BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NGOẠI GIAO
HỌC VIỆN NGOẠI GIAO
------------------
MẠC NHƯ QUỲNH
MẠC NHƯ QUỲNH
HỘI NHẬP KHU VỰC Ở CHÂU ÂU:
TRƯỜNG HỢP NGHIÊN CỨU CHÍNH SÁCH
ĐỐI NGOẠI VÀ AN NINH CHUNG CHÂU ÂU
LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH QUAN HỆ QUỐC TẾ
MÃ SỐ: 9 31 02 06
Hà Nội, năm 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NGOẠI GIAO
HỌC VIỆN NGOẠI GIAO
------------------
MẠC NHƯ QUỲNH
ẠC NHƯ QUỲNH
HỘI NHẬP KHU VỰC Ở CHÂU ÂU:
TRƯỜNG HỢP NGHIÊN CỨU CHÍNH SÁCH
ĐỐI NGOẠI VÀ AN NINH CHUNG CHÂU ÂU
Chuyên ngành: Quan hệ Quốc tế
Mã số: 9 31 02 06
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
1. PGS. TS. Tạ Minh Tuấn
2. TS. Đỗ Thị Thanh Bình
2. TS. Đỗ Thị Thanh Bình
Hà Nội, năm 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan luận án này là công trình nghiên cứu của tôi. Các kết quả
và thông tin nêu trong luận án là trung thực. Những kết quả nghiên cứu của
luận án chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Hà Nội, ngày tháng năm 2018
Tác giả luận án
Mạc Như Quỳnh
Quỳnh
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tôi bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc đến
PGS. TS. Tạ Minh Tuấn – Trợ lý Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và TS. Đỗ Thị Thanh Bình – Trưởng phòng Đào tạo sau Đại
học, Học viện Ngoại giao Việt Nam. Thầy cô là những người không chỉ tận
tình hướng dẫn, định hướng, gợi mở cho tôi nhiều hướng nghiên cứu mà còn
cho tôi nguồn động viên kịp thời, giúp tôi thêm tự tin để hoàn thành công
trình nghiên cứu.
Tôi xin kính gửi lời cảm ơn đến GS.TS. Nguyễn Thái Yên Hương,
Nguyên Phó Giám đốc Học viện Ngoại giao Việt Nam, người luôn nhắc nhở,
động viên tôi và đồng thời cũng tạo ra một “áp lực cần thiết” để tôi thêm
quyết tâm hoàn thành luận án này. Một lời cảm ơn nữa xin gửi tới các cán bộ
Phòng Đào tạo sau Đại học, Học viện Ngoại giao đã quan tâm, tạo điều kiện
thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình nghiên cứu tại Học viện.
Quá trình thực hiện luận án bị gián đoạn và gặp nhiều khó khăn, có
những lúc tưởng không thể hoàn thành. Không đổ lỗi cho hoàn cảnh, tôi nỗ
lực thực hiện luận án này không chỉ để khẳng định bản thân mình mà còn với
mong muốn sự cố gắng của tôi ngày hôm nay sẽ truyền cảm hứng cho các con
tôi trên bước đường trưởng thành về sau. Xin cảm ơn gia đình, người thân,
đặc biệt là chồng và các con đã luôn bên tôi, cổ vũ, động viên, tiếp thêm động
lực để tôi hoàn thiện nghiên cứu này.
Hà Nội, tháng 08 năm 2018
Nghiên cứu sinh
Mạc Như Quỳnh
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HỘI NHẬP KHU
VỰC TRONG LĨNH VỰC ĐỐI NGOẠI VÀ AN NINH Ở CHÂU ÂU .......... 16
1.1. Cơ sở lý luận về hội nhập khu vực .................................................... 16
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản về hội nhập khu vực ............................... 16
1.1.1.1. Khái niệm “khu vực”, “khu vực hóa” ...................................... 16
1.1.1.2. Định nghĩa “Chủ nghĩa khu vực” và “Hội nhập khu vực” ..... 17
1.1.2. Tiếp cận hội nhập khu vực qua một số lý thuyết ............................ 25
1.1.2.1. Thuyết chức năng ...................................................................... 26
1.1.2.2. Thuyết thể chế ........................................................................... 30
1.1.2.3. Thuyết kiến tạo .......................................................................... 33
1.1.2.4. Thuyết liên chính phủ ............................................................... 36
1.2. Cơ sở thực tiễn về hội nhập khu vực ở châu Âu .............................. 39
1.2.1. Lịch sử hội nhập khu vực ở châu Âu trước chiến tranh Lạnh ........ 39
1.2.2. Bối cảnh thế giới và khu vực sau Chiến tranh Lạnh ....................... 52
1.2.3. Quan điểm của các thành viên chủ chốt về hội nhập trong lĩnh vực
đối ngoại và an ninh .................................................................................. 55
1.2.3.1. Quan điểm của Đức .................................................................. 55
1.2.3.2. Quan điểm của Pháp ................................................................ 57
1.2.3.3. Quan điểm của Ý ....................................................................... 60
1.2.3.4. Quan điểm của Ba Lan ............................................................. 61
Tiểu kết chương 1 ....................................................................................................... 62
CHƯƠNG 2: NGHIÊN CỨU HỘI NHẬP KHU VỰC QUA CHÍNH SÁCH
ĐỐI NGOẠI VÀ AN NINH CHUNG CHÂU ÂU ............................................... 64
2.1. Chính sách Đối ngoại và An ninh chung châu Âu ........................... 64
2.1.1. Nội dung chính sách ....................................................................... 64
2.1.1.1. Mục tiêu chính sách .................................................................. 64
2.1.1.2. Quy trình hoạch định chính sách .............................................. 66
2.1.1.3. Cơ chế hoạt động ...................................................................... 70
2.1.2. Công cụ thực thi chính sách ............................................................ 75
2.1.2.1. Công cụ thực thi Chính sách đối ngoại .................................... 75
2.1.2.2. Công cụ thực thi Chính sách quốc phòng ................................ 78
2.2. Thực tiễn triển khai Chính sách từ năm 1992 – 2018 ..................... 80
2.2.1. Giai đoạn 1992 – 2009: ................................................................... 80
2.2.2. Giai đoạn 2009 – 6/2018:................................................................ 89
2.3. Đánh giá tiến trình hội nhập khu vực qua thực tiễn triển khai
Chính sách .................................................................................................. 99
2.3.1. Nhận xét chung ............................................................................... 99
2.3.2. Nguyên nhân thành công và hạn chế ............................................ 104
Tiểu kết chương 2 ..................................................................................................... 122
CHƯƠNG 3: TRIỂN VỌNG HỘI NHẬP VỀ ĐỐI NGOẠI VÀ AN NINH
CỦA LIÊN MINH CHÂU ÂU ĐẾN NĂM 2025 ............................................... 124
3.1. Xu thế hội nhập khu vực đến năm 2025 ......................................... 124
3.1.1. Xu thế chung ................................................................................. 124
3.1.2. Xu thế hội nhập ở châu Âu ........................................................... 127
3.2. Triển vọng thực thi Chính sách Đối ngoại và An ninh chung đến
năm 2025 ................................................................................................... 131
3.3. Một số bài học kinh nghiệm từ quá trình hội nhập về đối ngoại và
an ninh của Liên minh châu Âu ............................................................. 142
Tiểu kết chương 3 ..................................................................................................... 145
KẾT LUẬN ............................................................................................................... 147
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ ....................... 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 152
Phụ lục 1: Bảng khảo sát về sự quan tâm và nhu cầu của người dân ............. 171
Phụ lục 2: Định vị nền kinh tế EU trên thế giới ................................................... 172
Phụ lục 3: Sự chồng chéo trong chi phí quốc phòng giữa các quốc gia thành
viên EU (tính đến năm 2016-2017) ........................................................................ 173
Phụ lục 4: Cấu trúc quyền lực của liên minh Châu Âu ..................................... 174
Phụ lục 5: Niềm tin của người dân vào các thể chế EU (Giai đoạn 1997-
2016) .............................................................................................................. 175
Phụ lục 6: Báo cáo tóm tắt kết quả 1 năm thực hiện Chiến lược toàn cầu của
EU (EUGS year 1) .................................................................................................... 176
Phụ lục 7: Sáng kiến “Hợp tác mang cấu trúc bền vững” ................................ 179
Phụ lục 8: Nghị quyết của nghị viện Châu Âu về Báo cáo thường niên kết quả
thực hiện Chính sách An ninh Quốc phòng chung năm 2017 .......................... 182
Phụ lục 9: Kế hoạch Hành động quốc phòng châu Âu (European Defence
Action plan) ............................................................................................................... 193
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TIẾNG ANH TIẾNG VIỆT TỪ VIẾT TẮT
Cơ chế Phát triển năng lực CDM
Capability Development Mechanism
Capability Development Plan Kế hoạch Phát triển năng lực CDP
CFSP
Common Foreign and Security Policy
CSCE
Commission on Security and Cooperation in Europe
CSDP
Common Security and Defence Policy
quốc phòng Chính sách Đối ngoại và An ninh chung Uỷ ban An ninh và Hợp tác châu Âu Chính sách An ninh và Quốc phòng chung Cộng đồng Than thép châu Âu ECSC
European Coal and Steel Community European Court of Justice Tòa án châu Âu ECJ
European Defence Agency Cục Quốc phòng châu Âu
European Defence Community Cộng đồng Phòng thủ châu Âu European Defence Fund Quỹ Quốc phòng châu Âu EDA EDC EDF
EEAS
European External Action Service
European Union EU
EURATOM European Atomic Energy Community Cục Hành động đối ngoại châu Âu Liên minh châu Âu Cộng đồng Năng lượng nguyên tử châu Âu
ESDP
European Security and Defence Policy
European Security Strategy ESS
GAERC General Affairs and External Relations Council Chính sách An ninh và Quốc phòng châu Âu Chiến lược An ninh châu Âu Hội đồng các vấn đề chung và quan hệ đối ngoại
HR/VP
High Representative/Vice President
NACC
North Atlantic Cooperation Council
NATO
North Atlantic Treaty Organization
NATO Response Force
NRF OSCE
Organization for Security and Co-operation in Europe
PESCO Đại diện cấp cao về Đối ngoại và An ninh/Phó Chủ tịch Uỷ ban Châu Âu Hội đồng hợp tác Bắc Đại Tây Dương Hiệp ước quân sự Bắc Đại Tây Dương Lực lượng phản ứng của NATO Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu Hợp tác có cấu trúc bền vững
Permanent Structured Cooperation
PSC
Political and Security Committee
SHAPE
Supreme Headquarters Allied Powers Europe
SACEUR
Supreme Allied Commander Europe
SNG Uỷ ban An ninh và Chính trị châu Âu Trụ sở Bộ Tư lệnh tối cao châu Âu Tư lệnh tối cao liên quân châu Âu Cộng đồng các quốc gia độc lập
Commonwealth of Independent States (Sodruzhestvo Nezavisimykh Gosudarstv in Russian)
TEC
Treaty establishing the European Community
Treaty on European Union
Western European Union
Weapon of Mass Destruction
TEU WEU WMD WUDO Western Union Defense Organization Hiệp ước thành lập Cộng đồng châu Âu Hiệp ước về Liên minh châu Âu Liên minh Tây Âu Vũ khí huỷ diệt hàng loạt Tổ chức Liên minh quốc phòng phía Tây
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1: Cấu trúc CFSP/CSDP sau Tuyên bố St. Malo (1998) ....................... 71
Bảng 2: Cơ cấu tổ chức của EEAS trung ương (cập nhật đến tháng 3/2018) 74
Bảng 3: Tỷ lệ đóng góp của các nước tham gia chiến dịch OAF ................... 87
Bảng 4: So sánh về phân bổ ngân sách hành chính cho Bộ Ngoại giao các
quốc gia thành viên EU và EEAS (năm 2011-2012) ...................................... 92
Bảng 5: Khảo sát ý kiến của người dân về sự ủng hộ đối với EU từ năm 2004
đến năm 2016 ................................................................................................ 111
Bảng 6: Thay đổi GDP bình quân đầu người của các nước thuộc EU từ năm
2004 đến 2014 ............................................................................................... 116
Bảng 7: So sánh về chi tiêu quốc phòng của châu Âu với một số quốc gia
khác ............................................................................................................... 117
Bảng 8: Tương quan so sánh thành viên EU và NATO (tính đến năm 2017) .....122
Bảng 9: Xu hướng gia tăng chi phí quốc phòng của một số cường quốc quân
sự đến năm 2045 ........................................................................................... 125
Bảng 10: Khảo sát ý kiến người dân đánh giá về mức độ phát triển của quốc
gia thành viên từ khi gia nhập EU ở khía cạnh kinh tế (giai đoạn 10/2004 –
05/2013) ........................................................................................................ 128
Bảng 11: Tỷ lệ thất nghiệp EU28 từ năm 2004 – 2017 ................................ 129
Bảng 12: Các yếu tố cấu thành liên minh an ninh quốc phòng châu Âu ...... 140
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử phát triển của nền chính trị thế giới đương đại, Liên minh
châu Âu (EU) là một mô hình liên kết khu vực độc đáo. Qua 60 năm tồn tại
(1957-2017), EU đã đạt được nhiều thành tựu trong tiến trình hội nhập trên
nhiều lĩnh vực, đặc biệt là kinh tế, thương mại, tài chính, tiền tệ, tư pháp…
Với quá trình hội nhập sâu rộng như vậy, EU đã trở thành hình mẫu nghiên
cứu về hội nhập khu vực. Nhiều lý thuyết ra đời chủ yếu để giải thích tiến
trình hội nhập của EU. Tuy nhiên, trong lĩnh vực đối ngoại và an ninh, EU
gặp nhiều khó khăn khi vận động các quốc gia thành viên tham gia vào quá
trình hợp tác và triển khai các hành động tập thể.
Chính sách Đối ngoại và An ninh chung (CFSP) là một trong ba trụ cột
chính được hình thành từ Hiệp ước Maastricht (1992). Chính sách an ninh
quốc phòng chung (CSDP) được đưa vào nội hàm CFSP từ năm 1999 nhằm
thúc đẩy tiến trình hội nhập về đối ngoại, an ninh nói chung, tăng cường hợp
tác an ninh quốc phòng, hướng tới nền quốc phòng chung. Tuy nhiên, sau hơn
25 năm triển khai, CFSP chưa đạt được kỳ vọng của các nhà lập pháp châu
Âu. Mặc dù đạt được một số thành tựu nhất định nhưng mức độ hội nhập
trong lĩnh vực đối ngoại, an ninh còn hạn chế so với các lĩnh vực khác. Tình
hình triển khai CFSP gặp nhiều khó khăn hơn trong bối cảnh chủ nghĩa dân
tuý cực đoan và làn sóng bài EU lan rộng khắp châu Âu. Sự kiện nước Anh
buộc phải rời khỏi Liên minh sau thất bại của cuộc trưng cầu dân ý (6/2016)
đặt ra nhiều vấn đề mới về triển vọng hội nhập trong lĩnh vực đối ngoại và an
ninh của EU cũng như định hướng phát triển của Liên minh trong tương lai.
CFSP/CSDP có thất bại? Các quốc gia thành viên hành động đơn phương
trong các vấn đề đối ngoại, an ninh hay CFSP/CSDP sẽ đạt được nhiều bước
tiến hơn trong các hành động tập thể, đưa sức mạnh tổng thể của EU lên một
2
tầm mức mới? Tương lai của CFSP cùng những bước đi khó đoán định của
Mỹ, Nga, Trung ở khu vực sẽ có tác động lớn đến cấu trúc an ninh khu vực
châu Âu. Việc dự báo triển vọng thực thi CFSP và xu hướng hội nhập trong
lĩnh vực đối ngoại và an ninh ở khu vực có ý nghĩa thời sự, là cơ sở đánh giá
xu hướng vận động của nền an ninh khu vực và hướng phát triển tương lai của
EU, một trong những chủ thể quan trọng của nền chính trị toàn cầu.
EU là một trong ba nền kinh tế lớn nhất thế giới (bên cạnh Mỹ và
Trung Quốc), là một chủ thể ngày càng có ảnh hưởng trong quan hệ quốc tế.
Với Việt Nam, EU là đối tác quan trọng trên bình diện song phương và đa
phương. Về phương diện song phương, Việt Nam có năm đối tác chiến lược ở
châu Âu, gồm: Anh, Tây Ban Nha, Pháp, Ý, Đức. Về phương diện đa phương,
EU và Việt Nam đã ký Hiệp định Đối tác hợp tác (PCA) năm 2012. Hiệp định
Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) đã kết thúc đàm phán và dự kiến
được ký kết vào năm 2018. Cùng với Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ
xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), EVFTA là hai hiệp định thương mại tự do
có phạm vi cam kết rộng và mức độ cam kết cao nhất của Việt Nam từ trước
đến nay. Vì vậy, nghiên cứu chủ thể EU có ý nghĩa thực tiễn quan trọng,
mang tính tham khảo cho Việt Nam, một thành viên tích cực của Hiệp hội các
quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) trong việc góp phần xây dựng và phát triển
quan hệ đối tác của tổ chức này với các chủ thể quan hệ quốc tế khác, trong
đó có EU.
Bên cạnh đó, các công trình nghiên cứu về chủ thể EU trong và ngoài
nước tuy phong phú và đa dạng nhưng các nghiên cứu về hội nhập khu vực
trong lĩnh vực đối ngoại và an ninh còn khá mới mẻ với các nhà nghiên cứu
Việt Nam. Mặt khác, đây là lĩnh vực mang tính động thái cao, do vậy, nghiên
cứu hội nhập khu vực về đối ngoại và an ninh ở châu Âu là một đề tài có ý
nghĩa khoa học và thực tiễn trong nghiên cứu quan hệ quốc tế ở Việt Nam.
3
Trên cơ sở đó, nghiên cứu sinh lựa chọn đề tài luận án là: “Hội nhập
khu vực ở châu Âu: Trường hợp nghiên cứu Chính sách Đối ngoại và An
ninh chung châu Âu”.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
2.1. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến đề tài :
* Về lý thuyết hội nhập khu vực và hội nhập khu vực ở châu Âu:
Tại Việt Nam, chưa có nhiều công trình nghiên cứu lớn về lý thuyết hội
nhập khu vực nói chung và hội nhập khu vực ở châu Âu nói riêng. Một số
công trình đáng chú ý là tác phẩm “Những vấn đề xung quanh việc hợp nhất
châu Âu” của tác giả Nguyễn Văn Dân (chủ biên) và Lê Ngọc Hiền (1997),
NXB Viện Thông tin khoa học xã hội, tổng hợp các bài viết liên quan đến xu
hướng hội nhập khu vực và quá trình hình thành Liên minh châu Âu. Do là
tập hợp các bài viết của nhiều tác giả nên các đánh giá rời rạc, mang tính
thông sử bởi thời gian ra đời quyển sách gần với thời điểm EU thành lập
(Hiệp ước Maastricht 1992) cho đến nay tính thời sự không còn. Một tác
phẩm mang tính tham khảo khác của tác giả Đinh Công Tuấn chủ biên
(2011), “Liên minh châu Âu hai thập niên đầu thế kỷ XXI”, NXB Khoa học xã
hội. Tuy nhiên, công trình nghiên cứu này không đề cập đến các lý thuyết hội
nhập khu vực mà chỉ mô tả quá trình hình thành, phát triển của EU và một số
xu hướng phát triển của tổ chức trong tương lai.
Một số bài viết có giá trị tham khảo đề cập đến các lý thuyết hội nhập
như: bài viết của tác giả Phạm Quốc Trụ (2011), “Hội nhập quốc tế: một số vấn
đề lý luận và thực tiễn”, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế số 85 năm 2011; Nguyễn
Quang Thuấn (2014), “Liên kết ở Liên minh châu Âu: từ lý thuyết đến thực
tiễn”, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu số 2 (161) năm 2014. Hai bài viết có đề cập
đến khái niệm hội nhập quốc tế và một số lý thuyết về hội nhập khu vực. Tuy
nhiên, do không phải là công trình nghiên cứu lớn nên bài viết chỉ giới hạn ở
việc giới thiệu khái quát cách tiếp cận của một số thuyết về hội nhập, đưa ra một
4
số nhận định về thành công và hạn chế của quá trình liên kết trong EU.
Một số bài viết đề cập đến mô hình phát triểu của EU và ASEAN, so
sánh, nhận định về triển vọng của từng mô hình: Đề tài nghiên cứu cấp Viện
“Nghiên cứu so sánh các mô hình liên kết khu vực – Kinh nghiệm cho
ASEAN” của Viện nghiên cứu châu Âu thuộc Viện Khoa học xã hội Việt Nam
thực hiện tháng 7/2011; các bài báo “Chủ nghĩa khu vực và liên khu vực:
những triển vọng giữa châu Âu và châu Á”, Tạp chí nghiên cứu châu Âu số 6
(66) năm 2004 và “Mô hình hội nhập của EU – ASEAN: So sánh những tương
đồng, khác biệt và bài học kinh nghiệm cho ASEAN”, Tạp chí nghiên cứu
châu Âu số 6 (141) năm 2012 của tác giả Đinh Công Tuấn.
Ở nước ngoài, các công trình nghiên cứu của các học giả phương Tây
sử dụng nhiều lý thuyết khác nhau để giải thích cho hiện tượng hội nhập khu
vực tại châu Âu.
Tác phẩm “The Uniting of Europe” (Sự hợp nhất của châu Âu) xuất
bản lần đầu năm 1958 và “Beyond the Nation-State” (Vượt ra khỏi ranh giới
quốc gia - dân tộc) xuất bản năm 1964 của học giả Ernest B. Hass đưa ra khái
niệm “spill-over” (hiệu ứng lan tỏa) để mô tả cơ chế phát triển của tiến trình
hội nhập khu vực. Thuyết lan tỏa của Haas được học giả Lindberg sử dụng và
phát triển trong công trình nghiên cứu “The Political Dynamics of European
Economic Integration” (Động lực chính trị trong hội nhập kinh tế châu Âu)
xuất bản năm 1963, “Regional Integration: Theory and Research” (Hội nhập
khu vực: Lý thuyết và nghiên cứu) viết cùng Stuart A. Scheingold năm 1971.
Các tác phẩm này chủ yếu lấy tiến trình hội nhập trong lĩnh vực kinh tế làm
trường hợp nghiên cứu cụ thể cho các thuyết.
Tác phẩm “The Choice for Europe” (Sự lựa chọn của châu Âu) của
Andrew Moravcsik tiếp cận quá trình hội nhập khu vực ở châu Âu một cách
toàn diện hơn. Andrew kết hợp các luận điểm của chủ nghĩa tự do và thuyết
liên chính phủ để giải thích quá trình hình thành các thứ tự ưu tiên của các
5
quốc gia thành viên và lý giải con đường thương lượng ở cấp độ liên chính
phủ để đi đến đồng thuận cuối cùng.
Ngoài ra, thuyết thể chế và thuyết liên chính phủ cũng được nhiều học
giả như Peter Hall, Rosemary Taylor (1994), Koelble (1995), Kato (1996),
Mark Pollack (2003), Derek (2005)… sử dụng để nghiên cứu quá trình hội
nhập khu vực ở châu Âu.
* Về cấu trúc bộ máy EU và những tác động của nó đến quá trình hội
nhập châu Âu, đặc biệt từ sau Hiệp ước Lisbon:
Tại Việt Nam, các nghiên cứu liên quan đến vấn đề này chưa có nhiều
công trình lớn, chủ yếu là các bài viết trên các tạp chí chuyên ngành, còn tản
mạn, thiếu tính hệ thống. Một số bài viết trên Tạp chí nghiên cứu châu Âu của
tác giả Đặng Minh Đức như “Hệ thống chính trị của Liên minh châu Âu
(2002), “Bản chất và cơ chế hoạt động của hệ thống chính trị Liên minh
Châu Âu” (2003), “Những vấn đề cơ bản của Hiến pháp châu Âu” (2005),
“Những nhân tố tác động đến quá trình cải cách hệ thống thể chế chính trị ở
Liên minh Châu Âu” (2005), “Hiệp ước Hiến pháp và hiệp ước Lisbon - thực
chất và triển vọng” của Phan Đức Thọ (2009); “Vai trò của Liên minh Châu
Âu và Hiệp ước Lisbon” (2010), “Một số vấn đề chính trị nổi bật của Liên
minh Châu Âu (EU) giai đoạn 2000-2010” (2011) của tác giả Đinh Công
Tuấn. Các bài viết này tiếp cận khá trực tiếp và cụ thể tới một số thể chế
chính trị cơ bản của Liên minh, chỉ ra được một số vấn đề đang tồn tại cũng
như bước đầu đặt ra vấn đề phải nhìn nhận các thể chế của Liên minh châu
Âu theo tiêu chí nào: quốc gia, liên bang hay tổ chức quốc tế?
Ở nước ngoài, cấu trúc bộ máy EU được nghiên cứu bài bản, công phu
và có nhiều công trình lớn. Đặc biệt, với những cải cách lớn về thể chế từ
Hiệp ước Lisbon (2009), nhiều học giả đã tập trung nghiên cứu tác động của
những thay đổi này đến quá trình vận hành và phát triển của EU. Một số tác
phẩm tiêu biểu như:
6
Simon Hix (2005), The Political system of the European Union (Hệ
thống chính trị của Liên minh châu Âu), NXB Palgrave Macmillan. Đây là
một trong những tác phẩm có giá trị tham khảo cao. Cuốn sách mô tả các thể
chế của Liên minh kết hợp với những lý luận về hệ thống chính trị của
Bertrand Badie và Pierre Binrbaum. Hix khẳng định EU đã có một hệ thống
chính trị thực sự. Ông cũng phản bác quan điểm hệ thống chính trị chỉ tồn tại
trong khuôn khổ quốc gia. Theo ông, một hệ thống chính trị có thể tồn tại mà
không cần gắn liền với một quốc gia nào như đối với trường hợp EU.
Jens Peter Bonde (2008), From EU Constitution to Lisbon Treaty (Từ
Hiến pháp châu Âu đến Hiệp ước Lisbon), NXB Forlaget Notat. Trong công
trình nghiên cứu này, tác giả đã rà soát, chỉ ra những sửa đổi, bổ sung về mặt
nội dung của các điều khoản trong Hiệp ước, từ đó phân tích tác động của
những thay đổi này đối với người dân và các quốc gia thành viên. Bonde cũng
đưa ra một số dự báo về xu thế phát triển của các thể chế trong tương lai. Tuy
nhiên, tính cập nhật của nghiên cứu còn nhiều hạn chế do xuất bản trước khi
Cục Hành động đối ngoại châu Âu (EEAS) đi vào hoạt động nên chưa thể
đánh giá hiệu quả triển khai chính sách…
Ngoài ra, các báo cáo nội bộ của Liên minh cũng là nguồn tài liệu tham
khảo quan trọng. Trong các báo cáo của Ủy ban trình Hội đồng và Nghị viện
châu Âu, đáng chú ý có báo cáo phát hành tháng 3/2008 với chủ đề “The
Treaty of Lisbon: An Impact of Assessment” (Hiệp ước Lisbon: đánh giá tác
động) đánh giá tác động của Hiệp ước đến bộ máy thể chế của Liên minh, các
quyền cơ bản của quốc gia thành viên, tác động trong lĩnh vực tự do, an ninh,
tư pháp, các vấn đề xã hội, tài chính và thị trường nội địa… Chương 7 của
bản báo cáo đề cập đến chính sách đối ngoại, quốc phòng của châu Âu và
hướng phát triển của chính sách. Theo đánh giá của Ủy ban, theo Hiệp ước
Lisbon, CFSP vẫn không thay đổi phạm vi hoạt động. Các điều khoản trong
7
Hiệp ước mới có thể giúp vai trò của EU trở nên năng động hơn trong lĩnh
vực đối ngoại, an ninh nhưng vẫn trên nguyên tắc đồng thuận, không xâm
phạm đến sự độc lập về chính sách của các quốc gia thành viên trong lĩnh vực
này. Báo cáo này đánh giá EU có thể trở nên năng động hơn nhưng chưa đánh
giá được thực tiễn triển khai CFSP có thực sự giúp EU trở nên năng động hơn
hay không.
* Về Chính sách Đối ngoại và An ninh chung châu Âu:
Tại Việt Nam, không có nhiều công trình nghiên cứu về chính sách đối
ngoại, an ninh, quốc phòng của EU nói chung, cụ thể về Chính sách Đối ngoại
và An ninh chung châu Âu (CFSP). Một số nghiên cứu liên quan như: Bùi
Hồng Hạnh (2005), Đề tài cấp trường “Quá trình hình thành chính sách đối
ngoại chung của Liên minh châu Âu”; Vũ Bình Minh (2006), Đề tài cấp Viện
của Viện Nghiên cứu châu Âu “Chính sách đối ngoại của Liên minh châu Âu
hiện nay: Cơ chế phối hợp giữa các nước thành viên và cấp độ liên minh”; Bùi
Hồng Hạnh (2010), “Chính sách đối ngoại và an ninh của Liên minh châu Âu:
Một số vấn đề và khả năng thực thi” đăng trên Tạp chí Nghiên cứu châu Âu số
01 năm 2010; Nguyễn Hải Lưu (2016), “Một số nội hàm mới trong Chiến lược
toàn cầu của EU về chính sách Đối ngoại và An ninh chung”, Tạp chí Nghiên
cứu châu Âu số 05 năm 2016…
Ở nước ngoài, các công trình nghiên cứu về Chính sách Đối ngoại và
An ninh chung châu Âu tương đối phong phú về quy mô và nội dung. Một số
tác phẩm và bài viết đáng chú ý như: Ramses A.Wessel (1999), The European
Union’s Foreign and Security Policy – A Legal Institutional Perspective
(Chính sách Đối ngoại và An ninh Liên minh châu Âu – Triển vọng thể chế
hóa luật pháp), NXB Routledge, London; Martin A. Smith và Grahan
Timmins (2000) chủ biên, Uncertain European: Building a New European
Security Order (Một châu Âu không ổn định: Xây dựng một trật tự an ninh
8
châu Âu mới), NXB Routledge, London. Hai tác phẩm đề cập đến các khái
niệm về trật tự, an ninh và bản sắc, các thể chế an ninh khu vực gồm OSCE,
NATO, EU và WEU, triển vọng an ninh quốc gia và khu vực và nhận định về
sự bất ổn định ở châu Âu. Theo các tác giả, không phải bất kỳ quốc gia nào
cũng mong muốn trở thành thành viên của EU và NATO. Vì vậy, các thành
viên của hai tổ chức này cần giải quyết các vấn đề mà các quốc gia ngoài khối
quan tâm hoặc đặt kỳ vọng. Hơn nữa, quá trình mở rộng đã làm thay đổi thứ
tự ưu tiên các mối quan tâm hay lợi ích chung của các thành viên đặt trong
tổng thể chiến lược phát triển của tổ chức khiến các thành viên phải đối mặt
với nhiều thách thức mới. Thông qua việc phân tích vai trò của từng thể chế
an ninh khu vực cùng với việc quan sát các mục tiêu, kỳ vọng của một số
nhân tố quan trọng đối với nền an ninh khu vực như Mỹ, Anh, Pháp, Đức,
Nga…, các tác giả xác định những nguy cơ gây bất ổn ở châu Âu và vai trò
của các thể chế an ninh trên con đường duy trì nền hòa bình trong khu vực.
Brian White (2001), Understanding European Foreign Policy (Tìm
hiểu về Chính sách đối ngoại châu Âu); Svein S. Andersen và Kjell A.
Eliassen (2001), Making Policy in Europe (Hoạch định chính sách ở châu
Âu); Cristina Churruca (2003), The European Union’s Common Foreign
Policy: Strength, Weakness and Prospects (Chính sách đối ngoại và an ninh
chung châu Âu: Ưu điểm, Hạn chế và Triển vọng); nhóm tác giả Dieter
Mahncke, Alicia Ambos, Christopher Reynolds (2004),“European Foreign
Policy – From Rhetoric to Reality?” (Chính sách đối ngoại châu Âu – Từ
Khẩu hiệu đến Thực tế). Các nghiên cứu này cung cấp bức tranh tổng thể về
chính sách đối ngoại và cách thức EU thực hiện đường lối đối ngoại. Cristina
đặt vấn đề rằng khi xem EU là một chủ thể hoàn chỉnh của quan hệ quốc tế thì
bản thân EU có chính sách đối ngoại (EFP). Các nghiên cứu về EU thường
tiếp cận theo hướng coi CFSP chính là chính sách đối ngoại của tổ chức này.
9
Tuy nhiên, đứng trên quan điểm xem EU như chủ thể quốc gia, không nên
đồng nhất CFSP với EFP. CFSP cần được phân biệt với các chính sách đối
ngoại của EU trên các lĩnh vực khác như chính sách về thương mại hay các
chính sách phát triển. Dựa trên hướng tiếp cận này, bài viết đánh giá điểm
mạnh, điểm yếu của EU trong các hoạt động đối ngoạivà nêu ra một số câu
hỏi gợi ý nghiên cứu như “mục tiêu của EFP nên là gì? Những lợi ích chung
của các quốc gia thành viên thường được đặt ở đâu? Vai trò của EU trong các
vấn đề quốc tế? Nguồn lực nào nên dành cho EFP?...
Nicole Alecu de Flers (2008), The Provisions on CFSP and CSDP in the
Lisbon Reform Treaty: Stumbling Blocks or Milestones? (Những nội dung về
CFSP và CSDP trong Hiệp ước Lisbon sửa đổi: rào cản hay bước ngoặt?), Viện
nghiên cứu nhất thể hóa châu Âu, Viện khoa học Áo; Sven Biscop (2009),
Permanent Structured Cooperation and the Future of ESDP: Transformation
and Integration (Hợp tác có cấu trúc bền vững và tương lai của ESDP), Học
viện Hoàng gia về quan hệ quốc tế Egmont, Bỉ. Hai tác phẩm đề cập đến những
thay đổi về mặt chính sách có tác động đến khả năng thực thi CFSP/ESDP,
phân tích, đánh giá cơ chế hợp tác về an ninh quốc phòng “có cấu trúc bền
vững”, cơ chế được đánh giá là một giải pháp cho tương lai của ESDP. Một khi
các thành viên EU nhất trí tham gia vào cơ chế hợp tác này, hiệu quả triển khai
chính sách an ninh phòng thủ chung sẽ được nâng lên đáng kể, giúp hạn chế sự
chồng chéo về chính sách, tập trung nguồn lực, nâng cao khả năng triển khai
thực địa của lực lượng liên quân.
Federiga M. Bind (2010), The Foreign policy of the European Union:
Assessing Europe’s role in the World (Chính sách đối ngoại của Liên minh
châu Âu: Đánh giá vai trò của châu Âu trên thế giới), NXB Brookings
Institution. Với đối tượng nghiên cứu chính là Chính sách đối ngoại của EU,
cuốn sách đề cập đến các đặc điểm của chính sách và phân tích chính sách
10
đối ngoại của EU với các đối tác ở một số khu vực trọng yếu như châu Phi,
châu Á, Trung Đông…
Alyson JK Bailes và Graham Messervy Whiting (2011), Death of an
Institution, the End for Western European Union, a Future for European
defence? (Sự kết thúc của một thể chế, Liên minh Tây Âu dừng hoạt động,
tương lai cho nền quốc phòng châu Âu?), Học viện Hoàng gia Egmont về
quan hệ quốc tế. Tác phẩm đề cập đến mối liên quan của Liên minh Tây Âu
(WEU) và NATO trong việc bảo vệ an ninh khu vực và phân tích, đánh giá về
thực trạng nền an ninh quốc phòng châu Âu.
Jan Wouters, Stephanie Bijlmakers và Katrien Meuwissen (2012), The
EU as a Multilateral Security Actor after Lisbon: Constitutional and
Institutional Aspects, (EU – Chủ thể an ninh đa phương hậu Lisbon: Phương
diện lập pháp và thể chế), NXB Routledge, London; Caroline Bouchard, John
Petterson và Natalie Tocci (2013), Multilateralism in 21st Century: Europe’s
Quest for Effectiveness (Chủ nghĩa đa phương trong thế kỷ 21: Tìm kiếm tính
hiệu quả của châu Âu), NXB Routledge, London; Federico Santopinto &
Megan Price (2013), National Visions of EU Defence Policy – Common
Denominators and Misunderstandings (Tầm nhìn quốc gia về chính sách quốc
phòng EU: Mẫu số chung và một số nhận thức sai lầm); Sven Biscop (2016),
All or Nothing? The EU Global Strategy and Defence Policy after the Brexit
(Tất cả hay không là gì? Chiến lược toàn cầu của EU và chính sách quốc
phòng sau sự kiện Brexit), Tạp chí Contemporary Security Policy Journal.
Các bài viết đưa ra một số vấn đề phát sinh trong quá trình EU triển khai
chính sách đối ngoại và an ninh chung, tập trung vào giai đoạn sau khi thực
thi Hiệp ước Lisbon. Các nghiên cứu chủ yếu mô tả cách thức vận hành bộ
máy trong lĩnh vực đối ngoại, an ninh và định hướng chính sách của một số
quốc gia thành viên khi tham gia vào các hành động tập thể liên quan đến an
ninh quốc phòng.
11
2.2. Một số vấn đề gợi mở nghiên cứu
Qua nghiên cứu, rà soát các nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan
đến đề tài, một số nhận xét về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài như sau:
(i) Các công trình nghiên cứu trong nước về lý thuyết hội nhập khu vực
không nhiều, chủ yếu được lồng ghép vào các nghiên cứu về chủ nghĩa khu
vực ở một số khu vực cụ thể, tập trung nhiều vào khu vực châu Á-Thái Bình
Dương, Đông Á, Đông Nam Á… Các công trình nghiên cứu về lý thuyết hội
nhập khu vực nói chung và lý thuyết hội nhập khu vực châu Âu nói riêng chủ
yếu mô tả tiến trình hội nhập ở khu vực châu Âu thông qua sự hình thành và
phát triển của Liên minh châu Âu. Các nghiên cứu còn khá sơ khai, chủ yếu là
các bài viết ngắn, chưa có nhiều công trình nghiên cứu sâu và có hệ thống.
(ii) Nhiều lý thuyết quan hệ quốc tế khác nhau được các học giả
phương Tây sử dụng để giải thích cho hiện tượng hội nhập khu vực tại châu
Âu, cụ thể là Liên minh châu Âu. Một số lý thuyết được hình thành dựa trên
quá trình liên kết khu vực ở châu lục này, nổi bật có: thuyết chức năng, thuyết
thể chế, thuyết kiến tạo và thuyết liên chính phủ.
(iii) Hệ thống lý thuyết quan hệ quốc tế về hội nhập khu vực chủ yếu
được dùng để lý giải các hiện tượng đã diễn ra đối với tiến trình hình thành và
phát triển của EU. Chưa có công trình nghiên cứu nào dùng công cụ lý thuyết
làm cơ sở để dự báo chính sách và đánh giá, phân tích khả năng thực thi chính
sách, đặc biệt trong lĩnh vực đối ngoại, an ninh, quốc phòng của EU.
(iv) Chính sách Đối ngoại và An ninh chung châu Âu là đối tượng
nghiên cứu của một số công trình nghiên cứu khoa học ở nước ngoài nhưng
chưa có nhiều nghiên cứu chuyên sâu liên quan đến đề tài này ở Việt Nam.
Quá trình hội nhập khu vực châu Âu, chủ thể EU được nhiều học giả trong
nước nghiên cứu chuyên sâu chủ yếu về lĩnh vực kinh tế, lĩnh vực EU đạt
được nhiều thành tựu nổi bật nhất. Lĩnh vực đối ngoại, an ninh (bao hàm cả
các vấn đề an ninh quốc phòng) của EU chưa được các học giả trong nước
chú trọng nghiên cứu.
12
(v) Từ năm 2009 đến nay, EU trải qua nhiều sự kiện quan trọng liên
quan đến cải tổ bộ máy và các vấn đề nội bộ. Sự kiện Anh tuyên bố rời EU
(Brexit) là sự kiện chưa có tiền lệ và không được dự báo trong các công trình
nghiên cứu được rà soát. Những chuyển biến trong nội bộ EU và tương lai EU
hậu Brexit trở thành chủ đề nóng. Định hướng chính sách về đối ngoại, an
ninh, quốc phòng và khả năng thực thi chính sách này trong không gian EU
hậu Brexit là vấn đề mới, chưa được nhiều công trình nghiên cứu trong và
ngoài nước đề cập.
Tóm lại, qua quá trình rà soát các công trình nghiên cứu liên quan đến
đề tài, những vấn đề nêu trên gợi mở hướng nghiên cứu mới cho luận án. Nội
dung luận án định hướng tập trung giải quyết một số vấn đề: (i) Hệ thống hoá
cơ sở lý thuyết và thực tiễn liên quan đến hội nhập khu vực châu Âu làm nền
tảng cho công tác dự báo chính sách; (ii) Cập nhật, phân tích, đánh giá tình
hình thực thi Chính sách Đối ngoại và An ninh chung châu Âu, bao gồm cả
Chính sách An ninh Quốc phòng chung trong bối cảnh hậu Lisbon và hậu
Brexit; (iii) Dự báo tiến trình hội nhập khu vực ở châu Âu trong ba thập niên
đầu thế kỷ XXI dưới tác động của Brexit và tình hình biến động ở khu vực, sử
dụng công cụ lý thuyết làm cơ sở dự báo hướng triển khai và khả năng thực
thi Chính sách Đối ngoại và An ninh chung châu Âu tầm nhìn đến năm 2025;
(iv) Liên hệ thực tiễn đến ASEAN và Việt Nam trong tiến trình hội nhập khu
vực ở Đông Nam Á.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở đánh giá thực trạng triển khai Chính sách Đối ngoại và An
ninh chung châu Âu, luận án phân tích quá trình hội nhập khu vực về đối ngoại
và an ninh, xác định mức độ hội nhập, dự báo xu hướng hội nhập khu vực và
triển vọng thực thi Chính sách Đối ngoại và An ninh chung châu Âu đến năm
2025, liên hệ thực tiễn với ASEAN và Việt Nam.
13
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn của quá trình hội nhập khu
vực nói chung và hội nhập về đối ngoại và an ninh của EU nói riêng;
- Đánh giá thực tiễn triển khai Chính sách Đối ngoại và An ninh chung
châu Âu, trong đó có Chính sách An ninh Quốc phòng chung; tập trung phân
tích các nhân tố tác động đến quá trình triển khai chính sách;
- Dự báo xu hướng hội nhập khu vực và triển vọng thực thi Chính sách
Đối ngoại và An ninh chung châu Âu đến năm 2025.
- Rút ra một số bài học kinh nghiệm đối với ASEAN trong tiến trình
hội nhập khu vực.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là quá trình hội nhập khu vực ở châu
Âu. Chính sách Đối ngoại và An ninh chung (trong đó bao hàm Chính sách
An ninh Quốc phòng chung) được chọn là trường hợp nghiên cứu điển hình.
Phạm vi nghiên cứu được chia thành hai giai đoạn chính: từ 1992 –
2009 và 2009 – 6/2018, tầm nhìn đến năm 2025. Không gian nghiên cứu
được xác định là Liên minh châu Âu. Thuật ngữ “châu Âu” sử dụng trong
luận án được hiểu là “Liên minh châu Âu”.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích văn bản, phân tích chính
sách, nghiên cứu trường hợp điển hình. Ngoài ra, các phương pháp phân tích
tác động, phân tích lợi ích, phân tích xung đột và hợp tác quốc tế, phương
pháp quan sát, hệ thống, phân tích và tổng hợp, phương pháp dự báo và so
sánh được sử dụng để bổ trợ cho ba phương pháp nghiên cứu trên.
6. Nguồn tài liệu
- Các văn kiện chính thức của Liên minh châu Âu như các Hiệp ước,
Chiến lược an ninh, Sách trắng và các phát ngôn chính thức của các lãnh đạo
Liên minh châu Âu được công bố tại trang web chính thức của Liên minh;
14
- Các báo cáo hoạt động chuyên biệt của các cơ quan Ủy ban châu Âu,
Hội đồng châu Âu, Ủy ban các vấn đề đối ngoại châu Âu (FAC), Cục Hành
động đối ngoại châu Âu (EEAS);
- Các báo cáo, nghiên cứu chuyên đề của Viện châu Âu học (IES), Viện
nghiên cứu An ninh Liên minh châu Âu (EUISS), Viện nghiên cứu châu Âu
của Mỹ, Nhật, Singapore;
- Các tài liệu, công trình nghiên cứu, chuyên khảo đã được công bố
trong và ngoài nước về quá trình hội nhập khu vực châu Âu, hội nhập về đối
ngoại và an ninh của EU;
- Các công trình nghiên cứu đã công bố của các học giả trong và ngoài
nước về quan hệ EU với các đối tác;
- Các tài liệu, công trình nghiên cứu đã được công bố trong và ngoài
nước về mô hình liên kết khu vực và ASEAN.
7. Đóng góp của luận án
- Luận án hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn quá trình hội nhập
châu Âu về đối ngoại và an ninh;
- Luận án phân tích, đánh giá những nhân tố tác động đến quá trình
triển khai Chính sách Đối ngoại và An ninh chung, ảnh hưởng đến mức độ và
xu hướng hội nhập trong lĩnh vực đối ngoại và an ninh ở châu Âu;
- Luận án dự báo xu hướng hội nhập khu vực và triển vọng thực thi
Chính sách Đối ngoại và An ninh chung trong tương lai, liên hệ thực tiễn với
ASEAN;
- Luận án là tài liệu tham khảo cho nghiên cứu và giảng dạy về Liên
minh châu Âu và lý luận quan hệ quốc tế về hội nhập.
8. Bố cục của luận án
Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ
lục, phần nội dung của Luận án gồm 3 chương:
15
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về hội nhập khu vực trong
lĩnh vực đối ngoại và an ninh ở châu Âu. Chương 1 đề cập đến các khái
niệm, lý thuyết cơ bản liên quan đến hội nhập khu vực, trình bày cơ sở thực
tiễn quá trình hội nhập về đối ngoại và an ninh ở châu Âu nhằm tạo cơ sở
phân tích, đánh giá trường hợp nghiên cứu điển hình là “Chính sách Đối ngoại
và An ninh chung châu Âu” ở chương 2.
Chương 2: Nghiên cứu hội nhập khu vực qua Chính sách Đối ngoại
và An ninh chung châu Âu. Chương 2 tập trung đánh giá quá trình thực thi
chính sách, phân tích các nhân tố tác động đến quá trình triển khai chính sách,
là cơ sở để dự báo triển vọng chính sách ở chương 3.
Chương 3: Triển vọng hội nhập về đối ngoại và an ninh của Liên
minh châu Âu đến năm 2025. Trên cơ sở lý luận, thực tiễn và thực trạng triển
khai chính sách ở chương 1 và 2, chương 3 đưa ra một số dự báo về xu hướng
hội nhập khu vực nói chung và triển vọng hợp tác giữa các quốc gia thành viên
EU về đối ngoại và an ninh, đặc biệt trong lĩnh vực an ninh quốc phòng.
16
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HỘI NHẬP KHU VỰC
TRONG LĨNH VỰC ĐỐI NGOẠI VÀ AN NINH Ở CHÂU ÂU
1.1. Cơ sở lý luận về hội nhập khu vực
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản về hội nhập khu vực
Hội nhập khu vực là một quá trình được hình thành từ sự hợp tác giữa
nhiều chủ thể quốc gia nhằm xây dựng một khu vực hòa bình, ổn định và
cùng nhau phát triển. Quá trình này được thúc đẩy bởi xu thế “khu vực hóa”.
Xu thế này cũng tạo nền tảng để “chủ nghĩa khu vực” hình thành, phát triển
và thúc đẩy quá trình thành lập các tổ chức liên kết khu vực như EU hay
ASEAN. Nắm rõ các khái niệm cơ bản liên quan đến quá trình hội nhập khu
vực giúp cho việc tiếp cận về mặt lý thuyết được chính xác hơn.
1.1.1.1. Khái niệm “khu vực”, “khu vực hóa”
“Khu vực”, theo từ điển tiếng Việt phổ thông, là “vùng, lĩnh vực có
giới hạn, phạm vi rõ ràng dựa trên những tính chất, đặc điểm chung nào đó”
[11, tr.456]. The New Encyclopedia Britannica định nghĩa “khu vực” là nơi
“có sự đồng nhất trong tiêu chí xác định được lựa chọn và có sự phân biệt
khác với những vùng hoặc khu vực kề cận theo những tiêu chí này” [169,
tr.304]. Trong khoa học địa lý, khái niệm “khu vực” bao hàm các yếu tố tự
nhiên như địa hình, sông ngòi, khí hậu, động thực vật. Khái niệm “khu vực”
trong khoa học xã hội được bổ sung thêm các yếu tố xã hội – nhân văn. Vì
vậy, khu vực cần được hiểu một cách toàn diện là một không gian địa lý – lịch
sử – xã hội xác định.
Ngày nay, trong xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa, các quốc gia, lãnh
thổ ở các khu vực địa lý khác nhau ngày càng gia tăng hợp tác toàn diện thì
định nghĩa truyền thống về “khu vực” không còn phù hợp. “Khu vực” trong
17
nghiên cứu chính trị quốc tế cần được xem là một thực thể địa lý – kinh tế –
chính trị – xã hội. Theo Fawcett, “khu vực” trong quan hệ quốc tế cần được
xác định dựa trên yếu tố tương đồng và sự tác động qua lại. Theo đó, “khu
vực” bao gồm các nhóm, quốc gia hay vùng lãnh thổ có các đặc điểm nhận
diện chung. Đồng thời, “khu vực” được xem là một đơn vị nhỏ hơn hệ thống
quốc tế nhưng lại lớn hơn bất kỳ một quốc gia hay vùng lãnh thổ riêng lẻ, có
thể được thể chế hoá hoặc không [89, tr.21-37]. Vì vậy, “khu vực” là môi
trường trực tiếp chứa đựng nhiều lợi ích quốc gia, là nơi diễn ra nhiều hiện
tượng quan trọng trong quan hệ quốc tế hiện nay như khu vực hoá, hội nhập
khu vực…
“Khu vực hoá” là quá trình các quốc gia cùng theo đuổi và chia sẻ các
giá trị chung, mục tiêu chung trong một khu vực địa lý cụ thể. Với khái niệm
“khu vực” như trên, “khu vực hóa” là một khái niệm mở, cần được xem xét ở
cấp độ toàn cầu và cấp độ quốc gia để phân tích, đánh giá các vấn đề ở cấp độ
khu vực. Nói cách khác, môi trường toàn cầu và bối cảnh quốc gia là hai yếu
tố quan trọng cần được xem xét khi nghiên cứu quá trình khu vực hóa. Ngoài
ra, quá trình khu vực hóa còn chịu tác động của nhiều yếu tố khác như quyết
sách của các tổ chức xuyên quốc gia, tác động của các chủ thể phi nhà nước
liên quan đến tài chính, thương mại… Thậm chí các vấn đề liên quan đến môi
trường, biến đổi khí hậu cũng có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm quá trình khu
vực hóa.
1.1.1.2. Định nghĩa “Chủ nghĩa khu vực” và “Hội nhập khu vực”
“Chủ nghĩa khu vực” và “hội nhập khu vực” là hai thuật ngữ được sử
dụng khi đề cập đến quá trình hợp tác giữa các chủ thể nhà nước/phi nhà nước
trong một không gian có nhiều đặc tính chung, cùng hướng tới những mục
tiêu chung nhằm đạt được hay củng cố cho lợi ích, mục tiêu riêng của từng
chủ thể. Tùy theo từng trường phái lý thuyết, hai thuật ngữ này có cách hiểu
và giải thích khác nhau, nhưng nhìn chung trong quan hệ quốc tế, đây đều là
18
những quá trình diễn ra trong một khu vực xác định và được hình thành từ sự
tương tác giữa các chủ thể nhà nước/phi nhà nước.
* Chủ nghĩa khu vực:
Dựa trên cách xác định “khu vực” trong quan hệ quốc tế là một đơn vị
lớn hơn bất kỳ quốc gia, vùng lãnh thổ riêng lẻ nào, là tập hợp nhóm các chủ
thể nhà nước/phi nhà nước có quan hệ hợp tác với nhau để đạt được các mục
tiêu chung, “chủ nghĩa khu vực” được định nghĩa là tập hợp chính sách của
các thành viên trong khu vực, bao gồm cả chủ thể nhà nước và phi nhà nước,
cùng hành động theo những chiến lược mang tính hợp tác và điều phối chung.
Vì thế, chủ nghĩa khu vực theo đuổi và khuyến khích sự phát triển của những
mục tiêu chung ở một hay nhiều khu vực [89, tr.23]. Do “khu vực” mang tính
mở, luôn thay đổi và phát triển, “chủ nghĩa khu vực” theo đó được coi là một
quá trình hợp nhất trên nhiều lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và
không chỉ dừng lại ở mức độ tạo ra các hiệp định thương mại tự do và các thể
chế an ninh. Khi nghiên cứu chủ nghĩa khu vực cần tính đến cả chủ thể nhà
nước và phi nhà nước, các tổ chức và nhóm xã hội [88, tr.8].
Trong quan hệ quốc tế hiện đại, yếu tố địa lý khi xác định khu vực ít
được chú trọng. “Khu vực” có thể được xác định dựa trên mục đích hình
thành. Khu vực được hình thành theo “chức năng” và “cấu trúc”. “Chức
năng” và “cấu trúc” có thể tạo ra những liên kết về mặt văn hóa, xã hội thông
qua thời kỳ hợp tác về kinh tế [153, tr.7]. Chủ nghĩa khu vực đồng thời được
xem xét trên hai phương diện: mối quan hệ trong nội bộ khu vực giữa các
nước thành viên và quan hệ giữa khu vực với phần còn lại của thế giới (khu
vực đặt trong hệ thống toàn cầu) [136, tr.30].
Nhìn chung, một “khu vực” được nhắc đến trên nhiều lĩnh vực, từ kinh
tế, văn hóa đến chính trị, xã hội mà không cần dựa trên yếu tố về địa lý. Các
quốc gia tập hợp trong một khu vực để dàn xếp các mối quan hệ, giảm bớt
xung đột, điều hòa những khác biệt, chung sống hòa bình, theo đuổi các lợi
19
ích chung và cùng chống lại những kè thù chung. Vì vậy, chủ nghĩa khu vực
tồn tại cảm giác về một khu vực hoặc là một tập hợp các chính sách được sử
dụng để tạo ra và đẩy mạnh cảm giác đó. Các chính sách này được điều chỉnh
nhằm giảm thiểu sự khác biệt và tăng cường những điểm chung giữa các
thành viên trong khu vực. Chủ nghĩa khu vực cần được nghiên cứu như một
chỉnh thể các ý tưởng, bản sắc và ý thức hệ nằm trong tổng thể một cấu trúc
khu vực [153, tr.7]. Học giả Bruce M. Russett từng đưa ra 5 đặc điểm của chủ
nghĩa khu vực gồm: (i) sự gần gũi về địa lý, (ii) đồng nhất về xã hội và văn
hoá, (iii) chia sẻ các giá trị, chuẩn mực chung về chính trị, (iv) có quan hệ phụ
thuộc lẫn nhau về mặt chính trị và (v) phụ thuộc về kinh tế [149]. Tuy nhiên,
trong bối cảnh hiện nay, các đặc điểm này đã không còn phù hợp. Theo những
đặc điểm trên thì Đông Á, Đông Nam Á hay châu Á – Thái Bình Dương khó có
thể xem là một khu vực, đồng nghĩa với đó chủ nghĩa khu vực không tồn tại ở
những nơi này. Một số học giả chỉ công nhận đặc điểm sự gần gũi về mặt địa lý
khi định nghĩa khu vực. Dựa trên luận điểm này, chủ nghĩa khu vực được xem
xét trên khía cạnh tăng cường hợp tác kinh tế, chính trị, quân sự giữa các quốc
gia gần gũi với nhau về mặt địa lý [126, tr.3-4]. Các quốc gia ở gần nhau có xu
hướng sẵn sàng cùng nhau tạo dựng mối quan hệ hợp tác ở cấp độ khu vực.
Làm như vậy, mối quan hệ giữa các nước sẽ được tăng cường và vị thế được
nâng lên so với quan hệ của từng nước riêng lẻ với các nước bên ngoài khu
vực. Cần khẳng định rằng sự gần gũi về mặt địa lý là một đặc điểm quan trọng,
có tính thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển chủ nghĩa khu vực nhưng
không phải là đặc điểm cơ bản duy nhất của khu vực và chủ nghĩa khu vực.
Khu vực là một nhóm các quốc gia cùng chia sẻ những đặc tính chung.
Những đặc tính chung này là điều kiện tiên quyết để định hình khu vực thay
vì dựa trên yếu tố địa lý [126]. Theo hướng tiếp cận này, các yếu tố tạo thành
chủ nghĩa khu vực là: (i) quá trình khu vực hoá, (ii) các đặc điểm nhận diện
khu vực, (iii) hợp tác trong nội bộ khu vực, (iv) các quốc gia thành viên thúc
20
đẩy quá trình hợp nhất và (v) sự gắn kết nội khối [112, tr. 39-45]. Các yếu tố
này cho thấy quá trình khu vực hoá trước hết được xây dựng dựa trên đặc tính
chung của khu vực. Đặc tính này sẽ thúc đẩy sự thống nhất trong nội khối
nhằm tăng cường tính đoàn kết giữa các quốc gia trong khu vực. Sự gắn kết
trong nội bộ khu vực sẽ tác động đến quan hệ giữa khu vực này với khu vực
khác hay các quốc gia bên ngoài, đồng thời cũng ảnh hưởng đến khả năng xây
dựng thể chế hay các chính sách chung cho khu vực [112].
Theo các đặc điểm cơ bản của chủ nghĩa khu vực như nêu trên, có thể
thấy rõ châu Âu là một khu vực hội tụ đủ các yếu tố lý tưởng để chủ nghĩa
khu vực phát triển. Gần gũi về địa lý, cùng chia sẻ những giá trị chung về xã
hội, văn hóa, chính trị, ràng buộc chặt chẽ về kinh tế là đòn bẩy để chủ nghĩa
khu vực ở châu Âu phát triển với sự ra đời và lớn mạnh của Liên minh châu
Âu (EU). Sự đồng nhất về xã hội, văn hóa, cùng trải qua những tổn thất trong
nội chiến, kiệt quệ về kinh tế khiến các nước trong khu vực dễ dàng đồng
thuận khi thực hiện các chính sách chung về kinh tế, tiền tệ, đặc biệt là các
chính sách an ninh, quốc phòng, lĩnh vực rất khó đạt được sự thống nhất giữa
các thành viên ở các khu vực khác.
