BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NGOẠI GIAO

HỌC VIỆN NGOẠI GIAO

------------------

MẠC NHƯ QUỲNH

MẠC NHƯ QUỲNH

HỘI NHẬP KHU VỰC Ở CHÂU ÂU:

TRƯỜNG HỢP NGHIÊN CỨU CHÍNH SÁCH

ĐỐI NGOẠI VÀ AN NINH CHUNG CHÂU ÂU

LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH QUAN HỆ QUỐC TẾ

MÃ SỐ: 9 31 02 06

Hà Nội, năm 2018

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NGOẠI GIAO

HỌC VIỆN NGOẠI GIAO

------------------

MẠC NHƯ QUỲNH

ẠC NHƯ QUỲNH

HỘI NHẬP KHU VỰC Ở CHÂU ÂU:

TRƯỜNG HỢP NGHIÊN CỨU CHÍNH SÁCH

ĐỐI NGOẠI VÀ AN NINH CHUNG CHÂU ÂU

Chuyên ngành: Quan hệ Quốc tế

Mã số: 9 31 02 06

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

1. PGS. TS. Tạ Minh Tuấn

2. TS. Đỗ Thị Thanh Bình

2. TS. Đỗ Thị Thanh Bình

Hà Nội, năm 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan luận án này là công trình nghiên cứu của tôi. Các kết quả

và thông tin nêu trong luận án là trung thực. Những kết quả nghiên cứu của

luận án chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Hà Nội, ngày tháng năm 2018

Tác giả luận án

Mạc Như Quỳnh

Quỳnh

LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên, tôi bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc đến

PGS. TS. Tạ Minh Tuấn – Trợ lý Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam và TS. Đỗ Thị Thanh Bình – Trưởng phòng Đào tạo sau Đại

học, Học viện Ngoại giao Việt Nam. Thầy cô là những người không chỉ tận

tình hướng dẫn, định hướng, gợi mở cho tôi nhiều hướng nghiên cứu mà còn

cho tôi nguồn động viên kịp thời, giúp tôi thêm tự tin để hoàn thành công

trình nghiên cứu.

Tôi xin kính gửi lời cảm ơn đến GS.TS. Nguyễn Thái Yên Hương,

Nguyên Phó Giám đốc Học viện Ngoại giao Việt Nam, người luôn nhắc nhở,

động viên tôi và đồng thời cũng tạo ra một “áp lực cần thiết” để tôi thêm

quyết tâm hoàn thành luận án này. Một lời cảm ơn nữa xin gửi tới các cán bộ

Phòng Đào tạo sau Đại học, Học viện Ngoại giao đã quan tâm, tạo điều kiện

thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình nghiên cứu tại Học viện.

Quá trình thực hiện luận án bị gián đoạn và gặp nhiều khó khăn, có

những lúc tưởng không thể hoàn thành. Không đổ lỗi cho hoàn cảnh, tôi nỗ

lực thực hiện luận án này không chỉ để khẳng định bản thân mình mà còn với

mong muốn sự cố gắng của tôi ngày hôm nay sẽ truyền cảm hứng cho các con

tôi trên bước đường trưởng thành về sau. Xin cảm ơn gia đình, người thân,

đặc biệt là chồng và các con đã luôn bên tôi, cổ vũ, động viên, tiếp thêm động

lực để tôi hoàn thiện nghiên cứu này.

Hà Nội, tháng 08 năm 2018

Nghiên cứu sinh

Mạc Như Quỳnh

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN

LỜI CẢM ƠN

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

DANH MỤC BẢNG BIỂU

MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HỘI NHẬP KHU

VỰC TRONG LĨNH VỰC ĐỐI NGOẠI VÀ AN NINH Ở CHÂU ÂU .......... 16

1.1. Cơ sở lý luận về hội nhập khu vực .................................................... 16

1.1.1. Một số khái niệm cơ bản về hội nhập khu vực ............................... 16

1.1.1.1. Khái niệm “khu vực”, “khu vực hóa” ...................................... 16

1.1.1.2. Định nghĩa “Chủ nghĩa khu vực” và “Hội nhập khu vực” ..... 17

1.1.2. Tiếp cận hội nhập khu vực qua một số lý thuyết ............................ 25

1.1.2.1. Thuyết chức năng ...................................................................... 26

1.1.2.2. Thuyết thể chế ........................................................................... 30

1.1.2.3. Thuyết kiến tạo .......................................................................... 33

1.1.2.4. Thuyết liên chính phủ ............................................................... 36

1.2. Cơ sở thực tiễn về hội nhập khu vực ở châu Âu .............................. 39

1.2.1. Lịch sử hội nhập khu vực ở châu Âu trước chiến tranh Lạnh ........ 39

1.2.2. Bối cảnh thế giới và khu vực sau Chiến tranh Lạnh ....................... 52

1.2.3. Quan điểm của các thành viên chủ chốt về hội nhập trong lĩnh vực

đối ngoại và an ninh .................................................................................. 55

1.2.3.1. Quan điểm của Đức .................................................................. 55

1.2.3.2. Quan điểm của Pháp ................................................................ 57

1.2.3.3. Quan điểm của Ý ....................................................................... 60

1.2.3.4. Quan điểm của Ba Lan ............................................................. 61

Tiểu kết chương 1 ....................................................................................................... 62

CHƯƠNG 2: NGHIÊN CỨU HỘI NHẬP KHU VỰC QUA CHÍNH SÁCH

ĐỐI NGOẠI VÀ AN NINH CHUNG CHÂU ÂU ............................................... 64

2.1. Chính sách Đối ngoại và An ninh chung châu Âu ........................... 64

2.1.1. Nội dung chính sách ....................................................................... 64

2.1.1.1. Mục tiêu chính sách .................................................................. 64

2.1.1.2. Quy trình hoạch định chính sách .............................................. 66

2.1.1.3. Cơ chế hoạt động ...................................................................... 70

2.1.2. Công cụ thực thi chính sách ............................................................ 75

2.1.2.1. Công cụ thực thi Chính sách đối ngoại .................................... 75

2.1.2.2. Công cụ thực thi Chính sách quốc phòng ................................ 78

2.2. Thực tiễn triển khai Chính sách từ năm 1992 – 2018 ..................... 80

2.2.1. Giai đoạn 1992 – 2009: ................................................................... 80

2.2.2. Giai đoạn 2009 – 6/2018:................................................................ 89

2.3. Đánh giá tiến trình hội nhập khu vực qua thực tiễn triển khai

Chính sách .................................................................................................. 99

2.3.1. Nhận xét chung ............................................................................... 99

2.3.2. Nguyên nhân thành công và hạn chế ............................................ 104

Tiểu kết chương 2 ..................................................................................................... 122

CHƯƠNG 3: TRIỂN VỌNG HỘI NHẬP VỀ ĐỐI NGOẠI VÀ AN NINH

CỦA LIÊN MINH CHÂU ÂU ĐẾN NĂM 2025 ............................................... 124

3.1. Xu thế hội nhập khu vực đến năm 2025 ......................................... 124

3.1.1. Xu thế chung ................................................................................. 124

3.1.2. Xu thế hội nhập ở châu Âu ........................................................... 127

3.2. Triển vọng thực thi Chính sách Đối ngoại và An ninh chung đến

năm 2025 ................................................................................................... 131

3.3. Một số bài học kinh nghiệm từ quá trình hội nhập về đối ngoại và

an ninh của Liên minh châu Âu ............................................................. 142

Tiểu kết chương 3 ..................................................................................................... 145

KẾT LUẬN ............................................................................................................... 147

DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ ....................... 151

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 152

Phụ lục 1: Bảng khảo sát về sự quan tâm và nhu cầu của người dân ............. 171

Phụ lục 2: Định vị nền kinh tế EU trên thế giới ................................................... 172

Phụ lục 3: Sự chồng chéo trong chi phí quốc phòng giữa các quốc gia thành

viên EU (tính đến năm 2016-2017) ........................................................................ 173

Phụ lục 4: Cấu trúc quyền lực của liên minh Châu Âu ..................................... 174

Phụ lục 5: Niềm tin của người dân vào các thể chế EU (Giai đoạn 1997-

2016) .............................................................................................................. 175

Phụ lục 6: Báo cáo tóm tắt kết quả 1 năm thực hiện Chiến lược toàn cầu của

EU (EUGS year 1) .................................................................................................... 176

Phụ lục 7: Sáng kiến “Hợp tác mang cấu trúc bền vững” ................................ 179

Phụ lục 8: Nghị quyết của nghị viện Châu Âu về Báo cáo thường niên kết quả

thực hiện Chính sách An ninh Quốc phòng chung năm 2017 .......................... 182

Phụ lục 9: Kế hoạch Hành động quốc phòng châu Âu (European Defence

Action plan) ............................................................................................................... 193

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

TIẾNG ANH TIẾNG VIỆT TỪ VIẾT TẮT

Cơ chế Phát triển năng lực CDM

Capability Development Mechanism

Capability Development Plan Kế hoạch Phát triển năng lực CDP

CFSP

Common Foreign and Security Policy

CSCE

Commission on Security and Cooperation in Europe

CSDP

Common Security and Defence Policy

quốc phòng Chính sách Đối ngoại và An ninh chung Uỷ ban An ninh và Hợp tác châu Âu Chính sách An ninh và Quốc phòng chung Cộng đồng Than thép châu Âu ECSC

European Coal and Steel Community European Court of Justice Tòa án châu Âu ECJ

European Defence Agency Cục Quốc phòng châu Âu

European Defence Community Cộng đồng Phòng thủ châu Âu European Defence Fund Quỹ Quốc phòng châu Âu EDA EDC EDF

EEAS

European External Action Service

European Union EU

EURATOM European Atomic Energy Community Cục Hành động đối ngoại châu Âu Liên minh châu Âu Cộng đồng Năng lượng nguyên tử châu Âu

ESDP

European Security and Defence Policy

European Security Strategy ESS

GAERC General Affairs and External Relations Council Chính sách An ninh và Quốc phòng châu Âu Chiến lược An ninh châu Âu Hội đồng các vấn đề chung và quan hệ đối ngoại

HR/VP

High Representative/Vice President

NACC

North Atlantic Cooperation Council

NATO

North Atlantic Treaty Organization

NATO Response Force

NRF OSCE

Organization for Security and Co-operation in Europe

PESCO Đại diện cấp cao về Đối ngoại và An ninh/Phó Chủ tịch Uỷ ban Châu Âu Hội đồng hợp tác Bắc Đại Tây Dương Hiệp ước quân sự Bắc Đại Tây Dương Lực lượng phản ứng của NATO Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu Hợp tác có cấu trúc bền vững

Permanent Structured Cooperation

PSC

Political and Security Committee

SHAPE

Supreme Headquarters Allied Powers Europe

SACEUR

Supreme Allied Commander Europe

SNG Uỷ ban An ninh và Chính trị châu Âu Trụ sở Bộ Tư lệnh tối cao châu Âu Tư lệnh tối cao liên quân châu Âu Cộng đồng các quốc gia độc lập

Commonwealth of Independent States (Sodruzhestvo Nezavisimykh Gosudarstv in Russian)

TEC

Treaty establishing the European Community

Treaty on European Union

Western European Union

Weapon of Mass Destruction

TEU WEU WMD WUDO Western Union Defense Organization Hiệp ước thành lập Cộng đồng châu Âu Hiệp ước về Liên minh châu Âu Liên minh Tây Âu Vũ khí huỷ diệt hàng loạt Tổ chức Liên minh quốc phòng phía Tây

DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 1: Cấu trúc CFSP/CSDP sau Tuyên bố St. Malo (1998) ....................... 71

Bảng 2: Cơ cấu tổ chức của EEAS trung ương (cập nhật đến tháng 3/2018) 74

Bảng 3: Tỷ lệ đóng góp của các nước tham gia chiến dịch OAF ................... 87

Bảng 4: So sánh về phân bổ ngân sách hành chính cho Bộ Ngoại giao các

quốc gia thành viên EU và EEAS (năm 2011-2012) ...................................... 92

Bảng 5: Khảo sát ý kiến của người dân về sự ủng hộ đối với EU từ năm 2004

đến năm 2016 ................................................................................................ 111

Bảng 6: Thay đổi GDP bình quân đầu người của các nước thuộc EU từ năm

2004 đến 2014 ............................................................................................... 116

Bảng 7: So sánh về chi tiêu quốc phòng của châu Âu với một số quốc gia

khác ............................................................................................................... 117

Bảng 8: Tương quan so sánh thành viên EU và NATO (tính đến năm 2017) .....122

Bảng 9: Xu hướng gia tăng chi phí quốc phòng của một số cường quốc quân

sự đến năm 2045 ........................................................................................... 125

Bảng 10: Khảo sát ý kiến người dân đánh giá về mức độ phát triển của quốc

gia thành viên từ khi gia nhập EU ở khía cạnh kinh tế (giai đoạn 10/2004 –

05/2013) ........................................................................................................ 128

Bảng 11: Tỷ lệ thất nghiệp EU28 từ năm 2004 – 2017 ................................ 129

Bảng 12: Các yếu tố cấu thành liên minh an ninh quốc phòng châu Âu ...... 140

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Trong lịch sử phát triển của nền chính trị thế giới đương đại, Liên minh

châu Âu (EU) là một mô hình liên kết khu vực độc đáo. Qua 60 năm tồn tại

(1957-2017), EU đã đạt được nhiều thành tựu trong tiến trình hội nhập trên

nhiều lĩnh vực, đặc biệt là kinh tế, thương mại, tài chính, tiền tệ, tư pháp…

Với quá trình hội nhập sâu rộng như vậy, EU đã trở thành hình mẫu nghiên

cứu về hội nhập khu vực. Nhiều lý thuyết ra đời chủ yếu để giải thích tiến

trình hội nhập của EU. Tuy nhiên, trong lĩnh vực đối ngoại và an ninh, EU

gặp nhiều khó khăn khi vận động các quốc gia thành viên tham gia vào quá

trình hợp tác và triển khai các hành động tập thể.

Chính sách Đối ngoại và An ninh chung (CFSP) là một trong ba trụ cột

chính được hình thành từ Hiệp ước Maastricht (1992). Chính sách an ninh

quốc phòng chung (CSDP) được đưa vào nội hàm CFSP từ năm 1999 nhằm

thúc đẩy tiến trình hội nhập về đối ngoại, an ninh nói chung, tăng cường hợp

tác an ninh quốc phòng, hướng tới nền quốc phòng chung. Tuy nhiên, sau hơn

25 năm triển khai, CFSP chưa đạt được kỳ vọng của các nhà lập pháp châu

Âu. Mặc dù đạt được một số thành tựu nhất định nhưng mức độ hội nhập

trong lĩnh vực đối ngoại, an ninh còn hạn chế so với các lĩnh vực khác. Tình

hình triển khai CFSP gặp nhiều khó khăn hơn trong bối cảnh chủ nghĩa dân

tuý cực đoan và làn sóng bài EU lan rộng khắp châu Âu. Sự kiện nước Anh

buộc phải rời khỏi Liên minh sau thất bại của cuộc trưng cầu dân ý (6/2016)

đặt ra nhiều vấn đề mới về triển vọng hội nhập trong lĩnh vực đối ngoại và an

ninh của EU cũng như định hướng phát triển của Liên minh trong tương lai.

CFSP/CSDP có thất bại? Các quốc gia thành viên hành động đơn phương

trong các vấn đề đối ngoại, an ninh hay CFSP/CSDP sẽ đạt được nhiều bước

tiến hơn trong các hành động tập thể, đưa sức mạnh tổng thể của EU lên một

2

tầm mức mới? Tương lai của CFSP cùng những bước đi khó đoán định của

Mỹ, Nga, Trung ở khu vực sẽ có tác động lớn đến cấu trúc an ninh khu vực

châu Âu. Việc dự báo triển vọng thực thi CFSP và xu hướng hội nhập trong

lĩnh vực đối ngoại và an ninh ở khu vực có ý nghĩa thời sự, là cơ sở đánh giá

xu hướng vận động của nền an ninh khu vực và hướng phát triển tương lai của

EU, một trong những chủ thể quan trọng của nền chính trị toàn cầu.

EU là một trong ba nền kinh tế lớn nhất thế giới (bên cạnh Mỹ và

Trung Quốc), là một chủ thể ngày càng có ảnh hưởng trong quan hệ quốc tế.

Với Việt Nam, EU là đối tác quan trọng trên bình diện song phương và đa

phương. Về phương diện song phương, Việt Nam có năm đối tác chiến lược ở

châu Âu, gồm: Anh, Tây Ban Nha, Pháp, Ý, Đức. Về phương diện đa phương,

EU và Việt Nam đã ký Hiệp định Đối tác hợp tác (PCA) năm 2012. Hiệp định

Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) đã kết thúc đàm phán và dự kiến

được ký kết vào năm 2018. Cùng với Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ

xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), EVFTA là hai hiệp định thương mại tự do

có phạm vi cam kết rộng và mức độ cam kết cao nhất của Việt Nam từ trước

đến nay. Vì vậy, nghiên cứu chủ thể EU có ý nghĩa thực tiễn quan trọng,

mang tính tham khảo cho Việt Nam, một thành viên tích cực của Hiệp hội các

quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) trong việc góp phần xây dựng và phát triển

quan hệ đối tác của tổ chức này với các chủ thể quan hệ quốc tế khác, trong

đó có EU.

Bên cạnh đó, các công trình nghiên cứu về chủ thể EU trong và ngoài

nước tuy phong phú và đa dạng nhưng các nghiên cứu về hội nhập khu vực

trong lĩnh vực đối ngoại và an ninh còn khá mới mẻ với các nhà nghiên cứu

Việt Nam. Mặt khác, đây là lĩnh vực mang tính động thái cao, do vậy, nghiên

cứu hội nhập khu vực về đối ngoại và an ninh ở châu Âu là một đề tài có ý

nghĩa khoa học và thực tiễn trong nghiên cứu quan hệ quốc tế ở Việt Nam.

3

Trên cơ sở đó, nghiên cứu sinh lựa chọn đề tài luận án là: “Hội nhập

khu vực ở châu Âu: Trường hợp nghiên cứu Chính sách Đối ngoại và An

ninh chung châu Âu”.

2. Lịch sử nghiên cứu đề tài

2.1. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến đề tài :

* Về lý thuyết hội nhập khu vực và hội nhập khu vực ở châu Âu:

Tại Việt Nam, chưa có nhiều công trình nghiên cứu lớn về lý thuyết hội

nhập khu vực nói chung và hội nhập khu vực ở châu Âu nói riêng. Một số

công trình đáng chú ý là tác phẩm “Những vấn đề xung quanh việc hợp nhất

châu Âu” của tác giả Nguyễn Văn Dân (chủ biên) và Lê Ngọc Hiền (1997),

NXB Viện Thông tin khoa học xã hội, tổng hợp các bài viết liên quan đến xu

hướng hội nhập khu vực và quá trình hình thành Liên minh châu Âu. Do là

tập hợp các bài viết của nhiều tác giả nên các đánh giá rời rạc, mang tính

thông sử bởi thời gian ra đời quyển sách gần với thời điểm EU thành lập

(Hiệp ước Maastricht 1992) cho đến nay tính thời sự không còn. Một tác

phẩm mang tính tham khảo khác của tác giả Đinh Công Tuấn chủ biên

(2011), “Liên minh châu Âu hai thập niên đầu thế kỷ XXI”, NXB Khoa học xã

hội. Tuy nhiên, công trình nghiên cứu này không đề cập đến các lý thuyết hội

nhập khu vực mà chỉ mô tả quá trình hình thành, phát triển của EU và một số

xu hướng phát triển của tổ chức trong tương lai.

Một số bài viết có giá trị tham khảo đề cập đến các lý thuyết hội nhập

như: bài viết của tác giả Phạm Quốc Trụ (2011), “Hội nhập quốc tế: một số vấn

đề lý luận và thực tiễn”, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế số 85 năm 2011; Nguyễn

Quang Thuấn (2014), “Liên kết ở Liên minh châu Âu: từ lý thuyết đến thực

tiễn”, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu số 2 (161) năm 2014. Hai bài viết có đề cập

đến khái niệm hội nhập quốc tế và một số lý thuyết về hội nhập khu vực. Tuy

nhiên, do không phải là công trình nghiên cứu lớn nên bài viết chỉ giới hạn ở

việc giới thiệu khái quát cách tiếp cận của một số thuyết về hội nhập, đưa ra một

4

số nhận định về thành công và hạn chế của quá trình liên kết trong EU.

Một số bài viết đề cập đến mô hình phát triểu của EU và ASEAN, so

sánh, nhận định về triển vọng của từng mô hình: Đề tài nghiên cứu cấp Viện

“Nghiên cứu so sánh các mô hình liên kết khu vực – Kinh nghiệm cho

ASEAN” của Viện nghiên cứu châu Âu thuộc Viện Khoa học xã hội Việt Nam

thực hiện tháng 7/2011; các bài báo “Chủ nghĩa khu vực và liên khu vực:

những triển vọng giữa châu Âu và châu Á”, Tạp chí nghiên cứu châu Âu số 6

(66) năm 2004 và “Mô hình hội nhập của EU – ASEAN: So sánh những tương

đồng, khác biệt và bài học kinh nghiệm cho ASEAN”, Tạp chí nghiên cứu

châu Âu số 6 (141) năm 2012 của tác giả Đinh Công Tuấn.

Ở nước ngoài, các công trình nghiên cứu của các học giả phương Tây

sử dụng nhiều lý thuyết khác nhau để giải thích cho hiện tượng hội nhập khu

vực tại châu Âu.

Tác phẩm “The Uniting of Europe” (Sự hợp nhất của châu Âu) xuất

bản lần đầu năm 1958 và “Beyond the Nation-State” (Vượt ra khỏi ranh giới

quốc gia - dân tộc) xuất bản năm 1964 của học giả Ernest B. Hass đưa ra khái

niệm “spill-over” (hiệu ứng lan tỏa) để mô tả cơ chế phát triển của tiến trình

hội nhập khu vực. Thuyết lan tỏa của Haas được học giả Lindberg sử dụng và

phát triển trong công trình nghiên cứu “The Political Dynamics of European

Economic Integration” (Động lực chính trị trong hội nhập kinh tế châu Âu)

xuất bản năm 1963, “Regional Integration: Theory and Research” (Hội nhập

khu vực: Lý thuyết và nghiên cứu) viết cùng Stuart A. Scheingold năm 1971.

Các tác phẩm này chủ yếu lấy tiến trình hội nhập trong lĩnh vực kinh tế làm

trường hợp nghiên cứu cụ thể cho các thuyết.

Tác phẩm “The Choice for Europe” (Sự lựa chọn của châu Âu) của

Andrew Moravcsik tiếp cận quá trình hội nhập khu vực ở châu Âu một cách

toàn diện hơn. Andrew kết hợp các luận điểm của chủ nghĩa tự do và thuyết

liên chính phủ để giải thích quá trình hình thành các thứ tự ưu tiên của các

5

quốc gia thành viên và lý giải con đường thương lượng ở cấp độ liên chính

phủ để đi đến đồng thuận cuối cùng.

Ngoài ra, thuyết thể chế và thuyết liên chính phủ cũng được nhiều học

giả như Peter Hall, Rosemary Taylor (1994), Koelble (1995), Kato (1996),

Mark Pollack (2003), Derek (2005)… sử dụng để nghiên cứu quá trình hội

nhập khu vực ở châu Âu.

* Về cấu trúc bộ máy EU và những tác động của nó đến quá trình hội

nhập châu Âu, đặc biệt từ sau Hiệp ước Lisbon:

Tại Việt Nam, các nghiên cứu liên quan đến vấn đề này chưa có nhiều

công trình lớn, chủ yếu là các bài viết trên các tạp chí chuyên ngành, còn tản

mạn, thiếu tính hệ thống. Một số bài viết trên Tạp chí nghiên cứu châu Âu của

tác giả Đặng Minh Đức như “Hệ thống chính trị của Liên minh châu Âu

(2002), “Bản chất và cơ chế hoạt động của hệ thống chính trị Liên minh

Châu Âu” (2003), “Những vấn đề cơ bản của Hiến pháp châu Âu” (2005),

“Những nhân tố tác động đến quá trình cải cách hệ thống thể chế chính trị ở

Liên minh Châu Âu” (2005), “Hiệp ước Hiến pháp và hiệp ước Lisbon - thực

chất và triển vọng” của Phan Đức Thọ (2009); “Vai trò của Liên minh Châu

Âu và Hiệp ước Lisbon” (2010), “Một số vấn đề chính trị nổi bật của Liên

minh Châu Âu (EU) giai đoạn 2000-2010” (2011) của tác giả Đinh Công

Tuấn. Các bài viết này tiếp cận khá trực tiếp và cụ thể tới một số thể chế

chính trị cơ bản của Liên minh, chỉ ra được một số vấn đề đang tồn tại cũng

như bước đầu đặt ra vấn đề phải nhìn nhận các thể chế của Liên minh châu

Âu theo tiêu chí nào: quốc gia, liên bang hay tổ chức quốc tế?

Ở nước ngoài, cấu trúc bộ máy EU được nghiên cứu bài bản, công phu

và có nhiều công trình lớn. Đặc biệt, với những cải cách lớn về thể chế từ

Hiệp ước Lisbon (2009), nhiều học giả đã tập trung nghiên cứu tác động của

những thay đổi này đến quá trình vận hành và phát triển của EU. Một số tác

phẩm tiêu biểu như:

6

Simon Hix (2005), The Political system of the European Union (Hệ

thống chính trị của Liên minh châu Âu), NXB Palgrave Macmillan. Đây là

một trong những tác phẩm có giá trị tham khảo cao. Cuốn sách mô tả các thể

chế của Liên minh kết hợp với những lý luận về hệ thống chính trị của

Bertrand Badie và Pierre Binrbaum. Hix khẳng định EU đã có một hệ thống

chính trị thực sự. Ông cũng phản bác quan điểm hệ thống chính trị chỉ tồn tại

trong khuôn khổ quốc gia. Theo ông, một hệ thống chính trị có thể tồn tại mà

không cần gắn liền với một quốc gia nào như đối với trường hợp EU.

Jens Peter Bonde (2008), From EU Constitution to Lisbon Treaty (Từ

Hiến pháp châu Âu đến Hiệp ước Lisbon), NXB Forlaget Notat. Trong công

trình nghiên cứu này, tác giả đã rà soát, chỉ ra những sửa đổi, bổ sung về mặt

nội dung của các điều khoản trong Hiệp ước, từ đó phân tích tác động của

những thay đổi này đối với người dân và các quốc gia thành viên. Bonde cũng

đưa ra một số dự báo về xu thế phát triển của các thể chế trong tương lai. Tuy

nhiên, tính cập nhật của nghiên cứu còn nhiều hạn chế do xuất bản trước khi

Cục Hành động đối ngoại châu Âu (EEAS) đi vào hoạt động nên chưa thể

đánh giá hiệu quả triển khai chính sách…

Ngoài ra, các báo cáo nội bộ của Liên minh cũng là nguồn tài liệu tham

khảo quan trọng. Trong các báo cáo của Ủy ban trình Hội đồng và Nghị viện

châu Âu, đáng chú ý có báo cáo phát hành tháng 3/2008 với chủ đề “The

Treaty of Lisbon: An Impact of Assessment” (Hiệp ước Lisbon: đánh giá tác

động) đánh giá tác động của Hiệp ước đến bộ máy thể chế của Liên minh, các

quyền cơ bản của quốc gia thành viên, tác động trong lĩnh vực tự do, an ninh,

tư pháp, các vấn đề xã hội, tài chính và thị trường nội địa… Chương 7 của

bản báo cáo đề cập đến chính sách đối ngoại, quốc phòng của châu Âu và

hướng phát triển của chính sách. Theo đánh giá của Ủy ban, theo Hiệp ước

Lisbon, CFSP vẫn không thay đổi phạm vi hoạt động. Các điều khoản trong

7

Hiệp ước mới có thể giúp vai trò của EU trở nên năng động hơn trong lĩnh

vực đối ngoại, an ninh nhưng vẫn trên nguyên tắc đồng thuận, không xâm

phạm đến sự độc lập về chính sách của các quốc gia thành viên trong lĩnh vực

này. Báo cáo này đánh giá EU có thể trở nên năng động hơn nhưng chưa đánh

giá được thực tiễn triển khai CFSP có thực sự giúp EU trở nên năng động hơn

hay không.

* Về Chính sách Đối ngoại và An ninh chung châu Âu:

Tại Việt Nam, không có nhiều công trình nghiên cứu về chính sách đối

ngoại, an ninh, quốc phòng của EU nói chung, cụ thể về Chính sách Đối ngoại

và An ninh chung châu Âu (CFSP). Một số nghiên cứu liên quan như: Bùi

Hồng Hạnh (2005), Đề tài cấp trường “Quá trình hình thành chính sách đối

ngoại chung của Liên minh châu Âu”; Vũ Bình Minh (2006), Đề tài cấp Viện

của Viện Nghiên cứu châu Âu “Chính sách đối ngoại của Liên minh châu Âu

hiện nay: Cơ chế phối hợp giữa các nước thành viên và cấp độ liên minh”; Bùi

Hồng Hạnh (2010), “Chính sách đối ngoại và an ninh của Liên minh châu Âu:

Một số vấn đề và khả năng thực thi” đăng trên Tạp chí Nghiên cứu châu Âu số

01 năm 2010; Nguyễn Hải Lưu (2016), “Một số nội hàm mới trong Chiến lược

toàn cầu của EU về chính sách Đối ngoại và An ninh chung”, Tạp chí Nghiên

cứu châu Âu số 05 năm 2016…

Ở nước ngoài, các công trình nghiên cứu về Chính sách Đối ngoại và

An ninh chung châu Âu tương đối phong phú về quy mô và nội dung. Một số

tác phẩm và bài viết đáng chú ý như: Ramses A.Wessel (1999), The European

Union’s Foreign and Security Policy – A Legal Institutional Perspective

(Chính sách Đối ngoại và An ninh Liên minh châu Âu – Triển vọng thể chế

hóa luật pháp), NXB Routledge, London; Martin A. Smith và Grahan

Timmins (2000) chủ biên, Uncertain European: Building a New European

Security Order (Một châu Âu không ổn định: Xây dựng một trật tự an ninh

8

châu Âu mới), NXB Routledge, London. Hai tác phẩm đề cập đến các khái

niệm về trật tự, an ninh và bản sắc, các thể chế an ninh khu vực gồm OSCE,

NATO, EU và WEU, triển vọng an ninh quốc gia và khu vực và nhận định về

sự bất ổn định ở châu Âu. Theo các tác giả, không phải bất kỳ quốc gia nào

cũng mong muốn trở thành thành viên của EU và NATO. Vì vậy, các thành

viên của hai tổ chức này cần giải quyết các vấn đề mà các quốc gia ngoài khối

quan tâm hoặc đặt kỳ vọng. Hơn nữa, quá trình mở rộng đã làm thay đổi thứ

tự ưu tiên các mối quan tâm hay lợi ích chung của các thành viên đặt trong

tổng thể chiến lược phát triển của tổ chức khiến các thành viên phải đối mặt

với nhiều thách thức mới. Thông qua việc phân tích vai trò của từng thể chế

an ninh khu vực cùng với việc quan sát các mục tiêu, kỳ vọng của một số

nhân tố quan trọng đối với nền an ninh khu vực như Mỹ, Anh, Pháp, Đức,

Nga…, các tác giả xác định những nguy cơ gây bất ổn ở châu Âu và vai trò

của các thể chế an ninh trên con đường duy trì nền hòa bình trong khu vực.

Brian White (2001), Understanding European Foreign Policy (Tìm

hiểu về Chính sách đối ngoại châu Âu); Svein S. Andersen và Kjell A.

Eliassen (2001), Making Policy in Europe (Hoạch định chính sách ở châu

Âu); Cristina Churruca (2003), The European Union’s Common Foreign

Policy: Strength, Weakness and Prospects (Chính sách đối ngoại và an ninh

chung châu Âu: Ưu điểm, Hạn chế và Triển vọng); nhóm tác giả Dieter

Mahncke, Alicia Ambos, Christopher Reynolds (2004),“European Foreign

Policy – From Rhetoric to Reality?” (Chính sách đối ngoại châu Âu – Từ

Khẩu hiệu đến Thực tế). Các nghiên cứu này cung cấp bức tranh tổng thể về

chính sách đối ngoại và cách thức EU thực hiện đường lối đối ngoại. Cristina

đặt vấn đề rằng khi xem EU là một chủ thể hoàn chỉnh của quan hệ quốc tế thì

bản thân EU có chính sách đối ngoại (EFP). Các nghiên cứu về EU thường

tiếp cận theo hướng coi CFSP chính là chính sách đối ngoại của tổ chức này.

9

Tuy nhiên, đứng trên quan điểm xem EU như chủ thể quốc gia, không nên

đồng nhất CFSP với EFP. CFSP cần được phân biệt với các chính sách đối

ngoại của EU trên các lĩnh vực khác như chính sách về thương mại hay các

chính sách phát triển. Dựa trên hướng tiếp cận này, bài viết đánh giá điểm

mạnh, điểm yếu của EU trong các hoạt động đối ngoạivà nêu ra một số câu

hỏi gợi ý nghiên cứu như “mục tiêu của EFP nên là gì? Những lợi ích chung

của các quốc gia thành viên thường được đặt ở đâu? Vai trò của EU trong các

vấn đề quốc tế? Nguồn lực nào nên dành cho EFP?...

Nicole Alecu de Flers (2008), The Provisions on CFSP and CSDP in the

Lisbon Reform Treaty: Stumbling Blocks or Milestones? (Những nội dung về

CFSP và CSDP trong Hiệp ước Lisbon sửa đổi: rào cản hay bước ngoặt?), Viện

nghiên cứu nhất thể hóa châu Âu, Viện khoa học Áo; Sven Biscop (2009),

Permanent Structured Cooperation and the Future of ESDP: Transformation

and Integration (Hợp tác có cấu trúc bền vững và tương lai của ESDP), Học

viện Hoàng gia về quan hệ quốc tế Egmont, Bỉ. Hai tác phẩm đề cập đến những

thay đổi về mặt chính sách có tác động đến khả năng thực thi CFSP/ESDP,

phân tích, đánh giá cơ chế hợp tác về an ninh quốc phòng “có cấu trúc bền

vững”, cơ chế được đánh giá là một giải pháp cho tương lai của ESDP. Một khi

các thành viên EU nhất trí tham gia vào cơ chế hợp tác này, hiệu quả triển khai

chính sách an ninh phòng thủ chung sẽ được nâng lên đáng kể, giúp hạn chế sự

chồng chéo về chính sách, tập trung nguồn lực, nâng cao khả năng triển khai

thực địa của lực lượng liên quân.

Federiga M. Bind (2010), The Foreign policy of the European Union:

Assessing Europe’s role in the World (Chính sách đối ngoại của Liên minh

châu Âu: Đánh giá vai trò của châu Âu trên thế giới), NXB Brookings

Institution. Với đối tượng nghiên cứu chính là Chính sách đối ngoại của EU,

cuốn sách đề cập đến các đặc điểm của chính sách và phân tích chính sách

10

đối ngoại của EU với các đối tác ở một số khu vực trọng yếu như châu Phi,

châu Á, Trung Đông…

Alyson JK Bailes và Graham Messervy Whiting (2011), Death of an

Institution, the End for Western European Union, a Future for European

defence? (Sự kết thúc của một thể chế, Liên minh Tây Âu dừng hoạt động,

tương lai cho nền quốc phòng châu Âu?), Học viện Hoàng gia Egmont về

quan hệ quốc tế. Tác phẩm đề cập đến mối liên quan của Liên minh Tây Âu

(WEU) và NATO trong việc bảo vệ an ninh khu vực và phân tích, đánh giá về

thực trạng nền an ninh quốc phòng châu Âu.

Jan Wouters, Stephanie Bijlmakers và Katrien Meuwissen (2012), The

EU as a Multilateral Security Actor after Lisbon: Constitutional and

Institutional Aspects, (EU – Chủ thể an ninh đa phương hậu Lisbon: Phương

diện lập pháp và thể chế), NXB Routledge, London; Caroline Bouchard, John

Petterson và Natalie Tocci (2013), Multilateralism in 21st Century: Europe’s

Quest for Effectiveness (Chủ nghĩa đa phương trong thế kỷ 21: Tìm kiếm tính

hiệu quả của châu Âu), NXB Routledge, London; Federico Santopinto &

Megan Price (2013), National Visions of EU Defence Policy – Common

Denominators and Misunderstandings (Tầm nhìn quốc gia về chính sách quốc

phòng EU: Mẫu số chung và một số nhận thức sai lầm); Sven Biscop (2016),

All or Nothing? The EU Global Strategy and Defence Policy after the Brexit

(Tất cả hay không là gì? Chiến lược toàn cầu của EU và chính sách quốc

phòng sau sự kiện Brexit), Tạp chí Contemporary Security Policy Journal.

Các bài viết đưa ra một số vấn đề phát sinh trong quá trình EU triển khai

chính sách đối ngoại và an ninh chung, tập trung vào giai đoạn sau khi thực

thi Hiệp ước Lisbon. Các nghiên cứu chủ yếu mô tả cách thức vận hành bộ

máy trong lĩnh vực đối ngoại, an ninh và định hướng chính sách của một số

quốc gia thành viên khi tham gia vào các hành động tập thể liên quan đến an

ninh quốc phòng.

11

2.2. Một số vấn đề gợi mở nghiên cứu

Qua nghiên cứu, rà soát các nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan

đến đề tài, một số nhận xét về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài như sau:

(i) Các công trình nghiên cứu trong nước về lý thuyết hội nhập khu vực

không nhiều, chủ yếu được lồng ghép vào các nghiên cứu về chủ nghĩa khu

vực ở một số khu vực cụ thể, tập trung nhiều vào khu vực châu Á-Thái Bình

Dương, Đông Á, Đông Nam Á… Các công trình nghiên cứu về lý thuyết hội

nhập khu vực nói chung và lý thuyết hội nhập khu vực châu Âu nói riêng chủ

yếu mô tả tiến trình hội nhập ở khu vực châu Âu thông qua sự hình thành và

phát triển của Liên minh châu Âu. Các nghiên cứu còn khá sơ khai, chủ yếu là

các bài viết ngắn, chưa có nhiều công trình nghiên cứu sâu và có hệ thống.

(ii) Nhiều lý thuyết quan hệ quốc tế khác nhau được các học giả

phương Tây sử dụng để giải thích cho hiện tượng hội nhập khu vực tại châu

Âu, cụ thể là Liên minh châu Âu. Một số lý thuyết được hình thành dựa trên

quá trình liên kết khu vực ở châu lục này, nổi bật có: thuyết chức năng, thuyết

thể chế, thuyết kiến tạo và thuyết liên chính phủ.

(iii) Hệ thống lý thuyết quan hệ quốc tế về hội nhập khu vực chủ yếu

được dùng để lý giải các hiện tượng đã diễn ra đối với tiến trình hình thành và

phát triển của EU. Chưa có công trình nghiên cứu nào dùng công cụ lý thuyết

làm cơ sở để dự báo chính sách và đánh giá, phân tích khả năng thực thi chính

sách, đặc biệt trong lĩnh vực đối ngoại, an ninh, quốc phòng của EU.

(iv) Chính sách Đối ngoại và An ninh chung châu Âu là đối tượng

nghiên cứu của một số công trình nghiên cứu khoa học ở nước ngoài nhưng

chưa có nhiều nghiên cứu chuyên sâu liên quan đến đề tài này ở Việt Nam.

Quá trình hội nhập khu vực châu Âu, chủ thể EU được nhiều học giả trong

nước nghiên cứu chuyên sâu chủ yếu về lĩnh vực kinh tế, lĩnh vực EU đạt

được nhiều thành tựu nổi bật nhất. Lĩnh vực đối ngoại, an ninh (bao hàm cả

các vấn đề an ninh quốc phòng) của EU chưa được các học giả trong nước

chú trọng nghiên cứu.

12

(v) Từ năm 2009 đến nay, EU trải qua nhiều sự kiện quan trọng liên

quan đến cải tổ bộ máy và các vấn đề nội bộ. Sự kiện Anh tuyên bố rời EU

(Brexit) là sự kiện chưa có tiền lệ và không được dự báo trong các công trình

nghiên cứu được rà soát. Những chuyển biến trong nội bộ EU và tương lai EU

hậu Brexit trở thành chủ đề nóng. Định hướng chính sách về đối ngoại, an

ninh, quốc phòng và khả năng thực thi chính sách này trong không gian EU

hậu Brexit là vấn đề mới, chưa được nhiều công trình nghiên cứu trong và

ngoài nước đề cập.

Tóm lại, qua quá trình rà soát các công trình nghiên cứu liên quan đến

đề tài, những vấn đề nêu trên gợi mở hướng nghiên cứu mới cho luận án. Nội

dung luận án định hướng tập trung giải quyết một số vấn đề: (i) Hệ thống hoá

cơ sở lý thuyết và thực tiễn liên quan đến hội nhập khu vực châu Âu làm nền

tảng cho công tác dự báo chính sách; (ii) Cập nhật, phân tích, đánh giá tình

hình thực thi Chính sách Đối ngoại và An ninh chung châu Âu, bao gồm cả

Chính sách An ninh Quốc phòng chung trong bối cảnh hậu Lisbon và hậu

Brexit; (iii) Dự báo tiến trình hội nhập khu vực ở châu Âu trong ba thập niên

đầu thế kỷ XXI dưới tác động của Brexit và tình hình biến động ở khu vực, sử

dụng công cụ lý thuyết làm cơ sở dự báo hướng triển khai và khả năng thực

thi Chính sách Đối ngoại và An ninh chung châu Âu tầm nhìn đến năm 2025;

(iv) Liên hệ thực tiễn đến ASEAN và Việt Nam trong tiến trình hội nhập khu

vực ở Đông Nam Á.

3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục tiêu nghiên cứu

Trên cơ sở đánh giá thực trạng triển khai Chính sách Đối ngoại và An

ninh chung châu Âu, luận án phân tích quá trình hội nhập khu vực về đối ngoại

và an ninh, xác định mức độ hội nhập, dự báo xu hướng hội nhập khu vực và

triển vọng thực thi Chính sách Đối ngoại và An ninh chung châu Âu đến năm

2025, liên hệ thực tiễn với ASEAN và Việt Nam.

13

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn của quá trình hội nhập khu

vực nói chung và hội nhập về đối ngoại và an ninh của EU nói riêng;

- Đánh giá thực tiễn triển khai Chính sách Đối ngoại và An ninh chung

châu Âu, trong đó có Chính sách An ninh Quốc phòng chung; tập trung phân

tích các nhân tố tác động đến quá trình triển khai chính sách;

- Dự báo xu hướng hội nhập khu vực và triển vọng thực thi Chính sách

Đối ngoại và An ninh chung châu Âu đến năm 2025.

- Rút ra một số bài học kinh nghiệm đối với ASEAN trong tiến trình

hội nhập khu vực.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận án là quá trình hội nhập khu vực ở châu

Âu. Chính sách Đối ngoại và An ninh chung (trong đó bao hàm Chính sách

An ninh Quốc phòng chung) được chọn là trường hợp nghiên cứu điển hình.

Phạm vi nghiên cứu được chia thành hai giai đoạn chính: từ 1992 –

2009 và 2009 – 6/2018, tầm nhìn đến năm 2025. Không gian nghiên cứu

được xác định là Liên minh châu Âu. Thuật ngữ “châu Âu” sử dụng trong

luận án được hiểu là “Liên minh châu Âu”.

5. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích văn bản, phân tích chính

sách, nghiên cứu trường hợp điển hình. Ngoài ra, các phương pháp phân tích

tác động, phân tích lợi ích, phân tích xung đột và hợp tác quốc tế, phương

pháp quan sát, hệ thống, phân tích và tổng hợp, phương pháp dự báo và so

sánh được sử dụng để bổ trợ cho ba phương pháp nghiên cứu trên.

6. Nguồn tài liệu

- Các văn kiện chính thức của Liên minh châu Âu như các Hiệp ước,

Chiến lược an ninh, Sách trắng và các phát ngôn chính thức của các lãnh đạo

Liên minh châu Âu được công bố tại trang web chính thức của Liên minh;

14

- Các báo cáo hoạt động chuyên biệt của các cơ quan Ủy ban châu Âu,

Hội đồng châu Âu, Ủy ban các vấn đề đối ngoại châu Âu (FAC), Cục Hành

động đối ngoại châu Âu (EEAS);

- Các báo cáo, nghiên cứu chuyên đề của Viện châu Âu học (IES), Viện

nghiên cứu An ninh Liên minh châu Âu (EUISS), Viện nghiên cứu châu Âu

của Mỹ, Nhật, Singapore;

- Các tài liệu, công trình nghiên cứu, chuyên khảo đã được công bố

trong và ngoài nước về quá trình hội nhập khu vực châu Âu, hội nhập về đối

ngoại và an ninh của EU;

- Các công trình nghiên cứu đã công bố của các học giả trong và ngoài

nước về quan hệ EU với các đối tác;

- Các tài liệu, công trình nghiên cứu đã được công bố trong và ngoài

nước về mô hình liên kết khu vực và ASEAN.

7. Đóng góp của luận án

- Luận án hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn quá trình hội nhập

châu Âu về đối ngoại và an ninh;

- Luận án phân tích, đánh giá những nhân tố tác động đến quá trình

triển khai Chính sách Đối ngoại và An ninh chung, ảnh hưởng đến mức độ và

xu hướng hội nhập trong lĩnh vực đối ngoại và an ninh ở châu Âu;

- Luận án dự báo xu hướng hội nhập khu vực và triển vọng thực thi

Chính sách Đối ngoại và An ninh chung trong tương lai, liên hệ thực tiễn với

ASEAN;

- Luận án là tài liệu tham khảo cho nghiên cứu và giảng dạy về Liên

minh châu Âu và lý luận quan hệ quốc tế về hội nhập.

8. Bố cục của luận án

Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ

lục, phần nội dung của Luận án gồm 3 chương:

15

Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về hội nhập khu vực trong

lĩnh vực đối ngoại và an ninh ở châu Âu. Chương 1 đề cập đến các khái

niệm, lý thuyết cơ bản liên quan đến hội nhập khu vực, trình bày cơ sở thực

tiễn quá trình hội nhập về đối ngoại và an ninh ở châu Âu nhằm tạo cơ sở

phân tích, đánh giá trường hợp nghiên cứu điển hình là “Chính sách Đối ngoại

và An ninh chung châu Âu” ở chương 2.

Chương 2: Nghiên cứu hội nhập khu vực qua Chính sách Đối ngoại

và An ninh chung châu Âu. Chương 2 tập trung đánh giá quá trình thực thi

chính sách, phân tích các nhân tố tác động đến quá trình triển khai chính sách,

là cơ sở để dự báo triển vọng chính sách ở chương 3.

Chương 3: Triển vọng hội nhập về đối ngoại và an ninh của Liên

minh châu Âu đến năm 2025. Trên cơ sở lý luận, thực tiễn và thực trạng triển

khai chính sách ở chương 1 và 2, chương 3 đưa ra một số dự báo về xu hướng

hội nhập khu vực nói chung và triển vọng hợp tác giữa các quốc gia thành viên

EU về đối ngoại và an ninh, đặc biệt trong lĩnh vực an ninh quốc phòng.

16

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HỘI NHẬP KHU VỰC

TRONG LĨNH VỰC ĐỐI NGOẠI VÀ AN NINH Ở CHÂU ÂU

1.1. Cơ sở lý luận về hội nhập khu vực

1.1.1. Một số khái niệm cơ bản về hội nhập khu vực

Hội nhập khu vực là một quá trình được hình thành từ sự hợp tác giữa

nhiều chủ thể quốc gia nhằm xây dựng một khu vực hòa bình, ổn định và

cùng nhau phát triển. Quá trình này được thúc đẩy bởi xu thế “khu vực hóa”.

Xu thế này cũng tạo nền tảng để “chủ nghĩa khu vực” hình thành, phát triển

và thúc đẩy quá trình thành lập các tổ chức liên kết khu vực như EU hay

ASEAN. Nắm rõ các khái niệm cơ bản liên quan đến quá trình hội nhập khu

vực giúp cho việc tiếp cận về mặt lý thuyết được chính xác hơn.

1.1.1.1. Khái niệm “khu vực”, “khu vực hóa”

“Khu vực”, theo từ điển tiếng Việt phổ thông, là “vùng, lĩnh vực có

giới hạn, phạm vi rõ ràng dựa trên những tính chất, đặc điểm chung nào đó”

[11, tr.456]. The New Encyclopedia Britannica định nghĩa “khu vực” là nơi

“có sự đồng nhất trong tiêu chí xác định được lựa chọn và có sự phân biệt

khác với những vùng hoặc khu vực kề cận theo những tiêu chí này” [169,

tr.304]. Trong khoa học địa lý, khái niệm “khu vực” bao hàm các yếu tố tự

nhiên như địa hình, sông ngòi, khí hậu, động thực vật. Khái niệm “khu vực”

trong khoa học xã hội được bổ sung thêm các yếu tố xã hội – nhân văn. Vì

vậy, khu vực cần được hiểu một cách toàn diện là một không gian địa lý – lịch

sử – xã hội xác định.

Ngày nay, trong xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa, các quốc gia, lãnh

thổ ở các khu vực địa lý khác nhau ngày càng gia tăng hợp tác toàn diện thì

định nghĩa truyền thống về “khu vực” không còn phù hợp. “Khu vực” trong

17

nghiên cứu chính trị quốc tế cần được xem là một thực thể địa lý – kinh tế –

chính trị – xã hội. Theo Fawcett, “khu vực” trong quan hệ quốc tế cần được

xác định dựa trên yếu tố tương đồng và sự tác động qua lại. Theo đó, “khu

vực” bao gồm các nhóm, quốc gia hay vùng lãnh thổ có các đặc điểm nhận

diện chung. Đồng thời, “khu vực” được xem là một đơn vị nhỏ hơn hệ thống

quốc tế nhưng lại lớn hơn bất kỳ một quốc gia hay vùng lãnh thổ riêng lẻ, có

thể được thể chế hoá hoặc không [89, tr.21-37]. Vì vậy, “khu vực” là môi

trường trực tiếp chứa đựng nhiều lợi ích quốc gia, là nơi diễn ra nhiều hiện

tượng quan trọng trong quan hệ quốc tế hiện nay như khu vực hoá, hội nhập

khu vực…

“Khu vực hoá” là quá trình các quốc gia cùng theo đuổi và chia sẻ các

giá trị chung, mục tiêu chung trong một khu vực địa lý cụ thể. Với khái niệm

“khu vực” như trên, “khu vực hóa” là một khái niệm mở, cần được xem xét ở

cấp độ toàn cầu và cấp độ quốc gia để phân tích, đánh giá các vấn đề ở cấp độ

khu vực. Nói cách khác, môi trường toàn cầu và bối cảnh quốc gia là hai yếu

tố quan trọng cần được xem xét khi nghiên cứu quá trình khu vực hóa. Ngoài

ra, quá trình khu vực hóa còn chịu tác động của nhiều yếu tố khác như quyết

sách của các tổ chức xuyên quốc gia, tác động của các chủ thể phi nhà nước

liên quan đến tài chính, thương mại… Thậm chí các vấn đề liên quan đến môi

trường, biến đổi khí hậu cũng có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm quá trình khu

vực hóa.

1.1.1.2. Định nghĩa “Chủ nghĩa khu vực” và “Hội nhập khu vực”

“Chủ nghĩa khu vực” và “hội nhập khu vực” là hai thuật ngữ được sử

dụng khi đề cập đến quá trình hợp tác giữa các chủ thể nhà nước/phi nhà nước

trong một không gian có nhiều đặc tính chung, cùng hướng tới những mục

tiêu chung nhằm đạt được hay củng cố cho lợi ích, mục tiêu riêng của từng

chủ thể. Tùy theo từng trường phái lý thuyết, hai thuật ngữ này có cách hiểu

và giải thích khác nhau, nhưng nhìn chung trong quan hệ quốc tế, đây đều là

18

những quá trình diễn ra trong một khu vực xác định và được hình thành từ sự

tương tác giữa các chủ thể nhà nước/phi nhà nước.

* Chủ nghĩa khu vực:

Dựa trên cách xác định “khu vực” trong quan hệ quốc tế là một đơn vị

lớn hơn bất kỳ quốc gia, vùng lãnh thổ riêng lẻ nào, là tập hợp nhóm các chủ

thể nhà nước/phi nhà nước có quan hệ hợp tác với nhau để đạt được các mục

tiêu chung, “chủ nghĩa khu vực” được định nghĩa là tập hợp chính sách của

các thành viên trong khu vực, bao gồm cả chủ thể nhà nước và phi nhà nước,

cùng hành động theo những chiến lược mang tính hợp tác và điều phối chung.

Vì thế, chủ nghĩa khu vực theo đuổi và khuyến khích sự phát triển của những

mục tiêu chung ở một hay nhiều khu vực [89, tr.23]. Do “khu vực” mang tính

mở, luôn thay đổi và phát triển, “chủ nghĩa khu vực” theo đó được coi là một

quá trình hợp nhất trên nhiều lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và

không chỉ dừng lại ở mức độ tạo ra các hiệp định thương mại tự do và các thể

chế an ninh. Khi nghiên cứu chủ nghĩa khu vực cần tính đến cả chủ thể nhà

nước và phi nhà nước, các tổ chức và nhóm xã hội [88, tr.8].

Trong quan hệ quốc tế hiện đại, yếu tố địa lý khi xác định khu vực ít

được chú trọng. “Khu vực” có thể được xác định dựa trên mục đích hình

thành. Khu vực được hình thành theo “chức năng” và “cấu trúc”. “Chức

năng” và “cấu trúc” có thể tạo ra những liên kết về mặt văn hóa, xã hội thông

qua thời kỳ hợp tác về kinh tế [153, tr.7]. Chủ nghĩa khu vực đồng thời được

xem xét trên hai phương diện: mối quan hệ trong nội bộ khu vực giữa các

nước thành viên và quan hệ giữa khu vực với phần còn lại của thế giới (khu

vực đặt trong hệ thống toàn cầu) [136, tr.30].

Nhìn chung, một “khu vực” được nhắc đến trên nhiều lĩnh vực, từ kinh

tế, văn hóa đến chính trị, xã hội mà không cần dựa trên yếu tố về địa lý. Các

quốc gia tập hợp trong một khu vực để dàn xếp các mối quan hệ, giảm bớt

xung đột, điều hòa những khác biệt, chung sống hòa bình, theo đuổi các lợi

19

ích chung và cùng chống lại những kè thù chung. Vì vậy, chủ nghĩa khu vực

tồn tại cảm giác về một khu vực hoặc là một tập hợp các chính sách được sử

dụng để tạo ra và đẩy mạnh cảm giác đó. Các chính sách này được điều chỉnh

nhằm giảm thiểu sự khác biệt và tăng cường những điểm chung giữa các

thành viên trong khu vực. Chủ nghĩa khu vực cần được nghiên cứu như một

chỉnh thể các ý tưởng, bản sắc và ý thức hệ nằm trong tổng thể một cấu trúc

khu vực [153, tr.7]. Học giả Bruce M. Russett từng đưa ra 5 đặc điểm của chủ

nghĩa khu vực gồm: (i) sự gần gũi về địa lý, (ii) đồng nhất về xã hội và văn

hoá, (iii) chia sẻ các giá trị, chuẩn mực chung về chính trị, (iv) có quan hệ phụ

thuộc lẫn nhau về mặt chính trị và (v) phụ thuộc về kinh tế [149]. Tuy nhiên,

trong bối cảnh hiện nay, các đặc điểm này đã không còn phù hợp. Theo những

đặc điểm trên thì Đông Á, Đông Nam Á hay châu Á – Thái Bình Dương khó có

thể xem là một khu vực, đồng nghĩa với đó chủ nghĩa khu vực không tồn tại ở

những nơi này. Một số học giả chỉ công nhận đặc điểm sự gần gũi về mặt địa lý

khi định nghĩa khu vực. Dựa trên luận điểm này, chủ nghĩa khu vực được xem

xét trên khía cạnh tăng cường hợp tác kinh tế, chính trị, quân sự giữa các quốc

gia gần gũi với nhau về mặt địa lý [126, tr.3-4]. Các quốc gia ở gần nhau có xu

hướng sẵn sàng cùng nhau tạo dựng mối quan hệ hợp tác ở cấp độ khu vực.

Làm như vậy, mối quan hệ giữa các nước sẽ được tăng cường và vị thế được

nâng lên so với quan hệ của từng nước riêng lẻ với các nước bên ngoài khu

vực. Cần khẳng định rằng sự gần gũi về mặt địa lý là một đặc điểm quan trọng,

có tính thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển chủ nghĩa khu vực nhưng

không phải là đặc điểm cơ bản duy nhất của khu vực và chủ nghĩa khu vực.

Khu vực là một nhóm các quốc gia cùng chia sẻ những đặc tính chung.

Những đặc tính chung này là điều kiện tiên quyết để định hình khu vực thay

vì dựa trên yếu tố địa lý [126]. Theo hướng tiếp cận này, các yếu tố tạo thành

chủ nghĩa khu vực là: (i) quá trình khu vực hoá, (ii) các đặc điểm nhận diện

khu vực, (iii) hợp tác trong nội bộ khu vực, (iv) các quốc gia thành viên thúc

20

đẩy quá trình hợp nhất và (v) sự gắn kết nội khối [112, tr. 39-45]. Các yếu tố

này cho thấy quá trình khu vực hoá trước hết được xây dựng dựa trên đặc tính

chung của khu vực. Đặc tính này sẽ thúc đẩy sự thống nhất trong nội khối

nhằm tăng cường tính đoàn kết giữa các quốc gia trong khu vực. Sự gắn kết

trong nội bộ khu vực sẽ tác động đến quan hệ giữa khu vực này với khu vực

khác hay các quốc gia bên ngoài, đồng thời cũng ảnh hưởng đến khả năng xây

dựng thể chế hay các chính sách chung cho khu vực [112].

