BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINH --------------------------
LÊ THỊ NHIÊN
NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA HỒI KÝ CÁCH MẠNG VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Thành phố Hồ Chí Minh – 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi. Các phụ lục và tư liệu sử dụng phân tích trong luận án có nguồn gốc
rõ ràng, đã công bố theo đúng quy định. Các kết quả nghiên cứu trong luận án
do tôi tự tìm hiểu, phân tích một cách trung thực, khách quan và phù hợp. Các
kết quả này chưa từng được công bố trong bất kỳ nghiên cứu nào khác.
Nghiên cứu sinh
Lê Thị Nhiên
MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 1. Tính cấp thiết của đề tài .................................................................................. 1 2. Mục đích nghiên cứu ...................................................................................... 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 3 4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................ 4 5. Đóng góp của luận án ..................................................................................... 5 6. Cấu trúc của luận án …………………………………………………………. 5
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU HỒI KÍ CÁCH MẠNG VIỆT NAM ................................................................ 7 1.1. Tình hình nghiên cứu hồi kí cách mạng ở Việt Nam trước năm 1975 .... 7 1.1.1. Những nghiên cứu mang tính khái quát về hồi kí cách mạng .................... 8 1.1.2. Những nghiên cứu về các tác giả, tác phẩm hồi kí cụ thể ........................ 17 1.2. Tình hình nghiên cứu hồi kí cách mạng ở Việt Nam từ 1975 đến nay .. 23 1.2.1. Những nghiên cứu mang tính khái quát về hồi kí cách mạng .................. 23 1.2.2. Những nghiên cứu về tác giả, tác phẩm hồi kí cụ thể .............................. 31 1.3. Một số đánh giá về tình hình nghiên cứu hồi kí cách mạng ở Việt Nam trước và sau 1975 ............................................................................................ 39 1.3.1. Ưu điểm ………………………………………………………………….39 1.3.2. Hạn chế …………………………………………………………………..40
Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HỒI KÍ VÀ HỒI KÍ CÁCH MẠNG ................................................................................................................ 43 2.1. Những vấn đề chung về hồi kí ................................................................. 43 2.1.1. Khái niệm hồi kí và sự phân định ranh giới giữa hồi kí với các thể loại tương cận .......................................................................................................... 44 2.1.2. Đặc điểm hồi kí ...................................................................................... 50 2.1.3. Phân loại hồi kí…………………………………………………………...53 2.2. Những vấn đề chung về hồi kí cách mạng .............................................. 59 2.2.1. Khái niệm ............................................................................................... 60 2.2.2. Một số đánh giá về hồi kí cách mạng ................................................. 63
Chương 3: NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA HỒI KÍ CÁCH MẠNG VIỆT NAM NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG................................... 74 3.1. Hồi ức về bức tranh hiện thực mang khuynh hướng sử thi …………....74
3.1.1. Hồi tưởng về những sự kiện trọng đại trong đời sống cách mạng Việt Nam .......................................................................................................... 75 3.1.2. Gợi nhắc tình hình thế giới và những tác động đến cách mạng Việt Nam .......................................................................................................... 81 3.2. Hồi ức về tầm vóc vĩ đại của nhân dân và chân dung tinh thần của người cách mạng ............................................................................................. 85 3.2.1. Tầm vóc vĩ đại của nhân dân .................................................................. 85 3.2.2. Chân dung tinh thần của người cách mạng .............................................. 90 3.3. Nhận thức về những thủ đoạn của thực dân, đế quốc và thân phận của người Việt Nam ............................................................................................. 103 3.3.1. Thủ đoạn của bọn thực dân, đế quốc đối với dân tộc Việt Nam ............ 104 3.3.2. Sự tàn khốc của chế độ nhà tù thực dân, đế quốc .................................. 106 3.3.3. Thân phận của người Việt Nam trong cảnh đời nô lệ ............................ 111 3.4. Giáo dục, đúc kết những bài học có ý nghĩa quan trọng ..................... 115 3.4.1. Giáo dục lí tưởng cách mạng và tình yêu quê hương đất nước .............. 115 3.4.2. Những bài học kinh nghiệm trong hoạt động cách mạng ....................... 118 Chương 4: NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA HỒI KÍ CÁCH MẠNG VIỆT NAM NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT…………………...125 4.1. Nghệ thuật trần thuật trong hồi kí cách mạng Việt Nam .................... 125 4.1.1. Chủ thể trần thuật trong hồi kí cách mạng Việt Nam............................. 126 4.1.2. Kết cấu trần thuật ................................................................................ 134 4.1.3. Điểm nhìn trần thuật ............................................................................. 147 4.2. Nghệ thuật thể hiện hình tượng người cách mạng ............................... 156 4.2.1. Đặc tả về ngoại hình ............................................................................. 157 4.2.2. Ấn tượng về ngôn ngữ và hành động .................................................... 161 4.2.3. Khắc họa thế giới nội tâm ..................................................................... 165 4.3. Giọng điệu nghệ thuật đa dạng ............................................................. 169 4.3.1. Giọng giãi bày, tâm tình ....................................................................... 170 4.3.2. Giọng ngợi ca, tuyên truyền .................................................................. 173 4.3.3. Giọng khôi hài, mỉa mai, châm biếm .................................................... 175 KẾT LUẬN ................................................................................................... 180 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 183 PHỤ LỤC DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ LUẬN ÁN
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hồi kí là một thể loại văn học có nhiều tiểu loại khác nhau. Quá trình
hình thành và phát triển của thể loại này khá phức tạp. Điều đó gắn liền với sự
đổi thay sinh động của hiện thực xã hội và nhu cầu sáng tạo của nghệ sĩ.
Trong tiến trình văn học Việt Nam, hồi kí đạt nhiều thành tựu vào thập niên
60, tiếp tục phát triển ở những thập niên cuối của thế kỉ XX và đầu thế kỉ
XXI. Nội dung của hồi kí giai đoạn đầu là hồi ức của những người cách
mạng, ghi lại những kỉ niệm sâu sắc về đồng đội, nhân dân trong những năm
tháng hoạt động bí mật; ghi lại những sự kiện quan trọng trong lịch sử chống
thực dân, đế quốc bằng nhận thức và ý thức cá nhân. Từ thập niên 90 đến nay,
nội dung hồi kí là sự hồi tưởng của những nhà văn về cuộc đời cầm bút và kí
ức của những tướng lĩnh về một thời gắn bó với chiến trường, xông pha qua
nhiều trận mạc. Trong đó, hồi kí của người cách mạng là một mảng sáng tác
có vị trí quan trọng đối với văn học Việt Nam. Tuy nhiên, đây vẫn còn là
mảnh đất chưa được khai vỡ kĩ càng và toàn diện, nhất là ở phương diện đặc
trưng thể loại.
Ở Việt Nam, cuộc cách mạng giải phóng dân tộc là nguồn cảm hứng bất
tận cho sáng tạo nghệ thuật. Văn học cách mạng đã đạt được nhiều thành tựu
và có đóng góp quan trọng vào tiến trình văn học Việt Nam. So với các thể
loại văn học hư cấu, văn học phi hư cấu nói chung, hồi kí nói riêng đã phản
ánh quá trình hoạt động, đấu tranh cũng như tâm tư, nguyện vọng của người
viết một cách chân thực và sâu sắc bởi chính họ là những người trong cuộc.
Khi các cuộc vận động sáng tác về lực lượng vũ trang diễn ra vào thập niên
60 của thế kỷ XX, nhiều hồi kí cách mạng đã ra đời. Đây là những sáng tác
với đặc trưng chiếm lĩnh hiện thực đời sống của một giai đoạn lịch sử thông
qua cảm quan nghệ thuật. Những sự kiện lịch sử được thể hiện bằng cảm xúc
2
giàu tính nghệ thuật, đậm chất trữ tình. Hay nói đúng hơn, các tác giả đã dùng
nghệ thuật ngôn từ để tái hiện lịch sử. Cho nên, mối liên hệ giữa các chi tiết,
sự kiện và chất nghệ thuật trong hồi kí cách mạng khá đặc biệt và độc đáo.
Thành tựu của hồi kí cách mạng đã được một số nhà nghiên cứu quan
tâm. Họ nêu lên những nhận xét về vai trò và ý nghĩa, đưa ra một số đặc điểm
cơ bản về nội dung và nghệ thuật của hồi kí cách mạng. Đó là tiền đề quan
trọng để người viết ghi nhận giá trị và đóng góp của hồi kí cách mạng trong
văn học Việt Nam.
Tuy nhiên, cho đến nay các công trình nghiên cứu về hồi kí cách mạng
còn ít và còn những khoảng trống cần được khai thác sâu sắc, hệ thống hơn.
Vì lẽ đó, chúng tôi chọn đề tài Những đặc điểm cơ bản của hồi kí cách mạng
Việt Nam để nghiên cứu, đánh giá một cách toàn diện những đóng góp và khái
quát những đặc điểm của hồi kí cách mạng.
Nhìn chung, hồi kí cách mạng Việt Nam đã có những thành tựu nhất
định trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Việc nghiên cứu đề tài Những đặc
điểm cơ bản của hồi kí cách mạng Việt Nam sẽ góp phần đưa ra cái nhìn
khách quan, đúng đắn về giá trị cũng như những đặc trưng của tiểu loại văn
học này.
2. Mục đích nghiên cứu
Với đề tài Những đặc điểm cơ bản của hồi kí cách mạng Việt Nam, tác
giả luận án mong muốn tìm hiểu về tiểu loại hồi kí cách mạng, chỉ ra được
những đặc điểm cơ bản về nội dung và nghệ thuật của những sáng tác này, từ
đó thấy được những đóng góp của hồi kí cách mạng đối với văn học và lịch sử
của dân tộc, cụ thể là:
Về nội dung, luận án hướng đến khái quát một số đặc điểm nổi bật của
hồi kí cách mạng Việt Nam. Hồi kí là sáng tác nhằm thông tin sự thật. Trong
phạm vi bao quát và chiếm lĩnh thực tại, tác giả hồi kí đã tái hiện quá khứ
bằng cảm hứng và lí tưởng thẩm mĩ riêng gắn với thế giới quan và nhân sinh
quan của người cách mạng. Chính vì lẽ đó, hồi kí cách mạng là những trang
3
tư liệu lịch sử về cách mạng và bức tranh hiện thực xã hội Việt Nam, khái
quát hình tượng đẹp về con người Việt Nam; đồng thời, hồi kí cách mạng còn
là sự đúc kết kinh nghiệm, khẳng định tư tưởng và có tính giáo dục đối với
các thế hệ người đọc.
Về nghệ thuật, hồi kí nói chung và hồi kí cách mạng nói riêng có đặc
trưng về nghệ thuật trần thuật đặc biệt là các phương diện chủ thể trần thuật,
điểm nhìn trần thuật, cấu trúc trần thuật. Bên cạnh đó, hồi kí cách mạng có
thủ pháp riêng trong việc thể hiện hình tượng nhân vật, cụ thể là hình tượng
người cách mạng. Mặt khác, hồi kí cách mạng còn thể hiện sự đa dạng trong
giọng điệu nghệ thuật. Do sự tác động của một số phương diện như tính
chuyên nghiệp của người sáng tác, hoàn cảnh và mục đích sáng tác… một số
hồi kí cách mạng đôi khi chưa có sự sáng tạo độc đáo về nghệ thuật nhưng
nhìn chung vẫn có những đóng góp đáng ghi nhận.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những đặc điểm cơ bản về nội dung
và nghệ thuật của hồi kí cách mạng Việt Nam. Đây là hồi ức của những nhân
chứng về quá trình vận động và phát triển của cách mạng. Lẽ dĩ nhiên, với
mục đích nói trên, chúng tôi lựa chọn những sáng tác có giá trị văn học và có
những đóng góp quan trọng trong việc phản ánh về cách mạng Việt Nam.
Người nghiên cứu không chú trọng việc hồi kí được viết trong thời gian
nào mà chú ý đến nội dung phản ánh trong hồi kí, bao gồm, hồi kí của những
người yêu nước, người cách mạng viết về quá trình hoạt động cách mạng
trong thời kì bí mật ở nhiều bối cảnh khác nhau; hồi kí về các hoạt động đấu
tranh, tuyên truyền cách mạng trong nhà tù thực dân, đế quốc, quá trình đấu
tranh giành độc lập cho dân tộc. Chính vì thế, hồi kí của các nhà văn về quá
trình sáng tác, hồi kí của các nhà văn hóa, các nghệ sĩ không phải là đối tượng
nghiên cứu của luận án này. Riêng đối với hồi kí của các tướng lĩnh kể về các
trận đánh, các chiến dịch lịch sử, người viết lựa chọn, nghiên cứu những tác
phẩm có kể về quá trình cách mạng ở giai đoạn trước 1945.
4
4. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài Những đặc điểm cơ bản của hồi kí cách mạng Việt
Nam, người viết sử dụng một số phương pháp và thao tác cơ bản sau:
4.1. Phương pháp thống kê, phân loại là phương pháp cơ bản của hoạt
động nghiên cứu. Trước hết, người nghiên cứu tập hợp và thống kê số lượng
tác phẩm hồi kí nhằm đánh giá quy mô của hồi kí cách mạng trong văn học
Việt Nam. Thứ hai, người nghiên cứu tiến hành thống kê, phân loại những nội
dung cơ bản, thống kê những biện pháp nghệ thuật đặc sắc trong từng tác
phẩm và trong toàn bộ các hồi kí cách mạng, từ đó chỉ ra những nét riêng của
từng tác phẩm và những nét chung của hồi kí cách mạng Việt Nam.
4.2. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sử dụng phương pháp thực
chứng - lịch sử. Với phương pháp này, người nghiên cứu đặt hồi kí cách mạng
trong bối cảnh lịch sử xã hội để thấy được khả năng của thể hồi kí trong việc
phản ánh sự thực, đồng thời, bằng phương pháp này, chúng ta thấy được
những sáng tạo nghệ thuật đã được các tác giả sử dụng để tái hiện một bức
tranh hiện thực sống động, chân thực về những chặng đường cách mạng Việt
Nam.
4.3. Phương pháp so sánh là phương pháp được sử dụng thường xuyên
trong quá trình triển khai các nội dung nghiên cứu. Việc so sánh hồi kí cách
mạng với các tiểu loại trong thể hồi kí cũng như so sánh với các loại hình văn
học khác cho thấy đặc điểm cơ bản ở phương diện thể loại của hồi kí cách
mạng. So sánh sự kiện trong hồi kí cách mạng với sự kiện trong lịch sử để
thấy được “mặt sinh động”, mặt nghệ thuật của hồi kí cách mạng trong việc
tái hiện sự thực theo yêu cầu của thể loại.
4.4. Phương pháp loại hình là một trong những phương pháp đặc trưng
trong nghiên cứu văn học. Bằng phương pháp loại hình, người viết làm rõ
những đặc điểm chung, cơ bản trong các hồi kí cách mạng, từ đó, khu biệt
5
được những đặc trưng của tiểu loại này trong hệ thống các thể loại văn học
Việt Nam.
4.5. Phương pháp nghiên cứu tác phẩm từ góc độ thi pháp học được sử
dụng kết hợp với phương pháp hình thức để làm rõ phương diện nghệ thuật
của hồi kí cách mạng.
4.6. Phương pháp nghiên cứu liên ngành là phương pháp giúp chúng tôi
nghiên cứu hồi kí cách mạng bằng nhiều hình thức, dựa trên dữ liệu của
chuyên ngành văn học, lịch sử và cả văn hóa, xã hội để từ đó có những kiến
giải nhất định về giá trị văn học của các sáng tác này.
Ngoài ra, người nghiên cứu còn sử dụng các thao tác như phân tích,
chứng minh, bình luận nhằm biện giải vấn đề một cách cụ thể, rõ ràng hơn.
5. Đóng góp mới của luận án
Luận án Những đặc điểm cơ bản của hồi kí cách mạng Việt Nam sẽ có
những đóng góp về mặt khoa học và thực tiễn, cụ thể là:
Về mặt lí luận: Đối tượng nghiên cứu của luận án là hồi kí của những
người yêu nước, người cách mạng trong văn học Việt Nam. Từ trước đến nay,
các công trình nghiên cứu chú ý nhiều đến hồi kí của các nhà văn cho nên
việc nghiên cứu hồi kí cách mạng của luận án đã góp phần lấp đầy những
khoảng trống trong nghiên cứu hồi kí.
Luận án hệ thống được những nhìn nhận, đánh giá về hồi kí cách mạng
Việt Nam của các nhà nghiên cứu. Từ đó, chúng tôi đưa ra những nhận định,
kiến giải thêm về giá trị của hồi kí cách mạng trong văn học Việt Nam hiện
đại.
Nghiên cứu về đặc điểm của hồi kí cách mạng Việt Nam, luận án sẽ chỉ
rõ những nét riêng của hồi kí cách mạng ở cả phương diện nội dung và nghệ
thuật.
Về mặt thực tiễn: Luận án có thể là tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu,
giảng dạy về văn học Việt Nam.
6. Cấu trúc của luận án
6
Ngoài phần tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án bao gồm 3 phần chính:
Mở đầu, Nội dung và Kết luận
Trong phần mở đầu, luận án trình bày tính cấp thiết của đề tài, xác định
mục đích nghiên cứu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Luận án cũng nêu ra
những phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng và những đóng góp
mới của luận án về lí luận và thực tiễn.
Trong phần nội dung, người viết triển khai thành 4 chương, cụ thể:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu hồi kí cách mạng Việt
Nam. Luận án đã giới thiệu một cách cụ thể những công trình nghiên cứu liên
quan đến đề tài ở hai giai đoạn: trước và sau 1975. Từ đó, luận án đã đưa ra
những đánh giá về tình hình nghiên cứu, nhằm tạo tiền đề cho việc nghiên
cứu hồi kí cách mạng trong luận án.
Chương 2: Những vấn đề chung về hồi kí và hồi kí cách mạng. Trong
chương này, luận án nêu lên những vấn đề mang tính lí luận về thể loại hồi kí
nói chung và hồi kí cách mạng nói riêng. Đồng thời, luận án cũng khái quát
được những đóng góp của hồi kí cách mạng trong tiến trình văn học Việt Nam
hiện đại.
Chương 3: Những đặc điểm cơ bản của hồi kí cách mạng Việt Nam
nhìn từ phương diện nội dung. Chương này đi vào khái quát và phân tích
những nội dung phản ánh trong hồi kí cách mạng, chẳng hạn như: bức tranh
hiện thực xã hội, chân dung dân tộc anh hùng và những bài học được rút ra từ
quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc.
Chương 4: Những đặc điểm cơ bản của hồi kí cách mạng Việt Nam
nhìn từ phương diện nghệ thuật. Luận án tập trung là rõ những đặc điểm của
hồi kí cách mạng về nghệ thuật trần thuật, nghệ thuật thể hiện hình tượng
nhân vật và giọng điệu nghệ thuật.
7
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
HỒI KÍ CÁCH MẠNG VIỆT NAM
Hồi kí cách mạng đã xuất hiện trong văn học Việt Nam từ trước Cách
mạng tháng Tám và khi nghiên cứu về những sáng tác này, phương diện nội
dung tư tưởng thường được các nhà nghiên cứu chú trọng. Bên cạnh đó, họ đã
chỉ ra rằng, tiểu loại văn học này cũng được chú ý bởi những hình thức thể
hiện riêng của loại văn chương tái hiện hiện thực bằng hồi tưởng và kỉ niệm.
Trong những công trình nghiên cứu về hồi kí cách mạng, các tác giả không
những đã nhận xét về vai trò và ý nghĩa của tác phẩm ở phương diện tư tưởng
mà còn chỉ ra một số đặc điểm cơ bản về nghệ thuật. Thông qua các công
trình nghiên cứu, người viết có thể đánh giá được sức ảnh hưởng của hồi kí
cách mạng trong tiến trình văn học Việt Nam; đồng thời, chỉ ra được đóng
góp cũng như hạn chế của các công trình nghiên cứu trong việc tìm hiểu, đánh
giá về hồi kí cách mạng.
Ngoài ra, từ những công trình, bài viết của các nhà nghiên cứu, người
viết có tiền đề, cơ sở tham khảo, tiếp thu để triển khai những vấn đề về đặc
điểm cơ bản của hồi kí cách mạng Việt Nam một cách khái quát, hệ thống,
nêu ra những cách nhìn nhận mới mẻ. Khi tìm hiểu tình hình nghiên cứu hồi
kí cách mạng ở Việt Nam, người viết chủ yếu khảo sát theo tiến trình lịch sử.
Do đó, người viết phân chia các công trình nghiên cứu thành hai giai đoạn:
trước và sau 1975. Trong từng giai đoạn, dựa vào đối tượng nghiên cứu của
các công trình, có thể chia thành hai nhóm: nhóm những công trình nghiên
cứu mang tính khái quát về thể loại và nhóm những công trình nghiên cứu về
tác giả, tác phẩm cụ thể.
1.1. Tình hình nghiên cứu hồi kí cách mạng Việt Nam trước năm 1975
8
Trước năm 1975, đất nước đối mặt với hai cuộc chiến tranh chống Pháp
và chống Mĩ ác liệt, hơn nữa, các tác phẩm hồi kí cách mạng cũng mới bắt
đầu phát triển mạnh vào thập niên 60, cho nên chưa có nhiều công trình
nghiên cứu chuyên sâu về tiểu loại này. Cũng vì lẽ đó, người viết nhận thấy,
các công trình nghiên cứu ở thời kì này tập trung vào định hướng cho cuộc
vận động sáng tác về hồi kí, cũng như định hướng tư tưởng cho người đọc khi
tiếp nhận các tác phẩm hồi kí cách mạng.
1.1.1. Những nghiên cứu mang tính khái quát về hồi kí cách mạng
Sau cuộc vận động sáng tác về đề tài lực lượng vũ trang cách mạng của
Tổng cục Chính trị nhân dịp kỉ niệm ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt
Nam lần thứ 17, nhiều tác phẩm hồi kí ra đời. Khi nhận được tác phẩm và ý
kiến đóng góp của các đồng chí cán bộ, các bạn viết văn trẻ và bộ đội, chiến sĩ
ở nhiều đơn vị, Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân đã xuất bản tập tài liệu Bàn
thêm về viết hồi kí (1963). Tập sách gồm có 7 bài viết, là những tư liệu cần
thiết và có giá trị khái quát trong việc nghiên cứu về hồi kí cách mạng.
Trong bài viết Thêm mấy điều cần trao đổi về viết hồi kí và mẩu chuyện
về lực lượng vũ trang cách mạng, tác giả Xuân Thiêm đã bày tỏ quan niệm
của mình về nhiều phương diện trong việc viết và nghiên cứu hồi kí cách
mạng. Trước hết, tác giả nêu quan niệm về đề tài và chủ đề trong sáng tác văn
chương nói chung và trong việc sáng tác hồi kí nói riêng. Đối với những tác
phẩm sáng tác trong cuộc vận động viết về kỉ niệm sâu sắc trong đời bộ đội
Ta nên hiểu một chuyện sâu sắc là một chuyện có thật rút ra từ cuộc sống
của mỗi con người, một câu chuyện có chủ đề rõ ràng, có ý nghĩa thiết thực
đối với người đọc làm cho người đọc thấy được ở đấy điều gì bổ ích cho
những ngày đang sống (Xuân Thiêm, 1963, trang 9-10).
của Cục Chính trị, ông cho rằng:
Và “người viết nhằm vào chủ đề đó để ôn tìm, chọn rút ra những chi tiết
“đắt” phục vụ cho chủ đề đó” (Xuân Thiêm, 1963, trang 10). Vấn đề tác giả
nhấn mạnh là tránh lối viết dài dòng, tập trung khai thác khía cạnh sâu sắc
9
trong câu chuyện. Bên cạnh đó, trong bài viết này, Xuân Thiêm còn trình bày
về vấn đề “cái tôi” của người viết trong hồi kí. Tác giả đã dẫn ra những
trường hợp tiêu biểu như hồi kí Bước ngoặt của Đặng Sĩ Đạt, Ra mặt trận của
Viết hồi kí là viết những chuyện mình có sống thật cho nên những nhân vật
trung tâm của chuyện thường là ngôi thứ nhất, tác giả hoặc những người
khác có liên quan chặt chẽ với “cái tôi”. […] Nhưng “cái tôi” ở đây phải
viết cho đúng với hoàn cảnh lịch sử của chuyện, nghĩa là cái tôi phải phù
hợp với tình hình lúc bấy giờ, phải được đặt vào một vị trí, không hơn,
không kém với hoàn cảnh nảy sinh ra nó (Xuân Thiêm, 1963, trang 17).
Huỳnh Văn Nghệ để từ đó khái quát vấn đề:
Vấn đề tác giả Xuân Thiêm nêu ra không chỉ có ý nghĩa định hướng đối
với phong trào sáng tác hồi kí lúc bấy giờ mà còn giúp cho người nghiên cứu
có cái nhìn đúng đắn về quan điểm lịch sử cần có của chủ thể trần thuật trong
hồi kí cách mạng. Về vấn đề người thật và việc thật, tác giả nhấn mạnh, cốt
lõi của hồi kí phải là tư liệu có thật từ trong cuộc sống chiến đấu, phải gắn bó
máu thịt với người viết chứ không thể là một câu chuyện bịa, tưởng tượng vô
căn cứ. Tuy nhiên, tác giả cũng cho rằng cần phải phân biệt một hồi kí với
một bản báo cáo, tường thuật trận đánh, hay một tài liệu lịch sử truyền thống
của đơn vị. Hồi kí cách mạng phải là sự kết hợp hài hòa giữa hiện thực và
Viết hồi kí, viết truyện kỉ niệm sâu sắc cũng là làm công việc viết văn – dù
thể văn gần người thật việc thật nhất này không đòi hỏi một trình độ hư cấu,
khái quát và tổng hợp xây dựng điển hình cao như viết tiểu thuyết – ta vẫn
phải nắm được cách viết, nghệ thuật viết, sao cho bài văn có tình người, có
sức hấp dẫn người đọc (Xuân Thiêm, 1963, trang 30).
nghệ thuật, bởi vì:
Bài viết của tác giả Xuân Thiêm là sự đúc kết những kinh nghiệm quý
báu. Tuy chỉ là một số ghi nhận ban đầu về hồi kí cách mạng thông qua một
cuộc vận động sáng tác nhưng những vấn đề đề cập trong bài viết là những
vấn đề trọng tâm, có tính khái quát và có ý nghĩa thực tiễn cao. Tuy vậy, bài
10
viết này chỉ nghiên cứu dựa trên một vài trường hợp cụ thể với mong muốn có
được những sáng tác mới hay hơn, độc đáo hơn chứ không phải nhằm phê
bình, đánh giá thể loại.
Trong bài viết Vài ý nghĩ về viết hồi kí, tác giả Trần Đĩnh bàn luận đến
một vài vấn đề cơ bản liên quan đến nội dung tư tưởng, hình tượng nhân vật
Người viết hồi kí có lẽ trước tiên cần hết lòng trân trọng, quý mến sự sống
rất đáng kính của người kể. Đó chính là biểu hiện của lòng yêu và lòng tự
hào đối với lịch sử oanh liệt của Đảng, lòng biết ơn những đồng chí đi
trước, là biểu hiện của lòng yêu nước và của tính Đảng (Trần Đĩnh, 1963,
trang 42).
và công việc của người ghi hồi kí. Ông cho rằng:
Những điều này sẽ tạo nên sự rung cảm và đồng cảm của người ghi trong
quá trình tái hiện hiện thực. Vốn sống và tình cảm của người ghi sẽ mang lại
Người viết cần khai thác, khêu gợi những luồng mạch, những chi tiết có ý
nghĩa mà nhiều khi người kể lãng quên hoặc không coi trọng. Người viết
phải lao động công phu thì những vốn sống có sẵn mới hiện được ra thành
những hình tượng sinh động, thân thiết, nóng hổi và gần gũi (Trần Đĩnh,
1963, trang 44).
cho tác phẩm hiệu quả nghệ thuật cao:
Để tạo nên giá trị cho hồi kí, tác giả bài viết đề cao vai trò của người ghi.
Người ghi không chỉ lắng nghe để tái hiện những tư liệu được người kể cung
cấp mà còn phải nắm bắt và thể hiện được giá trị, ý nghĩa, làm nổi bật thông
tin sự thật. Điều này đã trả cho “người ghi” vị trí đáng có trong việc sinh
thành nên một tác phẩm hồi kí.
Tác giả Doãn Trung trong bài viết Viết hồi kí đấu tranh cách mạng (Qua
một số tài liệu Trung Quốc) đã khẳng định: “Hồi kí đấu tranh cách mạng
thuộc phạm trù văn học nên được liệt vào hàng những tác phẩm văn học,
nhưng lại liên hệ chặt chẽ với khoa học lịch sử” (Doãn Trung, 1963, trang
45). Từ đánh giá này, ông đặt ra những yêu cầu cơ bản đối với hồi kí cách
11
mạng, nhất là vấn đề tôn trọng sự thật trong quá trình sáng tác. Bởi vì, nếu
không phản ánh đúng người thật việc thật thì tác phẩm hồi kí cách mạng sẽ
mất đi ý nghĩa chính trị xã hội và trở nên xa lạ đối với người đọc. Tác giả
cũng nêu ra một số vấn đề cần giải quyết trong quá trình viết hồi kí cách
mạng. Theo ông, với kho tài liệu đã có, người kể phải nhớ lại, thống kê và sắp
xếp như thế nào để có thể “khơi gợi cho cuộc sống đã qua tái hiện lại” (Doãn
Trung, 1963, trang 48). Đánh giá về hồi kí cách mạng, ông cũng nêu lên vấn
Chân thực là phải phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử, nghĩa là phải
nắm được bản chất của sự kiện lịch sử, thể hiện được tinh thần thời đại và
bộ mặt lúc bấy giờ. Chân thực không phải là ghi chép từng dòng từng chữ
một cách tự nhiên chủ nghĩa (Doãn Trung, 1963, trang 50-51).
đề hiểu và giải quyết như thế nào về tính chân thực:
Về phương diện biểu hiện chủ đề tư tưởng, tổng hợp và sắp xếp tài liệu,
tác giả bài viết yêu cầu phải chọn lọc, sắp xếp như thế nào để nâng lên mức tư
tưởng cao. Tác giả bài viết cũng nêu lên một vài phương diện về nghệ thuật,
nhất là phương diện kết cấu: “Về kĩ xảo viết, cần sắp xếp những đoạn kể
chuyện chung và những miêu tả chi tiết sao cho thích hợp, có hoa đỏ lại phải
có lá xanh, hoa lá phải sắp xếp cho đẹp mắt” (Doãn Trung, 1963, trang 52).
Ông yêu cầu người viết hồi kí phải vận dụng tốt ngôn ngữ đối thoại và phải sử
dụng được các thuật ngữ cách mạng phổ biến để biểu hiện được không khí và
màu sắc thời đại. Những quan niệm này có nhiều đóng góp đối với cuộc vận
động sáng tác lúc bấy giờ, vạch ra một số định hướng và chỉ ra các nội dung
trọng tâm khi tìm hiểu về hồi kí cách mạng. Mặc dù vậy, đối tượng khảo sát
của bài viết không phải là hồi kí cách mạng Việt Nam cho nên việc tác giả lí
giải, so sánh chỉ có vai trò là tư liệu tham khảo để sáng tác hơn là bàn luận,
đánh giá.
Bài viết Vài cảm nghĩ nhân đọc mấy cuốn hồi kí của tác giả Nhị Ca đã
giới thiệu đến người đọc một số tác phẩm hồi kí tiêu biểu của nước bạn như
Truyện Hồng quân của Trung Quốc (Trung Quốc), Gặp gỡ Lênin trong lúc
12
lưu vong (Nga), Người con của nhân dân (Pháp). Ở Việt Nam, tác giả giới
thiệu và nghiên cứu Thượng kinh kí sự của Lê Hữu Trác, Từ nhân dân mà ra
của Võ Nguyên Giáp. Đối với hồi kí Từ nhân dân mà ra, tác giả bài viết cho
rằng đây là một trong những tác phẩm tái hiện chân thực và sinh động thời kì
đầu của cách mạng Việt Nam từ khi Bác Hồ về nước. Bài viết đánh giá và
thừa nhận những giá trị nội dung tư tưởng quan trọng được thể hiện trong hồi
kí này: “Tác giả đã làm sống lại cái không khí đấu tranh sôi sục của chiến khu
khi cách mạng đã có khí thế quần chúng rộng lớn và cuộc đời gian khổ, đói
khát, ốm đau, nguy hiểm khi phong trào sụt xuống vì khủng bố trắng của
địch” (Nhị Ca, 1963, trang 76). Theo Nhị Ca, Võ Nguyên Giáp đã ngợi ca
những tấm gương chiến sĩ cách mạng anh dũng, khẳng định vai trò, sức mạnh
của quần chúng nhân dân. Đồng thời, hồi kí của ông còn thể hiện sự kết hợp
giữa lí luận và thực tiễn được đúc kết từ thực tế cuộc đấu tranh cách mạng.
Ngoài ra, Từ nhân dân mà ra “là một bản tổng kết kinh nghiệm có ít nhiều
hình tượng văn học, một bài hồi kí có giá trị lí luận cách mạng” (Nhị Ca,
1963, trang 77). Cũng trong bài viết này, tác giả nhận xét về ưu điểm và hạn
Giá trị chân thực của các sự kiện và nhân vật có “địa chỉ chính xác” trong
tập hồi kí này, mặc dù sự miêu tả đôi chỗ còn tự nhiên, sơ lược, chưa đủ
làm cho người đọc cảm xúc sâu sắc, vẫn có thể làm cho ta tin tưởng mạnh
mẽ vào thắng lợi cuối cùng của cách mạng, qua sự chứng minh của kinh
nghiệm lịch sử (Nhị Ca, 1963, trang 80).
chế chung của hồi kí khi tái hiện hiện thực:
Qua việc nghiên cứu những tác phẩm cụ thể ở một số quốc gia khác
nhau, tác giả bài viết đã rút ra khái niệm và một vài đặc điểm quan trọng trong
hồi kí cách mạng. Ông cho rằng, hồi kí cách mạng là một tiểu loại văn học
bao hàm hai yếu tố là tái hiện lịch sử bằng hồi tưởng và sự truyền cảm bằng
hình tượng. Cũng như nhiều nhà nghiên cứu khác, Nhị Ca yêu cầu hồi kí cách
mạng phải áp dụng được “quy luật điển hình” trong việc lựa chọn nhân vật và
13
sự kiện; có thái độ khách quan, trung thực trong phản ánh… Đây là những
phương diện quan trọng trong yêu cầu đặt ra đối với việc sáng tác hồi kí.
Các bài viết còn lại trong tập sách này chủ yếu tập trung vào việc vận
động sáng tác theo phong trào của Cục Chính trị đã nêu ra. Công trình Bàn
thêm về viết hồi kí với nhiều bài viết xuất phát từ việc tìm hiểu thực tế công
việc viết hồi kí của các nhà hoạt động cách mạng, của chiến sĩ, bộ đội. Công
trình này có vai trò định hướng cho cuộc vận động sáng tác thời bấy giờ, đồng
thời, dựa trên những tác phẩm cụ thể, tác giả các bài viết cũng đã chỉ ra cụ thể
những phương diện hồi kí đã đạt được và cần phải đạt được nếu tiếp tục được
phát động sáng tác để phục vụ cách mạng dân tộc. Tuy nhiên, công trình chưa
có những nghiên cứu mang tính lí luận chuyên sâu về hồi kí cách mạng.
Những vấn đề được nêu trong công trình là những gợi mở hướng tới người
viết nhiều hơn là nghiên cứu tác phẩm.
Nhận định về đặc trưng của thể loại hồi kí trong việc tái hiện hiện thực,
tác giả Phan Nhân trong bài viết Vị trí hồi kí cách mạng trong văn học Việt
Hồi kí chỉ miêu tả cái có thật mà không tả cái có thể có. Nó chỉ chọn lọc
những gì trong số tài liệu có thật chứ không thể sáng tạo ra cái mới nào
khác. Nói cách khác, tất cả cố gắng của hồi kí là làm thế nào giữ được bản
sắc vốn có của người thật việc thật, làm nổi bật bản sắc đó lên đầy đủ, rõ
ràng (Phan Nhân, 1964, trang 716).
Nam (1964) đã nhấn mạnh:
Ông vừa đề cao vai trò của hiện thực vừa nhấn mạnh vai trò của người
viết khi phản ánh, tái hiện hiện thực. Cũng bàn về vấn đề này, trong bài viết
Đọc Người Hà Nội (Hồi kí cách mạng kháng chiến ở thủ đô) (1965), Phan
Nhân cho rằng, hồi kí cách mạng thường phản ánh và có khả năng phản ánh
rất trung thành những con người điển hình có thật, những sự thật bản chất
trong cuộc sống đấu tranh giai cấp quyết liệt nhất của nhân dân ta chống đế
quốc và phong kiến. Trong bài viết này, ông đã nêu lên nhận xét khái quát về
hồi kí và nhấn mạnh khả năng chọn lọc chi tiết của tác giả hồi kí. Ông cũng
14
nhận thấy hạn chế của một số tác phẩm trong tập hồi kí như đơn giản, sơ lược,
tản mạn, biên niên hoặc chưa đúng về thể loại. Tuy nhiên, tác giả cũng cho
rằng những hạn chế này là không đáng kể vì xét về nghệ thuật, đa số tác phẩm
trong tập hồi kí có bố cục chặt chẽ, kể và ghi gọn, sinh động, có phong cách
riêng. Từ việc nghiên cứu một vài hồi kí cụ thể, Phan Nhân đã nêu lên được
những yêu cầu cần thiết đối với một tác phẩm hồi kí cách mạng, trong đó,
việc chọn lọc chi tiết từ hiện thực và tái hiện bằng thủ pháp nghệ thuật là một
trong những yêu cầu quan trọng. Bài viết này xem như là bước tiếp nhận tác
phẩm và trình bày vấn đề về thể loại từ một tác phẩm cụ thể. Cũng vì lẽ đó,
tính hệ thống và khái quát của những nhận xét, đánh giá chưa cao.
Trong bài viết Thể kí và vấn đề viết người thật việc thật (1967), Nam
Mộc đã đề cập và phân tích nhiều vấn đề liên quan đến thể kí trong văn học
Việt Nam như tác dụng, vị trí, đặc trưng, hư cấu và tái tạo trong sáng tác kí.
Ngoài ra, ông còn đặt ra vấn đề về sự nâng cao chất lượng trong việc viết kí
của các nhà văn. Ông đánh giá cao sự đóng góp của hồi kí Bất khuất của
Nguyễn Đức Thuận trong sự phát triển của văn học cách mạng Việt Nam
cũng như có tác động tích cực đối với sự củng cố, động viên, ổn định tư tưởng
Có thứ bút kí phản ánh những hiện tượng đã qua theo trí nhớ của nhà văn
(đó là hồi kí). Ở nước ta có một loại hồi kí đặc biệt do người trong cuộc
hoặc người chứng kiến kể lại cho nhà văn ghi mà có đồng chí gọi là “loại
ghi chép” hoặc “truyện ghi” (đó là một số hồi kí cách mạng, hồi kí kháng
chiến) (Nam Mộc, 1967, trang 75).
của nhân dân trong thời đại bấy giờ. Về thể loại hồi kí, ông cho rằng:
Cũng trong bài viết này, tác giả đã gợi nhắc đến một số tác phẩm hồi kí
cách mạng, giới thiệu những đóng góp của hồi kí cách mạng trong văn học
Việt Nam.
Năm 1970, Hoàng Như Mai viết lời giới thiệu cho công trình Hồi kí cách
mạng, tập 2. Ông đã có cái nhìn khái quát về hồi kí cách mạng ở cả hai
phương diện nội dung và nghệ thuật. Đồng thời, Hoàng Như Mai cũng cho
15
thấy những giá trị, đóng góp của hồi kí cách mạng đối với văn học và xã hội
Việt Nam lúc bấy giờ. Về phương diện nội dung, nhà nghiên cứu nhận thấy,
hồi kí cách mạng đã phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội đương thời thông qua
Đọc hồi kí cách mạng, chúng ta có được những hiểu biết khá đầy đủ và
chính xác về phong trào cách mạng trước đây, về những điều kiện sống và
làm việc của các chiến sĩ cách mạng, về những thủ đoạn đàn áp, khủng bố
của bọn thống trị. Hồi kí giúp ta hình dung được các chế độ mật thám, nhà
tù, trại giam của bọn thực dân thống trị và những hình thức tổ chức đấu
tranh, vượt ngục, hoạt động bí mật, gây cơ sở từ nhỏ đến lớn, thành lập căn
cứ địa v.v… của các chiến sĩ cách mạng (Hoàng Như Mai, 1970, trang 22).
hồi ức của người trong cuộc:
Bài viết đã chỉ ra những nội dung cụ thể được phản ánh bao gồm tình
hình xã hội Việt Nam từ khi Pháp xâm lược, phát xít Nhật thay thế và tinh
thần quyết chiến đấu một mất một còn đối với quân thù của dân tộc ta. Hồi kí
cách mạng còn là những trang viết cảm động về Hồ Chủ tịch: “Ở Người, sự
lãnh đạo cách mạng đã được nâng lên thành một thứ nghệ thuật với ý nghĩa là
nó thấm sâu trong đáy tim của từng người” (Hoàng Như Mai, 1970, trang 4).
Hình ảnh Bác Hồ đã trở thành biểu tượng cho sức mạnh dân tộc, in dấu ấn
đậm nét không thể nào quên trong tâm thức những người cách mạng bởi tấm
lòng yêu nước nồng nàn, tình cảm thiêng liêng với dân tộc, đồng bào và nhất
là quyết tâm gang thép với con đường chủ nghĩa xã hội. Ngoài ra, tác giả còn
nhận thấy, các hồi kí đã phản ánh chân thực hình tượng người cộng sản. Đó là
những người quả cảm, kiên cường, vượt qua mọi thử thách, khó khăn, gian
khổ, tra tấn, tù đày, gắn bó một lòng một dạ với Đảng và nhân dân. Ông cho
rằng: “Đời đấu tranh của các đồng chí đó là những bài học hết sức đẹp đẽ về
chủ nghĩa anh hùng cách mạng, trung với Đảng, hiếu với dân, không một bạo
lực nào của kẻ địch có thể khuất phục được” (Hoàng Như Mai, 1970, trang
20). Tác giả bài viết đã nhận thấy, ưu điểm của hồi kí cách mạng là không
16
thần thánh hóa hình tượng người cách mạng mà nhìn thấy tất cả những mặt rất
Người chiến sĩ cộng sản không phải là khô khan, thiếu tình cảm, trái lại,
giàu tình cảm hơn ai hết, có điều là người ấy không bao giờ đặt lên bàn cân
tình riêng và nghĩa cả, không bao giờ vì lợi ích riêng mà quên lợi ích chung
(Hoàng Như Mai, 1970, trang 16).
đời thường với những nỗi niềm riêng:
Về đóng góp của hồi kí cách mạng, thông qua bài viết, ông cho rằng các
hồi kí đã cung cấp cho những nhà viết sử một số tư liệu lịch sử có giá trị và
đáng tin cậy. Đồng thời, ông nhận thấy, cần học tập ở các tập hồi kí cách
mạng cách viết văn kể chuyện bởi vì ưu điểm trong trần thuật của hồi kí cách
mạng là “viết súc tích mà đầy đủ” (Hoàng Như Mai, 1970, trang 29). Bên
cạnh đó, Hoàng Như Mai đã khẳng định tầm quan trọng của hồi kí cách mạng
trong tiến trình phát triển của văn học cũng như sự thắng lợi của cách mạng
Các hồi kí cách mạng là những áng văn rất quý. Chúng ta học tập ở những
tập hồi kí lí tưởng cách mạng, nhân sinh quan cách mạng, chủ nghĩa anh
hùng cách mạng qua tấm gương hoạt động cách mạng của các chiến sĩ cộng
sản (Hoàng Như Mai, 1970, trang 29).
Việt Nam:
Bài giới thiệu của nhà nghiên cứu Hoàng Như Mai đã hướng đến đối
tượng trọng tâm là các hồi kí cách mạng trong văn học Việt Nam. Tuy vậy, do
là một bài giới thiệu khi xuất bản tập sách nên tác giả đã đi vào phân tích,
chứng minh, làm rõ những biểu hiện của tác phẩm hơn là tổng hợp, khái quát.
Vì vậy, bài viết còn nghiêng về tường thuật nội dung các sáng tác hơn là bình
luận, đánh giá. Đồng thời, phạm vi nghiên cứu cũng giới hạn, tác giả chỉ bàn
đến những hồi kí được trích in trong tuyển tập chứ không nghiên cứu trọn vẹn
các hồi kí cách mạng.
Xuất phát từ thực tế của việc sáng tác hồi kí, các công trình nghiên cứu
trước năm 1975 tập trung vào yêu cầu đặt ra đối với người sáng tác và tác
phẩm. Trong đó, phương diện nội dung phản ánh được nhấn mạnh. Người
17
nghiên cứu thiên về khẳng định đóng góp của thể loại này trong việc phản ánh
lịch sử và bồi dưỡng lập trường, tư tưởng cho cả người viết lẫn người đọc.
Ngoài ra, chưa có những công trình mang tính khái quát, chuyên sâu về thể
loại.
1.1.2. Những nghiên cứu về các tác giả, tác phẩm hồi kí cụ thể
Trong giai đoạn trước năm 1975, nhất là vào nửa cuối thập niên 60, khi
cuộc kháng chiến chống Mĩ bước vào thời kì ác liệt, nhiều hồi kí ra đời trong
cuộc vận động viết về kỉ niệm sâu sắc trong cuộc đời bộ đội. Những tác phẩm
này vừa có giá trị trong việc tái hiện lại quá trình cách mạng của dân tộc vừa
có tác dụng cổ vũ, động viên tinh thần chiến đấu của quân và dân ta. Khi
những tác phẩm này ra đời, lập tức đã nhận được sự quan tâm của bạn đọc và
giới nghiên cứu.
Năm 1962, trong Giáo trình lịch sử văn học Việt Nam, tập 6 (1945 -
1960), tác giả Huỳnh Lý và Trần Văn Hối đã có sự đánh giá cao đối với sự ra
đời của các hồi kí cách mạng như Hai lần vượt ngục (Trần Đăng Ninh), các
tập Nhân dân ta rất anh hùng, Lên đường thắng lợi, Người trước ngã người
Nhiều bài hồi kí đã phác họa lại cả một thời kì lịch sử đấu tranh của dân tộc
và của Đảng, có ý nghĩa và giá trị lịch sử quan trọng. Người ta tìm thấy ở
đây một quá khứ gian nan, quá khứ anh hùng, quá khứ đấu tranh chưa xa
lắm với hiện nay (Huỳnh Lý, Trần Văn Hối, 1962, trang 306).
sau tiến, Bác Hồ, Trong ngục tối Hỏa Lò… Các tác giả nhận định:
Theo nhóm tác giả, những tác phẩm này “là bản trường ca về nhân dân
anh hùng, về Hồ Chủ tịch vĩ đại, về những người cộng sản kiên cường”
(Huỳnh Lý, Trần Văn Hối, 1962, trang 306). Riêng đối với hồi kí Hai lần
Bằng một lối kể chuyện chân thực, giản dị, Trần Đăng Ninh đã phác họa lại
hình ảnh sinh động của những người cộng sản kiên cường, ý chí quyết tâm
phục vụ Đảng, phục vụ cách mạng là động cơ thúc đẩy họ vượt qua mọi
vượt ngục của Trần Đăng Ninh, họ nhận xét:
khó khăn để thoát khỏi ngục tù của đế quốc, trở lại cuộc đời hoạt động tự
do (Huỳnh Lý, Trần Văn Hối, 1962, trang 305).
18
Do đây là công trình nghiên cứu về lịch sử văn học Việt Nam giai đoạn
1945 – 1960, cho nên, vấn đề về hồi kí cách mạng được bàn đến không phải
là đối tượng chính. Hồi kí cách mạng được nêu trong công trình này như một
minh chứng cho sự phong phú, sinh động của thể kí nói riêng và văn học Việt
Nam nói chung. Chính vì lẽ đó, tác giả công trình chỉ xem đây là một hiện
tượng của văn học cách mạng, điểm qua vài biểu hiện về nội dung và nghệ
thuật của một vài tác phẩm chứ chưa làm nổi bật đặc trưng của các tác phẩm
này.
Tác giả Thành Duy, trong bài viết Mấy suy nghĩ về thể kí (1965), đã đề
cập đến sự phát triển của thể kí và đánh giá sự thành công của một số hồi kí
tiêu biểu. Trong đó, tập hồi kí Nhân dân ta rất anh hùng được đánh giá là một
trong những tác phẩm xuất sắc, gây ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc.
Ông cũng chú ý đề cập đến vấn đề hư cấu trong hồi kí qua cuộc thảo luận về
hai tác phẩm Một lòng với Đảng (Hoàng Thị Ái) và Nữ tự vệ chiến đấu (Hà
Quế). Trong đó, tác giả đã nêu ra nhiều ý kiến khác nhau của những người
làm công tác lí luận phê bình, có người phản đối sự hư cấu, đòi hỏi tính chính
xác tuyệt đối trong hồi kí; có người cho rằng hồi kí cũng tuân theo nguyên tắc
sáng tác văn học nên hư cấu là tất yếu, tuy nhiên, hư cấu phải trong chừng
mực và đảm bảo tính sự thật. Trên cơ sở đó, tác giả chỉ ra sự khác biệt giữa
hư cấu và bịa đặt, đồng thời nhấn mạnh vai trò của hư cấu trong sáng tạo nghệ
thuật. Riêng đối với hồi kí cách mạng, tác giả bài viết đồng tình với yêu cầu
về tính chân thực trong việc tái hiện sự kiện cách mạng và các nhân vật lịch
sử. Tuy nhiên, ông cho rằng, hư cấu là thủ pháp tạo nên tính nghệ thuật cho
hồi kí. Người viết và người nghiên cứu hồi kí cần xác định rõ ranh giới giữa
hư cấu và bịa đặt trong quá trình tìm hiểu thế giới nghệ thuật của thể loại này.
Tác giả Trần Văn Giàu trong bài viết Đọc tập hồi kí Những ngày gian
khổ (1965) đã đề cao việc thể hiện hình tượng nhân vật người cán bộ bình
19
thường và người dân bình thường. Đó là những người cán bộ quyết tâm bám
quần chúng, bám cơ sở; kiên trì chịu đựng gian khổ, luôn luôn tin tưởng và
lạc quan; can đảm vô song trước cái chết và luôn thương yêu nhau, thương
yêu đồng bào mình. Tác giả công trình chủ yếu nhấn mạnh giá trị của các tập
hồi kí, nhất là về phương diện tư tưởng. Ông có đề cập đến nghệ thuật xây
dựng hình tượng nhân vật nhưng chủ yếu quan tâm đến ý nghĩa và tác động
của hình tượng đối với đời sống xã hội lúc bấy giờ.
Tác phẩm Bất khuất của Nguyễn Đức Thuận là một hồi kí cách mạng thu
hút sự chú ý trong giới nghiên cứu. Trong lời tựa cho tác phẩm Bất khuất xuất
bản năm 1966, Phạm Hùng đã nhận định: “Bất khuất là một bản cáo trạng
đanh thép về chính sách xâm lược của đế quốc Mĩ và chế độ phát-xít cực kì
man rợ của Ngô Đình Diệm và những kẻ tay sai ở miền Nam hiện nay” (Phạm
Hùng, 1966, trang 10). Ông nhấn mạnh, vấn đề được phản ánh trong tác phẩm
có giá trị tức thời, có ý nghĩa quan trọng trong việc cổ vũ, động viên tinh thần
Bất khuất là một bản anh hùng ca sáng ngời chính nghĩa và khí tiết cách
mạng của biết bao người cộng sản kiên cường, biết bao người Việt Nam
bình thường, yêu nước nồng nàn, những chiến sĩ chỉ biết “đạp lên đầu thù
mà đi”, làm cho quân thù phải khiếp nhục, làm cho đồng chí và đồng bào cả
nước phấn khởi và tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng của dân tộc ta (Phạm
Hùng, 1966, trang 10).
đấu tranh của nhân dân ta trong những năm tháng dầu sôi lửa bỏng:
Trong lời giới thiệu, Phạm Hùng còn nêu khái quát về tình hình đất nước
trước và sau năm 1945, dưới sự cai trị của thực dân Pháp và đế quốc Mĩ để từ
đó thấy được những khó khăn gian khổ của cách mạng và nhân dân. Bài viết
của Phạm Hùng chủ yếu tập trung vào nội dung phản ánh và giá trị tư tưởng
mà Nguyễn Đức Thuận thể hiện trong hồi kí Bất khuất.
Tác phẩm Bất khuất được giới nghiên cứu đánh giá cao ở khả năng phản
ánh hiện thực cũng như những tác động về mặt tư tưởng. Trong bài viết Bất
khuất – một bài học lớn về đạo lí làm người của người cách mạng (1967), Hà
20
Huy Giáp đã đi vào nghiên cứu khá sâu sắc về phương diện nội dung tư tưởng
mà tác phẩm hồi kí của Nguyễn Đức Thuận mang lại. Tác giả bài viết cho
Với trên bốn trăm trang hồi kí, Nguyễn Đức Thuận đã phản ánh sâu sắc
cuộc sống anh hùng với tinh thần cách mạng tiến công của những con
người có thực, vạch trần hiện thực đen tối trong những địa ngục của xã hội
miền Nam dưới gót sắt của một lũ sói lang mặt người dạ thú. Bất khuất tỏa
ra một niềm tin bất diệt vào sự nghiệp cách mạng, vào lí tưởng cộng sản
chủ nghĩa giải phóng con người, nêu cao phẩm giá của những con người
nhận thức được quy luật và chân giá trị cuộc sống, biết sống và biết chết
xứng đáng là Người (Hà Huy Giáp, 1967, trang 6).
rằng:
Tác giả nhận thấy, đóng góp của Nguyễn Đức Thuận trong Bất khuất
trước hết là xây dựng được vẻ đẹp của những người cộng sản; phơi bày bản
chất của đế quốc Mĩ và bè lũ tay sai. Được xây dựng trong thế đối lập với kẻ
xâm lược và tay sai, người cách mạng hiện lên với tất cả vẻ đẹp rạng ngời của
khí phách kiên cường, sống và chết vì lí tưởng cách mạng, “nêu cao lẽ sống vì
dân vì nước, vì hạnh phúc chung của mọi người” (Hà Huy Giáp, 1967, trang
8). Người cách mạng không chỉ nêu cao gương trung liệt mà còn lạc quan tin
tưởng vào sự tất thắng của cách mạng dưới sự soi đường của Đảng, bởi đạo lí
làm người cao quý, dẹp bỏ chủ nghĩa cá nhân để bảo vệ phẩm giá con người.
Người cách mạng còn cao đẹp bởi tình yêu cuộc sống thiết tha. Mỗi làng
xóm, mỗi dòng sông, rặng tre, rặng dừa của quê hương đều in hằn trong tâm
thức họ, thôi thúc họ đấu tranh để bảo vệ từng vẻ đẹp giản dị, yên bình. Họ
yêu đồng chí, đồng bào, nguyện hi sinh bản thân mình để giành sự sống cho
đồng đội. Trong khi đó, bọn đế quốc và bè lũ tay sai hiện lên như một bầy dã
Chà đạp, giày xéo phẩm giá con người, hủy diệt con người, hủy diệt cuộc
sống của người khác để giành lấy cuộc sống vật chất thú vật cho cá nhân
mình, đó là mục đích của bọn trùm đế quốc Mĩ xâm lược và của bọn côn
thú:
đồ, lưu manh, ác ôn lớn nhỏ tay sai cho chúng ở miền Nam nước ta, ở khắp
nơi trên thế giới (Hà Huy Giáp, 1967, trang 14).
21
Nhận xét chung về hồi kí Bất khuất, Hà Huy Giáp cho rằng, đây là tác
phẩm có nhiều đóng góp cho sự nghiệp cách mạng của đất nước và quá trình
“Bất khuất giúp cho chúng ta thấy rõ hiện thực vĩ đại của đất nước ta chính
là cơ sở, là nguồn gốc cho nền mĩ học của chúng ta, cho việc xây dựng sáng
tạo nhân vật điển hình tích cực của nền văn học nghệ thuật hiện thực xã hội
chủ nghĩa ở nước ta […]. Bất khuất còn khẳng định rõ sự nghiệp bảo vệ
phẩm giá con người, đấu tranh giải phóng con người, phải gắn liền với sự
nghiệp xây dựng một xã hội mới với những con người mới” (Hà Huy Giáp,
1967, trang 31-32).
rèn luyện đạo đức cách mạng. Theo ông:
Từ đó, có thể thấy rằng, Hà Huy Giáp rất chú trọng giá trị tư tưởng mà
tác phẩm của Nguyễn Đức Thuận mang lại. Mỗi con người, mỗi sự kiện đều
có ý nghĩa quan trọng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước lúc bấy
giờ. Đối với tác phẩm Bất khuất, các nhà nghiên cứu dường như không đề cập
đến giá trị nghệ thuật cũng như vai trò của các yếu tố nghệ thuật trong việc
phản ánh hiện thực cách mạng.
Trong bài viết “Bất khuất” của Nguyễn Đức Thuận – một bản cáo trạng
tội ác xâm lược, một bài ca khí tiết cộng sản, một sự kiện văn học (1967), Nhị
Ca đã khái quát lại những chặng đường bảo vệ đất nước gian khổ của dân tộc
ta đồng thời đề cập đến sự ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mĩ. Ông cho
rằng, hồi kí Bất khuất của Nguyễn Đức Thuận có nhiều đóng góp khi phơi
bày chính xác, tỉ mỉ tội ác và vạch trần bản chất của kẻ thù; thể hiện được vẻ
đẹp và bản lĩnh của người cách mạng, người cộng sản; phản ánh sự thật về
cuộc đấu tranh quyết liệt trong nhà tù. Nhị Ca thừa nhận, tác phẩm này có thể
còn một vài khuyết, nhược điểm nào đó về nội dung, hình thức nhưng vẫn
được đánh giá là “một sự kiện văn học” có ý nghĩa quan trọng:
Chính sức thuyết phục và do đó tính giáo dục mạnh mẽ, lớn lao của cuốn
sách nằm trong việc phản ánh chính xác, trung thực, trần trụi cuộc sống đấu
tranh với lập trường tư tưởng tiến bộ, một lí tưởng thẩm mĩ cao cả (Nhị Ca,
1967, trang 30).
22
Như vậy, ngay khi xuất hiện trên văn đàn, Bất khuất đã gây được tiếng
vang và khẳng định vị trí của mình. Những bài viết của giới nghiên cứu cũng
góp phần thể hiện đóng góp của tác phẩm, nhất là về khả năng phản ánh hiện
thực và thể hiện tư tưởng.
Ngày 28 tháng 7 năm 1969, nhà báo, nhà cách mạng Trần Huy Liệu qua
đời. Trên Tạp chí Văn học số 8 năm này có bài viết Vô cùng thương tiếc đồng
chí Trần Huy Liệu. Bài viết không chỉ bày tỏ tình cảm chân thành trước sự ra
đi của ông mà còn cho thấy những đóng góp của ông trong lĩnh vực văn
chương nghệ thuật đặc biệt là những tập hồi kí cách mạng và những bài thơ
Những hồi kí và thơ trên ghi lại một chặng đường quan trọng trong đời hoạt
động cách mạng của đồng chí […] chắc chắn sẽ là nguồn tài liệu quý giúp
chúng ta hiểu thêm về lịch sử cách mạng của Đảng ta, về sự phát triển của
trào lưu văn học cách mạng của chúng ta trong ngót nửa thế kỉ vừa qua;
đồng thời cũng rọi cho ta thấy thế giới bên trong phong phú, đẹp đẽ và hóm
hỉnh lạc quan của một con người mới, một chiến sĩ cách mạng, suốt đời tận
tụy phấn đấu và luôn luôn tin tưởng ở thắng lợi cuối cùng của cách mạng
(Tạp chí Văn học, 1969, trang 72).
sáng tác trong suốt quá trình hoạt động. Theo tác giả bài viết:
Qua nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy rằng, ngòi bút của Trần Huy Liệu
sắc bén, tinh tế. Những trang hồi kí của ông không chỉ có giá trị lịch sử, mà
còn có giá trị nghệ thuật độc đáo.
Nhìn chung, trong giai đoạn trước năm 1975, những công trình nghiên
cứu khái quát đa phần tập trung vào việc định hướng tư tưởng trong sáng tác
hồi kí cách mạng; đánh giá những mặt đã làm được và chưa làm được của
người viết thông qua một vài sáng tác cụ thể chứ chưa mang tính lí luận cao.
23
Các nhà nghiên cứu chủ yếu tập trung vào một số hồi kí cách mạng nổi bật,
tiêu biểu. Các công trình của họ phần lớn đi vào nghiên cứu giá trị nội dung
tư tưởng, giá trị lịch sử được tác giả thể hiện trong hồi kí. Mặt khác, các nhà
nghiên cứu chưa khảo sát phong phú các tác phẩm hồi kí để khái quát thành
đặc điểm của những sáng tác này. Điều này xuất phát từ việc chưa bao quát
được toàn bộ các hồi kí cách mạng do đây là giai đoạn cuộc vận động sáng tác
hồi kí vẫn đang diễn ra trong các đơn vị. Đồng thời, lí thuyết thể loại vẫn
chưa được xác lập và chưa có sự ổn định.
1.2. Tình hình nghiên cứu hồi kí cách mạng Việt Nam từ 1975 đến nay
Từ sau 1975, lĩnh vực phê bình, nghiên cứu văn học phát triển mạnh.
Đây là tiền đề, cơ sở để hồi kí cách mạng được nghiên cứu từ nhiều khía
cạnh. Có những công trình nghiên cứu tổng quát đi từ thể loại hồi kí và những
công trình, bài viết tập trung vào các tác phẩm cụ thể để làm nổi bật phương
diện nội dung và hình thức nghệ thuật của mảng sáng tác này.
1.2.1. Những nghiên cứu mang tính khái quát về hồi kí cách mạng
Sau 1975, sự phát triển mạnh mẽ của hồi kí do nhu cầu tái hiện quá khứ
và khát vọng tự biểu hiện, tự bộc lộ của người viết đã được ghi nhận trong
văn học Việt Nam. Hồi kí không chỉ phong phú về số lượng, đa dạng về đề tài
mà còn có những cách tân về nghệ thuật. Trong thời gian này, nhiều công
trình về lí luận văn học, nghiên cứu văn học ra đời đáp ứng nhu cầu nghiên
cứu văn học chuyên sâu và hệ thống. Những công trình này đã đưa thể kí vào
làm đối tượng nghiên cứu, đồng thời, có sự so sánh, đánh giá về hồi kí trong
quá trình phát triển. Nhờ đó, hồi kí cách mạng tiếp tục được giới nghiên cứu
quan tâm.
Trong bài viết Đọc hồi kí cách mạng nghĩ về vẻ đẹp của người chiến sĩ
cộng sản Việt Nam (1977), Trần Hữu Tá đã đánh giá cao những đóng góp của
Dòng hồi kí cách mạng đã chảy xiết thực sự góp phần đáng kể vào thành
tựu chung của nền văn học cách mạng Việt Nam hiện đại, khiến nó xứng
hồi kí cách mạng đối với văn học Việt Nam:
đáng trở thành bộ phận tiên phong của nền văn học chống đế quốc sôi nổi
của loài người tiến bộ (Trần Hữu Tá, 1977, trang 17).
24
Trong bài viết này, tác giả đã khái quát thành tựu của hồi kí cách mạng
và khái quát những biểu hiện về phương diện nội dung. Hồi kí cách mạng đã
tái hiện lại một mảng hiện thực đen tối “những ngày quê hương ta phải sống
trong “cảnh cơ hàn trời đất tối tăm”” (Trần Hữu Tá, 1977, trang 19) để từ đó
làm bật nổi tinh thần bất khuất, ý chí kiên cường của đông đảo nhân dân trên
khắp mọi miền đất nước. Tác giả bài viết đã chỉ ra những nét riêng của hồi kí
cách mạng trong việc tái hiện bức tranh đời sống xã hội và hình tượng con
người trong bối cảnh đặc biệt. Tác giả cũng thừa nhận một số hạn chế của các
sáng tác này: “một số tập còn ở dạng ghi chép thô sơ, dàn trải”, tuy nhiên
“nhìn chung những cố gắng ấy rất đáng khích lệ” (Trần Hữu Tá, 1977, trang
18)
Hà Minh Đức đã nghiên cứu một cách hệ thống và có chiều sâu về kí
trong văn học Việt Nam trong công trình Kí viết về chiến tranh cách mạng và
xây dựng chủ nghĩa xã hội (1980). Ông đã có cái nhìn khái quát về đóng góp
của thể kí trong việc phản ánh quá trình cách mạng, quá trình đấu tranh bảo
vệ Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ông cũng nêu lên vai trò của thể kí,
xác định đặc điểm của các thể loại trong kí văn học; chỉ ra những nguyên tắc
cơ bản của thể kí, cho thấy được mối quan hệ giữa hiện thực cuộc sống và
nghệ thuật trong văn học kí, thấy được vai trò và khả năng sáng tạo của cái tôi
cá nhân trong quá trình viết kí cũng như khả năng phản ánh hiện thực của loại
hình văn học này.
Miêu tả cuộc sống khách quan với những bức tranh xã hội rộng rãi mà
người viết có dịp chứng kiến, thể nghiệm. Tác giả ít nói đến mình, cái tôi
như lùi về bình diện thứ hai, nhân vật chính là cuộc đời chung, là quần
chúng nhân dân (Hà Minh Đức, 1980, trang 78).
Riêng về hồi kí cách mạng, tác giả cho rằng:
25
Và “Hồi kí cách mạng chủ yếu ghi lại những hoạt động của các chiến sĩ
cách mạng trong các thời kì hoạt động dưới chế độ thực dân phong kiến” (Hà
Minh Đức, 1980, trang 79). Như vậy, nhà nghiên cứu đã chỉ ra hồi kí cách
mạng phải nặng về phản ánh khách quan trong khi hồi kí của các nhà văn (hồi
kí văn học) thiên về phản ánh chủ quan “Hồi kí của các nhà văn cung cấp
những kiến thức xoay quanh cuộc đời sáng tác của họ” (Hà Minh Đức, 1980,
trang 81). Nói đúng hơn, hồi kí cách mạng không hiếm những bài viết về
“một người” nhưng lại cho người đọc thấy được “một thời”, không thiếu
những bức tranh tâm trạng, những “nỗi niềm riêng tư” của một người nhưng
là để nói thay, nói cùng với mọi người.
Bên cạnh những nhận định khái quát về đặc điểm của hồi kí cách mạng,
Hà Minh Đức còn nêu lên nhận định về giá trị của một số tác phẩm: “Những
thiên hồi kí cách mạng có giá trị như Nhân dân ta rất anh hùng, Bác Hồ,
Uống nước nhớ nguồn, Đầu nguồn… đều là những tác phẩm có giá trị về mặt
sử học, xã hội học và văn học” (Hà Minh Đức, 1980, trang 80). Riêng đối với
tập hồi kí Những kỉ niệm sâu sắc trong đời bộ đội, tác giả nhấn mạnh “sự
chọn lọc đến mức tối đa, gạt bỏ những chuyện thứ yếu, tập trung kể lại một kỉ
niệm sâu sắc nhất nên trang viết dễ gây ấn tượng mạnh mẽ với người đọc”
(Hà Minh Đức, 1980, trang 81). Đồng thời, “Trong thể loại hồi kí có những
sáng tác được kể lại chân thực, sinh động cho đến từng chi tiết. Người kể có ý
thức nắm bắt vấn đề cụ thể, thời gian câu chuyện chưa xa như trường hợp Bất
khuất của Nguyễn Đức Thuận” (Hà Minh Đức, 1980, trang 24). Đây là công
trình nêu lên nhiều vấn đề quan trọng trong việc nghiên cứu thể loại kí. Tuy
nhiên, hồi kí cách mạng chỉ được nhắc tới như một hiện tượng chứ chưa có sự
nhìn nhận thấu đáo, toàn diện.
