và chất lượng thông tin bộ phận công bố cho những người tham gia
thị trường vốn và đối tượng sử dụng thông tin trên BCTC (Street và Nicholas, 2002).
Nói đến tính hữu ích của việc công bố thông tin BCBP, không thể không kể đến
nghiên cứu về BCBP tại Jordan do Suwaidan và cộng sự thực hiện. Đây là nghiên cứu
đầu tiên về các thông lệ trong việc công bố thông tin giữa các DNNY của Jordan;
nhóm tác giả cho rằng những nghiên cứu như này rất hữu dụng, giúp cho tất cả những
người sử dụng BCTC đánh giá được tầm quan trọng của thông tin BCBP trong việc ra
quyết định. Suwaidan và cộng sự đã nghiên cứu thông tin BCBP được công bố theo
IAS 14 của 67 DNNY trong ngành công nghiệp của Jordan trên sàn giao dịch chứng
khoán của Jordan (ASE), từ các báo cáo thường niên được công bố năm 2002. Bằng
việc sử dụng các phép thử hồi quy, họ đã kiểm tra mối quan hệ giữa mức độ công bố
thông tin BCBP và một số các đặc tính của doanh nghiệp như: quy mô doanh nghiệp,
tỷ lệ nợ, tỷ lệ tài sản hiện có. Họ công bố một bảng các chỉ số kiểm tra dựa trên những
yêu cầu của IAS 14 bao gồm 11 yếu tố của bộ phận chính yếu (doanh thu từ bên ngoài,
doanh thu nội bộ, lợi nhuận, tài sản, cơ sở giá nội bộ, nợ phải trả, chi phí tài chính, chi
phí khấu hao, các khoản chi phí không bằng tiền khác, lợi nhuận từ liên doanh/liên kết
và đối chiếu, điều chỉnh với các tài khoản hợp nhất); ba yếu tố của các bộ phận thứ yếu
(doanh thu từ bên ngoài, tài sản và các chi phí tài chính); và hai yếu tố cho những nội
dung khác (loại hình sản phẩm/dịch vụ của các doanh nghiệp và yếu tố địa lý,
(Suwaidan và cộng sự, 2007).
Mức độ công bố thông tin và nội dung thông tin công bố rất quan trọng, phục
vụ cho các đối tượng sử dụng thông tin trong quá trình ra quyết định. Nhiều học giả
cho rằng, việc công bố thông tin hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu của đối tượng
sử dụng thông tin bởi nhà quản trị đã can thiệp, hạn chế cung cấp thông tin ra ngoài,
trong trường hợp thông tin đó không có lợi cho mục tiêu của họ (Akhatruddin, 2005).
Kết quả là, mức độ công bố thông tin thực tế không đáp ứng được nhu cầu thực tế của
đối tượng sử dụng thông tin, mâu thuẫn này xuất phát từ lý thuyết đại diện (The
Agency theory). Tuy nhiên, các học giả Cooke, Hossain và Karim đã khẳng định
rằng, mức độ công bố thông tin BCBP trên BCTC càng chi tiết sẽ càng làm tăng giá
4
trị thị trường của doanh nghiệp và tăng khả năng thanh khoản trên TTCK [Cooke,
(1989); Hossain, (2000); Karim, (1996)].
2.1.1.2. Công bố thông tin BCBP giúp dự đoán kết quả trong tương lai
Về những chuẩn mực mà sự ra đời và phát triển của nó có ảnh hưởng đến quy
định trong công bố BCBP, phải kể đến SFAS No.131, ban hành năm 1997 tại Mỹ, tiền
thân của IFRS 8 (2008) - thay thế IAS 14. Rất nhiều công trình nghiên cứu đã kết luận,
SFAS No.131 ảnh hưởng rất lớn đến BCBP ở Mỹ. Các tác giả Hermann, Thomas,
Berger và Hann tiến hành khảo sát, kết quả là hơn một nửa DNNY trong mẫu nghiên
cứu đã công bố BCBP, tăng so với thời kỳ còn sử dụng chuẩn mực cũ [Hermann và
Thomas (2000), Berger và Hann (2003)].
Ở Mỹ có nhiều nghiên cứu bàn về mức độ công bố thông tin BCBP và tính hữu
ích của việc thông tin tuân thủ theo quy định của chuẩn mực kế toán SFAS 131. Trong
nghiên cứu của Behn et al, dữ liệu được thu thập từ 172 doanh nghiệp, tác giả đã tiến
hành kiểm chứng, xem xét liệu việc công bố thông tin BCBP theo quy định của SFAS
131 có thực sự giúp cho đối tượng sử dụng thông tin hiểu được rủi ro và lợi nhuận
trong khoản đầu tư của họ ở doanh nghiệp không. Kết quả cho thấy, trên 50% doanh
nghiệp trong khảo sát đã cung cấp thông tin BCBP theo quy định của SFAS 131; và
công bố thông tin BCBP theo khu vực địa lý đã giúp cho đối tượng sử dụng thông tin
dự báo được thu nhập tương lai của một doanh nghiệp (Behn et al, 2002). Không
những vậy, nghiên cứu của Ettredge et al đã khẳng định được, việc công bố thông tin
BCBP có thể giúp cho việc dự báo kết quả kinh doanh trong tương lai của một doanh
nghiệp. Trên cơ sở xem xét quan điểm của đối tượng sử dụng thông tin, cụ thể là nhà
đầu tư, kết quả cho thấy, đối tượng sử dụng thông tin quan tâm đến kết quả từng bộ
phận của doanh nghiệp hơn là kết quả chung của doanh nghiệp (Ettredge et al, 2005).
Các công ty đa quốc gia được kỳ vọng sẽ công khai thông tin BCBP nhiều hơn
trong BCTC vì những công ty này hoạt động trong nhiều ngành công nghiệp khác
nhau, ở nhiều vị trí địa lý khác nhau; bên cạnh đó, BCTC của họ do nhiều cơ quan lập
pháp quy định, quản lý. Không những vậy, tiền tệ của các quốc gia khác nhau hay rủi
ro về tỷ giá ngoại tệ có thể làm giảm khả năng dự đoán lợi nhuận tương lai của các
công ty đa quốc gia, đặc biệt là với các công ty đa quốc gia ở những thị trường đang
phát triển, do tỷ giá ngoại tệ ở những thị trường này có nhiều rủi ro hơn (dao động
nhiều hơn so với thị trường ở các nước phát triển). Martin và Poli cho rằng: “Những rủi
ro tại thị trường ở các nước đang phát triển và sự yếu kém trong kiểm soát rủi ro có thể
5
ảnh hưởng đến lợi nhuận của các công ty đa quốc gia đang hoạt động trong thị trường
này”, (Martin và Poli, 2004).
Bên cạnh đó, Martin và Poli cũng đã nghiên cứu, liệu công bố thông tin BCBP
theo khu vực địa lý có hữu ích cho người sử dụng BCTC từ các công ty đa quốc gia
của Mỹ đang hoạt động trong thị trường ở các nước đang phát triển hay không. Giả
thuyết này được kiểm nghiệm bằng cách ước lượng hệ số phản ứng thu nhập (ERC)
cho lợi nhuận của các công ty đang hoạt động trong thị trường ở các nước đang phát
triển so với những công ty chỉ hoạt động tại các thị trường ở các nước phát triển
(Martin và Poli, 2004). Số liệu công bố thông tin BCBP theo khu vực địa lý được thu
thập từ 111 doanh nghiệp. Vì lợi nhuận thu được từ thị trường ở các nước đang phát
triển có rủi ro hơn là lợi nhuận thu được từ thị trường ở các nước phát triển, các tác giả
này đã giả thuyết rằng, các doanh nghiệp tại thị trường ở các nước đang phát triển có
hệ số ERC thấp hơn (cụ thể là thu nhập thấp hơn) các doanh nghiệp tại thị trường ở các
nước phát triển. Tại những khu vực được nghiên cứu, họ thấy rằng, hệ số ERC của các
doanh nghiệp tại thị trường ở các nước đang phát triển (3.65) thấp hơn đáng kể so với
các doanh nghiệp chỉ hoạt động tại thị trường ở các nước phát triển. Nói cách khác, lợi
nhuận các công ty đa quốc gia thu được từ các thị trường ở các nước đang phát triển ít
hơn từ các thị trường ở các nước phát triển; điều này có nghĩa là lợi nhuận thu được từ
các khu vực địa lý khác nhau có thể khác nhau. Do đó, thông tin BCBP theo khu vực
địa lý được công bố là hữu ích cho các cổ đông vì nó cho phép họ so sánh lợi nhuận
của các doanh nghiệp, (Martin và Poli, 2004).
Ảnh hưởng từ SFAS No.131 cũng cho thấy, số lượng các doanh nghiệp công
bố thông tin BCBP theo khu vực địa lý tăng lên, đây là cơ sở để các đối tượng sử
dụng thông tin dự báo doanh thu, kết quả theo vị trí kinh doanh của doanh nghiệp.
Các tác giả đều khẳng định, cách thức công bố thông tin dựa vào quan điểm quản trị
“management approach” của SFAS No.131 đã được chứng minh là thành công hơn
so với cách thức trước đây, trên cơ sở rủi ro và lợi ích từng bộ phận “risks and
rewards-approach”.
Xem xét đặc điểm định tính của thông tin trên BCTC, các tác giả Maines,
McDaniel và Harris ủng hộ SFAS No.131, họ cho rằng, thông tin BCBP sẽ đáng tin
cậy hơn khi thông tin bộ phận được công bố từ các nhà quản trị doanh nghiệp và
thông tin bộ phận được công bố cho các đối tượng sử dụng thông tin bên ngoài là
thống nhất với thông tin phục vụ mục tiêu quản trị của nhà quản trị. Cách tiếp cận
6
quản trị theo SFAS No.131 làm tăng độ tin cậy của nhà đầu tư đối với thông tin
BCBP đã công bố từ nguồn thông tin nội bộ của nhà quản trị doanh nghiệp, (Maines,
McDaniel và Harris, 1997).
IFRS 8, kết hợp qui định của cả IFRS và SFAS, có nội dung tương tự SFAS
No.131. Tuy không có nhiều nghiên cứu đánh giá IFRS 8 như SFAS No.131 nhưng
trong nghiên cứu chứng minh thành công của IFRS 8, tác giả Crawford và cộng sự đã
khẳng định tính hữu ích vượt trội của IFRS 8 so với IAS 14, (Crawford và các cộng
sự, 2012).
Bên cạnh các nghiên cứu điển hình về mức độ công bố thông tin BCBP theo
quy định trong chuẩn mực kế toán và đánh giá tính hữu ích của thông tin này, cũng có
nhiều nghiên cứu về ảnh hưởng của mức độ công bố thông tin và bất lợi trong cạnh
tranh với doanh nghiệp. Điển hình là nghiên cứu của nhóm tác giả Tsakumis với dữ
liệu được thu thập từ 115 doanh nghiệp, nhóm tác giả đã sử dụng mô hình phân tích hồi
quy đa nhân tố để chứng minh các giả thiết liên quan giữa mức độ công bố thông tin
BCBP với các doanh nghiệp hoạt động ở nước ngoài, có doanh thu từ nước ngoài. Kết
quả cho thấy, những doanh nghiệp hoạt động ở nước ngoài ít công bố đầy đủ thông tin
BCBP theo quy định, vì lo sợ thông tin này ảnh hưởng đến lợi thế cạnh tranh của mình
trên thị trường, (Tsakumis et al, 2006).
SSAP 25, ban hành tại Anh, năm 1990, là chuẩn mực kế toán đầu tiên quy định
việc lập và công bố thông tin BCBP ở Anh. Đã có nhiều nghiên cứu về quy định trong
các chuẩn mực có làm tăng mức độ công bố thông tin BCBP tại các DNNY không, kết
quả nghiên cứu của Edwards và Smith cho thấy, mức độ tuân thủ quy định trong các
chuẩn mực thấp. Nghiên cứu này cũng chỉ ra nguyên nhân các doanh nghiệp chưa công
bố thông tin BCBP sau khi khảo sát 103 DNNY và tiến hành một số cuộc phỏng vấn.
Lý do các doanh nghiệp chưa công bố thông tin BCBP là do bất lợi cạnh tranh, đặc biệt
là công bố thông tin BCBP theo khu vực địa lý, (Edwards và Smith, 1996).
Những bất lợi cạnh tranh trong phân tích về công bố thông tin BCBP ở trên có
thể là từ áp lực chính trị, áp lực của khách hàng hoặc áp lực từ phía đối thủ cạnh tranh.
Trước đó, đã có một số nghiên cứu về mức độ của bất lợi cạnh tranh và mối quan hệ
của bất lợi cạnh tranh với việc công bố thông tin BCBP tại thị trường ở những nước
đang phát triển như Malaysia và Jordan. Ví dụ, Talha và cộng sự đã sử dụng phương
pháp hồi quy tuyến tính với số liệu thu thập từ 116 DNNY công khai thông tin BCBP
tại Malaysia, giai đoạn 2000-2001. Họ không tìm thấy mối quan hệ giữa mức độ cạnh
7
tranh mà doanh nghiệp phải đối mặt với mức độ công bố thông tin BCBP. Talha và
cộng sự đã sử dụng phép hồi quy tương tự với cùng quy mô và các biến như trong
nghiên cứu của họ nhưng thêm một số biến độc lập (lựa chọn hoạt động kinh doanh
hoặc khu vực địa lý) làm tiêu chuẩn của bộ phận chính yếu, họ nhận thấy mức độ bất
lợi cạnh tranh ở các doanh nghiệp công khai thông tin bộ phận theo khu vực địa lý như
bộ phận chính yếu cao hơn. Ngoài ra, các tác giả cũng nhận thấy các doanh nghiệp lớn
hơn ở Malaysia chịu nhiều bất lợi so sánh hơn các doanh nghiệp nhỏ, quy mô doanh
nghiệp trong thị trường ở các nước đang phát triển cũng là một yếu tố ảnh hưởng,
(Talha và cộng sự, 2007).
2.1.2. Mức độ công bố thông tin BCBP, nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công
bố thông tin BCBP
2.1.2.1. Các nghiên cứu ở nước ngoài về việc công bố thông tin BCBP
Nghiên cứu về mức độ công bố thông tin BCBP và đánh giá nhân tố ảnh hưởng
đến mức độ công bố thông tin BCBP đã được nhiều tác giả trên thế giới thực hiện, trên
cơ sở số liệu ở từng nước như Nigeria, Kuwait, Italia, Ấn độ, Tây Ban Nha,… Các
nghiên cứu đều sử dụng phương pháp thống kê mô tả và mô hình phân tích hồi quy đa
biến, nhằm đánh giá mức độ tuân thủ chuẩn mực kế toán về công bố thông tin BCBP
và phân tích ảnh hưởng của các nhân tố đến mức độ công bố thông tin BCBP tại các
DNNY ở từng quốc gia. Có tác giả phân tích một nhân tố, có tác giả phân tích nhiều
nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin BCBP, nhưng tựu chung, đều cho
chúng ta thấy được một số kết quả của việc tuân thủ chuẩn mực kế toán liên quan đến
công bố thông tin BCBP và các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin ở
những vị trí địa lý khác nhau.
Một số công trình nghiên cứu cụ thể: “Corporate Governance and Disclosure on
Segment Reporting: Evidence from Nigeria” (2013) của nhóm tác giả Kabir Ibrahim và
Hartini Jaafar. Hội đồng chuẩn mực kế toán Nigeria (NASB) công bố lộ trình hội tụ
IFRS (lộ trình hướng tới hội tụ kế toán quốc tế theo IFRS) vào tháng 9/2010, yêu cầu
các DNNY tại Nigeria phải thực hiện báo cáo theo chuẩn mực báo cáo tài chính quốc
tế IFRS từ ngày 01/01/2012. Nghiên cứu điều tra về sự liên kết giữa cấu trúc quản lý
doanh nghiệp với mức độ tuân thủ theo IFRS 8. Mẫu nghiên cứu gồm 69 DNNY tại
Nigeria với mô hình nghiên cứu được thiết lập như sau:
VDISCL = β0 + β1 BINDP + β2 SIZE + β3 BMEET + β4 SPRTN + β5
ACINDP + β6 ACSIZE + β7 ACMEET + β8 FSIZE + β7 INTYPEt + εi
8
Những phát hiện trong nghiên cứu này có ý nghĩa quan trọng trong quản trị
doanh nghiệp và việc công bố thông tin trên BCTC của doanh nghiệp. Kết quả nghiên
cứu hỗ trợ cho lập luận rằng, cơ chế hội đồng quản trị và ban kiểm soát giúp thúc đẩy
mức độ công bố thông tin tại Nigeria. Nghiên cứu cũng đã cung cấp cái nhìn rõ hơn về
mối quan hệ giữa cơ chế quản trị doanh nghiệp và mức độ công bố thông tin BCBP
theo quy định của IFRS trong bối cảnh nền kinh tế Nigeria đang khủng hoảng tài chính
trầm trọng, (Kabir Ibrahim and Hartini Jaafar, 2013).
Công trình nghiên cứu “What Explains Variation In Segment Reporting?-
Evidence From Kuwait” của nhóm tác giả Mishari M. Alfaraih và Faisal S. Alanezi đã
đánh giá mức độ công bố thông tin BCBP của các DNNY trên thị TTCK Kuwait và
các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố BCBP tại đây. Mức độ công bố thông tin
dựa trên các yêu cầu bắt buộc trong IAS 14. Công trình nghiên cứu đã khảo sát 123
DNNY tại Kuwait năm 2008 với mô hình nghiên cứu:
Y = β0 + β1 (company size) + β2 (audit quality) + β3 (company age) + β4
(ownership diffusion) + β5 (profitability) + β6 (leverage) + β7 (growth) + β8-11
(industry 1-4) + εi
Kết quả của nghiên cứu này cho thấy, 56% doanh nghiệp tuân thủ quy định về
BCBP, trong đó, những doanh nghiệp có quy mô lớn, hoạt động lâu năm, đòn bẩy tài
chính cao, khả năng sinh lợi lớn và có hoạt động kiểm toán được thực hiện bởi các
công ty kiểm toán thuộc nhóm Big 4 (nhóm gồm bốn công ty kiểm toán quốc tế hàng
đầu trên thế giới hiện nay), có mức độ công bố thông tin bộ phận cao hơn các doanh
nghiệp khác.
Nghiên cứu của nhóm tác giả Manuela Lucchese và Ferdinando Di Carlo ở Ý
đề cập đến ảnh hưởng của việc thay đổi nội dung từ IAS 14 sang IFRS 8 - “An
Analysis Of Segment Disclosure under IFRS 8 and IAS 14R: Evidence from Italian
Listed Companies”. Nghiên cứu thực hiện khảo sát về ảnh hưởng của việc áp dụng
IFRS 8 trong năm đầu tiên (2008) và hai năm tiếp theo (2009, 2010) thông qua thu thập
dữ liệu của 69 DNNY tại Italia với mô hình nghiên cứu:
VoluntSDSi = β0 + β1TAt + β2ROIt + β3LEVt + β4OWNt + β5GROWTHt
+ β6BETAt+ β7FINt + εi
Kết quả của nghiên cứu này cho thấy, 75% DNNY tại Italia không thay đổi
cách thức công bố thông tin bộ phận khi áp dụng chuẩn mực mới. Khi chuyển đổi từ
IAS 14R sang IFRS 8, chỉ có 16% doanh nghiệp tăng mức độ công bố thông tin BCBP,
9
thậm chí có 9% doanh nghiệp giảm lượng thông tin công bố. Điểm tích cực đáng nói
nhất của IFRS 8 là phương pháp quản trị nhưng phương pháp này lại chỉ mới thể hiện
được trên lý thuyết. Về mối liên hệ giữa mức độ công bố BCBP và các nhân tố ảnh
hưởng thuộc đặc tính của doanh nghiệp, kết quả từ nghiên cứu cho thấy, quy mô doanh
nghiệp và khả năng sinh lời là hai yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến việc công bố BCBP
(Manuela Lucchese và Ferdinando Di Carlo, 2001).
Về đánh giá mức độ công bố thông tin BCBP tuân thủ theo chuẩn mực kế toán,
không thể bỏ qua nghiên cứu của nhóm tác giả Raju Hyderabad và Kalyanshetti
Pradeepkumar - “An Appraisal of Segment Reporting Practices of Indian IT Industry”.
Nghiên cứu đã đánh giá thực trạng lập và công bố thông tin BCBP của 45 DNNY trong
lĩnh vực công nghệ thông tin tuân thủ chuẩn mực kế toán Ấn Độ số 17 về BCBP.
Nghiên cứu đã phát hiện được, có một khoảng cách lớn giữa mô tả trong chuẩn mực
và thực tế. Kết quả thống kê cho thấy, đa số các doanh nghiệp công bố BCBP chính
yếu theo lĩnh vực kinh doanh và chỉ công bố giới hạn thông tin mà chuẩn mực bắt
buộc, các DNNY trong lĩnh vực này vẫn chưa tuân thủ toàn bộ các yêu cầu về công
bố thông tin của chuẩn mực. Chỉ có 11% doanh nghiệp trong 29 mẫu nghiên cứu
công bố toàn bộ các thông tin theo đúng quy định. Thông tin bộ phận tự nguyện công
bố lẽ ra là các thông tin đem lại giá trị cao cho cổ đông, có lợi trong duy trì quan hệ
với nhà đầu tư, nhà cung cấp, ngân hàng, nâng cao hình ảnh doanh nghiệp trước công
chúng và làm tăng cơ sở đánh giá của thị trường, nhưng lại được công bố rất sơ sài,
không trông chờ những thông tin này được công bố trong BCBP. Nghiên cứu này đã
kết luận, các doanh nghiệp chỉ áp dụng chuẩn mực về hình thức. IFRS 8 được áp
dụng tại Ấn Độ từ tháng 4 năm 2011 đã cải thiện chất lượng thông tin BCBP, đồng
thời làm thay đổi quan điểm của nhà quản trị trong việc chia sẻ thông tin với nhà đầu
tư. Đây sẽ là cách giúp nhà đầu tư đánh giá doanh nghiệp và các bộ phận hiệu quả
hơn, từ đó đưa ra quyết định nắm giữ các khoản đầu tư tối ưu nhất, (Raju Hyderabad
và Kalyanshetti Pradeepkumar, 2011).
Đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin BCBP, nhóm
tác giả Pedro Nuno Pardal và Ana Isabel Morais đã có kết luận trong nghiên cứu
“Segment Reporting Under IFRS8 - Evidence From Spanish Listed Firms”. Thông qua
việc thu thập báo cáo thường niên năm 2009 của 150 DNNY tại Tây Ban Nha, nghiên
cứu đã xác định được các yếu tố ảnh hưởng đến việc công bố thông tin BCBP và tiến
10
hành khảo sát mức độ tuân thủ việc công bố BCBP theo IFRS 8 của các DNNY này
với mô hình nghiên cứu:
DCSi = β 0 + β1SIZEi + β2LISTi + β3AUDITi + β4ROAi + β5LEVi +
β6IBEXi + ei
Kết quả nghiên cứu cho thấy, 79% DNNY tại Tây Ban Nha tuân thủ việc công
bố BCBP theo từng lĩnh vực kinh doanh. Chỉ có 7,6% doanh nghiệp không công bố
BCBP do chỉ có duy nhất một bộ phận. Nghiên cứu kết luận rằng, quy mô doanh
nghiệp càng lớn, càng công bố nhiều thông tin BCBP hơn; khả năng sinh lợi càng cao,
mức độ công bố thông tin BCBP càng thấp. (Nuno Pardal và Ana Isabel Morais, 2010).
Một nghiên cứu điển hình ở Malaysia, tương đồng về điều kiện phát triển và
văn hoá với Việt Nam, của nhóm tác giả Samuel Jebaraj Benjamin, Saravanan
Muthaiyah, M. Srikamaladevi Marathamuthu, Uthiyakumar Murugaiah - “A Study of
Segment Reporting Practices: A Malaysian Perspective”. Nghiên cứu sử dụng phương
pháp thống kê mô tả để khảo sát một số doanh nghiệp lớn ở 5 lĩnh vực kinh doanh năm
2007 và 2008 tại Malaysia gồm: viễn thông, nước giải khát, truyền thông in ấn, điện tử
truyền thông và tiện ích xã hội. Kết quả nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ các doanh nghiệp
không trình bày BCBP khá cao, các doanh nghiệp có tỷ suất lợi nhuận cao cũng chính
là các doanh nghiệp không trình bày BCBP. Nghiên cứu cũng đã đề cập một số giải
pháp khắc phục tình trạng không chấp hành trình bày BCBP tại quốc gia này, (Samuel
Jebaraj Benjamin, Saravanan Muthaiyah, M. Srikamaladevi Marathamuthu,
Uthiyakumar Murugaiah, 2010).
Trên thế giới có nhiều công trình nghiên cứu khoa học đề cập đến tính hữu ích
của việc công khai thông tin trên BCTC nói chung và công bố thông tin bộ phận nói
riêng. Các học giả đã sử dụng mô hình kinh tế định lượng để đánh giá các nhân tố chủ
yếu (liên quan đến đặc tính của doanh nghiệp, thị trường) ảnh hưởng đến mức độ công
bố thông tin, hay thông tin BCBP của DNNY trên TTCK. Luận án này sẽ tập trung
kiểm chứng ảnh hưởng của các nhân tố (liên quan đến đặc tính của doanh nghiệp như
ngành nghề kinh doanh, khả năng sinh lời, qui mô doanh nghiệp,...) ảnh hưởng đến
mức độ công bố thông tin BCBP, bằng việc sử dụng phương pháp phỏng vấn để đánh
giá tính hữu ích của việc công bố thông tin BCBP trên quan điểm của 3 đối tượng là,
nhà đầu tư, người lập BCTC và kiểm toán viên. Từ đó đề xuất một số giải pháp tăng
cường mức độ công bố thông tin BCBP theo thông lệ quốc tế về công bố thông tin
BCBP, đảm bảo tính hữu ích của thông tin đối với các đối tượng sử dụng thông tin.
11
2.1.2.2. Đánh giá chung về những nghiên cứu đã thực hiện ở nước ngoài về
công bố thông tin báo cáo bộ phận
Các nghiên cứu đánh giá tính hữu ích của việc công bố thông tin BCBP thông
qua việc đánh giá việc công bố thông tin BCBP làm tăng chất lượng thông tin công bố
trên BCTC, mối quan hệ của việc công bố thông tin BCBP với lợi nhuận cũng như dự
báo các kết quả trong tương lai. Mức độ tuân thủ chuẩn mực kế toán và các nhân tố ảnh
hưởng đến mức độ công bố thông tin BCBP có những đặc điểm như sau:
- Hầu hết các nghiên cứu đều đánh giá mức độ tuân thủ chuẩn mực công bố
thông tin BCBP trong phạm vi quốc gia, các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố
thông tin. Một số nghiên cứu tập trung đề cập đến mức độ công bố thông tin BCBP,
đánh giá những nhân tố ảnh hưởng theo đặc điểm, điều kiện từng quốc gia.
- Phương pháp nghiên cứu chủ yếu sử dụng trong các nghiên cứu đã thực hiện
là phương pháp nghiên cứu định lượng, có dùng kết quả của những nghiên cứu trước
đó, với cỡ mẫu được mở rộng.
- Nhiều nghiên cứu có kết quả tương đồng về đánh giá các nhân tố ảnh hưởng
đến mức độ công bố thông tin BCBP, đều chứng minh có ảnh hưởng qua lại giữa các
nhân tố như, quy mô doanh nghiệp, khả năng sinh lời, doanh nghiệp kiểm toán BCTC,
quan hệ sở hữu,… với mức độ công bố thông tin BCBP. Dù đánh giá những ảnh hưởng
này thuận chiều hay ngược chiều các nhân tố ảnh hưởng thì kết quả trong các nghiên
cứu đều khác nhau. Cụ thể, trong các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin
BCBP, ngoài một số nhân tố được hầu hết các nghiên cứu đồng tình thì đa phần được
các nhóm tác giả sau khi thực nghiệm có kết quả khác nhau. Ví dụ, với nhân tố quy mô
doanh nghiệp và khả năng sinh lời, nghiên cứu của nhóm tác giả Mishari M. Alfaraih
và Faisal S. Alanezi đã kết luận, có mối quan hệ cùng chiều giữa qui mô doanh nghiệp
và khả năng sinh lời với mức độ công bố thông tin BCBP. Trong khi đó, kết quả
nghiên cứu của nhóm tác giả Samuel Jebaraj Benjamin, Saravanan Muthaiyah, M.
Srikamaladevi Marathamuthu, Uthiyakumar Murugaiah kết luận ngược lại, các doanh
nghiệp trong mẫu nghiên cứu có mức sinh lời càng cao thì mức độ công bố thông tin
BCBP càng thấp.
- Liên quan đến đánh giá tính hữu ích của việc công bố thông tin BCBP, đa phần
các nghiên cứu đã chứng minh bằng phương pháp thực chứng để kết luận việc công bố
thông tin BCBP có ý nghĩa đối với các đối tượng sử dụng thông tin, chủ yếu là nhà đầu
12
tư trên TTCK. Tuy nhiên, các nghiên cứu này đều chưa sử dụng đặc điểm định tính của
thông tin trên BCTC để xem xét tính hữu ích của việc công bố thông tin BCBP.
Qua những phân tích trên, có thể thấy, cần thận trọng khi xem xét các kết quả
nghiên cứu, không được chỉ dựa vào các kết quả nghiên cứu để khẳng định kết quả nào
đúng, kết quả nào sai, kết quả nào phù hợp, mà cần xem xét toàn diện để có cách nhìn
đúng đắn, đầy đủ ở mỗi kết quả nghiên cứu, nhằm vận dụng hợp lý trong từng môi
trường, từng nền kinh tế và từng doanh nghiệp tại Việt Nam. Sự khác nhau ở một số
kết quả nghiên cứu có thể bắt nguồn từ những nguyên nhân sau, khác về lựa chọn mẫu
nghiên cứu khi thực nghiệm (nghiên cứu ở các quốc gia khác nhau có thể phải đối mặt
với thực trạng khác biệt về văn hoá, kinh tế, chính trị, tập quán dẫn đến kết quả khác
nhau), khác về thời điểm nghiên cứu (thời điểm được chọn để lấy mẫu nghiên cứu khác
nhau dẫn đến khác về kiến thức, tầm nhìn, trình độ, kỹ thuật và công cụ phân tích,…)
và khác về trình độ phát triển kinh tế của các nước ở từng giai đoạn.
