VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VŨ TIẾN ĐỨC

CÁC DI TÍCH THỜI ĐẠI ĐÁ MỚI Ở HAI TỈNH ĐẮK LẮK VÀ ĐẮK NÔNG

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHẢO CỔ HỌC

HÀ NỘI - 2021

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VŨ TIẾN ĐỨC

CÁC DI TÍCH THỜI ĐẠI ĐÁ MỚI Ở HAI TỈNH ĐẮK LẮK VÀ ĐẮK NÔNG

Ngành: Khảo cổ học

Mã số: 9.22.90.17

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHẢO CỔ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

1. TS. NGUYỄN GIA ĐỐI 2. PGS.TS NGUYỄN KHẮC SỬ

HÀ NỘI - 2021

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công t`rình sưu tầm, tổng hợp và nghiên cứu của riêng

tôi. Những số liệu, kết quả được trình bày trong luận án là trung thực. Các ý kiến khoa

học nêu trong luận án được tác giả kế thừa và trích nguồn theo đúng quy định.

Hà Nội, ngày tháng năm 2021

Tác giả luận án

NCS. Vũ Tiến Đức

LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình thực hiện Luận án “Các di tích thời đại Đá mới ở hai tỉnh

Đắk Lắk và Đắk Nông”, tôi đã nhận được sự giúp đỡ của nhiều cá nhân và tổ chức.

Trước tiên tôi xin gửi lời cảm ơn đến cơ quan chủ quản là Viện Khoa học xã

hội vùng Tây Nguyên đã hết sức tạo điều kiện cho tôi tham gia đầy đủ các khóa học

của Học viện.

Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc các bác, cô chú, anh chị và bạn bè trong Viện

Khoa học xã hội vùng Tây Nguyên, Viện Khảo cổ học, Bảo tàng Thiên nhiên Việt

Nam, Bảo tàng tỉnh Đắk Nông, Bảo tàng tỉnh Đắk Lắk, Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

Việt Nam, Học viện Khoa học xã hội, Ban Chủ nhiệm đề tài TN17/T06... vì sự giúp

đỡ thân tình và hết lòng trong quá trình tôi tìm kiếm tư liệu cũng như hoàn thành

Luận án.

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Gia Đối, PGS.TS.

Nguyễn Khắc Sử - những người Thầy đã trực tiếp hướng dẫn, theo sát, chỉ bảo và

động viên tôi hoàn thành Luận án này.

Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến gia đình đã luôn ở bên động

viên, khích lệ, tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện và hoàn

thành Luận án này.

Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất về tất cả những sự

giúp đỡ đó!

Tác giả luận án

NCS. Vũ Tiến Đức

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

Chƣơng 1: TỔNG QUAN TƢ LIỆU ........................................................... 10

1.1. Đặc điểm địa lý tự nhiên, văn hóa – xã hội khu vực nghiên cứu ....... 10

1.1.1. Điều kiện tự nhiên ........................................................................... 10

1.1.2. Khái quát đặc điểm văn hóa - xã hội khu vực nghiên cứu.............. 18

1.2. Quá trình phát hiện, nghiên cứu và những vấn đề đặt ra .................. 20

1.2.1. Quá trình phát hiện .......................................................................... 20

1.2.2. Kết quả nghiên cứu ......................................................................... 31

1.2.3. Những vấn đề đặt ra ........................................................................ 33

1.3. Tiểu kết chƣơng 1 ................................................................................... 34

Chƣơng 2: ĐẶC ĐIỂM THỜI ĐẠI ĐÁ MỚI TỈNH ĐẮK LẮK VÀ

ĐẮK NÔNG ................................................................................................... 35

2.1. Giai đo n Trung Đá mới .................................................................. 35

2.1.1. Đặc điểm di tích .............................................................................. 35

2.1.2. Đặc điểm di vật ............................................................................... 46

2.1.3. Niên đại và các giai đoạn phát triển ................................................ 59

2.2. Giai đo n Hậu k Đá mới ...................................................................... 63

2.2.1. Đặc điểm di tích .............................................................................. 63

2.2.2. Đặc điểm di vật ............................................................................... 69

2.2.3. Niên đại và các giai đoạn phát triển Hậu kỳ Đá mới ...................... 86

2.3. Đặc điểm thời đ i Đá mới t i hai tỉnh Đắk Lắ và Đắk Nông ........... 89

2.3.1. Tính liên tục giữa các giai đoạn thời đại Đá mới khu vực nghiên

cứu ............................................................................................................. 89

2.3.2. Đặc thù khu vực .............................................................................. 93

2.4. Tiểu kết Chƣơng II ................................................................................. 94

Chƣơng 3: CƢ DÂN, ĐỜI SỐNG VẬTCHẤT, TINH THẦN VÀ

MỐI QUAN HỆ VĂN HÓA ......................................................................... 96

3.1. Phân bố dân cƣ ....................................................................................... 96

3.1.1. Các nhóm dân cư giai đoạn Trung kỳ Đá mới ................................ 96

3.1.2. Các nhóm dân cư giai đoạn Hậu kỳ Đá mới ................................... 99

3.2. Mô thức cƣ trú và ho t động kinh tế .................................................. 101

3.2.1. Mô thức cư trú và hoạt động kinh tế của cư dân Trung kỳ Đá mới ... 101

3.2.2. Mô thức cư trú và hoạt động kinh tế của cư dân Hậu kỳ Đá mới ...... 107

3.3. Tổ chức xã hội và đời sống tinh thần ................................................. 112

3.3.1. Giai đoạn Trung kỳ Đá mới .......................................................... 112

3.3.2. Giai đoạn Hậu kỳ Đá mới ............................................................. 114

3.4. Thời đại Đá mới tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông trong bối cảnh rộng hơn ... 117

3.4.1. Trong không gian Tây Nguyên ..................................................... 117

3.4.2. Với vùng duyên hải Nam Trung bộ .............................................. 127

3.4.3. Với miền Đông Nam Bộ ............................................................... 131

3.5. Tiểu kết Chƣơng 3 ................................................................................ 135

KẾT LUẬN .................................................................................................. 137

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ ..... 141

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 143

PHỤ LỤC

BẢNG CÁC CHỮ VIẾT TẮT

- Before Christ (Trước Công nguyên) BC

- Bulletin de I'Ecole Francaise d'atrame - Orient BEFEO

- Before Present (Cách ngày nay) BP

Cm - Centimet

Km - Kilomet

m - Mét

Nxb. - Nhà xuất bản

PGS. - Phó giáo sư

ThS. - Thạc sĩ

Tr. - Trang

TS. - Tiến sĩ

TT - Thứ tự

WA - World Archaeology

DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ TRONG LUẬN ÁN

Bảng 2.1: Di vật trong tầng văn hóa các di tích Trung kỳ Đá mới ........................... 46

Bảng 2.2: Công cụ đá trong tầng văn hóa các di tích Trung kỳ Đá mới ................... 50

Bảng 1: Cấu trúc các tổ chức xã hội thời tiền sử và văn minh sớm

Bảng 2: Thống kê các di tích thời đại Đá mới tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông

(Nguồn: [2] [3] [19] [21, tr. 60 -71] [31] [34, tr. 72 – 78] [39, tr. 14] [41, tr. 35 –

44] [42] [45] [63, tr. 125 – 126] [75] [119, tr. 97 – 108])

Bảng 3: Địa tầng các di tích thời đại Đá mới tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông

(Nguồn: [24] [26, tr.112-113] [28] [31, tr. 38- 40] [40] [43] [44] [91] [93] [95] [98])

Bảng 4: Thống kê chất liệu công cụ và phác vật Thôn Tám 2006 và năm 2013

(Nguồn: [20] [28])

Bảng 5: Thống kê chất liệu công cụ và phác vật đá C6-1 (Nguồn: [91])

Bảng 6: Thống kê chất liệu công cụ và phác vật Tân Lập (Nguồn: [43]) Bảng 7: Kết quả phân tích niên đại C14 di tích Buôn Kiều và Buôn Hằng Năm

(Nguồn: [93]) Bảng 8: Kết quả phân tích niên đại C14 hang C6’ và hang C6-1 Krông Nô (Nguồn:

[91, tr. 85 – 86])

Bảng 9. Không gian phân bố các di tích Hậu kỳ Đá mới khu vực nghiên cứu

(Nguồn: [3] [19] [21] [33] [34] [41] [42] [45] [63] [75])

Bảng 10: Rìu, bôn trong một số di tích giai đoạn Hậu kỳ Đá mới tại khu vực nghiên

cứu đã khai quật, đào thám sát (Nguồn: [17, tr. 27 – 30] [40, tr, 23] [24] [75, tr. 204

- 212, tr. 238 - 245] [96])

Bảng 11: Thống kê rìu, bôn không vai và rìu, bôn có vai tại một số di tích Hậu kỳ

Đá mới (Nguồn: [26, tr. 112 – 113] [33] [75, tr. 199 - 244] [96, tr. 10 – 14])

Bảng 12. Phân bố của một số loại hình công cụ đá giai đoạn Hậu kỳ Đá mới ở khu

vực nghiên cứu Bảng 13: Niên đại C14 một số di tích vùng lòng hồ thủy điện Plei Krông

(Nguồn: [86, tr. 380 – 381]) Bảng 14: Niên đại C14 di tích Lung Leng (Nguồn: [86, tr. 381 – 385])

Bảng 2.1: Di vật trong tầng văn hóa các di tích Trung kỳ Đá mới (Nguồn: [20] [28]

[43] [91] [93])

Bảng 2.2: Nhóm công cụ ghè đẽo trong tầng văn hóa các di tích Trung kỳ Đá mới

(Nguồn: [20] [28] [43] [91] [93])

Biểu đồ 1. Thành phần bào tử phấn hoa di chỉ Buôn Kiều (Nguồn: [54, tr.108 -

110]).

Biểu đồ 2. Thành phần bào tử phấn hoa di chỉ Thôn Tám (Nguồn: [55, tr.112 –

114])

Biểu đồ 3. Thành phần bào tử phấn hoa di chỉ C6-1 (Nguồn: [91, tr.90 -92])

Biểu đồ 4. Phân bố phấn hoa và bào tử theo độ sâu địa tầng C6-1 (Nguồn: [91, tr.90

-92]).

Biểu đồ 5. Các tập hợp phấn hoa hang C6-1 (Nguồn: [86, tr.90 -92]).

Biểu đồ 6: Loại hình rìu, bôn giai đoạn Hậu kỳ Đá mới (Nguồn: [3] [19] [21] [33]

[34] [41] [42] [45] [63] [75])

Biểu đồ 7. Số lượng vỏ nhuyễn thể trong các lớp khai quật hang C6-1 (Nguồn: [91,

tr.36])

Biểu đồ 8. Số lượng di cốt trong các lớp khai quật hang C6-1 (Nguồn: [91, tr.137])

Biểu đồ 9: Hình cây thể hiện hệ số tương quan giữa các nhóm di cốt người (Nguồn:

[14])

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

1.1. Tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông là hai tỉnh phía Nam Tây Nguyên, vốn

tách ra từ tỉnh Đắk Lắk cũ từ năm 2004. Đắk Lắk và Đắk Nông là mái nhà chung

của gần 50 tộc người, trong đó có 4 tộc người thiểu số tại chỗ (Êđê, J’rai, M’nông.

Mạ). Tư liệu khảo cổ học đã chứng minh sự có mặt con người tại địa bàn tỉnh Đắk

Lắk và tỉnh Đắk Nông từ thời tiền sử. Khởi nguồn từ những cộng đồng dân cư thời

tiền sử đó, trải qua quá trình lịch sử phát triển lâu dài với những giai đoạn phát triển

chung của nhân loại, các cư dân sinh sống trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk

Nông đã hình thành nên những giá trị truyền thống văn hóa của vùng đất này. Do

đó, nghiên cứu về các giai đoạn phát triển thời tiền sử tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk

Nông cũng chính là nghiên cứu giai đoạn mở đầu trong diễn trình phát triển văn

hóa, xã hội khu vực phía Nam vùng Tây Nguyên.

Những nghiên cứu khảo cổ học tiền sử tỉnh Đắk Lắk, tỉnh Đắk Nông sẽ góp

phần gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, qua đó cung cấp luận cứ, luận

chứng cho chính sách xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở các bản sắc

văn hóa vốn hình thành và phát triển qua nhiều cộng đồng cùng sinh sống trên cùng

mảnh đất trong buổi đầu lịch sử; là tư liệu khoa học có tính pháp lý cho công tác

xác định và bảo vệ chủ quyền dân tộc trên vùng đất biên cương chiến lược của tổ

quốc; cung cấp thông tin chính xác về di tích khảo cổ cho các nhà quản lý trước khi

hoạch định chính sách xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế - xã hội của hai

tỉnh trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện nay.

1.2. Từ nửa đầu thế kỷ XX, thời điểm G.Codominas công bố những phát hiện

di vật đá đầu tiên cho đến nay, trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông đã phát

hiện hơn 100 địa điểm khảo cổ học tiền sử, trong đó các địa điểm khảo cổ thời đại

Đá mới chiếm số lượng chủ yếu với 100 địa điểm, cho thấy sự tồn tại của những

văn hóa thời đại Đá mới phát triển rực rỡ và năng động tại vùng đất này. Thời đại

Đá mới (Neolithic) là giai đoạn phát triển đỉnh cao của thời đại Đá, được coi như là

một cuộc cách mạng trong thuở bình minh lịch sử nhân loại. Qua “cách mạng Đá

1

mới”, nhân loại đạt được các thành tựu lớn về kỹ thuật với phát triển kỹ thuật mài,

làm đồ gốm và đặc biệt là xuất hiện kinh tế sản xuất, chủ động khai thác tái tạo

thiên nhiên, phục vụ nhu cầu tồn tại bản thân và sáng tạo văn hóa cộng đồng. Do đó,

thời đại Đá mới có ý nghĩa là giai đoạn chuẩn bị hành trang của các cộng đồng

người trước khi bước sang ngưỡng cửa văn minh.

Mặc dù, nguồn tư liệu phong phú nhưng hầu hết các công bố về khảo cổ học

thời đại Đá mới ở tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông chủ yếu dừng ở mức độ công bố

phát hiện hoặc báo cáo khai quật riêng rẽ của một số ít di tích được thám sát hoặc

khai quật hạn chế. Diễn trình phát triển cùng đặc trưng văn hóa từng giai đoạn, mối

liên hệ giữa các nhóm cư dân thời đại Đá mới Đắk Lắk, Đắk Nông với nhau và với

vùng lân cận,... vẫn còn là những vấn đề khoa học cần tiếp tục nghiên cứu sâu hơn.

Đặc biệt, những phát hiện mới trong hơn một thập kỷ qua đã gợi mở khả năng làm

sáng rõ các vấn đề trên.

1.3. Số lượng di tích khảo cổ học tiền – sơ sử tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông

được phát hiện và công bố cho đến nay lên tới con số hơn 100 di tích. Tuy nhiên,

các tỉnh Tây Nguyên, trong đó có tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông, đã, đang và vẫn

tiếp tục là trung tâm canh tác cây công nghiệp trọng điểm của cả nước. Hoạt động

canh tác cây công nghiệp diện rộng cùng các dự án xây dựng hồ thủy điện, hồ thủy

lợi đe dọa nghiêm trọng, thậm chí đã phá hủy hoàn toàn nhiều di tích khảo cổ. Đây

chính là áp lực từ thực tiễn cuộc sống đặt ra, thúc đẩy những hoạt động nghiên cứu

khảo cổ học tại khu vực nghiên cứu cần tiến hành khẩn cấp và liên tục.

1.4. Trên cơ sở kế thừa, hệ thống, nghiên cứu chuyên sâu các tư liệu đã phát

hiện và công bố, đặc biệt là những phát hiện mới trong vài năm gần đây trên địa bàn

tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông; kết hợp so sánh với các tư liệu khảo cổ học mới phát

hiện trong khu vực và các vùng lân cận, chúng tôi hy vọng luận án “Các di tích thời

đại Đá mới ở hai tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông” vừa có ý nghĩa thực tiễn vừa có

những đóng góp nhất định về mặt nhận thức khoa học.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

2.1. Mục đích: phác dựng bức tranh lịch sử văn hóa thời đại Đá mới tại tỉnh

2

Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông trong dòng chảy chung của lịch sử dân tộc.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:

- Hệ thống hóa tư liệu và kết quả nghiên cứu về thời đại Đá mới tỉnh Đắk

Lắk, tỉnh Đắk Nông.

- Tìm hiểu đặc trưng cơ bản, tính chất, niên đại, chủ nhân, các giai đoạn

phát triển thời đại Đá mới ở hai tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông, góp phần làm rõ

đặc tính địa phương và con đường phát triển của thời đại Đá mới ở vùng này.

- Phân tích so sánh các di tích và di vật tiêu biểu thời đại Đá mới ở tỉnh Đắk

Lắk và tỉnh Đắk Nông với các di tích xung quanh nhằm phác thảo đời sống vật

chất, đời sống tinh thần, tổ chức xã hội của cư dân thời đại Đá mới vùng này, cũng

như đánh giá giá trị lịch sử - văn hóa của thời đại Đá mới tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk

Nông trong bối cảnh rộng hơn.

3. Đối tƣợng và ph m vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài là các di tích và di vật thời đại Đá mới

đã phát hiện trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông, bao gồm:

- Các di tích và di vật khảo cổ giai đoạn Trung kỳ Đá mới. Đặc biệt, các di

tích tiêu biểu đã thám sát, khai quật có di tích, địa tầng, di vật tiêu biểu: gồm di tích

Buôn Kiều, Buôn Hằng Năm, Hố Tre (Đắk Lắk); Thôn Tám, Tân Lập, các di tích

trong hang động núi lửa Krông Nô (hang C6-1, hang C6’...) (Đắk Nông) được lựa

chọn để làm rõ đặc điểm giai đoạn.

- Các di tích và di vật giai đoạn Hậu kỳ Đá mới. Đặc biệt, các di tích đã đào

thám sát, khai quật có di tích, địa tầng, di vật tiêu biểu như: Buôn Triết, T’Sham A,

Chư K’tu, Dha Prông (tỉnh Đắk Lắk), Đồi Chợ, Nghĩa Trang, Suối Ba (tỉnh Đắk

Nông) được sử dụng để làm rõ đặc điểm chung của giai đoạn.

- Ngoài ra, luận án còn tham khảo tài liệu về các di tích, di vật thuộc thời đại

Đá mới ở các tỉnh Tây Nguyên còn lại, vùng duyên hải Nam Trung Bộ, miền Đông

Nam Bộ; nhằm so sánh, đối chiếu thời đại Đá mới ở tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông

3

với các khu vực khác trong giai đoạn này.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

* Về không gian: địa giới tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông hiện nay. Đây là

hai tỉnh ở khu vực phía Nam Tây Nguyên. Trong quá trình nghiên cứu, khi phân

tích so sánh, đề tài sẽ mở rộng địa bàn nghiên cứu ra khu vực xung quanh.

* Về thời gian: tập trung vào thời đại Đá mới, khung niên đại khoảng từ

10.000 năm đến 3.000 năm cách ngày ngay. Kết quả phân tích niên đại C14, AMS

trong quá trình thực hiện luận án sẽ cung cấp các mốc niên đại cụ thể của thời đại

Đá mới tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông.

4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án

4. 1. Phương pháp luận

4.1.1. Lý thuyết, phương pháp luận Marxist

Luận án vận dụng cơ sở lý luận, phương pháp duy vật biện chứng và duy vật

lịch sử để phân tích các thông tin tư liệu thu thập được; sử liệu hóa các tư liệu khảo

cổ; phác thảo diễn trình phát triển và phục dựng bối cảnh văn hóa – xã hội thời đại

Đá mới tỉnh Đắk Lắk, tỉnh Đắk Nông trong trong dòng chảy chung của lịch sử vùng

Tây Nguyên nói riêng và đất nước nói chung

* Phân kỳ thời đại lịch sử của Ph. Ăngghen

Trong tác phẩm Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà

nước, Ph. ngghen phân chia lịch sử nhân loại thành 3 thời đại: Mông muội, Dã

man và Văn minh. Trong mỗi thời đại, Ph. ngghen lại chia nhỏ hơn thành 3 giai

đoạn: thấp, giữa và cao. Theo Ph. ngghen, thời đại Mông muội có thể tương ứng

với thời đại Đá giữa đến sơ kỳ thời đại Đá mới, thời kỳ chiếm lĩnh và thống trị hoàn

toàn của người Homo sapiens sapiens. Thời đại Dã man với 3 giai đoạn phát triển từ

thấp – giữa – cao tương ứng 3 giai đoạn Trung kỳ Đá mới – Hậu kỳ Đá mới và Sơ

kỳ Kim khí tại khu vực Bắc Mỹ và Cựu lục địa (Châu u) [1, tr. 40 – 41].

Cách phân kỳ thời đại lịch sử của Ph. ngghen dựa trên quan điểm chủ nghĩa

duy vật lịch sử, coi hoạt động sản xuất vật chất xã hội là nền tảng sự phát triển xã

hội. Mức độ phát triển hoạt động sản xuất tạo nên sự phát triển giữa các thời đại lịch

sử. Hoạt động sản xuất của các cư dân tiền sử là vấn đề khoa học trọng tâm trong

4

nghiên cứu các nền văn hóa cổ. Những luận điểm cơ bản của Ph. ngghen về phân

kỳ xã hội loài người mặc dù chủ yếu dựa trên tư liệu dân tộc học vùng Bắc Mỹ và

Châu u nhưng vẫn có giá trị tham khảo, so sánh trong nghiên cứu về kinh tế – xã

hội các khu vực cụ thể trên thế giới, trong đó có khu vực nghiên cứu của luận án.

4.1.2. Lý thuyết, phương pháp luận khảo cổ học nhân học hiện đại

* Thuyết sinh thái văn hóa

Thuyết sinh thái văn hóa xuất hiện vào giữa những năm 1950, gắn liền với

tên tuổi của Julian Steward và Leslie White. Lý thuyết sinh thái văn hóa coi văn hóa

như là các quá trình thích ứng môi trường (environmental adaptation) hay các hệ

thống sinh thái nhân văn (human ecosystems). Cả Steward và White đều cho rằng

văn hóa là sản phẩm của sự thích nghi của con người với môi trường tự nhiên cụ

thể, thông qua mối quan hệ “kỹ thuật - môi trường”. Ông cho rằng sự thích ứng sinh

thái là tính chất quyết định để xác định các giới hạn của sự biến đổi trong các hệ

thống văn hóa. Mặc dù, hiện nay cách tiếp cận sinh thái văn hóa về biến đổi văn hóa

bị chỉ trích là không quan tâm đến các yếu tố tác động từ bên ngoài, nhưng “lô gíc

sinh thái” là một trong những cách tiếp cận phù hợp trong nghiên cứu đời sống văn

hóa các xã hội chưa bước vào giai đoạn Nhà nước [64, tr. 23 -25].

* Lý thuyết hình thái kinh tế khai thác và cư trú của Binford

Từ những năm 1970, một số nhà khảo cổ lý giải các hình thái kinh tế khai

thác và cư trú của các cư dân thời tiền sử trên cơ sở tác động của hệ sinh thái mà các

cư dân đó sinh tồn. Hệ sinh thái gồm hệ sinh thái phổ tạp và hệ sinh thái chuyên

biệt. Hệ sinh thái phổ tạp đặc trưng bởi tính đa dạng của thảm thực vật và quần thể

động vật, trong khi số lượng cá thể của từng loại không nhiều, do đó chỉ số đa dạng

của hệ sinh thái – tỷ lệ giữa số loài với số lượng cá thể cao. Ngược lại, hệ sinh thái

chuyên biệt có ít loài nhưng nhiều cá thể trong loài và chỉ số đa dạng hệ sinh thái

thấp. Hệ sinh thái nhiệt đới Việt Nam, trong đó có vùng Tây Nguyên với đặc điểm

khí hậu nhiệt đới gió mùa thuộc hệ sinh thái phổ tạp.

Theo TS. Nguyễn Gia Đối, Binford đã cho rằng tương ứng với hệ sinh thái

phổ tạp là hình thái kinh tế khai thác và cư trú khái thực (Forager) với đặc điểm

không tích trữ nhiều thức ăn, người ta di chuyển thường xuyên và khai thác các

5

nguồn trong thời gian ngắn, khai thác phổ rộng theo nhu cầu và biến động của mùa

sinh trưởng nguồn khai thác, di động thường xuyên nơi cư trú, mô thức cư trú theo

địa điểm cư trú với các hộ gia đình hoặc nhóm hộ gia đình, phương thức sinh thái

phổ rộng, khối lượng đầu vào thấp, dựa chủ yếu vào hái lượm, chiến lược săn bắn

theo hình thức săn đơn, đụng độ trực tiếp các động vật nhỏ hoặc có tập quán sinh

sống đơn lẻ không theo bầy đàn lớn. Ngược với khái thực là khái tập (Collector),

phổ biến trong hệ sinh thái chuyên biệt. Các nhóm khái tập khai thác nguồn lâu dài

nên nơi cư trú không thường xuyên di động, có những địa điểm cư trú, lán trại kho

hoặc nơi cất giữ lương thực, kỹ thuật khai thác chuyên biệt, phương thức sinh thái

chuyên biệt, phổ hẹp, khối lượng đầu vào lớn, dựa và săn bắn, đánh cá và hái lượm,

thường săn đàn, săn vây, săn chặn, cấu trúc lán trại lớn, tập trung toàn bộ các nhóm

trong khu vực [32, tr. 64 – 80].

* Lý thuyết các mô hình tiến triển chính trị – xã hội trong lịch sử

Trên cơ sở tư liệu dân tộc học, nhà nhân học người Mỹ E.R.Service đã dùng

tư liệu dân tộc học miêu tả để xây dựng chuỗi phát triển mang tính suy đoán và tổng

quát hóa cao về các mô hình tiến triển chính trị – xã hội trong lịch sử. Theo bản

dịch của Đặng Văn Thắng. Lê Long Hổ, Trần Hạnh Minh Phương (năm 2007) từ tài

liệu của Conlin Renfrew - Paul Bahn, các mô hình tiến triển chính trị - xã hội trong

lịch sử nhân loại bao gồm: Nhóm người di động săn bắt - hái lượm (Bầy đàn)

(Mobile hunter - gatherer groups - sometimes called “band”) tương ứng các xã hội

thời đại Đá cũ; Xã hội phân tầng (Bộ lạc/Bộ tộc) (Segmentary societies - sometimes

refered to as Tribe) tương ứng các xã hội biết đến sản xuất nông nghiệp thuộc thời

đại Đá mới; Tù trưởng quốc (Chiefdom) tại những khu vực cư trú lớn giai đoạn

luyện kim sớm với các nhà nước có tổ chức; Nhà nước sơ khai (Early State) ở các

nền văn minh sớm. Sự khác biệt giữa các tổ chức xã hội trong giai đoạn được

E.R.Service phân lập trên cơ sở 8 tiêu chí về: 1) nhân số; 2) tổ chức xã hội; 3) tổ

chức kinh tế; 4) loại hình cư trú; 5) tổ chức tín ngưỡng; 6) kiến trúc khảo cổ học; 7)

tổ chức tín ngưỡng, 8) khung niên đại. Các tiêu chí vừa là cơ sở tham khảo xác định

giai đoạn phát triển, vừa là đặc điểm phát triển kinh tế – xã hội của các cộng đồng

6

cư dân thời tiền – sơ sử (Bảng 1) [69, tr. 216 - 222].

4.2. Cách tiếp cận

Nhằm phác thảo bức tranh lịch sử - văn hóa thời đại Đá mới trên địa bàn tỉnh

Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông, luận án sử dụng đồng thời ba cách tiếp cận sau:

* Cách tiếp cận chuyên ngành: Là một luận án chuyên ngành khảo cổ học,

cách tiếp cận khảo cổ học là cách tiếp cận chủ đạo trong luận án. Tài liệu khảo cổ

học, cùng các phương pháp đặc thù của ngành khảo cổ học đóng vai trò chủ đạo

trong quá trình thực hiện luận án.

* Bên cạnh đó, luận án còn sử dụng phương pháp tiếp cận liên ngành, đa

ngành: Địa - khảo cổ, địa - văn hóa, khảo cổ - nhân học so sánh, ngôn ngữ - tộc

người… Kết quả các phương pháp thuộc khối ngành khoa học tự nhiên như phương

pháp phân tích độ từ cảm, phân tích thành phần thạch học, phân tích niên đại tuyệt

đối bằng phương pháp Carbon phóng xạ (C14, AMS), phân tích bào tử phấn hoa,

phân tích thành phần đất… sẽ là nguồn dữ liệu đầu vào tin cậy của luận án.

* Cách tiếp cận đồng đại - lịch đại: được sử dụng nhằm tìm hiểu mối liên hệ

giữa các cộng đồng cư dân thời đại Đá mới địa bàn nghiên cứu với các cư dân đồng

đại vùng Tây Nguyên, các vùng khác, Lào và Campuchia. Cách tiếp cận lịch đại xác

định vị trí của thời đại Đá mới tỉnh Đắk Lắk, tỉnh Đắk Nông trong diễn trình phát

triển thời tiền sử địa phương và rộng hơn là toàn vùng Tây Nguyên.

4.3. Phương pháp nghiên cứu

Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu truyền thống trong khảo cổ

học như:

- Điều tra, thám sát, khai quật khảo cổ học thông qua các cuộc điều tra, thám

sát, khai quật khảo cổ học đã được thực hiện trong thời gian sưu tập tư liệu phục vụ

luận án: điều tra khảo cổ học huyện Ea Súp, huyện Buôn Đôn, di tích Hố Tre (tỉnh

Đắk Lắk); điều tra khảo cổ học cụm hang động núi lửa Krông Nô, điều tra khảo cổ

học huyện Đắk Mil, huyện Đắk Song, huyện Cư Jút, huyện Đắk G’long (tỉnh Đắk

Nông); thám sát di tích Suối Ba (huyện Đắk R’lấp), di tích Rừng Lạnh (huyện Đắk

Song), di tích Tân Lập (huyện Đắk Mil); thám sát và khai quật hang C6’ và C6-1

7

(huyện Krông Nô)....

- Phương pháp đo, vẽ, chụp ảnh, miêu tả di tích và di vật điển hình; phương

pháp thống kê, phân loại di vật sử dụng trong quá trình thu thập tài liệu thực địa và

chỉnh lý hiện vật từ các đợt điều tra, thám sát, khai quật khảo cổ học kể trên cùng

các di vật đang lưu trữ tại Bảo tàng tỉnh Đắk Nông và Bảo tàng tỉnh Đắk Lắk

- Phương pháp thống kê, phương pháp so sánh nhằm phân tích nguồn tư liệu,

làm rõ hơn các đặc trưng di tích và di vật cùng mối liên hệ với các di tích và sưu tập

di vật thời tiền – sơ sử tại các địa phương khác.

Ngoài ra, luận án còn sử dụng kết hợp các phương pháp, kết quả nghiên cứu

của các ngành khoa học khác, như: phương pháp điền dã dân tộc học, phương pháp đo độ từ cảm, phân tích niên đại tuyệt đối bằng C14, AMS, phân tích bào tử phấn

hoa, phân tích thành phần đất…

5. Đóng góp mới của luận án

Từ nguồn tư liệu đã công bố cùng những tư liệu mới trong quá trình thực hiện

luận án, áp dụng đồng thời các lý thuyết thuộc các trường phái nghiên cứu khác nhau,

luận án hy vọng giải quyết các câu hỏi nghiên cứu đặt ra, qua đó có những đóng góp

cụ thể đối với hoạt động nghiên cứu thời đại Đá mới tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông.

Những đóng góp đó cũng chính là kết quả nghiên cứu của luận án, cụ thể:

- Cập nhật và tổng hợp các tài liệu khảo cổ học thời đại Đá mới ở hai tỉnh

Đắk Lắk và Đắk Nông. Trong đó, những phát hiện mới về di tích, di vật thời đại Đá

mới tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông trong sưu tập tài liệu phục vụ luận án cũng được

cập nhật, hệ thống.

- Xác định đặc điểm cơ bản di tích, di vật, niên đại các giai đoạn phát triển

của thời đại Đá mới tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông; đặc biệt làm rõ sự tồn tại của cơ

tầng Trung kỳ Đá mới tại lưu vực sông Srêpốk – nền tảng tại chỗ tạo nên giai đoạn

Hậu kỳ Đá mới phát triển rực rỡ tại khu vực phía Nam Tây Nguyên.

- Luận án bước đầu phục dựng bối cảnh, đời sống kinh tế - văn hóa - xã hội

các cộng đồng cư dân thời đại Đá mới tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông trên cơ sở mối

quan hệ giữa con người – thiên nhiên – con người; xác định vị trí của thời đại Đá

mới trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông trong bối cảnh khu vực và các vùng lân

8

cận. Từ đó, cung cấp một cái nhìn toàn diện về quá trình phát triển và hòa nhập vào

dòng chảy chung của lịch sử dân tộc tại thời điểm có ý nghĩa bản lề trong hình

thành các giá trị truyền thống của vùng Tây Nguyên.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

Luận án đưa ra những giả thuyết trên cơ sở các tài liệu khảo cổ học mới nhất,

có ý nghĩa tham khảo cho những nghiên cứu tiếp theo về những khoảng trống nhận

thức thời tiền sử tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông nói riêng, vùng Tây Nguyên nói chung.

Kết quả nghiên cứu của luận án cung cấp những thông tin mới cập nhật có hệ

thống và cơ sở khoa học cho các nhà quản lý văn hóa, những người biên soạn địa

chí, lịch sử địa phương và các cán bộ bảo tàng trong công tác bảo vệ, nghiên cứu và

phát huy giá trị di sản khảo cổ học tiền sử trên đất hai tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông.

Luận án chứng minh tính tại chỗ, đặc trưng của quá trình Đá mới hóa tại tỉnh

Đắk Lắk và Đắk Nông, đồng thời gắn bó mật thiết với quá trình Đá mới hóa ở Tây

Nguyên và giao lưu ảnh hưởng qua lại với các nhóm cư dân đồng đại các vùng lân

cận. Ý nghĩa khoa học này phục vụ công tác tuyên truyền, xây dựng khối đại đoàn

kết, khẳng định chủ quyền dân tộc tại vùng cao nguyên phía Tây tổ quốc.

7. Cấu trúc của luận án

Ngoài phần mở đầu (10 trang) và kết luận (3 trang); Nội dung chính luận án có

ba chương gồm 136 trang (từ trang 11 đến trang 145):

Chương 1. Tổng quan tư liệu (27 trang);

Chương 2. Đặc điểm thời đại Đá mới hai tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông (65 trang);

hóa (47 trang).

Chương 3. Cư dân, đời sống vật chất, tinh thần và các mối quan hệ văn

Ngoài ra, trong luận án còn có các phần: Danh mục các công trình của tác giả

liên quan đến luận án; tài liệu tham khảo (108 tài liệu tiếng Việt và 15 tài liệu tiếng

nước ngoài); phụ lục minh họa gồm: 1 bản đồ, 6 sơ đồ, 60 bản vẽ, và 73 bản ảnh.

Những trang đầu của luận án có: Lời cam đoan, Lời cảm ơn, mục lục, bảng các chữ

viết tắt, danh mục các bảng, biểu đồ trong luận án (4 bảng, 9 biểu đồ) và danh mục

9

các minh hoạ trong phụ lục.

Chƣơng 1

TỔNG QUAN TƢ LIỆU

1.1. Đặc điểm địa lý tự nhiên, văn hóa – xã hội khu vực nghiên cứu

1.1.1. Điều kiện tự nhiên

* Vị trí địa lý

Tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông là hai tỉnh ở phía Nam Tây Nguyên, đầu

nguồn của hệ thống sông Srêpốk, sông Đồng Nai và một phần hệ thống sông Ba, nằm trong khung tọa độ địa lý: 11045'45" - 13025'06" vĩ độ Bắc, 107012’06’’ - 108059'37". Tổng diện tích khu vực nghiên cứu là 19.640,97km2 (trong đó, diện tích Đắk Lắk là 13.125,37 km2, diện tích tỉnh Đắk Nông là 6.515,6km2).

Phía Bắc tỉnh Đắk Lắk giáp tỉnh Gia Lai, phía Nam giáp tỉnh Lâm Đồng, phía

Tây Nam giáp tỉnh Đắk Nông, phía Đông giáp tỉnh Phú Yên và tỉnh Khánh Hòa,

phía Tây giáp Vương quốc Campuchia với đường biên giới dài 70 km. Tỉnh Đắk

Nông nằm ở phía Nam và tây nam tỉnh Đắk Lắk, phía Đông và Đông Nam giáp tỉnh

Lâm Đồng, phía Nam giáp tỉnh Bình Phước (thuộc miền Đông Nam Bộ); phía Tây

giáp Vương quốc Campuchia với đường biên giới khoảng 120km.

Tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông có vị trí chiến lược quan trọng về kinh tế,

chính trị, văn hóa, quân sự và an ninh quốc phòng của khu vực Tây Nguyên và

trong cả nước; được coi như là “nóc nhà của ba nước Đông Dương”, là vùng chuyển

tiếp giữa Tây Nguyên với đồng bằng Duyên hải Nam Trung Bộ và miền Đông Nam

Bộ (Bản đồ 1).

* Địa hình

Tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông nằm sườn phía Tây Nam dãy Trường Sơn,

địa hình bao gồm các ngọn núi cao hùng vĩ nối với các cao nguyên bằng phẳng rộng

lớn, xen kẽ các dải đồng bằng thấp trũng dọc theo lưu vực các dòng sông lớn. Theo

Nguyễn Văn Chiển, địa hình tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông gồm 3 dạng địa hình:

địa hình vùng núi, địa hình vùng cao nguyên và địa hình vùng thấp [10]:

- Địa hình vùng núi: có độ cao trung bình 1.000 – 1.200m, tập trung ở phía

Nam và Đông Nam tỉnh Đắk Lắk; dãy núi cao phía Đông Nam tỉnh Đắk Nông qua

10

địa phận huyện Đắk G’long và khối núi ở phía Tây tỉnh Đắk Nông, chạy dài từ

huyện Đăk Mil, qua huyện Đăk Song, đến huyện Tuy Đức và Đăk R'lấp. Tại đây có

những đỉnh núi cao như: đỉnh Chư Yang Sin cao 2.442m, Chư H’mu cao 2.051m,

Chư Djê cao 1.793m, Chư Yang Pel cao 1.600m... (tỉnh Đắk Lắk) [101], đỉnh núi

Nam Nung cao 1.505m, đỉnh Tà Đùng cao 1.971m,... (tỉnh Đắk Nông).