Trong công trình Lí luận văn học (1997) do Hà Minh Đức chủ biên, các
tác giả đã cho rằng hồi kí là một thể loại quan trọng trong kí tự sự. Các nhà
nghiên cứu đòi hỏi hồi kí cách mạng phải có tính chất cộng đồng, có ý nghĩa
xã hội và phải khơi gợi những nhận thức đúng đắn có lợi ích chung cho nhiều
26
người. Công trình của Hà Minh Đức nghiên cứu phạm vi rộng các vấn đề liên
quan đến lí luận văn học. Riêng với kí, các thể loại như phóng sự, bút kí, tùy
bút, nhật kí... được khảo sát sâu và rộng hơn còn hồi kí cách mạng chỉ được
điểm qua khi tác giả nhắc đến thể loại hồi kí. Điều này xuất phát từ thực tiễn,
so với các thể loại khác trong kí (bút kí, tùy bút), việc nghiên cứu hồi kí cách
mạng có những giới hạn nhất định.
Năm 1997, trong công trình Nghệ thuật và phương pháp viết văn, tác giả
Tô Hoài đã nêu ra những vấn đề liên quan đến việc nghiên cứu hồi kí trong
chương “Kí và truyện” và “Quan sát, ghi chép”. Ông đã đứng trên lập trường
của một người cầm bút để nêu lên những đánh giá về một thể loại mà chính
Trong kháng chiến, loại ghi chép dần mở rộng và phổ biến. Tuy nhiên, đấy
mới chỉ là bước đầu. Cho tới những năm gần đây, nhiều tập truyện do người
kể người ghi như thế đã xuất hiện, có giá trị, phần nhiều là hồi kí, như
những tập Bác Hồ, Nhân dân ta rất anh hùng, Người Hà Nội, Một năm trên
biên giới Việt – Trung (Tô Hoài, 1997, trang 48).
ông đã từng trải nghiệm: kí. Tô Hoài cho rằng:
Ông đánh giá cao sự đóng góp của tác phẩm hồi kí trong thành tựu và sự
phát triển văn học cách mạng nước ta. Khi nghiên cứu sâu về thể loại này, ông
thấy nổi lên vấn đề mối quan hệ giữa người kể và người ghi chép. Theo Tô
Hoài: “Ghi chép không phải công việc đơn giản, ai cũng làm được, hay hay
dở ở người kể, không phải người ghi. Ghi chép cũng đòi hỏi người viết phải
có vốn sống, có tài năng như ở bất cứ thể loại sáng tác nào” (Tô Hoài, 1997,
trang 49). Qua thực tế nghiên cứu hồi kí, chúng ta nhận thấy, các nhà nghiên
cứu và cả người kể không phủ nhận vai trò của người ghi chép. Họ như một
người đồng sáng tạo, là tác giả thứ hai của tác phẩm. Họ đã biến những câu
chuyện về một sự kiện, cuộc đời của một người thành tác phẩm văn chương.
Tác giả công trình thừa nhận: “Rõ ràng, trong khi viết, khi chép, vốn sống đời
người viết ảnh hưởng tới lời và ý ghi, vì thế mới xuất hiện phong cách trong
ghi chép” (Tô Hoài, 1997, trang 49). Tuy nhiên, công trình của Tô Hoài
27
không nghiên cứu chuyên sâu về hồi kí cách mạng nhưng quan niệm của ông
về tầm quan trọng của người ghi chép cũng gợi mở cho tác giả luận án khi
nghiên cứu về chủ thể trần thuật trong hồi kí cách mạng.
Cũng trong năm 1997, với công trình Hiểu thêm về lịch sử qua các hồi
kí, kí sự, tùy bút, Nguyễn Văn Hoa và Phạm Bá Toàn đã đã lựa chọn những
hồi kí, kí sự, tùy bút có ý nghĩa trong việc phản ánh lịch sử cách mạng Việt
Nam. Đồng thời, họ cũng nêu lên những nhận định, đánh giá mang tính khái
Khác với sử gia và nhà viết tiểu sử, người viết hồi kí chỉ tiếp nhận và ghi
chép phần hiện thực mà tác giả nhìn rõ hơn cả dựa trên cơ sở những ấn
tượng và hồi ức riêng trực tiếp của mình. Hơn nữa, bản thân người viết hồi
kí luôn luôn được mô tả, trình bày ở bình diện thứ nhất (Nguyễn Văn Hoa,
Phạm Bá Toàn, 1997, trang 45).
quát về những đóng góp của hồi kí:
Trong công trình này, tác giả chú trọng đến phương diện nội dung phản
ánh ở các hồi kí trong mối tương quan với lịch sử dân tộc, xem hồi kí như một
kênh để hỗ trợ việc tìm hiểu về lịch sử, chưa thấy được việc phản ánh lịch sử
của hồi kí có nét đặc trưng như thế nào so với các hình thức phản ánh lịch sử
khác.
Năm 2003, trong công trình Nhập môn văn học và phân tích thể loại,
Hoàng Ngọc Hiến đã tìm hiểu khái quát về những đặc trưng cơ bản của một
số thể loại văn học. Khi nghiên cứu về kí, đặc biệt là khi nhắc đến hồi kí cách
mạng, tác giả nhấn mạnh thái độ và tình cảm của chủ thể trong quá trình hồi
Viết hồi kí cách mạng mà dừng lại những quan điểm chung chung đánh giá
những sự kiện và con người trong cuộc thì nhiều lắm cung cấp được một tư
liệu sử học cũng như viết chính luận mà dè dặt trong sự phát biểu những
chính kiến và suy nghĩ của riêng mình thì văn chính luận sẽ không khác
mấy văn xã luận (Hoàng Ngọc Hiến, 2003, trang 101).
tưởng. Ông quan niệm:
28
Tác giả bài viết đã nêu lên một vấn đề quan trọng trong nghiên cứu hồi
kí cách mạng đó là quan điểm và chính kiến của người kể, người viết. Người
kể phải đưa ra được những đánh giá, bàn luận, đúc kết ý nghĩa về những sự
kiện đã được đề cập, có như vậy, những hiện thực được phản ánh mới có giá
trị nghệ thuật. Nếu chỉ tường thuật đơn thuần thì hiện thực thiếu hẳn sự sinh
động và ý nghĩa thời đại.
Trong bài viết Hồi kí và bút kí thời kì đổi mới (2008), tác giả Lý Hoài
Vượt qua mục đích “thanh minh” hoặc “tự đánh bóng tuổi tên của mình”,
những tác phẩm hồi kí được đón nhận nồng nhiệt và được đánh giá cao
trong và ngoài nước gần đây mang đến cho “người đương thời” những câu
trả lời, những bài học quý giá. Nói cách khác, từ những trang viết có nội
dung xã hội phong phú, tác giả hồi kí góp phần soi sáng hiện tại, phải đáp
ứng được nhu cầu nhận thức thực tại (Lý Hoài Thu, 2008, trang 77).
Thu đã khẳng định:
Tác giả không chỉ chú ý đến vai trò của người kể chuyện trong hồi kí
cách mạng mà còn quan tâm đến khả năng cung cấp thông tin, xem đó là đóng
góp có ý nghĩa quan trọng của hồi kí cách mạng Việt Nam trong tiến trình văn
học và góp phần soi sáng lịch sử nước nhà. Tác giả Lý Hoài Thu đặt ra yêu
cầu về tính xác thực của vấn đề được đề cập ở các hồi kí trong những năm
gần đây. Theo quan niệm của tác giả này tính trung thực là một trong những
yêu cầu quan trọng đối với hồi kí.
Nhà nghiên cứu Đỗ Hải Ninh cũng có những cách nhìn nhận khái quát
về hồi kí trong hai bài viết: Kí trên hành trình đổi mới (2006) và Những bước
chuyển của hồi kí thời kì đổi mới (2013). Bà đã nêu lên những đặc trưng cơ
Sự phát triển của thể loại hồi kí cũng chứng tỏ kinh nghiệm cá nhân đang
trở nên có giá trị hơn và hồi kí chính là một cách nhìn trực diện vào cái tôi
của người viết. Với cá nhân mỗi nhà văn, bằng hồi ức về cuộc đời mình,
bản của hồi kí, nhất là hồi kí xuất hiện từ sau năm 1986:
ông ta chẳng cần phải tìm kiếm thế giới ở đâu xa mà ở chính trên gương
mặt đầy dấu ấn thời gian của mình (Đỗ Hải Ninh, 2006, trang 74).
29
Tuy nhiên, đối tượng được quan tâm khai thác ở hai bài viết này là hồi kí
của các nhà văn, hồi kí cách mạng chưa được đề cập cụ thể.
Khác với quan niệm của các tác giả trên, trong lời giới thiệu tập Hồi kí
không tên (2012) của tác giả Lý Quý Chung, Ban biên tập nhà xuất bản Thời
Đại đã nhận xét vài nét về đặc điểm của hồi kí nói chung và những hồi kí liên
Hồi kí là một góc nhìn, một góc nhớ của một người, cho nên, nếu có những
phân tích, đánh giá mang tính chủ quan thì cũng là điều có thể chấp nhận
của một thể loại. Với hồi kí liên quan đến lịch sử cũng thế, dù không phải là
biên niên sử các sự kiện mà người viết được chứng kiến thì điều quan trọng
nhất vẫn là tôn trọng đúng dòng chảy lịch sử chung của các dân tộc, còn
những cái nhớ, cái ghi về những chi tiết, quan hệ riêng tư, sau 30 năm còn
lại bao nhiêu, chính xác đến mức nào, xét cho cùng cũng là điều mà người
đọc nên “rộng rãi” khi đọc (Lý Quý Chung, 2012, trang 5).
quan đến lịch sử nói riêng:
Ở đây, các tác giả cũng đề cập đến những hồi kí gắn với việc phản ánh
cuộc cách mạng, cần “tôn trọng đúng dòng chảy lịch sử chung của dân tộc”
nhưng tác giả hồi kí có thể thể hiện quan niệm cá nhân, tình cảm riêng tư. Tuy
nhiên, theo người nghiên cứu, đối với những quan niệm, những cách nhìn sai
lệch thì người đọc cần tỉnh táo để có cách tiếp cận tác phẩm đúng đắn.
Tác giả Ngô Thị Ngọc Diệp đã đưa ra nhận xét khái quát về đặc điểm
của hồi kí cách mạng trong bài viết Một vài đặc trưng của hồi kí cách mạng
Qua hình thức hồi kí, người viết muốn lưu giữ kí ức đẹp của dân tộc, bày tỏ
sự ngưỡng mộ đối với lịch sử của Đảng và nhân dân anh hùng. Những trang
viết về hiện thực đấu tranh cách mạng nóng hổi hơi thở thời đại trở nên có
hồn hơn, riêng tư hơn nhờ gắn với những kỉ niệm, ấn tượng khó phai của
người trong cuộc. Rõ ràng, hồi kí là phần bổ sung cho chính sử, góp phần
giai đoạn 1945 -1975 (2013):
làm cho lịch sử dân tộc hiện lên phong phú, hấp dẫn hơn (Ngô Thị Ngọc
Diệp, 2013).
30
Như vậy, hồi kí tái hiện quá khứ thông qua cái nhìn, cảm nhận riêng của
người kể. Bên cạnh những con người thật, những sự việc thật, tác giả hồi kí
đã thêm vào trang viết tâm hồn và tình cảm của mình. Điều này tạo nên tính
độc đáo của hồi kí cách mạng. Trong bài viết này tác giả đã nêu khái quát các
vấn đề về phương diện nghệ thuật như nghệ thuật xây dựng hình tượng con
Có thể nói, với ý thức tô đậm, ngợi ca chiến công để tri ân cách mạng, các
tác giả đã tạo cho hồi kí cách mạng một vẻ đẹp riêng. Đó là cách tái hiện
cuộc sống và con người dưới góc nhìn sử thi, cái tôi tác giả được xây dựng
như hình ảnh của con người cộng đồng, cách trữ tình hóa, mĩ hóa kí ức…
Thành tựu và những đặc trưng của hồi kí cách mạng có đóng góp nhất định
cho sự phát triển của thể kí nói riêng và văn học Việt Nam hiện đại nói
chung (Ngô Thị Ngọc Diệp, 2013).
người, nghệ thuật ngôn từ, vấn đề cái tôi trong hồi kí cách mạng:
Tác giả bài viết đã chỉ ra đặc điểm cơ bản của hồi kí cách mạng trong
việc xây dựng hình tượng nhân vật. Nhân vật người kể chuyện là hình tượng
nhân vật trung tâm. Bằng những tình cảm và suy ngẫm của bản thân, các nhân
vật thường thể hiện niềm trân trọng, tự hào đối với quá khứ. Công trình này
không làm rõ phạm vi của hồi kí cách mạng, tuy nhiên, tác giả đã nêu lên
được những đặc điểm về thể loại thông qua một số tác phẩm.
Năm 2015, trong công trình Xã hội học thi pháp dòng chảy cuộc đời,
Phạm Văn Quang đã xem hồi kí là thể loại được xây dựng từ những tư liệu
Hồi kí ra đời với mục đích và tham vọng chính trị […]. Hồi kí là một lối
viết có chiều dài lịch sử mang đậm nét con người cá nhân. Nó còn được
xem như một thể loại truyện kể theo chiều hướng văn học (Phạm Văn
Quang, 2015, trang 48).
lịch sử. Khi xem xét trường hợp Jules César, tác giả công trình cho rằng:
Mặc dù đối tượng nghiên cứu chính của công trình không phải là hồi kí
cách mạng nhưng tác giả đã có những giới thuyết nhất định gợi mở sự tiếp
31
cận đúng đắn đối với sáng tác bằng hồi ức của cá nhân, đặc biệt là những hồi
ức về lịch sử, chính trị. Tác giả công trình cũng nhấn mạnh: “Hồi kí là những
tác phẩm hướng đến những sự kiện bên ngoài hay những phản ánh mang tính
chính trị hoặc triết học” (Phạm Văn Quang, 2015, trang 93). Chính vì vậy, tác
phẩm hồi kí thôi thúc người đọc bởi những sự thực lịch sử được lưu giữ trong
tâm thức của người viết hơn là những cảm xúc thường ngày. Điều đáng ghi
nhận là người kể chuyện hay nhân vật trong hồi kí phải là những con người
ưu việt, gắn với hoàn cảnh xã hội đặc thù. Những điều này thích hợp khi
chúng ta áp dụng vào nghiên cứu hồi kí của những người cách mạng.
Nhìn chung, sau 1975, số lượng công trình nghiên cứu về hồi kí nhiều
hơn, nhưng quy mô nghiên cứu vẫn còn hạn hẹp, nhất là hồi kí cách mạng ít
được quan tâm. Hầu hết, các nội dung nghiên cứu đều xuất phát từ một hiện
tượng hay một tác phẩm cụ thể nào đó mà chưa có những công trình mang
tính hệ thống trong nghiên cứu về hồi kí cách mạng. Đặc biệt, các nghiên cứu
đó không chú ý đến việc phân chia tiểu loại trong hồi kí nên việc xác định
ranh giới của các hồi kí khi nghiên cứu không rạch ròi. Điều này đã gây ra
những khó khăn nhất định khi tiếp nhận hồi kí. Chính vì vậy, điều người viết
muốn hướng đến là việc xác định các tiểu loại trong hồi kí để nghiên cứu một
cách có hệ thống và thống nhất trong quan điểm về thể loại.
1.2.2. Những nghiên cứu về tác giả, tác phẩm hồi kí cụ thể
Từ năm 1975 đến nay, nhiều tập hồi kí cách mạng được tái bản và xuất
bản. Bên cạnh các bài viết mang tính chất giới thiệu, nêu lên những nhận định
khái quát về giá trị và đóng góp của tác phẩm, nhiều nhà nghiên cứu đã chú ý
đi sâu vào cả phương diện nội dung và hình thức. Các nghiên cứu có tính
chuyên nghiệp và tính hệ thống hơn.
Hồi kí cách mạng Việt Nam có rất nhiều tác phẩm viết về những ngày
Bác Hồ về nước, sống và làm việc ở Cao Bằng, trong đó, Đầu nguồn là tập
hồi kí xúc động của những cán bộ lãnh đạo của Đảng kể về kỉ niệm sâu sắc
trong quá trình tham gia hoạt động với Bác Hồ. Theo nhận xét trong lời giới
32
thiệu của Nhà xuất bản Văn học (1975), tên tập hồi kí “vừa là dịch nghĩa tên
làng Pác Bó lịch sử, vừa gợi lại ý của câu “uống nước nhớ nguồn” chan chứa
tình sâu nghĩa nặng mà ông cha ta vẫn quen dùng” (Nhiều tác giả, 1975, trang
13-14). Nằm trong mạch kỉ niệm những ngày sống cùng Bác, tập hồi kí Bác
Cuốn hồi kí ngời sáng thế giới quan mới, nhân sinh quan cách mạng. Mỗi
bài hồi kí là một bầu tâm huyết ghi lại bằng những tình cảm chân thành sâu
xa đối với Hồ Chủ tịch muôn vàn kính yêu (Nhiều tác giả, 1975, trang 8).
Hồ về nước được đánh giá cao về phương diện nội dung, tư tưởng:
Lời giới thiệu này bước đầu định hướng cho người đọc khi tiếp nhận và
tìm hiểu tác phẩm, đồng thời, cũng cho thấy những giá trị về tư tưởng, tình
cảm của những sáng tác này.
Sau năm 1975, các tác giả tiếp tục nghiên cứu về những tác phẩm ra đời
trong thời kì trước. Bên cạnh việc nhấn mạnh đóng góp về phương diện nội
dung tư tưởng, các nhà nghiên cứu còn hướng đến phương diện nghệ thuật
như cách trần thuật, phương thức thể hiện hình tượng. Điều này đã góp phần
khẳng định giá trị văn học của các tác phẩm hồi kí.
Bàn về đóng góp của tác phẩm Bất khuất, trong giáo trình Thường thức
lí luận văn học (1976), các tác giả đã nhận xét khả năng bao quát hiện thực
Đọc tác phẩm Bất khuất của Nguyễn Đức Thuận, ta thấy tác giả đứng ở tư
thế một nhân chứng của lịch sử để tố cáo một cách hết sức sâu sắc tội ác tày
trời của đế quốc Mĩ và bọn tay sai của chúng trong nhà tù khủng khiếp, địa
ngục của trần gian – Côn Đảo, đồng thời nêu lên được tấm gương anh hùng
kiên trung, bất khuất, đạo đức phẩm chất cách mạng ngời sáng của người
chiến sĩ cộng sản trong cuộc đấu tranh một còn một mất với kẻ thù giai cấp,
với quân cướp nước và bán nước, nêu lên sức mạnh vô địch của chính
nghĩa, của chân lí trong thời đại ngày nay (Bùi Văn Ba, Thành Thế Thái
Bình, 1976, trang 60-61).
của tác phẩm:
33
Điều nhóm tác giả đánh giá cao là sự lựa chọn, sắp xếp các chi tiết của
tác giả hồi kí. Bởi lẽ, gần mười năm trong gông cùm xiềng xích, tổng số con
người và sự việc không chỉ bấy nhiêu. Điều cốt yếu là tác giả Nguyễn Đức
Thuận đã chọn những con người tiêu biểu, những sự việc đắt giá để làm nổi
bật được nội dung tư tưởng của tác phẩm.
Tác giả Trường Lưu, trong bài viết Bất khuất – Bản anh hùng ca của
thời đại chống Mĩ (2009), đã khẳng định giá trị của tác phẩm trong việc tái
hiện lại hào khí của đất nước và nhân dân trong những năm tháng đấu tranh
Cái hay về ý nghĩa, về con người trong tác phẩm thì lớn vô cùng [...]. Trong
nước và trên thế giới, lâu nay đã có nhiều tác phẩm viết về nhà tù, nhưng
chưa có tác phẩm nào làm xúc động mạnh mẽ lòng người như Bất khuất,
chính vì tác giả đã nói được những đặc điểm của một dân tộc, một hoàn
cảnh đấu tranh, một đối tượng kẻ thù, một sự giằng co khốc liệt giữa hai hệ
tư tưởng, hai quan niệm về nhân sinh, hai con đường trong một khúc quanh
lịch sử (Trường Lưu, 2009, trang 830-831).
gian khổ. Ông cho rằng:
Tác phẩm không chỉ là hồi ức riêng tư của một cá nhân trong một chặng
đường đấu tranh ác liệt mà còn đặt ra nhiều vấn đề liên quan đến lí tưởng, lẽ
sống và quan niệm về độc lập dân tộc, quan niệm về người cách mạng. Trong
đó, Trường Lưu nhấn mạnh vẻ đẹp hình tượng người chiến sĩ cộng sản
Đó là hình tượng chứa đầy sức sống, điển hình cho những chiến sĩ cộng sản
quyết đạp bằng mọi chông gai trở ngại để vươn tới đỉnh cao của con người
về tấm lòng yêu nước, yêu dân, về những thử thách mà người chiến sĩ cộng
sản phải gánh vác trên bước đường đi lên của cuộc đời và lịch sử (Trường
Lưu, 2009, trang 835).
Nguyễn Đức Thuận:
Theo tác giả, Nguyễn Đức Thuận không chỉ là người chiến sĩ kiên
cường, trung thành tuyệt đối với lí tưởng cách mạng, hiên ngang trước kẻ thù
mà còn là một người “mang nặng tình người, tình ưu ái giai cấp” (Trường
34
Lưu, 2009, trang 836). Như vậy, Nguyễn Đức Thuận là hình tượng con người
tiêu biểu mang những vẻ đẹp của người cách mạng. Những nhận xét này rất
sát hợp với tác phẩm, đồng thời cũng chỉ ra được những nội dung cơ bản của
hồi kí Bất khuất. Đọc Bất khuất, chúng ta sẽ có lúc lắng lòng với những mất
mát đau thương nhưng âm hưởng chung vẫn là khí thế đấu tranh quyết liệt,
kiên cường trước mọi âm mưu và thủ đoạn của kẻ thù. Tác giả Trường Lưu đã
vạch ra tương lai của chúng: “dù hung hăng tàn ác, nhưng chúng chỉ là những
bọn người vong bản đang đi trong một bóng đêm hãi hùng và tuyệt vọng”
(Trường Lưu, 2009, trang 838). Cho nên, Bất khuất là bài ca chiến thắng của
những tù chính trị trước tra tấn, gông cùm và cao hơn cả là chiến thắng chính
bản thân mình. Hồi kí Bất khuất có nội dung phong phú về quá trình đấu tranh
của những người cách mạng trong xiềng xích, lao tù. Điều tác giả công trình
hướng đến là tác phẩm không những cung cấp nhiều tư liệu lịch sử mà còn cổ
vũ tinh thần người dân Việt Nam thông qua việc xây dựng những tấm gương
kiên cường, bất khuất của người cách mạng. Thế nhưng, các yếu tố nghệ thuật
lại chưa được khai thác ở chiều sâu mà chỉ nêu một cách chung chung, thường
thấy trong các nghiên cứu về hồi kí cách mạng.
Viết hồi kí cách mạng, các tác giả đã gửi gắm tất cả tấm lòng, tình cảm
của mình cho cách mạng. Nhà văn Tô Hoài đã giới thiệu về hồi kí Ánh sáng
Trong hồi kí Ánh sáng đây rồi của Nông Văn Lạc, tư tưởng của người viết,
thước đo tư tưởng của ngòi bút, được biểu hiện trước sau như một, là lòng
tin tuyệt đối đường lối của Đảng lãnh đạo. Niềm tin yêu ấy rành rõ, in đậm
trong bất cứ một công tác, một ý nghĩ nào. Niềm tin yêu là ánh sáng tỏa đến
chân tơ kẽ tóc cuộc sống và tình cảm. Một tin yêu có lí lẽ, có nguồn gốc và
nguyên nhân sâu xa thành chân lí soi đường cho anh (Tô Hoài, 1976, trang
14).
đây rồi của Nông Văn Lạc xuất bản năm 1976:
Nhà văn Tô Hoài đã thấu hiểu tâm tư, tình cảm của tác giả hồi kí qua lời
nhận xét chân thành. Dù thời gian đã trôi qua, tất cả mọi việc chỉ còn trong
35
hồi tưởng, nhưng khi ôn lại từng sự kiện, tình cảm của Nông Văn Lạc vẫn sôi
nổi, hồ hởi, xúc động như đang sống trong những ngày đầu cách mạng. Chính
sự phong phú của đời sống cách mạng đã tạo nên sức hấp dẫn cho tập hồi kí
Tác giả đã kể lại, từng đoạn ngay ngắn, trật tự, như một báo cáo. Vẫn một
thói quen làm việc của người cán bộ quần chúng, cuộc họp phải có nêu vấn
đề, có kiểm điểm, có thảo luận rồi có nghị quyết. Cả tập sách viết như thế,
vậy mà tuyệt nhiên không công thức và khô khan. Người đọc quên cả hình
thức lặp lại hay không, mà bị lôi cuốn vào sự việc bởi sự việc có thật trong
đời sống luôn luôn mới, không trở lại nguyên xi bao giờ (Tô Hoài, 1976,
trang 15-16).
này:
Tô Hoài đã nhận xét dựa trên đặc điểm của hồi kí: tái hiện quá khứ như
nó vốn có. Đồng thời, tác giả cũng nhấn mạnh đóng góp của tác giả hồi kí là
lựa chọn sự việc, lựa chọn cách kể để làm cho sự việc sinh động và mới mẻ.
Ông cho rằng, đây là yếu tố tạo nên tính nghệ thuật của hồi kí.
Trong lời giới thiệu về hồi kí Chúng tôi vượt ngục (1977) của tác giả
Nguyễn Tạo, tổ biên tập hồi kí Nhà xuất bản Văn học đã khẳng định giá trị
Hồi kí Chúng tôi vượt ngục góp thêm những minh chứng làm sáng tỏ thế
giới quan và đạo đức cộng sản, có ý nghĩa giáo dục tích cực cho những thế
hệ mai sau: để không bao giờ quên quá khứ; để tự hào với quá khứ đã mang
nặng đẻ đau ra một hiện tại chói lọi vàng son và một tương lai rạng rỡ; để
răn mình: hãy xứng đáng với quá khứ đã hi sinh, đã quật khởi và đã giành
chiến thắng (Nguyễn Tạo, 1977, trang 6).
lịch sử và ý nghĩa giáo dục to lớn được cung cấp trong tác phẩm:
Tác phẩm đã thể hiện quyết tâm của những người cộng sản đạp bằng mọi
chông gai, thử thách để xây dựng phong trào cách mạng. Lời nhận xét của
Ban biên tập đề cao tinh thần quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh của người cách
mạng đồng thời truyền tải tình yêu quê hương đất nước tác giả gửi gắm trong
hồi kí.
36
Trong công trình nghiên cứu Phê bình bình luận văn học: Lê Văn Hiến,
Trần Huy Liệu, Đặng Thai Mai, Hồng Chương, Hà Xuân Trường (1999), Vũ
Tiến Quỳnh cho rằng Trần Huy Liệu đã viết nhiều hồi kí “vừa có giá trị lịch
sử, vừa có giá trị văn học như: Mặt trận dân chủ Đông Dương (1960), Đảng
Thanh Niên (1961), Dưới hầm Sơn La (1951)” (Vũ Tiến Quỳnh, 1999, trang
74). Theo nhà nghiên cứu này, hồi kí Dưới hầm Sơn La “đã miêu tả những
ngày nhịn ăn, nhịn uống của 156 tù chính trị một cách khá kĩ càng và sinh
động” (Vũ Tiến Quỳnh, 1999, trang 74). Công trình này đã giới thiệu được
những tác giả tiêu biểu trong văn xuôi cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên,
những người nghiên cứu chú ý nhiều đến tiểu sử và đóng góp của tác giả.
Chính vì vậy, hồi kí của Trần Huy Liệu được đề cập trong công trình này chỉ
mang tính chất giới thiệu chứ chưa có sự nghiên cứu, đánh giá sâu sắc, toàn
diện.
Tác giả Mai Hương trong bài viết Hành trình cách mạng – hành trình
thơ (Nhân đọc Nhớ lại một thời, Hồi kí của Tố Hữu) (2000) đã đưa ra những
nhận định xác đáng về những đóng góp của tập hồi kí. Trong đó, tác giả nhấn
mạnh mối quan hệ giữa cuộc đời thi sĩ và cuộc đời chiến sĩ hòa hợp với nhau
Ra đời vào năm 2000 – năm cuối cùng của thập kỉ cuối cùng của thế kỉ XX,
vào thời điểm 80 năm tuổi đời, trên 60 năm tuổi cách mạng và tuổi thơ của
một nhà thơ từng gắn bó trọn vẹn, thủy chung với dân tộc, với cách mạng
và nền văn học cách mạng, tập hồi kí quý báu này không chỉ giúp người
đọc hiểu sâu kĩ, có cơ sở để khẳng định chắc chắn hơn về sự nghiệp thơ Tố
Hữu, mà qua đó còn thấy được quá trình vận động của đời sống cách mạng
của dân tộc trong suốt cả thế kỉ (Mai Hương, 2000, trang 69).
vì mục đích cống hiến cho sự nghiệp cách mạng của Tố Hữu:
Tố Hữu là người đã sống cả cuộc đời cho cách mạng. Ông viết hồi kí là
để bày tỏ tình cảm, sự tri ân đối với nhân dân, đồng chí đã giúp đỡ và che chở
cho ông trong những bước hiểm nguy. Chính vì thế, tập hồi kí đã cung cấp
nhiều sự kiện về hoạt động cách mạng, về rất nhiều chiến sĩ, đồng bào. Ngoài
37
ra, tác giả Mai Hương cũng chú ý đến chất trữ tình, dấu ấn cá nhân trong hồi
Viết hồi kí nhiều người thường chú tâm đến những chi tiết, sự kiện cụ thể,
nhằm làm đậm cái Tôi chủ thể của người viết. Với Nhớ lại một thời, Tố
Hữu chủ đích “viết một bản hồi kí về cuộc đời chung, trong đó có cuộc đời
riêng của mình”. Và bởi vậy, sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp thơ của Tố
Hữu hiện diện sinh động trong nền chung của hành trình cách mạng dân tộc
(Mai Hương, 2000, trang 73).
kí của Tố Hữu:
Công trình của tác giả Mai Hương tập trung nhiều vào hình tượng nhân
vật trung tâm của hồi kí để thấy được sự gửi gắm của Tố Hữu. Bài viết đã làm
nổi bật cuộc đời người cách mạng gắn với quá trình sáng tác thơ ca, do đó,
những luận điểm nêu ra có tính chất khái quát.
Với quyển hồi kí Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch,
bút danh Trần Dân Tiên đã gây cho giới nghiên cứu nhiều tranh luận. Trước
đây, nhiều học giả cho rằng, Trần Dân Tiên là một bút danh khác của Hồ Chí
Minh, trong khi đó, một số khác lại cho rằng, người này là một người khác,
cảm phục về con người Hồ Chủ tịch nên góp nhặt những câu chuyện đã được
nghe để viết nên quyển hồi kí này. Đến nay, có thể khẳng định, Trần Dân
Tiên là một trong số các bút danh của Hồ Chí Minh. Quyển hồi kí này có
nhiều nét độc đáo trong nghệ thuật kể chuyện. Đánh giá về tác phẩm, Sophie
Tuy nó dựa trên sự thật, những điều nó bỏ qua hay tô vẽ thêm, và việc nó
khăng khăng khẳng định phẩm chất vô sản của Hồ Chí Minh đã biến nó
thành một yếu tố tạo ra huyền thoại về ông hơn là một sử liệu nghiêm túc
(While it is based on fact, its omissions, embellishments, and insistence on
Ho Chi Minh's proletarian virture made it an element in the construction of
his myth rather than a serious record) (Sophie Quinn-Judge, 2002, trang 5).
Quinn-Judge cho rằng:
Những chặng đường cách mạng gian khổ nhưng vinh quang luôn in đậm
trong kí ức của những người trong cuộc. Nhân kỷ niệm 115 năm ngày sinh
38
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia đã cho in hai tập
hồi kí Bác Hồ sống mãi với chúng ta năm 2005. Trong lời giới thiệu, các tác
giả Nhà xuất bản đã nêu rõ: “Cuốn sách Bác Hồ sống mãi với chúng ta cung
cấp cho bạn đọc nguồn tư liệu quý, hết sức phong phú về lịch sử cách mạng
Việt Nam” (Nhiều tác giả, 2005, trang 9). Tập hồi kí quả thật đã tái hiện lại
quá trình hình thành và phát triển của cách mạng Việt Nam qua các thời kì
thông qua việc xây dựng hình tượng Hồ Chí Minh. Những trang viết trong tập
hồi kí này còn chứa đựng những tình cảm sâu đậm của nhân dân Việt Nam
đối với cách mạng, đối với Bác Hồ.
Cũng trong năm 2005, trong công trình Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt
Nam (2 tập), do Vũ Tuấn Anh và Bích Thu chủ biên, các tác giả đã giới thiệu
về một số hồi kí cách mạng, đồng thời đưa ra nhận xét, đánh giá về đóng góp
của các tác phẩm. Vũ Tuấn Anh đã có những nhận xét về nội dung và nghệ
thuật của tác phẩm Bất khuất. Theo tác giả, tác phẩm Bất khuất có nội dung
phong phú, phản ánh nhiều vấn đề về hiện thực xã hội lúc bấy giờ: “Bất khuất
là bản cáo trạng đanh thép về chính sách xâm lược và chế độ phát-xít man rợ
của đế quốc Mĩ và tay sai ở miền Nam Việt Nam, đồng thời là bản anh hùng
ca sáng ngời chính nghĩa và khí tiết của người chiến sĩ cộng sản” (Vũ Tuấn
Anh, Bích Thu, 2005, trang 56). Tác giả công trình nghiên cứu còn nhấn
mạnh thành công của nghệ thuật trần thuật trong tác phẩm của Nguyễn Đức
Thuận: “Giọng văn trong tác phẩm khi sắc bén, giàu sức tố cáo, khi dõng dạc
hào sảng như những tuyên ngôn chính luận và cũng nhiều khi đậm đà chất trữ
tình khi nói về những xúc cảm nội tâm” (Vũ Tuấn Anh, Bích Thu, 2005, trang
56). Đối với tác phẩm Những kỉ niệm sâu sắc trong đời bộ đội, Lê Dục Tú
Đây là những câu chuyện có thật, bản thân tác giả là người trong cuộc, hoặc
được người trong cuộc kể lại, nên mặc dù ở một số truyện, tính nghệ thuật
chưa thật nhuần nhuyễn nhưng các câu chuyện có sức hấp dẫn cao ở tính
chân thực (Vũ Tuấn Anh, Bích Thu, 2005, trang 648).
nhận định:
39
Nhận xét về tác phẩm Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ
Tác phẩm đã cung cấp những tư liệu quý về lịch sử, thông qua những mẩu
chuyện sinh động cụ thể về một nhân cách lớn, một cuộc đời lớn làm xúc
động các thế hệ người đọc, nhất là sinh thời, Hồ Chủ tịch là một người ít
muốn nói về mình” (Vũ Tuấn Anh, Bích Thu, 2005, trang 651).
tịch, Vũ Văn Sỹ cho rằng:
Công trình này là từ điển nên những vấn đề các tác giả nêu ra chỉ mang
tính giới thiệu, gợi mở. Đôi khi, các tác giả sử dụng lại những nhận xét, đánh
giá của các nhà nghiên cứu đi trước để khẳng định vấn đề còn bản thân họ
không chú trọng việc phân tích chiều sâu, nội hàm của các tác phẩm được đề
cập.
Nhìn chung, với sự phong phú về số lượng hồi kí cách mạng, thì việc
nghiên cứu về nó vẫn chưa đáp ứng được so với những thành tựu mà nó mang
lại cho văn học Việt Nam. Các nhà nghiên cứu chỉ chú ý đến một số tác phẩm
nổi bật trong khi đó lại bỏ qua việc nghiên cứu trên diện rộng để có cái nhìn
toàn diện, hệ thống.
1.3. Một số đánh giá về tình hình nghiên cứu hồi kí cách mạng Việt Nam
trước và sau 1975
1.3.1. Ưu điểm
Qua thực tế khảo sát, phân tích tình hình nghiên cứu hồi kí cách mạng
Việt Nam trong thời gian qua, chúng tôi nhận thấy rằng, hồi kí cách mạng là
một đối tượng nghiên cứu được giới nghiên cứu văn chương quan tâm. Hồi kí
cách mạng được nghiên cứu qua nhiều giai đoạn và ở mỗi giai đoạn có những
đặc điểm riêng về đối tượng, phạm vi và khía cạnh được nghiên cứu.
Cùng với quá trình xuất hiện và đạt nhiều thành tựu của hồi kí cách
mạng trong văn học Việt Nam, các công trình nghiên cứu cũng bắt đầu xuất
hiện. Điều này chứng tỏ rằng, hồi kí cách mạng có sức thu hút và hấp dẫn đối
với các nhà nghiên cứu cũng như đông đảo độc giả. Trải qua quá trình phát
40
triển, hồi kí cách mạng vẫn được lật trở, nhìn nhận trên nhiều bình diện khác
nhau và từ những hướng nghiên cứu mới mẻ.
Giai đoạn trước 1975, các nhà nghiên cứu đã quan tâm đến việc định
hướng phương pháp sáng tác và tiếp nhận hồi kí cách mạng trong văn học
Việt Nam. Các công trình còn chú ý đến những sáng tác tiêu biểu, có tác dụng
cổ vũ, khích lệ tinh thần đấu tranh của nhân dân trong xã hội lúc bấy giờ.
Phương diện nội dung tư tưởng của tác phẩm được giới nghiên cứu khai thác
và tiếp cận ở nhiều góc độ.
Từ năm 1975 đến nay, các công trình nghiên cứu về hồi kí cách mạng
bắt đầu phong phú và chuyên nghiệp hơn. Các nhà nghiên cứu không chỉ quan
tâm đến giá trị ở phương diện nội dung tư tưởng mà còn quan tâm đến
phương diện nghệ thuật, thậm chí nghệ thuật trở thành một phương diện quan
trọng để nghiên cứu đóng góp của hồi kí cách mạng trong tiến trình văn học
Việt Nam hiện đại.
1.3.2. Hạn chế
Trước năm 1975, các nghiên cứu về hồi kí cách mạng chưa có tính tổng
hợp và khái quát. Các nhà nghiên cứu chỉ tập trung vào những tác phẩm tiêu
biểu, nổi bật lúc bấy giờ, như hồi kí Bất khuất của Nguyễn Đức Thuận, hồi kí
về Bác Hồ… Các tác phẩm này ra đời như một làn sóng trên mặt trận văn hóa
nghệ thuật và mặt trận tư tưởng, do đó, các nhà nghiên cứu tập trung vào khai
thác những đóng góp của chúng theo thị hiếu của công chúng về phương diện
nội dung tư tưởng mà tác phẩm mang lại. Bên cạnh đó, xuất hiện các công
trình nghiên cứu mang tính định hướng cho quá trình sáng tác. Các nhà
nghiên cứu gần như thống nhất với quan niệm hồi kí cách mạng là một sáng
tác văn học cho nên các nghiên cứu của họ tập trung vào vấn đề giá trị lịch sử
được biểu hiện như thế nào thông qua các phương tiện nghệ thuật. Trong giai
đoạn này, chưa có các công trình nghiên cứu chuyên sâu và hệ thống về hồi kí
cách mạng.
41
Các nhà nghiên cứu cũng chưa nghiên cứu hồi kí như một đối tượng độc
lập và chưa có công trình nghiên cứu hoàn chỉnh, hệ thống. Chẳng hạn, với
công trình Kí viết về chiến tranh cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hà
Minh Đức chỉ nghiên cứu về loại hình kí nói chung, trong đó, hồi kí cách
mạng được nhắc đến với dung lượng khá khiêm tốn. Những bài viết của Đỗ
Hải Ninh, Lý Hoài Thu nghiên cứu chủ yếu hồi kí của các nhà văn. Bên cạnh
đó, một số nhà nghiên cứu không làm rõ ranh giới cụ thể giữa hồi kí cách
mạng và hồi kí văn học, cho nên, việc xác định tiểu loại của các tác phẩm hồi
kí chưa thật chính xác.
Vì hồi kí cách mạng chưa được nghiên cứu một cách toàn diện và hệ
thống cho nên những khen chê còn mang tính phiến diện. Bởi vì, còn nhiều
khoảng trống cần được lấp đầy bằng những công trình cụ thể khác. Ngoài ra,
khi nhắc đến hồi kí cách mạng, vấn đề nội dung tư tưởng chiếm ưu thế trong
các công trình nghiên cứu, còn về nghệ thuật các nhà nghiên cứu có đề cập
đến nhưng xét cho cùng vẫn xem đó như một phương tiện để phục vụ cho
mục đích ngợi ca, cổ vũ, tuyên truyền chứ chưa thật sự nhìn nhận từ góc độ
thẩm mĩ.
Tiểu kết chương 1
Nhìn chung, từ trước đến nay, những công trình nghiên cứu về hồi kí
cách mạng khá phong phú nhưng vẫn chưa tương xứng với thành tựu và đóng
góp của nó cho tiến trình văn học Việt Nam hiện đại. Hầu hết những ý kiến
của các nhà nghiên cứu đều nhằm nhấn mạnh đặc điểm của hồi kí là tái hiện
quá khứ bằng góc nhìn và cảm quan hiện tại, người viết có quyền tạo nên
những hư cấu thông qua sự hồi cố của cá nhân, tuy nhiên, tính chân thực của
sự kiện cần phải được đảm bảo. Điều này tạo cho hồi kí tính chính xác, khả
năng thuyết phục. Đây cũng là đặc trưng quan trọng của hồi kí, đặc biệt là hồi
kí cách mạng, thể loại mang sứ mệnh tái hiện lịch sử. Mặc dù chưa nghiên
cứu một cách chuyên sâu và toàn diện, nhưng những công trình nói trên có
42
tính định hướng và tạo tiền đề để mở ra những hướng nghiên cứu mới mẻ,
chuyên sâu về hồi kí cách mạng.
43
Chương 2
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HỒI KÍ
VÀ HỒI KÍ CÁCH MẠNG
Lịch sử Việt Nam đã trải qua nhiều biến động khi đất nước phải đối mặt
với các thế lực ngoại xâm muốn thôn tính, đồng hóa dân tộc ta. Dù có những
thăng trầm nhưng điều đó đã khẳng định sự kiên cường, vững vàng của người
Việt Nam trong cuộc chiến không cân sức với kẻ thù. Theo đó, văn học Việt
Nam cùng nhịp bước với dân tộc trong hành trình cứu nước nhiều khó khăn,
Chính cái xã hội Việt Nam đang phân hóa và chuyển biến dữ dội trong
chiến tranh cách mạng, những tính cách đang trải qua bước ngoặt nhảy vọt,
những tâm hồn đang ngày càng phong phú nhờ cái vốn trí tuệ, kinh nghiệm
của dân tộc và thời đại, lịch sử của những gia đình, thôn xóm có truyền
thống cách mạng... là những chất liệu tốt cho văn xuôi (Phan Cự Đệ, 2004,
trang 76).
gian khổ. Phan Cự Đệ cho rằng:
Trong văn học Việt Nam hiện đại, do nhu cầu phản ánh hiện thực cách
mạng và cổ vũ tinh thần đấu tranh, thể kí được các tác giả sử dụng khá hiệu
quả. Trong đó, hồi kí của những nhà cách mạng có vai trò quan trọng, góp
phần vào làm phong phú diện mạo và sự thành công của giai đoạn văn học
này.
2.1. Những vấn đề chung về hồi kí
Trên thế giới, hồi kí là một thể loại ra đời rất sớm và có nhiều thành tựu
nổi bật. Ở Việt Nam, hồi kí xuất hiện khá muộn, các tác phẩm bắt đầu xuất
hiện từ thập niên 30, 40 và có nhiều sáng tác ở thập niên 60 của thế kỉ XX. Từ
thập niên 90 của thế kỉ XX đến nay, hồi kí lại tiếp tục có những bước tiến mới
trên văn đàn, thu hút được sự quan tâm của bạn đọc và giới nghiên cứu. Việc
xác định khái niệm cũng như đưa ra những tiêu chí để phân chia các tiểu loại
trong hồi kí là rất cần thiết để có cách nhìn nhận vừa khái quát vừa khu biệt.
Đồng thời, sự phân chia này tạo nên cơ sở vững chắc để xác định đối tượng
44
một cách đúng đắn, rõ ràng, tránh sự nhập nhằng trong quá trình tiếp nhận các
tác phẩm. Điều này làm cho những nhận xét, đánh giá được khách quan và sát
hợp hơn.
2.1.1. Khái niệm hồi kí và sự phân định ranh giới giữa hồi kí với các thể
loại tương cận
2.1.1.1. Khái niệm hồi kí
Cùng với sự hình thành và phát triển của thể loại hồi kí, khái niệm hồi kí
cũng được nhìn nhận từ nhiều góc độ và phương diện khác nhau. Tuy vậy,
việc xác định khái niệm của thể loại văn học này vẫn chưa có sự thống nhất
trong các công trình nghiên cứu. Cũng vì thế, quan niệm về một thể loại
phong phú và phức tạp như quá trình phát triển của chính nó. Thực tế, trong
nhiều công trình nghiên cứu, các tác giả cũng đã có những kiến giải nhất định
về khái niệm hồi kí.
Memoir: a form of AUTOBIOGRAPHY that subordinates the AUTHOR’s
personal life to the public events in which he or she has participated. In
some cases, as in Simone de Beauvoir’s Memoirs of a Dutiful Daughter
(1958), the public “event” is the representative character of the life – in de
Beauvoir’s case, the degree to which her early life typified the upbringing
of a younger in her time. More usually, the form serves as a vehicle for a
personal account of specific public events. An example is Present at the
Creation (1978), the memoirs of Dean Acheson, the secretary of state
during the establishment of the Uninted Nations and the conduct of the
Korean War (Edward Quinn, 2006).
Theo Edward Quinn:
Khái niệm hồi kí được thể hiện trong các công trình từ điển văn học có
những nét tương đồng. Trong công trình Từ điển thuật ngữ văn học (2004),
các nhà nghiên cứu nhận định: hồi kí là “một thể loại thuộc loại hình kí, kể lại
những biến cố đã xảy ra trong quá khứ mà tác giả là người tham dự hoặc
45
chứng kiến” (Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, 2004, trang 152).
Hồi kí là một dạng trứ tác thuộc nhóm thể tài kí. Tác phẩm hồi kí là một
thiên trần thuật từ ngôi tác giả (“tôi” tác giả, không phải “tôi” hư cấu ở một
số tiểu thuyết, truyện ngắn), kể về những sự kiện có thực trong quá khứ mà
tác giả tham dự hoặc chứng kiến (Lại Nguyên Ân, 2004, trang 153).
Lại Nguyên Ân, trong công trình 150 thuật ngữ văn học cũng cho rằng:
Khái niệm hồi kí của Lại Nguyên Ân được sử dụng trong công trình Từ
điển Văn học (bộ mới). Các nhà nghiên cứu đã nêu khái niệm hồi kí trong mối
tương quan với loại hình kí, đồng thời, họ chủ yếu dựa trên các phương diện
như tác giả, đối tượng phản ánh để xem xét. Đồng thời, họ cũng nhấn mạnh
vai trò nhân chứng của tác giả trong thể loại này.
Trong các công trình lí luận văn học, khái niệm hồi kí được xem xét ở
nhiều phương diện và thể hiện trong tương quan với nhiều thể loại khác. Hà
Minh Đức cho rằng, hồi kí là thể loại “ghi lại những diễn biến của câu chuyện
và nhân vật theo bước đi của thời gian qua sự hồi tưởng” (Hà Minh Đức,
Người viết hồi kí kể lại những điều mà mình có dịp quan sát hoặc nghe trực
tiếp, những sự việc và con người để lại những ấn tượng sâu sắc, gắn bó với
những kỉ niệm riêng, nhưng đồng thời lại có một nội dung xã hội phong
phú. Thời điểm câu chuyện xảy ra thuộc về quá khứ và có nhiều liên hệ với
cuộc đời hiện tại (Hà Minh Đức, 1997, trang 230).
1997, trang 210). Đồng thời:
Hà Minh Đức chú trọng đến tính trình tự của trần thuật trong tác phẩm
hồi kí và nhấn mạnh trình tự tuyến tính của các sự kiện. Ngoài ra, tác giả hồi
kí là người kể chuyện nhân chứng và những điều được kể phải là những kỉ
niệm hoặc ấn tượng sâu sắc. Tác giả đòi hỏi sự kiện trong hồi kí phải có ý
nghĩa xã hội rộng lớn ở thời điểm diễn ra sự kiện và thời điểm hiện tại. Chính
vì vậy, khái niệm này còn thu hẹp trong phạm vi của một số hồi kí mang cảm
hứng sử thi, phản ánh về những người, những việc trọng đại trong một giai
đoạn lịch sử nhất định.
46
Trong công trình Lí luận văn học do Phương Lựu chủ biên, các tác giả
cũng dựa vào yếu tố nhân vật trần thuật, kết cấu để xác định khái niệm hồi kí.
Loại hồi kí với đặc điểm là chủ thể trần thuật phải là người trong cuộc, kể
lại những sự việc trong quá khứ. Hồi kí có thể nặng về người hay việc, có
thể theo dạng kết cấu – cốt truyện hoặc dạng kết cấu – liên tưởng (Phương
Lựu, 1997, trang 436).
Theo quan niệm của các nhà nghiên cứu này:
Điểm chung trong quan niệm về hồi kí của các tác giả trong những công
trình này là nhấn mạnh vai trò “người trong cuộc” của tác giả hồi kí. Điều đó
có nghĩa là, tác giả phải đặt mình ở bình diện thứ nhất, giữ vai trò là nhân vật
trung tâm chi phối đến các nhân vật khác và hệ thống sự kiện, đồng thời phải
“chịu trách nhiệm” về những điều đã kể. Bên cạnh đó, Phương Lựu còn chú ý
đến phương diện nghệ thuật kết cấu trong hồi kí. Tác giả hồi kí có thể sắp xếp
sự kiện thành một cốt truyện hoàn chỉnh hoặc có thể kể theo trí nhớ, dựa vào
mối quan hệ nào đó giữa các sự kiện được kể để tạo thành logic của sự liên
tưởng.
Như vậy, hồi kí là thể loại thuộc kí tự sự. Đối tượng chính là những
người đã gặp, những chuyện đã xảy ra trong quá khứ được hồi tưởng lại thông
qua kí ức của tác giả. Người kể chuyện trong hồi kí đa phần là người kể
chuyện ngôi thứ nhất với tư cách là nhân chứng, kể lại những điều mắt thấy
tai nghe. Đối với hồi kí, các nhà nghiên cứu cũng đặt ra yêu cầu về tính chính
xác, chân thực trong việc tái hiện quá khứ nhưng cũng nhấn mạnh tính sáng
tạo độc đáo.
2.1.1.2. Sự phân định ranh giới giữa hồi kí và các thể loại tương cận
Trong quan niệm về thể loại, ranh giới giữa hồi kí và một số thể loại gần
đôi khi chưa được phân định rõ. Điều này sẽ làm cho việc xác định nòng cốt
thể loại, bản chất và đặc trưng của thể loại thiếu tính chính xác. Từ đó, việc
soi chiếu vào tác phẩm để lí giải cũng sẽ gặp phải những trở ngại nhất định.
47
Do đó, chúng ta cần xem xét hồi kí trong mối tương quan với các thể loại này
nhằm có sự phân định cụ thể.
Hồi kí và tự truyện là hai khái niệm có nội hàm tương đồng nhưng
không hoàn toàn trùng khít với nhau. Trong quá trình nghiên cứu, có một số
tác giả đã đồng nhất hai thể loại này. Nhà nghiên cứu Phùng Ngọc Kiếm,
trong công trình Giáo trình lí luận văn học tập 2 – tác phẩm và thể loại văn
học do Trần Đình Sử chủ biên, cho rằng: “Hồi kí là thể loại ghi chép các sự
kiện quá khứ đã trải qua do chính đương sự thực hiện, là một hình thức văn
học mình tự nói về mình, là một kiểu tự truyện của tác giả” (Phùng Ngọc
Kiếm, 2005, trang 261). Phùng Ngọc Kiếm xem hồi kí là một kiểu của tự
truyện. Quan niệm này của ông chỉ đúng trong một số trường hợp, ở đó,
người kể sử dụng tư liệu từ chính cuộc đời mình, lấy mình làm nhân vật chính
của truyện kể. Trong nhiều trường hợp đối tượng phản ánh và nhu cầu phản
ánh trong hồi kí và tự truyện không trùng khít với nhau. Ở thể loại tự truyện,
tác giả tự kể về mình, bản thân người kể là nhân vật chính của câu chuyện,
tham gia vào quá trình của sự kiện. Đồng thời, sự kiện, kỉ niệm, hồi ức được
bố cục lại thành một câu chuyện và “sự thiếu hụt về sự kiện, sự phiến diện
hầu như không thể tránh khỏi của thông tin trong hồi kí lại được bù đắp bằng
sự diễn đạt sinh động những ấn tượng, cảm tưởng trực tiếp của cá nhân tác
giả” (Đỗ Đức Hiểu, 2004, trang 646). Trong khi đó, tác giả hồi kí có thể xây
dựng một nhân vật chính không phải mình trong tác phẩm. Đó có thể là một
người họ đã gặp và có mối thiện cảm sâu sắc hay có ấn tượng mạnh mẽ.
Trong trường hợp này, tác giả là một nhân chứng khách quan đối với nội
dung được hồi tưởng. Hồi kí cũng có thể là tập hợp những kỉ niệm tản mạn.
Do đó, cùng tái hiện quá khứ, bộc bạch cái tôi, thể hiện quá trình chiêm
nghiệm nhưng hồi kí và tự truyện lại có đặc trưng khác nhau. Tự truyện được
xem là thể loại “già truyện non kí”, chú ý đến nghệ thuật kể chuyện, thủ pháp
miêu tả tạo nên tính hấp dẫn; trong khi đó, hồi kí lại “già kí non truyện”, tác
giả chú trọng tính xác thực của sự kiện và nhân vật.
48
Hồi kí cũng gần với nhật kí ở hình thức ghi chép tuy nhiên mỗi thể loại
có cách biểu đạt riêng.
Trong thể loại nhật kí, các tác giả chú trọng sự kiện. Người viết nhật kí
không ghi đều đặn mỗi ngày như một “nhiệm vụ”. Những ngày có sự kiện
quan trọng, để lại nhiều cảm xúc mới được ghi chép. Hồi kí và nhật kí đều lấy
chất liệu từ hiện thực cuộc sống mà người viết đã chứng kiến hoặc tham gia.
Trong nhật kí, trình tự thời gian được tuân thủ một cách tuyệt đối vì sự kiện
được ghi chép theo thứ tự ngày tháng năm. Tác giả hồi kí trong quá trình sáng
tác không chú trọng đến tính thường xuyên liên tục của sự kiện mà chú trọng
đến tầm quan trọng của mỗi sự kiện được kể. Vì vậy, trình tự thời gian của
các sự kiện đôi khi có sự xáo trộn do sự chi phối của tư duy hồi tưởng.
Sự kiện trong nhật kí được nhìn nhận và suy ngẫm bằng cảm quan hiện
tại, nóng hổi hơi thở của nhịp sống đang diễn ra. Trong khi đó, hồi kí vận
dụng hình thức giãi bày kể về những sự kiện đã có độ lùi nhất định về thời
gian bằng sự nhớ lại. Do đó, những đánh giá đã được chiêm nghiệm, đúc kết
chứ không phải nhất thời. Sự khác biệt này đã tạo nên nòng cốt riêng của mỗi
thể loại. Nhật kí thường sử dụng dạng thức lời thoại trong biểu đạt, thông
thường là kiểu câu cảm thán hoặc câu hỏi tu từ để bộc lộ trực tiếp những tình
cảm, cảm xúc. Trong khi đó, hồi kí sử dụng nhiều lời kể, tả sự kiện và những
yếu tố liên quan đến sự kiện như con người, cảnh vật… bằng sự chọn lựa và
chắt lọc kĩ càng. Tuy vậy, hình thức hồi kí vẫn là hình thức giãi bày quen
thuộc trong nhật kí. Thông qua những sự việc, những con người liên quan
trong cuộc đời mình, họ đã đúc kết nên những kinh nghiệm, bày tỏ những suy
tư, thắc mắc, bởi lẽ, kể lại cũng là một cách để đối thoại với người đời.
Ngoài ra, hồi kí cũng có mối tương quan nhất định với các dạng tự
thuật khác. Theo quan niệm của Nguyễn Ngọc Thiện: “Giữa tác phẩm của
thể loại văn học kí (với hình tượng ghi chép sự thật) với tác phẩm của thể loại
văn học sáng tạo (với hình tượng nghệ thuật) có khác biệt cơ bản về phương
thức tư duy hình tượng và các biện pháp nghệ thuật được sử dụng” (Nguyễn
49
Ngọc Thiện, 2017). Về định hướng cảm xúc có hồi kí hướng nội, hồi kí
hướng ngoại. Theo Hà Minh Đức: “Với các loại hồi kí và truyện kí, người kể
thường ngại nói đến những cảm xúc và suy nghĩ nội tâm mình khi thực hiện
một nhiệm vụ và có một thành tích nào đó” (Hà Minh Đức, 1997, trang 222-
223). Các tác giả công trình Từ điển thuật ngữ văn học cho rằng: “Về phương
diện tư liệu, về tính xác thực và không có hư cấu thì hồi kí lại gần với văn
xuôi lịch sử, tiểu sử khoa học” (Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi,
2011, trang 152). Nhà nghiên cứu Phạm Văn Quang, trong công trình Xã hội
học thi pháp dòng chảy cuộc đời (2015), đã nêu lên ý kiến của Jean-Pierre về
Chúng ta có thể đồng ý với tác giả khi cho rằng hồi kí là một lối viết có
chiều dài lịch sử mang đậm nét con người cá nhân. Nó còn được xem như
một thể loại truyện kể theo chiều hướng văn học. Nó đặc biệt thuộc phạm vi
truyện kể, vì nhân vật chính trong đó chiếm vị trí quan trọng, khiến người ta
không quan tâm đến xã hội bao quanh anh ta và làm cho anh ta hiện hữu
(Phạm Văn Quang, 2015, trang 48).
vấn đề phân biệt hồi kí và tự thuật. Ông quan niệm:
Theo đó, khi tìm hiểu tác phẩm Những lời trần tình của Jean-Jacques
Rousseau, tác giả đã nhận thấy, hình tượng tác giả xuất hiện trong hồi kí và
trong thể loại văn học lịch sử có vai trò, sứ mệnh khác nhau trong quá trình
phản ánh hiện thực ở quá khứ có liên quan đến cuộc đời của họ. Tác giả hồi kí
chỉ tái hiện phần hiện thực nằm trong tầm nhìn của mình, căn cứ vào những
ấn tượng và hồi ức của bản thân cho nên không thể so với tư liệu gốc và các
chứng tích được đề cập trong tác phẩm văn xuôi lịch sử hay tiểu sử khoa học.
Trong quá trình hình thành và phát triển, hồi kí có sự vận động và hóa
thân bởi tính linh động của thể loại văn học và yêu cầu của chủ thể, đối tượng
phản ánh và tiếp nhận. Chính điều này đã làm cho đường biên giữa hồi kí và
một vài thể loại khác có sự mờ nhòe. Tuy vậy, hồi kí vẫn giữ những nét đặc
trưng, bản chất ổn định trong quá trình biến đổi.
50
2.1.2. Đặc điểm hồi kí
Hồi kí là một thể trong loại hình kí văn học cho nên về cơ bản hồi kí
Loại văn xuôi tự sự trần thuật những người thật với những đặc điểm riêng
trong mức độ và tính chất hư cấu, trong vai trò của người trần thuật cùng
mối liên hệ giữa nó với đặc điểm của kết cấu và cốt truyện” (Phương Lựu et
al., 2006, trang 423).
cũng mang những đặc trưng của kí. Đó là:
Tuy vậy, hồi kí vẫn có những đặc trưng riêng trong phương thức phản
ánh hiện thực.
Trước hết, hồi kí là thể loại phản ánh hiện thực dựa trên hồi tưởng của kí
ức. Do đó, sự kiện trong hồi kí không nóng hổi tính thời sự như kí sự, phóng
sự, bút kí... mà thiên về chiêm nghiệm, suy ngẫm đối với những sự việc đã lùi
vào dĩ vãng. Do sự chi phối của độ lùi về thời gian và khả năng bao quát hiện
thực cũng như sự ghi nhớ của chủ thể nên hồi kí chủ yếu là sự suy tưởng về
quá khứ, cung cấp những tư liệu trong quá khứ hay bày tỏ những điều mà
đương thời tác giả chưa thể bày tỏ. Thể loại này đòi hỏi tính xác thực cao
trong việc tái hiện đời sống và tính nghệ thuật trong thể hiện. Theo Hà Minh
Không gắn với sự thật xác thực của đời sống kí dễ chơi vơi và tự xóa đi
ranh giới giữa mình với các thể loại khác. Không biểu hiện tính nghệ thuật
rõ nét, tác phẩm kí có xu hướng lẫn lộn với các hình thức ghi chép khác về
đời sống (Hà Minh Đức, 2003, trang 211).
Đức:
Tâm điểm của hồi kí là thế giới bên ngoài, là cuộc sống và con người
trong một thời kì lịch sử nào đấy. Tác giả hồi kí không làm công việc của
người ghi chép sử hay người lưu trữ và cung cấp tư liệu. Công việc của họ là
làm cho những kỉ niệm đã qua thành tác phẩm nghệ thuật. Cho nên, người
viết luôn có ý thức chọn lọc hình ảnh, chi tiết thật có ý nghĩa và lựa chọn cách
thức, phương tiện thể hiện để những kỉ niệm không chỉ sống lại trong tâm
thức họ mà cả với những người cùng thời. Người viết mong muốn thể hiện
51
thái độ, quan niệm đối với con người và sự việc thông qua việc nhấn mạnh
những phương diện mà họ cho rằng có ý nghĩa quan trọng.
Thứ hai, do yêu cầu về tính xác thực nên hồi kí chỉ trần thuật về người
thật, việc thật trong quá khứ: “Những nhân vật tạo nên phải là những con
người thật trong cuộc sống hiện thực, những sự việc miêu tả phải dính chặt
với địa điểm” (Phương Lựu et al., 2006, trang 426). Nhân vật trong hồi kí có
tên tuổi, địa chỉ rõ ràng, có hoàn cảnh cụ thể và có thể xác minh được thông
qua những nguồn tư liệu khác. Những sự việc được kể là những điều tác giả
đã chứng kiến, trải nghiệm và chịu trách nhiệm về tính đúng đắn của nó. Hồi
kí thường tái hiện những hiện tượng có ý nghĩa xã hội quan trọng, gợi lên
những nhận thức có lợi ích chung cho mọi người.
Thứ ba, hồi kí thường mang đậm tính chủ quan nên bộc lộ khá rõ “cái
tôi” của tác giả. Bởi vì: “Người viết hồi kí chỉ tái hiện cái phần hiện thực
thường nằm trong tầm nhìn của mình, anh ta thường chỉ căn cứ chủ yếu vào
những ấn tượng và hồi ức của bản thân mình” (Lại Nguyên Ân, 2004, trang
154). Người viết kí thường có ý thức quan sát và ghi chép cụ thể trong hành
trình thâm nhập vào thực tế để có thể tạo nên một bức tranh hiện thực chân
xác và hoàn thiện. Họ lại xuất phát từ nhu cầu được bộc bạch và nhận thức
quá khứ nên nguồn tư liệu ít nhiều đã chịu sự chi phối bởi lăng kính của
người kể và “sự quên” của kí ức. Hiện thực xã hội vốn rộng lớn và phần đời
đã trải qua cũng không phải một sớm một chiều cho nên việc lựa chọn kể về
ai, kể về cái gì phụ thuộc vào khả năng tái hiện của trí nhớ và nhận thức của
chủ thể.
Mặc dù hồi kí đòi hỏi tính khách quan nhưng sự can thiệp có chừng mực
của cái tôi giúp cho hồi kí thể hiện đúng sắc thái và cảm hứng của thể loại.
Hiện thực trong hồi kí không phải là sự thật được ép khô trong dòng chữ, bởi
lẽ “Cái tôi trong kí vừa phải góp phần đảm bảo tính xác thực của đối tượng
miêu tả, lại vừa phải bồi đắp cho hình tượng nghệ thuật thêm phong phú và
52
sinh động” (Hà Minh Đức, 2003, trang 226). Khi nghiên cứu vấn đề kí báo
Ở kí báo chí, tính xác thực phải được đảm bảo ở mức tuyệt đối, và tính thời
sự cũng mang tính chất thật cấp bách, có khi hằng ngày hằng giờ. Kí văn
học không đòi hỏi như vậy, ngược lại nó đề ra yêu cầu cao hơn về chất suy
nghĩ và tình cảm của chủ thể (Phương Lựu et al., 2006, trang 419).
chí và kí văn học, các tác giả công trình Lí luận văn học cho rằng:
Đồng thời, cái tôi trong hồi kí phải đảm bảo sự trung thực và khách quan
trong quá trình kể chuyện. Tác giả Xuân Thiêm cho rằng: “Cái tôi ở đây phải
viết cho đúng với hoàn cảnh lịch sử của chuyện, nghĩa là cái tôi phải phù hợp
với tình hình lúc bấy giờ, phải đặt vào một vị trí không hơn, không kém với
hoàn cảnh nảy sinh ra nó” (Xuân Thiêm, 1963, trang 17)
Thứ tư, trong hồi kí có giới hạn nhất định về tính chất, phạm vi và mức
độ của yếu tố hư cấu. Theo Lại Nguyên Ân: “Nhờ hư cấu, trong nghệ thuật
người ta thực hiện được việc chiếm lĩnh thế giới ở phối cảnh hàm nghĩa của
nó, tái tạo lại được các hình thức hiện thực, đem lại cho chất liệu một sự tổ
chức về thẩm mĩ” (Lại Nguyên Ân, 2004, trang 164). Trong thể loại hồi kí các
yếu tố hư cấu đã được tác giả sử dụng như là một thủ pháp làm cho hồi kí
cách mạng giàu tính văn học. Hư cấu ở đây không phải là thêm bớt, nói sai sự
thật, không phải là tưởng tượng chủ quan thoát li khỏi đời sống thực tế. Yếu
tố hư cấu được sử dụng nhằm đạt hiệu quả trong mục đích làm nổi bật, sâu
sắc hiện thực nhưng vẫn đảm bảo sự chân thực, chính xác. Về phạm vi, hư
cấu được sử dụng rộng rãi ở những thành phần không xác định như nội tâm
nhân vật, cảnh sắc thiên nhiên trong cảm xúc trữ tình của nhân vật, nhân vật
phụ hay sự thay đổi ít nhiều trật tự tự nhiên của đối tượng phản ánh… Tác giả
cũng có thể lược bớt những chi tiết vụn vặt, thô ráp của hiện thực để lựa chọn
kể về những con người và sự việc có tính chất tiêu biểu, độc đáo. Sự hư cấu
này chỉ làm cho hình tượng trong tác phẩm trọn vẹn, hoàn chỉnh chứ không
được tô hồng, không bị bóp méo. Yếu tố hư cấu được sử dụng nhằm làm tăng
ý nghĩa xã hội và giá trị nghệ thuật cho tác phẩm thông qua những nhận định,
53
bình giá của người kể. Nó thể hiện hướng tư duy của người viết về những vấn
đề được đặt ra trong sáng tác của mình.
2.1.3. Phân loại hồi kí
Trong lịch sử văn học, các nhà nghiên cứu đã dựa vào những tiêu chí
khác nhau để tiến hành phân chia các loại trong văn học. Từ thời cổ đại, trong
công trình Thi học, Arixtốt đã chia tác phẩm văn học thành ba loại hình cơ
bản: tự sự, trữ tình và kịch. Sự phân loại này chủ yếu dựa vào phương thức
biểu hiện thực tại vì ông cho rằng nghệ thuật là sự “bắt chước” thực tại. Quan
niệm này được Hêghen đồng thuận, nhưng Hêghen không dựa trên phương
thức biểu hiện mà dựa vào đối tượng phản ánh. Ngoài ra, chúng ta cũng có thể
dựa vào dung lượng tác phẩm, tổ chức lời văn, cảm hứng, tư duy nghệ thuật…
để phân loại tác phẩm văn học. Xác định thể loại giúp định hướng trong quá
trình tiếp nhận, nhìn nhận và đánh giá đúng thế giới hình tượng của tác phẩm.