Theo các đặc điểm cơ bản của chủ nghĩa khu vực như nêu trên, có thể

thấy rõ châu Âu là một khu vực hội tụ đủ các yếu tố lý tưởng để chủ nghĩa

khu vực phát triển. Gần gũi về địa lý, cùng chia sẻ những giá trị chung về xã

hội, văn hóa, chính trị, ràng buộc chặt chẽ về kinh tế là đòn bẩy để chủ nghĩa

khu vực ở châu Âu phát triển với sự ra đời và lớn mạnh của Liên minh châu

Âu (EU). Sự đồng nhất về xã hội, văn hóa, cùng trải qua những tổn thất trong

nội chiến, kiệt quệ về kinh tế khiến các nước trong khu vực dễ dàng đồng

thuận khi thực hiện các chính sách chung về kinh tế, tiền tệ, đặc biệt là các

chính sách an ninh, quốc phòng, lĩnh vực rất khó đạt được sự thống nhất giữa

các thành viên ở các khu vực khác.

Ngoài ra, một số yếu tố khác như năng lực quốc gia, vấn đề chủ quyền

và khả năng nắm quyền lãnh đạo của một quốc gia cũng cần được xem xét khi

phân tích chủ nghĩa khu vực. Lịch sử đã chứng minh năng lực của quốc gia

thành viên sẽ góp phần vào khả năng hình thành khu vực. Năng lực của các

quốc gia thành viên được coi là khả năng, nguồn lực, là yếu tố cốt lõi quyết

định sự sẵn sàng tham gia đóng góp, hợp tác trong nhóm/khu vực. Nếu một

quốc gia có đủ khả năng và sẵn sàng hợp tác, điều này cũng làm tăng cường

khả năng của cả nhóm/khu vực. Tuy nhiên, trong một khu vực, không thể

tránh khỏi có những thành viên không có hoặc không đủ năng lực và tự

nguyện hợp tác. “Năng lực” trở thành yếu tố cản trở quá trình hợp tác giữa

21

các quốc gia. Vấn đề này có thể thấy ở hầu hết các tổ chức khu vực hiện nay.

Lấy EU làm ví dụ, Cộng đồng than thép châu Âu (ECSC), nền móng đầu tiên

của EU ra đời với sáu quốc gia thành viên có năng lực quốc gia khá tương

đồng là Pháp, Tây Đức, Ý, Bỉ, Hà Lan và Luxembourg. Thành công của

ECSC thúc đẩy việc hình thành Cộng đồng Kinh tế châu Âu (EEC) và cuối

cùng được hợp nhất thành Cộng đồng châu Âu (EC). EC trải qua nhiều lần

mở rộng, đáng chú ý là trường hợp gia nhập của Hy Lạp. Ngay từ khi thành

lập, EEC đã rất chú trọng đến việc đánh giá năng lực kinh tế của các nước khi

xin gia nhập tổ chức. Hy Lạp mong muốn gia nhập EEC từ những năm 1950

nhưng do nền kinh tế còn kém phát triển so với các nước Tây Âu cùng với các

bất ổn chính trị (đảo chính quân sự năm 1967) nên quá trình đàm phán gia

nhập tổ chức của nước này kéo dài đến tận năm 1981, Hy Lạp trở thành thành

viên thứ 10 của EEC. Xét cho đến thời điểm hiện tại, cuộc khủng hoảng nợ

công châu Âu năm 2008 có xuất phát điểm từ Hy Lạp rồi lan đến Tây Ban

Nha, Bồ Đào Nha…, đều là những nước gặp phải nhiều khó khăn trong quá

trình gia nhập tổ chức khu vực do năng lực quốc gia liên quan đến điều hành

kinh tế, giải quyết các vấn đề chính trị - xã hội có nhiều điểm hạn chế. Ngoài

những khủng hoảng xuất phát từ trụ cột kinh tế, việc mở rộng EU đến 28

thành viên (năm 2013) cũng khiến EU phải đối mặt với nhiều vấn đề trong

việc triển khai các chính sách chung về đối ngoại, an ninh, quốc phòng.

Ngoài năng lực quốc gia, vấn đề chủ quyền cũng có tác động tương tự.

Chủ quyền quốc gia thường có ảnh hưởng kiềm chế với chủ nghĩa khu vực,

nhất là đối với các quốc gia nhạy cảm với vấn đề chủ quyền. Các nước lớn

thường muốn lợi dụng vấn đề này khi một nhóm ở cấp độ khu vực được thiết

lập nhằm phục vụ cho lợi ích các nước lớn, hướng tới mục tiêu nắm quyền

lãnh đạo ở khu vực. Kịch bản này xảy ra khi các cường quốc đóng vai trò

chính trong việc thiết lập các thể chế khu vực và đưa ra chương trình nghị sự,

22

các mục tiêu chung của khu vực thông qua các thể chế này [89, tr.34]. Tuy

nhiên, chủ nghĩa khu vực cũng có tác động tích cực, thúc đẩy quá trình hợp

tác giữa các quốc gia về kinh tế, an ninh, chính trị. Hơn thế nữa, hợp tác khu

vực cũng tăng cường công cuộc kiến thiết quốc gia và quá trình dân chủ hoá.

Thông qua việc xây dựng các chuẩn mực và giá trị chung, chủ nghĩa khu vực

có thể giúp kiềm chế và hợp thức hoá cách hành xử của các nước lớn và các

thể chế toàn cầu [89, tr.21].

* Hội nhập khu vực:

Theo các hướng tiếp cận trên, “chủ nghĩa khu vực” được sử dụng để nói

đến các hình thức, lĩnh vực hợp tác trong khu vực nói chung. Một khi chủ

nghĩa khu vực phát triển, nó sẽ thúc đẩy quá trình hội nhập khu vực diễn ra.

“Hội nhập khu vực” thường bắt đầu từ hợp tác trong lĩnh vực kinh tế. Hợp tác

trên các lĩnh vực khác diễn ra một cách tự nhiên trong sự vận động của quá

trình hội nhập khu vực. Các lý thuyết về hội nhập khu vực ra đời chủ yếu xuất

phát từ nhu cầu giải thích hiện tượng nhất thể hóa ở châu Âu. Vì vậy, khi xem

xét, phân tích, đánh giá hay đưa ra các dự báo về quá trình hội nhập châu Âu,

sử dụng các lý thuyết về hội nhập khu vực là thích hợp và có độ chính xác cao.

Hội nhập khu vực có đối tượng nghiên cứu là các tổ chức, thể chế chính

thức trong quan hệ quốc tế. Các chủ thể này hoạt động theo các nguyên tắc,

quy định cụ thể, dựa trên một quy trình hoạch định chính sách xác định,

hướng tới nhiều mục tiêu khác nhau, không chỉ dừng lại ở phát triển kinh tế

(như Cộng đồng Than thép châu Âu (ECSC), Khu vực mậu dịch tự do

ASEAN (AFTA)…) mà còn nhằm đảm bảo an ninh, chính trị trong khu vực

(ví dụ như Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu (OSCE), Liên minh Tây Âu

(WEU), …). Các thể chế chính thức này được hình thành dựa trên cơ sở hợp

tác cùng có lợi nhưng yêu cầu đảm bảo toàn vẹn chủ quyền quốc gia. Cho đến

thời điểm hiện nay, Liên minh châu Âu là tổ chức khu vực duy nhất có các thể

23

chế siêu nhà nước được các quốc gia thành viên ủy quyền một phần chủ

quyền quốc gia để hoạt động vì các mục tiêu chung trong một số lĩnh vực nhất

định. Chính sách đối ngoại và an ninh chung (CFSP), Chính sách An ninh

Quốc phòng chung (CSDP) là những sản phẩm của quá trình hội nhập khu

vực ở châu Âu được hình thành nhằm đảm bảo nền an ninh chung của các

quốc gia thành viên.

Các quốc gia có chủ quyền trong nỗ lực hội nhập khu vực thường phải

cố gắng vượt qua hai vấn đề cơ bản nảy sinh giữa các quốc gia cùng tham gia

vào quá trình này, đó là sự phân chia lợi ích không đồng đều và tính cam kết

thiếu bền vững. Theo hệ thống pháp luật quốc tế truyền thống, các quốc gia

đều có chủ quyền và không nhất thiết phải công nhận các thể chế siêu nhà

nước. Trong một hệ thống thế giới vô chính phủ, các quốc gia có thể hợp tác

với nhau thông qua các hiệp định song phương hay đa phương nhưng một khi

bối cảnh thay đổi, các điều kiện khách quan, chủ quan thay đổi, nếu nhận thấy

không còn phù hợp, ảnh hưởng đến chủ quyền, lợi ích dân tộc thì các quốc gia

hoàn toàn có thể từ bỏ các cam kết hợp tác này. Chính vì thế, các cam kết hợp

tác giữa các chủ thể nhà nước thường không ổn định nếu dựa trên nhận thức

truyền thống về chủ quyền quốc gia. Vấn đề còn nảy sinh trong quá trình thực

thi các cam kết. Việc đạt được các thỏa thuận hợp tác thường gặp khó khăn do

lợi ích giữa các quốc gia là khác nhau, sự phân chia lợi ích trong quá trình

triển khai các cam kết cũng không thể công bằng.

Để giải quyết tình trạng này, sự ra đời các thể chế thuộc Cộng đồng

châu Âu (EC), tiếp đó là Liên minh châu Âu (EU) được coi là một giải pháp.

Ủy ban châu Âu, Hội đồng châu Âu và Tòa án châu Âu (ECJ) thành lập là

những thể chế siêu nhà nước đầu tiên ở châu Âu. Hoạt động thông qua hình

thức bỏ phiếu đa số là một dạng thực thi một phần chủ quyền của các nước

thành viên. Nói cách khác, các quốc gia thành viên chấp nhận hy sinh một

24

phần chủ quyền của mình, ủy quyền cho các thể chế siêu nhà nước được

thành lập để triển khai các hoạt động chung mang tầm khu vực nhằm đạt được

các lợi ích chung đề ra trong quá trình hội nhập. Ủy ban châu Âu là một thể

chế độc lập, đại diện cho quyền lợi chung của Liên minh. Các lợi ích quốc gia

được thể hiện, cân nhắc trong Hội đồng. Tuy nhiên, với nguyên tắc bỏ phiếu

đa số quá bán1 của Hội đồng, không một quốc gia thành viên nào có thể

chống lại quyết định của Hội đồng. Dù vậy, để đảm bảo tính liên kết bền vững

trong nội bộ, các quyết sách luôn dựa trên mẫu số chung thấp nhất giữa các quốc

gia thành viên. Ngược lại, vai trò của Ủy ban châu Âu là làm thế nào để nâng

cao lợi ích chung giữa các bên. Điều này có ý nghĩa quan trọng, mang tính thúc

đẩy quá trình hội nhập trong nội khối Liên minh. Sự ra đời của các thể chế khu

vực như vậy đã khiến EU trở thành một sản phẩm của quá trình hội nhập khu

vực khác biệt so với các tổ chức khu vực tương tự. Chưa có một thể chế độc lập

nào đại diện cho lợi ích chung của tổ chức như Ủy ban châu Âu, đồng nghĩa với

việc chưa có tổ chức khu vực nào mà các quốc gia thành viên chấp nhận tuân thủ

các quyết định theo đa số như ở Liên minh châu Âu. Nói cách khác, EU đã thiết

lập được một nền quản trị siêu nhà nước [97].

Chủ quyền quốc gia không phải là vấn đề duy nhất nảy sinh khi thực

hiện các hành động tập thể trong quá trình hội nhập khu vực. Tương tự như

cách tiếp cận của chủ nghĩa khu vực, năng lực quốc gia và khả năng lãnh đạo

của một số quốc gia cũng là yếu tố tạo thuận lợi hoặc gây cản trở cho tiến

trình hội nhập. Trong trường hợp EU là một số quốc gia thành viên đóng vai

trò đầu tàu như Pháp, Đức, Anh, Ý. Đóng góp của các nước này về nguồn lực

tài chính, con người cũng như tính tiên phong trong việc giải quyết các vấn đề

đối nội, đối ngoại của Liên minh là một động lực không nhỏ trên con đường

1 Tiếng Anh: qualified majority voting (QMV)

phát triển của tổ chức này. Tuy nhiên, việc sử dụng sự nổi trội về sức mạnh

25

kinh tế, chính trị của mình để tác động đến quá trình triển khai các hành động

chung đương nhiên sẽ tạo nên thế bất bình đẳng giữa các quốc gia thành viên.

Tuy nhiên, khi tham gia vào quá trình hội nhập, các quốc gia đánh giá tính

hiệu quả của việc tham gia vào quá trình hội nhập có đạt được tính toán lợi

ích của mình hay không chứ không phải dựa trên sự “bình đẳng” giữa các

nước thành viên trong một tổ chức khu vực.

Dựa trên hướng tiếp cận về hội nhập khu vực như trên, có thể khái quát

một số yếu tố cơ bản hình thành và thúc đẩy quá trình hội nhập khu vực như

sau: (i) chủ nghĩa khu vực phát triển; (ii) có các thể chế khu vực chính thức;

(iii) tính cam kết của các quốc gia thành viên; (iv) nhận thức của các nước về

hiệu quả của quá trình hội nhập với tính toán lợi ích quốc gia.

Nhìn chung, khi nghiên cứu quá trình hội nhập của một thể chế khu vực

đặc biệt như Liên minh châu Âu, tổ chức đã đạt đến cấp độ hội nhập sâu thì

quá trình hội nhập này được coi là tiến trình nhất thể hóa ở châu Âu. Từ một

đồng tiền chung, thị trường chung, một không gian tự do đi lại cho công dân

các quốc gia thành viên đến một chính sách đối ngoại, an ninh chung, EU

đang từng bước nỗ lực để trở thành một chủ thể hoàn chỉnh trong quan hệ

quốc tế, là một tổ chức siêu quốc gia đầu tiên có các công cụ thể chế đủ mạnh

để điều tiết các quan hệ nội khối và khẳng định vai trò trong nền chính trị

quốc tế hiện đại. Kết hợp các cách tiếp cận của chủ nghĩa khu vực và lý

thuyết về hội nhập khu vực sẽ giúp giải thích một cách thấu đáo quá trình phát

triển của tổ chức, đánh giá tính khả thi của các hành động chung và vai trò,

triển vọng của tổ chức đặt trong tổng thể sự phát triển của toàn khu vực.

1.1.2. Tiếp cận hội nhập khu vực qua một số lý thuyết

Quá trình hội nhập khu vực ở châu Âu là một hiện tượng độc đáo trong

quan hệ quốc tế. Cùng với xu hướng toàn cầu hóa, khu vực hóa, quá trình hội

nhập diễn ra sôi động khắp các châu lục, nhiều sản phẩm của quá trình này đã

ra đời, góp phần thúc đẩy sự phát triển của khu vực như Hiệp hội các quốc gia

26

Đông Nam Á (ASEAN), Liên minh châu Phi, Tổ chức hợp tác Vùng Vịnh…

Liên minh châu Âu là một trong số đó. Quá trình hội nhập ở các khu vực khác

thường diễn ra theo lối truyền thống, tức là hợp tác ở cấp độ khu vực giữa các

quốc gia có chủ quyền. Ở châu Âu, Liên minh châu Âu đã vượt lên trên cấp độ

hợp tác này, tạo ra những thể chế liên chính phủ đủ mạnh để điều tiết các hoạt

động của một tổ chức 28 nước thành viên với gần 512 triệu dân (tính đến năm

2017) [87]. Các quốc gia thành viên đã trao một phần chủ quyền cho các thể

chế chung, xây dựng EU trở thành một hệ thống chính trị có quyền đưa ra các

quyết định thay mặt cho toàn bộ các nước thành viên. Liên minh châu Âu trở

thành một trong những mô hình tiêu biểu của chủ nghĩa khu vực và quá trình

hội nhập khu vực. Các lý thuyết hội nhập hầu hết được phát triển để giải thích

đặc biệt cho trường hợp EU. Một số lý thuyết phổ biến được sử dụng trong quá

trình nghiên cứu sự vận động và phát triển của Liên minh nói riêng và khu vực

châu Âu nói chung là thuyết chức năng, thuyết thể chế, thuyết kiến tạo và

thuyết liên chính phủ.

1.1.2.1. Thuyết chức năng

Trong quan hệ quốc tế, thuyết chức năng tiên phong trong việc đưa ra

các lý thuyết về toàn cầu hóa, khu vực hóa. Không xem lợi ích tự thân của các

quốc gia là động lực phát triển như chủ nghĩa hiện thực, các nhà theo thuyết

chức năng tập trung vào các lợi ích chung mà các quốc gia cùng chia sẻ trong

tiến trình hội nhập toàn cầu. Thuyết chức năng xác định các mối quan hệ xã

hội có chức năng: (i) điều chỉnh các hành vi quan hệ của các thành viên trong

hệ thống; (ii) thu hút các nguồn lực bên trong hoặc bên ngoài; (iii) phân phối

nguồn lực cho các thành viên trong hệ thống; (iv) đáp ứng nhu cầu của các

thành viên trong hệ thống. Thuyết chức năng chủ trương các nước khi tham

gia vào hệ thống cần tuân thủ các quy tắc chung nhằm hạn chế xung đột.

Thuyết chức năng mới được các học giả Mỹ phát triển từ giữa những

năm 1950 nhằm lý giải cho các hình thức hợp tác mới trong khu vực xuất hiện

27

từ sau Thế chiến thứ hai. Với mục tiêu giải thích các quá trình hội nhập khu

vực trong quan hệ quốc tế nói chung nhưng thuyết chức năng mới lại có

hướng tiếp cận và phát triển trên nền tảng quan sát quá trình hội nhập kinh tế

và chính trị ở châu Âu, do vậy thuyết này phù hợp nhất để nghiên cứu các vấn

đề hội nhập của châu Âu hơn là các khu vực khác trên thế giới.

Thuyết chức năng mới chú trọng đến tiến trình hơn là kết quả của hiện

tượng hội nhập, tập trung nghiên cứu tác động của quá trình hợp tác và hội

nhập đến các vấn đề khác. Theo thuyết này, các hoạt động hội nhập kinh tế

dẫn đến nhu cầu thành lập một cơ chế/tổ chức để kiểm soát, thúc đẩy và xúc

tiến các hoạt động hợp tác. Thông thường, các cơ chế được thiết lập thường

hợp tác chặt chẽ hơn ở cấp độ chính trị. Từ đây, chủ nghĩa khu vực được hình

thành, tiến trình hội nhập bắt đầu từ những lĩnh vực đơn giản, dễ hợp tác và

các bên có lợi ích chung lớn nhất. Thành quả đạt được từ những hợp tác sơ

khai ban đầu là tiền đề để các bên tham gia quá trình hội nhập tiến tới hợp tác

trong các lĩnh vực khác (có tính chất phức tạp hơn). Hiện tượng hợp tác từ

lĩnh vực này sang lĩnh vực khác được các học giả theo trường phái chức năng

gọi là hiện tượng “lan tỏa”2. Hiện tượng này được dùng để mô tả cơ chế phát

triển của tiến trình hội nhập khu vực [145, tr.59]. “Sự lan tỏa” chính là hiệu

ứng domino của quá trình hội nhập [44, tr.81]. Đây cũng là một trong những

luận điểm cơ bản và quan trọng nhất của thuyết chức năng mới.

Học giả Ernst B.Haas đưa ra khái niệm “lan tỏa chức năng”3. Theo

Haas, sự hợp tác có hiệu quả trong một lĩnh vực sẽ tạo áp lực để các nước

tham gia quá trình hội nhập tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực liên quan

khác. Ví dụ điển hình cho hiện tượng này là lịch sử phát triển của EU. Liên

minh bắt đầu hình thành với khởi nguồn là Cộng đồng Than thép châu Âu

(ECSC) ra đời xuất phát từ nhu cầu hồi phục kinh tế của các nước châu Âu 2 Tiếng Anh: spill-over 3 Tiếng Anh: functional spill-over

28

sau Thế chiến thứ hai. Dựa trên thành công trong hội nhập kinh tế, một loạt

các sản phẩm của tiến trình hội nhập về kinh tế, xã hội được thiết lập như sự

ra đời của Cộng đồng Năng lượng nguyên tử (Euratom) năm 1957, thiết lập

Thị trường chung4 (1993), khu vực tự do đi lại Schengen (1995), khu vực

đồng tiền chung Eurozone (1999)… Dưới góc độ của thuyết chức năng, ý

tưởng xây dựng thể chế/bộ máy hợp tác ở cấp độ khu vực hay quốc tế đều

nhằm đáp ứng nhu cầu về chức năng (quản lý) [126, tr.6].

Bên cạnh sự lan tỏa về chức năng còn có sự “lan tỏa về chính trị”5. Sự

lan tỏa trong chính trị diễn ra khi tầng lớp lãnh đạo các quốc gia hướng tới

việc dùng sức mạnh của các thể chế siêu nhà nước để giải quyết các vấn đề

phát triển ở trong nước. Từ đó, chính sách của các nước được xây dựng, điều

chỉnh theo hướng liên kết chặt chẽ với nhau. Các quốc gia thương lượng với

nhau, nhất trí các điều khoản và cách thức hợp tác, hỗ trợ nhau phát triển, đôi

bên cùng có lợi. Việc khai sinh một lá cờ chung, một đồng tiền chung mang

tính biểu tượng, thể hiện ý chí chính trị sâu sắc của các nhà lãnh đạo Liên

minh trong việc thúc đẩy quá trình hội nhập ở khu vực.

Theo thuyết chức năng, quá trình lan tỏa chính trị diễn ra tự nhiên, là hệ

quả từ việc các quốc gia trao quyền cho các thể chế siêu nhà nước với mục

tiêu chung là xây dựng một nền kinh tế vững mạnh, đạt được nhiều thành quả

trong phát triển xã hội, nâng cao đời sống cho người dân. Hội nhập là công cụ

để thực hiện các mục tiêu này [123, tr.117]. Theo chủ nghĩa chức năng mới,

sự hội nhập, liên kết trong từng lĩnh vực sẽ tự thân vận động dẫn tới sự hình

thành một thực thể chính trị mới, trong trường hợp của EU là các thể chế đặt

4 Thực chất, EU đã thành lập “Thị trường đơn nhất” (Single market), là một dạng khác của khu vực thương mại tự do nâng cao hơn. Sử dụng thuật ngữ “thị trường chung” là cách dùng thông dụng. 5 Tiếng Anh: political spill-over

tại đầu não của Liên minh tại Brussels.

29

Lan tỏa về mặt chính trị có thể diễn ra từ cấp độ cao như các chủ thể

siêu nhà nước (ví dụ: Ủy ban châu Âu, Hội đồng châu Âu…) cho đến cấp độ

thấp hơn như các nhóm lợi ích của các quốc gia thành viên. Hiệu ứng này tạo

ra những áp lực nhất định cho quá trình hội nhập. Các nhóm lợi ích có thể tạo

ra sự hợp tác giữa các nhóm cùng chung mục tiêu của các quốc gia thành viên

khác và với các tổ chức quốc tế hoạt động trong cùng lĩnh vực. Sự hợp tác

hiệu quả giữa các chủ thể sẽ tạo động lực để giới tinh hoa của nhóm này thấy

sự cần thiết phải thúc đẩy, tăng cường quá trình hợp tác thông qua việc vận

động chính sách đối với giới hoạch định chính sách. Các học giả theo thuyết

chức năng mới cho rằng sự hình thành ngày càng nhiều các nhóm lợi ích

xuyên quốc gia là hệ quả tất yếu khi các thể chế siêu nhà nước ra đời.

Thuyết chức năng mới đã giải thích một cách thuyết phục quá trình

phát triển của Cộng đồng Than thép châu Âu và Cộng đồng châu Âu đến

những năm 1960, nhưng các lập luận của thuyết này không giải thích được

hiện tượng bất hợp tác giữa một số nước, gián đoạn quá trình hội nhập ở châu

Âu trong khoảng thời gian nửa sau thập niên 1960. Sự kiện “khủng hoảng

chiếc ghế trống”6 năm 1965 khiến dự báo của các học giả theo thuyết chức

năng về sự tăng cường mạnh mẽ trong hội nhập chính trị ở khu vực không

còn chính xác. Chủ nghĩa chức năng dường như không dự đoán được hướng

phát triển và cuộc cách mạng trong điều chỉnh bộ máy và cách thức hoạt động

của Cộng đồng châu Âu [130, tr.476]. Lindberg là một trong những học giả

đầu tiên tuyên bố rằng quá trình hội nhập có thể là “nguyên nhân gây ra căng

thẳng giữa các quốc gia” [145, tr.64] do đã xâm phạm đến quyền hạn của

chính phủ các nước. Thuyết chức năng mới đã đánh giá thấp tầm quan trọng

của chủ nghĩa dân tộc khi các nước tham gia vào quá trình hội nhập khu vực. 6 “Khủng hoảng chiếc ghế trống” năm 1965 khi Pháp phản đối phương pháp bỏ phiếu đa số của Hội đồng châu Âu, đề nghị quyền phủ quyết (veto) phải được duy trì trong EC, nếu không Pháp sẽ rút khỏi Hội đồng. Tình trạng này được giải quyết khi các nước ký kết hiệp ước Luxembourg (Luxembourg Compromise) vào tháng 1/1966.

30

Thực tế tình trạng châu Âu những năm cuối thập niên 1960 đã chứng minh sự

thắng thế của chủ nghĩa quốc gia dân tộc, kìm hãm tốc độ phát triển của chủ

nghĩa khu vực và quá trình hội nhập ở châu lục này. Cố gắng giải thích cho

giai đoạn trì trệ ở châu Âu, các học giả theo trường phái chức năng mới đưa ra

khái niệm “lan tỏa ngược”7, nhằm chỉ hiện tượng các nước điều chỉnh lại cấp

độ và phạm vi trao quyền cho các thể chế khu vực, có thể quay trở lại tình

trạng khởi điểm của quá trình hội nhập [145, tr.65]. Quá trình hội nhập trong

lĩnh vực sản xuất than ở châu Âu là một ví dụ. Sau năm 1958, ngành sản xuất

than tạo ra lượng lớn giá trị thặng dư và bắt đầu xâm phạm một số nguyên tắc

đã được các nước thống nhất từ trước, ECSC dần ít quan tâm hơn đến lợi ích

của các quốc gia thành viên trong ngành công nghiệp than. Khi các nguyên

tắc chung không còn được tuân thủ thì các nước có xu hướng giải quyết các

vấn đề phát sinh một cách đơn phương.

Vì vậy, khi sử dụng thuyết chức năng để nghiên cứu quá trình hội nhập

khu vực cần lưu ý: (i) vai trò định hướng của giới lãnh đạo không mang tính

quyết định trong quá trình hội nhập mà chỉ có ảnh hưởng thúc đẩy hoặc kiềm

chế quá trình này; (ii) tiến trình hội nhập ở châu Âu cần được đặt trong tổng

thể sự vận động của thế giới chứ không chỉ giới hạn trong khu vực châu Âu;

(iii) yếu tố “nhà nước” và “sự hợp tác ở cấp độ khu vực” cần được nghiên

cứu, phân tích như những thể chế liên chính phủ.

1.1.2.2. Thuyết thể chế

Theo quan điểm của các học giả theo thuyết thể chế, lợi ích và quyền

lực quốc gia có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Các thể chế ra đời nhằm điều

hoà quyền lực và dung hòa lợi ích của các chủ thể. Vì vậy, các thể chế còn có

chức năng giải quyết tranh chấp giữa các thành viên. Tuy nhiên, một khu vực

7 Tiếng Anh: spill-back

không nhất thiết phải có các thể chế như vậy trước khi nó đạt đến trình độ hội

31

nhập khu vực sâu. Thay vào đó, hội nhập khu vực có thể được thể hiện qua sự

hợp tác về chính trị, ngoại giao, thương mại, trao đổi các quan điểm học thuật

hay hợp tác giữa các hiệp hội [135, tr.12].

Quá trình hội nhập châu Âu diễn ra sôi động với nhiều thể chế được

hình thành phục vụ cho yêu cầu hội nhập ở mức độ cao. Từ Cộng đồng Than

thép châu Âu (ECSC), Cộng đồng Năng lượng nguyên tử châu Âu (Euratom)

đến Cộng đồng kinh tế châu Âu (EEC), Cộng đồng châu Âu (EC) và nay là

Liên minh châu Âu (EU) với bộ máy lập pháp, hành pháp ngày càng hoàn

thiện. Thuyết thể chế đánh giá cao tính hiệu quả của quy trình lập pháp và

hành pháp của EU. Ủy ban và Tòa án châu Âu (ECJ) cùng tham gia vào quá

trình giám sát và thực thi chính sách. Ủy ban có nhiệm vụ báo cáo tình hình

triển khai chính sách của các thành viên. Thành viên nào không tuân theo thỏa

thuận sẽ đối mặt với án phạt của ECJ. Ngoài ra, các học giả theo thuyết thể

chế còn đề cao vai trò của các thể chế trong các cuộc thương lượng mang tính

cải cách, được thực hiện trong các cuộc hội đàm liên chính phủ như Định ước

chung châu Âu từ những năm 1980 cho đến Hiệp ước Lisbon năm 2009. Các

thể chế đóng vai trò chủ trì, định hướng để các cuộc thương lượng này đạt kết

quả tốt đẹp. Sở dĩ vai trò của các quốc gia không được thuyết thể chế coi

trọng trong các cuộc đàm phán quốc tế bởi các học giả theo thuyết này cho

rằng trong đàm phán đa phương, các bên thường gặp khó khăn trong việc đạt

được những lợi ích chung với chi phí thương lượng thấp (hạn chế tối đa ảnh

hưởng đến các mục tiêu, lợi ích chiến lược). Ngoài ra, quá trình đàm phán còn

bị hạn chế bởi các bên gặp khó khăn trong vấn đề hợp tác. Không đồng thuận

được trong cách thức hợp tác cũng khiến các bên khó đạt được thỏa thuận cho

dù có đạt được điểm chung về lợi ích [50, tr.18-19]. Các vấn đề gặp phải

trong quá trình đàm phán có thể được giải quyết khi có một bên trung gian

nhìn rõ được vấn đề các bên gặp phải, dàn xếp các khó khăn và giúp các bên

32

cùng đạt đến mẫu chung lợi ích. Các chi phí lợi ích đặt ra trên bàn đàm phán

thường cao hơn kỳ vọng nên hầu hết các nước tham gia đều buộc phải dựa

vào khả năng phân tích, tổng hợp chuyên môn của Ban Thư ký Hội đồng và

Ủy ban để đưa ra quyết định [50, tr.258]. Tuy nhiên, không phải lúc nào các

thể chế cũng có ảnh hưởng quyết định đến kết quả đàm phán trong các vấn đề

cải cách hay trong các cuộc hội đàm quốc tế. Còn nhiều nhân tố khác tác động

đến quá trình đàm phán như bối cảnh đàm phán hay chiến lược của các nhân

tố lãnh đạo.

Thuyết thể chế xem quá trình hội nhập khu vực là một hiện tượng diễn

ra tự nhiên, không chủ đích. Lịch sử luôn vận động và hội nhập khu vực là hệ

quả tất yếu của quá trình vận động đó. Các tổ chức khu vực giúp định hình

phản ứng của một quốc gia trong khu vực với những thách thức mới [99,

tr.936-957]. Thuyết thể chế cũng đề cập đến khoảng cách phát triển giữa các

quốc gia thành viên như một yếu tố tác động đến quá trình phát triển của các

thể chế khu vực. Sự khác biệt về năng lực giữa các thành viên là điều không

thể tránh khỏi. Khoảng cách phát triển giữa các nước rất khó thu hẹp và chính

khoảng cách này tạo điều kiện để các thể chế khu vực phát huy vai trò của

mình trong định hướng và triển khai chính sách kinh tế, xã hội trong khu vực.

Vấn đề các quốc gia gặp phải trong quá trình phát triển ngày càng phức tạp,

khó giải quyết bằng nỗ lực riêng lẻ. Nhu cầu về một thể chế/khuôn khổ pháp

lý đủ hiệu quả để dàn xếp những khác biệt về lợi ích, giải quyết các vấn đề

một cách ổn thỏa để các bên cùng đạt được mục tiêu chung xuất hiện. Để làm

được như vậy, thể chế này cần có nguồn lực và các công cụ triển khai chính

sách hiệu quả, không thể thụ động dựa vào các nguồn lực và công cụ của các

thành viên. Yêu cầu thực tiễn khiến các thể chế cần được trao quyền tự chủ

nhiều hơn. Các thể chế ngày càng được hoàn thiện, sử dụng nguồn lực và công

cụ để gia tăng “quyền lực” của mình, hạn chế dần sự kiểm soát của các quốc gia

33

thành viên. Về phần các thành viên, các quốc gia tham gia vào thể chế khu vực

hiểu rằng các thể chế này chỉ có thể phát huy chức năng khi được trao quyền tự

chủ trong việc giải quyết các vấn đề mang tầm khu vực và quốc tế ngày càng trở

nên phức tạp. Vì vậy, trong bối cảnh đó, các thể chế khu vực như Ủy ban, Nghị

viện hay Tòa án châu Âu luôn tìm cơ hội để gia tăng quyền hạn của mình. Chủ

nghĩa chức năng mới đồng thời nhấn mạnh vai trò của các chủ thể siêu quốc gia

này trong các thành công của hội nhập khu vực.

Các nhà thể chế học xã hội khi nghiên cứu hội nhập khu vực chú trọng

đến các yếu tố như các giá trị, ý tưởng và bản sắc. Định dạng bản sắc châu Âu có

thể được giải thích qua lăng kính của thuyết thể chế. Thể chế khu vực, theo

thuyết thể chế, không chỉ đơn thuần đưa ra các nguyên tắc, quy trình hay các luật

lệ chung mà nó còn đưa ra những mô hình nhận thức chung có tác động đến

nhận thức về bản sắc và mục tiêu ưu tiên của các thành viên. Các nhà thể chế

học cho rằng hệ thống biểu tượng, nhận thức, nền tảng văn hóa sẽ tạo nên khuôn

khổ định hướng hành động của con người [86, tr.947-949]. Trong trường hợp

này, sự gần gũi về mặt văn hóa, nhận thức tương đồng về các giá trị xã hội giúp

các nước châu Âu xích lại gần nhau hơn. Sự gặp nhau về mặt lợi ích và các mục

tiêu phát triển kinh tế - xã hội làm nền tảng cho sự ra đời của các khuôn khổ hợp

tác khu vực, sau này được thể chế hoá, dần hình thành hệ thống biểu tượng

khẳng định bản sắc như một lá cờ chung, đồng tiền chung, khu vực tự do đi lại

chung trong châu Âu… Theo lý luận của thuyết thể chế, việc hình thành một

chính sách chung về đối ngoại, an ninh là điều tất yếu, nằm trong định hướng

xây dựng bản sắc và các giá trị chung.

1.1.2.3. Thuyết kiến tạo

Thuyết kiến tạo mang lại cách tiếp cận khác đối với một số chủ đề trọng

tâm của các lý thuyết quan hệ quốc tế như ý nghĩa của vô chính phủ và cân

bằng quyền lực, mối quan hệ giữa bản sắc và lợi ích quốc gia, phân tích khái

34

niệm quyền lực, và triển vọng thay đổi của chính trị quốc tế [111, tr. 171-

200]. Theo thuyết kiến tạo, văn hóa, ý tưởng, hệ tư tưởng và sự “xã hội hóa”

mang ý nghĩa quan trọng. Thuyết kiến tạo tập trung vào nội dung và xuất phát

điểm của lợi ích quốc gia và cơ cấu xã hội của nền chính trị thế giới [40, tr.

324-348]. Nguyên thủ quốc gia là nhân tố then chốt trong quan hệ quốc tế.

Tuy nhiên, các giá trị văn hóa và bản sắc gắn liền trong hoàn cảnh lịch sử có

thể tác động hoặc quyết định những ưu tiên chính sách của họ.

Thuyết kiến tạo chủ yếu nhấn mạnh vào các chuẩn mực và đặc tính chung

để giải thích hành vi của các quốc gia. Từ quan điểm này, hợp tác giữa các

quốc gia trong khu vực được coi là một quá trình xây dựng các chuẩn mực và

giá trị, dựa theo đó cách hành xử của các quốc gia cũng được điều chỉnh cho

phù hợp. Vì thế, các học giả theo thuyết kiến tạo coi chủ nghĩa khu vực là một

quá trình lấy việc xây dựng các chuẩn mực và giá trị làm xuất phát điểm, cơ sở

cho sự hợp tác và khu vực hoá. Các học giả theo thuyết chức năng mới và liên

chính phủ đều quan tâm đến yếu tố định vị bản sắc ở cấp độ khu vực, giải thích

sự chuyển giao giữa bản sắc quốc gia đến việc định hình một bản sắc liên quốc

gia, trong trường hợp Liên minh châu Âu là xây dựng “bản sắc châu Âu”.

Thuyết kiến tạo cho rằng thực trạng xã hội được xây dựng từ những

tranh luận về giá trị và bản sắc, ý thức hệ. Thay vì coi nhà nước là mặc nhiên

và giả định rằng nhà nước chỉ tìm cách để tồn tại, các học giả kiến tạo coi lợi

ích và bản sắc của nhà nước là sản phẩm mà những tiến trình lịch sử cụ thể có

thể dễ dàng tạo ra. Các học giả này tập trung sự chú ý vào những diễn biến

chính trong tư tưởng của xã hội bởi các diễn biến đó phản ánh và làm sâu sắc

thêm niềm tin và lợi ích, và tạo ra những nguyên tắc tiêu chuẩn định vị hành

vi được chấp nhận. Vấn đề bản sắc là quan điểm nền tảng cho hệ thống luận

điểm của thuyết kiến tạo. Theo các nhà lý luận kiến tạo, vấn đề chính của thế

giới sau Chiến tranh Lạnh là việc các nhóm khác nhau nhìn nhận bản sắc và

35

lợi ích của mình như thế nào. Mặc dù quyền lực vẫn còn thích hợp, thuyết

kiến tạo nhấn mạnh tới quá trình ý tưởng được hình thành và bản sắc được

xây dựng như thế nào, chúng phát triển ra sao, và tác động thế nào đến cách

quốc gia hiểu và phản ứng đối với hoàn cảnh của mình. Áp dụng hướng tiếp

cận này vào việc phân tích, đánh giá tính hiệu quả của tiến trình hội nhập

châu Âu trong lĩnh vực đối ngoại và an ninh, cụ thể là quá trình triển khai

CFSP, có điểm khác so với thuyết chức năng mới và thuyết liên chính phủ.

Theo hệ thống luận điểm của hai thuyết này, CFSP thể hiện sự hợp tác kém

hiệu quả giữa các thành viên EU do sự khác biệt về quan điểm và sự va chạm

về lợi ích. Thuyết kiến tạo không tập trung vào kết quả mà đánh giá quá trình

hình thành hệ thống các nguyên tắc, luật lệ chung, tiến trình hội nhập chuyển

thể thành các giá trị định dạng chung. Vì vậy, sự hình thành và phát triển của

một chính sách đối ngoại và an ninh chung của các quốc gia Liên minh châu

Âu cần được hiểu là sự tồn tại của các giá trị mang tính biểu tượng, thể hiện ý

chí hội nhập của châu Âu [117].

Khi lý giải các hiện tượng quan hệ quốc tế theo thuyết kiến tạo, các học

giả tập trung vào các giá trị, chuẩn mực và bản sắc. Thuyết kiến tạo thường

nhấn mạnh vào vai trò của “quá trình kiến thiết xã hội” của khu vực, hay nói

cách khác là quá trình khu vực hoá về văn hoá – xã hội. Sự tương tác giữa các

thành viên diễn ra rất đa dạng trong quá trình này, có thể thông qua các

chương trình trao đổi sinh viên, thúc đẩy giao lưu văn hoá thông qua phim

ảnh, âm nhạc, thời trang, quảng bá du lịch… Những tác động, ảnh hưởng qua

lại trên nhiều lĩnh vực như vậy dần tạo ra sự tương đồng nhất định ở cấp độ

khu vực. Trên cơ sở sự tương đồng về các giá trị và bản sắc, quá trình hội

nhập khu vực được thúc đẩy. Chính sách Đối ngoại và An ninh chung (CFSP)

của EU là một biểu hiện của quá trình này. Thuyết kiến tạo cho rằng CFSP là

sản phẩm được định hình từ quá trình xây dựng các giá trị tương đồng về văn

36

hoá, xã hội và các giá trị an ninh chung. CFSP khẳng định “bản sắc chung”

của châu Âu. Các học giả của thuyết kiến tạo cho rằng CFSP là sự hội tụ của

chính sách đối ngoại của các quốc gia thành viên và giúp tăng cường cảm

nhận về một bản sắc chung mang tính quốc tế [178, tr.576-595].

1.1.2.4. Thuyết liên chính phủ

Thuyết liên chính phủ ra đời từ năm 1966 dựa trên quan sát thực tiễn

hiện tượng liên kết, hội nhập khu vực, đặc biệt là tiến trình nhất thể hóa châu

Âu. Thuyết liên chính phủ dựa trên nền tảng cơ bản của chủ nghĩa hiện thực

mới, coi nhà nước là chủ thể trung tâm trong nền chính trị quốc tế và có vai

trò chi phối tiến trình hội nhập khu vực. Stanley Hoffmann, một trong những

học giả tiêu biểu của thuyết này cho rằng nhà nước vẫn đóng vai trò trung tâm

trong quá trình hội nhập. Từ phản ứng của Pháp năm 1965 và của các thành

viên mới như Anh, Ai Len, Đan Mạch năm 1973 đã thể hiện sự hạn chế việc

trao quyền cho thể chế của Cộng đồng, các quyết định của EC cũng phản ánh

rõ ý chí của từng quốc gia thành viên. Haas và nhiều học giả sau đó như Paul

Taylor và William Wallace cũng tái khẳng định vai trò của chủ thể nhà nước

trong lý thuyết hội nhập khu vực.

Dựa trên quan sát diễn biến quá trình hội nhập khu vực châu Âu những

năm 1990, Andrew Moravcsik, một học giả có nhiều đóng góp cho sự phát

triển của thuyết liên chính phủ, đã đưa ra hướng tiếp cận mới khi kết hợp giữa

các luận điểm của chủ nghĩa tự do để giải thích quá trình hình thành các thứ tự

ưu tiên của các quốc gia thành viên và thuyết liên chính phủ để lý giải con

đường đàm phán ở cấp độ liên chính phủ để đi đến đồng thuận cuối cùng. Ông

cho rằng việc xây dựng thể chế dựa trên chia sẻ một phần chủ quyền của các

quốc gia thành viên là cách để đạt được “các cam kết đáng tin cậy”. Trong các

luận điểm của mình, Moravcsik mô tả sự hình thành các quyết sách của một thể

chế khu vực như một quá trình thương lượng lớn gồm ba giai đoạn: (i) các

37

quốc gia thành viên đưa ra các thứ tự ưu tiên, (ii) thương lượng/thỏa thuận ở

cấp độ liên chính phủ và (iii) sự lựa chọn của thể chế.

Giai đoạn thứ nhất là giai đoạn các quốc gia thành viên hình thành thứ

tự ưu tiên các lợi ích/mục tiêu đặt trong tổng thể chiến lược phát triển quốc

gia. Việc lựa chọn các mục tiêu này do giới lãnh đạo của từng quốc gia thành

viên quyết định, được thực hiện nội bộ, không có sự tham gia của thể chế

chung vào quy trình này. Tuy nhiên, các thể chế khu vực đưa ra các mục tiêu

phát triển chung mang tính định hướng để các quốc gia xác định các lợi

ích/mục tiêu riêng của mình. Như trường hợp EU, ở giai đoạn đầu phát triển,

EC/EU ưu tiên phát triển kinh tế. Các quốc gia thành viên cũng xác định các

mục tiêu phát triển kinh tế là mục tiêu ưu tiên khi tham gia đàm phán ở cấp

khu vực.

Giai đoạn thứ hai là giai đoạn thương lượng ở cấp độ liên chính phủ.

Các quốc gia cùng tham gia vào quá trình thương lượng với vai trò điều phối

của thể chế khu vực. Trong trường hợp EU, vai trò này thuộc về Ủy ban châu

Âu. Câu hỏi đặt ra là ở giai đoạn này, nhân tố nào có vai trò ảnh hưởng đến

kết quả của quá trình thương lượng? Vai trò của chủ thể quốc gia hay thể chế

siêu nhà nước? Theo Moravcsik, vai trò của của chủ thể quốc gia thường

thắng thế. Rõ ràng trong một tổ chức khu vực, năng lực của các thành viên

không đồng đều. Các nước lớn như Đức, Pháp, Anh… luôn có nhiều thứ đặt

trên cán cân đàm phán hơn. Vì vậy, trong hoàn cảnh này, các quyết định của

EU được đưa ra dựa trên ý chí của các quốc gia thành viên hơn là của Ủy ban.

Theo Moravcsik, ba nhân tố tác động đến kết quả của quá trình thương

lượng giữa các quốc gia thành viên gồm: (i) giá trị của các chính sách thay thế

đơn phương mà các quốc gia có thể dựa vào tình hình thực tế để sử dụng

quyền phủ quyết, quốc gia nào mong muốn hợp tác nhiều hơn thì sẽ nhượng

bộ hơn để đạt được lợi ích; (ii) giá trị của các liên minh thay thế, tùy thuộc

38

vào các nguy cơ để có thể rút lui, nguy cơ rút lui sẽ tạo áp lực lớn đối với các

quốc gia có lập trường cứng rắn; (iii) cơ hội đưa ra các “gói thỏa thuận”.

Moravcsik cho rằng trở ngại lớn khi đưa ra quyết định là cân nhắc đến việc

triển khai cam kết trong nước, nhượng bộ thường tổn hại đến lợi ích, vì vậy

các “gói thỏa thuận” được đưa ra là nỗ lực hạn chế những tổn thất [131, tr.63].

Với những lập luận như trên, có thể thấy rõ nguy cơ rút lui hay quyền phủ

quyết của quốc gia có tác động lớn đến quá trình thương lượng. Tuy nhiên, đó

là với những thỏa thuận lớn, những quyết sách mang tính lịch sử như các

Hiệp ước, Thỏa thuận chung về các khuôn khổ hợp tác, còn đối với những

chính sách liên quan đến quá trình hợp tác, vận hành nội bộ thì nhân tố kết nối

các thành viên, ở đây là các thể chế của tổ chức như Ủy ban châu Âu hay Tòa

án châu Âu (ECJ) đóng vai trò quan trọng hơn.

Cuối cùng, kết thúc quá trình thương lượng, các thể chế sẽ đưa ra quyết

định của mình. Kết quả được thông qua bằng hình thức bỏ phiếu nhất trí giữa

các thành viên hoặc các thành viên trao quyền cho các thể chế liên chính phủ

như Ủy ban hoặc Toà án châu Âu để tăng cường tính cam kết thực thi của các

thành viên khi tham gia vào thể chế khu vực. Thực tế, các quốc gia khi hợp tác

trực tiếp với nhau thường đối mặt với tình trạng một hay các bên không tuân

thủ theo thỏa thuận chung. Vì vậy, các nước quyết định trao một phần chủ

quyền của mình cho các tổ chức quốc tế, cho phép các tổ chức này điều phối

việc thực thi thỏa thuận chung, ràng buộc các bên tham gia bằng những “cam

kết đáng tin cậy” trong một khuôn khổ pháp lý là các hiệp ước quốc tế như

Hiệp ước châu Âu (TEU), Hiệp ước quy định các chức năng của EU (TFEU).

Quan sát diễn biến quá trình nhất thể hóa châu Âu, Moravcsik cho rằng

những thỏa thuận mang tính lịch sử như Hiệp ước Rome (1957) hay Hiệp ước

Maastricht (1992) không phải được tạo ra bởi sự lựa chọn hay quyết định của

các thể chế siêu nhà nước hay được hình thành một cách tự nhiên bởi sự “lan

39

tỏa” của quá trình nhất thể hóa diễn ra từ trước đó như lập luận của thuyết chức

năng mới mà nó là sự hội tụ một cách từ từ lợi ích chung của các quốc gia thành

viên lớn, có tầm ảnh hưởng nhất. Quá trình thương lượng các thỏa ước chủ yếu

xoay quanh những quốc gia thành viên này. Các thể chế khu vực được trao

quyền rất hạn chế, đến cuối cùng cũng tuân theo những gì các quốc gia thành

viên quyền lực thỏa thuận với nhau. Nói cách khác, nhân tố chính thúc đẩy quá

trình hội nhập châu Âu là ý chí các nước lớn trong khu vực như Đức, Pháp, Anh,

Ý… Kết quả quá trình thương lượng liên chính phủ thường phản ánh nhiều lợi

ích/mục tiêu ưu tiên của các nước này.

1.2. Cơ sở thực tiễn về hội nhập khu vực ở châu Âu

1.2.1. Lịch sử hội nhập khu vực ở châu Âu trước chiến tranh Lạnh

Do bối cảnh lịch sử, chủ nghĩa khu vực ở châu Âu phát triển tương đối

sớm hơn các châu lục khác, bắt nguồn từ lĩnh vực kinh tế, xã hội “lan toả”

sang các lĩnh vực chính trị, an ninh, quốc phòng.

Quá trình hội nhập ở khu vực bắt đầu từ cuối thập niên 1940. Liên

minh châu Âu ngày nay thường được gắn liền với xuất phát điểm là Kế hoạch Monnet8. Ngoại trưởng Pháp Robert Schuman, dựa trên Kế hoạch Monnet đã

kêu gọi đặt hai mặt hàng than và thép dưới sự quản lý của một cơ quan chung

với sự tham gia điều hành của Pháp và Đức. Công nghiệp than, thép là hai

mặt hàng chiến lược quan trọng, gắn chặt với công nghiệp chế tạo vũ khí và

những ngành công nghiệp nặng quan trọng khác thời điểm đó. Một cơ quan

quản lý chung được tạo ra bên cạnh việc đảm bảo ổn định cho thị trường than

thép còn nhằm mục đích kéo Pháp và Đức, hai cường quốc trong khu vực vốn

có những hiềm khích lịch sử hàng trăm năm qua xích lại gần nhau hơn.

“Châu Âu sẽ không chỉ thực hiện một lần và sẽ không chỉ thực hiện trong

8 Jean Monnet là cố vấn của Ngoại trưởng Pháp Robert Schuman, người chắp bút cho Bản tuyên bố chung Pháp – Đức, cơ sở hình thành Cộng đồng than thép châu Âu năm 1951.

phạm vi nhỏ (…) Việc xây dựng châu Âu sẽ được thực hiện một cách cụ thể để

40

tạo ra trước tiên là sự đoàn kết trong việc này. Với mục tiêu đó, chính phủ

Pháp đề nghị ngay lập tức đặt toàn bộ việc sản xuất than thép Pháp - Đức

dưới sự quản lý của một cơ quan cao cấp có thẩm quyền chung, trong một tổ

chức rộng và hoan nghênh sự tham gia của tất cả các nước châu Âu (…)

Chiến tranh Pháp - Đức sẽ không chỉ là không tưởng mà về vật chất cũng là

không thể xảy ra” [188]. Tuyên bố châu Âu 09/5/1950 được cụ thể hóa bằng

Hiệp ước thành lập Cộng đồng Than thép châu Âu (ECSC Treaty) được ký

kết vào 18/4/1951 bởi 6 thành viên sáng lập: Pháp, Đức, Bỉ, Luxembourg, Hà

Lan, Ý. Tư tưởng đoàn kết châu Âu xuất hiện. Châu Âu cần nắm trong tay sứ

mệnh của mình, hạn chế sự phụ thuộc vào những thế lực bên ngoài (ở đây

được hiểu là Mỹ, nước đã có sự can thiệp ngày càng sâu vào châu Âu thông

qua Kế hoạch Marshall).

Từ thành công của ECSC, các sáng lập viên mong muốn đưa mức độ

hợp tác tiến xa hơn trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, tiến tới một “thị trường

chung” cho phép sự di chuyển tự do của con người, hàng hóa, dịch vụ và vốn.

Cộng đồng Kinh tế châu Âu (EEC) và Cộng đồng Năng lượng nguyên tử châu

Âu (Euratom) ra đời theo Hiệp ước Rome (1957), khẳng định tính đúng đắn

của cách thức kiến tạo châu Âu theo định hướng hợp tác ở cấp độ khu vực mở

rộng trên nhiều lĩnh vực: “Việc tạo ra một sự đoàn kết như thế trong lĩnh vực

kinh tế phải dẫn đến những tương tác giữa các quốc gia châu Âu - những

quốc gia muốn một sự can thiệp về chính trị trong một thời gian nhất định”

[59]. Tuy nhiên, kế hoạch xây dựng châu Âu giai đoạn đầu phụ thuộc trực tiếp

vào xung đột Đông – Tây và đối đầu Xô – Mỹ trên phạm vi toàn cầu. Kế

hoạch này đồng thời bị hạn chế về mặt địa lý và địa chính trị, chỉ diễn ra trong

phần phía Tây của lục địa, khu vực tiểu châu Âu. Bên cạnh đó, cuộc khủng

hoảng dầu lửa và kinh tế 1973 đã quyết định thứ tự ưu tiên các mặt hợp tác

giữa các nước châu Âu, khuôn khổ hợp tác kinh tế và thương mại đã che lấp

khuôn khổ hợp tác ngoại giao chiến lược.

41

Tuy nhiên, khía cạnh hợp tác chính trị - quân sự không phải không

được đề cập đến. Hợp tác chính trị ở cấp độ khu vực manh nha từ cuối thập

kỷ 1940. Một điểm đáng lưu ý là cho đến thời điểm này, Đức vẫn bị coi là

mối đe doạ đối với an ninh khu vực. Năm 1948, năm nước gồm Anh, Pháp,

Bỉ, Hà Lan, Luxembourg đã có cuộc hội đàm tại Brussels bàn về quan hệ hợp

tác tương hỗ trước nguy cơ “Đức”. Hiệp ước Hợp tác về kinh tế, xã hội, văn hoá và phòng vệ tập thể (Hiệp ước Brussels)9 được ký kết sau đó. Bên cạnh

những mục tiêu về đảm bảo nhân quyền, các nguyên tắc dân chủ và tự do

chính trị, hợp tác với nỗ lực xây dựng Tây Âu thành cơ sở cho sự phục hồi

kinh tế của toàn châu Âu, Hiệp ước còn nhằm mục tiêu “…đưa ra những

bước đi cần thiết trong trường hợp nước Đức tái lập chính sách hiếu chiến”

[172, Lời mở đầu]. Điều 4 Hiệp ước nêu rõ: “Nếu một trong các bên trở

thành mục tiêu tấn công ở châu Âu, các bên còn lại sẽ hỗ trợ bằng toàn lực

quân sự và các hình thức cứu trợ khác, phù hợp với điều khoản quy định tài

điều 51 Hiến chương Liên hiệp quốc” [172, Điều 4]. Các bên đồng thời nhất

trí thành lập Hội đồng tư vấn, được triệu tập bởi yêu cầu của các nước tham

gia Hiệp ước nhằm “…tư vấn các bên trong bất kỳ tình huống nào có thể hình

thành nguy cơ đe doạ nền hoà bình, trong bất kỳ lĩnh vực nào nguy cơ này

phát sinh” [172, Điều 7]. Thực hiện Hiệp ước, một Hội đồng tư vấn gồm năm Bộ trưởng ngoại giao và Uỷ ban Quốc phòng phía Tây10 gồm năm Bộ trưởng

Quốc phòng của năm nước tham gia được thành lập. Chỉ sáu tháng sau, Tổ chức Liên minh quốc phòng phía Tây (WUDO)11 được thành lập (9/1948),

ngay sau sự kiện Liên Xô phong toả toàn bộ biên giới đường bộ với Tây Berlin

[150, tr.18]. Việc Hiệp ước Brussels có hiệu lực ngay lập tức đã cho nước Mỹ

9 Hiệp ước Hợp tác về kinh tế, xã hội, văn hoá và phòng vệ tập thể (Treaty of Economic, Social and Cultural Collaboration and Collective Self-Defence), còn gọi là Hiệp ước Brussels được ký kết ngày 17/3/1948, có hiệu lực từ 25/8/1948. Nguồn: Britannica Encyclopedia, https://www.britannica.com/event/Brussels-Treaty- European-history-1948 10 Tiếng Anh: Western Defense Committee 11 Tiếng Anh: Western Union Defense Organization

thấy quyết tâm và khả năng tổ chức phòng vệ của Tây Âu, khiến Mỹ nhanh

42

chóng mở rộng can dự ở châu Âu, đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo

an ninh Tây Âu. Trước khi WUDO được triển khai, tổ chức này được chuyển

giao vào khuôn khổ Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NAT), trở thành một phần

của Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) ra đời năm 1952. Hiệp

ước Brussels được ký kết đã tạo cơ sở, động lực cho các hoạt động hợp tác về

chính trị, quân sự ở khu vực về sau. Liên minh Tây Âu (WEU) thành lập năm 1954 cũng nằm trong khuôn khổ Hiệp ước này12.

Xung đột Bắc Nam trên bán đảo Triều Tiên tháng 6/1950 làm dấy lên

mối lo ngại kịch bản tương tự xảy ra với Đông Đức và Tây Đức. Cuộc tranh

luận về việc tái vũ trang Tây Đức và sự cần thiết thành lập Quân đội châu Âu

diễn ra sôi nổi trong Quốc hội Anh và Pháp, hai quốc gia đi đầu trong thúc

đẩy hợp tác khu vực. Không nhất trí về việc tái vũ trang Tây Đức, Thủ tướng

Anh Churchill trong một phát biểu trước Quốc hội nêu quan điểm về vấn đề

phòng thủ châu Âu: “… Trong thời gian ngắn nhất có thể, cần thiết lập một

rào chắn phòng ngự thực sự ở châu Âu. Anh và Mỹ phải triển khai lực lượng

lớn ở châu lục. Tôi bày tỏ sự phản đối với nước Đức. Pháp cần hồi sinh lực

lượng quân sự nổi tiếng của mình… Chúng ta nên có một hành động thực tế

và mang tính xây dựng bằng cách tuyên bố thành lập ngay lập tức một quân

đoàn châu Âu với một tư lệnh thống nhất… hướng tới sự kiểm soát đúng đắn

đối với nền dân chủ châu Âu, hợp tác một cách toàn diện với Mỹ và Canada”

[150, tr. 20]. Khác với Anh, Pháp cho rằng Tây Đức có quyền đóng góp vào

nền an ninh khu vực và “… vì một nền quốc phòng chung, Quân đội châu Âu

sẽ gắn kết hơn nữa các thể chế chính trị của một châu Âu thống nhất” [176,

12 Liên minh Tây Âu (WEU) được triển khai theo Hiệp ước Brussels sửa đổi, hoạt động từ năm 1955 đến năm 2011, có sự tham gia của 10 nước, gồm: Bỉ, Pháp, Đức, Hy Lạp, Ý, Luxembourg, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và Anh. WEU hợp tác chặt chẽ với NATO trong đảm bảo an ninh khu vực và trở thành cơ chế phòng vệ ưu tiên của EU từ những năm 1990.

tr. 57-58].