Ngoài ra, một số yếu tố khác như năng lực quốc gia, vấn đề chủ quyền
và khả năng nắm quyền lãnh đạo của một quốc gia cũng cần được xem xét khi
phân tích chủ nghĩa khu vực. Lịch sử đã chứng minh năng lực của quốc gia
thành viên sẽ góp phần vào khả năng hình thành khu vực. Năng lực của các
quốc gia thành viên được coi là khả năng, nguồn lực, là yếu tố cốt lõi quyết
định sự sẵn sàng tham gia đóng góp, hợp tác trong nhóm/khu vực. Nếu một
quốc gia có đủ khả năng và sẵn sàng hợp tác, điều này cũng làm tăng cường
khả năng của cả nhóm/khu vực. Tuy nhiên, trong một khu vực, không thể
tránh khỏi có những thành viên không có hoặc không đủ năng lực và tự
nguyện hợp tác. “Năng lực” trở thành yếu tố cản trở quá trình hợp tác giữa
21
các quốc gia. Vấn đề này có thể thấy ở hầu hết các tổ chức khu vực hiện nay.
Lấy EU làm ví dụ, Cộng đồng than thép châu Âu (ECSC), nền móng đầu tiên
của EU ra đời với sáu quốc gia thành viên có năng lực quốc gia khá tương
đồng là Pháp, Tây Đức, Ý, Bỉ, Hà Lan và Luxembourg. Thành công của
ECSC thúc đẩy việc hình thành Cộng đồng Kinh tế châu Âu (EEC) và cuối
cùng được hợp nhất thành Cộng đồng châu Âu (EC). EC trải qua nhiều lần
mở rộng, đáng chú ý là trường hợp gia nhập của Hy Lạp. Ngay từ khi thành
lập, EEC đã rất chú trọng đến việc đánh giá năng lực kinh tế của các nước khi
xin gia nhập tổ chức. Hy Lạp mong muốn gia nhập EEC từ những năm 1950
nhưng do nền kinh tế còn kém phát triển so với các nước Tây Âu cùng với các
bất ổn chính trị (đảo chính quân sự năm 1967) nên quá trình đàm phán gia
nhập tổ chức của nước này kéo dài đến tận năm 1981, Hy Lạp trở thành thành
viên thứ 10 của EEC. Xét cho đến thời điểm hiện tại, cuộc khủng hoảng nợ
công châu Âu năm 2008 có xuất phát điểm từ Hy Lạp rồi lan đến Tây Ban
Nha, Bồ Đào Nha…, đều là những nước gặp phải nhiều khó khăn trong quá
trình gia nhập tổ chức khu vực do năng lực quốc gia liên quan đến điều hành
kinh tế, giải quyết các vấn đề chính trị - xã hội có nhiều điểm hạn chế. Ngoài
những khủng hoảng xuất phát từ trụ cột kinh tế, việc mở rộng EU đến 28
thành viên (năm 2013) cũng khiến EU phải đối mặt với nhiều vấn đề trong
việc triển khai các chính sách chung về đối ngoại, an ninh, quốc phòng.
Ngoài năng lực quốc gia, vấn đề chủ quyền cũng có tác động tương tự.
Chủ quyền quốc gia thường có ảnh hưởng kiềm chế với chủ nghĩa khu vực,
nhất là đối với các quốc gia nhạy cảm với vấn đề chủ quyền. Các nước lớn
thường muốn lợi dụng vấn đề này khi một nhóm ở cấp độ khu vực được thiết
lập nhằm phục vụ cho lợi ích các nước lớn, hướng tới mục tiêu nắm quyền
lãnh đạo ở khu vực. Kịch bản này xảy ra khi các cường quốc đóng vai trò
chính trong việc thiết lập các thể chế khu vực và đưa ra chương trình nghị sự,
22
các mục tiêu chung của khu vực thông qua các thể chế này [89, tr.34]. Tuy
nhiên, chủ nghĩa khu vực cũng có tác động tích cực, thúc đẩy quá trình hợp
tác giữa các quốc gia về kinh tế, an ninh, chính trị. Hơn thế nữa, hợp tác khu
vực cũng tăng cường công cuộc kiến thiết quốc gia và quá trình dân chủ hoá.
Thông qua việc xây dựng các chuẩn mực và giá trị chung, chủ nghĩa khu vực
có thể giúp kiềm chế và hợp thức hoá cách hành xử của các nước lớn và các
thể chế toàn cầu [89, tr.21].
* Hội nhập khu vực:
Theo các hướng tiếp cận trên, “chủ nghĩa khu vực” được sử dụng để nói
đến các hình thức, lĩnh vực hợp tác trong khu vực nói chung. Một khi chủ
nghĩa khu vực phát triển, nó sẽ thúc đẩy quá trình hội nhập khu vực diễn ra.
“Hội nhập khu vực” thường bắt đầu từ hợp tác trong lĩnh vực kinh tế. Hợp tác
trên các lĩnh vực khác diễn ra một cách tự nhiên trong sự vận động của quá
trình hội nhập khu vực. Các lý thuyết về hội nhập khu vực ra đời chủ yếu xuất
phát từ nhu cầu giải thích hiện tượng nhất thể hóa ở châu Âu. Vì vậy, khi xem
xét, phân tích, đánh giá hay đưa ra các dự báo về quá trình hội nhập châu Âu,
sử dụng các lý thuyết về hội nhập khu vực là thích hợp và có độ chính xác cao.
Hội nhập khu vực có đối tượng nghiên cứu là các tổ chức, thể chế chính
thức trong quan hệ quốc tế. Các chủ thể này hoạt động theo các nguyên tắc,
quy định cụ thể, dựa trên một quy trình hoạch định chính sách xác định,
hướng tới nhiều mục tiêu khác nhau, không chỉ dừng lại ở phát triển kinh tế
(như Cộng đồng Than thép châu Âu (ECSC), Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN (AFTA)…) mà còn nhằm đảm bảo an ninh, chính trị trong khu vực
(ví dụ như Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu (OSCE), Liên minh Tây Âu
(WEU), …). Các thể chế chính thức này được hình thành dựa trên cơ sở hợp
tác cùng có lợi nhưng yêu cầu đảm bảo toàn vẹn chủ quyền quốc gia. Cho đến
thời điểm hiện nay, Liên minh châu Âu là tổ chức khu vực duy nhất có các thể
23
chế siêu nhà nước được các quốc gia thành viên ủy quyền một phần chủ
quyền quốc gia để hoạt động vì các mục tiêu chung trong một số lĩnh vực nhất
định. Chính sách đối ngoại và an ninh chung (CFSP), Chính sách An ninh
Quốc phòng chung (CSDP) là những sản phẩm của quá trình hội nhập khu
vực ở châu Âu được hình thành nhằm đảm bảo nền an ninh chung của các
quốc gia thành viên.
Các quốc gia có chủ quyền trong nỗ lực hội nhập khu vực thường phải
cố gắng vượt qua hai vấn đề cơ bản nảy sinh giữa các quốc gia cùng tham gia
vào quá trình này, đó là sự phân chia lợi ích không đồng đều và tính cam kết
thiếu bền vững. Theo hệ thống pháp luật quốc tế truyền thống, các quốc gia
đều có chủ quyền và không nhất thiết phải công nhận các thể chế siêu nhà
nước. Trong một hệ thống thế giới vô chính phủ, các quốc gia có thể hợp tác
với nhau thông qua các hiệp định song phương hay đa phương nhưng một khi
bối cảnh thay đổi, các điều kiện khách quan, chủ quan thay đổi, nếu nhận thấy
không còn phù hợp, ảnh hưởng đến chủ quyền, lợi ích dân tộc thì các quốc gia
hoàn toàn có thể từ bỏ các cam kết hợp tác này. Chính vì thế, các cam kết hợp
tác giữa các chủ thể nhà nước thường không ổn định nếu dựa trên nhận thức
truyền thống về chủ quyền quốc gia. Vấn đề còn nảy sinh trong quá trình thực
thi các cam kết. Việc đạt được các thỏa thuận hợp tác thường gặp khó khăn do
lợi ích giữa các quốc gia là khác nhau, sự phân chia lợi ích trong quá trình
triển khai các cam kết cũng không thể công bằng.
Để giải quyết tình trạng này, sự ra đời các thể chế thuộc Cộng đồng
châu Âu (EC), tiếp đó là Liên minh châu Âu (EU) được coi là một giải pháp.
Ủy ban châu Âu, Hội đồng châu Âu và Tòa án châu Âu (ECJ) thành lập là
những thể chế siêu nhà nước đầu tiên ở châu Âu. Hoạt động thông qua hình
thức bỏ phiếu đa số là một dạng thực thi một phần chủ quyền của các nước
thành viên. Nói cách khác, các quốc gia thành viên chấp nhận hy sinh một
24
phần chủ quyền của mình, ủy quyền cho các thể chế siêu nhà nước được
thành lập để triển khai các hoạt động chung mang tầm khu vực nhằm đạt được
các lợi ích chung đề ra trong quá trình hội nhập. Ủy ban châu Âu là một thể
chế độc lập, đại diện cho quyền lợi chung của Liên minh. Các lợi ích quốc gia
được thể hiện, cân nhắc trong Hội đồng. Tuy nhiên, với nguyên tắc bỏ phiếu
đa số quá bán1 của Hội đồng, không một quốc gia thành viên nào có thể
chống lại quyết định của Hội đồng. Dù vậy, để đảm bảo tính liên kết bền vững
trong nội bộ, các quyết sách luôn dựa trên mẫu số chung thấp nhất giữa các quốc
gia thành viên. Ngược lại, vai trò của Ủy ban châu Âu là làm thế nào để nâng
cao lợi ích chung giữa các bên. Điều này có ý nghĩa quan trọng, mang tính thúc
đẩy quá trình hội nhập trong nội khối Liên minh. Sự ra đời của các thể chế khu
vực như vậy đã khiến EU trở thành một sản phẩm của quá trình hội nhập khu
vực khác biệt so với các tổ chức khu vực tương tự. Chưa có một thể chế độc lập
nào đại diện cho lợi ích chung của tổ chức như Ủy ban châu Âu, đồng nghĩa với
việc chưa có tổ chức khu vực nào mà các quốc gia thành viên chấp nhận tuân thủ
các quyết định theo đa số như ở Liên minh châu Âu. Nói cách khác, EU đã thiết
lập được một nền quản trị siêu nhà nước [97].
Chủ quyền quốc gia không phải là vấn đề duy nhất nảy sinh khi thực
hiện các hành động tập thể trong quá trình hội nhập khu vực. Tương tự như
cách tiếp cận của chủ nghĩa khu vực, năng lực quốc gia và khả năng lãnh đạo
của một số quốc gia cũng là yếu tố tạo thuận lợi hoặc gây cản trở cho tiến
trình hội nhập. Trong trường hợp EU là một số quốc gia thành viên đóng vai
trò đầu tàu như Pháp, Đức, Anh, Ý. Đóng góp của các nước này về nguồn lực
tài chính, con người cũng như tính tiên phong trong việc giải quyết các vấn đề
đối nội, đối ngoại của Liên minh là một động lực không nhỏ trên con đường
1 Tiếng Anh: qualified majority voting (QMV)
phát triển của tổ chức này. Tuy nhiên, việc sử dụng sự nổi trội về sức mạnh
25
kinh tế, chính trị của mình để tác động đến quá trình triển khai các hành động
chung đương nhiên sẽ tạo nên thế bất bình đẳng giữa các quốc gia thành viên.
Tuy nhiên, khi tham gia vào quá trình hội nhập, các quốc gia đánh giá tính
hiệu quả của việc tham gia vào quá trình hội nhập có đạt được tính toán lợi
ích của mình hay không chứ không phải dựa trên sự “bình đẳng” giữa các
nước thành viên trong một tổ chức khu vực.
Dựa trên hướng tiếp cận về hội nhập khu vực như trên, có thể khái quát
một số yếu tố cơ bản hình thành và thúc đẩy quá trình hội nhập khu vực như
sau: (i) chủ nghĩa khu vực phát triển; (ii) có các thể chế khu vực chính thức;
(iii) tính cam kết của các quốc gia thành viên; (iv) nhận thức của các nước về
hiệu quả của quá trình hội nhập với tính toán lợi ích quốc gia.
Nhìn chung, khi nghiên cứu quá trình hội nhập của một thể chế khu vực
đặc biệt như Liên minh châu Âu, tổ chức đã đạt đến cấp độ hội nhập sâu thì
quá trình hội nhập này được coi là tiến trình nhất thể hóa ở châu Âu. Từ một
đồng tiền chung, thị trường chung, một không gian tự do đi lại cho công dân
các quốc gia thành viên đến một chính sách đối ngoại, an ninh chung, EU
đang từng bước nỗ lực để trở thành một chủ thể hoàn chỉnh trong quan hệ
quốc tế, là một tổ chức siêu quốc gia đầu tiên có các công cụ thể chế đủ mạnh
để điều tiết các quan hệ nội khối và khẳng định vai trò trong nền chính trị
quốc tế hiện đại. Kết hợp các cách tiếp cận của chủ nghĩa khu vực và lý
thuyết về hội nhập khu vực sẽ giúp giải thích một cách thấu đáo quá trình phát
triển của tổ chức, đánh giá tính khả thi của các hành động chung và vai trò,
triển vọng của tổ chức đặt trong tổng thể sự phát triển của toàn khu vực.
1.1.2. Tiếp cận hội nhập khu vực qua một số lý thuyết
Quá trình hội nhập khu vực ở châu Âu là một hiện tượng độc đáo trong
quan hệ quốc tế. Cùng với xu hướng toàn cầu hóa, khu vực hóa, quá trình hội
nhập diễn ra sôi động khắp các châu lục, nhiều sản phẩm của quá trình này đã
ra đời, góp phần thúc đẩy sự phát triển của khu vực như Hiệp hội các quốc gia
26
Đông Nam Á (ASEAN), Liên minh châu Phi, Tổ chức hợp tác Vùng Vịnh…
Liên minh châu Âu là một trong số đó. Quá trình hội nhập ở các khu vực khác
thường diễn ra theo lối truyền thống, tức là hợp tác ở cấp độ khu vực giữa các
quốc gia có chủ quyền. Ở châu Âu, Liên minh châu Âu đã vượt lên trên cấp độ
hợp tác này, tạo ra những thể chế liên chính phủ đủ mạnh để điều tiết các hoạt
động của một tổ chức 28 nước thành viên với gần 512 triệu dân (tính đến năm
2017) [87]. Các quốc gia thành viên đã trao một phần chủ quyền cho các thể
chế chung, xây dựng EU trở thành một hệ thống chính trị có quyền đưa ra các
quyết định thay mặt cho toàn bộ các nước thành viên. Liên minh châu Âu trở
thành một trong những mô hình tiêu biểu của chủ nghĩa khu vực và quá trình
hội nhập khu vực. Các lý thuyết hội nhập hầu hết được phát triển để giải thích
đặc biệt cho trường hợp EU. Một số lý thuyết phổ biến được sử dụng trong quá
trình nghiên cứu sự vận động và phát triển của Liên minh nói riêng và khu vực
châu Âu nói chung là thuyết chức năng, thuyết thể chế, thuyết kiến tạo và
thuyết liên chính phủ.
1.1.2.1. Thuyết chức năng
Trong quan hệ quốc tế, thuyết chức năng tiên phong trong việc đưa ra
các lý thuyết về toàn cầu hóa, khu vực hóa. Không xem lợi ích tự thân của các
quốc gia là động lực phát triển như chủ nghĩa hiện thực, các nhà theo thuyết
chức năng tập trung vào các lợi ích chung mà các quốc gia cùng chia sẻ trong
tiến trình hội nhập toàn cầu. Thuyết chức năng xác định các mối quan hệ xã
hội có chức năng: (i) điều chỉnh các hành vi quan hệ của các thành viên trong
hệ thống; (ii) thu hút các nguồn lực bên trong hoặc bên ngoài; (iii) phân phối
nguồn lực cho các thành viên trong hệ thống; (iv) đáp ứng nhu cầu của các
thành viên trong hệ thống. Thuyết chức năng chủ trương các nước khi tham
gia vào hệ thống cần tuân thủ các quy tắc chung nhằm hạn chế xung đột.
Thuyết chức năng mới được các học giả Mỹ phát triển từ giữa những
năm 1950 nhằm lý giải cho các hình thức hợp tác mới trong khu vực xuất hiện
27
từ sau Thế chiến thứ hai. Với mục tiêu giải thích các quá trình hội nhập khu
vực trong quan hệ quốc tế nói chung nhưng thuyết chức năng mới lại có
hướng tiếp cận và phát triển trên nền tảng quan sát quá trình hội nhập kinh tế
và chính trị ở châu Âu, do vậy thuyết này phù hợp nhất để nghiên cứu các vấn
đề hội nhập của châu Âu hơn là các khu vực khác trên thế giới.
Thuyết chức năng mới chú trọng đến tiến trình hơn là kết quả của hiện
tượng hội nhập, tập trung nghiên cứu tác động của quá trình hợp tác và hội
nhập đến các vấn đề khác. Theo thuyết này, các hoạt động hội nhập kinh tế
dẫn đến nhu cầu thành lập một cơ chế/tổ chức để kiểm soát, thúc đẩy và xúc
tiến các hoạt động hợp tác. Thông thường, các cơ chế được thiết lập thường
hợp tác chặt chẽ hơn ở cấp độ chính trị. Từ đây, chủ nghĩa khu vực được hình
thành, tiến trình hội nhập bắt đầu từ những lĩnh vực đơn giản, dễ hợp tác và
các bên có lợi ích chung lớn nhất. Thành quả đạt được từ những hợp tác sơ
khai ban đầu là tiền đề để các bên tham gia quá trình hội nhập tiến tới hợp tác
trong các lĩnh vực khác (có tính chất phức tạp hơn). Hiện tượng hợp tác từ
lĩnh vực này sang lĩnh vực khác được các học giả theo trường phái chức năng
gọi là hiện tượng “lan tỏa”2. Hiện tượng này được dùng để mô tả cơ chế phát
triển của tiến trình hội nhập khu vực [145, tr.59]. “Sự lan tỏa” chính là hiệu
ứng domino của quá trình hội nhập [44, tr.81]. Đây cũng là một trong những
luận điểm cơ bản và quan trọng nhất của thuyết chức năng mới.
Học giả Ernst B.Haas đưa ra khái niệm “lan tỏa chức năng”3. Theo
Haas, sự hợp tác có hiệu quả trong một lĩnh vực sẽ tạo áp lực để các nước
tham gia quá trình hội nhập tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực liên quan
khác. Ví dụ điển hình cho hiện tượng này là lịch sử phát triển của EU. Liên
minh bắt đầu hình thành với khởi nguồn là Cộng đồng Than thép châu Âu
(ECSC) ra đời xuất phát từ nhu cầu hồi phục kinh tế của các nước châu Âu 2 Tiếng Anh: spill-over 3 Tiếng Anh: functional spill-over
28
sau Thế chiến thứ hai. Dựa trên thành công trong hội nhập kinh tế, một loạt
các sản phẩm của tiến trình hội nhập về kinh tế, xã hội được thiết lập như sự
ra đời của Cộng đồng Năng lượng nguyên tử (Euratom) năm 1957, thiết lập
Thị trường chung4 (1993), khu vực tự do đi lại Schengen (1995), khu vực
đồng tiền chung Eurozone (1999)… Dưới góc độ của thuyết chức năng, ý
tưởng xây dựng thể chế/bộ máy hợp tác ở cấp độ khu vực hay quốc tế đều
nhằm đáp ứng nhu cầu về chức năng (quản lý) [126, tr.6].
Bên cạnh sự lan tỏa về chức năng còn có sự “lan tỏa về chính trị”5. Sự
lan tỏa trong chính trị diễn ra khi tầng lớp lãnh đạo các quốc gia hướng tới
việc dùng sức mạnh của các thể chế siêu nhà nước để giải quyết các vấn đề
phát triển ở trong nước. Từ đó, chính sách của các nước được xây dựng, điều
chỉnh theo hướng liên kết chặt chẽ với nhau. Các quốc gia thương lượng với
nhau, nhất trí các điều khoản và cách thức hợp tác, hỗ trợ nhau phát triển, đôi
bên cùng có lợi. Việc khai sinh một lá cờ chung, một đồng tiền chung mang
tính biểu tượng, thể hiện ý chí chính trị sâu sắc của các nhà lãnh đạo Liên
minh trong việc thúc đẩy quá trình hội nhập ở khu vực.
Theo thuyết chức năng, quá trình lan tỏa chính trị diễn ra tự nhiên, là hệ
quả từ việc các quốc gia trao quyền cho các thể chế siêu nhà nước với mục
tiêu chung là xây dựng một nền kinh tế vững mạnh, đạt được nhiều thành quả
trong phát triển xã hội, nâng cao đời sống cho người dân. Hội nhập là công cụ
để thực hiện các mục tiêu này [123, tr.117]. Theo chủ nghĩa chức năng mới,
sự hội nhập, liên kết trong từng lĩnh vực sẽ tự thân vận động dẫn tới sự hình
thành một thực thể chính trị mới, trong trường hợp của EU là các thể chế đặt
4 Thực chất, EU đã thành lập “Thị trường đơn nhất” (Single market), là một dạng khác của khu vực thương mại tự do nâng cao hơn. Sử dụng thuật ngữ “thị trường chung” là cách dùng thông dụng. 5 Tiếng Anh: political spill-over
tại đầu não của Liên minh tại Brussels.
29
Lan tỏa về mặt chính trị có thể diễn ra từ cấp độ cao như các chủ thể
siêu nhà nước (ví dụ: Ủy ban châu Âu, Hội đồng châu Âu…) cho đến cấp độ
thấp hơn như các nhóm lợi ích của các quốc gia thành viên. Hiệu ứng này tạo
ra những áp lực nhất định cho quá trình hội nhập. Các nhóm lợi ích có thể tạo
ra sự hợp tác giữa các nhóm cùng chung mục tiêu của các quốc gia thành viên
khác và với các tổ chức quốc tế hoạt động trong cùng lĩnh vực. Sự hợp tác
hiệu quả giữa các chủ thể sẽ tạo động lực để giới tinh hoa của nhóm này thấy
sự cần thiết phải thúc đẩy, tăng cường quá trình hợp tác thông qua việc vận
động chính sách đối với giới hoạch định chính sách. Các học giả theo thuyết
chức năng mới cho rằng sự hình thành ngày càng nhiều các nhóm lợi ích
xuyên quốc gia là hệ quả tất yếu khi các thể chế siêu nhà nước ra đời.
Thuyết chức năng mới đã giải thích một cách thuyết phục quá trình
phát triển của Cộng đồng Than thép châu Âu và Cộng đồng châu Âu đến
những năm 1960, nhưng các lập luận của thuyết này không giải thích được
hiện tượng bất hợp tác giữa một số nước, gián đoạn quá trình hội nhập ở châu
Âu trong khoảng thời gian nửa sau thập niên 1960. Sự kiện “khủng hoảng
chiếc ghế trống”6 năm 1965 khiến dự báo của các học giả theo thuyết chức
năng về sự tăng cường mạnh mẽ trong hội nhập chính trị ở khu vực không
còn chính xác. Chủ nghĩa chức năng dường như không dự đoán được hướng
phát triển và cuộc cách mạng trong điều chỉnh bộ máy và cách thức hoạt động
của Cộng đồng châu Âu [130, tr.476]. Lindberg là một trong những học giả
đầu tiên tuyên bố rằng quá trình hội nhập có thể là “nguyên nhân gây ra căng
thẳng giữa các quốc gia” [145, tr.64] do đã xâm phạm đến quyền hạn của
chính phủ các nước. Thuyết chức năng mới đã đánh giá thấp tầm quan trọng
của chủ nghĩa dân tộc khi các nước tham gia vào quá trình hội nhập khu vực. 6 “Khủng hoảng chiếc ghế trống” năm 1965 khi Pháp phản đối phương pháp bỏ phiếu đa số của Hội đồng châu Âu, đề nghị quyền phủ quyết (veto) phải được duy trì trong EC, nếu không Pháp sẽ rút khỏi Hội đồng. Tình trạng này được giải quyết khi các nước ký kết hiệp ước Luxembourg (Luxembourg Compromise) vào tháng 1/1966.
30
Thực tế tình trạng châu Âu những năm cuối thập niên 1960 đã chứng minh sự
thắng thế của chủ nghĩa quốc gia dân tộc, kìm hãm tốc độ phát triển của chủ
nghĩa khu vực và quá trình hội nhập ở châu lục này. Cố gắng giải thích cho
giai đoạn trì trệ ở châu Âu, các học giả theo trường phái chức năng mới đưa ra
khái niệm “lan tỏa ngược”7, nhằm chỉ hiện tượng các nước điều chỉnh lại cấp
độ và phạm vi trao quyền cho các thể chế khu vực, có thể quay trở lại tình
trạng khởi điểm của quá trình hội nhập [145, tr.65]. Quá trình hội nhập trong
lĩnh vực sản xuất than ở châu Âu là một ví dụ. Sau năm 1958, ngành sản xuất
than tạo ra lượng lớn giá trị thặng dư và bắt đầu xâm phạm một số nguyên tắc
đã được các nước thống nhất từ trước, ECSC dần ít quan tâm hơn đến lợi ích
của các quốc gia thành viên trong ngành công nghiệp than. Khi các nguyên
tắc chung không còn được tuân thủ thì các nước có xu hướng giải quyết các
vấn đề phát sinh một cách đơn phương.
Vì vậy, khi sử dụng thuyết chức năng để nghiên cứu quá trình hội nhập
khu vực cần lưu ý: (i) vai trò định hướng của giới lãnh đạo không mang tính
quyết định trong quá trình hội nhập mà chỉ có ảnh hưởng thúc đẩy hoặc kiềm
chế quá trình này; (ii) tiến trình hội nhập ở châu Âu cần được đặt trong tổng
thể sự vận động của thế giới chứ không chỉ giới hạn trong khu vực châu Âu;
(iii) yếu tố “nhà nước” và “sự hợp tác ở cấp độ khu vực” cần được nghiên
cứu, phân tích như những thể chế liên chính phủ.
1.1.2.2. Thuyết thể chế
Theo quan điểm của các học giả theo thuyết thể chế, lợi ích và quyền
lực quốc gia có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Các thể chế ra đời nhằm điều
hoà quyền lực và dung hòa lợi ích của các chủ thể. Vì vậy, các thể chế còn có
chức năng giải quyết tranh chấp giữa các thành viên. Tuy nhiên, một khu vực
7 Tiếng Anh: spill-back
không nhất thiết phải có các thể chế như vậy trước khi nó đạt đến trình độ hội
31
nhập khu vực sâu. Thay vào đó, hội nhập khu vực có thể được thể hiện qua sự
hợp tác về chính trị, ngoại giao, thương mại, trao đổi các quan điểm học thuật
hay hợp tác giữa các hiệp hội [135, tr.12].
Quá trình hội nhập châu Âu diễn ra sôi động với nhiều thể chế được
hình thành phục vụ cho yêu cầu hội nhập ở mức độ cao. Từ Cộng đồng Than
thép châu Âu (ECSC), Cộng đồng Năng lượng nguyên tử châu Âu (Euratom)
đến Cộng đồng kinh tế châu Âu (EEC), Cộng đồng châu Âu (EC) và nay là
Liên minh châu Âu (EU) với bộ máy lập pháp, hành pháp ngày càng hoàn
thiện. Thuyết thể chế đánh giá cao tính hiệu quả của quy trình lập pháp và
hành pháp của EU. Ủy ban và Tòa án châu Âu (ECJ) cùng tham gia vào quá
trình giám sát và thực thi chính sách. Ủy ban có nhiệm vụ báo cáo tình hình
triển khai chính sách của các thành viên. Thành viên nào không tuân theo thỏa
thuận sẽ đối mặt với án phạt của ECJ. Ngoài ra, các học giả theo thuyết thể
chế còn đề cao vai trò của các thể chế trong các cuộc thương lượng mang tính
cải cách, được thực hiện trong các cuộc hội đàm liên chính phủ như Định ước
chung châu Âu từ những năm 1980 cho đến Hiệp ước Lisbon năm 2009. Các
thể chế đóng vai trò chủ trì, định hướng để các cuộc thương lượng này đạt kết
quả tốt đẹp. Sở dĩ vai trò của các quốc gia không được thuyết thể chế coi
trọng trong các cuộc đàm phán quốc tế bởi các học giả theo thuyết này cho
rằng trong đàm phán đa phương, các bên thường gặp khó khăn trong việc đạt
được những lợi ích chung với chi phí thương lượng thấp (hạn chế tối đa ảnh
hưởng đến các mục tiêu, lợi ích chiến lược). Ngoài ra, quá trình đàm phán còn
bị hạn chế bởi các bên gặp khó khăn trong vấn đề hợp tác. Không đồng thuận
được trong cách thức hợp tác cũng khiến các bên khó đạt được thỏa thuận cho
dù có đạt được điểm chung về lợi ích [50, tr.18-19]. Các vấn đề gặp phải
trong quá trình đàm phán có thể được giải quyết khi có một bên trung gian
nhìn rõ được vấn đề các bên gặp phải, dàn xếp các khó khăn và giúp các bên
32
cùng đạt đến mẫu chung lợi ích. Các chi phí lợi ích đặt ra trên bàn đàm phán
thường cao hơn kỳ vọng nên hầu hết các nước tham gia đều buộc phải dựa
vào khả năng phân tích, tổng hợp chuyên môn của Ban Thư ký Hội đồng và
Ủy ban để đưa ra quyết định [50, tr.258]. Tuy nhiên, không phải lúc nào các
thể chế cũng có ảnh hưởng quyết định đến kết quả đàm phán trong các vấn đề
cải cách hay trong các cuộc hội đàm quốc tế. Còn nhiều nhân tố khác tác động
đến quá trình đàm phán như bối cảnh đàm phán hay chiến lược của các nhân
tố lãnh đạo.
Thuyết thể chế xem quá trình hội nhập khu vực là một hiện tượng diễn
ra tự nhiên, không chủ đích. Lịch sử luôn vận động và hội nhập khu vực là hệ
quả tất yếu của quá trình vận động đó. Các tổ chức khu vực giúp định hình
phản ứng của một quốc gia trong khu vực với những thách thức mới [99,
tr.936-957]. Thuyết thể chế cũng đề cập đến khoảng cách phát triển giữa các
quốc gia thành viên như một yếu tố tác động đến quá trình phát triển của các
thể chế khu vực. Sự khác biệt về năng lực giữa các thành viên là điều không
thể tránh khỏi. Khoảng cách phát triển giữa các nước rất khó thu hẹp và chính
khoảng cách này tạo điều kiện để các thể chế khu vực phát huy vai trò của
mình trong định hướng và triển khai chính sách kinh tế, xã hội trong khu vực.
Vấn đề các quốc gia gặp phải trong quá trình phát triển ngày càng phức tạp,
khó giải quyết bằng nỗ lực riêng lẻ. Nhu cầu về một thể chế/khuôn khổ pháp
lý đủ hiệu quả để dàn xếp những khác biệt về lợi ích, giải quyết các vấn đề
một cách ổn thỏa để các bên cùng đạt được mục tiêu chung xuất hiện. Để làm
được như vậy, thể chế này cần có nguồn lực và các công cụ triển khai chính
sách hiệu quả, không thể thụ động dựa vào các nguồn lực và công cụ của các
thành viên. Yêu cầu thực tiễn khiến các thể chế cần được trao quyền tự chủ
nhiều hơn. Các thể chế ngày càng được hoàn thiện, sử dụng nguồn lực và công
cụ để gia tăng “quyền lực” của mình, hạn chế dần sự kiểm soát của các quốc gia
33
thành viên. Về phần các thành viên, các quốc gia tham gia vào thể chế khu vực
hiểu rằng các thể chế này chỉ có thể phát huy chức năng khi được trao quyền tự
chủ trong việc giải quyết các vấn đề mang tầm khu vực và quốc tế ngày càng trở
nên phức tạp. Vì vậy, trong bối cảnh đó, các thể chế khu vực như Ủy ban, Nghị
viện hay Tòa án châu Âu luôn tìm cơ hội để gia tăng quyền hạn của mình. Chủ
nghĩa chức năng mới đồng thời nhấn mạnh vai trò của các chủ thể siêu quốc gia
này trong các thành công của hội nhập khu vực.
Các nhà thể chế học xã hội khi nghiên cứu hội nhập khu vực chú trọng
đến các yếu tố như các giá trị, ý tưởng và bản sắc. Định dạng bản sắc châu Âu có
thể được giải thích qua lăng kính của thuyết thể chế. Thể chế khu vực, theo
thuyết thể chế, không chỉ đơn thuần đưa ra các nguyên tắc, quy trình hay các luật
lệ chung mà nó còn đưa ra những mô hình nhận thức chung có tác động đến
nhận thức về bản sắc và mục tiêu ưu tiên của các thành viên. Các nhà thể chế
học cho rằng hệ thống biểu tượng, nhận thức, nền tảng văn hóa sẽ tạo nên khuôn
khổ định hướng hành động của con người [86, tr.947-949]. Trong trường hợp
này, sự gần gũi về mặt văn hóa, nhận thức tương đồng về các giá trị xã hội giúp
các nước châu Âu xích lại gần nhau hơn. Sự gặp nhau về mặt lợi ích và các mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội làm nền tảng cho sự ra đời của các khuôn khổ hợp
tác khu vực, sau này được thể chế hoá, dần hình thành hệ thống biểu tượng
khẳng định bản sắc như một lá cờ chung, đồng tiền chung, khu vực tự do đi lại
chung trong châu Âu… Theo lý luận của thuyết thể chế, việc hình thành một
chính sách chung về đối ngoại, an ninh là điều tất yếu, nằm trong định hướng
xây dựng bản sắc và các giá trị chung.
1.1.2.3. Thuyết kiến tạo
Thuyết kiến tạo mang lại cách tiếp cận khác đối với một số chủ đề trọng
tâm của các lý thuyết quan hệ quốc tế như ý nghĩa của vô chính phủ và cân
bằng quyền lực, mối quan hệ giữa bản sắc và lợi ích quốc gia, phân tích khái
34
niệm quyền lực, và triển vọng thay đổi của chính trị quốc tế [111, tr. 171-
200]. Theo thuyết kiến tạo, văn hóa, ý tưởng, hệ tư tưởng và sự “xã hội hóa”
mang ý nghĩa quan trọng. Thuyết kiến tạo tập trung vào nội dung và xuất phát
điểm của lợi ích quốc gia và cơ cấu xã hội của nền chính trị thế giới [40, tr.
324-348]. Nguyên thủ quốc gia là nhân tố then chốt trong quan hệ quốc tế.
Tuy nhiên, các giá trị văn hóa và bản sắc gắn liền trong hoàn cảnh lịch sử có
thể tác động hoặc quyết định những ưu tiên chính sách của họ.
Thuyết kiến tạo chủ yếu nhấn mạnh vào các chuẩn mực và đặc tính chung
để giải thích hành vi của các quốc gia. Từ quan điểm này, hợp tác giữa các
quốc gia trong khu vực được coi là một quá trình xây dựng các chuẩn mực và
giá trị, dựa theo đó cách hành xử của các quốc gia cũng được điều chỉnh cho
phù hợp. Vì thế, các học giả theo thuyết kiến tạo coi chủ nghĩa khu vực là một
quá trình lấy việc xây dựng các chuẩn mực và giá trị làm xuất phát điểm, cơ sở
cho sự hợp tác và khu vực hoá. Các học giả theo thuyết chức năng mới và liên
chính phủ đều quan tâm đến yếu tố định vị bản sắc ở cấp độ khu vực, giải thích
sự chuyển giao giữa bản sắc quốc gia đến việc định hình một bản sắc liên quốc
gia, trong trường hợp Liên minh châu Âu là xây dựng “bản sắc châu Âu”.
Thuyết kiến tạo cho rằng thực trạng xã hội được xây dựng từ những
tranh luận về giá trị và bản sắc, ý thức hệ. Thay vì coi nhà nước là mặc nhiên
và giả định rằng nhà nước chỉ tìm cách để tồn tại, các học giả kiến tạo coi lợi
ích và bản sắc của nhà nước là sản phẩm mà những tiến trình lịch sử cụ thể có
thể dễ dàng tạo ra. Các học giả này tập trung sự chú ý vào những diễn biến
chính trong tư tưởng của xã hội bởi các diễn biến đó phản ánh và làm sâu sắc
thêm niềm tin và lợi ích, và tạo ra những nguyên tắc tiêu chuẩn định vị hành
vi được chấp nhận. Vấn đề bản sắc là quan điểm nền tảng cho hệ thống luận
điểm của thuyết kiến tạo. Theo các nhà lý luận kiến tạo, vấn đề chính của thế
giới sau Chiến tranh Lạnh là việc các nhóm khác nhau nhìn nhận bản sắc và
35
lợi ích của mình như thế nào. Mặc dù quyền lực vẫn còn thích hợp, thuyết
kiến tạo nhấn mạnh tới quá trình ý tưởng được hình thành và bản sắc được
xây dựng như thế nào, chúng phát triển ra sao, và tác động thế nào đến cách
quốc gia hiểu và phản ứng đối với hoàn cảnh của mình. Áp dụng hướng tiếp
cận này vào việc phân tích, đánh giá tính hiệu quả của tiến trình hội nhập
châu Âu trong lĩnh vực đối ngoại và an ninh, cụ thể là quá trình triển khai
CFSP, có điểm khác so với thuyết chức năng mới và thuyết liên chính phủ.
Theo hệ thống luận điểm của hai thuyết này, CFSP thể hiện sự hợp tác kém
hiệu quả giữa các thành viên EU do sự khác biệt về quan điểm và sự va chạm
về lợi ích. Thuyết kiến tạo không tập trung vào kết quả mà đánh giá quá trình
hình thành hệ thống các nguyên tắc, luật lệ chung, tiến trình hội nhập chuyển
thể thành các giá trị định dạng chung. Vì vậy, sự hình thành và phát triển của
một chính sách đối ngoại và an ninh chung của các quốc gia Liên minh châu
Âu cần được hiểu là sự tồn tại của các giá trị mang tính biểu tượng, thể hiện ý
chí hội nhập của châu Âu [117].
Khi lý giải các hiện tượng quan hệ quốc tế theo thuyết kiến tạo, các học
giả tập trung vào các giá trị, chuẩn mực và bản sắc. Thuyết kiến tạo thường
nhấn mạnh vào vai trò của “quá trình kiến thiết xã hội” của khu vực, hay nói
cách khác là quá trình khu vực hoá về văn hoá – xã hội. Sự tương tác giữa các
thành viên diễn ra rất đa dạng trong quá trình này, có thể thông qua các
chương trình trao đổi sinh viên, thúc đẩy giao lưu văn hoá thông qua phim
ảnh, âm nhạc, thời trang, quảng bá du lịch… Những tác động, ảnh hưởng qua
lại trên nhiều lĩnh vực như vậy dần tạo ra sự tương đồng nhất định ở cấp độ
khu vực. Trên cơ sở sự tương đồng về các giá trị và bản sắc, quá trình hội
nhập khu vực được thúc đẩy. Chính sách Đối ngoại và An ninh chung (CFSP)
của EU là một biểu hiện của quá trình này. Thuyết kiến tạo cho rằng CFSP là
sản phẩm được định hình từ quá trình xây dựng các giá trị tương đồng về văn
36
hoá, xã hội và các giá trị an ninh chung. CFSP khẳng định “bản sắc chung”
của châu Âu. Các học giả của thuyết kiến tạo cho rằng CFSP là sự hội tụ của
chính sách đối ngoại của các quốc gia thành viên và giúp tăng cường cảm
nhận về một bản sắc chung mang tính quốc tế [178, tr.576-595].
1.1.2.4. Thuyết liên chính phủ
Thuyết liên chính phủ ra đời từ năm 1966 dựa trên quan sát thực tiễn
hiện tượng liên kết, hội nhập khu vực, đặc biệt là tiến trình nhất thể hóa châu
Âu. Thuyết liên chính phủ dựa trên nền tảng cơ bản của chủ nghĩa hiện thực
mới, coi nhà nước là chủ thể trung tâm trong nền chính trị quốc tế và có vai
trò chi phối tiến trình hội nhập khu vực. Stanley Hoffmann, một trong những
học giả tiêu biểu của thuyết này cho rằng nhà nước vẫn đóng vai trò trung tâm
trong quá trình hội nhập. Từ phản ứng của Pháp năm 1965 và của các thành
viên mới như Anh, Ai Len, Đan Mạch năm 1973 đã thể hiện sự hạn chế việc
trao quyền cho thể chế của Cộng đồng, các quyết định của EC cũng phản ánh
rõ ý chí của từng quốc gia thành viên. Haas và nhiều học giả sau đó như Paul
Taylor và William Wallace cũng tái khẳng định vai trò của chủ thể nhà nước
trong lý thuyết hội nhập khu vực.
Dựa trên quan sát diễn biến quá trình hội nhập khu vực châu Âu những
năm 1990, Andrew Moravcsik, một học giả có nhiều đóng góp cho sự phát
triển của thuyết liên chính phủ, đã đưa ra hướng tiếp cận mới khi kết hợp giữa
các luận điểm của chủ nghĩa tự do để giải thích quá trình hình thành các thứ tự
ưu tiên của các quốc gia thành viên và thuyết liên chính phủ để lý giải con
đường đàm phán ở cấp độ liên chính phủ để đi đến đồng thuận cuối cùng. Ông
cho rằng việc xây dựng thể chế dựa trên chia sẻ một phần chủ quyền của các
quốc gia thành viên là cách để đạt được “các cam kết đáng tin cậy”. Trong các
luận điểm của mình, Moravcsik mô tả sự hình thành các quyết sách của một thể
chế khu vực như một quá trình thương lượng lớn gồm ba giai đoạn: (i) các
37
quốc gia thành viên đưa ra các thứ tự ưu tiên, (ii) thương lượng/thỏa thuận ở
cấp độ liên chính phủ và (iii) sự lựa chọn của thể chế.
Giai đoạn thứ nhất là giai đoạn các quốc gia thành viên hình thành thứ
tự ưu tiên các lợi ích/mục tiêu đặt trong tổng thể chiến lược phát triển quốc
gia. Việc lựa chọn các mục tiêu này do giới lãnh đạo của từng quốc gia thành
viên quyết định, được thực hiện nội bộ, không có sự tham gia của thể chế
chung vào quy trình này. Tuy nhiên, các thể chế khu vực đưa ra các mục tiêu
phát triển chung mang tính định hướng để các quốc gia xác định các lợi
ích/mục tiêu riêng của mình. Như trường hợp EU, ở giai đoạn đầu phát triển,
EC/EU ưu tiên phát triển kinh tế. Các quốc gia thành viên cũng xác định các
mục tiêu phát triển kinh tế là mục tiêu ưu tiên khi tham gia đàm phán ở cấp
khu vực.
Giai đoạn thứ hai là giai đoạn thương lượng ở cấp độ liên chính phủ.
Các quốc gia cùng tham gia vào quá trình thương lượng với vai trò điều phối
của thể chế khu vực. Trong trường hợp EU, vai trò này thuộc về Ủy ban châu
Âu. Câu hỏi đặt ra là ở giai đoạn này, nhân tố nào có vai trò ảnh hưởng đến
kết quả của quá trình thương lượng? Vai trò của chủ thể quốc gia hay thể chế
siêu nhà nước? Theo Moravcsik, vai trò của của chủ thể quốc gia thường
thắng thế. Rõ ràng trong một tổ chức khu vực, năng lực của các thành viên
không đồng đều. Các nước lớn như Đức, Pháp, Anh… luôn có nhiều thứ đặt
trên cán cân đàm phán hơn. Vì vậy, trong hoàn cảnh này, các quyết định của
EU được đưa ra dựa trên ý chí của các quốc gia thành viên hơn là của Ủy ban.
Theo Moravcsik, ba nhân tố tác động đến kết quả của quá trình thương
lượng giữa các quốc gia thành viên gồm: (i) giá trị của các chính sách thay thế
đơn phương mà các quốc gia có thể dựa vào tình hình thực tế để sử dụng
quyền phủ quyết, quốc gia nào mong muốn hợp tác nhiều hơn thì sẽ nhượng
bộ hơn để đạt được lợi ích; (ii) giá trị của các liên minh thay thế, tùy thuộc
38
vào các nguy cơ để có thể rút lui, nguy cơ rút lui sẽ tạo áp lực lớn đối với các
quốc gia có lập trường cứng rắn; (iii) cơ hội đưa ra các “gói thỏa thuận”.
Moravcsik cho rằng trở ngại lớn khi đưa ra quyết định là cân nhắc đến việc
triển khai cam kết trong nước, nhượng bộ thường tổn hại đến lợi ích, vì vậy
các “gói thỏa thuận” được đưa ra là nỗ lực hạn chế những tổn thất [131, tr.63].
Với những lập luận như trên, có thể thấy rõ nguy cơ rút lui hay quyền phủ
quyết của quốc gia có tác động lớn đến quá trình thương lượng. Tuy nhiên, đó
là với những thỏa thuận lớn, những quyết sách mang tính lịch sử như các
Hiệp ước, Thỏa thuận chung về các khuôn khổ hợp tác, còn đối với những
chính sách liên quan đến quá trình hợp tác, vận hành nội bộ thì nhân tố kết nối
các thành viên, ở đây là các thể chế của tổ chức như Ủy ban châu Âu hay Tòa
án châu Âu (ECJ) đóng vai trò quan trọng hơn.
Cuối cùng, kết thúc quá trình thương lượng, các thể chế sẽ đưa ra quyết
định của mình. Kết quả được thông qua bằng hình thức bỏ phiếu nhất trí giữa
các thành viên hoặc các thành viên trao quyền cho các thể chế liên chính phủ
như Ủy ban hoặc Toà án châu Âu để tăng cường tính cam kết thực thi của các
thành viên khi tham gia vào thể chế khu vực. Thực tế, các quốc gia khi hợp tác
trực tiếp với nhau thường đối mặt với tình trạng một hay các bên không tuân
thủ theo thỏa thuận chung. Vì vậy, các nước quyết định trao một phần chủ
quyền của mình cho các tổ chức quốc tế, cho phép các tổ chức này điều phối
việc thực thi thỏa thuận chung, ràng buộc các bên tham gia bằng những “cam
kết đáng tin cậy” trong một khuôn khổ pháp lý là các hiệp ước quốc tế như
Hiệp ước châu Âu (TEU), Hiệp ước quy định các chức năng của EU (TFEU).
Quan sát diễn biến quá trình nhất thể hóa châu Âu, Moravcsik cho rằng
những thỏa thuận mang tính lịch sử như Hiệp ước Rome (1957) hay Hiệp ước
Maastricht (1992) không phải được tạo ra bởi sự lựa chọn hay quyết định của
các thể chế siêu nhà nước hay được hình thành một cách tự nhiên bởi sự “lan
39
tỏa” của quá trình nhất thể hóa diễn ra từ trước đó như lập luận của thuyết chức
năng mới mà nó là sự hội tụ một cách từ từ lợi ích chung của các quốc gia thành
viên lớn, có tầm ảnh hưởng nhất. Quá trình thương lượng các thỏa ước chủ yếu
xoay quanh những quốc gia thành viên này. Các thể chế khu vực được trao
quyền rất hạn chế, đến cuối cùng cũng tuân theo những gì các quốc gia thành
viên quyền lực thỏa thuận với nhau. Nói cách khác, nhân tố chính thúc đẩy quá
trình hội nhập châu Âu là ý chí các nước lớn trong khu vực như Đức, Pháp, Anh,
Ý… Kết quả quá trình thương lượng liên chính phủ thường phản ánh nhiều lợi
ích/mục tiêu ưu tiên của các nước này.
1.2. Cơ sở thực tiễn về hội nhập khu vực ở châu Âu
1.2.1. Lịch sử hội nhập khu vực ở châu Âu trước chiến tranh Lạnh
Do bối cảnh lịch sử, chủ nghĩa khu vực ở châu Âu phát triển tương đối
sớm hơn các châu lục khác, bắt nguồn từ lĩnh vực kinh tế, xã hội “lan toả”
sang các lĩnh vực chính trị, an ninh, quốc phòng.
Quá trình hội nhập ở khu vực bắt đầu từ cuối thập niên 1940. Liên
minh châu Âu ngày nay thường được gắn liền với xuất phát điểm là Kế hoạch Monnet8. Ngoại trưởng Pháp Robert Schuman, dựa trên Kế hoạch Monnet đã
kêu gọi đặt hai mặt hàng than và thép dưới sự quản lý của một cơ quan chung
với sự tham gia điều hành của Pháp và Đức. Công nghiệp than, thép là hai
mặt hàng chiến lược quan trọng, gắn chặt với công nghiệp chế tạo vũ khí và
những ngành công nghiệp nặng quan trọng khác thời điểm đó. Một cơ quan
quản lý chung được tạo ra bên cạnh việc đảm bảo ổn định cho thị trường than
thép còn nhằm mục đích kéo Pháp và Đức, hai cường quốc trong khu vực vốn
có những hiềm khích lịch sử hàng trăm năm qua xích lại gần nhau hơn.
“Châu Âu sẽ không chỉ thực hiện một lần và sẽ không chỉ thực hiện trong
8 Jean Monnet là cố vấn của Ngoại trưởng Pháp Robert Schuman, người chắp bút cho Bản tuyên bố chung Pháp – Đức, cơ sở hình thành Cộng đồng than thép châu Âu năm 1951.
phạm vi nhỏ (…) Việc xây dựng châu Âu sẽ được thực hiện một cách cụ thể để
40
tạo ra trước tiên là sự đoàn kết trong việc này. Với mục tiêu đó, chính phủ
Pháp đề nghị ngay lập tức đặt toàn bộ việc sản xuất than thép Pháp - Đức
dưới sự quản lý của một cơ quan cao cấp có thẩm quyền chung, trong một tổ
chức rộng và hoan nghênh sự tham gia của tất cả các nước châu Âu (…)
Chiến tranh Pháp - Đức sẽ không chỉ là không tưởng mà về vật chất cũng là
không thể xảy ra” [188]. Tuyên bố châu Âu 09/5/1950 được cụ thể hóa bằng
Hiệp ước thành lập Cộng đồng Than thép châu Âu (ECSC Treaty) được ký
kết vào 18/4/1951 bởi 6 thành viên sáng lập: Pháp, Đức, Bỉ, Luxembourg, Hà
Lan, Ý. Tư tưởng đoàn kết châu Âu xuất hiện. Châu Âu cần nắm trong tay sứ
mệnh của mình, hạn chế sự phụ thuộc vào những thế lực bên ngoài (ở đây
được hiểu là Mỹ, nước đã có sự can thiệp ngày càng sâu vào châu Âu thông
qua Kế hoạch Marshall).
Từ thành công của ECSC, các sáng lập viên mong muốn đưa mức độ
hợp tác tiến xa hơn trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, tiến tới một “thị trường
chung” cho phép sự di chuyển tự do của con người, hàng hóa, dịch vụ và vốn.
Cộng đồng Kinh tế châu Âu (EEC) và Cộng đồng Năng lượng nguyên tử châu
Âu (Euratom) ra đời theo Hiệp ước Rome (1957), khẳng định tính đúng đắn
của cách thức kiến tạo châu Âu theo định hướng hợp tác ở cấp độ khu vực mở
rộng trên nhiều lĩnh vực: “Việc tạo ra một sự đoàn kết như thế trong lĩnh vực
kinh tế phải dẫn đến những tương tác giữa các quốc gia châu Âu - những
quốc gia muốn một sự can thiệp về chính trị trong một thời gian nhất định”
[59]. Tuy nhiên, kế hoạch xây dựng châu Âu giai đoạn đầu phụ thuộc trực tiếp
vào xung đột Đông – Tây và đối đầu Xô – Mỹ trên phạm vi toàn cầu. Kế
hoạch này đồng thời bị hạn chế về mặt địa lý và địa chính trị, chỉ diễn ra trong
phần phía Tây của lục địa, khu vực tiểu châu Âu. Bên cạnh đó, cuộc khủng
hoảng dầu lửa và kinh tế 1973 đã quyết định thứ tự ưu tiên các mặt hợp tác
giữa các nước châu Âu, khuôn khổ hợp tác kinh tế và thương mại đã che lấp
khuôn khổ hợp tác ngoại giao chiến lược.
41
Tuy nhiên, khía cạnh hợp tác chính trị - quân sự không phải không
được đề cập đến. Hợp tác chính trị ở cấp độ khu vực manh nha từ cuối thập
kỷ 1940. Một điểm đáng lưu ý là cho đến thời điểm này, Đức vẫn bị coi là
mối đe doạ đối với an ninh khu vực. Năm 1948, năm nước gồm Anh, Pháp,
Bỉ, Hà Lan, Luxembourg đã có cuộc hội đàm tại Brussels bàn về quan hệ hợp
tác tương hỗ trước nguy cơ “Đức”. Hiệp ước Hợp tác về kinh tế, xã hội, văn hoá và phòng vệ tập thể (Hiệp ước Brussels)9 được ký kết sau đó. Bên cạnh
những mục tiêu về đảm bảo nhân quyền, các nguyên tắc dân chủ và tự do
chính trị, hợp tác với nỗ lực xây dựng Tây Âu thành cơ sở cho sự phục hồi
kinh tế của toàn châu Âu, Hiệp ước còn nhằm mục tiêu “…đưa ra những
bước đi cần thiết trong trường hợp nước Đức tái lập chính sách hiếu chiến”
[172, Lời mở đầu]. Điều 4 Hiệp ước nêu rõ: “Nếu một trong các bên trở
thành mục tiêu tấn công ở châu Âu, các bên còn lại sẽ hỗ trợ bằng toàn lực
quân sự và các hình thức cứu trợ khác, phù hợp với điều khoản quy định tài
điều 51 Hiến chương Liên hiệp quốc” [172, Điều 4]. Các bên đồng thời nhất
trí thành lập Hội đồng tư vấn, được triệu tập bởi yêu cầu của các nước tham
gia Hiệp ước nhằm “…tư vấn các bên trong bất kỳ tình huống nào có thể hình
thành nguy cơ đe doạ nền hoà bình, trong bất kỳ lĩnh vực nào nguy cơ này
phát sinh” [172, Điều 7]. Thực hiện Hiệp ước, một Hội đồng tư vấn gồm năm Bộ trưởng ngoại giao và Uỷ ban Quốc phòng phía Tây10 gồm năm Bộ trưởng
Quốc phòng của năm nước tham gia được thành lập. Chỉ sáu tháng sau, Tổ chức Liên minh quốc phòng phía Tây (WUDO)11 được thành lập (9/1948),
ngay sau sự kiện Liên Xô phong toả toàn bộ biên giới đường bộ với Tây Berlin
[150, tr.18]. Việc Hiệp ước Brussels có hiệu lực ngay lập tức đã cho nước Mỹ
9 Hiệp ước Hợp tác về kinh tế, xã hội, văn hoá và phòng vệ tập thể (Treaty of Economic, Social and Cultural Collaboration and Collective Self-Defence), còn gọi là Hiệp ước Brussels được ký kết ngày 17/3/1948, có hiệu lực từ 25/8/1948. Nguồn: Britannica Encyclopedia, https://www.britannica.com/event/Brussels-Treaty- European-history-1948 10 Tiếng Anh: Western Defense Committee 11 Tiếng Anh: Western Union Defense Organization
thấy quyết tâm và khả năng tổ chức phòng vệ của Tây Âu, khiến Mỹ nhanh
42
chóng mở rộng can dự ở châu Âu, đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo
an ninh Tây Âu. Trước khi WUDO được triển khai, tổ chức này được chuyển
giao vào khuôn khổ Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NAT), trở thành một phần
của Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) ra đời năm 1952. Hiệp
ước Brussels được ký kết đã tạo cơ sở, động lực cho các hoạt động hợp tác về
chính trị, quân sự ở khu vực về sau. Liên minh Tây Âu (WEU) thành lập năm 1954 cũng nằm trong khuôn khổ Hiệp ước này12.
Xung đột Bắc Nam trên bán đảo Triều Tiên tháng 6/1950 làm dấy lên
mối lo ngại kịch bản tương tự xảy ra với Đông Đức và Tây Đức. Cuộc tranh
luận về việc tái vũ trang Tây Đức và sự cần thiết thành lập Quân đội châu Âu
diễn ra sôi nổi trong Quốc hội Anh và Pháp, hai quốc gia đi đầu trong thúc
đẩy hợp tác khu vực. Không nhất trí về việc tái vũ trang Tây Đức, Thủ tướng
Anh Churchill trong một phát biểu trước Quốc hội nêu quan điểm về vấn đề
phòng thủ châu Âu: “… Trong thời gian ngắn nhất có thể, cần thiết lập một
rào chắn phòng ngự thực sự ở châu Âu. Anh và Mỹ phải triển khai lực lượng
lớn ở châu lục. Tôi bày tỏ sự phản đối với nước Đức. Pháp cần hồi sinh lực
lượng quân sự nổi tiếng của mình… Chúng ta nên có một hành động thực tế
và mang tính xây dựng bằng cách tuyên bố thành lập ngay lập tức một quân
đoàn châu Âu với một tư lệnh thống nhất… hướng tới sự kiểm soát đúng đắn
đối với nền dân chủ châu Âu, hợp tác một cách toàn diện với Mỹ và Canada”
[150, tr. 20]. Khác với Anh, Pháp cho rằng Tây Đức có quyền đóng góp vào
nền an ninh khu vực và “… vì một nền quốc phòng chung, Quân đội châu Âu
sẽ gắn kết hơn nữa các thể chế chính trị của một châu Âu thống nhất” [176,
12 Liên minh Tây Âu (WEU) được triển khai theo Hiệp ước Brussels sửa đổi, hoạt động từ năm 1955 đến năm 2011, có sự tham gia của 10 nước, gồm: Bỉ, Pháp, Đức, Hy Lạp, Ý, Luxembourg, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và Anh. WEU hợp tác chặt chẽ với NATO trong đảm bảo an ninh khu vực và trở thành cơ chế phòng vệ ưu tiên của EU từ những năm 1990.
tr. 57-58].