Dựa trên tiêu chí về mô hình thể loại, có nhiều yếu tố để phân chia hồi kí
chẳng hạn như tư duy nghệ thuật, định hướng cảm xúc và những dạng thức
biểu hiện trong nòng cốt thể loại.
Hồi kí là một thể loại văn học có thể được phân chia thành nhiều tiểu
loại. Trong đó, hồi kí của nhà văn, của các nhà hoạt động cách mạng, các nhà
văn hóa... chính là những bộ phận hợp thành sự đa dạng, linh hoạt của thể loại
hồi kí. Bởi vì, “diện mạo các thể phong phú và phồn tạp còn do các dạng thức
mang tính lịch sử và các dạng thức mang tính dân tộc” (Đỗ Đức Hiểu, Phùng
Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá, 2004, trang 864). Chính vì cùng nằm
trong một thể loại, tiêu chí để phân chia các tiểu loại trong hồi kí cũng thu hẹp
ở một vài phương diện cơ bản.
2.1.3.1. Tiêu chí chủ thể trần thuật
Chủ thể trần thuật là chủ thể điều phối điểm nhìn, giọng điệu, tạo nên sự
đa dạng về sắc thái thẩm mĩ cho tác phẩm tự sự. Đối với thể loại phi hư cấu
như hồi kí, vai trò của chủ thể càng được nhấn mạnh bởi người trần thuật
đồng thời cũng là nhân chứng, kể lại những điều tai nghe, mắt thấy và chịu
54
trách nhiệm về những điều ấy trước người đọc. Dựa vào tiêu chí này, nhà
nghiên cứu Hà Minh Đức chia hồi kí thành ba loại: hồi kí của các nhà văn, hồi
kí của những người hoạt động cách mạng và hồi kí của các tướng lĩnh trong
các trận đánh, chiến dịch. Qua việc tìm hiểu về hồi kí, có thể thấy rằng, quan
niệm này của Hà Minh Đức có sự hợp lí nhất định.
Đối với các nhà văn, hầu hết những năm tháng tuổi trẻ họ dành cho sáng
tác. Họ thường viết hồi kí sau khi đã trải qua nhiều thăng trầm, biến cố trong
cuộc đời. Tuy nhiên, cũng có nhà văn viết hồi kí rất sớm như Nguyên Hồng
viết Những ngày thơ ấu. Thế nhưng, đa phần hồi kí là kết quả của sự nghiền
ngẫm về một đời người, một đời văn. Nguyễn Công Hoan viết Đời viết văn
của tôi, Tô Hoài viết Cát bụi chân ai, Chiều chiều, Anh Thơ viết bộ ba hồi kí
Từ bến sông Thương, Tiếng chim tu hú, Bên dòng chia cắt, Ma Văn Kháng
viết Năm tháng nhọc nhằn năm tháng nhớ thương… khi cuộc đời và quá trình
sáng tạo nghệ thuật đã qua nhiều trải nghiệm. Hồi kí của các nhà văn thể hiện
cái nhìn sâu sắc của “người trong cuộc”. Trong đó, những trang cuộc đời của
chính mình và hiện thực về văn học, văn hóa, xã hội trong tác phẩm được
phản ánh chân thực và sắc nét.
Những nhà hoạt động cách mạng gắn bó với cách mạng Việt Nam từ
những ngày đầu gian khó. Một vài người trong số họ là nhà văn, nhà báo, còn
lại đa số đều không phải người cầm bút chuyên nghiệp. Chính vì vậy, nhiều
hồi kí cách mạng đều có hai chủ thể trần thuật: người kể (người cách mạng)
và người ghi (nhà văn). Hai chủ thể này hòa nhập tạo nên sự thống nhất cao
trong điểm nhìn và giọng điệu trần thuật. Theo quan niệm của các tác giả
công trình Từ điển thuật ngữ văn học, chủ thể trần thuật trong các loại hồi kí
là chủ thể trần thuật đáng tin cậy. Bởi vì dù là người kể hay người ghi thì đều
“thống nhất được hệ giá trị trong tác phẩm” (Lê Bá Hán, Trần Đình Sử,
Nguyễn Khắc Phi, 2004, trang 224).
Các tướng lĩnh là những người đã gắn bó cuộc đời mình trên khắp các
mặt trận, dày dạn trong hành trình chiến đấu và kinh nghiệm chiến trường.
55
Hồi kí của họ là những kí ức về từng trận đánh, từng kế hoạch đối phó với kẻ
thù, là sự tổng kết có giá trị sâu sắc trên nhiều lĩnh vực, nhất là lĩnh vực quân
sự. Khi viết hồi kí, họ đứng ở tư thế của một người lãnh đạo, lập trường gắn
với lập trường của nhân dân để tôn vinh chiến công và trình bày, lí giải về ưu
điểm, hạn chế của một trận chiến. Đa số họ không phải là nhà văn, họ chỉ là
người kể chuyện, người tái hiện những trải nghiệm và nhìn nhận của bản thân
đối với lịch sử. Những tác phẩm này cũng thường được ghi chép bởi nhà văn.
Mỗi chủ thể với vị trí trong xã hội và thế mạnh riêng của mình đã tái hiện
những mảng hiện thực khác nhau. Điều này vừa xuất phát từ nhu cầu giãi bày
vừa do sự giới hạn nhất định của tầm nhìn, khả năng nắm bắt và tái hiện sự
thật.
2.1.3.2. Tiêu chí cảm hứng sáng tác
Trần Đình Sử cho rằng: “Cảm hứng là một tình cảm mạnh mẽ, mang tư
tưởng, là một ham muốn tích cực đưa đến hành động. Điều quan trọng là cần
nhận ra cảm hứng như một lớp nội dung đặc thù của tác phẩm văn học” (Trần
Đình Sử, 2005, trang 132). Có thể thấy rằng, cảm hứng chủ đạo của tác phẩm
chịu sự chi phối của ý thức xã hội và nhu cầu giãi bày, nhu cầu biểu hiện của
người sáng tác. Xem xét từ cảm hứng chủ đạo, hồi kí có thể được phân chia
thành các tiểu loại: hồi kí đời tư - thế sự, hồi kí ngợi ca.
Hồi kí đời tư – thế sự thể hiện những nghiền ngẫm, suy tư, trăn trở của
người kể. Bằng những hồi ức của mình, tác giả hướng đến phản ánh thực tại
thông qua cái nhìn có độ lùi về thời gian, đồng thời, mượn quá khứ để thể
hiện thực tại. Với hàng loạt hồi kí Những ngày thơ ấu, Bước đường viết văn,
Những nhân vật ấy đã sống với tôi, Nguyên Hồng đã viết lại những trang tiểu
sử đời mình bằng xúc cảm chân thực. Ngoài ra, hồi kí của Nguyên Hồng còn
tái hiện đời sống khó khăn của con người, những thói hư tật xấu trong xã hội
Việt Nam mà chính những kẻ xâm lược đã mang sang gieo rắc. Nguyên Hồng
cũng viết về những ấn tượng của mình đối với những nhà văn “đàn anh”, về
những tác động của phong trào văn nghệ đối với sự nghiệp sáng tác của chính
56
mình. Trong khi viết hồi kí bằng cảm hứng đời tư – thế sự, các tác giả có xu
hướng tiểu thuyết hóa hồi kí hoặc hồi kí mang đậm yếu tố tự truyện như
Những ngày thơ ấu (Nguyên Hồng), Chiều chiều, Cát bụi chân ai (Tô Hoài),
Năm tháng nhọc nhằn năm tháng nhớ thương (Ma Văn Kháng), Núi mộng
gương hồ của Mộng Tuyết, Ta đã làm chi đời ta của Vũ Hoàng Chương...
Trong đó, người viết bằng sự quan sát, kinh nghiệm và nhận thức của mình đã
trải lòng với cuộc đời, phơi bày những góc hiện thực từ vị trí của mình.
Bên cạnh đó, hồi kí còn được sáng tác bằng cảm hứng ngợi ca gắn liền
với khuynh hướng sử thi. Đối tượng được phản ánh là những tính cách tiêu
biểu của xã hội, những sự kiện có ý nghĩa trọng đại. Chính vì lẽ đó, nhiều tác
phẩm tái hiện lại những chặng đường lịch sử hào hùng của dân tộc trong giai
đoạn đấu tranh giành độc lập và giai đoạn đấu tranh để giữ vững nền hòa
bình, độc lập. Ngoài ra, người viết còn làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn và khí
phách của nhân dân nhằm nêu gương, ngợi ca để khích lệ tinh thần chiến đấu.
Hồi kí Bất khuất của Nguyễn Đức Thuận tái hiện lại khí thế anh hùng của
những người chiến sĩ cách mạng trong hơn ba nghìn ngày trải qua những “lò
giết người” cực kì man rợ. Thế nhưng, tinh thần đấu tranh không khuất phục
trước kẻ thù và niềm tin tuyệt đối vào ánh sáng cách mạng là nguồn động lực
mạnh mẽ giúp họ chiến đấu và chiến thắng. Trong hồi kí Những năm tháng
không thể nào quên, Võ Nguyên Giáp đã kể lại những sự việc diễn ra trong
thời gian Hồ Chí Minh rời khỏi chiến khu, về Hà Nội bắt tay vào công cuộc
chống thù trong giặc ngoài. Một mặt, Bác và các đồng chí lãnh đạo Đảng phải
tìm cách đối phó với kế hoạch “Hoa quân nhập Việt” của Quốc dân đảng; mặt
khác, việc đối phó với quân Đồng minh vào giải giáp quân đội Nhật là một
khó khăn lớn mà lúc này Đảng ta phải đương đầu. Qua đó, Võ Nguyên Giáp
khẳng định tài năng và mưu lược của những người cách mạng, đặc biệt là Hồ
Chí Minh. Trong loại hồi kí sáng tác theo cảm hứng ngợi ca, người viết
hướng đến phản ánh cuộc đấu tranh tư tưởng, đấu tranh vũ trang giữa phía ta
và thực dân, đế quốc từ đó củng cố tư tưởng, bản lĩnh cách mạng nhằm khẳng
57
định khả năng của dân tộc ta trong việc giữ gìn độc lập bằng tất cả mọi nguồn
lực.
2.1.3.3. Tiêu chí đề tài
Khi nói về đặc trưng đối tượng và nội dung của văn học, Lê Lưu Oanh
cho rằng: đối tượng của văn học là hiện thực mang ý nghĩa người. Cùng phản
ánh “người thật việc thật” những mỗi người kể bằng hồi ức sâu sắc và sự trải
nghiệm của mình sẽ chọn đối tượng và mảng hiện thực khác nhau để phản
ánh. Dựa vào tiêu chí này, có thể chia hồi kí thành các tiểu loại: hồi kí văn
chương, hồi kí cách mạng, hồi kí chiến tranh.
Hồi kí văn chương chủ yếu phản ánh các hoạt động về văn hóa tư tưởng,
đời sống văn học, chân dung tinh thần của các bạn văn, trong đó đối tượng
chính là cuộc đời của chính tác giả trong hành trình văn nghiệp. Chẳng hạn
như, hồi kí Đời viết văn của tôi (Nguyễn Công Hoan), Nửa đêm sực tỉnh (Lưu
Trọng Lư), bộ ba hồi kí của nữ sĩ Anh Thơ đã để lại trong lòng người đọc
niềm xúc động chân thành về một đời người – một đời văn chương lắm gian
truân. Hồi kí của Anh Thơ đã làm sống lại không khí văn học nước nhà trong
những năm 30 của thế kỉ 20, đặc biệt là hành trình của phong trào Thơ mới và
hoạt động báo chí. Hồi kí của Tô Hoài đã phác họa rất sinh động chân dung
của những bạn văn cùng thời như Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng… Bên cạnh
đó, trong hồi kí của mình, Tô Hoài còn đúc kết những kinh nghiệm trong quá
trình sáng tác, những trăn trở trước cuộc sống nhiều biến động của một nhà
văn nặng nợ với đời và với nghề.
Hồi kí cách mạng “chủ yếu ghi lại những hoạt động của các chiến sĩ cách
mạng trong các thời kì hoạt động dưới chế độ thực dân, phong kiến” (Hà
Minh Đức, 1980, trang 79). Ngục Kon Tum của Lê Văn Hiến xuất bản lần đầu
vào năm 1938 là tác phẩm hồi kí cách mạng đầu tiên kể lại quá trình gian khổ,
ác liệt trong cuộc “đấu tranh lưu huyết” và “đấu tranh tuyệt thực” của những
người tù chính trị ở nhà ngục Kon Tum năm 1931 và việc tổ chức được nhóm
những nhà yêu nước tham gia đấu tranh cách mạng. Võ Nguyên Giáp là người
58
đã gắn bó với cách mạng từ buổi ban đầu cho đến khi giành được những
thắng lợi vĩ đại. Ông đã để lại bộ hồi kí gồm 6 quyển, kể lại những chặng
đường cách mạng, kháng chiến của Đảng và nhân dân ta. Trong đó tác phẩm
Từ nhân dân mà ra là một hồi kí cách mạng giàu giá trị văn học và giá trị lịch
sử. Chính tác giả đã tâm sự: Tôi muốn ôn lại cùng các đồng chí về công cuộc
chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa, xây dựng căn cứ địa cách mạng, tại chiến khu
Cao Bằng – Bắc Cạn, nơi đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã ra
đời. Như vậy, hồi kí cách mạng hướng đến phản ánh hai vấn đề. Một là những
con người, những sự kiện trong thời kì hoạt động bí mật, xác định những chủ
trương, đường lối chuẩn bị cho công cuộc kháng chiến sau này. Hai là hoạt
động đấu tranh của những chính trị phạm trong các nhà tù để bồi dưỡng tư
tưởng cách mạng và gây cơ sở để tiếp tục hoạt động sau khi ra tù.
Hồi kí chiến tranh là hồi ức của những tướng lĩnh kể lại công cuộc đối
đầu trực diện giữa ta và địch. Những cuộc đối đầu này diễn ra ở cả mặt trận
chính trị và mặt trận vũ trang - quá trình chuẩn bị chính sách, đường lối cho
đến quá trình tiến công, thắng lợi của các trận đánh, các chiến dịch. Bên cạnh
những sự kiện, chân dung người kể chuyện và đồng đội, đồng chí cũng được
phác họa rõ nét. Khi đọc các quyển hồi kí dày dặn, đầy tâm huyết của các
tướng lĩnh như: Điện Biên Phủ, chiến dịch lịch sử; Những năm tháng quyết
định (Hoàng Văn Thái), Bác Hồ, những kỉ niệm không quên (Phùng Thế Tài),
Kí ức Tây Nguyên (Đặng Vũ Hiệp), Những năm tháng không thể nào quên,
Chiến đấu trong vòng vây, Đường tới Điện Biên Phủ, Điện Biên Phủ - điểm
Mỗi tập hồi kí như một trang tranh đấu kì diệu, xếp chúng liền bên nhau tự
nhiên hình thành một bộ tranh liên hoàn, một bộ phim sử thi hoành tráng về
“những năm tháng không thể nào quên”. Không thể quên, vì những năm
tháng ấy dân tộc ta, nói như Chế Lan Viên “chói lòa, hóa thân, đột biến”
(Trần Hữu Tá, 2012).
hẹn lịch sử (Võ Nguyên Giáp)… nhà nghiên cứu Trần Hữu Tá nhận định:
59
Mặc dù trong công trình Kí viết về chiến tranh cách mạng và xây dựng
chủ nghĩa xã hội, Hà Minh Đức cho rằng hồi kí cách mạng là khái niệm dùng
để chỉ chung hồi kí của các nhà hoạt động cách mạng và hồi kí của các tướng
lĩnh, nhưng khi xem xét, chúng ta thấy hai tiểu loại này rõ ràng có những đặc
điểm riêng. Mỗi tiểu loại khẳng định được tầm quan trọng trong sự phát triển
chung của thể loại. Vì vậy, nghiên cứu của chúng tôi là một trong những cách
thức phân loại có cơ sở từ thực tiễn trong tiến trình của hồi kí.
Các loại hồi kí dù có những đặc trưng cơ bản khác nhau nhưng vẫn có sự
gặp gỡ, phối hợp với nhau trong quá trình hình thành và phát triển. Sự kết hợp
giữa tư duy nghiên cứu, tư duy lịch sử, tư duy chính trị và tư duy nghệ thuật
giúp cho đối tượng phản ánh sinh động, hấp dẫn và nâng cao tính điển hình.
Trong nhiều hồi kí cách mạng, các tác giả cũng đề cập đến tình hình văn hóa,
xã hội, văn học nghệ thuật đang diễn ra lúc bấy giờ. Nhất là những vấn đề có
liên quan đến sự nghiệp cách mạng dân tộc. Cùng là hồi kí, cùng chịu sự chi
phối của các quy tắc văn chương, sự kết hợp này diễn ra như một quá trình tất
yếu.
Việc phân chia tiểu loại trong hồi kí có ý nghĩa trong việc xác định tính
ổn định và biến đổi của thể loại trong quá trình phát triển, đồng thời thấy
được tính năng động trong việc phân loại đối với tác phẩm văn học. Bên cạnh
đó, mỗi tiểu loại trong thể vừa chịu sự chi phối bởi những đặc trưng chung
vừa có những đặc điểm riêng, nếu người nghiên cứu chỉ dùng đặc trưng của
thể để xem xét, đánh giá sẽ dẫn tới sự chủ quan, phiến diện.
2.2. Những vấn đề chung về hồi kí cách mạng
Từ những cơ sở của việc phân loại hồi kí như đã trình bày, dựa vào các
tiêu chí, người viết nhận thấy có thể phân chia hồi kí thành 3 tiểu loại: hồi kí
của các nhà văn (hồi kí văn chương), hồi kí của các nhà cách mạng (hồi kí
cách mạng), hồi kí của các tướng lĩnh (hồi kí chiến tranh). Trong quá trình
nghiên cứu có thể nhận thấy, hồi kí cách mạng đã được chú ý đến bởi những
tác động tích cực đối với đời sống văn học và đời sống xã hội. Tuy nhiên, sự
60
phân chia ranh giới và tính khu biệt trong hệ thống các sáng tác với mục đích
làm rõ hơn những đóng góp của các tiểu loại. Xét trong tiến trình văn học
Việt Nam hiện đại, hồi kí cách mạng là những sáng tác đáng được nghiên cứu
bởi có nhiều đóng góp và thành tựu.
2.2.1. Khái niệm hồi kí cách mạng
Vấn đề khái niệm hồi kí cách mạng chưa được đề cập trong các công
trình lí luận văn học và cả trong các từ điển thuật ngữ văn học. Chính vì vậy,
để lí giải hồi kí cách mạng là gì, các nhà nghiên cứu nêu lên nhiều quan niệm
khác nhau. Họ thường xuất phát từ khái niệm hồi kí để làm cơ sở cho việc tìm
hiểu hồi kí cách mạng. Từ đó, trong quá trình nghiên cứu các tác phẩm cụ thể,
các nhà nghiên cứu đã nêu lên một số khái niệm cơ bản về hồi kí của các nhà
hoạt động cách mạng trong văn học Việt Nam.
Trong bài viết Vài cảm nghĩ nhân đọc mấy cuốn hồi kí, tác giả Nhị Ca đã
quan niệm: “Hồi kí cách mạng là một thể loại văn học bao hàm yếu tố tái hiện
sự kiện lịch sử bằng hồi tưởng và yếu tố truyền cảm bằng hình tượng, có tính
chất phản ánh được bản chất cuộc sống” (Nhị Ca, 1963, trang 85). Nhị Ca
xem xét tiểu loại này ở phương diện đối tượng được phản ánh và phương tiện
phản ánh. Mỗi tiểu loại trong hồi kí có đối tượng phản ánh riêng. Đây là một
trong những cơ sở để xác định khái niệm hồi kí cách mạng trong mối quan hệ
với các tiểu loại khác.
Theo Hà Minh Đức: “Hồi kí cách mạng chủ yếu ghi lại những hoạt động
của các chiến sĩ cách mạng trong các thời kì hoạt động dưới chế độ thực dân
phong kiến” (Hà Minh Đức, 1997, trang 79). Khái niệm của Hà Minh Đức chỉ
ra một cách cụ thể về nội dung và phạm vi phản ánh trong hồi kí cách mạng.
Đó là hồi ức về những sự kiện trong thời kì vận động và phát triển của cách
mạng mà các chiến sĩ trực tiếp chứng kiến hoặc tham gia. Tuy nhiên, quan
niệm này chưa nêu lên được một cách khái quát về hồi kí cách mạng bởi vì
thể loại này vẫn tiếp tục phát triển và có nhiều thành tựu ở các giai đoạn sau.
Theo Đỗ Hải Ninh:
Nếu như những cuốn hồi kí cách mạng trước đây thường chú trọng đến sự
kiện lịch sử đặc biệt có tác động lớn đến quá trình phát triển xã hội và ý
thức con người thì những cuốn hồi kí văn học thời đổi mới quan tâm hơn
đến sự chiêm nghiệm lịch sử và số phận cá nhân trong lịch sử (Đỗ Hải
Ninh, 2006, trang 74).
61
Đỗ Hải Ninh không nêu rõ khái niệm hồi kí cách mạng là gì nhưng nhà
nghiên cứu đã đưa ra sự phân biệt với hồi kí văn học để nhấn mạnh đối tượng
phản ảnh trong hồi kí cách mạng là những sự kiện lịch sử quan trọng. Bà đặt
ra vấn đề khuynh hướng trong sáng tác hồi kí của hai giai đoạn: khuynh
hướng hướng ngoại và khuynh hướng hướng nội trong phản ánh hiện thực.
Từ ý kiến của các nhà nghiên cứu, việc xác định khái niệm hồi kí cách
mạng được thể hiện ở một số phương diện cụ thể sau:
Thứ nhất, trong hồi kí cách mạng, chủ thể trần thuật là những nhà cách
mạng. Họ viết để hồi tưởng về những kỉ niệm trong quá trình hoạt động gắn
với đồng chí, đồng đội và quần chúng nhân dân; hồi tưởng về những sự kiện
lịch sử trọng đại trong quá trình vận động và phát triển của cách mạng Việt
Nam. Đồng thời, họ là những người đã trải nghiệm đời sống cách mạng của
dân tộc. Do đó, họ thường yêu cầu người cách mạng chân chính phải gạt bỏ
cái tôi, hòa cái tôi vào cộng đồng, sống và cống hiến vì sự tồn vong của quốc
gia. Sự thực là qua nhiều hồi kí cách mạng, đời sống riêng tư của người cách
mạng ít được đề cập đến.
Thứ hai, dung lượng của các tác phẩm hồi kí cách mạng không giống
nhau, có những tập hồi kí dày hàng mấy trăm trang, có những bài hồi kí vài
trang. Các yếu tố như đề tài, chủ đề, nhân vật, cốt truyện, kết cấu… được
người viết “tổ chức” trong sự gắn bó, liên kết hài hòa. Điều này đã làm tăng
giá trị nghệ thuật của hồi kí cách mạng Việt Nam. Nhiều hồi kí ra đời từ
phong trào vận động sáng tác về kỉ niệm trong cuộc đời hoạt động cách mạng
nên dung lượng thường không nhiều, tổ chức trần thuật có phần rời rạc, sự
kiện được nhắc đến mờ nhạt, thế nhưng, “Những tác phẩm ngắn hơi này đã
62
phản ánh đời sống bộ đội muôn màu muôn vẻ, mang tính chất hiện thực
phong phú và sinh động” (Huỳnh Lý, Trần Văn Hối, 1962, trang 349).
Thứ ba, cảm hứng chủ đạo trong hồi kí cách mạng là cảm hứng ngợi ca
gắn liền với khuynh hướng sử thi. Hồi kí cách mạng thường không nhằm
phản ánh cuộc đời riêng của một người mà luôn hướng đến những vấn đề
mang tính xã hội rộng lớn, gắn liền với sự tồn vong của quốc gia, dân tộc.
Trong hồi kí cách mạng, ta ít bắt gặp nỗi buồn, sự bi lụy cho dù có đề cập đến
hiện thực hi sinh, mất mát. Các tác giả đã tạo nên âm hưởng bi tráng, tràn đầy
lạc quan và niềm tin vào lí tưởng cộng sản, vào tương lai của đất nước. Với
mục đích cổ vũ, ngợi ca, hồi kí cách mạng cũng mang định hướng hướng
ngoại, bộc lộ hơn là hướng nội, suy tư.
Thứ tư, đề tài, chủ đề của hồi kí cách mạng chủ yếu là cuộc vận động
cách mạng vô sản trong những hoàn cảnh lịch sử cụ thể: hoạt động cách mạng
trong thời kì bí mật ở Cao Bằng và cuộc vận động để gây dựng cơ sở cách
mạng ở một số địa phương; hoạt động cách mạng của chính trị phạm trong
nhà tù thực dân, đế quốc để tiếp tục giữ vững tinh thần, lập trường cộng sản,
tuyên truyền cách mạng sâu rộng.
Nhìn chung, hồi kí cách mạng đã tái hiện lại chặng đường gian khổ, khó
khăn nhưng oanh liệt, hào hùng với những con người kiên cường, bất khuất,
một lòng với Đảng, xây dựng lực lượng và cơ sở cách mạng vững chắc làm
nền tảng cho những chiến thắng thần kì của dân tộc trước kẻ thù hùng mạnh.
Hồi kí cách mạng có thể được xem là những trang văn được viết bằng tâm
huyết, bằng xương máu của cả một thế hệ. Tác giả hồi kí đã kể lại sự kiện dựa
trên thế giới quan và nhân sinh quan khoa học cách mạng. Bằng sự hiểu biết,
kinh nghiệm của mình, họ đã có kiến giải riêng về nhiều tình tiết, sự kiện lịch
sử; đồng thời, có những đánh giá, không phụ thuộc vào xu thế đã được lịch sử
hóa.
63
2.2.2. Một số đánh giá về hồi kí cách mạng
2.2.2.1. Số lượng tác phẩm phong phú, trải dài qua các giai đoạn phát triển
của văn học hiện đại Việt Nam
Trong văn xuôi Việt Nam hiện đại hồi kí cách mạng đã đóng góp một số
lượng lớn các tác phẩm. Nhiều tác phẩm vừa giàu giá trị lịch sử vừa giàu giá
trị nghệ thuật. Điều đó cho thấy khả năng phản ánh và khả năng tái hiện chân
thực, sinh động của hồi kí đối với một thời kì cách mạng đầy thử thách của
dân tộc.
Năm 1938, Lê Văn Hiến nhận nhiệm vụ viết hồi kí Ngục Kon Tum. Đây
là tác phẩm ông sáng tác để tố cáo tội ác của bọn thực dân, hỗ trợ cho cuộc
vận động Mặt trận dân chủ (1936). Tác phẩm này đã được dịch một phần sang
tiếng Pháp và được tái bản nhiều lần. Bằng hình thức phóng sự, điều tra, Lê
Văn Hiến đã ghi lại hồi ức của chính mình và những người tù khổ sai ở nhà
ngục Kon Tum. Tác phẩm không chỉ tố cáo tội ác của thực dân mà còn khẳng
định phẩm chất cao đẹp của những người cách mạng. Trong thập niên 40,
Trần Huy Liệu đã có hồi kí Nghĩa Lộ khởi nghĩa, Nghĩa Lộ vượt ngục (1946).
Hồi kí này khái quát hoàn cảnh Việt Nam trước cuộc đảo chính 9-3, quá trình
phát sinh cuộc bạo động ở Nghĩa Lộ, sự khủng bố của thực dân và quá trình
đấu tranh, vượt ngục gian khổ của những người tham gia cách mạng. Năm
1948, quyển hồi kí Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch của
Trần Dân Tiên được xuất bản lần đầu tiên tại Trung Quốc. Một năm sau, tác
phẩm này được xuất bản tại Paris. Quyển hồi kí đã tái hiện lại quá trình bôn
ba tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh và khẳng định lập trường cộng sản
vững chắc của người cách mạng.
Trong những năm 50, một vài hồi kí cách mạng tiếp tục xuất hiện như:
Vừa đi đường vừa kể chuyện (T.Lan), Hai lần vượt ngục (Trần Đăng Ninh), Ở
chiến khu gặp Bác (Nguyễn Huy Tưởng), Những ngày vượt ngục (Trường
Sinh)… Tuy nhiên, hồi kí cách mạng phát triển mạnh vào thập niên 60 của thế
kỷ XX. Trong thời gian này, Tổng cục Chính trị đã mở ra cuộc vận động sáng
64
tác văn học nghệ thuật rộng rãi về đề tài lực lượng vũ trang cách mạng. Đợt
đầu của cuộc vận động hướng trọng tâm vào hồi kí. Đây là nguyên nhân nhiều
tác phẩm ra đời trong thời gian này. Chẳng hạn như một số hồi kí của Trần
Huy Liệu: Mặt trận dân chủ Đông Dương, Tiến trên đường nghĩa, Đi dự đại
hội quốc dân ở Tân Trào, Tước ấn kiếm của hoàng đế Bảo Đại (1960), Dưới
hầm Sơn La, Đảng Thanh niên (1961), Tự học trong tù (1969); tập hồi kí
Người trước ngã người sau tiến (Nhiều tác giả - 1960), Nhân dân ta rất anh
hùng (Nhiều tác giả - 1960), Bước đầu theo Đảng (Lưu Động - 1961), Nữ tự
vệ chiến đấu (Hà Quế - 1964), Từ núi rừng Ba Tơ (Phạm Kiệt - 1964), Từ
nhân dân mà ra (Võ Nguyên Giáp - 1964), Xuân nở trong tù (Trần Huy Liệu
- 1964), Người Hà Nội: hồi kí cách mạng và kháng chiến thủ đô (Nhiều tác
giả - 1964), Bác Hồ ở Pác Bó (Nhiều tác giả - 1965), Dưới ngọn cờ vinh
quang của Đảng (Song Hào - 1965), Nhân dân với cách mạng (Nhiều tác giả
- 1966), Bất khuất (Nguyễn Đức Thuận - 1967), Chị Tư Già (Nguyễn Thị
Thuận - 1969)… Đó là những trang viết chân thành xúc động về bước thăng
trầm của quá trình cách mạng và bao nhiêu khó khăn gian khổ người cách
mạng phải vượt qua. Hơn hết, trong hoàn cảnh kháng chiến chống Mĩ cam go,
tác giả hồi kí cách mạng vẫn bày tỏ niềm tin lạc quan vào sự tất thắng của
cách mạng, của chủ nghĩa xã hội. Mặc dù không tránh khỏi hạn chế ở một số
bài nhưng nhìn chung, thời gian này cánh đồng văn chương cách mạng bội
thu hồi kí.
Hồi kí cách mạng tiếp tục phát triển trong những thập niên tiếp theo,
nhất là khi cuộc kháng chiến chống Mĩ của dân tộc bước vào thời kì ác liệt.
Hồi kí cách mạng được sáng tác để làm sống lại quá khứ hào hùng, cổ vũ tinh
thần yêu nước, đấu tranh ngoan cường của dân tộc. Nhiều hồi kí của những
người cách mạng đã được xuất bản thành các tập, như Uống nước nhớ nguồn
(Nhiều tác giả - 1970), Con đường cách mạng (Nhiều tác giả - 1970), Đạp lên
đầu thù (Nhiều tác giả - 1971)…
65
Sau năm 1975, nước nhà sạch bóng quân thù, giang sơn thu về một mối,
nhưng kỉ niệm về những chặng đường chiến đấu, kỉ niệm về Bác Hồ, về đồng
đội, về quần chúng cách mạng của một thời trận mạc vẫn còn in đậm trong
tâm thức của các chiến sĩ, các tướng lĩnh trong quân đội Việt Nam. Những
tình cảm sâu sắc này đã thôi thúc họ viết hồi kí. Những tập hồi kí như Đầu
nguồn (Nhiều tác giả - 1975), Ánh sáng đây rồi (Nông Văn Lạc - 1976),
Chúng tôi vượt ngục (Nguyễn Tạo - 1977), AVoóc Hồ (Nhiều tác giả - 1977),
Nhật kí một chặng đường (Lê Tùng Sơn - 1978), Ngọn đuốc (Nhiều tác giả -
1980) Một trang đáng nhớ (Trần Cung - 1980), Mây trắng đường trường
chinh (Nguyễn Văn Khuê - 1997), Hồi kí về đồng chí Trường Chinh (Nhiều
tác giả - 1997). Nhiều tác phẩm hồi kí quy mô đã ra đời, đặc biệt là từ năm
2000 cho đến nay. Chẳng hạn như Nhớ lại một thời (Tố Hữu - 2000), Trên
những chặng đường cách mạng (Võ Chí Công - 2001), Bình Minh Ba Tơ
(Nguyễn Đôn - 2001), Anh cả Nguyễn Lương Bằng (Nhiều tác giả - 2005)…
Hồi kí giai đoạn từ sau 1975 đến nay hướng vào những sự kiện trọng đại của
đất nước, bên cạnh những phần viết về quá trình vận động cách mạng trong
thời kì bí mật, các tác giả còn kể về công cuộc đấu tranh trực diện với quân
thù trên mặt trận vũ trang, tái hiện lại những trận chiến oanh liệt của quân đội
ta trước thế lực thực dân, đế quốc. Tác giả hồi kí đa phần là những người trực
tiếp lãnh đạo, gắn bó với cách mạng và nhân dân với những kinh nghiệm và
kỉ niệm sâu sắc về quá trình hoạt động.
2.2.2.2. Sự kết hợp giữa lực lượng sáng tác chuyên nghiệp và không chuyên
nghiệp
Lực lượng viết hồi kí cách mạng đông đảo bao gồm cả những nhà văn
chuyên nghiệp, những nhà hoạt động cách mạng và cả những chiến sĩ, bộ đội
– những người tham gia trực tiếp vào quá trình đấu tranh cách mạng. Trong
bài viết Tìm hiểu sự lãnh đạo của Đảng đối với nền văn học mới của dân tộc
ta 40 năm qua, tác giả Nam Mộc quan niệm:
Văn học cách mạng là văn học có tính chất quần chúng rộng rãi, có tính
chiến đấu sắc bén. Những người làm văn học là quần chúng hoặc cán bộ
của Đảng thuộc đủ các tầng lớp công nông, tiểu tư sản, trí thức. Có người
xuất thân nho học, có người xuất thân tân học. Họ “sáng tác” theo yêu cầu
của cách mạng để trực tiếp phục vụ cương lĩnh của Đảng, giác ngộ nhân
dân (Nam Mộc, 1976, trang 39).
66
Hồi kí cách mạng là những trang hồi tưởng của cán bộ cách mạng trung
và cao cấp. Họ là những người có sự am hiểu sâu sắc về phương châm, chính
sách, đường lối của Đảng. Bên cạnh đó, họ còn là những người có vốn sống
cách mạng phong phú. Cuộc đời họ dày dạn kinh nghiệm trong hoạt động
cách mạng; từng nếm trải đủ gian nan, thử thách; từng cùng nhân dân và đồng
đội chia ngọt sẻ bùi. Trần Văn Hối cho rằng; “Cuộc vận động viết về “Kỉ
niệm sâu sắc trong đời bộ đội”, “Đời sống bộ đội trong hòa bình”, đã phát huy
mạnh mẽ khả năng sáng tác của quân đội ta từ chiến sĩ đến cán bộ” (Huỳnh
Lý, Trần Văn Hối, 1962, trang 349). Mỗi người đều đã tích lũy được một kho
tư liệu quý báu và phong phú để viết hồi kí về cách mạng. Ngoài ra, thể loại
hồi kí cách mạng còn tạo điều kiện để nhà văn và nhà cách mạng “gặp nhau”
trong vai trò người ghi (nhà văn) và người kể (nhà cách mạng). Sự phối hợp
này đã tạo nên giá trị nghệ thuật cho tác phẩm.
Như vậy, trong tiến trình văn học Việt Nam, hồi kí cách mạng đã đạt
được nhiều thành tựu đáng kể, mang lại sự nhận thức mới mẻ về hiện thực
cách mạng. Tác phẩm văn học hư cấu viết về cuộc cách mạng sau khi cách
mạng đã thắng lợi. Trong quá trình phản ánh, tác giả văn học hư cấu thể hiện
cách nhìn nhận về quá khứ bằng sự liên tưởng, sự nối kết các vấn đề liên
quan, trong khi đó, hồi kí cách mạng là cách nhìn của chính những người
trong cuộc về quá khứ. Các vấn đề được phản ánh bằng vốn sống, kinh
Chính lực lượng quần chúng viết văn “tại chỗ” đã giúp cho những sáng tác
văn học trong quân đội thêm nhạy bén, thêm phong phú về đề tài, phong
nghiệm và sự đúc kết, suy tư, trăn trở. Nhị Ca cho rằng:
cách và thể loại. […] Viết văn cũng là một cách tự vun đắp tư tưởng, đạo
đức; văn thơ dạy người ta cách sống, người viết bao giờ cũng muốn vươn
lên đạt tới cái tốt, cái đẹp (Nhị Ca, 1971, trang 319).
67
2.2.2.3. Tái hiện nhiều mảng hiện thực về cách mạng Việt Nam
Trong tiến trình văn học Việt Nam hiện đại, văn học cách mạng đã có
những đóng góp quan trọng trong việc tái hiện, phản ánh những năm tháng
cách mạng, kháng chiến sôi nổi, hào hùng của dân tộc. Trong thời kì này, thể
kí được sử dụng phổ biến trong sáng tác của các nhà văn. Với ưu thế của thể
loại ghi chép người thật, việc thật, kí đã lưu giữ những sự kiện vang dội, viết
những câu chuyện về cuộc đời những người anh hùng thời đại được xã hội tôn
vinh. Trong các thể loại của loại hình kí, hồi kí tập trung phản ánh hiện thực
của quá trình cách mạng và đấu tranh giải phóng dân tộc. Người viết hồi kí
chính là những nhân chứng lịch sử, bởi vì họ đã sống, trải qua những hoàn
cảnh, tình huống trong đời sống cách mạng. Do đó, những câu chuyện được
kể trong hồi kí vừa mang tính chân thực, vừa giàu cảm xúc.
Hồi kí cách mạng phản ánh “người thật, việc thật” trong quá trình vận
động và phát triển của cách mạng Việt Nam. Phản ánh “người thật, việc thật”
là đặc điểm của loại hình kí nói chung, thể loại hồi kí nói riêng. Bởi vì, “qua
hồi ức của nhà văn chúng ta hoàn toàn có thể nhắc lại điều quen thuộc mà
không sợ nhàm: nhà văn chỉ có thể viết thật hay về chính những con người và
cảnh đời anh biết rõ” (Lại Nguyên Ân, 1978, trang 252). Trong sự phân biệt
với các tiểu loại khác trong hồi kí, phạm vi “người thật, việc thật” được xác
định trong những đối tượng cụ thể và trong thời kì lịch sử nhất định. Mỗi con
người, sự kiện được lựa chọn để kể trong hồi kí đều gắn bó với quá trình của
cách mạng Việt Nam, đặc biệt là thời gian đầu, khi hoạt động cách mạng còn
trong vòng bí mật và những người cách mạng còn phải đương đầu với muôn
vàn khó khăn trong việc chiến đấu với thù trong giặc ngoài. Những sự việc
được hồi tưởng trong hồi kí cách mạng là những sự việc có ý nghĩa. Những sự
kiện này có thể gắn liền với một vài cuộc đời riêng của người cách mạng, có
68
thể gắn liền với những mốc lịch sử trọng đại của đất nước nhưng đối với
người kể, đó là những sự việc đã góp phần làm thay đổi tư tưởng nhận thức,
thay đổi cuộc đời họ. Mỗi nhân vật được kể đều gắn bó máu thịt đối với người
viết hồi kí. Đối với họ, những con người ấy, những sự việc ấy có ý nghĩa quan
trọng trong quá trình đấu tranh và thắng lợi của cách mạng dân tộc. Lịch sử đã
nhắc đến họ bằng sự tôn vinh còn các tác giả hồi kí nhắc đến họ bằng tình
cảm chân thành thông qua những kỉ niệm sâu sắc còn nguyên vẹn với thời
gian.
Về phương diện lịch sử, hồi kí cách mạng là nguồn tư liệu quý giá được
người kể lưu giữ và phản ánh thông qua tác phẩm. Theo nhà nghiên cứu Doãn
Hồi kí về đấu tranh cách mạng có đặc điểm chung với lịch sử là phản ánh
chân thực cuộc đấu tranh của Đảng, của nhân dân nên phải có giá trị văn
kiện lịch sử quan trọng. Mỗi một sự việc, nhân vật, tình tiết không những
phải làm cho người đọc tin mà còn có thể giúp cho nhà sử học dùng làm tài
liệu tham khảo quan trọng để viết sử nữa (Doãn Trung, 1963, trang 45).
Trung:
Bằng phương thức thể hiện và phương tiện nghệ thuật riêng, hồi kí cách
mạng không chỉ chứa đựng tư liệu, cung cấp thông tin mà còn làm hiện lên
sinh động một chặng đường lịch sử đau thương nhưng hào hùng của dân tộc.
Với vai trò người trong cuộc, nhân chứng, tác giả đã cung cấp nhiều thông tin
gắn liền với cảm quan lịch sử và quan điểm cá nhân trong hình thức tự bộc
bạch, tự giãi bày. Họ đã có sự tìm hiểu, nghiên cứu thấu đáo về những vấn đề
được phản ánh. Do đó, hồi kí cách mạng đã cung cấp những thông tin chính
xác, khoa học. Trong công trình The Handbook of historical linguistics (Sổ
tay ngôn ngữ học lịch sử), nhóm nghiên cứu cho rằng lịch sử là “sự điều tra
kiến thức bằng tư duy”. Đồng thời, yêu cầu của một thể loại văn học lịch sử là
đảm bảo tính chân thực nghệ thuật, không hiện đại hóa con người và sự việc
của quá khứ. Hà Minh Đức nhận định rằng: “nhà văn phải vừa là nghệ sĩ, vừa
là nhà nghiên cứu, có vốn sống và hiểu biết phong phú, có quan điểm lịch sử
69
đúng đắn và tiến bộ” (Hà Minh Đức, 1997, trang 302). Không chỉ có những
thông tin mang tính sử liệu, hồi kí còn có những thông tin mang thông điệp,
thông tin biết nói lên cảm xúc, tình cảm của người kể. Hoàng Phủ Ngọc
Cái nghề viết kí nó thật là vất vả giống như nghề lính đặc công muốn đánh là
phải “tai nghe mắt thấy tay sờ”. Không đi đến tận thực tế thì không thể viết
được mà cũng đừng nên viết. Nhưng vẫn là chưa đủ nếu người viết tự hài
lòng với bấy nhiêu “lượng thông tin” đã thu nhặt được trong một chuyến đi.
Với nhà văn viết kí cũng như với bất cứ người lao động nghệ thuật nào khác
vẫn còn mãi câu hỏi tự vấn này: “Trước khi chảy qua ngòi bút những điều ấy
đã chảy qua trái tim của anh như một dòng máu chưa?” (Hoàng Phủ Ngọc
Tường, 1983).
Tường quan niệm:
Hồi kí cách mạng có vai trò quan trọng trong việc giáo dục ý thức và lí
tưởng cộng sản cho người đọc. Trong bài viết Thêm mấy điều cần trao đổi về
viết hồi kí và mẩu chuyện về lực lượng vũ trang cách mạng, tác giả Xuân
Bên cạnh những tiểu thuyết dài hơi, những tập truyện ngắn của các nhà văn
chuyên nghiệp, hồi kí và truyện kỉ niệm sâu sắc của cán bộ, chiến sĩ viết đã
góp phần quan trọng vào kho tàng văn học chung, nhất là vào việc giáo dục
truyền thống và bản chất quân đội ta (Xuân Thiêm, 1963, trang 27).
Thiêm đã nhận xét:
Trong bài viết này, Xuân Thiêm còn dẫn lời phát biểu của đồng chí Vũ
Quảng để khẳng định, mục đích trước tiên của người viết hồi kí cách mạng
không phải là làm nghệ thuật mà là làm cách mạng. Mỗi câu chuyện được kể
Nó giúp tôi nhiều nghị lực để giải quyết những khó khăn trong công tác.
Tôi thấy gần gũi và quý mến những con người trong truyện, những con
người bình thường nhưng đã làm nên bao sự việc quý báu và chính những
con người ấy đã đem lại cho mình cuộc sống ngày nay (Xuân Thiêm, 1963,
trang 29).
trong hồi kí là một tấm gương, tạo động lực phấn đấu cho người đọc:
70
Theo ý kiến của nhà nghiên cứu Trần Hữu Tá: Thế hệ những nhà cách
mạng coi văn chương “là mặt trận quan yếu để tố cáo, lên án các thế lực cướp
nước và bán nước, đồng thời để thức tỉnh nhân dân, động viên mọi người góp
sức vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc” (Trần Hữu Tá, 2015, trang 73).
Thông qua hồi kí cách mạng, các tác giả đã chứng tỏ sự quan sát, tìm
hiểu những vấn đề xã hội; những tin tức trong và ngoài nước; những chủ
trương, chính sách của Đảng; những bài học cách mạng quan trọng… từ đó
đưa ra những biện pháp, phương hướng đấu tranh, kịp thời ứng phó với những
biến chuyển của thời cuộc. Bản thân người kể cũng là nhà văn, nhà nghiên
cứu trong việc tái hiện lại chặng đường lịch sử trọng đại của nước nhà.
2.2.2.4. Những sáng tác thể hiện sự nỗ lực tích cực về nghệ thuật
Khi bàn về thể loại hồi kí, Hà Minh Đức nhấn mạnh đến tính lịch sử và
tính chất xã hội rộng lớn mà nó mang lại. Qua quá trình nghiên cứu, có thể
thấy rằng, hồi kí cách mạng Việt Nam gần như có đầy đủ những yêu cầu nhà
nghiên cứu nêu ra. Hiện thực lịch sử rộng lớn là nguồn tư liệu phong phú mà
người kể có thể lựa chọn để kể những gì sâu sắc nhất, có ý nghĩa nhất. Để tác
phẩm có “một nội dung xã hội phong phú” (Hà Minh Đức, 1980, trang 230),
người kể đã chú ý đến tính điển hình của hình tượng nghệ thuật. Mặc dù điển
hình xã hội và điển hình nghệ thuật không đồng nhất với nhau nhưng điển
hình xã hội là cơ sở của điển hình nghệ thuật. Hồi kí cách mạng bằng sự kết
hợp tư duy lịch sử với đặc trưng phản ánh người thật việc thật đã tạo nên
những điển hình nghệ thuật có ý nghĩa xã hội rộng lớn. Hình tượng điển hình
trong hồi kí cách mạng khá phong phú và đa dạng, thể hiện ở cả ba phương
diện: bối cảnh xã hội, con người và sự việc. Những phương diện này thông
qua tư duy sáng tạo đã xây dựng nên hoàn cảnh điển hình và tính cách điển
hình. Hoàn cảnh điển hình trong hồi kí cách mạng là hoàn cảnh được lựa
chọn. Đó là những hoàn cảnh gắn liền với hoạt động cách mạng của nhân vật,
gắn liền với các sự kiện lịch sử trọng đại của đất nước. Trong vô vàn hoàn
cảnh diễn ra trong đời sống cách mạng đặt con người trước những thử thách
71
ác liệt, người kể đã ý thức được vai trò của hoàn cảnh đối với việc hình thành
nhân cách con người và tư tưởng thời đại. Bên cạnh lựa chọn, miêu tả hoàn
cảnh điển hình, nhân vật trong hồi kí cách mạng cũng là những hình tượng
điển hình. Theo Hà Minh Đức, “đối tượng miêu tả của hồi kí thường là những
nhân vật xuất sắc trong lịch sử như cuộc đời của những nhà hoạt động chính
trị, các anh hùng chiến sĩ với nhiều kì tích, công lao” (Hà Minh Đức, 1980,
trang 230). Nhân vật trong các hồi kí cách mạng đều là những con người tiêu
biểu trong xã hội, những người anh hùng của thời đại, bản thân họ đã mang
sẵn giá trị điển hình. Tính điển hình của nhân vật trong hồi kí không phải là
sự khái quát, tổng hợp từ nhiều con người khác nhau trong xã hội như nhân
vật của truyện hay tiểu thuyết. Trách nhiệm của tác giả hồi kí cách mạng là tái
hiện cho hay, cho sinh động những điển hình sẵn có trong cuộc sống. Theo
Đời hoạt động của một cán bộ, dù là cán bộ Đảng viên bình thường, thường
bao gồm rất nhiều mặt và có nhiều chuyện đáng nói. Nếu không biết chọn
lọc, không có chủ đề rõ rệt thì dễ lâm vào tình trạng tản mạn, thiếu trọng
tâm, đi đến hời hợt (Phan Nhân, 1974, trang 36).
Phan Nhân:
Hồi kí cách mạng là những sáng tác linh hoạt trong phương thức tự sự.
Trong các thể loại của loại hình kí, hồi kí gần với nhật kí hơn cả. Cả hai thể
loại này có chung hình thức biểu đạt và phương tiện nghệ thuật. Bên cạnh
hình thức giãi bày, hồi kí cách mạng có sự kết hợp giữa phương thức tự sự và
phương thức trữ tình trong trần thuật, đồng thời sử dụng hiệu quả yếu tố hư
cấu trong phản ánh hiện thực. Hồi kí cách mạng là quá trình độc thoại không
ngừng của tác giả về những điều đã trải qua và chứng kiến. Sự trăn trở này
đôi khi là sự trăn trở trong chính nội tâm của tác giả về những ngã rẽ, những
lựa chọn mà hoàn cảnh xã hội đã đặt ra. Những câu hỏi trở đi trở lại để đi đến
một sự khẳng định hay phủ định nhằm thể hiện lập trường của người kể.
Trong hồi kí cách mạng, tác giả thường tạo ra sự đối thoại với người đọc khi
nhìn nhận lại hiện thực của quá khứ. Sự đối thoại này không diễn ra trực tiếp
72
thông qua đối thoại của các nhân vật mà được thể hiện ngầm. Tác giả là người
đã suy ngẫm và khơi gợi vấn đề trong hồi kí, độc giả tiếp nhận và suy ngẫm
để định hướng cho nhận thức của mình.
Như vậy, hồi kí cách mạng có những đóng góp đáng kể. Về thể loại, sự
hình thành và phát triển của hồi kí cách mạng đã làm cho thể loại hồi kí
phong phú và đa dạng về nội dung, đối tượng và phương thức phản ánh. Hồi
kí cách mạng ra đời đã đáp ứng được yêu cầu của sáng tác văn học gắn liền
với hoạt động cách mạng và phong trào đấu tranh của nhân dân, quay về quá
khứ để tôn vinh Đảng cộng sản Việt Nam, tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh,
các nhà chính trị và quần chúng cách mạng. Về phương thức nghệ thuật, hồi
kí cách mạng vận dụng hợp lí cả phương thức tự sự và trữ tình một nhằm tạo
hiệu quả nghệ thuật trong việc phản ánh hiện thực bằng hồi tưởng. Ngoài ra,
mặc dù là thể loại văn học phi hư cấu nhưng hồi kí cách mạng vẫn sử dụng
các thủ pháp của văn học hư cấu như tính điển hình, nghệ thuật trần thuật,
cảm hứng sử thi, cảm hứng lãng mạn…
Tiểu kết chương 2
Những vấn đề đã nêu trên là cơ sở để rút ra một số nhận xét về hồi kí
cách mạng trong sự phát triển của văn học Việt Nam hiện đại:
Xét ở phương diện thể loại, hồi kí cách mạng là một tiểu loại có những
đóng góp riêng biệt, đặc thù. Một thời kì lịch sử đã được ghi lại khá đầy đủ và
sinh động bởi chính những người trong cuộc tạo nên độ tin cậy cao về tính
chân thực của sự kiện. Ngoài ra, người đọc còn nhận ra tình cảm sâu sắc của
tác giả hồi kí đối với quê hương, cách mạng và đồng chí, đồng đội.
Do đặc trưng về đối tượng phản ánh, hồi kí cách mạng có phương thức
riêng làm nên nòng cốt thể loại. Đó chính là yếu tố “người thật, việc thật” tiêu
biểu trong tiến trình cách mạng dân tộc được tái hiện bằng sự nhớ lại của
người kể. Ngoài ra, trong hồi kí cách mạng, nhận thức chủ quan của người kể
cũng là yếu tố quan trọng. Chính vì vậy, hồi kí cách mạng không đòi hỏi sự
hoàn chỉnh về nhân vật và sự kiện mà chú trọng đến cảm quan và nhận thức
73
của người kể thông qua nhân vật và sự kiện được kể. Trong quá trình hình
thành và phát triển, thể loại hồi kí cách mạng đã phát huy vai trò và vị thế của
mình trong việc phản ánh lịch sử bằng nghệ thuật. Do đó, hồi kí cách mạng là
một loại hình văn học với đầy đủ những “phẩm giá” văn học. Mặc dù hồi kí
cách mạng là văn học phi hư cấu, nhưng các tác giả bằng khả năng liên tưởng
đã sử dụng các thủ pháp hư cấu trong phạm vi và mức độ nhất định tạo nên sự
hấp dẫn và sinh động. Ngoài ra, hồi kí cách mạng Việt Nam đã có sự kết hợp
các hình thức của các thể loại khác trong loại hình kí nhất là nhật kí để làm
phong phú phương thức phản ánh hiện thực.
Bên cạnh những ưu điểm và thành tựu đã đạt được, trong quá trình hình
thành và phát triển, hồi kí cách mạng cũng bộc lộ một số hạn chế nhất định.
So với các tiểu loại khác trong hồi kí, nội dung tái hiện trong một số hồi kí
cách mạng thường có sự trùng lặp do sự chi phối của nguyên tắc tôn trọng sự
thật và nhu cầu tái hiện lịch sử nhằm mục đích phục vụ cách mạng. Ngoài ra,
do một số tác phẩm sáng tác cho cuộc vận động sáng tác về kỉ niệm sâu sắc
trong cuộc đời bộ đội nên còn mang tính sơ lược, chưa có chiều sâu và thiếu
hẳn tính văn chương nghệ thuật. Tuy nhiên, số tác phẩm có sự hạn chế này
không nhiều và cũng không làm giảm giá trị của hồi kí cách mạng trong nền
văn học Việt Nam
74
Chương 3
NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA HỒI KÍ CÁCH MẠNG
VIỆT NAM NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG
Hồi kí cách mạng là sự gửi gắm của tác giả về quá trình trải nghiệm
trong cuộc đời hoạt động cứu nước của họ. Không phải là những người viết
sử, tác giả hồi kí cách mạng không mô tả lịch sử cách mạng dân tộc. Bằng vị
trí và góc nhìn của mình, họ đã tái hiện lại đời sống cách mạng Việt Nam với
tất cả sự phong phú và phức tạp bằng phương pháp riêng của nghệ thuật ngôn
Nhà văn viết về quá khứ và nhà sử học không phải là đối thủ của nhau. Họ
là những người bạn. Họ cùng làm công việc chung theo cách riêng của
mình. Họ cùng đem lại cho chúng ta một cách cụ thể cảm giác lịch sử, một
cảm giác thật quý báu (K. Pauxtốpxki, 1984, trang 45).
từ. K. Pauxtốpxki đã nhận định:
Trong hồi kí cách mạng, tác giả không kể về những chuyện đời tư mà
gợi nhắc quá khứ của dân tộc, khẳng định lí tưởng, niềm tin vào con đường
giải phóng dân tộc bằng thế giới quan cách mạng vô sản. Do đó, loại hồi kí
này thể hiện quan niệm về hiện thực và con người mang khuynh hướng sử thi
và đậm chất anh hùng ca: “Trong văn học cách mạng, con người tìm thấy ý
nghĩa sự sống trong Tổ quốc, Nhân dân, trong tương lai tươi sáng, trong lẽ
sống vĩnh cửu” (Trần Đình Sử, 1995, trang 158).
3.1. Hồi ức về bức tranh hiện thực mang khuynh hướng sử thi
Văn nghệ là một hình thái ý thức, một hình thức của nhận thức, do đó, hiện
thực là mảnh đất màu mỡ nuôi dưỡng nghệ thuật và đồng thời cũng là cái
chìa khóa giải thích được những hiện tượng phức tạp của nghệ thuật”
(Phương Lựu, et al., 1997, trang 63).
Các nhà lí luận văn học đã khẳng định rằng:
Không thể phủ nhận những tác động của đời sống thực tại đối với việc
hình thành tư duy nghệ thuật và việc sáng tạo hình tượng trong tác phẩm văn
chương. Trước những biến động, đổi thay không ngừng của thực tại, người
75
sáng tác luôn phải nắm bắt hiện thực như giữ những cơ hội quan trọng để tạo
nên thế giới nghệ thuật của riêng mình. Thế giới ấy, ngược lại, bộc lộ được
phẩm tính và thế giới quan của chính người sáng tác.
Không thoát khỏi quy luật tất yếu của quá trình phản ánh luận, hồi ức
của những người cách mạng được khơi nguồn từ chính hiện thực sinh động
của người Việt Nam trong giai đoạn đi tìm chân lí cho cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc. Xét về khả năng phản ánh, bức tranh hiện thực trong hồi kí
cách mạng Việt Nam phong phú, rộng lớn và đa diện thông qua trải nghiệm
riêng của những người trong cuộc. Họ không viết về một hiện thực nên có mà
viết về một hiện thực đã có bằng nhận thức của mình. Điều đặc biệt là, hiện
thực trong hồi kí cách mạng là hiện thực được lưu giữ trong tâm thức người
kể, hiện thực được thử thách qua thời gian. Những gì được phản ánh trong tác
phẩm đều là sự chắt lọc của quá trình nhận thức và khát vọng được tái hiện.
Đồng thời, bức tranh hiện thực trong hồi kí cách mạng không phải là bức
tranh được thu nhỏ trong giới hạn của một hay một vài người mà là hiện thực
mang đậm dấu ấn thời đại của dân tộc gắn liền với bối cảnh chung của thế
giới.
3.1.1. Hồi tưởng về những sự kiện trọng đại trong đời sống cách mạng Việt
Nam
Thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 ở nước ta là đích
đến của một chặng đường dài. Trong quá trình ấy, có biết bao khúc quanh,
ngã rẽ đòi hỏi người cách mạng phải sáng suốt, vững vàng để cùng nhau lèo
lái đất nước. Chính vì lẽ đó, khi viết hồi kí, những người cách mạng đã chú ý
đến việc tái hiện lại những nguyên nhân, điều kiện tác động đến những quyết
định quan trọng của Đảng. Trong nhận thức của các tác giả, tình hình chiến
tranh thế giới và những sự kiện quan trọng diễn ra trong nước đã trở thành
một mảng kí ức quan trọng trong cuộc đời của họ.
Hồi kí cách mạng đã thể hiện nhận thức của người viết về tính tất yếu
của quá trình lịch sử. Những điều họ tái hiện là những điều họ quan tâm khi
76
tham gia cách mạng và có sự trải nghiệm nghiêm túc, để khi nhìn lại bằng sự
chi phối của độ lùi nhất định về thời gian, họ vẫn thể hiện được ý nghĩa vốn
có của các sự kiện khi đặt trong hoàn cảnh nó đã nảy sinh và diễn tiến. Trong
bài viết Tự sự và kí ức: phản tư lịch sử trong văn học Việt Nam đương đại,
Nên định hình lịch sử, sáng tạo truyền thống, trưng dụng kí ức trở thành
nhu yếu để xác lập căn cước/ bản sắc cá nhân và quốc gia – dân tộc. Tìm
về/ kiến tạo lịch sử, do vậy, vừa phát xuất bởi tình cảm, vừa là thôi thúc của
văn nghệ sĩ trí thức (Đoàn Ánh Dương, 2016, trang 51).
Đoàn Ánh Dương cho rằng:
Một điều khác biệt trong việc tái hiện sự kiện lịch sử của hồi kí cách
mạng so với các loại hồi kí khác là các tác giả gắn mở đầu hồi kí với sự khởi
đầu của hành trình đi tìm lí tưởng của mình chứ không chú ý đến sự kiện
Hồi nhớ, việc đó ai mà chẳng có thể làm, nhưng lại không dễ và hiếm người
chuyển được nó lên trang viết. Bởi sống và khả năng ghi nhận sự sống là
hai chuyện khác nhau. […] Nghề phải đi kèm với tài năng để sao cho sự
thật cuộc đời trở thành sự thật nghệ thuật. Sự thật ấy có thể lạ hoặc quen;
nếu là lạ thì phải biến thành quen; hoặc đã quen thì phải lạ hóa nó (Phong
Lê, 2005, trang 62).
mang tính tiểu sử. Theo quan niệm của Phong Lê:
Hiện thực rộng lớn với ngồn ngộn sự kiện đã được các nhà cách mạng
lưu giữ như những kí ức quý giá không thể quên. Đó là một phần tài sản vô
giá về quãng đời sôi nổi, hào hùng của họ.
Hồi kí của người cách mạng thường tập trung kể về một sự kiện quan
trọng, tiêu biểu nào đó mà tác giả đã trải qua. Ở một số tác phẩm, tên sự kiện
được đề cập ngay trong nhan đề. Chẳng hạn như: hồi kí Đảng Thanh Niên của
Trần Huy Liệu kể về sự kiện thành lập Đảng Thanh Niên năm 1925 – 1926;
Hồi kí Dưới hầm Sơn La của Trần Huy Liệu kể về cuộc đấu tranh của chính
trị phạm trong nhà tù Sơn La; Hồi kí Bác Hồ về nước, Bác Hồ ở Pác Bó của
Lê Quảng Ba kể lại sự kiện Bác trở về nước sau thời gian bôn ba ở nước
77
ngoài, làm việc tại Cao Bằng... Người viết tập trung làm nổi bật những tác
động, ảnh hưởng của sự kiện đối với nhận thức của chính mình và những
người cùng thời. Trong bối cảnh văn học 1945 - 1975, những sáng tác này
giúp cung cấp nhanh những sự kiện trong quá khứ, những quan niệm, nhận
thức của người sáng tác và tác động lập tức đến người đọc. Tuy nhiên, điều
này làm cho sáng tác còn đơn giản và chưa có sự đầu tư nhất định về phương
diện kết cấu, ngôn từ, hình ảnh...
Tác giả Thành Duy từng nhận xét rằng: “Mỗi tác phẩm văn học là một
tấm gương của thực tại nhưng đồng thời cũng là một biểu hiện của tâm hồn
văn nghệ sĩ” (Thành Duy, 1965, trang 117). Khi nhắc đến những sự kiện,
người viết hồi kí không kể tỉ mỉ về quá trình, sự diễn biến mà chủ yếu bày tỏ
thái độ và cảm xúc. Họ không làm công việc ghi chép lịch sử mà thể hiện sự
nhận thức của chính mình và những người cùng thời. Các tác giả hồi kí
thường kể về hành trình “nhận đường” gian nan của người cách mạng. Sự rối
ren của hiện thực đã thức tỉnh họ, thôi thúc họ đi tìm một tổ chức chân chính
cho mình. Vì vậy, việc Nguyễn Ái Quốc hợp nhất các Đảng phái đã trở thành
sự kiện có sức ảnh hưởng sâu rộng. Sự kiện này được nhắc đến trong nhiều
hồi kí: Câu chuyện Bác đã kể của T. Lan, Bác Hồ ở Pác Bó của Lê Quảng Ba,
Rồi ba được vào Đảng của Chánh Thi, Từ nhân dân mà ra của Võ Nguyên
Giáp... Từ những điều đã chứng kiến, người kể muốn khẳng định tầm quan
trọng của Đảng trong việc phát triển nhận thức, củng cố niềm tin và nâng cao
tinh thần cách mạng. Sự kiện thành lập Đảng được nhắc đến nhiều trong thơ
ca cách mạng, có thể kể đến Tố Hữu, Chế Lan Viên, Hoàng Trung Thông...
Trong bài thơ Ba mươi năm đời ta có Đảng, nhà thơ Tố Hữu đã khẳng định:
Đảng ta, Mác – Lê-nin vĩ đại
Lại hồi sinh, trả lại cho ta
Trời cao, đất rộng bao la
Bát cơm, tấm áo, hương hoa, hồn người
78
Các tác giả bày tỏ niềm vui, sự ngợi ca, thể hiện Đảng thành một biểu tượng
kì vĩ và chú ý đến vai trò của Đảng đối với sự phát triển văn học dân tộc. Các
nhà viết sử khi đề cập đến sự kiện này thì nhấn mạnh quá trình hợp nhất các
Đảng phái. Tác giả hồi kí hướng đến khẳng định những tác động to lớn của sự
kiện này đối với sự phát triển tư tưởng, nhận thức của các thế hệ. Họ cho
rằng, từ khi có Đảng, nhân dân ta đặc biệt là tầng lớp thanh niên đã xác định
được đâu là lẽ sống đúng đắn trong cuộc đời mình. Các tác giả đã cho thấy sự
lớn mạnh không ngừng của tổ chức như việc thành lập Mặt trận Việt Minh
(Nhật kí một chặng đường, Lê Tùng Sơn), sự kiện thành lập đội Việt Nam
tuyên truyền giải phóng quân “mở đầu truyền thống quyết chiến quyết thắng
của quân đội ta” (Bác Hồ ở Pác Bó, Lê Quảng Ba). Mỗi tác giả với phạm vi
hoạt động của mình đã kể về sự phát triển của các cơ sở cách mạng gắn liền
với yêu cầu tất yếu của lịch sử. Các sự kiện này là minh chứng cho quá trình
phát triển và sự đúng đắn trong phương thức hoạt động của Đảng. Ở đâu có
người Việt Nam yêu nước là ở đó có tổ chức soi lối, dẫn đường; cơ sở này bị
kẻ thù phá hoại cơ sở khác lập tức ra đời. Sự đúng lúc, kịp thời đã tạo niềm
tin vững chắc cho những nhà hoạt động cách mạng và quần chúng nhân dân
yêu nước.
Những cao trào cách mạng, những cuộc khởi nghĩa cũng được các tác
giả lưu giữ trong kí ức của mình. Những cao trào 1930 – 1931, 1936 – 1939,
khởi nghĩa Bắc Sơn... được gợi nhắc trong Làng đỏ của Ứng Chiêm, Vài mẩu
chuyện nông dân đấu tranh trong phong trào Xô Viết – Nghệ Tĩnh của Hồng
Lam hay Khởi nghĩa Bắc Sơn của Đào Văn Trường như minh chứng hùng
hồn cho tinh thần bất khuất của dân tộc. Họ vẫn còn thấy cái không khí sôi
nổi, tinh thần quật cường của nhân dân ta trong cuộc đấu tranh chống lại sự hà
hiếp của kẻ thù, khí thế của phong trào đã tạo động lực, niềm tin cho nhân dân
đồng thời khiến cho kẻ thù phải khiếp sợ. Tác giả hồi kí đã dùng tư duy của
người trực tiếp tham gia, chứng kiến quá trình cách mạng để nêu ra những
đánh giá, nhận định khi hồi tưởng về quá khứ. Nhờ đó, người đọc có thể hiểu
79
thêm về tâm thế của dân tộc ta trong tiến trình cách mạng. Từ những ngày đầu
gian khó, đối mặt với thử thách và thất bại nhưng chưa bao giờ họ lùi bước và
luôn có niềm tin vững chắc vào sự lựa chọn của mình.
Người cách mạng luôn khao khát một sự sang trang của lịch sử, một sự
thay đổi vận mệnh để hoàn toàn thoát khỏi xiềng xích nô lệ. Trong tâm thức
họ, sự thắng lợi của cách mạng tháng Tám chính là nguồn vui bất tận, để lại
ấn tượng sâu sắc về cuộc đời hoạt động cách mạng. Tái hiện trong hồi kí về
cuộc cách mạng thần thánh của dân tộc, họ tự hào khi mình là một nhân tố
đóng góp cho sự thành công ấy. Họ sung sướng khi được tận mắt chứng kiến
những chuyển biến quan trọng trong suốt một quá trình dài. Sự kiện Bác Hồ
về Pác Bó hoạt động bí mật được ghi lại xúc động trong nhiều hồi kí như Từ
nhân dân mà ra (Võ Nguyên Giáp), Nhờ dân nhờ Đảng mà trưởng thành
(Nguyễn Lương Bằng), Bác Hồ ở Pác Bó (Lê Quảng Ba), Nhật kí một chặng
đường (Lê Tùng Sơn)... Những thanh niên ngày ấy đã mơ hồ nhận thấy thành
công đang đến gần và “Cách mạng Việt Nam đang chuyển mình theo bước đi
của Bác” (Nhật kí một chặng đường, Lê Tùng Sơn). Người cách mạng như
được tiếp thêm sức mạnh, vượt qua mọi thử thách để cùng Bác khai sáng cho
nhân dân. Với tư cách người trong cuộc, các tác giả hồi kí nhận thấy, Đảng ta
đã có nhiều quyết định sáng suốt, tạo tiền đề cho sự thắng lợi của cách mạng
tháng Tám. Tác giả cũng nhớ rõ, tình hình thế giới và trong nước đã có nhiều
tác động tích cực đến việc tiến hành công cuộc cách mạng. Có những người
mặc dù bị giam cầm vẫn nhớ như in những giây phút ngập tràn niềm hi vọng
thoát khỏi lao tù, trở về với cuộc đời tự do hoạt động. Điều này có thể đã
được các nhà sử học ghi chép nhưng những cảm xúc của người trong cuộc
mới thật sự làm cho sự kiện như sống lại nguyên vẹn dù đã trải qua rất nhiều
năm.
Sự toàn thắng của cách mạng tháng Tám là mảng hồi ức sôi nổi, phấn
khởi và đáng tự hào được nhắc lại trong hồi kí của những người cách mạng.
Hồi kí Ánh sáng đây rồi của Nông Văn Lạc đã tổng kết lại quá trình gây dựng
80
cơ sở, tổ chức phong trào trong quần chúng cho đến khi tổng khởi nghĩa ở
Cao Bằng. Hình ảnh: “Gần ba mươi đại biểu năm châu trong tỉnh trang
nghiêm dưới cờ đỏ sao vàng” (Ánh sáng đây rồi, Nông Văn Lạc) trong ngày
23 tháng 8 năm 1945 vẫn còn nguyên vẹn, in hằn trong tâm thức của ông. Hồi
kí Từ nhân dân mà ra của Võ Nguyên Giáp có những đoạn liệt kê sự kiện.
Chẳng hạn: “ngày 13 tháng 8, có tin Nhật đầu hàng đồng minh”; “11 giờ
đêm 13, Ủy ban chỉ huy lâm thời Khu giải phóng hạ mệnh lệnh khởi nghĩa
cho nhân dân và bộ đội”; “ngày 14 tháng 8 Hội nghị toàn quốc của Đảng
họp”; “sang ngày 15, được tin đích xác Nhật hoàng đã ra lệnh cho quân đội
hắn đầu hàng” (Từ nhân dân mà ra, Võ Nguyên Giáp). Là một quyển hồi kí
dày dặn, nhịp kể khi khoan, khi nhặt; thông tin khi chi tiết, tỉ mỉ, khi nhắc đến
thoáng qua; nhưng điều quan trọng là sau những trang viết dài kể lại một quá
trình gian khổ, người đọc cảm nhận được không khí sôi nổi, náo nức của
những ngày tháng Tám qua nhịp kể của tác giả ở những trang cuối của hồi kí,
cho nên đó không chỉ là những thông tin mang tính sử liệu mà là những thông
tin mang thông điệp, thông tin biết nói lên cảm xúc, tình cảm của người kể.
Khi viết hồi kí cách mạng, tác giả ưu tiên kể về những sự kiện nổi bật,
những kỉ niệm gắn với tổ chức, dân tộc mà ít khi viết về những kỉ niệm riêng
tư. Điều này chính là nét khác biệt của hồi kí cách mạng với các tiểu loại
khác. Bởi vì, thông thường, hồi kí lấy sự kiện chính là quá trình một đời
người với những được – mất, thăng – trầm, buồn – vui. Họ thường lắng lòng
mình với những kỉ niệm trong khi hồi kí cách mạng lại hướng ra bên ngoài, sử
dụng những hồi ức để minh chứng, khẳng định cho những lí tưởng, lẽ sống:
“Trong mớ sự việc hỗn tạp, anh ta biết tìm ra hiện tượng nào đó mà tự thân nó
đã có ý nghĩa tiêu biểu cho cái chung rồi trình bày lại với tất cả sự chính xác
và sinh động” (Nhị Ca, 1971, trang 291).
81
3.1.2. Gợi nhắc tình hình thế giới và những tác động đến cách mạng Việt
Nam
Hồi kí cách mạng có nhiều tác phẩm dung lượng khá ít, người viết chỉ kể
lại những điều bản thân có ấn tượng sâu đậm hoặc những điều có ảnh hưởng,
tác động trực tiếp đến họ trong khi hoạt động cách mạng. Chính vì vậy, khi
phản ánh tình hình thế giới trong nửa đầu thế kỷ XX, người viết thường điểm
qua hoặc có sự khái quát trên diện rộng theo kiểu liệt kê. Tuy nhiên, cũng có
những sự kiện, người viết dừng lại phân tích, bình luận hoặc đưa ra nhận xét
trên lập trường cách mạng. Thông thường, những sự kiện được nhắc đến đều
có quan hệ mật thiết đến diễn biến tư tưởng cũng như tác động đến hành động
cách mạng mà họ trực tiếp lãnh đạo thực hiện hoặc tham gia.
Từ thập niên 30, tình hình cuộc chiến tranh thế giới đã có nhiều tác động
đến tư tưởng, nhận thức cũng như hành động cách mạng của những thanh
niên, trí thức ở nước ta. Trong bài viết Một số tình hình quốc tế và trong nước
từ 1937 đến 1944, Nguyễn Văn Khoan đã cho thấy những chuyển biến của
cách mạng trong nước trước sự chuyển mình của phong trào đấu tranh trên
Trong ba năm 1942, 1943, 1944, cục diện chiến tranh thế giới đã có nhiều
thay đổi bất lợi cho phe trục phát xít Đức – Ý – Nhật. […] Năm 1943, sau
13 tháng bị cầm tù, giải đi qua hơn 30 nhà tù thuộc 13 huyện của tỉnh
Quảng Tây, vào ngày 13 tháng 9 Nguyễn Ái Quốc – bấy giờ có tên mới là
Hồ Chí Minh đã được thả tự do, trong tình hình mặt trận Việt Minh đã được
phát triển rộng, căn cứ địa miền Cao – Bắc – Lạng ngày càng được củng cố
(Nguyễn Văn Khoan, 2015, trang 17).
thế giới:
Bên cạnh những phong trào yêu nước trong nước đã diễn ra trước đó,
những người thanh niên yêu nước còn không ngừng tìm hiểu về những phong
trào cách mạng trên thế giới để có định hướng đúng đắn cho hoạt động trong
thời gian sắp tới. Nhiều người đã chọn cách “ra đi”. Có người bôn ba xứ
người để tìm đường cứu nước như Nguyễn Ái Quốc. Có người tự nguyện đi
82
sang nước khác để học tập, gây dựng cơ sở cách mạng như Bùi Công Trừng,
Lê Tùng Sơn, Nguyễn Lương Bằng, Võ Nguyên Giáp, Tôn Đức Thắng...
Những người ở lại trong nước hay bị giam cầm trong các nhà tù thực dân
cũng luôn tìm mọi cách để nắm thông tin bên ngoài. Họ theo dõi tình hình
hàng ngày, hàng giờ và xem đó như là cơ sở quan trọng để phát triển cách
mạng trong nước.
Trong hồi ức của các tác giả, những lúc cách mạng thế giới lên cao,
nhiều thắng lợi lớn đã có ảnh hưởng tích cực đến tình hình cách mạng trong
nước. Những ngày đầu đến Liên Xô, Bùi Công Trừng nhớ đến sức ảnh hưởng
của phong trào công nhân cũng như tầm quan trọng của chủ nghĩa cộng sản
thông qua việc đọc sách của Lenin và Marx. Trong tác phẩm Từ lòng yêu
nước chân chính chúng tôi đã đi đến chủ nghĩa cộng sản, Bùi Công Trừng đã
nhận thấy sự lớn lên từng ngày trong tâm thức mình một khát vọng mãnh liệt
của lòng yêu nước, quyết tâm đi trên con đường đấu tranh giải phóng dân tộc.
Trong hồi kí Tinh thần Phạm Hồng Thái, Hoàng Quốc Việt nhắc đến nhiều sự
kiện diễn ra ở các nước khi ông bị giam ở nhà tù Côn Đảo, từ vụ án Đi-mi-tơ-
rốp ở Bungari đến cuộc tập hợp nhân dân của Đảng cộng sản Pháp năm 1934,
đánh bại âm mưu đảo chính phát-xít của bọn Thập tự lửa. Người cách mạng
đã nhìn nhận sự việc trong sự nối kết chặt chẽ giữa hoạt động trong nước và
tình hình thế giới bởi họ tin vào tinh thần quốc tế vô sản. Mỗi một sự kiện
đang diễn ra người cách mạng đều quan tâm chặt chẽ và có ý thức vận dụng
hợp lí vào tình hình thực tế trong nước. Lê Tùng Sơn trong Nhật kí một chặng
đường nhận thấy, những biến động diễn ra trên khắp thế giới đã có tác động
trực tiếp đến hành động của Đảng ta, đồng thời, Đảng và nhân dân ta phải dựa
vào đó để triển khai phương hướng đúng đắn nhằm có được sự đồng tình từ
những dân tộc cùng cảnh ngộ trên thế giới. Tố Hữu, trong những ngày bị đày
ải qua nhiều nhà lao, vẫn dõi theo phong trào cách mạng để biết nhiều tin tức
quan trọng, củng cố tinh thần cách mạng: “Sang năm 1943, Liên Xô phản
công mạnh ở Stalingrat, thắng lớn làm đảo lộn cả tình thế, đẩy lùi phát-xít
83
Đức trên khắp các mặt trận” (Nhớ lại một thời, Tố Hữu). Tố Hữu đã bày tỏ
niềm phấn khởi vì tương lai thắng lợi của cách mạng ở các nước thuộc địa đã
không còn xa. Điều này đã trở thành nguồn động lực để củng cố niềm tin của
những người cách mạng nói riêng và của nhân dân nói chung. Người cách
mạng luôn cảm thấy không đơn thân độc mã trong sự nghiệp cứu nước. Họ đã
lựa chọn và dựa vào những diễn biến có lợi để làm tiền đề và có những chủ
trương, quyết định đúng đắn đối với phong trào trong nước.
Trong hồi ức của các tác giả, đến năm 1945, tình hình thế giới có nhiều
biến động lớn, cục diện thế giới bắt đầu có nhiều thay đổi. Điều này đã tạo
thời cơ mới cho cách mạng Việt Nam. Hoàng Văn Thái nhớ lại: “Phát xít
Đức, Ý đã đầu hàng Hồng quân và Đồng Minh, “trục tam cường” đã vỡ một
mảng chủ yếu. Không lâu nữa, chắc chắn Hồng quân sẽ mở mặt trận đánh
phát xít Nhật ở châu Á. Và cũng chắc chắn phát-xít Nhật không tránh khỏi số
phận như bọn phát-xít Đức. Nếu như Nhật đầu hàng Đồng Minh, sẽ là một
thời cơ rất thuận lợi cho phong trào cách mạng Việt Nam” (Trường quân
chính kháng Nhật, Hoàng Văn Thái). Trong thời gian này, cách mạng Việt
Nam cũng đã đi đến giai đoạn quyết định. Trước mọi cục diện trên thế giới,
người cách mạng đều quan tâm và phân tích cẩn trọng để có hành động kịp
thời. Song Hào nhắc đến những biến động đang diễn ra trên chiến trường thế
giới năm 1945: “Tháng Tám năm 1945, Liên Xô chính thức mở mặt trận phía
đông. Trong chiến dịch quyết định, Hồng Quân đã tiêu diệt hoàn toàn đội
quân Quan Đông nổi tiếng hung ác của phát xít Nhật. Về phía Tây, phát xít
Đức đã phải đầu hàng từ tháng năm” (Tân Trào – mùa thu năm ấy, Song
Hào). Theo nhận thức của tác giả, diễn biến chính sự trên thế giới quá nhanh
chóng, đây là “cơ hội ngàn năm có một”, là điều kiện thúc đẩy Đảng ta đưa ra
nghị quyết tổng khởi nghĩa. Họ không chỉ khái quát tình hình mà còn có sự
phân tích, phán đoán bằng sự nhạy bén của người cách mạng đã trải qua nhiều
thử thách. Họ đã nhìn thấu những thăng trầm của cách mạng vô sản trên thế
giới, họ cũng nhận thấy, tình hình của mỗi đất nước có những đặc điểm riêng.
84
Tuy nhiên, họ không phủ nhận những tác động tích cực mà sự thắng lợi của
giai cấp công nhân ở các nước, cũng như sự thắng lợi của cách mạng ở các
nước thuộc địa trước thực dân, phát-xít đối với cách mạng nước ta. Những
điều này đã được Lưu Động nhấn mạnh trong hồi kí Bước đầu theo Đảng:
“Mạc Tư Khoa, Liên Xô với dãy xà lim án chém này xa xôi hàng ngàn dặm
nhưng tôi cảm thấy rất rõ những sự việc ở nơi xa xôi ấy đang quyết định số
phận của chính bản thân tôi” (Bước đầu theo Đảng, Lưu Động). Những dòng
hồi kí của Lưu Động là sự đúc kết qua quá trình tham gia hoạt động cách
mạng. Càng đi gần đến đích, người cách mạng càng cẩn trọng quan sát, bước
những bước chắc chắn để đi đến thắng lợi trong xu thế chung của toàn thế
giới.
Có thể thấy rằng, một trong những phương diện tạo nên giá trị của hồi kí
cách mạng là khả năng tái hiện quá khứ, cung cấp một nguồn tư liệu lịch sử
phong phú, thể hiện ý thức cách mạng, lí tưởng của người sáng tác. Những sự
kiện lịch sử được nhắc đến thường mang tính quan niệm. Bởi vì, quá trình hồi
tưởng chịu sự chi phối của ý thức. Sự kiện lịch sử trọng đại thể hiện trong hồi
kí nhất thiết phải có ý nghĩa và sự tác động sâu sắc đối với cá nhân và cộng
Những sự việc có thực ngoài đời khi vào đến kí liền trở thành tài liệu nghệ
thuật. Cái dáng vẻ đầu tiên của nó đã nhất thiết thông qua con mắt lựa chọn,
cảm xúc mạnh mẽ của người viết mà biến đổi chất lượng, hóa thân sang
một kiếp sống khác kết tinh hơn (Nhị Ca, 1971, trang 292).
đồng. Nhị Ca cho rằng:
Đối với các chiến sĩ cách mạng, thơ văn chỉ là phương tiện tuyên truyền,
một vũ khí đấu tranh sắc bén. Họ không có ý thức rèn giũa ngòi bút để trở
thành những nhà thơ, nhà văn thực thụ. Họ không nghĩ đến nghề văn
chương. Cho nên, thơ văn của họ có thể còn mặt này hay mặt khác về hình
thức không thích hợp đối với chúng ta bây giờ, nhưng nhìn chung, thơ văn
Theo quan niệm của Thành Duy:
của họ đều có một lí tưởng cao cả, một chủ nghĩa yêu nước lành mạnh,
85
trong sáng (Thành Duy, 1979, trang 500).
Hồi kí thường là hồi ức riêng tư nhưng với hồi kí cách mạng, cái chung,
tính cộng đồng được nhấn mạnh, đề cao. Chính vì vậy, sự kiện được hồi
tưởng thường tiêu biểu và có ý nghĩa xã hội rộng lớn.
3.2. Hồi ức về tầm vóc vĩ đại của nhân dân và chân dung tinh thần của
người cách mạng
Theo nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân “Nhân vật văn học là một đơn vị
nghệ thuật, nó mang tính ước lệ, không thể bị đồng nhất với con người có
thật, ngay khi tác giả xây dựng nhân vật với những nét rất gần với nguyên
mẫu có thật” (Lại Nguyên Ân, 1978, trang 250). Từ ý kiến này cho thấy, nhân
vật văn học là sự thể hiện quan niệm nghệ thuật của nhà văn về con người.
Nhà văn có thể mượn hình ảnh của con người ngoài đời thực để sáng tạo nên
nhân vật của mình, riêng đối với thể loại phi hư cấu như hồi kí, thế giới nhân
vật được lựa chọn từ những hình tượng tiêu biểu, có ý nghĩa xã hội. Theo Hà
Minh Đức: “Đối tượng miêu tả của hồi kí thường là những nhân vật xuất sắc
trong lịch sử như cuộc đời của những nhà hoạt động chính trị, các anh hùng
chiến sĩ với nhiều kì tích và công lao” (Hà Minh Đức, 1997, trang 230). Nhân
vật trong hồi kí cách mạng là những “người thật” của quá trình cách mạng và
đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam. Đó là hình ảnh nhân dân Việt Nam
trong quá trình tham gia cách mạng và đấu tranh bảo vệ tổ chức, bảo vệ người
cách mạng. Ngoài ra, tác giả còn thể hiện những bức chân dung tinh thần tự
họa của người kể chuyện và chân dung đồng chí, đồng đội. Qua đó, họ khẳng
định vẻ đẹp và khí phách của người cách mạng trong gian khổ, hi sinh. Trong
đó, hình ảnh Hồ Chí Minh được thể hiện trong hồi kí bằng tất cả sự vĩ đại của
một vị lãnh tụ và bằng ấn tượng, tình cảm sâu sắc của người kể.
3.2.1. Tầm vóc vĩ đại của nhân dân
Tác giả Trần Văn Hối cho rằng: “Trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân cũng như cách mạng xã hội chủ nghĩa, quần chúng nhân dân được
86
miêu tả là lực lượng quyết định, có một vai trò vô cùng to lớn đối với sự phát
triển của lịch sử” (Huỳnh Lý, Trần Văn Hối, 1962, trang 338). Như vậy, văn
học cách mạng đã chú trọng và đề cao vai trò của quần chúng nhân dân. Khi
gây dựng cơ sở cách mạng, tìm mối liên lạc, kết nối để phong trào thêm lớn
mạnh, vững chắc, người cách mạng đã cùng với nhân dân chung vai sát cánh.
Qua quá trình này, người cách mạng đã phát hiện được vẻ đẹp tâm hồn và
những phẩm chất đáng quý của dân tộc. Họ đã từng phải cam chịu, sống
những tháng ngày đau khổ trong kiếp nô lệ, nhờ sự giúp đỡ của người cách
mạng, họ nhận thức đúng đắn về bản thân, về thời cuộc và đứng lên mạnh mẽ
thành quần chúng cách mạng anh hùng.
Quần chúng cách mạng là đồng bào mà người kể đã từng gắn bó, tiếp
xúc, cùng sinh hoạt, là đối tượng được người cán bộ dẫn dắt, giác ngộ trong
thời gian hoạt động cách mạng. Họ không phải là hình tượng nhân dân chung
chung như trong văn học hư cấu mà họ là những cá nhân có tên tuổi, những
tập thể có địa chỉ rõ ràng. Đó là Đại Lâm, là chị Cả, là cô gái người Nùng quê
ở Pác Bó được kể đến trong hồi kí Bác Hồ ở Pác Bó của Lê Quảng Ba; bà cụ
Thuận Hưng Tường trong Nhật kí một chặng đường của Lê Tùng Sơn; mẹ
Tơm ở làng Hanh Cù, ông lang Trường ở tổng Bái gần chợ Vực trong Nhớ lại
một thời của Tố Hữu, mẹ đồng chí Hoan ở Nà Pản (Cao Bằng) trong Ánh
sáng đây rồi của Nông Văn Lạc, cụ Triệu Hữu Hinh, chị Triệu Thị Tam ở
làng Cây Thị trong Chuyện làng Mười của Triệu Khánh Phương... Khi nhắc
lại quãng thời gian cùng nhân dân tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc,
Nguyễn Tạo khẳng định: “Ngót một trăm năm chính quyền thực dân Pháp áp
đặt trên đất nước ta thì ngót một trăm năm không phút nào ngơi, nhân dân
nơi này vùng dậy bị dập tắt, nơi khác lại nổi lên chống giặc” (Chúng tôi vượt
ngục, Nguyễn Tạo). Tác giả muốn khẳng định sức mạnh của quần chúng nhân
dân trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Nhân dân là lực lượng chủ yếu
bảo vệ cơ sở cách mạng, bảo vệ tính mạng của người cán bộ, góp phần quan
trọng vào sự thắng lợi của cuộc kháng chiến giành độc lập.
87
Người kể đã nhận thức được vẻ đẹp của nhân dân và thấy được quá trình
trưởng thành trong nhận thức của họ nhờ được ánh sáng cách mạng soi
đường, dẫn lối: “Lần đầu tiên, người nông dân Việt Nam, được ánh sáng của
Đảng chiếu rọi vào tâm hồn, đã lớn hẳn lên, tỏ rõ chính mình cũng là một sức
mạnh làm nên lịch sử” (Chiến đấu dưới cờ Xô - Viết Nghệ - Tĩnh, Nguyễn
Duy Trinh). Lê Tùng Sơn cũng từng đau xót và căm phẫn khi chứng kiến
cảnh sống lam lũ, cơ cực của đồng bào ta ở Vân Nam. Ông đã đặt mình vào vị
trí của nhân dân để thấu hiểu thân phận hèn mọn dưới sự cai trị của thực dân.
Thế nên, sự chuyển biến trong tư tưởng, nhận thức và hành động của nhân
dân đã để lại trong lòng ông ấn tượng sâu đậm: “Dưới sự lãnh đạo và giáo
dục đúng đắn của Đảng Cộng sản Đông Dương, kiều bào ta thoát khỏi sự lừa
gạt của những phần tử đầu cơ cách mạng và được giác ngộ về cách mạng vô
sản” (Nhật kí một chặng đường, Lê Tùng Sơn). Từ đó, ông thấy được, chính
những người dân yếu đuối đã làm chủ được hành động và tự ý thức được sứ
mệnh của mình. Nhân dân không chỉ là hậu phương vững chắc cho cách mạng
mà còn là những người dám xông pha vào cuộc chiến đấu khi cách mạng cần.
Nhân dân đã trở thành hình tượng tiêu biểu trong văn học dân tộc, sức mạnh
và ý chí của họ đã được Nguyễn Đình Chiểu khẳng định trong Văn tế nghĩa sĩ
Cần Giuộc một cách chân thực từ những năm kháng Pháp cuối thế kỷ XIX.
Sang thế kỷ XX, hình ảnh nhân dân được phác họa trong các hồi kí cách
mạng càng đầy đủ, rõ nét.
Nhân dân trong hồi ức của những người cách mạng mang vẻ đẹp kiên
cường, bất khuất. Những đòn tra tấn hung bạo, những thủ đoạn đàn áp đẫm
máu của kẻ thù cũng không thể làm họ thay đổi tấm lòng đối với cách mạng.
Triệu Khánh Phương không thể nào quên được hình ảnh chị Triệu Thị Tam:
“Chị nằm úp mình để che chở cho con – hai mắt trừng trừng nhìn bầy lang
sói đang giáng những báng súng, những gót giày đinh vào ngực chị rức buốt,
chị nghiến răng chịu đựng không hề khai một lời nào vì chị nghĩ khai ra thì
cơ sở sẽ bị lộ, cơ sở bị lộ thì cách mạng không thành công” (Chuyện làng
88
Mười, Triệu Khánh Phương). Trong lúc này, chị đã quên bản thân mình đi,
chỉ nghĩ đến tự do cho người Dao, chỉ nghĩ làm sao thắng kẻ thù để dân làng
chị có thêm nhiều ruộng nương để cày cấy. Người phụ nữ chấp nhận mọi đau
đớn, lòng chỉ mong cán bộ cách mạng được an toàn. Nhân dân ta lúc ấy dù
không được trang bị vũ khí, không biết rõ phải đấu tranh như thế nào nhưng
luôn nung nấu ý muốn chống trả bởi không chịu được những bất công. Trong
hồi kí Ánh sáng đây rồi, Nông Văn Lạc kể lại những lời của người dân Cao
Bằng khi tính phương cách chống lại quân xâm lược: “Phải làm thế nào cả
dân làng một bụng một dạ, thằng nào dám động chạm đến người trong thôn,
bản mình, cả làng kéo đến chửi cho chúng một mẻ, cần thụi nhau cũng thụi,
sợ gì, sợ gì, bỏ tù cả làng được à” (Ánh sáng đây rồi, Nông Văn Lạc). Họ đã
muốn dùng mạng sống của mình để tạo áp lực, khiến cho kẻ thù phải e dè cho
dù họ biết rằng hành động ấy chỉ là nhất thời có thể chưa đạt được thành quả
gì nhưng họ vẫn không muốn bị kẻ thù xem thường, đè đầu cưỡi cổ. Có thể
thấy rằng, nhiều người chưa đứng vào hàng ngũ của Đảng, chưa chính thức
trở thành người cộng sản nhưng tinh thần kiên cường, bất khuất của họ đã
được hun đúc từ những mối tình cảm bình thường giản dị và trở thành một
phần quan trọng trong truyền thống hào hùng của dân tộc.
Khi viết hồi kí, một lần nữa người cách mạng khẳng định, quần chúng
nhân dân là lực lượng quan trọng giúp cho các hoạt động của tổ chức cách
mạng thành công. Dù cuộc sống gian khổ, thiếu trước hụt sau, họ vẫn chia sẻ
bát cơm manh áo để cán bộ cách mạng yên tâm hoạt động; che chở cho cán
bộ cách mạng không ngại hi sinh bản thân mình. Rất nhiều cán bộ cách mạng
ưu tú xuất thân từ quần chúng nhân dân. Cho nên, không phải là sự ngẫu
nhiên khi Võ Nguyên Giáp đã đặt nhan đề cho hồi kí đầu tiên của mình là Từ
nhân dân mà ra. Tố Hữu cũng dành hẳn một chương trong hồi kí với nhan đề
“Trong lòng dân” để hồi nhớ về tấm lòng của quần chúng nhân dân đối với
cách mạng. Tố Hữu nhớ đến mẹ Tơm “đã cưu mang cán bộ cách mạng trong
những năm tháng cực kì gian khổ”; nhớ đến gia đình anh Cạy “Hai vợ chồng
89
anh làm ruộng, bữa đói bữa no, thế mà cũng gắng sức nuôi giấu tôi rất chu
đáo”; nhớ đến tấm lòng của một chị hàng xáo, cho dù trong nhà “hết cả gạo
thóc, chỉ còn mấy lon ngô mà quyết để dành nuôi cán bộ, đành để cô con gái
ăn củ chuối đến trương bụng mà chết” (Nhớ lại một thời, Tố Hữu). Nhắc lại
những điều ấy, Tố Hữu vừa bày tỏ lòng biết ơn, vừa không khỏi xót xa, bùi
ngùi. Người dân đã hi sinh rất nhiều nhưng không lời than trách, không kể
công lao. Khi trở về với nhân dân, được nhân dân che chở, người cách mạng
cảm nhận như được sống với tình yêu thương thật sự, cảm nhận được sự ấm
áp của gia đình. Khi viết hồi kí Bác Hồ ở Pác Bó, Lê Quảng Ba nhìn thấy:
“Quần chúng có ý thức bảo vệ cán bộ rất cao. Có những lần anh em chúng
tôi sơ suất để lại dấu chân trên đường, đồng bào tự động dùng cành cây có lá
kéo lê trên đường làm cho mất vết tích. Mỗi khi cán bộ chúng tôi đi qua là
đồng bào đi theo sau xem có sơ hở gì không” (Bác Hồ ở Pác Bó, Lê Quảng
Ba). Nhân dân đã luôn dõi theo từng bước đi của người cách mạng. Những
hành động, những công việc của họ tuy thầm lặng nhưng đã góp phần không
nhỏ vào sự thắng lợi của công cuộc cách mạng. Nhân dân là lực lượng chủ
yếu để người cách mạng tổ chức các phong trào, thực hiện các kế hoạch hoạt
động. Được sự ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân, niềm tin vào sự thắng lợi của
cách mạng càng rõ ràng, vững chắc hơn.
Khi đánh giá về đặc điểm của văn học cách mạng Việt Nam, trong đó có
Lấy thể tài xã hội – lịch sử làm nội dung khai thác chủ yếu, lấy số phận của
cộng đồng làm đối tượng thể hiện và phân tích, lấy cảm hứng anh hùng ca
làm cảm hứng nền tảng, văn học 1945-1975 đã phản ánh được những
chuyển động kì vĩ của lịch sử dân tộc, làm sáng lên những phẩm chất tinh
thần cơ bản của cộng đồng (Vũ Tuấn Anh, 2001, trang 462-463).
sự đóng góp của hồi kí, Vũ Tuấn Anh cho rằng:
Hồi kí mặc dù lấy quá khứ làm đối tượng phản ánh nhưng mục đích của
người sáng tác vẫn hướng đến hiện thực kháng chiến sôi nổi trong cả nước
đang diễn ra. Chính vì lẽ đó, tầm vóc của nhân dân được thể hiện trong các
90
tác phẩm vừa là kỉ niệm sâu sắc của người viết vừa là nhận thức về vai trò, sứ
mệnh của nhân dân đối với những biến thiên của lịch sử.
3.2.2. Chân dung tinh thần của người cách mạng
Từ sau cách mạng tháng Tám, đất nước lại tiếp tục rơi vào tình cảnh dầu
sôi, lửa bỏng. Như một người thư kí trung thành, văn học đã đi theo suốt hai
cuộc kháng chiến vĩ đại để xây dựng nên những hình tượng về con người
trong kháng chiến. Trong đó, văn học cũng chú ý lật trở lại quá khứ để phản
ánh, chính vì vậy, nhiều hồi kí của những người đã tham gia cách mạng từ
trước 1945 xuất hiện và được đón nhận nồng nhiệt. Đặc biệt, trong các hồi kí
này, chân dung tinh thần của người cách mạng là hình tượng đẹp được kết
tinh từ thực tế của quá trình cách mạng trường kì để bảo vệ đất nước. Trong
đó, chân dung Hồ Chí Minh là điển hình về cá nhân ưu tú của đất nước. Đối
với nhân dân Việt Nam nói chung và những người cách mạng nói riêng,
Người là biểu tượng của lí tưởng, ánh sáng cách mạng, độc lập tự do và cuộc
sống ấm no hạnh phúc. Bích Thu cho rằng: “Hồi kí cũng là một cách thể hiện
nhu cầu khám phá đời sống. Các tác giả không chỉ xây dựng diện mạo người
cùng thời mà qua chuyện của mình phác họa được gương mặt của thời đại”
(Bích Thu, 2004, trang 428). Dù là bức chân dung tinh thần tự họa hay được
phác họa thì người cách mạng thường được thể hiện với những phẩm chất tiêu
biểu, đại diện cho vẻ đẹp của người cộng sản.
3.2.2.1. Có tư tưởng yêu nước đúng đắn, tiến bộ
Người cách mạng đã nhận thức sâu sắc và vận dụng sáng tạo truyền
thống yêu nước vào trong hoàn cảnh mới của lịch sử. Yêu nước trong truyền
thống của dân tộc Việt Nam trước hết là yêu quê hương, xóm làng – nơi chôn
nhau cắt rốn. Bởi vì đó là không gian đầu tiên hình thành và nuôi dưỡng tình
cảm gắn bó của mỗi con người. Truyền thống yêu nước còn là tình yêu giống
nòi, tự hào về văn hóa dân tộc, nhớ ơn nguồn cội tổ tiên. Truyền thống ấy còn
được bộc lộ sâu sắc, rõ nét trong quá trình đấu tranh chống giặc ngoại xâm.
Bước sang thế kỉ XX, khi tình hình chính trị xã hội trong nước và trên thế giới
91
có nhiều biến động, truyền thống yêu nước đã được người cách mạng củng cố
và bổ sung nhiều khía cạnh mới mẻ.
Trong hồi kí cách mạng, truyền thống yêu nước chứa đựng nội dung
phong phú. Trong đó, các tác giả xác định, cội nguồn của lòng yêu nước vẫn
là tình cảm gắn bó với quê hương, với đồng bào. Trong mọi hoàn cảnh, tâm
hồn người cách mạng vẫn luôn rộng mở để đón nhận vẻ đẹp quê hương. Bị kẻ
thù bắt ngay khi đang in báo Chiến thắng, đang đọc tài liệu về chiến tranh du
kích, trên đường bị giải về sở mật thám, Trần Hữu Dực còn kịp nhận thấy:
“Bên ngoài, trên đường và trên cánh đồng, nắng sớm đang trải ra một màu
vàng rực rỡ. Đẹp thật, phong cảnh đất nước quê hương mình mỗi nơi một vẻ”
(Bước qua đầu thù, Trần Hữu Dực). Trường Sinh trên đường đi liên lạc với
Trung ương Đảng đến Quảng Nam, vẫn không quên ngắm nhìn và ca ngợi vẻ
đẹp trù phú của đất nước: “Quảng Nam có chùa Non Nước, có tháp Đồng
Dương, có nhà bảo tàng di tích nước cổ Chiêm Thành, có đèo Hải Vân và lắm
danh lam thắng cảnh tô điểm cho đất nước thêm mĩ miều” (Người trước ngã,
người sau tiến, Trường Sinh). Chính tình yêu đối với khung cảnh giản dị
nhưng thơ mộng, yên bình của quê hương đã thôi thúc người chiến sĩ dấn
bước vào sự nghiệp đấu tranh cách mạng để bảo vệ từng mảnh ruộng, từng
con suối. Điều này cũng chính là cơ sở của lòng yêu nước, là động lực để
người cách mạng thêm quyết tâm và vững vàng trong cuộc đấu tranh sống
còn với kẻ thù.
Tuy nhiên, những người cách mạng cũng nhận thức được rằng, trong
hoàn cảnh mới, lòng yêu nước phải thể hiện ở những phương diện mới. Họ
không còn tôn sùng ý thức hệ phong kiến mà dần dần tiếp thu ý thức hệ của
giai cấp vô sản. Lòng yêu nước của người cách mạng thể hiện ở niềm tin
tưởng tuyệt đối vào Đảng, khẳng định sự đúng đắn của lí tưởng cách mạng và
lòng biết ơn sâu sắc với tổ chức. Họ đã khẳng định niềm tự hào khi được
đứng vào hàng ngũ của Đảng, được chiến đấu vì lợi ích của nhân dân.
Nguyễn Lương Bằng khi bị địch giải đi trên tàu đã trả lời những người đi
92
đường: “Chúng tôi tự hào vì hai tiếng cộng sản ấy” (Nhờ dân nhờ Đảng mà
trưởng thành, Nguyễn Lương Bằng). Từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, Tố
Hữu đã được kết nạp vào Đoàn Thanh niên Cộng sản. Khi được đọc các sách
về chủ nghĩa Mác, người thanh niên Nguyễn Kim Thành cảm nhận: “Những
điều trong sách như mở ra một chân trời mới” (Nhớ lại một thời, Tố Hữu).
Tố Hữu lúc này phơi phới niềm tin yêu đối với cách mạng và khát vọng được
cống hiến. Dù khó khăn gian khổ, nhưng niềm vui tràn ngập trong tâm hồn
người cách mạng. Và khi phải đối mặt với sự gian khổ, hi sinh người cách
mạng cũng thấy đó là sự hi sinh xứng đáng: “Mình là người của đoàn thể, khi
đoàn thể cần việc gì thì làm việc ấy, rồi anh em sẽ giúp đỡ. Còn làm cách
mạng thì ai cũng phải hi sinh. Chúng mình nghèo khổ mãi rồi, nay có chịu
thiệt thòi chút ít, thì cũng để cách mạng mau chóng thành công. Đời mình,
đời con cháu mình, sau này sẽ sung sướng mãi mãi” (Chị Tư già – Nguyễn
Thị Thuận). Trong tâm thức của người cách mạng, yêu nước là trung thành
với Đảng, sẵn sàng cống hiến và hoàn thành vai trò, trách nhiệm với tổ chức,
nhân dân.
Khi nhớ lại cuộc đời hoạt động, người cách mạng thể hiện quan niệm:
yêu nước là yêu nhân dân, tìm ra con đường đúng đắn để giải phóng đất nước.
Ban đầu, nhận thức của thanh niên trí thức Việt Nam về lí tưởng cách mạng
còn mơ hồ. Chính lòng yêu thương con người, quý trọng đồng bào đã giúp họ
lựa chọn con đường chân lí của mình. Trong hồi kí Con đường dẫn tôi đến
chủ nghĩa Lê-nin, Hồ Chí Minh viết: “Lúc bấy giờ, tôi ủng hộ Cách mạng
tháng Mười chỉ là theo cảm tính tự nhiên. Tôi chưa hiểu hết tầm quan trọng
lịch sử của nó. Tôi kính trọng Lê-nin vì Lê-nin là một người yêu nước vĩ đại
đã giải phóng đồng bào mình; trước đó, tôi chưa hề đọc một quyển sách nào
của Lê-nin viết” (Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lê-nin, Hồ Chí Minh).
Điều quan trọng mà người cách mạng quan tâm là tổ chức nào, “Quốc tế nào”
sẽ vì quyền lợi của nhân dân các nước thuộc địa, đứng về phía họ, bênh vực
họ. Đó là bước khởi đầu trong quá trình cứu nước của Hồ Chí Minh. Cũng với
93
tư tưởng này, người thanh niên Nguyễn Chí Thanh đã kể với con những bước
đầu tiên khi ông tìm đến lí tưởng cộng sản cũng xuất phát từ niềm tin vào
những người biết yêu thương dân nghèo, chống lại bọn ngoại xâm hung bạo.
Những người cách mạng đã bước những bước đầu tiên trên lập trường của
một người nô lệ. Cái họ tìm là lẽ công bằng, là sự giải thoát khỏi những nỗi
khổ đau dưới ách thống trị của kẻ thù. Đây là cơ sở quan trọng hình thành nên
tính cách và nhân phẩm của người chiến sĩ trong quá trình tham gia cách
mạng.
Trước đây, trong Bình ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã nêu lên quan niệm:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, quân điếu phạt trước lo trừ bạo”. Trong
điều kiện hiện tại, người cách mạng đã mở rộng quan niệm “trừ bạo yên dân”.
Họ cho rằng, tình yêu thương con người không chỉ gói gọn trong phạm vi một
đất nước mà còn hướng tới tinh thần quốc tế vô sản rộng rãi. Trong hồi kí
Những ngày gần Bác, Vũ Anh đã cảm nhận: “Người in dấu chân ở khắp mọi
nơi, và những nơi mà Người đã đến, hạt giống cách mạng mỗi ngày một đâm
chồi nảy lộc”. Đến khi bắt gặp chủ nghĩa Lênin, Bác đã khẳng định mục đích
chính đáng của người cách mạng: “Nếu đồng chí không lên án chủ nghĩa thực
dân, nếu đồng chí không bênh vực các dân tộc thuộc địa thì các đồng chí làm
cách mạng gì?” (Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin, Hồ Chí Minh). Qua
những trang hồi kí, người đọc thấy được một lẽ tất nhiên rằng, chính tinh thần
quốc tế vô sản, lòng nhân đạo vượt mọi rào cản, biên giới của Hồ Chí Minh là
một trong những tiền đề cho sự thành công của cách mạng Việt Nam bởi
Người không chỉ nhận được lòng tin của đồng bào trong nước mà còn nhận
được sự ủng hộ của các dân tộc cùng khổ trên thế giới. Khi nhắc đến Hoàng
Văn Thụ trong những ngày bị tra tấn ở sở mật thám Hà Nội, Trần Đăng Ninh
nhớ đến ý chí quật cường và tinh thần kiên trì của ông nhằm kêu gọi, khẳng
định sức mạnh của đại đoàn kết của những người nô lệ trên thế giới: “Anh
tuyên truyền cho sự bắt tay thân thiện giữa nhân dân Đông Dương và những
phần tử Pháp tiến bộ để đánh đổ Nhật” (Những ngày cuối cùng của anh
94
Hoàng Văn Thụ, Trần Đăng Ninh). Trong khi bôn ba ở nước ngoài, Nguyễn
Ái Quốc cũng nhận thấy rằng, những người Pháp trên đất nước của họ không
giống những người Pháp sang xâm lược nước ta. Họ cũng có kẻ giàu người
nghèo, cũng có những người thiếu áo, đói cơm, cũng có những người yêu
nước muốn giải phóng dân tộc khỏi xích xiềng nô lệ. Những người dân Pháp
đó cũng cùng cảnh ngộ với dân tộc ta. Và Người cũng đã khẳng định, tổ chức
Quốc tế mà Người đi tìm và mong muốn được gia nhập là tổ chức nào đứng
về phía nhân dân nô lệ cùng khổ để lên tiếng đòi tự do, bình đẳng. Như vậy,
tình yêu thương con người trong hoàn cảnh chiến tranh đã trở thành sợi dây
gắn kết tạo nên sức mạnh để chống lại kẻ thù. Đó là tình quân dân sâu nặng,
tình đồng bào tha thiết và sự chung sức đồng lòng của những người cùng khổ
trên thế giới để chống lại kẻ thù chung là thực dân, đế quốc xâm lược.
Khi bàn về nhiệm vụ xây dựng nền văn hóa mới và vấn đề kế thừa di sản
văn hóa dân tộc trong văn học nghệ thuật, theo quan niệm của V.I.Lênin, lịch
sử tư tưởng chính là lịch sử của quá trình thay thế tư tưởng do đó là lịch sử
đấu tranh tư tưởng. Trong nhận thức của những người cách mạng, truyền
thống yêu nước là sợi dây gắn kết tình dân tộc, đồng bào; khẳng định tình
đồng chí, đồng đội. Qua thời gian, người cách mạng càng có cơ sở khẳng định
tính đúng đắn của quan niệm này. Đồng thời, bản thân họ cũng có nhận thức
mới mẻ do yêu cầu của thời đại. Theo tác giả Thành Duy, hình tượng người
cộng sản là hình tượng con người mới trong nền văn học vô sản và “quan
niệm yêu nước của họ gắn liền với tình cảm giai cấp vô sản, thấm nhuần tinh
thần yêu nước và tinh thần quốc tế vô sản” (Thành Duy, 1979, trang 515).
3.2.2.2. Kiên trì lí tưởng cộng sản
Khi bàn về những chặng đường phát triển của cách mạng, tác giả công
trình Chủ nghĩa cộng sản khoa học Từ điển đã nhận định rằng: “Con đường
tiến lên của cách mạng không phải bao giờ cũng bằng phẳng, thuận chiều.
Lúc hoạt động bí mật, lúc đấu tranh công khai, lúc đấu tranh chính trị, lúc đấu
tranh vũ trang, rất phức tạp” (A.M.Ru-mi-an-txép, 1986, trang 113). Từ thực
95
tế của quá trình vận động cách mạng ở Việt Nam, các tác giả hồi kí đã phản
ánh tâm thế, nhận thức trong hành trình đi tìm và xác định lẽ sống, lí tưởng
của mình. Từ đó, họ khẳng định phẩm chất chính trị, quan điểm và thái độ đối
với sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Từ cuộc đời của người cách mạng bộc lộ qua trang viết, chúng ta phần
nào thấy được, con đường họ đến với lí tưởng cộng sản luôn có nhiều ngăn
trở, thử thách. Các tác giả khẳng định, việc lựa chọn lí tưởng cộng sản của
những trí thức thanh niên ở Việt Nam khi Đảng cộng sản chưa ra đời xuất
phát từ nhiều mục đích, nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân sâu xa là tình
yêu nước và sự tác động của hiện thực đất nước. Với hồi kí Người đi tìm
đường cứu nước, Trần Dân Tiên kể về thời gian Bác một mình bôn ba ở khắp
các nước: Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Anh... vừa làm đủ mọi công việc
gian khổ vừa tự mình không ngừng học hỏi để có thể tìm ra một con đường
đúng đắn cho dân tộc. Người muốn tiếp tục đi, tiếp tục trang bị lí tưởng thật
vững chắc. Niềm vui vỡ òa khi Người đến được với luận cương của Lênin.
Khi ấy, Bác đã nung nấu ý định đi Nga dù biết rằng đó là hành trình gian khó
bởi vì nước Nga đang bị bao vây bởi các nước đế quốc. Biết rằng gian nan là
vậy nhưng Bác đã khẳng định Bác không sợ hiểm nguy chỉ là tìm cách nào để
đi và về được an toàn. Người đã tha thiết bày tỏ: “Cách mạng tháng Mười vĩ
đại có một sức lôi cuốn kì diệu vô cùng. Từ khi nghe tin cách mạng xã hội chủ
nghĩa thành công, Bác liền có ý định đi Nga, mặc dù lúc đó chưa hiểu hết ý
nghĩa cực kì to lớn của cuộc cách mạng ấy” (Câu chuyện Bác đã kể, T. Lan).
Cố gắng lần mò từ những bước đầu tiên, con đường đi lên của cách mạng dân
tộc đã được mở ra ngày một rộng rãi và bằng phẳng hơn. Thành quả ấy chính
là mong ước lớn nhất trong cuộc đời của Người. Trong hồi kí Nhân dân ta rất
anh hùng, Hoàng Quốc Việt đã tái hiện chân thực về quá trình đi tìm lí tưởng
của mình và những bạn bè đồng trang lứa: “Tôi tìm anh em tốt lập hội thể
thao, gây quỹ cứu tế, góp tiền mua sách báo đọc, lòng rất ham muốn hoạt
động mà chưa biết đường nào… Tâm trạng ấy cũng là tâm trạng của nhiều
96
anh em thanh niên lúc bấy giờ đang khủng hoảng về tinh thần, náo nức đi tìm
lí tưởng, tìm một ý nghĩa, một cái gì mới cho cuộc sống” (Nhân dân ta rất
anh hùng, Hoàng Quốc Việt). Ngay từ khi có khát vọng dấn thân để tìm kiếm,
những thanh niên này còn chưa xác định được điều mình tìm là gì. Hành trình
được bắt đầu nhưng đích đến thì mơ hồ. Tác giả nhớ lại, khi ấy, chính những
chuyện về Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, phong trào đấu tranh trong nước
và tình hình hoạt động của Nguyễn Ái Quốc ở Nga đã thôi thúc họ tìm đến
với tổ chức cách mạng. Đôi khi, những người yêu nước phải lần mò, dò dẫm
trên con đường đang đi bằng khát vọng chân chính. Khi chứng kiến phong
trào Mặt trận dân chủ đang diễn ra sôi nổi ở Huế, Tố Hữu đã bày tỏ chí hướng
muốn tìm đến chủ nghĩa Cộng sản như một nỗi khát khao. Những điều tốt đẹp
mà thanh niên trí thức lúc bấy giờ được nghe, được biết về chủ nghĩa cộng
sản đã khiến tâm hồn họ bắt đầu có những thay đổi lớn, chan chứa niềm tin
vào cuộc đời.
Trải qua quá trình hoạt động thực tế, trải qua từng bước khó khăn trong
hoạt động cách mạng, họ đã nhận thấy chân lí dần dần hiện ra rõ ràng hơn,
chắc chắn hơn. Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Từng bước một, trong cuộc đấu
tranh, vừa nghiên cứu lí luận Mác – Lê-nin, vừa làm công tác thực tế, dần
dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải
phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi
ách nô lệ” (Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lê-nin, Hồ Chí Minh). Sau
khoảng thời gian ban đầu phân vân, lựa chọn, người cách mạng đã khẳng định
tính đúng đắn và kiên quyết với con đường mình đang đi. Chủ nghĩa cộng sản
tạo nên một mối dây liên hệ, kết nối những người bị áp bức để chống lại sự
phi lí. Rất nhiều người đã nhận thấy cuộc đời dường như đang rộng mở hơn
và nhiều cánh cửa tương lai tươi sáng đang chờ đón họ. Lưu Động nhớ lại,
sau khi đứng vào hàng ngũ của Đảng, tham gia hoạt động cách mạng, bị địch
bắt và cùng với anh em tổ chức đấu tranh trong tù, nghe những lời tâm huyết
của đồng đội, bản thân ông càng cảm thấy mình trưởng thành và chín chắn
97
hơn: “Câu nói của Đạo, hình như tôi đã đọc ở một cuốn sách lí luận hay cuốn
tiểu thuyết nào rồi thì phải. Nhưng chỉ đến bây giờ, bây giờ trong giờ phút
đấu tranh gay go này, qua lời nói giản dị nhưng chân thật của Đạo, tôi mới
thấm thía, tôi mới thật thấy rõ ý nghĩa của chân lí ấy” (Bước đầu theo Đảng,
Lưu Động). Như một người lữ hành thờ ơ, vô tâm với những chặng đường sắp
tới, bất chợt, người thanh niên này bắt gặp lẽ sống lớn, tình cảm lớn nhờ
những người bạn đồng hành. Những lối suy nghĩ lệch lạc, mơ hồ được định
hướng rõ ràng, những bài học quý giá và thiết thực được người cách mạng rút
ra từ chính những đồng chí, đồng đội ngày đêm gần gũi, chia ngọt sẻ bùi.
Chân lí được đúc kết từ những người bình thường, ở ngay bên cạnh để từ đó,
người cách mạng thấy rằng, bản thân họ cũng sẽ học tập và làm được những
điều vĩ đại như thế. Thông qua những lời tự bạch về năm tháng thiếu thời và
hành trình đi tìm lẽ sống, người cách mạng đã phác họa nên chân dung những
con người giản dị nhưng có ý chí và nghị lực phi thường. Họ muốn vượt qua
những rào cản của đời sống thực tại đang bị kẻ thù bủa vây để tìm đến ánh
sáng và niềm tin đích thực.
Trải qua nhiều khó khăn, gian khổ, người cách mạng càng có niềm tin
vào sức mạnh tinh thần của bản thân, của đồng đội và sự vững vàng của tổ
chức cách mạng. Sau khi nghe đồng chí già kể về tinh thần anh dũng của Lê
Hồng Phong, Ngô Đăng Đức đã khẳng định: “Sức mạnh của Đảng ta không
những có khí thế oai hùng ở lúc ào ạt tấn công mà ngay khi tạm thời thất bại
trước sự tàn bạo của quân thù, những người đảng viên cộng sản vẫn tỏ rõ
tinh thần gang thép, không gì lay chuyển nổi. Đấy là phẩm chất cộng sản chủ
nghĩa cao cả, nguyên nhân của mọi thắng lợi vẻ vang” (Bát cơm chan máu,
Ngô Đăng Đức). Đối với họ, khi đã trở thành người của cách mạng, đứng vào
hàng ngũ những người cộng sản thì phải luôn luôn giữ vững lập trường và họ
tự hào vì lịch sử đã chứng minh, thừa nhận khí tiết của họ. Trong những ngày
bị giam cầm trong sở mật thám, biết trước những thủ đoạn tra tấn dã man của
kẻ thù đối với tù chính trị trong bao nhiêu năm nay, Nguyễn Tạo vẫn cảm
98
thấy yên lòng vì sự kiên trung của người cách mạng. Tác giả khẳng định:
“Trừ một số ít kẻ phản bội, tuyệt đại đa số cán bộ, đảng viên ta trong các thời
kì cách mạng đều giữ vững được khí tiết và truyền thống bất khuất anh dũng
chống ngoại xâm. Rất nhiều chiến sĩ kiên cường, thà chết chứ không chịu đầu
hàng” (Chúng tôi vượt ngục, Nguyễn Tạo). Người cách mạng không đặt niềm
hi vọng viễn vong, mơ hồ mà thông qua sự tự nhận thức chính mình để bày
tỏ. Khi tham gia cách mạng, chính họ đã trải qua những thử thách cam go
nhưng không hề khuất phục. Họ cũng đã chứng kiến nhiều đồng chí cho đến
khi trút hơi thở sau cùng vẫn còn động viên, nhắc nhở nhau kiên định lập
trường.
Trong tình hình rối ren của xã hội Việt Nam những thập niên đầu thế kỉ
XX, hành trình để người cách mạng “nhận đường” thật không phải dễ dàng.
Thế nhưng, con đường cách mạng vô sản dưới sự lãnh đạo của Đảng đã sớm
được truyền đạt đến những người yêu nước. Qua thực tế, họ càng khẳng định,
con đường này sẽ giúp họ có được cuộc sống tự do, giúp họ giải phóng nhân
dân khỏi cảnh đời nô lệ. Họ tràn ngập hi vọng vào sự đổi thay của đất nước
khi cuộc cách mạng dân tộc đã thành công. Càng trong những thời khắc sinh
tử, người cách mạng càng khẳng định bản lĩnh vững vàng của mình. Một mặt,
họ đấu tranh với chính mình để không bị kẻ thù lung lay, khuất phục, để giữ
vững khí tiết người cộng sản. Mặt khác, họ chống lại những luận điệu buộc
tội của kẻ thù để nêu cao lập trường chính nghĩa. Niềm tin chính là động lực
giúp người chiến sĩ cách mạng vượt qua những đau đớn về thể xác lẫn tinh
thần, vượt qua những cám dỗ và những nhu cầu tầm thường của con người để
hướng đến chân lí mà họ đã phấn đấu, theo đuổi suốt cả cuộc đời. Những điều
này đã đưa họ đến với lí tưởng cộng sản bằng sự say mê và niềm tin mãnh
liệt. Họ là những con người thời đại gắn cả cuộc đời mình với tư tưởng cộng
sản chủ nghĩa.
99
3.2.2.3. Giàu tình cảm
Khi viết hồi kí, các tác giả đã có cái nhìn trải rộng, có sự lựa chọn hợp lí
những nội dung phản ánh nhằm bộc lộ chân thực về hiện thực qua góc nhìn cá
nhân, nhất là khi viết về chính mình và những người đã cùng mình kề vai sát
cánh trong hoạt động cách mạng. Người kể không chỉ ngợi ca tấm lòng yêu
nước, sự kiên trung với lí tưởng cộng sản, khí phách anh hùng trước quân thù
mà còn thể hiện ở những điều rất đỗi đời thường trong các mối quan hệ gia
đình, làng xóm, đồng đội, đồng chí. Từ đó, tác giả cho thấy, họ cũng là những
người có đời sống tâm hồn phong phú, dạt dào tình cảm. Những điều này đã
làm cho hình tượng người cách mạng trong hồi kí trở nên gần gũi, giản dị,
thoát khỏi sự khuôn mẫu, cứng nhắc của kiểu nhân vật lí tưởng một chiều.
Mối tình cảm thường trực trong tâm thức của người cách mạng khi thoát
li để tham gia hoạt động cách mạng là tình cảm đối với gia đình. Họ đã chọn
con đường hiến dâng cuộc đời vì đất nước, nhân dân, nhưng họ không vứt bỏ
những tình cảm riêng tư của mình mà luôn có ý thức dung hòa để có cách
sống đúng đắn. Hơn hết, khi nhớ lại chặng đường đã qua, người cách mạng
thừa nhận, họ đến với cách mạng ban đầu cũng xuất phát từ tấm lòng canh
cánh đối với những người thân. Lưu Động nhớ lại những lời của Đạo – một
đồng chí cùng bị kẻ thù bắt sau trận khủng bố: “Tại vì tớ có vợ, có một con
rồi. Vợ tớ khổ lắm, con tớ nhếch nhác, hôi như cú, bệnh tật liên miên. Tớ
thương vợ thương con, nhưng lương thằng thợ áo rách thì chỉ vừa đủ mua
gạo nấu cháo cho một người húp. Tớ không muốn đời mình cứ sống mãi như
một con trâu gầy mà cứ nai lưng đi cày cho thằng khác hưởng. Tớ cũng
chẳng muốn vợ con tớ sống cực, sống khổ như vậy mãi nên tớ làm cách
mạng” (Bước đầu theo Đảng, Lưu Động). Khi tìm đến với cách mạng, họ chỉ
mưu cầu một cuộc sống công bằng, bình yên, no ấm cho chính gia đình mình.
Những khổ cực hàng ngày của vợ con trở thành mối bận tâm lớn nhất trong
thâm tâm họ. Cũng chính vì vậy, khi rời khỏi những bộn bề trong công tác,
nỗi nhớ gia đình lại trở về da diết. Nương thân nơi quê người để gây dựng cơ
100
sở, chờ cơ hội hoạt động, trong ngày Tết, nghe tiếng pháo rộn vang trong các
khu chợ, nỗi nhớ nhà lại dâng lên trong lòng Nguyễn Tạo: “Tôi ngậm ngùi
suy nghĩ liên miên. Ngày Tết đến càng làm tôi nhớ mẹ tôi, người mẹ yêu tôi,
buồn khóc vì tôi” (Chúng tôi vượt ngục, Nguyễn Tạo). Những tình cảm thiêng
liêng ấy đã được người cách mạng cất giữ, đè nén trong lòng để toàn tâm
hướng nhiệm vụ chung nhưng mỗi khi có sự tác động nào đó nó lại thổn thức
khôn nguôi. Gia đình là nguồn động viên, an ủi, xoa dịu những tổn thương
của họ. Cho dù có những phút yếu đuối, suy nghĩ vẩn vơ nhưng chưa bao giờ
mối tình cảm riêng tư này làm họ lung lạc ý chí. Họ mơ hồ nhận thấy sức
mạnh của tình yêu thương giản dị mà bền chặt để họ không bao giờ từ bỏ ước
muốn đoàn tụ, sum họp.
Trong lúc hỏi cung, tra khảo, kẻ thù thường lợi dụng những tình cảm cá
nhân, tình cảm gia đình của người cách mạng để làm họ mềm lòng, nhụt chí.
Bao nhiêu đòn roi không khuất phục được người cách mạng nên kẻ thù muốn
đem cảnh nhà li tán, đói khổ để mong làm họ chạnh lòng. Người cách mạng
cũng nhận thức được, đây là một trong những điểm yếu của họ. Khi tên mưu
sĩ tay sai đến hỏi chuyện gia đình Trần Hữu Dực, ông đã suy xét và thấy
được: “Nó xoay sang phía tình cảm gia đình. Có vợ, có con thì đã là người tất
có thương, nhớ. Nó định đem cái loại tình cảm mà có người cho là “rất
người” ra để giảng giải và nhử mình theo” (Bước qua đầu thù, Trần Hữu
Dực). Quả thật, khi ấy Trần Hữu Dực có nghĩ đến các con cơm không no, áo
không lành; nghĩ đến vợ mỏi mòn chờ đợi, hi sinh cả tuổi thanh xuân. Chính
ông đã dừng lại trước những nỗi băn khoăn về trách nhiệm đối với gia đình để
tự hỏi phải chăng mình đã thờ ơ, vô tâm trước những đau khổ, cơ cực của
người thân. Trong phút chốc, kẻ thù như đã thắng thế. Tuy nhiên, ông đã trấn
tĩnh và kịp nhận ra, kẻ thù đã lợi dụng điểm này để lung lạc ông. Khi đứng
trước ranh giới phải lựa chọn giữa tình nhà và nợ nước, người cách mạng phải
nén lòng vượt qua tử biệt sinh li để theo đuổi lí tưởng cách mạng. Bà Nguyễn
Thị Thuận nhớ lại cảm giác đau đớn khi phải ngăn cách với đứa con bởi cánh
101
cửa nhà tù đế quốc. Người cách mạng nguyện ý hi sinh nhưng không thờ ơ,
vô cảm trước thâm tình. Điều này làm họ vừa đau đớn, vừa quyết tâm. Bởi
trong hoàn cảnh cách mạng, họ không chỉ lựa chọn một lần. Nhắc đến việc rời
xa đứa con thứ hai, bà Nguyễn Thị Thuận đã xúc động: “Tim tôi đau thắt.
Bao nhiêu lần mật thám tra tấn tôi, bao nhiêu lần tôi chết ngất trước đòn thù,
chưa lần nào tôi đau đớn như bây giờ” (Chị Tư già, Nguyễn Thị Thuận). Họ
không ân hận về quyết định của mình, thế nhưng, những nỗi đau này đã giày
vò tâm can họ dù thời gian đã trôi qua, mọi việc đã trở thành quá khứ. Những
niềm riêng này họ đã từng kìm nén và khi viết hồi kí họ mới có dịp thẳng thắn
chia sẻ, giãi bày.
Không chỉ canh cánh trong lòng tình cảm với gia đình, người cách mạng
còn luôn dành tình cảm cho đồng bào, đồng chí. Đó không phải chỉ là tình
cảm nảy sinh trên lập trường của người cộng sản mà là tình cảm thiêng liêng
giữa người với người. Chứng kiến cảnh đồng bào cơ cực, túng thiếu lại bị kẻ
thù ức hiếp đủ đường, người cách mạng đã bao lần bộc lộ niềm thương cảm,
thậm chí là không thôi tự trách. Trong thời gian trốn khỏi nhà lao, Nguyễn
Tạo đã trải nghiệm cuộc sống của một người nông dân, ông xót xa nhận ra
rằng: “Đời tôi ngày nay mới nếm mùi cực khổ nhưng nhân dân lao động thì
hàng ngàn năm nay, đời đời kiếp kiếp cực khổ chả kém gì tôi ngày nay”
(Chúng tôi vượt ngục, Nguyễn Tạo). Trong thâm tâm, người cách mạng đã
thật sự xem đồng bào là người thân, những nơi họ từng đến để hoạt động là
quê hương của mình. Hà Quế nhớ lại cảm xúc khi thay đổi địa điểm vận động
cách mạng: “Tôi nhìn lại một lần cuối cái khối đen sẫm đằng sau tôi – những
mái nhà tranh chìm trong bóng tối – lòng se lại. Tôi sắp phải xa những người
tuy chẳng là ruột thịt mà quý mến nhau hơn ruột thịt” (Nữ tự vệ chiến đấu,
Hà Quế). Bằng tấm lòng chân thành, người cách mạng đã cảm nhận và thấu
hiểu đời sống của nhân dân. Họ không nhìn nhân dân bằng cái nhìn gắn với
trách nhiệm mà bằng ánh nhìn chan chứa yêu thương. Cho dù thời gian đã trôi
qua, nhưng những nỗi khổ và những tình cảm thân thương dành cho đồng bào
102
vẫn còn vẹn nguyên trong lòng họ. Vì thế, họ thấy cuộc sống của họ ngày
càng có ý nghĩa và không lúc nào cô đơn, lẻ loi dù không có gia đình, người
thân bên cạnh.
Khi tham gia hoạt động cách mạng, nhiều người đã cảm thấy giữa mình
và các đồng chí, đồng đội có một mối cảm tình sâu sắc như ruột thịt. Họ đã cư
xử, đối đãi bằng tình thân. Mỗi khi nhắc đến sự vất vả, gian lao của đồng đội,
người cách mạng như còn giữ nguyên sự lo lắng, bồn chồn. Nông Văn Lạc
nhớ lại khi đồng chí Văn (Võ Nguyên Giáp) bị lộ phải rút vào rừng để tránh
sự lùng bắt của địch, nhiều đồng chí đã không thể nào yên. Đôi khi họ thà
nhận lấy sự nguy hiểm về mình để đồng chí được an toàn còn hơn không phút
nào yên khi chưa có tin tức của người đi báo về. Khi viết hồi kí Những ngày
cuối cùng của anh Hoàng Văn Thụ, Trần Đăng Ninh đã bày tỏ tấm lòng và
nỗi xúc động trước sự ra đi của người đồng chí anh hùng: “Tôi dán mắt vào
khe cửa nhìn mãi theo cái bóng lờ mờ, mảnh khảnh của anh giữa hai hàng
lưỡi lê sáng loáng. Buồn thương, uất ức dào dạt trong lòng. Đôi mắt tôi lâu
nay đã ráo hoảnh trong ngọn lửa đấu tranh cũng tự nhiên rưng rưng lệ”
(Những ngày cuối cùng của anh Hoàng Văn Thụ, Trần Đăng Ninh). Khi gặp
lại đồng chí trong nhà tù thực dân, Lưu Động đã bày tỏ niềm xúc cảm mãnh
liệt: “Đã mười ngày nay chúng tôi phải sống tách rời tập thể, lẻ loi, quằn
quại trong xà lim án chém bây giờ được gặp nhau, nhìn thấy nhau, cười nói
với nhau thật như mười năm xa quê hương, xa người thân thuộc bây giờ mới
lại trở về” (Bước đầu theo Đảng, Lưu Động). Xuất phát từ tình cảm sâu sắc
giữa người với người, tình đồng chí, đồng đội càng được nâng lên đến mức
thiêng liêng. Những người cách mạng trân trọng sự hi sinh của đồng chí,
ngưỡng vọng tài năng và tấm lòng của những người đồng hành trên con
đường giải phóng dân tộc nên họ chấp nhận chia sẻ gian khổ, thậm chí hi sinh
cho nhau mà không cần suy tính.
Tóm lại, trong hồi kí cách mạng, khi khắc họa chân dung tinh thần của
người cách mạng, bên cạnh việc thể hiện những vẻ đẹp mang tính lí tưởng
103
một thời được ngưỡng vọng, người viết còn hướng đến làm nổi bật những vẻ
đẹp giản dị, đời thường. Qua những dòng hồi tưởng, người viết hồi kí đã nhớ
lại sâu sắc những chặng đường trong cuộc đời của mình và những người cùng
thế hệ với mình. Thời niên thiếu chứng kiến nhiều biến động xảy ra trong xã
hội, những thanh niên yêu nước đã nhận thức được thân phận nô lệ của dân
tộc, thấy được sứ mệnh quan trọng mà lịch sử giao phó cho họ. Họ đã vượt
qua nhiều thử thách để đến được với ánh sáng của lí tưởng cộng sản. Từ đó,
mặc dù phải đối mặt với muôn vàn những khó khăn nhưng họ đã thấy cuộc
đời mình đang sang trang mới. Hình tượng người cộng sản chính là “điển
hình” trong văn học cách mạng gắn liền với hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mac-
Lênin: “Hệ tư tưởng này là gắn bó và là vũ khí để thực hiện sứ mệnh xây
dựng một nền văn học mới ở Việt Nam; một nền văn học phục vụ cho nhiệm
vụ số một là cứu nước, giải phóng dân tộc và giải phóng nhân dân ra khỏi chế
độ thuộc địa” (Phong Lê, 2001, trang 142). Các tác giả hồi kí đã thể hiện chân
thực, sinh động hình tượng con người trong thời kì vận động, đấu tranh cách
mạng, đáp ứng đúng với yêu cầu sáng tác đặt ra đối với văn học trong giai
đoạn đất nước có chiến tranh: “Văn học nghệ thuật không thể phản ánh chủ đề
giải phóng cá nhân, ngược lại khuynh hướng miêu tả tập trung là đặt cá nhân
trong thước đo của tiêu chuẩn dân tộc, tập thể” (Nguyễn Khắc Sính, 2005,
trang 79). Mỗi một hình tượng nhân vật trong hồi kí là một điển hình cho
những đức tính, tinh thần và khí phách của dân tộc.
3.3. Nhận thức về những thủ đoạn của thực dân, đế quốc và thân phận
của người Việt Nam
Trải qua hàng trăm năm dưới sự đô hộ của thực dân Pháp, nhân dân ta
phải chịu trăm đắng ngàn cay bởi chính sách cai trị hà khắc và thủ đoạn bóc
lột, đàn áp tàn bạo của kẻ thù. Đứng trên lập trường của dân tộc, nhân dân,
các tác giả hồi kí cũng đã khẳng định: “Chính đế quốc Pháp mới là kẻ ăn
cướp, giết người. Đế quốc Pháp đã cướp nước Việt Nam, cấu kết với phong
104
kiến lập nên một chế độ hà khắc, áp bức bóc lột nhân dân chúng tôi hết sức
dã man tàn khốc” (Trước tòa “đại hình đặc biệt” Sài Gòn, Nhiều tác giả).
Nguyễn Quang Hưng cho rằng: “Với hồi kí, việc “ghi chép” hiện thực một
thời lại diễn ra trong hồi ức, là hiện thực được lựa chọn, và gây ấn tượng sâu
sắc với người kể nên nó luôn ám ảnh, buộc phải viết ra, phải giải tỏa”
(Nguyễn Quang Hưng, 2016, trang 62-63). Cuộc đời người cách mạng và
những gì họ đã chứng kiến được lưu giữ trong những trang viết giàu giá trị
hiện thực. Qua hồi kí, người cách mạng thể hiện sự nhận thức về bộ mặt tàn
bạo, thâm hiểm của kẻ thù với những âm mưu xảo quyệt, đàn áp đẫm máu
phong trào yêu nước và phơi bày những nỗi thống khổ mà nhân dân ta phải
gánh chịu. Những điều này là những kí ức sâu đậm ghi dấu trong thâm tâm họ
trong suốt những năm họ sống và hoạt động cách mạng.
3.3.1. Thủ đoạn của bọn thực dân, đế quốc đối với dân tộc Việt Nam
Thế hệ người Việt Nam sinh ra và lớn lên ở giai đoạn cuối thế kỉ XIX
đầu thế kỉ XX đều không thể quên được những chính sách phản động, những
luận điệu gian trá mà thực dân Pháp đã dùng để cai trị nhân dân ta. Người
cách mạng vừa là những nhân chứng vừa là minh chứng về tội ác của kẻ thù.
Những vết thương trên thân thể họ còn vẹn nguyên dấu tích, những phần thân
thể họ gửi lại trên mảnh đất quê hương và những nấm mồ liệt sĩ trên khắp mọi
miền đã tố cáo tất cả sự tàn độc của kẻ thù. Khi viết công trình Chế độ thực
dân Pháp trên đất Nam kì 1859 – 1954, tập 1, tác giả Nguyễn Đình Tư đã nêu
lên một thực tế, những thế hệ người hiện tại “đã hiểu một cách mơ hồ, thậm
chí không đúng với bản chất của chế độ thực dân Pháp trong quá khứ”
(Nguyễn Đình Tư, 2016, trang 6). Tái hiện về sự bạo tàn của kẻ thù cũng là
nhu cầu của người cách mạng để người đọc nhận thức rõ hơn về hiện thực xã
hội thời họ đã sống và chiến đấu.
Trong nhận thức của người cách mạng, bọn thực dân sử dụng chiêu bài
những người đi khai hóa, là mẫu quốc mong muốn che chở cho nhân dân
thuộc địa. Đó chỉ là luận điệu gian trá nhằm che mắt người dân ở các nước
105
thuộc địa. Những ngón đòn dã man của chúng đã trở thành nỗi ám ảnh đối với
nhân dân: “Hàng ngày nó đem bố ra tra tấn trước mặt con, kìm cặp con trước
mặt bố. Tiếng kêu rên của bố, tiếng thét của con nhiều lúc âm vang cả vách
núi, khe rừng, đọng lại thành những âm thanh não nuột tràn lên cảnh đau
thương của làng bản” (Chuyện làng Mười, Triệu Khánh Phương). Kẻ thù đã
dùng mọi cách, từ dụ dỗ, dọa nạt, tra tấn cho đến việc đàn áp, khủng bố, đưa
những người yêu nước lên máy chém hoặc hành hạ cho chết dần chết mòn vì
bệnh tật, đói khổ. Ghi lại trong hồi kí, những người cách mạng vẫn còn cảm
thấy một nỗi khinh bỉ, bàng hoàng trước sự trơ trẽn của bọn người mang danh
khai hóa, bảo hộ. Không chỉ độc ác, bọn xâm lược và tay sai còn được tái hiện
với sự ngang ngược, hách dịch. Khi viết hồi kí Người trước ngã người sau
tiến, Trường Sinh căm hận nhớ lại: “Bọn thống trị đang thẳng tay bóc lột,
bòn rút xương tủy của nhân dân; chúng tịch thu vàng thật, tập trung tiền
đồng, trưng thu lúa gạo làm cho đời sống nhân dân lâm vào cảnh bần cùng,
bi đát” (Người trước ngã người sau tiến, Trường Sinh). Lưu Động đã vạch
trần sự gian xảo của bè lũ cướp nước thông qua hình ảnh tên Gờ-ra-đi-en-lô –
giám ngục ở Hỏa Lò: “Mồm hắn lúc nào cũng sẵn sàng cái câu “bố tiên sư
mày” như là một câu chào hỏi. Tay hắn không rời chiếc ba toong. Mỗi lúc
ngứa tay, hắn tìm ngay được một cớ để nện cái ba toong đó lên đầu chúng tôi.
Bất cứ là đầu xanh hay đầu bạc. Con người hung hãn ấy lại hay làm ra vẻ tử
tế, nhân hậu. Lúc cần thiết hắn nói, giọng ngọt như mía lùi, hắn có những cử
chỉ mơn trớn, vuốt ve dịu dàng như một người bố hiền nhìn con” (Bước đầu
theo đảng, Lưu Động). Đứng trên lập trường của người cộng sản, người kể đã
nhận thấy, mỗi tên thực dân trên đất nước thuộc địa đều mang nhiều bộ mặt
và giả nhân giả nghĩa là kiểu ứng xử thường thấy của họ. Sự tàn độc của họ
xuất phát từ việc họ không xem người dân thuộc địa là người, muốn tạo ra uy
quyền và chứng tỏ thế lực của mình trong mọi tình huống.
Thực hiện chính sách cai trị ở Việt Nam, thực dân Pháp đã dùng những
luận điệu xảo trá, âm mưu quỷ quyệt để mong thôn tính đất nước ta, mua
106
chuộc, lợi dụng lòng tin của nhân dân ta, gây ra những cảnh chia rẽ dân tộc.
Người dân bao nhiêu năm qua đã cam chịu nỗi khốn khổ như là số phận. Có
than trách thì họ cũng chỉ biết trách tạo hóa và hi vọng vận may sẽ đến với
mình. Các tác giả đã lần lượt chỉ ra tất cả nỗi khổ ấy là do kẻ thù gây nên:
“Bọn cướp nước còn gây ác cảm và khinh miệt giữa các dân tộc. Chúng lại
dung túng cho một số tay chân đi cướp đường, cướp chợ rồi phao là cu li mỏ
đấy, làm cho nông dân với công nhân xa cách, thù hằn nhau” (Ánh sáng đây
rồi, Nông Văn Lạc). Các tác giả hồi kí đã vạch trần tội ác của kẻ thù, khơi gợi
lòng căm thù giặc và ý thức cảnh giác trước âm mưu của kẻ thù, bảo vệ chính
cuộc sống của mình, hướng đến cuộc sống tự do đích thực.
Trong bản Tuyên ngôn Độc lập, Hồ Chí Minh đã tổng kết: “Thế mà hơn
80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến
cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân
đạo và chính nghĩa” (Hồ Chí Minh, 1945, trang 39). Tội ác của kẻ thù không
thể nào kể hết cũng như không làm sao xóa được mối căm hờn trong lòng của
mỗi người dân Việt Nam. Các tác giả muốn lấy điểm để chỉ diện nên dù khơi
lại những chuyện riêng nhưng có sức tố cáo mạnh mẽ.
3.3.2. Sự tàn khốc của chế độ nhà tù thực dân, đế quốc
Khi bàn về nội dung phản ánh tội ác của thực dân, đế quốc ở nước ta,
không thể không nhắc đến mảng hiện thực đen tối diễn ra trong các nhà tù.
Trong tâm thức của người cách mạng, hiện thực về nhà tù là những mảng hiện
thực không hề bị thời gian làm quên lãng, mờ nhạt. Những câu chuyện diễn ra
trong nhà tù là minh chứng hùng hồn cho sự thâm độc của kẻ thù trong khi thi
hành chính sách xâm lược. Ngoài ra, nhà tù chính là nơi thử thách và khẳng
định sức mạnh tinh thần bất diệt và ý chí kiên định không gì lay chuyển được
của người cách mạng. Trong hồi kí Nhớ lại một thời, Tố Hữu nhắc lại những
lời thơ trong bài Trăng trối:
Đời cách mạng từ khi tôi đã hiểu
Dấn thân vô là phải chịu tù đày
107
Là gươm kề tận cổ súng kề tai
Là thân sống chỉ coi còn một nửa
Những trang viết về chế độ nhà tù là bản án đanh thép đối với kẻ thù
bằng minh chứng là bao máu xương của những người Việt Nam yêu nước mà
chúng không thể chối cãi.
Khi phản ánh chế độ nhà tù thực dân đế quốc, trong kí ức chung của
những người cách mạng đã từng bị tù đày, nhà tù thực sự là “địa ngục trần
gian”. Trần Kim Giang sau khi bị bọn đế quốc đưa qua nhiều nhà lao, đã khái
quát nên bối cảnh chung của nhà tù: “Qua thực tế, tôi nhận thấy các đồng chí
bị bắt không mấy người thoát khỏi cùm kẹp, tra tấn. Rất nhiều đồng chí đã bị
bỏ mình vì chế độ hà khắc của nhà tù đế quốc: đói, rét, ốm lao đã giết rất
nhiều cán bộ” (Trường quân chính trong nhà tù Sơn La, Trần Kim Giang).
Người cách mạng vốn yêu tự do, hăng hái hoạt động, nay phải bị giam cầm
trong cảnh tối tăm. Tố Hữu nhớ lại: “Chưa bao giờ tôi thấy ghê tởm như sống
trong cảnh đi đày ở Lao Bảo: ở trong hầm ngột ngạt, hôi thối, lao lực, ăn đói,
mặc rét, lại còn bị đánh đập rất tàn nhẫn” (Nhớ lại một thời, Tố Hữu). Ở mỗi
nhà tù, bọn thực dân có phương thức khác nhau trong cách cư xử với tù nhân,
đặc biệt là tù chính trị. Và điều còn đọng lại trong tâm thức của họ là nỗi ám
ảnh bởi sự tàn bạo, mất nhân tính của kẻ thù.
Nhà tù là nguyên nhân của bao cảnh tử biệt sinh li, cảnh mất mát hi sinh
của đồng chí, đồng đội không gì có thể bù đắp được. Trần Huy Liệu đã nêu
lên một thực tế: “Quả nhiên, đoàn chính trị phạm đưa lên Sơn La năm 1933
chỉ trong sáu tháng đã chết gần 40 người. Đây mới chỉ kể những người chết
tại chỗ, vùi xác tại gốc ổi Sơn La, chớ chưa kể những người từ Sơn La tản đi
với thân hình da bọc xương rồi sau đó không lâu, chết ở Hỏa Lò Hà Nội hay
Côn Đảo” (Dưới hầm Sơn La, Trần Huy Liệu). Dù đã rèn luyện cho mình có
một tinh thần thép, nhưng những cảnh chết chóc, sự hi sinh thương tâm của
đồng chí đối với họ vẫn là sự dằn vặt, xót xa. Sau khi nếm trải đủ mùi gian
khổ trong tù, Nguyễn Đức Thuận nhớ lại mấy vần thơ nói lên tâm trạng của
108
mình trong ngày đầu năm:
Lần này trở lại đảo Côn Lôn
Chế độ giam cầm khủng khiếp hơn
Cơm muối nửa lưng ăn xót ruột
Quần đùi một mảnh lạnh ghê xương
Ngày đêm đánh đập thân tàn phế
Bó gối co ro ngủ chập chờn…
Các tác giả đã tái hiện một hiện thực bi thương. Lịch sử đã ghi nhận
những chiến công hiển hách phải đổi bằng xương máu và chính những chính
trị phạm mới thấm thía giá trị của sự tự do.
Kẻ thù đã cố tình tạo nên một cuộc sống thiếu thốn, kham khổ về vật
chất để giết dần, giết mòn người cách mạng, hòng lung lạc tinh thần và ý chí
chiến đấu của họ. Trần Độ kể: “Lúc đó, bọn đế quốc cho chúng tôi ăn rất tệ
hại: cơm thì nấu lẫn với vôi, nước suýt trâu pha nước lã, cá mà con luộc còn
sống, rau muống già lẫn đỉa, rau cần lẫn trứng cóc, cá mắm có dòi, đậu phụ
có cả thạch sùng nằm trong v.v” (Câu chuyện vượt khỏi nhà tù đế quốc, Trần
Độ). Hoàng Quốc Việt nhớ lại những ngày đầu đến Côn Đảo: “Nước ngoài
này gay go lắm, sáng rửa mặt thì mắt mờ, súc miệng thì răng long đấy […].
Ăn lại càng cực hơn nữa. Rau muống dài hàng thước không rửa, cứ thế mà
ném vào chảo” (Tinh thần Phạm Hồng Thái, Hoàng Quốc Việt). Dù họ chưa
dùng súng, chưa dùng đến cực hình nhưng cuộc sống khốn khổ, bẩn thỉu
trong lao ngục đã cướp đi sinh mạng của biết bao người Việt Nam yêu nước.
Tình cảnh ấy có thể làm cho người ta hãi hùng, kinh sợ đến mức chỉ muốn
thoát thân và đó là mục đích của kẻ thù. Chúng muốn nhà tù trở thành nỗi ám
ảnh trong tâm thức của người cách mạng, để họ chùng chân, lo sợ, không dám
trở lại với cuộc đấu tranh. Nhưng thực tế, người tù đã lường trước mọi gian
khổ và luôn trong tâm thế sẵn sàng đương đầu.
Tình thế khôn lường của những cuộc đấu tranh gian khổ trong nhà tù đã
đặt người chiến sĩ cách mạng vào những hoàn cảnh dở khóc dở cười. Trần
109
Đăng Ninh nhớ lại cảnh cả trại giam ai cũng không có mảnh vải che thân:
“Thời gian này ở Hỏa Lò diễn ra một cảnh mới lạ: ăn đói và ở truồng. Quần
áo chỉ có nhất bộ. Một khi rách rưới mướp như xơ nhộng thì cố nhiên chúng
tôi đều khỏa thân theo đúng văn minh của Hitler” (Hai lần vượt ngục, Trần
Đăng Ninh). Trần Huy Liệu trích câu thơ của Nguyễn Du “Đoạn trường ai có
qua cầu mới hay” để nói lên tình cảnh của người tù bởi ông tự nhận thấy ngòi
bút của mình không thể tả hết, kể hết những điều đã chứng kiến. Trần Huy
Liệu không ngại ngần bộc bạch: “Tôi nhớ năm xưa nhịn đói tại Khám Lớn Sài
Gòn, đôi lúc nhìn đôi giày da treo ở tường, đã tưởng tượng ăn nó bằng cách
thái nhỏ từng miếng xào với mỡ và nhai như nhai cá mực nướng” (Dưới hầm
Sơn La, Trần Huy Liệu). Trốn khỏi nhà tù, Nguyễn Tạo và các đồng chí của
mình phải đối mặt với nhiều thử thách. Những dòng hồi ức của ông đã lột tả
nỗi thống khổ của người cách mạng sau những ngày bị giam cầm: “Giá có ai
trông thấy chúng tôi thì thấy một lũ người không phải người mà ngợm không
phải ngợm, năm bộ xương bọc một lớp da trắng bủng, mặt xanh nhợt chỉ còn
thấy hai con mắt, đầu trọc tếu, quần áo xốc xếch, ướt lướt thướt. Thật thương
tâm mà cũng đến buồn cười!” (Chúng tôi vượt ngục, Nguyễn Tạo). Khi hành
hạ tinh thần và thể xác người cách mạng, kẻ thù muốn họ trở nên dị hợm
trong mắt người đời, để họ chán nản, từ bỏ lí tưởng mà mình đã theo đuổi.
Thế nhưng, kẻ thù chỉ nhận được thái độ dửng dưng, thờ ơ. Nhìn lại chặng
đường đã trải qua người cách mạng nhận thấy họ đã hành động cương quyết
và đúng đắn khi đối diện với gian khó để không sa ngã, thất bại.
Sự sống và cái chết chỉ cách nhau trong gang tấc khi bọn chủ ngục coi
sinh mạng của người cách mạng rẻ rúng. Viết về thời gian bị giam cầm,
Nguyễn Văn Nguyễn không làm sao quên được tình cảnh hi sinh thương tâm
của những người bạn tù sau bốn tháng ở Côn Lôn: “Năm người chết, trong ấy
chỉ có Xuân và Chiểu nát tan, hóa ra hai đống thịt tòn ten dính theo xương,
phải bỏ chung một bao bố tời đem về nghĩa địa. Đến nơi, người ta bỏ ra hai
đống thịt bỏ vào hai cái hòm, moi đất, cắm thẻ, đề số đính bài của Xuân và
110
Chiểu kĩ lưỡng, rồi lấp đất lại thành hai cái mả hẳn hoi của tù. Thật ra, trong
hai mả ấy, không ai biết đâu là Xuân, đâu là Chiểu” (Đảo Côn Lôn, Nguyễn
Văn Nguyễn). Nguyễn Văn Nguyễn tố cáo trực diện tội ác của kẻ thù khi
chúng cố tạo ra những hình thức khổ sai vô lí để giết dần những người cách
mạng. Thi thể không được vẹn nguyên không chỉ là nỗi đau đớn của người
ngã xuống mà còn trở thành niềm ẩn ức trong lòng của người đang sống.
Chúng muốn dùng sinh mạng của chính trị phạm để đánh đòn tâm lí, răn đe
những người còn nuôi ý định chống trả. Tố Hữu nhớ lại tình cảnh của người
bạn tù Lê Thế Tiết: “Hôm đó là một ngày cuối năm 1940, địch phát hiện ra
một điều gì đó trong một lá thư nhà gửi cho anh Lê Thế Tiết. Tên Đồn liền gọi
anh lên và đánh đá rất dã man. Anh bị một quả đấm quá mạnh, ngã đập đầu
vào một góc bàn, vỡ sọ chết ngay tại chỗ” (Nhớ lại một thời, Tố Hữu). Kẻ thù
không để cho người tù cách mạng quyền được thanh minh, biện hộ cho mình.
Thần chết chực chờ, rình rập, hiện thân trong mỗi tên mật thám, mỗi quan chủ
ngục.
Một thực tế mà khi viết hồi kí, những nhà hoạt động cách mạng không
hề phủ nhận là đã có một bộ phận người vì sợ hãi trước sự tra tấn, hành hạ mà
cam tâm làm tay sai, chỉ điểm cho giặc, bán đứng tổ chức, đưa đồng đội vào
vòng lao lí, phá vỡ sự kết nối của các cơ sở cách mạng. Khi kể về điều này,
người cách mạng vừa căm hận vừa đau xót; đồng thời, phân tích và lí giải
những nguyên nhân chủ quan, khách quan để người đọc có sự nhận thức sâu
sắc hơn về đời sống đấu tranh cách mạng.
Ở nước ta, có nhiều công trình tìm hiểu về nhà tù thực dân, đế quốc, phơi
bày những cảnh tàn khốc, thương tâm mà người tù phải gánh chịu. Thế
nhưng, bản thân người tù cách mạng lại càng thấu hiểu những bất công mà họ
phải gánh chịu, am tường âm mưu, sự quỷ quyệt của kẻ thù nhưng họ lại
không thể vạch trần, phản kháng, đặc biệt là họ đi tù nhưng không hề thấy
mình có tội. Hơn hết, kẻ thù đánh vào tâm lí người cách mạng, họ luôn ấp ủ,
nung nấu lí tưởng nhưng không có tự do để hoạt động cách mạng, sớm giải
111
phóng dân tộc khỏi ách nô lệ. Chế độ nhà tù của thực dân, đế quốc không chỉ
hành hạ họ bởi roi đòn mà còn gây nên áp lực rất lớn đối với những người
Việt Nam yêu nước khi họ phải nhìn cơ sở bị phá vỡ và những đồng chí thân
yêu lần lượt ra đi. Những điều này đã được thể hiện khá rõ nét qua các hồi kí.
3.3.3. Thân phận của người Việt Nam trong cảnh đời nô lệ
Hồi kí cách mạng không chỉ cung cấp những thông tin mang tính tư liệu
về lịch sử cách mạng Việt Nam mà còn bộc lộ thái độ của người viết khi nhìn
lại quá khứ. Trong đó, rất nhiều trang viết đã tác động sâu sắc đến người đọc
khi phác họa lại thân phận của nhân dân ta trong cảnh đời nô lệ. Chính bản
thân người viết cũng đã từng nếm trải trăm đắng ngàn cay, chứng kiến bao bất
công ngang trái mà người thân, bạn bè, đồng bào của mình phải chịu dưới sự
cai trị của quân xâm lược. Khi họ viết hồi kí, từng cuộc đời, từng số phận hiển
hiện trên trang viết. Khi bàn về vấn đề “Nghệ thuật hay chính trị”, nhà văn
Đức Bectôn Brêcht đã nêu lên kinh nghiệm được đúc kết từ chính cuộc đời
sáng tác của mình: “Làm sao mà nghệ thuật có thể làm xúc động được con
người nếu như bản thân nó không xúc động trước số phận của con người”
(Nhiều tác giả, 1983, trang 107). Thân phận của nhân dân ta quả thật đã được
nhắc lại trong hồi kí bằng tất cả nỗi xót xa và thấu cảm của tác giả.
Các tác giả tỏ ra bất bình khi nhân dân quanh năm vất vả mà vẫn thiếu
ăn vì phải nộp thuế, nộp sưu vô lí cho kẻ thù rồi lại trở thành người làm thuê
trên ruộng đất dày công khai phá bao đời. Hồi kí Ánh sáng đây rồi được mở
đầu bằng những trăn trở của Nông Văn Lạc: “Châu Nguyên Bình tỉnh Cao
Bằng núi rừng trùng điệp có nhiều mỏ quý: thiếc, chì, vàng ở Tỉnh Túc, Phia
Khao, Tài Xoỏng. Thật là mỉa mai, nhân dân các dân tộc cứ nai lưng làm cho
Tây không kể ngày đêm, thế mà dân ta vẫn nghèo xơ xác.[…] Ruộng Bình
Nguyên cũng khá nhiều. Thế mà nhiều nhà không có nổi đám ruộng để cắm
dùi” (Ánh sáng đây rồi, Nông Văn Lạc). Ông đã nhiều lần băn khoăn, căm
tức khi chứng kiến người dân quê mình bị hà hiếp, bị chia rẽ nhưng chẳng
dám kêu than, chẳng dám đấu tranh vì sức yếu thế cô, sợ liên lụy gia đình. Ý
112
thức về một cuộc đời công bằng, bình đẳng, mơ ước về một cuộc sống ấm no
đã hun đúc trong lòng ông một mối căm thù và khát khao muốn thay đổi cuộc
đời. Tố Hữu cũng nhận thấy được những ngang trái trong xã hội ngay từ khi
còn nhỏ. Trong khi những người dân nghèo đói quanh năm: “Bữa ăn thường
khoai sắn, hiếm hoi lắm mới có một bữa cơm” thì bọn quan lại “đi đâu cũng
ầm ĩ. Chúng đi, vợ con cũng đi, quần là áo lượt có lính lệ cầm điếu chạy
theo” (Nhớ lại một thời, Tố Hữu). Chứng kiến cảnh người dân khốn khổ vì
nghèo đói lại còn bị quan lại đánh đập, hành hạ, Tố Hữu phẫn uất khi cuộc
sống hiện tại có nhiều bất công. Trong hồi kí Rồi ba được vào Đảng, người
thanh niên Nguyễn Chí Thanh đã từng bức bối, căm tức: “Lạ thật, cuộc đời
sao mà lạ thật, sao lại có “kẻ ăn không hết, người lần chẳng ra?” Sao lại có
những thằng chẳng làm đếch gì mà sung sướng, lại có thằng làm chết xác mà
chạy bữa hôm, thiếu bữa mai?” (Rồi ba được vào Đảng, Chánh Thi). Chứng
kiến điều đó, những thanh niên có tình yêu quê hương, yêu dân tộc luôn đau
đáu không yên. Trần Dân Tiên đã phác họa nỗi lòng của chàng thanh niên
Nguyễn Tất Thành: “Khi Chủ tịch Hồ Chí Minh còn là người thiếu niên mười
lăm tuổi, người thiếu niên ấy đã sớm hiểu biết và rất đau xót trước cảnh
thống khổ của đồng bào” (Người đi tìm đường cứu nước, Trần Dân Tiên). Họ
đã cảm nhận được những ngang trái do chính sách hà khắc của kẻ xâm lược.
Đồng thời, khi họ nhận thức được nguyên nhân của nỗi thống khổ thì họ
không khoanh tay, thờ ơ đứng nhìn. Những nhận thức ban đầu này phải chăng
là nền tảng của quyết tâm sống và chiến đấu vì lí tưởng cách mạng sau này
của họ.
Các tác giả khẳng định, dưới sự cai trị của thực dân, nhiều gia đình phải
lâm vào tình cảnh sinh li tử biệt. Khi viết hồi kí Nhớ lại một thời, Tố Hữu vẫn
còn cảm thấy nỗi nghẹn ngào trước hoàn cảnh của Lung – người bạn tù mới
quen khi nghe anh nhắc đến tiếng rao của một cô bé ngang qua nhà tù: “Con
gái út của tao đó, nó mới tám tuổi mà đêm nào cũng phải mang bánh đi bán
cho mẹ. Hắn biết tao ở trong này nên cố ý rao to cho tao nghe đó. Có đứt ruột
113
không chớ” (Nhớ lại một thời, Tố Hữu). Chỉ cách nhau gang tấc nhưng bức
tường nhà lao của thực dân đã cắt lìa biết bao thâm tình. Tiếng rao ấy là tiếng
gọi của tình phụ tử thiêng liêng đang bị chia lìa, là khát vọng tự do của người
cách mạng. Những âm thanh đời thường ấy tượng trưng cho cuộc sống giản
đơn của người dân đang bị kẻ thù dùng bạo quyền để đánh cắp. Có những
người may mắn được trở về nhưng lại phải canh cánh nỗi đau vì sự tang
thương, vì chứng kiến cảnh kẻ mất người còn. Hoàng Quốc Việt trở về quê
hương Bắc Ninh sau những năm tháng tù đày và không khỏi xót xa trước tình
cảnh của gia đình, làng xóm: “Về đến nhà thì gia đình tan nát gần hết. Bố tôi
ngoài tám mươi tuổi đã mất từ năm trước. Hai người anh tôi cùng chết sớm.
Hai ông anh làm trên mỏ Cẩm, đã mấy năm rồi, không về nhà. Còn một
người anh ở quê thì nghèo xơ nghèo xác. Bà con hàng xóm, nhà nào nhà ấy
sa sút hơn trước nhiều” (Tinh thần Phạm Hồng Thái, Hoàng Quốc Việt).
Nhiều người vì cuộc sống khốn khó phải chấp nhận tha hương và không ít
người trong số họ vĩnh viễn không còn được đặt chân lên mảnh đất quê nhà,
đoàn tụ với gia đình. Tôn Đức Thắng không khỏi xót xa nhớ lại khi cùng
những người thợ xưởng Bason sang đất Pháp và chứng kiến từng người một
đã nằm lại nơi quê người với niềm hoài vọng cố hương: “Tự tay mấy anh em
khiêng Ba Sứ xuống tàu trở về Toulon, mai táng tại nghĩa trang ở ngoại ô
thành phố, bên trên núi cao, đặt Ba Sứ nhìn về hướng Đông Nam, nơi quê
hương xứ sở” (Một số mẩu chuyện về bác Tôn – Lê Minh). Hơn 400 người
Việt Nam trên con tàu lênh đênh, tương lai mờ mịt trong khi quê hương thân
thuộc đang ngày một xa xôi và ngày trở về thì không biết đến bao giờ. Trong
hồi kí Chị Tư già, nhiều cảnh đời, nhiều số phận thương tâm được tái hiện.
Trong đó, có thân phận những người đi phu: “Được mươi lăm đồng bạc, bộ
quần áo với chiếc áo tơi, thế là suốt đời bán sới, không còn bao giờ được về
làng nước” (Chị Tư già, Nguyễn Thị Thuận). Chính chị Nguyễn Thị Thuận
đã trải qua nỗi đau, niềm trăn trở không nguôi khi phải bỏ lại đứa con chưa
đầy tháng lại nhà tù để trở về với tổ chức. Giữa tình mẹ con và trách nhiệm
114
chung, chị đã không thể vẹn tròn nên chỉ còn cách bỏ lại tình riêng. Cánh cửa
nhà lao đã ngăn lìa tình mẫu tử thiêng liêng và niềm hi vọng được đoàn tụ,
sum họp ngày càng xa vời, vô vọng.
Nhân dân Việt Nam còn phải chịu sự đàn áp, hành hạ, bóc lột đến cùng
cực của kẻ thù. Khi gặp gỡ những người Tày trong lần dự Quốc dân Đại hội ở
Tân Trào, Nguyễn Lương Bằng đã không thể nào quên nỗi khổ sở hằn sâu
trên từng con người, từng gương mặt: “Đồng bào ta đã bị chiến tranh bòn
mót đến xương tủy, ai nấy đều tiều tụy, rách rưới. Đáng thương nhất là các
em bé thiểu số gầy gò, vàng vọt” (Nhờ dân nhờ Đảng mà trưởng thành,
Nguyễn Lương Bằng). Nông Văn Lạc cũng nhận thấy tình cảnh khốn khổ của
nhân dân Cao Bằng: “Thuế thân, thuế điền thổ tăng vùn vụt. Phu lấy củi, rào
đồn, làm sân bay, làm đường, thỉnh thoảng khiêng về làng một vài người,
người thì gãy xương, người thì đã chết cứng” (Ánh sáng đây rồi, Nông Văn
Lạc). Dương Đại Lâm sau khi gặp Bác, được Bác dìu dắt, được kết nạp vào
Đảng cộng sản đã rưng rưng, xót xa khi nhớ lại tình cảnh trước đây của mình
và đồng bào mình: “Trong những năm thiếu cơm ăn, quần áo không đủ mặc,
lại thêm nạn phu phen tạp dịch nặng nề, không kể người đau ốm hay đang lúc
mùa màng, tết nhất, hễ quan Tây gọi là phải đi ngay, nếu chậm là bị phạt
tiền, bị đánh đập, mà cuối cùng vẫn phải đi phu” (Pác Bó quê tôi, Dương Đại
Lâm).
Trong hồi ức của những người cách mạng, bao nhiêu cảnh thương tâm
của nhân dân ta ùa về. Họ đã kể và phân tích bằng tâm thế của một người đã
chứng kiến và thực sự trải nghiệm. Bởi vì bản thân họ, người thân của họ
cũng chính là nạn nhân. Người cách mạng đã dám bước đi để đến được với lí
tưởng cao đẹp nhưng nhân dân vẫn chưa thoát khỏi sự kìm kẹp, đàn áp của kẻ
thù. Đây là nỗi trăn trở và cũng là mối bận tâm của họ khi tiến hành cách
mạng giải phóng dân tộc. Lê Ngọc Trà quan niệm: “Nghệ sĩ thực sự thường
không phải chỉ hồ hởi, kiêu hãnh nhìn những đội quân rầm rập diễu hành qua
quãng trường mà còn nhìn thấy cả những giọt nước mắt của người mẹ mất
115
con, người thương binh trong giờ phút chung vui ấy” (Lê Ngọc Trà, 1987,
trang 32).
3.4. Giáo dục, đúc kết những bài học có ý nghĩa quan trọng
Hơn 40 năm nước nhà sạch bóng quân thù, nhân dân sống trong cảnh
thanh bình, bốn bề lặng im tiếng súng, thế nhưng những chặng đường cách
mạng đã đi qua chưa bao giờ phai nhòa trong tâm thức của dân tộc, đặc biệt là
đối với những người trong cuộc. Khi đọc các hồi kí viết về thời kì thành lập
Đảng, vận động cách mạng trong thời gian hoạt động bí mật, chúng ta càng
thấy rõ sự gửi gắm của người viết đối với các thế hệ độc giả. Trong công trình
Giáo trình lịch sử văn học Việt Nam tập 6 (1945 - 1960), nhà nghiên cứu
Huỳnh Lý và Trần Văn Hối cho rằng: “Đoạn đường cách mạng đã qua ấy sẽ
soi sáng thêm cho con đường mà dân tộc ta đang tiến bước, nâng cao lòng tin
tưởng ở ngày nay và ngày mai, bồi dưỡng ý chí quyết tâm phấn đấu cho sự
nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo” (Huỳnh Lý, Trần Văn Hối, 1962, trang
307). Đây chính là một trong những giá trị căn bản mà các tập hồi kí cách
mạng đem lại.
3.4.1. Giáo dục lí tưởng cách mạng và tình yêu quê hương đất nước
Hồi kí cách mạng chủ yếu được sáng tác sau gần 20 năm cách mạng
tháng Tám thành công. Lúc này, nhân dân ta đang phải đương đầu cùng đế
quốc hùng mạnh với vũ khí tối tân và dã tâm muốn thôn tính triệt để nước ta.
Bởi thế, những người cách mạng thấy cần phải trang bị cho nhân dân ta sự
vững vàng về tư tưởng cũng như niềm tin và quyết tâm chiến đấu. Trần Văn
Tình cảm và tư tưởng yêu nước là tình cảm và tư tưởng lớn nhất của nhân
dân, của dân tộc Việt Nam" và “chủ nghĩa yêu nước là sợi chỉ đỏ xuyên qua
toàn bộ lịch sử Việt Nam từ cổ đại đến hiện đại. Ở đây, bản chất Việt Nam
biểu lộ đầy đủ và tập trung nhất, hơn bất cứ chỗ nào khác. Yêu nước trở
thành một triết lí xã hội và nhân sinh của người Việt Nam (Trần Văn Giàu,
1993, trang100-101).
Giàu khẳng định:
116
Vì vậy, họ đã dùng chính cuộc đời tham gia cách mạng của mình cũng
như khơi gợi lại quá khứ với những chiến thắng vang dội của công cuộc cách
mạng để giáo dục, cổ vũ quân và dân ta.
Hồi kí cách mạng phản ánh quá trình vận động cách mạng, thay đổi nhận
thức chính trị, xóa bỏ chế độ phong kiến hàng ngàn năm. Chính vì lẽ đó, lòng
yêu nước phải gắn liền với lí tưởng cách mạng. Các tác giả hồi kí nêu lên một
quan niệm mang tính định hướng cho dân tộc về lòng yêu nước trong công
cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc xâm lược. Trong hồi kí, Lê Tùng
Sơn đã chỉ ra đường hướng hoạt động, nhiệm vụ của chi bộ Vân Quý (chi bộ
thành lập ở Trung Quốc) trong cuộc cách mạng chống Pháp trước đây: “mang
lí luận cách mạng vô sản và chủ nghĩa yêu nước giáo dục cho đồng bào, tập
hợp họ dưới ngọn cờ của Đảng” (Nhật kí một chặng đường, Lê Tùng Sơn).
Nhờ đó, nhân dân không còn hoang mang, không còn cảm thấy băn khoăn
trước sự tuyên truyền của nhiều luồng tư tưởng khác nhau. Người cách mạng
còn nhắc đến một số hoạt động có ý nghĩa thiết thực mà họ đã được chứng
kiến trong khi tham gia hoạt động ở các cơ sở, học tập ở các lớp huấn luyện.
Trong đó, cách thức tuyên truyền, giáo dục cách mạng và tình yêu quê hương
đất nước của đồng chí Văn (Võ Nguyên Giáp) đã gây ấn tượng mạnh mẽ đối
với nhân dân ở Cao Bằng. Điều này được Nông Văn Lạc nhắc lại: “Đặt bí
danh cho người, cho địa phương như đặt tên là Trung Kì, Bắc Kì, Nam Kì sẽ
làm cho quần chúng biết được giặc Pháp chia nước ta làm ba kì. Đặt tên là
Trưng Trắc, Trưng Nhị, Đề Thám, Quang Trung, Lê Lợi, Hưng Đạo, Việt
Nam... để giáo dục truyền thống đất nước có nhiều anh hùng dân tộc chống
ngoại xâm” (Ánh sáng đây rồi, Nông Văn Lạc). Mỗi người cách mạng bằng
kinh nghiệm thực tiễn của mình đã nêu lên những cách thức giúp cho việc
giáo dục lí tưởng, giáo dục lòng yêu nước một cách thuận lợi và rộng rãi trong
nhân dân.
Qua quá trình nhận thức lịch sử dân tộc, chiêm nghiệm thực tế cách
mạng, tác giả hồi kí đã khẳng định: lòng yêu nước là mạch nguồn tự nhiên
117
trong những mạch nguồn tình cảm của con người Việt Nam qua nhiều thế hệ.
Do đó, để giáo dục lòng yêu nước, những nhà cách mạng đã khơi gợi lại
những tấm gương trong lịch sử dân tộc. Tự bản thân họ nhận thấy rằng, lòng
yêu nước ở họ cũng được hun đúc bằng những tấm gương, những câu chuyện
kể trong lịch sử. Lê Minh bày tỏ: “Những hành động lớn lao chống đối quân
xâm lược đến cùng của những vị anh hùng dân tộc, đã phảng phất trong lòng
cậu bé Thắng một ý thức yêu nước nung nấu” (Một số mẩu chuyện về bác
Tôn, Lê Minh). Các tác giả hồi kí muốn nhắc nhở, chúng ta có quyền tự hào
và có trách nhiệm làm cho ngọn lửa của lòng yêu nước bùng cháy mãnh liệt,
nhất là khi đất nước có giặc ngoại xâm. Trong hồi kí Ánh sáng đây rồi, Nông
Văn Lạc nhớ lại lời của đồng chí Sơn Hùng nói trong cuộc mít-tinh: “Nhân
dân ta rất anh hùng. Từ xưa đã có những ông lãnh đạo nhân dân chống ngoại
xâm như ông Lê Lợi, ông Hoàng Hoa Thám. Phụ nữ có chị em bà Trưng
Trắc, Trưng Nhị, bà Triệu Ấu” (Ánh sáng đây rồi, Nông Văn Lạc). Từ những
trang sử hào hùng của dân tộc, những người cách mạng hướng đến giúp nhân
dân vững tin vào khả năng của mình, củng cố tinh thần yêu nước.
Để giáo dục lí tưởng cách mạng và lòng yêu nước, người kể đã cho thấy
quá trình giải phóng dân tộc là một quá trình gian khổ, đòi hỏi sự quyết tâm,
đoàn kết nhất trí của tập thể. Họ đã đúc kết được rằng, cứu nước là trách
nhiệm chung của tất cả mọi người, điều này giúp nhân dân ta nhận thức được
vai trò, sứ mệnh trong việc bảo vệ đất nước cũng như bảo vệ cuộc sống của
chính mình. Trong kinh nghiệm của người kể, lí tưởng cách mạng là cơ sở
vững chắc, là động lực mạnh mẽ của lòng yêu nước. Khi chưa được giác ngộ,
chưa nhận thức đúng đắn về lí tưởng cách mạng, lòng yêu nước và những
định hướng thể hiện lòng yêu nước trong con người mơ hồ, thậm chí rơi vào
không tưởng. Lí tưởng cách mạng được những người lãnh đạo cụ thể hóa
thành những đường lối, chủ trương, phương hướng hoạt động giúp cho nhiều
thanh niên, trí thức, quần chúng hiểu thấu đáo về hoàn cảnh đất nước, tình
hình trong nước và trên thế giới để biến lòng yêu nước thành hành động cụ
118
thể, đúng đắn. Những thanh niên được nhắc đến trong hồi kí Ánh sáng đây rồi
của Nông Văn Lạc đã tỏ ra phấn khởi và vững tin vào con đường cách mạng
khi được đồng chí Văn (Võ Nguyên Giáp) về huấn luyện tận địa phương: “Ai
cũng thấy mình đã biết hướng đi như có cái gậy chống cho khỏi vấp váp”,
“Đã bỏ công đi tìm cách mạng nay thấy con đường đi rồi, tôi quyết đi làm
cách mạng đến cùng” (Ánh sáng đây rồi, Nông Văn Lạc). Những lời tâm
huyết của người cách mạng đã giúp cho nhân dân càng thêm tin tưởng vào
tương lai của đất nước, để họ hăng hái trong hoạt động cách mạng cũng như
tự học hỏi, phát triển bản thân. Chính những người cách mạng là tấm gương
để nhân dân soi rọi và tự điều chỉnh mình.
Có thể thấy rằng, các tác giả đã khẳng định tính đúng đắn của con đường
cách mạng vô sản. Chính vì vậy, việc kết hợp giáo dục lòng yêu nước với
giáo dục lí tưởng cộng sản được thể hiện khá rõ nét. Các tác giả đã minh
chứng được điều đó từ những thắng lợi trong lịch sử cách mạng dân tộc. Đồng
thời, khi đến với người đọc, các tập hồi kí còn có ý nghĩa cổ vũ, động viên và
định hướng cho cuộc chiến tranh vệ quốc đang diễn ra. Cho đến hôm nay,
những trang viết này vẫn có giá trị trong việc giáo dục lòng yêu nước và định
hướng lí tưởng cho người Việt Nam, nhất là thế hệ trẻ. Lòng yêu nước, quyết
tâm bảo vệ đất nước luôn luôn phải là tâm niệm có trong mỗi người. Có như
vậy, nhân dân ta mới nâng cao sự cảnh giác trước những âm mưu và toan tính
của các thế lực kẻ thù.
3.4.2. Những bài học kinh nghiệm trong hoạt động cách mạng
Hồi kí cách mạng là nguồn tài liệu quý giá bởi nó được ghi nhận từ
những nhân chứng sống của một giai đoạn lịch sử nhiều thử thách. Họ không
chỉ kể lại những kỉ niệm của mình, tái hiện lại những sự kiện lịch sử mà bản
thân đã chứng kiến, tham gia, họ còn nêu lên những kinh nghiệm xương máu
trong thời gian hoạt động cách mạng. Những kinh nghiệm này sẽ là những bài
học quý báu để bản thân họ và các thế hệ sau tiếp tục vận dụng vào những
tình huống khác nhau của dân tộc, của đất nước.
119
Những người cách mạng đã phải vượt qua một hành trình khó khăn để
đến được với lí tưởng cộng sản và tiến hành thành công cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc. Nhớ lại khoảng thời gian ấy, các tác giả đã đúc kết và khẳng
định, việc giữ gìn bí mật và cảnh giác là nguyên tắc quan trọng của người làm
cách mạng. Lê Quảng Ba khẳng định: “Nếu không cảnh giác và luôn luôn
kiểm tra việc giữ gìn bí mật của mình cũng như của quần chúng, thì công tác
cách mạng ở đó không khác nào “dã tràng xe cát”, không những không đảm
bảo được phong trào tiến lên, đấu tranh thắng lợi mà nhất định sẽ gặp nhiều
khó khăn nếu không phải là bị địch “cất vó”” (Bác Hồ ở Pác Bó, Lê Quảng
Ba). Khi tổ chức Đảng chưa lớn mạnh, cơ sở cách mạng còn chưa vững vàng,
người cách mạng đã cùng với nhân dân bảo vệ an toàn, bí mật cho cán bộ và
cơ sở. Đây là một trong những yếu tố giúp cho cơ sở cách mạng vững chắc,
lan rộng trong nhân dân mà kẻ thù không thể nào ngờ được. Trong khi gây
dựng các phong trào ở địa phương, để đảm bảo bí mật, người cách mạng phải
xóa bỏ tất cả mọi dấu vết liên quan đến hoạt động, liên quan đến tổ chức. Khi
kể những câu chuyện trong hồi kí Hai lần vượt ngục, Trần Đăng Ninh nhiều
lần nhấn mạnh vấn đề này. Lê Quảng Ba cũng kể: “Khi đi đường chúng tôi
chú ý không làm nát cỏ cây ở ven đường, có quãng chúng tôi đi vòng vào
rừng rồi lại đi ra đường mòn... Có lúc chúng tôi không đi trên đường mà đi
xuống lòng suối để tránh vết chân. Chúng tôi tìm mọi cách để giữ gìn không
để có những dấu vết mà địch có thể theo dõi được” (Bác Hồ ở Pác Bó, Lê
Quảng Ba). Nhờ như vậy, những người cách mạng đã sống với đồng bào,
giữa sự bao vây, lùng bắt của địch mà vẫn an toàn. Họ nhận thấy, nhân dân tin
tưởng họ bởi sự cẩn trọng, chu đáo từ những việc nhỏ nhất, trong khi đó, kẻ
thù ngày càng điên tiết, hoảng loạn trong trò chơi đuổi bắt với người cách
mạng.
Không chỉ vậy, trong nguyên tắc cảnh giác và bí mật, các tác giả hồi kí
cho thấy sự cần thiết của việc tận dụng và nắm bắt thời cơ, cũng như khả năng
am tường âm mưu của kẻ thù để có thể qua mặt, lẩn tránh chúng. Khi nhận
120
nhiệm vụ về nước hoạt động cách mạng, Nguyễn Lương Bằng đã nhớ lời dặn
dò của đồng chí Vương (Nguyễn Ái Quốc): “Về thì đừng hoạt động gì vội.
Chờ ít lâu nghe ngóng đã, kẻo mật thám nó theo đấy” (Nhờ dân nhờ Đảng mà
trưởng thành, Nguyễn Lương Bằng). Và quả thật ông thấy mật thám suốt
ngày theo dõi trước cửa nhà, ông phải giả bộ chơi bời, đi đây đi đó cho đến
khi chúng không còn theo dõi nữa mới bắt đầu đi tìm liên lạc. Tố Hữu nhớ lại
khi gặp Nguyễn Chí Thanh trong nhà lao Thừa Phủ, thấy Nguyễn Chí Thanh
“ít nói, không có vẻ gì hăng hái đấu tranh” (Nhớ lại một thời, Tố Hữu), ông
có ý định sẽ từ từ giác ngộ cho người bạn tù này. Sau đó Tố Hữu biết được
Nguyễn Chí Thanh là cấp trên của mình, ông vỡ lẽ ra “đức tính kín đáo và sự
trầm tĩnh của anh” (Nhớ lại một thời, Tố Hữu). Họ thấy được rằng sự cẩn
trọng là một trong những đức tính mà người cách mạng phải rèn luyện mới có
được. Chính họ đã phải cân nhắc, đắn đo từng đường đi nước bước để đưa
dân tộc đi trên con đường đến với tự do, độc lập một cách an toàn. Và điều
này cũng cần thiết trong quá trình giữ vững nền độc lập và duy trì an ninh cho
đất nước.
Ngoài ra, người cách mạng còn nhấn mạnh tầm quan trọng của tinh thần
đoàn kết trong cuộc đấu tranh chống lại kẻ thù. Khi nghe Bác nói chuyện về
vấn đề hoạt động cách mạng giai đoạn chưa có Đảng cộng sản lãnh đạo, bài
học về sự đoàn kết là bài học mà Bùi Lâm “nhớ nhất và thấm thía nhất”:
“Cần luôn luôn nhớ làm nhiệm vụ của người dân mất nước. Anh em nên
thương yêu nhau, vui vẻ, đoàn kết với nhau. Đoàn kết cả với công nhân Pháp,
nhân dân Pháp và các nước thuộc địa. Chúng ta đều là người nghèo khổ bị
áp bức, bóc lột như nhau” (Gặp Bác ở Pari, Bùi Lâm). Khi gây dựng cơ sở ở
nước ngoài, nhờ thành lập hội tương tế để người cùng một nước có thể giúp
đỡ, đùm bọc lẫn nhau, Nguyễn Lương Bằng đã nhận thấy rõ hiệu quả: “Tổ
chức quần chúng từ công nhân, phát triển sang anh em bồi, bếp, bà con buôn
bán, do đó, bắt mối vào trại lính. Khố đỏ vào trước, khố xanh vào sau, rồi đến
cả trong lính thủy cũng có cơ sở. Rồi bắt đầu xây dựng tổ chức Đảng” (Nhờ
121
dân nhờ Đảng mà trưởng thành, Nguyễn Lương Bằng). Nhớ lại cuộc đấu
tranh nổ ra ở nhà tù Sơn La năm 1941, Trần Huy Liệu cho rằng: “Kinh
nghiệm cho biết là: trong cuộc đấu tranh, không nên để có những riêng lẻ dễ
bị địch uy hiếp hay dụ dỗ. Chúng tôi còn chú ý sắp đặt những người có tinh
thần cứng cỏi nằm bên cạnh những người tương đối non yếu để kèm cặp và
giúp đỡ lẫn nhau” (Dưới hầm Sơn La, Trần Huy Liệu). Hoàng Quốc Việt
cũng nhận thấy: “Nhờ đoàn kết, nhờ có tổ chức, chúng tôi đã đi dần từng
bước, đấu tranh thay đổi cả chế độ nhà tù hắc ám” (Tinh thần Phạm Hồng
Thái, Hoàng Quốc Việt). Trong thời gian hoạt động ở nước ngoài, chứng kiến
những thủ đoạn chia rẽ của quân Tưởng, Lê Tùng Sơn đã phát biểu thẳng thắn
với Hội Việt Cách: “Cách mạng là sự nghiệp của nhiều người. Vấn đề trọng
yếu của cách mạng Việt Nam hiện nay, trước hết phải nói đến đoàn kết, đoàn
kết ngay những người Việt Nam ở Vân Nam và ở Trung Quốc, đoàn kết với
những người Việt Nam ở Việt Nam. Muốn có sự đoàn kết rộng rãi như vậy
cần phải có một cương lĩnh về đoàn kết trên nền tảng dân chủ” (Nhật kí một
chặng đường, Lê Tùng Sơn). Sau khi cuộc cách mạng tháng Tám thành công,
Tố Hữu được gặp Hồ Chí Minh ở Hà Nội. Trong hồi kí Nhớ lại một thời, ông
đã nhắc đến lời căn dặn của Người trước khi ra về: “Cuộc chiến đấu của
chúng ta chắc còn lâu dài. Không thể coi thường. Song nếu biết giữ vững
đoàn kết nội bộ, gần gũi, động viên nhân dân hăng hái cứu nước thì chúng ta
sẽ giữ vững được độc lập” (Nhớ lại một thời, Tố Hữu). Đối với ông, những
lời căn dặn ấy là bài học, lời dạy quan trọng, quý báu để người cách mạng tiếp
tục thực hiện thắng lợi con đường giải phóng dân tộc.
Tình thế cách mạng, hoàn cảnh của dân tộc luôn luôn chuyển biến khôn
lường, quan trọng là người cách mạng phải giữ vững tinh thần để chống chọi
với những tình huống khốc liệt. Khi bắt đầu cuộc đấu tranh dưới hầm Sơn La,
Trần Huy Liệu đã thừa nhận: “Ủy ban đấu tranh, như trên đã nói, có rất
nhiều kinh nghiệm, nhưng từ trước tới nay, qua các nhà tù, cũng chẳng bao
giờ gặp trường hợp như thế này để học tập kinh nghiệm. Dầu sao chúng tôi
122
vẫn phải sống, vẫn phải đấu tranh để sống” (Dưới hầm Sơn La, Trần Huy
Liệu). Kẻ thù muốn thừa cơ hội để tàn sát người tù cách mạng hoặc làm cho
họ lùi bước bởi sự khủng bố man rợ. Dù biết tình thế trước mắt tiến thoái
lưỡng nan nhưng họ nhất quyết không đầu hàng. Kẻ thù đã phải cúi đầu khiếp
sợ trước tinh thần gang thép của họ. Sau quá trình bôn ba ở nước ngoài,
chứng kiến những âm mưu thâm độc của kẻ thù và các tổ chức phản cách
mạng, Lê Tùng Sơn đã khẳng định: “Nếu không có tinh thần chịu đựng gian
khổ, ý chí căm thù địch cao thì hãy khoan nói đến chuyện cách mạng” (Nhật
kí một chặng đường, Lê Tùng Sơn). Và trước những sự thất bại, người cách
mạng đã thẳng thắn nhìn nhận thiếu sót của bản thân mình và của tổ chức.
Trong hồi kí Nghĩa Lộ khởi nghĩa, Nghĩa Lộ vượt ngục, Trần Huy Liệu đã nêu
rõ “những cớ thất bại” như bản tự phê bình và sự đau đớn vì bài học kinh
nghiệm ấy: “Cuộc chiến đấu đã đơn độc, lại không khí giới. Nó đã không
phải là một cuộc đấu tranh chính trị, cũng không phải là một cuộc đấu tranh
võ trang. Nó thất bại là điều không tránh khỏi. Đau đớn nhất của chúng tôi
là: bao nhiêu kế hoạch trù bị, bao nhiêu công sức theo đuổi, cái mộng khởi
nghĩa ôm ấp từ khi mới đặt chân tới Nghĩa Lộ đã rơi vào cái hố manh động
không tưởng tượng nổi…” (Nghĩa Lộ khởi nghĩa, Nghĩa Lộ vượt ngục, Trần
Huy Liệu). Sau khi thoát khỏi nhà tù nhưng chưa định hướng được thời gian
tới phải hoạt động như thế nào, những lời nói của đồng chí Lịch đã giúp
Nguyễn Tạo thêm tin tưởng: “Phải tùy cơ ứng biến, phải mạo hiểm chứ trong
công tác cách mạng mà mọi việc đều muốn đòi hỏi thật đầy đủ điều kiện thì
đành ngồi bó tay” (Chúng tôi vượt ngục, Nguyễn Tạo). Như đã nói, con
đường cách mạng không hề bằng phẳng và chính những người cách mạng
đang tiên phong để dẹp bỏ mọi chướng ngại, chông gai bằng sự kiên trì của
mình.
Bảo vệ và xây dựng đất nước là nhiệm vụ chung của toàn dân tộc. Để làm
tốt nhiệm vụ này, thế hệ sau phải noi gương, phấn đấu và phát triển từ những
thành quả của các thế hệ đi trước. Chính vì vậy, hồi kí của những người cách
123
mạng có ý nghĩa đối với người đọc trong việc phát triển nhận thức và định
hướng hành động. Từ những thành công và cả những thất bại của thế hệ đi
trước, chúng ta vun bồi được niềm tin và có phương châm sống đúng đắn
nhằm tôn vinh công lao của cha ông và bảo vệ Tổ quốc. Trần Hữu Tá cho
rằng, đọc hồi kí cách mạng, người đọc có thể “củng cố vốn hiểu biết về lịch
sử Đảng – trang sử đấu tranh chói sáng nhất của pho sử bốn nghìn năm, và
cũng là dịp bồi đắp cho mình lòng tự hào chính đáng về truyền thống cách
mạng của cha anh” (Trần Hữu Tá, 1977, trang 18).
Tiểu kết chương 3
Xét ở phương diện nội dung, hồi kí cách mạng đã cung cấp cho người
đọc một lượng thông tin lớn về những con người, những sự kiện trong quá
trình cách mạng ở Việt Nam. Người đọc không chỉ nắm bắt được những sự
kiện lịch sử trọng đại trong nước và trên thế giới mà còn thấu hiểu được lối
sống, tâm tư của cả dân tộc trong hành trình giành lại độc lập, tự do. Hồi kí
cách mạng còn phản ánh được cái nhìn, nhận thức, quan niệm của người viết
đối với nhiều vấn đề trọng đại trong xã hội lúc bấy giờ. Hồi kí cách mạng
cũng phác họa lại chân dung của dân tộc ta trong thời kì đầu của cách mạng –
những con người anh hùng, kiên cường đã vượt qua mọi thử thách để chiến
thắng kẻ thù hung bạo.
Tác giả hồi kí đứng trên lập trường của người cộng sản để tái hiện quá
khứ, làm nổi bật những vấn đề liên quan đến sứ mệnh của cá nhân và vận
mệnh của dân tộc. Họ không có chủ ý sáng tác nghệ thuật mà sáng tác nhằm
tái hiện quá khứ nhiều biến động của công cuộc cách mạng bảo vệ đất nước
của dân tộc ta. Chính vì lẽ đó, nội dung phản ánh trong hồi kí cách mạng
không tránh khỏi sự trùng lặp. Một số tác phẩm nội dung khá sơ lược chưa
gây ấn tượng với người đọc do tập trung vào mô tả sự việc mà thiếu sự lí giải.
Những hạn chế này là điều không thể tránh khỏi bởi một số tác giả không
phải là nhà văn chuyên nghiệp nên tính sáng tạo chưa cao. Đôi khi họ sáng tác
vội để đáp ứng kịp yêu cầu của cuộc vận động viết hồi kí trong đơn vị.
124
Mặc dù không tránh khỏi những hạn chế, nhưng hồi kí cách mạng cũng
đã làm tròn sứ mệnh của mình. Các tác giả hướng đến phản ánh những vấn đề
có tính sử thi, mở lại cả một chặng đường gian khổ nhưng oanh liệt của dân
tộc đi từ trong bóng tối của cuộc đời nô lệ đến ánh sáng độc lập, tự do.
125
Chương 4
NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA HỒI KÍ CÁCH MẠNG
VIỆT NAM NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT
Nghệ thuật là phương diện để một thể loại văn học bộc lộ rõ những dấu
ấn riêng trong phản ánh thực tại. Thông qua việc giải mã nghệ thuật, người
đọc khám phá được ý định và sự kí thác của tác giả. Trong bài viết Hồi kí văn
học, tiềm năng và hạn chế, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Dân cho rằng: “Hồi
kí không hư cấu nhưng vẫn có tính nghệ thuật. Hiệu ứng nghệ thuật của nó
được hình thành từ kĩ thuật bố cục, cấu trúc của tác phẩm, từ lời văn và nghệ
thuật kể chuyện...” (Nguyễn Văn Dân, 2008). Hồi kí cách mạng là văn học
phi hư cấu. Trong đó, sự thật được xem là hạt nhân cấu trúc của văn học kí
nói chung và hồi kí cách mạng nói riêng. Nghệ thuật bao giờ cũng bị trói buộc
bởi sự thật, đồng thời, nghệ thuật giúp cho sự thật trong hồi kí được thể hiện
một cách uyển chuyển, linh hoạt và hấp dẫn.
Nhìn tổng thể, chất lượng nghệ thuật trong các hồi kí cách mạng biểu
hiện không đồng đều. Sự lựa chọn ngữ liệu để khái quát đặc điểm nghệ thuật
của hồi kí cách mạng căn cứ vào đánh giá của các nhà nghiên cứu và sự so
sánh, đối chiếu nhất định trong hệ thống tác phẩm đã có. Nghiên cứu nghệ
thuật hồi kí cách mạng, có thể thấy rằng, từ cách trần thuật, cách thể hiện
nhân vật, giọng điệu, ngôn từ đều tập trung làm nổi rõ “tính sự thật” của
những nội dung được kể. Thành công của các tác giả không chỉ là mang đến
cho người đọc những tư liệu quý báu về một thời kì đặc biệt của cách mạng
Việt Nam mà những phương diện nghệ thuật trần thuật, nghệ thuật thể hiện
nhân vật, giọng điệu còn làm nên sự sinh động và độc đáo trong việc chuyển
tải nội dung tư tưởng.
4.1. Nghệ thuật trần thuật trong hồi kí cách mạng Việt Nam
Nghiên cứu nghệ thuật tự sự là một hướng tiếp cận tác phẩm văn học
được định hình từ thập niên 60 – 70 của thế kỉ XX ở Pháp. Mặc dù còn non
126
trẻ nhưng ngành nghiên cứu này đã thu hút được sự quan tâm của các học giả
và nhanh chóng mở rộng sang nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Tự sự
học nghiên cứu bao gồm cả hệ thống sự kiện, cách tổ chức các sự kiện đó, các
mô típ truyện, sự phân loại, lịch sử vận động của tự sự. Trong đó, nghệ thuật
trần thuật được xem là một nhánh của Thi pháp học (hiểu theo nghĩa hẹp) và
là một bộ phận của Tự sự học. Cấu trúc của trần thuật bao gồm nhiều phương
diện như người trần thuật, kết cấu trần thuật, điểm nhìn và giọng điệu trần
thuật… Mỗi phương diện có những yêu cầu riêng trong sự hợp thành chỉnh
thể của thể loại tự sự.
4.1.1. Chủ thể trần thuật trong hồi kí cách mạng Việt Nam
Lí thuyết tự sự học đã chỉ ra sự phức tạp trong khái niệm chủ thể trần
thuật. Đó có thể là một sự hóa thân của tác giả thành “tác giả hàm ẩn”, có thể
là hóa thân của nhân vật nhưng cũng có khi không là ai cả, bởi vì, “người trần
thuật là kẻ được sáng tạo ra để mang lời kể” (Trần Đình Sử, 2004, trang 17).
Theo nhà nghiên cứu Đỗ Hải Phong: “Người kể chuyện là một trong những
hình thức thể hiện quan điểm tác giả trong tác phẩm” (Đỗ Hải Phong, 2004,
trang 119). Chủ thể trần thuật là nhân tố quan trọng trong nghệ thuật trần
thuật, kiến tạo nên nội dung trần thuật trong tác phẩm.
Việc xác định dấu ấn của người trần thuật chủ yếu dựa vào ngôi trần
thuật. Khi xuất hiện ở ngôi kể thứ nhất, người trần thuật bộc lộ mình nhiều
hơn, tham gia trực tiếp vào các quá trình của câu chuyện. Người trần thuật
ngôi thứ nhất thường xuất hiện trong các thể loại kí, tiểu thuyết – hồi kí, tiểu
thuyết – tự truyện (thể loại tiểu thuyết trong đó nhân vật chính, cũng là người
kể chuyện, nhớ và kể lại cuộc đời mình trong quá khứ)... Trong khi đó, ngôi
kể thứ ba làm cho người trần thuật gần như hoàn toàn ẩn thân, thậm chí là “vô
nhân xưng”.
4.1.1.1. Chủ thể trần thuật ngôi thứ nhất – vai trò nhân chứng
Đối với thể loại phi hư cấu nói chung, hồi kí cách mạng nói riêng, chủ
thể trần thuật ngôi thứ nhất với vai trò nhân chứng chính là mã nghệ thuật khi
127
xác định diễn ngôn thể loại. Chủ thể trần thuật nhân chứng thường xuất hiện
với vai trò người dẫn chuyện hoặc nhân vật xưng “tôi”. Trong hồi kí, họ là
người trực tiếp tham gia vào quá trình của các sự kiện, đồng thời là người
chứng kiến và có sự am hiểu nhất định đối với người và sự kiện được nhắc
đến trong quá trình hồi tưởng. Chính vì vậy, chủ thể trần thuật nhân chứng là
người có khả năng bao quát các vấn đề và soi chiếu các vấn đề trên nhiều
phương diện.
Người kể chuyện nhân chứng là người kể chuyện trực tiếp chứng kiến,
tham gia vào các sự kiện được kể. Với vai trò này, chủ thể trần thuật là người
chịu trách nhiệm trước người đọc về tính chân thực của những điều đã kể.
Trong hồi kí Bất khuất, Nguyễn Đức Thuận là chủ thể trần thuật đồng thời
cũng là người cách mạng trực tiếp tham gia quá trình đấu tranh. Sau khi bị
bắt, chính bản thân Nguyễn Đức Thuận phải chịu những trận đòn tra tấn, chịu
đựng cuộc sống kham khổ, thiếu thốn. Những ngày trong lao tù, Nguyễn Đức
Thuận cũng đã chứng kiến sự gian khổ của đồng chí đồng đội và hơn hết là
thấy được bản lĩnh chính trị vững vàng của người cách mạng. Với vai trò là
“người trong cuộc”, Nguyễn Đức Thuận chính là nhân chứng của toàn bộ câu
chuyện được kể và chịu trách nhiệm về những thông tin đã cung cấp. Trong
các hồi kí Nhật kí một chặng đường của Lê Tùng Sơn, Nhớ lại một thời của
Tố Hữu, Chúng tôi vượt ngục của Nguyễn Tạo, Bác Hồ ở Pác Bó của Lê
Quảng Ba, Ánh sáng đây rồi của Nông Văn Lạc, các hồi kí của Trần Huy
Liệu… chủ thể trần thuật đều là chủ thể trần thuật nhân chứng. Bản thân
người kể chuyện cũng có sự liên quan nhất định đến các sự kiện và con người
được kể.
Chính vì chủ thể trần thuật xuất hiện với vai trò nhân chứng nên nhân vật
và sự kiện trong hồi kí cách mạng được trần thuật một cách tương đối chính
xác. Hồi kí cách mạng được xem là thể loại kí tự sự trong đó, người kể lấy sự
kiện lịch sử làm chất liệu. Sự chân thực của sự kiện và nhân vật được bảo
đảm từ phía họ. Người trần thuật xuất hiện với tư cách nhân vật chính trong
128
câu chuyện, kể lại những sự kiện xảy ra với mình, những người có liên quan
đến mình. Trong hồi kí Nhân dân ta rất anh hùng, Hoàng Quốc Việt kể:
“Trên ba chục người bãi khóa đến cùng, bỏ trường đi, trong số đó có anh
Lương Khánh Thiện, anh Lưu Bá Kì và tôi” (Nhân dân ta rất anh hùng,
Hoàng Quốc Việt). Kể từ đó, ông kể về quá trình ông và các đồng chí tham
gia đấu tranh mọi nơi, mọi lúc và bằng mọi hình thức có thể để duy trì và mở
rộng phong trào yêu nước bằng tâm thế hứng khởi của một thành viên trong
các phong trào. Mở đầu hồi kí Bước qua đầu thù, Trần Hữu Dực kể: “Ngày 9-
9-1941, tôi bị địch bắt tại trại sông Quao, thuộc tỉnh Ninh Thuận, miền Nam
Trung bộ. Đây là lần thứ ba tôi sa vào tay giặc” (Bước qua đầu thù, Trần
Hữu Dực). Người kể chuyện trong hồi kí Bước đầu theo Đảng đã nêu rõ từ lời
nói đầu: “Tôi có ý ghi lại trong tập hồi kí này tâm trạng của một thanh niên
tiểu tư sản đi theo cách mạng khoảng 1938 -1945” (Bước đầu theo Đảng,
Lưu Động). Các chủ thể đã xác định tư cách nhân chứng của mình ngay khi
bắt đầu kể lại những sự kiện và con người trong hồi kí.
Khi trần thuật với vai trò này, tính chính xác và độ tin cậy của thông tin
được đảm bảo bởi chính “tôi”. Chẳng hạn, tình hình trong và ngoài nước
trong đại chiến thế giới lần thứ hai, những hoạt động diễn ra trong xà lim án
chém… đều do chính chủ thể trần thuật là Phạm Hùng đã trải qua và hồi nhớ.
Khi mới vào xà lim án chém, Phạm Hùng đã thật sự xúc động khi tận mắt
chứng kiến những di vật của người anh hùng Lý Tự Trọng: “Anh Trọng đã ở
đây ư? Góc xà lim có mấy tờ sách in khổ nhỏ, đã ngã màu vàng: mấy trang
Kiều của Nguyễn Du mà anh Trọng để lại. Nhà thơ lớn của dân tộc theo con
người cộng sản vào tận xà lim án chém. Anh Trọng đi, còn quyển Kiều đã
rách trong xà lim án chém và tên ông Nhỏ trong lòng mấy người thường
phạm bị tội tử hình” (Còn sống còn làm việc, Phạm Hùng). Đối với người kể,
những gì anh Trọng để lại trong xà lim đã tạo nguồn động lực để những người
tù chính trị tiếp tục vững vàng trong cuộc chiến đấu sắp tới. Trong hồi kí
Nhân dân ta rất anh hùng, tác giả Hoàng Quốc Việt đã bày tỏ cảm xúc chân
129
thành của mình: “Nhắc lại chuyện ngày xưa, tôi lại nhớ đến cả một thời nô lệ,
tất cả bao nỗi cay đắng, nhục nhằn của một người dân mất nước, mối thâm
thù quân cướp nước” (Nhân dân ta rất anh hùng, Hoàng Quốc Việt). Vụ
Phạm Hồng Thái ném bom ám sát toàn quyền Méc-lanh, vụ biểu tình, bãi
khóa đòi thả Phan Bội Châu vẫn còn nguyên ấn tượng trong lòng người kể về
khí thế sôi sục một thời. Người trần thuật đã kể về câu chuyện của chính cuộc
đời mình trong thời gian hoạt động cách mạng và những tấm gương đồng chí
đồng đội bằng tình cảm vẹn nguyên và sâu đậm.
Bên cạnh đó, người kể chuyện ngôi thứ nhất – người kể chuyện nhân
chứng còn xuất hiện để khẳng định hoặc đính chính những thông tin đã được
biết bằng chính sự trải nghiệm của mình. Quá trình một đời người – một đời
cách mạng – một đời thơ của Tố Hữu được chính ông ghi lại trong hồi kí Nhớ
lại một thời. Khi kể tác giả đính chính cho sự hiểu nhầm về xuất thân của
mình: “Trước nay trong lí lịch thường nói tôi sinh ra ở Huế hay làng Phù
Lai, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Nhưng thực ra tôi sinh ở Hội
An, tỉnh Quảng Nam, năm 1920, và ở đó đến năm chín tuổi mới theo cha ra
Huế” (Nhớ lại một thời, Tố Hữu). Những bài thơ, tập thơ của tác giả ra đời
trong hoàn cảnh nào, cái gì tạo nên cảm hứng, thôi thúc sáng tác đều được tác
giả kể lại chi tiết, tỉ mỉ. Ngoài ra, chủ thể nhân chứng trong hồi kí cách mạng
còn xuất hiện để lí giải những vấn đề có liên quan đến mình, luận giải để làm
sáng rõ lập trường, quan điểm cách mạng. Trần Huy Liệu ban đầu vốn là
thành viên của Quốc dân đảng, sau đó ông nhận ra tổ chức này không đáp ứng
được mong muốn giải phóng dân tộc nên ông tìm đến với Đảng cộng sản để
thực hiện lí tưởng của mình. Vì vậy, ông bị các đồng chí trong Quốc dân
Đảng kết tội “phản Đảng”. Trong hoàn cảnh ấy, Trần Huy Liệu đã khẳng
định: “Cố nhiên, người cách mạng phải trung thành với chủ nghĩa mà mình
theo và phải có tính Đảng vững vàng. Nhưng một khi xét thấy hai cái đó mâu
thuẫn với nhau, Đảng dần dần xa với lí tưởng cách mạng mà mình theo đuổi
thì hai tiếng “phản Đảng” mà có người buộc cho tôi không có ý nghĩa là
130
phản cách mạng” (Phấn đấu để trở nên một Đảng viên cộng sản, Trần Huy
Liệu). Từ những chuyện được ghi trong hồi kí, Trần Huy Liệu đã thể hiện
nhận thức của mình về quá trình tham gia cách mạng, quá trình nhận đường
đầy khó khăn. Một nhà báo với ngòi bút sắc bén, một nhà cách mạng kiên
cường đã phải trải qua nhiều sự thử thách để “dấn thân” đúng nghĩa.
Đối với thể loại trần thuật phi hư cấu như hồi kí cách mạng, chủ thể trần
thuật nhân chứng xuất hiện phổ biến. Dù bằng hình thức này hay hình thức
khác, người kể chuyện nhân chứng đều phải tạo được niềm tin đối với người
tiếp nhận về những thông tin, những quan điểm và cả những kết luận. Chính
vì vậy, về nghệ thuật trần thuật, cho dù là hồi kí, người kể chuyện vẫn có
quyền sử dụng các yếu tố hư cấu để không làm cho câu chuyện chán ngắt, khô
khan. Tuy nhiên, sự hư cấu phải đảm bảo trong mức độ nhất định, không làm
sai lệch sự thật lịch sử. Bởi vì, tư duy lịch sử và tư duy sáng tạo có sự phối
hợp trong hồi kí cách mạng. Sự hư cấu chủ yếu thể hiện ở việc tổ chức trần
thuật. Các hồi kí của Trần Huy Liệu thường gây ấn tượng và tạo sức hút ngay
từ cách lựa chọn chi tiết và lời giới thiệu mở đầu. Bên cạnh đó, Trần Huy
Liệu thường chia hồi kí thành nhiều phần gắn liền với sự kiện chính được kể.
Trước mỗi phần, tác giả đặt những tiêu đề mang tính dự báo hoặc thể hiện
thái độ, chẳng hạn như: Những tờ báo mở màn của phong trào mặt trận dân
chủ, Con cáo già Gờ-răng-giăng, Những ngày đầu của mặt trận bình dân:
Đông Dương đại hội. Chủ thể trần thuật có thể lựa chọn kể theo trình tự tuyến
tính hay đảo trình tự thời gian, gây ấn tượng về sự trôi chảy của thời gian
cũng như tình cảm sâu sắc trong lòng mình về những điều được kể trong hồi
kí. Khi bàn về cảm giác lịch sử, K. Pauxtốpxki nhấn mạnh tầm quan trọng của
Chỉ những người rất mực ngây thơ mới nghĩ rằng hư cấu là kẻ thù của hiện
thực. […] Nhiệm vụ của nhà văn là mô tả quá khứ trong tất cả vẻ sống động
của nó, anh ta làm được điều đó bằng cách nào thì đó là việc riêng của anh
ta (K. Pauxtốpxki, 1984, trang 45).
yếu tố hư cấu trong quá trình trần thuật để làm nổi bật hiện thực:
131
Như vậy, chủ thể trần thuật ngôi thứ nhất với vai trò nhân chứng là kiểu
chủ thể trần thuật phổ biến trong hồi kí cách mạng. Bằng kinh nghiệm lịch sử,
sự từng trải và vốn sống cách mạng, chủ thể trần thuật nhân chứng đã cung
cấp những tư liệu lịch sử quan trọng, chính xác. Đồng thời, trong quá trình hồi
tưởng, chủ thể nhân chứng đã thể hiện vai trò trong sự chi phối nhất định đối
với nhân vật và sự kiện thông qua việc lựa chọn, sắp xếp và tổ chức trần
thuật.
4.1.1.2. Chủ thể trần thuật ngôi thứ ba và chủ thể trần thuật ẩn – vai trò sử
quan
Bên cạnh chủ thể trần thuật nhân chứng, trong hồi kí cách mạng, chủ thể
trần thuật sử quan xuất hiện khá phổ biến. Chủ thể trần thuật sử quan có thể
được xem là một chủ thể trung gian, không phải là một nhân vật trong truyện
kể cũng không phải là bản thân tác giả. Người kể chuyện sử quan là người “có
mối liên hệ mật thiết với người đọc với tư cách là người được kí thác sự thật,
một nguời điều tra sắp xếp không biết mệt mỏi, một vị quan tòa đúng mực và
công bằng” (Cao Kim Lan, 2008, trang 139). Theo đó, người kể sử quan
không chỉ có khả năng tổ chức trần thuật mà còn có thể lí giải, phân tích, bình
luận về các sự kiện được kể một cách khách quan, chín chắn bằng sự tri nhận
cụ thể.
Người kể không chỉ kể về những gì mình đã chứng kiến, tham gia mà
còn lựa chọn để kể lại những chuyện đã được nghe nhằm khẳng định hay khai
thác sâu sắc hiện thực. Khi lồng ghép những câu chuyện được nghe người
khác kể vào trong nội dung hồi kí, người kể lúc này xuất hiện với vai trò
người kể sử quan, đứng bên ngoài để trần thuật. Trong hồi kí Từ khám tù vị
thành niên đến trường học Xô Viết – Nghệ Tĩnh (Nguyễn Duy Trinh kể, Thép
Mới ghi), Nguyễn Duy Trinh không chỉ kể về quá trình hoạt động từ khi bị
bắt lần thứ nhất vào cuối tháng 11-1928, ông còn kể lại câu chuyện vượt ngục
Côn Đảo của người bạn tù già Nguyễn Thúc Bao để thấy ý chí và quyết tâm
của những người cộng sản yêu nước, yêu lí tưởng. Trong câu chuyện này,
132
người trần thuật không phải là Nguyễn Duy Trinh (tác giả hồi kí), có một
nhân vật trần thuật sử quan được sáng tạo nên để lồng vào câu chuyện về cuộc
đời hoạt động của tác giả. Câu chuyện được lồng vào như ví dụ, minh chứng
cho những luận điểm tác giả nêu ra. Ngô Đăng Đức viết hồi kí Bát cơm chan
máu để kể lại câu chuyện của một đồng chí già về những ngày cuối cùng của
đồng chí Lê Hồng Phong. Tổ chức trần thuật của tác giả khách quan, miêu tả
rõ thái độ của người kể: “Đồng chí già cúi xuống như cố giấu nỗi nghẹn
ngào, đau thương và căm giận” khi bắt đầu câu chuyện và “sau một phút im
lặng, đồng chí già nhếch mép cười, cái cười ngạo nghễ mà người ta chỉ tìm
thấy ở trên môi của những người chiến sĩ cách mạng, nở ra để chế giễu gươm
đao và sức mạnh của kẻ thù” (Bát cơm chan máu, Ngô Đăng Đức) khi kết
thúc câu chuyện. Những thông tin này không mang tính khẳng định bởi vì
người trần thuật chỉ kể theo lời một nhân vật khác chứ không trực tiếp tham
gia.
Với tư cách “người ngoài cuộc”, chủ thể trần thuật sử quan có thể nêu
lên những suy nghĩ, bình luận một cách khách quan và trong quá trình kể
chuyện, người trần thuật cho thấy vai trò của mình trong việc tổ chức trần
thuật. Trong hồi kí Vài mẩu chuyện về đồng chí Trần Phú, người trần thuật
sắp xếp các tình tiết tập trung làm rõ những vấn đề cụ thể: đầu tiên là sự xuất
hiện của đồng chí Trần Phú khi mới trở về từ Hồng Kông, sau đó làm rõ tính
cách “rất cẩn thận, và luôn đề phòng việc bất trắc”, tiếp theo là kể lại những
tình tiết cho thấy ý chí và bản lĩnh của người cách mạng trước sự tra tấn tàn
khốc của kẻ thù. Sự kiện không chịu sự chi phối của yếu tố thời gian mà do
tác giả sắp xếp theo mục đích trần thuật. Qua một vài trang hồi kí, người viết
đã làm nổi bật khí tiết, phong thái và nhân cách cao đẹp của người cách mạng.
Đồng thời, trong vai trò chủ thể trần thuật sử quan, quá khứ được ghi lại trong
các hồi kí không phải là hồi ức trực tiếp của tác giả mà là thông tin tác giả thu
thập được.
133
Trong hồi kí cách mạng Việt Nam, có một kiểu chủ thể trần thuật đặc
biệt, đó là người ghi hồi kí. Ở một số quốc gia, hồi kí của các nhà cách mạng
hay các tướng lĩnh khi đến với người đọc không thấy đề tên người ghi chép
mà chỉ có tác giả duy nhất là người kể chuyện. Tuy nhiên, người ghi của các
hồi kí cách mạng Việt Nam được công nhận như tác giả đồng sáng tạo. Thông
thường, người kể là người cách mạng với vai trò là nhân chứng, người ghi là
các nhà văn được người kể “trao quyền” viết lại những hồi ức của họ. Trong
nhiều hồi kí như Ở chiến khu 2 – Lê Thanh Nghị kể, Thép Mới ghi; Từ khám
tù vị thành niên đến trường học Xô Viết – Nghệ Tĩnh - Nguyễn Duy Trinh kể,
Thép Mới ghi; Chị Tư già - Nguyễn Thị Thuận kể, Lê Minh ghi; Nữ tự vệ
chiến đấu – Hà Quế kể, Ngọc Tự ghi …, người ghi (người kể sử quan) hoàn
toàn ẩn mình, hóa thân tuyệt đối vào người kể. Người ghi không xuất hiện
độc lập, không có bình luận, nhận xét riêng. Lúc này, người kể sử quan và
người kể nhân chứng hòa hợp. Tuy vậy, người ghi hồi kí có vai trò quan trọng
trong tổ chức trần thuật và xây dựng hình tượng nghệ thuật trong quá trình
trần thuật lại những điều đã được người kể cung cấp.
Trong một số hồi kí như Người đi tìm đường cứu nước (Trần Dân Tiên),
Bất khuất (Nguyễn Đức Thuận)… người kể chuyện và người ghi hồi kí xuất
hiện đồng thời. Người ghi hồi kí không phải chỉ ghi chép giống hệt những gì
được người kể cung cấp, với các tư liệu phong phú và phức tạp có được,
người ghi phải sắp xếp, tổ chức để tạo nên một tác phẩm hoàn chỉnh. Trong
hồi kí Người đi tìm đường cứu nước của Trần Dân Tiên, tác giả đã sử dụng
hình thức phóng sự để làm tăng độ tin cậy cho các sự kiện và tình tiết. Với
hình thức này, chủ thể trần thuật đã biến mình thành người ngoài cuộc, cung
cấp cho người đọc những thông tin chân thực và khách quan. Dụng công của
người trần thuật sử quan là không để những tình cảm chủ quan của mình chi
phối đến quá trình tái hiện hiện thực. Câu chuyện diễn biến một cách tự nhiên
thông qua sự dẫn dắt của chủ thể trần thuật.
134
Như vậy, khác với các chủ thể trần thuật trong thể loại hư cấu – người kể
chuyện hư cấu, bất tín, chủ thể trần thuật trong hồi kí cách mạng dù xuất hiện
ở ngôi kể nào, tư cách nào (người kể trực tiếp hay người ghi) đều là nhân
chứng đáng tin cậy, kể những điều mắt thấy, tai nghe và luôn có trách nhiệm
với những tư liệu đã cung cấp trong hồi kí.
Trong hồi kí cách mạng Việt Nam, chủ thể trần thuật xuất hiện ở cả hai
vai trò: vai trò nhân chứng và vai trò sử quan. Trong đó, chủ thể trần thuật
ngôi thứ nhất với vai trò nhân chứng xuất hiện trong hầu hết các sáng tác.
Điều này khẳng định sự khả tín của những thông tin, những tư liệu về con
người và sự kiện được kể trong hồi kí. Đồng thời, chủ thể trần thuật nhân
chứng cũng là phương diện xuất phát từ đặc điểm phản ánh của thể loại, trong
đó, người kể chuyện phải là người trực tiếp chứng kiện hoặc tham gia vào các
sự kiện. Tuy nhiên, để tạo nên sự phong phú và tính khách quan trong tái hiện
quá khứ, các tác giả hồi kí đã tạo nên người kể chuyện ngôi thứ ba với vai trò
sử quan. Bằng cái nhìn của người ngoài cuộc, người kể sử quan đóng vai trò
thu thập và cung cấp thông tin. Những thông tin này có nguồn gốc, có cơ sở
chính xác do người kể chuyện thu thập được để làm phong phú thêm “người
thật, việc thật” trong hồi kí. Ngoài ra, hồi kí cách mạng cũng ghi nhận sự
đóng góp của người ghi hồi kí trong việc tổ chức trần thuật, sáng tạo kết cấu
truyện kể và đưa ra cái nhìn đa chiều, đa diện.
4.1.2. Kết cấu trần thuật
Theo các nhà nghiên cứu về trần thuật học, diễn ngôn có tính trần thuật
hay tính truyện kể. Điều này chính là khả năng của ngôn ngữ trong việc tổ
chức, xây dựng nên một câu chuyện thông qua việc sắp xếp quá trình phát
ngôn. Theo A.J. Greimas và J. Courtes, trần thuật là nguyên tắc tổ chức của
mọi loại diễn ngôn, chứ không phải chỉ riêng của diễn ngôn tạo hình. Mặc dù
là thể loại hồi tưởng về những người thật việc thật trong quá khứ nhưng tác
giả hồi kí vẫn chú trọng đến phương diện nghệ thuật trần thuật. Thời đại nhiều
biến động, nhiều vấn đề xã hội phức tạp, người kể phải xác định mục đích của
135
việc hồi tưởng, tư tưởng muốn thể hiện để lựa chọn sự việc và con người
được kể, cách thức kể…
Đối với hồi kí cách mạng, các tác giả cũng tạo được dấu ấn trong việc
tạo nên mạch kể, kiến tạo câu chuyện làm tăng sự hấp dẫn đối với sự thật
được kể. Họ đã phần nào thoát khỏi sự chi phối của logic khách quan để tạo
logic nghệ thuật. Điều này đã làm cho những sự kiện lịch sử trở nên sống
động, mang nhiều ý nghĩa, chứa đựng rõ thông điệp. Các tác giả hồi kí cách
mạng đã thành công trong việc tổ chức sự kiện, tạo ấn tượng của người kể
trong cách thức mở đầu và kết thúc hồi kí.
4.1.2.1. Cách mở đầu và kết thúc hồi kí đa dạng
Sự trần thuật tồn tại nhờ mối liên hệ với câu chuyện được triển khai trong đó
(sự kiện được thuật lại), với tư cách diễn ngôn (sự kiện kể chuyện), nó tồn tại
nhờ mối liên hệ với sự trần thuật đã tạo ra diễn ngôn ấy (G. Genette, 2010,
trang 66).
Trong tác phẩm tự sự:
Khi viết hồi kí, các tác giả phải tôn trọng tối đa sự thực, lấy sự thực làm
trung tâm. Chính vì vậy, đôi khi, tác giả không chú ý đến những yếu tố nghệ
thuật bên ngoài sự thật. Tuy nhiên, trong nhiều hồi kí cách mạng, người trần
thuật đã tạo được tính vấn đề và tính hấp dẫn cho tác phẩm ngay từ mở đầu
của trần thuật và tạo dư ba kể cả khi trần thuật đã chấm dứt. Kí ức về một thời
đã qua có thể rời rạc, lẫn lộn, thế nhưng, việc tác giả lựa chọn điểm bắt đầu và
kết thúc của truyện kể đã thể hiện dụng ý khi hướng người đọc theo mạch kể,
gợi mở và có tính định hướng nhất định đối với người tiếp nhận.
Trước hết, hồi kí cách mạng là thể loại văn học lấy yếu tố người thật việc
thật làm nòng cốt của quá trình trần thuật cho nên mở đầu và kết thúc của tác
phẩm thường trùng khít với sự mở đầu và kết thúc của sự kiện. Hồi kí Trong
xà lim án chém của Phạm Hùng và Lê Văn Lương mở đầu bằng sự kiện các tù
chính trị bị đưa ra Côn Đảo tháng 01 năm 1934 và kết thúc khi cách mạng
tháng Tám thành công, họ được trở về đất liền ngày 23 tháng 9 năm 1945.
136
Hồi kí Hai lần vượt ngục của Trần Đăng Ninh mở đầu bằng sự kiện vượt ngục
Sơn La (vượt ngục lần thứ nhất) và kết thúc bằng sự kiện vượt ngục Hỏa Lò –
Hà Nội (vượt ngục lần thứ hai) thành công. Tù chính trị được trở về với tổ
chức để tiếp tục sự nghiệp cách mạng. Hồi kí Đi tìm liên lạc của Văn Tiến
Dũng mở đầu bằng sự kiện “Chi bộ nhà tù không liên lạc được với Đảng” và
kết thúc bằng niềm vui của người cách mạng khi được “ra đi công tác theo
chỉ thị của Đảng”. Nội dung hồi kí gói gọn chặng đường đi tìm sự liên hệ với
các cơ sở Đảng gian nan của người tù chính trị. Với hình thức này, mở đầu và
kết thúc không có sự dẫn dắt, người kể tập trung làm nổi bật nội dung chính
được phản ánh trong tác phẩm. Đây là cách kể chuyện súc tích, đi thẳng vào
những kỉ niệm, những ấn tượng sâu sắc trong cuộc đời hoạt động của mình.
Chính vì vậy, nhiều hồi kí cách mạng không đi theo kết cấu quen thuộc của
thể loại tự thuật là bắt đầu từ câu chuyện thời thơ ấu của nhân vật và kết thúc
là hiện tại của thời điểm kể. Sự lựa chọn của người kể đã quyết định giá trị và
ý nghĩa của sự kiện được kể.
Ngoài ra, các tác giả sử dụng nhiều cách khác nhau để mở đầu hồi kí. Đó
có thể là một niềm vui hay nỗi buồn ở hiện tại, gợi nhắc lại quá khứ. Đôi khi,
mở đầu tác phẩm là một cuộc hội ngộ tình cờ của những người đồng đội.
Cũng có thể các tác giả xuất phát từ nhu cầu tự biểu lộ, khát vọng giãi bày.
Do đó, họ bắt đầu câu chuyện bằng việc nêu lên ấn tượng hay cảm nghĩ cá
nhân về sự việc hay con người, từ đó, dẫn dắt người đọc theo câu chuyện.
Chính từ cách dẫn dắt này, người đọc cảm nhận một sự tự nhiên, khách quan
của người kể đối với hiện thực. Vì thế, hồi kí không rơi vào sự gò ép. Sự chi
phối của quan điểm, ý thức hệ do đó cũng mờ nhạt. Qua cách nói của tác giả,
những sự việc được lựa chọn để kể chính là tâm nguyện, mong ước được bộc
bạch. Trong hồi kí Tự học trong tù, Trần Huy Liệu giới thiệu: “Dưới thời
thuộc Pháp, do ở sức phấn đấu kiên cường và sáng kiến tổ chức tài tình,
những người cộng sản đã biến những nhà tù nhốt chính trị phạm thành những
trường học: học tập văn hóa, học tập cách mạng” (Tự học trong tù, Trần Huy
137
Liệu). Cách nói thẳng thắn, quả quyết đã tạo lòng tin cho người đọc ngay từ
những dòng đầu tiên. Cách Trần Huy Liệu mở đầu hồi kí như cách người viết
nghị luận nêu lên luận điểm và sẽ triển khai bằng phương thức diễn dịch. Cho
nên, lời giới thiệu hứa hẹn những nội dung phong phú và thú vị sẽ được người
kể cung cấp. Đôi khi, tác giả đã dùng chính tình cảm và cảm xúc của mình để
bắt đầu câu chuyện. Mở đầu hồi kí Tân Trào: Thủ đô của cách mạng, Hoàng
Đạo Thúy viết: “Không biết chiến khu đích xác ở đâu, nhưng chiến khu đã
thành ra đất hi vọng của cả một dân tộc. Dựa vào uy thế của chiến khu, khắp
thôn quê thành thị sống một sức mạnh phi thường, thanh niên con mắt long
lanh đi vun vút, phát truyền đơn, cắm cờ đỏ, diễn thuyết giữa chợ, giết mật
thám ở ngay chỗ đông người. Có lẽ chỉ còn bọn Nhật mới phải hỏi Việt Minh
là ai, chứ trăm thanh niên, có lẽ tất cả là Việt Minh ráo” (Tân Trào: Thủ đô
của cách mạng, Hoàng Đạo Thúy). Với khí thế và sự tự tin ngay từ lời giới
thiệu, người đọc cảm nhận được lối kể chuyện hồ hởi, sự tươi vui, thái độ lạc
quan của tác giả trong suốt tác phẩm. Như vậy, cách mở đầu hồi kí bằng
những lời giới thiệu vừa có vai trò gợi thông tin sự kiện vừa định hướng tình
cảm, cảm xúc cho người đọc.
Bên cạnh đó, tác giả còn gây cho người đọc sự tò mò khi mở đầu chuyện
kể bằng việc khơi gợi đặc điểm, bản chất của các vấn đề. Các tác giả vừa giới
thiệu vừa kèm theo sự đánh giá. Sau đó, cả câu chuyện là sự minh chứng để
khẳng định cho sự đánh giá ban đầu. Mở đầu hồi kí Dưới hầm Sơn La, Trần
Huy Liệu viết: “Trong lịch sử đấu tranh của các chính trị phạm ta tại các nhà
tù dưới thời thuộc Pháp, theo chỗ tôi biết, cuộc đấu tranh ở nhà tù Sơn La
tháng 5-1941 là cuộc đấu tranh lớn, gian khổ phi thường và có nhiều nét độc
đáo” (Dưới hầm Sơn La, Trần Huy Liệu). Với vai trò là người trong cuộc, là
nhân chứng, những lời giới thiệu của tác giả có sức hút mạnh mẽ. Người đọc
có thể đã biết đến nhiều cuộc đấu tranh trong tù qua Ngục Kontum của Lê Văn
Hiến, Bất khuất của Nguyễn Đức Thuận nên những điều gian khổ, những sự
phi thường phần nào đã cảm nhận được. Nhưng người ta vẫn chú ý đến và
138
trông chờ “nhiều nét độc đáo” mà tác giả hứa hẹn sẽ kể. Trần Huy Liệu đã
dùng kinh nghiệm cá nhân và sự từng trải của mình để nêu lên cách nhìn, sự
đánh giá về hiện thực. Ông đã tạo nên sự ảnh hưởng và niềm tin nhất định đối
với người đọc. Hay trong hồi kí Tinh thần Phạm Hồng Thái, Hoàng Quốc
Việt mở đầu: “Nhắc lại chuyện ngày xưa, tôi lại nhớ đến cả một thời nô lệ,
tất cả bao nỗi cay đắng nhục nhằn của một người dân mất nước, mối thâm
thù quân cướp nước. Đối với lớp người chúng tôi, tiếng bom của Phạm Hồng
Thái đã có ảnh hưởng rất mạnh” (Tinh thần Phạm Hồng Thái, Hoàng Quốc
Việt). Những dòng giới thiệu ngắn gọn nhưng chứa đựng nhiều thông tin. Tác
giả không chỉ thể hiện tâm trạng, cảm xúc trước thực tại mà còn khơi gợi lên
câu chuyện sẽ kể về người anh hùng Phạm Hồng Thái.
Ngoài ra, các tác giả hồi kí còn mượn hình thức viết thư, ghi nhật kí, tâm
tình để mở đầu tác phẩm, do đó, trần thuật vừa giàu tính sự kiện vừa đậm chất
trữ tình. Khi viết hồi kí Rồi ba được vào Đảng, tác giả Chánh Thi (cố đại
tướng Nguyễn Chí Thanh) viết: “Con ạ! Con có phúc thật. Ba nói ra không
phải là vì “cá nhân chủ nghĩa” mà đem điều suy bì tị nạnh với con đâu. Con
có phúc thật! Chứ hồi ba bằng tuổi con bây giờ thì làm sao mà nói hết chuyện
vô phúc, chuyện cay đắng, xót xa, tủi nhục của một người nghèo dưới chế độ
cũ. Cách đây gần ba mươi năm…” (Rồi ba được vào Đảng, Chánh Thi). Câu
chuyện bắt đầu bằng lời tâm sự tự nhiên, dung dị của một người cha. Mấy
dòng mở đầu ngắn gọn ấy đã làm sống lại cả một thời kì lịch sử đen tối khi
đất nước rơi vào tay kẻ thù, đồng thời, cũng gợi lên một hiện tại tốt đẹp và
tương lai tươi sáng của dân tộc dưới sự lãnh đạo, dẫn dắt của Đảng. Trần Huy
Liệu mở đầu hồi kí Trên đảo Hòn Cau bằng mấy câu thơ:
Ai đưa ta đến Hòn Cau
Trời mây biển nước, một màu bao la
Anh em bốn bể chung nhà
Trên hòn đảo nhỏ ta là chủ ông
139
Đây là cách Trần Huy Liệu gợi ra bức tranh thiên nhiên Hòn Cau, giới
thiệu về một nơi mới mà ông cùng đồng chí của mình sắp bị đưa đến. Những
vần thơ đã thể hiện cái nhìn của người cách mạng trong hoàn cảnh lao tù: lạc
quan, phóng khoáng pha chút dí dỏm, hài hước. Hồi kí Nhớ lại một thời của
Tố Hữu bắt đầu bằng chương Tuổi thơ nhưng chương này lại mở đầu bằng hai
đoạn thơ được viết khi ông đã lục tuần, bát tuần: “Trong bài Một nhành
xuân đầu năm 1980 tôi đã viết:
Năm hai mươi của thế kỉ hai mươi
Tôi sinh ra, nhưng chưa được làm người
Nước đã mất. Cha đã làm nô lệ.
Mừng xuân Canh Thìn vừa qua, trong bài Tám mươi, tôi lại viết:
Bảy mươi, tuổi hiếm người xưa
Ta nay tám chục mà chưa thấy già
Vẫn còn ăn nói, ngâm nga
Còn lo việc nước, việc nhà buồn vui.
Thế là năm 2000 này tôi vừa tròn tuổi tám mươi. Ở cái tuổi này có nhiều
điều đã quên, nhưng những điều đáng nhớ trong cuộc đời thì vẫn còn nguyên
trong kí ức” (Nhớ lại một thời, Tố Hữu). Đó là những lời mào đầu có tính
chất suy ngẫm, sự đảo lộn thời gian cho thấy khoảng cách và giới hạn trong
cuộc đời con người. Thời gian đã trôi qua khá lâu, mấy mươi năm ấy đủ dài
để những kí ức xếp chồng lên nhau rồi rơi vào quên lãng. Điều đó giúp tác giả
khẳng định tình cảm của mình đối với cách mạng, với đồng đội, đồng chí bởi
những kỉ niệm còn nguyên vẹn trong hồi ức của nhà thơ.
Việc lựa chọn cách mở đầu truyện kể đã phần nào tạo nên giá trị và sự
thành công trong kết cấu trần thuật, bởi vì, ấn tượng đầu tiên bao giờ cũng rất
quan trọng và có ảnh hưởng nhất định đến các quá trình tiếp theo. Khi mở đầu
hồi kí cách mạng, các tác giả đã sử dụng nhiều cách thức khác nhau để tạo
nên sự hấp dẫn trong trần thuật. Chính sự thay đổi cấu trúc thời gian trong
140
mạch trần thuật, sự đan xen các yếu tố gợi mở và định hướng người đọc đã
tạo nên hiệu quả thẩm mĩ đối với người tiếp nhận.
Tác giả không chỉ dụng công ở việc tạo sự thu hút ở phần mở đầu mà
còn chú ý lựa chọn cách thức và thời điểm để kết thúc truyện kể. Mặc dù chịu
sự chi phối của yêu cầu về tính khách quan, trung thực đối với sự việc và con
người được kể nhưng tác giả cũng quan tâm đến biểu hiện của một tác phẩm
nghệ thuật đúng nghĩa. Kết thúc các hồi kí cách mạng, tác giả vừa trình bày
những chiêm nghiệm đúc kết về quá trình hoạt động của những người cách
mạng vừa nêu lên những bài học quý báu để khẳng định lí tưởng cộng sản.
Hồi kí Nhật kí một chặng đường của Lê Tùng Sơn kết thúc bằng nhận định
bao quát thời kì vận động, phát triển và đi đến thành công của cách mạng Việt
Nam: “1930 – 1945, chặng đường ấy không thẳng tắp như một đại lộ mà
khúc khuỷu quanh co nhưng vô cùng rạng rỡ. Hạnh phúc cho tôi được dâng
tuổi trẻ đời mình trên bước đường vẻ vang đó. Ơn này đối với Đảng và Bác
Hồ tôi ghi mãi đến trọn đời” (Nhật kí một chặng đường, Lê Tùng Sơn). Với
tư cách là một người trong cuộc, một người đã dâng hiến cả tuổi thanh xuân
và sẽ tiếp tục dấn thân trên con đường cách mạng, Lê Tùng Sơn có những
nhận định, đánh giá xác đáng về chặng đường đã đi qua: gian khổ nhưng hào
hùng. Điều này có tác động mạnh mẽ đến nhiều thế hệ thanh niên khi họ đang
tiếp bước vào con đường đấu tranh bảo vệ đất nước. Cũng bằng cách kết
truyện này, trong hồi kí Trước tòa “đại hình đặc biệt” Sài Gòn, các tác giả đã
đưa ra lời khẳng định từ sự đấu tranh quả cảm, kiên cường của tù chính trị:
“Con đường đấu tranh cách mạng vô cùng gay go, gian khổ, lâu dài, phức
tạp, nhưng chúng tôi tin tưởng sắt đá sẽ toàn thắng, và thực sự nhân dân ta
dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, đã thắng và đang thắng mọi kẻ thù, kể cả tên
đầu sỏ đế quốc là đế quốc Mĩ và bè lũ tay sai của chúng” (Trước tòa “đại
hình đặc biệt” Sài Gòn, Nhiều tác giả). Sau những ngày bị giam cầm và chịu
đủ nhục hình trong nhà tù thực dân, cách mạng tháng Tám thành công,
Nguyễn Đức Thuận được trở về đất liền trong sự đón tiếp thân tình của đồng
141
đội. Trong niềm cảm xúc dâng trào, khi viết hồi kí Bất khuất, ông đã dừng lại
bằng sự khẳng định: “Tôi đã sống vì tôi đã làm theo yêu cầu của Đảng: chiến
đấu và chiến thắng” (Bất khuất, Nguyễn Đức Thuận). Đây là cách kết thúc
bằng lối tâm tình, hướng nội nhưng lại tạo nên sức ám ảnh đối với người tiếp
nhận.
Bên cạnh đó, các tác giả còn lựa chọn kết thúc hồi kí bằng cách hướng
ngoại, bộc lộ niềm tin lạc quan vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Điều
này có thể xuất phát từ mục đích của trần thuật là hướng tới sự tuyên truyền,
cổ vũ. Tuy vậy, khi xem xét ở phương diện nghệ thuật, cách kết thúc hồi kí
như vậy cũng tạo nên hiệu quả thẩm mĩ tích cực đối với người đọc. Trần Huy
Liệu viết nhiều hồi kí liên quan đến quá trình ông tham gia hoạt động cách
mạng. Ông đã chọn nhiều cách kết thúc khác nhau tạo nên sức hấp dẫn trong
hồi kí của mình. Trong đó, ông thường khép lại hồi kí bằng sự khẳng định về
tiền đồ đầy ánh sáng. Kết thúc hồi kí Đảng Thanh niên, Trần Huy Liệu viết:
“Chúng ta rất sung sướng nhắc lại chuyện cũ của những ngày chiến đấu đã
qua và nhìn thấy rõ tiền đồ tươi sáng của dân tộc, của nhân loại, trong đó có
tiền đồ của mỗi người chúng ta” (Đảng Thanh niên, Trần Huy Liệu). Hồi kí
Tự học trong tù của ông thể hiện tâm tình của người cách mạng sau khi ra tù
với những lời kết luận sâu sắc: “Cuối năm 1934, tôi từ Côn Đảo trở về trường
hoạt động, rất sung sướng thấy mình đã cứng rắn, sáng suốt hơn trước vì đã
được trang bị một nhân sinh quan mới, một đường lối cách mạng đúng và
cộng vào đây là một số kiến thức văn hóa, một phương tiện tự học sắc bén”
(Tự học trong tù, Trần Huy Liệu). Hồi kí của Trần Huy Liệu viết ở nhiều thời
điểm khác nhau về những điều ông đã trải qua trong cuộc đời. Đọc những
dòng kết thúc hồi kí của ông, chúng ta thấy cả một ý chí kiên định, một thái
độ sống tích cực, sôi nổi được truôi rèn trong gian nan, thử thách. Tác giả đã
bày tỏ những tâm sự từ tận sâu đáy lòng mình. Chính vì vậy, tình cảm của họ
đã chạm đến trái tim của người đọc qua nhiều thế hệ, đặc biệt là những ai đã
142
và đang phải gánh chịu những hậu quả của chiến tranh, những ai đã trải qua
thời kì gian khó nhưng sâu nặng nghĩa tình với cách mạng.
Trong nhiều trường hợp, hồi kí được tác giả kết thúc bằng sự kiện có
tính chất gợi mở bất tận. Trần Hữu Dực kết thúc hồi kí Bước qua đầu thù
bằng cuộc trò chuyện của mình và những người đồng đội: “Có người hỏi
riêng với biểu thị thiết tha lo lắng:
- Anh bị bắt rồi, bây giờ chúng tôi phải làm thế nào đây?
Tôi đáp:
- Không được bỏ, cứ tiếp tục công việc. Làm cách mạng chứ làm gì? Việc
gì đã bàn mà chưa làm xong thì làm tiếp, việc gì chưa bàn thì cùng nhau bàn.
Tôi bị bắt chứ nào đã hết công việc cách mạng, hết người làm cách mạng,
nào đã xong những phần mới bắt đầu. Trên đường cách mạng dù xa cách,
chúng ta vẫn gần nhau và sẽ gặp nhau” (Bước qua đầu thù, Trần Hữu Dực).
Câu trả lời của ông đã mở ra một con đường phía trước của sự nghiệp
cách mạng với công việc bộn bề, với niềm tin tất thắng. Hay trong hồi kí Nhờ
dân nhờ Đảng mà trưởng thành do Nguyễn Lương Bằng kể, Thép Mới ghi,
tác giả đã tạo ra một tình huống gợi mở khi khép lại hồi kí bằng cách nhắc lại
kỉ niệm những ngày gặp Bác ở Thượng Hải: “Lúc ấy, Bác đang làm việc giở,
trên bàn xếp đầy những tài liệu bằng nhiều thứ tiếng nước ngoài. Quyển sách
về cuộc đời của Bác mới thật là quyển sách đáng viết nhất” (Nhờ dân nhờ
Đảng mà trưởng thành, Nguyễn Lương Bằng). Những hồi kí ngỡ như đã khép
lại nhưng trong lòng tác giả vẫn còn bao nhiêu điều muốn nói. Điều này chính
là do cuộc sống cách mạng phong phú, con người cách mạng với nhiều phẩm
chất đáng ngợi ca được hứa hẹn sẽ kể trong hồi kí của họ.
Như vậy, cách mở đầu và kết thúc hồi kí đa dạng đã tạo nên hiệu quả cao
cho nghệ thuật trần thuật. Sự trải nghiệm hiện thực cùng với nghệ thuật hư
cấu hợp lí đã tạo cho hồi kí cách mạng có kết cấu trần thuật riêng, độc đáo và
hấp dẫn. Cách vào truyện, cách kết thúc vấn đề tự nhiên, không gò bó nhưng
vẫn giữ được đặc trưng của thể loại. Chính lối trần thuật này đã giúp cho hồi
143
kí cách mạng vừa đảm bảo được tính chân thực vừa có thể vận dụng hợp lí,
hiệu quả thủ pháp hư cấu trong tổ chức sự kiện lịch sử thành tác phẩm nghệ
thuật.
4.1.2.2. Tổ chức trần thuật theo logic của sự thực
Đối với loại hình tự sự, cách thức tổ chức trần thuật có sự chi phối rất
lớn đối với giá trị và ý nghĩa của các sự kiện. Điều này tạo nên cốt truyện
mang đặc trưng riêng trong mỗi thể loại cụ thể. Khi xem xét nghệ thuật tổ
chức trần thuật của hồi kí cách mạng, chúng tôi chú ý đến sự chi phối của yếu
tố thời gian. Bởi vì nhân vật, sự kiện, tình tiết là những chất liệu có sẵn, cái
hay của truyện phụ thuộc vào khả năng sử dụng chất liệu, trong đó, việc vận
dụng khéo léo các khả năng của thời gian trong quá trình trần thuật mang đến
hiệu quả nghệ thuật cao. Khi bàn về thời gian tự sự, Phương Lựu cho rằng:
“Thời gian tự sự (narrative time) còn gọi là “thời gian giả” (pseudo -
temporal) theo cách nói của G.Genette, để phân biệt với thời gian của bản
thân câu chuyện hoặc sự kiện được trần thuật” (Phương Lựu, 2004, trang
112). Điều này thể hiện ở nhiều phương diện như trình tự, nhịp độ và sự khép,
mở của thời gian nghệ thuật.
Hồi kí cách mạng là thể loại phi hư cấu, người viết luôn phải tôn trọng
lịch sử, tôn trọng tính khách quan của đối tượng. Tuy nhiên, trong chừng mực
nhất định, tác giả đã xây dựng, kiến tạo hiện thực theo một mô hình riêng
nhằm thể hiện tư tưởng, nhận thức. Đồng thời, khi sắp xếp các sự kiện trong
logic của câu chuyện, người kể tạo nên sự thú vị cho người tiếp nhận. Xét ở
phương diện trình tự thời gian, trình tự tuyến tính là một trong những biểu
hiện của tổ chức trần thuật theo logic sự thực của hồi kí cách mạng. Đây là
kiểu trần thuật mà ở đó sự kiện được tổ chức theo mạch thời gian, tôn trọng
trình tự trước sau và duy trì quan hệ nhân quả. Kiểu trần thuật này được sử
dụng khá nhiều trong các hồi kí cách mạng bởi nó phù hợp với hình thức hồi
tưởng. Trong hồi kí Trường quân chính kháng Nhật, tác giả Hoàng Văn Thái
kể lại theo trình tự tuyến tính quá trình kháng Nhật diễn ra ở nhiều tỉnh như
144
Bắc Cạn, Cao Bằng, Thái Nguyên… Trong đó, tác giả chú trọng miêu tả sự
kiện theo các mốc thời gian cụ thể. Chẳng hạn như: “Khoảng mồng bốn,
mồng năm tháng Tám tôi cùng hai chiến sĩ tự vệ người Tày rời khỏi Tân
Trào”, “Ngày 12 tháng Tám đến Lục Yên, dưới sự chỉ huy của tôi đã có gần
đủ một trung đội vũ trang”, “Buổi sáng 18-8, anh Tạ Xuân Thu đã vào trong
trại chúng để thương thuyết”, “Sáng 19 tháng Tám ta cho phép Nhật ra chợ
mua bán, có người của ta đi kèm”, “Ngày 24 tháng 8 bọn Nhật đã cùng nhau
rút khỏi Tuyên Quang” (Trường quân chính kháng Nhật, Hoàng Văn Thái).
Sự việc này nối tiếp sự việc kia theo trình tự diễn ra trong quá khứ. Cách kể
theo trình tự thời gian kết hợp với việc lựa chọn chi tiết đúng trọng tâm,
Hoàng Văn Thái đã làm sống lại không khí sôi nổi, quyết liệt của Đảng và
nhân dân ta trong việc đánh đuổi quân Nhật. Nguyễn Tạo chọn cách tổ chức
câu chuyện theo trình tự thời gian tuyến tính để kể lại một chặng đường hoạt
động đầy khó khăn, thử thách trong hồi kí Chúng tôi vượt ngục; Lê Tùng Sơn
chọn phương thức ghi chép trong hồi kí Nhật kí một chặng đường. Logic sự
thực được thể hiện ở sự tuân thủ diễn biến của sự việc trong hiện thực. Điều
này đã tạo cho hồi kí có mạch truyện tự nhiên, dễ theo dõi và dễ nắm bắt các
quá trình của sự kiện. Đồng thời, đây cũng là một trong những phương diện
đặc trưng của trần thuật phi hư cấu, trong đó, người kể sử dụng chất liệu
chính là trải nghiệm của cuộc đời mình như hồi kí. Đối với kiểu trần thuật
này, sự dụng công của tác giả thể hiện ở việc lựa chọn sự kiện tiêu biểu và
đảm bảo sự phù hợp, liền mạch trong truyện kể.
Bên cạnh đó, logic sự thực còn được thể hiện ở chỗ các tác giả hồi kí
cách mạng tổ chức sự kiện theo logic của thế giới chủ quan. Trong khi tái
hiện hiện thực lịch sử, mỗi người kể đều chịu sự chi phối bởi giới hạn của góc
nhìn và khả năng nắm bắt hiện thực. Tác giả hồi kí không phải là người có thể
chứng kiến tất cả hiện thực rộng lớn của lịch sử. Trong nhiều hồi kí cách
mạng, tự sự được tổ chức theo hình thức ghép nối các mảng hiện thực có mối
quan hệ lẫn nhau để tạo nên sự hoàn chỉnh cho câu chuyện. Người kể vừa trần
145
thuật những điều chính mình trải nghiệm, vừa kể lại một câu chuyện của
người khác để làm sáng tỏ lập luận của mình. Hồi kí nói chung, hồi kí cách
mạng nói riêng khá phổ biến kiểu trần thuật này. Nhiều câu chuyện của nhiều
người khác nhau được lồng ghép thành một hồi kí trong đó có một chủ thể
đứng ra xâu chuỗi các sự kiện theo một chủ đề hay một mục đích nào đó.
Trong hồi kí Người đi tìm đường cứu nước, nhiều câu chuyện lồng ghép vào
nhau tạo nên truyện về những ngày bôn ba tìm đường cứu nước của người
thanh niên Nguyễn Văn Ba (tức Chủ tịch Hồ Chí Minh). Trần Dân Tiên là
người kể chuyện thứ nhất, kể lại những câu chuyện đã được nghe từ những
người khác để tạo nên một câu truyện hoàn chỉnh. Đó là câu chuyện của một
trí thức ở Sài Gòn kể về ý định xuất dương của Bác; câu chuyện của ông Mai
ở Hải Phòng về những ngày Bác làm bồi tàu trên chiếc tàu sang Pháp; câu
chuyện của ông Dân ở Nha Trang khi gặp gỡ và sống cùng Bác ở Pháp; câu
chuyện của ông Bốn ở Quỳnh Lâm khi Bác lên tàu đi sang các nước Phi châu;
câu chuyện của ông Nam khi Bác sống ở nước Anh, nhằm mục đích nhấn
mạnh những khó khăn gian khổ trong hành trình cứu nước và sự kiên trì của
người cách mạng. Tác giả là người kết nối hiện thực trong phạm vi tư liệu và
sự am hiểu của mình. Các sự kiện được sắp xếp trong mối quan hệ nhất định
tạo nên tính nhất quán của truyện kể.
Như vậy, nghệ thuật tổ chức trần thuật theo logic của sự thực thể hiện ở
hai phương diện. Một là sắp xếp sự kiện theo trình tự khách quan của sự thực,
hai là sắp xếp sự kiện theo quan niệm của người kể. Các sự kiện tuy có mối
quan hệ lỏng lẻo, rời rạc nhưng được tổ chức thành một câu chuyện nhằm thể
hiện một ý nghĩa nào đó. Đồng thời, các sự kiện này được tổ chức xoay quanh
điểm nhìn của nhân vật xưng tôi.
Để tạo hiệu quả cao trong việc tổ chức trần thuật theo logic của sự thực,
các tác giả hồi kí cách mạng đã sử dụng các thủ pháp miêu tả sự thực của loại
hình tư liệu như điều tra, thống kê, tin tức - báo chí… Hồi kí cách mạng là thể
loại văn học tái hiện sự kiện lịch sử bằng tư liệu. Vì vậy, thủ pháp miêu tả của
146
loại hình tư liệu là một dấu hiệu đặc thù trong nghệ thuật trần thuật của hồi kí
cách mạng.
Trong hồi kí, nhiều sự kiện được đề cập đến như một cách thức để người
kể phơi bày hiện thực đất nước. Trần Huy Liệu nhắc đến sự kiện làm thay đổi
cuộc đời của thế hệ nhà Nho đó là năm 1915, khoa thi Hương cuối cùng được
tổ chức ở Nam Định. Trần Huy Liệu còn đưa vào trong hồi kí ý kiến của
nhiều người lúc bấy giờ về sự kiện này để nhấn mạnh bản chất của vấn đề:
“Đến đây những nhà Nho như cha tôi càng tin rằng: cái thủ đoạn thâm độc
của quân giặc là muốn tiêu diệt ta bằng cách bỏ khoa cử, bỏ chữ Nho để dân
ta sống một cách vô đạo” (Những ngày cửa Khổng sân Trình, Trần Huy
Liệu). Từ một sự kiện đã diễn ra trong lịch sử khoa cử ở nước ta, Trần Huy
Liệu nhắc đến trong hồi kí như một cách để minh chứng về những thủ đoạn
của kẻ thù. Ông không chỉ bộc bạch về cuộc đời thăng trầm trên đường công
danh của dòng họ mình mà còn cho thấy rõ sự tác động của sự kiện này đối
với trí thức Nho học lúc bấy giờ từ góc độ của một nạn nhân.
Bên cạnh đó, các số liệu cũng được các tác giả sử dụng trong quá trình
trần thuật để tạo độ tin cậy và sự chính xác cho các thông tin được cung cấp.
Khi lí giải nguyên nhân chọn sông Quao làm nơi đặt cơ quan làm việc, Trần
Hữu Dực nhớ rõ: “Trại sông Quao rộng độ 50 héc-ta, nằm dọc theo đường xe
lửa xuyên Đông Dương, cách tháp Chàm 5 cây số về phía Nam. Ở đoạn này,
quốc lộ số 1 chạy rẽ về mạn biển, thẳng vào thị xã Phan Rang. Song song với
đường xe lửa còn có một đường hàng tỉnh nằm sát ngay ranh giới phía Tây
của trại. Thêm vào đó, từ quốc lộ số 1 có một đường mòn chạy xuyên qua
giữa trại, vắt ngang đường xe lửa đi lên mạn trên. Con sông Quao là ranh
giới phía Bắc” (Bước qua đầu thù, Trần Hữu Dực). Tác giả còn nêu rõ, đất
đai ở đây màu mỡ, cây cối xanh tốt, rậm rạp, là nơi có địa hình địa thế thuận
tiện cho hoạt động cách mạng. Khi miêu tả một đối tượng, Trần Huy Liệu
cũng cung cấp các số liệu chính xác, cho thấy sự tìm hiểu tỉ mỉ. Trong Dưới
hầm Sơn La, căn hầm ở gần nhà bếp được phác họa: “qua 21 bậc gạch mới
147
lên tới mặt đất. Hầm chỉ có một cửa thông ra ngoài, chặn bằng một song sắt
và một tấm cửa sắt nặng nề. Dưới hầm sâu tối mò có 8 phòng để nhốt những
người bị phạt, trong đó có 7 phòng, theo lệ thường chỉ nhốt được một người
và một phòng ở ngoài cùng, nhốt 4 người” (Dưới hầm Sơn La, Trần Huy
Liệu). Các con số không chỉ chứa thông tin mà còn thể hiện tư duy của người
kể. Trong logic của sự trần thuật, tác giả hồi kí không chỉ kể mà còn miêu tả,
minh chứng cụ thể. Chính vì vậy, người kể đã tạo cho người đọc sự tin cậy
nhất định đối với những điều đã được kể.
Nhìn chung, tổ chức trần thuật theo logic sự thực là một đặc điểm trong
nghệ thuật trần thuật của hồi kí cách mạng Việt Nam. Đặc điểm này thể hiện
rõ sự chi phối của yêu cầu phản ánh “người thật việc thật” trong thể loại phi
hư cấu nói chung, hồi kí cách mạng nói riêng. Sự kiện lịch sử được sử dụng
như một phương tiện cho quá trình hồi tưởng. Yếu tố chi phối trật tự của trần
thuật chính là trường quan sát của tác giả đối với những điều đã xảy ra trong
qua khứ. Ngoài ra, người kể có đủ thời gian để nhìn nhận, đánh giá các sự
việc, tạo nên một sự hợp lí nhất định về mối quan hệ cũng như ý nghĩa của sự
thực. Thông qua cách bố trí, sắp xếp các sự kiện bằng quan điểm và trải
nghiệm của mình, các tác giả đã làm sống lại những năm tháng đặc biệt trong
lịch sử cách mạng dân tộc.
4.1.3. Điểm nhìn trần thuật
Viện sĩ Nga M.B.Khrapchenco khẳng định: Chân lí cuộc sống trong
nghệ thuật không tồn tại bên ngoài cái nhìn nghệ thuật. Điểm nhìn biểu hiện
trong tri giác, cảm giác, quan sát, do đó có thể phát hiện cái đẹp, cái xấu, cái
hài, cái bi, thể hiện được thị hiếu và tình cảm yêu ghét của cá nhân. Đối với
thể loại hồi kí cách mạng, điểm nhìn của người trần thuật không vượt ra ngoài
phạm vi của hiện thực khách quan nhưng họ đã lựa chọn vị trí phù hợp để có
thể nhìn nhận sự việc một cách thấu đáo, trọn vẹn. Điểm nhìn trần thuật trong
hồi kí cách mạng khá đa diện, tuy nhiên, ở đây người viết xem xét hai góc độ
nổi bật là góc độ thời gian và góc độ tiêu điểm trần thuật.
148
4.1.3.1. Kết hợp, luân phiên điểm nhìn hiện tại với điểm nhìn quá khứ
Xét về thời gian kể chuyện, hồi kí cách mạng là kiểu trần thuật “chuyện
đã qua” (chữ dùng của Trương Dĩnh). Người kể là người chứng kiến hoặc
tham gia vào câu chuyện với nhiều vai trò khác nhau. Xét đến thời điểm hiện
tại (thời điểm kể chuyện), câu chuyện đã kết thúc. Với quá khứ bộn bề, vấn đề
lựa chọn phương diện phản ánh, góc độ phản ánh sẽ tạo nên hiệu quả nghệ
thuật cho truyện kể. Theo nhà nghiên cứu Cao Kim Lan: “Điểm nhìn nghệ
thuật chiếu cái nhìn vào các yếu tố được lựa chọn, thêm bớt hoặc nhấn mạnh
và chỉ được suy ra từ cái nhìn tổng thể đối với tác phẩm nghệ thuật, theo yêu
cầu của người tiếp nhận” (Cao Kim Lan, 2008, trang 135). Do tự sự được tổ
chức theo sự hồi tưởng nên xét về phương diện thời gian, điểm nhìn trần thuật
trong hồi kí cách mạng không cố định mà luôn có sự di chuyển, thay đổi từ
hiện tại đến quá khứ và ngược lại. Trong đó, điểm nhìn hiện tại là điểm nhìn
tại thời điểm trần thuật, tức là thời điểm người kể chuyện kể lại câu chuyện
của mình. Điểm nhìn quá khứ là điểm nhìn tại thời điểm được trần thuật trong
tác phẩm, thời điểm diễn ra các sự kiện, tình tiết. Việc luân phiên và kết hợp
điểm nhìn hiện tại và điểm nhìn quá khứ tạo nên tính khách quan trong đánh
giá của người kể đối với hiện thực.
Trong các hồi kí cách mạng, điểm xuất phát của điểm nhìn trần thuật có
thể là hiện tại hay quá khứ. Điều này liên quan đến việc lựa chọn góc độ cũng
như thể hiện tâm thế của người kể. Khi bắt đầu câu chuyện ở thời điểm hiện
tại, tác giả sử dụng tư duy hiện tại để hồi tưởng lại những điều đã xảy ra nhằm
khẳng định một quan niệm, một ý kiến trong sự chi phối của quan niệm và tư
duy “nhìn lại”. Xuất phát điểm của điểm nhìn trần thuật trong hồi kí Rồi ba
được vào Đảng của Chánh Thi là thời điểm viết hồi kí, ngày 31-12-1959. Ông
nhìn lại chặng đường hơn 30 năm mình đã đi qua để khẳng định con đường
cách mạng mình đã chọn là đúng đắn, việc ông được đứng trong hàng ngũ
Đảng cộng sản là vinh dự, là tìm được lẽ sống của cuộc đời mình: “Và từ đó,
ba đã sống một cuộc đời đầy đủ ý nghĩa sâu sắc và bao la của chữ “sống”,
149
một cuộc đời nên sống, phải sống và đáng sống con ạ!” (Rồi ba được vào
Đảng, Chánh Thi). Ông đã thể hiện tình cảm sâu nặng của mình dành cho
Đảng, cho cách mạng và lòng biết ơn đối với những người đã dẫn lối, soi
đường từ trước đến nay chưa hề nhạt phai hay thay đổi. Tác giả Trần Bảo,
trong hồi kí Phần thưởng của Đảng cũng xuất phát từ điểm nhìn hiện tại để
khẳng định lí tưởng của mình: “Mãi mãi tôi không bao giờ quên những ngày
đầu tiên bước vào đời hoạt động đó, nó vừa có cái hăng say, vừa có cái vụng
về của tuổi thanh niên” (Phần thưởng của Đảng, Trần Bảo). Người kể nhận
thức lại quá trình của cuộc đời, thấy được những ưu điểm và cả hạn chế của
thời thanh niên bằng góc nhìn của người từng trải. Hồi kí Từ lòng yêu nước
chân chính tôi đã đi đến chủ nghĩa cộng sản của Bùi Công Trừng được trần
thuật từ góc nhìn hiện tại. Đứng trước cảnh vật, thiên nhiên xứ Huế, kí ức của
30 năm trước trở về trong lòng tác giả với nhiều trăn trở, băn khoăn. Việc bắt
đầu chuyện kể bằng điểm nhìn hiện tại là cách để người trần thuật thể hiện sự
bao quát trong nhìn nhận và đánh giá hiện thực. Vì thế, quan điểm của người
kể cũng mang tính khách quan hơn bởi họ đã tách mình ra khỏi quá khứ để
quan sát, nhận thức lại các vấn đề phản ánh.
Đối với những hồi kí cách mạng mà điểm xuất phát của điểm nhìn là quá
khứ, người kể đã nhập tâm, sống trong quá khứ, hòa vào kí ức. Những sự kiện
và con người trong truyện kể vẫn còn vẹn nguyên trong tâm thức của họ với
tình cảm sâu sắc. Trong những hồi kí như Ánh sáng đây rồi (Nông Văn Lạc),
Bước đầu theo Đảng (Lưu Động), Nhờ dân nhờ Đảng mà trưởng thành
(Nguyễn Lương Bằng), người kể đã giấu cái nhìn hiện tại, thâm nhập trở lại
quá khứ, cho nên truyện không nặng về nhận xét, đánh giá mà thiên về bộc lộ.
Trong hồi kí Từ một mái nhà thân yêu ra đi (Nguyễn Thị Minh kể, Nguyễn
Sinh ghi), tác giả bắt đầu trần thuật bằng thời điểm quá khứ, khi bà còn là một
cô gái trẻ sống ở Bắc Ninh. Điểm nhìn tập trung vào sự xót xa trước những
tiêu điều, đổ nát, nghèo đói của quê hương; những tệ nạn đã “tàn phá” một
vùng vốn nổi tiếng là đất “văn vật”. Xuôi theo dòng cảm xúc, từng mảng hiện
150
thực trong quá khứ lần lượt hiện ra: những ngày sống cơ cực ở làng quê, khi
được học chữ, được giác ngộ và kết nạp vào đoàn thể, tham gia hoạt động
cách mạng, bị địch bắt. Khi kể, người kể hòa mình vào quá khứ với tất cả
những cảm xúc chân thật. Nguyễn Công Hòa khi viết hồi kí Sống là chiến đấu
cũng bắt đầu điểm nhìn từ quá khứ: “Cho đến lúc này, cuộc đời tôi mới thật
có ý nghĩa: Sống là chiến đấu” (Sống là chiến đấu, Nguyễn Công Hòa). Thời
gian “lúc này” tác giả ghi trong mở đầu hồi kí là những ngày đầu ông tham
gia cách mạng, được đứng vào hàng ngũ của tổ chức những người yêu nước.
Thời gian đã trôi qua, khi kể lại trong hồi kí, niềm phấn khởi, tự hào vẫn còn
nguyên vẹn như thuở ban đầu, mạch trần thuật tự nhiên như tác giả đang sống
trong những năm tháng sôi nổi, hào hùng ấy.
Tuy nhiên, điểm nhìn hiện tại và điểm nhìn quá khứ trong hồi kí cách
mạng không hoàn toàn tách biệt. Sự đan xen các thời điểm của điểm nhìn
nghệ thuật tạo nên thế so sánh, làm cho các truyện kể có sức khái quát cao
trong cái nhìn soi chiếu để tìm ra chân lí. Trong hồi kí Tiến công quân thù
ngay trước tòa án của chúng, sau khi xuất phát từ điểm nhìn quá khứ để kể
những sự việc diễn ra trong những ngày bị bắt, bị xử án, Hoàng Quốc Việt đã
dùng điểm nhìn hiện tại để trình bày suy nghĩ của mình: “Cho đến nay đã 40
năm, thế mà quang cảnh của phiên tòa hôm đó vẫn còn in rõ nét trong tâm trí
chúng tôi. Mỗi lần nghĩ đến, tuy là việc nhỏ, chúng tôi cũng thấy tự hào về
truyền thống anh hùng bất khuất của Đảng ta, của các đồng chí cộng sản
chúng ta” (Tiến công quân thù ngay trước tòa án của chúng, Hoàng Quốc
Việt). Trần thuật lại hiện thực đã xảy ra trong quá khứ, ngoài việc cung cấp
thông tin về con người và sự kiện, điều quan trọng là thái độ và quan điểm
của người kể. Điều này giúp cho người đọc xác định được tầm quan trọng, ý
nghĩa của trần thuật. Chính vì vậy, Hoàng Quốc Việt không để cho tình cảm
chủ quan chi phối mạch kể mà ông còn nêu lên những nhận xét khách quan.
Sau 40 năm nhìn lại, ông đã đủ tin tưởng để khẳng định truyền thống tốt đẹp
của dân tộc, khẳng định niềm tin vào con đường đã chọn và minh chứng là
151
những thắng lợi vẻ vang của nhân dân ta trước kẻ thù hùng mạnh. Trong hồi
kí Nhớ lại việc gây một trong những cơ sở đầu tiên của Đảng bộ Thái Bình,
Trần Cung bắt đầu kể bằng điểm nhìn của chàng thanh niên bất đắc chí trong
những năm 20 nhưng kết thúc hồi kí ông lại đứng ở hiện tại để nhận thức toàn
bộ quá trình đã trải qua: “Nhân dịp kỉ niệm Đảng ta tròn ba chục tuổi, chúng
tôi ghi lại một vài nét về lịch sử gây cơ sở đầu tiên của Đảng bộ Thái Bình,
gọi là ôn lại việc xưa để càng thêm tin tưởng và phấn khởi làm nhiệm vụ hôm
nay” (Nhớ lại việc gây một trong những cơ sở đầu tiên của Đảng bộ Thái
Bình, Trần Cung). Trải qua những khó khăn, gian khổ, con người vẫn mạnh
mẽ, kiên cường để bảo vệ và giữ gìn những gì họ đã gây dựng. Người kể
chuyện cũng là người đã trải nghiệm đầy đủ những thử thách ấy và trong sự
tương quan giữa quá khứ với hiện tại, họ vẫn giữ vững lập trường của người
cách mạng. Khi nhìn lại những chặng đường đã đi qua bằng điểm nhìn ở hiện
tại, khi đặt mình vào những tình thế đã xảy ra trong quá khứ, những lời bày tỏ
của người kể càng có sức thuyết phục đối với người tiếp nhận.
Như vậy, xét về phương diện thời gian, điểm nhìn trong hồi kí cách
mạng vừa có độ lùi vừa gắn liền với yêu cầu phản ánh có tính thời đại. Đây là
cơ sở để người kể nêu ra những nhận xét, bình luận xác đáng, phù hợp với
hiện tại bằng sự chiêm nghiệm, suy ngẫm của chính người trong cuộc. Điều
này đã tạo nên sự khác biệt về điểm nhìn trần thuật của hồi kí cách mạng so
với các thể loại hư cấu – điểm nhìn hiện tại hoặc giả quá khứ của chủ thể trần
thuật mang tính hư cấu. Điểm nhìn ở đây thường có sự song hành giữa thời
gian quá khứ và thời gian hiện tại, do đó, dù là trần thuật theo dòng hồi tưởng
nhưng tác giả hồi kí vẫn đảm bảo tính khách quan và sự chừng mực khi bày tỏ
quan niệm, bộc lộ cảm xúc.
4.1.3.2. Sử dụng điểm nhìn nội tiêu điểm cố định và điểm nhìn ngoại tiêu điểm
Trong bài viết Vấn đề phân loại góc nhìn trần thuật, nhà nghiên cứu
Phương Lựu đã chỉ ra sự đa dạng trong quan niệm về góc nhìn (perspective)
hay điểm nhìn (point of view). Trong đó, thuật ngữ góc nhìn được các nhà
152
nghiên cứu sử dụng phổ biển như: Brooks và Warren, Greimas, Pouillon,
Friedman, Uspenski… Genette thì thay đổi thuật ngữ, ông không gọi là góc
Việc thay đổi thuật ngữ thế này là có lí, vì đúng như Genette cho rằng
những điểm nhìn, góc nhìn được sử dụng từ V.Proop đến T.Todorov không
tránh khỏi hơi thiên về nghệ thuật thị giác. Khái niệm tiêu điểm trả lời
thẳng vào vấn đề tiên quyết là câu chuyện do ai và đứng ở đâu để kể, tất
nhiên có khía cạnh góc nhìn, nhưng còn với tất cả trình độ và phong cách
của mình (Phương Lựu, 2004, trang 194).
nhìn hay điểm nhìn mà gọi là tiêu điểm. Phương Lựu nhận xét rằng:
Chính vì vậy, xét từ vị trí của người trần thuật, trong hồi kí cách mạng,
loại trần thuật nội tiêu điểm cố định và loại trần thuật ngoại tiêu điểm được sử
dụng phổ biến, phù hợp với đặc điểm và yêu cầu của thể loại.
Nội tiêu điểm cố định là loại điểm nhìn trong đó người trần thuật vốn là
một nhân vật trong câu chuyện, đồng thời, chỉ riêng nhân vật này kể lại tất cả
diễn biến của câu chuyện. Đây là loại điểm nhìn phổ biến trong nghệ thuật
trần thuật của hồi kí cách mạng Việt Nam bởi vì điểm nhìn này đáp ứng được
yêu cầu của thể loại – kể về những sự việc đã xảy ra trong quá khứ mà người
kể trực tiếp chứng kiến hoặc tham gia.
Khi trần thuật với điểm nhìn nội tiêu điểm cố định, tác giả hồi kí thường
không kể suông mà rất chú trọng đến ngôn ngữ, hành động của nhân vật.
Người kể chuyện đã để cho các nhân vật tham gia vào diễn biến câu chuyện
và chủ thể vẫn kể với vai trò một người trong cuộc, quan sát quá trình sự việc.
Trong hồi kí Bác Hồ ở Tân Trào, khi trần thuật, Nguyễn Lương Bằng đã xen
vào lời kể những phát ngôn trực tiếp của Bác Hồ: “Ngày ấy, Nhật chưa đầu
hàng đồng minh. Bác nói: “Một vài ngày nữa là nó hàng, và hàng không điều
kiện”. Vài hôm nay, trong khi hội nghị Trung ương đang họp chúng tôi được
tin phát xít Nhật đầu hàng” (Bác Hồ ở Tân Trào, Nguyễn Lương Bằng). Hay
khi Bác nhìn thấy các em thiếu nhi dân tộc thiểu số gầy gò, vàng vọt, tác giả
nhớ rõ những lời Bác đã nói với các đại biểu: “Nhiệm vụ của chúng ta là phải
153
làm sao cho các em bé có cơm no, có áo ấm, được đi học, không lam lũ mãi
thế này” (Bác Hồ ở Tân Trào, Nguyễn Lương Bằng). Tuy rằng lời kể của
người trần thuật vẫn giữ vai trò chủ đạo nhưng việc đan xen ngôn ngữ trực
tiếp của nhân vật cho thấy khả năng thâm nhập hiện thực của tác giả cũng như
ấn tượng sâu đậm về đối tượng được lựa chọn để kể. Hồi kí Chị Tư già được
trần thuật bằng điểm nhìn của chị Nguyễn Thị Thuận – là chủ thể trần thuật
với điểm nhìn cố định và là nhân vật chính trong hồi kí. Khi trần thuật, tác giả
sử dụng nhiều ngôn ngữ dạng đối thoại, độc thoại để liên kết các nội dung.
Đồng thời, các hành động cũng được trần thuật rõ nét. Khi được kết nạp vào
Đảng cộng sản Đông Dương, nhìn thấy cờ đỏ búa liềm, chị đã thật sự xúc
động: “Tôi bật đứng dậy, hai tay run run. Tôi ghì chặt tay vào mép bàn, đứng
như thế một lúc, cổ họng như nghẹn lại” (Chị Tư già, Nguyễn Thị Thuận). Sự
đan xen này giúp cho trần thuật có được tính sinh động. Tác giả không chỉ
cung cấp sự kiện mà còn làm nổi bật được phong thái, tính cách của đối tượng
thông qua việc lựa chọn ngôn ngữ và hành động. Với điểm nhìn này, trong
quá trình hồi tưởng để tái hiện lại những sự việc đã diễn ra, người kể chú
trọng quá trình tự nhiên, không chứng tỏ sự sắp đặt, bố trí của mình đối với
các nhân vật và sự kiện.
Ngoài ra, khi kể bằng điểm nhìn nội tiêu điểm cố định, người kể chuyện
giữ được tâm thế của một chủ thể trần thuật đang quan sát các nhân vật tham
gia vào câu chuyện. Chính vì vậy, tâm lí của chủ thể trần thuật và của các
nhân vật cũng được chú ý thể hiện. Cái nhìn của chủ thể trần thuật chi phối
nhiều đến sự việc bằng thủ pháp miêu tả hay phương thức trữ tình. Trong hồi
kí Nhờ dân nhờ Đảng mà trưởng thành, Nguyễn Lương Bằng đã có cái nhìn
đầy thiện cảm với nhân dân, điều này thể hiện trở đi trở lại trong toàn bộ hồi
kí. Chẳng hạn như, khi nhớ lại việc một bà cụ ở ga Gia Lâm đã cho mình tất
cả số tiền có được, ông bồi hồi: “Nghĩ đến chân tình của đồng bào đối với
người cách mạng, tự nhiên, dung dị lạ thường, tôi càng thêm tin tưởng; cứ có
cán bộ, cứ có người đem đường lối, chính sách chủ trương của Đảng đến với
154
quần chúng là có phong trào” (Nhờ dân nhờ Đảng mà trưởng thành, Nguyễn
Lương Bằng). Niềm tin, tình cảm của Nguyễn Lương Bằng đối với quần
chúng được bày tỏ trực tiếp, đầy cảm xúc từ chính trải nghiệm và thông qua
những minh chứng đáng tin cậy.
Điểm nhìn nội tiêu điểm cố định cũng cho phép người trần thuật linh
động trong quá trình trần thuật. Người kể chuyện trong hồi kí cách mạng
không những kể chuyện của mình mà còn kể những chuyện chung của nhiều
người, trong đó, bản thân người kể là một thành phần. Trong hồi kí Sẵn sàng
lên máy chém (Lê Văn Lương kể, T.Đ ghi) có đoạn miêu tả: “Chúng tôi suốt
ngày ăn rồi đùa, nghịch. Đánh bài, hát bộ, đóng tuồng inh cả lên. Khi cửa
khám mở, thấy ai đi qua cũng kiếm được một câu nói giỡn, nói đùa. Tối đến,
nằm trong xà lim nghe bên ngoài có tiếng hàng rao. Chúng tôi rao theo: “Ai
nước dừa đường cát”. Tưởng như mình đang đi trên hè phố thật. Nghe những
tiếng động bên ngoài, lắm lúc nhớ phố xá, nhớ nhà máy rộn lên không thể
nào chịu được” (Sẵn sàng lên máy chém, Lê Văn Lương). Tác giả không
xưng “tôi” mà xưng “chúng tôi”. Những điều tác giả đang bày tỏ cũng là
những điều các đồng chí, đồng đội kí thác: niềm khát khao tự do mãnh liệt.
Những dòng hồi kí của tác giả gợi nhắc đến nỗi niềm của những người tù
chính trị đối với cuộc sống tự do, đối với quê hương đất nước trong những
vần thơ của Tố Hữu:
Cô đơn thay là cảnh thân tù!
Tai mở rộng và lòng sôi rạo rực
Tôi lắng nghe tiếng đời lăn náo nức
Ở ngoài kia vui sướng biết bao nhiêu!
Nghe chim reo trong gió mạnh lên triều
Nghe vội vã tiếng dơi chiều đập cánh
Nghe lạc ngựa rùng chân bên giếng lạnh
Dưới đường xa nghe tiếng guốc đi về...
(Tâm tư trong tù)
155
Chính sự hòa nhập của người trần thuật vào thế giới chuyện kể đã tạo
nên tính chân thực và tính khách quan. Đặt mình ở vị trí bên trong, bên cạnh,
cùng với con người và sự việc, người kể dễ dàng nắm bắt những chuyển biến,
thay đổi lối trần thuật và tạo được độ tin cậy cho thông tin.
Ngoại tiêu điểm (external focalization) là khái niệm để chỉ điểm nhìn
nghệ thuật khi “nhân vật kể chuyện nằm ngoài câu chuyện, nhưng chỉ kể lại
tình tiết câu chuyện một cách khách quan, chứ không đi sâu vào tâm lí nhân
vật” (Phương Lựu, 2004, trang 115). Đối với loại điểm nhìn này, nhân vật kể
chuyện tách mình ra bên ngoài phạm vi câu chuyện chính. Mối liên hệ duy
nhất là những lời tường thuật khách quan. Trong đó, nhân vật và sự kiện
dường như tự vận động, biến chuyển, người kể là người quan sát, kết nối sự
việc.
Với điểm nhìn ngoại tiêu điểm, trong nhiều hồi kí cách mạng, có một
chủ thể trần thuật xuất hiện với vai trò người dẫn chuyện. Đồng thời, bố cục,
kết cấu trần thuật không theo mạch tự nhiên mà được chủ thể này sắp đặt, dẫn
dắt. Trong vai trò một người quan sát, dõi theo câu chuyện của người kể
chuyện, người trần thuật với điểm nhìn ngoại tiêu điểm thỉnh thoảng xuất hiện
bên ngoài cốt truyện. Trong hồi kí Câu chuyện Bác đã kể, T. Lan đã ghép nối
câu chuyện từ nhiều người kể chuyện khác nhau và điểm nhìn của tác giả
không bộc lộ mà chủ yếu hướng người đọc theo điểm nhìn của người kể
chuyện trực tiếp: “Ngày thường gần gũi anh em công nhân, Bác biết họ rất
khảng khái. Vài thí dụ […]” (Câu chuyện Bác đã kể, T. Lan). Tiếp sau đó là
Bác – nhân vật kể chuyện trực tiếp quan sát, tường thuật kèm theo những bình
phẩm của riêng mình. Và người trần thuật đứng bên ngoài cốt truyện xuất
hiện đôi khi để bình luận, đánh giá sự việc, dẫn dắt mạch truyện và định
hướng cho sự diễn biến của chuyện.
Và từ điểm nhìn ngoại tiêu điểm, người trần thuật có cơ hội nhìn thấy
những thay đổi trong tâm lí của nhân vật kể chuyện trực tiếp, cho nên, người
trần thuật còn dừng lại miêu tả tâm trạng, cảm xúc của nhân vật kể chuyện
156
trong quá trình hồi tưởng những sự việc đã xảy ra. Với điểm nhìn này, mạch
kể chuyện của nhân vật đôi khi gián đoạn. Sự gián đoạn này được xen vào
bằng phát ngôn của người trần thuật nhằm làm rõ những sự việc có liên quan
đến câu chuyện hay lướt qua những sự việc có tác động đến nhân vật kể
chuyện. Trong hồi kí Bất khuất, người trần thuật có những đoạn miêu tả, kể
bằng cái nhìn ngoại tiêu điểm của mình: “Sau hơn một tháng bị tra tấn, đồng
chí Nguyễn Đức Thuận phải sống cuộc đời xà lim hai mươi bảy tháng cơ cực,
tinh thần luôn căng thẳng vì phải suy nghĩ đối phó với kẻ thù. Bọn ác ôn liên
tục khai thác, đồng chí Thuận vẫn giữ vững tinh thần. Có thời cơ thuận lợi,
đồng chí tranh thủ làm công tác địch vận, uy tín ngày càng tăng” (Bất khuất,
Nguyễn Đức Thuận). Khác với điểm nhìn nghệ thuật phi tiêu điểm (điểm nhìn
“toàn tri”), người kể chuyện trong hồi kí cách mạng thường nhấn mạnh hiện
thực đã được nhìn thấy hơn là hiện thực được suy đoán, mường tượng, tưởng
tượng.
Như vậy, điểm nhìn nội tiêu điểm cố định đã xác lập được vai trò của
chủ thể trần thuật ngôi thứ nhất với vai trò nhân chứng. Với điểm nhìn này,
người kể chuyện thể hiện được sự chủ động và khả năng nắm bắt các vấn đề
liên quan đến cốt truyện. Nhờ đó, tác giả tạo nên sự sinh động cho câu
chuyện, đồng thời kết nối được các sự kiện và nhân vật tạo nên một điểm nhìn
thống nhất. Còn khi trần thuật bằng điểm nhìn ngoại tiêu điểm, người kể
chuyện không nhấn mạnh hành động, ngôn ngữ hay nội tâm của các nhân vật
tham gia vào diễn biến câu chuyện. Tuy nhiên, với điểm nhìn này, người kể
có thể xen vào những nhận xét, đánh giá, bình luận… khách quan về các hiện
thực được hồi tưởng trong hồi kí.
4.2. Nghệ thuật thể hiện hình tượng người cách mạng
Hồi kí là thể loại đòi hỏi cao về tính chân thực khi tái hiện con người và
sự việc. Bởi vì, nhân vật trong hồi kí cách mạng là những nhân vật có thật chứ
không phải được hư cấu, tưởng tượng. Đó là những đồng chí đồng đội đã từng
cùng tác giả vượt qua những tháng ngày gian khổ chốn lao tù. Tên tuổi họ đã
157
được ghi vào sử sách như Tô Hiệu, Nguyễn Lương Bằng, Võ Nguyên Giáp.
Đó là những con người đã có nhiều đóng góp cho quá trình cách mạng Việt
Nam.
Hình tượng người cách mạng là hình tượng nhân vật trung tâm, nhân vật
chính được tập trung khắc họa nhằm khẳng định vẻ đẹp tinh thần của dân tộc
trong thời kì đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Tác giả không hư cấu, sáng tạo
chi tiết về ngoại hình, tính cách mà chủ yếu là nhấn mạnh ấn tượng. Kể về
những người đã gặp, những sự việc đã qua không tránh khỏi quy luật của sự
lãng quên cho nên những điều tác giả kể về một nhân vật là những kỉ niệm và
cảm nhận rất sâu sắc mà nhân vật ấy đã để lại trong tâm thức họ.
4.2.1. Đặc tả về ngoại hình
Trong nghệ thuật thể hiện hình tượng nhân vật ở thể loại phi hư cấu, các
tác giả thường lựa chọn phác họa lại những chi tiết đã in hằn trong lòng họ bất
kể thời gian. Trong số hình tượng những người cách mạng được thể hiện, có
những người là đồng chí cùng kề vai sát cánh với người kể trong quá trình
hoạt động, có những người, người kể chỉ gặp gỡ một vài lần nhưng những nét
riêng về ngoại hình của họ vẫn để lại ấn tượng vẹn nguyên. Trong hồi kí cách
mạng, ngoại hình của những người cách mạng không phải được miêu tả mang
dụng ý nghệ thuật mà là ấn tượng sâu đậm của người kể về một số nét nào đó
có thật. Những nét phác họa về ngoại hình cũng nhằm hướng tới làm nổi bật
chân dung tinh thần của họ trong thời kì tham gia hoạt động cách mạng.
Trong thâm tâm của thế hệ những người tham gia cách mạng từ trước
năm 1930, những lần được gặp Bác, những khi được làm việc cùng Bác vẫn
còn lưu giữ nhiều kỉ niệm, cho nên trong hồi kí, người kể thường nhắc đến vẻ
ngoài của Người trong từng thời điểm khác nhau. Khi Người thoát khỏi nhà
lao Tưởng Giới Thạch, về căn cứ cách mạng ở Việt Bắc, Võ Nguyên Giáp
nhớ lại: “Bác vẫn như xưa với bộ quần áo chàm của đồng bào Nùng. Nhìn
lâu, thấy Bác có gầy và già hơn trước” (Từ nhân dân mà ra, Võ Nguyên
Giáp). Từ khi gặp Bác ở Hương Cảng, về Tân Trào gặp lại Bác, Nguyễn
158
Lương Bằng cũng nhớ lại: “Tôi nhận ra ngay ông Cụ, nhưng ông Cụ hom
hem quá, khác hẳn đồng chí Vương hồi trước. Ông Cụ đã để râu, tóc lốm đốm
bạc, hai má hóp lại. Đầu đội miếng vải túm lại như mũ nồi. Mình mặc áo cộc
chàm, hai chân gầy khẳng khiu làm cho hai ống quần soóc càng rộng. Chỉ có
đôi mắt là vẫn sáng như xưa” (Nhờ dân nhờ Đảng mà trưởng thành, Nguyễn
Lương Bằng). Cuộc sống thiếu thốn, khó khăn và nỗi lo cho vận mệnh dân tộc
đã làm cho vóc hình Bác hao gầy nhưng trong tâm thức của người cách mạng,
đôi mắt sáng của Bác vẫn ẩn chứa tình yêu thương và niềm tin bất diệt. Ngoài
ra, những dòng hồi ức của các tác giả cũng khẳng định thêm lối sống giản dị,
gần gũi với nhân dân của Bác Hồ: “Bác mặc bộ đồ ka ki, chân đi đôi giày vải
màu chàm do đồng bào miền núi tặng” (Trường quân chính kháng Nhật,
Hoàng Văn Thái). Trong hầu hết các hồi kí, vẻ bề ngoài của Bác thể hiện một
lối sống gần gũi với đồng bào cần lao. Đó là một nét đẹp trong lối sống của
lãnh tụ mà những ai đã từng gặp, từng hoạt động cùng Bác đều cảm phục và
ghi khắc trong lòng.
Khi nhớ lại dáng vẻ và phong thái của những người đồng chí, người kể
cũng miêu tả một cách khách quan, không lãng mạn hóa hay lí tưởng hóa.
Tuy vậy, với tình cảm và sự quý trọng nhau, tác giả thường phác họa những
chi tiết gây ấn tượng đẹp. Trong hồi kí Nhân dân ta rất anh hùng, Hoàng
Quốc Việt nhớ lại: “Anh Nguyễn Đức Cảnh còn trẻ lắm, người mảnh khảnh,
rất nhanh, là một trong những đồng chí có trình độ, có lí luận lúc bấy giờ”.
Nguyễn Đức Cảnh lúc này là người đã kết nạp Hoàng Quốc Việt vào Việt
Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội, giảng giải những lí luận chính trị,
giúp ông có định hướng đúng đắn trong lí tưởng sống của mình. Nông Văn
Lạc nhớ lại dáng vẻ của đồng chí Xích Thắng (Dương Mạch Thạch): “Đồng
chí Xích Thắng, người tầm thước, trắng trẻo, gò má cao, mũi hơi lõ, lông mày
rậm, rất nhanh nhẹn, đeo cái túi đan bằng dây sắn, giắt con dao nhọn to bên
cạnh sườn” (Ánh sáng đây rồi, Nông Văn Lạc). Nguyễn Duy Trinh nhớ đến
hình ảnh người bạn tù Tôn Đức Thắng: “Người tù ấy trạc bốn mươi tuổi,
159
dáng người còn trẻ, trông cứng cáp, chắc nịch, mà giọng nói cũng như mắt
nhìn rất mộc mạc, hiền từ” (Từ khám tù vị thành niên đến trường học Xô Viết
– Nghệ Tĩnh, Nguyễn Duy Trinh). Vẻ đẹp của họ toát lên từ kiểu mẫu của
người cách mạng trong thời kì đầu với sự tự tin, kiên cường, nồng nhiệt.
Trong hồi kí Bước đầu làm chính trị viên, Trần Độ vẫn còn nhớ về dáng vẻ
của đồng chí Nguyễn Thượng Mẫn: “Người nhỏ nhắn, gầy gò, mắt kèm nhèm,
da đen, chân tay thon bé. Trông bề ngoài anh yếu đuối, lúc nào cũng như xúc
động run rẩy” (Bước đầu làm chính trị viên, Trần Độ). Không chỉ đơn thuần
miêu tả ngoại hình, Trần Độ còn nhận ra vẻ đẹp cách mạng ẩn bên trong
ngoại hình có vẻ yếu ớt ấy: “Đó chính là cái nhiệt tình cách mạng bừng cháy
trong người anh, thân thể nhỏ bé của anh tỏ ra không chứa đựng hết cái nhiệt
tình đó” (Bước đầu làm chính trị viên, Trần Độ). Có thể thấy, tác giả đã bị thu
hút bởi những người đồng chí như thế nên họ không chỉ nhớ đến ánh nhìn sôi
sục, tâm thế hiên ngang mà còn nhớ đến những hình ảnh rất đỗi bình thường
nhưng chất chứa một nội tâm phi thường. Trong kí ức của Trần Độ cũng vẫn
luôn lưu giữ hình ảnh của Trần Đăng Ninh: “Hai cánh tay và hai bắp chân
rắn đen của anh chắc nịch và gân guốc như chứa đựng một sức mạnh ngàn
cân. Đầu anh to, tóc ngắn dựng ngược, cằm anh vuông, lún phún mấy sợi râu
hung đỏ và hơi nhô ra như thách thức [...]. Tôi thấy anh như một tảng đá sẵn
sàng vươn ra trước gió bão, các thử thách đấu tranh như những làn sóng bể
hùng hổ sủi bọt quật vào anh cũng sẽ chỉ vỡ tan tành rồi rút lui xa khuất
phục, còn anh anh cứ đứng vững” (Một cuộc vượt ngục hụt, Trần Độ). Vì sự
chi phối của cảm xúc và thiện cảm dành cho đồng đội nên trong hồi kí cách
mạng, người kể thường khắc họa những nét ngoại hình nổi bật, tiêu biểu.
Bên cạnh đó, ngoại hình người cách mạng được hồi nhớ gắn liền với
hoàn cảnh thiếu thốn trong thời gian hoạt động bí mật, trong lúc trốn khỏi lao
tù. Khi nhắc lại những ngày trốn khỏi nhà tù Hỏa Lò, Nguyễn Tạo chua xót
nhớ đến dáng vẻ của mình và những người đồng đội: “Giá có ai trông thấy
chúng tôi thì thấy một lũ người không phải người, mà ngợm không phải
160
ngợm, năm bộ xương bọc một lớp da trắng bủng, mặt xanh nhợt chỉ còn thấy
hai con mắt, đầu trọc tếu, quần áo xốc xếch ướt lướt thướt. Thật thương tâm
mà cũng đến buồn cười” (Chúng tôi vượt ngục, Nguyễn Tạo). Trần Đăng
Ninh cũng không ngần ngại khi nhắc lại hình ảnh của mình trong lần trốn
khỏi nhà tù Sơn La: “Mới nhìn vào gương, tôi giật mình vì thấy mình không
phải là mình nữa: tóc tợp mang tai, râu ria đâm dài tua tủa, da dẻ xám đen,
mắt thao láo và hai má hóp lại” (Hai lần vượt ngục, Trần Đăng Ninh). Người
kể không lẩn tránh hiện thực, không tập trung vào những vẻ đẹp kì vĩ, phi
thường và nhận thấy nỗi khốn khổ cả về thể xác lẫn tinh thần in hằn trên thân
thể họ. Đó là dấu tích của đòn roi, tra tấn; của sự thiếu thốn, đói khổ triền
miên. Nhưng quan trọng là họ đã vượt lên tất cả những nỗi khổ ấy. Các tác
giả khi phác họa ngoại hình đồng chí của mình vẫn còn nhớ lại ấn tượng ngạc
nhiên. Trong hồi kí Ánh sáng đây rồi, Nông Văn Lạc kể lại khi đi học lớp
huấn luyện, thấy đồng chí Bảy (bí danh của Võ Nguyên Giáp) hay chữ, lí luận
giỏi nên nghĩ “chắc nhà giàu mới học được như thế!”. Thế nhưng, chính
người kể cũng băn khoăn về trang phục của người đồng chí đáng kính: “Chỉ
thấy lạ là quần áo đồng chí Bảy hơi bạc màu, cúc áo có nhiều loại khác nhau.
Đôi giày vải, hai ngón chân cái cũng thò ra ngoài” (Ánh sáng đây rồi, Nông
Văn Lạc). Hoàng Quốc Việt nhớ lại lần đầu gặp Trần Phú cũng với cảm giác
ngạc nhiên: “Tôi tưởng sẽ gặp một người to lớn, mạnh mẽ. Đồng chí phụ
trách đến nơi, người gầy yếu, mặc vét-tông, quần ta, đầu đội mũ phớt, mắt le
lé. Nghe anh nói, giọng xứ Nghệ, mệt và ho luôn, tôi rất thương” (Nhân dân
ta rất anh hùng, Hoàng Quốc Việt). Ngoài ra, sự tra tấn hành hạ của kẻ thù
trong các nhà tù đã làm cho ngoại hình của người cách mạng tiều tụy, gầy gò.
Vẻ bề ngoài ấy đã minh chứng cho ý chí kiên cường của người cách mạng, dù
bị đòn roi tra tấn cũng không khuất phục, đầu hàng. Khi kể chuyện về Lê
Hồng Phong cho người bạn tù mới đến, một đồng chí già nhớ lại: “Người
đồng chí gầy đét, chỉ còn da bọc xương. Nước da đồng chí tái nhợt. Tất cả cái
tiều tụy ấy lại được phơi ra dưới manh áo chàm rách mướp, ướt sũng mồ hôi
161
và bê bết máu” (Bát cơm chan máu, Ngô Đăng Đức). Tất cả những vẻ ngoài
của người cách mạng được miêu tả lại đều là bằng chứng thiết thực về quá
trình hoạt động nhiều gian khổ. Tuy vậy, những ấn tượng về vẻ bề ngoài ấy
chính là sự cảm phục của người kể về ý chí, tinh thần cách mạng của họ.
Có thể thấy rằng, ngoại hình của người cách mạng được phác họa trong
hồi kí chân thực, giản dị, gắn liền với quá trình hoạt động. Tác giả hồi kí đã
cho thấy một vẻ đẹp và sức mạnh phi thường toát lên từ những hình ảnh bình
thường. Đó không phải là những hình ảnh được xây dựng theo kiểu lí tưởng
hóa mà là những hình ảnh được bắt gặp hàng ngày và in sâu vào lòng đồng
đội. Vì thế, khi viết hồi kí, hình ảnh ấy xuất hiện tự nhiên, chân thực.
4.2.2. Ấn tượng về ngôn ngữ và hành động
Bên cạnh ngoại hình, hành động và ngôn ngữ của người cách mạng cũng
để lại nhiều ấn tượng trong lòng độc giả. Trong nhiều hồi kí, chân dung tinh
thần của họ đã được phác họa thông qua việc miêu tả lại những hành động, lời
nói bằng tất cả tình cảm chân thành. Phương diện này thể hiện trực tiếp tính
cách, quan điểm và thái độ sống của người cách mạng.
Người kể chuyện đặc biệt ấn tượng với ngôn ngữ và hành động của
người cách mạng khi đối diện với kẻ thù. Khi viết hồi kí Bát cơm chan máu,
Ngô Đăng Đức đã để cho người đồng chí già nhắc lại hành động bình tĩnh,
thái độ kiên quyết của Lê Hồng Phong với tất cả sự ngạc nhiên và ngưỡng
mộ. Đồng chí già khi kể đã thốt lên “lạ chưa”, và nhớ rất rõ từng hành động,
từng lời nói khi Lê Hồng Phong đối mặt với kẻ thù: “Đồng chí Lê Hồng
Phong thong thả đặt bát cơm xuống, rồi ngẩng phắt đầu lên, đôi mắt long
lanh sáng quắc nhìn thẳng vào mặt nó và dằn từng tiếng đáp:
- Chúng mày nói: ngày nào chúng mày không đánh được chúng tao chảy
máu thì chúng mày cảm thấy ăn không ngon. Vậy chúng tao cũng cần phải ăn
để có máu đối phó với chúng mày. Đấy! Tất cả lí do. Rất giản dị! Chúng mày
cứ tiếp tục đi” (Bát cơm chan máu, Ngô Đăng Đức). Từng lời nói, hành động
đó đã khẳng định khí phách kiên cường và ý chí gang thép của người cách
162
mạng, đòn roi của kẻ thù cũng phải e dè, khuất phục. Nhớ lại tình thế gay go
của cuộc đấu tranh tại Sơn La, Trần Huy Liệu vẫn không quên được hành
động của Nguyễn Lương Bằng: “Nhớ lại cuộc đấu tranh tại Hỏa Lò – Hà Nội
một năm trước, anh đã tìm cách cắt cổ để bọn chúng phải đem đi bệnh viện
Phủ Doãn rồi sau đó có cuộc vượt ngục của 7 chính trị phạm” (Dưới hầm
Sơn La, Trần Huy Liệu). Hành động đó không chỉ thể hiện sự dũng cảm, kiên
cường của người cách mạng mà còn minh chứng cho lời thề vì nước hi sinh
của họ.
Ngoài ra, người cách mạng còn được phác họa trong hồi kí về sự khẳng
khái và nhiệt tình cách mạng qua những phát ngôn và qua hành động đối với
đồng đội. Trong hồi kí Chúng tôi vượt ngục, Nguyễn Tạo nhắc đến đồng chí
Lịch thông qua cách nói năng thẳng thắn nhưng chân tình: “Chắc chúng mày
tưởng tao bỏ chúng mày chuồn rồi! Chúng mày phải biết thằng Phạm Quang
Lịch luôn luôn nguyện hi sinh vì Đảng, hi sinh vì anh em. Nhưng người cách
mệnh phải có tinh thần tự chủ, chứ cứ ỷ lại và tréo vào nhau thì chết cả nút,
còn đứa nào sống để hoạt động nữa?” (Chúng tôi vượt ngục, Nguyễn Tạo).
Mặc dù bị đồng đội hiểu nhầm nhưng anh không oán giận, anh xem đó như
một tình huống để tỏ rõ lập trường và quan điểm của mình. Những cái bánh
chưng, những củ khoai từ mà anh đã lặn lội cả ngày đường để đem về cho
đồng đội đã thể hiện tình cảm chân thực, giản dị nhưng sâu sắc của anh dành
cho anh em trong những ngày vượt ngục gian khổ. Nguyễn Duy Trinh cũng
ngưỡng mộ cách hành xử của Tôn Đức Thắng: “Anh là một người thợ giỏi,
lương rất cao, được chủ Tây rất trọng, vậy mà anh chẳng như ai chỉ nghĩ đến
sung sướng một mình. “Già Thắng” lúc nào cũng chăm chăm bênh vực quyền
lợi chung, có ý thức giai cấp chắc mạnh, lại giàu lòng hào hiệp, sẵn sàng
nhường cơm sẻ áo cho nhau, cứu mạng giúp đỡ bạn nghề và anh em trong khi
thiếu thốn, hoạn nạn” (Từ khám tù vị thành niên đến trường học Xô Viết –
Nghệ Tĩnh, Nguyễn Duy Trinh). Trong cuộc sống cách mạng, tác giả đã
chứng kiến biết bao nghĩa cử cao đẹp, đáng quý của đồng chí mình. Với họ,
163
điều đó đã trở thành những ấn tượng không thể phai mờ. Cũng chính vì vậy,
cho dù Tôn Đức Thắng sau này đã trở thành một vị lãnh đạo nhưng đối với
Nguyễn Duy Trinh, hành động, lời nói của người công nhân Tôn Đức Thắng
vẫn luôn là ấn tượng đẹp. Mỗi hành động, lời nói của người cách mạng đều
cho thấy họ đã đặt cái chung lên vị trí trung tâm, hàng đầu còn những gì liên
quan đến cá nhân chỉ là thứ yếu. Họ không ngại gian khổ, không sợ hi sinh
chỉ mong hoàn thành sứ mệnh trọng đại mà tổ chức, nhân dân đã giao phó cho
mình.
Đặc biệt, trong quá trình hoạt động, người cách mạng thể hiện tình cảm,
thái độ, bản lĩnh của mình qua cách ứng xử và tác phong trong công tác.
Trong hồi kí Chị Tư già, chị Nguyễn Thị Thuận khi chưa được giác ngộ và
chưa được dẫn dắt vào tổ chức cách mạng đã được tiếp xúc với nhiều người là
đồng chí của chồng. Kể lại trong hồi kí, chị bày tỏ ấn tượng tốt đẹp về người
cách mạng và cách nói năng và ứng xử của họ: “Có điều làm tôi yên lòng là
những người bạn anh, ai cũng có vẻ thật thà và nhanh nhẹn. Mỗi người mỗi
vẻ, nhưng giống nhau ở cách nói năng lễ độ, vui tươi. Đối với gia đình, ai
cũng tỏ ra thân mật và tự nhiên như người trong nhà” (Chị Tư già, Nguyễn
Thị Thuận). Sự thân tình của người cách mạng chính là nguyên nhân để họ
gẫn gũi được với quần chúng nhân dân, tạo dựng được niềm tin để xây dựng
cơ sở cách mạng trong lòng quần chúng. Khi nhớ đến Bác Hồ, Võ Nguyên
Giáp cũng thể hiện ấn tượng về những lời nói và hành động của Bác. Ông
thường trích dẫn những lời Bác căn dặn: “Bác thường nói: “Làm cách mạng
là công việc lâu dài “niên chí công, nguyệt chí công”, phải bền lòng vững
chí, mọi việc đều phải suy nghĩ chín chắn, không nên hấp tấp, vội vàng”. Cho
nên, thường thường, đi công tác về, nếu không có việc gì thật gấp thì vẫn có
cái lệ làm việc như thế này: Bao giờ Bác cũng đề ra vấn đề và để cho chúng
tôi có thời gian chuẩn bị suy nghĩ, sau đó mới khai hội bàn bạc” (Từ nhân
dân mà ra, Võ Nguyên Giáp). Võ Nguyên Giáp đã để trong tâm những lời
164
Bác nói, xem đó là lời giáo huấn, là bài học xuyên suốt trong các chặng
đường phát triển của cách mạng Việt Nam.
Khi xây dựng chân dung tinh thần của mình và đồng chí trong suốt quá
trình tham gia cách mạng, nhiều tác giả đã kể lại những hành động thể hiện sự
hóm hỉnh, thông minh của người cách mạng. Điều này thể hiện sự thích ứng
của họ trong những hoàn cảnh khác nhau. Vì để che mắt mật thám, chị Thuận
đã nhắc lại chuyện các đồng chí phải giả bộ “ăn mặc sang, khăn lượt, áo the,
quần áo Tây là, nom rõ ra ông kí, ông phán chứ chẳng tầm thường” (Chị Tư
già, Nguyễn Thị Thuận). Có khi nhịn đói nhiều ngày, nhưng không để hàng
xóm để ý tò mò, chị phải giả đò mỗi ngày: “Ngày nào cũng phải nhóm bếp
hai lần cho có khói để hàng xóm khỏi ngờ vực. Rồi lau bát đĩa loảng xoảng,
rồi cũng đập củ hành cho vào chảo phi lên, hơi bốc thơm nức. Mâm bát dọn
ra bàn, anh em chúng tôi cũng mời mọc nhau cẩn thận, nhưng rồi lại chỉ
uống mấy ngụm nước nóng nhìn nhau, cười phá lên để no bụng” (Chị Tư già,
Nguyễn Thị Thuận). Niềm vui giản dị của những người cách mạng là được
cùng đồng đội kề vai sát cánh cho dù cuộc sống thiếu thốn, khó khăn. Quan
trọng hơn, người cách mạng sẵn sàng ứng phó với mọi hoàn cảnh cách mạng
yêu cầu. Bùi Công Trừng khi nhắc lại quá trình tham gia hoạt động cách
mạng đã bày tỏ ấn tượng về hành động của Nguyễn An Ninh: “Những người
chống Tây hăng nhất ở Nam kì buổi đó có anh Nguyễn An Ninh. Cái “chuông
rè” của anh ấy đã đánh thức đám thanh niên tợn lắm. Anh Ninh có cái đầu
tóc phi-lô-dốp tự mình đi bán báo Chuông rè” (Từ lòng yêu nước chân chính
tôi đã đi đến chủ nghĩa cộng sản, Bùi Công Trừng). Nhớ đến ông, người kể
không nén cái cười và trong giọng điệu có pha chút hài hước nhưng đó lại là
sự ngưỡng mộ chân thành đối với người đồng chí đã không ngại khó khăn,
dấn thân không hề toan tính. Trong hồi tưởng của Trần Huy Liệu về phong
trào yêu nước đầu những năm 20 của thế kỷ XX, ông cũng nhớ đến Nguyễn
An Ninh: “đổ cử nhân luật nhưng không tìm đường làm quan như bao nhiêu
kẻ khác” (Đảng Thanh niên). Nguyễn An Ninh là chủ bút tờ La Cloche félée
165
và tự mình ôm báo đi bán. Tờ báo “không phải chỉ đả kích mấy tên trùm sỏ
trong tập đoàn thống trị, mà còn chống cả với chế độ thuộc địa nói chung”
(Đảng Thanh niên, Trần Huy Liệu). Hành động tự mình bán báo, tuyên truyền
cho tờ báo của Nguyễn An Ninh, theo Trần Huy Liệu, đã làm cho bọn mật
thám rất bực tức, đồng thời, hành động này cho thấy sự nhiệt huyết và tinh
thần trách nhiệm của người cách mạng.
Người kể đã nhắc lại những lời nói của nhân vật, miêu tả những hành
động của nhân vật để tạo cơ sở, minh chứng cho những nhận xét, đánh giá của
họ về phẩm cách của những người cách mạng. Theo Đặng Thai Mai: “Chúng
ta thấy rằng, sau nhân vật điển hình còn có bối cảnh lịch sử; và cá tính vẫn có
thể bộc lộ trong điển hình. Hơn nữa, chính nhờ những nét cá tính sắc sảo mà
điển hình mới thành ra linh động” (Đặng Thai Mai, 1950, trang 72). Việc lựa
chọn biểu hiện để xây dựng hình tượng người cách mạng gắn với lí tưởng,
quan niệm chính trị và yêu cầu của thời đại. Điều này góp phần tạo nên sự
sinh động, thu hút cho những câu chuyện, tránh hình thức kể lể đơn điệu,
nhàm chán.
4.2.3. Khắc họa thế giới nội tâm
Trong hồi kí cách mạng, tác giả thường không kể về cuộc đời của riêng
mình bằng cái nhìn hướng nội, bởi vì mục đích của người kể là hướng đến
người đọc nhằm tuyên truyền, ngợi ca, khẳng định sự đúng đắn của sự nghiệp
cách mạng giải phóng dân tộc. Do đó, nội tâm nhân vật không được thể hiện
trọn vẹn. Sự bộc lộ nội tâm của người kể là phương tiện để thể hiện tính cách,
phẩm chất và lập trường tư tưởng của họ.
Chính lối kể chuyện bằng cảm nhận từ bên ngoài cho nên hồi kí cách
mạng không khai thác những chuyển biến nội tâm mà chủ yếu là phát hiện
những khoảnh khắc. Đồng thời, sự bộc lộ nội tâm thường được thể hiện thông
qua những cảm xúc vui. Hồ Chí Minh vẫn nhớ như in sự hân hoan, phấn khởi
của mình khi bắt gặp lí tưởng: “Luận cương của Lê-nin làm cho tôi rất cảm
động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao. Tôi vui mừng đến phát khóc lên.
166
Ngồi trong buồng mà tôi nói to lên như nói trước quần chúng đông đảo…”
(Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin, Hồ Chí Minh). Người thực sự vui
sướng bởi con đường tìm kiếm lâu nay đã hiện ra rõ ràng. Hành trình gian nan
đã được đền đáp xứng đáng. Đặc biệt hơn, Người thanh niên khát khao tự do,
độc lập đã thấy được tương lai tươi sáng cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Trong các hồi kí cách mạng, người kể thường nhắc đến cảm xúc của mình khi
được giác ngộ, được đứng vào hàng ngũ của Đảng. Chị Nguyễn Thị Thuận
bồi hồi xúc động nghĩ đến lời thề: “Chết không đầu hàng, hi sinh gian khổ tôi
chịu hết, suốt đời vì Đảng” (Chị Tư già, Nguyễn Thị Thuận). Đảng đã dìu dắt
chị thoát khỏi sự mặc cảm thụ động của thân phận người phụ nữ. Chị thấy
cuộc đời tươi mới hơn vì không còn quẩn quanh trong xó bếp mà được bước
ra xã hội, được cùng chồng gánh vác việc làng, việc nước. Cùng chung cảm
xúc ấy, khi viết những dòng hồi kí gửi cho con, tác giả Chánh Thi không quên
niềm vui dâng tràn ngày được các đồng chí tuyên bố kết nạp mình vào Đảng:
“Đêm ấy, đèn leo lét mà mắt ba thấy sáng rực, lời anh ấy giảng điều lệ tuy
nhỏ mà lòng ba nghe như tiếng sấm rền… Con ạ, sau đêm đó đời ba đã bước
hẳn vào cuộc sống ban ngày của lí tưởng” (Rồi ba được vào Đảng, Chánh
Thi). Niềm hân hoan của tác giả là niềm hân hoan của những con người đang
lần mò trong đêm tối chợt tìm được lẽ sống trong cuộc đời. Ông tràn ngập
niềm tin về một cuộc đổi thay để không còn bất công, khổ ải. Trong hồi kí
Nhớ lại một thời, Tố Hữu nhắc lại những lời dặn dò của đồng chí khi kết nạp
ông vào Đảng Cộng sản Đông Dương: “Tôi cảm thấy những lời đó thật thiêng
liêng, và nhận rõ ngay mình đang bước vào cuộc đời mới. Một năm sau
(1938), cái cảm giác ấy vẫn tươi nguyên trong tôi:
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim
(Từ ấy)” (Nhớ lại một thời, Tố Hữu)
167
Ông đã nhắc lại những vần thơ trong bài Từ ấy để khẳng định tình cảm
và cảm xúc của một thanh niên vừa tìm được ánh sáng của lí tưởng cách
mạng.
Trong nhiều hồi kí, tinh thần, ý chí cách mạng của người chiến sĩ hiện
lên qua những niềm sung sướng đặc biệt là niềm tự hào. Tình cảm này chỉ
những người trong cuộc mới thấu hiểu và thấm thía. Trong những ngày “bôn
ba” cùng anh em bạn hữu đi tìm lí tưởng, Lưu Động đã nhiều lần rơi vào
trạng thái hoang mang, chán nản cho đến khi ông nhặt được tờ truyền đơn của
Xứ ủy xứ bộ Bắc kì Đảng Cộng sản Đông Dương. Tác giả bộc bạch: “Những
lời, những chữ viết trong truyền đơn giản dị, vắn tắt nhưng khi tôi khẽ đọc lên
nghe choang choang như tiếng búa nện xuống đe. Ngoài phố đã yên ắng hẳn.
Nhưng trong cái yên ắng ấy, tôi như đã thấy một sức sống gì mạnh mẽ đang
im lặng vận hành, hoạt động vươn lên, tỏa rộng bao la” (Bước đầu theo
Đảng, Lưu Động). Thông qua những dòng hồi ức nhắc lại tâm trạng trong lúc
hoạt động, người cách mạng hiện lên với những tình cảm sâu lắng, thiết tha.
Võ Nguyên Giáp đã tái hiện tâm trạng của mình và các đồng chí khi nghe đọc
bản Quân lệnh số 1 của Ủy ban khởi nghĩa ngày 16 tháng 8 năm 1945:
“Trong lòng chúng tôi khi đó rạo rực lạ thường. Trước mắt chúng tôi lá cờ đỏ
sao vàng rực rỡ hào quang, xa xa là nền trời xanh cao lồng lộng, tươi sáng
vô cùng của nước Việt Nam giải phóng” (Từ nhân dân mà ra, Võ Nguyên
Giáp). Cuộc đời người cách mạng dù nhiều gian khổ, đối diện với bao mất
mát, hi sinh nhưng những khoảnh khắc vui sướng đã trải qua vẫn luôn là kí ức
đẹp đối với họ.
Bên cạnh đó, chân dung người cách mạng còn được phác họa qua nỗi
niềm day dứt, trăn trở. Lê Tùng Sơn trong hành trình một chặng đường bôn ba
tìm lí tưởng đã nhiều lần chạnh lòng, tức cảnh: “Từ trên cao ngó xuống
những thung lũng mây mù phủ kín trắng xóa như biển khơi. Nhìn cảnh đẹp
quê hương đất nước người lại chạnh nhớ Tổ quốc quê hương nào có thiếu gì
phong cảnh trời nước đẹp như tranh. Một nỗi buồn man mác” (Nhật kí một
168
chặng đường, Lê Tùng Sơn). Khi bị giam trong nhà tù, người cách mạng
thường lo lắng khi không được cùng đồng đội kề vai sát cánh, không tiếp tục
gây dựng cơ sở, làm cho phong trào lớn mạnh. Đồng thời, họ còn không yên
lòng trong cuộc đấu tranh với chính mình trước đòn roi của kẻ thù. Nỗi lòng
này được Nguyễn Lương Bằng bày tỏ: “Nhờ được đọc báo, tôi luôn luôn
được cảm thấy, dù giữa cảnh lẻ loi trong tù, mình vẫn được gắn liền với
Đảng, nghe thấy hơi thở của phong trào đang mỗi ngày một lớn mạnh bồng
bột. Quả nhờ có báo của anh em gửi lên, tôi nuôi dưỡng được tinh thần phấn
đấu, thắng được tư tưởng bi quan đôi khi nhoi lên trong cảnh đi đày cô đơn
nơi rừng thiêng nước độc” (Nhờ dân nhờ Đảng mà trưởng thành, Nguyễn
Lương Bằng). Trong ranh giới giữa sự sống và cái chết, nhiều lần người cách
mạng đã phải đấu tranh với chính bản thân mình để giữ vững lập trường. Kẻ
thù không chỉ tấn công họ trực diện bằng đòn roi, tra tấn mà còn đánh vào tâm
lí nhằm khuất phục, muốn họ trở nên nhu nhược, hèn yếu và đánh mất lí
tưởng của mình.
Khác với các thể loại văn chương hư cấu, trong hồi kí cách mạng, tâm
trạng nhân vật không được chú ý sắp đặt để miêu tả, không có quá trình diễn
biến mà chủ yếu là sự bộc lộ một cách ngẫu nhiên tình cảm và cảm xúc của
người kể đối với những con người và sự kiện. Chính vì vậy, nội tâm không
phải là phương diện nghệ thuật chính trong phác họa người cách mạng. Nội
tâm chỉ được sử dụng khi người cách mạng tự họa chân dung tinh thần của
mình. Yếu tố tâm lí vì vậy được sử dụng hợp lí, đáp ứng yêu cầu khách quan,
chân thực của thể loại. Bên cạnh đó, sự bộc lộ nội tâm góp phần làm rõ đặc
trưng của thể loại hồi kí, đó là kể chuyện bằng hồi ức. Đặc trưng này cho
phép người kể sống với tâm trạng của mình khi nhắc lại những kỉ niệm sâu
sắc đã qua.
Thể loại kí cho phép phác họa những hình tượng nhân vật không hoàn
chỉnh (không nhất thiết phải có số phận, tính cách, không nhất thiết phải
Hoàng Như Mai quan niệm:
được triển khai sâu sắc, nhiều mặt), cho phép dừng lại ở những mẩu chuyện
(không nhất thiết phải dựng thành cốt truyện hẳn hoi có hành động thống
nhất) (Hoàng Như Mai, 1997).
169
Khi phác họa chân dung tinh thần về người cách mạng trong hồi kí, các
tác giả đã sử dụng một số biện pháp nghệ thuật nhằm tạo được hiệu quả thẩm
mĩ cao và đáp ứng được yêu cầu phản ánh “người thực, việc thực” của thể
loại. Chính vì vậy, người kể không sáng tạo kiểu con người trong tác phẩm
mà lựa chọn những chi tiết liên quan đến ngoại hình, ngôn ngữ, hành động,
nội tâm để thể hiện nhân vật. Bên cạnh đó, tác giả còn có sự lựa chọn hoàn
cảnh, tình huống để các nhân vật bộc lộ mình một cách chân thực và sống
động.
4.3. Giọng điệu nghệ thuật đa dạng
Trong bài viết Kể lại nội dung và viết nội dung, tác giả Hoàng Ngọc
Hiến đã trích nêu lại vấn đề đã được trình bày trong bài viết Hai tác giả mới
trong một nền văn xuôi đang đổi mới (Những vấn đề thời sự văn học). Ông
“Kể lại nội dung” chỉ quan tâm đến việc: kể cái gì, “viết nội dung” còn
quan tâm đến mặt: kể như thế nào […]. Trong văn xuôi “viết nội dung”, sự
kết hợp “viết cái gì” và “viết như thế nào” tạo ra sức căng cho câu văn,
mạch văn, làm cho câu văn có giọng, có hồn, không bị “bẹt”, bị ỉu xìu
(Hoàng Ngọc Hiến, 2004, trang 97).
cho rằng:
Điều này có ý nghĩa đối với việc nghiên cứu hồi kí cách mạng để thấy
nghệ thuật tự sự góp phần quan trọng trong việc tái hiện hiện thực chứ không
chỉ “kể lại” những gì đã xảy ra theo đúng tiến trình biên niên của lịch sử.
Khác với các thể loại văn xuôi hư cấu như tiểu thuyết hay truyện ngắn,
sự đa giọng thể hiện tính chất đối thoại trong quá trình trần thuật giữa các chủ
thể khác nhau. Trong hồi kí cách mạng, tính đa dạng trong giọng điệu trần
thuật xuất phát từ một chủ thể trần thuật. Sự đa giọng không phải tạo nên do
170
tính đối thoại mà do sự chi phối của tình cảm, thái độ trong quá trình người
trần thuật hồi tưởng và tái hiện quá khứ.
4.3.1. Giọng giãi bày, tâm tình
Khi dấn thân vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc, các chiến sĩ đã xác
định, cả cuộc đời họ sống là để đấu tranh vì sự tự do cho bản thân, cho hạnh
phúc gia đình, cho đồng bào đang lầm than và đất nước đang đắm chìm trong
cảnh đời nô lệ. Bằng sự sâu sắc, nhạy bén và dày dạn kinh nghiệm trong cuộc
đời hoạt động, họ đã tỏ rõ lập trường của mình trong cuộc đấu tranh không
khoan nhượng với kẻ thù trên mọi lĩnh vực. Chính vì vậy, thái độ và lập
trường chính trị của họ cũng thể hiện rất rõ qua những trang hồi kí. Viết hồi kí
chính là lúc họ đối diện với chính mình, trải lòng mình với mọi người, giãi
bày những tâm sự trong lòng cả về những điều đã xảy ra trong quá khứ và
trong cuộc sống hiện tại.
Khi kể chuyện, các tác giả khẳng định sự đúng đắn trong con đường đấu
tranh giải phóng dân tộc, tuyên bố và tin tưởng mãnh liệt vào sự thắng lợi của
cách mạng dân tộc dưới ánh sáng của Đảng cộng sản. Đối với họ, đây không
chỉ là lời tuyên bố mà còn là lời hứa xuất phát từ tận sâu tâm hồn mình sau
khi đã trải qua nhiều biến cố. Sau khi vượt ngục Sơn La không thành công,
Trần Đăng Ninh bị bắt lại ở Hưng Yên rồi đưa về Hỏa Lò, trong hồi kí Hai
lần vượt ngục, Trần Đăng Ninh đã kể lại lời của anh Hoàng Văn Thụ bằng
giọng điệu cảm động và thể hiện sự quyết tâm chiến đấu: “Anh Hoàng Văn
Thụ cũng bị nhốt ngay xà lim bên cạnh, thỉnh thoảng lại đập tường ra hiệu
hỏi tôi.
- Đã tỉnh chưa? Có việc gì không? Cố chịu đòn nhé. Chết thì thôi chứ
đừng quên Tổ quốc đấy!
Lời nói của anh Thụ tôi nghe lúc ấy thiêng liêng thấm thía như tiếng gọi
của núi sông” (Hai lần vượt ngục, Trần Đăng Ninh).
Giọng kể của Trần Đăng Ninh như lắng vào trong tâm hồn mình, những
xúc cảm mãnh liệt và những tác động của lời nói ấy như vẫn còn vẹn nguyên
171
trong tâm thức của ông. Cho đến khi kể lại câu chuyện này, lời khuyến khích
của anh Thụ vẫn như có một sức mạnh giúp ông vượt qua sự tra tấn, tù đày,
vượt qua những phút yếu đuối của bản thân trong ranh giới sự sống và cái
chết. Bên cạnh đó, trong hồi kí cách mạng, lập trường của người cách mạng
còn được bộc lộ khi họ bày tỏ những chiêm nghiệm, suy ngẫm. Trở về Hà Nội
sau ngày độc lập, Hoàng Văn Thái nhìn lại quá trình cách mạng, hồi tưởng về
những đồng chí đồng đội trong niềm suy tư: “Bao nhiêu năm đấu tranh gian
khổ hi sinh của cả dân tộc. Nhiều chiến sĩ Đảng viên đã ngã xuống ở chốn lao
tù hoặc chốn rừng sâu. Nay đất nước giành được độc lập tự do. Lá cờ thấm
máu của các liệt sĩ đã kiêu hãnh bay trên bầu trời của thủ đô Hà Nội. Cuộc
đấu tranh lâu dài bền bỉ ấy, đã cho tôi nhìn thấy những ước mơ đẹp đẽ của
mình và của bao đồng chí hôm nay” (Trường quân chính kháng Nhật, Hoàng
Văn Thái). Niềm tin tưởng ấy Hoàng Văn Thái đã nói thay cho những đồng
chí cùng thế hệ và cả những thế hệ sau. Tác giả hồi kí đã quan sát, cảm nhận
bằng chính sự trải nghiệm của mình và minh chứng là quá trình kháng chiến
gian khổ và những thắng lợi vĩ đại.
Hồi kí cách mạng còn là những bản cáo trạng về tội ác của thực dân, đế
quốc và tay sai để từ đó người kể bày tỏ sự xót xa không nguôi trước nỗi khốn
khổ của thân phận người dân thuộc địa. Các tác giả hồi kí thường chọn cách
nói nửa đùa, nửa thật và đặt sự việc trong thế đối lập để phơi bày luận điệu
gian xảo, giả dối của kẻ thù. Trong hồi kí Bước đầu theo Đảng, Lưu Động
viết: “Chung quanh bờ hồ, dưới rặng liễu xanh tốt và thướt tha bắt đầu dựng
lên những hầm trú ẩn nổi, lộ thiên, nông choèn bằng đất bùn, dày chỉ độ gang
tay. Quan đốc lí Hà Nội vừa cho đăng báo, rằng nước Pháp bảo hộ hết sức
chú ý đến sinh mạng của nhân dân thành phố, rằng những hầm ấy dành cho
những người Việt, rằng những người Việt đã có những hầm “chu đáo” và
“an toàn” như thế rồi thì cấm chỉ không được lai vãng tới những hầm của
người Âu khi lâm sự. Bảng thông báo của quan đốc lí quên không ghi một chi
tiết nhỏ là hầm của người Âu xây bằng bê tông, cốt sắt, có túi cát chấn chung
172
quanh” (Bước đầu theo Đảng, Lưu Động). Đối với bọn thống trị, sinh mạng
của nhân dân ta lúc ấy như bèo bọt. Đó chính là nỗi day dứt không nguôi
trong tâm trạng của những người cách mạng. Các tác giả còn tự bộc bạch về
những bất công mà họ phải gánh chịu trong hành trình dấn thân cứu nước.
Tòa án là nơi thực thi công lí, nhưng tòa án của bọn thực dân mở ra là để đẩy
người cách mạng vào những con đường cùng, không lối thoát: “Chúng tôi chỉ
được trả lời “có” hay “không”; nếu trả lời “không”, thì hồ sơ giao lại cho
mật thám, và dĩ nhiên bọn này lại tra tấn đánh đập dã man để lấy cho được
lời cung khai theo ý đồ của chúng” (Trước tòa “đại hình đặc biệt” Sài Gòn,
Nhiều tác giả). Khi bị giam cầm, hành hạ trong nhà tù của thực dân, Trần Huy
Liệu đã chứng kiến nhiều tội ác của chúng và thẳng thắn phơi bày: “Quả
nhiên, đoàn chính trị phạm đưa lên Sơn La năm 1933 chỉ trong sáu tháng đã
bị chết gần 40 người. Đây mới chỉ kể những người chết tại chỗ, vùi xác tại
gốc ổi Sơn La, chứ chưa kể những người từ Sơn La tản đi với thân hình da
bọc xương rồi sau đó không lâu, chết ở Hỏa Lò Hà Nội hay Côn Đảo v.v…”
(Dưới hầm Sơn La, Trần Huy Liệu). Những nỗi thống khổ của nhân dân, sự
đau đớn thể xác, tinh thần và những hậu quả còn để lại trên thân thể của người
tù cách mạng là minh chứng hùng hồn về một chế độ cai trị vô nhân đạo, bạo
tàn mà kẻ thù đã áp đặt trên đất nước ta. Tác giả hồi kí không phải kể lể nỗi
thống khổ mà bộc bạch khi chứng kiến những cảnh khốc liệt. Họ viết lại để
bày tỏ tâm tư và chí hướng của mình và đồng đội dù trong bất cứ hoàn cảnh
nào.
Bởi vì hồi kí là thể loại tự sự bằng cái nhìn hồi cố về những sự việc và
con người trong quá khứ nên giọng điệu trần thuật hướng đến bộc lộ tâm tình
và giàu xúc cảm. Chính vì vậy, giọng điệu tâm tình, giãi bày được sử dụng
với tần số cao trong nghệ thuật trần thuật. Nhờ đó, hồi kí cách mạng không
chỉ mang đến tư liệu lịch sử phong phú mà còn có tính thời đại, khơi gợi ý chí
chiến đấu và lòng căm thù giặc trong lòng người đọc qua các thời kì.
173
4.3.2. Giọng ngợi ca, tuyên truyền
Bên cạnh cảm hứng tự bạch, khát vọng giãi bày, trong hồi kí cách mạng,
giọng điệu nghệ thuật chính là giọng điệu ngợi ca. Các tác giả đã tái hiện lại
một thời kì hoạt động sôi nổi, hào hùng với những thắng lợi vĩ đại của cách
mạng dân tộc thông qua những lối kể chuyện giản dị, chân thực. Những con
người, những sự việc được kể trong hồi kí như là những kỉ niệm, những kí ức
đã in sâu trong tiềm thức của người kể. Nhớ lại những năm tháng ấy, những
người cách mạng luôn ngập tràn cảm xúc tự hào. Giọng điệu nghệ thuật mang
tính chất sử thi khá rõ nét bởi vì mục đích của chuyện kể là nêu gương, ngợi
ca và tôn vinh những cái cao cả trong đời sống cách mạng.
Khi viết hồi kí cách mạng, các tác giả không hướng nội mà có xu hướng
hướng tới cộng đồng rõ rệt. Trước hết, quần chúng cách mạng là những đối
tượng được người kể nhắc đến bằng niềm tự hào, niềm tin mãnh liệt. Nói như
tác giả Hồng Lam: “Lúc bình thường, người nông dân là những người hiền
lành, cần cù, chất phác. Quanh năm đầu tắt, mặt tối, hình như họ chỉ biết
miếng đất, cái cày. Nhưng không, bên cạnh những đức tính thường thấy đó,
họ còn có những đức tính vô cùng đẹp đẽ, nhất là khi được lí luận cách mạng
của giai cấp vô sản soi sáng […]. Những người nông dân lầm lì ấy đã vùng
lên đấu tranh tiêu diệt quân thù với một khí thế rất dũng cảm, với một đức độ
rất cao cả; mặc cho súng bắn, bom rơi, không do dự, không suy tính thiệt
hơn” (Vài mẩu chuyện nhân dân đấu tranh trong phong trào Xô Viết - Nghệ
Tĩnh, Hồng Lam). Trong các hồi kí Từ nhân dân mà ra (Võ Nguyên Giáp),
Nhân dân ta rất anh hùng (Hoàng Quốc Việt), Nhờ dân nhờ Đảng mà trưởng
thành (Nguyễn Lương Bằng), Ánh sáng đây rồi (Nông Văn Lạc)… người kể
đã bắt đầu từ những cái bình thường của nhân dân để làm nổi bật sự phi
thường bởi chính họ đã làm nên một thời kì lịch sử huy hoàng.
Ngoài ra, con người và sự kiện được lựa chọn, gợi nhắc trong hồi kí cách
mạng thường mang tính cộng đồng, có tầm ảnh hưởng sâu rộng đối với quá
trình cách mạng. Điều này là cơ sở, là nền tảng cho giọng ngợi ca, tuyên
174
truyền. Trước những thủ đoạn của kẻ thù, người cách mạng đã thể hiện tinh
thần đấu tranh kiên quyết, khẳng định bản lĩnh của người cách mạng. Khi
đứng trước tòa án của kẻ thù, đối mặt với tù đày, khổ sai và chết chóc, Hoàng
Quốc Việt đã dõng dạc khẳng định: “Tôi vào Đảng cộng sản vì chủ nghĩa
cộng sản là một chủ nghĩa đúng đắn. […] Tôi vào Đảng cộng sản để đánh
đuổi đế quốc Pháp ra khỏi đất nước và đánh đổ phong kiến. Không phải chỉ
có mình tôi, ai đã biết cầm bát cơm ăn cũng phải làm cách mạng. Tôi không
cần ai tuyên truyền cho tôi cả” (Nhân dân ta rất anh hùng, Hoàng Quốc
Việt). Những người tù chính trị trong hồi kí Trước tòa “đại hình đặc biệt” Sài
Gòn đã bất chấp tính mạng bị đe dọa, mượn tòa án của chúng để tố cáo tội ác
của chúng cho quần chúng nhân dân nhận thức rõ, đồng thời, ngợi ca, tuyên
truyền cho phong trào cách mạng ngày càng vững vàng, lớn mạnh và được
nhân dân tin tưởng. Khi tên quan tòa gán ghép tội giết người, tội gây rối cho
các chính trị phạm, Ngô Gia Tự đã thẳng thắn đáp trả: “Các ông nói không
đúng. Đảng cộng sản là một chính Đảng cách mạng; những nguời cộng sản
không phải ăn cướp, giết người. Chính đế quốc Pháp mới là kẻ ăn cướp, giết
người. Đế quốc Pháp đã cướp nước Việt Nam, cấu kết với phong kiến lập nên
một chế độ hà khắc, áp bức bóc lột nhân dân chúng tôi hết sức dã man tàn
khốc. Chính điều đó đã thúc đẩy chúng tôi đứng lên làm cách mạng để giành
độc lập cho Tổ quốc, đem lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân chúng tôi…”
(Trước tòa “đại hình đặc biệt” Sài Gòn, Nhiều tác giả). Dù đối mặt với nhiều
thử thách nhưng người cách mạng không bỏ qua bất cứ cơ hội nào để có thể
khẳng định sự đúng đắn và cao đẹp của lí tưởng cộng sản.
Giọng điệu ngợi ca trong hồi kí cách mạng còn thể hiện qua sự ngưỡng
vọng chân thành của người kể đối với các đối tượng. Khi trần thuật, tác giả
thường hướng đến sự đa dạng về các đối tượng được kể. Họ là những người
con của mọi miền đất Việt, có chung lòng yêu nước nồng nàn; sự mưu trí,
dũng cảm, gan dạ; giàu tình yêu thương và căm thù giặc đến tận xương tủy.
Trong hầu hết các hồi kí cách mạng, Bác xuất hiện như là ánh sáng, niềm tin
175
của dân tộc. Riêng ở các tập Bác Hồ ở Pác Bó, Bác Hồ ở Tân Trào người kể
tập trung làm nổi bật chân dung của Bác trong đời sống hàng ngày và trong
công việc, thể hiện tình cảm sâu sắc của mọi người dành cho vị cha già dân
tộc. Bên cạnh đó, hồi kí cách mạng còn ca ngợi những người cộng sản trong
thời kì hoạt động ở các cơ sở bí mật hoặc bị giam cầm trong nhà lao của bọn
thực dân. Đó là Lê Hồng Phong, Trần Huy Liệu, Trần Phú, Phạm Hồng Thái,
Võ Nguyên Giáp, Trần Đăng Ninh, Nguyễn Lương Bằng, Tôn Đức Thắng,
Phạm Hùng, Nguyễn Tạo, Nông Văn Lạc. Thông qua những trang hồi kí, tất
cả họ hiện lên chân thực, gần gũi, giản dị. Họ phi thường, khác thường khi đối
diện với kẻ thù nhưng cũng rất đời thường trong cái ăn, cái mặc, sinh hoạt
hàng ngày. Họ không linh thiêng, thần thánh mà là những con người bằng
xương bằng thịt, cũng có những niềm vui nỗi buồn, cũng đói khát, cơ cực.
Trong văn chương hư cấu, khi ngợi ca, các tác giả thường tạo ra một
mẫu hình lí tưởng, một phẩm chất, tính cách hoàn thiện, hoàn chỉnh để thể
hiện khát vọng về một cái đẹp tuyệt đối. Riêng trong hồi kí cách mạng, giọng
ngợi ca không mang tính lí tưởng hóa, không phải là tâng bốc mà sự ngợi ca
được khơi lên từ những điều rất thật, đời thường. Niềm tự hào qua sự trần
thuật của người kể trong hồi kí là niềm tự hào của những người đã cùng nhau
trải qua sinh tử; cùng chứng kiến bao mất mát, hi sinh; cùng tận hưởng niềm
vui trong âm vang của những khúc khải hoàn. Giọng ngợi ca vì vậy xuất phát
từ tình cảm chân thành.
4.3.3. Giọng khôi hài, mỉa mai, châm biếm
Giọng khôi hài, mỉa mai, châm biếm không phải là giọng điệu trần thuật
cơ bản trong các hồi kí cách mạng tuy nhiên, giọng điệu này đã tạo nên sắc
thái riêng trong việc phản ánh thái độ của các tác giả. Giọng điệu khôi hài,
mỉa mai, châm biếm được sử dụng trong trần thuật vừa bộc lộ tính cách, thái
độ của nhân vật, vừa có sự hỗ trợ đắc lực cho sự thể hiện lập trường và tính
chính luận trong giọng điệu trần thuật của hồi kí cách mạng.
176
Giọng khôi hài được sử dụng như một cách tự trào hóm hỉnh về hoàn cảnh
của người cách mạng, qua đó, thể hiện sự lạc quan của họ trước những khó
khăn gian khổ. Trong hồi kí Bước qua đầu thù, Trần Hữu Dực kể: “Thế đấy,
ở ngoài thì mệt, sốt, táo bón trăm thứ…, vào tù lại ăn được, ngủ ngon và hết
cả táo bón! Điều ấy có lẽ cũng không lạ. Ở ngoài công việc ngày đêm bận
rộn. Vào đây thì không phải lo nghĩ gì nhiều nữa. […]Chính cái tinh thần sẵn
sàng kiên định đã giúp cho cơ thể ổn định hơn” (Bước qua đầu thù, Trần Hữu
Dực). Trần Huy Liệu dùng cách nói khôi hài khi nói về chính bản thân mình.
Đó là một diễn ngôn tự thuật đặc biệt. Ông không than thở cũng không trách
móc mà nhìn những việc mình đã trải qua thành thực, dí dỏm: “Tôi nhớ năm
xưa nhịn đói tại khám lớn Sài Gòn, có lúc nhìn đôi giày da treo ở tường, đã
tưởng tượng ăn nó bằng cách thái nhỏ từng miếng xào với mỡ và nhai như
nhai cá mực nướng” (Dưới hầm Sơn La, Trần Huy Liệu). Đứng trước sự khó
khăn, thiếu thốn, sự dí dỏm, hóm hỉnh cũng làm cho hiện thực bớt thê lương.
Trong hồi kí Ánh sáng đây rồi, Nông Văn Lạc có đoạn kể về sự hài hước của
đồng chí Văn (tức cố Đại tướng Võ Nguyên Giáp) khi trèo đèo lội suối bị
rách mất cái quần duy nhất: “Đồng chí Văn cười nói: “Không việc gì cả, vẫn
khỏe như thường, chỉ tiếc cái quần, vì có mỗi một nó, đồng chí à”. Rồi đồng
chí đọc lên câu thơ:
Máu chảy da rách lại lành
Quần rách, rách nữa, ắt đành vứt đi”
(Ánh sáng đây rồi, Nông Văn Lạc)
Cái bi trong cuộc đời hoạt động được kể bằng giọng kể hài hước. Người
cách mạng không xem đó là khó khăn ngăn trở bước đường phía trước của
mình. Với cách nói này, những khó khăn chỉ là sự thất bại “tạm thời” để tạo
tiền đề cho những bước thành công tiếp theo.
Là một trong những thành viên của Ban trị sự Đảng Thanh niên (một tổ
chức do Trần Huy Liệu và một số đồng chí lập ra). Trong những năm 20,
Trần Huy Liệu đã tỏ ra thích thú trước những chuyển biến của quá trình hoạt
177
động. Trong cuộc biểu tình đón Bùi Quang Chiêu, ông miêu tả: “Rồi những
cái băng vàng ấy từ Sài Gòn đi xe hơi, xe lửa tản đi lục tỉnh, vào các làng
quê. Đi đến đâu là “đẻ” đến đó. Hàng giờ, hàng phút: băng vàng đã trở
thành biểu hiện của một phong trào đương dâng lên rất nhanh” (Đảng Thanh
niên, Trần Huy Liệu). Sau này, khi viết hồi kí, Trần Huy Liệu tự nhận xét:
“Những chuyện này bây giờ kể lại, ai không sống ở lúc đó chỉ thấy nó ngồ
ngộ, vui vui, thậm chí như một trò chơi. Nhưng bọn thực dân phản động hồi
ấy thấy thế thì bầm gan tím ruột lắm; nó kêu rầm lên: thanh niên làm loạn”
(Đảng Thanh niên, Trần Huy Liệu). Mỗi câu mỗi chữ của ông như ẩn chứa
một nụ cười vừa dí dỏm, vừa hài hước, thỏa mãn với những gì mà những con
người thế hệ ông đã làm được. Trong hồi kí Đi tìm liên lạc, Văn Tiến Dũng
nhìn lại cuộc đời hoạt động của mình: “Số mình cũng long đong, hết cảnh
trọc đầu ở Sơn La, nay lại trọc đầu trước cửa bụt. Thế là chữ tù liền với chữ
tu một vần” (Đi tìm liên lạc, Văn Tiến Dũng). Bằng cách nói khôi hài, các tác
giả đã thể hiện cách nghĩ và lối sống chỉ có họ và những người cách mạng trải
qua gian khổ mới có được.
Giọng mỉa mai, châm biếm được sử dụng khi người kể bày tỏ thái độ đối
với bọn xâm lược hay tay sai. Thái độ châm biếm thể hiện khá rõ khi người
kể miêu tả ngoại hình của họ. Trong hồi kí Câu chuyện Bác đã kể, T. Lan kể:
“Trong phòng khách của Bộ thuộc địa, một bầy người Pháp “tai to mặt lớn”
đang nhấp nhỏm chờ đến phiên mình được “quan thượng” gọi vào” (Câu
chuyện Bác đã kể, T. Lan). Hồi kí của Bùi Công Trừng thể hiện rõ thái độ
châm biếm đối với bọn quan lại phong kiến, tay sai: “Người Huế ranh mãnh
quá họ dám gọi cụ thượng bằng cậu để mỉa móc cái nhờ thế phiệt mà nên
quan. Những buổi ấy dân Huế cũng còn mơ có một cái gì khá khá trong quan
lại để dễ thở một chút. Người ta đồn ông Phạm Văn Thụ ngoài Bắc mới vào,
thực ra cũng không có gì khác, tôi chỉ thấy ông ta chiều chiều lại bày ra trò
tài bàn tổ tôm với thuốc phiện có cô đầu. Làm quan ở Huế là một cái nghề
cho nên phải có đủ trò đủ vẻ có phải thế không?” (Từ lòng yêu nước chân
178
chính tôi đã đi đến chủ nghĩa cộng sản, Bùi Công Trừng). Người kể châm
biếm, mai mỉa “thú làm quan” của những kẻ chỉ biết thu vén cho niềm vui, lợi
ích của riêng mình mà quên đi những điều kì vọng nhân dân đã gửi gắm ở nơi
họ. Bên cạnh đó, tác giả còn phơi bày bản chất nịnh hót, xảo quyệt của quan
lại.Trong hồi kí cách mạng, đối tượng mà các tác giả cương quyết dùng thái
độ mỉa mai, châm biếm để phản ánh chính là bọn ngoại xâm và những kẻ tay
sai. Đứng trên lập trường của những nhà cách mạng vô sản, tàn dư của chế độ
phong kiến, những kẻ ngoại bang muốn đô hộ nước ta và những kẻ tham
quyền lợi, tham sống sợ chết đầu hàng quân địch đã được xác định là những
người bên kia chiến tuyến.
Giọng điệu trần thuật trong hồi kí cách mạng thể hiện rõ lập trường tư
tưởng của người cách mạng. Tất cả những niềm vui, nỗi buồn; những yêu
thương, căm hận được bộc lộ trong hồi kí đều xuất phát từ lợi ích của dân tộc,
lợi ích của giai cấp vô sản. Đồng thời, thông qua giọng điệu trần thuật, người
cách mạng xuất hiện một cách giản dị, gần gũi và đời thường. Họ sống và
chiến đấu theo chuẩn mực đạo đức của người cách mạng nhưng vẫn giữ được
vẻ đẹp của sự lạc quan, hài hước, yêu đời dù trong hoàn cảnh khốn cùng.
Tiểu kết chương 4
Trong quan niệm của các nhà nghiên cứu trước đây, sức hấp dẫn của hồi
kí không phải là nghệ thuật mà là thông tin sự thực được tái hiện, nhất là
những sáng tác có tính chất phản ánh lịch sử như hồi kí cách mạng. Điều này
đã tạo nên cách nhìn nhận phiến diện cũng như gây ra nhiều khoảng trống khi
nghiên cứu thể loại này. Trong đó, phải ghi nhận sự thành công của hồi kí
cách mạng với nghệ thuật trần thuật hấp dẫn, lôi cuốn bởi cách dẫn dắt của
người kể, cách kể chuyện đặc trưng của loại hình tư liệu. Ngoài ra, cách thức
thể hiện hình tượng nhân vật độc đáo, ấn tượng cũng tạo nên sự thành công
cho hồi kí cách mạng trong việc phác họa chân dung tinh thần người cách
mạng – hình tượng tiêu biểu, trung tâm của hồi kí cách mạng Việt Nam. Bên
cạnh đó, giọng điệu nghệ thuật trong các hồi kí khá đa dạng, thể hiện được
179
cảm xúc, thái độ, quan niệm của người kể. Đó chính là những yếu tố nghệ
thuật góp phần quan trọng cho sự thành công của thể loại hồi kí. Bởi lẽ:
“Hành động trần thuật về lịch sử mà không có sự phân tích thì chỉ là một điều
hết sức tầm thường, sự phân tích lịch sử mà không kèm theo hành động trần
thuật thì không hoàn thiện” (Trần Ngọc Hiếu, 2008, trang 126).
180
KẾT LUẬN
1. Qua quá trình đấu tranh chống thực dân và đế quốc xâm lược, quân và
dân ta đã điểm thêm những nét son chói lọi vào tiến trình lịch sử Việt Nam.
Biết bao anh hùng cách mạng và quần chúng nhân dân đã không tiếc máu
xương, chiến đấu đến hơi thở cuối cùng vì hòa bình, độc lập của nước nhà; tự
do, hạnh phúc cho nhân dân. Tinh thần và ý chí của họ là niềm tự hào, cảm
phục của người Việt Nam qua bao thế hệ. Thời kì oai hùng ấy không những
được các nhà sử học ghi nhận mà còn được tái hiện sinh động thông qua
những tác phẩm hồi kí của những người đã từng sống, chiến đấu, cống hiến
cho cách mạng. Hồi kí cách mạng đã tái hiện thành công những sự kiện lịch
sử bằng tình cảm chân thành của người kể với tư cách là nhân chứng lịch sử.
Đặc biệt, các tác giả hồi kí cách mạng đã truyền lửa từ trái tim mình đến trái
tim của độc giả. Vì vậy, việc nghiên cứu và phổ biến hồi kí cách mạng đến
độc giả có ý nghĩa quan trọng trong việc đánh thức tinh thần yêu nước và sức
mạnh đấu tranh chống lại mọi kẻ thù xâm lược trong giai đoạn hiện nay.
2. Hồi kí cách mạng đã đáp ứng được nhu cầu bộc lộ, giãi bày của những
người trong cuộc về quá trình cách mạng giải phóng dân tộc. Trong đó, có cả
những niềm vui, nỗi buồn từ những sự kiện trong quá khứ; có sự suy tư,
chiêm nghiệm, kiểm chứng để đi đến nhận thức hiện tại; có những niềm tự
hào, phấn khởi; có cả những tiếc nuối, thương cảm. Nhìn nhận hiện thực trong
quá khứ, hồi kí cách mạng đã khái quát nhiều vấn đề, tạo nên hiện thực đa
chiều, đa diện về sự kiện lịch sử và chân dung tinh thần của dân tộc. Họ viết
hồi kí bằng sự tri ân, niềm hãnh diện về một quá khứ hào hùng nhằm khơi gợi
và thúc đẩy ý thức trách nhiệm của thế hệ sau đối với đất nước, nhân dân.
Viết hồi kí cách mạng, tác giả đã sử dụng tư liệu sẵn có, trần thuật chân
thật về quá khứ. Điều quan trọng là họ đã có sự lựa chọn, sàng lọc để kể về
những sự kiện đã xảy ra, con người có thật để đáp ứng thị hiếu thẩm mĩ và
khát vọng muốn vươn đến sự thật của người đọc. Thành công của người viết
181
hồi kí không phải là sáng tạo ra những con người mang tầm vóc thời đại,
đóng góp của họ là ở chỗ tái hiện lại những con người có thật trong lịch sử
một cách sinh động, gây ấn tượng sâu sắc đối với người đọc. Tác giả hồi kí đã
lựa chọn những tình huống điển hình để nhân vật bộc lộ tính cách. Bên cạnh
đó, việc sử dụng sáng tạo, hợp lí các yếu tố tâm lí, ngoại hình, hành động,
ngôn ngữ nhân vật đã làm sống lại cả một thời đại đau thương nhưng hào
hùng của dân tộc thông qua chân dung những nhân chứng lịch sử quan trọng.
3. Về phương diện nghệ thuật, các tác giả hồi kí cách mạng đã đạt được
những thành công trong việc sử dụng các thủ pháp nghệ thuật đặc trưng của
thể loại phi hư cấu, thể loại sáng tác chủ yếu bằng hồi tưởng. Trong đó, nghệ
thuật trần thuật là một phương diện góp phần tạo nên sự sinh động, độc đáo
cho các sự kiện. Chủ thể trần thuật trong hồi kí cách mạng xuất hiện ở cả hai
vai trò: vai trò nhân chứng và vai trò sử quan. Trong đó, chủ thể trần thuật
ngôi thứ nhất với vai trò nhân chứng xuất hiện trong hầu hết các sáng tác.
Điều này khẳng định sự khả tín của những thông tin, những tư liệu về con
người và sự kiện được kể trong hồi kí. Ngoài ra, hồi kí cách mạng cũng ghi
nhận sự đóng góp của người ghi hồi kí trong việc tổ chức trần thuật, sáng tạo
kết cấu chuyện kể và đưa ra cái nhìn đa chiều, đa diện. Trong kết cấu trần
thuật, tác giả đã thể hiện vai trò sáng tạo của mình trong việc lựa chọn, sắp
xếp các sự việc; lựa chọn thời điểm, hình thức mở đầu và kết thúc tác phẩm
nhằm tạo hiệu quả trần thuật cao. Điểm nhìn và giọng điệu trần thuật là hai
phương diện quan trọng thể hiện rõ lập trường, thái độ của chủ thể trần thuật
đối với hiện thực được phản ánh.
Bên cạnh những thành công nói trên, còn có những hồi kí cách mạng
chưa thật sự được ghi nhận về nghệ thuật. Trần thuật còn mang tính tản mạn,
không có chủ đề rõ ràng; vấn đề khai thác hời hợt, không gây được ấn tượng
đối với người đọc. Ngoài ra, một số tác phẩm mang tính chất thông tin sự
kiện, không có kết cấu chặt chẽ... Những hạn chế này xuất phát từ một số
nguyên nhân: người sáng tác không chuyên nghiệp, sáng tác nhằm đáp ứng
182
yêu cầu của tổ chức, sáng tác theo phong trào... Trong quá trình nghiên cứu
hồi kí cách mạng, người viết đề cập đến những sáng tác này để thấy sự phong
phú, đa dạng về số lượng của mảng sáng tác này. Đồng thời xem đây là nguồn
tư liệu tham khảo. Đối tượng nghiên cứu chính vẫn là những sáng tác có giá
trị cả về nội dung và nghệ thuật.
4. Chiến tranh đã kết thúc, nhưng nhiệm vụ bảo vệ và xây dựng đất nước
vẫn luôn là nhiệm vụ hàng đầu. Trước hiện thực xã hội có nhiều biến động do
các thế lực thù địch, sự xâm nhập của nhiều luồng tư tưởng đã làm cho nhận
thức về trách nhiệm của một bộ phận thanh niên hiện nay đối với đất nước,
đối với xã hội chưa thật sự đầy đủ. Qua tìm hiểu về hồi kí cách mạng, có thể
khẳng định, nội dung phản ánh trong các sáng tác này khá phong phú, tuy
nhiên, phạm vi đề tài lại chịu sự chi phối nhất định của ý thức hệ. Cho nên,
hồi kí cách mạng nên nhận được sự quan tâm và khích lệ của người đọc bởi
các tác giả đã khơi dậy quá khứ hào hùng của đời sống đấu tranh cách mạng,
nhằm có những tác động tích cực đối với hiện tại.
183
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Aristote, Lưu Hiệp. (1999). Nghệ thuật thơ ca và Văn tâm điêu long. Hà
2. Hoài Anh. (2001). Chân dung Văn học. TP Hồ Chí Minh. NXB Hội Nhà
Nội. NXB Văn học.
3. Vũ Tuấn Anh. (2001). Đời sống thể loại trong quá trình văn học đương
văn.
đại. Những vấn đề lí luận và lịch sử văn học. Hà Minh Đức (chủ biên),
Trương Đăng Dung, Phan Trọng Thưởng (tr. 459-492). Hà Nội. NXB
4. Vũ Tuấn Anh, Bích Thu. (2005). Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt Nam (2
Khoa học Xã hội.
5. Lại Nguyên Ân. (1978). “Những nhân vật ấy đã sống với tôi” hay là
tập). Hà Nội. NXB Văn học.
những nguồn dẫn đến sáng tác. Nguyên Hồng – oằn cả bút, cạn cả máu vì
tầng lớp cần lao (tr. 248-256). TP Hồ Chí Minh. NXB Văn hóa Thông
6. Lại Nguyên Ân. (2004). 150 thuật ngữ văn học. Hà Nội. NXB Đại học
tin.
7. Bùi Văn Ba, Thành Thế Thái Bình. (1976). Thường thức lí luận văn học.
Quốc gia.
8. M. Bakhtin. (1992). Lí luận và thi pháp tiểu thuyết (Phạm Vĩnh Cư tuyển
Hà Nội. NXB Giáo dục.
9. Lê Huy Bắc. (2008). Vấn đề cách dịch thuật ngữ cốt truyện trong tự sự.
chọn, dịch và giới thiệu). Hà Nội. Trường viết văn Nguyễn Du.
Tự sự học, một số vấn đề lí luận và lịch sử (phần 2) (tr. 179-189). Hà
10. Nhị Ca. (1963). Vài cảm nghĩ nhân đọc mấy cuốn hồi kí. Bàn thêm về
Nội. NXB Đại học Sư phạm.
11. Nhị Ca. (1967). “Bất khuất” của Nguyễn Đức Thuận – một bản cáo trạng
viết hồi kí (tr. 54-89). Hà Nội. NXB Quân đội Nhân dân.
tội ác xâm lược, một bài ca khí tiết cộng sản, một sự kiện văn học. Nhị
184
Ca, tác phẩm văn học được giải thưởng nhà nước – Từ cuộc đời vào tác
phẩm, Dọc đường văn học, Gương mặt còn lại: Nguyễn Thi (tr. 15-31).
12. Nhị Ca. (1971). Trở lại câu chuyện về một thể loại. Nhị Ca, tác phẩm
Hà Nội. NXB Hội Nhà văn.
văn học được giải thưởng nhà nước – Từ cuộc đời vào tác phẩm, Dọc
đường văn học, Gương mặt còn lại: Nguyễn Thi (tr. 285-296). Hà Nội.
13. Nhị Ca. (1971). Đóng góp của một mảng văn bộ đội. Nhị Ca, tác phẩm
NXB Hội Nhà văn.
văn học được giải thưởng nhà nước – Từ cuộc đời vào tác phẩm, Dọc
đường văn học, Gương mặt còn lại: Nguyễn Thi (tr. 319 – 335). Hà Nội.
14. Nhị Ca. (1974). Văn học trong hiệp đồng chiến đấu. Nhị Ca, tác phẩm
NXB Hội Nhà văn.
văn học được giải thưởng nhà nước – Từ cuộc đời vào tác phẩm, Dọc
đường văn học, Gương mặt còn lại: Nguyễn Thi (tr. 297-316). Hà Nội.
15. Nguyễn Minh Châu. (1979). Các nhà văn quân đội và đề tài chiến tranh.
NXB Hội Nhà văn.
Nguyễn Ngọc Thiện (chủ biên), Đỗ Phương Thảo, (2010). Văn học Việt
Nam thế kỉ XX (Lí luận phê bình 1975-2000, Quyển V, Tập XIII) (tr. 491-
16. Trường Chinh. (1972). Về văn hóa nghệ thuật. Hà Nội. NXB Văn hóa.
17. Đỗ Chu. (1995). Một nền văn học gắn liền với vận mệnh dân tộc. Hữu
497). Hà Nội. NXB Văn học.
Thỉnh (chủ biên), (1997). Việt Nam nửa thế kỉ văn học 1945-1995 (tr.
18. Lý Quý Chung. (2012). Hồi kí không tên. Tp Hồ Chí Minh. NXB Thời
106-109). Hà Nội. NXB Hội Nhà văn.
19. Nguyễn Văn Dân. (2004). Phương pháp luận nghiên cứu văn học. Hà
Đại.
20. Trương Đăng Dung. (2004). Tác phẩm văn học như là quá trình. Hà
Nội. NXB Khoa học Xã hội.
Nội. NXB Khoa học Xã hội.
21. Đinh Xuân Dũng (chủ biên). (2016). Định hướng và những nội dung cơ
185
bản của lí luận văn nghệ Việt Nam. Hà Nội. NXB Chính trị Quốc gia –
22. Thành Duy. (1965). Mấy suy nghĩ về thể kí. Động lực dân tộc và thực
Sự thật.
tiễn sáng tạo văn hóa, nghệ thuật (Tuyển tập nghiên cứu, lí luận, phê
23. Thành Duy. (1965). Mấy suy nghĩ về thể kí. Tạp chí văn học. Số 7.
bình văn học) (2004) (tr. 114-124). Hà Nội. NXB Khoa học Xã hội.
24. Thành Duy. (1979). Quá trình hình thành và phát triển nền văn học vô
Trang 23.
sản và vấn đề tính dân tộc hiện đại. Động lực dân tộc và thực tiễn sáng
tạo văn hóa, nghệ thuật (Tuyển tập nghiên cứu, lí luận, phê bình văn học)
25. Lê Tiến Dũng. (2003). Giáo trình Lí luận văn học (Phần 2, Tác phẩm
(2004) (tr. 498-552). Hà Nội. NXB Khoa học Xã hội.
26. Đoàn Ánh Dương. (2016). Tự sự và kí ức: phản tư lịch sử trong văn học
văn học). TP Hồ Chí Minh. NXB Đại học Quốc gia.
Việt Nam đương đại. Tạp chí Nghiên cứu Văn học, Số 11 (537). Trang
27. Phan Cự Đệ. (2004). Trào lưu văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa. Phan
50.
Cự Đệ (Chủ biên). Văn học Việt Nam thế kỉ XX (tr. 74-96). Hà Nội. NXB
28. Trần Đĩnh. (1963). Vài ý nghĩ về viết hồi kí. Bàn thêm về viết hồi kí (tr.
Giáo dục.
29. Trịnh Bá Đĩnh (chủ biên). (2009). Văn học Việt Nam thế kỉ XX (Tạp văn
41-44). Hà Nội. NXB Quân đội Nhân dân.
và các thể kí Việt Nam 1945-1975), quyển 3 tập 6, tập 8. Hà Nội. NXB
30. Phạm Văn Đồng. (1986). Lời tựa. Lịch sử nhà tù Côn Đảo (1862-1975)
Văn học.
(tr. 5-8). Tp. Hồ Chí Minh. NXB Tổng hợp.
31. Hà Minh Đức. (1965). Về khả năng phản ánh hiện thực của hồi kí nhân
186
đọc Sống như Anh của Trần Đình Vân. Sống như Anh (Văn chương một
32. Hà Minh Đức. (1980). Kí viết về chiến tranh cách mạng và xây dựng chủ
thời để nhớ) (tr. 164-172). Hà Nội. NXB Văn học.
33. Hà Minh Đức. (1990). Những chặng đường phát triển của văn xuôi cách
nghĩa xã hội. Hà Nội. NXB Quân đội Nhân dân.
mạng. Nguyễn Ngọc Thiện (chủ biên), Cao Thị Hồng, (2010). Văn học
Việt Nam thế kỉ XX (Lí luận phê bình 1975-2000, Quyển V, Tập XIV) (tr.
34. Hà Minh Đức (chủ biên). (1997). Lí luận văn học. Hà Nội. NXB Giáo
24-37). Hà Nội. NXB Văn học.
35. Hà Minh Đức. (2001). C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và một số vấn đề
dục.
36. Hà Minh Đức (chủ biên). (2003). Lí luận văn học. Hà Nội. NXB Giáo
lí luận văn nghệ. Hà Nội. NXB Chính trị Quốc gia.
37. G. Genette. (2010). Biên giới của tự sự. Những vấn đề lí luận văn học
dục.
38. Hà Huy Giáp. (1967). Bất khuất – một bài học lớn về đấu tranh cách
phương Tây hiện đại - Tự sự học kinh điển. Hà Nội. NXB Văn học.
mạng. Bất khuất (Văn chương một thời để nhớ) (tr. 5-35). Hà Nội. NXB
39. Trần Văn Giàu. (1965). Đọc tập hồi kí Những ngày gian khổ. Tạp chí
Văn học.
40. Trần Văn Giàu. (1993). Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt
Văn học. Số 4. Trang 36.
41. Trần Văn Giàu. (1993). Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỉ
Nam. Tp. Hồ Chí Minh. NXB Thành phố Hồ Chí Minh.
XIX đến cách mạng tháng Tám (Hệ ý thức phong kiến và sự thất bại của
nó trước các nhiệm vụ lịch sử, Tập 1). Tp Hồ Chí Minh. NXB TP. Hồ
Chí Minh.
42. A.J. Greimas, J. Courtes (1797) - Semiotique: Dictionnaire raisonne de
187
43. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi. (2004). Từ điển thuật ngữ
la theorie du langage Paris, P. 249.
44. Nguyễn Văn Hạnh. (1965). Nhân đọc Sống như Anh, nghệ thuật và cũng
văn học. Hà Nội. NXB Giáo dục.
45. Nguyễn Văn Hạnh. (1995). Thể loại văn học. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh
chính là cuộc sống. Tạp chí Văn học, số 8, trang 1.
Như Phương. Lí luận văn học vấn đề và suy nghĩ (tr. 76-107). Hà Nội.
46. Phạm Thị Hảo. (2008). Khái niệm và thật ngữ lí luận văn học Trung
NXB Giáo dục.
47. Hoàng Ngọc Hiến. (1997). Kí và tiểu luận (Ét-xe). Tập bài giảng nghiên
Quốc. Hà Nội. NXB Văn học.
48. Hoàng Ngọc Hiến. (2003). Nhập môn văn học và phân tích thể loại. Đà
cứu văn học (tr. 7-28). Hà Nội. NXB Giáo dục.
49. Hoàng Ngọc Hiến. (2004). Kể lại nội dung và viết nội dung. Tự sự học –
Nẵng. NXB Đà Nẵng.
một số vấn đề lí luận và lịch sử (Phần 1) (tr. 97-108). Hà Nội. NXB Đại
50. Phan Thu Hiền. (2004). Về lí thuyết tự sự của Northrop Frye. Tự sự học
học Sư phạm.
– một số vấn đề lí luận và lịch sử (Phần 1) (tr. 56-70). Hà Nội. NXB Đại
51. Lưu Hiệp. (2007). Văn tâm điêu long (Trần Thanh Đạm, Phạm Thị Hảo
học Sư phạm.
52. Trần Ngọc Hiếu. (2008). Giới thiệu lí thuyết tự sự của Hayden White. Tự
dịch). Hà Nội. NXB Văn học.
sự học, một số vấn đề lí luận và lịch sử (Phần 2) (tr. 114-133). Hà Nội.
53. Đỗ Đức Hiểu (chủ biên), Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu
NXB Đại học Sư phạm.
Tá. (2004). Từ điển Văn học (Bộ mới). Hà Nội. NXB Thế giới.
54. Nguyễn Văn Hoa, Phạm Hồng Việt. (1997). Hiểu thêm lịch sử qua các
188
55. Nguyễn Thái Hòa. (2004). Điểm nhìn trong lời nói giao tiếp và điểm
hồi kí, kí sự, tùy bút. Hà Nội. NXB Giáo dục.
nhìn nghệ thuật trong truyện. Tự sự học – một số vấn đề lí luận và lịch sử
56. Tô Hoài. (1976). Lời giới thiệu. Ánh sáng đây rồi (tr. 5-18). Hà Nội.
(Phần 1) (tr. 86-96). Hà Nội. NXB Đại học Sư phạm.
57. Tô Hoài. (1963). Kí và truyện. Nghệ thuật và phương pháp viết văn
NXB Văn học.
58. Trần Thái Học (chủ biên). (2014). Văn chương và tiếp nhận (Lí thuyết –
(1997) (tr. 37-60). Hà Nội. NXB Văn học.
59. Nguyễn Việt Hồng. (2015). Tình hình quốc tế và trong nước năm 1945 –
Luận giải – Phê bình). Hà Nội. NXB Văn học.
những tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám. Những cội nguồn của
60. Phạm Hùng. (1966). Lời tựa. Bất khuất. Hà Nội. NXB Văn học.
61. Nguyễn Thanh Hùng. (1996). Ý thức lịch sử và sức biểu cảm của nền
Cách mạng tháng Tám. Hà Nội. NXB Thanh Niên.
văn học cách mạng. Nguyễn Ngọc Thiện (chủ biên), Cao Thị Hồng,
(2010). Văn học Việt Nam thế kỉ XX (Lí luận phê bình 1975-2000, Quyển
62. Nguyễn Quang Hưng. (2016). Cảm quan hiện thực, con người trong hồi
V, Tập XIV) (tr. 893-899). Hà Nội. NXB Văn học.
kí Văn học Việt Nam giai đoạn từ sau 1975. Tạp chí Khoa học Đại học
63. Mai Hương. (2000). Hành trình cách mạng – hành trình thơ (Nhân đọc
Sài Gòn. Số 22. Trang 61.
64. Nguyễn Văn Khoan. (2015). Một số tình hình quốc tế và trong nước từ
Nhớ lại một thời, Hồi kí của Tố Hữu). Tạp chí Văn học. Số 12. Trang 69.
1937 đến 1944. Cách mạng tháng Tám – những giờ phút lịch sử. TP. Hồ
65. Lê Đình Kỵ, Phương Lựu. (1983). Cơ sở lí luận văn học (tập 3). Hà Nội.
Chí Minh. NXB Thanh Niên.
NXB Đại học và Trung học Chuyên nghiệp.
66. Cao Kim Lan. (2008). Quan niệm về điểm nhìn nghệ thuật của
189
R.Scholes và R.Kellogg và một số vấn đề khi áp dụng các mô hình lí
thuyết phương Tây vào nghiên cứu tác phẩm tự sự. Tự sự học, một số vấn
đề lí luận và lịch sử (phần 2) (tr. 134-144). Hà Nội. NXB Đại học Sư
67. Đinh Xuân Lâm, Nguyễn Văn Khoan. (2015). Những cội nguồn của
phạm.
68. Hoàng Thượng Lân. (2005). Tài hoa ra trận. Hà Nội. NXB Hội Nhà
Cách mạng tháng Tám. Hà Nội. NXB Thanh Niên.
69. Phong Lê. (1965). Đọc Sống như Anh, suy nghĩ về nhân vật trong hồi kí.
Văn.
Sống như Anh (Văn chương một thời để nhớ) (tr. 155-163). Hà Nội. NXB
70. Phong Lê. (2001). Phác thảo sinh hoạt tư tưởng và học thuật Việt Nam
Văn học.
thời kì 1930-1945. Hà Minh Đức (chủ biên), Trương Đăng Dung, Phan
Trọng Thưởng. Những vấn đề lí luận và lịch sử văn học. (tr. 141-170).
71. Phong Lê. (2005). Hơn 50 năm đọc Tô Hoài. Người trong văn (chân
Hà Nội. NXB Khoa học Xã hội.
72. Trường Lưu. (2009). Bất khuất – bản anh hùng ca của thời đại chống Mĩ.
dung và tiểu luận) (tr. 57-69). TP. Hồ Chí Minh. NXB Văn hóa Sài Gòn.
Văn học Việt Nam thế kỷ XX – Lí luận phê bình 1945 – 1975 quyển V tập
73. Phương Lựu. (1973). Ănghen với dự cảm về chủ nghĩa hiện thực trong
X (tr. 830-838). Hà Nội. NXB Văn học.
tương lai. Lí luận phê bình văn học (2004) (tr. 25-48). Đà Nẵng. NXB Đà
74. Phương Lựu. (1989). Song đề về văn nghệ với chính trị. Nguyễn Ngọc
Nẵng.
Thiện (chủ biên), Cao Thị Hồng, (2010). Văn học Việt Nam thế kỉ XX (Lí
luận phê bình 1975-2000, Quyển V, Tập XIV) (tr. 575-584). Hà Nội.
NXB Văn học.
75. Phương Lựu (chủ biên), Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam, Lê Ngọc
190
Trà, La Khắc Hòa, Thành Thế Thái Bình. (2006). Lí luận văn học. Hà
76. Phương Lựu. (2004). “Bút kí về tự sự học”, Tự sự học – một số vấn đề lí
Nội. NXB Giáo dục.
77. Huỳnh Lý, Trần Văn Hối. (1962). Giáo trình lịch sử văn học Việt Nam
luận và lịch sử (Phần 1) (tr. 109-115). Hà Nội. NXB Đại học Sư phạm.
78. Huỳnh Lý, Hoàng Dung, Nguyễn Hoành Khung, Nguyễn Đăng Mạnh,
tập 6 (1945 - 1960). Hà Nội. NXB Giáo dục.
Nguyễn Trác. (1978). Lịch sử văn học Việt Nam, tập 5, 1930 – 1945,
79. Hoàng Như Mai (tuyển chọn). (1970) Hồi kí cách mạng tập 2. Hà Nội.
Phần II. Hà Nội. NXB Giáo dục.
80. Hoàng Như Mai. (1971). Kí và giảng dạy kí, vấn đề giảng dạy tác phẩm
NXB Giáo dục.
81. Đặng Thai Mai. (in theo ấn bản năm 1950 của NXB Ngày Nay). Văn học
văn học theo loại thể. Hà Nội. NXB Giáo dục.
khái luận. Tài liệu tham khảo dành riêng cho sinh viên Đại học Văn khoa
82. Hồ Chí Minh. (1945). Tuyên ngôn độc lập. SGK Ngữ văn 12 (tập 2) (tr.
Sài Gòn.
83. Nguyễn Thị Ngọc Minh. (2008). Giới thiệu lí thuyết tự sự của Mieke
39-41). Hà Nội. NXB Giáo dục Việt Nam.
Bal. Tự sự học, một số vấn đề lí luận và lịch sử (phần 2) (tr. 79-105). Hà
84. Trần Văn Minh. (2017). Chúng ta vẫn đi trên con đường ấy (đọc lại tùy
Nội. NXB Đại học Sư phạm.
bút Đường chúng ta đi của Nguyễn Trung Thành), Tạp chí Khoa học
85. Nam Mộc. (1967). Thể kí và vấn đề viết người thật việc thật. Văn học
Trường Đại học Cần Thơ, Số 48c. Trang 92.
Việt Nam thế kỉ XX – Lí luận phê bình 1945 – 1975 quyển V tập IX
(2009) (tr. 61-99). Hà Nội. NXB Văn học.
86. Nam Mộc. (1976). Tìm hiểu sự lãnh đạo của Đảng đối với nền văn học
191
mới của dân tộc ta 40 năm qua. Mấy vấn đề lí luận văn học (tr. 35-104).
87. Nguyễn Nghiệp. (1965). Sống như Anh – thiên tình ca của thời đại. Sống
Hà Nội. NXB Khoa học Xã hội.
như Anh (Văn chương một thời để nhớ) (tr. 140-147). Hà Nội. NXB Văn
88. Nguyễn Chu Nhạc. 2009. Những người thắp lửa. Hà Nội. NXB Văn học.
89. Phan Nhân. (1964). Vị trí của hồi kí cách mạng trong văn học Việt Nam.
học.
Văn học Việt Nam thế kỷ XX – Lí luận phê bình 1945 – 1975 quyển V tập
90. Phan Nhân. (1965). Đọc Người Hà Nội (Hồi kí cách mạng kháng chiến ở
IX (tr. 709-729). Hà Nội. NXB Văn học.
91. Phan Nhân. (1974). Dưới ánh sáng đường lối văn nghệ của đảng. Hà
thủ đô). Tạp chí Văn học. Số 7. Trang 36.
92. Nhiều tác giả. (1975). Đầu nguồn. Hà Nội. NXB Văn học.
93. Nhiều tác giả. (1983). Nhà văn bàn về nghề văn. Đà Nẵng. NXB Hội
Nội. NXB Văn học.
94. Nhiều tác giả. (1987). Bác Hồ về nước. Cao Bằng. NXB Hội Văn học
Văn học Nghệ thuật Quảng Nam.
95. Nhiều tác giả. (2005). Bác Hồ sống mãi với chúng ta. Hà Nội. NXB
Nghệ thuật Cao Bằng.
96. Đỗ Hải Ninh. (2006). Kí trên hành trình đổi mới. Nghiên cứu Văn học.
Chính trị Quốc gia.
97. Lê Lưu Oanh và Nguyễn Đức Nga. (2008). Dẫn luận về tự sự học của
Số 11. Trang 70.
Susanna Onega và J.A.García Landa. Tự sự học, một số vấn đề lí luận và
98. K. Pauxtốpxki. (1984). Một mình với mùa thu. Hà Nội. NXB Tác phẩm
lịch sử (phần 2) (tr. 18-59). Hà Nội. NXB Đại học Sư phạm.
mới.
99. Đỗ Hải Phong. (2004), Vấn đề người kể chuyện trong thi pháp tự sự hiện
192
đại. Tự sự học – một số vấn đề lí luận và lịch sử (Phần 1) (tr. 116-125),
100. Huỳnh Như Phương. (2007). Trường phái hình thức Nga. Thành phố
Hà Nội. NXB Đại học Sư phạm.
101. Trần Thanh Phương. (2015). Nguyễn Quang Sáng – Cây đại thụ văn
Hồ Chí Minh. NXB Đại học Quốc gia.
chương bên bờ sông Tiền. Nguyễn Quang Sáng văn và đời. Tp. Hồ Chí
102. Phạm Văn Quang. (2015). Xã hội học thi pháp dòng chảy cuộc đời.
Minh. NXB Văn hóa – Văn nghệ.
103. Edward Quinn (2006). A Dictionary of Literary and Thematic Terms.
Tp. Hồ Chí Minh. NXB Đại học Quốc gia.
104. Sophie Quinn-Judge. (2002). Ho Chi Minh: The Missing Years.
New York: Facts on File.
105. Vũ Tiến Quỳnh (Tuyển chọn và giới thiệu). (1999). Phê bình bình luận
University of California Press.
văn học: Lê Văn Hiến, Trần Huy Liệu, Đặng Thai Mai, Hồng Chương,
106. A. M. Ru-mi-an-txép. (1986). Chủ nghĩa cộng sản khoa học từ điển.
Hà Xuân Trường. Tp Hồ Chí Minh. NXB Văn Nghệ.
107. Nguyễn Khắc Sính. (2005). Phong cách thời đại, nhìn từ một thể loại
Mát-xcơ-va và Hà Nội. NXN Tiến Bộ và NXB Sự Thật.
108. Trần Đình Sử. (1987). Con người trong Văn học Việt Nam sau Cách
văn học. Hà Nội. NXB Văn học.
mạng tháng Tám 1945. Nguyễn Ngọc Thiện (chủ biên), Cao Thị Hồng,
(2010). Văn học Việt Nam thế kỉ XX (Lí luận phê bình 1975-2000, Quyển
109. Trần Đình Sử, Phương Lựu, Nguyễn Xuân Nam. (1987). Lí luận văn học.
V, Tập XIV) (tr. 611-643). Hà Nội. NXB Văn học.
110. Trần Đình Sử. (1995). Phương diện chủ quan của phản ánh và đặc trưng
Hà Nội. NXB Giáo dục.
của văn nghệ. Nguyễn Ngọc Thiện (chủ biên), Cao Thị Hồng, (2010).
193
Văn học Việt Nam thế kỉ XX (Lí luận phê bình 1975-2000, Quyển V, Tập
111. Trần Đình Sử. (1995). Nghĩ về đặc trưng thẩm mĩ của văn học cách
XIV) (tr. 644-654). Hà Nội. NXB Văn học.
mạng 1945-1975. Hữu Thỉnh (chủ biên), (1997). Việt Nam nửa thế kỉ văn
112. Trần Đình Sử. (2004). Tự sự học – một bộ môn nghiên cứu liên ngành
học 1945-1995 (tr. 152-161). Hà Nội. NXB Hội Nhà văn.
giàu tiềm năng. Tự sự học – một số vấn đề lí luận và lịch sử (Phần 1) (tr.
113. Trần Đình Sử (chủ biên). (2005). Giáo trình lí luận văn học tập 2 – tác
10-22). Hà Nội. NXB Đại học Sư phạm.
114. Trần Đình Sử. (2015). Tổng quan quá trình tiếp thu lí luận văn nghệ mác
phẩm và thể loại văn học. Hà Nội. NXB Đại học Sư phạm.
xít từ Liên Xô, Trung Quốc giai đoạn 1945 – 1986 trong cả nước và miền
Bắc Việt Nam sau 1954. Tiếp nhận tư tưởng văn nghệ nước ngoài – kinh
nghiệm Việt Nam thời hiện đại. La Khắc Hòa, Lộc Phương Thủy, Huỳnh
Như Phương (đồng chủ biên) (tr. 154-175). Hà Nội. NXB Đại học Quốc
115. Trần Hữu Tá. (1977). Đọc hồi kí cách mạng – nghĩ về vẻ đẹp của người
gia.
116. Trần Hữu Tá. (2015). Từ bục giảng đến văn đàn (Chân dung 25 người
chiến sĩ cộng sản. Tạp chí văn học. Số 2, trang 17.
117. Tạp chí Văn học. (1969). Vô cùng thương tiếc đồng chí Trần Huy Liệu.
Thầy). TP. Hồ Chí Minh. NXB Trẻ.
118. Nguyễn Tạo. (1977). Chúng tôi vượt ngục. Hà Nội. NXB Văn học.
119. Văn Tạo. (1997). Sử học và hiện thực. Hà Nội. NXB Khoa học Xã hội.
120. Đào Thản. (2014). Bài học về sử dụng ngôn ngữ trong Sống như Anh.
Tạp chí Văn học. Số 8. Trang 72.
Sống như Anh (Văn chương một thời để nhớ) (tr. 260-268). Hà Nội. NXB
121. Nguyễn Kim Thản, Hồ Hải Thụy, Nguyễn Đức Dương. (2006). Từ điển
Văn học.
tiếng Việt. Tp Hồ Chí Minh. NXB Văn hóa Sài Gòn.
122. Nguyễn Thành Thi (tiểu luận, phê bình). (2010). Văn học – Thế giới mở.
194
123. Xuân Thiêm. (1963). Thêm mấy điều cần trao đổi về viết hồi kí và mẩu
TP Hồ Chí Minh. NXB Trẻ TP HCM.
chuyện về lực lượng vũ trang cách mạng. Bàn thêm về viết hồi kí (tr. 5-
124. Xuân Thiều. (1963). Bắt tay vào việc (Trao đổi kinh nghiệm cụ thể
40). Hà Nội. NXB Quân đội Nhân dân.
trong công tác vận động, tổ chức viết hồi kí). Bàn thêm về viết hồi kí (tr.
125. Hoàng Trung Thông (Chủ biên), Phong Lê, Vũ Tuấn Anh, Tất Thắng,
98-112). Hà Nội. NXB Quân đội Nhân dân.
Vân Thanh, Thạch Phương. (1979). Văn học Việt Nam chống Mĩ cứu
126. Bích Thu. (2004). Kí Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám 1945. Phan
nước. Hà Nội. NXB Khoa học Xã hội.
Cự Đệ (Chủ biên). Văn học Việt Nam thế kỉ XX (tr. 409-440). Hà Nội.
127. Lý Hoài Thu. (2008). Hồi kí và bút kí thời kì đổi mới. Tạp chí Văn học.
NXB Giáo dục.
128. Nguyễn Thị Thu Thủy. (2004). Về khái niệm “truyện kể ở ngôi thứ ba”
Số 10. Trang 76.
và “người kể chuyện ở ngôi thứ ba”. Tự sự học – một số vấn đề lí luận và
129. Trần Mạnh Thường. (2008). Các tác giả văn chương Việt Nam. Hà
lịch sử (Phần 1) (tr. 134-145). Hà Nội. NXB Đại học Sư phạm.
130. Chu Quang Tiềm. Khổng Đức, Đinh Tấn Dung (dịch). (1991). Tâm lí
Nội. NXB Văn hóa Thông tin.
131. Phạm Bá Toàn. (2012). Giá trị văn hóa bộ đội cụ Hồ qua hồi kí, nhật kí
văn nghệ. TP Hồ Chí Minh. NXB TP Hồ Chí Minh.
132. Lê Ngọc Trà. (1987). Văn nghệ và chính trị. Lí luận và văn học, thách
chiến tranh. Hà Nội. NXB Quân đội Nhân dân.
thức của sáng tạo, thách thức của văn hóa (2015) (tr. 28-43). Hà Nội.
NXB Hội Nhà Văn.
133. Lê Ngọc Trà. (1988). Về vấn đề văn học phản ánh hiện thực. Lí luận và
195
văn học, thách thức của sáng tạo, thách thức của văn hóa (2015) (tr. 44-
134. Miễn Trai. (1965). Cái đánh và cái thương của con người Sài Gòn trong
62). Hà Nội. NXB Hội Nhà Văn.
Sống như Anh. Sống như Anh (Văn chương một thời để nhớ) (tr. 173-181)
135. Doãn Trung. (1963). Viết hồi kí về đấu tranh cách mạng (qua một số tài
Tạp chí Văn học. Hà Nội. NXB Văn học.
liệu Trung Quốc). Bàn thêm về viết hồi kí (tr. 45-53). Hà Nội. NXB Quân
136. Hà Xuân Trường. (1995). Đảng và văn học. Hữu Thỉnh (chủ biên),
đội Nhân dân.
(1997). Việt Nam nửa thế kỉ văn học 1945-1995 (tr. 92-99). Hà Nội. NXB
137. Tạ Đức Tú. (2011). Văn chương khoa cử Việt Nam. Hà Nội. NXB Giáo
Hội Nhà văn.
138. Nguyễn Tuân. (1985). Về thể kí. Nghệ thuật viết truyện ngắn và kí
dục Việt Nam.
139. Nguyễn Đình Tư. (2016). Chế độ thực dân Pháp trên đất Nam kì 1859
(tr.203-219). Hà Nội. Nxb Thanh niên.
140. Tzavetan Todorov, Trịnh Bá Đĩnh (dịch). (1965). Chủ nghĩa cấu trúc
– 1954, tập 1. Tp Hồ Chí Minh. NXB Tổng hợp.
141. V.I. Lênin. (1968). Tổ chức của Đảng và văn học Đảng. Hà Nội. NXB
trong văn học, Hà Nội. NXB Hội Nhà văn.
142. Xecgây Xerghêiêvits Xmirnốp. (1975). Trách nhiệm và niềm vui của
Sự thật.
người viết kí sự. Nhà văn bàn về nghề văn (1983). Đà Nẵng. NXB Hội
Văn học Nghệ thuật Quảng Nam.
143. Nguyễn Văn Dân. (4/11/2008). Hồi kí văn học - tiềm năng và hạn chế.
Tài liệu từ Internet
http://tuyengiao.vn/Home/diendan/3274/Hoi-ky-van-hoc-tiem-nang-va-
han-che
144. Ngô Thị Ngọc Diệp. (2013). Một vài đặc trưng của hồi kí cách mạng
196
giai đoạn 1945 -1975. Nguồn:http://vannghequandoi.com.vn/802/news-
detail/463360/phe binh-van-nghe/mot-vai-dac-trung-cua-hoi-ki-cach-
145. Đỗ Hải Ninh. (2013). “Những bước chuyển của hồi kí thời kì đổi mới.
mang-giai-doan-1945 1975.html
Tạp chí Văn nghệ Quân đội. http://vannghequandoi.com.vn/Phe-binh-
146. Trần Đình
van-nghe/Nhung-buoc-chuyen-cua-hoi-ky-thoi-ki-doi-moi-84.html.
Sử. (2014). Sự kiện trong tự sự học.
147. Trần Hữu Tá. (23/12/2012). Một dòng hồi tưởng rất quý. Báo Sài Gòn
https://trandinhsu.wordpress.com/2014/10/30/su-kien-trong-tu-su-hoc/
giải phóng Online. http://www.sggp.org.vn/mot-dong-hoi-tuong-rat-quy-
148. Nguyễn Ngọc Thiện. (2017). Hồi kí văn học trong dòng chảy văn học
108184.html
Việt Nam hiện đại. Mạng Thông tin Văn hóa (Bộ Văn hóa Thể thao và
Du lịch). http://cinet.vn/cua-so-van-hoa/hoi-ky-van-hoc-trong-dong-
149. Hoàng Phủ Ngọc Tường. (1983). Một vài suy nghĩ về thể kí.
chay-van-hoc-viet-nam-hien-dai-266019.html
http://phanthanhvan.vnweblogs.com/post/8200/254882
i
PHỤ LỤC 1
1. Giàng A-Pao. (1961). Một chuyện đấu tranh của người Mông. Đường về
DANH MỤC HỒI KÍ CÁCH MẠNG
2. Hoàng Thị Ái. (1975). Một lòng với Đảng. Hà Nội. NXB Phụ nữ.
3. Vũ Anh. (1970). Từ Côn Minh về Pắc Bó. Bác Hồ. Hà Nội. NXB Văn
Hòa An. Việt Bắc. NXB Dân tộc.
4. Vũ Anh. (2005). Những ngày gần Bác. Bác Hồ sống mãi với chúng ta.
học.
5. Đường Thị Ân. (1974). Nguồn vui duy nhất. Hà Nội. NXB Phụ nữ.
6. Lê Quảng Ba. (1965). Bác Hồ ở Pác Bó. Việt Bắc. NXB Dân tộc Việt
Hà Nội. NXB Chính trị Quốc gia.
7. Lê Quảng Ba. (1977). Bác Hồ về nước. Avóoc Hồ. Hà Nội. NXB Văn
Bắc.
8. Thúy Bách. (1977). Trong vùng núi đá Lam Sơn. Avóoc Hồ. Hà Nội.
hóa Dân tộc.
9. Trần Bảo. (1980). Phần thưởng của Đảng. Ngọn đuốc. Hà Nội. NXB
NXB Văn hóa Dân tộc.
10. Nguyễn Lương Bằng. (1980), Nhờ dân nhờ Đảng mà trưởng thành.
Văn học.
11. Nguyễn Lương Bằng. (1980). Gặp Bác ở Tân Trào. Bác Hồ ở Tân
Ngọn đuốc. Hà Nội. NXB Văn học.
12. Lò An Bình, Cầm Bích, Lô Thanh, Cầm Trọng, Hà Đức, Hoàng Thích,
Trào. Tuyên Quang. NXB Văn học Nghệ thuật.
Cầm Cường, Lò Văn Nuôi, Lò Văn Minh, Cầm Quỳnh. (1977). Ơn
13. Hoàng Quý Bình. (1970). Ở Vân Nam. Bác Hồ. Hà Nội. NXB Văn
Bác. Avóoc Hồ. Hà Nội. NXB Văn hóa Dân tộc.
học.
14. Trần Tử Bình. (1980). Phú Riềng đỏ. Ngọn đuốc. Hà Nội. NXB Văn
ii
15. Vọng Bình. (1961). Người con gái Cao Bằng. Hà Nội. NXB Phụ nữ.
16. Nông Quốc Chấn. (1977). Một số mẩu chuyện về Bác Hồ ở Việt Bắc.
học.
17. Ứng Chiêm. (1960). Làng đỏ. Người trước ngã người sau tiến. Hà Nội.
Avóoc Hồ. Hà Nội. NXB Văn hóa Dân tộc.
18. Trần Cung, Trịnh Đình Cửu. (1980). Một vài nét về chi bộ đầu tiên của
NXB Văn học.
Đảng và về Đông Dương Cộng sản Đảng. Ngọn đuốc. Hà Nội. NXB
19. Trần Cung. (1980). Nhớ lại việc gây một trong những cơ sở đầu tiên
Văn học.
20. Trần Cung. (1980). Một trang đáng nhớ. Hà Nội. NXB Văn học.
21. Nguyễn Duy Cương. (1995). Phong trào học sinh dẫn tôi vào Cách
của Đảng bộ Thái Bình. Hà Nội. NXB Văn học.
22. Văn Tiến Dũng. (1969). Đi tìm liên lạc. Nhân dân ta rất anh hùng. Hà
mạng. Mùa thu rồi, ngày hăm ba. Hà Nội. NXB Chính trị Quốc gia.
23. Trần Hữu Dực. (1971). Bước qua đầu thù. Đạp lên đầu thù. Hà Nội.
Nội. NXB Văn học.
24. Y Ngông Niêk Đam. (1977). Núi Rừng Tây Nguyên theo Bác. Avóoc
NXB Thanh Niên.
25. Nguyễn Văn Đản. (1966). Những lời dặn dò của anh Hoàng Văn Thụ.
Hồ. Hà Nội. NXB Văn hóa Dân tộc.
26. Trần Độ. (1946). Bên sông đón súng. Con đường cách mạng (1970).
Nhân dân với cách mạng. Hà Nội. NXB Phổ thông.
27. Trần Độ. (1946). Thảo hịch. Con đường cách mạng (1970). Hà Nội.
Hà Nội. NXB Thanh Niên.
28. Trần Độ. (1959). Những mẩu chuyện súng. Con đường cách mạng
NXB Thanh Niên.
(1970). Hà Nội. NXB Thanh Niên.
29. Trần Độ. (1960). Tiếng hát trong xà lim. Người trước ngã người sau
iii
30. Trần Độ. (1962). Câu chuyện vượt khỏi nhà tù đế quốc. Con đường
tiến. Hà Nội. NXB Văn học.
31. Trần Độ. (1962). Lớp học quân sự ở chiến khu. Con đường cách mạng
cách mạng (1970). Hà Nội. NXB Thanh Niên.
32. Trần Độ. (1970). Chúng tôi khóc anh Hoàng Văn Thụ. Con đường
(1970). Hà Nội. NXB Thanh Niên.
33. Dương Quang Đông. (1995). Phục hồi cơ sở Đảng. Mùa thu rồi, ngày
cách mạng (1970). Hà Nội. NXB Thanh Niên.
34. Lưu Động. (1961). Bước đầu theo Đảng. Hà Nội. NXB Thanh Niên.
35. Ngô Đăng Đức. (1960). Bát cơm chan máu. Người trước ngã người
hăm ba. Hà Nội. NXB Chính trị Quốc gia.
36. Bằng Giang. (1975). Lớp huấn luyện đầu tiên. Bác Hồ ở Việt Bắc. Việt
sau tiến. Hà Nội. NXB Văn học.
37. Đặng Kim Giang. (1960). Trường quân chính trong nhà tù Sơn La.
Bắc. NXB Việt Bắc.
38. Hà Huy Giáp. (1996). Đời tôi những điều nghe, thấy và sống. Hà Nội.
Người trước ngã người sau tiến. Hà Nội. NXB Văn học.
39. Võ Nguyễn Giáp. (1964). Từ nhân dân mà ra. Hà Nội. NXB Quân đội
NXB Chính trị Quốc gia.
40. Trần Văn Giàu. (1995). Từ Tà Lài về Sài Gòn. Mùa thu rồi, ngày hăm
Nhân dân.
41. Lê Văn Hiến. (1973). Ngục Kontum. Hà Nội. NXB Văn học.
42. Trương Nam Hiến. (1977). Vào núi gặp lãnh tụ. Avóoc Hồ. Hà Nội.
ba. Hà Nội. NXB Chính trị Quốc gia.
43. Nguyễn Công Hòa. (1980). Sống là chiến đấu. Ngọn đuốc. Hà Nội.
NXB Văn hóa Dân tộc.
NXB Văn học.
44. Phạm Hùng, Lê Văn Lương. (1980). Trong xà liêm án chém. Ngọn
iv
45. Sầm Chấn Hưng. (1966). Xã Đỏ. Nhân dân với cách mạng. Hà Nội.
đuốc. Hà Nội. NXB Văn học.
46. Nguyễn Thị Hưng. (1967). Nắng Hưng Yên. Niềm tin không bao giờ
NXB Phổ thông.
47. Tố Hữu. (2000). Nhớ lại một thời. Hà Nội. NXB Hội Nhà văn.
48. Bế Văn Khai. (1970). Người cháu nuôi của Bác. Bác Hồ. Hà Nội.
tắt. Hà Nội. NXB Phụ nữ.
49. Lương Thị Khánh. (1980). Những ngày đầu Bác ở Tân Trào. Bác Hồ ở
NXB Văn học.
50. Võ Văn Kiệt. (1995). Nhớ lại thời kì từ Nam kì khởi nghĩa đến 9-3-
Tân Trào. Tuyên Quang. NXB Văn học Nghệ thuật.
51. Nông Văn Lạc. (1976). Ánh sáng đây rồi. Hà Nội. NXB Văn học.
52. Hồng Lam. (1960). Vài mẩu chuyện nông dân đấu tranh trong phong
1945. Mùa thu rồi, ngày hăm ba. Hà Nội. NXB Chính trị Quốc gia.
trào Xô-Viết Nghệ-Tĩnh. Người trước ngã người sau tiến. Hà Nội.
53. Trần Lam. (1970). Chuyện giả mà có thật. Bác Hồ. Hà Nội. NXB Văn
NXB Văn học.
54. T. Lan. (1980). Câu chuyện Bác đã kể. Ngọn đuốc. Hà Nội. NXB Văn
học.
55. Bùi Lâm. (1980). Gặp Bác ở Pa-ri. Ngọn đuốc. Hà Nội. NXB Văn học.
56. Dương Đại Lâm. (1966). Pác Bó quê tôi. Việt Bắc. NXB Dân tộc Việt
học
57. Dương Đại Lâm. (1977). Bác về Slum Lực. Avóoc Hồ. Hà Nội. NXB
Bắc.
58. Dương Đại Lâm. (2005). Bác Hồ đến bản tôi. Bác Hồ sống mãi với
Văn hóa Dân tộc.
chúng ta. Hà Nội. NXB Chính trị Quốc gia.
59. Tô Lâm. (1995). Nhân dân Nam kì một cổ hai tròng. Mùa thu rồi, ngày
v
60. Mai Trung Lâm. (1975). Một ngày đường đi cùng Bác. Bác Hồ ở Việt
hăm ba. Hà Nội. NXB Chính trị Quốc gia.
61. Trần Huy Liệu. (1960). Mặt trận dân chủ Đông Dương. Hà Nội. NXB
Bắc. Việt Bắc. NXB Việt Bắc.
62. Trần Huy Liệu. (1960). Tiến trên đường nghĩa. Người trước ngã người
Sử học.
63. Trần Huy Liệu. (1961). Dưới hầm Sơn La. Hà Nội NXB Sử học.
64. Trần Huy Liệu. (1961). Đảng thanh niên. Hà Nội. NXB Sử học.
65. Trần Huy Liệu. (1969). Trường học sau song sắt. Hà Nội. NXB Thanh
sau tiến. Hà Nội. NXB Văn học.
66. Trần Huy Liệu. (1980). Đi dự Quốc dân đại hội ở Tân Trào. Bác Hồ ở
Niên.
67. Cao Hồng Lĩnh. (1975). Mãi mãi đi theo con đường của Người. Bác
Tân Trào. Tuyên Quang. NXB Văn học Nghệ thuật.
68. Dương Đại Long. (1977). Từ chân nương bên suối Lê-nin hôm ấy.
Hồ ở Việt Bắc. Việt Bắc. NXB Việt Bắc.
69. Vương Văn Long. (1977). Những chặng đường bên Bác. Avóoc Hồ.
Avóoc Hồ. Hà Nội. NXB Văn hóa Dân tộc.
70. Nguyễn Thị Lựu. (1980). Một cuộc diễn thuyết. Ngọn đuốc. Hà Nội.
Hà Nội. NXB Văn hóa Dân tộc.
71. Hồ Chí Minh. (1980). Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lê-nin. Ngọn
NXB Văn học.
72. Lê Minh. (1980). Một số mẩu chuyện về bác Tôn. Ngọn đuốc. Hà Nội.
đuốc. Hà Nội. NXB Văn học.
73. Tống Phương Minh. (1970). Ở Côn Minh. Bác Hồ. Hà Nội. NXB Văn
NXB Văn học.
học.
74. Nguyễn Thị Minh. (1980). Từ một mái nhà thân yêu ra đi. Ngọn đuốc.
vi
75. Trương Thị Mỹ. (1967). Niềm tin không bao giờ tắt. Niềm tin không
Hà Nội. NXB Văn học.
76. Lê Thanh Nghị. (1970). Ở chiến khu Hai. Con đường cách mạng. Hà
bao giờ tắt. Hà Nội. NXB Phụ nữ.
77. Nguyễn Văn Nguyễn. (2001). Đảo Côn Lôn. Nguyễn Văn Nguyễn -
Nội. NXB Thanh Niên.
78. Nguyễn Văn Nguyễn. (2001). Tháng Tám trời mạnh thu. Nguyễn Văn
Tháng Tám trời mạnh thu. TP Hồ Chí Minh. NXB Trẻ.
79. Nhiều tác giả. (1971). Trước tòa “Đại hình đặc biệt” Sài Gòn. Đạp lên
Nguyễn - Tháng Tám trời mạnh thu. TP Hồ Chí Minh. NXB Trẻ.
80. Nguyễn Thị Nhớn. (1966). Việt Minh là ta. Nhân dân với cách mạng.
đầu thù. Hà Nội. NXB Thanh Niên.
81. Trần Đăng Ninh. (1970). Hai lần vượt ngục. Hà Nội. NXB Văn học.
82. Trần Đăng Ninh. (1970). Những ngày cuối cùng của anh Hoàng Văn
Hà Nội. NXB Phổ thông.
83. Chu Phong. (1963). Tìm lối đi. Những ngày đầu. Việt Bắc. NXB Dân
Thụ. Con đường cách mạng. Hà Nội. NXB Thanh Niên.
84. Triệu Khánh Phương. (1965). Chuyện làng Mười. Những ngày đầu.
tộc Việt Bắc.
85. Hà Quế. (1964). Nữ tự vệ chiến đấu. Hà Nội. NXB Phụ Nữ.
86. Trường Sinh. (1960). Người trước ngã người sau tiến. Người trước ngã
Việt Bắc. NXB Dân tộc Việt Bắc.
87. Trường Sinh. (1960). Tôi đi tìm lí tưởng. Người trước ngã người sau
người sau tiến. Hà Nội. NXB Văn học.
88. Lê Tùng Sơn. (1978). Nhật kí một chặng đường. Hà Nội. NXB Văn
tiến. Hà Nội. NXB Văn học.
89. Nguyễn Tạo. (1977). Chúng tôi vượt ngục. Hà Nội. NXB Văn học.
học.
90. Chu Văn Tấn. (1970). Bác về Tân Trào. Bác Hồ. Hà Nội. NXB Văn
vii
91. Chu Văn Tấn. (1977). Một lòng theo Bác. Avóoc Hồ. Hà Nội. NXB
học.
92. Hoàng Văn Thái. (1980). Trường quân chính kháng Nhật. Bác Hồ ở
Văn hóa Dân tộc.
93. Hải Thanh. (1960). Vài mẩu chuyện về đồng chí Trần Phú. Người
Tân Trào. Tuyên Quang. NXB Văn học Nghệ thuật.
94. Triệu Hồng Thắng. (1977). Những ngày theo Bác. Avóoc Hồ. Hà Nội.
trước ngã người sau tiến. Hà Nội. NXB Văn học.
95. Lê Văn Thắng. (1995). Ngọn lửa cách mạng không bao giờ tắt trong
NXB Văn hóa Dân tộc.
nhân dân Nam Bộ. Mùa thu rồi, ngày hăm ba. Hà Nội. NXB Chính trị
96. Chánh Thi. (1980). Rồi ba được vào Đảng. Ngọn đuốc. Hà Nội. NXB
Quốc gia.
97. Nguyễn Đức Thuận. (2014). Bất khuất (Văn chương một thời để nhớ).
Văn học.
98. Nguyễn Thị Thuận. (1969). Chị Tư già. Hà Nội. NXB Phụ Nữ.
99. Nông Công Thương. (1975). Những kỉ niệm không bao giờ quên. Bác
Hà Nội. NXB Văn học.
100. Trần Dân Tiên. (1972). Người đi tìm đường cứu nước. Ngọn đuốc. Hà
Hồ ở Việt Bắc. Việt Bắc. NXB Việt Bắc.
101. Khuất Duy Tiến. (1980). Hồi kí về vô sản hóa. Ngọn đuốc. Hà Nội.
Nội. NXB Văn học.
102. Huỳnh Văn Tiểng. (1995). Xếp bút nghiên. Mùa thu rồi, ngày hăm ba.
NXB Văn học.
103. Đinh Đại Toàn. (1977). Một chặng đường dài, một kỉ niệm sâu. Avóoc
Hà Nội. NXB Chính trị Quốc gia.
Hồ. Hà Nội. NXB Văn hóa Dân tộc.
104. Nguyễn Khánh Toàn. (2005). Gặp Bác ở Liên Xô 1933 - 1938. Bác Hồ
viii
105. Hoàng Tô. (1964). Rút lui vào bí mật. Việt Bắc. NXB Dân tộc.
106. Hoàng Tô. (1977). Bác Hồ chăm sóc cán bộ. Avóoc Hồ. Hà Nội. NXB
sống mãi với chúng ta. Hà Nội. NXB Chính trị Quốc gia.
107. Lê Dục Tôn. (1965). Vượt căng chợ Ru. Những ngày đầu. Việt Bắc.
Văn hóa Dân tộc.
108. Hoàng Đức Triều. (1977). Những ngày tháng tư năm 1945. Avóoc Hồ.
NXB Dân tộc Việt Bắc.
109. Nguyễn Duy Trinh. (1970). Từ khám tù vị thành niên đến trường học
Hà Nội. NXB Văn hóa Dân tộc.
110. Nguyễn Duy Trinh. (1980). Chiến đấu dưới lá cờ Xô - Viết Nghệ -
Xô-Viết Nghệ-Tĩnh. Con đường cách mạng. Hà Nội. NXB Thanh Niên.
111. Lê Mạnh Trinh. (1980). Những ngày gặp Bác ở Quảng Châu. Ngọn
Tĩnh. Ngọn đuốc. Hà Nội. NXB Văn học.
112. Quang Trung. (1962). Những ngày đầu. Những ngày đầu. Việt Bắc.
đuốc. Hà Nội. NXB Văn học.
113. Nông Thị Trưng. (1966). Những ngày sống gần Bác. Hà Nội. NXB Dân
NXB Dân tộc Việt Bắc.
114. Nông Thị Trưng. (1977). Chú Thu. Avóoc Hồ. Hà Nội. NXB Văn hóa
tộc Việt Bắc.
115. Bùi Công Trừng. (1960). Từ lòng yêu nước chân chính tôi đã đi đến
Dân tộc.
chủ nghĩa cộng sản. Người trước ngã người sau tiến. Hà Nội. NXB
116. Bùi Công Trừng. (1960). Phải sống. Người trước ngã người sau tiến.
Văn học.
117. Đào Văn Trường. (1960). Khởi nghĩa Bắc Sơn. Người trước ngã người
Hà Nội. NXB Văn học.
sau tiến. Hà Nội. NXB Văn học.
118. Ngọc Tự, Hứa Khắc Ân. (1967). Niềm tin không bao giờ tắt. Hà Nội.
ix
119. Hoàng Quốc Việt. (1969). Nhân dân ta rất anh hùng. Nhân dân ta rất
NXB Văn học.
120. Hoàng Quốc Việt. (1971). Tiến công quân thù ngay trước tòa án của
anh hùng. Hà Nội. NXB Văn học.
121. Hoàng Quốc Việt. (1980). Tinh thần Phạm Hồng Thái. Ngọn đuốc. Hà
chúng. Đạp lên đầu thù. Hà Nội. NXB Thanh Niên.
122. Tiến Văn. (1961). Đường về Hoà An. Việt Bắc. NXB Dân tộc.
Nội. NXB Văn học.
i
PHỤ LỤC 2
THỐNG KÊ VỀ NGƯỜI KỂ VÀ NGƯỜI GHI
TRONG HỒI KÍ CÁCH MẠNG
STT TÁC PHẨM TÁC GIẢ
NGƯỜI KỂ NGƯỜI GHI
1 Một lòng với Đảng Hoàng Thị Ái Ngọc Tự
2 Từ Côn Minh về Pắc Bó Vũ Anh
3 Những ngày gần Bác Vũ Anh Lại Giang
4 Nguồn vui duy nhất Đường Thị Ân Ngọc Tự
5 Bác Hồ ở Pác Bó Lê Quảng Ba Âu Thủy
6 Bác Hồ về nước Lê Quảng Ba Hà Minh Tuân
7 Trong vùng núi đá La Thúy Bách Triều Ân
Sơn
8 Phần thưởng của Đảng Trần Bảo Xuân Cang
9 Nhờ dân nhờ Đảng mà Nguyễn Lương Thép Mới
trưởng thành Bằng
10 Gặp Bác ở Tân Trào Nguyễn Lương Nguyễn Huy Tưởng
Bằng
11 Ơn Bác Lò An Bình, Cầm Vương Trung
Bích, Lô Thanh,
Cầm Trọng, Hà
Đức, Hoàng Thích,
Cầm Cường, Lò
Văn Nuôi, Lò Văn
Minh, Cầm Quỳnh
12 Ở Vân Nam Hoàng Quý Bình
13 Phú Riềng đỏ Trần Tử Bình Hà Ân
14 Người con gái Cao Bằng Vọng Bình Học Phi
ii
15 Đi tìm liên lạc Văn Tiến Dũng Phú Bằng
16 Những lời dặn dò của anh Nguyễn Văn Đản Ngọc Tự
Hoàng Văn Thụ
17 Lớp huấn luyện đầu tiên Bằng Giang Vi Quốc Bảo
18 Từ nhân dân mà ra Võ Nguyên Giáp Hữu Mai
19 Vào núi gặp lãnh tụ Trương Nam Hiến Lâm Ngọc Thu
20 Sống là chiến đấu Nguyễn Công Hòa Mai Quân
21 Trong xà liêm án chém Phạm Hùng, Lê Văn T.Đ
Lương
22 Xã Đỏ Sầm Chấn Hưng Bàng Thúc Long
23 Nắng Hưng Yên Nguyễn Thị Hưng Hứa Khắc Ân
24 Nhớ lại thời kì từ Nam kì Võ Văn Kiệt Tô Lâm
khởi nghĩa đến 9-3-1945.
25 Người cháu nuôi của Bác Bế Văn Khai
26 Những ngày đầu Bác ở Lương Thị Khánh Ngọc La
Tân Trào
27 Gặp Bác ở Pa-ri Bùi Lâm T.Đ
28 Bác Hồ đến bản tôi Dương Đại Lâm Lữ Huy Nguyên
29 Bác về Slum Lực Dương Đại Lâm Chí Khuầy
30 Một ngày đường đi cùng Mai Trung Lâm Bùi Thanh
Bác
31 Mãi mãi đi theo con Cao Hồng Lĩnh Bàng Sĩ Nguyên
đường của Người
32 Từ chân nương bên suối Dương Đại Long Triều Ân
Lê-nin hôm ấy
33 Những chặng đường bên Vương Văn Long Trương Thi
Bác
34 Ở Côn Minh Tống Phương Minh
iii
35 Từ một mái nhà thân yêu Nguyễn Thị Minh Nguyễn Sinh
ra đi
36 Niềm tin không bao giờ Trương Thị Mỹ Ngọc Tự
tắt
37 Ở chiến khu Hai Lê Thanh Nghị Thép Mới
38 Đôi thùng hai đáy Đồng chí Ngô Nguyễn Chí Thành
39 Việt Minh là ta Nguyễn Thị Nhớn Xuân Tửu
40 Tìm lối đi” Chu Phong Lê Thoa
41 Nữ tự vệ chiến đấu Hà Quế Ngọc Tự
42 Một lòng theo Bác Chu Văn Tấn Bàng Sĩ Nguyên
43 Những ngày theo Bác Triệu Hồng Thắng Đặng Trung
44 Những kỉ niệm không bao Nông Công Thương Phạm Thanh
giờ quên
45 Chị Tư già Nguyễn Thị Thuận Lê Minh
46 Một chặng đường dài một Đinh Đại Toàn Nông Minh Châu
kỷ niệm sâu
47 Rút lui vào bí mật Hoàng Tô Lâm Ngọc Phụ
48 Vượt căng chợ Ru Lê Dục Tôn Nguyễn Quân
49 Những ngày tháng tư năm Hoàng Đức Triều Triều Ân
1945
50 Từ khám tù vị thành niên Nguyễn Duy Trinh Thép Mới
đến trường học Xô-Viết
Nghệ-Tĩnh
51 Chiến đấu dưới lá cờ Xô - Nguyễn Duy Trinh Thép Mới
Viết Nghệ - Tĩnh
52 Những ngày đầu Quang Trung Lê Thoa
53 Chú Thu Nông Thị Trưng Hoàng Hải
54 Tinh thần Phạm Hồng Hoàng Quốc Việt Thép Mới
iv
Thái
55 Đường về Hòa An Tiến Văn Lê Thanh Giang
i
DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
CỦA TÁC GIẢ LUẬN ÁN
1. Sách và giáo trình đã xuất bản
1. Lê Thị Nhiên. (2016). Văn học Đồng bằng sông Cửu Long mười lăm
năm đầu thế kỉ 21. Văn hóa- xã hội Đồng bằng sông Cửu Long trong tiến
trình hội nhập và phát triển. Cần Thơ. NXB Đại học Cần Thơ. Số ISBN
978-604-919-651-5 X.
2. Lê Thị Nhiên (Đồng tác giả). (2017). Giáo trình Văn học Việt Nam
1945 – 2000. Cần Thơ. NXB Đại học Cần Thơ. Số ISBN 978-604-919-
808-3 X.
2. Đề tài
Lê Thị Nhiên (2019).“Hồi kí cách mạng trong tiến trình văn học Việt Nam
hiện đại”. Đề tài NCKH cấp Trường.
3. Các công trình nghiên cứu khoa học đã công bố.
1. Lê Thị Nhiên. 2018. Hồi kí cách mạng trong văn học Việt Nam hiện
đại. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. Số 54 (9C). 138-143.
2. Lê Thị Nhiên. 2017. Chủ thể trần thuật trong hồi kí cách mạng Việt
Nam 1945- 1975. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. Số 48.
40-45.
3. Lê Thị Nhiên. 2017. Truyền thống của dân tộc Việt Nam qua chân
dung người chiến sĩ cách mạng trong hồi kí 1945-1975. Kỉ yếu hội thảo
Khoa học năm 2017 - 2018. ĐHSP TPHCM. 52-60.
4. Lê Thị Nhiên. 2016. Vai trò của ngôn ngữ và thể loại trong tiếp nhận
văn học. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. Số 43. 34-40.
5. Lê Thị Nhiên. 2016. Một vài phương diện nghệ thuật trong hồi ký cách
mạng của Trần Huy Liệu từ góc nhìn diễn ngôn. Tạp chí Khoa học
Trường Đại học Sài Gòn. 22. 78-90.
ii
6. Lê Thị Nhiên. 2016. Vai trò của ngôn ngữ trong tiếp nhận văn học
(Qua nghiên cứu loại hình kí). Ngôn ngữ và Đời sống. 8. 56-64.
7. Lê Thị Nhiên. 2016. Hồi kí cách mạng Việt Nam – Một vài ghi nhận về
đặc điểm thể loại. Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. 2016-
2017. 201210.
8. Lê Thị Nhiên. 2016. Sự chi phối của tư duy lịch sử trong tư duy nghệ
thuật của hồi kí cách mạng Việt Nam. Nhân lực Khoa học Xã hội. 01.
64-73.
9. Lê Thị Nhiên. 2015. Nghệ thuật hồi kí Nguyên Hồng. Nghiên cứu Văn
học. 2. 169-176.
10. Lê Thị Nhiên. 2014. Chân dung nữ sĩ Anh Thơ qua hồi kí. Tạp chí
Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. Số 30. 15-21