43

Với thành công bước đầu của Cộng đồng Than thép châu Âu (ECSC),

Pháp đề nghị tiến hành phương pháp tương tự trong lĩnh vực an ninh quốc

phòng, đặt quân đội châu Âu trong một tổ chức duy nhất, có một Cao Uỷ duy

nhất, thống nhất về trang thiết bị và tài chính, đặt dưới sự kiểm soát của một

thể chế quyền lực siêu nhà nước duy nhất, các quân đoàn Đức được sát nhập

từ từ vào cấu trúc này [150, tr.21]. Đề xuất của Pháp được nhắc đến với tên

gọi Kế hoạch Pléven được đưa ra thảo luận với các bên tham gia, gồm: Bỉ,

Cộng hoà Liên bang Đức, Pháp, Italia, Luxembourg và Hà Lan (Anh, Đan

Mạch, Bồ Đào Nha tham dự với tư cách quan sát viên). Hiệp ước Phòng thủ

châu Âu được ký kết vào 27/5/1952 [188] bởi sáu quốc gia thành viên ECSC.

Theo Hiệp ước này, Cộng đồng Phòng thủ châu Âu (EDC) được thành

lập, được coi là một tổ chức siêu nhà nước châu Âu, … siêu nhà nước về đặc

tính, có các thể chế chung, lực lượng vũ trang và ngân sách chung [150, tr.

22]. Hiệp ước đồng thời quy định các điều khoản cụ thể về nguyên tắc đảm

bảo an ninh khu vực và các thoả thuận hợp tác giữa EDC với NATO, Anh và

Mỹ. EDC được thể chế hoá, thành lập Hội đồng gồm đại diện của chính phủ

các thành viên nhằm hài hoà hoạt động của Uỷ ban thành viên13. Phiếu bầu

của Hội đồng phản ánh tỷ lệ đóng góp quân của các thành viên. Quân lực

được đóng góp từ các quốc gia thành viên, được tuyển chọn, huy động và

phân bổ bởi Uỷ ban thành viên. Hiệp ước có hiệu lực 50 năm từ ngày ký,

trong phạm vi lãnh thổ các quốc gia thành viên, nguồn lực có thể được sử

dụng để phòng vệ lãnh thổ châu Âu của các quốc gia khác ngoài EDC nhưng

là thành viên NATO. Như vậy, EDC đại diện cho lực lượng quân đội châu

Âu, nỗ lực định dạng nền phòng thủ châu Âu nhưng vẫn nằm trong phạm vi

13 Tiếng Anh: Board of Commissioners

của NATO.

44

Do còn nhiều quan điểm bất đồng giữa các thành viên về vấn đề tái vũ

trang nước Đức, Hiệp ước Phòng thủ châu Âu gặp nhiều khó khăn khi đưa ra

thông qua ở quốc hội các nước. Pháp tiếp tục lo ngại về mối nguy cơ “Đức”,

nghi ngờ khả năng ngăn chặn cuộc tấn công từ Liên Xô của lực lượng phòng

vệ châu Âu. Mặt khác, Pháp coi trọng khả năng chiến đấu và phòng vệ ở

những khu vực bên ngoài lãnh thổ, đặc biệt trong bối cảnh Pháp thất bại ở

Điện Biên Phủ (1954), yêu cầu nước này phải duy trì lực lượng quân đội quốc

gia. Quốc hội Pháp cho rằng EDC hạn chế khả năng này. Hiệp ước được

Quốc hội Hà Lan và Luxembourg phê chuẩn với tỷ lệ tán thành cao nhưng

gặp phải nhiều ý kiến trái chiều ở Ý và không dành đủ số phiếu tán thành ở

Pháp. Sau thất bại của sáng kiến EDC, Anh, cũng là một nước phản đối EDC,

đã kêu gọi các nước tham gia ký kết Thoả thuận Paris (10/1954)14. Theo Thoả

thuận này, các nước đồng ý sửa đổi Hiệp ước Brussels nhằm giải quyết những

vấn đề liên quan đến tái vũ trang nước Đức, nhất trí cho Đức và Ý tham gia

vào Hiệp ước sửa đổi. Tổ chức Liên minh quốc phòng phía Tây (WUDO) đổi

tên thành Liên minh Tây Âu (WEU) [188].

Quá trình hội nhập quốc phòng ở châu Âu bắt đầu từ khá sớm. Chỉ

trong vòng hơn 5 năm, nhiều hiệp ước và tổ chức khu vực về hợp tác an ninh

đã được ký kết: Hiệp ước Dunkirk (1947) về đồng minh và tương hỗ giữa

Anh – Pháp, Hiệp ước Brussels (1948) về hợp tác kinh tế, xã hội, văn hoá và

phòng vệ tập thể, sự ra đời của WUDO (1949), NAT (1949) và NATO

(1952). Ra đời trong bối cảnh như vậy nhưng EDC lại không được ủng hộ và

triển khai thành công. Có nhiều nguyên nhân dẫn tới sự thất bại của EDC:

Thứ nhất, EDC được định nghĩa như một “tổ chức siêu quốc gia châu

Âu, … hình thành các thể chế chung, ngân sách chung”, hướng tới một lực

lượng vũ trang chung, không chỉ dừng lại ở mức độ hợp tác hay cùng điều 14 Chín nước tham gia ký kết Thoả thuận Paris (10/1954) gồm: Anh, Pháp, Bỉ, Hà Lan, Luxembourg, Tây Đức, Italia, Mỹ và Canada.

45

phối [68]. Thể chế hoá cơ chế hợp tác quân sự tại thời điểm này là khá tham

vọng và vội vã. Ý tưởng của De Gaulles về việc hình thành một thể chế siêu

nhà nước có khả năng định hướng và triển khai các công việc một cách độc

lập thông qua nguyên tắc nhất trí, các hoạt động được giám sát bởi Toà án Tư

pháp. Theo quy trình này, các nước cần trao đổi về tất cả các vấn đề đối ngoại

và an ninh lớn [173]. Mô hình quản trị siêu nhà nước khó được các quốc gia

chấp nhận trong bối cảnh vừa bước ra khỏi chiến tranh không lâu, nền chủ

quyền và an ninh quốc gia trở nên mong manh, niềm tin dành cho các đối tác

và đồng minh chưa đủ cơ sở để công khai trao đổi về các vấn đề nhạy cảm,

liên quan trực tiếp đến an ninh quốc gia. Hơn nữa, ràng buộc trong cơ chế

EDC, các nước tham gia có thể bị hạn chế trong các hành động phòng vệ, đặc

biệt ở những khu vực bên ngoài biên giới lãnh thổ15. Trong giai đoạn này, các

nước có xu hướng thiên về các hoạt động tham vấn không chính thức. Ví dụ

điển hình cho xu hướng này là hoạt động được duy trì đều đặn của Nhóm

châu Âu (Eurogroup) gồm đại diện Bộ trưởng Quốc phòng các quốc gia châu

Âu trong NATO. Eurogroup nhóm họp bên lề kỳ họp thường niên của Uỷ ban

Kế hoạch quốc phòng NATO (DPC)16. Tuy không chính thức nhưng không

thể phủ nhận hoạt động của Nhóm đã góp phần thúc đẩy quá trình hợp tác

trong lĩnh vực quân sự giữa các quốc gia châu Âu. Eurogroup đã thống nhất

triển khai Chương trình Cải thiện nền quốc phòng châu Âu (EDIP)17 vào năm

1970, là chương trình bổ sung cho các chương trình quốc phòng quốc gia, với

tổng nguồn ngân sách huy động từ năm 1970-1975 lên tới 1 triệu đô la Mỹ

[150, tr. 31]. Nhiều nội dung trao đổi của Nhóm đã được văn bản hoá, xem

15 Thất bại ở Đông Dương, đỉnh điểm là trận chiến Điện Biên Phủ (5/1954) khiến nhiều chính trị gia Pháp lo ngại về khả năng bị hạn chế các hoạt động quân sự trong phạm vi EDC. EDC không được Quốc hội Pháp thông qua trong kỳ họp tháng 8/1954 [150] 16 Tiếng Anh: NATO’s Defense Planning Committee 17 Tiếng Anh: European Defense Improvement Program

xét và đưa vào chương trình nghị sự chính thức của NATO [141, tr. 291].

46

Thứ hai, nhu cầu hợp tác về an ninh quốc phòng tại thời điểm này chỉ

dừng lại ở mức độ các bên cam kết hỗ trợ, liên minh với nhau khi cần nhằm

đối phó với nguy cơ quay trở lại của phát xít Đức. Việc hình thành một lực

lượng vũ trang chung khiến các nước lo ngại về khả năng hợp thức hoá hoạt

động tái vũ trang nước Đức. Sáng kiến EDC đưa ra vào thời điểm này là chưa

thích hợp.

Thứ ba, sự hiện diện của Mỹ tại châu lục cùng với NATO được coi là

khuôn khổ hợp tác an ninh, quân sự ưu việt ở khu vực. Từ năm 1952, trên cơ sở

Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NAT), cùng với sự chuyển giao của WUDO

vào NAT, NATO ra đời và trở thành tổ chức thường trực, là cơ chế đảm bảo an

ninh duy nhất ở châu Âu. EDC trên danh nghĩa được trao thẩm quyền phòng vệ

tối ưu nhưng lại hoạt động trong khuôn khổ NATO, đảm bảo an ninh của các

thành viên thông qua việc “tham gia phòng vệ khu vực phía Tây trong khuôn

khổ Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương” [68]. Tư lệnh tối cao liên quân châu Âu

(SACEUR) của NATO có thẩm quyền và trách nhiệm giám sát, trang bị và

huấn luyện lực lượng, trong thời gian có chiến tranh, có toàn quyền và trách

nhiệm đối với lực lượng quân sự của tổ chức [150, tr. 22]. SAUCEUR được chỉ

định do Mỹ nắm giữ. Sau chiến tranh, châu Âu cần sự giúp đỡ từ Mỹ và dựa

vào ô bảo hộ của Mỹ như một tình huống bắt buộc. Như vậy, cùng với sự tham

gia của Mỹ trong NATO và cơ chế hợp tác liên chính phủ của tổ chức này,

EDC không được các quốc gia ủng hộ là điều dễ hiểu.

Trên cơ sở EDC, sáu nước sáng lập ECSC đồng thời đề xuất khởi động

tiến trình “Hợp tác chính trị” (EPC)18 ở châu Âu. Những đề xuất của Monnet,

Schuman và Pléven đều hướng tới mục tiêu thiết lập môi trường hợp tác chính

trị ở châu lục. Nhất thể hoá châu Âu về chính trị là một xu hướng bởi “trong

18 Tiếng Anh: European Political Cooperation

một thế giới các chủ thể kinh tế, chính trị ở cấp độ khu vực luôn chiếm ưu thế,

47

các quốc gia châu Âu không thể hy vọng tồn tại dựa trên sự độc lập về chính

trị hay kinh tế”19. Một châu Âu đoàn kết là “hết sức thiết yếu nếu châu Âu

muốn duy trì vị trí của mình, gia tăng ảnh hưởng và uy tín trên thế giới”20.

Tuy nhiên, những hệ luỵ của chiến tranh, các vấn đề xoay quanh nước Đức

khiến hợp tác về an ninh quốc phòng nói riêng và tiến trình hội nhập chính trị

nói chung ở châu Âu gặp rất nhiều khó khăn. Các quốc gia ECSC xác định

cần nhiều bước đi để xây dựng một châu Âu thống nhất, trong đó thống nhất

trên lĩnh vực kinh tế là mục tiêu đầu tiên. Dựa trên hướng tiếp cận như vậy

nên tiến trình hội nhập khu vực trong lĩnh vực đối ngoại, an ninh, quốc phòng

không đạt được nhiều bước tiến trong một khoảng thời gian dài. Các nước đều

rất thận trọng khi đề cập đến các vấn đề liên quan đến quốc phòng, phòng vệ

tập thể.

Tướng De Gaulle là một trong những cá nhân có tư tưởng ủng hộ tiến

trình hội nhập chính trị ở châu lục. Ông là người kêu gọi các thành viên EEC

cam kết tham gia các cuộc đối thoại và hợp tác về chính sách đối ngoại. Hội

nghị Thượng đỉnh EEC tại Bonn (1961), Đối thoại Fouchet (1961-1962) đã

chính thức đưa vấn đề hợp tác chính trị vào chương trình nghị sự. Những

tranh luận về khả năng hợp tác chính trị ở cấp độ khu vực được các thành viên

thảo luận, xoay quanh các vấn đề liên quan đến việc nên hay không nên thiết

lập thể chế siêu nhà nước, vấn đề phòng vệ tập thể bên ngoài khuôn khổ

NATO, sự cần thiết thành lập Uỷ ban Chính trị châu Âu (EPC)21… Với Kế

hoạch Fouchet, Tổng thống Pháp De Gaulle đề xuất EPC có trách nhiệm triển

19 “Tuyên bố về các nguyên tắc chính trị của Liên minh châu Âu” của Hội đồng quốc tế về phong trào châu Âu (28/2/1949) [150, tr. 26]. 20 Sau thất bại của EDC năm 1954, Ngoại trưởng nhóm sáu nước ECSC gặp nhau tại Messina, Italia tháng 6/1955, nghị sự về các vấn đề liên quan đến phát triển ECSC, đưa ra các chương trình hành động thúc đẩy tiến trình thống nhất châu Âu. Các bên đã ra tuyên bố chung, “Tuyên bố Messina”, trong đó nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thống nhất châu Âu [54]. 21 Tiếng Anh: European Political Commission (EPC)

khai một chính sách đối ngoại chung, từng bước thiết lập bộ máy tập trung

48

hoá trong nội bộ khối. EPC đưa ra quyết định trên nguyên tắc nhất trí, tất cả

các vấn đề lớn về chính sách đối ngoại cần được trao đổi, bao gồm cả khía

cạnh chính trị trong các vấn đề an ninh22. Kế hoạch này hướng tới mục tiêu

thiết lập mối quan hệ hợp tác liên chính phủ mở rộng sang lĩnh vực quốc

phòng, chính sách đối ngoại giữa các thành viên EEC [150, tr. 28-29]. Kế

hoạch Fouchet không nhận được sự đồng thuận của các thành viên và bị EEC

bác bỏ một năm sau đó.

Nhằm hiện thực hoá ý tưởng về một châu Âu thống nhất không chỉ trên

khía cạnh kinh tế mà còn trong các vấn đề đối ngoại, an ninh, quốc phòng, với

nỗ lực vận động trong nước, Tổng thống De Gaulle và Thủ tướng Konrad

Adenauer đã ký kết thoả thuận cho sự ra đời của Quân đoàn Pháp – Đức

(1963), đánh dấu sự nồng ấm trở lại của quan hệ hai bên, mở đường cho tiến

trình hợp tác an ninh giữa các quốc gia châu Âu. Đây cũng là điểm sáng duy

nhất trong hợp tác an ninh quốc phòng ở châu lục suốt gần năm thập kỷ sau

thế chiến.

Thập kỷ 1960, 1970 chứng kiến nhiều sự kiện gây bất ổn chính trị ở

châu Âu như khủng hoảng Bức tường Berlin (1961), khủng hoảng tên lửa ở

Cuba (1962), cuộc cách mạng “Mùa xuân Praha” ở Séc (1968) và nguy cơ

“cộng sản” từ chính quyền Xô Viết khiến các quốc gia EEC nhận thấy sự cần

thiết hợp tác về chính trị, quân sự ở cấp độ khu vực. Sau Đối thoại Fouchet,

nhiều nỗ lực thúc đẩy tiến trình hợp tác châu Âu tiếp tục được EEC thực hiện.

Hội nghị thượng đỉnh Hague (1969) đưa ra mục tiêu hợp tác toàn diện, sâu,

rộng giữa các quốc gia thành viên, trong đó đẩy mạnh quá trình thống nhất về

chính trị, “… mở đường cho một châu Âu đoàn kết có trách nhiệm với tương

lai của thế giới tương xứng với truyền thống và sứ mệnh của mình” [150, tr.

22 Tiếng Anh: unanimity

28-29]. Theo đó, Bộ trưởng Ngoại giao sáu nước EEC xây dựng Báo cáo

49

Davignon về tiềm năng hợp tác trong chính sách đối ngoại giữa các thành

viên. Sau Davignon, EEC thông qua nhiều báo cáo khác đề cập đến sự cấp

thiết xây dựng cơ chế hợp tác chính trị châu Âu, điều phối các hành động

ngoại giao trong các vấn đề quốc tế có ảnh hưởng đến quyền lợi của các thành

viên EEC, đề nghị cơ chế tham vấn bắt buộc đối với các thành viên trước khi

đưa ra bất kỳ sáng kiến về đối ngoại nào có khả năng ảnh hưởng đến các

thành viên khác.

Báo cáo Tindemans (12/1975)23 về khả năng thành lập Liên minh châu

Âu (EU) là một báo cáo đáng chú ý. Ông nhấn mạnh thực tế rằng “an ninh

của một quốc gia thành viên thực sự ảnh hưởng đến an ninh của các thành

viên khác. Không một chính sách đối ngoại nào có thể xem nhẹ các nguy cơ

hiện hữu hay tiềm tàng. Vì vậy, an ninh không thể nằm ngoài phạm vi của

EU… EU không thể hoàn thiện cho đến khi có được một chính sách quốc

phòng chung”24. Ông đề nghị các bên duy trì việc trao đổi thường xuyên quan

điểm về các vấn đề an ninh, quốc phòng, tạo cơ sở để các nước có thể đạt đến

sự tương đồng về tầm nhìn, khả năng phân tích, đánh giá các vấn đề phát sinh

trong lĩnh vực quốc phòng. Tindemans đồng thời đề cập đến khả năng các bên

hợp tác trong lĩnh vực sản xuất, trang bị vũ khí để giảm chi phí quốc phòng,

tăng cường tính độc lập và cạnh tranh của nền công nghiệp quốc phòng châu

Âu. EU cần có một “chính sách công nghiệp chung” [150, tr. 35-36]. Đây là

lần đầu tiên kể từ năm 1952 sau khi ý tưởng EDC ra đời và không thể triển

khai, khía cạnh an ninh quốc phòng được đưa trở lại vào tiến trình hội nhập

chính trị ở châu Âu. Trong suốt một thời gian dài (từ năm 1952 đến năm

23 Thủ tướng Bỉ Leo Tindemans trình bày báo cáo này trước EEC tháng 12/1975, trong bối cảnh cuộc khủng hoảng dầu lửa (1973) diễn ra ở châu Âu cho thấy tầm quan trọng của việc thống nhất tiếng nói chính trị giúp EEC có thêm sức nặng trên bàn đàm phán. 24 Tham khảo thêm tại: The European Defence Community (1954), The European Defense Treaty, Command Paper 9127, HMSO, London.

1975), EPC chủ yếu tập trung thảo luận các phương thức thúc đẩy hợp tác

50

trong lĩnh vực đối ngoại. Tuy nhiên, nhiều báo cáo, nghiên cứu cho thấy rất

khó tách biệt giữa các vấn đề an ninh, chính trị, kinh tế và quốc phòng. Không

thể phủ nhận mỗi quốc gia có sự khác biệt về tình hình nội bộ, tính toán chiến

lược, phạm vi ảnh hưởng, vì vậy cần “duy trì cách tiếp cận thực tế và linh

hoạt khi trao đổi các vấn đề trong hợp tác chính trị như chính sách đối ngoại,

các vấn đề liên quan đến khía cạnh chính trị của an ninh” [140, tr. 14-17].

Sau Tindermans, nhiều chính trị gia châu Âu đã lên tiếng ủng hộ việc

đưa an ninh quốc phòng vào tiến trình hội nhập chính trị khu vực, cho rằng

“…an ninh châu Âu cần được đảm bảo bởi hành động chung về chính sách

an ninh”, các thành viên cần “một chính sách đối ngoại chung”…, “phối hợp

triển khai chính sách an ninh” và thống nhất nhìn nhận vai trò của châu Âu

trong lĩnh vực này (đối ngoại và an ninh) nhằm đảm bảo các lợi ích sống còn,

bảo vệ sự độc lập và tăng cường an ninh của châu Âu [150, tr. 37]. Trợ lý Bộ

trưởng Quốc phòng Anh Denis Healey từng phát biểu rằng: “…Sự thống nhất

địa lý của châu Âu tự thân nó đã tạo ra những lợi ích chung chỉ có thể được

khai thác từ những chính sách chung” [141, tr. 291-293]. EPC đạt được bước

tiến mới khi được thể chế hoá trong Định ước chung châu Âu (SEA) ký vào

tháng 2/1986. SEA đặt tất cả những hiệp ước và các tổ chức/ủy ban chung của

châu Âu thành lập trước đây vào một cộng đồng chung nhất: Cộng đồng châu

Âu (EC). Ban Thư ký thường trực được thành lập và đặt tại Brussels, giúp

việc cho Chủ tịch Hội đồng, đưa ra mục tiêu cho chính sách đối ngoại của

châu Âu, bao gồm khía cạnh an ninh chính trị và an ninh kinh tế nhưng vẫn

ngoại trừ lĩnh vực quốc phòng. Sự độc lập của châu Âu, bảo vệ các nguyên

tắc dân chủ và quyền con người trở thành các mục tiêu cụ thể của EPC. SEA

nhất trí các bên có thể tham vấn lẫn nhau để thống nhất về các quan điểm

chính trị khi cần thiết [133].

51

Phản ứng của EC đối với chiến tranh Vùng Vịnh và cuộc khủng hoảng

ở Nam Tư (1990-1991) cho thấy vai trò hạn chế của Cộng đồng trong việc

tham gia giải quyết các vấn đề, sự kiện quốc tế do thiếu cả cơ chế hành động

và nguồn lực. EPC không thể phát huy được chức năng của mình do thiếu

công cụ triển khai, đặc biệt là nguồn lực quân sự25. EC nhận thấy sự cần thiết

hình thành một chính sách đối ngoại và an ninh chung, bao gồm cả khía cạnh

an ninh quốc phòng đối với sự tồn tại và phát huy ảnh hưởng của EC, nâng

cao vai trò của WEU bên cạnh NATO trong cấu trúc an ninh khu vực. Trên cơ

sở này, EU được thành lập, Chính sách Đối ngoại và An ninh chung (CFSP)

ra đời theo Hiệp ước Masstrict (1992), trở thành một trong ba trụ cột chính

của EU26. Nhiệm vụ Petersberg (Petersberg Task) do WEU khởi xướng

(6/1992) và tái khẳng định trong Hiệp ước Amsterdam (1997) đánh dấu bước

tiến lớn của quá trình hội nhập khu vực trong lĩnh vực quốc phòng. Nhiệm vụ

Petersberg sau đó được mở rộng, nâng cấp thành Chính sách An ninh Quốc

phòng châu Âu (ESDP)27, nhằm củng cố khía cạnh an ninh quốc phòng trong

CFSP. ESDP/CSDP trở thành một trụ cột quan trọng trong CFSP.

Như vậy, sự ra đời của CFSP và ESDP cùng với tuyên bố thành lập EU

là những bước đi thể hiện tiến trình hội nhập khu vực ở châu lục phát triển

theo cả chiều rộng và chiều sâu. Từ lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, hợp tác

giữa các quốc gia EEC/EC/EU đã mở rộng sang lĩnh vực đối ngoại, an ninh,

quốc phòng, từ hình thức Cộng đồng với cơ chế liên chính phủ, EC/EU được

thể chế hoá từng bước, bộ máy vận hành theo cơ chế siêu nhà nước dần hình

25 Trong cuộc khủng hoảng Nam Tư, EPC chỉ có 3 công cụ để thể hiện vai trò ảnh hưởng của EC, gồm: sử dụng sức mạnh ngôn luận nhân dân, đe doạ không công nhận về mặt ngoại giao và cấm vận kinh tế [150, tr. 45]. 26 Ba trụ cột của EU được xác định là: (i) các Cộng đồng, (ii) CFSP và (iii) hợp tác trong lĩnh vực tư pháp và nội vụ. 27 Chính sách An ninh Quốc phòng châu Âu (ESDP) được đổi tên thành Chính sách An ninh Quốc phòng chung (CSDP) theo Hiệp ước Lisbon (2009)

thành. Sau gần năm thập kỷ, CFSP, ESDP là kết quả của quá trình “lan toả

52

chính trị” xuất phát từ nhu cầu hài hoà lợi ích và điều phối quan hệ hợp tác

giữa các quốc gia trong lĩnh vực đối ngoại, an ninh và quốc phòng. Hiệu quả

triển khai CFSP, ESDP/CSDP quyết định mức độ hội nhập chính trị ở khu

vực. Vì vậy, phân tích, đánh giá thực tiễn triển khai các chính sách này giúp

xác định diễn biến tiến trình hội nhập chính trị, cụ thể trong lĩnh vực đối

ngoại, an ninh và quốc phòng ở khu vực.

1.2.2. Bối cảnh thế giới và khu vực sau Chiến tranh Lạnh

Chiến tranh Lạnh kết thúc, hệ thống hai cực sụp đổ đã tác động mạnh

mẽ đến nền chính trị quốc tế. Sự thay đổi về chủ thể, vai trò của các chủ thể,

trật tự tập hợp lực lượng và môi trường an ninh thay đổi có tác động đến tư

duy hoạch định chính sách của các nhà lãnh đạo trong bối cảnh mới. Một thế

giới đa cực/đa trung tâm hình thành, trong đó, Mỹ và các cường quốc kinh tế

như Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nga, Ấn Độ…, những chủ thể lớn

trong quan hệ quốc tế, ra sức tạo dựng ảnh hưởng về kinh tế, chính trị, xã hội

đến phần còn lại của thế giới. Ảnh hưởng mạnh mẽ của các chủ thể lớn trên

tất cả các mặt làm nảy sinh và thúc đẩy nhu cầu liên kết giữa các chủ thể có

thực lực yếu hơn. Các cường quốc muốn thể hiện vai trò của mình thông qua

việc tái cấu trúc hệ thống thể chế toàn cầu, trong khi các nước vừa và nhỏ

muốn liên kết với nhau để đạt được những thành công trong phát triển kinh tế

một cách nhanh chóng, đồng thời hướng tới một sự đảm bảo về an ninh thông

qua phòng vệ tập thể. Từ nhu cầu hợp tác này, hội nhập trở thành xu thế và

diễn ra mạnh mẽ ở nhiều khu vực. Nhiều tổ chức tập hợp các quốc gia theo

khu vực mở như Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Tổ chức Hợp

tác Vùng Vịnh (GCC), Liên minh châu Phi (AU)… ra đời và ngày càng nỗ

lực nâng cấp cơ chế hợp tác để gia tăng vai trò của mình như là một chủ thể

trong quan hệ quốc tế. Các tổ chức siêu quốc gia ra đời theo mô hình liên kết

khu vực ngoài nhu cầu phát triển còn nhằm tạo ra các chủ thể mới cân bằng

53

quyền lực với các cường quốc, hình thành một trật tự đa cực trong quan hệ

quốc tế đương đại.

Sau Chiến tranh Lạnh, tập hợp lực lượng dựa trên ý thức hệ không còn,

các nước theo “cực” Mỹ hay Liên Xô phải tìm lối đi riêng cho mình. Nhu cầu

phát triển tự lực về kinh tế buộc các nước phải tìm đến nhau, mở rộng quan hệ

thương mại như một đòi hỏi tất yếu. Chiến tranh Lạnh chấm dứt đồng nghĩa

với việc các nguy cơ an ninh mới xuất hiện. Một cuộc đối đầu giữa hai cực

tuy căng thẳng nhưng đe dọa về mặt an ninh tương đối rõ ràng, lợi ích quốc

gia khá nhất quán theo thời gian. Ngược lại, môi trường an ninh trong một

thế giới đa cực thường khó xác định và biến động không ngừng, là sự tổng

hợp của nhiều yếu tố bên trong và bên ngoài, bị tác động bởi những tính

toán chiến lược nhằm đảm bảo lợi ích quốc gia. Bản chất của an ninh cũng

thay đổi. An ninh có thể bị đe dọa bởi sự bất ổn về chính trị, xã hội trong nội

tại từng quốc gia, xu hướng li khai, xung đột tôn giáo, sắc tộc, khủng bố,

thiên tai, dịch bệnh, đói nghèo, nguy cơ tụt hậu… Các nguy cơ an ninh

truyền thống, phi truyền thống đan xen nhau khiến các quốc gia không thể tự

mình giải quyết tất cả những vấn đề này mà cần có sự hợp tác không chỉ với

một mà với nhiều quốc gia khác. An ninh quốc gia cần đặt trong tổng thể an

ninh khu vực, thậm chí toàn cầu.

Trật tự đa cực trong xu thế toàn cầu hoá, các quốc gia, ở cấp độ tập hợp

lực lượng cao hơn là các “cực”, có quan hệ phụ thuộc lẫn nhau trên phạm vi

toàn cầu [177, tr.12]. Các nước cần gia tăng sức mạnh tổng hợp để đối phó

với những thách thức vượt ra ngoài ranh giới đất nước. Sức mạnh của một

quốc gia không còn tùy thuộc chủ yếu vào sức mạnh chính trị, quân sự mà là

sức mạnh tổng hợp, trong đó sức mạnh về kinh tế có vai trò quan trọng. Kinh

tế và phát triển là nền tảng của an ninh theo quan điểm hiện đại [177, tr.59].

Nhu cầu phát triển, đặc biệt về kinh tế và yêu cầu đảm bảo an ninh, tạo môi

54

trường thuận lợi để phát triển là những yếu tố thúc đẩy quá trình hội nhập khu

vực, nền tảng cho chủ nghĩa khu vực phát triển. Hội nhập khu vực diễn ra

rộng khắp các châu lục.

Lục địa châu Âu sau Chiến tranh Lạnh cũng ảnh hưởng từ thay đổi

chung của bối cảnh thế giới. Mỹ và Liên Xô tuyên bố chấm dứt giai đoạn đối

đầu căng thẳng suốt hơn bốn thập kỷ đưa châu Âu thoát ra khỏi mối lo sợ về

một cuộc xung đột nóng quy mô lớn như Chiến tranh thế giới thứ hai. Trật tự

hai cực sụp đổ, các cường quốc ở châu lục như Đức, Anh, Pháp, Nga… thiết

lập trật tự đa cực ở khu vực. Tính chất môi trường an ninh khu vực có nhiều

thay đổi. Tương tự như phân tích nêu trên, cục diện đối đầu hai cực cho thấy

nguy cơ xung đột rõ ràng. Ngược lại, trong một hệ thống đa cực, nhiều tình

huống xung đột có thể xảy ra. Số lượng các “cực” càng nhiều, khả năng xảy ra

xung đột giữa các cực càng lớn. Đồng thời, xung đột cũng có thể nảy sinh giữa

các nước lớn và nước nhỏ hay giữa các nước nhỏ với nhau. Vì thế, khả năng

xảy ra chiến tranh ở hệ thống đa cực cao hơn hệ thống đơn cực [128, tr.5-56].

“Nền hoà bình dài lâu”28 kéo dài hơn bốn thập kỷ sau Thế chiến thứ hai

cùng với nhu cầu hợp tác kinh tế, khắc phục hậu quả chiến tranh ở châu Âu

tạo điều kiện thuận lợi để chủ nghĩa khu vực phát triển tương đối sớm hơn các

khu vực khác và đạt được nhiều thành tựu lớn về hội nhập trong lĩnh vực tài

chính, tiền tệ, thương mại, tư pháp… Sau chiến tranh Lạnh, cục diện khu vực

thay đổi, nhu cầu phát triển và tư duy an ninh của các quốc gia cũng thay đổi.

Sức mạnh kinh tế không còn đủ để các quốc gia đối mặt với những nguy cơ

an ninh hỗn hợp và mang tính toàn cầu. Cộng đồng châu Âu hướng tới một tổ

chức hợp tác khu vực được thể chế hoá, hội nhập sâu hơn trong các lĩnh vực

mang tính “bất khả xâm phạm” của quốc gia như đối ngoại và an ninh để xây

28 Thuật ngữ này lần đầu tiên được John Lewis Gaddis đề cập đến trong bài viết “Nền hoà bình dài lâu: Các yếu tố của sự ổn định trong hệ thống quốc tế thời hậu chiến”, đăng trên Tạp chí An ninh Quốc tế, Số 10 (04) phát hành năm 1986 [95].

dựng sức mạnh toàn diện trong tình hình mới.

55

1.2.3. Quan điểm của các thành viên chủ chốt về hội nhập trong lĩnh vực

đối ngoại và an ninh

Như đã nêu trên, trật tự đa cực được duy trì ở khu vực sau chiến tranh

Lạnh với các “cực”29 nổi lên như Đức, Pháp, Anh, Ý… Các quốc gia này khi

tham gia vào Liên minh châu Âu trở thành các thành viên chủ chốt, động lực

phát triển của khối. Khi EU mở rộng về phía Đông, các nền kinh tế lớn ở Đông

Âu trở thành những thành viên năng động và có tiềm lực trong Liên minh. Các

thành viên chủ chốt đóng vai trò quan trọng trong triển khai CFSP theo nhận

định của tác giả là Đức, Pháp, Ý và Ba Lan. Đức, Pháp, Ý là ba cường quốc có

tiềm lực quân sự nhất EU, trong đó Pháp có sức mạnh hạt nhân. Anh là nước thứ

hai nắm giữ sức mạnh hạt nhân trong khối, năng lực quốc phòng chỉ sau Pháp.

Tuy nhiên, do đã quyết định rời EU sau kết quả trưng cầu dân ý năm 2016 nên

quan điểm của Anh không được nêu ở đây. Ba Lan là một cường quốc ở Đông

Âu, năng lực quân sự đứng thứ 6 trong EU (thứ 22 trong bảng xếp hạng năng lực

quân sự toàn cầu) và có xu hướng tiếp tục tăng chi phí quốc phòng trong những

năm tới. Bên cạnh đó, cựu Thủ tướng Ba Lan giai đoạn 2007 – 2014, Donald

Tusk, hiện đang là Chủ tịch Hội đồng châu Âu hai nhiệm kỳ liên tiếp (2014 –

2019) nên quan điểm của Ba Lan, theo đánh giá chủ quan của tác giả, sẽ có giá

trị nhất định trong việc thúc đẩy tiến trình hội nhập về đối ngoại và an ninh, đặc

biệt trong lĩnh vực an ninh quốc phòng ở châu Âu.

1.2.3.1. Quan điểm của Đức

Hơn bất kỳ quốc gia thành viên nào, Đức là nước tạo động lực cho châu

Âu về việc xây dựng một chính sách đối ngoại và an ninh chung, một nền

quốc phòng chung, hướng tới một liên minh an ninh quốc phòng của châu Âu.

29 Để trở thành một cực trong hệ thống khu vực và quốc tế, một quốc gia phải có khả năng tự bảo vệ mình trước các quốc gia lãnh đạo trong hệ thống ở mức độ hợp lý [128].

Đức là quốc gia có đóng góp quân lớn nhất trong các nhiệm vụ triển khai theo

56

khuôn khổ CSDP, thể hiện cam kết rõ ràng của Đức với một chính sách an

ninh chung của châu Âu. Vì lý do lịch sử, nước Đức bị hạn chế sử dụng vũ

lực bởi hệ thống luật pháp của chính nước này. Các quy định này được bãi bỏ

sau khi nước Đức thống nhất năm 1990. Xuất phát từ bối cảnh đó, Đức luôn

mong muốn đảm bảo an ninh quốc gia và khẳng định vai trò ảnh hưởng thông

qua các cơ chế đa phương. Từ cơ chế hợp tác kinh tế làm nền tảng, Đức luôn

tạo động lực thúc đẩy hợp tác trong khu vực mở rộng và nâng tầm quan hệ

hợp tác trên nhiều lĩnh vực. Một Liên minh châu Âu đạt được mức độ hội

nhập sâu, trở thành một mô hình độc đáo duy nhất trên thế giới như ngày nay

không thể không nói đến vai trò tiên phong của Đức.

Theo quan điểm của Đức, CSDP có khả năng triển khai cả nhiệm vụ

quân sự và dân sự là một lợi thế so với cơ chế hợp tác của NATO. Đồng thời,

bao trùm CSDP, EU còn có thể triển khai các hoạt động hợp tác trên lĩnh vực

chính trị, ngoại giao và kinh tế trong khuôn khổ CFSP. Điều này tương quan

với hướng tiếp cận một cách toàn diện với khái niệm “an ninh mạng lưới”30

được đề cập lần đầu tiên trong Sách trắng về chính sách an ninh Đức năm

2006, kêu gọi các đối tác cùng xây dựng quan hệ hợp tác đa phương diện về

chính trị, ngoại giao, dân sự, kinh tế, hoạt động tình báo và các phương tiện

quân sự [166]. Bên cạnh đó, CSDP còn là một phương tiện để EU tăng cường

đoàn kết nội bộ. CSDP không thể thay thế NATO mà mang tính bổ trợ cho sự

tồn tại của NATO trong việc duy trì sự ổn định của nền an ninh khu vực.

Trước tình hình môi trường an ninh khu vực có nhiều đặc điểm khác với

10 năm trước, quan điểm của Đức về việc triển khai CSDP đã thay đổi theo

hướng thúc đẩy mạnh mẽ hơn. Trong Sách trắng về an ninh quốc gia Đức công

30 Tiếng Anh: networked security

bố năm 2016, Đức tiếp tục khẳng định cam kết với CSDP thông qua việc tham

57

gia vào các sáng kiến và cơ chế tư vấn ba bên “Weimar Triangle”31 với Pháp

và Ba Lan để phát triển, đẩy mạnh quá trình thực thi CSDP một cách hiệu quả

hơn. CSDP cần được các quốc gia thành viên tuân thủ theo các điều khoản

được quy định tại Hiệp ước Lisbon, tiến tới thành lập Liên minh Quốc phòng

và An ninh châu Âu. Để hướng tới mục tiêu này, CSDP cần chú trọng cải tiến

cơ chế triển khai, hợp nhất năng lực triển khai các nhiệm vụ quân sự và dân sự

và tăng cường sức mạnh của ngành công nghiệp quốc phòng châu Âu. Đức một

lần nữa nhắc lại cam kết của mình về khả năng thống nhất và kết nối các lực

lượng quân đội châu Âu [167, tr.71-76].

1.2.3.2. Quan điểm của Pháp

Là một trong sáu thành viên sáng lập EU, đồng thời là một trong hai

cường quốc duy nhất sở hữu sức mạnh hạt nhân trong khối, Pháp về tổng thể

ủng hộ các hành động quân sự tập thể và một chính sách an ninh quốc phòng

chung của châu Âu. Pháp là thành viên tích cực đưa ra nhiều sáng kiến nhằm

nâng cao năng lực quân sự của toàn khối. Tuy nhiên, Pháp có xu hướng sử

dụng sức mạnh quân sự để ngăn ngừa xung đột, trong khi EU, do đặc thù của

nền phòng vệ tập thể, thường ưu tiên giải quyết xung đột thông qua các giải

pháp chính trị và nỗ lực ngoại giao. Vì vậy, theo đánh giá của các nhà lãnh

đạo Pháp, cơ chế ngăn ngừa xung đột và giải quyết khủng hoảng của EU chưa

đạt được mức mà nước này mong đợi.

Giới quan sát đánh giá CSDP không đạt được nhiều bước tiến đáng kể

không chỉ bởi thái độ thờ ơ của một quốc gia thành viên là cường quốc quân

sự như Anh, hay quan điểm phụ thuộc vào NATO về đảm bảo an ninh quốc

gia của các thành viên khác mà còn bởi những thay đổi trong mức độ cam kết

của quốc gia đầu tàu như Pháp. Sự cam kết của Pháp dành cho EU, sự ủng hộ

của nước này dành cho CSDP và quá trình nhất thể hoá châu Âu là rất rõ ràng 31 “Weimar Triangle” là cơ chế tư vấn cấp bộ trưởng giữa Đức, Pháp và Ba Lan để tăng cường hợp tác giữa ba bên.

58

và ổn định trong nhiều thập niên. Trong Sách trắng của Pháp năm 2008, Pháp

từng tuyên bố “…muốn là nước đi đầu trong quá trình liên minh chính trị…

và sẽ nỗ lực vì một Liên minh châu Âu đoàn kết hơn, vững mạnh hơn với sự

hiện diện nhiều hơn nữa trong lĩnh vực an ninh và quốc phòng” [152, tr.18].

Thực tế, Pháp luôn là một trong những nước tiên phong trong các sáng

kiến nhằm đẩy mạnh hợp tác quốc phòng giữa các nước, đóng góp lớn về vật

chất, con người, ngân sách chung cho các nhiệm vụ quân sự, dân sự triển khai

trong khuôn khổ CSDP. Tuy nhiên, giới lãnh đạo Pháp đánh giá các hoạt

động quốc phòng an ninh do EU thực hiện chưa đạt được kết quả như kỳ

vọng. Chiến dịch EUFOR TChad là một ví dụ. Pháp là nước bỏ nhiều chi phí

nhất cho chiến dịch này (56% lực lượng quân và nhiều ủng hộ về cơ sở vật

chất khác) nhưng do phản ứng chậm và thiếu tính hợp tác từ các quốc gia

thành viên EU khác, chiến dịch bị chậm triển khai và cuối cùng thất bại. Thất

bại ở Chad khiến chính quyền Sarkozy vấp phải nhiều chỉ trích trong nước.

Cam kết của giới lãnh đạo Pháp với CSDP dần có nhiều điều chỉnh sau đó.

Trong Sách trắng năm 2013, Pháp không còn thể hiện sự lạc quan như trước

về tương lai CSDP. Nước này đề cập đến nhiều khác biệt về mục tiêu, lợi ích

an ninh quốc phòng giữa các thành viên và cho rằng những khác biệt này

“…có thể là nguyên nhân dẫn tới sự thiếu tin tưởng lẫn nhau, làm cho ý

tưởng nhất thể hoá nhanh chóng trở nên thiếu thực tế” [124, tr. 17] và “Châu

Âu dường như chưa sẵn sàng gánh vác trách nhiệm lớn hơn trong việc đảm

bảo an ninh cho châu lục và thế giới bất chấp sự ủng hộ của Mỹ. Trái lại,

nhiều nước thành viên còn đẩy chi phí quốc phòng xuống dưới 1% GDP”

[124, tr. 31]. Như vậy, Pháp nghi ngờ về khả năng nhất thể hoá EU trong lĩnh

vực an ninh quốc phòng cũng như việc đặt thứ tự ưu tiên cho các vấn đề quốc

phòng an ninh của các quốc gia thành viên khác. Mặt khác, Pháp có tiềm lực

quân sự và sẵn sàng triển khai các hoạt động quân sự khi cần, khác với EU

59

thiên về sử dụng “sức mạnh mềm”. Với nhận định này, sự sẵn sàng tham gia

triển khai CSDP của Pháp giảm dần, ít nhất là trong các chiến dịch quân sự là

điều dễ hiểu. Pháp thiên về lựa chọn giải pháp đảm bảo an ninh quốc gia

thông qua hợp tác song phương (ký riêng với Anh thoả thuận hợp tác an ninh

song phương Lancaster House tháng 11/2010) hay dành nhiều nguồn lực hơn

cho các hoạt động trong khuôn khổ NATO.

Sự ủng hộ của nước Pháp dành cho một nền phòng thủ chung châu Âu

đã giảm dần theo thời gian. Kết quả của những nhiệm vụ quân sự triển khai

trong khuôn khổ CSDP, điển hình như tại điểm nóng Libya năm 2011 hay Mali

năm 2013 chưa đáp ứng được yêu cầu của Pháp cùng với thực tế các hoạt động

quân sự chung thường nhận được nguồn quỹ eo hẹp từ ngân sách chung của

EU đã khiến Pháp công khai chỉ trích hoạt động kém hiệu quả của CSDP. Pháp

bày tỏ nghi ngại về khả năng thành công của chính sách an ninh quốc phòng

chung. Trên quan điểm này, Pháp buộc phải tìm các cơ chế hợp tác quân sự

khác để thực hiện các tính toán chiến lược và bảo vệ lợi ích quốc gia. NATO là

một lựa chọn ưu tiên. Trong Sách trắng về Quốc phòng và An ninh quốc gia

2013, Pháp nhận thấy “mối quan hệ đồng minh Đại Tây Dương đóng vai trò

quan trọng trong chiến lược an ninh quốc gia. Vì vậy Pháp tập trung nguồn lực

để tham gia đầy đủ vào cấu trúc quân sự của NATO… thể hiện trách nhiệm và

vai trò năng động của mình” [91] trong cấu trúc an ninh này.

Tuy nhiên, sau sự kiện Brexit, Pháp nhận thức được sự cần thiết hợp

sức cùng các quốc gia thành viên EU khác củng cố và tăng cường khả năng

phòng vệ của Liên minh khi Anh, một quốc gia vừa có sức mạnh hạt nhân vừa

là thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc rời bỏ khối. Pháp

ủng hộ CSDP, bao gồm cả sáng kiến “Hợp tác có cấu trúc bền vững”

(PESCO) và thành lập Quỹ Quốc phòng châu Âu (EDF). Trong Rà soát chiến

lược an ninh quốc gia năm 2016, Pháp nhắc lại ý định triển khai sáng kiến

60

“Tăng cường khả năng can thiệp bằng quân sự”32 với các đối tác có thực lực

quân sự và ý chí chính trị như Đức và Anh. Sáng kiến này đồng thời giúp phát

triển văn hoá chiến lược chung giữa các quốc gia thành viên, tạo cơ sở vững

chắc hơn cho các hành động chung trong tương lai [92]. Tổng thống

Emmanuel Macron, trong một phát biểu đã nhắc lại “tinh thần châu Âu”, kêu

gọi các quốc gia thành viên tăng cường hợp tác an ninh, quốc phòng với sáng

kiến thành lập Lực lượng phản ứng nhanh châu Âu đến năm 2020 hướng tới

một EU “thống nhất, đoàn kết và dân chủ thực chất” [168].

1.2.3.3. Quan điểm của Ý

Là nền kinh tế tầm trung trên thế giới, có tầm ảnh hưởng chính trị hạn

chế nhưng ở cấp độ khu vực, Ý là một cường quốc, nằm trong tốp năm quốc

gia thành viên có đóng góp cao nhất cho ngân sách EU nói chung và cho các

hoạt động quân sự tập thể của Liên minh nói riêng. Từ sau Thế chiến thứ hai,

quốc gia này trung thành với ngoại giao đa phương, xem chủ nghĩa đa phương

là một phương tiện để đạt được các mục tiêu chiến lược [152, tr.49]. Chính

sách ngoại giao Ý dựa trên hai nguyên tắc chính: ủng hộ các quan điểm của Mỹ

thông qua vai trò thành viên tích cực của NATO và ủng hộ tiến trình nhất thể

hoá châu Âu. Chính sách “chiếc ghế”33 được Ý áp dụng để khắc phục sự hạn

chế về năng lực chính trị của mình. Theo đó, sự can dự bền bỉ vào các cơ chế

liên chính phủ, hiện diện tại các diễn đàn, đối thoại được giới lãnh đạo nước

này ưu tiên, coi đây là một phương thức để tác động đến các quyết sách có ảnh

hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến lợi ích quốc gia. Với hướng tiếp cận này, Ý

tham gia vào các hoạt động gìn giữ hoà bình của Liên hiệp quốc, NATO và EU

vì ý thức được rằng tự thân quốc gia không thể đảm bảo sự ổn định và an ninh

của khu vực láng giềng, an ninh quốc gia được đảm bảo thông qua cơ chế đa

phương. Tham gia triển khai quân trong khuôn khổ CSDP từ năm 2003, Ý đóng 32 Tiếng Anh: European Intervention Initiative 33 Nguyên gốc tiếng Ý: politica della sedia (chair policy)

61

góp 14% ngân sách giành cho CSDP, sau Pháp và trên Đức, Tây Ban Nha, Anh

và Ba Lan (tính đến năm 2009) [161, tr. 7]. Tuy nhiên, trong những năm gần

đây, Ý có xu hướng giảm dần chi phí quốc phòng, từ 0,88% GDP năm 2014,

0,80% (2016), xuống còn 0,78% năm 2017 [162].

Ý vẫn đóng vai trò là thành viên tích cực của EU, ủng hộ và tham gia

vào các sáng kiến nhằm tăng năng lực quốc phòng của toàn Liên minh như

thành lập Quỹ Quốc phòng châu Âu, sáng kiến “Nâng cao năng lực trong hỗ

trợ an ninh và phát triển” (CBSD)34, cam kết thực hiện việc thiết lập Sở chỉ

huy thường trực của CSDP cho các hoạt động quân sự dưới sự kiểm soát của

các quốc gia thành viên. Ý đồng thời kêu gọi các thành viên chia sẻ lực lượng

quân đội hoặc các trang thiết bị quốc phòng làm cơ sở hình thành lực lượng

thường trực đa quốc gia của châu Âu. Đồng quan điểm với Đức, Ý đề nghị

thành lập nhóm các thành viên tiên phong đặt nền móng cho Liên minh Quốc

phòng châu Âu [181, tr.3].

1.2.3.4. Quan điểm của Ba Lan

Gia nhập Liên minh từ năm 2004, Ba Lan được đánh giá là một thành

viên mới năng động, tham gia tích cực vào quá trình hội nhập châu Âu trong

nhiều lĩnh vực, bao gồm các hoạt động an ninh quốc phòng như ủng hộ sáng

kiến cải tổ CSDP của Pháp; tham gia tích cực vào cơ chế ba bên “Weimar

Triangle” cùng Đức và Pháp; thúc đẩy quá trình triển khai Hiệp ước Lisbon,

đặc biệt trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng; nhất trí cao và tích cực tham gia

vào quá trình xây dựng bộ máy EEAS…

Ba Lan là nước có tiếng nói trong các nước Đông Âu và là một trong

những nước có tiềm lực quân sự lớn nhất trong khối. Trước cuộc khủng hoảng

chính trị ở Ukraine, Ba Lan quyết định tăng chi phí quốc phòng lên 2% GDP,

34 Tiếng Anh: Capacity building for Security and Development (CBSD)

trở thành nước châu Âu có tỷ lệ chi ngân sách quốc phòng cao nhất trong EU.

62

Sau hơn 13 năm gia nhập EU, nền kinh tế Ba Lan được hưởng lợi nhiều từ

các chính sách hỗ trợ phát triển dành cho các quốc gia thành viên của EU,

nâng cao hơn nữa tiềm lực phát triển quốc phòng của nước này. Nằm trong

tốp năm quốc gia có đóng góp cao nhất cho ngân sách EU bên cạnh Đức,

Pháp, Ý và Tây Ban Nha, Ba Lan được kỳ vọng có thể thay thế Anh vào

nhóm ba nước đầu tàu, động lực cho một CSDP có thực lực và hoạt động hiệu

quả hơn.

An ninh Ba Lan được đảm bảo dựa trên cơ sở xây dựng mối quan hệ

chặt chẽ với các cơ chế an ninh khu vực như EU và NATO, những cơ chế này

đi đôi với một mối quan hệ đồng minh xuyên Đại Tây Dương ổn định với Mỹ.

Trên hướng tiếp cận này, Ba Lan chủ động tăng cường cam kết với các hoạt

động trong khuôn khổ CSDP. Ba Lan nhận định rằng CSDP phát triển đồng

nghĩa với việc EU tăng cường năng lực phòng vệ và khả năng triển khai các

hoạt động xử lý khủng khoảng. Đồng thời, NATO cũng có vai trò quan trọng

cấu trúc an ninh khu vực do thế mạnh về năng lực quân sự và khả năng tác

chiến hiệu quả, điều mà CSDP còn hạn chế. Vì vậy, Ba Lan chủ động tham

gia vào cả hai cơ chế hợp tác an ninh này và kêu gọi mối quan hệ gắn kết hơn

nữa giữa hai tổ chức EU – NATO [152, tr.71].

Tiểu kết chương 1

Về cơ sở lý luận, mỗi thuyết đều có hướng tiếp cận khác nhau về cùng

một vấn đề. Để có góc nhìn đa chiều về hiện tượng hội nhập khu vực ở châu

Âu, cần xem xét trên quan điểm của nhiều trường phái lý thuyết quan hệ quốc

tế. Thuyết chức năng mới, kiến tạo, thể chế và liên chính phủ là những thuyết

được đánh giá là có độ xác thực nhất khi áp dụng phân tích quá trình hội nhập

ở châu lục này. Luận án chủ yếu sử dụng hệ thống quan điểm của thuyết chức

năng và thể chế, thuyết kiến tạo và liên chính phủ mang tính bổ trợ. Việc phân

63

tích, đánh giá quá trình hội nhập khu vực châu Âu về đối ngoại và an ninh nói

chung, cụ thể đối với trường hợp CFSP dựa trên các luận điểm sau:

(i) Hội nhập về đối ngoại và an ninh đóng vai trò quan trọng trong tiến

trình hội nhập khu vực nói chung, là thước đo mức độ thành công của tiến

trình này;

(ii) CFSP là biểu hiện của cấp độ hợp tác cao nhất đối với cơ chế hợp

tác khu vực, thể hiện bản sắc chính trị của EU. Hiệu quả triển khai CFSP,

ESDP/CSDP quyết định mức độ hội nhập chính trị ở khu vực;

(iii) Hội nhập khu vực là một quá trình xây dựng các chuẩn mực và giá

trị. Bản sắc và lợi ích quốc gia có mối quan hệ mật thiết, là yếu tố cần lưu ý khi

quan sát quá trình hội nhập khu vực.

Về cơ sở thực tiễn, hội nhập về đối ngoại và an ninh ở châu Âu đương

đại phát triển dựa trên ba nền tảng chính:

(i) Bối cảnh thế giới và khu vực có tác động thúc đẩy hoặc kìm hãm

quá trình hội nhập khu vực trong mọi lĩnh vực;

(ii) Nhu cầu phát triển và tư duy về an ninh thay đổi sau chiến tranh

Lạnh là cơ sở quan trọng để EU tiếp tục thúc đẩy tiến trình hội nhập, đưa tiến

trình này lên một tầm mức mới là hội nhập trong lĩnh vực đối ngoại và an ninh;

(iii) Ý chí chính trị của các quốc gia về hội nhập và mức độ hội nhập là

cơ sở thúc đẩy hoặc kìm hãm tiến trình hội nhập, đặc biệt quan trọng trong

trường hợp hội nhập về chính trị.

64

CHƯƠNG 2

NGHIÊN CỨU HỘI NHẬP KHU VỰC QUA CHÍNH SÁCH

ĐỐI NGOẠI VÀ AN NINH CHUNG CHÂU ÂU

2.1. Chính sách Đối ngoại và An ninh chung châu Âu

2.1.1. Nội dung chính sách

2.1.1.1. Mục tiêu chính sách

Các mục tiêu của CFSP đề ra trong Hiệp ước Liên minh châu Âu

(TEU) đến Hiệp ước Lisbon về cơ bản không thay đổi. Các hoạt động trong

khuôn khổ CFSP hướng tới các mục tiêu:

(i) Bảo vệ các giá trị chung, lợi ích cơ bản và độc lập của EU: đây là

một trong những mục tiêu ưu tiên và quan trọng hàng đầu của CFSP. Chính

sách Đối ngoại và An ninh chung châu Âu ra đời nhằm khẳng định một châu

Âu thống nhất toàn diện về mọi mặt, tạo ra một không gian kinh tế - chính trị

dân chủ, ổn định và phát triển.

(ii) Tăng cường môi trường an ninh của toàn Liên minh và của từng

quốc gia thành viên: từ khi ra đời cho đến nay, EU thường được đánh giá là

“gã khổng lồ về kinh tế” nhưng là “chú lùn về chính trị”, dẫn đến hạn chế

trong việc tự đảm bảo an ninh cho mình. Mặc dù đạt được nhiều thành tựu

đáng kể về hợp tác kinh tế, các chính sách xã hội (y tế, việc làm…), viện trợ

nhân đạo… nhưng EU vẫn chưa xây dựng được một cơ chế phối hợp hiệu quả

trong lĩnh vực an ninh. Các quốc gia thành viên EU đồng thời là thành viên

NATO vẫn quen dựa vào chiếc ô bảo hộ quân sự của tổ chức này. Từ năm

1999, Chính sách an ninh quốc phòng châu Âu (ESDP) được đề cập đến là

một phần quan trọng trong CFSP và dần được điều chỉnh để tăng cường hiệu

quả triển khai. Sự thay đổi tên gọi từ Chính sách An ninh Quốc phòng châu

Âu (ESDP) thành Chính sách An ninh Quốc phòng chung (CSDP) trong Hiệp

65

ước Lisbon một lần nữa khẳng định quyết tâm tăng cường hợp tác về an ninh,

quốc phòng trong nội khối EU.

(iii) Duy trì hoà bình và đảm bảo an ninh quốc tế: việc duy trì hoà bình

và đảm bảo an ninh quốc tế được coi là nghĩa vụ quốc tế của EU – một chủ

thể trong quan hệ quốc tế. Gìn giữ hoà bình và an ninh quốc tế phải dựa trên

nguyên tắc của Hiến chương Liên hiệp quốc: các nước bình đẳng về chủ

quyền, tôn trọng và làm tròn nghĩa vụ quốc tế, giải quyết hoà bình các tranh

chấp quốc tế, không dùng vũ lực và đe doạ dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế.