- Địa hình vùng cao nguyên: bằng phẳng, rộng lớn với các cao nguyên có độ

cao 400 – 500m so với mực nước biển (cao nguyên Buôn Ma Thuột, cao nguyên

M’drắk) và các cao nguyên có độ cao trên 800m (cao nguyên Đắk Nông). Cao

nguyên nguyên thủy cấu tạo bằng đá Basalt, bị xâm thực, bề mặt bị bào mòn và chia

cắt mạnh mẽ.

- Địa hình vùng trũng thấp: chủ yếu là các thềm sông phân bố dọc theo các

thung lũng sông Krông Ana, sông Krông Nô, sông Srêpốk, sông Ba. Đây là vùng thung lũng, bình nguyên bằng phẳng, có độ dốc từ 0 - 30, cao khoảng 160 – 300m .

* Sơ lược đặc điểm địa chất

Các thành tạo địa chất lộ ra trên tầng mặt ở các khu vực phân bố di tích thời

đại Đá mới liên quan mật thiết với lịch sử phát triển địa chất từ kỷ Jura đến nay,

thuộc 4 giai đoạn của lịch sử phát triển địa chất khu vực, gồm các phân vị địa chất

chủ yếu sau:

+ Giai đoạn thành tạo bể rìa thụ động

Đây là giai đoạn sụt lún của vỏ trái đất trên phạm vi rộng lớn. Đầu Jura sớm,

toàn bộ khu vực lãnh thổ rộng lớn phía Đông nam châu Á bị sụt lún, hình thành bồn

nội lục trên rìa lục địa thụ động hay còn gọi là bể rìa thụ động, với sự lắng đọng các

trầm tích lục nguyên, được phân chia thành các phân vị địa chất chủ yếu sau:

- Hệ tầng Đray Linh (J1đl, tuổi thành tạo: 201,3 - 174,1 triệu năm BP), phân bố khá phổ biến thành diện ở các huyện Cư Jut (Đắk Nông), Buôn Đôn (Đắk Lắk).

Thành phần gồm: cuội kết, sạn kết, cát kết chứa Cúc đá (Ammonite), bột kết... .

- Hệ tầng La Ngà (J2ln, tuổi thành tạo: 174,1 - 163,5 triệu năm BP), phân bố rất phổ biến thành các diện lớn nhỏ khác nhau ở Đắk Lắk, Đắk Nông và kế cận.

Thành phần chủ yếu gồm: cát bột kết, bột kết xen sét kết; và sét kết.

Về quan hệ địa tầng, hệ tầng La Ngà nằm chỉnh hợp trên hệ tầng Đray Linh.

11

Cả 2 hệ tầng này đều bị các khối magma có tuổi Jura - Kreta xuyên cắt. Tại các khu

vực xuyên cắt, các đá của hệ tầng bị biến chất nhiệt động do tiếp xúc với các dung

thể magma, tạo thành các đá quarzit, cát kết dạng quarzit, đá sừng, đá silic có độ

cứng cao, được người Tiền sử ưa dùng làm đá nguyên liệu để chế tạo công cụ, phục

vụ cuộc sống sinh tồn.

+ Giai đoạn hoạt động rìa lục địa tích cực

Đây là giai đoạn hút chìm của mảng Thái Bình Dương xuống dưới khối

Đông Dương nói riêng và Châu Á nói chung, tạo nên đới rìa lục địa tích cực Đà Lạt,

khu vực nghiên cứu thuộc phần rìa bắc - tây bắc đới Đà Lạt, thành tạo các phân vị

địa chất sau:

- Phức hệ Định Quán (--J3đq, tuổi thành tạo: 163,5 - 145,0 triệu năm

BP), phân bố thành các diện lớn nhỏ khác nhau ở phía Đông Nam khu vực nghiên

cứu (giáp với Lâm Đồng). Thành phần gồm: diorit, gabrodiorit, granitoit và các pha

đá mạch aplit, thạch anh

- Phức hệ Đèo Cả (K đc, tuổi thành tạo: 145,0 - 66,0 triệu năm BP) phân

bố thành các diện lớn nhỏ khác nhau ở phía Đông Nam khu vực nghiên cứu. Thành

phần gồm: granitoid và các pha đá mạch aplit, thạch anh...

- Phức hệ Cà Ná (K2cn, tuổi thành tạo: 100,5 - 66,0 triệu năm BP) phân bố

thành các diện lớn nhỏ khác nhau ở phía Đông Nam khu vực nghiên cứu. Thành

phần gồm: granit alaskit, granit 2 mica và các pha đá mạch aplit, thạch anh

Hoạt động của các phức hệ magma này đã xuyên cắt và gây biến chất nhiệt

động các đá trầm tích của hệ tầng Đray Linh và La Ngà nêu trên. Đồng thời, bản

thân các phức hệ magma này cũng cho các sản phẩm là đá thạch anh (đá quart), tinh

thể thạch anh, đá aplit có tính cơ lý gần giống đá silic... là các đá nguyên liệu được

người Tiền sử ưa dùng để chế tạo công cụ.

+ Giai đoạn hoạt động san bằng và phun trào Basalt khuếch tán lục địa

Đây là giai đoạn bắt đầu bằng quá trình xâm thực - bào mòn, tạo ra bề mặt san bằng

kiểu bán bình nguyên (Paleocene - Oligocene; 66,00 - 23,03 triệu năm BP), tiếp

theo là sự hình thành các bể Đệ tam và tách giãn Biển Đông; sau cùng là chế độ

12

kiến tạo lún chìm nhiệt thống trị, chuyển động thăng trầm phân dị khối tảng là chủ

yếu, xuất hiện phun trào rầm rộ Basalt trên toàn Tây Nguyên cũng như Đông

Dương; thành tạo các phân vị địa chất sau:

- Hệ tầng Túc Trưng (N2- QI tt, tuổi thành tạo: 5,333 - 0,781 triệu năm BP)

phân bố thành các diện rộng lớn ở tỉnh Đắk Lắk, Đắk Nông. Thành phần thạch học

gồm: Basalt olivin-augit, Basalt olivin-augit-plagioclas. Đá Basalt màu xám đến

xám xanh, xám đen; cấu tạo khối đặc xít hoặc lỗ hổng nhỏ. Liên quan tới Basalt của

2xl, tuổi thành tạo: 0,781 - 0,126 triệu năm BP),

hệ tầng này, trong vùng nghiên cứu phổ biến các loại đá opal-chalcedon.

- Hệ tầng Xuân Lộc (Q1

phân bố rộng rãi ở các huyện Đắk Mil, Krông Nô (Đắk Nông); thành phố Buôn Ma

Thuột, huyện Krông Ana (Đắk Lắk). Chúng gắn bó chặt chẽ với các cấu trúc núi

lửa, miệng núi lửa còn được bảo tồn khá tốt - tốt. Thành phần thạch học gồm: Basalt

olivin, Basalt olivin - augit, Basalt olivin - augit - plagioclas. Đá có dạng vi hạt hoặc

ẩn tinh, màu xám, xám đen, cấu tạo khối đặc sít hoặc lỗ hổng.

Các đá Basalt đặc xít của hệ tầng Túc Trưng và Xuân Lộc có độ cứng lớn,

dòn, mảnh vỡ thường sắc cạnh, dễ chế tác tạo hình; cũng như các đá opal-chalcedon

(đi kèm của trong các đá Basalt) có độ cứng dòn và mảnh vỡ sắc cạnh được người

Tiền sử ưa dùng để chế tác công cụ, làm các lưỡi cắt phục vụ cuộc sống sinh tồn.

- Trầm tích Đệ tứ (Q). Các thành tạo trầm tích Đệ tứ (từ 2,58 triệu năm đến

nay) ở khu vực nghiên cứu có sự đa dạng về nguồn gốc (như: eluvi - tàn tích, deluvi

- sườn tích, proluvi - lũ tích, aluvi - bồi tích, đầm hồ) và phong phú về thành phần

thạch học (gồm: tảng, cuội, dăm, sỏi sạn, cát bột, sét). Trong đó, các di tích thời đại

Đá mới trong vùng nghiên cứu có đặc điểm phân bố mối liên quan mật thiết với các

gò đồi (là địa hình/tàn tích của miệng núi lửa, các thềm sông suối cổ, các hang động

núi lửa). Nguồn đá nguyên liệu để chế tác công cụ là các hòn cuội tảng (nguồn gốc:

eluvi, deluvi, proluvi, aluvi). Chất liệu đá nguyên liệu là các đá quarzit, cát kết dạng

quarzit, đá sừng, đá phiến, cát bột kết, đá thạch anh, đá Basalt, opal-chalcedon.

* Hệ thống thủy văn

Mạng lưới sông ngòi khá dày đặc. Các dòng sông, suối trên địa bàn nghiên

cứu chủ yếu thuộc 03 hệ thống:

13

- Hệ thống sông Srêpốk: chảy về phía Tây, đổ vào dòng Mê Kông trên đất

Campuchia. Diện tích lưu vực sông Srêpốk trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk là: 10.400km2, địa phận tỉnh Đắk Nông là: 3.600km2. Lưu vực sông Srêpốk chủ yếu ở

khu vực phía Tây tỉnh Đắk Lắk và Tây Bắc tỉnh Đắk Nông. Sông Srêpốk do hai

dòng Krông Nô và Krông Ana hợp lưu với nhau tại thác Buôn Dray (huyện Krông

Na). Bên cạnh hai dòng chính, một số dòng suối nhỏ cũng đổ trực tiếp vào dòng

Srêpốk như các suối Đắk Gang, Đắk Nir, Dray H’linh, Ea Tuor, Đắk Ken, Đắk Lâu,

... [101].

- Hệ thống sông Ba: chảy xuống vùng đồng bằng Duyên hải Miền Trung, với

hệ thống chi lưu gồm dòng Krông Năng, Krông Buk. Lưu vực sông Ba chủ yếu khu

vực phía Đông và Đông Bắc tỉnh Đắk Lắk [101].

- Hệ thống sông Đồng Nai: Sông Đồng Nai bắt nguồn từ cao nguyên Tuyên Đức, là hệ thống sông lớn của nước ta, có diện tích lưu vực khoảng 40.000km2. Tuy

dòng chảy chính không qua tỉnh Đắk Nông nhưng các nhánh thượng nguồn của hệ

thống sông Đồng Nai nằm trên địa bàn tỉnh Đắk Nông, đáng kể nhất là: suối Đăk

N’rung, suối Đăk Nông, suối Đăk R'lấp, suối Đăk R'Tih... Đáng kể nhất là dòng

Đắk N’rung bắt nguồn từ khu vực Thuận Hạnh (huyện Đắk Mil) với chiều dài 90 km, lưu lượng trung bình 12,44m3/s

Hệ thống sông suối trên địa bàn nghiên cứu khá dày, phân bố tương đối đều

khắp, nhưng do địa hình dốc nên khả năng giữ nước kém, Hiện tại, những khe suối

nhỏ hầu như không có nước trong mùa khô, mực nước các sông suối lớn thường

xuống rất thấp. Bên cạnh các dòng sông, suối, trên địa bàn nghiên cứu còn có các

hồ tự nhiên như hồ Lắk, hồ Tây..., với nguồn nước và thủy sản dồi dào quanh năm.

Hệ thống sông suối, hồ tự nhiên không chỉ cung cấp nguồn nước, nguồn thực

phẩm phục vụ nhu cầu thiết yếu hàng ngày mà những bãi cuội sông với nhiều chất

liệu đá khác nhau là nguồn nguyên liệu quý giá đối với các cư dân thời đại đồ Đá

chế tác công cụ lao động. Hệ thống sông Srêpốk, hệ thống sông Ba và hệ thống

sông Đồng Nai - ba hệ thống sông lớn, chảy qua nhiều vùng đất trong khu vực - là

những con đường tự nhiên kết nối toàn bộ các tiểu vùng địa lý tại khu vực nghiên

14

cứu với nhau và với vùng Duyên hải Nam Trung Bộ, Đông Nam Bộ.

* Các tiểu vùng địa lý

Do ảnh hưởng của địa hình, độ cao và hệ thống thủy văn nên toàn tỉnh Đắk

Lắk và tỉnh Đắk Nông phân thành nhiều tiểu vùng địa lý với những đặc trưng tự

nhiên có sự khác biệt tương đối. Theo Nguyễn Văn Chiển (1986), toàn tỉnh Đắk Lắk

và tỉnh Đắk Nông chia thành 7 tiểu vùng địa lý [10], cụ thể:

- Vùng núi cao Cư Yang Sin cao trung bình 1.600-1.700m, phía Nam giáp

sơn nguyên Đà Lạt, phía Tây giáp vùng núi thấp Tây Cư Yang Sin, phía Bắc là

vùng trũng Krông Pắk - Lắk, phía Đông kéo tận ra biển. Địa hình vùng là kiểu địa

hình núi khối tảng được các hoạt động kiến tạo trẻ nâng lên và bị xâm thực phân cắt

mạnh. Đây là nơi khởi nguồn của các dòng sông Krông Knô, Krông Bông thuộc phụ lưu sông Srêpốk. Nhiệt độ trung bình năm khoảng 19-210C. Sườn Bắc dãy Cư

Yang Sin là sườn đón gió Đông Bắc nên lượng mưa lớn, khoảng 2.500mm/năm [75,

tr. 22-23]. Trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, vùng núi cao Cư Yang Sin thuộc một phần

huyện Krông Bông và khu vực phía Đông Nam huyện Lắk.

- Vùng núi thấp Cư Dju nằm giữa thung lũng sông Ba và cao nguyên Buôn

Ma Thuột, rộng 30km, chạy dài 100km từ nam cao nguyên Pleiku đến phía Đông

bắc cao nguyên Buôn Ma Thuột [75, tr. 23 – 24]. Trên địa phận tỉnh Đắk Lắk, vùng

núi thấp Cư Dju tương ứng huyện Ea H’leo và một phần phía Bắc huyện Ea Kar.

- Cao nguyên Buôn Ma Thuột rộng khoảng 3.600km2, cao trung bình 500-

600m, thoải dần từ bắc xuống nam và từ đông sang tây, song độ dốc không lớn lắm.

Về địa hình, cao nguyên tương đối bằng phẳng, độ chia cắt nhỏ, thỉnh thoảng nổi

lên một số đồi đất thấp giữa các cánh đồng nhỏ ven sông, suối thuộc hệ thống sông

Srêpốk [75, tr. 23 – 24]. Theo địa giới hành chính, cao nguyên Buôn Ma Thuột bao

gồm địa phận thành phố Buôn Ma Thuột, thị xã Buôn Hồ; các huyện Cư M’gar,

Krông Búk, Krông Năng; một phần huyện Cư Kuin và Krông Pắk.

- Vùng cao nguyên M’drắk, phía Bắc giáp vùng núi thấp Cư Dju, phía Đông

bắc và đông nam giáp vùng núi cao Cư Trian, phía Nam giáp vùng trũng Krông Pắk

- Lắk, phía Tây giáp cao nguyên Buôn Ma Thuột. Địa hình chủ yếu là dạng địa hình

đồi lượn sóng với độ cao trung bình khoảng 400m, cao ở phía Đông và Nam với

15

một số dãy núi, thoải dần về phía Tây, thấp và phẳng ở trung tâm. Mức độ chia cắt

sâu và ngang không lớn. Các gò đồi đều có đỉnh bằng phẳng, sườn dốc thấp do quá

trình xâm thực mạnh. So với khu vực phía Tây tỉnh, vùng M’drắk có mật độ sông suối thấp hơn nhiều, chỉ vào khoảng 0,25-0,3km/km2 [75, tr. 24 – 29]. Thuộc khu

vực chuyển tiếp từ Tây Nguyên xuống đồng bằng duyên hải, vùng cao nguyên

M’drắk bị ảnh hưởng mạnh bởi khí hậu nhiệt đới gió mùa cao nguyên lẫn khí hậu

vùng đồng bằng duyên hải miền Trung nên mùa mưa đến rất muộn, vào tháng 9 - 10

hàng năm, độ ẩm trung bình năm 80%. Theo phân giới hành chính hiện hành, một

phần cao nguyên M’drắk nằm ở khu vực phía Đông và đông bắc tỉnh Đắk Lắk,

thuộc huyện M’drắk và phần phía Tây Nam huyện Ea Kar.

- Cao nguyên Đắk Nông trải rộng trên phần lớn diện tích tỉnh Đắk Nông. Cấu

tạo địa chất tiểu vùng địa lý này khá đơn giản, với bề mặt san bằng cổ phủ một lớp

đá Basalt phun trào với các nhóm đá mác ma bazơ cổ khá dày. Quá trình xâm thực,

phong hóa, bào mòn tạo nên kiểu địa hình cao nguyên Basalt bị xâm thực chia cắt

mạnh thành nhiều đồi núi, xen kẽ các cao nguyên rộng lớn và bằng phẳng, cùng các

đồng bằng thấp trũng, khu vực trung tâm nâng cao, thoải dần về các phía với độ dốc trong khoảng 100 - 180, độ cao trung bình từ 700-800m, điểm thấp nhất là 526m,

điểm cao nhất là 1.982m (huyện Đắk Glong). So với các cao nguyên khác trên địa

bàn Tây Nguyên, cao nguyên Đắk Nông có địa hình phức tạp hơn cả [75, tr. 24 –

25]. Cao Nguyên Đắk Nông là nơi khởi nguồn hệ thống sông Đồng Nai. .

- Vùng trũng Krông Pắk - Lắk: nằm giữa cao nguyên Buôn Ma Thuột và dãy núi Cư Yang Sin, diện tích khoảng 1.498km2, thuộc kiểu địa hình tích tụ - bóc mòn

xen lẫn với đầm lầy và hồ sót. Hoạt động xâm thực của hệ thống sông Krông Knô

và Krông Ana đã tạo nên các đầm lầy, bãi bồi tích tụ với bề mặt tương đối bằng

phẳng và độ cao thấp nhất toàn tỉnh. Nguồn nước phong phú với nhiều hồ, đầm lầy

tự nhiên cùng mạng lưới sông suối dày đặc đổ vào hai dòng sông Krông Ana và

Krông Nô thuộc đầu nguồn hệ thống sông Srêpốk; lượng mưa trung bình năm là

1.700mm [75, tr. 25 – 26]. Hiện nay, theo phân giới hành chính, vùng trũng Krông

Pắk - Lắk bao gồm toàn bộ huyện Lắk, Krông Ana; một phần huyện Krông Bông,

16

và Cư Kuin (Đắk Lắk).

- Vùng bán bình nguyên Ea Súp: nằm ở phía Tây và Tây Nam cao nguyên Buôn Ma Thuột, diện tích 5.257km2, phần lớn thuộc địa bàn tỉnh Đắk Lắk, một

phần phía Tây nam là huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông, độ cao tuyệt đối trung bình cả

vùng vào khoảng 200 – 300m so với mực nước biển. Nhìn toàn cảnh, địa hình của

vùng bán bình nguyên này thuộc kiểu địa hình đồng bằng bóc mòn lượn sóng. Vùng bán bình nguyên Ea Súp có mật độ sông suối dày đặc: 1 – 1,2km/km2 (cao hơn mức trung bình 0,563km/km2 của toàn Tây Nguyên). Biên độ nhiệt cực trị trung bình năm khoảng 300C, độ ẩm không khí trung bình 75 – 80%, lượng mưa 1.800 –

1.900mm/năm [10].

Sự phân hóa thành các tiểu vùng địa lý ở khu vực nghiên cứu nguyên do ảnh

hưởng của yếu tố địa hình. Về cơ bản, các tiểu vùng cùng thuộc chung một khu vực

địa lý Tây Nguyên với đặc trưng khí hậu nhiệt đới gió mùa cao nguyên, sự phân hóa

môi trường tự nhiên không quá nhiều.

Điều kiện tự nhiên luôn tác động đến phương thức kiếm sống, cách thức tổ

chức xã hội của các cộng đồng cư dân. Sự khác biệt giữa các tiểu vùng trong cùng

một khu vực địa lý dẫn đến sự đa dạng trong thống nhất về cách thức lựa chọn địa

bàn sống, mật độ dân cư và phương thức thích nghi của các cộng đồng cư dân tiền

sử tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông.

* Khí hậu

Tương tự các tỉnh Tây Nguyên khác, tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông thuộc

vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa cao nguyên. Đặc trưng kiểu khí hậu này thể hiện

qua yếu tố nhiệt độ, mùa, lượng mưa, độ ẩm,… Khí hậu một năm chia thành hai

mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, các tháng có

lượng mưa lớn nhất là tháng 7, 8, 9, với 80 - 90% lượng mưa năm; mùa khô từ

tháng 11 đến tháng 4 năm sau, độ ẩm giảm. Lượng mưa trung bình năm đạt

2.000 mm. Số giờ nắng trong năm đạt 2.000 giờ, tổng lượng bức xạ 230-240kcal/ cm2/năm. Độ ẩm tương đối trong năm khoảng 80% - 85% [75, tr. 30 – 33].

Các đặc điểm độ ẩm và nhiệt độ trong hang động núi lửa Krông Nô có sự

khác biệt nhau rõ rệt. Các hang động nằm sâu dưới lòng đất, chỉ xuất lộ cửa hang,

17

nên nhiệt độ trong lòng hang luôn duy trì ở trạng thái mát lạnh, không khí khô hơn,

ít có sự biến thiên nhiệt độ và độ ẩm như môi trường ngoài trời. Ánh sáng chỉ chiếu

rọi một phần cửa hang với lượng bức xạ xâm nhập thấp hơn. Các yếu tố như gió và

nước mưa khó xâm nhập vào lòng hang. Đây là môi trường sống của một số loài vật

đặc hữu hang động như rắn, côn trùng.... và phù hợp việc bảo tồn nguyên vẹn di cốt

động vật, vỏ nhuyễn thể.

* Thảm thực vật và quần động vật

Nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa, đất đai màu mỡ, hệ thống

sông hồ dày đặc; thảm động thực vật trên địa bàn nghiên cứu khá phong phú về

thành phần loài, mang đậm màu sắc bản địa, với nhiều loài quý hiếm như: nai, bò

rừng,...; các loại cây gỗ hương, cẩm, cà te.... Tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông hiện tại

còn có Vườn quốc gia Yok Đôn, Vườn quốc gia Chư Yang Sin, Khu bảo tồn thiên

nhiên Nam Kar, Khu bảo tồn Nam Nung và Khu rừng lịch sử văn hóa môi trường

Hồ Lắk... Các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên này đều thuộc loại hình rừng

nhiệt đới mùa, có chỉ số đa dạng sinh học cao [101, tr. 159 – 202]

Thiên nhiên ưu đãi là điều kiện cơ bản đảm bảo sự tồn tại và phát triển của

các cộng đồng cư dân tiền sử tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông. Bên cạnh đó, vị trí

địa lý thuận lợi cũng là một trong những yếu tố tác động tích cực đến sự giao lưu

giữa các cộng đồng cư dân giai đoạn thời đại Đá mới tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông

không chỉ trong phạm vi nội vùng mà còn kết nối với các tỉnh Tây Nguyên khác,

với vùng Duyên hải Nam Trung Bộ, miền Đông Nam Bộ và Campuchia.

1.1.2. Khái quát đặc điểm văn hóa - xã hội khu vực nghiên cứu

Đắk Lắk và Đắk Nông là những tỉnh có nhiều tộc người sinh sống, với trên

40 tộc người, trong đó người Kinh chiếm đa số trên tổng số dân toàn tỉnh. Hầu hết

các tộc người sinh sống trên địa bàn nghiên cứu như người Kinh, người Tày, người

Thái,... đều là dân di cư từ nơi khác đến. Riêng 4 tộc người: Êđê, J’rai, M’nông và

Mạ là các tộc người tại chỗ.

Người Kinh là tộc người chiếm số lượng đông nhất trong tổng dân số hai

tỉnh. Người Việt là những người di cư từ nơi khác đến, mang theo những nét văn

hóa, cùng phương thức sản xuất tương đối khác biệt so với các cộng đồng vốn sinh

18

sống lâu đời tại tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông.

Đứng thứ hai về mặt số dân sinh sống trên địa bàn nghiên cứu là các tộc

người thiểu số từ nơi khác di cư đến, bao gồm: người Nùng, người H’mông, người

Tày, người Dao, người Thái,... Mỗi tộc người di dân mang theo những văn hóa

truyền thống độc đáo, đan xen với các tộc người thiểu số tại chỗ tạo nên tỉnh Đắk

Lắk và tỉnh Đắk Nông đa dạng về văn hóa tộc người.

Nhóm các tộc người thiểu số tại chỗ tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông bao

gồm người Êđê, người M’nông, người J’rai và người Mạ. Người Êđê và người J’rai

thuộc nhóm ngôn ngữ Malayo-Polyesien. Người M’nông và người Mạ thuộc nhóm

ngôn ngữ Môn-Khmer, nhóm Bahar Nam. Các tộc người thiểu số tại chỗ phân bố

rải rác trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông, có mối quan hệ với nhau khá

sâu sắc. Đây không chỉ là mối quan hệ láng giềng mà còn là mối quan hệ gần gũi

về mặt văn hóa và cách thức sản xuất kinh tế.

Cách thức sản xuất truyền thống của cộng đồng các tộc người tại chỗ tỉnh

Đắk Lắk và Đắk Nông là sản xuất nông nghiệp kết hợp khai thác tài nguyên thiên.

Canh tác nương rẫy chiếm vị trí trọng yếu trong đời sống kinh tế. Các tộc người tại

chỗ làm rẫy theo kiểu luân canh, một khoảng rẫy sau vụ gieo trồng, khi đất đai

không còn màu mỡ, người dân lại bỏ đi tìm khoảng rẫy mới. Cứ như vậy, sau vài

năm, người ta lại quay lại khoảng rẫy cũ khi đất đai đã được phục hồi. Nông cụ đơn

giản, gồm rìu, xà gạc, cuốc xới đất lưỡi nhỏ, cuốc nạo cỏ, gậy chọc lỗ,… Các tộc

người tại chỗ chăn nuôi trâu, bò, lợn,… theo kiểu bầy đàn thả rông. Các nghề thủ

công như mộc, đan lát, dệt vải,… khá phát triển. Người Mạ biết luyện quặng lấy sắt

để rèn các công cụ sản xuất và vũ khí. Bên cạnh hoạt động kinh tế sản xuất, các tộc

người tại chỗ còn tiến hành khai thác tài nguyên thiên nhiên nhằm bổ sung những

nhu cầu thiết yếu trong cuộc sống. Các hoạt động khai thác tự nhiên đều không vượt

quá nhu cầu thực tế của con người và khả năng hồi phục của môi trường.

Đơn vị xã hội cơ bản của người Êđê và J’rai gọi là buôn, người M’nông và

người Mạ gọi là bon. Mỗi buôn/bon bao gồm từ vài chục đến trăm gia đình. Các

buôn/bon thường thành lập tại những vùng bằng phẳng, gần nguồn nước là sông

suối hoặc hồ đầm, xung quanh thường bao bọc bởi các khu rừng. Về cơ bản các mối

19

quan hệ xã hội xây dựng trên cơ sở quan hệ cộng đồng huyết thống và quan hệ láng

giềng, chưa có phân hóa giai cấp và bóc lột giai cấp [23]. Văn hóa các tộc người tại

chỗ mang nhiều nét đặc thù, độc đáo tạo nên đặc trưng văn hóa vùng Tây Nguyên.

Trải qua quá trình sinh sống lâu đời tại Đắk Lắk và Đắk Nông, các cộng

đồng người M’nông, Êđê, J’rai và Mạ đã thích nghi, hình thành phương thức sinh

sống phù hợp với môi trường tự nhiên nơi đây. Đó là các xã hội có nền tảng hạ

tầng là kinh tế nông nghiệp tự cung tự cấp gắn chặt khai thác tài nguyên thiên

nhiên một cách hợp lý, có điều tiết bởi niềm tin tín ngưỡng và các quy ước cộng

đồng, tạo nên mối quan hệ ổn định và bền vững giữa con người với môi trường tự

nhiên nơi đây. Ngược lại, sự ổn định trong quan hệ giữa con người với môi trường

tự nhiên là một trong những yếu tố cơ bản duy trì lâu dài phương thức sinh sống

trên trong xã hội các cộng đồng người tại chỗ tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông. Do đó,

phương thức sinh sống truyền thống của nhóm cư dân này là những tư liệu có giá

trị đối chứng, tham khảo trong hoạt động phác thảo bức tranh văn hóa xã hội Đắk

Lắk và Đắk Nông thời tiền sử.

1.2. Quá trình phát hiện, nghiên cứu và những vấn đề đặt ra

1.2.1. Quá trình phát hiện

Nghiên cứu về thời đại Đá mới tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông: trải qua

nhiều giai đoạn khác nhau với những dấu ấn nhất định

* Giai đoạn trước năm 1975: Khảo cổ học tiền sử ở Tây Nguyên được biết

đến từ những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX với những phát hiện của người

Pháp. Những phát hiện khảo cổ học đầu tiên trên đất Đắk Lắk và Đắk Nông diễn ra

muộn hơn, vào giữa thế kỷ XX. Năm 1949, trong thời gian sống tại làng Sar Luk

(nay là buôn Rchai A, xã Krông Nô, huyện Lăk, tỉnh Đắk Lắk), Georger Codominas

đã thu thập 11 phiến đá mà ông gọi là đàn đá Ndut Lieng Krak cùng một công cụ

ghè đẽo kiểu Bắc Sơn tại gần đấy [111]. Sau khi so sánh kỹ thuật chế tác bộ đàn đá

với cách chế tạo đồ đá của một số thổ dân ở Madagascar, G. Codominas kết luận

niên đại bộ đàn đá Ndut Lieng Krak tương đương với kỹ thuật văn hóa Bắc Sơn,

cách đây khoảng 8.000 – 10.000 năm. Niên đại bộ đàn đá do G. Condominas đưa ra

không được các nhà nghiên cứu Việt Nam và quốc tế như: Bezacier, O.Jansé, nhạc

20

sĩ A. Scheffnex ... đều cho rằng tuổi bộ đàn vào cuối giai đoạn Hậu kỳ Đá mới [16,

tr.11- 23]. Những di vật khảo cổ này không được G. Codominas mô tả hoặc công bố

hình ảnh, không rõ nơi lưu giữ nên không thể xác thực.

Ngoài những phát hiện của G.Codominas, không có bất cứ phát hiện hay

công bố nào khác của các học giả nước ngoài liên quan đến thời đại Đá mới tỉnh

Đắk Lắk.

Năm 1974, được sự giúp đỡ của Quân Giải phóng, đoàn cán bộ Viện Khảo cổ

học tiến hành khảo sát vùng giải phóng Tây Nguyên thuộc 3 tỉnh: Kon Tum, Gia Lai,

Đắk Lắk. Trên đất Đắk Lắk, đoàn đã khảo sát di chỉ Draixi thuộc xã 10, huyện H5

(nay thuộc huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk). Đoàn khảo sát đã tiến hành đào hố thám sát diện tích 4,5m2. Đây là hố thám sát khảo cổ đầu tiên trên đất Tây Nguyên và cũng

là nghiên cứu khảo cổ học duy nhất thực hiện tại Đắk Lắk những năm chiến tranh.

Trong tầng văn hóa thu được 01 cuốc đá, 2 dầm đá, 1 rìu vai xuôi, 1 bàn mài, 45

mảnh gốm và một số mảnh tước. Đặc biệt, những chiếc cuốc đá, dầm đá Drai xi là

minh chứng cho một nền nông nghiệp dùng cuốc giai đoạn hậu kỳ Đá mới cách

ngày nay 3.000 – 4.000 năm [12, tr.115 -116], [65, tr.8-11].

Trước năm 1975, nghiên cứu về khảo cổ học Đắk Lắk và Đắk Nông, rộng

hơn là toàn khu vực Tây Nguyên còn tương đối hạn chế, chủ yếu là những sưu tầm

lẻ tẻ của các học giả người Pháp và một cuộc khảo sát sơ bộ của các nhà khảo cổ

Việt Nam. Tuy nhiên, những tài liệu phát hiện trong giai đoạn này là nguồn tư liệu

quan trọng đối với luận án, hay rộng hơn là tất cả các công trình nghiên cứu thời

đại Đá mới tỉnh Đắk Lắk.

* Giai đoạn từ năm 1975 đến nay

Sau ngày đất nước thống nhất (năm 1975), khảo cổ học Tây Nguyên thực sự

chuyển mình. Một loạt các chương trình nghiên cứu Tây Nguyên, trong đó có Đắk

Lắk được thực hiện, hệ thống nhất là Chương trình nghiên cứu Trường Sa – Tây

Nguyên – Nam Bộ của Thủ tướng Chính phủ (1993 – 2000) và Chương trình điều

tra cơ bản Khảo cổ học Tây Nguyên – Nam bộ (2001 – 2004) của Trung tâm Khoa

học Xã hội và Nhân văn quốc gia (nay là Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam).

Đó là chưa kể hàng loạt các cuộc điều tra, sưu tầm khảo cổ học do các cơ quan

21

địa phương thực hiện và những phát hiện lẻ tẻ do người dân thông báo. Kết quả

thu được trong thời gian này là hàng loạt di tích khảo cổ học mới thuộc nhiều giai

đoạn phát triển khác nhau được phát hiện, nghiên cứu. Tiềm năng khảo cổ học tiền

sử nơi đây mới thực sự được khơi dậy.

Đến đầu năm 2019, trên địa bàn nghiên cứu, đã phát hiện 100 địa điểm khảo

cổ học thời đại Đá mới (tỉnh Đắk Lắk có 35 địa điểm, tỉnh Đắk Nông có 65 địa

điểm) [2] [3] [19] [21, tr. 60-71] [31] [34, tr. 72-78] [39, tr. 14] [41, tr. 35-44] [42]

[45] [63, tr. 125-126] [75] [119, tr. 97-108] (Bảng 1, sơ đồ 1, sơ đồ 2); trong đó:

+ Các địa điểm giai đoạn Trung kỳ Đá mới gồm: 06 địa điểm ngoài trời và

08 địa điểm trong hang động núi lửa; cụ thể: di tích Buôn Kiều, di tích Buôn Hằng

Năm, di tích Buôn Ea Chổ (huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk); di tích Hố Tre

(huyện Krông Ana, tỉnh Đắk Lắk); di tích Thôn Tám (huyện Cư Jút, tỉnh Đắk

Nông), di tích Tân Lập (huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông); các di tích trong 8 hang

động thuộc hệ thống hang động núi lửa Krông Nô (tỉnh Đắk Nông), bao gồm: hang

C1, hang C1 – 1, hang C3, hang C4, hang C4-1, hang C6, hang C6-1 và hang C6’.

+ Các địa điểm giai đoạn Hậu kỳ Đá mới chiếm số lượng nhiều nhất trong

tổng số các địa điểm tiền sử nơi đây, với tổng cộng 86 địa điểm (tỉnh Đắk Lắk có 31

địa điểm, tỉnh Đắk Nông có 55 địa điểm)

Mặc dù nhiều địa điểm khảo cổ thời đại Đá mới được phát hiện nhưng hầu

hết chỉ là những phát hiện trên bề mặt, chỉ có 16 địa điểm được đào thám sát, khai

quật, có tài liệu di vật gắn với địa tầng (bảng 2), cụ thể:

- Di tích Buôn Triết (huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk) đào thám sát năm 1993 và

khai quật năm 1994, thu được 1 cuốc đá, 3 rìu có vai, 1 bôn hình răng trâu, 5 rìu tứ

giác, 2 phác vật rìu, 2 mộ vò được chôn úp miệng vào nhau, 2 bát chân cao, 3 dọi xe

chỉ bằng đất nung và hàng ngàn mảnh gốm. Tại di tích Buôn Triết phổ biến các loại

hình công cụ mài nhẵn toàn thân, hình dáng cân đối. Bên cạnh một số mảnh gốm

thô, bở tương tự gốm Dhă Prông, tại Buôn Triết còn phát hiện những mảnh gốm

cứng, chắc, được miết bóng, trang trí đồ án hoa văn kết hợp giữa khắc vạch với văn

thừng, giữa in chấm kết hợp với khắc vạch hoặc miết láng.... Đáng chú ý, tại di tích

Buôn Triết, người dân đã sưu tầm được loại hình cuốc vai nhọn thân thắt eo, lưỡi

22

chưa có vết mòn sử dụng, có giá trị thẩm mỹ, biểu trưng nhiều hơn là giá trị thực

dụng vì chuôi nhỏ trong khi thân rất dày và to. Loại hình cuốc này cũng được phát

hiện trong mộ táng Cù Lao Rùa (tỉnh Bình Dương) [60] và Lâm Đồng. Kết quả khai

quật di chỉ Buôn Triết là cơ sở các nhà khoa học đề xuất xác lập văn hóa Buôn Triết

thuộc giai đoạn Hậu kỳ Đá mới tại khu vực phía Nam Tây Nguyên [95].

- Di tích Đồi Nghĩa Trang (huyện Đắk R’lấp, tỉnh Đắk Nông) khai quật vào năm 1995, với diện tích 30m2. Tầng văn hóa của di chỉ dày từ 0,35m - 0,75m, thu

được 2 rìu tứ giác, 2 phác vật rìu, 1 mảnh vòng tay, 24 bàn mài, cùng 1.241 mảnh

gốm. Theo những người khai quật, di chỉ Đồi Nghĩa Trang vừa là di chỉ cư trú, vừa

là nơi gia công và hoàn thiện công cụ lao động nhưng mờ nhạt, có niên đại Hậu kỳ

Đá mới - sơ kỳ thời đại Kim khí [97] [79, tr. 228 – 232].