Tóm lại, trên cơ sở xem xét các nghiên cứu về tính hữu ích của việc công bố
thông tin BCBP đã được tiến hành trên thế giới, có rất nhiều tranh luận về lợi ích cũng
như chi phí (bất lợi cạnh tranh) khi thực hiện công bố thông tin BCBP. Các nghiên cứu
đề cập trong Luận án đã có phương pháp tiếp cận, sử dụng công cụ đo lường khác nhau
để nhận định về tính hữu ích của việc công bố thông tin BCBP. Tuy nhiên, những
nghiên cứu này chủ yếu dựa vào kết quả định lượng nhằm lượng hoá ảnh hưởng của
việc công bố thông tin BCBP với thông tin hữu ích cho nhà đầu tư (như ảnh hưởng đến
chất lượng lợi nhuận, đến quyết định của nhà đầu tư,…). Sự phát triển của các tập đoàn
kinh tế lớn trên thế giới bắt nguồn từ các chiến lược đa dạng hóa lĩnh vực kinh doanh
và quốc tế hóa đã dẫn đến sự gia tăng tính phức tạp của các hoạt động kinh doanh,
đồng thời tác động mạnh mẽ đến việc công khai thông tin tài chính cho các nhà đầu tư
và các đối tượng sử dụng thông tin. Nói chung, các nghiên cứu đều đi theo hướng thảo
luận về nội dung của các chuẩn mực mới so với chuẩn mực cũ và đưa ra bằng chứng
thực nghiệm về các yếu tố và ảnh hưởng của chúng đến việc công bố BCBP, từ đó
đánh giá tính hữu ích của việc công bố thông tin BCBP.
Tính hữu ích của việc công bố thông tin BCBP trong BCTC được xem xét trong
các nghiên cứu dựa trên những mô hình định lượng, kết quả là, việc công bố thông tin
BCBP làm tăng chất lượng thông tin trên BCTC, ảnh hưởng đến việc ra quyết định của
nhà đầu tư. Các nghiên cứu cũng được chứng minh được, có mối liên hệ giữa mức độ
công bố thông tin BCBP với lợi nhuận, đặc biệt là công bố thông tin BCBP theo khu
13
vực địa lý. Hơn nữa, qui định mới trong IFRS 8 được đánh giá là linh hoạt ở yêu cầu về
BCBP, công bố thông tin BCBP, tạo điều kiện cho quá trình lập và trình bày thông tin
BCBP của doanh nghiệp. Từ kết quả nghiên cứu đã có, Luận án xin được tập trung vào
đánh giá tính hữu ích của việc công bố thông tin BCBP trong BCTC của các DNNY
dựa trên kết quả khảo sát từ nhiều đối tượng khác nhau (nhà đầu tư, kiểm toán viên và
người lập BCTC). Quan điểm của các đối tượng này về tính hữu ích của việc công bố
thông tin BCBP được xem xét trên đặc tính chất lượng thông tin BCTC đối với đối
tượng sử dụng thông tin cũng như định hướng cho quá trình tuân thủ thông lệ quốc tế
về lập và công bố thông tin BCBP theo IFRS 8.
2.2. Tổng quan nghiên cứu ở Việt Nam
Tại Việt Nam, để hiểu rõ mục tiêu của đề tài, tính hữu ích của việc công bố
thông tin BCBP với đối tượng sử dụng thông tin, cũng như đánh giá mức độ tuân thủ
quy định và nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin BCBP, từ đó có những
đề xuất nhằm tăng cường mức độ công bố thông tin BCBP trong BCTC cũng như cải
thiện chất lượng thông tin công bố của các DNNY trên TTCK. Ngoài việc trình bày
những nghiên cứu ở nước ngoài, Luận án sẽ trình bày cụ thể các nghiên cứu liên quan
đến việc công bố thông tin BCBP tại Việt Nam.
2.2.1. Các nghiên cứu đánh giá tính hữu ích của việc công bố thông tin tài
chính (TTTC), mức độ công bố thông tin (CBTT) và nhân tố ảnh hưởng đến mức độ
CBTT BCTC nói chung
Liên quan đến tính hữu ích của thông tin công bố trên BCTC của các doanh
nghiệp Việt Nam, phải kể đến nghiên cứu của tác giả Nguyễn Phúc Sinh. Tác giả đã
phân tích tính hữu ích của thông tin trên BCTC, đưa ra quan điểm và đề xuất các giải
pháp để nâng cao tính hữu ích của thông tin công bố trong BCTC ở các DNNY ở Việt
Nam (Nguyễn Phúc Sinh, 2008).
Một số tác giả đã có nghiên cứu đánh giá mức độ CBTT cũng như xem xét các
nhân tố ảnh hưởng đến mức độ CBTT tài chính tại các DNNY. Cụ thể, nhóm tác giả
Phạm Ngọc Toàn và Hoàng Thị Thu Hoài đã sử dụng phương pháp chỉ số CBTT để đo
lường mức độ CBTT. Bên cạnh đó, nhóm tác giả đã đánh giá các nhân tố (liên quan
đến đặc điểm công ty) ảnh hưởng đến mức độ CBTT. Qua phân tích hồi quy, kết quả
cho thấy mức độ CBTT trong BCTC của các DNNY chưa cao. Các nhân tố tác động
đến thành phần hội đồng quản trị (HĐQT) gồm, tỷ lệ sở hữu vốn HĐQT, đòn bẩy tài
chính, tỷ lệ sở hữu nước ngoài ảnh hưởng đến mức độ CBTT, các nhân tố còn lại
14
không ảnh hưởng (Phạm Ngọc Toàn và Hoàng Thị Thu Hoài, 2015). Thời gian gần
đây, một nghiên cứu liên quan đến vấn đề này đã được thực hiện, đó là Luận án Tiến sỹ
của Lê Thị Mỹ Hạnh, nội dung của Luận án này đánh giá thực trạng minh bạch thông
tin BCTC và các nhân tố ảnh hưởng đến minh bạch thông tin BCTC của các DNNY
trên TTCK Việt Nam. Kết quả của Luận án cho thấy, tính minh bạch thông tin BCTC
chưa cao, chỉ đạt mức trung bình. Về các nhân tố ảnh hưởng, tác giả đã xét đến 8 nhân
tố có ảnh hưởng đến mức độ minh bạch thông tin BCTC gồm, quy mô doanh nghiệp,
lợi nhuận, đòn bẩy tài chính, hiệu quả sử dụng tài sản, công ty kiểm toán, cơ cấu
HĐQT, quy mô HĐQT và sự kiêm nhiệm giữa chủ tịch HĐQT và tổng giám đốc
(TGĐ) (Lê Thị Mỹ Hạnh, 2015).
Đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin BCTC của
DNNY, phải kể đến nghiên cứu của nhóm tác giả Nguyễn Công Phương và Nguyễn
Thị Thanh Phương, kết quả của nghiên cứu cho thấy, mức độ công bố thông tin không
cao bằng việc đo lường mức độ CBTT của 99 DNNY trên TTCK Hồ Chí Minh
(HCM). Đánh giá các nhân tố ảnh hưởng, nhóm tác giả kết luận, có 5 nhân tố ảnh
hưởng đến mức độ CBTT đó là, quy mô doanh nghiệp, tỷ lệ sở hữu của cổ đông nước
ngoài, công ty kiểm toán, mức độ sinh lời và thời gian niêm yết. Các nhân tố không
ảnh hưởng đến mức độ CBTT đó là, tỷ lệ sở hữu nhà nước, đòn bẩy tài chính, quản trị
công ty, số công ty con, lĩnh vực hoạt động, khả năng thanh toán, thị trường niêm yết
và tính phức tạp của hoạt động kinh doanh (Nguyễn Công Phương và Nguyễn Thị
Thanh Phương, 2014).
Liên quan đến mục tiêu nghiên cứu của Luận án, không thể không kể đến
nghiên cứu của nhóm tác giả Nguyễn Thị Phương Hồng và Mai Thị Hoàng Minh, khảo
sát về quan điểm của người lập và người sử dụng các khía cạnh của BCTC. Nghiên
cứu này đã trình bày khá chi tiết quan điểm của các đối tượng trên về tần suất, mục
đích sử dụng BCTC, tính kịp thời của BCTC, tầm quan trọng của nguồn công bố thông
tin và của từng BCBP trong BCTC của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay (Nguyễn
Thị Phương Hồng và Mai Thị Hoàng Minh, 2014).
2.2.2. Các nghiên cứu liên quan đến công bố thông tin BCBP
Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 28 - Báo cáo bộ phận (VAS 28) ra đời năm
2005, trên cơ sở tuân thủ IAS 14 (VAS 28 chưa có những cập nhật theo IFRS 8), việc
áp dụng VAS 28 trong thực tiễn còn nhiều bất cập. Thông tin về các bộ phận nếu được
công bố hợp lí sẽ hữu ích với nhiều đối tượng sử dụng BCTC doanh nghiệp. Tác giả
15
Phạm Thị Thủy đã nghiên cứu, đánh giá mức độ tuân thủ VAS 28 và tính hữu ích của
công bố thông tin BCBP của 30 doanh nghiệp làm mẫu (30 doanh nghiệp có giá trị vốn
hóa và tính thanh khoản cao nhất trên TTCK Việt Nam). Tuy nhiên, nghiên cứu mới
dừng ở kết quả khảo sát tổng quan áp dụng VAS28, chưa có nội dung đánh giá cụ thể
xem mức độ tuân thủ ở từng nội dung trong qui định (Phạm Thị Thủy, 2012).
Trong nghiên cứu “Thực trạng và giải pháp hoàn thiện trình bày và công bố báo
cáo bộ phận của các công ty niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán TP. HCM”. Bằng
khảo sát BCTC của 308 doanh nghiệp có BCTC niêm yết năm 2012, nghiên cứu đã
xác định các nhân tố ảnh hưởng đến công bố BCBP theo VAS 28, đồng thời nghiên
cứu cũng mô tả chi tiết lý do các doanh nghiệp không công bố thông tin bộ phận. Kết
quả kiểm định cho thấy, có sự tương quan thuận chiều giữa quy mô doanh nghiệp, chất
lượng công ty kiểm toán và đòn bẩy tài chính với mức độ công bố thông tin BCBP; sự
tương quan ngược chiều giữa tỷ lệ quyền sở hữu của cổ đông nhỏ, chất lượng công ty
kiểm toán và đòn bẩy tài chính với mức độ công bố thông tin BCBP. Đồng thời, có sự
tương quan ngược chiều giữa tỷ suất sinh lời và đòn bẩy tài chính, từ đó, tác giả đã chỉ
ra nguyên nhân những tồn tại trong việc thực thi VAS 28 cũng như những hạn chế cần
được cải tiến trong khuôn khổ pháp lý ở Việt Nam, nhằm nâng cao chất lượng và số
lượng thông tin bộ phận được công bố (Trần Thị Thúy An, 2013).
Hơn nữa, cũng nghiên cứu về công bố thông tin bộ phận: “Hoàn thiện báo cáo
bộ phận trong kế toán Việt Nam theo hướng phù hợp với thông lệ kế toán quốc tế”. Tác
giả đã chọn mẫu là 118 DNNY trên sàn giao dịch chứng khoán TP. HCM có BCTC
niêm yết năm 2010. Kết quả cho thấy, có mối liên hệ giữa khả năng sinh lời với việc
công bố thông tin BCBP. Những công ty có khả năng sinh lời thấp sẵn sàng công bố
nhiều thông tin BCBP hơn. Bằng phương pháp thống kê mô tả và kiểm định các giả
thiết đưa ra, nghiên cứu đã đưa ra nhiều bất cập, hạn chế còn tồn tại. Các doanh nghiệp
lập BCBP đa phần chỉ nhằm mục đích đối phó. Việc công bố thông tin BCBP chưa thật
sự nhằm mục đích đánh giá đúng tình hình thực tế của doanh nghiệp, ngoài ra, tác giả
cũng đề xuất giải pháp để nâng cao chất lượng công bố thông tin bộ phận của các
doanh nghiệp Việt Nam (Nguyễn Thị Phương Thúy, 2010).
2.2.3. Đánh giá chung các nghiên cứu đã thực hiện trong nước về CBTT
BCTC, công bố thông tin BCBP
Từ khi TTCK Việt Nam thành lập, sau một quá trình hoạt động có thể thấy, thị
16
trường bị chi phối bởi tâm lý ra quyết định đầu tư theo tâm lý đám đông chiếm tỷ lệ
khá cao, trước tình hình này, vấn đề minh bạch thông tin trên TTCK được đặt ra khá
nhiều. Sau nhiều thất bại trong đầu tư theo tâm lý đám đông, không dựa trên nguồn dữ
liệu thông tin BCTC và sự không công bằng trong tiếp nhận thông tin giữa các nhà đầu
tư, dẫn đến nhu cầu cấp thiết đặt ra cho các DNNY về tính minh bạch trong thông tin
BCTC nói chung và cung cấp thông tin BCBP đầy đủ nói riêng. Từ đây, các nhà
nghiên cứu, chuyên gia bắt đầu có những nghiên cứu về tính hữu ích thông tin BCTC,
thông tin BCBP của các DNNY trong quá trình đầu tư chứng khoán; yêu cầu về tính
minh bạch thông tin BCTC, thông tin BCBP cũng được quan tâm nghiên cứu nhiều
hơn. Ngoài một số kết quả đạt được như đã phân tích trong từng nghiên cứu ở trên,
những nghiên cứu này còn đạt được những kết quả sau:
(1) Đưa ra bức tranh tổng quát về tình hình công bố thông tin BCBP của các
DNNY, cũng như những đánh giá tính hữu ích của việc công bố thông tin BCBP trên
các phương diện khác nhau.
(2) Đưa ra các đánh giá về mức độ công bố thông tin BCBP, mức độ tuân thủ
chuẩn mực kế toán VAS 28 - BCBP hiện nay của các DNNY, cũng như đánh giá các
nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin BCBP.
(3) Đề ra một số giải pháp hoàn thiện việc công bố thông tin BCBP của
các DNNY.
Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu vẫn tồn tại một số hạn chế:
(1) Phương pháp nghiên cứu và cách tiếp cận của các nghiên cứu được thực
hiện chủ yếu nhằm làm rõ việc tuân thủ VAS 28 - BCBP tại các DNNY, đánh giá mức
độ tuân thủ quy định chuẩn mực. Chưa có nghiên cứu nào ở Việt Nam đánh giá tính
hữu ích của việc công bố thông tin BCBP, cũng như xem xét những khó khăn khi tuân
thủ khuôn mẫu trong quá trình công bố thông tin BCBP trong BCTC.
(2) Các nghiên cứu trước khi xem xét quy định về chuẩn mực kế toán, chưa gắn
kết với yêu cầu hội tụ kế toán quốc tế cũng như chuẩn mực kế toán quốc tế, chưa gắn
kết và làm rõ đặc thù của nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hội nhập. Cụ thể, sự hài
hoà theo chuẩn mực kế toán quốc tế IFRS 8 - BCBP chưa được nghiên cứu rõ ràng.
2.3. Kết luận
Qua việc tổng hợp kết quả nghiên cứu trên thế giới và tại Việt Nam về công bố
thông tin BCTC nói chung, công bố thông tin BCBP nói riêng có thể thấy, có nghiên
cứu đánh giá mức độ công bố thông tin BCBP và phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến
17
mức độ công bố thông tin. Tuy nhiên, hầu hết nghiên cứu đều chỉ xem xét mức độ tuân
thủ chung chung, chưa cụ thể từng nội dung để có giải pháp cụ thể cho vấn đề tăng
cường mức độ công bố thông tin BCBP nói riêng hay chất lượng thông tin BCTC công
bố nói chung. Các nghiên cứu trên thế giới ít thực hiện bước nghiên cứu tổng thể bằng
phương pháp định tính để khám phá các nhân tố mới, mà chủ yếu thừa nhận và vận
dụng đầy đủ các nhân tố đã thực hiện ở các mô hình trước với cỡ mẫu ngày càng rộng
hơn. Trong khi đó, các nghiên cứu trong nước chủ yếu tập trung vào nghiên cứu mức
độ tuân thủ chuẩn mực kế toán VAS 28 - BCBP, và xem xét các nhân tố ảnh hưởng
(thuộc đặc tính doanh nghiệp) với mức độ với mức độ công bố thông tin BCBP.
Phương pháp nghiên cứu tập trung sử dụng các mô hình phân tích, chưa có nghiên cứu
nào có sự khẳng định từ phân tích định tính để kết quả logic hơn. Ngoài ra, việc đánh
giá công bố thông tin BCBP của các DNNY trên TTCK Việt Nam dưới góc độ của nhà
đầu tư và đối tượng sử dụng thông tin cũng là nội dung chưa từng được xem xét trong
các nghiên cứu trước đây. Đây chính là khe hổng trong nghiên cứu lý luận và thực tiễn
về việc công bố thông tin BCBP của các DNNY trên TTCK Việt Nam. Từ việc xác
định khe hổng trong nghiên cứu, qua Luận án này, tác giả mong muốn đem lại cái nhìn
đầy đủ hơn về thực trạng lập và công bố thông tin BCBP dựa trên các yếu tố bắt buộc
về công bố của VAS 28 tại thời điểm nghiên cứu, mức độ công bố thông tin BCBP tại
DNNY trên TTCK Việt Nam năm 2015 cũng như trong giai đoạn 2011-2015. Việc
tuân thủ quy định VAS 28 của các DNNY sau 12 năm áp dụng tại Việt Nam được
nghiên cứu trên cơ sở mẫu nghiên cứu là 50 doanh nghiệp được giải báo cáo thường
niên 2016, là những DN có tính thanh khoản cao nhất trên TTCK để xem xét các nhân
tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin BCBP trong một khoảng thời gian 2011-
2015. Luận án không những đánh giá được mức độ công bố thông tin BCBP và các
nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin BCBP, mà còn có những con số cụ
thể về việc tuân thủ từng nội dung theo quy định trong VAS 28 (các nghiên cứu trước
đây chưa đi vào đánh giá chi tiết). Bên cạnh đó, Luận án cũng phân tích dựa trên kết
luận của các chuyên gia để thấy được xu hướng thay đổi qui định công bố thông tin
BCBP tại Việt Nam khi hài hòa tuân thủ thông lệ quốc tế, từ đó có giải pháp xây dựng
quy định ở Việt Nam. Trên cơ sở phân tích tính hữu ích của thông tin BCBP, tác giả
đưa ra những đề xuất thúc đẩy các doanh nghiệp thực hiện công khai thông tin BCBP
trên BCTC.
18
3. Mục tiêu nghiên cứu
Luận án nghiên cứu thực trạng công bố thông tin BCBP trên BCTC của các
DNNY, nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin này và đề xuất giải pháp
hoàn thiện việc công bố thông tin BCPB trên BCTC tại các DNNY.
Từ mục tiêu nghiên cứu đã được xác định, Luận án sẽ làm rõ cơ sở lý thuyết về
thông tin kế toán, thông tin báo cáo tài chính và công bố thông tin báo cáo tài chính, cụ
thể là việc công bố thông tin báo cáo tài chính bộ phận như: căn cứ, nội dung, phương
pháp lập và tác dụng của việc công bố thông tin BCBP trên BCTC.
Để đạt được mục tiêu trên, luận án trả lời các câu hỏi sau:
(1) Công bố thông tin BCBP trong BCTC có hữu ích đối với đối tượng sử dụng
thông tin không?
(2) Thực trạng mức độ công bố thông tin BCBP trong BCTC của các DNNY
trên TTCK Việt Nam trong thời gian qua?
(3) Nhân tố nào ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin BCBP trong BCTC
của các DNNY trên TTCK Việt Nam, mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố và mối
tương quan giữa chúng?
(4) Cần làm gì để việc công bố thông tin BCBP của các DNNY trên TTCK Việt
Nam đáp ứng được yêu cầu của đối tượng sử dụng thông tin?
Mục tiêu nghiên cứu được phân tích chi tiết như sau:
(1) Thứ nhất, khảo sát việc công bố thông tin BCBP của các DNNY trên sàn
giao dịch chứng khoán Việt Nam để đánh giá mức độ tuân thủ qui định của VAS 28 về
BCBP; và ý kiến của nhà đầu tư, kiểm toán viên, và người lập BCTC (doanh nghiệp),
về tính hữu ích của việc công bố thông tin BCBP cũng như những khó khăn trong việc
công bố thông tin BCBP trên BCTC tại các DNNY.
(2) Thứ hai, xác định các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin
BCBP thông qua các chỉ tiêu về quy mô doanh nghiệp, chủ thể kiểm toán, lĩnh vực
hoạt động, khả năng sinh lời, thị trường niêm yết của doanh nghiệp, tài sản đảm bảo,
mức độ tập trung vốn chủ sở hữu trong doanh nghiệp.
(3) Quan điểm, phương hướng, mục tiêu nâng cao việc công bố thông tin BCBP
trên BCTC tại các DNNY; các giải pháp mang tính khoa học và khả thi, trên cơ sở vận
dụng chuẩn mực kế toán quốc tế, nhằm phát triển, hoàn thiện việc công bố thông tin
BCTC, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế tại Việt Nam.
19
Để đáp ứng được mục tiêu nghiên cứu trên, mức độ tuân thủ qui định trong
VAS 28 được tác giả xác định thông qua việc công bố thông tin bộ phận theo qui định.
Bên cạnh đó, tác giả cũng xây dựng giả thiết nghiên cứu dựa trên mối quan hệ của biến
phụ thuộc là mức độ công bố thông tin BCBP và các biến độc lập đó là quy mô doanh
nghiệp, ngành nghề kinh doanh, chủ thể kiểm toán, khả năng sinh lời, thị trường niêm
yết, tài sản đảm bảo, mức độ tập trung vốn chủ sở hữu trong doanh nghiệp. Trên cơ sở
kết quả nghiên cứu định tính và định lượng, tác giả đưa ra những phương hướng, giải
pháp nhằm hoàn thiện việc công bố thông tin BCBP trong BCTC của DNNY.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận án nghiên cứu việc công bố thông tin BCBP trong
hệ thống BCTC tại các DNNY trên TTCK Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Về nội dung nghiên cứu, thông qua nghiên cứu việc công
bố thông tin BCBP, tác giả muốn nhấn mạnh đến các vấn đề trong công bố thông tin
BCBP bao gồm, lý luận cơ bản về việc công bố thông tin, công bố thông tin BCBP và
thực trạng công bố thông tin BCBP tại các DNNY ở Việt Nam; đề xuất giải pháp
nhằm tăng cường mức độ công bố thông tin BCBP, phát huy tính hữu ích của thông
tin BCBP từ kết quả nghiên cứu ở nội dung thực trạng. Về phạm vi không gian, luận
án nghiên cứu việc công bố thông tin BCBP trong hệ thống BCTC tại các DNNY trên
TTCK Việt Nam được bình chọn giải Báo cáo thường niên năm 2016. Về phạm vi
thời gian, tác giả thu thập số liệu là giai đoạn 2011-2015 từ các doanh nghiệp đạt giải
năm 2016.
Việc lựa chọn DNNY được giải thưởng Báo cáo thường niên 2016 xuất phát từ
lý do sau, phần lớn các doanh nghiệp trong số đó là doanh nghiệp lớn, có nhiều hoạt
động kinh doanh, tiến hành hoạt động kinh doanh ở nhiều khu vực địa lý khác nhau;
đây cũng là những doanh nghiệp có vị trí quan trọng trên thị trường, được đánh giá cao,
nên khả năng tự nguyện công bố thông tin cao hơn các doanh nghiệp khác.
Tiêu chí bình chọn giải Báo cáo thường niên dựa trên tính chuẩn mực, minh
bạch, chuyên nghiệp và sáng tạo dựa trên cách thức mà doanh nghiệp công khai thông
tin, không căn cứ vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đề cao
các doanh nghiệp làm tốt nội dung quản trị doanh nghiệp, đặc biệt là quản trị doanh
nghiệp hướng đến mục tiêu phát triển bền vững vì cộng đồng và xã hội.
20
Thông tin BCBP được công bố trên nhiều báo cáo khác nhau, trong nhiều thời
điểm khác nhau, tuy nhiên trong Luận án này, tác giả chỉ tập trung vào việc công bố
thông tin BCBP trên BCTC năm của các DNNY trên TTCK.
Tác giả cũng xem xét mức độ công bố thông tin BCBP qua đánh giá của nhà
đầu tư, kiểm toán viên, người lập BCTC, nhằm giải thích kết quả của nghiên cứu định
lượng, từ đó đề xuất định hướng hoàn thiện việc công bố thông tin BCBP để nâng cao
tính hữu ích của thông tin này.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu gồm hai bước chính: Nghiên cứu tổng thể bằng
phương pháp nghiên cứu định tính và nghiên cứu kiểm định bằng phương pháp
nghiên cứu định lượng, sử dụng phần mềm STATA 12 để tập hợp số liệu khảo sát và
phân tích số liệu.
(1) Nghiên cứu định tính được thực hiện thông qua khảo sát các kết quả nghiên
cứu được thực hiện trước đó trên thế giới và ở Việt Nam, để tìm hiểu sâu hơn về cách
đo lường mức độ công bố thông tin BCBP, những nhân tố ảnh hưởng đến công bố
thông tin BCBP của các DNNY. Tiếp tục nghiên cứu định tính bằng cách thảo luận và
trao đổi trực tiếp với các chuyên gia chứng khoán, tài chính, kế toán, các tổ chức đầu tư
và các doanh nghiệp có hoạt động đầu tư, đại diện là nhà đầu tư, kiểm toán viên và
người lập BCTC. Từ kết quả nghiên cứu định tính, tác giả muốn khẳng định mức độ
ảnh hưởng của các nhân tố mà tác giả đã xây dựng trong mô hình, cũng như đánh giá
tính hữu ích của công bố thông tin BCBP qua các đặc điểm định tính của thông tin tài
chính trên BCTC.
(2) Nghiên cứu kiểm định dựa trên phương pháp định lượng, tiến hành khảo sát
mức độ công bố thông tin BCBP của các DNNY trên TTCK Việt Nam, qua nội dung
công bố thông tin BCBP trong BCTC ở phần thuyết minh BCTC giai đoạn 2011-2015.
Luận án cũng tiến hành đo lường các nhân tố ảnh hưởng đến với mức độ công bố
thông tin BCBP của các DNNY để xây dựng mô hình hồi quy phản ánh mối tương
quan giữa các nhân tố ảnh hưởng và mức độ công bố thông tin BCBP của các DNNY
trên TTCK Việt Nam trong năm 2015 và cả giai đoạn 2011-2015.
6. Ý nghĩa của nghiên cứu
Tầm quan trọng của việc công bố thông tin BCBP với nhà đầu tư trên TTCK
Việt Nam cũng như đáp ứng yêu cầu của các đối tượng sử dụng thông tin nói chung đã
21
được khẳng định. Trong Luận án này, tác giả sẽ đưa ra một số giải pháp khả thi dành
cho các cơ quan ban ngành và chính các DNNY nhằm cải thiện mức độ và chất lượng
thông tin công bố trên TTCK, góp phần hoàn thiện khung pháp lý về yêu cầu công bố
thông tin tài chính, chất lượng thông tin kế toán, chất lượng thông tin BCBP, tăng
cường tính hữu ích của thông tin này đối với đối tượng sử dụng thông tin trên TTCK.
6.1. Ý nghĩa khoa học
Nghiên cứu làm rõ những nội dung lý luận về công bố thông tin BCBP, tính
hữu ích của công bố thông tin BCBP, nội dung công bố thông tin BCBP và các nhân tố
ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin BCBP. Hơn nữa, một số khung lý thuyết liên
quan đến vấn đề công bố thông tin BCTC và thông tin BCBP cũng được đề cập, cung
như cơ sở xác định tiêu chuẩn đo lường và đánh giá mức độ công bố thông tin BCBP.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
+ Kết quả nghiên cứu cho thấy, thực trạng công bố thông tin BCPB trên BCTC
của các DNNY trên TTCK Việt Nam hiện nay chưa cao. Theo tìm hiểu của tác giả,
luận án này là một trong số những nghiên cứu đầu tiên tại Việt Nam đánh giá thực
trạng công bố thông tin BCBP trên BCTC của các DNNY trên TTCK thông qua
phương pháp tiếp cận cả phương pháp định tính và định lượng, đặc biệt đo lường các
nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin BCBP dựa trên cơ sở thị trường với
việc sử dụng dữ liệu thứ cấp (số liệu được trình bày trên BCTC) và cập nhật cho cả giai
đoạn 2011 - 2015, vì vậy, kết quả phân tích thực trạng công bố thông tin BCBP trên
BCTC của các DNNY trên TTCK trong luận án này phản ánh đúng thực tế theo thông
tin các công ty công bố trên BCTC. Bên cạnh đó, kết quả phân tích các nhân tố ảnh
hưởng từ phân tích định lượng được kết hợp với kết qủa thảo luận chuyên gia thêm tính
chặt chẽ, chứ không phải chỉ dựa trên kết quả định lượng như các nghiên cứu trước đây
tại Việt Nam.
+ Dựa trên kết quả về đánh giá thực trạng công bố thông tin BCBP chất lượng
BCTC trong giai đoạn 2011- 2015, chi tiết theo từng năm, kết quả về các nhân tố ảnh
hưởng đến công bố thông tin BCBP trên BCTC của các DNNY trên TTCK Việt Nam,
những kết quả này là cơ sở khoa học khá hữu ích cho các đối tượng quan tâm như các
nhà quản trị công ty, KTV, các nhà đầu tư, cơ quan ban hành chính sách, ủy ban chứng
khoán Nhà nước, các sở giao dịch chứng khoán... tham khảo để từ đó đưa ra các giải
pháp nhằm nâng cao chất lượng thông tin trên BCTC các công ty niêm yết tại Việt
22
Nam cũng như tham khảo trong việc sử dụng thông tin trên BCTC nhằm đưa ra các
quyết định có liên quan một cách hiệu quả. Hơn nữa, thông qua kết quả của nghiên cứu
thực chứng và thực nghiệm, đề xuất đưa ra có cơ sở thực tiễn hơn, hỗ trợ các chủ thể
tham gia trên TTCK có cách thức để tăng cường mức độ công bố thông tin BCBP trên
TTCK Việt Nam, đáp ứng yêu cầu sử dụng thông tin của các đối tượng.
7. Bố cục của Luận án
Ngoài phần mở đầu và tổng quan nghiên cứu, Luận án được chia làm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về việc công bố thông tin BCBP trong hệ thống BCTC
tại các doanh nghiệp cổ phần niêm yết
Chương 2: Thực trạng công bố thông tin BCBP trong hệ thống BCTC tại các
doanh nghiệp cổ phần niêm yết trên TTCK Việt Nam
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện việc công bố thông tin BCBP trong hệ thống
BCTC tại các doanh nghiệp cổ phần niêm yết trên TTCK Việt Nam.
