
1
PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Ngành chăn nuôi lợn ở nước ta hiện nay đã có những bước phát triển khá
mạnh, giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong việc cung cấp thực phẩm đáp ứng nhu
cầu đời sống con người. Ngày 16 tháng 01 năm 2008, Thủ tướng Chính phủ đã
phê duyệt “Chiến lược phát triển chăn nuôi đến năm 2020”, định hướng phát
triển chăn nuôi trở thành ngành sản xuất hàng hóa, từng bước đáp ứng nhu cầu
thực phẩm cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Tuy nhiên, chăn nuôi lợn ở
nước ta hiện nay mới chỉ đạt được về số lượng còn năng suất và chất lượng vẫn
thấp hơn so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Vì vậy, song song với
việc cải tiến điều kiện chăn nuôi, cần chú trọng tới công tác giống.
Nhằm đáp ứng yêu cầu của công tác giống, trong những năm qua, chúng ta
đã nhập khá nhiều giống lợn ngoại có năng suất cao, chất lượng thịt tốt từ những
nước có nền chăn nuôi tiên tiến. Những nguồn gen quý này đã góp phần tích cực
nâng cao năng suất, tỷ lệ nạc trong sản xuất chăn nuôi lợn nước ta. Cũng như
nhiều nước chăn nuôi phát triển, trong hệ thống nhân giống lợn công nghiệp của
Việt Nam, ba giống thuần
Yorkshire, Landrace và Duroc đang chiếm vị trí quan
trọng trong đàn giống cụ kỵ (GGP), nái lai F
1
là con lai giữa đực Landrace với
nái Yorkshire hoặc giữa đực Yorkshire với nái Landrace cũng chiếm tỷ trọng cao
trong đàn bố mẹ (PS). Các lợn đực giống Landrace, Yorkshire, Duroc cũng như
đực lai PiDu (con lai giữa Piétrain và Duroc) tham gia tạo nhiều tổ hợp lai khác
nhau, góp phần nâng cao năng suất và chất lượng thịt của đàn lợn cả nước.
Để phát huy hơn nhiệm vụ của công tác giống, bên cạnh việc tiếp tục bổ
sung nguồn gen, cần tập trung nghiên cứu đánh giá chọn lọc nhằm duy trì, nâng
cao tiềm năng di truyền một số tính trạng chủ yếu ở lợn nái sinh sản và lợn đực
giống của ba giống lợn ngoại nói trên. Trong những năm gần đây, một số nghiên
cứu trong nước đã tập trung theo hướng này. Phan Xuân Hảo (2007) đã đánh giá
tăng khối lượng trung bình hàng ngày, tỷ lệ nạc và tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối
lượng đối với lợn Landrace và Yorkshire. Nguyễn Quế Côi và Võ Hồng Hạnh
(2000) đã ước tính hệ số di truyền, tương quan di truyền giữa các tính trạng tăng
khối lượng trung bình hàng ngày, dày mỡ lưng và khả năng chuyển hoá thức ăn