- Di tích Dhă Prông (thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk) thuộc giai

đoạn Hậu kỳ Đá mới, được phát hiện và đào thám sát năm 2001, khai quật năm

2002. Tầng văn hóa dày 0,4m, xuất lộ có 9 bếp, 2 mộ táng và các vết thổ hoàng.

Hiện vật thu được gồm 335 hiện vật đá, gồm: công cụ hình mai mực, rìu chuôi

nhọn, rìu hình thang chất liệu đá Basalt, mài lan thân nhưng hình dáng vẫn thiếu

tính cân đối, bề mặt mài không xóa hết các vết ghè đẽo. Đáng chú ý, loại hình rìu

này cũng tìm thấy tại lớp dưới trong tầng văn hóa di tích Cư K’tur, trong khi lớp

trên của tầng văn hóa di tích Cư K’tur hoàn toàn vắng bóng loại hình di vật này. Đồ

gốm tại di tích Dhă Prông làm từ đất sét, hạt tương đối mịn, áo gốm lộ rõ các hạt cát

pha kích thước nhỏ. Nhiều mảnh gốm đều bị bong tróc một phần hoặc toàn bộ lớp

áo gốm. Hoa văn trang trí ít, chủ yếu văn thừng, văn in ô chấm vuông và văn khắc

vạch đơn giản. Tại các di tích phân bố trên cao nguyên Buôn Ma Thuột và vùng

xung quanh cũng phát hiện rải rác các loại hình công cụ và gốm tương tự [98].

- Cũng trong năm 2002, các nhà khảo cổ khai quật di chỉ cư trú - xưởng chế

tác rìu đá Cư K’tur (huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk). Tầng văn hóa di tích Cư K’tur

dày trung bình 0,7m, gồm 2 đơn vị địa tầng khác biệt rõ ràng về mức độ laterit hóa.

Di tích trong hố khai quật có các cụm gốm, hố đất đen, bếp. Hiện vật thu thập được

hơn 300 đồ đá, trên 1 vạn mảnh tước và 200 mảnh gốm. Trong lớp đất bị laterit hóa

kết vón khá rắn chắc, di vật đá chủ yếu là rìu bôn có eo và rìu bôn hình thang dài

23

chuôi hẹp phổ biến làm bằng các chất liệu đá như phiến sét, Phtanite, Basalt, Silic.

Lớp bên trên là lớp đất sét phong hóa chứa nhiều sạn thạch anh bị kết vón nhưng

chưa thực sự bị laterite hóa, chủ yếu tìm thấy rìu bôn có vai, phác vật rìu bôn bằng

Opal, một số loại di vật khác như kiếm đá, bàn đập vỏ cây [24]. Di tích Cư K’tur là

minh chứng tiêu biểu sự tồn tại của công xưởng chế tác rìu, bôn bằng đá giai đoạn

Hậu kỳ Đá mới tại Tây Nguyên nói chung, tỉnh Đắk Lắk nói riêng.

- Di tích T’Sham A (huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk) thuộc giai đoạn Hậu kỳ Đá

mới, được phát hiện năm 2000 và đào thám sát năm 2002. Tầng văn hóa di tích dày

0,3 – 0,5m, chứa rìu, bôn, phác vật, chày nghiền, mảnh tước và gốm mảnh. Rìu, bôn

di tích T’Sham A thuộc loại hình rìu, bôn có vai và rìu tứ giác chất liệu đá Opal và

Phtanite, có vết mài chưa xóa hết vết ghè đẽo, có hiện tượng ghè lại lưỡi. Những di

vật này có nét gần gũi với phác vật tìm thấy tại di tích Cư K’tur, khiến ta có thể đặt

ra giả thuyết cư dân T’Sham A nhận phác vật từ Cư K’tur cách đó không xa, rồi gia

công, hoàn thiện sản phẩm [75, tr. 204 – 212].

- Năm 2002, di tích Thanh Sơn (huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk), được phát hiện

và thám sát. Bề mặt di tích rải rác phác vật rìu bôn, mảnh tước. Hố thám sát mở ở

lưng chừng đồi. Tầng văn hóa dày 0,5m, chứa phác vật, mảnh tước Opal. Vách ao

xuất lộ những khối đá Opal có dấu vết ghè tách mảnh. Niên đại di tích Thanh Sơn

tương đương di tích Cư K’tur, cùng thuộc giai đoạn Hậu kỳ Đá mới [26, tr.112-113].

- Phát hiện và thám sát di tích Bản Thái ((huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk):

Năm 2002, cùng với di tích Thanh Sơn, các nhà khảo cổ đã phát hiện và thám sát di

tích Bản Thái (huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk). Phạm vi phân bố rộng khoảng 20.000m2, trên một bồn địa tương đối bằng phẳng. Trên bề mặt tập trung tương đối

dày đặc đá nguyên liệu, hạch đá và mảnh tước, bàn mài, đá hình bánh xe. Hố thám

sát ở đây cho biết tầng văn hóa có hai mức: Mức trên đất màu nâu xám, dày 35cm;

mức dưới dày 12cm, đất màu nâu vàng. Mảnh tước Opal nằm khá dày đặc trong

tầng văn hóa; cư dân cổ nơi đây đã khai thác nguồn nguyên liệu đá lộ thiên để chế

tác công cụ lao động. Niên đại di tích Bản Thái tương đương di tích Cư K’tur, cùng

thuộc giai đoạn Hậu kỳ Đá mới [26, tr.112-113] [29, tr. 22].

Các nhà nghiên cứu cho rằng, Thanh Sơn và Bản Thái cùng thuộc hệ thống

công xưởng, vừa là nơi khai thác nguyên liệu Opal và là nơi chế tác các phác vật

24

dạng sơ chế rồi xuất xưởng.

- Phát hiện và khai quật cụm di tích Thôn Tám (huyện Cư Jút, tỉnh Đắk

Nông): Di tích Thôn Tám được phát hiện năm 2005, khảo sát năm 2013, năm 2015 và khai quật hai lần vào các năm 2006 và 2013 với tổng diện tích 92m2. Tầng văn

hóa dày 0,5m. Trong tầng văn hóa thu được tổng cộng 15.863 di vật đá, trong đó

178 công cụ đá và 469 mảnh gốm. Bộ sưu tập di vật đá bao gồm: công cụ hình bầu

dục, rìu mài lưỡi, phác vật, hòn ghè,… Các hiện vật khảo cổ rải rác tại 13 gò đất

thấp trong đầm Sương Mù. Đầm Sương Mù là tên gọi dân gian chỉ vùng bồn địa

quanh hệ thống suối Đắk Rít – Đắk Mao, con suối chảy từ vùng biên giới rồi nhập

vào sông Srêpốk. Tổng diện tích của cụm di tích rộng hàng chục héc ta. Các phác

vật, công cụ đá đặc trưng có hình dáng và kỹ thuật chế tác kiểu hậu Hòa Bình. Căn

cứ đặc trưng di tích, di vật, những người khai quật bước đầu nhận định đây là một

di chỉ cư trú - xưởng chế tác đồ đá, khung niên đại khả năng tương đương với mức

sau của Trung kỳ Đá mới ở Bắc bộ và Bắc Trung bộ, khoảng 5.000 năm cách ngày

nay. Di tích Thôn Tám là một trong những đại diện tiêu biểu của giai đoạn Trung kỳ

Đá ở Tây Nguyên [28] [31, tr. 38 – 40].

- Phát hiện và khai quật cụm di tích Buôn Kiều (huyện Krông Bông, tỉnh Đắk

Lắk): Năm 2004, trong lúc xây dựng nhà cộng đồng, người dân trong Buôn Kiều

phát hiện 24 chiếc cuốc đá mài toàn thân được chôn chung trong một hố đào. Năm

2014, tác giả luận án cùng đoàn cán bộ Bảo tàng lịch sử Quốc gia, Viện Khảo cổ

học, Bảo tàng tỉnh Đắk Lắk khảo sát di tích Buôn Kiều. Đoàn khảo sát thu thập trên

bề mặt di tích một số di vật đá: bàn mài, bôn hình thang mài toàn thân, công cụ hình

bầu dục, rìu hình hạnh nhân, công cụ hình rìu tam giác, công cụ mảnh, đá có lỗ,

phác vật hình bầu dục, công cụ rìa dọc, công cụ hạch, công cụ phần tư cuội,... Đáng

chú ý, nhóm công cụ hình bầu dục chiếm tỷ lệ lớn; gồm hai tiểu loại hình gần tròn

hoặc hình bầu dục dài; chế tạo bằng kỹ thuật bổ cuội kết hợp ghè rìa cạnh, ghè chủ

yếu một mặt. Hình dáng và kỹ thuật chế tác các công cụ hình bầu dục gợi lại phong

cách đặc trưng giai đoạn hậu Hòa Bình [39, tr.20].

Năm 2015, Bảo tàng lịch sử Quốc gia và Bảo tàng tỉnh Đắk Lắk tiến hành khai quật 67m2 tại Buôn Kiều. Kết quả khai quật thu được trong tầng văn hóa dày từ

25

0,2-0,75m tổng cộng 1.576 hiện vật đá, trong đó 142 hiện vật được đăng ký, hơn

200 mảnh gốm. Đồ đá ở đây đặc trưng bởi các công cụ ghè đẽo hình bầu dục, hình

đĩa, rìa dọc, cuốc,… phần lớn đều được ghè cả hai mặt, hình dáng chuẩn xác. Qua

so sánh loại hình đồ đá di tích Buôn Kiều tương đồng với đồ đá di tích Bàu Dũ

(Quảng Nam), lớp muộn di chỉ Eo Bồng (Phú Yên) và di chỉ Thôn Tám (Đắk Nông). Kết quả phân tích niên đại C14 đối với các mẫu than thu được tại lớp trên

tầng văn hóa cho niên đại khoảng từ 4.500 đến 4.200 năm cách ngày nay. Căn cứ

kết quả phân tích niên đại tuyệt đối, đoàn công tác cho rằng: “di chỉ Buôn Kiều đại

diện cho cơ tầng Hậu kỳ Đá mới ở Tây Nguyên. Đây có thể được coi là cơ tầng đá

mới nguyên thuỷ, thuần chất, bản địa sau Hoabinhian ở Tây Nguyên trước khi tiếp

xúc, giao lưu với các hệ thống văn hóa khác trong bối cảnh rộng hơn” [93, tr. 56] .

- Phát hiện và thám sát di tích Buôn Hằng Năm (xã Yang Mao, huyện Krông

Bông, tỉnh Đắk Lắk): Trong đợt khai quật năm 2015, Bảo tàng lịch sử Quốc gia và

Bảo tàng tỉnh Đắk Lắk đã phát hiện và đào thám sát địa điểm Buôn Hằng Năm (xã Yang Mao, huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk), tọa độ 12025’161” vĩ Bắc; 108033’578” kinh Đông, cao 516m so với mực nước biến. Di tích nằm trên một gò

đất ven dòng Krông Bông, kề sát và cách nhà cộng đồng Buôn Kiều 320m về phía

Nam. Hố thám sát có tầng văn hóa dày từ 0,75 - 0,95m. Đồ đá khai quật được ở hố

thám sát là 18.025 hiện vật (trong đó có 269 hiện vật có số đăng ký), thuộc nhiều

loại hình: cuốc đá, công cụ hình bầu dục, hòn ghè, mảnh tước... [93, tr. 19, 38]. Các

hiện vật đá trong hố thám sát Buôn Hằng Năm tương tự hiện vật đá khai quật tại

Buôn Kiều và sưu tầm tại Buôn Ea Chổ [93, tr. 49-50].

- Di tích Suối Ba (xã Nhân Cơ, huyện Đắk R’lấp) còn được biết đến với

tên gọi khác là di tích Thôn 17 hoặc di tích Đắk R’Tih, được phát hiện năm

2006. Những hiện vật đá và gốm ở đây rất đa dạng, từ những đồ trang sức bằng đá

như vòng tay, khuyên tai, cho đến các công cụ lao động như rìu, cuốc, đục … bằng

đá. Số lượng lớn bàn mài với đa dạng loại hình như bàn mài phẳng, lõm, rãnh, bàn

mài trong…, cùng với nhiều hòn ghè, hòn kê/đe và nhiều mảnh tước, minh chứng

cho quy trình chế tác đồ đá tại chỗ ở địa điểm này [3]

Năm 2010, tại mặt đường liên thôn đoạn chạy qua địa phận Thôn 17 (nay là

26

Thôn Sáu) xuất lộ dấu vết di tích mộ chum. Bảo tàng tỉnh Đắk Nông đã tiến hành

xử lý khẩn cấp. Chum chỉ còn phần thân và đáy, vỡ vụn thành nhiều mảnh. Trong

chum tổng số 33 hiện vật bằng đá, gồm: 12 công cụ lao động, 01 phác vật và 20

viên cuội. Chum được kê trên 03 viên cuội tròn xếp thành hình tam giác cân.

Những người xử lý bước đầu kết luận, khu vực Suối Ba có sự tồn tại của hai nền

văn hóa thời kỳ tiền sử [3].

Năm 2013, Bảo tàng tỉnh Đắk Nông tiến hành cuộc điều tra khảo cổ học với

tham gia của cán bộ Viện Khảo cổ học và Viện Khoa học xã hội vùng Tây Nguyên.

Đoàn điều tra đã tiến hành phúc tra di tích Suối Ba. Kết quả phúc tra đã hệ thống bộ

sưu tập hàng trăm hiện vật bằng đá của ông Nguyễn Thế Vinh, mở rộng xác định

không gian di tích Suối Ba phân bố rộng tại rẫy của một số hộ dân trong khu vực

[21, tr. 60 – 71].

Cũng trong năm 2013, đoàn thực tập khoa Lịch sử, trường Đại học Đà Lạt

tiến hành khảo sát di tích Suối Ba và đào 02 hố thám sát tại rẫy hộ ông Nguyễn Thế

Vinh. Kết quả thám sát được công bố hạn chế tại Hội nghị Thông báo những phát

hiện mới về khảo cổ học năm 2013 [8, tr. 134 – 137].

Năm 2017, Bảo tàng tỉnh Đắk Nông tổ chức thám sát, khai quật di tích Suối Ba lần thứ nhất với tổng diện tích 10m2 nhằm đánh giá giá trị di tích. Kết quả khai

quật thu được trên 300 hiện vật bằng đá, gốm. Cuộc khai quật đã bổ sung tài liệu

quan trọng tạo tiền đề cho những nghiên cứu tiếp theo về tính chất, đặc trưng, niên

đại tuyệt đối và mối liên hệ giữa di tích Suối Ba với các di tích tiền – sơ sử trên địa

bàn tỉnh Đắk Nông và các tỉnh lân cận [40].

- Phát hiện các di tích khảo cổ trong hang động núi lửa Krông Nô: Tháng 1

- 2017, tác giả và các nhà khoa học Bảo tàng Thiên nhiên Việt Nam đã phát hiện

mới 7 di tích khảo cổ tiền sử trong hang động núi lửa ở huyện Krông Nô. Các hang

động núi lửa ở Krông Nô có đặc điểm địa chất tương đối đơn giản, gồm hệ tầng La

Ngà, hệ tầng Xuân Lộc và các thành tạo bở rời Đệ tứ [92]. Lòng hang thông

thóang. Các hang này phân bố gần các con suối đổ nước ra sông Srêpốk, nơi có

nguồn nguyên liệu đá để chế tác công cụ và nguồn thủy sản dồi dào cung cấp thực

phẩm cho con người. Các di tích khảo cổ được phát hiện tại 8 hang động thuộc khu

27

C, bao gồm: hang C1, hang C1 – 1, hang C3, hang C4, hang C4-1, hang C6, hang

C6-1 và hang C6’ [119, tr. 97 – 108]. Hang C6-1 và hang C6’ được thám sát và

khai quật năm 2017, năm 2018, năm 2019, cụ thể:

Hang C6-1: Cửa hang có dạng vòm cao trên 10m. Lòng hang hình elip, rộng

15m và cao 13m. Nền hang khá bằng phẳng. Hang gồm 3 nhánh, hợp tại một giếng

trời. Nhánh cửa hướng Tây Nam cao, phủ một lớp đất trầm tích màu xám đen dày

gần 2m, thấp dần về phía trong lòng hang. Bề mặt lớp đất trầm tích gần cửa hang

xuất lộ dày đặc di vật đá, mảnh gốm và một số mảnh xương, răng động vật. Hiện

trạng di tích hang C6-1 được bảo tồn nguyên vẹn.

Đoàn khảo sát đã đào hố thám sát 2m2. Trong hố thám sát sâu 0,8m đã phát

hiện một số di tích và thu được lượng lớn di vật. Về xương răng động vật có 5.027

mảnh, trong đó 1.153 mảnh có thể phân loại được. Đồ đá có 676 chiếc, trong đó 651

mảnh tước; 1 mũi tên đồng, 20 mũi nhọn xương, 268 mảnh gốm vỡ và 144 mảnh

thổ hoàng. Các cư dân cổ đã chế tác công cụ đá bằng kỹ thuật ghè một mặt (unfacial

flaking technique) kết hợp thủ pháp ghè hai mặt (bifacial flaking technique) tạo ra

những công cụ kiểu hòa Bình muộn như rìu bầu dục, rìu ngắn,... Loại hình công cụ

tiêu biểu là công cụ hình bàn là, rìu ngắn, rìu bầu dục, công cụ mảnh, hòn ghè, đá có

vết ghè, mảnh rìu, bàn mài, phác vật rìu, công cụ ghè thô, hạch đá. Phần lớn các

mảnh gốm tìm thấy ở hố rác bếp F1. Những người thám sát cho rằng, cư dân ở hang

C6-1 tồn tại trong thời gian dài, từ 6.000 đến 3.000 năm trước [55, tr. 57 – 76].

Năm 2018, tác giả luận án tham gia đoàn nghiên cứu của đề tài TN17/T06,

tiếp tục khai quật theo hướng bảo tồn tại hang C6-1 được triển khai trên cơ sở mở rộng hố thám sát đã được thực hiện từ năm 2017. Tổng diện tích hố khai quật là 6m2

(2m x 3m). Hố khai quật có độ sâu 1.85m, gồm 02 mức văn hóa: mức văn hóa trên với kết quả phân tích mẫu niên đại C14 thu được ở đáy lớp đào đầu tiên là 4.160 ±

20 BP (sau hiệu chỉnh là 5.391 BP); mức văn hóa dưới niên đại C14 sau hiệu chỉnh

từ 5.815 - 6.954 BP. Trong hố khai quật phát hiện các cấu trúc đá xếp hình tròn, hố

đất đen và 03 mộ táng. Trong tầng văn hóa, thu được 1.250 hiện vật đá, 200 mảnh

gốm, 15 mũi nhọn xương, 32.532 mảnh di cốt, 7.978 vỏ nhuyễn thể, 05 mảnh vỏ ốc

sứ, 85 mảnh thổ hoàng. Các mảnh gốm chủ yếu tìm thấy trong các hố đất đen bắt

28

nguồn từ mức văn hóa trên. Đặc biệt, mộ táng ký hiệu 18.C6-1.D2.L4.8.M2 là mộ

táng thời tiền sử đầu tiên được phát hiện tại các di tích khảo cổ vùng Tây Nguyên

còn bảo quản tương đối nguyên vẹn di cốt cùng các dấu vết táng thức. Ngoài 03 mộ

táng, trong hố khai quật thu được di cốt và răng của 11 cá thể khác.

Năm 2019, hố khai quật năm 2018 tiếp tục được mở rộng thêm hơn 3m2 về

phía cửa hang và vách hang nhằm xử lý các mộ táng xuất lộ từ năm 2018.

Hang C6’: dài 293m, có 3 cửa thuộc 3 hướng khác nhau. Nền hang bằng

phẳng phát hiện rải rác mảnh tước, gốm tiền sử. Trong hang còn có các cụm đá xếp

hình tròn, liền kề nhau, đường kính 1,5 – 2m, cao khoảng 1m. Giữa khe hở các tảng

đá xếp, xuất lộ một số di cốt động vật.

Năm 2018, đồng thời việc khai quật hang C6-1, đoàn công tác đề tài

TN17/T06 đã khai quật 02 cụm đá xếp, ký hiệu là 18.C6’.F1 và 18.C6’.F2. Kết quả

khai quật cho thấy 2 cụm đá xếp có cấu trúc tương tự nhau, nguồn gốc nhân tạo,

được sắp xếp một cách có chủ định, có thể là mộ hỏa táng hoặc trại săn bắn tạm thời

(?). Kết quả phân tích niên đại C14 một mẫu than lấy ở đáy cụm đá xếp 18.C6’.F1

cho kết quả: 4.160±20 năm BP (sau hiệu chỉnh là 4.707 năm BP). Như vậy, về cơ

bản các cụm 18.C6’.F1 và 18.C6’.F2 của hang C6’ đồng đại với lớp văn hóa trên

cùng hang C6-1. Trong hố khai quật thu thập tổng cộng 36 mẫu xương, răng, sừng

động vật, chủ yếu là dơi, hươu nai, vỏ ốc; không phát hiện di cốt người [91].

- Di tích Hố Tre (huyện Krông Ana, tỉnh Đắk Lắk) do Ban Chủ nhiệm đề tài

TN17/T06 phát hiện năm 2018. Di tích phân bố trên miệng và rìa xung quanh một

miệng núi lửa, cao hơn bề mặt xung quanh 2-3m. Trên bề mặt xuất lộ nhiều hiện vật

đá và mảnh gốm, gồm: rìu ngắn, rìu hình bầu dục, công cụ ghè đẽo, mảnh tước....

Tại khu vực phía Tây bắc miệng núi lửa, người dân múc hào nước. Do mực

nước xuống thấp, xuất lộ vách taluy lẫn nhiều hiện vật đá. Năm 2019, chúng tôi đã

tiến hành làm sạch bề mặt vách taluy trên diện tích bề mặt rộng 1m và sâu vào trong

vách 0,3m. Tầng văn hóa dày 0,4 – 0,45m, là lớp laterit hiện đại màu vàng nhạt lẫn

sét đen, nén chặt, cứng. Càng xuống dưới, càng xuất hiện hiện tượng kết vón nhưng

chưa hình thành sạn sỏi laterit. Lớp laterit hiện đại hình thành do sự lên xuống của

mực nước trong miệng núi lửa. Trong lớp văn hóa xuất hiện các di vật khảo cổ,

gồm: 01 rìu ngắn, 02 công cụ mảnh, 01 hòn kê, 01 hạch đá, 09 viên đá nguyên liệu,

29

22 mảnh tước và 01 mảnh gốm thô.

Tại độ sâu từ 0,6 – 0,7m thuộc tầng văn hóa, xuất lộ một phần của một cụm

đá tập trung gồm 01 hòn kê xếp cạnh 01 viên đá Basalt với nhiều lỗ lõm sâu có

nguồn gốc tự nhiên, xung quanh là rìu hình bầu dục, rìu ngắn, công cụ mảnh, hạch

đá, đá nguyên liệu và mảnh tước với mật độ dày đặc so với mật độ di vật tại những

nơi khác. Kích thước phần xuất lộ của cụm đá tập trung: rộng 0,3m x dài 0,5m.

Cụm đá tập trung có khả năng là nơi cư dân Hố Tre chế tác công cụ đá, tương tự

tính năng các cụm đá xếp được tìm thấy và nghiên cứu tại di tích Thôn Tám.

Kết quả khảo sát bước đầu cho thấy Hố Tre là một di tích cư trú của các cư

dân tiền sử. Tại đây, các cư dân tiền sử khai thác nguồn nguyên liệu tự nhiên, chế

tác tại chỗ công cụ phục vụ lao động. Địa tầng di tích Hố Tre còn nguyên vẹn, trầm

tích tại chỗ, chứa đựng di vật khảo cổ với mật độ lớn và phản ánh biến động địa

chất – môi trường tự nhiên của miệng núi lửa cổ. Căn cứ loại hình và kỹ thuật chế

tác công cụ, bước đầu xác định niên đại tương đối di tích Hố Tre thuộc giai đoạn

Trung kỳ Đá mới. Loại hình công cụ đặc trưng của di tích Hố Tre là rìu bầu dục và

rìu ngắn được chế tạo từ đá Basalt bằng kỹ thuật ghè đẽo, chưa nhận thấy sự hiện

diện của kỹ thuật mài.

- Phát hiện và thám sát di tích cụm di tích Tân Lập (huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk

Nông): Cụm di tích gồm hệ thống các gò đất thấp, liền kề nhau, nằm hai bên bờ

dòng suối Đắk Gằn (hay còn gọi là Suối Đá). Suối Đắk Gằn thuộc hệ thống nhánh

sông Srêpốk, mùa khô nước thấp nhưng không cạn đáy, bờ suối nhiều cuội sông.

Các gò đất bằng phẳng, cao hơn mực nước sông 2m. Bề mặt gò rải rác các tảng đá

Basalt, đá Quartz và Opal.

Năm 2018, tác giả luận án và cán bộ Bảo tàng tỉnh Đắk Nông phát hiện di

vật đá và gốm với mật độ dày đặc tại các gò đất nơi đây. Hiện vật phát hiện gồm:

công cụ hình bầu dục, công cụ ghè đẽo, phát vật rìu, hòn ghè, mảnh tước, cuội sông,

đá có vết ghè, mảnh gốm tiền sử. Đoàn công tác đã mở 2 hố thám sát với tổng diện tích 6m2. Kết quả đào thám sát cho thấy tầng văn hóa di tích dày 0,3 – 0,6m, chứa

công cụ ghè đẽo, rìu bầu dục, phác vật rìu bầu dục, đá nguyên liệu, mảnh tước, hạnh

30

đá; không phát hiện gốm và di cốt động vật.

Khu vực các gò đất ven suối Đắk Gằn thuộc thôn Tân Lập có điều kiện thuận

lợi cho việc cư trú và sinh sống của cư dân tiền sử. Các di vật phát hiện phản ánh

hoạt động chế tác tại chỗ và sử dụng công cụ khai thác tài nguyên phục vụ đời sống

con người. Các công cụ khai quật và sưu tập tại thôn Tân Lập không nhận thấy sự

hiện diện của kỹ thuật mài, có hình dáng và kỹ thuật chế tác tương đồng các công

cụ đá tại di tích Thôn Tám và trong hang động núi lửa Krông Nô [43, tr. 12 -13].

- Di tích Rừng Lạnh (huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông), được tác giả luận án

và cán bộ Bảo tàng tỉnh Đắk Nông phát hiện và đào thám sát năm 2018. Tổng diện tích thám sát 6m2. Địa tầng di tích dày khoảng 1,8m. Tầng văn hóa dày 0,6 - 0,7m,

cấu tạo từ đất Basalt phong hóa. Trong tầng văn hóa, rải rác mảnh tước, mảnh rìu

mài, bàn đập vỏ cây và mảnh gốm. Căn cứ hiện vật sưu tập trên bề mặt, trong tầng

văn hóa và tài liệu địa tầng, những người khai quật bước đầu nhận định Rừng Lạnh

là di tích cư trú của các cư dân giai đoạn Hậu kỳ Đá mới, những cư dân có kỹ thuật

chế tác đồ đá ở trình độ kỹ thuật cao [44].

1.2.2. Kết quả nghiên cứu

Trên cơ sở những phát hiện và nghiên cứu được công bố trong thời gian qua,

các vấn đề trong nhận thức về thời đại Đá mới tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông từng

bước được giải quyết, cụ thể:

*Một trong những thành tựu nghiên cứu khảo cổ học thời đại Đá mới tỉnh

Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông đáng chú ý nhất trong những năm gần đây là việc phát

hiện, khai quật và nghiên cứu các di tích khảo cổ học giai đoạn Trung kỳ Đá mới.

Năm 2005, Viện Khảo cổ học đã phát hiện di tích Thôn Tám thuộc giai

đoạn Trung kỳ Đá mới. Di tích Thôn Tám được khảo sát năm 2013, năm 2015 và

khai quật hai lần vào các năm 2006 và năm 2013 [28] [19] [36] [38]. Di tích Thôn

Tám là di tích giai đoạn Trung kỳ Đá mới đầu tiên được phát hiện tại tỉnh Đắk

Nông, dự báo sự tồn tại của cơ tầng Trung kỳ Đá mới ở khu vực phía Nam Tây

Nguyên [28] [31, tr. 38 – 40] [20]. Mười năm sau, hàng loạt di tích khảo cổ học

giai đoạn Trung kỳ Đá mới được phát hiện và khai quật trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk

và tỉnh Đắk Nông, minh chứng sự tồn tại của giai đoạn sớm của thời đại Đá mới

31

tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông đặc trưng cho kỹ nghệ công cụ ghè đẽo hai mặt, chế tạo

và sử dụng chủ yếu công cụ hình bầu dục, rìu ngắn và rìu mài lưỡi kiểu Hòa Bình

muộn. Các di tích giai đoạn Trung kỳ Đá mới có nhiều khả năng là một trong số

các nguồn hợp tạo dựng văn hóa giai đoạn Hậu kỳ Đá mới Tây Nguyên [39].

Đặc biệt, những phát hiện di tồn khảo cổ học tiền sử trong hang động núi

lửa Krông Nô năm 2017 bổ sung thêm một không gian cư trú độc đáo của cư dân

tiền sử Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung: cư trú trong không gian hang

động núi lửa [119, tr. 97 – 108]. Kết quả khai quật di tích hang C6-1 với hệ thống kết quả phân tích mẫu bào tử phấn hoa, độ từ cảm, niên đại C14, thành phần trầm

tích... cung cấp khung tham chiếu có giá trị khoa học phục vụ nghiên cứu thời đại

Đá mới tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông nói riêng, vùng Tây Nguyên nói chung.

* Bước đầu phác thảo bức tranh lịch sử - văn hóa giai đoạn Hậu kỳ Đá

mới khu vực nghiên cứu

Phần lớn các di tích khảo cổ thời đại Đá mới tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông

được xác định thuộc giai đoạn Hậu kỳ Đá mới. Trên cơ sở các phát hiện, kết hợp

kết quả các cuộc thám sát, khai quật tại một số di tích, bằng phương pháp so sánh

loại hình học, các nhà khảo cổ đã chứng minh sự tồn tại của văn hóa Buôn Triết

thuộc khung niên đại Hậu kỳ Đá mới tại tỉnh Đắk Lắk với đặc trưng di vật là các

công cụ rìu, bôn không vai chất liệu chế tác chủ yếu từ đá Basalt hoặc Silic, phân

biệt với nhóm rìu bôn có vai phân bố khu vực Bắc Tây Nguyên [97, tr. 128-129].

Một số nhà nghiên cứu đề ra giả thuyết về sự tồn tại đồng thời của 03 đới

văn hóa thuộc giai đoạn Hậu kỳ Đá mới trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Các đới văn

hóa trên bao gồm: nhóm các di tích khu vực phía Bắc tỉnh như Cư K’tur, T’Sham

A…; nhóm các di tích ở cao nguyên Buôn Ma Thuột với đại diện là di tích Dha

Prông…; và nhóm các di tích phân bố phía Đông và đông nam tỉnh Đắk Lắk [25,

tr. 17-23]. Một số nhà khoa học đề xuất khả năng thành lập các văn hóa khảo cổ

mới bên cạnh văn hóa Buôn Triết là: Văn hóa Buôn Ma Thuột tại cao nguyên Buôn

Ma Thuột [79, tr.22]; văn hóa khảo cổ Taipêr phân bố ở phía Bắc Đắk Lắk và phía

Nam Gia Lai với đại diện là Cư K’tur (Đắk Lắk), Tai Pêr (Gia Lai) [79, tr.5-14].

Đời sống kinh tế của cư dân giai đoạn Hậu kỳ Đá mới tỉnh Đắk Lắk và tỉnh

Đắk Nông bước đầu được phục dựng. Đó là sự tồn tại của một nền nông nghiệp

dùng cuốc với nhiều loại hình cuốc khác nhau phân bố trên các kiểu địa hình khác

32

nhau [78, tr. 9-21]. Một số loại hình cuốc còn thể hiện mối quan hệ văn hóa giữa

các nhóm cư dân, như: cuốc hình mai mực phản ánh quan hệ gần gũi giữa cư dân

vùng cao nguyên Buôn Ma Thuột với cư dân văn hóa Buôn Triết [35, tr. 102-112],

cuốc vai nhọn thân thắt eo phản ánh quan hệ giữa cư dân văn hóa Buôn Triết với

cư dân đồng đại Lâm Đồng, Bình Phước... [39]

Trình độ phát triển kỹ thuật chế tác đồ đá cùng sự phân công lao động xã

hội và quan hệ giao lưu giữa các cộng đồng là tiền đề nảy sinh và hình thành các

các công xưởng chế tác đồ đá trên toàn Tây Nguyên giai đoạn Hậu kỳ Đá mới. Tại

tỉnh Đắk Lắk, trong thời gian này xuất hiện hệ thống công xưởng Cư K’tur với các

đại diện tiêu biểu là Cư K’tur, T’Sham A, Thanh Sơn, Bản Thái (tỉnh Đắk Lắk),

Taipêr, Làng Ngol,... (Gia Lai) [29]. Thông qua hoạt động trao đổi sản phẩm lao

động, các cư dân thời đại Đá mới tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông thiết lập mối liên hệ

với các cộng đồng cư dân trong và ngoài vùng Tây Nguyên.

1.2.3. Những vấn đề đặt ra

Nhìn chung, nghiên cứu khảo cổ học thời đại Đá mới tỉnh Đắk Lắk và tỉnh

Đắk Nông là bộ phận không thể tách rời trong hoạt động nghiên cứu khảo cổ học

tiền sử Tây Nguyên. Từ những phát hiện của người Pháp vào giữa thế kỷ XX,

cho đến nay những nghiên cứu khảo cổ học đã phần nào phác thảo bức tranh văn

hóa thời đại Đá mới tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông. Tuy nhiên, công tác nghiên

cứu thời đại Đá mới ở tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông đã và đang đặt ra những

vấn đề cần giải quyết:

- Không gian phân bố, đặc trưng, nội hàm văn hóa các văn hóa khảo cổ hay

các nhóm di tích thời đại Đá mới ở tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông chưa được

làm sáng rõ. Một số giả thuyết về các nhóm di tích/đới văn hóa/văn hóa khảo cổ

được nêu ra nhưng chưa đủ cơ sở khoa học để đạt được sự đồng thuận giữa các

nhà nghiên cứu.

- Do thiếu hụt những nguồn tài liệu nhân chủng, tài liệu phân tích niên đại

tuyệt đối, tài liệu và khí hậu và môi trường... dẫn đến hạn chế trong phục dựng

bối cảnh, chủ nhân, đời sống kinh tế - văn hóa – xã hội dựa trên nền tảng mối

quan hệ giữa con người - tự nhiên – con người của các cộng đồng cư dân thời đại

Đá mới tại các tỉnh Nam Tây Nguyên.

- Hạn chế trong phân tách và xác định mối liên hệ cũng như nguồn gốc của

33

các giai đoạn phát triển trong thời đại Đá mới. Các mức phát triển sớm – muộn

trong các giai đoạn Trung kỳ Đá mới, Hậu kỳ Đá mới cùng mối liên hệ giữa hai giai

đoạn phát triển liền kề này còn bỏ ngỏ. Riêng giai đoạn Sơ kỳ Đá mới tỉnh Đắk Lắk

và tỉnh Đắk Nông vẫn chưa có phát hiện rõ ràng.

- Mối liên hệ giữa các cộng đồng cư dân thời đại Đá mới tỉnh Đắk Lắk và Đắk

Nông với các cư dân đồng đại vùng Tây Nguyên và vùng khác trong cả nước đã

được một số công trình nghiên cứu đề cập. Tuy nhiên, vẫn cần làm rõ thêm bản chất

của các mối quan hệ này trên các khía cạnh về nguồn gốc, quá trình phát tán, các

đặc thù khu vực…

Với các tư liệu khảo cổ học phát hiện trong những năm gần đây sẽ góp phần

giải quyết một số vấn đề còn tồn tại trong nghiên cứu khảo cổ học thời đại Đá

mới tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông.

1.3. Tiểu kết chƣơng 1

Điều kiện tự nhiên các tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông không chỉ thuận lợi cho sự

tồn tại và phát triển của con người mà còn là yếu tố tạo nên sự đặc trưng trong đời

sống của các cộng đồng cư dân vùng phía Nam Tây Nguyên thời đại Đá mới. Trong

thời đại Đá mới - thời đại có vị trí tiền đề trong lịch sử hình thành các giá trị văn

hóa truyền thống của con người và vùng đất - thông qua mối quan hệ tương quan tất

yếu giữa tự nhiên – con người; điều kiện tự nhiên là yếu tố quan trọng tạo nên tính

đặc trưng văn hóa địa phương. Chương một trình bày những nét cơ bản về địa – văn

hóa tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông, làm tiền đề cho những phân tích tiếp theo về cách

thức tác động và dấu ấn của môi trường tự nhiên đến đời sống cư dân tiền sử hai

tỉnh phía Nam Tây Nguyên

Cho đến nay, tổng cộng 100 di tích thời đại Đá mới tỉnh Đắk Lắk và Đắk

Nông đã được phát hiện và công bố, trong đó, 16 di tích được đào thám sát hoặc

khai quật (06 di tích giai đoạn Trung kỳ Đá mới và 10 di tích giai đoạn Hậu kỳ Đá

mới). Đây là nguồn dữ liệu phong phú, góp phần làm sáng rõ những vấn đề khoa

học còn đặt ra trong nhận thức thời đại Đá mới khu vực phía Nam Tây Nguyên như:

các giai đoạn phát triển; đặc điểm và nội hàm các giai đoạn phát triển, các nhóm di

tích; bối cảnh, đời sống của các cộng đồng cư dân.... Đây cũng chính là nhiệm vụ cụ

34

thể của luận án và sẽ được triển khai trong các chương tiếp theo.

Chƣơng 2

ĐẶC ĐIỂM THỜI ĐẠI ĐÁ MỚI TỈNH ĐẮK LẮK VÀ ĐẮK NÔNG

Các di tích thời đại Đá mới tại khu vực nghiên cứu được phân chia thành các

giai đoạn phát triển: giai đoạn Sơ kỳ Đá mới, giai đoạn Trung kỳ Đá mới, giai đoạn

Hậu kỳ Đá mới dựa trên các tiêu chí: 1) không gian phân bố; 2) đặc điểm di tích; 3)

kỹ thuật chế tác công cụ, đặc biệt sự phát triển của các kỹ thuật chế tác đồ đá và sự

xuất hiện của kỹ thuật mài; 4) sự xuất hiện và phát triển của kỹ thuật chế tác đồ

gốm; 5) loại hình di vật, bao gồm các di vật bằng đá, bằng đất nung và xương; 6)

niên đại, đặc biệt niên đại tuyệt đối. Tuy nhiên, giai đoạn Sơ kỳ Đá mới tại khu vực

nghiên cứu vẫn chưa có phát hiện rõ ràng. Vì vậy, trong phạm vi tài liệu hạn chế,

luận án chỉ trình bày các đặc điểm về giai đoạn Trung kỳ Đá mới và giai đoạn Hậu

kỳ Đá mới tại khu vực nghiên cứu. Những nhận thức về giai đoạn Sơ kỳ Đá mới tại

tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông sẽ được bổ sung, nghiên cứu.