23
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC CÔNG BỐ THÔNG TIN
BÁO CÁO BỘ PHẬN TRONG HỆ THỐNG BÁO CÁO TÀI CHÍNH
TẠI CÁC DOANH NGHIỆP CỔ PHẦN NIÊM YẾT
1.1. TỔNG QUAN VỀ BÁO CÁO BỘ PHẬN TRONG HỆ THỐNG BÁO CÁO
TÀI CHÍNH
1.1.1. Thông tin kế toán và thông tin báo cáo tài chính
Kế toán là nghệ thuật thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin về toàn bộ tài sản
và sự vận động tài sản (hay toàn bộ thông tin về tài sản và các hoạt động kinh tế tài
chính) trong DN nhằm cung cấp những thông tin hữu ích cho việc ra các quyết
định kinh tế xã hội và đánh giá hiệu quả của các hoạt động trong DN. Theo Jan R
Wiliams và cộng sự, thông tin kế toán (TTKT) là phương tiện mà chúng ta sử dụng để
đo lường và truyền đạt thông tin về các hoạt động kinh tế. Cho dù chúng ta điều hành
DN, đầu tư vốn hay tính toán số tiền lãi từ đầu tư… chúng ta đều tiếp cận
với các khái niệm kế toán và TTKT, (Jan R Wiliams, Susan F.Haka, Mark S.Bettner,
Joseph V.Carcello, 2008). Hay nói cách khác, TTKT là những thông tin
có được do hệ thống kế toán cung cấp. Sản phẩm cuối cùng của TTKT là những
quyết định kinh tế hiệu quả từ việc sử dụng những TTKT đó của các nhóm đối
tượng khác nhau như cổ đông, ban giám đốc, chủ nợ, chính phủ, liên đoàn lao
động hoặc những đối tượng khác có quyền lợi đối với DN. Các nhóm đối tượng
sử dụng TTKT với các nhu cầu thông tin khác nhau đã làm nảy sinh tính đa dạng
và phức tạp đối với nhu cầu thông tin cần cung cấp. Thông tin kế toán là những thông
tin được trình bày trong các BCTC của DN, giữ vai trò kết nối một công ty với rất
nhiều đối tượng sử dụng thông tin khác nhau bên trong và bên ngoài doanh nghiệp, nó
đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc cung cấp những thông tin hữu ích, có
thể giúp cho người sử dụng thông tin ra quyết định một cách hợp lý, thỏa mãn mục tiêu
của họ.
Lập, lưu hành báo cáo kế toán là giai đoạn cung cấp thông tin và truyền thông
tin đến người ra quyết định. Các nhà quản trị, người sở hữu và người thuộc nội bộ
doanh nghiệp, người ngoài doanh nghiệp đều là những người có thể dùng thông tin kế
toán. Hệ thống kế toán phải cung cấp thông tin cho các nhà quản trị doanh nghiệp
cũng như những người ngoài doanh nghiệp quan tâm đến hoạt động tài chính của
24
doanh nghiệp. Mỗi người sử dụng sẽ yêu cầu loại thông tin khác nhau, tùy thuộc vào
loại quyết định người đó cần đưa ra. Để sử dụng có kết quả các thông tin kế toán,
người sử dụng phải hiểu được các số liệu kế toán và biết kết hợp các số liệu đó, biết ý
nghĩa của chúng.
Thông tin kế toán là thuộc nhóm thông tin về hoạt động của doanh nghiệp, phản
ánh hiệu quả của quá trình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Thông tin kế toán
cung cấp cho các đối tượng sử dụng thông tin cả trong và ngoài doanh nghiệp. Do vậy,
sự phân loại cơ bản đối với thông tin kế toán bao gồm thông tin kế toán tài chính và
thông tin kế toán quản trị.
Thông tin kế toán tài chính hay thông tin BCTC ngoài cung cấp các thông tin về
tình hình tài chính cho ban lãnh đạo doanh nghiệp, còn cung cấp cho các đối tượng bên
ngoài như nhà đầu tư, cơ quan thuế, chủ nợ,... Về đặc điểm, thông tin kế toán tài chính
là loại thông tin thực tế về các hoạt động kinh tế đã diễn ra, có độ tin cậy cao (các bằng
chứng tin cậy, khách quan, là chứng từ đã chứng minh được điều này), là thông tin có
giá trị về mặt pháp lý (được các cơ quan chức năng sử dụng để quản lý). Về tình hình
tài chính, thông tin kế toán phản ánh tình hình tài sản; tình hình nợ phải trả; tình hình
vốn chủ sở hữu; doanh thu, thu nhập khác, chi phí, lãi và lỗ. Về kết quả hoạt động,
thông tin kế toán cho thấy doanh nghiệp có vận hành tốt hay không, lĩnh vực nào mang
lại thành công, lĩnh vực nào không mang lại thành công cho doanh nghiệp, điểm mạnh
và điểm yếu về tình hình tài chính của doanh nghiệp, cần phải thay đổi gì để cải thiện
tình hình của doanh nghiệp để gia tăng giá trị doanh nghiệp.
Thông tin BCTC có vai trò là thông tin về sự kiện kinh tế phát sinh từ các hoạt
động của doanh nghiệp, được trình bày tốt nhất qua mô hình thông tin, trên các báo cáo
tài chính. Thông tin BCTC là những thông tin giải thích quá trình lập BCTC và thông
tin khác của doanh nghiệp đã được kiểm toán. Kiểm toán viên là người xem xét độc
lập, chứng nhận những báo cáo này, xem chúng có được trình bày trung thực, đúng với
tình hình và kết quả hoạt động của doanh nghiệp hay không và có phù hợp với nguyên
tắc kế toán đã được thừa nhận hay không.
Thông tin kế toán quản trị là thông tin quản lý, không phải thông tin tài
chính đơn thuần. Thông tin kế toán quản trị hướng đến cung cấp thông tin cho nhà
quản trị, ban lãnh đạo doanh nghiệp nhằm đưa ra các quyết định kinh doanh trong
doanh nghiệp.
25
Đề cập đến vai trò của thông tin kế toán, có thể khẳng định thông tin kế toán được
tạo ra nhằm hỗ trợ cho nhiều đối tượng có nhu cầu sử dụng thông tin khác nhau. Thông
tin kế toán đáng tin cậy nên các đối tượng sử dụng thông tin có thể đặt niềm tin vào đó
để đưa ra quyết định. Để đánh giá độ tin cậy này, người sử dụng thông tin dựa trên hai
đặc trưng quan trọng của thông tin là, tính trung thực và có thể kiểm tra, tính trung thực
của thông tin kế toán có quan hệ tương tác với đặc trưng “có thể kiểm tra”, tác động đến
tính hữu ích của thông tin. Việc công bố thông tin kế toán về lâu dài sẽ giúp cho TTCK
hoạt động minh bạch hơn, phục vụ tốt hơn cho yêu cầu của tất cả các cổ đông trong
doanh nghiệp, cũng như các đối tượng sự dụng thông tin khác trên thị trường.
Đối với nhà quản trị doanh nghiệp, họ sử dụng thông tin kế toán để xác định
mục tiêu kinh doanh, đưa ra quyết định, đánh giá thực hiện mục tiêu và điều chỉnh để
hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả cao hơn. Vai trò của kế toán trong cung cấp thông
tin cho các nhà quản trị là liên kết các quá trình quản lý với nhau và liên kết doanh
nghiệp với môi trường bên ngoài.
Đối với chủ sở hữu, họ quan tâm đến lợi tức sinh ra từ vốn kinh doanh, vì đây là
căn cứ để họ đưa ra các quyết định cần thiết bao gồm cả quyết định phân chia cổ tức.
Đồng thời, qua việc xem xét thông tin trên báo cáo kế toán, họ có thể đánh giá năng
lực, trách nhiệm của các bộ phận quản lý trong doanh nghiệp là tốt hay xấu.
Đối với nhà đầu tư (NĐT), thông tin kế toán là sơ sở để ra các quyết định đầu
tư, mục tiêu chính của nhà đầu tư là luôn muốn đầu tư vào doanh nghiệp có tỷ lệ hoàn
vốn cao nhất trong thời gian ngắn nhất. Do vậy, trước khi đầu tư, họ cần thông tin về
tình hình tài chính của doanh nghiệp, qua đó nghiên cứu, phân tích, đánh giá rồi đi đến
quyết định; lúc này, thông tin kế toán được xem như là một loại thông tin cơ bản cung
cấp cho NĐT trên TTCK. Thông qua phân tích thông tin kế toán, NĐT sẽ tìm hiểu hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp như thế nào, rủi ro tài trợ của doanh nghiệp ra sao,
thu nhập mong muốn là bao nhiêu, vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp, để ra các quyết
định cuối cùng là có đầu tư hay không đầu tư vào doanh nghiệp.
Đối với các đối tượng cho vay và chủ nợ, các ngân hàng, tổ chức tài chính cũng
như nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ, trước khi cho vay hoặc cung cấp đều có nhu cầu
thông tin về khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Nghĩa là, doanh nghiệp có đủ khả
năng chi trả hay không, thông tin có được để trả lời các câu hỏi của đối tượng này dựa
vào thông tin kế toán do doanh nghiệp cung cấp.
26
Đối với cơ quan thuế, các cơ quan thuế địa phương và trung ương dựa vào tài
liệu kế toán để tính thuế, đặc biệt là thuế thu nhập. Các cơ quan thuế thường lấy số liệu
lợi tức được thể hiện trên báo cáo kế toán trừ đi các khoản miễn giảm thuế theo luật
định để xác định lợi tức chịu thuế.
Đối với cơ quan nhà nước, số liệu kế toán của doanh nghiệp là cơ sở để tổng
hợp cho ngành, địa phương; trên cơ sở đó phân tích, đánh giá nhằm định ra các chính
sách kinh tế thích hợp, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và điều hành kinh tế vĩ mô.
1.1.2. Hệ thống báo cáo tài chính
1.1.2.1. Khái niệm báo cáo tài chính
Khái niệm BCTC được nhìn nhận theo hai quan điểm sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, BCTC là sản phẩm của kế toán tài chính, là đầu
ra của hệ thống thông tin kế toán, phản ánh theo một cấu trúc chặt chẽ tình hình tài
chính, kết quả tài chính của doanh nghiệp. BCTC cung cấp các thông tin về tình hình
tài chính, kết quả hoạt động và các luồng tiền của doanh nghiệp, đáp ứng yêu cầu của
số đông những người sử dụng trong việc đưa ra các quyết định kinh tế, nó cũng cho
thấy kết quả quản lý của ban giám đốc đối với các nguồn lực được giao phó cho họ
(IASB, 2012). Để đáp ứng mục tiêu này, BCTC trình bày thông tin về: tài sản, nợ phải
trả, vốn chủ sở hữu, thu nhập và chi phí, bao gồm cả lãi và lỗ, khoản góp vốn của chủ
sở hữu và phân phối cho chủ sở hữu, các dòng tiền. Thông thường, một hệ thống
BCTC bao gồm: báo cáo tình hình tài chính, báo cáo kết quả kinh doanh; báo cáo vốn
chủ sở hữu; báo cáo lưu chuyển tiền và thuyết minh BCTC. Theo chuẩn mực kế toán
VAS 21-Trình bày báo cáo tài chính và quy định công bố thông tin trên TTCK Việt
Nam trong thông tư 155/2015/TT-BTC của Bộ Tài chính, BCTC của DNNY bao gồm:
Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, Báo cáo lưu chuyển tiền
tệ, Bản thuyết minh báo cáo tài chính theo quy định của pháp luật về kế toán. Trường
hợp DNNY là doanh nghiệp mẹ của một tổ chức khác thì BCTC bao gồm BCTC của
doanh nghiệp mẹ và BCTC hợp nhất. Khi đề cập đến lợi ích của nhiều đối tượng sử
dụng thông tin thì BCTC là nguồn cung cấp thông tin tài chính hữu ích cho việc ra
quyết định kinh tế v.v… Vì vậy, khó có thể đưa ra một định nghĩa duy nhất về BCTC.
Vì vậy, định nghĩa về BCTC cũng không phải là duy nhất và bất biến.
Quan điểm thứ hai cho rằng, mặc dù thông tin BCTC truyền thống trình bày
trên cơ sở chuẩn mực và chế độ kế toán, nhưng chỉ mang tính chất quá khứ nên không
27
đáp ứng nhu cầu thông tin cần thiết hiện nay của người sử dụng. Ngày nay, những thay
đổi trong môi trường kinh doanh quốc tế theo xu hướng hội nhập, yêu cầu cần xem xét
lại về bản chất cũng như nội dung của các BCTC của doanh nghiệp. Thông tin BCTC
không chỉ gắn liền thông tin tài chính, mà nó còn bao gồm những thông tin phi tài
chính (Ali shah.S.Z, 2009). Theo Ferdy Van Beest (2013) các nhà nghiên cứu trước
đây khi đo lường chất lượng thông tin thường sử dụng định lượng và tập trung vào
những khía cạnh cụ thể của thông tin BCTC như: chất lượng lợi nhuận, mô hình giá trị
phù hợp...thông tin BCTC được hiểu theo nghĩa rộng hơn, khái niệm đa chiều hơn. Các
chiều khác nhau của thông tin BCTC được đánh giá hướng đến sự hữu ích của thông
tin, do đó nó phải dựa trên cơ sở thông tin tài chính và phi tài chính cũng như các công
bố bắt buộc và tự nguyện như trong BCTC thường niên của doanh nghiệp. Thông tin
BCTC đảm bảo chức năng thiết yếu cho thị trường vốn hiệu quả, vì vậy doanh nghiệp
ngoài việc công bố BCTC truyền thống theo quy định luật pháp cần phải bổ sung
những báo cáo mang tính chất tự nguyện về những phân tích đánh giá, các dự báo của
nhà quản lý.
1.1.2.2. Mục đích và tác dụng của báo cáo tài chính
BCTC là sản phẩm của kế toán tài chính, một mặt nó phản ánh khách quan các
giao dịch và sự kiện kinh tế đã xảy ra nhưng đồng thời cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc
của môi trường kinh tế, chính trị, xã hội và luật pháp. Chính vì vậy, ở những thời đại
khác nhau, trong những môi trường cụ thể khác nhau, kế toán cũng được sử dụng cho
những mục đích khác nhau và BCTC cũng có những mục đích khác nhau. Lịch sử kế
toán thế giới đã chứng minh rằng, kế toán được sử dụng cho những mục đích khác
nhau không phải do người cung cấp thông tin quyết định mà chính là người sử dụng
thông tin quyết định. Do vậy, mục tiêu và nội dung thông tin trình bày trên báo cáo tài
chính chịu sự chi phối của những người sử dụng thông tin. Như đã trình bày ở trên, đối
tượng của thông tin BCTC không chỉ nhà quản lý doanh nghiệp, cơ quan quản lý chức
năng của Nhà nước mà bao gồm cả bên thứ ba như: nhà đầu tư, người cho vay, khách
hàng,…, vì vậy thông tin BCTC cung cấp phải giải quyết hài hòa được lợi ích của các
đối tượng sử dụng thông tin này, không nên chỉ chú trọng một đối tượng cụ thể nào,
bởi khi chú trọng đối tượng sử dụng thông tin này thì sẽ làm ảnh hưởng đến lợi ích của
đối tượng sử dụng thông tin khác.
Theo chuẩn mực kế toán quốc tế trong IAS01- Trình bày BCTC thì:
28
BCTC phản ánh theo một cấu trúc chặt chẽ về tình hình tài chính, kết quả kinh
doanh của doanh nghiệp. Mục đích của BCTC là cung cấp những thông tin về tình
hình tài chính, tình hình kinh doanh, các luồng tiền của doanh nghiệp đáp ứng nhu cầu
hữu ích cho số đông người sử dụng trong việc ra các quyết định kinh tế.
Như vậy, chuẩn mực kế toán quốc tế cũng cho rằng, mục đích của BCTC là
cung cấp thông tin hữu ích cho số đông người sử dụng thông tin, đáp ứng nhu cầu
chung của đa số người sử dụng, không cung cấp thông tin cho riêng đối tượng nào và
cũng không cung cấp toàn bộ thông tin mà người sử dụng yêu cầu để phục vụ cho việc
ra các quyết định về quản lý kinh tế vì BCTC chủ yếu cung cấp những thông tin về
nghiệp vụ và sự kiện kinh tế đã xảy ra, đã hoàn thành trong quá khứ.
Trong nền kinh tế thị trường Việt Nam hiện nay, việc giải quyết hài hòa mối
quan hệ lợi ích giữa các đối tượng sử dụng thông tin kế toán còn nhiều lúng túng, cần
hoàn thiện hơn nữa những quy định của Nhà nước về thuế và kế toán, đảm bảo thông
tin trình bày trên BCTC hữu ích cho các đối tượng sử dụng thông tin.
Từ việc phân tích mục đích của BCTC và các đối tượng sử dụng thông tin
BCTC cho thấy, trong nền kinh tế thị trường, BCTC có tác dụng rất lớn với công tác
quản lý kinh tế tại doanh nghiệp cũng như cung cấp thông tin hữu ích cho các đối
tượng bên ngoài doanh nghiệp.
Đối với các nhà quản lý doanh nghiệp, BCTC cung cấp thông tin nhằm đánh
giá tổng quát tình hình tài chính, tình hình và kết quả hoạt động kinh doanh, tình hình
lưu chuyển tiền của doanh nghiệp, trên cơ sở đó đề ra những chính sách về đầu tư, sử
dụng tài sản, vật tư, tiền vốn hiệu quả.
Đối với các đối tượng sử dụng thông tin bên ngoài doanh nghiệp, BCTC là cầu
nối kinh tế giữa họ với doanh nghiệp. BCTC cung cấp thông tin về tình hình tài chính,
kết quả hoạt động kinh doanh, tình hình lưu chuyển tiền giúp họ phân tích, đánh giá và
ra được các quyết định kinh tế phù hợp mục tiêu mà họ đang theo đuổi với doanh
nghiệp như quyết định đầu tư của nhà đầu tư, quyết định cho vay của các bên cho vay,
quyết định cung cấp hàng của nhà cung cấp,…
Đối với các cơ quan quản lý chức năng của Nhà nước, BCTC cung cấp thông
tin nhằm giúp họ có thể đánh giá được việc doanh nghiệp thực hiện các chính sách, chế
độ về quản lý kinh tế tài chính như thế nào, từ đó giúp họ đề ra được các chính sách,
biện pháp quản lý kinh tế tốt hơn, giúp họ tổng hợp các thông tin phục vụ cho việc xác
định chỉ tiêu thống kê trong toàn bộ nền kinh tế.
29
1.1.3. Bộ phận và báo cáo bộ phận
1.1.3.1. Bộ phận và phân loại bộ phận trong doanh nghiệp
Bộ phận là một phần, một mặt hoạt động, một đơn vị hay một phòng ban thuộc
cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp, của đơn vị cùng hoạt động vì mục tiêu của tổ chức.
Việc chia tách bộ phận sẽ chia doanh nghiệp ra làm nhiều phần nhỏ hoặc nhiều
bộ phận và thực hiện BCTC cho mỗi bộ phận. Một doanh nghiệp có thể chia bộ phận
bằng nhiều cách khác nhau, có thể chia theo cấu trúc hoạt động hoặc chia theo phương
pháp tiếp cận theo phương thức quản lý. Căn cứ theo phương thức quản lý để phân chia
thành bộ phận chính yếu và bộ phận thứ yếu hoặc ngược lại với cách chia theo cấu trúc
hoạt động, doanh nghiệp có thể chia tách dựa trên lĩnh vực kinh doanh, ngành nghề
(thường được gọi là Bộ phận theo lĩnh vực kinh doanh - LoB) hoặc chia theo khu vực
địa lý (có thể chia theo địa điểm hoạt động hoặc vị trí của khách hàng).
Ngoài ra, căn cứ vào quyết định quản trị của nhà quản trị doanh nghiệp để chia
các bộ phận không nhất thiết chỉ là bộ phận theo lĩnh vực kinh doanh hay khu vực địa
lý; hay phân chia bộ phận thành bộ phận chính yếu và bộ phận thứ yếu. Trên quan
điểm của nhà quản trị, bộ phận cần báo cáo là các hoạt động kinh tế có thể tạo ra doanh
thu hoặc phát sinh chi phí, có các thông tin tài chính riêng biệt cho chúng và kết quả
hoạt động của chúng thường xuyên được các nhà quản lí xem xét để ra quyết định điều
hành hoạt động.
Không chỉ có nhiều phương pháp phân chia bộ phận mà số lượng các bộ phận
trong doanh nghiệp được báo cáo cũng khác nhau, số lượng và nội dung thông tin kế
toán từng bộ phận công bố cũng khác nhau.
* Bộ phận theo lĩnh vực kinh doanh
Là một bộ phận có thể phân biệt được của một doanh nghiệp tham gia vào quá
trình sản xuất hoặc cung cấp sản phẩm, dịch vụ riêng lẻ, một nhóm các sản phẩm hoặc
các dịch vụ có liên quan mà bộ phận này có rủi ro và lợi ích kinh tế khác với các bộ
phận kinh doanh khác. Các nhân tố cần xem xét để xác định sản phẩm và dịch vụ có
liên quan hay không gồm:
- Tính chất của hàng hóa và dịch vụ;
- Tính chất của quy trình sản xuất;
- Kiểu hoặc nhóm khách hàng sử dụng các sản phẩm hoặc dịch vụ;
30
- Phương pháp được sử dụng để phân phối sản phẩm hoặc cung cấp dịch vụ;
- Điều kiện của môi trường pháp lý như: hoạt động ngân hàng, bảo hiểm hoặc
dịch vụ công cộng.
Xác định các bộ phận theo lĩnh vực kinh doanh cần dựa trên định nghĩa về “hoạt
động kinh doanh” - Là các hoạt động tạo ra doanh thu chủ yếu của doanh nghiệp và các
hoạt động khác không phải là hoạt động đầu tư hoặc hoạt động tài chính.
* Bộ phận theo khu vực địa lý
Là một bộ phận có thể phân biệt được của một doanh nghiệp tham gia vào quá
trình sản xuất hoặc cung cấp sản phẩm, dịch vụ trong phạm vi một môi trường kinh tế
cụ thể mà bộ phận này có rủi ro và lợi ích kinh tế khác với các bộ phận kinh doanh
trong các môi trường kinh tế khác. Các nhân tố cần xem xét để xác định bộ phận theo
khu vực địa lý gồm:
- Tính tương đồng của các điều kiện kinh tế và chính trị;
- Mối quan hệ của những hoạt động trong các khu vực địa lý khác nhau;
- Tính tương đồng của hoạt động kinh doanh;
- Rủi ro đặc biệt có liên quan đến hoạt động trong một khu vực địa lý cụ thể;
- Các quy định về kiểm soát ngoại hối;
- Các rủi ro về tiền tệ.
Cơ sở xác định các bộ phận theo khu vực địa lý dựa trên:
- Vị trí của tài sản là địa điểm sản xuất hoặc hình thành dịch vụ của doanh
nghiệp; hoặc
- Vị trí của khách hàng là địa điểm của thị trường và khách hàng của
doanh nghiệp.
* Bộ phận hoạt động
Bộ phận hoạt động không chỉ bó hẹp ở việc xác định theo các tiêu chí về khu
vực hay lĩnh vực kinh doanh, mà được mở rộng ra là một thành phần của thực thể
kinh tế, (IFRS 8):
- Liên quan đến hoạt động kinh doanh mà từ đó tạo ra doanh thu và chi phí gánh
chịu (bao gồm cả doanh thu và chi phí liên quan đến các giao dịch với các bộ phận
khác trong cùng một doanh nghiệp).
- Kết quả hoạt động thường xuyên được xem xét bởi người quản lý việc ra quyết
định (được xem là một chức năng hơn là một chức vụ của cá nhân riêng lẻ) để ra quyết
31
định về nguồn lực phân bổ tới các bộ phận và đo lường đánh giá thành quả thực hiện
của bộ phận.
- Thông tin tài chính riêng của bộ phận luôn có sẵn.
Trên cơ sở phân loại bộ phận này, ngoại lệ cho bộ phận hoạt động liên quan đến
hoạt động kinh doanh, kể cả khi nó chưa tạo được doanh thu, ví dụ như hoạt động khởi
nghiệp, khởi động “start-up” có thể là bộ phận hoạt động trước khi tạo ra doanh thu. Và
ngược lại không phải bộ phận nào tạo ra doanh thu/ hoặc tạo ra chi phí cũng được xem
là bộ phận hoạt động, chẳng hạn như một đơn vị nghiên cứu và phát triển làm phát sinh
chi phí nhưng không tạo ra doanh thu thì nó không phải là bộ phận hoạt động. Tương tự
như vậy, trụ sở công ty có thể không tạo ra doanh thu hoặc có thể tạo ra doanh thu mà
chỉ là phần phụ đối với hoạt động của doanh nghiệp và do đó sẽ không được coi là một
bộ phận hoạt động. Căn cứ chia các bộ phận thành bộ phận hoạt động hướng tới việc
quản trị công ty nhiều hơn phù hợp với việc ra quyết định phân bổ nguồn lực và đánh
giá của nhà quản trị. Nói một cách khác, góc nhìn của việc chia thành bộ phận hoạt
động là góc nhìn từ phía nhà quản lý doanh nghiệp, còn căn cứ phân loại theo lĩnh vực
kinh doanh và khu vực địa lý được xem xét ở góc độ chưa được linh hoạt cho nhà quản
trị khi phân loại bộ phận.
1.1.3.2. Sự hình thành báo cáo bộ phận
Đối tượng sử dụng thông tin BCTC thường quan tâm nhiều tới kết quả chi tiết
theo mục đích sử dụng thông tin của họ hơn là thông tin về tổng thể doanh nghiệp, ví
dụ, chế độ bảo hiểm đối với người lao động, mức lương và điều kiện làm việc sẽ phụ
thuộc vào một vài bộ phận cụ thể nơi họ làm việc được quan tâm nhiều hơn so với hoạt
động của toàn doanh nghiệp. Tương tự như vậy, chính quyền sở tại sẽ chú ý đến hoạt
động của doanh nghiệp trong nước, khách hàng, nhà cung cấp và người cho vay sẽ chú
ý đến chi nhánh mà các đối tượng này hợp tác. Tất cả các đối tượng sử dụng BCTC kể
trên đều mong muốn có được cả thông tin tài chính tổng quát và thông tin chi tiết theo
mục đích sử dụng. Đối tượng sử dụng thông tin có thể sẽ cần toàn bộ thông tin về
doanh nghiệp, tuy nhiên, họ cũng cần một số thông tin ở mức độ chi tiết như, thông tin
ở từng nhà máy sản xuất. Các cổ đông, nhà đầu tư quan tâm đến kết quả của doanh
nghiệp, vì thế họ chú ý không chỉ hoạt động, tiềm năng sinh lời của doanh nghiệp một
cách tổng thể, mà còn quan tâm đến hoạt động của từng bộ phận cụ thể, bởi một doanh
nghiệp được cấu thành từ nhiều bộ phận, và để hiểu đầy đủ về hoạt động và tiềm năng
32
kinh tế của doanh nghiệp đó, cần phải xem xét hoạt động và tiềm năng của từng bộ
phận, điều này đặc biệt quan trọng nếu doanh nghiệp đa dạng hóa ngành nghề kinh
doanh và hoạt động trên nhiều lĩnh vực, khu vực địa lý.
Như vậy, ngoài thông tin tổng quan thì doanh nghiệp cũng cần phải công bố các
thông tin bổ sung chi tiết, cụ thể theo mục đích của người sử dụng thông tin để giải
thích cho các thông tin tổng quan trên BCTC.
Sự phát triển của các tập đoàn kinh tế đi kèm với đa dang hóa trong lĩnh vực
đầu tư, kinh doanh đa quốc gia làm cho mức độ phức tạp của hoạt động kinh doanh
trong doanh nghiệp ngày càng tăng, tác động mạnh đến sự thay đổi của thông tin tài
chính cung cấp cho chuyên gia phân tích, nhà đầu tư và nhiều người sử dụng BCTC
khác. Các BCTC tổng hợp, do kết hợp nhiều hoạt động mang cả rủi ro và lợi ích kinh
tế nên người đọc báo cáo không thể thấy được tình trạng của từng hoạt động nếu không
trình bày thông tin dưới hình thức riêng rẽ theo từng bộ phận khác nhau. Trong nửa
cuối của thế kỷ 20, do việc phân tích thông tin của nhà đầu tư gặp nhiều khó khăn hơn
nên một số nhóm đối tượng sử dụng thông tin BCTC bao gồm, chuyên gia phân tích tài
chính, nhà điều chỉnh thị trường đã yêu cầu trình bày thêm phần thuyết minh thông tin
liên quan đến kết quả và rủi ro liên quan từng bộ phận trong đơn vị, đó là thông tin
BCBP, đặc biệt là yêu cầu phát triển các chuẩn mực kế toán để đáp ứng nhu cầu này.
Quy định về trình bày BCBP lần đầu tiên được ban hành tại Mỹ, vào năm 1969,
trong bối cảnh Uỷ ban Chứng khoán Hoa Kỳ yêu cầu phải trình bày các thông tin hoạt
động kinh doanh trên các giấy tờ đăng ký niêm yết của doanh nghiệp. Một năm sau Uỷ
ban này mở rộng việc trình bày các thông tin này ra cả biểu mẫu báo cáo, Form 10-K,
dành cho các DNNY trên sàn chứng khoán. Đến năm 1974 tất cả các doanh nghiệp nộp
báo cáo cho SEC đều phải trình bày những thông tin này trên báo cáo thường niên của
doanh nghiệp đó.
Chuẩn mực kế toán Mỹ SFAS 14 “Báo cáo tài chính cho bộ phận kinh doanh”
được Uỷ ban chuẩn mực kế toán Mỹ ban hành lần đầu năm 1976 đã mở rộng các yêu
cầu công bố các thông tin bộ phận. Sau đó, các cơ quan ban hành chuẩn mực của
Canada và Mỹ cùng với Uỷ ban Chuẩn mực kế toán Quốc tế (IASC) hợp tác thực hiện
một dự án để soát xét lại các chuẩn mực về BCBP và kết quả là, các chuẩn mực mới
được ban hành, bao gồm: Chuẩn mực kế toán Canada mục 1700, Chuẩn mực kế toán
Mỹ số 131 (FASB, 1997). SFAS 131 đánh dấu sự thay đổi đáng kể so với chuẩn mực
trước đó, đặc biệt là thay đổi cách tiếp cận trong việc xác định bộ phận cần công bố.
33
Chậm hơn so với sự ra đời của Chuẩn mực kế toán Hoa Kỳ, năm 1981 Hội
đồng chuẩn mực kế toán quốc tế (IASC) mới ban hành Chuẩn mực kế toán quốc tế về
BCBP- IAS 14. Chuẩn mực này có nội dung gần với Chuẩn mực kế toán của Hoa kỳ
SFAS 14, do đó các vấn đề tồn tại với SFAS 14 cũng là vấn đề tồn tại với IAS 14. Sau
đó, vào các năm 1997 và 2003, IAS 14 được sửa đổi, làm thay đổi phương thức xác
định bộ phận công bố và các yêu yêu cầu công bố mặc dù những quy định cần sửa đổi
của IAS 14 vẫn chưa được hoàn thiện như SFAS 131.
Năm 2006, chuẩn mực kế toán mới IFRS 8 được chính thức ban hành, có nội
dung gần với SFAS 131, đây là kết quả của dự án hội tụ các chuẩn mực kế toán quốc tế
với sự hợp tác của Uỷ ban Chuẩn mực Kế toán Quốc tế (IASB) và Uỷ ban Chuẩn mực
Kế toán Mỹ (FASB).