43
Với thành công bước đầu của Cộng đồng Than thép châu Âu (ECSC),
Pháp đề nghị tiến hành phương pháp tương tự trong lĩnh vực an ninh quốc
phòng, đặt quân đội châu Âu trong một tổ chức duy nhất, có một Cao Uỷ duy
nhất, thống nhất về trang thiết bị và tài chính, đặt dưới sự kiểm soát của một
thể chế quyền lực siêu nhà nước duy nhất, các quân đoàn Đức được sát nhập
từ từ vào cấu trúc này [150, tr.21]. Đề xuất của Pháp được nhắc đến với tên
gọi Kế hoạch Pléven được đưa ra thảo luận với các bên tham gia, gồm: Bỉ,
Cộng hoà Liên bang Đức, Pháp, Italia, Luxembourg và Hà Lan (Anh, Đan
Mạch, Bồ Đào Nha tham dự với tư cách quan sát viên). Hiệp ước Phòng thủ
châu Âu được ký kết vào 27/5/1952 [188] bởi sáu quốc gia thành viên ECSC.
Theo Hiệp ước này, Cộng đồng Phòng thủ châu Âu (EDC) được thành
lập, được coi là một tổ chức siêu nhà nước châu Âu, … siêu nhà nước về đặc
tính, có các thể chế chung, lực lượng vũ trang và ngân sách chung [150, tr.
22]. Hiệp ước đồng thời quy định các điều khoản cụ thể về nguyên tắc đảm
bảo an ninh khu vực và các thoả thuận hợp tác giữa EDC với NATO, Anh và
Mỹ. EDC được thể chế hoá, thành lập Hội đồng gồm đại diện của chính phủ
các thành viên nhằm hài hoà hoạt động của Uỷ ban thành viên13. Phiếu bầu
của Hội đồng phản ánh tỷ lệ đóng góp quân của các thành viên. Quân lực
được đóng góp từ các quốc gia thành viên, được tuyển chọn, huy động và
phân bổ bởi Uỷ ban thành viên. Hiệp ước có hiệu lực 50 năm từ ngày ký,
trong phạm vi lãnh thổ các quốc gia thành viên, nguồn lực có thể được sử
dụng để phòng vệ lãnh thổ châu Âu của các quốc gia khác ngoài EDC nhưng
là thành viên NATO. Như vậy, EDC đại diện cho lực lượng quân đội châu
Âu, nỗ lực định dạng nền phòng thủ châu Âu nhưng vẫn nằm trong phạm vi
13 Tiếng Anh: Board of Commissioners
của NATO.
44
Do còn nhiều quan điểm bất đồng giữa các thành viên về vấn đề tái vũ
trang nước Đức, Hiệp ước Phòng thủ châu Âu gặp nhiều khó khăn khi đưa ra
thông qua ở quốc hội các nước. Pháp tiếp tục lo ngại về mối nguy cơ “Đức”,
nghi ngờ khả năng ngăn chặn cuộc tấn công từ Liên Xô của lực lượng phòng
vệ châu Âu. Mặt khác, Pháp coi trọng khả năng chiến đấu và phòng vệ ở
những khu vực bên ngoài lãnh thổ, đặc biệt trong bối cảnh Pháp thất bại ở
Điện Biên Phủ (1954), yêu cầu nước này phải duy trì lực lượng quân đội quốc
gia. Quốc hội Pháp cho rằng EDC hạn chế khả năng này. Hiệp ước được
Quốc hội Hà Lan và Luxembourg phê chuẩn với tỷ lệ tán thành cao nhưng
gặp phải nhiều ý kiến trái chiều ở Ý và không dành đủ số phiếu tán thành ở
Pháp. Sau thất bại của sáng kiến EDC, Anh, cũng là một nước phản đối EDC,
đã kêu gọi các nước tham gia ký kết Thoả thuận Paris (10/1954)14. Theo Thoả
thuận này, các nước đồng ý sửa đổi Hiệp ước Brussels nhằm giải quyết những
vấn đề liên quan đến tái vũ trang nước Đức, nhất trí cho Đức và Ý tham gia
vào Hiệp ước sửa đổi. Tổ chức Liên minh quốc phòng phía Tây (WUDO) đổi
tên thành Liên minh Tây Âu (WEU) [188].
Quá trình hội nhập quốc phòng ở châu Âu bắt đầu từ khá sớm. Chỉ
trong vòng hơn 5 năm, nhiều hiệp ước và tổ chức khu vực về hợp tác an ninh
đã được ký kết: Hiệp ước Dunkirk (1947) về đồng minh và tương hỗ giữa
Anh – Pháp, Hiệp ước Brussels (1948) về hợp tác kinh tế, xã hội, văn hoá và
phòng vệ tập thể, sự ra đời của WUDO (1949), NAT (1949) và NATO
(1952). Ra đời trong bối cảnh như vậy nhưng EDC lại không được ủng hộ và
triển khai thành công. Có nhiều nguyên nhân dẫn tới sự thất bại của EDC:
Thứ nhất, EDC được định nghĩa như một “tổ chức siêu quốc gia châu
Âu, … hình thành các thể chế chung, ngân sách chung”, hướng tới một lực
lượng vũ trang chung, không chỉ dừng lại ở mức độ hợp tác hay cùng điều 14 Chín nước tham gia ký kết Thoả thuận Paris (10/1954) gồm: Anh, Pháp, Bỉ, Hà Lan, Luxembourg, Tây Đức, Italia, Mỹ và Canada.
45
phối [68]. Thể chế hoá cơ chế hợp tác quân sự tại thời điểm này là khá tham
vọng và vội vã. Ý tưởng của De Gaulles về việc hình thành một thể chế siêu
nhà nước có khả năng định hướng và triển khai các công việc một cách độc
lập thông qua nguyên tắc nhất trí, các hoạt động được giám sát bởi Toà án Tư
pháp. Theo quy trình này, các nước cần trao đổi về tất cả các vấn đề đối ngoại
và an ninh lớn [173]. Mô hình quản trị siêu nhà nước khó được các quốc gia
chấp nhận trong bối cảnh vừa bước ra khỏi chiến tranh không lâu, nền chủ
quyền và an ninh quốc gia trở nên mong manh, niềm tin dành cho các đối tác
và đồng minh chưa đủ cơ sở để công khai trao đổi về các vấn đề nhạy cảm,
liên quan trực tiếp đến an ninh quốc gia. Hơn nữa, ràng buộc trong cơ chế
EDC, các nước tham gia có thể bị hạn chế trong các hành động phòng vệ, đặc
biệt ở những khu vực bên ngoài biên giới lãnh thổ15. Trong giai đoạn này, các
nước có xu hướng thiên về các hoạt động tham vấn không chính thức. Ví dụ
điển hình cho xu hướng này là hoạt động được duy trì đều đặn của Nhóm
châu Âu (Eurogroup) gồm đại diện Bộ trưởng Quốc phòng các quốc gia châu
Âu trong NATO. Eurogroup nhóm họp bên lề kỳ họp thường niên của Uỷ ban
Kế hoạch quốc phòng NATO (DPC)16. Tuy không chính thức nhưng không
thể phủ nhận hoạt động của Nhóm đã góp phần thúc đẩy quá trình hợp tác
trong lĩnh vực quân sự giữa các quốc gia châu Âu. Eurogroup đã thống nhất
triển khai Chương trình Cải thiện nền quốc phòng châu Âu (EDIP)17 vào năm
1970, là chương trình bổ sung cho các chương trình quốc phòng quốc gia, với
tổng nguồn ngân sách huy động từ năm 1970-1975 lên tới 1 triệu đô la Mỹ
[150, tr. 31]. Nhiều nội dung trao đổi của Nhóm đã được văn bản hoá, xem
15 Thất bại ở Đông Dương, đỉnh điểm là trận chiến Điện Biên Phủ (5/1954) khiến nhiều chính trị gia Pháp lo ngại về khả năng bị hạn chế các hoạt động quân sự trong phạm vi EDC. EDC không được Quốc hội Pháp thông qua trong kỳ họp tháng 8/1954 [150] 16 Tiếng Anh: NATO’s Defense Planning Committee 17 Tiếng Anh: European Defense Improvement Program
xét và đưa vào chương trình nghị sự chính thức của NATO [141, tr. 291].
46
Thứ hai, nhu cầu hợp tác về an ninh quốc phòng tại thời điểm này chỉ
dừng lại ở mức độ các bên cam kết hỗ trợ, liên minh với nhau khi cần nhằm
đối phó với nguy cơ quay trở lại của phát xít Đức. Việc hình thành một lực
lượng vũ trang chung khiến các nước lo ngại về khả năng hợp thức hoá hoạt
động tái vũ trang nước Đức. Sáng kiến EDC đưa ra vào thời điểm này là chưa
thích hợp.
Thứ ba, sự hiện diện của Mỹ tại châu lục cùng với NATO được coi là
khuôn khổ hợp tác an ninh, quân sự ưu việt ở khu vực. Từ năm 1952, trên cơ sở
Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NAT), cùng với sự chuyển giao của WUDO
vào NAT, NATO ra đời và trở thành tổ chức thường trực, là cơ chế đảm bảo an
ninh duy nhất ở châu Âu. EDC trên danh nghĩa được trao thẩm quyền phòng vệ
tối ưu nhưng lại hoạt động trong khuôn khổ NATO, đảm bảo an ninh của các
thành viên thông qua việc “tham gia phòng vệ khu vực phía Tây trong khuôn
khổ Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương” [68]. Tư lệnh tối cao liên quân châu Âu
(SACEUR) của NATO có thẩm quyền và trách nhiệm giám sát, trang bị và
huấn luyện lực lượng, trong thời gian có chiến tranh, có toàn quyền và trách
nhiệm đối với lực lượng quân sự của tổ chức [150, tr. 22]. SAUCEUR được chỉ
định do Mỹ nắm giữ. Sau chiến tranh, châu Âu cần sự giúp đỡ từ Mỹ và dựa
vào ô bảo hộ của Mỹ như một tình huống bắt buộc. Như vậy, cùng với sự tham
gia của Mỹ trong NATO và cơ chế hợp tác liên chính phủ của tổ chức này,
EDC không được các quốc gia ủng hộ là điều dễ hiểu.
Trên cơ sở EDC, sáu nước sáng lập ECSC đồng thời đề xuất khởi động
tiến trình “Hợp tác chính trị” (EPC)18 ở châu Âu. Những đề xuất của Monnet,
Schuman và Pléven đều hướng tới mục tiêu thiết lập môi trường hợp tác chính
trị ở châu lục. Nhất thể hoá châu Âu về chính trị là một xu hướng bởi “trong
18 Tiếng Anh: European Political Cooperation
một thế giới các chủ thể kinh tế, chính trị ở cấp độ khu vực luôn chiếm ưu thế,
47
các quốc gia châu Âu không thể hy vọng tồn tại dựa trên sự độc lập về chính
trị hay kinh tế”19. Một châu Âu đoàn kết là “hết sức thiết yếu nếu châu Âu
muốn duy trì vị trí của mình, gia tăng ảnh hưởng và uy tín trên thế giới”20.
Tuy nhiên, những hệ luỵ của chiến tranh, các vấn đề xoay quanh nước Đức
khiến hợp tác về an ninh quốc phòng nói riêng và tiến trình hội nhập chính trị
nói chung ở châu Âu gặp rất nhiều khó khăn. Các quốc gia ECSC xác định
cần nhiều bước đi để xây dựng một châu Âu thống nhất, trong đó thống nhất
trên lĩnh vực kinh tế là mục tiêu đầu tiên. Dựa trên hướng tiếp cận như vậy
nên tiến trình hội nhập khu vực trong lĩnh vực đối ngoại, an ninh, quốc phòng
không đạt được nhiều bước tiến trong một khoảng thời gian dài. Các nước đều
rất thận trọng khi đề cập đến các vấn đề liên quan đến quốc phòng, phòng vệ
tập thể.
Tướng De Gaulle là một trong những cá nhân có tư tưởng ủng hộ tiến
trình hội nhập chính trị ở châu lục. Ông là người kêu gọi các thành viên EEC
cam kết tham gia các cuộc đối thoại và hợp tác về chính sách đối ngoại. Hội
nghị Thượng đỉnh EEC tại Bonn (1961), Đối thoại Fouchet (1961-1962) đã
chính thức đưa vấn đề hợp tác chính trị vào chương trình nghị sự. Những
tranh luận về khả năng hợp tác chính trị ở cấp độ khu vực được các thành viên
thảo luận, xoay quanh các vấn đề liên quan đến việc nên hay không nên thiết
lập thể chế siêu nhà nước, vấn đề phòng vệ tập thể bên ngoài khuôn khổ
NATO, sự cần thiết thành lập Uỷ ban Chính trị châu Âu (EPC)21… Với Kế
hoạch Fouchet, Tổng thống Pháp De Gaulle đề xuất EPC có trách nhiệm triển
19 “Tuyên bố về các nguyên tắc chính trị của Liên minh châu Âu” của Hội đồng quốc tế về phong trào châu Âu (28/2/1949) [150, tr. 26]. 20 Sau thất bại của EDC năm 1954, Ngoại trưởng nhóm sáu nước ECSC gặp nhau tại Messina, Italia tháng 6/1955, nghị sự về các vấn đề liên quan đến phát triển ECSC, đưa ra các chương trình hành động thúc đẩy tiến trình thống nhất châu Âu. Các bên đã ra tuyên bố chung, “Tuyên bố Messina”, trong đó nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thống nhất châu Âu [54]. 21 Tiếng Anh: European Political Commission (EPC)
khai một chính sách đối ngoại chung, từng bước thiết lập bộ máy tập trung
48
hoá trong nội bộ khối. EPC đưa ra quyết định trên nguyên tắc nhất trí, tất cả
các vấn đề lớn về chính sách đối ngoại cần được trao đổi, bao gồm cả khía
cạnh chính trị trong các vấn đề an ninh22. Kế hoạch này hướng tới mục tiêu
thiết lập mối quan hệ hợp tác liên chính phủ mở rộng sang lĩnh vực quốc
phòng, chính sách đối ngoại giữa các thành viên EEC [150, tr. 28-29]. Kế
hoạch Fouchet không nhận được sự đồng thuận của các thành viên và bị EEC
bác bỏ một năm sau đó.
Nhằm hiện thực hoá ý tưởng về một châu Âu thống nhất không chỉ trên
khía cạnh kinh tế mà còn trong các vấn đề đối ngoại, an ninh, quốc phòng, với
nỗ lực vận động trong nước, Tổng thống De Gaulle và Thủ tướng Konrad
Adenauer đã ký kết thoả thuận cho sự ra đời của Quân đoàn Pháp – Đức
(1963), đánh dấu sự nồng ấm trở lại của quan hệ hai bên, mở đường cho tiến
trình hợp tác an ninh giữa các quốc gia châu Âu. Đây cũng là điểm sáng duy
nhất trong hợp tác an ninh quốc phòng ở châu lục suốt gần năm thập kỷ sau
thế chiến.
Thập kỷ 1960, 1970 chứng kiến nhiều sự kiện gây bất ổn chính trị ở
châu Âu như khủng hoảng Bức tường Berlin (1961), khủng hoảng tên lửa ở
Cuba (1962), cuộc cách mạng “Mùa xuân Praha” ở Séc (1968) và nguy cơ
“cộng sản” từ chính quyền Xô Viết khiến các quốc gia EEC nhận thấy sự cần
thiết hợp tác về chính trị, quân sự ở cấp độ khu vực. Sau Đối thoại Fouchet,
nhiều nỗ lực thúc đẩy tiến trình hợp tác châu Âu tiếp tục được EEC thực hiện.
Hội nghị thượng đỉnh Hague (1969) đưa ra mục tiêu hợp tác toàn diện, sâu,
rộng giữa các quốc gia thành viên, trong đó đẩy mạnh quá trình thống nhất về
chính trị, “… mở đường cho một châu Âu đoàn kết có trách nhiệm với tương
lai của thế giới tương xứng với truyền thống và sứ mệnh của mình” [150, tr.
22 Tiếng Anh: unanimity
28-29]. Theo đó, Bộ trưởng Ngoại giao sáu nước EEC xây dựng Báo cáo
49
Davignon về tiềm năng hợp tác trong chính sách đối ngoại giữa các thành
viên. Sau Davignon, EEC thông qua nhiều báo cáo khác đề cập đến sự cấp
thiết xây dựng cơ chế hợp tác chính trị châu Âu, điều phối các hành động
ngoại giao trong các vấn đề quốc tế có ảnh hưởng đến quyền lợi của các thành
viên EEC, đề nghị cơ chế tham vấn bắt buộc đối với các thành viên trước khi
đưa ra bất kỳ sáng kiến về đối ngoại nào có khả năng ảnh hưởng đến các
thành viên khác.
Báo cáo Tindemans (12/1975)23 về khả năng thành lập Liên minh châu
Âu (EU) là một báo cáo đáng chú ý. Ông nhấn mạnh thực tế rằng “an ninh
của một quốc gia thành viên thực sự ảnh hưởng đến an ninh của các thành
viên khác. Không một chính sách đối ngoại nào có thể xem nhẹ các nguy cơ
hiện hữu hay tiềm tàng. Vì vậy, an ninh không thể nằm ngoài phạm vi của
EU… EU không thể hoàn thiện cho đến khi có được một chính sách quốc
phòng chung”24. Ông đề nghị các bên duy trì việc trao đổi thường xuyên quan
điểm về các vấn đề an ninh, quốc phòng, tạo cơ sở để các nước có thể đạt đến
sự tương đồng về tầm nhìn, khả năng phân tích, đánh giá các vấn đề phát sinh
trong lĩnh vực quốc phòng. Tindemans đồng thời đề cập đến khả năng các bên
hợp tác trong lĩnh vực sản xuất, trang bị vũ khí để giảm chi phí quốc phòng,
tăng cường tính độc lập và cạnh tranh của nền công nghiệp quốc phòng châu
Âu. EU cần có một “chính sách công nghiệp chung” [150, tr. 35-36]. Đây là
lần đầu tiên kể từ năm 1952 sau khi ý tưởng EDC ra đời và không thể triển
khai, khía cạnh an ninh quốc phòng được đưa trở lại vào tiến trình hội nhập
chính trị ở châu Âu. Trong suốt một thời gian dài (từ năm 1952 đến năm
23 Thủ tướng Bỉ Leo Tindemans trình bày báo cáo này trước EEC tháng 12/1975, trong bối cảnh cuộc khủng hoảng dầu lửa (1973) diễn ra ở châu Âu cho thấy tầm quan trọng của việc thống nhất tiếng nói chính trị giúp EEC có thêm sức nặng trên bàn đàm phán. 24 Tham khảo thêm tại: The European Defence Community (1954), The European Defense Treaty, Command Paper 9127, HMSO, London.
1975), EPC chủ yếu tập trung thảo luận các phương thức thúc đẩy hợp tác
50
trong lĩnh vực đối ngoại. Tuy nhiên, nhiều báo cáo, nghiên cứu cho thấy rất
khó tách biệt giữa các vấn đề an ninh, chính trị, kinh tế và quốc phòng. Không
thể phủ nhận mỗi quốc gia có sự khác biệt về tình hình nội bộ, tính toán chiến
lược, phạm vi ảnh hưởng, vì vậy cần “duy trì cách tiếp cận thực tế và linh
hoạt khi trao đổi các vấn đề trong hợp tác chính trị như chính sách đối ngoại,
các vấn đề liên quan đến khía cạnh chính trị của an ninh” [140, tr. 14-17].
Sau Tindermans, nhiều chính trị gia châu Âu đã lên tiếng ủng hộ việc
đưa an ninh quốc phòng vào tiến trình hội nhập chính trị khu vực, cho rằng
“…an ninh châu Âu cần được đảm bảo bởi hành động chung về chính sách
an ninh”, các thành viên cần “một chính sách đối ngoại chung”…, “phối hợp
triển khai chính sách an ninh” và thống nhất nhìn nhận vai trò của châu Âu
trong lĩnh vực này (đối ngoại và an ninh) nhằm đảm bảo các lợi ích sống còn,
bảo vệ sự độc lập và tăng cường an ninh của châu Âu [150, tr. 37]. Trợ lý Bộ
trưởng Quốc phòng Anh Denis Healey từng phát biểu rằng: “…Sự thống nhất
địa lý của châu Âu tự thân nó đã tạo ra những lợi ích chung chỉ có thể được
khai thác từ những chính sách chung” [141, tr. 291-293]. EPC đạt được bước
tiến mới khi được thể chế hoá trong Định ước chung châu Âu (SEA) ký vào
tháng 2/1986. SEA đặt tất cả những hiệp ước và các tổ chức/ủy ban chung của
châu Âu thành lập trước đây vào một cộng đồng chung nhất: Cộng đồng châu
Âu (EC). Ban Thư ký thường trực được thành lập và đặt tại Brussels, giúp
việc cho Chủ tịch Hội đồng, đưa ra mục tiêu cho chính sách đối ngoại của
châu Âu, bao gồm khía cạnh an ninh chính trị và an ninh kinh tế nhưng vẫn
ngoại trừ lĩnh vực quốc phòng. Sự độc lập của châu Âu, bảo vệ các nguyên
tắc dân chủ và quyền con người trở thành các mục tiêu cụ thể của EPC. SEA
nhất trí các bên có thể tham vấn lẫn nhau để thống nhất về các quan điểm
chính trị khi cần thiết [133].
51
Phản ứng của EC đối với chiến tranh Vùng Vịnh và cuộc khủng hoảng
ở Nam Tư (1990-1991) cho thấy vai trò hạn chế của Cộng đồng trong việc
tham gia giải quyết các vấn đề, sự kiện quốc tế do thiếu cả cơ chế hành động
và nguồn lực. EPC không thể phát huy được chức năng của mình do thiếu
công cụ triển khai, đặc biệt là nguồn lực quân sự25. EC nhận thấy sự cần thiết
hình thành một chính sách đối ngoại và an ninh chung, bao gồm cả khía cạnh
an ninh quốc phòng đối với sự tồn tại và phát huy ảnh hưởng của EC, nâng
cao vai trò của WEU bên cạnh NATO trong cấu trúc an ninh khu vực. Trên cơ
sở này, EU được thành lập, Chính sách Đối ngoại và An ninh chung (CFSP)
ra đời theo Hiệp ước Masstrict (1992), trở thành một trong ba trụ cột chính
của EU26. Nhiệm vụ Petersberg (Petersberg Task) do WEU khởi xướng
(6/1992) và tái khẳng định trong Hiệp ước Amsterdam (1997) đánh dấu bước
tiến lớn của quá trình hội nhập khu vực trong lĩnh vực quốc phòng. Nhiệm vụ
Petersberg sau đó được mở rộng, nâng cấp thành Chính sách An ninh Quốc
phòng châu Âu (ESDP)27, nhằm củng cố khía cạnh an ninh quốc phòng trong
CFSP. ESDP/CSDP trở thành một trụ cột quan trọng trong CFSP.
Như vậy, sự ra đời của CFSP và ESDP cùng với tuyên bố thành lập EU
là những bước đi thể hiện tiến trình hội nhập khu vực ở châu lục phát triển
theo cả chiều rộng và chiều sâu. Từ lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, hợp tác
giữa các quốc gia EEC/EC/EU đã mở rộng sang lĩnh vực đối ngoại, an ninh,
quốc phòng, từ hình thức Cộng đồng với cơ chế liên chính phủ, EC/EU được
thể chế hoá từng bước, bộ máy vận hành theo cơ chế siêu nhà nước dần hình
25 Trong cuộc khủng hoảng Nam Tư, EPC chỉ có 3 công cụ để thể hiện vai trò ảnh hưởng của EC, gồm: sử dụng sức mạnh ngôn luận nhân dân, đe doạ không công nhận về mặt ngoại giao và cấm vận kinh tế [150, tr. 45]. 26 Ba trụ cột của EU được xác định là: (i) các Cộng đồng, (ii) CFSP và (iii) hợp tác trong lĩnh vực tư pháp và nội vụ. 27 Chính sách An ninh Quốc phòng châu Âu (ESDP) được đổi tên thành Chính sách An ninh Quốc phòng chung (CSDP) theo Hiệp ước Lisbon (2009)
thành. Sau gần năm thập kỷ, CFSP, ESDP là kết quả của quá trình “lan toả
52
chính trị” xuất phát từ nhu cầu hài hoà lợi ích và điều phối quan hệ hợp tác
giữa các quốc gia trong lĩnh vực đối ngoại, an ninh và quốc phòng. Hiệu quả
triển khai CFSP, ESDP/CSDP quyết định mức độ hội nhập chính trị ở khu
vực. Vì vậy, phân tích, đánh giá thực tiễn triển khai các chính sách này giúp
xác định diễn biến tiến trình hội nhập chính trị, cụ thể trong lĩnh vực đối
ngoại, an ninh và quốc phòng ở khu vực.
1.2.2. Bối cảnh thế giới và khu vực sau Chiến tranh Lạnh
Chiến tranh Lạnh kết thúc, hệ thống hai cực sụp đổ đã tác động mạnh
mẽ đến nền chính trị quốc tế. Sự thay đổi về chủ thể, vai trò của các chủ thể,
trật tự tập hợp lực lượng và môi trường an ninh thay đổi có tác động đến tư
duy hoạch định chính sách của các nhà lãnh đạo trong bối cảnh mới. Một thế
giới đa cực/đa trung tâm hình thành, trong đó, Mỹ và các cường quốc kinh tế
như Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nga, Ấn Độ…, những chủ thể lớn
trong quan hệ quốc tế, ra sức tạo dựng ảnh hưởng về kinh tế, chính trị, xã hội
đến phần còn lại của thế giới. Ảnh hưởng mạnh mẽ của các chủ thể lớn trên
tất cả các mặt làm nảy sinh và thúc đẩy nhu cầu liên kết giữa các chủ thể có
thực lực yếu hơn. Các cường quốc muốn thể hiện vai trò của mình thông qua
việc tái cấu trúc hệ thống thể chế toàn cầu, trong khi các nước vừa và nhỏ
muốn liên kết với nhau để đạt được những thành công trong phát triển kinh tế
một cách nhanh chóng, đồng thời hướng tới một sự đảm bảo về an ninh thông
qua phòng vệ tập thể. Từ nhu cầu hợp tác này, hội nhập trở thành xu thế và
diễn ra mạnh mẽ ở nhiều khu vực. Nhiều tổ chức tập hợp các quốc gia theo
khu vực mở như Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Tổ chức Hợp
tác Vùng Vịnh (GCC), Liên minh châu Phi (AU)… ra đời và ngày càng nỗ
lực nâng cấp cơ chế hợp tác để gia tăng vai trò của mình như là một chủ thể
trong quan hệ quốc tế. Các tổ chức siêu quốc gia ra đời theo mô hình liên kết
khu vực ngoài nhu cầu phát triển còn nhằm tạo ra các chủ thể mới cân bằng
53
quyền lực với các cường quốc, hình thành một trật tự đa cực trong quan hệ
quốc tế đương đại.
Sau Chiến tranh Lạnh, tập hợp lực lượng dựa trên ý thức hệ không còn,
các nước theo “cực” Mỹ hay Liên Xô phải tìm lối đi riêng cho mình. Nhu cầu
phát triển tự lực về kinh tế buộc các nước phải tìm đến nhau, mở rộng quan hệ
thương mại như một đòi hỏi tất yếu. Chiến tranh Lạnh chấm dứt đồng nghĩa
với việc các nguy cơ an ninh mới xuất hiện. Một cuộc đối đầu giữa hai cực
tuy căng thẳng nhưng đe dọa về mặt an ninh tương đối rõ ràng, lợi ích quốc
gia khá nhất quán theo thời gian. Ngược lại, môi trường an ninh trong một
thế giới đa cực thường khó xác định và biến động không ngừng, là sự tổng
hợp của nhiều yếu tố bên trong và bên ngoài, bị tác động bởi những tính
toán chiến lược nhằm đảm bảo lợi ích quốc gia. Bản chất của an ninh cũng
thay đổi. An ninh có thể bị đe dọa bởi sự bất ổn về chính trị, xã hội trong nội
tại từng quốc gia, xu hướng li khai, xung đột tôn giáo, sắc tộc, khủng bố,
thiên tai, dịch bệnh, đói nghèo, nguy cơ tụt hậu… Các nguy cơ an ninh
truyền thống, phi truyền thống đan xen nhau khiến các quốc gia không thể tự
mình giải quyết tất cả những vấn đề này mà cần có sự hợp tác không chỉ với
một mà với nhiều quốc gia khác. An ninh quốc gia cần đặt trong tổng thể an
ninh khu vực, thậm chí toàn cầu.
Trật tự đa cực trong xu thế toàn cầu hoá, các quốc gia, ở cấp độ tập hợp
lực lượng cao hơn là các “cực”, có quan hệ phụ thuộc lẫn nhau trên phạm vi
toàn cầu [177, tr.12]. Các nước cần gia tăng sức mạnh tổng hợp để đối phó
với những thách thức vượt ra ngoài ranh giới đất nước. Sức mạnh của một
quốc gia không còn tùy thuộc chủ yếu vào sức mạnh chính trị, quân sự mà là
sức mạnh tổng hợp, trong đó sức mạnh về kinh tế có vai trò quan trọng. Kinh
tế và phát triển là nền tảng của an ninh theo quan điểm hiện đại [177, tr.59].
Nhu cầu phát triển, đặc biệt về kinh tế và yêu cầu đảm bảo an ninh, tạo môi
54
trường thuận lợi để phát triển là những yếu tố thúc đẩy quá trình hội nhập khu
vực, nền tảng cho chủ nghĩa khu vực phát triển. Hội nhập khu vực diễn ra
rộng khắp các châu lục.
Lục địa châu Âu sau Chiến tranh Lạnh cũng ảnh hưởng từ thay đổi
chung của bối cảnh thế giới. Mỹ và Liên Xô tuyên bố chấm dứt giai đoạn đối
đầu căng thẳng suốt hơn bốn thập kỷ đưa châu Âu thoát ra khỏi mối lo sợ về
một cuộc xung đột nóng quy mô lớn như Chiến tranh thế giới thứ hai. Trật tự
hai cực sụp đổ, các cường quốc ở châu lục như Đức, Anh, Pháp, Nga… thiết
lập trật tự đa cực ở khu vực. Tính chất môi trường an ninh khu vực có nhiều
thay đổi. Tương tự như phân tích nêu trên, cục diện đối đầu hai cực cho thấy
nguy cơ xung đột rõ ràng. Ngược lại, trong một hệ thống đa cực, nhiều tình
huống xung đột có thể xảy ra. Số lượng các “cực” càng nhiều, khả năng xảy ra
xung đột giữa các cực càng lớn. Đồng thời, xung đột cũng có thể nảy sinh giữa
các nước lớn và nước nhỏ hay giữa các nước nhỏ với nhau. Vì thế, khả năng
xảy ra chiến tranh ở hệ thống đa cực cao hơn hệ thống đơn cực [128, tr.5-56].
“Nền hoà bình dài lâu”28 kéo dài hơn bốn thập kỷ sau Thế chiến thứ hai
cùng với nhu cầu hợp tác kinh tế, khắc phục hậu quả chiến tranh ở châu Âu
tạo điều kiện thuận lợi để chủ nghĩa khu vực phát triển tương đối sớm hơn các
khu vực khác và đạt được nhiều thành tựu lớn về hội nhập trong lĩnh vực tài
chính, tiền tệ, thương mại, tư pháp… Sau chiến tranh Lạnh, cục diện khu vực
thay đổi, nhu cầu phát triển và tư duy an ninh của các quốc gia cũng thay đổi.
Sức mạnh kinh tế không còn đủ để các quốc gia đối mặt với những nguy cơ
an ninh hỗn hợp và mang tính toàn cầu. Cộng đồng châu Âu hướng tới một tổ
chức hợp tác khu vực được thể chế hoá, hội nhập sâu hơn trong các lĩnh vực
mang tính “bất khả xâm phạm” của quốc gia như đối ngoại và an ninh để xây
28 Thuật ngữ này lần đầu tiên được John Lewis Gaddis đề cập đến trong bài viết “Nền hoà bình dài lâu: Các yếu tố của sự ổn định trong hệ thống quốc tế thời hậu chiến”, đăng trên Tạp chí An ninh Quốc tế, Số 10 (04) phát hành năm 1986 [95].
dựng sức mạnh toàn diện trong tình hình mới.
55
1.2.3. Quan điểm của các thành viên chủ chốt về hội nhập trong lĩnh vực
đối ngoại và an ninh
Như đã nêu trên, trật tự đa cực được duy trì ở khu vực sau chiến tranh
Lạnh với các “cực”29 nổi lên như Đức, Pháp, Anh, Ý… Các quốc gia này khi
tham gia vào Liên minh châu Âu trở thành các thành viên chủ chốt, động lực
phát triển của khối. Khi EU mở rộng về phía Đông, các nền kinh tế lớn ở Đông
Âu trở thành những thành viên năng động và có tiềm lực trong Liên minh. Các
thành viên chủ chốt đóng vai trò quan trọng trong triển khai CFSP theo nhận
định của tác giả là Đức, Pháp, Ý và Ba Lan. Đức, Pháp, Ý là ba cường quốc có
tiềm lực quân sự nhất EU, trong đó Pháp có sức mạnh hạt nhân. Anh là nước thứ
hai nắm giữ sức mạnh hạt nhân trong khối, năng lực quốc phòng chỉ sau Pháp.
Tuy nhiên, do đã quyết định rời EU sau kết quả trưng cầu dân ý năm 2016 nên
quan điểm của Anh không được nêu ở đây. Ba Lan là một cường quốc ở Đông
Âu, năng lực quân sự đứng thứ 6 trong EU (thứ 22 trong bảng xếp hạng năng lực
quân sự toàn cầu) và có xu hướng tiếp tục tăng chi phí quốc phòng trong những
năm tới. Bên cạnh đó, cựu Thủ tướng Ba Lan giai đoạn 2007 – 2014, Donald
Tusk, hiện đang là Chủ tịch Hội đồng châu Âu hai nhiệm kỳ liên tiếp (2014 –
2019) nên quan điểm của Ba Lan, theo đánh giá chủ quan của tác giả, sẽ có giá
trị nhất định trong việc thúc đẩy tiến trình hội nhập về đối ngoại và an ninh, đặc
biệt trong lĩnh vực an ninh quốc phòng ở châu Âu.
1.2.3.1. Quan điểm của Đức
Hơn bất kỳ quốc gia thành viên nào, Đức là nước tạo động lực cho châu
Âu về việc xây dựng một chính sách đối ngoại và an ninh chung, một nền
quốc phòng chung, hướng tới một liên minh an ninh quốc phòng của châu Âu.
29 Để trở thành một cực trong hệ thống khu vực và quốc tế, một quốc gia phải có khả năng tự bảo vệ mình trước các quốc gia lãnh đạo trong hệ thống ở mức độ hợp lý [128].
Đức là quốc gia có đóng góp quân lớn nhất trong các nhiệm vụ triển khai theo
56
khuôn khổ CSDP, thể hiện cam kết rõ ràng của Đức với một chính sách an
ninh chung của châu Âu. Vì lý do lịch sử, nước Đức bị hạn chế sử dụng vũ
lực bởi hệ thống luật pháp của chính nước này. Các quy định này được bãi bỏ
sau khi nước Đức thống nhất năm 1990. Xuất phát từ bối cảnh đó, Đức luôn
mong muốn đảm bảo an ninh quốc gia và khẳng định vai trò ảnh hưởng thông
qua các cơ chế đa phương. Từ cơ chế hợp tác kinh tế làm nền tảng, Đức luôn
tạo động lực thúc đẩy hợp tác trong khu vực mở rộng và nâng tầm quan hệ
hợp tác trên nhiều lĩnh vực. Một Liên minh châu Âu đạt được mức độ hội
nhập sâu, trở thành một mô hình độc đáo duy nhất trên thế giới như ngày nay
không thể không nói đến vai trò tiên phong của Đức.
Theo quan điểm của Đức, CSDP có khả năng triển khai cả nhiệm vụ
quân sự và dân sự là một lợi thế so với cơ chế hợp tác của NATO. Đồng thời,
bao trùm CSDP, EU còn có thể triển khai các hoạt động hợp tác trên lĩnh vực
chính trị, ngoại giao và kinh tế trong khuôn khổ CFSP. Điều này tương quan
với hướng tiếp cận một cách toàn diện với khái niệm “an ninh mạng lưới”30
được đề cập lần đầu tiên trong Sách trắng về chính sách an ninh Đức năm
2006, kêu gọi các đối tác cùng xây dựng quan hệ hợp tác đa phương diện về
chính trị, ngoại giao, dân sự, kinh tế, hoạt động tình báo và các phương tiện
quân sự [166]. Bên cạnh đó, CSDP còn là một phương tiện để EU tăng cường
đoàn kết nội bộ. CSDP không thể thay thế NATO mà mang tính bổ trợ cho sự
tồn tại của NATO trong việc duy trì sự ổn định của nền an ninh khu vực.
Trước tình hình môi trường an ninh khu vực có nhiều đặc điểm khác với
10 năm trước, quan điểm của Đức về việc triển khai CSDP đã thay đổi theo
hướng thúc đẩy mạnh mẽ hơn. Trong Sách trắng về an ninh quốc gia Đức công
30 Tiếng Anh: networked security
bố năm 2016, Đức tiếp tục khẳng định cam kết với CSDP thông qua việc tham
57
gia vào các sáng kiến và cơ chế tư vấn ba bên “Weimar Triangle”31 với Pháp
và Ba Lan để phát triển, đẩy mạnh quá trình thực thi CSDP một cách hiệu quả
hơn. CSDP cần được các quốc gia thành viên tuân thủ theo các điều khoản
được quy định tại Hiệp ước Lisbon, tiến tới thành lập Liên minh Quốc phòng
và An ninh châu Âu. Để hướng tới mục tiêu này, CSDP cần chú trọng cải tiến
cơ chế triển khai, hợp nhất năng lực triển khai các nhiệm vụ quân sự và dân sự
và tăng cường sức mạnh của ngành công nghiệp quốc phòng châu Âu. Đức một
lần nữa nhắc lại cam kết của mình về khả năng thống nhất và kết nối các lực
lượng quân đội châu Âu [167, tr.71-76].
1.2.3.2. Quan điểm của Pháp
Là một trong sáu thành viên sáng lập EU, đồng thời là một trong hai
cường quốc duy nhất sở hữu sức mạnh hạt nhân trong khối, Pháp về tổng thể
ủng hộ các hành động quân sự tập thể và một chính sách an ninh quốc phòng
chung của châu Âu. Pháp là thành viên tích cực đưa ra nhiều sáng kiến nhằm
nâng cao năng lực quân sự của toàn khối. Tuy nhiên, Pháp có xu hướng sử
dụng sức mạnh quân sự để ngăn ngừa xung đột, trong khi EU, do đặc thù của
nền phòng vệ tập thể, thường ưu tiên giải quyết xung đột thông qua các giải
pháp chính trị và nỗ lực ngoại giao. Vì vậy, theo đánh giá của các nhà lãnh
đạo Pháp, cơ chế ngăn ngừa xung đột và giải quyết khủng hoảng của EU chưa
đạt được mức mà nước này mong đợi.
Giới quan sát đánh giá CSDP không đạt được nhiều bước tiến đáng kể
không chỉ bởi thái độ thờ ơ của một quốc gia thành viên là cường quốc quân
sự như Anh, hay quan điểm phụ thuộc vào NATO về đảm bảo an ninh quốc
gia của các thành viên khác mà còn bởi những thay đổi trong mức độ cam kết
của quốc gia đầu tàu như Pháp. Sự cam kết của Pháp dành cho EU, sự ủng hộ
của nước này dành cho CSDP và quá trình nhất thể hoá châu Âu là rất rõ ràng 31 “Weimar Triangle” là cơ chế tư vấn cấp bộ trưởng giữa Đức, Pháp và Ba Lan để tăng cường hợp tác giữa ba bên.
58
và ổn định trong nhiều thập niên. Trong Sách trắng của Pháp năm 2008, Pháp
từng tuyên bố “…muốn là nước đi đầu trong quá trình liên minh chính trị…
và sẽ nỗ lực vì một Liên minh châu Âu đoàn kết hơn, vững mạnh hơn với sự
hiện diện nhiều hơn nữa trong lĩnh vực an ninh và quốc phòng” [152, tr.18].
Thực tế, Pháp luôn là một trong những nước tiên phong trong các sáng
kiến nhằm đẩy mạnh hợp tác quốc phòng giữa các nước, đóng góp lớn về vật
chất, con người, ngân sách chung cho các nhiệm vụ quân sự, dân sự triển khai
trong khuôn khổ CSDP. Tuy nhiên, giới lãnh đạo Pháp đánh giá các hoạt
động quốc phòng an ninh do EU thực hiện chưa đạt được kết quả như kỳ
vọng. Chiến dịch EUFOR TChad là một ví dụ. Pháp là nước bỏ nhiều chi phí
nhất cho chiến dịch này (56% lực lượng quân và nhiều ủng hộ về cơ sở vật
chất khác) nhưng do phản ứng chậm và thiếu tính hợp tác từ các quốc gia
thành viên EU khác, chiến dịch bị chậm triển khai và cuối cùng thất bại. Thất
bại ở Chad khiến chính quyền Sarkozy vấp phải nhiều chỉ trích trong nước.
Cam kết của giới lãnh đạo Pháp với CSDP dần có nhiều điều chỉnh sau đó.
Trong Sách trắng năm 2013, Pháp không còn thể hiện sự lạc quan như trước
về tương lai CSDP. Nước này đề cập đến nhiều khác biệt về mục tiêu, lợi ích
an ninh quốc phòng giữa các thành viên và cho rằng những khác biệt này
“…có thể là nguyên nhân dẫn tới sự thiếu tin tưởng lẫn nhau, làm cho ý
tưởng nhất thể hoá nhanh chóng trở nên thiếu thực tế” [124, tr. 17] và “Châu
Âu dường như chưa sẵn sàng gánh vác trách nhiệm lớn hơn trong việc đảm
bảo an ninh cho châu lục và thế giới bất chấp sự ủng hộ của Mỹ. Trái lại,
nhiều nước thành viên còn đẩy chi phí quốc phòng xuống dưới 1% GDP”
[124, tr. 31]. Như vậy, Pháp nghi ngờ về khả năng nhất thể hoá EU trong lĩnh
vực an ninh quốc phòng cũng như việc đặt thứ tự ưu tiên cho các vấn đề quốc
phòng an ninh của các quốc gia thành viên khác. Mặt khác, Pháp có tiềm lực
quân sự và sẵn sàng triển khai các hoạt động quân sự khi cần, khác với EU
59
thiên về sử dụng “sức mạnh mềm”. Với nhận định này, sự sẵn sàng tham gia
triển khai CSDP của Pháp giảm dần, ít nhất là trong các chiến dịch quân sự là
điều dễ hiểu. Pháp thiên về lựa chọn giải pháp đảm bảo an ninh quốc gia
thông qua hợp tác song phương (ký riêng với Anh thoả thuận hợp tác an ninh
song phương Lancaster House tháng 11/2010) hay dành nhiều nguồn lực hơn
cho các hoạt động trong khuôn khổ NATO.
Sự ủng hộ của nước Pháp dành cho một nền phòng thủ chung châu Âu
đã giảm dần theo thời gian. Kết quả của những nhiệm vụ quân sự triển khai
trong khuôn khổ CSDP, điển hình như tại điểm nóng Libya năm 2011 hay Mali
năm 2013 chưa đáp ứng được yêu cầu của Pháp cùng với thực tế các hoạt động
quân sự chung thường nhận được nguồn quỹ eo hẹp từ ngân sách chung của
EU đã khiến Pháp công khai chỉ trích hoạt động kém hiệu quả của CSDP. Pháp
bày tỏ nghi ngại về khả năng thành công của chính sách an ninh quốc phòng
chung. Trên quan điểm này, Pháp buộc phải tìm các cơ chế hợp tác quân sự
khác để thực hiện các tính toán chiến lược và bảo vệ lợi ích quốc gia. NATO là
một lựa chọn ưu tiên. Trong Sách trắng về Quốc phòng và An ninh quốc gia
2013, Pháp nhận thấy “mối quan hệ đồng minh Đại Tây Dương đóng vai trò
quan trọng trong chiến lược an ninh quốc gia. Vì vậy Pháp tập trung nguồn lực
để tham gia đầy đủ vào cấu trúc quân sự của NATO… thể hiện trách nhiệm và
vai trò năng động của mình” [91] trong cấu trúc an ninh này.
Tuy nhiên, sau sự kiện Brexit, Pháp nhận thức được sự cần thiết hợp
sức cùng các quốc gia thành viên EU khác củng cố và tăng cường khả năng
phòng vệ của Liên minh khi Anh, một quốc gia vừa có sức mạnh hạt nhân vừa
là thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc rời bỏ khối. Pháp
ủng hộ CSDP, bao gồm cả sáng kiến “Hợp tác có cấu trúc bền vững”
(PESCO) và thành lập Quỹ Quốc phòng châu Âu (EDF). Trong Rà soát chiến
lược an ninh quốc gia năm 2016, Pháp nhắc lại ý định triển khai sáng kiến
60
“Tăng cường khả năng can thiệp bằng quân sự”32 với các đối tác có thực lực
quân sự và ý chí chính trị như Đức và Anh. Sáng kiến này đồng thời giúp phát
triển văn hoá chiến lược chung giữa các quốc gia thành viên, tạo cơ sở vững
chắc hơn cho các hành động chung trong tương lai [92]. Tổng thống
Emmanuel Macron, trong một phát biểu đã nhắc lại “tinh thần châu Âu”, kêu
gọi các quốc gia thành viên tăng cường hợp tác an ninh, quốc phòng với sáng
kiến thành lập Lực lượng phản ứng nhanh châu Âu đến năm 2020 hướng tới
một EU “thống nhất, đoàn kết và dân chủ thực chất” [168].
1.2.3.3. Quan điểm của Ý
Là nền kinh tế tầm trung trên thế giới, có tầm ảnh hưởng chính trị hạn
chế nhưng ở cấp độ khu vực, Ý là một cường quốc, nằm trong tốp năm quốc
gia thành viên có đóng góp cao nhất cho ngân sách EU nói chung và cho các
hoạt động quân sự tập thể của Liên minh nói riêng. Từ sau Thế chiến thứ hai,
quốc gia này trung thành với ngoại giao đa phương, xem chủ nghĩa đa phương
là một phương tiện để đạt được các mục tiêu chiến lược [152, tr.49]. Chính
sách ngoại giao Ý dựa trên hai nguyên tắc chính: ủng hộ các quan điểm của Mỹ
thông qua vai trò thành viên tích cực của NATO và ủng hộ tiến trình nhất thể
hoá châu Âu. Chính sách “chiếc ghế”33 được Ý áp dụng để khắc phục sự hạn
chế về năng lực chính trị của mình. Theo đó, sự can dự bền bỉ vào các cơ chế
liên chính phủ, hiện diện tại các diễn đàn, đối thoại được giới lãnh đạo nước
này ưu tiên, coi đây là một phương thức để tác động đến các quyết sách có ảnh
hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến lợi ích quốc gia. Với hướng tiếp cận này, Ý
tham gia vào các hoạt động gìn giữ hoà bình của Liên hiệp quốc, NATO và EU
vì ý thức được rằng tự thân quốc gia không thể đảm bảo sự ổn định và an ninh
của khu vực láng giềng, an ninh quốc gia được đảm bảo thông qua cơ chế đa
phương. Tham gia triển khai quân trong khuôn khổ CSDP từ năm 2003, Ý đóng 32 Tiếng Anh: European Intervention Initiative 33 Nguyên gốc tiếng Ý: politica della sedia (chair policy)
61
góp 14% ngân sách giành cho CSDP, sau Pháp và trên Đức, Tây Ban Nha, Anh
và Ba Lan (tính đến năm 2009) [161, tr. 7]. Tuy nhiên, trong những năm gần
đây, Ý có xu hướng giảm dần chi phí quốc phòng, từ 0,88% GDP năm 2014,
0,80% (2016), xuống còn 0,78% năm 2017 [162].
Ý vẫn đóng vai trò là thành viên tích cực của EU, ủng hộ và tham gia
vào các sáng kiến nhằm tăng năng lực quốc phòng của toàn Liên minh như
thành lập Quỹ Quốc phòng châu Âu, sáng kiến “Nâng cao năng lực trong hỗ
trợ an ninh và phát triển” (CBSD)34, cam kết thực hiện việc thiết lập Sở chỉ
huy thường trực của CSDP cho các hoạt động quân sự dưới sự kiểm soát của
các quốc gia thành viên. Ý đồng thời kêu gọi các thành viên chia sẻ lực lượng
quân đội hoặc các trang thiết bị quốc phòng làm cơ sở hình thành lực lượng
thường trực đa quốc gia của châu Âu. Đồng quan điểm với Đức, Ý đề nghị
thành lập nhóm các thành viên tiên phong đặt nền móng cho Liên minh Quốc
phòng châu Âu [181, tr.3].
1.2.3.4. Quan điểm của Ba Lan
Gia nhập Liên minh từ năm 2004, Ba Lan được đánh giá là một thành
viên mới năng động, tham gia tích cực vào quá trình hội nhập châu Âu trong
nhiều lĩnh vực, bao gồm các hoạt động an ninh quốc phòng như ủng hộ sáng
kiến cải tổ CSDP của Pháp; tham gia tích cực vào cơ chế ba bên “Weimar
Triangle” cùng Đức và Pháp; thúc đẩy quá trình triển khai Hiệp ước Lisbon,
đặc biệt trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng; nhất trí cao và tích cực tham gia
vào quá trình xây dựng bộ máy EEAS…
Ba Lan là nước có tiếng nói trong các nước Đông Âu và là một trong
những nước có tiềm lực quân sự lớn nhất trong khối. Trước cuộc khủng hoảng
chính trị ở Ukraine, Ba Lan quyết định tăng chi phí quốc phòng lên 2% GDP,
34 Tiếng Anh: Capacity building for Security and Development (CBSD)
trở thành nước châu Âu có tỷ lệ chi ngân sách quốc phòng cao nhất trong EU.
62
Sau hơn 13 năm gia nhập EU, nền kinh tế Ba Lan được hưởng lợi nhiều từ
các chính sách hỗ trợ phát triển dành cho các quốc gia thành viên của EU,
nâng cao hơn nữa tiềm lực phát triển quốc phòng của nước này. Nằm trong
tốp năm quốc gia có đóng góp cao nhất cho ngân sách EU bên cạnh Đức,
Pháp, Ý và Tây Ban Nha, Ba Lan được kỳ vọng có thể thay thế Anh vào
nhóm ba nước đầu tàu, động lực cho một CSDP có thực lực và hoạt động hiệu
quả hơn.
An ninh Ba Lan được đảm bảo dựa trên cơ sở xây dựng mối quan hệ
chặt chẽ với các cơ chế an ninh khu vực như EU và NATO, những cơ chế này
đi đôi với một mối quan hệ đồng minh xuyên Đại Tây Dương ổn định với Mỹ.
Trên hướng tiếp cận này, Ba Lan chủ động tăng cường cam kết với các hoạt
động trong khuôn khổ CSDP. Ba Lan nhận định rằng CSDP phát triển đồng
nghĩa với việc EU tăng cường năng lực phòng vệ và khả năng triển khai các
hoạt động xử lý khủng khoảng. Đồng thời, NATO cũng có vai trò quan trọng
cấu trúc an ninh khu vực do thế mạnh về năng lực quân sự và khả năng tác
chiến hiệu quả, điều mà CSDP còn hạn chế. Vì vậy, Ba Lan chủ động tham
gia vào cả hai cơ chế hợp tác an ninh này và kêu gọi mối quan hệ gắn kết hơn
nữa giữa hai tổ chức EU – NATO [152, tr.71].
Tiểu kết chương 1
Về cơ sở lý luận, mỗi thuyết đều có hướng tiếp cận khác nhau về cùng
một vấn đề. Để có góc nhìn đa chiều về hiện tượng hội nhập khu vực ở châu
Âu, cần xem xét trên quan điểm của nhiều trường phái lý thuyết quan hệ quốc
tế. Thuyết chức năng mới, kiến tạo, thể chế và liên chính phủ là những thuyết
được đánh giá là có độ xác thực nhất khi áp dụng phân tích quá trình hội nhập
ở châu lục này. Luận án chủ yếu sử dụng hệ thống quan điểm của thuyết chức
năng và thể chế, thuyết kiến tạo và liên chính phủ mang tính bổ trợ. Việc phân
63
tích, đánh giá quá trình hội nhập khu vực châu Âu về đối ngoại và an ninh nói
chung, cụ thể đối với trường hợp CFSP dựa trên các luận điểm sau:
(i) Hội nhập về đối ngoại và an ninh đóng vai trò quan trọng trong tiến
trình hội nhập khu vực nói chung, là thước đo mức độ thành công của tiến
trình này;
(ii) CFSP là biểu hiện của cấp độ hợp tác cao nhất đối với cơ chế hợp
tác khu vực, thể hiện bản sắc chính trị của EU. Hiệu quả triển khai CFSP,
ESDP/CSDP quyết định mức độ hội nhập chính trị ở khu vực;
(iii) Hội nhập khu vực là một quá trình xây dựng các chuẩn mực và giá
trị. Bản sắc và lợi ích quốc gia có mối quan hệ mật thiết, là yếu tố cần lưu ý khi
quan sát quá trình hội nhập khu vực.
Về cơ sở thực tiễn, hội nhập về đối ngoại và an ninh ở châu Âu đương
đại phát triển dựa trên ba nền tảng chính:
(i) Bối cảnh thế giới và khu vực có tác động thúc đẩy hoặc kìm hãm
quá trình hội nhập khu vực trong mọi lĩnh vực;
(ii) Nhu cầu phát triển và tư duy về an ninh thay đổi sau chiến tranh
Lạnh là cơ sở quan trọng để EU tiếp tục thúc đẩy tiến trình hội nhập, đưa tiến
trình này lên một tầm mức mới là hội nhập trong lĩnh vực đối ngoại và an ninh;
(iii) Ý chí chính trị của các quốc gia về hội nhập và mức độ hội nhập là
cơ sở thúc đẩy hoặc kìm hãm tiến trình hội nhập, đặc biệt quan trọng trong
trường hợp hội nhập về chính trị.
64
CHƯƠNG 2
NGHIÊN CỨU HỘI NHẬP KHU VỰC QUA CHÍNH SÁCH
ĐỐI NGOẠI VÀ AN NINH CHUNG CHÂU ÂU
2.1. Chính sách Đối ngoại và An ninh chung châu Âu
2.1.1. Nội dung chính sách
2.1.1.1. Mục tiêu chính sách
Các mục tiêu của CFSP đề ra trong Hiệp ước Liên minh châu Âu
(TEU) đến Hiệp ước Lisbon về cơ bản không thay đổi. Các hoạt động trong
khuôn khổ CFSP hướng tới các mục tiêu:
(i) Bảo vệ các giá trị chung, lợi ích cơ bản và độc lập của EU: đây là
một trong những mục tiêu ưu tiên và quan trọng hàng đầu của CFSP. Chính
sách Đối ngoại và An ninh chung châu Âu ra đời nhằm khẳng định một châu
Âu thống nhất toàn diện về mọi mặt, tạo ra một không gian kinh tế - chính trị
dân chủ, ổn định và phát triển.
(ii) Tăng cường môi trường an ninh của toàn Liên minh và của từng
quốc gia thành viên: từ khi ra đời cho đến nay, EU thường được đánh giá là
“gã khổng lồ về kinh tế” nhưng là “chú lùn về chính trị”, dẫn đến hạn chế
trong việc tự đảm bảo an ninh cho mình. Mặc dù đạt được nhiều thành tựu
đáng kể về hợp tác kinh tế, các chính sách xã hội (y tế, việc làm…), viện trợ
nhân đạo… nhưng EU vẫn chưa xây dựng được một cơ chế phối hợp hiệu quả
trong lĩnh vực an ninh. Các quốc gia thành viên EU đồng thời là thành viên
NATO vẫn quen dựa vào chiếc ô bảo hộ quân sự của tổ chức này. Từ năm
1999, Chính sách an ninh quốc phòng châu Âu (ESDP) được đề cập đến là
một phần quan trọng trong CFSP và dần được điều chỉnh để tăng cường hiệu
quả triển khai. Sự thay đổi tên gọi từ Chính sách An ninh Quốc phòng châu
Âu (ESDP) thành Chính sách An ninh Quốc phòng chung (CSDP) trong Hiệp
65
ước Lisbon một lần nữa khẳng định quyết tâm tăng cường hợp tác về an ninh,
quốc phòng trong nội khối EU.
(iii) Duy trì hoà bình và đảm bảo an ninh quốc tế: việc duy trì hoà bình
và đảm bảo an ninh quốc tế được coi là nghĩa vụ quốc tế của EU – một chủ
thể trong quan hệ quốc tế. Gìn giữ hoà bình và an ninh quốc tế phải dựa trên
nguyên tắc của Hiến chương Liên hiệp quốc: các nước bình đẳng về chủ
quyền, tôn trọng và làm tròn nghĩa vụ quốc tế, giải quyết hoà bình các tranh
chấp quốc tế, không dùng vũ lực và đe doạ dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế.
EU hiện thực hoá nghĩa vụ quốc tế của mình bằng các nhiệm vụ cụ thể nêu rõ
trong “Nhiệm vụ Petersberg”35. Nhiệm vụnày là một phần của ESDP/CSDP,
tập trung vào tăng cường sức mạnh trụ cột thứ hai của EU – Chính sách Đối
ngoại và An ninh chung. Từ những nhiệm vụ ban đầu được đề ra là: “…cứu
trợ nhân đạo, gìn giữ hoà bình, triển khai lực lượng thực địa với nhiệm vụ
quản lý khủng hoảng và kiến tạo hoà bình” [80, Điều J.7], theo điều 28B của
Hiệp ước Lisbon, Nhiệm vụ Petersberg được mở rộng, gồm: “…các hoạt
động chung giải trừ quân bị, cứu trợ nhân đạo, cố vấn và hỗ trợ quân sự,
ngăn chặn xung đột, gìn giữ hoà bình, triển khai quân giải quyết khủng hoảng
gồm cả nhiệm vụ kiến tạo hoà bình và ổn định sau khủng hoảng. Tất cả
những nhiệm vụ này góp phần chống lại chủ nghĩa khủng bố, gồm cả việc hỗ
trợ nước thứ ba trong cuộc chiến chống khủng bố trên lãnh thổ nước đó”36.
