BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TÀI CHÍNH
HỌC VIỆN TÀI CHÍNH TRẦN THỊ DIỆN
HOÀN THIỆN HỆ THỐNG THÔNG TIN KINH TẾ PHỤC VỤ RA QUYẾT ĐỊNH TÀI CHÍNH
CỦA TẬP ĐOÀN BƯU CHÍNH - VIỄN THÔNG VIỆT NAM VNPT
Chuyên Ngành : Tài chính - Ngân hàng Mã số
: 62.34.02.01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
Giáo viên hướng dẫn 1: TS. Lại Tiến Dĩnh Giáo viên hướng dẫn 2: PGS.TS. Vũ Văn Ninh
Hà Nội - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Kết quả
nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được công bố trong bất cứ công
trình nghiên cứu nào.
TRẦN THỊ DIỆN
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục viết tắt
Danh mục bảng biểu
Danh mục hình vẽ
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỆ THỐNG THÔNG TIN KINH
TẾ NHẰM PHỤC VỤ CHO VIỆC RA QUYẾT ĐỊNH TÀI CHÍNH CỦA
TẬP ĐOÀN KINH TẾ .................................................................................. 17
1.1 TẬP ĐOÀN KINH TẾ VÀ CÁC LOẠI QUYẾT ĐỊNH TÀI CHÍNH
CỦA TẬP ĐOÀN KINH TẾ ....................................................................... 11
1.1.1 Tập đoàn kinh tế và đặc điểm của tập đoàn kinh tế ... ……………….11
1.1.1.1 Khái niệm tập đoàn kinh tế…………………………………...11
1.1.1.2 Đặc điểm của tập đoàn kinh tế……………………………… 12
1.1.1.3 Các mô hình tổ chức của tập đoàn kinh tế………………… 14
1.1.2 Các quyết định tài chính của tập đoàn kinh tế ................................. 17
1.1.2.1 Khái niệm tài chính của tập đoàn kinh tế ................................. 17
1.1.2.2 Các quyết định tài chính của tập đoàn kinh tế .......................... 18
1.2 HỆ THỐNG THÔNG TIN KINH TẾ PHỤC VỤ CHO VIỆC RA
QUYẾT ĐỊNH TÀI CHÍNH CỦA TẬP ĐOÀN KINH TẾ ........................ 28
1.2.1. Hệ thống thông tin kinh tế của tập đoàn kinh tế ............................. 28
1.2.1.1 Thông tin kinh tế và hệ thống thông tin kinh tế………………28
1.2.1.2 Các yếu tố cấu thành hệ thống thông tin kinh tế…………… 44
1.2.1.3 Mục tiêu và các tiêu chuẩn đánh giá HTTTKT………………53
1.2.1.4 Vai trò của hệ thống thông tin kinh tế……………………… 59
1.2.2. Nội dung và mô hình tổ chức hệ thống thông tin kinh tế phục vụ
việc ra quyết định tài chính của tập đoàn kinh tế ..................................... 62
1.2.2.1 Nội dung của hệ thống thông tin kinh tế phục vụ ra quyết định
tài chính của tập đoàn kinh tế……………………………………………… 62
1.2.2.2 Mô hình tổ chức hệ thống thông tin kinh tế phục vụ ra quyết
định tài chính của tập đoàn kinh tế…………………………………………..63
1.2.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến việc tổ chức hệ thống thông tin kinh tế
của tập đoàn kinh tế .................................................................................. 71
1.3 KINH NGHIỆM CỦA CÁC TẬP ĐOÀN KINH TẾ TRONG VIỆC XÂY DỰNG HỆ THỐNG THÔNG TIN KINH TẾ PHỤC VỤ CHO VIỆC RA QUYẾT ĐỊNH TÀI CHÍNH CỦA TẬP ĐOÀN KINH TẾ………………... 75 1.3.1 Kinh nghiệm việc xây dựng hệ thống thông tin kinh tế phục vụ cho
việc ra quyết định tài chính…………………………………………… 75
1.3.2 Bài học trong việc xây dựng hệ thống thông tin kinh tế phục vụ cho
việc ra quyết định tài chính của tập đoàn kinh tế………………………..87
Chương 2. THỰC TRẠNG VỀ HỆ THỐNG THÔNG TIN KINH TẾ
NHẰM PHỤC VỤ CHO VIỆC RA QUYẾT ĐỊNH TÀI CHÍNH CỦA
TẬP ĐOÀN BƯU CHÍNH - VIỄN THÔNG VNPT .................................. 98
2.1 TỔNG QUAN VỀ TẬP ĐOÀN VNPT……………………………… 98
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của Tập đoàn Bưu chính - Viễn
thông VNPT. .............................................................................................. 98
2.1.2 Đặc điểm sản xuất kinh doanh của Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông
VNPT. ..................................................................................................... 104
2.1.3 Đặc điểm về tài chính của Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông VNPT.
................................................................................................................. 110
2.2 THỰC TRẠNG VỀ HỆ THỐNG THÔNG TIN KINH TẾ CỦA TẬP
ĐOÀN BƯU CHÍNH - VIỄN THÔNG VNPT. ........................................ 116
2.2.1 Quan điểm về hệ thống thông tin kinh tế của VNPT: ................... 123
2.2.2 Thực trạng về các yếu tố cấu thành nên hệ thống thông tin kinh tế
của Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông VNPT nhằm phục vụ cho việc ra
quyết định tài chính ................................................................................. 124
2.3 ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VỀ HOÀN THIỆN HỆ THỐNG THÔNG TIN KINH TẾ PHỤC VỤ CHO VIỆC RA QUYẾT ĐỊNH TÀI CHÍNH CỦA TẬP ĐOÀN BƯU CHÍNH - VIỄN THÔNG VNPT………………………150 2.3.1 Những kết quả đạt được đối với hệ thống thông tin kinh tế nhằm
phục vụ cho việc ra quyết định tài chính của VNPT. ............................. 162
2.3.2 Những hạn chế đối với hệ thống thông tin kinh tế nhằm phục vụ cho
việc ra quyết định tài chính của Tập đoàn VNPT . ................................. 163
Chương 3. HOÀN THIỆN HỆ THỐNG THÔNG TIN KINH TẾ NHẰM
PHỤC VỤ CHO VIỆC RA QUYẾT ĐỊNH TÀI CHÍNH CỦA TẬP
ĐOÀN BƯU CHÍNH - VIỄN THÔNG VNPT ......................................... 167
3.1 ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA VNPT TRONG THỜI GIAN TỚI ..... 167
3.1.1 Mục tiêu phát triển của VNPT trong thời gian tới. ........................ 167
3.1.2 Phương hướng thực hiện mục tiêu của VNPT. .............................. 170
3.2 QUAN ĐIỂM VỀ VIỆC HOÀN THIỆN HỆ THỐNG THÔNG TIN
KINH TẾ CHO VIỆC RA QUYẾT ĐỊNH TÀI CHÍNH. ......................... 175
3.2.1 Thông tin kinh tế là yếu tố quan trọng nhất trong việc ra quyết định
tài chính.. ................................................................................................. 170
3.2.2 Hệ thống thông tin phải phù hợp với trình độ nhà quản trị ........... 174
3.3 GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HỆ THỐNG THÔNG TIN KINH TẾ
NHẰM PHỤC VỤ CHO VIỆC RA QUYẾT ĐỊNH TÀI CHÍNH CỦA TẬP
ĐOÀN BƯU CHÍNH - VIỄN THÔNG VNPT ......................................... 180
3.3.1 Giải pháp về tổ chức cấu thành hệ thống thông tin. ...................... 180
3.3.2 Giải pháp về nội dung cấu thành hệ thống thông tin. .................... 194
3.3.3 Giải pháp về phương thức cấu thành hệ thống thông tin. .............. 197
3.3.4 Giải pháp về công cụ cấu thành hệ thống thông tin....................... 199
3.3.5 Hoàn thiện công tác tổ chức kế toán .............................................. 201
3.3.6 Một số giải pháp khác .................................................................. 2018
KẾT LUẬN .................................................................................................. 205
DANH MỤC VIẾT TẮT
VNPT: Viet Nam Posts and Telecommunications Group
Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam
SXKD: Sản xuất kinh doanh
TSCĐ: Tài sản cố định
DPP: Discount Payback Period
Thời gian hoàn vốn đầu tư có tính đến yếu tố chiết khấu
NPV: Net Present Value
Giá trị hiện tại thuân
IRR: Internal Rate of Return
Tỷ suất sinh lợi nội bộ
PI: Profitability Index
Chỉ số sinh lời
CNTT: Công nghệ thông tin
CSDL: Cơ sở dữ liệu
TMĐT: Thương mại điện tử
HTTT: Hệ thống thông tin
KTTT: Kinh tế thị trường
WACC: The weighted of average cost of capital
Chi phí sử dụng vốn bình quân
ROI: Return on Interested
DT: Doanh thu
TB: Thuê bao
DV: Dịch vụ
DVVT: Dịch vụ viễn thong
RMQT: Roaming quốc tế
KHDN: Khách hàng doanh nghiệp
SP: Sản phẩm
CNTT: Công nghệ thông tin
GTGT: Giá trị gia tăng
VIP: Very Important Person – nhân vật quan trọng
TĐKT: Tập đoàn kinh tế
ITU: Tổ chức viễn thông quốc tế thuộc Liên hiệp quốc
ADSL: Asymmetric Digital Subscriber Line- Băng thông rộng
TN: Tác nghiệp
CT: Chiến thuật
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1: Tiêu chuẩn đánh giá chất lượng hệ thống thông tin theo tổng hợp
của Knight và Burn…………………………………………………………..56
Bảng 1.2: Các mô hình thu thập thông tin…………………………………...67
Bảng 1.3: Bảng tổng hợp kết quả phân tích và dự báo môi trường KD……..69
Bảng 2.1: Cơ cấu trình độ ............................................................................. 107
Bảng 2.2: Cơ cấu độ tuổi ............................................................................... 107
Bảng 2.3: Bảng cân đối kế toán của tập đoàn VNPT.................................... 110
Bảng 2.4: Bảng báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của VNPT .............. 104
Bảng 2.5: Hệ số thanh toán ........................................................................... 105
Bảng 2.6: Hệ số phản ánh cơ cấu vốn ........................................................... 105
Bảng 2.7: Hệ số phản ánh hiệu suất hoạt động ............................................. 106
Bảng 2.8: Hệ số phản ánh hiệu quả hoạt động .............................................. 107
Bảng 2.9: Bảng phân phối lợi nhuận của Tập đoàn VNPT .......................... 108
Bảng 2.10: Bảng phản ánh tốc độ tăng trưởng của Tập đoàn VNPT ......... 1139
Bảng 2.11: Bảng cân đối kế toán trong trường hợp cập nhật thông tin đồng bộ
của Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông VNPT ............................................... 155
Bảng 2.12: Bảng Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh trong trường hợp cập
nhật thông tin đồng bộ của Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông VNPT ......... 156
Bảng 3.1: Kế hoạch đầu tư - doanh thu đến năm 2020 của VNPT .............. 163
Bảng 3.2: Bảng so sánh giữa hai quy trình quản lý của VNPT trước và sau khi
thay đổi cơ cấu quản lý ................................................................................. 198
Sơ đồ 1.1: sơ đồ tổ chức và phân phối thông tin ............................................. 35
DANH MỤC SƠ ĐỒ
Sơ đồ 1.2: Phân loại theo kênh thông tin kinh tế độc lập với Tập đoàn ......... 48
Sơ đồ 1.3: Phân loại theo kênh thông tin trực tiếp từ Tập đoàn ..................... 48
Sơ đồ 1.4: Phân loại theo kênh thông tin kết hợp ........................................... 49
Sơ đồ 1.5: Các bước quy trình thu thập thông tin ........................................... 51
Sơ đồ 1.6: Mô hình hệ thống thông tin kinh tế ............................................... 63
Sơ đồ 2.1: Cơ cấu tổ chức Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông VNPT ........ 1083
Sơ đồ 2.2: sơ đồ hệ thống thông tin kinh tế của Tập đoàn Viễn thông
VNPT ............................................................................................................ 136
Sơ đồ 2.3: Sơ đồ sử dụng thông tin kết hợp để ra quyết định tài chính ........ 160
Sơ đồ 3.1: Quy trình xử lý thông tin ............................................................. 183
Sơ đồ 3.2: Hoàn thiện hệ thống thông tin nhằm phục vụ ra quyết định đầu tư trong
nước ............................................................................................................... 187
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đang trên con đường phát triển và hội nhập mạnh mẽ, sâu rộng
vào nền kinh tế quốc tế, tập đoàn kinh tế Việt Nam hiện đang phải đối mặt,
cạnh tranh bình đẳng với các tập đoàn kinh tế đa quốc gia hùng mạnh trên thế
giới, đặc biệt là sau khi gia nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO và bắt đầu
với Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Kinh nghiệm các quốc
gia trên thế giới cho thấy những tập đoàn kinh tế mạnh ở cả khu vực nhà nước
và khu vực tư nhân sẽ là “đội quân chủ lực” đảm bảo quá trình hội nhập thành
công. Do đó, trong quá trình đổi mới đất nước trong giai đoạn hiện nay, đặc
biệt là hội nhập quốc tế với nền kinh tế thị trường, Đảng và nhà nước đã chỉ
đạo xây dựng và phát triển các tập đoàn kinh tế trở thành các tập đoàn kinh tế
mạnh để trở thành những quả đấm thép phục vụ sự phát triển kinh tế của đất
nước.
Bên cạnh đó, trong nền kinh tế nhiều thành phần, các tập đoàn kinh tế
nhà nước nắm giữ các lĩnh vực, ngành nghề quan trọng, giữ vai trò trụ cột của
nền kinh tế quốc dân, thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế theo định hướng
của Đảng và Nhà nước. Ngoài ra, tập đoàn kinh tế nhà nước còn là nhân tố
thúc đẩy sự phát triển của kinh tế quốc dân; các tập đoàn kinh tế không chỉ
mang lại lợi ích kinh tế lớn cho đất nước về các mặt như: góp phần quan trọng
vào tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước, đóng góp không nhỏ vào
nguồn thuế, tạo nguồn thu ngoại tệ và nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước,
hạn chế nhập siêu, tạo nên sức mạnh cho nền kinh tế góp phần đẩy nhanh tốc
độ CNH, HĐH đất nước... mà tập đoàn kinh tế nhà nước còn là trụ cột kinh tế,
góp phần giải quyết việc làm cho người lao động, nâng cao mức sống cho
nhân dân, góp phần giải quyết vấn đề an sinh xã hội, quốc phòng, an ninh...
1
Xu thế hình thành và phát triển các tập đoàn kinh tế Việt Nam là một
hướng đi đúng đắn phù hợp với quy luật phát triển của nền kinh tế thị trường,
phù hợp với đòi hỏi thực tiễn của nền kinh tế Việt Nam và phù hợp với sức ép
cạnh tranh trong quá trình toàn cầu hóa; thực tế ở nước ta cho thấy, tập đoàn
kinh tế nhà nước chính là lực lượng quan trọng của Nhà nước đảm nhận sản
xuất, kinh doanh nhiều mặt hàng thiết yếu nhằm đáp ứng nhu cầu của nhân
dân, góp phần quan trọng trong việc bảo đảm an ninh lương thực, an ninh
năng lượng, an ninh quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc và khẳng định chủ quyền
quốc gia, bảo vệ môi trường sinh thái. Mô hình tập đoàn kinh tế nhà nước là
mô hình liên kết kinh tế tiên tiến và có sức mạnh nhất; với đặc điểm là mô
hình có quy mô lớn, nguồn lao động dồi dào, thị trường và công nghệ vượt
trội, các tập đoàn kinh tế nhà nước có một vị thế khác biệt so với các doanh
nghiệp kinh doanh cùng loại. Điểm quan trọng đầu tiên quyết định sự liên kết,
hợp tác giữa các công ty trong mô hình tập đoàn kinh tế nhà nước là lợi ích;
bởi lẽ, đối với mô hình tập đoàn kinh tế nhà nước, lợi ích đến với cả tập đoàn
kinh tế và cả công ty thành viên. Các công ty thành viên trong tập đoàn kinh
tế nhà nước luôn được sự hỗ trợ phát triển thông qua thương hiệu của tập
đoàn: hỗ trợ về vốn, công nghệ, hoạt động đào tạo quản lý, lao động... Những
hỗ trợ đó sẽ tạo ra điều kiện và động lực, môi trường thuận lợi giúp các doanh
nghiệp thành viên của tập đoàn kinh tế nhà nước phát triển nhanh và bền
vững, từ đó góp phần thúc đẩy phát triển hoạt động sản xuất, kinh doanh của
cả tập đoàn kinh tế nhà nước nhằm tạo ra sức mạnh kinh tế - xã hội của quốc
gia.
Với mục tiêu kinh doanh, tìm kiếm lợi nhuận trên thị trường, các tập
đoàn kinh tế nhà nước phải khai thác nguồn vốn nhà nước nhằm tạo ra lợi
nhuận bổ sung cho ngân sách nhà nước, đồng thời, tạo ra việc làm và thu nhập
hợp pháp nhằm nâng cao đời sống về mọi mặt của người lao động. Hơn nữa,
2
các tập đoàn kinh tế nhà nước với ưu thế về quy mô và kết hợp được các ưu
thế của phân công lao động, chuyên môn hóa với hợp tác hóa trong sản xuất,
kinh doanh nên tránh được sản xuất trùng lặp và nâng cao hiệu quả sử dụng
công suất máy móc, thiết bị nhằm đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao v.v..
Tuy nhiên, thực trạng hoạt động của các tập đoàn kinh tế ở Việt Nam
trong những năm vừa qua dù đã mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế nhưng
vẫn có những khó khăn và vướng mắc cần giải quyết, cụ thể:
Về môi trường kinh doanh: mô hình tập đoàn kinh tế không giống
mô hình tổng công ty, mô hình tập đoàn hiện nay chỉ dựa vào Luật
doanh nghiệp và Nghị định 153 của Chính phủ về việc quản lý
Tổng công ty nhà nước; bên cạnh đó còn nhiều hạn chế trở ngại
như thiếu các chính sách khuyến khích cạnh tranh, hạn chế độc
quyền, thiếu chính sách đầu tư ra nước ngoài.
Về tài chính: chưa tách biệt rõ ràng giữa chức năng quản lý vốn
chủ sở hữu của nhà nước với cơ chế hoạt động của thị trường và
chức năng khác.
Vì thế, để các tập đoàn kinh tế ở Việt Nam hoạt động có hiệu quả, phát huy
được sức mạnh vai trò của chúng đối với nền kinh tế, thì việc nghiên cứu một
cách toàn diện, đầy đủ cả về lý luận và thực tiễn hệ thống các thông tin kinh
tế là điều rất cần thiết; tuy nhiên, việc tổ chức, xây dựng, hoàn thiện hệ thống
thông tin kinh tế và khai thác, sử dụng hệ thống thông tin kinh tế này phục vụ
cho việc ra các quyết định quản trị kinh doanh nói chung, quản trị tài chính
nói riêng của các tập đoàn kinh tế hiện nay như thế nào? Cụ thể:
Hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế phục vụ cho việc phân tích
môi trường kinh doanh và lựa chọn mục tiêu hợp lý?
3
Hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế phục vụ cho việc phân tích và
lựa chọn chiến lược của doanh nghiệp?
Hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế phục vụ cho việc xây dựng
mục tiêu và chiến lược về nguồn nhân lực?
Hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế phục vụ cho việc ra các quyết
định tài chính?
Hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế phục vụ cho việc xây dựng
mục tiêu và chiến lược về marketing?
Hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế phục vụ cho việc xây dựng
mục tiêu và chiến lược về sản xuất?
Hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế phục vụ cho việc xây dựng
mục tiêu và chiến lược về nghiên cứu và phát triển?
Hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế phục vụ cho việc thâm nhập
vào thị trường vốn quốc tế?
Hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế phục vụ cho việc nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn?
Đó là một số vấn đề hiện nay về mục tiêu của việc hoàn thiện hệ thống
thông tin kinh tế mà NCS còn băn khoăn trăn trở; tuy nhiên, luận án này thuộc
chuyên ngành Tài chính – Ngân hàng, nên NCS chỉ nghiên cứu sâu vấn đề
hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế phục vụ cho việc ra các quyết định tài
chính.
Hiện nay, trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, các tập đoàn kinh tế
Việt Nam đang đứng trước nhiều cơ hội, nhưng cũng nhiều thách thức. Trong
những năm qua, công tác quản trị tài chính của các tập đoàn kinh tế được chú
trọng hơn, việc phân tích, đánh giá và ra các quyết định tài chính được thực
hiện một cách bài bản hơn. Tuy nhiên, để đưa ra quyết định tài chính đúng
4
đắn thì đòi hỏi cần phải dựa trên một cơ sở dữ liệu và thông tin một cách đầy
đủ và rõ ràng, nhất là những thông tin về kinh tế tài chính.
Quyết định tài chính là quyết định có vai trò hết sức quan trọng trong các
Tập đoàn kinh tế, bởi nó liên quan trực tiếp đến mức độ rủi ro và lợi ích của
các chủ sở hữu. Để đưa ra quyết định tài chính đúng đắn, nhà quản trị tài
chính cần phải nghiên cứu nhiều nhân tố chủ quan, khách quan, bên trong và
bên ngoài tập đoàn; điều này phụ thuộc trực tiếp vào việc tổ chức, xử lý và
cung cấp thông tin về các nhân tố này nhằm phục vụ cho việc đưa ra các
quyết định tài chính của Tập đoàn.
Tập đoàn kinh tế theo mô hình công ty mẹ, công ty con ở nước ta đã
được hình thành từ hơn thập kỷ qua, bên cạnh những thành tựu đạt được rất
quan trọng, hoạt động của các tập đoàn kinh tế nói chung, VNPT nói riêng đã
bộc lộ nhiều vướng mắc và bất cập, nguyên nhân cơ bản bắt nguồn từ hệ
thống thông tin kinh tế phục vụ ra quyết định quản lý nói chung, quyết định
tài chính nói riêng chưa được cung cấp, xử lý đầy đủ, chính xác và kịp thời.
Tập đoàn Bưu chính – Viễn thông Việt Nam (VNPT) là một trong số các
Tập đoàn kinh tế nhà nước ra đời sớm nhất ở Việt Nam; trải qua nhiều giai
đoạn phát triển, từ độc quyền nhà nước, độc quyền doanh nghiệp đến mở cửa
hội nhập cạnh tranh và phải thực hiện tái cơ cấu để tăng năng lực cạnh tranh.
VNPT được đánh giá là Tập đoàn kinh tế đã tổ chức hoạt động kinh doanh
khá hiệu quả và nhất là: đã thực hiện tái cơ cấu thành công.
Là một tập đoàn kinh tế lớn hàng đầu Việt Nam, Tập đoàn VNPT đã và
đang chứng tỏ vị thế quan trọng trong quá trình hội nhập và phát triển kinh tế
xã hội Việt Nam. Thành công của VNPT một phần là nhờ các quyết định tài
chính được ban hành với những căn cứ đáng tin cậy, đó chính là hệ thống
thông tin kinh tế.
5
Tuy nhiên, công tác quản trị tài chính của Tập đoàn VNPT vẫn còn một
số hạn chế; cụ thể:
Bộ phận quản trị tài chính của Tập đoàn VNPT chưa có một vị trí
độc lập trong doanh nghiệp, nó nằm trộn lẫn với bộ phận kế toán;
vì thế, việc ra quyết định tài chính cũng như việc sử dụng hệ thống
thông tin kinh tế để đưa ra lời tư vấn quyết định tài chính của Tập
đoàn có tính chuyên môn chưa sâu;
Tập đoàn VNPT có vốn đầu tư 100% là vốn của nhà nước, nên việc
thực hiện những chính sách tài chính phải tuân theo chế độ hướng
dẫn tài chính của Nhà nước, vì thế tính linh hoạt trong quản trị tài
chính chưa cao.
Vì thế, để đưa ra quyết định tài chính đúng đắn, bộ phận tài chính cần
thiết phải được sự hỗ trợ của hệ thống thông tin kinh tế, nhưng hệ thống thông
tin kinh tế lại phụ thuộc trực tiếp vào việc thu thập, xử lý thông tin; nếu việc
thu thập, xử lý thông tin tốt thì việc ra quyết định tài chính sẽ thuận lợi hơn;
và ngược lại, việc thu thập, xử lý thông tin chưa tốt thì việc ra quyết định tài
chính sẽ gặp nhiều khó khăn hơn. Vì vậy, hoàn thiện hệ thống thông tin kinh
tế để hệ thống thông tin kinh tế được chuẩn hóa hơn nhằm phục vụ cho việc
ra quyết định tài chính là một việc cần làm và cần sớm được thực hiện.
Chính vì thế, NCS ấp ủ và mạnh dạn nghiên cứu đề tài luận án: “Hoàn
thiện hệ thống thông tin kinh tế phục vụ ra quyết định tài chính của Tập
đoàn Bưu chính - Viễn thông Việt Nam VNPT” làm đề tài nghiên cứu cho
bản luận án Tiến sĩ kinh tế của mình.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
6
Đề tài tập trung nghiên cứu, hệ thống hóa và góp phần làm rõ hơn những
vấn đề lý luận về việc sử dụng hệ thống thông tin kinh tế phục vụ ra quyết
định tài chính của Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông Việt Nam VNPT.
Qua khảo sát thực trạng hệ thống thông tin kinh tế của Tập đoàn Bưu
chính - Viễn thông Việt Nam VNPT ở những năm vừa qua, đề tài nêu cao vai
trò của hệ thống thông tin kinh tế, đánh giá thực trạng việc hoàn thiện hệ
thống thông tin kinh tế và rút ra những ưu điểm, hạn chế của việc hoàn thiện
hệ thống thông tin kinh tế nhằm phục vụ ra quyết định tài chính của Tập đoàn
Bưu chính - Viễn thông Việt Nam VNPT. Từ đó đề xuất các giải pháp hoàn
thiện hệ thống thông tin kinh tế Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông Việt Nam
VNPT.
Để hoàn thiện và nâng cao chất lượng hệ thống thông tin kinh tế, về lý
thuyết cũng như thực tiễn rất cần có những nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn
diện và chuyên sâu nhằm tổng kết đánh giá một cách khách quan, khoa học về
tổ chức, quy trình cung cấp và xử lý hệ thống thông tin kinh tế hiện hành
nhằm phục vụ có hiệu quả cho các nhà quản lý kinh tế và các nhà quản trị tài
chính khi đưa ra các quyết định tài chính.
Vì thế, mục tiêu nghiên cứu của luận án được thể hiện cụ thể trên các
mặt sau:
a. Hỗ trợ nhà quản trị đưa ra quyết định đầu tư, phát huy tính sáng
tạo trong quyết định đầu tư của Tập đoàn; tăng cường liên kết
đầu tư mở rộng ở thị trường nước ngoài thông qua việc góp vốn
với các đối tác giúp VNPT ngày càng nâng cao uy tín thương
hiệu;
b. Hỗ trợ nhà quản trị đưa ra quyết định huy động vốn, thông qua
việc nâng cao khả năng thâm nhập thị trường vốn; do VNPT là
Tập đoàn kinh tế lớn của Việt Nam, có quy mô vốn lớn và thị
7
trường mở rộng, có uy tín trong lĩnh vực viễn thông ở trong nước
cũng như trên thế giới, vì thế khả năng thâm nhập thị trường vốn
của Tập đoàn VNPT rất cao, nên VNPT có cơ hội chọn lựa
nguồn vốn huy động có chi phí sử dụng vốn thấp, và là nguồn tài
trợ ổn định; và đây cũng chính là cơ hội để VNPT tăng cường sử
dụng vốn có hiệu quả thông qua việc mở rộng đầu tư ở thị trường
nước ngoài thông qua việc sử dụng nguồn vốn ở bên ngoài có chi
phí sử dụng vốn thấp.
c. Hỗ trợ nhà quản trị đưa ra quyết định huy phân phối lợi nhuận, do
VNPT có khả năng thâm nhập thị trường vốn lớn nên việc huy
động vốn đối với VNPT khá thuận lợi, vì thế VNPT vẫn ổn định
chính sách phân phối lợi nhuận nhằm tăng thu nhập thực tế cho
người lao động.
Để thực hiện những mục tiêu đã được đề ra ở phần trên, luận án cần giải
quyết 3 vấn đề chính có liên quan chặt chẽ với nhau, đó là:
1/ Vai trò của hệ thống thông tin kinh tế đối với quyết định tài chính của
Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông Việt Nam VNPT? Mục đích của phần này
là hệ thống hóa những lý luận cơ bản về tập đoàn kinh tế, các quyết định tài
chính của tập đoàn kinh tế, mối quan hệ giữa hệ thống thông tin kinh tế phục
vụ cho việc ra quyết định tài chính của tập đoàn kinh tế.
2/ Thực trạng về việc hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế nhằm phục vụ
ra quyết định tài chính của Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông Việt Nam
VNPT? Mục đích của phần này là nhằm đánh giá những thành tựu đạt được
những hạn chế và nguyên nhân dẫn tới hệ thống thông tin kinh tế phục vụ ra
quyết định tài chính còn nhiều bất cập, chưa hoàn thiện và chất lượng thông
tin chưa cao.
8
3/ Hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế nhằm phục vụ ra quyết định tài
chính của Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông Việt Nam VNPT? Mục đích của
phần này là hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế phục vụ ra quyết định tài
chính bằng cách đưa ra các nhóm giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao chất
lượng hệ thống thông tin kinh tế phục vụ ra quyết định tài chính của Tập đoàn
Bưu chính – Viễn thông Việt Nam VNPT.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu:
Tìm hiểu các đối tượng ảnh hưởng đến hệ thống thông tin
kinh tế, luận án sẽ chọn đối tượng nghiên cứu là Tập đoàn Bưu
chính – Viễn thông Việt Nam VNPT, nhưng do hiện nay Bưu
chính đã tách khỏi Viễn thông, nên luận án chỉ tiếp cận ngành
Viễn thông của Tập đoàn Bưu chính – Viễn thông Việt Nam
VNPT.
Tìm hiểu thực trạng hệ thống thông tin kinh tế ảnh hưởng
đến việc ra quyết định tài chính của Tập đoàn Bưu chính – Viễn
thông Việt Nam VNPT; luận án chọn đối tượng nghiên cứu là
nhà quản trị cấp chiến lược, cấp chiến thuật, cấp tác nghiệp và
nhà quản lý công nghệ thông tin của tập đoàn VNPT, vì họ là
những người chủ chốt theo suốt dự án từ khi lập kế hoạch cho tới
khi hoàn thành sử dụng hệ thống thông tin kinh tế phục vụ ra
quyết định tài chính.
Phạm vi nghiên cứu:
Là Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông Việt Nam VNPT.
Thời gian nghiên cứu, thu thập số liệu từ năm 2011 đến năm
2015.
9
Luận án tiếp cận giải quyết vấn đề chất lượng thông tin trên góc độ hoàn
thiện hệ thống thông tin để hỗ trợ người sử dụng thông tin ra quyết định tài
chính. Điều này nghĩa là hệ thống thông tin đã xây dựng và được hoàn thiện
sẽ tạo ra những thông tin phù hợp, chính xác, kịp thời và đầy đủ nhằm giúp
cho việc ra các quyết định tài chính được thuận lợi hơn. Các nghiên cứu liên
quan tới việc thay đổi các chính sách kinh tế nhằm phục vụ việc ra quyết định
tài chính sẽ nằm ngoài phạm vi của luận án.
Về phạm vi hệ thống thông tin, luận án chỉ dừng lại nghiên cứu ứng dụng
hệ thống thông tin kinh tế nhằm phục vụ ra quyết định tài chính trong nội bộ
tập đoàn Bưu chính – Viễn thông Việt Nam VNPT.
Về phạm vi các nhân tố ảnh hưởng chất lượng thông tin, luận án chỉ
nghiên cứu vấn đề kinh tế liên quan đến việc ra quyết định tài chính của Tập
đoàn Bưu chính - Viễn thông Việt Nam VNPT. Luận án không nghiên cứu
các nhân tố kinh tế không liên quan tới việc ra quyết định tài chính của Tập
đoàn Bưu chính - Viễn thông Việt Nam VNPT, các nhân này được coi nằm
ngoài phạm vi luận án.
4. Nguồn dữ liệu của luận án:
- Dữ liệu thứ cấp: Luận án sử dụng một số nguồn thông tin thứ cấp như
các công trình nghiên cứu, các tài liệu nghiên cứu liên quan, các báo cáo
chuyên môn của các cơ quan quản lý Nhà nước và các tổ chức khác: Tổng cục
thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông Việt
Nam VNPT.
- Dữ liệu sơ cấp: là các thông tin thu thập qua điều tra phỏng vấn trực
tiếp hoặc điều tra qua bảng câu hỏi được thiết kế sẵn.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Để có được các đánh giá thực tiễn về hoàn thiện hệ thống thông tin kinh
tế nhằm phục vụ ra quyết định tài chính của Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông
10
Việt Nam VNPT, tác giả đã khảo sát Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông Việt
Nam VNPT. Với quy mô khảo sát này, tác giả thu thập thông tin về thực trạng
hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế trên cơ sở các phương pháp phát phiếu
điều tra, thực hiện phỏng vấn trực tiếp, qua điện thoại, thư điện tử...Bên cạnh
nguồn số liệu sơ cấp đó, tác giả còn sử dụng số liệu thứ cấp mà chủ yếu từ các
báo cáo thống kê của Tổng cục thống kê và các nguồn khác đã được công bố.
Luận án nghiên cứu lý luận kết hợp với khảo sát thực tế và sử dụng linh
hoạt phương pháp nghiên cứu định tính như phân tích, so sánh, tổng hợp
thông tin làm cơ sở đưa ra các nhận định, đánh giá thực trạng hoàn thiện hệ
thống thông tin kinh tế nhằm phục vụ ra quyết định tài chính của Tập đoàn
Bưu chính - Viễn thông Việt Nam VNPT, đồng thời đề xuất giải pháp hoàn
thiện hệ thống thông tin kinh tế phù hợp.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
- Đối với Tập đoàn VNPT, thì đây là một Tập đoàn lớn, có vai trò quan
trọng trong nền kinh tế quốc dân Việt Nam, việc đưa ra quyết định tài chính
đúng đắn sẽ đem lại nhiều lợi ích cho Tập đoàn, và hơn nữa đem lại lợi ích
cho nhà nước và dân cư.
- Trước yêu cầu của thị trường, mặc dù đã cố gắng hết sức, nhưng VNPT
vẫn còn nhiều tồn tại, sức phát triển chưa tương xứng với tiềm năng của một
Tập đoàn lớn. Mặt khác, trong môi trường kinh doanh đầy biến động, cạnh
tranh khốc liệt, thông tin bùng nổ đa chiều, hệ thống thông tin kinh tế phục vụ
ra quyết định tài chính của VNPT tỏ ra thiếu về lượng và thấp về chất. Trong
những tồn tại đó, việc xây dựng cho mình một hệ thống thông tin kinh tế là
một nội dung lớn cần phải thực hiện. Nếu hệ thống thông tin kinh tế không
sớm được hoàn thiện thì trở ngại sẽ phát sinh trong việc ra quyết định tài
chính, hệ lụy tất yếu là các quyết định tài chính sẽ trở nên không phù hợp,
thậm chí sai lầm, an ninh tài chính của VNPT sẽ khó được đảm bảo. Vì thế ta
11
thấy, thông tin đóng một vai trò vô cùng quan trọng, nó đem đến những cơ
hội mới cho hoạt động kinh doanh; nếu thông tin đầy đủ, chính xác, phù hợp
và kịp thời thì nó càng trở nên quan trọng, bởi nó liên quan đến việc ra các
quyết định tài chính, từ đó ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả tổ chức, hiệu quả
sử dụng đồng vốn của Tập đoàn; vì thế, hoàn thiện hệ thống thông tin có ý
nghĩa rất quan trọng trong việc ra quyết định tài chính của Tập đoàn VNPT.
- Kết quả nghiên cứu của luận án có ý nghĩa góp phần làm phong phú
thêm những vấn đề lý luận về hệ thống thông tin kinh tế và mối quan hệ giữa
hệ thống thông tin kinh tế với các quyết định tài chính của Tập đoàn kinh tế
nói chung, Tập đoàn Bưu chính – Viễn thông Việt Nam VNPT nói riêng; nó
có ý nghĩa góp phần thúc đẩy quá trình hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế
phục vụ cho việc ra quyết định tài chính của Tập đoàn Bưu chính – Viễn
thông Việt Nam.
- Thông qua khảo sát thực trạng về hệ thống thông tin kinh tế của Tập
đoàn Bưu chính - Viễn thông, luận án đánh giá thực trạng về hệ thống thông
tin kinh tế và đề xuất các giải pháp để hoàn thiện hệ thống thông tin một cách
đầy đủ, rõ ràng và kịp thời nhằm phục vụ ra quyết định tài chính của Tập
đoàn Bưu chính - Viễn thông Việt Nam VNPT ngày càng tốt hơn.
- Xuất phát từ những lý do đó, tác giả lựa chọn đề tài: “Hoàn thiện hệ
thống thông tin kinh tế phục vụ ra quyết định tài chính của Tập đoàn Bưu
chính – Viễn thông Việt Nam VNPT” là rất cần thiết trên cả phương diện lý
luận lẫn thực tiễn.
7. Kết cấu luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận án được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về hệ thống thông tin kinh tế nhằm phục vụ
cho việc ra quyết định tài chính của Tập đoàn kinh tế.
12
Chương 2: Thực trạng về hệ thống thông tin kinh tế nhằm phục vụ cho
việc ra quyết định tài chính của Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông Việt Nam
VNPT.
Chương 3: Hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế nhằm phục vụ cho việc
ra quyết định tài chính của Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông Việt Nam
VNPT.
8. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến luận án
Quản trị tài chính trong các doanh nghiệp thuộc mọi loại hình và mọi
thành phần kinh tế luôn là vấn đề quan trọng trong công tác quản lý kinh tế tài
chính của các doanh nghiệp. Bất kể doanh nghiệp nào, vấn đề tổ chức quản trị
tài chính hợp lý và khoa học đều được những nhà quản lý và nhà chuyên môn
quan tâm đúng mức. Vì chỉ có tổ chức khoa học và hợp lý, quản trị tài chính
mới có thể đưa ra những quyết định đúng đắn và kịp thời cho việc điều hành
Tập đoàn.
Hơn ai hết, Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông Việt Nam VNPT phải chịu
sức ép cạnh tranh từ việc gia nhập WTO (do có nhiều đối tác Viễn thông nước
ngoài đầu tư vào Việt Nam), cũng như các công ty Viễn thông vừa và nhỏ
(cũng bị áp lực tồn tại trong thế giới kinh doanh đầy cạnh tranh) đều hiểu rõ
sự cần thiết vể hệ thống thông tin kinh tế, vì hệ thống này có vai trò cung cấp
thông tin kinh tế kịp thời, phù hợp, đầy đủ và chính xác cho nhà quản trị, từ
đó nhà quản trị có cơ sở khoa học đưa ra các quyết định tài chính được chính
xác hơn, hiệu quả hoạt động được nâng cao hơn, và sức cạnh tranh trên thị
trường viễn thông ngày càng lớn hơn.
Vì tầm quan trọng như vậy nên có nhiều nghiên cứu liên quan tới hệ
thống thông tin, và liên quan quyết định tài chính. Cụ thể:
Công trình nghiên cứu về hệ thống như luận án của Tiến sĩ Nguyễn Thị
Bích Liên (2012) nói về việc ứng dụng hệ thống EPR để hoạch định nguồn
13
lực của doanh nghiệp, luận án này nói về việc sử dụng hệ thống thông tin để
nghiên cứu thực hiện phân tích dữ liệu liên quan tới quy trình làm việc của
công ty. Hệ thống thông tin tác động tới tất cả các hoạt động, các bộ phận
chức năng của doanh nghiệp. Nhờ hệ thống thông tin EPR làm thay đổi quy
trình làm việc, rút ngắn thời gian làm việc cho một nghiệp vụ kinh tế, vì thế
hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp tăng lên đáng kể.
Ngoài ra, nói đến chất lượng thông tin, kiểm soát chất lượng thông tin
trong doanh nghiệp liên quan trực tiếp tới vấn đề các nhân tố ảnh hưởng chất
lượng thông tin, một nghiên cứu đã được công bố trong luận án tiến sĩ 2003
của đại học Southern Queensland “Critical Success Factors for Accounting
Information Systems Data Quality”. Tuy nhiên nghiên cứu này chỉ dừng trong
phạm vi hệ thống kế toán nói riêng chứ không phải cho cả ngành kinh tế nói
chung. Ngoài ra luận án trên sử dụng cách tiếp cận xây dựng mô hình nghiên
cứu trên quan điểm quản lý chất lượng hệ thống thông tin kế toán tổng thể
chứ không sử dụng mô hình hệ thống thông tin kinh tế, hệ thống hoạt động
khi phân tích.
Mặt khác, vai trò của nghiên cứu tài chính trong phát triển kinh tế được
giải thích bởi Okab và đồng sự (2014), thông qua nghiên cứu của họ, họ đã
chứng minh rằng các thông tin kinh tế đóng một vai trò tích cực trong sự toàn
vẹn của các quyết định cũng như sự thành công của kế hoạch phát triển, thực
hiện kế hoạch hợp thời phụ thuộc vào quyết định chiến lược được thực hiện
bởi những nhà quản lý, những loại quyết định này dựa vào các thông tin kinh
tế. Đó là lý do tại sao Ullah và đồng sự (2014) đã phát triển một mối quan hệ
có ý nghĩa giữa các thông tin kinh tế và các quyết định chiến lược. Mặt khác,
Rapina (2014) xác định ảnh hưởng của các yếu tố tổ chức (cam kết quản lý,
văn hóa tổ chức và cơ cấu tổ chức) đến chất lượng của hệ thống thông tin kinh
tế và tác động của nó đến chất lượng thông tin kinh tế; Chiriac (2014) phát
14
triển một phương pháp định tính, bởi một quan điểm lý thuyết, về tầm quan
trọng của thông tin kinh tế trong việc ra quyết định; Nobes & Stadler (2014)
thực hiện đầu tiên nghiên cứu thực nghiệm có sử dụng công khai dữ liệu có
sẵn để cung cấp bằng chứng trực tiếp về vai trò của thông tin kinh tế trong các
quyết định; Caraiman (2015) cho thấy rằng các thông tin kinh tế chịu ảnh
hưởng nặng nề của hệ thống chính trị; Một số chuyên gia như Fitriati &
Mulyani (2015) đã chứng minh rằng sự thành công của hệ thống thông tin
kinh tế có liên quan đến chất lượng thông tin; Susanto (2015) tin rằng tổng
chất lượng của thông tin kinh tế bị ảnh hưởng bởi chất lượng của hệ thống
thông tin kinh tế; Alamin và đồng sự (2015) điều tra các yếu tố (nhận thức
phù hợp với công nghệ, điều kiện thuận lợi,…) ảnh hưởng đến hệ thống thông
tin kinh tế; ngoài ra, Iskandar (2015) đã chứng minh qua nghiên cứu của mình
rằng chất lượng hệ thống thông tin kinh tế có thể được cải thiện thông qua cải
thiện quản lý.
Mặt khác, luận án tiếp cận giải quyết vấn đề hoàn thiện hệ thống thông
tin có chất lượng trên góc độ của qui trình tạo lập thông tin nhằm giúp người
sử dụng thông tin ra quyết định tài chính đúng đắn hơn. Điều này nghĩa là dựa
vào quy trình hoạt động của công ty viễn thông mẹ và các Trung tâm viễn
thong con, hệ thống thông tin sẽ được hoàn thiện để tạo ra các thông tin phù
hợp và chính xác, đảm bảo sự an toàn, độ tin cậy dữ liệu cao. Các nghiên cứu
liên quan tới việc thay đổi các chính sách kinh tế hay thay đổi các quy định
của pháp luật về quản lý tài chính sẽ nằm ngoài phạm vi của luận án.
Xuất phát từ các lý do trên, ta thấy Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông
VNPT cần được nghiên cứu hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế phù hợp để
phục vụ cho việc ra các quyết định tài chính đúng đắn hơn. Vì thế tác giả đã
lựa chọn đề tài “Hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế phục vụ ra quyết định
tài chính của Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông Việt Nam VNPT”. Với đề tài
15
này, tác giả mong muốn sẽ có nhưng đóng góp về lý luận, thực tiễn cũng như
xây dựng hệ thống thông tin kinh tế phù hợp với thực trạng của Tập đoàn.
16
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỆ THỐNG THÔNG TIN
KINH TẾ NHẰM PHỤC VỤ CHO VIỆC RA QUYẾT ĐỊNH TÀI CHÍNH
CỦA TẬP ĐOÀN KINH TẾ
1.1 TẬP ĐOÀN KINH TẾ VÀ CÁC LOẠI QUYẾT ĐỊNH TÀI CHÍNH
CỦA TẬP ĐOÀN KINH TẾ
1.1.1 Tập đoàn kinh tế và đặc điểm của tập đoàn kinh tế
1.1.1.1 Khái niệm tập đoàn kinh tế
Theo Bách Khoa Toàn Thư Wikipedia tiếng Anh thì:"Tập đoàn là sự
liên kết của hai hay nhiều tổng công ty có lĩnh vực kinh doanh khác nhau tạo
thành một cấu trúc công ty có quy mô quản lý lớn và phức tạp”. Vì thế, về ý
nghĩa tập đoàn, ta có thể hình dung như một công ty mẹ và một số (hay nhiều)
công ty con cùng bắt tay kinh doanh ở một hay nhiều lĩnh vực nào đó; nhìn
chung, tập đoàn là một công ty đa ngành, có quy mô rất lớn và thường kinh
doanh đa quốc gia.
Theo Viện nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương CIEM thì khái
niệm về tập đoàn kinh tế được hiểu “là một tổ hợp lớn các doanh nghiệp có tư
cách pháp nhân hoạt động trong một hay nhiều ngành khác nhau, có quan hệ
về vốn, tài chính, công nghệ, thông tin, đào tạo, nghiên cứu và các liên kết
khác xuất phát từ lợi ích của các bên tham gia”. Trong mô hình này, "công ty
mẹ" nắm quyền lãnh đạo, chi phối hoạt động của "công ty con" về tài chính
và chiến lược phát triển.
Theo TS.Trần Tiến Cường, Trưởng Ban nghiên cứu cải cách và phát
triển doanh nghiệp (Viện Nghiên cứu và quản lý kinh tế TƯ) trong dự thảo
Nghị định về hình thành, tổ chức, hoạt động và giám sát đối với TĐ kinh tế
nhà nước thì tập đoàn kinh tế nhà nước là nhóm các công ty, liên kết chủ yếu
dưới hình thức công ty mẹ - công ty con, có từ hai cấp DN trở lên, tạo thành
17
tổ hợp kinh doanh gắn bó với nhau, hay tập đoàn kinh tế là tổ chức kinh tế có
kết cấu tổ chức nhiều cấp, liên kết nhau bằng quan hệ tài sản và quan hệ hợp
tác nhằm đáp ứng đòi hỏi của nền sản xuất hàng hóa; các doanh nghiệp trong
tập đoàn đều có pháp nhân độc lập.
Có nhiều quan niệm khác nhau về tập đoàn, song cũng có một điểm
chung nhất là: Tập đoàn kinh tế là tổ hợp các công ty hoạt động trong một
ngành hay nhiều ngành khác nhau, ở phạm vi một nước hay nhiều nước,
trong đó có một công ty mẹ nắm quyền lãnh đạo, chi phối hoạt động của
các công ty con về mặt tài chính và chiến lược phát triển. Tập đoàn kinh
tế là một cơ cấu tổ chức vừa có chức năng kinh doanh, vừa có chức năng
liên kết kinh tế nhằm tăng cường tích tụ, tập trung, tăng khả năng cạnh
tranh và tối đa hóa lợi nhuận
1.1.1.2 Đặc điểm của tập đoàn kinh tế
Sự hình thành và phát triển của các tập đoàn kinh tế xuất phát từ yêu
cầu tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
Trước áp lực cạnh tranh, các công ty có xu hướng sáp nhập hoặc liên kết với
nhau tạo thành tập đoàn để nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Tuy nhiên
không phải tập đoàn kinh tế nào cũng có thể tồn tại và phát triển được; hiệu
quả hoạt động của các tập đoàn kinh tế luôn là vấn đề quan trọng được quan
tâm hiện nay bởi những lợi ích và ảnh hưởng của tập đoàn kinh tế đối với một
quốc gia là rất lớn. Sự mở rộng không hợp lý về quy mô của tập đoàn sẽ gây
ra những hệ lụy không tốt, khó khắc phục đối với nền kinh tế của các nước,
đặc biệt là các nước đang phát triển. Vì vậy, việc xác định đặc điểm chung
của tập đoàn kinh tế để tìm ra một mô hình quản lý và xây dựng chiến lược
phát triển cho tập đoàn kinh tế là cần thiết. Qua nghiên cứu tác giả nhận thấy
đặc điểm nổi bậc của tập đoàn kinh tế thường được thể hiện qua ba yếu tố cơ
bản: cơ chế đầu tư vốn, cơ chế liên kết kinh doanh, cơ chế quản lý.
18
Theo cơ chế đầu tư vốn: Sự liên kết giữa các doanh nghiệp với nhau
trong một tập đoàn luôn luôn nhằm mục tiêu quan trọng nhất là giải quyết
những khó khăn về vốn phục vụ kinh doanh. Vì vậy, khi đã hình thành tập
đoàn, các doanh nghiệp thành viên phát triển nhanh hơn, tài sản có quyền sở
hữu cũng tăng lên khá nhanh, từ đó, tổng tài sản trong toàn tập đoàn cũng khá
lớn, vì thế đòi hỏi phải có nguồn vốn lớn để đầu tư vào lượng tài sản này. Do
đó, nguồn vốn đầu tư này chủ yếu một phần được tài trợ từ công ty mẹ, phần
còn lại được huy động từ nước sở tại.
Theo cơ chế liên kết kinh doanh: Các công ty trong tập đoàn có thể
liên kết theo chiều dọc, liên kết theo chiều ngang hoặc liên kết hỗn hợp.
Liên kết theo chiều dọc là mô hình liên kết các công ty hoạt động trong
cùng một chuỗi giá trị ngành (ví dụ: các công ty viễn thông từ cấp tập
đoàn đến cấp cơ sở). Các mối liên kết này thường mang lại lợi thế về
chi phí, sự chủ động cho các sản phẩm đầu vào và đầu ra của các công
ty. Tuy nhiên, nó cũng có một số khó khăn như nguồn lực bị phân tán,
khó tập trung vào các hoạt động chủ yếu tạo giá trị gia tăng cao nhất
trong chuỗi giá trị.
Liên kết theo chiều ngang là sự kết hợp giữa các công ty có sản phẩm,
dịch vụ liên quan với nhau và có thể sử dụng cùng một hệ thống phân
phối để gia tăng hiệu quả (ví dụ: các công ty viễn thông con đồng cấp).
Mối liên kết này tạo điều kiện đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ, tận dụng
hệ thống phân phối để tiết kiệm chi phí, phân tán rủi ro. Tuy nhiên, nó
cũng gặp trở ngại là thiếu sự chủ động ở một số khâu như cung ứng
nguyên liệu sản xuất, kho vận… so với liên kết dọc.
Liên kết hỗn hợp là sự kết hợp của cả hai dạng liên kết dọc và ngang.
Vì vậy, ưu nhược điểm của liên kết này là tích hợp ưu nhược điểm của
cả hai dạng. Tùy theo đặc điểm hoạt động kinh doanh của tập đoàn, nếu
19
biết phát huy thế mạnh, hạn chế điểm yếu của từng dạng liên kết đơn lẻ
sẽ tạo nên mô hình hoạt động khá hoàn chỉnh. Đồng thời, các tập đoàn
cũng cần chú ý hạn chế những tác hại do việc mở rộng quy mô, giảm
thiểu chi phí đầu tư không hiệu quả.
Theo cơ chế quản lý: Tập đoàn kinh tế có thể được quản lý theo mô
hình tập trung, phân tán hay hỗn hợp. Trong mô hình tập trung, quyền lực
được tập trung ở cơ quan đầu não thường là công ty mẹ. Trong mô hình phân
tán, công ty mẹ chỉ đưa ra định hướng và kiểm soát định hướng (kiểm soát
chiến lược, các chính sách lớn về tài chính, nhân sự, đầu tư…), giao quyền tự
chủ hoạt động cho các công ty con. Trong mô hình hỗn hợp, công ty mẹ vừa
giao quyền tự chủ cho các công ty con, vừa thâu tóm quyền lực ở một số lĩnh
vực trọng yếu.
1.1.1.3 Các mô hình tổ chức của tập đoàn kinh tế
Mô hình tổ chức của tập đoàn kinh tế thường được hình thành dựa trên
các tác động của (i) môi trường chính trị, pháp luật của mỗi quốc gia; (ii) môi
trường kinh doanh; (iii) tầm nhìn, mục tiêu chiến lược của tập đoàn; (iv) đặc
điểm của các thành viên trong tập đoàn. Mô hình tập đoàn thông thường được
phân loại theo ba yếu tố: cơ chế đầu tư vốn, cơ chế liên kết kinh doanh, cơ
chế quản lý.
Theo cơ chế đầu tư vốn: Tập đoàn kinh tế có thể lựa chọn một trong
các mô hình đầu tư đơn cấp, đồng cấp, đa cấp hoặc hỗn hợp.
Trong mô hình đầu tư đơn cấp, công ty mẹ lẫn công ty con đều
chỉ đầu tư xuống một cấp trực tiếp, không đầu tư xuống cấp xa
hơn.
Trong đầu tư đồng cấp, các công ty trong cùng một cấp đầu tư
qua lại.
20
Trong đầu tư đa cấp, các công ty, đặc biệt là công ty mẹ vừa đầu
tư trực tiếp vào công ty con, đồng thời đầu tư trực tiếp vào các
công ty cháu, chắt ở dưới mà không thông qua công ty trung gian
nào.
Mô hình hỗn hợp là mô hình phối hợp nhiều hình thức đầu tư
(đơn cấp, đồng cấp, đa cấp) giữa các công ty trong tập đoàn.
Theo cơ chế liên kết kinh doanh: Các công ty có thể liên kết theo chiều
dọc, liên kết theo chiều ngang hoặc liên kết hỗn hợp.
Liên kết theo chiều dọc là mô hình liên kết các công ty hoạt động
trong cùng một chuỗi giá trị ngành. Liên kết theo chiều dọc có
thể là tích hợp ngược (ví dụ: các công ty sản xuất, mua lại hoặc
đầu tư vốn vào các công ty cung ứng nguyên vật liệu cho mình);
hoặc tích hợp xuôi (ví dụ: các công ty sản xuất, mua lại hoặc đầu
tư vốn vào một công ty thương mại, tiếp thị để tiêu thụ sản phẩm
do mình sản xuất hoặc cả hai). Các mối liên kết này thường
mang lại lợi thế về chi phí, sự chủ động cho các sản phẩm đầu
vào và đầu ra của các công ty. Tuy nhiên, nó cũng có một số khó
khăn như nguồn lực bị phân tán, khó tập trung vào các hoạt động
chủ yếu tạo giá trị gia tăng cao nhất trong chuỗi giá trị...
Như vậy, có thể thấy liên kết dọc là mô hình kinh doanh trong đó
mục tiêu chính là tạo mối liên kết giữa bản thân doanh nghiệp
với các đối tác liên quan như các nhà cung cấp và nhà phân phối.
Liên kết dựa trên nguyên lý cộng sinh. Với sức mạnh của sự liên
kết này thì công ty mẹ là công ty có tiềm lực kinh tế mạnh nhất,
nắm giữ các bộ phận then chốt nhất trong dây chuyền công nghệ,
thị trường của tập đoàn, đồng thời thực hiện chức năng quản lý,
điều phối và định hướng chung cho cả tập đoàn. Còn các công ty
21
con thì được tổ chức theo sự phân công chuyên môn hóa và phối
hợp hợp tác hóa theo đặc thù công nghệ của ngành.
Ví dụ: Sony sử dụng mô hình liên kết dọc theo sự tích hợp ngược
bằng việc hảng này sản xuất ra máy chơi game console là
PlayStaion nhưng cũng kiêm luôn studio phát triển game; Hay
Apple cũng là một điển hình trong mô hình liên kết dọc. Nó vừa
cung cấp phần cứng iPad, iPhone, iPod… vừa tạo ra phần mền
iOS, MacOS, bán dịch vụ và đảm nhận luôn khâu phân phối sản
phẩm. Apple gần như bao trọn cho một sản phẩm công nghệ mà
nhiều tập đoàn cạnh tranh trong lĩnh vực công nghệ với Apple
chưa làm được. Điều này đã làm cho Apple trở thành đối thủ
đáng gờm trong làng công nghệ và việc cạnh tranh với hảng là
điều vô cùng khó khăn.
Tất nhiên không phải cứ công ty nào liên kết theo chiều dọc cũng
chiếm được lợi thế cạnh tranh tuyệt đối. Hãy nhìn vào HP dù sở
hữu trong tay kệ điều hành WebOS đầy tiềm năng nhưng việc
mua lại Plam và không có hệ thống bán hàng và marketing xuất
sắc nên HP cũng khó lòng vươn mình lớn mạnh được như Apple.
Liên kết theo chiều ngang là sự kết hợp giữa các công ty có sản
phẩm, dịch vụ liên quan với nhau và có thể sử dụng cùng một hệ
thống phân phối để gia tăng hiệu quả (ví dụ: công ty sản xuất
máy ảnh với công ty sản xuất ống kính máy ảnh). Mối liên kết
này tạo điều kiện đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ, tận dụng hệ
thống phân phối để tiết kiệm chi phí, phân tán rủi ro. Tuy nhiên,
nó cũng gặp trở ngại là thiếu sự chủ động ở một số khâu như
cung ứng nguyên liệu sản xuất, kho vận… so với liên kết dọc.
22
Thuộc mô hình này gồm có Tổng công ty thép Việt Nam, Tổng
công ty giấy Việt Nam, Tổng công ty cà phê Việt Nam…
Liên kết hỗn hợp là sự kết hợp của cả hai dạng liên kết dọc và
ngang. Vì vậy, ưu nhược điểm của liên kết này là tích hợp ưu
nhược điểm của cả hai dạng. Tùy theo đặc điểm hoạt động kinh
doanh của tập đoàn, nếu biết phát huy thế mạnh, hạn chế điểm
yếu của từng dạng liên kết đơn lẻ sẽ tạo nên mô hình hoạt động
khá hoàn chỉnh. Đồng thời, các tập đoàn cũng cần chú ý hạn chế
những tác hại do việc mở rộng quy mô, giảm thiểu chi phí đầu tư
không hiệu quả.
Theo cơ chế quản lý: Tập đoàn kinh tế có thể được quản lý theo mô
hình tập trung, phân tán hay hỗn hợp.
Trong mô hình tập trung, quyền lực được tập trung ở cơ quan
đầu não thường là công ty mẹ.
Trong mô hình phân tán, công ty mẹ chỉ đưa ra định hướng và
kiểm soát định hướng (kiểm soát chiến lược, các chính sách lớn
về tài chính, nhân sự, đầu tư…), giao quyền tự chủ hoạt động cho
các công ty con.
Trong mô hình hỗn hợp, công ty mẹ vừa giao quyền tự chủ cho
các công ty con, vừa thâu tóm quyền lực ở một số lĩnh vực trọng
yếu.
1.1.2 Các quyết định tài chính của tập đoàn kinh tế
1.1.2.1 Khái niệm tài chính của tập đoàn kinh tế
Tài chính của tập đoàn kinh tế là một khâu trong hệ thống tài chính của
nền kinh tế thị trường; vì thế, tính chất và mức độ phát triển tài chính của tập
đoàn kinh tế cũng phụ thuộc vào tính chất và nhịp độ phát triển của nền kinh
tế thị trường, và có những đặc trưng chủ yếu sau:
23
Thứ nhất, tài chính của tập đoàn kinh tế phản ánh những luồng dịch
chuyển giá trị trong nền kinh tế: đó là sự vận động các nguồn tài chính được
diễn ra trong nội bộ tập đoàn để tiến hành hoạt động SXKD; được diễn ra
giữa tập đoàn với ngân sách nhà nước thông qua việc nộp thuế hoặc tài trợ tài
chính; hay được diễn ra giữa tập đoàn với thị trường.
Thứ hai, sự vận động các nguồn tài chính tập đoàn không phải diễn ra
một cách hỗn loạn mà nó được hòa nhập vào chu trình kinh tế của nền kinh tế
thị trường. Đó là sự vận động chuyển hóa từ các nguồn tài chính thành các
quỹ, hoặc vốn kinh doanh của tập đoàn và ngược lại. Sự chuyển hóa qua lại
đó được điều chỉnh bằng hệ thống các quan hệ phân phối dưới hình thức giá
trị nhằm để tạo lập hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ, phục vụ cho các mục tiêu
SXKD của tập đoàn.
Từ những đặc trưng nêu trên có thể rút ra kết luận:
Tài chính của tập đoàn kinh tế là hệ thống các luồng dịch chuyển
giá trị phản ánh sự vận động và chuyển hóa các nguồn tài chính trong
quá trình phân phối để tạo lập hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm đạt tới
các mục tiêu kinh doanh của tập đoàn kinh tế trong khuôn khổ pháp
luật.
1.1.2.2 Các quyết định tài chính của tập đoàn kinh tế
Các quyết định tài chính của Tập đoàn kinh tế là một yếu tố rất quan
trọng trong việc dự báo kế hoạch ngân sách của Tập đoàn. Bởi lẻ các quyết
định tài chính thể hiện các chính sách chiến lược của tập đoàn, chính sách này
sẽ tác động đến nhu cầu tài chính của Tập đoàn trong từng thời kỳ khác nhau.
Để đảm bảo có một bản kế hoạch tài chính sát thực, phản ánh đúng và đủ nhu
cầu tài chính của Tập đoàn thì các quyết định tài chính phải được phân tích,
đánh giá và hoạch định trước. Khi đó bản kế hoạch tài chính được xem như
24
bản tổng hợp nhu cầu tài chính trên cơ sở có một sự đồng bộ hóa về các chính
sách tài chính của Tập đoàn.
Trong hầu hết các Tập đoàn, các quyết định tài chính ở công ty mẹ
thường là quyết định tài chính trung và dài hạn; các quyết định tài chính ở
công ty con thường là quyết định tài chính ngắn hạn. Vì quyết định tài chính
cuả Tập đoàn chủ yếu là các quyết định chiến lược, nên ở đây tác giải trình
bày chủ yếu là các quyết định tài chính dài hạn của tập đoàn.