1.1.3.3. Báo cáo bộ phận
Những nguyên tắc kế toán được thừa nhận chung (GAAP) đã định nghĩa “Báo
cáo bộ phận là báo cáo của các bộ phận hoạt động của một công ty trong công bố kèm
theo báo cáo tài chính của nó”. BCBP cung cấp thông tin cho nhà đầu tư và chủ nợ có
liên quan về kết quả tài chính của các bộ phận hoạt động, giúp họ có căn cứ cho việc ra
quyết định đầu tư hoặc cho vay. Đồng thời, việc xác định các thông tin cần báo cáo
giúp người ra quyết định hoạt động sử dụng những thông tin này để đánh giá kết quả
hoạt động và phân bổ nguồn lực.
Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam VAS 28, “Báo cáo bộ phận là báo cáo thể
hiện sự chia nhỏ hoạt động của doanh nghiệp thành những thành phần hay bộ phận và
trình bày các thông tin tài chính của các bộ phận đó”.
Người sử dụng BCTC cho rằng, họ cần thông tin BCTC hợp nhất, hỗ trợ cho
việc ra quyết định, tuy nhiên BCTC hợp nhất vẫn chưa cung cấp được mọi thông tin họ
cần, và báo cáo thường niên của doanh nghiệp thường nhiều thông tin hơn BCTC hợp
nhất. Ví dụ, thông tin được phân tích và trình bày theo ngành lĩnh vực kinh doanh và
khu vực địa lý, hoặc theo bất cứ cơ sở nào mà doanh nghiệp cho là hữu ích với đối
tượng sử dụng thông tin. Thông thường các thông tin bộ phận này sẽ được trình bày
trong phần thuyết minh BCTC và được biết đến với tên gọi là “Báo cáo bộ phận”.
Dựa vào cấu trúc hoạt động của doanh nghiệp để chia thành BCBP theo khu
vực địa lý và BCBP theo lĩnh vực kinh doanh. Trong đó;
34
Báo cáo bộ phận theo lĩnh vực kinh doanh là báo cáo của một bộ phận có thể
phân biệt được của một DN tham gia vào quá trình SX hoặc cung cấp sản phẩm, dịch
vụ riêng lẻ, một nhóm các sản phẩm hoặc các dịch vụ có liên quan mà bộ phận này có
rủi ro và lợi ích kinh tế khác với các bộ phận kinh doanh khác.
Báo cáo bộ phận theo khu vực địa lý là báo cáo của một bộ phận có thể phân
biệt được với nhau trong phạm vi một môi trường kinh tế cụ thể mà bộ phận này có
rủi ro và lợi ích kinh tế khác với các bộ phận kinh doanh trong các môi trường kinh
tế khác.
Dựa vào phương thức quản lý của doanh nghiệp để chia thành BCBP chính yếu
và BCBP thứ yếu, trong đó:
Nếu rủi ro và tỷ suất sinh lời của doanh nghiệp bị tác động chủ yếu bởi những
khác biệt về sản phẩm và dịch vụ mà doanh nghiệp đó sản xuất ra thì báo cáo chính yếu
phải căn cứ vào thông tin về lĩnh vực kinh doanh và báo cáo thứ yếu (báo cáo đối với
bộ phận thứ yếu) căn cứ vào thông tin về khu vực địa lý.
Nếu rủi ro và tỷ suất sinh lời của doanh nghiệp bị tác động chủ yếu do doanh
nghiệp hoạt động tại nhiều khu vực địa lý khác nhau thì báo cáo chính yếu phải căn cứ
vào thông tin về khu vực địa lý và báo cáo thứ yếu phải căn cứ vào thông tin về lĩnh
vực kinh doanh.
Ngoài ra, việc xác định báo cáo bộ phận theo phương pháp quản trị, gọi là báo
cáo bộ phận hoạt động, là báo cáo bộ phận không chỉ theo lĩnh vực kinh doanh và
khu vực địa lý, mà còn là báo cáo bộ phận theo cách mà quản trị điều hành công ty
mong muốn. Báo cáo bộ phận theo quyết định của nhà quản trị sẽ đa dạng hơn và linh
hoạt hơn.
1.1.4. Doanh nghiệp cổ phần niêm yết
Công ty là một trong những phát minh thể chế quan trọng nhất của loài
người. Để phát triển sau hàng trăm năm với vô số định dạng và biến thể khác nhau,
công ty trở thành một trong những thể chế tổ chức phổ biến nhất trên thế giới và uy
quyền cũng như ảnh hưởng của nó nhiều khi còn lớn hơn cả các quốc gia. Thông
thường, một công ty là một hình thức tổ chức kinh doanh. Theo điều 4, luật Dn của
Việt Nam, công ty là các tổ chức kinh tế có tên riêng có tài sản, có trụ sở giao dịch
ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của luật pháp nhằm thực hiện các
hoạt động kinh doanh.
35
Theo điều 77, luật DN của Việt Nam, công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể
từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và quyền phát hành chứng
khoán các loại để huy động vốn. Công ty Cổ phần là doanh nghiệp, trong đó:
+ Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần.
+ Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân, số lượng cổ đông tối thiểu là ba và không
hạn chế số lượng tối đa.
+ Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của
doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp.
+ Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác,
trừ một vài trường hợp đã được quy định rõ trong luật.
Khi nền kinh tế thị trường phát triển, sự ra đời của thị trường chứng khoán đã
hình thành rất nhiều mối quan hệ giữa các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán tập
trung thường bao gồm: Ủy ban chứng khoán quốc gia, sở giao dịch chứng khoán, các
tổ chức phát hành chứng khoán, các định chế tài chính trung gian. Theo từ điển Thuật
ngữ thị trường chứng khoán Anh - Việt, công ty niêm yết là công ty có các cổ phần
được ghi trên thị trường chính của giao dịch chứng khoán. Công ty niêm yết được
quyền phát hành chứng khoán dưới dạng cổ phiếu và trái phiếu ra công chúng. Cổ
phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối
với một phần vốn cổ phần của DNNY. Trái phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền
và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn nợ của đơn vị phát hành.
Để trở thành DNNY trên TTCK, các công ty phải thoả mãn các tiêu chuẩn hay
điều kiện cụ thể tuỳ thuộc vào từng quốc gia. Thông thường, các công ty phải đáp ứng
các nhóm tiêu chuẩn định lượng và định tính.
+ Nhóm tiêu chuẩn định lượng: Công ty phải có quy mô vốn nhất định. Vốn
quy định tuỳ theo mỗi nước, có thể quy định vốn điều lệ tối thiểu ban đầu, vốn cổ phần
(tỷ lệ nắm giữ của các cổ đông cũng như số lượng các cổ đông ngoài công ty,...); tính
liên tục trong hoạt động kinh doanh của công ty; Tổng giá trị của đợt phát hành phải
đạt quy mô nhất định; Một tỷ lệ nhất định của đợt phát hành phải được bán cho một số
lượng quy định công chúng đầu tư. Các thành viên sáng lập của công ty phải cam kết
nắm một tỷ lệ nhất định vốn cổ phần của công ty trong một khoảng thời gian quy định.
+ Nhóm tiêu chuẩn định tính: các nhà quản lý công ty bao gồm thành viên Ban
giám đốc điều hành và Hội đồng quản trị phải có trình độ kinh nghiệm quản lý công ty;
Cơ cấu các tổ chức của công ty phải hợp lý và phải vì lợi ích của các NĐT; Các báo
36
cáo tài chính, bản cáo bạch và các tài liệu cung cấp thông tin phải có độ tin cậy cao
nhất, được chấp thuận kiểm toán bởi các tổ chức kiểm toán có uy tín; Công ty phải có
phương án khả thi về việc sử dụng vốn thu được từ đợt phát hành; Công ty phải được
một hoặc một số các tổ chức bảo lãnh phát hành đứng ra cam kết bảo lãnh cho đợt phát
hành. Cơ sở pháp lý đối với doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán:
Niêm yết chứng khoán là quá trình định danh các chứng khoán đáp ứng đủ tiêu
chuẩn được giao dịch trên sở giao dịch chứng khoán. Cụ thể, đây là quá trình chấp
thuận cho công ty niêm yết có chứng khoán được phép niêm yết và giao dịch thị trường
nếu DNNY đáp ứng các tiêu chuẩn về định lượng cũng như định tính. Khi đã có chứng
khoán được niêm yết trên thị trường, DNNY phải tuân thủ một số yêu cầu như nghĩa
vụ công bố thông tin, báo cáo tài chính phải được kiểm toán…để đảm bảo thị trường
chứng khoán hoạt động hiệu quả. Tất cả những điều kiện, yêu cầu, quy định đó đối với
DNNY thuộc phạm vi điều chỉnh của các luật như luật doanh nghiệp, luật chứng
khoán,… Cụ thể:
+ Các sắc luật về doanh nghiệp là cơ sở pháp lý đảm bảo sự hoạt động của các
doanh nghiệp nói chung và DNNY nói riêng tuân thủ.
+ Luật chứng khoán quy định những vấn đề chung nhất về kế toán và thị trường
chứng khoán tạo khuôn khổ pháp lý cao cho hoạt động của thị trường chứng khoán.
Luật chứng khoán có phạm vi điều chỉnh cả thị trường phát hành cũng như thị trường
giao dịch, đồng thời điều chỉnh hoạt động của các thành viên tham gia thị trường tạo
điều kiện cho thị trường triển nhanh và ổn định, bảo vệ lợi ích hợp pháp của các tổ
chức, cá nhân tham gia thị trường chứng khoán.
1.2. CÔNG BỐ THÔNG TIN BÁO CÁO BỘ PHẬN
1.2.1. Công bố thông tin kế toán và công bố thông tin báo cáo tài chính
1.2.1.1. Công bố thông tin kế toán
Một trong những nguyên tắc cơ bản trong hoạt động của TTCK là công bố
thông tin (CBTT). Nguyên tắc công khai thông tin được hiểu là các định chế, tổ chức
khi tham gia thị trường phải có nghĩa vụ cung cấp đầy đủ, trung thực, kịp thời những
thông tin liên quan đến tình hình hoạt động của mình cho công chúng đầu tư biết.
Trong Sổ tay CBTT dành cho các doanh nghiệp niêm yết, CBTT được hiểu là
phương thức để thực hiện quy trình minh bạch của doanh nghiệp nhằm đảm bảo các cổ
đông và công chúng đầu tư có thể tiếp cận thông tin một cách công bằng và đồng thời.
37
Trong định nghĩa này, chúng ta có thể hiểu rằng, minh bạch thông tin là sự công bố
thông tin kịp thời và đáng tin cậy, cho phép những người sử dụng thông tin đó có thể
đánh giá chính xác về tình hình và hiệu quả của một đơn vị, hoạt động kinh doanh và
rủi ro liên quan đến các hoạt động này.
Cụ thể hơn, CBTT kế toán là toàn bộ thông tin được công bố thông qua hệ
thống các BCTC của một công ty trong thời kỳ nhất định (bao gồm cả các báo cáo
giữa niên độ và báo cáo thường niên). Công bố thông tin kế toán gồm tất cả thông tin
liên quan đến tình hình tài chính và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, được
công bố bởi bộ phận kế toán. Thông thường, các thông tin này được công bố trên hệ
thống các báo cáo do bộ phận kế toán cung cấp, bao gồm: báo cáo kế toán quản trị,
báo cáo tài chính, và báo cáo thuế. Trong đó, báo cáo kế toán quản trị không được
công bố rộng rãi ra ngoài, chỉ sử dụng trong nội bộ doanh nghiệp, phục vụ cho việc ra
quyết định của nhà quản lý doanh nghiệp. Báo cáo thuế được lập dựa trên cơ sở biểu
mẫu và quy định như: nguyên tắc tính thuế của cơ quan nhà nước. Báo cáo tài chính
(Bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền, và
thuyết minh BCTC) được doanh nghiệp công bố rộng rãi cho các đối tượng sử dụng
thông tin bên ngoài. Tuy nhiên, việc công bố thông tin kế toán cũng có thể được thực
hiện trên các báo cáo khác thuộc bộ báo cáo thường niên (BCTN) của doanh nghiệp,
nhất là công bố thông tin tự nguyện.
1.2.1.2. Công bố thông tin báo cáo tài chính
Theo nghĩa hẹp, công bố thông tin BCTC được hiểu là thông tin kế toán được
cung cấp chủ yếu thông qua hệ thống báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Các thông
tin này thường được trình bày theo quy định của chuẩn mực trình bày báo cáo tài
chính, chuẩn mực kế toán, và các quy định của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
như Ủy ban Chứng khoán và Bộ Tài chính. Công bố thông tin BCTC là toàn bộ thông
tin được cung cấp thông qua hệ thống báo cáo tài chính của một công ty trong một thời
kỳ nhất định. Công bố thông tin BCTC là một hoạt động kế toán bắt buộc. Để thông tin
công bố thực sự trở nên hữu ích cho đối tượng sử dụng thông tin thì các doanh nghiệp
nên công bố thêm các thông tin hỗ trợ cho việc ra quyết định của người sử dụng thông
tin, trong đó có cả các nhà đầu tư, đó chính là các công bố kế toán tự nguyện.
Công bố thông tin BCTC đóng vai trò là cầu nối giữa doanh nghiệp với người
sử dụng thông tin bên ngoài doanh nghiệp (theo sơ đồ 1.1). Thông tin doanh nghiệp
công bố trên báo cáo là kênh cung cấp thông tin chính thống và có giá trị pháp lý cao
38
so với nhiều nguồn thông tin khác như báo chí, tin đồn,… Chính vì vậy, thông tin
BCTC công bố bởi doanh nghiệp có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với các đối tượng
sử dụng thông tin, nhất là các đối tượng ngoài doanh nghiệp. Theo Cooke (1989), công
bố thông tin từng khoản mục trong các báo cáo của doanh nghiệp là phù hợp và có vai
trò quan trọng với quá trình ra quyết định của người sử dụng thông tin - những người
không có khả năng tiếp cận nguồn thông tin theo nhu cầu; và nếu một thông tin phù
hợp và quan trọng nhưng lại không được công bố thì quyết định của đối tượng sử dụng
thông tin là không tối ưu. Công bố thông tin của các doanh nghiệp là rất cần thiết để
một thị trường vốn hoạt động hiệu quả, giảm thiểu sự nhiễu loạn thông tin, tất nhiên
phải đảm bảo thông tin minh bạch và hợp pháp.
Sơ đồ 1.1: Thông tin doanh nghiệp công bố và các mối quan hệ liên quan
Các doanh nghiệp
Công bố thông tin (Disclosures)
Công bố thông tin (Disclosures)
Báo cáo thường niên
Người công bố thông tin (Preparers)
Bên trong DN Bên ngooài DN
Nguồn: (Cooke, 1989)
Căn cứ vào tiêu thức khác nhau, người ta phân chia thông tin BCTC doanh
nghiệp công bố thành nhiều nhóm khác nhau, cụ thể như sau:
Nếu căn cứ vào nội dung trình bày trên BCTC thì thông tin BCTC công bố có
thể được chia theo sơ đồ sau: (Sơ đồ 1.2)
- Thông tin về tình hình tài chính của doanh nghiệp (Bảng cân đối kế toán).
- Thông tin về tình hình kinh doanh của doanh nghiệp (Báo cáo kết quả
kinh doanh).
- Thông tin về tình hình các luồng tiền của doanh nghiệp (Báo cáo lưu chuyển
tiền tệ).
39
- Thông tin giải thích về các nội dung trình bày, công bố tình hình tài chính, tình
hình kinh doanh và dòng tiền của doanh nghiệp (Thuyết minh báo cáo tài chính).
Mục đích cơ bản của BCTC là cung cấp thông tin hữu ích cho việc ra quyết
định của các đối tượng sử dụng thông tin như, nhà đầu tư tổ chức, nhà đầu tư cá nhân,
nhà môi giới chứng khoán, nhân viên tín dụng ngân hàng, kiểm toán viên, nhà phân
tích tài chính, chính phủ, cơ quan thuế, nhà nghiên cứu và nhiều đối tượng khác. Các
thông tin được cho là hữu ích với đối tượng sử dụng thông tin là thông tin hỗ trợ cho
các đối tượng này trong việc dự đoán tương lai hoạt động của doanh nghiệp.
Nếu dựa vào yêu cầu của các cơ quan nhà nước về việc công bố thông tin thì
công bố thông tin BCTC được phân thành hai nhóm là thông tin bắt buộc công bố và
thông tin tự nguyện công bố. (Sơ đồ 1.2)
Thông tin bắt buộc công bố (sau đây gọi tắt là công bố bắt buộc) là thông tin
phải được công bố theo yêu cầu của luật pháp, quy định của cơ quan nhà nước, Ủy ban
Chứng khoán. Theo Owusu-Ansah (1998), công bố bắt buộc bao gồm tất cả thông tin
được yêu cầu công bố theo những quy định trong luật doanh nghiệp, Ủy ban Chứng
khoán, chuẩn mực kế toán. Công bố bắt buộc phù hợp với các quy định về báo cáo tài
chính, chuẩn mực kế toán, và luật liên quan đến yêu cầu công bố thông tin trên các
BCTC. Ở Việt Nam, các công bố này thường được trình bày trên các báo cáo theo quy
định của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, sở giao dịch chứng khoán, chuẩn mực trình
bày báo cáo tài chính, chuẩn mực kế Việt Nam, chế độ kế toán doanh nghiệp do Bộ Tài
chính ban hành.
Mục đích của công bố bắt buộc là để đáp ứng nhu cầu về thông tin của người sử
dụng thông tin. Các đặc tính của hình thức công bố này bao gồm: người phát hành là
doanh nghiệp; người nhận là cổ đông, người lao động, chủ nợ, người mua và các đối
tượng khác; theo quy định như luật kinh doanh, luật kế toán, chuẩn mực kế toán, chuẩn
mực trình bày BCTC, các nguyên tắc chung được chấp nhận (GAAP). Nội dung công
bố bao gồm kết cấu và mục đích của công bố báo cáo; thời gian công bố (hàng
năm, nửa năm, hàng quý, thường xuyên); phương thức công bố (in ấn, thông qua web
site của công ty) (Adian và Ion, 2008).
40
Sơ đồ 1.2: Phân loại thông tin BCTC
Phân theo nội dung công bố
Phân yêu cầu công bố
Thông tin bắt buộc công bố
Thông tin công bố về tình hình tài chính
Thông tin công bố về tình hình kinh doanh Thông tin tự nguyện công bố
Thông tin công bố về dòng tiền
Thông tin giải thích các nội dung công bố
Nguồn: (Omar, Simon 2011)
Doanh nghiệp được yêu cầu công bố bắt buộc theo quy định pháp luật, doanh
nghiệp cũng có thể chọn báo cáo thêm hoặc tự nguyện công bố thông tin nếu thấy có
lợi (Omar và Simon, 2011).
Công bố thông tin tự nguyện (sau đây gọi tắt là công bố tự nguyện) là những
thông tin BCTC không bắt buộc phải công bố, mà là doanh nghiệp tự nguyện công bố,
ví dụ như dự báo tương lai hay thông tin quá khứ (5-10 năm) về doanh thu, chi phí, đầu
tư tài sản cố định, lợi nhuận, chia cổ tức, hàng tồn kho, dòng tiền, nợ phải trả, vốn chủ
sở hữu, nợ khó đòi,... Công bố tự nguyện là những thông tin công bố hoàn toàn do
doanh nghiệp tự lựa chọn, là những thông tin được công bố thêm, được khuyến khích
công bố, là thông tin tài chính và phi tài chính mà công ty có lợi khi công bố nhưng
không bị yêu cầu theo quy định của luật pháp (Omar và Simon, 2011).
Các công bố tự nguyện có thể được cung cấp thông qua các BCTN (bao gồm
các BCTC, báo cáo phân tích và thảo luận của nhà quản lý, và các báo cáo tự nguyện
khác). Thêm vào đó, rất nhiều doanh nghiệp công bố thông tin tự nguyện qua các dự
báo quản lý, hội thảo, báo chí, và các báo cáo không bắt buộc khác.
41
1.2.1.3. Yêu cầu về công bố thông tin báo cáo tài chính
Để đạt được mục đích công bố thông tin hữu ích cho các đối tượng sử dụng
thông tin, chất lượng thông tin BCTC công bố cần phải đáp ứng được các yêu cầu cơ
bản sau:
Thông tin phải dễ hiểu
Thông tin BCTC được công bố phải dễ hiểu với người sử dụng thông tin. Phải
dễ hiểu thì thông tin đó mới hữu ích, tuy nhiên tính dễ hiểu của thông tin không có
nghĩa là ai cũng hiểu được, mà là dễ hiểu với các đối tượng sử dụng thông tin có kiến
thức về kinh doanh và các hoạt động kinh tế, hiểu biết về kế toán ở mức độ vừa phải.
Tuy nhiên, trong trường hợp thông tin về những vấn đề phức tạp nhưng cần thiết cho
việc ra quyết định của người sử dụng thông tin thì cũng không thể vì quy định về tính
dễ hiểu mà loại bỏ ra khỏi BCTC.
Thông tin phải phù hợp
Về tính hữu ích với người sử dụng, thông tin BCTC được công bố phải phù hợp
với nhu cầu sử dụng thông tin của người sử dụng, đáp ứng được yêu cầu về việc thông
tin có thể hỗ trợ việc đưa ra quyết định đúng đắn, kịp thời của họ. Những thông tin phù
hợp là những thông tin có tác động đến quyết định kinh tế của người sử dụng bằng
cách giúp họ đánh giá tình hình quá khứ, hiện tại hoặc tương lai của vấn đề đang tìm
hiểu hoặc xác nhận các đánh giá, giúp họ đưa ra quyết định kinh tế phù hợp với mục
tiêu của mình. Tuy nhiên có một thực tế là, có nhiều đối tượng sử dụng thông tin khác
nhau, có mối quan tâm khác nhau với thông tin BCTC; nhưng những thông tin này chỉ
được cung cấp dưới dạng không đáp ứng nhu cầu riêng của một đối tượng cụ thể nào,
mà chung cho các đối tượng sử dụng thông tin. Tính phù hợp của thông tin còn chịu
ảnh hưởng của bản chất và tính trọng yếu của thông tin với các vấn đề đối tượng sử
dụng thông tin quan tâm.
Thông tin phải đáng tin cậy
Để đạt được mục tiêu về tính hữu ích cho người sử dụng, thông tin BCTC
được công bố ngoài việc đạt được yêu cầu về dễ hiểu, phù hợp thì phải đáng tin cậy.
Các thông tin đáng tin cậy đầu tiên phải là chính xác, không méo mó, có tính khách
quan. Mức độ tin cậy của thông tin phụ thuộc vào tính trung thực, khách quan; tính
thận trọng; đầy đủ và tôn trọng nội dung bản chất hơn hình thức pháp lý trong xử lý
thông tin.
42
Tính trung thực, khách quan của thông tin thể hiện ở việc, các thông tin về giao
dịch và sự kiện có liên quan phải được xử lý và trình bày không xuyên tạc, không cố ý
bóp méo, đồng thời phải tuân thủ các quy định về nguyên tắc ghi nhận, xử lý, tổng hợp
và trình bày thông tin. Tuy nhiên, những vấn đề này cần được xem xét trong phạm vi
ảnh hưởng của tính trọng yếu. Nếu việc bỏ sót hoặc xác định sai thông tin làm ảnh
hưởng nghiêm trọng tới quyết định của người sử dụng thông tin thì trước tiên, những
thông tin ấy được coi là trọng yếu và việc bỏ sót hoặc xác định sai những thông tin này
sẽ dẫn đến thông tin BCTC được công bố không trung thực, khách quan.
Tính thận trọng trong xử lý thông tin thể hiện trong các xét đoán, ước tính kế
toán tương đối như, ước tính khả năng và mức độ phát sinh khoản nợ phải thu khó đòi,
khoản giảm giá hàng tồn kho, ước tính thời gian hữu ích của máy móc, thiết bị,… Để
đáp ứng yêu cầu về độ tin cậy, khi thực hiện các xét đoán trên phải thận trọng, không
được lập dự phòng quá lớn, không được đánh giá cao hơn giá trị tài sản và các khoản
thu nhập, không được đánh giá thấp hơn các khoản chi phí và công nợ phải trả,… Việc
cố ý đánh giá các khoản thu nhập, tài sản cao hơn thực tế hoặc xác định chi phí, công
nợ thấp hơn thực tế không được coi là thận trọng mà là xuyên tạc sự thật, dẫn đến
thông tin kế toán được công bố thiếu tính khách quan.
Tính đầy đủ của thông tin được hiểu là thông tin công bố phải được trình bày
đầy đủ trong phạm vi giới hạn những vấn đề trọng yếu và chi phí bỏ ra. Mọi bỏ sót
thông tin đều có thể dẫn đến thông tin sai lệch, kết luận về doanh nghiệp sẽ không
đúng, như vậy thông tin đó không được coi là đáng tin cậy, không được coi là phù hợp,
hữu ích.
Ngoài ra, để đạt được yêu cầu về độ tin cậy và hữu ích thì trong xử lý nghiệp
vụ, sự kiện kinh tế phát sinh phải được thực hiện theo đúng nội dung, bản chất của giao
dịch chứ không đơn thuần chỉ dựa vào hình thức pháp lý, bản chất của giao dịch không
phải lúc nào cũng phù hợp với hình thức pháp lý. Chẳng hạn, một giao dịch bán hàng
được thực hiện vào cuối niên độ kế toán này nhưng đầu niên độ kế toán tiếp theo lại có
giao dịch mua lại chính lô hàng đó, thì giao dịch bán hàng cần được xem xét ghi nhận
doanh thu hay không.
Thông tin phải có thể so sánh được
Để đạt được tính hữu ích của thông tin trong các phân tích tài chính, thông tin
BCTC được công bố còn phải đảm bảo yêu cầu có thể so sánh được. Tính có thể so
43
sánh được của thông tin là thông tin được công bố của kỳ này có thể so sánh được với
kỳ trước và có thể so sánh được với các doanh nghiệp khác. Để đáp ứng được yêu cầu
này, doanh nghiệp phải thực hiện áp dụng nhất quán các nguyên tắc, và phương pháp
kế toán giữa các kỳ kế toán, nếu có sự thay đổi phải trình bày sự thay đổi và ảnh hưởng
của sự thay đổi đó trong thuyết minh BCTC.
Như vậy, để thông tin hữu ích với đối tượng sử dụng thông tin thì chất lượng
thông tin được công bố phải đảm bảo đầy đủ tất cả các yêu cầu trên, đồng thời phải
xem xét các yêu cầu đó trong mối liên hệ với tính trọng yếu, cân đối giữa lợi ích và chi
phí. Theo chuẩn mực kế toán quốc tế, để đảm bảo chất lượng, thông tin công bố phải
được lập và trình bày trên cơ sở tuân thủ các chuẩn mực kế toán, chế độ kế toán và các
quy định liên quan hiện hành.
Tuy nhiên, từ tháng 9/2010, cùng với xu hướng hội tụ kế toán của các tổ chức
kế toán quốc tế, quan điểm của IASB về yêu cầu của thông tin BCTC có thay đổi so
với trước đây, cụ thể như sau: đặc điểm cơ bản của thông tin BCTC hữu ích là các
thông tin thích hợp và được trình bày trung thực. Ngoài ra, các đặc điểm nâng cao của
thông BCTC hữu ích nói chung là có thể so sánh được, kiểm chứng được, kịp thời và
dễ hiểu. Trong đó, các đặc điểm cơ bản về chất lượng thông tin BCTC hữu ích được
diễn giải như sau:
- Thích hợp: Thông tin BCTC thích hợp là thông tin có thể tạo ra sự khác biệt
trong quyết định của người sử dụng BCTC, ngay cả khi một số người sử dụng BCTC
không tận dụng lợi thế hoặc đã nắm được thông tin đó từ các nguồn khác.
- Trung thực: Thông tin BCTC được công bố phản ánh giao dịch kinh tế bằng
số liệu và bằng chữ. Thông tin BCTC hữu ích là thông tin không chỉ mô tả giao dịch
kinh tế liên quan, mà còn phải trình bày một cách trung thực các giao dịch đó đúng
mục đích. Để đảm bảo sự trung thực, thông tin phải có 3 tính chất là: đầy đủ, khách
quan, không có sai sót.
Các đặc điểm bổ sung về chất lượng thông tin BCTC hữu ích:
- So sánh: người sử dụng thông tin có thể so sánh với thông tin tương tự của
doanh nghiệp khác hoặc thông tin tương tự của doanh nghiệp giữa các kỳ và các ngày
khác nhau. Khả năng so sánh không liên quan đến một khoản mục đơn lẻ mà yêu cầu ít
nhất là hai khoản mục.
44
- Kiểm chứng: Những người sử dụng BCTC có kiến thức, độc lập đồng tình về
độ tin cậy của một mô tả chi tiết. Thông tin định lượng không nhất thiết chỉ là một ước
tính đơn lẻ mà còn có thể là một loạt các giá trị và khả năng liên quan có thể được kiểm
chứng. Kiểm chứng giúp đảm bảo cho những người sử dụng BCTC về việc, thông tin
về giao dịch kinh tế được trình bày trung thực và đúng mục đích.
- Kịp thời: Thông tin luôn sẵn sàng để giúp những người sử dụng thông tin kịp
đưa ra các quyết định. Thông thường, những thông tin cũ thường kém hữu ích hơn, tuy
nhiên một số thông tin vẫn có tính kịp thời sau khi kết thúc kỳ báo cáo một thời gian.
Ví dụ người sử dụng thông tin có thể sử dụng thông tin trong quá khứ để xác định và
đánh giá các định hướng.
- Dễ hiểu: Thông tin được phân loại và trình bày rõ ràng, chính xác. Quan điểm
của Hội đồng chuẩn mực Kế toán tài chính Mỹ (FASB) với IASB, trước tháng 9/2010
là, chất lượng của thông tin BCTC được đánh giá qua các đặc điểm: tính phù hợp, tính
đáng tin cậy và khả năng so sánh được.
Cách thức công bố thông tin BCTC
Công bố thông tin BCTC là một yếu tố quan trọng có ảnh hưởng đến việc phân
bổ hiệu quả các nguồn lực của xã hội và làm giảm thiểu sự nhiễu loạn thông tin giữa
doanh nghiệp và các đối tượng sử dụng thông tin bên ngoài doanh nghiệp. Do đó, hành
vi CBTT, đặc biệt của các doanh nghiệp niêm yết trên sàn chứng khoán, có ảnh hưởng
rất lớn đến sự phát triển của TTCK trong nền kinh tế. Ảnh hưởng này không chỉ giới
hạn ở tầm vi mô trong tình hình tài chính của từng doanh nghiệp, từng nhà đầu tư mà
còn lan rộng trong cả nền kinh tế. Điều đó giải thích vì sao các nghiên cứu về mức độ
CBTT, tác động và các yếu tố ảnh hưởng của nó không ngừng được thực hiện bởi các
nhà nghiên cứu trên thế giới. Việc nghiên cứu này đã và đang là mối quan tâm hàng
đầu của các nhà nghiên cứu, các nhà hoạch định chính sách và các nhà quản trị doanh
nghiệp.