2.1. Giai đo n Trung Đá mới

2.1.1. Đặc điểm di tích

2.1.1.1. Không gian phân bố

Tổng số 14 di tích giai đoạn Trung kỳ Đá mới đã phát hiện và công bố cho

đến nay, phân bố rải rác tại nhiều tiểu vùng địa lý: vùng trũng Krông Pắk – Lắk (di

tích Hố Tre), khu vực giáp ranh giữa tiểu vùng trũng Krông Pắk – Lắk với vùng núi

cao Chư Yang Sin (Buôn Kiều, Buôn Hằng Năm, Buôn Ea Chổ), tiểu vùng bán bình

nguyên Ea Súp (Thôn Tám và các di tích hang động núi lửa Krông Nô), vùng giáp

ranh giữa tiểu vùng bán bình nguyên Ea Súp và cao nguyên Đắk Nông (Tân Lập).

Khoảng cách lớn nhất giữa các di tích không quá 130km theo đường chim bay

(khoảng cách giữa di tích Buôn Kiều và cụm di tích Thôn Tám); phổ biến các cụm

di tích trong cùng không gian bán kính vài km (nhóm Buôn Kiều, Buôn Hằng Năm,

Buôn Ea Chổ; nhóm các di tích hang động núi lửa, cụm di tích Thôn Tám).

Các di tích giai đoạn Trung kỳ Đá mới được biết đến nay đều phân bố tập

trung tại lưu vực sông Srêpốk. Di tích Buôn Kiều, Buôn Hằng Năm, Buôn Ea Chổ

35

ven dòng Krông Nô; di tích Hố Tre ven dòng Krông Ana; các di tích hang động núi

lửa Krông Nô phân bố liền kề dòng Krông Nô; cụm di tích Thôn Tám phân bố

quanh hệ thống suối Đắk Rít – Đắk Mao, chảy từ biên giới đổ vào sông Srêpốk;

cụm di tích Thôn Tân Lập phân bố ven dòng Đắk Gằn – dòng chảy đổ vào sông

Srêpốk (Sơ đồ 3). Hệ thống sông Srêpốk không chỉ cung cấp nguồn nhiên liệu chế

tác công cụ, các yếu phẩm phục vụ nhu cầu thiết yếu của các con người mà còn là

tuyến đường giao thông quan trọng, tuyến đường lan tỏa văn hóa giữa các nhóm cư

dân đồng đại.

Các di tích giai đoạn Trung kỳ Đá mới thường không phải di tích độc lập,

riêng lẻ mà phân bố theo cụm, trên các gò đất ven sông liền kề nhau hoặc trong các

hang động cùng thuộc hệ thống. Tại Thôn Tám, di vật và tầng văn hóa xuất lộ tại ít

nhất 13 gò đồi thấp trong vùng đầm trũng (Sơ đồ 6) Các di tích Buôn Kiều, Buôn

Hằng Năm, Buôn Ea Chổ thực chất là các gò đồi liền kề nhau ven dòng sông Krông

Nô. Tại Tân Lập, các hiện vật khảo cổ học được tìm thấy tại ít nhất 3 gò đất liền kề

nhau ven suối Đắk Gằn. Các di tích hang động núi lửa Krông Nô đều thuộc khu C,

cửa hang cách nhau 300 – 400m (Sơ đồ 5). Tuy phân bố trên diện rộng nhưng

không phải toàn bộ các gò đất, hang động trong khu vực cụm di tích đều phát hiện

dấu tích cư dân đương thời. Không gian sinh sống phân tán thành các điểm gần kề

trên một diện tích rộng ven nguồn nước là một trong những đặc trưng của các di

tích giai đoạn Trung kỳ Đá mới khu vực nghiên cứu, phản ánh phương thức cư trú

đặc thù của các cộng đồng cư dân này.

Khu vực nghiên cứu không có hang động đá vôi như các tỉnh miền núi phía

Bắc, cho nên sự tồn tại di tích khảo cổ học giai đoạn Trung kỳ Đá mới trong hang

động núi lửa Krông Nô là một hiện tượng đặc biệt và độc đáo ở Việt Nam. Khu vực

nghiên cứu không có hang động đá vôi như các tỉnh miền núi phía Bắc. Tại huyện

Krông Nô và vùng lân cận, do đặc thù kiến tạo địa chất mà hình thành hệ thống các

hang động núi lửa nằm sâu dưới lòng đất [67, tr. 28 – 38]. Phần lớn các miệng hang

hiện tại là miệng hang thứ sinh, tạo thành do hiện tượng sập trần hang, nên thường

có dạng vòm, trước cửa hang ngổn ngang những tảng đá Basalt. Các hang có cửa

cao và rộng, ánh sáng chiếu sâu vào lòng hang. Hang thường có nhiều ngách, nhiều

36

cửa, nên lòng hang thông thoáng (bản vẽ 4, hình 10). Các hang này thường phân bố

gần các con suối đổ nước ra sông Srêpốk, nơi có nguồn nguyên liệu đá để chế tác

công cụ và nguồn thủy sản dồi dào cung cấp thực phẩm cho con người, đặc biệt là

nguồn nước sinh hoạt cho cư dân tiền sử [119]. Phần ít hơn còn lại là miệng hang

nguyên sinh, được hình thành do thoát khí trong quá trình dung nham Basalt đang

nóng chảy và chuyển dần sang đông kết. Xét trên khía cạnh văn hóa, văn hóa cộng

đồng chịu ảnh hưởng chi phối từ môi trường tự nhiên, đặc biệt là các yếu tố địa chất

– địa mạo và thảm thực vật trong vùng. Sự khác biệt về nền tảng di sản địa chất và

di sản sinh vật tạo ra sự khác biệt trong di sản văn hóa các cư dân hang động núi lửa

với cư dân sinh sống trong hang động núi đá vôi và ngoài trời. Đây chính là một

trong những đặc trưng di tích riêng biệt của giai đoạn Trung kỳ Đá mới khu vực

nghiên cứu.

2.1.1.2. Cấu tạo tầng văn hóa

Tại tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông, tổng cộng 07 di tích khảo cổ giai đoạn

Trung kỳ Đá mới đã được nghiên cứu địa tầng, gồm: di tích Buôn Kiều, di tích

Buôn Hằng Năm, di tích Hố Tre, di tích Thôn Tám, di tích Tân Lập, di tích hang

C6’, di tích hang C6-1 (Bảng 2), cụ thể:

- Tầng văn hóa hố khai quật Thôn Tám năm 2006 và hố khai quật năm 2013

gồm 01 lớp văn hóa, là lớp đất sét màu nâu dày 0,5m lẫn nhiều đá Basalt xốp dạng

lỗ, Silic, Chert và sạn sỏi cát kết bở rời, độ kết dính yếu, trong đó chứa di tích và di

vật đá, gốm (bản vẽ 1) [31, tr. 38-40] [20, tr. 17 – 18].

- Tầng văn hóa di tích Buôn Kiều khai quật năm 2015, dày 0,2 – 0,4m, là đất

Basalt phong hóa, khô, rất cứng và có màu nâu xám, nâu vàng, chứa di tích, di vật

của người tiền sử (bản vẽ 2) [93].

- Tầng văn hóa hố thám sát Buôn Hằng Năm liền kế có sự khác biệt so với

tầng văn hóa 2 hố khai quật Buôn Kiều, dày 0,55 – 0,75m, gồm 2 lớp đất có màu

sắc khác biệt: Lớp đất màu nâu đỏ dày 0,1 – 0,25m, kết cấu khá tơi xốp. Bên dưới

lớp đất đỏ Basalt: dày 0,3 – 0,5m, kết cấu rắn chắc. Giữa hai lớp đất không có lớp

vô sinh ngăn cách (hình 5) [93, tr.19].

- Tầng văn hóa hố thám sát di tích Tân Lập đào thám sát năm 2018 có độ dày

37

từ 0,2 – 0,5m, gồm 1 tầng văn hóa, là đất Basalt phong hóa, khô, cứng, có màu vàng

nhạt, lẫn các hạt laterit kích thước nhỏ và chứa các di vật khảo cổ (hình 7).

- Tầng văn hóa di tích Hố Tre: Quan sát vách địa tầng di tích Hố Tre được làm

sạch năm 2019, chúng tôi nhận thấy tầng văn hóa di tích dày từ 0,4 – 0,45m, là tầng

đất laterit hiện đại vàng nhạt xen lẫn đất xám đen do nhiễm vật chất hữu cơ, chứa

đựng công cụ ghè đẽo, hòn kê, mảnh tước, đá nguyên liệu và gốm (hình 8).

- Tầng văn hóa di tích hang động núi lửa C6-1: Dựa vào đặc điểm các lớp đất,

đặc điểm di vật và các kết quả phân tích bào tử phấn, độ từ cảm,... có thể chia tầng

văn hóa hố khai quật hang C6-1 thành 2 lớp văn hóa, gồm: 1) lớp văn hóa trên dày

0,35 - 0,4m, ngoài công cụ đá cuội ghè đẽo không định hình, chày, bàn nghiền, bàn

mài, mảnh tước, công cụ xương mài mũi nhọn, còn có 1 mũi tên đồng, các mảnh

gốm đất nung và di cốt động vật; 2) Lớp văn hóa dưới dày khoảng 1,5m, chứa công

cụ cuội ghè hai mặt, tạo ra các loại hình như rìu bầu dục, công cụ nạo hình đĩa, rìu

ngắn, công cụ mảnh tước, hòn ghè, chày, hòn kê (bản vẽ 5 – 10, hình 11, hình 12)

[91, tr.25-27].

- Di tích hang C6’ là cụm đá xếp, gồm 2 lớp đá xếp, xen lẫn 02 lớp đất do con

người đổ lên. Trong các lớp đất trong cụm đá xếp chỉ các mảnh xương động vật

nhỏ, không có di vật khảo cổ (hình 13) [86, tr.81].

Địa tầng các hố thám sát, khai quật tại các di tích trên có tính đại diện cho

cấu tạo tầng văn hóa giai đoạn Trung kỳ Đá mới khu vực nghiên cứu.

Trên bề mặt một số di tích Trung kỳ Đá mới như Buôn Kiều, Buôn Hàng Năm

sưu tập được các chiếc bôn hình thang mài toàn thân thuộc giai đoạn Hậu kỳ Đá

mới nhưng vết tích cư trú giai đoạn Hậu kỳ Đá mới không hiện hữu trong địa tầng

các hố khai quật. Quá trình thành tạo tầng văn hóa ở các di tích ngoài trời chủ yếu

do sự phong hóa các vật liệu địa chất, cùng phế thải của các hoạt động sống của con

người. Các di tích ngoài trời không bị ngập nước nên tầng văn hóa ít chịu ảnh

hưởng của quá trình bồi tụ tự nhiên. Vì diện tích khu vực di tích rất rộng nên quá

trình cư trú và sinh hoạt của các cư dân giai đoạn Trung kỳ Đá mới có thể không

liên tục trên cùng một khu vực nhất định mà dịch chuyển qua nhiều vị trí trong một

khoảng thời gian tương đối ngắn. Ngược lại, yếu tố này làm giảm tốc độ tích tụ tầng

38

văn hóa do điểm cư trú không quá tập trung.

Trong các di tích hang động núi lửa, địa tầng được bảo tồn nguyên vẹn và

phức tạp hơn so với địa tầng các di tích ngoài trời. Hố khai quật hang C6-1 sâu

1,85m. Trầm tích bở rời tạo nên bề dày các tầng văn hóa có nguồn gốc nhân sinh,

do người tiền sử mang nguyên vật liệu vào hang chế tác công cụ, xả thải tàn tích

thức ăn động thực vật tại chỗ trong quá trình sinh tồn.

Do diện tích hẹp nên mức độ tập trung di tồn khảo cổ trong tầng văn hóa di

tích hang động lớn hơn rất nhiều so với các di tích ngoài trời. So sánh kết quả phân

tích mẫu đất thu thập trong hang động và ngoài trời cho thấy: thành phần vi sinh

trong mẫu hang động thấp hơn rất nhiều lần so với ngoài trời, ngược lại, nồng độ

Canxi trong mẫu hang động rất cao (90%); kết hợp yếu tố nhiệt độ và độ ẩm trong

môi trường hang động luôn điều hòa, ít biến động nên tầng văn hóa di tích trong

hang động có khả năng bảo tồn nguyên vẹn di cốt động vật và vỏ nhuyễn thể.

2.1.1.3. Các dấu tích trong tầng văn hóa

Giai đoạn Trung kỳ Đá mới, tại các di tích ngoài trời, chỉ phát hiện được dấu

tích cụm đá xếp tập trung, không thấy dấu vết bếp, mộ táng... Tại các di tích trong

hang động Krông Nô, các dấu tích trong tầng văn hóa đa dạng hơn, gồm: bếp lửa,

mộ táng, nhưng chưa tìm thấy các cụm đá xếp tập trung như các di tích đồng đại

ngoài trời. Đặc điểm cụ thể dấu tích như sau:

- Cụm đá xếp tập trung

Đây là dấu tích duy nhất phát hiện trong tầng văn hóa các di tích giai đoạn

Trung kỳ Đá mới ngoài trời, Trong các hố khai quật di tích Thôn Tám năm 2006 và

năm 2013 đã phát hiện 11 cụm đá xếp tập trung. Tương tự, tại di tích Hố Tre cũng

xuất hiện một phần của 1 cụm đá xếp tập trung. Các cụm đá này đều nằm trong tầng

văn hóa và nằm trên bề mặt của sinh thổ; gồm những tảng/cục đá kích thước khá

lớn có các dấu vết của sự va đập cơ học dạng đe hoặc hòn kê, cùng với đá nguyên

liệu và nhiều mảnh tách, mảnh tước kích cỡ khác nhau tập trung thành cụm. Diện tích mỗi cụm cũng khác nhau, khoảng từ 0,5m2 đến 1m2. Những vết tích cụm đá

xếp ở Thôn Tám và Hố Tre không liên quan đến mộ táng mà là nơi chế tác đá, phản

39

ánh hoạt động chế tác công cụ tại tại chỗ của cư dân cổ (hình 9).

- Cụm đá xếp hình tròn

Đây là dấu tích chỉ phát hiện trong tầng văn hóa các di tích hang động núi

lửa Krông Nô. Trong hang C6’ có 03 cụm đá xếp hình tròn, liền kề nhau, đường

kính 1,5 – 2m, cao khoảng 1m. Giữa khe hở các tảng đá xếp, xuất lộ một số di cốt

động vật. Kết quả khai quật năm 2018 cho thấy 2 cụm đá xếp có cấu trúc tương tự

nhau: Trên cùng xếp một lớp đá Baslte có kích thước to hoặc trung bình; tiếp theo là

một lớp đất Basalt màu xám nâu tương tự lớp đất trầm tích hang C4 và hang C6,

chứa xương răng động vật, vỏ ốc; bên dưới là một lớp đá xếp thứ 2 gồm các viên đá

Basalt kích thước nhỏ, có dấu vết đá xếp thành hình vòng cung; xen lẫn các tảng đá

Basalt nhỏ là lớp đất xám đen, mịn, nhẹ như tro, không có di cốt động vật nhưng có

than. Điều đó chứng tỏ các cụm đá xếp hình tròn hang C6’ có nguồn gốc nhân tạo,

được sắp xếp một cách có chủ đích (hình 13) [91, tr.81].

Trong địa tầng hố khai quật hang C6-1, tại mức văn hóa trên, xuất lộ các cục

đá Basalt tự nhiên có kích thước 10 x 15cm, xếp thành vòng tròn đường kính 60cm,

độ sâu 12-17cm. Cắt đôi cấu trúc cụm đá, quan sát được: bề mặt là lớp đất màu xám

đen, lẫn ít xương động vật và vỏ ốc; xuống dưới, xen kẽ giữa các viên đá là đất màu

đen, mịn, nhẹ giống như tro; không có tàn tích động vật hay các di vật khảo cổ

khác. Đáy của cụm đá xếp hình lòng chảo màu xám trắng, lộ rõ biên (bản vẽ 9, hình

18). Cụm đá xếp hình tròn trong tầng văn hóa hang C6-1 có cấu trúc tương đồng

như 2 cụm đá khai quật ở hang C6’ nhưng nhỏ hơn về mặt quy mô. Tính chất các

cụm đá xếp hình tròn này cần được tiếp tục nghiên cứu, làm sáng rõ.

- Bếp lửa

Giai đoạn Trung kỳ Đá mới, dấu vết của bếp lửa được tìm thấy trong hố khai

quật hang C6-1. Trong hố khai quật hang C6-1 năm 2019 đã phát hiện 05 bếp lửa,

xuất lộ từ lớp văn hóa trên, đường kính 45 – 60cm, có đặc điểm: Hình lòng chảo,

dày ở giữa, mỏng dần xung quanh. Trong hố có một vài cục đá Basalt kích thước

khá lớn; xung quanh cục đá là dấu tích than tro vốn của bếp lửa. Mép miệng hoặc

rìa sát biên hố đất đen có một lớp đất màu nâu sẫm và ít sỏi sạn và các tảng đá

Basalt nguồn gốc trần hang không có vết chế tác. Di tồn trong các bếp lửa gồm các

40

công cụ đá và phế phẩm chế tác công cụ đá, mảnh gốm vỡ, tàn tích thức ăn, như:

xương thú, vỏ nhuyễn thể, xương cá… Nhiều mảnh xương động vật lớn tìm thấy

trong bếp lửa có vết than cháy bao phủ. Mật độ công cụ đá tìm thấy trong bếp lửa

lớn hơn so với mật độ chung trong hố khai quật. Bếp lửa không chỉ là nơi cư dân

giai đoạn Trung kỳ Đá mới đun nấu, phân chia thực phẩm, mà còn là nơi sinh hoạt

tập thể, sưởi ấm, nghỉ ngơi và chế tác, tu chỉnh công cụ lao động (hình 17) [91].

- Mộ táng

Mộ táng giai đoạn Trung kỳ Đá mới được phát hiện duy nhất trong các hang

động núi lửa. Tại hang C6-1, lần đầu tiên trong các di tích tiền sử vùng Tây Nguyên

phát hiện mộ táng được bảo tồn nguyên vẹn táng thức và di cốt người. Đợt khai

quật hang C6-1 năm 2018 đã phát hiện 03 mộ táng nằm trong lớp đất có tuổi 5.780 -

5.945BP (sau hiệu chỉnh là 6.686 - 6.768 năm BP). Các mộ táng đều được chôn

theo táng thức nằm co bó gối hoặc ngồi co bó gối, hai tay co về phía trước, chân

khép, gối co gập. Mộ chôn ngồi hai tay co trước ngực, trong quá trình phân hủy hộp

so bị tụt xuống giữa hai tay, chân khép, gối co gập, xương bàn chân vẫn đặt nguyên

trên nền mộ (mộ 18.C6-1.D2.L4.8.M2). Mộ chôn nằm co bó gối được đặt tư thế

nằm nghiêng, hai tay co ôm đầu, đầu gối co gập, xương bàn chân nằm lên nhau (mộ

18.C6-1.C2.L4.6.M1). Đây là táng thức phổ biến trong các cộng đồng cư dân văn

hóa Hòa Bình, văn hóa Đa Bút, văn hóa Quỳnh Văn... Mặt hộp sọ đều nhìn ra

hướng cửa hang. Phủ trên mộ 18.C6-1.D2.L4.8.M2 là một lớp cao lanh dày, cứng,

không phải sản phẩm phong hóa của các vật chất trong lòng hang mà do con người

chủ động mang về từ nơi khác. Trong mộ không tìm thấy đồ tùy táng (bản vẽ 15,

hình 19 -21). Khu vực ven các ngôi mộ, đã thu thập được 05 mảnh vỏ ốc tiền thuộc

họ ốc Sứ - Cypraeidae là loài nhuyễn thể nước mặn. Cả 5 vỏ ốc đều chỉ còn phần

miệng, hai vỏ ở lớp L4.13 bị cháy (hình 61) [91]. Trong mộ táng di tích hang Phia

Vài (Tuyên Quang), các nhà khảo cổ đã phát hiện những mảnh vỏ ốc tiền được đặt

trong hốc mắt di cốt.

Sự thống nhất trong táng thức các ngôi mộ khai quật tại hang C6-1 đã phản

ánh đặc điểm chung về táng tục của cư dân Trung kỳ Đá mới trong hang động núi

lửa Krông Nô. Đến nay, chưa tìm thấy mộ táng trong các di tích tiền sử Tây Nguyên

41

ngoài trời nhưng không loại trừ táng thức của các cư dân giai đoạn Trung kỳ Đá

mới ngoài trời hai tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông cũng tương tự táng thức các cư

dân đồng đại trong hang động núi lửa.

2.1.1.4. Tính chất di tích

Các di tích giai đoạn giai đoạn Trung kỳ Đá mới tại khu vực nghiên cứu đa

số đều có chức năng cư trú với 13/14 di tích, ngoại trừ di tích C6’. Một số ít là nơi

vừa cư trú vừa để mộ (di chỉ cư trú - mộ táng), vừa cư trú vừa chế tác công cụ đá

(di chỉ cư trú - xưởng).

Các dấu tích để ghi nhận di chỉ cư trú là tầng văn hóa có màu sẫm hơn lớp

mặt và sinh thổ, trong đó có chứa công cụ lao động bằng đá và đồ gốm, thậm chí cả

tàn tích thức ăn (di cốt động vật, vỏ nhuyễn thể). Tầng văn hóa các di tích cư trú

ngoài trời thường không dày, nhưng quy mô trải rộng trên một diện tích lớn hàng

hecta. Mật độ di vật trong tầng văn hóa thưa thớt và phân bố không đều tại các

điểm trong toàn di tích, ít đồ gốm và công cụ lao động, hiếm gặp vết tích than tro.

Dẫu không phải là công xưởng, những nơi cư trú thường là nơi tu sửa lại công cụ

đá cho việc tái sử dụng. Dấu vết họat động của con người như đống rác bếp, bếp

lửa,... được tìm thấy trong di tích hang động C6-1, cụm chế tác công cụ... tại các di

tích ngoài trời như Thôn Tám, Hố Tre.

Tại di tích hang C6-1, các mộ táng khai quật năm 2018 đều nằm trong lớp

đất có tuổi 5.780 - 5.945 năm BP (sau hiệu chỉnh là 6.686 - 6.768 năm BP). Tầng

văn hóa bên trên mộ táng không có dấu vết xáo trộn, hoặc dấu vết đào từ trên bề

mặt di tích xuống. Do đó, các mộ táng phát hiện năm 2018 là của các cư dân Trung

kỳ Đá mới hang C6-1 chôn cất trong thời gian sinh sống tại hang. Sự hiện diện của mộ

táng phản ánh tập tục chôn cất người chết tại nơi cư trú, thể hiện tính chất cư trú - mộ

táng của một bộ phận các di tích thời đại Đá mới tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông. Tuy

nhiên, nếu so với tổng số di tích thì số di tích cư trú - mộ kiểu này không nhiều. Dĩ

nhiên, tại mỗi giai đoạn phát triển, táng thức có sự khác biệt nhất định.

Tính chất xưởng chế tác công cụ đá nổi bật trong các di tích giai đoạn Trung

kỳ Đá mới, hiện hữu rõ nét tại các di tích ngoài trời. Những di tích và di vật thu

được từ các đợt khai quật, thám sát di tích Thôn Tám, Buôn Kiều, Buôn Hằng Năm,

42

Tân Lập, Hố Tre, hang C6-1... cho thấy chức năng của di chỉ thiên về tính chất

xưởng. Tính chất xưởng thể hiện ở số lượng lớn công cụ, phác vật, mảnh tước, đá

nguyên liệu tập trung tại các điểm chế tác với phương thức khai thác nguyên liệu và

chế tác đồ đá tại chỗ. Một điểm đáng chú ý là hạch đá tìm thấy rất ít mà phần lớn lại

là công cụ, phác vật hoàn chỉnh cho thấy cư dân ở đây đã biết lựa chọn các viên/hòn

cuội có dáng hình chuẩn xác, chỉ gia công chút ít là đã có được những thành phẩm

theo ý mình. Tại Thôn Tám và Hố Tre, đã phát hiện các cụm chế tác công cụ đá.

Hoạt động chế tác công cụ đá vì mục đích ban đầu phục vụ nhu cầu cá nhân, cộng

đồng và rộng hơn có thể để trao đổi với các nhóm cư dân khác. Đây là tiền đề hình

thành và phát triển của các công xưởng giai đoạn Hậu kỳ Đá mới sau đó.

2.1.1.5. Tàn tích động, thực vật

Cho đến nay, tài liệu về tàn tích động, thực vật thời đại Đá mới tỉnh Đắk Lắk

và Đắk Nông chủ yếu được tìm thấy trong các di tích giai đoạn Trung kỳ Đá mới.

Đặc biệt do điều kiện môi trường mà tàn tích động thực vật được bảo quản gần như

nguyên vẹn trong di tích hang động núi lửa.

Kết quả phân tích bào tử phấn hoa thu thập trong tầng văn hóa di tích Thôn

Tám, Buôn Kiều, hang C6-1 và hang C6’ cung cấp thông tin cơ bản về khí hậu và

thảm thực vật nơi đây trong khung thời gian tồn tại của cư dân Trung kỳ Đá mới.

Tại Buôn Kiều có 3 mẫu đã được phân tích bào tử phấn, cho kết quả như sau:

Mẫu 1, độ sâu 10cm, có các loại cây thuộc họ Fagaceae, Magnoliaceae,

Euphorbiaceae, Compositae, Poaceae, Polypodiaceae, phấn của các loài

Castanopsis sp., Ilex sp., Chenopodium sp., Lygodium sp. Mẫu 2 ở độ sâu 25cm có

phấn của các họ Magnoliaceae, Poaceae, phấn các loài Typha sp., Polygonum sp.

Mẫu 3 ở độ sâu 47cm (lớp đất chớm laterit) không có hạt phấn hoặc bào tử nào

(Biểu đồ 1) [56, tr.108 - 110 ].

Tại Thôn Tám có 3 mẫu phân tích phấn hoa ở các độ sâu khác nhau; cụ thể:

mẫu 1, độ sâu 10cm tìm thấy các loại phấn của các loài Michelia sp., Plagiogyria

sp. Chenopodium sp. Polypodiaceae, Selaginella sp; mẫu 2, độ sâu 20cm có phấn

của loài Elephantopus sp., Cyathea sp., Microlepia sp., Triletes sp., Lycopodium

sp.; mẫu 3, độ sâu 0,3m tìm thấy phấn họ Poaceae, các loài Chenopodium sp.,

43

Polygala sp., Triletes sp., Lycopodium sp. (Biểu đồ 2) [57, tr.112 – 114]

Kết quả phân tích bào tử phấn hoa 01 mẫu đất trong cụm đá xếp hang C6’

cho thấy: phấn hoa thực vật thân gỗ của các họ/loài cây Fagaceae, Myrica sp., và

Pterocarya sp.; phấn hoa cây thân thảo vượt trội hơn, bao gồm Poaceae, Pilea sp.,

Bromus sp., bào tử dương xỉ cũng rất ít và kém đa dạng [91, tr. 92].

Kết quả phân tích 19 mẫu ở địa tầng hang C6-1 cho thấy thực vật nhiệt đới

chiếm vai trò chủ đạo, rất ít phấn hoa ôn đới và á nhiệt đới. Trong đó, phấn hoa thực

vật thân thảo chiếm 74%, bào tử dương xỉ chiếm 12%, phấn hoa thực vật thân gỗ

8% và không xác định 6%. Theo độ sâu của tầng văn hóa, lớp dưới cùng bào tử

dương xỉ chiếm ưu thế, nhưng nhanh chóng giảm số lượng trong các lớp đất khác

(Biểu đồ 3, và biểu đồ 24) [91, tr.90 -92].

Kết quả phân tích phấn hoa C6-1 có thể chia làm 3 tập hợp (Biểu đồ 5). Tập

hợp 1 (từ bề mặt - độ sâu 45cm) có niên đại trong khoảng từ 4.300 – 5.200 năm BP

cho thấy ở vào khoảng thời gian này thời tiết khá mát mẻ. Tập hợp 2 (từ độ sâu 46

cm đến 155cm), niên đại từ 5.300 - 5.900 năm BP cho thấy khí hậu ấm và ẩm

nhưng vẫn có những khoảng mát xen kẽ ở độ sâu 80 cm và 120 cm. Tập hợp 3 (từ

độ sâu 156cm đến 180cm), niên đại 6.000 năm BP với bào tử dương xỉ chiếm đa số

(65%), phấn hoa thực vật thân thảo chiếm 30% và thân gỗ 5% [91, tr.90 -92].

Các phổ phấn hoa thu thập tại Buôn Kiều, Thôn Tám, hang C6-1 và hang

C6’ cho thấy các loại này thường tồn tại trong giai đoạn Holocene, trong đó phấn

hoa và bào tử của cây nhiệt đới chiếm ưu thế. Các phổ phấn thu thập trong hang

động núi lửa đa dạng chủng loại, chỉ thị môi trường phổ tạp. Do sự khác biệt về tiểu

vùng địa lý nên khí hậu cụ thể cũng như thảm thực vật từng di tích cũng có sự khác

biệt nhất định. Thành phần phấn hoa cho thấy, khu vực di tích khá quang đãng

(open forest) do mức độ che phủ của cây thân gỗ thấp, có thể liên quan đến hoạt

động phát quang của con người thời kỳ đó [58].

Tương ứng với thảm thực vật đa dạng, quần động vật giai đoạn Trung kỳ Đá

mới tại khu vực nghiên cứu cũng khá phong phú. Tại di tích hang C6-1 đã phát hiện

37.559 mảnh di cốt, 9.099 vỏ nhuyễn thể (hình 25). Kết quả phân loài di cốt động

44

vật thu thập tại hang C6-1 và hang C6’ cho thấy sự tồn tại của các nhóm:

- Nhóm động vật ăn cỏ: Hươu/nai - Cervidae, Nai - Rusa unicolor, Hươu vàng

- Axis porcinus và Lợn - Sus scrofa, nhóm Trâu/bò, và Tê giác – Rhinocerotidae....

- Nhóm động vật ăn thịt: gồm các loài sinh sống trên cạn như: Hổ - Panthera

tigris, Lửng lợn - Artonyx collaris, Rái cá vuốt bé - Aonyx cinerea (?), Gấu -

Ursidae, Cầy - Viverridae, Chó – Canidae, rắn và loài lưỡng cư như rùa...

- Loài cá, thuộc nhiều loài cá sông khác nhau....

- Loài chim: chủ yếu các loài chim có kích thước nhỏ.

- Nhóm động vật đặc hữu hang động: Họ dơi quạ - Pteropodidae và Họ dơi

mũi ba lá - Hipposideridae. Di cốt dơi có mặt tại tất cả các lớp đào và chiếm tỷ lệ

17,1% tổng số mảnh di cốt động vật có thể phân loài.

- Loài nhuyễn thể: gồm ốc núi (Cyclophorus sp); các loài nhuyễn thể nước

ngọt như ốc vặn (Sinotaia aeruginosa); loài trai, trùng trục ngắn (Oxynaia

micheloti); hến sông (Corbicula fluminae) [104, tr. 51] [105, tr.85 – 89].

Quần thể động thực vật phản ánh môi trường sinh thái phổ tạp của vùng

nhiệt đới gió mùa. Các loài động vật đa dạng, sinh sống trong nhiều môi trường

(trên cạn, trong hang, dưới nước,...), quy định cách thức tổ chức khai thác tự nhiên

của cư dân cổ theo hướng đa dạng, kết hợp giữa thu lượm, săn bắn, đánh bẫy.

Nhìn chung, các di tích giai đoạn Trung kỳ Đá mới tại khu vực nghiên cứu

có sự thống nhất về không gian phân bố, cấu tạo tầng văn hóa, loại hình di tích

trong tầng văn hóa và tính chất di tích. Các di tích mới chỉ được phát hiện tại vùng

lưu vực sông Srêpốk, phân bố thành từng cụm di tích với những điểm di tích liền

kề, cùng chung không gian, cảnh quan địa lý. Cấu tạo tầng văn hóa các di tích ngoài

trời đơn giản, chủ yếu một lớp văn hóa (trừ tầng văn hóa trong hố thám sát di tích

Buôn Hằng Năm), không có lớp vô sinh phân cách giữa các lớp văn hóa. Tính chất

di tích chủ yếu là cư trú, phản ánh các hoạt động sinh hoạt và chế tác công cụ lao

động tại chỗ. Các mộ táng trong tầng văn hóa di tích hang C6-1 còn cho thấy cư dân

Trung kỳ Đá mới chôn cất người chết ngay tại nơi cư trú với táng thức định hình rõ

ràng. Cư trú trong hang động núi lửa giai đoạn Trung kỳ Đá mới là loại hình cư trú

độc đáo, hiếm thấy ở Việt Nam. Với đặc điểm cấu tạo địa chất và môi trường đặc

45

thù, khác biệt so với môi trường ngoài trời nên có điều kiện bảo tồn nguyên trạng

dấu tích cư dân tiền sử, góp phần phục dựng bức tranh lịch sử văn hóa giai đoạn

Trung kỳ Đá mới tại khu vực nghiên cứu.

2.1.2. Đặc điểm di vật

Di vật giai đoạn Trung kỳ Đá mới địa bàn nghiên cứu phân bố dày đặc cả

trên bề mặt lẫn trong tầng văn hóa, đa dạng về chất liệu, bao gồm: đồ đá, đồ gốm,

đồ xương (Bảng 2.1). Đồ đá là loại hình di vật chiếm tỷ lệ tuyệt đối trong tổng số di

vật khai quật được tại các di tích, chiếm tỷ lệ 90% – 100% tổng số di vật. Đồ gốm

mặc dù số lượng không nhiều nhưng là loại hình di vật được tìm thấy tại 5/7 di tích,

chỉ sau đồ đá về diện phân bố.

Bảng 2.1: Di vật trong tầng văn hóa các di tích Trung Đá mới

Thổ Đồ Năm TT Di tích Đồ đá Đồ gốm Tổng hoàng xƣơng nghiên cứu

Năm 2006 7.381 426 0 0 7.807 1 Thôn Tám Năm 2013 8.486 43 0 0 8.529

2 Buôn Kiều Năm 2015 1.576 184 0 0 1.760

3 Buôn Hằng Năm Năm 2015 18.025 16 0 0 18.041

Năm 2017 676 268 144 0 945 4 Hang C6-1 Năm 2018 1.250 200 85 35 1.485

5 Hang C6' Năm 2018 0 0 0 0 0

6 Tân Lập Năm 2018 477 0 0 0 477

7 Hố Tre Năm 2019 34 1 0 0 35

Tổng cộng 37.905 1.138 229 35 39.377

Nguồn: [20] [28] [43] [91] [93]

2.1.2.1. Đồ đá

Đồ đá là nhóm di vật có loại hình đa dạng, số lượng phong phú và xuất hiện

trong hầu hết các di tích thời đại Đá mới trong khu vực nghiên cứu. Tương tự các di

tích, văn hóa khảo cổ khác thời tiền sử, đặc trưng đồ đá phần nào phản ảnh đặc

trưng di vật của di tích, văn hóa khảo cổ. Đặc trưng đồ đá giai đoạn Trung kỳ Đá

46

mới khu vực nghiên cứu thể hiện qua các đặc trưng sau:

* Chất liệu

Công cụ đá giai đoạn Trung kỳ Đá mới tại khu vực nghiên cứu được chế tác

nguồn chất liệu đa dạng, gồm: đá Basalt, Opal, Silic, Quartz, Quartzite, Chert, Sa

thạch (Sand stone). Trong đó, Basalt và Silic là hai loại chất liệu đá được sử dụng

nhiều nhất, phổ biến nhất trong chế tạo công cụ đá giai đoạn này.

Đá Basalt là loại đá mac-ma phun trào, có tỉ lệ 45-55% thể tích là silica và ít

hơn 10% thể tích là khoáng vật chứa fenspat. Tùy thuộc vào thành vật khoáng vật

và cấu tạo mà có sự biến động về độ cứng giữa các loại đá Basalt. Loại đá Basalt

cấu tạo đặc sít, có tinh thể rất nhỏ hoặc chất nền thủy tinh núi lửa xen kẽ với các hạt

có thể nhìn được có độ cứng lớn hơn so với loại đá Basalt bọt cấu tạo lỗ rỗng.

Công cụ đá Basalt được tìm thấy tại 13/14 di tích Trung kỳ Đá mới (trừ di

tích hang C6’). Tại di tích Thôn Tám, số lượng hiện vật chất liệu đá Basalt chiếm tỷ

lệ 44,44% tổng số công cụ và phác vật khai quật năm 2006 và năm 2013 (Bảng 4).

Trong số các công cụ lao động và phác vật khai quật tại di tích Tân Lập năm 2018,

số lượng hiện vật đá Basalt chiếm tỷ lệ 52,63% (Bảng 6). Tại di tích hang C6-1, tỷ

lệ này lên tới 88,16% trong tổng số công cụ lao động và phác vật khai quật năm

2018 [91] (Bảng 5). Toàn bộ công cụ lao động phát hiện trong vách taluy Hố Tre

năm 2019 đều có chất liệu là đá Basalt. Đá Basalt cấu tạo đặc sít chủ yếu được sử

dụng để chế tác các cộng cụ ghè đẽo không định hình tạo rìa lưỡi như công cụ 1 rìa,

công cụ hai rìa, rìu ngắn, rìu bầu dục... phù hợp đặc tính dễ kiểm soát hình dáng khi

ghè đẽo tạo hình. Mặc dù, khu vực hang động núi lửa C6-1 phổ biến các mảnh đá

Baslte bọt cấu tạo lỗ rỗng có nguồn gốc trần hang nhưng cư dân cổ nơi đây chủ yếu

chế tạo công cụ lao động từ cuội Basalt đặt sít. Đá Basalt lỗ hổng thường được cư

dân Thôn Tám và Hố Tre sử dụng làm hòn kê trong quá trình chế tạo công cụ (hình

35) [20] [28].