EU hiện thực hoá nghĩa vụ quốc tế của mình bằng các nhiệm vụ cụ thể nêu rõ

trong “Nhiệm vụ Petersberg”35. Nhiệm vụnày là một phần của ESDP/CSDP,

tập trung vào tăng cường sức mạnh trụ cột thứ hai của EU – Chính sách Đối

ngoại và An ninh chung. Từ những nhiệm vụ ban đầu được đề ra là: “…cứu

trợ nhân đạo, gìn giữ hoà bình, triển khai lực lượng thực địa với nhiệm vụ

quản lý khủng hoảng và kiến tạo hoà bình” [80, Điều J.7], theo điều 28B của

Hiệp ước Lisbon, Nhiệm vụ Petersberg được mở rộng, gồm: “…các hoạt

động chung giải trừ quân bị, cứu trợ nhân đạo, cố vấn và hỗ trợ quân sự,

ngăn chặn xung đột, gìn giữ hoà bình, triển khai quân giải quyết khủng hoảng

gồm cả nhiệm vụ kiến tạo hoà bình và ổn định sau khủng hoảng. Tất cả

những nhiệm vụ này góp phần chống lại chủ nghĩa khủng bố, gồm cả việc hỗ

trợ nước thứ ba trong cuộc chiến chống khủng bố trên lãnh thổ nước đó”36.

(iv) Tăng cường hợp tác quốc tế: trong bối cảnh khu vực hoá, toàn cầu

hoá, nhu cầu hợp tác quốc tế là tất yếu. Các quốc gia dù lớn hay nhỏ, phát

triển hay đang phát triển đều phải đối mặt với các vấn đề an ninh truyền thống

và phi truyền thống, đòi hỏi cần có sự góp sức, phối hợp cùng giải quyết

thông qua hợp tác đa phương. 35 Tiếng Anh: Petersberg Tasks 36 “Nhiệm vụ Petersberg” được nêu trong Hiệp ước Liên minh châu Âu (TEU) chỉ gồm: “… nhiệm vụ cứu trợ nhân đạo, gìn giữ hoà bình và nhiệm vụ triển khai quân để giải quyết khủng hoảng, gồm cả nhiệm vụ kiến tạo hoà bình” [61].

66

(v) Tăng cường dân chủ, pháp quyền, tôn trọng nhân quyền và các

quyền tự do cơ bản: là một trong những mục tiêu quan trọng được EU đề ra từ

những ngày đầu thành lập và cũng là mục tiêu gặp nhiều khó khăn khi triển

khai thực tế. Dân chủ, pháp quyền, nhân quyền là những vấn đề mang tính tự

quyết dân tộc nên khi thực hiện ở cấp độ Liên minh sẽ rất dễ bị hiểu nhầm

hoặc bị lợi dụng để can thiệp vào chủ quyền quốc gia. Chính vì thế, EU thực

hiện mục tiêu này bằng cách cùng xây dựng những giá trị dân chủ chung,

hướng tới những lợi ích chung của các quốc gia thành viên.

Điều 3 khoản 2 TEU nêu rõ: Liên minh cam kết xây dựng cho người dân

“…một khu vực tự do, an toàn và công lý không có biên giới nội khối, người

dân được tự do di chuyển cùng với các biện pháp thích hợp nhằm kiểm soát

biên giới, vấn đề tị nạn, nhập cư và phòng chống tội phạm” [61]. Với Hiệp ước

Lisbon, các nhà lãnh đạo EU cam kết xây dựng một châu Âu dân chủ và minh

bạch hơn. Nghị viện châu Âu và nghị viện các quốc gia thành viên được trao

thêm quyền hạn, đặc biệt trong lĩnh vực lập pháp và các vấn đề nội bộ. Vai trò

của Nghị viện được tăng cường, tạo nhiều cơ hội hơn để tiếng nói của nhân dân

được lắng nghe. Đồng thời, dựa trên Sáng kiến công dân, công dân các quốc

gia thành viên có khả năng yêu cầu Hội đồng châu Âu đưa ra những đề xuất

chính sách mới. Hiệp ước Lisbon tái khẳng định “4 quyền tự do” của công dân

gồm: tự do di chuyển hàng hoá, dịch vụ, dòng vốn và lao động.

2.1.1.2. Quy trình hoạch định chính sách

Cấu trúc của CFSP theo Hiệp ước Amsterdam (1997) gồm các bộ phận

chính là Uỷ ban An ninh Chính trị (PSC), Uỷ ban Quân sự Liên minh châu

Âu (EUMC), Ban Tham mưu quân sự Liên minh châu Âu (EUMS):

- Uỷ ban An ninh Chính trị (PSC): Uỷ ban nhóm họp ở cấp độ Đại sứ,

chuẩn bị các nội dung làm việc cho Hội đồng. Chức năng chính của PSC là

theo dõi diễn biến tình hình thế giới, định hướng chiến lược và đề xuất các

67

chính sách trong khuôn khổ CFSP/CSDP, đảm bảo EU có những phản ứng

phù hợp trước các vấn đề quốc tế.

- Uỷ ban Quân sự Liên minh châu Âu (EUMC)37: là cơ quan phụ trách

lĩnh vực an ninh quốc phòng cao nhất trong Hội đồng, gồm Tổng Tham mưu

trưởng/Tổng Tư lệnh quân đội của các quốc gia thành viên. EUMC cung cấp

cho PSC các khuyến nghị về tất cả các vấn đề quân sự trong phạm vi EU.

- Ban Tham mưu quân sự Liên minh châu Âu (EUMS)38: EUMS gồm

các chuyên gia quân sự từ các quốc gia thành viên, có nhiệm vụ đưa ra các

cảnh báo sớm, phân tích, đánh giá tình hình, xây dựng các kế hoạch chiến lược,

đào tạo binh lính và hỗ trợ các đối tác. EUMS giúp việc trực tiếp cho EUMC.

Ngoài ra, giúp việc cho Đại diện cấp cao về CFSP có Đơn vị cảnh báo

sớm và lập kế hoạch chính sách39 và Trung tâm xử lý khủng hoảng40. Quy

trình hoạch định CFSP được quy định rõ ràng hơn trong Hiệp ước

Amsterdam, nhưng về tổng thể, cấu trúc CFSP cho thấy sự chồng chéo về

nhiệm vụ và trách nhiệm của một số bộ phận chuyên trách, ví dụ: PSC và

PoCo41 đều có chức năng khuyến nghị cho Hội đồng đối ngoại (GAC) về

CFSP/ESDP, EUMS và Trung tâm xử lý khủng hoảng đều có chức năng tham

vấn chuyên biệt về quân sự…42 Sự chồng chéo và chức năng, nhiệm vụ giữa

các đơn vị triển khai khiến CFSP bế tắc trong thực tiễn triển khai. Hiệp ước

Lisbon đưa ra nhiều sáng kiến để khắc phục tình trạng này.

EEAS, cơ quan duy nhất chuyên trách về chính sách đối ngoại và an

ninh chung của châu Âu, là cơ quan chịu trách nhiệm chính triển khai CFSP

đồng thời là đơn vị kiểm soát hoạt động của các phái đoàn châu Âu ở nước

ngoài. EEAS đưa ra các chính sách, khuyến nghị, giải pháp liên quan đến lĩnh 37 Tiếng Anh: European Union Military Committee 38 Tiếng Anh: European Union Military Staff 39 Tiếng Anh: Policy Planning and Early Warning Unit 40 Tiếng Anh: Situation Center/Crisis Cell 41 Tiếng Anh: Political Committee 42 Tham khảo thêm Bảng 1 “Cấu trúc CFSP/CSDP sau Tuyên bố St. Malo (1998)”

68

vực đối ngoại cũng như đảm bảo an ninh châu Âu để các thành viên bỏ phiếu.

Mặc dù hoạt động đối ngoại của EU được tập trung về một mối nhưng quy

trình ra quyết định vẫn giữ nguyên tắc đồng thuận để đảm bảo quyền tự quyết

của các quốc gia thành viên.

Quy trình ra quyết định các vấn đề thuộc CFSP tương đối khác so với

quy trình lập pháp của EU áp dụng đối với tất cả các vấn đề thuộc các lĩnh

vực khác. Ngay cả sau khi được sửa đổi bổ sung trong Hiệp ước Lisbon, quy

trình ra quyết định trong lĩnh vực CFSP vẫn được điều chỉnh bởi những

nguyên tắc, quy trình riêng. Quy trình này được Hội đồng châu Âu định ra và

triển khai một cách thống nhất (trừ những điểm Hiệp ước có quy định khác).

CFSP hoạt động theo cơ chế liên chính phủ và tuân theo nguyên tắc “nhất trí”43. Nguyên tắc này càng bộc lộ tính hạn chế khi EU tăng số lượng thành viên lên đến 12 và 2844 qua ba lần mở rộng. Nếu tiếp tục giữ nguyên tắc

này thì EU khó có thể đạt được sự thống nhất trong một lĩnh vực nhạy cảm

như CFSP. Tuy nhiên, dù có điều chỉnh thế nào trong khâu đưa ra quyết định

thì nguyên tắc nhất trí luôn là nền tảng cơ bản. Điều 28A Hiệp ước Lisbon

khẳng định nguyên tắc “nhất trí” trong các vấn đề quốc phòng: “Các quyết

định liên quan đến chính sách chung về an ninh và quốc phòng, bao gồm cả

việc triển khai nhiệm vụ dựa trên quy định tại điều này sẽ được Hội đồng

thông qua theo nguyên tắc nhất trí…hoặc dựa trên đề xuất của Đại diện cấp

cao về an ninh và đối ngoại” [86, tr. 37]. Đồng thời, “Đại diện cấp cao có thể

đề nghị sử dụng nguồn lực quốc gia và các công cụ của Liên minh kết hợp với

Uỷ ban khi cần thiết” [86, tr. 37]. Điều này giúp cải thiện tính minh bạch

trong quy trình ra quyết định.

Bên cạnh đó, Hiệp ước quy định Hội đồng có thể hành động theo đa số

đủ điều kiện khi thông qua quyết định xác định một hành động của Liên minh

hoặc thông qua một yêu cầu cụ thể của Hội đồng [61, tr.138]. Tuy nhiên, nếu 43 Tiếng Anh: unanimity 44 Anh tuyên bố rời khối năm 2016 và chính thức mất tư cách thành viên EU từ năm 2019, sau khi hoàn tất các thủ tục pháp lý. Từ năm 2019, EU có 27 quốc gia thành viên.

69

một thành viên của Hội đồng tuyên bố phản đối quyết định được thông qua

theo đa số đủ điều kiện vì những lý do liên quan đến chính sách quốc gia thì

Hội đồng sẽ đề nghị vấn đề đó được thông qua theo nguyên tắc nhất trí. Ngoài

ra, khả năng sử dụng quyền phủ quyết (veto) vẫn được duy trì. Tuy nhiên,

quốc gia thành viên phải đưa ra lý do hợp lý khi sử dụng quyền này. Yêu cầu

giải trình khi sử dụng quyền veto vẫn không ngăn được thành viên sử dụng

quyền này một khi quốc gia đó quyết tâm bảo vệ lợi ích của mình, bất đồng

với đa số.

Hiệp ước Lisbon tiếp tục duy trì quyền bỏ phiếu trắng mang tính xây

dựng. Quyền này cho phép một quốc gia thành viên không tham gia vào hành

động chung nhưng không cản trở việc thông qua quyết định, không được phép

hành động chống lại quyết định đã được Liên minh thông qua. Tuy nhiên, cơ chế

này không được sử dụng nếu số phiếu trắng chiếm 1/3 số phiếu trong Hội đồng

[61, tr.19].

Quyết định của Hội đồng về các lợi ích chiến lược và mục tiêu của Liên

minh có tính đến mối quan hệ của Liên minh với các quốc gia hoặc khu vực

cụ thể. Đại diện cao cấp của Liên minh trong lĩnh vực đối ngoại và an ninh và

cơ quan chuyên trách về đối ngoại của Uỷ ban châu Âu có thể đệ trình các đề

xuất chung lên Hội đồng. Trong trường hợp tình hình quốc tế đòi hỏi hành

động triển khai ngay, Hội đồng sẽ thông qua các quyết định cần thiết dựa trên

các mục tiêu, phạm vi, phương tiện và điều kiện triển khai của Liên minh. Bất

cứ khi nào một kế hoạch được thông qua ở cấp độ quốc gia hoặc hành động ở

cấp quốc gia căn cứ theo quyết định của Hội đồng thì quốc gia liên quan phải

cung cấp đầy đủ và kịp thời các thông tin liên quan và nếu cần thiết có thể

tham vấn trước Hội đồng.

Đại diện cấp cao về đối ngoại và an ninh (HR/VP) - người đứng đầu

EEAS, đồng thời là Phó Chủ tịch Uỷ ban, có trách nhiệm thường xuyên tham

vấn cho Nghị viện châu Âu về các vấn đề chính và những lựa chọn cơ bản của

chính sách đối ngoại và an ninh chung, đồng thời phải thông báo cho Nghị

70

viện biết tiến trình triển khai các chính sách này trong thực tế. Vị “Ngoại

trưởng châu Âu” này phải đảm bảo các quan điểm của Nghị viện đều được

cân nhắc trong quá trình hoạch định chính sách. Đồng thời, Nghị viện có thể

chất vấn Hội đồng hoặc đưa ra các khuyến nghị cho Hội đồng và Đại diện cấp

cao. Một năm hai lần, Nghị viện có thể tổ chức đối chất về quá trình triển khai

CFSP bao gồm cả CSDP [61, tr.19]. Với sự điều chỉnh này, Nghị viện châu

Âu và Nghị viện các quốc gia thành viên có thể tăng cường khả năng giám sát

đối với lĩnh vực đối ngoại và an ninh của khối.

2.1.1.3. Cơ chế hoạt động

Trước Hiệp ước Lisbon, cơ quan cao nhất đưa ra các quyết định định

hướng chính sách cho CFSP là Hội đồng và GAC. Chủ tịch Hội đồng là người

tham gia vào công việc quản trị hàng ngày, trong đó bao gồm CFSP. Tuy

nhiên, chức danh này được quy định luân phiên 6 tháng. Trong khi đó, Tổng

Thư ký Hội đồng lại đồng thời là Đại diện cấp cao (HR) về CFSP, nhằm đảm

bảo EU có tiếng nói thống nhất về các vấn đề quốc tế. Hiệp ước Amsterdam

quy định vai trò của HR trong việc “… hình thành, chuẩn bị và triển khai các

quyết định chính sách, và đại diện cho Hội đồng theo đề nghị của Chủ tịch tổ

chức đối thoại chính trị với bên thứ ba” [80, Điều 26]. Tuy nhiên, trong mỗi

vấn đề đều cần có sự thống nhất của tất cả thành viên. Đồng thời, các chính

sách trong phạm vi CFSP chịu sự chi phối của nhiều chức vụ khác nhau và bị

phân tán ở nhiều bộ phận (GAC, PoCo, PSC), không tạo được sự nhất quán

về chính sách và thống nhất trong triển khai. HR trong cấu trúc CFSP trước

Hiệp ước Lisbon thực chất chỉ mang tính chất biểu tượng, là người phát ngôn

về các vấn đề liên quan đến đối ngoại, an ninh hơn là người thực sự có tác

động đến chính sách.

71

Bảng 1: Cấu trúc CFSP/CSDP sau Tuyên bố St. Malo (1998)

Hội đồng châu Âu Nguyên thủ các QG thành viên

Uỷ ban châu Âu

Nghị viện châu Âu (chức năng tư vấn)

Hội đồng các v/đ chung – Các Bộ trưởng ngoại giao (Bộ trưởng Quốc phòng khi phù hợp)

Uỷ ban Chính trị (PoCo)

Uỷ ban Chính trị và An ninh

Đại diện thường trực (Coreper)

Tổng Thư ký/Đại diện cấp cao về CFSP

Tổng vụ trưởng Quan hệ đối ngoại

Nhóm chuyên gia về Quân sự - Chính trị

Uỷ ban xử lý khủng hoảng dân sự

Vụ trưởng Vụ khu vực và các v/đ thời sự

Ban Kế hoạch chính sách và Cảnh báo sớm

Trung tâm xử lý khủng hoảng

Uỷ ban Quân sự EU

Nhóm chuyên gia quân sự

Nhân viên quốc phòng EU

Nguồn: Trevor C. Salmon & Alistair J. K. Shepherd (2003), Toward a European Army – A Military Power in the Making?, Lynne Rienner Publishers, London

Hiệp ước Lisbon đã đưa ra một số điều chỉnh về mặt thể chế, cơ cấu tổ

chức nhằm khắc phục nhược điểm này:

(i) Chủ tịch thường trực của Hội đồng Bộ trưởng

Hiệp ước Lisbon cố gắng thay đổi sự thiếu liên tục của chức Chủ tịch

luân phiên 6 tháng bằng một vị trí Chủ tịch Thường trực trong Hội đồng Bộ

trưởng. Chủ tịch Thường trực được lựa chọn thông qua hình thức bầu cử đa số

tương đối45 với nhiệm kỳ 2,5 năm (điều 9B) [86, tr.19]. Vị trí này được thiết

lập nhằm tạo ra tầm nhìn xa và ổn định hơn đối với “sự chuẩn bị và đảm bảo

45 Tiếng Anh: qualified majority voting (QMV)

tính liên tục trong các công việc của Hội đồng châu Âu”, đồng thời cũng thể

72

hiện “tính đại diện về mặt đối ngoại của Liên minh trong lĩnh vực đối ngoại

và an ninh chung” [86, tr.19].

(ii) Điều chỉnh quyền hạn của chức danh Đại diện cấp cao về chính

sách đối ngoại và an ninh

Hiệp ước Lisbon điều chỉnh vai trò và quyền hạn của chức danh Đại diện

cấp cao của Liên minh về chính sách đối ngoại và an ninh (HR về CFSP). Cùng

với việc thống nhất các cơ quan phụ trách về chính trị, đối ngoại và an ninh,

quyền lực của HR không còn phân tán như trước đây mà tập trung về một mối.

Đồng thời, thay vì là Tổng Thư ký Hội đồng kiêm nhiệm, HR trong Hiệp ước

Lisbon đồng thời là Phó Chủ tịch Uỷ ban (VP). Chức danh này được gọi tắt là

HR/VP, tương đương Ngoại trưởng EU, có nhiệm vụ:

- Triển khai các chính sách đối ngoại và an ninh thay mặt cho Hội

đồng, chịu trách nhiệm về tất cả các hoạt động của Hội đồng quan hệ đối

ngoại [86, tr. 23]. Trước đây, Chủ tịch luân phiên là người chủ trì các phiên

họp của Hội đồng các vấn đề chung và quan hệ đối ngoại (GAERC). Đến

Hiệp ước Lisbon, Hội đồng này sẽ tách làm hai, HR/VP là người chịu trách

nhiệm hoạt động của Hội đồng quan hệ đối ngoại và Chủ tịch luân phiên tiếp

tục phụ trách Hội đồng các vấn đề chung [157];

- Tham gia vào quá trình soạn thảo CFSP, có quyền đưa ra các kiến

nghị, sáng kiến riêng hoặc phối hợp với Uỷ ban, có thể chất vấn Hội đồng và

triệu tập cuộc họp bất thường trong trường hợp khẩn cấp;

- Đóng vai trò đại diện cho EU trong các cuộc đối thoại chính trị với

bên thứ ba, thể hiện vai trò của Liên minh trong các tổ chức quốc tế và trên

các diễn đàn liên chính phủ;

- Có trách nhiệm điều hoà, tạo sự hài hoà về mặt quan điểm giữa các

quốc gia thành viên. [86, tr.28]

73

Đây là thay đổi có ý nghĩa quan trọng, nhằm tạo ra sự gắn kết hơn giữa

trụ cột thứ nhất và thứ hai, tạo ra “trụ” nối giữa Hội đồng và Uỷ ban bằng

cách đưa vai trò của vị Đại diện cấp cao về CFSP tại Hội đồng và Cao Uỷ

viên phụ trách đối ngoại trong Uỷ ban về một mối. Người được bổ nhiệm vào

vị trí Đại diện cấp cao về an ninh và đối ngoại phải được Hội đồng Bộ trưởng

(thông qua đa số tán thành) chỉ định với sự chấp thuận của Chủ tịch Uỷ ban

và sự đồng thuận Nghị viện. Bên cạnh đó, Đại diện cấp cao về đối ngoại và an

ninh còn là một trong các Phó Chủ tịch Uỷ ban Châu Âu. Với vai trò kiêm

nhiệm như vậy, HR/VP hành động với sự uỷ quyền của Hội đồng và chịu

trách nhiệm về mối quan hệ hài hoà, hợp tác giữa Hội đồng và Uỷ ban trong

việc xử lý các vấn đề đối ngoại (điều 9E) [86, tr.23].

(iii) Thành lập Cục hành động đối ngoại (EEAS)

Để hỗ trợ cho nhiệm vụ mới của HR/VP, Cục hành động đối ngoại châu

Âu (EEAS) được thành lập [86, tr.28]. EEAS tập hợp các chuyên viên từ Hội

đồng, Uỷ ban và các nhà ngoại giao của các quốc gia thành viên. EEAS phối

hợp hoạt động với các quốc gia thành viên và các thể chế khác, đặc biệt là

Nghị viện châu Âu và các nước thành viên cùng triển khai các hoạt động hỗ

trợ đối với nước thứ ba. Ngân sách của EEAS dựa trên dòng ngân sách từ Ban

Thư ký Hội đồng và Uỷ ban chuyển sang.

Ý tưởng thành lập EEAS được nêu trong Bản dự thảo Hiến pháp chung.

Sau khi cuộc trưng cầu dân ý tại Pháp và Hà Lan thất bại, EEAS tiếp tục được

đưa vào dự thảo Hiệp ước Lisbon với một vài điều chỉnh nhỏ nhưng vẫn giữ

chức năng chính của cơ quan này là triển khai các hoạt động trong phạm vi

CFSP, hỗ trợ HR/VP trong hoạch định chính sách, lên lộ trình và kế hoạch

hành động. EEAS hoạt động độc lập với Uỷ ban và Hội đồng, hỗ trợ Chủ tịch

Hội đồng và Chủ tịch Uỷ ban theo chức năng của hai cơ quan này trong lĩnh

vực đối ngoại. EEAS chính thức thành lập tháng 12/2009 và đi vào hoạt động

từ tháng 01/2011.

74

Bảng 2: Cơ cấu tổ chức của EEAS trung ương (cập nhật đến tháng 3/2018)

Nguồn: EEAS

75

(iv) Điều chỉnh quan hệ giữa Hội đồng – Nghị viện – Uỷ ban và vị trí

Đại diện cấp cao về đối ngoại và an ninh châu Âu trong CFSP

Uỷ ban châu Âu và Nghị viện châu Âu trong Hiệp ước Lisbon được

quy định thẩm quyền nghiêm ngặt, không được tham gia vào lĩnh vực nhạy

cảm như CFSP. Tuyên bố 14 của Hiệp ước Lisbon nêu rõ: “Các điều khoản

liên quan đến Chính sách Đối ngoại và An ninh chung không quy định quyền

đối với Uỷ ban trong việc khuyến nghị các quyết định hay tăng cường vai trò

của Nghị viện” [86, tr. 225]. Tuy nhiên, việc bổ nhiệm vị trí Đại diện cấp cao

về đối ngoại và an ninh cần có sự chấp thuận của Nghị viện châu Âu. Điều

này thể hiện Nghị viện dù sao vẫn có một sự kiểm soát dân chủ đối với vị trí

mới này. Đồng thời, cũng như trước đây, các quan điểm của Nghị viện, đặc

biệt các vấn đề về nguyên tắc có thể được đưa ra xem xét trước Hội đồng.

Đồng thời là Phó Chủ tịch Uỷ ban châu Âu, vị trí Đại diện cấp cao này

vẫn bảo vệ quyền lợi của Uỷ ban trước Hội đồng. Tuy nhiên, khoản 4 điều 18

Hiệp ước Liên minh châu Âu quy định Uỷ ban có quyền “được liên kết/phối

hợp chặt chẽ”46 trong việc triển khai các hoạt động đối ngoại và an ninh, Uỷ

ban có quyền đệ trình các kiến nghị liên quan đến CFSP lên Hội đồng, đến

Hiệp ước Lisbon thì Uỷ ban không còn quyền này. Điều 22 Hiệp ước Lisbon

có đề cập đến quyền Uỷ ban được đưa ra các chất vấn với CFSP nhưng cấp độ

liên đới của Uỷ ban đối với lĩnh vực an ninh và đối ngoại đã có phần hạn chế

hơn ở Hiệp ước Lisbon.

2.1.2. Công cụ thực thi chính sách

2.1.2.1. Công cụ thực thi Chính sách đối ngoại

* Chương trình đối tác (PI)47

Trong chính sách đối ngoại của mình, EU luôn chú trọng phát triển

quan hệ đối tác với các quốc gia, gồm các nền kinh tế hàng đầu thế giới và 46 Tiếng Anh: fully associated 47 Tiếng Anh: Partnership Instrument

76

các nước có vai trò quan trọng theo từng khu vực. Chương trình đối tác (PI)

của EU đặt mục tiêu thúc đẩy quan hệ song phương, đa phương giúp Liên

minh tăng cường các lợi ích chính trị, kinh tế, thực hiện các cam kết chính trị

và đối phó hiệu quả với các thách thức toàn cầu. Với chiến lược phát triển

châu Âu đến 2020, EU tập trung nguồn lực cho các hoạt động tăng cường

năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp nội khối, hỗ trợ công tác nghiên

cứu và sáng tạo, giải quyết vấn đề di cư cũng như các vấn đề mang tính toàn

cầu khác như an ninh năng lượng, biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường. PI

cũng dành ngân sách cho các hoạt động ngoại giao kinh tế, giúp EU nâng cao

khả năng tiếp cận với thị trường các nước đang phát triển, tăng cường cơ hội

giao thương, đầu tư của các doanh nghiệp EU với các nước này. [71]

Bên cạnh đẩy mạnh hợp tác với các nước thứ ba, EU vẫn cố gắng duy

trì tốt quan hệ song phương với các quốc gia và vùng lãnh thổ phát triển trên

thế giới, đặc biệt chú trọng khu vực Bắc Mỹ, Đông Á, Đông Nam Á, khu vực

vùng Vịnh. Việc duy trì và tăng cường quan hệ đối tác với các nền kinh tế

phát triển giúp EU khẳng định vị trí, vai trò của mình trong quan hệ quốc tế,

giữ cân bằng cán cân quyền lực trong hệ thống chính trị quốc tế.

* Biện pháp cấm vận

Cấm vận là một trong những công cụ cần thiết được sử dụng để thực

hiện các mục tiêu được đề ra trong CFSP. Các biện pháp cấm vận được thực

thi nhằm chống lại, hạn chế một số cá nhân, tổ chức, nước thứ ba nhất định bị

cho là có các hành động có tác động tiêu cực, đi ngược lại các nguyên tắc đề

ra trong CFSP và của Liên minh nói chung. Chính sách cấm vận được EU áp

dụng tuân theo Nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc. Trong một

số trường hợp EU có quyền áp dụng lệnh cấm vận riêng. Các lệnh cấm vận

theo phán quyết của Liên hợp quốc hay do EU ban hành đều được cân nhắc

dựa trên khuôn khổ chiến lược đối ngoại của EU, gồm cả biện pháp đối thoại

77

chính trị và sử dụng các công cụ khác. Lệnh cấm vận được xem xét định kỳ,

đưa ra những điều chỉnh cần thiết phù hợp với tình hình thực tế và tính hiệu

quả của biện pháp, công cụ được sử dụng. [48]

*Các phái đoàn quan sát bầu cử (EOMs) 48

Giám sát bầu cử của Liên minh châu Âu là một trong những hoạt động

quan trọng của EU nhằm thúc đẩy dân chủ, nhân quyền và thực thi hệ thống

pháp luật trên thế giới. Các phái đoàn giám sát bầu cử của EU được triển khai

nhằm đảm bảo nguyên tắc dân chủ, xây dựng lòng tin của người dân vào cuộc

bầu cử, ngăn chặn tình trang gian lận, bạo lực trong qúa trình bầu cử. EOMs là

công cụ hỗ trợ cho các mục tiêu đối ngoại khác của Liên minh, đặc biệt là mục

tiêu xây dựng hòa bình. Từ năm 2000 đến nay, đã có hơn 120 phái đoàn được

EU cử đến các nước thực hiện sứ mệnh quan sát bầu cử, đồng thời hỗ trợ về tài

chính và kỹ thuật cho các nước trong quá trình bầu cử. Một số nước nhận được

sự hỗ trợ của EU như Sri Lanka, Myanmar, Haiti, Uganda, Peru… [72]

*Chương trình hành động vì sự ổn định và hòa bình thế giới (IcSP)49

Khẳng định vai trò của Liên minh đối với sự ổn định trong khu vực và

hòa bình trên thế giới là một trong những mục tiêu quan trọng EU theo đuổi

từ khi thành lập đến nay. EU luôn phấn đấu trở thành chủ thể đi đầu, có ảnh

hưởng lớn trong công cuộc ngăn ngừa, xử lý các vấn đề toàn cầu. IcSP là

công cụ thực thi chính sách đối ngoại và an ninh quan trọng bên cạnh EEAS,

được triển khai trong các trường hợp EU cần phản ứng nhanh đối với các tình

huống cần hỗ trợ nhân đạo khẩn cấp, các cuộc khủng hoảng đang diễn ra, xây

dựng năng lực trong dài hạn cho các tổ chức với mục tiêu xử lý khủng hoảng

và kiến tạo hòa bình. Trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động, chủ nghĩa

khủng bố phát triển như hiện nay, IcSP còn đặt mục tiêu ngăn ngừa xung đột,

đối phó với các cuộc khủng hoảng tiềm tàng, phản ứng trước các nguy cơ 48 Tiếng Anh: Election Observation Missions (EOMs) 49 Tiếng Anh: Instrument contributing to Stability and Peace

78

tiềm ẩn ở cấp độ khu vực và toàn cầu. IcSP được triển khai cùng các đối tác là

Liên hiệp quốc, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức quốc tế… [66]

2.1.2.2. Công cụ thực thi Chính sách quốc phòng

* Quân đoàn châu Âu (Eurocorps)

Eurocorps thành lập dựa trên kết quả của Hiệp ước Élysée ký ngày 22

tháng 1 năm 1963 giữa Pháp và Đức. Hiệp ước nhằm tăng cường mối quan hệ

giữa 2 quốc gia Pháp – Đức, trước hết trong lĩnh vực quốc phòng. Một Hội

đồng an ninh phòng thủ Pháp – Đức được thành lập. Sau đó, lãnh đạo cấp cao

hai nước quyết định mở rộng hơn nữa quy mô của liên quân này, cho phép

các thành viên khác của Liên minh Tây Âu (WEU) cùng tham gia. Trên cơ sở

đó, Eurocorps chính thức ra mắt tại Hội nghị thượng đỉnh La Rochelle

22/5/1992. Một số nước khác tham gia vào Quân đoàn là Bỉ, Luxembourg,

Tây Ban Nha [81].

Eurocorps được xây dựng với khả năng có thể can thiệp vào các cuộc

khủng hoảng và hành động như một lực lượng phản ứng nhanh của EU trong

việc giải quyết xung đột và hậu xung đột, đồng thời cũng thực hiện các nhiệm

vụ cứu trợ nhân đạo, gìn giữ hòa bình trong khuôn khổ của Liên hiệp quốc

hoặc Tổ chức Hợp tác an ninh châu Âu (OSCE), được huấn luyện để triển khai

quân trong các trận chiến khốc liệt nhằm đảm bảo nền phòng thủ chung cho các

đồng minh được quy định trong chương V của Hiệp ước Washington (NATO)

và hiệp ước Brussels (WEU). Tuyên bố Petersberg ngày 19/6/1992 xác định

vai trò của WEU là một cánh tay quân sự của EU. Từ định hướng này,

Eurocorps được đặt dưới sự chỉ huy của WEU. Tuy nhiên, sự ra đời của

Eurocorps đã gây ra căng thẳng trong mối quan hệ Mỹ - Tây Âu. Vì vậy, để

xoa dịu người Mỹ, trong thỏa thuận SACEUR 21/1/1993 nêu rõ: các nhiệm vụ

của Eurocorps được triển khai trong khuôn khổ NATO trong những trường hợp

được xác định là khẩn cấp, sự phân công nhiệm vụ trong quân đoàn do Tổng tư

lệnh NATO đảm nhiệm [191]. Tính đến nay, Eurocorps đã có sự tham gia của

Hy Lạp, Ba Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, Canada, Áo, Phần Lan, Ý, Anh, Hà Lan.

79

* Lực lượng phản ứng nhanh (European Rapid Reaction Force - ERRF)

Ý tưởng thành lập một lực lượng quân đội riêng của châu Âu đã có từ

lâu, nhưng đến Hội nghị thượng đỉnh châu Âu tại Helsinki tháng 12/1999 mới

được hiện thực hóa. EU tuyên bố thành lập lực lượng phản ứng nhanh của

châu lục gồm khoảng 50.000 đến 60.000 quân, có chức năng “triển khai và

thực thi các sứ mệnh nhân đạo, cứu hộ và gìn giữ hòa bình” [138], có thể

được gửi ra nước ngoài. Lực lượng này tạo cho EU có khả năng giải quyết

khủng hoảng bằng quân sự tại châu Âu cũng như tại một số khu vực ảnh

hưởng lợi ích của EU mà không có sự tham gia hay chỉ đạo của Mỹ. Mục tiêu

của EU là có thể tiến hành các hoạt động quân sự chủ yếu trong biên giới EU,

nếu cần thiết có thể triển khai quân ra ngoài biên giới (thực hiện vai trò nước

lớn trong quan hệ quốc tế).

ERRF tuyên bố hình thành từ Hội nghị Helsinki 12/1999, đơn vị quân

đầu tiên của ERRF có khả năng triển khai vào năm 2007. Từ ngày 1/1/2007,

60.000 quân đã sẵn sàng, có khả năng triển khai trong vòng ít nhất một năm.

Tuy nhiên, trên thực tế, khác với tên gọi của nó, ERRF không phải là một lực

lượng thường trực. Các quân đoàn được duy trì trong lực lượng quân đội

riêng của từng quốc gia thành viên (khi không phải tập trung triển khai hoặc

tập trận) và chính phủ các quốc gia có quân tham gia ERRF vẫn có quyền

quyết định có gửi quân của mình đi hay không trong những trường hợp cụ

thể. Hiện nay, các nước gửi quân tham gia vào lực lượng này chủ yếu là Anh,

Pháp, Đức, Ý và Tây Ban Nha.

Nhiệm vụ Petersberg quy định các nhiệm vụ cụ thể của ERRF là tham

gia vào các hoạt động nhân đạo, cứu trợ, gìn giữ và kiến tạo hòa bình (bao

gồm cả việc tham gia giải trừ quân bị), giải quyết hậu xung đột, đồng thời

đóng góp cho cuộc chiến chống khủng bố, gồm cả việc giúp cho nước thứ ba

chống khủng bố trong địa phận nước đó.

* Lực lượng quân đội châu Âu hình thành theo chiến dịch (EUROFOR,

KFOR, SFOR...)

80

Bên cạnh ERRF và Eurocorps, EU còn triển khai nhiều hoạt động gìn

giữ hòa bình bằng việc hình thành các lực lượng quân đội tham gia vào các

điểm nóng xung đột như Bosnia, Herzegovina (EUROFOR), Kosovo

(KFOR), Afganishtan, Serbia... Việc đóng góp quân cho lực lượng này tùy

thuộc vào sự tự nguyện và năng lực của các quốc gia thành viên. Hoạt động

của liên quân có thể độc lập hoặc kết hợp với NATO, Hoa Kỳ trong một số

trường hợp (tham chiến ở Kosovo, Afganistan…). Lực lượng này cũng là một

trong những công cụ thực thi chính sách phòng thủ và an ninh chung, nhằm

duy trì môi trường ổn định ở khu vực đồng thời thực hiện sứ mệnh quốc tế

trong việc gìn giữ hòa bình, an ninh thế giới được quy định trong Hiến

chương Liên hiệp quốc.

2.2. Thực tiễn triển khai Chính sách từ năm 1992 – 2018

2.2.1. Giai đoạn 1992 – 2009:

Chính sách Đối ngoại và An ninh chung được đề cập đến từ Hiệp ước

Maastricht (1992). Đây là Hiệp ước khai sinh ra Liên minh châu Âu. Lần đầu

tiên 12 quốc gia châu Âu được đặt dưới một lá cờ chung, biểu tượng của Liên

minh cho đến ngày nay. Thuyết kiến tạo và thuyết chức năng đã thành công

trong việc mô tả và dự báo tiến trình hội nhập châu Âu trong giai đoạn này.

Một “bản sắc châu Âu” đã dần được định hình.

Hiệp ước có 5 điểm đáng chú ý:

- Xây dựng quy chế công dân châu Âu với các quyền và nghĩa vụ đối

với mỗi công dân của cộng đồng;

- Thiết lập một liên minh tiền tệ với một đồng tiền chung;

- Trang bị cho cộng đồng một “Chính sách Đối ngoại và An ninh

chung” (CFSP);

- Hình thành mối hợp tác tư pháp và cảnh sát, xây dựng Cộng đồng

kinh tế châu Âu thành Liên minh châu Âu;

81

- Trang bị cho liên minh mới này những phương tiện để trở thành một

“châu Âu hùng mạnh” trên phạm vi toàn cầu, một liên minh ngoại giao, chính

trị và quân sự, nếu như người dân châu Âu có ý nguyện đó.

Về đối ngoại và an ninh, nhằm củng cố bản sắc và sự độc lập của EU

(trong khuôn khổ NATO), Hiệp ước Maastricht hướng tới việc xây dựng một

chính sách đối ngoại, an ninh và chính sách quốc phòng chung mà vào thời

điểm thích hợp sẽ dẫn đến phòng thủ chung [47, Lời nói đầu và Điều J4]. Tuy

nhiên, những mục tiêu của CFSP nêu trong Hiệp ước với thuật ngữ chung

chung như “…nhằm bảo vệ những giá trị chung, lợi ích cơ bản và sự độc lập

của Liên minh”, “tăng cường an ninh của Liên minh trên mọi phương diện,

thúc đẩy hợp tác quốc tế”, “phát triển và củng cố nền dân chủ và nhà nước

pháp quyền, đề cao quyền con người và những quyền tự do cơ bản…” đã

không đáp ứng được đòi hỏi của quá trình liên kết khu vực trong lĩnh vực đối

ngoại và an ninh. Mục tiêu cụ thể về hợp tác quốc phòng, cốt lõi của đảm bảo

an ninh khu vực không được đề cập cụ thể trong CFSP. Hợp tác trong các vấn

đề an ninh quốc phòng ở khu vực được đặt trong khuôn khổ hoạt động của

WEU. Hiệp ước khẳng định WEU có trách nhiệm thực hiện phối hợp, “bổ

sung” cho hoạt động của NATO, là trụ cột châu Âu trong lòng NATO. WEU

với khả năng tác chiến được nâng cao có thể trở thành cánh tay vũ trang của

EU. Đây là cách EU giải quyết bất đồng quan điểm giữa các thành viên về vấn

đề hợp tác quốc phòng trong nội khối. Tuy nhiên, việc đưa hợp tác quốc phòng

vào khuôn khổ CFSP vẫn được xác định là “mục tiêu dài hạn”, do tại thời điểm

Hiệp ước Maastricht được ký kết, ba thành viên EU không tham gia WEU là

Ireland, Đan Mạch và Hy Lạp50, đồng thời không có điều khoản nào quy định

50 Hy Lạp gia nhập WEU năm 1995

thành viên EU là thành viên WEU và ngược lại.

82

Hiệp ước Amsterdam (1997) thể hiện bước phát triển mới của CFSP về

mặt nội dung. Theo Hiệp ước, các quốc gia thành viên cam kết “…làm việc

cùng nhau nhằm tăng cường và phát triển tinh thần đoàn kết chính trị tương

hỗ lẫn nhau” [80, tr. 10], hướng tới thực hiện các mục tiêu:

- Gìn giữ những giá trị chung của Cộng đồng, các giá trị lợi ích căn bản, độc

lập toàn vẹn của Liên minh phù hợp với nguyên tắc Hiến chương Liên hiệp quốc;

- Thúc đẩy an ninh của Liên minh trên mọi phương diện;

- Duy trì hoà bình và tăng cường an ninh quốc tế phù hợp với Hiến

chương Liên hiệp quốc, Hành động Helsinki và các mục tiêu của Hiến

chương Paris, bao gồm cả khu vực bên ngoài biên giới;

- Thúc đẩy hợp tác quốc tế;

- Củng cố và phát triển dân chủ, vai trò của pháp luật, tôn trọng các giá

trị và quyền tự do của con người [80, tr. 9-10].

So với Hiệp ước Maastricht, cụm từ “tinh thần đoàn kết chính trị tương

hỗ lẫn nhau”51 được bổ sung trong Hiệp ước Amsterdam thể hiện bước tiến

mới của EU trong tiến trình hợp tác chính trị. Tuy nhiên, khía cạnh quốc

phòng trong CFSP chưa được đề cập tới. Hợp tác an ninh quốc phòng của EU

vẫn đặt trong khuôn khổ WEU. Điều J.7, khoản V Hiệp ước nêu rõ: “…WEU

là một phần không thể thiếu trong sự phát triển của Liên minh…, hỗ trợ Liên

minh trong việc định hình khía cạnh quốc phòng của chính sách đối ngoại và

an ninh chung… Tiến trình định hình khung cho chính sách quốc phòng

chung được các thành viên hỗ trợ, cân nhắc vào thời điểm thích hợp, cùng

hợp tác trong lĩnh vực (mua bán, sản xuất) khí tài” [80, tr.12]. Đồng thời,

Nhiệm vụ Petersberg được đưa vào khuôn khổ CFSP: “… Các vấn đề được

điều chỉnh theo Điều này (Điều J.7) bao gồm các nhiệm vụ nhân đạo và cứu

51 Tiếng Anh: “… mutual political solidarity”

trợ, nhiệm vụ gìn giữ hoà bình và triển khai thực địa nhằm quản lý khủng

83

hoảng, bao gồm nhiệm vụ kiến tạo hoà bình” [80, tr.12]. Hiệp ước

Amsterdam tuyên bố hình thành chức danh Đại diện cấp cao (HR) về CFSP,

đồng thời là Tổng Thư ký Hội đồng [80, tr.132]

Như vậy, so với bản hiệp ước được EU thông qua năm năm trước,

không thể phủ nhận Hiệp ước Amsterdam đã đưa tiến trình hội nhập chính trị

tiến thêm một bước mới, CFSP được cụ thể hoá hơn trên văn bản. Cơ chế

hoạt động đã được định hình nhưng còn gây nhiều tranh cãi do sự bố trí chưa

rõ ràng, chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận triển khai.

Nhiều chuyên gia nhận định rằng Hiệp ước Amsterdam có nhiều đổi mới về

“câu chữ” nhưng những “đổi mới” này triển khai không hiệu quả trên thực tế.

Một trong những nguyên nhân chính là do khía cạnh quốc phòng vẫn còn bị

đặt bên lề CFSP, cho đến thời điểm này, EU thực sự vẫn chưa có công cụ

quốc phòng độc lập mà chủ yếu vẫn dựa vào đồng minh Mỹ và NATO. Tuyên

bố chung về Quốc phòng châu Âu (Tuyên bố St. Malo) tháng 12/1998 đưa

Chính sách an ninh quốc phòng châu Âu (ESDP) vào khuôn khổ CFSP, là

một nỗ lực nữa của EU kêu gọi các thành viên đẩy mạnh hợp tác quốc phòng

nội khối, hướng tới xây dựng nền phòng thủ độc lập của châu Âu. Để triển

khai CFSP, EU “…cần có năng lực để hành động độc lập, được hỗ trợ bằng

lực lượng quân sự đáng tin cậy, sự sẵn sàng cùng các phương tiện để sử dụng

lực lượng này nhằm phản ứng trước các cuộc khủng hoảng quốc tế, …phát

triển năng lực phân tích tình huống độc lập, nguồn lực tình báo và khả năng

lập kế hoạch chiến lược…” [148, tr. 8-9] để sẵn sàng hành động trong trường

hợp/ở những khu vực NATO và đồng minh không hành động. Tuy nhiên, văn

bản này cũng chỉ mang tính chất định hướng, chưa xác định được lộ trình

hành động cụ thể.

Cuộc chiến Kosovo (1999) chứng kiến sự tham gia kém hiệu quả của

EU trên thực địa và thế áp đảo của NATO, Mỹ khi thực hiện các chiến dịch

84

không kích lẫn triển khai quân trên chiến trường. Lực lượng tình báo Mỹ

đóng góp lớn vào chiến thắng của quân đồng minh ở cuộc chiến này [150, tr.

2]. EU có đóng góp quân tham gia (lực lượng KFOR) nhưng chủ yếu triển

khai nhiệm vụ gìn giữ hoà bình. EU dựa vào đồng minh Mỹ và NATO để

chấm dứt xung đột ở khu vực. Kịch bản này xảy ra tương tự tại Nam Tư

(1990 – 1991) và Bosnia (1995).

Sự kiện 11/9/2001 không chỉ là một bước ngoặt lớn với nước Mỹ mà

còn tác động không nhỏ đến nhận thức về các nguy cơ an ninh của các chủ thể

trong quan hệ quốc tế, trong đó có EU. Sự kiện này đã tạo ra lực đẩy mới cho

tiến trình hội nhập về đối ngoại và an ninh ở châu Âu. Môi trường an ninh ở

khu vực và thế giới đã thay đổi, nền an ninh và sự thịnh vượng chung của

toàn châu Âu cần được đảm bảo bởi chính người châu Âu chứ không phải ai

khác. Nước Mỹ không còn là bức tường thành không thể phá vỡ. Sự tự lực

quốc phòng trở thành yêu cầu cấp bách đối với EU. Đồng thời, sau cuộc chiến

chống khủng bố do Mỹ phát động tại Iraq, việc Mỹ đơn phương hành động đã

khiến EU nhận thấy phải khẳng định vai trò của mình trong quan hệ quốc tế

và cần có phản ứng kịp thời trước sự thay đổi của môi trường an ninh với

những nguy cơ mới.

Tổng Thư ký Liên hiệp quốc Kofi Annan trong một phát biểu sau

chuyến làm việc tại Iraq từng nhận định rằng: “Chúng ta có thể thực hiện

nhiều hoạt động ngoại giao, nhưng đương nhiên, chúng ta có thể làm được

nhiều hơn với các hoạt động ngoại giao được bổ trợ bằng thái độ kiên quyết

và lực lượng quân sự” [24]. Yêu cầu về sức mạnh quân sự và chính sách quốc

phòng cứng rắn trong bối cảnh mới trở thành xu hướng mới. Trong thế giới

“hậu 11/9”, châu Âu cần có những hoạt động bảo vệ an ninh cho mình theo

cách riêng của châu Âu, độc lập với Mỹ và NATO. Sáng kiến ESDP một lần

nữa được đưa vào chương trình nghị sự Hội nghị Hội đồng châu Âu tại

85

Laeken (12/2001)52. ESDP có ý nghĩa quan trọng trong tiến trình hội nhập

toàn diện của châu Âu, là cuộc cách mạng đối với EU. ESDP với lực lượng

nòng cốt là EERF chính là công cụ để bổ sung lĩnh vực hợp tác quốc phòng

vào CFSP. Sự kiện 11/9 đã thôi thúc EU công bố Chiến lược An ninh châu Âu

(ESS) năm 2003, là cơ sở pháp lý chính thức định hướng cách thức triển khai

CFSP. ESDP đồng thời được đề cập đến trong ESS.

ESS đưa ra những vấn đề các quốc gia thành viên đang phải đối mặt

cũng như những thách thức mà các nước chỉ có thể giải quyết bằng cách nâng

cao khả năng phòng vệ của mình, đồng thời cùng chia sẻ các mục tiêu an ninh

chung. Để tăng cường khả năng phòng thủ chung của Liên minh, các quốc gia

thành viên cần vượt qua những khác biệt về năng lực quân sự, sự cạnh tranh,

thậm chí đối lập nhau về chính sách phòng thủ riêng của từng quốc gia. ESS

nhấn mạnh đến tính gắn kết và mối quan hệ đa phương hiệu quả giữa các

nước thành viên EU bởi trong thực tế sự “gắn kết” giữa các quốc gia thành

viên còn bị chi phối bởi mối quan hệ song phương với Mỹ và sự ràng buộc

nhất định khi một số thành viên của EU tham gia NATO cũng như chịu áp lực

từ cuộc chiến chống khủng bố toàn cầu.

EU đã tăng cường khả năng quân sự nói chung và phòng thủ nói riêng

bằng sáng kiến “Chiến tranh mạng lưới trung tâm”53, một sáng kiến trong hợp

tác quân sự giữa các thành viên EU nhằm mục tiêu tìm kiếm và tiêu diệt các

phần tử khủng bố hoặc ngăn chặn sự phát triển nhanh chóng của các phần tử

đối lập. Mục tiêu này tương tự với những mục tiêu ưu tiên do Mỹ và NATO

đặt ra. NATO và EU đều có tham vọng muốn khẳng định vai trò lãnh đạo và

năng lực quân sự của mình nhưng quan điểm về vị trí lãnh đạo và mục đích

triển khai sức mạnh quân sự của hai tổ chức này có phần khác nhau (một bên

52 ESDP lần đầu tiên được đề cập đến trong Tuyên bố St. Malo (1998)

53 Tiếng Anh: Network Centric Warfare

mang tính chất phòng thủ nội khối và một bên bị chi phối bởi tính toán chiến

86

lược của siêu cường đóng vai trò lãnh đạo khối) nên cách EU xây dựng sức

mạnh quân sự và kêu gọi sự ủng hộ của các quốc gia thành viên cũng khác

NATO. EU đề cao việc tôn trọng luật pháp quốc tế và các luật lệ cơ bản trong

quan hệ đa phương, kêu gọi sự tự nguyện đóng góp về vật chất và con người

cho lực lượng chung. Các quốc gia thành viên có quyền quyết định thời điểm

thích hợp để gửi quân tham gia các nhiệm vụ do EU phát động. Cơ chế này

dẫn tới tình trạng EU thường bị động và thiếu nguồn lực khi triển khai trên

thực địa. Ví dụ điển hình cho tình trạng này là việc các quốc gia châu Âu

tham gia vào chiến dịch của Lực lượng quân đội đồng minh (OAF)54 nhằm tái

thiết trật tự tại khu vực Balkans. Trong và sau chiến dịch, nhiều thành viên

EU lên tiếng thừa nhận lực lượng của họ đã đạt đến ngưỡng giới hạn về khả

năng triển khai quân trên thực địa (bao gồm trên bộ, trên không và trên biển)

bên ngoài biên giới lãnh thổ [137, tr. 77]. Trong khi đó, trong một báo cáo do

Mỹ thực hiện về OAF, các con số thống kê thể hiện Mỹ là bên đóng góp phần

lớn về mọi mặt vào chiến dịch. OAF thể hiện khoảng cách ngày càng tăng về

thực lực quân sự giữa Mỹ và châu Âu, đồng thời thể hiện sự hạn chế của châu

Âu trong khả năng ra quyết định. Trong các cuộc không kích của chiến dịch

OAF, 13/19 quốc gia tham gia nhưng nhiều đồng minh châu Âu chủ yếu thể

hiện sự ủng hộ về mặt chính trị hơn là thực sự tham gia vào chiến dịch, các

nước châu Âu có đóng góp lớn vào chiến dịch gồm: Anh, Pháp, Đức, Ý và Hà

Lan [137, tr. 25].

Qua việc tham gia vào OAF, EU cũng thể hiện sự bất đồng quan điểm

giữa các thành viên về việc sử dụng vũ lực để đảm bảo an ninh hay tập trung vào

các nỗ lực hợp tác kiến tạo hoà bình. EU đã không thể hoàn toàn chủ động triển

khai hoạt động quân sự trong một khuôn khổ chung còn nhiều tranh cãi như vậy.

Sau OAF, có hai vấn đề nổi lên trong hợp tác quốc phòng của EU: (i) sự hạn chế

54 Tiếng Anh: Operation Allied Force (OAF)

87

rõ ràng về năng lực quân sự và khả năng phối hợp tác chiến giữa các quốc gia

thành viên, (ii) các thành viên dễ tìm được tiếng nói thống nhất trong các hoạt

động mang tính chất cứu trợ nhân đạo, xử lý khủng hoảng và kiến tạo, gìn giữ

hoà bình55.

Bảng 3: Tỷ lệ đóng góp của các nước tham gia chiến dịch OAF

100

90

80

70

60

50

40

30

20

10

0

Mỹ

Pháp

Anh

Đức

Italy

Hà Lan

AAR

CAP

ISR

SEAD

Tập kích

Chiến dịch:

Nguồn: Báo cáo “Đóng góp của châu Âu vào OAF – Quan hệ hợp tác xuyên Đại Tây Dương”, RAND, Báo cáo theo đề nghị của Không lực Hoa Kỳ (2001)

Trên cơ sở này, nhiều cuộc thảo luận được mở ra trong giai đoạn những

năm 2000 về việc ESDP nên tập trung vào việc làm thế nào để tận dụng được

sức mạnh kinh tế và phát huy các công cụ ngoại giao để tăng cường năng lực

xử lý khủng hoảng của EU, bao gồm: cứu trợ nhân đạo, ngăn ngừa xung đột,

giải quyết xung đột, kiến tạo hoà bình và tái kiến thiết hậu xung đột. Cùng với

khả năng đe doạ sử dụng vũ lực hỗ trợ cho các tuyên bố chính trị, ngoại giao,

các công cụ trừng phạt kinh tế, EU có thể nâng cao vai trò, tầm ảnh hưởng

55 Tuy không được đánh giá cao khi tham gia vào các chiến dịch không kích của OAF, nhưng các quốc gia châu Âu có đóng góp tích cực và hiệu quả vào quá trình bình định và kiến tạo hoà bình tại Balkans. Các lực lượng châu Âu SFOR (Stablization Force) và IFOR (Implementation Force) duy trì ở Bosina đến năm 2005.

của mình khi tham gia xử lý các vấn đề quốc tế. Phát triển theo hướng này,

88

EU đồng thời chia sẻ được gánh nặng với đồng minh Mỹ trong việc duy trì

hoà bình, ổn định ở châu Âu và khu vực lân cận [150, tr. 11]. Nhiệm vụ của

ESDP là làm thế nào để tạo ra được một khung pháp lý chung chặt chẽ và hợp

lý cho các hoạt động quân sự nội khối khi mà các thành viên đều phải chịu áp

lực ưu tiên cho các hành động phối hợp (không chỉ với các nước trong khối)

dưới danh nghĩa cuộc chiến chống khủng bố. Nguồn lực quốc phòng cho toàn

Liên minh là không giới hạn nhưng EU chưa khai thác được nguồn lực này.

Điều ESDP cần là phải nhấn mạnh vào khía cạnh phòng thủ như là một trong

những công cụ quan trọng để quản lý khủng hoảng.

Tháng 12/2001, tại Hội nghị ở Laeken, EU đạt được thoả thuận về Kế hoạch hành động nâng cao năng lực châu Âu (ECAP)56. ECAP được tiến

hành dựa trên 4 nguyên tắc cơ bản: (i) Sự cải thiện về tính hiệu quả của các nỗ

lực phòng thủ châu Âu, tăng cường hợp tác giữa các thành viên; (ii) Hướng tiếp cận “từ dưới lên”57 trong việc xây dựng quan hệ hợp tác về quốc phòng

dựa trên các cam kết tự nguyện của các quốc gia; (iii) Sự điều phối giữa các

thành viên EU và với NATO; (iv) Sự hỗ trợ từ người dân thông qua sự rõ

ràng, minh bạch của ECAP [102]. Tuy nhiên, sau hai năm triển khai, ECAP

chưa thực sự cải thiện được tình trạng hạn chế về thực lực quân sự của khối

do vẫn dựa trên tinh thần tự nguyện của các quốc gia, các cam kết thiếu tính

bền vững do không đi kèm nguồn ngân sách để triển khai. Tại Hội nghị Bộ

trưởng quốc phòng châu Âu (19/5/2003), kết luận Hội nghị cho rằng năng lực

quốc phòng EU “đã đủ khả năng triển khai các loại nhiệm vụ đề ra trong

Nhiệm vụ Petersberg” nhưng đồng thời thừa nhận “…năng lực vẫn còn hạn

chế do thiếu hụt nguồn lực” [83, tr. 137]. Dựa trên những hạn chế bộc lộ

trong thực tiễn triển khai ECAP, tháng 7/2004, Cục Quốc phòng châu Âu

(EDA) được thành lập nhằm hỗ trợ các thành viên và Hội đồng triển khai

56 Tiếng Anh: European Capability Action Plan

57 Tiếng Anh: bottom-up

ESDP theo hướng: phát triển lĩnh vực nghiên cứu công nghệ, hợp tác trong

89

trang bị khí tài, phát triển nền tảng công nghiệp quốc phòng và công nghệ quân

sự [186]. Với hướng tiếp cận và chiến lược triển khai ESDP như vậy cho thấy

EU nhận thức rõ tầm quan trọng của việc xây dựng một nền quốc phòng hiện

đại, đủ khả năng đối phó với các nguy cơ mới có tính chất nguy hiểm và khó

lường hơn từ sau sự kiện 11/9, đồng thời cũng là câu trả lời của EU cho lời

“phàn nàn” của đồng minh về năng lực hạn chế của mình: “Đồng minh châu Âu

cần hành động nhiều hơn, đầu tư nhiều tiền hơn, tăng chi phí quốc phòng trên

phần trăm GDP để đầu tư vào các công nghệ mới… Nếu không, nước Mỹ sẽ

phải gánh vác trọng trách nặng nề hơn để giải quyết các vấn đề ngay tại châu

Âu và bên ngoài khu vực”, Đại sứ Mỹ tại NATO Nicolas Burns phát biểu tại

cuộc họp báo về “Thu hẹp khoảng cách về năng lực quốc phòng giữa Mỹ - EU”

[36] tại Slovenia, tháng 2/2002. Báo cáo kết quả Chiến dịch OAF (1999) cũng

thể hiện công nghệ quốc phòng lỗi thời của châu Âu khi có tỷ lệ trúng đích thấp

trong các cuộc không kích, là điều khó chấp nhận trong các chiến dịch ở khu vực

có dân thường [137, tr. 31].