(iv) Tăng cường hợp tác quốc tế: trong bối cảnh khu vực hoá, toàn cầu
hoá, nhu cầu hợp tác quốc tế là tất yếu. Các quốc gia dù lớn hay nhỏ, phát
triển hay đang phát triển đều phải đối mặt với các vấn đề an ninh truyền thống
và phi truyền thống, đòi hỏi cần có sự góp sức, phối hợp cùng giải quyết
thông qua hợp tác đa phương. 35 Tiếng Anh: Petersberg Tasks 36 “Nhiệm vụ Petersberg” được nêu trong Hiệp ước Liên minh châu Âu (TEU) chỉ gồm: “… nhiệm vụ cứu trợ nhân đạo, gìn giữ hoà bình và nhiệm vụ triển khai quân để giải quyết khủng hoảng, gồm cả nhiệm vụ kiến tạo hoà bình” [61].
66
(v) Tăng cường dân chủ, pháp quyền, tôn trọng nhân quyền và các
quyền tự do cơ bản: là một trong những mục tiêu quan trọng được EU đề ra từ
những ngày đầu thành lập và cũng là mục tiêu gặp nhiều khó khăn khi triển
khai thực tế. Dân chủ, pháp quyền, nhân quyền là những vấn đề mang tính tự
quyết dân tộc nên khi thực hiện ở cấp độ Liên minh sẽ rất dễ bị hiểu nhầm
hoặc bị lợi dụng để can thiệp vào chủ quyền quốc gia. Chính vì thế, EU thực
hiện mục tiêu này bằng cách cùng xây dựng những giá trị dân chủ chung,
hướng tới những lợi ích chung của các quốc gia thành viên.
Điều 3 khoản 2 TEU nêu rõ: Liên minh cam kết xây dựng cho người dân
“…một khu vực tự do, an toàn và công lý không có biên giới nội khối, người
dân được tự do di chuyển cùng với các biện pháp thích hợp nhằm kiểm soát
biên giới, vấn đề tị nạn, nhập cư và phòng chống tội phạm” [61]. Với Hiệp ước
Lisbon, các nhà lãnh đạo EU cam kết xây dựng một châu Âu dân chủ và minh
bạch hơn. Nghị viện châu Âu và nghị viện các quốc gia thành viên được trao
thêm quyền hạn, đặc biệt trong lĩnh vực lập pháp và các vấn đề nội bộ. Vai trò
của Nghị viện được tăng cường, tạo nhiều cơ hội hơn để tiếng nói của nhân dân
được lắng nghe. Đồng thời, dựa trên Sáng kiến công dân, công dân các quốc
gia thành viên có khả năng yêu cầu Hội đồng châu Âu đưa ra những đề xuất
chính sách mới. Hiệp ước Lisbon tái khẳng định “4 quyền tự do” của công dân
gồm: tự do di chuyển hàng hoá, dịch vụ, dòng vốn và lao động.
2.1.1.2. Quy trình hoạch định chính sách
Cấu trúc của CFSP theo Hiệp ước Amsterdam (1997) gồm các bộ phận
chính là Uỷ ban An ninh Chính trị (PSC), Uỷ ban Quân sự Liên minh châu
Âu (EUMC), Ban Tham mưu quân sự Liên minh châu Âu (EUMS):
- Uỷ ban An ninh Chính trị (PSC): Uỷ ban nhóm họp ở cấp độ Đại sứ,
chuẩn bị các nội dung làm việc cho Hội đồng. Chức năng chính của PSC là
theo dõi diễn biến tình hình thế giới, định hướng chiến lược và đề xuất các
67
chính sách trong khuôn khổ CFSP/CSDP, đảm bảo EU có những phản ứng
phù hợp trước các vấn đề quốc tế.
- Uỷ ban Quân sự Liên minh châu Âu (EUMC)37: là cơ quan phụ trách
lĩnh vực an ninh quốc phòng cao nhất trong Hội đồng, gồm Tổng Tham mưu
trưởng/Tổng Tư lệnh quân đội của các quốc gia thành viên. EUMC cung cấp
cho PSC các khuyến nghị về tất cả các vấn đề quân sự trong phạm vi EU.
- Ban Tham mưu quân sự Liên minh châu Âu (EUMS)38: EUMS gồm
các chuyên gia quân sự từ các quốc gia thành viên, có nhiệm vụ đưa ra các
cảnh báo sớm, phân tích, đánh giá tình hình, xây dựng các kế hoạch chiến lược,
đào tạo binh lính và hỗ trợ các đối tác. EUMS giúp việc trực tiếp cho EUMC.
Ngoài ra, giúp việc cho Đại diện cấp cao về CFSP có Đơn vị cảnh báo
sớm và lập kế hoạch chính sách39 và Trung tâm xử lý khủng hoảng40. Quy
trình hoạch định CFSP được quy định rõ ràng hơn trong Hiệp ước
Amsterdam, nhưng về tổng thể, cấu trúc CFSP cho thấy sự chồng chéo về
nhiệm vụ và trách nhiệm của một số bộ phận chuyên trách, ví dụ: PSC và
PoCo41 đều có chức năng khuyến nghị cho Hội đồng đối ngoại (GAC) về
CFSP/ESDP, EUMS và Trung tâm xử lý khủng hoảng đều có chức năng tham
vấn chuyên biệt về quân sự…42 Sự chồng chéo và chức năng, nhiệm vụ giữa
các đơn vị triển khai khiến CFSP bế tắc trong thực tiễn triển khai. Hiệp ước
Lisbon đưa ra nhiều sáng kiến để khắc phục tình trạng này.
EEAS, cơ quan duy nhất chuyên trách về chính sách đối ngoại và an
ninh chung của châu Âu, là cơ quan chịu trách nhiệm chính triển khai CFSP
đồng thời là đơn vị kiểm soát hoạt động của các phái đoàn châu Âu ở nước
ngoài. EEAS đưa ra các chính sách, khuyến nghị, giải pháp liên quan đến lĩnh 37 Tiếng Anh: European Union Military Committee 38 Tiếng Anh: European Union Military Staff 39 Tiếng Anh: Policy Planning and Early Warning Unit 40 Tiếng Anh: Situation Center/Crisis Cell 41 Tiếng Anh: Political Committee 42 Tham khảo thêm Bảng 1 “Cấu trúc CFSP/CSDP sau Tuyên bố St. Malo (1998)”
68
vực đối ngoại cũng như đảm bảo an ninh châu Âu để các thành viên bỏ phiếu.
Mặc dù hoạt động đối ngoại của EU được tập trung về một mối nhưng quy
trình ra quyết định vẫn giữ nguyên tắc đồng thuận để đảm bảo quyền tự quyết
của các quốc gia thành viên.
Quy trình ra quyết định các vấn đề thuộc CFSP tương đối khác so với
quy trình lập pháp của EU áp dụng đối với tất cả các vấn đề thuộc các lĩnh
vực khác. Ngay cả sau khi được sửa đổi bổ sung trong Hiệp ước Lisbon, quy
trình ra quyết định trong lĩnh vực CFSP vẫn được điều chỉnh bởi những
nguyên tắc, quy trình riêng. Quy trình này được Hội đồng châu Âu định ra và
triển khai một cách thống nhất (trừ những điểm Hiệp ước có quy định khác).
CFSP hoạt động theo cơ chế liên chính phủ và tuân theo nguyên tắc “nhất trí”43. Nguyên tắc này càng bộc lộ tính hạn chế khi EU tăng số lượng thành viên lên đến 12 và 2844 qua ba lần mở rộng. Nếu tiếp tục giữ nguyên tắc
này thì EU khó có thể đạt được sự thống nhất trong một lĩnh vực nhạy cảm
như CFSP. Tuy nhiên, dù có điều chỉnh thế nào trong khâu đưa ra quyết định
thì nguyên tắc nhất trí luôn là nền tảng cơ bản. Điều 28A Hiệp ước Lisbon
khẳng định nguyên tắc “nhất trí” trong các vấn đề quốc phòng: “Các quyết
định liên quan đến chính sách chung về an ninh và quốc phòng, bao gồm cả
việc triển khai nhiệm vụ dựa trên quy định tại điều này sẽ được Hội đồng
thông qua theo nguyên tắc nhất trí…hoặc dựa trên đề xuất của Đại diện cấp
cao về an ninh và đối ngoại” [86, tr. 37]. Đồng thời, “Đại diện cấp cao có thể
đề nghị sử dụng nguồn lực quốc gia và các công cụ của Liên minh kết hợp với
Uỷ ban khi cần thiết” [86, tr. 37]. Điều này giúp cải thiện tính minh bạch
trong quy trình ra quyết định.
Bên cạnh đó, Hiệp ước quy định Hội đồng có thể hành động theo đa số
đủ điều kiện khi thông qua quyết định xác định một hành động của Liên minh
hoặc thông qua một yêu cầu cụ thể của Hội đồng [61, tr.138]. Tuy nhiên, nếu 43 Tiếng Anh: unanimity 44 Anh tuyên bố rời khối năm 2016 và chính thức mất tư cách thành viên EU từ năm 2019, sau khi hoàn tất các thủ tục pháp lý. Từ năm 2019, EU có 27 quốc gia thành viên.
69
một thành viên của Hội đồng tuyên bố phản đối quyết định được thông qua
theo đa số đủ điều kiện vì những lý do liên quan đến chính sách quốc gia thì
Hội đồng sẽ đề nghị vấn đề đó được thông qua theo nguyên tắc nhất trí. Ngoài
ra, khả năng sử dụng quyền phủ quyết (veto) vẫn được duy trì. Tuy nhiên,
quốc gia thành viên phải đưa ra lý do hợp lý khi sử dụng quyền này. Yêu cầu
giải trình khi sử dụng quyền veto vẫn không ngăn được thành viên sử dụng
quyền này một khi quốc gia đó quyết tâm bảo vệ lợi ích của mình, bất đồng
với đa số.
Hiệp ước Lisbon tiếp tục duy trì quyền bỏ phiếu trắng mang tính xây
dựng. Quyền này cho phép một quốc gia thành viên không tham gia vào hành
động chung nhưng không cản trở việc thông qua quyết định, không được phép
hành động chống lại quyết định đã được Liên minh thông qua. Tuy nhiên, cơ chế
này không được sử dụng nếu số phiếu trắng chiếm 1/3 số phiếu trong Hội đồng
[61, tr.19].
Quyết định của Hội đồng về các lợi ích chiến lược và mục tiêu của Liên
minh có tính đến mối quan hệ của Liên minh với các quốc gia hoặc khu vực
cụ thể. Đại diện cao cấp của Liên minh trong lĩnh vực đối ngoại và an ninh và
cơ quan chuyên trách về đối ngoại của Uỷ ban châu Âu có thể đệ trình các đề
xuất chung lên Hội đồng. Trong trường hợp tình hình quốc tế đòi hỏi hành
động triển khai ngay, Hội đồng sẽ thông qua các quyết định cần thiết dựa trên
các mục tiêu, phạm vi, phương tiện và điều kiện triển khai của Liên minh. Bất
cứ khi nào một kế hoạch được thông qua ở cấp độ quốc gia hoặc hành động ở
cấp quốc gia căn cứ theo quyết định của Hội đồng thì quốc gia liên quan phải
cung cấp đầy đủ và kịp thời các thông tin liên quan và nếu cần thiết có thể
tham vấn trước Hội đồng.
Đại diện cấp cao về đối ngoại và an ninh (HR/VP) - người đứng đầu
EEAS, đồng thời là Phó Chủ tịch Uỷ ban, có trách nhiệm thường xuyên tham
vấn cho Nghị viện châu Âu về các vấn đề chính và những lựa chọn cơ bản của
chính sách đối ngoại và an ninh chung, đồng thời phải thông báo cho Nghị
70
viện biết tiến trình triển khai các chính sách này trong thực tế. Vị “Ngoại
trưởng châu Âu” này phải đảm bảo các quan điểm của Nghị viện đều được
cân nhắc trong quá trình hoạch định chính sách. Đồng thời, Nghị viện có thể
chất vấn Hội đồng hoặc đưa ra các khuyến nghị cho Hội đồng và Đại diện cấp
cao. Một năm hai lần, Nghị viện có thể tổ chức đối chất về quá trình triển khai
CFSP bao gồm cả CSDP [61, tr.19]. Với sự điều chỉnh này, Nghị viện châu
Âu và Nghị viện các quốc gia thành viên có thể tăng cường khả năng giám sát
đối với lĩnh vực đối ngoại và an ninh của khối.
2.1.1.3. Cơ chế hoạt động
Trước Hiệp ước Lisbon, cơ quan cao nhất đưa ra các quyết định định
hướng chính sách cho CFSP là Hội đồng và GAC. Chủ tịch Hội đồng là người
tham gia vào công việc quản trị hàng ngày, trong đó bao gồm CFSP. Tuy
nhiên, chức danh này được quy định luân phiên 6 tháng. Trong khi đó, Tổng
Thư ký Hội đồng lại đồng thời là Đại diện cấp cao (HR) về CFSP, nhằm đảm
bảo EU có tiếng nói thống nhất về các vấn đề quốc tế. Hiệp ước Amsterdam
quy định vai trò của HR trong việc “… hình thành, chuẩn bị và triển khai các
quyết định chính sách, và đại diện cho Hội đồng theo đề nghị của Chủ tịch tổ
chức đối thoại chính trị với bên thứ ba” [80, Điều 26]. Tuy nhiên, trong mỗi
vấn đề đều cần có sự thống nhất của tất cả thành viên. Đồng thời, các chính
sách trong phạm vi CFSP chịu sự chi phối của nhiều chức vụ khác nhau và bị
phân tán ở nhiều bộ phận (GAC, PoCo, PSC), không tạo được sự nhất quán
về chính sách và thống nhất trong triển khai. HR trong cấu trúc CFSP trước
Hiệp ước Lisbon thực chất chỉ mang tính chất biểu tượng, là người phát ngôn
về các vấn đề liên quan đến đối ngoại, an ninh hơn là người thực sự có tác
động đến chính sách.
71
Bảng 1: Cấu trúc CFSP/CSDP sau Tuyên bố St. Malo (1998)
Hội đồng châu Âu Nguyên thủ các QG thành viên
Uỷ ban châu Âu
Nghị viện châu Âu (chức năng tư vấn)
Hội đồng các v/đ chung – Các Bộ trưởng ngoại giao (Bộ trưởng Quốc phòng khi phù hợp)
Uỷ ban Chính trị (PoCo)
Uỷ ban Chính trị và An ninh
Đại diện thường trực (Coreper)
Tổng Thư ký/Đại diện cấp cao về CFSP
Tổng vụ trưởng Quan hệ đối ngoại
Nhóm chuyên gia về Quân sự - Chính trị
Uỷ ban xử lý khủng hoảng dân sự
Vụ trưởng Vụ khu vực và các v/đ thời sự
Ban Kế hoạch chính sách và Cảnh báo sớm
Trung tâm xử lý khủng hoảng
Uỷ ban Quân sự EU
Nhóm chuyên gia quân sự
Nhân viên quốc phòng EU
Nguồn: Trevor C. Salmon & Alistair J. K. Shepherd (2003), Toward a European Army – A Military Power in the Making?, Lynne Rienner Publishers, London
Hiệp ước Lisbon đã đưa ra một số điều chỉnh về mặt thể chế, cơ cấu tổ
chức nhằm khắc phục nhược điểm này:
(i) Chủ tịch thường trực của Hội đồng Bộ trưởng
Hiệp ước Lisbon cố gắng thay đổi sự thiếu liên tục của chức Chủ tịch
luân phiên 6 tháng bằng một vị trí Chủ tịch Thường trực trong Hội đồng Bộ
trưởng. Chủ tịch Thường trực được lựa chọn thông qua hình thức bầu cử đa số
tương đối45 với nhiệm kỳ 2,5 năm (điều 9B) [86, tr.19]. Vị trí này được thiết
lập nhằm tạo ra tầm nhìn xa và ổn định hơn đối với “sự chuẩn bị và đảm bảo
45 Tiếng Anh: qualified majority voting (QMV)
tính liên tục trong các công việc của Hội đồng châu Âu”, đồng thời cũng thể
72
hiện “tính đại diện về mặt đối ngoại của Liên minh trong lĩnh vực đối ngoại
và an ninh chung” [86, tr.19].
(ii) Điều chỉnh quyền hạn của chức danh Đại diện cấp cao về chính
sách đối ngoại và an ninh
Hiệp ước Lisbon điều chỉnh vai trò và quyền hạn của chức danh Đại diện
cấp cao của Liên minh về chính sách đối ngoại và an ninh (HR về CFSP). Cùng
với việc thống nhất các cơ quan phụ trách về chính trị, đối ngoại và an ninh,
quyền lực của HR không còn phân tán như trước đây mà tập trung về một mối.
Đồng thời, thay vì là Tổng Thư ký Hội đồng kiêm nhiệm, HR trong Hiệp ước
Lisbon đồng thời là Phó Chủ tịch Uỷ ban (VP). Chức danh này được gọi tắt là
HR/VP, tương đương Ngoại trưởng EU, có nhiệm vụ:
- Triển khai các chính sách đối ngoại và an ninh thay mặt cho Hội
đồng, chịu trách nhiệm về tất cả các hoạt động của Hội đồng quan hệ đối
ngoại [86, tr. 23]. Trước đây, Chủ tịch luân phiên là người chủ trì các phiên
họp của Hội đồng các vấn đề chung và quan hệ đối ngoại (GAERC). Đến
Hiệp ước Lisbon, Hội đồng này sẽ tách làm hai, HR/VP là người chịu trách
nhiệm hoạt động của Hội đồng quan hệ đối ngoại và Chủ tịch luân phiên tiếp
tục phụ trách Hội đồng các vấn đề chung [157];
- Tham gia vào quá trình soạn thảo CFSP, có quyền đưa ra các kiến
nghị, sáng kiến riêng hoặc phối hợp với Uỷ ban, có thể chất vấn Hội đồng và
triệu tập cuộc họp bất thường trong trường hợp khẩn cấp;
- Đóng vai trò đại diện cho EU trong các cuộc đối thoại chính trị với
bên thứ ba, thể hiện vai trò của Liên minh trong các tổ chức quốc tế và trên
các diễn đàn liên chính phủ;
- Có trách nhiệm điều hoà, tạo sự hài hoà về mặt quan điểm giữa các
quốc gia thành viên. [86, tr.28]
73
Đây là thay đổi có ý nghĩa quan trọng, nhằm tạo ra sự gắn kết hơn giữa
trụ cột thứ nhất và thứ hai, tạo ra “trụ” nối giữa Hội đồng và Uỷ ban bằng
cách đưa vai trò của vị Đại diện cấp cao về CFSP tại Hội đồng và Cao Uỷ
viên phụ trách đối ngoại trong Uỷ ban về một mối. Người được bổ nhiệm vào
vị trí Đại diện cấp cao về an ninh và đối ngoại phải được Hội đồng Bộ trưởng
(thông qua đa số tán thành) chỉ định với sự chấp thuận của Chủ tịch Uỷ ban
và sự đồng thuận Nghị viện. Bên cạnh đó, Đại diện cấp cao về đối ngoại và an
ninh còn là một trong các Phó Chủ tịch Uỷ ban Châu Âu. Với vai trò kiêm
nhiệm như vậy, HR/VP hành động với sự uỷ quyền của Hội đồng và chịu
trách nhiệm về mối quan hệ hài hoà, hợp tác giữa Hội đồng và Uỷ ban trong
việc xử lý các vấn đề đối ngoại (điều 9E) [86, tr.23].
(iii) Thành lập Cục hành động đối ngoại (EEAS)
Để hỗ trợ cho nhiệm vụ mới của HR/VP, Cục hành động đối ngoại châu
Âu (EEAS) được thành lập [86, tr.28]. EEAS tập hợp các chuyên viên từ Hội
đồng, Uỷ ban và các nhà ngoại giao của các quốc gia thành viên. EEAS phối
hợp hoạt động với các quốc gia thành viên và các thể chế khác, đặc biệt là
Nghị viện châu Âu và các nước thành viên cùng triển khai các hoạt động hỗ
trợ đối với nước thứ ba. Ngân sách của EEAS dựa trên dòng ngân sách từ Ban
Thư ký Hội đồng và Uỷ ban chuyển sang.
Ý tưởng thành lập EEAS được nêu trong Bản dự thảo Hiến pháp chung.
Sau khi cuộc trưng cầu dân ý tại Pháp và Hà Lan thất bại, EEAS tiếp tục được
đưa vào dự thảo Hiệp ước Lisbon với một vài điều chỉnh nhỏ nhưng vẫn giữ
chức năng chính của cơ quan này là triển khai các hoạt động trong phạm vi
CFSP, hỗ trợ HR/VP trong hoạch định chính sách, lên lộ trình và kế hoạch
hành động. EEAS hoạt động độc lập với Uỷ ban và Hội đồng, hỗ trợ Chủ tịch
Hội đồng và Chủ tịch Uỷ ban theo chức năng của hai cơ quan này trong lĩnh
vực đối ngoại. EEAS chính thức thành lập tháng 12/2009 và đi vào hoạt động
từ tháng 01/2011.
74
Bảng 2: Cơ cấu tổ chức của EEAS trung ương (cập nhật đến tháng 3/2018)
Nguồn: EEAS
75
(iv) Điều chỉnh quan hệ giữa Hội đồng – Nghị viện – Uỷ ban và vị trí
Đại diện cấp cao về đối ngoại và an ninh châu Âu trong CFSP
Uỷ ban châu Âu và Nghị viện châu Âu trong Hiệp ước Lisbon được
quy định thẩm quyền nghiêm ngặt, không được tham gia vào lĩnh vực nhạy
cảm như CFSP. Tuyên bố 14 của Hiệp ước Lisbon nêu rõ: “Các điều khoản
liên quan đến Chính sách Đối ngoại và An ninh chung không quy định quyền
đối với Uỷ ban trong việc khuyến nghị các quyết định hay tăng cường vai trò
của Nghị viện” [86, tr. 225]. Tuy nhiên, việc bổ nhiệm vị trí Đại diện cấp cao
về đối ngoại và an ninh cần có sự chấp thuận của Nghị viện châu Âu. Điều
này thể hiện Nghị viện dù sao vẫn có một sự kiểm soát dân chủ đối với vị trí
mới này. Đồng thời, cũng như trước đây, các quan điểm của Nghị viện, đặc
biệt các vấn đề về nguyên tắc có thể được đưa ra xem xét trước Hội đồng.
Đồng thời là Phó Chủ tịch Uỷ ban châu Âu, vị trí Đại diện cấp cao này
vẫn bảo vệ quyền lợi của Uỷ ban trước Hội đồng. Tuy nhiên, khoản 4 điều 18
Hiệp ước Liên minh châu Âu quy định Uỷ ban có quyền “được liên kết/phối
hợp chặt chẽ”46 trong việc triển khai các hoạt động đối ngoại và an ninh, Uỷ
ban có quyền đệ trình các kiến nghị liên quan đến CFSP lên Hội đồng, đến
Hiệp ước Lisbon thì Uỷ ban không còn quyền này. Điều 22 Hiệp ước Lisbon
có đề cập đến quyền Uỷ ban được đưa ra các chất vấn với CFSP nhưng cấp độ
liên đới của Uỷ ban đối với lĩnh vực an ninh và đối ngoại đã có phần hạn chế
hơn ở Hiệp ước Lisbon.
2.1.2. Công cụ thực thi chính sách
2.1.2.1. Công cụ thực thi Chính sách đối ngoại
* Chương trình đối tác (PI)47
Trong chính sách đối ngoại của mình, EU luôn chú trọng phát triển
quan hệ đối tác với các quốc gia, gồm các nền kinh tế hàng đầu thế giới và 46 Tiếng Anh: fully associated 47 Tiếng Anh: Partnership Instrument
76
các nước có vai trò quan trọng theo từng khu vực. Chương trình đối tác (PI)
của EU đặt mục tiêu thúc đẩy quan hệ song phương, đa phương giúp Liên
minh tăng cường các lợi ích chính trị, kinh tế, thực hiện các cam kết chính trị
và đối phó hiệu quả với các thách thức toàn cầu. Với chiến lược phát triển
châu Âu đến 2020, EU tập trung nguồn lực cho các hoạt động tăng cường
năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp nội khối, hỗ trợ công tác nghiên
cứu và sáng tạo, giải quyết vấn đề di cư cũng như các vấn đề mang tính toàn
cầu khác như an ninh năng lượng, biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường. PI
cũng dành ngân sách cho các hoạt động ngoại giao kinh tế, giúp EU nâng cao
khả năng tiếp cận với thị trường các nước đang phát triển, tăng cường cơ hội
giao thương, đầu tư của các doanh nghiệp EU với các nước này. [71]
Bên cạnh đẩy mạnh hợp tác với các nước thứ ba, EU vẫn cố gắng duy
trì tốt quan hệ song phương với các quốc gia và vùng lãnh thổ phát triển trên
thế giới, đặc biệt chú trọng khu vực Bắc Mỹ, Đông Á, Đông Nam Á, khu vực
vùng Vịnh. Việc duy trì và tăng cường quan hệ đối tác với các nền kinh tế
phát triển giúp EU khẳng định vị trí, vai trò của mình trong quan hệ quốc tế,
giữ cân bằng cán cân quyền lực trong hệ thống chính trị quốc tế.
* Biện pháp cấm vận
Cấm vận là một trong những công cụ cần thiết được sử dụng để thực
hiện các mục tiêu được đề ra trong CFSP. Các biện pháp cấm vận được thực
thi nhằm chống lại, hạn chế một số cá nhân, tổ chức, nước thứ ba nhất định bị
cho là có các hành động có tác động tiêu cực, đi ngược lại các nguyên tắc đề
ra trong CFSP và của Liên minh nói chung. Chính sách cấm vận được EU áp
dụng tuân theo Nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc. Trong một
số trường hợp EU có quyền áp dụng lệnh cấm vận riêng. Các lệnh cấm vận
theo phán quyết của Liên hợp quốc hay do EU ban hành đều được cân nhắc
dựa trên khuôn khổ chiến lược đối ngoại của EU, gồm cả biện pháp đối thoại
77
chính trị và sử dụng các công cụ khác. Lệnh cấm vận được xem xét định kỳ,
đưa ra những điều chỉnh cần thiết phù hợp với tình hình thực tế và tính hiệu
quả của biện pháp, công cụ được sử dụng. [48]
*Các phái đoàn quan sát bầu cử (EOMs) 48
Giám sát bầu cử của Liên minh châu Âu là một trong những hoạt động
quan trọng của EU nhằm thúc đẩy dân chủ, nhân quyền và thực thi hệ thống
pháp luật trên thế giới. Các phái đoàn giám sát bầu cử của EU được triển khai
nhằm đảm bảo nguyên tắc dân chủ, xây dựng lòng tin của người dân vào cuộc
bầu cử, ngăn chặn tình trang gian lận, bạo lực trong qúa trình bầu cử. EOMs là
công cụ hỗ trợ cho các mục tiêu đối ngoại khác của Liên minh, đặc biệt là mục
tiêu xây dựng hòa bình. Từ năm 2000 đến nay, đã có hơn 120 phái đoàn được
EU cử đến các nước thực hiện sứ mệnh quan sát bầu cử, đồng thời hỗ trợ về tài
chính và kỹ thuật cho các nước trong quá trình bầu cử. Một số nước nhận được
sự hỗ trợ của EU như Sri Lanka, Myanmar, Haiti, Uganda, Peru… [72]
*Chương trình hành động vì sự ổn định và hòa bình thế giới (IcSP)49
Khẳng định vai trò của Liên minh đối với sự ổn định trong khu vực và
hòa bình trên thế giới là một trong những mục tiêu quan trọng EU theo đuổi
từ khi thành lập đến nay. EU luôn phấn đấu trở thành chủ thể đi đầu, có ảnh
hưởng lớn trong công cuộc ngăn ngừa, xử lý các vấn đề toàn cầu. IcSP là
công cụ thực thi chính sách đối ngoại và an ninh quan trọng bên cạnh EEAS,
được triển khai trong các trường hợp EU cần phản ứng nhanh đối với các tình
huống cần hỗ trợ nhân đạo khẩn cấp, các cuộc khủng hoảng đang diễn ra, xây
dựng năng lực trong dài hạn cho các tổ chức với mục tiêu xử lý khủng hoảng
và kiến tạo hòa bình. Trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động, chủ nghĩa
khủng bố phát triển như hiện nay, IcSP còn đặt mục tiêu ngăn ngừa xung đột,
đối phó với các cuộc khủng hoảng tiềm tàng, phản ứng trước các nguy cơ 48 Tiếng Anh: Election Observation Missions (EOMs) 49 Tiếng Anh: Instrument contributing to Stability and Peace
78
tiềm ẩn ở cấp độ khu vực và toàn cầu. IcSP được triển khai cùng các đối tác là
Liên hiệp quốc, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức quốc tế… [66]
2.1.2.2. Công cụ thực thi Chính sách quốc phòng
* Quân đoàn châu Âu (Eurocorps)
Eurocorps thành lập dựa trên kết quả của Hiệp ước Élysée ký ngày 22
tháng 1 năm 1963 giữa Pháp và Đức. Hiệp ước nhằm tăng cường mối quan hệ
giữa 2 quốc gia Pháp – Đức, trước hết trong lĩnh vực quốc phòng. Một Hội
đồng an ninh phòng thủ Pháp – Đức được thành lập. Sau đó, lãnh đạo cấp cao
hai nước quyết định mở rộng hơn nữa quy mô của liên quân này, cho phép
các thành viên khác của Liên minh Tây Âu (WEU) cùng tham gia. Trên cơ sở
đó, Eurocorps chính thức ra mắt tại Hội nghị thượng đỉnh La Rochelle
22/5/1992. Một số nước khác tham gia vào Quân đoàn là Bỉ, Luxembourg,
Tây Ban Nha [81].
Eurocorps được xây dựng với khả năng có thể can thiệp vào các cuộc
khủng hoảng và hành động như một lực lượng phản ứng nhanh của EU trong
việc giải quyết xung đột và hậu xung đột, đồng thời cũng thực hiện các nhiệm
vụ cứu trợ nhân đạo, gìn giữ hòa bình trong khuôn khổ của Liên hiệp quốc
hoặc Tổ chức Hợp tác an ninh châu Âu (OSCE), được huấn luyện để triển khai
quân trong các trận chiến khốc liệt nhằm đảm bảo nền phòng thủ chung cho các
đồng minh được quy định trong chương V của Hiệp ước Washington (NATO)
và hiệp ước Brussels (WEU). Tuyên bố Petersberg ngày 19/6/1992 xác định
vai trò của WEU là một cánh tay quân sự của EU. Từ định hướng này,
Eurocorps được đặt dưới sự chỉ huy của WEU. Tuy nhiên, sự ra đời của
Eurocorps đã gây ra căng thẳng trong mối quan hệ Mỹ - Tây Âu. Vì vậy, để
xoa dịu người Mỹ, trong thỏa thuận SACEUR 21/1/1993 nêu rõ: các nhiệm vụ
của Eurocorps được triển khai trong khuôn khổ NATO trong những trường hợp
được xác định là khẩn cấp, sự phân công nhiệm vụ trong quân đoàn do Tổng tư
lệnh NATO đảm nhiệm [191]. Tính đến nay, Eurocorps đã có sự tham gia của
Hy Lạp, Ba Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, Canada, Áo, Phần Lan, Ý, Anh, Hà Lan.
79
* Lực lượng phản ứng nhanh (European Rapid Reaction Force - ERRF)
Ý tưởng thành lập một lực lượng quân đội riêng của châu Âu đã có từ
lâu, nhưng đến Hội nghị thượng đỉnh châu Âu tại Helsinki tháng 12/1999 mới
được hiện thực hóa. EU tuyên bố thành lập lực lượng phản ứng nhanh của
châu lục gồm khoảng 50.000 đến 60.000 quân, có chức năng “triển khai và
thực thi các sứ mệnh nhân đạo, cứu hộ và gìn giữ hòa bình” [138], có thể
được gửi ra nước ngoài. Lực lượng này tạo cho EU có khả năng giải quyết
khủng hoảng bằng quân sự tại châu Âu cũng như tại một số khu vực ảnh
hưởng lợi ích của EU mà không có sự tham gia hay chỉ đạo của Mỹ. Mục tiêu
của EU là có thể tiến hành các hoạt động quân sự chủ yếu trong biên giới EU,
nếu cần thiết có thể triển khai quân ra ngoài biên giới (thực hiện vai trò nước
lớn trong quan hệ quốc tế).
ERRF tuyên bố hình thành từ Hội nghị Helsinki 12/1999, đơn vị quân
đầu tiên của ERRF có khả năng triển khai vào năm 2007. Từ ngày 1/1/2007,
60.000 quân đã sẵn sàng, có khả năng triển khai trong vòng ít nhất một năm.
Tuy nhiên, trên thực tế, khác với tên gọi của nó, ERRF không phải là một lực
lượng thường trực. Các quân đoàn được duy trì trong lực lượng quân đội
riêng của từng quốc gia thành viên (khi không phải tập trung triển khai hoặc
tập trận) và chính phủ các quốc gia có quân tham gia ERRF vẫn có quyền
quyết định có gửi quân của mình đi hay không trong những trường hợp cụ
thể. Hiện nay, các nước gửi quân tham gia vào lực lượng này chủ yếu là Anh,
Pháp, Đức, Ý và Tây Ban Nha.
Nhiệm vụ Petersberg quy định các nhiệm vụ cụ thể của ERRF là tham
gia vào các hoạt động nhân đạo, cứu trợ, gìn giữ và kiến tạo hòa bình (bao
gồm cả việc tham gia giải trừ quân bị), giải quyết hậu xung đột, đồng thời
đóng góp cho cuộc chiến chống khủng bố, gồm cả việc giúp cho nước thứ ba
chống khủng bố trong địa phận nước đó.
* Lực lượng quân đội châu Âu hình thành theo chiến dịch (EUROFOR,
KFOR, SFOR...)
80
Bên cạnh ERRF và Eurocorps, EU còn triển khai nhiều hoạt động gìn
giữ hòa bình bằng việc hình thành các lực lượng quân đội tham gia vào các
điểm nóng xung đột như Bosnia, Herzegovina (EUROFOR), Kosovo
(KFOR), Afganishtan, Serbia... Việc đóng góp quân cho lực lượng này tùy
thuộc vào sự tự nguyện và năng lực của các quốc gia thành viên. Hoạt động
của liên quân có thể độc lập hoặc kết hợp với NATO, Hoa Kỳ trong một số
trường hợp (tham chiến ở Kosovo, Afganistan…). Lực lượng này cũng là một
trong những công cụ thực thi chính sách phòng thủ và an ninh chung, nhằm
duy trì môi trường ổn định ở khu vực đồng thời thực hiện sứ mệnh quốc tế
trong việc gìn giữ hòa bình, an ninh thế giới được quy định trong Hiến
chương Liên hiệp quốc.
2.2. Thực tiễn triển khai Chính sách từ năm 1992 – 2018
2.2.1. Giai đoạn 1992 – 2009:
Chính sách Đối ngoại và An ninh chung được đề cập đến từ Hiệp ước
Maastricht (1992). Đây là Hiệp ước khai sinh ra Liên minh châu Âu. Lần đầu
tiên 12 quốc gia châu Âu được đặt dưới một lá cờ chung, biểu tượng của Liên
minh cho đến ngày nay. Thuyết kiến tạo và thuyết chức năng đã thành công
trong việc mô tả và dự báo tiến trình hội nhập châu Âu trong giai đoạn này.
Một “bản sắc châu Âu” đã dần được định hình.
Hiệp ước có 5 điểm đáng chú ý:
- Xây dựng quy chế công dân châu Âu với các quyền và nghĩa vụ đối
với mỗi công dân của cộng đồng;
- Thiết lập một liên minh tiền tệ với một đồng tiền chung;
- Trang bị cho cộng đồng một “Chính sách Đối ngoại và An ninh
chung” (CFSP);
- Hình thành mối hợp tác tư pháp và cảnh sát, xây dựng Cộng đồng
kinh tế châu Âu thành Liên minh châu Âu;
81
- Trang bị cho liên minh mới này những phương tiện để trở thành một
“châu Âu hùng mạnh” trên phạm vi toàn cầu, một liên minh ngoại giao, chính
trị và quân sự, nếu như người dân châu Âu có ý nguyện đó.
Về đối ngoại và an ninh, nhằm củng cố bản sắc và sự độc lập của EU
(trong khuôn khổ NATO), Hiệp ước Maastricht hướng tới việc xây dựng một
chính sách đối ngoại, an ninh và chính sách quốc phòng chung mà vào thời
điểm thích hợp sẽ dẫn đến phòng thủ chung [47, Lời nói đầu và Điều J4]. Tuy
nhiên, những mục tiêu của CFSP nêu trong Hiệp ước với thuật ngữ chung
chung như “…nhằm bảo vệ những giá trị chung, lợi ích cơ bản và sự độc lập
của Liên minh”, “tăng cường an ninh của Liên minh trên mọi phương diện,
thúc đẩy hợp tác quốc tế”, “phát triển và củng cố nền dân chủ và nhà nước
pháp quyền, đề cao quyền con người và những quyền tự do cơ bản…” đã
không đáp ứng được đòi hỏi của quá trình liên kết khu vực trong lĩnh vực đối
ngoại và an ninh. Mục tiêu cụ thể về hợp tác quốc phòng, cốt lõi của đảm bảo
an ninh khu vực không được đề cập cụ thể trong CFSP. Hợp tác trong các vấn
đề an ninh quốc phòng ở khu vực được đặt trong khuôn khổ hoạt động của
WEU. Hiệp ước khẳng định WEU có trách nhiệm thực hiện phối hợp, “bổ
sung” cho hoạt động của NATO, là trụ cột châu Âu trong lòng NATO. WEU
với khả năng tác chiến được nâng cao có thể trở thành cánh tay vũ trang của
EU. Đây là cách EU giải quyết bất đồng quan điểm giữa các thành viên về vấn
đề hợp tác quốc phòng trong nội khối. Tuy nhiên, việc đưa hợp tác quốc phòng
vào khuôn khổ CFSP vẫn được xác định là “mục tiêu dài hạn”, do tại thời điểm
Hiệp ước Maastricht được ký kết, ba thành viên EU không tham gia WEU là
Ireland, Đan Mạch và Hy Lạp50, đồng thời không có điều khoản nào quy định
50 Hy Lạp gia nhập WEU năm 1995
thành viên EU là thành viên WEU và ngược lại.
82
Hiệp ước Amsterdam (1997) thể hiện bước phát triển mới của CFSP về
mặt nội dung. Theo Hiệp ước, các quốc gia thành viên cam kết “…làm việc
cùng nhau nhằm tăng cường và phát triển tinh thần đoàn kết chính trị tương
hỗ lẫn nhau” [80, tr. 10], hướng tới thực hiện các mục tiêu:
- Gìn giữ những giá trị chung của Cộng đồng, các giá trị lợi ích căn bản, độc
lập toàn vẹn của Liên minh phù hợp với nguyên tắc Hiến chương Liên hiệp quốc;
- Thúc đẩy an ninh của Liên minh trên mọi phương diện;
- Duy trì hoà bình và tăng cường an ninh quốc tế phù hợp với Hiến
chương Liên hiệp quốc, Hành động Helsinki và các mục tiêu của Hiến
chương Paris, bao gồm cả khu vực bên ngoài biên giới;
- Thúc đẩy hợp tác quốc tế;
- Củng cố và phát triển dân chủ, vai trò của pháp luật, tôn trọng các giá
trị và quyền tự do của con người [80, tr. 9-10].
So với Hiệp ước Maastricht, cụm từ “tinh thần đoàn kết chính trị tương
hỗ lẫn nhau”51 được bổ sung trong Hiệp ước Amsterdam thể hiện bước tiến
mới của EU trong tiến trình hợp tác chính trị. Tuy nhiên, khía cạnh quốc
phòng trong CFSP chưa được đề cập tới. Hợp tác an ninh quốc phòng của EU
vẫn đặt trong khuôn khổ WEU. Điều J.7, khoản V Hiệp ước nêu rõ: “…WEU
là một phần không thể thiếu trong sự phát triển của Liên minh…, hỗ trợ Liên
minh trong việc định hình khía cạnh quốc phòng của chính sách đối ngoại và
an ninh chung… Tiến trình định hình khung cho chính sách quốc phòng
chung được các thành viên hỗ trợ, cân nhắc vào thời điểm thích hợp, cùng
hợp tác trong lĩnh vực (mua bán, sản xuất) khí tài” [80, tr.12]. Đồng thời,
Nhiệm vụ Petersberg được đưa vào khuôn khổ CFSP: “… Các vấn đề được
điều chỉnh theo Điều này (Điều J.7) bao gồm các nhiệm vụ nhân đạo và cứu
51 Tiếng Anh: “… mutual political solidarity”
trợ, nhiệm vụ gìn giữ hoà bình và triển khai thực địa nhằm quản lý khủng
83
hoảng, bao gồm nhiệm vụ kiến tạo hoà bình” [80, tr.12]. Hiệp ước
Amsterdam tuyên bố hình thành chức danh Đại diện cấp cao (HR) về CFSP,
đồng thời là Tổng Thư ký Hội đồng [80, tr.132]
Như vậy, so với bản hiệp ước được EU thông qua năm năm trước,
không thể phủ nhận Hiệp ước Amsterdam đã đưa tiến trình hội nhập chính trị
tiến thêm một bước mới, CFSP được cụ thể hoá hơn trên văn bản. Cơ chế
hoạt động đã được định hình nhưng còn gây nhiều tranh cãi do sự bố trí chưa
rõ ràng, chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận triển khai.
Nhiều chuyên gia nhận định rằng Hiệp ước Amsterdam có nhiều đổi mới về
“câu chữ” nhưng những “đổi mới” này triển khai không hiệu quả trên thực tế.
Một trong những nguyên nhân chính là do khía cạnh quốc phòng vẫn còn bị
đặt bên lề CFSP, cho đến thời điểm này, EU thực sự vẫn chưa có công cụ
quốc phòng độc lập mà chủ yếu vẫn dựa vào đồng minh Mỹ và NATO. Tuyên
bố chung về Quốc phòng châu Âu (Tuyên bố St. Malo) tháng 12/1998 đưa
Chính sách an ninh quốc phòng châu Âu (ESDP) vào khuôn khổ CFSP, là
một nỗ lực nữa của EU kêu gọi các thành viên đẩy mạnh hợp tác quốc phòng
nội khối, hướng tới xây dựng nền phòng thủ độc lập của châu Âu. Để triển
khai CFSP, EU “…cần có năng lực để hành động độc lập, được hỗ trợ bằng
lực lượng quân sự đáng tin cậy, sự sẵn sàng cùng các phương tiện để sử dụng
lực lượng này nhằm phản ứng trước các cuộc khủng hoảng quốc tế, …phát
triển năng lực phân tích tình huống độc lập, nguồn lực tình báo và khả năng
lập kế hoạch chiến lược…” [148, tr. 8-9] để sẵn sàng hành động trong trường
hợp/ở những khu vực NATO và đồng minh không hành động. Tuy nhiên, văn
bản này cũng chỉ mang tính chất định hướng, chưa xác định được lộ trình
hành động cụ thể.
Cuộc chiến Kosovo (1999) chứng kiến sự tham gia kém hiệu quả của
EU trên thực địa và thế áp đảo của NATO, Mỹ khi thực hiện các chiến dịch
84
không kích lẫn triển khai quân trên chiến trường. Lực lượng tình báo Mỹ
đóng góp lớn vào chiến thắng của quân đồng minh ở cuộc chiến này [150, tr.
2]. EU có đóng góp quân tham gia (lực lượng KFOR) nhưng chủ yếu triển
khai nhiệm vụ gìn giữ hoà bình. EU dựa vào đồng minh Mỹ và NATO để
chấm dứt xung đột ở khu vực. Kịch bản này xảy ra tương tự tại Nam Tư
(1990 – 1991) và Bosnia (1995).
Sự kiện 11/9/2001 không chỉ là một bước ngoặt lớn với nước Mỹ mà
còn tác động không nhỏ đến nhận thức về các nguy cơ an ninh của các chủ thể
trong quan hệ quốc tế, trong đó có EU. Sự kiện này đã tạo ra lực đẩy mới cho
tiến trình hội nhập về đối ngoại và an ninh ở châu Âu. Môi trường an ninh ở
khu vực và thế giới đã thay đổi, nền an ninh và sự thịnh vượng chung của
toàn châu Âu cần được đảm bảo bởi chính người châu Âu chứ không phải ai
khác. Nước Mỹ không còn là bức tường thành không thể phá vỡ. Sự tự lực
quốc phòng trở thành yêu cầu cấp bách đối với EU. Đồng thời, sau cuộc chiến
chống khủng bố do Mỹ phát động tại Iraq, việc Mỹ đơn phương hành động đã
khiến EU nhận thấy phải khẳng định vai trò của mình trong quan hệ quốc tế
và cần có phản ứng kịp thời trước sự thay đổi của môi trường an ninh với
những nguy cơ mới.
Tổng Thư ký Liên hiệp quốc Kofi Annan trong một phát biểu sau
chuyến làm việc tại Iraq từng nhận định rằng: “Chúng ta có thể thực hiện
nhiều hoạt động ngoại giao, nhưng đương nhiên, chúng ta có thể làm được
nhiều hơn với các hoạt động ngoại giao được bổ trợ bằng thái độ kiên quyết
và lực lượng quân sự” [24]. Yêu cầu về sức mạnh quân sự và chính sách quốc
phòng cứng rắn trong bối cảnh mới trở thành xu hướng mới. Trong thế giới
“hậu 11/9”, châu Âu cần có những hoạt động bảo vệ an ninh cho mình theo
cách riêng của châu Âu, độc lập với Mỹ và NATO. Sáng kiến ESDP một lần
nữa được đưa vào chương trình nghị sự Hội nghị Hội đồng châu Âu tại
85
Laeken (12/2001)52. ESDP có ý nghĩa quan trọng trong tiến trình hội nhập
toàn diện của châu Âu, là cuộc cách mạng đối với EU. ESDP với lực lượng
nòng cốt là EERF chính là công cụ để bổ sung lĩnh vực hợp tác quốc phòng
vào CFSP. Sự kiện 11/9 đã thôi thúc EU công bố Chiến lược An ninh châu Âu
(ESS) năm 2003, là cơ sở pháp lý chính thức định hướng cách thức triển khai
CFSP. ESDP đồng thời được đề cập đến trong ESS.
ESS đưa ra những vấn đề các quốc gia thành viên đang phải đối mặt
cũng như những thách thức mà các nước chỉ có thể giải quyết bằng cách nâng
cao khả năng phòng vệ của mình, đồng thời cùng chia sẻ các mục tiêu an ninh
chung. Để tăng cường khả năng phòng thủ chung của Liên minh, các quốc gia
thành viên cần vượt qua những khác biệt về năng lực quân sự, sự cạnh tranh,
thậm chí đối lập nhau về chính sách phòng thủ riêng của từng quốc gia. ESS
nhấn mạnh đến tính gắn kết và mối quan hệ đa phương hiệu quả giữa các
nước thành viên EU bởi trong thực tế sự “gắn kết” giữa các quốc gia thành
viên còn bị chi phối bởi mối quan hệ song phương với Mỹ và sự ràng buộc
nhất định khi một số thành viên của EU tham gia NATO cũng như chịu áp lực
từ cuộc chiến chống khủng bố toàn cầu.
EU đã tăng cường khả năng quân sự nói chung và phòng thủ nói riêng
bằng sáng kiến “Chiến tranh mạng lưới trung tâm”53, một sáng kiến trong hợp
tác quân sự giữa các thành viên EU nhằm mục tiêu tìm kiếm và tiêu diệt các
phần tử khủng bố hoặc ngăn chặn sự phát triển nhanh chóng của các phần tử
đối lập. Mục tiêu này tương tự với những mục tiêu ưu tiên do Mỹ và NATO
đặt ra. NATO và EU đều có tham vọng muốn khẳng định vai trò lãnh đạo và
năng lực quân sự của mình nhưng quan điểm về vị trí lãnh đạo và mục đích
triển khai sức mạnh quân sự của hai tổ chức này có phần khác nhau (một bên
52 ESDP lần đầu tiên được đề cập đến trong Tuyên bố St. Malo (1998)
53 Tiếng Anh: Network Centric Warfare
mang tính chất phòng thủ nội khối và một bên bị chi phối bởi tính toán chiến
86
lược của siêu cường đóng vai trò lãnh đạo khối) nên cách EU xây dựng sức
mạnh quân sự và kêu gọi sự ủng hộ của các quốc gia thành viên cũng khác
NATO. EU đề cao việc tôn trọng luật pháp quốc tế và các luật lệ cơ bản trong
quan hệ đa phương, kêu gọi sự tự nguyện đóng góp về vật chất và con người
cho lực lượng chung. Các quốc gia thành viên có quyền quyết định thời điểm
thích hợp để gửi quân tham gia các nhiệm vụ do EU phát động. Cơ chế này
dẫn tới tình trạng EU thường bị động và thiếu nguồn lực khi triển khai trên
thực địa. Ví dụ điển hình cho tình trạng này là việc các quốc gia châu Âu
tham gia vào chiến dịch của Lực lượng quân đội đồng minh (OAF)54 nhằm tái
thiết trật tự tại khu vực Balkans. Trong và sau chiến dịch, nhiều thành viên
EU lên tiếng thừa nhận lực lượng của họ đã đạt đến ngưỡng giới hạn về khả
năng triển khai quân trên thực địa (bao gồm trên bộ, trên không và trên biển)
bên ngoài biên giới lãnh thổ [137, tr. 77]. Trong khi đó, trong một báo cáo do
Mỹ thực hiện về OAF, các con số thống kê thể hiện Mỹ là bên đóng góp phần
lớn về mọi mặt vào chiến dịch. OAF thể hiện khoảng cách ngày càng tăng về
thực lực quân sự giữa Mỹ và châu Âu, đồng thời thể hiện sự hạn chế của châu
Âu trong khả năng ra quyết định. Trong các cuộc không kích của chiến dịch
OAF, 13/19 quốc gia tham gia nhưng nhiều đồng minh châu Âu chủ yếu thể
hiện sự ủng hộ về mặt chính trị hơn là thực sự tham gia vào chiến dịch, các
nước châu Âu có đóng góp lớn vào chiến dịch gồm: Anh, Pháp, Đức, Ý và Hà
Lan [137, tr. 25].
Qua việc tham gia vào OAF, EU cũng thể hiện sự bất đồng quan điểm
giữa các thành viên về việc sử dụng vũ lực để đảm bảo an ninh hay tập trung vào
các nỗ lực hợp tác kiến tạo hoà bình. EU đã không thể hoàn toàn chủ động triển
khai hoạt động quân sự trong một khuôn khổ chung còn nhiều tranh cãi như vậy.
Sau OAF, có hai vấn đề nổi lên trong hợp tác quốc phòng của EU: (i) sự hạn chế
54 Tiếng Anh: Operation Allied Force (OAF)
87
rõ ràng về năng lực quân sự và khả năng phối hợp tác chiến giữa các quốc gia
thành viên, (ii) các thành viên dễ tìm được tiếng nói thống nhất trong các hoạt
động mang tính chất cứu trợ nhân đạo, xử lý khủng hoảng và kiến tạo, gìn giữ
hoà bình55.
Bảng 3: Tỷ lệ đóng góp của các nước tham gia chiến dịch OAF
100
90
80
70
60
50
40
30
20
10
0
Mỹ
Pháp
Anh
Đức
Italy
Hà Lan
AAR
CAP
ISR
SEAD
Tập kích
Chiến dịch:
Nguồn: Báo cáo “Đóng góp của châu Âu vào OAF – Quan hệ hợp tác xuyên Đại Tây Dương”, RAND, Báo cáo theo đề nghị của Không lực Hoa Kỳ (2001)
Trên cơ sở này, nhiều cuộc thảo luận được mở ra trong giai đoạn những
năm 2000 về việc ESDP nên tập trung vào việc làm thế nào để tận dụng được
sức mạnh kinh tế và phát huy các công cụ ngoại giao để tăng cường năng lực
xử lý khủng hoảng của EU, bao gồm: cứu trợ nhân đạo, ngăn ngừa xung đột,
giải quyết xung đột, kiến tạo hoà bình và tái kiến thiết hậu xung đột. Cùng với
khả năng đe doạ sử dụng vũ lực hỗ trợ cho các tuyên bố chính trị, ngoại giao,
các công cụ trừng phạt kinh tế, EU có thể nâng cao vai trò, tầm ảnh hưởng
55 Tuy không được đánh giá cao khi tham gia vào các chiến dịch không kích của OAF, nhưng các quốc gia châu Âu có đóng góp tích cực và hiệu quả vào quá trình bình định và kiến tạo hoà bình tại Balkans. Các lực lượng châu Âu SFOR (Stablization Force) và IFOR (Implementation Force) duy trì ở Bosina đến năm 2005.
của mình khi tham gia xử lý các vấn đề quốc tế. Phát triển theo hướng này,
88
EU đồng thời chia sẻ được gánh nặng với đồng minh Mỹ trong việc duy trì
hoà bình, ổn định ở châu Âu và khu vực lân cận [150, tr. 11]. Nhiệm vụ của
ESDP là làm thế nào để tạo ra được một khung pháp lý chung chặt chẽ và hợp
lý cho các hoạt động quân sự nội khối khi mà các thành viên đều phải chịu áp
lực ưu tiên cho các hành động phối hợp (không chỉ với các nước trong khối)
dưới danh nghĩa cuộc chiến chống khủng bố. Nguồn lực quốc phòng cho toàn
Liên minh là không giới hạn nhưng EU chưa khai thác được nguồn lực này.
Điều ESDP cần là phải nhấn mạnh vào khía cạnh phòng thủ như là một trong
những công cụ quan trọng để quản lý khủng hoảng.
Tháng 12/2001, tại Hội nghị ở Laeken, EU đạt được thoả thuận về Kế hoạch hành động nâng cao năng lực châu Âu (ECAP)56. ECAP được tiến
hành dựa trên 4 nguyên tắc cơ bản: (i) Sự cải thiện về tính hiệu quả của các nỗ
lực phòng thủ châu Âu, tăng cường hợp tác giữa các thành viên; (ii) Hướng tiếp cận “từ dưới lên”57 trong việc xây dựng quan hệ hợp tác về quốc phòng
dựa trên các cam kết tự nguyện của các quốc gia; (iii) Sự điều phối giữa các
thành viên EU và với NATO; (iv) Sự hỗ trợ từ người dân thông qua sự rõ
ràng, minh bạch của ECAP [102]. Tuy nhiên, sau hai năm triển khai, ECAP
chưa thực sự cải thiện được tình trạng hạn chế về thực lực quân sự của khối
do vẫn dựa trên tinh thần tự nguyện của các quốc gia, các cam kết thiếu tính
bền vững do không đi kèm nguồn ngân sách để triển khai. Tại Hội nghị Bộ
trưởng quốc phòng châu Âu (19/5/2003), kết luận Hội nghị cho rằng năng lực
quốc phòng EU “đã đủ khả năng triển khai các loại nhiệm vụ đề ra trong
Nhiệm vụ Petersberg” nhưng đồng thời thừa nhận “…năng lực vẫn còn hạn
chế do thiếu hụt nguồn lực” [83, tr. 137]. Dựa trên những hạn chế bộc lộ
trong thực tiễn triển khai ECAP, tháng 7/2004, Cục Quốc phòng châu Âu
(EDA) được thành lập nhằm hỗ trợ các thành viên và Hội đồng triển khai
56 Tiếng Anh: European Capability Action Plan
57 Tiếng Anh: bottom-up
ESDP theo hướng: phát triển lĩnh vực nghiên cứu công nghệ, hợp tác trong
89
trang bị khí tài, phát triển nền tảng công nghiệp quốc phòng và công nghệ quân
sự [186]. Với hướng tiếp cận và chiến lược triển khai ESDP như vậy cho thấy
EU nhận thức rõ tầm quan trọng của việc xây dựng một nền quốc phòng hiện
đại, đủ khả năng đối phó với các nguy cơ mới có tính chất nguy hiểm và khó
lường hơn từ sau sự kiện 11/9, đồng thời cũng là câu trả lời của EU cho lời
“phàn nàn” của đồng minh về năng lực hạn chế của mình: “Đồng minh châu Âu
cần hành động nhiều hơn, đầu tư nhiều tiền hơn, tăng chi phí quốc phòng trên
phần trăm GDP để đầu tư vào các công nghệ mới… Nếu không, nước Mỹ sẽ
phải gánh vác trọng trách nặng nề hơn để giải quyết các vấn đề ngay tại châu
Âu và bên ngoài khu vực”, Đại sứ Mỹ tại NATO Nicolas Burns phát biểu tại
cuộc họp báo về “Thu hẹp khoảng cách về năng lực quốc phòng giữa Mỹ - EU”
[36] tại Slovenia, tháng 2/2002. Báo cáo kết quả Chiến dịch OAF (1999) cũng
thể hiện công nghệ quốc phòng lỗi thời của châu Âu khi có tỷ lệ trúng đích thấp
trong các cuộc không kích, là điều khó chấp nhận trong các chiến dịch ở khu vực
có dân thường [137, tr. 31].