Bên cạnh đá Basalt, Silic là chất liệu đá sử dụng chế tác công cụ phổ biến tại

di tích Thôn Tám, di tích Buôn Kiều, Buôn Hằng Năm và Tân Lập nhưng vắng mặt

tại di tích C6-1. Tại di tích Thôn Tám, công cụ và phác vật bằng đá Silic chiếm tỷ lệ

35,13% (Bảng 4) [20] [28]. Tỷ lệ này tại di tích Tân Lập là 15, 79% (Bảng 6) [43].

47

Tại di tích C6-1 và Hố Tre, chưa phát hiện công cụ chất liệu đá Silic [91].

Ngoài chất liệu Basalt và Silic, tại các di tích khác, cư dân cổ còn sử dụng

nguồn nguyên liệu sẵn có tại chỗ. Tại di tích Thôn Tám, bên cạnh đá Basalt, cư dân

cổ còn sử dụng phổ biến đá Chert. Cư dân di tích Tân Lập sử dụng đồng thời đá

Basalt và đá Opal để chế tác công cụ ghè đẽo có rìa tác dụng sắc, mỏng. Đây đều là

những chất liệu đá có nguồn gốc tại chỗ, được lựa chọn, sử dụng trên cơ sở sự phù

hợp giữa đặc tính loại đá với kỹ thuật chế tác và mục đích sử dụng của công cụ.

Trong các di tích giai đoạn Trung kỳ Đá mới, nguồn nguyên liệu đá được

khai thác tại chỗ, sẵn có do cấu tạo địa chất quy định. Nguyên liệu khai thác từ các

bãi cuội ven dòng chảy gần hoặc liền kề di hoặc từ đá gốc xuất lộ trên bề mặt. Tại

địa điểm Thôn Tám, Buôn Kiều, Buôn Hằng Năm, khảo sát thực tế cho thấy tồn tại

các bãi cuội sông tại lưu vực các dòng chảy gần di tích. Kết quả phân tích mẫu di

vật đá bằng phương pháp kích hoạt Neutron (NAA) và xử lý bằng phương pháp

thống kê đa biến đối với 25 mẫu đá di tích giai đoạn Trung kỳ Đá mới Thôn Tám

cho thấy: thành phần hóa học các mẫu đá không giống nhau, minh chứng nguồn

nguyên liệu khai thác đơn lẻ, không khai thác nguyên khối để chế tác công cụ;

thành phần mẫu đá nguyên liệu – phế liệu (mảnh tước) – công cụ đá có sự tương

đồng nhất định chứng tỏ di vật đá có nguồn gốc tại chỗ [53, tr.19 – 30].

* Kỹ thuật chế tác

Kỹ thuật chế tác đồ đá nổi bật là kỹ thuật ghè đẽo hai mặt, trong đó một mặt

ghè chủ yếu, tập trung nhiều vết ghè hơn mặt đối diện. Đa số công cụ hình bầu dục,

rìu ngắn tại Thôn Tám, Buôn Kiều, Buôn Hằng Năm, C6-1 có một mặt ghè chủ yếu

với từ 2 lớp ghè trở lên. Kỹ thuật bổ cuội được sử dụng để tách các mảnh tách có một

mặt phẳng. Các vết ghè hai mặt nhỏ, đều đặn, ghè từ xung quanh rìa hướng tâm, hình

dáng khá chuẩn xác, mặt âm bản vết ghè thường phẳng và nông. Rìa lưỡi tác dụng là

phần tập trung nhiều vết ghè nhất. Kỹ thuật ghè đẽo trên các công cụ giai đoạn Trung

kỳ Đá mới ở khu vực nghiên cứu phảng phất truyền thống Hoà Bình nhưng phát triển

ở trình độ cao hơn (bản vẽ 21-22, hình 26-27) [20] [28] [91] [93].

Kỹ thuật mài đã xuất hiện trong giai này, thể hiện rõ nét nhất qua bộ sưu tập

rìu mài lưỡi di tích Thôn Tám [20]. Kỹ thuật mài trong giai đoạn này là mài hạn chế

48

phần lưỡi, chưa mài lan thân (bản vẽ 24, hình 29). Kỹ thuật mài còn được sử dụng

để mài mũi nhọn bằng xương trong các lớp trên của di tích C6-1 (hình 60) [91]. Bàn

mài được tìm thấy trong tầng văn hóa với số lượng ít, loại hình đơn điệu, chỉ có bàn

mài phẳng, chưa thấy bàn mài rãnh, bàn mài cạnh, bàn mài trong, chất liệu cũng

đơn thuần chủ yếu là đá Cát kết, một số ít đá trầm tích Silic. Điều này cho thấy kỹ

thuật mài đã xuất hiện trong các di tích giai đoạn Trung kỳ Đá mới tỉnh Đắk Lắk và

tỉnh Đắk Nông nhưng còn ở mức độ sơ khai.

Kỹ thuật đục được phản ánh qua các hiện vật đá tròn có lỗ. Trên hai mặt lớn

đối nhau của hiện vật đá tròn có vết đục lõm từ ngoài vào trong, độ vát lớn, hai vết

đục tại hai mặt lệch nhau. Vết đục tương đối tròn; bề mặt đục được mài phẳng.

Tương tự kỹ thuật mài, kỹ thuật đục đã được cư dân Trung kỳ Đá mới sử dụng

nhưng còn ở trình độ hạn chế và mới chỉ nhận thấy trên loại hình đá có lỗ. Một số di

vật đá có lỗ tìm thấy tại di tích Thôn Tám và Buôn Hằng Năm chưa hoàn thiện

(hình 33) [93].

* Loại hình di vật

Di vật đá trong tầng văn hóa được phát hiện tại các di tích giai đoạn Trung

kỳ Đá mới cho đến nay đều chủ yếu là các công cụ lao động hoặc phế vật, phế liệu

của quá trình chế tác công cụ lao động, chưa tìm thấy đồ trang sức. Căn cứ kỹ thuật

chế tác, chúng tôi chia thành các nhóm: (1) Nhóm công cụ ghè đẽo; (2) Nhóm công

cụ mài; (3) Nhóm công cụ/dụng cụ sử dụng không qua chế tác (hòn ghè, hòn kê,

chày nghiền, bàn mài …); (4) Phác vật; (5) Mảnh tước; (6) Hạch đá; (7) Đá nguyên

liệu; (8) Các loại hình khác. Các nhóm loại hình di vật đá thống nhất, tạo thành một

tổ hợp hoàn chỉnh phản ánh quá trình khai thác nguyên liệu, chế tạo công cụ lao

động phục vụ hoạt động sản xuất vật chất và sinh tồn của cư dân giai đoạn Trung kỳ

Đá mới.

Nhóm công cụ ghè đẽo: là những công cụ được chế tác chỉ bằng kỹ thuật

ghè đẽo, không có dấu vết mài. Đây là nhóm công cụ có số lượng nhiều nhất, đa

dạng nhất trong tầng văn hóa các di tích giai đoạn Trung kỳ Đá mới ở khu vực với

737 chiếc, bao gồm: công cụ ghè đẽo thô (công cụ ¼ cuội, công cụ rìa xiên, công cụ

rìa dọc...), dùi (mũi nhọn), công cụ hình bàn là, rìu hình bầu dục, rìu ngắn, công cụ

49

mảnh, cuốc, dao/nạo và mảnh vỡ công cụ (Bảng 2.2.)

Buôn

Thôn

Hang

Buôn

Hố

Tân

Tỷ lệ

Loại hình

Tổng

Hằng

Tám

C6-1

Kiều

Tre

Lập

(%)

Năm

20.63

Công cụ

Công cụ ghè thô

24

9

169

88

25

23

ghè đẽo

0.24

Công cụ hình bàn là

2

2

8.30

Rìu hình bầu dục

7

9

33

2

1

68

16

5.01

Rìu ngắn

28

5

5

1

41

2

0.61

Rìu hình thang

5

5

3.79

Nạo/dao

21

6

31

4

1.59

Cuốc

11

2

13

0.24

Dùi (mũi nhọn)

1

2

1

9.89

22

29

81

Công cụ mảnh

17

1

4

8

39.68

Mảnh vỡ công cụ

319

325

6

Công

cụ

2.08

Rìu mài lưỡi

17

17

mài

4.52

Công

cụ

Bàn mài

32

37

5

không

2.44

Hòn nghiền

3

11

6

20

vết chế tác

0.12

Bàn nghiền

1

1

Loại hình

0.85

Đá tròn có lỗ giữa

6

1

7

khác

Bảng 2.2: Công cụ đá trong tầng văn hóa các di tích Trung Đá mới

128

67

432

174

3

15

819

100

Tổng cộng

Nguồn: [20] [28] [43] [93] [91]

Công cụ ghè thô là loại hình chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng số các công cụ

lao động trực tiếp của giai đoạn Trung kỳ Đá mới trong khu vực nghiên cứu (169

chiếc, chiếm tỷ lệ 20.63% tổng số công cụ đá); bao gồm các loại hình: công cụ rìa

xiên, công cụ rìa ngang, công cụ rìa dọc, công cụ mũi nhọn.... Công cụ ghè đẽo

truyền thống có mặt trong tầng văn hóa hầu hết các di tích Trung kỳ Đá mới (riêng

di tích Hố Tre tuy không phát hiện công cụ ghè đẽo trên vách taluy nhưng rải rác

trên bề mặt). Đây là nhóm các công cụ được ghè đẽo một phần rìa nhằm tạo lưỡi tác

50

dụng, phần lớn diện tích còn lại được giữ nguyên theo hình dáng viên cuội hoặc

mảnh đá gốc. Công cụ ghè đẽo tạo rìa lưỡi gợi lại phong cách kỹ thuật tương đồng

nhưng có đặc điểm hình dáng và trình độ kỹ thuật cao hơn so với công cụ ghè đẽo

văn hóa Sơn Vi thuộc giai đoạn Hậu kỳ Đá cũ và công cụ ghè đẽo văn hóa Hòa

Bình. Tại Thôn Tám và Hố Tre phát hiện công cụ ¼ cuội có hình dáng và kỹ thuật

chế tác tương tự công cụ ¼ cuội phổ biến trong văn hóa Sơn Vi. Đây có thể là hiện

tượng bảo lưu truyền thống kỹ thuật trong chế tạo và sử dụng công cụ đá (bản vẽ 17

– 20, hình 31).

Bên cạnh nhóm công cụ ghè đẽo rìa lưỡi; rìu bầu dục và rìu ngắn là những

công cụ ghè đẽo có số lượng di vật nhiều và được tìm thấy tại tất cả các di tích

thuộc giai đoạn Trung kỳ Đá mới. Rìu bầu dục gồm 02 tiểu loại hình: tiểu loại hình

rìu bầu dục ngắn/gần tròn và tiểu loại hình rìu bầu dục dài. Rìu ngắn có hình chữ

“U”, tương tự rìu bầu dục nhưng bị chặt/bổ làm đôi ngay chính giữa thân công cụ.

Về mặt hình dáng và kỹ thuật của những hiện vật này gợi lại hình dáng công cụ và

kỹ thuật ghè đẽo truyền thống của văn hóa Hòa Bình, nhưng đã phát triển ở mức

cao hơn, đó là sự phổ biến kỹ thuật ghè hai mặt. Một số loại hình như rìu bầu dục

và rìu ngắn tại của các di tích trong khu vực phần lớn được ghè hai mặt; trong đó

một mặt ghè chủ yếu, tập trung nhiều vết ghè, mặt đối các vết ghè thưa hơn, đóng

vai trò tăng thêm độ mỏng và sắc của rìa. Hình dáng công cụ khá chuẩn xác, rìa lưỡi

cũng được tu chỉnh khá cẩn thận (bản vẽ 16, bản vẽ 21 – 26, hình 26 – 28).

Công cụ hình bàn là: có 2 chiếc, được phát hiện trong tầng văn hóa hố khai

quật hang C6-1. Hiện vật phát hiện năm 2017, được chế tác từ đá Basalt hình khối

tam giác, thuôn nhọn về phía hai đầu; một mặt lớn cong lồi, còn vỏ cuội; hai mặt

đối có các vết ghè tại rìa cạnh, hướng tâm, ghè lan thân, bóc lớp vỏ cuội, tạo thành 3

đường rìa mới, trong đó 1 rìa mỏng, chạy dài, có vết sử dụng dạng dao cắt. Chiếc

còn lại ký hiệu 18.C6-1.C2.L2.1: 16, phát hiện năm 2018, màu trắng, nguyên vẹn,

hình bầu dục, ghè tu chỉnh từ mảnh tước ban đầu đá Quartze. Một mặt lớn cong lồi,

còn một phần vỏ cuội. Mặt đối là mặt âm bản mảnh tước, phẳng. Một phần rìa cạnh

có các vết ghè tu chỉnh tạo thành một đoạn rìa tác dụng. Rìa tác dụng lượn cong,

51

mòn vẹt do sử dụng (bản vẽ 23, hình 30) [91].

Cuốc đá: Trong tầng văn hóa di tích Buôn Kiều, Buôn Hằng Năm thu được

13 chiếc cuốc đá. Cuốc đá tại 02 di tích trên được những người khai quật phân

thành các tiểu loại: cuốc chuôi lớn, cuốc tứ giác, cuốc bầu dục. Qua so sánh, một số

chiếc cuốc đá Buôn Kiều, Buôn Hằng Năm có chất liệu, hình dáng và kỹ thuật chế

tác tương tự loại hình công cụ ghè thô hoặc rìu bầu dục trong cùng di tích. Độ cong

khum của thân cuốc không rõ ràng. Kích thước công cụ lớn gia tăng hiệu quả sử

dụng công cụ trong việc chặt, xới đất.... Tuy nhiên, việc phân nhóm các công cụ này

vào loại hình “cuốc” cần có xem xét thêm trên cơ sở các tiêu chí rõ ràng [93].

Nhóm công cụ mài: gồm 17 chiếc rìu mài lưỡi trong tầng văn hóa di tích

Thôn Tám và 1 chiếc của hang C6-1. Rìu mài lưỡi hoặc chế tác từ viên cuội nguyên

hình bầu dục hoặc từ các mảnh tách hình bầu dục. Chất liệu, hình dáng và kỹ thuật

chế tác tương tự loại hình rìu bầu dục nhưng phần lưỡi được mài diện hẹp (bản vẽ

24, hình 29). Đây có thể coi là loại hình công cụ đặc trưng của di tích Thôn Tám và

rộng hơn là giai đoạn Trung kỳ Đá mới tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông [20] [28].

Nhóm công cụ/dụng cụ sử dụng không qua chế tác: Cư dân giai đoạn

Trung kỳ Đá mới tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông còn tận dụng những viên cuội, tảng đá

tự nhiên, không qua chế tác, tu chỉnh, sử dụng làm hòn ghè, hòn kê, bàn mài... tham

gia trực tiếp vào hoạt động chế tác công cụ lao động bằng đá; hoặc làm chày, bàn

nghiền ... dùng để chế biến thực phẩm, phục vụ cho nhu cầu thường nhật. Các công

cụ này được phát hiện tại tất cả các di tích giai đoạn Trung kỳ Đá mới (bản vẽ 29 –

30, hình 35).

So với hòn ghè, hòn kê; bàn mài phân bố hạn chế trong tầng văn hóa các di

tích giai đoạn Trung kỳ Đá mới. Tại di tích hang động C6-1, các bàn mài tìm thấy

trong các hố đất đen tại lớp mặt, hoặc trong lớp đào 1.2 thuộc mức văn hóa trên và

01 chiếc tại lớp đào L3.1, niên đại từ 5.070 ± 20BP – 4.680 ± 20BP (niên đại sau

hiệu chỉnh là 5.391 – 5.815BP) [91]. Tại di tích Thôn Tám, bàn mài và rìu mài lưỡi

được tìm thấy trong toàn bộ các lớp đào của hố khai quật [20] [28].

Phác vật công cụ: là những sản phẩm chưa hoàn thiện hoặc bị lỗi trong quá

trình chế tác công cụ. Tổng cộng 281 chiếc được tìm thấy trong tầng văn hóa các di

52

tích Buôn Kiều (57 chiếc), Buôn Hằng Năm (95 chiếc), Thôn Tám (124 chiếc),

hang C6-1 (05 chiếc) [20] [28] [91] [93]. Chất liệu chủ yếu vẫn là Silic, Basalt...

tương đồng chất liệu của các công cụ sản xuất hoàn chỉnh trong di tích. Các phác vật

đều đang trong công đoạn ghè tạo hình, ghè rất định hình và có sự cân đối về hình

dáng. Đây đều là các phác vật của các loại hình công cụ sản xuất trực tiếp như phác vật

rìu bầu dục và phác vật các công cụ ghè đẽo rìa cạnh như: phác vật công cụ rìa dọc,

phác vật công cụ hai rìa, hoặc phác vật công cụ ghè đẽo chưa định hình... Một số chiếc

bị gãy vỡ, khó khăn trong việc phân loại. Trong nhóm phác vật rìu bầu dục tìm thấy tại

Thôn Tám xuất hiện một số chiếc thót lại ở một đầu, có xu hướng tạo chuôi/vai.

Những yếu tố kỹ thuật này thể hiện sự phát triển về loại hình di vật, hay nói cách

khác là sự tiến triển về mặt loại hình từ rìu hình bầu dục lên có chuôi/vai. Đây cũng

là những ghi nhận sớm nhất về kỹ thuật tạo chuôi/vai rìu ở khu vực nghiên cứu (bản

vẽ 27 – 28, hình 34) .

Mảnh tước: Trong các di tích giai đoạn Trung kỳ Đá mới, số lượng mảnh

tước nhiều hơn gấp nhiều lần số lượng các loại hình hiện vật khác. Đáng chú ý, đại

đa số các mảnh tước trong các di tích đều là loại tước thứ sinh, mặt lưng và diện ghè

không có vỏ đá tự nhiên; dăm tước kích thước rất nhỏ (<1cm), rất ít tước ban đầu.

Tại di tích Buôn Kiều, số lượng mảnh tước thứ sinh và dăm tước là 3.600 mảnh,

gấp 54,6 lần số lượng mảnh tước ban đầu (66 mảnh). Tại di tích Buôn Hằng Năm,

tỷ lệ giữa mảnh tước thứ sinh, dăm tước so với mảnh tước ban đầu là 133 lần

(14.771/111mảnh). Tỷ lệ này tại di tích Thôn Tám là 36,2 lần [20] [28] [93].

Chất liệu mảnh tước tương đồng chất liệu của công cụ đá. Về mặt kích

thước, đa số các mảnh tước là loại kích thước vừa và hơi nhỏ, ít mảnh tước lớn. Tại

di tích Thôn Ba khai quật năm 2013, tìm thấy 7.245 mảnh tước; trong đó, số lượng

mảnh tước có kích thước trên 5cm là 177 mảnh (tỷ lệ 2,4%), kích thước 5 - 4cm là

414 mảnh (tỷ lệ 5,7%), kích thước 2,5 – 4cm là 1.136 mảnh (tỷ lệ 15,7%), kích

thước dưới 2,5cm là 5.518 mảnh (tỷ lệ 76.2%) [20, tr. 37].

Về mặt loại hình, mảnh tước trong các di tích đều là dạng mảnh, hiếm có

phiến tước như thường thấy trong các di chỉ xưởng đá opal hay sét bột kết giai đoạn

53

Hậu kỳ Đá mới.

Sự hiện diện và chiếm tỷ lệ lớn của các mảnh tước thứ có kích thước dưới

4cm trong tầng văn hóa các di tích Trung kỳ Đá mới chứng tỏ việc chế tác và hoàn

thiện công cụ đá được cư dân Trung kỳ Đá mới thực hiện ngay tại di tích từ những

nguyên liệu đã qua sơ chế tại nơi khai thác. Tại di tích Thôn Tám, nguồn nguyên

liệu này được khai thác và sơ chế tại khu vực suối Đắk Rít cách đó khoảng 3 km

đường chim bay [20, tr.27]; tại di tích Buôn Kiều, Ea Chổ và Buôn Hằng Năm, nơi

khai thác và sơ chế nguyên liệu là khu vực bãi cuội sông Krông Bông cách di tích

gần 200m; tại di tích Tân Lập là bãi cuội ven suối Đắk Gằn cách di tích 100m.

Hạch đá không phổ biến trong các di tích giai đoạn Trung kỳ Đá mới, mới

tìm thấy 37 hiện vật trong tầng văn hóa di tích Buôn Kiều, Buôn Hằng Năm, hang

C6-1 và Tân Lập. Chất liệu hạch đá chủ yếu là đá Basalt, tại Tân Lập còn có những

hạch đá Opal và Quartz. Hạch đá hình đa giác, ghè nhiều mặt, diện ghè tách mảnh

hẹp, không chuẩn bị trước. Các hạch đá di tích Tân Lập kích thước nhỏ.

Đá nguyên liệu: Phần lớn đá nguyên liệu là đá cuội, chất liệu đá Basalt, thứ

đến là đá Silic; ngoài ra tại Thôn Tám và Tân Lập phổ biến cuội Opal, đá Chert và

đá Quartz. Đây là những chất liệu đá có sẵn tại khu vực. Hai bên bờ và lòng các

dòng chảy sông Krông Bông (khu vực di tích Buôn Kiều, Buôn Hằng Năm, Buôn

Ea Chổ), sông Đắk Gằn (di tích Tân Lập), hệ thống sông Đắk R’Tít (cách cụm di

tích Thôn Tám gần 3km) là những bãi cuội sông, có hình dáng và kích thước phù

hợp việc chế tác công cụ lao động của cư dân tiền sử. Tuy số lượng ít ỏi nhưng đá

nguyên liệu có mặt ở tất cả các lớp đào trong hố khai quật và phong phú về chất

liệu. Bề mặt một số viên đá nguyên liệu có vết ghè/vỡ.

Các loại hình khác gồm đá tròn có lỗ giữa và mảnh cúc đá hóa thạch. Đá tròn

có lỗ giữa hay còn gọi là đá đục lỗ giữa hình tròn, hoặc đá hình bánh xe đã được tìm

trong tầng văn hóa di tích Buôn Kiều (01 chiếc) và di tích Buôn Hằng Năm (06

chiếc) và rải rác trên bề mặt di tích Thôn Tám. Đặc điểm chung loại di vật này là

hình đĩa hoặc hình cầu dẹt, bề mặt nhẵn, đục hoặc khoan lỗ thủng ở giữa trung tâm.

Loại di vật này ở các di tích Trung kỳ Đá mới thường không được gia công cẩn

thận, còn khá nguyên hình dáng tự nhiên, hình bầu dục hoặc các hình đa giác góc

54

cạnh. Lỗ được đục từ hai mặt, không tạo ở giữa mà lệch sang một đầu hoặc rìa

cạnh. Một số chiếc, lỗ vẫn đang đục dở chưa hoàn thiện. Đường kính ngoài đá tròn

có lỗ từ 9 – 11 cm, đường kính mặt lỗ từ 4 – 5cm, đường kính lỗ không lớn hơn

2cm. Chức năng loại hình hiện vật đá có lỗ hiện chưa có sự thống nhất giữa các nhà

nghiên cứu, mặc dù nhiều ý kiến cho rằng đá có lỗ có thể là đá gia trọng cho gậy

chọc lỗ tra hạt; bánh đà của mũi khoan; vật tăng trọng tạo lực đàn hồi của máy dệt

thủ công, .... (hình 33).

Ngoài ra, trong hố khai quật di tích Thôn Tám khai quật năm 2006 đã phát

hiện 06 bản Cúc đá hóa thạch, thuộc hai nhóm có tên khoa học là Transkites, niên

đại cách ngày nay gần 100 triệu năm, có nguồn gốc từ đại dương. Một trong số

những mẫu Cúc đá này đã có vết mài (hình 36). Mục đích thu thập và sử dụng các

mẫu Cúc đá hóa thạch của cư dân Thôn Tám cổ hiện vẫn còn chưa rõ.

Với số lượng phong phú, phân bố trên diện rộng, đa dạng loại hình, thực

hiện nhiều chức năng trong hoạt động lao động sản xuất trực tiếp, phản ánh tư duy

và trình độ kỹ thuật chế tác đá đương thời, các công cụ ghè đẽo, rìu bầu dục, rìu

ngắn, rìu mài lưỡi, công cụ hình bàn là có thể coi là những di vật đặc trưng của các

di tích giai đoạn Trung kỳ Đá mới tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông. Ngoài ra, các

loại hình công cụ khác như công cụ mảnh, công cụ hạch, dao/nạo, chày/nghiền, bàn

nghiền, ... góp phần làm phong phú thêm bộ công cụ lao động của các cư dân giai

đoạn Trung kỳ Đá mới nhưng không thể hiện rõ đặc trưng phân biệt với các nhóm

di vật tương tự tại các di tích thời đại Đá mới khác trong khu vực.

Nhìn chung, đồ đá trong các di tích giai đoạn Trung kỳ Đá mới hai tỉnh Đắk

Lắk và Đắk Nông có nguồn gốc tại chỗ, thống nhất với nhau tạo thành một tập hợp

hoàn chỉnh với những đặc điểm riêng. Nhóm công cụ lao động trực tiếp, mà cụ thể

là nhóm rìu hình bầu dục, rìu ngắn, rìu mài lưỡi với mức độ phổ biến trong các di

tích, thể hiện rõ nét đặc trưng kỹ thuật chế tác đá đương thời nên có thể coi là những

loại hình di vật đá phản ánh đặc trưng của đồ đá trong các di tích ở khu vực nghiên

cứu giai đoạn trước thời điểm thống trị của các loại hình rìu bôn mài toàn thân.

Hình dáng và kỹ thuật chế tác những loại hình di vật này có nhiều nét giống truyền

thống Hoà Bình nhưng ở trình độ phát triển cao hơn. Bên cạnh nét truyền thống

55

được bảo lưu, những yếu tố phát triển mới (xu hướng sử dụng kỹ thuật mài, xuất

hiện cuốc và đá có lỗ tròn....) đã bắt đầu nảy sinh ngay trong bộ sưu tập di vật đá

các di tích giai đoạn Trung kỳ Đá mới khu vực nghiên cứu.

2.1.2.2. Đồ gốm

Đối ngược với đồ đá có số lượng nhiều, phong phú về loại hình; số lượng đồ

gốm phát hiện tại các di tích giai đoạn Trung kỳ tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông không

nhiều. Đa số đồ gốm phát hiện tại di tích đều là mảnh gốm vỡ, hiếm đồ gốm còn

nguyên vẹn.

Tại các di tích giai đoạn Trung kỳ Đá mới, tổng cộng 1.138 mảnh gốm được

tìm thấy trong địa tầng các di tích Thôn Tám, Buôn Kiều, Buôn Hằng Năm, Hang

C6-1, Hố Tre; chiếm tỷ lệ 1,32% trong tổng số 85.901 di vật giai đoạn Trung kỳ Đá

mới. Tại di tích Buôn Kiều, mảnh gốm phát hiện chủ yếu tại lớp mặt, thưa thớt dần

khi xuống các lớp đào sâu hơn và tại lớp 3 chỉ còn 3 mảnh (hình 64). Mảnh gốm chỉ

được tìm thấy tại lớp mặt hố thám sát Buôn Hằng Năm. Trong tầng văn hóa hố khai

quật hang C6-1, mảnh gốm được tìm thấy tại mức văn hóa trên cùng với 01 mũi tên

đồng, từ lớp 1.1 đến lớp 2.2 (5 lớp đào trên cùng); tập trung chủ yếu trong lớp 1.1,

lớp 1.2 và trong các hố đất đen xuất lộ ngay từ hai lớp đào đầu tiên. Mảnh gốm

cũng chỉ được sưu tập trên bề mặt Hố Tre với số lượng ít ỏi. Tại các di tích Buôn

Kiều, Buôn Hằng Năm, hang C6-1 và Hố Tre, các mảnh gốm rải rác ở trên bề mặt

hoặc trong các lớp đào trên cùng, hoặc trong các hố đất đen xuất lộ ngay từ lớp đào

trên cùng lẫn với hiện vật giai đoạn sau. Chất liệu gốm không đồng nhất, gồm: gốm

thô, gốm mịn và gốm rất mịn [91] [93]. Do đó, ngoài Thôn Tám, đồ gốm ở các di tích

khác có thể là gốm của giai đoạn sau lẫn vào các lớp trên cùng của tầng văn hóa.

Tại di tích Thôn Tám, các mảnh gốm phân bố không đều trong tầng văn hóa,

tìm thấy tại tất cả các lớp đào cùng với các công cụ đá điểm hình giai đoạn Trung

kỳ Đá mới như công cụ hình bầu dục, rìu mài lưỡi… (hình 63). Bên cạnh đó, chất

liệu, kỹ thuật chế tác và hoa văn trang trí tại gốm di tích Thôn Tám tìm thấy trong

các lớp đào tương đồng và thống nhất nhau, mang tính chất gốm sớm trước giai

đoạn Hậu kỳ Đá mới. Vì vậy, gốm trong tầng văn hóa di tích Thôn Tám có tính

đại diện cho gốm đất nung giai đoạn Trung kỳ Đá mới tại khu vực nghiên cứu

56

[20] [28].

* Chất liệu:

Gốm giai đoạn Trung kỳ Đá mới tại khu vực nghiên cứu thô, bở, khá mỏng.

Chất liệu gốm giai đoạn Trung kỳ Đá mới đều làm từ đất sét nhưng chưa lọc kỹ, pha

lẫn sạn sỏi nhỏ. Xương gốm chủ yếu là màu nâu sẫm. Áo gốm chủ yếu màu nâu đỏ

hoặc xám đen, một số ít màu xám trắng, được vuốt nhẵn nhưng vẫn lộ rõ các hạt cát

mịn pha lẫn. Độ nung gốm thấp, độ kết dính giữa các nguyên liệu trong xương gốm,

giữa áo gốm và xương gốm thấp, kết hợp điều kiện bảo quản ngoài trời nên rất

nhiều mảnh gốm bị bong tróc lớp áo gốm. Trên bề mặt một số mảnh gốm có dấu

than tro bám, chứng tỏ chức năng đun nấu của di vật gốm. Đồ gốm di tích Thôn

Tám có độ dày <0,5cm [20] [28].

* Loại hình:

Loại hình gốm tại Thôn Tám khá đơn điệu, chúng có thể thuộc về một số đồ

đựng, đồ sinh hoạt có đường kính thân không lớn, khoảng 15- 20 cm, độ dày chủ

yếu từ 0,3 – 0,5cm.

Các loại miệng đều thuộc loại hình miệng thẳng, miệng loe cong hoặc loe

xiên, mép miệng ve tròn, bản miệng hẹp, không trang trí hoa văn ở mặt trong thành

miệng. Tại Thôn Tám không thấy dấu hiệu của các loại bát bồng, vò hoặc chum lớn

[20]. Mảnh đáy/đế chiếm số lượng ít nhất, gồm phần đáy và đế dính liền nhau. Đế

thấp, mép ve tròn, thẳng hoặc hơi loe nhẹ không hoa văn.

* Kĩ thuật:

Đồ gốm giai đoạn này đều được nặn bằng tay, không chế tạo bằng bàn xoay,

bề mặt vuốt nhẵn nhưng không tạo thành lớp miết láng như đồ gốm giai đoạn sau.

Đồ gốm giai đoạn này có thể được nung ngoài trời, nhiệt độ nung thấp nên độ cứng

của gốm không cao.

* Hoa văn trang trí:

Hoa văn trang trí hiếm thấy vì lớp vỏ gốm đã bị bong tróc. Trong tổng số 426

mảnh gốm khai quật năm 2006 tại Thôn Tám, chỉ tìm thấy 5 mảnh còn giữ lại được

lớp áo gốm có trang trí văn thừng [20]. Tại di tích Buôn Kiều, chỉ có 24/148 mảnh

trong hố thám sát có chất liệu và kỹ thuật tương tự gốm Thôn Tám còn giữ được

57

hoa văn trang trí, thuộc loại hình văn chải [93, tr.50 - 51].

Hoa văn trang trí chủ yếu thể hiện trên mặt ngoài mảnh thân và đáy, không

tìm thấy trên mảnh miệng. Hoa văn trang trí là hoa văn kỹ thuật, gồm: Văn thừng và

văn chải. Các kiểu văn khắc vạch, các đồ án hoa văn kết hợp phức tạp hay đánh

bóng bề mặt đen ánh chì chưa được tìm thấy trên đồ gốm trong các di tích giai đoạn

Trung kỳ Đá mới tại địa bàn nghiên cứu (hình 72)

Văn thừng chủ yếu được thể hiện trên thân và đáy. Văn thừng thuộc loại hình

văn thô và thưa, dấu thừng tạo thành những đường song song, gần song song hoặc

chồng chéo, rãnh rộng, thường không sâu.

Văn chải: được tạo bằng loại công cụ có răng, chải thành những đường ngắn,

thẳng, mịm. Mảnh gốm quá nhỏ nên rất khó hình dung ra đồ án cụ thể của loại hình

hoa văn này.

Nhìn chung, gốm giai đoạn Trung kỳ Đá mới tại khu vực nghiên cứu không

những ít về số lượng, mà còn đơn điệu về loại hình và hoa văn. Chính vì vậy, đây

có thể coi là một trong những loại gốm sớm nhất hiện biết ở Tây Nguyên trước Đá

mới Hậu kỳ.

2.1.2.3. Đồ xương

Đồ xương được tìm thấy tại các di tích giai đoạn Trung kỳ Đá mới trong

hang động núi lửa Krông Nô, cụ thể là di tích hang C6-1. Các di tích hang động núi

lửa Krông Nô là những địa điểm có điều kiện thuận lợi trong bảo tồn nguyên vẹn di

cốt người, di cốt động vật và vỏ nhuyễn thể. Nhiệt độ và độ ẩm trong hang luôn duy

trì ở mức độ nhất định, thấp hơn so với ngoài trời. Cấu tạo miệng hang hạn chế các

tác động lý hóa do tác động của ánh sáng, nước mưa, gió xâm nhập. Kết quả phân

tích 04 mẫu trầm tích hang C6-1 năm 2017 bằng phương pháp huỳnh quang tia X –

XRF 1800 Shimadzu (phân tích thành phần hóa học) và bằng phương pháp nhiễu xạ

tia X -XRD Siemens D5005 - xử lý hàm lượng các pha khóang vật bằng phần mềm

BGMN-Rietveld (phân tích thành phần khóang vật) cho thấy: Thành phần hóa học

giữa các lớp trầm tích theo độ sâu của địa tầng hang động này biến động không

nhiều. Đáng kể nhất là CaO có hàm lượng cao (50,51 – 60,10%) và SiO2 = 8,70 -

13.03%; các thành phần phụ như Al2O3, FeO*, P2O5, MgO có hàm lượng <5% và

58

không thay đổi nhiều giữa các lớp. Hợp phần khóang vật chủ yếu ở các tầng trầm

tích chứa di vật khảo cổ là các khóang vật carbonat, trong đó calcit là pha khóang

vật có hàm lượng cao nhất, từ >70% – >90% [68, tr. 54 -55]. Đây là lý do các di cốt

người và động vật cùng vỏ nhuyễn thể được bảo tồn nguyên vẹn, cứng, chắc trong

tầng văn hóa các di tích hang động núi lửa. Với các di tồn xương động vật nằm bên

trên hoặc trong cụm đá xếp mặc dù được bảo tồn nhưng bở, vụn hơn.

Đồ xương được tìm thấy tại hang C6-1 là các công cụ mũi nhọn, gồm 35

chiếc. Đây là loại hình di vật động đáo trong các di tích thời tiền – sơ sử tại Tây

Nguyên. Công cụ xương bắt đầu xuất hiện trong các lớp đào thuộc khung niên đại

5070±20BP - 5760±25BP (niên đại sau hiệu chỉnh là 5.815BP – 6.560BP), phân bố

rải rác cùng các mảnh xương động vật. Công cụ xương là những mũi nhọn làm từ

những mảnh xương dài của thú móng guốc lớn như hươu, nai.., hoặc xương chi

động vật loại nhỏ, hình trụ dài, thẳng, phần nhiều đã bị gãy chỉ còn phần mũi, chiều

dài còn lại khoảng từ 1- 6cm. Công cụ có một đầu mài nhọn và có dấu vết sử dụng

(hình 60) [91, tr. 75 – 76].

2.1.3. Niên đại và các giai đoạn phát triển

2.1.3.1. Niên đại Tính đến nay, có tổng cộng 17 kết quả phân tích niên đại C14 mẫu than lẫn

trong đất thuộc 4 di tích đã được công bố, cụ thể: 02 mẫu thuộc hố khai quật di tích

Buôn Kiều năm 2015; 01 mẫu thuộc hố thám sát di tích Buôn Hằng Năm năm 20151; 13 mẫu than thuộc hố khai quật di tích hang C6-1 năm 2017 và năm 2018; 01 mẫu thuộc hố khai quật di tích hang C6’2 (Bảng 7)

Các mẫu than tại di tích Buôn Kiều và Buôn Hằng Năm là những mẫu phân tích niên đại C14 đầu tiên tại địa bàn nghiên cứu. Các mẫu than di tích Buôn Kiều và

Buôn Hằng Năm đều thu thập trong các lớp trên cùng của tầng văn hóa, biểu thị những mốc niên đại muộn nhất của di tích. Niên đại phân tích C14 trong khoảng

59

4.500 – 4.200 năm BP, cụ thể: mẫu di tích Buôn Kiều ký hiệu 15.BK.H2.L1 (lớp 1 Các mẫu than di tích Buôn Kiều và Buôn Hằng Năm do phòng Thí nghiệm và Xác đinh Niên đại thuộc Viện Khảo cổ học thực hiện. Tuổi 14C theo tiêu chuẩn T ½ mới (5.730 ± 30 năm), kết hợp các hiệu chỉnh thế kỳ theo H.N. Michael và E.K.Ralph tại Hội nghị quốc tế lần thứ 8 và chương trình hiệu chỉnh quốc tế INT-98 về xác định tuổi bằng phương pháp Cacbor phóng xạ 2 Các mẫu than di tích C6-1 và di tích C6’ do Phòng thí nghiệm Radiocarbon của Viện Địa lý RAS (Nga) và Phòng thí nghiệm IGAN của Trung tâm Nghiên cứu Đồng vị ứng dụng, Đại học Georgia (Hoa Kỳ) tiến hành gia công, phân tích niên đại 14C

L1) với độ tin cậy 95,4% là 4.500 – 3.300 năm BP (với độ tin cậy 68,2% là 4.200 -

3.500 năm BP); mẫu di tích Buôn Kiều 15.BK.H1.L2 (lớp 2) với độ tin cậy 95,4%

là 4.200 – 2.900 năm BP (với độ tin cậy 68,2% là 3.900 - 3.250 năm BP); mẫu di

tích Buôn Hằng Năm ký hiệu 15.BHN.TS1.L2 (lớp L2) với độ tin cậy 95,4% là

4.300 – 3.000 năm BP (với độ tin cậy 68,2% là 3.900 - 3.250 năm BP) (bảng 7). Vì

hạn chế lượng mẫu nên chưa thể hình thành một khung niên đại hoàn thiện theo

diễn biến tầng văn hóa.