Trong thập kỷ đầu thế kỷ XXI, ESDP triển khai một số chiến dịch dân

sự ở các khu vực có tầm ảnh hưởng với châu Âu như chiến dịch EUFOR

Althea (2004) ở Bosnia và Herzegovina thay thế sự hiện diện của NATO,

EUFOR RD Congo hỗ trợ sứ mệnh Liên hiệp quốc tại Congo (2006), EUFOR

TChad/RCA ở phía Đông Chad và Đông Bắc Trung Phi (2007) để bảo vệ dân

thường, cứu trợ nhân đạo và đảm bảo an toàn cho nhân sự của Liên hiệp quốc

làm việc tại đây, EU NAVFOR ở Somalia để chiến đấu và kiểm soát các hoạt

động cướp biển, tội phạm trên bờ biển Somalia… [185]. Như vậy, từ sau khi

ESDP được đưa vào CFSP để tăng cường hợp tác quốc phòng trong khối, EU

đã xác định trọng tâm của hợp tác quốc phòng là triển khai các nhiệm vụ dân

sự, phát huy tầm ảnh hưởng của châu Âu thông qua sử dụng sức mạnh kinh

tế, các công cụ ngoại giao và công tác nhân đạo.

2.2.2. Giai đoạn 2009 – 6/2018:

Năm 2009 là dấu mốc quan trọng đối với EU nói chung và tiến trình

90

hội nhập khu vực về đối ngoại, an ninh nói riêng. Bản Hiến pháp chung châu

Âu được tuyên bố tháng 10/2004 nhưng không thể trở thành hiện thực khi

không được đa số người dân châu Âu ủng hộ trong các cuộc trưng cầu dân ý.

Một số chuyên gia châu Âu gọi đây là giai đoạn khủng hoảng trên con đường

phát triển của Liên minh. Vì vậy, Hiệp ước Lisbon, hay Hiệp ước Hiến pháp

sửa đổi được ký kết năm 2007, chính thức có hiệu lực từ năm 2009 thể hiện sự

tái đoàn kết của châu Âu. Như đã đề cập ở phần trên, theo Hiệp ước này, bộ

máy tổ chức của EU có nhiều điều chỉnh quan trọng, cấu trúc của CFSP theo

đó cũng thay đổi. Những thay đổi này khiến thực tiễn triển khai CFSP có nhiều

tiến bộ hơn giai đoạn trước.

CFSP/CSDP được hiện thực hoá bằng nhiều hành động cụ thể nổi bật

như: (i) EEAS được thành lập với vị trí “ngoại trưởng châu Âu” đầu tiên trong

lịch sử Liên minh; (ii) EU công bố Chiến lược toàn cầu về đối ngoại và an ninh

(EUGS) và Sách trắng về tương lai của châu Âu và tương lai an ninh quốc

phòng châu Âu năm 2016; (iii) duy trì và triển khai mới nhiều nhiệm vụ dân sự

- quân sự trong khuôn khổ CSDP; (iv) đạt bước tiến quan trọng trong hợp tác

nội khối về quốc phòng với Thoả thuận tham gia “Hợp tác có cấu trúc bền

vững” (PESCO)…

(i) Sự điều chỉnh quan trọng, có ảnh hưởng nhất đến thực tiễn triển khai

CFSP là sự điều chỉnh chức danh HR/VP và bộ máy giúp việc EEAS:

HR/VP là người xây dựng nền móng cho các chính sách đối ngoại và an

ninh mới của toàn Liên minh. Điều đó có nghĩa hoạt động đối ngoại và an ninh

của EU được tập trung về một mối, có tính liên tục và kế thừa. Với định hình

chức năng như vậy, bộ máy giúp việc cho HR/VP là EEAS được thành lập

tháng 1/2010, là cơ quan chuyên trách được hợp nhất từ 140 đơn vị phục vụ

cho hoạt động đối ngoại của Hội đồng và Ủy ban, tái cấu trúc Phái đoàn châu

Âu ở các nước, khu vực trên thế giới. EEAS có vai trò kết nối chính sách đối

ngoại và an ninh của các nước thành viên, đưa ra các quan điểm chính trị, quyết

sách đối ngoại và triển khai các nhiệm vụ quân sự, dân sự dưới danh nghĩa đại

91

diện cho ý chí của 28 quốc gia thành viên. EEAS là đầu mối điều phối các

nhiệm vụ dân sự và quân sự của EU triển khai trên ba châu lục, chủ yếu tập

trung vào quản lý khủng hoảng và gìn giữ hoà bình.

Chính thức đi vào hoạt động từ tháng 1/2011, EEAS cố gắng phân bổ ít

nhất 1/3 số lượng nhân sự của cơ quan đối ngoại độc lập này đến từ các quốc

gia thành viên. Tính đến cuối năm 2016, tỷ lệ này đạt 31,7% (25,3% làm việc

tại trụ sở chính, 40,8% làm việc trong các phái đoàn). 13 thành viên gia nhập

EU từ năm 2004 có số lượng nhân sự tham gia EEAS đạt 19,6%, tương ứng

với phần trăm dân số của các nước này trong Liên minh (20,6%) [70, tr. 6].

Việc duy trì số lượng tương đối các nhà ngoại giao của các quốc gia thành

viên tham gia vào bộ máy EEAS được xem là “sự hiện diện có ý nghĩa” [70,

tr.6], thể hiện nỗ lực của EU trong việc duy trì tính dân chủ của các thể chế,

coi trọng vai trò của quốc gia thành viên khi hoạch định và triển khai chính

sách. Ngoài ra, trong giai đoạn đầu hoạt động, EEAS đồng thời chú trọng xây

dựng bộ máy tinh giản và phản ứng hiệu quả trong tình hình chính trị thay đổi

phức tạp. Năm 2015, Cục cắt giảm 1% nhân sự và tái cấu trúc bộ máy nhằm tạo ra cơ chế báo cáo nhanh và hiệu quả hơn từ dưới lên (mô hình “chóp”58). Ban “Di cư và An ninh con người”59 được thành lập mới nhằm đối phó với

nhiều vấn đề phức tạp liên quan đến làn sóng nhập cư, tị nạn ồ ạt vào khu vực

cuối năm 2016. [70]

Một tiếng nói chung về đối ngoại sẽ củng cố vị thế của Liên minh trên

trường quốc tế, giúp EU có thể hành động như một chủ thể hoàn chỉnh trong

quan hệ quốc tế. Tuy nhiên, vì tính chất nhạy cảm của CFSP nên sự ra đời của

EEAS gây nhiều tranh cãi dù các nước thành viên đều nhận thấy sự cần thiết

phải tăng cường hơn tính hiệu quả của CFSP. Bà Catherine Ashton, chính trị

gia thuộc Công đảng Anh đã trở thành nữ Ngoại trưởng đầu tiên của EU với

58 Tiếng Anh: “pyramidal” management structure. 59 Tiếng Anh: Division "Migration and Human Security"

nhiệm kỳ 5 năm (2009-2014). Đại diện cấp cao về An ninh và Đối ngoại châu

92

Âu thuộc về một chính trị gia người Anh được coi là một thành công lớn của

Anh trong cuộc chạy đua tranh giành ảnh hưởng với Pháp, Đức và các thành

viên nổi trội khác trong EU. Người kế nhiệm bà Ashton là cựu Ngoại trưởng Ý

Federica Mogherini, nhiệm kỳ 2014 – 2019.

Bảng 4: So sánh về phân bổ ngân sách hành chính cho Bộ Ngoại giao các

Nguồn: Trung tâm chính sách châu Âu

quốc gia thành viên EU và EEAS (năm 2011-2012)

(ii) EU công bố Chiến lược toàn cầu về đối ngoại và an ninh (EUGS)60

và Sách trắng về tương lai của châu Âu và tương lai an ninh quốc phòng châu

Âu năm 2016:

Đây là lần thứ hai trong lịch sử phát triển của mình EU xây dựng Chiến

lược về an ninh. Việc một tổ chức liên kết khu vực đưa ra Chiến lược về an

ninh là bước đi nhằm khẳng định vị thế như một chủ thể đầy đủ trong quan hệ

quốc tế (tương ứng với Chiến lược an ninh quốc gia, Sách trắng, Rà soát

chiến lược của các nước). Chiến lược an ninh hệ thống hoá toàn bộ định

60 Tiếng Anh: European Union Global Strategy (EUGS)

hướng triển khai CFSP. So với ESS năm 2003, EUGS năm 2016 có nhiều

93

nhận định và định hướng thay đổi cơ bản. Từ một châu Âu “thịnh vượng, an

ninh và tự do” với EU là trung tâm của sự phát triển thịnh vượng này, châu

Âu trong giai đoạn đầu thế kỷ XXI đối mặt với các nguy cơ truyền thống và

phi truyền thống đan xen, đòi hỏi một EU mạnh mẽ hơn bao giờ hết với yêu

cầu cấp thiết nâng cao năng lực tự chủ quốc phòng. EUGS khẳng định: “Một

ngành công nghiệp quốc phòng châu Âu ổn định, sáng tạo và có sức cạnh tranh là hết sức thiết yếu vì một châu Âu tự chủ chiến lược61 và một chính

sách an ninh quốc phòng hiệu quả” [84, tr. 45]. Với khẩu hiện “Chia sẻ tầm nhìn, chung hành động: Một châu Âu mạnh mẽ hơn”62, EUGS đề ra những lợi

ích cốt lõi của Liên minh, xác định các nguyên tắc chung đối với các hành

động can dự của EU trên thế giới và định hướng cho các hành động tập thể.

EUGS hướng tới mục tiêu xây dựng một châu Âu mạnh mẽ, đoàn kết hơn, có

ảnh hưởng lớn hơn trên thế giới để bảo vệ cho các lợi ích chung, các giá trị

chung [73]. Nguyên tắc chung cho các hoạt động đối ngoại của Liên minh

gồm bốn điểm chính:

- Sự đoàn kết, nhất trí: sự thống nhất trong nội bộ Liên minh là quan

trọng và cấp thiết hơn bao giờ hết. Không có sự xung đột lợi ích giữa Liên

minh và các thành viên. Lợi ích cho các công dân châu Âu chỉ có thể được bảo

vệ bằng các thể chế của Liên minh thông qua sự đoàn kết, nhất trí giữa các

quốc gia thành viên;

- Sự cam kết: trong chuỗi giá trị toàn cầu và một thế giới liên kết với

nhau, EU cam kết tham gia đầy đủ vào thị trường toàn cầu và cùng định hình

các nguyên tắc vận hành thị trường rộng lớn này;

- Tinh thần trách nhiệm: EU gánh vác trách nhiệm với châu Âu và các

khu vực lân cận. EU đồng thời mở rộng can dự ra các mục tiêu xa hơn. EU sẽ

hành động để giải quyết các vấn đề gốc rễ của xung đột và đói nghèo, đi đôi

61 Tiếng Anh: stretagic autonomy 62 Tiếng Anh: Global Stretagy for the European Union’s Foreign and Security policy: “A shared vision, common action: A stronger Europe”

với bảo vệ quyền con người;

94

- Quan hệ đối tác: EU nêu cao tinh thần là một chủ thể có trách nhiệm

của thế giới trên cơ sở cùng chia sẻ với các đối tác. Đồng chịu trách nhiệm là

nguyên tắc cơ bản định hình trật tự toàn cầu. [73, tr.16-18]

Các vấn đề ưu tiên nhằm đảm bảo an ninh khu vực được xác định là:

- Tăng cường năng lực tự chủ quốc phòng: NATO có vai trò quan trọng

trong duy trì an ninh khu vực. NATO tồn tại để bảo vệ các quốc gia thành

viên (hầu hết là các nước châu Âu) khỏi nguy cơ bị tấn công từ bên ngoài.

Khi nỗ lực phòng vệ tập thể được thực hiện, NATO sẽ ưu tiên bảo vệ lợi ích

cho các thành viên của mình. Trong bối cảnh đó, EU cần được trang bị, huấn

luyện và tổ chức tốt hơn có thể hành động độc lập khi cần thiết để bảo vệ cho

các thành viên của Liên minh không nằm trong NATO. Đồng thời, yêu cầu

nâng cao năng lực tự chủ về an ninh quốc phòng giúp EU chia sẻ trách nhiệm

với đồng minh NATO và duy trì tốt hơn quan hệ đối tác chiến lược xuyên Đại

Tây Dương với Mỹ;

- Chống khủng bố: các cuộc tấn công khủng bố xảy ra trên lãnh thổ các

nước châu Âu ngày càng tăng, đặt ra yêu cầu các quốc gia châu Âu đoàn kết

hơn trong các hoạt động chống khủng bố. Liên minh khuyến khích các quốc

gia thành viên tăng cường chia sẻ thông tin và hợp tác trong các hoạt động

tình báo giữa các quốc gia thành viên với nhau và với Liên minh;

- An ninh mạng: Liên minh khuyến khích các sáng kiến trong lĩnh vực

công nghệ thông tin và truyền thông nhằm đảm bảo tính khả dụng và bảo mật

của hệ thống dữ liệu, bảo vệ an ninh không gian số cho châu Âu;

- An ninh năng lượng: thông qua đối ngoại năng lượng, EU duy trì quan

hệ đáng tin cậy với các đối tác, đảm bảo nguồn năng lượng cho khu vực, hỗ

trợ xây dựng cơ sở hạ tầng để đa dạng hoá các nguồn cung cấp năng lượng

cho thị trường châu Âu;

- Đối thoại chiến lược: EU sẽ tăng cường đối thoại chiến lược, tuyên

truyền chính sách đối ngoại của Liên minh đến người dân và các đối tác.

95

Liên minh đặt mục tiêu cải thiện tính chính xác và tốc độ thông tin về các

chính sách và hành động của mình, duy trì môi trường truyền thông cởi

mở… [73, tr.20-23]

EEAS đồng thời công bố Kế hoạch triển khai về an ninh quốc phòng63,

được Hội đồng các Bộ trưởng An ninh và Đối ngoại châu Âu thông qua tháng

11/2016. Việc công bố Chiến lược toàn cầu về an ninh châu Âu đi đôi với Kế

hoạch hành động cụ thể tập trung vào lĩnh vực quốc phòng cho thấy quyết

tâm của EU trong việc thúc đẩy tiến trình hợp tác nội khối trong lĩnh vực an

ninh chung, đặc biệt là an ninh quốc phòng. Với mục tiêu phản ứng hiệu quả

trước các xung đột trong và ngoài biên giới, xây dựng năng lực cho các đối

tác và bảo vệ EU và công dân EU khỏi các hành động từ bên ngoài, Kế hoạch

đề ra phương thức thực hiện các mục tiêu này thông qua huy động các công

cụ và chính sách khác nhau của EU, hướng tiếp cận dựa trên đồng thời sức

mạnh “cứng” và “mềm”. EU kêu gọi các thành viên nâng cấp trang thiết bị và

năng lực quốc phòng chung, tăng chi phí cho quốc phòng, thực hiện cam kết

nâng ngân sách quốc phòng lên 20%, tập trung vào mua sắm trang thiết bị và

đầu tư cho công tác nghiên cứu công nghệ [73, tr.44]. Những nỗ lực này cần

được thực hiện trong một khuôn khổ chung để tận dụng được tối đa các nguồn

lực. Kế hoạch cũng đưa ra các bước triển khai Tuyên bố chung EU – NATO.

Các kế hoạch này đều đưa ra khung thời gian hành động rõ ràng.

Cùng với EUGS, EU công bố Sách trắng về tương lai châu Âu và bốn

nghiên cứu chuyên sâu về hội nhập của EU về kinh tế, xã hội, quốc phòng và

63 Tiếng Anh: Implementation Plan on Security and Defence

64 Bốn công trình nghiên cứu chuyên sâu khác được công bố: “Nhìn nhận về sự hợp tác sâu của Liên minh kinh tế và tiền tệ” (Reflection paper on the Economic and Moneytary Union), “Nhìn nhận về khía cạnh xã hội của châu Âu” (Reflection paper on the Social dimension of Europe), “Nhìn nhận về sự khai thác quá trình toàn cầu hoá” (Reflection paper on Harnessing Globalisation), “Nhìn nhận về tương lai nền quốc phòng châu Âu” (Reflection paper on the future of European Defence).

EU trong quá trình toàn cầu hoá64. Bên cạnh các lĩnh vực EU được đánh giá đã

96

hội nhập thành công như kinh tế, xã hội, quốc phòng là lĩnh vực EU từng gặp

khó khăn trong việc tìm hướng đi và hình thức hội nhập phù hợp trong suốt 60

năm qua đã từng bước đánh dấu sự hợp tác hiệu quả giữa các thành viên. “Nhìn

nhận về tương lai nền quốc phòng châu Âu” xác định những xu thế và thách

thức mới đối với tương lai an ninh quốc phòng của châu lục, từ đó đưa ra

những kịch bản phát triển của quá trình hợp tác quốc phòng trong khu vực,

hướng tới xây dựng Liên minh an ninh và quốc phòng. Những bước đi này cho

thấy EU đã xác định được hướng đi phù hợp với tiến trình hội nhập quốc

phòng, vượt qua được rào cản ban đầu về nguy cơ tổn hại lợi ích và an ninh

quốc gia để cùng nhau phấn đấu vì một khu vực hoà bình và ổn định.

(iii) Triển khai các nhiệm vụ dân sự - quân sự trong khuôn khổ CSDP:

Theo Báo cáo thường niên năm 2017 của CSDP, EU tiếp tục gặt hái

nhiều kết quả trong công tác hỗ trợ dân sự, giúp tăng khả năng hồi phục và ổn

định cho các quốc gia đối tác bị ảnh hưởng bởi các xung đột nội bộ thông qua

hơn 530 khoá huấn luyện cho 11.000 người về công tác chống buôn người,

quản lý nhân sự, chống tham nhũng, quản trị an ninh biên giới, an ninh hàng

hải, vấn đề giới và nhân quyền [74, tr. 6] …Về các hoạt động quân sự, lần đầu

tiên Sở Chỉ huy tác chiến về năng lực lập kế hoạch và triển khai quân sự (MPCC)65 được thành lập, đồng thời kết hợp với Sở Kế hoạch và tác chiến dân sự (CPCC)66 thành Tổ hợp tác liên ngành với mục tiêu triển khai nhiều

hơn các hoạt động phối hợp dân sự - quân sự, tăng cường tính toàn diện và hiệu

quả của các hoạt động an ninh phòng thủ chung triển khai tại các nước thứ ba

[74, tr.6]. MPCC ra đời cùng với Tổ hợp tác liên ngành cho thấy quyết tâm của

EU trong việc tăng cường thực lực quân sự, triển khai thực địa bên cạnh phát

huy “sức mạnh mềm” sẵn có, hiện thực hoá các mục tiêu đề ra trong Chiến lược

65 Tiếng Anh: The Military Planning and Conduct Capability (MPCC)

66 Tiếng Anh: The Civilian Planning and Conduct Capability (CPCC)

toàn cầu của EU về đối ngoại và an ninh năm 2016: “Châu Âu cần được trang

97

bị, tổ chức và huấn luyện tốt hơn để đóng góp vào các hành động chung (với các

đối tác trong khu vực) đồng thời hành động một cách độc lập khi cần thiết. Đặt

ra tham vọng và chiến lược tự chủ là thiết yếu để châu Âu duy trì hoà bình, đảm

bảo an ninh trong và ngoài biên giới” [84, tr. 21].

(iv) EU đạt bước tiến quan trọng trong hợp tác nội khối về quốc phòng

với Thoả thuận tham gia “Hợp tác có cấu trúc bền vững” (PESCO):

Sáng kiến này được đề cập đến từ năm 2009 nhưng phải đến năm 2017,

quá trình đàm phán mới kết thúc, 25 quốc gia thành viên đồng ý ký thoả thuận

tham gia PESCO. PESCO bắt đầu triển khai với những bước đi đầu tiên, gồm: hình thành cơ chế Báo cáo quốc phòng thường niên (CARD)67, thành lập Quỹ Quốc phòng châu Âu (EDF)68. Ngày 06/3/2018 được nhắc đến như một ngày

lịch sử của nền quốc phòng châu Âu hiện đại khi các quốc gia thành viên chính

thức thông qua danh sách 17 dự án nhằm triển khai sáng kiến PESCO [77].

PESCO cho phép các quốc gia thành viên có tiềm lực quân sự thực hiện

các tiêu chí cao hơn và đưa ra các cam kết có tính ràng buộc hơn trong lĩnh

vực hợp tác quân sự có tính đến việc thực thi các nhiệm vụ đòi hỏi yêu cầu

cao trong khuôn khổ Liên minh. Bất kỳ quốc gia thành viên nào cũng có thể

tham gia Hợp tác mang tính cấu trúc bền vững khi cam kết phát triển năng lực

quốc phòng trong lực lượng đa quốc gia, trong các chương trình trang bị vũ

khí chính của Liên minh và trong khuôn khổ các hoạt động của Cục Quốc

phòng châu Âu (EDA). Tham gia PESCO, các quốc gia thành viên cam kết:

- Nhất trí với các mục tiêu đầu tư cho lĩnh vực quốc phòng;

- Tạo ra sự đồng bộ về tổ chức bộ máy quốc phòng thông qua việc hài

67 Tiếng Anh: Coordinated Annual Review on Defence. CARD được điều hành bởi Cục Quốc phòng châu Âu (EDA) điều phối một cách có hệ thống kế hoạch chi tiêu quốc phòng của các quốc gia thành viên, giúp xác định cơ hội cho các sáng kiến hợp tác mới. [185]

68 Tiếng Anh: European Defence Fund (EDF). EDF cung cấp các khoản hỗ trợ tài chính cho các quốc gia thành viên nhằm khuyến khích hoạt động hợp tác về quốc phòng, từ công tác nghiên cứu đến phát triển công nghiệp quốc phòng, bao gồm xây dựng các phiên bản thử nghiệm được hỗ trợ một phần tài chính từ ngân sách EU. [185]

hoà các nhu cầu quân sự, cùng đóng góp kinh phí và chuyên môn hoá (ở

98

những khâu có thể);

- Nâng cao tính sẵn sàng ứng phó, khả năng tương tác, tính linh hoạt, khả

năng triển khai quân bằng cách thiết lập các mục tiêu chung dựa trên các cam

kết của lực lượng;

- Giải quyết các thiếu hụt trong năng lực quân sự quốc gia được xác định bởi

Cơ chế phát triển năng lực (CDM) thông qua phương pháp tiếp cận đa quốc gia;

- Tham gia (khi phù hợp) vào các chương trình trang bị quân trang, quân

dụng do Cục Quốc phòng châu Âu (EDA) đề ra. EDA đóng vai trò quan trọng

trong việc đánh giá mức độ thực hiện cam kết của các quốc gia thành viên

tham gia vào quá trình Hợp tác mang tính cấu trúc bền vững. [32, tr. 9]

Với những cam kết như vậy, các quốc gia thành viên vẫn bảo lưu quyền

tự quyết và khả năng phản ứng nhanh. Trên lý thuyết, thông qua tăng cường

khả năng hợp tác quân sự, các quốc gia thành viên có thể nâng cao khả năng

quốc phòng của mình theo cấp số nhân các nước cùng tham gia mạng lưới.

Hiện nay, khoảng 80% chi phí mua sắm quốc phòng do các quốc gia thành viên

tự thực hiện gây lãng phí, chồng chéo trong việc nâng cấp năng lực quốc

phòng. Theo số liệu của Nghị viện châu Âu năm 2013, sự thiếu hợp tác giữa

các quốc gia thành viên trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng ước tính gây lãng

phí nguồn lực từ 25 tỷ đến 100 tỷ euro mỗi năm [67]. Việc thành lập Quỹ quốc

phòng châu Âu (EDF) sẽ giúp các thành viên gia tăng giá trị và tính hiệu quả

của các nguồn đầu tư quốc phòng. Cơ chế đồng tài trợ cho phép các thành viên

xác định được các thoả thuận tài chính hợp lý cho các khoản đầu tư mua sắm

trang thiết bị cũng như công tác nghiên cứu phát triển (R&D). Từ năm 2010,

EU bắt đầu tăng mạnh hơn dòng ngân sách cho hợp tác quốc phòng nội khối,

khoảng 200 triệu euro mỗi năm. EDF đặt mục tiêu tăng gấp ba lần con số này

từ sau năm 2020, lên khoảng trên 500 triệu euro [67].

EDF chính thức hoạt động từ tháng 6/2017 với mục tiêu tiết kiệm chi phí

quốc phòng cho thành viên thông qua việc tổ chức các nghiên cứu chung, tiếp

99

nhận và phát triển các trang thiết bị, công nghệ quốc phòng hiện đại. Lần đầu

tiên một gói ngân sách 90 triệu euro được cung cấp trực tiếp từ ngân sách EU

trong giai đoạn 2017-2019 cho các dự án hợp tác nghiên cứu về máy bay không

người lái, công nghệ chiến lược tầm nhìn xa và các trang thiết bị phòng vệ cho

binh lính. 25 triệu euro đã được cam kết triển khai trong năm 2017. PESCO

khuyến khích các quốc gia thành viên hợp tác trong các chương trình phát triển

trang thiết bị và công nghệ quốc phòng thông qua hình thức đồng tài trợ với

dòng tiền từ ngân sách EU, dự kiến 500 triệu euro giai đoạn 2019-2020.

PESCO đồng thời dự kiến tăng mức đóng góp cho ngân sách quốc phòng

chung từ 20% lên 30%. [185]

2.3. Đánh giá tiến trình hội nhập khu vực qua thực tiễn triển khai Chính

sách

2.3.1. Nhận xét chung

Thực tiễn triển khai CFSP/CSDP đã phản ánh chân thực, đầy đủ tiến

trình hội nhập khu vực trên lĩnh vực đối ngoại, an ninh, quốc phòng ở châu

Âu. Qua kết quả triển khai Chính sách từ năm 1992 đến nay, một số nhận xét

chung về tình trạng hội nhập khu vực về đối ngoại và an ninh cụ thể như sau:

(i) Tiến trình hội nhập chính trị ở châu Âu bắt đầu khá sớm. Từ khi quá

trình hội nhập kinh tế khởi động, hội nhập chính trị cũng được khởi động

không lâu sau đó. Tuy nhiên, châu Âu mất hơn ba thập kỷ xây dựng nền tảng

cho một chính sách đối ngoại, an ninh chung và gần một thập kỷ nữa để thống

nhất về khung chính sách hợp tác quốc phòng. Theo quan điểm của các lý

thuyết về hội nhập khu vực, hội nhập về chính trị, cụ thể trong lĩnh vực đối

ngoại, an ninh, quốc phòng là cấp độ hội nhập khu vực cao nhất, trong trường

hợp EU, biểu hiện cụ thể nhất là thực tiễn triển khai CFSP/CSDP. Các chủ

thể trong khu vực thường đạt mức độ hội nhập nhất định trong các lĩnh vực kinh

tế, xã hội, tư pháp… trước khi hội nhập về chính trị. Điều này lý giải cho việc

châu Âu mất gần năm thập kỷ để bước đầu đạt đến mức độ hội nhập khu vực

100

một các toàn diện.

(ii) Hướng tiếp cận phân tích CFSP/CSDP như chính sách đối ngoại

của một quốc gia chỉ mang tính chất tương đối. Hiệu quả triển khai chính

sách khi đánh giá cần đặt trong tổng thể tiến trình hội nhập khu vực, do

CFSP/CSDP là chính sách đặc thù, tổng hợp các giá trị chung, mục tiêu chung

vì sự phát triển thịnh vượng và đảm bảo an ninh châu lục, được triển khai trên

nền tảng hợp tác khu vực. Chính sách này có mối liên hệ mật thiết đến lợi ích

cốt lõi của các quốc gia thành viên, chịu tác động trực tiếp từ tính toán chiến

lược của các giới lãnh đạo các nước thành viên.

(iii) CFSP không phải là tổng hợp chính sách đối ngoại của các quốc

gia thành viên mà chỉ là mẫu chung nhỏ nhất tập hợp các giá trị và lợi ích

chung của các nước trong khối. Các thành viên Liên minh có thể đạt được

đồng thuận trong chính sách với một số nước ở Trung và Đông Âu nhưng lại

gặp phải nhiều bất đồng trong các mối quan tâm chung như khu vực Balkans,

vấn đề Nga, Ukraine… Thậm chí, ở những nơi được xác định là các nước đều

có lợi ích chung thì khả năng hành động của EU cũng gặp nhiều hạn chế do

quy trình ban hành và quyết định chính sách phức tạp và tốn nhiều thời gian,

thiếu lực lượng quân đội thường trực… Phản ứng kém hiệu quả của EU trước

khủng hoảng ở khu vực Balkan là một ví dụ. Mặc dù rất nỗ lực trong việc tìm

kiếm giải pháp hòa bình cho cuộc xung đột nhưng EU lại thất bại trong việc

triển khai lực lượng kịp thời để bảo vệ dân thường. Rõ ràng việc xây dựng

công cụ phù hợp sẽ giúp việc triển khai chính sách đạt được hiệu quả tốt nhất.

Dù chính sách ngoại giao của EU được đánh giá cao nhưng việc thiếu một lực

lượng quân sự đủ mạnh để xử lý khủng hoảng buộc EU phải phụ thuộc vào

Mỹ và NATO trên thực địa, điều khiến tiếng nói EU trở nên thiếu trọng lượng

trong các vấn đề quốc tế.

(iv) Trong quá trình triển khai CFSP/CSDP, EU thường đạt đồng thuận

cao trong các hoạt động giải quyết hậu khủng hoảng, cứu trợ nhân đạo, ứng

101

phó thiên tai. Liên minh thường hành động nhanh, kịp thời tại các điểm, khu

vực cần hỗ trợ nhân đạo. Tuy nhiên, không phải lúc nào EU cũng đạt được sự

đồng thuận trong các hoạt động hỗ trợ dân sự. Phản ứng không thống nhất

giữa các quốc gia thành viên trong cuộc chiến Iraq 2003 là một ví dụ cho

nguy cơ chia rẽ trong nội bộ Liên minh. Nguy cơ này có thể bùng phát bất cứ

lúc nào Liên minh đưa ra các quyết sách ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến

lợi ích, các mục tiêu cốt lõi trong chính sách đối ngoại của từng thành viên.

Đồng thuận cũng được xem xét ở nhiều cấp độ khác nhau, từ các khung chính

sách chung cho đến từng chính sách cụ thể. Bất đồng trong một chính sách

nhất định có thể không làm ảnh hưởng đến sự đồng thuận trong hướng tiếp

cận chung của một vấn đề lớn. Syria là một ví dụ. EU nhất trí duy trì chính

sách cấm vận kèm theo các điều khoản hỗ trợ không gây thương vong cho lực

lượng đối lập tại nước này, tuy nhiên đề nghị của Anh và Pháp muốn thay đổi

lệnh cấm vận, cho phép cung cấp vũ khí cho lực lượng đối lập đã vấp phải sự

phản đối của các quốc gia thành viên khác.

(v) Nhìn lại lịch sử hội nhập châu Âu về đối ngoại và an ninh, quốc

phòng, CFSP/CSDP đã định hình và phát triển theo định hướng ban đầu của

EC/EU. Tiến trình hội nhập chính trị (EPC) và sáng kiến Cộng đồng Phòng

thủ châu Âu (EDC) phác thảo ban đầu là bộ máy được thể chế hoá theo hình

thức quản trị siêu nhà nước, có chính sách đối ngoại chung, xây dựng lực lượng

quân đội chung và nguồn ngân sách chung, xây dựng chính sách chung về phát

triển công nghiệp quốc phòng… EU ngày nay đã sát nhập các cơ quan phụ

trách đối ngoại, an ninh của Liên minh và tái cấu trúc các cơ quan đại diện

ngoại giao của EU ở nước ngoài, thống nhất dưới sự quản lý của EEAS. EEAS

đồng thời là cơ quan tổng hợp, xây dựng, đề xuất chính sách đối ngoại, chính

sách an ninh quốc phòng chung của Liên minh. HR/VP là người đại diện cho

tiếng nói của EU trong các vấn đề đối ngoại. Bộ máy được thể chế hoá ngày

càng tập trung và cấu trúc hợp lý hơn. Về lĩnh vực quốc phòng, EU có Cục

102

Quốc phòng châu Âu (EDA), Quỹ Quốc phòng châu Âu (EDF) và cơ chế “Hợp

tác có cấu trúc bền vững” (PESCO). Cơ chế này tạo nền tảng cho một chính

sách phát triển công nghiệp quốc phòng chung và một lực lượng quân đội

thường trực của châu Âu trong tương lai.

(vi) Trong các vấn đề an ninh, an ninh quốc phòng là lĩnh vực nhạy

cảm nhất và mang đậm dấu ấn chủ quyền quốc gia. Do vậy, mặc dù được khởi

động không lâu sau tiến trình hội nhập về đối ngoại và an ninh nói chung

nhưng tốc độ và mức độ hội nhập trong lĩnh vực này lại khá hạn chế. Cho đến

khi CFSP đã nhận được sự đồng thuận triển khai thì khía cạnh hợp tác quốc

phòng vẫn bị bỏ ngỏ. Đến năm 1998, Chính sách An ninh Quốc phòng châu

Âu (ESDP) mới ra đời trên nền tảng sáng kiến EDC. ESDP sau đổi tên thành

Chính sách An ninh Quốc phòng chung (CSDP), trở thành một phần quan

trọng của CFSP, từng bước khẳng định sự quyết tâm và đồng lòng của các

quốc gia thành viên EU về hợp tác trong lĩnh vực quốc phòng. CSDP đạt

được bước tiến nhảy vọt từ sau sự kiện Brexit.

(vii) Để hiện thực hoá CFSP/CSDP và các mục tiêu của chính sách,

điều kiện cần là nhu cầu cấp thiết về hợp tác và nỗ lực điều chỉnh chính sách

từ bên trong, điều kiện đủ là động lực từ bên ngoài xuất phát từ bối cảnh khu

vực và thế giới với các sự kiện mang tính bước ngoặt.

Thực tiễn triển khai CFSP/CSDP từ khi ra đời đến nay đã đạt được một

số thành tựu đáng ghi nhận, được thống kê theo thứ tự thời gian như sau:

1992: CFSP ra đời, trở thành một trong ba trụ cột chính của EU, mở ra

giai đoạn mới cho tiến trình hợp tác khu vực về đối ngoại, an ninh sau thất bại

của EPC, EDC (1950-1954).

1998: Chính sách An ninh Quốc phòng châu Âu (ESDP) được đưa vào

nội dung của CFSP theo Tuyên bố St. Malo, trở thành nền tảng cho hoạt động

hợp tác quốc phòng ở khu vực.

2001: EU triển khai Kế hoạch hành động nâng cao năng lực châu Âu

103

(ECAP).

2003: EU lần đầu tiên tuyên bố Chiến lược an ninh châu Âu (ESS).

2004: Cục Quốc phòng châu Âu (EDA) ra đời.

2009: ESDP được đổi tên thành Chính sách An ninh Quốc phòng chung

(CSDP) thể hiện quyết tâm của EU đưa tiến trình hội nhập quốc phòng lên

cấp độ mới. Bộ máy của CFSP được tái cơ cấu theo hướng tập trung và tinh

giản theo Hiệp ước Lisbon.

2010: Cục Hành động đối ngoại châu Âu (EEAS) ra đời, tái cấu trúc hệ

thống cơ quan đại diện ngoại giao của EU tại nước ngoài, đặt dưới sự quản lý

của EEAS.

2016: EU công bố Chiến lược toàn cầu về đối ngoại và an ninh, Sách

trắng về tương lai của châu Âu đến năm 2025, Nghiên cứu đánh giá về tương

lai quốc phòng châu Âu.

2017: EU thiết lập Quỹ Quốc phòng châu Âu (EDF). Thành lập Sở Chỉ

huy kế hoạch và tác chiến quân sự (MPCC) nhằm tăng cường hiệu quả của

các nhiệm vụ quân sự. Thành lập Tổ công tác liên ngành giữa MPCC và Sở

chỉ huy kế hoạch và tác chiến dân sự (CPCC) để thực hiện các nhiệm vụ hỗn

hợp, tăng cường hiệu quả hoạt động phòng thủ chung ở khu vực bên ngoài

biên giới EU.

2018: Sáng kiến “Hợp tác có cấu trúc bền vững” (PESCO) được ký kết

sau 9 năm đàm phán. PESCO được triển khai với mục tiêu thúc đẩy hợp tác

quốc phòng nội khối đi vào chiều sâu, tiến tới thành lập Liên minh Quốc phòng

châu Âu.

Theo dòng thời gian này, những dấu mốc quan trọng trong quá trình

triển khai CFSP thường gắn liền với các sự kiện lớn có ảnh hưởng trực tiếp

hoặc gián tiếp đến an ninh khu vực: CFSP ra đời ngay sau chiến tranh Vùng

Vịnh và Nam Tư (1990-1991), tình hình bất ổn dâng cao ở Bosnia (1995) tiếp

thêm động lực để EU vượt qua những nghi ngại cố hữu về an ninh quốc gia để

104

thiết lập khuôn khổ hợp tác quốc phòng thông qua ESDP, ECAP và ESS được

công bố sau cuộc tấn công khủng bố chấn động thế giới 11/9/2001 và cuộc

chiến chống khủng bố do Mỹ phát động nhằm vào Iraq năm 2003, CFSP có

nhiều điều chỉnh cơ bản về cấu trúc bộ máy theo Hiệp ước Lisbon sau thất bại

của bản Hiến pháp chung châu Âu, EU công bố EUGS sau sự kiện Brexit…

CFSP/CSDP và những sáng kiến triển khai chính sách này không phải là ý

tưởng mới ra đời gần đây nhưng để hiện thực hoá chính sách, ngoài nỗ lực

điều chỉnh chính sách và nhu cầu hợp tác của các quốc gia thành viên, bối

cảnh khu vực và thế giới là động lực cần thiết để CFSP/CSDP được thực thi.

2.3.2. Nguyên nhân thành công và hạn chế

So với xuất phát điểm là EPC/EDC, CFSP/CSDP cho đến thời điểm

hiện tại được đánh giá là thành công. Có nhiều yếu tố tạo nên thành công này:

Một là, CSFP/CSDP được xây dựng trên nền tảng những thành công

EU đạt được trên tiến trình hội nhập kinh tế, xã hội, tư pháp... Việc xây dựng

niềm tin giữa các quốc gia thành viên cần thời gian và bắt đầu từ những lĩnh

vực dễ đạt được đồng thuận hơn là một lĩnh vực nhạy cảm như đối ngoại và

an ninh, quốc phòng. Đồng thời, trong quá trình hội nhập ở các lĩnh vực khác,

EU đã từng bước xây dựng và hoàn thiện một cấu trúc bộ máy với hiệu quả

hoạt động được chứng minh trên thực tế.

Hai là, sau hơn 50 năm, mối đe doạ “nước Đức” đã không còn, thay

vào đó là những nguy cơ có tính chất ngày càng phức tạp khi trật tự hai cực

sụp đổ, xu hướng hành động đơn phương tăng dần của đồng minh Mỹ. Đã đến

lúc EU cần có hành động phòng vệ tập thể tự chủ, giảm dần sự phụ thuộc vào

đồng minh. Đây cũng là cơ sở quan trọng để các quốc gia thành viên nhất trí

đưa ESDP vào CFSP, bắt đầu tiến trình hội nhập về quốc phòng.

Ba là, sau nhiều hoạt động phòng vệ tập thể thực hiện với đồng minh,

EU với tư cách là tổ chức tập hợp các quốc gia thành viên với hệ tư tưởng và

quan điểm chính trị đa dạng, để hài hoà lợi ích và đạt được sự nhất trí hành

105

động, EU cần hành động một cách trung lập tương đối. Cùng với thực lực

quân sự còn nhiều hạn chế trong các hoạt động sử dụng vũ lực, việc ưu tiên

triển khai các nhiệm vụ dân sự, thực hiện sứ mệnh hoà bình là cách EU lựa

chọn để tăng cường ảnh hưởng trên thế giới. Việc kết hợp sử dụng các công

cụ quân sự, kinh tế và ngoại giao trong ngăn ngừa, giải quyết khủng hoảng là

cần thiết. Chiến lược An ninh châu Âu 2003 nêu rõ: “… Cần thiết phải hành

động trước khi khủng hoảng xảy ra… Không một nguy cơ nào có thể được

giải quyết chỉ bằng các phương tiện quân sự. Mỗi nguy cơ đều yêu cầu sử

dụng phối hợp các công cụ” [139, tr. 21]. EU kêu gọi các thành viên chia sẻ

nguồn lực quân sự, đồng thời tăng cường nguồn lực dân sự và các phương

tiện triển khai nguồn lực này. Mở rộng hơn tính chất và mục tiêu của các

nhiệm vụ, bao gồm cả hoạt động giải trừ vũ khí [139, tr.21]. Khác với cách

đặt vấn đề thuần tuý tăng cường sức mạnh quân sự để nâng cao khả năng sử

dụng vũ lực trong đảm bảo an ninh khu vực của EDC, định hướng triển khai

như vậy khiến ESDP/CSDP dễ dàng đạt được đồng thuận để thực thi.

Bên cạnh những thành công nhất định, tiến trình hội nhập khu vực về đối

ngoại, an ninh, quốc phòng còn nhiều hạn chế so với các lĩnh vực khác. Triển

khai một chính sách chung về đối ngoại và an ninh, bao gồm chính sách về an

ninh quốc phòng, với một tổ chức 28 thành viên, để đạt được kết quả cần sự

điều chỉnh lâu dài về phương pháp hoạch định và thực thi chính sách. Quá trình

này chịu tác động của nhiều nhân tố bên trong và bên ngoài. Các nhân tố bên

trong được xác định gồm: (i) cam kết của lãnh đạo các quốc gia thành viên, (ii)

vấn đề chủ quyền và quyền lực của các thể chế, (iii) sự trỗi dậy của chủ nghĩa

dân tuý, dân tộc cực đoan, (iv) quá trình mở rộng liên minh và năng lực của các

quốc gia thành viên. Nhân tố bên ngoài gồm: (v) tính toán chiến lược của Mỹ,

Nga và quan hệ EU – NATO.

(i) Cam kết của lãnh đạo các quốc gia thành viên:

Khi xem xét quá trình hội nhập ở một khu vực, dù tiếp cận theo lý

106

thuyết nào thì vai trò quốc gia luôn có ý nghĩa quan trọng, tác động lớn đến

quá trình hội nhập. Định hướng quốc gia trong quá trình hoạch định và triển

khai chính sách, điều chỉnh các mục tiêu ưu tiên, xác định các chuẩn mực và

lợi ích chung sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các thể chế khu vực

mà quốc gia đó tham gia. Tiến trình hội nhập chỉ có thể bắt đầu khi các quốc

gia quyết định tham gia vào quá trình hợp tác. Định hướng chính sách, nội

dung các chính sách là kết quả của nhóm tinh hoa/giới lãnh đạo của quốc gia

đó. Các nhà lãnh đạo đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy hay kìm

hãm tiến trình hội nhập khu vực. Ngay cả ở khu vực hình thành tự nhiên với

nhiều lợi thế về nền tảng bản sắc và các giá trị chung như châu Âu thì việc

quyết định có tham gia hay không vào tiến trình hội nhập vẫn xuất phát từ ý

chí chính trị của các nhà lãnh đạo đứng đầu mỗi quốc gia. Tuỳ thuộc vào nhận

thức tình hình và nhu cầu hợp tác ở từng thời điểm của các nhà lãnh đạo mà

các quốc gia ký kết với nhau các hiệp định hợp tác ở từng vấn đề, lĩnh vực cụ

thể. Một trong những nhân tố đầu tiên thúc đẩy quá trình hội nhập khu vực là

nhận thức của giới lãnh đạo về khả năng hợp tác và cách thức họ phản ứng

tích cực hay không khi tham gia vào quá trình hợp tác. Nhắc đến Liên minh

châu Âu không thể không nhắc đến “Kế hoạch Schuman” hay “Phương pháp

Monnet”. Nếu không xuất phát từ ý tưởng và cam kết của các nhà lãnh đạo thì

việc hình thành các thể chế khu vực cũng như quá trình hội nhập trong khu

vực khó có thể diễn ra thuận lợi.

Đức và Pháp được coi là những quốc gia đầu tàu, có vai trò lớn trong

việc gắn kết các quốc gia thành viên. Đây cũng là hai trong số các quốc gia có

đóng góp lớn nhất vào nguồn ngân sách chung. Tính riêng năm 2016, Pháp

đóng góp 11,28 tỷ euro, chiếm 8,3% tổng ngân sách. Con số này với Đức là

10,08 tỷ euro, chiếm 7,4% [63]. Không chỉ là quốc gia có nền kinh tế lớn nhất

châu Âu, vai trò đầu tàu của hai thành viên này còn được xác lập qua lịch sử

phát triển của Liên minh khi Đức và Pháp được coi là cha đẻ của tổ chức tiền

107

thân của EU. Hai quốc gia này cũng tiên phong thúc đẩy quá trình nhất thể

hóa châu Âu trong lĩnh vực đối ngoại và an ninh như khởi xướng và ủng hộ

dự thảo Chính sách Quốc phòng châu Âu (1952-1954), đề xuất về “cấu trúc

châu Âu” trong lòng NATO để khẳng định quan điểm “châu Âu là của người

châu Âu”…

Những sáng kiến cải thiện hợp tác giữa các nước thành viên trong lĩnh

vực an ninh quốc phòng như thành lập quân đội chung, thiết lập cơ quan

chuyên trách về đối ngoại an ninh đều xuất phát từ các nhà lãnh đạo Đức và

Pháp. Tuy nhiên, chỉ nỗ lực của Đức hay Pháp thôi chưa đủ, một nền an ninh

quốc phòng chung, một chính sách đối ngoại nhất quán cần sự tham gia của

tất cả các quốc gia thành viên. Anh là một ví dụ điển hình cho thấy nhận thức

của giới lãnh đạo có tác động không nhỏ đến quá trình hội nhập nội khối. Là

nước sở hữu sức mạnh hạt nhân thứ hai trong khối, được đánh giá có thực lực

quốc phòng nổi trội so với các quốc gia thành viên khác nhưng Anh không mấy

mặn mà với hợp tác an ninh quốc phòng trong khuôn khổ Liên minh.

Dưới thời Thủ tướng Thatcher và Major, nước Anh không tham gia vào

cuộc thảo luận với các đồng nhiệm châu Âu về việc định hình một nền an ninh

mang bản sắc châu Âu. Chính sách đối ngoại và an ninh của Anh hướng tới

quan hệ đối tác với Mỹ, Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) và các

quốc gia châu Âu khác trong NATO nhằm đảm bảo vị trí lãnh đạo của khối này

và vai trò trung gian hoà giải của Anh trong cấu trúc an ninh khu vực [104, tr.

211-234]. Tháng 5/1997, nội các mới của Thủ tướng Tony Blair lên cầm quyền

đã có sự chuyển hướng trong chính sách đối ngoại của nước này. Đảng Lao

động mới của ông Blair thể hiện cam kết rõ ràng hơn với an ninh khu vực trong

khuôn khổ EU. Tuyên bố Saint-Malo (12/1998) được ký giữa Anh và Pháp về

hợp tác an ninh quốc phòng trong khuôn khổ song phương và đa phương dưới

cơ chế EU, đồng nghĩa với việc Anh cam kết chung tay cùng xây dựng và tăng

cường năng lực quốc phòng cho EU. Những đóng góp của Anh cho các nhiệm

108

vụ triển khai trong khuôn khổ CSDP được đánh giá cao và có ý nghĩa quan

trọng. Anh cũng là nước ủng hộ sáng kiến thành lập Cục Quốc phòng châu Âu

năm 2004. Nước Anh dưới thời Thủ tướng David Cameron lại có xu hướng

giảm can dự khỏi CSDP và quay trở lại đẩy mạnh hợp tác an ninh quốc phòng

trong khuôn khổ NATO. Việc Anh không còn thực hiện đầy đủ các cam kết

theo Tuyên bố Saint-Malo như cắt giảm chi phí hoạt động của Cục Quốc phòng

châu Âu hay phản đối việc thống nhất về mặt quân sự trong châu Âu thông qua

“hợp tác có cấu trúc bền vững” dẫn đến kết quả quá trình hợp tác nội khối

trong lĩnh vực an ninh quốc phòng diễn ra chậm chạp.

Tóm lại, một nền an ninh quốc phòng chung để thực hiện được cần có

sự đồng lòng, hợp sức của các thành viên, trong đó các cường quốc thành viên

có tiềm lực quân sự đóng vai trò thúc đẩy, điều phối quá trình hợp tác, triển

khai các nhiệm vụ chung. Cam kết của giới lãnh đạo, đặc biệt là của các quốc

gia đầu tàu là điều kiện cần để CSDP phát triển.

(ii) Vấn đề chủ quyền và quyền lực của các thể chế:

Nếu nhận thức của giới lãnh đạo được coi là tiền đề quan trọng để bắt

đầu và thúc đẩy quá trình hợp tác khu vực thì chủ quyền quốc gia lại là yếu tố

cản trở lớn nhất đối với quá trình này. Trong quan hệ quốc tế, “chủ quyền”

luôn là vấn đề ưu tiên trên hết của một quốc gia trong bất kỳ lĩnh vực nào.

Quá trình hợp tác giữa quốc gia này với quốc gia khác, hay sự tham gia của

quốc gia đó vào sân chơi khu vực có thể bị hạn chế bởi yếu tố “chủ quyền”.

Nói cách khác, nguy cơ xâm phạm chủ quyền có tác động lớn đến khả năng

hợp tác của một quốc gia. Chính vì vậy, các sân chơi khu vực thường mang

tính chất đối thoại, mở ra cơ hội để các quốc gia có thể hợp tác với nhau.

Châu Âu là một trường hợp đặc biệt. Khi tham gia vào Liên minh, các quốc

gia cần cam kết tán thành và thực hiện các điều luật đã được thành lập, đặc biệt

là các mục tiêu chính về vấn đề liên minh chính trị, kinh tế và tiền tệ. Điều này

đồng nghĩa với việc thể chế EU có thể can thiệp vào một số vấn đề mang tính

109

nội bộ quốc gia như chính sách thương mại, tài chính… Để làm được điều này,

EU cần được các nước thành viên trao một phần chủ quyền để thực hiện chức

năng quản lý của một bộ máy siêu nhà nước. Tích hợp nhiều yếu tố thuận lợi

cho chủ nghĩa khu vực phát triển mạnh mẽ, EU đạt được mức độ hội nhập

sâu, các thể chế siêu nhà nước với vai trò ngày càng được khẳng định của

Nghị viện, Hội đồng, Ủy ban và Tòa án châu Âu.

Đối với an ninh, quốc phòng và đối ngoại, là những lĩnh vực thể hiện rõ

nhất chủ quyền của một quốc gia, EU cũng đã từng bước thể chế hóa với sự

hiện diện của HR/VP và EEAS. Qua hơn năm năm tồn tại, EEAS bị đánh giá

là hoạt động kém hiệu quả. Tuy nhiên, nhìn nhận một cách khách quan, EEAS

hoạt động có hiệu quả hay không, ngoài nhân tố con người, nguồn lực, còn

chịu tác động của các yếu tố khách quan khác, trong đó “chủ quyền” quốc gia

đối với các vấn đề đối ngoại, an ninh quốc phòng là yếu tố có tác động quyết

định. Khi thể hiện quyền lực của mình, EEAS không thể tránh khỏi việc can

dự vào các vấn đề mang tính nội bộ của các quốc gia thành viên như tiếp cận,

tổng hợp các nguồn tin tình báo phục vụ cho hành động phòng vệ tập thể, đề

xuất một số định hướng, mục tiêu chung đối với chính sách quốc phòng, kế

hoạch chi tiêu quốc phòng của các quốc gia thành viên, đề nghị các nước

thành viên thống nhất quan điểm chính trị và hành động nhất quán đối với các

vấn đề đối ngoại của EU với bên ngoài… Để xoa dịu những nghi ngại khi

quyền lực thể chế được tăng cường hơn khi triển khai CFSP/CSDP, trong Báo

cáo hoạt động của EEAS tháng 7/2013, cựu Ngoại trưởng châu Âu Catharine

Ashton cho rằng CFSP/CSDP không thể thay thế chính sách đối ngoại của

từng quốc gia thành viên mà chỉ nhằm tăng cường tính hợp tác giữa các thành

viên trong chính sách đối ngoại và an ninh quốc phòng hướng tới mục tiêu

chung là nâng cao vai trò của EU trên thế giới.

So với một trong những tổ chức khu vực được đánh giá là thành công

hiện nay như ASEAN, tổ chức vẫn trung thành với nguyên tắc “không can

110

thiệp vào công việc nội bộ của các thành viên”, cơ chế phối hợp mang tính đối

thoại, không ràng buộc, thì các quốc gia thành viên EU được đặt trong khuôn

khổ pháp lý tương đối chặt chẽ. EU được thể chế hóa với nhiều công cụ quản

lý và giải quyết các vấn đề nội khối, bao gồm cả lĩnh vực nhạy cảm như đối

ngoại và an ninh, quốc phòng. Như vậy, đối với vấn đề chủ quyền trong hội

nhập khu vực nói chung và hội nhập về chính trị nói riêng, EU đã bước đầu

vượt qua được lực cản từ nhận thức về “chủ quyền” của các quốc gia để đạt

được sự đồng thuận nhất định về nhiều vấn đề truyền thống thuộc phạm trù

quốc gia như chính sách tài chính, tiền tệ, đối ngoại, an ninh, quốc phòng…

(iii) Sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tuý, dân tộc cực đoan:

Trong một phát biểu tại Nghị viện châu Âu vào năm 1995, Tổng thống

Pháp đương thời Francois Mitterrand đề cập đến những thách thức trong

tương lai đối với EU, ông nhận định rằng: “Chủ nghĩa dân tộc, đó chính là

chiến tranh” [90]. Đây chính là hình ảnh châu Âu nửa đầu thế kỷ XX bị tàn

phá bởi chủ nghĩa diệt chủng và chế độ độc tài. Giới tinh hoa châu Âu đã phải

nỗ lực không ngừng để xây dựng một châu Âu hoà bình và đoàn kết như ngày

nay. Chủ nghĩa dân tộc vị kỷ không có môi trường để phát triển từ sau chiến

tranh Thế giới thứ hai ở khu vực này, mặc dù trên thực tế nó vẫn tồn tại âm ỉ

trong lòng châu Âu, thể hiện qua một số sự kiện như cuộc khủng hoảng

“Chiếc ghế trống” (1965), nội chiến ở Nam Tư (1991) hay bất ổn chính trị ở

một số quốc gia Đông Âu…

Sau cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu năm 2008, nhận thức đây là hậu

quả từ những quyết sách sai lầm của giới tinh hoa, là hệ quả của quá trình

toàn cầu hoá, châu Âu hoá, người dân châu Âu cho rằng đất nước họ chịu quá

nhiều tác động, can thiệp từ bên ngoài (ở đây được hiểu là các chính sách của

EU), sự tự chủ dân tộc theo đó đã giảm đi đáng kể. Một khảo sát của Trung

tâm nghiên cứu Pew thực hiện tháng 6/2016 trong 10 nước châu Âu cho thấy

tỷ lệ người dân ủng hộ EU từ 2004 đến 2016 có xu hướng giảm dần. Đặc biệt,

111

ở những nước đi đầu trong tiến trình nhất thể hóa châu Âu như Đức, Pháp,

con số này lần lượt là 50% và 38%. Chỉ tính riêng hai năm 2015-2016, tỷ lệ

người dân ủng hộ quá trình nhất thể hóa châu Âu tại Pháp giảm xuống 17%,

Đức 8%, Tây Ban Nha 16% [163]. Vượt qua thất bại của bản Hiến pháp

chung 2005, EU ra sức cải tổ bộ máy bằng một bản Hiệp ước cải cách mới,

còn gọi là Hiệp ước Lisbon, nhưng những nỗ lực này chưa đủ lấy lại lòng tin

của người dân. Họ cho rằng EU chưa giải quyết tận gốc vấn đề khủng hoảng

nợ công, phản ứng thiếu hiệu quả trước làn sóng di cư ồ ạt từ Trung Đông

chảy vào châu Âu kéo theo nhiều hệ lụy về an ninh và phát triển xã hội.

Bảng 5: Khảo sát ý kiến của người dân về sự ủng hộ đối với EU

từ năm 2004 đến năm 2016

Nguồn: Trung tâm nghiên cứu PEW

Thập kỷ thứ hai của thế kỷ XXI chứng kiến sự trỗi dậy mạnh mẽ của

chủ nghĩa dân tộc, làn sóng bài châu Âu lan rộng khắp châu Âu. Ngày càng có

nhiều chính trị gia theo chủ nghĩa dân tuý xuất hiện ở châu Âu như Chủ tịch

Đảng Mặt trận dân tộc cực hữu Pháp Marine Le Pen, Lãnh tụ Đảng Vì tự do

112

cực hữu Hà Lan Geert Wilders, Thủ tướng Ba Lan Mateusz Morawiecki, Thủ

tướng Hungary Viktor Orban… Bà Le Pen trong các chiến dịch tranh cử của

mình từng nhiều lần phát biểu EU là “ung nhọt hút cạn sinh lực nước Pháp”

[90] và tuyên bố nếu bà đắc cử sẽ yêu cầu EU trả lại chủ quyền cho nước

Pháp. Những luận điệu tương tự xuất hiện ở nhiều quốc gia châu Âu thời gian

gần đây. Các chính trị gia theo xu hướng dân túy với những tuyên bố chống

lại tiến trình nhất thể hoá châu Âu đang nhận được sự ủng hộ của người dân

trong các cuộc tranh cử. Sự thất bại của bản Hiến pháp chung châu Âu năm

2005 và sự kiện Brexit là những cao trào của làn sóng bài châu Âu đầu thế kỷ

XXI. Đặc biệt, sự kiện chưa từng có tiền lệ, Brexit là đòn giáng mạnh đối với

đế chế EU. Đứng ở góc độ chủ nghĩa dân tộc, Brexit đã truyền cảm hứng cho

các chính trị gia dân tuý, cổ xuý cho chủ nghĩa dân tộc trong quá trình “de-

europeanize” (tạm dịch: phân rã châu Âu). Chính sách thắt lưng buộc bụng

được áp dụng như giải pháp tình thế cho cuộc khủng hoảng nợ công có ảnh

hưởng trực tiếp đến chất lượng cuộc sống của người dân khiến họ dường như

quên đi những lợi ích lớn hơn về phát triển kinh tế, xã hội và đảm bảo an ninh

mà bản thân người dân, đứng từ góc độ cá nhân, gián tiếp được hưởng khi gia

nhập EU. Những bất cập từ chính sách nhập cư của EU cũng tạo thêm môi

trường thuận lợi cho chủ nghĩa dân tộc, dân tuý phát triển.