Có nhiều cách tiếp cận với thông tin được công bố của các doanh nghiệp, đặc
biệt là các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán, như qua website của các
doanh nghiệp, báo chí, các phương tiện thông tin đại chúng,... Nguồn thông tin mà các
nhà đầu tư, các bên thứ ba, các cơ quan quản lý có thể sử dụng bao gồm một hệ thống
đa dạng các báo cáo thường niên, báo cáo bán niên, báo cáo bất thường... của các
doanh nghiệp.
45
Khả năng tiếp cận là một tiêu chí quan trọng vì kể cả khi các thông tin được nộp
cho cơ quan quản lý đúng hạn thì tính hữu ích của thông tin cũng bị hạn chế nếu chỉ có
một số lượng hạn chế nhà đầu tư tiếp cận được. Thông thường có 3 cách để công bố
thông tin (CBTT) ra công chúng: (1) CBTT bằng văn bản, báo chí; (2) CBTT bằng hệ
thống điện tử; (3) CBTT bằng hệ thống Inernet. Hầu hết các nước đều chấp nhận nhiều
phương thức CBTT đồng thời. Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, phương
thức CBTT bằng Internet trở nên phổ biến và là một kênh thông tin được nhiều nhà đầu
tư tin cậy. Tuy vậy, xét về mặt luật pháp, Internet vẫn chưa được nhiều quốc gia thừa
nhận là kênh thông tin hợp pháp nếu các DNNY chỉ CBTT bằng Internet mà không
công bố bằng văn bản.
1.2.2. Công bố thông tin bộ phận
1.2.2.1. Khái niệm công bố thông tin bộ phận
Thông tin báo cáo bộ phận là một thành phần của thông tin thuộc BCTC của
doanh nghiệp. Trong đó, BCTC phản ánh theo một cấu trúc chặt chẽ tình hình tài
chính, kết quả kinh doanh và sự thay đổi trong tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Mục đích của BCTC là cung cấp thông tin về tình hình tài chính, tình hình kinh doanh
và các dòng tiền của doanh nghiệp, đáp ứng nhu cầu hữu ích cho số đông người sử
dụng trong việc đưa ra các quyết định kinh tế. Để đạt mục đích này, BCTC thông
thường phải cung cấp những thông tin của doanh nghiệp về: Tài sản, nợ phải trả, vốn
chủ sở hữu, doanh thu/thu nhập khác, chi phí/chi phí khác, lãi/lỗ, các dòng tiền. Bên
cạnh báo cáo tài chính, người sử dụng thông tin cho hoạt động đầu tư nhận thấy sự cần
thiết của một loại báo cáo khác, trong đó cung cấp những thông tin được phân loại theo
từng bộ phận quản lý trong doanh nghiệp (có thể theo khu vực địa lý và lĩnh vực kinh
doanh), đặc biệt là khi họ muốn đầu tư vào một công ty đa ngành, cung cấp các nhóm
sản phẩm và dịch vụ hoặc hoạt động trong các khu vực địa lý khác nhau có tỷ lệ sinh
lời, cơ hội tăng trưởng, triển vọng và rủi ro khác nhau. Đó là lý do cho sự ra đời của
báo cáo bộ phận cũng như yêu cầu cần công bố thông tin báo cáo bộ phận như một nội
dung trong báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Vì vậy, có thể hiểu rằng thông tin
BCBP là toàn bộ thông tin liên quan đến kết quả, chi phí, tài sản và nợ phải trả, dòng
tiền của từng bộ phận trong doanh nghiệp, tuỳ thuộc vào cơ sở phân chia bộ phận trong
từng doanh nghiệp để báo cáo.
Công bố thông tin BCBP trên BCTC là quá trình công khai minh bạch toàn bộ
thông tin liên quan đến kết quả về tình hình tài chính và kết quả hoạt động của từng
46
bộ phận, đáp ứng yêu cầu sử dụng thông tin của đối tượng sử dụng thông tin của
doanh nghiệp.
1.2.2.2. Nội dung công bố thông tin báo cáo bộ phận
Nội dung thông tin bộ phận cần công bố giúp cho đối tượng sử dụng thông
tin hiểu được tình hình tài chính và tình hình kết quả kinh doanh theo bộ phận.
Thông tin tài chính cần công bố cho các bộ phận là, tài sản, nợ phải trả, doanh thu,
chi phí bộ phận.
Doanh thu bộ phận là doanh thu trình bày trong báo cáo kết quả hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp, được tính trực tiếp hoặc phân bổ cho bộ phận, bao gồm
doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ ra bên ngoài; và doanh thu bán hàng và cung
cấp dịch vụ cho bộ phận khác của doanh nghiệp. Doanh thu bộ phận không bao gồm:
- Thu nhập khác;
- Doanh thu từ tiền lãi hoặc cổ tức, kể cả tiền lãi thu được trên các khoản ứng
trước hoặc các khoản tiền cho các bộ phận khác vay, trừ khi hoạt động của bộ phận chủ
yếu là hoạt động tài chính;
- Lãi từ việc bán các khoản đầu tư hoặc lãi từ việc xoá nợ trừ khi hoạt động của
bộ phận đó chủ yếu là hoạt động tài chính.
Doanh thu của bộ phận bao gồm cả phần lãi hoặc lỗ do đầu tư vào doanh nghiệp
liên kết, doanh nghiệp liên doanh hoặc các khoản đầu tư tài chính khác được hạch toán
theo phương pháp vốn chủ sở hữu khi các khoản doanh thu đó nằm trong doanh thu
hợp nhất của tập đoàn.
Chi phí bộ phận là chi phí phát sinh từ các hoạt động kinh doanh của bộ phận,
được tính trực tiếp cho bộ phận đó và phần chi phí của doanh nghiệp được phân bổ cho
bộ phận đó, bao gồm cả chi phí bán hàng ra bên ngoài và chi phí có liên quan đến
những giao dịch với bộ phận khác của doanh nghiệp. Chi phí bộ phận không bao gồm:
- Chi phí khác;
- Chi phí tiền lãi vay, kể cả tiền lãi phải trả phát sinh đối với khoản tiền ứng
trước hoặc tiền vay từ các bộ phận khác, trừ khi hoạt động của bộ phận đó chủ yếu là
hoạt động tài chính;
- Lỗ từ việc bán các khoản đầu tư hoặc lỗ từ việc xoá nợ, trừ khi hoạt động của
bộ phận đó chủ yếu là hoạt động tài chính;
47
- Phần sở hữu của doanh nghiệp trong khoản lỗ của bên nhận đầu tư do đầu tư
vào các doanh nghiệp liên kết, doanh nghiệp liên doanh hoặc các khoản đầu tư tài
chính khác;
- Chi phí thuế thu nhập doanh nghiệp;
- Chi phí hành chính chung và các chi phí khác phát sinh liên quan đến toàn bộ
doanh nghiệp.
Kết quả kinh doanh của bộ phận là doanh thu bộ phận trừ (-) chi phí bộ phận.
Tài sản của bộ phận là tài sản đang được bộ phận đó sử dụng trong các hoạt
động sản xuất, kinh doanh; được tính trực tiếp hoặc được phân bổ vào bộ phận đó. Tài
sản của bộ phận không bao gồm tài sản thuế thu nhập hoãn lại. Tài sản của bộ phận
không bao gồm các khoản dự phòng giảm giá có liên quan.
Các khoản nợ phải trả bộ phận: Là các khoản nợ trong kinh doanh của bộ
phận được tính trực tiếp hoặc phân bổ vào bộ phận đó. Trường hợp kết quả của bộ
phận có chi phí lãi vay thì nợ phải trả của bộ phận cũng bao gồm nợ phải trả chịu lãi có
liên quan. Nợ phải trả bộ phận không bao gồm nợ phải trả thuế hoãn lại.
Chính sách kế toán bộ phận: Là các chính sách được áp dụng để lập và trình
bày BCTC hợp nhất của tập đoàn hoặc của doanh nghiệp bao gồm cả chính sách kế
toán liên quan đến BCBP.
1.2.2.3. Điều kiện công bố thông tin bộ phận
Một bộ phận phải báo cáo cần được xác định là một bộ phận phải báo cáo khi
phần lớn doanh thu phát sinh từ bán hàng ra ngoài, đồng thời thoả mãn một trong các
điều kiện sau:
- Tổng doanh thu của bộ phận từ việc bán hàng ra ngoài và từ giao dịch với các
bộ phận khác phải chiếm từ 10% trở lên trên tổng doanh thu của tất cả bộ phận; hoặc
- Kết quả kinh doanh của bộ phận này bất kể lãi (hay lỗ) chiếm từ 10 % trở lên
trên tổng lãi (hay lỗ) của tất cả các bộ phận có lãi (hoặc trên tổng lỗ của tất cả các bộ
phận lỗ) nếu đại lượng nào có giá trị tuyệt đối lớn hơn; hoặc
- Tài sản của bộ phận chiếm từ 10% trở lên trên tổng tài sản của tất cả các
bộ phận.
Đối với các bộ phận có mức dưới 10% theo các điều kiện trên có thể được công
bố nếu:
48
- Bộ phận đó có thể báo cáo được mà không tính đến yếu tố quy mô nếu thông
tin của bộ phận đó là cần thiết cho người sử dụng BCTC;
- Nếu bộ phận đó có thể được kết hợp với các bộ phận tương đương khác;
- Nếu các bộ phận còn lại được báo cáo thành một khoản mục riêng.
Nếu tổng doanh thu bán hàng ra ngoài của doanh nghiệp được phân bổ cho các
bộ phận có thể được báo cáo thấp hơn 75% tổng số doanh thu của doanh nghiệp hoặc
doanh thu của tập đoàn thì phải xác định thêm bộ phận cần báo cáo, kể cả khi bộ phận
đó không đáp ứng được tiêu chuẩn 10%, cho tới khi đạt được ít nhất 75% tổng số
doanh thu của doanh nghiệp hoặc tập đoàn được tính cho các bộ phận báo cáo được.
Một bộ phận được báo cáo trong năm trước vì đạt ngưỡng 10% nhưng năm hiện
tại không đạt ngưỡng 10% thì vẫn là bộ phận phải báo cáo trong năm hiện tại, nếu Ban
Giám đốc đánh giá bộ phận này vẫn có tầm quan trọng trong năm tiếp theo.
Nếu một bộ phận được xác định là có thể báo cáo trong năm nay do đạt ngưỡng
10% thì thông tin của bộ phận này năm trước cần phải được trình bày lại để cung cấp
số liệu so sánh cho người sử dụng báo cáo mặc dù bộ phận đó không đạt 10% trong
năm trước, trừ khi không thể thực hiện được.
Thông tin bộ phận phải được lập và trình bày phù hợp với chính sách kế toán áp
dụng cho việc lập và trình bày BCTC hợp nhất hoặc BCTC của doanh nghiệp.
1.2.2.4. Xác định các chỉ tiêu trên báo cáo bộ phận cần công bố
Doanh nghiệp lập các BCBP chính yếu và BCBP thứ yếu căn cứ vào tính rủi ro
và lợi ích kinh tế. Nếu rủi ro và tỷ suất sinh lời của doanh nghiệp bị tác động chủ yếu
bởi những khác biệt về sản phẩm và dịch vụ mà doanh nghiệp đó sản xuất ra thì báo
cáo chính yếu phải căn cứ vào thông tin về lĩnh vực kinh doanh, còn báo cáo thứ yếu
phải căn cứ vào thông tin về khu vực địa lý. Nếu rủi ro và tỷ suất sinh lời của doanh
nghiệp bị tác động chủ yếu do doanh nghiệp hoạt động tại nhiều khu vực địa lý khác
nhau thì báo cáo chính yếu phải căn cứ vào thông tin về khu vực địa lý, còn báo cáo
thứ yếu phải căn cứ vào thông tin về lĩnh vực kinh doanh. Nếu rủi ro và tỷ suất sinh lời
của doanh nghiệp bị tác động bởi cả lĩnh vực kinh doanh và khu vực địa lý thì doanh
nghiệp có thể trình bày theo "phương pháp ma trận". Khi đó các thông tin về lĩnh vực
kinh doanh và khu vực địa lý đều được báo cáo theo bộ phận chính yếu và có phần
thuyết minh đầy đủ các thông tin cho mỗi cơ sở lập báo cáo.
Cơ cấu tổ chức, quản lý nội bộ của doanh nghiệp và hệ thống BCTC nội bộ cho
Ban Giám đốc thường là cơ sở để nhận biết nguồn và tính chất của các rủi ro và tỷ suất
49
sinh lời khác nhau của doanh nghiệp. Đó là cơ sở để xác định xem BCBP nào là chính
yếu và BCBP nào là thứ yếu.
Công bố thông tin bộ phận chính yếu
Doanh nghiệp phải trình bày doanh thu bộ phận và kết quả bộ phận theo từng
bộ phận cần báo cáo. Bên cạnh đó, doanh nghiệp còn phải trình bày “Tổng giá trị còn
lại của tài sản bộ phận”, “Nợ phải trả bộ phận”, “Tổng chi phí đã phát sinh trong niên
độ để mua tài sản cố định” - tài sản bộ phận dự kiến sẽ sử dụng nhiều hơn một niên
độ (Tài sản cố định hữu hình, Tài sản cố định vô hình và các tài sản dài hạn khác),
“Tổng chi phí khấu hao tài sản cố định và phân bổ chi phí trả trước dài hạn của bộ
phận” trong niên độ đã được tính trong chi phí để tính kết quả bộ phận theo từng bộ
phận cần báo cáo.
Với mỗi bộ phận cần báo cáo, doanh nghiệp phải trình bày tổng giá trị các
khoản chi phí lớn không bằng tiền, ngoại trừ chi phí khấu hao và chi phí phân bổ đã
được thuyết minh riêng rẽ.
Doanh nghiệp phải trình bày bảng đối chiếu giữa số liệu của các bộ phận và số
liệu tổng cộng trong BCTC của doanh nghiệp hoặc BCTC hợp nhất. Trong bảng đối
chiếu này, số liệu không thuộc các bộ phận báo cáo phải được gộp vào một cột. Doanh
nghiệp phải đối chiếu doanh thu bộ phận so với tổng doanh thu bán hàng ra bên ngoài,
trong đó nêu rõ doanh thu bán hàng ra bên ngoài chưa được báo cáo ở bất kỳ bộ phận
nào; kết quả kinh doanh của bộ phận với tổng kết quả kinh doanh của doanh nghiệp và
với lợi nhuận thuần của doanh nghiệp; tài sản bộ phận phải được đối chiếu với tổng tài
sản của doanh nghiệp; nợ phải trả của bộ phận phải đối chiếu với tổng nợ phải trả của
doanh nghiệp.
Công bố thông tin bộ phận thứ yếu
Nếu BCBP chính yếu được lập theo lĩnh vực kinh doanh thì BCBP thứ yếu phải
gồm các thông tin sau:
- Doanh thu bộ phận bán hàng ra bên ngoài theo khu vực địa lý dựa trên vị trí
của khách hàng, nếu doanh thu bán hàng ra bên ngoài của mỗi bộ phận đó chiếm từ
10% trở lên trên tổng doanh thu của doanh nghiệp bán hàng ra bên ngoài;
- Tổng giá trị còn lại của tài sản bộ phận theo vị trí của tài sản, nếu tài sản của
mỗi bộ phận đó chiếm từ 10% trở lên trên tổng tài sản của toàn bộ các khu vực địa lý;
- Tổng chi phí đã phát sinh trong niên độ để mua tài sản cố định - tài sản bộ
50
phận dự kiến sẽ sử dụng nhiều hơn một niên độ (tài sản cố định hữu hình, tài sản cố
định vô hình và các tài sản dài hạn khác) theo vị trí của tài sản, nếu tài sản của bộ phận
đó chiếm từ 10% trở lên trên tổng tài sản của các bộ phận.
Nếu BCBP chính yếu được lập theo khu vực địa lý (dựa trên vị trí của tài sản
hay vị trí của khách hàng) thì BCBP thứ yếu cũng phải thuyết minh các thông tin sau
đối với lĩnh vực kinh doanh có doanh thu từ việc bán hàng ra bên ngoài chiếm từ 10%
trở lên trên tổng doanh thu từ bán hàng ra bên ngoài của doanh nghiệp, hoặc tài sản bộ
phận chiếm từ 10% trở lên trên tổng tài sản của các bộ phận:
- Doanh thu bộ phận bán hàng ra bên ngoài;
- Tổng giá trị còn lại của tài sản bộ phận;
- Tổng chi phí phát sinh trong niên độ để mua tài sản cố định - tài sản bộ phận
dự kiến sẽ sử dụng nhiều hơn một niên độ (tài sản cố định hữu hình, tài sản cố định vô
hình, tài sản dài hạn khác).
Nếu BCBP chính yếu được lập theo khu vực địa lý, dựa trên vị trí tài sản và vị
trí khách hàng của doanh nghiệp khác với vị trí tài sản của doanh nghiệp thì doanh
nghiệp cần phải báo cáo doanh thu bán hàng ra bên ngoài cho mỗi bộ phận theo khu
vực địa lý, dựa trên vị trí của khách hàng và doanh thu từ việc bán hàng cho khách
hàng bên ngoài của nó chiếm từ 10% trở lên trên tổng doanh thu bán hàng ra bên ngoài
của doanh nghiệp.
- Tổng giá trị còn lại của tài sản bộ phận theo khu vực địa lý của tài sản;
- Tổng chi phí phát sinh trong kỳ để mua tài sản cố định - tài sản bộ phận dự
kiến sẽ sử dụng nhiều hơn một niên độ (tài sản cố định hữu hình, tài sản cố định vô
hình, tài sản dài hạn khác) theo vị trí của tài sản.
1.2.2.5. Lợi ích của việc công bố thông tin báo cáo bộ phận
Thông tin BCBP rất hữu ích với nhà quản trị và nhiều đối tượng sử dụng thông
tin khác nhau, giúp họ hiểu được kết quả hoạt động của doanh nghiệp trước đây và dự
tính được dòng tiền trong tương lai, những lợi ích của thông tin BCBP cần được xem
xét cụ thể hơn.
Có nhiều cách tiếp cận để tìm câu trả lời cho câu hỏi, liệu có cần thông tin bộ
phận hay không và người ta sử dụng thông tin này như thế nào, nhưng cách thú vị nhất
là, xem xét quá trình ra quyết định của đối tượng sử dụng thông tin, các loại thông tin
họ sử dụng và giá trị của những thông tin này.
51
Một trong số những cách đơn giản nhất là, hỏi đối tượng sử dụng thông tin xem
họ dùng những thông tin này để làm gì và loại thông tin nào có giá trị với họ. Mặc dù
cách này khó nhưng một nghiên cứu của Mande và Ortman, nhắm tới đối tượng là các
nhà phân tích tài chính Nhật Bản, đã cho kết quả, mặc dù khó xác định được khái niệm
bộ phận và tính nhất quán của việc công bố thông tin BCBP nhưng vẫn thấy được tính
hữu ích của thông tin này (Mande và Ortman, 2002).
Có một cách tiếp cận phổ biến hơn, đó là xem xét quyết định cụ thể của các đối
tượng sử dụng thông tin khác nhau. Với nhóm đối tượng quan trọng, là các nhà phân
tích tài chính, trong quá trình đưa ra dự báo về hoạt động của doanh nghiệp trong tương
lai, qua cách tiếp cận này, các dự báo về doanh nghiệp trong trường hợp sử dụng thông
tin bộ phận được so sánh với các dự báo trong trường hợp không sử dụng thông tin
BCBP. Một trong những nghiên cứu đầu tiên về cách tiếp cận này là nghiên cứu của
Baldwin, xem xét dự báo của các nhà phân tích tài chính về chỉ tiêu lãi trên cổ phiếu
của các doanh nghiệp Mỹ sau khi các doanh nghiệp này bắt đầu cung cấp thông tin
BCBP về lĩnh vực kinh doanh (LOB). Tác giả kết luận, thông tin BCBP đã giúp các
nhà phân tích tài chính có được những dự báo chính xác hơn (Baldwin, 1984). Sau này
có thêm nghiên cứu của Lobo và cộng sự, xem xét về ảnh hưởng của thông tin BCBP
theo khu vực địa lý với dự báo thu nhập, kết quả là, dự báo của các nhà quản trị doanh
nghiệp đã thay đổi khi sử dụng thêm thông tin BCBP (Lobo et al, 1998).
Tóm lại, BCBP rất cần thiết cho nhà quản lý trong kiểm soát, phân tích kết quả
hoạt động của các bộ phận trong doanh nghiệp; đánh giá thành quả của từng bộ phận
và toàn bộ doanh nghiệp. BCBP cho biết thông tin so sánh giữa các kỳ với nhau hoặc
giữa kế hoạch và thực hiện để nhà quản lý có thể kiểm soát được các hoạt động của
doanh nghiệp, đảm bảo đạt mục tiêu ở từng bộ phận và mục tiêu chung của doanh
nghiệp. Ngoài ra, BCBP giúp người sử dụng báo cáo nắm được hiệu quả kinh doanh
trong từng lĩnh vực, khu vực địa lý,... Thông qua phân tích BCBP, đối tượng sử dụng
thông tin có thể đánh giá được bộ phận hoạt động nào, lĩnh vực kinh doanh nào hay
khu vực địa lý nào có hiệu quả tốt với doanh nghiệp, cũng như mức độ rủi ro tiềm ẩn
của doanh nghiệp; bộ phận nào làm ảnh hưởng đến tổng thể lãi/ lỗ chung của toàn
doanh nghiệp. Từ đó, nhà quản lý và các đối tượng sử dụng thông tin có thể đưa ra các
biện pháp khắc phục, phương án hoạt động cũng như các quyết định kinh tế thích hợp.
52
1.3. CÔNG BỐ THÔNG TIN BÁO CÁO BỘ PHẬN THEO CHUẨN MỰC KẾ
TOÁN VIỆT NAM-VAS28 VÀ SỰ HOÀ HỢP CHUẨN MỰC KẾ TOÁN VIỆT NAM
VỚI CHUẨN MỰC KẾ TOÁN QUỐC TẾ -IFRS 8
1.3.1. Công bố thông tin báo cáo bộ phận theo chuẩn mực kế toán Việt
Nam VAS 28-Báo cáo bộ phận
Chuẩn mực Kế toán Việt Nam số 28 về báo cáo bộ phận được ban hành và công
bố theo Quyết định số 12/2005/QĐ-BTC ngày 15/02/2005 của Bộ trưởng Bộ Tài chính
về việc hành và công bố sáu Chuẩn mực Kế toán Việt Nam (đợt 4), có hiệu lực thi
hành từ ngày 23/03/2005.
Tiếp sau đó, căn cứ vào Quyết định số 12/2005/QĐ-BTC, Bộ Tài chính ban
hành Thông tư 20/2006/TT-BTC nhằm hướng dẫn kế toán thực hiện các chuẩn mực kế
toán nêu trên áp dụng cho các doanh nghiệp thuộc các ngành, các thành phần kinh tế
trong cả nước.
Chuẩn mực này quy định nguyên tắc và phương pháp lập báo cáo các thông tin
tài chính theo bộ phận, lĩnh vực kinh doanh và các khu vực địa lý khác nhau của doanh
nghiệp nhằm hỗ trợ người sử dụng báo cáo tài chính:
- Hiểu rõ về tình hình hoạt động các năm trước của doanh nghiệp: - Đánh giá
đúng về những rủi ro và lợi ích kinh tế của doanh nghiệp và - Đưa ra những đánh giá
hợp lý về doanh nghiệp.
- Nhiều doanh nghiệp cung cấp các nhóm sản phẩm và dịch vụ hoặc hoạt động
trong các khu vực địa lý khác nhau có tỷ lệ sinh lời, cơ hội tăng trưởng, triển vọng và
rủi ro khác nhau. Thông tin về các loại sản phẩm, dịch vụ tại các khu vực địa lý khác
nhau được gọi là thông tin bộ phận. Thông tin bộ phận cần thiết cho việc đánh giá rủi
ro và lợi ích kinh tế của doanh nghiệp có cơ sở ở nước ngoài hoặc doanh nghiệp có
phạm vi hoạt động trên nhiều tỉnh, thành phố trong cả nước. Thông tin bộ phận cũng
cần thiết cho người sử dụng báo cáo tài chính.
Chuẩn mực này áp dụng cho doanh nghiệp có chứng khoán trao đổi công khai
và doanh nghiệp đang phát hành chứng khoán trên thị trường chứng khoán. Khuyến
khích các doanh nghiệp không phát hành hoặc không có chứng khoán trao đổi công
khai áp dụng chuẩn mực này. Nếu doanh nghiệp không phát hành hoặc không có
chứng khoán trao đổi công khai tự nguyện áp dụng chuẩn mực này thì phải tuân thủ
đầy đủ các quy định của chuẩn mực.
53
1.3.2. Quy định của Uỷ ban Chuẩn mực kế toán quốc tế về công bố thông
tin báo cáo bộ phận
1.3.2.1. Chuẩn mực kế toán quốc tế IAS 14
IAS 14 được IASC ban hành lần đầu vào năm 1981 và có hiệu lực chính thức từ
ngày 01/01/1983. Chuẩn mực này có nội dung khá gần với SFAS 14 và do đó nó vẫn
chứa đựng những hạn chế của SFAS 14. IAS 14 đã có những sửa đổi quan trọng vào
năm 1997 và năm 2003 nhằm thống nhất với các chuẩn mực sửa đổi và các chuẩn mực
mới khác. Năm 2006, chuẩn mực BCTC quốc tế IFRS 08 được chính thức ban hành và
thay thế cho IAS 14.
Mục tiêu của chuẩn mực là thiết lập các nguyên tắc báo cáo thông tin tài chính
bộ phận - thông tin về các sản phẩm, dịch vụ khác nhau và các khu vực địa lý khác
nhau; nhằm giúp cho người sử dụng BCTC có sự hiểu biết tốt hơn về hiệu quả hoạt
động trong quá khứ của doanh nghiệp. Ngoài ra, thông tin bộ phận này đánh giá tốt hơn
các rủi ro và lợi ích của doanh nghiệp và đưa ra các đánh giá toàn diện hơn về tổng thể
doanh nghiệp.
Thông tin tài chính không cần phải được trình bày trên BCTC riêng của (a)
công ty mẹ, (b) công ty phụ thuộc, (c) công ty liên doanh theo phương pháp vốn chủ sở
hữu, (d) công ty liên kết theo phương pháp vốn chủ sở hữu mà được trình bày trên cùng
một báo cáo như báo cáo tài chính hợp nhất. Nếu một công ty phụ thuộc có trao đổi
chứng khoán công khai, nó sẽ trình bày thông tin bộ phận trên BCTC riêng.
1.3.2.2. Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế IFRS 08
Tháng 11 năm 2006, Ủy ban Chuẩn mực Kế toán Quốc tế (IASB) đã ban hành
Chuẩn mực Báo cáo Tài chính Quốc tế IFRS 8 - "Operating Segments" thay thế IAS
14, chính thức áp dụng từ ngày 01 tháng 01 năm 2009, nhằm đáp ứng yêu cầu của
chuẩn mực kế toán đã được chấp nhận chung tại Hoa Kỳ, SFAS 131. Một số tác động
cơ bản khi thay đổi từ IAS 14 sang IFRS 8 được thể hiện trên các khía cạnh sau:
Tác động đến BCTC
Truyền thông thông tin giữa nhà đầu tư và doanh nghiệp thông qua số liệu báo
cáo, theo cách nhìn của nhà quản trị được cải thiện. Theo báo cáo của Ủy Ban Châu
Âu, khi tiến hành khảo sát các nhà phân tích tài chính và các nhóm người khác nhau về
việc sử dụng BCTC thì, phần lớn người sử dụng cho rằng, thông tin dựa trên phương
pháp quản trị hữu ích hơn so với thông tin áp dụng theo IAS 14. Các thông tin bộ phận
54
theo IAS 14 khác với thông tin được sử dụng cho mục đích quản trị nội bộ. Do đó, nó
không phản ánh được tình hình thực tế kinh doanh của doanh nghiệp. Ngoài ra, các
thông tin này còn giúp cho việc đánh giá khả năng và năng lực của nhà quản trị. Nhà
đầu tư có thể có được những thông tin giống như nhà quản trị và tập trung vào những
yếu tố quan trọng với giá trị thông tin cao hơn. Qua đó, việc sử dụng phương pháp
quản trị nhìn chung có tác động tích cực đến chất lượng thông tin của BCBP, các thông
tin chung dựa trên phương pháp quản trị sẽ hữu ích và có liên quan nhiều hơn cho việc
ra quyết định của nhà đầu tư.
Tác động giảm chi phí thực hiện
Thông tin công bố dựa trên thông tin mà nhà quản trị sử dụng để điều hành hoạt
động của doanh nghiệp, do sử dụng số liệu sẵn có như này nên ít gia tăng chi phí. Đa
số nhận định đều cho rằng, chi phí cho việc trình bày BCBP theo IFRS 8 sẽ nhỏ hơn
hoặc ít nhất là sẽ không cao hơn chi phí để trình bày BCBP theo IAS 14, vì các thông
tin mà nhà quản trị sử dụng đã có sẵn. Các thông tin bộ phận của IAS 14 không sử
dụng cho mục đích ra quyết định hay theo dõi hoạt động của doanh nghiệp, do đó nó
chỉ được trình bày để phục vụ cho mục đích công bố thông tin ra bên ngoài. Áp dụng
IAS 14 sẽ tốn chi phí cho doanh nghiệp do phải duy trì cả hai hệ thống thông tin song
song, để cung cấp cho nhà quản trị trong công ty và đối tượng bên ngoài.
Công bố thông tin kịp thời
Các thông tin trình bày trong BCBP theo IFRS 8 là các thông tin nhà quản trị sử
dụng trong nội bộ doanh nghiệp để điều hành doanh nghiệp, do đó, các thông tin này
luôn có sẵn để đáp ứng nhu cầu thông tin, phục vụ cho việc ra quyết định kịp thời của
nhà quản trị. Khi lập BCBP, đặc biệt là báo cáo giữa niên độ, vì thế mà sẽ không mất
nhiều thời gian để có được các thông tin cần thiết và cung cấp báo cáo kịp thời cho
người sử dụng BCTC.
Các chi phí, trình bày BCBP theo IFRS 8 sẽ nhỏ hơn hoặc ít nhất là không
cao hơn chi phí trình bày BCBP theo IAS 14, vì thông tin nhà quản trị sử dụng đã
có sẵn (là thông tin được công khai trong nội bộ doanh nghiệp). Về lợi ích, các
thông tin bộ phận theo IFRS 8 được người sử dụng đánh giá là hữu ích hơn cho
người sử dụng BCTC.