Niên đại khởi đầu của những người cư trú trong hang C6-1 hiện biết là

6.090±25 năm BP (ứng với niên đại sau hiệu chỉnh là 6.954 năm BP). Niên đại

muộn nhất ở lớp đào thứ 2 hang C6-1 là 4.680±20 năm BP (sau hiệu chỉnh là 5.391 năm BP). Như vậy, kết quả phân tích C14 cho biết, cư dân cổ cư trú trong hang C6-1

là tiên tục từ khoảng 7.000 năm đến 5.000 năm trước. Đây là khung thời gian tương

đương với Trung kỳ Đá mới trong phân kỳ khảo cổ thời đại Đá Việt Nam (bảng 8)

[91, tr.3 – 14].

Trên cơ sở nghiên cứu cấu trúc các lớp đất, đặc điểm di vật, phân chia các

lớp văn hóa và áp với niên đại C14, nhóm khai quật phân chia thành 2 giai đoạn văn

hóa tiền sử hang C6-1 (hình 12):

- Giai đoạn sớm: từ độ sâu 35cm đến nền hang, dày trung bình 150cm. Hiện

vật đá tồn tại chủ yếu công cụ ghè đẽo bằng kỹ thuật ghè hai mặt, tạo ra các loại

hình như rìu hình bầu dục, công cụ hình đĩa, rìu ngắn, cùng công cụ cắt/nạo, công

cụ mảnh tước, hòn ghè, chày, hòn kê và ít bàn mài. Bên cạnh công cụ đá, tìm thấy

công cụ mũi nhọn xương mài; di cốt động vật lớn, vỏ nhuyễn thể. Về di tích có mặt

3 mộ táng được chôn theo tư thế ngồi bó gối (Mộ 2), nằm co bó gối (Mộ 1), các

xương xếp chồng lên nhau (Mộ 3). Tổ hợp hiện vật và táng thức cho thấy lớp này

mang tính chất Trung kỳ Đá mới, còn bảo lưu đậm nét các truyền thống cư trú, kiếm

sống, kỹ thuật và táng thức kiểu văn hóa Hòa Bình nhưng mức phát triển cao hơn.

Lớp văn hóa này có 11 niên đại C14, theo trật tự từ 6.090±25 năm BP đến 5.110±20

năm BP (sau hiệu chỉnh là từ 6.954 năm BP đến 5.815 năm BP).

- Giai đoạn muộn là những lớp đào trên cùng, dày 30-35cm. Trong mức này,

60

ngoài một ít công cụ đá cuội ghè đẽo không định hình, công cụ hình bầu dục với kỹ

thuật ghè định hình hoàn thiện, bàn mài, chày, bàn nghiền, mảnh tước và các mảnh

gốm đất nung. Trong lớp văn hóa này có mặt xương răng các loài động vật nhỏ, vỏ nhuyễn thể. Lớp này có hai niên đại C14 là 5.070±20 năm BP và 4.680±20 năm BP

(sau hiệu chỉnh là 5.815 năm BP và 5.391 năm BP) [91, tr.87].

Kết quả phân tích 13 mẫu niên đại hang C6-1 thu thập trong hai năm 2017 và

năm 2018 không thể hiện sự xáo trộn giữa các lớp đào, tạo thành một khung niên

đại hoàn chỉnh, thống nhất và có giá trị tham chiếu trong nghiên cứu thời đại Đá

mới ở Tây Nguyên.

Tại hang C6’, kết quả phân tích mẫu than thu được trong cụm đá xếp

18.C6’.F2 là 4.160±20 năm BP, sau hiệu chỉnh là 4.707 năm BP. Mức niên đại này

muộn hơn kết quả mẫu muộn nhất 18.C6-1.C4.L1.2 (4.680±20 năm BP, sau hiệu

chỉnh là 5.391 năm BP), có thể tương đồng hoặc muộn hơn so với niên đại lớp mặt

di tích hang C6-1 (bảng 8).

Như vậy, kết quả phân tích C14 từ 17 mẫu than thu thập từ tầng văn hóa các

di tích hang C6-1, hang C6, Buôn Kiều và Buôn Hằng Năm, cho khung niên đại tồn

tại của các di tích giai đoạn Trung kỳ Đá mới tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông là từ

7.000 – 4.000 năm BP.

2.1.3.2. Các giai đoạn phát triển

Dựa trên cơ sở so sánh loại hình di vật, kỹ thuật giữa các di tích, tham chiếu khung niên đại C14 đã phân tích tại hang C6-1, hang C6, Buôn Kiều và Buôn Hằng

Năm, chúng tôi bước đầu phân kỳ giai đoạn Trung kỳ Đá mới trên địa bàn tỉnh Đắk

Lắk và tỉnh Đắk Nông thành các mức sau:

- Giai đoạn sớm: là thời điểm khởi đầu của giai đoạn Trung kỳ Đá mới tại

khu vực nghiên cứu. Hiện vật đá chủ yếu là công cụ ghè đẽo bằng kỹ thuật ghè hai

mặt, tạo ra các loại hình như rìu bầu dục, công cụ hình đĩa, rìu ngắn, công cụ hình

bàn là, cùng các công cụ ghè đẽo thô sơ. Kỹ thuật mài được sử dụng để mài nhọn

một đầu công cụ xương trong di tích hang C6-1. Cũng trong tầng văn hóa của di

tích hang C6-1 đã phát hiện 03 mộ táng được chôn cất theo táng thức chôn bó gối,

gồm chôn ngồi bó gối và chôn nằm co bó gối. Tổ hợp hiện vật và táng thức cho thấy

61

lớp này mang tính chất Trung kỳ Đá mới, còn bảo lưu đậm nét các truyền thống cư

trú, kiếm sống, kỹ thuật và táng thức kiểu văn hóa Hòa Bình nhưng mức phát triển cao hơn. Lớp văn hóa này có 11 niên đại C14, theo trật tự từ 6.090±25 năm BP đến

5.110±20 năm BP (sau hiệu chỉnh là từ 6.954 năm BP đến 5.815 năm BP). Các di

tích thuộc giai đoạn này hiện biết chắc chắn chỉ có mức dưới của tầng văn hóa hang

C6-1 và có thể là mức dưới cùng của tầng văn hóa địa điểm Thôn Tám và một vài

địa điểm khác nhưng chưa thực sự rõ ràng.

- Giai đoạn giữa: có những tính chất gần với giai đoạn sớm nhưng có một số

tiến triển mới. Trong giai đoạn này, nhóm công cụ hình bầu dục được ghè đẽo hai

mặt, ghè tu chỉnh tạo hình dáng cân đối, hoàn thiện. Dấu ấn kỹ thuật mài được thể

hiện qua sự hiện diện nhưng không nhiều của bàn mài. Rìu mài lưỡi tìm thấy phổ

biến trong di tích Thôn Tám. Gốm được tìm thấy trong giai đoạn này còn khá hiếm,

chủ yếu là gốm thô, bở, pha lẫn nhiều hạt cát, áo gốm bị bong tróc nhiều; loại hình

đơn điệu, hoa văn chủ yếu là hoa văn kỹ thuật. Kinh tế khai thác vẫn chiếm vai trò

chủ đạo, có thể đã xuất hiện kinh tế sản xuất nhưng chắc chắn còn khá sơ khai và ở

mức độ hạn chế. Đại diện tiêu biểu giai đoạn này là mức trên tầng văn hóa di tích hang C6-1 có hai niên đại C14 là 5.070±20 năm BP và 4.680±20 năm BP (Sau hiệu

chỉnh là 5.815 năm BP và 5.391 năm BP) và các lớp dưới của di tích Buôn Kiều, di

tích Buôn Hằng Năm và di tích Thôn Tám.

- Giai đoạn muộn: là giai đoạn bắt đầu nảy sinh các yếu tố Hậu kỳ Đá mới

với sự phổ biến của kỹ thuật mài; công cụ hình bầu dục có xu hướng thắt eo, xuất

hiện các cuốc đá; gốm thô hoặc tương đối mịn, trang trí văn thừng, văn chải. Đây là

những loại hình hiện vật có mặt trong hai lớp đào bên trên của di tích Buôn Kiều và Buôn Hằng Năm và một số di tích khác. Niên đại C14 của các lớp trên di tích Buôn

Kiều và Buôn Hằng Năm cho kết quả khoảng 4.000 năm BP.

Các di tích hang C6’, Tân Lập, Hố Tre mặc dù được đào thám sát hoặc

nghiên cứu địa tầng nhưng vì mức độ nghiên cứu còn giới hạn, tư liệu thu thập, kể

cả về di tích lẫn di vật và mẫu phân tích hạn chế nên chưa thế sắp xếp vào các mức

cụ thể. Bước đầu, chỉ có thể xác định các di tích hang C6’, Ea Chổ, Tân Lập, và Hố

Tre thuộc giai đoạn Trung kỳ Đá mới, có đặc trưng tương đồng di tích Buôn Kiều,

62

Buôn Hằng Năm, Thôn Tám và hang C6-1.

2.2. Giai đo n Hậu k Đá mới

2.2.1. Đặc điểm di tích

2.2.1.1. Không gian phân bố

Các di tích Hậu kỳ Đá mới phân bố ở nhiều địa hình, trên tất cả tiểu vùng địa

lý khác nhau của hai tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông. Điều này cho thấy, cư dân giai

đoạn Hậu kỳ Đá mới đã phát triển về quy mô dân số và kỹ thuật, có khả năng thích

ứng với nhiều kiểu địa hình khác nhau ở vùng đất Nam Tây Nguyên này (Bảng 9)

Điều kiện khí hậu và cảnh quan của từng tiểu vùng địa lý có sự khác biệt, tạo

nên sự khác biệt về mật độ phân bố địa điểm khảo cổ giai đoạn Hậu kỳ Đá mới. Các

cao nguyên là những tiểu vùng có điều kiện thiên nhiên thuận lợi cho đời sống của

con người, diện tích tự nhiên lớn và cũng là địa bàn tiến hành điều tra, khảo sát

khảo cổ học nhiều đợt nên đây là những địa bàn có nhiều công bố về di tích tiền –

sơ sử nhất. Ngược lại, vùng núi cao Cư Yang Sin chỉ một phần diện tích trên địa

bàn tỉnh Đắk Lắk, địa hình núi rất cao nên hiện tại mới chỉ phát hiện dấu vết mờ

nhạt của cư dân giai đoạn Hậu kỳ Đá mới trên bề mặt di tích Buôn Kiều.

Hệ thống sông suối, hồ tự nhiên dày đặc không chỉ cung cấp nguồn nước,

nguồn thực phẩm phục vụ nhu cầu thiết yếu hàng ngày mà những bãi cuội sông với

nhiều chất liệu đá khác nhau là nguồn nguyên liệu quý giá đối với các cư dân thời

đại đồ Đá chế tác công cụ lao động. Các di chỉ khảo cổ học giai đoạn Hậu kỳ Đá

mới khu vực nghiên cứu phân bố bên cạnh các nguồn nước, gồm các hồ lớn hoặc

ven các dòng sông, suối không cạn nước mùa khô. Hệ thống sông Srêpốk, hệ thống

sông Ba và hệ thống sông Đồng Nai - ba hệ thống sông lớn, chảy qua nhiều vùng

đất trong khu vực - là những con đường tự nhiên kết nối toàn bộ các tiểu vùng địa lý

trên địa bàn nghiên cứu với nhau và với vùng Nam Trung Bộ, miền Đông Nam Bộ.

Các di tích khảo cổ giai đoạn Hậu kỳ Đá mới tại khu vực nghiên cứu không

chỉ giới hạn trong phạm vi lưu vực sông Srêpốk mà còn phát hiện tại lưu vực hệ

thống sông Ba và lưu vực hệ thống sông Đồng Nai. Một số di tích giai đoạn Hậu kỳ

Đá mới tuy phân bố ven một dòng sông, cách xa nhau, nhưng vẫn có các di vật đặc

trưng giống nhau, cho thấy chúng có quan hệ với nhau mật thiết. Ví dụ: tại các địa

63

điểm ven sông Đắk N’rung như: Bon Bu Pơng, Hồ Bon Nơr, Thôn Sáu (Đắk

Nông)… đều tìm thấy những mảnh miệng gốm thô loe cong, bề mặt bị bong tróc,

mép miệng dày, ve tròn, trên bờ mép miệng trang trí văn dải văn thừng chạy dọc

theo mép miệng; thành miệng phẳng, đoạn nối giữa mép miệng và mặt trong thành

miệng có rãnh lõm cong. Tương tự là trường hợp các địa điểm Tây Sơn và Nam

Xuân (huyện Đắk Mil)... cùng phân bố dọc Suối Ba. Các địa điểm phân bố ven cùng

một dòng sông, cùng có những di vật đặc trưng giống nhau có thể là dấu vết của

cùng một nhóm cư dân [42, tr.13].

Không gian phân bố di tích Hậu kỳ Đá mới bao trùm không gian phân bố

của các di tích Trung kỳ Đá mới. Tại di tích Buôn Kiều, năm 2004 đã phát hiện một

bộ sưu tập cuốc đá mài toàn thân được chôn giấu. Rải rác trên bề mặt di tích và

trong lớp mặt hố khai quật di tích Buôn Kiều và Buôn Hằng Năm còn phát hiện một

số rìu hình thang mài toàn thân và mảnh gốm giai đoạn Hậu kỳ Đá mới. Lớp mặt di

tích hang C6-1 cũng là nơi xuất lộ các hố đất đen chứa hiện vật đá, tàn tích động vật

và đặc biệt là mảnh gốm mịn, miết láng thuộc giai đoạn phát triển sau. Mặc dù dấu

vết giai đoạn Hậu kỳ Đá mới thể hiện qua sự hiện diện của các di vật trên bề mặt và

trong lớp mặt nhưng chưa tạo thành một lớp văn hóa rõ rệt trong địa tầng văn hóa

các di tích giai đoạn Trung kỳ Đá mới. Có thể các điểm này đây là nơi cư trú tạm

thời hoặc trong thời gian ngắn nên không để lại dấu vết rõ ràng qua tư liệu địa tầng.

Tuy nhiên, sự trùng khớp không gian phân bố là tài liệu quan trọng trong nghiên

cứu mối liên hệ giữa các di tích giai đoạn Trung kỳ Đá mới và Hậu kỳ Đá mới tỉnh

Đắk Lắk và Đắk Nông.

2.2.1.2. Cấu tạo tầng văn hóa

Tầng văn hóa các di tích giai đoạn Hậu kỳ tại khu vực nghiên cứu tương đối

đồng nhất, được cấu tạo từ lớp đất Basalt phong hóa tại chỗ, màu nâu đỏ hoặc nâu

sẫm, cứng, có chứa các di tích và di vật. Tầng văn hóa dày trung bình khoảng 0,3 –

0,7m, trong đó hầu như không phát hiện dấu tích thực vật hay di cốt người, dấu vết

than tro hầu như không có, gây khó khăn cho việc nghiên cứu chủ nhân, niên đại và

tính chất của di tích. Hầu hết các địa tầng đều chỉ một tầng văn hóa, không nhận

64

thấy lớp phân cách giữa các lớp văn hóa (Bảng 3).

Riêng tầng văn hóa di tích Cư K’tur gồm hai lớp đất khác biệt nhau, mức độ

laterit hóa giữa các lớp khác nhau nhưng không có tầng vô sinh phân cách giữa hai

lớp đất (bản vẽ 12 – 14). Giữa hai lớp có sự khác biệt trong phân bố một số loại

hình di vật [29, tr.15-25]. Bên trên tầng văn hóa các di tích Rừng Lạnh, Suối Ba là

lớp đất bị xáo trộn dày, hình thành do quá trình canh tác cây nông nghiệp của người

dân (bản vẽ 11, hình 14, hinh 15).

2.2.1.3. Các dấu tích trong tầng văn hóa

Giai đoạn Hậu kỳ Đá mới, các loại hình di tích trong tầng văn bao gồm: vết

tích bếp lửa, dấu tích lỗ chân cột và mộ táng.

Dấu tích bếp lửa giai đoạn Hậu kỳ Đá mới được thể hiện rõ nét tại di tích

Cư K’tur. Trong hố khai quật di tích Cư K’tur, tại độ sâu 0,6 - 0,7m xuất lộ một vệt đất bị nung đỏ diện tích khoảng 0,5m2. Xung quanh vệt đất cháy có 3 hòn đá xếp

hình chân kiềng như ba viên đầu rau kê để đặt nồi đun nấu. Khu vực đất cháy đỏ có

nhiều than gỗ, mảnh tước ngoài ra còn vết tích của một cây gỗ nhỏ thẳng dài hơn

2m đã hóa than màu xám đen nằm ngang bên cạnh (có thể là củi đốt). Đây có lẽ là

vết tích của bếp lửa đun nấu (bản vẽ 12) [24, tr.9] [29, tr.15 – 25].

Lỗ chân cột mới chỉ phát hiện tại di tích Cư K’tur. Tại độ sâu 0,3m của hố

khai quật năm 2002, xuất lộ một hố đất đen nhỏ, tròn đường kính 20cm, sâu 35cm,

bên trong chứa đất đen lẫn than. Sát vách tây bắc của của hố khai quật còn có hai

vết hố đất đen giống trên, cách nhau khoảng gần 2m. Đây có thể là vết tích hố chân

cột của một kiến trúc nhà hoặc lán trại nguyên thủy. Diện tích khai quật nhỏ cho

nên chưa làm rõ chi tiết cấu trúc của dạng kiến trúc này. Hiện chưa rõ kiểu kiến trúc

của những lán trại này nhưng căn cứ trên đường kính lỗ chân cột và độ sâu của nó

cũng khá lớn, đồng thời các bước chân cột cách nhau khá xa, chứng tỏ quy mô lán

trại và số lượng người sử dụng chung lán trại có thể theo quy mô một hoặc nhiều

gia đình [24, tr.9] [29, tr.15 – 25]. Điều này phản ánh cách thức tổ chức xã hội của

các cư dân giai đoạn Hậu kỳ Đá mới và sẽ được phân tích sâu tại chương sau.

Giai đoạn Hậu kỳ Đá mới, táng thức có sự thay đổi rõ rệt. Dấu tích mộ táng

giai đoạn này là các mộ chum, vệt dải gốm và vệt thổ hoàng.

65

Mộ chum gồm hai loại hình: loại hình mộ vò úp nhau và mộ chum không có

nắp, phát hiện tại di tích Dhă Prông, Buôn Triết (Đắk Lắk) và Suối Ba (Đắk Nông).

Mộ chum di tích Dhă Prông là mộ chum không có nắp, chôn thành cụm,

gồm 03 mộ, trong đó 02 mộ vỡ nát không thể khôi phục được. Mộ chum còn lại

hình cầu, đáy gần tròn, miệng khum, đường kính miệng đo được 40cm, cao 45cm.

Ở di chỉ Buôn Triết, trong hố thám sát năm 1993 tìm thấy 2 mộ nồi vò úp

miệng vào nhau, xung quanh mộ đất màu đen, tương đối mềm, cả nồi và vò bị vỡ.

Trong nồi vò không có than tro, không còn xương cốt. Gốm nồi vò thuộc loại đất

sét pha cát, màu xám hồng, thành mỏng. Đường kính miệng nồi 30cm, miệng vò

32cm. Cạnh nồi vò, trong vùng đất đen tìm thấy 1 chiếc cuốc vai vuông [99, tr.217-

218]. Tại di tích Suối Ba, năm 2010 xuất lộ các dấu vết chum gốm tại đường liên

thôn. Chum bị vỡ vụn, chỉ còn phần đáy, đường kính chum còn lại 54cm. Trong

lòng chum thu được tổng số 33 hiện vật; trong đó có 12 công cụ lao động, 01 phác

vật hình trụ và 20 hòn cuội kích thước dày từ 0,5 đến 0,7cm. Chum được kê trên 03

viên đá Basalt (hình 16) [3].

Bên cạnh các mộ chum nguyên vẹn được phát hiện, dấu vết mộ táng còn

được thể hiện qua các vệt gốm vụn, các vệt thổ hoàng kéo dài. Trong hố khai quật 2

di tích Dhă Prông năm 2002 còn phát hiện một vệt gốm ăn sâu vào tầng văn hóa

khoảng 20cm. Đất quanh cụm gốm màu sẫm hơn và tơi xốp hơn xung quanh.

Trong cụm gốm có hiện vật đá chôn theo. Trong hố khai quật còn phát hiện vệt thổ

hoàng dài gần 80cm, dày 3cm, kéo dài vào vách địa tầng. Trong vách địa tầng, liền

kề với vệt thổ hoàng là một mộ vò kích thước lớn. Có khả năng giữa vệt thổ hoàng

và mộ vò có mối liên hệ với nhau [98, tr. 12]. Tại di tích Cư K’tur, đã phát hiện dấu

vết một cụm nhiều cá thể gốm vỡ chồng lên nhau, bên trong và bên cạnh lẫn một số

rìu đá, phác vật, mảnh tước. Gốm vỡ vụn nát nên không thể phân biệt được đây là

gốm quan tài hay gốm tùy táng nhưng không loại trừ khả năng đây là dấu vết của

mộ nồi vò úp nhau [24, tr.9].

Chất liệu và kỹ thuật chế tạo của các chum gốm sử dụng làm mộ chôn cũng

như di vật đá chôn theo giống với di vật cùng loại trong di chỉ. Có thể nói, đây là

mộ của cư dân Hậu kỳ Đá mới như Dhă Prông, Buôn Triết, Suối Ba... chôn cất ngay

66

tại nơi cư trú, tạo nên tính chất cư trú – mộ táng của di tích.

Như vậy, táng thức của các cư dân thời đại Đá mới khu vực nghiên cứu có sự

thay đổi đáng kể giữa hai giai đoạn Trung kỳ Đá mới và Hậu kỳ Đá mới. Táng thức

tiêu biểu giai đoạn Trung kỳ Đá mới chính là chôn ngồi/nằm co bó gối, mặt hướng

ra ngoài hang, không chôn theo đồ tùy táng, trong mộ không có đồ tùy táng, cao

lanh có thể được sử dụng để phủ lên trên hoặc lót dưới đáy mộ. Điển hình giai đoạn

này là các mộ táng tìm thấy trong hang C6-1. Đến giai đoạn Hậu kỳ Đá mới, người

chết đã được táng trong quan tài bằng gốm (mộ chum) kê trên đá hoặc đặt trực tiếp

trên các vệt gốm vụn, chôn theo đồ tùy táng. Điển hình mộ táng giai đoạn Hậu kỳ

Đá mới khu vực nghiên cứu là các mộ táng tìm thấy tại Dhă Prông, Suối Ba... Tuy

nhiên, điểm chung giữa mộ táng giai đoạn Trung kỳ Đá mới và Hậu kỳ Đá mới

chính là sự chưa tách biệt rõ ràng giữa nơi chôn cất và nơi cư trú, hay nói cách khác,

người chết được chôn ngay tại nơi ở của cộng đồng.

2.2.1.4. Tính chất di tích

Các di tích giai đoạn giai đoạn Hậu kỳ Đá mới tại khu vực nghiên cứu đa số

đều có chức năng cư trú. Một số ít là nơi vừa cư trú vừa mai táng (di chỉ cư trú -

mộ táng), vừa cư trú vừa chế tác công cụ đá (di chỉ cư trú - xưởng, công xưởng),

hoặc nơi chôn dấu.

Các dấu tích để ghi nhận di chỉ cư trú là tầng văn hóa có màu sẫm hơn lớp

mặt và sinh thổ, trong đó có chứa công cụ lao động bằng đá và đồ gốm. Tầng văn

hóa các di tích cư trú ngoài trời thường không dày, nhưng quy mô trải rộng trên

một diện tích lớn hàng hecta. Mật độ di vật trong tầng văn hóa thưa thớt và phân bố

không đều tại các điểm trong toàn di tích, ít đồ gốm và công cụ lao động, hiếm gặp

vết tích than tro. Dẫu không phải là công xưởng, những nơi cư trú thường là nơi tu

sửa lại công cụ đá cho việc tái sử dụng.

Tại các di tích Cư K’tur, Dhă Prông, Buôn Triết và Suối Ba, mộ táng đã

được tìm thấy. Sự hiện diện của mộ táng phản ánh tập tục chôn cất người chết tại

nơi cư trú, thể hiện tính chất cư trú - mộ táng của một bộ phận các di tích Hậu kỳ

Đá mới tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông. Tuy nhiên, nếu so với tổng số di tích thì số

67

di tích cư trú - mộ kiểu này không nhiều.

Giai đoạn Hậu kỳ Đá mới tại khu vực nghiên cứu xuất hiện hệ thống công

xưởng Cư K’tur với các di tích cư trú - xưởng. Các di tích T’Sham A (huyện Ea

H’leo), di tích Cư K’tur, di tích Thanh Sơn, di tích Bản Thái (huyện Ea Kar) là

những di chỉ cư trú - xưởng được phát hiện, nghiên cứu từ những năm 2000. Tại di

tích Cư K’tur, hàng ngàn di vật đã được phát hiện trong đợt khai quật năm 2002.

Vết tích cư trú thể hiện rõ nét qua sự hiện diện của dấu tích bếp lửa, dấu vết lỗ cột,

đồ gốm, các công cụ lao động có dấu vết sử dụng. Dấu vết chế tác công cụ đá tại

chỗ được phản ảnh qua mật độ, loại hình mảnh tước, phác vật và phế vật của quá

trình chế tác rìu, bôn. Dấu vết này thể hiện rõ nét tại lớp trên. Sản phẩm của công

xưởng Cư K’tur chủ yếu là phác vật rìu, bôn chất liệu đá Opal. Đa phần phác vật ở

đây chưa phải là những phác vật cuối cùng được gia công trước khi mài mà chắc

chắn là nó đã được đem đi trao đổi với những nơi khác ở dạng phác vật thô, chỉ

phần nào đó được gia công và mài hoàn chỉnh tại di chỉ này. Điều này chứng tỏ Cư

K’tur là công xưởng bậc hai - một mắt xích trong hệ thống chế tác rìu, bôn bằng đá

Opal ở khu vực phía Bắc tỉnh Đắk Lắk và nam tỉnh Gia Lai. Tham gia vào hệ thống

chế tác rìu, bôn đá Opal còn có địa điểm Thanh Sơn, Bản Thái (huyện Ea Kar) với

vai trò là công xưởng bậc 1, khai thác nguyên liệu và sơ chế ban đầu để cung cấp

trao đổi với những khu vực khác, trước hết là cung cấp cho công xưởng Cư K’tur

[29, tr.15-25]. Sự xuất hiện hệ thống công xưởng chế tác đồ đá với các công xưởng

bậc một như Thanh Sơn, Bản Thái,... công xưởng bậc hai như Cư K’tur...., công

xưởng bậc ba như T’Sham A... cùng dấu vết cư trú là tài liệu quan trọng trong

nghiên cứu chiến lược sinh kế, sự phân công lao động xã hội cũng như sự giao lưu

văn hóa giữa các cư dân giai đoạn Hậu kỳ Đá mới ở tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk

Nông với các cư dân đồng đại trong và ngoài khu vực.

Di tích nơi chôn dấu là một hiện tượng độc đáo, xuất hiện trong giai đoạn

Hậu kỳ Đá mới ở tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông. Tại địa điểm Ea Păn, Hồ Ea Suóp

Hạ, Buôn Kiều, ... đã phát hiện các hố chôn đường kính nhỏ nhưng sâu. Trong các

hố chôn dấu đều tìm thấy chủ yếu là cuốc đá hoàn chỉnh và một số ít phác vật cuốc

hoặc rìu đá [75, tr.225] [33, tr.72 – 78] [41, tr. 35 – 44]. Các di vật được xếp ngay

68

ngắn, cẩn thận. Khảo sát rộng xung quanh đều không tìm thấy vết tích tầng văn

hóa. Đây có thể là những nơi chôn dấu của cải có giá trị của các cư dân Hậu kỳ Đá

mới, cụ thể là cuốc đá.

Từ các tư liệu di tích cho thấy sự đa dạng tính chất di tích ở khu vực nghiên

cứu thời đại Đá mới. Các cư dân giai đoạn này có tập tục chôn cất người chết, chế

tác đồ đá và đồ gốm tại nơi cư trú. Tuy nhiên, với số lượng di tích thuần tính chất

cư trú so với các di tích đa tính chất như di chỉ cư trú - xưởng, di chỉ cư trú - mộ

táng, và di chỉ cư trú - xưởng - mộ táng cho thấy xu hướng phân biệt rõ ràng trong

bố trí không gian của các cư dân thời đại Đá mới tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông.

Nhìn chung, các di tích giai đoạn Trung kỳ Đá mới và Hậu kỳ Đá mới tại

khu vực nghiên cứu có sự tương đồng về lựa chọn không gian cư trú ven nguồn

nước; di tích phân tán trên diện rộng; cấu tạo tầng văn hóa đơn giản, chủ yếu một

mức văn hóa, hiếm tồn tại hai mức văn hóa. Nếu như các di tích giai đoạn Trung kỳ

Đá mới hiện chỉ được phát hiện tại vùng lưu vực sông Srêpốk thì sang giai đoạn

Hậu kỳ Đá mới, các cư dân tiền sử đã chiếm lĩnh tất cả các tiểu vùng địa lý trên địa

bàn nghiên cứu. Tính chất cơ bản các di tích thời đại Đá mới khu vực nghiên cứu

chủ yếu là cư trú, chôn cất người chết và chế tác công cụ. Từ các di tích cư trú –

xưởng có yếu tố chế tác công cụ nổi trội trong giai đoạn Trung kỳ Đá mới. Đến giai

đoạn Hậu kỳ Đá mới, xuất hiện hệ thống di tích công xưởng. Giai đoạn Hậu kỳ Đá

mới xuất hiện loại hình di tích độc đáo: di tích chôn giấu. Sự tương đồng về đặc

điểm di tích giữa 2 giai đoạn trong thời đại Đá mới tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông một

mặt phản ánh ứng xử của các cộng đồng người với cùng một môi trường tự nhiên,

mặt khác thể hiện sự kế thừa và phát triển tiếp nối giữa các giai đoạn tiền sử.

2.2.2. Đặc điểm di vật

Di vật giai đoạn Hậu kỳ Đá mới tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông phát hiện

đến nay bao gồm đồ đá và đồ gốm

2.2.2.1. Đồ đá

* Chất liệu

Công cụ đá giai đoạn Hậu kỳ Đá mới tại khu vực nghiên cứu được chế tác

nguồn chất liệu đa dạng, gồm: đá Basalt, Opal, Silic, Schiste, Quartz, Quartzite,

69

Phtanite, Sand stone (Sa thạch/Cát kết), Sét bột kết. Đây đều là những chất liệu đá

có nguồn gốc tại chỗ, được lựa chọn, sử dụng trên cơ sở sự phù hợp giữa đặc tính

loại đá với kỹ thuật chế tác và mục đích sử dụng của công cụ.

Đá Basalt vẫn là chất liệu chế tác công cụ lao động chủ yếu của cư dân giai

đoạn này. Do nguồn gốc nền địa chất gắn với hoạt động phun trào núi lửa nên đây

là nguồn nguyên liệu sẵn có tại tất cả các di tích trong khu vực nghiên cứu. Tại tất

cả các di tích tìm thấy công cụ đá, đều có hiện vật chế tác từ đá Basalt.

Tại các di tích thuộc công xưởng Cư K’tur như di tích Thanh Sơn, di tích

Bản Thái, di tích T’Sham A (huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk); nguồn nguyên liệu đá

Opal và Phtanite được sử dụng chế tạo phác vật rìu, bôn, trong khi vẫn sử dụng loại

đá khác chế tạo công cụ hoàn thiện sử dụng tại chỗ như Basalt, Cát kết.... Chất liệu

đá Opal còn là nguồn đá tại chỗ ở khu vực Suối Bốn (huyện Đắk R’lấp, tỉnh Đắk

Nông) và được cư dân giai đoạn Hậu kỳ Đá mới nơi đây khai thác, chế tạo công cụ

lao động. Công cụ đá di tích Suối Ba (huyện Đắk R’lấp, tỉnh Đắk Nông) chủ yếu

chế tác từ chất liệu đá Cát kết dạng Quartzite biến chất do tác dụng nhiệt.

Kết quả phân tích mẫu di vật đá bằng phương pháp kích hoạt Neutron

(NAA) và xử lý bằng phương pháp thống kê đa biến đối với 9 mẫu đá di tích giai đoạn

Hậu kỳ Đá mới Suối Bốn (huyện Đắk R’lấp, tỉnh Đắk Nông) cho thấy: thành phần hóa

học các mẫu đá không giống nhau, minh chứng nguồn nguyên liệu khai thác đơn lẻ,

không khai thác nguyên khối để chế tác công cụ; thành phần mẫu đá nguyên liệu – phế

liệu (mảnh tước) – công cụ đá có sự tương đồng nhất định chứng tỏ di vật đá có nguồn

gốc tại chỗ [53, tr.19 – 30]. Truyền thống khai thác nguồn nguyên liệu tại chỗ giai

đoạn Trung kỳ Đá mới vẫn được cư dân giai đoạn Hậu kỳ Đá mới tiếp nối.

Với sự hình thành hệ thống công xưởng, xuất hiện hiện tượng khai thác

nguồn nguyên liệu tại một địa điểm (công xưởng bậc 1), vận chuyển đến điểm khác

(công xưởng bậc 2) để tiếp tục chế tác trước khi trao đổi với nhóm cư dân chịu

trách nhiệm hoàn thiện (công xưởng bậc 3). Tại di tích công xưởng bậc 2 Cư K’tur,

nguồn nguyên liệu đá Opal chế tạo phác vật rìu, bôn không sẵn có mà phải khai

thác từ các vỉa đá gốc tại các công xưởng bậc 1 là Thanh Sơn, Bản Thái cung cấp.

Cư dân thời đại Đá mới khu vực nghiên cứu sử dụng có lựa chọn từ nguồn

70

nguyên liệu và chất liệu đá tại chỗ trên cơ sở tri thức tích lũy nhiều thế hệ cùng nhu

cầu của kỹ thuật chế tác và loại hình công cụ cần thiết. Từ hình dạng đá nguyên

liệu, số lượng hạn chế hạch đá được tìm thấy tìm thấy tại di tích rất ít và sự hiện

diện của phác vật hoàn chỉnh cùng mảnh tước kích thước trung bình và nhỏ (chủ

yếu <5cm), chứng tỏ cư dân thời đại Đá mới đã biết lựa chọn các viên/hòn cuội có

dáng hình chuẩn xác, chỉ cần gia công chút ít là đã có được những thành phẩm theo

ý muốn. Mỗi loại hình công cụ hoặc vật phẩm có chức năng khác nhau đã được sử

dụng một loại chất liệu đá thích hợp. Rìu, bôn, cuốc tại các di tích Hậu kỳ Đá mới

trong khu vực nghiên cứu chủ yếu chế tác từ đá Basalt, một phần đá Silic; hiếm thấy

sử dụng đá Opal ngoại trừ di tích Suối Bốn (huyện Đắk R’lấp, tỉnh Đắk Nông) [21,

tr.60-71] hoặc đá Phtanite ngoại trừ di tích T’Sham A [75, tr. 204 – 212]. Riêng tại

di tích Suối Ba, công cụ rìu, bôn, công cụ mảnh, được chế tác từ đá Cát kết dạng

Quartzite – loại đá Cát kết biến chất, tái trầm tích do tác động của nhiệt, có kết cấu

chặt và cứng hơn rất nhiều so với đá cát kết bình thường [40]. Chày, hòn ghè, hòn

nghiền với chức năng nghiền, đập, giã nên thường được làm từ những viên cuội

sông, suối; chất liệu đá cứng, ít bị phong hóa như đá Quartz, Quartzite hoặc Silic.

Những bàn mài trong hoặc bàn mài tạo độ sắc lưỡi công cụ sử dụng đá Cát kết hạt

mịn. Những đồ trang sức làm từ đá trầm tích, đá phiến.

* Kỹ thuật chế tác: Giai đoạn Hậu kỳ Đá mới phát triển hoàn thiện về kỹ

thuật ghè đẽo, mài, đánh bóng, khoan và xuất hiện kỹ thuật cưa.

Kỹ thuật ghè đẽo: Khác với loại hình rìu bầu dục, rìu ngắn, rìu mài lưỡi vốn

được chế tạo chủ yếu bằng kỹ thuật ghè hai mặt tạo rìa và mài hạn chế phần lưỡi

thuộc giai đoạn Trung kỳ Đá mới; rìu, bôn, cuốc giai đoạn Hậu kỳ Đá mới sau khi

được ghè đẽo tạo hình bằng các vết ghè nhỏ, đều đặn sẽ được mài phẳng các mặt

tạo thành công cụ hoàn chỉnh, hình khối đa giác. Một số công cụ mặc dù mài phẳng

bề mặt nhưng vẫn không xóa hết các vết ghè tạo hình. Các công cụ rìu, bôn và cuốc

đá phân bố khu vực phía Nam tỉnh Đắk Lắk và vùng cao nguyên Đắk Nông thường

được mài nhẵn, đánh bóng, có hình dáng cân đối. Tại cao nguyên Buôn Ma Thuột

và trong di tích Cư K’tur phát hiện nhóm rìu, bôn hình dáng không cân đối, không

mài toàn thân, bề mặt còn nguyên vết ghè đẽo. Đối với các chiếc rìu, bôn này, tính

71

thực dụng nổi trội so với tính thẩm mỹ.