Tuy nhiên, đối với tiến trình hội nhập về đối ngoại, an ninh nói chung và

an ninh quốc phòng nói riêng, ngược lại, Brexit đã tạo động lực đáng kể để

châu Âu đạt bước tiến mới trong tiến trình này. Trong Báo cáo thực hiện Chiến

lược toàn cầu về an ninh châu Âu (EUGS) năm 2017, Ngoại trưởng Mogherini

đánh giá CFSP/CSDP đã đạt được những thành quả nhất định, nhiều hơn

những gì EU đã đạt được trong lĩnh vực đối ngoại, an ninh quốc phòng nhiều

thập kỷ qua [79]. Sự ra đi của một cường quốc quân sự như Anh khiến châu Âu

nhận thấy cần nỗ lực hơn nữa để lấp đầy khoảng trống Anh để lại. Những bước

tiến mạnh mẽ của châu Âu trong thúc đẩy hợp tác quốc phòng nội khối như sự

113

ra đời của EDF hay PESCO được kỳ vọng sẽ nâng cao sức mạnh quân sự tổng

thể của khối, các quốc gia thành viên thông qua PESCO có thể tận dụng và

hưởng lợi từ nguồn lực chung của EU trong nâng cao năng lực quốc phòng.

Nước Anh không còn cơ hội làm điều này với tư cách là thành viên EU. Trong

cuộc họp báo về “Tương lai của chính sách đối ngoại, an ninh và quốc phòng

hậu Brexit” tổ chức tại Brussells tháng 5/2018, HR/VP Mogherini tuyên bố

rằng: nước Anh “…là bạn, là đối tác (của EU) nhưng với tư cách là “nước thứ

ba”… Sẽ không có khái niệm “thành viên bán phần” (half-member) hay

“thành viên danh dự” (ad honorem)..., chỉ có thể là thành viên hoặc không”

[129]. Không chỉ vậy, Anh rời EU đồng nghĩa với việc nước này buộc phải rút

khỏi 750 thoả thuận trên các lĩnh vực khác nhau [29] và bắt đầu quá trình đàm

phán để ký kết các thoả thuận hợp tác mới với EU và các đối tác của EU. Sau

Brexit, đã có nhiều cuộc bàn luận trong nội bộ nước Anh và châu Âu về việc

Anh được và mất gì từ quyết định rút lui này. Brexit, ở chiều ngược lại, mang

tính răn đe đối với phong trào dân tuý, bài châu Âu ở các nước.

Tóm lại, quan sát thực tiễn, có thể thấy chủ nghĩa dân tộc, dân tuý cực

đoan có tác động tích cực đến tiến trình hội nhập về đối ngoại và an ninh, đặc

biệt trong lĩnh vực an ninh quốc phòng trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên,

không thể phủ nhận tác động tiêu cực của nhân tố này đối với tiến trình hội

nhập chung của châu Âu. Chủ nghĩa dân tuý, dân tộc cực đoan tạo một lực

cản lớn, thậm chí có thể phá vỡ tiến trình này. CFSP/CSDP theo đó có thể

không thể tiếp tục triển khai. Mặc dù vậy, trong bối cảnh nền an ninh toàn cầu

đang đối mặt với nhiều nguy cơ có tính chất phức tạp và khó lường, hợp tác

khu vực về an ninh, quốc phòng vẫn sẽ tiếp diễn dưới hình thức hợp tác đa

phương giữa các quốc gia châu Âu và/hoặc thông qua các cơ chế an ninh khu

vực khác như NATO, OSCE…

(iv) Quá trình mở rộng liên minh và năng lực của các quốc gia thành viên:

Với tiền thân là Cộng đồng Than thép châu Âu có 6 thành viên ban đầu,

tính đến 2017, EU có 28 quốc gia thành viên. Trải qua bảy lần mở rộng, đáng

114

chú ý nhất là lần mở rộng năm 2004, tổ chức này kết nạp thêm 10 thành viên mới69 nâng số lượng thành viên từ 15 lên 25. Đây là lần mở rộng lớn nhất

trong lịch sử phát triển Liên minh. Biên giới EU mở rộng sang phía Đông với

8 nước thuộc Liên bang Xô Viết cũ và hai quốc đảo ở Địa Trung Hải là Síp

và Malta. Việc mở rộng năm 2004 đã trở thành đề tài phân tích của nhiều học

giả bởi với quy mô ngày càng lớn sẽ có nhiều vấn đề phát sinh trong quá

trình vận hành bộ máy và triển khai các chính sách chung. Vấn đề được nhắc

đến nhiều nhất là năng lực của các quốc gia thành viên.

Năng lực quốc gia là yếu tố mang tính thúc đẩy hoặc cản trở quá trình

hợp tác khu vực. Năng lực của các quốc gia thành viên là khả năng, nguồn

lực, yếu tố cốt lõi quyết định sự sẵn sàng tham gia đóng góp, hợp tác của

quốc gia đó trong nhóm/khu vực. Nếu một quốc gia có tiềm lực và sẵn sàng

hợp tác, điều này đồng thời tăng cường cơ hội hợp tác và nâng cao chất

lượng mối quan hệ hợp tác trong nhóm/khu vực. Tuy nhiên, trong một khu

vực, không thể tránh khỏi có những thành viên không có/chưa đủ năng lực và

tự nguyện hợp tác. Chính vì tầm quan trọng như vậy nên EU rất chú trọng đến

việc xem xét các quốc gia trên nhiều yếu tố trước khi chấp thuận đề xuất xin

gia nhập khối. Các quốc gia mong muốn gia nhập Liên minh cần đạt các yêu

cầu theo Bộ tiêu chuẩn Copenhagen: (i) về mặt chính trị, phải có các thể chế

ổn định bảo đảm dân chủ, pháp trị và nhân quyền; (ii) về mặt kinh tế, phải có

một nền kinh tế thị trường hoạt động tốt và có khả năng đương đầu với áp lực

cạnh tranh và các lực lượng thị trường trong EU; (iii) về mặt pháp lý, phải tán

thành và thực hiện các điều luật đã được thành lập của EU, đặc biệt là các mục

tiêu chính về vấn đề liên minh chính trị, kinh tế và tiền tệ [185].

Dựa trên các tiêu chuẩn này, để thực hiện chính sách hướng Đông, EU

đã khởi động Chương trình Hành động vì sự phục hồi kinh tế của Ba Lan và

69 10 nước gia nhập EU năm 2004: Cộng Hòa Séc, Cộng Hòa Síp, Estonia, Hungary, Latvia, Lithuania, Malta, Ba Lan, Slovakia, Slovenia.

Hungaria (PHARE). PHARE sau này được sử dụng là công cụ hỗ trợ của EU

115

giành cho các nước ở Trung và Đông Âu có nguyện vọng gia nhập tổ chức. PHARE được thay thế bằng chương trình IPA70 từ năm 2007. Nguồn ngân

sách này tăng dần theo thời gian. IPA giai đoạn 1 (2007-2013) được cấp nguồn

ngân sách 11,5 tỷ euro và tăng lên 11,7 tỷ euro ở giai đoạn 2 (2014-2020) [62],

chiếm gần 20% tổng nguồn ngân sách EU dành cho các vấn đề toàn cầu. Bản

thân EU rất coi trọng việc nâng cao trình độ phát triển của các nước trong

khối, đặc biệt là nâng cao năng lực kinh tế và phát triển xã hội nhằm tạo mặt

bằng phát triển tương đối giữa các thành viên. Mặc dù nỗ lực như vậy nhưng

chênh lệch về trình độ phát triển giữa các thành viên mới và cũ trong khối vẫn

còn rất lớn. GDP bình quân đầu người của các nước gia nhập từ năm 2004 có

sự thay đổi lớn nhưng vẫn còn cách xa các đầu tàu như Đức, Pháp, Ý. Ba Lan

và Séc là hai ví dụ điển hình. Ba Lan là nước lớn nhất trong khối Đông Âu,

GDP chiếm đến 50% nhóm các nước quốc gia ở khu vực này nhưng lại chỉ

chiếm khoảng 2% tổng GDP của toàn bộ EU. Trong khi đó, thu nhập bình

quân đầu người ở Séc đạt khoảng 18.266 euro/năm (năm 2016) nhưng vẫn chỉ

bằng 1/2 so với nước láng giềng Đức (41.936 euro/năm) [182].

Về mục tiêu đảm bảo an ninh quốc phòng, các nước nhỏ có xu hướng

dựa vào ô bảo hộ an ninh từ tổ chức/cơ chế khu vực mà mình tham gia. Trong

bối cảnh an ninh khu vực từ sau Thế chiến thứ hai tương đối ổn định cùng với

sự hiện diện của đồng minh Mỹ và NATO, liên minh quân sự lớn nhất hiện

nay có 22 thành viên chung với EU, việc nâng cao năng lực quốc phòng

không phải là thứ tự ưu tiên hàng đầu của các quốc gia châu Âu. Bước ra khỏi

chiến tranh với tình trạng kiệt quệ về kinh tế, các nước châu Âu đặt mục tiêu

phát triển kinh tế lên hàng đầu, đồng nghĩa với việc nguồn lực cho các lĩnh

vực khác, đặc biệt là lĩnh vực tiêu tốn nhiều ngân sách như quốc phòng sẽ

giảm đi. Theo thống kê của Ngân hàng Thế giới, trong giai đoạn 1988-2015,

các nước châu Âu có xu hướng giảm chi tiêu quốc phòng, như Đức và Pháp

70 Tiếng Anh: Instrument for Pre-accession Assistance

(3,5% xuống 2,1% tính trên GDP quốc gia), Bỉ (2,5% xuống còn 0,9%), Ý

116

(2,2% xuống 1,3%) [183]. Trong nguồn ngân sách được thông qua năm 2014,

EU chỉ giành ra 314,47 triệu euro (tương đương 4% tổng ngân sách) cho

CFSP so với 1,6 tỷ euro (20% ngân sách) [63] giành hỗ trợ các nước mới gia

nhập/các nước chuẩn bị gia nhập IPA. Nguồn ngân sách cho lĩnh vực này tăng

lên 326,8 triệu euro năm 2017 [69].

Bảng 6: Thay đổi GDP bình quân đầu người của các nước thuộc EU

Đơn vị: % thay đổi

Nguồn: Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF)

từ năm 2004 đến 2014

Gánh nặng về đóng góp ngân sách cũng là một vấn đề nảy sinh nhiều

mâu thuẫn giữa các thành viên. Các nước đóng góp ngân sách theo tỷ lệ thuận

với nền kinh tế. Theo số liệu thống kê năm 2016, Đức, Pháp, Ý, Tây Ban Nha

và Ba Lan là các nước đóng góp nhiều nhất [63]. Đóng góp nhiều vào ngân

sách chung đi đôi với xu hướng tăng cường ảnh hưởng trong việc định hướng

chính sách và các quyết sách khác của khối. Đồng thời, muốn được hưởng lợi

117

từ nguồn ngân sách là tâm lý chung của các nước tham gia vào thể chế khu

vực, trong khi thứ tự ưu tiên của dòng ngân sách lại không phải lúc nào cũng

đáp ứng được nhu cầu của các nước. EU thường xuyên phải đối mặt với tình

trạng bất đồng ý kiến khi họp bàn về vấn đề ngân sách. Ví dụ như các nước

Pháp, Tây Ban Nha chú trọng vào hỗ trợ nông nghiệp, các nước Đông Âu

muốn hướng ngân sách vào hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng trong khi Ý, nước

đóng góp lớn cho nguồn ngân sách chung lại không được hưởng lợi nhiều từ

các lĩnh vực này.

Bảng 7: So sánh về chi tiêu quốc phòng của châu Âu với một số quốc gia khác

Đơn vị: tỷ euro

Nguồn: Viện nghiên cứu hoà bình quốc tế Stockholm, Trung tâm Chiến lược chính trị châu Âu

Qua số liệu như trên có thể thấy hội nhập về đối ngoại và an ninh nội

khối trở nên khó khăn hơn khi EU mở rộng. Trong một lĩnh vực khó đạt

được đồng thuận sẽ càng trở nên khó triển khai hơn khi số phiếu cần được

118

thông qua tăng lên. Đồng thời, năng lực quốc gia và sự chênh lệch lớn về

trình độ phát triển giữa các quốc gia thành viên khiến ý tưởng thành lập quân

đội chung cũng vấp phải nhiều khó khăn khi gánh nặng ngân sách chủ yếu

đặt trên vai các cường quốc trong khối. Sự bất bình đẳng tất yếu giữa các

thành viên ngày càng hiện rõ, trở thành nguy cơ thúc đẩy tâm lý hoài nghi

của người dân các nước thành viên về lợi ích mà nước họ có được khi tham

gia vào tổ chức khu vực.

(v) Tính toán chiến lược của Mỹ, Nga và quan hệ đồng minh EU – NATO:

Về phía Mỹ, từ sau chiến tranh Thế giới thứ hai đến nay, về tổng thể,

Mỹ mong muốn hòa bình và ổn định trong khu vực vì một châu Âu hòa bình,

thống nhất và dân chủ, đảm bảo cho sự an toàn và thịnh vượng của chính

nước Mỹ. Tất nhiên một châu Âu hòa bình và ổn định phải nằm trong một trật

tự mới do Mỹ chi phối. Riêng đối với Đông Âu, Mỹ ủng hộ công cuộc cải

cách, sự phát triển của nền dân chủ và kinh tế thị trường, đồng thời ngăn ngừa

khả năng phục hồi chủ nghĩa cộng sản ở các nước này. Trong Chiến lược an

ninh quốc gia Mỹ năm 2017, Mỹ tiếp tục khẳng định châu Âu là một đồng

minh quan trọng, cùng Mỹ kiểm soát tình hình bất ổn ở Trung Đông, khu vực

châu Phi và các điểm nóng như Afghanistan, Iraq… Mỹ kỳ vọng các đồng

minh châu Âu tăng chi phí quốc phòng lên 2% GDP đến năm 2024, với 20%

ngân sách dành cho tăng cường năng lực quân sự [180].

Đối với việc châu Âu thúc đẩy một chính sách đối ngoại an ninh chung,

trong đó bao gồm chính sách quốc phòng chung, quan điểm của Mỹ là ủng hộ

nhưng kiềm chế. Một châu Âu với nền phòng thủ độc lập tự chủ sẽ đe dọa đến

vai trò truyền thống của NATO, đồng nghĩa với suy giảm khả năng ảnh

hưởng của Mỹ tại châu lục. Tuy nhiên, bản thân nước Mỹ cũng mong muốn

một châu Âu với thực lực quân sự mạnh hơn hiện tại, như vậy có thể giúp Mỹ

san sẻ trách nhiệm bảo đảm an ninh tại khu vực thông qua khuôn khổ NATO,

nhưng tất nhiên là “mạnh lên” trong tầm kiểm soát của Mỹ bởi một EU hội

119

nhập sâu, đạt được tiếng nói chung trong các vấn đề an ninh quốc phòng nói

riêng và trong lĩnh vực đối ngoại nói chung sẽ giúp EU trở thành một đồng

minh “chất lượng” hơn trong cuộc chiến chống khủng bố, ứng phó hiệu quả

hơn với các nguy cơ truyền thống và phi truyền thống. Chính sách “xoay trục”

sang châu Á – Thái Bình Dương của chính quyền Obama và sự giảm can dự ở

một số khu vực dưới thời Trump có tác động tích cực, thúc đẩy quá trình hội

nhập sâu về an ninh quốc phòng của EU.

Về phía Nga, EU là đối tác lớn của Nga trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt

trong lĩnh vực thương mại và năng lượng. Nga là nhà cung cấp năng lượng

lớn cho EU, chiếm đến 53,5% tổng nhu cầu tiêu dùng của 28 thành viên EU

(năm 2014, riêng dầu mỏ và sản phẩm dầu tới gần 88%, khí tự nhiên khoảng

67% [96]. Bất chấp lệnh trừng phạt của EU áp dụng đối Nga từ vấn đề

Crimea, xuất khẩu năng lượng sang EU của Nga tiếp tục tăng. Từ đầu năm

2017, khối lượng khí đốt Nga xuất khẩu sang EU tăng 12,3% và dự báo đà

tăng trong năm 2018. Đồng thời, EU và Nga là đối tác thương mại lớn thứ tư

của nhau. Tổng kim ngạch xuất khẩu của EU sang thị trường Nga trong năm

2013 là 120 tỷ Euro (140 tỷ USD), đã giảm xuống chỉ còn 72 tỷ Euro (84 tỷ

USD) vào năm 2016 [82] do ảnh hưởng từ chính sách cấm vận, đưa Nga

xuống vị trí thứ năm trong tốp các đối tác thương mại quan trọng hàng đầu

của EU (sau Mỹ, Thuỵ Sỹ, Trung Quốc và Thổ Nhĩ Kỳ). Về mặt an ninh, Nga

định vị EU là một nhân tố quan trọng trong cấu trúc an ninh khu vực nhưng

xác định duy trì chính sách cứng rắn với đối tác này.

Trong Chiến lược an ninh quốc gia năm 2016, Nga tuyên bố sử dụng vũ

khí hạt nhân như một biện pháp răn đe và để mở khả năng sử dụng biện pháp

quân sự nếu các hướng giải quyết phi quân sự khác nhằm bảo vệ lợi ích quốc

gia thất bại. Đồng thời, Nga tiếp tục duy trì quan điểm cứng rắn về vấn đề

Ukraine và các biện pháp trả đũa thương mại với các lệnh cấm vận của EU và

Mỹ. Những động thái này khiến nguy cơ xảy ra những cuộc xung đột nóng

120

trong khu vực tăng lên. Nga định hướng chính sách tăng cường quan hệ với

Trung Quốc, Ấn Độ, các nước Mỹ La tinh và mở rộng ảnh hưởng ở châu Phi.

Tham vọng tăng cường ảnh hưởng của Nga trên thế giới và ở những khu vực

châu Âu đang và mong muốn duy trì ảnh hưởng như châu Phi cùng với ảnh

hưởng truyền thống của Nga ở Đông Âu, Trung Đông có tác động trực tiếp

đến hướng triển khai CFSP/CSDP của EU. Nhìn từ góc độ EU, Nga chính là

động lực để EU nâng cấp năng lực chính trị và quân sự của mình.

Về phía NATO, EU – NATO là quan hệ đồng minh chiến lược truyền

thống. Việc EU thúc đẩy triển khai Chính sách An ninh Quốc phòng chung

đứng trên quan điểm của NATO không phải là một nguy cơ lớn vì các lý do

sau: (i) châu Âu hiện tại hạn chế về khả năng quân sự để thực thi Nhiệm vụ

Petersberg nên nguy cơ đối đầu giữa hai lực lượng không cao; (ii) số lượng

thành viên chung giữa hai tổ chức lớn, đồng thời những thành viên NATO

không nằm trong EU vẫn có thể tham gia vào quá trình thảo luận và đưa ra

quyết định hành động trong khuôn khổ CSDP; (iii) EU có quyền hành động

độc lập trong một số trường hợp nhưng vẫn sử dụng một số trang thiết bị của

NATO lộ rõ điểm yếu trong tiềm lực quân sự của tổ chức. Với NATO, việc

hình thành một lực lượng quân đội chung với chính sách an ninh quốc phòng

chung của EU là hành động mang tính khẳng định bản sắc chính trị của Liên

minh nhiều hơn là đi vào thực chất. Đồng thời, một EU mạnh lên về năng lực

quân sự giúp NATO có một đồng minh chất lượng hơn cùng duy trì và bảo vệ

an ninh khu vực và các vùng ảnh hưởng. Những cải tổ mạnh mẽ về mặt thể

chế, nhiều hoạt động thúc đẩy triển khai CFSP, CSDP được EU khởi xướng

và kêu gọi thực hiện, đặc biệt sau sự kiện Brexit cho thấy ý chí quyết tâm của

các nhà lãnh đạo EU trong việc nâng cao năng lực tự chủ quốc phòng. Động

thái này được các nhà lãnh đạo NATO tuyên bố ủng hộ, thắt chặt và tăng

cường hơn nữa quan hệ đồng minh chiến lược với EU.

121

Năm 2016 là một năm sôi động với hàng loạt các sự kiện trong quan hệ

giữa EU và NATO, trong đó nổi bật là Thỏa thuận Kỹ thuật về Phòng thủ

không gian mạng được ký kết giữa Lực lượng Phản ứng nhanh về sự cố máy

tính của NATO (NCIRC) và Nhóm Phản ứng khẩn cấp về sự cố máy tính của

EU (CERT-EU), cung cấp cơ chế trao đổi thông tin và chia sẻ kinh nghiệm

giữa các đội phản ứng khẩn cấp. Theo đề nghị của Đức, Hy Lạp và Thổ Nhĩ

Kỳ, các Bộ trưởng Quốc phòng NATO đã đồng ý việc các nước đồng minh

cần tham gia vào các nỗ lực quốc tế nhằm ngăn chặn nạn buôn lậu và nhập cư

bất hợp pháp trên biển Aegean, hợp tác với cơ quan quản lý biên giới của EU

Frontex. Ngày 8/7/2016, không lâu sau khi EU tuyên bố Chiến lược toàn cầu

của EU về đối ngoại và an ninh khẳng định vai trò quan trọng của NATO trong

chiến lược an ninh toàn cầu của mình, EU và NATO cùng ký Tuyên bố chung

Warsaw đưa ra các lĩnh vực then chốt hai bên cần tăng cường hợp tác, gồm:

chống lại các nguy cơ hỗn hợp71, hợp tác hành động trong các vấn đề an ninh

biển và di cư, an ninh mạng, tăng cường khả năng phòng vệ, công tác nghiên

cứu và công nghiệp quốc phòng, tập trận chung, hỗ trợ các đối tác phía Đông

và phía Tây [78].

Nhìn chung, quan hệ EU – NATO là một trong những trục chính trong

cấu trúc an ninh khu vực. Sự phát triển của mối quan hệ này thể hiện mức độ

thành công của tiến trình hội nhập khu vực nói chung. Đối với quá trình hợp

tác nội khối về an ninh quốc phòng, quan hệ với NATO mang tính hỗ trợ cho

tiến trình này, nhưng xét từ góc độ EU, NATO là yếu tố kìm hãm quá trình

triển khai CFSP do tâm lý dựa vào sự bảo hộ của tổ chức này trong các hoạt

71 Tiếng Anh: hybrid threats

động quốc phòng của các quốc gia thành viên.

122

Thành viên EU và NATO Thành viên EU

Nguồn: Trung tâm chiến lược chính trị châu Âu

Bảng 8: Tương quan so sánh thành viên EU và NATO (tính đến năm 2017)

Tiểu kết chương 2

Những thành tựu CFSP đạt được qua hơn hai thập kỷ triển khai là minh

chứng rõ ràng cho tiến trình hội nhập châu Âu đã ở mức độ cao. Hiện tượng

“lan toả chính trị” đang diễn ra ở châu Âu và đạt được nhiều kết quả cụ thể.

Trên cơ sở phân tích nội hàm chính sách, các thành tựu, nguyên nhân thành

công và hạn chế trong quá trình thực thi CFSP, năm nhân tố được xác định có

tác động đến quá trình triển khai chính sách là: cam kết của lãnh đạo các quốc

gia thành viên; vấn đề chủ quyền và quyền lực của các thể chế; quá trình mở

rộng Liên minh và năng lực của các quốc gia thành viên; sự trỗi dậy của chủ

123

nghĩa dân tuý, dân tộc cực đoan; tính toán chiến lược của Mỹ, Nga và quan hệ

EU – NATO. Qua phân tích, đánh giá thực tiễn triển khai Chính sách cho thấy:

(i) Quá trình hình thành, điều chỉnh và triển khai CFSP cho thấy hội

nhập khu vực về đối ngoại và an ninh đã đạt được nhiều bước tiến nhất định;

(ii) Sự khác biệt về năng lực của các quốc gia thành viên là khó tránh

khỏi. Khoảng cách phát triển giữa các thành viên rất khó thu hẹp. Sự tăng

cường quyền lực cho các thể chế khu vực xuất phát từ khoảng cách này, đáp

ứng nhu cầu phát triển của các chủ thể quốc gia đặt trong môi trường vận

động của quá trình hội nhập khu vực;

(iii) Vấn đề chủ quyền có thể được giảm nhẹ dựa trên nhận thức và sự

thừa nhận về các giá trị chung. Hành động dựa trên một bản sắc thống nhất

tạo được sự gắn kết giữa các quốc gia thành viên;

(iv) Lợi ích quốc gia là vấn đề cốt lõi. Trong hội nhập khu vực, một

chính sách chung có tính khả thi cao là một chính sách tối đa hoá được lợi ích

của các quốc gia thành viên khi triển khai các hành động tập thể.

124

CHƯƠNG 3

TRIỂN VỌNG HỘI NHẬP VỀ ĐỐI NGOẠI VÀ AN NINH CỦA

LIÊN MINH CHÂU ÂU ĐẾN NĂM 2025

3.1. Xu thế hội nhập khu vực đến năm 2025

3.1.1. Xu thế chung

Trật tự thế giới duy trì ở hình thức “nhất siêu đa cường” hay “đa cực”

trong thế kỷ XXI vẫn là quan điểm còn nhiều tranh luận. Các vấn đề đề cập

trong luận án được đặt trong bối cảnh cục diện thế giới “đa cực”, trong đó EU

được coi là một “cực”. Trật tự định hình từ sau chiến tranh Lạnh đến nay về

cơ bản được duy trì.

Với sức mạnh tổng thể vượt trội, Mỹ tiếp tục là cường quốc số một thế

giới về kinh tế, quân sự và khoa học kỹ thuật. Tuy nhiên, vị trí đứng đầu này

đang gặp nhiều thách thức từ sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế và

tham vọng tăng cường ảnh hưởng trên thế giới của Trung Quốc. Từ giai đoạn

2004 – 2015, Trung Quốc đã tăng tỷ trọng GDP toàn cầu từ 5% đến 15%

[187] và còn trên đà tăng. Theo Báo cáo dự báo xu thế chi ngân sách quốc

phòng từ 2012-2045 của Bộ quốc phòng Anh, Trung Quốc dự kiến tăng

nguồn ngân sách cho quốc phòng từ 251 tỷ đô la Mỹ lên đến 1.270 tỷ đô năm

2045 [175]. Đồng thời, xu hướng giảm can dự của chính quyền Tổng thống

Trump ở một số khu vực trên thế giới là cơ hội để Trung Quốc vươn lên, tăng

cường và mở rộng ảnh hưởng. Xu hướng phát triển mạnh mẽ của Trung

Quốc, hướng tới mục tiêu trở thành đối trọng cân bằng lực lượng với Mỹ sẽ

tiếp diễn trong thế kỷ XXI. Ở châu Âu, quyết tâm tăng cường hợp tác quân sự

nội khối và hướng tới thành lập Liên minh quân sự của EU, xu hướng triển

khai các chính sách có thiên hướng cưỡng chế bằng quân sự của Nga, quan hệ

Nga – Trung không ngừng được nâng cấp là những động thái tác động đến

tầm ảnh hưởng của Mỹ trên thế giới nói chung và ở châu Âu nói riêng.

125

Bảng 9: Xu hướng gia tăng chi phí quốc phòng của một số

Đơn vị: triệu đô la Mỹ

Nguồn: Báo cáo của Bộ quốc phòng Anh: Xu hướng chiến lược toàn cầu đến năm 2045

cường quốc quân sự đến năm 2045

Nền kinh tế thế giới sau 10 năm kể từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu

đã bắt đầu hồi phục. Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) dự báo nền

kinh tế toàn cầu sẽ tăng trưởng hơn 3,5% trong năm 2018 – tốc độ nhanh nhất

trong 8 năm qua [164]. Tuy nhiên, việc Mỹ đơn phương rút khỏi một số Hiệp định

thương mại đa phương (NAFTA, TPP…) đã châm ngòi cho cuộc chiến thương

mại Mỹ - Trung, các biện pháp cấm vận kinh tế phương Tây áp dụng với Nga gây

tổn hại cho các bên là những diễn biến có khả năng tác động lớn đến kinh tế toàn

cầu. Bên cạnh đó, nhiều vấn đề sâu sắc mang tính cấu trúc mà cuộc khủng hoảng

126

tài chính gây ra đã kéo dài, khiến sự phục hồi của nền kinh tế toàn cầu trở nên

mong manh hơn so với các chu kỳ hồi phục trong quá khứ.

Thế kỷ XXI tiếp tục là thời đại của cuộc cách mạng công nghệ thông

tin, chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, mở ra nhiều

nguồn tài nguyên số, trí tuệ nhân tạo, khoa học vũ trụ… Trong Sách trắng về

tương lai châu Âu, các nhà lãnh đạo EU nhận định chúng ta đang sống trong

kỷ nguyên thông tin trở nên phong phú và dễ tiếp cận hơn bao giờ hết. Đến

năm 2018, khoảng 1/3 dân số thế giới sử dụng mạng xã hội [65, tr. 13]. Xu

thế này làm thay đổi nền dân chủ thế giới. Nguồn tài nguyên mới mở ra, mang

đến nhiều cơ hội, đồng thời cũng là thách thức đối với các quốc gia trong việc

ứng phó với các nguy cơ hỗn hợp, có tính chất khác biệt hơn các nguy cơ

truyền thống, phi truyền truyền thống trước đây.

Môi trường quốc tế thay đổi khiến nhận thức về nguy cơ trong một thế

giới mới cũng thay đổi. Trong “Báo cáo về nguy cơ toàn cầu năm 2016” của

Diễn đàn Kinh tế thế giới đã nêu một số “nguy cơ” chính mà thế giới đang phải

đối mặt xét về phương diện “có khả năng xảy ra” và “tác động” của các nguy

cơ này trên quy mô khu vực và toàn cầu. Nguy cơ toàn cầu được định nghĩa là

“một sự kiện hoặc điều kiện nào đó mà nếu xảy ra, nó sẽ có tác động vô cùng

tiêu cực tới một số quốc gia hoặc các ngành công nghiệp trong vòng 10 năm”

[170, tr.11]. Năm nguy cơ được đánh giá có khả năng xảy ra nhất theo thứ tự

giảm dần, gồm: di cư bắt buộc quy mô lớn, hiện tượng thời tiết khắc nghiệt,

thất bại trong việc giảm thiểu và ứng phó với biến đổi khí hậu, xung đột đa

quốc gia và thảm họa thiên nhiên. Các nguy cơ xét về phương diện gây ảnh

hưởng lớn đến toàn cầu gồm: thất bại trong giảm thiểu và ứng phó với biến đổi

khí hậu, vũ khí hủy diệt hàng loạt, khủng hoảng nguồn nước, di cư bắt buộc

quy mô lớn và cú sốc giá năng lượng. Nguy cơ “di cư bắt buộc quy mô lớn” lần

đầu tiên đứng đầu trong danh sách các rủi ro, thể hiện nhận thức rõ về những hệ

127

quả của bất ổn an ninh xã hội mà làn sóng người di cư với quy mô lớn chưa

từng có từ các khu vực bị chiến tranh tàn phá đổ về châu Âu [132].

Nhìn chung, thế giới thế kỷ XXI tiếp tục duy trì trật tự đa cực, trong đó,

Mỹ với sức mạnh tổng thể vượt trội vẫn là cường quốc số một thế giới về kinh

tế, quân sự và khoa học kỹ thuật. Tuy nhiên, vị trí đứng đầu này đang gặp

nhiều thách thức từ sự vươn lên mạnh mẽ của các “cực” khác, trong đó có

EU. Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật công nghệ là động lực của nền kinh tế

thế giới, đồng thời tạo ra nhiều thách thức với chính phủ các nước trong việc

ứng phó với những nguy cơ mới. Với nhận thức về nguy cơ trong thời đại mới

có nhiều thay đổi, xu thế hội nhập khu vực tiếp tục được duy trì dựa trên yêu

cầu đảm bảo an ninh trong thời đại toàn cầu hoá. Trong bối cảnh đó, các tổ

chức liên kết khu vực tiếp tục phát huy vai trò trong đối phó với các nguy cơ

mới mang tính khu vực và toàn cầu. Tuy nhiên, phản ứng kém hiệu quả của

các chủ thể này trong nhiều vấn đề an ninh, xã hội khiến làn sóng ly khai, chủ

nghĩa hoài nghi tiếp tục bùng phát mạnh mẽ.

3.1.2. Xu thế hội nhập ở châu Âu

Bước sang thập niên thứ hai của thế kỷ XXI, EU đứng trước cuộc tranh

luận về tương lai phát triển của khối. Với những xu thế vận động chính của thế

giới như nêu trên, hợp tác cùng phát triển và đối phó với các nguy cơ là nhu

cầu tất yếu trong thập niên tới. Nhu cầu này tiếp tục khẳng định vai trò quan

trọng số một của EU. Như vậy, xu thế hội nhập vẫn tiếp diễn ở khu vực. Vấn

đề đặt ra là cách thức EU thực hiện vai trò của mình như thế nào để quá trình

hội nhập khu vực đạt được mục tiêu phát triển của các quốc gia. Phương hướng

hoạt động và cách thức giải quyết vấn đề của EU tiếp tục là nguồn gốc gây chia

rẽ nội bộ liên minh.

Thực tế cho thấy đang tồn tại một khoảng cách lớn trong cách suy nghĩ

giữa lãnh đạo và người dân châu Âu. Một cuộc điều tra công bố bởi Nghị viện

128

châu Âu cho thấy Ireland là nước có đến 90% người dân cảm thấy có lợi khi gia

nhập EU trong khi không có nước nào trong sáu nước lớn là Đức, Pháp, Ý, Ba

Lan, Tây Ban Nha và Anh vượt qua tỷ lệ 80%. Tại Ý, thậm chí chỉ có 39%

người được hỏi cho rằng gia nhập EU là một thuận lợi [64].

Bảng 10: Khảo sát ý kiến người dân đánh giá về mức độ phát triển của quốc

gia thành viên từ khi gia nhập EU ở khía cạnh kinh tế

Nguồn: Eurobarometer

(giai đoạn 10/2004 – 05/2013)

Sự kiện Brexit là cao trào của làn sóng bài châu Âu và chủ nghĩa dân

tuý cực đoan lan rộng khắp châu lục trong những thập kỷ đầu thế kỷ XXI.

Vấn đề Ba Lan với cuộc cải cách tư pháp bị cho là vi phạm các nguyên tắc

dân chủ của EU xảy ra trong không gian hậu Brexit, những vấn đề tồn tại

trong khu vực đồng tiền chung và tác động của nó đến xã hội, nhận thức của

người dân về EU sẽ tiếp tục ảnh hưởng đến tình hình chính trị, xã hội châu Âu

trong trung hạn, ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình hội nhập khu vực đang diễn

ra ở châu lục này.

129

Trong xu thế phục hồi của kinh tế thế giới, trải qua cuộc khủng hoảng nợ

công, kinh tế châu Âu trên đà khởi sắc. Theo Cục Thống kê châu Âu

(Eurostat), nền kinh tế các quốc gia EU năm 2017 đã tăng trưởng gần 2,5%,

cao hơn so với kỳ vọng 1,9% đặt ra trước đó và đạt mức cao nhất trong vòng

10 năm qua. Nền kinh tế châu Âu được dự báo tiếp tục đà phục hồi nhưng tốc

độ tăng trưởng chậm lại. Mức tăng trưởng dự báo đạt 2,3% năm 2018 và 2,0%

năm 2019 [187]. Khu vực đồng tiền chung Eurozone cũng đạt mức tăng trưởng

cao, tăng 2,5% so với năm 2016 (1,8%), được đánh giá là tốt nhất kể từ năm

2008 đến nay [187]. Tỷ lệ thất nghiệp của các nước Eurozone và EU nói chung

giảm xuống mức thấp nhất kể từ năm 2009, đạt mức 8,2% và có xu hướng tiếp

tục giảm với tốc độ chậm [65, tr. 9].

Nguồn: Uỷ ban châu Âu

Bảng 11: Tỷ lệ thất nghiệp EU28 từ năm 2004 – 2017

Mặc dù kinh tế châu Âu nói chung đã có dấu hiệu phục hồi nhưng khu

vực đồng euro vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề bất ổn và chưa có dấu hiện lắng

130

xuống. Các đảng phái chính trị ở Ý lên tiếng chỉ trích các biện pháp thắt chặt

chi tiêu của Ngân hàng trung ương châu Âu, phong trào dân tuý cực đoan

(Phong trào 5 sao) nhận được sự ủng hộ lớn từ người dân gây tác động tiêu

cực đến khu vực đồng tiền chung. Chính sách cải cách kinh tế ở Tây Ban Nha

bắt đầu phát huy tác dụng nhưng chính phủ thiểu số của nước này sẽ gặp phải

nhiều khó khăn hơn khi thúc đẩy thông qua các gói ngân sách và vấn đề đòi ly

khai vùng Catalonia gây ra sự bất ổn định của tình hình chính trị nước này.

Nền kinh tế Hy Lạp tuy đã có dấu hiệu hồi phục nhưng vẫn chưa thể tuyên bố

thoát khỏi khủng hoảng…

Tiếp cận ở góc độ an ninh, cấu trúc an ninh khu vực định hình từ sau

chiến tranh Lạnh về cơ bản không thay đổi. EU cho rằng “sự thống nhất, độc

lập và toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia, các biên giới không thể xâm phạm

và thiết lập hoà bình cho các cuộc xung đột là những yếu tố đảm bảo trật tự

an ninh khu vực” [73, tr. 33]. Dựa trên quan điểm này, EU sẽ tiếp tục phát

huy vai trò đầu tàu, đảm bảo lợi ích chung của các quốc gia thành viên với các

đối tác, đồng thời duy trì ảnh hưởng của khối ở các khu vực khác trên thế giới

trên cơ sở hoà bình và cùng thịnh vượng. Trật tự khu vực được định hình và

quyết định bởi quan hệ của các trục chính EU – Mỹ, EU – Nga và EU –

NATO. An ninh khu vực đồng thời bị tác động bởi tính toán chiến lược của

Mỹ đối với các khu vực khác, sự trỗi dậy của Trung Quốc, Nga, quan hệ Nga

– Trung và tính toán lợi ích của các quốc gia tầm trung khác trong khu vực.

Nhìn chung, châu Âu trong những năm đầu thế kỷ XXI chứng kiến

nhiều thay đổi quan trọng trong tình hình an ninh khu vực. Từ một châu Âu

tương đối yên bình, tập trung phát triển kinh tế sau chiến tranh Lạnh đến một

khu vực xuất hiện nhiều vấn đề bất ổn an ninh nghiêm trọng như khủng bố, an

ninh năng lượng, an ninh mạng, các cuộc xung đột nóng, di cư quy mô lớn

kéo theo tác động tiêu cực đến môi trường chính trị, xã hội và phát triển kinh

131

tế… Bản thân Liên minh châu Âu đồng thời phải đối mặt với nhiều vấn đề nội

tại như chủ nghĩa dân tuý cực đoan, làn sóng bài EU và chia rẽ nội bộ sâu sắc,

sự phục hồi mong manh của khu vực đồng tiền chung… Đối phó với những

thách thức này, châu Âu vẫn cần những nỗ lực tập thể để vượt qua khủng

hoảng và phát triển. Xu thế hội nhập khu vực, do vậy, vẫn tiếp diễn ở châu

Âu. Tuy nhiên, do tiến trình hội nhập khu vực đã đạt đến cấp độ cao nhất nên

mức độ và tốc độ hội nhập có xu hướng diễn ra chậm hơn so với cuối thế kỷ

trước. Khả năng EU thất bại trong việc hiện thực hoá tầm nhìn đến năm 2025

là khó xảy ra. Đây là giai đoạn EU sẽ phải đưa ra một số điều chỉnh về định

hướng phát triển chung của khối trên các lĩnh vực. Hội nhập về đối ngoại và

an ninh, quốc phòng không nằm ngoài xu thế chung này và được quyết định

bởi hiệu quả thực thi CFSP/CSDP.

3.2. Triển vọng thực thi Chính sách Đối ngoại và An ninh chung đến năm

2025

Tháng 3/2017, EU kỷ niệm 60 năm chặng đường phát triển (1957-

2017). Đánh dấu sự kiện quan trọng này, Liên minh châu Âu công bố “Sách

trắng về tương lai châu Âu – Nhìn lại và các kịch bản cho EU27 đến 2025”72.

Những thách thức, cơ hội và viễn cảnh phát triển của EU trên các lĩnh vực lớn

được đề cập đến. Năm định hướng phát triển đến năm 2025 được đề xuất cho

tương lai của Liên minh gồm:

(i) EU tiếp tục tập trung triển khai lộ trình cải cách đã được thiết lập.

Với định hướng này, các vấn đề ưu tiên sẽ được cập nhật thường xuyên, tốc

độ ra quyết sách tuỳ thuộc vào khả năng vượt qua sự khác biệt về quan điểm

để giải quyết các vấn đề ưu tiên dài hạn. Hợp tác quốc phòng được tăng

cường trong các hoạt động nghiên cứu, công nghiệp quốc phòng và mua sắm

72 Tiếng Anh: “White paper on the future of Europe – Reflection and Scenarios for the EU27 by 2025”

trang thiết bị. Các quốc gia thành viên quyết định đóng góp một phần vào sức

132

mạnh quân sự chung và nâng cao sự thống nhất về tài chính cho các nhiệm vụ

triển khai bên ngoài lãnh thổ EU. Hợp tác chống khủng bố được nâng cấp với

sự sẵn sàng hy sinh chủ quyền quốc gia trong việc chia sẻ thông tin tình báo.

Tiến trình thực hiện thống nhất tiếng nói trong các vấn đề đối ngoại được khởi

động. Giả định phát triển theo hướng này, EU27 là một khối thống nhất

nhưng vẫn bị thách thức bởi nhiều vấn đề mâu thuẫn lớn.

(ii) EU dần chuyển trọng tâm vào thị trường chung. EU không thể đồng

thuận trong nhiều vấn đề chính sách, do đó tăng cường sự tập trung vào thị

trường chung. Hợp tác cùng giải quyết vấn đề trong các lĩnh vực khác như di

cư, an ninh, quốc phòng không còn nữa. Các mối quan tâm chung được giải

quyết theo hướng song phương. Sự di chuyển tự do của công dân châu Âu bị

hạn chế vì các lý do an ninh. Các vấn đề đối ngoại giải quyết theo hướng song

phương tăng lên, hợp tác quốc phòng duy trì như mức độ hiện nay. Giả định

phát triển theo hướng này, EU không còn là một chủ thể có ảnh hưởng trên

trường quốc tế do mất vai trò trong việc giải quyết các vấn đề mang tính toàn

cầu như biến đổi khí hậu, thúc đẩy thương mại quốc tế…

(iii) EU cho phép các quốc gia thành viên chủ động hợp tác với nhau

trong từng lĩnh vực cụ thể. EU vẫn là một Liên minh chặt chẽ nhưng các quốc

gia thành viên khi có nhu cầu và sẵn sàng hợp tác cùng giải quyết một hay

nhiều vấn đề trong một lĩnh vực nhất định có thể hợp tác theo nhóm. Một số

vấn đề có thể hợp tác theo nhóm như quốc phòng, an ninh nội địa, thuế hay các

vấn đề xã hội khác. Trong quan hệ với các nước thứ ba, bao gồm trong lĩnh vực

thương mại, vai trò của EU vẫn được duy trì như hiện nay. Về đối ngoại, tiến

trình thống nhất tiếng nói trong các vấn đề đối ngoại vẫn được thực hiện, ngoại

trừ các nhóm nước muốn hợp tác sâu hơn về quốc phòng. Giả định phát triển

theo hướng này, EU thống nhất được duy trì song hành với quan hệ hợp tác sâu

hơn theo ý chí của hai hay nhiều quốc gia thành viên cụ thể.

133

(iv) EU tập trung nâng cao hiệu quả và phản ứng nhanh của các hành

động tập thể trong một số lĩnh vực nhất định, giảm can dự ở các lĩnh vực

khác. Như vậy, EU có thể hành động nhanh và quyết đoán hơn ở những lĩnh

vực được ưu tiên lựa chọn. Các lĩnh vực được chọn là thương mại, an ninh, di

cư, quản lý biên giới và quốc phòng. Tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên này

đồng nghĩa với việc EU giảm can dự ở những lĩnh vực có giá trị thặng dư hạn

chế hoặc khó triển khai như kỳ vọng như việc làm, chính sách xã hội (tuy

nhiên không ảnh hưởng đến chức năng của thị trường chung). Về đối ngoại,

EU thống nhất quan điểm trong các vấn đề liên quan đến lĩnh vực đối ngoại,

Liên minh quốc phòng được thành lập. Giả định phát triển theo hướng này,

một tầm nhìn rõ ràng hơn về trách nhiệm của EU giúp người dân hiểu rõ chức

năng của EU ở cả cấp độ quốc gia và khu vực.

(v) EU quyết định cùng hợp tác trên tất cả các lĩnh vực. EU được trang

bị đầy đủ để đối phó với các thách thức. Các quốc gia thành viên quyết định

chia sẻ các nguồn lực, quyền hạn quốc gia nhiều hơn cho Liên minh trong các

quyết sách trên tất cả các lĩnh vực. Về đối ngoại và an ninh, EU hành động

chung một tiếng nói. Quốc phòng và an ninh được đặt trọng tâm ưu tiên. Liên

minh quốc phòng châu Âu được hình thành và hợp tác toàn diện với NATO.

Giả định phát triển theo hướng này, các thể chế được tăng cường quyền lực,

đủ khả năng, quyền hạn ra quyết sách và phản ứng nhanh hơn. Giả định phát

triển theo hướng này, việc quốc gia thành viên trao quá nhiều quyền cho các

thể chế khu vực có thể là một vấn đề thiếu tính pháp lý [65, tr. 15-25].

Với năm giả định này, châu Âu đứng trước nhiều lựa chọn cho tương

lai. Việc lựa chọn hình thức phát triển sẽ kéo theo sự thay đổi về chức năng

của EU. Các nhà lãnh đạo EU cũng không ngoại trừ khả năng kết hợp các

hình thức phát triển, hướng tới một phương thức tốt nhất để đạt được lợi ích

của người dân. Các giả định được lựa chọn sẽ trở thành định hướng chính cho

việc điều chỉnh, triển khai CFSP trong tương lai.

134

Trong các giả định trên, giả định (v) là giả định tuyệt đối hoá chức năng

của EU. Phát triển theo định hướng này, EU sẽ trở thành một nhà nước liên

bang. Trên cơ sở nhận định xu hướng hội nhập khu vực như trên, giả định này

khó được hiện thực hoá trong tầm nhìn đến 2025. Giả định (i) không có nhiều

vấn đề bàn luận về mô hình phát triển mà chủ yếu tập trung vào phương thức

EU vận hành để giải quyết các vấn đề trong khu vực.

Ở giả định (ii), theo thuyết chức năng, chính là hiện tượng “lan toả

ngược”. Nhu cầu hợp tác vẫn tồn tại (đồng thời là lý do tồn tại của EU) nhưng

lĩnh vực hợp tác bị giới hạn. Quá trình hội nhập tiến xuống đáy của biểu đồ

hình sin, các quốc gia cố gắng duy trì tiếng nói chung từ xuất phát điểm đưa họ

lại với nhau. Các vấn đề yêu cầu mức độ hợp tác cao hơn sẽ được các quốc gia

giải quyết một cách đơn phương hoặc song phương. Dưới góc nhìn của thuyết

chức năng và thể chế, EU đang phát triển theo đúng hướng. Sự ra đời một

chính sách chung về đối ngoại và an ninh thể hiện hội nhập chính trị đã ở mức

cao, việc ra đời một cơ quan chuyên trách thống nhất tiếng nói của châu Âu về

đối ngoại là điều tất yếu và hiển nhiên xảy ra. Ý chí chính trị của lãnh đạo các

quốc gia thành viên chỉ đóng vai trò thúc đẩy tiến trình này. Cơ sở cho một liên

minh quốc phòng đã định hình, loại bỏ các yếu tố cản trở khác, liên minh sẽ

được hiện thực hoá trong tương lai. Vì vậy, giả định (ii) có tính khả thi thấp.

Đối với giả định (iii) và (iv), phương thức EU thực hiện chức năng của

thể chế siêu nhà nước được xác định rõ ràng. Không giống như giả định (ii),

các lĩnh vực được ưu tiên lựa chọn là những lĩnh vực yêu cầu mức độ hội

nhập cao. Với việc cho phép các thành viên hợp tác theo nhóm dựa trên nhu

cầu thực tiễn của các quốc gia thực chất là hợp thức hoá hiện tượng các thành

viên hợp tác riêng lẻ với nhau như cơ chế “Weimar triangle” giữa Đức – Pháp

– Ba Lan, “Weimar plus” giữa Đức – Pháp – Ba Lan – Tây Ban Nha – Ý hay

Hiệp ước an ninh song phương Lancaster House ký giữa Anh và Pháp… Việc

hợp thức hoá này là cách EU khẳng định vai trò của chủ thể quốc gia trong cơ

chế đa phương. Việc tập trung lựa chọn một số lĩnh vực then chốt, không bao

135

gồm các lĩnh vực liên quan đến phúc lợi xã hội hay việc làm, những lĩnh vực

tác động trực tiếp đến cảm nhận của người dân về tính hiệu quả của các thể chế

đa phương, là cách thức EU phản ứng trước bối cảnh chủ nghĩa hoài nghi và

dân tộc vị kỷ tăng cao ở khu vực. Tiếp cận theo quan điểm của thuyết kiến tạo,

cảm nhận lợi ích bị xâm phạm, bản sắc quốc gia bị lu mờ tạo ra tâm lý hoài

nghi và phản ứng cực đoan của người dân trước những biện pháp xử lý khủng

hoảng của EU thời gian qua. Thuyết kiến tạo coi trọng mối quan hệ giữa bản

sắc và lợi ích quốc gia. Diễn biến trong tư tưởng xã hội phản ánh và làm sâu

sắc hơn niềm tin về lợi ích, từ đó tạo ra những nguyên tắc chuẩn mực quy định

hành vi của nhà nước. Dựa trên luận điểm này, định hướng phát triển của EU

theo giả định (iii) và (iv) giải quyết được các vấn đề phát sinh từ “bản sắc quốc

gia” và “diễn biến trong tư tưởng xã hội tác động đến hành vi nhà nước”. Trên

cơ sở đó, hội nhập về đối ngoại và an ninh của EU đạt đến cấp độ cao nhất.

Nếu phương thức này được thực hiện thành công, Liên minh quốc phòng châu

Âu ra đời, chính sách đối ngoại được chia sẻ trong một số vấn đề đạt được

tiếng nói chung, dần tiến đến một tiếng nói thống nhất trong tất cả các lĩnh vực.

Cơ sở cho việc hình thành một nhà nước liên bang hiện hữu.

Tương lai an ninh quốc phòng châu Âu được các nhà lãnh đạo Liên

minh xác định là một trong số bốn vấn đề lớn châu Âu cần định hướng phát

triển trong tương lai. Từ năm 2009 đến nay, EU nỗ lực cải cách cấu trúc chính

sách an ninh quốc phòng chung, nâng cao năng lực triển khai các nhiệm vụ dân

sự lẫn quân sự, tăng cường quan hệ hợp tác với các đối tác là quốc gia và tổ

chức như Liên hiệp quốc và NATO. Tuy nhiên, theo Ngoại trưởng châu Âu

Federica Mogherini, EU cần nỗ lực hơn nữa nếu muốn duy trì và phát huy vai

trò, trách nhiệm của Liên minh với nền an ninh châu lục. Định hướng triển khai

Chính sách Đối ngoại và An ninh chung của khối dựa trên ba nền tảng cơ bản

là Chiến lược toàn cầu của EU trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng, Kế hoạch

hành động phòng thủ châu Âu và mối quan hệ hợp tác với NATO. Hướng triển

khai CFSP trong thời gian tới sẽ tập trung vào một số vấn đề cụ thể sau:

136

Thứ nhất, EU cần cải thiện khả năng điều phối và kiểm soát việc thực

hiện các vấn đề an ninh, chú trọng đầu tư vào mạng lưới tình báo, giám sát và

trinh sát, bao gồm đầu tư vào hệ thống máy bay không người lái, truyền thông vệ

tinh, tăng cường năng lực tiếp cận không gian. Về vấn đề chống khủng bố, các

quốc gia thành viên cần triển khai các quy định liên quan đến phòng chống bom

mìn, vũ khí và đầu tư cho các trang thiết bị dò tìm vũ khí qua biến giới;

Thứ hai, EU cần đầu tư vào các trang thiết bị kỹ thuật số để đảm bảo an

ninh dữ liệu, mạng lưới và cơ sở hạ tầng nằm trong không gian số của châu Âu;

Thứ ba, về cơ sở khí tài quân sự, các quốc gia thành viên cần tập trung

các trang thiết bị để phản ứng trước các khủng hoảng từ bên ngoài, bao gồm

triển khai quân trên đất, trên không và trên biển. Để duy trì khả năng triển

khai quân toàn diện như vậy, các thành viên cần nhận thức hợp tác quốc

phòng là nguyên tắc cần tuân thủ. Các thành viên vẫn đảm bảo duy trì chủ

quyền trong các quyết định phòng vệ, tuy nhiên, các chương trình phòng vệ

quốc gia hiện nay chưa đảm bảo được yêu cầu nâng cao năng lực quốc phòng

chung của toàn Liên minh, bao gồm yêu cầu dành 35% tổng chi phí cho trang

thiết bị quốc phòng cho các hoạt động mua sắm chung. Sự tình nguyện tham

gia vào hợp tác quốc phòng cần trở thành các cam kết thực sự. Quy trình rà

soát mức độ hợp tác cần được tiến hành ở cấp độ liên minh, bao gồm cả việc

thảo luận về kế hoạch chi phí quốc phòng của các quốc gia thành viên. Quy

trình này có thể áp dụng đầy đủ với Kế hoạch chi phí quốc phòng của NATO.

Thứ tư, trong quan hệ hợp tác với NATO, hai bên hỗ trợ nhau trong sử

dụng các trang thiết bị quốc phòng. NATO tập trung đảm bảo an ninh quốc

phòng cho lãnh thổ các quốc gia thành viên và triển khai các nhiệm vụ bình

định hoá. Trong khi đó, EU tập trung triển khai các nhiệm vụ xử lý khủng

hoảng ở các khu vực lân cận. EU đồng thời vẫn tiếp tục duy trì năng lực quốc

phòng nội khối để duy trì hoà bình, ổn định và an ninh cho các quốc gia thành

viên và phát triển năng lực này để sẵn sàng thay thế trách nhiệm của NATO

khi cần. Phòng thủ chung và quản lý khủng hoảng là hai mảng chính CSDP

137

cần đồng thời phát triển theo đề xuất của các nước tham gia sáng kiến

“Weimar plus”. Bên cạnh đó, cần phát huy vai trò của Cục Quốc phòng châu

Âu (EDA) trong việc thực hiện các mục tiêu chiến lược của CSDP. EDA có

vai trò quan trọng trong Kế hoạch phát triển năng lực quốc phòng của Liên

minh, là cầu nối giữa các quốc gia thành viên và Uỷ ban, đồng thời hỗ trợ các

thành viên phát triển năng lực quốc phòng dựa trên các mục tiêu chính trị đặt

ra trong EUGS. Hợp tác quốc phòng giữa các quốc gia thành viên cần được

thúc đẩy một cách có hệ thống. Việc đánh giá thường xuyên hoạt động của

EDA có thể tạo ra áp lực có tác động tích cực đến các thành viên.

Một trong những mục tiêu lớn EUGS đặt ra là CSDP cần phản ứng

nhanh và hoạt động hiệu quả hơn. Mục tiêu này đòi hỏi các quốc gia thành

viên nâng cao năng lực triển khai lực lượng thông qua các hoạt động huấn

luyện và tập trận. CSDP cần tăng cường khả năng phản ứng nhanh, hạn chế

những trở ngại liên quan đến các thủ tục, tài chính… khiến việc triển khai các

nhiệm vụ quân sự trở nên kém hiệu quả. Chính sách phát triển cần linh hoạt

và gắn liền với các ưu tiên chiến lược. Nguồn ngân sách dành cho EEAS cần

được tăng cường, để cơ quan này phát huy hơn vai trò điều phối giữa các thể

chế với nhau và giữa các thể chế với các quốc gia thành viên. Đồng thời,

chính sách quốc phòng cần liên kết chặt chẽ với các chính sách khác liên quan

đến công nghiệp quốc phòng và thị trường nội địa. Các thành viên cần tăng

cường nỗ lực hợp tác hơn nữa trong thực thi pháp luật, tư pháp và hoạt động

tình báo. [73, tr. 44-50]

Với nguồn lực quốc phòng lớn thứ hai trên thế giới (sau Mỹ), EU sẽ tiếp

tục khẳng định trách nhiệm của mình đối với hoà bình và an ninh toàn cầu. Bên

cạnh hoạt động triển khai với các đối tác, EU đồng thời nhấn mạnh khả năng

hành động độc lập khi cần thiết. Nguồn lực tài chính cho quốc phòng của Liên

minh đang và sẽ tiếp tục dựa vào nguồn lực từ các quốc gia thành viên. Năm

2016, ngân sách quốc phòng được tăng lên trước áp lực nguy cơ đe doạ an ninh

khu vực tăng cao. Tuy nhiên, để hướng tới một châu Âu tự chủ hơn về an ninh

138

quốc phòng còn là một chặng đường dài khi chi phí quốc phòng của Mỹ gấp hai

lần chi phí của tất cả các thành viên EU cộng lại và khả năng tiếp tục tăng ngân

sách quốc phòng thêm 10% trong năm 2018. Trung Quốc đã tăng chi cho quốc

phòng đến 150% chỉ trong vòng 10 năm qua, Nga cũng tiêu tốn 5,4% tổng GDP

cho hoạt động quốc phòng chỉ riêng trong năm 2017 [60, tr. 7].

Dựa trên những nhận định như vậy, Uỷ ban châu Âu đưa ra ba khả năng

phát triển của nền quốc phòng châu Âu, gồm: (i) hợp tác về an ninh, quốc phòng;

(ii) chia sẻ về an ninh, quốc phòng; (iii) thiết lập nền quốc phòng và an ninh

chung. Thực chất, ba kịch bản này thể hiện ba cấp độ hợp tác nội khối trong lĩnh

vực an ninh, quốc phòng ở châu Âu. Đây đồng thời là những định hướng chủ đạo

cho Chính sách An ninh Quốc phòng chung của EU trong những năm tới.