55
1.3.3. Sự khác biệt về công bố thông tin bộ phận giữa chuẩn mực kế toán
quốc tế và chuẩn mực kế toán Việt Nam
Bảng 1.1: Sự khác biệt giữa VAS 28 và IFRS 8
VAS 28
IFRS 8
Các bộ phận hoạt động
Tựa đề Báo cáo bộ phận (BCBP)
BCTC của doanh nghiệp có chứng
BCTC riêng biệt của doanh nghiệp và
Phạm vi
áp dụng
khoán trao đổi công khai và doanh nghiệp đang phát hành chứng khoán
BCTC hợp nhất của tập đoàn theo mô hình công ty mẹ - con có chứng khoán được
trên TTCK.
giao dịch trên thị trường chứng khoán, hoặc doanh nghiệp đã lập hoặc chuẩn bị lập
BCTC (hợp nhất) của mình với mục đích phát hành bất kỳ loại công cụ nào trong thị
trường chứng khoán lên Uỷ ban Chứng khoán hoặc các tổ chức lập pháp khác.
-Định nghĩa bộ phận báo cáo là bộ phận theo lĩnh vực kinh doanh hoặc
-Định nghĩa bộ phận báo cáo không nhất thiết là bộ phận theo lĩnh vực kinh doanh
Các định nghĩa
theo khu vực địa lý. -Có đưa ra định nghĩa về doanh thu,
hoặc theo khu vực địa lý mà có thể là các hoạt động kinh tế có thể tạo ra doanh thu
chi phí, kết quả kinh doanh, tài sản, nợ phải trả của bộ phận
hoặc phát sinh chi phí, có các thông tin tài chính riêng biệt cho chúng và kết quả hoạt
động của chúng thường xuyên được các nhà quản lý xem xét để ra quyết định điều
hành hoạt động. -Không đưa ra định nghĩa về doanh thu, chi
phí, kết quả kinh doanh, tài sản, nợ phải trả của bộ phận
Hệ thống BCTC của đơn vị và cấu trúc doanh nghiệp là cơ sở để xác
Xác định các bộ phận hoạt động trên cơ sở báo cáo nội bộ thường xuyên được kiểm tra
Cơ sở xác định các
bộ phận
định BCBP nào là chính yếu và BCBP nào là thứ yếu.
bởi người ra quyết định hoạt động chính của doanh nghiệp, không phân biệt bộ phận
chính yếu và bộ phận thứ yếu.
Đối với bộ phận kinh doanh, được
Bộ phận hoạt động là nhân tố của doanh
Các yếu tố
xem xét các yếu tố sau: (a) Tính chất của hàng hóa và dịch vụ; (b)
nghiệp (a) liên quan đến kinh doanh từ hoạt động hình thành doanh thu hoặc phát sinh
được xem xét khi xác
Tính chất của quy trình sản xuất; (c) Kiểu hoặc nhóm khách hàng sử
chi phí (bao gồm doanh thu và chi phí liên quan đến các giao dịch với các bộ phận
định các bộ phận
dụng các sản phẩm hoặc dịch vụ;
khác trong cùng 1 doanh nghiệp); (b) kết
(d) Phương pháp được sử dụng để
quả hoạt động của bộ phận thường xuyên
phân phối sản phẩm hoặc cung cấp dịch vụ;(e) Điều kiện của môi trường pháp lý như hoạt động ngân hàng, bảo hiểm hoặc dịch vụ công
được kiểm tra lại bởi người ra quyết định chính trong doanh nghiệp về các nguồn lực được phân chia đến bộ phận đó và đánh giá hoạt động của nó; và (c) cho những yếu tố
cộng. Đối với bộ phận địa lý, xem xét các yếu tố sau: (a) Tính tương đồng của các điều kiện kinh tế và chính trị;
mà các thông tin tài chính rời rạc sẵn sàng”. Ba đặc điểm này của yếu tố hoạt động xác định rõ ràng các yếu tố hoạt động của doanh nghiệp. Tuy nhiên, các yếu tố khác
(b) Mối quan hệ của những hoạt động trong các khu vực địa lý khác
có thể xác định một bộ yếu tố đơn lẻ như các bộ phận hoạt động của doanh nghiệp,
nhau; (c) Tính tương đồng của hoạt động kinh doanh; (d) Rủi ro đặc biệt
bao gồm (a) bản chất hoạt động kinh doanh của mỗi bộ phận; (b) sự tồn tại của các nhà
có liên quan đến hoạt động trong một khu vực địa lý cụ thể; (e) Các
quản lý chịu trách nhiệm cho chúng; và (c) các thông tin được trình bày cho hội đồng
giám đốc.
quy định về kiểm soát ngoại hối; và (f) Các rủi ro về tiền tệ.
56
Xác định các bộ phận cần báo cáo
Chủ thể sẽ báo cáo các thông tin riêng biệt về bộ phận hoạt động nếu (a) doanh thu báo cáo của nó (bao gồm doanh thu từ hoạt động bán ra ngoài và doanh thu nội bộ) >=10% tổng doanh thu của các bộ phận hoạt động; hoặc (b) số lượng tuyệt đối của kết quả báo cáo >=10% tổng lợi nhuận báo cáo của tất cả các bộ phận hoạt động không báo lỗ và tổng lỗ báo cáo của tất cả các bộ phận báo lỗ; hoặc (c) tài sản của nó chiếm >=10% tổng tài sản của các bộ phận báo cáo. Tổng doanh thu từ bên ngoài của bộ phận báo cáo xác định chiếm 75% tổng doanh thu của chủ thể, nếu tổng các bộ phận hoạt động báo cáo nhỏ hơn 75%, các bộ phận tăng thêm cần được xác định như bộ phận có thể được báo cáo dù chúng không đáp ứng ngưỡng 10%
Bộ phận theo lĩnh vực kinh doanh hoặc bộ phận theo khu vực địa lý là bộ phận có thể được báo cáo nếu phần lớn doanh thu của họ được thu về từ việc bán hàng ra bên ngoài và (a) doanh thu từ việc bán cho khách hàng bên ngoài và giao dịch với các bộ phận khác >=10% tổng doanh thu của tất cả các bộ phận; hoặc (b) kết quả bộ phận của nó >= 10% tổng kết quả của tất cả các bộ phận, hoặc (c) tài sản của nó chiếm >= 10% tổng tài sản. Tổng doanh thu ra bên ngoài của bộ phận được báo cáo nhất định tạo thành 75% tổng doanh thu của chủ thể, nếu tổng các bộ phận báo cáo nhỏ hơn 75%, các bộ phận tăng thêm cần được xác định như bộ phận có thể được báo cáo dù chúng không đáp ứng ngưỡng 10%.
57
Kết hợp các thông tin bộ phận
Các bộ phận hoạt động có thể được kết hợp như một bộ phận hoạt động riêng lẻ vì chúng thường thể hiện các hoạt động tài chính dài hạn giống nhau, chúng có cùng các đặc điểm kinh tế và chúng cùng tuân theo các mục tiêu của IFRS.
Hai hay nhiều lĩnh vực kinh doanh hoặc khu vực địa lý tương đương có thể được kết hợp như một lĩnh vực kinh doanh hoặc khu vực địa lý riêng lẻ nếu chúng tương đương về tình hình tài chính và giống nhau trên mọi yếu tố xác định của các bộ phận nhất định. Tập trung vào các thông tin bộ phận phù hợp với BCTC hợp nhất của một doanh nghiệp.
Tập trung vào các thông tin bộ phận phản ánh cách thức mà các doanh nghiệp tiến hành kinh doanh.
Số lượng bộ phận công bố
Yêu cầu công bố các thông tin sau cho từng bộ phận được báo cáo:
Lãi/lỗ, bao gồm doanh thu và chi phí cụ thể trong lãi/lỗ bộ phận được báo cáo Tài sản Nợ phải trả Cơ sở thước đo của các công bố này Đối chiếu, điều chỉnh với các tài khoản hợp nhất
Chỉ yêu cầu phân tích địa lý đối với kết quả của bộ phận hoạt động nếu số liệu này thường xuyên được kiểm tra lại bởi CODM (*), khi đó công bố các thông tin sau đối với từng bộ phận báo cáo:
Doanh thu bán hàng ra ngoài Doanh thu nội bộ Doanh thu tài chính Chi phí tài chính Khấu hao Lãi từ hoạt động liên doanh, liên kết Chi phí thuế thu nhập
Các khoản chi phí không bằng tiền khác
Trình bày Nếu một chủ thể BCBP theo lĩnh vực kinh doanh như bộ phận chính yếu, thì BCBP theo khu vực địa lý như bộ phận thứ yếu và ngược lại. Báo cáo đối với bộ phận chính yếu: Yêu cầu trình bày các thông tin sau cho từng bộ phận được báo cáo: Doanh thu (bán hàng ra ngoài và bán hàng nội bộ) Kết quả Tài sản Nợ phải trả Chi phí mua tài sản cố định Khấu hao Các khoản chi không bằng tiền khác Đối chiếu, điều chỉnh với các tài khoản hợp nhất Báo cáo đối với bộ phận thứ yếu: Doanh nghiệp phải trình doanh thu (chỉ đối với các hoạt động bán ra ngoài), tài sản, chi phí mua tài sản cố định. Những công bố khác cho từng bộ phận có thể được báo cáo:
Một chủ thể sẽ công bố những thông tin chung sau:
Các nhân tố được sử dụng để xác định các bộ phận có thể báo cáo của chủ thể bao gồm cơ sở của tổ chức của họ. Sản phẩm và dịch vụ của một chủ thể Các khu vực địa lý của một chủ thể Các khách hàng chính của một chủ thể
Loại hình dịch vụ/ hàng hóa của từng lĩnh vực kinh doanh Thành phần của các khu vực địa lý Ghi chú: CODM (*): Người ra quyết định hoạt động chính, thường là Giám đốc điều hành hoạt động có thẩm quyền quyết định.
58
Như vậy có thể thấy, điểm khác biệt rõ nhất giữa VAS 28 và IFRS 8 là, IFRS 8
yêu cầu trình bày thông tin về các bộ phận trên cơ sở các thông tin mà các nhà quản trị
sử dụng để điều hành hoạt động của doanh nghiệp, trong khi VAS 28 yêu cầu trình bày
thông tin về các bộ phận trên cơ sở các thông tin tài chính tuân thủ theo chuẩn mực kế
toán tài chính đã được trình bày trong BCTC.
Theo IFRS 08 cải thiện việc truyền thông thông tin giữa nhà đầu tư và công ty
thông qua số liệu báo cáo theo cách nhìn của nhà quản trị. Các thông tin bộ phận theo
IAS 14 và VAS 28 khác với các thông tin được sử dụng cho mục đích quản trị nội bộ.
Do đó, nó không phản ánh được tình hình thực tế kinh doanh của doanh nghiệp. Ngoài
ra, công bố thông tin theo quan điểm của nhà quản trị trong quy định của IFRS 8 còn
giúp cho việc đánh giá khả năng và năng lực của nhà quản trị. Nhà đầu tư có thể có
được những thông tin giống như nhà quản trị và tập trung vào những yếu tố quan trọng
với giá trị thông tin cao hơn. Qua đó, báo cáo kết luận việc sử dụng phương pháp quản
trị nhìn chung có tác động tích cực đến chất lượng thông tin của BCBP. Các thông tin
chung dựa trên phương pháp quản trị sẽ hữu ích và có liên quan nhiều hơn cho việc ra
quyết định của nhà đầu tư, thông tin bộ phận công bố sẽ có tính hữu ích hơn so với việc
quy định tuân thủ như VAS 28 và IAS 14.
1.4. MỘT SỐ LÝ THUYẾT NỀN TẢNG VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG
ĐẾN CÔNG BỐ THÔNG TIN BÁO CÁO BỘ PHẬN
1.4.1. Một số lý thuyết ứng dụng trong nghiên cứu công bố thông tin báo
cáo bộ phận
1.4.1.1. Lý thuyết thông tin hữu ích
Lý thuyết thông tin hữu ích sử dụng khi công bố thông tin trên BCTC trong việc
ra quyết định bắt đầu phát triển từ năm 1955 (Berry and Robertson, 2006). Tại thời
điểm đó, BCTC bị chỉ trích vì hỗ trợ rất ít cho người ra quyết định liên quan đến các sự
kiện kinh tế, vì vậy yêu cầu đối với BCTC là, cần nâng cao khả năng hỗ trợ cho người
ra quyết định. Chamber cho rằng, cơ sở của việc ra quyết định liên quan đến nhiều vấn
đề thực tế, bao gồm các thông tin từ BCTC, tác giả còn cho rằng, thông tin trong
BCTC nên phù hợp với nhu cầu của người ra quyết định, đặc biệt là Báo cáo tài chính
cần phù hợp với các loại quyết định (Chamber, 1955).
Glautier và Underdown đã đề nghị, chất lượng và số lượng thông tin được cung
cấp bởi các tổ chức phụ thuộc vào khả năng của người sử dụng thông tin trong việc
59
đánh giá hoạt động của doanh nghiệp. Do đó, mục tiêu chính của thông tin kế toán là,
cung cấp các thông tin trên BCTC cho phép các cá nhân đưa ra quyết định tốt hơn bằng
cách cung cấp thông tin để họ phân tích tốt hơn (Glautier và Underdown, 2001).
Để thông tin tài chính hữu ích, một số đặc điểm sau cần được lưu ý: Thông tin
trên BCTC phải dễ hiểu, phù hợp, đáng tin cậy và có thể so sánh được, cho người ra
quyết định (Snavely, 1967; Sterling, 1970; Gray và cộng sự, 1996). Bốn yêu cầu quan
trọng này của thông tin trên BCTC rất hữu ích cho quá trình ra quyết định; khi một yêu
cầu bị mất thì số còn lại sẽ có thể không còn giúp cho thông tin cung cấp còn tính hữu
ích nữa. Bên cạnh đó, thông tin trên BCTC không nên có sự thiên vị mà nó nên khách
quan và kịp thời. Al-Khouri và Balqasem cho rằng, “thời gian thực tế (sự kịp thời là
phần quan trọng trong các thuộc tính của thông tin; việc công bố BCTC bị trì hoãn sẽ
dẫn đến việc giảm tầm quan trọng và tính hiệu quả của thông tin chứa đựng trong báo
cáo cũng như sự phù hợp cho quá trình ra quyết định” (Al-Khouri và Balqasem, 2006).
Sterling cho rằng, yếu tố quan trọng của một BCTC hữu ích là khách quan đối
với người ra quyết định. Tác giả kiến nghị, tính có thể kiểm tra được là yêu cầu thứ hai
của thông tin hữu ích, BCTC nên cung cấp thông tin về những quyết định có xu hướng
cho phép người ra quyết định đạt được mục tiêu nhu cầu của mình (Sterling, 1970).
Nghiên cứu giữa các lý thuyết tính hữu ích của thông tin trên BCTC trong việc
ra quyết định có thể được chia thành 2 hướng tiếp cận: (1) tập trung vào những người
ra quyết định nói chung và (2) tập trung vào các mô hình quyết định (Bebbington và
cộng sự, 2001; Gray và cộng sự, 1996). Theo hướng (1), các nhà nghiên cứu cố gắng
xác định xem những người ra quyết định muốn doanh nghiệp công bố những thông tin
gì; với giả thuyết rằng, những người sử dụng này đủ kiến thức để chọn thông tin tốt
nhất cho mình (Mathews và Perera, 1996; Deegan và Rankin, 1997). Tuy nhiên, các
kết quả từ hướng tiếp cận (1) thiếu tính mạch lạc, vì các nghiên cứu khác nhau xem xét
các loại thông tin khác nhau. Thêm vào đó, những nghiên cứu có xu hướng thay đổi vì
những nhóm người sử dụng trong khảo sát khác nhau, có thể có nhu cầu thông tin khác
biệt dẫn đến các kết luận rất khác nhau giữa các nghiên cứu. Ngược lại, mô hình quyết
định đặt mong muốn của người sử dụng đối với BCTC vào vị trí thứ hai, thay vào đó,
nó nhấn mạnh nhu cầu ở vị trí đầu tiên đối với những người lập BCTC (Beattie, 2005;
Hitz, 2007). Nói cách khác hướng tiếp cận (2) dựa vào nhận thức của người cung cấp
thông tin, quyết định xem đối tượng sử dụng cần gì để ra quyết định hữu ích.
60
Lý thuyết tính hữu ích của thông tin trên BCTC với việc ra quyết định đã được
sử dụng bởi ban soạn thảo chuẩn mực Mỹ trong Hội đồng chuẩn mực kế toán tài chính
(FASB) và các nhân viên soạn thảo chuẩn mực quốc tế về BCTC trong Hội đồng
chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB), trong quá trình chuẩn bị những quy định khung về
việc trình bày BCTC. Một số nghiên cứu trước đó đã áp dụng học thuyết này để nghiên
cứu những nghi vấn giống những nghi vấn hiện tại (Lee và Tweedie, 1979; Barena và
Laknishok, 1980; Appleyard và Strong, 1984; Berry và Robertson, 2006; Hitz, 2007;
Suwaidan và cộng sự, 2007; Dunne và cộng sự, 2008; Kribat, 2009; Finningham,
2010). Do đó, học thuyết này được chấp nhận và sử dụng rộng rãi bởi các nhà nghiên
cứu cũng như các nhà soạn thảo ban hành quy định lập và trình bày BCTC.
Áp dụng lý thuyết thông tin hữu ích trong công bố thông tin trên BCTC, công
bố thông tin bộ phận
Lý thuyết thông tin hữu ích đã được áp dụng bởi những người soạn thảo ra các
chuẩn mực kế toán như, IASB và FASB. Năm 1978, FASB đã ban hành thông báo
khái niệm Kế toán tài chính số 01 “Mục tiêu của Báo cáo tài chính đối với các doanh
nghiệp” (FASB, 1978). Tài liệu này đã nhấn mạnh lý do tại sao lý thuyết tính hữu ích
được FASB sử dụng. Ví dụ, SFAC số 1 đã khẳng định vai trò của BCTC trong nền
kinh tế là cung cấp các thông tin hữu ích cho quyết định kinh tế và kinh doanh, chứ
không phải xem xét quyết định nào được lựa chọn. Báo cáo tài chính phải cung cấp
thông tin khách quan, không sai lệch.
Đặc biệt, SFAC số 1 nêu rõ, thông tin trên BCTC là hữu ích cho mọi người sử
dụng, đặc biệt là nhà đầu tư và người cho vay. Theo SFAC số 01, FASB đã nhấn mạnh
tính dễ hiểu của các thông tin trên BCTC, “thông tin nên đảm bảo tính dễ hiểu cho
những người có am hiểu cơ bản về các hoạt động kinh tế và kinh doanh, sẵn sàng tiếp
thu các thông tin phù hợp" (FASB, 1980). SFAC số 1 cũng chỉ rõ những đặc điểm
quan trọng tạo nên tính hữu dụng của thông tin cho người ra quyết định.
Năm 1980, FASB đã ban hành thông báo về các khái niệm kế toán tài chính
(SFAC) số 2, “Các đặc điểm định tính của thông tin kế toán” (FASB, 1980). Trong tài
liệu này, FASB đã khái quát các đặc điểm khiến thông tin kế toán hữu dụng với mọi
đối tượng sử dụng; nó xác định, những đặc điểm này là “hệ thống chất lượng kế toán”
và nhấn mạnh tầm quan trọng của quyết định hữu ích khi hướng dẫn quy trình này
(FASB, 1980; Bonham và cộng sự., 2004).
61
Hệ thống này xác định hai yêu cầu quan trọng nhất của thông tin trên BCTC
trong việc ra quyết định là tính phù hợp và tin cậy (FASB, 1980). SFAC số 2 cho rằng,
tính có thể so sánh đứng ở vị trí thứ hai hoặc thuộc tính phù hợp và tin cậy nếu đảm
bảo, thông tin được chuẩn bị nhất quán qua các năm, tính nhất quán này cho phép
những người sử dụng BCTC có thể so sánh trong cùng 1 doanh nghiệp qua các khoảng
thời gian khác nhau hoặc các doanh nghiệp khác nhau trong cùng một thời điểm
(FASB, 1980). Theo SFAC số 02, thông tin kế toán phù hợp là khả năng tạo ra khác
biệt trong các quyết định bằng cách giúp người sử dụng đoán trước được kết quả trong
các sự kiện quá khứ, hiện tại và tương lai hoặc xác nhận hoặc đính chính các kỳ vọng
trước đó.
Một khía cạnh nữa của thông tin trên BCTC phù hợp là tính kịp thời, theo
Bonham và cộng sự, nó chính là thông tin nên sẵn sàng công bố cho người ra quyết
định trước khi nó có khả năng ảnh hưởng đến việc ra quyết định (Bonham và cộng
sự, 2004).
Tóm lại, việc phân tích nhận định của các nhà khoa học kế toán, tài liệu từ các
nghiên cứu kế toán trước đây, đã chứng minh lý thuyết tính hữu ích của thông tin là
nền tảng quan trọng trong các nghiên cứu về công bố thông tin trên BCTC. Luôn có sự
mất cân đối về thông tin giữa các đối tượng trong và ngoài doanh nghiệp, cụ thể đối
tượng bên ngoài có xu hướng dựa vào thông tin kế toán như một tài liệu quan trọng cho
việc ra quyết định kinh tế. Minh bạch trong cung cấp thông tin trên BCTC được xây
dựng trên nền tảng tính hữu ích của nó với các đối tượng sử dụng thông tin của doanh
nghiệp: nhà đầu tư, ngân hàng và các chủ nợ.
Trong những năm 1980, lý thuyết thông tin hữu ích được coi là nền tảng của các
chuẩn mực kế toán quốc tế. Lý thuyết này làm sáng tỏ mục đích của hoạt động kế toán
trong nền kinh tế thị trường và là kim chỉ nam cho việc xây dựng các chỉ tiêu và các
thông tin tài chính trên hệ thống BCTC. Lý thuyết thông tin hữu ích tạo ra nền tảng
phương pháp luận với việc xây dựng hệ thống các quy định về kế toán và kiểm toán.
Đây này là đặc biệt quan trọng trong điều kiện của những nước có nền kinh tế chuyển
đổi như Việt nam, khi các công cụ quản lý kinh doanh trước đây được hiểu là phục vụ
cho sự quản lý của nhà nước hơn là các ngân hàng, người cho vay, nhà cung cấp, khách
hàng và công chúng. Lý thuyết này là cơ sở để đánh giá hiệu quả tác dụng của việc sử
dụng thông tin cho các quyết định quản lý chứ không đơn thuần là để phục vụ cho yêu
cầu của pháp luật. Ngoài ra, lý thuyết thông tin hữu ích giúp người sử dụng thông tin
62
khác nhau có được những đánh giá khách quan về chất lượng thông tin trên BCTC của
doanh nghiệp.
Tóm lại, thông tin BCBP là cấu phần trong thông tin trên BCTC của doanh
nghiệp, lý thuyết tính hữu ích là cơ sở nghiên cứu tính hữu ích của thông tin trên
BCTC, do vậy lý thuyết này cũng được đề cập trong nghiên cứu thông tin công bố trên
BCBP trong hệ thống BCTC của đơn vị.
1.4.1.2. Lý thuyết đại diện
Lý thuyết đại diện xuất hiện trong bối cảnh việc quản trị kinh doanh gắn liền với
những nghiên cứu về hành vi của người chủ và người làm thuê, thông qua các hợp
đồng. Những nghiên cứu đầu tiên tập trung vào vấn đề về thông tin không hoàn hảo
trong những hợp đồng của ngành bảo hiểm. Tuy nhiên, phải đến năm 1976, từ kết quả
nghiên cứu của Michael C. Jensen và William H. Meckling trong “Theory of the firm:
Managerial behavior, agency costs and ownership structure” thì lý thuyết đại diện mới
thật sự được quan tâm nhiều. Nội dung của lý thuyết như sau: (1) Chủ thể (Principal)
hay chủ sở hữu vốn (Shareholders) và người đại diện (Agent) hay nhà quản trị
(Manager) luôn có sự đối nghịch về lợi ích. Người sở hữu vốn quan tâm đến giá trị
doanh nghiệp, giá cổ phiếu (cũng chính là lợi ích của bản thân họ), trong khi nhà quản
trị về cơ bản không quan tâm nhiều đến lợi ích của cổ đông mà quan tâm đến lợi ích
của mình (lương, thưởng, phụ cấp, nguồn thu khác dựa trên vị trí công tác). (2) Việc
không đồng nhất lợi ích giữa cổ đông (chủ sở hữu) và Giám đốc (người đại diện) làm
phát sinh một loại chi phí gọi là “chi phí đại diện” (agent costs), đây là loại chi phí để
duy trì một mối quan hệ đại diện hiệu quả (ví dụ một khoản tiền thưởng cho những gì
đã cống hiến của nhà quản trị để khuyến khích họ làm việc vì lợi ích của các cổ đông).
Chi phí này bằng không khi chủ sở hữu đồng thời là giám đốc doanh nghiêp, cụ thể
hơn, khi giám đốc sở hữu toàn bộ vốn của doanh nghiêp. Chi phí đại diện càng lớn khi
giám đốc sở hữu ít hoặc không sở hữu cổ phiếu doanh nghiệp, các chi phí đại diện bao
gồm: chi phí giám sát, chi phí ràng buộc và chi phí cơ hội.
- Chi phí giám sát (Monitoring cost) là những chi phí do người chủ trả để đo
lường, giám sát và kiểm tra hoạt động của người đại diện, như chi phí kiểm toán. Chi
phí này có thể gồm các chi phí cho hoạt động kiểm tra giám sát, chi phí ký kết hợp
đồng bồi hoàn và cuối cùng là chi phí sa thải đối với người đại diện. Ban đầu những chi
phí này do người chủ trả, cuối cùng thì đây là chi phí do người đại diện gánh chịu vì
63
các khoản tiền lương, tiền thưởng, các ưu đãi khác của họ sẽ bị điều chỉnh để bù cho
những chi phí này (Fama và Jensen,1983).
- Chi phí ràng buộc (Bonding cost) là chi phí để thiết lập một bộ máy có thể hạn
chế đến tối thiểu các hành vi quản trị không mong muốn (cần thiết), như bổ nhiệm
những thành viên bên ngoài vào ban điều hành hay tái thiết lập hệ thống tổ chức của
doanh nghiệp. Giả sử người đại diện là người cuối cùng gánh chịu chi phí giám sát,
rằng họ có thể xây dựng hệ thống hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận tối đa cho cổ đông,
hoặc họ sẽ chịu trách nhiệm bồi thường nếu vi phạm các điều khoản của hợp đồng đại
diện, khi đó chi phí thiết lập và giữ vững hệ thống hoạt động này được gọi là chi phí
ràng buộc.
- Chi phí cơ hội (Residual loss) là chi phí phát sinh khi cổ đông thuê người đại
diện và buộc phải đưa ra các hạn chế, ví dụ những thiệt hại do người đại diện lạm dụng
quyền được giao để tư lợi, những thiệt hại do việc đặt ra quy định đối với quyền bỏ
phiếu của cổ đông về các vấn đề cụ thể, thiệt hại từ những biện pháp kiểm soát hoạt
động của người đại diện. Bất chấp việc giám sát và sự ràng buộc, lợi ích của người đại
diện và cổ đông vẫn không chắc chắn là hoàn toàn đồng nhất, vì vậy, vẫn có thiệt hại
do vấn đề người đại diện phát sinh từ những mâu thuẫn lợi ích, những thiệt hại đó được
gọi là chi phí cơ hội.
Áp dụng lý thuyết đại diện cho vấn đề công bố thông tin trên BCTC, công bố
thông tin bộ phận của các DNNY.
Với các doanh nghiệp cổ phần nói chung và DNNY nói riêng, luôn có sự tách
biệt giữa quyền sở hữu và quản lý. Chủ sở hữu của các doanh nghiệp cổ phần ngày nay
có xu hướng sẽ thuê một giám đốc đại diện để điều hành doanh nghiệp cho mình. Chi
phí đại diện sẽ luôn phát sinh và đây là chi phí không thể tránh khỏi khi giám đốc và cổ
đông luôn không đồng nhất về lợi ích như đã đề cập. Người giám đốc điều hành này sẽ
phải đáp ứng các yêu cầu mà các cổ đông đề ra như, được đào tạo chuyên nghiệp, có
năng lực điều hành doanh nghiệp. Ngược lại, hợp đồng đại diện sẽ mang lại cho các
giám đốc - người đại diện những lợi ích không nhỏ, họ được quyền ra quyết định và
thực hiện các hoạt động được cho là sẽ đem lại lợi ích cho cổ đông, họ được hưởng
lương và các khoản lợi tức khác từ công việc quản trị doanh nghiệp. Khi bỏ tiền ra thuê
người đại diện điều hành doanh nghiệp, cổ đông - chủ sở hữu doanh nghiệp mong
muốn, mọi hoạt động của người đại diện đều nhằm mục đích tối đa hoá giá trị tài sản
64
của doanh nghiệp, gia tăng cổ tức. Trong khi đó, người đại diện - người điều hành
doanh nghiệp lại có những lợi ích cá nhân riêng biệt, họ có thể trực tiếp quyết định hay
ngụy tạo ra các lý do khiến các chủ sở hữu không thực hiện đầu tư vào những dự án có
tỷ suất sinh lợi cao vì tâm lý e ngại rủi ro, hoặc quyết định đầu tư vào những dự án
không đem lại lợi nhuận tối ưu cho doanh nghiệp nhưng vẫn đem lại lợi nhuận cho
riêng họ. Trong khi đó các chủ sở hữu, nhà đầu tư, những người cần thông tin để ra
quyết định lại khó có cơ hội tiếp cận với thông tin. Để kiểm soát hoạt động của doanh
nghiệp, chủ sở hữu phải gia tăng các hoạt động giám sát dẫn đến việc gia tăng chi phí
đại diện. Tăng cường mức độ công bố và minh bạch thông tin sẽ làm giảm sự bất đối
xứng thông tin giữa các cổ đông và nhà quản lý, do đó làm giảm chi phí đại diện, lý
thuyết đại diện thường được sử dụng để giải thích việc minh bạch thông tin hay gia
tăng việc thuyết minh tự nguyện của người điều hành doanh nghiệp (Robert Bushman
and Smith, 2001).
Hành vi của người đại diện (nhà quản lý) ảnh hưởng đến việc tăng mức độ công
bố thông tin (CBTT) hay minh bạch thông tin khi xem xét và cân nhắc giữa lợi ích và
chi phí cho việc CBTT. Khi hợp đồng giữa chủ sở hữu và nhà quản lý đạt hiệu quả,
lợi ích của nhà quản lý được đảm bảo, họ sẽ hành động hoàn toàn vì lợi ích của chủ
sở hữu, tăng cường sự minh bạch thông tin, phục vụ cho lợi ích của chủ sở hữu.
Ngoài ra, Lý thuyết đại diện còn được sử dụng để giải thích ảnh hưởng của nhân tố
quy mô doanh nghiệp, kết quả tài chính, hiệu quả sử dụng tài sản, tỷ suất đòn bẩy tài
chính hay cơ cấu HĐQT đến tính minh bạch của thông tin trên BCTC nói chung hay
công khai thông tin BCBP của các DNNY trong các giả thuyết nghiên cứu ở những
phần tiếp theo.