Trong quá trình lao động, nhiều công cụ đá bị mẻ ở lưỡi, khiến không thể

tiếp tục sử dụng được nữa. Điều này đã được người cư dân giai đoạn Hậu kỳ Đá

mới khắc phục bằng cách ghè tu sửa lại lưỡi, rồi mài và tạo nên một công cụ có

cung lưỡi nhỏ hơn. Một số chiếc rìu, bôn có vai phần lưỡi tác dụng liền sát vai

chứng tỏ hiện tượng tái ghè – mài diễn ra nhiều lần, thậm chí đến mức không thể

tiếp tục quy trình “thanh xuân hóa” công cụ lần nữa. Các nhà nghiên cứu ghi nhận

hiện tượng này là sự tiết kiệm nguyên liệu của người nguyên thuỷ, còn quy trình kỹ

thuật ghè lại ấy gọi chung là "thanh xuân hóa" hay làm mới rìa tác dụng công cụ.

Kỹ thuật mài: Những dấu vết mài hay vết sử dụng còn lưu lại trên bàn mài

cho thấy bàn mài giai đoạn Hậu kỳ Đá mới ở khu vực nghiên cứu được sử dụng mài

các đối tượng khác nhau. Có những bàn mài phẳng, diện mài rộng có thể mài phá,

mài bề mặt công cụ. Những chiếc bàn mài có vết mài chỉ ở rìa cạnh, cho thấy nó có

thể dùng mài chỗ lõm của vai rìu. Nhiều bàn mài vết mài lõm hình lòng máng chạy

dài, đặt vừa khớp mặt lưng của rìu, bôn có vai. Đây là bàn mài phần thân và rìa lưỡi

công cụ. Một số bàn mài trong có thân hình trụ, hình nón cụt, vết mài nhẵn xung

quanh, gợi ý việc mài mặt trong của các vòng tay, vòng tai (bản vẽ 50, hình 51).

Kỹ thuật cưa được sử dụng tạo vai rìu, bôn, cuốc. Tại các di tích giai đoạn

Hậu kỳ Đá mới trên địa bàn nghiên cứu như Suối Ba, Dhă Prông..., đã phát hiện

những chiếc cưa mỏng, sắc (bản vẽ 49, hình 50)

Kỹ thuật khoan đã được phản ánh qua các hiện vật đá tròn có lỗ. Khác với

loại hình đá có lỗ giai đoạn Trung kỳ Đá mới, các di vật đá có lỗ giai đoạn Hậu kỳ

Đá mới được chế tạo bằng kỹ thuật khoan thay thế kỹ thuật đục và mài nhẵn. Trên

hai mặt lớn đối nhau của hiện vật đá tròn có vết khoan từ ngoài vào trong, vết khoan

hình tròn, cân đối; bề mặt khoan nhẵn. Lỗ khoan hai mặt đều nhau, trùng khớp nhau

(hình 56). Kỹ thuật khoan đã được sử dụng để khoan lõi vòng trang sức tìm thấy tại

di tích Thôn Năm (thị trấn Ea T’linh, huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông), di tích Suối Ba

(huyện Đắk R’lấp, tỉnh Đắk Nông) và di tích Dhă Prông (thành phố Buôn Ma

Thuột, tỉnh Đắk Lắk) (bản vẽ 54, hình 59).

Trình độ kỹ thuật chế tác đồ đá phát triển là cơ sở hình thành hệ thống công

72

xưởng giai đoạn Hậu kỳ Đá mới tại khu vực nghiên cứu. Di tích Thanh Sơn và Bản

Thái (huyện Ea Kar) là những công xưởng bậc 1 - điểm đầu tiên trong hệ thống

công xưởng. Thanh Sơn, Bản Thái vừa là nơi khai thác nguyên liệu Opal và là nơi

chế tác các phác vật dạng sơ chế rồi xuất đến các công xưởng bậc 2 trong và ngoài

vùng như di tích Cư K’tur. Di tích Cư K’tur tiếp nhận nguồn nguyên liệu, phác vật

sơ chế và chế tác thành phác vật rìu Opal định hình. Phác vật rìu Opal di tích Cư

K’tur được hoàn thiện tại các công xưởng bậc 3 như di tích T’Sham A. Đây là một

hệ thống công xưởng hoàn thiện với mỗi di tích là một mắc xích đảm nhiệm 1 khâu

nhất định trong chế tác công cụ đá, từ khai thác, sơ chế, chế tác định hình và hoàn

thiện sản phẩm.

* Loại hình

Tổ hợp di vật đá giai đoạn Hậu kỳ Đá mới tại khu vực nghiên cứu phong phú

về loại hình, nhiều về số lượng. Trong các loại hình còn có nhiều phụ loại/tiểu loại

khác nhau. Dựa vào chức năng, có thể chia các di vật đá thành 2 nhóm loại hình

chính, gồm: nhóm công cụ lao động và đồ trang sức.

Nhóm công cụ lao động giai đoạn Hậu kỳ Đá mới tại Đắk Lắk và Đắk Nông

bao gồm: rìu, bôn, cuốc, cưa, dao, đục, công cụ hình lưỡi liềm, nạo, chì lưới, bàn

đập khắc rãnh, đá có lỗ, đá ghè/mài tròn, chày nghiền, bàn mài, hòn ghè.

Rìu,bôn: Đây là loại hình công cụ có số lượng nhiều nhất trong các bộ sưu

tập công cụ đá thời đại Đá mới ở khu vực nghiên cứu, phân bố trên tất cả các tiểu

vùng địa lý của tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông. Tại một số di tích đã đào thám sát

hoặc khai quật trên địa bàn nghiên cứu, rìu, bôn là những loại hình có số lượng

nhiều nhất, chiếm tỷ lệ trên 20% tổng số công cụ đá. Tại một số di tích như Buôn

Triết, T’Sham A, tỷ lệ này lên đến trên 80% (Bảng 9).

Đây cũng là nhóm công cụ phong phú về loại hình nhất trong tổ hợp công cụ

đá giai đoạn Hậu kỳ Đá mới trong khu vực nghiên cứu. Căn cứ vào hình dáng,

chúng tôi phân chia rìu, bôn giai đoạn Hậu kỳ Đá mới trong khu vực nghiên cứu

thành hai nhóm loại hình với 14 tiểu loại hình: Nhóm rìu, bôn không vai với 9 tiểu

loại hình: rìu hình mai mực, rìu tứ giác, rìu hình thang, rìu chuôi nhọn, rìu hình

thang dẹt không rõ vết mài, bôn tứ giác, bôn hình thang, bôn hình răng trâu, bôn có

73

eo; nhóm rìu, bôn có vai với 5 tiểu loại hình: rìu vai ngang, rìu vai xuôi, bôn vai

nhọn, bôn vai ngang và bôn vai xuôi. Mỗi tiểu loại hình có những đặc trưng về hình

dáng, chất liệu, không gian phân bố khác nhau (Biểu đồ 6).

- Rìu hình mai mực, gồm 41 chiếc, phát hiện tại Dhă Prông, Cao Thắng, Ea

Khiết, Buôn Triết, thuộc cao nguyên Buôn Ma Thuột, vùng trũng Krông Pắk - Lắk.

Rìu hình mai mực là nhóm công cụ lao động bằng đá thân mỏng, dẹt dần về phía hai

cạnh bên, tiết diện ngang hình thấu kính hoặc bán thấu kính, thân mài nhưng không

xóa hết các vết ghè tạo hình. Chất liệu chế tác các công cụ này đều là đá Basalt. Rìu

hình mai mực gồm 2 tiểu loại hình: tiểu loại hình đốc thuôn tròn, lưỡi uốn cong, thân

thẳng, một số mài vát đầu đốc, tiết diện dọc hình nêm. Tiểu loại hình chặt/gãy

ngang đầu đốc, hình dáng gần với nhóm trên nhưng có đầu đốc chặt/gãy ngang,

phần thân còn lại hình chữ “U”. So sánh kích thước trung bình, có sự tương đồng về

chiều rộng và độ dày giữa rìu hình mai mực cùng nhóm thuộc các di tích khác nhau.

Sự khác biệt lớn nhất về kích thước giữa các nhóm là chiều dài trung bình. Ngược

lại, chiều rộng các hiện vật tương đối đều nhau, thuộc khoảng 5 - 7,2cm. Độ dày

của công cụ hình mai mực đều dưới 2cm (bản vẽ 31, hình 37).

- Rìu tứ giác là một trong những nhóm công cụ có số lượng lớn nhất (87

chiếc), tìm thấy ở nhiều địa điểm nhất trong nhóm rìu bôn giai đoạn Hậu kỳ Đá mới ở

Đắk Lắk và Đắk Nông (16 địa điểm), chủ yếu tập trung ở phía Nam tỉnh Đắk Lắk và

tỉnh Đắk Nông, rải rác với số lượng không nhiểu tại di tích T’Sham A và địa điểm Ea

Păh thuộc vùng phía Bắc tỉnh Đắk Lắk. Rìu tứ giác được chế tạo bằng kỹ thuật ghè tạo

dáng và mài nhẵn. Một bộ phận không nhỏ rìu tứ giác vẫn còn một số vết ghè tạo hình

trên thân và lưỡi. Đốc rìu phẳng, hơi loe về phía lưỡi. Lưỡi mài vát cong khum từ hai

mặt, phân tách rõ rệt với phần thân. Độ vát giữa hai mặt lưỡi ở một số chiếc không đều

nhau nên rất khó phân tách giữa rìu và bôn. Rìa lưỡi mỏng sắc, thẳng hoặc cong nhẹ,

một số chiếc có vết ghè lại rìa lưỡi. Mặt cắt ngang hình tứ giác, tiết diện bổ dọc hình

nêm hoặc thấu kính. Kích thước không dài quá 15cm. Chất liệu chế tác rìu tứ giác

tương ứng chất liệu chế tác các công cụ đá khác trong cùng di tích, chủ yếu là đá

Basalt, riêng tại di tích T’Sham A chế tác từ đá Phtanite (bản vẽ 32).

- Rìu hình thang gồm 23 chiếc, phát hiện tại di tích Buôn Triết, Thôn Mười,

74

Đắk La. Rìu hình thang có đặc điểm hình dáng và kỹ thuật tương tự rìu tứ giác

nhưng thân hẹp và thuôn dài hơn, do đó độ loe rộng từ đốc đến rìa lưỡi lớn hơn so

với rìu hình tứ giác. Một số chiếc có hình dáng không cân đối, lệch về một bên, bề

mặt còn nhiều vết ghè tạo hình. Tiết diện ngang hình chữ “D” hoặc hình tứ giác.

Chất liệu chế tác đều từ đá Basalt phổ biến tại di tích (bản vẽ 33).

- Rìu hình thang dẹt không rõ vết mài gồm 03 chiếc được phát hiện trong

tầng văn hóa di tích Suối Ba (huyện Đắk R’lấp, tỉnh Đắk Nông). Rìu hình thang di

tích Suối Ba chất liệu đá cát kết dạng quartzite, phong hóa nặng. Kỹ thuật chế tác

chủ yếu là kỹ thuật ghè đẽo, ghè tu chỉnh và mài toàn thân; chế tác từ những mảnh

tước hoặc cuội có hình dáng ban đầu gần giống hình dáng hiện vật cần chế tạo. Hai

mặt lớn đối nhau, dày ở giữa, ghè mỏng dần về các phía xung quanh. Các vết ghè

lan thân, hai mặt, hướng tâm, tạo thành hai rìa cạnh mỏng gần song song, kẹp giữa

là đốc mỏng và một đường rìa lưỡi cong đều. Rìa đốc đối diện rìa lưỡi. Mặt cắt

ngang hình bầu dục, tiết diện bổ dọc hình nêm. Bề mặt bị phong hóa nặng, làm mờ

hết vết mài. Loại hình rìu hình thang này cho đến nay chưa được công bố phát hiện

tại bất kỳ di tích nào trên địa bàn phía Nam Tây Nguyên (hình 38) [40].

- Rìu chuôi nhọn hay còn gọi là rìu chuôi hẹp, gồm 16 chiếc, chất liệu đá

Basalt, tìm thấy trong tầng văn hóa di chỉ Dhă Prông. Kích thước và hình dáng rìu

chuôi nhọn tương đồng rìu hình thang nhưng đầu đốc thuôn nhọn hơn, góc cạnh vê

tròn, thân dày đều (bản vẽ 34) [33].

- Bôn hình thang là một trong những loại hình rìu bôn phổ biến nhất trong

các di tích Hậu kỳ Đá mới phía Nam tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông với 77 chiếc,

tìm thấy tại 12 di tích. Tại khu vực phía Bắc tỉnh Đắk Lắk, phát hiện 09 chiếc trong

lớp dưới tầng văn hóa Cư K’tur. Tương tự rìu hình thang, bôn hình thang có hình

dáng thuôn dài, thân hẹp, loe rộng từ đốc đến rìa lưỡi, đốc phẳng. Lưỡi mài phẳng,

vát một mặt, phân tách rõ ràng với phần thân. Một số chiếc bôn hình thang ở Dhă

Prông, Cư K’tur, Kim Châu, Cánh Nam thân và cạnh bên không thật thẳng và

không phẳng, còn nhiều vết ghè tạo hình, tiết diện ngang gần hình chữ D. Một số

chiếc còn lại ở Dhă Prông, Cư K’tur, Buôn Kiều, Buôn Triết, Thác Lào, Trung Sơn,

Đắk La, Suối Ba, Đắk Tơn và Cầu Sắt có hình dáng khúc triết, góc cạnh vuông vắn,

75

bề mặt chú trọng mài nhẵn hơn, tiết diện ngang hình tứ giác. Kích thước bôn hình

thang tương tự rìu chuôi nhọn. Chất liệu chế tác chủ yếu là đá Basate, riêng tại di

tích Cư K’tur chế tác từ đá Opal và Phtanite (bản vẽ 35, hình 39).

- Bôn chuôi nhọn gồm 12 chiếc, tìm thấy tại Buôn Triết (2 chiếc) và Cư

K’tur (10 chiếc) thân dài, hẹp ngang, góc cạnh vê cong, lưỡi mài vát một mặt. Kích

thước loại này tương đối nhỏ nhắn, tương tự rìu chuôi nhọn. Các bôn chuôi nhọn

Buôn Triết chế tác từ đá Basalt, những chiếc còn lại tại địa điểm Cư K’tur là đá

phiến sét, sét kết và Basalt (bản vẽ 36, hình 40) [24] [75].

- Bôn hình răng trâu gồm 01 chiếc tìm thấy ở T’Sham A và 01 chiếc ở di tích

Buôn Triết. Hiện vật bôn hình răng trâu tại di tích Buôn Triết tìm thấy trên bề mặt,

không gắn với tư liệu địa tầng, không có tư liệu mô tả, bản ảnh hoặc bản vẽ kèm

theo. Bề mặt và vai bôn răng trâu tại di tích T’Sham A có nhiều vết ghè lại, tạo

thành rìa lưỡi và hình dáng mới của công cụ. Đây có thể vốn là rìu/bôn có vai được

ghè tu chỉnh lại nhằm tận dụng lại công cụ và nguyên liệu sẵn có. Hiện tượng thanh

xuân hóa gây biến đổi hình dáng công cụ ban đầu ghi nhận phổ biến tại một số di

tích vùng Tây Nguyên như Lung Leng (Kon Tum) ... [22, tr.35-51]

- Bôn có eo gồm 30 chiếc tìm thấy chủ yếu lớp văn hóa sớm di tích Cư K’tur.

Rìu bôn có eo thường là loại có kích thước hơi dài, hình thang, thân hẹp lưỡi nở

rộng, hai cạnh bên uốn lõm vào trong tạo eo ở giữa thân hoặc gần phần lưỡi. Loại

này cũng thường trùng với loại lưỡi vát kiểu bôn, tiết diện dọc hình chữ V lệch, mặt

cắt ngang hình tứ giác. Chất liệu chế tác là đá Basalt, phiến sét, Phtanite (bản vẽ 37,

hình 41) [24].

- Rìu vai xuôi gồm 22 chiếc, tìm thấy chủ yếu tại di tích Dhă Prông, T’Sham

A, rải rác tại Đắk Tơn và Quảng Thành. Rìu vai xuôi đều có chuôi dài, góc vai lớn hơn 900. Một số chiếc hình dáng cân đối và mài nhẵn; một số tiêu bản khác hình

dáng bất cân đối, thân và cạnh bên còn lưu lại những vết ghè tạo hình chưa được

mài hết. Chất liệu chế tác rìu vai xuôi Dhă Prông, Dak Tơn, Quảng Thành là đá

Silic, Basalt, tại T’Sham A là đá Phtanite (bản vẽ 38, hình 42).

- Rìu vai ngang gồm 29 chiếc, tìm thấy tại Dhă Prông, T’Sham A, Cư K’tur .

Rìu vai ngang có hai mặt lớn phẳng gần song song nhau nên tiết diện ngang thân và

76

ngang chuôi hình chữ nhật, vai hẹp. Một số chiếc ghè lại lưỡi nên phần lưỡi lan

rộng đến gần vai, có nhiều vết ghè. Rìu vai ngang Dhă Prông chế tác từ đá từ đá

Basalt, rìu vai ngang T’Sham và Cư K’tur chế tác từ đá Phtanite, Silic và Sét kết

(hình 39).

- Bôn vai xuôi gồm 34 chiếc, tìm thấy rải rác tại các địa điểm: Drai Si, Thôn

Ba, Dray H’linh, Buôn Triết, Kim Châu, T’Sham A, Cư K’tur, Quảng Trực, chế tác

bằng cách ghè tạo vai và mài, kích thước trung bình hoặc nhỏ. Bôn vai xuôi T’Sham

A hình dáng gần giống bôn hình răng trâu, tạo eo giữa chuôi và thân, hầu như

không có góc vai, thân hơi cong khum, lưỡi vát về một mặt; tiết diện ngang thân

hình tam giác hoặc hình thang lồi. Bôn vai xuôi T’Sham A, Cư K’tur hình dáng

không cân đối, lưỡi vát thẳng; một số chiếc có hai mặt phẳng, các góc cạnh vuông

vắn khúc chiết; một số chiếc mài không hết các vết ghè tạo hình; mặt cắt ngang thân

hình chữ nhật. Bôn Dray H’linh, Buôn Triết, Quảng Trực và Kim Châu đều có hình

dáng cân đối, vuông vắn khúc triết, mài nhẵn thân, lưỡi mài vát phẳng, tiết diện

ngang thân hình chữ nhật. Chất liệu bôn vai xuôi có sự khác biệt giữa các địa điểm

khác nhau: T’Sham A làm từ đá Phtanite, Opal; tại Cư K’tur là đá Opal, Basalt; các

địa điểm các địa điểm còn lại đều là đá Basalt (bản vẽ 41, hình 43).

- Bôn vai ngang gồm 37 chiếc, tìm thấy rải rác tại các di tích Cao Thắng,

Thôn Mười, Tân Hà, Ea Nuôl, Đại Đồng, Buôn Triết, Kim Châu, Thôn Bảy,

T’Sham A, Cư M’tar, Đắk Song, Đồi Chợ. Bôn vai ngang kích thước nhỏ, góc vai

vuông, hai mặt phẳng lớn gần song song nhau, tiết diện ngang thân hình chữ nhật.

So với bôn vai ngang địa điểm T’Sham A và Cư M’tar, bôn vai ngang ở các địa

điểm còn lại hình dáng cân đối, bề mặt mài nhẵn hơn. Chất liệu bôn vai ngang ở

T’Sham A và Cư M’tar là đá Phtanite, Opal; tại các địa điểm khác là đá Basalt (bản

vẽ 42, hình 44).

- Bôn vai nhọn gồm 4 chiếc, tìm thấy tại Buôn Triết và Đắk Tơn, chế tạo từ

đá Basalt. Khác với các loại hình rìu bôn khác, bôn vai nhọn có hình dáng cân đối,

mài nhẵn toàn thân, kích thước nhỏ, mặt cắt ngang thân hình chữ nhật. Bôn vai

nhọn Buôn Triết có vai nhọn hình mỏ neo, lưỡi mài cong lồi một mặt, còn lưỡi bôn

77

vai nhọn Đắk Tơn mài vát một bên (bản vẽ 40).

Nhìn chung, rìu, bôn giai đoạn Hậu kỳ Đá mới tại Đắk Lắk và Đắk Nông có

kích thước nhỏ hoặc trung bình, chế tạo bằng kỹ thuật ghè, cưa, mài, đánh bóng.

Hình dáng giữa các tiểu loại có sự gần gũi và tương đồng nhất định. Một bộ phận di

vật, phân bố chủ yếu tại vùng cao nguyên Buôn Ma Thuột và nhóm bôn hình thang,

rìu có eo tại di tích Cư K’tur có hình dáng không cân đối, mài toàn thân nhưng

không xóa hết toàn bộ vết ghè tạo hình. Nhóm bôn hình thang, bôn vai nhọn, bôn

vai ngang phân bố chủ yếu tại vùng trũng Krông Pắk – Lắk, cao nguyên Đắk Nông

và một phần tại cao nguyên Buôn Ma Thuột có hình dáng cân đối và vuông vức.

Hiện tượng ghè hoặc mài lại lưỡi phổ biến nên một số tiêu bản có chuôi dài, phần

thân và lưỡi rất ngắn.

Không gian phân bố rìu, bôn trải rộng trên toàn bộ các tiểu vùng địa lý. Tuy

nhiên, bên cạnh các loại hình rìu, bôn có không gian phân bố rộng như rìu, bôn tứ

giác, rìu, bôn hình thang; một số tiểu loại hình chỉ được tìm thấy ở một số tiểu vùng

nhất định. Rìu hình mai mực chủ yếu phát hiện tại vùng cao nguyên Buôn Ma Thuột

và phần giáp ranh của vùng trũng Krông Pắk - Lắk. Những phát hiện về bôn hình

răng trâu với số lượng không đáng kể (2/465 chiếc rìu, bôn) tại vùng núi thấp Cư

Dju (01 chiếc) và vùng trũng Krông Pắk – Lắk (1 chiếc). Mặc dù tư liệu về bôn hình

răng trâu này tại tỉnh Đắk Lắk cần kiểm chứng thêm nhưng một số chiếc rìu, bôn có

vai tại di tích T’Sham A ở vùng phía Bắc Đắk Lắk có nét gần gũi nhất định về hình

dáng với loại hình bôn răng trâu. Các chiếc bôn vai nhọn đều tìm thấy ở phía Nam Đắk

Lắk và tỉnh Đắk Nông đều có hình dáng cân đối, sắc cạnh, mài nhẵn toàn thân (bảng

10, bảng 11). Nếu như các hiện vật rìu, bôn tìm thấy tại khu vực phía Bắc tỉnh Đắk Lắk

chế tác từ nhiều nguồn nguyên liệu khác nhau như Phtanite, Opal thì hiện vật rìu, bôn

tại các địa điểm còn lại chủ yếu chế tác từ đá Basalt, một số ít từ đá Silic.

So với rìu, bôn có vai, nhóm rìu, bôn không vai chiếm ưu thế về loại hình, số

lượng (257/156 chiếc), và không gian phân bố. Trong hầu hết di tích tìm thấy cả rìu,

bôn không vai lẫn rìu, bôn có vai thì nhóm rìu, bôn không vai luôn vượt trội về mặt

số lượng. Riêng hai di tích T’Sham A và Cư K’tur phân bố ở phía Bắc tỉnh Đắk

Lắk, rìu, bôn có vai chiếm ưu thế vượt trội. Địa điểm Quảng Trực có số lượng

78

rìu, bôn có vai lớn hơn rìu, bôn không vai nhưng đây là sưu tập trên bề mặt với

số lượng không nhiều (7 chiếc) nên chưa đủ giá trị đại diện (Bảng 11). Điều này

cho thấy sự khác biệt trong thói quen chế tác và sử dụng rìu, bôn giữa các nhóm dân

cư vùng phía Bắc tỉnh Đắk Lắk với các nhóm cư dân vùng phía Nam tỉnh Đắk Lắk

và toàn tỉnh Đắk Nông. Nhóm rìu, bôn có vai là nhóm rìu, bôn đặc trưng tại vùng

phía Bắc tỉnh Đắk Lắk; các loại hình rìu bôn không vai là những loại hình rìu, bôn

đặc trưng của vùng phía Nam tỉnh Đắk Lắk và toàn tỉnh Đắk Nông

Nhóm rìu hình mai mực là loại hình rìu đặc trưng của các di tích Hậu kỳ Đá

mới vùng cao nguyên Buôn Ma Thuột và vùng lân cận, gợi lại hình dáng và phong

cách chế tác loại hình rìu bầu dục và rìu mài lưỡi các di tích giai đoạn Trung kỳ Đá

mới tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông, nhưng ở mức phát triển cao hơn khi kỹ thuật mài

toàn thân được sử dụng. Không gian phân bố loại hình rìu hình mai mực tại các tiểu

vùng địa lý thuộc lưu vực sông Srêpốk, trùng hợp với không gian phân bố các di

tích giai đoạn Trung kỳ Đá mới giai đoạn trước đó.

Cuốc đá: gồm 83 chiếc được tìm thấy tại 19 địa điểm khảo cổ giai đoạn Đá

mới muộn, phân bố tại tất cả các tiểu vùng địa lý tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông.

Cuốc chủ yếu được tìm thấy trong các hố đất đen, tập trung thành cụm. Về mặt loại

hình, chúng tôi chia nhóm cuốc đá thành 6 phụ loại: cuốc hình mai mực, cuốc chim,

cuốc hình thang, cuốc vai ngang, cuốc vai xuôi và cuốc vai nhọn.

Cuốc đá giai đoạn Hậu kỳ Đá mới tại khu vực nghiên cứu có kích thước lớn,

chế tạo bởi kỹ thuật ghè, cưa, mài ở trình độ cao, hình dáng vuông vắn, góc cạnh

khúc triết. Một số chiếc cuốc chim, cuốc hình mai mực và cuốc hình thang còn

những vết ghè nhỏ trên thân có thể là do chủ ý của chính người chế tác nhằm tạo độ

chắc chắn, tránh xộc xệch khi tra cán và sử dụng. Sự khác biệt kích thước có thể coi

là một trong những tiêu chí phân loại giữa cuốc và rìu bôn. Về hình dáng, mặt cắt

ngang cuốc đá luôn có sự cong khum nhất định để phù hợp với chức năng đào và

xới đất trong khi rìu, bôn không có đặc điểm đó. Về mặt loại hình, nhóm cuốc

không vai chiếm số lượng vượt trội so với cuốc có vai (56/27chiếc). Chất liệu chế

tác chủ yếu là đá Basalt. Một số chiếc cuốc tìm thấy ở phía Bắc Đắk Lắk chế tác từ

đá Phtanite và Opal. Không gian phân bố của mỗi loại hình cũng có sự khác biệt.

79

Nhóm cuốc hình mai mực tìm thấy chủ yếu tại vùng cao nguyên Buôn Ma Thuột và

rải rác tại vùng trũng Krông Pắk - Lắk (bản vẽ 43, hình 45). Cuốc hình thang phân

bố chủ yếu tại cao nguyên Buôn Ma Thuột, cao nguyên Đắk Nông, rải rác tại cao

nguyên M’drắk (bản vẽ 44, hình 47). Cuốc chim tìm thấy tại các di tích có địa hình

đồi gò đất đỏ Basalt trên cao nguyên Buôn Ma Thuột và rìa vùng núi cao Cư Yang

Sin (hình 46). Nhóm cuốc có vai phân bố chủ yếu tại vùng trũng Krông Pắk - Lắk

và tại những vùng đồi gò ven bãi bồi phù sa. Tuyệt nhiên vắng bóng loại hình cuốc

có vai kiểu bôn hình răng trâu vốn phổ biến tại Kon Tum và Gia Lai.

Nhóm cuốc vai nhọn thân thắt eo là một loại hình cuốc đá mới, phân bố chủ

yếu ở khu vực phía Nam Đắk Lắk, cụ thể là di tích Buôn Kiều và Buôn Triết, có

hình dáng và kỹ thuật chế tác tương đồng loại hình bôn vai nhọn tìm thấy trong

cùng di tích Buôn Triết và di tích Đắk Tơn (bản vẽ 44, hình 48) [75, tr. 237, tr.243].

Nhóm cuốc hình mai mực là một loại hình cuốc đá đặc trưng của vùng cao nguyên

Buôn Ma Thuột, có mối liên hệ về loại hình, kỹ thuật chế tác, trùng hợp về không

gian phân bố với rìu hình mai mực (bản vẽ 43, hình 45) [35, tr.102 – 112].

Đục đá: gồm 14 chiếc, tìm thấy tại Dhă Prông, Đắk Tơn và Suối Ba. Các

chiếc đều làm từ đá Basalt, bề ngang lưỡi rất hẹp so với chiều dài, thường bằng 1/2 -

1/3 chiều dài, thân hình chữ nhật, tiết diện ngang hình tứ giác (bản vẽ 48, hình 49) [75,

tr. 236], [98, tr. 7 – 35].

Cưa đá: gồm 05 chiếc, ở Dhă Pông, Cư K’tur, Suối Ba. Cưa đá làm từ đá cát

kết, hai mặt có vết mài phẳng, một cạnh mòn vát mỏng ở rìa, có lẽ là rìa tác dụng.

Chiếc cưa đá Cư K’tur có thể tận dụng kết hợp làm bàn mài (bản vẽ 49, hình 50)

[17, tr. 42] [26, tr. 21] [98, tr. 18– 31].

Nạo: gồm 02 chiếc tìm thấy trong hố khai quật Dhă Prông năm 2002, chế tác

từ mảnh tách của một viên cuội suối đá Silic, rìa tác dụng tạo bởi những nhát ghè

nhỏ ở rìa cạnh và hai đầu [98, tr. 35].

Công cụ hình lưỡi liềm: gồm 03 chiếc tìm thấy trong hố khai quật Dhă Prông

năm 2002. Hiện vật chế tác từ đá Basalt, hình lưỡi liềm, tận dụng từ hình dáng tự

nhiên của mảnh đá. Trên thân có vết ghè, một chiếc có vết mài nhưng chưa xóa hết

các vết ghè. Đây là những di vật độc đáo, chưa phát hiện tại di tích tiền sử nào khác

80

[98, tr. 35 -36]

Bàn đập khắc rãnh: gồm 18 chiếc, tìm thấy tại Đồi Chợ (03 chiếc), Đắk Tơn

(02 chiếc), Nghĩa Trang (01 chiếc), Trung Sơn (01 chiếc), Cư K’tur (01 chiếc) và

Rừng Lạnh (1 chiếc), Buôn Triết (9 chiếc). Những chiếc bàn đập khắc rãnh tìm thấy

tại Đắk Lắk và Đắk Nông đều chế tác từ đá sa thạch hạt mịn, bề mặt mài nhẵn, hình

dáng cân đối, thuộc 2 nhóm loại hình:

+ Nhóm không có tay cầm: sưu tập trên bề mặt di tích Nghĩa Trang, Đắk Tơn;

phát hiện trong tầng văn hóa di tích Cư K’tur và di tích Rừng Lạnh. Bàn đập hình

khối chữ nhật, bề mặt phẳng, mài nhẵn; các rãnh nhỏ hình chữ “V” chạy song song

thân, tập trung tại hai mặt đối nhau, hai mặt còn lại có một rãnh lõm cong tròn lòng

máng (bản vẽ 53, hình 55a1). Những chiếc bàn đập này có hình dáng gần giống bàn

đập khắc rãnh tìm thấy tại di tích Tai Pêr, Làng Ngol, Đồng Hải (huyện Chư Sê, tỉnh

Gia Lai) và Xóm Dền (huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ) thuộc văn hóa Phùng Nguyên.

+ Nhóm có tay cầm: sưu tập trên bề mặt di tích Trung Sơn, Buôn Triết, Đắk

Tơn và Buôn Kiều. Hình dáng các bàn đập thuộc nhóm này tương tự nhóm bàn đập

không có tay cầm, nhưng thân dài hơn, có thêm cán hình trụ mài nhẵn, phân tách

với phần đập hình chữ nhật. Trên mặt đập chỉ có các vết khắc mảnh, chạy song song

theo chiều dài phần đập tập trung tại hai mặt đối nhau, hai mặt còn lại không có

rãnh lõm cong lòng máng (hình 55a2, hình 55a3) .

Mặc dù số lượng chưa nhiều nhưng chiếc bàn đập khắc rãnh phát hiện tại

tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông cho thấy sự đa dạng về loại hình bàn đập khắc rãnh tại

nơi đây. Những chiếc bàn đập khắc rãnh ở khu vực nghiên cứu hoàn toàn tương

đồng nhau về bố cục rãnh khắc (rãnh khắc nhỏ, chạy song song nhau).

Đá có lỗ giữa: gồm 7 chiếc, tìm thấy tại Đồi Chợ, Đắk Tơn, Dhă Prông,

Thôn Mười, chế tác từ viên cuội hình tròn hoặc bầu dục, hai mặt lớn nhẵn và gần

song song nhau. Chính giữa mặt lớn có lỗ tròn, được khoan từ hai đầu tương đối

đồng tâm. Trên một số chiếc, lỗ tròn khoan rộng ở ngoài thu hẹp vào chính giữa;

một số chiếc bề mặt lỗ rộng đều (bản vẽ 54, hình 56) [75, tr.198, 216, 232, 237].

Đá có lỗ giai đoạn Hậu kỳ Đá mới có hình dáng cân đối và thể hiện sự hoàn

81

thiện về mặt kỹ thuật chế tác so với di vật tương tự giai đoạn Trung kỳ Đá mới.

Chì lưới: gồm 01 chiếc tìm thấy ở Buôn Trấp được làm từ viên cuội hình bầu

dục dẹt. Trên thân khoét hai lỗ tròn từ hai phía; đường kính lỗ 1cm. Kích thước: dài

7cm, rộng 5cm, dày 3cm (bản vẽ 55) [70, tr. 27]. Đây là loại chì lưới bằng đá dùng

để đánh cá duy nhất được phát hiện tại tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông.

Đá ghè/mài tròn: có 6 chiếc, đều tìm thấy trong hố khai quật di tích Cư K’tur

năm 2002, trong đó có 5 chiếc chất liệu Sa thạch, 1 chiếc Opal. Đây là loại di vật hiện

chưa rõ chức năng. Chúng là những viên cuội kích thước cỡ vừa tay cầm hoặc nhỏ hơn,

xung quanh có vết ghè hoăc kết hợp với mài tạo hình tròn hoặc gần tròn hơi dẹt. Một

số chiếc còn mài cả rìa xung quanh. Kích thước chiếc lớn nhất đường kính 8,6cm, dày

3,7cm; chiếc nhỏ nhất đường kính 5,5cm, dày 3,1cm (bản vẽ 56, hình 57). Theo những

người khai quật, đây có thể là một dạng bàn mài dùng để xoa nhẵn [24, tr. 22 – 23].

Trong các di tích Tiền sử Việt Nam hầu như không gặp loại di vật này.

Bàn mài gồm: 341 chiếc, số lượng chỉ thấp hơn nhóm rìu, bôn mài, phân bố

trên toàn bộ các tiểu vùng địa lý. Bàn mài vốn là những hòn cuội hoặc thỏi đá tự

nhiên, chất liệu chủ yếu là đá cát kết, một số chiếc là đá Quartzite biến tính. Loại

hình phong phú, gồm bàn mài phẳng, bàn mài lõm lòng chảo, bàn mài cạnh/mài dũa

và bàn mài trong. Bàn mài phẳng, bàn mài lõm và bàn mài dũa có thể sử dụng chế

tác các loại công cụ và trang sức; trong khi bàn mài trong tiết diện ngang hình tròn

có thể dùng để mài nhẵn lõi đồ trang sức (bản vẽ 50, hình 51).

Hòn ghè: giai đoạn Hậu kỳ Đá mới được phát hiện tại các địa điểm Thôn Ba,

Đại Đồng, Cư K’tur, T’Sham A, Kim Châu, Thác Lào. Các hòn ghè đều tận dụng từ

cuội tự nhiên, kích thước vừa tay cầm (hình 52).

Chày nghiền: phát hiện 12 chiếc tại Dhă Prông, Cao Thắng, Trung Sơn.

Chày nghiền có nguồn gốc từ cuội sông, một mặt mòn, gần phẳng có thể là mặt tác

dụng. Một số chiếc bề mặt sử dụng nằm ở 2 đầu đối nhau (bản vẽ 51, hình 53).

Hiện vật hình kiếm (?) gồm 01 chiếc tìm thấy trong tầng văn hóa di tích Cư

K’tur, với 6 mảnh gãy ghép lại nhưng vẫn còn thiếu 01 mảnh ở đoạn nối giữa chuôi

và thân. Hiện vật bằng đá Basalt màu xám, thân hình lá, đầu thuôn nhọn, hai cạnh

bên gần song song, hai mặt đều ghè cân xứng rìa cạnh khá thẳng, phần chuôi ghè

82

thắt hơi nhỏ lại. Hiện vật được ghè tỷ mỷ và tinh xảo, có thể nó cũng được mài

nhưng do bên ngoài bị phong hóa cho nên không thể nhận ra. Tiết diện ngang thân

hình thấu kính, kích thước thân còn lại dài 26,3cm, rộng ngang thân 7cm, dày ngang

thân 2,2cm; phần còn lại của chuôi dài 5,3cm. Đây là hiện vật hình kiếm bằng đá

duy nhất tìm thấy ở Tây Nguyên cho đến nay (bản vẽ 52, hình 54) [24, tr. 22].

Đồ trang sức bằng đá phát hiện với số lượng ít hơn rất nhiều so với công cụ

đá, gồm các mảnh vòng tay phát hiện trong tầng văn hóa di tích Suối Ba (02 chiếc)

và trên bề mặt di tích Thôn Năm (huyện Cư Jút) (01 chiếc) và 01 hiện vật trang sức

tại Dhă Prông [75, tr. 198]. Vòng đá được chế tác từ đá phiến hoặc đá Silic. Vòng

đá được khoan tách lõi, mài phẳng mặt trong và các mặt ngoài, mặt cắt hình chữ

“D”. Vòng tay Suối Ba đã hoàn thiện, trong khi vòng tay tại di tích Thôn Năm mới

chỉ khoan tách lõi, mặt ngoài chưa mài nhẵn (hình 59) [17, tr.42-43] [45, tr.9].

2.2.2.2 Đồ gốm

Trong các di tích giai đoạn Hậu kỳ Đá mới, đồ gốm chủ yếu là các mảnh

gốm vỡ, xuất lộ chủ yếu trên bề mặt di tích, thưa thớt trong tầng văn hóa. Số lượng

đồ gốm còn nguyên dáng rất ít, là các mộ chum và bàn xoa gốm được tìm thấy tại

các di tích Buôn Triết, Suối Ba, Dhă Prông.