Ở khả năng (i), quốc gia thành viên đóng vai trò chủ đạo trong việc

đảm bảo an ninh châu lục. Liên minh có vai trò hỗ trợ và liên kết, cố gắng đưa

ra những định hướng cụ thể để các quốc gia thành viên sát lại gần nhau hơn,

tăng hiệu quả hợp tác. Quan hệ EU-NATO duy trì mức độ như hiện nay. Liên

minh sẽ tiếp tục triển khai các nhiệm vụ dân sự và các nhiệm vụ quân sự mức

độ thấp, chủ yếu tập trung vào nhiệm vụ nâng cao năng lực bộ máy quản lý

giúp tăng cường an ninh, quốc phòng của các quốc gia đối tác, đồng thời củng

cố môi trường an ninh cho chính Liên minh. Hợp tác với NATO tiếp tục được

thúc đẩy trong nhiều lĩnh vực như an ninh hàng hải, an ninh mạng và cùng

hành động trước những nguy cơ mới đòi hỏi sử dụng cả sức mạnh cứng và

mềm. Tuy nhiên, trong trường hợp EU và NATO cùng hiện diện, NATO tiếp

tục phát huy năng lực quân sự vốn có, trong khi EU khai thác các công cụ

“mềm”, chỉ tập trung vào các nhiệm vụ quân sự mục tiêu.

Ở khả năng (ii), các quốc gia thành viên chia sẻ trách nhiệm đảm bảo

an ninh, quốc phòng ở khu vực thông qua một cơ chế chung là EU. Điều này

đồng nghĩa với việc các quốc gia thành viên chấp nhận chia sẻ một phần chủ

quyền của mình, đặc biệt trong các vấn đề an ninh, quốc phòng, công khai,

minh bạch từ bước xây dựng cho đến khi triển khai chính sách. Làm được như

139

vậy, Liên minh có thể phát triển năng lực đa quốc gia trên nhiều lĩnh vực một

cách có hệ thống, giảm thiểu chồng chéo giữa các quốc gia thành viên dựa

trên một kế hoạch chung và cấu trúc chỉ huy ở cấp độ Liên minh. Một số lĩnh

vực có khả năng hợp tác ở cấp độ này được EU gợi mở là phát triển hệ thống

máy bay điều khiển từ xa, liên lạc vệ tinh, an ninh hàng hải, phát triển trí tuệ

nhân tạo, công nghệ sinh học, phát triển siêu máy tính… Đây là một kịch bản

khá tham vọng, trong đó Liên minh đóng vai trò chủ đạo, các quốc gia thành

viên trao quyền nhiều hơn cho các thể chế liên chính phủ của EU. Quan hệ

đối tác với NATO tiếp tục được duy trì nhưng EU chủ động trong các vấn đề

an ninh khu vực.

Ở khả năng (iii), nhất thể hoá trong lĩnh vực an ninh quốc phòng đạt đến

cấp độ cao, hướng tới một nền quốc phòng an ninh chung. Tinh thần đoàn kết

và hỗ trợ lẫn nhau giữa các quốc gia thành viên trong một lĩnh vực nhạy cảm

như an ninh, quốc phòng trở thành tiêu chuẩn bắt buộc, giúp Điều 42 của Hiệp

ước châu Âu (TEU) được thực thi một cách toàn diện, tạo cơ sở xây dựng

khung chính sách quốc phòng chung cho toàn Liên minh, hướng tới một nền

quốc phòng chung. Nâng cao khả năng hành động ở cấp độ liên minh sẽ thúc

đẩy sự thống nhất ở cấp độ cao hơn đối với lực lượng quốc phòng của các quốc

gia thành viên, thể hiện qua việc thành lập lực lượng thường trực có khả năng

phản ứng nhanh với danh nghĩa của Liên minh. Đồng thời, kế hoạch quốc

phòng của các quốc gia thành viên cùng được đồng bộ hoá hoàn toàn, các ưu

tiên phát triển cấp quốc gia sẽ được tập hợp và cùng đồng thuận thành các ưu

tiên của toàn khối. Ngân sách quốc phòng được lấy hoàn toàn từ ngân sách EU.

Quan hệ với NATO mang tính hỗ trợ, giúp tăng cường khả năng ứng phó của

EU trước nhiều hình thức tấn công ngày càng đa dạng và khó lường.

Với tầm nhìn đến năm 2025, cấp độ hợp tác an ninh ở khả năng (i) biểu

hiện quá trình hội nhập khu vực không đạt bước tiến lớn. CFSP/CSDP sẽ tiếp

tục được triển khai tiếp nối những thành công CFSP/CSDP đã đạt được trong

lĩnh vực cứu trợ nhân đạo, thực hiện nhiệm vụ gìn giữ hòa bình ở những khu

140

vực ảnh hưởng truyền thống. Quan hệ EU – NATO tiếp tục là trụ cột chính

của CFSP/CSDP. Nói cách khác, thực tiễn hội nhập khu vực về an ninh, quốc

phòng của EU đang ở cấp độ được đề cập ở khả năng (i).

Nguồn: Trung tâm Chiến lược chính trị châu Âu

Bảng 12: Các yếu tố cấu thành liên minh an ninh quốc phòng châu Âu

Nhất thể hoá trong lĩnh vực an ninh quốc phòng là điều kiện lý tưởng,

đưa EU trở thành chủ thể đầy đủ trong quan hệ quốc tế. Tuy nhiên, quốc

phòng, an ninh luôn là lĩnh vực khó đạt đồng thuận nhất trong Liên minh. Lợi

ích quốc gia tối thượng là rào cản khó vượt qua, thêm khoảng cách chênh lệch

về năng lực quốc phòng giữa các quốc gia và năng lực vận hành của các thể

141

chế của EU là những yếu tố tác động không nhỏ đến quá trình hợp tác trong

Liên minh. Vì vậy, trong ngắn hạn, khả năng (iii) khó khả thi. Về đối ngoại,

NATO vẫn tiếp tục là một đối tác quan trọng trong tính toán chiến lược của EU

bên cạnh Mỹ, Nga và các đối tác quan trong khác như Trung Quốc, Nhật Bản,

ASEAN… Duy trì và phát triển quan hệ đối tác đôi bên cùng có lợi với NATO

giúp EU vừa tận dụng được nguồn lực, đồng thời vẫn thể hiện được vai trò dẫn

dắt nền an ninh khu vực.

Với xu thế vận động của thế giới nói chung và xu thế hội nhập khu vực

như đã đánh giá ở trên, trong những cấp độ hội nhập về an ninh, quốc phòng

được dự báo, cấp độ hợp tác ở khả năng (ii) là mục tiêu CFSP/CSDP hướng

tới trong ngắn và trung hạn. Các quốc gia thành viên chia sẻ trách nhiệm đảm

bảo an ninh, quốc phòng ở khu vực thông qua một cơ chế chung là EU. Nền

an ninh quốc phòng này được xây dựng trên nền móng PESCO. Việc EU đạt

được thoả thuận về sáng kiến PESCO và đã thông qua kế hoạch hoạt động để

triển khai PESCO [77] là bước đi cho thấy EU đang cố gắng tạo dựng cơ sở

cho nền an ninh “cùng chia sẻ” ở khu vực. Đồng thời, sự ra đi của một cường

quốc quân sự như Anh đã khiến các quốc gia châu Âu nhận thấy sự cần thiết

phải đoàn kết lại, đặc biệt trong các hành động phòng vệ tập thể. Trong hoàn

cảnh này, chủ nghĩa dân tuý, dân tộc cực đoan đã có tác động tích cực đến

tiến trình hội nhập khu vực về an ninh, quốc phòng. Với động lực được tạo ra

từ Brexit, EU có khả năng đạt đến cấp độ hợp tác về an ninh, quốc phòng ở

khả năng (ii). Mức độ và tốc độ hội nhập trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng

có thể được thúc đẩy hơn so với các lĩnh vực khác. Tuy nhiên, khả năng (ii)

có khả thi hay không còn tuỳ thuộc vào một yếu tố quan trọng là EU xác định

hướng đi tương lai của mình ra sao. Câu trả lời này sẽ được Nghị viện châu

Âu công bố sau kỳ bầu cử năm 2019. Theo nhận định của tác giả, nếu giả

định (iii) và (iv) được lựa chọn là hướng phát triển tiếp theo của EU thì khả

142

năng (ii) có thể đạt được đến năm 2025. Việc thiết lập một quân đội chung

tiếp tục được gợi mở nhưng chưa đủ động lực và điều kiện đủ để hình thành

do số lượng quốc gia EU là thành viên NATO quá lớn, việc hình thành lực

lượng này là chưa cần thiết trong tương lai gần.

3.3. Một số bài học kinh nghiệm từ quá trình hội nhập về đối ngoại và an

ninh của Liên minh châu Âu

Thực tiễn hội nhập khu vực nói chung và hợp tác chặt chẽ trong lĩnh

vực đối ngoại và an ninh, quốc phòng riêng của EU bên cạnh nhiều thành tựu

vẫn còn tồn tại một số vấn đề về hoạch định và thực thi chính sách. Một số

bài học kinh nghiệm rút ra từ tiến trình hội nhập này cụ thể như sau:

(i) Khẳng định vai trò của quốc gia thành viên trong quá trình vận hành

bộ máy. Khi đưa ra một kiến nghị chính sách hay đề xuất hoạt động của một

tổ chức khu vực quy mô như EU, cân bằng lợi ích, mối quan hệ giữa các nước

lớn nhỏ trong khối luôn là việc làm khó khăn. Về mặt lý thuyết, các nước nhỏ

tham gia vào một định chế khu vực luôn mong muốn nâng cao tiếng nói chính

trị của mình nhưng thường rơi vào tình trạng bị lấn át bởi lợi ích của các nước

lớn hơn, đặc biệt trong các vấn đề các nước này có nhiều lợi ích. Các quốc gia

bình đẳng với nhau trong quan hệ quốc tế. Vì vậy, việc ghi nhận vai trò của

các quốc gia thành viên, dù là nước lớn hay nhỏ, đối với EU là điểm mấu chốt

để duy trì đoàn kết nội khối.

Một khi chính sách đối ngoại EU được tiến hành song song với chính sách

đối ngoại của từng quốc gia thành viên, các thành viên chỉ tự nguyện và sẵn sàng

tham gia vào các hành động chung khi họ thấy rõ được vai trò thực sự của mình ở

cấp độ Liên minh. EU có thể đề nghị một hay nhóm một số các quốc gia thành

viên lãnh đạo và triển khai một nhiệm vụ cụ thể dưới danh nghĩa Liên minh. Cơ

chế chịu trách nhiệm trực tiếp như vậy khiến vai trò của quốc gia thành viên được

nâng lên đáng kể. Cảm nhận về việc hy sinh một phần chủ quyền quốc gia khi gia

143

nhập vào tổ chức khu vực không còn nặng nề. Vai trò của một hay nhiều quốc gia

thành viên cụ thể được thể hiện rõ ràng trong các tuyên bố hành động của Liên

minh giúp người dân nhìn nhận, đánh giá được trách nhiệm, quyền lợi của quốc

gia mình khi tham gia vào tổ chức khu vực. Chủ quyền quốc gia vẫn được phát

huy với vai trò lãnh đạo của quốc gia đó ở cấp độ Liên minh.

(ii) Nâng cao hiệu quả hoạt động của các thể chế đa phương để tăng

cường quyền lợi của thành viên khi tham gia vào tổ chức. Trong lĩnh vực đối

ngoại và an ninh quốc phòng, EEAS là cơ quan đầu mối, có tác động trực tiếp

đến chất lượng triển khai CSDP. Tuy nhiên, EEAS gặp nhiều khó khăn trong

quá trình hoạt động do bị hạn chế trong việc tiếp cận các nguồn thông tin chất

lượng, phục vụ cho quá trình hoạch định chính sách và đưa ra các quyết định

hành động kịp thời. Tâm lý nghi ngờ, e ngại bị kiểm soát, tổn hại đến lợi ích

quốc gia khiến các thành viên chưa thực sự tích cực tham gia vào các hoạt

động trong khuôn khổ CSDP. Các thành viên không chia sẻ hoặc chỉ chia sẻ có

giới hạn các báo cáo dựa trên nguồn tin tình báo của họ với các thành viên khác.

Các quốc gia thành viên chưa thực sự có thói quen chia sẻ và sự tin tưởng lẫn

nhau để trao đổi nguồn tin tình báo, các báo cáo phân tích cho EEAS.

Vì vậy, việc xây dựng lòng tin là cơ sở để tăng cường hiệu quả hoạt động

của EEAS. Các thành viên sẽ tích cực hơn khi thấy được lợi ích rõ ràng từ hoạt

động của EEAS. Cơ quan này cần thiết lập cơ chế chia sẻ thông tin đa chiều hiệu

quả giữa Liên minh với các quốc gia thành viên, giữa các quốc gia thành viên

với nhau. Đồng thời, việc xử lý thông tin và điều phối hoạt động một cách hiệu

quả của EEAS sẽ giúp các thành viên tận dụng được nguồn lực tập thể, tránh

triển khai các nhiệm vụ chồng chéo với cùng một mục tiêu trong khu vực.

(iii) Thông điệp rõ ràng đến người dân về quyền hạn, trách nhiệm và

lợi ích mà tổ chức đa phương đem lại cho quốc gia thành viên. Trong một xã

hội dân chủ và bùng nổ thông tin, con người chịu tác động và bị chi phối bởi

144

thông tin. Người dân có thể tiếp cận nhiều nguồn tin, sự lan toả thông tin trở

nên nhanh chóng hơn bao giờ hết. Trong kỷ nguyên số, việc truyền đạt thông

điệp một cách chính xác và hiệu quả đến người dân có vai trò quan trọng

trong định hướng và thực thi chính sách. Xã hội luôn vận động, các hệ tư

tưởng cũng theo đó biến đổi không ngừng. Nắm bắt được diễn biến trong tư

tưởng xã hội sẽ giúp các nhà hoạch định chính sách đưa ra những chính sách

phù hợp và có tính khả thi cao.

Với trường hợp EU, giúp người dân xác định và đánh giá đúng chức

năng, trách nhiệm, quyền hạn của Liên minh và những lợi ích Liên minh đem

lại ở cấp độ quốc gia sẽ là một trong những cơ sở vững chắc để một tổ chức

siêu quốc gia tồn tại và phát huy tốt vai trò của mình. Sự thất bại của Hiến

pháp chung châu Âu năm 2005 hay sự kiện Brexit năm 2016 là ví dụ điển

hình của việc coi nhẹ vai trò của truyền thông và dư luận xã hội. Theo điều tra

khảo sát EU thực hiện liên quan đến bản Hiến pháp chung sau kết quả trưng

cầu dân ý, có đến 46% người dân Pháp và 52% dân chúng Tây Ban Nha được

hỏi cho rằng họ không được cung cấp thông tin đầy đủ về bản Hiến pháp để

có thể quyết định bỏ phiếu thông qua hay không, 40% số người không đi bỏ

phiếu ở Tây Ban Nha vì họ không có thông tin về EU hay dự thảo Hiến pháp,

con số này ở Pháp là 49% [55]. Ở Anh, có đến 82% người dân cho hay họ biết

rất ít hoặc không biết gì về EU, 68% biết rất ít hoặc không biết gì về bộ máy

của EU và các chính sách của tổ chức này so với 14% số người được hỏi có

kiến thức về vấn đề này [174]. Trưng cầu dân ý ở Anh về Brexit có kết quả sít

sao giữa “ra đi” hay “ở lại” (51,9% so với 48,1%) cùng với con số thống kê ở

trên cho thấy nhận thức của người dân về Brexit là mơ hồ. Họ bị tác động

nhiều từ chiến dịch vận động ngắn hạn của các đảng phái hơn là thực sự hiểu

giá trị lá phiếu của mình.

145

Ở góc độ là một tổ chức liên kết khu vực, Hiệp hội các quốc gia Đông

Nam Á (ASEAN) có thể học hỏi kinh nghiệm EU trong trường hợp này. Tuy

được vận hành theo các phương thức khác nhau nhưng đều hướng tới một

mục đích chung là lợi ích của người dân, ASEAN cần khai thác được sức

mạnh dư luận để thúc đẩy quá trình hội nhập của mình. Thu hẹp khoảng cách

giữa “mục tiêu” của tổ chức với kỳ vọng của người dân sẽ tạo ra những chính

sách có tính khả thi cao, tăng niềm tin của dân chúng vào những quyết sách

của chính phủ, từ đó là cơ sở thúc đẩy quá trình hội nhập khu vực ở mức cao

hơn. Trong bối cảnh Cộng đồng ASEAN còn non trẻ, Cộng đồng Chính trị An

ninh ASEAN (APSC) đang từng bước được triển khai, truyền thông đại chúng

có vai trò quan trọng. Do yếu tố lịch sử, việc hình thành một cơ chế khu vực

ứng phó với các vấn đề liên quan đến chính trị, an ninh trong khối các quốc

gia Đông Nam Á có tính chất tương đối nhạy cảm, có thể gây ra tâm lý nghi

ngại vi phạm nguyên tắc “không can thiệp công việc nội bộ của nhau” vốn

được ASEAN coi là kim chỉ nam cho hoạt động của mình. Việc hình thành

một trụ cột về chính trị, an ninh trong tổ chức khu vực liên kết các quốc gia

Đông Nam Á thể hiện quyết tâm chính trị cao của giới lãnh đạo các nước.

Nhưng để chính sách đi vào thực chất, ASEAN cần sự ủng hộ của người dân

thông qua chính phủ các nước để triển khai ở cấp độ khu vực.

Tiểu kết chương 3

Trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực hiện nay, một số xu thế

vận động chính trong thế kỷ XXI được khái quát như sau: (i) trật tự đa cực

được thiết lập từ sau chiến tranh Lạnh tiếp tục được duy trì; (ii) xu hướng hội

nhập khu vực tiếp tục phát triển do nhu cầu phát triển và đảm bảo an ninh

trong thời đại toàn cầu hoá; (iii) xu hướng thu hẹp chủ quyền quốc gia và gia

tăng sức mạnh của các thể chế liên chính phủ/chủ thể siêu nhà nước. Trong

146

mười năm tới, đây vẫn là những xu hướng chủ đạo trong đời sống chính trị

quốc tế. Tuy nhiên, với các nguy cơ mang tính toàn cầu có khả năng tác động

liên hoàn đến nhiều quốc gia, nhiều châu lục cùng với phản ứng kém hiệu quả

của các thể chế nhà nước, siêu nhà nước khiến làn sóng ly khai, chủ nghĩa xét

lại có xu hướng bùng phát mạnh mẽ. Giai đoạn cuối thế kỷ XXI sẽ không có

nhiều thay đổi lớn về tập hợp lực lượng nhưng sẽ chứng kiến những cải tổ về

thể chế mang tính cách mạng.

Ở châu Âu, mức độ và tốc độ hội nhập khu vực có phần chậm lại so với

thập niên cuối thế kỷ XX. Qua giai đoạn phát triển rực rỡ, tiến trình hội nhập

ở châu Âu đang trải qua giai đoạn khó khăn để đạt đến cấp độ hội nhập cao

hơn. Liên minh châu Âu tiếp tục thực hiện những cải tổ mang tính căn bản,

xác định lại chức năng, quyền hạn của tổ chức cũng như phương thức hoạt

động để duy trì và phát huy vai trò chủ đạo hiện nay của mình ở khu vực.

Những bài học kinh nghiệm được đúc kết từ tiến trình hội nhập ở khu vực

châu Âu có thể tham khảo cho trường hợp của ASEAN. Tuy xuất phát điểm

và phương thức hội nhập của hai tổ chức là khác nhau, dẫn tới mô hình liên

kết khu vực có nhiều đặc điểm khác biệt, nhưng bản chất của hội nhập khu

vực vẫn là quá trình vận động của nền chính trị quốc tế, có thể biểu hiện dưới

nhiều hình thức nhưng về nội hàm là giống nhau.

147

KẾT LUẬN

Liên minh châu Âu (EU) là một mô hình liên kết khu vực độc đáo và duy

nhất trên thế giới. Qua 60 năm xây dựng và phát triển, EU đạt mức độ hội nhập

sâu trên hầu hết các lĩnh vực tài chính, thương mại, tư pháp, văn hóa… Hội nhập

nội khối về đối ngoại, an ninh quốc phòng bị đánh giá là còn nhiều hạn chế. Chính

sách Đối ngoại và An ninh chung ra đời từ những năm 1990, nhưng sau hơn 25

năm triển khai, EU vẫn chưa xây dựng được một quân đội chung, chưa đưa ra

được tiếng nói thống nhất trong nhiều vấn đề liên quan đến đối ngoại, an ninh. EU

luôn nỗ lực thúc đẩy quá trình hội nhập chính trị, thể hiện qua nhiều tuyên bố liên

quan đến trụ cột đối ngoại và an ninh như hình thành Chính sách Đối ngoại và An

ninh chung (CFSP) trong Hiệp ước Maastrict (1992), thống nhất triển khai Chính

sách An ninh Quốc phòng châu Âu (ESDP/CSDP) trong Hiệp ước Amsterdam

(1997)… Hiệp ước Lisbon (2009) đánh dấu bước tiến quan trọng về hội nhập đối

ngoại và an ninh của Liên minh với sự ra đời của một cơ quan đối ngoại thống

nhất, đại diện chung cho tiếng nói của EU về các vấn đề đối ngoại là Cục Hành

động đối ngoại châu Âu (EEAS), hình thành chức danh Ngoại trưởng châu Âu -

Đại diện cấp cao về Đối ngoại và An ninh (HR/VP) nhằm giúp châu Âu phát huy

sức mạnh tập thể, tăng cường khả năng phản ứng trước các vấn đề toàn cầu.

Tuy nhiên, từ năm 2009 đến nay, nỗ lực cải tổ của EU vẫn chưa thực sự

giúp EU đạt được kết quả thoả mãn với kỳ vọng của người dân. Niềm tin của

công chúng vào hiệu quả hoạt động của EU đã giảm mạnh, thấp nhất trong

vòng 10 năm qua (từ 57% năm 2007 xuống 33% năm 2017) [58, tr. 15]. EU

giai đoạn này đang phải đối mặt với nhiều vấn đề như khủng hoảng nợ công,

chính sách tài khoá kém hiệu quả ở khu vực đồng tiền chung (eurozone), tình

hình chính trị, xã hội bất ổn với tỷ lệ thất nghiệp cao, tệ nạn xã hội gia tăng,

chủ nghĩa khủng bố lan rộng… Tiến trình hội nhập khu vực, theo đó cũng gặp

nhiều khó khăn do nhận thức của đa số người dân cho rằng bản chất các vấn

đề này chủ yếu xuất phát từ quá trình hội nhập sâu của Liên minh. Trong bối

cảnh đó, tiến trình hội nhập về đối ngoại và an ninh, quốc phòng ở châu Âu có

148

được coi là thành công không? Việc thực thi Chính sách Đối ngoại và An

ninh chung (CFSP), chính sách An ninh Quốc phòng chung (CSDP) có vai trò

như thế nào trong tiến trình hội nhập khu vực về đối ngoại và an ninh?

CFSP/CSDP có được tiếp tục triển khai trong tương lai? Bối cảnh hiện nay

của châu Âu tạo động lực thúc đẩy hay kìm hãm tiến trình hội nhập? Xu

hướng của quá trình hội nhập khu vực trong tương lai sẽ là gì ở châu Âu?

Để trả lời cho những câu hỏi trên, luận án tập trung phân tích quá trình

hội nhập khu vực về đối ngoại và an ninh ở châu Âu thông qua nghiên cứu thực

trạng và triển vọng Chính sách Đối ngoại và An ninh chung, xác định vai trò và

tác động của hội nhập về đối ngoại và an ninh trong tiến trình hội nhập chung

của Liên minh châu Âu. Trên cơ sở đó, đánh giá mức độ hội nhập ở châu Âu,

dự báo xu hướng hội nhập ở khu vực đến năm 2025 và đúc kết một số bài học

kinh nghiệm từ tiến trình hội nhập của EU cho các tổ chức khu vực.

Thực hiện mục tiêu nghiên cứu nên trên, luận án đi đến các kết luận sau:

(i) Hội nhập về đối ngoại và an ninh là cấp độ hội nhập cao nhất của

tiến trình hội nhập khu vực. Trong trường hợp EU, biểu hiện cụ thể nhất là

thực tiễn triển khai CFSP/CSDP. Chính sách này phản ánh các lợi ích, giá trị

và mục tiêu chung của các quốc gia thành viên. Vì vậy, các chuẩn mực đánh

giá, phân tích chính sách đối ngoại, chính sách an ninh, quốc phòng của quốc

gia chỉ mang tính chất tham khảo trong trường hợp nghiên cứu CFSP/CSDP.

(ii) Để hiện thực hoá CFSP/CSDP và các mục tiêu của chính sách, điều

kiện cần là nhu cầu cấp thiết về hợp tác và nỗ lực điều chỉnh chính sách từ

bên trong, điều kiện đủ là động lực từ bên ngoài xuất phát từ bối cảnh khu vực

và thế giới với các sự kiện mang tính bước ngoặt.

(iii) Năm nhân tố tác động đến quá trình triển khai CFSP/CSDP và tiến trình

hội nhập khu vực về đối ngoại, an ninh, quốc phòng là: cam kết của lãnh đạo các

quốc gia thành viên; vấn đề chủ quyền và quyền lực của các thể chế; sự trỗi dậy của

chủ nghĩa dân tuý, dân tộc cực đoan; quá trình mở rộng Liên minh và năng lực của

các quốc gia thành viên; tính toán chiến lược của Mỹ, Nga và quan hệ EU – NATO.

149

(iv) Chủ nghĩa dân tuý, dân tộc cực đoan tạo lực cản đối với quá trình hội

nhập chung nhưng có tác động tích cực đến tiến trình hội nhập về đối ngoại và an

ninh, đặc biệt trong lĩnh vực an ninh quốc phòng. Đồng thời, sự gia tăng sức mạnh

Nga và chính sách giảm can dự của Mỹ ở châu Âu là động lực để CFSP/CSDP

được triển khai hiệu quả, hướng tới thành lập liên minh an ninh quốc phòng.

(v) Tiến trình hội nhập châu Âu bị kìm hãm, thậm chí có khả năng bị phá vỡ

dưới tác động tiêu cực của chủ nghĩa dân tuý, dân tộc cực đoan. CFSP/CSDP theo đó

có thể không thể tiếp tục triển khai. Tuy nhiên, với xu thế vận động của thế giới và

khu vực, quá trình hợp tác về an ninh, quốc phòng ở châu Âu sẽ tiếp diễn. Hành động

phòng vệ tập thể vẫn là lựa chọn tối ưu trong đảm bảo an ninh quốc gia và khu vực.

(vi) Quá trình hội nhập về đối ngoại và an ninh có tác động hai chiều

đối với tiến trình hội nhập chung: thúc đẩy tiến trình hội nhập chung khi đạt

được bước tiến về hợp tác nội khối trong lĩnh vực này, đặc biệt với lĩnh vực

an ninh quốc phòng; ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình hội nhập khu vực trong

các lĩnh vực khác do là lĩnh vực nhạy cảm, dễ gây căng thẳng, chia rẽ nội bộ,

tạo tâm lý hoài nghi tính hiệu quả của các hành động tập thể.

Nền an ninh châu Âu chịu tác động của nhiều nhân tố bên trong lẫn bên

ngoài. Tính toán chiến lược của Mỹ đối với châu Âu và các khu vực khác, sự

trỗi dậy của Trung Quốc, chính sách cứng rắn và tham vọng của Nga, quan hệ

Nga – Trung… hiện nay có nhiều diễn biến phức tạp, nội tại châu Âu đang

phát sinh nhiều vấn đề, chuyển biến khó lường. Trong bối cảnh đó, việc tiếp

tục nghiên cứu tiến trình hội nhập về đối ngoại và an ninh châu Âu có ý nghĩa

quan trọng trong việc đánh giá sự thành công hay thất bại của mô hình liên

kết khu vực EU. Giả định Liên minh quốc phòng châu Âu được thành lập, vị

thế và tầm ảnh hưởng của EU sẽ đạt được bước tiến vượt bậc, sức mạnh tổng

thể được củng cố và tăng cường cùng với quan hệ đồng minh truyền thống

với NATO sẽ giúp EU có tiếng nói mạnh mẽ hơn trong các vấn đề liên quan

đến an ninh khu vực và toàn cầu trên trường quốc tế. Ở khu vực, một khi sức

mạnh quốc phòng mang “bản sắc châu Âu” được khẳng định, hoàn toàn có

150

khả năng các thể chế khu vực được nâng cấp vai trò và tăng cường quyền lực,

việc hình thành một tổ chức theo mô hình liên bang là có cơ sở. Để chứng

minh cho giả định này, hướng nghiên cứu tiếp theo có thể tập trung vào tác

động của diễn biến tư tưởng xã hội về lợi ích dân tộc, bản sắc quốc gia và

nhận thức về tầm quan trọng của các giá trị chung đặt trong tổng thể lợi ích

quốc gia, chủ nghĩa đa phương hiệu quả của EU và các xu hướng phát triển.

Liên minh châu Âu là tổ chức khu vực đạt được cấp độ hội nhập sâu rộng

trong nhiều lĩnh vực. Dựa trên những thành tựu đạt được trong các lĩnh vực tài

chính, tiền tệ, văn hoá, xã hội…, EU đang nỗ lực thúc đẩy tiến trình hội nhập

trong lĩnh vực đối ngoại và an ninh. Quá trình hội nhập trong lĩnh vực này gặp

nhiều khó khăn, chịu tác động từ nhiều nhân tố bên trong lẫn bên ngoài. Nhìn lại

thực tiễn hội nhập của EU, đặc biệt trong lĩnh vực đối ngoại và an ninh, các tổ

chức liên kết khu vực có thể học hỏi kinh nghiệm từ phương hướng phát triển,

cách thức đối phó và xử lý vấn đề của EU, từ đó định ra phương thức của riêng

mình dựa trên đặc thù khu vực và định hướng phát triển của tổ chức.

Việt Nam tham gia vào nhiều cơ chế hợp tác đa phương, là thành viên

năng động của nhiều tổ chức khu vực, trong đó ASEAN là một trong những

tổ chức có vai trò quan trọng trong tiến trình hội nhập khu vực và toàn cầu

của Việt Nam. Cộng đồng An ninh Chính trị ASEAN là một trong ba trụ cột

chính của Cộng đồng ASEAN. Tổ chức này đang triển khai nhiều hoạt động

hợp tác về chính trị, an ninh như Hội nghị Bộ trưởng ngoại giao ASEAN

(AMM), Hội nghị Bộ trưởng quốc phòng ASEAN (ADMM), Diễn đàn khu

vực ASEAN (ARF)… Đây là những diễn đàn mang tính chất đối thoại mở,

không/chưa được thể chế hoá. Sự ra đời của Hiến chương ASEAN và Cộng

đồng ASEAN là những bước đi thể hiện quyết tâm chính trị của khối các quốc

gia Đông Nam Á trong quá trình hội nhập chính trị. Tham khảo mô hình liên

kết khu vực EU trong tiến trình hội nhập chính trị có giá trị thực tiễn cao, giúp

Việt Nam và ASEAN có thêm bài học kinh nghiệm trong việc thúc đẩy quá

trình hội nhập ở khu vực Đông Nam Á./.

151

DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

1. “Hội nhập châu Âu về an ninh quốc phòng: Thách thức và triển vọng

đến 2025”, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, Viện Nghiên cứu châu Âu, số

tháng 4/2018.

2. “Tiến trình hội nhập châu Âu tiếp cận dưới góc độ lý thuyết”, Tạp chí Sự

kiện và Nhân vật nước ngoài, Tổng cục 5, Bộ Công an, số tháng 4/2018.

3. “Triển vọng quan hệ Mỹ - EU đến năm 2025 xét về mặt chính sách đối

ngoại”, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, Viện Nghiên cứu châu Mỹ, số

04/2018.

152

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. TIẾNG VIỆT

Đỗ Thanh Bình & Phạm Anh (2008), “Từ Hiến pháp chung đến Hiệp ước 1.

Lisbon: Quá trình tiến tới Liên minh châu Âu thống nhất, hiện đại và năng

động trong thế kỷ XXI”, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, số 2 (89).

Dương Thanh Bình (2012), Vai trò của Liên minh châu Âu trong quan 2.

hệ quốc tế mười năm đầu của thế kỷ XXI (2000 – 2010) và triển vọng,

Học viện Ngoại giao, Hà Nội.

Nguyễn Văn Dân (chủ biên) và Lê Ngọc Hiền (1997), Những vấn đề 3.

xung quanh việc hợp nhất châu Âu, NXB Viện Thông tin khoa học xã

hội, Hà Nội.

Đặng Minh Đức (2005), “Những nhân tố tác động đến quá trình cải 4.

cách hệ thống thể chế chính trị ở Liên minh Châu Âu”, Tạp chí nghiên

cứu châu Âu, số 4, Hà Nội.

Đặng Minh Đức (2005), “Những vấn đề cơ bản của Hiến pháp châu 5.

Âu”, Tạp chí nghiên cứu châu Âu, số 10, Hà Nội.

Nguyễn Thị Thu Hà (2015): Lý thuyết và thực tiễn của hội nhập khu 6.

vực: So sánh mô hình EU và ASEAN, Viện Nghiên cứu châu Âu, Viện

Hàn lâm KHXH Việt Nam, Hà Nội.

Đỗ Sơn Hải (2011), Đặc điểm của nền chính trị quốc tế đương đại, Học 7.

viện Ngoại giao Việt Nam, Học viện Ngoại giao, Hà Nội.

Trần Thanh Hải (2017), Quan hệ Mỹ - Nga – Trung trong năm năm tới, 8.

tác động và đối sách của Việt Nam, Bộ Ngoại giao, Hà Nội.

Đỗ Hồng Huyền (2013): Vai trò của các quốc gia Châu Âu trong một 9.

số tổ chức an ninh, chính trị quốc tế, Viện Nghiên cứu châu Âu, Viện

Hàn lâm KHXH Việt Nam, Hà Nội.

10. Đặng Hoàng Linh (2013), Cuộc khủng hoảng nợ công tại châu Âu: Bài

học cho Việt Nam, Học viện Ngoại giao, Hà Nội.

153

11. Viện Ngôn ngữ học (2002), Từ điển tiếng Việt phổ thông, NXB Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

12. Vũ Bình Minh (2014): Lý thuyết về chủ nghĩa chức năng mới trong liên

kết khu vực ở Châu Âu, Viện Nghiên cứu châu Âu, Viện Hàn lâm

KHXH Việt Nam, Hà Nội.

13. Vũ Bình Minh (2006), “Sự phối hợp chính sách đối ngoại giữa các

quốc gia thành viên Liên minh châu Âu”, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu,

số 7 (73), Hà Nội.

14. Chử Thị Nhuần (2013): Sự tham gia của các nước thành viên vào quá

trình hoạch định chính sách của EU, Viện Nghiên cứu châu Âu, Viện

Hàn lâm KHXH Việt Nam, Hà Nội.

15. Lê Thị Kim Oanh (2014): Sự ra đời và phát triển của các Hiệp ước,

Hiệp định trong Liên minh Châu Âu giai đoạn 1950 – 2013, Viện

Nghiên cứu châu Âu, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam, Hà Nội.

16. Nguyễn Quang Thuấn (2011), Một số vấn đề kinh tế, chính trị nổi bật

của châu Âu giai đoạn 2011 – 2020 và tác động đến Việt Nam, Viện

Nghiên cứu châu Âu, Hà Nội.

17. Nguyễn Quang Thuấn (2014), “Liên kết ở Liên minh châu Âu: từ lý

thuyết đến thực tiễn”, Tạp chí nghiên cứu châu Âu, số 2 (161), Hà Nội.

18. Đinh Công Tuấn (2004), “Chủ nghĩa khu vực và liên khu vực: những triển vọng

giữa châu Âu và châu Á”, Tạp chí nghiên cứu châu Âu, số 6 (66), Hà Nội.

19. Đinh Công Tuấn (2010), “Vai trò của Liên minh Châu Âu và Hiệp ước

Lisbon”, Tạp chí nghiên cứu châu Âu, số 9, Hà Nội.

20. Đinh Công Tuấn (chủ biên) (2011), Liên minh châu Âu hai thập niên

đầu thế kỷ XXI, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

21. Đinh Công Tuấn (2011), “Một số vấn đề chính trị nổi bật của Liên

minh Châu Âu (EU) giai đoạn 2000-2010”, Tạp chí Nghiên cứu Châu

Âu, số 3 (126), Hà Nội.

154

22. Đinh Công Tuấn (2012), “Mô hình hội nhập của EU – ASEAN: So

sánh những tương đồng, khác biệt và bài học kinh nghiệm cho

ASEAN”, Tạp chí nghiên cứu châu Âu, số 6 (141), Hà Nội.

B. TIẾNG ANH

23. Amitav Acharya (1997): “Ideas, Identity, and Institution-Building:

From the ASEAN Way to the Asia Pacific Way”, The Pacific Review.

Press Release (15/6/1998), SG/SM/6598, 24. Kofi Annan,

www.un.org/news/press/docs/1998/19980615.sgsm6598.html

25. Fulvio Attinà (2008): “Managing globalization: EU’s effective

multilateralism”, Universita ̀di Catania.

26. Bache, I., George, S. & Bulmer, S. (2011), Politics in the European

Union, 3rd Edition, Oxford University Press, New York.

27. Banchoff T. (1999), “German Identity and European Integration”,

European Journal of International Relations, 5(3), tr. 259-290.

28. Bailes, Alyson JK & Graham Messervy Whiting (2011), Death of an

Institution, the end for Western European Union, a future for European

defence?, Egmont – The Royal Institute for International Relations,

Academia Press.

29. Michel Barnier (2018), Speech at the event on “The future of EU

foreign, security and defence policy post Brexit”, Institute for Security

Studies, Brussells.

30. Dereck Beach & Colette Mazzucelli (2006), Leadership in the Big

bangs of European Integration, Palgrave MacMillan, New York.

31. Federiga M. Bind (2010), The foreign policy of the European Union:

assessing Europe’s role in the world, Brookings Institution Press.

32. Sven Biscop (2009), Permanent structured cooperation and the future

of ESDP, Academia Press.

155

33. Sven Biscop (2016), “All or nothing? The EU Global Strategy and

defence policy after the Brexit”, Contemporary Security Policy

Journal, Vol.37.

34. Caroline Bouchard, John Petterson and Natalie Tocci (2013),

Multilateralism in 21st Century: Europe’s Quest for Effectiveness,

Routledge, London.

35. Steven Blockmans and Ramses A. Wessel (2009), “The European

Union and crisis management: Will the Lisbon Treaty make the EU

more effective?”, Centre for the Law of EU External Relations.

36. Nicolas Burns (2002), “U.S – European Capabilities Gap Must be

narrowed”, Press Conference, Ljubljana, Slovenia, 28/2/2002,

http://www.atpobtvs.com/existentialscoobies/archives/jun04_p03.html

37. Antonio Calcara (2017), “Italy’s defence policy in the European

context: the case of the European Defence Agency”, Contemporary

Italian politics Journal, Vol.9, tr.277-301.

38. Caporaso, J., Cowles, M.G. and Risse, T. (eds) (2001), Transforming

Europe: Europeanization and Domestic Change, Cornell University

Press, Ithaca, New York.

39. Claudio Catalano (2015), The untold story: the Italian role in the

development of a European defence, Italy’s Foreign Policy in the

Twenty-first Century, Routledge, New York.

Jeffery T. Checkel (1998), “Constructivism in the international relations 40.

theories”, Journal of International Politics, Vol.50 (2), tr.324-348.

Jeffery T. Checkel (1998), “The Constructive Turn in International 41.

Relations Theory”, World politics, Vol.50 (2), tr.324-348.

Jeffrey T. Checkel (2006), “Constructivist Approaches to European 42.

Integration”, Handbook of European Union Politics.

156

43. Chernoff F. (2005), The Power of International Theory: Reforging the

Link to Foreign Policy-Making through Scientific Enquiry, Routledge,

New York.

44. M. Cini (2003), European Union Politics, Oxford University Press.

45. Clingendael Institute (2013): “Why the EU is not promoting effective

multilateralism”, Clingendael Policy Brief.

46. Andrew F. Cooper, Jorge Heine, Kishore Mahbubani and Thamesh

Rakur (eds) (2013), The Oxford Handbook of Modern Diplomacy,

Oxford University Press, Oxford.

47. Council of European Communities (1992), Treaty on European Union,

Luxembourg.

48. Council of European Union (2004), Basic Principles on the Use of

Restrictive Measures (Sanctions), PESC 450, Brussells.

49. Council of the European Union (2015), CFSP Annual report,

https://eeas.europa.eu/sites/eeas/files/st_11083_2015_init_en.pdf.

50. Beach Derek (2005), The Dynamics of European Integration: Why and

when EU institutions matter, Palgrave Macmillan, Basingstoke.

51. Beach Derek and Colette Mazzucelli, eds. (2007), Leadership in the Big

Bangs of European Integration, Palgrave Macmillan, Basingstoke.

52. Franklin Dehousse (1998), “After Amsterdam: A Report on the

Common Foreign and Security Policy of the European Union”,

European Journal of International Law, No. 9 (1998), tr. 525-539

53. Diez, T. and Weiner, A. (eds) (2004), European Integration Theory,

Oxford University Press, Oxford.

54. ECSC (1955), Messina Declaration (3/6/1955),

http://www.internationaldemocracywatch.org/attachments/296_The%2

0Messina%20Declaration%201955.pdf.

157

55. Eurobarometer (2005), The European Constitution: post-referendum

survey in Spain, http://ec.europa.eu/commfrontoffice/publicopinion/

flash/fl_168_en.pdf

56. Eurobarometer (2005), The European Constitution: post-referendum

survey in France, http://ec.europa.eu/commfrontoffice/publicopinion/

flash/fl171_en.pdf

57. Eurobarometer (2011), Attitudes towards the EU in the United

Kingdom, Analytical report,

http://ec.europa.eu/commfrontoffice/publicopinion/ flash/ fl_318_en.pdf

58. European Parliament (2016), Major changes in European public

opinion regarding the EU, Exploratory study,

http://www.europarl.europa.eu/thinktank/en/document.html?reference=

EPRS_STU%282017%29596847

59. European Economic Community (1957), The Treaty of Rome,

https://ec.europa.eu/romania/sites/romania/files/tratatul_de_la_roma.pdf.

60. European Commission COM (June 2017), Reflection paper on the

future of European defence, 315 of 7.

61. European Commission (2006), Treaty of European Union, Official

Journal of the European Union, Luxembourg.

62. European Commission, Overview - Instrument for Pre-accession

Assistance, https://ec.europa.eu/neighbourhood-enlargement/

instruments/overview_en, truy cập ngày 5/5/2017.

63. European Commission, EU Annual Budget life-cycle figures 2014-

2020, http://ec.europa.eu/budget/figures/interactive/index_ en.cfm, truy

cập ngày 5/5/2017.

64. European Commission, Public opinion survey and studies on European

issues, http://ec.europa.eu/commfrontoffice/publicopinion/index.cfm/

Chart/index, Eurobarometer, truy cập 05/10/2017.

158

65. European Commission (2016), The future of Europe - Reflections and

scenarios for the EU27 by 2025, Brussels.

66. European Commission, The Instrument contributing to Stability and

Peace (IcSP), https://ec.europa.eu/europeaid/sectors/human-rights-

and-governance/peace-and-security/instrument-contributing-stability-

and-peace_en, truy cập ngày 10/5/2017.

67. European Commission (2018), Toward a European Defence Union,

https://ec.europa.eu/commission/sites/beta-political/files/towards-a-

european-defence-union_en.pdf , truy cập ngày 20/3/2018.

68. European Defence Community (1954), The European Defense Treaty,

Command Paper 9127, HMSO, London.

69. European External Action Service (2016), Working document 2016

(59), CFSP budget orientations for 2016 and 2017,

http://www.statewatch.org/news/2016/apr/eu-council-csdp-missions-

overview-06383-16.pdf, Brussels.

70. European External Action Service (2016), EEAS Annual report,

https://eeas.europa.eu/sites/eeas/files/aar2016_final_final.pdf, truy cập

ngày 10/5/2017.

71. European External Action Service (2017), The Partnership Instrument,

https://eeas.europa.eu/topics/partnership-instrument/425/partnership-

instrument_en, truy cập ngày 10/5/2017.

72. European External Action Service (2017), The Election Observation

Missions, https://eeas.europa.eu/topics/election-observation-missions-

eueoms/421/election-observation-missions-eueoms_en, truy cập ngày

10/5/2017.

73. European External Action Service (2017), A Global Strategy for the

European Union, https://europa.eu/globalstrategy/en/global-strategy-

european-union, truy cập 20/6/2017.

159

74. European External Action Service (2017), CSDP Annual report,

https://eeas.europa.eu/sites/eeas/files/csdp_annual_report_2017_web_

en_2.pdf, truy cập ngày 21/4/2018.

75. European External Action Service (2017), Global Strategy for

European’s foreign and security policy, Brussells.

76. European External Action Service (2017), European Union Common

Security And Defence Policy Missions And Operations – Annual report

2017,https://eeas.europa.eu/sites/eeas/files/csdp_annual_report_2017_

web_en_2.pdf, Brussels.

77. European External Action Service (2018), EU Defence historic day: EU

ministers agree implementation plan for closer military cooperation,

https://eeas.europa.eu/headquarters/headquarters-

homepage/40853/eu-defence-historic-day-eu-ministers-agree-

implementation-plan-closer-military-cooperation_en, truy cập ngày

08/03/2018.

78. European External Action Service (2018), EU-NATO cooperation fact

sheet, https://eeas.europa.eu/headquarters/headquarters-homepage/

28286/eu-nato-cooperation-factsheet_en, truy cập ngày 06/03/2018.

79. European External Action Service (2018), The EU Global Strategy –

Year 1 report, Foreword by HR/VP

https://europa.eu/globalstrategy/en/vision-action

80. European Parliament (1997), Treaty of Amsterdam, Office for Official

Publications of the European Communities, Luxembourg.

Parliament (2009), Eurocorp’s history, 81. European

http://www.europarl.europa.eu/meetdocs/2004_2009/documents/dv/eur

ocorps_history_/eurocorps_history_en.pdf , truy cập ngày 02/5/2017

82. European Parliament (2017), Think tank: Russia’s and EU’s sanctions:

economic and trade effects, compliance and the way forward, Policy

Department, Luxembourg.

160

83. European Security Committee, Foreign and Commonwealth Office

(6/2006), Thirty-first report of session 2005-06, Presidency report on

European Security and Defence Policy.

84. European Union (2016), A Global Strategy for the European Union’s

Foreign and Security Policy: Shared Vision, Common Action: A

Stronger Europe, Brussels.

85. European Union (2003), European Security Strategy - A Secure Europe

In A Better World, Brussels.

86. European Union (2007), Treaty of Lisbon, Vol.50, Official Journal of

the European Union, Luxembourg.

(2017), News Release 110/2017, http://ec.europa.eu/ 87. Eurostat

eurostat/documents/2995521/8102195/3-10072017-AP-EN.pdf/

a61ce1ca-1efd-41df-86a2-bb495daabdab, Eurostat Press Office.

88. Mary Farrell (2005), “The Global Politics of Regionalism: An

Introduction”, Global Politics of Regionalism: Theory and Practice,

edited by Mary Farrell, Bjorn Hettne, and Luk VanLangenhove. Pluto

Press, London.

89. Louise Fawcett (2005), “Regionalism from an historical perspective”,

Global Politics of Regionalism: Theory and Practice, edited by Mary

Farrell, Bjorn Hettne, and Luk VanLangenhove, Pluto Press, London, tr.

21-37.

Joschka Fischer (2016), “How much Europe do European needs?”, The 90.

https://www.project-syndicate.org/commentary/ Project Syndicate,

european-integration-nationalism-by-joschka-fischer-2016-

11?barrier=accesspaylog, truy cập ngày 22/12/2017.

91. French Ministry of Defence (2013), Stretagic review of Defence and

Nationa Security 12 Key points, Paris.

92. French Ministry of Defence (2017), Stretagic review of Defence and

Nationa Security 2017 Key points, Paris.

161

93. Francis Fukuyama (2017), “Why populistnationalism now?”, The

American Interest, https://www.the-american-interest.com/2017/11/30/

populist-nationalism-now/ , truy cập ngày 22/12/2017.

94. Francis Fukuyama (2017), “What is populism?”, The American

Interest, https://www.the-american-interest.com/2017/11/28/what-is-

populism/, truy cập ngày 22/12/2017.

John Lewis Gaddis (Spring 1986), “The Long Peace: Elements of 95.

Stability in the Postwar International System”, International Security,

Vol.10, No. 4, trang 99-142.

96. Gazprom Export (2014), Delivery Statistics: Gas supplies to Europe,

http://www.gazpromexport.ru/en/statistics/, truy cập ngày 07/5/2017.

97. Lloyd Gruber (2000), Ruling the world: Power politics and the Rise of

supranational institutions, Princeton University Press, New Jersey.

98. Caroline de Gruyter (2017), “The Rise of Europe’s Antipopulists”, The

Carnegie Europe, http://carnegieeurope.eu/2017/04/25/rise-of-europe-

s-antipopulists-pub-68764, truy cập ngày 22/12/2017.

99. Hall Peter A. and Rosemary C.R. Taylor (1996), “Political Science and

the Three New Institutionalisms”, Political Studies, Vol.44.

100. Hoffmann, Stanley (1966), “Obstinate or Obsolete? The Fate of the Nation-

State and the Case of Western Europe”, Daedalus 95 (3), tr. 862-915.

101. Hooghe, L. and Marks, G. (2001): “The Neo-functionalists were

(almost) right: politicization and European integration”, Paper

presented at the ARENA Research Seminar, 5 October, ARENA Centre

for European Studies, University of Oslo, Oslo.

102. European Capabilities Action Plan (ECAP), Institute for European

Studies, EU, https://www.peacepalacelibrary.nl/ebooks/files/06-

bsecap.pdf, truy cập 20/5/2017.

162

103. House of Lords, European Committee’s 10th report of session 2007-08

(3/2008), The Treaty of Lisbon: an impact of assessment, Vol I, The

Stationary Office Limited, London.

104. Howorth, J. (2004), “Discourse, Ideas, and Epistemic Communities in

European Security and Defence Policy”, West European politics,

Vol.27, No.2, tr.211-234.

105. Hufner, K & Naumann, J. (1990): “Are the Moral and Value Foundations of

Multilateralism Changing”, International Political Science Review, 22 (3).

106. Hyde-Price, A, (2004): “The EU, power and coercion: from ‘civilian’ to

‘civilising’ power”, Paper presented at a CIDEL-ARENA workshop on

From Civilian to Military Power: The European Union at a Crossroads,

October, ARENA Centre for European Studies, University of Oslo,

Oslo.

107. Haas, E.B. (2001): “Does constructivism subsume neo-functionalism?”

in T. Christiansen, K.E. Joergensen and A. Wiener (eds), The Social

Construction of Europe, Sage Publications, London, tr.22-31.

108. Haas, Ernst B. (1958), The Uniting of Europe: Political, Social, and

Economic Forces 1950-1957, Stanford University Press, Stanford.

109. Haas, Ernst B. (1967), “The Uniting of Europe and the Uniting of Latin

America”, Journal of Common Market Studies 5.

110. Bjorn Hettne and Bertil Oden (2002): Global Governance in the 21st

Century: Alternative Perspective on World Order, Almkvist & Wiksell

International.

111. Ted Hopf (Summer 1998), “The Promise of Constructivism in

International Relations Theory”, International Security, Vol.23, No. 1,

tr.171-200.

163

112. Andrew Hurrell (1995), “Regionalism in Theoretical Perspective”,

Regionalism in World Politics – Regional organization and

International order, edited by Louise Fawcett and Andrew Hurrell,

Oxford University Press, New York.

113. Goran Ilik (2011): “Multilateralism: The Ideological Matrix of the

http://www.e- European Union”, E-International Relations,

ir.info/2011/01/15/multilateralism-the-ideological-matrix-of-the-

european-union/ , truy cập ngày 25/5/2014.

114. Anatole Kaletsky (2017), Fake Brexit or No Brexit, Project Syndicate.

115. Deutsch Karl, et al. (1957), Political Community and the North Atlantic

Area: International Organization in the Light of Historical Experience,

Princeton University Press, Princeton.

116. Deutsch Karl, et al. (1967), France, Germany and the Western

Alliance: A Study of Elite Attitudes on European Integration and World

Politics, Charles Scriber's Sons, New York.

117. Niilo Kauppi (2003), “Bourdieu's Political Sociology and the Politics of

European Integration”, Theory and Society 32, no.5/6: 776.

118. Kohler-Koch, B. & Rittberger, B. (2006), “Review Article: The

‘Governance Turn’ in EU Studies”, Journal of Common Market

Studies, 44(1), tr.27-49.

119. Rey Kosloski (1999), “A constructivist approach to understanding the

European Union as a federal polity”, Journal of European Public

policy, vol.6, tr.561-578.

120. Krause, J. (2004): “Multilateralism: Behind European Views”, The

Washington Quarterly, Washington.

121. Elena Lazarou, Geoffrey Edwards, Christopher Hill and Julie Smith

(February 2010): The Evolving Doctrine of Multilateralism in the 21st

Century, Mercury E-Paper 3.

164

122. Lindberg Leon N. (1963), The Political Dynamics of European

Economic Integration, Stanford University Press, Stanford.

123. L. Lindberg & S. Scheingold (1970), Europe’s Would-Be Polity –

Patterns of Change in the European Community, Prentice-Hall.

124. Livre Blanc the de Défense et la Sécurité Nationale (2013), Direction

de l’information légale et administrative, Paris.

125. Ludovica Marchi, Richard Whitman, Geoffrey Edwards (2014), Italy’s

Foreign Policy in the Twenty-first Century: A Contested Nature?,

Routledge.

126. Edward D. Mansfield & Helen V. Milner (1997), “The political

economy of regionalism: an overview”, The Political Economy of

regionalism, edited by Edward D. Mansfield and Helen V. Milner,

Columbia, New York.

(2016), Recent 127. Alessandro Marrone and Vincenzo Camporini

Developments in Italy’s Security and Defence Policy, Istituto Affari

Internazionali, ISSN 2280-6164.

128. John J. Mearsheimer (1990). “Back to the Future: Instability in Europe

after the Cold War”, International Security, Vol.15, No. 1, tr.5-56.

129. Federica Mogherini (2018), Remarks at the event on “The future of EU

foreign, security and defence policy post Brexit”, Institute for Security

Studies, Brussells.

in the European 130. A. Moravcik (1993), “Prefernces and Power

Community: A Liberal Intergovernmentalist Approach”, Journal of

Common Market Studies, Vol.34, no.4.

131. Moravcsik, Andrew (1998), The Choice for Europe, Cornell University

Press, Ithaca.

165

132. Kapil Narula (2016), “Higher Risks Likely To Shape Global

Responses: Forecast 2016”, Eurasia Review,

http://www.eurasiareview.com/06042016-higher-risks-likely-to-shape-

global-responses-forecast-2016/, truy cập ngày 30/6/2016.

133. Official Journal of European Communitites (1987), The Single

European Act, No. L169/2, 29/6/1987.

134. Office for Official Publications of the European Communities (1988),

European Political Cooperation (EPC), Catalogue number: FX-52-88-

574-EN-.C ©ECSC-EEC-EAEC, Brussels, Luxembourg.

135. Norman D. Palmer (1991), The New regionalism in Asia and the

Pacific, Lexington Books, Canada.

136. Eero Palmujoki (2001), Regionalism and Globalism in Southeast Asia,

Palgrave, New York.

137. John E. Peters, Stuart Johnson, Nora Bensahel, Timothy Liston, Traci

Williams (2001), European Contributions to Operation Allied Force –

Implications for Transatlantic Cooperation, Project Air Force, RAND, CA.

138. Presidency Conclusion, Helsinki European Council meeting, 10-

11/12/1999, http://www.europarl.europa.eu/summits/hel1_en.htm#b

139. Jochen Rehrl and Hans-Bernhard Weisserth (2012), Handbook on

CSDP, European Security Defence College, Vienna.

140. Report on European Political Cooperation, (London,13/10/1981),

Bulletin of the European Communities Supplement 3/81.

141. Report by the Planning Staff, West German Ministry of Defence

(1972), The Eurogroup in NATO, Survival Global Politics and

Strategy, Vol.14 (issue 6), 1972.

142. Risse, T. (2005): “Neo-functionalism, European identity, and the puzzles

of European integration”, Journal of European Public Policy, 12(2):

291-309.

166

143. Rittberger, V. (ed.) (2001): German Foreign Policy since Unification:

Theories and Case Studies, Manchester University Press, Manchester.

144. Rosamond B. (2007), “New Theories of European Integration” in Cini,

M. & Borragan, N. (2007) European Union Politics, (2nd Edition),

Oxford University Press, Oxford, tr.117-136.

145. Ben Rosamond (2000), Theories of European Integration, St. Martin

Press, New York.

146. Ruggie, J. G. (1992): “Multilateralism: The Anatomy of An Institution”

International Organization, Vol.46, No.3.

147. Ruggie, J. G (ed.) (1993), Multilateralism Matters, Columbia

University Press.

148. Maartje Rutten (2001), From St-Malo to Nice: European defence: core

documents, Institute for Security Studies, WEU, Paris.

149. Bruce M. Russett (1969), “International regimes and Study of regions”,

International Studies Quarterly, Vol.13 (no.14), tr.361-380.

150. Trevor C. Salmon & Alistair J. K. Shepherd (2003), Toward a

European Army – A Military Power in the Making?, Lynne Rienner

Publishers, London

151. Trevor Salmon (2005), The European Security and Defence Policy:

Built on Rocks or Sand?, European Foreign Affairs Review 10, Kluwer

Law International, tr. 359–379.

152. Federico Santopinto & Megan Price (2013), National visions of EU

defence policy – Common denominators and misunderstandings, Centre

for European Studies, Brussells.