Các quyết định tài chính dài hạn
Đối với doanh nghiệp nói chung và tập đoàn kinh tế nói riêng thì quyết
định tài chính dài hạn là những quyết định mang tính chất chiến lược, có tầm
quan trọng và ảnh hưởng lâu dài đến chiến lược hoạt động của tập đoàn; trước
khi đưa ra mỗi quyết định đòi hỏi nhà quản trị phải có sự cân nhắc cẩn thận,
vì nếu quyết định dài hạn đúng đắn sẽ giúp tập đoàn tăng trưởng và phát triển;
ngược lại, nếu quyết định sai lầm sẽ làm cho tập đoàn suy thoái và phá sản; vì
thế sự cân nhắc cẩn thận của nhà quản trị là nhằm hạn chế rủi ro có thể xảy ra
cho tập đoàn. Quyết định tài chính dài hạn của tập đoàn vẫn bao gồm các
quyết định chính: quyết định đầu tư, quyết định huy động vốn, và quyết định
phân phối lợi nhuận; những quyết định này gắn liền với chiến lược kinh
doanh của tập đoàn.
Quyết định đầu tư vốn:
Đây là quyết định dài hạn của tập đoàn, trước khi thực hiện quyết định
này, tập đoàn cần phải phân tích, đánh giá và lựa chọn các dự án đầu tư có
hiệu quả; để thực hiện quyết định này, các tập đoàn kinh tế cần phải có các
thông tin về nhu cầu vốn đầu tư cho từng dự án, cụ thể hơn nữa thì đó là nhu
cầu vốn cho từng giai đoạn đầu tư cần phải được hoạch định. Thêm nữa, dòng
tiền vào từ dự án đầu tư cũng phải được xác định, và nhà quản trị sẽ có thông
tin về dòng tiền vốn thu hồi hàng năm, dòng tiền lợi nhuận được tạo ra qua
các năm. Đây là cơ sở để xác định nguồn tiền để hoàn trả nợ vốn, trả lãi vay,
25
chia lãi cho chủ sở hữu, khi đó sẽ làm giảm nhu cầu vốn, nhu cầu tiền vì đã có
nguồn tiền đối ứng, hoặc nguồn trả nợ từ dự án đầu tư tạo ra... Các thông tin
này sẽ được sử dụng để cân đối dòng tiền trong bản kế hoạch tài chính của tập
đoàn.
Quyết định đầu tư là quyết định giúp tập đoàn lựa chọn cơ hội đầu tư
trong điều kiện nguồn lực tài chính có giới hạn nhằm đem về hiệu quả cao
nhất cho chủ sở hữu. Theo quy luật kinh doanh thì dự án đầu tư nào có tỷ suất
sinh lời cao thường gánh chịu rủi ro cao; và ngược lại, dự án đầu tư nào có tỷ
suất sinh lời thấp thường gánh chịu rủi ro thấp. Mà giá trị tăng thêm của tập
đoàn đó chính là tổng giá trị tương lai được đưa về hiện tại, và được chiết
khấu theo một tỷ suất sinh lời đòi hỏi của nhà đầu tư; nếu nhà quản trị chọn
lựa dự án nào có tỷ suất sinh lời kỳ vọng cao, thì tất nhiên rủi ro của nhà đầu
tư sẽ tăng cao; để bù đắp lại rủi ro này thì tỷ suất sinh lời đòi hỏi của nhà đầu
tư cũng sẽ tăng cao, khi đó hiệu quả dự án chưa chắc đem về giá trị tăng thêm
tối ưu cho tập đoàn.
Vì thế, để đi đến quyết định đầu tư, một trong những vấn đề quan trọng
nhất là phải đánh giá được hiệu quả dự án đầu tư; hiệu quả dự án đầu tư được
thể hiện trong mối quan hệ giữa lợi ích thu được so với chi phí đã bỏ ra. Do
đó, khi xem xét hiệu quả dự án đầu tư là xem xét những vấn đề cơ bản: đó là
mối quan hệ giữa lợi ích trong tương lai thu được có tương xứng với chi phí
đã bỏ ra hay không. Có những dự án có hiệu quả âm nhưng vẫn đầu tư, có
những dự án có hiệu quả dương nhưng chưa chắc được đầu tư; vì thế khi đánh
giá hiệu quả dự án trước hết phải xuất phát từ mục tiêu của dự án đầu tư.
Đối với tập đoàn kinh tế thì mục tiêu hàng đầu của quyết định đầu tư vốn
dài hạn đó chính là lợi nhuận, tập đoàn kinh tế không thể hoạt động được nếu
tình trạng thua lỗ kéo dài. Vì thế, đầu tư dài hạn của tập đoàn kinh tế là nhằm
khai thác tốt nhất mọi tiềm năng và lợi thế của tập đoàn để đạt được mục đích
cuối cùng là lợi nhuận. Do đó, đầu tư vốn dài hạn của tập đoàn là một trong
26
những nhân tố chủ yếu quyết định sự phát triển của tập đoàn cũng như của
nền kinh tế quốc dân.
Trên góc độ kinh doanh của tập đoàn, với mục tiêu hàng đầu là tối đa hóa
lợi nhuận. Để thực hiện được mục tiêu này đòi hỏi tập đoàn phải có một
lượng vốn nhất định để hình thành nên các tài sản cần thiết trong kinh doanh
như: mua sắm máy móc thiết bị, xây dựng nhà xưởng, mua bằng sáng chế
phát minh, đào tạo công nhân, hình thành một lượng tài sản lưu động thường
xuyên cần thiết. Trong quá trình phát triển, doanh nghiệp tiếp tục bổ sung vốn
để tăng thêm tài sản kinh doanh tương ứng với sự mở rộng quy mô kinh
doanh. Các hoạt động của quá trình trên chính là quá trình đầu tư của tập
đoàn.
Như vậy, đầu tư vốn dài hạn của tập đoàn kinh tế là quá trình sử dụng vốn
để hình thành nên các tài sản cần thiết nhằm mục đích thu lợi nhuận trong
khoản thời gian dài trong tương lai.
Các bước để thực hiện một quyết định đầu tư dài hạn:
Quyết định đầu tư cũng là một quyết định tài chính dài hạn của tập đoàn
nó ảnh hưởng đến sự phát triển trong tương lai của tập đoàn. Thông thường, để
đi đến quyết định đầu tư, tập đoàn cần thực hiện các bước sau đây:
- Nhận biết tình hình: Đây là vấn đề hết sức quan trọng để đi đến
quyết định đầu tư, bao gồm: đánh giá tình hình hiện tại và dự đoán
tình hình trong tương lai ở bên trong cũng như bên ngoài tập đoàn.
- Xác định mục tiêu: Mỗi một quyết định đầu tư của tập đoàn đều
phải xác định rõ mục tiêu (mang tính chất dài hạn) cần đạt được về
sản xuất, về tài chính…
- Lựa chọn phương án đầu tư: Đây là công việc rất phức tạp, phải
giải quyết các vấn đề về kỹ thuật, kinh tế, tài chính…
- Lựa chọn dự án đầu tư: Sau khi các dự án được lập, tiến hành so
27
sánh và lựa chọn dự án để đầu tư.
- Ra quyết định đầu tư: Chọn được dự án đầu tư cần tiếp tục xem xét
tiếp khả năng thực hiện và ra quyết định đầu tư.
Quyết định huy động vốn:
Sau khi đã quyết định đầu tư, một trong những quyết định quan trọng
tiếp theo là quyết định huy động vốn để đáp ứng cho nhu cầu đầu tư.
Quyết định huy động vốn là quyết định lựa chọn nên huy động vốn dài
hạn từ những nguồn nào, chi phí sử dụng vốn bao nhiêu, quy mô vốn ra sao
nhằm mục tiêu cuối cùng là tối đa hóa giá trị cho chủ sở hữu.
Quyết định huy động vốn là một trong những quyết định có tính chất tiên
quyết của tập đoàn, vì để tập đoàn tồn tại và hoạt động được thì đầu tiên đòi
hỏi tập đoàn phải có vốn. Tuy nhiên, vốn huy động như thế nào để chi phí sử
dụng vốn là thấp nhất, điều này tương ứng với cơ cấu vốn tối ưu nhất (hệ số
nợ tối ưu). Đây là cơ sở cho việc xác định mức vay nợ của tập đoàn sau khi đã
xác định nhu cầu tài chính cho tập đoàn. Về quan điểm, hệ số nợ tối ưu được
xác định dựa trên nhiều căn cứ như khả năng đảm bảo an toàn tài chính, khả
năng sinh lời, đặc điểm kinh tế kỹ thuật của ngành kinh doanh... Tóm lại, đó
là hệ số nợ đảm bảo tối đa hóa sinh lời và tối thiểu hóa rủi ro cho chủ sở hữu
của tập đoàn.
Xét về tổng thể, nguồn vốn của tập đoàn gồm hai phần: vốn nợ và vốn
chủ sở hữu. Khi tập đoàn sử dụng nguồn vốn hỗn hợp này có thể xảy ra các
trường hợp sau:
Trường hợp 1: tỷ suất sinh lời của vốn kinh doanh (BEP) lớn hơn lãi suất
vay nợ, tập đoàn sử dụng nợ nhiều hơn vốn chủ sở hữu: trong trường hợp này,
nếu tập đoàn sử dụng nợ càng nhiều thì tỷ suất sinh lời trên đồng vốn chủ sở
hữu càng cao, vì nhận được nhiều thu nhập hơn từ vốn vay tạo ra, do đó nó sẽ
làm tăng thêm dòng tiền mà chủ sớ hữu nhận được. Tuy nhiên, do tăng thu
nhập từ vốn vay tạo ra nên tập đoàn càng sử dụng nợ, chính việc làm này có
28
tác dụng ngược đó là làm tăng nguy cơ rủi ro vỡ nợ dẫn đến tổn thất cho chủ
sở hữu.
Trường hợp 2: tỷ suất sinh lời của vốn kinh doanh (BEP) lớn hơn lãi suất
vay nợ, tập đoàn sử dụng nợ ít hơn vốn chủ sở hữu: trong trường hợp này
nguy cơ rủi ro vỡ nợ được giảm thiểu; tuy nhiên, do tập đoàn sử dụng nợ càng
ít thì tỷ suất sinh lời trên đồng vốn chủ sở hữu càng thấp, vì nhận được ít thu
nhập từ vốn vay tạo ra, do đó nó sẽ làm giảm thêm dòng tiền mà chủ sớ hữu
nhận được.
Vậy, việc sử dụng vốn vay một mặt sẽ làm tăng giá trị cho chủ sở hữu, vì
nó làm tăng dòng tiền của chủ sở hữu; mặt khác, nó làm tăng nguy cơ rủi ro
vỡ nợ cho chủ sở hữu nếu tập đoàn vay nợ quá mức; trong trường hợp này, để
bù đắp lại rủi ro do nguy cơ vỡ nợ tăng lên, đến lượt nó, chủ sở đòi hỏi tỷ suất
sinh lời tăng cao hơn, chính điều này sẽ làm cho giá trị của tập đoàn bị sụt
giảm. Chính vì vậy, nhà quản trị tài chính phải đưa ra quyết định lựa chọn
nguồn vốn nào, với quy mô từng nguồn vốn là bao nhiêu để tài trợ cho dự án
đầu tư, cũng như tài trợ cho hoạt động kinh doanh của tập đoàn sao cho hiệu
quả mang về cho chủ sở hữu là cao nhất.
Nguồn vốn dài hạn dùng để tài trợ cho quyết định đầu tư của tập đoàn
gồm nguồn vốn bên trong và nguồn vốn bên ngoài của tập đoàn; cụ thể:
Nguồn vốn bên trong chính là lợi nhuận giữ lại để tái đầu tư, nguồn
này nhiều hay ít phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh,
chính sách phân phối lợi nhuận, chiến lược kinh doanh, và cơ hội
đầu tư của tập đoàn.
Sử dụng nguồn vốn này sẽ có lợi cho tập đoàn thể hiện ở những
khía cạnh sau: thứ nhất, tăng vốn chủ sở hữu, đáp ứng nhu cầu vốn
cho tập đoàn; thứ hai, làm tăng sự tự chủ về tài chính của tập đoàn,
vì nguồn vốn này là vốn chủ sở hữu nên bản thân nó sẽ làm giảm
hệ số nợ, làm tăng uy tín cho tập đoàn; thứ ba, tiết kiệm chi phí sử
29
dụng vốn so với việc phát hành cổ phiếu; thứ tư, giữ được quyền
kiểm soát cho các cổ đông hiện hữu, tránh áp lực phải thanh toán
đúng kỳ hạn.
Tuy nhiên, việc sử dụng nguồn vốn này cũng có những bất lợi đối
với các tập đoàn hoạt động ổn định, có xu hướng phát triển thường
phải trả chi phí cao hơn vốn vay; hiệu quả sử dụng vốn thường
không cao và thường bị giới hạn về quy mô vốn, khó thoái vốn
nên tính linh hoạt về vốn thấp.
Nguồn vốn bên ngoài: Để thực hiện dự án đầu tư, trường hợp đã
huy động hết các nguồn vốn bên trong tập đoàn mà vẫn không đủ
đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư thì các tập đoàn buộc phải tìm kiếm
các nguồn vốn tài trợ từ bên ngoài như vay dài hạn. Có nhiều hình
thức vay dài hạn như vay dài hạn của ngân hàng và các tổ chức tài
chính – tín dụng, vay thông thường qua phát hành trái phiếu, thuê
tài chính… Trong đó, vay dài hạn ngân hàng là một trong những
nguồn vốn quan trọng nhất, không những đối với sự phát triển của
tập đoàn, mà còn đối với cả một nền kinh tế quốc dân.
Khi sử dụng nguồn vốn vay này, tập đoàn kinh tế sẽ có những lợi
ích của nợ vay như sau: thứ nhất, đẩy rủi ro kinh doanh sang cho
chủ nợ (như công ty trách nhiệm hữu hạn chỉ chịu trách nhiệm trên
vốn điều lệ); thứ hai, tập đoàn sử dụng nợ nghĩa là sử dụng đòn
bẩy tài chính làm gia tăng lợi nhuận của tập đoàn; thứ ba, tập đoàn
được hưởng tấm chắn thuế từ nợ vay; thứ tư, không bắt buộc phải
có tài sản thế chấp (đối với thuê tài chính).
Tuy nhiên, bên cạnh những điểm lợi vừa nêu ở trên, thì tập đoàn sẽ
có những bất lợi khi sử dụng nợ vay, đó là: thứ nhất, bắt buộc phải
trả lãi và nợ gốc đúng hạn, điều này sẽ tạo nguy cơ cho tập đoàn
mất khả năng thanh toán khi đến hạn, dẫn đến nguy cơ phá sản
30
cao; thứ hai, nếu kinh doanh kém hiệu quả thì tỷ suất sinh lời trên
đồng vốn chủ sở hữu có sử dụng nợ sẽ nhỏ hơn tỷ suất sinh lời trên
đồng vốn chủ sở hữu không sử dụng nợ; thứ ba, hệ số tín nhiệm
thấp vì nhà cung cấp cũng như người cho vay sẽ thận trọng trong
việc cung cấp nguyện vật liệu, cho vay, nhà đầu tư ngại mua cổ
phiếu, nhà liên doanh ngại giao dịch quan hệ kinh doanh; thứ tư,
nếu tập đoàn vay dài hạn thông qua hình thức thuê tài chính thì
không được hủy hợp đồng thuê trước hạn.
Quyết định phân phối lợi nhuận:
Đây là quyết định lựa chọn của nhà quản trị xem dành bao nhiêu phần
trăm lãi sau thuế để chia lợi nhuận, và dành bao nhiêu phần trăm lãi sau thuế
để tái đầu tư sao cho giá trị tập đoàn là cao nhất.
Về cơ bản, lãi sau thuế của tập đoàn kinh tế được chia làm hai phần:
một phần dành để chia cho chủ sở hữu, phần còn lại dành để tái đầu tư cho tập
đoàn. Việc quyết định chia lợi nhuận hay giữ lại lợi nhuận không ảnh hưởng
đến tổng lãi sau thuế dành cho chủ sở hữu, nhưng nó ảnh hưởng đến giá trị
của tập đoàn tại thời điểm hiện tại, và ảnh hưởng tới mức tăng trưởng của tập
đoàn trong tương lai. Nếu tập đoàn dành phần lớn lãi sau thuế để chia lợi
nhuận, thì trong hiện tại hình ảnh của tập đoàn sẽ rất đẹp trong mắt của nhà
đầu tư, điều này sẽ góp phần thúc đẩy giá trị của tập đoàn tăng lên; tuy nhiên
tập đoàn sẽ không đủ nguồn vốn để tái đầu tư, và điều này sẽ tác động xấu
đến tăng trưởng của tập đoàn trong tương lai. Ngược lại, Nếu tập đoàn dành
phần lớn lãi sau thuế để tái đầu tư, chia lợi nhuận cho chủ sở hữu ít, thì nhà
đầu tư sẽ nghi ngờ hiệu quả hoạt động SXKD của tập đoàn, từ đó hình ảnh
của tập đoàn sẽ mờ nhạt trong mắt của nhà đầu tư, điều này sẽ làm cho giá trị
của tập đoàn không cao trong hiện tại; tuy nhiên tập đoàn sẽ đủ nguồn vốn để
tái đầu tư, và điều này sẽ tác động tích cực đến tăng trưởng của tập đoàn trong
tương lai. Vì vậy, nhà quản trị tài chính phải quyết định lựa chọn phân chia
31
bao nhiêu phần trăm lãi sau thuế dành cho chủ sở hữu, và bao nhiêu phần
trăm lãi sau thuế để tái đầu tư sao cho đạt được mục tiêu tối đa hóa giá trị của
tập đoàn, và phù hợp với giai đoạn phát triển trong chu kỳ sống của tập đoàn.
Vậy, phân phối lợi nhuận vừa tác động đến thu nhập thực tế của chủ sở
hữu, đồng thời vừa tác động đến tăng trưởng thu nhập trong tương lai cho chủ
sở hữu. Do đó, việc phân chia lợi nhuận cũng phải đảm bảo hài hòa lợi ích
trước mắt và lợi ích lâu dài cho sự phát triển của tập đoàn.
Bên cạnh những quyết định tài chính mang tính tổng quát vừa trình bày ở
phần trên dùng để áp dụng chung cho tập đoàn kinh tế nói riêng và cho doanh
nghiệp nói chung thì quyết định tài chính của tập đoàn kinh tế còn có những
nét đặc thù riêng, đó là, tập đoàn kinh tế chủ yếu hoạt động theo mô hình
công ty mẹ - công ty con, đây là hình thức phổ biến và được hình thành từ sự
liên kết các doanh nghiệp trên cơ sở các quan hệ về đầu tư, chi phối, gắn kết
với nhau về thương hiệu, thị trường. Các tập đoàn kinh tế nhà nước và tư
nhân thường có quy mô vốn lớn, thị trường mở rộng, và thường có xu hướng
đầu tư quốc tế; vì thế, những quyết định tài chính dài hạn của tập đoàn kinh tế
thường có những điểm khác biệt với quyết định tài chính dài hạn của doanh
nghiệp nhỏ lẻ thông thường trong nước do những nguyên nhân sau đây:
Thứ nhất, khác biệt về tổ chức, khác biệt về sự trao đổi từ nước
ngoài, khác biệt về rủi ro tài chính nên dẫn đến sự khác biệt về
quyết định đầu tư. Quyết định đầu tư của Tập đoàn kinh tế (nhất là
đầu tư quốc tế) đòi hỏi phải có sự hiểu biết về văn hóa, lịch sử của
nước sở tại mà tập đoàn đó quyết định đầu tư. Đối với doanh
nghiệp nhỏ lẻ thông thường có quy mô vốn và phạm vi đầu tư nhỏ
(thường là chỉ đầu tư trong nước), thì những đặc điểm về văn hóa,
lịch sử của nước khác là không quan trọng.
Thứ hai, mặt dù doanh nghiệp nhỏ lẻ trong nước và các tập đoàn
kinh tế (có đầu tư quốc tế) đều phải đối mặt với những rủi ro;
32
nhưng doanh nghiệp nhỏ lẻ trong nước chủ yếu chỉ đối mặt với
những rủi ro xảy ra trong nước; còn tập đoàn kinh tế vẫn phải một
mình đối mặt với những rủi ro kinh tế và rủi ro chính trị ở nước
ngoài, mà điều này không phải là những mối đe dọa bình thường
đến tập đoàn kinh tế.
Thứ ba, dù là tập đoàn kinh tế hay những doanh nghiệp nhỏ lẻ
thông thường trong nước đều phải đối mặt với những rủi ro khác
đó là việc quyết định có nên mở rộng tài chính? cụ thể, tập đoàn
kinh tế hay những doanh nghiệp nhỏ lẻ thông thường trong nước
trước khi tiếp cận nguồn vốn trong nước hay nguồn vốn nước
ngoài, đều phải tính đến chi phí sử dụng vốn, thuế, và những phép
phân tích tín dụng mà tập đoàn hay doanh nghiệp đều phải gánh
chịu; tuy nhiên doanh nghiệp nhỏ lẻ trong nước có quy mô nhỏ
nên thông thường chỉ có thể tiếp cận nguồn vốn trong nước, còn
tập đoàn kinh tế có quy mô lớn, có tính chất đầu tư quốc tế cao nên
có nhiều cơ hội chọn lựa tiếp cận nguồn vốn trong nước hay nguồn
vốn nước ngoài với chi phí sử dụng vốn tối ưu hơn.
Thứ tư, Một tập đoàn kinh tế đa quốc gia thực hiện cấu trúc vốn
nhằm mục tiêu “toàn cầu” khác với những doanh nghiệp nhỏ lẻ
thông thường trong nước thực hiện cấu trúc vốn nhằm mục tiêu
“địa phương”: Một tập đoàn kinh tế đa quốc gia có thể đi chệch
cấu trúc vốn mục tiêu của mình ở từng quốc gia riêng biệt, ví dụ
như: 1.Không được phép phát hành cổ phiếu mà chỉ được phát
hành trái phiếu hay vay ngân hàng của quốc gia A, 2. Chỉ tiến
hành phát hành cổ phiếu ở quốc gia B, 3.chỉ vay ngân hàng địa
phương của quốc C, là nước đang có rối loạn chính trị; tuy nhiên
vẫn có thể đạt được cấu trúc vốn mục tiêu trên cơ sở hợp nhất.
Trong khi đó một doanh nghiệp nhỏ trong nước thì có thể xác định
33
trực tiếp cấu trúc vốn mục tiêu mà không cần phải đi chệch hướng
cho từng khoản vốn huy động.
Thứ năm, cấu trúc vốn các tập đoàn kinh tế đa quốc gia có thể có
sự khác biệt một cách có hệ thống với cấu trúc vốn với các doanh
nghiệp nhỏ lẻ với 100% là vốn nội địa; vấn đề này phụ thuộc vào
đặc điểm của từng tập đoàn kinh tế đa quốc gia; đối với những tập
đoàn kinh tế có những đặc điểm như lưu lượng tiền tệ thu vào ròng
ổn định thì thường có cấu trúc thâm dụng nợ vì họ sẵn sàng chi trả
lãi vay bằng các lưu lượng tiền tệ thu vào này; bên cạnh đó, đối
với những tập đoàn kinh tế có những đặc điểm như thu nhập của
công ty con phụ thuộc vào luật lệ thuế khóa của nước chủ nhà, cụ
thể chính phủ nước chủ nhà buộc các công ty con ở địa phương
giữ lại trong nước tất cả các thu nhập, không được chuyển ra nước
ngoài, làm cho công ty mẹ không nhận được dòng tiền thu về từ
các công ty con, công ty mẹ sẽ không thể thanh toán lãi vay định
kỳ cho cho các chủ nợ, vì lý do này công ty mẹ duy trì chung một
cấu trúc vốn thâm dụng vốn cổ phần.
1.2 HỆ THỐNG THÔNG TIN KINH TẾ PHỤC VỤ CHO VIỆC RA QUYẾT
ĐỊNH TÀI CHÍNH CỦA TẬP ĐOÀN KINH TẾ
1.2.1 Hệ thống thông tin kinh tế của tập đoàn kinh tế
1.2.1.1 Thông tin kinh tế và hệ thống thông tin kinh tế
1.2.1.1.1 Thông tin kinh tế
a. Thông tin
Thông tin chính là tất cả những gì mang lại hiểu biết cho con người;
thông tin làm tăng hiểu biết của con người, là nguồn gốc của nhận thức và là
cơ sở quyết định. Con người luôn có nhu cầu thu thập thông tin bằng nhiều
cách khác nhau: đọc báo, nghe đài, xem tivi, giao tiếp...
34
Thông tin là ý nghĩa được rút ra từ dữ liệu thông qua quá trình xử lý
(phân tích, tổng hợp, đánh giá...), thông tin chỉ có ích khi gặp nhu cầu thật sự;
khi được thu nhận, thông tin được tổ chức và phân phối theo một phương
pháp có hệ thống, có thể mô tả theo sơ đồ sau:
Dữ liệu
Xử lý
Thông tin
Xử lý
Quyết định
Sơ đồ 1.1: sơ đồ tổ chức và phân phối thông tin
Trong xã hội phát triển, thông tin đã trở thành một nguồn tài nguyên
quan trọng và to lớn, vì thông tin là sức mạnh của chiến lược. Tuy nhiên,
thông tin được coi là có giá trị khi có những đặc điểm sau đây:
Số lượng: Lượng thông tin được cung cấp phải tương ứng với mục đích,
không quá nhiều khiến cho những thông tin chính tản mát, hoặc quá ít khiến
chúng tạo nên một bức tranh không đầy đủ;
Phù hợp: Thông tin phải phù hợp với khả năng thu nhận của người sử
dụng;
Phạm vi: Quy mô hay phạm vi của thông tin phải tương ứng với mục
đích sử dụng;
Liên quan: Nội dung của thông tin phải mang lại giá trị hữu ích với yêu
cầu;
35
Chính xác: Thông tin càng chính xác càng tốt, nhưng trong một số
trường hợp phải lưu ý với yếu tố kịp thời, đôi khi chính xác 90% nhưng kịp
thời vẫn tốt hơn chính xác 100% nhưng lỗi thời;
Kịp thời: Thông tin phải sẵn sàng khi cần đến và phù hợp với hoàn cảnh
sử dụng;
Tin cậy: Tính tin cậy của thông tin kinh tế thể hiện ở việc nguồn văn bản
khi cập nhật phải là văn bản do đúng cấp có thẩm quyền ban hành và đang có
hiệu lực áp dụng.
b.Thông tin kinh tế:
Đó là những thông tin gắn liền với hoạt động kinh tế.
Theo nghĩa rộng, đó là những tin tức được tiếp nhận, được hiểu để phục
vụ cho việc ra các quyết định kinh tế.
1.2.1.1.2 Hệ thống thông tin kinh tế
Để hỗ trợ quá trình ra quyết định và quản lý hoạt động, hệ thống thông
tin kinh tế có vai trò rất quan trọng trong hiệu quả quyết định của nhà quản trị.
Vậy, hệ thống thông tin kinh tế là gì?
Thuật ngữ hệ thống là một khái niệm rộng và được định nghĩa bằng
nhiều cách khác nhau:
+ Hệ thống là tập hợp nhiều yếu tố, đơn vị cùng loại hoặc cùng chức
năng, có quan hệ hoặc liên hệ với nhau chặt chẽ, làm thành một thể thống
nhất.
+ Hệ thống là tập hợp những tư tưởng, những nguyên tắc, quy tắc liên
kết với nhau một cách logic làm thành một thể thống nhất.
Một cách tổng quát ta có hai khái niệm sau:
“Hệ thống là một tập hợp gồm nhiều phần tử tương tác, có các mối
quan hệ ràng buộc lẫn nhau và cùng hoạt động hướng tới một mục tiêu
36
chung thông qua việc chấp thuận các đầu vào và biến đổi có tổ chức để tạo
kết quả đầu ra”. [8]
“Hệ thống là tập hợp các phần tử hay đối tượng trên đó thực hiện một
hay nhiều quan hệ (Relation) cho trước với những tính chất (Properties)
nhất định”. [8]
Tuy nhiên, định nghĩa hệ thống như một tập hợp các phân tử tác động
qua lại lẫn nhau là phổ biến nhất. Hệ thống này còn bao hàm ý nghĩa về kế
hoạch, phương pháp, tổ chức các đối tượng một cách có trật tự để tạo thành
một chỉnh thể.
Hệ thống thông tin
Hệ thống thông tin là hệ thống hỗ trợ thu thập các dữ liệu đầu vào, xử lý,
lưu trữ các dữ liệu nhằm cung cấp thông tin cho người sử dụng.
Hệ thống thông tin kinh tế
Theo D.Oprea (2005) thì hệ thống thông tin kinh tế là “một hội đồng các
nguồn nhân lực và vốn, đầu tư vào một đơn vị kinh tế, với mục đích thu thập
và xử lý các dữ liệu cần thiết để sản xuất các thông tin, các thông tin này sẽ
được sử dụng ở tất cả các cấp ra quyết định quản lý và kiểm soát các tổ chức
hoạt động”.
Hệ thống thông tin kinh tế là hệ thống hỗ trợ thu thập, tổ chức và xử lý
những thông tin trong lĩnh vực kinh tế (vĩ mô, vi mô) ở bên trong và bên
ngoài doanh nghiệp để phục vụ cho công tác quản trị của chính tập đoàn. Vì
thế, khả năng tương tác của hệ thống thông tin kinh tế có thể được coi là sự
kết nối giao tiếp dễ dàng giữa các đối tượng sử dụng.
Hệ thống thông tin đóng vai trò trung gian giữa tập đoàn với môi trường
bên ngoài, hay giữa các bộ phận bên trong tổ chức tập đoàn với nhau nhằm
cung cấp những thông tin cần thiết cho sự quản trị, điều hành; cụ thể, hệ
thống thông tin kinh tế sẽ giúp các tập đoàn tăng cường năng lực quản trị,
37
nâng cao năng suất chất lượng, nâng cao hiệu quả của hoạt động quản trị, và
hỗ trợ cho quá trình ra quyết định... qua đó tăng cường vị thế cạnh tranh của
tập đoàn trong một thị trường biến đổi nhanh chóng và phức tạp. Vì vậy, hệ
thống thông tin kinh tế có vai trò to lớn trong quản trị tập đoàn.
Song song đó, tất cả các tổ chức, tập đoàn đều cần đến thông tin để hỗ
trợ cho công tác quản trị và thông tin cũng giúp ích rất nhiều trong việc thực
hiện các mục tiêu và các hoạt động của tập đoàn. Do đó, hệ thống thông tin
kinh tế ra đời là một tất yếu khách quan.
Từ những vấn đề trên ta có thể rút ra khái niệm về Hệ thống thông tin
kinh tế như sau:
Hệ thống thông tin kinh tế là hệ thống thông tin cung cấp những thông
tin kinh tế nhằm phục vụ cho công tác quản trị tập đoàn; đó là hệ thống hỗ
trợ quá trình thu thập, phân tích, đánh giá và phân phối những thông tin cần
thiết, kịp thời, chính xác cho nhà quản trị để giúp nhà quản trị đưa ra những
quyết định tài chính – kinh tế được chuẩn xác nhất.
Yêu cầu của hệ thống thông tin
Hệ thống thông tin phải đảm bảo tính chính xác
Thông tin phải chính xác, nó phải được lấy từ nguồn thông tin có thẩm
quyền ban hành (như thông tin từ chính phủ thông qua các Bộ, Ngành), hoặc
được lấy từ trong nội bộ Tập đoàn, do những nhà quản trị các cấp tuyên bố
chính thức.
Trong thực tế, các nhà quản lý thường bị đè nặng bởi hệ thống thông tin
quá tải, không cần thiết; nhưng yếu tố chính xác là yếu tố rất quan trọng, vì nó
tác động trực tiếp đến hiệu quả ra quyết định; vì thế, dù các nhà quản lý có bị
quá tải về thông tin nhưng vẫn không thể xem nhẹ yếu tố này. Hay nói cách
khác, đây là yếu tố được chú trọng hàng đầu trong hệ thống thông tin mà Tập
đoàn đã xây dựng.
38
Ví dụ: Trước khi Tập đoàn mở rộng chính sách bán chịu, Tập đoàn cần
đánh giá khoản bán chịu sẽ được hoàn trả như thế nào, lợi nhuận Tập đoàn sẽ
tăng hay giảm từ việc mở rộng chính sách bán chịu này? Vì thế, để tránh sai
lầm khi ra chính sách bán chịu này, Tập đoàn cần phải có thông tin chính xác
về khả năng thanh toán của khách hàng, cũng như uy tín của khách hàng.
Tuy nhiên, khi xây dựng hệ thống thông tin kinh tế nhằm phục vụ ra
quyết định tài chính, nhà quản trị cần chú ý trong hệ thống thông tin kinh tế,
đặc biệt là thông tin được lấy từ báo cáo tài chính của Tập đoàn, được đánh
giá cao trong hệ thống thông tin, nhưng số liệu trên báo cáo tài chính là số
liệu tổng hợp nên có thể gây khó khăn cho người đọc khi đánh giá các thành
phần của Tập đoàn; mặt khác, báo cáo tài chính được lập sau một thời gian
hoạt động, nên số liệu trên báo cáo là số liệu của quá khứ, trong khi người sử
dụng thông tin để đưa ra quyết định dựa trên những kỳ vọng về tương lai; vì
thế các thông tin kinh tế nói chung hay báo cáo tài chính nói riêng có tác dụng
góp phần vào việc giúp nhà quản trị đưa ra quyết định bằng cách giúp họ xác
định xu hướng, xác nhận độ chính xác của những kỳ vọng trước đó.
Hệ thống thông tin phải đảm bảo tính đầy đủ.
Trong hệ thống thông tin, nếu ta chỉ đòi hỏi đảm bảo độ chính xác thôi
vẫn chưa đủ, vì nó vẫn chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu người sử dụng, một
thông tin có chất lượng tốt phải gồm: chính xác và đầy đủ; thông tin đầy đủ
phải bao gồm tất cả mọi thứ mà nó cần phải có. Nếu hệ thống thông tin kinh
tế quá nghèo nàn, thì sẽ làm suy yếu kết quả của việc ra quyết định dựa trên
cơ sở những thông tin này, đồng thời nó không có khả năng phục vụ lợi ích
cho Tập đoàn.
ví dụ: Thông tin so sánh lợi ích và chi phí; người thu thập thông tin
không nên thu thập thông tin về chi phí quá nhiều, thông tin về lợi ích quá ít
(hoặc ngược lại), sẽ làm mất cân đối về thông tin, hậu quả của thông tin
39
không đầy đủ này làm cho nhà quản trị có tầm nhìn bị lệch, và có thể dẫn đến
quyết định tài chính sai lầm.
Để tránh tình trạng này, các nhà cung cấp thông tin cần phải được trang
bị phương tiện thu thập và phân tích thông tin có hiệu quả, có như vậy thì
người dùng không bị lãng phí thời gian và hạn chế được rủi ro do sử dụng
thông tin không đầy đủ.
Hệ thống thông tin phải đảm bảo tính cần thiết.
Một thông tin được gọi là cần thiết cho người sử dụng khi nó ảnh hưởng
đến quyết định tài chính của họ; ví dụ như: trước khi đầu tư vào thị trường
Myanmar, VNPT đã nghiên cứu kỹ nhu cầu khách hàng ở thị trường nước này
về thiết bị đầu cuối, về dịch vụ băng rộng, dịch vụ vệ tinh; và đây là những
thông tin rất cần thiết đã giúp VNPT tìm được hướng đầu tư đúng đắn để khai
thác thế mạnh của VNPT về những dịch vụ này.
Thông tin được gọi là cần thiết sẽ giúp cho nhà quản trị có thể:
Đánh giá các sự kiện trong quá khứ, hiện tại, hay tương lai;
Thông qua đánh giá các sự kiện, người sử dụng thông tin có thể
đưa ra dự báo được những vấn đề bất thường, hoặc những vấn đề xảy ra
không thường xuyên.
Mặt khác, khi xây dựng hệ thống thông tin cung cấp cho nhà quản trị, ta
cần chú ý đến mục tiêu của người sử dụng. Ví dụ như: quản lý cấp cao có thể
yêu cầu tóm tắt nội dung thông tin, trong khi cơ sở thì yêu cầu chi tiết; thông
tin liên quan mà không cần thiết để hỗ trợ đưa ra quyết định thì nên bỏ qua.
Tóm lại, khi xây dựng hệ thống thông tin, ta cần chú ý đến sự cần thiết
của các thông tin này, vì thông tin đáp ứng được sự cần thiết mới là thông tin
hữu ích cho nhà quản trị, nó giúp cho nhà quản trị ra được những quyết định
tài chính đúng đắn, đánh giá được các sự kiện xảy ra trong tương lai, và có thể
dự báo được những vấn đề bất thường có thể xảy ra.
40
Hệ thống thông tin phải đảm bảo tính kịp thời.
Tính kịp thời: các thông tin nên có sẵn, khi cần thiết có thể được cung
cấp kịp thời để sử dụng ngay, một sự chậm trễ quá mức trong việc cung cấp
thông tin có thể làm giảm sự tác động của nó đến quyết định tài chính của nhà
quản trị; để cung cấp thông tin một cách kịp thời và có hiệu quả, thông tin đó
phải được thu thập và cung cấp trước khi các sự kiện khác liên quan với thông
tin đó được biết đến; vì thế, tính kịp thời này bị tác động rất lớn đến độ tin cậy
của thông tin; khi thu thập thông tin, doanh nghiệp cần đo lường giữa lợi ích
và chi phí từ những thông tin đó, lợi ích từ những thông tin này phải lớn hơn
chi phí để có được nó.
Hệ thống thông tin phải đảm bảo tính tin cậy.
Thông tin được gọi là tin cậy khi nó hợp lý, không bị sai lệch với
thực tế; để có được những thông tin chất lượng này, thì thông tin phải được
thu thập từ những nguồn có thẩm quyền phát ra (như chính phủ phát ra thông
qua các Bộ, Ngành, Ban lãnh đạo các công ty con của tập đoàn), hoặc được
lấy từ những bài báo hay những kênh truyền thông có uy tín được xã hội công
nhận rộng rãi; có như thế thì thông tin được thu thập mới đảm bảo tính tin cậy
cao.
Hệ thống thông tin phải đảm bảo tính dễ sử dụng
Thông tin phải được trình bày rõ ràng, dễ hiểu, dễ sử dụng, người sử
dụng thông tin phải có một trình độ nhất định về kinh tế - tài chính, họ sẵng
sàng nghiên cứu các thông tin kinh tế do Tập đoàn thu thập; vì thế, để giúp họ
ra quyết định chuẩn xác, hệ thống thông tin phải được xây dựng một cách dễ
hiểu, dễ sử dụng; có nghĩa là cùng một thông tin, mọi người phải hiểu cùng
một nghĩa; vì thế người lập thông tin không nên sử dụng từ tối nghĩa, sẽ làm
người sử dụng hiểu sai lệch ý nghĩa của thông tin; hậu quả có thể xảy ra là
người sử dụng sẽ đưa ra quyết định sai lầm từ những thông tin khó hiểu này.
41
Các vấn đề thường gặp nhất của nhà quản lý là thông tin không được
nhắm vào người sử dụng, đó là hệ thống thông tin không được thiết kế với
nhu cầu mong muốn của người sử dụng, vì có những thông tin không thực sự
liên quan đến các quyết định họ cần đưa ra; trong khi đó, với chức năng của
nhà quản lý thì nhu cầu thông tin là thường xuyên, nếu thông tin cung cấp cho
nhà quản trị không liên quan, không dễ sử dụng thì sẽ dẫn đến việc cung cấp
thông tin không kịp thời.
Hệ thống thông tin phải đảm bảo tính bảo mật:
Thông tin là một mặt hàng quan trọng, có giá trị và cần phải được bảo vệ
an toàn; quá trình xây dựng thông tin phải được bảo mật, không bị can thiệp
trái phép; thông tin không thay đổi trước, trong và sau quá trình thực hiện. Do
yêu cầu thông tin luôn có sẵn để đáp ứng kịp thời nhu cầu của người sử dụng,
nên thông tin dễ bị xâm nhập, đánh cắp. Để hạn chế rủi ro này, thông tin cần
phải được bảo mật; tính bảo mật thông tin liên quan đến việc phòng ngừa,
phát hiện và ngăn chặn các vấn đề nhằm tránh các mối đe dọa cho Tập đoàn
do thông tin bị thay đổi, phá hủy hoặc bị tiết lộ.
Kết luận: Để xây dựng được một hệ thống thông tin tốt, giúp cho nhà
quản trị ra được những quyết định tài chính phù hợp thì đòi hỏi hệ thống
thông tin đó phải đảm bảo chất lượng, nghĩa là hệ thống thông tin này phải thể
hiện đủ tám đặc điểm chính: chính xác, đầy đủ, cần thiết, tin cậy, kịp thời, phù
hợp, dễ sử dụng, và bảo mật.
1.2.1.1.3 Phân loại hệ thống thông tin kinh tế
Hệ thống thông tin kinh tế được phân loại theo các tiêu chí sau đây:
a. Phân loại theo phạm vi thông tin: gồm có hệ thống thông tin kinh tế
vĩ mô và hệ thống thông tin kinh tế vi mô
Hệ thống thông tin kinh tế vĩ mô: bao gồm hệ thống thông tin
pháp luật kinh tế, hệ thống thông tin dự báo tăng trưởng nền kinh tế, hệ thống
42
thông tin dự báo tỷ lệ lạm phát…những hệ thống thông tin này hỗ trợ cho nhà
quản trị nắm được những thông tin trong xã hội thực tế nói chung, giúp cho
quá trình ra quyết định chiến lược và quản lý tập đoàn được tốt hơn, cụ thể:
Trong xu thế toàn cầu hiện nay, mối liên hệ giữa hệ thống pháp
luật và kinh doanh không chỉ diễn ra trên bình diện quốc gia mà
còn thể hiện trong các quan hệ quốc tế, hệ thống pháp luật ngày
càng ảnh hưởng lớn đến hoạt động của doanh nghiệp; hệ thống
pháp luật chặt chẽ, hành lang pháp luật thông thoáng sẽ giúp nhà
đầu tư đưa ra được những quyết định đầu tư hợp lí hơn.
Để đảm bảo sự tồn tại, nhà quản trị rất cần thông tin tăng trưởng
kinh tế của một quốc gia, vì thông tin này giúp nhà đầu tư đánh
giá được tình hình tăng trưởng hay suy thoái của nền kinh tế;
Nếu một quốc gia có mức tăng trưởng kinh tế ổn định, thì nhà
quản trị dự báo mức tiêu thụ sản phẩm được dễ dàng hơn; ngược
lại, nếu một quốc gia có mức tăng trưởng kinh tế không ổn định,
thì nhà quản trị dự báo mức tiêu thụ sản phẩm khó khăn hơn, thị
trường biến động hơn nên rủi ro tăng lên. Vì thế, tăng trưởng
kinh tế là một thông tin rất quan trọng, không thể thiếu được
trong việc ra quyết định của nhà quản trị.
Để hạn chế rủi ro do khủng hoảng tài chính, thông tin lạm phát
cũng không kém phần quan trọng, lạm phát làm cho giá trị của
đồng tiền giảm xuống, nên mức tiêu thụ hàng hóa cũng giảm
theo, đồng thời chi phí nguyên vật liệu đầu vào tăng lên, hiệu quả
hoạt động kinh doanh bị giảm xuống, dẫn đến tỷ suất sinh lời
giảm, rủi ro hoạt động gia tăng. Vì thế, đây là thông tin rất quan
trọng mà nhà quản trị rất cần cập nhật để đưa ra quyết định quản
trị hợp lý hơn, hạn chế được rủi ro do lạm phát tác động.
43
Tóm lại: Các yếu tố vĩ mô như: Luật pháp, tốc độ tăng trưởng và sự ổn
định của nền kinh tế, sức mua, sự ổn định của giá cả, tiền tệ, lạm phát...Tạo
nên một môi trường kinh doanh, và môi trường kinh doanh này ảnh hưởng
mạnh mẽ đến hoạt động sản xuất kinh doanh của Tập đoàn. Những biến động
của các yếu tố kinh tế vĩ mô có thể tạo ra cơ hội và cả những thách thức với
Tập đoàn. Để đảm bảo thành công hoạt động của Tập đoàn trước biến động
về kinh tế vĩ mô, Tập đoàn cần phải theo dõi, phân tích, dự báo biến động của
từng yếu tố kinh tế để đưa ra các giải pháp, các chính sách tương ứng trong
từng thời điểm cụ thể nhằm tận dụng, khai thác những cơ hội, né tránh, giảm
thiểu nguy cơ đe dọa.
Hệ thống thông tin kinh tế vi mô: bao gồm: thông tin kế toán,
thông tin về nhu cầu thị trưởng của sản phẩm, thông tin về thị phần của Tập
đoàn, thông tin về trình độ công nghệ… Hệ thống thông tin kinh tế vi mô có
tầm quan trọng và tác động trực tiếp đến các quyết định tài chính như quyết
định về chiến lược, quyết định về chiến thuật và quyết định về tác nghiệp của
tập đoàn, cụ thể:
Hệ thống thông tin kế toán là một hệ thống thu thập, ghi chép,
lưu trữ và xử lý dữ liệu để cung cấp thông tin cho nhà quản trị ra
quyết định; vì thế, thông tin kế toán đóng một vai trò tích cực
trong sự toàn vẹn của các quyết định tài chính cũng như sự thành
công của kế hoạch phát triển; thông tin kế toán có mối quan hệ
chặt chẽ với các quyết định của Tập đoàn; căn cứ để lựa chọn
hay thay đổi chính sách tài chính – kế toán của Tập đoàn vẫn chủ
yếu dựa vào thông tin kế toán; thông tin kế toán càng chất lượng
thì công tác quản trị tài chính càng hiệu quả.
Thông tin dự báo nhu cầu thị trường của sản phẩm giúp Tập
đoàn xây dựng chiến lược sản phẩm, kế hoạch sản xuất, chất
44
lượng sản phẩm phù hợp, giá cả hợp lý với nhu cầu và khả năng
tiêu dùng ở những thời điểm nhất định.
Thông tin dự báo thị phần của Tập đoàn: thông tin dự báo thị
phần Tập đoàn là một trong những thông tin cực kỳ quan trọng,
nó là thông tin tiên quyết cho việc lập kế hoạch tài chính ngắn
hạn cũng như dài hạn của Tập đoàn, thị phần Tập đoàn quyết
định sự tồn vong của Tập đoàn, vì thế đây là thông tin kinh tế
không kém phần quan trọng trong việc hỗ trợ nhà quản trị ra các
quyết định tài chính đúng đắn.
Thông tin về trình độ công nghệ: sự phát triển của khoa học kỹ
thuật cũng đặt ra những thách thức không nhỏ cho các Tập đoàn
trong việc quản lý, khai thác và vận hành công nghệ có hiệu quả
cao. Nếu một Tập đoàn có trình độ công nghệ cao, chất lượng
sản phẩm tốt, thì sẽ giúp Tập đoàn nâng cao khả năng cạnh tranh
về chất lượng sản phẩm trên thị trường, và ngược lại.
Thông tin về trình độ người lao động: tầm quan trọng của thông
tin trong các quyết định tài chính phụ thuộc vào năng lực người
lao động sử dụng thông tin; người lao động (nhà quản trị) phải có
khả năng dự đoán các biến số không rõ ngày càng phức tạp và
bất ổn, như: lãi suất trong tương lai, lạm phát, hiệu suất đầu
tư…để đưa ra các quyết định tài chính tốt, nhà quản trị cần phải
nắm rõ thông tin để xử lý thông tin một cách hiệu quả hơn.
b. Phân loại theo thời gian thông tin: gồm có hệ thống thông tin kinh
tế quá khứ, hệ thống thông tin kinh tế hiện tại, và hệ thống thông tin kinh tế
tương lai.
Hệ thống thông tin kinh tế quá khứ: Đó là hệ thống thông tin kinh
tế đã xảy ra, và đã được ghi nhận; đây chính là thông tin rất quan
45
trọng, nó trở thành thông tin cơ sở được sử dụng làm căn cứ để
lập kế hoạch tài chính cho tương lai (ví dụ như thông tin kế toán,
thông tin vế tốc độ tăng trưởng kinh tế, thông tin tỷ lệ lạm phát,
thông tin thị phần, thông tin về giá cả sản phẩm… của những
năm qua). Nhà quản trị là người trực tiếp quản lý Tập đoàn, hơn
ai hết, nhà quản trị hiểu rất rõ tình hình tài chính của tập đoàn, để
làm được điều này họ cần nhiều thông tin phục vụ cho việc phân
tích, đánh giá tình hình tài chính, trong đó thông tin quá khứ là
thông tin được sử dụng có căn cứ khoa học nhất, vì:
Thông tin quá khứ giúp nhà quản trị đánh giá hoạt động quản lý
trong giai đoạn đã qua, đánh giá việc thực hiện cân bằng tài
chính, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán và rủi ro tài chính
trong doanh nghiệp;
Thông tin quá khứ giúp nhà quản trị định hướng các quyết định
theo chiều hướng phù hợp với tình hình thực tế của doanh
nghiệp, như quyết định về đầu tư, tài trợ vốn, và phân phối lợi
nhuận…
Thông tin quá khứ giúp nhà quản trị nhận thức được tình hình tài
chính của Tập đoàn trong quá khứ, từ đó nhà quản trị nhận thức
và cải tạo tình hình tài chính của Tập đoàn một cách tự giác, có ý
thức phù hợp với điều kiện cụ thể và đáp ứng được yêu cầu của
các quy luật kinh tế khách quan nhằm đem lại kết quả và hiệu
quả kinh tế tối ưu.
Hệ thống thông tin kinh tế hiện tại: Đó là hệ thống thông tin kinh
tế đang xảy ra, vừa mới xảy ra, hay sắp xảy ra trong tương lai
gần đã được xác định (như thông tin về nhu cầu thị trường sản
phẩm, thông tin giá cả, thông tin thị phần…); Mọi quyết định của
46
nhà quản trị đều liên quan đến đời sống kinh tế của Tập đoàn,
liên quan đến tiềm lực tài chính, liên quan đến diễn biến luồng
chuyển dịch giá trị, liên quan đến sự vận động của vốn hoạt động
trong hiện tại của Tập đoàn; hay nói cách khác, mọi quyết định
của nhà quản trị đều hướng vào thực hiện những mục tiêu nhất
định. Để soi rọi những mục tiêu này có được thực hiện đúng
hướng hay không thì những thông tin kinh tế hiện tại chính là căn
cứ khoa học quan trọng giúp nhà quản trị đôn đốc, kiểm tra, kiểm
soát việc thực hiện những mục tiêu đề ra, từ đó có hướng đề xuất
các giải pháp điều chỉnh thực hiện kế hoạch cho phù hợp.
Hệ thống thông tin kinh tế tương lai: Đó chính là hệ thống thông
tin dự báo các sự kiện kinh tế sẽ xảy ra trong tương lai (như
thông tin dự báo về tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, thông tin
dự báo tỷ lệ lạm phát, thông tin dự báo thị phần, thông tin dự báo
nhu cầu thị trường của sản phẩm…). Hệ thống thông tin kinh tế
tương lai là một nhân tố quan trọng trong hoạt động quản lí, là
công cụ không thể thiếu để lãnh đạo, điều hành và kiểm soát mọi
hoạt động của các nhà quản trị Tập đoàn. Nhà quản trị Tập đoàn
chỉ có thể ra quyết định đúng đắn, đem lại hiệu quả cao chỉ khi
họ nắm được thông tin kinh tế tương lai chính xác, đầy đủ và kịp
thời về tình hình tài chính, thị trường, đối tác kinh doanh, luật
pháp…sự thiếu thông tin hoặc thông tin không chính xác sẽ dễ
làm cho nhà quản trị ra quyết định sai lầm, rủi ro trong quyết
định tài chính sẽ xuất hiện.
c. Phân loại theo xuất xứ thông tin: gồm có hệ thống thông tin kinh tế
bên ngoài và hệ thống thông tin kinh tế bên trong.
Hệ thống thông tin kinh tế bên ngoài độc lập với Tập đoàn:
47
Sơ đồ 1.2: Phân loại theo kênh thông tin kinh tế bên ngoài độc lập với Tập
Quản trị
Thông tin kinh tế vĩ mô
Thông tin kinh tế vi mô
Quyết định quản trị tài chính
đoàn
Theo cách tổ chức này thì thông tin kinh tế ở bên ngoài được tổ chức
thành những hệ thống thông tin độc lập nhau, nhà quản trị dựa trên những hệ
thống thông tin này để phân tích, đánh giá và ra quyết định quản trị tài chính
tập đoàn.
Ưu điểm: kênh thông tin này sẽ cung cấp cho nhà quản trị những thông
tin chính xác và trung thực, vì những kênh thông tin này hoạt động độc lập
với tập đoàn nên số liệu hoàn toàn mang tính chất khách quan và trung thực,
giúp cho việc ra quyết định khách quan hơn.
Nhược điểm: Do phải tổ chức bộ phận thu thập thông tin, phân tích và xử
lý dữ liệu, tổ chức lao động, cơ sở vật chất trang bị kỹ thuật cũng như trình độ
quản lý cao hơn, nên chỉ có thể áp dụng ở những tập đoàn có quy mô lớn, chi
phí hoạt động của tập đoàn sẽ gia tăng.
Phân loại theo kênh thông tin kinh tế bên trong trực tiếp từ
Tập đoàn.
Sơ đồ 1.3: Phân loại theo kênh thông tin kinh tế bên trong trực tiếp từ Tập
đoàn
Chính sách sử dụng nợ
Chính sách đầu tư tài sản lưu động
Quản trị tài chính
48
Chính sách đầu tư tài sản cố định Chính sách sử dụng VCSH
Theo cách tổ chức kênh thông tin tài chính này thì thông tin được tổ chức
dưới dạng dựa vào các quyết định đầu tư vào tài sản lưu động, quyết định đầu
tư vào tài sản cố định, quyết định huy động vốn trong tập đoàn; mỗi bộ phận
cung cấp một dạng thông tin nhất định cho quản trị tài chính tập đoàn; giữa
các bộ phận trên có sự liên hệ mật thiết với nhau và tác động lẫn nhau.
Ưu điểm: theo cách tổ chức này thì những thông tin tài chính cung cấp
một cách trực tiếp và nhanh nhất cho nhà quản trị; do các nhiệm vụ thu thập,
phân tích và xử lý thông tin được lấy trực tiếp từ trong nội bộ tập đoàn và
được chia nhỏ thành nhiều bộ phận với chức năng và nhiệm vụ khác nhau,
nên những thông tin này được chuyên môn hóa hơn.
Nhược điểm: Đòi hỏi nhà quản trị phân tích đánh giá nhiều nguồn
thông tin hơn, mặt khác những thông tin này tương tác lẫn nhau, làm cho số
liệu của các thông tin này sẽ bị “nhiễu” có thể làm cho các chính sách tài
chính, đặc biệt là tài chính ngắn hạn sẽ kém hiệu quả.
d. Phân loại theo kênh thông tin kết hợp
Sơ đồ 1.5: Phân loại theo kênh thông tin kết hợp
Quyết định quản trị tài chính tập đoàn
Phân phối thông tin cần thiết, kịp thời, chính xác cho những nhà quản trị.
Phân tích, đánh giá, chọn lọc các thông tin kinh tế - 49 tài chính
Theo cách tổ chức kênh thông tin này thì bộ phận kênh thông tin độc lập
ở bên ngoài tập đoàn và bộ phận kênh thông tin trực tiếp từ bên trong nội bộ
tập đoàn được kết hợp với nhau, để cùng thực hiện một mục đích duy nhất là
xây dựng hệ thống thông tin kinh tế nhằm phục vụ ra quyết định tài chính
trong tập đoàn.
Ưu điểm: Thông tin mang tính tổng hợp, giúp cho nhà quản trị ra các
quyết định tài chính ngắn hạn nhanh chóng, kịp thời, chính xác. Đây là cách
tổ chức thông tin hợp lý nhất, có tính ứng dụng cao và đem lại hiệu quả tốt
nhất cho việc ra các quyết định tài chính.
Nhược điểm: Do thông tin cung cấp là sự kết hợp tổng hợp của bộ phận
kế toán, nên những thông tin kết hợp này có thể xảy ra những mâu thuẫn ảnh
hưởng đến chính sách quản trị của tập đoàn.
1.2.1.2 Các yếu tố cấu thành hệ thống thông tin kinh tế
1.2.1.2.1 Yếu tố tổ chức
a. Yếu tố về quy trình thu thập thông tin
Để có thể trở thành nguồn thông tin hữu ích, thông tin được thu
thập từ nhiều nguồn dữ liệu khác nhau: thông tin đến từ bên trong lẫn bên
ngoài tập đoàn. Như ta đã biết, một hệ thống thu thập thông tin thường đặt ra
các thủ tục cho những thông tin được thu thập; nhưng làm thế nào để thu
thập một cách thường xuyên, bởi ai và bằng những phương pháp nào, làm
50
thế nào để xử lý được nó và có thể truyền đạt nó là vấn đề không đơn giản.
Vì thế, để có thể thu thập thông tin một cách đầy đủ, kịp thời, chính xác và
phù hợp ta căn cứ vào quy trình hoạt động của tập đoàn, từ quy trình hoạt
động này, ta xem xét các cấp quản lý của tập đoàn như: cấp chiến lược, cấp
chiến thuật và cấp tác nghiệp cần những thông tin gì, và xác định nguồn
thông tin thu thập từ đâu để làm căn cứ xây dựng quy trình thu thập thông tin
hợp lý. Quy trình thu thập thông tin được thể hiện qua các bước sau:
Sơ đồ 1.5: Các bước quy trình thu thập thông tin
Bước 5: Cung cấp thông tin đã được xử lý ở bước 4 cho các cấp quản trị của tập đoàn.
Bước 2: Xác định những nguồn cung cấp thông tin tin cậy nhằm thực hiện theo yêu cầu của bước 1
Bước 1: Căn cứ vào quy trình hoạt động để xác định những thông tin cần thiết cung cấp cho các cấp quản lý Bước 3: Tiến hành thu thập thông tin trên cơ sở nguồn cung cấp thông tin ở bước 2 Bước 4: Xử lý thông tin được thu thập ở bước 3, thông tin sau khi được xử lý phải đảm bảo các yêu cầu: đầy đủ, chính xác, kịp thời và phù hợp
b. Yếu tố về quy trình xử lý thông tin
Xử lý thông tin là thu thập dữ liệu có chọn lọc để chuyển thành
thông tin cần thiết, kịp thời, chính xác… nhằm phục vụ rộng rãi cho việc ra
quyết định tài chính. Để có hiệu quả, xử lý thông tin phải đáp ứng các tiêu chí
sau:
1. Đầy đủ: tất cả mọi thông tin phải đầy đủ, thông tin nào cần được xử lý
thì phải xử lý.
2. Chính xác: thông tin sau khi được xử lý phải đảm bảo đúng với nguồn
của nó.
51
3. Kịp thời: Thời gian xử lý tức thì với dữ liệu sẵn có và đáp ứng được
nhu cầu thông tin một cách kịp thời.
4. Bảo mật: quy trình xử lý thông tin phải đảm bảo tính chính xác và bảo
mật để không phải bất kỳ ai cũng có thể can thiệp trái phép trong quá trình xử
lý, và thông tin không bị thay đổi sau khi quá trình xử lý hoàn thành.
5. Nguồn dữ liệu phải được kiểm chứng.
6. Hiệu quả của việc xử lý cần được đánh giá thông qua chất lượng thông
tin cung cấp cho nhà quản trị
c. Yếu tố về quy trình xây dựng thông tin: được thể hiện ở cấp tác nghiệp,
cấp chiến thuật và cấp chiến lược như sau:
Cấp tác nghiệp:
Lập báo cáo tài chính
Thực hiện các quyết định tài chính do cấp chiến lược đề ra thông qua cấp
chiến thuật ban hành.
Cấp chiến thuật: ra các quyết định tài chính ngắn hạn
Ra quyết định dự trữ vốn bằng tiền
Ra quyết định tài trợ các khoản phải thu
Ra quyết định chiết khấu thanh toán
Ra quyết định dự trữ hàng tồn kho
Ra quyết định ngắn hạn khác
Cấp chiến lược: ra các quyết định tài chính dài hạn
Ra quyết định quyết định đầu tư
Ra quyết định huy động vốn
Ra quyết định phân chia lợi nhuận.
1.2.1.2.2 Yếu tố nội dung
a. Yếu tố về thông tin bên ngoài tập đoàn
52
Đó là những thông tin kinh tế được thu nhận từ bên ngoài tập đoàn, ví dụ
như: thông tin về giá cả, thị trường…những thông tin này giúp nhà quản trị
đánh giá được nhu cầu sản phẩm, thị phần , khả năng cạnh tranh của tập đoàn
… Từ đó, giúp nhà quản lý định hướng được chiến lược kinh doanh nhằm mở
rộng thị trường, giúp tập đoàn tăng trưởng và phát triển trong tương lai; chiến
lược kinh doanh này đến lượt nó trở thành căn cứ để nhà quản trị tài chính lập
kế hoạch tài chính nhằm đáp ứng nhu cầu vốn để thực hiện chiến lược kinh
doanh trên.
Tập đoàn tăng trưởng hay suy thoái là do các quyết định tài chính của
nhà quản trị đưa ra có phù hợp hay không, để giúp nhà quản trị có tầm nhìn
toàn diện và đưa ra được những quyết định tài chính đúng đắn thì đòi hỏi
những thông cung cấp cho nhà quản trị không thể thiếu được những thông tin
kinh tế ở bên ngoài tập đoàn.
b. Yếu tố về thông tin bên trong tập đoàn
Đây là hệ thống thông tin kinh tế được thu nhận từ bên trong tập đoàn,
ví dụ như: thông tin kế toán, thông tin kỹ thuật, thông tin về trình độ lao
động của công nhân…“Trong những thông tin mà nhà quản trị tài chính
thu thập cho quá trình phân tích và ra quyết định quản trị thì thông tin
được xem là đặc biệt quan trọng chính là thông tin kế toán. Bởi thông tin
kế toán cho phép nhà quản trị tài chính hiểu được năng lực tài chính và
hiệu quả hoạt động thực lực mà Tập đoàn hiện đang có, để từ đó những
quyết định tài chính tiếp theo trong tương lai sẽ được nhà quản trị tài
chính đưa ra có tính thực tiễn cao, sát thực với Tập đoàn”. [15] Vì vậy,
phần lớn các quyết định tài chính được nhà quản trị đưa ra chủ yếu dựa vào
thông tin kế toán.