Lý thuyết tính hữu ích của thông tin cung cấp và lý thuyết đại diện đã giải thích
cho tính tất yếu của việc cung cấp thông tin trên BCTC nói chung và thông tin BCBP
nói riêng tại các DNNY.
1.4.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến công bố thông tin báo cáo bộ phận
Nhân tố liên quan đến quy mô doanh nghiệp
Lý thuyết đại diện (agency theory) đề cập đến quy mô doanh nghiệp có ảnh
hưởng đến việc công bố thông tin. Học giả Alchian (1996) và Stigler (1961) đã nhận
định, các nhà quản trị doanh nghiệp cần xây dựng hệ thống thông tin nội bộ hiệu quả,
giúp họ đưa ra các quyết định chiến lược, các quyết định về hoạt động của doanh
65
nghiệp, đảm bảo tất cả các bộ phận đều hoạt động đúng như kế hoạch đã đề ra. Xét trên
góc độ quy mô doanh nghiệp, nhiều nghiên cứu đã chứng minh, chi phí cơ hội của việc
công khai thông tin tài chính là cao hơn ở các doanh nghiệp có quy mô lớn, đây là một
lí do các doanh nghiệp nhỏ sẽ hạn chế công khai thông tin hơn các doanh nghiệp có
quy mô lớn. Inchausti (1997) đã khẳng định trong nghiên cứu của mình, đối với các
doanh nghiệp có quy mô lớn thì nguồn huy động vốn lớn nhất là thị trường vốn, thị
trường chứng khoán, do vậy cần công khai thông tin tuân thủ quy định của thị trường là
điều tất yếu. Hơn nữa, để giải quyết mâu thuẫn trong mối quan hệ giữa doanh nghiệp,
chủ nợ và nhà quản lý thì việc công khai thông tin là một giải pháp không tồi. Dựa trên
kết quả các nghiên cứu thực nghiệm của các tác giả (Nichols và street, 2007; Suwaidan
et al, 2007; Talha et al, 2007) có thể thấy, có mối quan hệ chặt chẽ giữa quy mô doanh
nghiệp và mức độ cung cấp thông tin BCBP ở các quốc gia khác nhau, và mối quan hệ
này là thuận chiều.
Nhân tố liên quan đến loại hình doanh nghiệp
Ngành nghề kinh doanh của các doanh nghiệp khác nhau sẽ có ảnh hưởng đến
các mức độ công bố thông tin trên báo cáo thường niên, lý do là các doanh nghiệp ở
các ngành nghề khác nhau sẽ đối mặt với mức độ cạnh tranh, mức độ rủi ro và cơ hội
tăng trưởng khác nhau, trong nghiên cứu của các học giả Verecchia, Biddle và Seow có
thể thấy, mức độ cạnh tranh là khác nhau trong các ngành khác nhau bởi mỗi ngành có
số lượng doanh nghiệp khác nhau (Verecchia, 1983; Biddle và Seow, 1991). Công bố
thông tin BCBP liên quan đến công khai những bộ phận có khả năng sinh lời cao, điều
này sẽ dẫn đến khả năng làm giảm thu nhập đối với các doanh nghiệp hoạt động trong
những lĩnh vực có số lượng doanh nghiệp tham gia nhiều.
Nhân tố liên quan đến kết quả sinh lời của doanh nghiệp
Theo lý thuyết đại diện (The Agency Theory), các nhà quản lý trong các doanh
nghiệp có khả năng sinh lời cao công bố thông tin ra bên ngoài để thực hiện các mục
tiêu của riêng mình. Họ sẽ cung cấp thông tin chi tiết để công khai kế hoạch thực hiện
mục đích của mình. Rất nhiều công trình nghiên cứu kết luận, có mối quan hệ mật thiết
giữa khả năng sinh lời của doanh nghiệp với mức độ công bố thông tin BCBP. Trong
nhóm nghiên cứu định lượng phải kể đến nghiên cứu của các học giả Wallace et at
(1994), Talha et al (2006, 2007), Suwaidan et al (2007).
66
Nhân tố liên quan đến chủ thể kiểm toán
Nhiều nghiên cứu cho thấy, kiểm toán có vai trò ảnh hưởng đến nội dung công
bố thông tin của khách hàng. Các học giả Wallace, Naser và Mora (1994) cho rằng,
những doanh nghiệp kiểm toán lớn đưa ra yêu cầu kiểm toán cao hơn bởi họ muốn giữ
danh tiếng của mình, họ xây dựng những nguyên tắc, yêu cầu nghiêm ngặt với khách
hàng. Các doanh nghiệp kiểm toán lớn, doanh nghiệp quốc tế có lợi thế hơn trong kiểm
soát việc áp dụng hệ thống chuẩn mực kế toán quốc tế cũng như hệ thống chuẩn mực
quốc gia. Nguyên nhân là, các doanh nghiệp này có đội ngũ nhân viên được đào tạo
cao cấp hơn. Bằng phương pháp thực nghiệm, nghiên cứu của Prather-kinsey và Meek
(2004) đã khẳng định, các doanh nghiệp kiểm toán thuộc Big4 thực hiện kiểm toán tại
các DNNY trên TTCK có sự tuân thủ chuẩn mực công bố thông tin BCBP cao hơn các
doanh nghiệp khác.
Nhân tố liên quan đến sàn giao dịch DNNY
Có nhiều nghiên cứu xem xét đến nhân tố niêm yết trên sàn giao dịch hay
TTCK nào ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin BCBP. Nghiên cứu của Herrman
và Thomas (1996) đã chứng minh, các DNNY ở sàn giao dịch lớn, sàn giao dịch quốc
tế có động lực công bố thông tin chi tiết, đầy đủ hơn các DNNY ở thị trường nhỏ. Lý
do là các DNNY ở sàn giao dịch lớn có nhiều cổ đông và chịu sự theo dõi, kiểm soát
lớn hơn; hơn nữa, bản thân qui định về công bố thông tin tài chính của những thị
trường lớn thường nhiều và chi tiết hơn.
Nhân tố liên quan đến tài sản đảm bảo
Một số nghiên cứu cho rằng, doanh nghiệp có giá trị tài sản càng cao thì mức độ
công bố thông tin BCBP cho nhà đầu tư bên ngoài càng nhiều, (Cheung và cộng sự,
2005). Tuy nhiên, có những nghiên cứu lại cho rằng, doanh nghiệp có tài sản lớn ít có
nhu cầu công bố thông tin BCBP vì họ lo ngại người cho vay có thể nắm giữ quyền sở
hữu doanh nghiệp nếu doanh nghiệp phá sản.
Nhân tố liên quan đến mức độ sở hữu trong doanh nghiệp
Nhà đầu tư là đối tượng nhận được nhiều lợi ích nhất từ việc công bố thông tin
của doanh nghiệp. Một số nghiên cứu cho rằng, mức độ sở hữu tập trung cổ phiếu có
thể dẫn đến quản trị doanh nghiệp tốt hơn, dẫn đến mức độ công bố thông tin BCBP
nhiều hơn, làm giảm khả năng nhà quản lý gây thiệt hại cho cổ đông (McConnell và
Servaes, 1990). Tuy nhiên, một số nghiên cứu khác (thực nghiệm tại các thị trường
Đông Á) lại cho rằng, tập trung vốn chủ sở hữu có thể dẫn đến mâu thuẫn về quyền sở
67
hữu giữa người sở hữu bên trong và nhà đầu tư bên ngoài doanh nghiệp (Claessens và
cộng sự, 2000). Vì vậy, mức độ công bố thông tin BCBP của các doanh nghiệp này có
thể giảm (LaPorta và cộng sự, 1998).
Ngoài ra, theo lý thuyết thông tin bất cân xứng, Jensen va Meckling (1976) cho
rằng, xung đột lợi ích có thể xảy ra giữa các cổ đông lớn và các cổ đông thiểu số, do
các cổ đông lớn thường có thông tin trước các cổ đông thiểu số. Những nhà đầu tư lớn
hơn trong doanh nghiệp có lợi thế nhiều hơn, vì thế mà có thể thu thập được thông tin
trực tiếp từ doanh nghiệp nhiều hơn các nhà đầu tư khác. Và doanh nghiệp có nhiều
nhà đầu tư lớn (sở hữu lượng cổ phiếu lớn) cũng ít phụ thuộc vào các nhà đầu tư nhỏ
(sở hữu lượng cổ phiếu nhỏ), vì vậy, doanh nghiệp có mức độ tập trung vốn chủ sở hữu
cao sẽ công bố thông tin BCBP ít hơn.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Trong nội dung của chương 1, tác giả đã hệ thống hoá một số lý thuyết về
thông tin kế toán, thông tin BCTC, công bố thông tin BCTC, công bố thông tin
BCBP, cũng như ý nghĩa của việc công bố thông tin BCBP. Ngoài ra, những lý
thuyết nền tảng cho các nghiên cứu liên quan đến công bố thông tin trên BCTC, có
thể áp dụng cho vấn đề minh bạch thông tin BCTC của các DNNY nói chung và vấn
đề công bố thông tin BCBP nói riêng.
Trên cơ sở một số nghiên cứu đã được thực hiện trên thế giới cũng như trong
nước về đánh giá mức độ công bố thông tin BCBP và đánh giá các nhân tố ảnh hưởng
đến mức độ công bố thông tin BCBP, tác giả kế thừa một số kết quả nghiên cứu, cân
nhắc xem xét vận dụng trong đều kiện của Việt Nam sao cho phù hợp với một nền kinh
tế đang phát triển, mang trong mình những đặc điểm văn hoá khác biệt, đặc trưng, để
hiệu chỉnh và xây dựng mô hình nghiên cứu cũng như đưa ra các giải pháp cụ thể, thiết
thực trong các nội dung tiếp theo.
68
Chương 2
THỰC TRẠNG CÔNG BỐ THÔNG TIN BÁO CÁO
BỘ PHẬN TRONG HỆ THỐNG BÁO CÁO TÀI CHÍNH
TẠI CÁC DOANH NGHIỆP CỔ PHẦN NIÊM YẾT TRÊN
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
2.1. TỔNG QUAN CÁC DOANH NGHIỆP CỔ PHẦN NIÊM YẾT TRÊN THỊ
TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của doanh nghiệp cổ phần niêm
yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Nền kinh tế Việt Nam chuyển mình từ kế hoạch hoá tập trung sang thị trường
đã tạo một bước ngoặt trong sự phát triển tích cực, hội nhập với nền kinh tế quốc tế.
Vốn là điều kiện tiên quyết để phát triển trong nền kinh tế thị trường, bởi vậy sự ra đời
của TTCK, mục đích là huy động các nguồn vốn trung, dài hạn trong và ngoài nước để
đầu tư phát triển, trở thành nhu cầu tất yếu của nền kinh tế Việt Nam. Không những
vậy, TTCK ra đời cũng giúp cho tiến trình cổ phần hoá các Doanh nghiệp nhà nước
được thực hiện minh bạch và công khai hơn.
Xây dựng và phát triển TTCK đã được Đảng và chính phủ Việt Nam định
hướng từ những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX. Ngày 28 tháng 11 năm 1996, Ủy
ban Chứng khoán Việt Nam được thành lập theo Nghị định 75/NĐ - CP ngày 11
tháng 07 năm 1998 của Chính phủ: Ban hành về chứng khoán và TTCK, khai sinh
cho TTCK Việt Nam. Thủ tướng Chính phủ cũng đã ký quyết định thành lập 2 sàn
giao dịch chứng khoán tại TP. Hồ Chí Minh và Hà Nội, đều đã chính thức đi vào hoạt
động, đánh dấu sự ra đời, hoạt động chính thức của TTCK Việt Nam. Đây được coi
như đòi hỏi tất yếu của nền kinh tế, trở thành kênh huy động vốn để tập trung cho sự
phát triển của nền kinh tế. Ngày 20/07/2000, TTCK Việt Nam chính thức đi vào hoạt
động ở Việt Nam.
Để tìm hiểu tình hình hoạt động của các DNNY trên TTCK hiện nay, tác giả đã
tiến hành xem xét các DNNY theo những tiêu chí sau:
Theo quy mô vốn
TTCK Việt Nam hiện có 2 sàn giao dịch hoạt động tại TP. Hồ Chí Minh
(HOSE) và Hà Nội (HNX). Sàn HOSE bắt đầu hoạt động từ ngày 20/7/2000, sàn HNX
69
bắt đầu hoạt động từ ngày 14/7/2005. Tại sàn Giao dịch chứng khoán Hà Nội, tính đến
thời điểm 31/12/2015, có 377 DNNY với tổng khối lượng niêm yết: 10.597.555.959 cổ
phiếu, tổng giá trị niêm yết: khoảng 105.975.559 triệu đồng, tổng giá trị vốn hoá thị
trường: 151.607.768 triệu đồng.
Sơ đồ 2.1: Giá trị vốn hoá thị trường theo thời gian
ĐVT: nghìn tỷ đồng
Vốn hóa thị trường
1400
1200
1000
800
600
400
200
0
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
2012
2013
2014
2015
Vốn hóa thị trường
Nguồn: Tác giả tổng hợp
Tại sàn HOSE, tính đến thời điểm 31/12/2015, có 347 DNNY với tổng khối
lượng niêm yết: 42.610.727.042 cổ phiếu, tổng giá trị niêm yết: khoảng 434.071 tỷ
đồng, tổng giá trị vốn hoá thị trường: 1.146.925 tỷ đồng.
Theo thời gian lên sàn
TTCK Việt Nam ra đời ngày 20/7/2000 tại TP. Hồ Chí Minh, phiên giao dịch
đầu tiên bắt đầu vào ngày 28/7/2000, với sự có mặt của 5 DNNY đầu tiên, trong đó có
Công ty Cổ phần Cơ điện lạnh có mã chứng khoán là REE và Công ty Cổ phần Cáp và
Vật liệu viễn thông có mã chứng khoán là SAM,… Tính đến ngày 31/12/2015, qua gần
15 năm hoạt động, cả hai sàn giao dịch có 724 DNNY.
70
Sơ đồ 2.2: Số lượng DNNY theo thời gian
Số lượng CTNY
800
700
600
500
400
Số lượng CTNY, 724
300
200
100
0
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015
Nguồn: Tác giả tổng hợp
Theo ngành nghề Thông qua thống kê các DNNY, hoạt động trên sàn HOSE, ngành nghề hoạt động của các doanh nghiệp, chủ yếu tập trung vào 16 nhóm ngành, được tổng hợp (tính đến thời điểm 31/12/2015) theo bảng 2.1 sau:
TT
Lĩnh vực/ nghành nghề
STT
Lĩnh vực/ nghành nghề
Số lượng 25 105
1 Vận tải kho bãi 2 Công nghiệp chế biến, chế tạo
Số lượng 5 48
30
3 Xây dựng
9 Dịch vụ lưu trữ và ăn uống 10 Bán, sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác 11 Nông nghiệp, lâm nghiệp và
7
thuỷ sản
15
4
12 Tài chính, ngân hàng và bảo
25
hiểm
Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí 5 Hoạt động kinh doanh bất
38
13 Cung cấp nước vài xử lý rác
5
động sản
thải
6 Các dịch vụ vui chơi giải trí 7 Hoạt động hành chính và dịch
5 1
14 Thông tin truyền thông 15 Hoạt động chuyên môn, khoa
4 2
học và công nghệ
Bảng 2.1: Số lượng DNNY sàn HOSE phân theo lĩnh vực hoạt động.
vụ hỗ trợ 8 Khai khoáng
Cộng Tổng cộng
17 113
15 234
Cộng 347
16 Lĩnh vực khác Nguồn: Tổng hợp từ website của Sàn Giao dịch Chứng khoán TP. Hồ Chí Minh
71
Với sàn Hà Nội, ngành nghề kinh doanh của các DNNY tập trung vào 11 nhóm
ngành, được tổng hợp (tính đến thời điểm 31/12/2015) theo bảng 2.2 sau:
TT
Lĩnh vực/nghành nghề
STT
Lĩnh vực/ nghành nghề
Số lượng
Số lượng
12
1 Nông nghiệp
7
Nguyên vật liệu
32
18
2 Hàng tiêu dùng
8
Xây dựng và bất động sản
161
22
3 Năng lượng
9
Dịch vụ
47
30
4
Tài chính
10 Công nghệ thông tin
12
7
5 Y tế
11 Điện tử viễn thông
3
33
6 Công nghiệp
Bảng 2.2: Số lượng DNNY trên sàn HNX phân theo lĩnh vực hoạt động
Tổng cộng
122
Cộng
255
Tổng cộng
377
Nguồn: Tổng hợp từ website của Sàn Giao dịch Chứng khoán Hà Nội
Dù ra đời chưa lâu nhưng TTCK Việt nam đã chứng tỏ được, đây là kênh huy
động vốn trung và dài hạn quan trọng của nền kinh tế. Lượng vốn huy động từ TTCK
qua các phương thức phát hành chứng khoán có xu hướng không ngừng tăng. Ngày
càng thấy TTCK Việt Nam không thể thiếu trong sự phát triển của nền kinh tế, giúp
Chính phủ và doanh nghiệp huy động vốn, mở rộng quy mô phát triển sản xuất, thu hút
nguồn tiền nhàn rỗi trong dân. TTCK Việt Nam cũng ngày càng thu hút được sự quan
tâm, đầu tư từ các nhà đầu tư nước ngoài, tích cực thu hút các nguồn ngoại tệ. Cùng với
sự minh bạch trong công bố thông tin, các doanh nghiệp Việt Nam đang từng bước đổi
mới trong quản lý và quản trị công ty, hoàn thiện hệ thống kế toán doanh nghiệp, nâng
cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước.
2.1.2. Ðặc điểm của các doanh nghiệp cổ phần niêm yết ảnh hưởng đến
công bố thông tin trên báo cáo tài chính
Khi nghiên cứu về công bố BCBP tại các DNNY ở Việt Nam, mỗi DNNY trên
sàn chứng khoán có những đặc điểm riêng, khác biệt với các doanh nghiệp khác, chính
những điểm khác biệt này đã có tác động quan trọng đến việc công bố thông tin của
doanh nghiệp. Tác giả xin trình bày một số đặc điểm cơ bản của các DNNY ảnh hưởng
đến công bố thông tin trên BCTC trong nội dung dưới đây:
Các DNNY có sự tách biệt giữa chủ sở hữu và người điều hành doanh nghiệp
Các DNNY vốn là doanh nghiệp cổ phần do nhiều cổ đông sở hữu, khi niêm
yết, các giao dịch mua bán, trao đổi cổ phiếu trên TTCK góp phần thúc đẩy sự gia tăng
72
số lượng cổ đông của các DNNY. Không giống như các loại hình doanh nghiệp khác,
các doanh nghiệp này có sự tách biệt giữa chủ sở hữu và người điều hành doanh
nghiệp. Lý thuyết người đại diện (agency theory) chỉ ra rằng, có sự chênh lệch về nắm
giữ thông tin giữa người điều hành doanh nghiệp và chủ sở hữu. Người đại diện, là
người trực tiếp điều hành kinh doanh có nhiều thông tin về doanh nghiệp hơn và hành
động theo hướng có lợi cho bản thân mình hơn là cho cổ đông hoặc nhà đầu tư. Cổ
đông cần có thông tin về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp để đảm bảo lợi ích
đầu tư của mình, vì vậy ban giám đốc cần công bố nhiều thông tin tới cổ đông để giúp
họ nắm được tình hình của doanh nghiệp và thực hiện vai trò giám sát hiệu quả của các
khoản đầu tư. Nếu có hành vi gian lận về thông tin sẽ ảnh hưởng đến không chỉ nhà
đầu tư mà còn rất nhiều người khác, gây hậu quả nghiêm trọng cho xã hội. Vì vậy các
quy định nghiêm ngặt của sàn giao dịch chứng khoán về công bố thông tin đầy đủ,
chính xác dành cho các DNNY là cần thiết, giúp bảo vệ lợi ích cho nhà đầu tư nói riêng
và nền kinh tế nói chung.
Các DNNY thường có quy mô lớn
Theo Nghị định 58/2012/NÐ-CP, ban hành ngày 20 tháng 7 năm 2012 và Nghị
định 60/2015/NĐ-CP, ban hành ngày 26 tháng 6 năm 2015, các doanh nghiệp cổ phần
muốn niêm yết trên sàn Giao dịch Chứng khoán TP. Hồ Chí Minh phải có vốn điều lệ
đã góp từ 120 tỷ đồng trở lên, trên sàn Giao dịch Chứng khoán Hà Nội là 30 tỷ đồng
trở lên. Nghị định 56/2009/NÐ-CP phân loại doanh nghiệp vừa là doanh nghiệp có vốn
từ 20 tỷ đến 100 tỷ đồng đối với ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản, công nghiệp và
xây dựng; có vốn từ 10 tỷ đến 50 tỷ đồng đối với ngành thương mại dịch vụ. Như vậy
các DNNY trên sàn Giao dịch Chứng khoán TP. Hồ Chí Minh là các doanh nghiệp lớn
và các DNNY trên sàn chứng khoán Hà Nội là các doanh nghiệp vừa. Các doanh
nghiệp có quy mô lớn thường có hoạt động kinh doanh đa dạng, phức tạp hơn so với
các doanh nghiệp quy mô nhỏ, vì vậy để phân tích và đánh giá được hiệu quả của các
hoạt động cụ thể của những doanh nghiệp này thì việc trình bày, công bố các thông tin
chi tiết là rất cần thiết cho nhà đầu tư và những người sử dụng BCTC.
Nhiều quy định cần phải tuân thủ hơn so với các doanh nghiệp khác
Khác với các doanh nghiệp không niêm yết, những quy định mà DNNY bắt
buộc phải tuân thủ nhiều và nghiêm ngặt hơn. Ngoài các quy định pháp lý áp dụng
chung cho tất cả các doanh nghiệp thì DNNY còn phái tuân thủ theo quy chế niêm yết
của sàn giao dịch chứng khoán cũng như quy định của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước.
73
Những quy định nghiêm ngặt của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước và sàn giao dịch
chứng khoán đòi hỏi các DNNY chú ý nhiều hơn tới việc công bố thông tin cho thị
trường, nhằm đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư.
Khả năng huy động vốn dễ dàng hơn
Ðiểm thuận lợi của DNNY là khả năng dễ huy động vốn tăng khi có nhu cầu
vốn phục vụ cho mục đích kinh doanh. Do vậy các doanh nghiệp khi mở rộng quy mô,
việc niêm yết sẽ giúp huy động thêm nguồn vốn trên thị trường để mở rộng đầu tư,
phát triển kinh doanh. Tuy nhiên, để huy động được nguồn vốn từ thị trường, các
doanh nghiệp phái chứng minh, tạo được niềm tin cho nhà đầu tư về tính hiệu quả của
hoạt động kinh doanh trong tương lai. Chính vì thế, các công bố về thông tin tài chính,
kinh doanh của doanh nghiệp đóng vai trò như một công cụ quan trọng, truyền thông
đến thị trường, giúp nhà đầu tư hiểu hơn về hoạt động của doanh nghiệp hiện tại cũng
như kế hoạch xây dựng, phát triển trong tương lai, lợi nhuận và các lợi ích khác, dự báo
rủi ro tiềm tàng.
2.1.3. Vai trò của doanh nghiệp cổ phần niêm yết trên thị trường chứng
khoán Việt Nam
Trong xu thế hội nhập và phát triển của nền kinh tế đất nước, ngoài việc phát
huy vai trò của doanh nghiệp, đem lại các giá trị cho xã hội từ hoạt động sản xuất kinh
doanh như những doanh nghiệp khác, DNNY trên TTCK Việt Nam còn đóng vai trò
quan trong trong tái cơ cấu nền kinh tế, bố trí, sắp xếp lại nghành nghề, thúc đẩy tiến
trình hội nhập của nền kinh tế. Có thể khái quát vai trò của các DNNY trên TTCK Việt
Nam qua một số điểm chính sau:
- Thúc đẩy quá trình cải cách nền kinh tế: Các DNNY gắn liền với huy động
vốn từ nhà đầu tư thông qua phát hành chứng khoán, góp phần thúc đẩy nhanh việc sắp
xếp khu vực doanh nghiệp nhà nước, theo tiến trình cải cách nền kinh tế của Chính phủ
và huy động vốn cho ngân sách nhà nước. DNNY là loại hình doanh nghiệp tiên tiến,
chịu sự giám sát của nhiều đối tượng như, các cơ quan quản lý (Ủy ban Chứng khoán
Nhà nước); các sở giao dịch chứng khán; các tổ chức trung gian, nghề nghiệp (công ty
chứng khoán, công ty kiểm toán,...); các cơ quan truyền thông và công chúng, đồng
thời tuân thủ nghiêm ngặt pháp luật và quy định của nơi niêm yết nên khả năng thu hút
vốn của doanh nghiệp này là rất lớn.
- Thúc đẩy sự phát triển của TTCK: Các DNNY phát hành các loại chứng
khoán đa dạng, thúc đẩy tăng trưởng quy mô của TTCK. DNNY có quyền phát hành
74
các loại chứng khoán đa dạng để huy động vốn như: cổ phiếu ưu đãi (cổ phiếu ưu đãi
biểu quyết, cổ phiếu của cổ phần ưu đãi cổ tức, cổ phiếu của cổ phần ưu đãi hoàn
lại,…), trái phiếu. Ngoài các DNNY, nhiều chủ thể khác cũng phát hành các loại chứng
khoán cho TTCK như: Chính phủ, các ngân hàng thương mại, tổ chức tài chính, công
ty trách nhiệm hữu hạn và một số định chế tài chính,… Tuy nhiên, các DNNY là đối
tượng chính phát hành các loại chứng khoán trên thị trường, bởi số lượng doanh
nghiệp, quy mô niêm yết cũng như uy tín của những doanh nghiệp này thu hút sự quan
tâm của nhà đầu tư hơn.
- Thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế: Các DNNY góp phần thúc đẩy hội nhập
quốc tế của nền kinh tế ngày càng sâu rộng, thông qua dòng lưu chuyển vốn đầu tư
của nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trên thị trường tài chính nói chung, TTCK
nói riêng.
- Thúc đẩy tính minh bạch, công khai của thông tin công bố: Các DNNY góp
phần thúc đẩy tăng cường tính minh bạch, công khai của thông tin công bố. Bởi vì các
DNNY phải tuân thủ quy định nghiêm ngặt trong công bố thông tin, thông tin công bố
phải đáp ứng những chuẩn mực về kế toán, kiểm toán và xu thế hội nhập với chuẩn
mực quốc tế. Thông tin của DNNY càng minh bạch, rõ ràng, càng đảm bảo cho sự phát
triển bền vững của TTCK trong nước.
2.2. THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH VỀ CÔNG BỐ THÔNG TIN TÀI CHÍNH VÀ
THÔNG TIN BÁO CÁO BỘ PHẬN CỦA DOANH NGHIỆP CỔ PHẦN NIÊM YẾT
2.2.1. Công bố thông tin báo cáo tài chính của doanh nghiệp cổ phần niêm
yết theo luật định
Đối với công ty niêm yết, áp lực công bố thông tin tăng lên nhiều lần khi mà đối
tượng chủ sở hữu được mở rộng, khoảng cách giữa chủ sở hữu và quản lý trở nên lớn
hơn. Nhu cầu tìm hiểu thông tin không chỉ riêng chủ sở hữu mà còn là các nhà đầu tư.
Chính vì vậy, yêu cầu CBTT đặt ra cho các công ty niêm yết luôn chặt chẽ và đầy đủ
hơn so với các công ty khác. Các quy định này nhằm ngăn chặn việc che giấu thông tin
hay CBTT thiếu chính xác làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người sử dụng thông tin
và cũng để duy trì một cơ chế giám sát có hiệu quả từ các bên có liên quan và công
chúng đầu tư đối với hoạt động của các công ty niêm yết. Việc CBTT chính xác có ý
nghĩa hết sức quan trọng trong việc tạo lập và duy trì niềm tin của công chúng đầu tư
đối với các doanh nghiệp niêm yết. Để đáp ứng nhu cầu phát triển của thị trường, pháp
75
luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán nói chung và pháp luật về CBTT trên
TTCK nói riêng đã có nhiều thay đổi.
Tại văn bản đầu tiên là Nghị định số 48/1998/NĐ-CP ngày 11 tháng 7 năm
1998 của Chính phủ về chứng khoán và TTCK, các quy định pháp luật về CBTT trên
TTCK được quy định rải rác tại các chương, điều khác nhau. Bộ Tài chính đã ban hành
Thông tư số 57/2004/TT- BTC ngày 17/06/2004 hướng dẫn việc CBTT trên TTCK.
Thông tư này đã tác động mạnh mẽ đến việc thực thi nghĩa vụ CBTT, nâng cao nhận
thức của các chủ thể tham gia thị trường về nghĩa vụ cung cấp và được biết thông tin;
đồng thời cũng góp phần vào việc phát hiện, xử lý kịp thời các hành vi vi phạm pháp
luật về CBTT, thiết lập và bảo đảm trật tự thị trường, giúp TTCK phát triển minh bạch
và bền vững.
Ngày 29/6/2006, Luật Chứng khoán số 70/2006/QH11 được thông qua, góp
phần hoàn chỉnh thể chế pháp luật nói chung và TTCK nói riêng, khắc phục những
khiếm khuyết, bất cập trong khuôn khổ pháp luật về chứng khoán và TTCK trước đó.
Đối với vấn đề CBTT, Luật chứng khoán năm 2006 đã tạo nên một bước tiến vượt bậc
trong việc nâng cao tính minh bạch của thị trường và đã dành một chương riêng quy
định về CBTT.