(2003), “Introduction”, Theories of New 153. Fredrik Söderbaum

regionalism, edited by Fredrik Söderbaum, Timothy M. Shaw,

Palgrave, Basingstoke.

154. Schimmerfennig, F. (2003), The EU, NATO and the Integration of

Europe: Rules and Rhetoric, Cambridge University Press.

167

155. Schimmerfennig, F. and Sedelmeire, U. (2005), The Europeanization of

Central and Eastern Europe, Cornell University Press, Ithaca, NY.

156. Simon, Hix (2005), The Political System of the European Union,

Palgrave Macmillan, Basingstoke.

157. SIS Europe (3/2008), “The Lisbon treaty and its impact to CFSP and

ESDP”, The European Security Review, Vol.37.

158. Sjursen, H. (2004): “Changes to European security in a communicative

perspective”, Cooperation and Conflict, 39(2): 107-28.

159. Smith, K.E. (October 2004a): “Still ‘civilian power EU’?”, Paper

presented at a CIDEL-ARENA workshop on From Civilian to Military

Power: The European Union at a Crossroads, ARENA Centre for

European Studies, University of Oslo, Oslo.

160. Smith, M. (2004): “Institutionalization, policy adaption and European

foreign policy cooperation”, European Journal of International

Relations, 10(1): 95-136.

161. K. Soder (2010), “EU military crisis management: an assessment of

member states’ contributions and positions”, Draft for the meeting of

the COST Action IS0805 “New Challenges of Peacekeeping and the

European Union's Role in Multilateral Crisis Management”.

162. Statista (2018), Expenditure on defense as share of the GDP in Italy

from 2008 to 2017, https://www.statista.com/statistics/669092/defense-

spending-as-share-of-gdp-in-italy/, truy cập ngày 20/3/2018.

163. Bruce Stoke (2016), Euroscepticism beyond Brexit, Significant

opposition in key European countries to an ever closer EU, Pew

Research Center, Washington, http://www.pewglobal.org/2016/

06/07/euroskepticism-beyond-brexit/, truy cập ngày 01/7/2017.

view (2018), 2018 Annual forecast, 164. Stratfor World

https://worldview.stratfor.com/article/2018-annual-forecast, truy cập

ngày 30/3/2018.

168

165. Nicholas Tarling (2006), Regionalism in Southeast Asia, Routledge,

New York.

166. The Federal Ministry of Defence (2006), White Paper on German

Security Policy and the Future of the Bundeswehr, Berlin.

167. The Federal Government (2016), White paper on German security

policy and the future of the Bundeswehr, Berlin.

168. The Guardian (2017), “View on Macrons: A bold vision”,

https://www.theguardian.com/ commentisfree/2017/sep/26/the-

guardian-view-on-macrons-europe-speech-a-bold-vision, truy cập ngày

24/12/2017.

169. The New Encyclopedia Britannica Dictionary (1991), 15th edition,

Encyclopedia Britannica Inc., Washington.

170. The World Economy Forum (2016), The Global risks report 2016 (11th

edition), Switzerland.

171. Oana Topala (4/2011), “How Common is CSDP? Solidarity and Mutual

Defence in the Lisbon Treaty”, The European Security Review,

Briefing.

172. Treaty of Economic, Social and Cultural Collaboration and Collective

Self-Defence(1948),

https://www.nato.int/ebookshop/video/declassified/

doc_files/Brussels%20Treaty.pdf

173. Martin Trybus (2016), The legal foundation of an European Army,

Working paper, Institute of European Law, Birmingham Law School,

Birmingham, UK.

174. UK House of Common (2012), UK Public Opinion on the European

Union,http://researchbriefings.files.parliament.uk/documents/SN05442/

SN05442.pdf

169

175. UK Ministry of Defence (2014), Strategic Trends Programme: Global

Strategic Trends – Out to 2045.

176. Richard Vaughan (1976), Post-War Integration in Europe, Edward

Arnold Publisher, London

177. Vasconcelos (2008), Partnerships for effective multilateralism. EU

relations with Brazil, China, India and Russia, EUISS, Chaillot Paper,

No.109.

178. Wagner. W (2003) “Why the EU’s Common Foreign and Security

Policy will remain Intergovernmental: A Rationalist Institutional

Choice Analysis of European Crisis Management Policy”, Journal of

European Public Policy, 10(4), tr.576-595.

179. White House (1997), The 1997 National Strategy of The United State

of America, Washington.

180. White House (2017), The 2017 National Strategy of The United State of

America, Washington.

181. Olaf Wientzek (2017), Glimmer of hope for the Common Security and

Defence Policy, Konrad Adenauer Stiftung, No.236.

182. World bank (2016), GDP per capita, https://data.worldbank.org/

indicator/NY.GDP.PCAP.CD?end=2016&locations=PL-GR-PT-DE-

EU&start=1964 , truy cập ngày 05/5/2017.

183. World bank (2016), Military expenditures (% GDP), https://data.

worldbank.org/indicator/MS.MIL.XPND.GD.ZS, truy cập ngày

05/5/2017.

184. Yeo Lay Hwee (2003): Asia and Europe: The Development and

Different Dimensions of ASEM, Routledge, London and New York.

C. TRANG WEB HỖ TRỢ

185. Cục Hành động đối ngoại châu Âu (EEAS): https://eeas.europa.eu/

headquarters/headquarters-homepage_en

170

186. Cục Quốc phòng châu Âu (EDA): https://www.eda.europa.eu/

187. Cục Thống kê châu Âu (Eurostat): http://ec.europa.eu/eurostat

188. Diễn đàn kinh tế thế giới: www.weforum.org

189. Hội đồng châu Âu: http://www.consilium.europa.eu/en/european-

council/

190. Ngân hàng thế giới: www.worldbank.org

191. Quân đoàn châu Âu: http://www.eurocorps.org

192. Quốc hội châu Âu: http://www.europarl.europa.eu/portal/en

193. Tổ chức Hiệp ước quân sự Bắc Đại Tây Dương (NATO):

https://www.nato.int/

194. Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu (OSCE): https://www.osce.org/

195. Uỷ ban châu Âu: https://ec.europa.eu/commission/index_en

171

PHỤ LỤC 1

BẢNG KHẢO SÁT VỀ SỰ QUAN TÂM VÀ NHU CẦU CỦA NGƯỜI DÂN

Nguồn: Sách trắng về tương lai quốc phòng châu Âu, tháng 6/2017.

172

PHỤ LỤC 2

ĐỊNH VỊ NỀN KINH TẾ EU TRÊN THẾ GIỚI

* Đóng góp của EU đối với GDP toàn cầu:

Nguồn: Cục Thống kê châu Âu, Ban Thống kê Liên hiệp quốc

* Tỷ trọng đồng euro so với các đồng tiền quốc tế khác:

Thống kê dựa trên dữ liệu từ 30/11/2015 đến 24/2/2017

Nguồn: Quỹ tiền tệ thế giới

173

PHỤ LỤC 3

SỰ CHỒNG CHÉO TRONG CHI PHÍ QUỐC PHÒNG GIỮA CÁC

QUỐC GIA THÀNH VIÊN EU (TÍNH ĐẾN NĂM 2016-2017)

Nguồn: Viện nghiên cứu hoà bình quốc tế Stockholm (dữ liệu 2016), Viện nghiên cứu chiến

lược (Cân bằng quân sự 2017), Trung tâm Chiến lược chính trị châu Âu, Báo cáo an ninh

Munich 2017

174

PHỤ LỤC 4

CẤU TRÚC QUYỀN LỰC CỦA LIÊN MINH CHÂU ÂU

Nguồn: http://www.bbc.com.news/world-europe-23488006

175

PHỤ LỤC 5

NIỀM TIN CỦA NGƯỜI DÂN VÀO CÁC THỂ CHẾ EU

(GIAI ĐOẠN 1997-2016)

C â u h ỏ i :

t i n t ư ở n g h a y

i

T n t ư ở n g

k h ô n g t i n t ư ở n g ?

K o t i n t ư ở n g

i

K h ô n g b ế t

B ạ n t i n t ư ở n g c á c t h ể c h ế c ủ a E U đ ế n m ứ c đ ộ n à o ? C ó x u h ư ớ n g

Nguồn: Eurobarmeter

176

PHỤ LỤC 6

BÁO CÁO TÓM TẮT KẾT QUẢ 1 NĂM THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC

TOÀN CẦU CỦA EU (EUGS YEAR 1)

The EU Global Strategy seeks to turn vision into common action. This is why a year

following its presentation the High Representative is presenting an Implementation Report

on what has been achieved to turn the priorities of the EU Global Strategy into concrete

results on the ground. In October 2016 EU Foreign ministers decided on the most

important strategic priorities for implementing the EU Global Strategy (Council

Conclusions in October 2016). These are Security and Defence, Building Resilience and

taking an Integrated Approach to conflicts and crises, addressing the Internal/ External

Nexus, updating existing strategies and preparing news ones, and enhancing Public

Diplomacy.

Nguồn: https://eeas.europa.eu/sites/eeas/files/a_global_strategy_for_ the_european_union_fact_sheet.pdf From Vision to Action - Strategic Priorities

Security and Defence

To implement the EU Global Strategy, decisive steps are being taken on Security and

Defence. In November 2016, EU Foreign and Defence ministers decided on a new level of

ambition and key steps to upgrade cooperation to ensure the Security of our Union in line

with the Global Strategy (Council conclusions). These Conclusions were based on HRVP

Federica Mogherini’s Implementation Plan on Security and Defence. This aims to improve

the protection of the EU and its citizens, help governments jointly build military capacity,

and develop better response to crises. The EU has moved rapidly to implement the

implement the strategy. A new command A Global Strategy for the European Union centre

for military training and advisory missions has been established that will ensure fast and

coordinated response to crises around the globe. At the same time a coordinated review of

annual defence budgets is underway that will allow Member States to plan and invest on

crucial military capabilities together. Further actions to step up EU Security include the

European Defence Action Plan, which proposes financial help for Member States for more

efficient joint procurement and capability development, and steps to put into effect the EU-

NATO Joint Declaration.

177

Building Resilience and taking an Integrated Approach

Building resilience at home and abroad means creating a more responsive union. The EU

will strengthen the resilience of states and societies by supporting good governance,

accountable institutions, and working closely with civil society. Our support will target in

particular the EU’s surrounding regions in the East and the South, spanning from Central

Asia to Central Africa. The High Representative and the European Commission launched a

Joint Communication on Resilience that aims to further enhance common action on

building resilience on the ground. Examples of our work are the EU’s engagement in the

Sahel Region, where we are helping people in immediate need through humanitarian

intervention, while also investing in creating jobs, access to education, health and climate

mitigation. We are also supporting private investment in fragile areas with the European

External Investment Plan.

The EU also supports an integrated approach to conflicts and crises, which means

addressing all dimensions and stages of a conflict, from early action and prevention,

wherever possible to staying on the ground long enough for peace to take root. A particular

emphasis is placed on early warning and translating this into early action before a crisis

erupts. The EU is also doing more to plan in advance for post-crises reconstruction such as

in Syria, Iraq and Nigeria.

Strengthening the Internal/External Nexus

Strengthening the internal/external nexus requires promoting a more joined up union.

Issues such as Counter-Terrorism, Counter-Violent Extremism, Migration, Sustainable

development, and Cyber security can only be addressed by joined-up EU policies and

institutions. Since Terrorism and Violent Extremism affect us all, the EU is working very

closely with partner countries to bring an end to this senseless violence. Delivering on the

Sustainable Development Goals as part of the Agenda 2030 is an integral part of the EU

Global Strategy.

In the area of migration the EU’s Framework on Migration is based on the idea that

migration can only be managed in partnership with the countries of origin and transit in a

sustainable, respectful and human manner. The EU Trust Fund for Africa is a powerful tool

to deliver targeted action in a speedy manner in areas related to migration.

Updating existing strategies or preparing new ones – changing the way we work in a

joined up Union

In a more complex world, we need to combine traditional diplomacy and security and

defence policy with being engaged in effective climate diplomacy, energy diplomacy,

economic diplomacy, and cultural diplomacy. Following the launch of the EU Global

Strategy we are reviewing all our policy fields to make sure our policies re aligned and

reflect the realities of a rapidly changing world and the demands for greater security

coming from our citizens.

The EUGS has also triggered a transformation of the way in which the EU does foreign

policy in a joined up way: our full potential can only be realised if we work across policy

sectors, institutions and Member States. We see this in our work on security and defence as

much as on climate, energy and oceans’ governance; on economic diplomacy as much as

on culture in international relations, youth initiatives and human rights.

178

Enhancing Public Diplomacy

In a more connected world, it is important to project a clear vision of what the EU stands

for and seeks to achieve in the world. We are working closely with state and non-state

partners, as well as boosting EU study exchanges, our alumni networks and youth

initiatives. For example the Young MED voices plus initiative brings together young

people form Europe and the Mediterranean to work on concrete policy proposals that

address their most pressing concerns. In Ukraine the “Stronger Together” campaign

highlighted the concrete benefits of partnership with the EU.

The EU is also working with partners to counter misinformation campaigns, in particular in

Eastern Europe and the Western Balkans.

Promoting EU programmes such as Erasmus+, our flagship study programme and Horizon

2020, a multi-billion EU Research and Innovation programme, is also an important part of

EU public diplomacy.

The sustainable development goals will be a cross-cutting dimension of all this work.

Human rights, peace and security, and gender equality and women’s empowerment are an

integral part of all our policies. To ensure that a wide range of views are included, the EU

Global Strategy and its implementation will continue to build on input from numerous

outreach events and analysis of the research community./.

179

PHỤ LỤC 7

SÁNG KIẾN “HỢP TÁC MANG CẤU TRÚC BỀN VỮNG”

09 March 2018

(Permanent Structured Cooperation (PESCO)) Nguồn: https://eeas.europa.eu/sites/eeas/files/eu_factsheet_pesco_permanent_structu red_cooperation_en_0.pdf

Steps towards a Permanent Structured Cooperation

Under the guidance of the European Council, four major steps have now been successfully

completed to establish PESCO:

Step 1: Member States presented a list of common commitments in September 2017 in the

main areas of Protocol 10 to the Treaty, notably defence investment, capability

development and operational readiness.

Step 2: On 13 November 2017, Ministers signed a common notification on the PESCO and

handed it over to the High Representative and the Council – the first formal step to set up

the PESCO. It sets out the principles, in particular underlining the binding and inclusive

character of the legal framework, a list of 20 binding common commitments the Member

States have agreed to undertake, as well as proposals on the governance of PESCO.

Step 3: On 11 December 2017, the Council adopted a decision establishing PESCO and its

list of participants. A total of 25 Member States have decided to participate in PESCO and

agreed on a declaration identifying the first 17 collaborative PESCO projects. Projects are

in the areas of capability development and in the operational dimension, ranging from the

establishment of a European Medical Command, an EU Training Mission Competence

Centre, Cyber Rapid Response Teams and Mutual Assistance in Cyber Security, to

Military Disaster Relief and an upgrade of Maritime Surveillance.

Step 4: On 6 March 2018 the Council formally adopted a first set of 17 different projects

and their participants as well as a Recommendation which sets out a roadmap for the

further implementation of PESCO.

Structure and Governance

PESCO will have a two-layer structure

• Council Level: Responsible for the overall policy direction and decision-making,

including as regard the assessment mechanism to determine if Member States are

fulfilling their commitments. Responsible for the overall policy direction and

decisionmaking, including as regards the assessment mechanism to determine if

Member States are fulfilling their commitments.

• Projects Level: PESCO’s effectiveness will be measured by the projects it will

develop. Each project will be managed by those Member States that contribute to it,

in line with general rules for project management to be developed at overarching

level.

180

PESCO Secretariat: The European Defence Agency (EDA) and the EEAS, including the

EU Military Staff, working together, provide a Secretariat function for PESCO, with a

single point of contact for the participating Member States.

Assessment process: Each participating Member State is required to communicate every year

a National Implementation Plan (NIP) to assess the fulfilment of the binding commitments

they have made to one another. The High Representative will present annually a report on

PESCO to the Council. On this basis, the Council will – also annually - review whether the

participating Member States continue to fulfil the more binding commitments.

PESCO projects: The individual projects will be run by different groups of participating

Member States. The general governance rules for PESCO projects will be adopted at Council

level, as well as the general conditions under which third states may exceptionally be invited to

participate in PESCO projects.

PESCO – an instrument relevant for the security of the EU and its citizens

• PESCO is both a permanent framework for closer cooperation and a structured

process to gradually deepen defence cooperation within the Union framework. It

will be a driver for integration in the field of defence.

• Each participating Member State provides a plan for the national contributions and

efforts they have agreed to make. These national implementation plans are subject

to regular assessment. This is different from the voluntary approach that is

currently the rule within the EU’s Common Security and Defence Policy.

• PESCO is designed to make European defence more efficient and to deliver more

output by providing enhanced coordination and collaboration in the areas of

investment, capability development and operational

readiness. Enhanced

cooperation in this domain will allow decreasing the number of different weapons’

systems in Europe, and therefore strengthen operational cooperation among

Member States, increase interoperability and industrial competitiveness.

• PESCO will help reinforce the EU’s strategic autonomy to act alone when

necessary and with partners whenever possible. Whilst PESCO is underpinned by

the idea that sovereignty can be better exercised when working together, national

sovereignty remains effectively untouched.

• Military capacities developed within PESCO remain in the hands of Member States

that can also make them available in other contexts such as NATO or the UN.

181

PESCO as part of a comprehensive defence package

PESCO is closely connected to the new Coordinated Annual Review on Defence (CARD)

and the European Defence Fund (EDF). They are complementary and mutually reinforcing

tools contributing to the goal of enhancing Member States’ defence capabilities:

CARD, run by the European Defence Agency, through systematically monitoring of

national defence spending plans, will help identify opportunities for new collaborative

initiatives.

EDF provides financial incentives for Member States to foster defence cooperation from

research to the development phase of capabilities including prototypes through co-

financing from the EU budget. PESCO projects may benefit from increased EU co-

financing, which could amount to 30% - instead of 20% - for prototypes./.

182

PHỤ LỤC 8

NGHỊ QUYẾT CỦA NGHỊ VIỆN CHÂU ÂU VỀ BÁO CÁO

THƯỜNG NIÊN KẾT QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH AN NINH

QUỐC PHÒNG CHUNG NĂM 2017

(Bản tóm lược) Nguồn: European Parliament 2014-2019, http://www.europarl.europa.eu/sides/getDoc.do?pubRef=- //EP//NONSGML+TA+P8-TA-2017-0492+0+DOC+PDF+V0//EN

P8_TA(2017)0492 Annual report on the implementation of the Common Security and Defence Policy European Parliament resolution of 13 December 2017 on the Annual report on the implementation of the Common Security and Defence Policy (2017/2123(INI)) … The Union’s strategic environment

1. Underlines that the rules-based international order and the values defended by Western democracies, and the peace, prosperity and freedoms which this post- World War II order guarantees and which correspond to the foundations on which the European Union is built, are facing an unprecedented number of conventional and hybrid challenges, as societal, economic, technological and geopolitical trends point to the growing vulnerability of the world's population to shocks and stresses – such as interstate conflicts, natural disasters, extreme weather events, water crises, state collapse and cyber-attacks – that need a united and coordinated response; recalls that security is a key concern for European citizens; states that the Union’s external action is to be guided by the values and principles enshrined in Article 21 TEU;

2. Stresses that no single Member State can alone tackle any of the complex security challenges we are facing today, and in order for the EU to be able to respond to this internal and external challenges it needs to step up its efforts towards concrete strong cooperation in the context of CFSP/CSDP, be an effective global player, which implies speaking with one voice and acting together, and focus its resources on strategic priorities; takes the view that it is necessary to tackle the root causes of instability, which are poverty and raising inequality, bad governance, state collapse and climate change;

its fighters are fleeing, while

the fact

that

3. Deplores the fact that transnational terrorist and criminal organisations are increasing in strength and number, potentially facilitated by the defeat of ISIS/Da'esh and instability simultaneously spreads in the southern regions and in the Middle East, as fragile and disintegrating states such as Libya give up on large ungoverned spaces vulnerable to outside forces; expresses its continued concern over the transnational dimension of the terrorist threat in the Sahel region; deeply deplores that the

Democratic People's Republic of Korea's ongoing nuclear and ballistic missile- related activities have generated increased tension in the region and beyond, posing a clear threat to international peace and security;

tactics,

including cyber-terrorism,

4. Stresses that to the east, Russia’s war against Ukraine is still ongoing, the Minsk agreements – without which there can be no solution to the conflict – have not been implemented and the illegal annexation and militarisation of Crimea, and the imposition of anti-access and area denial systems, continue; is deeply concerned that Russia's excessive exercises and military activities without international fake news and observation, hybrid disinformation campaigns, economic and energy blackmail are destabilising the Eastern Partnership countries and the Western Balkans, as well as are being targeted at Western democracies and increasing tensions within them; is concerned that the security environment surrounding the EU will remain highly volatile for years to come; reiterates the strategic importance of the Western Balkans for the security and stability of the EU and the need to focus and strengthen the EU's political engagement towards the region, including by strengthening the mandate of our Common Security and Defence Policy (CSDP) missions; is firmly convinced that in order to overcome the EU's vulnerability there is a need for more integration as well as coordination;

5. Deplores the terrorist threat that is quickly expanding both within Europe and beyond its borders; considers that an incomplete answer on the military level will inevitably lead to ever-growing internal security threats; urgently calls for an European anti-jihadist pact that can tackle these threats in an effective manner;

6. Believes that terrorism represents today one of the key challenges to the security of EU citizens, requiring swift, firm and coordinated action, both at internal and external level, in order to prevent further terrorist attacks and to fight its root causes; points out, in particular, the need to prevent radicalisation, to block any source of financial resources to terrorist organisations, to tackle terrorist propaganda and block the use of the internet and social networks for this purpose, including through an automated removal service, and to improve intelligence sharing between Member States, as well as with third countries, NATO and other relevant partner organisations; believes that the mandate of our CSDP missions should include the fight against terrorism in order to contribute more consequently to deradicalisation programmes, notably EULEX in Kosovo and EUFOR ALTHEA in Bosnia Herzegovina, countries that are confronted with an important number of fighters returning from abroad;

7. Is deeply concerned about the increasingly deadly terrorist threat in the Sahel belt as well as its extension to Central Africa, and the instability in the East (Syria, Iraq, Palestine); calls on the VP/HR to ensure that an executive mandate is granted to the CSDP missions and to intervene in a decisive and determined manner;

8. Believes that, under the current EU enlargement policy, a credible accession process grounded on extensive and fair conditionality remains an important tool for promoting security by enhancing the resilience of countries in the south-eastern Europe;

9. Believes that in a challenging security environment, and at a moment when the EU and NATO are endeavouring to broaden and deepen their cooperation, through

183

Brexit the EU will lose part of its military capability and will possibly no longer be able to benefit from the UK’s expertise, and vice versa; notes that Brexit gives new momentum to initiatives that have long been blocked, and could open the door to new proposals; stresses the importance of continuing close defence cooperation between the EU and the post-Brexit UK, including in, but not limited to, the areas of intelligence sharing and counterterrorism; considers that, if it so requests, the UK should also be able to participate in CSDP missions as part of a new EU-UK defence cooperation relationship;

10. Welcomes the renewed US commitment to European security; stresses that the EU stands firmly committed to the transatlantic community of common values and interests; is at the same time convinced that an accountable and self-confident CFSP is needed and that, in this context, the EU must become a self-assured foreign-policy actor;

184

Institutional framework

11. Believes strongly that, whenever necessary, the EU should take decisive action to determine its future, as internal and external security are becoming increasingly intertwined, and as this has a direct impact on all European citizens; warns that the lack of a common approach could lead to uncoordinated and fragmented action, allows multiple duplications and inefficiency and, as a result, would make the Union and its Member States vulnerable; is therefore of the opinion that the EU should be able to act effectively along the entire spectrum of internal-external security instruments, up to the level of Article 42(7) TEU; stresses that the framing of a common Union defence policy referred to in Article 42(2) TEU has the objective of establishing a common defence and endowing the Union with strategic autonomy to enable it to promote peace and security in Europe and in the world; emphasises the practical and financial benefits of further integrating European defence capabilities;

12. Underlines that the EU needs to apply the entire tool-box of available policy instruments – from soft to hard power and from short-term measures to long-term policies in the area of classical foreign policy, encompassing not only bilateral and multilateral efforts in diplomacy, development cooperation, civilian and economic instruments, emergency support, crisis prevention and post-conflict strategies, but also peacekeeping and peace-enforcing, also in line with the civilian and military means described in Article 43(1) TEU – in order to cope with the rising challenges; believes that the CSDP should be built on the principle that European security cannot be guaranteed by relying merely on military assets; considers that EU foreign actions should include an assessment of their impact on EU’s people- centred strategic interests of enhancing human security and human rights, strengthening international law and promoting sustainable peace; underlines the need for the EEAS to step up its capacities to better anticipate crises and counter security challenges at the point of their inception; stresses the need for a more coherent and better coordinated interaction between military, civilian, development and humanitarian actors;

13. Welcomes the visible progress made in framing a stronger European defence stance since the adoption of the EU Global Strategy on Foreign and Security Policy

(EUGS) in June 2016; welcomes, in particular, the launching of a European Defence Fund (EDF), the proposed scaling-up of the Preparatory Action on Defence Research and the legislative proposal for a European Defence Industrial Development Programme (EDIDP); calls on the Member States to increase their future financial contributions to the EU budget in order to cover all additional costs incurred by the EU in connection with the EDF;

14. Welcomes EFTA’s adhesion to the preparatory action on defence research, and welcomes in particular the Norwegian contribution of EUR 585 000 for 2017; expresses its wish that Norway may continue to participate in Union-funded programmes that have defence implications or are in the defence remit;

15. Calls on the Commission and the VP/HR, to keep Parliament immediately and fully informed at all stages about any conclusion of, or amendment to, international agreements that have defence implications or are in the defence remit; considers that any third-country financial contribution has important budgetary implications for the Union, as a third country could affect the Union's financial interests in a manner well beyond the size of its contribution by withholding necessary export licenses; stresses that where third parties contribute to Union-funded programmes that have defence implications or are in the defence remit, Parliament expects the Commission and the VP/HR to assess the impact of such participation as regards the Unions' strategic policies and interests before making a proposal, and to inform Parliament about this assessment;

16. Highlights the facts that the Commission and an increasing number of Member States have committed themselves to launching the European Defence Union (EDU) and that there is a strong support for this among European citizens; stresses that this corresponds to a demand from EU citizens and from Parliament, notably through numerous appeals expressed in its previous resolutions; highlights the greater efficiency, and the elimination of duplication and reduction of costs, that will result from stronger European defence integration; stresses, however, that the launch of a real EDU requires continued political will and determination; urges the Member States to commit themselves to a common and autonomous European defence, and to aim to ensure that their national defence budgets amount to at least 2 % of their respective GDPs within a decade;

17. Is convinced that the only way to increase the Union’s ability to fulfil its military tasks is to significantly increase efficiency with regard to all aspects of the process which generates military capabilities; recalls that, compared to the US the EU-28 spend 40 % on defence but only manage to generate 15 % of the capabilities that the US gets out of the process, which points to a very serious efficiency problem;

18. Calls on the VP/HR and the Commission to act on Parliament’s calls for an EU Security and Defence White Book in the context of preparing the next Multiannual Financial Framework (MFF), as requested in Parliament’s resolutions of 22 November 2016, 23 November 2016 and 16 March 2017; considers that building the EDU, linking its strategic orientation with EU contributions to capability development and shaping the European institutional framework for defence, are elements that need to be underpinned by an interinstitutional agreement; stresses that with a comprehensive and trustworthy effort on the part of all stakeholders it is

185

possible to increase the scope and efficiency of defence spending; calls for a powerful role in this process to be defined for neutral countries such as Austria and Sweden, without calling into question the neutrality of individual Member States;

19. Stresses that, in addition to a description of the strategic environment and the strategic ambitions, the EU Security and Defence White Book should identify, for the next MFF, the required and available capabilities, as well as any capability shortfalls, in the form of the EU Capability Development Plan (CDP), and should be complemented by a broad outline of the intended Member State and Union actions under the MFF and in the longer term;

20. Welcomes the newly demonstrated political will to make CSDP more effective; supports any attempt to unleash the full potential of the Lisbon Treaty by making cooperation between Member Stakes work, and to make the operationally relevant capabilities for fulfilling Article 43(1) TEU tasks available, by: (a) urgently installing the start-up fund as foreseen by the Treaty in order to allow fast deployment of operations; (b) establishing permanent structured cooperation (PESCO) on those military aspects that are necessary to implement CSDP tasks such as permanently pooled military units; (c) reforming the intergovernmental joint financing mechanism Athena in order to operationalise solidarity between those Member States that can only contribute financially and those that can only contribute with troops to a CSDP operation; (d) making pooling and sharing of capabilities the rule and not the exception, and moving towards the implementation of a majority of the 300 proposals presented by the 28 Chiefs of Defence in 2011; (e) pooling national resources with regard to research, development, procurement, maintenance and training; (f) coordinating national defence planning (Coordinated Annual Review on Defence, CARD) as currently planned; (g) initiating common rules for military certification and a common policy on security of supply; (h) enforcing, on the part of the Commision, internal market rules in line with the 2009 Defence Procurement Directive with regard to national defence procurement projects;

21. Welcomes the Commission’s intention to propose a specific programme for defence research, with a dedicated budget and own rules, under the next MFF; stresses that Member States should make additional resources available to that programme, without interfering with existing framework programmes funding research, technological development and innovation, as requested in Parliament’s resolution of 5 July 2017; renews its previous calls on the Commission to provide for Union participation in defence research and development programmes undertaken by Member States, or jointly with industry where appropriate, as referred to in Articles 185 and 187 TFEU;

22. Welcomes the Commission’s proposal for a EDIDP; underlines that any Union action to support, coordinate or supplement the actions of the Member States in the defence remit should have the objective of contributing to the progressive framing of a common defence policy, as referred to, inter alia, in Article 2(4) TFEU, and therefore of covering common development, standardisation, certification and maintenance, leading to cooperative programmes and a higher degree of interoperability; calls on the Commission to promote the new EDIDP as widely as

186

possible, and, in particular, to encourage SMEs to participate in joint, cross-border projects;

23. Considers that exports by Member States of weapons, ammunitions and defence-related goods and services form an integral part of EU foreign, security and defence policy;

24. Urges the Council to take concrete steps towards the harmonisation and standardisation of the European armed forces, in accordance with Article 42(2) TEU, in order to facilitate the cooperation of armed forces personnel under the umbrella of a new EDU, as a step towards the progressive framing of a common EU defence policy;

25. Stresses that the use of all possibilities provided for in the Treaty would improve the competitiveness and functioning of the defence industry within the single market by further stimulating defence cooperation through positive incentives, targeting projects that Member States are not able to undertake, reducing unnecessary duplication and promoting a more efficient use of public money; is of the opinion that the outputs of such strategic cooperative programmes have great potential as dual-use technologies and, as such, bring extra added value to Member States; emphasises the importance of developing European capabilities and an integrated defence market;

26. Calls for the establishment of precise and binding guidelines to provide a well- defined framework for future activation and implementation of Article 42(7) TEU;

27. Calls on the Commission, the Council and the VP/HR to engage, together with Parliament, in an interinstitutional dialogue on the progressive framing of a common defence policy; stresses that, under the next MFF, a fully-fledged EU defence budget should be established for all the internal aspects of CSDP and that a doctrine for its implementation should be developed within the remit of the Lisbon Treaty; underlines the need for a revision of the Athena mechanism in order to widen the range of operations considered as a common cost and incentivise participation in CSDP missions and operations;

28. Points out that this new defence budget will have to be financed through new

resources in the next MFF;

29. Believes that decision-making on CSDP issues could be more democratic and transparent; proposes, therefore, to turn its Subcommittee on Security and Defence (SEDE) into a fully fledged parliamentary committee, enabling it to gain greater powers of scrutiny and accountability over the CSDP and to play a prominent role in its implementation, in particular by scrutinising legal acts pertaining to security and defence;

in Europe; believes

30. Regrets the lack of cooperation and information-sharing among security and intelligence services that more cooperation between intelligence services could help counter terrorism; calls, in this regard, for the establishment of a fully fledged European intelligence system;

187

Permanent Structured Cooperation

31. Welcomes the Notification on Permanent Structured Cooperation (PESCO) and its foreseen activation based on the willingness of Member States to make binding

commitments within the CSDP framework, thereby implementing an ambitious and inclusive PESCO, and calls for its swift establishment by the Council; underlines that the desired inclusiveness of participation must not compromise either full commitment to the CSDP or a high level of ambition among participating Member States; points to the necessity to set clear participation criteria, leaving other Member States the option to join at a later stage; believes that activities within PESCO should always be in full alignment with CSDP;

32. Stresses that PESCO should develop within the EU framework and that it should benefit from effective Union support, in full respect of Member States’ competences in defence; renews its call for appropriate PESCO funding to be provided from the Union budget; considers that participation in all Union agencies and bodies falling under the CSDP, including the European Security and Defence College (ESDC), should be made a requirement under PESCO; renews its call for the EU Battlegroup System to be considered as a common cost under the revised Athena mechanism;

33. Stresses that it is necessary to ease the administrative procedures that are unnecessarily slowing down the generation of forces for CSDP missions and the cross-border movement of rapid response forces inside the EU; calls on the Member States to establish an EU-wide system for the coordination of rapid movement of defence force personnel, equipment and supplies for the purposes of CSDP, where the solidarity clause is invoked and where all Member States have an obligation to provide aid and assistance by all the means in their power, in accordance with Article 51 of the UN Charter; welcomes, in this regard, the joint communication on improving military mobility; calls on the Commission to present a substantial action plan to Parliament and the Member States by March 2018 that is fully coherent with ongoing efforts within NATO;

34. Demands the establishment of a fully fledged EU civilian-military strategic headquarters under PESCO – to be composed of the existing Military Planning and Conduct Capability (MPCC), the Civilian Planning and Conduct Capability (CPCC), and the Crisis Management and Planning Directorate (CMPD) – providing a platform for integrated operational support throughout the entire planning cycle, from the initial political concept to detailed plans;

35. Encourages the Member States participating in PESCO to set up a permanent 'European Integrated Force', composed of divisions of their national armies, and to make it available to the Union for the implementation of the CSDP as foreseen by Article 42(3) TEU;

36. Considers that a common cyber defence policy should be one of the first building blocks of the European Defence Union; encourages the VP/HR to develop proposals for establishing, within the framework of PESCO, an EU cyber defence unit;

188

CSDP missions and operations

Thanks the more than six thousand women and men who have given good and loyal service in the Union’s civilian and military missions on three continents; values these

missions as Europe’s common contribution to peace and stability in the world; regrets, however, that the efficiency of these missions can still be jeopardised by structural weaknesses, uneven contributions from Member States and unsuitability to the operational environment, deploring in particular the limitations in the CSDP missions mandate; stresses, in this context, the need for real effectiveness that can only be achieved with the provision of proper military equipment, and urges the Council and the VP/HR to make use of the possibilities provided for in Article 41.2 TEU to this end; welcomes the increase in Member States’ defence spending in support of our service members; takes the view that this trend needs to be sustained, strengthened and coordinated at EU level; calls for effective measures to be taken to ensure that lessons learned and experience gained as regards the human dimension of CSDP missions are assessed and taken into account when future CSDP missions are designed;

46. Welcomes the presentation of the first annual report on the CSDP by the VP/HR; believes, however, that this report should not be of quantitative nature only, describing achievements with statistical data and detailed information, but also focus in the future on evaluating the political impact of CSDP activities in improving the security of our citizens;

47. Calls on the VP/HR, the Commission and Member States to orient CSDP missions and operations more toward the priorities of the EU Global Strategy as well as the local and regional realities;

48. Believes in the need to contribute further to crisis management and prevention and, specifically, to provide assistance to the reconstruction and stabilisation of Iraq; welcomes the recent decision by the Council to launch a new civilian CSDP mission in support of security sector reform in Iraq, and expects that the EU takes over the international lead in this area, including in counter-terrorism and civilian reconstruction; calls on the EU to ensure that this time there will be better coordination among participating Member States, and with regional as well as local actors;

49. Welcomes the activities of EU NAVFOR Med and asks the VP/HR and the Member States to increase the support for local security actors on the southern shore of the Mediterranean;

50. Expects from the VP/HR and the Council that EUBAM Libya will be relaunched at the occasion of the renewal of the mandate reaching out to local security actors on Libya's southern borders; calls on the VP/HR and the Member States to come up with fresh ideas on how to tackle the security concerns in the Sahel zone by linking it to EUBAM Libya within its comprehensive and integrated approach and in support of the German- French initiative; welcomes the Council decision of 4 August 2017 on a European Union stabilisation action for Mali in the Mopti and Segou regions; calls, in this regard, on the VP/HR to inform Parliament how this measure interacts with CSDP missions and operations in the region;

51. Welcomes the success of Operation EUFOR ALTHEA in Bosnia and Herzegovina in achieving a military end state; is, however, concerned that the political end state has not yet been achieved;

52. Welcomes the recent establishment of a nucleus for a permanent EU operational headquarters, the Military Planning and Conduct Capability (MPCC), as demanded

189

by Parliament in its resolution of 12 September 2013, as it is a precondition for effective planning, command and control of common operations; calls on the Member States to staff it with adequate personnel so that it becomes fully functional, and to task it to plan and command executive military CSDP operations such as EUFOR ALTHEA;

53. Considers that, as a consequence of the UK’s announcement of withdrawal from the Union, the command option of EU NAVFOR Somalia / Operation Atalanta needs to be reviewed; stresses the success of the operation, thanks to which not a single vessel has been boarded by pirates since 2014; welcomes the extension of the operation until 2018;

54. Notes that only 75 % of the positions in civilian CSDP missions are filled; regrets, in this regard, that the EU staff regulations, which would provide better conditions and protection to mission staff, do not apply to personnel employed by the missions even though they are funded from the Union budget; is convinced that this impedes the effectiveness of the missions; urges the Member States to ensure that all vacant posts in all missions are swiftly filled;

55. Welcomes the adoption of the EU Policy on Training for CSDP and the important role the European Security and Defence College (ESDC) plays as central training institution embedded within the CSDP structures; calls on the Member States to provide adequate financial, personnel and infrastructural resources for the ESDC;

56. Regrets that Member States are failing to deploy in a swift manner the staff necessary for the preparatory and set-up stages of civilian CSDP missions; welcomes, in this context, the proposal developed jointly by the EEAS and Commission services for a multi-layered approach in order to speed up the deployment of civilian CSDP missions;

57. Encourages further efforts to speed up the provision of financing for civilian and to simplify decision-making procedures and civilmilitary missions and implementation; believes, in this context, that the Commission should introduce, by delegated acts in accordance with Article 210 of the Financial Regulation, specific procurement rules to the crisis management measures under the CSDP in order to facilitate the rapid and flexible conduct of operations;

58. Welcomes the establishment of the Mission Support Platform (MSP) in 2016; regrets the limited size and scope of the MSP, and reiterates its call for further progress towards a shared services centre that would allow further efficiency gains by providing a central coordination point for all mission support services;

59. Urges the EEAS and the Council to step up their ongoing efforts to improve cyber security, in particular for CSDP missions, inter alia by taking measures at EU and Member State levels to mitigate threats to the CSDP, for instance by building up resilience through education, training and exercises, and by streamlining the EU cyberdefence education and training landscape;

190

60. Believes that the EU and its Member States face an unprecedented threat in the form of state-sponsored cyber attacks as well as cyber crime and terrorism; believes that the nature of cyber attacks makes them a threat that needs an EU-level response; encourages the Member States to provide mutual assistance in the event of a cyber attack against any one of them;

61. Calls on the Member States to apply full burden sharing to military CSDP missions by progressive enlargement of common funding toward full common funding, which should enable and encourage more Member States to contribute their capabilities and forces, or just funds; underlines the importance of reviewing the Athena mechanism in this regard and of covering all costs related to the financing of military CSDP operations;

191

62. Urges the Council to act in accordance with Article 41(3) TEU and to adopt without delay the decision of establishing a start-up fund for the urgent financing of the initial phases of military operations for the tasks referred to in Article 42(1) and Article 43 TEU; urges the Council to resolve current problems with financing hybrid missions; calls for more flexibility in the EU's financial rules in order to support its ability to respond to crises and for the implementation of existing Lisbon Treaty provisions;

EU-NATO cooperation

Believes that, in the current context, the strategic partnership between the EU and NATO is fundamental to addressing the security challenges facing the Union and its neighbourhood; considers that the EU-NATO Joint Declaration and the subsequent implementation actions have the potential to move cooperation and complementarity to a higher level and to mark a new and substantive phase of the strategic partnership; welcomes the common set of 42 proposals, of which as many as 10 seek to increase resilience against hybrid threats, aimed at strengthening both cooperation and coordination between the two organisations; notes that this work will be taken forward in the spirit of full openness and transparency, in full respect of the decision-making autonomy and procedures of both organisations, and will be based on the principles of inclusiveness and reciprocity without prejudice to the specific character of the security and defence policy of any Member State; praises the cooperation being undertaken in combating cyber threats, developing strategic communications and coordinating maritime activities and joint exercises, and points to the excellent cooperation and complementarity of the EU's Operation Sophia and NATO's Operation Sea Guardian; welcomes as well the publication in June 2017 of the two organisations’ first joint implementation report and the progress made in implementing the common set of proposals, and calls for continued progress; stresses the EU’s full commitment to the transatlantic community of common values and interests;

63. Notes that a stronger EU and a stronger NATO are mutually reinforcing; considers that Member States need to increase their efforts to act both within an EDU and as autonomous regional security providers, and in a complementary role within NATO, where appropriate; notes that, as set out in EUGS, the EU must contribute to: (a) responding to external conflicts and crises; (b) building the capabilities of partners; and (c) protecting the Union and its citizens; welcomes the set of initiatives that are underway to implement EUGS in the field of security and

defence, to develop stronger relations between the EU and NATO, and to enable EU Member States to engage in defence research and develop defence capabilities together; is of the opinion that the security and protection of Europe will increasingly depend on both organisations acting within their remits; calls for efforts to improve cooperation in countering hybrid threats, including through the European Centre of Excellence for Countering Hybrid Threats, and in the exchange of information and intelligence;

64. Stresses the importance of cooperation and integration in cyber security, not only between Member States, key partners and NATO, but also between different actors within society;

192

CSDP partnerships

67. Stresses that partnerships and cooperation with countries that share EU’s values contribute to the effectiveness and the impact of the CSDP; welcomes, in this regard, the contributions of Albania, Australia, Canada, Chile, Colombia, Georgia, the former Yugoslav Republic of Macedonia, Moldova, Montenegro, New Zeeland, Norway, Serbia, Switzerland, Turkey, Ukraine and the United States;

68. Welcomes the signature of the EU-US Acquisition and Cross-Servicing Agreement (ACSA) of 7 December 2016; calls on the VP/HR to inform Parliament about how this agreement has improved the conditions for, and protection of, CSDP mission staff;

69. Invites the VP/HR and the Member States to establish EU military attachés in EU delegations contributing to the implementation of the strategic objectives of the Union;

70. Welcomes the proposal of the Commission to review the Instrument contributing to Stability and Peace (IcSP) in order to support actions carried out under the Capacity Building in Support of Security and Development (CBSD) initiative, which will enable the EU to fund capacity building and resilience and help strengthen the capabilities of partner countries; encourages the EEAS and the Commission to implement the CBSD initiative without delay, to improve the effectiveness and sustainability of CSDP missions and to provide a more flexible and integrated EU approach that takes advantage of civil-military synergies;

71. Instructs its President to forward this resolution to the European Council, the Council, the Commission, the Vice-President of the Commission / High Representative of the Union for Foreign Affairs and Security Policy, the Secretary- General of the United Nations, the Secretary-General of NATO, the EU agencies in the space, security and defence fields, and the governments and national parliaments of the Member States./.

193

PHỤ LỤC 9

KẾ HOẠCH HÀNH ĐỘNG QUỐC PHÒNG CHÂU ÂU

(EUROPEAN DEFENCE ACTION PLAN)

(Bản tóm lược) Nguồn: European Commission, http://ec.europa.eu/DocsRoom/documents/20372

Brussels, 30.11.2016 COM (2016) 950 final

1. Introduction

The Commission has already developed strategies to support the competitiveness of the European defence industry and the creation of a more integrated defence market in Europe. The adoption, in 2009, of two defence Directives19 contributed to the progressive establishment of a European defence market. In 2013, a toolbox of market opening and industry support measures was proposed: the Commission identified a list of actions20 to further strengthen the single market for defence and promote a more competitive defence industry.

For the first time, the Commission is now tabling a European Defence Action Plan which focuses on capability needs and supports the European defence industry. This Action Plan has three main pillars that address different but complementary needs along the capability development cycle, focusing on technologies and products: Launching a European Defence Fund; Fostering investments in defence supply chains; and Reinforcing the single market for defence.

Furthermore, the Commission will promote civil / military synergies within EU policies, wherever appropriate.

In many of the areas concerned, the initiatives announced in this Action Plan will benefit from the work of the European Defence Agency (EDA), notably on the Capability Development Plan1, R&T priorities and the Key Strategic Activities2.

2. Launching a European Defence Fund

In his State of the Union speech of 14 September 2016, President Juncker called for the creation of European Defence Fund. This Fund would consist of two distinct financing structures ('windows'), which are complementary and would be phased in over time:

(i) A "research window" to fund collaborative defence research projects at the EU level. This would be developed through the launch of a Preparatory Action and should result in a dedicated EU programme in the post-2020 EU multiannual financial framework.3

194

(ii) A "capability window" to support the joint development of defence capabilities24 commonly agreed by Member States. This would be financed through the pooling of national contributions and, where possible, supported by the EU budget.

The "research window" and the "capability window" will be complementary but distinct in their legal nature and sources of financing.

The "windows" will be complemented by a coordinating mechanism in the form of a Coordination Board, bringing together the Commission, the High Representative, the Member States, the European Defence Agency, as well as industry as appropriate.

The primary task of the Coordination Board will be to ensure consistency between the research and the capability "windows" to better support the development of capabilities agreed by the Member States. These capabilities are identified according to separate processes, including those of the European Defence Agency and the Member Statesdriven Coordinated Annual Review on Defence to be proposed by the High Representative in line with Council Conclusions.

3. Fostering investments in defence supply chains

The European Defence Fund will be a crucial step to support the competitiveness of the European defence industry. Additional actions are however necessary to allow the defence industrial base to remain innovative and competitive and, ultimately, be able to deliver Europe's capability needs. Particular attention must also be given to promote access to finance to SMEs and to non-traditional suppliers and foster investments in the defence supply chains.

195

Access to finance for SMEs and investments in the defence sector

for Strategic

the Programme

Investment4

(EFSI) or

for

Within the limitations of the Treaties, and the decision making bodies of the European Investment Bank (EIB), the EIB group can provide loans, guarantees and equity products for the expansion of current dual-use activities, which would unlock new opportunities for certain parts of defence supply chain, notably for SMEs and mid-caps. This could also have positive spill-over effects to national financial intermediaries and development banks. A number of EU financial instruments which are based on EIB lending, for example the European Fund the Competitiveness of Enterprises and small and medium-sized enterprises (COSME) could help in dual-use defence-related activities. EFSI could guarantee EIB or EIF financing and investment operations supporting the objectives listed in the EFSI Regulation, including for projects related to the defence sector.

Adapting further the lending criteria within the EIB Group for the defence sector, within the limitations of the Treaties and subject to the necessary decisions by the relevant EIB bodies, would benefit Member States, whose defence industry is mainly made of SMEs.

The Commission will support, within the decision-making bodies of the EIB, the adaptation of the EIB lending criteria to the defence sector within the limits of the Treaties. The Commission invites the Member States to support this process.

Strengthening the support of EU funds to investment in defence

European Structural and Investment Funds (ESIF) may be used by Member States in the defence sector as long as they contribute to the objectives of the fund in question to (i) co- fund productive investment projects, and (ii) support the modernisation of the defence supply chains. Defence industries can contribute to the goals and the objectives set in the ESIF, such as promoting the development of regional economics, representing a high investment multiplier on skills, jobs, technological and economic development.

The Commission will promote co-financing through the European Structural and Investment Funds of productive investment projects and modernisation of the defence supply chains in the defence sector, provided that the investment strengthens economic, social and territorial cohesion. The Commission will, in coordination with Member States, further promote such funding opportunities.

Encouraging the development of regional clusters of excellence

Regional clusters specialising in industrial niches (also known as “clusters of excellence”) allow large firms, SMEs and research centres to work in close geographic proximity in order to increase R&D collaboration and specialise in a specific technology area (e.g. aircraft engines). While the decision to prioritise regional clusters rests in the hands of local and regional government actors, EU financing (including through EIB) could lead to successful technology demonstrator projects and the development of industrial and scientific partnerships between firms and research centres5 .

Furthermore, the Commission has launched the European Network of Defence-related Regions6 to support EU regions with important relevant industrial and research assets and to share best practices on integration defence-related priorities into their smart specialisation strategies. The Commission will encourage Member States to promote regional clusters of excellence, benefitting the defence sector.

196

Supporting skills in defence

Defence will be a priority sector under the Blueprint initiative of the New Skills Agenda for Europe46. Moreover, the Commission will also support the setting-up of an industryled European Defence Skills Alliance to deliver a sectoral skills strategy. The Alliance will contribute to the development and implementation of scalable and sustainable solutions for new jobs and skills needs. This will be done by making use of the COSME47 and Erasmus+7 instruments to run pilot projects. The Commission will consider further measures to improve the knowledge and innovation base on dual use.

Under the 'Blueprint for Sectoral Co-operation on Skills' the Commission will, as of 2017, support strategic cooperation between the key stakeholders in the Defence Sector.

4. Strengthening the single market for defence

Opening up financial support to investments in the defence sector cannot deliver sustainable results without an efficient defence industry operating in a genuine and innovation-enhancing Single Market. Increased financing opportunities will not deliver in a meaningful way if they are used ineffectively.

More competition, and a greater openness of the defence market in Europe, should help suppliers to achieve economies of scale, optimise production capacity and lower unit production costs, thus making European products more competitive on the global market. Competition should take place both at the level of prime contractors and suppliers.

Towards an open and competitive European defence equipment market

The Commission will focus on the effective implementation of the two defence Directives, including through enforcement. Starting with the adoption of the Action Plan, it will clarify the interpretation of specific provisions of the defence procurement Directive through the adoption of guidance notices in 2017-18 and adopt recommendations for a harmonised functioning of General Transfer Licences in the first quarter of 2018.

Strengthening security of supply

Security of supply is also a cornerstone to the establishment of a genuine single market for defence and is key to future cooperative programmes. Member States need to be confident that cross-border deliveries will not be disrupted. Strengthening security of supply at EU level implies enhancing mutual trust among Member States.

Certain measures, such as contract performance conditions, can help strengthen mutual trust among Member States regarding transfers of defence-related products. The Commission will therefore issue guidance on measures that Member States can take under EU public procurement law to reinforce security of supply.

The Commission supports the initiative of Member States, through the EDA, for a political commitment to facilitate transfers of defence-related and to provide mutual assistance in times of crisis. The Commission takes note of Member States’ unwillingness to go beyond such a political commitment at this stage and agree on an EU-wide regime on Security of Supply. The Commission will, within the framework of the EU Raw Materials Strategy8 , identify bottlenecks and supply risks linked to the materials that are necessary for the development of key capabilities building on the findings of a recent study9 10. Future EU research programmes could also be used to mitigate supply risks, including substitution of critical raw materials, building on the work in the area of Key Enabling Technologies (KETs). Finally, the Commission's Circular Economy11 principles, i.e. new technological solutions and business models with more sustainable production, consumption and waste management, should also be applied to the defence sector, in which resource efficiency and security of supplies are increasingly important. In addition, there are potentially major savings through greater use of energy efficiency measures and of renewable energy in the EU armed forces, which are major consumer of energy.

197

Improve cross-border market access for SMEs in the defence sector

Fostering cross-border market access, and the opening of supply chains, is crucial for an efficient and effective European Defence Equipment Market, while ensuring respect of contractor's commercial freedom. In particular, as regards sub-suppliers, which are often SMEs, there is a need to ensure a fair chance to access defence supply chains, regardless of their location within the Single Market.

their supply chains14. The Commission’s

There are no “miracle solutions” to this complex issue, but gradual progress is needed. Based on the report of the ad hoc expert group with Member States and the industry12, the Commission will make recommendations to encourage procurement authorities to facilitate cross-border and SMEs participation in defence procurement procedures13 and prime contractors to give opportunities to sub-suppliers and SMEs from all Member States to recommendations should be access complemented by voluntary instruments, signed by relevant parties, including prime contractors and business associations.

The Commission will adopt recommendations, by the end of 2017, encouraging procurement authorities to facilitate cross-border and SME participation in defence procurement procedures and facilitate their access to defence supply chains.

Standardisation and conformity assessment

Certification and standardisation are critical enablers for cooperation as they reinforce interoperability and lead to cost savings. The EDA already supports Member States to develop a common approach to airworthiness certification through the European Military Airworthiness Requirements (EMARs) initiative.

implementing

research.

The Commission has developed the concept of "hybrid standards" for dual-use15 products to support security-related the Communication on In cybersecurity16, the Commission, in cooperation with Member States and industry, is developing a European certification framework17 and explores a voluntary labelling framework for the security of ICT products. In view of the synergies between the civil and military sectors, the defence sector could benefit from these developments.

A new mechanism to monitor and initiate the development of defence and hybrid standards was agreed between the Commission, EDA and Member States. One option being explored is the possible development of European standards through the processes established by the European Standardisation Organisations18.

198

5. Maximising civil/military synergies across EU policies

The Commission, in cooperation with the High Representative, EDA and the European Space Agency, is preparing an initiative to ensure reliable, secured and cost-effective satellite communications services for EU and national authorities managing security critical missions and infrastructures by the end of 2017.

… In line with the objectives of the EU Maritime Security Strategy19, dual use capability solutions can ensure that both military and civilian authorities could benefit from relevant technologies, products and services. Such solutions developed by the defence industry could be effective in addressing security-related fields, such as maritime surveillance, risk management and protection of critical infrastructures.

By 2018, the Commission will, in cooperation with the High Representative, EDA and Member States, develop specific actions to support a co-ordinated civil military maritime security research agenda and interoperable maritime surveillance capabilities.

6. Conclusions

Within this context, the European Union can complement national efforts and become an important security provider in its own right. The High Representative's Implementation Plan on Security and Defence71 and the related Conclusions adopted by the Council, as well as this Action Plan, support the development of key capabilities necessary for the security of the Union and its citizens. The Implementation of the EU-NATO Joint Declaration will further contribute to ensuring complementarity with NATO.

The Commission will, in close cooperation with Member States and the High Representative, including in her capacity as head of EDA, set up an Implementation Steering Group, meeting on a regular basis, to monitor and facilitate progress in the Actions. A first meeting will take place in the first quarter of 2017. It will also establish a consultation forum with the European defence industry to best align the supply and the demand sides.

However, the adoption of this Communication by the Commission is only a first step. A strong support from the Member States and EU Institutions will be required to realise the full potential of the European Defence Action Plan. The Commission will launch the implementation of the ambitious set of actions set out in this document. On basis of further discussions with other EU institutions, the Commission also stands ready to facilitate the implementation of the European Defence Fund… ./.

1 See EDA at: https://www.eda.europa.eu/what-we-do/eda-priorities/capability-development-plan 2 i.e. technologies, skills, industrial manufacturing capacities 3 The relationship with the multiannual research framework programme foreseen in Article 182 TFEU will be determined as part of the new multiannual financial framework. 4 Regulation (EU) 2015/1017 of the European Parliament and of the Council of 25 June 2015 on the European Fund for Strategic Investments, the European Investment Advisory Hub and the European Investment Project Portal and amending Regulations (EU) no 1291/2 5 Special focus could be given to priority areas, such as maritime security, cyber-security, Remotely Piloted Aircraft Systems and satellite communications. 6 EDNR, www.endr.eu 7 Regulation (EU) No 1288/2013 of the European Parliament and of the Council of 11 December 2013 establishing 'Erasmus+': the Union programme for education, training, youth and sport, OJ L 347, 20.12.2013, p. 50. 8 Communication from the Commission to the European Parliament, the Council, the European Economic and Social Committee and the Committee of the Regions making raw materials available for Europe's future well-being -proposal for a European innovation partnership on raw materials, COM/2012/082 final. 9 Pavel, C. and Tzimas, E., Raw materials in the European defence industry. Luxembourg, European Commission, Joint Research Centre (JRC), 2016. 10 E.g. beryllium is used in missiles, fighter jets, helicopters and satellites (because it is six times lighter and stronger than steel). 11 Communication from the Commission to the European Parliament, the Council, the European Economic and Social Committee and the Committee of the Regions: Closing the loop - An EU action plan for the Circular Economy, COM/2015/0614. 12 European Commission Advisory group on cross-border access for SMEs to defence and security contracts, Final report and recommendations. 13 E.g. providing early information about long-term plans and priorities, using pre-procurement advertising, designing public procurement procedures to facilitate cross-border and SMEs participation. 14 E.g. transparent strategic long-term plans, pre-procurement and subcontracting advertising, EU-wide market searches and scouting to identify potential suppliers across different Member States, being transparent about the cross-border elements of their supply chains. 15 Security Industrial Policy - Action Plan for an innovative and competitive Security Industry COM(2012) 417, July 2012. 16 Communication from the Commission to the European Parliament, the Council, the European Economic and Social Committee and the Committee of the Regions: Strengthening Europe's Cyber Resilience System and Fostering a Competitive and Innovative Cybersecurity, 5.7.2016, COM(2016)410 final. 17 In line with the Joint Communication to the European Parliament, the Council, the European Economic and Social Committee and the Committee of the Regions: Cybersecurity Strategy of the European Union: An Open, Safe and Secure Cyberspace, 7.2.2013, JOIN(2013)1. 18 Regulation (EU) No 1025/2012 of the European Parliament and of the Council of 25 October 2012 on European standardisation (OJ L 316, 14.11.2012, p. 1). 19 Joint Communication to the European Parliament and the Council For an open and secure global maritime domain: elements for a European Union maritime security strategy, 6.3.2014 JOIN/2014/09.

199