Thông tin bên trong tập đoàn phản ánh đúng thực trạng của tập đoàn, đây
là những thông tin rất quan trọng mà bất cứ nhà quản trị nào cũng cần phải có
53
được những thông tin này nhằm phục vụ ra các loại quyết định được chính
xác hơn. Đứng trên góc độ tài chính, thì những thông tin bên trong tập đoàn là
những thông tin cực kỳ quan trọng, bởi vì các thông tin này giúp nhà quản trị
hiểu được tình tình tài chính của tập đoàn trong quá khứ và hiện tại, nắm được
điểm mạnh và điểm yếu các góc độ về tài chính của tập đoàn, từ đó đưa ra các
quyết định tài chính thực hiện trong tương lai sát với tình hình thực tế của tập
đoàn.
1.2.1.2.3 Yếu tố phương thức
a.Yếu tố về tiến độ
Để quản lý một Tập đoàn, nhà quản trị cần rất nhiều thông tin: từ tình
hình cung ứng nguyên vật liệu đến tình hình sử dụng các nguồn vốn và lao
động; từ các dự đoán về giá cả, sức tiêu thụ sản phẩm trên thị trường đến các
dự kiến, các kế hoạch sản xuất và tiêu thụ sản phẩm; từ chủ trương chính
sách, kinh tế của nhà nước đến các cơ hội liên doanh, hợp tác đều đòi hỏi phải
có thông tin, và quan trọng hơn đó là tiến độ cung cấp thông tin phải kịp thời,
vì nếu thông tin có tiến độ cung cấp không kịp thời nó sẽ dễ trở thành thông
tin lạc hậu, và lúc đó việc ra quyết định sẽ không còn phù hợp.
Thực vậy, muốn việc ra quyết định tài chính được nhanh chóng, đúng
đắn, kịp thời thì đòi hỏi tiến độ cung cấp thông tin phải được thực hiện trong
một khoảng thời gian nhất định. Để thực hiện được điều này, đòi hỏi Tập
đoàn phải lập tiến độ cho việc ra quyết định, bởi vì lập tiến độ sẽ giúp nhà
quản trị theo dõi việc cung cấp thông tin bên trong và thông tin bên ngoài Tập
đoàn sẽ được tiến hành như thế nào, gặp những khó khăn gì, thời gian cung
cấp bao lâu...Từ đó, nhà quản trị sẽ tiến hành ra quyết định phù hợp hơn.
Tuy nhiên, tiến độ cung cấp thông tin bên trong và tiến độ cung cấp
thông tin bên ngoài Tập đoàn đòi hỏi phải có độ lệch về thời gian nhất định.
Đối với những thông tin ở bên trong Tập đoàn như thông tin kế toán, thông
54
tin nguồn nhân lực, thông tin kỹ thuật… những thông tin này có sẵn trong Tập
đoàn và đã được xử lý, khi nhà quản trị cần những thông tin này, thì nhà quản
trị hoàn toàn được tiếp nhận nhanh chóng từ trong nội bộ Tập đoàn do các
phòng ban cung cấp kịp thời. Đối với những thông tin như giá cả, thị trường,
thị phần tập đoàn…thì đòi hỏi việc cung cấp phải có độ trễ thời gian nhất định
do cần phải thu thập, phân loại, đánh giá độ tin cậy của những thông tin được
cung cấp, vì thế tiến độ cung cấp những thông tin ở bên ngoài Tập đoàn có
phần chậm hơn so với những thông tin ở bên trong Tập đoàn .
Tóm lại: Tiến độ cung cấp thông tin phản ánh nhịp độ thông tin được
cung cấp; nếu thông tin được xem là máu của Tập đoàn, thì tiến độ cung cấp
thông tin được xem như là nhịp đập của quả tim; nếu thông tin được cung cấp
kịp thời thì nó sẽ gắn kết những bộ phận phụ thuộc của Tập đoàn lại với nhau
để cùng thực hiện những mục tiêu chung một cách có hiệu quả hơn; nếu thông
tin được cung cấp không kịp thời, thì thông tin sẽ bị phản tác dụng đối với
việc ra quyết định của những nhà quản trị trong Tập đoàn.
b. Yếu tố về cung cấp
Hệ thống thông tin kinh tế có tác dụng cung cấp thông tin nhằm trợ
giúp nhà quản trị thực hiện các chức năng hoạt động của Tập đoàn và trợ giúp
nhà quản trị tiến hành ra quyết định, nhà quản lý cần những thông tin kinh tế
được cung cấp để lập kế hoạch và kiểm soát các hoạt động của Tập đoàn. Nếu
thông tin được cung cấp kịp thời, phù hợp, chính xác, và đầy đủ thì người sử
dụng thông tin có đủ thông tin cần thiết giúp cho việc ra quyết định sẽ được
chính xác hơn, hiệu quả hoạt động kinh doanh của Tập đoàn được tốt hơn, và
nhà quản trị kiểm soát các hoạt động của Tập đoàn sẽ được thuận lợi hơn.
Ngược lại, nếu thông tin cung cấp không đầy đủ, không chính xác, không phù
hợp, hay không kịp thời thì người sử dụng thông tin sẽ dễ ra quyết định sai
lầm do những thông tin xấu này, Tập đoàn sẽ gánh chịu hậu quả do những
55
quyết định sai lầm này gây ra, cụ thể như: hiệu quả sản xuất kinh doanh sẽ bị
sụt giảm, đồng thời làm giảm khả năng cạnh tranh của Tập đoàn.
Tóm lại, yếu tố cung cấp thông tin rất quan trọng đối với việc ra quyết
định tài chính, vì hiệu quả hoạt động của Tập đoàn phụ thuộc rất lớn vào chất
lượng của những thông tin được cung cấp, nếu thông tin kinh tế được cung
cấp có chất lượng tốt sẽ giúp Tập đoàn thành công trong hoạt động sản xuất
kinh doanh, và ngược lại.
1.2.1.2.4 Yếu tố công cụ
a. Yếu tố về con người:
Trong bất kỳ một Tập đoàn nào, yếu tố con người luôn giữ vị trí vai
trò quyết định; điều đó được thể hiện ở chỗ, thứ nhất, con người là chủ thể
của Tập đoàn; thứ hai, con người là lực lượng sản xuất hàng đầu của Tập
đoàn; Tập đoàn không thể hoạt động thành công nếu thiếu yếu tố con người,
con người là lực lượng duy nhất có khả năng phát hiện, xác định mục tiêu, nội
dung và quá trình xử lý của hệ thống thông tin; tầm quan trọng của thông tin
trong các quyết định tài chính có thể được tăng lên hoặc giảm bớt bởi yếu tố
con người sử dụng thông tin trong việc đưa ra (hay thực hiện) các quyết định
tài chính. Con người, với những ưu thế hơn hẳn (so với các nguồn lực khác),
là nguồn nhân lực như có thể khai thác không bao giờ cạn.... Trong điều kiện
cách mạng khoa học và công nghệ có những bước phát triển và tác động ngày
càng mạnh vào đời sống xã hội như hiện nay, con người được xem là yếu tố
cơ bản nhất trong hệ thống các nguồn lực của Tập đoàn, là một trong những
nguyên nhân tăng trưởng kinh tế của Tập đoàn. Vì vậy, phát triển nguồn nhân
lực trở thành yếu tố quan trọng nhất và có ảnh hưởng mang tính quyết định
đối với sự thành, bại của Tập đoàn.
b. Yếu tố về máy tính
56
Cùng với sự phát triển của xã hội, máy vi tính đã bước vào mọi lĩnh
vực trong cuộc sống, tác dụng của nó ngày càng được mở rộng, hiện nay nó
đã trở thành một trợ thủ đắc lực cho mọi hoạt động của tập đoàn. Không
những nó giúp tập đoàn tiết kiệm được thời gian trong việc thu thập và cung
cấp thông tin, mà còn có thể xử lý các thông tin được cung cấp (như thông tin
trùng, thông tin lạc hậu,…) một cách nhanh chóng. Mặt khác, máy vi tính còn
giúp nhà quản trị phân tích, đánh giá thông tin dựa trên số liệu thực tế, giúp
cho việc lập kế hoạch tài chính sẽ được thuận lợi hơn, hỗ trợ cho nhà quản trị
ra các quyết định tài chính nhanh chóng và chính xác hơn.
c. Yếu tố về phần mềm
Phần mềm là một loại chương trình ứng dụng có khả năng làm cho máy
tính thực hiện trực tiếp một công việc nào đó mà nhà quản trị muốn thực hiện.
Ví dụ như phần mềm xử lý văn bản, xử lý và phân tích số liệu. Trong ngành
viễn thông nói riêng, phần mềm có tác dụng thu thập, xử lý và cung cấp thông
tin nhanh chóng cho nhà quản trị, khi nhà quản trị muốn ra một quyết định tài
chính nào đó thì cần phải có số liệu làm căn cứ ra quyết định, và số liệu này
phải được phần mềm xử lý trước khi trở thành thông tin cung cấp cho nhà
quản trị tài chính.
Các hoạt động của phần mềm trong Tập đoàn nhằm phục vụ cho các
mục tiêu của nhà quản trị như hỗ trợ các hoạt động tác nghiệp, hỗ trợ cho việc
ra các quyết định chiến thuật, hỗ trợ việc xây dựng các quyết định chiến lược
nhằm đạt lợi thế cạnh tranh,… mục đích của phần mềm là giúp Tập đoàn xác
định được lộ trình ra các quyết định tài chính và mối quan hệ giữa các quyết
định tài chính trong bức tranh tổng thể về hoạt động của tập đoàn. Việc đầu tư
phần mềm phù hợp với mục tiêu hoạt động của Tập đoàn sẽ đem lại hiệu quả
hoạt động tăng lên, do tăng cường ứng dụng điều hành, tác nghiệp các phần
mềm đem lại.
57
Mặt khác, phần mềm có tác dụng nâng cao hiệu suất hoạt động, hỗ trợ
cho các bộ phận chức năng trong Tập đoàn, cụ thể hỗ trợ cho hoạt động của
các phòng ban chức năng hoặc các nhóm làm việc theo nhiệm vụ. Do Tập
đoàn đã có được các kỹ năng cần thiết về ứng dụng phần mềm trong các giai
đoạn trước, và hiện nay khối lượng thông tin cần xử lý ngày càng tăng lên,
nên việc ứng dụng phần mềm ngày càng hiện đại là bước phát triển tự nhiên
của hầu hết các Tập đoàn hiện nay. Vì thế, việc đầu tư phần mềm nhằm tự
động hóa các quy trình tác nghiệp, kinh doanh để nâng cao hiệu quả hoạt
động Tập đoàn, như triển khai các ứng dụng để đáp ứng từng lĩnh vực tác
nghiệp và sẵn sàng mở rộng theo yêu cầu kinh doanh; chương trình tài chính-
kế toán, quản lý nhân sự-tiền lương, quản lý bán hang là điều cần thiết mà các
Tập đoàn cần phải thực hiện.
Ví dụ: Trước khi ra quyết định đầu tư vào dự án X, nhà quản trị cần
đánh giá, xem xét hiệu quả của dự án, việc đánh giá này được thể hiện thông
qua các tiêu chuẩn DPP, NPV, IRR, PI…; các tiêu chuẩn này được xử lý tính
toán thông qua ứng dụng phầm mềm excel trong tài chính, từ kết quả tính
toán do phần mềm excel cung cấp, nhà quản trị căn cứ vào kết quả này để đưa
ra quyết định có nên đầu tư vào dự án X không.
Từ ví dụ trên ta thấy, yếu tố phần mềm ứng dụng trong việc thu thập,
xử lý và cung cấp thông tin là yếu tố rất quan trọng, nó giúp cho nhà quản trị
rút ngắn được thời gian trong việc xử lý số liệu, kết quả xử lý cũng được
chính xác hơn; vì thế, quyết định tài chính đưa ra cũng được nhanh chóng, kịp
thời và chính xác hơn, từ quyết định tài chính chính xác này góp phần làm
cho hiệu quả hoạt động của tập đoàn được nâng cao, biểu hiện bằng hình thức
đó là lợi nhuận tích lũy ngày càng tăng, giúp cho Tập đoàn có năng lực tài
chính lành mạnh, tạo đà thúc đẩy tập đoàn tăng trưởng và phát triển trong
tương lai.
58
d. Yếu tố về internet.
Hiện nay, internet đang hiện diện và đóng vai trò quan trọng không thể
thiếu trong quá trình quản trị, điều hành trong tất cả hoạt động của Tập đoàn.
Sự phát triển và ứng dụng của internet đã làm thay đổi mô hình và cách thức
hoạt động của Tập đoàn, việc chuyển dần các giao dịch truyền thống sang
giao dịch điện tử đã ảnh hưởng đến vị trí, vai trò và cả nhu cầu của các bên có
liên quan đến Tập đoàn (như: khách hàng, nhà cung cấp, nhà đầu tư…).
Ứng dụng internet toàn diện sẽ nâng cao năng lực quản lý và sản xuất,
internet đảm bảo cho các luồng thông tin lưu chuyển thông suốt giữa các bộ
phận; internet và các cơ sở dữ liệu cấp toàn Tập đoàn là những công cụ chủ
đạo hỗ trợ cho hoạt động quản lý và tác nghiệp; triển khai các giải pháp đồng
bộ giúp Tập đoàn thay đổi chất lượng quản lý nội tại, nâng cao năng lực điều
hành, tăng hiệu quả và tăng năng lực cạnh tranh.
Sự tiến bộ ngày càng nhanh của internet nhằm giúp Tập đoàn đạt được
lợi thế về quản lý tài chính trong môi trường cạnh tranh khốc liệt, internet
giúp nhà quản trị nắm bắt thông tin kinh tế nhanh để có căn cứ thuyết phục
khi ra các quyết định tài chính chiến lược, tạo nên những ưu thế khác biệt về
quản trị tài chính của tập đoàn.
Tóm lại, ta có thể khẳng định: thông tin kinh tế là một nguồn tài
nguyên kinh doanh của Tập đoàn, nó rất quan trọng cho sự sống còn của Tập
đoàn; để đưa ra các quyết định tài chính chiến lược, nhà quản trị rất cần thông
tin hỗ trợ dự báo; các quyết định này đúng hay sai, lượng thông tin được sử
dụng nhiều hay ít phụ thuộc rất lớn vào chất lượng của thông tin cung cấp, và
chất lượng của thông tin lại phụ thuộc vào các yếu tố cấu thành hệ thống
thông tin; và ngược lại, khi chất lượng thông tin được nâng cao thì việc các
quyết định tài chính do những nhà quản trị ban hành sẽ được chuẩn xác hơn.
1.2.1.3 Mục tiêu và các tiêu chuẩn đánh giá hệ thống thông tin kinh tế
59
1.2.1.3.1 Mục tiêu của hệ thống thông tin kinh tế
Môi trường kinh doanh hiện nay rất năng động, và ngày càng phức tạp,
cùng với một bối cảnh thông tin thay đổi liên tục thì quyết định càng trở nên
phức tạp hơn; hơn nữa, nhiều nhà hoạch định chính sách ngày nay thường
phải làm việc với hàng núi dữ liệu không đồng nhất, bên cạnh đó sự tăng tốc
của tiến bộ công nghệ dẫn đến thông tin có mặt khắp nơi và ngày càng đa
dạng làm cho nhà quản trị không thể ra quyết định nhanh chóng và đúng đắn
nếu không có sự cung cấp thông tin từ hệ thống thông tin của tập đoàn, vì thế
mục tiêu chính của hệ thống thông tin kinh tế là:
Cung cấp thông tin phục vụ cho hoạt động của con người trong
một tổ chức nào đó.
Ghi nhận các sự kiện có một tác động kinh tế đến các tổ chức và
các bên liên quan trong và ngoài nước.
Cải thiện việc lưu giữ, phân tích khối lượng lớn dữ liệu để giúp
nhà quản lý tìm kiếm giải pháp để giải quyết vấn đề.
Tạo ra và khai thác các ý tưởng ở nhiều nguồn lực khác nhau
nhằm giúp cho tập đoàn đạt năng suất và hiệu quả công việc
ngày càng cao hơn.
Hỗ trợ khả năng tổ chức của nhà quản lý, và giúp nhà quản lý ra
quyết định tăng hiệu quả, giảm nguy cơ sai sót.
Đáp ứng sự hài lòng trong việc tiếp nhận thông tin đối với nhà
quản lý.
1.2.1.3.2 Các tiêu chuẩn đánh giá hệ thống thông tin kinh tế
Tiêu chí đánh giá hệ thống thông tin kinh tế là những tiêu chuẩn thực
hiện mang tính hợp lý và có thể đạt được xét về tính kinh tế, hiệu quả. Chúng
phản ánh mô hình hệ thống thông tin kinh tế chuẩn tắc về vấn đề đang được
đánh giá.
60
Như vậy, có thể hiểu tiêu chuẩn đánh giá hệ thống thông tin kinh tế là
những tiêu chuẩn, thước đo (đảm bảo tính hợp lý và thực tiễn) để xác định
tính kinh tế, hiệu quả của hệ thống thông tin kinh tế. Những tiêu chuẩn này
phải mang tính đại diện, phổ biến - phản ánh những kỳ vọng hợp lý để đảm
bảo thông tin đánh giá là phù hợp, có giá trị thực tiễn nhằm nhận được sự
chấp thuận của những người sử dụng hệ thống thông tin kinh tế.
Vì vậy, việc xác định tiêu chuẩn đánh giá hệ thống thông tin kinh tế là
yếu tố quyết định đến toàn bộ quá trình ra quyết định tài chính; vì thế, rất khó
khăn khi lựa chọn tiêu chí phù hợp, khách quan và thuyết phục khi đánh giá
hệ thống này.
Theo EM Awad có thể sử dụng tiêu chuẩn tổng quát sau đây để đánh
giá độ tin cậy và chất lượng của thông tin trong hệ thống thông tin kinh tế:
- Tiêu chuẩn 1: Độ chính xác của sản phẩm thông tin xuất: Đảm bảo độ
chính xác tuyệt đối của thông tin
- Tiêu chuẩn 2 : Thời gian đáp ứng yêu cầu về thông tin: Các thông tin
được cung cấp kịp thời và cung cấp đủ các thông tin cho các đối tượng có nhu
cầu
- Tiêu chuẩn 3 : Năng lực xử lý một khối lượng thông tin: Xử lý được
khối lượng lớn thông tin một cách nhanh chóng.
- Tiêu chuẩn 4 : Độ an toàn tin cậy của thông tin: Bảo đảm tính bí mật
an toàn của các dòng thông tin.
Ngoài ra, tiêu chuẩn đánh giá chất lượng hệ thống thông tin còn được
nghiên cứu bởi “Knight and Burn”, (2005). Hai ông lý giải rõ ràng rằng cùng
một thông tin như nhau nhưng với người này cho rằng thế là tốt nhưng với
người khác lại không phù hợp. Hoặc cùng một thông tin như nhau, nếu được
lấy từ nguồn là giấy tờ, báo chí thì người sử dụng có thể cảm thấy tin tưởng
hơn là lấy từ trên mạng vì khó kiểm chứng nguồn gốc dữ liệu. Sau đây là
61
bảng tổng hợp nghiên cứu về các tiêu chuẩn đánh giá hệ thống thông tin thông
qua đánh giá chất lượng thông tin của hai ông Knight and Burn:
Bảng 1.1. Tiêu chuẩn đánh giá chất lượng hệ thống thông tin theo
tổng hợp của Knight và Burn
Tiêu chí Số lần Giải thích
được đề
cập trong
các
nghiên
cứu
1. Chính xác 8 Thông tin được tính toán chính xác, không
sai sót từ những dữ liệu tin cậy
2. Nhất quán 7 Thông tin được thể hiện trong cùng một
cách trình bày và phù hợp với những dữ liệu
trước đó.
3. An ninh Giới hạn đúng các truy cập để duy trì an 7
ninh.
4. Kịp thời Thông tin được cập nhật một cách đầy đủ 7
cho mục tiêu đang thực hiện.
5. Đầy đủ Thông tin không bị bỏ sót, đủ rộng và sâu 5
cho mục tiêu đang thực hiện.
6. Súc tích Thông tin được thể hiện cô đọng, rõ ràng 5
nhưng đầy đủ
7. Tin cậy Thông tin chính xác, tin cậy 5
8. Có thể truy 4 Thông tin sẵn sàng hoặc việc truy cập dễ
cập dàng và nhanh chóng
9. Sẵn sàng 4 Thông tin có thể truy cập được
62
10.Khách 4 Thông tin trung lập, không bị thành kiến,
quan không thiên vị
11. Thích hợp 4 Thông tin hữu ích, phù hợp mục tiêu thực
hiện
12.Có thể 4 Thông tin rõ ràng và dễ sử dụng. Ví dụ,
dùng được trong bối cảnh sử dụng máy tính, thông tin
có nội dung tốt nhưng được thực hiện trong
ngôn ngữ mà người đọc không thể hiểu thì
thông tin đó cũng không chất lượng.
13. Có thể 5 Thông tin rõ ràng, không mơ hồ
hiểu được
14. Số lượng 3 Số lượng thông tin (mức độ chi tiết) sẵn
thông tin sàng và phù hợp với mục tiêu
15. Có thể tin 3 Thông tin từ nguồn trung thực và tin cậy
cậy
16. Dễ dàng 3 Thông tin được tìm thấy dễ dàng và liên kết
tìm kiếm dễ dàng (trường hợp này cho bối cảnh tìm
kiếm thông tin trên mạng)
17.Thông 3 Thông tin dễ dàng tìm kiếm từ các nguồn dữ
dụng liệu
18. Hữu ích 3 Thông tin có nội dung hữu ích và có thể sử
dụng được cho mục tiêu đang thực hiện
19. Hiệu quả 3 Thông tin được tạo nhanh và hiệu quả từ các
dữ liệu cho mục đích đang thực hiện
20. Giá trị gia 3 Thông tin cung cấp những dự đoán tốt cho mục
tăng tiêu đang thực hiện
Nguồn: trích từ (Knight and Burn, 2005)
63
Đồng thời, Eppler và Wittig (Eppler and Wittig, 2000) đã thực hiện một
tổng hợp về các nghiên cứu tiêu chuẩn chất lượng hệ thống thông tin trong
khoảng thời gian 10 năm từ 1989- 1999. Những nghiên cứu về tiêu chuẩn chất
lượng hệ thống thông tin mà các tác giả trên lựa chọn cần đảm bảo 4 mục
tiêu:
(1) Cung cấp một bộ các tiêu chuẩn chất lượng thông tin ngắn gọn, súc
tích và có thể đánh giá được;
(2) Cung cấp một mô tả đầy đủ mối quan hệ giữa các tiêu chuẩn để
giúp việc phân tích và giải quyết vấn đề chất lượng thông tin;
(3) Cung cấp cơ sở cho việc đo lường và quản lý chất lượng thông tin;
(4) Có thể cung cấp cho giới nghiên cứu một bản đồ có tính logic để
cấu trúc được (hay sắp xếp, giải thích được một cách logic) các cách tiếp cận
khác nhau, những lý thuyết khác nhau và các hiện tượng liên quan tới tiêu
chuẩn chất lượng hệ thống thông tin. Kết quả tổng hợp và phân tích từ 7 trong
số 20 nghiên cứu chất lượng thông tin cho thấy các tiêu chuẩn chất lượng
thông tin thường bao gồm:
• Kịp thời hoặc hiện hành. Một số nghiên cứu mô tả kịp thời là khái
niệm thông tin được cập nhật kịp thời, mô tả được tính hiện hành của thông
tin. Một số khác định nghĩa kịp thời là việc giao kết quả xử lý nhanh, kịp thời
tới người sử dụng.
• Có thể truy cập hoặc có thể đạt được.
• Khách quan.
• Phù hợp
• Chính xác.
• Nhất quán
• Đầy đủ.
64
Các nghiên cứu này cũng chỉ rõ những hạn chế giữa một số các tiêu
chuẩn đánh giá chất lượng thông tin, chẳng hạn như giữa tiêu chuẩn an ninh
và có thể truy cập (vì càng đảm bảo an ninh tốt thì càng khó truy cập); hoặc
giữa chính xác và kịp thời; giữa phạm vi tổng quát thông tin và mức độ chi
tiết thông tin (càng nhiều thông tin chi tiết thì càng ít mang tính tổng quát).
1.2.1.4 Vai trò của hệ thống thông tin kinh tế
1.2.1.4.1 Vai trò cung cấp và xác nhận thông tin
Các nguồn tài nguyên quan trọng nhất của thông tin trong xã hội thực tế
nói chung đó chính là thông tin kinh tế, thông tin này rất quan trọng trong
giao tiếp (như thông tin kế toán) vì nó đem lại hiệu quả cho thị trường địa
phương và toàn cầu. Để thực hiện đầu tư, để tích hợp trên thị trường toàn cầu
về các dịch vụ và hàng hóa, mỗi tập đoàn phải có quyền truy cập và hiểu được
thông tin kinh tế của các đối tác để hỗ trợ ra quyết định và quản lý hoạt động.
Khả năng quản lý và áp dụng các nguyên tắc quản lý hiện đại, áp dụng các
phương pháp và kỹ thuật tiên tiến là một điều kiện tiên quyết cho các tập đoàn
đưa ra các quyết định tài chính có chất lượng cao hơn nhằm hỗ trợ cho quá
trình hoạt động trong tương lai; các vai trò đại diện nhất của quản lý là quyết
định – thực hiện quyết định, quá trình này đại diện cho một hành động xã hội
cố ý và hợp lý của một người hoặc một nhóm người, có mục tiêu và định
hướng hành động cụ thể để sử dụng nhân lực, vật lực kinh tế một cách thực tế
về hoạt động của tập đoàn. Vì vậy, hệ thống thông tin có vai trò quan trọng
trong việc cung cấp thông tin để thực hiện quyết định hoạt động quản lý và
thực hiện chiến lược quản trị tài chính tập đoàn; đây là một vai trò to lớn và
quan trọng đối với quá trình quyết định kinh doanh của các tập đoàn kinh tế.
Để đảm bảo sự tồn tại và sự ổn định kinh tế trên thị trường, đòi hỏi các tập
đoàn cần chú ý hơn đến các thông tin kinh tế; hệ thống thông tin kinh tế là
một bộ sưu tập của con người và thiết bị đã qua sử dụng nguồn lực, chuyển
65
đổi trong thông tin để cung cấp cho những nhà quản trị lập kế hoạch, điều
phối và phát triển các chính sách quản lý của tập đoàn; trong trường hợp này
vai trò của hệ thống thông tin kinh tế cũng được xem xét, bất kể các yếu tố
ảnh hưởng của nó.
Hệ thống thông tin kinh tế là một hội nhập của nguồn nhân lực và vật
lực, các nguồn này phối hợp với nhau để có được thông tin tốt hơn nhằm hỗ
trợ các quyết định quản lý và đầu tư được hợp lý hơn; thông tin kinh tế đóng
một vai trò tích cực trong sự toàn vẹn của các quyết định cũng như sự thành
công của kế hoạch phát triển; việc thực hiện kế hoạch hợp thời phụ thuộc vào
quyết định thực hiện chiến lược bởi những nhà quản lý, những quyết định này
lại dựa trên phân tích các thông tin kinh tế; và các thông tin kinh tế được cung
cấp phải chịu trách nhiệm về chất lượng và hiệu quả hoạt động của các quyết
định trên. Đây chính là tầm quan trọng của thông tin kinh tế trong vai trò cung
cấp thông tin để nhà quản trị đưa ra quyết định quản lý và đầu tư.
Đặc tính của thông tin kinh tế rất quan trọng trong bối cảnh lựa chọn và
thay đổi quyết định tài chính của tập đoàn; các thông tin kinh tế chịu ảnh
hưởng nặng nề của hệ thống chính trị, vì thế ở những quốc gia mà thông tin
kinh tế được kết nối với lợi ích của nhà nước (thông qua thuế) thì sẽ được
phục vụ ưu tiên đến lợi ích của nhà đầu tư.
1.2.1.4.2 Vai trò của thông tin kinh tế nhằm phục vụ ra quyết định
Hệ thống thông tin kinh tế là một hệ thống thu thập, ghi chép, lưu trữ và
xử lý dữ liệu để cung cấp thông tin cho những nhà quản trị; mỗi quyết định là
một lựa chọn được hình thành từ nhiều khả năng để kích thích hiệu quả hoạt
động ngày càng tốt hơn. Các quyết định được thông qua những nhà quản lý
trong tập đoàn dựa trên hệ thống ra quyết định, hệ thống ra quyết định luôn
luôn được bảo quản theo các hệ thống thông tin; quá trình ra quyết định đòi
hỏi phải có thông tin cung cấp, dù rằng thông tin đó là thông tin bị giới hạn
66
hay thông tin không bị giới hạn, tùy thuộc vào mục đích sử dụng. Những
quyết định sử dụng thông tin không bị giới hạn chủ yếu là những quyết định
chiến lược, đó là quyết định liên quan đến tổng thể của tập đoàn; các quyết
định chiến lược thúc đẩy việc thực hiện các mục tiêu cơ bản bao gồm các
chiến lược, kế hoạch trung và dài hạn; một trình tự hợp lý của các quyết định
chiến lược được đại diện bởi các quyết định chiến thuật. Những quyết định sử
dụng thông tin bị giới hạn chủ yếu là những quyết định chiến thuật; quyết
định ở cấp tác nghiệp (hay còn gọi là quyết định hoạt động) chỉ đòi hỏi một
lượng nhỏ thông tin, vì vậy, đối với quyết định hoạt động, nhu cầu thông tin
cung cấp cho nhà quản lý chỉ liên quan đến các hoạt động phát triển trong tập
đoàn; nhưng ở quyết định chiến thuật, nhà quản lý cần phải biết sự phát triển
của thị trường kinh doanh để quyết định các hành động tài chính thường
xuyên. Dù là quyết định nào, một quyết định tốt luôn căn cứ vào số lượng và
chất lượng thông tin ở bên ngoài hay ở bên trong tập đoàn cung cấp dựa trên
cơ sở của mỗi hành động của nhà quản lý theo chu kỳ: thông tin – quyết định
– hành động. Thông tin ra quyết định sẽ trở thành một hệ thống trực tiếp phục
vụ cho nhà quản lý, và nhà quản lý sẽ thiết kế hệ thống quản lý; vì vậy, nhà
quản lý sẽ chịu trách nhiệm cho quá trình ra quyết định ở cấp chiến lược,
chiến thuật và hoạt động. Do đó, nhà quản lý sử dụng các thông tin, sử dụng
các nguồn lực sẵn có để ra quyết định nhằm đạt được những kết quả tích cực
nhất đứng trên quan điểm kinh tế; kết quả này được phản ánh trong báo cáo
tài chính, nơi các sự kiện kinh tế “đăng ký” thể hiện kết quả; đây là lý do tại
sao hệ thống thông tin kinh tế có quan hệ chặt chẽ với quá trình ra quyết định.
Tóm lại, việc đạt được các quyết định đúng đắn, góp phần giải quyết
các vấn đề phát sinh của hoạt động tài chính và kinh tế trong tập đoàn là phụ
thuộc vào chất lượng của thông tin kinh tế; thông tin kinh tế là một đại diện
chính xác của quá trình và hiện tượng kinh tế, có mức độ lớn nhất của sự chắc
67
chắn; vì thế, chất lượng của thông tin kinh tế là rất quan trọng đối với tất cả
những ai sử dụng, và nó có giá trị cao. Giá trị cao thể hiện ở việc hệ thống
thông tin kinh tế có liên quan trực tiếp với việc thực hiện đầu tư, bởi vì các
nhà đầu tư hiện tại và tiềm năng luôn đánh giá các giao dịch công khai để đưa
ra quyết định tốt nhất nhằm thỏa mãn lợi ích hiện tại và tương lai của họ. Bên
cạnh đó các nhà đầu tư, các ngân hàng và nhà nước quan tâm trong việc có
được thông tin đáng tin cậy từ các thông tin kinh tế được cung cấp từ tập đoàn
để duy trì niềm tin vào tiềm lực tài chính của tập đoàn; ngoài ra, nhân viên
trong tập đoàn cũng mong muốn duy trì công việc của họ và nhận được lương
tăng dựa trên năng suất công việc. Đây là lý do tại sao, thông tin kinh tế có
vai trò quan trọng trong quy trình cung cấp thông tin và quy trình ra quyết
định, đảm bảo quyết định được thực hiện có hiệu quả bởi những nhà quản lý
trong tập đoàn.
1.2.2 Nội dung và mô hình tổ chức hệ thống thông tin kinh tế phục vụ việc
ra quyết định tài chính của tập đoàn kinh tế
1.2.2.1 Nội dung của hệ thống thông tin kinh tế phục vụ ra quyết định tài
chính của tập đoàn kinh tế
Để tiến hành phân tích lập kế hoạch, thực hiện và kiểm tra, những nhà
quản trị tài chính cần những thông tin vể tình hình diễn biến của môi trường
kinh tế. Vai trò của hệ thống thông tin kinh tế là xác định những nhu cầu
thông tin của người quản trị, phát triển những thông tin cần thiết và phân phối
thông tin đó kịp thời cho những nhà quản trị tài chính.
Xuất phát từ thực trạng chung của tổ chức thông tin quản trị tài chính
trong thực tế cho thấy: hệ thống thông tin kinh tế nhằm phục vụ cho việc quản
trị tài chính chưa được hoàn thiện, điều này sẽ gây khó khăn cho nhà quản
quản trị trong việc thu thập thông tin kinh tế để ra các quyết định tài chính.
Do vậy, để hình thành, phát triển và hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế thì
68
cần phải thực hiện qua nhiều giai đoạn khác nhau. Tùy vào loại hình kinh
doanh, quy mô phạm vi hoạt động, đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất,
cũng như tính chất yêu cầu trình độ quản lý, các Tập đoàn kinh tế có thể tổ
chức các kênh thông tin kinh tế dưới các hình thức khác nhau.
1.2.2.2 Mô hình tổ chức hệ thống thông tin kinh tế phục vụ ra quyết định
tài chính của tập đoàn kinh tế
Sơ đồ 1.6: Mô hình hệ thống thông tin kinh tế
Xác định nhu cầu thông tin
Xác định các nguồn thông tin
Thu thập và xử lý thông tin
Dự báo diễn biến môi trường kinh doanh
Lập bảng tổng hợp môi trường kinh doanh
Phân tích mặt mạnh, yếu, cơ hội và thách thức
Đề ra phản ứng chiến lược
Theo dõi và cập nhật thông tin môi trường
Bước 1- Xác định nhu cầu thông tin kinh tế
Nhu cầu thông tin kinh tế là số lượng và các loại thông tin kinh tế thuộc
môi trường bên trong và bên ngoài cần thu thập để đáp ứng nhu cầu ra quyết
định của nhà quản trị các cấp, phù hợp với không gian, thời gian và ngân sách
của Tập đoàn trong từng thời kỳ.
69
Trong môi trường kinh doanh, thông tin rất đa dạng và phong phú,
nhưng giá trị sử dụng của chúng đối với việc ra quyết định thì khác nhau giữa
các Tập đoàn, giữa các bộ phận chức năng, giữa các cấp quản trị trong từng
Tập đoàn. Vì vậy, để bảo đảm hiệu quả ra quyết định, những người chịu trách
nhiệm quản lý hệ thống thông tin kinh tế cần yêu cầu nhà quản trị các cấp, các
bộ phận chuyên môn xác định rõ những loại thông tin cần thu thập để phục vụ
cho việc ra các quyết định có liên quan. Yêu cầu đáp ứng thông tin là đảm bảo
đủ thông tin cần thiết, có quá nhiều hoặc thiếu thông tin đều không tốt; đảm
bảo tính chính xác cần thiết của các thông tin và đảm bảo cung cấp thông tin
đúng thời gian cần thiết.
Bước 2- Xác định các nguồn cung cấp thông tin kinh tế
Trong môi trường hoạt động, thông tin kinh tế được phân chia thành hai
loại: thông tin thứ cấp và thông tin sơ cấp, mỗi loại có thể tìm kiếm từ các
nguồn cung cấp ở bên trong và/hoặc bên ngoài Tập đoàn.
Thông tin thứ cấp là những thông tin kinh tế đã được thu thập sẵn nhằm
phục vụ một nhu cầu nào đó trong nội bộ Tập đoàn; bộ phận quản lý thông tin
có thể tìm kiểm, lựa chọn loại thông tin thứ cấp phù hợp để đáp ứng nhu cầu
ra quyết định của các nhà quản trị.
Thông tin sơ cấp là những thông tin kinh tế đã được thu thập từ các
cuộc nghiên cứu, các đợt khảo sát; người thu thập phải tiến hành xử lý ban
đầu, xác định độ tin cậy để đưa vào sử dụng.
Trong thực tế, chi phí thu thập thông tin thứ cấp thường rẻ và thời gian
gian thu thập nhanh hơn so với chi phí và thời gian thu thập thông tin sơ cấp.
Vì vậy, tùy theo nhu cầu thực tế, các nhà quản trị có thể quyết định chọn
nguồn cung cấp thông tin thứ cấp và sơ cấp phù hợp ở bên trong hoặc bên
ngoài Tập đoàn, hoặc kết hợp tất cả các nguồn. Căn cứ vào hiệu quả kinh tế
70
và tốc độ đáp ứng nhu cầu thông tin, các nhà quản trị thường quyết định tìm
thông tin thứ cấp trước, sau đó là thông tin sơ cấp.
Bước 3- Xây dựng hệ thống thông tin kinh tế
Hệ thống thông tin kinh tế là mạng lưới thu thập thông tin kinh tế của
Tập đoàn. Nhiệm vụ của hệ thống kinh tế là tiến hành tìm kiếm các nguồn
cung cấp có khả năng đáp ứng nhu cầu về thông tin kinh tế để thu thập các dữ
liệu, tiến hành phân loại, xử lý và cung cấp cho những nhà quản trị có liên
quan.
Để xây dựng hệ thống thông tin kinh tế hữu hiệu, các nhà quản trị lần
lượt thực hiện những công việc như sau:
- Xác định nhiệm vụ của hệ thống thông tin kinh tế.
Trong đó, xác định rõ nhiệm vụ tổng quát của bộ phận này trong mối
quan hệ với các bộ phận chức năng chuyên môn khác của Tập đoàn,
nhiệm vụ của từng nhóm và từng thành viên trong mạng lưới thu thập
thông tin.
- Xác định những mục tiêu cần đạt được của hệ thống thông.
- Xây dựng cơ cấu tổ chức của hệ thống thông tin.
- Hình thành các kế hoạch thu thập thông tin, bao gồm:
+ Kế hoạch thu thập thông tin thường xuyên: Đây là các chương
trình thu thập thông tin về những diễn biến của các yếu tố môi
trường bên trong và bên ngoài, tiến hành một cách liên tục nhằm
giúp các nhà quản trị chấn chỉnh kịp thời những sai lệch trong
quá trình hoạt động, đồng thời giúp Tập đoàn chủ động dự báo
hoặc phát hiện những tình huống bất thường của môi trường để
có biện pháp đối phó hữu hiệu. Việc thu thập thông tin thường
xuyên thường do bộ phận chuyên trách trong hệ thống thực hiện
thông qua việc nghiên cứu các nguồn thông tin thứ cấp. Ví dụ:
71
Một số nhân viên chuyên trách được phân công đọc tất cả các tờ
báo, các tạp chí phát hành ở trong và ngoài nước hàng ngày để
tổng hợp những tin tức có liên quan đến hoạt động của Tập đoàn;
hoặc một số người được phân công theo dõi các hoạt động của
các đối thủ cạnh tranh, các phát minh khoa học... trên các mạng
Web ...
+ Kế hoạch thu thập thông tin định kỳ.
Kế hoạch này được tiến hành nhằm thu thập thông tin về các sự
kiện có chọn lọc liên quan đến các chiến lược và các chương
trình hành động của Tập đoàn, giúp Tập đoàn hoạch định các
chương trình hành động ở giai đoạn sau hoặc điều chỉnh chiến
lược khi cần thiết. Những thông tin cần thu thập định kỳ như:
doanh thu, lợi nhuận, thị phần, phản ứng của khách hàng đối với
chính sách giá cả hoặc các chương trình quảng cáo, khuyến mãi,
tỉ lệ hàng tồn kho, tỉ lệ dự trữ hàng hoá hoặc nguyên vật liệu, kết
quả hoạt động tài chính, ...Thông tin thu thập định kỳ thường do
các bộ phận chuyên môn trong Tập đoàn cung cấp và bộ phận
chuyên trách của hệ thống thông tin kinh tế có nhiệm vụ tổng
hợp, xử lý, phân tích...
+ Kế hoạch thu thập thông tin đột xuất.
Việc thu thập thông tin đột xuất được tiến hành khi hệ thống
thông tin của Tập đoàn phát hiện những sự kiện bất thường, có
tác động mạnh đến chiến lược kinh doanh của Tập đoàn. Sự kiện
bất thường có thể là cơ hội hoặc nguy cơ đang hoặc sẽ diễn ra
trong môi trường kinh doanh mà các nhà quản trị cần có thông
tin để ra những quyết định phản ứng thích hợp.
72
Bảng 1.2: Các mô hình thu thập thông tin
Chỉ tiêu Các mô hình
Thường xuyên Định kỳ Đột xuất
Lý do thu thập Phục vụ cho công Phục vụ cho Bắt đầu khủng
tác quản trị các quyết định hoảng
và chuyên đề
Phạm vi thu thập Rộng rãi Sự kiện chọn Sự kiện đặc
lọc biệt
Tính chất nghiên cứu Hệ thống thu thập Cập nhật định Nghiên cứu
và xử lý thông tin kỳ đặc thù
Tính chất tác động Chủ động Chủ động Thụ động
Thời gian số liệu Dự báo Chủ yếu hiện Quá khứ
tại và quá khứ
Thời gian các quyết Dài hạn Tương lai gần Hiện tại và
định tác động tương lai gần
Tổ chức thực hiện Các cơ quan, bộ Các cơ quan Các cơ quan
phận chuyên thu nhận sự khác nhận sự khác
thập thông tin nhau nhau
Bước 4- Tiến hành thu thập và xử lý thông tin
Sau khi đã chuẩn bị các kế hoạch thu thập thông tin, các thành viên
trong hệ thống tiến hành thu thập thông tin từ các nguồn thích hợp. Tuỳ theo
loại thông tin cần thu thập, công việc được tiến hành như sau:
- Kiểm tra ngân hàng dữ liệu để xem có loại thông tin nào phù hợp
nhu cầu hay không.
- Nếu ngân hàng dữ liệu không cung cấp đủ thông tin cần thiết, các
thành viên tiến hành tìm kiếm thông tin từ các nguồn khác ở bên
73
trong và bên ngoài Tập đoàn như: đọc, nghe, xem các nguồn thông
tin thứ cấp; hoặc quan sát, phỏng vấn, trò chuyện với các nguồn
thông tin sơ cấp.
- Sau khi thu thập thông tin từ các nguồn cung cấp bên trong và bên
ngoài, các thành viên của hệ thống tiến hành xử lý, phân tích và đánh giá các
dữ liệu đã thu thập, sắp xếp thông tin theo danh mục phù hợp nhu cầu của các
nhà quản trị liên quan.
- Tùy theo loại thông tin, hệ thống thông tin sẽ tiến hành phổ biến loại
thông tin cần thiết cho các nhà quản trị có nhu cầu hoặc tích luỹ trong ngân
hàng dữ liệu của Tập đoàn. Khi thực hiện công việc này, các thành viên trong
hệ thống phải tuân thủ nguyên tắc bí mật thông tin của Tập đoàn.
- Những thông tin có giá trị sử dụng lâu dài (dù đã được các nhà quản
trị sử dụng) được lưu trữ để phục vụ nhu cầu ra quyết định ở giai đoạn sau.
Bước 5- Dự báo diễn biến của các yếu tố môi trường
Muốn đề ra các chiến lược của Tập đoàn trong tương lai thì điều quan
trọng là phải tiên liệu được tình hình môi trường kinh doanh mà Tập đoàn sẽ
gặp phải trong thời gian ngắn hoặc lâu dài; như vậy mục đích của dự báo
chính là dự báo những ảnh hưởng của môi trường đến hoạt động kinh doanh
của Tập đoàn. Về nguyên tắc dự báo môi trường kinh doanh phải trả lời được
câu hỏi:
Khi nào và ở đâu diễn ra sự thay đổi?
Xu hướng và mức độ tác động của từng thay đổi cụ thể đó đến hoạt
động kinh doanh của Tập đoàn?
Môi trường kinh doanh tác động đến hoạt động của Tập đoàn theo rất nhiều
hướng khác nhau với mức độ rất khác nhau. Vì vậy việc lựa chọn những biến
số cụ thể để tiến hành dự báo phụ thuộc rất nhiều vào hoàn cảnh của mỗi Tập
74
đoàn trong những thời kỳ cụ thể và gắn bó với nó là nội dung và quy mô xác
định của môi trường bên trong và bên ngoài Tập đoàn.
Các biến số cụ thể của môi trường kinh doanh cần dự báo là các biến số ảnh
hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh của Tập đoàn. Đó thường là xu hướng
thay đổi kinh tế, chính trị, xã hội và văn hoá, xu hướng thay đổi kỹ thuật-
công nghệ, chiến lược của các đối thủ cạnh tranh chủ yếu, phản ứng của
khách hàng cũng như nguyện vọng của các đối tượng liên quan.
Bước 6- Tổng hợp kết quả phân tích và dự báo môi trường kinh doanh
Các kết quả phân tích và dự báo được tổng hợp theo bảng tổng hợp các nhân
tố thuộc môi trường.
Đánh giá tác động của các nhân tố môi trường kinh doanh
Bảng 1.3: Bảng tổng hợp kết quả phân tích và dự báo môi trường kinh doanh
Các Mức độ quan Mức độ tác động Xu hướng tác Điểm tổng
nhân trọng của nhân của nhân tố đối với động hợp
tố tố đối với tập đoàn
ngành
(1) (2) (3) (4) (5)
Liệt kê Thang điểm Thang điểm: Chiều hướng Nhân kết
các đánh giá: Nhiều = 3 tác động: quả ở cột (2)
nhân Cao = 3 Trung bình =2 Tích cực= “+” với cột (3)
tố cần Trung bình = 2 Ít =1 Xấu= “-” và đặt dấu ở
đánh Thấp = 1 Không tác động =0 cột (4) cho
giá từng nhân tố
Có thể trình bày quá trình đánh giá các nhân tố thông qua các bước cụ thể sau:
- Lựa chọn các nhân tố quan trọng để đưa vào bảng đánh giá;
- Đánh giá cụ thể tầm quan trọng của nhân tố đối với ngành theo điểm số;
75
- Đánh giá cụ thể tầm quan trọng của nhân tố đối với Tập đoàn theo điểm số;
- Đánh giá cụ thể xu hướng tác động của nhân tố;
- Tổng hợp kết quả đánh giá tác động của các nhân tố môi trường kinh doanh.
Vậy, Việc hình thành bao nhiêu bảng phân tích và đánh giá tác động
của các nhân tố môi trường kinh doanh hoàn toàn phụ thuộc vào cách phân
bậc môi trường.
+ Tổng hợp kết quả phân tích và dự báo về môi trường bên ngoài.
Mục đích là để đánh giá cụ thể xu hướng và mức độ tác động của từng nhân
tố quan trọng thuộc môi trường bên ngoài tác động đến hoạt động kinh doanh
của tập đoàn trong thời kỳ chiến lược. Mặc dù có nhiều phương pháp khác
nhau song ở đây chỉ đề cập đến phương pháp cho điểm từng nhân tố ảnh
hưởng và thực hiện tổng hợp kết quả phân tích và dự báo môi trường bên
ngoài theo bảng tổng hợp tác động của các nhân tố môi trường kinh doanh
bên ngoài.
Muốn vậy, trước hết phải liệt kê toàn bộ cơ hội, đe dọa của môi trường
bên ngoài đến hoạt động kinh doanh của Tập đoàn trong thời kỳ chiến lược.
Mọi cơ hội, đe dọa được khẳng định thông qua quá trình phân tích và đánh
giá chiến lược. Tiếp theo phải xác định thứ tự của các thời cơ, cơ hội cũng
như các đe dọa, rủi ro đối với hoạt động kinh doanh của Tập đoàn trong thời
kì chiến lược.
+ Tổng hợp kết quả phân tích và đánh giá về môi trường nội bộ của Tập đoàn
là xác định các điểm mạnh, điểm yếu của bản thân Tập đoàn trong thời kì
chiến lược. Muốn làm rõ được mạnh, yếu của Tập đoàn phải so sánh các nhân
tố quan trọng thuộc môi trường bên trong Tập đoàn với các đối thủ cạnh tranh
và dựa vào kết quả so sánh đó để đánh giá xu hướng tác động đến hoạt động
kinh doanh của Tập đoàn trong thời kì chiến lược. Sau đó, dựa vào kết quả
76
đánh giá ở trên để xác định trật tự các điểm mạnh, yếu tác động đến hoạt động
kinh doanh của Tập đoàn trong thời kì chiến lược.
1.2.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến việc tổ chức hệ thống thông tin
kinh tế phục vụ ra quyết định tài chính của tập đoàn kinh tế.
Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến việc tổ chức hệ thống thông tin kinh
tế của Tập đoàn kinh tế; tuy nhiên, trong những nhân tố ảnh hưởng này thì
nhân tố tác động mạnh nhất đó là nguồn cung cấp thông tin. Nguồn cung cấp
thông tin cơ bản được lấy từ hai nguồn: đó là thông tin sơ cấp và thông tin thứ
cấp.
Tuỳ theo nhu cầu thực tế, các nhà quản trị có thể quyết định chọn
nguồn cung cấp thông tin thứ cấp và sơ cấp phù hợp ở bên trong hoặc bên
ngoài Tập đoàn, hoặc kết hợp tất cả các nguồn. Căn cứ vào hiệu quả kinh tế
và tốc độ đáp ứng nhu cầu thông tin, các nhà quản trị thường quyết định tìm
thông tin thứ cấp trước, sau đó là thông tin sơ cấp. Về nguồn cung cấp, thứ tự
ưu tiên được chọn như sau:
o Nguồn cung cấp thông tin thứ cấp nội bộ
Đây là nguồn cung cấp thông tin về các hoạt động của Tập đoàn rất
phong phú và đa dạng, sẵn có, không hao tốn chi phí thu thập (nếu có thì rất
ít). Nguồn này bao gồm: các chứng từ thu - chi, các hoá đơn bán hàng, các
hoá đơn mua hàng, các báo cáo về hoạt động tài chính của Tập đoàn, các báo
cáo thanh toán với khách hàng hoặc với các nhà cung cấp, ngân hàng dữ liệu
(tích luỹ thông tin khảo sát những lần trước)...
Nguồn cung cấp này có lợi thế là dễ tìm kiếm và không tốn chi phí. Vì
vậy, sau khi xác định nhu cầu các loại thông tin cần thu thập, công việc đầu
tiên của những người có trách nhiệm là xem xét các dữ liệu có trong nội bộ,
tìm kiếm những dữ liệu thích hợp và xử lý để đáp ứng nhu cầu thông tin cần
thiết cho việc ra quyết định của các nhà quản trị. Do đó, ta có thể nói nguồn
77
thông tin này có tác động trực tiếp và tác động mạnh đến hệ thống thông kinh
tế của Tập đoàn kinh tế.
o Nguồn cung cấp thông tin thứ cấp bên ngoài
Phần lớn các nguồn thông tin thứ cấp bên ngoài cung cấp các dữ liệu
chứa đựng những thông tin về các yếu tố của môi trường bên ngoài có ảnh
hưởng đến hoạt động của Tập đoàn như thông tin về: khách hàng, hoạt động
của các đối thủ cạnh tranh, hoạt động của các nhà cung cấp, các điều khoản
của các văn bản luật pháp quốc gia hoặc quốc tế có giá trị tại quốc gia thị
trường, các chính sách của chính phủ, các báo cáo kinh tế - tài chính - xã hội
của quốc gia. Tuỳ theo nhu cầu thông tin và phạm vi cung cấp dịch vụ của
Tập đoàn, các nhà quản trị quyết định lựa chọn nguồn cung cấp thông tin thứ
cấp bên ngoài phù hợp. Chi phí thu thập thông tin thứ cấp từ các nguồn bên
ngoài có sự khác nhau và thường là không cao. Nguồn thông tin này cũng có
tác động trực tiếp đến hệ thống thông kinh tế của Tập đoàn kinh tế.
Các nguồn cung cấp thông tin thứ cấp bên ngoài chủ yếu như:
- Các cơ quan trong bộ máy quản lý Nhà nước từ Trung ương
đến các địa phương.- Các tổ chức quản lý ngành kinh tế.
- Các cơ quan thuộc các ngành có liên quan (Ví dụ: y tế, giáo
dục, bảo vệ môi trường...).
- Hiệp hội ngành nghề.
- Các cơ quan truyền thông đại chúng: báo viết, báo hình, báo nói
- Các tổ chức kinh doanh thông tin qua phương tiện viễn thông.
- Sách tham khảo, các công trình nghiên cứu, các tài liệu của các
tổ chức cạnh tranh...
Trong thực tế, nguồn cung cấp thông tin thứ cấp bên ngoài rất đa dạng,
cung cấp nhiều loại thông tin về môi trường kinh doanh trên phạm vi quốc gia
và quốc tế. Các nhà quản trị cần xây dựng mạng lưới để tiếp cận với tất cả các
78
nguồn cung cấp có khả năng đáp ứng nhu cầu thông tin thứ cấp cho Tập đoàn.
Những thông tin từ các nguồn này được thu thập thường xuyên, xử lý và sắp
xếp theo danh mục để có thể cung cấp kịp thời cho các nhà quản trị.
o Nguồn cung cấp thông tin sơ cấp nội bộ
Khi nguồn cung cấp thông tin thứ cấp chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu các
loại thông tin, những người có trách nhiệm sẽ quyết định tìm kiếm thông tin
sơ cấp, trong đó, nguồn thông tin sơ cấp nội bộ được ưu tiên lựa chọn trước vì
thế cơ bản của nó là dễ tìm và chi phí ít.
Thông tin sơ cấp nội bộ do các thành viên trong Tập đoàn cung cấp
thông qua sự hiểu biết môi trường kinh doanh và sự tiếp cận trong công việc
hàng ngày. Những người cung cấp thông tin sơ cấp nội bộ bao gồm cả nhà
quản trị lẫn người thừa hành thuộc các bộ phận chức năng, các chi nhánh của
Tập đoàn ở các khu vực thị trường. Chẳng hạn, nhà quản trị marketing các
khu vực có thể cho biết ý kiến về tiềm năng khai thác và phát triển thị trường
các sản phẩm, nhà quản trị nguồn nhân lực có thể cho biết khả năng thu hút
thêm lao động giỏi ở các địa phương hoặc khả năng nâng cao năng suất của
lực lượng lao động hiện tại, đại diện thương mại hay nhân viên bán hàng có
thể cung cấp thông tin về nhu cầu và mong muốn của khách hàng hoặc phản
ứng của họ đối với các sản phẩm hoặc dịch vụ của Tập đoàn, những nhu cầu
mới phát sinh, những phát hiện về hoạt động của đối thủ cạnh tranh, người đi
mua hàng phục vụ sản xuất tiếp cận với các nhà cung cấp nên họ có khả năng
dự báo về những công nghệ mới, những nguyên liệu mới có thể ra đời trong
thời gian tới,... nguồn thông tin này có tác động gián tiếp đến hệ thống thông
kinh tế của Tập đoàn kinh tế.
Nguồn thông tin sơ cấp nội bộ rất quan trọng và có giá trị trong thực tế.
Vì vậy, để có nguồn thông tin này thường xuyên, các nhà quản trị chiến lược
cần quan tâm và tôn trọng ý kiến của các thành viên trong nội bộ và có chính
79
sách đãi ngộ thích đáng đối với những nguồn thông tin đem lại lợi ích cụ thể
cho Tập đoàn.
o Nguồn cung cấp thông tin sơ cấp bên ngoài
Thông tin sơ cấp bên ngoài có thể được cung cấp từ các nguồn như:
khách hàng, các nhà cung cấp có mối quan hệ mua bán lâu dài, các đối thủ
cạnh tranh, những nhà tư vấn, những tổ chức trung gian marketing...Thông tin
sơ cấp được cung cấp từ bên ngoài có lợi thế là đa dạng, ý kiến mang tính
khách quan. Tuy nhiên, điểm bất lợi là mất nhiều thời gian và chi phí để thu
thập, khi sử dụng phải thẩm tra lại cẩn thận. Nguồn thông tin này có tác động
gián tiếp đến hệ thống thông kinh tế của Tập đoàn kinh tế.
Trong thực tế, các nhà quản trị hệ thống thông tin chỉ quyết định thu
thập nguồn thông tin này khi cả ba nguồn trên chưa đáp ứng đủ nhu cầu thông
tin để ra các quyết định quản trị. Ví dụ: để thực hiện chiến lược mở rộng đầu
tư, các nhà quản trị cần phải có thông tin về khách hàng và các đối thủ cạnh
tranh ở khu vực thị trường mới nhằm quyết định mở rộng đầu tư. Bộ phận
quản lý hệ thống thông tin bắt buộc phải lập dự án đầu tư để thu thập ý kiến
của khách hàng nhằm ra quyết định đầu tư (sử dụng bằng câu hỏi để phỏng
vấn các nhóm khách hàng tiêu biểu). Mặt khác, nhân viên của hệ thống còn đi
thu thập thông tin về các hoạt động của từng đối thủ cạnh tranh chủ yếu trên
thị trường mới (mua hàng của đối thủ cạnh tranh để phỏng vấn người bán
hàng của họ, tình báo kinh tế...). Hoặc để giữ vững thị phần trên thị trường,
Tập đoàn cần có thông tin về các phản ứng của khách hàng để kịp thời điều
chỉnh. Vì vậy, hệ thống thông tin phải thu thập thường xuyên ý kiến khách
hàng qua bộ phận dịch vụ khách hàng hay qua phiếu thăm dò (các câu hỏi
ngắn)...
80
1.3 KINH NGHIỆM CỦA CÁC TẬP ĐOÀN KINH TẾ TRONG VIỆC
HOÀN THIỆN HỆ THỐNG THÔNG TIN KINH TẾ PHỤC VỤ CHO VIỆC
RA QUYẾT ĐỊNH TÀI CHÍNH CỦA TẬP ĐOÀN KINH TẾ
1.3.1 Kinh nghiệm trong việc hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế phục vụ
cho việc ra quyết định tài chính
Kinh nghiệm của một số Tập đoàn về việc sử dụng hệ thống thông
tin kinh tế phục vụ cho việc ra quyết định tài chính:
1/ Tập đoàn Vimpelcom đầu tư vào ngành viễn thông ở Việt Nam (Gtel)
Tháng 7 năm 2009 Gtel Mobile (Beeline) tiến hành đầu tư vào Việt
Nam dưới dạng hợp đồng hợp tác kinh doanh giữa Tổng công ty Viễn thông
Toàn cầu và công ty viễn thông Nga Vimpelcom, chuyên kinh doanh trong
lĩnh vực viễn thông. Tổng số vốn Vimpelcom đầu tư vào Beeline khoản 463
triệu USD, thời gian đầu tư dự tính dài hạn, Vimpelcom khi tiến hành đầu tư
vào Việt Nam đã được hưởng nhiều chính sách ưu đãi về cơ chế kinh doanh
đặc biệt như cổ phần của Vimpelcom chiếm đến 65% trong hợp đồng hợp tác
kinh doanh (trong khi theo qui định thì viễn thông là ngành mà phía Việt Nam
phải nắm cổ phần chi phối), ngoài cơ chế kinh doanh đặc biệt, Vimpelcom
còn được hưởng nhiều chính sách ưu đãi khác mà không phải nhà đầu tư nào
cũng dễ có được. Tuy nhiên, đến ngày 23/4/2012 Vimpelcom ký quyết định
bán hết cổ phần của mình cho công ty TNHH nhà nước một thành viên
Truyền dẫn và dịch vụ hạ tầng Gtel với giá là 45 triệu USD; thời gian đầu tư
của Vimpelcom vào Việt Nam không đầy 3,5 năm - thời gian quá ngắn chưa
kịp hoàn vốn – thì Vimpelcom đã phải rút lui khỏi thị trường Việt Nam; sự
thất bại này làm cho Vimpelcom không thực hiện được mục tiêu đầu tư ban
đầu đặt ra: “hướng tới việc gia tăng giá trị trong tương lai tại thị trường Việt
Nam”; vấn đề đặt ra là nguyên nhân nào Vimpelcom chấp nhận lỗ nặng, bán
rẻ cổ phần để thoát hiểm?
81
Theo ông Jo Lunder, Tổng Giám đốc tập đoàn, Vimpelcom rút lui là do sai
lầm trong định hướng đầu tư của tập đoàn, nguyên nhân của những sai lầm
này chủ yếu là do thông tin Tập đoàn Vimpelcom tiếp nhận trước khi quyết
định đầu tư không đầy đủ, không chính xác, không kịp thời, cụ thể:
- Sai lầm thứ nhất: Thông tin về thị trường không chính xác, không
đầy đủ dẫn đến Beeline bị thua thiệt trong việc chiếm lĩnh thị trường:
Trên thị trường Việt Nam Beeline chỉ chiếm khoản 5% thị phần;
Mobile Fone, Vinaphone, Viettel chiếm khoản 95% thị phần; thị phần
thấp làm cho Beeline không mang lại hiệu quả kinh doanh như mong
muốn. Nguyên nhân chính là do Beeline tiếp nhận thông tin về thị
trường, về khách hàng không đầy đủ, không chính xác; những thông tin
sai lệch được cung cấp cho Beeline như: Khách hàng Việt Nam ưa
chuộng khuyến mãi, sẵng sàn bỏ số điện thoại cũ của nhà mạng này để
thay thế bằng số điện thoại mới của nhà mạng khác nếu có khuyến mãi
cao, hay như thông tin: khách hàng Việt Nam không chú trọng nhiều
đến thương hiệu mà chỉ chú trọng đến lợi ích từ khuyến mãi …chính
những thông tin không đầy đủ và bị sai lệch này làm cho Beeline chủ
quan đánh giá thấp về việc thu hút khách hàng tiềm năng ở thị trường
Việt Nam; cụ thể để thu hút khách hàng, Beeline đã thực hiện các gói
cước khuyến mãi khủng như “Big Zero”, “Big Data”… nhằm mục tiêu
là để thu hút khách hàng tiềm năng trên thị trường, cũng như thu hút
khách hàng tiềm năng, trung thành của các đối thủ cạnh tranh cùng
ngành; chính những sai lầm của những thông tin không chính xác trên,
Beeline đã không đánh giá đúng về thương hiệu, không đánh giá đúng
về năng lực cạnh tranh của mình nên việc thu hút khách hàng tiềm năng
của Beeline bị thất bại ; thực tế, trên thị trường Việt Nam thương hiệu
Beeline rất yếu; trong khi đó, khách hàng của MobiFone, Vinaphone
82
chủ yếu là các khách hàng tiềm năng mạnh như doanh nghiệp và những
khách hàng lâu năm khác, những khách hàng này họ xem nhà mạng
như thương hiệu riêng của họ, vì thế họ không dễ dàng từ bỏ số điện
thoại đang sử dụng để chuyển sang mạng Beeline; không thu hút được
những khách hàng tiềm năng mạnh, Beeline chuyển sang đánh mạnh
vào đối tượng là học sinh, sinh viên và những người có thu nhập thấp;
Để đáp lại sự cạnh tranh của Beeline, các nhà mạng như MobiFone,
VinaPhone, Viettel đã thực hiện chiến lượt “miễn phí nội mạng”, và
chiến lược này đã làm cho những chương trình khuyến mãi lớn của
Beeline nhanh chóng kết thúc.
- Sai lầm thứ hai: Chi phí đầu tư lớn, tỷ suất sinh lời thấp
Beeline tiếp nhận thông tin về kỹ thuật không đầy đủ, không phù hợp
dẫn đến quyết định đầu tư sai lầm, đó là thông tin về băng tầng, Beeline
cho rằng thông tần càng rộng thì việc thông thoại càng tốt mà không
cần sự trợ giúp của 3G. Vì thế, Beeline tiến hành đầu tư hoạt động trên
băng tần lớn 1800MHz nhưng không có 3G hỗ trợ; và để đạt được vùng
phủ sóng tốt cho dịch vụ thoại, Beeline cần phải đặt ít nhất 20.000 trạm
phát sóng, có nghĩa Beeline cần có nguồn tài chính khổng lồ để đầu tư
và vận hành; nhưng dù cho băng tần rộng nhưng không có 3G hỗ trợ
nên chất lượng dịch vụ thoại của Beeline vẫn thấp, làm cho chất lượng
khách hàng sử dụng dịch vụ thấp (cụ thể doanh thu trên mỗi khách
hàng thấp), dẫn đến hiệu quả đầu tư thấp, hay tỷ suất sinh lời thấp,
thậm chí bị âm; trong khi đó, những nhà mạng khác với băng tần 800-
900 MHz nhưng có 3G hỗ trợ nên chỉ cần một nữa trạm phát sóng nói
trên cũng đủ dung lượng để phục vụ khách hàng, vì thế những nhà
mạng này tiết kiệm được chi phí đầu tư, giúp tổng chi phí đầu tư ít hơn
dẫn đến hiệu quả hoạt động lại cao hơn.
83
Tóm lại, do Beeline tiếp nhận thông tin không đầy đủ, không chính xác,
không phù hợp về kỹ thuật nên Beeline xử lý thông tin không đúng,
dẫn đến Beeline bị sai lầm trong việc quyết định đầu tư, làm cho chi phí
đầu tư quá lớn nhưng hiệu quả lại quá thấp, điều này đã làm giảm mạnh
đến tỷ suất sinh lời của Beeline, làm cho tỷ suất sinh lời của Beeline sụt
giảm nhanh.
- Sai lầm thứ ba: Chất lượng dịch vụ thấp, thị trường không bền vững
Ưu điểm của Beeline là giá rẻ, thu hút được bộ phận lớn khách hàng có
thu nhập thấp, đặc biệt là những người dân sống ở nông thôn. Tuy
nhiên, tại những vùng này, hạ tầng kỹ thuật còn yếu chưa ổn định, chất
lượng phủ sóng của Beeline chưa tốt, nên cơ hội phát triển của Beeline
với chương trình sim tỷ phú không đạt hiệu quả. Đối với khách hàng ở
thành thị, họ sử dụng sim Beeline phần nhiều mang tính” sơ cua”, họ
chưa sẵn sàng coi Beeline như một số điện thoại chính; vì thế, thị
trường của Beeline là thị trường không bền vững, dẫn đến doanh thu
không ổn định, và cuối cùng là Beeline bị lỗ nặng.
Tóm lại, một trong những nguyên nhân thua lỗ của Beeline, đó là thông
tin cung cấp cho Beeline về khách hàng Việt Nam không được chính
xác, không đầy đủ, không phù hợp; làm cho Beeline định hướng chiến
lược kinh doanh bị sai lầm, cụ thể như:
Thông tin không chính xác, không đầy đủ: Trước đây, để giành
thị trường Viettel đã thực hiện chiến lược “nông thôn bao vây
thành thị”, để thực hiện chiến lược này Viettel tiến hành: 1.giảm
giá dịch vụ thoại để thu hút khách hàng chủ lực ở nông thôn có
thu nhập thấp, 2. Tăng cường đầu tư các trạm có sự hỗ trợ của
3G để tăng chất lượng vùng phủ sóng, và Viettel đã thành công
trong chiến lược kinh doanh này; do tiếp nhận thông tin chiến
84
lược kinh doanh của Viettel không chính xác, không đầy đủ, nên
Beeline chỉ chú trọng về giảm giá sản phẩm, nhưng chưa chú
trọng về chất lượng dịch vụ, vì thế Beeline không thu hút được
khách hàng, làm cho hiệu quả SXKD của Beeline bị sụt giảm,
dẫn đến Beeline bị thua lỗ nặng.
Thông tin không phù hợp: Beeline tiếp nhận thông tin không phù
hợp, đó là thông tin quảng cáo với chiêu thức chọc tức khách
hàng, hình thức quảng cáo này không phù hợp với văn hóa của
người Việt Nam; cụ thể: để thu hút khách hàng, Beeline tiến
hành quảng cáo, hình thức quảng cáo “vô tiền khoáng hậu” trong
lịch sử quảng cáo, hình ảnh Beeline xuất hiện liên tục trên dưới
100 lần giữa giờ của những pha bóng nảy lửa, giữa những lúc cái
đầu đang nóng, Beeline như đã bơm thêm dầu vào lửa để cho
trận đấu trở lên nóng hơn bao giờ hết, điều này đã làm cho khách
hàng phản cảm với hình ảnh của Beeline, nên Beeline càng
không thu hút được khách hàng như mục đích đặt ra, hiệu quả
SXKD càng sụt giảm.
Kết luận: dù ở bất kỳ thị trường nào, trong môi trường kinh doanh nào, thì
Beeline cũng như các tập đoàn khác đều có xây dựng hệ thống thông tin kinh
tế để phục vụ ra quyết định tài chính, và các bước xây dựng hệ thống thông
tin kinh tế ở các tập đoàn gần như là giống nhau, nhưng việc thực hiện ở các
bước thì có sự khác biệt nhau, dẫn đến kết quả hoạt động SXKD khác nhau;
cụ thể, thất bại trong kinh doanh của Beeline ở thị trường Việt Nam chủ yếu
là do hệ thống thông tin kinh tế của Beeline còn quá nhiều khiếm khuyết, từ
việc xác định nhu cầu thông tin bị sai lệch, dẫn đến nguồn thông tin cung cấp
không đầy đủ, vì thế quá trình xử lý thông tin của Beeline không chính xác,
làm cho nguồn thông tin được cung cấp cho nhà quản trị là những thông tin
85
không đúng, không đủ, không kịp thời, không phù hợp, không chính xác; hậu
quả sai lầm của chuỗi hệ thống trên đó là nhà quản trị tiến hành phân tích,
đánh giá những mặt mạnh, yếu, cơ hội và thách thức của Beeline để đề ra
những phản ứng chiến lược về đầu tư bị sai lầm, dẫn đến Beeline bị thất bại
trong kinh doanh ở thị trường Việt Nam là điều tất yếu.
2/ Viettel thành công trong kinh doanh viễn thông trên thị trường nội địa
lẫn thị trường nước ngoài
Tập đoàn viễn thông Quân đội Viettel là tập đoàn viễn thông có thị
trường mở rộng cả trong nước lẫn ngoài nước, Viettel đang dẫn đầu Việt Nam
trong việc đẩy mạnh đầu tư kinh doanh ở nước ngoài, cụ thể Viettel đang đầu
tư và kinh doanh ở 10 nước: Lào, Campuchia, Haiti, Mozambique, Peru,
Cameroon, Bunrundi, Tazania, Myanmar, Đông Timor và đã đạt được những
thành công đáng kể. Nếu so với các tập đoàn viễn thông lớn ở nước ngoài
cùng kinh doanh tại các thị trường quốc tế, Viettel có mức tăng trưởng rất ấn
tượng, như năm 2015, tổng doanh thu từ hoạt động đầu tư quốc tế của Viettel
tăng 9%, đạt gần 1,5 tỷ đô la Mỹ. Trong khi đó, theo số liệu của OVUM
(hãng nghiên cứu và phân tích thị trường hàng đầu thế giới, trụ sở chính tại
Anh), tốc độ tăng trưởng bình quân của ngành này trên thế giới là 2,3% (chỉ
bằng ¼ so với Viettel).
Bí quyết thành công này là do:
- Thứ nhất, dù sinh sau đẻ muộn so với MobiFone hay VinaPhone,
nhưng Viettel (được cấp phép kinh doanh dịch vụ Bưu chính – Viễn
thông năm 2000) đã nắm được thông tin rất chính xác và kịp thời đó là:
1.hiện nay hai nhà mạng lớn MobiFone và VinaPhone chưa mặn mà
với khách hàng nông thôn, thị trường ở vùng nông thôn còn đang bỏ
ngỏ; 2. Giá cước cho 1 phút gọi ở năm 2000 của MobiFone và
VinaPhone đều là 8.000 đ/phút (phí thuê bao là 200.000đ/tháng),
86
Viettel nhận thấy giá cước phí và phí thuê bao của điện thoại di động
còn quá cao so với những người có thu nhập thấp; vì thế, sau khi thu
thập những thông tin đúng, chính xác, phù hợp và kịp thời này, Viettel
đã kịp thời xử lý thông tin, xem xét diễn biến của môi trường kinh
doanh, từ đó Viettel tiến hành phân tích những mặt mạnh, mặt yếu, cơ
hội và thách thức, để xây dựng chiến lược đúng đắn nhằm giành thị
trường, đó là: 1.Viettel áp dụng phương pháp tính cước đột phá theo
block 6 giây thay vì tính theo phút như trước đây MobiFone và
VinaPhone từng áp dụng, 2. Giảm phí hòa mạng, 3.Viettel cho khách
hàng mới tự chọn số trong gần 1 năm khai trương, 4. Tặng cước thuê
bao dịch vụ cho thuê bao trả sau, 5. Tặng cước thẻ nạp cho thuê bao trả
trước, 6. Hỗ trợ tiền mua điện thoại hay tặng máy khi khách hàng đăng
ký dịch vụ, 7. Thống nhất vùng gọi điện thoại để giảm cước cho khách
hàng. Chính những giải pháp đúng đắn trên đem lại nhiều lợi ích cho
khách hang, Viettel đã nhanh chóng thu hút được hơn 150.000 thuê bao
chỉ sau 5 tháng ra đời.
- Thứ hai, Viettel rút kinh nghiệm từ MobiPhone về sự cố nghẽn mạch
nghiêm trọng; MobiFone tiếp tục bị mất uy tín do các sự cố nghẽn
mạch vốn đã kéo dài và càng trở nên trầm trọng hơn vào những dịp Tết
Nguyên đán; sau khi tiếp nhận được thông tin chính xác và phù hợp
này, Viettel đã tiến hành xử lý thông tin và đề ra chiến lược phản ứng
kịp thời, đó là: 1.Viettel nhanh chóng và đẩy mạnh thực hiện chiến lược
đầu tư nhằm tăng số trạm phát sóng để theo kịp diễn biến tăng thuê bao,
2. Trong khi MobiFone và VinaPhone còn đang lay hoay về vấn đề
chất lượng vùng phủ sóng, nên họ không thể thực hiện chương trình
khuyến mãi rầm rộ để thu hút thuê bao mới; tận dụng cơ hội này,
Viettel bắt đầu thực hiện các chương trình khuyến mãi hòa mạng: đầu
87
tiên khá nhẹ nhàng là tặng 50% phí hòa mạng, kế tiếp khuyến mại tặng
50 triệu cuộc gọi miễn phí, kế tiếp nữa là miễn phí hòa mạng cho thuê
bao trả sau, và sau cùng là nhân đôi tài khoản cho thuê bao trả trước.
- Thứ ba, đến nay thị trường di động Việt Nam đã đến ngưỡng bão hòa,
chất lượng và giá cả đã được thay đổi đáng kể theo chiều hướng có lợi
cho người tiêu dùng, sự cạnh tranh giữa các đối thủ trong ngành viễn
thông không còn nằm ở giá cả, mà chủ yếu nằm ở chất lượng vùng phủ
song; thông tin chất lượng vùng phủ sóng là yếu tố quyết định đến khả
năng cạnh tranh của các tập đoàn viễn thông thì hầu như nhà quản trị
viễn thông nào cũng biết; tuy nhiên, người xử lý nhanh, mạnh và chính
xác về thông tin này nhằm xây dựng chiến lược kinh doanh hợp lý đó
chính là Viettel, cụ thể: 1.khi mạng 3G đang là đỉnh cao của thị trường
viễn thông thì Viettel đã nghĩ đến việc phát triển 4G, hiện tại mạng 4G
Viettel đang dự định phủ sóng toàn quốc và có chất lượng ngày càng
cao, 2. Viettel đặt mục tiêu nghiên cứu sản xuất các thiết bị hạ tầng
mạng viễn thông, mà trước mắt là tập trung vào công nghệ 4G để sản
xuất thiết bị 4G trong năm 2016, 3. bắt đầu lập nhóm nghiên cứu 5G,
hiện thực hoá ước mơ mạng lưới viễn thông Việt Nam bằng thiết bị
- Thứ tư, khi thị trường viễn thông trong nước đã đi vào ổn định và dần
Made in Vietnam.
dần tiến tới bảo hòa, thì Viettel đặt ra chiến lược đầu tư lâu dài đó
chính là đầu tư ra nước ngoài, cụ thể những đất nước đầu tiên mà
Viettel đầu tư đó chính là Lào và Campuchia; Viettel nhận thấy hạ tầng
viễn thông Lào và Campuchia hầu như không có gì; đường truyền
Internet tại đây chậm đến mức, trao đổi qua skype, gửi thư điện tử hay
gửi - rút tiền trực tuyến... gần như nan giải; trong khi đó, chi phí sử
dụng dịch vụ Internet lại cao gấp hàng chục lần so với Việt Nam. Khi
88
nắm được những thông tin quý báo này, Viettel đã tiến hành xử lý
thông tin và nhanh chóng nắm lấy cơ hội để xây dựng chiến lược đầu tư
dài hạn ở nước ngoài sau khi phân tích những mặt mạnh, yếu, cơ hội,
thách thức của Viettel; Sau khi theo dõi và cập nhật thông tin môi
trường, Viettel đã đề ra phản ứng chiến lược như sau: 1. Đầu tư theo
hướng “kỹ thuật đi trước, kinh doanh theo sau”, chiến lược này được
xuất phát từ quan điểm kinh doanh viễn thông là kinh doanh hạ tầng,
Sản phẩm của viễn thông chính là hạ tầng. Để đưa sản phẩm tới tay
người dùng thì phải đầu tư lớn về hạ tầng; 2. Thực hiện triết lý kinh
doanh: “4Any” (anytime: mọi lúc, anywhere: mọi nơi, anybody: mọi
người, anyprice: mọi giá); 3. “nghĩ khác và lao động sáng tạo” (không
tư duy theo lối mòn và không tư duy theo cách mà nhiều người khác
nghĩ), ở mỗi một thị trường mới có những khó khăn mới, cách để
Viettel vượt qua được những thách thức ấy chính là luôn nghĩ khác và
lao động hết mình; 4. Tạo ra một nét riêng về “văn hóa doanh nghiệp”,
do khác xa về phong tục tập quán, cụ thể: tại Lào, thói quen không làm
việc ngoài giờ và nghỉ toàn bộ các ngày cuối tuần của nhân viên bản xứ
khiến cho Viettel đã gặp nhiều khó khăn trong việc đảm bảo việc phục
vụ khách hàng 24/7 như các công ty viễn thông cần phải làm. Trong
giao tiếp và làm việc, nhân viên người Lào thích được nói chuyện nhẹ
nhàng, không quen với tác phong quân đội, chấp hành mệnh lệnh.
Chính vì vậy, bộ máy nhân viên Viettel đã quyết định vừa phải thay đổi
bản thân, vừa phải thay đổi chính cách nhìn và làm việc của nhân viên
bản xứ. Truyền cho nhân viên bản xứ sự nhiệt huyết, niềm tin vào công
việc, xoá bỏ các mâu thuẫn về văn hoá để tạo ra một nét riêng về văn
hóa doanh nghiệp; 5. “Giảm giá cước cuộc gọi”, ở thị trường Lào và
Campuchia, do GDP còn thấp, nhưng khi Viettel đầu tư, đưa giá cước
89
thấp và sản phẩm tới người dân thì viễn thông đã bùng nổ, kéo theo sự
phát triển về kinh tế xã hội; 6. “ Đẩy mạnh thực hiện các chính sách xã
hội”, Viettel đẩy mạnh các chương trình xã hội như cung cấp Internet
tới trường học, mổ tim miễn phí hay điện thoại nông thôn ở
Campuchia…. Đã giúp Viettel thực sự trở thành mạng của người
Campuchia, phục vụ cho người dân Campuchia; 7. “Tận dụng nguồn
vốn nước ngoài”, trong tổng số vốn đầu tư tại mỗi thị trường, Viettel
chỉ mang dưới 50% số vốn trong nước đi đầu tư, còn lại hơn 50% là
Viettel tự đi vay ngân hàng tại những quốc gia đầu tư và nợ tiền từ các
nhà cung cấp thiết bị.
Tóm lại: thành công của Viettel chủ yếu là do Viettel đã định hướng đúng
trong việc xác định nhu cầu thông tin, đây là căn cứ quan trọng để Viettel xác
định đúng các nguồn thông tin cung cấp, sau khi thu thập các thông tin đúng ,
đầy đủ, chính xác, kịp thời, và phù hợp, Viettel nhanh chóng tiến hành xử lý
thông tin kết hợp với dự báo đánh giá diễn biến của môi trường kinh doanh,
từ đó Viettel tiến hành phân tích các mặt mạnh, yếu, cơ hội và thách thức của
mình để đề ra chiến lược đầu tư hợp lý; kết quả của việc nhanh nhạy trong
việc sử dụng hệ thống thông tin nhằm phục vụ cho các quyết định tài chính đã
giúp Viettel đi trước một bước (cả thị trường trong nước lẫn thị trường nước
ngoài) so với các đối thủ cạnh tranh cùng ngành dù Viettel là người sinh sau
đẻ muộn. Kết quả của những quyết định đúng đắn này giúp Viettel thành công
rực rỡ; cụ thể: trong năm 2015, doanh thu từ thị trường nước ngoài của Vietetl
đạt 1,5 tỷ USD. Gần đây, Viettel được đánh giá xếp hạng là thương hiệu viễn
thông lớn nhất Việt Nam, TOP 5 thương hiệu viễn thông hiệu quả nhất
ASEAN và lọt vào TOP 100 thương hiệu viễn thông lớn nhất thế giới với giá
trị thương hiệu đạt ngưỡng 1 tỷ USD.
90
Có thể nói, động lực vươn xa với chiến lược kinh doanh hợp lý đã giúp cho
Viettel chưa đến một thập kỷ đã gặt hái được những thành công đáng khích lệ.
3/ Tổng Công ty Cổ phần Xây lắp Dầu khí Việt Nam (PVC) thuộc Tập
đoàn dầu khí Việt Nam (PVN) thất bại ngay ở thị trường trong nước
Tổng Công ty Cổ phần Xây lắp Dầu khí Việt Nam - PVC, thuộc Tập
đoàn Dầu khí Việt Nam – PVN đã niêm yết cổ phiếu trên Sở Giao dịch chứng
khoán Hà Nội với mã chứng khoán PVX và trở thành một trong những mã
nóng nhất khi khối lượng giao dịch lên đến hàng triệu cổ phiếu mỗi ngày; đây
cũng là cơ sở để PVC phát hành thành công thêm cổ phiếu vào đầu năm 2010,
tăng vốn điều lệ lên 2.500 tỉ đồng. Nhưng ngay trong những năm tiếp theo,
PVC có dấu hiệu đi xuống rồi lâm vào thua lỗ. Cụ thể, năm 2012, doanh thu
của PVC đạt 4.600 tỉ đồng nhưng lỗ hơn 1.300 tỉ đồng. Năm 2013, PVC tiếp
tục lỗ gần 2.000 tỉ đồng. Đặc biệt, PVC còn phải gánh nợ quá hạn hàng trăm
tỉ đồng vay ở các ngân hàng.
Riêng trong năm 2012, tình hình kinh doanh của PVC gặp rất nhiều
khó khăn. Các dự án mà PVC tham gia xây lắp đều bị chậm tiến độ. Do
không có nguồn vốn mới nên sản lượng và doanh thu của PVC sụt giảm
nghiêm trọng, trong khi khối lượng công việc dở dang và công nợ rất lớn.
Tính đến cuối năm 2012, chi phí sản xuất kinh doanh dở dang là 3.200 tỉ
đồng, tập trung chủ yếu ở các công trình Nhà máy nhiệt điện Vũng Áng, Nhà
máy nhiên liệu sinh học Ethanol Phú Thọ, Kho LPG lạnh Thị Vải,…
Đặc biệt, trong giai đoạn này, thị trường bất động sản đóng băng, chính
sách tín dụng thắt chặt nên một số đơn vị kinh doanh bất động sản của PVC
rơi vào bế tắc. Nhiều dự án đã triển khai và giải ngân vốn nhưng không bán
được hàng như trụ sở PVFC Hải Phòng, dự án Petrolandmark, sân golf Nha
Trang.
91
Hàng loạt dự án PVC nhận chuyển nhượng từ đơn vị khác trong ngành
như dự án Công ty Xi măng Dầu khí 12/9, Công ty Xi măng Hạ Long, khách
sạn Lam Kinh,... đều lâm vào cảnh thiếu vốn, tiền bán hàng thu hồi chậm,
kinh doanh lỗ vượt kế hoạch làm ảnh hưởng đến dòng tiền và tình hình sản
xuất kinh doanh chung của PVC. Theo tính toán, khoản đầu tư vào các dự án
này khoảng 1.193 tỉ đồng và PVC không có khả năng thu xếp nguồn trả nợ và
có nguy cơ bị mất hết vốn chủ sở hữu.
Vì sao PVC bị thất bại nặng nề và đang đứng trên bờ vực phá sản? sau
đây là những nguyên nhân chủ quan dẫn đến PVC có nguy cơ bị phá sản:
a. Sai lầm về chiến lược đầu tư: PVC đã sai lệch trong việc xác
định nhu cầu thông tin đầu tư dẫn đến nguồn cung cấp thông tin đầu tư
bị sai lệch, làm cho việc thu thập và xử lý thông tin bị lệch hướng chiến
lược đầu tư; cụ thể PVC hoạt động theo mô hình mẹ-con, nhưng công
ty mẹ không tập trung nâng cao năng lực quản trị và năng lực thi công
xây lắp, phát triển đội ngũ chuyên gia và công nhân tay nghề cao, mà
chỉ tập trung vào đầu tư tài chính, thu phí quản lý từ các dự án, công
trình được giao. Vì vậy, PVC không xây dựng được yếu tố phát triển
bền vững, hoàn toàn dựa vào các công ty con, công ty liên kết, công ty
tài chính. Các công ty này không tham gia vào chuỗi giá trị gia tăng của
công ty mẹ, không xây dựng bộ máy quản trị, chiến lược đầu tư đặt
trong tổng thể của toàn Tổng công ty PVC. Vì vậy, không những không
đóng góp cho công ty mẹ (kể cả cổ tức) mà còn làm phát sinh thêm
những nghĩa vụ pháp lý, tài chính làm ảnh hưởng đến công ty mẹ, gây
thua lỗ về tài chính cho công ty mẹ;
b. PVC quá chủ quan trong việc dự báo diễn biến của môi trường
kinh doanh, không chú trọng phân tích những mặt mạnh, mặt yếu, cơ
hội cũng như thách thức về tài chính của Tổng công ty nên PVC chưa
92
đề ra chiến lược tài chính phù hợp; cụ thể, báo cáo tài chính sau kiểm
toán của PVC đã chỉ ra: chính công tác quản trị tài chính doanh nghiệp
không tuân thủ các nguyên tắc, các chuẩn mực trong quản trị tài chính,
quản trị rủi ro như không cân đối dòng tiền vào và dòng tiền ra dẫn đến
tình cảnh tài chính gặp nhiều khó khăn do PVC bị thiếu hụt tiền; điều
này được thể hiện thông qua việc PVC đã ký những hợp đồng kinh tế
với các nhà thầu phụ và các đối tác chưa chặt chẽ, tình trạng tạm ứng,
thanh toán vượt quá quy định dẫn đến công nợ phải thu của công ty mẹ
rất lớn, đây là những nguyên nhân chính gây mất cân đối dòng tiền.
Tóm lại: PVC bị thua lỗ nặng trong thời gian vừa qua là do thông tin
đầu tư cung cấp cho PVC bị sai lệch so với mục tiêu đầu tư chính yếu của
PVC, dẫn đến chiến lược tài chính để tài trợ cho đầu tư bị sai lệch theo, nên
hậu quả là dòng tiền vào và dòng tiền ra bị mất cân đối trầm trọng, làm cho
PVC bị thiếu vốn trong đầu tư và lâm vào tình trạng khủng hoảng tài chính,
an ninh tài chính đã bị đe dọa nghiêm trọng, nguy cơ phá sản có khả năng xảy
ra rất lớn.
1.3.2 Bài học trong việc xây dựng hệ thống thông tin kinh tế nhằm phục vụ
cho việc ra quyết định tài chính của tập đoàn kinh tế
Bài học thứ nhất - bài học về Vimpelcom: Thất bại trong kinh doanh
của Beeline ở thị trường Việt Nam chủ yếu là do hệ thống thông tin kinh tế
của Beeline còn quá nhiều khiếm khuyết, từ việc xác định nhu cầu thông tin
bị sai lệch, dẫn đến nguồn thông tin cung cấp không đầy đủ, vì thế quá trình
xử lý thông tin của Beeline không chính xác, làm cho nguồn thông tin được
cung cấp cho nhà quản trị là những thông tin không đúng, không đủ, không
kịp thời, không phù hợp, không chính xác; hậu quả sai lầm của chuỗi hệ thống
thông tin trên, đó là nhà quản trị tiến hành phân tích, đánh giá những mặt
mạnh, yếu, cơ hội và thách thức của Beeline để đề ra những phản ứng chiến
93
lược về đầu tư bị sai lầm, dẫn đến Beeline bị thất bại trong kinh doanh ở thị
trường Việt Nam là điều tất yếu.
Vì thế, để tránh sai lầm của Vimpelcom, Tập đoàn Bưu chính – Viễn
thông VNPT cần phải chú trọng về thông tin thị trường phải thật chính xác,
đầy đủ, kịp thời, và phù hợp với ngành nghề kinh doanh chính của Tập đoàn;
tránh đầu tư có chi phí đầu tư quá lớn, nhưng tỷ suất sinh lời thấp; ngoài ra,
VNPT cần chú trọng đến thông tin về chất lượng dịch vụ và sự bền vững của
thị trường; có như thế thì hệ thống thông tin cung cấp cho nhà quản trị VNPT
sẽ là những thông tin đúng, đủ, kịp thời, phù hợp, chính xác; và kết quả tất
yếu của chuỗi hệ thống thông tin tốt nói trên sẽ giúp cho nhà quản trị tài chính
VNPT tiến hành phân tích, đánh giá những mặt mạnh, yếu, cơ hội và thách
thức của VNPT để đề ra những phản ứng chiến lược về đầu tư được đúng đắn
và có hiệu quả cao hơn.
Bài học thứ hai - bài học về thành công của Viettel
Thành công của Viettel chủ yếu là do Viettel đã định hướng đúng trong
việc xác định nhu cầu thông tin, đây là căn cứ quan trọng để Viettel xác định
đúng các nguồn thông tin cung cấp, sau khi thu thập các thông tin đúng , đầy
đủ, chính xác, kịp thời, và phù hợp, Viettel nhanh chóng tiến hành xử lý thông
tin kết hợp với dự báo đánh giá diễn biến của môi trường kinh doanh, từ đó
Viettel tiến hành phân tích các mặt mạnh, yếu, cơ hội và thách thức của mình
để đề ra chiến lược đầu tư hợp lý; kết quả của việc nhanh nhạy trong việc sử
dụng hệ thống thông tin nhằm phục vụ cho các quyết định tài chính đã giúp
Viettel đi trước một bước (cả thị trường trong nước lẫn thị trường nước ngoài)
so với các đối thủ cạnh tranh cùng ngành dù Viettel là người sinh sau đẻ
muộn.
Vì thế, để đạt được thành công như Viettel, thì Tập đoàn VNPT cần
phải thu thập và xử lý thông tin kinh tế kịp thời, phù hợp với xu hướng hiện
94
nay, đó là mạnh dạn đầu tư vào những thị trường còn bỏ ngỏ (ở trong nước
cũng như ở nước ngoài); tiến hành dự báo những diễn biến của môi trường
kinh doanh để phân tích những mặt mạnh, mặt yếu, cơ hội, cũng như thách
thức về đầu tư, về vốn của VNPT để tiến hành đầu tư phù hợp với khả năng
huy động vốn nhằm giành thị trường; VNPT cần phải đề ra phản ứng chiến
lược có tính chất trọng yếu đó là: VNPT cần phải chú trọng việc phát triển
tăng thuê bao phải phát triển đồng bộ tăng trạm phát sóng để tránh tình trạng
nghẽn mạch, nhanh chóng phát triển mạng 4G và tiếp tục nghiên cứu mạng
5G để mở rộng băng thông giúp nâng cao chất lượng cuộc gọi, tận dụng
nguồn vốn và thị trường nước ngoài để mở rộng đầu tư nước ngoài.
Bài học thứ ba: bài học về sự thất bại của PVC
PVC bị thua lỗ nặng trong thời gian vừa qua là do thông tin đầu tư cung
cấp cho PVC bị sai lệch so với mục tiêu đầu tư chính yếu của PVC, dẫn đến
chiến lược tài chính để tài trợ cho đầu tư bị sai lệch theo, nên hậu quả là dòng
tiền vào và dòng tiền ra bị mất cân đối trầm trọng, làm cho PVC bị thiếu vốn
trong đầu tư và lâm vào tình trạng khủng hoảng tài chính, an ninh tài chính đã
bị đe dọa nghiêm trọng, nguy cơ phá sản có khả năng xảy ra rất lớn.
Để tránh rơi vào tình trạng khủng hoảng tài chính như PVC, VNPT cần
phải tránh tình trạng đầu tư dàn trải để không bị lãng phí vốn trong đầu tư;
VNPT phải thật sự chú trọng đến thông tin nội bộ, cụ thể chú trọng đến thông
tin trong báo cáo tài chính, để đảm bảo việc cân đối dòng tiền, đảm bảo an
ninh tài chính, hạn chế rủi ro cho Tập đoàn.
Tóm lại: Từ những bài học kinh nghiệm trên, để VNPT ngày càng tăng
trưởng và phát triển bền vững trên thị trường viễn thông ngày càng cạnh tranh
gay gắt, thì VNPT cần phải hiểu sâu sắc về các bước của mô hình hệ thống
thông tin kinh tế, và cần phải tuân thủ thực hiện đầy đủ, chính xác các bước
này, có như thế thì hệ thống thông tin kinh tế mới trở thành hệ thống thông tin
95
tốt, có ích cho việc ra quyết định tài chính của Tập đoàn VNPT, các bước
thực hiện hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế được thể hiện như sau:
Xác định nhu cầu thông tin
Xác định các nguồn thông tin
Thu thập và xử lý thông tin
Dự báo diễn biến môi trường kinh doanh
Lập bảng tổng hợp môi trường kinh doanh
Phân tích mặt mạnh, yếu, cơ hội và thách thức
Đề ra phản ứng chiến lược
Theo dõi và cập nhật thông tin môi trường
Kết luận chương 1: Hệ thống thông tin kinh tế có tác dụng cung cấp
những thông tin cần thiết cho nhà quản trị, giúp nhà quản trị điều hành, và hỗ
trợ cho quá trình ra quyết định... qua đó tăng cường vị thế cạnh tranh của tập
đoàn trong một thị trường biến đổi nhanh chóng và phức tạp. Vì vậy, hệ thống
thông tin kinh tế có vai trò to lớn trong quản trị tài chính của tập đoàn.
Môi trường kinh doanh hiện nay rất năng động, và ngày càng phức tạp,
thông tin có mặt khắp nơi và ngày càng đa dạng làm cho nhà quản trị không
thể ra quyết định nhanh chóng và đúng đắn nếu không có sự cung cấp thông
tin từ hệ thống thông tin của tập đoàn, vì thế mục tiêu chính của hệ thống
thông tin kinh tế là:
96
Cung cấp thông tin phục vụ cho hoạt động của con người trong
một tổ chức nào đó.
Ghi nhận các sự kiện có một tác động kinh tế đến các tổ chức và
các bên liên quan trong và ngoài nước.
Cải thiện việc lưu giữ, phân tích khối lượng lớn dữ liệu để giúp
nhà quản lý tìm kiếm giải pháp để giải quyết vấn đề.
Tạo ra và khai thác các ý tưởng ở nhiều nguồn lực khác nhau
nhằm giúp cho tập đoàn đạt năng suất và hiệu quả công việc
ngày càng cao hơn.
Hỗ trợ khả năng tổ chức của nhà quản lý, và giúp nhà quản lý ra
quyết định tăng hiệu quả, giảm nguy cơ sai sót.
Đáp ứng sự hài lòng trong việc tiếp nhận thông tin đối với nhà
quản lý.
Mặt khác, thông tin kinh tế đóng một vai trò tích cực trong sự toàn vẹn
của các quyết định tài chính cũng như sự thành công của kế hoạch phát triển;
đây chính là tầm quan trọng của thông tin kinh tế trong vai trò cung cấp thông
tin để nhà quản trị đưa ra quyết định quản lý và đầu tư.
Các quyết định tài chính của Tập đoàn kinh tế là một yếu tố rất quan
trọng trong việc dự báo kế hoạch ngân sách của Tập đoàn. Bởi lẻ các quyết
định tài chính thể hiện các chính sách chiến lược của tập đoàn, chính sách này
sẽ tác động đến nhu cầu tài chính của Tập đoàn trong từng thời kỳ khác nhau.
Để đảm bảo có một bản kế hoạch tài chính sát thực, phản ánh đúng và đủ nhu
cầu tài chính của Tập đoàn, thì hệ thống thông tin kinh tế của tập đoàn trở
thành điều kiện cần mà những nhà quản trị tài chính không thể thiếu được.
97
Chương 2
THỰC TRẠNG VỀ HỆ THỐNG THÔNG TIN KINH TẾ
PHỤC VỤ CHO VIỆC RA QUYẾT ĐỊNH TÀI CHÍNH CỦA
TẬP ĐOÀN BƯU CHÍNH VIỄN THÔNG VNPT
2.1. TỔNG QUAN VỀ TẬP ĐOÀN BƯU CHÍNH VIỄN THÔNG VNPT
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của Tập đoàn Bưu chính Viễn
thông VNPT.
Quá trình hình thành
Tháng 3/1994, Thủ tướng Chính phủ có quyết định 91/TTg ngày
07/3/1994 thí điểm thành lập tập đoàn kinh doanh. Tuy nhiên, các tổ chức
kinh doanh được hình thành theo quyết định này thời gian đầu được gọi là
tổng công ty 91. Tháng 3/2005, Thủ tướng Việt Nam quyết định thí điểm hình
thành Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam. Từ đó, các tổng công ty 91
đều được chuyển thành các tập đoàn kinh tế thí điểm. Song, phải đến tháng
11/2009, Thủ tướng Việt Nam mới có quyết định thí điểm thành lập tập đoàn
kinh tế nhà nước.
Mục tiêu thí điểm là:
Tập trung đầu tư và huy động các nguồn lực hình thành nhóm
công ty có quy mô lớn trong các ngành, lĩnh vực then chốt, cần
phát triển, nâng cao khả năng cạnh tranh và hội nhập kinh tế
quốc tế.
Giữ vai trò bảo đảm các cân đối lớn trong nền kinh tế quốc dân;
ứng dụng công nghệ cao; tạo động lực phát triển cho các ngành,
lĩnh vực khác và toàn bộ nền kinh tế.
Thúc đẩy liên kết trong chuỗi giá trị gia tăng, phát triển các thành
phần kinh tế khác.
98
Tăng cường quản lý, giám sát có hiệu quả đối với vốn, tài sản
nhà nước đầu tư tại các doanh nghiệp trong tập đoàn.
Tạo cơ sở để tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách và pháp luật
về tập đoàn kinh tế.
Đến thời điểm trước tháng 10/2012, Việt Nam có 13 tập đoàn kinh tế
nhà nước (sau ngày này chỉ còn 11 do HUD và Sông Đà trở lại mô hình tổng
Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT), thành lập tháng
công ty) gồm:
Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (Vinacomin),
4/2005;
thành lập tháng 9/2005 với tổ chức ban đầu là Tập đoàn Than Việt Nam, sau
Tập đoàn Tài chính-Bảo hiểm Bảo Việt (Bảo Việt), thành lập tháng
đó thành Vinacomin tháng 01/2006;
Tập đoàn Dệt May Việt Nam (Vinatex), thành lập tháng 12/2005;
Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam (VRG), thành lập tháng
12/2005;
Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam (Vinashin), thành lập
01/2006;
tháng 6/2006; Đến tháng 10/2013, Bộ Giao thông vận tải quyết định chuyển
Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), thành lập tháng 7/2006.
Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PetroVietnam), thành lập
đổi tập đoàn kinh tế Vinashin thành Tổng công ty Công nghiệp Tàu thủy.
Tập đoàn Viễn thông Quân đội (Viettel), thành lập tháng 12/2009;
Tập đoàn Công nghiệp Hóa chất Việt Nam (Vinachem);
Tập đoàn phát triển nhà và đô thị Việt Nam (HUD Holdings - từ
tháng 9/2006;
01/2010 đến 10/2012);
99
Tập đoàn Công nghiệp Xây dựng Việt Nam (VNIC, Sông Đà - từ
Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex), thành lập tháng 5/2011.
01/2010 đến 10/2012);
Quá trình phát triển
Năm 1995, Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam chính thức
được thành lập theo mô hình Tổng Công ty 91, trực thuộc Chính phủ và Tổng
cục Bưu điện với tên giao dịch quốc tế viết tắt là VNPT, chính thức tách khỏi
chức năng quản lý nhà nước và trở thành đơn vị sản xuất, kinh doanh, quản lý
khai thác và cung cấp các dịch vụ bưu chính, viễn thông. Cũng trong năm
này, VNPT có vinh dự là ngành kinh tế- kỹ thuật đầu tiên trong cả nước đón
nhận phần thưởng cao quý: Huân chương Sao vàng, VNPT đã có 742.000
thuê bao điện thoại, đưa mật độ điện thoại của Việt Nam lên 1 máy/100 dân.
Với con số này, lần đầu tiên mạng viễn thông Việt Nam có tên trên bản đồ
viễn thông thế giới.
Năm 1996 VNPT đưa mạng thông tin di động VINAPHONE - mạng
thông tin di đông GSM thứ hai của Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt
Nam đi vào hoạt động song song với mạng MOBIFONE. Ngày 19/11/1997
Việt Nam chính thức hòa mạng Internet quốc tế. VDC (đơn vị trực thuộc của
VNPT) là nhà cung cấp cổng truy nhập Internet duy nhất (IAP) và là 1 trong 4
nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP) đầu tiên của Việt Nam.
Năm 2000, VNPT đã vượt qua mật độ 4 máy/100 dân, tăng 4,23 lần so
với năm 1995, số lượng máy điện thoại trên toàn mạng đạt 3,3 triệu máy. Với
số lượng 829.463 máy điện thoại được phát triển mới trong năm 2000 (tăng
80,14%, trong đó riêng máy điện thoại di động tăng 332% so với năm 1999),
VNPT nói riêng và Việt nam nói chung tiếp tục được ITU đánh giá là một
trong 10 nước có tốc độ phát triển viễn thông nhanh nhất thế giới.
100
Trong năm 2004, mạng điện thoại đạt xấp xỉ 10.000.000 máy, đưa mật
độ điện thoại trên toàn quốc lên trên 12 máy/100 dân.
Năm 2006, Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) đã
chính thức ra mắt và đi vào hoạt động theo quyết định của Thủ tướng Chính
phủ số 06/2006/QĐ-TTg ngày 09/01/2006, chuyển đổi mô hình từ Tổng công
thành Tập đoàn Bưu chính – Viễn thông. Theo đó, VNPT là Tập đoàn kinh tế
chủ đạo của Nhà nước trong lĩnh vực BCVT & CNTT, kinh doanh đa ngành
trong cả nước và quốc tế, có sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế; làm
nòng cốt để BCVT và CNTT Việt Nam phát triển và hội nhập quốc tế.
Từ năm 1998 đến 2005, Thủ tướng Việt Nam có quyết định phê duyệt
thực hiện cổ phần hóa tại 42 doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp nhà nước
thuộc Tập đoàn Bưu chính – Viễn thông Việt Nam.
Năm 2007, tiếp tục triển khai thực hiện Đề án thí điểm thành lập Tập
đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam đã được Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt, VNPT đã hoàn thành chia tách Bưu chính Viễn thông trên địa bàn các
tỉnh/thành phố. Theo đó, từ Bưu điện tỉnh hiện nay sẽ hình thành 2 đơn vị:
Bưu điện tỉnh/thành phố trực thuộc Tổng Công ty Bưu chính Việt Nam và
Viễn thông tỉnh/thành phố trực thuộc Công ty mẹ - Tập đoàn Bưu chính Viễn
thông Việt Nam.
Năm 2008, Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam VNPT, với vai
trò là chủ đầu tư dự án, đã phóng thành công vệ tinh đầu tiên của Việt Nam
VINASAT-1 lên quỹ đạo, VINASAT-1 đã đưa các dịch vụ viễn thông,
Internet và truyền hình đến các vùng sâu, vùng xa, miền núi và hải đảo... là
những nơi mà phương thức truyền dẫn khác khó vươn tới được. Đây là sự
kiện khẳng định chủ quyền quốc gia của Việt Nam trên không gian, góp phần
nâng cao hình ảnh, uy tín của Việt Nam nói chung và viễn thông – công nghệ
thông tin Việt Nam nói riêng. Với việc đưa vệ tinh viễn thông đầu tiên vào sử
101
dụng, Việt Nam đã chủ động được toàn bộ các phương thức truyền dẫn, kể cả
các phương thức truyền dẫn hiện đại, hoàn thiện hạ tầng thông tin liên lạc
quốc gia, đảm bảo an toàn và tin cậy mạng lưới cơ sở hạ tầng viễn thông, tạo
điều kiện cho các đơn vị phát triển các dịch vụ viễn thông, phát thanh, truyền
hình...
Năm 2009, VNPT đã thiết lập thành công phiên họp trực tuyến lần đầu
tiên của Chính phủ tới Văn phòng UBND 63 tỉnh/ thành, đánh dấu bước đổi
mới tích cực trong việc ứng dụng viễn thông – công nghệ thông tin vào công
tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ. Đồng thời thể hiện năng lực của VNPT
trong việc thực hiện dự án "Mạng truyền số liệu chuyên dùng của các cơ quan
Đảng và Nhà nước". Đồng thời, VinaPhone - đơn vị cung cấp dịch vụ di động
thuộc VNPT đã trở thành nhà mạng đầu tiên tại Việt Nam cung cấp dịch vụ
3G, ghi thêm Việt Nam vào bản đồ 3G thế giới, đưa vị trí của ngành di động
Việt Nam lên một nấc thang mới. Tiếp đó, MobiFone cũng chính thức cung
cấp dịch vụ 3G trên thị trường, khẳng định vị trí tiên phong công nghệ của
VNPT.
Ngày 24/6/2010, Công ty mẹ - Tập đoàn Bưu chính – Viễn thông Việt
Nam chuyển đổi hoạt động sang mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn một
thành viên do nhà nước làm chủ sở hữu theo quyết định số 955/QĐ-TTg của
Thủ tướng Chính phủ.
Với những nỗ lực và kết quả đạt được trong việc phát triển mạng băng
thông rộng phục vụ cộng đồng, đặc biệt là những người dân khu vực nông
thôn, vùng sâu, vùng xa của Việt Nam, năm 2011 VNPT được trao giải
thưởng quốc tế “Băng thông rộng thay đổi cuộc sống” trong khuôn khổ Diễn
đàn Băng thông rộng quốc tế lần thứ 11 tại Paris, Pháp.
102
Năm 2012, VNPT đã phóng thành công Vệ tinh viễn thông thứ 2 của
Việt Nam Vinasat-2 lên quỹ đạo tại bãi phóng Kouru, Guyana, Nam Mỹ.
Vinasat-2 đã đi vào khai thác trong quý 3 năm 2012.
Năm 2015, là năm ghi dấu ấn đặc biệt của Tập đoàn VNPT. VNPT
triển khai mạnh mẽ đề án tái cơ cấu theo quyết định số 888/QĐ-TTg của Thủ
tướng Chính phủ, bên cạnh việc hoàn thiện mô hình tổ chức, dịch chuyển gần
2 vạn lao động từ các Viễn thông tỉnh, thành phố và các công ty dọc, Tập
đoàn VNPT đã triển khai đồng bộ nhiều giải pháp kinh doanh, xây dựng
nhiều cơ chế kinh tế, cơ chế phối hợp chung nhằm ổn định sản xuất kinh
doanh, tạo động lực cho các đơn vị thúc đẩy SXKD, tăng thị phần, nâng cao
hiệu quả kinh doanh. Tập đoàn đã đạt được các kết quả SXKD hết sức khả
quan, là minh chứng rõ nét cho thành công của tiến trình tái cơ cấu Tập đoàn
theo đề án tái cơ cấu đã được Chính phủ phê duyệt. Cụ thể:
Sau khi hoàn thành giai đoạn 1 của Đề án tái cơ cấu - chuyển đổi thành
công và hiệu quả mô hình tổ chức SXKD tại 63 VNPT tỉnh/thành, ngay từ
đầu năm 2015, VNPT đã chuẩn bị mọi điều kiện hoàn thiện bộ máy nhân sự
cấp cao, thành lập 3 Tổng công ty. VNPT đã chính thức vận hành theo mô
hình 3 lớp “Hạ tầng – Dịch vụ - Kinh doanh”
Cuối tháng 3 đầu tháng 4/2015, Bộ TT&TT đã công bố những Quyết định bổ
nhiệm quan trọng, kiện toàn nhân sự cấp cao của VNPT với các vị trí: Chủ
tịch Hội đồng Thành viên, Tổng Giám đốc Tập đoàn. Theo đó, từ ngày
23/3/2015, Thành viên Hội đồng Thành viên - Tổng Giám đốc VNPT Trần
Mạnh Hùng đã được bổ nhiệm giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng Thành viên
VNPT. Ngày 2/4/2015, Quyết định bổ nhiệm Tổng giám đốc Tập đoàn cũng
đã được Bộ TT&TT trao cho ông Phạm Đức Long.
Trong tháng 5/2015, VNPT đã công bố quyết định thành lập 3 Tổng Công ty
gồm Tổng công ty Dịch vụ Viễn thông (VNPT - Vinaphone), Tổng công ty
103
Truyền thông (VNPT - Media), Tổng công ty Hạ tầng mạng (VNPT - Net).
Tiếp đó, các vị trí lãnh đạo chủ chốt của 3 Tổng công ty cũng đã được VNPT
bổ nhiệm. Đến cuối tháng 6/2015, VNPT đã công bố Quyết định thành lập các
đơn vị kinh tế trực thuộc 3 Tổng Công ty.
Từ ngày 1/7/2015, 3 Tổng Công ty đã đi vào hoạt động theo mô hình mới.
Với sự ra đời của 3 Tổng công ty, hoạt động SXKD của VNPT đã hình thành
một chuỗi giá trị từ Nội dung đến Hạ tầng và tới Khách hàng. VNPT cũng đã
triển khai bàn giao 63 Trung tâm Kinh doanh, 63 Trung tâm dịch vụ Giá trị
Gia tăng và 63 Trung tâm kỹ thuật của 63 VNPT tỉnh/thành về VNPT-
VinaPhone, VNPT – Media, và VNPT- Net. Đây cũng là điểm khởi đầu cho
giai đoạn 2 thực hiện Đề án Tái cơ cấu VNPT, giai đoạn quan trọng làm tiền
đề cho hoạt động của VNPT cả về hạ tầng mạng lưới và hệ thống bán hàng.
2.1.2 Đặc điểm sản xuất kinh doanh của Tập đoàn Bưu chính - Viễn
thông Việt Nam VNPT.
2.1.2.1 Đặc điểm ngành nghề
Sản phẩm chủ yếu của VNPT là dịch vụ viễn thông như dịch vụ điện
thoại di động, điện thoại cố định, Internet, Truyền số liệu, Truyền
thông…trong đó, dịch vụ điện thoại di động là chủ yếu.
Vì sản phẩm của ngành viễn thông chủ yếu là sản phẩm dịch vụ, có đặc
điểm quá trình sản xuất diễn ra đồng thời với quá trình tiêu thụ sản phẩm, nên
hàng tồn kho chủ yếu chỉ là nguyên vật liệu. Mặt khác, hiện nay có nhiều
doanh nghiệp viễn thông ngoài tập đoàn cùng tham gia hoạt động (như
Viettel, VietNam Mobile,..) nên dịch vụ ngành viễn thông hiện nay có tính
cạnh tranh rất cao, để thu hút khách hàng sử dụng dịch vụ của Tập đoàn, Tập
đoàn VNPT thường mở rộng chính sách bán chịu, vì thế các khoản phải thu
ngắn hạn của Tập đoàn thường chiếm tỷ trọng lớn. Cơ sở hạ tầng Tập đoàn
104
Bưu chính - Viễn thông Việt Nam VNPT vững chắc, hiện đại đòi hỏi vốn đầu
tư rất lớn nên thời gian thu hồi vốn chậm.
Mặt dù VNPT tách khỏi chức năng quản lý nhà nước và trở thành đơn
vị sản xuất, kinh doanh, quản lý khai thác và cung cấp các dịch vụ bưu chính,
viễn thông; nhưng vốn đầu tư của VNPT vẫn là vốn của nhà nước, thực hiện
kinh doanh theo Luật doanh nghiệp và Luật Bưu chính – Viễn thông.
2.1.2.2 Đặc điểm về thị trường
Nhu cầu của người dân, của doanh nghiệp sử dụng dịch vụ viễn thông
ngày càng tăng, dịch vụ viễn thông ngày nay đã phủ khắp 63/63 tỉnh, thành và
đáp ứng cho mọi tầng lớp xã hội. Điều đó thể hiện thị trường Viễn thông rộng
khắp trên cả đất nước Việt Nam và đã kết nối với các nước khác trên toàn thế
giới.
Trong các tập đoàn tham gia kinh doanh dịch vụ Viễn thông – Công
nghệ thông tin ở Việt Nam thì VNPT giữ vai trò chủ đạo trên thị trường Viễn
thông – Công nghệ thông tin; VNPT nằm trong Top 10 nhà cung cấp dịch vụ
Viễn thông – Công nghệ thông tin có uy tín trên thị trường khu vực và Châu
Á. Hiện nay VNPT luôn là sự lựa chọn số 1 của khách hàng trong sử dụng
dịch vụ Viễn thông – Công nghệ thông tin, đạt được điều này là do VNPT
thực hiện triết lý kinh doanh: “Khách hàng là trung tâm - Chất lượng là linh
hồn - Hiệu quả là thước đo”, có nghĩa là:
Khách hàng là trung tâm: VNPT luôn xác định khách hàng là nguồn
sống, là trung tâm trong chiến lược phát triển và mục tiêu kinh doanh của VNPT.
Chất lượng là linh hồn: VNPT luôn xác định đảm bảo về chất lượng dịch
vụ là sự sống còn, là giá trị của VNPT trên thị trường.
Hiệu quả là thước đo: VNPT đặc biệt coi trọng hiệu quả hoạt động; đó là
thước đo cho sự lớn mạnh của VNPT, là lợi thế cạnh tranh và trách nhiệm xã hội
của VNPT.
105
2.1.2.3 Đặc điểm về công nghệ
Mạng viễn thông quốc tế: VNPT hiện đã xây dựng hạ tầng viễn thông
quốc tế vững mạnh, hiện đại, sử dụng nhiều phương thức truyền dẫn mới, an
toàn, hiệu quả như cáp quang biển, cáp quang đất liền, vệ tinh, cho phép kết
nối trực tiếp tới hơn 240 quốc gia và trung tâm kinh tế, tài chính khu vực trên
toàn thế giới.
Mạng đường trục quốc gia: Mạng đường trục quốc gia của VNPT bao
gồm mạng cáp quang Bắc – Nam, dung lượng hiện tại đạt 360 Gbps, nằm dọc
quốc lộ 1A và đường Hồ Chí Minh. Mạng được kết nối vòng Ring để đảm
bảo thông tin liên lạc thông suốt trong mọi tình huống.
Mạng băng rộng: Đón đầu sự thay đổi của công nghệ và thị trường,
VNPT đã sớm đưa dịch vụ truy nhập Internet băng rộng ADSL tới người
dùng từ năm 2003, và hiện đang phục vụ hàng triệu khách hàng trên cả nước.
Hệ thống vệ tinh VINASAT: Với những thành công thu được trong
việc đầu tư và khai thác Vinasat 1, Chính phủ tiếp tục đặt niềm tin và trọng
trách phóng vệ tinh thứ hai của Việt Nam Vinasat-2 cho VNPT. Vinasat -2
phủ sóng toàn bộ khu vực Đông Nam Á và một số nước lân cận. “Cùng với
Vinasat-1, Vinasat-2 giúp tăng khả năng dự phòng về dung lượng và giảm
thiểu rủi ro, tăng cường độ an toàn cho mạng viễn thông quốc gia”.[18]
Mạng thông tin di động: Với trên 35.000 trạm thu phát sóng (2G và
3G), phủ sóng 63/63 tỉnh thành trên cả nước, mạng di động của VNPT
(VinaPhone - MobiFone) hiện phục vụ khoảng hàng chục triệu thuê bao, luôn
luôn hỗ trợ khách hàng kết nối mọi lúc, mọi nơi. Ngoài cung cấp các dịch vụ
di động trong nước, VNPT đã roaming tới hơn 400 nhà cung cấp dịch vụ
thông tin di động thuộc khoảng 160 quốc gia trên thế giới, cho phép người
dùng vẫn có thể sử dụng dịch vụ khi di chuyển trên phạm vi toàn thế giới.
106
Tóm lại, trình độ trang bị kỹ thuật, công nghệ của tập đoàn Viễn thông
Việt Nam có thể nói là hiện đại bậc nhất của nước Việt Nam. Đây là Tập đoàn
có sứ mạng cao cả, trở thành cánh chim đầu đàn của ngành viễn thông của cả
nước, mỗi năm đóng góp vào ngân sách nhà nước hàng nghìn tỷ VNĐ.
2.1.2.4 Đặc điểm về tình hình lao động
Tập đoàn Bưu chính -Viễn thông Việt Nam VNPT là một đơn vị hạch
toán độc lập, trực thuộc Bộ Thông tin và Truyền thông, phạm vi hoạt động
trên khắp đất nước Việt Nam. Trong những năm hoạt động vừa qua; Tập đoàn
Bưu chính -Viễn thông Việt Nam VNPT luôn là ngọn cờ đi đầu trong hoạt
động kinh doanh của Bộ Bộ Thông tin và Truyền thông, luôn là đơn vị đi đầu
trong công tác sáng kiến hợp lý hoá sản xuất, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào
hoạt động kinh doanh. Lực lượng lao động của Tập đoàn VNPT hiện nay
khoản 36.000 người trong đó 48% lao động là nữ.
Bảng 2.1: Cơ cấu trình độ
Trình độ Tiến sĩ Thạc sĩ Đại học Cao đẳng Khác
Số lượng 253 1.878 22.146 5.283 6.440
Nguồn: căn cứ vào thông tin của phòng tổ chức – nhân sự Tập đoàn VNPT
% 0,7 5,22 61,52 14,67 17,89
Bảng 2.2: Cơ cấu độ tuổi
Độ tuổi <30 31-40 41-50 51-60
Số lượng 2.286 15.752 10.319 7.643
Nguồn: căn cứ vào thông tin của phòng tổ chức – nhân sự Tập đoàn VNPT
% 6,35 43,76 28,66 21,23
Căn cứ vào kết quả khảo sát về trình độ và cơ cấu độ tuổi người lao
động, ta thấy VNPT có khoản 67,44% lao động có trình độ từ Đại học trở lên,
và hơn 50,11% là nguồn lao động có độ tuổi dưới 40 trong đó 43,76% có độ
tuổi từ 31-40 – một độ tuổi chin muồi về nhận thức cũng như kinh nghiệm và
107
đây chính là một lợi thế rất lớn về nguồn nhân lực của Tập đoàn trong hoạt
động sản xuất kinh doanh.
Ngay sau khi mô hình tái cơ cấu được hoàn thiện, bộ máy nhân sự từ
Tập đoàn đến các đơn vị được kiện toàn, các nguồn lực đã được định hướng
chuyên biệt, thống nhất một đầu mối bán hàng duy nhất tại các địa phương để
nâng cao hiệu quả bán hàng và chăm sóc khách hàng, ổn định hoạt động
SXKD và phát huy hiệu quả.
2.1.2.5 Đặc điểm về cơ cấu tổ chức
Kế thừa 70 năm xây dựng, phát triển và gắn bó trên thị trường viễn
thông Việt Nam, VNPT vừa là nhà cung cấp dịch vụ đầu tiên đặt nền móng
cho sự phát triển của ngành Bưu chính, Viễn thông Việt Nam, vừa là tập đoàn
có vai trò chủ chốt trong việc đưa Việt Nam trở thành 1 trong 10 quốc gia có
tốc độ phát triển Bưu chính Viễn thông nhanh nhất toàn cầu.
Sau khi tái cấu trúc doanh nghiệp, hiện với gần 36 nghìn cán bộ công nhân
viên, hạ tầng công nghệ viễn thông tiên tiến, mạng lưới dịch vụ phủ sóng toàn
bộ 63 tỉnh thành trên cả nước, VNPT tự hào là nhà cung cấp dịch vụ bưu
chính, viễn thông số 1 tại Việt Nam, phục vụ khoảng 30 triệu thuê bao di
động, gần 10 triệu thuê bao điện thoại cố định và khoảng hàng chục triệu
người sử dụng Internet.
Ngày 24/6/2010, Công ty mẹ - Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam
chuyển đổi hoạt động sang mô hình Công ty TNHH một thành viên do Nhà
nước làm chủ sở hữu theo quyết định số 955/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính
phủ.
Năm 2015, Tập đoàn VNPT đã thực hiện tái cơ cấu thành công. Sau đây là
mô hình cơ cấu tổ chức sau khi thực hiện tái cơ cấu:
108
Sơ đồ 2.1: Cơ cấu tổ chức Tập đoàn Viễn thông VNPT
Thành viên Hội đồng thành viên TĐ: Ông Đỗ Vũ Anh
HỘI ĐỒNG THÀNH VIÊN
Thành viên Hội đồng thành viên TĐ: Ông Phạm Đức Long
Thành viên Hội đồng thành viên TĐ: Ông Nghiêm Phú Hoàn
Thành viên Hội đồng thành viên TĐ: Ông Nguyễn Mạnh Thắng
Chủ tịch Hội đồng thành viên Tập đoàn: Ông Trần Mạnh Hùng
PhóTổng Giám đốc Tập đoàn: Ông Lương Mạnh Hoàn
PhóTổng Giám đốc Tập đoàn: Ô. Nguyễn Văn Nhiễn
PhóTổng Giám đốc Tập đoàn: Ô. Tô Mạnh Cường
PhóTổng Giám đốc Tập đoàn: Ông Ngô Hùng Tín
BAN TỔNG GIÁM ĐỐC ĐIỀU HÀNH
Tổng Giám đốc Tập đoàn: Ông Phạm Đức Long
Ban Nhân lực
Ban Phát triển Thị trường
Ban Chất lượng
Ban Tài chính – Chiến lược
Ban Kiểm soát nội bộ
Ban Kế toán – Tài chính
Ban Pháp chế thanh tra
Ban Công nghệ - Mạng
Ban CNTT & Dịch vụ GTGT
Văn phòng Tập đoàn VNPT
Tổng công ty Dịch vụ Viễn thông VNPT - Vinaphone
Tổng công ty truyền thông VNPT - Media
Tổng công ty hạ tần mạng VNPT - Net
Các phòng ban chức năng tham mưu
63 trung tâm kinh doanh – VNPT 63 trung 109 tâm Dịch vụ GTGT - VNPT 63 trung tâm Kỹ thuật – VNPT
2.1.3 Đặc điểm về tài chính của Tập đoàn Viễn thông VNPT.
Để thấy được đặc điểm về tài chính của Tập đoàn Bưu chính - Viễn
thông Việt Nam VNPT, ta xem bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả hoạt
động kinh doanh của VNPT từ năm 2011 đến năm 2015 sau đây:
Bảng 2.3: Bảng cân đối kế toán của Tập đoàn VNPT (Đơn vị tính: triệu đồng)
Bảng 2.4: Báo cáo kết quả họat động kinh doanh của VNPT (Đvt: triệu đồng)
110
Nguồn: Căn cứ vào BCTC của Tập đoàn Bưu chính Viễn thông VNPT
Để Tập đoàn VNPT đưa ra được các quyết định tài chính đúng đắn
nhằm tối đa hóa lợi nhuận và tối thiểu hóa rủi ro cho tập đoàn, đòi hỏi các nhà
quản trị phải am hiều về tình hình tài chính của tập đoàn. Có như thế thì các
nhà quản trị mới có thể hiểu rõ điểm mạnh, điểm yếu của tập đoàn trong thời
gian vừa qua, từ đó đưa ra được những quyết định tài chính phù hợp với từng
giai đoạn phát triển của tập đoàn.
Vì thế, đầu tiên tác giả phân tích tình hình thanh toán của tập đoàn
thông qua các hệ số phản ánh khả năng thanh toán.
Các hệ số phản ánh khả năng thanh toán của tập đoàn
Bảng 2.5: Hệ số thanh toán
Đvt: triệu đồng
Nguồn lấy từ bảng 2.3, kết quả trong bảng do tác giả tự tính
Ta thấy khả năng thanh toán hiện thời cũng như tình hình thanh toán
nhanh của Tập đoàn VNPT từ năm 2011 đến năm 2015 có chiều hướng giảm
nhẹ, cụ thể: trong năm 2015 ta thấy 1 đồng nợ ngắn hạn được đảm bảo bằng
1,89 đồng tài sản ngắn hạn có tính thanh khoản nhanh; những hệ số thanh
111
toán này tuy có sụt giảm so với các năm trước nhưng vẫn gần bằng 2, chứng
tỏ tình hình thanh toán của Tập đoàn vẫn tốt.
Các hệ số phản ánh cơ cấu nguồn vốn của tập đoàn
Bảng 2.6: Hệ số phản ánh cơ cấu nguồn vốn
Đvt: triệu đồng
Nguồn lấy từ bảng 2.3, kết quả trong bảng do tác giả tự tính
Thông qua hệ số nợ, ta thấy hệ số nợ ổn định qua các năm và có xu
hướng tăng nhẹ mức độ sử dụng nợ vay. Nợ phải trả của Tập đoàn VNPT chủ
yếu là đi chiếm dụng (như chiếm dụng từ: thuế phải nộp, phải trả cho người
lao động, chi phí phải trả và các khoản phải trả khác); chính từ việc chiếm
dụng vốn này đã góp phần làm tăng thêm hiệu quả hoạt động của Tập đoàn.
Bên cạnh đó, hệ số tự tài trợ của Tập đoàn cũng ổn định qua các năm,
chứng tỏ Tập đoàn VNPT rất tự chủ về tài chính, ít phụ thuộc vào chủ nợ; Tập
đoàn VNPT đã thể hiện thế mạnh về tiềm lực tài chính của một trong những
Tập đoàn lớn của nền kinh tế Việt Nam.
Kết hợp hệ số nợ và hệ số tự tài trợ, ta thấy tình hình đảm bảo nợ của
Tập đoàn VNPT rất tốt, cụ thể 1 đồng nợ phải trả của Tập đoàn được đảm bảo
bằng 2,97 đồng vốn chủ sở hữu ở năm 2015. Hệ số này có sụt giảm qua các
năm, nhưng sự sụt giảm là không đáng kể, nên theo xu hướng chung thì mức
độ đảm bảo nợ của tập đoàn rất tốt, tập đoàn vẫn còn nhiều khả năng huy
động vốn vay nếu như thay đổi cơ cấu vốn mục tiêu hướng về việc tăng
cường sử dụng nợ thay cho vốn chủ sở hữu.
Các hệ số phản ánh hiệu suất hoạt động
112
Giả định: tổng vốn kinh doanh năm 2010 của Tập đoàn VNPT là
84.966.959 triệu đồng; tài sản cố định năm 2010 là 40.779.354 triệu đồng; ta
có bảng hệ số phản ánh hiệu suất hoạt động của Tập đoàn VNPT như sau:
Bảng 2.7: Hệ số phản ánh hiệu suất hoạt động
Đvt: triệu đồng
Nguồn: lấy từ bảng 2.3 và bảng 2.4, kết quả trong bảng do tác giả tự tính
Từ năm 2011 đến năm 2015, vòng quay tổng vốn của Tập đoàn đều quá
thấp; cụ thể trong năm 2015, vòng quay tổng vốn đạt 0,51 vòng, vòng quay
vốn cố định đạt 1,05 vòng. Nguyên nhân hiệu suất sử dụng tổng vốn thấp là
do tập đoàn đầu tư mạnh vào: tài sản cố định, và đầu tư tài chính dài hạn, đầu
tư tài chính ngắn hạn, và các khoản phải thu ngắn hạn; nhưng doanh thu của
Tập đoàn VNPT đạt được trong việc đầu tư này chưa tương xứng với vốn đầu
tư hiện tại của Tập đoàn, vì thế hiệu suất hoạt động của Tập đoàn VNPT ở các
năm vừa qua chưa cao.
Các hệ số phản ánh hiệu quả hoạt động
Bảng 2.8: Hệ số phản ánh hiệu quả hoạt động
Đvt: triệu đồng
Nguồn: lấy từ bảng 2.4, kết quả trong bảng do tác giả tự tính
Đánh giá: Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy các hệ số: Tỷ suất lãi gộp,
ROS, ROE qua các năm có xu hướng sụt giảm; cụ thể: từ năm 2011 đến năm
2013 các hệ số này cùng có xu hướng gia tăng, nhưng qua năm 2014 và 2015
thì tỷ suất lãi gộp, ROS, ROE giảm mạnh; nguyên nhân: do giữa năm 2014
113
MobiFone tách khỏi Tập đoàn VNPT nên thị trường của VNPT bị chia sẻ; do
đó, để mở rộng thị trường, Tập đoàn VNPT đã tăng cường chi cho chi phí tiếp
thị, quảng bá hình ảnh, … nên đã làm cho chi phí bán hàng tăng lên; Trong
khi đó, sự cạnh tranh của thị trường viễn thông ở những năm vừa qua rất gay
gắt, vì có nhiều đối thủ mạnh tham gia thị trường như Viettel, MobiFone, vì
thế việc chiếm thị phần trên thị trường viễn thông của Tập đoàn VNPT ngày
càng khó khăn hơn; đồng thời, việc tiếp thị, quảng bá hình ảnh của VNPT
không có gì nổi bậc sự khác biệt so với các đối thủ cạnh tranh cùng ngành,
nên việc gia tăng thị phần, tăng doanh thu của VNPT càng khó khăn hơn gấp
bội phần; trong khi đó chi phí tiếp thị, chi phí quảng bá hình ảnh lại gia tăng
và gia tăng vượt mức so với gia tăng doanh thu, thể hiện hiệu quả thu về của
VNPT không tương xứng với chi phí bỏ ra và điều này đã ảnh hưởng mạnh
đến lợi nhuận sau thuế của Tập đoàn, dẫn đến tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên
doanh thu, tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu của Tập đoàn đều bị
sụt giảm.
Tình hình phân phối lợi nhuận của Tập đoàn VNPT
Bảng 2.9: Bảng phân phối lợi nhuận của Tập đoàn VNPT
Đơn vị tính: triệu đồng
Nguồn: lấy từ bảng 2.3 và bảng 2.4, kết quả trong bảng do tác giả tự tính
Căn cứ theo kết quả của bảng 2.9 ta thấy chính sách chia lợi nhuận của
Tập đoàn VNPT ổn định qua các năm; tuy nhiên, trong năm 2014 thị trường
viễn thông của VNPT bị chia sẻ do MobiFone tách ra khỏi Tập đoàn VNPT
nên dẫn đến doanh thu của VNPT bị sụt giảm, làm cho lợi nhuận giảm, và
nguồn nhân sự cũng giảm tương ứng; vì thế phần lợi nhuận sau thuế dành để
114
chia lợi nhuận cho tất cả các thành viên trong Tập đoàn cũng giảm theo là
điều tất nhiên. Qua năm 2015, Tập đoàn VNPT thay đổi cơ cấu tổ chức và
chính sách lương thưởng cho nhân viên trong Tập đoàn cũng thay đổi theo, cụ
thể Tập đoàn VNPT thực hiện chính sách chiến lược: dành phần lớn lợi nhuận
sau thuế để phân phối lợi nhuận cho các thành viên trong tập đoàn với mục
đích tạo ra động lực thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển trong
tương lai. Tuy nhiên, chính vì phần lợi nhuận sau thế được ưu tiên cho việc
chia lợi nhuận mà không ưu tiên cho việc tái đầu tư, nên phần lợi nhuận sau
thuế dành để bổ sung vốn chủ sở hữu trong năm 2015 rất nhỏ bé so với tổng
lợi nhuận sau thuế mà tập đoàn CVNPT đạt được, điều này làm cho Tập đoàn
VNPT bị thiếu vốn đầu tư; để thấy rõ điều này ta xem xét tình hình tăng
trưởng của Tập đoàn VNPT qua các năm như sau.
Tình hình tăng trưởng của Tập đoàn VNPT
Mặt khác, để thấy được sự tăng trưởng của Tập đoàn Viễn thông VNPT
qua các năm là tăng trưởng bền vững hay không bền vững, ta đánh giá tốc độ
tăng trưởng doanh thu và tốc độ tăng trưởng vốn chủ sở hữu qua bảng sau:
Bảng 2.10: Bảng phản ánh tốc độ tăng trưởng của tập đoàn
Đơn vị tính: triệu đồng
Nguồn: Căn cứ vào bảng 2.3 và bảng 2.4
Nhìn vào bảng 2.15 ta thấy tốc độ tăng vốn chủ sở hữu năm 2014 bị âm,
và tốc độ tăng doanh thu năm 2014 cũng bị âm; nguyên nhân là do trong năm
2014 MobiFone tách ra khỏi Tập đoàn Bưu chính Viễn thông VNPT, nên làm
cho vốn chủ sở hữu và doanh thu của Tập đoàn sụt giảm, dẫn đến tốc độ tăng
vốn chủ sở hữu và tốc độ tăng doanh thu đều bị âm; qua năm 2015 tốc độ tăng
115
doanh thu tiếp tục bị âm thể hiện khả năng cạnh tranh của Tập đoàn VNPT
không cao bằng đối thủ cùng ngành nên thị trường của VNPT đang bị thu
hẹp.
Tuy nhiên, khi so sánh giữa tốc độ tăng vốn chủ sở hữu và tốc độ tăng
doanh thu từ năm 2011 đến năm 2014, ta thấy tốc độ tăng doanh thu luôn lớn
hơn tốc độ tăng vốn chủ sở hữu, thể hiện Tập đoàn đang tăng trưởng nhanh;
qua năm 2015 tốc độ tăng doanh thu thấp hơn tốc độ tăng vốn chủ sở hữu, thể
hiện Tập đoàn đang tăng trưởng chậm và Tập đoàn rơi vào tình trạng thừa
vốn; điều này giúp Tập đoàn khắc phục được tình trạng thiếu vốn của các năm
đã qua và dần dần ổn định đi vào tăng trưởng bền vững.
Tóm lại, với việc triển khai mạnh mẽ đề án tái cơ cấu theo quyết định số
888/ QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, bên cạnh việc hoàn thiện mô hình tổ
chức, dịch chuyển gần 2000 lao động từ các Viễn thông tỉnh, thành phố và các
công ty dọc; Tập đoàn VNPT đã dành nhiều thời gian để thực hiện tái cơ cấu,
nên chưa thể triển khai nhiều giải pháp kinh doanh, chưa xây dựng nhiều cơ
chế kinh tế, chưa có cơ chế phối hợp chung nhằm ổn định SXKD, tiến độ
triễn khai cơ sở hạ tầng tại một số dự án chưa đạt yêu cầu như các dự án phát
triển trạm 3G của mạng VinaPhone… đều làm ảnh hưởng chậm đến công tác
phát triển và nâng cao chất lượng mạng lưới; hệ thống dữ liệu phần mềm phục
vụ cho công tác kinh doanh chưa được đồng bộ, đầy đủ gây khó khăn cho quá
trình xây dựng chính sách bán hàng… và tất cả những điều này đều ảnh
hưởng mạnh đến doanh thu bán hàng, làm cho doanh thu bán hàng năm 2015
bị sụt giảm mạnh so với doanh thu năm 2014, dẫn đến lợi nhuận sau thuế năm
2015 bị sụt giảm hay hiệu quả SXKD bị sụt giảm là điều tất yếu.
2.2 THỰC TRẠNG VỀ HỆ THỐNG THÔNG TIN KINH TẾ CỦA TẬP
ĐOÀN BƯU CHÍNH - VIỄN THÔNG VIỆT NAM VNPT NHẰM PHỤC
VỤ CHO VIỆC RA QUYẾT ĐỊNH TÀI CHÍNH.
116
Để đánh giá thực trạng về hệ thống thông tin kinh tế của Tập đoàn Bưu
chính - Viễn thông Việt Nam VNPT, tác giả đã tiến hành khảo sát tại Tập
đoàn VNPT với đối tượng khảo sát là những nhà quản trị trong Tập đoàn
VNPT; mẫu khảo sát bao gồm 100 mẫu và thu về được 92 mẫu, dữ liệu được
thu thập vào cuối năm 2015; mục đích của khảo sát là thu thập dữ liệu để
đánh giá thực trạng về hệ thống thông tin kinh tế của Tập đoàn Bưu chính -
Viễn thông Việt Nam VNPT, những câu hỏi khảo sát đều được dùng cho tất
cả đối tượng được khảo sát, nội dung của những câu hỏi trên chủ yếu bao
gồm:
A. Quan điểm về hệ thống thông tin kinh tế của Tập đoàn Bưu chính
– Viễn thông Việt Nam VNPT;
B. Các yếu tố thực trạng về hệ thông tin kinh tế của Tập đoàn Bưu
chính – Viễn thông Việt Nam VNPT;
C. Mức độ tác động của hệ thống thông tin kinh tế đến quyết định
tài chính của Tập đoàn Bưu chính – Viễn thông Việt Nam
VNPT.
Mức độ đánh giá từng câu hỏi khảo sát được đánh giá bởi 5 thang cấp độ như
sau:
Cấp độ 1: Hoàn toàn đồng ý
Cấp độ 2: Khá đồng ý
Cấp độ 3: Đồng ý
Cấp độ 4: Hơi đồng ý
Cấp độ 5: Không đồng ý
Sau đây là bảng chi tiết câu hỏi khảo sát và kết quả khảo sát thể hiện ở 5
thang cấp độ:
A. QUAN ĐIỂM VỀ HỆ THỐNG THÔNG TIN KINH TẾ CỦA TẬP
ĐOÀN BƯU CHÍNH - VIỄN THÔNG VIỆT NAM VNPT.
117
a. Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông Việt Nam VNPT có sử dụng
92
thông tin nhằm phục vụ ra quyết định tài chính?
2. 3. 4. 5.
b. Thông tin kinh tế thường sử dụng nhằm phục vụ ra quyết định tài 1. 1 .. . chính là những thông tin kinh tế vi mô, thông tin kinh tế vĩ mô, thông tin kinh
tế bên trong, thông tin kinh tế bên ngoài, thông tin kinh tế quá khứ, thông tin
92
kinh tế hiện tại, và thông tin kinh tế tương lai?
2. 3. 4. 5.
19
7
14
c. Tập đoàn VNPT đã hoàn thiện rất tốt hệ thống thông tin kinh tế 1. 1 .. . nhằm phục vụ ra quyết định tài chính?
2. 3. 4. 5.
d. Hệ thống thông tin kinh tế của Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông 1. 1 .. .
52
92
Việt Nam VNPT đang sử dụng là yếu tố rất quan trọng trong việc ra quyết
5. 4. 2. 3.
7
14
61
Nam VNPT đang sử dụng có phù hợp với trình độ nhà quản trị? định tài chính? 1. 1 .. e. Hệ thống thông tin kinh tế của Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông Việt . 3. 4. 2. 5.
B. CÁC YẾU TỐ PHẢN ÁNH THỰC TRẠNG VỀ HỆ THỐNG THÔNG
1. 101 1 9 .. . TIN KINH TẾ CỦA TẬP ĐOÀN BƯU CHÍNH - VIỄN THÔNG VIỆT NAM VNPT.
I. Thực trạng về tổ chức cấu thành:
1. Thực trạng về quy trình thu thập hệ thống thông tin kinh tế của
VNPT:
a. Tập đoàn Bưu chính – Viễn thông Việt Nam VNPT đã tiến hành
8
18
54
xây dựng những nội dung thông tin cần thu thập trước khi tiến hành
2. 3. 4. 5.
1. thu thập? 1 .. .
121 9
118
b. Tập đoàn VNPT có tiến hành xác định nguồn thu thập tin cậy
23
59
trước khi tiến hành thu thập?
2. 3. 5. 4.
59
23
1. 1 .. . ngoài như khảo sát khách hàng, tìm hiểu về đối thủ cạnh tranh..?
5. 4. 3. 2.
1. 1 .. .
101 9 c. VNPT có tiến hành tiếp nhận thông tin từ nguồn thông tin bên 101 9 d. VNPT có tiến hành tiếp nhận thông tin từ nguồn thông tin bên trong nội bộ như: sổ sách kế toán, thông tin chính thức giữa quản lý
92
với nhau, thông tin chính thức giữa quản lý với nhân viên?
2. 5. 4. 3.
a. Sau khi thu thập thông tin, VNPT có tiến hành phân loại thông
92
1. 1 .. . tin?
2. 3. 4. 5.
83
7
b. Thông tin thu thập có được phân loại thành: thông tin chiến lược, 1. 1 .. . thông tin chiến chiến thuật, thông tin tác nghiệp?
5. 2. 4.
2
92
3. c. Tập đoàn VNPT có đánh giá thông tin được thu thập để phân loại 1. 1 .. . thành những thông tin: tin cậy và không tin cậy
2. 4. 3. 5.
92
d. Khi tiếp nhận nguồn thông tin, Tập đoàn VNPT có xử lý thông 1. 1 .. . tin trước khi đưa vào sử dụng?
2. 4. 3. 5.
89
2
2. Quy trình xử lý thông tin có đảm bảo đầy đủ các đặc điểm: 1. 1 .. . a. Thông tin đảm bảo độ tin cậy?
2. 3. 4. 5.
6
75
8
b. Thông tin đảm bảo sự cần thiết?
2. 3. 4. 5.
1 3
1. 1 .. . 1. 1 .. . 119
12
18
9
15
c. Thông tin đảm bảo tính kịp thời?
2. 3. 4. 5.
17
5
14
26
d. Thông tin đảm bảo tính phù hợp?
2. 3. 4. 5.
7
1
10
69
e. Thông tin đảm bào độ chính xác?
2. 3. 4. 5.
16
19
13
30
f. Thông tin đảm bảo tính đầy đủ?
2. 3. 4. 5.
11
17
9
40
g. Thông tin đảm bảo tính dễ sử dụng?
2. 3. 4. 5.
92
h. Thông tin đảm bảo tính bảo mật?
2. 3. 4. 5.
38 30 5 14 15
3. Quy trình sử dụng hệ thống thông tin kinh tế của Tập đoàn VNPT có 1. 1 .. . 1. 1 .. . 1. 1 .. . 1. 1 .. . 1. 1 .. . 1. 1 .. . thực hiện qua các bước:
a. Cấp chiến lược có sử dụng thông tin nhằm mục đích đưa ra các quyết
định tài chính chiến lược như: quyết định đầu tư, quyết định huy động
92
vốn, và quyết định phân chia lợi nhuận?
2. 3. 4. 5.
b. Cấp chiến thuật tiếp nhận thông tin từ mệnh lệnh của cấp chiến lược 1. 1 .. . đưa xuống nhằm triễn khai thực hiện các quyết định tài chính dài hạn
92
và các quyết định tài chính ngắn hạn của Tập đoàn.
2. 3. 4. 5.
c. Cấp tác nghiệp tiếp nhận thông tin từ cấp chiến thuật để triễn khai công 1. 1 .. .
92
việc hàng ngày?
2. 3. 4. 5.
1. 1 .. .
120
II. Thực trạng về Hệ thống thông tin kinh tế của Tập đoàn Bưu chính – Viễn
thông VNPT.
1. Thực trạng về nội dung cấu thành hệ thống thông tin
a. Những thông tin kinh tế bên ngoài Tập đoàn, như thông tin từ tìm
hiểu về đối thủ cạnh tranh, từ khảo sát nhu cầu sử dụng dịch vụ của
92
khách hàng, có tác động đến quyết định tài chính của Tập đoàn?
2. 4. 5. 3.
b. Những thông tin kinh tế bên trong Tập đoàn, như sổ sách kế toán, thông tin nội bộ giữa những nhà quản lý với nhau có tác động đến
1. 1 .. .
92
quyết định tài chính của Tập đoàn?
2. 3. 4. 5.
20
10
2. Thực trạng phương thức cấu thành hệ thống thông tin 1. 1 .. . a. Thời gian tiếp nhận thông tin của Tập đoàn có đúng lúc?
2. 3. 4. 5.
62 b. Thông tin được cung cấp để phục vụ ra các quyết định tài chính có
92
1. 1 .. . phù hợp?
2. 3. 4. 5.
11
5
8
20
c. Tiến độ ra các quyết định tài chính có kịp thời?
2. 5. 4.
48 a. Máy vi tính phục vụ cho nhà quản trị sử dụng hệ thống thông tin kinh
3. 3. Thực trạng về phương tiện hỗ trợ cấu thành hệ thống thông tin kinh tế 1. 1 .. . 1. 1 .. .
92
tế nhằm ra các quyết định tài chính có tính chất hiện đại?
2. 4. 5. 3.
9
7
13
11
b. Phần mềm có tương thích, phù hợp?
2. 4. 5. 3.
52
1. 1 .. . 1. 1 .. .
121
Để mang tính bảo mật thông tin cao, ngoài mạng internet Tập đoàn
đang sử dụng, Tập đoàn VNPT có sử dụng mạng nội bộ riêng có của
92
Tập đoàn?
2. 4. 3. 5.
C. MỨC ĐỘ TÁC ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG THÔNG TIN KINH TẾ
1. 1 .. . ĐẾN QUYẾT ĐỊNH TÀI CHÍNH CỦA TẬP ĐOÀN BƯU CHÍNH
VIỄN THÔNG VIỆT NAM VNPT.
I. Hệ thống thông tin kinh tế Tập đoàn VNPT đang sử dụng có tác
28
14
động hiệu quả đến việc ra các quyết định tài chính của Tập đoàn?
2. 3. 4. 5.
50 tin kinh tế, được thể hiện trên các mặt:
II. Tính hiệu quả của các quyết định tài chính do sử dụng hệ thống thông 1. 1 .. .
1. Đối với các quyết định tài chính dài hạn:
8
10
a. Quyết định đầu tư có phù hợp?
32
10
14
23
17
5 2. 4. 3. 5.
37
7
11
14
22
3. 2. 4. 5.
23
7
12
9
2. 4. 3. 5.
2. 4. 3. 5.
87
9
27
1. 1 .. b. Hiệu quả đầu tư có cao? 1. 28 1 . .. c. Quyết định huy động vốn có phù hợp . 1. 38 1 .. d. Chi phí sử dụng vốn có tối ưu? . 1. 41 1 .. e. Quyết định phân chia lợi nhuận có phù hợp? .
2. 5. 3. 4.
1. 48 1 .. f. Phân chia lợi nhuận có đảm bảo hài hòa được lợi ích của người .
14
1
14
lao động?
2. 3. 4. 5.
63
2. Đối với các quyết định tài chính ngắn hạn:
92
1. 1 .. . a. Quyết định tiền mặt có phù hợp?
2. 4. 5. 3.
122 1. 1 .. .
92
b. Quyết định các khoản phải thu có phù hợp?
2. 4. 5. 3.
6
13
2
24
c. Quyết định hàng tồn kho có phù hợp?
2. 4. 5. 3.
47
Lưu ý: kết quả số liệu thể hiện ở các ô, tác giả tự tổng hợp dựa trên kết
1. 1 .. . 1. 1 .. . quả khảo sát
2.2.1 Quan điểm về hệ thống thông tin kinh tế của VNPT:
Ai cũng biết thông tin kinh tế rất quan trọng với đối các nhà quản trị, vì
những thông tin này hỗ trợ nhà quản trị trong việc lập kế hoạch, kiểm soát, đo
lường hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh và cuối cùng là hỗ trợ ra quyết
định. Qua khảo sát thực tế cho thấy, Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông Việt
Nam VNPT đã xây dựng hệ thống thông tin kinh tế nhằm phục vụ ra quyết
định tài chính. Và hệ thống thông tin kinh tế này trở thành yếu tố then chốt
trong việc ra quyết định tài chính của những nhà quản trị trong Tập đoàn
VNPT, nhà quản trị VNPT đánh giá hệ thống thông tin kinh tế là yếu tố then
chốt trong việc ra quyết định tài chính là do:
- Hệ thống thông tin kinh tế giúp nhà quản trị nắm được thông tin cơ cấu
bộ máy tổ chức của Tập đoàn VNPT trước đây không còn phù hợp, đến
giai đoạn này nó trở thành lực cản cho việc ra quyết định tài chính của
Tập đoàn. Dựa vào thông tin này nhà quản trị VNPT đã tiến hành xử lý
thông tin và đề ra phản ứng chiến lược thành công: Tập đoàn VNPT đã
tái cơ cấu lại bộ máy tổ chức theo hướng triển khai thực hiện tái cấu
trúc toàn bộ hoạt động theo hướng đầu tư riêng biệt từng mảng dịch vụ.
- Thông tin kinh tế về Viettel sớm nhanh chân ra biển lớn và ít nhiều gặt
hái thành công bước đầu đã buộc VNPT phải chuyển mình, thúc đẩy
123
nhà quản trị VNPT tiến hành tìm kiếm cơ hội đầu tư bên ngoài, khi thị
trường viễn thông ở Việt Nam đã trở bảo hòa.
- Tập đoàn VNPT là một nhà mạng lớn có thế mạnh về kỹ thuật, về
mạng lưới hơn hẵn so với các đối thủ khác trong cùng ngành ở thị
trường Việt Nam; thông tin quan trọng này đã hỗ trợ nhà quản trị Tập
đoàn Bưu chính – Viễn thông Việt Nam VNPT xây dựng chiến lược
đầu tư vốn theo hướng đi “hợp tác đầu tư” với các nhà mạng lớn tại các
quốc gia thông qua việc góp vốn …
- Thông tin về sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường viễn thông, tài
nguyên viễn thông có xu hướng cạn dần… làm cho việc đầu tư ra nước
ngoài của Tập đoàn VNPT ngày càng khó khăn và gặp nhiều thách
thức. Vì thế, để hạn chế rủi ro trong quyết định đầu tư, VNPT triển khai
đầu tư bằng hoạt động M&A (mua-bán sáp nhập doanh nghiệp) để
thâm nhập vào các thị trường phát triển.
Tóm lại: Thông tin kinh tế rất cần thiết cho Tập đoàn VNPT, nhờ hệ
thống thông tin kinh tế mà Tập đoàn đã xây dựng những chiến lược đầu tư
đúng đắn, phù hợp với thế mạnh riêng của Tập đoàn; mặt khác Tập đoàn
thường đối mặt với các rủi ro tài chính, vì thế hoàn thiện hệ thống thông tin
kinh tế đã hỗ trợ nhà quản trị tìm cách quản lý tài chính phù hợp, xây dựng
những giải pháp tài chính nhằm hạn chế những rủi ro trong đầu tư kịp thời;
nên một lần nữa có thể khẳng định: Hệ thống thông tin kinh tế rất cần thiết và
rất quan trọng cho Tập đoàn VNPT trong việc ra các quyết định tài chính.
2.2.2 Thực trạng về các yếu tố cấu thành hệ thống thông tin kinh tế của
Tập đoàn Bưu chính – Viễn thông Việt Nam VNPT nhằm phục vụ cho
việc ra quyết định tài chính
2.2.2.1 Thực trạng tổ chức cấu thành hệ thống thông tin kinh tế.
124
Để đánh giá thực trạng tổ chức cấu thành hệ thống thông tin, tác giả đánh
giá qua các mặt sau:
a. Thực trạng thu thập hệ thống thông tin:
Thực trạng cho thấy thông tin được thu thập từ các nguồn sau:
- Thông tin được thu thập từ nguồn thông tin chính thức bên ngoài, như:
khảo sát nhu cầu sử dụng dịch vụ của khách hàng, tốc độ tăng trưởng của Tập
đoàn, tốc độ tăng trưởng của đối thủ cạnh tranh …kết quả khảo sát nguồn
thông tin này là 92/92; kết quả này cho thấy thực tế nguồn thông tin từ bên
ngoài có tác động trực tiếp đến quyết định đầu tư của Tập đoàn, và lãnh đạo
Tập đoàn đã kịp thời thu thập xử lý thông tin nhằm đề ra phản ứng chiến lược
đầu tư phù hợp. Việc thu thập những thông tin bên ngoài này gặp nhiều khó
khăn, mất nhiều thời gian và có tính chính xác không cao; vì thế nhà quản trị
tài chính của Tập đoàn dựa vào những thông tin này nhằm phục vụ ra quyết
định tài chính chỉ mang tính chất tương đối.
- Thông tin được thu thập từ nguồn thông tin chính thức bên trong như
thông tin kế toán, thông tin nguồn nhân sự, thông tin về đầu tư trang bị kỹ
thuật…. kết quả khảo sát nguồn thông tin này là 92/92 nghĩa là mọi thông tin
được sử dụng trong Tập đoàn đều được lấy chính thức từ văn bản có tính pháp
lý cao nhất đó là báo cáo tài chính và các báo cáo khác; ngoài ra, việc thu thập
thông tin này rất thuận lợi, nhanh chóng; có tính chính xác, tin cậy và bảo mật
cao; những thông tin này thể hiện được lợi thế và thách thức về tài chính của
Tập đoàn; vì thế, những thông tin nội bộ này có tác dụng tích cực trong việc
hỗ trợ nhà quản trị ra quyết định tài chính đúng đắn, phù hợp, đảm bảo an
ninh về tài chính của Tập đoàn….
- Mặt khác, khi tiếp nhận nguồn thông tin, Tập đoàn VNPT đều có xử lý
thông tin trước khi đưa vào sử dụng. kết quả khảo sát: cả 92/92 phiếu đều
phản ánh có tiến hành xử lý thông tin kinh tế trước khi đưa vào sử dụng nhằm
125
ra quyết định tài chính, mục đích của việc xử lý nhằm: đảm bảo độ tin cậy,
đảm bảo sự cần thiết, đảm bảo tính kịp thời, đảm bảo sự phù hợp, đảm bảo độ
chính xác, đảm bảo tính đầy đủ, và cuối cùng là đảm bảo tính bảo mật để hỗ
trợ nhà quản trị ra quyết định tài chính được đúng đắn hơn.
- Trong thực tế, trước khi thông tin được cung cấp cho nhà quản trị thì
thông tin phải luôn được xử lý, vì việc xử lý thông tin kinh tế là việc tối cần
thiết nhằm loại bỏ những thông tin không đạt yêu cầu để giúp nhà quản trị tài
chính ra các quyết định tài chính được đúng đắn hơn; việc xử lý thông tin
thông qua việc phân loại thông tin nhằm mục đích:
Cung cấp thông tin kinh tế cho nhà quản trị cấp chiến lược: giúp
những nhà quản trị cấp chiến lược (cấp Tập đoàn) ra quyết định tài
chính dài hạn.
Cung cấp thông tin cho nhà quản trị cấp chiến thuật: giúp nhà quản
trị cấp thuật (cấp Giám đốc các Trung tâm Viễn thông tỉnh, thành)
đối phó với những vấn đề tài chính ngắn hạn và nắm bắt nhanh cơ
hội đầu tư. Cụ thể, loại thông tin này hỗ trợ cho Giám đốc các Trung
tâm Viễn thông tỉnh, thành triển khai việc thực hiện các kế hoạch tài
chính ngắn hạn.
Cung cấp thông tin cho nhà quản trị cấp tác nghiệp: giúp cho nhà
quản trị cấp tác nghiệp (trưởng chi nhánh quận, huyện, trưởng các
phòng, ban ở các tỉnh, thành phố trực thuộc VNPT) thực hiện triển
khai kế hoạch tài chính hàng ngày của họ.
Để cụ thể hóa, ta xem xét thực trạng thu thập hệ thống thông tin kinh tế
phục vụ cho việc ra quyết định tài chính ở các cấp quản lý của Tập đoàn Viễn
thông VNPT trong thực tế được thể hiện như sau:
Cấp chiến lược: Chủ yếu đưa ra các quyết định tài chính dài hạn:
Quyết định đầu tư:
126
Quyết định đầu tư mới: Sau khi tiếp nhận thông tin từ việc:
1.Viettel sớm nhanh chân ra biển lớn và ít nhiều gặt hái thành
công bước đầu, 2.Cước viễn thông của các nước trong khu vực
cao hơn ở Việt Nam, 3.Mạng lưới viễn thông của VNPT hiện
đại hơn mạng lưới ở một số quốc gia, 4.Nhu cầu thị trường viễn
thông ở một số nước vẫn còn cao, 5. VNPT là Tập đoàn viễn
thông lớn của Việt Nam có uy tín trong khu vực và trên thế
giới….Đây là những thông tin bên ngoài Tập đoàn, nên việc thu
thập thông tin phải mất nhiều thời gian, tuy nhiên đây là những
thông tin phổ biến nên không khó để thu thập và xử lý; ngoài ra
đây là những thông tin tin cậy, phù hợp, chính xác, kịp thời đã
tác động mạnh đến quyết định tài chính của VNPT, nó buộc
VNPT phải chuyển mình, tìm kiếm cơ hội đầu tư bên ngoài khi
thị trường Việt Nam đã trở nên quá chật cho VNPT. Đồng thời,
để hạn chế rủi ro của việc ra quyết định tài chính khi VNPT tiến
hành đầu tư ra nước ngoài, Tập đoàn VNPT đã căn cứ vào
những thông tin trên để dự báo diễn biến môi trường đầu tư, đó
là: 1. thế mạnh của VNPT là mạng lưới, internet và VoiP, 2.
Đầu tư ra nước ngoài của các tập đoàn viễn thông Việt Nam
ngày càng khó khăn và gặp nhiều thách thức, trở ngại khi tài
nguyên viễn thông có xu hướng cạn dần, 3. Việc mua lại giấy
phép đầu tư trở nên rất khó khăn, 4. Sức cạnh tranh ngày càng
gay gắt, các tập đoàn viễn thông Việt Nam đang phải cạnh tranh
đầu tư với nhiều nhà mạng viễn thông nổi tiếng thế giới như
Orange, Vodafone, Telefonica, SingTel với kinh nghiệm đầu tư
hơn nhiều lần… từ việc phân tích mặt mạnh, mặt yếu, cơ hội,
thách thức trong quyết định đầu tư từ những thông tin trên,
127
VNPT đã đề ra phản ứng chiến lược khi tiến hành đầu tư ra
nước ngoài đó là VNPT chọn hướng đi hợp tác đầu tư. Trong
thời kỳ đầu, VNPT sẽ không đi theo hướng đầu tư mạng lưới hạ
tầng như của Viettel mà chọn hướng hợp tác và đầu tư. Cụ thể,
Tập đoàn này sẽ hợp tác với nhà khai thác mạng lớn tại các
quốc gia thông qua việc góp vốn, công nghệ, dịch vụ.
Quyết định đầu tư ra nước ngoài chứng tỏ VNPT đã mạnh
dạn đổi mới tư duy, tạo dựng được thời cơ và môi trường đầu tư
thuận lợi để phát triển thị trường, mở rộng khả năng thâm nhập
nhập thị trường vốn, giúp cho VNPT huy động vốn được thuận
lợi hơn, đáp ứng được nhu cầu đầu tư của Tập đoàn.
Quyết định đầu tư mở rộng trong nội địa (đầu tư vào tài
sản cố định):
Thông tin kinh tế để nhà quản trị tài chính đưa ra quyết
định đầu tư mở rộng trong nội địa chủ yếu dựa vào thông tin
trong nội bộ Tập đoàn, thông tin này dễ thu thập, khả năng
chính xác cao, thời gian thu thập nhanh chóng, thông tin mang
tính phù hợp cao, giúp cho nhà quản trị tài chính của Tập đoàn
ra quyết định tài chính được đúng đắn hơn. Cụ thể, tài sản cố
định của Tập đoàn viễn thông chủ yếu là thiết bị nhà trạm, cáp
đồng; quyết định đầu tư vào nhà trạm của cấp chiến lược
thường căn cứ vào thông tin từ các phòng kỹ thuật thông qua
cấp tác nghiệp của các Trung tâm Viễn thông thành viên của
Tập đoàn báo cáo lên; phòng kỹ thuật của các Trung tâm Viễn
thông này có nhiệm vụ khảo sát trên địa bàn quản lý của họ về
nhu cầu sử dụng dịch vụ của khách hàng, khảo sát về vùng phủ
sóng có đáp ứng được yêu cầu sử dụng dịch vụ của khách hàng
128
hay không; từ đó, các phòng kỹ thuật của các Trung tâm Viễn
thông thành viên lập báo cáo nhu cầu đầu tư mở rộng mạng lưới
về Giám đốc Trung tâm (cần lắp đặt bao nhiêu nhà trạm, sử
dụng bao nhiêu cáp đồng, địa điểm lắp đặt, lý do lắp đặt,…) và
Giám đốc Trung tâm đề xuất lên nhà quản trị cấp chiến lược về
nhu cầu đầu tư thêm; nhà quản trị cấp chiến lược căn cứ vào báo
cáo của phòng kỹ thuật trình lên để làm căn cứ ra quyết định
đầu tư.
Ngoài ra, nhà quản trị cấp chiến lược còn căn cứ vào thông
tin về nhu cầu sử dụng dịch vụ của khách hàng để xác định việc
mở rộng hay thu hẹp vùng phủ sóng, từ đó xác định việc đầu tư
thêm TSCĐ hay gở bỏ TSCĐ không cần thiết. Dựa trên căn cứ
này, nhà quản trị cấp chiến lược lập kế hoạch xem mỗi năm cần
mở rộng mạng lưới bao nhiêu trạm và đưa các chỉ tiêu đầu tư
vào TSCĐ xuống cấp chiến thuật ở các Trung tâm Viễn thông
thành viên thực hiện, và kết quả đạt được là: trong những năm
vừa qua, dù bị cạnh tranh gay gắt, tình hình kinh tế nhiều biến
động, nhưng VNPT đã có bước tăng trưởng và phát triển nhanh
do các quyết định đầu tư đúng đắn từ những nhà quản trị tài
chính của Tập đoàn. Ðến nay, công nghệ viễn thông Việt Nam
được VNPT đầu tư đã đạt mức cao của khu vực và dẫn đầu về
tốc độ phát triển viễn thông – công nghệ thông tin trong nhiều
năm nay.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được,
thì việc thu thập thông tin để cung cấp cho nhà quản trị vẫn
chưa đầy đủ, chưa kịp thời, và thậm chí chưa phù hợp nên việc
ra quyết định tài chính của Tập đoàn còn nhiều bất cập, vì thế
129
việc đề ra phản ứng chiến lược đầu tư của nhà quản trị đã bị sai
lầm trong một số dự án đầu tư, dẫn đến việc Tập đoàn VNPT
trong những năm vừa qua tuy có tăng trưởng nhanh nhưng gây
thiệt hại về vốn. Cụ thể:
Thiết bị mua về không sử dụng hết, khai thác kém hiệu
quả, phải dừng đầu tư, gây lãng phí, thiệt hại về vốn như: dự
án cáp đồng còn tồn kho vật tư cáp các loại trị giá 36,497 tỷ
đồng;
Dự án đầu tư tuyến cáp quang biển trục Bắc – Nam gần
3.000 tỷ đồng bằng vốn vay ODA của Nhật Bản đã chậm
tiến độ gần 10 năm. Nguyên nhân chủ yếu là: khâu khảo sát,
thiết kế, lập dự toán, thẩm tra, phê duyệt thực hiện kéo dài
nhiều năm, làm ảnh hưởng tới hiệu quả của dự án và môi
trường đầu tư trong việc sử dụng nguồn vốn ODA.
Việc quyết định đầu tư dự án vệ tinh Vinasat I, II với tổng
mức đầu tư 9.280 tỷ đồng, tuy đạt được mục tiêu về chính
trị - xã hội, khẳng định chủ quyền của Quốc gia đối với
nguồn tài nguyên trên quỹ đạo vệ tinh, đảm bảo yêu cầu về
thông tin vệ tinh phục vụ an ninh, quốc phòng, phòng chống
thiên tai… nhưng đến thời điểm năm 2015 chưa đảm bảo
hiệu quả kinh doanh như kế hoạch trong dự án được phê
duyệt, lỗ vượt dự kiến 229 tỷ đồng.
Về quản lý đầu tư tài chính dài hạn tại các doanh nghiệp
ngoài VNPT: đến thời điểm 31/12/2015, VNPT đã đầu tư
góp vốn vào 86 doanh nghiệp (chủ yếu về viễn thông) với
tổng giá trị 5.584,22 tỷ đồng, trong đó: 38 doanh nghiệp thu
được 322 tỷ đồng lợi nhuận với tỷ suất bình quân 15,64%;
130
28 doanh nghiệp với giá trị đầu tư 196 tỷ đồng nhưng lợi
nhuận thu được thấp (tỷ suất bình quân chỉ đạt 3,16%) và 20
doanh nghiệp khác và quỹ với giá trị đầu tư 723,8 tỷ đồng
trong thời gian dài (từ 3 đến 5 năm) không thu được lợi
nhuận, gây lãng phí vốn đầu tư.
Tóm lại: Hệ thống thông tin kinh tế ở bên trong và bên ngoài Tập đoàn
được cung cấp cho nhà quản trị ra quyết định tài chính trong thời gian vừa
qua tuy không khó thu thập, thời gian thu thập nhanh, thông tin tương đối
chính xác, đầy đủ nhưng đôi khi vẫn chưa đảm bảo được tính kịp thời, làm
cho việc ra quyết định tài chính ở một số dự án bị sai lầm, dẫn đến thiệt hại
gây lãng phí vốn đầu tư của Tập đoàn. Điều này thể hiện hệ thống thông tin
kinh tế mà tập đoàn VNPT đã xây dựng và đã được sử dụng trong thời gian
vừa qua chưa được hoàn thiện, chưa đạt được yêu cầu của một thống thông tin
tốt (hệ thống thông tin tốt phải đảm bảo được các yêu cầu: chính xác, đầy đủ,
cần thiết, kịp thời, tin cậy, bảo mật), làm cho hiệu quả hoạt động đầu tư của
những năm vừa qua không cao so với tiềm lực hiện có của VNPT.
Quyết định huy động vốn:
Đối với nguồn vốn đầu tư nước ngoài
Thông tin kinh tế hỗ trợ cho nhà quản trị tài chính ra quyết định
huy động vốn nhằm tài trợ cho quyết định đầu tư quốc tế trong thời gian vừa
qua chủ yếu căn cứ vào những thông tin của quyết định đầu tư quốc tế, tức là
căn cứ vào những thông tin ở bên ngoài Tập đoàn; nhìn chung việc thu thập
những thông tin này cần nhiều thời gian, tuy nhiên đây là những thông tin phổ
biến nên không khó để thu thập và xử lý; ngoài ra đây là những thông tin tin
cậy, phù hợp, chính xác, kịp thời đã tác động mạnh đến quyết định huy động
vốn của VNPT, giúp nhà quản trị tài chính xây dựng chiến lược huy động
động vốn phù hợp nhằm giảm thiểu rủi ro trong việc tài trợ vốn đối với các
131
quyết định đầu tư ở nước ngoài. Cụ thể, giai đoạn đầu VNPT thực hiện chiến
lược đầu tư là hợp tác và đầu tư với các nước sở tại, mục tiêu của chiến lược
này là: Thứ nhất, giảm chi phí, giá thành và không thuê ngoài; Thứ hai, xây
dựng chiến lược đầu tư khác biệt; Thứ ba, nghiên cứu đối thủ cạnh tranh để
đưa ra quyết định đầu tư ứng dụng công nghệ hợp lý; Thứ tư, nắm bắt và hiểu
đúng thủ tục đầu tư ra nước ngoài và các cam kết quốc tế; những mục tiêu này
đã giúp Tập đoàn VNPT tiết kiệm được vốn đầu tư, cụ thể: hơn 50% nguồn
vốn đầu tư của VNPT vẫn là tận dụng nguồn vốn nước ngoài từ việc hợp tác,
phần góp vốn dưới 50% còn lại chủ yếu là vốn tự có, vay các khoản vay ưu
đãi, và nợ tiền các nhà cung cấp thiết bị.
Ưu điểm đối với nguồn vốn đầu tư nước ngoài :
- Khi tiến hành đầu tư nước ngoài, VNPT có thể tiếp cận được thị
trường vốn quốc tế với chi phí sử dụng vốn có thể thấp hơn các nguồn
vốn vay khác trong nước.
- Giảm xác suất phá sản nhờ giảm thiểu chi phí sử dụng vốn.
- Tận dụng các lợi thế về thuế không dành cho doanh nghiệp thuần
túy nội địa.
Nhược điểm đối với nguồn vốn đầu tư nước ngoài:
- Rủi ro gia tăng khi tỷ giá hối đối gia tăng, dẫn đến chi phí sử
dụng vốn cao, khả năng phá sản tăng cao.
- Rủi ro chính trị: khi đầu tư ra nước ngoài, công ty con của Tập
đoàn VNPT ở nước ngoài sẽ phải chịu một khả năng là chính phủ nước
chủ nhà có thể tịch biên tài sản do biến cố chính trị.
Đối với nguồn vốn đầu tư trong nước
Thông tin kinh tế nhằm hỗ trợ nhà quản trị tài chính tiến hành huy
động vốn nhằm tài trợ cho các quyết định đầu tư trong nước chủ yếu căn từ
những thông tin bên trong nội bộ Tập đoàn, đây là những thông tin dễ thu
132
thập, khả năng chính xác cao, thời gian thu thập nhanh chóng, thông tin mang
tính phù hợp cao, giúp cho nhà quản trị tài chính của Tập đoàn ra quyết định
huy động vốn được đúng đắn hơn. Cụ thể, Vốn kinh doanh của Tập đoàn
VNPT chủ yếu là vốn được cấp 100% từ ngân sách của nhà nước, nguồn vốn
này hoạt động tích lũy qua các năm đủ để đảm bảo cho quá trình hoạt động
sản xuất kinh doanh được thông suốt, vì thế Tập đoàn VNPT hầu như sử dụng
nợ vay không nhiều trên tổng vốn (nợ chiếm 25,3% so với tổng vốn). Tuy
nhiên, do nguồn vốn chủ sở hữu có hạn, nên việc cung cấp vốn đầu tư từ nhà
quản trị cấp chiến lược xuống cấp chiến thuật cũng bị hạn chế.
Như đã trình bày ở phần quyết định đầu tư, Trong thời gian vừa
qua, VNPT đã triển khai một số dự án đầu tư lớn, quá trình thực hiện có nhiều
dự án tăng tổng mức đầu tư; chậm tiến độ, trung bình thời gian chậm của mỗi
dự án là 8,7 tháng, dẫn đến tăng chi phí đầu tư, chậm quyết toán vốn đầu tư,
nhất là các dự án mua sắm thiết bị lớn làm giảm hiệu quả sử dụng vốn. Đồng
thời các sai phạm trong đầu tư mua sắm và đầu tư tài chính của Tập đoàn
VNPT do thông tin cung cấp bị sai lệch, làm giảm hiệu quả đồng vốn được sử
dụng, làm ảnh hưởng lớn đến uy tín của Tập đoàn VNPT trong việc huy động
vốn đối với người cho vay. Cụ thể: 1.Nhật Bản đã cho Tập đoàn VNPT vay
dưới hình thức ODA để đầu tư tuyến cáp quang Bắc – Nam gần 3.000 tỷ
đồng, nhưng Tập đoàn VNPT đã thực hiện đầu tư chậm tiến độ gần 10 năm,
kéo dài thời gian đầu tư của dự án (Đại Sứ Quán Nhật Bản đôn đốc VNPT
nhiều lần), làm ảnh hưởng lớn đến uy tín của VNPT trong việc huy động vốn
ODA của Nhật Bản ở giai đoạn sau này; 2.VNPT đầu tư lãng phí (đầu tư tài
chính, đầu tư cáp đồng…) làm lãng phí đến ngân sách vốn của nhà nước, ảnh
hưởng đến việc tài trợ vốn từ ngân sách nhà nước, hậu quả là ngân sách nhà
nước sẽ thắt chặt hơn về việc tài trợ vốn cho VNPT ở những năm về sau, và
điều này lại có tác dụng tiêu cực đến việc đầu tư phát triển của VNPT trong
133
tương lai; 3. Hiệu quả vốn đầu tư trong nước của Tập đoàn VNPT không cao,
cụ thể: chi phí SXKD tăng (VNPT đã chi khuyến mãi vượt thời gian quy định,
vượt giới hạn giá trị dịch vụ để thu hút tăng sản lượng), nhưng nguồn thu
không tăng, dẫn đến VNPT phải chịu thuế thu nhập tăng làm giảm hiệu quả
đầu tư của Tập đoàn.
Tóm lại: Hệ thống thông tin kinh tế được thu thập và cung cấp cho
nhà quản trị nhằm ra các quyết định tài chính của Tập đoàn VNPT trong
những năm vừa qua tuy có cần thiết, tin cậy, nhưng chưa chính xác, chưa đầy
đủ và chưa kịp thời làm cho việc ra quyết định đầu tư chưa được đúng đắn (có
một số dự án đầu tư lớn bị sai lầm), và một số dự án đầu tư bị đình trệ kéo
dài, điều này đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyết định huy động vốn của
Tập đoàn. Trong tương lai, Tập đoàn VNPT tiến hành thực hiện chiến lược
đầu tư nước ngoài, cũng như chiến lược mở rộng đầu tư trong nước, chắc
chắn nguồn vốn cần phải huy động nhiều hơn nữa để trang trải cho việc mở
rộng quy mô đầu tư, nhưng do bị ảnh hưởng sai lầm đầu tư và sai lầm sử dụng
vốn trong quá khứ, thì chắc chắn việc huy động vốn của VNPT sẽ gặp nhiều
khó khăn trong tương lai. Vì thế, Tập đoàn VNPT cần phải nhanh chóng hoàn
thiện hệ thống thông tin kinh tế để những thông tin kinh tế cung cấp cho nhà
quản trị được đầy đủ hơn, chính xác hơn, kịp thời hơn, và phù hợp hơn; từ đó
hệ thống thông tin kinh tế sẽ hỗ trợ nhà quản trị ra quyết định tài chính được
đúng đắn hơn.
Quyết định phân phối lợi nhuận: phân phối lợi nhuận sẽ tác động
đến lợi ích của các chủ thể trong Tập đoàn Viễn thông VNPT, nó có ảnh
hưởng lớn đến sự tồn vong và phát triển của Tập đoàn.
Tập đoàn Viễn thông VNPT có vốn đầu tư 100% là vốn của nhà nước, vì
thế việc phân phối lợi nhuận được tiến hành theo quy định của nhà nước.
Nghĩa là sau khi lập các quỹ, phần lợi nhuận còn lại sẽ phân phối cho các chủ
134
thể khác trong Tập đoàn theo một tỷ lệ % nhất định theo quy định của nhà
nước; vì thế, thông tin sử dụng trong quyết định phân phối lợi nhuận chủ yếu
dựa vào các văn bản của nhà nước về nguyên tắc chia lợi nhuận; đây là những
thông tin tin cậy, chính xác, kịp thời, và phù hợp vì thông tin này giúp nhà
quản trị phân chia lợi nhuận theo đúng nguyên tắc tài chính của loại hình
doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên, văn bản của nhà nước quy định về nguyên
tắc chia lợi nhuận thể hiện theo khung cứng, tính uyển chuyển áp dụng phân
chia lợi nhuận cho từng đối tượng thấp, đó là nhà quản trị chủ yếu dựa vào
thông tin hệ số lương để chia lợi nhuận; do đó, việc phân chia lợi nhuận vẫn
còn mang tính chất “cào bằng”. Vì thế, nhà quản trị tài chính dùng thông tin
này phục vụ cho ra quyết định phân phối lợi nhuận thì chưa thể hiện được tính
đầy đủ, chưa phù hợp (vì việc phân chia lợi nhuận theo thông tin này không
phản ánh đúng năng suất lao động của từng người), không khuyến khích
người lao động thể hiện hết vai trò của họ; và việc phân phối lợi nhuận căn cứ
chủ yếu theo hệ số lương, nên chưa cân đối được giữa khoản lợi nhuận được
chia với khoản lợi nhuận giữ lại dành để tái đầu tư, và có thể dẫn đến tình
trạng: khoản lợi nhuận được chia quá lớn so với khoản lợi nhuận giữ lại dành
để tái đầu tư, điều này sẽ ảnh hưởng đến quyết định huy động vốn, ảnh hưởng
đến quyết định đầu tư của Tập đoàn. Cụ thể, trong những năm vừa qua, ta
thấy chính sách phân phối lợi nhuận của Tập đoàn VNPT tuy có ổn định qua
các năm; nhưng chính sách phân phối lợi nhuận ở những năm sau luôn cao
hơn năm trước và luôn có chiều hướng tăng quá cao so với phần lợi nhuận giữ
lại để bổ sung vốn chủ sở hữu, cụ thể trong năm 2015, Tập đoàn VNPT thực
hiện chính sách chiến lược về phân phối lợi nhuận: dành phần lớn lợi nhuận
sau thuế để phân phối lợi nhuận cho các thành viên trong tập đoàn, chính vì
phần lợi nhuận sau thế được ưu tiên cho việc chia lợi nhuận mà không ưu tiên
cho việc tái đầu tư, nên phần lợi nhuận sau thuế dành để bổ sung vốn chủ sở
135
hữu trong năm 2015 rất nhỏ bé so với tổng lợi nhuận sau thuế mà Tập đoàn
VNPT đạt được, điều này sẽ làm cho Tập đoàn VNPT bị thiếu vốn đầu tư
trong tương lai.
2.2.2.2 Thực trạng hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế:
Như đã trình bày trong bảng khảo sát ở phần trên, kết quả đánh giá về
tính hoàn thiện của hệ thống thông tin kinh tế nhằm phục vụ ra quyết định tài
chính của Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông VNPT, có 14/92 phiếu khá đồng
ý, 52/92 phiếu đồng ý, và 19/92 phiếu hơi đồng ý về sự hoàn thiện của hệ
thống thông tin kinh tế, điều này chứng tỏ Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông
Việt Nam VNPT đã xây dựng hệ thống thông tin kinh tế nhưng chưa được
hoàn thiện tốt để ra các quyết định tài chính đúng đắn hơn. Để thấy được
nguyên nhân vì sao hệ thống thông tin kinh tế của Tập đoàn Bưu chính - Viễn
thông Việt Nam VNPT đã xây dựng nhưng chưa hoàn thiện tốt, ta xem xét sơ
đồ xây dựng hệ thống thông tin kinh tế của Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông
Việt Nam VNPT như sau:
Sơ đồ 2.2: Sơ đồ hệ thống thông tin kinh tế của Tập đoàn VNPT
thông
Nguồn thông tin bên trong (thông tin kế toán, thông tin nguồn nhân sự).
Nguồn tin bên ngoài (thông tin về nhu cầu thị trường sản phẩm, thông tin về dự báo thị phần của Tập đoàn…).
Xác định nguồn thông tin cần thiết cung cấp cho nhà quản trị cấp chiến lược.
CẤP CHIẾN LƯỢC: Nhà quản trị cấp chiến lược ra các quyết định: Quyết định đầu tư Quyết định huy động vốn Quyết định phân phối lợi nhuận
Phản hồi thông tin lên cấp chiến lược Lãnh đạo, triển khai 136
CẤP CHIẾN THUẬT
Căn cứ vào sơ đồ trên, ta thấy:
Hệ thống thông tin kinh tế cung cấp cho nhà quản trị cấp chiến lược
được thu thập chủ yếu từ nguồn thông tin chính thức bên ngoài,
như: thông tin về nhu cầu sử dụng dịch vụ viễn thông của khách
hàng, thị phần của Tập đoàn, tốc độ tăng trưởng của Tập đoàn so
với tốc độ tăng trưởng của đối thủ cạnh tranh… và thông tin chính
thức bên trong như thông tin kế toán...
Trước khi cung cấp thông tin cho nhà quản trị cấp chiến lược thì
những thông tin này đã được xử lý nhằm mục đích đảm bảo độ tin
cậy, đảm bảo sự cần thiết, đảm bảo tính kịp thời, đảm bảo sự phù
hợp, đảm bảo độ chính xác, đảm bảo tính đầy đủ, đảm bảo dễ sử
dụng và cuối cùng là đảm bảo được bảo mật.
Để phát huy tính hữu ích của thông tin, nhà quản trị cấp chiến lược
đã sử dụng kết hợp giữa các thông tin bên trong và các thông tin
bên ngoài Tập đoàn nhằm xây dựng kế hoạch ra các quyết định tài
137
chính, như: quyết định đầu tư, quyết định huy động vốn và quyết
định phân phối lợi nhuận. Các quyết định tài chính này được triển
khai xuống cấp chiến thuật, nhà quản trị cấp chiến thuật là người
lãnh đạo trực tiếp cấp tác nghiệp, vì thế họ có trách nhiệm triễn
khai các quyết định tài chính xuống cấp tác nghiệp thực hiện;
trong quá trình thực hiện các quyết định này, cấp tác nghiệp sẽ
phản hồi những thông tin thu nhận từ khách hàng (như thông tin về
trạm phát sóng thiếu hay thừa, giá cả sản phẩm so với đối thủ cạnh
tranh, quy trình làm việc tạo thuận lợi hay gây khó khăn cho khách
hàng…) lên cấp chiến thuật; cấp chiến thuật tiếp tục phản hồi
thông tin này lên cấp chiến lược, sau khi xử lý thông tin, nhà quản
trị cấp chiến lược kịp thời ra quyết định nhằm hỗ trợ cho cấp chiến
thuật và cấp tác nghiệp được thuận lợi trong việc thực hiện nhiệm
vụ được giao mà vẫn đảm bảo quy tắc tài chính của Tập đoàn.
Ưu điểm của hệ thống thông tin kinh tế của Tập đoàn: Mọi thông tin
được sử dụng trong tập đoàn đều được lấy chính thức từ sự chỉ đạo theo chiều
dọc từ trên xuống, vì thế các thông tin này đảm bảo tính thông suốt, đảm bảo
được độ tin cậy, đảm bảo sự cần thiết, đảm bảo sự phù hợp, đảm bảo độ chính
xác, đảm bảo tính đầy đủ, đảm bảo dễ sử dụng.
Nhược điểm: do thông tin được chỉ đạo từ cấp chiến lược xuống cấp
chiến thuật rồi mới xuống cấp tác nghiệp. Đồng thời, sau khi trải qua quá
trình thực hiện, cấp tác nghiệp mới phản hồi những vấn đề thu nhận lên cấp
chiến thuật và cấp chiến thuật phản hồi lên cấp chiến lược; quy trình tiếp nhận
thông tin phải trải qua nhiều nấc thang nên cần phải có một độ trễ thời gian
nhất định. Vì thế, thông tin cung cấp cho những nhà quản trị rất khó đảm bảo
tính kịp thời và khó đảm bảo tính chính xác và tính bảo mật (ví dụ như đầu tư
vào TSCĐ dưới dạng trạm phát sóng chỗ quá dày, chỗ quá thưa, không đảm
138
bảo chất lượng dịch vụ), điều này thể hiện tính hoàn thiện của hệ thống thông
tin kinh tế của Tập đoàn VNPT chưa cao.
2.2.2.2 Thực trạng về nội dung cấu thành hệ thống thông tin.
- Dù đã xây dựng hệ thống thông tin một cách cụ thể, và những thông tin
mà Tập đoàn này thu thập, sử dụng đã hoàn thiện thành một hệ thống, nhưng
hệ thống thông tin này vẫn chưa hoàn thiện tối ưu (vẫn còn có những thông
tin cung cấp không kịp thời xuống cấp chiến thuật và cấp tác nghiệp, như
thông tin đầu tư vào TSCĐ… ).
- Khi tiếp nhận thông tin, Tập đoàn Bưu chính – Viễn thông Việt Nam
VNPT đều có đánh giá thông tin để phân loại thành thông tin phù hợp và
thông tin không phù hợp; nhằm khẳng định mức độ phù hợp của thông tin để
ra quyết định được đúng đắn hơn. Ngoài việc tiếp nhận thông tin phù hợp từ
trong nội bộ Tập đoàn, Tập đoàn VNPT còn phải tiếp nhận thông tin từ nhiều
nguồn khác, nên Tập đoàn vẫn phải đánh giá thông tin trên nhiều khía cạnh
khác như đánh giá về mặt tin cậy, phù hợp, bảo mật, kịp thời…; cụ thể, nguồn
thông tin đưa vào sử dụng đã được thu thập từ nguồn thông tin bên ngoài và
nguồn thông tin bên trong nội bộ của Tập đoàn có đặc tính như thế nào? Để
trả lời câu hỏi này, ta tiến hành khảo sát thực trạng mức độ tin cậy của nguồn
thông tin bên ngoài và nguồn thông tin bên trong nội bộ của Tập đoàn.
1. Nguồn thông tin từ bên ngoài Tập đoàn được lấy dựa trên những
thông tin sau:
Căn cứ theo kết quả khảo sát đánh giá những thông tin kinh tế bên
ngoài tập đoàn như thông tin từ khảo sát nhu cầu sử dụng dịch vụ của khách
hàng, từ tìm hiểu về đối thủ cạnh tranh (trang 113 của Luận án), có 92/92
phiếu khảo sát đều đánh giá những thông tin đều có tác động rất mạnh đến
quyết định tài chính của Tập đoàn, cụ thể:
Thông tin khảo sát nhu cầu sử dụng dịch vụ của khách hàng
139
Việc khảo sát thông tin về nhu cầu sử dụng dịch vụ của khách hàng
được thực hiện tương đối thuận lợi do việc khảo sát được thực hiện giữa
những khách hàng của VNPT trực tiếp đến giao dịch với nhân viên giao dịch
của Tập đoàn, ngoài ra việc khảo sát còn được thực hiện giữa bộ phận chuyên
khảo sát của VNPT với những khách hàng tiềm năng bên ngoài của Tập đoàn,
vì thế những thông tin được thu thập này thể hiện được tính kịp thời, phù hợp
và có độ chính xác cao, tạo điều kiện thuận lợi cho Tập đoàn Bưu chính -
Viễn thông Việt Nam VNPT thu hút được khách hàng nhiều hơn do VNPT
ngày càng đáp ứng được nhu cầu của người sử dụng; cụ thể trong thời gian
vừa qua, chất lượng cung cấp dịch vụ của VNPT được khách hàng đánh giá
tốt, các công ty sản xuất kinh doanh (nhất là các công ty nước ngoài đầu tư tại
Việt Nam) vẫn ưa chuộng sử dụng dịch vụ viễn thông của VNPT hơn các đối
thủ cùng ngành vì VNPT có tính bảo mật cao; tính đến cuối năm 2013 thị
phần ngành viễn thông của Tập đoàn VNPT vẫn cao hơn đối thủ cạnh tranh,
thị trường đang được mở rộng, hay khả năng tiêu thụ sản phẩm trên thị trường
vẫn đang tăng cao. Tuy nhiên, qua năm 2014 và 2015 thị phần của VNPT bị
chia sẻ (do tách MobiFone ra khỏi VNPT) nên thị phần có chiều hướng thấp
hơn đối thủ cạnh tranh, tốc độ tăng trưởng của VNPT có xu hướng tăng chậm
hơn tốc độ tăng trưởng của đối thủ cùng ngành (Viettel).
Mặt dù tốc độ tăng trưởng của VNPT ở những năm gân đây tăng chậm
hơn đối thủ, nhưng nhu cầu thị trường tiêu thụ sản phẩm dịch vụ của VNPT
vẫn ngày càng tăng cao, điều này sẽ tác động mạnh đến chính sách đầu tư của
tập đoàn (như đầu tư tăng thêm TSCĐ dưới dạng nhà trạm để đảm bảo chất
lượng vùng phủ sóng). Khi chính sách đầu tư thay đổi theo hướng đầu tư tăng
lên sẽ dẫn đến vốn đầu tư tăng lên tương ứng là điều tất nhiên, kéo theo hiệu
quả đầu tư tăng lên và cuối cùng lợi nhuận được phân chia cho các chủ thể
trong Tập đoàn sẽ tăng tương ứng qua các năm.
140
Kết luận: việc khảo sát nhu cầu sử dụng dịch vụ của khách hàng hoàn
toàn dựa vào những thông tin được khảo sát trực tiếp từ khách hàng đang sử
dụng cũng như từ khách hàng chưa sử dụng dịch vụ viễn thông của Tập đoàn,
nên đây là những thông tin tin cậy, chính xác, phù hợp; những thông tin này
phản ánh đúng thực tế đã diễn ra về nhu cầu sử dụng dịch vụ của khách hàng
của Tập đoàn Bưu chính – Viễn thông Việt Nam VNPT, vì thế nó có tác dụng
giúp Tập đoàn định hướng đúng chiến lược đầu tư, chiến lược huy động vốn,
và chiến lược phân phối lợi nhuận cho hiện tại cũng như cho tương lai.
Thông tin tìm hiểu về đối thủ cạnh tranh cùng ngành:
Việc Tập đoàn VNPT tìm hiểu thông tin về đối thủ cạnh tranh cùng
ngành có phần không thuận lợi bằng việc tìm hiểu thông tin về nhu cầu sử
dụng dịch vụ của khách hàng, thậm chí việc khai thác được những thông tin
này vô cùng khó khăn vì đó là những “thông tin mật” của đối thủ, VNPT chỉ
có thể có được những thông tin về đối thủ do đối thủ báo cáo số liệu hàng
năm và được công bố rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng, hoặc
đó là những thông tin “lộ thiên” của đối thủ như thông tin về đầu tư vào
TSCĐ dưới hình thức đầu tư nhà trạm được hiển hiện ra bên ngoài nên Tập
đoàn VNPT dễ khảo sát do nhìn thấy được bằng mắt thường; vì thế, việc khảo
sát thông tin về đối thủ cạnh tranh cùng ngành để phục vụ cho việc ra quyết
định tài chính của Tập đoàn Bưu chính – Viễn thông Việt Nam VNPT vô
cùng khó khăn, và khi VNPT tiếp nhận được những thông tin của đối thủ thì
những thông tin này dễ trở thành thông tin lạc hậu, không phù hợp, không kịp
thời. Vì thế ở đây, để có được thông tin tốt từ đối thủ mà không sợ bị lạc hậu,
lỗi thời thì đó chủ yếu là thông tin về việc đầu tư vào TSCĐ dưới dạng đầu tư
vào nhà trạm của đối thủ (vì nhà trạm được đầu tư công khai ngoài trời nên
VNPT dễ thu thập thông tin); Thông tin này có tác dụng giúp nhà quản trị tài
chính đưa ra quyết định đầu tư phù hợp với nhu cầu sử dụng dịch vụ của
141
khách hàng hơn; cụ thể, trong thời gian vừa qua nhà quản trị các cấp của
VNPT xác định được vùng phủ sóng của VNPT mạnh hơn đối thủ cạnh tranh
ở các thành phố lớn, nên những khách hàng tiềm năng (thường là các doanh
nghiệp lớn đóng ở những thành phố lớn) và khách hàng lâu năm vẫn ưa
chuộng sử dụng dịch vụ viễn thông của VNPT hơn; trong khi đó, đối thủ cạnh
tranh chủ yếu đầu tư mạnh về TSCĐ (nhà trạm) ở nông thôn để thu hút khách
hàng nông thôn với triết lý kinh doanh “nông thôn bao vây thành thị”. Thông
tin từ đối thủ cạnh tranh này đã giúp nhà quản trị tài chính của VNPT đưa ra
chiến lược đối phó với triết lý kinh doanh của đối thủ: thứ nhất, tăng cường
đầu tư vào TSCĐ (nhà trạm) để tăng chất lượng thông thoại và mở rộng vùng
phủ sóng; thứ hai, căn cứ vào thông tin khảo sát loại thiết bị nhà trạm của đối
thủ được xây dựng là loại thiết bị nào để VNPT chọn lựa đầu tư thiết bị nhà
trạm thích hợp; ví dụ, nếu đối thủ đầu tư thiết bị nhà trạm thuộc công nghệ
cao thì đòi hỏi Tập đoàn VNPT cũng phải đầu tư vào thiết bị nhà trạm có tính
công nghệ cao để nâng cao tính cạnh tranh chất lượng vùng phủ sóng, vì chất
lượng vùng phủ sóng là điều kiện tiên quyết quyết định sự tồn vong của Tập
đoàn VNPT; thứ ba, rút kinh nghiệm từ việc đầu tư ra nước ngoài của đối thủ
để Tập đoàn VNPT xây dựng chiến lược đầu tư ra nước ngoài phù hợp với vị
thế và năng lực tài chính của Tập đoàn.
Nhìn chung, thông tin bên ngoài tập đoàn như khảo sát nhu cầu sử dụng
dịch vụ của khách hàng, thông tin khảo sát đối thủ cạnh tranh cùng ngành
(chủ yếu là thông tin về đầu tư TSCĐ dưới dạng nhà trạm) đều là những
thông tin tin cậy, phù hợp, kịp thời và đều có cơ sở khoa học để thu thập một
cách nhanh chóng, thuận lợi; những thông tin này sẽ giúp cho nhà quản lý
đánh giá được sức cạnh tranh sản phẩm của Tập đoàn so với các đối thủ cùng
ngành. Do đó, ta có thể nói những thông tin này là cơ sở quan trọng để nhà
142
quản trị xây dựng những quyết định tài chính mang tính chất chiến lược hợp
lý để thúc đẩy Tập đoàn ngày càng tăng trưởng và phát triển.
2. Nguồn thông tin từ bên trong Tập đoàn được lấy chủ yếu từ thông
tin giữa nhà quản lý cấp chiến lược với nhà quản lý cấp chiến thuật:
Nhà quản lý cấp chiến lược (cấp Tập đoàn) là người xây dựng kế hoạch
và phân bổ kế hoạch cho các Trung tâm Viễn thông thành viên của VNPT
(cấp chiến thuật) triển khai thực hiện, đây chính là thông tin nội bộ giữa nhà
quản lý cấp chiến lược với nhà quản lý cấp chiến thuật, những thông tin này
thể hiện được các đặc điểm của dạng thông tin tốt như thể hiện được tính đầy
đủ, tính tin cậy, tính phù hợp, tính chính xác … cụ thể như:
Thông tin về đầu tư vào TSCĐ: Việc chọn lựa đầu tư vào công
nghệ nào? Tại sao đầu tư vào công nghệ đó? Là những câu hỏi cần
phải đặt ra để nhà quản trị cấp chiến lược lựa chọn giải pháp đầu tư
tối ưu nhất; để đưa ra quyết định này có căn cứ khoa học, nhà quản
trị cấp chiến lược thường căn cứ vào các thông tin sau:
Thông tin từ đề nghị đầu tư của cấp chiến thuật trình lên.
Thông tin vào tình hình vốn đầu tư của Tập đoàn để nhà
quản trị cấp chiến lược chọn lựa công nghệ hiện đại phù hợp mà
không thua kém chất lượng công nghệ đầu tư với đối thủ cùng
ngành.
Kết hợp các thông tin trên, nhà quản trị cấp chiến lược lập kế
hoạch chọn lựa đầu tư TSCĐ và phân bổ đầu tư TSCĐ (số lượng,
chủng loại, quy cách…) xuống cấp chiến thuật thực hiện.
Vậy, thông tin kinh tế nhằm hỗ trợ cho nhà quản trị cấp chiến
lược ra quyết định đầu tư vào TSCĐ chủ yếu là căn cứ vào thông
tin bên trong (dựa theo nhu cầu đầu tư, dựa theo tình hình nguồn
vốn) của Tập đoàn.
143
-Ưu điểm: Nhà quản trị cấp chiến lược dựa vào thông tin nội
bộ này để ra quyết định đầu tư vào TSCĐ, nên đây là những thông
tin tin cậy, chính xác, kịp thời, và đầy đủ; những thông tin này sẽ
giúp nhà quản trị cấp chiến thuật thực hiện đúng kế hoạch đầu tư từ
cấp chiến lược đưa xuống, thông tin nội bộ trên giúp nhà quản trị
cấp chiến lược thuận tiện trong việc chọn lựa đầu tư vào máy móc
thiết bị hiện đại ngang tầm với đối thủ góp phần nâng cao sức cạnh
tranh của Tập đoàn.
- Nhược điểm: việc chạy đua cạnh tranh vào chất lượng thiết bị
đầu tư có thể dẫn đến Tập đoàn sử dụng đòn bẩy kinh doanh không
hiệu quả, ảnh hưởng đến lợi nhuận của Tập đoàn.
Thông tin về huy động vốn: Nguồn vốn được xem như là mạch
máu của Tập đoàn, nó quyết định sự sống còn của Tập đoàn, nếu
Tập đoàn huy động nguồn vốn hợp lý có chi phí sử dụng vốn thấp,
thì hiệu quả sử dụng vốn của Tập đoàn sẽ cao, và ngược lại. Như đã
trình bày ở phần trên, vốn hoạt động của các Trung tâm Viễn thông
thành viên thuộc Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông Việt Nam
VNPT (cấp chiến thuật) chủ yếu được tài trợ theo sự chỉ đạo của
cấp chiến lược.
Thông tin ra quyết định huy động vốn ở cấp chiến lược chủ
yếu sử dụng thông tin từ nội bộ, cụ thể là thông tin từ cấp chiến
thuật trình lên nhằm đáp ứng nhu cầu mở rộng đầu tư; vì thế, sau
khi nhà quản trị cấp chiến lược thu thập thông tin về huy động vốn,
kết hợp với việc dự báo diễn biến tình hình tài chính của Tập đoàn,
nhà quản trị tài chính Tập đoàn VNPT đã tiến hành phân tích những
thông tin về tình hình huy động vốn, và đề ra phản ứng chiến lược
về huy động vốn. Cụ thể, căn cứ vào thông tin nội bộ, tình hình huy
144
động vốn ở cấp chiến lược của Tập đoàn VNPT của những năm vừa
qua được thực hiện như sau: 1. Tìm kiếm cơ hội đầu tư vốn phù
hợp; 2. Xây dựng kế hoạch huy động vốn; 3. Chuẩn bị kế hoạch
huy động vốn cho việc mở rộng đầu tư; 4. Quản lý nguồn vốn linh
hoạt kịp thời, kiện toàn bộ máy tài chính – kế toán; 5. Xây dựng
phương án thoái vốn nhanh, hiệu quả (khi có). Kết quả thực hiện
của những chiến lược này đã giúp nâng cao giá trị Tập đoàn của
những năm vừa qua được tăng lên đáng kể.
- Ưu điểm của việc sử dụng thông tin nội bộ để ra quyết định huy
động vốn: do thông tin nội bộ là những thông tin tin cậy, chính xác,
kịp thời, đầy đủ và phù hợp, nên việc huy động vốn đều được thống
nhất thực hiện theo đúng kế hoạch từ trên xuống dưới, điều này sẽ
giúp cho việc quản lý vốn ở các cấp quản trị sẽ dễ dàng và thuận lợi
hơn.
- Nhược điểm của việc sử dụng thông tin nội bộ để ra quyết định
huy động vốn: Do thông tin nội bộ thể hiện ý chí chủ quan của nhà
quản trị, vì thế thường bị lợi ích nhóm tác động; nên việc căn cứ
vào những thông tin này để ra quyết định huy động vốn thường
không khách quan dẫn đến chi phí sử dụng vốn tăng cao, hoặc rủi
ro tài chính tăng cao do sử dụng nợ vay nhiều; thực vậy, trong
những năm vừa qua, nguồn vốn chủ sở hữu ở tập đoàn có hạn, và
do lợi nhuận giữ lại của những năm qua quá thấp so với phần lợi
nhuận đạt được, nên nguồn vốn hiện tại tăng không đáng kể so với
nhu cầu đầu tư tăng lên (đầu tư trong nước và đầu tư quốc tế); vì thế
trong tương lai, Tập đoàn VNPT sẽ phải tiến hành huy động vốn
thông qua tăng cường sử dụng nợ vay để đáp ứng nhu cầu mở rộng
145
đầu tư của Tập đoàn; việc làm này sẽ dẫn đến rủi ro tài chính của
Tập đoàn tăng lên vào những năm tới.
Thông tin về phân phối lợi nhuận:
Cấp chiến lược ra quyết định phân phối lợi nhuận cho cấp
chiến thuật dựa trên thông tin về hiệu quả đầu tư do cấp chiến thuật
báo cáo; đây là thông tin nội bộ nên mang tính chính xác cao, thể
hiện được tính kịp thời và tương đối phù hợp.
Phân phối lợi nhuận dựa vào thông tin nội bộ thể hiện được
tính thống nhất trong toàn thể Tập đoàn VNPT; tuy nhiên, khi nhà
quản trị sử dụng thông tin này thì vẫn chưa thể hiện hết tính đầy đủ,
làm cho nhà quản trị khó đưa ra quyết định phân phối lợi nhuận phù
hợp, vì thông tin này vẫn chưa phản ánh đúng năng suất làm việc
của từng thành viên trong Tập đoàn.
2.2.2.3 Thực trạng về phương thức cấu thành thông tin
Về thời gian tiếp nhận thông tin: Thời gian tiếp nhận thông tin
kinh tế quyết định đến chất lượng thông tin được tiếp nhận; nếu thông tin đến
rất sớm không đầy đủ sẽ dễ làm cho nhà quản lý ra quyết định vội vàng,
không phù hợp; nếu thông tin đến quá trễ (cho dù đầy đủ) sẽ dễ trở thành
thông tin lạc hậu, không kịp thời cho việc hỗ trợ ra các quyết định tài chính.
Vậy, thời gian tiếp nhận thông tin phải đủ sớm và đầy đủ, hay nói cách khác
phải đúng lúc thì thông tin này mới có giá trị, vì thông tin đến sớm hay muộn
nó sẽ quyết định thành công hay thất bại của Tập đoàn. Qua khảo sát thực tiễn
cho tác giả thấy thời gian tiếp nhận thông tin của Tập đoàn Bưu chính - Viễn
thông VNPT được đánh giá như sau: 20/92 phiếu đánh giá thời gian tiếp nhận
thông tin rất đúng lúc, 10/92 phiếu đánh giá thời gian tiếp nhận thông tin khá
đúng lúc, và 62/92 phiếu đánh giá thời gian tiếp nhận thông tin đúng lúc.
146
Căn cứ vào kết quả khảo sát trên, tác giả thấy thời gian tiếp nhận thông
tin chủ yếu là đúng lúc, đây là nhận định rất tốt về hệ thống thông tin kinh tế
của Tập đoàn. Thực vậy, nếu thông tin đến rất sớm hoặc khá sớm thường là
thông tin không đầy đủ, nếu là thông tin đầy đủ nhưng nhà quản trị không
nắm bắt nhanh cơ hội để ra quyết định tài chính kịp thời thì dù thông tin đến
sớm vẫn không phát huy được giá trị; nếu như thông tin đến trễ thường là
những thông tin lạc hậu, giá trị thông tin không cao; vì thế, thông tin đến đúng
lúc là những thông tin phù hợp, nó giúp các nhà quản trị đưa ra được những
quyết định tài chính đúng đắn, kịp thời.
Ví dụ về việc Tập đoàn VNPT tiếp nhận thông tin quá sớm, nhưng ra
quyết định tài chính quá trễ: Trước khi MobiFone tách khỏi Tập đoàn VNPT
(2014), VNPT dự định cổ phần hóa MobiFone; thông tin này lần đầu tiên
được đề cập đã 12 năm trôi qua; quyết định đầu tiên mang số 591/QĐ-
BBCVT ngày 30/5/2005 về việc cổ phần hóa MobiFone sau đó là quyết định
số 884/QD-BBCVT ngày 11/8/2005 về thành lập ban chỉ đạo việc cổ phần
hóa. Có thể nói, dù vẫn luôn thể hiện "quyết tâm" cổ phần hóa MobiFone,
nhưng thực tế VNPT đã có rất nhiều động thái trì hoãn thông qua hàng loạt
các đề án tái cơ cấu, cổ phần hóa mang những nội dung khác nhau và các
phương án gây tranh cãi; việc chậm trễ cổ phần hóa này dẫn đến VNPT đã bỏ
lỡ cơ hội chiếm đa số cổ phần kiểm soát vào năm 2000; nếu nhà quản trị của
tập đoàn VNPT ra quyết định cổ phần hóa sớm MobiFone, VNPT chẳng
những sẽ tập trung được nguồn vốn cho VNPT nói chung, mà còn tập trung
được nguồn vốn để mở rộng đầu tư cho VinaPhone để VinaPhone có thể bật
Thông tin được cung cấp để phục vụ xây dựng các chính sách tài
lên mang lại lợi ích nhiều mặt, điều này sẽ có lợi cho VNPT và cho cả xã hội.
chính: Qua kết quả khảo sát những thông tin kinh tế như: thông tin kế toán,
thông tin tăng trưởng kinh tế, thông tin nhu cầu sản phẩm, thông tin thị phần
147
Tập đoàn, thông tin đầu tư dài hạn vào tài sản cố định, thông tin huy động vốn
ngắn – trung và dài hạn,…được cung cấp cho các nhà quản trị ra các quyết
định tài chính có 92/92 phiếu được đánh giá là rất phù hợp, vì những thông tin
này giúp nhà quản trị ra các quyết định tài chính hợp lý. Ví dụ như việc tách
đầu tư Bưu chính ra khỏi Viễn thông (do tính chất ngành nghề khác nhau, quy
trình công nghệ, tổ chức quản lý và sản xuất khác nhau, Bưu chính đảm
nhiệm nhiệm vụ công ích về phổ cập dịch vụ bưu chính cho xã hội, nên hiệu
quả hoạt động của Bưu chính rất thấp, trở thành gánh nặng cho ngành Viễn
thông, làm cản trở năng lực cạnh tranh, hạn chế việc đáp ứng yêu cầu phát
triển của ngành viễn thông).
“Việc tách đầu tư VNPost ra khỏi cơ cấu tổ chức của Tập đoàn VNPT là
phù hợp với xu thế phát triển và thực tiễn của Bưu chính các nước trên thế
giới”.[18] việc tách đầu tư VNPost hoạt động độc lập hoàn toàn với Tập đoàn
VNPT sẽ tạo điều kiện tốt cho cả 2 doanh nghiệp cùng phát triển. Cụ thể: sau
khi tách khỏi VNPost, Tập đoàn VNPT tập trung năng lực tài chính đầu tư
mạnh về cơ sở hạ tầng (như đầu tư về máy móc thiết bị, xây dựng thêm nhà
trạm) để mở rộng vùng phủ sóng,...nâng cao năng lực cạnh tranh, tăng thị
phần, thúc đẩy tăng doanh thu cho những năm tới.
Tiến độ thực hiện các chính sách tài chính: Sau khi tiếp nhận
thông tin, nhà quản trị đã kịp thời sử dụng các thông tin này để đưa ra các
quyết định tài chính phù hợp. Kết quả khảo sát về tiến độ thực hiện các quyết
định tài chính như sau: 8/92 phiếu khảo sát đánh giá tiến độ ra quyết định rất
kịp thời, 20/92 phiếu đánh giá tiến độ ra quyết định khá kịp thời, 48/92 phiếu
đánh giá tiến độ ra quyết định kịp thời, 11/92 phiếu khảo sát đánh giá tiến độ
ra quyết định hơi kịp thời, và 5/92 phiếu khảo sát đánh giá tiến độ ra quyết
định không kịp thời.
148
Căn cứ vào kết quả khảo sát trên, ta thấy Tập đoàn VNPT chủ yếu đều
xử lý kịp thời các thông tin kinh tế, kỹ thuật (như khảo sát nhu cầu thị trường
của sản phẩm để xây dựng chiến lược đầu tư tăng thêm nhà trạm trong nội bộ
quốc gia, hay mở rộng đầu tư ra nước ngoài) để ra các quyết định tài chính
phù hợp tiến độ thực hiện.
Ví dụ: khách hàng sử dụng dịch vụ viễn thông hiện nay có xu hướng
chuyển sang sử dụng dịch vụ Internet cáp quang do tốc độ cao và có nhiều
tiện ích kèm theo, vì thế dịch vụ điện thoại cố định suy giảm nhanh chóng,
nhà quản trị Tập đoàn Bưu chính – Viễn thông Việt Nam VNPT kịp thời
nhận được thông tin này và đánh giá đây là thông tin phù hợp, vì thế nhà
quản trị đã triển khai nhiều giải pháp đầu tư phù hợp với sự thay đổi theo xu
hướng này, cụ thể như: đầu tư mạnh dịch vụ di động và chặn đà suy giảm dịch
vụ điện thoại cố định; mặt khác Tập đoàn Bưu chính – Viễn thông Việt Nam
VNPT còn tổ chức thực hiện cơ chế phân phối lợi nhuận theo năng suất làm
việc. Kết quả cho thấy hiệu quả của các giải pháp tài chính: đầu tư phù hợp
với sự thay đổi theo xu hướng, phân phối lợi nhuận theo năng suất làm việc
đưa ra đúng lúc, phù hợp thúc đẩy hiệu quả đầu tư của Tập đoàn tăng lên
đáng kể.
Tuy nhiên, có 11/92 phiếu khảo sát đánh giá tiến độ ra quyết định tài chính
là hơi kịp thời, và 5/92 phiếu khảo sát đánh giá tiến độ ra quyết định tài chính
là không kịp thời. Thật vậy, trong những năm vừa qua, Tập đoàn VNPT hoạt
động trong môi trường cạnh tranh khốc liệt, thông tin bùng nổ đa chiều, hệ
thống thông tin kinh tế phục vụ ra quyết định tài chính của VNPT có phần
không kịp thời đã ảnh hưởng rất lớn đến khả năng cạnh tranh chiếm lĩnh thị
phần của Tập đoàn, ảnh hưởng lớn đến hiệu quả đầu tư của Tập đoàn, làm cho
sức phát triển của VNPT chưa tương xứng với tiềm năng của VNPT hiện có.
Cụ thể:
149
VNPT đưa ra quyết định đầu tư chưa kịp thời đối với nhu cầu đầu tư
trong nước:
Thực tế trong những năm qua, Các quyết định đầu tư TSCĐ (nhà trạm)
của Tập đoàn VNPT được triển khai từ cấp chiến lược xuống cấp chiến
thuật, rồi đến cấp tác nghiệp thực hiện; trong quá trình thực hiện quyết
định này, cấp tác nghiệp sẽ thu nhận những thông tin từ khách hàng (như
thông tin đầu tư về trạm phát sóng thiếu hay thừa, ảnh hưởng như thế
nào đến chất lượng dịch vụ cung ứng cho khách hàng…) và phản ánh
những thông tin này lên cấp chiến thuật; cấp chiến thuật tiếp tục phản
hồi thông tin này lên cấp chiến lược. Sau khi xử lý thông tin, nhà quản trị
cấp chiến lược xây dựng kế hoạch đầu tư và phân bổ kế hoạch đầu tư
xuống cấp chiến thuật - kế hoạch này thường được thực hiện vào năm
sau. Chính vì quy trình lên kế hoạch đầu tư lòng vòng, mất thời gian nên
thông tin từ cấp chiến lược xuống đến cấp tác nghiệp có thể không còn
kịp thời.
VNPT đưa ra quyết định đầu tư chưa kịp thời đối với nhu cầu đầu tư
quốc tế:
Thời gian vừa qua đã minh chứng: Tập đoàn VNPT ra quyết định
đầu tư quốc tế chậm hơn Viettel một bước, vì thế những thị trường quốc
tế dễ tiếp cận đầu tư đã bị Viettel chiếm thị phần, làm cho việc tìm kiếm
thị trường nước ngoài của Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông Việt Nam
VNPT gặp nhiều khó khăn hơn; song nếu muốn trở thành Tập đoàn lớn
mạnh, thì VNPT không thể chỉ khai thác ở thị trường trong nước, mà
phải đi tìm kiếm thị trường mới, điều đó có nghĩa là VNPT sẽ có những
cuộc cạnh tranh đầy gay gắt giữa các nhà mạng Việt Nam trên thị trường
thế giới; hậu quả của vấn đề này là do VNPT chưa chú trọng tìm hiểu
thông tin về thị trường quốc tế, đến khi VNPT tiếp nhận những thông tin
150
này để phân tích và ra quyết định đầu tư ra nước ngoài thì đã quá chậm
trễ, không kịp thời, làm cho hiệu quả hoạt động của VNPT chưa tương
xứng với tiềm năng VNPT hiện có.
Tóm lại: Về thời gian tiếp nhận thông tin, nội dung thông tin được cung
cấp cũng như tiến độ sử dụng thông tin được tiếp nhận để phục vụ cho việc ra
các quyết định tài chính đối với các nhà quản trị tài chính của Tập đoàn chủ
yếu được đánh giá: đúng lúc, phù hợp. Điều này, chứng tỏ năng lực quản lý
của những nhà quản trị Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông Việt Nam VNPT
được đánh giá cao, biểu hiện hiệu quả hoạt động các năm vừa qua ngày càng
tăng, thu nhập của người lao động ngày càng được đáp ứng, hội tụ được
những người lao động có trình độ chuyên môn cao, uy tín của Tập đoàn Bưu
chính - Viễn thông Việt Nam VNPT ngày càng được khẳng định trên thị
trường, xứng đáng là cánh chim đầu đàn của ngành Viễn thông Việt Nam,
cũng như mục tiêu của Tập đoàn VNPT là sẽ trở thành 1 trong 10 hãng viễn
thông lớn nhất trên toàn cầu.
Tuy nhiên, tính kịp thời của hệ thống thông tin kinh tế chưa được đánh
giá cao, làm chậm trễ đến các quyết định đầu tư trong nước cũng như đầu tư
quốc tế, tạo nên một sức ép cạnh tranh ngày càng lớn cho Tập đoàn VNPT;
Tập đoàn VNPT từ vị trí dẫn đầu thị trường viễn thông trong nước trở thành
người đứng vị trí thứ hai sau Tập đoàn Viễn thông Viettel hiện nay. Mục tiêu
của Tập đoàn VNPT trong thời gian tới là phải giữ vững thị phần, rút ngắn
khoảng cách với đối thủ chính Viettel, để giữ vững thị phần thì tính kịp thời
của hệ thống thông tin cần phải được chú trọng hơn. Trong thời gian vừa qua,
những quyết định tài chính quan trọng (như quyết định đầu tư trong nước và
đầu tư quốc tế), nhà quản trị đã không ra quyết định tài chính kịp thời, làm
cho năng lực hoạt động của VNPT chưa tương xứng với tiềm năng của VNPT
hiện có. Vì thế, để năng lực hoạt động hiện tại tương xứng với tiềm năng, Tập
151
đoàn VNPT cần chú trọng hơn nữa về tính kịp thời của hệ thống thông tin
kinh tế để ra quyết định tài chính đúng đắn nhằm đem lại hiệu quả hoạt động
cao nhất cho Tập đoàn VNPT.
2.2.2.4 Thực trạng về công cụ cấu thành hệ thống thông tin.
Thực trạng phương tiện hỗ trợ cấu thành HTTT
Con người:
Để tồn tại và phát triển trong thế giới cạnh tranh ngày càng gay gắt,
mỗi tổ chức phải thường xuyên cải tiến hiệu quả kinh doanh của mình thể
hiện qua kết quả hoàn thành công việc của từng cá nhân và toàn tổ chức –
Nguồn nhân lực - đó chính là chìa khoá để đạt được lợi thế cạnh tranh trên thị
trường. Những năm vừa qua Tập đoàn VNPT có nguồn nhân lực dồi dào,
trình độ học vấn cao ( 253 tiến sĩ, 1878 Thạc sĩ, 22.146 Cử nhân Đại học,
5.283 Cử nhân Cao đẳng, 6.440 có trình độ khác), và tuổi đời chủ yếu từ 31 -
40 (chiếm 43,76%); với nguồn nhân lực có tuổi đời và trình độ cao như thế
nên hệ thống thông tin kinh tế của những năm qua ở Tập đoàn VNPT đã được
tổ chức thu thập, cung cấp một cách chuyên nghiệp, bài bản nhằm phục vụ ra
quyết định tài chính, giúp cho nhà quản trị ra quyết định tài chính được đúng
đắn hơn, cụ thể:
Bộ phận nhân sự phụ trách khâu thu thập thông tin: nhiệm vụ chính của
bộ phần này là tiến hành thu thập thông tin, phân loại thông tin thành:
-Thông tin quá khứ, thông tin hiện tại, và thông tin tương lai.
-Thông tin vi mô và thông tin vĩ mô.
-Thông tin bên trong và thông tin bên ngoài tập đoàn.
Bộ phận nhân sự phụ trách khâu xử lý thông tin: tiến hành xử lý những
thông tin đã được thu thập và phân loại nhằm loại bỏ những thông tin
không tin cậy, không phù hợp, không chính xác, không kịp thời để
152
chọn ra những thông tin tốt phục vụ cho việc ra quyết định tài chính
được đúng đắn hơn.
Bộ phận nhân sự phụ trách khâu phân tích và đánh giá thông tin: sau
khi thông tin được xử lý thì bộ phận nhân sự phụ trách khâu phân tích
và đánh giá thông tin tiến hành dự báo diễn biến của môi trường kinh
doanh để phân tích mặt mạnh, yếu, cơ hội, thách thức của tập đoàn.
Để thực hiện được những vấn đề trên, đòi hỏi những bộ phận nhân sự
này phải có trình độ chuyên môn cao, nhanh nhạy trong việc nắm bắt,
xử lý, phân tích và đánh giá thông tin để thông tin khi được cung cấp
cho nhà quản trị phải đảm bảo được tính tin cậy, chính xác, đầy đủ, kịp
thời, và phù hợp.
Những nhà quản trị tài chính: sau khi tiếp nhận những thông tin đã
được xử lý cùng với những mặt mạnh, yếu, cơ hội, thách thức của tập
đoàn, nhà quản trị tài chính tiến hành đề ra phản ứng chiến lược và lựa
chọn quyết định tài chính tối ưu đem lại khả năng tối đa hóa giá trị cho
tập đoàn.
Từ thực trạng trên, cho thấy trong thời gian qua nguồn nhân sự của tập
đoàn VNPT có vai trò tiên quyết trong sự thành công hay thất bại của Tập
đoàn, Tập đoàn VNPT đã có được nguồn nhân sự giỏi, năng động, nhiệt tình
nên việc thu thập, xử lý, đánh giá thông tin được chính xác hơn, bộ phận nhân
sự này đã cung cấp cho nhà quản trị tài chính được những thông tin tốt, giúp
nhà quản trị tài chính thuận lợi trong việc lựa chọn quyết định đưa lại khả
năng tối đa hóa sinh lời đồng thời tối thiểu hóa rủi ro cho chủ sở hữu tập
đoàn, vì thế mà Tập đoàn đã ra được quyết định tài chính được đúng đắn giúp
Tập đoàn tăng trưởng và phát triển ở những năm vừa qua.
Máy vi tính: Qua kết quả khảo sát có 92/92 phiếu đánh giá máy vi
tính của Tập đoàn Bưu chính – Viễn thông VNPT phục vụ cho nhà quản trị sử
153
dụng hệ thống thông tin kinh tế nhằm ra các quyết định tài chính có tính chất
hiện đại. Thật vậy, ngành viễn thông là ngành công nghệ điện tử, nên máy vi
tính được trang bị trong Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông Việt Nam VNPT
được xếp vào dạng hiện đại, dễ sử dụng, truyền đạt thông tin nhanh và có tính
bảo mật cao, đáp ứng được nhu cầu cần thiết phục vụ cho chuyên môn của tất
cả các thành viên trong Tập đoàn; với tính năng công nghệ cao, các máy vi
tính này giúp cho nhà quản trị ra các quyết định tài chính và triễn khai thực
hiện các quyết định này được thông suốt từ trên xuống dưới, và ngược lại, hệ
thống máy vi tính luôn đảm bảo thông tin thông suốt, hỗ trợ tích cực cho việc
phản hồi kịp thời thông tin về hiệu quả của các quyết định tài chính, nhằm
giúp cho nhà quản trị điều chỉnh các quyết định tài chính kịp thời, thực hiện
các mục tiêu của nhà quản trị tài chính một cách hiệu quả nhằm nâng cao hiệu
quả hoạt động của Tập đoàn.
Phần mềm: Phần mềm hỗ trợ nghiệp vụ ngành viễn thông thường
xuyên được nâng cấp để đảm bảo tính truy cập nhanh, ổn định và bảo mật,
phù hợp, dễ sử dụng tương thích với trình độ nhân sự của Tập đoàn. Phần
mềm chủ yếu được triển khai sử dụng trong tập đoàn VNPT chủ yếu là hệ
thống phân tích dữ liệu Big Data có các đặc trưng: xử lý Tập dữ liệu khổng lồ,
tốc độ phát sinh dữ liệu nhanh, thông tin dữ liệu đa dạng, Big Data được dùng
làm cơ sở để xây dựng hệ thống thông tin của Tập đoàn, Big Data tích hợp cả
hai hệ thống: tài chính, và kế toán.
Kết quả khảo sát về tính tương thích, phù hợp của phần mềm được sử
dụng trong Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông VNPT như sau: 11/92 phiếu
khảo sát đánh giá phần mềm rất phù hợp với trình độ nguồn nhân sự trong
Tập đoàn, 13/92 phiếu đánh giá khá phù hợp, 52/92 phiếu đánh giá phù hợp,
9/92 phiếu đánh giá hơi phù hợp, và 7/92 phiếu đánh giá không phù hợp.
154
Kết quả khảo sát cho thấy hầu hết phần mềm của máy tính ứng dụng
trong ngành viễn thông có tính phù hợp cao, vì phần lớn phần mềm đều có
giao diện dể sử dụng, cập nhật dữ liệu linh hoạt, hệ thống báo cáo đa dạng,
đáp ứng nhiều nhu cầu quản lý của Tập đoàn. Đặc biệt, phần mềm cho phép
tạo nhiều cơ sở dữ liệu, có tính năng hỗ trợ chuyên môn cao, khả năng bảo
mật lớn, đáp ứng tốt nhu cầu thông tin liên lạc, đảm bảo thông tin thông suốt
… làm tăng khả năng cạnh tranh của Tập đoàn. Tuy nhiên, có 9/92 phiếu
khảo sát đánh giá phần mềm hơi phù hợp, và 7/92 phiếu đánh giá không phù
hợp với trình độ nguồn nhân sự trong Tập đoàn, nguyên nhân này là do lực
lượng lao động trong lĩnh vực công nghệ thông tin của Tập đoàn Bưu chính –
Viễn thông VNPT còn thiếu, trong quá trình tái cấu trúc xuất hiện những yêu
cầu mới trong việc triễn khai và ứng dụng các công cụ phần mềm phục vụ ra
các quyết định tài chính. Hệ thống dữ liệu, phần mềm phục vụ công tác ra
quyết định tài chính chưa được đồng bộ, chưa được đầy đủ, gây khó khăn cho
quá trình ra quyết định tài chính của VNPT.
Internet: Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông Việt Nam VNPT là một
trong những ngành có uy tín cao trong việc cung cấp mạng internet trên toàn
quốc, vì thế hầu như bất cứ bộ phận nào của tập đoàn cũng đều được trang bị
internet để hỗ trợ truy cập thông tin nhanh chóng, giúp cho nhà quản trị tài
chính nắm bắt được thông tin mọi lúc, mọi nơi nhằm hỗ trợ công việc ra quyết
định tài chính được thuận lợi và nhanh chóng hơn, giảm thiểu được thời gian
chết do chờ đợi thông tin, góp phần nâng cao hiệu quả quyết định. Với tác
dụng đó, internet đã giúp các bộ phận quản lý của Tập đoàn Bưu chính - Viễn
thông Việt Nam VNPT tiến hành phân tích, đánh giá các thông tin kinh tế
thông qua sử dụng phần mềm Big Data để ra các quyết định tài chính một
cách nhanh chóng, hiệu quả.
155
Mạng nội bộ: Kết quả khảo sát về việc sử dụng mạng nội bộ thay thế
mạng internet của Tập đoàn VNPT như sau: 92/92 phiếu khảo sát đánh giá
đều có sử dụng mạng nội bộ để tăng tính bảo mật thông tin trong Tập đoàn.
Thực vậy, ngoài Internet, Tập đoàn VNPT còn trang bị sử dụng thêm
mạng nội bộ để nâng cao tính bảo mật thông tin, nghĩa là chỉ có những thành
viên trong Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông Việt Nam mới được phân quyền
sử dụng mạng nội bộ này, bất kể một thành viên nào khác ngoài Tập đoàn
cũng đều không vào được mạng nội bộ để truy cập thông tin. Đây là một cải
tiến lớn trong việc quản lý thông tin của Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông
Việt Nam VNPT.
Tác dụng của phương tiện hỗ trợ cấu thành hệ thống thông tin
kinh tế tới việc ra quyết định tài chính của VNPT
Thực tế ta thấy, khi tập đoàn Bưu chính - Viễn thông Việt Nam VNPT
hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế thông qua việc sử dụng các phương tiện
hỗ trợ cấu thành hệ thống thông tin kinh tế như nguồn nhân lực, máy vi tính,
Internet, phần mềm, nhằm phục vụ ra quyết định tài chính có tác dụng sau
đây:
- Giúp cho nhà quản trị ra quyết định tài chính có hiệu quả nhanh chóng, cụ thể: phần mềm và internet có vai trò to lớn trong việc
truyền tải thông tin và phân loại thông tin, hợp nhất hai hệ thống:
tài chính, và kế toán trên cùng một giao diện giúp nhà quản trị tài
chính nhận diện thông tin rõ ràng hơn, chính xác hơn, từ đó thuận
lợi cho việc đơn giản hóa quy trình ra quyết định tài chính; vì thế,
sẽ giúp cho nhà quản trị của Tập đoàn ra quyết định tài chính được
nhanh chóng hơn và đúng đắn hơn.
- Giúp cho nhà quản trị VNPT cải tiến được quy trình ra quyết định
được tốt hơn, cụ thể là rút ngắn thời gian dành cho việc đánh giá,
156
phân tích một thông tin giảm xuống, thúc đẩy quá trình ra quyết
định sẽ nhanh hơn.
- Giúp nhà quản trị VNPT triển khai các quyết định tài chính được
nhanh chóng hơn thông qua sử dụng phầm mềm Big Data, vì thế
Big Data có tác dụng góp phần làm gia tăng tiện ích cho nhà quản
trị. Từ tác dụng này nhà quản trị thấy cần thiết phải chọn lựa quyết
định tài chính nào sao cho phù hợp với tình hình tài chính của Tập
đoàn; hay nói cách khác phầm mềm Big Data có tác dụng cung
cấp thông tin nhanh chóng nhằm giúp nhà quản trị ra các quyết
định tài chính có hiệu quả hơn.
2.3 ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ THỰC TRẠNG HỆ THỐNG THÔNG
TIN KINH TẾ PHỤC VỤ CHO VIỆC RA QUYẾT ĐỊNH TÀI CHÍNH CỦA
TẬP ĐOÀN BƯU CHÍNH - VIỄN THÔNG VIỆT NAM VNPT.
Bất cứ một quá trình nào, lĩnh vực nào mà con người tham gia vào cũng
tạo ra những biến đổi nhất định; muốn biết những biến đổi đó diễn ra ở mức
độ nào thì cần phải đánh giá. Theo C.E.Beeby (1997): “Đánh giá là sự thu
thập và lý giải một cách có hệ thống những bằng chứng dẫn đến sự phán xét
về giá trị theo quan điểm hành động”; theo P.E.Griffin (1996): “Đánh giá là
đưa ra phán quyết về giá trị của một sự kiện, nó bao hàm việc thu thập thông
tin sử dụng trong việc đánh giá của một chương trình, một sản phẩm, một tiến
trình, mục tiêu hay tiềm năng ứng dụng của một cách thức đưa ra nhằm mục
đích nhất định”; hay theo R.Tiler (1984): “Quá trình đánh giá chủ yếu là quá
trình xác định mức độ thực hiện các mục tiêu”.[12]
Qua phân tích thực trạng về hoàn thiện và sử dụng hệ thống thông tin
kinh tế của Tập đoàn Bưu chính – Viễn thông Việt Nam VNPT ở phần 2.2,
tác giả nhận thấy:
157
Điểm mạnh của hệ thống thông tin kinh tế của Tập đoàn Bưu chính -
Viễn thông Việt Nam VNPT: hệ thống thông tin kinh tế được xem là yếu tố
rất quan trọng trong việc ra quyết định tài chính của Tập đoàn, đó chính là
những thông tin kinh tế vĩ mô, thông tin kinh tế vi mô; thông tin kinh tế bên
trong, thông tin kinh tế bên ngoài Tập đoàn…. Những thông tin kinh tế này đã
được thu thập từ nguồn cung cấp thông tin rất đáng tin cậy từ bên trong và
bên ngoài VNPT. Mặt khác, hệ thống thông tin kinh tế này đã được xử lý,
phân loại, đánh giá để đảm bảo đầy đủ tính chất của một hệ thống thông tin
tốt trước khi cung cấp cho những nhà quản trị cấp chiến lược, cấp chiến thuật,
và cấp tác nghiệp. Trong thời gian vừa qua, Tập đoàn VNPT có được hệ
thống thông tin kinh tế tốt nên hệ thống thông tin kinh tế này đã hỗ trợ VNPT:
1.Thu thập thông tin nhanh chóng, có độ chính xác và phù hợp cao; 2. Hệ
thống thông tin kinh tế đã giúp nhà quản trị đưa ra các quyết định tài chính
đúng đắn, phù hợp với tình hình tài chính của tập đoàn; 3. Hiệu quả các quyết
định tài chính được đánh giá cao ; 4.Có được tình hình tài chính ổn định với
tỷ suất lợi nhuận thuần liên tục tăng trong các năm qua và nợ phải thu không
cao.
Điểm yếu của hệ thống thông tin kinh tế của Tập đoàn Bưu chính -
Viễn thông VNPT: Mặt dù hệ thống thông tin kinh tế đã được xây dựng từ
lâu, nhưng mức độ hoàn thiện hệ thống vẫn chưa cao. Cụ thể, thời gian tiếp
nhận thông tin tuy có đúng lúc, thông tin được cung cấp để phục vụ ra các
quyết định tài chính tuy có phù hợp, nhưng tiến độ ra các quyết định tài chính
vẫn chưa kịp thời do độ trễ của thời gian cung cấp thông tin, do sự chủ quan
chậm trễ của nhà quản trị… đã làm mất đi nhiều cơ hội đầu tư của VNPT;
bằng chứng là:
VNPT ra đời từ lâu nhưng số lượng trạm phát sóng trong
nước tăng không đáng kể so với đối thủ cạnh tranh cùng ngành
158
(Viettel), đặc biệt là các vùng phủ sóng ở khu vực nông thôn
không mạnh bằng đối thủ; việc đầu tư ra nước ngoài VNPT cũng
chậm chân hơn Viettel một bước làm cho khả năng cạnh tranh
của VNPT bị giảm sút so với đối thủ cùng ngành có tuổi đời còn
non trẻ hơn nhiều VNPT;
Chính sách giá cạnh tranh không chênh lệch nhiều so với
đối thủ, chưa tạo sự khác biệt chính sách giá, vì thế khách hàng
chưa nhận diện được sự khác biệt này để ưu tiên sử dụng dịch vụ
viễn thông của VNPT;
Về đầu tư kênh phân phối: VNPT chưa đẩy mạnh đầu tư
kênh phân phối, cụ thể hình ảnh biểu hiện của VNPT còn yếu ở
ngay thị trường trong nước và ở cả thị trường nước ngoài; hệ
thống kênh phân phối chưa được tổ chức bài bản và quản trị theo
một mô hình thống nhất trong toàn tập đoàn;
Về hệ thống công nghệ thông tin: hệ thống phân tích dữ
liệu, báo cáo số liệu còn hạn chế; thiếu chương trình tin học hỗ
trợ ra quyết định tài chính, thiếu các hệ thống đáp ứng đa dạng
nhu cầu thông tin cung cấp cho nhà quản trị;
Về nguồn lực tài chính: còn hạn chế
Khó khăn: Hệ thống thông tin kinh tế chưa thể hiện hết mặt tích cực là
do còn vướng phải một số khó khăn khi hoàn thiện hệ thống, đó là: VNPT
vừa mới tái cơ cấu bộ máy Tập đoàn nên phần mềm chưa được hoàn thiện;
đầu tư về TSCĐ còn yếu cụ thể như cơ sở vật chất truyền dẫn chưa có đủ và
vẫn phải đi thuê; thị trường biến động thường xuyên nên thông tin kinh tế
được cung cấp thường xuyên biến động theo, vì thế nhà quản trị phải linh hoạt
điều chỉnh các quyết định tài chính để đáp ứng kịp thời sự thay đổi của thị
trường.
159
Qua phân tích hiện trạng ở phần trên, ta thấy Tập đoàn Bưu chính -
Viễn thông Việt Nam VNPT sử dụng đầy đủ các thông tin kinh tế để phục vụ
ra các quyết định tài chính theo dạng thông tin kết hợp, để thấy rõ hơn việc sử
dụng thông tin kết hợp ra quyết định tài chính như thế nào, ta xem sơ đồ sau
đây:
Sơ đồ 2.3: Sơ đồ sử dụng thông tin kết hợp để ra quyết định tài chính
Kênh thông tin độc lập bên ngoài Tập đoàn Kênh thông tin trực tiếp nội bộ Tập đoàn
Quyết định tài chính ở cấp chiến lược
Quyết định tài chính ở cấp chiến thuật
Quyết định tài chính ở cấp tác nghiệp
Mặt khác cho thấy, dù hệ thống thông tin kinh tế của VNPT đã được lập,
nhưng hầu như những thông tin do các nhà quản lý thu thập, tiếp nhận, sử
dụng đều chưa được đồng bộ, còn rời rạc và đôi khi chệch choạt nhau, dẫn
đến kết quả hoạt động kinh doanh tuy có hiệu quả nhưng chưa hẵn tối ưu do
sự không đồng bộ của các thông tin kinh tế được tiếp nhận. Cụ thể, các thông
tin kinh tế từ những nhà quản trị cấp chiến thuật triễn khai xuống cấp tác
nghiệp không cùng thời gian, mỗi nơi thực hiện mỗi cách, có nơi nhanh có
160
nơi chậm, có nơi sử dụng phần mềm tin học triễn khai thực hiện các quyết
định tài chính tốt, có nơi chưa tốt, cụ thể: có nơi thực hiện quyết định đầu tư
mạnh (như đầu tư nhà trạm, đầu tư kênh phân phối…) nên giành được thị
trường, có nơi thực hiện quyết định đầu tư yếu để thị trường bị mất về tay đối
thủ…
Hiệu quả hoạt động của tập đoàn VNPT trong những năm vừa qua đạt
được chưa tương xứng với tiềm năng sẵn có, nguyên nhân chính là do thông
tin chưa được đánh giá đúng, thông tin chưa được xử lý kịp thời, cụ thể như
thông tin về thị trường ở khu vực nông thôn những năm trước đây còn đang
bỏ ngõ, nhưng VNPT vẫn không nhanh chóng đầu tư, đến khi Viettel đầu tư
vảo vùng thị trường này thì VNPT mới giật mình thì đã khá muộn vì thị phần
bị mất quá lớn. Mặt khác VNPT chưa chú trọng thông tin về nhân sự, cụ thể
như chính sách phân phối lợi nhuận còn mang tính chất cào bằng, chưa phản
ánh năng suất của người lao động nên chưa giữ chân người lao động có chất
lượng cao; vì thế, nhân viên VNPT có tâm lý chung là “làm hết giờ” chứ
không phải “làm hết việc” nên dẫn đến chất lượng lao động chưa cao, dẫn đến
hiệu quả hoạt động thấp là điều tất nhiên; song song đó Viettel đã thực hiện
chính sách phân phối lợi nhuận theo cơ chế khoán thu nhập đã thúc đẩy cho
Viettel thu hút được người tài từ VNPT, Viettel chủ động sử dụng nguồn nhân
lực tốt góp phần làm cho hiệu quả hoạt động tăng lên. Cụ thể năm 2015 thu
nhập bình quân của 1 nhân viên VNPT gần 10 triệu đồng, bên cạnh đó thu
nhập bình quân của 1 nhân viên Vietel gần 24 triệu đồng. Chính sách phân
phối lợi nhuận theo cơ chế khoán của Vietel đã thúc đẩy nhân viên nâng cao
năng suất lao động, thúc đẩy hiệu quả hoạt động tăng cao. Bên cạnh đó,
những năm đầu đi vào hoạt động, VNPT còn đánh giá thấp đối thủ do thông
tin về đối thủ không nhiểu, do thông tin bất cân xứng về đối thủ nên VNPT đã
đưa ra chiến lược kinh doanh sai lầm (VNPT chú trọng vào khách hàng ở
161
thành thị hơn ở nông thôn). Để giành thị phần ở nông thôn (do thị phần phần
ở các thành phố lớn đã bị VNPT chiếm giữ), Viettel thực hiện chiến lược
“Nông thôn bao vây thành thị”; nghĩa là Viettel đầu tư mạnh ở nông thôn, đưa
việc sử dụng dịch vụ điện thoại di động xa xỉ trở thành thứ bình dân để mọi
người đều dùng được nhằm khai thác thị trường nông thôn là thị trường có thu
nhập thấp; nước ta là nước nông nghiệp, nông dân chiếm hơn 80% dân số,
Viettel đã khai thác triệt để thông tin trên, vì thế Viettel thành công ở thị
trường này. Trong khi đó, VNPT dù ra đời rất lâu, nhưng thị phần chủ yếu
đánh vào các thành phố lớn (vì nơi đây đông dân cư, chi phí xây dựng cơ sở
hạ tầng thấp, công suất khai thác của nhà mạng cao), VNPT đã bỏ ngỏ vùng
nông thôn và đã bị mất thị trường này; chính vì chiến lược đầu tư sai lầm này
do đánh giá thấp thông tin khách hàng nông thôn, nên việc gia tăng doanh thu,
gia tăng thị phần qua các năm của VNPT là một việc làm rất khó khăn, (hậu
quả là hiện nay doanh thu của Vietel đã vượt qua doanh thu của VNPT khá
xa). Sau khi Viettel đã thành công tại nông thôn, VNPT mới triển khai phát
triển thị trường ở nông thôn; VNPT đã chậm chân hơn Viettel gần hai năm để
khai thác thị trường này, vì thế thị phần của VNPT tăng chậm hơn thị phần
của Viettel là điều tất nhiên, nên hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của
VNPT thấp hơn của Vietel là điều không tránh khỏi.
2.3.1 Những kết quả đạt được đối với hệ thống thông tin kinh tế nhằm
phục vụ cho việc ra quyết định tài chính của VNPT.
- Thông tin được sử dụng trong Tập đoàn VNPT là thông tin hai chiều,
quyết định tài chính được ban ra từ trên xuống, và được phản ánh kịp thời từ
dưới lên nên mọi hoạt động thực hiện quyết định tài chính đều được thống
nhất kịp thời.
- Thông tin được thu thập, xử lý, phân tích, cung cấp kịp thời cho nhà
quản trị ra quyết định tài chính, và nhờ thông tin được thông suốt nên quá
162
trình triển khai thực hiện những quyết định tài chính được thuận lợi, nhanh
chóng hơn, điều này thể hiện được tính phù hợp của thông tin.
Đạt được những kết quả trên là do Tập đoàn Bưu chính – Viễn thông
VNPT có được một hệ thống thông tin tốt, nhờ hệ thống thông tin được xuyên
suốt này nên nhiều chính sách tài chính được triển khai đồng bộ, tạo động lực
cho Tập đoàn hoạt động ngày càng có hiệu quả. Cụ thể, năm 2015 là năm Tập
đoàn VNPT triển khai được một khối lượng công việc lớn trong lộ trình thực
hiện đề án tái cơ cấu; bên cạnh việc tiếp tục hoàn thiện những mắc xích quan
trọng trong mô hình tổ chức thông tin (như giảm độ trễ thời gian của thông tin
để thông tin cung cấp được kịp thời sẽ có mức độ phù hợp cao hơn), VNPT
kịp thời hoàn thiện hệ thống thông tin, thông tin được thông suốt phục vụ tốt
cho việc đổi mới công tác quản trị tài chính, tạo điều kiện thuận lợi cho việc
áp dụng đồng bộ các công cụ quản trị tài chính hiện đại giúp cho việc ra quyết
định tài chính được nhanh chóng, kịp thời và đúng đắn hơn. Điều này được
thể hiện ở hiệu quả đầu tư năm 2015 của VNPT như sau: Tổng nộp ngân sách
nhà nước năm 2015 của Tập đoàn VNPT đạt 3.555 tỷ đồng, đạt 114,7% kế
hoạch; tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu năm 2015 hoàn thành 113,8% kế
hoạch do Bộ Thông tin và Truyền thông giao.
Tóm lại: Để đạt được những kết quả nói trên, Tập đoàn VNPT đã ứng
dụng mạnh hệ thống thông tin kinh tế vào việc ra quyết định tài chính; đặc
biệt là trong quá trình đầu tư theo mô hình 3 tổng công ty, nhờ hệ thống thông
tin được xuyên suốt nên Tập đoàn đã duy trì ổn định thực hiện các quyết định
tài chính, tạo động lực cho cho Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông Việt Nam
phát huy hiệu quả.
2.3.2 Những hạn chế đối với hệ thống thông tin kinh tế nhằm phục vụ cho
việc ra quyết định tài chính của Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông Việt
Nam VNPT.
163
Ai cũng biết thông tin là một nhân tố quan trọng trong hoạt động quản lí,
là công cụ không thể thiếu để lãnh đạo, điều hành và kiểm soát mọi hoạt động
của các nhà quản trị tài chính trong Tập đoàn. Nhà quản trị Tập đoàn chỉ có
thể ra quyết định tài chính đúng đắn, đem lại hiệu quả cao chỉ khi họ nắm
được thông tin chính xác, đầy đủ và kịp thời về tình hình tài chính, thị trường,
đối tác kinh doanh, luật pháp…sự thiếu thông tin hoặc thông tin không chính
xác sẽ dễ dẫn đến nhà quản trị tài chính ra quyết định sai lầm, rủi ro xuất hiện.
Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông Việt
Nam VNPT tuy có xây dựng hệ thống thông tin kinh tế nhằm phục vụ cho
việc ra quyết định tài chính nhưng hệ thống thông tin kinh tế này vẫn chưa
hoàn thiện, cụ thể:
- Thông tin kinh tế được cung cấp cho nhà quản trị cấp chiến lược nhằm
phục vụ cho việc ra quyết định tài chính dù là thông tin hai chiều, nhưng vẫn
còn mang tính chất đại trà, phổ biến, chưa manh tính đột phá; vì thế quyết
định đầu tư, quyết định huy động vốn của VNPT chưa có sự chuyển biến
đáng kể.
- Dù đã xây dựng hệ thống thông tin, nhưng do thông tin kinh tế quá
phức tạp, và thường xuyên thay đổi, nên làm cho nhà quản trị tài chính của
Tập đoàn gặp khó khăn trong việc nắm bắt thông tin kịp thời, làm cho việc ra
quyết định tài chính có thể bị chồng chéo lên nhau hoặc có thể bị thiếu sót.
- Nguồn thông tin được cung cấp để hình thành nên hệ thống thông tin có
thể không đồng bộ, nơi cung cấp sớm, nơi cung cấp muộn làm cho tính phù
hợp của thông tin bị giảm xuống, dẫn đến việc ra quyết định tài chính có thể
bị chệch choạt, hiệu quả của quyết định không cao.
Tóm lại, những hạn chế trên đã ảnh hưởng đến tiến độ cung cấp thông
tin, gây khó khăn cho quá trình ra quyết định đầu tư, quyết định huy động
vốn, cũng như quyết định phân phối lợi nhuận. Vì thế VNPT cần phải chú
164
trọng đến sự hoàn thiện của hệ thống thông tin hơn nữa để khắc phục những
nhược điểm trên, để VNPT khẳng định được vị thế của một Tập đoàn kinh tế
chủ lực.
Kết luận chương 2:
Thông qua nghiên cứu thực trạng về hệ thống thông tin kinh tế nhằm
phục vụ cho việc ra quyết định tài chính của Tập đoàn Bưu chính – Viễn
thông Việt Nam, ta thấy:
Hệ thống thông tin kinh tế được xem là yếu tố rất quan trọng trong việc
ra quyết định tài chính của Tập đoàn, những thông tin kinh tế này đã
được thu thập từ nguồn cung cấp thông tin rất đáng tin cậy từ bên trong
và bên ngoài VNPT. Hệ thống thông tin kinh tế đã được xử lý, phân
loại, đánh giá để đảm bảo đầy đủ tính chất của một hệ thống thông tin
tốt trước khi cung cấp cho những nhà quản trị cấp chiến lược, cấp chiến
thuật, và cấp tác nghiệp.
Thông tin được sử dụng trong Tập đoàn VNPT là thông tin hai chiều,
quyết định tài chính được ban ra từ trên xuống, và được phản ánh kịp
thời từ dưới lên nên mọi hoạt động thực hiện quyết định tài chính đều
được thống nhất kịp thời.
Thông tin được thu thập, xử lý, phân tích, cung cấp kịp thời cho nhà
quản trị ra quyết định tài chính, và nhờ thông tin được thông suốt nên
quá trình triển khai thực hiện những quyết định tài chính được thuận
lợi, nhanh chóng hơn, điều này thể hiện được tính phù hợp của thông
tin.
Tuy nhiên, mức độ hoàn thiện hệ thống vẫn chưa cao. Cụ thể, thời gian
tiếp nhận thông tin tuy có đúng lúc, thông tin được cung cấp để phục vụ
ra các quyết định tài chính tuy có phù hợp, nhưng tiến độ ra các quyết
định tài chính vẫn chưa kịp thời do độ trễ của thời gian cung cấp thông
165
tin, do sự chủ quan chậm trễ của nhà quản trị… đã làm mất đi nhiều cơ
hội đầu tư của VNPT.
Hệ thống thông tin kinh tế chưa thể hiện hết mặt tích cực, do thời gian
vừa qua VNPT tiến hành tái cơ cấu bộ máy Tập đoàn nên phần mềm
chưa được hoàn thiện; đầu tư về TSCĐ còn yếu cụ thể như cơ sở vật
chất truyền dẫn chưa có đủ và vẫn phải đi thuê; thị trường biến động
thường xuyên nên thông tin kinh tế được cung cấp thường xuyên biến
động theo, vì thế nhà quản trị phải linh hoạt điều chỉnh các quyết định
tài chính để đáp ứng kịp thời sự thay đổi của thị trường.
Hệ thống thông tin sử dụng chưa được đồng bộ, còn rời rạc và đôi khi
chệch choạt nhau, dẫn đến kết quả hoạt động kinh doanh tuy có hiệu
quả nhưng chưa hẵn tối ưu do sự không đồng bộ của các thông tin kinh
tế được tiếp nhận.
Hiệu quả hoạt động của tập đoàn VNPT trong những năm vừa qua đạt
được chưa tương xứng với tiềm năng sẵn có, nguyên nhân chính là do
thông tin chưa được đánh giá đúng, thông tin chưa được xử lý kịp thời.
166
Chương 3
HOÀN THIỆN HỆ THỐNG THÔNG TIN KINH TẾ NHẰM
PHỤC VỤ CHO VIỆC RA QUYẾT ĐỊNH TÀI CHÍNH CỦA
TẬP ĐOÀN BƯU CHÍNH - VIỄN THÔNG VNPT
3.1 ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA VNPT TRONG THỜI GIAN TỚI
3.1.1 Mục tiêu phát triển của VNPT trong thời gian tới (đến năm 2020).
Mục tiêu chung:
1. Đầu tư, xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng viễn thông hiện đại, an
toàn có dung lượng lớn, tốc độ cao, vùng phủ sóng rộng đến mọi vùng trên
đất nước.
2. Tăng cường đầu tư phát triển các dịch vụ ứng dụng viễn thông, trên cơ
sở hạ tầng viễn thông được xây dựng nhằm phát huy tối đa sự hội tụ của công
nghệ và dịch vụ.
3. Ưu tiên đầu tư áp dụng các công nghệ viễn thông tiên tiến, hiện đại, tiết
kiệm năng lượng, thân thiện với môi trường và sử dụng hiệu quả viễn thông.
4. Bảo đảm đầu tư an toàn cơ sở hạ tầng viễn thông và an ninh thông tin
cho các hoạt động ứng dụng viễn thông, công nghệ thông tin, đặc biệt là trong
việc thúc đẩy phát triển thương mại điện tử.
Các chỉ tiêu phát triển đến năm 2020:
A. Tăng cường đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng trong nước, được thể hiện qua
các chỉ tiêu sau:
1. Tỷ lệ đường dây thuê bao cố định 20-25 đường/100 dân; tỷ lệ thuê bao
Internet băng rộng cố định 15-20 thuê bao/100 dân; tỷ lệ thuê bao băng rộng
di động 35-40 thuê bao/100 dân;
2. Tỷ lệ hộ gia đình có điện thoại cố định 40-45%; tỷ lệ hộ gia đình có
truy cập Internet 35-40%; tỷ lệ người sử dụng Internet 55-60%;
3. Phủ sóng thông tin di động đến trên 95% dân số cả nước;
167
4. 100% các xã có điểm cung cấp dịch vụ viễn thông công cộng được kết
nối Internet băng rộng; tốc độ tăng trưởng viễn thông đạt khoảng 1,2-1,5 lần
tốc độ tăng trưởng GDP;
B. Tăng cường đầu tư quốc tế
Tập đoàn VNPT đẩy mạnh và thực hiện nhiệm vụ đầu tư, kinh doanh ở
thị trường nước ngoài phát triển hơn nữa trong năm 2017 và những năm tiếp
theo, cụ thể tiếp tục đẩy mạnh hoạt động của các Văn phòng Đại điện tại
Campuchia, Myanmar, Lào, thỏa thuận thành lập Công ty liên doanh tại
Myanmar đã được ký kết. Xa hơn nữa, VNPT hướng tới mục tiêu trở thành 1
trang 10 hãng viễn thông lớn nhất châu Á.
Để thực hiện mục tiêu trên một cách cụ thể, ta xem bảng kế hoạch đầu
tư - doanh thu đến năm 2020 của Tập đoàn VNPT như sau:
Bảng 3.1: Kế hoạch đầu tư - doanh thu đến năm 2020 của VNPT
Chỉ tiêu 2015 2016 2017 2018 2019 2020
Số lượng mạng 1 1 1 2 2 3
dự kiến tiến
hành đầu tư
tăng thêm ở
nước ngoài
Tổng DT (tỷ 41.824 48.139 54542 75.159 99.661 114.709
đồng)
% tăng DT 9,7% 15,1% 13,3% 37,8% 32,6% 15,1%
Trong đó: DV 33.459 38.511 43.634 60.127 79.729 91.767
viễn thông
truyền thống
Nguồn: chiến lược đầu tư 2016 -2020 của VNPT
Để đạt được mục tiêu đầu tư - doanh thu như trong bảng 3.1, thì mục tiêu
cụ thể của Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông Việt Nam VNPT đó là:
168
d. Chuyển đổi mô hình tập đoàn: Từ mô hình tập đoàn kinh tế với
mảng kinh doanh và mảng kỹ thuật chung do một nhà lãnh đạo
điều hành đã chuyển sang mô hình mảng kinh doanh riêng và
mảng kỹ thuật riêng; mô hình mới này giúp cho nhà quản trị ra
quyết định tài chính được thuận lợi hơn, thể hiện qua việc vốn
huy động được sử dụng đúng mục tiêu hơn, hiệu quả sử dụng
vốn sẽ cao hơn; cụ thể trước đây do hai mãng kinh doanh và kỹ
thuật chung (và nhà lãnh đạo Tập đoàn thường là “dân kỹ
thuật”), nên nhà quản trị thường thiên đầu tư vào kỹ thuật hơn là
đầu tư vào kinh doanh, và thị trường không được chú trọng, vì
thế thị phần của Tập đoàn VNPT tăng không đáng kể ở những
năm qua; hiện nay mô hình Tập đoàn mới được chuyển đổi, hai
mãng kinh doanh và kỹ thuật được tách riêng độc lập, mục đích
là để phát huy lợi thế riêng từng mảng, mô hình mới này sẽ tiếp
tục được duy trì và ngày càng phát huy thế mạnh trong những
năm tới; ở mô hình mới này nhà quản trị sẽ có tầm nhìn khách
quan hơn trong việc đầu tư vào kỹ thuật và đầu tư để phát triển
thị trường, hạn chế lãng phí vốn do nguồn vốn được huy động để
đầu tư sẽ được sử dụng đúng mục tiêu hơn;
e. Phát huy tính sáng tạo trong quyết định đầu tư của Tập đoàn, đó
là Tập đoàn luôn tiên phong trong đầu tư công nghệ mới:“VNPT
luôn đi đầu trong việc chọn lựa đầu tư công nghệ hiện đại để
nâng cao tính cạnh tranh của Tập đoàn” [6];
f. Tăng cường liên kết đầu tư mở rộng ở thị trường nước ngoài thông
qua việc góp vốn với các đối tác: “Hợp tác với các cơ quan quản
lý nhà nước cũng như các đối tác hàng đầu trong và ngoài nước
để gia tăng giá trị, tiện ích cho khách hàng dựa trên nguyên tắc
169
hiệu quả, có lợi và cùng phát triển” [6], nội dung này giúp
VNPT ngày càng nâng cao uy tín thương hiệu;
g. Do VNPT là Tập đoàn kinh tế lớn của Việt Nam, có quy mô vốn
lớn và thị trường mở rộng, có uy tín trong lĩnh vực viễn thông ở
trong nước cũng như trên thế giới, vì thế khả năng thâm nhập thị
trường vốn của Tập đoàn VNPT rất cao, nên VNPT có cơ hội
chọn lựa nguồn vốn huy động có chi phí sử dụng vốn thấp, và là
nguồn tài trợ ổn định để thực hiện chiến lược đầu tư từ 2016 đến
2020 của VNPT; và đây cũng chính là cơ hội để VNPT tăng
cường sử dụng vốn có hiệu quả thông qua việc mở rộng đầu tư ở
thị trường nước ngoài thông qua việc sử dụng nguồn vốn ở bên
ngoài có chi phí sử dụng vốn thấp.
h. Chính sách phân phối lợi nhuận ở những năm tới vẫn không thay
đổi so với những năm đã qua, dù rằng việc đầu tư ra nước ngoài
cần nhiều vốn, nhưng do VNPT có khả năng thâm nhập thị
trường vốn lớn nên việc huy động vốn đối với VNPT khá thuận
lợi, vì thế VNPT vẫn ổn định chính sách phân phối lợi nhuận
nhằm tăng thu nhập thực tế cho người lao động.
Đó là những nội dung thể hiện mục tiêu cụ thể của VNPT trong thời gian
tới, để đánh giá phương hướng thực hiện các mục tiêu trên, ta nghiên cứu các
phương hướng sau đây.
3.1.2 Phương hướng thực hiện mục tiêu của VNPT.
3.1.2.1 Phương hướng chung về tài chính
1. Đầu tư bền vững theo hướng chất lượng vào thị trường viễn thông
nhằm nâng cao tính cạnh tranh của Tập đoàn.
2. Tăng cường huy động vốn để tài trợ cho việc mở rộng đầu tư của
Tập đoàn.
170
3. Ổn định chính sách phân phối lợi nhuận nhằm tăng thu nhập cho
người lao động.
Phương hướng cụ thể
Về đầu tư:
Khi VNPT tiến hành tái cơ cấu đã tạo ra rất nhiều cơ hội đầu tư nhằm
khuyến khích nội bộ Tập đoàn phải nỗ lực thực hiện kế hoạch đầu tư trong
nước cũng như đầu tư quốc tế, tạo động lực cho Tập đoàn mở rộng thị trường
để trở thành 1 trong 10 hãng viễn thông lớn nhất Châu Á.
Cho dù năm 2014 và 2015, VNPT tiến hành tái cơ cấu nên VNPT có
nhiều thay đổi, nhưng VNPT vẫn giữ được đà tăng trưởng, thể hiện quyết
định về đầu tư của VNPT trong những năm qua là đúng đắn. Với những bước
phát triển của VNPT hiện nay có thể tin tưởng vào tương lai của VNPT với
sức bật mới để xứng đáng là Tập đoàn Viễn thông số 1 của Việt Nam.
Quy luật thị trường sẽ đào thải các đơn vị yếu kém. Vì vậy, VNPT chỉ
còn một con đường duy nhất là phải tiến lên; hiện nay thị trường di động đang
bão hòa, vì thế để tăng sức cạnh tranh, VNPT phải đầu tư mạnh vào thị trường
mới đó là đầu tư vào thị trường nội dung, đầu tư thêm thiết bị mới nhằm phục
vụ việc kết nối các thiết bị thông minh… hiện nay thị trường này vẫn còn
đang bõ ngõ.
Chiến lược đầu tư của VNPT là sẽ phải mở rộng từ việc đầu tư trong
nước sang đầu tư nước ngoài nhằm mở rộng thị trường trên cơ sở hợp tác chặt
chẽ với các đối tác nước ngoài để phát triển mạng lưới hoạt động của VNPT.
Nếu nhìn lịch sử phát triển di động của Việt Nam hơn 20 năm nay cho
thấy đầu tư vào vùng phủ sóng được xem là quyết định đầu tư quan trọng
nhất, đây chính là vũ khí cạnh tranh lợi hại nhất; Thế nhưng, một trong những
hạn chế của VNPT so với các đối thủ khác là VNPT đầu tư chưa mạnh vào
chất lượng vùng phủ sóng; Vậy chiến lược đầu tư của VNPT ra sao để tăng
171
chất lượng vùng phủ sóng, đặc biệt là vùng phủ sóng 3G để tăng sức cạnh
tranh?
Trong năm 2016, VNPT tiến hành tối ưu hóa đầu tư mạng lưới và triển
khai thử nghiệm 4G trên băng tần 3G; và trong năm 2016, VNPT đã đầu tư
xong tại 63 tỉnh/thành phố, đảm bảo chất lượng mạng lưới.
Nếu như trước đây, việc đầu tư đột phá trong vùng phủ sóng 3G rất khó
khăn và tốn kém với băng tần 2100 MHz. Thế nhưng, hiện Bộ TT&TT đã
đồng ý cho VNPT sử dụng băng tần 900 MHz để phủ sóng 4G. Đây là điều
kiện rất thuận lợi để VNPT có thể đầu tư tạo ra sức mạnh đột biến phủ sóng
4G với chi phí thấp và có vùng phủ sóng rộng, VNPT đặt mục tiêu đến tháng
6 năm 2017 sẽ phải đầu tư hoàn thành 8.000 trạm thu phát sóng trên toàn
quốc. Với mức đầu tư này, mạng VNPT sẽ có vùng phủ sóng không thua kém
bất cứ đối thủ nào trên thị trường hiện nay. Khi có vùng phủ sóng tốt cũng là
điều kiện thuận lợi để VNPT tăng sức cạnh tranh và đẩy mạnh các hoạt động
của Tập đoàn Bưu chính – Viễn thông VNPT.
VNPT sẽ chú trọng việc đầu tư hệ thống điểm giao dịch, cửa hàng xuyên
suốt tới tận cấp xã/ phường, đảm bảo hiệu quả tối đa trong cạnh tranh, đầu tư
phát triển kinh doanh trên toàn quốc và từng địa phương
Về huy động vốn: Tập đoàn Viễn thông VNPT chủ yếu kinh
doanh về lĩnh vực cung cấp dịch vụ viễn thông, nên vòng quay vốn nhanh,
tiền thân của Tập đoàn này có vốn 100% của nhà nước, vì thế chính sách tài
chính của tập đoàn VNPT trong những năm vừa qua rất ít sử dụng nợ vay,
chủ yếu sử dụng vốn chủ sở hữu; vì thế Tập đoàn VNPT chưa làm nổi bậc
tác dụng của đòn bẩy tài chính trong việc khuếch trương lợi nhuận cho Tập
đoàn. Tuy nhiên, xu hướng của những năm tới, Tập đoàn mở rộng thị trường
ở các nước khác, việc làm này đòi hỏi phải tăng vốn đầu tư; do Tập đoàn
thực hiện chính sách tự chủ tài chính, nên thời gian tới để có vốn mở rộng
172
quy mô đầu tư, Tập đoàn sẽ sử dụng nợ vay để tài trợ cho đầu tư, đây là
thách thức mà cũng là cơ hội trong việc đổi mới chính sách quản trị nguồn
vốn, vì chỉ khi Tập đoàn sử dụng đồng nợ vay có hiệu quả thì mới thúc đẩy
hiệu quả tính trên một đồng vốn chủ sở hữu tăng lên, và cuối cùng làm cho
giá trị Tập đoàn tăng lên.
3.1.2.2 Phương hướng đầu tư mạng lưới
1. Đẩy mạnh việc đầu tư mạng truy cập băng rộng đến hộ gia đình
trên cơ sở ưu tiên đầu tư mạng truy cập hữu tuyến. Mở rộng đầu tư
vùng phủ sóng và nâng cao hiệu quả đầu tư hệ thống thông tin di
động nhằm cung cấp khả năng truy cập băng rộng mọi lúc, mọi
nơi.
2. Nâng cao năng lực hệ thống truyền dẫn đường dài trong nước và
quốc tế, trên cơ sở sử dụng hiệu quả các hệ thống hiện có, đồng
thời đầu tư nâng cấp, xây dựng mới các tuyến truyền dẫn cáp
quang mặt đất, cáp quang biển quốc tế, nội địa với dung lượng lớn
và phóng thêm các vệ tinh viễn thông phục vụ thị trường trong
nước và khu vực.
3. Bảo đảm tính thống nhất, toàn vẹn và an toàn, an ninh cao nhất
trong việc đầu tư trang thiết bị để thiết lập mạng lưới, khai thác,
cung cấp và sử dụng dịch vụ.
3.1.2.3 Phương hướng đầu tư phát triển dịch vụ
1. Đầu tư phát triển các dịch vụ viễn thông mới phù hợp với xu
hướng hội tụ công nghệ và dịch vụ, đồng thời thúc đẩy phát triển
các dịch vụ ứng dụng viễn thông nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng
mạng viễn thông đã được đầu tư.
2. Giảm chi phí, hạ giá thành để cung cấp dịch vụ viễn thông với giá
cước phù hợp với điều kiện thu nhập của người dân, đồng thời
173
từng bước điều chỉnh giá cước các dịch vụ hiện nay còn thấp hơn
giá thành để đảm bảo hiệu quả kinh doanh của Tập đoàn trong
điều kiện cạnh tranh và hội nhập quốc tế.
3. Kiểm soát chặt chẽ giá thành, cập nhật giá cước trung bình của thị
trường trong nước, khu vực và quốc tế để quản lý giá cước theo
nguyên tắc tôn trọng quyền tự định giá của Tập đoàn, bảo đảm
bình ổn giá, không tăng giá quá mức ảnh hưởng đến quyền lợi của
người sử dụng, đồng thời không phá giá gây thiệt hại cho Tập
đoàn và mất ổn định thị trường.
4. Nâng cao chất lượng dịch vụ viễn thông trên cơ sở xây dựng, bổ
sung, sửa đổi, ban hành và áp dụng các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ
thuật, quy định quản lý chất lượng dịch vụ viễn thông phù hợp với
việc đầu tư phát triển nhanh chóng của các công nghệ dịch vụ.
3.1.2.4 Phương hướngđầu tư phát triển công nghệ
1. Việc đầu tư phát triển, ứng dụng công nghệ viễn thông phải phù
hợp với xu hướng chung trên thế giới và phù hợp với điều kiện cụ
thể của Việt Nam. Thời điểm triển khai đầu tư đối với một công
nghệ mới cần phải được xem xét trên cơ sở hiệu quả đầu tư. Nhu
cầu của thị trường, lợi ích của xã hội và mức độ hoàn thiện của
công nghệ.
2. Đầu tư phát triển ứng dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại, sử dụng
hiệu quả tài nguyên viễn thông trên nền tảng mạng lõi thế hệ sau,
mạng truy nhập băng rộng, mạng Internet, mạng truyền truyền dẫn
phù hợp với điều kiện cụ thể của Tập đoàn, nhằm cung cấp đa dịch
vụ trên một hạ tầng viễn thông thống nhất.
174
3. Đẩy mạnh đầu tư ứng dụng các công nghệ viễn thông thân thiện
môi trường, tiết kiệm năng lượng để đáp ứng các yêu cầu của biến
đổi khí hậu toàn cầu.
3.2 QUAN ĐIỂM VỀ VIỆC HOÀN THIỆN HỆ THỐNG THÔNG TIN
KINH TẾ CHO VIỆC RA QUYẾT ĐỊNH TÀI CHÍNH.
3.2.1. Thông tin kinh tế là yếu tố quan trọng nhất trong việc ra quyết
định tài chính.
“Quản trị tài chính đóng một vai trò trung tâm trong mọi hoạt động của
Tập đoàn”[25]. Ta giả định, nếu Tập đoàn không có tiền thì Tập đoàn không
thể thanh toán mọi chi phí hoạt động của nó, không thể dự trữ hàng tồn kho,
không thể thuê mướn nhân công… và cuối cùng, Tập đoàn không thể tồn tại.
“Mục tiêu của Tập đoàn là lợi nhuận, là giá trị của Tập đoàn; vì thế, đòi hỏi
Tập đoàn phải có một mức độ tài chính nhất định để đi vào hoạt động”[26];
nhưng làm sao để Tập đoàn bảo toàn vốn? làm sao để Tập đoàn hoạt động có
hiệu quả? làm sao để Tập đoàn tồn tại và phát triển? Để giải quyết vấn đề này,
một trong những khâu quan trọng nhất trong hoạt động của Tập đoàn, đó là
nhà quản trị phải đưa ra được những quyết định tài chính đúng đắn, tối ưu; để
thỏa mãn những điều kiện vừa nêu trên thì thông tin kinh tế phải được xem là
yếu tố quan trọng nhất trong việc ra quyết định tài chính; thật vậy, ta xét mối
liên hệ giữa thông tin kinh tế với các quyết định tài chính trên các bình diện
sau:
*Thông tin kinh tế đứng ở góc độ các bên liên quan trực tiếp đến tài
chính của Tập đoàn như chủ thể nhà nước (người cung cấp cấp vốn chủ yếu
cho Tập đoàn), “chủ nợ là những người đầu tư vốn trực tiếp vào Tập đoàn
đều bị đe dọa rủi ro trong kinh doanh”[25]; đồng thời còn có những mối quan
hệ khác với Tập đoàn như: nhà cung cấp, người mua hàng có quan hệ mua
bán hàng hóa, dịch vụ với Tập đoàn, là những người có mối quan hệ tài chính
175
chặt chẽ; ngoài ra, Tập đoàn còn có mối quan hệ với nhà nước thông qua việc
đóng thuế. Ta giả định, nếu Tập đoàn hoạt động không hiệu quả, thì chủ nợ có
chấp nhận cho vay? Nhà nước? người bán hàng có chấp nhận cung cấp hàng
hóa và dịch vụ? người mua hàng có chấp nhận ứng trước tiền hàng? Nhà nước
có chấp nhận đầu tư vốn và có chấp nhận để Tập đoàn duy trì hoạt động trong
tình trạng thua lỗ kéo dài? Vì vậy trước khi đầu tư vốn, cũng như trước khi
quan hệ tài chính với Tập đoàn, các bên liên quan ở bên ngoài đều tìm hiểu
thông tin hoạt động, cũng như tình hình tài chính của Tập đoàn để đánh giá sự
tồn tại của Tập đoàn cũng như quan hệ mật thiết, lâu dài với Tập đoàn; việc
đánh giá này thường được thể hiện trên các mặt: rủi ro và tỷ suất sinh lời, khả
năng chi trả của Tập đoàn; “các bên liên quan tài chính ở bên trong Tập đoàn
thường đánh giá sự ổn định về tình hình sử dụng lao động, cũng như tình hình
ổn định lợi nhuận của Tập đoàn”[27], vì những vấn đề này liên quan đến cơ
hội việc làm cũng như các quyền lợi khác. Từ những vấn đề phân tích ở trên,
ta thấy thông tin kinh tế rất cần thiết cho Tập đoàn VNPT cũng như cho các
đối tác có liên quan đến tài chính của Tập đoàn VNPT.
*Thông tin kinh tế đứng ở góc độ của Tập đoàn: trước khi Tập đoàn vay
nợ, hay Tập đoàn huy động vốn bằng việc phát hành cổ phiếu, Tập đoàn có
cần tìm hiểu về tình hình thị trường vốn? trước khi sản xuất hàng hóa, Tập
đoàn có tìm hiểu về tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, nhu cầu sản phẩm, thị
phần, giá cả nguyên vật liệu đầu vào, nhà cung cấp, thị trường lao động, tình
trạng máy móc thiết bị kỹ thuật,…? Tất nhiên, Tập đoàn phải tìm hiểu rất kỹ
và nắm bắt kịp thời các thông tin này trước khi đưa ra các quyết định tài
chính. Vì vậy, ta có thể nói, thông tin kinh tế đóng một vai trò rất quan trọng
và rất hữu ích đối với nhà quản trị tài chính.
Cùng với chiến lược cạnh tranh và chiến lược đầu tư, “chiến lược tài
chính của Tập đoàn là trung tâm của chiến lược tổng thể của công ty”[28];
176
Tập đoàn thường đối mặt với các rủi ro kinh doanh và rủi ro tài chính, vì thế
nhà quản trị cần phải tìm cách quản lý để hạn chế những rủi ro này; một trong
những cách quản lý rủi ro đó là Tập đoàn phải hoàn thiện hệ thống thông tin
kinh tế để dự báo các rủi ro mà Tập đoàn có thể gặp phải; trong trường hợp
này nhà quản trị cần những thông tin kinh tế sử dụng cho những việc sau:
Lập kế hoạch: Một khi quyết định đã được thực hiện theo những chiến
lược cạnh tranh, thông tin là cần thiết để lên kế hoạch, đó là làm thế nào để
thực hiện kế hoạch có hiệu quả. “Kế hoạch đòi hỏi kiến thức chuyên môn cao,
hơn thế nữa, phần hỗ trợ cho kiến thức chuyên môn này đó là việc kết hợp
giữa nguồn lực sẵn có với thời gian và quy mô thực hiện”[29]; Vậy, nguồn
lực, thời gian, qui mô, đó chính là thông tin kinh tế mà nhà quản trị phải có để
ra quyết định.
Kiểm soát: Sau khi kế hoạch được thực hiện, hiệu quả thực tế của nó
phải được kiểm soát; giai đoạn này thông tin kinh tế rất cần thiết để đánh giá
việc thực hiện được tiến hành có đúng như kế hoạch ban đầu hay có một vài
thay đổi bất ngờ so với kế hoạch. ví dụ: để tiến hành sản xuất loại sản phẩm X
cần phải có nguyên vật liệu chính là A, trong quá trình lập kế hoạch, nguyên
vật liệu A này đã và đang được cung ứng dồi dào trên thị trường nên kỳ vọng
trong quá trình sản xuất, nguồn nguyên vật liệu này sẽ được cung ứng đúng
hạn; nhưng trong quá trình thực hiện, vì lý do nào đó, nguồn nguyên vật liệu
này bị khan hiếm, giá nguyên vật liệu tăng cao, nguồn cung ứng không đủ,
không đúng hạn; nếu quá trình sản xuất kinh doanh vẫn tiếp tục được thực
hiện, thì chắc chắn quá trình sản xuất sẽ bị đình trệ, chi phí tăng lên, sẽ làm
cho hiệu quả hoạt động của Tập đoàn giảm xuống hoặc có thể dẫn đến tình
trạng Tập đoàn bị thua lỗ. Vì thế, để hạn chế rủi ro này, Tập đoàn sẽ thay đổi
kế hoạch sản xuất với mong muốn khắc phục hậu quả có thể xảy ra nếu Tập
đoàn kịp thời có được thông tin cần thiết trên.
177
Đo lường: Cũng như các hoạt động riêng lẻ cần phải được kiểm soát,
hiệu quả tổng thể phải được đo lường để làm cơ sở so sánh các kết quả thực tế
với kế hoạch; kết quả so sánh này tốt hay không tốt hoàn toàn có liên quan
đến việc thu thập thông tin trên.
Ra quyết định: Thông tin được yêu cầu như một cơ sở để đưa ra quyết
định, tạo thành một vòng tròn đầy đủ của quá trình quản trị doanh nghiệp.
* Thông tin kinh tế đứng ở góc độ người cho vay: “Trước khi cho vay,
chủ nợ đánh giá các khoản cho vay sẽ được hoàn trả như thế nào, lợi ích liên
quan sẽ được thanh toán ra sao”[30]; vì thế, trước khi ra quyết định có cho
Tập đoàn vay hay không, chủ nợ cần phải có thông tin về uy tín cũng như về
khả năng thanh toán của Tập đoàn.
*Thông tin kinh tế đứng ở góc độ chính phủ: Thông tin từ Tập đoàn là
cơ sở để chính phủ đánh giá về thu nhập thuế, về phân bổ nguồn lực kinh tế
của địa phương hay của một quốc gia, từ đó chính phủ sẽ có kế hoạch điều
chỉnh hoạt động; mặt khác, nó còn là cơ sở cung cấp dữ liệu thống kê của
quốc gia.
*Thông tin kinh tế đứng ở góc độ xã hội: Thông tin từ Tập đoàn hay
các Bộ, ngành có liên quan cho biết sản phẩm do Tập đoàn làm ra có ảnh
hưởng trực tiếp đến an toàn sức khỏe của người tiêu dùng.
Tóm lại, để cho những bên liên quan có quan hệ bền vững với Tập đoàn thì
thông tin về Tập đoàn phải minh bạch, tài chính Tập đoàn phải lành mạnh,
nhà quản trị tài chính phải có trách nhiệm bảo toàn vốn cho các bên liên quan,
đồng thời hoạt động của Tập đoàn trước tiên phải đem lại hiệu quả cho bản
thân Tập đoàn, và sau đó phải đem lại hiệu quả cho xã hội và cho cả nền kinh
tế; Từ đó ta thấy, tình hình tài chính của Tập đoàn đóng một vai trò thực sự
quan trọng, nó giữ vai trò trung tâm trong các quyết định của nhà quản trị. Để
thực hiện được vai trò này nhà quản trị rất cần có hệ thống thông tin tốt, hữu
178
ích nhằm mục đích phục vụ cho việc: lập kế hoạch, kiểm soát, đo lường, ra
quyết định; Vì thế, ta có thể nói thông tin kinh tế là yếu tố quan trọng nhất
trong việc ra quyết định tài chính.
3.2.2 Hệ thống thông tin phải phù hợp với trình độ nhà quản trị.
Để hệ thống thông tin kinh tế trở thành thông tin hữu ích cho nhà quản
trị, thì hệ thống thông tin này phải đảm bảo phù hợp với trình độ của nhà quản
trị. Sự phù hợp này được thể hiện ở từng cấp độ quản trị, ở mỗi cấp độ quản
trị khác nhau thì nhu cầu sử dụng thông tin kinh tế có các mục đích khác
nhau, và yêu cầu cũng khác nhau về số liệu và các loại thông tin; do đó, hệ
thống thông tin này phải đáp ứng thông tin phù hợp theo từng cấp độ quản trị
như sau:
1. Thông tin chiến lược: Thông tin này hỗ trợ nhà quản trị cấp chiến
lược ra quyết định tài chính dài hạn quan trọng, như: quyết định
đầu tư, quyết định huy động vốn, quyết định phân phối lợi nhuận.
Bộ phận này cần những thông tin dài hạn mang tính chiến lược
như: thông tin tăng trưởng nền kinh tế, thông tin tỷ lệ lạm phát,
thông tin nhu cầu thị trường sản phẩm, thông tin thị phần doanh
nghiệp, thông tin kế toán…; đây là những thông tin kinh tế quan
trọng nhằm giúp cho nhà quản trị cấp chiến lược có tầm nhìn dài
hạn để xây dựng chiến lược tài chính dài hạn có căn cứ khoa học.
2. Thông tin chiến thuật: Giúp nhà quản trị cấp chiến thuật đối phó
với các vấn đề tài chính ngắn hạn, những thông tin phục vụ cho
những nhà quản trị cấp chiến thuật đó là những thông tin phục vụ
cho việc lập kế hoạch tài chính hàng tháng của Tập đoàn; ví dụ
như lập ngân sách vốn và quản lý vốn, hàng tồn kho… để hệ thống
thông tin kinh tế phục vụ cho nhà quản trị cấp chiến thuật được
hoàn thiện thì rất cần những thông tin ngắn hạn cả bên trong lẫn
179
bên ngoài, cần cả những thông tin tài chính lẫn phi tài chính, cần
những thông tin hiện tại lẫn quá khứ của Tập đoàn như: thông tin
về nhu cầu sản phẩm trên thị trường, thông tin thị phần của Tập
đoàn, thông tin cơ hội đầu tư… hệ thống những thông tin trên trở
thành cơ sở để nhà quản trị cấp chiến thuật phân tích, định lượng
được lượng vốn cần thiết sử dụng trong kỳ là bao nhiêu, và được
tài trợ ngắn hạn bằng những nguồn vốn nào; đầu tư kinh doanh ưu
tiên vào sản phẩm nào?…căn cứ vào những thông tin đó nhà quản
trị cấp chiến thuật sẽ có căn cứ ra các quyết định tài chính ngắn
hạn theo đúng lộ trình kế hoạch tài chính dài hạn và phù hợp với
tình hình thực tế của Tập đoàn.
3.3 GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HỆ THỐNG THÔNG TIN KINH TẾ
PHỤC VỤ CHO VIỆC RA QUYẾT ĐỊNH TÀI CHÍNH CỦA TẬP
ĐOÀN VIỄN THÔNG VNPT
3.3.1 Giải pháp về tổ chức cấu thành hệ thống thông tin.
3.3.1.1 Giải pháp về quy trình thu thập thông tin
Để có thể trở thành nguồn thông tin hữu ích, thông tin kinh tế nên được
thu thập từ nhiều nguồn dữ liệu khác nhau, như: thông tin đến từ bên trong lẫn
bên ngoài; thông tin hiện tại, thông tin quá khứ; thông tin sơ cấp, thông tin thứ
cấp của Tập đoàn... Như ta đã biết, một hệ thống thông tin thường đặt ra các
yêu cầu cho những thông tin được thu thập, những yêu cầu đó là thông tin
phải được thu thập thường xuyên, phải được xử lý trước khi cung cấp cho nhà
quản trị; nhưng làm thế nào để thu thập một cách thường xuyên, bởi ai và
bằng những phương pháp nào, làm thế nào để xử lý được nó và có thể truyền
đạt nó là vấn đề không đơn giản. Vì thế, để tiến hành thu thập thông tin một
cách thuận lợi, thường xuyên và đều đặn, ta tiến hành thu thập thông tin qua
các bước sau:
180
Bước 1: Xây dựng những nội dung cần thu thập.
Bước 2: Xác định nguồn cung cấp thông tin tin cậy: gồm nguồn cung cấp
thông tin bên trong và nguồn cung cấp thông tin bên ngoài Tập đoàn, nguồn
cung cấp thông tin sơ cấp và nguồn cung cấp thông tin thứ cấp...
Bước 3: Tiến hành thu thập thông tin từ những nguồn thông tin tin cậy đã
được xác định trước.
Thông tin được tiến hành thu thập phải là những thông tin có liên quan
đến hoạt động của Tập đoàn, ví dụ như Tập đoàn VNPT thu thập những thông
tin có liên quan đến quyết định đầu tư thì thông tin được thu thập chủ yếu từ
những nguồn sau: thông tin từ Bộ Kế hoạch và Đầu tư, thông tin từ Luật đầu
tư nước ngoài, thông tin về thị phần Tập đoàn, thông tin về nhu cầu sản
phẩm…
Bước 4: Tiến hành phân loại thông tin thành: thông tin chiến lược, thông
tin chiến thuật, và thông tin tác nghiệp.
Khi thông tin được phân loại thành thông tin chiến lược, thông tin chiến
thuật, thông tin tác nghiệp thì việc lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch sẽ tiến
hành được thuận lợi hơn.
Ví dụ: Quyết định về đầu tư trong nước: tùy từng cấp quản trị cần sử
dụng các thông tin khác nhau, như:
- Ở cấp chiến lược: chủ trì lập kế hoạch tổng thể về chính sách đầu tư
trong nước; để lập được kế hoạch này, nhà quản trị cấp chiến lược
cần những thông tin mang tính chất chiến lược như: nhu cầu đầu tư?
Vốn tài trợ cho dự án đầu tư? Rủi ro và tỷ suất sinh lời của dự án đầu
tư?
- Ở cấp chiến thuật: triễn khai thực hiện kế hoạch đầu tư do nhà quản
trị cấp chiến lược ra quyết định; để triển khai thực hiện kế hoạch này,
181
nhà quản trị cấp chiến lược cần những thông tin: đầu tư ở lĩnh vực
nào? Đầu tư như thế nào? Thời gian tiến hành đầu tư?
- Ở cấp tác nghiệp: đôn đốc, thực hiện kế hoạch đầu tư do nhà quản
trị cấp chiến thuật triễn khai, để thực hiện kế hoạch này, nhà quản trị
cấp tác nghiệp cần những thông tin: địa điểm lắp đặt đầu tư? Chi phí
đầu tư? Thời gian thực hiện đầu tư? Phản hồi hiệu quả của việc đầu
tư…
Với các bước thực hiện trên, ta thấy quy trình thu thập thông tin sẽ được
cụ thể hóa ở từng cấp quản trị, tránh được tình trạng thu thập thông tin bị
chồng chéo, tiết kiệm được thời gian và tiết kiệm được chi phí để có được
những thông tin cần thiết.
3.3.1.2 Giải pháp về quy trình xử lý thông tin
Xử lý thông tin là thu thập dữ liệu có chọn lọc để chuyển thành thông tin
cần thiết, kịp thời, chính xác… nhằm phục vụ rộng rãi cho việc ra quyết định
tài chính. Để có được hệ thống thông tin tốt, xử lý thông tin phải đáp ứng các
tiêu chí sau:
a. Đầy đủ: tất cả mọi thông tin phải đầy đủ, thông tin nào cần được xử lý
thì phải xử lý.
b. Chính xác: thông tin sau khi được xử lý phải đảm bảo đúng với nguồn
của nó.
c. Kịp thời: Thời gian xử lý tức thì với dữ liệu sẵn có và đáp ứng được
nhu cầu thông tin một cách kịp thời.
d. Bảo mật: quy trình xử lý thông tin phải đảm bảo tính chính xác và bảo
mật để không phải bất kỳ ai cũng có thể can thiệp trái phép trong quá trình xử
lý, và thông tin không bị thay đổi sau khi quá trình xử lý hoàn thành.
e. Nguồn dữ liệu phải được kiểm chứng.
182
f. Hiệu quả của việc xử lý cần được đánh giá thông qua chất lượng thông
tin cung cấp cho nhà quản trị
Quá trình xử lý được thể hiện qua sơ đồ 3.1 dưới đây. Để xử lý tốt thông
tin, ta xây dựng ba bộ phận chính cấu thành một hệ thống: Thông tin đầu vào,
quá trình xử lý, và kết quả thông tin đầu ra; ngoài ba bộ phận chính này, một
đặc điểm quan trọng khác của một hệ thống ta cần lưu ý là môi trường và ranh
giới hệ thống.
Sơ đồ 3.1: Quy trình xử lý thông tin
Ranh giới hệ thống
Môi trường Môi trường Thông tin đầu vào Xử lý thông tin Thông tin đầu ra
hình 3.1 Thông tin đầu vào: được thu thập từ thông tin bên trong và bên ngoài
doanh nghiệp, hoặc được lấy từ kết quả xử lý của một hệ thống thông tin
khác; ví dụ: đầu ra từ một hệ thống xử lý giao dịch tạo thành đầu vào cho hệ
thống thông tin quản lý.
Xử lý thông tin: “Biến đổi thông tin đầu vào thành thông tin đầu ra sau
khi loại bỏ những thông tin thừa, không phù hợp, không chính xác, không kịp
thời, hay không đủ tin cậy”.[8]
Thông tin đầu ra: “là kết quả của quá trình xử lý, thông tin đầu ra phải
đảm bảo phù hợp với nhu cầu người sử dụng”.[8]
Ranh giới hệ thống: “mục đích đặt ra ranh giới này nhằm phân tách hệ
thống thông tin từ môi trường”[8], ví dụ: hệ thống kinh doanh và hệ thống kỹ
thuật là hai hệ thống riêng biệt, nhưng có thể là giao diện để cho phép trao đổi
với hệ thống tài chính. Hay giao diện giữa hệ thống thông tin kinh tế bên
183
trong và hệ thống thông tin kinh tế bên ngoài phối hợp lại để xây dựng nên hệ
thống thông tin kinh tế chung nhằm phục vụ ra quyết định tài chính của Tập
đoàn.
Bất cứ điều gì ờ bên ngoài ranh giới hệ thống đều thuộc về môi trường
của hệ thống. Một hệ thống bao giờ cũng tiếp nhận thông tin đầu vào từ môi
trường và cung cấp kết quả đầu ra vào môi trường; môi trường có tác động
đáng kể đến hệ thống, nhưng hệ thống không có tác động đến môi trường.
Ví dụ: Để nhà quản trị cấp chiến lược ra quyết định đầu tư vào TSCĐ
(nhà trạm) ở khu vực nào đó, thì nhân viên kỹ thuật ở khu vực đó trở thành
tham mưu cho nhà quản trị đơn vị trực tiếp; hay cụ thể hơn, nhân viên kỹ
thuật phải tiếp cận với môi trường làm việc bên ngoài nhằm mục đánh giá
vùng phủ sóng ở các khu vực có đảm bảo chất lượng theo yêu cầu của người
sử dụng, nếu vùng phủ sóng bị yếu, thì cần phải lắp đặt thêm bao nhiêu trạm
(số lượng trạm lắp đặt thêm căn cứ vào bán kính phát sóng) => Đây chính là
yếu tố môi trường;
Sau khi khảo sát chất lượng vùng phủ sóng, nhân viên kỹ thuật báo cáo
lên phòng kỹ thuật về tình hình chất lượng sóng ở vùng đó, trưởng phòng kỹ
thuật lập tờ trình báo cáo lên nhà quản trị cấp tác nghiệp đề nghị được lắp đặt
thêm nhà trạm (hoặc không lắp đặt thêm) => Đây chính là yếu tố đầu vào;
Căn cứ vào tờ trình của trưởng phòng kỹ thuật, nhà quản trị cấp tác
nghiệp đề xuất lên nhà quản trị cấp chiến lược lập kế hoạch cho năm tới về
việc lắp đặt thêm nhà trạm (hoặc không lắp đặt thêm) => Đây chính là quá
trình xử lý thông tin;
Căn cứ vào đề xuất này nhà quản trị cấp chiến lược ra quyết định có
nên đầu tư thêm TSCĐ không => Đây chính là yếu tố đầu ra;
Sau khi cấp chiến lược ra quyết định đầu tư vào TSCĐ, bộ phận cấp tác
nghiệp tiến hành thực hiện quyết định này => thông tin trở ra môi trường.
184
Xử lý thông tin nhằm mục đích hỗ trợ những thông tin cung cấp cho nhà
quản trị được hoàn chỉnh hơn, loại bỏ những thông tin không cần thiết, hạn
chế được sai lầm cho nhà quản trị khi ra quyết định tài chính do quyết định bị
“nhiễu” bởi những thông tin không cần thiết. 3.3.1.2 Giải pháp về quy trình hoàn thiện thông tin
a. Chức năng của hệ thống thông tin: Các chức năng cơ bản của hệ thống
thông tin kinh tế nhằm hỗ trợ nhà quản trị tài chính ra các quyết định tài chính
dài hạn, cụ thể như ra các quyết định sau:
Quyết định đầu tư
Quyết định huy động vốn
Quyết định phân phối lợi nhuận
b. Quy trình hoàn thiện hệ thống thông tin
Hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế nhằm phục vụ ra quyết
định đầu tư dài hạn ở nước ngoài:
Trong chương 2 ta thấy để đưa ra quyết định đầu tư, nhà quản trị các cấp
cần phải có bộ phận tham mưu về đầu tư; và cần phải có một độ trễ thời gian
nhất định để tiếp nhận những thông tin này. Mặt khác, cơ sở hạ tầng của tập
đoàn Viễn thông VNPT có đặc điểm: vững chắc, hiện đại nên đòi hỏi vốn đầu tư
lớn làm cho thời gian thu hồi vốn chậm; đây cũng chính là một trong những
nguyên nhân nhà quản trị e ngại trong việc đưa ra các quyết định đầu tư, kết quả
của sự chậm trễ trong đầu tư trong thời gian vừa qua là VNPT đã bị Viettel
chiếm thị phần khá lớn ở khu vực nông thôn và ở nước ngoài. Vì thế, để giành
lại thị phần trong nước, VNPT cần phải chú trọng đến việc hoàn thiện hệ thống
thông tin kinh tế, nhất là những thông tin về đầu tư. Sau đây là giải pháp hoàn
thiện hệ thống thông tin kinh tế phục vụ cho quyết định đầu tư nước ngoài:
Bước 1: Thu thập thông tin và rút ra những kinh nghiệm thành công cũng
như thất bại trong việc đầu tư của các đối thủ về việc đầu tư nước ngoài, cụ thể
185
như từ Tập đoàn Viễn thông Quân đội Viettel.
Bước 2: Dự báo thông tin về diễn biến môi trường kinh doanh quốc tế về
vấn đề thu hút đầu tư của nước ngoài; quan sát kỹ đối thủ, hiểu rõ thị trường để
xây dựng chiến lược cho phù hợp.
Bước 3: Phân tích những mặt mạnh, yếu, cơ hội, thách thức của việc đầu tư
đầu tư ở nước ngoài để có những thông tin tin cậy đánh giá hiệu quả đầu tư. Ví
dụ như Tập đoàn VNPT tham gia liên minh Conexus- liên minh bao gồm các
nhà khai thác di động hàng đầu trong khu vực giúp VNPT có cơ hội thâm nhập
vào thị trường viễn thông quốc tế được thuận lợi hơn.
Bước 4: Đề ra phản ứng chiến lược: đầu tư liên doanh trước, đầu tư hạ tầng
sau; đây là bước đi phù hợp với khả năng và thế mạnh của VNPT để đầu tư ra thị
trường nước ngoài, để giành vị thế không những ở thị trường trong nước mà còn
ở cả thị trường nước ngoài, cụ thể:
1. Thành lập công ty VNPT Global chuyên tìm kiếm cơ hội đầu tư ra nước
ngoài, cụ thể là thành lập văn phòng đại diện, đặt trụ sở ở các nước mà
Tập đoàn VNPT có kế hoạch đầu tư. Giai đoạn đầu VNPT Global sẽ đầu
tư khai thác các dịch vụ chính là Data, Voice và các giải pháp truyền
thông khác cho khách hàng chính là giới doanh nghiệp tại địa phương.
2. Tích cực thúc đẩy hợp tác đầu tư, từng bước triển khai đầu tư tại thị
trường nước ngoài thông qua việc chủ động tìm kiếm thị trường ở các
nước trong khu vực và trên thế giới, đặc biệt là những quốc gia có mối
quan hệ truyền thống tốt đẹp với Việt Nam.
3. Từng bước đầu tư phát triển hạ tầng mạng lưới ở nước ngoài
4. Nghiên cứu đầu tư của đối thủ cạnh tranh để đầu tư ứng dụng công
nghệ hợp lý.
5. Nắm bắt, hiểu đúng thủ tục đầu tư nước ngoài và các cam kết quốc tế.
Hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế nhằm phục vụ ra quyết
186
định đầu tư dài hạn đối với đầu tư trong nước:
Thị trường trong nước là thị trường chính, là thị trường bền vững của
Tập đoàn VNPT, ở thị trường đầu tư trong nước chắc chắn sẽ có nhiều khác
biệt và thuận lợi hơn so với thị trường đầu tư ở nước ngoài, vì thế giải pháp
hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế phục vụ cho quyết định đầu tư trong
nước cũng sẽ đơn giản hơn so với giải pháp hoàn thiện hệ thống thông tin
kinh tế phục vụ cho quyết định đầu tư nước ngoài, cụ thể giải pháp hoàn thiện
hệ thống thông tin kinh tế của Tập đoàn VNPT cho việc ra quyết định đầu tư
trong nước được thể hiện thông qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 3.2: hoàn thiện hệ thống thống thông tin kinh tế phục vụ ra quyết định
Thu thập và xử lý nguồn thông tin bên trong
Thu thập và xử lý nguồn thông tin bên ngoài
Nhu cầu đầu tư trong nước
Trình độ trang bị kỹ thuật của đối thủ cạnh tranh cùng ngành
Địa điểm đầu tư
Lý do đầu tư….
Đây là những thông tin được dùng làm căn cứ nhằm hỗ trợ cho nhà quản lý cấp chiến lược đưa ra quyết định đầu tư
đầu tư trong nước
CẤP CHIỀN LƯỢC
Cấp chiến lược lập kế hoạch đầu tư phân bổ cho cấp chiến thuật thực hiện tư
Căn cứ vào thông tin phản hồi phân bổ lại kế hoạch
Cấp chiến thuật phản hồi thông tin lên cấp chiến lược
CẤP CHIẾN THUẬT
phân bổ lại kế hoạch đã được điều chỉnh
Cấp tác nghiệp phản hồi thông tin lên cấp chiến thuật
Căn cứ vào kế hoạch đầu tư được giao, nhà quản trị cấp chiến thuật phân bổ cho cấp tác nghiệp thực hiện.
CẤP TÁC NGHIỆP
Thực hiện
Không đáp ứng được chất lượng vùng phủ sóng
187
Đáp ứng được chất lượng vùng phủ sóng
Quy trình xây dựng hệ thống thông tin nhằm phục vụ ra quyết định đầu tư
trong nước được thực hiện qua các bước sau:
Bước 1: Thu thập thông tin và xử lý thông tin
Những thông tin bên trong và thông tin bên ngoài, thông tin kinh tế vi mô
và vĩ mô, thông tin kinh tế quá khứ và hiện tại của Tập đoàn được thu thập, xử lý
và cung cấp kịp thời cho nhà quản trị cấp chiến lược.
Bước 2: Phân tích những mặt mạnh, yếu, cơ hội, thách thức của quyết định
đầu tư của Tập đoàn VNPT để nhà quản trị có được những thông tin cần thiết
trước khi đề ra phản ứng chiến lược về đầu tư, cụ thể:
1. Điểm mạnh:
- Có cơ sở hạ tầng mạnh, luôn đi tiên phong trong yếu tố công nghệ;
- Khai thác đầu tư có hiệu quả vì VNPT có lượng khách hành trung
thành lớn, chủ yếu là khách hàng tiềm năng cao.
- VNPT đầu tư rất mạnh về các dịch vụ giá trị gia tăng.
2. Điểm yếu:
- VNPT đã đầu tư mạnh về cơ sở hạ tầng nên đã định vị được thương
hiệu với nhóm khách hàng là doanh nghiệp, công nhân viên ở các
thành phố lớn; nhưng với đối tượng là người bình dân ở nông thôn
thì thương hiệu vẫn còn yếu, mà đây lại là nhóm có lượng khách
hàng đông đảo;
- Do tâm lý là Tập đoàn của nhà nước nên quyết định đầu tư của Tập
đoàn VNPT chưa thực sự linh hoạt như đối thủ Viettel;
- VNPT chưa đầu tư thâm nhập mạnh vào thị trường quốc tế.
3. Cơ hội:
- Thị trường sử dụng dịch vụ viễn thông vẫn còn mạnh nên khả năng
đầu tư vào thị trườn này vẫn còn cao;
- Thời đại hiện nay là thời đại tất yếu của xu hướng 4G với nhiều
188
tiện ích 4G được ứng dụng, đây là cơ hội lớn để Tập đoàn VNPT
đầu tư khai thác 4G;
- Hiện nay, các loại hình dịch vụ giá trị gia tăng trên nền SMS của
các công ty quảng cáo, ngân hàng chạy trên phần mềm điện thoại
di động ngày càng phát triển, đây là cơ hội đầu tư khai thác làm
tăng hiệu quả hoạt động cho Tập đoàn VNPT.
4. Thách thức:
- Thị trường viễn thông đang tiến tới bảo hòa, và đang có quá nhiều
nhà mạng lớn có uy tín ở Việt Nam cũng như trên thế giới tham
gia đầu tư vào mạng viễn thông Việt Nam.
Sau khi phân tích những mặt mạnh, yếu, cơ hội, thách thức, nhà quản trị đề
ra phản ứng chiến lược đó là tiến hành lập kế hoạch đầu tư phù hợp.
Bước 3: Lập kế hoạch đầu tư
Sau khi tiếp nhận những thông tin được thu thập ở bước 2, nhà quản lý cấp
chiến lược tiến hành kết hợp các điểm: yếu – cơ hội; mạnh – thách thức; yếu –
thách thức; mạnh – cơ hội; để tiến hành lập kế hoạch đầu tư cho những năm tới
và phân bổ kế hoạch đầu tư xuống cấp chiến thuật.
Bước 3: Triễn khai thực hiện
Sau khi tiếp nhận kế hoạch được phân bổ từ cấp chiến lược, nhà quản trị
cấp chiến thuật tiến hành triễn khai xuống cấp tác nghiệp thực hiện.
Bước 4: Phản hồi thông tin
Cấp tác nghiệp tiến hành thực hiện lắp đặt các trạm phát sóng và phản hồi
thông tin lên cấp chiến thuật về chất lượng vùng phủ sóng. Sau đó cấp chiến
thuật tiếp tục phản hồi thông tin lên cấp chiến lược về chất lượng vùng phủ sóng;
nếu vùng phủ sóng vẫn còn yếu, chất lượng phủ sóng chưa đạt yêu cầu thì cấp
chiến lược tiếp tục phân bổ đầu tư thêm xuống cấp tác nghiệp thực hiện thông
qua cấp chiến thuật.
189
Tuy nhiên, do vốn đầu tư của tập đoàn có hạn, nên việc đầu tư sẽ bị hạn chế
theo. Để khắc phục nhược điểm này, tác giả mạnh dạn đề nghị Tập đoàn VNPT
xem xét lại chính sách đầu tư phù hợp (đầu tư mới, đầu tư thay thế, hay liên kết
với đối tác để thuê trạm phát sóng lẫn nhau nhằm mục đích hạn chế được chi phí
lắp đặt trạm nhưng vẫn đãm bảo được vùng phủ sóng tốt).
Hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế nhằm phục vụ ra quyết
định huy động vốn
Vốn đầu tư là điều kiện tiên quyết để Tập đoàn tồn tại và phát triển; vì
thế vốn đầu tư không thể thiếu được, để đảm bảo cho Tập đoàn hoạt động ổn
định và mở rộng đầu tư trong nước cũng như đầu tư quốc tế, thì trước tiên đòi
hỏi vốn đầu tư vừa phải ổn định, vừa phải đảm bảo được an ninh tài chính; vì
thế, việc hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế hỗ trợ nhà quản trị tài chính ra
quyết định huy động vốn là việc làm rất cần thiết và hoàn toàn không thể
thiếu được, sau đây là quy trình hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế phục vụ
ra quyết định huy động vốn.
Bước 1: Xác định nhu cầu thông tin và các nguồn cung cấp thông tin bên
trong lẫn bên ngoài về huy động vốn, cụ thể:
- Nguồn thông tin bên trong, như: thông tin kế toán cung cấp cho nhà
quản trị biết cần huy động bao nhiêu vốn; thông tin về việc huy động
vốn từ những nguồn nào: nợ bao nhiêu, vốn chủ sở hữu bao nhiêu;
thông tin về chi phí sử dụng vốn của mỗi nguồn vốn là bao nhiêu;
thông tin về rủi ro và tỷ suất sinh lời của Tập đoàn…
- Nguồn thông tin bên ngoài, như: những thông tin quy định về pháp
lý, thông tin về khả năng thâm nhập thị trường vốn của Tập đoàn,
thông tin về cơ hội đầu tư….
Bước 2: Tiến hành thu thập và xử lý thông tin: Sau khi xác định nhu cầu và
các nguồn cung cấp thông tin ở bước 1, bộ phận quản trị hệ thống thông tin kinh
190
tế cần phải tiến hành thu thập và xử lý thông tin theo sơ đồ 3.1 trang 178 của
Luận án; mục tiêu của quá trình này là thông tin được cung cấp cho nhà quản trị
sau khi được xử lý phải là những thông tin tốt (đảm bảo đầy đủ các tính chất:
chính xác, đầy đủ, cần thiết, kịp thời, tin cậy, và bảo mật).
Bước 3: Sau khi tiếp nhận thông tin ở bước 2, nhà quản trị tiến hành dự báo
diễn biến môi trường kinh doanh, như: tình hình ổn định chính trị trong nước
cũng như ở các nước khác mà Tập đoàn VNPT đặt nền móng đầu tư; các yếu tố
kinh tế và chính sách phát triển kinh tế; yếu tố xã hội; yếu tố hạ tầng cơ sở
nghiên cứu và phát triển, yếu tố kỹ thuật, yếu tố quốc tế; nhà cung cấp; đối thủ
cạnh tranh; nguồn nhân lực; yếu tố về tài chính, yếu tố khách hàng…
Bước 4: Khi đã tiến hành dự báo diễn biến môi trường đầu tư ở bước 3, nhà
quản trị tiến hành phân tích những mặt mạnh, yếu, cơ hội, thách thức của Tập
đoàn để có được những thông tin cần thiết trước khi đề ra phản ứng chiến lược
về huy động vốn, cụ thể:
1. Điểm mạnh:
Tập đoàn Bưu chính – Viễn thông Việt Nam VNPT là Tập đoàn của
nhà nước nên có nguồn vốn tài trợ chủ yếu là từ ngân sách nhà nước,
nên Tập đoàn VNPT chủ động về đồng vốn, rủi ro về tài chính thấp.
2. Điểm yếu:
Do trong quá khứ, Tập đoàn VNPT đã triễn khai chậm trễ vốn vay
ODA, VNPT làm mất uy tín trong việc sử dụng nguồn vốn vay này,
nên trong tương lai Tập đoàn VNPT sẽ gặp khó khăn hơn trong việc
sử dụng đồng vốn vay ODA để tài trợ cho việc mở rộng đầu tư nước
ngoài.
Thâm dụng vốn của nhà nước, hiệu quả sử dụng vốn của nhà nước
chưa cao.
VNPT sử dụng nợ vay ít (khoản 20% trên tổng nguồn vốn), nên chưa
191
phát huy tích cực hiệu quả đồng vốn vay.
3. Cơ hội:
Chiến lược đầu tư ra nước ngoài của Tập đoàn VNPT trong giai đoạn
đầu là hợp tác đầu tư, vì thế nguồn vốn tài trợ cho việc đầu tư ra
nước ngoài chiếm tỷ trọng nhỏ hơn 50% trong tổng vốn đầu tư, và
nguồn vốn này một phần được tài trợ từ vồn chủ sở hữu, một phần
được tài trợ từ việc mua chịu thiết bị, nên dù VNPT hợp tác kinh
doanh ở nhiều quốc gia nhưng tổng số vốn thực đem đi đầu tư nước
ngoài không lớn lắm.
Tập đoàn VNPT có thương hiệu lớn ở thị trường Việt Nam cũng như
trên thế giới, vì thế khả năng thâm nhập thị trường vốn quốc tế cao.
4. Thách thức:
Do VNPT tham gia vào thị trường nước ngoài chưa lâu, hiệu quả đầu
tư chưa rõ ràng, môi trường cạnh tranh gay gắt, nên an ninh về đồng
vốn đầu tư không được đảm bảo.
Bước 5: Kết hợp các thông tin về điểm mạnh, yếu, cơ hội, thách thức để đề
ra phản ứng chiến lược huy động vốn của Tập đoàn, cụ thể:
Xác định nguồn huy động bên trong
Xác định nguồn huy động bên ngoài
Xác định WACC của tổng nguồn vốn huy động
Xác định tỷ suất sinh lời (TSSL) của dự án đầu tư
Sau khi thực hiện các bước trên, nhà quản trị cấp chiến lược tiến hành so
sánh giữa chi phí dử dụng vốn bình quân và tỷ suất sinh lời của đồng vốn huy
động để đưa ra quyết định huy động vốn.
Hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế nhằm phục vụ ra quyết
định phân phối lợi nhuận:
Hiện nay VNPT phân phối lợi nhuận theo quy định của nhà nước và
192
việc phân phối lợi nhuận này chiếm một phần lớn về thu nhập của VNPT
nhằm đem về thu nhập cao cho người lao động; tuy nhiên, việc phân phối lợi
nhuận này phụ thuộc vào hệ số lương của người lao động, nên chưa phản
ánh đúng năng suất lao động của từng người; có thể nói việc phân phối hiện
nay của VNPT chưa linh hoạt, đây chính là hạn chế của VNPT trong chính
sách phân phối lợi nhuận, chính sách này chưa thật sự đãi ngộ người tài
thông qua hình thức phân phối lợi nhuận. Vì thế, trong những năm vừa qua,
nguồn nhân lực của VNPT đã bị Viettel thu hút do Viettel đã sử dụng chính
sách đãi ngộ thông qua tiền thưởng cao. Vì thế, để hạn chế “chảy máu chất
xám” của VNPT, tác giả mạnh dạn đề xuất VNPT thực hiện chính sách
thưởng khoán, nghĩa là khoán công việc kèm theo khoán tiền thưởng, ai làm
việc với công suất cao, tiết kiệm được nguồn nhân lực thì sẽ thưởng cao, và
ngược lại.
Tóm lại: Để thuận lợi trong việc thực hiện các giải pháp tài chính trên,
ta chú trọng đẩy mạnh thực hiện một số công việc nhằm mang tính chất bổ
trợ sau:
1. Tối ưu hóa các quyết định tài chính:
Xây dựng cơ cấu vốn tối ưu;
Đánh giá đúng rủi ro và tỷ suất sinh lời của quyết định đầu tư;
Quản trị vốn có hiệu quả;
Giám sát, theo dõi đánh giá hiệu quả tài chính của dự án.
2. Quản trị rủi ro tài chính
o Quản trị rủi ro thông qua việc phân tích, đánh giá rủi ro của dự án
đầu tư;
o Quản trị rủi ro về chi phí sử dụng vốn;
3. Tiến hành đầu tư tài chính
Tìm kiếm cơ hội đầu tư phù hợp;
193
Lập phương án và thực hiện việc mua, bán, sáp nhập, tái cơ cấu
phù hợp.
4. Hoàn thiện hệ thống kế toán BCTC và hoàn thiện hệ thống phần
mềm:
- Xây dựng hệ thống tài chính, kế toán theo mô hình mới (theo
hướng tách bạch công tác tài chính và công tác kế toán theo hai
mảng riêng).
- Nâng cấp hệ thống kế toán và kết nối dữ liệu với các hệ thống
khác (như: hệ thống kỹ thuật, phần mềm bán hàng…);
- Sử dụng các công cụ tiên tiến để phân bổ chi phí, phục vụ ra
quyết định tài chính.
5. Đào tạo nguồn nhân lực:
Phát triển đội ngủ nhân sự có chuyên môn cao, có đạo đức nghề
nghiệp;
Tăng sự gắn bó, trung thành với tập đoàn;
Phát triển đội ngủ kế cận.
5. Nghiêm túc thực hiện quy chế, quy định hướng dẫn của Tập đoàn:
- Rà soát văn bản hướng dẫn hiện hành;
- Cập nhật, bổ sung các văn bản Luật có liên quan
- Định kỳ, tổ chức hội thảo, hội nghị hướng dẫn.
3.3.2 Giải pháp về nội dung cấu thành hệ thống thông tin.
3.3.2.1. Giải pháp về thông tin bên trong.
Thông tin kế toán: Thông tin được thu thập từ bên trong Tập đoàn có thể
là nguồn thông tin chính thức, cụ thể như từ sổ sách kế toán, báo cáo tài
chính, nguồn thông tin này có giá trị lớn đối với việc ra quyết định các chính
sách tài chính Tập đoàn, để duy trì tính đầy đủ, kịp thời và chính xác thông tin
194
từ hồ sơ kế toán cung cấp, Tập đoàn cần kiểm soát tài chính - kế toán các mặt
sau:
- Các phương pháp hạch toán kế toán có đảm bảo tính tuân thủ pháp luật;
- Nghĩa vụ đối với nhà nước công ty có thực hiện đầy đủ;
- Chính sách chia lợi nhuận của công có đãi ngộ người lao động;
- Quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh có đảm bảo nguyên tắc bảo
toàn vốn;
- Vốn có cung ứng đủ và kịp thời cho đầu tư;
- Thông tin kế toán có minh bạch.
Ngoài ra, các hoạt động giao dịch trong thực tế có thể còn phát sinh
những thông tin có giá trị mà sổ sách kế toán chưa thể hiện đầy đủ, hoặc có
thể hiện nhưng chưa rõ ràng; ví dụ: hệ thống thông tin kiểm soát hàng tồn kho
sẽ bao gồm các chi tiết về đơn đặt hàng, hàng hóa bán được, hàng bán bị trả
lại…Từ những thông tin này sẽ giúp nhà quản trị phân tích tình hình về tốc độ
giao hàng cũng như chất lượng hàng hóa, là cơ sở đề ra chính sách dự trữ
hàng tồn kho, nguồn thông tin này chủ yếu được lấy từ phòng kế toán của các
công ty thành viên của Tập đoàn.
Nguồn thông tin chính thức bên trong Tập đoàn còn có thể được thu thập
từ nguồn lực nhân sự thông qua hồ sơ trả lương, đây là thông tin về con người
giúp nhà quản trị nắm bắt được kỹ năng làm việc, nguyện vọng, thái độ làm
việc, tâm huyết với chuyên môn của người lao động thể hiện qua mức lương
họ nhận được. Từ những thông tin này sẽ hỗ trợ nhà quản trị xây dựng chiến
lược: mở rộng hay thu hẹp quy mô hoạt động, thiết bị kỹ thuật đầu tư lạc hậu
hay hiện đại, và mức lương được xây dựng sao cho phù hợp với trình độ và
năng suất tay nghề của người lao động; đây là những thông tin so sánh giữa
chi phí và hiệu quả hoạt động của người lao động. Nguồn thông tin này chủ
yếu được lấy từ phòng quản lý nhân sự của Tập đoàn.
195
Thông tin dự báo thị phần của doanh nghiệp trên thị trường: Thị phần
của Tập đoàn tác động trực tiếp đến kế hoạch đầu tư, nhu cầu vốn, trình độ
công nghệ, năng lực sản xuất … Đây là thông tin cực kỳ quan trọng đối với
nhà quản trị doanh nghiệp trong việc lập kế hoạch thúc đẩy Tập đoàn tăng
trưởng và phát triển trong tương lai. Thông tin này được lấy từ trong nội bộ
của Tập đoàn như sổ sách kế toán, chiến lược đầu tư trong những năm qua
làm cơ sở xác định thị phần của Tập đoàn trong những năm tới.
Thông tin truyền thông: truyền thông có tác dụng truyền tải thông tin đến
tai người tiêu dùng, giúp người tiêu dùng hiểu rõ sản phẩm của Tập đoàn hơn,
nhằm hỗ trợ khách hàng dễ dàng trong việc lựa chọn sử dụng sản phẩm dịch
vụ của Tập đoàn VNPT, truyền thông có thể được tiến hành bằng nhiều cách:
truyền thông bằng kênh USSR, truyền thông bằng kênh Voice Broadcast, hay
phối hợp với tổng cục du lịch để truyền thong dịch vụ MPlace, giải pháp truyền
thông dịch vụ được tiến hành theo từng vùng của thị trường của Tập đoàn.
Trình độ công nghệ: Trình độ công nghệ được Tập đoàn trang bị tác
động mạnh mẽ đến năng lực sản xuất, chất lượng và số lượng sản phẩm được
sản xuất ra, vì thế nhà quản trị cần phải hiểu rõ trình độ công nghệ của Tập
đoàn đang sử dụng để dự báo kế hoạch đầu tư và nhu cầu vốn cho phù hợp với
năng lực của Tập đoàn. Nguồn thông tin này được thu thập từ trong nội bộ Tập
đoàn, cụ thể từ Phòng Kỹ thuật của Tập đoàn.
Ngoài ra, thông tin bên trong nội bộ có thể được thu thập từ hoạt động
hàng ngày của Tập đoàn, hoặc thông qua các cuộc họp, hoặc bảng câu hỏi
khảo sát.
Sau đây là một số giải pháp về trình độ công nghệ của VNPT cho những
năm tới:
Phát triển mạng băng rộng 4G LTE;
196
Hỗ trợ tăng trưởng mạnh kỹ thuật OTT cùng với tốc độ phát triển của
smartphone;
Dần dần thay thế kỹ thuật ASDL bằng kỹ thuật FTTH do lợi thế về tốc
độ, giúp khoản cách giá cả thu hẹp;
Khai thác dịch vụ truyền hình trả tiền kỹ thuật số còn nhiều tiềm năng
3.3.2.2 Giải pháp về thông tin bên ngoài.
Những thông tin bên ngoài như tốc độ tăng trưởng hay trình độ trang bị
kỹ thuật của đối thủ là những thông tin rất quan trọng giúp cho nhà quản trị
đưa ra quyết định tài chính sát với thực tế hơn, vì những thông tin này giúp
nhà quản trị của VNPT đánh giá được tiềm lực của VNPT mạnh hay yếu
thông qua việc so sánh giữa tốc độ tăng trưởng và trình độ trang bị kỹ thuật
của VNPT với đối thủ cùng ngành.
Về trình độ trang bị kỹ thuật: việc so sánh trình độ trang bị kỹ thuật của
VNPT với đối thủ cùng ngành (Viettel) trong thực tế diễn ra rất thuận lợi, vì
các thiết bị nhà trạm hầu hết được xây dựng ngoài trời và có thể khảo sát bằng
mắt thường, nên việc khảo sát so sánh của VNPT không gặp trở ngại gì.
Về tốc độ tăng trưởng: việc so sánh tốc độ tăng trưởng với đối thủ đều
được các kênh truyền thông thông tin vào cuối mỗi năm trên mọi phương tiện
thông tin đại chúng, vì thế việc so sánh tốc độ tăng trưởng của VNPT với đối
thủ là điều hiển nhiên thực hiện được.
3.3.3 Giải pháp về phương thức cấu thành hệ thống thông tin.
3.3.3.1 Giải pháp về tiến độ:
Thông tin chủ yếu được cung cấp theo từng cấp quản lý, và theo quy
trình từ trên xuống; nếu quy trình làm việc của Tập đoàn phân chia quá nhiều
tầng lớp quản lý, thì tiến độ cung cấp thông tin sẽ bị chậm trễ, Tập đoàn dễ bị
mất đi cơ hội đầu tư do thông tin chậm trễ gây ra; mặt khác, thông tin đến trễ
197
sẽ gây ra thời gian chờ đợi bị kéo dài, năng suất làm việc thấp, cuối cùng chi
phí quản lý tăng lên.
Hiện nay, VNPT đã sắp xếp lại quy trình quản lý, giảm bớt sự quản lý
chồng chéo lẫn nhau, giảm bớt nhiều nấc thang quản lý, rút ngắn đường đi
của thông tin, tiến độ cung cấp thông tin đã được đẩy nhanh, tiến độ cung cấp
thông tin sẽ đảm bảo tính kịp thời và phù hợp.
Để thấy được hiệu quả của việc tái cơ cấu giúp Tập đoàn đẩy nhanh tiến
độ cung cấp thông tin, ta so sánh quy trình quản lý của Tập đoàn VNPT trước
và sau khi thay đổi cơ cấu:
Bảng 3.2: Bảng so sánh giữa hai quy trình quản lý của VNPT trước và sau
khi thay đổi cơ cấu quản lý
STT Vai trò Trước khi thay đổi Sau khi thay đổi
Phụ trách cả ba khối: khối Các khối kỹ thuật, kinh
kinh doanh, khối kỹ thuật, doanh, giá trị gia tăng tách
1 Cấp chiến và khối giá trị gia tăng -> do nhau hoàn toàn, Tổng Giám
lược Tổng Giám đốc công ty xuất đốc khối nào phụ trách khối
thân từ kỹ thuật, nên tâm lý đó -> mang tính chuyên sâu
ưu tiên đầu tư hạ tầng kỹ vấn đề, đem lại hiệu quả đầu
thuật hơn kinh doanh, nên tư cao hơn
thường đễ mất cơ hội đầu tư.
-Phụ trách cả ba khối, không - Mỗi nhà quản trị phụ trách
Cấp chiến có tính chuyên sâu vào từng từng khối riêng có tính có
2 thuật khối. tính chuyên sâu hơn.
- Hỗ trợ các Quận, Huyện về -Hỗ trợ các Quận, Huyện về
các vấn đề chuyên môn cả các vấn đề chuyên môn của
ba khối => thông tin dễ bị từng khối => thông tin
chồng chéo. thông suốt hơn
198
3.3.3.2 Giải pháp về cung cấp thông tin
Để có thể trở thành nguồn thông tin hữu ích, thông tin sau khi được thu
thập, xử lý, đánh giá để trở thành thông tốt (chính xác, đầy đủ, phù hợp, dễ sử
dụng…), thì thông tin sẽ được tiến hành cung cấp cho nhiều cấp quản trị sử
dụng như: cấp chiến lược, cấp chiến thuật và cấp tác nghiệp. Làm thế nào để
cung cấp thông tin một cách thường xuyên, cho ai và bằng những phương
pháp nào là vấn đề không đơn giản. Vì thế, để tiến hành cung cấp thông tin
một cách thuận lợi, thường xuyên và đều đặn, ta tiến hành cung cấp thông tin
qua các bước sau:
Bước 1: Xây dựng những nội dung cần cung cấp.
Bước 2: Xác định các cấp quản trị cần những loại thông tin nào: gồm
thông tin giúp cho nhà quản trị cấp chiến lược ra quyết định tài chính dài hạn;
thông tin hỗ trợ cho nhà quản trị cấp tác nghiệp ra quyết định tài chính ngắn
hạn; hay thông tin hỗ trợ cho cấp tác nghiệp thực hiện nhiệm vụ của họ.
Bước 3: Tiến hành phân loại thông tin thành: thông tin tác nghiệp,
thông tin chiến thuật và thông tin chiến lược.
Khi thông tin được phân loại thành thông tin chiến lược, thông tin chiến
thuật, thông tin tác nghiệp thì việc cung cấp thông tin nhằm phục vụ cho việc
lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch sẽ tiến hành được thuận lợi hơn.
Bước 4: Tiến hành cung cấp thông tin theo yêu cầu sử dụng của các cấp
quản trị.
Với các bước thực hiện trên, ta thấy quy trình cung cấp thông tin sẽ
được cụ thể hóa ở từng cấp quản trị, tránh được tình trạng cung cấp thông tin
bị chồng chéo, tiết kiệm được thời gian và tiết kiệm được chi phí để có được
những thông tin cần thiết.
3.3.4 Giải pháp về công cụ cấu thành hệ thống thông tin.
199
3.3.4.1 Giải pháp về máy vi tính
Máy vi tính có chức năng thu thập, kiểm tra, xử lý và truyền đạt thông tin
cho mọi thành viên trong Tập đoàn; máy tính giúp nhà quản lý kiểm tra xem
các thao tác được thực hiện có chính xác không, và các thông tin được giữ
trong cơ sở dữ liệu của Tập đoàn có đúng đắn không. Trong suốt quá trình
hoạt động, thông tin là yêu cầu cần thiết khách quan đối với mọi nhà quản trị,
để sử dụng thông tin phù hợp, kịp thời, chính xác, Tập đoàn bao giờ cũng cần
tiến hành kiểm tra, kiểm soát thông tin để đảm bảo tính đúng đắn của hệ
thống thông tin nhằm hỗ trợ đắc lực cho việc ra các quyết định tài chính.
Việc sử dụng máy tính kiểm soát thông tin nhằm giúp cho Tập đoàn
tránh một số nguy cơ:
Thông tin lỗi thời nhưng vẫn được đưa vào sử dụng, do đó cần phải
dùng máy tính để kiểm tra các thông tin thu thập.
Ý đồ xấu, cố tình bóp méo thông tin nhằm gây tổn thất cho Tập đoàn,
do đó phải tiến hành bảo mật thông tin thông qua việc dùng máy tính để mã
hóa dữ liệu, sử dụng mật khẩu trước khi xâm nhập vào máy tính, hoặc phân
quyền truy nhập khác nhau.
Để đảm bảo máy vi tính hoạt động có hiệu quả, Tập đoàn phải đưa ra quy
trình bảo vệ an toàn máy tính nhằm tránh sự cố kỹ thuật, rủi ro về môi trường
gây ra tổn thất cho Tập đoàn.
3.3.4.2 Giải pháp về phần mềm
Để hỗ trợ cho nhà quản trị có được những thông tin kinh tế để đưa ra
những chính sách tài chính kịp thời, chính xác, phù hợp; công ty cần phải có
những phần mềm chuyên biệt dùng cho chức năng tài chính bao gồm:
Quản lý ngân quỹ
Quản lý các khoản phải thu
Quản lý các khoản phải trả
200
Quản lý hàng tồn kho
Phân tích các báo cáo tài chính
Quản trị đầu tư
Cơ cấu vốn
Huy động vốn
3.3.4.3 Giải pháp về Internet
VNPT là Tập đoàn cung cấp dịch vụ viễn thông, internet là một trong
những dịch vụ thế mạnh của Tập đoàn, mang tính bảo mật cao và tốc độ
truyền thông nhanh, Internet đóng góp rất lớn vào hiệu quả hoạt động của tập
đoàn, và hiện nay Tập đoàn sử dụng rất có hiệu quả về internet, vì thế tác giả
không đưa ra giải pháp nào khác giải pháp hiện nay về internet mà Tập đoàn
đang áp dụng.
3.3.5 Hoàn thiện công tác tổ chức kế toán
Công tác tổ chức kế toán được gọi là hoàn thiện khi hệ thống kế toán
của công ty phải tuân thủ đúng pháp luật; thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với
nhà nước; nâng cao lợi ích chung của Tập đoàn và đãi ngộ người lao động.
3.3.5.1 Hoàn thiện tổ chức bộ máy kế toán
Tổ chức bộ máy kế toán trong Tập đoàn cần hoàn thiện phù hợp với
điều kiện cụ thể nhằm thu nhận, xử lý, phân tích và cung cấp thông tin đầy
đủ, kịp thời và trung thực phục vụ cho việc điều hành của nhà quản lý.
Theo đó, tổ chức bộ máy kế toán của Tập đoàn cần tương ứng với quy mô
và khối lượng công việc kế toán cần thực hiện cũng như số lượng và chất
lượng của đội ngủ người làm kế toán. Như vậy, đối với Tập đoàn hiện nay
nên tổ chức bộ máy kế toán tập trung theo mô hình kết hợp kế toán.
Hay nói cách khác, hoàn thiện hệ thống kế toán theo mô hình Tập
đoàn được biểu hiện qua việc hoàn thiện các mặt sau đây:
1. Hoàn thiện chính sách kế toán và thuế;
201
2. Kế toán trong Tập đoàn phải đồng bộ, thông suốt, dễ tổng hợp, so
sánh;
3. Thường xuyên kiểm tra, giám sát công tác tài chính – kế toán toàn
Tập đoàn.
4. Hoàn thiện vai trò là thông tin nội bộ:
Cung cấp thông tin kế toán nhanh chóng, đầy đủ, chính xác kịp
thời cho việc ra quyết định;
Cung cấp thông tin trong nội bộ Tập đoàn nhằm phục vụ công tác
nghiên cứu, đánh giá dự án đầu tư đã triển khai.
5. Hoàn thiện vai trò là thông tin bên ngoài:
Báo cáo theo yêu cầu của cơ quan nhà nước;
Cung cấp thông tin minh bạch cho các đối tượng có liên quan
(nhà đầu tư, tổ chức tín dụng, nhà cung cấp…)
3.3.5.2 Hoàn thiện hình thức kế toán
Báo cáo tài chính là phương tiện cung cấp thông tin về tình trạng tài
chính cũng như kết quả đầu tư trong một kỳ của một Tập đoàn cho các đối
tượng sử dụng. Tùy theo đặc điểm từng loại hình Tập đoàn và nhu cầu sử
dụng thông tin của người sử dụng mà báo cáo tài chính được lập và trình bày
một cách phù hợp. Hiện nay các Tập đoàn VNPT vẫn áp dụng hệ thống báo
cáo như các doanh nghiệp khác, điều này có một số hạn chế như các chỉ tiêu
trình bày trên báo cáo tài chính quá dài và phức tạp, không phù hợp với dạng
Tập đoàn đặc thù. Hơn nữa, mặc dù mẫu biểu của hệ thống báo cáo tài chính
quá dài, quá chi tiết nhưng vẫn chưa phản ánh đầy đủ những thông tin cần
thiết của Tập đoàn. Theo đó, các thông tin trên báo cáo tài chính cần hoàn
thiện, bao gồm:
- Các thông tin phản ánh trên bảng cân đối kế toán
202
Bảng cân đối kế toán là báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh tổng quát
toàn bộ giá trị tài sản hiện có và nguồn hình thành tài sản của Tập đoàn tại
thời điểm nhất định, đồng thời phản ánh tình hình tài chính thông qua mối
quan hệ giữa các chỉ tiêu, khoản, mục trình bày trên bảng. Song, hiện nay các
chỉ tiêu trên Bảng CĐKT chưa thực sự phản ánh đúng giá trị thực của tài sản
nên cũng không thể phản ánh thực chất hiệu quả đầu tư của Tập đoàn.
+ Chỉ tiêu Tài sản cố định: nhìn chung các Tập đoàn chưa phản ánh đầy
đủ giá trị của TSCĐ vô hình như giá trị những lợi thế thương mại đem lại về
các vị trí, địa điểm thuận lợi trong đầu tư kinh doanh, giá trị về quyền sử dụng
đất và một số giá trị TSCĐ vô hình khác. . . Vì vậy, hoàn thiện các thông tin
này trước hết cần hoàn thiện về cơ chế trích khấu hao TSCĐ và vấn đề xác
định giá trị Tập đoàn, đặc biệt là phương pháp xác định giá trị TSCĐ vô hình.
+ Các khoản phải thu: trên Bảng CĐKT của các DN, các khoản phải thu
cần phải chi tiết theo từng khoản phải thu ngắn hạn và phải thu dài hạn trong
thời hạn thanh toán và quá thời hạn thanh toán. Việc phân chia các khoản phải
thu thành phải thu ngắn hạn và phải thu dài hạn trong thời hạn thanh toán và
quá thời hạn thanh toán căn cứ vào tuổi nợ và thời hạn thanh toán.
Tóm lại: Khi công tác tổ chức kế toán tài chính được hoàn thiện thì báo
cáo tài chính sẽ được minh bạch hơn, vì thế công tác lập kế hoạch tải chính sẽ
được thuận lợi hơn; nhà quản trị các cấp sẽ có nguồn thông tin nội bộ tin cậy
sẽ dễ dàng ra các quyết định tài chính mà không phải tốn chi phí tìm kiếm
thông tin.
3.3.6 Một số giải pháp khác
3.3.6.1 Giải pháp về cơ chế chính sách và pháp luật về viễn thông
Xây dựng, hướng dẫn, triển khai các chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch, chương trình có liên quan đến quản lý và phát triển viễn
thông giai đoạn 2015-2020.
203
Đẩy mạnh việc xây dựng, chuyển đổi, nâng cao chất lượng các
tiêu chuẩn, quy chuẩn về viễn thông cho phù hợp với sự phát triển
của Việt Nam và thông lệ quốc tế.
Xây dựng cơ chế, chính sách, đảm bảo an ninh thông tin trong
môi trường cạnh tranh và hội nhập quốc tế.
3.3.6.2 Giải pháp về khoa học công nghệ
Tập trung nguồn lực về tài chính và con người cho nghiên cứu
phát triển, nghiên cứu ứng dụng nhằm nâng cao năng suất lao
động và năng lực cạnh tranh của Tập đoàn VNPT.
Đẩy mạnh việc áp dụng công nghệ cao trong việc thiết lập mạng
lưới, cung cấp dịch vụ và sản xuất thiết bị di động nhằm giảm giá
thành, phổ cập nhanh các dịch vụ viễn thông đến người tiêu dùng
với chất lượng tốt và giá cước hợp lý.
Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào việc quản lý, khai
thác mạng lưới, cung cấp dịch vụ để giảm chi phí, giá thành và
nâng cao hiệu quả kinh doanh của Tập đoàn.
3.3.6.3 Giải pháp về tổ chức
Hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách để trên cơ sở đó cơ cấu lại
thị trường viễn thông theo hướng phát triển bền vững, hiệu quả,
cạnh tranh lành mạnh.
Hoàn thành việc tái cấu trúc Tập đoàn Bưu chính – Viễn thông
Việt Nam VNPT nhằm nâng cao năng suất lao động và nâng cao
năng lực cạnh tranh làm chủ thị trường trong nước và vươn ra
quốc tế.
3.3.6.4 Giải pháp về nguồn lực
204
Sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển nước ngoài (ODA) cho việc
xây dựng hạ tầng và phổ cập dịch vụ viễn thông, Internet băng
rộng ở khắp mọi miền đất nước.
Tích cự hỗ trợ, đào tạo nguồn nhân lực thiết kế, ứng dụng công
nghệ thông tin và viễn thông ngay trong các trường đại học có nội
dung liên quan đến viễn thông và công nghệ thông tin.
3.3.6.5 Giải pháp về hợp tác quốc tế
Đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong lĩnh vực viễn thông, trên cơ sở
xác định rõ mục tiêu, nguyên tắc và giải pháp phù hợp với lợi ích
và điều kiện cụ thể của Việt Nam khi tham gia vào các hiệp định
thương mại song phương và đa phương.
Tiếp tục đầy mạnh hợp tác trong các tổ chức, diễn đàn quốc tế về
viễn thông. Phối hợp, trao đổi kinh nghiệm về xây dựng chính
sách, pháp luật viễn thông để hạn chế rủi ro trong đầu tư nước
ngoài của VNPT.
Kết luận chương 3:
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận án đã đưa ra các giải pháp
hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế phục vụ cho việc ra các quyết định tài chính
của Tập đoàn Bưu chính – Viễn thông Việt Nam VNPT, cụ thể các giải pháp:
1. Giải pháp về tổ chức cấu thành hệ thống thông tin; giải pháp này giúp nhà
quản trị trong tập đoàn VNPT nắm rõ các bước trước khi tiến hành thu thập
thông tin, và nắm rõ quy trình xử lý thông tin nhằm giúp hệ thống thông tin
kinh tế được hoàn thiện, từ đó chất lượng thông tin sẽ được nâng cao, hỗ
trợ cho các nhà quản trị trong Tập đoàn VNPT ra quyết định tài chính được
tối ưu hơn.
2. Giải pháp về nội dung cấu thành hệ thống thông tin; giải pháp này nhằm hỗ
trợ cho nhà quản trị của Tập đoàn VNPT có được những thông tin tin cậy
205
từ bên trong và từ bên ngoài tập đoàn như: thông tin kế toán, thông tin dự
báo thị phần của doanh nghiệp trên thị trường, thông tin truyền thông, trình
độ công nghệ, trình độ nhân sự trong Tập đoàn. Đây là những thông tin minh
bạch, có tính tin cậy cao, nên việc nhà quản trị dựa vào những thông tin này
để ra quyết định tài chính là hoàn toàn có cơ sở khoa học.
3. Giải pháp về phương thức cấu thành hệ thống thông tin; giải pháp này được
thể hiện thông qua tiến độ cung cấp thông tin cho từng cấp quản lý, nhưng
làm thế nào để cung cấp thông tin một cách thường xuyên, cho ai và bằng
những phương pháp nào là vấn đề không đơn giản. Vì thế, để tiến hành
cung cấp thông tin một cách thuận lợi, thường xuyên và đều đặn, luận án
đã đưa ra 4 bước cung cấp thông tin cho nhà quản trị.
4. Giải pháp về công cụ cấu thành hệ thống thông tin; giải pháp được tiến
hành thông qua các giải pháp cụ thể: giải pháp về máy vi tính, giải pháp về
phần mềm, và Giải pháp về Internet.
5. Giải pháp hoàn thiện công tác tổ chức kế toán; công tác tổ chức kế toán
được gọi là hoàn thiện khi hệ thống kế toán của công ty phải tuân thủ đúng
pháp luật; thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với nhà nước; nâng cao lợi ích
chung của Tập đoàn và đãi ngộ người lao động. Vì thế hoàn thiện công tác
tổ chức kế toán được thể hiện thông qua hoàn thiện tổ chức bộ máy kế
toán; hoàn thiện hình thức kế toán cụ thể như: hoàn thiện chỉ tiêu Tài sản
cố định, hoàn thiện chỉ tiêu các khoản phải thu.
6. Giải pháp khác; ngoài những giải pháp trên, luận án còn xây dựng thêm
một số giải pháp khác như: Giải pháp về cơ chế chính sách và pháp luật về
viễn thông, giải pháp về khoa học công nghệ, giải pháp về tổ chức, giải
pháp về nguồn lực, giải pháp về hợp tác quốc tế.
206
KẾT LUẬN
Quản trị tài chính đóng một vai trò trung tâm trong mọi hoạt động của
Tập đoàn. Ta giả định, nếu Tập đoàn không có tiền thì Tập đoàn không thể
thanh toán mọi chi phí hoạt động của nó, không thể dự trữ hàng tồn kho,
không thể thuê mướn nhân công… và cuối cùng, Tập đoàn không thể tồn tại.
Mục tiêu của Tập đoàn là lợi nhuận, là giá trị của Tập đoàn; vì thế, đòi hỏi
Tập đoàn phải có một mức độ tài chính nhất định để đi vào hoạt động; nhưng
làm sao để Tập đoàn bảo toàn vốn? làm sao để Tập đoàn hoạt động có hiệu
quả? làm sao để Tập đoàn tồn tại và phát triển? Để giải quyết vấn đề này, một
trong những khâu quan trọng nhất trong hoạt động của Tập đoàn, đó là nhà
quản trị phải hoàn thiện được hệ thống thông tin kinh tế, vì hệ thống thông tin
kinh tế là hệ thống hỗ trợ thu thập, tổ chức và xử lý những thông tin trong lĩnh
vực kinh tế (vĩ mô, vi mô) ở bên trong và bên ngoài Tập đoàn để phục vụ cho
công tác quản trị tài chính của Tập đoàn. Hệ thống thông tin đóng vai trò
trung gian giữa tập đoàn với môi trường bên ngoài, hay giữa các bộ phận bên
trong tổ chức tập đoàn với nhau nhằm cung cấp những thông tin cần thiết cho
sự quản trị, điều hành; hệ thống thông tin kinh tế giúp Tập đoàn tăng cường
năng lực quản trị, nâng cao năng suất chất lượng, nâng cao hiệu quả của hoạt
động quản trị, và hỗ trợ cho quá trình ra quyết định... qua đó tăng cường vị
thế cạnh tranh của tập đoàn trong một thị trường biến đổi nhanh chóng và
phức tạp. Vì thế, tác giả tiến hành hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế thông
qua những giải pháp sau:
Giải pháp về tổ chức cấu thành hệ thống thông tin;
Giải pháp về nội dung cấu thành hệ thống thông tin;
Giải pháp về phương thức cấu thành hệ thống thông tin;
Giải pháp về công cụ cấu thành hệ thống thông tin;
Hoàn thiện công tác tổ chức kế toán.
207
Các giải pháp này giúp hệ thống thông tin kinh tế phục vụ ra quyết định
tài chính của Tập đoàn Bưu chính – Viễn thông Việt Nam VNPT được hoàn
thiện và trở thành nguồn thông tin hữu ích sẽ giúp nhà quản trị đưa ra những
quyết định tài chính đúng đắn, tối ưu.
Khi hệ thống thông tin được xây dựng được hoàn thiện, thì việc ra
quyết định tài chính sẽ thuận lợi hơn, rút ngắn được thời gian ra quyết định vì
thông tin đã được xử lý trước khi cung cấp cho nhà quản trị. Có như thế thì
hiệu quả đầu tư của Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông Việt Nam VNPT sẽ
được nâng cao hơn trong tương lai.
208
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ
1. Trần Thị Diện, 2012 “Trao đổi về chất lượng tăng trưởng kinh tế của
Việt Nam hiện nay”, tạp chí nghiên cứu tài chính kế toán, số 3(104)-
2012, trang 23-26.
2. Trần Thị Diện, 2015 “Thông tin kinh tế phục vụ cho việc ra quyết định
tài chính doanh nghiệp”, tạp chí nghiên cứu tài chính kế toán, số
11(148)-2015, trang 70-72.
3. Trần Thị Diện, 2015 “Thông tin kinh tế phục vụ cho việc ra quyết định
tài chính của Tập đoàn Viễn thông VNPT”, tạp chí nghiên cứu tài
chính kế toán, số 12(149)-2015, trang 66-68.
4. Trần Thị Diện và cộng sự, 2015 “ Giào Trình Tài chính Quốc tế”, nhà
xuất bản Tài chính, mã phát hành ISBN 978-604-79-1311-4 tháng
12/2015.
5. Trần Thị Diện và cộng sự, 2016 “ Chương trình Nông Thôn Mới vùng
Đồng bằng Sông Cửu Long: Thực trạng và giải pháp về cơ chế tài
chính ”, đề tài cấp Bộ.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
209
1. Bùi Văn Vần, Vũ Văn Ninh (2013) – Giáo trình tài chính doanh nghiệp,
Nxb Tài chính.
2. Mục tiêu kế hoạch và chiến lược 2010 -2015 của Tập đoàn Bưu chính –
Viễn thông Việt Nam
3. Mục tiêu kế hoạch năm 2015 và chiến lược năm 2015-2020 của tập đoàn
VNPT
4. Nguyễn Ngọc Quang (2013)– Phân tích báo cáo tài chính, Nxb Tài
chính
5. Tailieu.vn/doc/he-thong-thong-tin-quan-ly-mis-1183589.html
6. Tạp chí thanh tra số 5 năm 2015
7. Trần Thị Tuyết Oanh (2014)– Đánh giá và đo lường kết quả học tập,
Nxb Đại học sư phạm.
8. Vũ Văn Ninh, Mai Ngọc Anh (2013)– Lập và quản lý ngân sách doanh
nghiệp, NXB Tài chính
9. http://www.voer.edu.vn/
10. http://www.hua.edu.vn/
11. http://www.vnpt.vn
12. http://vi.wikipedia.org/wiki
13. http://tapchi.vnu.edu.vn
14. Vn.Economy
15. Abdallah Ahmad Adel Jamil (2013), The impact of using accounting
information systems on the quality of financial statements submitted to
the Income and sales tax Department in Jordan, European Scientific
Journal special edition vol.1, pp.41-48, ISSN: 1857 – 7881 (Print) e -
ISSN 1857- 7431, article downloaded from the site
http://eujournal.org/index.php/esj/article/viewFile/2264/2147.
210
16. Abraham-Frois, G. (2002), Dynamique economique ´ (9th edn). Paris:
Dalloz
17. Adato, M., Carter, M.R. and May, J. (2006), Exploring poverty traps and
social exclusion in South Africa using qualitative and quantitative data.
Journal of Development Studies 42: 226–247.
18. Admati, A.R. (1985), A noisy rational expectations equilibrium for
multi-asset securities markets. Econometrica 53(3): 629–657.
19. Akerlof, G.A. and Dickens, W. (1982), The economic consequences of
cognitive dissonance. American Economic Review 72: 307–319.
20. Akerlof, G.A. and Shiller, R.J. (2009), Animal Spirits: How Human
Psychology Drives the Economy, and Why It Matters for Global
Capitalism. Princeton, NJ: Princeton University Press.
21. Asch, S. (1955), Opinions and social pressure. Scientific American 193:
31–35
22. Alamin Adel, Yeoh William, Warren Matthew & Salzman Scott (2015),
An Empirical Study of Factors Influencing Accounting Information
Systems Adoption, article downloaded from the site
http://aisel.aisnet.org/cgi/viewcontent.cgi?article=1002&context=ecis20
15_cr.
23. Baba Mirela Camelia (2009), Quality management of the accounting
services, Bulletin of the Transylvania University of Brasov Series V:
Economic Sciences, vol. 2, issue 51, pp.59-66, article downloaded from
thesite:http://but.unitbv.ro/BU2009/BULETIN2009/Series%20V/BULE
TIN%20V%20PDF/ 059%20Baba% 20Mirela%20BUT%202009.pdf
24. Barberis, N. and Thaler, R.H. (2003), A survey of behavioral finance. In
G. Constantinides, R. Stulz and M. Harris (eds.), Handbook of the
Economics of Finance (pp. 1053–1128). Amsterdam: North Holland.
211
25. Benabou, R. (2009), Groupthink: collective delusions in organizations
and markets. NBER Working Paper 14764.
26. Benabou, R. and Tirole, J. (2002), Self-confidence and personal
motivation. Quarterly Journal of Economics 117(3): 871–915. Berg, J.,
Dickhaut, J. and McCabe, K. (1995) Trust, reciprocity and social history.
Games and Economic Behavior 10: 122–142.
27. Benartzi, S. and Thaler, R.H. (1995), Myopic loss aversion and the
equity premium puzzle. Quarterly Journal of Economics 110(1): 73–92.
28. Bernhardt, D. and Taub, B. (2008), Cross-asset speculation in stock
markets, Journal of Finance 63: 2385– 2427. Bernheim, D., Garrett, D.
and Maki, D. (2001) Education and saving: the long-term effects of high
school financial curriculum mandates. Journal of Public Economics 85:
435–565.
29. Bernheim, B.D. and Garrett, D.M. (2003), The effects of financial
education in the workplace: evidence from a survey of households.
Journal of Public Economics 87: 1487–1519.
30. Biais, B., Bossaerts, P. and Spatt, C. (2010), Equilibrium asset pricing
under heterogeneous information. Review of Financial Studies 23(4):
1503–1543.
31. Blume, L.E., Bray, M.M. and Easley, D. (1982), Introduction to the
stability of rational expectations equilibrium. Journal of Economic
Theory 26(2): 313–317.
32. Bond, S.R. and Cummins, J.G. (2000), The stock market and investment
in the new economy: some tangible facts and intangible fictions.
Brookings Papers on Economic Activity 1: 61–108.
33. Booij, A.S., Leuven, E. and Oosterbeek, H. (2008), The role of
information in the take-up of student loans. Tinbergen Institute
212
Discussion Paper No. TI 2008-039/3. Available at SSRN:
http://ssrn.com/ abstract=1118253 (last accessed April 2008).
34. Brown, J., Ivkovich, Z., Smith, P. and Weisbenner, S. (2007), Neighbors
matter: causal community effects and stock market participation. NBER
Working Paper 13168.
35. Bodnar George H. & Hopwood William S. (2013), Accounting
Information Systems, 11th edition, Publisher Pearson UK, London, pp.3.
36. Bukenya Moses (2014), Quality of Accounting Information and
Financial Performance of Uganda’s Public Sector, American Journal of
Research Communication vol.2, issue 5, pp.183-203, article downloaded
from the site http://www.usa-journals.com/wp-
content/uploads/2014/04/Bukenya_Vol25.pdf.
37. Caraiman Adrian Cosmin (2015), Accounting information system –
qualitative characteristics and the importance of accounting information
at trade entities, Annals of the „Constantin Brâncuşi” University of
Târgu Jiu, Economy Series, vol.2, issue 1, pp.168-174, article
downloaded from the site http://www.utgjiu.ro/revista/ec/pdf/2015-
01.Volumul%202/26_Caraiman.pdf.
38. Cable, D.M. and Gilovich, T. (1998), Looked over or overlooked?
Prescreening decisions and postinterview evaluations. Journal of
Applied Psychology 83: 501–508.
39. Camerer, C., Loewenstein, G. and Rabin, M. (2003), Advances in
Behavioral Economics. Princeton, NJ: Princeton University Press.
40. Cass, D. and Shell, K. (1983), Do sunspots matter? Journal of Political
Economy 91: 2.
213
41. Cassar, A. and Crowley, L. (2007), The effect of social capital on group
loan repayment: evidence from field experiments. The Economic Journal
117: F85–F106.
42. Cassar, A. and Wydick, B. (2010), Does social capital matter? Evidence
from a five-country group lending experiment. Oxford Economic Papers
62(4): 715–739.
43. Ceballos, D. (2004), Expectativas financieras y la decision de inversi´
on. Proceedings VII Congreso Hispano- ´ Italiano Matematicas
Financieras y Actuariales. Cuenca 8–9/7. ´
44. Chan, S. and Stevens, A.H. (2004), Do changes in pension incentives
affect retirement? A longitudinal study of subjective retirement
expectations. Journal of Public Economics 88(7–8): 1307–1333.
45. Chantarat, S. and Barrett, C.B. (2007), Social network capital, economic
mobility and poverty traps. MRA Paper 1947: 1–56.
46. Chiriac Silviu-Virgil (2014), The importance of the accounting
information for the decisional process, Annales Universitatis Apulensis
Series Oeconomica vol.23, issue 1, pp.593-603, article downloaded from
the site http://connection.ebscohost.com/c/articles/97635611/importance-
accounting-informationdecisional-process and
http://steconomiceuoradea.ro/anale/volume/2014/n1/063.pdf.
47. Clark, R.L., D’ambrosio, M.B., McDermed, A.A. and Sawant, K. (2006),
Retirement plans and saving decisions: the role of information and
education. Journal of Pension Economics and Finance 5(01): 45–67.
48. Cole, S. and Shastry, G.K. (2009), Smart money: the effect of education,
cognitive ability, and financial literacy on financial market participation.
Working Paper 09–071, Harvard Business School, Boston, MA.
214
49. Cusumano, M.A. (1985), The Japanese Automobile Industry:
Technology and Management at Nissan and Toyota. Cambridge, MA:
Harvard University Press.
50. De Bondt, W.F.M. and Thaler, R.H. (1985), Does the stock market
overreact? Journal of Finance 40(3): 793–805.
51. De Meza, D., Irlenbusch, B. and Reyniers, D. (2008), Financial
capability: a behavioural economics perspective. Consumer research 69,
The Financial Services Authority.
52. Di Giannatale, S.B., Lopez, P. and Roa, M.J. (2008), Una introducci ´ on
conceptual al desarrollo financiero, ´ capital social, redes y anonimidad:
Caso de Mexico. CIDE-Working Paper, SDTE-427.
53. Di Giannatale, S.B., Elbittar, A., Rodriguez, P. and Roa, M.J. (2009)
Trust, information acquisition and financial decisions: a field
experiment. The Papers No 10/02, Department of Economic Theory and
Economic History of the University of Granada. Available at
http://econpapers.repec.org/RePEc:gra:wpaper:10/02 (last accessed 17
February 2010).
54. Di Giannatale, S.B., Elbittar, A., Maya, L., Ramirez, A. and Roa, M.J.
(2010) Confianza, redes sociales y habitos financieros: Un estudio emp ´
´ırico. CIDE-Working Paper, SDTE, forthcoming.
55. Dinca Maria Mihaela, Virag Nicolae Paul & Cotlet Bogdan (2012), The
role of accounting information in the economic entity, article
downloaded from the site http://fse.tibiscus.ro/anale/Lucrari2012
/kssue2012_097.pdf.
56. Duflo, E. and Saez, E. (2003), The role of information and social
interactions in retirement plan decisions: evidence from a randomized
experiment. Quarterly Journal of Economics 119: 815–842.
215
57. Duflo, E. and Saez, E. (2004) Implications of pension plan features,
information, and social interactions for retirement saving decisions. In
O.S. Mitchell and S. Utkus (eds.), Pension Design and Structure: New
Lessons from Behavioral Finance (pp. 137–153). Oxford: Oxford
University Press.
58. Easterly, W. and Levine, R. (1997,) Africa’s growth tragedy: politics
and ethnic divisions. Quarterly Journal of Economics 112: 1203–1250.
59. Edmiston, K.D. and Gillett-Fisher, M.C. (2006), Financial education at
the workplace, part I: knowledge and behavior. Community Affairs
Research Working Paper 2006-02, Federal Reserve Bank of Kansas City.
60. Eliaz, K. and Schotter, A. (2010), Paying for confidence: an
experimental study of the demand for noninstrumental information.
Games and Economic Behavior 70: 304–324.
61. Fasolo, B., McClelland, G. and Todd, P.M., (2007). Escaping the
tyranny of choice: when fewer attributes make choice easier. Marketing
Theory 7(1): 13–26.
62. Feiler, L.E., Goeree, J. and Yariv, L. (2006), An experimental study of
selective exposure. Working Paper, California Institute of Technology.
63. Feiler, L.E. (2007), Behavioral Biases in Information Acquisition.
Doctoral Thesis, California Institute of Technology.
64. Fisher, I. (1930), The Theory of Interest, as determined by Impatience to
Spend Income and Opportunity to Invest it. New York: Macmillan.
65. Fitriati Azmi & Mulyani Sri (2015), Factors that affect accounting
information system success and its implication on accounting
information quality, Asian Journal of Information Technology vol.14,
issue 5, pp.154-161, ISSN: 1682-3915, article downloaded from the site
http://www.medwelljournals. com/abstract/?doi=ajit.2015.154.161.
216
66. Fitriati Azmi & Mulyani Sri (2015), The Influence of Leadership Style
on Accounting Information System Success and Its Impact on Accounting
Information Quality, Research Journal of Finance and Accounting vol.6,
no11, pp. 167-173, ISSN 2222-1697 (Paper) ISSN 2222-2847 (Online),
article downloaded from the site
http://www.iiste.org/Journals/index.php/RJFA/article/viewFile/ 23679
/24191.
67. Foster, A. and Rosenzweig, M. (1995), Learning by doing and learning
from others: human capital and technical change in agriculture. Journal
of Political Economy 103(6): 1176–1209.
68. Fox, J., Bartholomae, S., and Lee, J. (2005), Building the case for
financial education. Journal of Consumer Affairs 39(1): 195–214.
69. Friedman, M. (1957), A Theory of the Consumption Function. Princeton,
NJ: Princeton University Press.
70. Gine, X., Jakiela, P., Karlan, D. and Morduch, J. (2006), Microfinance
games. Policy Research Working ´ Paper Series 3959, Banco Mundial.
71. Goldstein, D.G. and Gigerenzer, G. (1999), The recognition heuristic:
how ignorance makes us smart. In G. Gigerenzer and P. Todd (eds.),
Simple Heuristics That Make Us Smart. New York: Oxford University
Press.
72. Gomez Soto, F. and Gonz ´ alez Vega, C. (2006), Formas de asociaci ´
on cooperativa y su participaci ´ on en la ´ provision de servicios
financieros en las ´ areas rurales de M ´ exico. In ´ Los mercados de las
finanzas rurales y populares en Mexico. Una visi ´ on r ´ apida sobre su
multiplicidad y alcance ´ . Mexico: AFIRMA. ´
73. Grossman, S.J. (1976,) On the efficiency of competitive stock markets
where traders have diverse information. Journal of Finance 31: 573–585.
217
74. Grossman, S.J. and Stiglitz, J.E. (1980), On the impossibility of
informationally efficient markets. American Economic Review 70(3):
393–408.
75. Gwangwava Edison, Faitira Manuere, Mabvure Joseph & Kuadakwashe
Gutu (2012), Evaluation of factors influencing adoption of accounting
information system by small to medium enterprises in Chinhoyi,
Interdisciplinary Journal of Contemporary Research in Business vol.4,
no.6, pp.1126-1141, article downloaded from the site http://journal-
archieves24.webs.com/1126-1141.pdf.
76. Hafij Ullah Md., Jamil Ahmed Khonadakar & Syeda Tamanna Fahim
(2014), Role of Accounting Information in Strategic Decision Making in
Manufacturing Industries in Bangladesh, Global Journal of Management
and Business Research vol.14, issue 1, pp.9-22, ISSN: 2249-4588 &
Print ISSN: 0975-5853, article downloaded from the site
https://globaljournals.org/GJMBR_Volume14/2-Role-of-
AccountingInformation.pdf.
77. Hall, R.E. (1978), Stochastic implications of the life cycle-permanent
income hypothesis: theory and evidence. Journal of Political Economy
86(6): 971–988.
78. Hall, C.C., Ariss, L. and Todorov, A. (2007), The Illusion of knowledge:
when more information reduces accuracy and increases confidence.
Organizational Behavior and Human Decision Processes 103: 277–290.
79. Hayek, F.A. (1945), The use of knowledge in society. The American
Economic Review 35(4): 519–530.
80. Hilgert, M.A., Hogarth, J.M. and Beverly, S.G. (2003), Household
financial management: the connection between knowledge and behavior.
Federal Reserve Bulletin, 89(7): 309–322.
218
81. Hirad, A. and Zorn, P.M. (2001), A little knowledge is a good thing:
empirical evidence of the effectiveness of pre-purchase homeownership
counseling. Low-Income Homeownership Working Paper Series. LIHO-
01.4. Cambridge, MA: Joint Center for Housing Studies, Harvard
University. Available at http://
www.jchs.harvard.edu/publications/homeown/liho01–4.pdf/ (last
accessed 15 June 2004).
82. Holm, C. and Rikhardsson, P. (2006), Experienced and novice investors:
does environmental information influence on investment allocation
decisions? Financial Reporting Research Group Working Papers R-
2006–02, University of Aarhus, Aarhus School of Business, Department
of Business Studies.
83. Hogarth, J.M. (2006), Financial Education and Economic Development
presented at the G8 International Conference on Improving Financial
Literacy, Moscow, Russian Federation, November 29, 2006. Available at
http://www.oecd.org/dataoecd/20/50/37742200.pdf (last accessed 11
May 2010).
84. Hong, H., Kubik, J. and Stein, J. (2004), Social interaction and stock
market participation. Journal of Finance 59: 137–163.
85. Huber, O. and Seiser, G. (2001), Accounting and convincing: the effect
of two types of justification on decision process. Journal of Behavioral
Decision Making 14(1): 69–85.
86. Hung, A.A., Meijer, E., Mihaly, K. and Yoong, J. (2009), Building Up,
Spending Down: Financial Literacy, Retirement Savings Management,
and Decumulation Santa Monica, CA: RAND Corporation, WR-712.
Available at http://www.rand.org/pubs/working_ papers/WR712/ (last
accessed 11 May 2010)
219
87. Iskandar Deni(2015), Analysis of factors affecting the success of the
application of accounting information system, International Journal of
scientific & Technology research vol.4, issue 2, pp.155-162, ISSN 2277-
8616, article downloaded from the site http://www.ijstr.org/final-
print/feb2015/Analysis-Of-FactorsAffecting-The-Success-Of-The-
Application-Of-Accounting-Information-System.pdf. Quality-Access to
Success, Vol.17, S2 May 2016 57
88. Iyengar, S.S., Jiang, W. and Huberman, G. (2004), How Much Choice is
Too Much? Contributions to 401(k) Retirement Plans. In O.S. Mitchell
and S. Utkus (eds.), Pension Design and Structure: New Lessons from
Behavioral Finance (pp. 83–95). Oxford: Oxford University Press.
89. Iyengar, S.S., Jiang, W. and Kamenica, E. (2006), The psychological
costs of ever increasing choice: a fallback to the sure bet. Working
Paper, Graduate School of Business, Management Department,
Columbia University.
90. Kahneman, D. and Tversky, A. (1979), Prospect theory: an analysis of
decision under risk. Econometrica 47(2): 263–292.
91. Kahneman, D. and Tversky, A. (2000), Choices, Values and Frames.
Princeton, NJ: Princeton University Press.
92. Kahneman, D., Slovic, P. and Tversky, A. (1982), Judgement under
Uncertainty: Heuristics and Biases. New York: Cambridge University
Press.
93. Keynes, J.M. (1936), The General Theory of Employment, Interest and
Money. Macmillan Cambridge University Press for Royal Economic
Society.
94. Kim, J., Garman, E.T. and Sorhaindo, B. (2003), Relationships among
credit counseling clients’ financial well-being, financial behaviors,
220
financial stressor events, and health. Financial Counseling and Planning
14(2): 75–87.
95. Lacko, J. and Pappalardo, J. (2004,. The effect of mortgage broker
compensation disclosures on consumers and competition: a controlled
experiment. Federal Trade Commission Bureau of Economics Staff
Report.
96. Lusardi, A. (2004), Savings and the effectiveness of financial education.
In O.S. Mitchell, and S. Utkus (eds.), Pension Design and Structure:
New Lessons from Behavioral Finance (pp. 157–184). Oxford: Oxford
University Press.
97. Lusardi, A. (2008), Household saving behavior: the role of financial
literacy, information, and financial education programs. NBER
Working Paper 1382.
98. Lusardi, A. and Mitchell O.S. (2007), Financial literacy and planning:
implications for retirement wellbeing. Business Economics 42(1): 35–44.
99. Lusardi, A. (2008), Planning and financial literacy: how do women
fare? American Economic Review: Papers & Proceedings 98: 2.
100. Lyons, A.C. (2005), Financial education and program evaluation:
challenges and potentials for financial professionals. Journal of Personal
Finance 4(4): 56–68.
101. Lyons, A.C., Rachlis, M., Staten, M. and Xiao, J.J. (2006), Translating
financial education into knowledge and behavior change. Consumer
Interests Annual 52: 397–403.
102. Lyons, A.C. (2010), Consideraciones clave para una evaluacion eficaz de
los programas de educaci ´ on´ economica y financiera presented at the
4th Simposio ´ La educacion econ ´ omica y financiera en M ´ exico ´ ,
221
Mexico D.F.: Museo Interactivo de Econom ´ ´ıa, mide, 10 Septiembre,
2010.
103. Okab Reem, Al-Oqool Mohammed Ali & Bashayreh Mohammed
Mahmoud (2014), The Importance of the Accounting Information and
the Role of the Scientific Accounting Research in Developing the
Economic Development Service in the Developing Countries (Case Study
Jordan), Research in Applied Economics vol.6, no1, pp.240-257, ISSN
1948-5433, article downloaded from the site http://www.
macrothink.org/journal/index.php/rae/article/view/4699/4327.
104. Maenhout, P. (2004), Robust portfolio rules and asset pricing. The
Review of Financial Studies 17(4): 951– 983.
105. Malhotra, N.K., Jain, A.K. and Lagakos, S.W. (1982), The information
overload controversy: an alternative viewpoint. Journal of Marketing 46:
27–37.
106. Martin, M. (2007), A literature review on the effectiveness of financial
education. Working Paper 07–03, Federal Reserve Bank of Richmond,
Richmond, VA. Available at http://www.richmondfed.
org/publications/research/working_papers/2007/wp_07_3. cfm (last
accessed 11 May 2011).
107. Mastrobuoni, G. (2009), The role of information for retirement behavior:
evidence based on the stepwise introduction of the social security
statement. Working Papers, Center for Retirement Research at Boston
College, Center for Retirement Research.
108. Meier, S. and Sprenger, C. (2008), Discounting financial literacy: time
preferences and participation in financial education programs. Working
Paper.
222
109. Merton, R.C. (1969), Lifetime portfolio selection under uncertainty: the
continuous-time model. Review of Economics and Statistics 51: 247–
257.
110. Modigliani, F. and Brumberg, R.H. (1954), Utility analysis and the
consumption function: an interpretation of cross-section data. In K.K.
Kurihara (ed.), Post Keynesian Economics (pp 388–436). New
Brunswick, NJ: Rutgers University Press.
111. Mullainathan, S. and Shleifer, A. (2005), Persuasion in finance.
Working Paper, Harvard University.
112. Muth, J. (1961), Rational expectations and the theory of price
movements. Econometrica 29: 315– 335.
113. Nobes Christopher W. & Stadler Christian (2014), The qualitative
characteristics of financial information, and managers’ accounting
decisions: evidence from IFRS policy changes, article downloaded from
the site
http://www.ifrs.org/Meetings/MeetingDocs/Other%20Meeting/2014/Oct
ober/ABR-2014- 0103-Qualitative-characteristics.pdf.
114. Petroianu Grazia-Oana (2012), The role of accounting information in the
decision making process, “Ovidius” University Annals, Economic
Sciences Series vol.XII, issue 1, pp.1594-1598, article downloaded from
the site http://stec.univ-
ovidius.ro/html/anale/ENG/cuprins%20rezumate/volum2012p1.pdf and
https://ideas.repec.org/a/ovi/oviste/vxiiy2012i12p1594-1598.html.
115. O’Brien James & Marakas George (2012), Introduction to information
systems,16th edition, Published by McGraw-Hill Companies Inc., USA,
New York, book downloaded from the site
116. http://www.amazon.com/gp/reader/0073376884/?tag=foxebook-20.
223
117. Rapina (2014), Factors Influencing The quality of accounting
information system and its implications on the quality of accounting
information, Research Journal of Finance and Accounting vol.5, no2,
pp.148-154, ISSN 2222-1697 (Paper) ISSN 2222-2847 (Online), article
downloaded from the site http://www.iiste.org/
Journals/index.php/RJFA/article/viewFile/10689/10894.
118. Romney Marshall B. & Steinbart Paul John (2015), Accounting
Information Systems, 13th edition, Publisher Pearson – Prentice Hall,
USA, New Jersey, book downloaded from the site
http://www.downloadslide.com/2015/12/slides-accounting-information-
systems_97.html.
119. Saċer Ivana Mamiċ & Olouiċ Ana (2013), Information technology and
accounting information systems ‘quality in creation middle and large
companies, Journal of Information and Organizational Sciences vol.37,
no2, pp.117-126, ISSN 1846-9418 (online), ISSN 1846-3312 (print),
article downloaded from the site
http://jios.foi.hr/index.php/jios/article/view/820/694.
120. Salehi Mahdi, Rostami Vahab & Mogadam Abdolkarim (2010),
Usefulness of Accounting Information System in Emerging Economy:
Empirical Evidence of Iran, International Journal of Economics and
Finance vol.2, no2, pp.186-195, article downloaded from the site
http://www.ccsenet.org/journal/index.php /ijef/article/view/5906.
121. Scorte Carmen Mihaela, Cozma Adina & Rus Luminita (2009), The
importance of accounting information in crisis times, Annales
Universitatis Apulensis Series Oeconomica vol.11, issue 1, pp.194-200,
article downloaded from the site
http://www.oeconomica.uab.ro/upload/lucrari/1120091/18.pdf.
224
122. Susanto Azhar (2015), What factors influence the quality of accounting
information?, International Journal of Applied Business and Economic
Research vol.13, no6, pp.3995-4014, article downloaded from the site
http://www.serialsjournals.com/serialjournalmanager/pdf/1457760294.p
df.
123. Toth Zsuzsanna (2012), The current role of accounting information
systems, Review Club of Economics in Miskolc TMP vol.8, no1, pp.91-
95, article downloaded from the site http://webcache.
googleusercontent.com/search?q=cache:8fIFH6Lx7UcJ:tmp.gtk.uni-
miskolc.hu/volumes/2012/01/ TMP_
2012_01_13_Toth_Zsuzsanna.pdf+&cd=1&hl=en&ct=clnk&gl=ro.
124. Vătăș oiu Cristian Ionel, Gheorghe Mihaela, Motoniu Ioan Dumitru &
Boca (Rakos) Ileana Sorina (2010), Accounting information – the base of
financial analysis in investment decisions, Annals of the Constantin
Brâncuşi” University of Târgu Jiu, Economy Series, vol.4, issue 1,
pp.244-254, article downloaded from the site
http://www.utgjiu.ro/revista/ec/pdf/2010-04.II/24_CRISTIAN _IONEL
_VATASOIU.pdf.
125. Yenni Carolina (2015), Towards AIS success and its implications to
information quality and user satisfaction, International Journal of
Applied Business and Economic Research vol.13, no7, pp.5031-5044,
article downloaded from the site
http://www.serialsjournals.com/serialjournalmanager/pdf/
1456983941.pdf.
126. http://www.accountingtools.com/questions-and-answers/what-are-the-
characteristics-of-useful-accounting - informatio.html.
225
127. http://www.ifrs.org/Meetings/MeetingDocs/Other%20Meeting/2014/Oct
ober/ABR-2014-0103- Qualitative-characteristics.pdf
128. http://simplestudies.com/what-are-the-qualities-of-accounting-
information.html
129. journal homepage: www.elsevier.com.locate/jsis
130. Xu, H. J., 2003Critical Success Factors For Accounting Information
Systems Data Quality”. Dissertation for Doctor of Philosophym 2003,
University of Douthern Queensland.
131. www.diva-portal.orgáo
132. Báo cáo tài chính của Tập đoàn VNPT năm 2015
PHỤ LỤC
Bảng chi tiết câu hỏi khảo sát thể hiện ở 5 thang cấp độ:
A. QUAN ĐIỂM VỀ HỆ THỐNG THÔNG TIN KINH TẾ CỦA TẬP ĐOÀN
BƯU CHÍNH - VIỄN THÔNG VNPT.
226
a. Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông VNPT có sử dụng thông tin nhằm
phục vụ ra quyết định tài chính?
2. 3. 4. 5.
b. Thông tin kinh tế thường sử dụng nhằm phục vụ ra quyết định tài 1. 1 .. . chính là những thông tin kinh tế vi mô, thông tin kinh tế vĩ mô, thông tin kinh
tế bên trong, thông tin kinh tế bên ngoài, thông tin kinh tế quá khứ, thông tin
kinh tế hiện tại, và thông tin kinh tế tương lai?
2. 3. 4. 5.
c. Tập đoàn VNPT đã hoàn thiện rất tốt hệ thống thông tin kinh tế 1. 1 .. . nhằm phục vụ ra quyết định tài chính?
2. 3. 4. 5.
d. Hệ thống thông tin kinh tế của Tập đoàn Bưu chính Viễn thông 1. 1 .. .
VNPT đang sử dụng là yếu tố rất quan trọng trong việc ra quyết định tài
chính?
4. 2. 3. 5.
1. 1 .. . VNPT đang sử dụng có phù hợp với trình độ nhà quản trị?
e. Hệ thống thông tin kinh tế của Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông
3. 5. 2. 4.
B. CÁC YẾU TỐ PHẢN ÁNH THỰC TRẠNG VỀ HỆ THỐNG THÔNG
1. 1 .. . TIN KINH TẾ CỦA TẬP ĐOÀN BƯU CHÍNH - VIỄN THÔNG
VNPT.
J. Thực trạng về tổ chức cấu thành:
1. Thực trạng về quy trình thu thập hệ thống thông tin kinh tế của
VNPT:
a. Tập đoàn Bưu chính – Viễn thông VNPT đã tiến hành xây dựng
những nội dung thông tin cần thu thập trước khi tiến hành thu thập?
2. 3. 4. 5.
1. 1 .. .
227
b. Tập đoàn VNPT có tiến hành xác định nguồn thu thập tin cậy
trước khi tiến hành thu thập?
2. 3. 4. 5.
c. VNPT có tiến hành tiếp nhận thông tin từ nguồn thông tin bên
1. 1 .. . ngoài như khảo sát khách hàng, tìm hiểu về đối thủ cạnh tranh..?
2. 3. 4. 5.
d. VNPT có tiến hành tiếp nhận thông tin từ nguồn thông tin bên trong nội bộ như: sổ sách kế toán, thông tin chính thức giữa quản lý
1. 1 .. .
với nhau, thông tin chính thức giữa quản lý với nhân viên?
2. 3. 4. 5.
e. Sau khi thu thập thông tin, VNPT có tiến hành phân loại thông
1. 1 .. . tin?
2. 3. 4. 5.
f. Thông tin thu thập có được phân loại thành: thông tin chiến lược, 1. 1 .. . thông tin chiến chiến thuật, thông tin tác nghiệp?
5. 2. 4.
3. g. Tập đoàn VNPT có đánh giá thông tin được thu thập để phân loại 1. 1 .. . thành những thông tin: tin cậy và không tin cậy
2. 4. 5. 3.
h. Khi tiếp nhận nguồn thông tin, Tập đoàn VNPT có xử lý thông 1. 1 .. . tin trước khi đưa vào sử dụng?
2. 4. 5. 3.
2. Quy trình xử lý thông tin có đảm bảo đầy đủ các đặc điểm: 1. 1 .. . i. Thông tin đảm bảo độ tin cậy?
2. 4. 5. 3.
j. Thông tin đảm bảo sự cần thiết?
2. 4. 5. 3.
1. 1 .. . 1. 1 .. .
228
k. Thông tin đảm bảo tính kịp thời?
5. 2. 3. 4.
l. Thông tin đảm bảo tính phù hợp?
5. 2. 3. 4.
m. Thông tin đảm bào độ chính xác?
5. 2. 3. 4.
n. Thông tin đảm bảo tính đầy đủ?
5. 2. 3. 4.
o. Thông tin đảm bảo tính dễ sử dụng?
5. 2. 3. 4.
p. Thông tin đảm bảo tính bảo mật?
5. 2. 3. 4.
3. Quy trình sử dụng hệ thống thông tin kinh tế của Tập đoàn VNPT có 1. 1 .. . 1. 1 .. . 1. 1 .. . 1. 1 .. . 1. 1 .. . 1. 1 .. . thực hiện qua các bước:
d. Cấp chiến lược có sử dụng thông tin nhằm mục đích đưa ra các quyết
định tài chính chiến lược như: quyết định đầu tư, quyết định huy động
vốn, và quyết định phân chia lợi nhuận?
2. 3. 4. 5.
e. Cấp chiến thuật tiếp nhận thông tin từ mệnh lệnh của cấp chiến lược 1. 1 .. . đưa xuống nhằm triễn khai thực hiện các quyết định tài chính dài hạn
và các quyết định tài chính ngắn hạn của Tập đoàn.
2. 3. 4. 5.
f. Cấp tác nghiệp tiếp nhận thông tin từ cấp chiến thuật để triễn khai công 1. 1 .. .
việc hàng ngày?
2. 3. 4. 5.
1. 1 .. .
229
II. Thực trạng về Hệ thống thông tin kinh tế của Tập đoàn Bưu chính – Viễn
thông VNPT.
1. Thực trạng về nội dung cấu thành hệ thống thông tin
a. Những thông tin kinh tế bên ngoài Tập đoàn, như thông tin từ tìm
hiểu về đối thủ cạnh tranh, từ khảo sát nhu cầu sử dụng dịch vụ của
khách hàng, có tác động đến quyết định tài chính của Tập đoàn?
2. 5. 3. 4.
b. Những thông tin kinh tế bên trong Tập đoàn, như sổ sách kế toán, thông tin nội bộ giữa những nhà quản lý với nhau có tác động đến
1. 1 .. .
quyết định tài chính của Tập đoàn?
2. 3. 4. 5.
2. Thực trạng phương thức cấu thành hệ thống thông tin 1. 1 .. . a. Thời gian tiếp nhận thông tin của Tập đoàn có đúng lúc?
b. Thông tin được cung cấp để phục vụ ra các quyết định tài chính có
3. 4. 2. 5.
1. 1 .. . phù hợp?
2. 3. 4. 5.
c. Tiến độ ra các quyết định tài chính có kịp thời?
2. 5. 4.
a. Máy vi tính phục vụ cho nhà quản trị sử dụng hệ thống thông tin kinh
3. 3. Thực trạng về phương tiện hỗ trợ cấu thành hệ thống thông tin kinh tế 1. 1 .. . 1. 1 .. .
tế nhằm ra các quyết định tài chính có tính chất hiện đại?
2. 4. 5. 3.
b. Phần mềm có tương thích, phù hợp?
2. 4. 5. 3.
1. 1 .. . 1. 1 .. .
230
Để mang tính bảo mật thông tin cao, ngoài mạng internet Tập đoàn
đang sử dụng, Tập đoàn VNPT có sử dụng mạng nội bộ riêng có của
Tập đoàn?
2. 5. 3. 4.
D. MỨC ĐỘ TÁC ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG THÔNG TIN KINH TẾ
1. 1 .. . ĐẾN QUYẾT ĐỊNH TÀI CHÍNH CỦA TẬP ĐOÀN BƯU CHÍNH
VIỄN THÔNG VNPT.
J. Hệ thống thông tin kinh tế Tập đoàn VNPT đang sử dụng có tác
động hiệu quả đến việc ra các quyết định tài chính của Tập đoàn?
2. 3. 4. 5.
tin kinh tế, được thể hiện trên các mặt:
II. Tính hiệu quả của các quyết định tài chính do sử dụng hệ thống thông 1. 1 .. .
1. Đối với các quyết định tài chính dài hạn:
a. Quyết định đầu tư có phù hợp?
2. 3. 4. 5.
b. Hiệu quả đầu tư có cao
2. 3. 4. 5.
c.Quyết định huy động vốn có phù hợp
2. 3. 4. 5.
d. Chi phí sử dụng vốn có tối ưu?
2. 3. 4. 5.
e. Quyết định phân chia lợi nhuận có phù hợp? 1. 1 .. . 1. c. ? 1 .. . 1. 1 .. . 1. 1 .. .
2. 5. 4. 3.
1. 1 .. f. Phân chia lợi nhuận có đảm bảo hài hòa được lợi ích của người .
lao động?
2. 3. 4. 5.
2. Đối với các quyết định tài chính ngắn hạn: 1. 1 .. .
231
a. Quyết định tiền mặt có phù hợp?
3. 2. 4. 5.
2. 3. 4. 5.
c. Quyết định hàng tồn kho có phù hợp?
2. 3. 4. 5.
1. 1 .. b. Quyết định các khoản phải thu có phù hợp? . 1. 1 .. . 1. 1 .. .
232