Trong thập kỷ đầu thế kỷ XXI, ESDP triển khai một số chiến dịch dân
sự ở các khu vực có tầm ảnh hưởng với châu Âu như chiến dịch EUFOR
Althea (2004) ở Bosnia và Herzegovina thay thế sự hiện diện của NATO,
EUFOR RD Congo hỗ trợ sứ mệnh Liên hiệp quốc tại Congo (2006), EUFOR
TChad/RCA ở phía Đông Chad và Đông Bắc Trung Phi (2007) để bảo vệ dân
thường, cứu trợ nhân đạo và đảm bảo an toàn cho nhân sự của Liên hiệp quốc
làm việc tại đây, EU NAVFOR ở Somalia để chiến đấu và kiểm soát các hoạt
động cướp biển, tội phạm trên bờ biển Somalia… [185]. Như vậy, từ sau khi
ESDP được đưa vào CFSP để tăng cường hợp tác quốc phòng trong khối, EU
đã xác định trọng tâm của hợp tác quốc phòng là triển khai các nhiệm vụ dân
sự, phát huy tầm ảnh hưởng của châu Âu thông qua sử dụng sức mạnh kinh
tế, các công cụ ngoại giao và công tác nhân đạo.
2.2.2. Giai đoạn 2009 – 6/2018:
Năm 2009 là dấu mốc quan trọng đối với EU nói chung và tiến trình
90
hội nhập khu vực về đối ngoại, an ninh nói riêng. Bản Hiến pháp chung châu
Âu được tuyên bố tháng 10/2004 nhưng không thể trở thành hiện thực khi
không được đa số người dân châu Âu ủng hộ trong các cuộc trưng cầu dân ý.
Một số chuyên gia châu Âu gọi đây là giai đoạn khủng hoảng trên con đường
phát triển của Liên minh. Vì vậy, Hiệp ước Lisbon, hay Hiệp ước Hiến pháp
sửa đổi được ký kết năm 2007, chính thức có hiệu lực từ năm 2009 thể hiện sự
tái đoàn kết của châu Âu. Như đã đề cập ở phần trên, theo Hiệp ước này, bộ
máy tổ chức của EU có nhiều điều chỉnh quan trọng, cấu trúc của CFSP theo
đó cũng thay đổi. Những thay đổi này khiến thực tiễn triển khai CFSP có nhiều
tiến bộ hơn giai đoạn trước.
CFSP/CSDP được hiện thực hoá bằng nhiều hành động cụ thể nổi bật
như: (i) EEAS được thành lập với vị trí “ngoại trưởng châu Âu” đầu tiên trong
lịch sử Liên minh; (ii) EU công bố Chiến lược toàn cầu về đối ngoại và an ninh
(EUGS) và Sách trắng về tương lai của châu Âu và tương lai an ninh quốc
phòng châu Âu năm 2016; (iii) duy trì và triển khai mới nhiều nhiệm vụ dân sự
- quân sự trong khuôn khổ CSDP; (iv) đạt bước tiến quan trọng trong hợp tác
nội khối về quốc phòng với Thoả thuận tham gia “Hợp tác có cấu trúc bền
vững” (PESCO)…
(i) Sự điều chỉnh quan trọng, có ảnh hưởng nhất đến thực tiễn triển khai
CFSP là sự điều chỉnh chức danh HR/VP và bộ máy giúp việc EEAS:
HR/VP là người xây dựng nền móng cho các chính sách đối ngoại và an
ninh mới của toàn Liên minh. Điều đó có nghĩa hoạt động đối ngoại và an ninh
của EU được tập trung về một mối, có tính liên tục và kế thừa. Với định hình
chức năng như vậy, bộ máy giúp việc cho HR/VP là EEAS được thành lập
tháng 1/2010, là cơ quan chuyên trách được hợp nhất từ 140 đơn vị phục vụ
cho hoạt động đối ngoại của Hội đồng và Ủy ban, tái cấu trúc Phái đoàn châu
Âu ở các nước, khu vực trên thế giới. EEAS có vai trò kết nối chính sách đối
ngoại và an ninh của các nước thành viên, đưa ra các quan điểm chính trị, quyết
sách đối ngoại và triển khai các nhiệm vụ quân sự, dân sự dưới danh nghĩa đại
91
diện cho ý chí của 28 quốc gia thành viên. EEAS là đầu mối điều phối các
nhiệm vụ dân sự và quân sự của EU triển khai trên ba châu lục, chủ yếu tập
trung vào quản lý khủng hoảng và gìn giữ hoà bình.
Chính thức đi vào hoạt động từ tháng 1/2011, EEAS cố gắng phân bổ ít
nhất 1/3 số lượng nhân sự của cơ quan đối ngoại độc lập này đến từ các quốc
gia thành viên. Tính đến cuối năm 2016, tỷ lệ này đạt 31,7% (25,3% làm việc
tại trụ sở chính, 40,8% làm việc trong các phái đoàn). 13 thành viên gia nhập
EU từ năm 2004 có số lượng nhân sự tham gia EEAS đạt 19,6%, tương ứng
với phần trăm dân số của các nước này trong Liên minh (20,6%) [70, tr. 6].
Việc duy trì số lượng tương đối các nhà ngoại giao của các quốc gia thành
viên tham gia vào bộ máy EEAS được xem là “sự hiện diện có ý nghĩa” [70,
tr.6], thể hiện nỗ lực của EU trong việc duy trì tính dân chủ của các thể chế,
coi trọng vai trò của quốc gia thành viên khi hoạch định và triển khai chính
sách. Ngoài ra, trong giai đoạn đầu hoạt động, EEAS đồng thời chú trọng xây
dựng bộ máy tinh giản và phản ứng hiệu quả trong tình hình chính trị thay đổi
phức tạp. Năm 2015, Cục cắt giảm 1% nhân sự và tái cấu trúc bộ máy nhằm tạo ra cơ chế báo cáo nhanh và hiệu quả hơn từ dưới lên (mô hình “chóp”58). Ban “Di cư và An ninh con người”59 được thành lập mới nhằm đối phó với
nhiều vấn đề phức tạp liên quan đến làn sóng nhập cư, tị nạn ồ ạt vào khu vực
cuối năm 2016. [70]
Một tiếng nói chung về đối ngoại sẽ củng cố vị thế của Liên minh trên
trường quốc tế, giúp EU có thể hành động như một chủ thể hoàn chỉnh trong
quan hệ quốc tế. Tuy nhiên, vì tính chất nhạy cảm của CFSP nên sự ra đời của
EEAS gây nhiều tranh cãi dù các nước thành viên đều nhận thấy sự cần thiết
phải tăng cường hơn tính hiệu quả của CFSP. Bà Catherine Ashton, chính trị
gia thuộc Công đảng Anh đã trở thành nữ Ngoại trưởng đầu tiên của EU với
58 Tiếng Anh: “pyramidal” management structure. 59 Tiếng Anh: Division "Migration and Human Security"
nhiệm kỳ 5 năm (2009-2014). Đại diện cấp cao về An ninh và Đối ngoại châu
92
Âu thuộc về một chính trị gia người Anh được coi là một thành công lớn của
Anh trong cuộc chạy đua tranh giành ảnh hưởng với Pháp, Đức và các thành
viên nổi trội khác trong EU. Người kế nhiệm bà Ashton là cựu Ngoại trưởng Ý
Federica Mogherini, nhiệm kỳ 2014 – 2019.
Bảng 4: So sánh về phân bổ ngân sách hành chính cho Bộ Ngoại giao các
Nguồn: Trung tâm chính sách châu Âu
quốc gia thành viên EU và EEAS (năm 2011-2012)
(ii) EU công bố Chiến lược toàn cầu về đối ngoại và an ninh (EUGS)60
và Sách trắng về tương lai của châu Âu và tương lai an ninh quốc phòng châu
Âu năm 2016:
Đây là lần thứ hai trong lịch sử phát triển của mình EU xây dựng Chiến
lược về an ninh. Việc một tổ chức liên kết khu vực đưa ra Chiến lược về an
ninh là bước đi nhằm khẳng định vị thế như một chủ thể đầy đủ trong quan hệ
quốc tế (tương ứng với Chiến lược an ninh quốc gia, Sách trắng, Rà soát
chiến lược của các nước). Chiến lược an ninh hệ thống hoá toàn bộ định
60 Tiếng Anh: European Union Global Strategy (EUGS)
hướng triển khai CFSP. So với ESS năm 2003, EUGS năm 2016 có nhiều
93
nhận định và định hướng thay đổi cơ bản. Từ một châu Âu “thịnh vượng, an
ninh và tự do” với EU là trung tâm của sự phát triển thịnh vượng này, châu
Âu trong giai đoạn đầu thế kỷ XXI đối mặt với các nguy cơ truyền thống và
phi truyền thống đan xen, đòi hỏi một EU mạnh mẽ hơn bao giờ hết với yêu
cầu cấp thiết nâng cao năng lực tự chủ quốc phòng. EUGS khẳng định: “Một
ngành công nghiệp quốc phòng châu Âu ổn định, sáng tạo và có sức cạnh tranh là hết sức thiết yếu vì một châu Âu tự chủ chiến lược61 và một chính
sách an ninh quốc phòng hiệu quả” [84, tr. 45]. Với khẩu hiện “Chia sẻ tầm nhìn, chung hành động: Một châu Âu mạnh mẽ hơn”62, EUGS đề ra những lợi
ích cốt lõi của Liên minh, xác định các nguyên tắc chung đối với các hành
động can dự của EU trên thế giới và định hướng cho các hành động tập thể.
EUGS hướng tới mục tiêu xây dựng một châu Âu mạnh mẽ, đoàn kết hơn, có
ảnh hưởng lớn hơn trên thế giới để bảo vệ cho các lợi ích chung, các giá trị
chung [73]. Nguyên tắc chung cho các hoạt động đối ngoại của Liên minh
gồm bốn điểm chính:
- Sự đoàn kết, nhất trí: sự thống nhất trong nội bộ Liên minh là quan
trọng và cấp thiết hơn bao giờ hết. Không có sự xung đột lợi ích giữa Liên
minh và các thành viên. Lợi ích cho các công dân châu Âu chỉ có thể được bảo
vệ bằng các thể chế của Liên minh thông qua sự đoàn kết, nhất trí giữa các
quốc gia thành viên;
- Sự cam kết: trong chuỗi giá trị toàn cầu và một thế giới liên kết với
nhau, EU cam kết tham gia đầy đủ vào thị trường toàn cầu và cùng định hình
các nguyên tắc vận hành thị trường rộng lớn này;
- Tinh thần trách nhiệm: EU gánh vác trách nhiệm với châu Âu và các
khu vực lân cận. EU đồng thời mở rộng can dự ra các mục tiêu xa hơn. EU sẽ
hành động để giải quyết các vấn đề gốc rễ của xung đột và đói nghèo, đi đôi
61 Tiếng Anh: stretagic autonomy 62 Tiếng Anh: Global Stretagy for the European Union’s Foreign and Security policy: “A shared vision, common action: A stronger Europe”
với bảo vệ quyền con người;
94
- Quan hệ đối tác: EU nêu cao tinh thần là một chủ thể có trách nhiệm
của thế giới trên cơ sở cùng chia sẻ với các đối tác. Đồng chịu trách nhiệm là
nguyên tắc cơ bản định hình trật tự toàn cầu. [73, tr.16-18]
Các vấn đề ưu tiên nhằm đảm bảo an ninh khu vực được xác định là:
- Tăng cường năng lực tự chủ quốc phòng: NATO có vai trò quan trọng
trong duy trì an ninh khu vực. NATO tồn tại để bảo vệ các quốc gia thành
viên (hầu hết là các nước châu Âu) khỏi nguy cơ bị tấn công từ bên ngoài.
Khi nỗ lực phòng vệ tập thể được thực hiện, NATO sẽ ưu tiên bảo vệ lợi ích
cho các thành viên của mình. Trong bối cảnh đó, EU cần được trang bị, huấn
luyện và tổ chức tốt hơn có thể hành động độc lập khi cần thiết để bảo vệ cho
các thành viên của Liên minh không nằm trong NATO. Đồng thời, yêu cầu
nâng cao năng lực tự chủ về an ninh quốc phòng giúp EU chia sẻ trách nhiệm
với đồng minh NATO và duy trì tốt hơn quan hệ đối tác chiến lược xuyên Đại
Tây Dương với Mỹ;
- Chống khủng bố: các cuộc tấn công khủng bố xảy ra trên lãnh thổ các
nước châu Âu ngày càng tăng, đặt ra yêu cầu các quốc gia châu Âu đoàn kết
hơn trong các hoạt động chống khủng bố. Liên minh khuyến khích các quốc
gia thành viên tăng cường chia sẻ thông tin và hợp tác trong các hoạt động
tình báo giữa các quốc gia thành viên với nhau và với Liên minh;
- An ninh mạng: Liên minh khuyến khích các sáng kiến trong lĩnh vực
công nghệ thông tin và truyền thông nhằm đảm bảo tính khả dụng và bảo mật
của hệ thống dữ liệu, bảo vệ an ninh không gian số cho châu Âu;
- An ninh năng lượng: thông qua đối ngoại năng lượng, EU duy trì quan
hệ đáng tin cậy với các đối tác, đảm bảo nguồn năng lượng cho khu vực, hỗ
trợ xây dựng cơ sở hạ tầng để đa dạng hoá các nguồn cung cấp năng lượng
cho thị trường châu Âu;
- Đối thoại chiến lược: EU sẽ tăng cường đối thoại chiến lược, tuyên
truyền chính sách đối ngoại của Liên minh đến người dân và các đối tác.
95
Liên minh đặt mục tiêu cải thiện tính chính xác và tốc độ thông tin về các
chính sách và hành động của mình, duy trì môi trường truyền thông cởi
mở… [73, tr.20-23]
EEAS đồng thời công bố Kế hoạch triển khai về an ninh quốc phòng63,
được Hội đồng các Bộ trưởng An ninh và Đối ngoại châu Âu thông qua tháng
11/2016. Việc công bố Chiến lược toàn cầu về an ninh châu Âu đi đôi với Kế
hoạch hành động cụ thể tập trung vào lĩnh vực quốc phòng cho thấy quyết
tâm của EU trong việc thúc đẩy tiến trình hợp tác nội khối trong lĩnh vực an
ninh chung, đặc biệt là an ninh quốc phòng. Với mục tiêu phản ứng hiệu quả
trước các xung đột trong và ngoài biên giới, xây dựng năng lực cho các đối
tác và bảo vệ EU và công dân EU khỏi các hành động từ bên ngoài, Kế hoạch
đề ra phương thức thực hiện các mục tiêu này thông qua huy động các công
cụ và chính sách khác nhau của EU, hướng tiếp cận dựa trên đồng thời sức
mạnh “cứng” và “mềm”. EU kêu gọi các thành viên nâng cấp trang thiết bị và
năng lực quốc phòng chung, tăng chi phí cho quốc phòng, thực hiện cam kết
nâng ngân sách quốc phòng lên 20%, tập trung vào mua sắm trang thiết bị và
đầu tư cho công tác nghiên cứu công nghệ [73, tr.44]. Những nỗ lực này cần
được thực hiện trong một khuôn khổ chung để tận dụng được tối đa các nguồn
lực. Kế hoạch cũng đưa ra các bước triển khai Tuyên bố chung EU – NATO.
Các kế hoạch này đều đưa ra khung thời gian hành động rõ ràng.
Cùng với EUGS, EU công bố Sách trắng về tương lai châu Âu và bốn
nghiên cứu chuyên sâu về hội nhập của EU về kinh tế, xã hội, quốc phòng và
63 Tiếng Anh: Implementation Plan on Security and Defence
64 Bốn công trình nghiên cứu chuyên sâu khác được công bố: “Nhìn nhận về sự hợp tác sâu của Liên minh kinh tế và tiền tệ” (Reflection paper on the Economic and Moneytary Union), “Nhìn nhận về khía cạnh xã hội của châu Âu” (Reflection paper on the Social dimension of Europe), “Nhìn nhận về sự khai thác quá trình toàn cầu hoá” (Reflection paper on Harnessing Globalisation), “Nhìn nhận về tương lai nền quốc phòng châu Âu” (Reflection paper on the future of European Defence).
EU trong quá trình toàn cầu hoá64. Bên cạnh các lĩnh vực EU được đánh giá đã
96
hội nhập thành công như kinh tế, xã hội, quốc phòng là lĩnh vực EU từng gặp
khó khăn trong việc tìm hướng đi và hình thức hội nhập phù hợp trong suốt 60
năm qua đã từng bước đánh dấu sự hợp tác hiệu quả giữa các thành viên. “Nhìn
nhận về tương lai nền quốc phòng châu Âu” xác định những xu thế và thách
thức mới đối với tương lai an ninh quốc phòng của châu lục, từ đó đưa ra
những kịch bản phát triển của quá trình hợp tác quốc phòng trong khu vực,
hướng tới xây dựng Liên minh an ninh và quốc phòng. Những bước đi này cho
thấy EU đã xác định được hướng đi phù hợp với tiến trình hội nhập quốc
phòng, vượt qua được rào cản ban đầu về nguy cơ tổn hại lợi ích và an ninh
quốc gia để cùng nhau phấn đấu vì một khu vực hoà bình và ổn định.
(iii) Triển khai các nhiệm vụ dân sự - quân sự trong khuôn khổ CSDP:
Theo Báo cáo thường niên năm 2017 của CSDP, EU tiếp tục gặt hái
nhiều kết quả trong công tác hỗ trợ dân sự, giúp tăng khả năng hồi phục và ổn
định cho các quốc gia đối tác bị ảnh hưởng bởi các xung đột nội bộ thông qua
hơn 530 khoá huấn luyện cho 11.000 người về công tác chống buôn người,
quản lý nhân sự, chống tham nhũng, quản trị an ninh biên giới, an ninh hàng
hải, vấn đề giới và nhân quyền [74, tr. 6] …Về các hoạt động quân sự, lần đầu
tiên Sở Chỉ huy tác chiến về năng lực lập kế hoạch và triển khai quân sự (MPCC)65 được thành lập, đồng thời kết hợp với Sở Kế hoạch và tác chiến dân sự (CPCC)66 thành Tổ hợp tác liên ngành với mục tiêu triển khai nhiều
hơn các hoạt động phối hợp dân sự - quân sự, tăng cường tính toàn diện và hiệu
quả của các hoạt động an ninh phòng thủ chung triển khai tại các nước thứ ba
[74, tr.6]. MPCC ra đời cùng với Tổ hợp tác liên ngành cho thấy quyết tâm của
EU trong việc tăng cường thực lực quân sự, triển khai thực địa bên cạnh phát
huy “sức mạnh mềm” sẵn có, hiện thực hoá các mục tiêu đề ra trong Chiến lược
65 Tiếng Anh: The Military Planning and Conduct Capability (MPCC)
66 Tiếng Anh: The Civilian Planning and Conduct Capability (CPCC)
toàn cầu của EU về đối ngoại và an ninh năm 2016: “Châu Âu cần được trang
97
bị, tổ chức và huấn luyện tốt hơn để đóng góp vào các hành động chung (với các
đối tác trong khu vực) đồng thời hành động một cách độc lập khi cần thiết. Đặt
ra tham vọng và chiến lược tự chủ là thiết yếu để châu Âu duy trì hoà bình, đảm
bảo an ninh trong và ngoài biên giới” [84, tr. 21].
(iv) EU đạt bước tiến quan trọng trong hợp tác nội khối về quốc phòng
với Thoả thuận tham gia “Hợp tác có cấu trúc bền vững” (PESCO):
Sáng kiến này được đề cập đến từ năm 2009 nhưng phải đến năm 2017,
quá trình đàm phán mới kết thúc, 25 quốc gia thành viên đồng ý ký thoả thuận
tham gia PESCO. PESCO bắt đầu triển khai với những bước đi đầu tiên, gồm: hình thành cơ chế Báo cáo quốc phòng thường niên (CARD)67, thành lập Quỹ Quốc phòng châu Âu (EDF)68. Ngày 06/3/2018 được nhắc đến như một ngày
lịch sử của nền quốc phòng châu Âu hiện đại khi các quốc gia thành viên chính
thức thông qua danh sách 17 dự án nhằm triển khai sáng kiến PESCO [77].
PESCO cho phép các quốc gia thành viên có tiềm lực quân sự thực hiện
các tiêu chí cao hơn và đưa ra các cam kết có tính ràng buộc hơn trong lĩnh
vực hợp tác quân sự có tính đến việc thực thi các nhiệm vụ đòi hỏi yêu cầu
cao trong khuôn khổ Liên minh. Bất kỳ quốc gia thành viên nào cũng có thể
tham gia Hợp tác mang tính cấu trúc bền vững khi cam kết phát triển năng lực
quốc phòng trong lực lượng đa quốc gia, trong các chương trình trang bị vũ
khí chính của Liên minh và trong khuôn khổ các hoạt động của Cục Quốc
phòng châu Âu (EDA). Tham gia PESCO, các quốc gia thành viên cam kết:
- Nhất trí với các mục tiêu đầu tư cho lĩnh vực quốc phòng;
- Tạo ra sự đồng bộ về tổ chức bộ máy quốc phòng thông qua việc hài
67 Tiếng Anh: Coordinated Annual Review on Defence. CARD được điều hành bởi Cục Quốc phòng châu Âu (EDA) điều phối một cách có hệ thống kế hoạch chi tiêu quốc phòng của các quốc gia thành viên, giúp xác định cơ hội cho các sáng kiến hợp tác mới. [185]
68 Tiếng Anh: European Defence Fund (EDF). EDF cung cấp các khoản hỗ trợ tài chính cho các quốc gia thành viên nhằm khuyến khích hoạt động hợp tác về quốc phòng, từ công tác nghiên cứu đến phát triển công nghiệp quốc phòng, bao gồm xây dựng các phiên bản thử nghiệm được hỗ trợ một phần tài chính từ ngân sách EU. [185]
hoà các nhu cầu quân sự, cùng đóng góp kinh phí và chuyên môn hoá (ở
98
những khâu có thể);
- Nâng cao tính sẵn sàng ứng phó, khả năng tương tác, tính linh hoạt, khả
năng triển khai quân bằng cách thiết lập các mục tiêu chung dựa trên các cam
kết của lực lượng;
- Giải quyết các thiếu hụt trong năng lực quân sự quốc gia được xác định bởi
Cơ chế phát triển năng lực (CDM) thông qua phương pháp tiếp cận đa quốc gia;
- Tham gia (khi phù hợp) vào các chương trình trang bị quân trang, quân
dụng do Cục Quốc phòng châu Âu (EDA) đề ra. EDA đóng vai trò quan trọng
trong việc đánh giá mức độ thực hiện cam kết của các quốc gia thành viên
tham gia vào quá trình Hợp tác mang tính cấu trúc bền vững. [32, tr. 9]
Với những cam kết như vậy, các quốc gia thành viên vẫn bảo lưu quyền
tự quyết và khả năng phản ứng nhanh. Trên lý thuyết, thông qua tăng cường
khả năng hợp tác quân sự, các quốc gia thành viên có thể nâng cao khả năng
quốc phòng của mình theo cấp số nhân các nước cùng tham gia mạng lưới.
Hiện nay, khoảng 80% chi phí mua sắm quốc phòng do các quốc gia thành viên
tự thực hiện gây lãng phí, chồng chéo trong việc nâng cấp năng lực quốc
phòng. Theo số liệu của Nghị viện châu Âu năm 2013, sự thiếu hợp tác giữa
các quốc gia thành viên trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng ước tính gây lãng
phí nguồn lực từ 25 tỷ đến 100 tỷ euro mỗi năm [67]. Việc thành lập Quỹ quốc
phòng châu Âu (EDF) sẽ giúp các thành viên gia tăng giá trị và tính hiệu quả
của các nguồn đầu tư quốc phòng. Cơ chế đồng tài trợ cho phép các thành viên
xác định được các thoả thuận tài chính hợp lý cho các khoản đầu tư mua sắm
trang thiết bị cũng như công tác nghiên cứu phát triển (R&D). Từ năm 2010,
EU bắt đầu tăng mạnh hơn dòng ngân sách cho hợp tác quốc phòng nội khối,
khoảng 200 triệu euro mỗi năm. EDF đặt mục tiêu tăng gấp ba lần con số này
từ sau năm 2020, lên khoảng trên 500 triệu euro [67].
EDF chính thức hoạt động từ tháng 6/2017 với mục tiêu tiết kiệm chi phí
quốc phòng cho thành viên thông qua việc tổ chức các nghiên cứu chung, tiếp
99
nhận và phát triển các trang thiết bị, công nghệ quốc phòng hiện đại. Lần đầu
tiên một gói ngân sách 90 triệu euro được cung cấp trực tiếp từ ngân sách EU
trong giai đoạn 2017-2019 cho các dự án hợp tác nghiên cứu về máy bay không
người lái, công nghệ chiến lược tầm nhìn xa và các trang thiết bị phòng vệ cho
binh lính. 25 triệu euro đã được cam kết triển khai trong năm 2017. PESCO
khuyến khích các quốc gia thành viên hợp tác trong các chương trình phát triển
trang thiết bị và công nghệ quốc phòng thông qua hình thức đồng tài trợ với
dòng tiền từ ngân sách EU, dự kiến 500 triệu euro giai đoạn 2019-2020.
PESCO đồng thời dự kiến tăng mức đóng góp cho ngân sách quốc phòng
chung từ 20% lên 30%. [185]
2.3. Đánh giá tiến trình hội nhập khu vực qua thực tiễn triển khai Chính
sách
2.3.1. Nhận xét chung
Thực tiễn triển khai CFSP/CSDP đã phản ánh chân thực, đầy đủ tiến
trình hội nhập khu vực trên lĩnh vực đối ngoại, an ninh, quốc phòng ở châu
Âu. Qua kết quả triển khai Chính sách từ năm 1992 đến nay, một số nhận xét
chung về tình trạng hội nhập khu vực về đối ngoại và an ninh cụ thể như sau:
(i) Tiến trình hội nhập chính trị ở châu Âu bắt đầu khá sớm. Từ khi quá
trình hội nhập kinh tế khởi động, hội nhập chính trị cũng được khởi động
không lâu sau đó. Tuy nhiên, châu Âu mất hơn ba thập kỷ xây dựng nền tảng
cho một chính sách đối ngoại, an ninh chung và gần một thập kỷ nữa để thống
nhất về khung chính sách hợp tác quốc phòng. Theo quan điểm của các lý
thuyết về hội nhập khu vực, hội nhập về chính trị, cụ thể trong lĩnh vực đối
ngoại, an ninh, quốc phòng là cấp độ hội nhập khu vực cao nhất, trong trường
hợp EU, biểu hiện cụ thể nhất là thực tiễn triển khai CFSP/CSDP. Các chủ
thể trong khu vực thường đạt mức độ hội nhập nhất định trong các lĩnh vực kinh
tế, xã hội, tư pháp… trước khi hội nhập về chính trị. Điều này lý giải cho việc
châu Âu mất gần năm thập kỷ để bước đầu đạt đến mức độ hội nhập khu vực
100
một các toàn diện.
(ii) Hướng tiếp cận phân tích CFSP/CSDP như chính sách đối ngoại
của một quốc gia chỉ mang tính chất tương đối. Hiệu quả triển khai chính
sách khi đánh giá cần đặt trong tổng thể tiến trình hội nhập khu vực, do
CFSP/CSDP là chính sách đặc thù, tổng hợp các giá trị chung, mục tiêu chung
vì sự phát triển thịnh vượng và đảm bảo an ninh châu lục, được triển khai trên
nền tảng hợp tác khu vực. Chính sách này có mối liên hệ mật thiết đến lợi ích
cốt lõi của các quốc gia thành viên, chịu tác động trực tiếp từ tính toán chiến
lược của các giới lãnh đạo các nước thành viên.
(iii) CFSP không phải là tổng hợp chính sách đối ngoại của các quốc
gia thành viên mà chỉ là mẫu chung nhỏ nhất tập hợp các giá trị và lợi ích
chung của các nước trong khối. Các thành viên Liên minh có thể đạt được
đồng thuận trong chính sách với một số nước ở Trung và Đông Âu nhưng lại
gặp phải nhiều bất đồng trong các mối quan tâm chung như khu vực Balkans,
vấn đề Nga, Ukraine… Thậm chí, ở những nơi được xác định là các nước đều
có lợi ích chung thì khả năng hành động của EU cũng gặp nhiều hạn chế do
quy trình ban hành và quyết định chính sách phức tạp và tốn nhiều thời gian,
thiếu lực lượng quân đội thường trực… Phản ứng kém hiệu quả của EU trước
khủng hoảng ở khu vực Balkan là một ví dụ. Mặc dù rất nỗ lực trong việc tìm
kiếm giải pháp hòa bình cho cuộc xung đột nhưng EU lại thất bại trong việc
triển khai lực lượng kịp thời để bảo vệ dân thường. Rõ ràng việc xây dựng
công cụ phù hợp sẽ giúp việc triển khai chính sách đạt được hiệu quả tốt nhất.
Dù chính sách ngoại giao của EU được đánh giá cao nhưng việc thiếu một lực
lượng quân sự đủ mạnh để xử lý khủng hoảng buộc EU phải phụ thuộc vào
Mỹ và NATO trên thực địa, điều khiến tiếng nói EU trở nên thiếu trọng lượng
trong các vấn đề quốc tế.
(iv) Trong quá trình triển khai CFSP/CSDP, EU thường đạt đồng thuận
cao trong các hoạt động giải quyết hậu khủng hoảng, cứu trợ nhân đạo, ứng
101
phó thiên tai. Liên minh thường hành động nhanh, kịp thời tại các điểm, khu
vực cần hỗ trợ nhân đạo. Tuy nhiên, không phải lúc nào EU cũng đạt được sự
đồng thuận trong các hoạt động hỗ trợ dân sự. Phản ứng không thống nhất
giữa các quốc gia thành viên trong cuộc chiến Iraq 2003 là một ví dụ cho
nguy cơ chia rẽ trong nội bộ Liên minh. Nguy cơ này có thể bùng phát bất cứ
lúc nào Liên minh đưa ra các quyết sách ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến
lợi ích, các mục tiêu cốt lõi trong chính sách đối ngoại của từng thành viên.
Đồng thuận cũng được xem xét ở nhiều cấp độ khác nhau, từ các khung chính
sách chung cho đến từng chính sách cụ thể. Bất đồng trong một chính sách
nhất định có thể không làm ảnh hưởng đến sự đồng thuận trong hướng tiếp
cận chung của một vấn đề lớn. Syria là một ví dụ. EU nhất trí duy trì chính
sách cấm vận kèm theo các điều khoản hỗ trợ không gây thương vong cho lực
lượng đối lập tại nước này, tuy nhiên đề nghị của Anh và Pháp muốn thay đổi
lệnh cấm vận, cho phép cung cấp vũ khí cho lực lượng đối lập đã vấp phải sự
phản đối của các quốc gia thành viên khác.
(v) Nhìn lại lịch sử hội nhập châu Âu về đối ngoại và an ninh, quốc
phòng, CFSP/CSDP đã định hình và phát triển theo định hướng ban đầu của
EC/EU. Tiến trình hội nhập chính trị (EPC) và sáng kiến Cộng đồng Phòng
thủ châu Âu (EDC) phác thảo ban đầu là bộ máy được thể chế hoá theo hình
thức quản trị siêu nhà nước, có chính sách đối ngoại chung, xây dựng lực lượng
quân đội chung và nguồn ngân sách chung, xây dựng chính sách chung về phát
triển công nghiệp quốc phòng… EU ngày nay đã sát nhập các cơ quan phụ
trách đối ngoại, an ninh của Liên minh và tái cấu trúc các cơ quan đại diện
ngoại giao của EU ở nước ngoài, thống nhất dưới sự quản lý của EEAS. EEAS
đồng thời là cơ quan tổng hợp, xây dựng, đề xuất chính sách đối ngoại, chính
sách an ninh quốc phòng chung của Liên minh. HR/VP là người đại diện cho
tiếng nói của EU trong các vấn đề đối ngoại. Bộ máy được thể chế hoá ngày
càng tập trung và cấu trúc hợp lý hơn. Về lĩnh vực quốc phòng, EU có Cục
102
Quốc phòng châu Âu (EDA), Quỹ Quốc phòng châu Âu (EDF) và cơ chế “Hợp
tác có cấu trúc bền vững” (PESCO). Cơ chế này tạo nền tảng cho một chính
sách phát triển công nghiệp quốc phòng chung và một lực lượng quân đội
thường trực của châu Âu trong tương lai.
(vi) Trong các vấn đề an ninh, an ninh quốc phòng là lĩnh vực nhạy
cảm nhất và mang đậm dấu ấn chủ quyền quốc gia. Do vậy, mặc dù được khởi
động không lâu sau tiến trình hội nhập về đối ngoại và an ninh nói chung
nhưng tốc độ và mức độ hội nhập trong lĩnh vực này lại khá hạn chế. Cho đến
khi CFSP đã nhận được sự đồng thuận triển khai thì khía cạnh hợp tác quốc
phòng vẫn bị bỏ ngỏ. Đến năm 1998, Chính sách An ninh Quốc phòng châu
Âu (ESDP) mới ra đời trên nền tảng sáng kiến EDC. ESDP sau đổi tên thành
Chính sách An ninh Quốc phòng chung (CSDP), trở thành một phần quan
trọng của CFSP, từng bước khẳng định sự quyết tâm và đồng lòng của các
quốc gia thành viên EU về hợp tác trong lĩnh vực quốc phòng. CSDP đạt
được bước tiến nhảy vọt từ sau sự kiện Brexit.
(vii) Để hiện thực hoá CFSP/CSDP và các mục tiêu của chính sách,
điều kiện cần là nhu cầu cấp thiết về hợp tác và nỗ lực điều chỉnh chính sách
từ bên trong, điều kiện đủ là động lực từ bên ngoài xuất phát từ bối cảnh khu
vực và thế giới với các sự kiện mang tính bước ngoặt.
Thực tiễn triển khai CFSP/CSDP từ khi ra đời đến nay đã đạt được một
số thành tựu đáng ghi nhận, được thống kê theo thứ tự thời gian như sau:
1992: CFSP ra đời, trở thành một trong ba trụ cột chính của EU, mở ra
giai đoạn mới cho tiến trình hợp tác khu vực về đối ngoại, an ninh sau thất bại
của EPC, EDC (1950-1954).
1998: Chính sách An ninh Quốc phòng châu Âu (ESDP) được đưa vào
nội dung của CFSP theo Tuyên bố St. Malo, trở thành nền tảng cho hoạt động
hợp tác quốc phòng ở khu vực.
2001: EU triển khai Kế hoạch hành động nâng cao năng lực châu Âu
103
(ECAP).
2003: EU lần đầu tiên tuyên bố Chiến lược an ninh châu Âu (ESS).
2004: Cục Quốc phòng châu Âu (EDA) ra đời.
2009: ESDP được đổi tên thành Chính sách An ninh Quốc phòng chung
(CSDP) thể hiện quyết tâm của EU đưa tiến trình hội nhập quốc phòng lên
cấp độ mới. Bộ máy của CFSP được tái cơ cấu theo hướng tập trung và tinh
giản theo Hiệp ước Lisbon.
2010: Cục Hành động đối ngoại châu Âu (EEAS) ra đời, tái cấu trúc hệ
thống cơ quan đại diện ngoại giao của EU tại nước ngoài, đặt dưới sự quản lý
của EEAS.
2016: EU công bố Chiến lược toàn cầu về đối ngoại và an ninh, Sách
trắng về tương lai của châu Âu đến năm 2025, Nghiên cứu đánh giá về tương
lai quốc phòng châu Âu.
2017: EU thiết lập Quỹ Quốc phòng châu Âu (EDF). Thành lập Sở Chỉ
huy kế hoạch và tác chiến quân sự (MPCC) nhằm tăng cường hiệu quả của
các nhiệm vụ quân sự. Thành lập Tổ công tác liên ngành giữa MPCC và Sở
chỉ huy kế hoạch và tác chiến dân sự (CPCC) để thực hiện các nhiệm vụ hỗn
hợp, tăng cường hiệu quả hoạt động phòng thủ chung ở khu vực bên ngoài
biên giới EU.
2018: Sáng kiến “Hợp tác có cấu trúc bền vững” (PESCO) được ký kết
sau 9 năm đàm phán. PESCO được triển khai với mục tiêu thúc đẩy hợp tác
quốc phòng nội khối đi vào chiều sâu, tiến tới thành lập Liên minh Quốc phòng
châu Âu.
Theo dòng thời gian này, những dấu mốc quan trọng trong quá trình
triển khai CFSP thường gắn liền với các sự kiện lớn có ảnh hưởng trực tiếp
hoặc gián tiếp đến an ninh khu vực: CFSP ra đời ngay sau chiến tranh Vùng
Vịnh và Nam Tư (1990-1991), tình hình bất ổn dâng cao ở Bosnia (1995) tiếp
thêm động lực để EU vượt qua những nghi ngại cố hữu về an ninh quốc gia để
104
thiết lập khuôn khổ hợp tác quốc phòng thông qua ESDP, ECAP và ESS được
công bố sau cuộc tấn công khủng bố chấn động thế giới 11/9/2001 và cuộc
chiến chống khủng bố do Mỹ phát động nhằm vào Iraq năm 2003, CFSP có
nhiều điều chỉnh cơ bản về cấu trúc bộ máy theo Hiệp ước Lisbon sau thất bại
của bản Hiến pháp chung châu Âu, EU công bố EUGS sau sự kiện Brexit…
CFSP/CSDP và những sáng kiến triển khai chính sách này không phải là ý
tưởng mới ra đời gần đây nhưng để hiện thực hoá chính sách, ngoài nỗ lực
điều chỉnh chính sách và nhu cầu hợp tác của các quốc gia thành viên, bối
cảnh khu vực và thế giới là động lực cần thiết để CFSP/CSDP được thực thi.
2.3.2. Nguyên nhân thành công và hạn chế
So với xuất phát điểm là EPC/EDC, CFSP/CSDP cho đến thời điểm
hiện tại được đánh giá là thành công. Có nhiều yếu tố tạo nên thành công này:
Một là, CSFP/CSDP được xây dựng trên nền tảng những thành công
EU đạt được trên tiến trình hội nhập kinh tế, xã hội, tư pháp... Việc xây dựng
niềm tin giữa các quốc gia thành viên cần thời gian và bắt đầu từ những lĩnh
vực dễ đạt được đồng thuận hơn là một lĩnh vực nhạy cảm như đối ngoại và
an ninh, quốc phòng. Đồng thời, trong quá trình hội nhập ở các lĩnh vực khác,
EU đã từng bước xây dựng và hoàn thiện một cấu trúc bộ máy với hiệu quả
hoạt động được chứng minh trên thực tế.
Hai là, sau hơn 50 năm, mối đe doạ “nước Đức” đã không còn, thay
vào đó là những nguy cơ có tính chất ngày càng phức tạp khi trật tự hai cực
sụp đổ, xu hướng hành động đơn phương tăng dần của đồng minh Mỹ. Đã đến
lúc EU cần có hành động phòng vệ tập thể tự chủ, giảm dần sự phụ thuộc vào
đồng minh. Đây cũng là cơ sở quan trọng để các quốc gia thành viên nhất trí
đưa ESDP vào CFSP, bắt đầu tiến trình hội nhập về quốc phòng.
Ba là, sau nhiều hoạt động phòng vệ tập thể thực hiện với đồng minh,
EU với tư cách là tổ chức tập hợp các quốc gia thành viên với hệ tư tưởng và
quan điểm chính trị đa dạng, để hài hoà lợi ích và đạt được sự nhất trí hành
105
động, EU cần hành động một cách trung lập tương đối. Cùng với thực lực
quân sự còn nhiều hạn chế trong các hoạt động sử dụng vũ lực, việc ưu tiên
triển khai các nhiệm vụ dân sự, thực hiện sứ mệnh hoà bình là cách EU lựa
chọn để tăng cường ảnh hưởng trên thế giới. Việc kết hợp sử dụng các công
cụ quân sự, kinh tế và ngoại giao trong ngăn ngừa, giải quyết khủng hoảng là
cần thiết. Chiến lược An ninh châu Âu 2003 nêu rõ: “… Cần thiết phải hành
động trước khi khủng hoảng xảy ra… Không một nguy cơ nào có thể được
giải quyết chỉ bằng các phương tiện quân sự. Mỗi nguy cơ đều yêu cầu sử
dụng phối hợp các công cụ” [139, tr. 21]. EU kêu gọi các thành viên chia sẻ
nguồn lực quân sự, đồng thời tăng cường nguồn lực dân sự và các phương
tiện triển khai nguồn lực này. Mở rộng hơn tính chất và mục tiêu của các
nhiệm vụ, bao gồm cả hoạt động giải trừ vũ khí [139, tr.21]. Khác với cách
đặt vấn đề thuần tuý tăng cường sức mạnh quân sự để nâng cao khả năng sử
dụng vũ lực trong đảm bảo an ninh khu vực của EDC, định hướng triển khai
như vậy khiến ESDP/CSDP dễ dàng đạt được đồng thuận để thực thi.
Bên cạnh những thành công nhất định, tiến trình hội nhập khu vực về đối
ngoại, an ninh, quốc phòng còn nhiều hạn chế so với các lĩnh vực khác. Triển
khai một chính sách chung về đối ngoại và an ninh, bao gồm chính sách về an
ninh quốc phòng, với một tổ chức 28 thành viên, để đạt được kết quả cần sự
điều chỉnh lâu dài về phương pháp hoạch định và thực thi chính sách. Quá trình
này chịu tác động của nhiều nhân tố bên trong và bên ngoài. Các nhân tố bên
trong được xác định gồm: (i) cam kết của lãnh đạo các quốc gia thành viên, (ii)
vấn đề chủ quyền và quyền lực của các thể chế, (iii) sự trỗi dậy của chủ nghĩa
dân tuý, dân tộc cực đoan, (iv) quá trình mở rộng liên minh và năng lực của các
quốc gia thành viên. Nhân tố bên ngoài gồm: (v) tính toán chiến lược của Mỹ,
Nga và quan hệ EU – NATO.
(i) Cam kết của lãnh đạo các quốc gia thành viên:
Khi xem xét quá trình hội nhập ở một khu vực, dù tiếp cận theo lý
106
thuyết nào thì vai trò quốc gia luôn có ý nghĩa quan trọng, tác động lớn đến
quá trình hội nhập. Định hướng quốc gia trong quá trình hoạch định và triển
khai chính sách, điều chỉnh các mục tiêu ưu tiên, xác định các chuẩn mực và
lợi ích chung sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các thể chế khu vực
mà quốc gia đó tham gia. Tiến trình hội nhập chỉ có thể bắt đầu khi các quốc
gia quyết định tham gia vào quá trình hợp tác. Định hướng chính sách, nội
dung các chính sách là kết quả của nhóm tinh hoa/giới lãnh đạo của quốc gia
đó. Các nhà lãnh đạo đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy hay kìm
hãm tiến trình hội nhập khu vực. Ngay cả ở khu vực hình thành tự nhiên với
nhiều lợi thế về nền tảng bản sắc và các giá trị chung như châu Âu thì việc
quyết định có tham gia hay không vào tiến trình hội nhập vẫn xuất phát từ ý
chí chính trị của các nhà lãnh đạo đứng đầu mỗi quốc gia. Tuỳ thuộc vào nhận
thức tình hình và nhu cầu hợp tác ở từng thời điểm của các nhà lãnh đạo mà
các quốc gia ký kết với nhau các hiệp định hợp tác ở từng vấn đề, lĩnh vực cụ
thể. Một trong những nhân tố đầu tiên thúc đẩy quá trình hội nhập khu vực là
nhận thức của giới lãnh đạo về khả năng hợp tác và cách thức họ phản ứng
tích cực hay không khi tham gia vào quá trình hợp tác. Nhắc đến Liên minh
châu Âu không thể không nhắc đến “Kế hoạch Schuman” hay “Phương pháp
Monnet”. Nếu không xuất phát từ ý tưởng và cam kết của các nhà lãnh đạo thì
việc hình thành các thể chế khu vực cũng như quá trình hội nhập trong khu
vực khó có thể diễn ra thuận lợi.
Đức và Pháp được coi là những quốc gia đầu tàu, có vai trò lớn trong
việc gắn kết các quốc gia thành viên. Đây cũng là hai trong số các quốc gia có
đóng góp lớn nhất vào nguồn ngân sách chung. Tính riêng năm 2016, Pháp
đóng góp 11,28 tỷ euro, chiếm 8,3% tổng ngân sách. Con số này với Đức là
10,08 tỷ euro, chiếm 7,4% [63]. Không chỉ là quốc gia có nền kinh tế lớn nhất
châu Âu, vai trò đầu tàu của hai thành viên này còn được xác lập qua lịch sử
phát triển của Liên minh khi Đức và Pháp được coi là cha đẻ của tổ chức tiền
107
thân của EU. Hai quốc gia này cũng tiên phong thúc đẩy quá trình nhất thể
hóa châu Âu trong lĩnh vực đối ngoại và an ninh như khởi xướng và ủng hộ
dự thảo Chính sách Quốc phòng châu Âu (1952-1954), đề xuất về “cấu trúc
châu Âu” trong lòng NATO để khẳng định quan điểm “châu Âu là của người
châu Âu”…
Những sáng kiến cải thiện hợp tác giữa các nước thành viên trong lĩnh
vực an ninh quốc phòng như thành lập quân đội chung, thiết lập cơ quan
chuyên trách về đối ngoại an ninh đều xuất phát từ các nhà lãnh đạo Đức và
Pháp. Tuy nhiên, chỉ nỗ lực của Đức hay Pháp thôi chưa đủ, một nền an ninh
quốc phòng chung, một chính sách đối ngoại nhất quán cần sự tham gia của
tất cả các quốc gia thành viên. Anh là một ví dụ điển hình cho thấy nhận thức
của giới lãnh đạo có tác động không nhỏ đến quá trình hội nhập nội khối. Là
nước sở hữu sức mạnh hạt nhân thứ hai trong khối, được đánh giá có thực lực
quốc phòng nổi trội so với các quốc gia thành viên khác nhưng Anh không mấy
mặn mà với hợp tác an ninh quốc phòng trong khuôn khổ Liên minh.
Dưới thời Thủ tướng Thatcher và Major, nước Anh không tham gia vào
cuộc thảo luận với các đồng nhiệm châu Âu về việc định hình một nền an ninh
mang bản sắc châu Âu. Chính sách đối ngoại và an ninh của Anh hướng tới
quan hệ đối tác với Mỹ, Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) và các
quốc gia châu Âu khác trong NATO nhằm đảm bảo vị trí lãnh đạo của khối này
và vai trò trung gian hoà giải của Anh trong cấu trúc an ninh khu vực [104, tr.
211-234]. Tháng 5/1997, nội các mới của Thủ tướng Tony Blair lên cầm quyền
đã có sự chuyển hướng trong chính sách đối ngoại của nước này. Đảng Lao
động mới của ông Blair thể hiện cam kết rõ ràng hơn với an ninh khu vực trong
khuôn khổ EU. Tuyên bố Saint-Malo (12/1998) được ký giữa Anh và Pháp về
hợp tác an ninh quốc phòng trong khuôn khổ song phương và đa phương dưới
cơ chế EU, đồng nghĩa với việc Anh cam kết chung tay cùng xây dựng và tăng
cường năng lực quốc phòng cho EU. Những đóng góp của Anh cho các nhiệm
108
vụ triển khai trong khuôn khổ CSDP được đánh giá cao và có ý nghĩa quan
trọng. Anh cũng là nước ủng hộ sáng kiến thành lập Cục Quốc phòng châu Âu
năm 2004. Nước Anh dưới thời Thủ tướng David Cameron lại có xu hướng
giảm can dự khỏi CSDP và quay trở lại đẩy mạnh hợp tác an ninh quốc phòng
trong khuôn khổ NATO. Việc Anh không còn thực hiện đầy đủ các cam kết
theo Tuyên bố Saint-Malo như cắt giảm chi phí hoạt động của Cục Quốc phòng
châu Âu hay phản đối việc thống nhất về mặt quân sự trong châu Âu thông qua
“hợp tác có cấu trúc bền vững” dẫn đến kết quả quá trình hợp tác nội khối
trong lĩnh vực an ninh quốc phòng diễn ra chậm chạp.
Tóm lại, một nền an ninh quốc phòng chung để thực hiện được cần có
sự đồng lòng, hợp sức của các thành viên, trong đó các cường quốc thành viên
có tiềm lực quân sự đóng vai trò thúc đẩy, điều phối quá trình hợp tác, triển
khai các nhiệm vụ chung. Cam kết của giới lãnh đạo, đặc biệt là của các quốc
gia đầu tàu là điều kiện cần để CSDP phát triển.
(ii) Vấn đề chủ quyền và quyền lực của các thể chế:
Nếu nhận thức của giới lãnh đạo được coi là tiền đề quan trọng để bắt
đầu và thúc đẩy quá trình hợp tác khu vực thì chủ quyền quốc gia lại là yếu tố
cản trở lớn nhất đối với quá trình này. Trong quan hệ quốc tế, “chủ quyền”
luôn là vấn đề ưu tiên trên hết của một quốc gia trong bất kỳ lĩnh vực nào.
Quá trình hợp tác giữa quốc gia này với quốc gia khác, hay sự tham gia của
quốc gia đó vào sân chơi khu vực có thể bị hạn chế bởi yếu tố “chủ quyền”.
Nói cách khác, nguy cơ xâm phạm chủ quyền có tác động lớn đến khả năng
hợp tác của một quốc gia. Chính vì vậy, các sân chơi khu vực thường mang
tính chất đối thoại, mở ra cơ hội để các quốc gia có thể hợp tác với nhau.
Châu Âu là một trường hợp đặc biệt. Khi tham gia vào Liên minh, các quốc
gia cần cam kết tán thành và thực hiện các điều luật đã được thành lập, đặc biệt
là các mục tiêu chính về vấn đề liên minh chính trị, kinh tế và tiền tệ. Điều này
đồng nghĩa với việc thể chế EU có thể can thiệp vào một số vấn đề mang tính
109
nội bộ quốc gia như chính sách thương mại, tài chính… Để làm được điều này,
EU cần được các nước thành viên trao một phần chủ quyền để thực hiện chức
năng quản lý của một bộ máy siêu nhà nước. Tích hợp nhiều yếu tố thuận lợi
cho chủ nghĩa khu vực phát triển mạnh mẽ, EU đạt được mức độ hội nhập
sâu, các thể chế siêu nhà nước với vai trò ngày càng được khẳng định của
Nghị viện, Hội đồng, Ủy ban và Tòa án châu Âu.
Đối với an ninh, quốc phòng và đối ngoại, là những lĩnh vực thể hiện rõ
nhất chủ quyền của một quốc gia, EU cũng đã từng bước thể chế hóa với sự
hiện diện của HR/VP và EEAS. Qua hơn năm năm tồn tại, EEAS bị đánh giá
là hoạt động kém hiệu quả. Tuy nhiên, nhìn nhận một cách khách quan, EEAS
hoạt động có hiệu quả hay không, ngoài nhân tố con người, nguồn lực, còn
chịu tác động của các yếu tố khách quan khác, trong đó “chủ quyền” quốc gia
đối với các vấn đề đối ngoại, an ninh quốc phòng là yếu tố có tác động quyết
định. Khi thể hiện quyền lực của mình, EEAS không thể tránh khỏi việc can
dự vào các vấn đề mang tính nội bộ của các quốc gia thành viên như tiếp cận,
tổng hợp các nguồn tin tình báo phục vụ cho hành động phòng vệ tập thể, đề
xuất một số định hướng, mục tiêu chung đối với chính sách quốc phòng, kế
hoạch chi tiêu quốc phòng của các quốc gia thành viên, đề nghị các nước
thành viên thống nhất quan điểm chính trị và hành động nhất quán đối với các
vấn đề đối ngoại của EU với bên ngoài… Để xoa dịu những nghi ngại khi
quyền lực thể chế được tăng cường hơn khi triển khai CFSP/CSDP, trong Báo
cáo hoạt động của EEAS tháng 7/2013, cựu Ngoại trưởng châu Âu Catharine
Ashton cho rằng CFSP/CSDP không thể thay thế chính sách đối ngoại của
từng quốc gia thành viên mà chỉ nhằm tăng cường tính hợp tác giữa các thành
viên trong chính sách đối ngoại và an ninh quốc phòng hướng tới mục tiêu
chung là nâng cao vai trò của EU trên thế giới.
So với một trong những tổ chức khu vực được đánh giá là thành công
hiện nay như ASEAN, tổ chức vẫn trung thành với nguyên tắc “không can
110
thiệp vào công việc nội bộ của các thành viên”, cơ chế phối hợp mang tính đối
thoại, không ràng buộc, thì các quốc gia thành viên EU được đặt trong khuôn
khổ pháp lý tương đối chặt chẽ. EU được thể chế hóa với nhiều công cụ quản
lý và giải quyết các vấn đề nội khối, bao gồm cả lĩnh vực nhạy cảm như đối
ngoại và an ninh, quốc phòng. Như vậy, đối với vấn đề chủ quyền trong hội
nhập khu vực nói chung và hội nhập về chính trị nói riêng, EU đã bước đầu
vượt qua được lực cản từ nhận thức về “chủ quyền” của các quốc gia để đạt
được sự đồng thuận nhất định về nhiều vấn đề truyền thống thuộc phạm trù
quốc gia như chính sách tài chính, tiền tệ, đối ngoại, an ninh, quốc phòng…
(iii) Sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tuý, dân tộc cực đoan:
Trong một phát biểu tại Nghị viện châu Âu vào năm 1995, Tổng thống
Pháp đương thời Francois Mitterrand đề cập đến những thách thức trong
tương lai đối với EU, ông nhận định rằng: “Chủ nghĩa dân tộc, đó chính là
chiến tranh” [90]. Đây chính là hình ảnh châu Âu nửa đầu thế kỷ XX bị tàn
phá bởi chủ nghĩa diệt chủng và chế độ độc tài. Giới tinh hoa châu Âu đã phải
nỗ lực không ngừng để xây dựng một châu Âu hoà bình và đoàn kết như ngày
nay. Chủ nghĩa dân tộc vị kỷ không có môi trường để phát triển từ sau chiến
tranh Thế giới thứ hai ở khu vực này, mặc dù trên thực tế nó vẫn tồn tại âm ỉ
trong lòng châu Âu, thể hiện qua một số sự kiện như cuộc khủng hoảng
“Chiếc ghế trống” (1965), nội chiến ở Nam Tư (1991) hay bất ổn chính trị ở
một số quốc gia Đông Âu…
Sau cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu năm 2008, nhận thức đây là hậu
quả từ những quyết sách sai lầm của giới tinh hoa, là hệ quả của quá trình
toàn cầu hoá, châu Âu hoá, người dân châu Âu cho rằng đất nước họ chịu quá
nhiều tác động, can thiệp từ bên ngoài (ở đây được hiểu là các chính sách của
EU), sự tự chủ dân tộc theo đó đã giảm đi đáng kể. Một khảo sát của Trung
tâm nghiên cứu Pew thực hiện tháng 6/2016 trong 10 nước châu Âu cho thấy
tỷ lệ người dân ủng hộ EU từ 2004 đến 2016 có xu hướng giảm dần. Đặc biệt,
111
ở những nước đi đầu trong tiến trình nhất thể hóa châu Âu như Đức, Pháp,
con số này lần lượt là 50% và 38%. Chỉ tính riêng hai năm 2015-2016, tỷ lệ
người dân ủng hộ quá trình nhất thể hóa châu Âu tại Pháp giảm xuống 17%,
Đức 8%, Tây Ban Nha 16% [163]. Vượt qua thất bại của bản Hiến pháp
chung 2005, EU ra sức cải tổ bộ máy bằng một bản Hiệp ước cải cách mới,
còn gọi là Hiệp ước Lisbon, nhưng những nỗ lực này chưa đủ lấy lại lòng tin
của người dân. Họ cho rằng EU chưa giải quyết tận gốc vấn đề khủng hoảng
nợ công, phản ứng thiếu hiệu quả trước làn sóng di cư ồ ạt từ Trung Đông
chảy vào châu Âu kéo theo nhiều hệ lụy về an ninh và phát triển xã hội.
Bảng 5: Khảo sát ý kiến của người dân về sự ủng hộ đối với EU
từ năm 2004 đến năm 2016
Nguồn: Trung tâm nghiên cứu PEW
Thập kỷ thứ hai của thế kỷ XXI chứng kiến sự trỗi dậy mạnh mẽ của
chủ nghĩa dân tộc, làn sóng bài châu Âu lan rộng khắp châu Âu. Ngày càng có
nhiều chính trị gia theo chủ nghĩa dân tuý xuất hiện ở châu Âu như Chủ tịch
Đảng Mặt trận dân tộc cực hữu Pháp Marine Le Pen, Lãnh tụ Đảng Vì tự do
112
cực hữu Hà Lan Geert Wilders, Thủ tướng Ba Lan Mateusz Morawiecki, Thủ
tướng Hungary Viktor Orban… Bà Le Pen trong các chiến dịch tranh cử của
mình từng nhiều lần phát biểu EU là “ung nhọt hút cạn sinh lực nước Pháp”
[90] và tuyên bố nếu bà đắc cử sẽ yêu cầu EU trả lại chủ quyền cho nước
Pháp. Những luận điệu tương tự xuất hiện ở nhiều quốc gia châu Âu thời gian
gần đây. Các chính trị gia theo xu hướng dân túy với những tuyên bố chống
lại tiến trình nhất thể hoá châu Âu đang nhận được sự ủng hộ của người dân
trong các cuộc tranh cử. Sự thất bại của bản Hiến pháp chung châu Âu năm
2005 và sự kiện Brexit là những cao trào của làn sóng bài châu Âu đầu thế kỷ
XXI. Đặc biệt, sự kiện chưa từng có tiền lệ, Brexit là đòn giáng mạnh đối với
đế chế EU. Đứng ở góc độ chủ nghĩa dân tộc, Brexit đã truyền cảm hứng cho
các chính trị gia dân tuý, cổ xuý cho chủ nghĩa dân tộc trong quá trình “de-
europeanize” (tạm dịch: phân rã châu Âu). Chính sách thắt lưng buộc bụng
được áp dụng như giải pháp tình thế cho cuộc khủng hoảng nợ công có ảnh
hưởng trực tiếp đến chất lượng cuộc sống của người dân khiến họ dường như
quên đi những lợi ích lớn hơn về phát triển kinh tế, xã hội và đảm bảo an ninh
mà bản thân người dân, đứng từ góc độ cá nhân, gián tiếp được hưởng khi gia
nhập EU. Những bất cập từ chính sách nhập cư của EU cũng tạo thêm môi
trường thuận lợi cho chủ nghĩa dân tộc, dân tuý phát triển.