Để cụ thể hóa các quy định về CBTT tại Luật Chứng khoán năm 2006, ngày
18/4/2007 Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 38/2007/TT-BTC hướng dẫn về việc
CBTT trên TTCK. Tuy nhiên, trong giai đoạn này TTCK Việt Nam có sự thay đổi và
phát triển đột biến cả về quy mô và chủng loại hàng hóa từ làn sóng niêm yết, do đó
dẫn đến khó khăn trong việc kiểm soát hoạt động của các chủ thể tham gia thị trường
và đòi hỏi phải thay đổi hệ thống CBTT trên TTCK. Bên cạnh đó, TTCK mới hình
thành và được coi là non trẻ của Việt Nam trong những năm này bị ảnh hưởng mạnh
mẽ của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 và những biến động phức tạp
của nền kinh tế trong nước. Sự biến động đó tất yếu dẫn đến sự thay đổi các quy định
pháp luật nói chung và pháp luật về TTCK nói riêng. Sự ra đời của Thông tư số
09/2010/TT-BTC ngày 15/01/2010 của Bộ Tài chính hướng dẫn việc CBTT trên
TTCK thay thế Thông tư 38/2007/TT-BTC là minh chứng cho sự thay đổi đó. Thông
tư 09/2010/TT-BTC đã bổ sung thêm đối tượng CBTT là “tổ chức đăng ký giao dịch”
và bước đầu yêu cầu các tổ chức này CBTT, đồng thời đối với Báo cáo tài chính, ngoài
việc kế thừa quy định tổ chức niêm yết phải công bố BCTC năm đã được kiểm toán và
Báo cáo tài chính quý, Thông tư 09/2010/TT-BTC còn bổ sung quy định công ty niêm
76
yết phải CBTT Báo cáo tài chính bán niên (6 tháng đầu năm) đã được soát xét bởi tổ
chức kiểm toán được chấp thuận. Ngoài ra, Thông tư cũng bổ sung nhiều trường hợp
công ty đại chúng phải CBTT, đặc biệt là các thông tin phải công bố bất thường trong
vòng 24 giờ; đồng thời quy định nguyên tắc UBCKNN chấp thuận tạm hoãn CBTT
trong trường hợp các đối tượng CBTT không thể thực hiện đúng thời hạn vì những lý
do bất khả kháng và buộc công ty phải thực hiện công bố ngay sau khi sự kiện bất khả
kháng đã được khắc phục. Có thể nói, sự ra đời của Thông tư 09/2010/TT-BTC đánh
dấu sự thay đổi toàn diện về chế định CBTT trên TTCK trước đòi hỏi minh bạch hóa
thị trường cũng như đáp ứng nhu cầu về thông tin của nhà đầu tư. Với nỗ lực công khai
hóa, minh bạch hóa TTCK và bảo vệ tốt hơn quyền lợi của nhà đầu tư, ngày 05/4/2012
Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 52/2012/TT-BTC hướng dẫn CBTT trên TTCK
thay thế cho Thông tư 09/2010/TT-BTC với nhiều quy định mới. Tại Thông tư này,
thời hạn CBTT Báo cáo tài chính của công ty niêm yết cũng được rút ngắn lại, phù hợp
với quy định về kế toán và kiểm toán. Ngoài ra, nghĩa vụ CBTT của cổ đông lớn, cổ
đông nội bộ công ty niêm yết và nghĩa vụ CBTT của công ty chứng khoán cũng được
điều chỉnh theo hướng chặt chẽ hơn. Tại Thông tư 52/2012/TT-BTC, nguyên tắc xử lý
hình sự đối với hành vi vi phạm nghĩa vụ CBTT cũng lần đầu tiên được ghi nhận.
Ngày 6/10/2015, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 155/2015/TT-BTC
hướng dẫn CBTT trên thị trường chứng khoán, thay thế Thông tư số 52/2012/TT-BTC
với nhiều nội dung được sửa đổi, bổ sung so với Thông tư 52 như:
Bổ sung khái niệm “nhà đầu tư thuộc đối tượng CBTT” nhằm xác định rõ nghĩa
vụ thực hiện CBTT của từng đối tượng tham gia thị trường chứng khoán Việt Nam.
Thông tư 155 làm rõ trách nhiệm của người thực hiện CBTT cho các đối tượng
tham gia trên thị trường. Thông tư 155 cũng quy định nguyên tắc cho phép nhà đầu tư
cá nhân ủy quyền cho công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, công ty đại chúng,...
thực hiện CBTT thay cho mình, qua đó khuyến khích việc nhà đầu tư cá nhân ủy quyền
cho các định chế chuyên nghiệp thực hiện CBTT nhằm hạn chế các vi phạm của nhà
đầu tư, nâng cao tính chuyên nghiệp trong hoạt động CBTT.
Đối với CBTT bất thường, thông tư bổ sung một số trường hợp phải CBTT bất
thường như: khi có quyết định về thay đổi kỳ kế toán, chính sách kế toán áp dụng;...
Thông tư có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2016, được kỳ vọng sẽ góp phần
nâng cao hơn nữa trách nhiệm CBTT của các thành viên thị trường và nhà đầu tư, hoàn
77
thiện khuôn khổ pháp lý điều chỉnh hoạt động CBTT trên TTCK, đồng thời nâng cao
tính công khai minh bạch của thị trường.
Có thể thấy, khung pháp lý điều chỉnh hoạt động CBTT nói chung cũng như
điều chỉnh hoạt động CBTT của công ty niêm yết nói riêng đã song hành cùng những
biến động của TTCK và đều có những thay đổi thích hợp trong từng giai đoạn phát
triển của thị trường, góp phần rất lớn vào việc thiết lập trật tự, ổn định của TTCK. Việc
ban hành Thông tư 155/2015/TT-BTC với các quy định chặt chẽ về nghĩa vụ CBTT
định kỳ, bất thường của công ty niêm yết cho thấy nỗ lực rất lớn của cơ quan quản lý
trong vấn đề minh bạch hóa TTCK và bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư. Phân tích các
quy định hiện hành cho thấy pháp luật điều chỉnh hoạt động CBTT của công ty niêm
yết trên TTCK Việt Nam đã tiệm cận đến chuẩn mực quốc tế cả về loại thông tin cần
công bố và cách thức CBTT. Như vậy, cơ sở pháp lý hiện hành điều chỉnh hoạt động
CBTT của công ty niêm yết trên TTCK là Luật Chứng khoán năm 2006 và Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán. Các quy định tại Luật Chứng khoán
đều đã được cụ thể hóa tại Thông tư số 155/TT-BTC, đã tạo ra khung pháp lý tương
đối đầy đủ điều chỉnh hoạt động CBTT của công ty niêm yết trên TTCK.
2.2.2. Công bố thông tin trên báo cáo tài chính của doanh nghiệp cổ phần
niêm yết theo quy định của khuôn mẫu kế toán
2.2.2.1. Giai đoạn trước năm 1995
Thông tin tài chính công bố của các doanh nghiệp được thể hiện trên BCTC và
các quy định về trình bày nội dung trên BCTC từng thời kỳ được thể hiện qua các mốc
thời gian theo quy định của khuôn mẫu Kế toán như sau:
Giai đoạn trước năm 1986: Nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế kế
hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp, trong điều kiện đó, hệ thống kế toán là công cụ
của Nhà nước dùng tập trung cho mục tiêu quản lý các doanh nghiệp quốc doanh, đơn
vị hành chính sự nghiệp, hợp tác xã, thông qua ban hành các chế độ kế toán và văn bản
hướng dẫn liên quan đến kế toán. Thông tin thể hiện trên các báo cáo kế toán tại các
doanh nghiệp phản ánh chủ yếu tình hình thực hiện kế hoạch được giao nhằm đáp ứng
nhu cầu kiểm soát của các cơ quan nhà nước.
Chế độ Báo cáo thống kê, kế toán định kỳ, ban hành năm 1986, quy định 9 mẫu
báo cáo kế toán định kỳ mà các xí nghiệp phải lập và nộp cho các cơ quan quản lý của
nhà nước, gồm: Bảng Tổng kết tài sản (ký hiệu 12/CN); Vốn sản xuất (13/CN); Chi phí
sản xuất kinh doanh theo yếu tố (14/CN); Giá thành toàn bộ sản phẩm theo khoản mục
78
(15/CN); Giá thành đơn vị sản phẩm chủ yếu theo khoản mục (16/CN); Tiêu thụ và lãi,
lỗ (17/CN); Các khoản phải thanh toán với ngân sách Nhà nước (18/CN); Các quỹ xí
nghiệp (19/CN), và Xây dựng cơ bản (20/CN).
Đặc trưng cơ bản của thông tin tài chính trong hệ thống BCTC giai đoạn này là,
được soạn lập trên cơ sở tuân thủ chặt chẽ các quy định về ghi nhận, đo lường theo
nguyên tắc, chỉ tiêu kế hoạch và định mức do Nhà nước quy định; mục tiêu chủ yếu là
cung cấp thông tin về kết quả thực hiện kế hoạch đã giao cho xí nghiệp (về khối lượng,
giá trị) và trách nhiệm liên quan của giám đốc xí nghiệp.
Giai đoạn 1987-1995: Nhà nước tiếp tục đổi mới đồng bộ các chính sách quản
lý vĩ mô, từng bước hình thành nền kinh tế hàng hóa, đa dạng hóa thành phần kinh tế.
Dấu ấn về kế toán trong giai đoạn này là sự ra đời của Pháp lệnh kế toán -thống kê năm
1988 và Chế độ báo cáo kế toán định kỳ theo Quyết định số 224/TC-CĐKT năm 1990.
Điều 12 Pháp lệnh kế toán - thống kê nêu rõ, các báo cáo kế toán, thống kê phải chính
xác. Tính toán các chỉ tiêu phải theo đúng nội dung và phương pháp do Bộ Tài chính
và Tổng cục Thống kê quy định. Chế độ báo cáo kế toán định kỳ năm 1990 áp dụng
thống nhất cho các xí nghiệp công nghiệp quốc doanh, quy định hai phần: Phần số liệu
(Bảng tổng kết tài sản (01/BCKT), Bảng Kết quả kinh doanh (02/BCKT), Chi phí sản
xuất theo yếu tố (03/BCKT)); Phần thuyết minh (Bản giải trình về kết quả hoạt động
sản xuất, kinh doanh (04/BCKT)). Chế độ này đã khẳng định vai trò và mục đích của
thông tin công bố trên BCTC, nhằm cung cấp số liệu để phân tích hoạt động kinh tế
của đơn vị, phát hiện những nhân tố tích cực, đề ra những biện pháp hiệu quả, nâng cao
chất lượng kinh doanh, củng cố chế độ hạch toán.
2.2.2.2. Giai đoạn từ năm 1995 đến nay
Yếu tố tác động đáng kể đến kinh tế - xã hội Việt Nam giai đoạn này là hội
nhập kinh tế khu vực và quốc tế, Việt Nam trở thành thành viên có vai trò quan trọng
trong khối ASEAN, APEC; và chuẩn bị cho đàm phán để trở thành thành viên chính
thức của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Biểu hiện cụ thể: Dòng vốn đầu tư
nước ngoài đổ vào Việt Nam tăng nhanh, cùng với đó là sự phát triển của các thành
phần kinh tế khác ngoài quốc doanh, đã tạo ra diện mạo mới, động lực phát triển mới
cho nền kinh tế; hoạt động xuất nhập khẩu, đầu tư nhộn nhịp, phong phú; mua bán
hàng hóa phát triển mạnh; TTCK, các mô hình công ty cổ phần, liên doanh, liên kết
được Nhà nước chú trọng, tạo điều kiện phát triển;…
79
Trong bối cảnh này, kế toán Việt Nam nói chung, yêu cầu công bố thông tin
trong hệ thống BCTC nói riêng buộc phải có những cải cách “lột xác” nhằm đáp ứng
yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường và quá trình hội nhập.
Đầu tiên là sự ra đời của Chế độ kế toán doanh nghiệp, ban hành theo Quyết
định 1141-TC/QĐ/CĐKT ngày 1/11/1995, với thông tin tài chính trong hệ thống
BCTC gồm 4 mẫu biểu:
- Bảng cân đối kế toán, mẫu B01 - DN;
- Kết quả hoạt động kinh doanh, mẫu B02 - DN;
- Lưu chuyển tiền tệ, mẫu B03 - DN;
- Thuyết minh BCTC, mẫu B09 - DN.
(Sau đó được bổ sung, sửa đổi bằng Chế độ báo cáo tài chính doanh nghiệp, ban hành
theo QĐ 167/2000/QĐ-BTC năm 2000).
So với hệ thống báo cáo ban hành năm 1990, thông tin trên BCTC được công
bố với quan điểm và nhận thức mới về đối tượng sử dụng thông tin trong nền kinh tế
thị trường; quy định trong Chế độ báo cáo tài chính doanh nghiệp được xây dựng vừa
nhằm đáp ứng nhu cầu kiểm tra, kiểm soát của Nhà nước, vừa nhằm đáp ứng nhu cầu
đánh giá thực trạng tài chính của doanh nghiệp, nhu cầu sử dụng thông tin của nhiều
đối tượng khác nhau. Hệ thống báo cáo cũng thể hiện được sự tôn trọng, vận dụng có
chọn lọc các chuẩn mực kế toán, thông lệ quốc tế về đo lường, ghi nhận các đối tượng
kế toán và công bố thông tin trên BCTC. Bên cạnh đó, để phù hợp với các doanh
nghiệp có quy mô nhỏ và vừa thuộc mọi lĩnh vực, mọi thành phần kinh tế trong cả
nước, Chế độ kế toán doanh nghiệp nhỏ và vừa được ban hành theo Quyết định 1171-
TC/QĐ/CĐKT năm 1996, sửa đổi, bổ sung bằng Quyết định 144/2001/QĐ-BTC năm
2001 và sau đó được thay thế bằng quyết định 48/2006/QĐ-BTC năm 2006.
Dấu ấn thứ thứ hai trong lịch sử phát triển của Kế toán Việt Nam nói chung và
công bố thông tin trên BCTC doanh nghiệp nói riêng trong giai đoạn này là sự ra đời
của Luật kế toán vào năm 2003. Luật kế toán ra đời đã tạo khung pháp lý cho hoạt
động kế toán ở nước ta trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế.
Luật đã thừa nhận hàng loạt các khái niệm, nguyên tắc kế toán và hoạt động của nền
kinh tế thị trường,…, được quy định tại điều 29: "Báo cáo tài chính được lập theo
chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán dùng để tổng hợp và thuyết minh về tình hình
kinh tế, tài chính của đơn vị kế toán." (Luật kế toán, 2003).
80
Cùng với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước, hệ thống kế toán Việt
Nam tiếp tục được cải cách theo hướng phù hợp với kinh tế thị trường, phù nhập với
thông lệ quốc tế bằng sự ra đời của Hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam vào năm
2001. Theo Hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam này, mục đích của thông tin công
bố trên BCTC được xác định là công bố các thông tin về tình hình tài chính, tình hình
kinh doanh và các luồng tiền của một doanh nghiệp, đáp ứng cho số đông người sử
dụng trong việc đưa ra các quyết định kinh tế.
Sự ra đời của 26 chuẩn mực kế toán Việt Nam cùng hướng dẫn thực hiện chuẩn
mực, được tổng kết trong Chế độ kế toán doanh nghiệp, ban hành theo quyết định
15/2006/QĐ-BTC ngày 20/3/2006, tiếp tục được bổ sung bằng Thông tư 161/2007/TT-
BTC năm 2007 và Thông tư 244/2009-TT-BTC năm 2009, hiện tại là thông tư số
200/2015-TT-BTC, biểu hiện cụ thể cho xu hướng hội nhập, phù hợp với chuẩn mực
và thông lệ quốc tế của Kế toán Việt Nam nói chung, hệ thống BCTC doanh nghiệp
nói riêng. Hiện tại, Bộ Tài chính tiếp tục xem xét sửa đổi, bổ sung một số nội dung còn
bất cập của chế độ kế toán doanh nghiệp.
Như vậy, việc cải cách hệ thống kế toán nói chung, yêu cầu thông tin công bố
trong BCTC doanh nghiệp nói riêng tại Việt Nam, giai đoạn từ năm 1995 đến nay đã
đạt được những thành quả đáng kể. Soạn thảo, công bố thông tin trên BCTC được đặt
trong khuôn khổ pháp lý đồng bộ và tương đối ổn định. Thông tin trong BCTC không
phải chỉ phục vụ cho Nhà nước mà còn cả các nhà đầu tư, ngân hàng, chủ nợ, đối tác
và công chúng; thông tin về luồng tiền là thông tin quan trọng trên BCTC, thể hiện sức
mạnh về tài chính của doanh nghiệp; các đối tượng và giao dịch phức tạp của nền kinh
tế thị trường được phản ánh khá đầy đủ trên BCTC,… Tuy nhiên, Luật kế toán và các
chuẩn mực kế toán vẫn chưa thực sự phát huy được vai trò của mình; thông tin trên
BCTC trong giai đoạn này vẫn thiếu tính đồng bộ; nhiều nội dung chưa phù hợp với
thông lệ quốc tế; thông tin trên BCTC vẫn chưa thực sự hữu ích, được coi trọng,…
2.2.3. Các quy định liên quan đến công bố thông tin báo cáo bộ phận tại
Việt Nam
Đầu những năm 90 của thế kỷ XX, Việt Nam bước vào công cuộc đổi mới, bắt
đầu mở cửa nền kinh tế, hệ thống kế toán cũng được nghiên cứu đổi mới, tiếp cận dần
với kế toán quốc tế. Từ năm 1994, hệ thống kế toán Việt Nam bắt đầu được cải cách
mạnh mẽ, toàn diện trên cơ sở chuẩn mực kế toán quốc tế đã ban hành. Từ năm 1996,
Việt Nam bắt đầu nghiên cứu xây dựng chuẩn mực kế toán của riêng mình với sự hỗ
81
trợ của các chuyên gia nước ngoài. Hội kế toán Việt Nam (VAA) cũng ra đời trong
năm này (1996), trở thành thành viên của Liên đoàn Kế toán Quốc tế (IFAC), đánh dấu
bước phát triển mới của hệ thống kế toán Việt Nam, gắn kết chặt chẽ với sự phát triển
chung của hệ thống kế toán quốc tế. Năm 2001, những chuẩn mực kế toán đầu tiên
được soạn thảo ở Việt Nam, đây cũng là năm đánh dấu sự ra đời của TTCK Việt Nam,
được ghi nhận bằng việc khai trương Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP. Hồ Chí
Minh ngày 20 tháng 07 năm 2000. Nghiên cứu, soạn thảo các chuẩn mực kế toán được
thực hiện bởi 13 thành viên của các cơ quan trực thuộc Bộ Tài chính, các trường đại
học và Hội kế toán Việt Nam. Các chuẩn mực kế toán được xây dựng trên nội dung
của các chuẩn mực kế toán quốc tế, nhưng được điều chỉnh cho phù hợp với đặc điểm
và tình hình thực tế tại Việt Nam. Việc ban hành các chuẩn mực kế toán là rất cần thiết
để hệ thống kế toán Việt Nam đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp khi tham gia
vào nền kinh tế thị trường trong bối cảnh nền kinh tế đất nước bắt đầu đổi mới.
Quy định về trình bày, công bố thông tin bộ phận được quy định trong VAS 28
(chuẩn mực kế toán Việt Nam số 28 về BCBP). VAS 28 ban hành năm 2005, lấy IAS
14 (chuẩn mực kế toán quốc tế số 14) làm nền tảng nhưng chưa cập nhật theo IFRS 8.
Bằng quy định về nguyên tắc, phương pháp thiết lập các thông tin tài chính theo bộ
phận (lĩnh vực kinh doanh, khu vực địa lý), VAS 28 đã đánh dấu nỗ lực quan trọng của
Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế, giúp các đối tượng sử dụng thông tin đánh
giá được rủi ro, lợi ích về kinh tế và có những đánh giá, nhìn nhận toàn diện hơn về
doanh nghiệp.
Trong các quy định về hướng dẫn công bố thông tin trên TTCK, các công ty
đại chúng, doanh nghiệp có chứng khoán trao đổi công khai, doanh nghiệp đang phát
hành chứng khoán trên TTCK phải có BCBP theo VAS 28 trong thuyết minh BCTC.
Cụ thể: Thông tư hướng dẫn 09/2010/TT-BTC của Bộ Tài chính, “Hướng dẫn về việc
công bố thông tin trên thị trường chứng khoán”, cũng quy định, các công ty đại
chúng, doanh nghiệp có chứng khoán trao đổi công khai, doanh nghiệp đang phát
hành chứng khoán trên TTCK phải có BCBP theo VAS 28 trong thuyết minh BCTC;
Bộ Tài chính ra Thông tư 52/2012/TT - BTC ngày 05 tháng 04 năm 2012, “Hướng
dẫn về việc công bố thông tin trên thị trường chứng khoán”; Ủy ban Chứng khoán
yêu cầu bắt buộc các doanh nghiệp phải công bố thông tin BCBP trong thuyết minh
báo cáo tài chính năm 2011, hoặc giải trình lý do không có BCBP; Thông tư
82
155/2015/TT - BTC (phải đến Thông tư 155/2015/TT - BTC thì các doanh nghiệp
mới thực sự chú ý đến nội dung này).
Các doanh nghiệp không công khai thông tin, không đang phát hành chứng
khoán trên TTCK có thể không lập BCBP theo mẫu quy định trong VAS 28. Các doanh
nghiệp này sẽ tùy theo yêu cầu, nhu cầu, mong muốn của nhà quản trị để lập BCBP riêng
sao cho phù hợp với đặc thù kinh doanh theo lĩnh vực, khu vực địa lý của mình.
Tóm lại, những quy định bắt buộc công bố thông tin bộ phận đối với các DNNY
đều được ban hành thông qua các thông tư, chuẩn mực kế toán liên quan đến công bố
thông tin, công bố thông tin báo cáo bộ phận. Cụ thể, nội dung lập, trình bày và công bố
thông tin bộ phận được quy định trong VAS 28 và thông tư hướng dẫn thực hiện. Trên
thế giới, các IAS/IFRS vẫn thường xuyên thay đổi, hoàn thiện để phù hợp với sự phát
triển chung của nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên các chuẩn mực kế toán Việt Nam, cụ thể
là VAS 28, từ khi ban hành đến nay vẫn chưa được sửa đổi bổ sung, điều này dẫn đến,
còn tồn tại khoảng cách khá lớn giữa quy định kế toán Việt Nam và kế toán quốc tế.
2.3. THỰC TRẠNG CÔNG BỐ THÔNG TIN BÁO CÁO BỘ PHẬN VÀ CÁC
NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN MỨC ĐỘ CÔNG BỐ THÔNG TIN BỘ PHẬN TRÊN
BÁO CÁO TÀI CHÍNH TẠI CÁC DOANH NGHIỆP CỔ PHẦN NIÊM YẾT
2.3.1. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1.1. Quy trình nghiên cứu
Tổng quan nghiên cứu cho thấy, các nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam đều
nghiên cứu tập trung vào từng mục tiêu riêng biệt (tính hữu ích của việc công bố thông
tin BCBP, đánh giá mức độ tuân thủ khuôn mẫu kế toán về việc công bố thông tin
BCBP, phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin BCBP). Những
nghiên cứu này được thực hiện ở một số nước (cả phát triển và đang phát triển) trong
khoảng thời gian trước năm 2000, chưa có sự kết hợp giữa kết quả nghiên cứu định
tính và kết quả nghiên cứu định lượng để đưa ra các kiến nghị, giải pháp khả thi nhằm
tăng cường mức độ công bố thông tin BCBP trong BCTC tại các DNNY trên TTCK.
Về định tính, ngoài việc phân loại, đánh giá và chọn lọc từ nhiều tài liệu nghiên
cứu chuyên sâu trong và ngoài nước, tác giả tiến hành đánh giá các đối tượng nghiên cứu
theo nội dung và mục tiêu nghiên cứu đặt ra. Tác giả mong muốn khẳng định lại mô hình
nghiên cứu, giả thuyết cho phù hợp với đặc thù điều kiện phát triển hiện tại. Cụ thể, tác
giả đánh giá tính hữu ích của việc công bố thông tin BCBP trên góc độ quan điểm của 3
đối tượng sử dụng thông tin là: Nhà đầu tư, kiểm toán viên, và người lập báo BCTC.
83
Ngoài ra, từ thảo luận, trao đổi trực tiếp với các nhóm chuyên gia để khẳng định lại các
nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin BCBP, kết quả thảo luận được dùng
làm cơ sở để tác giả đề xuất phương án tăng cường mức độ công bố thông tin BCBP.
Về định lượng, nội dung của luận án này tập trung nghiên cứu, kiểm định, đánh
giá mức độ tuân thủ khuôn mẫu kế toán về công bố thông tin BCBP trong BCTC tại
các DNNY và đề xuất phương trình hồi quy phản ánh mối tương quan giữa mức độ
công bố thông tin BCBP và các nhân tố ảnh hưởng trong năm 2015 và cả giai đoạn
2011-2015 (sau khi có kết quả tổng hợp từ các cuộc phỏng vấn chuyên gia). Để đo
lường mức độ công bố thông tin BCBP trong BCTC tại các DNNY theo VAS 28, các
chỉ tiêu cần trình bày gồm: Doanh thu, kết quả, tài sản, nợ phải trả, khấu hao, chi phí
bằng tiền khác; mỗi chỉ tiêu được trình bày tính một điểm, doanh nghiệp được đánh giá
trên tổng điểm đạt được. Hơn nữa, tác giả sử dụng mô hình hồi quy phân tích nhân tố
ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin BCBP năm 2015 và cho cả giai đoạn 5 năm
2011-2015.
2.3.1.2. Thu thập dữ liệu và xử lý dữ liệu
Thu thập dữ liệu và xử lý dữ liệu định tính
Tác giả nghiên cứu định tính bằng phương pháp chính là phỏng vấn bán cấu
trúc, bao gồm: Phỏng vấn trực diện, phỏng vấn qua điện thoại. Phỏng vấn bán cấu trúc
giúp người nghiên cứu định tính có thể linh hoạt trong đặt câu hỏi (câu hỏi đóng và câu
hỏi mở), hơn nữa, cách phỏng vấn này cũng giúp cả người nghiên cứu và người phỏng
vấn theo sát được câu hỏi nên câu trả lời mở rộng hơn. Đối tượng được phỏng vấn trực
tiếp là 15 người, bao gồm đại diện các đối tượng sử dụng thông tin là 5 nhà đầu tư cá
nhân và chuyên gia chứng khoán; đại diện đối tượng kiểm toán là kiểm toán viên của 5
công ty kiểm toán Big 4 tại Hà nội; đại diện đối tượng lập BCTC là kế toán trưởng của
5 DNNY tại Hà nội.
Các chuyên gia được lựa chọn có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến nội dung
nghiên cứu của Luận án với tiêu chí sau:
(1) Ít nhất 5 năm kinh nghiệm trong hoạt động đầu tư chứng khoán hoặc làm
công tác tư vấn/môi giới đầu tư chứng khoán (nếu là những chuyên gia đại diện cho
nhà đầu tư);
(2) Ít nhất 5 năm kinh nghiệm trong công tác kiểm toán cho các DNNY (nếu là
những chuyên gia đại diện cho các doanh nghiệp kiểm toán, am hiểu về thực tế lập và
trình bày BCTC của các DNNY);
84
(3) Chịu trách nhiệm về tính minh bạch thông tin BCTC khi soạn lập BCTC
(đại diện cho đối tượng lập BCTC) hay làm việc liên quan trực tiếp đến công tác kế
toán - tài chính hoặc quản lý trong các DNNY từ 5 năm trở lên;
Về trình độ, các chuyên gia tham gia phỏng vấn phải có bằng từ cử nhân trở lên.
Phương pháp nghiên cứu định tính được thực hiện đầu tiên với việc thu thập
thông tin bằng bảng câu hỏi được chuẩn bị trước. Bảng câu hỏi bao gồm 3 phần: Thứ
nhất, ý kiến chuyên gia về tính hữu ích của công bố thông tin BCBP; thứ hai, mô hình
nghiên cứu có phù hợp hay không, cũng như yêu cầu xem xét lại các thành phần và
thang đo của mô hình nghiên cứu đề xuất có phù hợp với đặc thù của lĩnh vực nghiên
cứu hay không và cho ý kiến bổ sung; cuối cùng là đề xuất cách thức công bố thông tin
BCBP và giải pháp tăng cường mức độ công bố thông tin BCBP trên BCTC đối với
các DNNY (phụ lục số 3).
Thu thập dữ liệu và xử lý dữ liệu định lượng
+ Chọn mẫu khảo sát
Việc chọn 50 DNNY trên TTCK Việt Nam được giải thưởng Báo cáo thường
niên 2016 xuất phát từ những lý do sau: Trước hết, phần lớn các doanh nghiệp này là
những doanh nghiệp lớn, có nhiều hoạt động kinh doanh, hoạt động kinh doanh thuộc
nhiều khu vực địa lý khác nhau. Các doanh nghiệp có vị trí trên thị trường, được đánh
giá cao thì khả năng tự nguyện cung cấp thông tin cao hơn các doanh nghiệp khác.
BCTC được tải từ trang web của doanh nghiệp, thông tin bộ phận được thu thập từ
thuyết minh của BCTC và Báo cáo thường niên của doanh nghiệp. Để dữ liệu bảng có
cả bình diện không gian và thời gian, tác giả đã thu thập thông tin từ 50 doanh nghiệp
trong giai đoạn 2011 - 2015. Bằng cách kết hợp chuỗi thời gian của các quan sát chéo,
dữ liệu bảng cho dữ liệu chứa nhiều thông tin hữu ích hơn, tính biến thiên nhiều hơn, ít
hiện tượng đa cộng tuyến giữa các biến hơn, nhiều bậc tự do hơn và hiệu quả phân tích
cao hơn. Bằng cách nghiên cứu quan sát lập đi lập lại của các đơn vị chéo, dữ liệu bảng
phù hợp hơn cho việc nghiên cứu sự động thái thay đổi theo thời gian của các đơn vị
chéo này. Những tác động của chính sách, quy định ban hành được nghiên cứu tốt hơn
khi có dữ liệu bảng. Tóm lại, dữ liệu bảng có thể phát hiện và đo lường tốt hơn các tác
động mà người ta không thể quan sát được trong dữ liệu chuỗi thời gian hay dữ liệu
chéo thuần túy.
Mẫu khảo sát 50 DNNY dựa trên kết quả bình chọn các doanh nghiệp đạt giải
thưởng Báo cáo thường niên năm 2016, số liệu được thu thập trong khoảng thời gian 5
năm từ 2011 đến 2015. Về tiêu chí bình chọn, duy trì những tiêu chí đánh giá cơ bản
85
(chuẩn mực, minh bạch, chuyên nghiệp, sáng tạo), dựa trên cách thức doanh nghiệp
công khai thông tin, không căn cứ vào kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của
doanh nghiệp, đề cao những doanh nghiệp làm tốt quản trị doanh nghiệp, đặc biệt là
quản trị doanh nghiệp hướng đến mục tiêu phát triển bền vững vì cộng đồng và xã hội.
Các doanh nghiệp được phân loại theo sàn giao dịch Hồ Chí Minh và Hà Nội (HOSE
và HNX), mức vốn điều lệ ngành nghề kinh doanh chính (Phụ lục số 1).
+ Thiết kế bảng tổng hợp dữ liệu nghiên cứu Từ mục tiêu nghiên cứu, tác giả thiết kế bảng tổng hợp dữ liệu sử dụng cho phân tích dựa trên yêu cầu công bố thông tin theo khuôn mẫu kế toán, cụ thể là theo yêu cầu công bố thông tin bộ phận của VAS 28. Dữ liệu kết quả tổng hợp trong các bảng được xử lý bằng phầm mềm STATA, (Phụ lục số 4a đến 4e). Tác giả lựa chọn mô hình hồi quy tuyến tính và ước lượng các tham số hồi quy với sự hỗ trợ của phần mềm STATA
để nghiên cứu mối tương quan giữa các biến và phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin BCBP của các DNNY trên TTCK Việt Nam. Cụ thể, tác giả tiến hành phân tích hồi quy tuyến tính để đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin bộ phận trong năm 2015 và phân tích hồi quy tuyến tính cho cả giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015.
+ Xây dựng giả thiết nghiên cứu Biến phụ thuộc: Mức độ trình bày BCBP (SDI-Segment Disclosure Index).
Công thức đo lường mức độ cung cấp thông tin BCBP cho một doanh nghiệp như sau: