BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TÀI CHÍNH

HỌC VIỆN TÀI CHÍNH  TRẦN THỊ DIỆN

HOÀN THIỆN HỆ THỐNG THÔNG TIN KINH TẾ PHỤC VỤ RA QUYẾT ĐỊNH TÀI CHÍNH

CỦA TẬP ĐOÀN BƯU CHÍNH - VIỄN THÔNG VIỆT NAM VNPT

Chuyên Ngành : Tài chính - Ngân hàng Mã số

: 62.34.02.01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

Giáo viên hướng dẫn 1: TS. Lại Tiến Dĩnh Giáo viên hướng dẫn 2: PGS.TS. Vũ Văn Ninh

Hà Nội - 2017

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Kết quả

nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được công bố trong bất cứ công

trình nghiên cứu nào.

TRẦN THỊ DIỆN

MỤC LỤC

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Mục lục

Danh mục viết tắt

Danh mục bảng biểu

Danh mục hình vẽ

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỆ THỐNG THÔNG TIN KINH

TẾ NHẰM PHỤC VỤ CHO VIỆC RA QUYẾT ĐỊNH TÀI CHÍNH CỦA

TẬP ĐOÀN KINH TẾ .................................................................................. 17

1.1 TẬP ĐOÀN KINH TẾ VÀ CÁC LOẠI QUYẾT ĐỊNH TÀI CHÍNH

CỦA TẬP ĐOÀN KINH TẾ ....................................................................... 11

1.1.1 Tập đoàn kinh tế và đặc điểm của tập đoàn kinh tế ... ……………….11

1.1.1.1 Khái niệm tập đoàn kinh tế…………………………………...11

1.1.1.2 Đặc điểm của tập đoàn kinh tế……………………………… 12

1.1.1.3 Các mô hình tổ chức của tập đoàn kinh tế………………… 14

1.1.2 Các quyết định tài chính của tập đoàn kinh tế ................................. 17

1.1.2.1 Khái niệm tài chính của tập đoàn kinh tế ................................. 17

1.1.2.2 Các quyết định tài chính của tập đoàn kinh tế .......................... 18

1.2 HỆ THỐNG THÔNG TIN KINH TẾ PHỤC VỤ CHO VIỆC RA

QUYẾT ĐỊNH TÀI CHÍNH CỦA TẬP ĐOÀN KINH TẾ ........................ 28

1.2.1. Hệ thống thông tin kinh tế của tập đoàn kinh tế ............................. 28

1.2.1.1 Thông tin kinh tế và hệ thống thông tin kinh tế………………28

1.2.1.2 Các yếu tố cấu thành hệ thống thông tin kinh tế…………… 44

1.2.1.3 Mục tiêu và các tiêu chuẩn đánh giá HTTTKT………………53

1.2.1.4 Vai trò của hệ thống thông tin kinh tế……………………… 59

1.2.2. Nội dung và mô hình tổ chức hệ thống thông tin kinh tế phục vụ

việc ra quyết định tài chính của tập đoàn kinh tế ..................................... 62

1.2.2.1 Nội dung của hệ thống thông tin kinh tế phục vụ ra quyết định

tài chính của tập đoàn kinh tế……………………………………………… 62

1.2.2.2 Mô hình tổ chức hệ thống thông tin kinh tế phục vụ ra quyết

định tài chính của tập đoàn kinh tế…………………………………………..63

1.2.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến việc tổ chức hệ thống thông tin kinh tế

của tập đoàn kinh tế .................................................................................. 71

1.3 KINH NGHIỆM CỦA CÁC TẬP ĐOÀN KINH TẾ TRONG VIỆC XÂY DỰNG HỆ THỐNG THÔNG TIN KINH TẾ PHỤC VỤ CHO VIỆC RA QUYẾT ĐỊNH TÀI CHÍNH CỦA TẬP ĐOÀN KINH TẾ………………... 75 1.3.1 Kinh nghiệm việc xây dựng hệ thống thông tin kinh tế phục vụ cho

việc ra quyết định tài chính…………………………………………… 75

1.3.2 Bài học trong việc xây dựng hệ thống thông tin kinh tế phục vụ cho

việc ra quyết định tài chính của tập đoàn kinh tế………………………..87

Chương 2. THỰC TRẠNG VỀ HỆ THỐNG THÔNG TIN KINH TẾ

NHẰM PHỤC VỤ CHO VIỆC RA QUYẾT ĐỊNH TÀI CHÍNH CỦA

TẬP ĐOÀN BƯU CHÍNH - VIỄN THÔNG VNPT .................................. 98

2.1 TỔNG QUAN VỀ TẬP ĐOÀN VNPT……………………………… 98

2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của Tập đoàn Bưu chính - Viễn

thông VNPT. .............................................................................................. 98

2.1.2 Đặc điểm sản xuất kinh doanh của Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông

VNPT. ..................................................................................................... 104

2.1.3 Đặc điểm về tài chính của Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông VNPT.

................................................................................................................. 110

2.2 THỰC TRẠNG VỀ HỆ THỐNG THÔNG TIN KINH TẾ CỦA TẬP

ĐOÀN BƯU CHÍNH - VIỄN THÔNG VNPT. ........................................ 116

2.2.1 Quan điểm về hệ thống thông tin kinh tế của VNPT: ................... 123

2.2.2 Thực trạng về các yếu tố cấu thành nên hệ thống thông tin kinh tế

của Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông VNPT nhằm phục vụ cho việc ra

quyết định tài chính ................................................................................. 124

2.3 ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VỀ HOÀN THIỆN HỆ THỐNG THÔNG TIN KINH TẾ PHỤC VỤ CHO VIỆC RA QUYẾT ĐỊNH TÀI CHÍNH CỦA TẬP ĐOÀN BƯU CHÍNH - VIỄN THÔNG VNPT………………………150 2.3.1 Những kết quả đạt được đối với hệ thống thông tin kinh tế nhằm

phục vụ cho việc ra quyết định tài chính của VNPT. ............................. 162

2.3.2 Những hạn chế đối với hệ thống thông tin kinh tế nhằm phục vụ cho

việc ra quyết định tài chính của Tập đoàn VNPT . ................................. 163

Chương 3. HOÀN THIỆN HỆ THỐNG THÔNG TIN KINH TẾ NHẰM

PHỤC VỤ CHO VIỆC RA QUYẾT ĐỊNH TÀI CHÍNH CỦA TẬP

ĐOÀN BƯU CHÍNH - VIỄN THÔNG VNPT ......................................... 167

3.1 ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA VNPT TRONG THỜI GIAN TỚI ..... 167

3.1.1 Mục tiêu phát triển của VNPT trong thời gian tới. ........................ 167

3.1.2 Phương hướng thực hiện mục tiêu của VNPT. .............................. 170

3.2 QUAN ĐIỂM VỀ VIỆC HOÀN THIỆN HỆ THỐNG THÔNG TIN

KINH TẾ CHO VIỆC RA QUYẾT ĐỊNH TÀI CHÍNH. ......................... 175

3.2.1 Thông tin kinh tế là yếu tố quan trọng nhất trong việc ra quyết định

tài chính.. ................................................................................................. 170

3.2.2 Hệ thống thông tin phải phù hợp với trình độ nhà quản trị ........... 174

3.3 GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HỆ THỐNG THÔNG TIN KINH TẾ

NHẰM PHỤC VỤ CHO VIỆC RA QUYẾT ĐỊNH TÀI CHÍNH CỦA TẬP

ĐOÀN BƯU CHÍNH - VIỄN THÔNG VNPT ......................................... 180

3.3.1 Giải pháp về tổ chức cấu thành hệ thống thông tin. ...................... 180

3.3.2 Giải pháp về nội dung cấu thành hệ thống thông tin. .................... 194

3.3.3 Giải pháp về phương thức cấu thành hệ thống thông tin. .............. 197

3.3.4 Giải pháp về công cụ cấu thành hệ thống thông tin....................... 199

3.3.5 Hoàn thiện công tác tổ chức kế toán .............................................. 201

3.3.6 Một số giải pháp khác .................................................................. 2018

KẾT LUẬN .................................................................................................. 205

DANH MỤC VIẾT TẮT

VNPT: Viet Nam Posts and Telecommunications Group

Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam

SXKD: Sản xuất kinh doanh

TSCĐ: Tài sản cố định

DPP: Discount Payback Period

Thời gian hoàn vốn đầu tư có tính đến yếu tố chiết khấu

NPV: Net Present Value

Giá trị hiện tại thuân

IRR: Internal Rate of Return

Tỷ suất sinh lợi nội bộ

PI: Profitability Index

Chỉ số sinh lời

CNTT: Công nghệ thông tin

CSDL: Cơ sở dữ liệu

TMĐT: Thương mại điện tử

HTTT: Hệ thống thông tin

KTTT: Kinh tế thị trường

WACC: The weighted of average cost of capital

Chi phí sử dụng vốn bình quân

ROI: Return on Interested

DT: Doanh thu

TB: Thuê bao

DV: Dịch vụ

DVVT: Dịch vụ viễn thong

RMQT: Roaming quốc tế

KHDN: Khách hàng doanh nghiệp

SP: Sản phẩm

CNTT: Công nghệ thông tin

GTGT: Giá trị gia tăng

VIP: Very Important Person – nhân vật quan trọng

TĐKT: Tập đoàn kinh tế

ITU: Tổ chức viễn thông quốc tế thuộc Liên hiệp quốc

ADSL: Asymmetric Digital Subscriber Line- Băng thông rộng

TN: Tác nghiệp

CT: Chiến thuật

DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 1.1: Tiêu chuẩn đánh giá chất lượng hệ thống thông tin theo tổng hợp

của Knight và Burn…………………………………………………………..56

Bảng 1.2: Các mô hình thu thập thông tin…………………………………...67

Bảng 1.3: Bảng tổng hợp kết quả phân tích và dự báo môi trường KD……..69

Bảng 2.1: Cơ cấu trình độ ............................................................................. 107

Bảng 2.2: Cơ cấu độ tuổi ............................................................................... 107

Bảng 2.3: Bảng cân đối kế toán của tập đoàn VNPT.................................... 110

Bảng 2.4: Bảng báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của VNPT .............. 104

Bảng 2.5: Hệ số thanh toán ........................................................................... 105

Bảng 2.6: Hệ số phản ánh cơ cấu vốn ........................................................... 105

Bảng 2.7: Hệ số phản ánh hiệu suất hoạt động ............................................. 106

Bảng 2.8: Hệ số phản ánh hiệu quả hoạt động .............................................. 107

Bảng 2.9: Bảng phân phối lợi nhuận của Tập đoàn VNPT .......................... 108

Bảng 2.10: Bảng phản ánh tốc độ tăng trưởng của Tập đoàn VNPT ......... 1139

Bảng 2.11: Bảng cân đối kế toán trong trường hợp cập nhật thông tin đồng bộ

của Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông VNPT ............................................... 155

Bảng 2.12: Bảng Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh trong trường hợp cập

nhật thông tin đồng bộ của Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông VNPT ......... 156

Bảng 3.1: Kế hoạch đầu tư - doanh thu đến năm 2020 của VNPT .............. 163

Bảng 3.2: Bảng so sánh giữa hai quy trình quản lý của VNPT trước và sau khi

thay đổi cơ cấu quản lý ................................................................................. 198

Sơ đồ 1.1: sơ đồ tổ chức và phân phối thông tin ............................................. 35

DANH MỤC SƠ ĐỒ

Sơ đồ 1.2: Phân loại theo kênh thông tin kinh tế độc lập với Tập đoàn ......... 48

Sơ đồ 1.3: Phân loại theo kênh thông tin trực tiếp từ Tập đoàn ..................... 48

Sơ đồ 1.4: Phân loại theo kênh thông tin kết hợp ........................................... 49

Sơ đồ 1.5: Các bước quy trình thu thập thông tin ........................................... 51

Sơ đồ 1.6: Mô hình hệ thống thông tin kinh tế ............................................... 63

Sơ đồ 2.1: Cơ cấu tổ chức Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông VNPT ........ 1083

Sơ đồ 2.2: sơ đồ hệ thống thông tin kinh tế của Tập đoàn Viễn thông

VNPT ............................................................................................................ 136

Sơ đồ 2.3: Sơ đồ sử dụng thông tin kết hợp để ra quyết định tài chính ........ 160

Sơ đồ 3.1: Quy trình xử lý thông tin ............................................................. 183

Sơ đồ 3.2: Hoàn thiện hệ thống thông tin nhằm phục vụ ra quyết định đầu tư trong

nước ............................................................................................................... 187

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Việt Nam đang trên con đường phát triển và hội nhập mạnh mẽ, sâu rộng

vào nền kinh tế quốc tế, tập đoàn kinh tế Việt Nam hiện đang phải đối mặt,

cạnh tranh bình đẳng với các tập đoàn kinh tế đa quốc gia hùng mạnh trên thế

giới, đặc biệt là sau khi gia nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO và bắt đầu

với Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Kinh nghiệm các quốc

gia trên thế giới cho thấy những tập đoàn kinh tế mạnh ở cả khu vực nhà nước

và khu vực tư nhân sẽ là “đội quân chủ lực” đảm bảo quá trình hội nhập thành

công. Do đó, trong quá trình đổi mới đất nước trong giai đoạn hiện nay, đặc

biệt là hội nhập quốc tế với nền kinh tế thị trường, Đảng và nhà nước đã chỉ

đạo xây dựng và phát triển các tập đoàn kinh tế trở thành các tập đoàn kinh tế

mạnh để trở thành những quả đấm thép phục vụ sự phát triển kinh tế của đất

nước.

Bên cạnh đó, trong nền kinh tế nhiều thành phần, các tập đoàn kinh tế

nhà nước nắm giữ các lĩnh vực, ngành nghề quan trọng, giữ vai trò trụ cột của

nền kinh tế quốc dân, thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế theo định hướng

của Đảng và Nhà nước. Ngoài ra, tập đoàn kinh tế nhà nước còn là nhân tố

thúc đẩy sự phát triển của kinh tế quốc dân; các tập đoàn kinh tế không chỉ

mang lại lợi ích kinh tế lớn cho đất nước về các mặt như: góp phần quan trọng

vào tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước, đóng góp không nhỏ vào

nguồn thuế, tạo nguồn thu ngoại tệ và nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước,

hạn chế nhập siêu, tạo nên sức mạnh cho nền kinh tế góp phần đẩy nhanh tốc

độ CNH, HĐH đất nước... mà tập đoàn kinh tế nhà nước còn là trụ cột kinh tế,

góp phần giải quyết việc làm cho người lao động, nâng cao mức sống cho

nhân dân, góp phần giải quyết vấn đề an sinh xã hội, quốc phòng, an ninh...

1

Xu thế hình thành và phát triển các tập đoàn kinh tế Việt Nam là một

hướng đi đúng đắn phù hợp với quy luật phát triển của nền kinh tế thị trường,

phù hợp với đòi hỏi thực tiễn của nền kinh tế Việt Nam và phù hợp với sức ép

cạnh tranh trong quá trình toàn cầu hóa; thực tế ở nước ta cho thấy, tập đoàn

kinh tế nhà nước chính là lực lượng quan trọng của Nhà nước đảm nhận sản

xuất, kinh doanh nhiều mặt hàng thiết yếu nhằm đáp ứng nhu cầu của nhân

dân, góp phần quan trọng trong việc bảo đảm an ninh lương thực, an ninh

năng lượng, an ninh quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc và khẳng định chủ quyền

quốc gia, bảo vệ môi trường sinh thái. Mô hình tập đoàn kinh tế nhà nước là

mô hình liên kết kinh tế tiên tiến và có sức mạnh nhất; với đặc điểm là mô

hình có quy mô lớn, nguồn lao động dồi dào, thị trường và công nghệ vượt

trội, các tập đoàn kinh tế nhà nước có một vị thế khác biệt so với các doanh

nghiệp kinh doanh cùng loại. Điểm quan trọng đầu tiên quyết định sự liên kết,

hợp tác giữa các công ty trong mô hình tập đoàn kinh tế nhà nước là lợi ích;

bởi lẽ, đối với mô hình tập đoàn kinh tế nhà nước, lợi ích đến với cả tập đoàn

kinh tế và cả công ty thành viên. Các công ty thành viên trong tập đoàn kinh

tế nhà nước luôn được sự hỗ trợ phát triển thông qua thương hiệu của tập

đoàn: hỗ trợ về vốn, công nghệ, hoạt động đào tạo quản lý, lao động... Những

hỗ trợ đó sẽ tạo ra điều kiện và động lực, môi trường thuận lợi giúp các doanh

nghiệp thành viên của tập đoàn kinh tế nhà nước phát triển nhanh và bền

vững, từ đó góp phần thúc đẩy phát triển hoạt động sản xuất, kinh doanh của

cả tập đoàn kinh tế nhà nước nhằm tạo ra sức mạnh kinh tế - xã hội của quốc

gia.

Với mục tiêu kinh doanh, tìm kiếm lợi nhuận trên thị trường, các tập

đoàn kinh tế nhà nước phải khai thác nguồn vốn nhà nước nhằm tạo ra lợi

nhuận bổ sung cho ngân sách nhà nước, đồng thời, tạo ra việc làm và thu nhập

hợp pháp nhằm nâng cao đời sống về mọi mặt của người lao động. Hơn nữa,

2

các tập đoàn kinh tế nhà nước với ưu thế về quy mô và kết hợp được các ưu

thế của phân công lao động, chuyên môn hóa với hợp tác hóa trong sản xuất,

kinh doanh nên tránh được sản xuất trùng lặp và nâng cao hiệu quả sử dụng

công suất máy móc, thiết bị nhằm đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao v.v..

Tuy nhiên, thực trạng hoạt động của các tập đoàn kinh tế ở Việt Nam

trong những năm vừa qua dù đã mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế nhưng

vẫn có những khó khăn và vướng mắc cần giải quyết, cụ thể:

 Về môi trường kinh doanh: mô hình tập đoàn kinh tế không giống

mô hình tổng công ty, mô hình tập đoàn hiện nay chỉ dựa vào Luật

doanh nghiệp và Nghị định 153 của Chính phủ về việc quản lý

Tổng công ty nhà nước; bên cạnh đó còn nhiều hạn chế trở ngại

như thiếu các chính sách khuyến khích cạnh tranh, hạn chế độc

quyền, thiếu chính sách đầu tư ra nước ngoài.

 Về tài chính: chưa tách biệt rõ ràng giữa chức năng quản lý vốn

chủ sở hữu của nhà nước với cơ chế hoạt động của thị trường và

chức năng khác.

Vì thế, để các tập đoàn kinh tế ở Việt Nam hoạt động có hiệu quả, phát huy

được sức mạnh vai trò của chúng đối với nền kinh tế, thì việc nghiên cứu một

cách toàn diện, đầy đủ cả về lý luận và thực tiễn hệ thống các thông tin kinh

tế là điều rất cần thiết; tuy nhiên, việc tổ chức, xây dựng, hoàn thiện hệ thống

thông tin kinh tế và khai thác, sử dụng hệ thống thông tin kinh tế này phục vụ

cho việc ra các quyết định quản trị kinh doanh nói chung, quản trị tài chính

nói riêng của các tập đoàn kinh tế hiện nay như thế nào? Cụ thể:

 Hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế phục vụ cho việc phân tích

môi trường kinh doanh và lựa chọn mục tiêu hợp lý?

3

 Hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế phục vụ cho việc phân tích và

lựa chọn chiến lược của doanh nghiệp?

 Hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế phục vụ cho việc xây dựng

mục tiêu và chiến lược về nguồn nhân lực?

 Hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế phục vụ cho việc ra các quyết

định tài chính?

 Hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế phục vụ cho việc xây dựng

mục tiêu và chiến lược về marketing?

 Hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế phục vụ cho việc xây dựng

mục tiêu và chiến lược về sản xuất?

 Hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế phục vụ cho việc xây dựng

mục tiêu và chiến lược về nghiên cứu và phát triển?

 Hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế phục vụ cho việc thâm nhập

vào thị trường vốn quốc tế?

 Hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế phục vụ cho việc nâng cao

hiệu quả sử dụng vốn?

Đó là một số vấn đề hiện nay về mục tiêu của việc hoàn thiện hệ thống

thông tin kinh tế mà NCS còn băn khoăn trăn trở; tuy nhiên, luận án này thuộc

chuyên ngành Tài chính – Ngân hàng, nên NCS chỉ nghiên cứu sâu vấn đề

hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế phục vụ cho việc ra các quyết định tài

chính.

Hiện nay, trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, các tập đoàn kinh tế

Việt Nam đang đứng trước nhiều cơ hội, nhưng cũng nhiều thách thức. Trong

những năm qua, công tác quản trị tài chính của các tập đoàn kinh tế được chú

trọng hơn, việc phân tích, đánh giá và ra các quyết định tài chính được thực

hiện một cách bài bản hơn. Tuy nhiên, để đưa ra quyết định tài chính đúng

4

đắn thì đòi hỏi cần phải dựa trên một cơ sở dữ liệu và thông tin một cách đầy

đủ và rõ ràng, nhất là những thông tin về kinh tế tài chính.

Quyết định tài chính là quyết định có vai trò hết sức quan trọng trong các

Tập đoàn kinh tế, bởi nó liên quan trực tiếp đến mức độ rủi ro và lợi ích của

các chủ sở hữu. Để đưa ra quyết định tài chính đúng đắn, nhà quản trị tài

chính cần phải nghiên cứu nhiều nhân tố chủ quan, khách quan, bên trong và

bên ngoài tập đoàn; điều này phụ thuộc trực tiếp vào việc tổ chức, xử lý và

cung cấp thông tin về các nhân tố này nhằm phục vụ cho việc đưa ra các

quyết định tài chính của Tập đoàn.

Tập đoàn kinh tế theo mô hình công ty mẹ, công ty con ở nước ta đã

được hình thành từ hơn thập kỷ qua, bên cạnh những thành tựu đạt được rất

quan trọng, hoạt động của các tập đoàn kinh tế nói chung, VNPT nói riêng đã

bộc lộ nhiều vướng mắc và bất cập, nguyên nhân cơ bản bắt nguồn từ hệ

thống thông tin kinh tế phục vụ ra quyết định quản lý nói chung, quyết định

tài chính nói riêng chưa được cung cấp, xử lý đầy đủ, chính xác và kịp thời.

Tập đoàn Bưu chính – Viễn thông Việt Nam (VNPT) là một trong số các

Tập đoàn kinh tế nhà nước ra đời sớm nhất ở Việt Nam; trải qua nhiều giai

đoạn phát triển, từ độc quyền nhà nước, độc quyền doanh nghiệp đến mở cửa

hội nhập cạnh tranh và phải thực hiện tái cơ cấu để tăng năng lực cạnh tranh.

VNPT được đánh giá là Tập đoàn kinh tế đã tổ chức hoạt động kinh doanh

khá hiệu quả và nhất là: đã thực hiện tái cơ cấu thành công.

Là một tập đoàn kinh tế lớn hàng đầu Việt Nam, Tập đoàn VNPT đã và

đang chứng tỏ vị thế quan trọng trong quá trình hội nhập và phát triển kinh tế

xã hội Việt Nam. Thành công của VNPT một phần là nhờ các quyết định tài

chính được ban hành với những căn cứ đáng tin cậy, đó chính là hệ thống

thông tin kinh tế.

5

 Tuy nhiên, công tác quản trị tài chính của Tập đoàn VNPT vẫn còn một

số hạn chế; cụ thể:

 Bộ phận quản trị tài chính của Tập đoàn VNPT chưa có một vị trí

độc lập trong doanh nghiệp, nó nằm trộn lẫn với bộ phận kế toán;

vì thế, việc ra quyết định tài chính cũng như việc sử dụng hệ thống

thông tin kinh tế để đưa ra lời tư vấn quyết định tài chính của Tập

đoàn có tính chuyên môn chưa sâu;

 Tập đoàn VNPT có vốn đầu tư 100% là vốn của nhà nước, nên việc

thực hiện những chính sách tài chính phải tuân theo chế độ hướng

dẫn tài chính của Nhà nước, vì thế tính linh hoạt trong quản trị tài

chính chưa cao.

Vì thế, để đưa ra quyết định tài chính đúng đắn, bộ phận tài chính cần

thiết phải được sự hỗ trợ của hệ thống thông tin kinh tế, nhưng hệ thống thông

tin kinh tế lại phụ thuộc trực tiếp vào việc thu thập, xử lý thông tin; nếu việc

thu thập, xử lý thông tin tốt thì việc ra quyết định tài chính sẽ thuận lợi hơn;

và ngược lại, việc thu thập, xử lý thông tin chưa tốt thì việc ra quyết định tài

chính sẽ gặp nhiều khó khăn hơn. Vì vậy, hoàn thiện hệ thống thông tin kinh

tế để hệ thống thông tin kinh tế được chuẩn hóa hơn nhằm phục vụ cho việc

ra quyết định tài chính là một việc cần làm và cần sớm được thực hiện.

Chính vì thế, NCS ấp ủ và mạnh dạn nghiên cứu đề tài luận án: “Hoàn

thiện hệ thống thông tin kinh tế phục vụ ra quyết định tài chính của Tập

đoàn Bưu chính - Viễn thông Việt Nam VNPT” làm đề tài nghiên cứu cho

bản luận án Tiến sĩ kinh tế của mình.

2. Mục đích nghiên cứu của đề tài

6

Đề tài tập trung nghiên cứu, hệ thống hóa và góp phần làm rõ hơn những

vấn đề lý luận về việc sử dụng hệ thống thông tin kinh tế phục vụ ra quyết

định tài chính của Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông Việt Nam VNPT.

Qua khảo sát thực trạng hệ thống thông tin kinh tế của Tập đoàn Bưu

chính - Viễn thông Việt Nam VNPT ở những năm vừa qua, đề tài nêu cao vai

trò của hệ thống thông tin kinh tế, đánh giá thực trạng việc hoàn thiện hệ

thống thông tin kinh tế và rút ra những ưu điểm, hạn chế của việc hoàn thiện

hệ thống thông tin kinh tế nhằm phục vụ ra quyết định tài chính của Tập đoàn

Bưu chính - Viễn thông Việt Nam VNPT. Từ đó đề xuất các giải pháp hoàn

thiện hệ thống thông tin kinh tế Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông Việt Nam

VNPT.

Để hoàn thiện và nâng cao chất lượng hệ thống thông tin kinh tế, về lý

thuyết cũng như thực tiễn rất cần có những nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn

diện và chuyên sâu nhằm tổng kết đánh giá một cách khách quan, khoa học về

tổ chức, quy trình cung cấp và xử lý hệ thống thông tin kinh tế hiện hành

nhằm phục vụ có hiệu quả cho các nhà quản lý kinh tế và các nhà quản trị tài

chính khi đưa ra các quyết định tài chính.

Vì thế, mục tiêu nghiên cứu của luận án được thể hiện cụ thể trên các

mặt sau:

a. Hỗ trợ nhà quản trị đưa ra quyết định đầu tư, phát huy tính sáng

tạo trong quyết định đầu tư của Tập đoàn; tăng cường liên kết

đầu tư mở rộng ở thị trường nước ngoài thông qua việc góp vốn

với các đối tác giúp VNPT ngày càng nâng cao uy tín thương

hiệu;

b. Hỗ trợ nhà quản trị đưa ra quyết định huy động vốn, thông qua

việc nâng cao khả năng thâm nhập thị trường vốn; do VNPT là

Tập đoàn kinh tế lớn của Việt Nam, có quy mô vốn lớn và thị

7

trường mở rộng, có uy tín trong lĩnh vực viễn thông ở trong nước

cũng như trên thế giới, vì thế khả năng thâm nhập thị trường vốn

của Tập đoàn VNPT rất cao, nên VNPT có cơ hội chọn lựa

nguồn vốn huy động có chi phí sử dụng vốn thấp, và là nguồn tài

trợ ổn định; và đây cũng chính là cơ hội để VNPT tăng cường sử

dụng vốn có hiệu quả thông qua việc mở rộng đầu tư ở thị trường

nước ngoài thông qua việc sử dụng nguồn vốn ở bên ngoài có chi

phí sử dụng vốn thấp.

c. Hỗ trợ nhà quản trị đưa ra quyết định huy phân phối lợi nhuận, do

VNPT có khả năng thâm nhập thị trường vốn lớn nên việc huy

động vốn đối với VNPT khá thuận lợi, vì thế VNPT vẫn ổn định

chính sách phân phối lợi nhuận nhằm tăng thu nhập thực tế cho

người lao động.

Để thực hiện những mục tiêu đã được đề ra ở phần trên, luận án cần giải

quyết 3 vấn đề chính có liên quan chặt chẽ với nhau, đó là:

1/ Vai trò của hệ thống thông tin kinh tế đối với quyết định tài chính của

Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông Việt Nam VNPT? Mục đích của phần này

là hệ thống hóa những lý luận cơ bản về tập đoàn kinh tế, các quyết định tài

chính của tập đoàn kinh tế, mối quan hệ giữa hệ thống thông tin kinh tế phục

vụ cho việc ra quyết định tài chính của tập đoàn kinh tế.

2/ Thực trạng về việc hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế nhằm phục vụ

ra quyết định tài chính của Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông Việt Nam

VNPT? Mục đích của phần này là nhằm đánh giá những thành tựu đạt được

những hạn chế và nguyên nhân dẫn tới hệ thống thông tin kinh tế phục vụ ra

quyết định tài chính còn nhiều bất cập, chưa hoàn thiện và chất lượng thông

tin chưa cao.

8

3/ Hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế nhằm phục vụ ra quyết định tài

chính của Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông Việt Nam VNPT? Mục đích của

phần này là hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế phục vụ ra quyết định tài

chính bằng cách đưa ra các nhóm giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao chất

lượng hệ thống thông tin kinh tế phục vụ ra quyết định tài chính của Tập đoàn

Bưu chính – Viễn thông Việt Nam VNPT.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài

 Đối tượng nghiên cứu:

 Tìm hiểu các đối tượng ảnh hưởng đến hệ thống thông tin

kinh tế, luận án sẽ chọn đối tượng nghiên cứu là Tập đoàn Bưu

chính – Viễn thông Việt Nam VNPT, nhưng do hiện nay Bưu

chính đã tách khỏi Viễn thông, nên luận án chỉ tiếp cận ngành

Viễn thông của Tập đoàn Bưu chính – Viễn thông Việt Nam

VNPT.

 Tìm hiểu thực trạng hệ thống thông tin kinh tế ảnh hưởng

đến việc ra quyết định tài chính của Tập đoàn Bưu chính – Viễn

thông Việt Nam VNPT; luận án chọn đối tượng nghiên cứu là

nhà quản trị cấp chiến lược, cấp chiến thuật, cấp tác nghiệp và

nhà quản lý công nghệ thông tin của tập đoàn VNPT, vì họ là

những người chủ chốt theo suốt dự án từ khi lập kế hoạch cho tới

khi hoàn thành sử dụng hệ thống thông tin kinh tế phục vụ ra

quyết định tài chính.

 Phạm vi nghiên cứu:

 Là Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông Việt Nam VNPT.

 Thời gian nghiên cứu, thu thập số liệu từ năm 2011 đến năm

2015.

9

Luận án tiếp cận giải quyết vấn đề chất lượng thông tin trên góc độ hoàn

thiện hệ thống thông tin để hỗ trợ người sử dụng thông tin ra quyết định tài

chính. Điều này nghĩa là hệ thống thông tin đã xây dựng và được hoàn thiện

sẽ tạo ra những thông tin phù hợp, chính xác, kịp thời và đầy đủ nhằm giúp

cho việc ra các quyết định tài chính được thuận lợi hơn. Các nghiên cứu liên

quan tới việc thay đổi các chính sách kinh tế nhằm phục vụ việc ra quyết định

tài chính sẽ nằm ngoài phạm vi của luận án.

Về phạm vi hệ thống thông tin, luận án chỉ dừng lại nghiên cứu ứng dụng

hệ thống thông tin kinh tế nhằm phục vụ ra quyết định tài chính trong nội bộ

tập đoàn Bưu chính – Viễn thông Việt Nam VNPT.

Về phạm vi các nhân tố ảnh hưởng chất lượng thông tin, luận án chỉ

nghiên cứu vấn đề kinh tế liên quan đến việc ra quyết định tài chính của Tập

đoàn Bưu chính - Viễn thông Việt Nam VNPT. Luận án không nghiên cứu

các nhân tố kinh tế không liên quan tới việc ra quyết định tài chính của Tập

đoàn Bưu chính - Viễn thông Việt Nam VNPT, các nhân này được coi nằm

ngoài phạm vi luận án.

4. Nguồn dữ liệu của luận án:

- Dữ liệu thứ cấp: Luận án sử dụng một số nguồn thông tin thứ cấp như

các công trình nghiên cứu, các tài liệu nghiên cứu liên quan, các báo cáo

chuyên môn của các cơ quan quản lý Nhà nước và các tổ chức khác: Tổng cục

thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông Việt

Nam VNPT.

- Dữ liệu sơ cấp: là các thông tin thu thập qua điều tra phỏng vấn trực

tiếp hoặc điều tra qua bảng câu hỏi được thiết kế sẵn.

5. Phương pháp nghiên cứu:

Để có được các đánh giá thực tiễn về hoàn thiện hệ thống thông tin kinh

tế nhằm phục vụ ra quyết định tài chính của Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông

10

Việt Nam VNPT, tác giả đã khảo sát Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông Việt

Nam VNPT. Với quy mô khảo sát này, tác giả thu thập thông tin về thực trạng

hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế trên cơ sở các phương pháp phát phiếu

điều tra, thực hiện phỏng vấn trực tiếp, qua điện thoại, thư điện tử...Bên cạnh

nguồn số liệu sơ cấp đó, tác giả còn sử dụng số liệu thứ cấp mà chủ yếu từ các

báo cáo thống kê của Tổng cục thống kê và các nguồn khác đã được công bố.

Luận án nghiên cứu lý luận kết hợp với khảo sát thực tế và sử dụng linh

hoạt phương pháp nghiên cứu định tính như phân tích, so sánh, tổng hợp

thông tin làm cơ sở đưa ra các nhận định, đánh giá thực trạng hoàn thiện hệ

thống thông tin kinh tế nhằm phục vụ ra quyết định tài chính của Tập đoàn

Bưu chính - Viễn thông Việt Nam VNPT, đồng thời đề xuất giải pháp hoàn

thiện hệ thống thông tin kinh tế phù hợp.

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn

- Đối với Tập đoàn VNPT, thì đây là một Tập đoàn lớn, có vai trò quan

trọng trong nền kinh tế quốc dân Việt Nam, việc đưa ra quyết định tài chính

đúng đắn sẽ đem lại nhiều lợi ích cho Tập đoàn, và hơn nữa đem lại lợi ích

cho nhà nước và dân cư.

- Trước yêu cầu của thị trường, mặc dù đã cố gắng hết sức, nhưng VNPT

vẫn còn nhiều tồn tại, sức phát triển chưa tương xứng với tiềm năng của một

Tập đoàn lớn. Mặt khác, trong môi trường kinh doanh đầy biến động, cạnh

tranh khốc liệt, thông tin bùng nổ đa chiều, hệ thống thông tin kinh tế phục vụ

ra quyết định tài chính của VNPT tỏ ra thiếu về lượng và thấp về chất. Trong

những tồn tại đó, việc xây dựng cho mình một hệ thống thông tin kinh tế là

một nội dung lớn cần phải thực hiện. Nếu hệ thống thông tin kinh tế không

sớm được hoàn thiện thì trở ngại sẽ phát sinh trong việc ra quyết định tài

chính, hệ lụy tất yếu là các quyết định tài chính sẽ trở nên không phù hợp,

thậm chí sai lầm, an ninh tài chính của VNPT sẽ khó được đảm bảo. Vì thế ta

11

thấy, thông tin đóng một vai trò vô cùng quan trọng, nó đem đến những cơ

hội mới cho hoạt động kinh doanh; nếu thông tin đầy đủ, chính xác, phù hợp

và kịp thời thì nó càng trở nên quan trọng, bởi nó liên quan đến việc ra các

quyết định tài chính, từ đó ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả tổ chức, hiệu quả

sử dụng đồng vốn của Tập đoàn; vì thế, hoàn thiện hệ thống thông tin có ý

nghĩa rất quan trọng trong việc ra quyết định tài chính của Tập đoàn VNPT.

- Kết quả nghiên cứu của luận án có ý nghĩa góp phần làm phong phú

thêm những vấn đề lý luận về hệ thống thông tin kinh tế và mối quan hệ giữa

hệ thống thông tin kinh tế với các quyết định tài chính của Tập đoàn kinh tế

nói chung, Tập đoàn Bưu chính – Viễn thông Việt Nam VNPT nói riêng; nó

có ý nghĩa góp phần thúc đẩy quá trình hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế

phục vụ cho việc ra quyết định tài chính của Tập đoàn Bưu chính – Viễn

thông Việt Nam.

- Thông qua khảo sát thực trạng về hệ thống thông tin kinh tế của Tập

đoàn Bưu chính - Viễn thông, luận án đánh giá thực trạng về hệ thống thông

tin kinh tế và đề xuất các giải pháp để hoàn thiện hệ thống thông tin một cách

đầy đủ, rõ ràng và kịp thời nhằm phục vụ ra quyết định tài chính của Tập

đoàn Bưu chính - Viễn thông Việt Nam VNPT ngày càng tốt hơn.

- Xuất phát từ những lý do đó, tác giả lựa chọn đề tài: “Hoàn thiện hệ

thống thông tin kinh tế phục vụ ra quyết định tài chính của Tập đoàn Bưu

chính – Viễn thông Việt Nam VNPT” là rất cần thiết trên cả phương diện lý

luận lẫn thực tiễn.

7. Kết cấu luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,

luận án được kết cấu thành 3 chương:

Chương 1: Lý luận chung về hệ thống thông tin kinh tế nhằm phục vụ

cho việc ra quyết định tài chính của Tập đoàn kinh tế.

12

Chương 2: Thực trạng về hệ thống thông tin kinh tế nhằm phục vụ cho

việc ra quyết định tài chính của Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông Việt Nam

VNPT.

Chương 3: Hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế nhằm phục vụ cho việc

ra quyết định tài chính của Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông Việt Nam

VNPT.

8. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến luận án

Quản trị tài chính trong các doanh nghiệp thuộc mọi loại hình và mọi

thành phần kinh tế luôn là vấn đề quan trọng trong công tác quản lý kinh tế tài

chính của các doanh nghiệp. Bất kể doanh nghiệp nào, vấn đề tổ chức quản trị

tài chính hợp lý và khoa học đều được những nhà quản lý và nhà chuyên môn

quan tâm đúng mức. Vì chỉ có tổ chức khoa học và hợp lý, quản trị tài chính

mới có thể đưa ra những quyết định đúng đắn và kịp thời cho việc điều hành

Tập đoàn.

Hơn ai hết, Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông Việt Nam VNPT phải chịu

sức ép cạnh tranh từ việc gia nhập WTO (do có nhiều đối tác Viễn thông nước

ngoài đầu tư vào Việt Nam), cũng như các công ty Viễn thông vừa và nhỏ

(cũng bị áp lực tồn tại trong thế giới kinh doanh đầy cạnh tranh) đều hiểu rõ

sự cần thiết vể hệ thống thông tin kinh tế, vì hệ thống này có vai trò cung cấp

thông tin kinh tế kịp thời, phù hợp, đầy đủ và chính xác cho nhà quản trị, từ

đó nhà quản trị có cơ sở khoa học đưa ra các quyết định tài chính được chính

xác hơn, hiệu quả hoạt động được nâng cao hơn, và sức cạnh tranh trên thị

trường viễn thông ngày càng lớn hơn.

Vì tầm quan trọng như vậy nên có nhiều nghiên cứu liên quan tới hệ

thống thông tin, và liên quan quyết định tài chính. Cụ thể:

Công trình nghiên cứu về hệ thống như luận án của Tiến sĩ Nguyễn Thị

Bích Liên (2012) nói về việc ứng dụng hệ thống EPR để hoạch định nguồn

13

lực của doanh nghiệp, luận án này nói về việc sử dụng hệ thống thông tin để

nghiên cứu thực hiện phân tích dữ liệu liên quan tới quy trình làm việc của

công ty. Hệ thống thông tin tác động tới tất cả các hoạt động, các bộ phận

chức năng của doanh nghiệp. Nhờ hệ thống thông tin EPR làm thay đổi quy

trình làm việc, rút ngắn thời gian làm việc cho một nghiệp vụ kinh tế, vì thế

hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp tăng lên đáng kể.

Ngoài ra, nói đến chất lượng thông tin, kiểm soát chất lượng thông tin

trong doanh nghiệp liên quan trực tiếp tới vấn đề các nhân tố ảnh hưởng chất

lượng thông tin, một nghiên cứu đã được công bố trong luận án tiến sĩ 2003

của đại học Southern Queensland “Critical Success Factors for Accounting

Information Systems Data Quality”. Tuy nhiên nghiên cứu này chỉ dừng trong

phạm vi hệ thống kế toán nói riêng chứ không phải cho cả ngành kinh tế nói

chung. Ngoài ra luận án trên sử dụng cách tiếp cận xây dựng mô hình nghiên

cứu trên quan điểm quản lý chất lượng hệ thống thông tin kế toán tổng thể

chứ không sử dụng mô hình hệ thống thông tin kinh tế, hệ thống hoạt động

khi phân tích.

Mặt khác, vai trò của nghiên cứu tài chính trong phát triển kinh tế được

giải thích bởi Okab và đồng sự (2014), thông qua nghiên cứu của họ, họ đã

chứng minh rằng các thông tin kinh tế đóng một vai trò tích cực trong sự toàn

vẹn của các quyết định cũng như sự thành công của kế hoạch phát triển, thực

hiện kế hoạch hợp thời phụ thuộc vào quyết định chiến lược được thực hiện

bởi những nhà quản lý, những loại quyết định này dựa vào các thông tin kinh

tế. Đó là lý do tại sao Ullah và đồng sự (2014) đã phát triển một mối quan hệ

có ý nghĩa giữa các thông tin kinh tế và các quyết định chiến lược. Mặt khác,

Rapina (2014) xác định ảnh hưởng của các yếu tố tổ chức (cam kết quản lý,

văn hóa tổ chức và cơ cấu tổ chức) đến chất lượng của hệ thống thông tin kinh

tế và tác động của nó đến chất lượng thông tin kinh tế; Chiriac (2014) phát

14

triển một phương pháp định tính, bởi một quan điểm lý thuyết, về tầm quan

trọng của thông tin kinh tế trong việc ra quyết định; Nobes & Stadler (2014)

thực hiện đầu tiên nghiên cứu thực nghiệm có sử dụng công khai dữ liệu có

sẵn để cung cấp bằng chứng trực tiếp về vai trò của thông tin kinh tế trong các

quyết định; Caraiman (2015) cho thấy rằng các thông tin kinh tế chịu ảnh

hưởng nặng nề của hệ thống chính trị; Một số chuyên gia như Fitriati &

Mulyani (2015) đã chứng minh rằng sự thành công của hệ thống thông tin

kinh tế có liên quan đến chất lượng thông tin; Susanto (2015) tin rằng tổng

chất lượng của thông tin kinh tế bị ảnh hưởng bởi chất lượng của hệ thống

thông tin kinh tế; Alamin và đồng sự (2015) điều tra các yếu tố (nhận thức

phù hợp với công nghệ, điều kiện thuận lợi,…) ảnh hưởng đến hệ thống thông

tin kinh tế; ngoài ra, Iskandar (2015) đã chứng minh qua nghiên cứu của mình

rằng chất lượng hệ thống thông tin kinh tế có thể được cải thiện thông qua cải

thiện quản lý.

Mặt khác, luận án tiếp cận giải quyết vấn đề hoàn thiện hệ thống thông

tin có chất lượng trên góc độ của qui trình tạo lập thông tin nhằm giúp người

sử dụng thông tin ra quyết định tài chính đúng đắn hơn. Điều này nghĩa là dựa

vào quy trình hoạt động của công ty viễn thông mẹ và các Trung tâm viễn

thong con, hệ thống thông tin sẽ được hoàn thiện để tạo ra các thông tin phù

hợp và chính xác, đảm bảo sự an toàn, độ tin cậy dữ liệu cao. Các nghiên cứu

liên quan tới việc thay đổi các chính sách kinh tế hay thay đổi các quy định

của pháp luật về quản lý tài chính sẽ nằm ngoài phạm vi của luận án.

Xuất phát từ các lý do trên, ta thấy Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông

VNPT cần được nghiên cứu hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế phù hợp để

phục vụ cho việc ra các quyết định tài chính đúng đắn hơn. Vì thế tác giả đã

lựa chọn đề tài “Hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế phục vụ ra quyết định

tài chính của Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông Việt Nam VNPT”. Với đề tài

15

này, tác giả mong muốn sẽ có nhưng đóng góp về lý luận, thực tiễn cũng như

xây dựng hệ thống thông tin kinh tế phù hợp với thực trạng của Tập đoàn.

16

CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỆ THỐNG THÔNG TIN

KINH TẾ NHẰM PHỤC VỤ CHO VIỆC RA QUYẾT ĐỊNH TÀI CHÍNH

CỦA TẬP ĐOÀN KINH TẾ

1.1 TẬP ĐOÀN KINH TẾ VÀ CÁC LOẠI QUYẾT ĐỊNH TÀI CHÍNH

CỦA TẬP ĐOÀN KINH TẾ

1.1.1 Tập đoàn kinh tế và đặc điểm của tập đoàn kinh tế

1.1.1.1 Khái niệm tập đoàn kinh tế

Theo Bách Khoa Toàn Thư Wikipedia tiếng Anh thì:"Tập đoàn là sự

liên kết của hai hay nhiều tổng công ty có lĩnh vực kinh doanh khác nhau tạo

thành một cấu trúc công ty có quy mô quản lý lớn và phức tạp”. Vì thế, về ý

nghĩa tập đoàn, ta có thể hình dung như một công ty mẹ và một số (hay nhiều)

công ty con cùng bắt tay kinh doanh ở một hay nhiều lĩnh vực nào đó; nhìn

chung, tập đoàn là một công ty đa ngành, có quy mô rất lớn và thường kinh

doanh đa quốc gia.

Theo Viện nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương CIEM thì khái

niệm về tập đoàn kinh tế được hiểu “là một tổ hợp lớn các doanh nghiệp có tư

cách pháp nhân hoạt động trong một hay nhiều ngành khác nhau, có quan hệ

về vốn, tài chính, công nghệ, thông tin, đào tạo, nghiên cứu và các liên kết

khác xuất phát từ lợi ích của các bên tham gia”. Trong mô hình này, "công ty

mẹ" nắm quyền lãnh đạo, chi phối hoạt động của "công ty con" về tài chính

và chiến lược phát triển.

Theo TS.Trần Tiến Cường, Trưởng Ban nghiên cứu cải cách và phát

triển doanh nghiệp (Viện Nghiên cứu và quản lý kinh tế TƯ) trong dự thảo

Nghị định về hình thành, tổ chức, hoạt động và giám sát đối với TĐ kinh tế

nhà nước thì tập đoàn kinh tế nhà nước là nhóm các công ty, liên kết chủ yếu

dưới hình thức công ty mẹ - công ty con, có từ hai cấp DN trở lên, tạo thành

17

tổ hợp kinh doanh gắn bó với nhau, hay tập đoàn kinh tế là tổ chức kinh tế có

kết cấu tổ chức nhiều cấp, liên kết nhau bằng quan hệ tài sản và quan hệ hợp

tác nhằm đáp ứng đòi hỏi của nền sản xuất hàng hóa; các doanh nghiệp trong

tập đoàn đều có pháp nhân độc lập.

Có nhiều quan niệm khác nhau về tập đoàn, song cũng có một điểm

chung nhất là: Tập đoàn kinh tế là tổ hợp các công ty hoạt động trong một

ngành hay nhiều ngành khác nhau, ở phạm vi một nước hay nhiều nước,

trong đó có một công ty mẹ nắm quyền lãnh đạo, chi phối hoạt động của

các công ty con về mặt tài chính và chiến lược phát triển. Tập đoàn kinh

tế là một cơ cấu tổ chức vừa có chức năng kinh doanh, vừa có chức năng

liên kết kinh tế nhằm tăng cường tích tụ, tập trung, tăng khả năng cạnh

tranh và tối đa hóa lợi nhuận

1.1.1.2 Đặc điểm của tập đoàn kinh tế

Sự hình thành và phát triển của các tập đoàn kinh tế xuất phát từ yêu

cầu tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.

Trước áp lực cạnh tranh, các công ty có xu hướng sáp nhập hoặc liên kết với

nhau tạo thành tập đoàn để nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Tuy nhiên

không phải tập đoàn kinh tế nào cũng có thể tồn tại và phát triển được; hiệu

quả hoạt động của các tập đoàn kinh tế luôn là vấn đề quan trọng được quan

tâm hiện nay bởi những lợi ích và ảnh hưởng của tập đoàn kinh tế đối với một

quốc gia là rất lớn. Sự mở rộng không hợp lý về quy mô của tập đoàn sẽ gây

ra những hệ lụy không tốt, khó khắc phục đối với nền kinh tế của các nước,

đặc biệt là các nước đang phát triển. Vì vậy, việc xác định đặc điểm chung

của tập đoàn kinh tế để tìm ra một mô hình quản lý và xây dựng chiến lược

phát triển cho tập đoàn kinh tế là cần thiết. Qua nghiên cứu tác giả nhận thấy

đặc điểm nổi bậc của tập đoàn kinh tế thường được thể hiện qua ba yếu tố cơ

bản: cơ chế đầu tư vốn, cơ chế liên kết kinh doanh, cơ chế quản lý.

18

Theo cơ chế đầu tư vốn: Sự liên kết giữa các doanh nghiệp với nhau

trong một tập đoàn luôn luôn nhằm mục tiêu quan trọng nhất là giải quyết

những khó khăn về vốn phục vụ kinh doanh. Vì vậy, khi đã hình thành tập

đoàn, các doanh nghiệp thành viên phát triển nhanh hơn, tài sản có quyền sở

hữu cũng tăng lên khá nhanh, từ đó, tổng tài sản trong toàn tập đoàn cũng khá

lớn, vì thế đòi hỏi phải có nguồn vốn lớn để đầu tư vào lượng tài sản này. Do

đó, nguồn vốn đầu tư này chủ yếu một phần được tài trợ từ công ty mẹ, phần

còn lại được huy động từ nước sở tại.

Theo cơ chế liên kết kinh doanh: Các công ty trong tập đoàn có thể

liên kết theo chiều dọc, liên kết theo chiều ngang hoặc liên kết hỗn hợp.

 Liên kết theo chiều dọc là mô hình liên kết các công ty hoạt động trong

cùng một chuỗi giá trị ngành (ví dụ: các công ty viễn thông từ cấp tập

đoàn đến cấp cơ sở). Các mối liên kết này thường mang lại lợi thế về

chi phí, sự chủ động cho các sản phẩm đầu vào và đầu ra của các công

ty. Tuy nhiên, nó cũng có một số khó khăn như nguồn lực bị phân tán,

khó tập trung vào các hoạt động chủ yếu tạo giá trị gia tăng cao nhất

trong chuỗi giá trị.

 Liên kết theo chiều ngang là sự kết hợp giữa các công ty có sản phẩm,

dịch vụ liên quan với nhau và có thể sử dụng cùng một hệ thống phân

phối để gia tăng hiệu quả (ví dụ: các công ty viễn thông con đồng cấp).

Mối liên kết này tạo điều kiện đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ, tận dụng

hệ thống phân phối để tiết kiệm chi phí, phân tán rủi ro. Tuy nhiên, nó

cũng gặp trở ngại là thiếu sự chủ động ở một số khâu như cung ứng

nguyên liệu sản xuất, kho vận… so với liên kết dọc.

 Liên kết hỗn hợp là sự kết hợp của cả hai dạng liên kết dọc và ngang.

Vì vậy, ưu nhược điểm của liên kết này là tích hợp ưu nhược điểm của

cả hai dạng. Tùy theo đặc điểm hoạt động kinh doanh của tập đoàn, nếu

19

biết phát huy thế mạnh, hạn chế điểm yếu của từng dạng liên kết đơn lẻ

sẽ tạo nên mô hình hoạt động khá hoàn chỉnh. Đồng thời, các tập đoàn

cũng cần chú ý hạn chế những tác hại do việc mở rộng quy mô, giảm

thiểu chi phí đầu tư không hiệu quả.

Theo cơ chế quản lý: Tập đoàn kinh tế có thể được quản lý theo mô

hình tập trung, phân tán hay hỗn hợp. Trong mô hình tập trung, quyền lực

được tập trung ở cơ quan đầu não thường là công ty mẹ. Trong mô hình phân

tán, công ty mẹ chỉ đưa ra định hướng và kiểm soát định hướng (kiểm soát

chiến lược, các chính sách lớn về tài chính, nhân sự, đầu tư…), giao quyền tự

chủ hoạt động cho các công ty con. Trong mô hình hỗn hợp, công ty mẹ vừa

giao quyền tự chủ cho các công ty con, vừa thâu tóm quyền lực ở một số lĩnh

vực trọng yếu.

1.1.1.3 Các mô hình tổ chức của tập đoàn kinh tế

Mô hình tổ chức của tập đoàn kinh tế thường được hình thành dựa trên

các tác động của (i) môi trường chính trị, pháp luật của mỗi quốc gia; (ii) môi

trường kinh doanh; (iii) tầm nhìn, mục tiêu chiến lược của tập đoàn; (iv) đặc

điểm của các thành viên trong tập đoàn. Mô hình tập đoàn thông thường được

phân loại theo ba yếu tố: cơ chế đầu tư vốn, cơ chế liên kết kinh doanh, cơ

chế quản lý.

 Theo cơ chế đầu tư vốn: Tập đoàn kinh tế có thể lựa chọn một trong

các mô hình đầu tư đơn cấp, đồng cấp, đa cấp hoặc hỗn hợp.

 Trong mô hình đầu tư đơn cấp, công ty mẹ lẫn công ty con đều

chỉ đầu tư xuống một cấp trực tiếp, không đầu tư xuống cấp xa

hơn.

 Trong đầu tư đồng cấp, các công ty trong cùng một cấp đầu tư

qua lại.

20

 Trong đầu tư đa cấp, các công ty, đặc biệt là công ty mẹ vừa đầu

tư trực tiếp vào công ty con, đồng thời đầu tư trực tiếp vào các

công ty cháu, chắt ở dưới mà không thông qua công ty trung gian

nào.

 Mô hình hỗn hợp là mô hình phối hợp nhiều hình thức đầu tư

(đơn cấp, đồng cấp, đa cấp) giữa các công ty trong tập đoàn.

 Theo cơ chế liên kết kinh doanh: Các công ty có thể liên kết theo chiều

dọc, liên kết theo chiều ngang hoặc liên kết hỗn hợp.

 Liên kết theo chiều dọc là mô hình liên kết các công ty hoạt động

trong cùng một chuỗi giá trị ngành. Liên kết theo chiều dọc có

thể là tích hợp ngược (ví dụ: các công ty sản xuất, mua lại hoặc

đầu tư vốn vào các công ty cung ứng nguyên vật liệu cho mình);

hoặc tích hợp xuôi (ví dụ: các công ty sản xuất, mua lại hoặc đầu

tư vốn vào một công ty thương mại, tiếp thị để tiêu thụ sản phẩm

do mình sản xuất hoặc cả hai). Các mối liên kết này thường

mang lại lợi thế về chi phí, sự chủ động cho các sản phẩm đầu

vào và đầu ra của các công ty. Tuy nhiên, nó cũng có một số khó

khăn như nguồn lực bị phân tán, khó tập trung vào các hoạt động

chủ yếu tạo giá trị gia tăng cao nhất trong chuỗi giá trị...

Như vậy, có thể thấy liên kết dọc là mô hình kinh doanh trong đó

mục tiêu chính là tạo mối liên kết giữa bản thân doanh nghiệp

với các đối tác liên quan như các nhà cung cấp và nhà phân phối.

Liên kết dựa trên nguyên lý cộng sinh. Với sức mạnh của sự liên

kết này thì công ty mẹ là công ty có tiềm lực kinh tế mạnh nhất,

nắm giữ các bộ phận then chốt nhất trong dây chuyền công nghệ,

thị trường của tập đoàn, đồng thời thực hiện chức năng quản lý,

điều phối và định hướng chung cho cả tập đoàn. Còn các công ty

21

con thì được tổ chức theo sự phân công chuyên môn hóa và phối

hợp hợp tác hóa theo đặc thù công nghệ của ngành.

Ví dụ: Sony sử dụng mô hình liên kết dọc theo sự tích hợp ngược

bằng việc hảng này sản xuất ra máy chơi game console là

PlayStaion nhưng cũng kiêm luôn studio phát triển game; Hay

Apple cũng là một điển hình trong mô hình liên kết dọc. Nó vừa

cung cấp phần cứng iPad, iPhone, iPod… vừa tạo ra phần mền

iOS, MacOS, bán dịch vụ và đảm nhận luôn khâu phân phối sản

phẩm. Apple gần như bao trọn cho một sản phẩm công nghệ mà

nhiều tập đoàn cạnh tranh trong lĩnh vực công nghệ với Apple

chưa làm được. Điều này đã làm cho Apple trở thành đối thủ

đáng gờm trong làng công nghệ và việc cạnh tranh với hảng là

điều vô cùng khó khăn.

Tất nhiên không phải cứ công ty nào liên kết theo chiều dọc cũng

chiếm được lợi thế cạnh tranh tuyệt đối. Hãy nhìn vào HP dù sở

hữu trong tay kệ điều hành WebOS đầy tiềm năng nhưng việc

mua lại Plam và không có hệ thống bán hàng và marketing xuất

sắc nên HP cũng khó lòng vươn mình lớn mạnh được như Apple.

 Liên kết theo chiều ngang là sự kết hợp giữa các công ty có sản

phẩm, dịch vụ liên quan với nhau và có thể sử dụng cùng một hệ

thống phân phối để gia tăng hiệu quả (ví dụ: công ty sản xuất

máy ảnh với công ty sản xuất ống kính máy ảnh). Mối liên kết

này tạo điều kiện đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ, tận dụng hệ

thống phân phối để tiết kiệm chi phí, phân tán rủi ro. Tuy nhiên,

nó cũng gặp trở ngại là thiếu sự chủ động ở một số khâu như

cung ứng nguyên liệu sản xuất, kho vận… so với liên kết dọc.

22

Thuộc mô hình này gồm có Tổng công ty thép Việt Nam, Tổng

công ty giấy Việt Nam, Tổng công ty cà phê Việt Nam…

 Liên kết hỗn hợp là sự kết hợp của cả hai dạng liên kết dọc và

ngang. Vì vậy, ưu nhược điểm của liên kết này là tích hợp ưu

nhược điểm của cả hai dạng. Tùy theo đặc điểm hoạt động kinh

doanh của tập đoàn, nếu biết phát huy thế mạnh, hạn chế điểm

yếu của từng dạng liên kết đơn lẻ sẽ tạo nên mô hình hoạt động

khá hoàn chỉnh. Đồng thời, các tập đoàn cũng cần chú ý hạn chế

những tác hại do việc mở rộng quy mô, giảm thiểu chi phí đầu tư

không hiệu quả.

 Theo cơ chế quản lý: Tập đoàn kinh tế có thể được quản lý theo mô

hình tập trung, phân tán hay hỗn hợp.

 Trong mô hình tập trung, quyền lực được tập trung ở cơ quan

đầu não thường là công ty mẹ.

 Trong mô hình phân tán, công ty mẹ chỉ đưa ra định hướng và

kiểm soát định hướng (kiểm soát chiến lược, các chính sách lớn

về tài chính, nhân sự, đầu tư…), giao quyền tự chủ hoạt động cho

các công ty con.

 Trong mô hình hỗn hợp, công ty mẹ vừa giao quyền tự chủ cho

các công ty con, vừa thâu tóm quyền lực ở một số lĩnh vực trọng

yếu.

1.1.2 Các quyết định tài chính của tập đoàn kinh tế

1.1.2.1 Khái niệm tài chính của tập đoàn kinh tế

Tài chính của tập đoàn kinh tế là một khâu trong hệ thống tài chính của

nền kinh tế thị trường; vì thế, tính chất và mức độ phát triển tài chính của tập

đoàn kinh tế cũng phụ thuộc vào tính chất và nhịp độ phát triển của nền kinh

tế thị trường, và có những đặc trưng chủ yếu sau:

23

Thứ nhất, tài chính của tập đoàn kinh tế phản ánh những luồng dịch

chuyển giá trị trong nền kinh tế: đó là sự vận động các nguồn tài chính được

diễn ra trong nội bộ tập đoàn để tiến hành hoạt động SXKD; được diễn ra

giữa tập đoàn với ngân sách nhà nước thông qua việc nộp thuế hoặc tài trợ tài

chính; hay được diễn ra giữa tập đoàn với thị trường.

Thứ hai, sự vận động các nguồn tài chính tập đoàn không phải diễn ra

một cách hỗn loạn mà nó được hòa nhập vào chu trình kinh tế của nền kinh tế

thị trường. Đó là sự vận động chuyển hóa từ các nguồn tài chính thành các

quỹ, hoặc vốn kinh doanh của tập đoàn và ngược lại. Sự chuyển hóa qua lại

đó được điều chỉnh bằng hệ thống các quan hệ phân phối dưới hình thức giá

trị nhằm để tạo lập hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ, phục vụ cho các mục tiêu

SXKD của tập đoàn.

Từ những đặc trưng nêu trên có thể rút ra kết luận:

Tài chính của tập đoàn kinh tế là hệ thống các luồng dịch chuyển

giá trị phản ánh sự vận động và chuyển hóa các nguồn tài chính trong

quá trình phân phối để tạo lập hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm đạt tới

các mục tiêu kinh doanh của tập đoàn kinh tế trong khuôn khổ pháp

luật.

1.1.2.2 Các quyết định tài chính của tập đoàn kinh tế

Các quyết định tài chính của Tập đoàn kinh tế là một yếu tố rất quan

trọng trong việc dự báo kế hoạch ngân sách của Tập đoàn. Bởi lẻ các quyết

định tài chính thể hiện các chính sách chiến lược của tập đoàn, chính sách này

sẽ tác động đến nhu cầu tài chính của Tập đoàn trong từng thời kỳ khác nhau.

Để đảm bảo có một bản kế hoạch tài chính sát thực, phản ánh đúng và đủ nhu

cầu tài chính của Tập đoàn thì các quyết định tài chính phải được phân tích,

đánh giá và hoạch định trước. Khi đó bản kế hoạch tài chính được xem như

24

bản tổng hợp nhu cầu tài chính trên cơ sở có một sự đồng bộ hóa về các chính

sách tài chính của Tập đoàn.

Trong hầu hết các Tập đoàn, các quyết định tài chính ở công ty mẹ

thường là quyết định tài chính trung và dài hạn; các quyết định tài chính ở

công ty con thường là quyết định tài chính ngắn hạn. Vì quyết định tài chính

cuả Tập đoàn chủ yếu là các quyết định chiến lược, nên ở đây tác giải trình

bày chủ yếu là các quyết định tài chính dài hạn của tập đoàn.

Các quyết định tài chính dài hạn

Đối với doanh nghiệp nói chung và tập đoàn kinh tế nói riêng thì quyết

định tài chính dài hạn là những quyết định mang tính chất chiến lược, có tầm

quan trọng và ảnh hưởng lâu dài đến chiến lược hoạt động của tập đoàn; trước

khi đưa ra mỗi quyết định đòi hỏi nhà quản trị phải có sự cân nhắc cẩn thận,

vì nếu quyết định dài hạn đúng đắn sẽ giúp tập đoàn tăng trưởng và phát triển;

ngược lại, nếu quyết định sai lầm sẽ làm cho tập đoàn suy thoái và phá sản; vì

thế sự cân nhắc cẩn thận của nhà quản trị là nhằm hạn chế rủi ro có thể xảy ra

cho tập đoàn. Quyết định tài chính dài hạn của tập đoàn vẫn bao gồm các

quyết định chính: quyết định đầu tư, quyết định huy động vốn, và quyết định

phân phối lợi nhuận; những quyết định này gắn liền với chiến lược kinh

doanh của tập đoàn.

 Quyết định đầu tư vốn:

Đây là quyết định dài hạn của tập đoàn, trước khi thực hiện quyết định

này, tập đoàn cần phải phân tích, đánh giá và lựa chọn các dự án đầu tư có

hiệu quả; để thực hiện quyết định này, các tập đoàn kinh tế cần phải có các

thông tin về nhu cầu vốn đầu tư cho từng dự án, cụ thể hơn nữa thì đó là nhu

cầu vốn cho từng giai đoạn đầu tư cần phải được hoạch định. Thêm nữa, dòng

tiền vào từ dự án đầu tư cũng phải được xác định, và nhà quản trị sẽ có thông

tin về dòng tiền vốn thu hồi hàng năm, dòng tiền lợi nhuận được tạo ra qua

các năm. Đây là cơ sở để xác định nguồn tiền để hoàn trả nợ vốn, trả lãi vay,

25

chia lãi cho chủ sở hữu, khi đó sẽ làm giảm nhu cầu vốn, nhu cầu tiền vì đã có

nguồn tiền đối ứng, hoặc nguồn trả nợ từ dự án đầu tư tạo ra... Các thông tin

này sẽ được sử dụng để cân đối dòng tiền trong bản kế hoạch tài chính của tập

đoàn.

Quyết định đầu tư là quyết định giúp tập đoàn lựa chọn cơ hội đầu tư

trong điều kiện nguồn lực tài chính có giới hạn nhằm đem về hiệu quả cao

nhất cho chủ sở hữu. Theo quy luật kinh doanh thì dự án đầu tư nào có tỷ suất

sinh lời cao thường gánh chịu rủi ro cao; và ngược lại, dự án đầu tư nào có tỷ

suất sinh lời thấp thường gánh chịu rủi ro thấp. Mà giá trị tăng thêm của tập

đoàn đó chính là tổng giá trị tương lai được đưa về hiện tại, và được chiết

khấu theo một tỷ suất sinh lời đòi hỏi của nhà đầu tư; nếu nhà quản trị chọn

lựa dự án nào có tỷ suất sinh lời kỳ vọng cao, thì tất nhiên rủi ro của nhà đầu

tư sẽ tăng cao; để bù đắp lại rủi ro này thì tỷ suất sinh lời đòi hỏi của nhà đầu

tư cũng sẽ tăng cao, khi đó hiệu quả dự án chưa chắc đem về giá trị tăng thêm

tối ưu cho tập đoàn.

Vì thế, để đi đến quyết định đầu tư, một trong những vấn đề quan trọng

nhất là phải đánh giá được hiệu quả dự án đầu tư; hiệu quả dự án đầu tư được

thể hiện trong mối quan hệ giữa lợi ích thu được so với chi phí đã bỏ ra. Do

đó, khi xem xét hiệu quả dự án đầu tư là xem xét những vấn đề cơ bản: đó là

mối quan hệ giữa lợi ích trong tương lai thu được có tương xứng với chi phí

đã bỏ ra hay không. Có những dự án có hiệu quả âm nhưng vẫn đầu tư, có

những dự án có hiệu quả dương nhưng chưa chắc được đầu tư; vì thế khi đánh

giá hiệu quả dự án trước hết phải xuất phát từ mục tiêu của dự án đầu tư.

Đối với tập đoàn kinh tế thì mục tiêu hàng đầu của quyết định đầu tư vốn

dài hạn đó chính là lợi nhuận, tập đoàn kinh tế không thể hoạt động được nếu

tình trạng thua lỗ kéo dài. Vì thế, đầu tư dài hạn của tập đoàn kinh tế là nhằm

khai thác tốt nhất mọi tiềm năng và lợi thế của tập đoàn để đạt được mục đích

cuối cùng là lợi nhuận. Do đó, đầu tư vốn dài hạn của tập đoàn là một trong

26

những nhân tố chủ yếu quyết định sự phát triển của tập đoàn cũng như của

nền kinh tế quốc dân.

Trên góc độ kinh doanh của tập đoàn, với mục tiêu hàng đầu là tối đa hóa

lợi nhuận. Để thực hiện được mục tiêu này đòi hỏi tập đoàn phải có một

lượng vốn nhất định để hình thành nên các tài sản cần thiết trong kinh doanh

như: mua sắm máy móc thiết bị, xây dựng nhà xưởng, mua bằng sáng chế

phát minh, đào tạo công nhân, hình thành một lượng tài sản lưu động thường

xuyên cần thiết. Trong quá trình phát triển, doanh nghiệp tiếp tục bổ sung vốn

để tăng thêm tài sản kinh doanh tương ứng với sự mở rộng quy mô kinh

doanh. Các hoạt động của quá trình trên chính là quá trình đầu tư của tập

đoàn.

Như vậy, đầu tư vốn dài hạn của tập đoàn kinh tế là quá trình sử dụng vốn

để hình thành nên các tài sản cần thiết nhằm mục đích thu lợi nhuận trong

khoản thời gian dài trong tương lai.

Các bước để thực hiện một quyết định đầu tư dài hạn:

Quyết định đầu tư cũng là một quyết định tài chính dài hạn của tập đoàn

nó ảnh hưởng đến sự phát triển trong tương lai của tập đoàn. Thông thường, để

đi đến quyết định đầu tư, tập đoàn cần thực hiện các bước sau đây:

- Nhận biết tình hình: Đây là vấn đề hết sức quan trọng để đi đến

quyết định đầu tư, bao gồm: đánh giá tình hình hiện tại và dự đoán

tình hình trong tương lai ở bên trong cũng như bên ngoài tập đoàn.

- Xác định mục tiêu: Mỗi một quyết định đầu tư của tập đoàn đều

phải xác định rõ mục tiêu (mang tính chất dài hạn) cần đạt được về

sản xuất, về tài chính…

- Lựa chọn phương án đầu tư: Đây là công việc rất phức tạp, phải

giải quyết các vấn đề về kỹ thuật, kinh tế, tài chính…

- Lựa chọn dự án đầu tư: Sau khi các dự án được lập, tiến hành so

27

sánh và lựa chọn dự án để đầu tư.

- Ra quyết định đầu tư: Chọn được dự án đầu tư cần tiếp tục xem xét

tiếp khả năng thực hiện và ra quyết định đầu tư.

 Quyết định huy động vốn:

Sau khi đã quyết định đầu tư, một trong những quyết định quan trọng

tiếp theo là quyết định huy động vốn để đáp ứng cho nhu cầu đầu tư.

Quyết định huy động vốn là quyết định lựa chọn nên huy động vốn dài

hạn từ những nguồn nào, chi phí sử dụng vốn bao nhiêu, quy mô vốn ra sao

nhằm mục tiêu cuối cùng là tối đa hóa giá trị cho chủ sở hữu.

Quyết định huy động vốn là một trong những quyết định có tính chất tiên

quyết của tập đoàn, vì để tập đoàn tồn tại và hoạt động được thì đầu tiên đòi

hỏi tập đoàn phải có vốn. Tuy nhiên, vốn huy động như thế nào để chi phí sử

dụng vốn là thấp nhất, điều này tương ứng với cơ cấu vốn tối ưu nhất (hệ số

nợ tối ưu). Đây là cơ sở cho việc xác định mức vay nợ của tập đoàn sau khi đã

xác định nhu cầu tài chính cho tập đoàn. Về quan điểm, hệ số nợ tối ưu được

xác định dựa trên nhiều căn cứ như khả năng đảm bảo an toàn tài chính, khả

năng sinh lời, đặc điểm kinh tế kỹ thuật của ngành kinh doanh... Tóm lại, đó

là hệ số nợ đảm bảo tối đa hóa sinh lời và tối thiểu hóa rủi ro cho chủ sở hữu

của tập đoàn.

Xét về tổng thể, nguồn vốn của tập đoàn gồm hai phần: vốn nợ và vốn

chủ sở hữu. Khi tập đoàn sử dụng nguồn vốn hỗn hợp này có thể xảy ra các

trường hợp sau:

Trường hợp 1: tỷ suất sinh lời của vốn kinh doanh (BEP) lớn hơn lãi suất

vay nợ, tập đoàn sử dụng nợ nhiều hơn vốn chủ sở hữu: trong trường hợp này,

nếu tập đoàn sử dụng nợ càng nhiều thì tỷ suất sinh lời trên đồng vốn chủ sở

hữu càng cao, vì nhận được nhiều thu nhập hơn từ vốn vay tạo ra, do đó nó sẽ

làm tăng thêm dòng tiền mà chủ sớ hữu nhận được. Tuy nhiên, do tăng thu

nhập từ vốn vay tạo ra nên tập đoàn càng sử dụng nợ, chính việc làm này có

28

tác dụng ngược đó là làm tăng nguy cơ rủi ro vỡ nợ dẫn đến tổn thất cho chủ

sở hữu.

Trường hợp 2: tỷ suất sinh lời của vốn kinh doanh (BEP) lớn hơn lãi suất

vay nợ, tập đoàn sử dụng nợ ít hơn vốn chủ sở hữu: trong trường hợp này

nguy cơ rủi ro vỡ nợ được giảm thiểu; tuy nhiên, do tập đoàn sử dụng nợ càng

ít thì tỷ suất sinh lời trên đồng vốn chủ sở hữu càng thấp, vì nhận được ít thu

nhập từ vốn vay tạo ra, do đó nó sẽ làm giảm thêm dòng tiền mà chủ sớ hữu

nhận được.

Vậy, việc sử dụng vốn vay một mặt sẽ làm tăng giá trị cho chủ sở hữu, vì

nó làm tăng dòng tiền của chủ sở hữu; mặt khác, nó làm tăng nguy cơ rủi ro

vỡ nợ cho chủ sở hữu nếu tập đoàn vay nợ quá mức; trong trường hợp này, để

bù đắp lại rủi ro do nguy cơ vỡ nợ tăng lên, đến lượt nó, chủ sở đòi hỏi tỷ suất

sinh lời tăng cao hơn, chính điều này sẽ làm cho giá trị của tập đoàn bị sụt

giảm. Chính vì vậy, nhà quản trị tài chính phải đưa ra quyết định lựa chọn

nguồn vốn nào, với quy mô từng nguồn vốn là bao nhiêu để tài trợ cho dự án

đầu tư, cũng như tài trợ cho hoạt động kinh doanh của tập đoàn sao cho hiệu

quả mang về cho chủ sở hữu là cao nhất.

Nguồn vốn dài hạn dùng để tài trợ cho quyết định đầu tư của tập đoàn

gồm nguồn vốn bên trong và nguồn vốn bên ngoài của tập đoàn; cụ thể:

 Nguồn vốn bên trong chính là lợi nhuận giữ lại để tái đầu tư, nguồn

này nhiều hay ít phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh,

chính sách phân phối lợi nhuận, chiến lược kinh doanh, và cơ hội

đầu tư của tập đoàn.

Sử dụng nguồn vốn này sẽ có lợi cho tập đoàn thể hiện ở những

khía cạnh sau: thứ nhất, tăng vốn chủ sở hữu, đáp ứng nhu cầu vốn

cho tập đoàn; thứ hai, làm tăng sự tự chủ về tài chính của tập đoàn,

vì nguồn vốn này là vốn chủ sở hữu nên bản thân nó sẽ làm giảm

hệ số nợ, làm tăng uy tín cho tập đoàn; thứ ba, tiết kiệm chi phí sử

29

dụng vốn so với việc phát hành cổ phiếu; thứ tư, giữ được quyền

kiểm soát cho các cổ đông hiện hữu, tránh áp lực phải thanh toán

đúng kỳ hạn.

Tuy nhiên, việc sử dụng nguồn vốn này cũng có những bất lợi đối

với các tập đoàn hoạt động ổn định, có xu hướng phát triển thường

phải trả chi phí cao hơn vốn vay; hiệu quả sử dụng vốn thường

không cao và thường bị giới hạn về quy mô vốn, khó thoái vốn

nên tính linh hoạt về vốn thấp.

 Nguồn vốn bên ngoài: Để thực hiện dự án đầu tư, trường hợp đã

huy động hết các nguồn vốn bên trong tập đoàn mà vẫn không đủ

đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư thì các tập đoàn buộc phải tìm kiếm

các nguồn vốn tài trợ từ bên ngoài như vay dài hạn. Có nhiều hình

thức vay dài hạn như vay dài hạn của ngân hàng và các tổ chức tài

chính – tín dụng, vay thông thường qua phát hành trái phiếu, thuê

tài chính… Trong đó, vay dài hạn ngân hàng là một trong những

nguồn vốn quan trọng nhất, không những đối với sự phát triển của

tập đoàn, mà còn đối với cả một nền kinh tế quốc dân.

Khi sử dụng nguồn vốn vay này, tập đoàn kinh tế sẽ có những lợi

ích của nợ vay như sau: thứ nhất, đẩy rủi ro kinh doanh sang cho

chủ nợ (như công ty trách nhiệm hữu hạn chỉ chịu trách nhiệm trên

vốn điều lệ); thứ hai, tập đoàn sử dụng nợ nghĩa là sử dụng đòn

bẩy tài chính làm gia tăng lợi nhuận của tập đoàn; thứ ba, tập đoàn

được hưởng tấm chắn thuế từ nợ vay; thứ tư, không bắt buộc phải

có tài sản thế chấp (đối với thuê tài chính).

Tuy nhiên, bên cạnh những điểm lợi vừa nêu ở trên, thì tập đoàn sẽ

có những bất lợi khi sử dụng nợ vay, đó là: thứ nhất, bắt buộc phải

trả lãi và nợ gốc đúng hạn, điều này sẽ tạo nguy cơ cho tập đoàn

mất khả năng thanh toán khi đến hạn, dẫn đến nguy cơ phá sản

30

cao; thứ hai, nếu kinh doanh kém hiệu quả thì tỷ suất sinh lời trên

đồng vốn chủ sở hữu có sử dụng nợ sẽ nhỏ hơn tỷ suất sinh lời trên

đồng vốn chủ sở hữu không sử dụng nợ; thứ ba, hệ số tín nhiệm

thấp vì nhà cung cấp cũng như người cho vay sẽ thận trọng trong

việc cung cấp nguyện vật liệu, cho vay, nhà đầu tư ngại mua cổ

phiếu, nhà liên doanh ngại giao dịch quan hệ kinh doanh; thứ tư,

nếu tập đoàn vay dài hạn thông qua hình thức thuê tài chính thì

không được hủy hợp đồng thuê trước hạn.

 Quyết định phân phối lợi nhuận:

Đây là quyết định lựa chọn của nhà quản trị xem dành bao nhiêu phần

trăm lãi sau thuế để chia lợi nhuận, và dành bao nhiêu phần trăm lãi sau thuế

để tái đầu tư sao cho giá trị tập đoàn là cao nhất.

Về cơ bản, lãi sau thuế của tập đoàn kinh tế được chia làm hai phần:

một phần dành để chia cho chủ sở hữu, phần còn lại dành để tái đầu tư cho tập

đoàn. Việc quyết định chia lợi nhuận hay giữ lại lợi nhuận không ảnh hưởng

đến tổng lãi sau thuế dành cho chủ sở hữu, nhưng nó ảnh hưởng đến giá trị

của tập đoàn tại thời điểm hiện tại, và ảnh hưởng tới mức tăng trưởng của tập

đoàn trong tương lai. Nếu tập đoàn dành phần lớn lãi sau thuế để chia lợi

nhuận, thì trong hiện tại hình ảnh của tập đoàn sẽ rất đẹp trong mắt của nhà

đầu tư, điều này sẽ góp phần thúc đẩy giá trị của tập đoàn tăng lên; tuy nhiên

tập đoàn sẽ không đủ nguồn vốn để tái đầu tư, và điều này sẽ tác động xấu

đến tăng trưởng của tập đoàn trong tương lai. Ngược lại, Nếu tập đoàn dành

phần lớn lãi sau thuế để tái đầu tư, chia lợi nhuận cho chủ sở hữu ít, thì nhà

đầu tư sẽ nghi ngờ hiệu quả hoạt động SXKD của tập đoàn, từ đó hình ảnh

của tập đoàn sẽ mờ nhạt trong mắt của nhà đầu tư, điều này sẽ làm cho giá trị

của tập đoàn không cao trong hiện tại; tuy nhiên tập đoàn sẽ đủ nguồn vốn để

tái đầu tư, và điều này sẽ tác động tích cực đến tăng trưởng của tập đoàn trong

tương lai. Vì vậy, nhà quản trị tài chính phải quyết định lựa chọn phân chia

31

bao nhiêu phần trăm lãi sau thuế dành cho chủ sở hữu, và bao nhiêu phần

trăm lãi sau thuế để tái đầu tư sao cho đạt được mục tiêu tối đa hóa giá trị của

tập đoàn, và phù hợp với giai đoạn phát triển trong chu kỳ sống của tập đoàn.

Vậy, phân phối lợi nhuận vừa tác động đến thu nhập thực tế của chủ sở

hữu, đồng thời vừa tác động đến tăng trưởng thu nhập trong tương lai cho chủ

sở hữu. Do đó, việc phân chia lợi nhuận cũng phải đảm bảo hài hòa lợi ích

trước mắt và lợi ích lâu dài cho sự phát triển của tập đoàn.

Bên cạnh những quyết định tài chính mang tính tổng quát vừa trình bày ở

phần trên dùng để áp dụng chung cho tập đoàn kinh tế nói riêng và cho doanh

nghiệp nói chung thì quyết định tài chính của tập đoàn kinh tế còn có những

nét đặc thù riêng, đó là, tập đoàn kinh tế chủ yếu hoạt động theo mô hình

công ty mẹ - công ty con, đây là hình thức phổ biến và được hình thành từ sự

liên kết các doanh nghiệp trên cơ sở các quan hệ về đầu tư, chi phối, gắn kết

với nhau về thương hiệu, thị trường. Các tập đoàn kinh tế nhà nước và tư

nhân thường có quy mô vốn lớn, thị trường mở rộng, và thường có xu hướng

đầu tư quốc tế; vì thế, những quyết định tài chính dài hạn của tập đoàn kinh tế

thường có những điểm khác biệt với quyết định tài chính dài hạn của doanh

nghiệp nhỏ lẻ thông thường trong nước do những nguyên nhân sau đây:

 Thứ nhất, khác biệt về tổ chức, khác biệt về sự trao đổi từ nước

ngoài, khác biệt về rủi ro tài chính nên dẫn đến sự khác biệt về

quyết định đầu tư. Quyết định đầu tư của Tập đoàn kinh tế (nhất là

đầu tư quốc tế) đòi hỏi phải có sự hiểu biết về văn hóa, lịch sử của

nước sở tại mà tập đoàn đó quyết định đầu tư. Đối với doanh

nghiệp nhỏ lẻ thông thường có quy mô vốn và phạm vi đầu tư nhỏ

(thường là chỉ đầu tư trong nước), thì những đặc điểm về văn hóa,

lịch sử của nước khác là không quan trọng.

 Thứ hai, mặt dù doanh nghiệp nhỏ lẻ trong nước và các tập đoàn

kinh tế (có đầu tư quốc tế) đều phải đối mặt với những rủi ro;

32

nhưng doanh nghiệp nhỏ lẻ trong nước chủ yếu chỉ đối mặt với

những rủi ro xảy ra trong nước; còn tập đoàn kinh tế vẫn phải một

mình đối mặt với những rủi ro kinh tế và rủi ro chính trị ở nước

ngoài, mà điều này không phải là những mối đe dọa bình thường

đến tập đoàn kinh tế.

 Thứ ba, dù là tập đoàn kinh tế hay những doanh nghiệp nhỏ lẻ

thông thường trong nước đều phải đối mặt với những rủi ro khác

đó là việc quyết định có nên mở rộng tài chính? cụ thể, tập đoàn

kinh tế hay những doanh nghiệp nhỏ lẻ thông thường trong nước

trước khi tiếp cận nguồn vốn trong nước hay nguồn vốn nước

ngoài, đều phải tính đến chi phí sử dụng vốn, thuế, và những phép

phân tích tín dụng mà tập đoàn hay doanh nghiệp đều phải gánh

chịu; tuy nhiên doanh nghiệp nhỏ lẻ trong nước có quy mô nhỏ

nên thông thường chỉ có thể tiếp cận nguồn vốn trong nước, còn

tập đoàn kinh tế có quy mô lớn, có tính chất đầu tư quốc tế cao nên

có nhiều cơ hội chọn lựa tiếp cận nguồn vốn trong nước hay nguồn

vốn nước ngoài với chi phí sử dụng vốn tối ưu hơn.

 Thứ tư, Một tập đoàn kinh tế đa quốc gia thực hiện cấu trúc vốn

nhằm mục tiêu “toàn cầu” khác với những doanh nghiệp nhỏ lẻ

thông thường trong nước thực hiện cấu trúc vốn nhằm mục tiêu

“địa phương”: Một tập đoàn kinh tế đa quốc gia có thể đi chệch

cấu trúc vốn mục tiêu của mình ở từng quốc gia riêng biệt, ví dụ

như: 1.Không được phép phát hành cổ phiếu mà chỉ được phát

hành trái phiếu hay vay ngân hàng của quốc gia A, 2. Chỉ tiến

hành phát hành cổ phiếu ở quốc gia B, 3.chỉ vay ngân hàng địa

phương của quốc C, là nước đang có rối loạn chính trị; tuy nhiên

vẫn có thể đạt được cấu trúc vốn mục tiêu trên cơ sở hợp nhất.

Trong khi đó một doanh nghiệp nhỏ trong nước thì có thể xác định

33

trực tiếp cấu trúc vốn mục tiêu mà không cần phải đi chệch hướng

cho từng khoản vốn huy động.

 Thứ năm, cấu trúc vốn các tập đoàn kinh tế đa quốc gia có thể có

sự khác biệt một cách có hệ thống với cấu trúc vốn với các doanh

nghiệp nhỏ lẻ với 100% là vốn nội địa; vấn đề này phụ thuộc vào

đặc điểm của từng tập đoàn kinh tế đa quốc gia; đối với những tập

đoàn kinh tế có những đặc điểm như lưu lượng tiền tệ thu vào ròng

ổn định thì thường có cấu trúc thâm dụng nợ vì họ sẵn sàng chi trả

lãi vay bằng các lưu lượng tiền tệ thu vào này; bên cạnh đó, đối

với những tập đoàn kinh tế có những đặc điểm như thu nhập của

công ty con phụ thuộc vào luật lệ thuế khóa của nước chủ nhà, cụ

thể chính phủ nước chủ nhà buộc các công ty con ở địa phương

giữ lại trong nước tất cả các thu nhập, không được chuyển ra nước

ngoài, làm cho công ty mẹ không nhận được dòng tiền thu về từ

các công ty con, công ty mẹ sẽ không thể thanh toán lãi vay định

kỳ cho cho các chủ nợ, vì lý do này công ty mẹ duy trì chung một

cấu trúc vốn thâm dụng vốn cổ phần.

1.2 HỆ THỐNG THÔNG TIN KINH TẾ PHỤC VỤ CHO VIỆC RA QUYẾT

ĐỊNH TÀI CHÍNH CỦA TẬP ĐOÀN KINH TẾ

1.2.1 Hệ thống thông tin kinh tế của tập đoàn kinh tế

1.2.1.1 Thông tin kinh tế và hệ thống thông tin kinh tế

1.2.1.1.1 Thông tin kinh tế

a. Thông tin

Thông tin chính là tất cả những gì mang lại hiểu biết cho con người;

thông tin làm tăng hiểu biết của con người, là nguồn gốc của nhận thức và là

cơ sở quyết định. Con người luôn có nhu cầu thu thập thông tin bằng nhiều

cách khác nhau: đọc báo, nghe đài, xem tivi, giao tiếp...

34

Thông tin là ý nghĩa được rút ra từ dữ liệu thông qua quá trình xử lý

(phân tích, tổng hợp, đánh giá...), thông tin chỉ có ích khi gặp nhu cầu thật sự;

khi được thu nhận, thông tin được tổ chức và phân phối theo một phương

pháp có hệ thống, có thể mô tả theo sơ đồ sau:

Dữ liệu

Xử lý

Thông tin

Xử lý

Quyết định

Sơ đồ 1.1: sơ đồ tổ chức và phân phối thông tin

Trong xã hội phát triển, thông tin đã trở thành một nguồn tài nguyên

quan trọng và to lớn, vì thông tin là sức mạnh của chiến lược. Tuy nhiên,

thông tin được coi là có giá trị khi có những đặc điểm sau đây:

Số lượng: Lượng thông tin được cung cấp phải tương ứng với mục đích,

không quá nhiều khiến cho những thông tin chính tản mát, hoặc quá ít khiến

chúng tạo nên một bức tranh không đầy đủ;

Phù hợp: Thông tin phải phù hợp với khả năng thu nhận của người sử

dụng;

Phạm vi: Quy mô hay phạm vi của thông tin phải tương ứng với mục

đích sử dụng;

Liên quan: Nội dung của thông tin phải mang lại giá trị hữu ích với yêu

cầu;

35

Chính xác: Thông tin càng chính xác càng tốt, nhưng trong một số

trường hợp phải lưu ý với yếu tố kịp thời, đôi khi chính xác 90% nhưng kịp

thời vẫn tốt hơn chính xác 100% nhưng lỗi thời;

Kịp thời: Thông tin phải sẵn sàng khi cần đến và phù hợp với hoàn cảnh

sử dụng;

Tin cậy: Tính tin cậy của thông tin kinh tế thể hiện ở việc nguồn văn bản

khi cập nhật phải là văn bản do đúng cấp có thẩm quyền ban hành và đang có

hiệu lực áp dụng.

b.Thông tin kinh tế:

Đó là những thông tin gắn liền với hoạt động kinh tế.

Theo nghĩa rộng, đó là những tin tức được tiếp nhận, được hiểu để phục

vụ cho việc ra các quyết định kinh tế.

1.2.1.1.2 Hệ thống thông tin kinh tế

Để hỗ trợ quá trình ra quyết định và quản lý hoạt động, hệ thống thông

tin kinh tế có vai trò rất quan trọng trong hiệu quả quyết định của nhà quản trị.

Vậy, hệ thống thông tin kinh tế là gì?

Thuật ngữ hệ thống là một khái niệm rộng và được định nghĩa bằng

nhiều cách khác nhau:

+ Hệ thống là tập hợp nhiều yếu tố, đơn vị cùng loại hoặc cùng chức

năng, có quan hệ hoặc liên hệ với nhau chặt chẽ, làm thành một thể thống

nhất.

+ Hệ thống là tập hợp những tư tưởng, những nguyên tắc, quy tắc liên

kết với nhau một cách logic làm thành một thể thống nhất.

Một cách tổng quát ta có hai khái niệm sau:

“Hệ thống là một tập hợp gồm nhiều phần tử tương tác, có các mối

quan hệ ràng buộc lẫn nhau và cùng hoạt động hướng tới một mục tiêu

36

chung thông qua việc chấp thuận các đầu vào và biến đổi có tổ chức để tạo

kết quả đầu ra”. [8]

“Hệ thống là tập hợp các phần tử hay đối tượng trên đó thực hiện một

hay nhiều quan hệ (Relation) cho trước với những tính chất (Properties)

nhất định”. [8]

Tuy nhiên, định nghĩa hệ thống như một tập hợp các phân tử tác động

qua lại lẫn nhau là phổ biến nhất. Hệ thống này còn bao hàm ý nghĩa về kế

hoạch, phương pháp, tổ chức các đối tượng một cách có trật tự để tạo thành

một chỉnh thể.

Hệ thống thông tin

Hệ thống thông tin là hệ thống hỗ trợ thu thập các dữ liệu đầu vào, xử lý,

lưu trữ các dữ liệu nhằm cung cấp thông tin cho người sử dụng.

Hệ thống thông tin kinh tế

Theo D.Oprea (2005) thì hệ thống thông tin kinh tế là “một hội đồng các

nguồn nhân lực và vốn, đầu tư vào một đơn vị kinh tế, với mục đích thu thập

và xử lý các dữ liệu cần thiết để sản xuất các thông tin, các thông tin này sẽ

được sử dụng ở tất cả các cấp ra quyết định quản lý và kiểm soát các tổ chức

hoạt động”.

Hệ thống thông tin kinh tế là hệ thống hỗ trợ thu thập, tổ chức và xử lý

những thông tin trong lĩnh vực kinh tế (vĩ mô, vi mô) ở bên trong và bên

ngoài doanh nghiệp để phục vụ cho công tác quản trị của chính tập đoàn. Vì

thế, khả năng tương tác của hệ thống thông tin kinh tế có thể được coi là sự

kết nối giao tiếp dễ dàng giữa các đối tượng sử dụng.

Hệ thống thông tin đóng vai trò trung gian giữa tập đoàn với môi trường

bên ngoài, hay giữa các bộ phận bên trong tổ chức tập đoàn với nhau nhằm

cung cấp những thông tin cần thiết cho sự quản trị, điều hành; cụ thể, hệ

thống thông tin kinh tế sẽ giúp các tập đoàn tăng cường năng lực quản trị,

37

nâng cao năng suất chất lượng, nâng cao hiệu quả của hoạt động quản trị, và

hỗ trợ cho quá trình ra quyết định... qua đó tăng cường vị thế cạnh tranh của

tập đoàn trong một thị trường biến đổi nhanh chóng và phức tạp. Vì vậy, hệ

thống thông tin kinh tế có vai trò to lớn trong quản trị tập đoàn.

Song song đó, tất cả các tổ chức, tập đoàn đều cần đến thông tin để hỗ

trợ cho công tác quản trị và thông tin cũng giúp ích rất nhiều trong việc thực

hiện các mục tiêu và các hoạt động của tập đoàn. Do đó, hệ thống thông tin

kinh tế ra đời là một tất yếu khách quan.

Từ những vấn đề trên ta có thể rút ra khái niệm về Hệ thống thông tin

kinh tế như sau:

Hệ thống thông tin kinh tế là hệ thống thông tin cung cấp những thông

tin kinh tế nhằm phục vụ cho công tác quản trị tập đoàn; đó là hệ thống hỗ

trợ quá trình thu thập, phân tích, đánh giá và phân phối những thông tin cần

thiết, kịp thời, chính xác cho nhà quản trị để giúp nhà quản trị đưa ra những

quyết định tài chính – kinh tế được chuẩn xác nhất.

Yêu cầu của hệ thống thông tin

 Hệ thống thông tin phải đảm bảo tính chính xác

Thông tin phải chính xác, nó phải được lấy từ nguồn thông tin có thẩm

quyền ban hành (như thông tin từ chính phủ thông qua các Bộ, Ngành), hoặc

được lấy từ trong nội bộ Tập đoàn, do những nhà quản trị các cấp tuyên bố

chính thức.

Trong thực tế, các nhà quản lý thường bị đè nặng bởi hệ thống thông tin

quá tải, không cần thiết; nhưng yếu tố chính xác là yếu tố rất quan trọng, vì nó

tác động trực tiếp đến hiệu quả ra quyết định; vì thế, dù các nhà quản lý có bị

quá tải về thông tin nhưng vẫn không thể xem nhẹ yếu tố này. Hay nói cách

khác, đây là yếu tố được chú trọng hàng đầu trong hệ thống thông tin mà Tập

đoàn đã xây dựng.

38

Ví dụ: Trước khi Tập đoàn mở rộng chính sách bán chịu, Tập đoàn cần

đánh giá khoản bán chịu sẽ được hoàn trả như thế nào, lợi nhuận Tập đoàn sẽ

tăng hay giảm từ việc mở rộng chính sách bán chịu này? Vì thế, để tránh sai

lầm khi ra chính sách bán chịu này, Tập đoàn cần phải có thông tin chính xác

về khả năng thanh toán của khách hàng, cũng như uy tín của khách hàng.

Tuy nhiên, khi xây dựng hệ thống thông tin kinh tế nhằm phục vụ ra

quyết định tài chính, nhà quản trị cần chú ý trong hệ thống thông tin kinh tế,

đặc biệt là thông tin được lấy từ báo cáo tài chính của Tập đoàn, được đánh

giá cao trong hệ thống thông tin, nhưng số liệu trên báo cáo tài chính là số

liệu tổng hợp nên có thể gây khó khăn cho người đọc khi đánh giá các thành

phần của Tập đoàn; mặt khác, báo cáo tài chính được lập sau một thời gian

hoạt động, nên số liệu trên báo cáo là số liệu của quá khứ, trong khi người sử

dụng thông tin để đưa ra quyết định dựa trên những kỳ vọng về tương lai; vì

thế các thông tin kinh tế nói chung hay báo cáo tài chính nói riêng có tác dụng

góp phần vào việc giúp nhà quản trị đưa ra quyết định bằng cách giúp họ xác

định xu hướng, xác nhận độ chính xác của những kỳ vọng trước đó.

 Hệ thống thông tin phải đảm bảo tính đầy đủ.

Trong hệ thống thông tin, nếu ta chỉ đòi hỏi đảm bảo độ chính xác thôi

vẫn chưa đủ, vì nó vẫn chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu người sử dụng, một

thông tin có chất lượng tốt phải gồm: chính xác và đầy đủ; thông tin đầy đủ

phải bao gồm tất cả mọi thứ mà nó cần phải có. Nếu hệ thống thông tin kinh

tế quá nghèo nàn, thì sẽ làm suy yếu kết quả của việc ra quyết định dựa trên

cơ sở những thông tin này, đồng thời nó không có khả năng phục vụ lợi ích

cho Tập đoàn.

ví dụ: Thông tin so sánh lợi ích và chi phí; người thu thập thông tin

không nên thu thập thông tin về chi phí quá nhiều, thông tin về lợi ích quá ít

(hoặc ngược lại), sẽ làm mất cân đối về thông tin, hậu quả của thông tin

39

không đầy đủ này làm cho nhà quản trị có tầm nhìn bị lệch, và có thể dẫn đến

quyết định tài chính sai lầm.

Để tránh tình trạng này, các nhà cung cấp thông tin cần phải được trang

bị phương tiện thu thập và phân tích thông tin có hiệu quả, có như vậy thì

người dùng không bị lãng phí thời gian và hạn chế được rủi ro do sử dụng

thông tin không đầy đủ.

 Hệ thống thông tin phải đảm bảo tính cần thiết.

Một thông tin được gọi là cần thiết cho người sử dụng khi nó ảnh hưởng

đến quyết định tài chính của họ; ví dụ như: trước khi đầu tư vào thị trường

Myanmar, VNPT đã nghiên cứu kỹ nhu cầu khách hàng ở thị trường nước này

về thiết bị đầu cuối, về dịch vụ băng rộng, dịch vụ vệ tinh; và đây là những

thông tin rất cần thiết đã giúp VNPT tìm được hướng đầu tư đúng đắn để khai

thác thế mạnh của VNPT về những dịch vụ này.

Thông tin được gọi là cần thiết sẽ giúp cho nhà quản trị có thể:

 Đánh giá các sự kiện trong quá khứ, hiện tại, hay tương lai;

 Thông qua đánh giá các sự kiện, người sử dụng thông tin có thể

đưa ra dự báo được những vấn đề bất thường, hoặc những vấn đề xảy ra

không thường xuyên.

Mặt khác, khi xây dựng hệ thống thông tin cung cấp cho nhà quản trị, ta

cần chú ý đến mục tiêu của người sử dụng. Ví dụ như: quản lý cấp cao có thể

yêu cầu tóm tắt nội dung thông tin, trong khi cơ sở thì yêu cầu chi tiết; thông

tin liên quan mà không cần thiết để hỗ trợ đưa ra quyết định thì nên bỏ qua.

Tóm lại, khi xây dựng hệ thống thông tin, ta cần chú ý đến sự cần thiết

của các thông tin này, vì thông tin đáp ứng được sự cần thiết mới là thông tin

hữu ích cho nhà quản trị, nó giúp cho nhà quản trị ra được những quyết định

tài chính đúng đắn, đánh giá được các sự kiện xảy ra trong tương lai, và có thể

dự báo được những vấn đề bất thường có thể xảy ra.

40

 Hệ thống thông tin phải đảm bảo tính kịp thời.

Tính kịp thời: các thông tin nên có sẵn, khi cần thiết có thể được cung

cấp kịp thời để sử dụng ngay, một sự chậm trễ quá mức trong việc cung cấp

thông tin có thể làm giảm sự tác động của nó đến quyết định tài chính của nhà

quản trị; để cung cấp thông tin một cách kịp thời và có hiệu quả, thông tin đó

phải được thu thập và cung cấp trước khi các sự kiện khác liên quan với thông

tin đó được biết đến; vì thế, tính kịp thời này bị tác động rất lớn đến độ tin cậy

của thông tin; khi thu thập thông tin, doanh nghiệp cần đo lường giữa lợi ích

và chi phí từ những thông tin đó, lợi ích từ những thông tin này phải lớn hơn

chi phí để có được nó.

 Hệ thống thông tin phải đảm bảo tính tin cậy.

Thông tin được gọi là tin cậy khi nó hợp lý, không bị sai lệch với

thực tế; để có được những thông tin chất lượng này, thì thông tin phải được

thu thập từ những nguồn có thẩm quyền phát ra (như chính phủ phát ra thông

qua các Bộ, Ngành, Ban lãnh đạo các công ty con của tập đoàn), hoặc được

lấy từ những bài báo hay những kênh truyền thông có uy tín được xã hội công

nhận rộng rãi; có như thế thì thông tin được thu thập mới đảm bảo tính tin cậy

cao.

 Hệ thống thông tin phải đảm bảo tính dễ sử dụng

Thông tin phải được trình bày rõ ràng, dễ hiểu, dễ sử dụng, người sử

dụng thông tin phải có một trình độ nhất định về kinh tế - tài chính, họ sẵng

sàng nghiên cứu các thông tin kinh tế do Tập đoàn thu thập; vì thế, để giúp họ

ra quyết định chuẩn xác, hệ thống thông tin phải được xây dựng một cách dễ

hiểu, dễ sử dụng; có nghĩa là cùng một thông tin, mọi người phải hiểu cùng

một nghĩa; vì thế người lập thông tin không nên sử dụng từ tối nghĩa, sẽ làm

người sử dụng hiểu sai lệch ý nghĩa của thông tin; hậu quả có thể xảy ra là

người sử dụng sẽ đưa ra quyết định sai lầm từ những thông tin khó hiểu này.

41

Các vấn đề thường gặp nhất của nhà quản lý là thông tin không được

nhắm vào người sử dụng, đó là hệ thống thông tin không được thiết kế với

nhu cầu mong muốn của người sử dụng, vì có những thông tin không thực sự

liên quan đến các quyết định họ cần đưa ra; trong khi đó, với chức năng của

nhà quản lý thì nhu cầu thông tin là thường xuyên, nếu thông tin cung cấp cho

nhà quản trị không liên quan, không dễ sử dụng thì sẽ dẫn đến việc cung cấp

thông tin không kịp thời.

 Hệ thống thông tin phải đảm bảo tính bảo mật:

Thông tin là một mặt hàng quan trọng, có giá trị và cần phải được bảo vệ

an toàn; quá trình xây dựng thông tin phải được bảo mật, không bị can thiệp

trái phép; thông tin không thay đổi trước, trong và sau quá trình thực hiện. Do

yêu cầu thông tin luôn có sẵn để đáp ứng kịp thời nhu cầu của người sử dụng,

nên thông tin dễ bị xâm nhập, đánh cắp. Để hạn chế rủi ro này, thông tin cần

phải được bảo mật; tính bảo mật thông tin liên quan đến việc phòng ngừa,

phát hiện và ngăn chặn các vấn đề nhằm tránh các mối đe dọa cho Tập đoàn

do thông tin bị thay đổi, phá hủy hoặc bị tiết lộ.

Kết luận: Để xây dựng được một hệ thống thông tin tốt, giúp cho nhà

quản trị ra được những quyết định tài chính phù hợp thì đòi hỏi hệ thống

thông tin đó phải đảm bảo chất lượng, nghĩa là hệ thống thông tin này phải thể

hiện đủ tám đặc điểm chính: chính xác, đầy đủ, cần thiết, tin cậy, kịp thời, phù

hợp, dễ sử dụng, và bảo mật.

1.2.1.1.3 Phân loại hệ thống thông tin kinh tế

Hệ thống thông tin kinh tế được phân loại theo các tiêu chí sau đây:

a. Phân loại theo phạm vi thông tin: gồm có hệ thống thông tin kinh tế

vĩ mô và hệ thống thông tin kinh tế vi mô

 Hệ thống thông tin kinh tế vĩ mô: bao gồm hệ thống thông tin

pháp luật kinh tế, hệ thống thông tin dự báo tăng trưởng nền kinh tế, hệ thống

42

thông tin dự báo tỷ lệ lạm phát…những hệ thống thông tin này hỗ trợ cho nhà

quản trị nắm được những thông tin trong xã hội thực tế nói chung, giúp cho

quá trình ra quyết định chiến lược và quản lý tập đoàn được tốt hơn, cụ thể:

 Trong xu thế toàn cầu hiện nay, mối liên hệ giữa hệ thống pháp

luật và kinh doanh không chỉ diễn ra trên bình diện quốc gia mà

còn thể hiện trong các quan hệ quốc tế, hệ thống pháp luật ngày

càng ảnh hưởng lớn đến hoạt động của doanh nghiệp; hệ thống

pháp luật chặt chẽ, hành lang pháp luật thông thoáng sẽ giúp nhà

đầu tư đưa ra được những quyết định đầu tư hợp lí hơn.

 Để đảm bảo sự tồn tại, nhà quản trị rất cần thông tin tăng trưởng

kinh tế của một quốc gia, vì thông tin này giúp nhà đầu tư đánh

giá được tình hình tăng trưởng hay suy thoái của nền kinh tế;

Nếu một quốc gia có mức tăng trưởng kinh tế ổn định, thì nhà

quản trị dự báo mức tiêu thụ sản phẩm được dễ dàng hơn; ngược

lại, nếu một quốc gia có mức tăng trưởng kinh tế không ổn định,

thì nhà quản trị dự báo mức tiêu thụ sản phẩm khó khăn hơn, thị

trường biến động hơn nên rủi ro tăng lên. Vì thế, tăng trưởng

kinh tế là một thông tin rất quan trọng, không thể thiếu được

trong việc ra quyết định của nhà quản trị.

 Để hạn chế rủi ro do khủng hoảng tài chính, thông tin lạm phát

cũng không kém phần quan trọng, lạm phát làm cho giá trị của

đồng tiền giảm xuống, nên mức tiêu thụ hàng hóa cũng giảm

theo, đồng thời chi phí nguyên vật liệu đầu vào tăng lên, hiệu quả

hoạt động kinh doanh bị giảm xuống, dẫn đến tỷ suất sinh lời

giảm, rủi ro hoạt động gia tăng. Vì thế, đây là thông tin rất quan

trọng mà nhà quản trị rất cần cập nhật để đưa ra quyết định quản

trị hợp lý hơn, hạn chế được rủi ro do lạm phát tác động.

43

Tóm lại: Các yếu tố vĩ mô như: Luật pháp, tốc độ tăng trưởng và sự ổn

định của nền kinh tế, sức mua, sự ổn định của giá cả, tiền tệ, lạm phát...Tạo

nên một môi trường kinh doanh, và môi trường kinh doanh này ảnh hưởng

mạnh mẽ đến hoạt động sản xuất kinh doanh của Tập đoàn. Những biến động

của các yếu tố kinh tế vĩ mô có thể tạo ra cơ hội và cả những thách thức với

Tập đoàn. Để đảm bảo thành công hoạt động của Tập đoàn trước biến động

về kinh tế vĩ mô, Tập đoàn cần phải theo dõi, phân tích, dự báo biến động của

từng yếu tố kinh tế để đưa ra các giải pháp, các chính sách tương ứng trong

từng thời điểm cụ thể nhằm tận dụng, khai thác những cơ hội, né tránh, giảm

thiểu nguy cơ đe dọa.

 Hệ thống thông tin kinh tế vi mô: bao gồm: thông tin kế toán,

thông tin về nhu cầu thị trưởng của sản phẩm, thông tin về thị phần của Tập

đoàn, thông tin về trình độ công nghệ… Hệ thống thông tin kinh tế vi mô có

tầm quan trọng và tác động trực tiếp đến các quyết định tài chính như quyết

định về chiến lược, quyết định về chiến thuật và quyết định về tác nghiệp của

tập đoàn, cụ thể:

 Hệ thống thông tin kế toán là một hệ thống thu thập, ghi chép,

lưu trữ và xử lý dữ liệu để cung cấp thông tin cho nhà quản trị ra

quyết định; vì thế, thông tin kế toán đóng một vai trò tích cực

trong sự toàn vẹn của các quyết định tài chính cũng như sự thành

công của kế hoạch phát triển; thông tin kế toán có mối quan hệ

chặt chẽ với các quyết định của Tập đoàn; căn cứ để lựa chọn

hay thay đổi chính sách tài chính – kế toán của Tập đoàn vẫn chủ

yếu dựa vào thông tin kế toán; thông tin kế toán càng chất lượng

thì công tác quản trị tài chính càng hiệu quả.

 Thông tin dự báo nhu cầu thị trường của sản phẩm giúp Tập

đoàn xây dựng chiến lược sản phẩm, kế hoạch sản xuất, chất

44

lượng sản phẩm phù hợp, giá cả hợp lý với nhu cầu và khả năng

tiêu dùng ở những thời điểm nhất định.

 Thông tin dự báo thị phần của Tập đoàn: thông tin dự báo thị

phần Tập đoàn là một trong những thông tin cực kỳ quan trọng,

nó là thông tin tiên quyết cho việc lập kế hoạch tài chính ngắn

hạn cũng như dài hạn của Tập đoàn, thị phần Tập đoàn quyết

định sự tồn vong của Tập đoàn, vì thế đây là thông tin kinh tế

không kém phần quan trọng trong việc hỗ trợ nhà quản trị ra các

quyết định tài chính đúng đắn.

 Thông tin về trình độ công nghệ: sự phát triển của khoa học kỹ

thuật cũng đặt ra những thách thức không nhỏ cho các Tập đoàn

trong việc quản lý, khai thác và vận hành công nghệ có hiệu quả

cao. Nếu một Tập đoàn có trình độ công nghệ cao, chất lượng

sản phẩm tốt, thì sẽ giúp Tập đoàn nâng cao khả năng cạnh tranh

về chất lượng sản phẩm trên thị trường, và ngược lại.

 Thông tin về trình độ người lao động: tầm quan trọng của thông

tin trong các quyết định tài chính phụ thuộc vào năng lực người

lao động sử dụng thông tin; người lao động (nhà quản trị) phải có

khả năng dự đoán các biến số không rõ ngày càng phức tạp và

bất ổn, như: lãi suất trong tương lai, lạm phát, hiệu suất đầu

tư…để đưa ra các quyết định tài chính tốt, nhà quản trị cần phải

nắm rõ thông tin để xử lý thông tin một cách hiệu quả hơn.

b. Phân loại theo thời gian thông tin: gồm có hệ thống thông tin kinh

tế quá khứ, hệ thống thông tin kinh tế hiện tại, và hệ thống thông tin kinh tế

tương lai.

 Hệ thống thông tin kinh tế quá khứ: Đó là hệ thống thông tin kinh

tế đã xảy ra, và đã được ghi nhận; đây chính là thông tin rất quan

45

trọng, nó trở thành thông tin cơ sở được sử dụng làm căn cứ để

lập kế hoạch tài chính cho tương lai (ví dụ như thông tin kế toán,

thông tin vế tốc độ tăng trưởng kinh tế, thông tin tỷ lệ lạm phát,

thông tin thị phần, thông tin về giá cả sản phẩm… của những

năm qua). Nhà quản trị là người trực tiếp quản lý Tập đoàn, hơn

ai hết, nhà quản trị hiểu rất rõ tình hình tài chính của tập đoàn, để

làm được điều này họ cần nhiều thông tin phục vụ cho việc phân

tích, đánh giá tình hình tài chính, trong đó thông tin quá khứ là

thông tin được sử dụng có căn cứ khoa học nhất, vì:

 Thông tin quá khứ giúp nhà quản trị đánh giá hoạt động quản lý

trong giai đoạn đã qua, đánh giá việc thực hiện cân bằng tài

chính, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán và rủi ro tài chính

trong doanh nghiệp;

 Thông tin quá khứ giúp nhà quản trị định hướng các quyết định

theo chiều hướng phù hợp với tình hình thực tế của doanh

nghiệp, như quyết định về đầu tư, tài trợ vốn, và phân phối lợi

nhuận…

 Thông tin quá khứ giúp nhà quản trị nhận thức được tình hình tài

chính của Tập đoàn trong quá khứ, từ đó nhà quản trị nhận thức

và cải tạo tình hình tài chính của Tập đoàn một cách tự giác, có ý

thức phù hợp với điều kiện cụ thể và đáp ứng được yêu cầu của

các quy luật kinh tế khách quan nhằm đem lại kết quả và hiệu

quả kinh tế tối ưu.

 Hệ thống thông tin kinh tế hiện tại: Đó là hệ thống thông tin kinh

tế đang xảy ra, vừa mới xảy ra, hay sắp xảy ra trong tương lai

gần đã được xác định (như thông tin về nhu cầu thị trường sản

phẩm, thông tin giá cả, thông tin thị phần…); Mọi quyết định của

46

nhà quản trị đều liên quan đến đời sống kinh tế của Tập đoàn,

liên quan đến tiềm lực tài chính, liên quan đến diễn biến luồng

chuyển dịch giá trị, liên quan đến sự vận động của vốn hoạt động

trong hiện tại của Tập đoàn; hay nói cách khác, mọi quyết định

của nhà quản trị đều hướng vào thực hiện những mục tiêu nhất

định. Để soi rọi những mục tiêu này có được thực hiện đúng

hướng hay không thì những thông tin kinh tế hiện tại chính là căn

cứ khoa học quan trọng giúp nhà quản trị đôn đốc, kiểm tra, kiểm

soát việc thực hiện những mục tiêu đề ra, từ đó có hướng đề xuất

các giải pháp điều chỉnh thực hiện kế hoạch cho phù hợp.

 Hệ thống thông tin kinh tế tương lai: Đó chính là hệ thống thông

tin dự báo các sự kiện kinh tế sẽ xảy ra trong tương lai (như

thông tin dự báo về tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, thông tin

dự báo tỷ lệ lạm phát, thông tin dự báo thị phần, thông tin dự báo

nhu cầu thị trường của sản phẩm…). Hệ thống thông tin kinh tế

tương lai là một nhân tố quan trọng trong hoạt động quản lí, là

công cụ không thể thiếu để lãnh đạo, điều hành và kiểm soát mọi

hoạt động của các nhà quản trị Tập đoàn. Nhà quản trị Tập đoàn

chỉ có thể ra quyết định đúng đắn, đem lại hiệu quả cao chỉ khi

họ nắm được thông tin kinh tế tương lai chính xác, đầy đủ và kịp

thời về tình hình tài chính, thị trường, đối tác kinh doanh, luật

pháp…sự thiếu thông tin hoặc thông tin không chính xác sẽ dễ

làm cho nhà quản trị ra quyết định sai lầm, rủi ro trong quyết

định tài chính sẽ xuất hiện.

c. Phân loại theo xuất xứ thông tin: gồm có hệ thống thông tin kinh tế

bên ngoài và hệ thống thông tin kinh tế bên trong.

 Hệ thống thông tin kinh tế bên ngoài độc lập với Tập đoàn:

47

Sơ đồ 1.2: Phân loại theo kênh thông tin kinh tế bên ngoài độc lập với Tập

Quản trị

Thông tin kinh tế vĩ mô

Thông tin kinh tế vi mô

Quyết định quản trị tài chính

đoàn

Theo cách tổ chức này thì thông tin kinh tế ở bên ngoài được tổ chức

thành những hệ thống thông tin độc lập nhau, nhà quản trị dựa trên những hệ

thống thông tin này để phân tích, đánh giá và ra quyết định quản trị tài chính

tập đoàn.

Ưu điểm: kênh thông tin này sẽ cung cấp cho nhà quản trị những thông

tin chính xác và trung thực, vì những kênh thông tin này hoạt động độc lập

với tập đoàn nên số liệu hoàn toàn mang tính chất khách quan và trung thực,

giúp cho việc ra quyết định khách quan hơn.

Nhược điểm: Do phải tổ chức bộ phận thu thập thông tin, phân tích và xử

lý dữ liệu, tổ chức lao động, cơ sở vật chất trang bị kỹ thuật cũng như trình độ

quản lý cao hơn, nên chỉ có thể áp dụng ở những tập đoàn có quy mô lớn, chi

phí hoạt động của tập đoàn sẽ gia tăng.

 Phân loại theo kênh thông tin kinh tế bên trong trực tiếp từ

Tập đoàn.

Sơ đồ 1.3: Phân loại theo kênh thông tin kinh tế bên trong trực tiếp từ Tập

đoàn

Chính sách sử dụng nợ

Chính sách đầu tư tài sản lưu động

Quản trị tài chính

48

Chính sách đầu tư tài sản cố định Chính sách sử dụng VCSH

Theo cách tổ chức kênh thông tin tài chính này thì thông tin được tổ chức

dưới dạng dựa vào các quyết định đầu tư vào tài sản lưu động, quyết định đầu

tư vào tài sản cố định, quyết định huy động vốn trong tập đoàn; mỗi bộ phận

cung cấp một dạng thông tin nhất định cho quản trị tài chính tập đoàn; giữa

các bộ phận trên có sự liên hệ mật thiết với nhau và tác động lẫn nhau.

Ưu điểm: theo cách tổ chức này thì những thông tin tài chính cung cấp

một cách trực tiếp và nhanh nhất cho nhà quản trị; do các nhiệm vụ thu thập,

phân tích và xử lý thông tin được lấy trực tiếp từ trong nội bộ tập đoàn và

được chia nhỏ thành nhiều bộ phận với chức năng và nhiệm vụ khác nhau,

nên những thông tin này được chuyên môn hóa hơn.

Nhược điểm: Đòi hỏi nhà quản trị phân tích đánh giá nhiều nguồn

thông tin hơn, mặt khác những thông tin này tương tác lẫn nhau, làm cho số

liệu của các thông tin này sẽ bị “nhiễu” có thể làm cho các chính sách tài

chính, đặc biệt là tài chính ngắn hạn sẽ kém hiệu quả.

d. Phân loại theo kênh thông tin kết hợp

Sơ đồ 1.5: Phân loại theo kênh thông tin kết hợp

Quyết định quản trị tài chính tập đoàn

Phân phối thông tin cần thiết, kịp thời, chính xác cho những nhà quản trị.

Phân tích, đánh giá, chọn lọc các thông tin kinh tế - 49 tài chính

Theo cách tổ chức kênh thông tin này thì bộ phận kênh thông tin độc lập

ở bên ngoài tập đoàn và bộ phận kênh thông tin trực tiếp từ bên trong nội bộ

tập đoàn được kết hợp với nhau, để cùng thực hiện một mục đích duy nhất là

xây dựng hệ thống thông tin kinh tế nhằm phục vụ ra quyết định tài chính

trong tập đoàn.

Ưu điểm: Thông tin mang tính tổng hợp, giúp cho nhà quản trị ra các

quyết định tài chính ngắn hạn nhanh chóng, kịp thời, chính xác. Đây là cách

tổ chức thông tin hợp lý nhất, có tính ứng dụng cao và đem lại hiệu quả tốt

nhất cho việc ra các quyết định tài chính.

Nhược điểm: Do thông tin cung cấp là sự kết hợp tổng hợp của bộ phận

kế toán, nên những thông tin kết hợp này có thể xảy ra những mâu thuẫn ảnh

hưởng đến chính sách quản trị của tập đoàn.

1.2.1.2 Các yếu tố cấu thành hệ thống thông tin kinh tế

1.2.1.2.1 Yếu tố tổ chức

a. Yếu tố về quy trình thu thập thông tin

Để có thể trở thành nguồn thông tin hữu ích, thông tin được thu

thập từ nhiều nguồn dữ liệu khác nhau: thông tin đến từ bên trong lẫn bên

ngoài tập đoàn. Như ta đã biết, một hệ thống thu thập thông tin thường đặt ra

các thủ tục cho những thông tin được thu thập; nhưng làm thế nào để thu

thập một cách thường xuyên, bởi ai và bằng những phương pháp nào, làm

50

thế nào để xử lý được nó và có thể truyền đạt nó là vấn đề không đơn giản.

Vì thế, để có thể thu thập thông tin một cách đầy đủ, kịp thời, chính xác và

phù hợp ta căn cứ vào quy trình hoạt động của tập đoàn, từ quy trình hoạt

động này, ta xem xét các cấp quản lý của tập đoàn như: cấp chiến lược, cấp

chiến thuật và cấp tác nghiệp cần những thông tin gì, và xác định nguồn

thông tin thu thập từ đâu để làm căn cứ xây dựng quy trình thu thập thông tin

hợp lý. Quy trình thu thập thông tin được thể hiện qua các bước sau:

Sơ đồ 1.5: Các bước quy trình thu thập thông tin

Bước 5: Cung cấp thông tin đã được xử lý ở bước 4 cho các cấp quản trị của tập đoàn.

Bước 2: Xác định những nguồn cung cấp thông tin tin cậy nhằm thực hiện theo yêu cầu của bước 1

Bước 1: Căn cứ vào quy trình hoạt động để xác định những thông tin cần thiết cung cấp cho các cấp quản lý Bước 3: Tiến hành thu thập thông tin trên cơ sở nguồn cung cấp thông tin ở bước 2 Bước 4: Xử lý thông tin được thu thập ở bước 3, thông tin sau khi được xử lý phải đảm bảo các yêu cầu: đầy đủ, chính xác, kịp thời và phù hợp

b. Yếu tố về quy trình xử lý thông tin

Xử lý thông tin là thu thập dữ liệu có chọn lọc để chuyển thành

thông tin cần thiết, kịp thời, chính xác… nhằm phục vụ rộng rãi cho việc ra

quyết định tài chính. Để có hiệu quả, xử lý thông tin phải đáp ứng các tiêu chí

sau:

1. Đầy đủ: tất cả mọi thông tin phải đầy đủ, thông tin nào cần được xử lý

thì phải xử lý.

2. Chính xác: thông tin sau khi được xử lý phải đảm bảo đúng với nguồn

của nó.

51

3. Kịp thời: Thời gian xử lý tức thì với dữ liệu sẵn có và đáp ứng được

nhu cầu thông tin một cách kịp thời.

4. Bảo mật: quy trình xử lý thông tin phải đảm bảo tính chính xác và bảo

mật để không phải bất kỳ ai cũng có thể can thiệp trái phép trong quá trình xử

lý, và thông tin không bị thay đổi sau khi quá trình xử lý hoàn thành.

5. Nguồn dữ liệu phải được kiểm chứng.

6. Hiệu quả của việc xử lý cần được đánh giá thông qua chất lượng thông

tin cung cấp cho nhà quản trị

c. Yếu tố về quy trình xây dựng thông tin: được thể hiện ở cấp tác nghiệp,

cấp chiến thuật và cấp chiến lược như sau:

 Cấp tác nghiệp:

 Lập báo cáo tài chính

 Thực hiện các quyết định tài chính do cấp chiến lược đề ra thông qua cấp

chiến thuật ban hành.

 Cấp chiến thuật: ra các quyết định tài chính ngắn hạn

 Ra quyết định dự trữ vốn bằng tiền

 Ra quyết định tài trợ các khoản phải thu

 Ra quyết định chiết khấu thanh toán

 Ra quyết định dự trữ hàng tồn kho

 Ra quyết định ngắn hạn khác

 Cấp chiến lược: ra các quyết định tài chính dài hạn

 Ra quyết định quyết định đầu tư

 Ra quyết định huy động vốn

 Ra quyết định phân chia lợi nhuận.

1.2.1.2.2 Yếu tố nội dung

a. Yếu tố về thông tin bên ngoài tập đoàn

52

Đó là những thông tin kinh tế được thu nhận từ bên ngoài tập đoàn, ví dụ

như: thông tin về giá cả, thị trường…những thông tin này giúp nhà quản trị

đánh giá được nhu cầu sản phẩm, thị phần , khả năng cạnh tranh của tập đoàn

… Từ đó, giúp nhà quản lý định hướng được chiến lược kinh doanh nhằm mở

rộng thị trường, giúp tập đoàn tăng trưởng và phát triển trong tương lai; chiến

lược kinh doanh này đến lượt nó trở thành căn cứ để nhà quản trị tài chính lập

kế hoạch tài chính nhằm đáp ứng nhu cầu vốn để thực hiện chiến lược kinh

doanh trên.

Tập đoàn tăng trưởng hay suy thoái là do các quyết định tài chính của

nhà quản trị đưa ra có phù hợp hay không, để giúp nhà quản trị có tầm nhìn

toàn diện và đưa ra được những quyết định tài chính đúng đắn thì đòi hỏi

những thông cung cấp cho nhà quản trị không thể thiếu được những thông tin

kinh tế ở bên ngoài tập đoàn.

b. Yếu tố về thông tin bên trong tập đoàn

Đây là hệ thống thông tin kinh tế được thu nhận từ bên trong tập đoàn,

ví dụ như: thông tin kế toán, thông tin kỹ thuật, thông tin về trình độ lao

động của công nhân…“Trong những thông tin mà nhà quản trị tài chính

thu thập cho quá trình phân tích và ra quyết định quản trị thì thông tin

được xem là đặc biệt quan trọng chính là thông tin kế toán. Bởi thông tin

kế toán cho phép nhà quản trị tài chính hiểu được năng lực tài chính và

hiệu quả hoạt động thực lực mà Tập đoàn hiện đang có, để từ đó những

quyết định tài chính tiếp theo trong tương lai sẽ được nhà quản trị tài

chính đưa ra có tính thực tiễn cao, sát thực với Tập đoàn”. [15] Vì vậy,

phần lớn các quyết định tài chính được nhà quản trị đưa ra chủ yếu dựa vào

thông tin kế toán.

Thông tin bên trong tập đoàn phản ánh đúng thực trạng của tập đoàn, đây

là những thông tin rất quan trọng mà bất cứ nhà quản trị nào cũng cần phải có

53

được những thông tin này nhằm phục vụ ra các loại quyết định được chính

xác hơn. Đứng trên góc độ tài chính, thì những thông tin bên trong tập đoàn là

những thông tin cực kỳ quan trọng, bởi vì các thông tin này giúp nhà quản trị

hiểu được tình tình tài chính của tập đoàn trong quá khứ và hiện tại, nắm được

điểm mạnh và điểm yếu các góc độ về tài chính của tập đoàn, từ đó đưa ra các

quyết định tài chính thực hiện trong tương lai sát với tình hình thực tế của tập

đoàn.

1.2.1.2.3 Yếu tố phương thức

a.Yếu tố về tiến độ

Để quản lý một Tập đoàn, nhà quản trị cần rất nhiều thông tin: từ tình

hình cung ứng nguyên vật liệu đến tình hình sử dụng các nguồn vốn và lao

động; từ các dự đoán về giá cả, sức tiêu thụ sản phẩm trên thị trường đến các

dự kiến, các kế hoạch sản xuất và tiêu thụ sản phẩm; từ chủ trương chính

sách, kinh tế của nhà nước đến các cơ hội liên doanh, hợp tác đều đòi hỏi phải

có thông tin, và quan trọng hơn đó là tiến độ cung cấp thông tin phải kịp thời,

vì nếu thông tin có tiến độ cung cấp không kịp thời nó sẽ dễ trở thành thông

tin lạc hậu, và lúc đó việc ra quyết định sẽ không còn phù hợp.

Thực vậy, muốn việc ra quyết định tài chính được nhanh chóng, đúng

đắn, kịp thời thì đòi hỏi tiến độ cung cấp thông tin phải được thực hiện trong

một khoảng thời gian nhất định. Để thực hiện được điều này, đòi hỏi Tập

đoàn phải lập tiến độ cho việc ra quyết định, bởi vì lập tiến độ sẽ giúp nhà

quản trị theo dõi việc cung cấp thông tin bên trong và thông tin bên ngoài Tập

đoàn sẽ được tiến hành như thế nào, gặp những khó khăn gì, thời gian cung

cấp bao lâu...Từ đó, nhà quản trị sẽ tiến hành ra quyết định phù hợp hơn.

Tuy nhiên, tiến độ cung cấp thông tin bên trong và tiến độ cung cấp

thông tin bên ngoài Tập đoàn đòi hỏi phải có độ lệch về thời gian nhất định.

Đối với những thông tin ở bên trong Tập đoàn như thông tin kế toán, thông

54

tin nguồn nhân lực, thông tin kỹ thuật… những thông tin này có sẵn trong Tập

đoàn và đã được xử lý, khi nhà quản trị cần những thông tin này, thì nhà quản

trị hoàn toàn được tiếp nhận nhanh chóng từ trong nội bộ Tập đoàn do các

phòng ban cung cấp kịp thời. Đối với những thông tin như giá cả, thị trường,

thị phần tập đoàn…thì đòi hỏi việc cung cấp phải có độ trễ thời gian nhất định

do cần phải thu thập, phân loại, đánh giá độ tin cậy của những thông tin được

cung cấp, vì thế tiến độ cung cấp những thông tin ở bên ngoài Tập đoàn có

phần chậm hơn so với những thông tin ở bên trong Tập đoàn .

Tóm lại: Tiến độ cung cấp thông tin phản ánh nhịp độ thông tin được

cung cấp; nếu thông tin được xem là máu của Tập đoàn, thì tiến độ cung cấp

thông tin được xem như là nhịp đập của quả tim; nếu thông tin được cung cấp

kịp thời thì nó sẽ gắn kết những bộ phận phụ thuộc của Tập đoàn lại với nhau

để cùng thực hiện những mục tiêu chung một cách có hiệu quả hơn; nếu thông

tin được cung cấp không kịp thời, thì thông tin sẽ bị phản tác dụng đối với

việc ra quyết định của những nhà quản trị trong Tập đoàn.

b. Yếu tố về cung cấp

Hệ thống thông tin kinh tế có tác dụng cung cấp thông tin nhằm trợ

giúp nhà quản trị thực hiện các chức năng hoạt động của Tập đoàn và trợ giúp

nhà quản trị tiến hành ra quyết định, nhà quản lý cần những thông tin kinh tế

được cung cấp để lập kế hoạch và kiểm soát các hoạt động của Tập đoàn. Nếu

thông tin được cung cấp kịp thời, phù hợp, chính xác, và đầy đủ thì người sử

dụng thông tin có đủ thông tin cần thiết giúp cho việc ra quyết định sẽ được

chính xác hơn, hiệu quả hoạt động kinh doanh của Tập đoàn được tốt hơn, và

nhà quản trị kiểm soát các hoạt động của Tập đoàn sẽ được thuận lợi hơn.

Ngược lại, nếu thông tin cung cấp không đầy đủ, không chính xác, không phù

hợp, hay không kịp thời thì người sử dụng thông tin sẽ dễ ra quyết định sai

lầm do những thông tin xấu này, Tập đoàn sẽ gánh chịu hậu quả do những

55

quyết định sai lầm này gây ra, cụ thể như: hiệu quả sản xuất kinh doanh sẽ bị

sụt giảm, đồng thời làm giảm khả năng cạnh tranh của Tập đoàn.

Tóm lại, yếu tố cung cấp thông tin rất quan trọng đối với việc ra quyết

định tài chính, vì hiệu quả hoạt động của Tập đoàn phụ thuộc rất lớn vào chất

lượng của những thông tin được cung cấp, nếu thông tin kinh tế được cung

cấp có chất lượng tốt sẽ giúp Tập đoàn thành công trong hoạt động sản xuất

kinh doanh, và ngược lại.

1.2.1.2.4 Yếu tố công cụ

a. Yếu tố về con người:

Trong bất kỳ một Tập đoàn nào, yếu tố con người luôn giữ vị trí vai

trò quyết định; điều đó được thể hiện ở chỗ, thứ nhất, con người là chủ thể

của Tập đoàn; thứ hai, con người là lực lượng sản xuất hàng đầu của Tập

đoàn; Tập đoàn không thể hoạt động thành công nếu thiếu yếu tố con người,

con người là lực lượng duy nhất có khả năng phát hiện, xác định mục tiêu, nội

dung và quá trình xử lý của hệ thống thông tin; tầm quan trọng của thông tin

trong các quyết định tài chính có thể được tăng lên hoặc giảm bớt bởi yếu tố

con người sử dụng thông tin trong việc đưa ra (hay thực hiện) các quyết định

tài chính. Con người, với những ưu thế hơn hẳn (so với các nguồn lực khác),

là nguồn nhân lực như có thể khai thác không bao giờ cạn.... Trong điều kiện

cách mạng khoa học và công nghệ có những bước phát triển và tác động ngày

càng mạnh vào đời sống xã hội như hiện nay, con người được xem là yếu tố

cơ bản nhất trong hệ thống các nguồn lực của Tập đoàn, là một trong những

nguyên nhân tăng trưởng kinh tế của Tập đoàn. Vì vậy, phát triển nguồn nhân

lực trở thành yếu tố quan trọng nhất và có ảnh hưởng mang tính quyết định

đối với sự thành, bại của Tập đoàn.

b. Yếu tố về máy tính

56

Cùng với sự phát triển của xã hội, máy vi tính đã bước vào mọi lĩnh

vực trong cuộc sống, tác dụng của nó ngày càng được mở rộng, hiện nay nó

đã trở thành một trợ thủ đắc lực cho mọi hoạt động của tập đoàn. Không

những nó giúp tập đoàn tiết kiệm được thời gian trong việc thu thập và cung

cấp thông tin, mà còn có thể xử lý các thông tin được cung cấp (như thông tin

trùng, thông tin lạc hậu,…) một cách nhanh chóng. Mặt khác, máy vi tính còn

giúp nhà quản trị phân tích, đánh giá thông tin dựa trên số liệu thực tế, giúp

cho việc lập kế hoạch tài chính sẽ được thuận lợi hơn, hỗ trợ cho nhà quản trị

ra các quyết định tài chính nhanh chóng và chính xác hơn.

c. Yếu tố về phần mềm

Phần mềm là một loại chương trình ứng dụng có khả năng làm cho máy

tính thực hiện trực tiếp một công việc nào đó mà nhà quản trị muốn thực hiện.

Ví dụ như phần mềm xử lý văn bản, xử lý và phân tích số liệu. Trong ngành

viễn thông nói riêng, phần mềm có tác dụng thu thập, xử lý và cung cấp thông

tin nhanh chóng cho nhà quản trị, khi nhà quản trị muốn ra một quyết định tài

chính nào đó thì cần phải có số liệu làm căn cứ ra quyết định, và số liệu này

phải được phần mềm xử lý trước khi trở thành thông tin cung cấp cho nhà

quản trị tài chính.

Các hoạt động của phần mềm trong Tập đoàn nhằm phục vụ cho các

mục tiêu của nhà quản trị như hỗ trợ các hoạt động tác nghiệp, hỗ trợ cho việc

ra các quyết định chiến thuật, hỗ trợ việc xây dựng các quyết định chiến lược

nhằm đạt lợi thế cạnh tranh,… mục đích của phần mềm là giúp Tập đoàn xác

định được lộ trình ra các quyết định tài chính và mối quan hệ giữa các quyết

định tài chính trong bức tranh tổng thể về hoạt động của tập đoàn. Việc đầu tư

phần mềm phù hợp với mục tiêu hoạt động của Tập đoàn sẽ đem lại hiệu quả

hoạt động tăng lên, do tăng cường ứng dụng điều hành, tác nghiệp các phần

mềm đem lại.

57

Mặt khác, phần mềm có tác dụng nâng cao hiệu suất hoạt động, hỗ trợ

cho các bộ phận chức năng trong Tập đoàn, cụ thể hỗ trợ cho hoạt động của

các phòng ban chức năng hoặc các nhóm làm việc theo nhiệm vụ. Do Tập

đoàn đã có được các kỹ năng cần thiết về ứng dụng phần mềm trong các giai

đoạn trước, và hiện nay khối lượng thông tin cần xử lý ngày càng tăng lên,

nên việc ứng dụng phần mềm ngày càng hiện đại là bước phát triển tự nhiên

của hầu hết các Tập đoàn hiện nay. Vì thế, việc đầu tư phần mềm nhằm tự

động hóa các quy trình tác nghiệp, kinh doanh để nâng cao hiệu quả hoạt

động Tập đoàn, như triển khai các ứng dụng để đáp ứng từng lĩnh vực tác

nghiệp và sẵn sàng mở rộng theo yêu cầu kinh doanh; chương trình tài chính-

kế toán, quản lý nhân sự-tiền lương, quản lý bán hang là điều cần thiết mà các

Tập đoàn cần phải thực hiện.

Ví dụ: Trước khi ra quyết định đầu tư vào dự án X, nhà quản trị cần

đánh giá, xem xét hiệu quả của dự án, việc đánh giá này được thể hiện thông

qua các tiêu chuẩn DPP, NPV, IRR, PI…; các tiêu chuẩn này được xử lý tính

toán thông qua ứng dụng phầm mềm excel trong tài chính, từ kết quả tính

toán do phần mềm excel cung cấp, nhà quản trị căn cứ vào kết quả này để đưa

ra quyết định có nên đầu tư vào dự án X không.

Từ ví dụ trên ta thấy, yếu tố phần mềm ứng dụng trong việc thu thập,

xử lý và cung cấp thông tin là yếu tố rất quan trọng, nó giúp cho nhà quản trị

rút ngắn được thời gian trong việc xử lý số liệu, kết quả xử lý cũng được

chính xác hơn; vì thế, quyết định tài chính đưa ra cũng được nhanh chóng, kịp

thời và chính xác hơn, từ quyết định tài chính chính xác này góp phần làm

cho hiệu quả hoạt động của tập đoàn được nâng cao, biểu hiện bằng hình thức

đó là lợi nhuận tích lũy ngày càng tăng, giúp cho Tập đoàn có năng lực tài

chính lành mạnh, tạo đà thúc đẩy tập đoàn tăng trưởng và phát triển trong

tương lai.

58

d. Yếu tố về internet.

Hiện nay, internet đang hiện diện và đóng vai trò quan trọng không thể

thiếu trong quá trình quản trị, điều hành trong tất cả hoạt động của Tập đoàn.

Sự phát triển và ứng dụng của internet đã làm thay đổi mô hình và cách thức

hoạt động của Tập đoàn, việc chuyển dần các giao dịch truyền thống sang

giao dịch điện tử đã ảnh hưởng đến vị trí, vai trò và cả nhu cầu của các bên có

liên quan đến Tập đoàn (như: khách hàng, nhà cung cấp, nhà đầu tư…).

Ứng dụng internet toàn diện sẽ nâng cao năng lực quản lý và sản xuất,

internet đảm bảo cho các luồng thông tin lưu chuyển thông suốt giữa các bộ

phận; internet và các cơ sở dữ liệu cấp toàn Tập đoàn là những công cụ chủ

đạo hỗ trợ cho hoạt động quản lý và tác nghiệp; triển khai các giải pháp đồng

bộ giúp Tập đoàn thay đổi chất lượng quản lý nội tại, nâng cao năng lực điều

hành, tăng hiệu quả và tăng năng lực cạnh tranh.

Sự tiến bộ ngày càng nhanh của internet nhằm giúp Tập đoàn đạt được

lợi thế về quản lý tài chính trong môi trường cạnh tranh khốc liệt, internet

giúp nhà quản trị nắm bắt thông tin kinh tế nhanh để có căn cứ thuyết phục

khi ra các quyết định tài chính chiến lược, tạo nên những ưu thế khác biệt về

quản trị tài chính của tập đoàn.

Tóm lại, ta có thể khẳng định: thông tin kinh tế là một nguồn tài

nguyên kinh doanh của Tập đoàn, nó rất quan trọng cho sự sống còn của Tập

đoàn; để đưa ra các quyết định tài chính chiến lược, nhà quản trị rất cần thông

tin hỗ trợ dự báo; các quyết định này đúng hay sai, lượng thông tin được sử

dụng nhiều hay ít phụ thuộc rất lớn vào chất lượng của thông tin cung cấp, và

chất lượng của thông tin lại phụ thuộc vào các yếu tố cấu thành hệ thống

thông tin; và ngược lại, khi chất lượng thông tin được nâng cao thì việc các

quyết định tài chính do những nhà quản trị ban hành sẽ được chuẩn xác hơn.

1.2.1.3 Mục tiêu và các tiêu chuẩn đánh giá hệ thống thông tin kinh tế

59

1.2.1.3.1 Mục tiêu của hệ thống thông tin kinh tế

Môi trường kinh doanh hiện nay rất năng động, và ngày càng phức tạp,

cùng với một bối cảnh thông tin thay đổi liên tục thì quyết định càng trở nên

phức tạp hơn; hơn nữa, nhiều nhà hoạch định chính sách ngày nay thường

phải làm việc với hàng núi dữ liệu không đồng nhất, bên cạnh đó sự tăng tốc

của tiến bộ công nghệ dẫn đến thông tin có mặt khắp nơi và ngày càng đa

dạng làm cho nhà quản trị không thể ra quyết định nhanh chóng và đúng đắn

nếu không có sự cung cấp thông tin từ hệ thống thông tin của tập đoàn, vì thế

mục tiêu chính của hệ thống thông tin kinh tế là:

 Cung cấp thông tin phục vụ cho hoạt động của con người trong

một tổ chức nào đó.

 Ghi nhận các sự kiện có một tác động kinh tế đến các tổ chức và

các bên liên quan trong và ngoài nước.

 Cải thiện việc lưu giữ, phân tích khối lượng lớn dữ liệu để giúp

nhà quản lý tìm kiếm giải pháp để giải quyết vấn đề.

 Tạo ra và khai thác các ý tưởng ở nhiều nguồn lực khác nhau

nhằm giúp cho tập đoàn đạt năng suất và hiệu quả công việc

ngày càng cao hơn.

 Hỗ trợ khả năng tổ chức của nhà quản lý, và giúp nhà quản lý ra

quyết định tăng hiệu quả, giảm nguy cơ sai sót.

 Đáp ứng sự hài lòng trong việc tiếp nhận thông tin đối với nhà

quản lý.

1.2.1.3.2 Các tiêu chuẩn đánh giá hệ thống thông tin kinh tế

Tiêu chí đánh giá hệ thống thông tin kinh tế là những tiêu chuẩn thực

hiện mang tính hợp lý và có thể đạt được xét về tính kinh tế, hiệu quả. Chúng

phản ánh mô hình hệ thống thông tin kinh tế chuẩn tắc về vấn đề đang được

đánh giá.

60

Như vậy, có thể hiểu tiêu chuẩn đánh giá hệ thống thông tin kinh tế là

những tiêu chuẩn, thước đo (đảm bảo tính hợp lý và thực tiễn) để xác định

tính kinh tế, hiệu quả của hệ thống thông tin kinh tế. Những tiêu chuẩn này

phải mang tính đại diện, phổ biến - phản ánh những kỳ vọng hợp lý để đảm

bảo thông tin đánh giá là phù hợp, có giá trị thực tiễn nhằm nhận được sự

chấp thuận của những người sử dụng hệ thống thông tin kinh tế.

Vì vậy, việc xác định tiêu chuẩn đánh giá hệ thống thông tin kinh tế là

yếu tố quyết định đến toàn bộ quá trình ra quyết định tài chính; vì thế, rất khó

khăn khi lựa chọn tiêu chí phù hợp, khách quan và thuyết phục khi đánh giá

hệ thống này.

Theo EM Awad có thể sử dụng tiêu chuẩn tổng quát sau đây để đánh

giá độ tin cậy và chất lượng của thông tin trong hệ thống thông tin kinh tế:

- Tiêu chuẩn 1: Độ chính xác của sản phẩm thông tin xuất: Đảm bảo độ

chính xác tuyệt đối của thông tin

- Tiêu chuẩn 2 : Thời gian đáp ứng yêu cầu về thông tin: Các thông tin

được cung cấp kịp thời và cung cấp đủ các thông tin cho các đối tượng có nhu

cầu

- Tiêu chuẩn 3 : Năng lực xử lý một khối lượng thông tin: Xử lý được

khối lượng lớn thông tin một cách nhanh chóng.

- Tiêu chuẩn 4 : Độ an toàn tin cậy của thông tin: Bảo đảm tính bí mật

an toàn của các dòng thông tin.

Ngoài ra, tiêu chuẩn đánh giá chất lượng hệ thống thông tin còn được

nghiên cứu bởi “Knight and Burn”, (2005). Hai ông lý giải rõ ràng rằng cùng

một thông tin như nhau nhưng với người này cho rằng thế là tốt nhưng với

người khác lại không phù hợp. Hoặc cùng một thông tin như nhau, nếu được

lấy từ nguồn là giấy tờ, báo chí thì người sử dụng có thể cảm thấy tin tưởng

hơn là lấy từ trên mạng vì khó kiểm chứng nguồn gốc dữ liệu. Sau đây là

61

bảng tổng hợp nghiên cứu về các tiêu chuẩn đánh giá hệ thống thông tin thông

qua đánh giá chất lượng thông tin của hai ông Knight and Burn:

Bảng 1.1. Tiêu chuẩn đánh giá chất lượng hệ thống thông tin theo

tổng hợp của Knight và Burn

Tiêu chí Số lần Giải thích

được đề

cập trong

các

nghiên

cứu

1. Chính xác 8 Thông tin được tính toán chính xác, không

sai sót từ những dữ liệu tin cậy

2. Nhất quán 7 Thông tin được thể hiện trong cùng một

cách trình bày và phù hợp với những dữ liệu

trước đó.

3. An ninh Giới hạn đúng các truy cập để duy trì an 7

ninh.

4. Kịp thời Thông tin được cập nhật một cách đầy đủ 7

cho mục tiêu đang thực hiện.

5. Đầy đủ Thông tin không bị bỏ sót, đủ rộng và sâu 5

cho mục tiêu đang thực hiện.

6. Súc tích Thông tin được thể hiện cô đọng, rõ ràng 5

nhưng đầy đủ

7. Tin cậy Thông tin chính xác, tin cậy 5

8. Có thể truy 4 Thông tin sẵn sàng hoặc việc truy cập dễ

cập dàng và nhanh chóng

9. Sẵn sàng 4 Thông tin có thể truy cập được

62

10.Khách 4 Thông tin trung lập, không bị thành kiến,

quan không thiên vị

11. Thích hợp 4 Thông tin hữu ích, phù hợp mục tiêu thực

hiện

12.Có thể 4 Thông tin rõ ràng và dễ sử dụng. Ví dụ,

dùng được trong bối cảnh sử dụng máy tính, thông tin

có nội dung tốt nhưng được thực hiện trong

ngôn ngữ mà người đọc không thể hiểu thì

thông tin đó cũng không chất lượng.

13. Có thể 5 Thông tin rõ ràng, không mơ hồ

hiểu được

14. Số lượng 3 Số lượng thông tin (mức độ chi tiết) sẵn

thông tin sàng và phù hợp với mục tiêu

15. Có thể tin 3 Thông tin từ nguồn trung thực và tin cậy

cậy

16. Dễ dàng 3 Thông tin được tìm thấy dễ dàng và liên kết

tìm kiếm dễ dàng (trường hợp này cho bối cảnh tìm

kiếm thông tin trên mạng)

17.Thông 3 Thông tin dễ dàng tìm kiếm từ các nguồn dữ

dụng liệu

18. Hữu ích 3 Thông tin có nội dung hữu ích và có thể sử

dụng được cho mục tiêu đang thực hiện

19. Hiệu quả 3 Thông tin được tạo nhanh và hiệu quả từ các

dữ liệu cho mục đích đang thực hiện

20. Giá trị gia 3 Thông tin cung cấp những dự đoán tốt cho mục

tăng tiêu đang thực hiện

Nguồn: trích từ (Knight and Burn, 2005)

63

Đồng thời, Eppler và Wittig (Eppler and Wittig, 2000) đã thực hiện một

tổng hợp về các nghiên cứu tiêu chuẩn chất lượng hệ thống thông tin trong

khoảng thời gian 10 năm từ 1989- 1999. Những nghiên cứu về tiêu chuẩn chất

lượng hệ thống thông tin mà các tác giả trên lựa chọn cần đảm bảo 4 mục

tiêu:

(1) Cung cấp một bộ các tiêu chuẩn chất lượng thông tin ngắn gọn, súc

tích và có thể đánh giá được;

(2) Cung cấp một mô tả đầy đủ mối quan hệ giữa các tiêu chuẩn để

giúp việc phân tích và giải quyết vấn đề chất lượng thông tin;

(3) Cung cấp cơ sở cho việc đo lường và quản lý chất lượng thông tin;

(4) Có thể cung cấp cho giới nghiên cứu một bản đồ có tính logic để

cấu trúc được (hay sắp xếp, giải thích được một cách logic) các cách tiếp cận

khác nhau, những lý thuyết khác nhau và các hiện tượng liên quan tới tiêu

chuẩn chất lượng hệ thống thông tin. Kết quả tổng hợp và phân tích từ 7 trong

số 20 nghiên cứu chất lượng thông tin cho thấy các tiêu chuẩn chất lượng

thông tin thường bao gồm:

• Kịp thời hoặc hiện hành. Một số nghiên cứu mô tả kịp thời là khái

niệm thông tin được cập nhật kịp thời, mô tả được tính hiện hành của thông

tin. Một số khác định nghĩa kịp thời là việc giao kết quả xử lý nhanh, kịp thời

tới người sử dụng.

• Có thể truy cập hoặc có thể đạt được.

• Khách quan.

• Phù hợp

• Chính xác.

• Nhất quán

• Đầy đủ.

64

Các nghiên cứu này cũng chỉ rõ những hạn chế giữa một số các tiêu

chuẩn đánh giá chất lượng thông tin, chẳng hạn như giữa tiêu chuẩn an ninh

và có thể truy cập (vì càng đảm bảo an ninh tốt thì càng khó truy cập); hoặc

giữa chính xác và kịp thời; giữa phạm vi tổng quát thông tin và mức độ chi

tiết thông tin (càng nhiều thông tin chi tiết thì càng ít mang tính tổng quát).

1.2.1.4 Vai trò của hệ thống thông tin kinh tế

1.2.1.4.1 Vai trò cung cấp và xác nhận thông tin

Các nguồn tài nguyên quan trọng nhất của thông tin trong xã hội thực tế

nói chung đó chính là thông tin kinh tế, thông tin này rất quan trọng trong

giao tiếp (như thông tin kế toán) vì nó đem lại hiệu quả cho thị trường địa

phương và toàn cầu. Để thực hiện đầu tư, để tích hợp trên thị trường toàn cầu

về các dịch vụ và hàng hóa, mỗi tập đoàn phải có quyền truy cập và hiểu được

thông tin kinh tế của các đối tác để hỗ trợ ra quyết định và quản lý hoạt động.

Khả năng quản lý và áp dụng các nguyên tắc quản lý hiện đại, áp dụng các

phương pháp và kỹ thuật tiên tiến là một điều kiện tiên quyết cho các tập đoàn

đưa ra các quyết định tài chính có chất lượng cao hơn nhằm hỗ trợ cho quá

trình hoạt động trong tương lai; các vai trò đại diện nhất của quản lý là quyết

định – thực hiện quyết định, quá trình này đại diện cho một hành động xã hội

cố ý và hợp lý của một người hoặc một nhóm người, có mục tiêu và định

hướng hành động cụ thể để sử dụng nhân lực, vật lực kinh tế một cách thực tế

về hoạt động của tập đoàn. Vì vậy, hệ thống thông tin có vai trò quan trọng

trong việc cung cấp thông tin để thực hiện quyết định hoạt động quản lý và

thực hiện chiến lược quản trị tài chính tập đoàn; đây là một vai trò to lớn và

quan trọng đối với quá trình quyết định kinh doanh của các tập đoàn kinh tế.

Để đảm bảo sự tồn tại và sự ổn định kinh tế trên thị trường, đòi hỏi các tập

đoàn cần chú ý hơn đến các thông tin kinh tế; hệ thống thông tin kinh tế là

một bộ sưu tập của con người và thiết bị đã qua sử dụng nguồn lực, chuyển

65

đổi trong thông tin để cung cấp cho những nhà quản trị lập kế hoạch, điều

phối và phát triển các chính sách quản lý của tập đoàn; trong trường hợp này

vai trò của hệ thống thông tin kinh tế cũng được xem xét, bất kể các yếu tố

ảnh hưởng của nó.

Hệ thống thông tin kinh tế là một hội nhập của nguồn nhân lực và vật

lực, các nguồn này phối hợp với nhau để có được thông tin tốt hơn nhằm hỗ

trợ các quyết định quản lý và đầu tư được hợp lý hơn; thông tin kinh tế đóng

một vai trò tích cực trong sự toàn vẹn của các quyết định cũng như sự thành

công của kế hoạch phát triển; việc thực hiện kế hoạch hợp thời phụ thuộc vào

quyết định thực hiện chiến lược bởi những nhà quản lý, những quyết định này

lại dựa trên phân tích các thông tin kinh tế; và các thông tin kinh tế được cung

cấp phải chịu trách nhiệm về chất lượng và hiệu quả hoạt động của các quyết

định trên. Đây chính là tầm quan trọng của thông tin kinh tế trong vai trò cung

cấp thông tin để nhà quản trị đưa ra quyết định quản lý và đầu tư.

Đặc tính của thông tin kinh tế rất quan trọng trong bối cảnh lựa chọn và

thay đổi quyết định tài chính của tập đoàn; các thông tin kinh tế chịu ảnh

hưởng nặng nề của hệ thống chính trị, vì thế ở những quốc gia mà thông tin

kinh tế được kết nối với lợi ích của nhà nước (thông qua thuế) thì sẽ được

phục vụ ưu tiên đến lợi ích của nhà đầu tư.

1.2.1.4.2 Vai trò của thông tin kinh tế nhằm phục vụ ra quyết định

Hệ thống thông tin kinh tế là một hệ thống thu thập, ghi chép, lưu trữ và

xử lý dữ liệu để cung cấp thông tin cho những nhà quản trị; mỗi quyết định là

một lựa chọn được hình thành từ nhiều khả năng để kích thích hiệu quả hoạt

động ngày càng tốt hơn. Các quyết định được thông qua những nhà quản lý

trong tập đoàn dựa trên hệ thống ra quyết định, hệ thống ra quyết định luôn

luôn được bảo quản theo các hệ thống thông tin; quá trình ra quyết định đòi

hỏi phải có thông tin cung cấp, dù rằng thông tin đó là thông tin bị giới hạn

66

hay thông tin không bị giới hạn, tùy thuộc vào mục đích sử dụng. Những

quyết định sử dụng thông tin không bị giới hạn chủ yếu là những quyết định

chiến lược, đó là quyết định liên quan đến tổng thể của tập đoàn; các quyết

định chiến lược thúc đẩy việc thực hiện các mục tiêu cơ bản bao gồm các

chiến lược, kế hoạch trung và dài hạn; một trình tự hợp lý của các quyết định

chiến lược được đại diện bởi các quyết định chiến thuật. Những quyết định sử

dụng thông tin bị giới hạn chủ yếu là những quyết định chiến thuật; quyết

định ở cấp tác nghiệp (hay còn gọi là quyết định hoạt động) chỉ đòi hỏi một

lượng nhỏ thông tin, vì vậy, đối với quyết định hoạt động, nhu cầu thông tin

cung cấp cho nhà quản lý chỉ liên quan đến các hoạt động phát triển trong tập

đoàn; nhưng ở quyết định chiến thuật, nhà quản lý cần phải biết sự phát triển

của thị trường kinh doanh để quyết định các hành động tài chính thường

xuyên. Dù là quyết định nào, một quyết định tốt luôn căn cứ vào số lượng và

chất lượng thông tin ở bên ngoài hay ở bên trong tập đoàn cung cấp dựa trên

cơ sở của mỗi hành động của nhà quản lý theo chu kỳ: thông tin – quyết định

– hành động. Thông tin ra quyết định sẽ trở thành một hệ thống trực tiếp phục

vụ cho nhà quản lý, và nhà quản lý sẽ thiết kế hệ thống quản lý; vì vậy, nhà

quản lý sẽ chịu trách nhiệm cho quá trình ra quyết định ở cấp chiến lược,

chiến thuật và hoạt động. Do đó, nhà quản lý sử dụng các thông tin, sử dụng

các nguồn lực sẵn có để ra quyết định nhằm đạt được những kết quả tích cực

nhất đứng trên quan điểm kinh tế; kết quả này được phản ánh trong báo cáo

tài chính, nơi các sự kiện kinh tế “đăng ký” thể hiện kết quả; đây là lý do tại

sao hệ thống thông tin kinh tế có quan hệ chặt chẽ với quá trình ra quyết định.

Tóm lại, việc đạt được các quyết định đúng đắn, góp phần giải quyết

các vấn đề phát sinh của hoạt động tài chính và kinh tế trong tập đoàn là phụ

thuộc vào chất lượng của thông tin kinh tế; thông tin kinh tế là một đại diện

chính xác của quá trình và hiện tượng kinh tế, có mức độ lớn nhất của sự chắc

67

chắn; vì thế, chất lượng của thông tin kinh tế là rất quan trọng đối với tất cả

những ai sử dụng, và nó có giá trị cao. Giá trị cao thể hiện ở việc hệ thống

thông tin kinh tế có liên quan trực tiếp với việc thực hiện đầu tư, bởi vì các

nhà đầu tư hiện tại và tiềm năng luôn đánh giá các giao dịch công khai để đưa

ra quyết định tốt nhất nhằm thỏa mãn lợi ích hiện tại và tương lai của họ. Bên

cạnh đó các nhà đầu tư, các ngân hàng và nhà nước quan tâm trong việc có

được thông tin đáng tin cậy từ các thông tin kinh tế được cung cấp từ tập đoàn

để duy trì niềm tin vào tiềm lực tài chính của tập đoàn; ngoài ra, nhân viên

trong tập đoàn cũng mong muốn duy trì công việc của họ và nhận được lương

tăng dựa trên năng suất công việc. Đây là lý do tại sao, thông tin kinh tế có

vai trò quan trọng trong quy trình cung cấp thông tin và quy trình ra quyết

định, đảm bảo quyết định được thực hiện có hiệu quả bởi những nhà quản lý

trong tập đoàn.

1.2.2 Nội dung và mô hình tổ chức hệ thống thông tin kinh tế phục vụ việc

ra quyết định tài chính của tập đoàn kinh tế

1.2.2.1 Nội dung của hệ thống thông tin kinh tế phục vụ ra quyết định tài

chính của tập đoàn kinh tế

Để tiến hành phân tích lập kế hoạch, thực hiện và kiểm tra, những nhà

quản trị tài chính cần những thông tin vể tình hình diễn biến của môi trường

kinh tế. Vai trò của hệ thống thông tin kinh tế là xác định những nhu cầu

thông tin của người quản trị, phát triển những thông tin cần thiết và phân phối

thông tin đó kịp thời cho những nhà quản trị tài chính.

Xuất phát từ thực trạng chung của tổ chức thông tin quản trị tài chính

trong thực tế cho thấy: hệ thống thông tin kinh tế nhằm phục vụ cho việc quản

trị tài chính chưa được hoàn thiện, điều này sẽ gây khó khăn cho nhà quản

quản trị trong việc thu thập thông tin kinh tế để ra các quyết định tài chính.

Do vậy, để hình thành, phát triển và hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế thì

68

cần phải thực hiện qua nhiều giai đoạn khác nhau. Tùy vào loại hình kinh

doanh, quy mô phạm vi hoạt động, đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất,

cũng như tính chất yêu cầu trình độ quản lý, các Tập đoàn kinh tế có thể tổ

chức các kênh thông tin kinh tế dưới các hình thức khác nhau.

1.2.2.2 Mô hình tổ chức hệ thống thông tin kinh tế phục vụ ra quyết định

tài chính của tập đoàn kinh tế

Sơ đồ 1.6: Mô hình hệ thống thông tin kinh tế

Xác định nhu cầu thông tin

Xác định các nguồn thông tin

Thu thập và xử lý thông tin

Dự báo diễn biến môi trường kinh doanh

Lập bảng tổng hợp môi trường kinh doanh

Phân tích mặt mạnh, yếu, cơ hội và thách thức

Đề ra phản ứng chiến lược

Theo dõi và cập nhật thông tin môi trường

Bước 1- Xác định nhu cầu thông tin kinh tế

Nhu cầu thông tin kinh tế là số lượng và các loại thông tin kinh tế thuộc

môi trường bên trong và bên ngoài cần thu thập để đáp ứng nhu cầu ra quyết

định của nhà quản trị các cấp, phù hợp với không gian, thời gian và ngân sách

của Tập đoàn trong từng thời kỳ.

69

Trong môi trường kinh doanh, thông tin rất đa dạng và phong phú,

nhưng giá trị sử dụng của chúng đối với việc ra quyết định thì khác nhau giữa

các Tập đoàn, giữa các bộ phận chức năng, giữa các cấp quản trị trong từng

Tập đoàn. Vì vậy, để bảo đảm hiệu quả ra quyết định, những người chịu trách

nhiệm quản lý hệ thống thông tin kinh tế cần yêu cầu nhà quản trị các cấp, các

bộ phận chuyên môn xác định rõ những loại thông tin cần thu thập để phục vụ

cho việc ra các quyết định có liên quan. Yêu cầu đáp ứng thông tin là đảm bảo

đủ thông tin cần thiết, có quá nhiều hoặc thiếu thông tin đều không tốt; đảm

bảo tính chính xác cần thiết của các thông tin và đảm bảo cung cấp thông tin

đúng thời gian cần thiết.

Bước 2- Xác định các nguồn cung cấp thông tin kinh tế

Trong môi trường hoạt động, thông tin kinh tế được phân chia thành hai

loại: thông tin thứ cấp và thông tin sơ cấp, mỗi loại có thể tìm kiếm từ các

nguồn cung cấp ở bên trong và/hoặc bên ngoài Tập đoàn.

Thông tin thứ cấp là những thông tin kinh tế đã được thu thập sẵn nhằm

phục vụ một nhu cầu nào đó trong nội bộ Tập đoàn; bộ phận quản lý thông tin

có thể tìm kiểm, lựa chọn loại thông tin thứ cấp phù hợp để đáp ứng nhu cầu

ra quyết định của các nhà quản trị.

Thông tin sơ cấp là những thông tin kinh tế đã được thu thập từ các

cuộc nghiên cứu, các đợt khảo sát; người thu thập phải tiến hành xử lý ban

đầu, xác định độ tin cậy để đưa vào sử dụng.

Trong thực tế, chi phí thu thập thông tin thứ cấp thường rẻ và thời gian

gian thu thập nhanh hơn so với chi phí và thời gian thu thập thông tin sơ cấp.

Vì vậy, tùy theo nhu cầu thực tế, các nhà quản trị có thể quyết định chọn

nguồn cung cấp thông tin thứ cấp và sơ cấp phù hợp ở bên trong hoặc bên

ngoài Tập đoàn, hoặc kết hợp tất cả các nguồn. Căn cứ vào hiệu quả kinh tế

70

và tốc độ đáp ứng nhu cầu thông tin, các nhà quản trị thường quyết định tìm

thông tin thứ cấp trước, sau đó là thông tin sơ cấp.

Bước 3- Xây dựng hệ thống thông tin kinh tế

Hệ thống thông tin kinh tế là mạng lưới thu thập thông tin kinh tế của

Tập đoàn. Nhiệm vụ của hệ thống kinh tế là tiến hành tìm kiếm các nguồn

cung cấp có khả năng đáp ứng nhu cầu về thông tin kinh tế để thu thập các dữ

liệu, tiến hành phân loại, xử lý và cung cấp cho những nhà quản trị có liên

quan.

Để xây dựng hệ thống thông tin kinh tế hữu hiệu, các nhà quản trị lần

lượt thực hiện những công việc như sau:

- Xác định nhiệm vụ của hệ thống thông tin kinh tế.

Trong đó, xác định rõ nhiệm vụ tổng quát của bộ phận này trong mối

quan hệ với các bộ phận chức năng chuyên môn khác của Tập đoàn,

nhiệm vụ của từng nhóm và từng thành viên trong mạng lưới thu thập

thông tin.

- Xác định những mục tiêu cần đạt được của hệ thống thông.

- Xây dựng cơ cấu tổ chức của hệ thống thông tin.

- Hình thành các kế hoạch thu thập thông tin, bao gồm:

+ Kế hoạch thu thập thông tin thường xuyên: Đây là các chương

trình thu thập thông tin về những diễn biến của các yếu tố môi

trường bên trong và bên ngoài, tiến hành một cách liên tục nhằm

giúp các nhà quản trị chấn chỉnh kịp thời những sai lệch trong

quá trình hoạt động, đồng thời giúp Tập đoàn chủ động dự báo

hoặc phát hiện những tình huống bất thường của môi trường để

có biện pháp đối phó hữu hiệu. Việc thu thập thông tin thường

xuyên thường do bộ phận chuyên trách trong hệ thống thực hiện

thông qua việc nghiên cứu các nguồn thông tin thứ cấp. Ví dụ:

71

Một số nhân viên chuyên trách được phân công đọc tất cả các tờ

báo, các tạp chí phát hành ở trong và ngoài nước hàng ngày để

tổng hợp những tin tức có liên quan đến hoạt động của Tập đoàn;

hoặc một số người được phân công theo dõi các hoạt động của

các đối thủ cạnh tranh, các phát minh khoa học... trên các mạng

Web ...

+ Kế hoạch thu thập thông tin định kỳ.

Kế hoạch này được tiến hành nhằm thu thập thông tin về các sự

kiện có chọn lọc liên quan đến các chiến lược và các chương

trình hành động của Tập đoàn, giúp Tập đoàn hoạch định các

chương trình hành động ở giai đoạn sau hoặc điều chỉnh chiến

lược khi cần thiết. Những thông tin cần thu thập định kỳ như:

doanh thu, lợi nhuận, thị phần, phản ứng của khách hàng đối với

chính sách giá cả hoặc các chương trình quảng cáo, khuyến mãi,

tỉ lệ hàng tồn kho, tỉ lệ dự trữ hàng hoá hoặc nguyên vật liệu, kết

quả hoạt động tài chính, ...Thông tin thu thập định kỳ thường do

các bộ phận chuyên môn trong Tập đoàn cung cấp và bộ phận

chuyên trách của hệ thống thông tin kinh tế có nhiệm vụ tổng

hợp, xử lý, phân tích...

+ Kế hoạch thu thập thông tin đột xuất.

Việc thu thập thông tin đột xuất được tiến hành khi hệ thống

thông tin của Tập đoàn phát hiện những sự kiện bất thường, có

tác động mạnh đến chiến lược kinh doanh của Tập đoàn. Sự kiện

bất thường có thể là cơ hội hoặc nguy cơ đang hoặc sẽ diễn ra

trong môi trường kinh doanh mà các nhà quản trị cần có thông

tin để ra những quyết định phản ứng thích hợp.

72

Bảng 1.2: Các mô hình thu thập thông tin

Chỉ tiêu Các mô hình

Thường xuyên Định kỳ Đột xuất

Lý do thu thập Phục vụ cho công Phục vụ cho Bắt đầu khủng

tác quản trị các quyết định hoảng

và chuyên đề

Phạm vi thu thập Rộng rãi Sự kiện chọn Sự kiện đặc

lọc biệt

Tính chất nghiên cứu Hệ thống thu thập Cập nhật định Nghiên cứu

và xử lý thông tin kỳ đặc thù

Tính chất tác động Chủ động Chủ động Thụ động

Thời gian số liệu Dự báo Chủ yếu hiện Quá khứ

tại và quá khứ

Thời gian các quyết Dài hạn Tương lai gần Hiện tại và

định tác động tương lai gần

Tổ chức thực hiện Các cơ quan, bộ Các cơ quan Các cơ quan

phận chuyên thu nhận sự khác nhận sự khác

thập thông tin nhau nhau

Bước 4- Tiến hành thu thập và xử lý thông tin

Sau khi đã chuẩn bị các kế hoạch thu thập thông tin, các thành viên

trong hệ thống tiến hành thu thập thông tin từ các nguồn thích hợp. Tuỳ theo

loại thông tin cần thu thập, công việc được tiến hành như sau:

- Kiểm tra ngân hàng dữ liệu để xem có loại thông tin nào phù hợp

nhu cầu hay không.

- Nếu ngân hàng dữ liệu không cung cấp đủ thông tin cần thiết, các

thành viên tiến hành tìm kiếm thông tin từ các nguồn khác ở bên

73

trong và bên ngoài Tập đoàn như: đọc, nghe, xem các nguồn thông

tin thứ cấp; hoặc quan sát, phỏng vấn, trò chuyện với các nguồn

thông tin sơ cấp.

- Sau khi thu thập thông tin từ các nguồn cung cấp bên trong và bên

ngoài, các thành viên của hệ thống tiến hành xử lý, phân tích và đánh giá các

dữ liệu đã thu thập, sắp xếp thông tin theo danh mục phù hợp nhu cầu của các

nhà quản trị liên quan.

- Tùy theo loại thông tin, hệ thống thông tin sẽ tiến hành phổ biến loại

thông tin cần thiết cho các nhà quản trị có nhu cầu hoặc tích luỹ trong ngân

hàng dữ liệu của Tập đoàn. Khi thực hiện công việc này, các thành viên trong

hệ thống phải tuân thủ nguyên tắc bí mật thông tin của Tập đoàn.

- Những thông tin có giá trị sử dụng lâu dài (dù đã được các nhà quản

trị sử dụng) được lưu trữ để phục vụ nhu cầu ra quyết định ở giai đoạn sau.

Bước 5- Dự báo diễn biến của các yếu tố môi trường

Muốn đề ra các chiến lược của Tập đoàn trong tương lai thì điều quan

trọng là phải tiên liệu được tình hình môi trường kinh doanh mà Tập đoàn sẽ

gặp phải trong thời gian ngắn hoặc lâu dài; như vậy mục đích của dự báo

chính là dự báo những ảnh hưởng của môi trường đến hoạt động kinh doanh

của Tập đoàn. Về nguyên tắc dự báo môi trường kinh doanh phải trả lời được

câu hỏi:

 Khi nào và ở đâu diễn ra sự thay đổi?

 Xu hướng và mức độ tác động của từng thay đổi cụ thể đó đến hoạt

động kinh doanh của Tập đoàn?

Môi trường kinh doanh tác động đến hoạt động của Tập đoàn theo rất nhiều

hướng khác nhau với mức độ rất khác nhau. Vì vậy việc lựa chọn những biến

số cụ thể để tiến hành dự báo phụ thuộc rất nhiều vào hoàn cảnh của mỗi Tập

74

đoàn trong những thời kỳ cụ thể và gắn bó với nó là nội dung và quy mô xác

định của môi trường bên trong và bên ngoài Tập đoàn.

Các biến số cụ thể của môi trường kinh doanh cần dự báo là các biến số ảnh

hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh của Tập đoàn. Đó thường là xu hướng

thay đổi kinh tế, chính trị, xã hội và văn hoá, xu hướng thay đổi kỹ thuật-

công nghệ, chiến lược của các đối thủ cạnh tranh chủ yếu, phản ứng của

khách hàng cũng như nguyện vọng của các đối tượng liên quan.

Bước 6- Tổng hợp kết quả phân tích và dự báo môi trường kinh doanh

Các kết quả phân tích và dự báo được tổng hợp theo bảng tổng hợp các nhân

tố thuộc môi trường.

Đánh giá tác động của các nhân tố môi trường kinh doanh

Bảng 1.3: Bảng tổng hợp kết quả phân tích và dự báo môi trường kinh doanh

Các Mức độ quan Mức độ tác động Xu hướng tác Điểm tổng

nhân trọng của nhân của nhân tố đối với động hợp

tố tố đối với tập đoàn

ngành

(1) (2) (3) (4) (5)

Liệt kê Thang điểm Thang điểm: Chiều hướng Nhân kết

các đánh giá: Nhiều = 3 tác động: quả ở cột (2)

nhân Cao = 3 Trung bình =2 Tích cực= “+” với cột (3)

tố cần Trung bình = 2 Ít =1 Xấu= “-” và đặt dấu ở

đánh Thấp = 1 Không tác động =0 cột (4) cho

giá từng nhân tố

Có thể trình bày quá trình đánh giá các nhân tố thông qua các bước cụ thể sau:

- Lựa chọn các nhân tố quan trọng để đưa vào bảng đánh giá;

- Đánh giá cụ thể tầm quan trọng của nhân tố đối với ngành theo điểm số;

75

- Đánh giá cụ thể tầm quan trọng của nhân tố đối với Tập đoàn theo điểm số;

- Đánh giá cụ thể xu hướng tác động của nhân tố;

- Tổng hợp kết quả đánh giá tác động của các nhân tố môi trường kinh doanh.

Vậy, Việc hình thành bao nhiêu bảng phân tích và đánh giá tác động

của các nhân tố môi trường kinh doanh hoàn toàn phụ thuộc vào cách phân

bậc môi trường.

+ Tổng hợp kết quả phân tích và dự báo về môi trường bên ngoài.

Mục đích là để đánh giá cụ thể xu hướng và mức độ tác động của từng nhân

tố quan trọng thuộc môi trường bên ngoài tác động đến hoạt động kinh doanh

của tập đoàn trong thời kỳ chiến lược. Mặc dù có nhiều phương pháp khác

nhau song ở đây chỉ đề cập đến phương pháp cho điểm từng nhân tố ảnh

hưởng và thực hiện tổng hợp kết quả phân tích và dự báo môi trường bên

ngoài theo bảng tổng hợp tác động của các nhân tố môi trường kinh doanh

bên ngoài.

Muốn vậy, trước hết phải liệt kê toàn bộ cơ hội, đe dọa của môi trường

bên ngoài đến hoạt động kinh doanh của Tập đoàn trong thời kỳ chiến lược.

Mọi cơ hội, đe dọa được khẳng định thông qua quá trình phân tích và đánh

giá chiến lược. Tiếp theo phải xác định thứ tự của các thời cơ, cơ hội cũng

như các đe dọa, rủi ro đối với hoạt động kinh doanh của Tập đoàn trong thời

kì chiến lược.

+ Tổng hợp kết quả phân tích và đánh giá về môi trường nội bộ của Tập đoàn

là xác định các điểm mạnh, điểm yếu của bản thân Tập đoàn trong thời kì

chiến lược. Muốn làm rõ được mạnh, yếu của Tập đoàn phải so sánh các nhân

tố quan trọng thuộc môi trường bên trong Tập đoàn với các đối thủ cạnh tranh

và dựa vào kết quả so sánh đó để đánh giá xu hướng tác động đến hoạt động

kinh doanh của Tập đoàn trong thời kì chiến lược. Sau đó, dựa vào kết quả

76

đánh giá ở trên để xác định trật tự các điểm mạnh, yếu tác động đến hoạt động

kinh doanh của Tập đoàn trong thời kì chiến lược.

1.2.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến việc tổ chức hệ thống thông tin

kinh tế phục vụ ra quyết định tài chính của tập đoàn kinh tế.

Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến việc tổ chức hệ thống thông tin kinh

tế của Tập đoàn kinh tế; tuy nhiên, trong những nhân tố ảnh hưởng này thì

nhân tố tác động mạnh nhất đó là nguồn cung cấp thông tin. Nguồn cung cấp

thông tin cơ bản được lấy từ hai nguồn: đó là thông tin sơ cấp và thông tin thứ

cấp.

Tuỳ theo nhu cầu thực tế, các nhà quản trị có thể quyết định chọn

nguồn cung cấp thông tin thứ cấp và sơ cấp phù hợp ở bên trong hoặc bên

ngoài Tập đoàn, hoặc kết hợp tất cả các nguồn. Căn cứ vào hiệu quả kinh tế

và tốc độ đáp ứng nhu cầu thông tin, các nhà quản trị thường quyết định tìm

thông tin thứ cấp trước, sau đó là thông tin sơ cấp. Về nguồn cung cấp, thứ tự

ưu tiên được chọn như sau:

o Nguồn cung cấp thông tin thứ cấp nội bộ

Đây là nguồn cung cấp thông tin về các hoạt động của Tập đoàn rất

phong phú và đa dạng, sẵn có, không hao tốn chi phí thu thập (nếu có thì rất

ít). Nguồn này bao gồm: các chứng từ thu - chi, các hoá đơn bán hàng, các

hoá đơn mua hàng, các báo cáo về hoạt động tài chính của Tập đoàn, các báo

cáo thanh toán với khách hàng hoặc với các nhà cung cấp, ngân hàng dữ liệu

(tích luỹ thông tin khảo sát những lần trước)...

Nguồn cung cấp này có lợi thế là dễ tìm kiếm và không tốn chi phí. Vì

vậy, sau khi xác định nhu cầu các loại thông tin cần thu thập, công việc đầu

tiên của những người có trách nhiệm là xem xét các dữ liệu có trong nội bộ,

tìm kiếm những dữ liệu thích hợp và xử lý để đáp ứng nhu cầu thông tin cần

thiết cho việc ra quyết định của các nhà quản trị. Do đó, ta có thể nói nguồn

77

thông tin này có tác động trực tiếp và tác động mạnh đến hệ thống thông kinh

tế của Tập đoàn kinh tế.

o Nguồn cung cấp thông tin thứ cấp bên ngoài

Phần lớn các nguồn thông tin thứ cấp bên ngoài cung cấp các dữ liệu

chứa đựng những thông tin về các yếu tố của môi trường bên ngoài có ảnh

hưởng đến hoạt động của Tập đoàn như thông tin về: khách hàng, hoạt động

của các đối thủ cạnh tranh, hoạt động của các nhà cung cấp, các điều khoản

của các văn bản luật pháp quốc gia hoặc quốc tế có giá trị tại quốc gia thị

trường, các chính sách của chính phủ, các báo cáo kinh tế - tài chính - xã hội

của quốc gia. Tuỳ theo nhu cầu thông tin và phạm vi cung cấp dịch vụ của

Tập đoàn, các nhà quản trị quyết định lựa chọn nguồn cung cấp thông tin thứ

cấp bên ngoài phù hợp. Chi phí thu thập thông tin thứ cấp từ các nguồn bên

ngoài có sự khác nhau và thường là không cao. Nguồn thông tin này cũng có

tác động trực tiếp đến hệ thống thông kinh tế của Tập đoàn kinh tế.

Các nguồn cung cấp thông tin thứ cấp bên ngoài chủ yếu như:

- Các cơ quan trong bộ máy quản lý Nhà nước từ Trung ương

đến các địa phương.- Các tổ chức quản lý ngành kinh tế.

- Các cơ quan thuộc các ngành có liên quan (Ví dụ: y tế, giáo

dục, bảo vệ môi trường...).

- Hiệp hội ngành nghề.

- Các cơ quan truyền thông đại chúng: báo viết, báo hình, báo nói

- Các tổ chức kinh doanh thông tin qua phương tiện viễn thông.

- Sách tham khảo, các công trình nghiên cứu, các tài liệu của các

tổ chức cạnh tranh...

Trong thực tế, nguồn cung cấp thông tin thứ cấp bên ngoài rất đa dạng,

cung cấp nhiều loại thông tin về môi trường kinh doanh trên phạm vi quốc gia

và quốc tế. Các nhà quản trị cần xây dựng mạng lưới để tiếp cận với tất cả các

78

nguồn cung cấp có khả năng đáp ứng nhu cầu thông tin thứ cấp cho Tập đoàn.

Những thông tin từ các nguồn này được thu thập thường xuyên, xử lý và sắp

xếp theo danh mục để có thể cung cấp kịp thời cho các nhà quản trị.

o Nguồn cung cấp thông tin sơ cấp nội bộ

Khi nguồn cung cấp thông tin thứ cấp chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu các

loại thông tin, những người có trách nhiệm sẽ quyết định tìm kiếm thông tin

sơ cấp, trong đó, nguồn thông tin sơ cấp nội bộ được ưu tiên lựa chọn trước vì

thế cơ bản của nó là dễ tìm và chi phí ít.

Thông tin sơ cấp nội bộ do các thành viên trong Tập đoàn cung cấp

thông qua sự hiểu biết môi trường kinh doanh và sự tiếp cận trong công việc

hàng ngày. Những người cung cấp thông tin sơ cấp nội bộ bao gồm cả nhà

quản trị lẫn người thừa hành thuộc các bộ phận chức năng, các chi nhánh của

Tập đoàn ở các khu vực thị trường. Chẳng hạn, nhà quản trị marketing các

khu vực có thể cho biết ý kiến về tiềm năng khai thác và phát triển thị trường

các sản phẩm, nhà quản trị nguồn nhân lực có thể cho biết khả năng thu hút

thêm lao động giỏi ở các địa phương hoặc khả năng nâng cao năng suất của

lực lượng lao động hiện tại, đại diện thương mại hay nhân viên bán hàng có

thể cung cấp thông tin về nhu cầu và mong muốn của khách hàng hoặc phản

ứng của họ đối với các sản phẩm hoặc dịch vụ của Tập đoàn, những nhu cầu

mới phát sinh, những phát hiện về hoạt động của đối thủ cạnh tranh, người đi

mua hàng phục vụ sản xuất tiếp cận với các nhà cung cấp nên họ có khả năng

dự báo về những công nghệ mới, những nguyên liệu mới có thể ra đời trong

thời gian tới,... nguồn thông tin này có tác động gián tiếp đến hệ thống thông

kinh tế của Tập đoàn kinh tế.

Nguồn thông tin sơ cấp nội bộ rất quan trọng và có giá trị trong thực tế.

Vì vậy, để có nguồn thông tin này thường xuyên, các nhà quản trị chiến lược

cần quan tâm và tôn trọng ý kiến của các thành viên trong nội bộ và có chính

79

sách đãi ngộ thích đáng đối với những nguồn thông tin đem lại lợi ích cụ thể

cho Tập đoàn.

o Nguồn cung cấp thông tin sơ cấp bên ngoài

Thông tin sơ cấp bên ngoài có thể được cung cấp từ các nguồn như:

khách hàng, các nhà cung cấp có mối quan hệ mua bán lâu dài, các đối thủ

cạnh tranh, những nhà tư vấn, những tổ chức trung gian marketing...Thông tin

sơ cấp được cung cấp từ bên ngoài có lợi thế là đa dạng, ý kiến mang tính

khách quan. Tuy nhiên, điểm bất lợi là mất nhiều thời gian và chi phí để thu

thập, khi sử dụng phải thẩm tra lại cẩn thận. Nguồn thông tin này có tác động

gián tiếp đến hệ thống thông kinh tế của Tập đoàn kinh tế.

Trong thực tế, các nhà quản trị hệ thống thông tin chỉ quyết định thu

thập nguồn thông tin này khi cả ba nguồn trên chưa đáp ứng đủ nhu cầu thông

tin để ra các quyết định quản trị. Ví dụ: để thực hiện chiến lược mở rộng đầu

tư, các nhà quản trị cần phải có thông tin về khách hàng và các đối thủ cạnh

tranh ở khu vực thị trường mới nhằm quyết định mở rộng đầu tư. Bộ phận

quản lý hệ thống thông tin bắt buộc phải lập dự án đầu tư để thu thập ý kiến

của khách hàng nhằm ra quyết định đầu tư (sử dụng bằng câu hỏi để phỏng

vấn các nhóm khách hàng tiêu biểu). Mặt khác, nhân viên của hệ thống còn đi

thu thập thông tin về các hoạt động của từng đối thủ cạnh tranh chủ yếu trên

thị trường mới (mua hàng của đối thủ cạnh tranh để phỏng vấn người bán

hàng của họ, tình báo kinh tế...). Hoặc để giữ vững thị phần trên thị trường,

Tập đoàn cần có thông tin về các phản ứng của khách hàng để kịp thời điều

chỉnh. Vì vậy, hệ thống thông tin phải thu thập thường xuyên ý kiến khách

hàng qua bộ phận dịch vụ khách hàng hay qua phiếu thăm dò (các câu hỏi

ngắn)...

80

1.3 KINH NGHIỆM CỦA CÁC TẬP ĐOÀN KINH TẾ TRONG VIỆC

HOÀN THIỆN HỆ THỐNG THÔNG TIN KINH TẾ PHỤC VỤ CHO VIỆC

RA QUYẾT ĐỊNH TÀI CHÍNH CỦA TẬP ĐOÀN KINH TẾ

1.3.1 Kinh nghiệm trong việc hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế phục vụ

cho việc ra quyết định tài chính

 Kinh nghiệm của một số Tập đoàn về việc sử dụng hệ thống thông

tin kinh tế phục vụ cho việc ra quyết định tài chính:

1/ Tập đoàn Vimpelcom đầu tư vào ngành viễn thông ở Việt Nam (Gtel)

Tháng 7 năm 2009 Gtel Mobile (Beeline) tiến hành đầu tư vào Việt

Nam dưới dạng hợp đồng hợp tác kinh doanh giữa Tổng công ty Viễn thông

Toàn cầu và công ty viễn thông Nga Vimpelcom, chuyên kinh doanh trong

lĩnh vực viễn thông. Tổng số vốn Vimpelcom đầu tư vào Beeline khoản 463

triệu USD, thời gian đầu tư dự tính dài hạn, Vimpelcom khi tiến hành đầu tư

vào Việt Nam đã được hưởng nhiều chính sách ưu đãi về cơ chế kinh doanh

đặc biệt như cổ phần của Vimpelcom chiếm đến 65% trong hợp đồng hợp tác

kinh doanh (trong khi theo qui định thì viễn thông là ngành mà phía Việt Nam

phải nắm cổ phần chi phối), ngoài cơ chế kinh doanh đặc biệt, Vimpelcom

còn được hưởng nhiều chính sách ưu đãi khác mà không phải nhà đầu tư nào

cũng dễ có được. Tuy nhiên, đến ngày 23/4/2012 Vimpelcom ký quyết định

bán hết cổ phần của mình cho công ty TNHH nhà nước một thành viên

Truyền dẫn và dịch vụ hạ tầng Gtel với giá là 45 triệu USD; thời gian đầu tư

của Vimpelcom vào Việt Nam không đầy 3,5 năm - thời gian quá ngắn chưa

kịp hoàn vốn – thì Vimpelcom đã phải rút lui khỏi thị trường Việt Nam; sự

thất bại này làm cho Vimpelcom không thực hiện được mục tiêu đầu tư ban

đầu đặt ra: “hướng tới việc gia tăng giá trị trong tương lai tại thị trường Việt

Nam”; vấn đề đặt ra là nguyên nhân nào Vimpelcom chấp nhận lỗ nặng, bán

rẻ cổ phần để thoát hiểm?

81

Theo ông Jo Lunder, Tổng Giám đốc tập đoàn, Vimpelcom rút lui là do sai

lầm trong định hướng đầu tư của tập đoàn, nguyên nhân của những sai lầm

này chủ yếu là do thông tin Tập đoàn Vimpelcom tiếp nhận trước khi quyết

định đầu tư không đầy đủ, không chính xác, không kịp thời, cụ thể:

- Sai lầm thứ nhất: Thông tin về thị trường không chính xác, không

đầy đủ dẫn đến Beeline bị thua thiệt trong việc chiếm lĩnh thị trường:

Trên thị trường Việt Nam Beeline chỉ chiếm khoản 5% thị phần;

Mobile Fone, Vinaphone, Viettel chiếm khoản 95% thị phần; thị phần

thấp làm cho Beeline không mang lại hiệu quả kinh doanh như mong

muốn. Nguyên nhân chính là do Beeline tiếp nhận thông tin về thị

trường, về khách hàng không đầy đủ, không chính xác; những thông tin

sai lệch được cung cấp cho Beeline như: Khách hàng Việt Nam ưa

chuộng khuyến mãi, sẵng sàn bỏ số điện thoại cũ của nhà mạng này để

thay thế bằng số điện thoại mới của nhà mạng khác nếu có khuyến mãi

cao, hay như thông tin: khách hàng Việt Nam không chú trọng nhiều

đến thương hiệu mà chỉ chú trọng đến lợi ích từ khuyến mãi …chính

những thông tin không đầy đủ và bị sai lệch này làm cho Beeline chủ

quan đánh giá thấp về việc thu hút khách hàng tiềm năng ở thị trường

Việt Nam; cụ thể để thu hút khách hàng, Beeline đã thực hiện các gói

cước khuyến mãi khủng như “Big Zero”, “Big Data”… nhằm mục tiêu

là để thu hút khách hàng tiềm năng trên thị trường, cũng như thu hút

khách hàng tiềm năng, trung thành của các đối thủ cạnh tranh cùng

ngành; chính những sai lầm của những thông tin không chính xác trên,

Beeline đã không đánh giá đúng về thương hiệu, không đánh giá đúng

về năng lực cạnh tranh của mình nên việc thu hút khách hàng tiềm năng

của Beeline bị thất bại ; thực tế, trên thị trường Việt Nam thương hiệu

Beeline rất yếu; trong khi đó, khách hàng của MobiFone, Vinaphone

82

chủ yếu là các khách hàng tiềm năng mạnh như doanh nghiệp và những

khách hàng lâu năm khác, những khách hàng này họ xem nhà mạng

như thương hiệu riêng của họ, vì thế họ không dễ dàng từ bỏ số điện

thoại đang sử dụng để chuyển sang mạng Beeline; không thu hút được

những khách hàng tiềm năng mạnh, Beeline chuyển sang đánh mạnh

vào đối tượng là học sinh, sinh viên và những người có thu nhập thấp;

Để đáp lại sự cạnh tranh của Beeline, các nhà mạng như MobiFone,

VinaPhone, Viettel đã thực hiện chiến lượt “miễn phí nội mạng”, và

chiến lược này đã làm cho những chương trình khuyến mãi lớn của

Beeline nhanh chóng kết thúc.

- Sai lầm thứ hai: Chi phí đầu tư lớn, tỷ suất sinh lời thấp

Beeline tiếp nhận thông tin về kỹ thuật không đầy đủ, không phù hợp

dẫn đến quyết định đầu tư sai lầm, đó là thông tin về băng tầng, Beeline

cho rằng thông tần càng rộng thì việc thông thoại càng tốt mà không

cần sự trợ giúp của 3G. Vì thế, Beeline tiến hành đầu tư hoạt động trên

băng tần lớn 1800MHz nhưng không có 3G hỗ trợ; và để đạt được vùng

phủ sóng tốt cho dịch vụ thoại, Beeline cần phải đặt ít nhất 20.000 trạm

phát sóng, có nghĩa Beeline cần có nguồn tài chính khổng lồ để đầu tư

và vận hành; nhưng dù cho băng tần rộng nhưng không có 3G hỗ trợ

nên chất lượng dịch vụ thoại của Beeline vẫn thấp, làm cho chất lượng

khách hàng sử dụng dịch vụ thấp (cụ thể doanh thu trên mỗi khách

hàng thấp), dẫn đến hiệu quả đầu tư thấp, hay tỷ suất sinh lời thấp,

thậm chí bị âm; trong khi đó, những nhà mạng khác với băng tần 800-

900 MHz nhưng có 3G hỗ trợ nên chỉ cần một nữa trạm phát sóng nói

trên cũng đủ dung lượng để phục vụ khách hàng, vì thế những nhà

mạng này tiết kiệm được chi phí đầu tư, giúp tổng chi phí đầu tư ít hơn

dẫn đến hiệu quả hoạt động lại cao hơn.

83

Tóm lại, do Beeline tiếp nhận thông tin không đầy đủ, không chính xác,

không phù hợp về kỹ thuật nên Beeline xử lý thông tin không đúng,

dẫn đến Beeline bị sai lầm trong việc quyết định đầu tư, làm cho chi phí

đầu tư quá lớn nhưng hiệu quả lại quá thấp, điều này đã làm giảm mạnh

đến tỷ suất sinh lời của Beeline, làm cho tỷ suất sinh lời của Beeline sụt

giảm nhanh.

- Sai lầm thứ ba: Chất lượng dịch vụ thấp, thị trường không bền vững

Ưu điểm của Beeline là giá rẻ, thu hút được bộ phận lớn khách hàng có

thu nhập thấp, đặc biệt là những người dân sống ở nông thôn. Tuy

nhiên, tại những vùng này, hạ tầng kỹ thuật còn yếu chưa ổn định, chất

lượng phủ sóng của Beeline chưa tốt, nên cơ hội phát triển của Beeline

với chương trình sim tỷ phú không đạt hiệu quả. Đối với khách hàng ở

thành thị, họ sử dụng sim Beeline phần nhiều mang tính” sơ cua”, họ

chưa sẵn sàng coi Beeline như một số điện thoại chính; vì thế, thị

trường của Beeline là thị trường không bền vững, dẫn đến doanh thu

không ổn định, và cuối cùng là Beeline bị lỗ nặng.

Tóm lại, một trong những nguyên nhân thua lỗ của Beeline, đó là thông

tin cung cấp cho Beeline về khách hàng Việt Nam không được chính

xác, không đầy đủ, không phù hợp; làm cho Beeline định hướng chiến

lược kinh doanh bị sai lầm, cụ thể như:

 Thông tin không chính xác, không đầy đủ: Trước đây, để giành

thị trường Viettel đã thực hiện chiến lược “nông thôn bao vây

thành thị”, để thực hiện chiến lược này Viettel tiến hành: 1.giảm

giá dịch vụ thoại để thu hút khách hàng chủ lực ở nông thôn có

thu nhập thấp, 2. Tăng cường đầu tư các trạm có sự hỗ trợ của

3G để tăng chất lượng vùng phủ sóng, và Viettel đã thành công

trong chiến lược kinh doanh này; do tiếp nhận thông tin chiến

84

lược kinh doanh của Viettel không chính xác, không đầy đủ, nên

Beeline chỉ chú trọng về giảm giá sản phẩm, nhưng chưa chú

trọng về chất lượng dịch vụ, vì thế Beeline không thu hút được

khách hàng, làm cho hiệu quả SXKD của Beeline bị sụt giảm,

dẫn đến Beeline bị thua lỗ nặng.

 Thông tin không phù hợp: Beeline tiếp nhận thông tin không phù

hợp, đó là thông tin quảng cáo với chiêu thức chọc tức khách

hàng, hình thức quảng cáo này không phù hợp với văn hóa của

người Việt Nam; cụ thể: để thu hút khách hàng, Beeline tiến

hành quảng cáo, hình thức quảng cáo “vô tiền khoáng hậu” trong

lịch sử quảng cáo, hình ảnh Beeline xuất hiện liên tục trên dưới

100 lần giữa giờ của những pha bóng nảy lửa, giữa những lúc cái

đầu đang nóng, Beeline như đã bơm thêm dầu vào lửa để cho

trận đấu trở lên nóng hơn bao giờ hết, điều này đã làm cho khách

hàng phản cảm với hình ảnh của Beeline, nên Beeline càng

không thu hút được khách hàng như mục đích đặt ra, hiệu quả

SXKD càng sụt giảm.

Kết luận: dù ở bất kỳ thị trường nào, trong môi trường kinh doanh nào, thì

Beeline cũng như các tập đoàn khác đều có xây dựng hệ thống thông tin kinh

tế để phục vụ ra quyết định tài chính, và các bước xây dựng hệ thống thông

tin kinh tế ở các tập đoàn gần như là giống nhau, nhưng việc thực hiện ở các

bước thì có sự khác biệt nhau, dẫn đến kết quả hoạt động SXKD khác nhau;

cụ thể, thất bại trong kinh doanh của Beeline ở thị trường Việt Nam chủ yếu

là do hệ thống thông tin kinh tế của Beeline còn quá nhiều khiếm khuyết, từ

việc xác định nhu cầu thông tin bị sai lệch, dẫn đến nguồn thông tin cung cấp

không đầy đủ, vì thế quá trình xử lý thông tin của Beeline không chính xác,

làm cho nguồn thông tin được cung cấp cho nhà quản trị là những thông tin

85

không đúng, không đủ, không kịp thời, không phù hợp, không chính xác; hậu

quả sai lầm của chuỗi hệ thống trên đó là nhà quản trị tiến hành phân tích,

đánh giá những mặt mạnh, yếu, cơ hội và thách thức của Beeline để đề ra

những phản ứng chiến lược về đầu tư bị sai lầm, dẫn đến Beeline bị thất bại

trong kinh doanh ở thị trường Việt Nam là điều tất yếu.

2/ Viettel thành công trong kinh doanh viễn thông trên thị trường nội địa

lẫn thị trường nước ngoài

Tập đoàn viễn thông Quân đội Viettel là tập đoàn viễn thông có thị

trường mở rộng cả trong nước lẫn ngoài nước, Viettel đang dẫn đầu Việt Nam

trong việc đẩy mạnh đầu tư kinh doanh ở nước ngoài, cụ thể Viettel đang đầu

tư và kinh doanh ở 10 nước: Lào, Campuchia, Haiti, Mozambique, Peru,

Cameroon, Bunrundi, Tazania, Myanmar, Đông Timor và đã đạt được những

thành công đáng kể. Nếu so với các tập đoàn viễn thông lớn ở nước ngoài

cùng kinh doanh tại các thị trường quốc tế, Viettel có mức tăng trưởng rất ấn

tượng, như năm 2015, tổng doanh thu từ hoạt động đầu tư quốc tế của Viettel

tăng 9%, đạt gần 1,5 tỷ đô la Mỹ. Trong khi đó, theo số liệu của OVUM

(hãng nghiên cứu và phân tích thị trường hàng đầu thế giới, trụ sở chính tại

Anh), tốc độ tăng trưởng bình quân của ngành này trên thế giới là 2,3% (chỉ

bằng ¼ so với Viettel).

Bí quyết thành công này là do:

- Thứ nhất, dù sinh sau đẻ muộn so với MobiFone hay VinaPhone,

nhưng Viettel (được cấp phép kinh doanh dịch vụ Bưu chính – Viễn

thông năm 2000) đã nắm được thông tin rất chính xác và kịp thời đó là:

1.hiện nay hai nhà mạng lớn MobiFone và VinaPhone chưa mặn mà

với khách hàng nông thôn, thị trường ở vùng nông thôn còn đang bỏ

ngỏ; 2. Giá cước cho 1 phút gọi ở năm 2000 của MobiFone và

VinaPhone đều là 8.000 đ/phút (phí thuê bao là 200.000đ/tháng),

86

Viettel nhận thấy giá cước phí và phí thuê bao của điện thoại di động

còn quá cao so với những người có thu nhập thấp; vì thế, sau khi thu

thập những thông tin đúng, chính xác, phù hợp và kịp thời này, Viettel

đã kịp thời xử lý thông tin, xem xét diễn biến của môi trường kinh

doanh, từ đó Viettel tiến hành phân tích những mặt mạnh, mặt yếu, cơ

hội và thách thức, để xây dựng chiến lược đúng đắn nhằm giành thị

trường, đó là: 1.Viettel áp dụng phương pháp tính cước đột phá theo

block 6 giây thay vì tính theo phút như trước đây MobiFone và

VinaPhone từng áp dụng, 2. Giảm phí hòa mạng, 3.Viettel cho khách

hàng mới tự chọn số trong gần 1 năm khai trương, 4. Tặng cước thuê

bao dịch vụ cho thuê bao trả sau, 5. Tặng cước thẻ nạp cho thuê bao trả

trước, 6. Hỗ trợ tiền mua điện thoại hay tặng máy khi khách hàng đăng

ký dịch vụ, 7. Thống nhất vùng gọi điện thoại để giảm cước cho khách

hàng. Chính những giải pháp đúng đắn trên đem lại nhiều lợi ích cho

khách hang, Viettel đã nhanh chóng thu hút được hơn 150.000 thuê bao

chỉ sau 5 tháng ra đời.

- Thứ hai, Viettel rút kinh nghiệm từ MobiPhone về sự cố nghẽn mạch

nghiêm trọng; MobiFone tiếp tục bị mất uy tín do các sự cố nghẽn

mạch vốn đã kéo dài và càng trở nên trầm trọng hơn vào những dịp Tết

Nguyên đán; sau khi tiếp nhận được thông tin chính xác và phù hợp

này, Viettel đã tiến hành xử lý thông tin và đề ra chiến lược phản ứng

kịp thời, đó là: 1.Viettel nhanh chóng và đẩy mạnh thực hiện chiến lược

đầu tư nhằm tăng số trạm phát sóng để theo kịp diễn biến tăng thuê bao,

2. Trong khi MobiFone và VinaPhone còn đang lay hoay về vấn đề

chất lượng vùng phủ sóng, nên họ không thể thực hiện chương trình

khuyến mãi rầm rộ để thu hút thuê bao mới; tận dụng cơ hội này,

Viettel bắt đầu thực hiện các chương trình khuyến mãi hòa mạng: đầu

87

tiên khá nhẹ nhàng là tặng 50% phí hòa mạng, kế tiếp khuyến mại tặng

50 triệu cuộc gọi miễn phí, kế tiếp nữa là miễn phí hòa mạng cho thuê

bao trả sau, và sau cùng là nhân đôi tài khoản cho thuê bao trả trước.

- Thứ ba, đến nay thị trường di động Việt Nam đã đến ngưỡng bão hòa,

chất lượng và giá cả đã được thay đổi đáng kể theo chiều hướng có lợi

cho người tiêu dùng, sự cạnh tranh giữa các đối thủ trong ngành viễn

thông không còn nằm ở giá cả, mà chủ yếu nằm ở chất lượng vùng phủ

song; thông tin chất lượng vùng phủ sóng là yếu tố quyết định đến khả

năng cạnh tranh của các tập đoàn viễn thông thì hầu như nhà quản trị

viễn thông nào cũng biết; tuy nhiên, người xử lý nhanh, mạnh và chính

xác về thông tin này nhằm xây dựng chiến lược kinh doanh hợp lý đó

chính là Viettel, cụ thể: 1.khi mạng 3G đang là đỉnh cao của thị trường

viễn thông thì Viettel đã nghĩ đến việc phát triển 4G, hiện tại mạng 4G

Viettel đang dự định phủ sóng toàn quốc và có chất lượng ngày càng

cao, 2. Viettel đặt mục tiêu nghiên cứu sản xuất các thiết bị hạ tầng

mạng viễn thông, mà trước mắt là tập trung vào công nghệ 4G để sản

xuất thiết bị 4G trong năm 2016, 3. bắt đầu lập nhóm nghiên cứu 5G,

hiện thực hoá ước mơ mạng lưới viễn thông Việt Nam bằng thiết bị

- Thứ tư, khi thị trường viễn thông trong nước đã đi vào ổn định và dần

Made in Vietnam.

dần tiến tới bảo hòa, thì Viettel đặt ra chiến lược đầu tư lâu dài đó

chính là đầu tư ra nước ngoài, cụ thể những đất nước đầu tiên mà

Viettel đầu tư đó chính là Lào và Campuchia; Viettel nhận thấy hạ tầng

viễn thông Lào và Campuchia hầu như không có gì; đường truyền

Internet tại đây chậm đến mức, trao đổi qua skype, gửi thư điện tử hay

gửi - rút tiền trực tuyến... gần như nan giải; trong khi đó, chi phí sử

dụng dịch vụ Internet lại cao gấp hàng chục lần so với Việt Nam. Khi

88

nắm được những thông tin quý báo này, Viettel đã tiến hành xử lý

thông tin và nhanh chóng nắm lấy cơ hội để xây dựng chiến lược đầu tư

dài hạn ở nước ngoài sau khi phân tích những mặt mạnh, yếu, cơ hội,

thách thức của Viettel; Sau khi theo dõi và cập nhật thông tin môi

trường, Viettel đã đề ra phản ứng chiến lược như sau: 1. Đầu tư theo

hướng “kỹ thuật đi trước, kinh doanh theo sau”, chiến lược này được

xuất phát từ quan điểm kinh doanh viễn thông là kinh doanh hạ tầng,

Sản phẩm của viễn thông chính là hạ tầng. Để đưa sản phẩm tới tay

người dùng thì phải đầu tư lớn về hạ tầng; 2. Thực hiện triết lý kinh

doanh: “4Any” (anytime: mọi lúc, anywhere: mọi nơi, anybody: mọi

người, anyprice: mọi giá); 3. “nghĩ khác và lao động sáng tạo” (không

tư duy theo lối mòn và không tư duy theo cách mà nhiều người khác

nghĩ), ở mỗi một thị trường mới có những khó khăn mới, cách để

Viettel vượt qua được những thách thức ấy chính là luôn nghĩ khác và

lao động hết mình; 4. Tạo ra một nét riêng về “văn hóa doanh nghiệp”,

do khác xa về phong tục tập quán, cụ thể: tại Lào, thói quen không làm

việc ngoài giờ và nghỉ toàn bộ các ngày cuối tuần của nhân viên bản xứ

khiến cho Viettel đã gặp nhiều khó khăn trong việc đảm bảo việc phục

vụ khách hàng 24/7 như các công ty viễn thông cần phải làm. Trong

giao tiếp và làm việc, nhân viên người Lào thích được nói chuyện nhẹ

nhàng, không quen với tác phong quân đội, chấp hành mệnh lệnh.

Chính vì vậy, bộ máy nhân viên Viettel đã quyết định vừa phải thay đổi

bản thân, vừa phải thay đổi chính cách nhìn và làm việc của nhân viên

bản xứ. Truyền cho nhân viên bản xứ sự nhiệt huyết, niềm tin vào công

việc, xoá bỏ các mâu thuẫn về văn hoá để tạo ra một nét riêng về văn

hóa doanh nghiệp; 5. “Giảm giá cước cuộc gọi”, ở thị trường Lào và

Campuchia, do GDP còn thấp, nhưng khi Viettel đầu tư, đưa giá cước

89

thấp và sản phẩm tới người dân thì viễn thông đã bùng nổ, kéo theo sự

phát triển về kinh tế xã hội; 6. “ Đẩy mạnh thực hiện các chính sách xã

hội”, Viettel đẩy mạnh các chương trình xã hội như cung cấp Internet

tới trường học, mổ tim miễn phí hay điện thoại nông thôn ở

Campuchia…. Đã giúp Viettel thực sự trở thành mạng của người

Campuchia, phục vụ cho người dân Campuchia; 7. “Tận dụng nguồn

vốn nước ngoài”, trong tổng số vốn đầu tư tại mỗi thị trường, Viettel

chỉ mang dưới 50% số vốn trong nước đi đầu tư, còn lại hơn 50% là

Viettel tự đi vay ngân hàng tại những quốc gia đầu tư và nợ tiền từ các

nhà cung cấp thiết bị.

Tóm lại: thành công của Viettel chủ yếu là do Viettel đã định hướng đúng

trong việc xác định nhu cầu thông tin, đây là căn cứ quan trọng để Viettel xác

định đúng các nguồn thông tin cung cấp, sau khi thu thập các thông tin đúng ,

đầy đủ, chính xác, kịp thời, và phù hợp, Viettel nhanh chóng tiến hành xử lý

thông tin kết hợp với dự báo đánh giá diễn biến của môi trường kinh doanh,

từ đó Viettel tiến hành phân tích các mặt mạnh, yếu, cơ hội và thách thức của

mình để đề ra chiến lược đầu tư hợp lý; kết quả của việc nhanh nhạy trong

việc sử dụng hệ thống thông tin nhằm phục vụ cho các quyết định tài chính đã

giúp Viettel đi trước một bước (cả thị trường trong nước lẫn thị trường nước

ngoài) so với các đối thủ cạnh tranh cùng ngành dù Viettel là người sinh sau

đẻ muộn. Kết quả của những quyết định đúng đắn này giúp Viettel thành công

rực rỡ; cụ thể: trong năm 2015, doanh thu từ thị trường nước ngoài của Vietetl

đạt 1,5 tỷ USD. Gần đây, Viettel được đánh giá xếp hạng là thương hiệu viễn

thông lớn nhất Việt Nam, TOP 5 thương hiệu viễn thông hiệu quả nhất

ASEAN và lọt vào TOP 100 thương hiệu viễn thông lớn nhất thế giới với giá

trị thương hiệu đạt ngưỡng 1 tỷ USD.

90

Có thể nói, động lực vươn xa với chiến lược kinh doanh hợp lý đã giúp cho

Viettel chưa đến một thập kỷ đã gặt hái được những thành công đáng khích lệ.

3/ Tổng Công ty Cổ phần Xây lắp Dầu khí Việt Nam (PVC) thuộc Tập

đoàn dầu khí Việt Nam (PVN) thất bại ngay ở thị trường trong nước

Tổng Công ty Cổ phần Xây lắp Dầu khí Việt Nam - PVC, thuộc Tập

đoàn Dầu khí Việt Nam – PVN đã niêm yết cổ phiếu trên Sở Giao dịch chứng

khoán Hà Nội với mã chứng khoán PVX và trở thành một trong những mã

nóng nhất khi khối lượng giao dịch lên đến hàng triệu cổ phiếu mỗi ngày; đây

cũng là cơ sở để PVC phát hành thành công thêm cổ phiếu vào đầu năm 2010,

tăng vốn điều lệ lên 2.500 tỉ đồng. Nhưng ngay trong những năm tiếp theo,

PVC có dấu hiệu đi xuống rồi lâm vào thua lỗ. Cụ thể, năm 2012, doanh thu

của PVC đạt 4.600 tỉ đồng nhưng lỗ hơn 1.300 tỉ đồng. Năm 2013, PVC tiếp

tục lỗ gần 2.000 tỉ đồng. Đặc biệt, PVC còn phải gánh nợ quá hạn hàng trăm

tỉ đồng vay ở các ngân hàng.

Riêng trong năm 2012, tình hình kinh doanh của PVC gặp rất nhiều

khó khăn. Các dự án mà PVC tham gia xây lắp đều bị chậm tiến độ. Do

không có nguồn vốn mới nên sản lượng và doanh thu của PVC sụt giảm

nghiêm trọng, trong khi khối lượng công việc dở dang và công nợ rất lớn.

Tính đến cuối năm 2012, chi phí sản xuất kinh doanh dở dang là 3.200 tỉ

đồng, tập trung chủ yếu ở các công trình Nhà máy nhiệt điện Vũng Áng, Nhà

máy nhiên liệu sinh học Ethanol Phú Thọ, Kho LPG lạnh Thị Vải,…

Đặc biệt, trong giai đoạn này, thị trường bất động sản đóng băng, chính

sách tín dụng thắt chặt nên một số đơn vị kinh doanh bất động sản của PVC

rơi vào bế tắc. Nhiều dự án đã triển khai và giải ngân vốn nhưng không bán

được hàng như trụ sở PVFC Hải Phòng, dự án Petrolandmark, sân golf Nha

Trang.

91

Hàng loạt dự án PVC nhận chuyển nhượng từ đơn vị khác trong ngành

như dự án Công ty Xi măng Dầu khí 12/9, Công ty Xi măng Hạ Long, khách

sạn Lam Kinh,... đều lâm vào cảnh thiếu vốn, tiền bán hàng thu hồi chậm,

kinh doanh lỗ vượt kế hoạch làm ảnh hưởng đến dòng tiền và tình hình sản

xuất kinh doanh chung của PVC. Theo tính toán, khoản đầu tư vào các dự án

này khoảng 1.193 tỉ đồng và PVC không có khả năng thu xếp nguồn trả nợ và

có nguy cơ bị mất hết vốn chủ sở hữu.

Vì sao PVC bị thất bại nặng nề và đang đứng trên bờ vực phá sản? sau

đây là những nguyên nhân chủ quan dẫn đến PVC có nguy cơ bị phá sản:

a. Sai lầm về chiến lược đầu tư: PVC đã sai lệch trong việc xác

định nhu cầu thông tin đầu tư dẫn đến nguồn cung cấp thông tin đầu tư

bị sai lệch, làm cho việc thu thập và xử lý thông tin bị lệch hướng chiến

lược đầu tư; cụ thể PVC hoạt động theo mô hình mẹ-con, nhưng công

ty mẹ không tập trung nâng cao năng lực quản trị và năng lực thi công

xây lắp, phát triển đội ngũ chuyên gia và công nhân tay nghề cao, mà

chỉ tập trung vào đầu tư tài chính, thu phí quản lý từ các dự án, công

trình được giao. Vì vậy, PVC không xây dựng được yếu tố phát triển

bền vững, hoàn toàn dựa vào các công ty con, công ty liên kết, công ty

tài chính. Các công ty này không tham gia vào chuỗi giá trị gia tăng của

công ty mẹ, không xây dựng bộ máy quản trị, chiến lược đầu tư đặt

trong tổng thể của toàn Tổng công ty PVC. Vì vậy, không những không

đóng góp cho công ty mẹ (kể cả cổ tức) mà còn làm phát sinh thêm

những nghĩa vụ pháp lý, tài chính làm ảnh hưởng đến công ty mẹ, gây

thua lỗ về tài chính cho công ty mẹ;

b. PVC quá chủ quan trong việc dự báo diễn biến của môi trường

kinh doanh, không chú trọng phân tích những mặt mạnh, mặt yếu, cơ

hội cũng như thách thức về tài chính của Tổng công ty nên PVC chưa

92

đề ra chiến lược tài chính phù hợp; cụ thể, báo cáo tài chính sau kiểm

toán của PVC đã chỉ ra: chính công tác quản trị tài chính doanh nghiệp

không tuân thủ các nguyên tắc, các chuẩn mực trong quản trị tài chính,

quản trị rủi ro như không cân đối dòng tiền vào và dòng tiền ra dẫn đến

tình cảnh tài chính gặp nhiều khó khăn do PVC bị thiếu hụt tiền; điều

này được thể hiện thông qua việc PVC đã ký những hợp đồng kinh tế

với các nhà thầu phụ và các đối tác chưa chặt chẽ, tình trạng tạm ứng,

thanh toán vượt quá quy định dẫn đến công nợ phải thu của công ty mẹ

rất lớn, đây là những nguyên nhân chính gây mất cân đối dòng tiền.

Tóm lại: PVC bị thua lỗ nặng trong thời gian vừa qua là do thông tin

đầu tư cung cấp cho PVC bị sai lệch so với mục tiêu đầu tư chính yếu của

PVC, dẫn đến chiến lược tài chính để tài trợ cho đầu tư bị sai lệch theo, nên

hậu quả là dòng tiền vào và dòng tiền ra bị mất cân đối trầm trọng, làm cho

PVC bị thiếu vốn trong đầu tư và lâm vào tình trạng khủng hoảng tài chính,

an ninh tài chính đã bị đe dọa nghiêm trọng, nguy cơ phá sản có khả năng xảy

ra rất lớn.

1.3.2 Bài học trong việc xây dựng hệ thống thông tin kinh tế nhằm phục vụ

cho việc ra quyết định tài chính của tập đoàn kinh tế

Bài học thứ nhất - bài học về Vimpelcom: Thất bại trong kinh doanh

của Beeline ở thị trường Việt Nam chủ yếu là do hệ thống thông tin kinh tế

của Beeline còn quá nhiều khiếm khuyết, từ việc xác định nhu cầu thông tin

bị sai lệch, dẫn đến nguồn thông tin cung cấp không đầy đủ, vì thế quá trình

xử lý thông tin của Beeline không chính xác, làm cho nguồn thông tin được

cung cấp cho nhà quản trị là những thông tin không đúng, không đủ, không

kịp thời, không phù hợp, không chính xác; hậu quả sai lầm của chuỗi hệ thống

thông tin trên, đó là nhà quản trị tiến hành phân tích, đánh giá những mặt

mạnh, yếu, cơ hội và thách thức của Beeline để đề ra những phản ứng chiến

93

lược về đầu tư bị sai lầm, dẫn đến Beeline bị thất bại trong kinh doanh ở thị

trường Việt Nam là điều tất yếu.

Vì thế, để tránh sai lầm của Vimpelcom, Tập đoàn Bưu chính – Viễn

thông VNPT cần phải chú trọng về thông tin thị trường phải thật chính xác,

đầy đủ, kịp thời, và phù hợp với ngành nghề kinh doanh chính của Tập đoàn;

tránh đầu tư có chi phí đầu tư quá lớn, nhưng tỷ suất sinh lời thấp; ngoài ra,

VNPT cần chú trọng đến thông tin về chất lượng dịch vụ và sự bền vững của

thị trường; có như thế thì hệ thống thông tin cung cấp cho nhà quản trị VNPT

sẽ là những thông tin đúng, đủ, kịp thời, phù hợp, chính xác; và kết quả tất

yếu của chuỗi hệ thống thông tin tốt nói trên sẽ giúp cho nhà quản trị tài chính

VNPT tiến hành phân tích, đánh giá những mặt mạnh, yếu, cơ hội và thách

thức của VNPT để đề ra những phản ứng chiến lược về đầu tư được đúng đắn

và có hiệu quả cao hơn.

Bài học thứ hai - bài học về thành công của Viettel

Thành công của Viettel chủ yếu là do Viettel đã định hướng đúng trong

việc xác định nhu cầu thông tin, đây là căn cứ quan trọng để Viettel xác định

đúng các nguồn thông tin cung cấp, sau khi thu thập các thông tin đúng , đầy

đủ, chính xác, kịp thời, và phù hợp, Viettel nhanh chóng tiến hành xử lý thông

tin kết hợp với dự báo đánh giá diễn biến của môi trường kinh doanh, từ đó

Viettel tiến hành phân tích các mặt mạnh, yếu, cơ hội và thách thức của mình

để đề ra chiến lược đầu tư hợp lý; kết quả của việc nhanh nhạy trong việc sử

dụng hệ thống thông tin nhằm phục vụ cho các quyết định tài chính đã giúp

Viettel đi trước một bước (cả thị trường trong nước lẫn thị trường nước ngoài)

so với các đối thủ cạnh tranh cùng ngành dù Viettel là người sinh sau đẻ

muộn.

Vì thế, để đạt được thành công như Viettel, thì Tập đoàn VNPT cần

phải thu thập và xử lý thông tin kinh tế kịp thời, phù hợp với xu hướng hiện

94

nay, đó là mạnh dạn đầu tư vào những thị trường còn bỏ ngỏ (ở trong nước

cũng như ở nước ngoài); tiến hành dự báo những diễn biến của môi trường

kinh doanh để phân tích những mặt mạnh, mặt yếu, cơ hội, cũng như thách

thức về đầu tư, về vốn của VNPT để tiến hành đầu tư phù hợp với khả năng

huy động vốn nhằm giành thị trường; VNPT cần phải đề ra phản ứng chiến

lược có tính chất trọng yếu đó là: VNPT cần phải chú trọng việc phát triển

tăng thuê bao phải phát triển đồng bộ tăng trạm phát sóng để tránh tình trạng

nghẽn mạch, nhanh chóng phát triển mạng 4G và tiếp tục nghiên cứu mạng

5G để mở rộng băng thông giúp nâng cao chất lượng cuộc gọi, tận dụng

nguồn vốn và thị trường nước ngoài để mở rộng đầu tư nước ngoài.

Bài học thứ ba: bài học về sự thất bại của PVC

PVC bị thua lỗ nặng trong thời gian vừa qua là do thông tin đầu tư cung

cấp cho PVC bị sai lệch so với mục tiêu đầu tư chính yếu của PVC, dẫn đến

chiến lược tài chính để tài trợ cho đầu tư bị sai lệch theo, nên hậu quả là dòng

tiền vào và dòng tiền ra bị mất cân đối trầm trọng, làm cho PVC bị thiếu vốn

trong đầu tư và lâm vào tình trạng khủng hoảng tài chính, an ninh tài chính đã

bị đe dọa nghiêm trọng, nguy cơ phá sản có khả năng xảy ra rất lớn.

Để tránh rơi vào tình trạng khủng hoảng tài chính như PVC, VNPT cần

phải tránh tình trạng đầu tư dàn trải để không bị lãng phí vốn trong đầu tư;

VNPT phải thật sự chú trọng đến thông tin nội bộ, cụ thể chú trọng đến thông

tin trong báo cáo tài chính, để đảm bảo việc cân đối dòng tiền, đảm bảo an

ninh tài chính, hạn chế rủi ro cho Tập đoàn.

Tóm lại: Từ những bài học kinh nghiệm trên, để VNPT ngày càng tăng

trưởng và phát triển bền vững trên thị trường viễn thông ngày càng cạnh tranh

gay gắt, thì VNPT cần phải hiểu sâu sắc về các bước của mô hình hệ thống

thông tin kinh tế, và cần phải tuân thủ thực hiện đầy đủ, chính xác các bước

này, có như thế thì hệ thống thông tin kinh tế mới trở thành hệ thống thông tin

95

tốt, có ích cho việc ra quyết định tài chính của Tập đoàn VNPT, các bước

thực hiện hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế được thể hiện như sau:

Xác định nhu cầu thông tin

Xác định các nguồn thông tin

Thu thập và xử lý thông tin

Dự báo diễn biến môi trường kinh doanh

Lập bảng tổng hợp môi trường kinh doanh

Phân tích mặt mạnh, yếu, cơ hội và thách thức

Đề ra phản ứng chiến lược

Theo dõi và cập nhật thông tin môi trường

Kết luận chương 1: Hệ thống thông tin kinh tế có tác dụng cung cấp

những thông tin cần thiết cho nhà quản trị, giúp nhà quản trị điều hành, và hỗ

trợ cho quá trình ra quyết định... qua đó tăng cường vị thế cạnh tranh của tập

đoàn trong một thị trường biến đổi nhanh chóng và phức tạp. Vì vậy, hệ thống

thông tin kinh tế có vai trò to lớn trong quản trị tài chính của tập đoàn.

Môi trường kinh doanh hiện nay rất năng động, và ngày càng phức tạp,

thông tin có mặt khắp nơi và ngày càng đa dạng làm cho nhà quản trị không

thể ra quyết định nhanh chóng và đúng đắn nếu không có sự cung cấp thông

tin từ hệ thống thông tin của tập đoàn, vì thế mục tiêu chính của hệ thống

thông tin kinh tế là:

96

 Cung cấp thông tin phục vụ cho hoạt động của con người trong

một tổ chức nào đó.

 Ghi nhận các sự kiện có một tác động kinh tế đến các tổ chức và

các bên liên quan trong và ngoài nước.

 Cải thiện việc lưu giữ, phân tích khối lượng lớn dữ liệu để giúp

nhà quản lý tìm kiếm giải pháp để giải quyết vấn đề.

 Tạo ra và khai thác các ý tưởng ở nhiều nguồn lực khác nhau

nhằm giúp cho tập đoàn đạt năng suất và hiệu quả công việc

ngày càng cao hơn.

 Hỗ trợ khả năng tổ chức của nhà quản lý, và giúp nhà quản lý ra

quyết định tăng hiệu quả, giảm nguy cơ sai sót.

 Đáp ứng sự hài lòng trong việc tiếp nhận thông tin đối với nhà

quản lý.

Mặt khác, thông tin kinh tế đóng một vai trò tích cực trong sự toàn vẹn

của các quyết định tài chính cũng như sự thành công của kế hoạch phát triển;

đây chính là tầm quan trọng của thông tin kinh tế trong vai trò cung cấp thông

tin để nhà quản trị đưa ra quyết định quản lý và đầu tư.

Các quyết định tài chính của Tập đoàn kinh tế là một yếu tố rất quan

trọng trong việc dự báo kế hoạch ngân sách của Tập đoàn. Bởi lẻ các quyết

định tài chính thể hiện các chính sách chiến lược của tập đoàn, chính sách này

sẽ tác động đến nhu cầu tài chính của Tập đoàn trong từng thời kỳ khác nhau.

Để đảm bảo có một bản kế hoạch tài chính sát thực, phản ánh đúng và đủ nhu

cầu tài chính của Tập đoàn, thì hệ thống thông tin kinh tế của tập đoàn trở

thành điều kiện cần mà những nhà quản trị tài chính không thể thiếu được.

97

Chương 2

THỰC TRẠNG VỀ HỆ THỐNG THÔNG TIN KINH TẾ

PHỤC VỤ CHO VIỆC RA QUYẾT ĐỊNH TÀI CHÍNH CỦA

TẬP ĐOÀN BƯU CHÍNH VIỄN THÔNG VNPT

2.1. TỔNG QUAN VỀ TẬP ĐOÀN BƯU CHÍNH VIỄN THÔNG VNPT

2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của Tập đoàn Bưu chính Viễn

thông VNPT.

Quá trình hình thành

Tháng 3/1994, Thủ tướng Chính phủ có quyết định 91/TTg ngày

07/3/1994 thí điểm thành lập tập đoàn kinh doanh. Tuy nhiên, các tổ chức

kinh doanh được hình thành theo quyết định này thời gian đầu được gọi là

tổng công ty 91. Tháng 3/2005, Thủ tướng Việt Nam quyết định thí điểm hình

thành Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam. Từ đó, các tổng công ty 91

đều được chuyển thành các tập đoàn kinh tế thí điểm. Song, phải đến tháng

11/2009, Thủ tướng Việt Nam mới có quyết định thí điểm thành lập tập đoàn

kinh tế nhà nước.

Mục tiêu thí điểm là:

 Tập trung đầu tư và huy động các nguồn lực hình thành nhóm

công ty có quy mô lớn trong các ngành, lĩnh vực then chốt, cần

phát triển, nâng cao khả năng cạnh tranh và hội nhập kinh tế

quốc tế.

 Giữ vai trò bảo đảm các cân đối lớn trong nền kinh tế quốc dân;

ứng dụng công nghệ cao; tạo động lực phát triển cho các ngành,

lĩnh vực khác và toàn bộ nền kinh tế.

 Thúc đẩy liên kết trong chuỗi giá trị gia tăng, phát triển các thành

phần kinh tế khác.

98

 Tăng cường quản lý, giám sát có hiệu quả đối với vốn, tài sản

nhà nước đầu tư tại các doanh nghiệp trong tập đoàn.

 Tạo cơ sở để tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách và pháp luật

về tập đoàn kinh tế.

Đến thời điểm trước tháng 10/2012, Việt Nam có 13 tập đoàn kinh tế

nhà nước (sau ngày này chỉ còn 11 do HUD và Sông Đà trở lại mô hình tổng

 Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT), thành lập tháng

công ty) gồm:

 Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (Vinacomin),

4/2005;

thành lập tháng 9/2005 với tổ chức ban đầu là Tập đoàn Than Việt Nam, sau

 Tập đoàn Tài chính-Bảo hiểm Bảo Việt (Bảo Việt), thành lập tháng

đó thành Vinacomin tháng 01/2006;

 Tập đoàn Dệt May Việt Nam (Vinatex), thành lập tháng 12/2005;

 Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam (VRG), thành lập tháng

12/2005;

 Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam (Vinashin), thành lập

01/2006;

tháng 6/2006; Đến tháng 10/2013, Bộ Giao thông vận tải quyết định chuyển

 Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), thành lập tháng 7/2006.

 Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PetroVietnam), thành lập

đổi tập đoàn kinh tế Vinashin thành Tổng công ty Công nghiệp Tàu thủy.

 Tập đoàn Viễn thông Quân đội (Viettel), thành lập tháng 12/2009;

 Tập đoàn Công nghiệp Hóa chất Việt Nam (Vinachem);

 Tập đoàn phát triển nhà và đô thị Việt Nam (HUD Holdings - từ

tháng 9/2006;

01/2010 đến 10/2012);

99

 Tập đoàn Công nghiệp Xây dựng Việt Nam (VNIC, Sông Đà - từ

 Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex), thành lập tháng 5/2011.

01/2010 đến 10/2012);

Quá trình phát triển

Năm 1995, Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam chính thức

được thành lập theo mô hình Tổng Công ty 91, trực thuộc Chính phủ và Tổng

cục Bưu điện với tên giao dịch quốc tế viết tắt là VNPT, chính thức tách khỏi

chức năng quản lý nhà nước và trở thành đơn vị sản xuất, kinh doanh, quản lý

khai thác và cung cấp các dịch vụ bưu chính, viễn thông. Cũng trong năm

này, VNPT có vinh dự là ngành kinh tế- kỹ thuật đầu tiên trong cả nước đón

nhận phần thưởng cao quý: Huân chương Sao vàng, VNPT đã có 742.000

thuê bao điện thoại, đưa mật độ điện thoại của Việt Nam lên 1 máy/100 dân.

Với con số này, lần đầu tiên mạng viễn thông Việt Nam có tên trên bản đồ

viễn thông thế giới.

Năm 1996 VNPT đưa mạng thông tin di động VINAPHONE - mạng

thông tin di đông GSM thứ hai của Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt

Nam đi vào hoạt động song song với mạng MOBIFONE. Ngày 19/11/1997

Việt Nam chính thức hòa mạng Internet quốc tế. VDC (đơn vị trực thuộc của

VNPT) là nhà cung cấp cổng truy nhập Internet duy nhất (IAP) và là 1 trong 4

nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP) đầu tiên của Việt Nam.

Năm 2000, VNPT đã vượt qua mật độ 4 máy/100 dân, tăng 4,23 lần so

với năm 1995, số lượng máy điện thoại trên toàn mạng đạt 3,3 triệu máy. Với

số lượng 829.463 máy điện thoại được phát triển mới trong năm 2000 (tăng

80,14%, trong đó riêng máy điện thoại di động tăng 332% so với năm 1999),

VNPT nói riêng và Việt nam nói chung tiếp tục được ITU đánh giá là một

trong 10 nước có tốc độ phát triển viễn thông nhanh nhất thế giới.

100

Trong năm 2004, mạng điện thoại đạt xấp xỉ 10.000.000 máy, đưa mật

độ điện thoại trên toàn quốc lên trên 12 máy/100 dân.

Năm 2006, Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) đã

chính thức ra mắt và đi vào hoạt động theo quyết định của Thủ tướng Chính

phủ số 06/2006/QĐ-TTg ngày 09/01/2006, chuyển đổi mô hình từ Tổng công

thành Tập đoàn Bưu chính – Viễn thông. Theo đó, VNPT là Tập đoàn kinh tế

chủ đạo của Nhà nước trong lĩnh vực BCVT & CNTT, kinh doanh đa ngành

trong cả nước và quốc tế, có sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế; làm

nòng cốt để BCVT và CNTT Việt Nam phát triển và hội nhập quốc tế.

Từ năm 1998 đến 2005, Thủ tướng Việt Nam có quyết định phê duyệt

thực hiện cổ phần hóa tại 42 doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp nhà nước

thuộc Tập đoàn Bưu chính – Viễn thông Việt Nam.

Năm 2007, tiếp tục triển khai thực hiện Đề án thí điểm thành lập Tập

đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam đã được Thủ tướng Chính phủ phê

duyệt, VNPT đã hoàn thành chia tách Bưu chính Viễn thông trên địa bàn các

tỉnh/thành phố. Theo đó, từ Bưu điện tỉnh hiện nay sẽ hình thành 2 đơn vị:

Bưu điện tỉnh/thành phố trực thuộc Tổng Công ty Bưu chính Việt Nam và

Viễn thông tỉnh/thành phố trực thuộc Công ty mẹ - Tập đoàn Bưu chính Viễn

thông Việt Nam.

Năm 2008, Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam VNPT, với vai

trò là chủ đầu tư dự án, đã phóng thành công vệ tinh đầu tiên của Việt Nam

VINASAT-1 lên quỹ đạo, VINASAT-1 đã đưa các dịch vụ viễn thông,

Internet và truyền hình đến các vùng sâu, vùng xa, miền núi và hải đảo... là

những nơi mà phương thức truyền dẫn khác khó vươn tới được. Đây là sự

kiện khẳng định chủ quyền quốc gia của Việt Nam trên không gian, góp phần

nâng cao hình ảnh, uy tín của Việt Nam nói chung và viễn thông – công nghệ

thông tin Việt Nam nói riêng. Với việc đưa vệ tinh viễn thông đầu tiên vào sử

101

dụng, Việt Nam đã chủ động được toàn bộ các phương thức truyền dẫn, kể cả

các phương thức truyền dẫn hiện đại, hoàn thiện hạ tầng thông tin liên lạc

quốc gia, đảm bảo an toàn và tin cậy mạng lưới cơ sở hạ tầng viễn thông, tạo

điều kiện cho các đơn vị phát triển các dịch vụ viễn thông, phát thanh, truyền

hình...

Năm 2009, VNPT đã thiết lập thành công phiên họp trực tuyến lần đầu

tiên của Chính phủ tới Văn phòng UBND 63 tỉnh/ thành, đánh dấu bước đổi

mới tích cực trong việc ứng dụng viễn thông – công nghệ thông tin vào công

tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ. Đồng thời thể hiện năng lực của VNPT

trong việc thực hiện dự án "Mạng truyền số liệu chuyên dùng của các cơ quan

Đảng và Nhà nước". Đồng thời, VinaPhone - đơn vị cung cấp dịch vụ di động

thuộc VNPT đã trở thành nhà mạng đầu tiên tại Việt Nam cung cấp dịch vụ

3G, ghi thêm Việt Nam vào bản đồ 3G thế giới, đưa vị trí của ngành di động

Việt Nam lên một nấc thang mới. Tiếp đó, MobiFone cũng chính thức cung

cấp dịch vụ 3G trên thị trường, khẳng định vị trí tiên phong công nghệ của

VNPT.

Ngày 24/6/2010, Công ty mẹ - Tập đoàn Bưu chính – Viễn thông Việt

Nam chuyển đổi hoạt động sang mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn một

thành viên do nhà nước làm chủ sở hữu theo quyết định số 955/QĐ-TTg của

Thủ tướng Chính phủ.

Với những nỗ lực và kết quả đạt được trong việc phát triển mạng băng

thông rộng phục vụ cộng đồng, đặc biệt là những người dân khu vực nông

thôn, vùng sâu, vùng xa của Việt Nam, năm 2011 VNPT được trao giải

thưởng quốc tế “Băng thông rộng thay đổi cuộc sống” trong khuôn khổ Diễn

đàn Băng thông rộng quốc tế lần thứ 11 tại Paris, Pháp.

102

Năm 2012, VNPT đã phóng thành công Vệ tinh viễn thông thứ 2 của

Việt Nam Vinasat-2 lên quỹ đạo tại bãi phóng Kouru, Guyana, Nam Mỹ.

Vinasat-2 đã đi vào khai thác trong quý 3 năm 2012.

Năm 2015, là năm ghi dấu ấn đặc biệt của Tập đoàn VNPT. VNPT

triển khai mạnh mẽ đề án tái cơ cấu theo quyết định số 888/QĐ-TTg của Thủ

tướng Chính phủ, bên cạnh việc hoàn thiện mô hình tổ chức, dịch chuyển gần

2 vạn lao động từ các Viễn thông tỉnh, thành phố và các công ty dọc, Tập

đoàn VNPT đã triển khai đồng bộ nhiều giải pháp kinh doanh, xây dựng

nhiều cơ chế kinh tế, cơ chế phối hợp chung nhằm ổn định sản xuất kinh

doanh, tạo động lực cho các đơn vị thúc đẩy SXKD, tăng thị phần, nâng cao

hiệu quả kinh doanh. Tập đoàn đã đạt được các kết quả SXKD hết sức khả

quan, là minh chứng rõ nét cho thành công của tiến trình tái cơ cấu Tập đoàn

theo đề án tái cơ cấu đã được Chính phủ phê duyệt. Cụ thể:

Sau khi hoàn thành giai đoạn 1 của Đề án tái cơ cấu - chuyển đổi thành

công và hiệu quả mô hình tổ chức SXKD tại 63 VNPT tỉnh/thành, ngay từ

đầu năm 2015, VNPT đã chuẩn bị mọi điều kiện hoàn thiện bộ máy nhân sự

cấp cao, thành lập 3 Tổng công ty. VNPT đã chính thức vận hành theo mô

hình 3 lớp “Hạ tầng – Dịch vụ - Kinh doanh”

Cuối tháng 3 đầu tháng 4/2015, Bộ TT&TT đã công bố những Quyết định bổ

nhiệm quan trọng, kiện toàn nhân sự cấp cao của VNPT với các vị trí: Chủ

tịch Hội đồng Thành viên, Tổng Giám đốc Tập đoàn. Theo đó, từ ngày

23/3/2015, Thành viên Hội đồng Thành viên - Tổng Giám đốc VNPT Trần

Mạnh Hùng đã được bổ nhiệm giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng Thành viên

VNPT. Ngày 2/4/2015, Quyết định bổ nhiệm Tổng giám đốc Tập đoàn cũng

đã được Bộ TT&TT trao cho ông Phạm Đức Long.

Trong tháng 5/2015, VNPT đã công bố quyết định thành lập 3 Tổng Công ty

gồm Tổng công ty Dịch vụ Viễn thông (VNPT - Vinaphone), Tổng công ty

103

Truyền thông (VNPT - Media), Tổng công ty Hạ tầng mạng (VNPT - Net).

Tiếp đó, các vị trí lãnh đạo chủ chốt của 3 Tổng công ty cũng đã được VNPT

bổ nhiệm. Đến cuối tháng 6/2015, VNPT đã công bố Quyết định thành lập các

đơn vị kinh tế trực thuộc 3 Tổng Công ty.

Từ ngày 1/7/2015, 3 Tổng Công ty đã đi vào hoạt động theo mô hình mới.

Với sự ra đời của 3 Tổng công ty, hoạt động SXKD của VNPT đã hình thành

một chuỗi giá trị từ Nội dung đến Hạ tầng và tới Khách hàng. VNPT cũng đã

triển khai bàn giao 63 Trung tâm Kinh doanh, 63 Trung tâm dịch vụ Giá trị

Gia tăng và 63 Trung tâm kỹ thuật của 63 VNPT tỉnh/thành về VNPT-

VinaPhone, VNPT – Media, và VNPT- Net. Đây cũng là điểm khởi đầu cho

giai đoạn 2 thực hiện Đề án Tái cơ cấu VNPT, giai đoạn quan trọng làm tiền

đề cho hoạt động của VNPT cả về hạ tầng mạng lưới và hệ thống bán hàng.

2.1.2 Đặc điểm sản xuất kinh doanh của Tập đoàn Bưu chính - Viễn

thông Việt Nam VNPT.

2.1.2.1 Đặc điểm ngành nghề

Sản phẩm chủ yếu của VNPT là dịch vụ viễn thông như dịch vụ điện

thoại di động, điện thoại cố định, Internet, Truyền số liệu, Truyền

thông…trong đó, dịch vụ điện thoại di động là chủ yếu.

Vì sản phẩm của ngành viễn thông chủ yếu là sản phẩm dịch vụ, có đặc

điểm quá trình sản xuất diễn ra đồng thời với quá trình tiêu thụ sản phẩm, nên

hàng tồn kho chủ yếu chỉ là nguyên vật liệu. Mặt khác, hiện nay có nhiều

doanh nghiệp viễn thông ngoài tập đoàn cùng tham gia hoạt động (như

Viettel, VietNam Mobile,..) nên dịch vụ ngành viễn thông hiện nay có tính

cạnh tranh rất cao, để thu hút khách hàng sử dụng dịch vụ của Tập đoàn, Tập

đoàn VNPT thường mở rộng chính sách bán chịu, vì thế các khoản phải thu

ngắn hạn của Tập đoàn thường chiếm tỷ trọng lớn. Cơ sở hạ tầng Tập đoàn

104

Bưu chính - Viễn thông Việt Nam VNPT vững chắc, hiện đại đòi hỏi vốn đầu

tư rất lớn nên thời gian thu hồi vốn chậm.

Mặt dù VNPT tách khỏi chức năng quản lý nhà nước và trở thành đơn

vị sản xuất, kinh doanh, quản lý khai thác và cung cấp các dịch vụ bưu chính,

viễn thông; nhưng vốn đầu tư của VNPT vẫn là vốn của nhà nước, thực hiện

kinh doanh theo Luật doanh nghiệp và Luật Bưu chính – Viễn thông.

2.1.2.2 Đặc điểm về thị trường

Nhu cầu của người dân, của doanh nghiệp sử dụng dịch vụ viễn thông

ngày càng tăng, dịch vụ viễn thông ngày nay đã phủ khắp 63/63 tỉnh, thành và

đáp ứng cho mọi tầng lớp xã hội. Điều đó thể hiện thị trường Viễn thông rộng

khắp trên cả đất nước Việt Nam và đã kết nối với các nước khác trên toàn thế

giới.

Trong các tập đoàn tham gia kinh doanh dịch vụ Viễn thông – Công

nghệ thông tin ở Việt Nam thì VNPT giữ vai trò chủ đạo trên thị trường Viễn

thông – Công nghệ thông tin; VNPT nằm trong Top 10 nhà cung cấp dịch vụ

Viễn thông – Công nghệ thông tin có uy tín trên thị trường khu vực và Châu

Á. Hiện nay VNPT luôn là sự lựa chọn số 1 của khách hàng trong sử dụng

dịch vụ Viễn thông – Công nghệ thông tin, đạt được điều này là do VNPT

thực hiện triết lý kinh doanh: “Khách hàng là trung tâm - Chất lượng là linh

hồn - Hiệu quả là thước đo”, có nghĩa là:

 Khách hàng là trung tâm: VNPT luôn xác định khách hàng là nguồn

sống, là trung tâm trong chiến lược phát triển và mục tiêu kinh doanh của VNPT.

 Chất lượng là linh hồn: VNPT luôn xác định đảm bảo về chất lượng dịch

vụ là sự sống còn, là giá trị của VNPT trên thị trường.

 Hiệu quả là thước đo: VNPT đặc biệt coi trọng hiệu quả hoạt động; đó là

thước đo cho sự lớn mạnh của VNPT, là lợi thế cạnh tranh và trách nhiệm xã hội

của VNPT.

105

2.1.2.3 Đặc điểm về công nghệ

Mạng viễn thông quốc tế: VNPT hiện đã xây dựng hạ tầng viễn thông

quốc tế vững mạnh, hiện đại, sử dụng nhiều phương thức truyền dẫn mới, an

toàn, hiệu quả như cáp quang biển, cáp quang đất liền, vệ tinh, cho phép kết

nối trực tiếp tới hơn 240 quốc gia và trung tâm kinh tế, tài chính khu vực trên

toàn thế giới.

Mạng đường trục quốc gia: Mạng đường trục quốc gia của VNPT bao

gồm mạng cáp quang Bắc – Nam, dung lượng hiện tại đạt 360 Gbps, nằm dọc

quốc lộ 1A và đường Hồ Chí Minh. Mạng được kết nối vòng Ring để đảm

bảo thông tin liên lạc thông suốt trong mọi tình huống.

Mạng băng rộng: Đón đầu sự thay đổi của công nghệ và thị trường,

VNPT đã sớm đưa dịch vụ truy nhập Internet băng rộng ADSL tới người

dùng từ năm 2003, và hiện đang phục vụ hàng triệu khách hàng trên cả nước.

Hệ thống vệ tinh VINASAT: Với những thành công thu được trong

việc đầu tư và khai thác Vinasat 1, Chính phủ tiếp tục đặt niềm tin và trọng

trách phóng vệ tinh thứ hai của Việt Nam Vinasat-2 cho VNPT. Vinasat -2

phủ sóng toàn bộ khu vực Đông Nam Á và một số nước lân cận. “Cùng với

Vinasat-1, Vinasat-2 giúp tăng khả năng dự phòng về dung lượng và giảm

thiểu rủi ro, tăng cường độ an toàn cho mạng viễn thông quốc gia”.[18]

Mạng thông tin di động: Với trên 35.000 trạm thu phát sóng (2G và

3G), phủ sóng 63/63 tỉnh thành trên cả nước, mạng di động của VNPT

(VinaPhone - MobiFone) hiện phục vụ khoảng hàng chục triệu thuê bao, luôn

luôn hỗ trợ khách hàng kết nối mọi lúc, mọi nơi. Ngoài cung cấp các dịch vụ

di động trong nước, VNPT đã roaming tới hơn 400 nhà cung cấp dịch vụ

thông tin di động thuộc khoảng 160 quốc gia trên thế giới, cho phép người

dùng vẫn có thể sử dụng dịch vụ khi di chuyển trên phạm vi toàn thế giới.

106

Tóm lại, trình độ trang bị kỹ thuật, công nghệ của tập đoàn Viễn thông

Việt Nam có thể nói là hiện đại bậc nhất của nước Việt Nam. Đây là Tập đoàn

có sứ mạng cao cả, trở thành cánh chim đầu đàn của ngành viễn thông của cả

nước, mỗi năm đóng góp vào ngân sách nhà nước hàng nghìn tỷ VNĐ.

2.1.2.4 Đặc điểm về tình hình lao động

Tập đoàn Bưu chính -Viễn thông Việt Nam VNPT là một đơn vị hạch

toán độc lập, trực thuộc Bộ Thông tin và Truyền thông, phạm vi hoạt động

trên khắp đất nước Việt Nam. Trong những năm hoạt động vừa qua; Tập đoàn

Bưu chính -Viễn thông Việt Nam VNPT luôn là ngọn cờ đi đầu trong hoạt

động kinh doanh của Bộ Bộ Thông tin và Truyền thông, luôn là đơn vị đi đầu

trong công tác sáng kiến hợp lý hoá sản xuất, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào

hoạt động kinh doanh. Lực lượng lao động của Tập đoàn VNPT hiện nay

khoản 36.000 người trong đó 48% lao động là nữ.

Bảng 2.1: Cơ cấu trình độ

Trình độ Tiến sĩ Thạc sĩ Đại học Cao đẳng Khác

Số lượng 253 1.878 22.146 5.283 6.440

Nguồn: căn cứ vào thông tin của phòng tổ chức – nhân sự Tập đoàn VNPT

% 0,7 5,22 61,52 14,67 17,89

Bảng 2.2: Cơ cấu độ tuổi

Độ tuổi <30 31-40 41-50 51-60

Số lượng 2.286 15.752 10.319 7.643

Nguồn: căn cứ vào thông tin của phòng tổ chức – nhân sự Tập đoàn VNPT

% 6,35 43,76 28,66 21,23

Căn cứ vào kết quả khảo sát về trình độ và cơ cấu độ tuổi người lao

động, ta thấy VNPT có khoản 67,44% lao động có trình độ từ Đại học trở lên,

và hơn 50,11% là nguồn lao động có độ tuổi dưới 40 trong đó 43,76% có độ

tuổi từ 31-40 – một độ tuổi chin muồi về nhận thức cũng như kinh nghiệm và

107

đây chính là một lợi thế rất lớn về nguồn nhân lực của Tập đoàn trong hoạt

động sản xuất kinh doanh.

Ngay sau khi mô hình tái cơ cấu được hoàn thiện, bộ máy nhân sự từ

Tập đoàn đến các đơn vị được kiện toàn, các nguồn lực đã được định hướng

chuyên biệt, thống nhất một đầu mối bán hàng duy nhất tại các địa phương để

nâng cao hiệu quả bán hàng và chăm sóc khách hàng, ổn định hoạt động

SXKD và phát huy hiệu quả.

2.1.2.5 Đặc điểm về cơ cấu tổ chức

Kế thừa 70 năm xây dựng, phát triển và gắn bó trên thị trường viễn

thông Việt Nam, VNPT vừa là nhà cung cấp dịch vụ đầu tiên đặt nền móng

cho sự phát triển của ngành Bưu chính, Viễn thông Việt Nam, vừa là tập đoàn

có vai trò chủ chốt trong việc đưa Việt Nam trở thành 1 trong 10 quốc gia có

tốc độ phát triển Bưu chính Viễn thông nhanh nhất toàn cầu.

Sau khi tái cấu trúc doanh nghiệp, hiện với gần 36 nghìn cán bộ công nhân

viên, hạ tầng công nghệ viễn thông tiên tiến, mạng lưới dịch vụ phủ sóng toàn

bộ 63 tỉnh thành trên cả nước, VNPT tự hào là nhà cung cấp dịch vụ bưu

chính, viễn thông số 1 tại Việt Nam, phục vụ khoảng 30 triệu thuê bao di

động, gần 10 triệu thuê bao điện thoại cố định và khoảng hàng chục triệu

người sử dụng Internet.

Ngày 24/6/2010, Công ty mẹ - Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam

chuyển đổi hoạt động sang mô hình Công ty TNHH một thành viên do Nhà

nước làm chủ sở hữu theo quyết định số 955/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính

phủ.

Năm 2015, Tập đoàn VNPT đã thực hiện tái cơ cấu thành công. Sau đây là

mô hình cơ cấu tổ chức sau khi thực hiện tái cơ cấu:

108

Sơ đồ 2.1: Cơ cấu tổ chức Tập đoàn Viễn thông VNPT

Thành viên Hội đồng thành viên TĐ: Ông Đỗ Vũ Anh

HỘI ĐỒNG THÀNH VIÊN

Thành viên Hội đồng thành viên TĐ: Ông Phạm Đức Long

Thành viên Hội đồng thành viên TĐ: Ông Nghiêm Phú Hoàn

Thành viên Hội đồng thành viên TĐ: Ông Nguyễn Mạnh Thắng

Chủ tịch Hội đồng thành viên Tập đoàn: Ông Trần Mạnh Hùng

PhóTổng Giám đốc Tập đoàn: Ông Lương Mạnh Hoàn

PhóTổng Giám đốc Tập đoàn: Ô. Nguyễn Văn Nhiễn

PhóTổng Giám đốc Tập đoàn: Ô. Tô Mạnh Cường

PhóTổng Giám đốc Tập đoàn: Ông Ngô Hùng Tín

BAN TỔNG GIÁM ĐỐC ĐIỀU HÀNH

Tổng Giám đốc Tập đoàn: Ông Phạm Đức Long

Ban Nhân lực

Ban Phát triển Thị trường

Ban Chất lượng

Ban Tài chính – Chiến lược

Ban Kiểm soát nội bộ

Ban Kế toán – Tài chính

Ban Pháp chế thanh tra

Ban Công nghệ - Mạng

Ban CNTT & Dịch vụ GTGT

Văn phòng Tập đoàn VNPT

Tổng công ty Dịch vụ Viễn thông VNPT - Vinaphone

Tổng công ty truyền thông VNPT - Media

Tổng công ty hạ tần mạng VNPT - Net

Các phòng ban chức năng tham mưu

63 trung tâm kinh doanh – VNPT 63 trung 109 tâm Dịch vụ GTGT - VNPT 63 trung tâm Kỹ thuật – VNPT

2.1.3 Đặc điểm về tài chính của Tập đoàn Viễn thông VNPT.

Để thấy được đặc điểm về tài chính của Tập đoàn Bưu chính - Viễn

thông Việt Nam VNPT, ta xem bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả hoạt

động kinh doanh của VNPT từ năm 2011 đến năm 2015 sau đây:

Bảng 2.3: Bảng cân đối kế toán của Tập đoàn VNPT (Đơn vị tính: triệu đồng)

Bảng 2.4: Báo cáo kết quả họat động kinh doanh của VNPT (Đvt: triệu đồng)

110

Nguồn: Căn cứ vào BCTC của Tập đoàn Bưu chính Viễn thông VNPT

Để Tập đoàn VNPT đưa ra được các quyết định tài chính đúng đắn

nhằm tối đa hóa lợi nhuận và tối thiểu hóa rủi ro cho tập đoàn, đòi hỏi các nhà

quản trị phải am hiều về tình hình tài chính của tập đoàn. Có như thế thì các

nhà quản trị mới có thể hiểu rõ điểm mạnh, điểm yếu của tập đoàn trong thời

gian vừa qua, từ đó đưa ra được những quyết định tài chính phù hợp với từng

giai đoạn phát triển của tập đoàn.

Vì thế, đầu tiên tác giả phân tích tình hình thanh toán của tập đoàn

thông qua các hệ số phản ánh khả năng thanh toán.

 Các hệ số phản ánh khả năng thanh toán của tập đoàn

Bảng 2.5: Hệ số thanh toán

Đvt: triệu đồng

Nguồn lấy từ bảng 2.3, kết quả trong bảng do tác giả tự tính

Ta thấy khả năng thanh toán hiện thời cũng như tình hình thanh toán

nhanh của Tập đoàn VNPT từ năm 2011 đến năm 2015 có chiều hướng giảm

nhẹ, cụ thể: trong năm 2015 ta thấy 1 đồng nợ ngắn hạn được đảm bảo bằng

1,89 đồng tài sản ngắn hạn có tính thanh khoản nhanh; những hệ số thanh

111

toán này tuy có sụt giảm so với các năm trước nhưng vẫn gần bằng 2, chứng

tỏ tình hình thanh toán của Tập đoàn vẫn tốt.

 Các hệ số phản ánh cơ cấu nguồn vốn của tập đoàn

Bảng 2.6: Hệ số phản ánh cơ cấu nguồn vốn

Đvt: triệu đồng

Nguồn lấy từ bảng 2.3, kết quả trong bảng do tác giả tự tính

Thông qua hệ số nợ, ta thấy hệ số nợ ổn định qua các năm và có xu

hướng tăng nhẹ mức độ sử dụng nợ vay. Nợ phải trả của Tập đoàn VNPT chủ

yếu là đi chiếm dụng (như chiếm dụng từ: thuế phải nộp, phải trả cho người

lao động, chi phí phải trả và các khoản phải trả khác); chính từ việc chiếm

dụng vốn này đã góp phần làm tăng thêm hiệu quả hoạt động của Tập đoàn.

Bên cạnh đó, hệ số tự tài trợ của Tập đoàn cũng ổn định qua các năm,

chứng tỏ Tập đoàn VNPT rất tự chủ về tài chính, ít phụ thuộc vào chủ nợ; Tập

đoàn VNPT đã thể hiện thế mạnh về tiềm lực tài chính của một trong những

Tập đoàn lớn của nền kinh tế Việt Nam.

Kết hợp hệ số nợ và hệ số tự tài trợ, ta thấy tình hình đảm bảo nợ của

Tập đoàn VNPT rất tốt, cụ thể 1 đồng nợ phải trả của Tập đoàn được đảm bảo

bằng 2,97 đồng vốn chủ sở hữu ở năm 2015. Hệ số này có sụt giảm qua các

năm, nhưng sự sụt giảm là không đáng kể, nên theo xu hướng chung thì mức

độ đảm bảo nợ của tập đoàn rất tốt, tập đoàn vẫn còn nhiều khả năng huy

động vốn vay nếu như thay đổi cơ cấu vốn mục tiêu hướng về việc tăng

cường sử dụng nợ thay cho vốn chủ sở hữu.

 Các hệ số phản ánh hiệu suất hoạt động

112

Giả định: tổng vốn kinh doanh năm 2010 của Tập đoàn VNPT là

84.966.959 triệu đồng; tài sản cố định năm 2010 là 40.779.354 triệu đồng; ta

có bảng hệ số phản ánh hiệu suất hoạt động của Tập đoàn VNPT như sau:

Bảng 2.7: Hệ số phản ánh hiệu suất hoạt động

Đvt: triệu đồng

Nguồn: lấy từ bảng 2.3 và bảng 2.4, kết quả trong bảng do tác giả tự tính

Từ năm 2011 đến năm 2015, vòng quay tổng vốn của Tập đoàn đều quá

thấp; cụ thể trong năm 2015, vòng quay tổng vốn đạt 0,51 vòng, vòng quay

vốn cố định đạt 1,05 vòng. Nguyên nhân hiệu suất sử dụng tổng vốn thấp là

do tập đoàn đầu tư mạnh vào: tài sản cố định, và đầu tư tài chính dài hạn, đầu

tư tài chính ngắn hạn, và các khoản phải thu ngắn hạn; nhưng doanh thu của

Tập đoàn VNPT đạt được trong việc đầu tư này chưa tương xứng với vốn đầu

tư hiện tại của Tập đoàn, vì thế hiệu suất hoạt động của Tập đoàn VNPT ở các

năm vừa qua chưa cao.

 Các hệ số phản ánh hiệu quả hoạt động

Bảng 2.8: Hệ số phản ánh hiệu quả hoạt động

Đvt: triệu đồng

Nguồn: lấy từ bảng 2.4, kết quả trong bảng do tác giả tự tính

Đánh giá: Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy các hệ số: Tỷ suất lãi gộp,

ROS, ROE qua các năm có xu hướng sụt giảm; cụ thể: từ năm 2011 đến năm

2013 các hệ số này cùng có xu hướng gia tăng, nhưng qua năm 2014 và 2015

thì tỷ suất lãi gộp, ROS, ROE giảm mạnh; nguyên nhân: do giữa năm 2014

113

MobiFone tách khỏi Tập đoàn VNPT nên thị trường của VNPT bị chia sẻ; do

đó, để mở rộng thị trường, Tập đoàn VNPT đã tăng cường chi cho chi phí tiếp

thị, quảng bá hình ảnh, … nên đã làm cho chi phí bán hàng tăng lên; Trong

khi đó, sự cạnh tranh của thị trường viễn thông ở những năm vừa qua rất gay

gắt, vì có nhiều đối thủ mạnh tham gia thị trường như Viettel, MobiFone, vì

thế việc chiếm thị phần trên thị trường viễn thông của Tập đoàn VNPT ngày

càng khó khăn hơn; đồng thời, việc tiếp thị, quảng bá hình ảnh của VNPT

không có gì nổi bậc sự khác biệt so với các đối thủ cạnh tranh cùng ngành,

nên việc gia tăng thị phần, tăng doanh thu của VNPT càng khó khăn hơn gấp

bội phần; trong khi đó chi phí tiếp thị, chi phí quảng bá hình ảnh lại gia tăng

và gia tăng vượt mức so với gia tăng doanh thu, thể hiện hiệu quả thu về của

VNPT không tương xứng với chi phí bỏ ra và điều này đã ảnh hưởng mạnh

đến lợi nhuận sau thuế của Tập đoàn, dẫn đến tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên

doanh thu, tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu của Tập đoàn đều bị

sụt giảm.

 Tình hình phân phối lợi nhuận của Tập đoàn VNPT

Bảng 2.9: Bảng phân phối lợi nhuận của Tập đoàn VNPT

Đơn vị tính: triệu đồng

Nguồn: lấy từ bảng 2.3 và bảng 2.4, kết quả trong bảng do tác giả tự tính

Căn cứ theo kết quả của bảng 2.9 ta thấy chính sách chia lợi nhuận của

Tập đoàn VNPT ổn định qua các năm; tuy nhiên, trong năm 2014 thị trường

viễn thông của VNPT bị chia sẻ do MobiFone tách ra khỏi Tập đoàn VNPT

nên dẫn đến doanh thu của VNPT bị sụt giảm, làm cho lợi nhuận giảm, và

nguồn nhân sự cũng giảm tương ứng; vì thế phần lợi nhuận sau thuế dành để

114

chia lợi nhuận cho tất cả các thành viên trong Tập đoàn cũng giảm theo là

điều tất nhiên. Qua năm 2015, Tập đoàn VNPT thay đổi cơ cấu tổ chức và

chính sách lương thưởng cho nhân viên trong Tập đoàn cũng thay đổi theo, cụ

thể Tập đoàn VNPT thực hiện chính sách chiến lược: dành phần lớn lợi nhuận

sau thuế để phân phối lợi nhuận cho các thành viên trong tập đoàn với mục

đích tạo ra động lực thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển trong

tương lai. Tuy nhiên, chính vì phần lợi nhuận sau thế được ưu tiên cho việc

chia lợi nhuận mà không ưu tiên cho việc tái đầu tư, nên phần lợi nhuận sau

thuế dành để bổ sung vốn chủ sở hữu trong năm 2015 rất nhỏ bé so với tổng

lợi nhuận sau thuế mà tập đoàn CVNPT đạt được, điều này làm cho Tập đoàn

VNPT bị thiếu vốn đầu tư; để thấy rõ điều này ta xem xét tình hình tăng

trưởng của Tập đoàn VNPT qua các năm như sau.

 Tình hình tăng trưởng của Tập đoàn VNPT

Mặt khác, để thấy được sự tăng trưởng của Tập đoàn Viễn thông VNPT

qua các năm là tăng trưởng bền vững hay không bền vững, ta đánh giá tốc độ

tăng trưởng doanh thu và tốc độ tăng trưởng vốn chủ sở hữu qua bảng sau:

Bảng 2.10: Bảng phản ánh tốc độ tăng trưởng của tập đoàn

Đơn vị tính: triệu đồng

Nguồn: Căn cứ vào bảng 2.3 và bảng 2.4

Nhìn vào bảng 2.15 ta thấy tốc độ tăng vốn chủ sở hữu năm 2014 bị âm,

và tốc độ tăng doanh thu năm 2014 cũng bị âm; nguyên nhân là do trong năm

2014 MobiFone tách ra khỏi Tập đoàn Bưu chính Viễn thông VNPT, nên làm

cho vốn chủ sở hữu và doanh thu của Tập đoàn sụt giảm, dẫn đến tốc độ tăng

vốn chủ sở hữu và tốc độ tăng doanh thu đều bị âm; qua năm 2015 tốc độ tăng

115

doanh thu tiếp tục bị âm thể hiện khả năng cạnh tranh của Tập đoàn VNPT

không cao bằng đối thủ cùng ngành nên thị trường của VNPT đang bị thu

hẹp.

Tuy nhiên, khi so sánh giữa tốc độ tăng vốn chủ sở hữu và tốc độ tăng

doanh thu từ năm 2011 đến năm 2014, ta thấy tốc độ tăng doanh thu luôn lớn

hơn tốc độ tăng vốn chủ sở hữu, thể hiện Tập đoàn đang tăng trưởng nhanh;

qua năm 2015 tốc độ tăng doanh thu thấp hơn tốc độ tăng vốn chủ sở hữu, thể

hiện Tập đoàn đang tăng trưởng chậm và Tập đoàn rơi vào tình trạng thừa

vốn; điều này giúp Tập đoàn khắc phục được tình trạng thiếu vốn của các năm

đã qua và dần dần ổn định đi vào tăng trưởng bền vững.

Tóm lại, với việc triển khai mạnh mẽ đề án tái cơ cấu theo quyết định số

888/ QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, bên cạnh việc hoàn thiện mô hình tổ

chức, dịch chuyển gần 2000 lao động từ các Viễn thông tỉnh, thành phố và các

công ty dọc; Tập đoàn VNPT đã dành nhiều thời gian để thực hiện tái cơ cấu,

nên chưa thể triển khai nhiều giải pháp kinh doanh, chưa xây dựng nhiều cơ

chế kinh tế, chưa có cơ chế phối hợp chung nhằm ổn định SXKD, tiến độ

triễn khai cơ sở hạ tầng tại một số dự án chưa đạt yêu cầu như các dự án phát

triển trạm 3G của mạng VinaPhone… đều làm ảnh hưởng chậm đến công tác

phát triển và nâng cao chất lượng mạng lưới; hệ thống dữ liệu phần mềm phục

vụ cho công tác kinh doanh chưa được đồng bộ, đầy đủ gây khó khăn cho quá

trình xây dựng chính sách bán hàng… và tất cả những điều này đều ảnh

hưởng mạnh đến doanh thu bán hàng, làm cho doanh thu bán hàng năm 2015

bị sụt giảm mạnh so với doanh thu năm 2014, dẫn đến lợi nhuận sau thuế năm

2015 bị sụt giảm hay hiệu quả SXKD bị sụt giảm là điều tất yếu.

2.2 THỰC TRẠNG VỀ HỆ THỐNG THÔNG TIN KINH TẾ CỦA TẬP

ĐOÀN BƯU CHÍNH - VIỄN THÔNG VIỆT NAM VNPT NHẰM PHỤC

VỤ CHO VIỆC RA QUYẾT ĐỊNH TÀI CHÍNH.

116

Để đánh giá thực trạng về hệ thống thông tin kinh tế của Tập đoàn Bưu

chính - Viễn thông Việt Nam VNPT, tác giả đã tiến hành khảo sát tại Tập

đoàn VNPT với đối tượng khảo sát là những nhà quản trị trong Tập đoàn

VNPT; mẫu khảo sát bao gồm 100 mẫu và thu về được 92 mẫu, dữ liệu được

thu thập vào cuối năm 2015; mục đích của khảo sát là thu thập dữ liệu để

đánh giá thực trạng về hệ thống thông tin kinh tế của Tập đoàn Bưu chính -

Viễn thông Việt Nam VNPT, những câu hỏi khảo sát đều được dùng cho tất

cả đối tượng được khảo sát, nội dung của những câu hỏi trên chủ yếu bao

gồm:

A. Quan điểm về hệ thống thông tin kinh tế của Tập đoàn Bưu chính

– Viễn thông Việt Nam VNPT;

B. Các yếu tố thực trạng về hệ thông tin kinh tế của Tập đoàn Bưu

chính – Viễn thông Việt Nam VNPT;

C. Mức độ tác động của hệ thống thông tin kinh tế đến quyết định

tài chính của Tập đoàn Bưu chính – Viễn thông Việt Nam

VNPT.

Mức độ đánh giá từng câu hỏi khảo sát được đánh giá bởi 5 thang cấp độ như

sau:

Cấp độ 1: Hoàn toàn đồng ý

Cấp độ 2: Khá đồng ý

Cấp độ 3: Đồng ý

Cấp độ 4: Hơi đồng ý

Cấp độ 5: Không đồng ý

Sau đây là bảng chi tiết câu hỏi khảo sát và kết quả khảo sát thể hiện ở 5

thang cấp độ:

A. QUAN ĐIỂM VỀ HỆ THỐNG THÔNG TIN KINH TẾ CỦA TẬP

ĐOÀN BƯU CHÍNH - VIỄN THÔNG VIỆT NAM VNPT.

117

a. Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông Việt Nam VNPT có sử dụng

92

thông tin nhằm phục vụ ra quyết định tài chính?

2. 3. 4. 5.

b. Thông tin kinh tế thường sử dụng nhằm phục vụ ra quyết định tài 1. 1 .. . chính là những thông tin kinh tế vi mô, thông tin kinh tế vĩ mô, thông tin kinh

tế bên trong, thông tin kinh tế bên ngoài, thông tin kinh tế quá khứ, thông tin

92

kinh tế hiện tại, và thông tin kinh tế tương lai?

2. 3. 4. 5.

19

7

14

c. Tập đoàn VNPT đã hoàn thiện rất tốt hệ thống thông tin kinh tế 1. 1 .. . nhằm phục vụ ra quyết định tài chính?

2. 3. 4. 5.

d. Hệ thống thông tin kinh tế của Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông 1. 1 .. .

52

92

Việt Nam VNPT đang sử dụng là yếu tố rất quan trọng trong việc ra quyết

5. 4. 2. 3.

7

14

61

Nam VNPT đang sử dụng có phù hợp với trình độ nhà quản trị? định tài chính? 1. 1 .. e. Hệ thống thông tin kinh tế của Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông Việt . 3. 4. 2. 5.

B. CÁC YẾU TỐ PHẢN ÁNH THỰC TRẠNG VỀ HỆ THỐNG THÔNG

1. 101 1 9 .. . TIN KINH TẾ CỦA TẬP ĐOÀN BƯU CHÍNH - VIỄN THÔNG VIỆT NAM VNPT.

I. Thực trạng về tổ chức cấu thành:

1. Thực trạng về quy trình thu thập hệ thống thông tin kinh tế của

VNPT:

a. Tập đoàn Bưu chính – Viễn thông Việt Nam VNPT đã tiến hành

8

18

54

xây dựng những nội dung thông tin cần thu thập trước khi tiến hành

2. 3. 4. 5.

1. thu thập? 1 .. .

121 9

118

b. Tập đoàn VNPT có tiến hành xác định nguồn thu thập tin cậy

23

59

trước khi tiến hành thu thập?

2. 3. 5. 4.

59

23

1. 1 .. . ngoài như khảo sát khách hàng, tìm hiểu về đối thủ cạnh tranh..?

5. 4. 3. 2.

1. 1 .. .

101 9 c. VNPT có tiến hành tiếp nhận thông tin từ nguồn thông tin bên 101 9 d. VNPT có tiến hành tiếp nhận thông tin từ nguồn thông tin bên trong nội bộ như: sổ sách kế toán, thông tin chính thức giữa quản lý

92

với nhau, thông tin chính thức giữa quản lý với nhân viên?

2. 5. 4. 3.

a. Sau khi thu thập thông tin, VNPT có tiến hành phân loại thông

92

1. 1 .. . tin?

2. 3. 4. 5.

83

7

b. Thông tin thu thập có được phân loại thành: thông tin chiến lược, 1. 1 .. . thông tin chiến chiến thuật, thông tin tác nghiệp?

5. 2. 4.

2

92

3. c. Tập đoàn VNPT có đánh giá thông tin được thu thập để phân loại 1. 1 .. . thành những thông tin: tin cậy và không tin cậy

2. 4. 3. 5.

92

d. Khi tiếp nhận nguồn thông tin, Tập đoàn VNPT có xử lý thông 1. 1 .. . tin trước khi đưa vào sử dụng?

2. 4. 3. 5.

89

2

2. Quy trình xử lý thông tin có đảm bảo đầy đủ các đặc điểm: 1. 1 .. . a. Thông tin đảm bảo độ tin cậy?

2. 3. 4. 5.

6

75

8

b. Thông tin đảm bảo sự cần thiết?

2. 3. 4. 5.

1 3

1. 1 .. . 1. 1 .. . 119

12

18

9

15

c. Thông tin đảm bảo tính kịp thời?

2. 3. 4. 5.

17

5

14

26

d. Thông tin đảm bảo tính phù hợp?

2. 3. 4. 5.

7

1

10

69

e. Thông tin đảm bào độ chính xác?

2. 3. 4. 5.

16

19

13

30

f. Thông tin đảm bảo tính đầy đủ?

2. 3. 4. 5.

11

17

9

40

g. Thông tin đảm bảo tính dễ sử dụng?

2. 3. 4. 5.

92

h. Thông tin đảm bảo tính bảo mật?

2. 3. 4. 5.

38 30 5 14 15

3. Quy trình sử dụng hệ thống thông tin kinh tế của Tập đoàn VNPT có 1. 1 .. . 1. 1 .. . 1. 1 .. . 1. 1 .. . 1. 1 .. . 1. 1 .. . thực hiện qua các bước:

a. Cấp chiến lược có sử dụng thông tin nhằm mục đích đưa ra các quyết

định tài chính chiến lược như: quyết định đầu tư, quyết định huy động

92

vốn, và quyết định phân chia lợi nhuận?

2. 3. 4. 5.

b. Cấp chiến thuật tiếp nhận thông tin từ mệnh lệnh của cấp chiến lược 1. 1 .. . đưa xuống nhằm triễn khai thực hiện các quyết định tài chính dài hạn

92

và các quyết định tài chính ngắn hạn của Tập đoàn.

2. 3. 4. 5.

c. Cấp tác nghiệp tiếp nhận thông tin từ cấp chiến thuật để triễn khai công 1. 1 .. .

92

việc hàng ngày?

2. 3. 4. 5.

1. 1 .. .

120

II. Thực trạng về Hệ thống thông tin kinh tế của Tập đoàn Bưu chính – Viễn

thông VNPT.

1. Thực trạng về nội dung cấu thành hệ thống thông tin

a. Những thông tin kinh tế bên ngoài Tập đoàn, như thông tin từ tìm

hiểu về đối thủ cạnh tranh, từ khảo sát nhu cầu sử dụng dịch vụ của

92

khách hàng, có tác động đến quyết định tài chính của Tập đoàn?

2. 4. 5. 3.

b. Những thông tin kinh tế bên trong Tập đoàn, như sổ sách kế toán, thông tin nội bộ giữa những nhà quản lý với nhau có tác động đến

1. 1 .. .

92

quyết định tài chính của Tập đoàn?

2. 3. 4. 5.

20

10

2. Thực trạng phương thức cấu thành hệ thống thông tin 1. 1 .. . a. Thời gian tiếp nhận thông tin của Tập đoàn có đúng lúc?

2. 3. 4. 5.

62 b. Thông tin được cung cấp để phục vụ ra các quyết định tài chính có

92

1. 1 .. . phù hợp?

2. 3. 4. 5.

11

5

8

20

c. Tiến độ ra các quyết định tài chính có kịp thời?

2. 5. 4.

48 a. Máy vi tính phục vụ cho nhà quản trị sử dụng hệ thống thông tin kinh

3. 3. Thực trạng về phương tiện hỗ trợ cấu thành hệ thống thông tin kinh tế 1. 1 .. . 1. 1 .. .

92

tế nhằm ra các quyết định tài chính có tính chất hiện đại?

2. 4. 5. 3.

9

7

13

11

b. Phần mềm có tương thích, phù hợp?

2. 4. 5. 3.

52

1. 1 .. . 1. 1 .. .

121

 Để mang tính bảo mật thông tin cao, ngoài mạng internet Tập đoàn

đang sử dụng, Tập đoàn VNPT có sử dụng mạng nội bộ riêng có của

92

Tập đoàn?

2. 4. 3. 5.

C. MỨC ĐỘ TÁC ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG THÔNG TIN KINH TẾ

 1. 1 .. . ĐẾN QUYẾT ĐỊNH TÀI CHÍNH CỦA TẬP ĐOÀN BƯU CHÍNH

VIỄN THÔNG VIỆT NAM VNPT.

I. Hệ thống thông tin kinh tế Tập đoàn VNPT đang sử dụng có tác

28

14

động hiệu quả đến việc ra các quyết định tài chính của Tập đoàn?

2. 3. 4. 5.

50 tin kinh tế, được thể hiện trên các mặt:

II. Tính hiệu quả của các quyết định tài chính do sử dụng hệ thống thông 1. 1 .. .

1. Đối với các quyết định tài chính dài hạn:

8

10

a. Quyết định đầu tư có phù hợp?

32

10

14

23

17

5 2. 4. 3. 5.

37

7

11

14

22

3. 2. 4. 5.

23

7

12

9

2. 4. 3. 5.

2. 4. 3. 5.

87

9

27

1. 1 .. b. Hiệu quả đầu tư có cao? 1. 28 1 . .. c. Quyết định huy động vốn có phù hợp . 1. 38 1 .. d. Chi phí sử dụng vốn có tối ưu? . 1. 41 1 .. e. Quyết định phân chia lợi nhuận có phù hợp? .

2. 5. 3. 4.

1. 48 1 .. f. Phân chia lợi nhuận có đảm bảo hài hòa được lợi ích của người .

14

1

14

lao động?

2. 3. 4. 5.

63

2. Đối với các quyết định tài chính ngắn hạn:

92

1. 1 .. . a. Quyết định tiền mặt có phù hợp?

2. 4. 5. 3.

122 1. 1 .. .

92

b. Quyết định các khoản phải thu có phù hợp?

2. 4. 5. 3.

6

13

2

24

c. Quyết định hàng tồn kho có phù hợp?

2. 4. 5. 3.

47

Lưu ý: kết quả số liệu thể hiện ở các ô, tác giả tự tổng hợp dựa trên kết

1. 1 .. . 1. 1 .. . quả khảo sát

2.2.1 Quan điểm về hệ thống thông tin kinh tế của VNPT:

 Ai cũng biết thông tin kinh tế rất quan trọng với đối các nhà quản trị, vì

những thông tin này hỗ trợ nhà quản trị trong việc lập kế hoạch, kiểm soát, đo

lường hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh và cuối cùng là hỗ trợ ra quyết

định. Qua khảo sát thực tế cho thấy, Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông Việt

Nam VNPT đã xây dựng hệ thống thông tin kinh tế nhằm phục vụ ra quyết

định tài chính. Và hệ thống thông tin kinh tế này trở thành yếu tố then chốt

trong việc ra quyết định tài chính của những nhà quản trị trong Tập đoàn

VNPT, nhà quản trị VNPT đánh giá hệ thống thông tin kinh tế là yếu tố then

chốt trong việc ra quyết định tài chính là do:

- Hệ thống thông tin kinh tế giúp nhà quản trị nắm được thông tin cơ cấu

bộ máy tổ chức của Tập đoàn VNPT trước đây không còn phù hợp, đến

giai đoạn này nó trở thành lực cản cho việc ra quyết định tài chính của

Tập đoàn. Dựa vào thông tin này nhà quản trị VNPT đã tiến hành xử lý

thông tin và đề ra phản ứng chiến lược thành công: Tập đoàn VNPT đã

tái cơ cấu lại bộ máy tổ chức theo hướng triển khai thực hiện tái cấu

trúc toàn bộ hoạt động theo hướng đầu tư riêng biệt từng mảng dịch vụ.

- Thông tin kinh tế về Viettel sớm nhanh chân ra biển lớn và ít nhiều gặt

hái thành công bước đầu đã buộc VNPT phải chuyển mình, thúc đẩy

123

nhà quản trị VNPT tiến hành tìm kiếm cơ hội đầu tư bên ngoài, khi thị

trường viễn thông ở Việt Nam đã trở bảo hòa.

- Tập đoàn VNPT là một nhà mạng lớn có thế mạnh về kỹ thuật, về

mạng lưới hơn hẵn so với các đối thủ khác trong cùng ngành ở thị

trường Việt Nam; thông tin quan trọng này đã hỗ trợ nhà quản trị Tập

đoàn Bưu chính – Viễn thông Việt Nam VNPT xây dựng chiến lược

đầu tư vốn theo hướng đi “hợp tác đầu tư” với các nhà mạng lớn tại các

quốc gia thông qua việc góp vốn …

- Thông tin về sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường viễn thông, tài

nguyên viễn thông có xu hướng cạn dần… làm cho việc đầu tư ra nước

ngoài của Tập đoàn VNPT ngày càng khó khăn và gặp nhiều thách

thức. Vì thế, để hạn chế rủi ro trong quyết định đầu tư, VNPT triển khai

đầu tư bằng hoạt động M&A (mua-bán sáp nhập doanh nghiệp) để

thâm nhập vào các thị trường phát triển.

Tóm lại: Thông tin kinh tế rất cần thiết cho Tập đoàn VNPT, nhờ hệ

thống thông tin kinh tế mà Tập đoàn đã xây dựng những chiến lược đầu tư

đúng đắn, phù hợp với thế mạnh riêng của Tập đoàn; mặt khác Tập đoàn

thường đối mặt với các rủi ro tài chính, vì thế hoàn thiện hệ thống thông tin

kinh tế đã hỗ trợ nhà quản trị tìm cách quản lý tài chính phù hợp, xây dựng

những giải pháp tài chính nhằm hạn chế những rủi ro trong đầu tư kịp thời;

nên một lần nữa có thể khẳng định: Hệ thống thông tin kinh tế rất cần thiết và

rất quan trọng cho Tập đoàn VNPT trong việc ra các quyết định tài chính.

2.2.2 Thực trạng về các yếu tố cấu thành hệ thống thông tin kinh tế của

Tập đoàn Bưu chính – Viễn thông Việt Nam VNPT nhằm phục vụ cho

việc ra quyết định tài chính

2.2.2.1 Thực trạng tổ chức cấu thành hệ thống thông tin kinh tế.

124

Để đánh giá thực trạng tổ chức cấu thành hệ thống thông tin, tác giả đánh

giá qua các mặt sau:

a. Thực trạng thu thập hệ thống thông tin:

Thực trạng cho thấy thông tin được thu thập từ các nguồn sau:

- Thông tin được thu thập từ nguồn thông tin chính thức bên ngoài, như:

khảo sát nhu cầu sử dụng dịch vụ của khách hàng, tốc độ tăng trưởng của Tập

đoàn, tốc độ tăng trưởng của đối thủ cạnh tranh …kết quả khảo sát nguồn

thông tin này là 92/92; kết quả này cho thấy thực tế nguồn thông tin từ bên

ngoài có tác động trực tiếp đến quyết định đầu tư của Tập đoàn, và lãnh đạo

Tập đoàn đã kịp thời thu thập xử lý thông tin nhằm đề ra phản ứng chiến lược

đầu tư phù hợp. Việc thu thập những thông tin bên ngoài này gặp nhiều khó

khăn, mất nhiều thời gian và có tính chính xác không cao; vì thế nhà quản trị

tài chính của Tập đoàn dựa vào những thông tin này nhằm phục vụ ra quyết

định tài chính chỉ mang tính chất tương đối.

- Thông tin được thu thập từ nguồn thông tin chính thức bên trong như

thông tin kế toán, thông tin nguồn nhân sự, thông tin về đầu tư trang bị kỹ

thuật…. kết quả khảo sát nguồn thông tin này là 92/92 nghĩa là mọi thông tin

được sử dụng trong Tập đoàn đều được lấy chính thức từ văn bản có tính pháp

lý cao nhất đó là báo cáo tài chính và các báo cáo khác; ngoài ra, việc thu thập

thông tin này rất thuận lợi, nhanh chóng; có tính chính xác, tin cậy và bảo mật

cao; những thông tin này thể hiện được lợi thế và thách thức về tài chính của

Tập đoàn; vì thế, những thông tin nội bộ này có tác dụng tích cực trong việc

hỗ trợ nhà quản trị ra quyết định tài chính đúng đắn, phù hợp, đảm bảo an

ninh về tài chính của Tập đoàn….

- Mặt khác, khi tiếp nhận nguồn thông tin, Tập đoàn VNPT đều có xử lý

thông tin trước khi đưa vào sử dụng. kết quả khảo sát: cả 92/92 phiếu đều

phản ánh có tiến hành xử lý thông tin kinh tế trước khi đưa vào sử dụng nhằm

125

ra quyết định tài chính, mục đích của việc xử lý nhằm: đảm bảo độ tin cậy,

đảm bảo sự cần thiết, đảm bảo tính kịp thời, đảm bảo sự phù hợp, đảm bảo độ

chính xác, đảm bảo tính đầy đủ, và cuối cùng là đảm bảo tính bảo mật để hỗ

trợ nhà quản trị ra quyết định tài chính được đúng đắn hơn.

- Trong thực tế, trước khi thông tin được cung cấp cho nhà quản trị thì

thông tin phải luôn được xử lý, vì việc xử lý thông tin kinh tế là việc tối cần

thiết nhằm loại bỏ những thông tin không đạt yêu cầu để giúp nhà quản trị tài

chính ra các quyết định tài chính được đúng đắn hơn; việc xử lý thông tin

thông qua việc phân loại thông tin nhằm mục đích:

 Cung cấp thông tin kinh tế cho nhà quản trị cấp chiến lược: giúp

những nhà quản trị cấp chiến lược (cấp Tập đoàn) ra quyết định tài

chính dài hạn.

 Cung cấp thông tin cho nhà quản trị cấp chiến thuật: giúp nhà quản

trị cấp thuật (cấp Giám đốc các Trung tâm Viễn thông tỉnh, thành)

đối phó với những vấn đề tài chính ngắn hạn và nắm bắt nhanh cơ

hội đầu tư. Cụ thể, loại thông tin này hỗ trợ cho Giám đốc các Trung

tâm Viễn thông tỉnh, thành triển khai việc thực hiện các kế hoạch tài

chính ngắn hạn.

 Cung cấp thông tin cho nhà quản trị cấp tác nghiệp: giúp cho nhà

quản trị cấp tác nghiệp (trưởng chi nhánh quận, huyện, trưởng các

phòng, ban ở các tỉnh, thành phố trực thuộc VNPT) thực hiện triển

khai kế hoạch tài chính hàng ngày của họ.

Để cụ thể hóa, ta xem xét thực trạng thu thập hệ thống thông tin kinh tế

phục vụ cho việc ra quyết định tài chính ở các cấp quản lý của Tập đoàn Viễn

thông VNPT trong thực tế được thể hiện như sau:

 Cấp chiến lược: Chủ yếu đưa ra các quyết định tài chính dài hạn:

 Quyết định đầu tư:

126

 Quyết định đầu tư mới: Sau khi tiếp nhận thông tin từ việc:

1.Viettel sớm nhanh chân ra biển lớn và ít nhiều gặt hái thành

công bước đầu, 2.Cước viễn thông của các nước trong khu vực

cao hơn ở Việt Nam, 3.Mạng lưới viễn thông của VNPT hiện

đại hơn mạng lưới ở một số quốc gia, 4.Nhu cầu thị trường viễn

thông ở một số nước vẫn còn cao, 5. VNPT là Tập đoàn viễn

thông lớn của Việt Nam có uy tín trong khu vực và trên thế

giới….Đây là những thông tin bên ngoài Tập đoàn, nên việc thu

thập thông tin phải mất nhiều thời gian, tuy nhiên đây là những

thông tin phổ biến nên không khó để thu thập và xử lý; ngoài ra

đây là những thông tin tin cậy, phù hợp, chính xác, kịp thời đã

tác động mạnh đến quyết định tài chính của VNPT, nó buộc

VNPT phải chuyển mình, tìm kiếm cơ hội đầu tư bên ngoài khi

thị trường Việt Nam đã trở nên quá chật cho VNPT. Đồng thời,

để hạn chế rủi ro của việc ra quyết định tài chính khi VNPT tiến

hành đầu tư ra nước ngoài, Tập đoàn VNPT đã căn cứ vào

những thông tin trên để dự báo diễn biến môi trường đầu tư, đó

là: 1. thế mạnh của VNPT là mạng lưới, internet và VoiP, 2.

Đầu tư ra nước ngoài của các tập đoàn viễn thông Việt Nam

ngày càng khó khăn và gặp nhiều thách thức, trở ngại khi tài

nguyên viễn thông có xu hướng cạn dần, 3. Việc mua lại giấy

phép đầu tư trở nên rất khó khăn, 4. Sức cạnh tranh ngày càng

gay gắt, các tập đoàn viễn thông Việt Nam đang phải cạnh tranh

đầu tư với nhiều nhà mạng viễn thông nổi tiếng thế giới như

Orange, Vodafone, Telefonica, SingTel với kinh nghiệm đầu tư

hơn nhiều lần… từ việc phân tích mặt mạnh, mặt yếu, cơ hội,

thách thức trong quyết định đầu tư từ những thông tin trên,

127

VNPT đã đề ra phản ứng chiến lược khi tiến hành đầu tư ra

nước ngoài đó là VNPT chọn hướng đi hợp tác đầu tư. Trong

thời kỳ đầu, VNPT sẽ không đi theo hướng đầu tư mạng lưới hạ

tầng như của Viettel mà chọn hướng hợp tác và đầu tư. Cụ thể,

Tập đoàn này sẽ hợp tác với nhà khai thác mạng lớn tại các

quốc gia thông qua việc góp vốn, công nghệ, dịch vụ.

 Quyết định đầu tư ra nước ngoài chứng tỏ VNPT đã mạnh

dạn đổi mới tư duy, tạo dựng được thời cơ và môi trường đầu tư

thuận lợi để phát triển thị trường, mở rộng khả năng thâm nhập

nhập thị trường vốn, giúp cho VNPT huy động vốn được thuận

lợi hơn, đáp ứng được nhu cầu đầu tư của Tập đoàn.

 Quyết định đầu tư mở rộng trong nội địa (đầu tư vào tài

sản cố định):

 Thông tin kinh tế để nhà quản trị tài chính đưa ra quyết

định đầu tư mở rộng trong nội địa chủ yếu dựa vào thông tin

trong nội bộ Tập đoàn, thông tin này dễ thu thập, khả năng

chính xác cao, thời gian thu thập nhanh chóng, thông tin mang

tính phù hợp cao, giúp cho nhà quản trị tài chính của Tập đoàn

ra quyết định tài chính được đúng đắn hơn. Cụ thể, tài sản cố

định của Tập đoàn viễn thông chủ yếu là thiết bị nhà trạm, cáp

đồng; quyết định đầu tư vào nhà trạm của cấp chiến lược

thường căn cứ vào thông tin từ các phòng kỹ thuật thông qua

cấp tác nghiệp của các Trung tâm Viễn thông thành viên của

Tập đoàn báo cáo lên; phòng kỹ thuật của các Trung tâm Viễn

thông này có nhiệm vụ khảo sát trên địa bàn quản lý của họ về

nhu cầu sử dụng dịch vụ của khách hàng, khảo sát về vùng phủ

sóng có đáp ứng được yêu cầu sử dụng dịch vụ của khách hàng

128

hay không; từ đó, các phòng kỹ thuật của các Trung tâm Viễn

thông thành viên lập báo cáo nhu cầu đầu tư mở rộng mạng lưới

về Giám đốc Trung tâm (cần lắp đặt bao nhiêu nhà trạm, sử

dụng bao nhiêu cáp đồng, địa điểm lắp đặt, lý do lắp đặt,…) và

Giám đốc Trung tâm đề xuất lên nhà quản trị cấp chiến lược về

nhu cầu đầu tư thêm; nhà quản trị cấp chiến lược căn cứ vào báo

cáo của phòng kỹ thuật trình lên để làm căn cứ ra quyết định

đầu tư.

 Ngoài ra, nhà quản trị cấp chiến lược còn căn cứ vào thông

tin về nhu cầu sử dụng dịch vụ của khách hàng để xác định việc

mở rộng hay thu hẹp vùng phủ sóng, từ đó xác định việc đầu tư

thêm TSCĐ hay gở bỏ TSCĐ không cần thiết. Dựa trên căn cứ

này, nhà quản trị cấp chiến lược lập kế hoạch xem mỗi năm cần

mở rộng mạng lưới bao nhiêu trạm và đưa các chỉ tiêu đầu tư

vào TSCĐ xuống cấp chiến thuật ở các Trung tâm Viễn thông

thành viên thực hiện, và kết quả đạt được là: trong những năm

vừa qua, dù bị cạnh tranh gay gắt, tình hình kinh tế nhiều biến

động, nhưng VNPT đã có bước tăng trưởng và phát triển nhanh

do các quyết định đầu tư đúng đắn từ những nhà quản trị tài

chính của Tập đoàn. Ðến nay, công nghệ viễn thông Việt Nam

được VNPT đầu tư đã đạt mức cao của khu vực và dẫn đầu về

tốc độ phát triển viễn thông – công nghệ thông tin trong nhiều

năm nay.

 Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được,

thì việc thu thập thông tin để cung cấp cho nhà quản trị vẫn

chưa đầy đủ, chưa kịp thời, và thậm chí chưa phù hợp nên việc

ra quyết định tài chính của Tập đoàn còn nhiều bất cập, vì thế

129

việc đề ra phản ứng chiến lược đầu tư của nhà quản trị đã bị sai

lầm trong một số dự án đầu tư, dẫn đến việc Tập đoàn VNPT

trong những năm vừa qua tuy có tăng trưởng nhanh nhưng gây

thiệt hại về vốn. Cụ thể:

 Thiết bị mua về không sử dụng hết, khai thác kém hiệu

quả, phải dừng đầu tư, gây lãng phí, thiệt hại về vốn như: dự

án cáp đồng còn tồn kho vật tư cáp các loại trị giá 36,497 tỷ

đồng;

 Dự án đầu tư tuyến cáp quang biển trục Bắc – Nam gần

3.000 tỷ đồng bằng vốn vay ODA của Nhật Bản đã chậm

tiến độ gần 10 năm. Nguyên nhân chủ yếu là: khâu khảo sát,

thiết kế, lập dự toán, thẩm tra, phê duyệt thực hiện kéo dài

nhiều năm, làm ảnh hưởng tới hiệu quả của dự án và môi

trường đầu tư trong việc sử dụng nguồn vốn ODA.

 Việc quyết định đầu tư dự án vệ tinh Vinasat I, II với tổng

mức đầu tư 9.280 tỷ đồng, tuy đạt được mục tiêu về chính

trị - xã hội, khẳng định chủ quyền của Quốc gia đối với

nguồn tài nguyên trên quỹ đạo vệ tinh, đảm bảo yêu cầu về

thông tin vệ tinh phục vụ an ninh, quốc phòng, phòng chống

thiên tai… nhưng đến thời điểm năm 2015 chưa đảm bảo

hiệu quả kinh doanh như kế hoạch trong dự án được phê

duyệt, lỗ vượt dự kiến 229 tỷ đồng.

 Về quản lý đầu tư tài chính dài hạn tại các doanh nghiệp

ngoài VNPT: đến thời điểm 31/12/2015, VNPT đã đầu tư

góp vốn vào 86 doanh nghiệp (chủ yếu về viễn thông) với

tổng giá trị 5.584,22 tỷ đồng, trong đó: 38 doanh nghiệp thu

được 322 tỷ đồng lợi nhuận với tỷ suất bình quân 15,64%;

130

28 doanh nghiệp với giá trị đầu tư 196 tỷ đồng nhưng lợi

nhuận thu được thấp (tỷ suất bình quân chỉ đạt 3,16%) và 20

doanh nghiệp khác và quỹ với giá trị đầu tư 723,8 tỷ đồng

trong thời gian dài (từ 3 đến 5 năm) không thu được lợi

nhuận, gây lãng phí vốn đầu tư.

Tóm lại: Hệ thống thông tin kinh tế ở bên trong và bên ngoài Tập đoàn

được cung cấp cho nhà quản trị ra quyết định tài chính trong thời gian vừa

qua tuy không khó thu thập, thời gian thu thập nhanh, thông tin tương đối

chính xác, đầy đủ nhưng đôi khi vẫn chưa đảm bảo được tính kịp thời, làm

cho việc ra quyết định tài chính ở một số dự án bị sai lầm, dẫn đến thiệt hại

gây lãng phí vốn đầu tư của Tập đoàn. Điều này thể hiện hệ thống thông tin

kinh tế mà tập đoàn VNPT đã xây dựng và đã được sử dụng trong thời gian

vừa qua chưa được hoàn thiện, chưa đạt được yêu cầu của một thống thông tin

tốt (hệ thống thông tin tốt phải đảm bảo được các yêu cầu: chính xác, đầy đủ,

cần thiết, kịp thời, tin cậy, bảo mật), làm cho hiệu quả hoạt động đầu tư của

những năm vừa qua không cao so với tiềm lực hiện có của VNPT.

 Quyết định huy động vốn:

 Đối với nguồn vốn đầu tư nước ngoài

Thông tin kinh tế hỗ trợ cho nhà quản trị tài chính ra quyết định

huy động vốn nhằm tài trợ cho quyết định đầu tư quốc tế trong thời gian vừa

qua chủ yếu căn cứ vào những thông tin của quyết định đầu tư quốc tế, tức là

căn cứ vào những thông tin ở bên ngoài Tập đoàn; nhìn chung việc thu thập

những thông tin này cần nhiều thời gian, tuy nhiên đây là những thông tin phổ

biến nên không khó để thu thập và xử lý; ngoài ra đây là những thông tin tin

cậy, phù hợp, chính xác, kịp thời đã tác động mạnh đến quyết định huy động

vốn của VNPT, giúp nhà quản trị tài chính xây dựng chiến lược huy động

động vốn phù hợp nhằm giảm thiểu rủi ro trong việc tài trợ vốn đối với các

131

quyết định đầu tư ở nước ngoài. Cụ thể, giai đoạn đầu VNPT thực hiện chiến

lược đầu tư là hợp tác và đầu tư với các nước sở tại, mục tiêu của chiến lược

này là: Thứ nhất, giảm chi phí, giá thành và không thuê ngoài; Thứ hai, xây

dựng chiến lược đầu tư khác biệt; Thứ ba, nghiên cứu đối thủ cạnh tranh để

đưa ra quyết định đầu tư ứng dụng công nghệ hợp lý; Thứ tư, nắm bắt và hiểu

đúng thủ tục đầu tư ra nước ngoài và các cam kết quốc tế; những mục tiêu này

đã giúp Tập đoàn VNPT tiết kiệm được vốn đầu tư, cụ thể: hơn 50% nguồn

vốn đầu tư của VNPT vẫn là tận dụng nguồn vốn nước ngoài từ việc hợp tác,

phần góp vốn dưới 50% còn lại chủ yếu là vốn tự có, vay các khoản vay ưu

đãi, và nợ tiền các nhà cung cấp thiết bị.

 Ưu điểm đối với nguồn vốn đầu tư nước ngoài :

- Khi tiến hành đầu tư nước ngoài, VNPT có thể tiếp cận được thị

trường vốn quốc tế với chi phí sử dụng vốn có thể thấp hơn các nguồn

vốn vay khác trong nước.

- Giảm xác suất phá sản nhờ giảm thiểu chi phí sử dụng vốn.

- Tận dụng các lợi thế về thuế không dành cho doanh nghiệp thuần

túy nội địa.

 Nhược điểm đối với nguồn vốn đầu tư nước ngoài:

- Rủi ro gia tăng khi tỷ giá hối đối gia tăng, dẫn đến chi phí sử

dụng vốn cao, khả năng phá sản tăng cao.

- Rủi ro chính trị: khi đầu tư ra nước ngoài, công ty con của Tập

đoàn VNPT ở nước ngoài sẽ phải chịu một khả năng là chính phủ nước

chủ nhà có thể tịch biên tài sản do biến cố chính trị.

 Đối với nguồn vốn đầu tư trong nước

Thông tin kinh tế nhằm hỗ trợ nhà quản trị tài chính tiến hành huy

động vốn nhằm tài trợ cho các quyết định đầu tư trong nước chủ yếu căn từ

những thông tin bên trong nội bộ Tập đoàn, đây là những thông tin dễ thu

132

thập, khả năng chính xác cao, thời gian thu thập nhanh chóng, thông tin mang

tính phù hợp cao, giúp cho nhà quản trị tài chính của Tập đoàn ra quyết định

huy động vốn được đúng đắn hơn. Cụ thể, Vốn kinh doanh của Tập đoàn

VNPT chủ yếu là vốn được cấp 100% từ ngân sách của nhà nước, nguồn vốn

này hoạt động tích lũy qua các năm đủ để đảm bảo cho quá trình hoạt động

sản xuất kinh doanh được thông suốt, vì thế Tập đoàn VNPT hầu như sử dụng

nợ vay không nhiều trên tổng vốn (nợ chiếm 25,3% so với tổng vốn). Tuy

nhiên, do nguồn vốn chủ sở hữu có hạn, nên việc cung cấp vốn đầu tư từ nhà

quản trị cấp chiến lược xuống cấp chiến thuật cũng bị hạn chế.

Như đã trình bày ở phần quyết định đầu tư, Trong thời gian vừa

qua, VNPT đã triển khai một số dự án đầu tư lớn, quá trình thực hiện có nhiều

dự án tăng tổng mức đầu tư; chậm tiến độ, trung bình thời gian chậm của mỗi

dự án là 8,7 tháng, dẫn đến tăng chi phí đầu tư, chậm quyết toán vốn đầu tư,

nhất là các dự án mua sắm thiết bị lớn làm giảm hiệu quả sử dụng vốn. Đồng

thời các sai phạm trong đầu tư mua sắm và đầu tư tài chính của Tập đoàn

VNPT do thông tin cung cấp bị sai lệch, làm giảm hiệu quả đồng vốn được sử

dụng, làm ảnh hưởng lớn đến uy tín của Tập đoàn VNPT trong việc huy động

vốn đối với người cho vay. Cụ thể: 1.Nhật Bản đã cho Tập đoàn VNPT vay

dưới hình thức ODA để đầu tư tuyến cáp quang Bắc – Nam gần 3.000 tỷ

đồng, nhưng Tập đoàn VNPT đã thực hiện đầu tư chậm tiến độ gần 10 năm,

kéo dài thời gian đầu tư của dự án (Đại Sứ Quán Nhật Bản đôn đốc VNPT

nhiều lần), làm ảnh hưởng lớn đến uy tín của VNPT trong việc huy động vốn

ODA của Nhật Bản ở giai đoạn sau này; 2.VNPT đầu tư lãng phí (đầu tư tài

chính, đầu tư cáp đồng…) làm lãng phí đến ngân sách vốn của nhà nước, ảnh

hưởng đến việc tài trợ vốn từ ngân sách nhà nước, hậu quả là ngân sách nhà

nước sẽ thắt chặt hơn về việc tài trợ vốn cho VNPT ở những năm về sau, và

điều này lại có tác dụng tiêu cực đến việc đầu tư phát triển của VNPT trong

133

tương lai; 3. Hiệu quả vốn đầu tư trong nước của Tập đoàn VNPT không cao,

cụ thể: chi phí SXKD tăng (VNPT đã chi khuyến mãi vượt thời gian quy định,

vượt giới hạn giá trị dịch vụ để thu hút tăng sản lượng), nhưng nguồn thu

không tăng, dẫn đến VNPT phải chịu thuế thu nhập tăng làm giảm hiệu quả

đầu tư của Tập đoàn.

Tóm lại: Hệ thống thông tin kinh tế được thu thập và cung cấp cho

nhà quản trị nhằm ra các quyết định tài chính của Tập đoàn VNPT trong

những năm vừa qua tuy có cần thiết, tin cậy, nhưng chưa chính xác, chưa đầy

đủ và chưa kịp thời làm cho việc ra quyết định đầu tư chưa được đúng đắn (có

một số dự án đầu tư lớn bị sai lầm), và một số dự án đầu tư bị đình trệ kéo

dài, điều này đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyết định huy động vốn của

Tập đoàn. Trong tương lai, Tập đoàn VNPT tiến hành thực hiện chiến lược

đầu tư nước ngoài, cũng như chiến lược mở rộng đầu tư trong nước, chắc

chắn nguồn vốn cần phải huy động nhiều hơn nữa để trang trải cho việc mở

rộng quy mô đầu tư, nhưng do bị ảnh hưởng sai lầm đầu tư và sai lầm sử dụng

vốn trong quá khứ, thì chắc chắn việc huy động vốn của VNPT sẽ gặp nhiều

khó khăn trong tương lai. Vì thế, Tập đoàn VNPT cần phải nhanh chóng hoàn

thiện hệ thống thông tin kinh tế để những thông tin kinh tế cung cấp cho nhà

quản trị được đầy đủ hơn, chính xác hơn, kịp thời hơn, và phù hợp hơn; từ đó

hệ thống thông tin kinh tế sẽ hỗ trợ nhà quản trị ra quyết định tài chính được

đúng đắn hơn.

 Quyết định phân phối lợi nhuận: phân phối lợi nhuận sẽ tác động

đến lợi ích của các chủ thể trong Tập đoàn Viễn thông VNPT, nó có ảnh

hưởng lớn đến sự tồn vong và phát triển của Tập đoàn.

Tập đoàn Viễn thông VNPT có vốn đầu tư 100% là vốn của nhà nước, vì

thế việc phân phối lợi nhuận được tiến hành theo quy định của nhà nước.

Nghĩa là sau khi lập các quỹ, phần lợi nhuận còn lại sẽ phân phối cho các chủ

134

thể khác trong Tập đoàn theo một tỷ lệ % nhất định theo quy định của nhà

nước; vì thế, thông tin sử dụng trong quyết định phân phối lợi nhuận chủ yếu

dựa vào các văn bản của nhà nước về nguyên tắc chia lợi nhuận; đây là những

thông tin tin cậy, chính xác, kịp thời, và phù hợp vì thông tin này giúp nhà

quản trị phân chia lợi nhuận theo đúng nguyên tắc tài chính của loại hình

doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên, văn bản của nhà nước quy định về nguyên

tắc chia lợi nhuận thể hiện theo khung cứng, tính uyển chuyển áp dụng phân

chia lợi nhuận cho từng đối tượng thấp, đó là nhà quản trị chủ yếu dựa vào

thông tin hệ số lương để chia lợi nhuận; do đó, việc phân chia lợi nhuận vẫn

còn mang tính chất “cào bằng”. Vì thế, nhà quản trị tài chính dùng thông tin

này phục vụ cho ra quyết định phân phối lợi nhuận thì chưa thể hiện được tính

đầy đủ, chưa phù hợp (vì việc phân chia lợi nhuận theo thông tin này không

phản ánh đúng năng suất lao động của từng người), không khuyến khích

người lao động thể hiện hết vai trò của họ; và việc phân phối lợi nhuận căn cứ

chủ yếu theo hệ số lương, nên chưa cân đối được giữa khoản lợi nhuận được

chia với khoản lợi nhuận giữ lại dành để tái đầu tư, và có thể dẫn đến tình

trạng: khoản lợi nhuận được chia quá lớn so với khoản lợi nhuận giữ lại dành

để tái đầu tư, điều này sẽ ảnh hưởng đến quyết định huy động vốn, ảnh hưởng

đến quyết định đầu tư của Tập đoàn. Cụ thể, trong những năm vừa qua, ta

thấy chính sách phân phối lợi nhuận của Tập đoàn VNPT tuy có ổn định qua

các năm; nhưng chính sách phân phối lợi nhuận ở những năm sau luôn cao

hơn năm trước và luôn có chiều hướng tăng quá cao so với phần lợi nhuận giữ

lại để bổ sung vốn chủ sở hữu, cụ thể trong năm 2015, Tập đoàn VNPT thực

hiện chính sách chiến lược về phân phối lợi nhuận: dành phần lớn lợi nhuận

sau thuế để phân phối lợi nhuận cho các thành viên trong tập đoàn, chính vì

phần lợi nhuận sau thế được ưu tiên cho việc chia lợi nhuận mà không ưu tiên

cho việc tái đầu tư, nên phần lợi nhuận sau thuế dành để bổ sung vốn chủ sở

135

hữu trong năm 2015 rất nhỏ bé so với tổng lợi nhuận sau thuế mà Tập đoàn

VNPT đạt được, điều này sẽ làm cho Tập đoàn VNPT bị thiếu vốn đầu tư

trong tương lai.

2.2.2.2 Thực trạng hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế:

Như đã trình bày trong bảng khảo sát ở phần trên, kết quả đánh giá về

tính hoàn thiện của hệ thống thông tin kinh tế nhằm phục vụ ra quyết định tài

chính của Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông VNPT, có 14/92 phiếu khá đồng

ý, 52/92 phiếu đồng ý, và 19/92 phiếu hơi đồng ý về sự hoàn thiện của hệ

thống thông tin kinh tế, điều này chứng tỏ Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông

Việt Nam VNPT đã xây dựng hệ thống thông tin kinh tế nhưng chưa được

hoàn thiện tốt để ra các quyết định tài chính đúng đắn hơn. Để thấy được

nguyên nhân vì sao hệ thống thông tin kinh tế của Tập đoàn Bưu chính - Viễn

thông Việt Nam VNPT đã xây dựng nhưng chưa hoàn thiện tốt, ta xem xét sơ

đồ xây dựng hệ thống thông tin kinh tế của Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông

Việt Nam VNPT như sau:

Sơ đồ 2.2: Sơ đồ hệ thống thông tin kinh tế của Tập đoàn VNPT

thông

Nguồn thông tin bên trong (thông tin kế toán, thông tin nguồn nhân sự).

Nguồn tin bên ngoài (thông tin về nhu cầu thị trường sản phẩm, thông tin về dự báo thị phần của Tập đoàn…).

Xác định nguồn thông tin cần thiết cung cấp cho nhà quản trị cấp chiến lược.

CẤP CHIẾN LƯỢC: Nhà quản trị cấp chiến lược ra các quyết định: Quyết định đầu tư Quyết định huy động vốn Quyết định phân phối lợi nhuận

Phản hồi thông tin lên cấp chiến lược Lãnh đạo, triển khai 136

CẤP CHIẾN THUẬT

Căn cứ vào sơ đồ trên, ta thấy:

 Hệ thống thông tin kinh tế cung cấp cho nhà quản trị cấp chiến lược

được thu thập chủ yếu từ nguồn thông tin chính thức bên ngoài,

như: thông tin về nhu cầu sử dụng dịch vụ viễn thông của khách

hàng, thị phần của Tập đoàn, tốc độ tăng trưởng của Tập đoàn so

với tốc độ tăng trưởng của đối thủ cạnh tranh… và thông tin chính

thức bên trong như thông tin kế toán...

 Trước khi cung cấp thông tin cho nhà quản trị cấp chiến lược thì

những thông tin này đã được xử lý nhằm mục đích đảm bảo độ tin

cậy, đảm bảo sự cần thiết, đảm bảo tính kịp thời, đảm bảo sự phù

hợp, đảm bảo độ chính xác, đảm bảo tính đầy đủ, đảm bảo dễ sử

dụng và cuối cùng là đảm bảo được bảo mật.

 Để phát huy tính hữu ích của thông tin, nhà quản trị cấp chiến lược

đã sử dụng kết hợp giữa các thông tin bên trong và các thông tin

bên ngoài Tập đoàn nhằm xây dựng kế hoạch ra các quyết định tài

137

chính, như: quyết định đầu tư, quyết định huy động vốn và quyết

định phân phối lợi nhuận. Các quyết định tài chính này được triển

khai xuống cấp chiến thuật, nhà quản trị cấp chiến thuật là người

lãnh đạo trực tiếp cấp tác nghiệp, vì thế họ có trách nhiệm triễn

khai các quyết định tài chính xuống cấp tác nghiệp thực hiện;

trong quá trình thực hiện các quyết định này, cấp tác nghiệp sẽ

phản hồi những thông tin thu nhận từ khách hàng (như thông tin về

trạm phát sóng thiếu hay thừa, giá cả sản phẩm so với đối thủ cạnh

tranh, quy trình làm việc tạo thuận lợi hay gây khó khăn cho khách

hàng…) lên cấp chiến thuật; cấp chiến thuật tiếp tục phản hồi

thông tin này lên cấp chiến lược, sau khi xử lý thông tin, nhà quản

trị cấp chiến lược kịp thời ra quyết định nhằm hỗ trợ cho cấp chiến

thuật và cấp tác nghiệp được thuận lợi trong việc thực hiện nhiệm

vụ được giao mà vẫn đảm bảo quy tắc tài chính của Tập đoàn.

Ưu điểm của hệ thống thông tin kinh tế của Tập đoàn: Mọi thông tin

được sử dụng trong tập đoàn đều được lấy chính thức từ sự chỉ đạo theo chiều

dọc từ trên xuống, vì thế các thông tin này đảm bảo tính thông suốt, đảm bảo

được độ tin cậy, đảm bảo sự cần thiết, đảm bảo sự phù hợp, đảm bảo độ chính

xác, đảm bảo tính đầy đủ, đảm bảo dễ sử dụng.

Nhược điểm: do thông tin được chỉ đạo từ cấp chiến lược xuống cấp

chiến thuật rồi mới xuống cấp tác nghiệp. Đồng thời, sau khi trải qua quá

trình thực hiện, cấp tác nghiệp mới phản hồi những vấn đề thu nhận lên cấp

chiến thuật và cấp chiến thuật phản hồi lên cấp chiến lược; quy trình tiếp nhận

thông tin phải trải qua nhiều nấc thang nên cần phải có một độ trễ thời gian

nhất định. Vì thế, thông tin cung cấp cho những nhà quản trị rất khó đảm bảo

tính kịp thời và khó đảm bảo tính chính xác và tính bảo mật (ví dụ như đầu tư

vào TSCĐ dưới dạng trạm phát sóng chỗ quá dày, chỗ quá thưa, không đảm

138

bảo chất lượng dịch vụ), điều này thể hiện tính hoàn thiện của hệ thống thông

tin kinh tế của Tập đoàn VNPT chưa cao.

2.2.2.2 Thực trạng về nội dung cấu thành hệ thống thông tin.

- Dù đã xây dựng hệ thống thông tin một cách cụ thể, và những thông tin

mà Tập đoàn này thu thập, sử dụng đã hoàn thiện thành một hệ thống, nhưng

hệ thống thông tin này vẫn chưa hoàn thiện tối ưu (vẫn còn có những thông

tin cung cấp không kịp thời xuống cấp chiến thuật và cấp tác nghiệp, như

thông tin đầu tư vào TSCĐ… ).

- Khi tiếp nhận thông tin, Tập đoàn Bưu chính – Viễn thông Việt Nam

VNPT đều có đánh giá thông tin để phân loại thành thông tin phù hợp và

thông tin không phù hợp; nhằm khẳng định mức độ phù hợp của thông tin để

ra quyết định được đúng đắn hơn. Ngoài việc tiếp nhận thông tin phù hợp từ

trong nội bộ Tập đoàn, Tập đoàn VNPT còn phải tiếp nhận thông tin từ nhiều

nguồn khác, nên Tập đoàn vẫn phải đánh giá thông tin trên nhiều khía cạnh

khác như đánh giá về mặt tin cậy, phù hợp, bảo mật, kịp thời…; cụ thể, nguồn

thông tin đưa vào sử dụng đã được thu thập từ nguồn thông tin bên ngoài và

nguồn thông tin bên trong nội bộ của Tập đoàn có đặc tính như thế nào? Để

trả lời câu hỏi này, ta tiến hành khảo sát thực trạng mức độ tin cậy của nguồn

thông tin bên ngoài và nguồn thông tin bên trong nội bộ của Tập đoàn.

1. Nguồn thông tin từ bên ngoài Tập đoàn được lấy dựa trên những

thông tin sau:

Căn cứ theo kết quả khảo sát đánh giá những thông tin kinh tế bên

ngoài tập đoàn như thông tin từ khảo sát nhu cầu sử dụng dịch vụ của khách

hàng, từ tìm hiểu về đối thủ cạnh tranh (trang 113 của Luận án), có 92/92

phiếu khảo sát đều đánh giá những thông tin đều có tác động rất mạnh đến

quyết định tài chính của Tập đoàn, cụ thể:

 Thông tin khảo sát nhu cầu sử dụng dịch vụ của khách hàng

139

Việc khảo sát thông tin về nhu cầu sử dụng dịch vụ của khách hàng

được thực hiện tương đối thuận lợi do việc khảo sát được thực hiện giữa

những khách hàng của VNPT trực tiếp đến giao dịch với nhân viên giao dịch

của Tập đoàn, ngoài ra việc khảo sát còn được thực hiện giữa bộ phận chuyên

khảo sát của VNPT với những khách hàng tiềm năng bên ngoài của Tập đoàn,

vì thế những thông tin được thu thập này thể hiện được tính kịp thời, phù hợp

và có độ chính xác cao, tạo điều kiện thuận lợi cho Tập đoàn Bưu chính -

Viễn thông Việt Nam VNPT thu hút được khách hàng nhiều hơn do VNPT

ngày càng đáp ứng được nhu cầu của người sử dụng; cụ thể trong thời gian

vừa qua, chất lượng cung cấp dịch vụ của VNPT được khách hàng đánh giá

tốt, các công ty sản xuất kinh doanh (nhất là các công ty nước ngoài đầu tư tại

Việt Nam) vẫn ưa chuộng sử dụng dịch vụ viễn thông của VNPT hơn các đối

thủ cùng ngành vì VNPT có tính bảo mật cao; tính đến cuối năm 2013 thị

phần ngành viễn thông của Tập đoàn VNPT vẫn cao hơn đối thủ cạnh tranh,

thị trường đang được mở rộng, hay khả năng tiêu thụ sản phẩm trên thị trường

vẫn đang tăng cao. Tuy nhiên, qua năm 2014 và 2015 thị phần của VNPT bị

chia sẻ (do tách MobiFone ra khỏi VNPT) nên thị phần có chiều hướng thấp

hơn đối thủ cạnh tranh, tốc độ tăng trưởng của VNPT có xu hướng tăng chậm

hơn tốc độ tăng trưởng của đối thủ cùng ngành (Viettel).

Mặt dù tốc độ tăng trưởng của VNPT ở những năm gân đây tăng chậm

hơn đối thủ, nhưng nhu cầu thị trường tiêu thụ sản phẩm dịch vụ của VNPT

vẫn ngày càng tăng cao, điều này sẽ tác động mạnh đến chính sách đầu tư của

tập đoàn (như đầu tư tăng thêm TSCĐ dưới dạng nhà trạm để đảm bảo chất

lượng vùng phủ sóng). Khi chính sách đầu tư thay đổi theo hướng đầu tư tăng

lên sẽ dẫn đến vốn đầu tư tăng lên tương ứng là điều tất nhiên, kéo theo hiệu

quả đầu tư tăng lên và cuối cùng lợi nhuận được phân chia cho các chủ thể

trong Tập đoàn sẽ tăng tương ứng qua các năm.

140

Kết luận: việc khảo sát nhu cầu sử dụng dịch vụ của khách hàng hoàn

toàn dựa vào những thông tin được khảo sát trực tiếp từ khách hàng đang sử

dụng cũng như từ khách hàng chưa sử dụng dịch vụ viễn thông của Tập đoàn,

nên đây là những thông tin tin cậy, chính xác, phù hợp; những thông tin này

phản ánh đúng thực tế đã diễn ra về nhu cầu sử dụng dịch vụ của khách hàng

của Tập đoàn Bưu chính – Viễn thông Việt Nam VNPT, vì thế nó có tác dụng

giúp Tập đoàn định hướng đúng chiến lược đầu tư, chiến lược huy động vốn,

và chiến lược phân phối lợi nhuận cho hiện tại cũng như cho tương lai.

 Thông tin tìm hiểu về đối thủ cạnh tranh cùng ngành:

Việc Tập đoàn VNPT tìm hiểu thông tin về đối thủ cạnh tranh cùng

ngành có phần không thuận lợi bằng việc tìm hiểu thông tin về nhu cầu sử

dụng dịch vụ của khách hàng, thậm chí việc khai thác được những thông tin

này vô cùng khó khăn vì đó là những “thông tin mật” của đối thủ, VNPT chỉ

có thể có được những thông tin về đối thủ do đối thủ báo cáo số liệu hàng

năm và được công bố rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng, hoặc

đó là những thông tin “lộ thiên” của đối thủ như thông tin về đầu tư vào

TSCĐ dưới hình thức đầu tư nhà trạm được hiển hiện ra bên ngoài nên Tập

đoàn VNPT dễ khảo sát do nhìn thấy được bằng mắt thường; vì thế, việc khảo

sát thông tin về đối thủ cạnh tranh cùng ngành để phục vụ cho việc ra quyết

định tài chính của Tập đoàn Bưu chính – Viễn thông Việt Nam VNPT vô

cùng khó khăn, và khi VNPT tiếp nhận được những thông tin của đối thủ thì

những thông tin này dễ trở thành thông tin lạc hậu, không phù hợp, không kịp

thời. Vì thế ở đây, để có được thông tin tốt từ đối thủ mà không sợ bị lạc hậu,

lỗi thời thì đó chủ yếu là thông tin về việc đầu tư vào TSCĐ dưới dạng đầu tư

vào nhà trạm của đối thủ (vì nhà trạm được đầu tư công khai ngoài trời nên

VNPT dễ thu thập thông tin); Thông tin này có tác dụng giúp nhà quản trị tài

chính đưa ra quyết định đầu tư phù hợp với nhu cầu sử dụng dịch vụ của

141

khách hàng hơn; cụ thể, trong thời gian vừa qua nhà quản trị các cấp của

VNPT xác định được vùng phủ sóng của VNPT mạnh hơn đối thủ cạnh tranh

ở các thành phố lớn, nên những khách hàng tiềm năng (thường là các doanh

nghiệp lớn đóng ở những thành phố lớn) và khách hàng lâu năm vẫn ưa

chuộng sử dụng dịch vụ viễn thông của VNPT hơn; trong khi đó, đối thủ cạnh

tranh chủ yếu đầu tư mạnh về TSCĐ (nhà trạm) ở nông thôn để thu hút khách

hàng nông thôn với triết lý kinh doanh “nông thôn bao vây thành thị”. Thông

tin từ đối thủ cạnh tranh này đã giúp nhà quản trị tài chính của VNPT đưa ra

chiến lược đối phó với triết lý kinh doanh của đối thủ: thứ nhất, tăng cường

đầu tư vào TSCĐ (nhà trạm) để tăng chất lượng thông thoại và mở rộng vùng

phủ sóng; thứ hai, căn cứ vào thông tin khảo sát loại thiết bị nhà trạm của đối

thủ được xây dựng là loại thiết bị nào để VNPT chọn lựa đầu tư thiết bị nhà

trạm thích hợp; ví dụ, nếu đối thủ đầu tư thiết bị nhà trạm thuộc công nghệ

cao thì đòi hỏi Tập đoàn VNPT cũng phải đầu tư vào thiết bị nhà trạm có tính

công nghệ cao để nâng cao tính cạnh tranh chất lượng vùng phủ sóng, vì chất

lượng vùng phủ sóng là điều kiện tiên quyết quyết định sự tồn vong của Tập

đoàn VNPT; thứ ba, rút kinh nghiệm từ việc đầu tư ra nước ngoài của đối thủ

để Tập đoàn VNPT xây dựng chiến lược đầu tư ra nước ngoài phù hợp với vị

thế và năng lực tài chính của Tập đoàn.

Nhìn chung, thông tin bên ngoài tập đoàn như khảo sát nhu cầu sử dụng

dịch vụ của khách hàng, thông tin khảo sát đối thủ cạnh tranh cùng ngành

(chủ yếu là thông tin về đầu tư TSCĐ dưới dạng nhà trạm) đều là những

thông tin tin cậy, phù hợp, kịp thời và đều có cơ sở khoa học để thu thập một

cách nhanh chóng, thuận lợi; những thông tin này sẽ giúp cho nhà quản lý

đánh giá được sức cạnh tranh sản phẩm của Tập đoàn so với các đối thủ cùng

ngành. Do đó, ta có thể nói những thông tin này là cơ sở quan trọng để nhà

142

quản trị xây dựng những quyết định tài chính mang tính chất chiến lược hợp

lý để thúc đẩy Tập đoàn ngày càng tăng trưởng và phát triển.

2. Nguồn thông tin từ bên trong Tập đoàn được lấy chủ yếu từ thông

tin giữa nhà quản lý cấp chiến lược với nhà quản lý cấp chiến thuật:

Nhà quản lý cấp chiến lược (cấp Tập đoàn) là người xây dựng kế hoạch

và phân bổ kế hoạch cho các Trung tâm Viễn thông thành viên của VNPT

(cấp chiến thuật) triển khai thực hiện, đây chính là thông tin nội bộ giữa nhà

quản lý cấp chiến lược với nhà quản lý cấp chiến thuật, những thông tin này

thể hiện được các đặc điểm của dạng thông tin tốt như thể hiện được tính đầy

đủ, tính tin cậy, tính phù hợp, tính chính xác … cụ thể như:

 Thông tin về đầu tư vào TSCĐ: Việc chọn lựa đầu tư vào công

nghệ nào? Tại sao đầu tư vào công nghệ đó? Là những câu hỏi cần

phải đặt ra để nhà quản trị cấp chiến lược lựa chọn giải pháp đầu tư

tối ưu nhất; để đưa ra quyết định này có căn cứ khoa học, nhà quản

trị cấp chiến lược thường căn cứ vào các thông tin sau:

Thông tin từ đề nghị đầu tư của cấp chiến thuật trình lên. 

Thông tin vào tình hình vốn đầu tư của Tập đoàn để nhà 

quản trị cấp chiến lược chọn lựa công nghệ hiện đại phù hợp mà

không thua kém chất lượng công nghệ đầu tư với đối thủ cùng

ngành.

Kết hợp các thông tin trên, nhà quản trị cấp chiến lược lập kế

hoạch chọn lựa đầu tư TSCĐ và phân bổ đầu tư TSCĐ (số lượng,

chủng loại, quy cách…) xuống cấp chiến thuật thực hiện.

Vậy, thông tin kinh tế nhằm hỗ trợ cho nhà quản trị cấp chiến

lược ra quyết định đầu tư vào TSCĐ chủ yếu là căn cứ vào thông

tin bên trong (dựa theo nhu cầu đầu tư, dựa theo tình hình nguồn

vốn) của Tập đoàn.

143

-Ưu điểm: Nhà quản trị cấp chiến lược dựa vào thông tin nội

bộ này để ra quyết định đầu tư vào TSCĐ, nên đây là những thông

tin tin cậy, chính xác, kịp thời, và đầy đủ; những thông tin này sẽ

giúp nhà quản trị cấp chiến thuật thực hiện đúng kế hoạch đầu tư từ

cấp chiến lược đưa xuống, thông tin nội bộ trên giúp nhà quản trị

cấp chiến lược thuận tiện trong việc chọn lựa đầu tư vào máy móc

thiết bị hiện đại ngang tầm với đối thủ góp phần nâng cao sức cạnh

tranh của Tập đoàn.

- Nhược điểm: việc chạy đua cạnh tranh vào chất lượng thiết bị

đầu tư có thể dẫn đến Tập đoàn sử dụng đòn bẩy kinh doanh không

hiệu quả, ảnh hưởng đến lợi nhuận của Tập đoàn.

 Thông tin về huy động vốn: Nguồn vốn được xem như là mạch

máu của Tập đoàn, nó quyết định sự sống còn của Tập đoàn, nếu

Tập đoàn huy động nguồn vốn hợp lý có chi phí sử dụng vốn thấp,

thì hiệu quả sử dụng vốn của Tập đoàn sẽ cao, và ngược lại. Như đã

trình bày ở phần trên, vốn hoạt động của các Trung tâm Viễn thông

thành viên thuộc Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông Việt Nam

VNPT (cấp chiến thuật) chủ yếu được tài trợ theo sự chỉ đạo của

cấp chiến lược.

Thông tin ra quyết định huy động vốn ở cấp chiến lược chủ

yếu sử dụng thông tin từ nội bộ, cụ thể là thông tin từ cấp chiến

thuật trình lên nhằm đáp ứng nhu cầu mở rộng đầu tư; vì thế, sau

khi nhà quản trị cấp chiến lược thu thập thông tin về huy động vốn,

kết hợp với việc dự báo diễn biến tình hình tài chính của Tập đoàn,

nhà quản trị tài chính Tập đoàn VNPT đã tiến hành phân tích những

thông tin về tình hình huy động vốn, và đề ra phản ứng chiến lược

về huy động vốn. Cụ thể, căn cứ vào thông tin nội bộ, tình hình huy

144

động vốn ở cấp chiến lược của Tập đoàn VNPT của những năm vừa

qua được thực hiện như sau: 1. Tìm kiếm cơ hội đầu tư vốn phù

hợp; 2. Xây dựng kế hoạch huy động vốn; 3. Chuẩn bị kế hoạch

huy động vốn cho việc mở rộng đầu tư; 4. Quản lý nguồn vốn linh

hoạt kịp thời, kiện toàn bộ máy tài chính – kế toán; 5. Xây dựng

phương án thoái vốn nhanh, hiệu quả (khi có). Kết quả thực hiện

của những chiến lược này đã giúp nâng cao giá trị Tập đoàn của

những năm vừa qua được tăng lên đáng kể.

- Ưu điểm của việc sử dụng thông tin nội bộ để ra quyết định huy

động vốn: do thông tin nội bộ là những thông tin tin cậy, chính xác,

kịp thời, đầy đủ và phù hợp, nên việc huy động vốn đều được thống

nhất thực hiện theo đúng kế hoạch từ trên xuống dưới, điều này sẽ

giúp cho việc quản lý vốn ở các cấp quản trị sẽ dễ dàng và thuận lợi

hơn.

- Nhược điểm của việc sử dụng thông tin nội bộ để ra quyết định

huy động vốn: Do thông tin nội bộ thể hiện ý chí chủ quan của nhà

quản trị, vì thế thường bị lợi ích nhóm tác động; nên việc căn cứ

vào những thông tin này để ra quyết định huy động vốn thường

không khách quan dẫn đến chi phí sử dụng vốn tăng cao, hoặc rủi

ro tài chính tăng cao do sử dụng nợ vay nhiều; thực vậy, trong

những năm vừa qua, nguồn vốn chủ sở hữu ở tập đoàn có hạn, và

do lợi nhuận giữ lại của những năm qua quá thấp so với phần lợi

nhuận đạt được, nên nguồn vốn hiện tại tăng không đáng kể so với

nhu cầu đầu tư tăng lên (đầu tư trong nước và đầu tư quốc tế); vì thế

trong tương lai, Tập đoàn VNPT sẽ phải tiến hành huy động vốn

thông qua tăng cường sử dụng nợ vay để đáp ứng nhu cầu mở rộng

145

đầu tư của Tập đoàn; việc làm này sẽ dẫn đến rủi ro tài chính của

Tập đoàn tăng lên vào những năm tới.

 Thông tin về phân phối lợi nhuận:

Cấp chiến lược ra quyết định phân phối lợi nhuận cho cấp

chiến thuật dựa trên thông tin về hiệu quả đầu tư do cấp chiến thuật

báo cáo; đây là thông tin nội bộ nên mang tính chính xác cao, thể

hiện được tính kịp thời và tương đối phù hợp.

Phân phối lợi nhuận dựa vào thông tin nội bộ thể hiện được

tính thống nhất trong toàn thể Tập đoàn VNPT; tuy nhiên, khi nhà

quản trị sử dụng thông tin này thì vẫn chưa thể hiện hết tính đầy đủ,

làm cho nhà quản trị khó đưa ra quyết định phân phối lợi nhuận phù

hợp, vì thông tin này vẫn chưa phản ánh đúng năng suất làm việc

của từng thành viên trong Tập đoàn.

2.2.2.3 Thực trạng về phương thức cấu thành thông tin

 Về thời gian tiếp nhận thông tin: Thời gian tiếp nhận thông tin

kinh tế quyết định đến chất lượng thông tin được tiếp nhận; nếu thông tin đến

rất sớm không đầy đủ sẽ dễ làm cho nhà quản lý ra quyết định vội vàng,

không phù hợp; nếu thông tin đến quá trễ (cho dù đầy đủ) sẽ dễ trở thành

thông tin lạc hậu, không kịp thời cho việc hỗ trợ ra các quyết định tài chính.

Vậy, thời gian tiếp nhận thông tin phải đủ sớm và đầy đủ, hay nói cách khác

phải đúng lúc thì thông tin này mới có giá trị, vì thông tin đến sớm hay muộn

nó sẽ quyết định thành công hay thất bại của Tập đoàn. Qua khảo sát thực tiễn

cho tác giả thấy thời gian tiếp nhận thông tin của Tập đoàn Bưu chính - Viễn

thông VNPT được đánh giá như sau: 20/92 phiếu đánh giá thời gian tiếp nhận

thông tin rất đúng lúc, 10/92 phiếu đánh giá thời gian tiếp nhận thông tin khá

đúng lúc, và 62/92 phiếu đánh giá thời gian tiếp nhận thông tin đúng lúc.

146

Căn cứ vào kết quả khảo sát trên, tác giả thấy thời gian tiếp nhận thông

tin chủ yếu là đúng lúc, đây là nhận định rất tốt về hệ thống thông tin kinh tế

của Tập đoàn. Thực vậy, nếu thông tin đến rất sớm hoặc khá sớm thường là

thông tin không đầy đủ, nếu là thông tin đầy đủ nhưng nhà quản trị không

nắm bắt nhanh cơ hội để ra quyết định tài chính kịp thời thì dù thông tin đến

sớm vẫn không phát huy được giá trị; nếu như thông tin đến trễ thường là

những thông tin lạc hậu, giá trị thông tin không cao; vì thế, thông tin đến đúng

lúc là những thông tin phù hợp, nó giúp các nhà quản trị đưa ra được những

quyết định tài chính đúng đắn, kịp thời.

Ví dụ về việc Tập đoàn VNPT tiếp nhận thông tin quá sớm, nhưng ra

quyết định tài chính quá trễ: Trước khi MobiFone tách khỏi Tập đoàn VNPT

(2014), VNPT dự định cổ phần hóa MobiFone; thông tin này lần đầu tiên

được đề cập đã 12 năm trôi qua; quyết định đầu tiên mang số 591/QĐ-

BBCVT ngày 30/5/2005 về việc cổ phần hóa MobiFone sau đó là quyết định

số 884/QD-BBCVT ngày 11/8/2005 về thành lập ban chỉ đạo việc cổ phần

hóa. Có thể nói, dù vẫn luôn thể hiện "quyết tâm" cổ phần hóa MobiFone,

nhưng thực tế VNPT đã có rất nhiều động thái trì hoãn thông qua hàng loạt

các đề án tái cơ cấu, cổ phần hóa mang những nội dung khác nhau và các

phương án gây tranh cãi; việc chậm trễ cổ phần hóa này dẫn đến VNPT đã bỏ

lỡ cơ hội chiếm đa số cổ phần kiểm soát vào năm 2000; nếu nhà quản trị của

tập đoàn VNPT ra quyết định cổ phần hóa sớm MobiFone, VNPT chẳng

những sẽ tập trung được nguồn vốn cho VNPT nói chung, mà còn tập trung

được nguồn vốn để mở rộng đầu tư cho VinaPhone để VinaPhone có thể bật

 Thông tin được cung cấp để phục vụ xây dựng các chính sách tài

lên mang lại lợi ích nhiều mặt, điều này sẽ có lợi cho VNPT và cho cả xã hội.

chính: Qua kết quả khảo sát những thông tin kinh tế như: thông tin kế toán,

thông tin tăng trưởng kinh tế, thông tin nhu cầu sản phẩm, thông tin thị phần

147

Tập đoàn, thông tin đầu tư dài hạn vào tài sản cố định, thông tin huy động vốn

ngắn – trung và dài hạn,…được cung cấp cho các nhà quản trị ra các quyết

định tài chính có 92/92 phiếu được đánh giá là rất phù hợp, vì những thông tin

này giúp nhà quản trị ra các quyết định tài chính hợp lý. Ví dụ như việc tách

đầu tư Bưu chính ra khỏi Viễn thông (do tính chất ngành nghề khác nhau, quy

trình công nghệ, tổ chức quản lý và sản xuất khác nhau, Bưu chính đảm

nhiệm nhiệm vụ công ích về phổ cập dịch vụ bưu chính cho xã hội, nên hiệu

quả hoạt động của Bưu chính rất thấp, trở thành gánh nặng cho ngành Viễn

thông, làm cản trở năng lực cạnh tranh, hạn chế việc đáp ứng yêu cầu phát

triển của ngành viễn thông).

“Việc tách đầu tư VNPost ra khỏi cơ cấu tổ chức của Tập đoàn VNPT là

phù hợp với xu thế phát triển và thực tiễn của Bưu chính các nước trên thế

giới”.[18] việc tách đầu tư VNPost hoạt động độc lập hoàn toàn với Tập đoàn

VNPT sẽ tạo điều kiện tốt cho cả 2 doanh nghiệp cùng phát triển. Cụ thể: sau

khi tách khỏi VNPost, Tập đoàn VNPT tập trung năng lực tài chính đầu tư

mạnh về cơ sở hạ tầng (như đầu tư về máy móc thiết bị, xây dựng thêm nhà

trạm) để mở rộng vùng phủ sóng,...nâng cao năng lực cạnh tranh, tăng thị

phần, thúc đẩy tăng doanh thu cho những năm tới.

 Tiến độ thực hiện các chính sách tài chính: Sau khi tiếp nhận

thông tin, nhà quản trị đã kịp thời sử dụng các thông tin này để đưa ra các

quyết định tài chính phù hợp. Kết quả khảo sát về tiến độ thực hiện các quyết

định tài chính như sau: 8/92 phiếu khảo sát đánh giá tiến độ ra quyết định rất

kịp thời, 20/92 phiếu đánh giá tiến độ ra quyết định khá kịp thời, 48/92 phiếu

đánh giá tiến độ ra quyết định kịp thời, 11/92 phiếu khảo sát đánh giá tiến độ

ra quyết định hơi kịp thời, và 5/92 phiếu khảo sát đánh giá tiến độ ra quyết

định không kịp thời.

148

Căn cứ vào kết quả khảo sát trên, ta thấy Tập đoàn VNPT chủ yếu đều

xử lý kịp thời các thông tin kinh tế, kỹ thuật (như khảo sát nhu cầu thị trường

của sản phẩm để xây dựng chiến lược đầu tư tăng thêm nhà trạm trong nội bộ

quốc gia, hay mở rộng đầu tư ra nước ngoài) để ra các quyết định tài chính

phù hợp tiến độ thực hiện.

Ví dụ: khách hàng sử dụng dịch vụ viễn thông hiện nay có xu hướng

chuyển sang sử dụng dịch vụ Internet cáp quang do tốc độ cao và có nhiều

tiện ích kèm theo, vì thế dịch vụ điện thoại cố định suy giảm nhanh chóng,

nhà quản trị Tập đoàn Bưu chính – Viễn thông Việt Nam VNPT kịp thời

nhận được thông tin này và đánh giá đây là thông tin phù hợp, vì thế nhà

quản trị đã triển khai nhiều giải pháp đầu tư phù hợp với sự thay đổi theo xu

hướng này, cụ thể như: đầu tư mạnh dịch vụ di động và chặn đà suy giảm dịch

vụ điện thoại cố định; mặt khác Tập đoàn Bưu chính – Viễn thông Việt Nam

VNPT còn tổ chức thực hiện cơ chế phân phối lợi nhuận theo năng suất làm

việc. Kết quả cho thấy hiệu quả của các giải pháp tài chính: đầu tư phù hợp

với sự thay đổi theo xu hướng, phân phối lợi nhuận theo năng suất làm việc

đưa ra đúng lúc, phù hợp thúc đẩy hiệu quả đầu tư của Tập đoàn tăng lên

đáng kể.

Tuy nhiên, có 11/92 phiếu khảo sát đánh giá tiến độ ra quyết định tài chính

là hơi kịp thời, và 5/92 phiếu khảo sát đánh giá tiến độ ra quyết định tài chính

là không kịp thời. Thật vậy, trong những năm vừa qua, Tập đoàn VNPT hoạt

động trong môi trường cạnh tranh khốc liệt, thông tin bùng nổ đa chiều, hệ

thống thông tin kinh tế phục vụ ra quyết định tài chính của VNPT có phần

không kịp thời đã ảnh hưởng rất lớn đến khả năng cạnh tranh chiếm lĩnh thị

phần của Tập đoàn, ảnh hưởng lớn đến hiệu quả đầu tư của Tập đoàn, làm cho

sức phát triển của VNPT chưa tương xứng với tiềm năng của VNPT hiện có.

Cụ thể:

149

 VNPT đưa ra quyết định đầu tư chưa kịp thời đối với nhu cầu đầu tư

trong nước:

Thực tế trong những năm qua, Các quyết định đầu tư TSCĐ (nhà trạm)

của Tập đoàn VNPT được triển khai từ cấp chiến lược xuống cấp chiến

thuật, rồi đến cấp tác nghiệp thực hiện; trong quá trình thực hiện quyết

định này, cấp tác nghiệp sẽ thu nhận những thông tin từ khách hàng (như

thông tin đầu tư về trạm phát sóng thiếu hay thừa, ảnh hưởng như thế

nào đến chất lượng dịch vụ cung ứng cho khách hàng…) và phản ánh

những thông tin này lên cấp chiến thuật; cấp chiến thuật tiếp tục phản

hồi thông tin này lên cấp chiến lược. Sau khi xử lý thông tin, nhà quản trị

cấp chiến lược xây dựng kế hoạch đầu tư và phân bổ kế hoạch đầu tư

xuống cấp chiến thuật - kế hoạch này thường được thực hiện vào năm

sau. Chính vì quy trình lên kế hoạch đầu tư lòng vòng, mất thời gian nên

thông tin từ cấp chiến lược xuống đến cấp tác nghiệp có thể không còn

kịp thời.

 VNPT đưa ra quyết định đầu tư chưa kịp thời đối với nhu cầu đầu tư

quốc tế:

Thời gian vừa qua đã minh chứng: Tập đoàn VNPT ra quyết định

đầu tư quốc tế chậm hơn Viettel một bước, vì thế những thị trường quốc

tế dễ tiếp cận đầu tư đã bị Viettel chiếm thị phần, làm cho việc tìm kiếm

thị trường nước ngoài của Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông Việt Nam

VNPT gặp nhiều khó khăn hơn; song nếu muốn trở thành Tập đoàn lớn

mạnh, thì VNPT không thể chỉ khai thác ở thị trường trong nước, mà

phải đi tìm kiếm thị trường mới, điều đó có nghĩa là VNPT sẽ có những

cuộc cạnh tranh đầy gay gắt giữa các nhà mạng Việt Nam trên thị trường

thế giới; hậu quả của vấn đề này là do VNPT chưa chú trọng tìm hiểu

thông tin về thị trường quốc tế, đến khi VNPT tiếp nhận những thông tin

150

này để phân tích và ra quyết định đầu tư ra nước ngoài thì đã quá chậm

trễ, không kịp thời, làm cho hiệu quả hoạt động của VNPT chưa tương

xứng với tiềm năng VNPT hiện có.

Tóm lại: Về thời gian tiếp nhận thông tin, nội dung thông tin được cung

cấp cũng như tiến độ sử dụng thông tin được tiếp nhận để phục vụ cho việc ra

các quyết định tài chính đối với các nhà quản trị tài chính của Tập đoàn chủ

yếu được đánh giá: đúng lúc, phù hợp. Điều này, chứng tỏ năng lực quản lý

của những nhà quản trị Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông Việt Nam VNPT

được đánh giá cao, biểu hiện hiệu quả hoạt động các năm vừa qua ngày càng

tăng, thu nhập của người lao động ngày càng được đáp ứng, hội tụ được

những người lao động có trình độ chuyên môn cao, uy tín của Tập đoàn Bưu

chính - Viễn thông Việt Nam VNPT ngày càng được khẳng định trên thị

trường, xứng đáng là cánh chim đầu đàn của ngành Viễn thông Việt Nam,

cũng như mục tiêu của Tập đoàn VNPT là sẽ trở thành 1 trong 10 hãng viễn

thông lớn nhất trên toàn cầu.

Tuy nhiên, tính kịp thời của hệ thống thông tin kinh tế chưa được đánh

giá cao, làm chậm trễ đến các quyết định đầu tư trong nước cũng như đầu tư

quốc tế, tạo nên một sức ép cạnh tranh ngày càng lớn cho Tập đoàn VNPT;

Tập đoàn VNPT từ vị trí dẫn đầu thị trường viễn thông trong nước trở thành

người đứng vị trí thứ hai sau Tập đoàn Viễn thông Viettel hiện nay. Mục tiêu

của Tập đoàn VNPT trong thời gian tới là phải giữ vững thị phần, rút ngắn

khoảng cách với đối thủ chính Viettel, để giữ vững thị phần thì tính kịp thời

của hệ thống thông tin cần phải được chú trọng hơn. Trong thời gian vừa qua,

những quyết định tài chính quan trọng (như quyết định đầu tư trong nước và

đầu tư quốc tế), nhà quản trị đã không ra quyết định tài chính kịp thời, làm

cho năng lực hoạt động của VNPT chưa tương xứng với tiềm năng của VNPT

hiện có. Vì thế, để năng lực hoạt động hiện tại tương xứng với tiềm năng, Tập

151

đoàn VNPT cần chú trọng hơn nữa về tính kịp thời của hệ thống thông tin

kinh tế để ra quyết định tài chính đúng đắn nhằm đem lại hiệu quả hoạt động

cao nhất cho Tập đoàn VNPT.

2.2.2.4 Thực trạng về công cụ cấu thành hệ thống thông tin.

 Thực trạng phương tiện hỗ trợ cấu thành HTTT

 Con người:

Để tồn tại và phát triển trong thế giới cạnh tranh ngày càng gay gắt,

mỗi tổ chức phải thường xuyên cải tiến hiệu quả kinh doanh của mình thể

hiện qua kết quả hoàn thành công việc của từng cá nhân và toàn tổ chức –

Nguồn nhân lực - đó chính là chìa khoá để đạt được lợi thế cạnh tranh trên thị

trường. Những năm vừa qua Tập đoàn VNPT có nguồn nhân lực dồi dào,

trình độ học vấn cao ( 253 tiến sĩ, 1878 Thạc sĩ, 22.146 Cử nhân Đại học,

5.283 Cử nhân Cao đẳng, 6.440 có trình độ khác), và tuổi đời chủ yếu từ 31 -

40 (chiếm 43,76%); với nguồn nhân lực có tuổi đời và trình độ cao như thế

nên hệ thống thông tin kinh tế của những năm qua ở Tập đoàn VNPT đã được

tổ chức thu thập, cung cấp một cách chuyên nghiệp, bài bản nhằm phục vụ ra

quyết định tài chính, giúp cho nhà quản trị ra quyết định tài chính được đúng

đắn hơn, cụ thể:

 Bộ phận nhân sự phụ trách khâu thu thập thông tin: nhiệm vụ chính của

bộ phần này là tiến hành thu thập thông tin, phân loại thông tin thành:

-Thông tin quá khứ, thông tin hiện tại, và thông tin tương lai.

-Thông tin vi mô và thông tin vĩ mô.

-Thông tin bên trong và thông tin bên ngoài tập đoàn.

 Bộ phận nhân sự phụ trách khâu xử lý thông tin: tiến hành xử lý những

thông tin đã được thu thập và phân loại nhằm loại bỏ những thông tin

không tin cậy, không phù hợp, không chính xác, không kịp thời để

152

chọn ra những thông tin tốt phục vụ cho việc ra quyết định tài chính

được đúng đắn hơn.

 Bộ phận nhân sự phụ trách khâu phân tích và đánh giá thông tin: sau

khi thông tin được xử lý thì bộ phận nhân sự phụ trách khâu phân tích

và đánh giá thông tin tiến hành dự báo diễn biến của môi trường kinh

doanh để phân tích mặt mạnh, yếu, cơ hội, thách thức của tập đoàn.

 Để thực hiện được những vấn đề trên, đòi hỏi những bộ phận nhân sự

này phải có trình độ chuyên môn cao, nhanh nhạy trong việc nắm bắt,

xử lý, phân tích và đánh giá thông tin để thông tin khi được cung cấp

cho nhà quản trị phải đảm bảo được tính tin cậy, chính xác, đầy đủ, kịp

thời, và phù hợp.

 Những nhà quản trị tài chính: sau khi tiếp nhận những thông tin đã

được xử lý cùng với những mặt mạnh, yếu, cơ hội, thách thức của tập

đoàn, nhà quản trị tài chính tiến hành đề ra phản ứng chiến lược và lựa

chọn quyết định tài chính tối ưu đem lại khả năng tối đa hóa giá trị cho

tập đoàn.

Từ thực trạng trên, cho thấy trong thời gian qua nguồn nhân sự của tập

đoàn VNPT có vai trò tiên quyết trong sự thành công hay thất bại của Tập

đoàn, Tập đoàn VNPT đã có được nguồn nhân sự giỏi, năng động, nhiệt tình

nên việc thu thập, xử lý, đánh giá thông tin được chính xác hơn, bộ phận nhân

sự này đã cung cấp cho nhà quản trị tài chính được những thông tin tốt, giúp

nhà quản trị tài chính thuận lợi trong việc lựa chọn quyết định đưa lại khả

năng tối đa hóa sinh lời đồng thời tối thiểu hóa rủi ro cho chủ sở hữu tập

đoàn, vì thế mà Tập đoàn đã ra được quyết định tài chính được đúng đắn giúp

Tập đoàn tăng trưởng và phát triển ở những năm vừa qua.

 Máy vi tính: Qua kết quả khảo sát có 92/92 phiếu đánh giá máy vi

tính của Tập đoàn Bưu chính – Viễn thông VNPT phục vụ cho nhà quản trị sử

153

dụng hệ thống thông tin kinh tế nhằm ra các quyết định tài chính có tính chất

hiện đại. Thật vậy, ngành viễn thông là ngành công nghệ điện tử, nên máy vi

tính được trang bị trong Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông Việt Nam VNPT

được xếp vào dạng hiện đại, dễ sử dụng, truyền đạt thông tin nhanh và có tính

bảo mật cao, đáp ứng được nhu cầu cần thiết phục vụ cho chuyên môn của tất

cả các thành viên trong Tập đoàn; với tính năng công nghệ cao, các máy vi

tính này giúp cho nhà quản trị ra các quyết định tài chính và triễn khai thực

hiện các quyết định này được thông suốt từ trên xuống dưới, và ngược lại, hệ

thống máy vi tính luôn đảm bảo thông tin thông suốt, hỗ trợ tích cực cho việc

phản hồi kịp thời thông tin về hiệu quả của các quyết định tài chính, nhằm

giúp cho nhà quản trị điều chỉnh các quyết định tài chính kịp thời, thực hiện

các mục tiêu của nhà quản trị tài chính một cách hiệu quả nhằm nâng cao hiệu

quả hoạt động của Tập đoàn.

 Phần mềm: Phần mềm hỗ trợ nghiệp vụ ngành viễn thông thường

xuyên được nâng cấp để đảm bảo tính truy cập nhanh, ổn định và bảo mật,

phù hợp, dễ sử dụng tương thích với trình độ nhân sự của Tập đoàn. Phần

mềm chủ yếu được triển khai sử dụng trong tập đoàn VNPT chủ yếu là hệ

thống phân tích dữ liệu Big Data có các đặc trưng: xử lý Tập dữ liệu khổng lồ,

tốc độ phát sinh dữ liệu nhanh, thông tin dữ liệu đa dạng, Big Data được dùng

làm cơ sở để xây dựng hệ thống thông tin của Tập đoàn, Big Data tích hợp cả

hai hệ thống: tài chính, và kế toán.

Kết quả khảo sát về tính tương thích, phù hợp của phần mềm được sử

dụng trong Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông VNPT như sau: 11/92 phiếu

khảo sát đánh giá phần mềm rất phù hợp với trình độ nguồn nhân sự trong

Tập đoàn, 13/92 phiếu đánh giá khá phù hợp, 52/92 phiếu đánh giá phù hợp,

9/92 phiếu đánh giá hơi phù hợp, và 7/92 phiếu đánh giá không phù hợp.

154

Kết quả khảo sát cho thấy hầu hết phần mềm của máy tính ứng dụng

trong ngành viễn thông có tính phù hợp cao, vì phần lớn phần mềm đều có

giao diện dể sử dụng, cập nhật dữ liệu linh hoạt, hệ thống báo cáo đa dạng,

đáp ứng nhiều nhu cầu quản lý của Tập đoàn. Đặc biệt, phần mềm cho phép

tạo nhiều cơ sở dữ liệu, có tính năng hỗ trợ chuyên môn cao, khả năng bảo

mật lớn, đáp ứng tốt nhu cầu thông tin liên lạc, đảm bảo thông tin thông suốt

… làm tăng khả năng cạnh tranh của Tập đoàn. Tuy nhiên, có 9/92 phiếu

khảo sát đánh giá phần mềm hơi phù hợp, và 7/92 phiếu đánh giá không phù

hợp với trình độ nguồn nhân sự trong Tập đoàn, nguyên nhân này là do lực

lượng lao động trong lĩnh vực công nghệ thông tin của Tập đoàn Bưu chính –

Viễn thông VNPT còn thiếu, trong quá trình tái cấu trúc xuất hiện những yêu

cầu mới trong việc triễn khai và ứng dụng các công cụ phần mềm phục vụ ra

các quyết định tài chính. Hệ thống dữ liệu, phần mềm phục vụ công tác ra

quyết định tài chính chưa được đồng bộ, chưa được đầy đủ, gây khó khăn cho

quá trình ra quyết định tài chính của VNPT.

 Internet: Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông Việt Nam VNPT là một

trong những ngành có uy tín cao trong việc cung cấp mạng internet trên toàn

quốc, vì thế hầu như bất cứ bộ phận nào của tập đoàn cũng đều được trang bị

internet để hỗ trợ truy cập thông tin nhanh chóng, giúp cho nhà quản trị tài

chính nắm bắt được thông tin mọi lúc, mọi nơi nhằm hỗ trợ công việc ra quyết

định tài chính được thuận lợi và nhanh chóng hơn, giảm thiểu được thời gian

chết do chờ đợi thông tin, góp phần nâng cao hiệu quả quyết định. Với tác

dụng đó, internet đã giúp các bộ phận quản lý của Tập đoàn Bưu chính - Viễn

thông Việt Nam VNPT tiến hành phân tích, đánh giá các thông tin kinh tế

thông qua sử dụng phần mềm Big Data để ra các quyết định tài chính một

cách nhanh chóng, hiệu quả.

155

 Mạng nội bộ: Kết quả khảo sát về việc sử dụng mạng nội bộ thay thế

mạng internet của Tập đoàn VNPT như sau: 92/92 phiếu khảo sát đánh giá

đều có sử dụng mạng nội bộ để tăng tính bảo mật thông tin trong Tập đoàn.

Thực vậy, ngoài Internet, Tập đoàn VNPT còn trang bị sử dụng thêm

mạng nội bộ để nâng cao tính bảo mật thông tin, nghĩa là chỉ có những thành

viên trong Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông Việt Nam mới được phân quyền

sử dụng mạng nội bộ này, bất kể một thành viên nào khác ngoài Tập đoàn

cũng đều không vào được mạng nội bộ để truy cập thông tin. Đây là một cải

tiến lớn trong việc quản lý thông tin của Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông

Việt Nam VNPT.

Tác dụng của phương tiện hỗ trợ cấu thành hệ thống thông tin

kinh tế tới việc ra quyết định tài chính của VNPT

Thực tế ta thấy, khi tập đoàn Bưu chính - Viễn thông Việt Nam VNPT

hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế thông qua việc sử dụng các phương tiện

hỗ trợ cấu thành hệ thống thông tin kinh tế như nguồn nhân lực, máy vi tính,

Internet, phần mềm, nhằm phục vụ ra quyết định tài chính có tác dụng sau

đây:

- Giúp cho nhà quản trị ra quyết định tài chính có hiệu quả nhanh chóng, cụ thể: phần mềm và internet có vai trò to lớn trong việc

truyền tải thông tin và phân loại thông tin, hợp nhất hai hệ thống:

tài chính, và kế toán trên cùng một giao diện giúp nhà quản trị tài

chính nhận diện thông tin rõ ràng hơn, chính xác hơn, từ đó thuận

lợi cho việc đơn giản hóa quy trình ra quyết định tài chính; vì thế,

sẽ giúp cho nhà quản trị của Tập đoàn ra quyết định tài chính được

nhanh chóng hơn và đúng đắn hơn.

- Giúp cho nhà quản trị VNPT cải tiến được quy trình ra quyết định

được tốt hơn, cụ thể là rút ngắn thời gian dành cho việc đánh giá,

156

phân tích một thông tin giảm xuống, thúc đẩy quá trình ra quyết

định sẽ nhanh hơn.

- Giúp nhà quản trị VNPT triển khai các quyết định tài chính được

nhanh chóng hơn thông qua sử dụng phầm mềm Big Data, vì thế

Big Data có tác dụng góp phần làm gia tăng tiện ích cho nhà quản

trị. Từ tác dụng này nhà quản trị thấy cần thiết phải chọn lựa quyết

định tài chính nào sao cho phù hợp với tình hình tài chính của Tập

đoàn; hay nói cách khác phầm mềm Big Data có tác dụng cung

cấp thông tin nhanh chóng nhằm giúp nhà quản trị ra các quyết

định tài chính có hiệu quả hơn.

2.3 ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ THỰC TRẠNG HỆ THỐNG THÔNG

TIN KINH TẾ PHỤC VỤ CHO VIỆC RA QUYẾT ĐỊNH TÀI CHÍNH CỦA

TẬP ĐOÀN BƯU CHÍNH - VIỄN THÔNG VIỆT NAM VNPT.

Bất cứ một quá trình nào, lĩnh vực nào mà con người tham gia vào cũng

tạo ra những biến đổi nhất định; muốn biết những biến đổi đó diễn ra ở mức

độ nào thì cần phải đánh giá. Theo C.E.Beeby (1997): “Đánh giá là sự thu

thập và lý giải một cách có hệ thống những bằng chứng dẫn đến sự phán xét

về giá trị theo quan điểm hành động”; theo P.E.Griffin (1996): “Đánh giá là

đưa ra phán quyết về giá trị của một sự kiện, nó bao hàm việc thu thập thông

tin sử dụng trong việc đánh giá của một chương trình, một sản phẩm, một tiến

trình, mục tiêu hay tiềm năng ứng dụng của một cách thức đưa ra nhằm mục

đích nhất định”; hay theo R.Tiler (1984): “Quá trình đánh giá chủ yếu là quá

trình xác định mức độ thực hiện các mục tiêu”.[12]

Qua phân tích thực trạng về hoàn thiện và sử dụng hệ thống thông tin

kinh tế của Tập đoàn Bưu chính – Viễn thông Việt Nam VNPT ở phần 2.2,

tác giả nhận thấy:

157

 Điểm mạnh của hệ thống thông tin kinh tế của Tập đoàn Bưu chính -

Viễn thông Việt Nam VNPT: hệ thống thông tin kinh tế được xem là yếu tố

rất quan trọng trong việc ra quyết định tài chính của Tập đoàn, đó chính là

những thông tin kinh tế vĩ mô, thông tin kinh tế vi mô; thông tin kinh tế bên

trong, thông tin kinh tế bên ngoài Tập đoàn…. Những thông tin kinh tế này đã

được thu thập từ nguồn cung cấp thông tin rất đáng tin cậy từ bên trong và

bên ngoài VNPT. Mặt khác, hệ thống thông tin kinh tế này đã được xử lý,

phân loại, đánh giá để đảm bảo đầy đủ tính chất của một hệ thống thông tin

tốt trước khi cung cấp cho những nhà quản trị cấp chiến lược, cấp chiến thuật,

và cấp tác nghiệp. Trong thời gian vừa qua, Tập đoàn VNPT có được hệ

thống thông tin kinh tế tốt nên hệ thống thông tin kinh tế này đã hỗ trợ VNPT:

1.Thu thập thông tin nhanh chóng, có độ chính xác và phù hợp cao; 2. Hệ

thống thông tin kinh tế đã giúp nhà quản trị đưa ra các quyết định tài chính

đúng đắn, phù hợp với tình hình tài chính của tập đoàn; 3. Hiệu quả các quyết

định tài chính được đánh giá cao ; 4.Có được tình hình tài chính ổn định với

tỷ suất lợi nhuận thuần liên tục tăng trong các năm qua và nợ phải thu không

cao.

 Điểm yếu của hệ thống thông tin kinh tế của Tập đoàn Bưu chính -

Viễn thông VNPT: Mặt dù hệ thống thông tin kinh tế đã được xây dựng từ

lâu, nhưng mức độ hoàn thiện hệ thống vẫn chưa cao. Cụ thể, thời gian tiếp

nhận thông tin tuy có đúng lúc, thông tin được cung cấp để phục vụ ra các

quyết định tài chính tuy có phù hợp, nhưng tiến độ ra các quyết định tài chính

vẫn chưa kịp thời do độ trễ của thời gian cung cấp thông tin, do sự chủ quan

chậm trễ của nhà quản trị… đã làm mất đi nhiều cơ hội đầu tư của VNPT;

bằng chứng là:

 VNPT ra đời từ lâu nhưng số lượng trạm phát sóng trong

nước tăng không đáng kể so với đối thủ cạnh tranh cùng ngành

158

(Viettel), đặc biệt là các vùng phủ sóng ở khu vực nông thôn

không mạnh bằng đối thủ; việc đầu tư ra nước ngoài VNPT cũng

chậm chân hơn Viettel một bước làm cho khả năng cạnh tranh

của VNPT bị giảm sút so với đối thủ cùng ngành có tuổi đời còn

non trẻ hơn nhiều VNPT;

 Chính sách giá cạnh tranh không chênh lệch nhiều so với

đối thủ, chưa tạo sự khác biệt chính sách giá, vì thế khách hàng

chưa nhận diện được sự khác biệt này để ưu tiên sử dụng dịch vụ

viễn thông của VNPT;

 Về đầu tư kênh phân phối: VNPT chưa đẩy mạnh đầu tư

kênh phân phối, cụ thể hình ảnh biểu hiện của VNPT còn yếu ở

ngay thị trường trong nước và ở cả thị trường nước ngoài; hệ

thống kênh phân phối chưa được tổ chức bài bản và quản trị theo

một mô hình thống nhất trong toàn tập đoàn;

 Về hệ thống công nghệ thông tin: hệ thống phân tích dữ

liệu, báo cáo số liệu còn hạn chế; thiếu chương trình tin học hỗ

trợ ra quyết định tài chính, thiếu các hệ thống đáp ứng đa dạng

nhu cầu thông tin cung cấp cho nhà quản trị;

 Về nguồn lực tài chính: còn hạn chế

 Khó khăn: Hệ thống thông tin kinh tế chưa thể hiện hết mặt tích cực là

do còn vướng phải một số khó khăn khi hoàn thiện hệ thống, đó là: VNPT

vừa mới tái cơ cấu bộ máy Tập đoàn nên phần mềm chưa được hoàn thiện;

đầu tư về TSCĐ còn yếu cụ thể như cơ sở vật chất truyền dẫn chưa có đủ và

vẫn phải đi thuê; thị trường biến động thường xuyên nên thông tin kinh tế

được cung cấp thường xuyên biến động theo, vì thế nhà quản trị phải linh hoạt

điều chỉnh các quyết định tài chính để đáp ứng kịp thời sự thay đổi của thị

trường.

159

Qua phân tích hiện trạng ở phần trên, ta thấy Tập đoàn Bưu chính -

Viễn thông Việt Nam VNPT sử dụng đầy đủ các thông tin kinh tế để phục vụ

ra các quyết định tài chính theo dạng thông tin kết hợp, để thấy rõ hơn việc sử

dụng thông tin kết hợp ra quyết định tài chính như thế nào, ta xem sơ đồ sau

đây:

Sơ đồ 2.3: Sơ đồ sử dụng thông tin kết hợp để ra quyết định tài chính

Kênh thông tin độc lập bên ngoài Tập đoàn Kênh thông tin trực tiếp nội bộ Tập đoàn

Quyết định tài chính ở cấp chiến lược

Quyết định tài chính ở cấp chiến thuật

Quyết định tài chính ở cấp tác nghiệp

Mặt khác cho thấy, dù hệ thống thông tin kinh tế của VNPT đã được lập,

nhưng hầu như những thông tin do các nhà quản lý thu thập, tiếp nhận, sử

dụng đều chưa được đồng bộ, còn rời rạc và đôi khi chệch choạt nhau, dẫn

đến kết quả hoạt động kinh doanh tuy có hiệu quả nhưng chưa hẵn tối ưu do

sự không đồng bộ của các thông tin kinh tế được tiếp nhận. Cụ thể, các thông

tin kinh tế từ những nhà quản trị cấp chiến thuật triễn khai xuống cấp tác

nghiệp không cùng thời gian, mỗi nơi thực hiện mỗi cách, có nơi nhanh có

160

nơi chậm, có nơi sử dụng phần mềm tin học triễn khai thực hiện các quyết

định tài chính tốt, có nơi chưa tốt, cụ thể: có nơi thực hiện quyết định đầu tư

mạnh (như đầu tư nhà trạm, đầu tư kênh phân phối…) nên giành được thị

trường, có nơi thực hiện quyết định đầu tư yếu để thị trường bị mất về tay đối

thủ…

Hiệu quả hoạt động của tập đoàn VNPT trong những năm vừa qua đạt

được chưa tương xứng với tiềm năng sẵn có, nguyên nhân chính là do thông

tin chưa được đánh giá đúng, thông tin chưa được xử lý kịp thời, cụ thể như

thông tin về thị trường ở khu vực nông thôn những năm trước đây còn đang

bỏ ngõ, nhưng VNPT vẫn không nhanh chóng đầu tư, đến khi Viettel đầu tư

vảo vùng thị trường này thì VNPT mới giật mình thì đã khá muộn vì thị phần

bị mất quá lớn. Mặt khác VNPT chưa chú trọng thông tin về nhân sự, cụ thể

như chính sách phân phối lợi nhuận còn mang tính chất cào bằng, chưa phản

ánh năng suất của người lao động nên chưa giữ chân người lao động có chất

lượng cao; vì thế, nhân viên VNPT có tâm lý chung là “làm hết giờ” chứ

không phải “làm hết việc” nên dẫn đến chất lượng lao động chưa cao, dẫn đến

hiệu quả hoạt động thấp là điều tất nhiên; song song đó Viettel đã thực hiện

chính sách phân phối lợi nhuận theo cơ chế khoán thu nhập đã thúc đẩy cho

Viettel thu hút được người tài từ VNPT, Viettel chủ động sử dụng nguồn nhân

lực tốt góp phần làm cho hiệu quả hoạt động tăng lên. Cụ thể năm 2015 thu

nhập bình quân của 1 nhân viên VNPT gần 10 triệu đồng, bên cạnh đó thu

nhập bình quân của 1 nhân viên Vietel gần 24 triệu đồng. Chính sách phân

phối lợi nhuận theo cơ chế khoán của Vietel đã thúc đẩy nhân viên nâng cao

năng suất lao động, thúc đẩy hiệu quả hoạt động tăng cao. Bên cạnh đó,

những năm đầu đi vào hoạt động, VNPT còn đánh giá thấp đối thủ do thông

tin về đối thủ không nhiểu, do thông tin bất cân xứng về đối thủ nên VNPT đã

đưa ra chiến lược kinh doanh sai lầm (VNPT chú trọng vào khách hàng ở

161

thành thị hơn ở nông thôn). Để giành thị phần ở nông thôn (do thị phần phần

ở các thành phố lớn đã bị VNPT chiếm giữ), Viettel thực hiện chiến lược

“Nông thôn bao vây thành thị”; nghĩa là Viettel đầu tư mạnh ở nông thôn, đưa

việc sử dụng dịch vụ điện thoại di động xa xỉ trở thành thứ bình dân để mọi

người đều dùng được nhằm khai thác thị trường nông thôn là thị trường có thu

nhập thấp; nước ta là nước nông nghiệp, nông dân chiếm hơn 80% dân số,

Viettel đã khai thác triệt để thông tin trên, vì thế Viettel thành công ở thị

trường này. Trong khi đó, VNPT dù ra đời rất lâu, nhưng thị phần chủ yếu

đánh vào các thành phố lớn (vì nơi đây đông dân cư, chi phí xây dựng cơ sở

hạ tầng thấp, công suất khai thác của nhà mạng cao), VNPT đã bỏ ngỏ vùng

nông thôn và đã bị mất thị trường này; chính vì chiến lược đầu tư sai lầm này

do đánh giá thấp thông tin khách hàng nông thôn, nên việc gia tăng doanh thu,

gia tăng thị phần qua các năm của VNPT là một việc làm rất khó khăn, (hậu

quả là hiện nay doanh thu của Vietel đã vượt qua doanh thu của VNPT khá

xa). Sau khi Viettel đã thành công tại nông thôn, VNPT mới triển khai phát

triển thị trường ở nông thôn; VNPT đã chậm chân hơn Viettel gần hai năm để

khai thác thị trường này, vì thế thị phần của VNPT tăng chậm hơn thị phần

của Viettel là điều tất nhiên, nên hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của

VNPT thấp hơn của Vietel là điều không tránh khỏi.

2.3.1 Những kết quả đạt được đối với hệ thống thông tin kinh tế nhằm

phục vụ cho việc ra quyết định tài chính của VNPT.

- Thông tin được sử dụng trong Tập đoàn VNPT là thông tin hai chiều,

quyết định tài chính được ban ra từ trên xuống, và được phản ánh kịp thời từ

dưới lên nên mọi hoạt động thực hiện quyết định tài chính đều được thống

nhất kịp thời.

- Thông tin được thu thập, xử lý, phân tích, cung cấp kịp thời cho nhà

quản trị ra quyết định tài chính, và nhờ thông tin được thông suốt nên quá

162

trình triển khai thực hiện những quyết định tài chính được thuận lợi, nhanh

chóng hơn, điều này thể hiện được tính phù hợp của thông tin.

Đạt được những kết quả trên là do Tập đoàn Bưu chính – Viễn thông

VNPT có được một hệ thống thông tin tốt, nhờ hệ thống thông tin được xuyên

suốt này nên nhiều chính sách tài chính được triển khai đồng bộ, tạo động lực

cho Tập đoàn hoạt động ngày càng có hiệu quả. Cụ thể, năm 2015 là năm Tập

đoàn VNPT triển khai được một khối lượng công việc lớn trong lộ trình thực

hiện đề án tái cơ cấu; bên cạnh việc tiếp tục hoàn thiện những mắc xích quan

trọng trong mô hình tổ chức thông tin (như giảm độ trễ thời gian của thông tin

để thông tin cung cấp được kịp thời sẽ có mức độ phù hợp cao hơn), VNPT

kịp thời hoàn thiện hệ thống thông tin, thông tin được thông suốt phục vụ tốt

cho việc đổi mới công tác quản trị tài chính, tạo điều kiện thuận lợi cho việc

áp dụng đồng bộ các công cụ quản trị tài chính hiện đại giúp cho việc ra quyết

định tài chính được nhanh chóng, kịp thời và đúng đắn hơn. Điều này được

thể hiện ở hiệu quả đầu tư năm 2015 của VNPT như sau: Tổng nộp ngân sách

nhà nước năm 2015 của Tập đoàn VNPT đạt 3.555 tỷ đồng, đạt 114,7% kế

hoạch; tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu năm 2015 hoàn thành 113,8% kế

hoạch do Bộ Thông tin và Truyền thông giao.

Tóm lại: Để đạt được những kết quả nói trên, Tập đoàn VNPT đã ứng

dụng mạnh hệ thống thông tin kinh tế vào việc ra quyết định tài chính; đặc

biệt là trong quá trình đầu tư theo mô hình 3 tổng công ty, nhờ hệ thống thông

tin được xuyên suốt nên Tập đoàn đã duy trì ổn định thực hiện các quyết định

tài chính, tạo động lực cho cho Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông Việt Nam

phát huy hiệu quả.

2.3.2 Những hạn chế đối với hệ thống thông tin kinh tế nhằm phục vụ cho

việc ra quyết định tài chính của Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông Việt

Nam VNPT.

163

Ai cũng biết thông tin là một nhân tố quan trọng trong hoạt động quản lí,

là công cụ không thể thiếu để lãnh đạo, điều hành và kiểm soát mọi hoạt động

của các nhà quản trị tài chính trong Tập đoàn. Nhà quản trị Tập đoàn chỉ có

thể ra quyết định tài chính đúng đắn, đem lại hiệu quả cao chỉ khi họ nắm

được thông tin chính xác, đầy đủ và kịp thời về tình hình tài chính, thị trường,

đối tác kinh doanh, luật pháp…sự thiếu thông tin hoặc thông tin không chính

xác sẽ dễ dẫn đến nhà quản trị tài chính ra quyết định sai lầm, rủi ro xuất hiện.

Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông Việt

Nam VNPT tuy có xây dựng hệ thống thông tin kinh tế nhằm phục vụ cho

việc ra quyết định tài chính nhưng hệ thống thông tin kinh tế này vẫn chưa

hoàn thiện, cụ thể:

- Thông tin kinh tế được cung cấp cho nhà quản trị cấp chiến lược nhằm

phục vụ cho việc ra quyết định tài chính dù là thông tin hai chiều, nhưng vẫn

còn mang tính chất đại trà, phổ biến, chưa manh tính đột phá; vì thế quyết

định đầu tư, quyết định huy động vốn của VNPT chưa có sự chuyển biến

đáng kể.

- Dù đã xây dựng hệ thống thông tin, nhưng do thông tin kinh tế quá

phức tạp, và thường xuyên thay đổi, nên làm cho nhà quản trị tài chính của

Tập đoàn gặp khó khăn trong việc nắm bắt thông tin kịp thời, làm cho việc ra

quyết định tài chính có thể bị chồng chéo lên nhau hoặc có thể bị thiếu sót.

- Nguồn thông tin được cung cấp để hình thành nên hệ thống thông tin có

thể không đồng bộ, nơi cung cấp sớm, nơi cung cấp muộn làm cho tính phù

hợp của thông tin bị giảm xuống, dẫn đến việc ra quyết định tài chính có thể

bị chệch choạt, hiệu quả của quyết định không cao.

Tóm lại, những hạn chế trên đã ảnh hưởng đến tiến độ cung cấp thông

tin, gây khó khăn cho quá trình ra quyết định đầu tư, quyết định huy động

vốn, cũng như quyết định phân phối lợi nhuận. Vì thế VNPT cần phải chú

164

trọng đến sự hoàn thiện của hệ thống thông tin hơn nữa để khắc phục những

nhược điểm trên, để VNPT khẳng định được vị thế của một Tập đoàn kinh tế

chủ lực.

Kết luận chương 2:

Thông qua nghiên cứu thực trạng về hệ thống thông tin kinh tế nhằm

phục vụ cho việc ra quyết định tài chính của Tập đoàn Bưu chính – Viễn

thông Việt Nam, ta thấy:

 Hệ thống thông tin kinh tế được xem là yếu tố rất quan trọng trong việc

ra quyết định tài chính của Tập đoàn, những thông tin kinh tế này đã

được thu thập từ nguồn cung cấp thông tin rất đáng tin cậy từ bên trong

và bên ngoài VNPT. Hệ thống thông tin kinh tế đã được xử lý, phân

loại, đánh giá để đảm bảo đầy đủ tính chất của một hệ thống thông tin

tốt trước khi cung cấp cho những nhà quản trị cấp chiến lược, cấp chiến

thuật, và cấp tác nghiệp.

 Thông tin được sử dụng trong Tập đoàn VNPT là thông tin hai chiều,

quyết định tài chính được ban ra từ trên xuống, và được phản ánh kịp

thời từ dưới lên nên mọi hoạt động thực hiện quyết định tài chính đều

được thống nhất kịp thời.

 Thông tin được thu thập, xử lý, phân tích, cung cấp kịp thời cho nhà

quản trị ra quyết định tài chính, và nhờ thông tin được thông suốt nên

quá trình triển khai thực hiện những quyết định tài chính được thuận

lợi, nhanh chóng hơn, điều này thể hiện được tính phù hợp của thông

tin.

 Tuy nhiên, mức độ hoàn thiện hệ thống vẫn chưa cao. Cụ thể, thời gian

tiếp nhận thông tin tuy có đúng lúc, thông tin được cung cấp để phục vụ

ra các quyết định tài chính tuy có phù hợp, nhưng tiến độ ra các quyết

định tài chính vẫn chưa kịp thời do độ trễ của thời gian cung cấp thông

165

tin, do sự chủ quan chậm trễ của nhà quản trị… đã làm mất đi nhiều cơ

hội đầu tư của VNPT.

 Hệ thống thông tin kinh tế chưa thể hiện hết mặt tích cực, do thời gian

vừa qua VNPT tiến hành tái cơ cấu bộ máy Tập đoàn nên phần mềm

chưa được hoàn thiện; đầu tư về TSCĐ còn yếu cụ thể như cơ sở vật

chất truyền dẫn chưa có đủ và vẫn phải đi thuê; thị trường biến động

thường xuyên nên thông tin kinh tế được cung cấp thường xuyên biến

động theo, vì thế nhà quản trị phải linh hoạt điều chỉnh các quyết định

tài chính để đáp ứng kịp thời sự thay đổi của thị trường.

 Hệ thống thông tin sử dụng chưa được đồng bộ, còn rời rạc và đôi khi

chệch choạt nhau, dẫn đến kết quả hoạt động kinh doanh tuy có hiệu

quả nhưng chưa hẵn tối ưu do sự không đồng bộ của các thông tin kinh

tế được tiếp nhận.

 Hiệu quả hoạt động của tập đoàn VNPT trong những năm vừa qua đạt

được chưa tương xứng với tiềm năng sẵn có, nguyên nhân chính là do

thông tin chưa được đánh giá đúng, thông tin chưa được xử lý kịp thời.

166

Chương 3

HOÀN THIỆN HỆ THỐNG THÔNG TIN KINH TẾ NHẰM

PHỤC VỤ CHO VIỆC RA QUYẾT ĐỊNH TÀI CHÍNH CỦA

TẬP ĐOÀN BƯU CHÍNH - VIỄN THÔNG VNPT

3.1 ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA VNPT TRONG THỜI GIAN TỚI

3.1.1 Mục tiêu phát triển của VNPT trong thời gian tới (đến năm 2020).

Mục tiêu chung:

1. Đầu tư, xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng viễn thông hiện đại, an

toàn có dung lượng lớn, tốc độ cao, vùng phủ sóng rộng đến mọi vùng trên

đất nước.

2. Tăng cường đầu tư phát triển các dịch vụ ứng dụng viễn thông, trên cơ

sở hạ tầng viễn thông được xây dựng nhằm phát huy tối đa sự hội tụ của công

nghệ và dịch vụ.

3. Ưu tiên đầu tư áp dụng các công nghệ viễn thông tiên tiến, hiện đại, tiết

kiệm năng lượng, thân thiện với môi trường và sử dụng hiệu quả viễn thông.

4. Bảo đảm đầu tư an toàn cơ sở hạ tầng viễn thông và an ninh thông tin

cho các hoạt động ứng dụng viễn thông, công nghệ thông tin, đặc biệt là trong

việc thúc đẩy phát triển thương mại điện tử.

Các chỉ tiêu phát triển đến năm 2020:

A. Tăng cường đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng trong nước, được thể hiện qua

các chỉ tiêu sau:

1. Tỷ lệ đường dây thuê bao cố định 20-25 đường/100 dân; tỷ lệ thuê bao

Internet băng rộng cố định 15-20 thuê bao/100 dân; tỷ lệ thuê bao băng rộng

di động 35-40 thuê bao/100 dân;

2. Tỷ lệ hộ gia đình có điện thoại cố định 40-45%; tỷ lệ hộ gia đình có

truy cập Internet 35-40%; tỷ lệ người sử dụng Internet 55-60%;

3. Phủ sóng thông tin di động đến trên 95% dân số cả nước;

167

4. 100% các xã có điểm cung cấp dịch vụ viễn thông công cộng được kết

nối Internet băng rộng; tốc độ tăng trưởng viễn thông đạt khoảng 1,2-1,5 lần

tốc độ tăng trưởng GDP;

B. Tăng cường đầu tư quốc tế

Tập đoàn VNPT đẩy mạnh và thực hiện nhiệm vụ đầu tư, kinh doanh ở

thị trường nước ngoài phát triển hơn nữa trong năm 2017 và những năm tiếp

theo, cụ thể tiếp tục đẩy mạnh hoạt động của các Văn phòng Đại điện tại

Campuchia, Myanmar, Lào, thỏa thuận thành lập Công ty liên doanh tại

Myanmar đã được ký kết. Xa hơn nữa, VNPT hướng tới mục tiêu trở thành 1

trang 10 hãng viễn thông lớn nhất châu Á.

Để thực hiện mục tiêu trên một cách cụ thể, ta xem bảng kế hoạch đầu

tư - doanh thu đến năm 2020 của Tập đoàn VNPT như sau:

Bảng 3.1: Kế hoạch đầu tư - doanh thu đến năm 2020 của VNPT

Chỉ tiêu 2015 2016 2017 2018 2019 2020

Số lượng mạng 1 1 1 2 2 3

dự kiến tiến

hành đầu tư

tăng thêm ở

nước ngoài

Tổng DT (tỷ 41.824 48.139 54542 75.159 99.661 114.709

đồng)

% tăng DT 9,7% 15,1% 13,3% 37,8% 32,6% 15,1%

Trong đó: DV 33.459 38.511 43.634 60.127 79.729 91.767

viễn thông

truyền thống

Nguồn: chiến lược đầu tư 2016 -2020 của VNPT

Để đạt được mục tiêu đầu tư - doanh thu như trong bảng 3.1, thì mục tiêu

cụ thể của Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông Việt Nam VNPT đó là:

168

d. Chuyển đổi mô hình tập đoàn: Từ mô hình tập đoàn kinh tế với

mảng kinh doanh và mảng kỹ thuật chung do một nhà lãnh đạo

điều hành đã chuyển sang mô hình mảng kinh doanh riêng và

mảng kỹ thuật riêng; mô hình mới này giúp cho nhà quản trị ra

quyết định tài chính được thuận lợi hơn, thể hiện qua việc vốn

huy động được sử dụng đúng mục tiêu hơn, hiệu quả sử dụng

vốn sẽ cao hơn; cụ thể trước đây do hai mãng kinh doanh và kỹ

thuật chung (và nhà lãnh đạo Tập đoàn thường là “dân kỹ

thuật”), nên nhà quản trị thường thiên đầu tư vào kỹ thuật hơn là

đầu tư vào kinh doanh, và thị trường không được chú trọng, vì

thế thị phần của Tập đoàn VNPT tăng không đáng kể ở những

năm qua; hiện nay mô hình Tập đoàn mới được chuyển đổi, hai

mãng kinh doanh và kỹ thuật được tách riêng độc lập, mục đích

là để phát huy lợi thế riêng từng mảng, mô hình mới này sẽ tiếp

tục được duy trì và ngày càng phát huy thế mạnh trong những

năm tới; ở mô hình mới này nhà quản trị sẽ có tầm nhìn khách

quan hơn trong việc đầu tư vào kỹ thuật và đầu tư để phát triển

thị trường, hạn chế lãng phí vốn do nguồn vốn được huy động để

đầu tư sẽ được sử dụng đúng mục tiêu hơn;

e. Phát huy tính sáng tạo trong quyết định đầu tư của Tập đoàn, đó

là Tập đoàn luôn tiên phong trong đầu tư công nghệ mới:“VNPT

luôn đi đầu trong việc chọn lựa đầu tư công nghệ hiện đại để

nâng cao tính cạnh tranh của Tập đoàn” [6];

f. Tăng cường liên kết đầu tư mở rộng ở thị trường nước ngoài thông

qua việc góp vốn với các đối tác: “Hợp tác với các cơ quan quản

lý nhà nước cũng như các đối tác hàng đầu trong và ngoài nước

để gia tăng giá trị, tiện ích cho khách hàng dựa trên nguyên tắc

169

hiệu quả, có lợi và cùng phát triển” [6], nội dung này giúp

VNPT ngày càng nâng cao uy tín thương hiệu;

g. Do VNPT là Tập đoàn kinh tế lớn của Việt Nam, có quy mô vốn

lớn và thị trường mở rộng, có uy tín trong lĩnh vực viễn thông ở

trong nước cũng như trên thế giới, vì thế khả năng thâm nhập thị

trường vốn của Tập đoàn VNPT rất cao, nên VNPT có cơ hội

chọn lựa nguồn vốn huy động có chi phí sử dụng vốn thấp, và là

nguồn tài trợ ổn định để thực hiện chiến lược đầu tư từ 2016 đến

2020 của VNPT; và đây cũng chính là cơ hội để VNPT tăng

cường sử dụng vốn có hiệu quả thông qua việc mở rộng đầu tư ở

thị trường nước ngoài thông qua việc sử dụng nguồn vốn ở bên

ngoài có chi phí sử dụng vốn thấp.

h. Chính sách phân phối lợi nhuận ở những năm tới vẫn không thay

đổi so với những năm đã qua, dù rằng việc đầu tư ra nước ngoài

cần nhiều vốn, nhưng do VNPT có khả năng thâm nhập thị

trường vốn lớn nên việc huy động vốn đối với VNPT khá thuận

lợi, vì thế VNPT vẫn ổn định chính sách phân phối lợi nhuận

nhằm tăng thu nhập thực tế cho người lao động.

Đó là những nội dung thể hiện mục tiêu cụ thể của VNPT trong thời gian

tới, để đánh giá phương hướng thực hiện các mục tiêu trên, ta nghiên cứu các

phương hướng sau đây.

3.1.2 Phương hướng thực hiện mục tiêu của VNPT.

3.1.2.1 Phương hướng chung về tài chính

1. Đầu tư bền vững theo hướng chất lượng vào thị trường viễn thông

nhằm nâng cao tính cạnh tranh của Tập đoàn.

2. Tăng cường huy động vốn để tài trợ cho việc mở rộng đầu tư của

Tập đoàn.

170

3. Ổn định chính sách phân phối lợi nhuận nhằm tăng thu nhập cho

người lao động.

Phương hướng cụ thể

 Về đầu tư:

Khi VNPT tiến hành tái cơ cấu đã tạo ra rất nhiều cơ hội đầu tư nhằm

khuyến khích nội bộ Tập đoàn phải nỗ lực thực hiện kế hoạch đầu tư trong

nước cũng như đầu tư quốc tế, tạo động lực cho Tập đoàn mở rộng thị trường

để trở thành 1 trong 10 hãng viễn thông lớn nhất Châu Á.

Cho dù năm 2014 và 2015, VNPT tiến hành tái cơ cấu nên VNPT có

nhiều thay đổi, nhưng VNPT vẫn giữ được đà tăng trưởng, thể hiện quyết

định về đầu tư của VNPT trong những năm qua là đúng đắn. Với những bước

phát triển của VNPT hiện nay có thể tin tưởng vào tương lai của VNPT với

sức bật mới để xứng đáng là Tập đoàn Viễn thông số 1 của Việt Nam.

Quy luật thị trường sẽ đào thải các đơn vị yếu kém. Vì vậy, VNPT chỉ

còn một con đường duy nhất là phải tiến lên; hiện nay thị trường di động đang

bão hòa, vì thế để tăng sức cạnh tranh, VNPT phải đầu tư mạnh vào thị trường

mới đó là đầu tư vào thị trường nội dung, đầu tư thêm thiết bị mới nhằm phục

vụ việc kết nối các thiết bị thông minh… hiện nay thị trường này vẫn còn

đang bõ ngõ.

Chiến lược đầu tư của VNPT là sẽ phải mở rộng từ việc đầu tư trong

nước sang đầu tư nước ngoài nhằm mở rộng thị trường trên cơ sở hợp tác chặt

chẽ với các đối tác nước ngoài để phát triển mạng lưới hoạt động của VNPT.

Nếu nhìn lịch sử phát triển di động của Việt Nam hơn 20 năm nay cho

thấy đầu tư vào vùng phủ sóng được xem là quyết định đầu tư quan trọng

nhất, đây chính là vũ khí cạnh tranh lợi hại nhất; Thế nhưng, một trong những

hạn chế của VNPT so với các đối thủ khác là VNPT đầu tư chưa mạnh vào

chất lượng vùng phủ sóng; Vậy chiến lược đầu tư của VNPT ra sao để tăng

171

chất lượng vùng phủ sóng, đặc biệt là vùng phủ sóng 3G để tăng sức cạnh

tranh?

Trong năm 2016, VNPT tiến hành tối ưu hóa đầu tư mạng lưới và triển

khai thử nghiệm 4G trên băng tần 3G; và trong năm 2016, VNPT đã đầu tư

xong tại 63 tỉnh/thành phố, đảm bảo chất lượng mạng lưới.

Nếu như trước đây, việc đầu tư đột phá trong vùng phủ sóng 3G rất khó

khăn và tốn kém với băng tần 2100 MHz. Thế nhưng, hiện Bộ TT&TT đã

đồng ý cho VNPT sử dụng băng tần 900 MHz để phủ sóng 4G. Đây là điều

kiện rất thuận lợi để VNPT có thể đầu tư tạo ra sức mạnh đột biến phủ sóng

4G với chi phí thấp và có vùng phủ sóng rộng, VNPT đặt mục tiêu đến tháng

6 năm 2017 sẽ phải đầu tư hoàn thành 8.000 trạm thu phát sóng trên toàn

quốc. Với mức đầu tư này, mạng VNPT sẽ có vùng phủ sóng không thua kém

bất cứ đối thủ nào trên thị trường hiện nay. Khi có vùng phủ sóng tốt cũng là

điều kiện thuận lợi để VNPT tăng sức cạnh tranh và đẩy mạnh các hoạt động

của Tập đoàn Bưu chính – Viễn thông VNPT.

VNPT sẽ chú trọng việc đầu tư hệ thống điểm giao dịch, cửa hàng xuyên

suốt tới tận cấp xã/ phường, đảm bảo hiệu quả tối đa trong cạnh tranh, đầu tư

phát triển kinh doanh trên toàn quốc và từng địa phương

 Về huy động vốn: Tập đoàn Viễn thông VNPT chủ yếu kinh

doanh về lĩnh vực cung cấp dịch vụ viễn thông, nên vòng quay vốn nhanh,

tiền thân của Tập đoàn này có vốn 100% của nhà nước, vì thế chính sách tài

chính của tập đoàn VNPT trong những năm vừa qua rất ít sử dụng nợ vay,

chủ yếu sử dụng vốn chủ sở hữu; vì thế Tập đoàn VNPT chưa làm nổi bậc

tác dụng của đòn bẩy tài chính trong việc khuếch trương lợi nhuận cho Tập

đoàn. Tuy nhiên, xu hướng của những năm tới, Tập đoàn mở rộng thị trường

ở các nước khác, việc làm này đòi hỏi phải tăng vốn đầu tư; do Tập đoàn

thực hiện chính sách tự chủ tài chính, nên thời gian tới để có vốn mở rộng

172

quy mô đầu tư, Tập đoàn sẽ sử dụng nợ vay để tài trợ cho đầu tư, đây là

thách thức mà cũng là cơ hội trong việc đổi mới chính sách quản trị nguồn

vốn, vì chỉ khi Tập đoàn sử dụng đồng nợ vay có hiệu quả thì mới thúc đẩy

hiệu quả tính trên một đồng vốn chủ sở hữu tăng lên, và cuối cùng làm cho

giá trị Tập đoàn tăng lên.

3.1.2.2 Phương hướng đầu tư mạng lưới

1. Đẩy mạnh việc đầu tư mạng truy cập băng rộng đến hộ gia đình

trên cơ sở ưu tiên đầu tư mạng truy cập hữu tuyến. Mở rộng đầu tư

vùng phủ sóng và nâng cao hiệu quả đầu tư hệ thống thông tin di

động nhằm cung cấp khả năng truy cập băng rộng mọi lúc, mọi

nơi.

2. Nâng cao năng lực hệ thống truyền dẫn đường dài trong nước và

quốc tế, trên cơ sở sử dụng hiệu quả các hệ thống hiện có, đồng

thời đầu tư nâng cấp, xây dựng mới các tuyến truyền dẫn cáp

quang mặt đất, cáp quang biển quốc tế, nội địa với dung lượng lớn

và phóng thêm các vệ tinh viễn thông phục vụ thị trường trong

nước và khu vực.

3. Bảo đảm tính thống nhất, toàn vẹn và an toàn, an ninh cao nhất

trong việc đầu tư trang thiết bị để thiết lập mạng lưới, khai thác,

cung cấp và sử dụng dịch vụ.

3.1.2.3 Phương hướng đầu tư phát triển dịch vụ

1. Đầu tư phát triển các dịch vụ viễn thông mới phù hợp với xu

hướng hội tụ công nghệ và dịch vụ, đồng thời thúc đẩy phát triển

các dịch vụ ứng dụng viễn thông nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng

mạng viễn thông đã được đầu tư.

2. Giảm chi phí, hạ giá thành để cung cấp dịch vụ viễn thông với giá

cước phù hợp với điều kiện thu nhập của người dân, đồng thời

173

từng bước điều chỉnh giá cước các dịch vụ hiện nay còn thấp hơn

giá thành để đảm bảo hiệu quả kinh doanh của Tập đoàn trong

điều kiện cạnh tranh và hội nhập quốc tế.

3. Kiểm soát chặt chẽ giá thành, cập nhật giá cước trung bình của thị

trường trong nước, khu vực và quốc tế để quản lý giá cước theo

nguyên tắc tôn trọng quyền tự định giá của Tập đoàn, bảo đảm

bình ổn giá, không tăng giá quá mức ảnh hưởng đến quyền lợi của

người sử dụng, đồng thời không phá giá gây thiệt hại cho Tập

đoàn và mất ổn định thị trường.

4. Nâng cao chất lượng dịch vụ viễn thông trên cơ sở xây dựng, bổ

sung, sửa đổi, ban hành và áp dụng các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ

thuật, quy định quản lý chất lượng dịch vụ viễn thông phù hợp với

việc đầu tư phát triển nhanh chóng của các công nghệ dịch vụ.

3.1.2.4 Phương hướngđầu tư phát triển công nghệ

1. Việc đầu tư phát triển, ứng dụng công nghệ viễn thông phải phù

hợp với xu hướng chung trên thế giới và phù hợp với điều kiện cụ

thể của Việt Nam. Thời điểm triển khai đầu tư đối với một công

nghệ mới cần phải được xem xét trên cơ sở hiệu quả đầu tư. Nhu

cầu của thị trường, lợi ích của xã hội và mức độ hoàn thiện của

công nghệ.

2. Đầu tư phát triển ứng dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại, sử dụng

hiệu quả tài nguyên viễn thông trên nền tảng mạng lõi thế hệ sau,

mạng truy nhập băng rộng, mạng Internet, mạng truyền truyền dẫn

phù hợp với điều kiện cụ thể của Tập đoàn, nhằm cung cấp đa dịch

vụ trên một hạ tầng viễn thông thống nhất.

174

3. Đẩy mạnh đầu tư ứng dụng các công nghệ viễn thông thân thiện

môi trường, tiết kiệm năng lượng để đáp ứng các yêu cầu của biến

đổi khí hậu toàn cầu.

3.2 QUAN ĐIỂM VỀ VIỆC HOÀN THIỆN HỆ THỐNG THÔNG TIN

KINH TẾ CHO VIỆC RA QUYẾT ĐỊNH TÀI CHÍNH.

3.2.1. Thông tin kinh tế là yếu tố quan trọng nhất trong việc ra quyết

định tài chính.

“Quản trị tài chính đóng một vai trò trung tâm trong mọi hoạt động của

Tập đoàn”[25]. Ta giả định, nếu Tập đoàn không có tiền thì Tập đoàn không

thể thanh toán mọi chi phí hoạt động của nó, không thể dự trữ hàng tồn kho,

không thể thuê mướn nhân công… và cuối cùng, Tập đoàn không thể tồn tại.

“Mục tiêu của Tập đoàn là lợi nhuận, là giá trị của Tập đoàn; vì thế, đòi hỏi

Tập đoàn phải có một mức độ tài chính nhất định để đi vào hoạt động”[26];

nhưng làm sao để Tập đoàn bảo toàn vốn? làm sao để Tập đoàn hoạt động có

hiệu quả? làm sao để Tập đoàn tồn tại và phát triển? Để giải quyết vấn đề này,

một trong những khâu quan trọng nhất trong hoạt động của Tập đoàn, đó là

nhà quản trị phải đưa ra được những quyết định tài chính đúng đắn, tối ưu; để

thỏa mãn những điều kiện vừa nêu trên thì thông tin kinh tế phải được xem là

yếu tố quan trọng nhất trong việc ra quyết định tài chính; thật vậy, ta xét mối

liên hệ giữa thông tin kinh tế với các quyết định tài chính trên các bình diện

sau:

*Thông tin kinh tế đứng ở góc độ các bên liên quan trực tiếp đến tài

chính của Tập đoàn như chủ thể nhà nước (người cung cấp cấp vốn chủ yếu

cho Tập đoàn), “chủ nợ là những người đầu tư vốn trực tiếp vào Tập đoàn

đều bị đe dọa rủi ro trong kinh doanh”[25]; đồng thời còn có những mối quan

hệ khác với Tập đoàn như: nhà cung cấp, người mua hàng có quan hệ mua

bán hàng hóa, dịch vụ với Tập đoàn, là những người có mối quan hệ tài chính

175

chặt chẽ; ngoài ra, Tập đoàn còn có mối quan hệ với nhà nước thông qua việc

đóng thuế. Ta giả định, nếu Tập đoàn hoạt động không hiệu quả, thì chủ nợ có

chấp nhận cho vay? Nhà nước? người bán hàng có chấp nhận cung cấp hàng

hóa và dịch vụ? người mua hàng có chấp nhận ứng trước tiền hàng? Nhà nước

có chấp nhận đầu tư vốn và có chấp nhận để Tập đoàn duy trì hoạt động trong

tình trạng thua lỗ kéo dài? Vì vậy trước khi đầu tư vốn, cũng như trước khi

quan hệ tài chính với Tập đoàn, các bên liên quan ở bên ngoài đều tìm hiểu

thông tin hoạt động, cũng như tình hình tài chính của Tập đoàn để đánh giá sự

tồn tại của Tập đoàn cũng như quan hệ mật thiết, lâu dài với Tập đoàn; việc

đánh giá này thường được thể hiện trên các mặt: rủi ro và tỷ suất sinh lời, khả

năng chi trả của Tập đoàn; “các bên liên quan tài chính ở bên trong Tập đoàn

thường đánh giá sự ổn định về tình hình sử dụng lao động, cũng như tình hình

ổn định lợi nhuận của Tập đoàn”[27], vì những vấn đề này liên quan đến cơ

hội việc làm cũng như các quyền lợi khác. Từ những vấn đề phân tích ở trên,

ta thấy thông tin kinh tế rất cần thiết cho Tập đoàn VNPT cũng như cho các

đối tác có liên quan đến tài chính của Tập đoàn VNPT.

*Thông tin kinh tế đứng ở góc độ của Tập đoàn: trước khi Tập đoàn vay

nợ, hay Tập đoàn huy động vốn bằng việc phát hành cổ phiếu, Tập đoàn có

cần tìm hiểu về tình hình thị trường vốn? trước khi sản xuất hàng hóa, Tập

đoàn có tìm hiểu về tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, nhu cầu sản phẩm, thị

phần, giá cả nguyên vật liệu đầu vào, nhà cung cấp, thị trường lao động, tình

trạng máy móc thiết bị kỹ thuật,…? Tất nhiên, Tập đoàn phải tìm hiểu rất kỹ

và nắm bắt kịp thời các thông tin này trước khi đưa ra các quyết định tài

chính. Vì vậy, ta có thể nói, thông tin kinh tế đóng một vai trò rất quan trọng

và rất hữu ích đối với nhà quản trị tài chính.

Cùng với chiến lược cạnh tranh và chiến lược đầu tư, “chiến lược tài

chính của Tập đoàn là trung tâm của chiến lược tổng thể của công ty”[28];

176

Tập đoàn thường đối mặt với các rủi ro kinh doanh và rủi ro tài chính, vì thế

nhà quản trị cần phải tìm cách quản lý để hạn chế những rủi ro này; một trong

những cách quản lý rủi ro đó là Tập đoàn phải hoàn thiện hệ thống thông tin

kinh tế để dự báo các rủi ro mà Tập đoàn có thể gặp phải; trong trường hợp

này nhà quản trị cần những thông tin kinh tế sử dụng cho những việc sau:

Lập kế hoạch: Một khi quyết định đã được thực hiện theo những chiến

lược cạnh tranh, thông tin là cần thiết để lên kế hoạch, đó là làm thế nào để

thực hiện kế hoạch có hiệu quả. “Kế hoạch đòi hỏi kiến thức chuyên môn cao,

hơn thế nữa, phần hỗ trợ cho kiến thức chuyên môn này đó là việc kết hợp

giữa nguồn lực sẵn có với thời gian và quy mô thực hiện”[29]; Vậy, nguồn

lực, thời gian, qui mô, đó chính là thông tin kinh tế mà nhà quản trị phải có để

ra quyết định.

Kiểm soát: Sau khi kế hoạch được thực hiện, hiệu quả thực tế của nó

phải được kiểm soát; giai đoạn này thông tin kinh tế rất cần thiết để đánh giá

việc thực hiện được tiến hành có đúng như kế hoạch ban đầu hay có một vài

thay đổi bất ngờ so với kế hoạch. ví dụ: để tiến hành sản xuất loại sản phẩm X

cần phải có nguyên vật liệu chính là A, trong quá trình lập kế hoạch, nguyên

vật liệu A này đã và đang được cung ứng dồi dào trên thị trường nên kỳ vọng

trong quá trình sản xuất, nguồn nguyên vật liệu này sẽ được cung ứng đúng

hạn; nhưng trong quá trình thực hiện, vì lý do nào đó, nguồn nguyên vật liệu

này bị khan hiếm, giá nguyên vật liệu tăng cao, nguồn cung ứng không đủ,

không đúng hạn; nếu quá trình sản xuất kinh doanh vẫn tiếp tục được thực

hiện, thì chắc chắn quá trình sản xuất sẽ bị đình trệ, chi phí tăng lên, sẽ làm

cho hiệu quả hoạt động của Tập đoàn giảm xuống hoặc có thể dẫn đến tình

trạng Tập đoàn bị thua lỗ. Vì thế, để hạn chế rủi ro này, Tập đoàn sẽ thay đổi

kế hoạch sản xuất với mong muốn khắc phục hậu quả có thể xảy ra nếu Tập

đoàn kịp thời có được thông tin cần thiết trên.

177

Đo lường: Cũng như các hoạt động riêng lẻ cần phải được kiểm soát,

hiệu quả tổng thể phải được đo lường để làm cơ sở so sánh các kết quả thực tế

với kế hoạch; kết quả so sánh này tốt hay không tốt hoàn toàn có liên quan

đến việc thu thập thông tin trên.

Ra quyết định: Thông tin được yêu cầu như một cơ sở để đưa ra quyết

định, tạo thành một vòng tròn đầy đủ của quá trình quản trị doanh nghiệp.

* Thông tin kinh tế đứng ở góc độ người cho vay: “Trước khi cho vay,

chủ nợ đánh giá các khoản cho vay sẽ được hoàn trả như thế nào, lợi ích liên

quan sẽ được thanh toán ra sao”[30]; vì thế, trước khi ra quyết định có cho

Tập đoàn vay hay không, chủ nợ cần phải có thông tin về uy tín cũng như về

khả năng thanh toán của Tập đoàn.

*Thông tin kinh tế đứng ở góc độ chính phủ: Thông tin từ Tập đoàn là

cơ sở để chính phủ đánh giá về thu nhập thuế, về phân bổ nguồn lực kinh tế

của địa phương hay của một quốc gia, từ đó chính phủ sẽ có kế hoạch điều

chỉnh hoạt động; mặt khác, nó còn là cơ sở cung cấp dữ liệu thống kê của

quốc gia.

*Thông tin kinh tế đứng ở góc độ xã hội: Thông tin từ Tập đoàn hay

các Bộ, ngành có liên quan cho biết sản phẩm do Tập đoàn làm ra có ảnh

hưởng trực tiếp đến an toàn sức khỏe của người tiêu dùng.

Tóm lại, để cho những bên liên quan có quan hệ bền vững với Tập đoàn thì

thông tin về Tập đoàn phải minh bạch, tài chính Tập đoàn phải lành mạnh,

nhà quản trị tài chính phải có trách nhiệm bảo toàn vốn cho các bên liên quan,

đồng thời hoạt động của Tập đoàn trước tiên phải đem lại hiệu quả cho bản

thân Tập đoàn, và sau đó phải đem lại hiệu quả cho xã hội và cho cả nền kinh

tế; Từ đó ta thấy, tình hình tài chính của Tập đoàn đóng một vai trò thực sự

quan trọng, nó giữ vai trò trung tâm trong các quyết định của nhà quản trị. Để

thực hiện được vai trò này nhà quản trị rất cần có hệ thống thông tin tốt, hữu

178

ích nhằm mục đích phục vụ cho việc: lập kế hoạch, kiểm soát, đo lường, ra

quyết định; Vì thế, ta có thể nói thông tin kinh tế là yếu tố quan trọng nhất

trong việc ra quyết định tài chính.

3.2.2 Hệ thống thông tin phải phù hợp với trình độ nhà quản trị.

Để hệ thống thông tin kinh tế trở thành thông tin hữu ích cho nhà quản

trị, thì hệ thống thông tin này phải đảm bảo phù hợp với trình độ của nhà quản

trị. Sự phù hợp này được thể hiện ở từng cấp độ quản trị, ở mỗi cấp độ quản

trị khác nhau thì nhu cầu sử dụng thông tin kinh tế có các mục đích khác

nhau, và yêu cầu cũng khác nhau về số liệu và các loại thông tin; do đó, hệ

thống thông tin này phải đáp ứng thông tin phù hợp theo từng cấp độ quản trị

như sau:

1. Thông tin chiến lược: Thông tin này hỗ trợ nhà quản trị cấp chiến

lược ra quyết định tài chính dài hạn quan trọng, như: quyết định

đầu tư, quyết định huy động vốn, quyết định phân phối lợi nhuận.

Bộ phận này cần những thông tin dài hạn mang tính chiến lược

như: thông tin tăng trưởng nền kinh tế, thông tin tỷ lệ lạm phát,

thông tin nhu cầu thị trường sản phẩm, thông tin thị phần doanh

nghiệp, thông tin kế toán…; đây là những thông tin kinh tế quan

trọng nhằm giúp cho nhà quản trị cấp chiến lược có tầm nhìn dài

hạn để xây dựng chiến lược tài chính dài hạn có căn cứ khoa học.

2. Thông tin chiến thuật: Giúp nhà quản trị cấp chiến thuật đối phó

với các vấn đề tài chính ngắn hạn, những thông tin phục vụ cho

những nhà quản trị cấp chiến thuật đó là những thông tin phục vụ

cho việc lập kế hoạch tài chính hàng tháng của Tập đoàn; ví dụ

như lập ngân sách vốn và quản lý vốn, hàng tồn kho… để hệ thống

thông tin kinh tế phục vụ cho nhà quản trị cấp chiến thuật được

hoàn thiện thì rất cần những thông tin ngắn hạn cả bên trong lẫn

179

bên ngoài, cần cả những thông tin tài chính lẫn phi tài chính, cần

những thông tin hiện tại lẫn quá khứ của Tập đoàn như: thông tin

về nhu cầu sản phẩm trên thị trường, thông tin thị phần của Tập

đoàn, thông tin cơ hội đầu tư… hệ thống những thông tin trên trở

thành cơ sở để nhà quản trị cấp chiến thuật phân tích, định lượng

được lượng vốn cần thiết sử dụng trong kỳ là bao nhiêu, và được

tài trợ ngắn hạn bằng những nguồn vốn nào; đầu tư kinh doanh ưu

tiên vào sản phẩm nào?…căn cứ vào những thông tin đó nhà quản

trị cấp chiến thuật sẽ có căn cứ ra các quyết định tài chính ngắn

hạn theo đúng lộ trình kế hoạch tài chính dài hạn và phù hợp với

tình hình thực tế của Tập đoàn.

3.3 GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HỆ THỐNG THÔNG TIN KINH TẾ

PHỤC VỤ CHO VIỆC RA QUYẾT ĐỊNH TÀI CHÍNH CỦA TẬP

ĐOÀN VIỄN THÔNG VNPT

3.3.1 Giải pháp về tổ chức cấu thành hệ thống thông tin.

3.3.1.1 Giải pháp về quy trình thu thập thông tin

Để có thể trở thành nguồn thông tin hữu ích, thông tin kinh tế nên được

thu thập từ nhiều nguồn dữ liệu khác nhau, như: thông tin đến từ bên trong lẫn

bên ngoài; thông tin hiện tại, thông tin quá khứ; thông tin sơ cấp, thông tin thứ

cấp của Tập đoàn... Như ta đã biết, một hệ thống thông tin thường đặt ra các

yêu cầu cho những thông tin được thu thập, những yêu cầu đó là thông tin

phải được thu thập thường xuyên, phải được xử lý trước khi cung cấp cho nhà

quản trị; nhưng làm thế nào để thu thập một cách thường xuyên, bởi ai và

bằng những phương pháp nào, làm thế nào để xử lý được nó và có thể truyền

đạt nó là vấn đề không đơn giản. Vì thế, để tiến hành thu thập thông tin một

cách thuận lợi, thường xuyên và đều đặn, ta tiến hành thu thập thông tin qua

các bước sau:

180

Bước 1: Xây dựng những nội dung cần thu thập.

Bước 2: Xác định nguồn cung cấp thông tin tin cậy: gồm nguồn cung cấp

thông tin bên trong và nguồn cung cấp thông tin bên ngoài Tập đoàn, nguồn

cung cấp thông tin sơ cấp và nguồn cung cấp thông tin thứ cấp...

Bước 3: Tiến hành thu thập thông tin từ những nguồn thông tin tin cậy đã

được xác định trước.

Thông tin được tiến hành thu thập phải là những thông tin có liên quan

đến hoạt động của Tập đoàn, ví dụ như Tập đoàn VNPT thu thập những thông

tin có liên quan đến quyết định đầu tư thì thông tin được thu thập chủ yếu từ

những nguồn sau: thông tin từ Bộ Kế hoạch và Đầu tư, thông tin từ Luật đầu

tư nước ngoài, thông tin về thị phần Tập đoàn, thông tin về nhu cầu sản

phẩm…

Bước 4: Tiến hành phân loại thông tin thành: thông tin chiến lược, thông

tin chiến thuật, và thông tin tác nghiệp.

Khi thông tin được phân loại thành thông tin chiến lược, thông tin chiến

thuật, thông tin tác nghiệp thì việc lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch sẽ tiến

hành được thuận lợi hơn.

Ví dụ: Quyết định về đầu tư trong nước: tùy từng cấp quản trị cần sử

dụng các thông tin khác nhau, như:

- Ở cấp chiến lược: chủ trì lập kế hoạch tổng thể về chính sách đầu tư

trong nước; để lập được kế hoạch này, nhà quản trị cấp chiến lược

cần những thông tin mang tính chất chiến lược như: nhu cầu đầu tư?

Vốn tài trợ cho dự án đầu tư? Rủi ro và tỷ suất sinh lời của dự án đầu

tư?

- Ở cấp chiến thuật: triễn khai thực hiện kế hoạch đầu tư do nhà quản

trị cấp chiến lược ra quyết định; để triển khai thực hiện kế hoạch này,

181

nhà quản trị cấp chiến lược cần những thông tin: đầu tư ở lĩnh vực

nào? Đầu tư như thế nào? Thời gian tiến hành đầu tư?

- Ở cấp tác nghiệp: đôn đốc, thực hiện kế hoạch đầu tư do nhà quản

trị cấp chiến thuật triễn khai, để thực hiện kế hoạch này, nhà quản trị

cấp tác nghiệp cần những thông tin: địa điểm lắp đặt đầu tư? Chi phí

đầu tư? Thời gian thực hiện đầu tư? Phản hồi hiệu quả của việc đầu

tư…

Với các bước thực hiện trên, ta thấy quy trình thu thập thông tin sẽ được

cụ thể hóa ở từng cấp quản trị, tránh được tình trạng thu thập thông tin bị

chồng chéo, tiết kiệm được thời gian và tiết kiệm được chi phí để có được

những thông tin cần thiết.

3.3.1.2 Giải pháp về quy trình xử lý thông tin

Xử lý thông tin là thu thập dữ liệu có chọn lọc để chuyển thành thông tin

cần thiết, kịp thời, chính xác… nhằm phục vụ rộng rãi cho việc ra quyết định

tài chính. Để có được hệ thống thông tin tốt, xử lý thông tin phải đáp ứng các

tiêu chí sau:

a. Đầy đủ: tất cả mọi thông tin phải đầy đủ, thông tin nào cần được xử lý

thì phải xử lý.

b. Chính xác: thông tin sau khi được xử lý phải đảm bảo đúng với nguồn

của nó.

c. Kịp thời: Thời gian xử lý tức thì với dữ liệu sẵn có và đáp ứng được

nhu cầu thông tin một cách kịp thời.

d. Bảo mật: quy trình xử lý thông tin phải đảm bảo tính chính xác và bảo

mật để không phải bất kỳ ai cũng có thể can thiệp trái phép trong quá trình xử

lý, và thông tin không bị thay đổi sau khi quá trình xử lý hoàn thành.

e. Nguồn dữ liệu phải được kiểm chứng.

182

f. Hiệu quả của việc xử lý cần được đánh giá thông qua chất lượng thông

tin cung cấp cho nhà quản trị

Quá trình xử lý được thể hiện qua sơ đồ 3.1 dưới đây. Để xử lý tốt thông

tin, ta xây dựng ba bộ phận chính cấu thành một hệ thống: Thông tin đầu vào,

quá trình xử lý, và kết quả thông tin đầu ra; ngoài ba bộ phận chính này, một

đặc điểm quan trọng khác của một hệ thống ta cần lưu ý là môi trường và ranh

giới hệ thống.

Sơ đồ 3.1: Quy trình xử lý thông tin

Ranh giới hệ thống

Môi trường Môi trường Thông tin đầu vào Xử lý thông tin Thông tin đầu ra

hình 3.1 Thông tin đầu vào: được thu thập từ thông tin bên trong và bên ngoài

doanh nghiệp, hoặc được lấy từ kết quả xử lý của một hệ thống thông tin

khác; ví dụ: đầu ra từ một hệ thống xử lý giao dịch tạo thành đầu vào cho hệ

thống thông tin quản lý.

Xử lý thông tin: “Biến đổi thông tin đầu vào thành thông tin đầu ra sau

khi loại bỏ những thông tin thừa, không phù hợp, không chính xác, không kịp

thời, hay không đủ tin cậy”.[8]

Thông tin đầu ra: “là kết quả của quá trình xử lý, thông tin đầu ra phải

đảm bảo phù hợp với nhu cầu người sử dụng”.[8]

Ranh giới hệ thống: “mục đích đặt ra ranh giới này nhằm phân tách hệ

thống thông tin từ môi trường”[8], ví dụ: hệ thống kinh doanh và hệ thống kỹ

thuật là hai hệ thống riêng biệt, nhưng có thể là giao diện để cho phép trao đổi

với hệ thống tài chính. Hay giao diện giữa hệ thống thông tin kinh tế bên

183

trong và hệ thống thông tin kinh tế bên ngoài phối hợp lại để xây dựng nên hệ

thống thông tin kinh tế chung nhằm phục vụ ra quyết định tài chính của Tập

đoàn.

Bất cứ điều gì ờ bên ngoài ranh giới hệ thống đều thuộc về môi trường

của hệ thống. Một hệ thống bao giờ cũng tiếp nhận thông tin đầu vào từ môi

trường và cung cấp kết quả đầu ra vào môi trường; môi trường có tác động

đáng kể đến hệ thống, nhưng hệ thống không có tác động đến môi trường.

Ví dụ: Để nhà quản trị cấp chiến lược ra quyết định đầu tư vào TSCĐ

(nhà trạm) ở khu vực nào đó, thì nhân viên kỹ thuật ở khu vực đó trở thành

tham mưu cho nhà quản trị đơn vị trực tiếp; hay cụ thể hơn, nhân viên kỹ

thuật phải tiếp cận với môi trường làm việc bên ngoài nhằm mục đánh giá

vùng phủ sóng ở các khu vực có đảm bảo chất lượng theo yêu cầu của người

sử dụng, nếu vùng phủ sóng bị yếu, thì cần phải lắp đặt thêm bao nhiêu trạm

(số lượng trạm lắp đặt thêm căn cứ vào bán kính phát sóng) => Đây chính là

yếu tố môi trường;

Sau khi khảo sát chất lượng vùng phủ sóng, nhân viên kỹ thuật báo cáo

lên phòng kỹ thuật về tình hình chất lượng sóng ở vùng đó, trưởng phòng kỹ

thuật lập tờ trình báo cáo lên nhà quản trị cấp tác nghiệp đề nghị được lắp đặt

thêm nhà trạm (hoặc không lắp đặt thêm) => Đây chính là yếu tố đầu vào;

Căn cứ vào tờ trình của trưởng phòng kỹ thuật, nhà quản trị cấp tác

nghiệp đề xuất lên nhà quản trị cấp chiến lược lập kế hoạch cho năm tới về

việc lắp đặt thêm nhà trạm (hoặc không lắp đặt thêm) => Đây chính là quá

trình xử lý thông tin;

Căn cứ vào đề xuất này nhà quản trị cấp chiến lược ra quyết định có

nên đầu tư thêm TSCĐ không => Đây chính là yếu tố đầu ra;

Sau khi cấp chiến lược ra quyết định đầu tư vào TSCĐ, bộ phận cấp tác

nghiệp tiến hành thực hiện quyết định này => thông tin trở ra môi trường.

184

Xử lý thông tin nhằm mục đích hỗ trợ những thông tin cung cấp cho nhà

quản trị được hoàn chỉnh hơn, loại bỏ những thông tin không cần thiết, hạn

chế được sai lầm cho nhà quản trị khi ra quyết định tài chính do quyết định bị

“nhiễu” bởi những thông tin không cần thiết. 3.3.1.2 Giải pháp về quy trình hoàn thiện thông tin

a. Chức năng của hệ thống thông tin: Các chức năng cơ bản của hệ thống

thông tin kinh tế nhằm hỗ trợ nhà quản trị tài chính ra các quyết định tài chính

dài hạn, cụ thể như ra các quyết định sau:

 Quyết định đầu tư

 Quyết định huy động vốn

 Quyết định phân phối lợi nhuận

b. Quy trình hoàn thiện hệ thống thông tin

 Hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế nhằm phục vụ ra quyết

định đầu tư dài hạn ở nước ngoài:

Trong chương 2 ta thấy để đưa ra quyết định đầu tư, nhà quản trị các cấp

cần phải có bộ phận tham mưu về đầu tư; và cần phải có một độ trễ thời gian

nhất định để tiếp nhận những thông tin này. Mặt khác, cơ sở hạ tầng của tập

đoàn Viễn thông VNPT có đặc điểm: vững chắc, hiện đại nên đòi hỏi vốn đầu tư

lớn làm cho thời gian thu hồi vốn chậm; đây cũng chính là một trong những

nguyên nhân nhà quản trị e ngại trong việc đưa ra các quyết định đầu tư, kết quả

của sự chậm trễ trong đầu tư trong thời gian vừa qua là VNPT đã bị Viettel

chiếm thị phần khá lớn ở khu vực nông thôn và ở nước ngoài. Vì thế, để giành

lại thị phần trong nước, VNPT cần phải chú trọng đến việc hoàn thiện hệ thống

thông tin kinh tế, nhất là những thông tin về đầu tư. Sau đây là giải pháp hoàn

thiện hệ thống thông tin kinh tế phục vụ cho quyết định đầu tư nước ngoài:

Bước 1: Thu thập thông tin và rút ra những kinh nghiệm thành công cũng

như thất bại trong việc đầu tư của các đối thủ về việc đầu tư nước ngoài, cụ thể

185

như từ Tập đoàn Viễn thông Quân đội Viettel.

Bước 2: Dự báo thông tin về diễn biến môi trường kinh doanh quốc tế về

vấn đề thu hút đầu tư của nước ngoài; quan sát kỹ đối thủ, hiểu rõ thị trường để

xây dựng chiến lược cho phù hợp.

Bước 3: Phân tích những mặt mạnh, yếu, cơ hội, thách thức của việc đầu tư

đầu tư ở nước ngoài để có những thông tin tin cậy đánh giá hiệu quả đầu tư. Ví

dụ như Tập đoàn VNPT tham gia liên minh Conexus- liên minh bao gồm các

nhà khai thác di động hàng đầu trong khu vực giúp VNPT có cơ hội thâm nhập

vào thị trường viễn thông quốc tế được thuận lợi hơn.

Bước 4: Đề ra phản ứng chiến lược: đầu tư liên doanh trước, đầu tư hạ tầng

sau; đây là bước đi phù hợp với khả năng và thế mạnh của VNPT để đầu tư ra thị

trường nước ngoài, để giành vị thế không những ở thị trường trong nước mà còn

ở cả thị trường nước ngoài, cụ thể:

1. Thành lập công ty VNPT Global chuyên tìm kiếm cơ hội đầu tư ra nước

ngoài, cụ thể là thành lập văn phòng đại diện, đặt trụ sở ở các nước mà

Tập đoàn VNPT có kế hoạch đầu tư. Giai đoạn đầu VNPT Global sẽ đầu

tư khai thác các dịch vụ chính là Data, Voice và các giải pháp truyền

thông khác cho khách hàng chính là giới doanh nghiệp tại địa phương.

2. Tích cực thúc đẩy hợp tác đầu tư, từng bước triển khai đầu tư tại thị

trường nước ngoài thông qua việc chủ động tìm kiếm thị trường ở các

nước trong khu vực và trên thế giới, đặc biệt là những quốc gia có mối

quan hệ truyền thống tốt đẹp với Việt Nam.

3. Từng bước đầu tư phát triển hạ tầng mạng lưới ở nước ngoài

4. Nghiên cứu đầu tư của đối thủ cạnh tranh để đầu tư ứng dụng công

nghệ hợp lý.

5. Nắm bắt, hiểu đúng thủ tục đầu tư nước ngoài và các cam kết quốc tế.

 Hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế nhằm phục vụ ra quyết

186

định đầu tư dài hạn đối với đầu tư trong nước:

Thị trường trong nước là thị trường chính, là thị trường bền vững của

Tập đoàn VNPT, ở thị trường đầu tư trong nước chắc chắn sẽ có nhiều khác

biệt và thuận lợi hơn so với thị trường đầu tư ở nước ngoài, vì thế giải pháp

hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế phục vụ cho quyết định đầu tư trong

nước cũng sẽ đơn giản hơn so với giải pháp hoàn thiện hệ thống thông tin

kinh tế phục vụ cho quyết định đầu tư nước ngoài, cụ thể giải pháp hoàn thiện

hệ thống thông tin kinh tế của Tập đoàn VNPT cho việc ra quyết định đầu tư

trong nước được thể hiện thông qua sơ đồ sau:

Sơ đồ 3.2: hoàn thiện hệ thống thống thông tin kinh tế phục vụ ra quyết định

Thu thập và xử lý nguồn thông tin bên trong

Thu thập và xử lý nguồn thông tin bên ngoài

Nhu cầu đầu tư trong nước

Trình độ trang bị kỹ thuật của đối thủ cạnh tranh cùng ngành

Địa điểm đầu tư

Lý do đầu tư….

Đây là những thông tin được dùng làm căn cứ nhằm hỗ trợ cho nhà quản lý cấp chiến lược đưa ra quyết định đầu tư

đầu tư trong nước

CẤP CHIỀN LƯỢC

Cấp chiến lược lập kế hoạch đầu tư phân bổ cho cấp chiến thuật thực hiện tư

Căn cứ vào thông tin phản hồi phân bổ lại kế hoạch

Cấp chiến thuật phản hồi thông tin lên cấp chiến lược

CẤP CHIẾN THUẬT

phân bổ lại kế hoạch đã được điều chỉnh

Cấp tác nghiệp phản hồi thông tin lên cấp chiến thuật

Căn cứ vào kế hoạch đầu tư được giao, nhà quản trị cấp chiến thuật phân bổ cho cấp tác nghiệp thực hiện.

CẤP TÁC NGHIỆP

Thực hiện

Không đáp ứng được chất lượng vùng phủ sóng

187

Đáp ứng được chất lượng vùng phủ sóng

Quy trình xây dựng hệ thống thông tin nhằm phục vụ ra quyết định đầu tư

trong nước được thực hiện qua các bước sau:

Bước 1: Thu thập thông tin và xử lý thông tin

Những thông tin bên trong và thông tin bên ngoài, thông tin kinh tế vi mô

và vĩ mô, thông tin kinh tế quá khứ và hiện tại của Tập đoàn được thu thập, xử lý

và cung cấp kịp thời cho nhà quản trị cấp chiến lược.

Bước 2: Phân tích những mặt mạnh, yếu, cơ hội, thách thức của quyết định

đầu tư của Tập đoàn VNPT để nhà quản trị có được những thông tin cần thiết

trước khi đề ra phản ứng chiến lược về đầu tư, cụ thể:

1. Điểm mạnh:

- Có cơ sở hạ tầng mạnh, luôn đi tiên phong trong yếu tố công nghệ;

- Khai thác đầu tư có hiệu quả vì VNPT có lượng khách hành trung

thành lớn, chủ yếu là khách hàng tiềm năng cao.

- VNPT đầu tư rất mạnh về các dịch vụ giá trị gia tăng.

2. Điểm yếu:

- VNPT đã đầu tư mạnh về cơ sở hạ tầng nên đã định vị được thương

hiệu với nhóm khách hàng là doanh nghiệp, công nhân viên ở các

thành phố lớn; nhưng với đối tượng là người bình dân ở nông thôn

thì thương hiệu vẫn còn yếu, mà đây lại là nhóm có lượng khách

hàng đông đảo;

- Do tâm lý là Tập đoàn của nhà nước nên quyết định đầu tư của Tập

đoàn VNPT chưa thực sự linh hoạt như đối thủ Viettel;

- VNPT chưa đầu tư thâm nhập mạnh vào thị trường quốc tế.

3. Cơ hội:

- Thị trường sử dụng dịch vụ viễn thông vẫn còn mạnh nên khả năng

đầu tư vào thị trườn này vẫn còn cao;

- Thời đại hiện nay là thời đại tất yếu của xu hướng 4G với nhiều

188

tiện ích 4G được ứng dụng, đây là cơ hội lớn để Tập đoàn VNPT

đầu tư khai thác 4G;

- Hiện nay, các loại hình dịch vụ giá trị gia tăng trên nền SMS của

các công ty quảng cáo, ngân hàng chạy trên phần mềm điện thoại

di động ngày càng phát triển, đây là cơ hội đầu tư khai thác làm

tăng hiệu quả hoạt động cho Tập đoàn VNPT.

4. Thách thức:

- Thị trường viễn thông đang tiến tới bảo hòa, và đang có quá nhiều

nhà mạng lớn có uy tín ở Việt Nam cũng như trên thế giới tham

gia đầu tư vào mạng viễn thông Việt Nam.

Sau khi phân tích những mặt mạnh, yếu, cơ hội, thách thức, nhà quản trị đề

ra phản ứng chiến lược đó là tiến hành lập kế hoạch đầu tư phù hợp.

Bước 3: Lập kế hoạch đầu tư

Sau khi tiếp nhận những thông tin được thu thập ở bước 2, nhà quản lý cấp

chiến lược tiến hành kết hợp các điểm: yếu – cơ hội; mạnh – thách thức; yếu –

thách thức; mạnh – cơ hội; để tiến hành lập kế hoạch đầu tư cho những năm tới

và phân bổ kế hoạch đầu tư xuống cấp chiến thuật.

Bước 3: Triễn khai thực hiện

Sau khi tiếp nhận kế hoạch được phân bổ từ cấp chiến lược, nhà quản trị

cấp chiến thuật tiến hành triễn khai xuống cấp tác nghiệp thực hiện.

Bước 4: Phản hồi thông tin

Cấp tác nghiệp tiến hành thực hiện lắp đặt các trạm phát sóng và phản hồi

thông tin lên cấp chiến thuật về chất lượng vùng phủ sóng. Sau đó cấp chiến

thuật tiếp tục phản hồi thông tin lên cấp chiến lược về chất lượng vùng phủ sóng;

nếu vùng phủ sóng vẫn còn yếu, chất lượng phủ sóng chưa đạt yêu cầu thì cấp

chiến lược tiếp tục phân bổ đầu tư thêm xuống cấp tác nghiệp thực hiện thông

qua cấp chiến thuật.

189

Tuy nhiên, do vốn đầu tư của tập đoàn có hạn, nên việc đầu tư sẽ bị hạn chế

theo. Để khắc phục nhược điểm này, tác giả mạnh dạn đề nghị Tập đoàn VNPT

xem xét lại chính sách đầu tư phù hợp (đầu tư mới, đầu tư thay thế, hay liên kết

với đối tác để thuê trạm phát sóng lẫn nhau nhằm mục đích hạn chế được chi phí

lắp đặt trạm nhưng vẫn đãm bảo được vùng phủ sóng tốt).

 Hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế nhằm phục vụ ra quyết

định huy động vốn

Vốn đầu tư là điều kiện tiên quyết để Tập đoàn tồn tại và phát triển; vì

thế vốn đầu tư không thể thiếu được, để đảm bảo cho Tập đoàn hoạt động ổn

định và mở rộng đầu tư trong nước cũng như đầu tư quốc tế, thì trước tiên đòi

hỏi vốn đầu tư vừa phải ổn định, vừa phải đảm bảo được an ninh tài chính; vì

thế, việc hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế hỗ trợ nhà quản trị tài chính ra

quyết định huy động vốn là việc làm rất cần thiết và hoàn toàn không thể

thiếu được, sau đây là quy trình hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế phục vụ

ra quyết định huy động vốn.

Bước 1: Xác định nhu cầu thông tin và các nguồn cung cấp thông tin bên

trong lẫn bên ngoài về huy động vốn, cụ thể:

- Nguồn thông tin bên trong, như: thông tin kế toán cung cấp cho nhà

quản trị biết cần huy động bao nhiêu vốn; thông tin về việc huy động

vốn từ những nguồn nào: nợ bao nhiêu, vốn chủ sở hữu bao nhiêu;

thông tin về chi phí sử dụng vốn của mỗi nguồn vốn là bao nhiêu;

thông tin về rủi ro và tỷ suất sinh lời của Tập đoàn…

- Nguồn thông tin bên ngoài, như: những thông tin quy định về pháp

lý, thông tin về khả năng thâm nhập thị trường vốn của Tập đoàn,

thông tin về cơ hội đầu tư….

Bước 2: Tiến hành thu thập và xử lý thông tin: Sau khi xác định nhu cầu và

các nguồn cung cấp thông tin ở bước 1, bộ phận quản trị hệ thống thông tin kinh

190

tế cần phải tiến hành thu thập và xử lý thông tin theo sơ đồ 3.1 trang 178 của

Luận án; mục tiêu của quá trình này là thông tin được cung cấp cho nhà quản trị

sau khi được xử lý phải là những thông tin tốt (đảm bảo đầy đủ các tính chất:

chính xác, đầy đủ, cần thiết, kịp thời, tin cậy, và bảo mật).

Bước 3: Sau khi tiếp nhận thông tin ở bước 2, nhà quản trị tiến hành dự báo

diễn biến môi trường kinh doanh, như: tình hình ổn định chính trị trong nước

cũng như ở các nước khác mà Tập đoàn VNPT đặt nền móng đầu tư; các yếu tố

kinh tế và chính sách phát triển kinh tế; yếu tố xã hội; yếu tố hạ tầng cơ sở

nghiên cứu và phát triển, yếu tố kỹ thuật, yếu tố quốc tế; nhà cung cấp; đối thủ

cạnh tranh; nguồn nhân lực; yếu tố về tài chính, yếu tố khách hàng…

Bước 4: Khi đã tiến hành dự báo diễn biến môi trường đầu tư ở bước 3, nhà

quản trị tiến hành phân tích những mặt mạnh, yếu, cơ hội, thách thức của Tập

đoàn để có được những thông tin cần thiết trước khi đề ra phản ứng chiến lược

về huy động vốn, cụ thể:

1. Điểm mạnh:

Tập đoàn Bưu chính – Viễn thông Việt Nam VNPT là Tập đoàn của

nhà nước nên có nguồn vốn tài trợ chủ yếu là từ ngân sách nhà nước,

nên Tập đoàn VNPT chủ động về đồng vốn, rủi ro về tài chính thấp.

2. Điểm yếu:

Do trong quá khứ, Tập đoàn VNPT đã triễn khai chậm trễ vốn vay

ODA, VNPT làm mất uy tín trong việc sử dụng nguồn vốn vay này,

nên trong tương lai Tập đoàn VNPT sẽ gặp khó khăn hơn trong việc

sử dụng đồng vốn vay ODA để tài trợ cho việc mở rộng đầu tư nước

ngoài.

Thâm dụng vốn của nhà nước, hiệu quả sử dụng vốn của nhà nước

chưa cao.

VNPT sử dụng nợ vay ít (khoản 20% trên tổng nguồn vốn), nên chưa

191

phát huy tích cực hiệu quả đồng vốn vay.

3. Cơ hội:

Chiến lược đầu tư ra nước ngoài của Tập đoàn VNPT trong giai đoạn

đầu là hợp tác đầu tư, vì thế nguồn vốn tài trợ cho việc đầu tư ra

nước ngoài chiếm tỷ trọng nhỏ hơn 50% trong tổng vốn đầu tư, và

nguồn vốn này một phần được tài trợ từ vồn chủ sở hữu, một phần

được tài trợ từ việc mua chịu thiết bị, nên dù VNPT hợp tác kinh

doanh ở nhiều quốc gia nhưng tổng số vốn thực đem đi đầu tư nước

ngoài không lớn lắm.

Tập đoàn VNPT có thương hiệu lớn ở thị trường Việt Nam cũng như

trên thế giới, vì thế khả năng thâm nhập thị trường vốn quốc tế cao.

4. Thách thức:

Do VNPT tham gia vào thị trường nước ngoài chưa lâu, hiệu quả đầu

tư chưa rõ ràng, môi trường cạnh tranh gay gắt, nên an ninh về đồng

vốn đầu tư không được đảm bảo.

Bước 5: Kết hợp các thông tin về điểm mạnh, yếu, cơ hội, thách thức để đề

ra phản ứng chiến lược huy động vốn của Tập đoàn, cụ thể:

Xác định nguồn huy động bên trong

Xác định nguồn huy động bên ngoài

Xác định WACC của tổng nguồn vốn huy động

Xác định tỷ suất sinh lời (TSSL) của dự án đầu tư

Sau khi thực hiện các bước trên, nhà quản trị cấp chiến lược tiến hành so

sánh giữa chi phí dử dụng vốn bình quân và tỷ suất sinh lời của đồng vốn huy

động để đưa ra quyết định huy động vốn.

 Hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế nhằm phục vụ ra quyết

định phân phối lợi nhuận:

Hiện nay VNPT phân phối lợi nhuận theo quy định của nhà nước và

192

việc phân phối lợi nhuận này chiếm một phần lớn về thu nhập của VNPT

nhằm đem về thu nhập cao cho người lao động; tuy nhiên, việc phân phối lợi

nhuận này phụ thuộc vào hệ số lương của người lao động, nên chưa phản

ánh đúng năng suất lao động của từng người; có thể nói việc phân phối hiện

nay của VNPT chưa linh hoạt, đây chính là hạn chế của VNPT trong chính

sách phân phối lợi nhuận, chính sách này chưa thật sự đãi ngộ người tài

thông qua hình thức phân phối lợi nhuận. Vì thế, trong những năm vừa qua,

nguồn nhân lực của VNPT đã bị Viettel thu hút do Viettel đã sử dụng chính

sách đãi ngộ thông qua tiền thưởng cao. Vì thế, để hạn chế “chảy máu chất

xám” của VNPT, tác giả mạnh dạn đề xuất VNPT thực hiện chính sách

thưởng khoán, nghĩa là khoán công việc kèm theo khoán tiền thưởng, ai làm

việc với công suất cao, tiết kiệm được nguồn nhân lực thì sẽ thưởng cao, và

ngược lại.

Tóm lại: Để thuận lợi trong việc thực hiện các giải pháp tài chính trên,

ta chú trọng đẩy mạnh thực hiện một số công việc nhằm mang tính chất bổ

trợ sau:

1. Tối ưu hóa các quyết định tài chính:

 Xây dựng cơ cấu vốn tối ưu;

 Đánh giá đúng rủi ro và tỷ suất sinh lời của quyết định đầu tư;

 Quản trị vốn có hiệu quả;

 Giám sát, theo dõi đánh giá hiệu quả tài chính của dự án.

2. Quản trị rủi ro tài chính

o Quản trị rủi ro thông qua việc phân tích, đánh giá rủi ro của dự án

đầu tư;

o Quản trị rủi ro về chi phí sử dụng vốn;

3. Tiến hành đầu tư tài chính

 Tìm kiếm cơ hội đầu tư phù hợp;

193

 Lập phương án và thực hiện việc mua, bán, sáp nhập, tái cơ cấu

phù hợp.

4. Hoàn thiện hệ thống kế toán BCTC và hoàn thiện hệ thống phần

mềm:

- Xây dựng hệ thống tài chính, kế toán theo mô hình mới (theo

hướng tách bạch công tác tài chính và công tác kế toán theo hai

mảng riêng).

- Nâng cấp hệ thống kế toán và kết nối dữ liệu với các hệ thống

khác (như: hệ thống kỹ thuật, phần mềm bán hàng…);

- Sử dụng các công cụ tiên tiến để phân bổ chi phí, phục vụ ra

quyết định tài chính.

5. Đào tạo nguồn nhân lực:

 Phát triển đội ngủ nhân sự có chuyên môn cao, có đạo đức nghề

nghiệp;

 Tăng sự gắn bó, trung thành với tập đoàn;

 Phát triển đội ngủ kế cận.

5. Nghiêm túc thực hiện quy chế, quy định hướng dẫn của Tập đoàn:

- Rà soát văn bản hướng dẫn hiện hành;

- Cập nhật, bổ sung các văn bản Luật có liên quan

- Định kỳ, tổ chức hội thảo, hội nghị hướng dẫn.

3.3.2 Giải pháp về nội dung cấu thành hệ thống thông tin.

3.3.2.1. Giải pháp về thông tin bên trong.

Thông tin kế toán: Thông tin được thu thập từ bên trong Tập đoàn có thể

là nguồn thông tin chính thức, cụ thể như từ sổ sách kế toán, báo cáo tài

chính, nguồn thông tin này có giá trị lớn đối với việc ra quyết định các chính

sách tài chính Tập đoàn, để duy trì tính đầy đủ, kịp thời và chính xác thông tin

194

từ hồ sơ kế toán cung cấp, Tập đoàn cần kiểm soát tài chính - kế toán các mặt

sau:

- Các phương pháp hạch toán kế toán có đảm bảo tính tuân thủ pháp luật;

- Nghĩa vụ đối với nhà nước công ty có thực hiện đầy đủ;

- Chính sách chia lợi nhuận của công có đãi ngộ người lao động;

- Quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh có đảm bảo nguyên tắc bảo

toàn vốn;

- Vốn có cung ứng đủ và kịp thời cho đầu tư;

- Thông tin kế toán có minh bạch.

Ngoài ra, các hoạt động giao dịch trong thực tế có thể còn phát sinh

những thông tin có giá trị mà sổ sách kế toán chưa thể hiện đầy đủ, hoặc có

thể hiện nhưng chưa rõ ràng; ví dụ: hệ thống thông tin kiểm soát hàng tồn kho

sẽ bao gồm các chi tiết về đơn đặt hàng, hàng hóa bán được, hàng bán bị trả

lại…Từ những thông tin này sẽ giúp nhà quản trị phân tích tình hình về tốc độ

giao hàng cũng như chất lượng hàng hóa, là cơ sở đề ra chính sách dự trữ

hàng tồn kho, nguồn thông tin này chủ yếu được lấy từ phòng kế toán của các

công ty thành viên của Tập đoàn.

Nguồn thông tin chính thức bên trong Tập đoàn còn có thể được thu thập

từ nguồn lực nhân sự thông qua hồ sơ trả lương, đây là thông tin về con người

giúp nhà quản trị nắm bắt được kỹ năng làm việc, nguyện vọng, thái độ làm

việc, tâm huyết với chuyên môn của người lao động thể hiện qua mức lương

họ nhận được. Từ những thông tin này sẽ hỗ trợ nhà quản trị xây dựng chiến

lược: mở rộng hay thu hẹp quy mô hoạt động, thiết bị kỹ thuật đầu tư lạc hậu

hay hiện đại, và mức lương được xây dựng sao cho phù hợp với trình độ và

năng suất tay nghề của người lao động; đây là những thông tin so sánh giữa

chi phí và hiệu quả hoạt động của người lao động. Nguồn thông tin này chủ

yếu được lấy từ phòng quản lý nhân sự của Tập đoàn.

195

Thông tin dự báo thị phần của doanh nghiệp trên thị trường: Thị phần

của Tập đoàn tác động trực tiếp đến kế hoạch đầu tư, nhu cầu vốn, trình độ

công nghệ, năng lực sản xuất … Đây là thông tin cực kỳ quan trọng đối với

nhà quản trị doanh nghiệp trong việc lập kế hoạch thúc đẩy Tập đoàn tăng

trưởng và phát triển trong tương lai. Thông tin này được lấy từ trong nội bộ

của Tập đoàn như sổ sách kế toán, chiến lược đầu tư trong những năm qua

làm cơ sở xác định thị phần của Tập đoàn trong những năm tới.

Thông tin truyền thông: truyền thông có tác dụng truyền tải thông tin đến

tai người tiêu dùng, giúp người tiêu dùng hiểu rõ sản phẩm của Tập đoàn hơn,

nhằm hỗ trợ khách hàng dễ dàng trong việc lựa chọn sử dụng sản phẩm dịch

vụ của Tập đoàn VNPT, truyền thông có thể được tiến hành bằng nhiều cách:

truyền thông bằng kênh USSR, truyền thông bằng kênh Voice Broadcast, hay

phối hợp với tổng cục du lịch để truyền thong dịch vụ MPlace, giải pháp truyền

thông dịch vụ được tiến hành theo từng vùng của thị trường của Tập đoàn.

Trình độ công nghệ: Trình độ công nghệ được Tập đoàn trang bị tác

động mạnh mẽ đến năng lực sản xuất, chất lượng và số lượng sản phẩm được

sản xuất ra, vì thế nhà quản trị cần phải hiểu rõ trình độ công nghệ của Tập

đoàn đang sử dụng để dự báo kế hoạch đầu tư và nhu cầu vốn cho phù hợp với

năng lực của Tập đoàn. Nguồn thông tin này được thu thập từ trong nội bộ Tập

đoàn, cụ thể từ Phòng Kỹ thuật của Tập đoàn.

Ngoài ra, thông tin bên trong nội bộ có thể được thu thập từ hoạt động

hàng ngày của Tập đoàn, hoặc thông qua các cuộc họp, hoặc bảng câu hỏi

khảo sát.

Sau đây là một số giải pháp về trình độ công nghệ của VNPT cho những

năm tới:

 Phát triển mạng băng rộng 4G LTE;

196

 Hỗ trợ tăng trưởng mạnh kỹ thuật OTT cùng với tốc độ phát triển của

smartphone;

 Dần dần thay thế kỹ thuật ASDL bằng kỹ thuật FTTH do lợi thế về tốc

độ, giúp khoản cách giá cả thu hẹp;

 Khai thác dịch vụ truyền hình trả tiền kỹ thuật số còn nhiều tiềm năng

3.3.2.2 Giải pháp về thông tin bên ngoài.

Những thông tin bên ngoài như tốc độ tăng trưởng hay trình độ trang bị

kỹ thuật của đối thủ là những thông tin rất quan trọng giúp cho nhà quản trị

đưa ra quyết định tài chính sát với thực tế hơn, vì những thông tin này giúp

nhà quản trị của VNPT đánh giá được tiềm lực của VNPT mạnh hay yếu

thông qua việc so sánh giữa tốc độ tăng trưởng và trình độ trang bị kỹ thuật

của VNPT với đối thủ cùng ngành.

Về trình độ trang bị kỹ thuật: việc so sánh trình độ trang bị kỹ thuật của

VNPT với đối thủ cùng ngành (Viettel) trong thực tế diễn ra rất thuận lợi, vì

các thiết bị nhà trạm hầu hết được xây dựng ngoài trời và có thể khảo sát bằng

mắt thường, nên việc khảo sát so sánh của VNPT không gặp trở ngại gì.

Về tốc độ tăng trưởng: việc so sánh tốc độ tăng trưởng với đối thủ đều

được các kênh truyền thông thông tin vào cuối mỗi năm trên mọi phương tiện

thông tin đại chúng, vì thế việc so sánh tốc độ tăng trưởng của VNPT với đối

thủ là điều hiển nhiên thực hiện được.

3.3.3 Giải pháp về phương thức cấu thành hệ thống thông tin.

3.3.3.1 Giải pháp về tiến độ:

Thông tin chủ yếu được cung cấp theo từng cấp quản lý, và theo quy

trình từ trên xuống; nếu quy trình làm việc của Tập đoàn phân chia quá nhiều

tầng lớp quản lý, thì tiến độ cung cấp thông tin sẽ bị chậm trễ, Tập đoàn dễ bị

mất đi cơ hội đầu tư do thông tin chậm trễ gây ra; mặt khác, thông tin đến trễ

197

sẽ gây ra thời gian chờ đợi bị kéo dài, năng suất làm việc thấp, cuối cùng chi

phí quản lý tăng lên.

Hiện nay, VNPT đã sắp xếp lại quy trình quản lý, giảm bớt sự quản lý

chồng chéo lẫn nhau, giảm bớt nhiều nấc thang quản lý, rút ngắn đường đi

của thông tin, tiến độ cung cấp thông tin đã được đẩy nhanh, tiến độ cung cấp

thông tin sẽ đảm bảo tính kịp thời và phù hợp.

Để thấy được hiệu quả của việc tái cơ cấu giúp Tập đoàn đẩy nhanh tiến

độ cung cấp thông tin, ta so sánh quy trình quản lý của Tập đoàn VNPT trước

và sau khi thay đổi cơ cấu:

Bảng 3.2: Bảng so sánh giữa hai quy trình quản lý của VNPT trước và sau

khi thay đổi cơ cấu quản lý

STT Vai trò Trước khi thay đổi Sau khi thay đổi

Phụ trách cả ba khối: khối Các khối kỹ thuật, kinh

kinh doanh, khối kỹ thuật, doanh, giá trị gia tăng tách

1 Cấp chiến và khối giá trị gia tăng -> do nhau hoàn toàn, Tổng Giám

lược Tổng Giám đốc công ty xuất đốc khối nào phụ trách khối

thân từ kỹ thuật, nên tâm lý đó -> mang tính chuyên sâu

ưu tiên đầu tư hạ tầng kỹ vấn đề, đem lại hiệu quả đầu

thuật hơn kinh doanh, nên tư cao hơn

thường đễ mất cơ hội đầu tư.

-Phụ trách cả ba khối, không - Mỗi nhà quản trị phụ trách

Cấp chiến có tính chuyên sâu vào từng từng khối riêng có tính có

2 thuật khối. tính chuyên sâu hơn.

- Hỗ trợ các Quận, Huyện về -Hỗ trợ các Quận, Huyện về

các vấn đề chuyên môn cả các vấn đề chuyên môn của

ba khối => thông tin dễ bị từng khối => thông tin

chồng chéo. thông suốt hơn

198

3.3.3.2 Giải pháp về cung cấp thông tin

Để có thể trở thành nguồn thông tin hữu ích, thông tin sau khi được thu

thập, xử lý, đánh giá để trở thành thông tốt (chính xác, đầy đủ, phù hợp, dễ sử

dụng…), thì thông tin sẽ được tiến hành cung cấp cho nhiều cấp quản trị sử

dụng như: cấp chiến lược, cấp chiến thuật và cấp tác nghiệp. Làm thế nào để

cung cấp thông tin một cách thường xuyên, cho ai và bằng những phương

pháp nào là vấn đề không đơn giản. Vì thế, để tiến hành cung cấp thông tin

một cách thuận lợi, thường xuyên và đều đặn, ta tiến hành cung cấp thông tin

qua các bước sau:

Bước 1: Xây dựng những nội dung cần cung cấp.

Bước 2: Xác định các cấp quản trị cần những loại thông tin nào: gồm

thông tin giúp cho nhà quản trị cấp chiến lược ra quyết định tài chính dài hạn;

thông tin hỗ trợ cho nhà quản trị cấp tác nghiệp ra quyết định tài chính ngắn

hạn; hay thông tin hỗ trợ cho cấp tác nghiệp thực hiện nhiệm vụ của họ.

Bước 3: Tiến hành phân loại thông tin thành: thông tin tác nghiệp,

thông tin chiến thuật và thông tin chiến lược.

Khi thông tin được phân loại thành thông tin chiến lược, thông tin chiến

thuật, thông tin tác nghiệp thì việc cung cấp thông tin nhằm phục vụ cho việc

lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch sẽ tiến hành được thuận lợi hơn.

Bước 4: Tiến hành cung cấp thông tin theo yêu cầu sử dụng của các cấp

quản trị.

Với các bước thực hiện trên, ta thấy quy trình cung cấp thông tin sẽ

được cụ thể hóa ở từng cấp quản trị, tránh được tình trạng cung cấp thông tin

bị chồng chéo, tiết kiệm được thời gian và tiết kiệm được chi phí để có được

những thông tin cần thiết.

3.3.4 Giải pháp về công cụ cấu thành hệ thống thông tin.

199

3.3.4.1 Giải pháp về máy vi tính

Máy vi tính có chức năng thu thập, kiểm tra, xử lý và truyền đạt thông tin

cho mọi thành viên trong Tập đoàn; máy tính giúp nhà quản lý kiểm tra xem

các thao tác được thực hiện có chính xác không, và các thông tin được giữ

trong cơ sở dữ liệu của Tập đoàn có đúng đắn không. Trong suốt quá trình

hoạt động, thông tin là yêu cầu cần thiết khách quan đối với mọi nhà quản trị,

để sử dụng thông tin phù hợp, kịp thời, chính xác, Tập đoàn bao giờ cũng cần

tiến hành kiểm tra, kiểm soát thông tin để đảm bảo tính đúng đắn của hệ

thống thông tin nhằm hỗ trợ đắc lực cho việc ra các quyết định tài chính.

Việc sử dụng máy tính kiểm soát thông tin nhằm giúp cho Tập đoàn

tránh một số nguy cơ:

 Thông tin lỗi thời nhưng vẫn được đưa vào sử dụng, do đó cần phải

dùng máy tính để kiểm tra các thông tin thu thập.

 Ý đồ xấu, cố tình bóp méo thông tin nhằm gây tổn thất cho Tập đoàn,

do đó phải tiến hành bảo mật thông tin thông qua việc dùng máy tính để mã

hóa dữ liệu, sử dụng mật khẩu trước khi xâm nhập vào máy tính, hoặc phân

quyền truy nhập khác nhau.

Để đảm bảo máy vi tính hoạt động có hiệu quả, Tập đoàn phải đưa ra quy

trình bảo vệ an toàn máy tính nhằm tránh sự cố kỹ thuật, rủi ro về môi trường

gây ra tổn thất cho Tập đoàn.

3.3.4.2 Giải pháp về phần mềm

Để hỗ trợ cho nhà quản trị có được những thông tin kinh tế để đưa ra

những chính sách tài chính kịp thời, chính xác, phù hợp; công ty cần phải có

những phần mềm chuyên biệt dùng cho chức năng tài chính bao gồm:

 Quản lý ngân quỹ

 Quản lý các khoản phải thu

 Quản lý các khoản phải trả

200

 Quản lý hàng tồn kho

 Phân tích các báo cáo tài chính

 Quản trị đầu tư

 Cơ cấu vốn

 Huy động vốn

3.3.4.3 Giải pháp về Internet

VNPT là Tập đoàn cung cấp dịch vụ viễn thông, internet là một trong

những dịch vụ thế mạnh của Tập đoàn, mang tính bảo mật cao và tốc độ

truyền thông nhanh, Internet đóng góp rất lớn vào hiệu quả hoạt động của tập

đoàn, và hiện nay Tập đoàn sử dụng rất có hiệu quả về internet, vì thế tác giả

không đưa ra giải pháp nào khác giải pháp hiện nay về internet mà Tập đoàn

đang áp dụng.

3.3.5 Hoàn thiện công tác tổ chức kế toán

Công tác tổ chức kế toán được gọi là hoàn thiện khi hệ thống kế toán

của công ty phải tuân thủ đúng pháp luật; thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với

nhà nước; nâng cao lợi ích chung của Tập đoàn và đãi ngộ người lao động.

3.3.5.1 Hoàn thiện tổ chức bộ máy kế toán

Tổ chức bộ máy kế toán trong Tập đoàn cần hoàn thiện phù hợp với

điều kiện cụ thể nhằm thu nhận, xử lý, phân tích và cung cấp thông tin đầy

đủ, kịp thời và trung thực phục vụ cho việc điều hành của nhà quản lý.

Theo đó, tổ chức bộ máy kế toán của Tập đoàn cần tương ứng với quy mô

và khối lượng công việc kế toán cần thực hiện cũng như số lượng và chất

lượng của đội ngủ người làm kế toán. Như vậy, đối với Tập đoàn hiện nay

nên tổ chức bộ máy kế toán tập trung theo mô hình kết hợp kế toán.

Hay nói cách khác, hoàn thiện hệ thống kế toán theo mô hình Tập

đoàn được biểu hiện qua việc hoàn thiện các mặt sau đây:

1. Hoàn thiện chính sách kế toán và thuế;

201

2. Kế toán trong Tập đoàn phải đồng bộ, thông suốt, dễ tổng hợp, so

sánh;

3. Thường xuyên kiểm tra, giám sát công tác tài chính – kế toán toàn

Tập đoàn.

4. Hoàn thiện vai trò là thông tin nội bộ:

 Cung cấp thông tin kế toán nhanh chóng, đầy đủ, chính xác kịp

thời cho việc ra quyết định;

 Cung cấp thông tin trong nội bộ Tập đoàn nhằm phục vụ công tác

nghiên cứu, đánh giá dự án đầu tư đã triển khai.

5. Hoàn thiện vai trò là thông tin bên ngoài:

 Báo cáo theo yêu cầu của cơ quan nhà nước;

 Cung cấp thông tin minh bạch cho các đối tượng có liên quan

(nhà đầu tư, tổ chức tín dụng, nhà cung cấp…)

3.3.5.2 Hoàn thiện hình thức kế toán

Báo cáo tài chính là phương tiện cung cấp thông tin về tình trạng tài

chính cũng như kết quả đầu tư trong một kỳ của một Tập đoàn cho các đối

tượng sử dụng. Tùy theo đặc điểm từng loại hình Tập đoàn và nhu cầu sử

dụng thông tin của người sử dụng mà báo cáo tài chính được lập và trình bày

một cách phù hợp. Hiện nay các Tập đoàn VNPT vẫn áp dụng hệ thống báo

cáo như các doanh nghiệp khác, điều này có một số hạn chế như các chỉ tiêu

trình bày trên báo cáo tài chính quá dài và phức tạp, không phù hợp với dạng

Tập đoàn đặc thù. Hơn nữa, mặc dù mẫu biểu của hệ thống báo cáo tài chính

quá dài, quá chi tiết nhưng vẫn chưa phản ánh đầy đủ những thông tin cần

thiết của Tập đoàn. Theo đó, các thông tin trên báo cáo tài chính cần hoàn

thiện, bao gồm:

- Các thông tin phản ánh trên bảng cân đối kế toán

202

Bảng cân đối kế toán là báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh tổng quát

toàn bộ giá trị tài sản hiện có và nguồn hình thành tài sản của Tập đoàn tại

thời điểm nhất định, đồng thời phản ánh tình hình tài chính thông qua mối

quan hệ giữa các chỉ tiêu, khoản, mục trình bày trên bảng. Song, hiện nay các

chỉ tiêu trên Bảng CĐKT chưa thực sự phản ánh đúng giá trị thực của tài sản

nên cũng không thể phản ánh thực chất hiệu quả đầu tư của Tập đoàn.

+ Chỉ tiêu Tài sản cố định: nhìn chung các Tập đoàn chưa phản ánh đầy

đủ giá trị của TSCĐ vô hình như giá trị những lợi thế thương mại đem lại về

các vị trí, địa điểm thuận lợi trong đầu tư kinh doanh, giá trị về quyền sử dụng

đất và một số giá trị TSCĐ vô hình khác. . . Vì vậy, hoàn thiện các thông tin

này trước hết cần hoàn thiện về cơ chế trích khấu hao TSCĐ và vấn đề xác

định giá trị Tập đoàn, đặc biệt là phương pháp xác định giá trị TSCĐ vô hình.

+ Các khoản phải thu: trên Bảng CĐKT của các DN, các khoản phải thu

cần phải chi tiết theo từng khoản phải thu ngắn hạn và phải thu dài hạn trong

thời hạn thanh toán và quá thời hạn thanh toán. Việc phân chia các khoản phải

thu thành phải thu ngắn hạn và phải thu dài hạn trong thời hạn thanh toán và

quá thời hạn thanh toán căn cứ vào tuổi nợ và thời hạn thanh toán.

Tóm lại: Khi công tác tổ chức kế toán tài chính được hoàn thiện thì báo

cáo tài chính sẽ được minh bạch hơn, vì thế công tác lập kế hoạch tải chính sẽ

được thuận lợi hơn; nhà quản trị các cấp sẽ có nguồn thông tin nội bộ tin cậy

sẽ dễ dàng ra các quyết định tài chính mà không phải tốn chi phí tìm kiếm

thông tin.

3.3.6 Một số giải pháp khác

3.3.6.1 Giải pháp về cơ chế chính sách và pháp luật về viễn thông

 Xây dựng, hướng dẫn, triển khai các chiến lược, quy hoạch, kế

hoạch, chương trình có liên quan đến quản lý và phát triển viễn

thông giai đoạn 2015-2020.

203

 Đẩy mạnh việc xây dựng, chuyển đổi, nâng cao chất lượng các

tiêu chuẩn, quy chuẩn về viễn thông cho phù hợp với sự phát triển

của Việt Nam và thông lệ quốc tế.

 Xây dựng cơ chế, chính sách, đảm bảo an ninh thông tin trong

môi trường cạnh tranh và hội nhập quốc tế.

3.3.6.2 Giải pháp về khoa học công nghệ

 Tập trung nguồn lực về tài chính và con người cho nghiên cứu

phát triển, nghiên cứu ứng dụng nhằm nâng cao năng suất lao

động và năng lực cạnh tranh của Tập đoàn VNPT.

 Đẩy mạnh việc áp dụng công nghệ cao trong việc thiết lập mạng

lưới, cung cấp dịch vụ và sản xuất thiết bị di động nhằm giảm giá

thành, phổ cập nhanh các dịch vụ viễn thông đến người tiêu dùng

với chất lượng tốt và giá cước hợp lý.

 Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào việc quản lý, khai

thác mạng lưới, cung cấp dịch vụ để giảm chi phí, giá thành và

nâng cao hiệu quả kinh doanh của Tập đoàn.

3.3.6.3 Giải pháp về tổ chức

 Hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách để trên cơ sở đó cơ cấu lại

thị trường viễn thông theo hướng phát triển bền vững, hiệu quả,

cạnh tranh lành mạnh.

 Hoàn thành việc tái cấu trúc Tập đoàn Bưu chính – Viễn thông

Việt Nam VNPT nhằm nâng cao năng suất lao động và nâng cao

năng lực cạnh tranh làm chủ thị trường trong nước và vươn ra

quốc tế.

3.3.6.4 Giải pháp về nguồn lực

204

 Sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển nước ngoài (ODA) cho việc

xây dựng hạ tầng và phổ cập dịch vụ viễn thông, Internet băng

rộng ở khắp mọi miền đất nước.

 Tích cự hỗ trợ, đào tạo nguồn nhân lực thiết kế, ứng dụng công

nghệ thông tin và viễn thông ngay trong các trường đại học có nội

dung liên quan đến viễn thông và công nghệ thông tin.

3.3.6.5 Giải pháp về hợp tác quốc tế

 Đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong lĩnh vực viễn thông, trên cơ sở

xác định rõ mục tiêu, nguyên tắc và giải pháp phù hợp với lợi ích

và điều kiện cụ thể của Việt Nam khi tham gia vào các hiệp định

thương mại song phương và đa phương.

 Tiếp tục đầy mạnh hợp tác trong các tổ chức, diễn đàn quốc tế về

viễn thông. Phối hợp, trao đổi kinh nghiệm về xây dựng chính

sách, pháp luật viễn thông để hạn chế rủi ro trong đầu tư nước

ngoài của VNPT.

Kết luận chương 3:

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận án đã đưa ra các giải pháp

hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế phục vụ cho việc ra các quyết định tài chính

của Tập đoàn Bưu chính – Viễn thông Việt Nam VNPT, cụ thể các giải pháp:

1. Giải pháp về tổ chức cấu thành hệ thống thông tin; giải pháp này giúp nhà

quản trị trong tập đoàn VNPT nắm rõ các bước trước khi tiến hành thu thập

thông tin, và nắm rõ quy trình xử lý thông tin nhằm giúp hệ thống thông tin

kinh tế được hoàn thiện, từ đó chất lượng thông tin sẽ được nâng cao, hỗ

trợ cho các nhà quản trị trong Tập đoàn VNPT ra quyết định tài chính được

tối ưu hơn.

2. Giải pháp về nội dung cấu thành hệ thống thông tin; giải pháp này nhằm hỗ

trợ cho nhà quản trị của Tập đoàn VNPT có được những thông tin tin cậy

205

từ bên trong và từ bên ngoài tập đoàn như: thông tin kế toán, thông tin dự

báo thị phần của doanh nghiệp trên thị trường, thông tin truyền thông, trình

độ công nghệ, trình độ nhân sự trong Tập đoàn. Đây là những thông tin minh

bạch, có tính tin cậy cao, nên việc nhà quản trị dựa vào những thông tin này

để ra quyết định tài chính là hoàn toàn có cơ sở khoa học.

3. Giải pháp về phương thức cấu thành hệ thống thông tin; giải pháp này được

thể hiện thông qua tiến độ cung cấp thông tin cho từng cấp quản lý, nhưng

làm thế nào để cung cấp thông tin một cách thường xuyên, cho ai và bằng

những phương pháp nào là vấn đề không đơn giản. Vì thế, để tiến hành

cung cấp thông tin một cách thuận lợi, thường xuyên và đều đặn, luận án

đã đưa ra 4 bước cung cấp thông tin cho nhà quản trị.

4. Giải pháp về công cụ cấu thành hệ thống thông tin; giải pháp được tiến

hành thông qua các giải pháp cụ thể: giải pháp về máy vi tính, giải pháp về

phần mềm, và Giải pháp về Internet.

5. Giải pháp hoàn thiện công tác tổ chức kế toán; công tác tổ chức kế toán

được gọi là hoàn thiện khi hệ thống kế toán của công ty phải tuân thủ đúng

pháp luật; thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với nhà nước; nâng cao lợi ích

chung của Tập đoàn và đãi ngộ người lao động. Vì thế hoàn thiện công tác

tổ chức kế toán được thể hiện thông qua hoàn thiện tổ chức bộ máy kế

toán; hoàn thiện hình thức kế toán cụ thể như: hoàn thiện chỉ tiêu Tài sản

cố định, hoàn thiện chỉ tiêu các khoản phải thu.

6. Giải pháp khác; ngoài những giải pháp trên, luận án còn xây dựng thêm

một số giải pháp khác như: Giải pháp về cơ chế chính sách và pháp luật về

viễn thông, giải pháp về khoa học công nghệ, giải pháp về tổ chức, giải

pháp về nguồn lực, giải pháp về hợp tác quốc tế.

206

KẾT LUẬN

Quản trị tài chính đóng một vai trò trung tâm trong mọi hoạt động của

Tập đoàn. Ta giả định, nếu Tập đoàn không có tiền thì Tập đoàn không thể

thanh toán mọi chi phí hoạt động của nó, không thể dự trữ hàng tồn kho,

không thể thuê mướn nhân công… và cuối cùng, Tập đoàn không thể tồn tại.

Mục tiêu của Tập đoàn là lợi nhuận, là giá trị của Tập đoàn; vì thế, đòi hỏi

Tập đoàn phải có một mức độ tài chính nhất định để đi vào hoạt động; nhưng

làm sao để Tập đoàn bảo toàn vốn? làm sao để Tập đoàn hoạt động có hiệu

quả? làm sao để Tập đoàn tồn tại và phát triển? Để giải quyết vấn đề này, một

trong những khâu quan trọng nhất trong hoạt động của Tập đoàn, đó là nhà

quản trị phải hoàn thiện được hệ thống thông tin kinh tế, vì hệ thống thông tin

kinh tế là hệ thống hỗ trợ thu thập, tổ chức và xử lý những thông tin trong lĩnh

vực kinh tế (vĩ mô, vi mô) ở bên trong và bên ngoài Tập đoàn để phục vụ cho

công tác quản trị tài chính của Tập đoàn. Hệ thống thông tin đóng vai trò

trung gian giữa tập đoàn với môi trường bên ngoài, hay giữa các bộ phận bên

trong tổ chức tập đoàn với nhau nhằm cung cấp những thông tin cần thiết cho

sự quản trị, điều hành; hệ thống thông tin kinh tế giúp Tập đoàn tăng cường

năng lực quản trị, nâng cao năng suất chất lượng, nâng cao hiệu quả của hoạt

động quản trị, và hỗ trợ cho quá trình ra quyết định... qua đó tăng cường vị

thế cạnh tranh của tập đoàn trong một thị trường biến đổi nhanh chóng và

phức tạp. Vì thế, tác giả tiến hành hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế thông

qua những giải pháp sau:

Giải pháp về tổ chức cấu thành hệ thống thông tin;

Giải pháp về nội dung cấu thành hệ thống thông tin;

Giải pháp về phương thức cấu thành hệ thống thông tin;

Giải pháp về công cụ cấu thành hệ thống thông tin;

Hoàn thiện công tác tổ chức kế toán.

207

Các giải pháp này giúp hệ thống thông tin kinh tế phục vụ ra quyết định

tài chính của Tập đoàn Bưu chính – Viễn thông Việt Nam VNPT được hoàn

thiện và trở thành nguồn thông tin hữu ích sẽ giúp nhà quản trị đưa ra những

quyết định tài chính đúng đắn, tối ưu.

Khi hệ thống thông tin được xây dựng được hoàn thiện, thì việc ra

quyết định tài chính sẽ thuận lợi hơn, rút ngắn được thời gian ra quyết định vì

thông tin đã được xử lý trước khi cung cấp cho nhà quản trị. Có như thế thì

hiệu quả đầu tư của Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông Việt Nam VNPT sẽ

được nâng cao hơn trong tương lai.

208

CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ

1. Trần Thị Diện, 2012 “Trao đổi về chất lượng tăng trưởng kinh tế của

Việt Nam hiện nay”, tạp chí nghiên cứu tài chính kế toán, số 3(104)-

2012, trang 23-26.

2. Trần Thị Diện, 2015 “Thông tin kinh tế phục vụ cho việc ra quyết định

tài chính doanh nghiệp”, tạp chí nghiên cứu tài chính kế toán, số

11(148)-2015, trang 70-72.

3. Trần Thị Diện, 2015 “Thông tin kinh tế phục vụ cho việc ra quyết định

tài chính của Tập đoàn Viễn thông VNPT”, tạp chí nghiên cứu tài

chính kế toán, số 12(149)-2015, trang 66-68.

4. Trần Thị Diện và cộng sự, 2015 “ Giào Trình Tài chính Quốc tế”, nhà

xuất bản Tài chính, mã phát hành ISBN 978-604-79-1311-4 tháng

12/2015.

5. Trần Thị Diện và cộng sự, 2016 “ Chương trình Nông Thôn Mới vùng

Đồng bằng Sông Cửu Long: Thực trạng và giải pháp về cơ chế tài

chính ”, đề tài cấp Bộ.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

209

1. Bùi Văn Vần, Vũ Văn Ninh (2013) – Giáo trình tài chính doanh nghiệp,

Nxb Tài chính.

2. Mục tiêu kế hoạch và chiến lược 2010 -2015 của Tập đoàn Bưu chính –

Viễn thông Việt Nam

3. Mục tiêu kế hoạch năm 2015 và chiến lược năm 2015-2020 của tập đoàn

VNPT

4. Nguyễn Ngọc Quang (2013)– Phân tích báo cáo tài chính, Nxb Tài

chính

5. Tailieu.vn/doc/he-thong-thong-tin-quan-ly-mis-1183589.html

6. Tạp chí thanh tra số 5 năm 2015

7. Trần Thị Tuyết Oanh (2014)– Đánh giá và đo lường kết quả học tập,

Nxb Đại học sư phạm.

8. Vũ Văn Ninh, Mai Ngọc Anh (2013)– Lập và quản lý ngân sách doanh

nghiệp, NXB Tài chính

9. http://www.voer.edu.vn/

10. http://www.hua.edu.vn/

11. http://www.vnpt.vn

12. http://vi.wikipedia.org/wiki

13. http://tapchi.vnu.edu.vn

14. Vn.Economy

15. Abdallah Ahmad Adel Jamil (2013), The impact of using accounting

information systems on the quality of financial statements submitted to

the Income and sales tax Department in Jordan, European Scientific

Journal special edition vol.1, pp.41-48, ISSN: 1857 – 7881 (Print) e -

ISSN 1857- 7431, article downloaded from the site

http://eujournal.org/index.php/esj/article/viewFile/2264/2147.

210

16. Abraham-Frois, G. (2002), Dynamique economique ´ (9th edn). Paris:

Dalloz

17. Adato, M., Carter, M.R. and May, J. (2006), Exploring poverty traps and

social exclusion in South Africa using qualitative and quantitative data.

Journal of Development Studies 42: 226–247.

18. Admati, A.R. (1985), A noisy rational expectations equilibrium for

multi-asset securities markets. Econometrica 53(3): 629–657.

19. Akerlof, G.A. and Dickens, W. (1982), The economic consequences of

cognitive dissonance. American Economic Review 72: 307–319.

20. Akerlof, G.A. and Shiller, R.J. (2009), Animal Spirits: How Human

Psychology Drives the Economy, and Why It Matters for Global

Capitalism. Princeton, NJ: Princeton University Press.

21. Asch, S. (1955), Opinions and social pressure. Scientific American 193:

31–35

22. Alamin Adel, Yeoh William, Warren Matthew & Salzman Scott (2015),

An Empirical Study of Factors Influencing Accounting Information

Systems Adoption, article downloaded from the site

http://aisel.aisnet.org/cgi/viewcontent.cgi?article=1002&context=ecis20

15_cr.

23. Baba Mirela Camelia (2009), Quality management of the accounting

services, Bulletin of the Transylvania University of Brasov Series V:

Economic Sciences, vol. 2, issue 51, pp.59-66, article downloaded from

thesite:http://but.unitbv.ro/BU2009/BULETIN2009/Series%20V/BULE

TIN%20V%20PDF/ 059%20Baba% 20Mirela%20BUT%202009.pdf

24. Barberis, N. and Thaler, R.H. (2003), A survey of behavioral finance. In

G. Constantinides, R. Stulz and M. Harris (eds.), Handbook of the

Economics of Finance (pp. 1053–1128). Amsterdam: North Holland.

211

25. Benabou, R. (2009), Groupthink: collective delusions in organizations

and markets. NBER Working Paper 14764.

26. Benabou, R. and Tirole, J. (2002), Self-confidence and personal

motivation. Quarterly Journal of Economics 117(3): 871–915. Berg, J.,

Dickhaut, J. and McCabe, K. (1995) Trust, reciprocity and social history.

Games and Economic Behavior 10: 122–142.

27. Benartzi, S. and Thaler, R.H. (1995), Myopic loss aversion and the

equity premium puzzle. Quarterly Journal of Economics 110(1): 73–92.

28. Bernhardt, D. and Taub, B. (2008), Cross-asset speculation in stock

markets, Journal of Finance 63: 2385– 2427. Bernheim, D., Garrett, D.

and Maki, D. (2001) Education and saving: the long-term effects of high

school financial curriculum mandates. Journal of Public Economics 85:

435–565.

29. Bernheim, B.D. and Garrett, D.M. (2003), The effects of financial

education in the workplace: evidence from a survey of households.

Journal of Public Economics 87: 1487–1519.

30. Biais, B., Bossaerts, P. and Spatt, C. (2010), Equilibrium asset pricing

under heterogeneous information. Review of Financial Studies 23(4):

1503–1543.

31. Blume, L.E., Bray, M.M. and Easley, D. (1982), Introduction to the

stability of rational expectations equilibrium. Journal of Economic

Theory 26(2): 313–317.

32. Bond, S.R. and Cummins, J.G. (2000), The stock market and investment

in the new economy: some tangible facts and intangible fictions.

Brookings Papers on Economic Activity 1: 61–108.

33. Booij, A.S., Leuven, E. and Oosterbeek, H. (2008), The role of

information in the take-up of student loans. Tinbergen Institute

212

Discussion Paper No. TI 2008-039/3. Available at SSRN:

http://ssrn.com/ abstract=1118253 (last accessed April 2008).

34. Brown, J., Ivkovich, Z., Smith, P. and Weisbenner, S. (2007), Neighbors

matter: causal community effects and stock market participation. NBER

Working Paper 13168.

35. Bodnar George H. & Hopwood William S. (2013), Accounting

Information Systems, 11th edition, Publisher Pearson UK, London, pp.3.

36. Bukenya Moses (2014), Quality of Accounting Information and

Financial Performance of Uganda’s Public Sector, American Journal of

Research Communication vol.2, issue 5, pp.183-203, article downloaded

from the site http://www.usa-journals.com/wp-

content/uploads/2014/04/Bukenya_Vol25.pdf.

37. Caraiman Adrian Cosmin (2015), Accounting information system –

qualitative characteristics and the importance of accounting information

at trade entities, Annals of the „Constantin Brâncuşi” University of

Târgu Jiu, Economy Series, vol.2, issue 1, pp.168-174, article

downloaded from the site http://www.utgjiu.ro/revista/ec/pdf/2015-

01.Volumul%202/26_Caraiman.pdf.

38. Cable, D.M. and Gilovich, T. (1998), Looked over or overlooked?

Prescreening decisions and postinterview evaluations. Journal of

Applied Psychology 83: 501–508.

39. Camerer, C., Loewenstein, G. and Rabin, M. (2003), Advances in

Behavioral Economics. Princeton, NJ: Princeton University Press.

40. Cass, D. and Shell, K. (1983), Do sunspots matter? Journal of Political

Economy 91: 2.

213

41. Cassar, A. and Crowley, L. (2007), The effect of social capital on group

loan repayment: evidence from field experiments. The Economic Journal

117: F85–F106.

42. Cassar, A. and Wydick, B. (2010), Does social capital matter? Evidence

from a five-country group lending experiment. Oxford Economic Papers

62(4): 715–739.

43. Ceballos, D. (2004), Expectativas financieras y la decision de inversi´

on. Proceedings VII Congreso Hispano- ´ Italiano Matematicas

Financieras y Actuariales. Cuenca 8–9/7. ´

44. Chan, S. and Stevens, A.H. (2004), Do changes in pension incentives

affect retirement? A longitudinal study of subjective retirement

expectations. Journal of Public Economics 88(7–8): 1307–1333.

45. Chantarat, S. and Barrett, C.B. (2007), Social network capital, economic

mobility and poverty traps. MRA Paper 1947: 1–56.

46. Chiriac Silviu-Virgil (2014), The importance of the accounting

information for the decisional process, Annales Universitatis Apulensis

Series Oeconomica vol.23, issue 1, pp.593-603, article downloaded from

the site http://connection.ebscohost.com/c/articles/97635611/importance-

accounting-informationdecisional-process and

http://steconomiceuoradea.ro/anale/volume/2014/n1/063.pdf.

47. Clark, R.L., D’ambrosio, M.B., McDermed, A.A. and Sawant, K. (2006),

Retirement plans and saving decisions: the role of information and

education. Journal of Pension Economics and Finance 5(01): 45–67.

48. Cole, S. and Shastry, G.K. (2009), Smart money: the effect of education,

cognitive ability, and financial literacy on financial market participation.

Working Paper 09–071, Harvard Business School, Boston, MA.

214

49. Cusumano, M.A. (1985), The Japanese Automobile Industry:

Technology and Management at Nissan and Toyota. Cambridge, MA:

Harvard University Press.

50. De Bondt, W.F.M. and Thaler, R.H. (1985), Does the stock market

overreact? Journal of Finance 40(3): 793–805.

51. De Meza, D., Irlenbusch, B. and Reyniers, D. (2008), Financial

capability: a behavioural economics perspective. Consumer research 69,

The Financial Services Authority.

52. Di Giannatale, S.B., Lopez, P. and Roa, M.J. (2008), Una introducci ´ on

conceptual al desarrollo financiero, ´ capital social, redes y anonimidad:

Caso de Mexico. CIDE-Working Paper, SDTE-427.

53. Di Giannatale, S.B., Elbittar, A., Rodriguez, P. and Roa, M.J. (2009)

Trust, information acquisition and financial decisions: a field

experiment. The Papers No 10/02, Department of Economic Theory and

Economic History of the University of Granada. Available at

http://econpapers.repec.org/RePEc:gra:wpaper:10/02 (last accessed 17

February 2010).

54. Di Giannatale, S.B., Elbittar, A., Maya, L., Ramirez, A. and Roa, M.J.

(2010) Confianza, redes sociales y habitos financieros: Un estudio emp ´

´ırico. CIDE-Working Paper, SDTE, forthcoming.

55. Dinca Maria Mihaela, Virag Nicolae Paul & Cotlet Bogdan (2012), The

role of accounting information in the economic entity, article

downloaded from the site http://fse.tibiscus.ro/anale/Lucrari2012

/kssue2012_097.pdf.

56. Duflo, E. and Saez, E. (2003), The role of information and social

interactions in retirement plan decisions: evidence from a randomized

experiment. Quarterly Journal of Economics 119: 815–842.

215

57. Duflo, E. and Saez, E. (2004) Implications of pension plan features,

information, and social interactions for retirement saving decisions. In

O.S. Mitchell and S. Utkus (eds.), Pension Design and Structure: New

Lessons from Behavioral Finance (pp. 137–153). Oxford: Oxford

University Press.

58. Easterly, W. and Levine, R. (1997,) Africa’s growth tragedy: politics

and ethnic divisions. Quarterly Journal of Economics 112: 1203–1250.

59. Edmiston, K.D. and Gillett-Fisher, M.C. (2006), Financial education at

the workplace, part I: knowledge and behavior. Community Affairs

Research Working Paper 2006-02, Federal Reserve Bank of Kansas City.

60. Eliaz, K. and Schotter, A. (2010), Paying for confidence: an

experimental study of the demand for noninstrumental information.

Games and Economic Behavior 70: 304–324.

61. Fasolo, B., McClelland, G. and Todd, P.M., (2007). Escaping the

tyranny of choice: when fewer attributes make choice easier. Marketing

Theory 7(1): 13–26.

62. Feiler, L.E., Goeree, J. and Yariv, L. (2006), An experimental study of

selective exposure. Working Paper, California Institute of Technology.

63. Feiler, L.E. (2007), Behavioral Biases in Information Acquisition.

Doctoral Thesis, California Institute of Technology.

64. Fisher, I. (1930), The Theory of Interest, as determined by Impatience to

Spend Income and Opportunity to Invest it. New York: Macmillan.

65. Fitriati Azmi & Mulyani Sri (2015), Factors that affect accounting

information system success and its implication on accounting

information quality, Asian Journal of Information Technology vol.14,

issue 5, pp.154-161, ISSN: 1682-3915, article downloaded from the site

http://www.medwelljournals. com/abstract/?doi=ajit.2015.154.161.

216

66. Fitriati Azmi & Mulyani Sri (2015), The Influence of Leadership Style

on Accounting Information System Success and Its Impact on Accounting

Information Quality, Research Journal of Finance and Accounting vol.6,

no11, pp. 167-173, ISSN 2222-1697 (Paper) ISSN 2222-2847 (Online),

article downloaded from the site

http://www.iiste.org/Journals/index.php/RJFA/article/viewFile/ 23679

/24191.

67. Foster, A. and Rosenzweig, M. (1995), Learning by doing and learning

from others: human capital and technical change in agriculture. Journal

of Political Economy 103(6): 1176–1209.

68. Fox, J., Bartholomae, S., and Lee, J. (2005), Building the case for

financial education. Journal of Consumer Affairs 39(1): 195–214.

69. Friedman, M. (1957), A Theory of the Consumption Function. Princeton,

NJ: Princeton University Press.

70. Gine, X., Jakiela, P., Karlan, D. and Morduch, J. (2006), Microfinance

games. Policy Research Working ´ Paper Series 3959, Banco Mundial.

71. Goldstein, D.G. and Gigerenzer, G. (1999), The recognition heuristic:

how ignorance makes us smart. In G. Gigerenzer and P. Todd (eds.),

Simple Heuristics That Make Us Smart. New York: Oxford University

Press.

72. Gomez Soto, F. and Gonz ´ alez Vega, C. (2006), Formas de asociaci ´

on cooperativa y su participaci ´ on en la ´ provision de servicios

financieros en las ´ areas rurales de M ´ exico. In ´ Los mercados de las

finanzas rurales y populares en Mexico. Una visi ´ on r ´ apida sobre su

multiplicidad y alcance ´ . Mexico: AFIRMA. ´

73. Grossman, S.J. (1976,) On the efficiency of competitive stock markets

where traders have diverse information. Journal of Finance 31: 573–585.

217

74. Grossman, S.J. and Stiglitz, J.E. (1980), On the impossibility of

informationally efficient markets. American Economic Review 70(3):

393–408.

75. Gwangwava Edison, Faitira Manuere, Mabvure Joseph & Kuadakwashe

Gutu (2012), Evaluation of factors influencing adoption of accounting

information system by small to medium enterprises in Chinhoyi,

Interdisciplinary Journal of Contemporary Research in Business vol.4,

no.6, pp.1126-1141, article downloaded from the site http://journal-

archieves24.webs.com/1126-1141.pdf.

76. Hafij Ullah Md., Jamil Ahmed Khonadakar & Syeda Tamanna Fahim

(2014), Role of Accounting Information in Strategic Decision Making in

Manufacturing Industries in Bangladesh, Global Journal of Management

and Business Research vol.14, issue 1, pp.9-22, ISSN: 2249-4588 &

Print ISSN: 0975-5853, article downloaded from the site

https://globaljournals.org/GJMBR_Volume14/2-Role-of-

AccountingInformation.pdf.

77. Hall, R.E. (1978), Stochastic implications of the life cycle-permanent

income hypothesis: theory and evidence. Journal of Political Economy

86(6): 971–988.

78. Hall, C.C., Ariss, L. and Todorov, A. (2007), The Illusion of knowledge:

when more information reduces accuracy and increases confidence.

Organizational Behavior and Human Decision Processes 103: 277–290.

79. Hayek, F.A. (1945), The use of knowledge in society. The American

Economic Review 35(4): 519–530.

80. Hilgert, M.A., Hogarth, J.M. and Beverly, S.G. (2003), Household

financial management: the connection between knowledge and behavior.

Federal Reserve Bulletin, 89(7): 309–322.

218

81. Hirad, A. and Zorn, P.M. (2001), A little knowledge is a good thing:

empirical evidence of the effectiveness of pre-purchase homeownership

counseling. Low-Income Homeownership Working Paper Series. LIHO-

01.4. Cambridge, MA: Joint Center for Housing Studies, Harvard

University. Available at http://

www.jchs.harvard.edu/publications/homeown/liho01–4.pdf/ (last

accessed 15 June 2004).

82. Holm, C. and Rikhardsson, P. (2006), Experienced and novice investors:

does environmental information influence on investment allocation

decisions? Financial Reporting Research Group Working Papers R-

2006–02, University of Aarhus, Aarhus School of Business, Department

of Business Studies.

83. Hogarth, J.M. (2006), Financial Education and Economic Development

presented at the G8 International Conference on Improving Financial

Literacy, Moscow, Russian Federation, November 29, 2006. Available at

http://www.oecd.org/dataoecd/20/50/37742200.pdf (last accessed 11

May 2010).

84. Hong, H., Kubik, J. and Stein, J. (2004), Social interaction and stock

market participation. Journal of Finance 59: 137–163.

85. Huber, O. and Seiser, G. (2001), Accounting and convincing: the effect

of two types of justification on decision process. Journal of Behavioral

Decision Making 14(1): 69–85.

86. Hung, A.A., Meijer, E., Mihaly, K. and Yoong, J. (2009), Building Up,

Spending Down: Financial Literacy, Retirement Savings Management,

and Decumulation Santa Monica, CA: RAND Corporation, WR-712.

Available at http://www.rand.org/pubs/working_ papers/WR712/ (last

accessed 11 May 2010)

219

87. Iskandar Deni(2015), Analysis of factors affecting the success of the

application of accounting information system, International Journal of

scientific & Technology research vol.4, issue 2, pp.155-162, ISSN 2277-

8616, article downloaded from the site http://www.ijstr.org/final-

print/feb2015/Analysis-Of-FactorsAffecting-The-Success-Of-The-

Application-Of-Accounting-Information-System.pdf. Quality-Access to

Success, Vol.17, S2 May 2016 57

88. Iyengar, S.S., Jiang, W. and Huberman, G. (2004), How Much Choice is

Too Much? Contributions to 401(k) Retirement Plans. In O.S. Mitchell

and S. Utkus (eds.), Pension Design and Structure: New Lessons from

Behavioral Finance (pp. 83–95). Oxford: Oxford University Press.

89. Iyengar, S.S., Jiang, W. and Kamenica, E. (2006), The psychological

costs of ever increasing choice: a fallback to the sure bet. Working

Paper, Graduate School of Business, Management Department,

Columbia University.

90. Kahneman, D. and Tversky, A. (1979), Prospect theory: an analysis of

decision under risk. Econometrica 47(2): 263–292.

91. Kahneman, D. and Tversky, A. (2000), Choices, Values and Frames.

Princeton, NJ: Princeton University Press.

92. Kahneman, D., Slovic, P. and Tversky, A. (1982), Judgement under

Uncertainty: Heuristics and Biases. New York: Cambridge University

Press.

93. Keynes, J.M. (1936), The General Theory of Employment, Interest and

Money. Macmillan Cambridge University Press for Royal Economic

Society.

94. Kim, J., Garman, E.T. and Sorhaindo, B. (2003), Relationships among

credit counseling clients’ financial well-being, financial behaviors,

220

financial stressor events, and health. Financial Counseling and Planning

14(2): 75–87.

95. Lacko, J. and Pappalardo, J. (2004,. The effect of mortgage broker

compensation disclosures on consumers and competition: a controlled

experiment. Federal Trade Commission Bureau of Economics Staff

Report.

96. Lusardi, A. (2004), Savings and the effectiveness of financial education.

In O.S. Mitchell, and S. Utkus (eds.), Pension Design and Structure:

New Lessons from Behavioral Finance (pp. 157–184). Oxford: Oxford

University Press.

97. Lusardi, A. (2008), Household saving behavior: the role of financial

literacy, information, and financial education programs. NBER

Working Paper 1382.

98. Lusardi, A. and Mitchell O.S. (2007), Financial literacy and planning:

implications for retirement wellbeing. Business Economics 42(1): 35–44.

99. Lusardi, A. (2008), Planning and financial literacy: how do women

fare? American Economic Review: Papers & Proceedings 98: 2.

100. Lyons, A.C. (2005), Financial education and program evaluation:

challenges and potentials for financial professionals. Journal of Personal

Finance 4(4): 56–68.

101. Lyons, A.C., Rachlis, M., Staten, M. and Xiao, J.J. (2006), Translating

financial education into knowledge and behavior change. Consumer

Interests Annual 52: 397–403.

102. Lyons, A.C. (2010), Consideraciones clave para una evaluacion eficaz de

los programas de educaci ´ on´ economica y financiera presented at the

4th Simposio ´ La educacion econ ´ omica y financiera en M ´ exico ´ ,

221

Mexico D.F.: Museo Interactivo de Econom ´ ´ıa, mide, 10 Septiembre,

2010.

103. Okab Reem, Al-Oqool Mohammed Ali & Bashayreh Mohammed

Mahmoud (2014), The Importance of the Accounting Information and

the Role of the Scientific Accounting Research in Developing the

Economic Development Service in the Developing Countries (Case Study

Jordan), Research in Applied Economics vol.6, no1, pp.240-257, ISSN

1948-5433, article downloaded from the site http://www.

macrothink.org/journal/index.php/rae/article/view/4699/4327.

104. Maenhout, P. (2004), Robust portfolio rules and asset pricing. The

Review of Financial Studies 17(4): 951– 983.

105. Malhotra, N.K., Jain, A.K. and Lagakos, S.W. (1982), The information

overload controversy: an alternative viewpoint. Journal of Marketing 46:

27–37.

106. Martin, M. (2007), A literature review on the effectiveness of financial

education. Working Paper 07–03, Federal Reserve Bank of Richmond,

Richmond, VA. Available at http://www.richmondfed.

org/publications/research/working_papers/2007/wp_07_3. cfm (last

accessed 11 May 2011).

107. Mastrobuoni, G. (2009), The role of information for retirement behavior:

evidence based on the stepwise introduction of the social security

statement. Working Papers, Center for Retirement Research at Boston

College, Center for Retirement Research.

108. Meier, S. and Sprenger, C. (2008), Discounting financial literacy: time

preferences and participation in financial education programs. Working

Paper.

222

109. Merton, R.C. (1969), Lifetime portfolio selection under uncertainty: the

continuous-time model. Review of Economics and Statistics 51: 247–

257.

110. Modigliani, F. and Brumberg, R.H. (1954), Utility analysis and the

consumption function: an interpretation of cross-section data. In K.K.

Kurihara (ed.), Post Keynesian Economics (pp 388–436). New

Brunswick, NJ: Rutgers University Press.

111. Mullainathan, S. and Shleifer, A. (2005), Persuasion in finance.

Working Paper, Harvard University.

112. Muth, J. (1961), Rational expectations and the theory of price

movements. Econometrica 29: 315– 335.

113. Nobes Christopher W. & Stadler Christian (2014), The qualitative

characteristics of financial information, and managers’ accounting

decisions: evidence from IFRS policy changes, article downloaded from

the site

http://www.ifrs.org/Meetings/MeetingDocs/Other%20Meeting/2014/Oct

ober/ABR-2014- 0103-Qualitative-characteristics.pdf.

114. Petroianu Grazia-Oana (2012), The role of accounting information in the

decision making process, “Ovidius” University Annals, Economic

Sciences Series vol.XII, issue 1, pp.1594-1598, article downloaded from

the site http://stec.univ-

ovidius.ro/html/anale/ENG/cuprins%20rezumate/volum2012p1.pdf and

https://ideas.repec.org/a/ovi/oviste/vxiiy2012i12p1594-1598.html.

115. O’Brien James & Marakas George (2012), Introduction to information

systems,16th edition, Published by McGraw-Hill Companies Inc., USA,

New York, book downloaded from the site

116. http://www.amazon.com/gp/reader/0073376884/?tag=foxebook-20.

223

117. Rapina (2014), Factors Influencing The quality of accounting

information system and its implications on the quality of accounting

information, Research Journal of Finance and Accounting vol.5, no2,

pp.148-154, ISSN 2222-1697 (Paper) ISSN 2222-2847 (Online), article

downloaded from the site http://www.iiste.org/

Journals/index.php/RJFA/article/viewFile/10689/10894.

118. Romney Marshall B. & Steinbart Paul John (2015), Accounting

Information Systems, 13th edition, Publisher Pearson – Prentice Hall,

USA, New Jersey, book downloaded from the site

http://www.downloadslide.com/2015/12/slides-accounting-information-

systems_97.html.

119. Saċer Ivana Mamiċ & Olouiċ Ana (2013), Information technology and

accounting information systems ‘quality in creation middle and large

companies, Journal of Information and Organizational Sciences vol.37,

no2, pp.117-126, ISSN 1846-9418 (online), ISSN 1846-3312 (print),

article downloaded from the site

http://jios.foi.hr/index.php/jios/article/view/820/694.

120. Salehi Mahdi, Rostami Vahab & Mogadam Abdolkarim (2010),

Usefulness of Accounting Information System in Emerging Economy:

Empirical Evidence of Iran, International Journal of Economics and

Finance vol.2, no2, pp.186-195, article downloaded from the site

http://www.ccsenet.org/journal/index.php /ijef/article/view/5906.

121. Scorte Carmen Mihaela, Cozma Adina & Rus Luminita (2009), The

importance of accounting information in crisis times, Annales

Universitatis Apulensis Series Oeconomica vol.11, issue 1, pp.194-200,

article downloaded from the site

http://www.oeconomica.uab.ro/upload/lucrari/1120091/18.pdf.

224

122. Susanto Azhar (2015), What factors influence the quality of accounting

information?, International Journal of Applied Business and Economic

Research vol.13, no6, pp.3995-4014, article downloaded from the site

http://www.serialsjournals.com/serialjournalmanager/pdf/1457760294.p

df.

123. Toth Zsuzsanna (2012), The current role of accounting information

systems, Review Club of Economics in Miskolc TMP vol.8, no1, pp.91-

95, article downloaded from the site http://webcache.

googleusercontent.com/search?q=cache:8fIFH6Lx7UcJ:tmp.gtk.uni-

miskolc.hu/volumes/2012/01/ TMP_

2012_01_13_Toth_Zsuzsanna.pdf+&cd=1&hl=en&ct=clnk&gl=ro.

124. Vătăș oiu Cristian Ionel, Gheorghe Mihaela, Motoniu Ioan Dumitru &

Boca (Rakos) Ileana Sorina (2010), Accounting information – the base of

financial analysis in investment decisions, Annals of the Constantin

Brâncuşi” University of Târgu Jiu, Economy Series, vol.4, issue 1,

pp.244-254, article downloaded from the site

http://www.utgjiu.ro/revista/ec/pdf/2010-04.II/24_CRISTIAN _IONEL

_VATASOIU.pdf.

125. Yenni Carolina (2015), Towards AIS success and its implications to

information quality and user satisfaction, International Journal of

Applied Business and Economic Research vol.13, no7, pp.5031-5044,

article downloaded from the site

http://www.serialsjournals.com/serialjournalmanager/pdf/

1456983941.pdf.

126. http://www.accountingtools.com/questions-and-answers/what-are-the-

characteristics-of-useful-accounting - informatio.html.

225

127. http://www.ifrs.org/Meetings/MeetingDocs/Other%20Meeting/2014/Oct

ober/ABR-2014-0103- Qualitative-characteristics.pdf

128. http://simplestudies.com/what-are-the-qualities-of-accounting-

information.html

129. journal homepage: www.elsevier.com.locate/jsis

130. Xu, H. J., 2003Critical Success Factors For Accounting Information

Systems Data Quality”. Dissertation for Doctor of Philosophym 2003,

University of Douthern Queensland.

131. www.diva-portal.orgáo

132. Báo cáo tài chính của Tập đoàn VNPT năm 2015

PHỤ LỤC

Bảng chi tiết câu hỏi khảo sát thể hiện ở 5 thang cấp độ:

A. QUAN ĐIỂM VỀ HỆ THỐNG THÔNG TIN KINH TẾ CỦA TẬP ĐOÀN

BƯU CHÍNH - VIỄN THÔNG VNPT.

226

a. Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông VNPT có sử dụng thông tin nhằm

phục vụ ra quyết định tài chính?

2. 3. 4. 5.

b. Thông tin kinh tế thường sử dụng nhằm phục vụ ra quyết định tài 1. 1 .. . chính là những thông tin kinh tế vi mô, thông tin kinh tế vĩ mô, thông tin kinh

tế bên trong, thông tin kinh tế bên ngoài, thông tin kinh tế quá khứ, thông tin

kinh tế hiện tại, và thông tin kinh tế tương lai?

2. 3. 4. 5.

c. Tập đoàn VNPT đã hoàn thiện rất tốt hệ thống thông tin kinh tế 1. 1 .. . nhằm phục vụ ra quyết định tài chính?

2. 3. 4. 5.

d. Hệ thống thông tin kinh tế của Tập đoàn Bưu chính Viễn thông 1. 1 .. .

VNPT đang sử dụng là yếu tố rất quan trọng trong việc ra quyết định tài

chính?

4. 2. 3. 5.

1. 1 .. . VNPT đang sử dụng có phù hợp với trình độ nhà quản trị?

e. Hệ thống thông tin kinh tế của Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông

3. 5. 2. 4.

B. CÁC YẾU TỐ PHẢN ÁNH THỰC TRẠNG VỀ HỆ THỐNG THÔNG

1. 1 .. . TIN KINH TẾ CỦA TẬP ĐOÀN BƯU CHÍNH - VIỄN THÔNG

VNPT.

J. Thực trạng về tổ chức cấu thành:

1. Thực trạng về quy trình thu thập hệ thống thông tin kinh tế của

VNPT:

a. Tập đoàn Bưu chính – Viễn thông VNPT đã tiến hành xây dựng

những nội dung thông tin cần thu thập trước khi tiến hành thu thập?

2. 3. 4. 5.

1. 1 .. .

227

b. Tập đoàn VNPT có tiến hành xác định nguồn thu thập tin cậy

trước khi tiến hành thu thập?

2. 3. 4. 5.

c. VNPT có tiến hành tiếp nhận thông tin từ nguồn thông tin bên

1. 1 .. . ngoài như khảo sát khách hàng, tìm hiểu về đối thủ cạnh tranh..?

2. 3. 4. 5.

d. VNPT có tiến hành tiếp nhận thông tin từ nguồn thông tin bên trong nội bộ như: sổ sách kế toán, thông tin chính thức giữa quản lý

1. 1 .. .

với nhau, thông tin chính thức giữa quản lý với nhân viên?

2. 3. 4. 5.

e. Sau khi thu thập thông tin, VNPT có tiến hành phân loại thông

1. 1 .. . tin?

2. 3. 4. 5.

f. Thông tin thu thập có được phân loại thành: thông tin chiến lược, 1. 1 .. . thông tin chiến chiến thuật, thông tin tác nghiệp?

5. 2. 4.

3. g. Tập đoàn VNPT có đánh giá thông tin được thu thập để phân loại 1. 1 .. . thành những thông tin: tin cậy và không tin cậy

2. 4. 5. 3.

h. Khi tiếp nhận nguồn thông tin, Tập đoàn VNPT có xử lý thông 1. 1 .. . tin trước khi đưa vào sử dụng?

2. 4. 5. 3.

2. Quy trình xử lý thông tin có đảm bảo đầy đủ các đặc điểm: 1. 1 .. . i. Thông tin đảm bảo độ tin cậy?

2. 4. 5. 3.

j. Thông tin đảm bảo sự cần thiết?

2. 4. 5. 3.

1. 1 .. . 1. 1 .. .

228

k. Thông tin đảm bảo tính kịp thời?

5. 2. 3. 4.

l. Thông tin đảm bảo tính phù hợp?

5. 2. 3. 4.

m. Thông tin đảm bào độ chính xác?

5. 2. 3. 4.

n. Thông tin đảm bảo tính đầy đủ?

5. 2. 3. 4.

o. Thông tin đảm bảo tính dễ sử dụng?

5. 2. 3. 4.

p. Thông tin đảm bảo tính bảo mật?

5. 2. 3. 4.

3. Quy trình sử dụng hệ thống thông tin kinh tế của Tập đoàn VNPT có 1. 1 .. . 1. 1 .. . 1. 1 .. . 1. 1 .. . 1. 1 .. . 1. 1 .. . thực hiện qua các bước:

d. Cấp chiến lược có sử dụng thông tin nhằm mục đích đưa ra các quyết

định tài chính chiến lược như: quyết định đầu tư, quyết định huy động

vốn, và quyết định phân chia lợi nhuận?

2. 3. 4. 5.

e. Cấp chiến thuật tiếp nhận thông tin từ mệnh lệnh của cấp chiến lược 1. 1 .. . đưa xuống nhằm triễn khai thực hiện các quyết định tài chính dài hạn

và các quyết định tài chính ngắn hạn của Tập đoàn.

2. 3. 4. 5.

f. Cấp tác nghiệp tiếp nhận thông tin từ cấp chiến thuật để triễn khai công 1. 1 .. .

việc hàng ngày?

2. 3. 4. 5.

1. 1 .. .

229

II. Thực trạng về Hệ thống thông tin kinh tế của Tập đoàn Bưu chính – Viễn

thông VNPT.

1. Thực trạng về nội dung cấu thành hệ thống thông tin

a. Những thông tin kinh tế bên ngoài Tập đoàn, như thông tin từ tìm

hiểu về đối thủ cạnh tranh, từ khảo sát nhu cầu sử dụng dịch vụ của

khách hàng, có tác động đến quyết định tài chính của Tập đoàn?

2. 5. 3. 4.

b. Những thông tin kinh tế bên trong Tập đoàn, như sổ sách kế toán, thông tin nội bộ giữa những nhà quản lý với nhau có tác động đến

1. 1 .. .

quyết định tài chính của Tập đoàn?

2. 3. 4. 5.

2. Thực trạng phương thức cấu thành hệ thống thông tin 1. 1 .. . a. Thời gian tiếp nhận thông tin của Tập đoàn có đúng lúc?

b. Thông tin được cung cấp để phục vụ ra các quyết định tài chính có

3. 4. 2. 5.

1. 1 .. . phù hợp?

2. 3. 4. 5.

c. Tiến độ ra các quyết định tài chính có kịp thời?

2. 5. 4.

a. Máy vi tính phục vụ cho nhà quản trị sử dụng hệ thống thông tin kinh

3. 3. Thực trạng về phương tiện hỗ trợ cấu thành hệ thống thông tin kinh tế 1. 1 .. . 1. 1 .. .

tế nhằm ra các quyết định tài chính có tính chất hiện đại?

2. 4. 5. 3.

b. Phần mềm có tương thích, phù hợp?

2. 4. 5. 3.

1. 1 .. . 1. 1 .. .

230

 Để mang tính bảo mật thông tin cao, ngoài mạng internet Tập đoàn

đang sử dụng, Tập đoàn VNPT có sử dụng mạng nội bộ riêng có của

Tập đoàn?

2. 5. 3. 4.

D. MỨC ĐỘ TÁC ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG THÔNG TIN KINH TẾ

 1. 1 .. . ĐẾN QUYẾT ĐỊNH TÀI CHÍNH CỦA TẬP ĐOÀN BƯU CHÍNH

VIỄN THÔNG VNPT.

J. Hệ thống thông tin kinh tế Tập đoàn VNPT đang sử dụng có tác

động hiệu quả đến việc ra các quyết định tài chính của Tập đoàn?

2. 3. 4. 5.

tin kinh tế, được thể hiện trên các mặt:

II. Tính hiệu quả của các quyết định tài chính do sử dụng hệ thống thông 1. 1 .. .

1. Đối với các quyết định tài chính dài hạn:

a. Quyết định đầu tư có phù hợp?

2. 3. 4. 5.

b. Hiệu quả đầu tư có cao

2. 3. 4. 5.

c.Quyết định huy động vốn có phù hợp

2. 3. 4. 5.

d. Chi phí sử dụng vốn có tối ưu?

2. 3. 4. 5.

e. Quyết định phân chia lợi nhuận có phù hợp? 1. 1 .. . 1. c. ? 1 .. . 1. 1 .. . 1. 1 .. .

2. 5. 4. 3.

1. 1 .. f. Phân chia lợi nhuận có đảm bảo hài hòa được lợi ích của người .

lao động?

2. 3. 4. 5.

2. Đối với các quyết định tài chính ngắn hạn: 1. 1 .. .

231

a. Quyết định tiền mặt có phù hợp?

3. 2. 4. 5.

2. 3. 4. 5.

c. Quyết định hàng tồn kho có phù hợp?

2. 3. 4. 5.

1. 1 .. b. Quyết định các khoản phải thu có phù hợp? . 1. 1 .. . 1. 1 .. .

232