Tuy nhiên, đối với tiến trình hội nhập về đối ngoại, an ninh nói chung và
an ninh quốc phòng nói riêng, ngược lại, Brexit đã tạo động lực đáng kể để
châu Âu đạt bước tiến mới trong tiến trình này. Trong Báo cáo thực hiện Chiến
lược toàn cầu về an ninh châu Âu (EUGS) năm 2017, Ngoại trưởng Mogherini
đánh giá CFSP/CSDP đã đạt được những thành quả nhất định, nhiều hơn
những gì EU đã đạt được trong lĩnh vực đối ngoại, an ninh quốc phòng nhiều
thập kỷ qua [79]. Sự ra đi của một cường quốc quân sự như Anh khiến châu Âu
nhận thấy cần nỗ lực hơn nữa để lấp đầy khoảng trống Anh để lại. Những bước
tiến mạnh mẽ của châu Âu trong thúc đẩy hợp tác quốc phòng nội khối như sự
113
ra đời của EDF hay PESCO được kỳ vọng sẽ nâng cao sức mạnh quân sự tổng
thể của khối, các quốc gia thành viên thông qua PESCO có thể tận dụng và
hưởng lợi từ nguồn lực chung của EU trong nâng cao năng lực quốc phòng.
Nước Anh không còn cơ hội làm điều này với tư cách là thành viên EU. Trong
cuộc họp báo về “Tương lai của chính sách đối ngoại, an ninh và quốc phòng
hậu Brexit” tổ chức tại Brussells tháng 5/2018, HR/VP Mogherini tuyên bố
rằng: nước Anh “…là bạn, là đối tác (của EU) nhưng với tư cách là “nước thứ
ba”… Sẽ không có khái niệm “thành viên bán phần” (half-member) hay
“thành viên danh dự” (ad honorem)..., chỉ có thể là thành viên hoặc không”
[129]. Không chỉ vậy, Anh rời EU đồng nghĩa với việc nước này buộc phải rút
khỏi 750 thoả thuận trên các lĩnh vực khác nhau [29] và bắt đầu quá trình đàm
phán để ký kết các thoả thuận hợp tác mới với EU và các đối tác của EU. Sau
Brexit, đã có nhiều cuộc bàn luận trong nội bộ nước Anh và châu Âu về việc
Anh được và mất gì từ quyết định rút lui này. Brexit, ở chiều ngược lại, mang
tính răn đe đối với phong trào dân tuý, bài châu Âu ở các nước.
Tóm lại, quan sát thực tiễn, có thể thấy chủ nghĩa dân tộc, dân tuý cực
đoan có tác động tích cực đến tiến trình hội nhập về đối ngoại và an ninh, đặc
biệt trong lĩnh vực an ninh quốc phòng trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên,
không thể phủ nhận tác động tiêu cực của nhân tố này đối với tiến trình hội
nhập chung của châu Âu. Chủ nghĩa dân tuý, dân tộc cực đoan tạo một lực
cản lớn, thậm chí có thể phá vỡ tiến trình này. CFSP/CSDP theo đó có thể
không thể tiếp tục triển khai. Mặc dù vậy, trong bối cảnh nền an ninh toàn cầu
đang đối mặt với nhiều nguy cơ có tính chất phức tạp và khó lường, hợp tác
khu vực về an ninh, quốc phòng vẫn sẽ tiếp diễn dưới hình thức hợp tác đa
phương giữa các quốc gia châu Âu và/hoặc thông qua các cơ chế an ninh khu
vực khác như NATO, OSCE…
(iv) Quá trình mở rộng liên minh và năng lực của các quốc gia thành viên:
Với tiền thân là Cộng đồng Than thép châu Âu có 6 thành viên ban đầu,
tính đến 2017, EU có 28 quốc gia thành viên. Trải qua bảy lần mở rộng, đáng
114
chú ý nhất là lần mở rộng năm 2004, tổ chức này kết nạp thêm 10 thành viên mới69 nâng số lượng thành viên từ 15 lên 25. Đây là lần mở rộng lớn nhất
trong lịch sử phát triển Liên minh. Biên giới EU mở rộng sang phía Đông với
8 nước thuộc Liên bang Xô Viết cũ và hai quốc đảo ở Địa Trung Hải là Síp
và Malta. Việc mở rộng năm 2004 đã trở thành đề tài phân tích của nhiều học
giả bởi với quy mô ngày càng lớn sẽ có nhiều vấn đề phát sinh trong quá
trình vận hành bộ máy và triển khai các chính sách chung. Vấn đề được nhắc
đến nhiều nhất là năng lực của các quốc gia thành viên.
Năng lực quốc gia là yếu tố mang tính thúc đẩy hoặc cản trở quá trình
hợp tác khu vực. Năng lực của các quốc gia thành viên là khả năng, nguồn
lực, yếu tố cốt lõi quyết định sự sẵn sàng tham gia đóng góp, hợp tác của
quốc gia đó trong nhóm/khu vực. Nếu một quốc gia có tiềm lực và sẵn sàng
hợp tác, điều này đồng thời tăng cường cơ hội hợp tác và nâng cao chất
lượng mối quan hệ hợp tác trong nhóm/khu vực. Tuy nhiên, trong một khu
vực, không thể tránh khỏi có những thành viên không có/chưa đủ năng lực và
tự nguyện hợp tác. Chính vì tầm quan trọng như vậy nên EU rất chú trọng đến
việc xem xét các quốc gia trên nhiều yếu tố trước khi chấp thuận đề xuất xin
gia nhập khối. Các quốc gia mong muốn gia nhập Liên minh cần đạt các yêu
cầu theo Bộ tiêu chuẩn Copenhagen: (i) về mặt chính trị, phải có các thể chế
ổn định bảo đảm dân chủ, pháp trị và nhân quyền; (ii) về mặt kinh tế, phải có
một nền kinh tế thị trường hoạt động tốt và có khả năng đương đầu với áp lực
cạnh tranh và các lực lượng thị trường trong EU; (iii) về mặt pháp lý, phải tán
thành và thực hiện các điều luật đã được thành lập của EU, đặc biệt là các mục
tiêu chính về vấn đề liên minh chính trị, kinh tế và tiền tệ [185].
Dựa trên các tiêu chuẩn này, để thực hiện chính sách hướng Đông, EU
đã khởi động Chương trình Hành động vì sự phục hồi kinh tế của Ba Lan và
69 10 nước gia nhập EU năm 2004: Cộng Hòa Séc, Cộng Hòa Síp, Estonia, Hungary, Latvia, Lithuania, Malta, Ba Lan, Slovakia, Slovenia.
Hungaria (PHARE). PHARE sau này được sử dụng là công cụ hỗ trợ của EU
115
giành cho các nước ở Trung và Đông Âu có nguyện vọng gia nhập tổ chức. PHARE được thay thế bằng chương trình IPA70 từ năm 2007. Nguồn ngân
sách này tăng dần theo thời gian. IPA giai đoạn 1 (2007-2013) được cấp nguồn
ngân sách 11,5 tỷ euro và tăng lên 11,7 tỷ euro ở giai đoạn 2 (2014-2020) [62],
chiếm gần 20% tổng nguồn ngân sách EU dành cho các vấn đề toàn cầu. Bản
thân EU rất coi trọng việc nâng cao trình độ phát triển của các nước trong
khối, đặc biệt là nâng cao năng lực kinh tế và phát triển xã hội nhằm tạo mặt
bằng phát triển tương đối giữa các thành viên. Mặc dù nỗ lực như vậy nhưng
chênh lệch về trình độ phát triển giữa các thành viên mới và cũ trong khối vẫn
còn rất lớn. GDP bình quân đầu người của các nước gia nhập từ năm 2004 có
sự thay đổi lớn nhưng vẫn còn cách xa các đầu tàu như Đức, Pháp, Ý. Ba Lan
và Séc là hai ví dụ điển hình. Ba Lan là nước lớn nhất trong khối Đông Âu,
GDP chiếm đến 50% nhóm các nước quốc gia ở khu vực này nhưng lại chỉ
chiếm khoảng 2% tổng GDP của toàn bộ EU. Trong khi đó, thu nhập bình
quân đầu người ở Séc đạt khoảng 18.266 euro/năm (năm 2016) nhưng vẫn chỉ
bằng 1/2 so với nước láng giềng Đức (41.936 euro/năm) [182].
Về mục tiêu đảm bảo an ninh quốc phòng, các nước nhỏ có xu hướng
dựa vào ô bảo hộ an ninh từ tổ chức/cơ chế khu vực mà mình tham gia. Trong
bối cảnh an ninh khu vực từ sau Thế chiến thứ hai tương đối ổn định cùng với
sự hiện diện của đồng minh Mỹ và NATO, liên minh quân sự lớn nhất hiện
nay có 22 thành viên chung với EU, việc nâng cao năng lực quốc phòng
không phải là thứ tự ưu tiên hàng đầu của các quốc gia châu Âu. Bước ra khỏi
chiến tranh với tình trạng kiệt quệ về kinh tế, các nước châu Âu đặt mục tiêu
phát triển kinh tế lên hàng đầu, đồng nghĩa với việc nguồn lực cho các lĩnh
vực khác, đặc biệt là lĩnh vực tiêu tốn nhiều ngân sách như quốc phòng sẽ
giảm đi. Theo thống kê của Ngân hàng Thế giới, trong giai đoạn 1988-2015,
các nước châu Âu có xu hướng giảm chi tiêu quốc phòng, như Đức và Pháp
70 Tiếng Anh: Instrument for Pre-accession Assistance
(3,5% xuống 2,1% tính trên GDP quốc gia), Bỉ (2,5% xuống còn 0,9%), Ý
116
(2,2% xuống 1,3%) [183]. Trong nguồn ngân sách được thông qua năm 2014,
EU chỉ giành ra 314,47 triệu euro (tương đương 4% tổng ngân sách) cho
CFSP so với 1,6 tỷ euro (20% ngân sách) [63] giành hỗ trợ các nước mới gia
nhập/các nước chuẩn bị gia nhập IPA. Nguồn ngân sách cho lĩnh vực này tăng
lên 326,8 triệu euro năm 2017 [69].
Bảng 6: Thay đổi GDP bình quân đầu người của các nước thuộc EU
Đơn vị: % thay đổi
Nguồn: Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF)
từ năm 2004 đến 2014
Gánh nặng về đóng góp ngân sách cũng là một vấn đề nảy sinh nhiều
mâu thuẫn giữa các thành viên. Các nước đóng góp ngân sách theo tỷ lệ thuận
với nền kinh tế. Theo số liệu thống kê năm 2016, Đức, Pháp, Ý, Tây Ban Nha
và Ba Lan là các nước đóng góp nhiều nhất [63]. Đóng góp nhiều vào ngân
sách chung đi đôi với xu hướng tăng cường ảnh hưởng trong việc định hướng
chính sách và các quyết sách khác của khối. Đồng thời, muốn được hưởng lợi
117
từ nguồn ngân sách là tâm lý chung của các nước tham gia vào thể chế khu
vực, trong khi thứ tự ưu tiên của dòng ngân sách lại không phải lúc nào cũng
đáp ứng được nhu cầu của các nước. EU thường xuyên phải đối mặt với tình
trạng bất đồng ý kiến khi họp bàn về vấn đề ngân sách. Ví dụ như các nước
Pháp, Tây Ban Nha chú trọng vào hỗ trợ nông nghiệp, các nước Đông Âu
muốn hướng ngân sách vào hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng trong khi Ý, nước
đóng góp lớn cho nguồn ngân sách chung lại không được hưởng lợi nhiều từ
các lĩnh vực này.
Bảng 7: So sánh về chi tiêu quốc phòng của châu Âu với một số quốc gia khác
Đơn vị: tỷ euro
Nguồn: Viện nghiên cứu hoà bình quốc tế Stockholm, Trung tâm Chiến lược chính trị châu Âu
Qua số liệu như trên có thể thấy hội nhập về đối ngoại và an ninh nội
khối trở nên khó khăn hơn khi EU mở rộng. Trong một lĩnh vực khó đạt
được đồng thuận sẽ càng trở nên khó triển khai hơn khi số phiếu cần được
118
thông qua tăng lên. Đồng thời, năng lực quốc gia và sự chênh lệch lớn về
trình độ phát triển giữa các quốc gia thành viên khiến ý tưởng thành lập quân
đội chung cũng vấp phải nhiều khó khăn khi gánh nặng ngân sách chủ yếu
đặt trên vai các cường quốc trong khối. Sự bất bình đẳng tất yếu giữa các
thành viên ngày càng hiện rõ, trở thành nguy cơ thúc đẩy tâm lý hoài nghi
của người dân các nước thành viên về lợi ích mà nước họ có được khi tham
gia vào tổ chức khu vực.
(v) Tính toán chiến lược của Mỹ, Nga và quan hệ đồng minh EU – NATO:
Về phía Mỹ, từ sau chiến tranh Thế giới thứ hai đến nay, về tổng thể,
Mỹ mong muốn hòa bình và ổn định trong khu vực vì một châu Âu hòa bình,
thống nhất và dân chủ, đảm bảo cho sự an toàn và thịnh vượng của chính
nước Mỹ. Tất nhiên một châu Âu hòa bình và ổn định phải nằm trong một trật
tự mới do Mỹ chi phối. Riêng đối với Đông Âu, Mỹ ủng hộ công cuộc cải
cách, sự phát triển của nền dân chủ và kinh tế thị trường, đồng thời ngăn ngừa
khả năng phục hồi chủ nghĩa cộng sản ở các nước này. Trong Chiến lược an
ninh quốc gia Mỹ năm 2017, Mỹ tiếp tục khẳng định châu Âu là một đồng
minh quan trọng, cùng Mỹ kiểm soát tình hình bất ổn ở Trung Đông, khu vực
châu Phi và các điểm nóng như Afghanistan, Iraq… Mỹ kỳ vọng các đồng
minh châu Âu tăng chi phí quốc phòng lên 2% GDP đến năm 2024, với 20%
ngân sách dành cho tăng cường năng lực quân sự [180].
Đối với việc châu Âu thúc đẩy một chính sách đối ngoại an ninh chung,
trong đó bao gồm chính sách quốc phòng chung, quan điểm của Mỹ là ủng hộ
nhưng kiềm chế. Một châu Âu với nền phòng thủ độc lập tự chủ sẽ đe dọa đến
vai trò truyền thống của NATO, đồng nghĩa với suy giảm khả năng ảnh
hưởng của Mỹ tại châu lục. Tuy nhiên, bản thân nước Mỹ cũng mong muốn
một châu Âu với thực lực quân sự mạnh hơn hiện tại, như vậy có thể giúp Mỹ
san sẻ trách nhiệm bảo đảm an ninh tại khu vực thông qua khuôn khổ NATO,
nhưng tất nhiên là “mạnh lên” trong tầm kiểm soát của Mỹ bởi một EU hội
119
nhập sâu, đạt được tiếng nói chung trong các vấn đề an ninh quốc phòng nói
riêng và trong lĩnh vực đối ngoại nói chung sẽ giúp EU trở thành một đồng
minh “chất lượng” hơn trong cuộc chiến chống khủng bố, ứng phó hiệu quả
hơn với các nguy cơ truyền thống và phi truyền thống. Chính sách “xoay trục”
sang châu Á – Thái Bình Dương của chính quyền Obama và sự giảm can dự ở
một số khu vực dưới thời Trump có tác động tích cực, thúc đẩy quá trình hội
nhập sâu về an ninh quốc phòng của EU.
Về phía Nga, EU là đối tác lớn của Nga trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt
trong lĩnh vực thương mại và năng lượng. Nga là nhà cung cấp năng lượng
lớn cho EU, chiếm đến 53,5% tổng nhu cầu tiêu dùng của 28 thành viên EU
(năm 2014, riêng dầu mỏ và sản phẩm dầu tới gần 88%, khí tự nhiên khoảng
67% [96]. Bất chấp lệnh trừng phạt của EU áp dụng đối Nga từ vấn đề
Crimea, xuất khẩu năng lượng sang EU của Nga tiếp tục tăng. Từ đầu năm
2017, khối lượng khí đốt Nga xuất khẩu sang EU tăng 12,3% và dự báo đà
tăng trong năm 2018. Đồng thời, EU và Nga là đối tác thương mại lớn thứ tư
của nhau. Tổng kim ngạch xuất khẩu của EU sang thị trường Nga trong năm
2013 là 120 tỷ Euro (140 tỷ USD), đã giảm xuống chỉ còn 72 tỷ Euro (84 tỷ
USD) vào năm 2016 [82] do ảnh hưởng từ chính sách cấm vận, đưa Nga
xuống vị trí thứ năm trong tốp các đối tác thương mại quan trọng hàng đầu
của EU (sau Mỹ, Thuỵ Sỹ, Trung Quốc và Thổ Nhĩ Kỳ). Về mặt an ninh, Nga
định vị EU là một nhân tố quan trọng trong cấu trúc an ninh khu vực nhưng
xác định duy trì chính sách cứng rắn với đối tác này.
Trong Chiến lược an ninh quốc gia năm 2016, Nga tuyên bố sử dụng vũ
khí hạt nhân như một biện pháp răn đe và để mở khả năng sử dụng biện pháp
quân sự nếu các hướng giải quyết phi quân sự khác nhằm bảo vệ lợi ích quốc
gia thất bại. Đồng thời, Nga tiếp tục duy trì quan điểm cứng rắn về vấn đề
Ukraine và các biện pháp trả đũa thương mại với các lệnh cấm vận của EU và
Mỹ. Những động thái này khiến nguy cơ xảy ra những cuộc xung đột nóng
120
trong khu vực tăng lên. Nga định hướng chính sách tăng cường quan hệ với
Trung Quốc, Ấn Độ, các nước Mỹ La tinh và mở rộng ảnh hưởng ở châu Phi.
Tham vọng tăng cường ảnh hưởng của Nga trên thế giới và ở những khu vực
châu Âu đang và mong muốn duy trì ảnh hưởng như châu Phi cùng với ảnh
hưởng truyền thống của Nga ở Đông Âu, Trung Đông có tác động trực tiếp
đến hướng triển khai CFSP/CSDP của EU. Nhìn từ góc độ EU, Nga chính là
động lực để EU nâng cấp năng lực chính trị và quân sự của mình.
Về phía NATO, EU – NATO là quan hệ đồng minh chiến lược truyền
thống. Việc EU thúc đẩy triển khai Chính sách An ninh Quốc phòng chung
đứng trên quan điểm của NATO không phải là một nguy cơ lớn vì các lý do
sau: (i) châu Âu hiện tại hạn chế về khả năng quân sự để thực thi Nhiệm vụ
Petersberg nên nguy cơ đối đầu giữa hai lực lượng không cao; (ii) số lượng
thành viên chung giữa hai tổ chức lớn, đồng thời những thành viên NATO
không nằm trong EU vẫn có thể tham gia vào quá trình thảo luận và đưa ra
quyết định hành động trong khuôn khổ CSDP; (iii) EU có quyền hành động
độc lập trong một số trường hợp nhưng vẫn sử dụng một số trang thiết bị của
NATO lộ rõ điểm yếu trong tiềm lực quân sự của tổ chức. Với NATO, việc
hình thành một lực lượng quân đội chung với chính sách an ninh quốc phòng
chung của EU là hành động mang tính khẳng định bản sắc chính trị của Liên
minh nhiều hơn là đi vào thực chất. Đồng thời, một EU mạnh lên về năng lực
quân sự giúp NATO có một đồng minh chất lượng hơn cùng duy trì và bảo vệ
an ninh khu vực và các vùng ảnh hưởng. Những cải tổ mạnh mẽ về mặt thể
chế, nhiều hoạt động thúc đẩy triển khai CFSP, CSDP được EU khởi xướng
và kêu gọi thực hiện, đặc biệt sau sự kiện Brexit cho thấy ý chí quyết tâm của
các nhà lãnh đạo EU trong việc nâng cao năng lực tự chủ quốc phòng. Động
thái này được các nhà lãnh đạo NATO tuyên bố ủng hộ, thắt chặt và tăng
cường hơn nữa quan hệ đồng minh chiến lược với EU.
121
Năm 2016 là một năm sôi động với hàng loạt các sự kiện trong quan hệ
giữa EU và NATO, trong đó nổi bật là Thỏa thuận Kỹ thuật về Phòng thủ
không gian mạng được ký kết giữa Lực lượng Phản ứng nhanh về sự cố máy
tính của NATO (NCIRC) và Nhóm Phản ứng khẩn cấp về sự cố máy tính của
EU (CERT-EU), cung cấp cơ chế trao đổi thông tin và chia sẻ kinh nghiệm
giữa các đội phản ứng khẩn cấp. Theo đề nghị của Đức, Hy Lạp và Thổ Nhĩ
Kỳ, các Bộ trưởng Quốc phòng NATO đã đồng ý việc các nước đồng minh
cần tham gia vào các nỗ lực quốc tế nhằm ngăn chặn nạn buôn lậu và nhập cư
bất hợp pháp trên biển Aegean, hợp tác với cơ quan quản lý biên giới của EU
Frontex. Ngày 8/7/2016, không lâu sau khi EU tuyên bố Chiến lược toàn cầu
của EU về đối ngoại và an ninh khẳng định vai trò quan trọng của NATO trong
chiến lược an ninh toàn cầu của mình, EU và NATO cùng ký Tuyên bố chung
Warsaw đưa ra các lĩnh vực then chốt hai bên cần tăng cường hợp tác, gồm:
chống lại các nguy cơ hỗn hợp71, hợp tác hành động trong các vấn đề an ninh
biển và di cư, an ninh mạng, tăng cường khả năng phòng vệ, công tác nghiên
cứu và công nghiệp quốc phòng, tập trận chung, hỗ trợ các đối tác phía Đông
và phía Tây [78].
Nhìn chung, quan hệ EU – NATO là một trong những trục chính trong
cấu trúc an ninh khu vực. Sự phát triển của mối quan hệ này thể hiện mức độ
thành công của tiến trình hội nhập khu vực nói chung. Đối với quá trình hợp
tác nội khối về an ninh quốc phòng, quan hệ với NATO mang tính hỗ trợ cho
tiến trình này, nhưng xét từ góc độ EU, NATO là yếu tố kìm hãm quá trình
triển khai CFSP do tâm lý dựa vào sự bảo hộ của tổ chức này trong các hoạt
71 Tiếng Anh: hybrid threats
động quốc phòng của các quốc gia thành viên.
122
Thành viên EU và NATO Thành viên EU
Nguồn: Trung tâm chiến lược chính trị châu Âu
Bảng 8: Tương quan so sánh thành viên EU và NATO (tính đến năm 2017)
Tiểu kết chương 2
Những thành tựu CFSP đạt được qua hơn hai thập kỷ triển khai là minh
chứng rõ ràng cho tiến trình hội nhập châu Âu đã ở mức độ cao. Hiện tượng
“lan toả chính trị” đang diễn ra ở châu Âu và đạt được nhiều kết quả cụ thể.
Trên cơ sở phân tích nội hàm chính sách, các thành tựu, nguyên nhân thành
công và hạn chế trong quá trình thực thi CFSP, năm nhân tố được xác định có
tác động đến quá trình triển khai chính sách là: cam kết của lãnh đạo các quốc
gia thành viên; vấn đề chủ quyền và quyền lực của các thể chế; quá trình mở
rộng Liên minh và năng lực của các quốc gia thành viên; sự trỗi dậy của chủ
123
nghĩa dân tuý, dân tộc cực đoan; tính toán chiến lược của Mỹ, Nga và quan hệ
EU – NATO. Qua phân tích, đánh giá thực tiễn triển khai Chính sách cho thấy:
(i) Quá trình hình thành, điều chỉnh và triển khai CFSP cho thấy hội
nhập khu vực về đối ngoại và an ninh đã đạt được nhiều bước tiến nhất định;
(ii) Sự khác biệt về năng lực của các quốc gia thành viên là khó tránh
khỏi. Khoảng cách phát triển giữa các thành viên rất khó thu hẹp. Sự tăng
cường quyền lực cho các thể chế khu vực xuất phát từ khoảng cách này, đáp
ứng nhu cầu phát triển của các chủ thể quốc gia đặt trong môi trường vận
động của quá trình hội nhập khu vực;
(iii) Vấn đề chủ quyền có thể được giảm nhẹ dựa trên nhận thức và sự
thừa nhận về các giá trị chung. Hành động dựa trên một bản sắc thống nhất
tạo được sự gắn kết giữa các quốc gia thành viên;
(iv) Lợi ích quốc gia là vấn đề cốt lõi. Trong hội nhập khu vực, một
chính sách chung có tính khả thi cao là một chính sách tối đa hoá được lợi ích
của các quốc gia thành viên khi triển khai các hành động tập thể.
124
CHƯƠNG 3
TRIỂN VỌNG HỘI NHẬP VỀ ĐỐI NGOẠI VÀ AN NINH CỦA
LIÊN MINH CHÂU ÂU ĐẾN NĂM 2025
3.1. Xu thế hội nhập khu vực đến năm 2025
3.1.1. Xu thế chung
Trật tự thế giới duy trì ở hình thức “nhất siêu đa cường” hay “đa cực”
trong thế kỷ XXI vẫn là quan điểm còn nhiều tranh luận. Các vấn đề đề cập
trong luận án được đặt trong bối cảnh cục diện thế giới “đa cực”, trong đó EU
được coi là một “cực”. Trật tự định hình từ sau chiến tranh Lạnh đến nay về
cơ bản được duy trì.
Với sức mạnh tổng thể vượt trội, Mỹ tiếp tục là cường quốc số một thế
giới về kinh tế, quân sự và khoa học kỹ thuật. Tuy nhiên, vị trí đứng đầu này
đang gặp nhiều thách thức từ sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế và
tham vọng tăng cường ảnh hưởng trên thế giới của Trung Quốc. Từ giai đoạn
2004 – 2015, Trung Quốc đã tăng tỷ trọng GDP toàn cầu từ 5% đến 15%
[187] và còn trên đà tăng. Theo Báo cáo dự báo xu thế chi ngân sách quốc
phòng từ 2012-2045 của Bộ quốc phòng Anh, Trung Quốc dự kiến tăng
nguồn ngân sách cho quốc phòng từ 251 tỷ đô la Mỹ lên đến 1.270 tỷ đô năm
2045 [175]. Đồng thời, xu hướng giảm can dự của chính quyền Tổng thống
Trump ở một số khu vực trên thế giới là cơ hội để Trung Quốc vươn lên, tăng
cường và mở rộng ảnh hưởng. Xu hướng phát triển mạnh mẽ của Trung
Quốc, hướng tới mục tiêu trở thành đối trọng cân bằng lực lượng với Mỹ sẽ
tiếp diễn trong thế kỷ XXI. Ở châu Âu, quyết tâm tăng cường hợp tác quân sự
nội khối và hướng tới thành lập Liên minh quân sự của EU, xu hướng triển
khai các chính sách có thiên hướng cưỡng chế bằng quân sự của Nga, quan hệ
Nga – Trung không ngừng được nâng cấp là những động thái tác động đến
tầm ảnh hưởng của Mỹ trên thế giới nói chung và ở châu Âu nói riêng.
125
Bảng 9: Xu hướng gia tăng chi phí quốc phòng của một số
Đơn vị: triệu đô la Mỹ
Nguồn: Báo cáo của Bộ quốc phòng Anh: Xu hướng chiến lược toàn cầu đến năm 2045
cường quốc quân sự đến năm 2045
Nền kinh tế thế giới sau 10 năm kể từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu
đã bắt đầu hồi phục. Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) dự báo nền
kinh tế toàn cầu sẽ tăng trưởng hơn 3,5% trong năm 2018 – tốc độ nhanh nhất
trong 8 năm qua [164]. Tuy nhiên, việc Mỹ đơn phương rút khỏi một số Hiệp định
thương mại đa phương (NAFTA, TPP…) đã châm ngòi cho cuộc chiến thương
mại Mỹ - Trung, các biện pháp cấm vận kinh tế phương Tây áp dụng với Nga gây
tổn hại cho các bên là những diễn biến có khả năng tác động lớn đến kinh tế toàn
cầu. Bên cạnh đó, nhiều vấn đề sâu sắc mang tính cấu trúc mà cuộc khủng hoảng
126
tài chính gây ra đã kéo dài, khiến sự phục hồi của nền kinh tế toàn cầu trở nên
mong manh hơn so với các chu kỳ hồi phục trong quá khứ.
Thế kỷ XXI tiếp tục là thời đại của cuộc cách mạng công nghệ thông
tin, chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, mở ra nhiều
nguồn tài nguyên số, trí tuệ nhân tạo, khoa học vũ trụ… Trong Sách trắng về
tương lai châu Âu, các nhà lãnh đạo EU nhận định chúng ta đang sống trong
kỷ nguyên thông tin trở nên phong phú và dễ tiếp cận hơn bao giờ hết. Đến
năm 2018, khoảng 1/3 dân số thế giới sử dụng mạng xã hội [65, tr. 13]. Xu
thế này làm thay đổi nền dân chủ thế giới. Nguồn tài nguyên mới mở ra, mang
đến nhiều cơ hội, đồng thời cũng là thách thức đối với các quốc gia trong việc
ứng phó với các nguy cơ hỗn hợp, có tính chất khác biệt hơn các nguy cơ
truyền thống, phi truyền truyền thống trước đây.
Môi trường quốc tế thay đổi khiến nhận thức về nguy cơ trong một thế
giới mới cũng thay đổi. Trong “Báo cáo về nguy cơ toàn cầu năm 2016” của
Diễn đàn Kinh tế thế giới đã nêu một số “nguy cơ” chính mà thế giới đang phải
đối mặt xét về phương diện “có khả năng xảy ra” và “tác động” của các nguy
cơ này trên quy mô khu vực và toàn cầu. Nguy cơ toàn cầu được định nghĩa là
“một sự kiện hoặc điều kiện nào đó mà nếu xảy ra, nó sẽ có tác động vô cùng
tiêu cực tới một số quốc gia hoặc các ngành công nghiệp trong vòng 10 năm”
[170, tr.11]. Năm nguy cơ được đánh giá có khả năng xảy ra nhất theo thứ tự
giảm dần, gồm: di cư bắt buộc quy mô lớn, hiện tượng thời tiết khắc nghiệt,
thất bại trong việc giảm thiểu và ứng phó với biến đổi khí hậu, xung đột đa
quốc gia và thảm họa thiên nhiên. Các nguy cơ xét về phương diện gây ảnh
hưởng lớn đến toàn cầu gồm: thất bại trong giảm thiểu và ứng phó với biến đổi
khí hậu, vũ khí hủy diệt hàng loạt, khủng hoảng nguồn nước, di cư bắt buộc
quy mô lớn và cú sốc giá năng lượng. Nguy cơ “di cư bắt buộc quy mô lớn” lần
đầu tiên đứng đầu trong danh sách các rủi ro, thể hiện nhận thức rõ về những hệ
127
quả của bất ổn an ninh xã hội mà làn sóng người di cư với quy mô lớn chưa
từng có từ các khu vực bị chiến tranh tàn phá đổ về châu Âu [132].
Nhìn chung, thế giới thế kỷ XXI tiếp tục duy trì trật tự đa cực, trong đó,
Mỹ với sức mạnh tổng thể vượt trội vẫn là cường quốc số một thế giới về kinh
tế, quân sự và khoa học kỹ thuật. Tuy nhiên, vị trí đứng đầu này đang gặp
nhiều thách thức từ sự vươn lên mạnh mẽ của các “cực” khác, trong đó có
EU. Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật công nghệ là động lực của nền kinh tế
thế giới, đồng thời tạo ra nhiều thách thức với chính phủ các nước trong việc
ứng phó với những nguy cơ mới. Với nhận thức về nguy cơ trong thời đại mới
có nhiều thay đổi, xu thế hội nhập khu vực tiếp tục được duy trì dựa trên yêu
cầu đảm bảo an ninh trong thời đại toàn cầu hoá. Trong bối cảnh đó, các tổ
chức liên kết khu vực tiếp tục phát huy vai trò trong đối phó với các nguy cơ
mới mang tính khu vực và toàn cầu. Tuy nhiên, phản ứng kém hiệu quả của
các chủ thể này trong nhiều vấn đề an ninh, xã hội khiến làn sóng ly khai, chủ
nghĩa hoài nghi tiếp tục bùng phát mạnh mẽ.
3.1.2. Xu thế hội nhập ở châu Âu
Bước sang thập niên thứ hai của thế kỷ XXI, EU đứng trước cuộc tranh
luận về tương lai phát triển của khối. Với những xu thế vận động chính của thế
giới như nêu trên, hợp tác cùng phát triển và đối phó với các nguy cơ là nhu
cầu tất yếu trong thập niên tới. Nhu cầu này tiếp tục khẳng định vai trò quan
trọng số một của EU. Như vậy, xu thế hội nhập vẫn tiếp diễn ở khu vực. Vấn
đề đặt ra là cách thức EU thực hiện vai trò của mình như thế nào để quá trình
hội nhập khu vực đạt được mục tiêu phát triển của các quốc gia. Phương hướng
hoạt động và cách thức giải quyết vấn đề của EU tiếp tục là nguồn gốc gây chia
rẽ nội bộ liên minh.
Thực tế cho thấy đang tồn tại một khoảng cách lớn trong cách suy nghĩ
giữa lãnh đạo và người dân châu Âu. Một cuộc điều tra công bố bởi Nghị viện
128
châu Âu cho thấy Ireland là nước có đến 90% người dân cảm thấy có lợi khi gia
nhập EU trong khi không có nước nào trong sáu nước lớn là Đức, Pháp, Ý, Ba
Lan, Tây Ban Nha và Anh vượt qua tỷ lệ 80%. Tại Ý, thậm chí chỉ có 39%
người được hỏi cho rằng gia nhập EU là một thuận lợi [64].
Bảng 10: Khảo sát ý kiến người dân đánh giá về mức độ phát triển của quốc
gia thành viên từ khi gia nhập EU ở khía cạnh kinh tế
Nguồn: Eurobarometer
(giai đoạn 10/2004 – 05/2013)
Sự kiện Brexit là cao trào của làn sóng bài châu Âu và chủ nghĩa dân
tuý cực đoan lan rộng khắp châu lục trong những thập kỷ đầu thế kỷ XXI.
Vấn đề Ba Lan với cuộc cải cách tư pháp bị cho là vi phạm các nguyên tắc
dân chủ của EU xảy ra trong không gian hậu Brexit, những vấn đề tồn tại
trong khu vực đồng tiền chung và tác động của nó đến xã hội, nhận thức của
người dân về EU sẽ tiếp tục ảnh hưởng đến tình hình chính trị, xã hội châu Âu
trong trung hạn, ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình hội nhập khu vực đang diễn
ra ở châu lục này.
129
Trong xu thế phục hồi của kinh tế thế giới, trải qua cuộc khủng hoảng nợ
công, kinh tế châu Âu trên đà khởi sắc. Theo Cục Thống kê châu Âu
(Eurostat), nền kinh tế các quốc gia EU năm 2017 đã tăng trưởng gần 2,5%,
cao hơn so với kỳ vọng 1,9% đặt ra trước đó và đạt mức cao nhất trong vòng
10 năm qua. Nền kinh tế châu Âu được dự báo tiếp tục đà phục hồi nhưng tốc
độ tăng trưởng chậm lại. Mức tăng trưởng dự báo đạt 2,3% năm 2018 và 2,0%
năm 2019 [187]. Khu vực đồng tiền chung Eurozone cũng đạt mức tăng trưởng
cao, tăng 2,5% so với năm 2016 (1,8%), được đánh giá là tốt nhất kể từ năm
2008 đến nay [187]. Tỷ lệ thất nghiệp của các nước Eurozone và EU nói chung
giảm xuống mức thấp nhất kể từ năm 2009, đạt mức 8,2% và có xu hướng tiếp
tục giảm với tốc độ chậm [65, tr. 9].
Nguồn: Uỷ ban châu Âu
Bảng 11: Tỷ lệ thất nghiệp EU28 từ năm 2004 – 2017
Mặc dù kinh tế châu Âu nói chung đã có dấu hiệu phục hồi nhưng khu
vực đồng euro vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề bất ổn và chưa có dấu hiện lắng
130
xuống. Các đảng phái chính trị ở Ý lên tiếng chỉ trích các biện pháp thắt chặt
chi tiêu của Ngân hàng trung ương châu Âu, phong trào dân tuý cực đoan
(Phong trào 5 sao) nhận được sự ủng hộ lớn từ người dân gây tác động tiêu
cực đến khu vực đồng tiền chung. Chính sách cải cách kinh tế ở Tây Ban Nha
bắt đầu phát huy tác dụng nhưng chính phủ thiểu số của nước này sẽ gặp phải
nhiều khó khăn hơn khi thúc đẩy thông qua các gói ngân sách và vấn đề đòi ly
khai vùng Catalonia gây ra sự bất ổn định của tình hình chính trị nước này.
Nền kinh tế Hy Lạp tuy đã có dấu hiệu hồi phục nhưng vẫn chưa thể tuyên bố
thoát khỏi khủng hoảng…
Tiếp cận ở góc độ an ninh, cấu trúc an ninh khu vực định hình từ sau
chiến tranh Lạnh về cơ bản không thay đổi. EU cho rằng “sự thống nhất, độc
lập và toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia, các biên giới không thể xâm phạm
và thiết lập hoà bình cho các cuộc xung đột là những yếu tố đảm bảo trật tự
an ninh khu vực” [73, tr. 33]. Dựa trên quan điểm này, EU sẽ tiếp tục phát
huy vai trò đầu tàu, đảm bảo lợi ích chung của các quốc gia thành viên với các
đối tác, đồng thời duy trì ảnh hưởng của khối ở các khu vực khác trên thế giới
trên cơ sở hoà bình và cùng thịnh vượng. Trật tự khu vực được định hình và
quyết định bởi quan hệ của các trục chính EU – Mỹ, EU – Nga và EU –
NATO. An ninh khu vực đồng thời bị tác động bởi tính toán chiến lược của
Mỹ đối với các khu vực khác, sự trỗi dậy của Trung Quốc, Nga, quan hệ Nga
– Trung và tính toán lợi ích của các quốc gia tầm trung khác trong khu vực.
Nhìn chung, châu Âu trong những năm đầu thế kỷ XXI chứng kiến
nhiều thay đổi quan trọng trong tình hình an ninh khu vực. Từ một châu Âu
tương đối yên bình, tập trung phát triển kinh tế sau chiến tranh Lạnh đến một
khu vực xuất hiện nhiều vấn đề bất ổn an ninh nghiêm trọng như khủng bố, an
ninh năng lượng, an ninh mạng, các cuộc xung đột nóng, di cư quy mô lớn
kéo theo tác động tiêu cực đến môi trường chính trị, xã hội và phát triển kinh
131
tế… Bản thân Liên minh châu Âu đồng thời phải đối mặt với nhiều vấn đề nội
tại như chủ nghĩa dân tuý cực đoan, làn sóng bài EU và chia rẽ nội bộ sâu sắc,
sự phục hồi mong manh của khu vực đồng tiền chung… Đối phó với những
thách thức này, châu Âu vẫn cần những nỗ lực tập thể để vượt qua khủng
hoảng và phát triển. Xu thế hội nhập khu vực, do vậy, vẫn tiếp diễn ở châu
Âu. Tuy nhiên, do tiến trình hội nhập khu vực đã đạt đến cấp độ cao nhất nên
mức độ và tốc độ hội nhập có xu hướng diễn ra chậm hơn so với cuối thế kỷ
trước. Khả năng EU thất bại trong việc hiện thực hoá tầm nhìn đến năm 2025
là khó xảy ra. Đây là giai đoạn EU sẽ phải đưa ra một số điều chỉnh về định
hướng phát triển chung của khối trên các lĩnh vực. Hội nhập về đối ngoại và
an ninh, quốc phòng không nằm ngoài xu thế chung này và được quyết định
bởi hiệu quả thực thi CFSP/CSDP.
3.2. Triển vọng thực thi Chính sách Đối ngoại và An ninh chung đến năm
2025
Tháng 3/2017, EU kỷ niệm 60 năm chặng đường phát triển (1957-
2017). Đánh dấu sự kiện quan trọng này, Liên minh châu Âu công bố “Sách
trắng về tương lai châu Âu – Nhìn lại và các kịch bản cho EU27 đến 2025”72.
Những thách thức, cơ hội và viễn cảnh phát triển của EU trên các lĩnh vực lớn
được đề cập đến. Năm định hướng phát triển đến năm 2025 được đề xuất cho
tương lai của Liên minh gồm:
(i) EU tiếp tục tập trung triển khai lộ trình cải cách đã được thiết lập.
Với định hướng này, các vấn đề ưu tiên sẽ được cập nhật thường xuyên, tốc
độ ra quyết sách tuỳ thuộc vào khả năng vượt qua sự khác biệt về quan điểm
để giải quyết các vấn đề ưu tiên dài hạn. Hợp tác quốc phòng được tăng
cường trong các hoạt động nghiên cứu, công nghiệp quốc phòng và mua sắm
72 Tiếng Anh: “White paper on the future of Europe – Reflection and Scenarios for the EU27 by 2025”
trang thiết bị. Các quốc gia thành viên quyết định đóng góp một phần vào sức
132
mạnh quân sự chung và nâng cao sự thống nhất về tài chính cho các nhiệm vụ
triển khai bên ngoài lãnh thổ EU. Hợp tác chống khủng bố được nâng cấp với
sự sẵn sàng hy sinh chủ quyền quốc gia trong việc chia sẻ thông tin tình báo.
Tiến trình thực hiện thống nhất tiếng nói trong các vấn đề đối ngoại được khởi
động. Giả định phát triển theo hướng này, EU27 là một khối thống nhất
nhưng vẫn bị thách thức bởi nhiều vấn đề mâu thuẫn lớn.
(ii) EU dần chuyển trọng tâm vào thị trường chung. EU không thể đồng
thuận trong nhiều vấn đề chính sách, do đó tăng cường sự tập trung vào thị
trường chung. Hợp tác cùng giải quyết vấn đề trong các lĩnh vực khác như di
cư, an ninh, quốc phòng không còn nữa. Các mối quan tâm chung được giải
quyết theo hướng song phương. Sự di chuyển tự do của công dân châu Âu bị
hạn chế vì các lý do an ninh. Các vấn đề đối ngoại giải quyết theo hướng song
phương tăng lên, hợp tác quốc phòng duy trì như mức độ hiện nay. Giả định
phát triển theo hướng này, EU không còn là một chủ thể có ảnh hưởng trên
trường quốc tế do mất vai trò trong việc giải quyết các vấn đề mang tính toàn
cầu như biến đổi khí hậu, thúc đẩy thương mại quốc tế…
(iii) EU cho phép các quốc gia thành viên chủ động hợp tác với nhau
trong từng lĩnh vực cụ thể. EU vẫn là một Liên minh chặt chẽ nhưng các quốc
gia thành viên khi có nhu cầu và sẵn sàng hợp tác cùng giải quyết một hay
nhiều vấn đề trong một lĩnh vực nhất định có thể hợp tác theo nhóm. Một số
vấn đề có thể hợp tác theo nhóm như quốc phòng, an ninh nội địa, thuế hay các
vấn đề xã hội khác. Trong quan hệ với các nước thứ ba, bao gồm trong lĩnh vực
thương mại, vai trò của EU vẫn được duy trì như hiện nay. Về đối ngoại, tiến
trình thống nhất tiếng nói trong các vấn đề đối ngoại vẫn được thực hiện, ngoại
trừ các nhóm nước muốn hợp tác sâu hơn về quốc phòng. Giả định phát triển
theo hướng này, EU thống nhất được duy trì song hành với quan hệ hợp tác sâu
hơn theo ý chí của hai hay nhiều quốc gia thành viên cụ thể.
133
(iv) EU tập trung nâng cao hiệu quả và phản ứng nhanh của các hành
động tập thể trong một số lĩnh vực nhất định, giảm can dự ở các lĩnh vực
khác. Như vậy, EU có thể hành động nhanh và quyết đoán hơn ở những lĩnh
vực được ưu tiên lựa chọn. Các lĩnh vực được chọn là thương mại, an ninh, di
cư, quản lý biên giới và quốc phòng. Tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên này
đồng nghĩa với việc EU giảm can dự ở những lĩnh vực có giá trị thặng dư hạn
chế hoặc khó triển khai như kỳ vọng như việc làm, chính sách xã hội (tuy
nhiên không ảnh hưởng đến chức năng của thị trường chung). Về đối ngoại,
EU thống nhất quan điểm trong các vấn đề liên quan đến lĩnh vực đối ngoại,
Liên minh quốc phòng được thành lập. Giả định phát triển theo hướng này,
một tầm nhìn rõ ràng hơn về trách nhiệm của EU giúp người dân hiểu rõ chức
năng của EU ở cả cấp độ quốc gia và khu vực.
(v) EU quyết định cùng hợp tác trên tất cả các lĩnh vực. EU được trang
bị đầy đủ để đối phó với các thách thức. Các quốc gia thành viên quyết định
chia sẻ các nguồn lực, quyền hạn quốc gia nhiều hơn cho Liên minh trong các
quyết sách trên tất cả các lĩnh vực. Về đối ngoại và an ninh, EU hành động
chung một tiếng nói. Quốc phòng và an ninh được đặt trọng tâm ưu tiên. Liên
minh quốc phòng châu Âu được hình thành và hợp tác toàn diện với NATO.
Giả định phát triển theo hướng này, các thể chế được tăng cường quyền lực,
đủ khả năng, quyền hạn ra quyết sách và phản ứng nhanh hơn. Giả định phát
triển theo hướng này, việc quốc gia thành viên trao quá nhiều quyền cho các
thể chế khu vực có thể là một vấn đề thiếu tính pháp lý [65, tr. 15-25].
Với năm giả định này, châu Âu đứng trước nhiều lựa chọn cho tương
lai. Việc lựa chọn hình thức phát triển sẽ kéo theo sự thay đổi về chức năng
của EU. Các nhà lãnh đạo EU cũng không ngoại trừ khả năng kết hợp các
hình thức phát triển, hướng tới một phương thức tốt nhất để đạt được lợi ích
của người dân. Các giả định được lựa chọn sẽ trở thành định hướng chính cho
việc điều chỉnh, triển khai CFSP trong tương lai.
134
Trong các giả định trên, giả định (v) là giả định tuyệt đối hoá chức năng
của EU. Phát triển theo định hướng này, EU sẽ trở thành một nhà nước liên
bang. Trên cơ sở nhận định xu hướng hội nhập khu vực như trên, giả định này
khó được hiện thực hoá trong tầm nhìn đến 2025. Giả định (i) không có nhiều
vấn đề bàn luận về mô hình phát triển mà chủ yếu tập trung vào phương thức
EU vận hành để giải quyết các vấn đề trong khu vực.
Ở giả định (ii), theo thuyết chức năng, chính là hiện tượng “lan toả
ngược”. Nhu cầu hợp tác vẫn tồn tại (đồng thời là lý do tồn tại của EU) nhưng
lĩnh vực hợp tác bị giới hạn. Quá trình hội nhập tiến xuống đáy của biểu đồ
hình sin, các quốc gia cố gắng duy trì tiếng nói chung từ xuất phát điểm đưa họ
lại với nhau. Các vấn đề yêu cầu mức độ hợp tác cao hơn sẽ được các quốc gia
giải quyết một cách đơn phương hoặc song phương. Dưới góc nhìn của thuyết
chức năng và thể chế, EU đang phát triển theo đúng hướng. Sự ra đời một
chính sách chung về đối ngoại và an ninh thể hiện hội nhập chính trị đã ở mức
cao, việc ra đời một cơ quan chuyên trách thống nhất tiếng nói của châu Âu về
đối ngoại là điều tất yếu và hiển nhiên xảy ra. Ý chí chính trị của lãnh đạo các
quốc gia thành viên chỉ đóng vai trò thúc đẩy tiến trình này. Cơ sở cho một liên
minh quốc phòng đã định hình, loại bỏ các yếu tố cản trở khác, liên minh sẽ
được hiện thực hoá trong tương lai. Vì vậy, giả định (ii) có tính khả thi thấp.
Đối với giả định (iii) và (iv), phương thức EU thực hiện chức năng của
thể chế siêu nhà nước được xác định rõ ràng. Không giống như giả định (ii),
các lĩnh vực được ưu tiên lựa chọn là những lĩnh vực yêu cầu mức độ hội
nhập cao. Với việc cho phép các thành viên hợp tác theo nhóm dựa trên nhu
cầu thực tiễn của các quốc gia thực chất là hợp thức hoá hiện tượng các thành
viên hợp tác riêng lẻ với nhau như cơ chế “Weimar triangle” giữa Đức – Pháp
– Ba Lan, “Weimar plus” giữa Đức – Pháp – Ba Lan – Tây Ban Nha – Ý hay
Hiệp ước an ninh song phương Lancaster House ký giữa Anh và Pháp… Việc
hợp thức hoá này là cách EU khẳng định vai trò của chủ thể quốc gia trong cơ
chế đa phương. Việc tập trung lựa chọn một số lĩnh vực then chốt, không bao
135
gồm các lĩnh vực liên quan đến phúc lợi xã hội hay việc làm, những lĩnh vực
tác động trực tiếp đến cảm nhận của người dân về tính hiệu quả của các thể chế
đa phương, là cách thức EU phản ứng trước bối cảnh chủ nghĩa hoài nghi và
dân tộc vị kỷ tăng cao ở khu vực. Tiếp cận theo quan điểm của thuyết kiến tạo,
cảm nhận lợi ích bị xâm phạm, bản sắc quốc gia bị lu mờ tạo ra tâm lý hoài
nghi và phản ứng cực đoan của người dân trước những biện pháp xử lý khủng
hoảng của EU thời gian qua. Thuyết kiến tạo coi trọng mối quan hệ giữa bản
sắc và lợi ích quốc gia. Diễn biến trong tư tưởng xã hội phản ánh và làm sâu
sắc hơn niềm tin về lợi ích, từ đó tạo ra những nguyên tắc chuẩn mực quy định
hành vi của nhà nước. Dựa trên luận điểm này, định hướng phát triển của EU
theo giả định (iii) và (iv) giải quyết được các vấn đề phát sinh từ “bản sắc quốc
gia” và “diễn biến trong tư tưởng xã hội tác động đến hành vi nhà nước”. Trên
cơ sở đó, hội nhập về đối ngoại và an ninh của EU đạt đến cấp độ cao nhất.
Nếu phương thức này được thực hiện thành công, Liên minh quốc phòng châu
Âu ra đời, chính sách đối ngoại được chia sẻ trong một số vấn đề đạt được
tiếng nói chung, dần tiến đến một tiếng nói thống nhất trong tất cả các lĩnh vực.
Cơ sở cho việc hình thành một nhà nước liên bang hiện hữu.
Tương lai an ninh quốc phòng châu Âu được các nhà lãnh đạo Liên
minh xác định là một trong số bốn vấn đề lớn châu Âu cần định hướng phát
triển trong tương lai. Từ năm 2009 đến nay, EU nỗ lực cải cách cấu trúc chính
sách an ninh quốc phòng chung, nâng cao năng lực triển khai các nhiệm vụ dân
sự lẫn quân sự, tăng cường quan hệ hợp tác với các đối tác là quốc gia và tổ
chức như Liên hiệp quốc và NATO. Tuy nhiên, theo Ngoại trưởng châu Âu
Federica Mogherini, EU cần nỗ lực hơn nữa nếu muốn duy trì và phát huy vai
trò, trách nhiệm của Liên minh với nền an ninh châu lục. Định hướng triển khai
Chính sách Đối ngoại và An ninh chung của khối dựa trên ba nền tảng cơ bản
là Chiến lược toàn cầu của EU trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng, Kế hoạch
hành động phòng thủ châu Âu và mối quan hệ hợp tác với NATO. Hướng triển
khai CFSP trong thời gian tới sẽ tập trung vào một số vấn đề cụ thể sau:
136
Thứ nhất, EU cần cải thiện khả năng điều phối và kiểm soát việc thực
hiện các vấn đề an ninh, chú trọng đầu tư vào mạng lưới tình báo, giám sát và
trinh sát, bao gồm đầu tư vào hệ thống máy bay không người lái, truyền thông vệ
tinh, tăng cường năng lực tiếp cận không gian. Về vấn đề chống khủng bố, các
quốc gia thành viên cần triển khai các quy định liên quan đến phòng chống bom
mìn, vũ khí và đầu tư cho các trang thiết bị dò tìm vũ khí qua biến giới;
Thứ hai, EU cần đầu tư vào các trang thiết bị kỹ thuật số để đảm bảo an
ninh dữ liệu, mạng lưới và cơ sở hạ tầng nằm trong không gian số của châu Âu;
Thứ ba, về cơ sở khí tài quân sự, các quốc gia thành viên cần tập trung
các trang thiết bị để phản ứng trước các khủng hoảng từ bên ngoài, bao gồm
triển khai quân trên đất, trên không và trên biển. Để duy trì khả năng triển
khai quân toàn diện như vậy, các thành viên cần nhận thức hợp tác quốc
phòng là nguyên tắc cần tuân thủ. Các thành viên vẫn đảm bảo duy trì chủ
quyền trong các quyết định phòng vệ, tuy nhiên, các chương trình phòng vệ
quốc gia hiện nay chưa đảm bảo được yêu cầu nâng cao năng lực quốc phòng
chung của toàn Liên minh, bao gồm yêu cầu dành 35% tổng chi phí cho trang
thiết bị quốc phòng cho các hoạt động mua sắm chung. Sự tình nguyện tham
gia vào hợp tác quốc phòng cần trở thành các cam kết thực sự. Quy trình rà
soát mức độ hợp tác cần được tiến hành ở cấp độ liên minh, bao gồm cả việc
thảo luận về kế hoạch chi phí quốc phòng của các quốc gia thành viên. Quy
trình này có thể áp dụng đầy đủ với Kế hoạch chi phí quốc phòng của NATO.
Thứ tư, trong quan hệ hợp tác với NATO, hai bên hỗ trợ nhau trong sử
dụng các trang thiết bị quốc phòng. NATO tập trung đảm bảo an ninh quốc
phòng cho lãnh thổ các quốc gia thành viên và triển khai các nhiệm vụ bình
định hoá. Trong khi đó, EU tập trung triển khai các nhiệm vụ xử lý khủng
hoảng ở các khu vực lân cận. EU đồng thời vẫn tiếp tục duy trì năng lực quốc
phòng nội khối để duy trì hoà bình, ổn định và an ninh cho các quốc gia thành
viên và phát triển năng lực này để sẵn sàng thay thế trách nhiệm của NATO
khi cần. Phòng thủ chung và quản lý khủng hoảng là hai mảng chính CSDP
137
cần đồng thời phát triển theo đề xuất của các nước tham gia sáng kiến
“Weimar plus”. Bên cạnh đó, cần phát huy vai trò của Cục Quốc phòng châu
Âu (EDA) trong việc thực hiện các mục tiêu chiến lược của CSDP. EDA có
vai trò quan trọng trong Kế hoạch phát triển năng lực quốc phòng của Liên
minh, là cầu nối giữa các quốc gia thành viên và Uỷ ban, đồng thời hỗ trợ các
thành viên phát triển năng lực quốc phòng dựa trên các mục tiêu chính trị đặt
ra trong EUGS. Hợp tác quốc phòng giữa các quốc gia thành viên cần được
thúc đẩy một cách có hệ thống. Việc đánh giá thường xuyên hoạt động của
EDA có thể tạo ra áp lực có tác động tích cực đến các thành viên.
Một trong những mục tiêu lớn EUGS đặt ra là CSDP cần phản ứng
nhanh và hoạt động hiệu quả hơn. Mục tiêu này đòi hỏi các quốc gia thành
viên nâng cao năng lực triển khai lực lượng thông qua các hoạt động huấn
luyện và tập trận. CSDP cần tăng cường khả năng phản ứng nhanh, hạn chế
những trở ngại liên quan đến các thủ tục, tài chính… khiến việc triển khai các
nhiệm vụ quân sự trở nên kém hiệu quả. Chính sách phát triển cần linh hoạt
và gắn liền với các ưu tiên chiến lược. Nguồn ngân sách dành cho EEAS cần
được tăng cường, để cơ quan này phát huy hơn vai trò điều phối giữa các thể
chế với nhau và giữa các thể chế với các quốc gia thành viên. Đồng thời,
chính sách quốc phòng cần liên kết chặt chẽ với các chính sách khác liên quan
đến công nghiệp quốc phòng và thị trường nội địa. Các thành viên cần tăng
cường nỗ lực hợp tác hơn nữa trong thực thi pháp luật, tư pháp và hoạt động
tình báo. [73, tr. 44-50]
Với nguồn lực quốc phòng lớn thứ hai trên thế giới (sau Mỹ), EU sẽ tiếp
tục khẳng định trách nhiệm của mình đối với hoà bình và an ninh toàn cầu. Bên
cạnh hoạt động triển khai với các đối tác, EU đồng thời nhấn mạnh khả năng
hành động độc lập khi cần thiết. Nguồn lực tài chính cho quốc phòng của Liên
minh đang và sẽ tiếp tục dựa vào nguồn lực từ các quốc gia thành viên. Năm
2016, ngân sách quốc phòng được tăng lên trước áp lực nguy cơ đe doạ an ninh
khu vực tăng cao. Tuy nhiên, để hướng tới một châu Âu tự chủ hơn về an ninh
138
quốc phòng còn là một chặng đường dài khi chi phí quốc phòng của Mỹ gấp hai
lần chi phí của tất cả các thành viên EU cộng lại và khả năng tiếp tục tăng ngân
sách quốc phòng thêm 10% trong năm 2018. Trung Quốc đã tăng chi cho quốc
phòng đến 150% chỉ trong vòng 10 năm qua, Nga cũng tiêu tốn 5,4% tổng GDP
cho hoạt động quốc phòng chỉ riêng trong năm 2017 [60, tr. 7].
Dựa trên những nhận định như vậy, Uỷ ban châu Âu đưa ra ba khả năng
phát triển của nền quốc phòng châu Âu, gồm: (i) hợp tác về an ninh, quốc phòng;
(ii) chia sẻ về an ninh, quốc phòng; (iii) thiết lập nền quốc phòng và an ninh
chung. Thực chất, ba kịch bản này thể hiện ba cấp độ hợp tác nội khối trong lĩnh
vực an ninh, quốc phòng ở châu Âu. Đây đồng thời là những định hướng chủ đạo
cho Chính sách An ninh Quốc phòng chung của EU trong những năm tới.
Ở khả năng (i), quốc gia thành viên đóng vai trò chủ đạo trong việc
đảm bảo an ninh châu lục. Liên minh có vai trò hỗ trợ và liên kết, cố gắng đưa
ra những định hướng cụ thể để các quốc gia thành viên sát lại gần nhau hơn,
tăng hiệu quả hợp tác. Quan hệ EU-NATO duy trì mức độ như hiện nay. Liên
minh sẽ tiếp tục triển khai các nhiệm vụ dân sự và các nhiệm vụ quân sự mức
độ thấp, chủ yếu tập trung vào nhiệm vụ nâng cao năng lực bộ máy quản lý
giúp tăng cường an ninh, quốc phòng của các quốc gia đối tác, đồng thời củng
cố môi trường an ninh cho chính Liên minh. Hợp tác với NATO tiếp tục được
thúc đẩy trong nhiều lĩnh vực như an ninh hàng hải, an ninh mạng và cùng
hành động trước những nguy cơ mới đòi hỏi sử dụng cả sức mạnh cứng và
mềm. Tuy nhiên, trong trường hợp EU và NATO cùng hiện diện, NATO tiếp
tục phát huy năng lực quân sự vốn có, trong khi EU khai thác các công cụ
“mềm”, chỉ tập trung vào các nhiệm vụ quân sự mục tiêu.
Ở khả năng (ii), các quốc gia thành viên chia sẻ trách nhiệm đảm bảo
an ninh, quốc phòng ở khu vực thông qua một cơ chế chung là EU. Điều này
đồng nghĩa với việc các quốc gia thành viên chấp nhận chia sẻ một phần chủ
quyền của mình, đặc biệt trong các vấn đề an ninh, quốc phòng, công khai,
minh bạch từ bước xây dựng cho đến khi triển khai chính sách. Làm được như
139
vậy, Liên minh có thể phát triển năng lực đa quốc gia trên nhiều lĩnh vực một
cách có hệ thống, giảm thiểu chồng chéo giữa các quốc gia thành viên dựa
trên một kế hoạch chung và cấu trúc chỉ huy ở cấp độ Liên minh. Một số lĩnh
vực có khả năng hợp tác ở cấp độ này được EU gợi mở là phát triển hệ thống
máy bay điều khiển từ xa, liên lạc vệ tinh, an ninh hàng hải, phát triển trí tuệ
nhân tạo, công nghệ sinh học, phát triển siêu máy tính… Đây là một kịch bản
khá tham vọng, trong đó Liên minh đóng vai trò chủ đạo, các quốc gia thành
viên trao quyền nhiều hơn cho các thể chế liên chính phủ của EU. Quan hệ
đối tác với NATO tiếp tục được duy trì nhưng EU chủ động trong các vấn đề
an ninh khu vực.
Ở khả năng (iii), nhất thể hoá trong lĩnh vực an ninh quốc phòng đạt đến
cấp độ cao, hướng tới một nền quốc phòng an ninh chung. Tinh thần đoàn kết
và hỗ trợ lẫn nhau giữa các quốc gia thành viên trong một lĩnh vực nhạy cảm
như an ninh, quốc phòng trở thành tiêu chuẩn bắt buộc, giúp Điều 42 của Hiệp
ước châu Âu (TEU) được thực thi một cách toàn diện, tạo cơ sở xây dựng
khung chính sách quốc phòng chung cho toàn Liên minh, hướng tới một nền
quốc phòng chung. Nâng cao khả năng hành động ở cấp độ liên minh sẽ thúc
đẩy sự thống nhất ở cấp độ cao hơn đối với lực lượng quốc phòng của các quốc
gia thành viên, thể hiện qua việc thành lập lực lượng thường trực có khả năng
phản ứng nhanh với danh nghĩa của Liên minh. Đồng thời, kế hoạch quốc
phòng của các quốc gia thành viên cùng được đồng bộ hoá hoàn toàn, các ưu
tiên phát triển cấp quốc gia sẽ được tập hợp và cùng đồng thuận thành các ưu
tiên của toàn khối. Ngân sách quốc phòng được lấy hoàn toàn từ ngân sách EU.
Quan hệ với NATO mang tính hỗ trợ, giúp tăng cường khả năng ứng phó của
EU trước nhiều hình thức tấn công ngày càng đa dạng và khó lường.
Với tầm nhìn đến năm 2025, cấp độ hợp tác an ninh ở khả năng (i) biểu
hiện quá trình hội nhập khu vực không đạt bước tiến lớn. CFSP/CSDP sẽ tiếp
tục được triển khai tiếp nối những thành công CFSP/CSDP đã đạt được trong
lĩnh vực cứu trợ nhân đạo, thực hiện nhiệm vụ gìn giữ hòa bình ở những khu
140
vực ảnh hưởng truyền thống. Quan hệ EU – NATO tiếp tục là trụ cột chính
của CFSP/CSDP. Nói cách khác, thực tiễn hội nhập khu vực về an ninh, quốc
phòng của EU đang ở cấp độ được đề cập ở khả năng (i).
Nguồn: Trung tâm Chiến lược chính trị châu Âu
Bảng 12: Các yếu tố cấu thành liên minh an ninh quốc phòng châu Âu
Nhất thể hoá trong lĩnh vực an ninh quốc phòng là điều kiện lý tưởng,
đưa EU trở thành chủ thể đầy đủ trong quan hệ quốc tế. Tuy nhiên, quốc
phòng, an ninh luôn là lĩnh vực khó đạt đồng thuận nhất trong Liên minh. Lợi
ích quốc gia tối thượng là rào cản khó vượt qua, thêm khoảng cách chênh lệch
về năng lực quốc phòng giữa các quốc gia và năng lực vận hành của các thể
141
chế của EU là những yếu tố tác động không nhỏ đến quá trình hợp tác trong
Liên minh. Vì vậy, trong ngắn hạn, khả năng (iii) khó khả thi. Về đối ngoại,
NATO vẫn tiếp tục là một đối tác quan trọng trong tính toán chiến lược của EU
bên cạnh Mỹ, Nga và các đối tác quan trong khác như Trung Quốc, Nhật Bản,
ASEAN… Duy trì và phát triển quan hệ đối tác đôi bên cùng có lợi với NATO
giúp EU vừa tận dụng được nguồn lực, đồng thời vẫn thể hiện được vai trò dẫn
dắt nền an ninh khu vực.
Với xu thế vận động của thế giới nói chung và xu thế hội nhập khu vực
như đã đánh giá ở trên, trong những cấp độ hội nhập về an ninh, quốc phòng
được dự báo, cấp độ hợp tác ở khả năng (ii) là mục tiêu CFSP/CSDP hướng
tới trong ngắn và trung hạn. Các quốc gia thành viên chia sẻ trách nhiệm đảm
bảo an ninh, quốc phòng ở khu vực thông qua một cơ chế chung là EU. Nền
an ninh quốc phòng này được xây dựng trên nền móng PESCO. Việc EU đạt
được thoả thuận về sáng kiến PESCO và đã thông qua kế hoạch hoạt động để
triển khai PESCO [77] là bước đi cho thấy EU đang cố gắng tạo dựng cơ sở
cho nền an ninh “cùng chia sẻ” ở khu vực. Đồng thời, sự ra đi của một cường
quốc quân sự như Anh đã khiến các quốc gia châu Âu nhận thấy sự cần thiết
phải đoàn kết lại, đặc biệt trong các hành động phòng vệ tập thể. Trong hoàn
cảnh này, chủ nghĩa dân tuý, dân tộc cực đoan đã có tác động tích cực đến
tiến trình hội nhập khu vực về an ninh, quốc phòng. Với động lực được tạo ra
từ Brexit, EU có khả năng đạt đến cấp độ hợp tác về an ninh, quốc phòng ở
khả năng (ii). Mức độ và tốc độ hội nhập trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng
có thể được thúc đẩy hơn so với các lĩnh vực khác. Tuy nhiên, khả năng (ii)
có khả thi hay không còn tuỳ thuộc vào một yếu tố quan trọng là EU xác định
hướng đi tương lai của mình ra sao. Câu trả lời này sẽ được Nghị viện châu
Âu công bố sau kỳ bầu cử năm 2019. Theo nhận định của tác giả, nếu giả
định (iii) và (iv) được lựa chọn là hướng phát triển tiếp theo của EU thì khả
142
năng (ii) có thể đạt được đến năm 2025. Việc thiết lập một quân đội chung
tiếp tục được gợi mở nhưng chưa đủ động lực và điều kiện đủ để hình thành
do số lượng quốc gia EU là thành viên NATO quá lớn, việc hình thành lực
lượng này là chưa cần thiết trong tương lai gần.
3.3. Một số bài học kinh nghiệm từ quá trình hội nhập về đối ngoại và an
ninh của Liên minh châu Âu
Thực tiễn hội nhập khu vực nói chung và hợp tác chặt chẽ trong lĩnh
vực đối ngoại và an ninh, quốc phòng riêng của EU bên cạnh nhiều thành tựu
vẫn còn tồn tại một số vấn đề về hoạch định và thực thi chính sách. Một số
bài học kinh nghiệm rút ra từ tiến trình hội nhập này cụ thể như sau:
(i) Khẳng định vai trò của quốc gia thành viên trong quá trình vận hành
bộ máy. Khi đưa ra một kiến nghị chính sách hay đề xuất hoạt động của một
tổ chức khu vực quy mô như EU, cân bằng lợi ích, mối quan hệ giữa các nước
lớn nhỏ trong khối luôn là việc làm khó khăn. Về mặt lý thuyết, các nước nhỏ
tham gia vào một định chế khu vực luôn mong muốn nâng cao tiếng nói chính
trị của mình nhưng thường rơi vào tình trạng bị lấn át bởi lợi ích của các nước
lớn hơn, đặc biệt trong các vấn đề các nước này có nhiều lợi ích. Các quốc gia
bình đẳng với nhau trong quan hệ quốc tế. Vì vậy, việc ghi nhận vai trò của
các quốc gia thành viên, dù là nước lớn hay nhỏ, đối với EU là điểm mấu chốt
để duy trì đoàn kết nội khối.
Một khi chính sách đối ngoại EU được tiến hành song song với chính sách
đối ngoại của từng quốc gia thành viên, các thành viên chỉ tự nguyện và sẵn sàng
tham gia vào các hành động chung khi họ thấy rõ được vai trò thực sự của mình ở
cấp độ Liên minh. EU có thể đề nghị một hay nhóm một số các quốc gia thành
viên lãnh đạo và triển khai một nhiệm vụ cụ thể dưới danh nghĩa Liên minh. Cơ
chế chịu trách nhiệm trực tiếp như vậy khiến vai trò của quốc gia thành viên được
nâng lên đáng kể. Cảm nhận về việc hy sinh một phần chủ quyền quốc gia khi gia
143
nhập vào tổ chức khu vực không còn nặng nề. Vai trò của một hay nhiều quốc gia
thành viên cụ thể được thể hiện rõ ràng trong các tuyên bố hành động của Liên
minh giúp người dân nhìn nhận, đánh giá được trách nhiệm, quyền lợi của quốc
gia mình khi tham gia vào tổ chức khu vực. Chủ quyền quốc gia vẫn được phát
huy với vai trò lãnh đạo của quốc gia đó ở cấp độ Liên minh.
(ii) Nâng cao hiệu quả hoạt động của các thể chế đa phương để tăng
cường quyền lợi của thành viên khi tham gia vào tổ chức. Trong lĩnh vực đối
ngoại và an ninh quốc phòng, EEAS là cơ quan đầu mối, có tác động trực tiếp
đến chất lượng triển khai CSDP. Tuy nhiên, EEAS gặp nhiều khó khăn trong
quá trình hoạt động do bị hạn chế trong việc tiếp cận các nguồn thông tin chất
lượng, phục vụ cho quá trình hoạch định chính sách và đưa ra các quyết định
hành động kịp thời. Tâm lý nghi ngờ, e ngại bị kiểm soát, tổn hại đến lợi ích
quốc gia khiến các thành viên chưa thực sự tích cực tham gia vào các hoạt
động trong khuôn khổ CSDP. Các thành viên không chia sẻ hoặc chỉ chia sẻ có
giới hạn các báo cáo dựa trên nguồn tin tình báo của họ với các thành viên khác.
Các quốc gia thành viên chưa thực sự có thói quen chia sẻ và sự tin tưởng lẫn
nhau để trao đổi nguồn tin tình báo, các báo cáo phân tích cho EEAS.
Vì vậy, việc xây dựng lòng tin là cơ sở để tăng cường hiệu quả hoạt động
của EEAS. Các thành viên sẽ tích cực hơn khi thấy được lợi ích rõ ràng từ hoạt
động của EEAS. Cơ quan này cần thiết lập cơ chế chia sẻ thông tin đa chiều hiệu
quả giữa Liên minh với các quốc gia thành viên, giữa các quốc gia thành viên
với nhau. Đồng thời, việc xử lý thông tin và điều phối hoạt động một cách hiệu
quả của EEAS sẽ giúp các thành viên tận dụng được nguồn lực tập thể, tránh
triển khai các nhiệm vụ chồng chéo với cùng một mục tiêu trong khu vực.
(iii) Thông điệp rõ ràng đến người dân về quyền hạn, trách nhiệm và
lợi ích mà tổ chức đa phương đem lại cho quốc gia thành viên. Trong một xã
hội dân chủ và bùng nổ thông tin, con người chịu tác động và bị chi phối bởi
144
thông tin. Người dân có thể tiếp cận nhiều nguồn tin, sự lan toả thông tin trở
nên nhanh chóng hơn bao giờ hết. Trong kỷ nguyên số, việc truyền đạt thông
điệp một cách chính xác và hiệu quả đến người dân có vai trò quan trọng
trong định hướng và thực thi chính sách. Xã hội luôn vận động, các hệ tư
tưởng cũng theo đó biến đổi không ngừng. Nắm bắt được diễn biến trong tư
tưởng xã hội sẽ giúp các nhà hoạch định chính sách đưa ra những chính sách
phù hợp và có tính khả thi cao.
Với trường hợp EU, giúp người dân xác định và đánh giá đúng chức
năng, trách nhiệm, quyền hạn của Liên minh và những lợi ích Liên minh đem
lại ở cấp độ quốc gia sẽ là một trong những cơ sở vững chắc để một tổ chức
siêu quốc gia tồn tại và phát huy tốt vai trò của mình. Sự thất bại của Hiến
pháp chung châu Âu năm 2005 hay sự kiện Brexit năm 2016 là ví dụ điển
hình của việc coi nhẹ vai trò của truyền thông và dư luận xã hội. Theo điều tra
khảo sát EU thực hiện liên quan đến bản Hiến pháp chung sau kết quả trưng
cầu dân ý, có đến 46% người dân Pháp và 52% dân chúng Tây Ban Nha được
hỏi cho rằng họ không được cung cấp thông tin đầy đủ về bản Hiến pháp để
có thể quyết định bỏ phiếu thông qua hay không, 40% số người không đi bỏ
phiếu ở Tây Ban Nha vì họ không có thông tin về EU hay dự thảo Hiến pháp,
con số này ở Pháp là 49% [55]. Ở Anh, có đến 82% người dân cho hay họ biết
rất ít hoặc không biết gì về EU, 68% biết rất ít hoặc không biết gì về bộ máy
của EU và các chính sách của tổ chức này so với 14% số người được hỏi có
kiến thức về vấn đề này [174]. Trưng cầu dân ý ở Anh về Brexit có kết quả sít
sao giữa “ra đi” hay “ở lại” (51,9% so với 48,1%) cùng với con số thống kê ở
trên cho thấy nhận thức của người dân về Brexit là mơ hồ. Họ bị tác động
nhiều từ chiến dịch vận động ngắn hạn của các đảng phái hơn là thực sự hiểu
giá trị lá phiếu của mình.
145
Ở góc độ là một tổ chức liên kết khu vực, Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á (ASEAN) có thể học hỏi kinh nghiệm EU trong trường hợp này. Tuy
được vận hành theo các phương thức khác nhau nhưng đều hướng tới một
mục đích chung là lợi ích của người dân, ASEAN cần khai thác được sức
mạnh dư luận để thúc đẩy quá trình hội nhập của mình. Thu hẹp khoảng cách
giữa “mục tiêu” của tổ chức với kỳ vọng của người dân sẽ tạo ra những chính
sách có tính khả thi cao, tăng niềm tin của dân chúng vào những quyết sách
của chính phủ, từ đó là cơ sở thúc đẩy quá trình hội nhập khu vực ở mức cao
hơn. Trong bối cảnh Cộng đồng ASEAN còn non trẻ, Cộng đồng Chính trị An
ninh ASEAN (APSC) đang từng bước được triển khai, truyền thông đại chúng
có vai trò quan trọng. Do yếu tố lịch sử, việc hình thành một cơ chế khu vực
ứng phó với các vấn đề liên quan đến chính trị, an ninh trong khối các quốc
gia Đông Nam Á có tính chất tương đối nhạy cảm, có thể gây ra tâm lý nghi
ngại vi phạm nguyên tắc “không can thiệp công việc nội bộ của nhau” vốn
được ASEAN coi là kim chỉ nam cho hoạt động của mình. Việc hình thành
một trụ cột về chính trị, an ninh trong tổ chức khu vực liên kết các quốc gia
Đông Nam Á thể hiện quyết tâm chính trị cao của giới lãnh đạo các nước.
Nhưng để chính sách đi vào thực chất, ASEAN cần sự ủng hộ của người dân
thông qua chính phủ các nước để triển khai ở cấp độ khu vực.
Tiểu kết chương 3
Trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực hiện nay, một số xu thế
vận động chính trong thế kỷ XXI được khái quát như sau: (i) trật tự đa cực
được thiết lập từ sau chiến tranh Lạnh tiếp tục được duy trì; (ii) xu hướng hội
nhập khu vực tiếp tục phát triển do nhu cầu phát triển và đảm bảo an ninh
trong thời đại toàn cầu hoá; (iii) xu hướng thu hẹp chủ quyền quốc gia và gia
tăng sức mạnh của các thể chế liên chính phủ/chủ thể siêu nhà nước. Trong
146
mười năm tới, đây vẫn là những xu hướng chủ đạo trong đời sống chính trị
quốc tế. Tuy nhiên, với các nguy cơ mang tính toàn cầu có khả năng tác động
liên hoàn đến nhiều quốc gia, nhiều châu lục cùng với phản ứng kém hiệu quả
của các thể chế nhà nước, siêu nhà nước khiến làn sóng ly khai, chủ nghĩa xét
lại có xu hướng bùng phát mạnh mẽ. Giai đoạn cuối thế kỷ XXI sẽ không có
nhiều thay đổi lớn về tập hợp lực lượng nhưng sẽ chứng kiến những cải tổ về
thể chế mang tính cách mạng.
Ở châu Âu, mức độ và tốc độ hội nhập khu vực có phần chậm lại so với
thập niên cuối thế kỷ XX. Qua giai đoạn phát triển rực rỡ, tiến trình hội nhập
ở châu Âu đang trải qua giai đoạn khó khăn để đạt đến cấp độ hội nhập cao
hơn. Liên minh châu Âu tiếp tục thực hiện những cải tổ mang tính căn bản,
xác định lại chức năng, quyền hạn của tổ chức cũng như phương thức hoạt
động để duy trì và phát huy vai trò chủ đạo hiện nay của mình ở khu vực.
Những bài học kinh nghiệm được đúc kết từ tiến trình hội nhập ở khu vực
châu Âu có thể tham khảo cho trường hợp của ASEAN. Tuy xuất phát điểm
và phương thức hội nhập của hai tổ chức là khác nhau, dẫn tới mô hình liên
kết khu vực có nhiều đặc điểm khác biệt, nhưng bản chất của hội nhập khu
vực vẫn là quá trình vận động của nền chính trị quốc tế, có thể biểu hiện dưới
nhiều hình thức nhưng về nội hàm là giống nhau.
147
KẾT LUẬN
Liên minh châu Âu (EU) là một mô hình liên kết khu vực độc đáo và duy
nhất trên thế giới. Qua 60 năm xây dựng và phát triển, EU đạt mức độ hội nhập
sâu trên hầu hết các lĩnh vực tài chính, thương mại, tư pháp, văn hóa… Hội nhập
nội khối về đối ngoại, an ninh quốc phòng bị đánh giá là còn nhiều hạn chế. Chính
sách Đối ngoại và An ninh chung ra đời từ những năm 1990, nhưng sau hơn 25
năm triển khai, EU vẫn chưa xây dựng được một quân đội chung, chưa đưa ra
được tiếng nói thống nhất trong nhiều vấn đề liên quan đến đối ngoại, an ninh. EU
luôn nỗ lực thúc đẩy quá trình hội nhập chính trị, thể hiện qua nhiều tuyên bố liên
quan đến trụ cột đối ngoại và an ninh như hình thành Chính sách Đối ngoại và An
ninh chung (CFSP) trong Hiệp ước Maastrict (1992), thống nhất triển khai Chính
sách An ninh Quốc phòng châu Âu (ESDP/CSDP) trong Hiệp ước Amsterdam
(1997)… Hiệp ước Lisbon (2009) đánh dấu bước tiến quan trọng về hội nhập đối
ngoại và an ninh của Liên minh với sự ra đời của một cơ quan đối ngoại thống
nhất, đại diện chung cho tiếng nói của EU về các vấn đề đối ngoại là Cục Hành
động đối ngoại châu Âu (EEAS), hình thành chức danh Ngoại trưởng châu Âu -
Đại diện cấp cao về Đối ngoại và An ninh (HR/VP) nhằm giúp châu Âu phát huy
sức mạnh tập thể, tăng cường khả năng phản ứng trước các vấn đề toàn cầu.
Tuy nhiên, từ năm 2009 đến nay, nỗ lực cải tổ của EU vẫn chưa thực sự
giúp EU đạt được kết quả thoả mãn với kỳ vọng của người dân. Niềm tin của
công chúng vào hiệu quả hoạt động của EU đã giảm mạnh, thấp nhất trong
vòng 10 năm qua (từ 57% năm 2007 xuống 33% năm 2017) [58, tr. 15]. EU
giai đoạn này đang phải đối mặt với nhiều vấn đề như khủng hoảng nợ công,
chính sách tài khoá kém hiệu quả ở khu vực đồng tiền chung (eurozone), tình
hình chính trị, xã hội bất ổn với tỷ lệ thất nghiệp cao, tệ nạn xã hội gia tăng,
chủ nghĩa khủng bố lan rộng… Tiến trình hội nhập khu vực, theo đó cũng gặp
nhiều khó khăn do nhận thức của đa số người dân cho rằng bản chất các vấn
đề này chủ yếu xuất phát từ quá trình hội nhập sâu của Liên minh. Trong bối
cảnh đó, tiến trình hội nhập về đối ngoại và an ninh, quốc phòng ở châu Âu có
148
được coi là thành công không? Việc thực thi Chính sách Đối ngoại và An
ninh chung (CFSP), chính sách An ninh Quốc phòng chung (CSDP) có vai trò
như thế nào trong tiến trình hội nhập khu vực về đối ngoại và an ninh?
CFSP/CSDP có được tiếp tục triển khai trong tương lai? Bối cảnh hiện nay
của châu Âu tạo động lực thúc đẩy hay kìm hãm tiến trình hội nhập? Xu
hướng của quá trình hội nhập khu vực trong tương lai sẽ là gì ở châu Âu?
Để trả lời cho những câu hỏi trên, luận án tập trung phân tích quá trình
hội nhập khu vực về đối ngoại và an ninh ở châu Âu thông qua nghiên cứu thực
trạng và triển vọng Chính sách Đối ngoại và An ninh chung, xác định vai trò và
tác động của hội nhập về đối ngoại và an ninh trong tiến trình hội nhập chung
của Liên minh châu Âu. Trên cơ sở đó, đánh giá mức độ hội nhập ở châu Âu,
dự báo xu hướng hội nhập ở khu vực đến năm 2025 và đúc kết một số bài học
kinh nghiệm từ tiến trình hội nhập của EU cho các tổ chức khu vực.
Thực hiện mục tiêu nghiên cứu nên trên, luận án đi đến các kết luận sau:
(i) Hội nhập về đối ngoại và an ninh là cấp độ hội nhập cao nhất của
tiến trình hội nhập khu vực. Trong trường hợp EU, biểu hiện cụ thể nhất là
thực tiễn triển khai CFSP/CSDP. Chính sách này phản ánh các lợi ích, giá trị
và mục tiêu chung của các quốc gia thành viên. Vì vậy, các chuẩn mực đánh
giá, phân tích chính sách đối ngoại, chính sách an ninh, quốc phòng của quốc
gia chỉ mang tính chất tham khảo trong trường hợp nghiên cứu CFSP/CSDP.
(ii) Để hiện thực hoá CFSP/CSDP và các mục tiêu của chính sách, điều
kiện cần là nhu cầu cấp thiết về hợp tác và nỗ lực điều chỉnh chính sách từ
bên trong, điều kiện đủ là động lực từ bên ngoài xuất phát từ bối cảnh khu vực
và thế giới với các sự kiện mang tính bước ngoặt.
(iii) Năm nhân tố tác động đến quá trình triển khai CFSP/CSDP và tiến trình
hội nhập khu vực về đối ngoại, an ninh, quốc phòng là: cam kết của lãnh đạo các
quốc gia thành viên; vấn đề chủ quyền và quyền lực của các thể chế; sự trỗi dậy của
chủ nghĩa dân tuý, dân tộc cực đoan; quá trình mở rộng Liên minh và năng lực của
các quốc gia thành viên; tính toán chiến lược của Mỹ, Nga và quan hệ EU – NATO.
149
(iv) Chủ nghĩa dân tuý, dân tộc cực đoan tạo lực cản đối với quá trình hội
nhập chung nhưng có tác động tích cực đến tiến trình hội nhập về đối ngoại và an
ninh, đặc biệt trong lĩnh vực an ninh quốc phòng. Đồng thời, sự gia tăng sức mạnh
Nga và chính sách giảm can dự của Mỹ ở châu Âu là động lực để CFSP/CSDP
được triển khai hiệu quả, hướng tới thành lập liên minh an ninh quốc phòng.
(v) Tiến trình hội nhập châu Âu bị kìm hãm, thậm chí có khả năng bị phá vỡ
dưới tác động tiêu cực của chủ nghĩa dân tuý, dân tộc cực đoan. CFSP/CSDP theo đó
có thể không thể tiếp tục triển khai. Tuy nhiên, với xu thế vận động của thế giới và
khu vực, quá trình hợp tác về an ninh, quốc phòng ở châu Âu sẽ tiếp diễn. Hành động
phòng vệ tập thể vẫn là lựa chọn tối ưu trong đảm bảo an ninh quốc gia và khu vực.
(vi) Quá trình hội nhập về đối ngoại và an ninh có tác động hai chiều
đối với tiến trình hội nhập chung: thúc đẩy tiến trình hội nhập chung khi đạt
được bước tiến về hợp tác nội khối trong lĩnh vực này, đặc biệt với lĩnh vực
an ninh quốc phòng; ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình hội nhập khu vực trong
các lĩnh vực khác do là lĩnh vực nhạy cảm, dễ gây căng thẳng, chia rẽ nội bộ,
tạo tâm lý hoài nghi tính hiệu quả của các hành động tập thể.
Nền an ninh châu Âu chịu tác động của nhiều nhân tố bên trong lẫn bên
ngoài. Tính toán chiến lược của Mỹ đối với châu Âu và các khu vực khác, sự
trỗi dậy của Trung Quốc, chính sách cứng rắn và tham vọng của Nga, quan hệ
Nga – Trung… hiện nay có nhiều diễn biến phức tạp, nội tại châu Âu đang
phát sinh nhiều vấn đề, chuyển biến khó lường. Trong bối cảnh đó, việc tiếp
tục nghiên cứu tiến trình hội nhập về đối ngoại và an ninh châu Âu có ý nghĩa
quan trọng trong việc đánh giá sự thành công hay thất bại của mô hình liên
kết khu vực EU. Giả định Liên minh quốc phòng châu Âu được thành lập, vị
thế và tầm ảnh hưởng của EU sẽ đạt được bước tiến vượt bậc, sức mạnh tổng
thể được củng cố và tăng cường cùng với quan hệ đồng minh truyền thống
với NATO sẽ giúp EU có tiếng nói mạnh mẽ hơn trong các vấn đề liên quan
đến an ninh khu vực và toàn cầu trên trường quốc tế. Ở khu vực, một khi sức
mạnh quốc phòng mang “bản sắc châu Âu” được khẳng định, hoàn toàn có
150
khả năng các thể chế khu vực được nâng cấp vai trò và tăng cường quyền lực,
việc hình thành một tổ chức theo mô hình liên bang là có cơ sở. Để chứng
minh cho giả định này, hướng nghiên cứu tiếp theo có thể tập trung vào tác
động của diễn biến tư tưởng xã hội về lợi ích dân tộc, bản sắc quốc gia và
nhận thức về tầm quan trọng của các giá trị chung đặt trong tổng thể lợi ích
quốc gia, chủ nghĩa đa phương hiệu quả của EU và các xu hướng phát triển.
Liên minh châu Âu là tổ chức khu vực đạt được cấp độ hội nhập sâu rộng
trong nhiều lĩnh vực. Dựa trên những thành tựu đạt được trong các lĩnh vực tài
chính, tiền tệ, văn hoá, xã hội…, EU đang nỗ lực thúc đẩy tiến trình hội nhập
trong lĩnh vực đối ngoại và an ninh. Quá trình hội nhập trong lĩnh vực này gặp
nhiều khó khăn, chịu tác động từ nhiều nhân tố bên trong lẫn bên ngoài. Nhìn lại
thực tiễn hội nhập của EU, đặc biệt trong lĩnh vực đối ngoại và an ninh, các tổ
chức liên kết khu vực có thể học hỏi kinh nghiệm từ phương hướng phát triển,
cách thức đối phó và xử lý vấn đề của EU, từ đó định ra phương thức của riêng
mình dựa trên đặc thù khu vực và định hướng phát triển của tổ chức.
Việt Nam tham gia vào nhiều cơ chế hợp tác đa phương, là thành viên
năng động của nhiều tổ chức khu vực, trong đó ASEAN là một trong những
tổ chức có vai trò quan trọng trong tiến trình hội nhập khu vực và toàn cầu
của Việt Nam. Cộng đồng An ninh Chính trị ASEAN là một trong ba trụ cột
chính của Cộng đồng ASEAN. Tổ chức này đang triển khai nhiều hoạt động
hợp tác về chính trị, an ninh như Hội nghị Bộ trưởng ngoại giao ASEAN
(AMM), Hội nghị Bộ trưởng quốc phòng ASEAN (ADMM), Diễn đàn khu
vực ASEAN (ARF)… Đây là những diễn đàn mang tính chất đối thoại mở,
không/chưa được thể chế hoá. Sự ra đời của Hiến chương ASEAN và Cộng
đồng ASEAN là những bước đi thể hiện quyết tâm chính trị của khối các quốc
gia Đông Nam Á trong quá trình hội nhập chính trị. Tham khảo mô hình liên
kết khu vực EU trong tiến trình hội nhập chính trị có giá trị thực tiễn cao, giúp
Việt Nam và ASEAN có thêm bài học kinh nghiệm trong việc thúc đẩy quá
trình hội nhập ở khu vực Đông Nam Á./.
151
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
1. “Hội nhập châu Âu về an ninh quốc phòng: Thách thức và triển vọng
đến 2025”, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, Viện Nghiên cứu châu Âu, số
tháng 4/2018.
2. “Tiến trình hội nhập châu Âu tiếp cận dưới góc độ lý thuyết”, Tạp chí Sự
kiện và Nhân vật nước ngoài, Tổng cục 5, Bộ Công an, số tháng 4/2018.
3. “Triển vọng quan hệ Mỹ - EU đến năm 2025 xét về mặt chính sách đối
ngoại”, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, Viện Nghiên cứu châu Mỹ, số
04/2018.
152
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. TIẾNG VIỆT
Đỗ Thanh Bình & Phạm Anh (2008), “Từ Hiến pháp chung đến Hiệp ước 1.
Lisbon: Quá trình tiến tới Liên minh châu Âu thống nhất, hiện đại và năng
động trong thế kỷ XXI”, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, số 2 (89).
Dương Thanh Bình (2012), Vai trò của Liên minh châu Âu trong quan 2.
hệ quốc tế mười năm đầu của thế kỷ XXI (2000 – 2010) và triển vọng,
Học viện Ngoại giao, Hà Nội.
Nguyễn Văn Dân (chủ biên) và Lê Ngọc Hiền (1997), Những vấn đề 3.
xung quanh việc hợp nhất châu Âu, NXB Viện Thông tin khoa học xã
hội, Hà Nội.
Đặng Minh Đức (2005), “Những nhân tố tác động đến quá trình cải 4.
cách hệ thống thể chế chính trị ở Liên minh Châu Âu”, Tạp chí nghiên
cứu châu Âu, số 4, Hà Nội.
Đặng Minh Đức (2005), “Những vấn đề cơ bản của Hiến pháp châu 5.
Âu”, Tạp chí nghiên cứu châu Âu, số 10, Hà Nội.
Nguyễn Thị Thu Hà (2015): Lý thuyết và thực tiễn của hội nhập khu 6.
vực: So sánh mô hình EU và ASEAN, Viện Nghiên cứu châu Âu, Viện
Hàn lâm KHXH Việt Nam, Hà Nội.
Đỗ Sơn Hải (2011), Đặc điểm của nền chính trị quốc tế đương đại, Học 7.
viện Ngoại giao Việt Nam, Học viện Ngoại giao, Hà Nội.
Trần Thanh Hải (2017), Quan hệ Mỹ - Nga – Trung trong năm năm tới, 8.
tác động và đối sách của Việt Nam, Bộ Ngoại giao, Hà Nội.
Đỗ Hồng Huyền (2013): Vai trò của các quốc gia Châu Âu trong một 9.
số tổ chức an ninh, chính trị quốc tế, Viện Nghiên cứu châu Âu, Viện
Hàn lâm KHXH Việt Nam, Hà Nội.
10. Đặng Hoàng Linh (2013), Cuộc khủng hoảng nợ công tại châu Âu: Bài
học cho Việt Nam, Học viện Ngoại giao, Hà Nội.
153
11. Viện Ngôn ngữ học (2002), Từ điển tiếng Việt phổ thông, NXB Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
12. Vũ Bình Minh (2014): Lý thuyết về chủ nghĩa chức năng mới trong liên
kết khu vực ở Châu Âu, Viện Nghiên cứu châu Âu, Viện Hàn lâm
KHXH Việt Nam, Hà Nội.
13. Vũ Bình Minh (2006), “Sự phối hợp chính sách đối ngoại giữa các
quốc gia thành viên Liên minh châu Âu”, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu,
số 7 (73), Hà Nội.
14. Chử Thị Nhuần (2013): Sự tham gia của các nước thành viên vào quá
trình hoạch định chính sách của EU, Viện Nghiên cứu châu Âu, Viện
Hàn lâm KHXH Việt Nam, Hà Nội.
15. Lê Thị Kim Oanh (2014): Sự ra đời và phát triển của các Hiệp ước,
Hiệp định trong Liên minh Châu Âu giai đoạn 1950 – 2013, Viện
Nghiên cứu châu Âu, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam, Hà Nội.
16. Nguyễn Quang Thuấn (2011), Một số vấn đề kinh tế, chính trị nổi bật
của châu Âu giai đoạn 2011 – 2020 và tác động đến Việt Nam, Viện
Nghiên cứu châu Âu, Hà Nội.
17. Nguyễn Quang Thuấn (2014), “Liên kết ở Liên minh châu Âu: từ lý
thuyết đến thực tiễn”, Tạp chí nghiên cứu châu Âu, số 2 (161), Hà Nội.
18. Đinh Công Tuấn (2004), “Chủ nghĩa khu vực và liên khu vực: những triển vọng
giữa châu Âu và châu Á”, Tạp chí nghiên cứu châu Âu, số 6 (66), Hà Nội.
19. Đinh Công Tuấn (2010), “Vai trò của Liên minh Châu Âu và Hiệp ước
Lisbon”, Tạp chí nghiên cứu châu Âu, số 9, Hà Nội.
20. Đinh Công Tuấn (chủ biên) (2011), Liên minh châu Âu hai thập niên
đầu thế kỷ XXI, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
21. Đinh Công Tuấn (2011), “Một số vấn đề chính trị nổi bật của Liên
minh Châu Âu (EU) giai đoạn 2000-2010”, Tạp chí Nghiên cứu Châu
Âu, số 3 (126), Hà Nội.
154
22. Đinh Công Tuấn (2012), “Mô hình hội nhập của EU – ASEAN: So
sánh những tương đồng, khác biệt và bài học kinh nghiệm cho
ASEAN”, Tạp chí nghiên cứu châu Âu, số 6 (141), Hà Nội.
B. TIẾNG ANH
23. Amitav Acharya (1997): “Ideas, Identity, and Institution-Building:
From the ASEAN Way to the Asia Pacific Way”, The Pacific Review.
Press Release (15/6/1998), SG/SM/6598, 24. Kofi Annan,
www.un.org/news/press/docs/1998/19980615.sgsm6598.html
25. Fulvio Attinà (2008): “Managing globalization: EU’s effective
multilateralism”, Universita ̀di Catania.
26. Bache, I., George, S. & Bulmer, S. (2011), Politics in the European
Union, 3rd Edition, Oxford University Press, New York.
27. Banchoff T. (1999), “German Identity and European Integration”,
European Journal of International Relations, 5(3), tr. 259-290.
28. Bailes, Alyson JK & Graham Messervy Whiting (2011), Death of an
Institution, the end for Western European Union, a future for European
defence?, Egmont – The Royal Institute for International Relations,
Academia Press.
29. Michel Barnier (2018), Speech at the event on “The future of EU
foreign, security and defence policy post Brexit”, Institute for Security
Studies, Brussells.
30. Dereck Beach & Colette Mazzucelli (2006), Leadership in the Big
bangs of European Integration, Palgrave MacMillan, New York.
31. Federiga M. Bind (2010), The foreign policy of the European Union:
assessing Europe’s role in the world, Brookings Institution Press.
32. Sven Biscop (2009), Permanent structured cooperation and the future
of ESDP, Academia Press.
155
33. Sven Biscop (2016), “All or nothing? The EU Global Strategy and
defence policy after the Brexit”, Contemporary Security Policy
Journal, Vol.37.
34. Caroline Bouchard, John Petterson and Natalie Tocci (2013),
Multilateralism in 21st Century: Europe’s Quest for Effectiveness,
Routledge, London.
35. Steven Blockmans and Ramses A. Wessel (2009), “The European
Union and crisis management: Will the Lisbon Treaty make the EU
more effective?”, Centre for the Law of EU External Relations.
36. Nicolas Burns (2002), “U.S – European Capabilities Gap Must be
narrowed”, Press Conference, Ljubljana, Slovenia, 28/2/2002,
http://www.atpobtvs.com/existentialscoobies/archives/jun04_p03.html
37. Antonio Calcara (2017), “Italy’s defence policy in the European
context: the case of the European Defence Agency”, Contemporary
Italian politics Journal, Vol.9, tr.277-301.
38. Caporaso, J., Cowles, M.G. and Risse, T. (eds) (2001), Transforming
Europe: Europeanization and Domestic Change, Cornell University
Press, Ithaca, New York.
39. Claudio Catalano (2015), The untold story: the Italian role in the
development of a European defence, Italy’s Foreign Policy in the
Twenty-first Century, Routledge, New York.
Jeffery T. Checkel (1998), “Constructivism in the international relations 40.
theories”, Journal of International Politics, Vol.50 (2), tr.324-348.
Jeffery T. Checkel (1998), “The Constructive Turn in International 41.
Relations Theory”, World politics, Vol.50 (2), tr.324-348.
Jeffrey T. Checkel (2006), “Constructivist Approaches to European 42.
Integration”, Handbook of European Union Politics.
156
43. Chernoff F. (2005), The Power of International Theory: Reforging the
Link to Foreign Policy-Making through Scientific Enquiry, Routledge,
New York.
44. M. Cini (2003), European Union Politics, Oxford University Press.
45. Clingendael Institute (2013): “Why the EU is not promoting effective
multilateralism”, Clingendael Policy Brief.
46. Andrew F. Cooper, Jorge Heine, Kishore Mahbubani and Thamesh
Rakur (eds) (2013), The Oxford Handbook of Modern Diplomacy,
Oxford University Press, Oxford.
47. Council of European Communities (1992), Treaty on European Union,
Luxembourg.
48. Council of European Union (2004), Basic Principles on the Use of
Restrictive Measures (Sanctions), PESC 450, Brussells.
49. Council of the European Union (2015), CFSP Annual report,
https://eeas.europa.eu/sites/eeas/files/st_11083_2015_init_en.pdf.
50. Beach Derek (2005), The Dynamics of European Integration: Why and
when EU institutions matter, Palgrave Macmillan, Basingstoke.
51. Beach Derek and Colette Mazzucelli, eds. (2007), Leadership in the Big
Bangs of European Integration, Palgrave Macmillan, Basingstoke.
52. Franklin Dehousse (1998), “After Amsterdam: A Report on the
Common Foreign and Security Policy of the European Union”,
European Journal of International Law, No. 9 (1998), tr. 525-539
53. Diez, T. and Weiner, A. (eds) (2004), European Integration Theory,
Oxford University Press, Oxford.
54. ECSC (1955), Messina Declaration (3/6/1955),
http://www.internationaldemocracywatch.org/attachments/296_The%2
0Messina%20Declaration%201955.pdf.
157
55. Eurobarometer (2005), The European Constitution: post-referendum
survey in Spain, http://ec.europa.eu/commfrontoffice/publicopinion/
flash/fl_168_en.pdf
56. Eurobarometer (2005), The European Constitution: post-referendum
survey in France, http://ec.europa.eu/commfrontoffice/publicopinion/
flash/fl171_en.pdf
57. Eurobarometer (2011), Attitudes towards the EU in the United
Kingdom, Analytical report,
http://ec.europa.eu/commfrontoffice/publicopinion/ flash/ fl_318_en.pdf
58. European Parliament (2016), Major changes in European public
opinion regarding the EU, Exploratory study,
http://www.europarl.europa.eu/thinktank/en/document.html?reference=
EPRS_STU%282017%29596847
59. European Economic Community (1957), The Treaty of Rome,
https://ec.europa.eu/romania/sites/romania/files/tratatul_de_la_roma.pdf.
60. European Commission COM (June 2017), Reflection paper on the
future of European defence, 315 of 7.
61. European Commission (2006), Treaty of European Union, Official
Journal of the European Union, Luxembourg.
62. European Commission, Overview - Instrument for Pre-accession
Assistance, https://ec.europa.eu/neighbourhood-enlargement/
instruments/overview_en, truy cập ngày 5/5/2017.
63. European Commission, EU Annual Budget life-cycle figures 2014-
2020, http://ec.europa.eu/budget/figures/interactive/index_ en.cfm, truy
cập ngày 5/5/2017.
64. European Commission, Public opinion survey and studies on European
issues, http://ec.europa.eu/commfrontoffice/publicopinion/index.cfm/
Chart/index, Eurobarometer, truy cập 05/10/2017.
158
65. European Commission (2016), The future of Europe - Reflections and
scenarios for the EU27 by 2025, Brussels.
66. European Commission, The Instrument contributing to Stability and
Peace (IcSP), https://ec.europa.eu/europeaid/sectors/human-rights-
and-governance/peace-and-security/instrument-contributing-stability-
and-peace_en, truy cập ngày 10/5/2017.
67. European Commission (2018), Toward a European Defence Union,
https://ec.europa.eu/commission/sites/beta-political/files/towards-a-
european-defence-union_en.pdf , truy cập ngày 20/3/2018.
68. European Defence Community (1954), The European Defense Treaty,
Command Paper 9127, HMSO, London.
69. European External Action Service (2016), Working document 2016
(59), CFSP budget orientations for 2016 and 2017,
http://www.statewatch.org/news/2016/apr/eu-council-csdp-missions-
overview-06383-16.pdf, Brussels.
70. European External Action Service (2016), EEAS Annual report,
https://eeas.europa.eu/sites/eeas/files/aar2016_final_final.pdf, truy cập
ngày 10/5/2017.
71. European External Action Service (2017), The Partnership Instrument,
https://eeas.europa.eu/topics/partnership-instrument/425/partnership-
instrument_en, truy cập ngày 10/5/2017.
72. European External Action Service (2017), The Election Observation
Missions, https://eeas.europa.eu/topics/election-observation-missions-
eueoms/421/election-observation-missions-eueoms_en, truy cập ngày
10/5/2017.
73. European External Action Service (2017), A Global Strategy for the
European Union, https://europa.eu/globalstrategy/en/global-strategy-
european-union, truy cập 20/6/2017.
159
74. European External Action Service (2017), CSDP Annual report,
https://eeas.europa.eu/sites/eeas/files/csdp_annual_report_2017_web_
en_2.pdf, truy cập ngày 21/4/2018.
75. European External Action Service (2017), Global Strategy for
European’s foreign and security policy, Brussells.
76. European External Action Service (2017), European Union Common
Security And Defence Policy Missions And Operations – Annual report
2017,https://eeas.europa.eu/sites/eeas/files/csdp_annual_report_2017_
web_en_2.pdf, Brussels.
77. European External Action Service (2018), EU Defence historic day: EU
ministers agree implementation plan for closer military cooperation,
https://eeas.europa.eu/headquarters/headquarters-
homepage/40853/eu-defence-historic-day-eu-ministers-agree-
implementation-plan-closer-military-cooperation_en, truy cập ngày
08/03/2018.
78. European External Action Service (2018), EU-NATO cooperation fact
sheet, https://eeas.europa.eu/headquarters/headquarters-homepage/
28286/eu-nato-cooperation-factsheet_en, truy cập ngày 06/03/2018.
79. European External Action Service (2018), The EU Global Strategy –
Year 1 report, Foreword by HR/VP
https://europa.eu/globalstrategy/en/vision-action
80. European Parliament (1997), Treaty of Amsterdam, Office for Official
Publications of the European Communities, Luxembourg.
Parliament (2009), Eurocorp’s history, 81. European
http://www.europarl.europa.eu/meetdocs/2004_2009/documents/dv/eur
ocorps_history_/eurocorps_history_en.pdf , truy cập ngày 02/5/2017
82. European Parliament (2017), Think tank: Russia’s and EU’s sanctions:
economic and trade effects, compliance and the way forward, Policy
Department, Luxembourg.
160
83. European Security Committee, Foreign and Commonwealth Office
(6/2006), Thirty-first report of session 2005-06, Presidency report on
European Security and Defence Policy.
84. European Union (2016), A Global Strategy for the European Union’s
Foreign and Security Policy: Shared Vision, Common Action: A
Stronger Europe, Brussels.
85. European Union (2003), European Security Strategy - A Secure Europe
In A Better World, Brussels.
86. European Union (2007), Treaty of Lisbon, Vol.50, Official Journal of
the European Union, Luxembourg.
(2017), News Release 110/2017, http://ec.europa.eu/ 87. Eurostat
eurostat/documents/2995521/8102195/3-10072017-AP-EN.pdf/
a61ce1ca-1efd-41df-86a2-bb495daabdab, Eurostat Press Office.
88. Mary Farrell (2005), “The Global Politics of Regionalism: An
Introduction”, Global Politics of Regionalism: Theory and Practice,
edited by Mary Farrell, Bjorn Hettne, and Luk VanLangenhove. Pluto
Press, London.
89. Louise Fawcett (2005), “Regionalism from an historical perspective”,
Global Politics of Regionalism: Theory and Practice, edited by Mary
Farrell, Bjorn Hettne, and Luk VanLangenhove, Pluto Press, London, tr.
21-37.
Joschka Fischer (2016), “How much Europe do European needs?”, The 90.
https://www.project-syndicate.org/commentary/ Project Syndicate,
european-integration-nationalism-by-joschka-fischer-2016-
11?barrier=accesspaylog, truy cập ngày 22/12/2017.
91. French Ministry of Defence (2013), Stretagic review of Defence and
Nationa Security 12 Key points, Paris.
92. French Ministry of Defence (2017), Stretagic review of Defence and
Nationa Security 2017 Key points, Paris.
161
93. Francis Fukuyama (2017), “Why populistnationalism now?”, The
American Interest, https://www.the-american-interest.com/2017/11/30/
populist-nationalism-now/ , truy cập ngày 22/12/2017.
94. Francis Fukuyama (2017), “What is populism?”, The American
Interest, https://www.the-american-interest.com/2017/11/28/what-is-
populism/, truy cập ngày 22/12/2017.
John Lewis Gaddis (Spring 1986), “The Long Peace: Elements of 95.
Stability in the Postwar International System”, International Security,
Vol.10, No. 4, trang 99-142.
96. Gazprom Export (2014), Delivery Statistics: Gas supplies to Europe,
http://www.gazpromexport.ru/en/statistics/, truy cập ngày 07/5/2017.
97. Lloyd Gruber (2000), Ruling the world: Power politics and the Rise of
supranational institutions, Princeton University Press, New Jersey.
98. Caroline de Gruyter (2017), “The Rise of Europe’s Antipopulists”, The
Carnegie Europe, http://carnegieeurope.eu/2017/04/25/rise-of-europe-
s-antipopulists-pub-68764, truy cập ngày 22/12/2017.
99. Hall Peter A. and Rosemary C.R. Taylor (1996), “Political Science and
the Three New Institutionalisms”, Political Studies, Vol.44.
100. Hoffmann, Stanley (1966), “Obstinate or Obsolete? The Fate of the Nation-
State and the Case of Western Europe”, Daedalus 95 (3), tr. 862-915.
101. Hooghe, L. and Marks, G. (2001): “The Neo-functionalists were
(almost) right: politicization and European integration”, Paper
presented at the ARENA Research Seminar, 5 October, ARENA Centre
for European Studies, University of Oslo, Oslo.
102. European Capabilities Action Plan (ECAP), Institute for European
Studies, EU, https://www.peacepalacelibrary.nl/ebooks/files/06-
bsecap.pdf, truy cập 20/5/2017.
162
103. House of Lords, European Committee’s 10th report of session 2007-08
(3/2008), The Treaty of Lisbon: an impact of assessment, Vol I, The
Stationary Office Limited, London.
104. Howorth, J. (2004), “Discourse, Ideas, and Epistemic Communities in
European Security and Defence Policy”, West European politics,
Vol.27, No.2, tr.211-234.
105. Hufner, K & Naumann, J. (1990): “Are the Moral and Value Foundations of
Multilateralism Changing”, International Political Science Review, 22 (3).
106. Hyde-Price, A, (2004): “The EU, power and coercion: from ‘civilian’ to
‘civilising’ power”, Paper presented at a CIDEL-ARENA workshop on
From Civilian to Military Power: The European Union at a Crossroads,
October, ARENA Centre for European Studies, University of Oslo,
Oslo.
107. Haas, E.B. (2001): “Does constructivism subsume neo-functionalism?”
in T. Christiansen, K.E. Joergensen and A. Wiener (eds), The Social
Construction of Europe, Sage Publications, London, tr.22-31.
108. Haas, Ernst B. (1958), The Uniting of Europe: Political, Social, and
Economic Forces 1950-1957, Stanford University Press, Stanford.
109. Haas, Ernst B. (1967), “The Uniting of Europe and the Uniting of Latin
America”, Journal of Common Market Studies 5.
110. Bjorn Hettne and Bertil Oden (2002): Global Governance in the 21st
Century: Alternative Perspective on World Order, Almkvist & Wiksell
International.
111. Ted Hopf (Summer 1998), “The Promise of Constructivism in
International Relations Theory”, International Security, Vol.23, No. 1,
tr.171-200.
163
112. Andrew Hurrell (1995), “Regionalism in Theoretical Perspective”,
Regionalism in World Politics – Regional organization and
International order, edited by Louise Fawcett and Andrew Hurrell,
Oxford University Press, New York.
113. Goran Ilik (2011): “Multilateralism: The Ideological Matrix of the
http://www.e- European Union”, E-International Relations,
ir.info/2011/01/15/multilateralism-the-ideological-matrix-of-the-
european-union/ , truy cập ngày 25/5/2014.
114. Anatole Kaletsky (2017), Fake Brexit or No Brexit, Project Syndicate.
115. Deutsch Karl, et al. (1957), Political Community and the North Atlantic
Area: International Organization in the Light of Historical Experience,
Princeton University Press, Princeton.
116. Deutsch Karl, et al. (1967), France, Germany and the Western
Alliance: A Study of Elite Attitudes on European Integration and World
Politics, Charles Scriber's Sons, New York.
117. Niilo Kauppi (2003), “Bourdieu's Political Sociology and the Politics of
European Integration”, Theory and Society 32, no.5/6: 776.
118. Kohler-Koch, B. & Rittberger, B. (2006), “Review Article: The
‘Governance Turn’ in EU Studies”, Journal of Common Market
Studies, 44(1), tr.27-49.
119. Rey Kosloski (1999), “A constructivist approach to understanding the
European Union as a federal polity”, Journal of European Public
policy, vol.6, tr.561-578.
120. Krause, J. (2004): “Multilateralism: Behind European Views”, The
Washington Quarterly, Washington.
121. Elena Lazarou, Geoffrey Edwards, Christopher Hill and Julie Smith
(February 2010): The Evolving Doctrine of Multilateralism in the 21st
Century, Mercury E-Paper 3.
164
122. Lindberg Leon N. (1963), The Political Dynamics of European
Economic Integration, Stanford University Press, Stanford.
123. L. Lindberg & S. Scheingold (1970), Europe’s Would-Be Polity –
Patterns of Change in the European Community, Prentice-Hall.
124. Livre Blanc the de Défense et la Sécurité Nationale (2013), Direction
de l’information légale et administrative, Paris.
125. Ludovica Marchi, Richard Whitman, Geoffrey Edwards (2014), Italy’s
Foreign Policy in the Twenty-first Century: A Contested Nature?,
Routledge.
126. Edward D. Mansfield & Helen V. Milner (1997), “The political
economy of regionalism: an overview”, The Political Economy of
regionalism, edited by Edward D. Mansfield and Helen V. Milner,
Columbia, New York.
(2016), Recent 127. Alessandro Marrone and Vincenzo Camporini
Developments in Italy’s Security and Defence Policy, Istituto Affari
Internazionali, ISSN 2280-6164.
128. John J. Mearsheimer (1990). “Back to the Future: Instability in Europe
after the Cold War”, International Security, Vol.15, No. 1, tr.5-56.
129. Federica Mogherini (2018), Remarks at the event on “The future of EU
foreign, security and defence policy post Brexit”, Institute for Security
Studies, Brussells.
in the European 130. A. Moravcik (1993), “Prefernces and Power
Community: A Liberal Intergovernmentalist Approach”, Journal of
Common Market Studies, Vol.34, no.4.
131. Moravcsik, Andrew (1998), The Choice for Europe, Cornell University
Press, Ithaca.
165
132. Kapil Narula (2016), “Higher Risks Likely To Shape Global
Responses: Forecast 2016”, Eurasia Review,
http://www.eurasiareview.com/06042016-higher-risks-likely-to-shape-
global-responses-forecast-2016/, truy cập ngày 30/6/2016.
133. Official Journal of European Communitites (1987), The Single
European Act, No. L169/2, 29/6/1987.
134. Office for Official Publications of the European Communities (1988),
European Political Cooperation (EPC), Catalogue number: FX-52-88-
574-EN-.C ©ECSC-EEC-EAEC, Brussels, Luxembourg.
135. Norman D. Palmer (1991), The New regionalism in Asia and the
Pacific, Lexington Books, Canada.
136. Eero Palmujoki (2001), Regionalism and Globalism in Southeast Asia,
Palgrave, New York.
137. John E. Peters, Stuart Johnson, Nora Bensahel, Timothy Liston, Traci
Williams (2001), European Contributions to Operation Allied Force –
Implications for Transatlantic Cooperation, Project Air Force, RAND, CA.
138. Presidency Conclusion, Helsinki European Council meeting, 10-
11/12/1999, http://www.europarl.europa.eu/summits/hel1_en.htm#b
139. Jochen Rehrl and Hans-Bernhard Weisserth (2012), Handbook on
CSDP, European Security Defence College, Vienna.
140. Report on European Political Cooperation, (London,13/10/1981),
Bulletin of the European Communities Supplement 3/81.
141. Report by the Planning Staff, West German Ministry of Defence
(1972), The Eurogroup in NATO, Survival Global Politics and
Strategy, Vol.14 (issue 6), 1972.
142. Risse, T. (2005): “Neo-functionalism, European identity, and the puzzles
of European integration”, Journal of European Public Policy, 12(2):
291-309.
166
143. Rittberger, V. (ed.) (2001): German Foreign Policy since Unification:
Theories and Case Studies, Manchester University Press, Manchester.
144. Rosamond B. (2007), “New Theories of European Integration” in Cini,
M. & Borragan, N. (2007) European Union Politics, (2nd Edition),
Oxford University Press, Oxford, tr.117-136.
145. Ben Rosamond (2000), Theories of European Integration, St. Martin
Press, New York.
146. Ruggie, J. G. (1992): “Multilateralism: The Anatomy of An Institution”
International Organization, Vol.46, No.3.
147. Ruggie, J. G (ed.) (1993), Multilateralism Matters, Columbia
University Press.
148. Maartje Rutten (2001), From St-Malo to Nice: European defence: core
documents, Institute for Security Studies, WEU, Paris.
149. Bruce M. Russett (1969), “International regimes and Study of regions”,
International Studies Quarterly, Vol.13 (no.14), tr.361-380.
150. Trevor C. Salmon & Alistair J. K. Shepherd (2003), Toward a
European Army – A Military Power in the Making?, Lynne Rienner
Publishers, London
151. Trevor Salmon (2005), The European Security and Defence Policy:
Built on Rocks or Sand?, European Foreign Affairs Review 10, Kluwer
Law International, tr. 359–379.
152. Federico Santopinto & Megan Price (2013), National visions of EU
defence policy – Common denominators and misunderstandings, Centre
for European Studies, Brussells.
(2003), “Introduction”, Theories of New 153. Fredrik Söderbaum
regionalism, edited by Fredrik Söderbaum, Timothy M. Shaw,
Palgrave, Basingstoke.
154. Schimmerfennig, F. (2003), The EU, NATO and the Integration of
Europe: Rules and Rhetoric, Cambridge University Press.
167
155. Schimmerfennig, F. and Sedelmeire, U. (2005), The Europeanization of
Central and Eastern Europe, Cornell University Press, Ithaca, NY.
156. Simon, Hix (2005), The Political System of the European Union,
Palgrave Macmillan, Basingstoke.
157. SIS Europe (3/2008), “The Lisbon treaty and its impact to CFSP and
ESDP”, The European Security Review, Vol.37.
158. Sjursen, H. (2004): “Changes to European security in a communicative
perspective”, Cooperation and Conflict, 39(2): 107-28.
159. Smith, K.E. (October 2004a): “Still ‘civilian power EU’?”, Paper
presented at a CIDEL-ARENA workshop on From Civilian to Military
Power: The European Union at a Crossroads, ARENA Centre for
European Studies, University of Oslo, Oslo.
160. Smith, M. (2004): “Institutionalization, policy adaption and European
foreign policy cooperation”, European Journal of International
Relations, 10(1): 95-136.
161. K. Soder (2010), “EU military crisis management: an assessment of
member states’ contributions and positions”, Draft for the meeting of
the COST Action IS0805 “New Challenges of Peacekeeping and the
European Union's Role in Multilateral Crisis Management”.
162. Statista (2018), Expenditure on defense as share of the GDP in Italy
from 2008 to 2017, https://www.statista.com/statistics/669092/defense-
spending-as-share-of-gdp-in-italy/, truy cập ngày 20/3/2018.
163. Bruce Stoke (2016), Euroscepticism beyond Brexit, Significant
opposition in key European countries to an ever closer EU, Pew
Research Center, Washington, http://www.pewglobal.org/2016/
06/07/euroskepticism-beyond-brexit/, truy cập ngày 01/7/2017.
view (2018), 2018 Annual forecast, 164. Stratfor World
https://worldview.stratfor.com/article/2018-annual-forecast, truy cập
ngày 30/3/2018.
168
165. Nicholas Tarling (2006), Regionalism in Southeast Asia, Routledge,
New York.
166. The Federal Ministry of Defence (2006), White Paper on German
Security Policy and the Future of the Bundeswehr, Berlin.
167. The Federal Government (2016), White paper on German security
policy and the future of the Bundeswehr, Berlin.
168. The Guardian (2017), “View on Macrons: A bold vision”,
https://www.theguardian.com/ commentisfree/2017/sep/26/the-
guardian-view-on-macrons-europe-speech-a-bold-vision, truy cập ngày
24/12/2017.
169. The New Encyclopedia Britannica Dictionary (1991), 15th edition,
Encyclopedia Britannica Inc., Washington.
170. The World Economy Forum (2016), The Global risks report 2016 (11th
edition), Switzerland.
171. Oana Topala (4/2011), “How Common is CSDP? Solidarity and Mutual
Defence in the Lisbon Treaty”, The European Security Review,
Briefing.
172. Treaty of Economic, Social and Cultural Collaboration and Collective
Self-Defence(1948),
https://www.nato.int/ebookshop/video/declassified/
doc_files/Brussels%20Treaty.pdf
173. Martin Trybus (2016), The legal foundation of an European Army,
Working paper, Institute of European Law, Birmingham Law School,
Birmingham, UK.
174. UK House of Common (2012), UK Public Opinion on the European
Union,http://researchbriefings.files.parliament.uk/documents/SN05442/
SN05442.pdf
169
175. UK Ministry of Defence (2014), Strategic Trends Programme: Global
Strategic Trends – Out to 2045.
176. Richard Vaughan (1976), Post-War Integration in Europe, Edward
Arnold Publisher, London
177. Vasconcelos (2008), Partnerships for effective multilateralism. EU
relations with Brazil, China, India and Russia, EUISS, Chaillot Paper,
No.109.
178. Wagner. W (2003) “Why the EU’s Common Foreign and Security
Policy will remain Intergovernmental: A Rationalist Institutional
Choice Analysis of European Crisis Management Policy”, Journal of
European Public Policy, 10(4), tr.576-595.
179. White House (1997), The 1997 National Strategy of The United State
of America, Washington.
180. White House (2017), The 2017 National Strategy of The United State of
America, Washington.
181. Olaf Wientzek (2017), Glimmer of hope for the Common Security and
Defence Policy, Konrad Adenauer Stiftung, No.236.
182. World bank (2016), GDP per capita, https://data.worldbank.org/
indicator/NY.GDP.PCAP.CD?end=2016&locations=PL-GR-PT-DE-
EU&start=1964 , truy cập ngày 05/5/2017.
183. World bank (2016), Military expenditures (% GDP), https://data.
worldbank.org/indicator/MS.MIL.XPND.GD.ZS, truy cập ngày
05/5/2017.
184. Yeo Lay Hwee (2003): Asia and Europe: The Development and
Different Dimensions of ASEM, Routledge, London and New York.
C. TRANG WEB HỖ TRỢ
185. Cục Hành động đối ngoại châu Âu (EEAS): https://eeas.europa.eu/
headquarters/headquarters-homepage_en
170
186. Cục Quốc phòng châu Âu (EDA): https://www.eda.europa.eu/
187. Cục Thống kê châu Âu (Eurostat): http://ec.europa.eu/eurostat
188. Diễn đàn kinh tế thế giới: www.weforum.org
189. Hội đồng châu Âu: http://www.consilium.europa.eu/en/european-
council/
190. Ngân hàng thế giới: www.worldbank.org
191. Quân đoàn châu Âu: http://www.eurocorps.org
192. Quốc hội châu Âu: http://www.europarl.europa.eu/portal/en
193. Tổ chức Hiệp ước quân sự Bắc Đại Tây Dương (NATO):
https://www.nato.int/
194. Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu (OSCE): https://www.osce.org/
195. Uỷ ban châu Âu: https://ec.europa.eu/commission/index_en
171
PHỤ LỤC 1
BẢNG KHẢO SÁT VỀ SỰ QUAN TÂM VÀ NHU CẦU CỦA NGƯỜI DÂN
Nguồn: Sách trắng về tương lai quốc phòng châu Âu, tháng 6/2017.
172
PHỤ LỤC 2
ĐỊNH VỊ NỀN KINH TẾ EU TRÊN THẾ GIỚI
* Đóng góp của EU đối với GDP toàn cầu:
Nguồn: Cục Thống kê châu Âu, Ban Thống kê Liên hiệp quốc
* Tỷ trọng đồng euro so với các đồng tiền quốc tế khác:
Thống kê dựa trên dữ liệu từ 30/11/2015 đến 24/2/2017
Nguồn: Quỹ tiền tệ thế giới
173
PHỤ LỤC 3
SỰ CHỒNG CHÉO TRONG CHI PHÍ QUỐC PHÒNG GIỮA CÁC
QUỐC GIA THÀNH VIÊN EU (TÍNH ĐẾN NĂM 2016-2017)
Nguồn: Viện nghiên cứu hoà bình quốc tế Stockholm (dữ liệu 2016), Viện nghiên cứu chiến
lược (Cân bằng quân sự 2017), Trung tâm Chiến lược chính trị châu Âu, Báo cáo an ninh
Munich 2017
174
PHỤ LỤC 4
CẤU TRÚC QUYỀN LỰC CỦA LIÊN MINH CHÂU ÂU
Nguồn: http://www.bbc.com.news/world-europe-23488006
175
PHỤ LỤC 5
NIỀM TIN CỦA NGƯỜI DÂN VÀO CÁC THỂ CHẾ EU
(GIAI ĐOẠN 1997-2016)
C â u h ỏ i :
t i n t ư ở n g h a y
i
T n t ư ở n g
k h ô n g t i n t ư ở n g ?
K o t i n t ư ở n g
i
K h ô n g b ế t
B ạ n t i n t ư ở n g c á c t h ể c h ế c ủ a E U đ ế n m ứ c đ ộ n à o ? C ó x u h ư ớ n g
Nguồn: Eurobarmeter
176
PHỤ LỤC 6
BÁO CÁO TÓM TẮT KẾT QUẢ 1 NĂM THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC
TOÀN CẦU CỦA EU (EUGS YEAR 1)
The EU Global Strategy seeks to turn vision into common action. This is why a year
following its presentation the High Representative is presenting an Implementation Report
on what has been achieved to turn the priorities of the EU Global Strategy into concrete
results on the ground. In October 2016 EU Foreign ministers decided on the most
important strategic priorities for implementing the EU Global Strategy (Council
Conclusions in October 2016). These are Security and Defence, Building Resilience and
taking an Integrated Approach to conflicts and crises, addressing the Internal/ External
Nexus, updating existing strategies and preparing news ones, and enhancing Public
Diplomacy.
Nguồn: https://eeas.europa.eu/sites/eeas/files/a_global_strategy_for_ the_european_union_fact_sheet.pdf From Vision to Action - Strategic Priorities
Security and Defence
To implement the EU Global Strategy, decisive steps are being taken on Security and
Defence. In November 2016, EU Foreign and Defence ministers decided on a new level of
ambition and key steps to upgrade cooperation to ensure the Security of our Union in line
with the Global Strategy (Council conclusions). These Conclusions were based on HRVP
Federica Mogherini’s Implementation Plan on Security and Defence. This aims to improve
the protection of the EU and its citizens, help governments jointly build military capacity,
and develop better response to crises. The EU has moved rapidly to implement the
implement the strategy. A new command A Global Strategy for the European Union centre
for military training and advisory missions has been established that will ensure fast and
coordinated response to crises around the globe. At the same time a coordinated review of
annual defence budgets is underway that will allow Member States to plan and invest on
crucial military capabilities together. Further actions to step up EU Security include the
European Defence Action Plan, which proposes financial help for Member States for more
efficient joint procurement and capability development, and steps to put into effect the EU-
NATO Joint Declaration.
177
Building Resilience and taking an Integrated Approach
Building resilience at home and abroad means creating a more responsive union. The EU
will strengthen the resilience of states and societies by supporting good governance,
accountable institutions, and working closely with civil society. Our support will target in
particular the EU’s surrounding regions in the East and the South, spanning from Central
Asia to Central Africa. The High Representative and the European Commission launched a
Joint Communication on Resilience that aims to further enhance common action on
building resilience on the ground. Examples of our work are the EU’s engagement in the
Sahel Region, where we are helping people in immediate need through humanitarian
intervention, while also investing in creating jobs, access to education, health and climate
mitigation. We are also supporting private investment in fragile areas with the European
External Investment Plan.
The EU also supports an integrated approach to conflicts and crises, which means
addressing all dimensions and stages of a conflict, from early action and prevention,
wherever possible to staying on the ground long enough for peace to take root. A particular
emphasis is placed on early warning and translating this into early action before a crisis
erupts. The EU is also doing more to plan in advance for post-crises reconstruction such as
in Syria, Iraq and Nigeria.
Strengthening the Internal/External Nexus
Strengthening the internal/external nexus requires promoting a more joined up union.
Issues such as Counter-Terrorism, Counter-Violent Extremism, Migration, Sustainable
development, and Cyber security can only be addressed by joined-up EU policies and
institutions. Since Terrorism and Violent Extremism affect us all, the EU is working very
closely with partner countries to bring an end to this senseless violence. Delivering on the
Sustainable Development Goals as part of the Agenda 2030 is an integral part of the EU
Global Strategy.
In the area of migration the EU’s Framework on Migration is based on the idea that
migration can only be managed in partnership with the countries of origin and transit in a
sustainable, respectful and human manner. The EU Trust Fund for Africa is a powerful tool
to deliver targeted action in a speedy manner in areas related to migration.
Updating existing strategies or preparing new ones – changing the way we work in a
joined up Union
In a more complex world, we need to combine traditional diplomacy and security and
defence policy with being engaged in effective climate diplomacy, energy diplomacy,
economic diplomacy, and cultural diplomacy. Following the launch of the EU Global
Strategy we are reviewing all our policy fields to make sure our policies re aligned and
reflect the realities of a rapidly changing world and the demands for greater security
coming from our citizens.
The EUGS has also triggered a transformation of the way in which the EU does foreign
policy in a joined up way: our full potential can only be realised if we work across policy
sectors, institutions and Member States. We see this in our work on security and defence as
much as on climate, energy and oceans’ governance; on economic diplomacy as much as
on culture in international relations, youth initiatives and human rights.
178
Enhancing Public Diplomacy
In a more connected world, it is important to project a clear vision of what the EU stands
for and seeks to achieve in the world. We are working closely with state and non-state
partners, as well as boosting EU study exchanges, our alumni networks and youth
initiatives. For example the Young MED voices plus initiative brings together young
people form Europe and the Mediterranean to work on concrete policy proposals that
address their most pressing concerns. In Ukraine the “Stronger Together” campaign
highlighted the concrete benefits of partnership with the EU.
The EU is also working with partners to counter misinformation campaigns, in particular in
Eastern Europe and the Western Balkans.
Promoting EU programmes such as Erasmus+, our flagship study programme and Horizon
2020, a multi-billion EU Research and Innovation programme, is also an important part of
EU public diplomacy.
The sustainable development goals will be a cross-cutting dimension of all this work.
Human rights, peace and security, and gender equality and women’s empowerment are an
integral part of all our policies. To ensure that a wide range of views are included, the EU
Global Strategy and its implementation will continue to build on input from numerous
outreach events and analysis of the research community./.
179
PHỤ LỤC 7
SÁNG KIẾN “HỢP TÁC MANG CẤU TRÚC BỀN VỮNG”
09 March 2018
(Permanent Structured Cooperation (PESCO)) Nguồn: https://eeas.europa.eu/sites/eeas/files/eu_factsheet_pesco_permanent_structu red_cooperation_en_0.pdf
Steps towards a Permanent Structured Cooperation
Under the guidance of the European Council, four major steps have now been successfully
completed to establish PESCO:
Step 1: Member States presented a list of common commitments in September 2017 in the
main areas of Protocol 10 to the Treaty, notably defence investment, capability
development and operational readiness.
Step 2: On 13 November 2017, Ministers signed a common notification on the PESCO and
handed it over to the High Representative and the Council – the first formal step to set up
the PESCO. It sets out the principles, in particular underlining the binding and inclusive
character of the legal framework, a list of 20 binding common commitments the Member
States have agreed to undertake, as well as proposals on the governance of PESCO.
Step 3: On 11 December 2017, the Council adopted a decision establishing PESCO and its
list of participants. A total of 25 Member States have decided to participate in PESCO and
agreed on a declaration identifying the first 17 collaborative PESCO projects. Projects are
in the areas of capability development and in the operational dimension, ranging from the
establishment of a European Medical Command, an EU Training Mission Competence
Centre, Cyber Rapid Response Teams and Mutual Assistance in Cyber Security, to
Military Disaster Relief and an upgrade of Maritime Surveillance.
Step 4: On 6 March 2018 the Council formally adopted a first set of 17 different projects
and their participants as well as a Recommendation which sets out a roadmap for the
further implementation of PESCO.
Structure and Governance
PESCO will have a two-layer structure
• Council Level: Responsible for the overall policy direction and decision-making,
including as regard the assessment mechanism to determine if Member States are
fulfilling their commitments. Responsible for the overall policy direction and
decisionmaking, including as regards the assessment mechanism to determine if
Member States are fulfilling their commitments.
• Projects Level: PESCO’s effectiveness will be measured by the projects it will
develop. Each project will be managed by those Member States that contribute to it,
in line with general rules for project management to be developed at overarching
level.
180
PESCO Secretariat: The European Defence Agency (EDA) and the EEAS, including the
EU Military Staff, working together, provide a Secretariat function for PESCO, with a
single point of contact for the participating Member States.
Assessment process: Each participating Member State is required to communicate every year
a National Implementation Plan (NIP) to assess the fulfilment of the binding commitments
they have made to one another. The High Representative will present annually a report on
PESCO to the Council. On this basis, the Council will – also annually - review whether the
participating Member States continue to fulfil the more binding commitments.
PESCO projects: The individual projects will be run by different groups of participating
Member States. The general governance rules for PESCO projects will be adopted at Council
level, as well as the general conditions under which third states may exceptionally be invited to
participate in PESCO projects.
PESCO – an instrument relevant for the security of the EU and its citizens
• PESCO is both a permanent framework for closer cooperation and a structured
process to gradually deepen defence cooperation within the Union framework. It
will be a driver for integration in the field of defence.
• Each participating Member State provides a plan for the national contributions and
efforts they have agreed to make. These national implementation plans are subject
to regular assessment. This is different from the voluntary approach that is
currently the rule within the EU’s Common Security and Defence Policy.
• PESCO is designed to make European defence more efficient and to deliver more
output by providing enhanced coordination and collaboration in the areas of
investment, capability development and operational
readiness. Enhanced
cooperation in this domain will allow decreasing the number of different weapons’
systems in Europe, and therefore strengthen operational cooperation among
Member States, increase interoperability and industrial competitiveness.
• PESCO will help reinforce the EU’s strategic autonomy to act alone when
necessary and with partners whenever possible. Whilst PESCO is underpinned by
the idea that sovereignty can be better exercised when working together, national
sovereignty remains effectively untouched.
• Military capacities developed within PESCO remain in the hands of Member States
that can also make them available in other contexts such as NATO or the UN.
181
PESCO as part of a comprehensive defence package
PESCO is closely connected to the new Coordinated Annual Review on Defence (CARD)
and the European Defence Fund (EDF). They are complementary and mutually reinforcing
tools contributing to the goal of enhancing Member States’ defence capabilities:
CARD, run by the European Defence Agency, through systematically monitoring of
national defence spending plans, will help identify opportunities for new collaborative
initiatives.
EDF provides financial incentives for Member States to foster defence cooperation from
research to the development phase of capabilities including prototypes through co-
financing from the EU budget. PESCO projects may benefit from increased EU co-
financing, which could amount to 30% - instead of 20% - for prototypes./.
182
PHỤ LỤC 8
NGHỊ QUYẾT CỦA NGHỊ VIỆN CHÂU ÂU VỀ BÁO CÁO
THƯỜNG NIÊN KẾT QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH AN NINH
QUỐC PHÒNG CHUNG NĂM 2017
(Bản tóm lược) Nguồn: European Parliament 2014-2019, http://www.europarl.europa.eu/sides/getDoc.do?pubRef=- //EP//NONSGML+TA+P8-TA-2017-0492+0+DOC+PDF+V0//EN
P8_TA(2017)0492 Annual report on the implementation of the Common Security and Defence Policy European Parliament resolution of 13 December 2017 on the Annual report on the implementation of the Common Security and Defence Policy (2017/2123(INI)) … The Union’s strategic environment
1. Underlines that the rules-based international order and the values defended by Western democracies, and the peace, prosperity and freedoms which this post- World War II order guarantees and which correspond to the foundations on which the European Union is built, are facing an unprecedented number of conventional and hybrid challenges, as societal, economic, technological and geopolitical trends point to the growing vulnerability of the world's population to shocks and stresses – such as interstate conflicts, natural disasters, extreme weather events, water crises, state collapse and cyber-attacks – that need a united and coordinated response; recalls that security is a key concern for European citizens; states that the Union’s external action is to be guided by the values and principles enshrined in Article 21 TEU;
2. Stresses that no single Member State can alone tackle any of the complex security challenges we are facing today, and in order for the EU to be able to respond to this internal and external challenges it needs to step up its efforts towards concrete strong cooperation in the context of CFSP/CSDP, be an effective global player, which implies speaking with one voice and acting together, and focus its resources on strategic priorities; takes the view that it is necessary to tackle the root causes of instability, which are poverty and raising inequality, bad governance, state collapse and climate change;
its fighters are fleeing, while
the fact
that
3. Deplores the fact that transnational terrorist and criminal organisations are increasing in strength and number, potentially facilitated by the defeat of ISIS/Da'esh and instability simultaneously spreads in the southern regions and in the Middle East, as fragile and disintegrating states such as Libya give up on large ungoverned spaces vulnerable to outside forces; expresses its continued concern over the transnational dimension of the terrorist threat in the Sahel region; deeply deplores that the
Democratic People's Republic of Korea's ongoing nuclear and ballistic missile- related activities have generated increased tension in the region and beyond, posing a clear threat to international peace and security;
tactics,
including cyber-terrorism,
4. Stresses that to the east, Russia’s war against Ukraine is still ongoing, the Minsk agreements – without which there can be no solution to the conflict – have not been implemented and the illegal annexation and militarisation of Crimea, and the imposition of anti-access and area denial systems, continue; is deeply concerned that Russia's excessive exercises and military activities without international fake news and observation, hybrid disinformation campaigns, economic and energy blackmail are destabilising the Eastern Partnership countries and the Western Balkans, as well as are being targeted at Western democracies and increasing tensions within them; is concerned that the security environment surrounding the EU will remain highly volatile for years to come; reiterates the strategic importance of the Western Balkans for the security and stability of the EU and the need to focus and strengthen the EU's political engagement towards the region, including by strengthening the mandate of our Common Security and Defence Policy (CSDP) missions; is firmly convinced that in order to overcome the EU's vulnerability there is a need for more integration as well as coordination;
5. Deplores the terrorist threat that is quickly expanding both within Europe and beyond its borders; considers that an incomplete answer on the military level will inevitably lead to ever-growing internal security threats; urgently calls for an European anti-jihadist pact that can tackle these threats in an effective manner;
6. Believes that terrorism represents today one of the key challenges to the security of EU citizens, requiring swift, firm and coordinated action, both at internal and external level, in order to prevent further terrorist attacks and to fight its root causes; points out, in particular, the need to prevent radicalisation, to block any source of financial resources to terrorist organisations, to tackle terrorist propaganda and block the use of the internet and social networks for this purpose, including through an automated removal service, and to improve intelligence sharing between Member States, as well as with third countries, NATO and other relevant partner organisations; believes that the mandate of our CSDP missions should include the fight against terrorism in order to contribute more consequently to deradicalisation programmes, notably EULEX in Kosovo and EUFOR ALTHEA in Bosnia Herzegovina, countries that are confronted with an important number of fighters returning from abroad;
7. Is deeply concerned about the increasingly deadly terrorist threat in the Sahel belt as well as its extension to Central Africa, and the instability in the East (Syria, Iraq, Palestine); calls on the VP/HR to ensure that an executive mandate is granted to the CSDP missions and to intervene in a decisive and determined manner;
8. Believes that, under the current EU enlargement policy, a credible accession process grounded on extensive and fair conditionality remains an important tool for promoting security by enhancing the resilience of countries in the south-eastern Europe;
9. Believes that in a challenging security environment, and at a moment when the EU and NATO are endeavouring to broaden and deepen their cooperation, through
183
Brexit the EU will lose part of its military capability and will possibly no longer be able to benefit from the UK’s expertise, and vice versa; notes that Brexit gives new momentum to initiatives that have long been blocked, and could open the door to new proposals; stresses the importance of continuing close defence cooperation between the EU and the post-Brexit UK, including in, but not limited to, the areas of intelligence sharing and counterterrorism; considers that, if it so requests, the UK should also be able to participate in CSDP missions as part of a new EU-UK defence cooperation relationship;
10. Welcomes the renewed US commitment to European security; stresses that the EU stands firmly committed to the transatlantic community of common values and interests; is at the same time convinced that an accountable and self-confident CFSP is needed and that, in this context, the EU must become a self-assured foreign-policy actor;
184
Institutional framework
11. Believes strongly that, whenever necessary, the EU should take decisive action to determine its future, as internal and external security are becoming increasingly intertwined, and as this has a direct impact on all European citizens; warns that the lack of a common approach could lead to uncoordinated and fragmented action, allows multiple duplications and inefficiency and, as a result, would make the Union and its Member States vulnerable; is therefore of the opinion that the EU should be able to act effectively along the entire spectrum of internal-external security instruments, up to the level of Article 42(7) TEU; stresses that the framing of a common Union defence policy referred to in Article 42(2) TEU has the objective of establishing a common defence and endowing the Union with strategic autonomy to enable it to promote peace and security in Europe and in the world; emphasises the practical and financial benefits of further integrating European defence capabilities;
12. Underlines that the EU needs to apply the entire tool-box of available policy instruments – from soft to hard power and from short-term measures to long-term policies in the area of classical foreign policy, encompassing not only bilateral and multilateral efforts in diplomacy, development cooperation, civilian and economic instruments, emergency support, crisis prevention and post-conflict strategies, but also peacekeeping and peace-enforcing, also in line with the civilian and military means described in Article 43(1) TEU – in order to cope with the rising challenges; believes that the CSDP should be built on the principle that European security cannot be guaranteed by relying merely on military assets; considers that EU foreign actions should include an assessment of their impact on EU’s people- centred strategic interests of enhancing human security and human rights, strengthening international law and promoting sustainable peace; underlines the need for the EEAS to step up its capacities to better anticipate crises and counter security challenges at the point of their inception; stresses the need for a more coherent and better coordinated interaction between military, civilian, development and humanitarian actors;
13. Welcomes the visible progress made in framing a stronger European defence stance since the adoption of the EU Global Strategy on Foreign and Security Policy
(EUGS) in June 2016; welcomes, in particular, the launching of a European Defence Fund (EDF), the proposed scaling-up of the Preparatory Action on Defence Research and the legislative proposal for a European Defence Industrial Development Programme (EDIDP); calls on the Member States to increase their future financial contributions to the EU budget in order to cover all additional costs incurred by the EU in connection with the EDF;
14. Welcomes EFTA’s adhesion to the preparatory action on defence research, and welcomes in particular the Norwegian contribution of EUR 585 000 for 2017; expresses its wish that Norway may continue to participate in Union-funded programmes that have defence implications or are in the defence remit;
15. Calls on the Commission and the VP/HR, to keep Parliament immediately and fully informed at all stages about any conclusion of, or amendment to, international agreements that have defence implications or are in the defence remit; considers that any third-country financial contribution has important budgetary implications for the Union, as a third country could affect the Union's financial interests in a manner well beyond the size of its contribution by withholding necessary export licenses; stresses that where third parties contribute to Union-funded programmes that have defence implications or are in the defence remit, Parliament expects the Commission and the VP/HR to assess the impact of such participation as regards the Unions' strategic policies and interests before making a proposal, and to inform Parliament about this assessment;
16. Highlights the facts that the Commission and an increasing number of Member States have committed themselves to launching the European Defence Union (EDU) and that there is a strong support for this among European citizens; stresses that this corresponds to a demand from EU citizens and from Parliament, notably through numerous appeals expressed in its previous resolutions; highlights the greater efficiency, and the elimination of duplication and reduction of costs, that will result from stronger European defence integration; stresses, however, that the launch of a real EDU requires continued political will and determination; urges the Member States to commit themselves to a common and autonomous European defence, and to aim to ensure that their national defence budgets amount to at least 2 % of their respective GDPs within a decade;
17. Is convinced that the only way to increase the Union’s ability to fulfil its military tasks is to significantly increase efficiency with regard to all aspects of the process which generates military capabilities; recalls that, compared to the US the EU-28 spend 40 % on defence but only manage to generate 15 % of the capabilities that the US gets out of the process, which points to a very serious efficiency problem;
18. Calls on the VP/HR and the Commission to act on Parliament’s calls for an EU Security and Defence White Book in the context of preparing the next Multiannual Financial Framework (MFF), as requested in Parliament’s resolutions of 22 November 2016, 23 November 2016 and 16 March 2017; considers that building the EDU, linking its strategic orientation with EU contributions to capability development and shaping the European institutional framework for defence, are elements that need to be underpinned by an interinstitutional agreement; stresses that with a comprehensive and trustworthy effort on the part of all stakeholders it is
185
possible to increase the scope and efficiency of defence spending; calls for a powerful role in this process to be defined for neutral countries such as Austria and Sweden, without calling into question the neutrality of individual Member States;
19. Stresses that, in addition to a description of the strategic environment and the strategic ambitions, the EU Security and Defence White Book should identify, for the next MFF, the required and available capabilities, as well as any capability shortfalls, in the form of the EU Capability Development Plan (CDP), and should be complemented by a broad outline of the intended Member State and Union actions under the MFF and in the longer term;
20. Welcomes the newly demonstrated political will to make CSDP more effective; supports any attempt to unleash the full potential of the Lisbon Treaty by making cooperation between Member Stakes work, and to make the operationally relevant capabilities for fulfilling Article 43(1) TEU tasks available, by: (a) urgently installing the start-up fund as foreseen by the Treaty in order to allow fast deployment of operations; (b) establishing permanent structured cooperation (PESCO) on those military aspects that are necessary to implement CSDP tasks such as permanently pooled military units; (c) reforming the intergovernmental joint financing mechanism Athena in order to operationalise solidarity between those Member States that can only contribute financially and those that can only contribute with troops to a CSDP operation; (d) making pooling and sharing of capabilities the rule and not the exception, and moving towards the implementation of a majority of the 300 proposals presented by the 28 Chiefs of Defence in 2011; (e) pooling national resources with regard to research, development, procurement, maintenance and training; (f) coordinating national defence planning (Coordinated Annual Review on Defence, CARD) as currently planned; (g) initiating common rules for military certification and a common policy on security of supply; (h) enforcing, on the part of the Commision, internal market rules in line with the 2009 Defence Procurement Directive with regard to national defence procurement projects;
21. Welcomes the Commission’s intention to propose a specific programme for defence research, with a dedicated budget and own rules, under the next MFF; stresses that Member States should make additional resources available to that programme, without interfering with existing framework programmes funding research, technological development and innovation, as requested in Parliament’s resolution of 5 July 2017; renews its previous calls on the Commission to provide for Union participation in defence research and development programmes undertaken by Member States, or jointly with industry where appropriate, as referred to in Articles 185 and 187 TFEU;
22. Welcomes the Commission’s proposal for a EDIDP; underlines that any Union action to support, coordinate or supplement the actions of the Member States in the defence remit should have the objective of contributing to the progressive framing of a common defence policy, as referred to, inter alia, in Article 2(4) TFEU, and therefore of covering common development, standardisation, certification and maintenance, leading to cooperative programmes and a higher degree of interoperability; calls on the Commission to promote the new EDIDP as widely as
186
possible, and, in particular, to encourage SMEs to participate in joint, cross-border projects;
23. Considers that exports by Member States of weapons, ammunitions and defence-related goods and services form an integral part of EU foreign, security and defence policy;
24. Urges the Council to take concrete steps towards the harmonisation and standardisation of the European armed forces, in accordance with Article 42(2) TEU, in order to facilitate the cooperation of armed forces personnel under the umbrella of a new EDU, as a step towards the progressive framing of a common EU defence policy;
25. Stresses that the use of all possibilities provided for in the Treaty would improve the competitiveness and functioning of the defence industry within the single market by further stimulating defence cooperation through positive incentives, targeting projects that Member States are not able to undertake, reducing unnecessary duplication and promoting a more efficient use of public money; is of the opinion that the outputs of such strategic cooperative programmes have great potential as dual-use technologies and, as such, bring extra added value to Member States; emphasises the importance of developing European capabilities and an integrated defence market;
26. Calls for the establishment of precise and binding guidelines to provide a well- defined framework for future activation and implementation of Article 42(7) TEU;
27. Calls on the Commission, the Council and the VP/HR to engage, together with Parliament, in an interinstitutional dialogue on the progressive framing of a common defence policy; stresses that, under the next MFF, a fully-fledged EU defence budget should be established for all the internal aspects of CSDP and that a doctrine for its implementation should be developed within the remit of the Lisbon Treaty; underlines the need for a revision of the Athena mechanism in order to widen the range of operations considered as a common cost and incentivise participation in CSDP missions and operations;
28. Points out that this new defence budget will have to be financed through new
resources in the next MFF;
29. Believes that decision-making on CSDP issues could be more democratic and transparent; proposes, therefore, to turn its Subcommittee on Security and Defence (SEDE) into a fully fledged parliamentary committee, enabling it to gain greater powers of scrutiny and accountability over the CSDP and to play a prominent role in its implementation, in particular by scrutinising legal acts pertaining to security and defence;
in Europe; believes
30. Regrets the lack of cooperation and information-sharing among security and intelligence services that more cooperation between intelligence services could help counter terrorism; calls, in this regard, for the establishment of a fully fledged European intelligence system;
187
Permanent Structured Cooperation
31. Welcomes the Notification on Permanent Structured Cooperation (PESCO) and its foreseen activation based on the willingness of Member States to make binding
commitments within the CSDP framework, thereby implementing an ambitious and inclusive PESCO, and calls for its swift establishment by the Council; underlines that the desired inclusiveness of participation must not compromise either full commitment to the CSDP or a high level of ambition among participating Member States; points to the necessity to set clear participation criteria, leaving other Member States the option to join at a later stage; believes that activities within PESCO should always be in full alignment with CSDP;
32. Stresses that PESCO should develop within the EU framework and that it should benefit from effective Union support, in full respect of Member States’ competences in defence; renews its call for appropriate PESCO funding to be provided from the Union budget; considers that participation in all Union agencies and bodies falling under the CSDP, including the European Security and Defence College (ESDC), should be made a requirement under PESCO; renews its call for the EU Battlegroup System to be considered as a common cost under the revised Athena mechanism;
33. Stresses that it is necessary to ease the administrative procedures that are unnecessarily slowing down the generation of forces for CSDP missions and the cross-border movement of rapid response forces inside the EU; calls on the Member States to establish an EU-wide system for the coordination of rapid movement of defence force personnel, equipment and supplies for the purposes of CSDP, where the solidarity clause is invoked and where all Member States have an obligation to provide aid and assistance by all the means in their power, in accordance with Article 51 of the UN Charter; welcomes, in this regard, the joint communication on improving military mobility; calls on the Commission to present a substantial action plan to Parliament and the Member States by March 2018 that is fully coherent with ongoing efforts within NATO;
34. Demands the establishment of a fully fledged EU civilian-military strategic headquarters under PESCO – to be composed of the existing Military Planning and Conduct Capability (MPCC), the Civilian Planning and Conduct Capability (CPCC), and the Crisis Management and Planning Directorate (CMPD) – providing a platform for integrated operational support throughout the entire planning cycle, from the initial political concept to detailed plans;
35. Encourages the Member States participating in PESCO to set up a permanent 'European Integrated Force', composed of divisions of their national armies, and to make it available to the Union for the implementation of the CSDP as foreseen by Article 42(3) TEU;
36. Considers that a common cyber defence policy should be one of the first building blocks of the European Defence Union; encourages the VP/HR to develop proposals for establishing, within the framework of PESCO, an EU cyber defence unit;
…
188
CSDP missions and operations
Thanks the more than six thousand women and men who have given good and loyal service in the Union’s civilian and military missions on three continents; values these
missions as Europe’s common contribution to peace and stability in the world; regrets, however, that the efficiency of these missions can still be jeopardised by structural weaknesses, uneven contributions from Member States and unsuitability to the operational environment, deploring in particular the limitations in the CSDP missions mandate; stresses, in this context, the need for real effectiveness that can only be achieved with the provision of proper military equipment, and urges the Council and the VP/HR to make use of the possibilities provided for in Article 41.2 TEU to this end; welcomes the increase in Member States’ defence spending in support of our service members; takes the view that this trend needs to be sustained, strengthened and coordinated at EU level; calls for effective measures to be taken to ensure that lessons learned and experience gained as regards the human dimension of CSDP missions are assessed and taken into account when future CSDP missions are designed;
46. Welcomes the presentation of the first annual report on the CSDP by the VP/HR; believes, however, that this report should not be of quantitative nature only, describing achievements with statistical data and detailed information, but also focus in the future on evaluating the political impact of CSDP activities in improving the security of our citizens;
47. Calls on the VP/HR, the Commission and Member States to orient CSDP missions and operations more toward the priorities of the EU Global Strategy as well as the local and regional realities;
48. Believes in the need to contribute further to crisis management and prevention and, specifically, to provide assistance to the reconstruction and stabilisation of Iraq; welcomes the recent decision by the Council to launch a new civilian CSDP mission in support of security sector reform in Iraq, and expects that the EU takes over the international lead in this area, including in counter-terrorism and civilian reconstruction; calls on the EU to ensure that this time there will be better coordination among participating Member States, and with regional as well as local actors;
49. Welcomes the activities of EU NAVFOR Med and asks the VP/HR and the Member States to increase the support for local security actors on the southern shore of the Mediterranean;
50. Expects from the VP/HR and the Council that EUBAM Libya will be relaunched at the occasion of the renewal of the mandate reaching out to local security actors on Libya's southern borders; calls on the VP/HR and the Member States to come up with fresh ideas on how to tackle the security concerns in the Sahel zone by linking it to EUBAM Libya within its comprehensive and integrated approach and in support of the German- French initiative; welcomes the Council decision of 4 August 2017 on a European Union stabilisation action for Mali in the Mopti and Segou regions; calls, in this regard, on the VP/HR to inform Parliament how this measure interacts with CSDP missions and operations in the region;
51. Welcomes the success of Operation EUFOR ALTHEA in Bosnia and Herzegovina in achieving a military end state; is, however, concerned that the political end state has not yet been achieved;
52. Welcomes the recent establishment of a nucleus for a permanent EU operational headquarters, the Military Planning and Conduct Capability (MPCC), as demanded
189
by Parliament in its resolution of 12 September 2013, as it is a precondition for effective planning, command and control of common operations; calls on the Member States to staff it with adequate personnel so that it becomes fully functional, and to task it to plan and command executive military CSDP operations such as EUFOR ALTHEA;
53. Considers that, as a consequence of the UK’s announcement of withdrawal from the Union, the command option of EU NAVFOR Somalia / Operation Atalanta needs to be reviewed; stresses the success of the operation, thanks to which not a single vessel has been boarded by pirates since 2014; welcomes the extension of the operation until 2018;
54. Notes that only 75 % of the positions in civilian CSDP missions are filled; regrets, in this regard, that the EU staff regulations, which would provide better conditions and protection to mission staff, do not apply to personnel employed by the missions even though they are funded from the Union budget; is convinced that this impedes the effectiveness of the missions; urges the Member States to ensure that all vacant posts in all missions are swiftly filled;
55. Welcomes the adoption of the EU Policy on Training for CSDP and the important role the European Security and Defence College (ESDC) plays as central training institution embedded within the CSDP structures; calls on the Member States to provide adequate financial, personnel and infrastructural resources for the ESDC;
56. Regrets that Member States are failing to deploy in a swift manner the staff necessary for the preparatory and set-up stages of civilian CSDP missions; welcomes, in this context, the proposal developed jointly by the EEAS and Commission services for a multi-layered approach in order to speed up the deployment of civilian CSDP missions;
57. Encourages further efforts to speed up the provision of financing for civilian and to simplify decision-making procedures and civilmilitary missions and implementation; believes, in this context, that the Commission should introduce, by delegated acts in accordance with Article 210 of the Financial Regulation, specific procurement rules to the crisis management measures under the CSDP in order to facilitate the rapid and flexible conduct of operations;
58. Welcomes the establishment of the Mission Support Platform (MSP) in 2016; regrets the limited size and scope of the MSP, and reiterates its call for further progress towards a shared services centre that would allow further efficiency gains by providing a central coordination point for all mission support services;
59. Urges the EEAS and the Council to step up their ongoing efforts to improve cyber security, in particular for CSDP missions, inter alia by taking measures at EU and Member State levels to mitigate threats to the CSDP, for instance by building up resilience through education, training and exercises, and by streamlining the EU cyberdefence education and training landscape;
190
60. Believes that the EU and its Member States face an unprecedented threat in the form of state-sponsored cyber attacks as well as cyber crime and terrorism; believes that the nature of cyber attacks makes them a threat that needs an EU-level response; encourages the Member States to provide mutual assistance in the event of a cyber attack against any one of them;
61. Calls on the Member States to apply full burden sharing to military CSDP missions by progressive enlargement of common funding toward full common funding, which should enable and encourage more Member States to contribute their capabilities and forces, or just funds; underlines the importance of reviewing the Athena mechanism in this regard and of covering all costs related to the financing of military CSDP operations;
191
62. Urges the Council to act in accordance with Article 41(3) TEU and to adopt without delay the decision of establishing a start-up fund for the urgent financing of the initial phases of military operations for the tasks referred to in Article 42(1) and Article 43 TEU; urges the Council to resolve current problems with financing hybrid missions; calls for more flexibility in the EU's financial rules in order to support its ability to respond to crises and for the implementation of existing Lisbon Treaty provisions;
EU-NATO cooperation
Believes that, in the current context, the strategic partnership between the EU and NATO is fundamental to addressing the security challenges facing the Union and its neighbourhood; considers that the EU-NATO Joint Declaration and the subsequent implementation actions have the potential to move cooperation and complementarity to a higher level and to mark a new and substantive phase of the strategic partnership; welcomes the common set of 42 proposals, of which as many as 10 seek to increase resilience against hybrid threats, aimed at strengthening both cooperation and coordination between the two organisations; notes that this work will be taken forward in the spirit of full openness and transparency, in full respect of the decision-making autonomy and procedures of both organisations, and will be based on the principles of inclusiveness and reciprocity without prejudice to the specific character of the security and defence policy of any Member State; praises the cooperation being undertaken in combating cyber threats, developing strategic communications and coordinating maritime activities and joint exercises, and points to the excellent cooperation and complementarity of the EU's Operation Sophia and NATO's Operation Sea Guardian; welcomes as well the publication in June 2017 of the two organisations’ first joint implementation report and the progress made in implementing the common set of proposals, and calls for continued progress; stresses the EU’s full commitment to the transatlantic community of common values and interests;
63. Notes that a stronger EU and a stronger NATO are mutually reinforcing; considers that Member States need to increase their efforts to act both within an EDU and as autonomous regional security providers, and in a complementary role within NATO, where appropriate; notes that, as set out in EUGS, the EU must contribute to: (a) responding to external conflicts and crises; (b) building the capabilities of partners; and (c) protecting the Union and its citizens; welcomes the set of initiatives that are underway to implement EUGS in the field of security and
defence, to develop stronger relations between the EU and NATO, and to enable EU Member States to engage in defence research and develop defence capabilities together; is of the opinion that the security and protection of Europe will increasingly depend on both organisations acting within their remits; calls for efforts to improve cooperation in countering hybrid threats, including through the European Centre of Excellence for Countering Hybrid Threats, and in the exchange of information and intelligence;
64. Stresses the importance of cooperation and integration in cyber security, not only between Member States, key partners and NATO, but also between different actors within society;
192
CSDP partnerships
67. Stresses that partnerships and cooperation with countries that share EU’s values contribute to the effectiveness and the impact of the CSDP; welcomes, in this regard, the contributions of Albania, Australia, Canada, Chile, Colombia, Georgia, the former Yugoslav Republic of Macedonia, Moldova, Montenegro, New Zeeland, Norway, Serbia, Switzerland, Turkey, Ukraine and the United States;
68. Welcomes the signature of the EU-US Acquisition and Cross-Servicing Agreement (ACSA) of 7 December 2016; calls on the VP/HR to inform Parliament about how this agreement has improved the conditions for, and protection of, CSDP mission staff;
69. Invites the VP/HR and the Member States to establish EU military attachés in EU delegations contributing to the implementation of the strategic objectives of the Union;
70. Welcomes the proposal of the Commission to review the Instrument contributing to Stability and Peace (IcSP) in order to support actions carried out under the Capacity Building in Support of Security and Development (CBSD) initiative, which will enable the EU to fund capacity building and resilience and help strengthen the capabilities of partner countries; encourages the EEAS and the Commission to implement the CBSD initiative without delay, to improve the effectiveness and sustainability of CSDP missions and to provide a more flexible and integrated EU approach that takes advantage of civil-military synergies;
71. Instructs its President to forward this resolution to the European Council, the Council, the Commission, the Vice-President of the Commission / High Representative of the Union for Foreign Affairs and Security Policy, the Secretary- General of the United Nations, the Secretary-General of NATO, the EU agencies in the space, security and defence fields, and the governments and national parliaments of the Member States./.
193
PHỤ LỤC 9
KẾ HOẠCH HÀNH ĐỘNG QUỐC PHÒNG CHÂU ÂU
(EUROPEAN DEFENCE ACTION PLAN)
(Bản tóm lược) Nguồn: European Commission, http://ec.europa.eu/DocsRoom/documents/20372
Brussels, 30.11.2016 COM (2016) 950 final
1. Introduction
…
The Commission has already developed strategies to support the competitiveness of the European defence industry and the creation of a more integrated defence market in Europe. The adoption, in 2009, of two defence Directives19 contributed to the progressive establishment of a European defence market. In 2013, a toolbox of market opening and industry support measures was proposed: the Commission identified a list of actions20 to further strengthen the single market for defence and promote a more competitive defence industry.
For the first time, the Commission is now tabling a European Defence Action Plan which focuses on capability needs and supports the European defence industry. This Action Plan has three main pillars that address different but complementary needs along the capability development cycle, focusing on technologies and products: Launching a European Defence Fund; Fostering investments in defence supply chains; and Reinforcing the single market for defence.
Furthermore, the Commission will promote civil / military synergies within EU policies, wherever appropriate.
In many of the areas concerned, the initiatives announced in this Action Plan will benefit from the work of the European Defence Agency (EDA), notably on the Capability Development Plan1, R&T priorities and the Key Strategic Activities2.
2. Launching a European Defence Fund
In his State of the Union speech of 14 September 2016, President Juncker called for the creation of European Defence Fund. This Fund would consist of two distinct financing structures ('windows'), which are complementary and would be phased in over time:
(i) A "research window" to fund collaborative defence research projects at the EU level. This would be developed through the launch of a Preparatory Action and should result in a dedicated EU programme in the post-2020 EU multiannual financial framework.3
194
(ii) A "capability window" to support the joint development of defence capabilities24 commonly agreed by Member States. This would be financed through the pooling of national contributions and, where possible, supported by the EU budget.
The "research window" and the "capability window" will be complementary but distinct in their legal nature and sources of financing.
The "windows" will be complemented by a coordinating mechanism in the form of a Coordination Board, bringing together the Commission, the High Representative, the Member States, the European Defence Agency, as well as industry as appropriate.
The primary task of the Coordination Board will be to ensure consistency between the research and the capability "windows" to better support the development of capabilities agreed by the Member States. These capabilities are identified according to separate processes, including those of the European Defence Agency and the Member Statesdriven Coordinated Annual Review on Defence to be proposed by the High Representative in line with Council Conclusions.
…
3. Fostering investments in defence supply chains
The European Defence Fund will be a crucial step to support the competitiveness of the European defence industry. Additional actions are however necessary to allow the defence industrial base to remain innovative and competitive and, ultimately, be able to deliver Europe's capability needs. Particular attention must also be given to promote access to finance to SMEs and to non-traditional suppliers and foster investments in the defence supply chains.
195
Access to finance for SMEs and investments in the defence sector
…
for Strategic
the Programme
Investment4
(EFSI) or
for
Within the limitations of the Treaties, and the decision making bodies of the European Investment Bank (EIB), the EIB group can provide loans, guarantees and equity products for the expansion of current dual-use activities, which would unlock new opportunities for certain parts of defence supply chain, notably for SMEs and mid-caps. This could also have positive spill-over effects to national financial intermediaries and development banks. A number of EU financial instruments which are based on EIB lending, for example the European Fund the Competitiveness of Enterprises and small and medium-sized enterprises (COSME) could help in dual-use defence-related activities. EFSI could guarantee EIB or EIF financing and investment operations supporting the objectives listed in the EFSI Regulation, including for projects related to the defence sector.
Adapting further the lending criteria within the EIB Group for the defence sector, within the limitations of the Treaties and subject to the necessary decisions by the relevant EIB bodies, would benefit Member States, whose defence industry is mainly made of SMEs.
The Commission will support, within the decision-making bodies of the EIB, the adaptation of the EIB lending criteria to the defence sector within the limits of the Treaties. The Commission invites the Member States to support this process.
Strengthening the support of EU funds to investment in defence
European Structural and Investment Funds (ESIF) may be used by Member States in the defence sector as long as they contribute to the objectives of the fund in question to (i) co- fund productive investment projects, and (ii) support the modernisation of the defence supply chains. Defence industries can contribute to the goals and the objectives set in the ESIF, such as promoting the development of regional economics, representing a high investment multiplier on skills, jobs, technological and economic development.
…
The Commission will promote co-financing through the European Structural and Investment Funds of productive investment projects and modernisation of the defence supply chains in the defence sector, provided that the investment strengthens economic, social and territorial cohesion. The Commission will, in coordination with Member States, further promote such funding opportunities.
Encouraging the development of regional clusters of excellence
Regional clusters specialising in industrial niches (also known as “clusters of excellence”) allow large firms, SMEs and research centres to work in close geographic proximity in order to increase R&D collaboration and specialise in a specific technology area (e.g. aircraft engines). While the decision to prioritise regional clusters rests in the hands of local and regional government actors, EU financing (including through EIB) could lead to successful technology demonstrator projects and the development of industrial and scientific partnerships between firms and research centres5 .
Furthermore, the Commission has launched the European Network of Defence-related Regions6 to support EU regions with important relevant industrial and research assets and to share best practices on integration defence-related priorities into their smart specialisation strategies. The Commission will encourage Member States to promote regional clusters of excellence, benefitting the defence sector.
196
Supporting skills in defence
…
Defence will be a priority sector under the Blueprint initiative of the New Skills Agenda for Europe46. Moreover, the Commission will also support the setting-up of an industryled European Defence Skills Alliance to deliver a sectoral skills strategy. The Alliance will contribute to the development and implementation of scalable and sustainable solutions for new jobs and skills needs. This will be done by making use of the COSME47 and Erasmus+7 instruments to run pilot projects. The Commission will consider further measures to improve the knowledge and innovation base on dual use.
Under the 'Blueprint for Sectoral Co-operation on Skills' the Commission will, as of 2017, support strategic cooperation between the key stakeholders in the Defence Sector.
4. Strengthening the single market for defence
Opening up financial support to investments in the defence sector cannot deliver sustainable results without an efficient defence industry operating in a genuine and innovation-enhancing Single Market. Increased financing opportunities will not deliver in a meaningful way if they are used ineffectively.
More competition, and a greater openness of the defence market in Europe, should help suppliers to achieve economies of scale, optimise production capacity and lower unit production costs, thus making European products more competitive on the global market. Competition should take place both at the level of prime contractors and suppliers.
Towards an open and competitive European defence equipment market
The Commission will focus on the effective implementation of the two defence Directives, including through enforcement. Starting with the adoption of the Action Plan, it will clarify the interpretation of specific provisions of the defence procurement Directive through the adoption of guidance notices in 2017-18 and adopt recommendations for a harmonised functioning of General Transfer Licences in the first quarter of 2018.
Strengthening security of supply
Security of supply is also a cornerstone to the establishment of a genuine single market for defence and is key to future cooperative programmes. Member States need to be confident that cross-border deliveries will not be disrupted. Strengthening security of supply at EU level implies enhancing mutual trust among Member States.
Certain measures, such as contract performance conditions, can help strengthen mutual trust among Member States regarding transfers of defence-related products. The Commission will therefore issue guidance on measures that Member States can take under EU public procurement law to reinforce security of supply.
The Commission supports the initiative of Member States, through the EDA, for a political commitment to facilitate transfers of defence-related and to provide mutual assistance in times of crisis. The Commission takes note of Member States’ unwillingness to go beyond such a political commitment at this stage and agree on an EU-wide regime on Security of Supply. The Commission will, within the framework of the EU Raw Materials Strategy8 , identify bottlenecks and supply risks linked to the materials that are necessary for the development of key capabilities building on the findings of a recent study9 10. Future EU research programmes could also be used to mitigate supply risks, including substitution of critical raw materials, building on the work in the area of Key Enabling Technologies (KETs). Finally, the Commission's Circular Economy11 principles, i.e. new technological solutions and business models with more sustainable production, consumption and waste management, should also be applied to the defence sector, in which resource efficiency and security of supplies are increasingly important. In addition, there are potentially major savings through greater use of energy efficiency measures and of renewable energy in the EU armed forces, which are major consumer of energy.
197
Improve cross-border market access for SMEs in the defence sector
Fostering cross-border market access, and the opening of supply chains, is crucial for an efficient and effective European Defence Equipment Market, while ensuring respect of contractor's commercial freedom. In particular, as regards sub-suppliers, which are often SMEs, there is a need to ensure a fair chance to access defence supply chains, regardless of their location within the Single Market.
their supply chains14. The Commission’s
There are no “miracle solutions” to this complex issue, but gradual progress is needed. Based on the report of the ad hoc expert group with Member States and the industry12, the Commission will make recommendations to encourage procurement authorities to facilitate cross-border and SMEs participation in defence procurement procedures13 and prime contractors to give opportunities to sub-suppliers and SMEs from all Member States to recommendations should be access complemented by voluntary instruments, signed by relevant parties, including prime contractors and business associations.
The Commission will adopt recommendations, by the end of 2017, encouraging procurement authorities to facilitate cross-border and SME participation in defence procurement procedures and facilitate their access to defence supply chains.
Standardisation and conformity assessment
Certification and standardisation are critical enablers for cooperation as they reinforce interoperability and lead to cost savings. The EDA already supports Member States to develop a common approach to airworthiness certification through the European Military Airworthiness Requirements (EMARs) initiative.
implementing
research.
The Commission has developed the concept of "hybrid standards" for dual-use15 products to support security-related the Communication on In cybersecurity16, the Commission, in cooperation with Member States and industry, is developing a European certification framework17 and explores a voluntary labelling framework for the security of ICT products. In view of the synergies between the civil and military sectors, the defence sector could benefit from these developments.
A new mechanism to monitor and initiate the development of defence and hybrid standards was agreed between the Commission, EDA and Member States. One option being explored is the possible development of European standards through the processes established by the European Standardisation Organisations18.
198
5. Maximising civil/military synergies across EU policies
…
The Commission, in cooperation with the High Representative, EDA and the European Space Agency, is preparing an initiative to ensure reliable, secured and cost-effective satellite communications services for EU and national authorities managing security critical missions and infrastructures by the end of 2017.
… In line with the objectives of the EU Maritime Security Strategy19, dual use capability solutions can ensure that both military and civilian authorities could benefit from relevant technologies, products and services. Such solutions developed by the defence industry could be effective in addressing security-related fields, such as maritime surveillance, risk management and protection of critical infrastructures.
By 2018, the Commission will, in cooperation with the High Representative, EDA and Member States, develop specific actions to support a co-ordinated civil military maritime security research agenda and interoperable maritime surveillance capabilities.
6. Conclusions
…
Within this context, the European Union can complement national efforts and become an important security provider in its own right. The High Representative's Implementation Plan on Security and Defence71 and the related Conclusions adopted by the Council, as well as this Action Plan, support the development of key capabilities necessary for the security of the Union and its citizens. The Implementation of the EU-NATO Joint Declaration will further contribute to ensuring complementarity with NATO.
The Commission will, in close cooperation with Member States and the High Representative, including in her capacity as head of EDA, set up an Implementation Steering Group, meeting on a regular basis, to monitor and facilitate progress in the Actions. A first meeting will take place in the first quarter of 2017. It will also establish a consultation forum with the European defence industry to best align the supply and the demand sides.
…
However, the adoption of this Communication by the Commission is only a first step. A strong support from the Member States and EU Institutions will be required to realise the full potential of the European Defence Action Plan. The Commission will launch the implementation of the ambitious set of actions set out in this document. On basis of further discussions with other EU institutions, the Commission also stands ready to facilitate the implementation of the European Defence Fund… ./.
1 See EDA at: https://www.eda.europa.eu/what-we-do/eda-priorities/capability-development-plan 2 i.e. technologies, skills, industrial manufacturing capacities 3 The relationship with the multiannual research framework programme foreseen in Article 182 TFEU will be determined as part of the new multiannual financial framework. 4 Regulation (EU) 2015/1017 of the European Parliament and of the Council of 25 June 2015 on the European Fund for Strategic Investments, the European Investment Advisory Hub and the European Investment Project Portal and amending Regulations (EU) no 1291/2 5 Special focus could be given to priority areas, such as maritime security, cyber-security, Remotely Piloted Aircraft Systems and satellite communications. 6 EDNR, www.endr.eu 7 Regulation (EU) No 1288/2013 of the European Parliament and of the Council of 11 December 2013 establishing 'Erasmus+': the Union programme for education, training, youth and sport, OJ L 347, 20.12.2013, p. 50. 8 Communication from the Commission to the European Parliament, the Council, the European Economic and Social Committee and the Committee of the Regions making raw materials available for Europe's future well-being -proposal for a European innovation partnership on raw materials, COM/2012/082 final. 9 Pavel, C. and Tzimas, E., Raw materials in the European defence industry. Luxembourg, European Commission, Joint Research Centre (JRC), 2016. 10 E.g. beryllium is used in missiles, fighter jets, helicopters and satellites (because it is six times lighter and stronger than steel). 11 Communication from the Commission to the European Parliament, the Council, the European Economic and Social Committee and the Committee of the Regions: Closing the loop - An EU action plan for the Circular Economy, COM/2015/0614. 12 European Commission Advisory group on cross-border access for SMEs to defence and security contracts, Final report and recommendations. 13 E.g. providing early information about long-term plans and priorities, using pre-procurement advertising, designing public procurement procedures to facilitate cross-border and SMEs participation. 14 E.g. transparent strategic long-term plans, pre-procurement and subcontracting advertising, EU-wide market searches and scouting to identify potential suppliers across different Member States, being transparent about the cross-border elements of their supply chains. 15 Security Industrial Policy - Action Plan for an innovative and competitive Security Industry COM(2012) 417, July 2012. 16 Communication from the Commission to the European Parliament, the Council, the European Economic and Social Committee and the Committee of the Regions: Strengthening Europe's Cyber Resilience System and Fostering a Competitive and Innovative Cybersecurity, 5.7.2016, COM(2016)410 final. 17 In line with the Joint Communication to the European Parliament, the Council, the European Economic and Social Committee and the Committee of the Regions: Cybersecurity Strategy of the European Union: An Open, Safe and Secure Cyberspace, 7.2.2013, JOIN(2013)1. 18 Regulation (EU) No 1025/2012 of the European Parliament and of the Council of 25 October 2012 on European standardisation (OJ L 316, 14.11.2012, p. 1). 19 Joint Communication to the European Parliament and the Council For an open and secure global maritime domain: elements for a European Union maritime security strategy, 6.3.2014 JOIN/2014/09.
199