* Chất liệu

Đồ gốm giai đoạn Hậu kỳ Đá mới có độ dày từ 0,2 – 1,2cm; phổ biến ở độ

dầy 0,4 – 0,5cm. Gốm giai đoạn này cứng, chắc, xương gốm có màu sẫm hơn, thành

phần sét mịn pha bã thực vật và nhiều hạt sạn cát kích thước rất nhỏ và vỏ nhuyễn

thể. Có thể phân thành hai loại:

- Loại gốm pha nhiều hạt cát nhỏ, bở rời. Áo gốm màu nâu đỏ, thường bong

tróc thành từng mảng, bề mặt thô ráp. Đặc điểm loại gồm này có nét tương đồng

nhất định với gốm giai đoạn Trung kỳ Đá mới trong khu vực nghiên cứu (hình 67).

- Loại gốm mịn, cứng, chắc. Xương gốm cũng pha cát nhưng có thêm một tỉ

lệ vỏ nhuyễn thể. Bề mặt còn lớp áo nhẵn mịn, miết láng thường có màu đỏ nâu

nhạt, hồng đỏ hoặc xám đen, có ánh mica trên bề mặt. Trên một số mảnh gốm thuộc

loại này trang trí băng hoa văn phức tạp (hình 66, hình 71).

Số lượng các loại gốm tại các di tích khác nhau không đều nhau. Tại di tích

83

Dhă Prông, số lượng mảnh gốm bở rời và gốm mịn gần bằng nhau, chiếm tỷ lệ xấp

xỉ 50% [98, tr. 40].... Tại di tích Buôn Triết, trên 60% mảnh gốm thuộc loại gốm

mịn, miết láng. Tại di tích Tshama A, chỉ có 53/1.111 mảnh gốm trong tầng văn hóa

thuộc nhóm gốm bở rời, còn lại là gốm mịn [75, tr.211].

Kỹ thuật pha chế đất sét tương đối kỹ, được làm bằng kỹ thuật nặn tay, hoặc

bằng dải cuộn có hỗ trợ bàn đập hòn kê, sử dụng bàn xoa gốm để miết láng bề mặt

đồ gốm đất nung. Đồ gốm được nung ở nhiệt độ tương đối cao, gốm chín đều.

* Loại hình

Gốm giai đoạn Hậu kỳ Đá mới tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông đa dạng về loại

hình, phong phú về chức năng sử dụng. Căn cứ vào chức năng sử dụng, chúng tôi

phân chia đồ gốm giai đoạn này thành các nhóm:

- Đồ gốm phục vụ hoạt động sinh hoạt thường nhật: gồm các dụng dụng cụ

đun nấu như nồi, ấm... còn vết than tro bám; các dụng cụ đựng kích thước vừa và

nhỏ như chén, đĩa, bình, vò.... Các kiểu dáng phổ biến là loại cổ cong, thân nở, đáy

tròn. Một số dụng cụ như bát, vò nhỏ, cốc tại Buôn Triết chân đế thấp [75, tr.245].

- Đồ gốm sử dụng trong chôn cất người chết: gồm nồi vò hoặc chum hình cầu

sử dụng chôn cất người chết được tìm thấy tại Suối Ba, Buôn Triết, Dhă Prông, Cư

K’tur. Nồi vò, chum mộ hình cầu, đáy gần tròn, phình giữa thân, miệng khum,

đường kính miệng từ 30 – 40cm. Gốm mộ thuộc loại đất xét pha cát, màu nâu đỏ,

thành mỏng, bề mặt bị bong tróc, không rõ hoa văn trang trí.

- Đồ gốm tham gia hoạt động chế tạo đồ gốm: Tại di tích Suối Ba và địa điểm

Phú Sơn 3 (huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông) đã tìm thấy bàn xoa gốm có núm trụ dài,

hình nón tam giác, đáy mở rộng, thuôn nhỏ về phía đầu núm, đầu núm gần hình

thoi, lồi nhẹ, phình ra so với phần thân (hình 65). Tại các di tích như Cái Vạn (xã

Nhơn Trạch, huyện Long Thạch, tỉnh Đồng Nai), Rạch Bà Giá, Rạch Lá (huyện

Long Thạnh, tỉnh Đông Nai), di tích Suối Linh (huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai)...

phát hiện nhiều chiếc bàn xoa gốm có cấu tạo tương tự [100].

Kiểu miệng gốm giai đoạn Hậu kỳ Đá mới chủ yếu là miệng loe; kiểu miệng

thẳng và miệng khum ít được tìm thấy (bản vẽ 57, bản vẽ 58, hình 69, hình 70).

Miệng loe phát hiện trong tầng văn hóa di tích Dhă Prông, Buôn Triết,... và rải

84

rác tại nhiều di tích cùng giai đoạn trong khu vực nghiên cứu; bao gồm các kiểu

miệng: 1) miệng loe đơn giản, mép miệng có thể cong tròn hoặc loe xiên 2) Miệng

loe xiên, thành miệng hơi ưỡn, mép miệng vuốt nhỏ; 3) Miệng loe có cổ gãy góc,

tạo phần góc nhọn thân trong, mép miệng cong tròn và dày hơn thân miệng; 4)

Miệng loe dáng khum, có cổ và mép miệng cong tròn, hơi khum vào trong; 5)

miệng loe đơn giản gần giống kiểu 1 nhưng mép miệng dày, thẳng và trang trí văn

thừng, chỉ phát hiện tại các di tích thuộc dòng Đắk N’rung [42] [75, tr.245] [98]

Miệng thẳng hơi đứng được phát hiện tại di tích Buôn Triết và di tích Cư

K’Tur, không tìm thấy trong tầng văn hóa di tích Dhă Prông. Miệng đứng gồm hai

kiểu: 1) mép mệng vê nhọn bẻ ra ngoài, kiểu miệng cốc, được tìm thấy tại di tich

Buôn Triết [75, tr.245]; 2) Mép miệng bằng có gờ tìm thấy tại di tích Cư K’tur [24]

Miệng khum tìm thấy trong tầng văn hóa di tích Dhă Prông, Buôn Triết,...

chưa tìm thấy tại các địa điểm khác. Miệng khum gồm các kiểu: 1) miệng khum

đơn giản, dáng miệng cong khum; mép miệng bẻ vào trong, ve tròn. Một số mảnh

miệng kiểu này tìm thấy tại di tích Dhă Prông có khoảng cách giữa mép miệng và

phần cong khum lớn; 2) Miệng hơi bóp vào với mép miệng gần thẳng kiểu miệng

nồi vò nhỏ; 3) Miệng khum với phần thân loe rộng, miệng bẻ gập vào trong thân,

mép miệng hơi nhọn. Đây là kiểu miệng của các loại đĩa, bát kích thước lớn; 4)

Miệng hơi khum, thân có một gờ nổi, mép miệng ve tròn. Kiểu miệng này chỉ phát

hiện duy nhất 1 mảnh tại di tích Dhă Prông năm 2002 [98, tr.44]

Chân đế đồ gốm giai đoạn Hậu kỳ Đá mới khu vực nghiên cứu phát hiện tại di

tích Buôn Triết, Dhă Prông... Chân đế gắn liền với đáy, gồm 2 kiểu: 1) Kiểu dáng

thẳng hơi chõi, mép chân đế ve tròn hoặc tương đối bằng (hình 68) [98, tr.45] [75,

tr.245]; 2) kiểu loe choãi, mép chân đế nhọn, phổ biến tại di tích Dhă Prông (bản vẽ

59) [98, tr.45]. Trong khu vực nghiên cứu chưa tìm thấy loại hình chân đế cao, có

trang trí hoa văn hoặc có gờ đắp nổi như loại hình chân đế phổ biến tại các di tích

vùng Đông Nam Bộ.

* Hoa văn trang trí

Phần lớn các mảnh gốm thu thập được đều bị bong tróc áo gốm. Một số mảnh

còn nguyên bề mặt nhưng được miết láng, không trang trí hoa văn. Số lượng mảnh

85

gốm trang trí hoa văn không nhiều, nhưng cho thấy đồ gốm giai đoạn Hậu kỳ Đá

mới tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông được trang trí bằng cả hoa văn kỹ thuật truyền

thống (văn thừng, văn chải) lẫn hoa văn mỹ thuật (văn khắc vạch...) hoặc kết hợp

giữa nhiều loại hoa văn khác nhau (bản vẽ 60, hình 70, hình 73), cụ thể:

- Văn thừng: Thể hiện trên thân và đáy đồ gốm, gồm các đường thừng song

song nhau, dấu thừng không sâu, không có sự cắt chéo lên nhau. Bên cạnh các

mảnh gốm trang trí văn thừng thô, như giai đoạn Trung kỳ Đá mới, tìm thấy các

mảnh gốm trang trí văn thừng mịn tại di tích Dhă Prông, Cư K’Tur, Buôn Triết....

- Văn chải: mịn, vết chải sắc nét, không chồng chéo lên nhau, được chải bằng

những vật sắc nhọn. Văn chải trang trí trên đồ gốm di tích Dhă Prông, Dúc Dôn...

- Văn chấm lỗ: gồm các chấm tròn, hoặc gần tròn, chấm hình tứ giác, được

chấm thành từng mảng, không đều nhau, nét chấm rõ ràng. Văn chấm lỗ không phổ

biến trong các di tích giai đoạn Hậu kỳ Đá mới trên địa bàn, chủ yếu tìm thấy tại di

tích Dhă Prông và Buôn Triết [98, tr.43] [75, tr.245]

- Văn khắc vạch là những đường vạch nhỏ, tạo thành các đường thẳng song

song hoặc cắt nhau trên nền gốm miết láng. Văn khắc vạch thường được sử dụng

kết hợp với các loại hình hoa văn khác tạo thành cách dải, băng hoa văn kết hợp.

- Hoa văn kết hợp trên đồ gốm giai đoạn Hậu kỳ Đá mới là các đồ án hoa văn

kết hợp giữa văn khắc vạch với văn chấm lỗ, hoặc văn thừng mịn, hoặc văn chải.

Trong đó, phổ biến đồ án hoa văn hình tam giác viền khắc vạch với phần in chấm

bên trong; hình tam giác với viền khắc vạch và đường thừng mịn/văn chải chéo bên

trong. Các hình tam giác nối tiếp nhau thành băng hoa văn trên nền miết láng.

So với đồ gốm giai đoạn Hậu kỳ Đá mới các tỉnh phía Bắc Tây Nguyên, hoa

văn trang trí trên đồ gốm Hậu kỳ Đá mới tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông không

phong phú bằng. Tại khu vực nghiên cứu chưa tìm thấy các môtip hoa văn trang trí

hình sóng nước hoặc các đường cong như những khu vực khác.

2.2.3. Niên đại và các giai đoạn phát triển Hậu kỳ Đá mới

2.2.3.1. Niên đại

Cho đến nay, các nhà khảo cổ vẫn chưa thể phân chia một cách rạch ròi hai giai

đoạn Hậu kỳ Đá mới và Sơ kỳ Kim khí ở vùng Tây Nguyên nói chung, khu vực nghiên

cứu nói riêng, mà sử dụng các thuật ngữ có nội hàm rộng như: “Hậu kỳ Đá mới - Sơ kỳ

86

Kim khí”, “Đá mới muộn” để định niên đại cho các di tích giai đoạn này.

Việc phân kỳ các giai đoạn khảo cổ học được đánh giá chủ yếu dựa trên sự

phát triển của trình độ sản xuất vật chất, phương thức, kỹ thuật kiếm sống của các

cộng đồng. Trong tầng văn hóa các di tích giai đoạn Hậu kỳ Đá mới – Sơ kỳ Kim

khí/Đá mới muộn ở khu vực nghiên cứu trong khuôn khổ đề tài đều chưa tìm thấy

di vật bằng kim khí hay dấu hiệu đúc, rèn kim khí, trong khi hiện vật thu thập chủ

yếu là công cụ lao động bằng đồ đá và các dụng cụ chế tác đồ đá cùng đồ gốm tiền

sử. Trong điều kiện chưa có mẫu nào phân tích niên đại tuyệt đối của chính các di

tích này, chúng tôi dựa vào địa tầng các một số di chỉ tiêu biểu đã được khai quật,

kết hợp so sánh kết quả phân tích niên đại của các di tích đồng đại, hoặc thuộc giai

đoạn phát triển trước và sau thời kỳ này để xác định khung niên đại cho các di tích

giai đoạn Hậu kỳ Đá mới ở khu vực nghiên cứu.

Cho đến nay có 22 mẫu than tại di chỉ Lung Leng và 15 mẫu than vùng lòng hồ thủy điện Plei Krông được phân tích niên đại tuyệt đối bằng phương pháp C14

(bảng 13, bảng 14). Đối chiếu với diễn biến địa tầng, bước đầu có thể ghi nhận 4

giai đoạn cư trú của con người ở di chỉ Lung Leng, trong đó có 01 giai đoạn thuộc

về giai đoạn Hậu kỳ Đá mới: Đó là giai đoạn được đặc trưng bởi di tích chứa rìu có

vai, bôn có vai kích thước vừa và nhỏ, gốm thô văn thừng, khắc vạch, đôi khi có

văn đắp thêm, in chấm. Rất hiếm cuốc đá, nếu có chỉ là loại cuốc kích thước nhỏ.

Có mặt mộ nồi vò úp nhau, có thể chưa xuất hiện mộ chum. Giai đoạn này có 9 kết

quả phân tích C14 bắt đầu từ 3.510  110 năm BP đến 3.110  80 năm BP3. Bằng

phương pháp so sánh, một số nhà nghiên cứu cho rằng niên đại mức sớm các di tích

vùng lòng hồ Plei Krông khoảng 3.000 - 4.000 năm BP, tương ứng với lớp giữa di

chỉ Lung Leng (Kon Tum), Biển Hồ,… (Gia Lai), Buôn Triết (Đắk Lắk), Thôn Bốn

(Lâm Đồng), Bàu Tró (Quảng Bình) và Cầu Sắt (Đồng Nai) [86, tr. 388 – 389].

Năm 2015, Bảo tàng Lịch sử Quốc gia khai quật di tích Buôn Kiều và Buôn Hằng Năm thuộc giai đoạn Trung kỳ Đá mới. Kết quả phân tích niên đại C14 đối với

02 mẫu thuộc hố khai quật di tích Buôn Kiều và 01 mẫu thuộc hố thám sát di tích

3 Kết quả hiệu chỉnh theo chương trình chuẩn INT - CALIB 98 của Hiệp hội các phòng thí nghiệm đo tuổi carbon phóng xạ quốc tế.

87

Buôn Hằng Năm đều trong khoảng 4.200 năm BP (bảng 7) [93, tr. 56]. Các mẫu

đều thu thập trong các lớp trên tầng văn hóa, là những mốc niên đại muộn nhất của

di tích, và gần với khung thời gian của giai đoạn Hậu kỳ Đá mới nhất. Theo lý

thuyết, niên đại giai đoạn Hậu kỳ Đá mới tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông sẽ muộn hơn

so với niên đại tuyệt đối di tích Buôn Kiều và Buôn Hằng Năm.

Khung niên đại 4.000 – 3.000 năm BP thường được sử dụng trong các báo

cáo điều tra, công trình nghiên cứu liên quan niên đại văn hóa Buôn Triết và các di

tích, văn hóa đồng đại thuộc giai đoạn Hậu kỳ Đá mới khu vực nghiên cứu. Vì vậy,

theo chúng tôi, khung niên đại giai đoạn Hậu kỳ Đá mới ở tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk

Nông trong khoảng 4.000- 3.000 năm BP. Khung niên đại này cần tiếp tục được xác

thực, củng cố bằng những kết quả phân tích niên đại tuyệt đối trong tương lai.

2.2.3.2. Các giai đoạn phát triển

Trên cơ sở so sánh tổ hợp di vật thu thập trong tầng văn hóa các di tích đã

được khai quật như các di tích Cư K’tur, Dhă Prông, Buôn Triết... cùng các sưu tập

di vật phát hiện rải rác trên tất cả các tiểu vùng địa lý c, chúng tôi bước đầu phân kỳ

giai đoạn Hậu kỳ mới ở khu vực nghiên cứu thành các mức như sau:

Mức sớm: là giai đoạn bảo lưu phong cách loại hình và các dấu vết kỹ thuật

giai đoạn Trung kỳ Đá mới trong chế tác công cụ đá. Tại di tích Dhă Prông, đã phát

hiện các công cụ hình mai mực có hình dáng, kỹ thuật chế tạo và chất liệu tương tự

loại hình rìu bầu dục, rìu mài lưỡi trong các di tích giai đoạn Trung kỳ Đá mới lưu

vực sông Srêpốk. Rìu chuôi nhọn, rìu hình thang chất liệu đá Basalt tại di tích Dhă

Prông mặc dù đã sử dụng kỹ thuật mài lan thân nhưng hình dáng vẫn thiếu tính cân

đối, bề mặt mài không xóa hết các vết ghè đẽo hai mặt. Phác vật công cụ không

chiếm ưu thế so với công cụ đã qua sử dụng. Đồ gốm làm từ đất sét, hạt tương đối

mịn, bề mặt vẫn lộ rõ các hạt cát pha kích thước nhỏ, hầu hết bề mặt đều bị bong

tróc. Hoa văn trang trí ít, chủ yếu văn thừng, văn in ô chấm vuông và văn khắc vạch

đơn giản. Tại các lớp dưới thuộc mức sớm của di tích Cư K’tur, các di tích phân bố

trên cao nguyên Buôn Ma Thuột, khu vực phía Nam tỉnh Đắk Lắk và cao nguyên

Đắk Nông cũng phát hiện rải rác các loại hình công cụ và gốm tương tự [93]. Đại

diện giai đoạn này là di tích Dhă Prông, lớp sớm di tích Cư K’tur, địa điểm Cư

88

Pơng, Ea Khiết,... Một phần bộ sưu tập di vật Buôn Triết với các công cụ hình mai

mực, gốm thô thể hiện dấu vết giai đoạn sớm tại di tích này bên cạnh giai đoạn

muộn đặc trưng văn hóa Buôn Triết.

Mức muộn: là giai đoạn phổ biến các loại hình công cụ mài nhẵn toàn thân,

hình dáng cân đối, tuân thủ nghiêm ngặt tiêu chuẩn kỹ thuật và mỹ thuật. Gốm

cứng, chắc, được miết bóng, trang trí đồ án hoa văn kết hợp giữa khắc vạch với văn

thừng, giữa in chấm kết hợp với khắc vạch hoặc miết láng.... Bên cạnh công cụ lao

động, tìm thấy những loại hình di vật có tính thẩm mỹ cao, có giá trị biểu trưng hơn

giá trị thực dụng như: hiện vật hình kiếm di tích Cư K’tur; cuốc vai nhọn thân thắt

eo di tích Buôn Triết, có chuôi nhỏ trong khi thân rất dày và to... Một số địa điểm

như Hồ Ea Suóp Thượng, Ea Păn, Buôn Kiều... phát hiện cuốc đá hoàn thiện và

phác vật cuốc được chôn giấu chưa có vết sử dụng. Tại mức văn hóa muộn di tích

Cư K’tur và di tích T’Sham A di vật chủ yếu là rìu bôn có vai, phác vật rìu bằng đá

Opal, thể hiện tính chất công xưởng chế tác đá nổi bật cũng như mối giao lưu,

tương tác văn hóa với các khu vực khác có lẽ được mở rộng hơn. Đại diện tiêu biểu

giai đoạn này là lớp trên di tích Cư K’tur, di tích Buôn Triết, di tích T’Sham A, các

địa điểm chôn giấu của cải như địa điểm Ea Păn, địa điểm Hồ Ea Suóp Thượng....

Địa tầng di tích Cư K’tur thể hiện rõ nét sự phân biệt giữa hai mức phát triển

sớm – muộn nhưng không tìm thấy lớp vô sinh phân cách giữa hai hai mức. Vì vậy,

sự phát triển sớm – muộn của giai đoạn Hậu kỳ Đá mới tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông

có tính liên tục.

2.3. Đặc điểm thời đ i Đá mới t i hai tỉnh Đắk Lắ và Đắk Nông

2.3.1. Tính liên tục giữa các giai đoạn thời đại Đá mới khu vực nghiên cứu

Thời đại Đá mới là thuật ngữ để chỉ một giai đoạn phát triển cao của nhân

loại tiếp sau thời đại Đá cũ. Các nhà khảo cổ ghi nhận sự xuất hiện rìu mài lưỡi là

một trong những phát minh quan trọng trong kỹ thuật chế tác công cụ đá và là một

trong những tiêu chí cơ bản xác lập thời đại Đá mới. Thời đại Đá mới trước hết là

sự thay đổi thái độ con người đối với thiên nhiên. Nếu như trong thời đại Đá cũ

trước đó, con người thụ động trước thiên nhiên, chịu những cái bất thường trong săn

bắt và hái lượm, thì sang thời đại Đá mới, con người chủ động khai thác thiên

89

nhiên, thuần phục giới sinh vật xung quanh, thuần dưỡng cây trồng và vật nuôi.

Dấu tích về sự tồn tại của một giai đoạn sớm trước Hậu kỳ Đá mới ở Tây

Nguyên được hé lộ hơn sau cuộc khai quật di chỉ Lung Leng và các di tích lòng hồ

thủy điện Plei Krông. Trong tầng văn hóa di tích Lung Leng tìm thấy các công cụ

cuội ghè đẽo kiểu Hậu kỳ Đá cũ cùng một số rìu mài lưỡi nhưng phân bố rải rác,

không đặc trưng cho một lớp nào cụ thể. Vào thời thời điểm đó, sự tồn tại một giai

đoạn sớm trước giai đoạn Hậu kỳ Đá mới ở Tây Nguyên còn là một câu hỏi chưa

câu trả lời [30, tr. 99 – 100].

Năm 2005, trong địa tầng di chỉ Thôn Năm (Kon Tum), đã tìm thấy chopper,

nạo thô lưỡi rộng và đặc biệt là 02 công cụ hình đĩa chế tác từ cuội chất liệu Quartz,

mang đặc trưng phong cách kỹ thuật Hòa Bình truyền thống [86, tr. 215] . Một số

nhà nghiên cứu cho rằng dù mới phát hiện được một công cụ kiểu này trong một

diện đào còn hạn chế nhưng đó không phải là hiện tượng ngẫu nhiên mà chắc chắn

được quy định bởi hệ số thích ứng và tính chất cơ tầng văn hóa. Do đó, gợi mở khả

năng về sự tồn tại của cơ tầng Hoabinhian ở khu vực Tây Nguyên [18, tr.18-29].

Năm 2005, di tích Thôn Tám được phát hiện và tiếp theo là hàng loạt phát

hiện, thám sát và khai quật các di tích Buôn Kiều, Buôn Hằng Năm, Buôn Ea Chổ,

Hố Tre (Đắk Lắk), các di tích hang động núi lửa Krông Nô, di tích Tân Lập (Đắk

Nông), di tích Làng Gà (Gia Lai) thì sự hiện diện của một cơ tầng Đá mới sớm ở

khu vực mới được xác định chắc chắn. Các di tích này đều có tầng văn hóa chứa

dấu tích, di vật gắn với khung niên đại rõ ràng, chứng minh sự tồn tại và phần nào

phục dựng được một cơ tầng văn hóa trước giai đoạn Hậu kỳ Đá mới ở Tây Nguyên

mà cụ thể tại lưu vực sông Srêpốk, trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, tỉnh Đắk Nông và khu

vực phía Nam tỉnh Gia Lai. Cơ tầng văn hóa này tương đương nhưng phân biệt với

giai đoạn Trung kỳ Đá mới ở Bắc bộ và duyên hải Miền Trung.

Cơ tầng văn hóa này biểu hiện về mặt di vật là những công cụ ghè đẽo kiểu

Hậu Hòa Bình (Post Hoabinhian) và rìu mài lưỡi xuất hiện trong những di tích có

cùng kiểu cảnh quan (đồi gò thấp ven nguồn nước) ven hệ thống sông Srêpốk, trong

cùng một môi trường khí hậu và cùng hệ sinh thái. Các bộ sưu tập di vật rìu mài

lưỡi tại Kon Tum, Lâm Đồng mặc dù chưa có tài liệu địa tầng kèm theo nhưng cũng

có thể cùng chung cơ tầng văn hóa với các di tích giai đoạn Trung kỳ Đá mới tỉnh

90

Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông.

Qua so sánh đặc điểm di tích, di vật, cùng phương thức tổ chức sản xuất vật

chất và xã hội, chúng tôi nhận thấy mối quan hệ chặt chẽ giữa giai đoạn Trung kỳ

Đá mới với giai đoạn Hậu kỳ Đá mới tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông, cụ thể:

+ Không gian phân bố các di tích giai đoạn Trung kỳ Đá mới gần như trùng

khớp hoặc liền kề với các địa điểm Hậu kỳ Đá mới sau này. Tại di tích Buôn Kiều,

bên cạnh tổ hợp công cụ đá ghè đẽo kiểu Hậu Hòa Bình còn phát hiện một số bôn

hình thang mài toàn thân trên bề mặt, song chưa tạo thành lớp văn hóa rõ ràng. Liền

kề cụm di tích Thôn Tám là các địa điểm Hậu kỳ Đá mới - Sơ kỳ Kim khí như: Đại

Đồng, Dray H’linh, Trung Sơn, Thác Lào và Nam Dong. Sự trùng khớp không gian

cư trú giữa hai giai đoạn phát triển khác nhau chưa đủ để chứng minh mối quan hệ

trực hệ nhưng tất yếu dẫn đến sự kế thừa hoặc tương đồng một số giá trị văn hóa

nhất định giữa các cộng đồng cư dân này.

+ Cách thức lựa chọn không gian sinh sống của cư dân Trung kỳ Đá mới

tương đồng cư dân Hậu kỳ Đá mới. Họ đều lựa chọn địa bàn cư trú là những vùng

gò đồi cao ráo ven dòng chảy, nguồn nước tự nhiên. Không gian cư trú trải trên một

diện tích rộng, thường vài ngàn mét vuông đến hàng hecta. Tầng văn hóa các di tích

ngoài trời hầu hết đều dưới 1m, có một mức văn hóa, không có lớp phân cách trong

tầng văn hóa. Tầng văn hóa mỏng, mật độ di vật thưa thớt chứng tỏ sự phân tán và

quy mô dân số trong cộng đồng.

+ Giai đoạn Trung kỳ Đá mới là giai đoạn tiền đề cho sự phát triển mạnh mẽ

của giai đoạn Hậu kỳ Đá mới tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông. Nói cách khác, các yếu tố

của sự phát triển của giai đoạn Hậu kỳ Đá mới nảy sinh và hình thành trong lòng

các di tích giai đoạn Trung kỳ Đá mới tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông. Kỹ thuật mài

xuất hiện giai đoạn Trung kỳ Đá mới dù còn sơ khai, chỉ dừng ở mức độ mài lưỡi

tác dụng nhưng là nền tảng phát triển thành kỹ thuật mài toàn thân, mài tạo mặt

phẳng và đánh bóng phổ biến trong các di tích Hậu kỳ Đá mới sau này. Tương tự,

kỹ thuật khoan sơ khai, độ vát giữa miệng với lõi vết khoan lớn, vết khoan hai mặt

lệch nhau trên các di vật đá có lỗ giữa Thôn Tám và Buôn Kiều đã được hoàn thiện

trong giai đoạn Hậu kỳ Đá mới. Vết khoan hai mặt trên các tiêu bản đá có lỗ giữa và

91

vòng trang sức giai đoạn Hậu kỳ Đá mới không bị lệch, thành vết khoan thẳng,

không vát. Đặc biệt, cuốc đá tại di tích Buôn Hằng Năm là những chiếc cuốc đá có

niên đại cổ nhất tại tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông, thậm chí rộng hơn là toàn vùng

Tây Nguyên. Cuốc đá xuất hiện chứng minh nông nghiệp trồng trọt đã xuất hiện;

cuốc đá hoàn thiện về kỹ thuật chế tác, đa dạng về loại hình minh chứng cho hoạt

động nông nghiệp dùng cuốc phát triển cả về chất lẫn diện. Tính chất xưởng nổi bật

trong các di chỉ cư trú giai đoạn Trung kỳ Đá mới như Thôn Tám, Buôn Kiều, Buôn

Hằng Năm... là một trong những tiền đề của sự phân công lao động nhất định trong

việc chế tác đồ đá giai đoạn Hậu kỳ Đá mới sau đó, thể hiện qua sự xuất hiện các hệ

thống công xưởng chế tác đồ đá. Tại tỉnh Đắk Lắk, xuất hiện hệ thống công xưởng

chế tác rìu đá có vai bằng đá Opal với sự tham gia của các di tích Thanh Sơn, Bản

Thái, Cư K’tur, T’Sham A....

+ Ngược lại, các cư dân giai đoạn Hậu kỳ Đá mới tỉnh Đắk Lắk và Đắk

Nông vẫn bảo lưu các yếu tố truyền thống của giai đoạn Trung kỳ Đá mới trước đó.

Công cụ hình mai mực gồm hai nhóm: cuốc hình mai mực và rìu hình mai mực có

hình dáng và phong cách chế tác tương tự loại hình rìu bầu dục, rìu ngắn và rìu mài

lưỡi giai đoạn Trung kỳ Đá mới. Mặc dù sử dụng kỹ thuật mài toàn thân trong chế

tạo các loại hình công cụ lao động nhưng kỹ thuật chế tác công cụ hình mai mực

chủ yếu là kỹ thuật ghè đẽo. Công cụ hình mai mực là một trong những loại hình di

vật đặc trưng của cư dân Hậu kỳ Đá mới vùng cao nguyên Buôn Ma Thuột; qua đó

gợi ra khả năng về mối liên hệ trực tiếp giữa các cư dân giai đoạn Trung kỳ Đá mới

lưu vực sông Srêpốk với các cư dân Hậu kỳ Đá mới vùng cao nguyên Buôn Ma

Thuột. Một số loại hình công cụ đá phổ biến trong các di tích Hậu kỳ Đá mới: như

bàn mài, đá có lỗ,… cũng tìm thấy tại các bộ sưu tập công cụ đá giai đoạn Trung kỳ

Đá mới. Sự có mặt của loại hình công cụ đá ở các di tích thuộc hai giai đoạn khác

nhau cho thấy những điểm tương đồng trong hoạt động kinh tế của các cư dân thời

đại Đá mới tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông.

Như vậy, giữa các cư dân giai đoạn Trung kỳ Đá mới và các cư dân giai đoạn

Hậu kỳ Đá mới tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông có mối quan hệ nguồn gốc của một quá

trình phát triển văn hóa. Các di tích Trung kỳ Đá mới lưu vực sông Srêpốk nhiều khả

năng là một trong số các nguồn hợp quan trọng tạo dựng văn hóa giai đoạn Hậu kỳ

92

Đá mới ở tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông nói riêng và Tây Nguyên nói chung.

2.3.2. Đặc thù khu vực

Theo quan điểm thuyết sinh thái văn hóa của Julian Steward và Leslie White

và Trường phái Khảo cổ học Quá trình, văn hóa là sản phẩm của sự thích nghi của

con người với môi trường tự nhiên, hoạt động kỹ thuật khai thác tự nhiên. Nói cách

khác, hoạt động khai thác nguồn tự nhiên là nhân tố có tính quyết định đối với dạng

thức văn hóa. Từ cơ tầng Hoabinhian, sang đến giai đoạn Trung kỳ Đá mới và đặc

biệt là Hậu kỳ Đá mới, chứng kiến sự lan tỏa của quá trình Đá mới hóa trên không

gian rộng lớn, từ đồng bằng đến cao nguyên, đến vùng duyên hải và hải đảo. Với

mỗi không gian, môi trường tự nhiên cụ thể, thông qua mối quan hệ “kỹ thuật - môi

trường”, nảy sinh tính “địa phương” trong văn hóa cộng đồng. Cụ thể hơn, những

cư dân sinh sống lâu đời tại một môi trường sinh thái nào đó nhất định như: sinh

thái biển đảo, sinh thái đồng bằng, sinh thái thung lũng, sinh thái cao nguyên… thì

họ sẽ trải nghiệm, thích nghi, sáng tạo, hình thành những kỹ năng sống và thể hiện

sắc thái tâm lý cũng như dạng thức văn hóa phù hợp với môi trường sinh thái ấy.

Sinh tồn trong môi trường hệ sinh thái nhiệt đới phổ tạp, yếu tố “rừng cao

nguyên” đậm nét trong đời sống, tạọ nên đặc thù khu vực trong văn hóa cư dân thời

đại Đá mới khu vực nghiên cứu. Rừng là nơi cung cấp nguồn thực phẩm chính và

thường xuyên phục vụ nhu cầu sinh tồn thiết yếu của các cộng đồng cư dân. Dựa

vào rừng, khai thác các nguồn rừng cao nguyên nhiệt đới mưa đã quy định hình thái

cư trú của cộng đồng. Về cơ bản, cư dân Trung kỳ Đá mới khu vực nghiên cứu là

những cư dân khái thực, cư trú lâu đời tại một địa điểm. Tuy nhiên, không loại trừ

khả năng các cư dân cổ thường xuyên di chuyển nơi cư trú qua lại giữa các địa điểm

cùng thuộc một khoảng không gian nhất định trong một khoảng thời gian ngắn theo

mùa sinh trưởng của các nguồn thức ăn trước khi tái cư lại nơi cũ. Điều này lý giải

vì sao các di tích giai đoạn Trung kỳ Đá mới khu vực nghiên cứu kể cả trong hang

lẫn ngoài trời thường là cụm với nhiều địa điểm phân bố trên một diện không gian

rất rộng. Phương thức kiếm sống, hình thái cư trú này được các tộc người thiểu số

tại chỗ vùng Tây Nguyên sau này kế thừa và phát triển thành hình thái “luân canh,

luân cư”. Xét trên góc độ phát triển bền vững, hình thái “luân canh, luân cư” của

các tộc người thiểu số tại chỗ Tây Nguyên là một trong những phương thức khai

93

thác tài nguyên rừng có giới hạn và đi liền với bảo vệ, phục hồi rừng.

Trong điều kiện hệ sinh thái ổn định, các nguồn vẫn đáp ứng được nhu cầu của

cộng đồng trên cơ sở kỹ thuật khai thác ban đầu và không có biến động chính trị - xã

hội mang tính bước ngoặt; xu hướng chung của toàn cộng đồng là bảo lưu giá trị cơ

bản của dạng thức văn hóa truyền thống. Giao lưu với các cộng đồng người có thể tạo

ra những nét mới trong kỹ thuật sản xuất và thực hành văn hóa nhưng về cơ bản các

tri thức và thực hành văn hóa của các cộng đồng người địa phương vẫn giữ nguyên

theo hướng bảo lưu cách thức khai thác thiên nhiên truyền thống. Minh chứng cho

nguyên lý này là trường hợp một số cộng đồng: người Sentinel sống trên đảo North

Sentinel (Ấn Độ) hay người Kombai sống trong rừng già ở Papua (Indonesia)... Họ

vẫn bảo lưu lối sống truyền thống từ thời đại đồ Đá đến tận ngày nay.

Dĩ nhiên, không đến mức bảo lưu nguyên vẹn lối sống nguyên thủy như

người Sentinel hay người Kombai kể trên, nhưng các các cư dân tiền sử khu vực

nghiên cứu đã trải qua một thời đại Đá mới kéo dài. Niên đại giai đoạn Trung kỳ Đá

mới tại khu vực nghiên cứu sớm nhất là 7.000 năm BP, tương tự các di tích giai

đoạn Trung kỳ Đá mới khác trên cả nước. Tuy nhiên, giai đoạn Trung kỳ Đá mới

nơi đây kéo dài đến khoảng 4.000 năm BP, thời điểm mà các cộng đồng cư dân

khác trên đất nước đang trong giai đoạn cuối thời kỳ Hậu kỳ Đá mới, thậm chí bước

sang giai đoạn Kim khí. Trong tầng văn hóa di tích hang C6-1, đặc trưng công cụ đá

về cơ bản được bảo lưu trong suốt 2.000 năm phát triển của cư dân. Công cụ ghè

đẽo, rìu bầu dục tìm thấy trong lớp L1.2 và L1.3 thuộc mức văn hóa muộn (niên đại

khoảng 5.000 năm BP) và có hình dáng, kỹ thuật chế tác tương tự công cụ ghè đẽo,

rìu bầu dục tìm thấy tại lớp L4.12 thuộc mức văn hóa sớm (niên đại 6.700 năm BP).

Trong khoảng 3.500-3.000 năm BP, khi các cư dân tiền sử khu vực nghiên cứu

còn trong trình độ Hậu kỳ Đá mới, thì một số cư dân vùng khác ở nước ta đã bắt đầu

bước sang thời đại Kim khí. Vì vậy, không loại trừ khả năng các cư dân Hậu kỳ Đá

mới khu vực nghiên cứu có mối quan hệ với các cư dân Kim khí vùng lân cận.

2.4. Tiểu kết Chƣơng II

Giai đoạn Trung kỳ Đá mới với các di tích ngoài trời và trong hang động núi

lửa, phân bố trong cùng một không gian thuộc lưu vực hệ thống sông Srêpốk, tương

94

đồng với nhau về mặt cảnh quan di tích, cấu tạo tầng văn hóa và tính chất di tích. Di

vật trong các di tích giai đoạn Trung kỳ Đá mới khu vực nghiên cứu được chế tác

tại chỗ; đa dạng, phong phú về chất liệu và loại hình; tạo thành một tổ hợp di vật

thống nhất phục vụ các hoạt động khai thác nguồn tự nhiên, chế tác công cụ, kiếm

sống, giao lưu trao đổi và phục vụ nhu cầu thẩm mỹ của chính chủ nhân các di tích.

Yếu tố truyền thống văn hóa Hòa Bình phần nào đó vẫn được bảo lưu nhưng thể

hiện ở trình độ phát triển cao hơn và mang nét đặc thù địa phương. Giai đoạn Trung

kỳ Đá mới khu vực nghiên cứu tồn tại trong khung niên đại 7.000 – 4.000 năm BP.

Giai đoạn Hậu kỳ Đá mới gần 90 địa điểm, phân bố trên tất cả các tiểu vùng

địa lý, trong khoảng thời gian từ 4.000 – 3.000 năm BP. Căn cứ đặc trưng di vật

giữa các nhóm di tích phân bố tại các tiểu vùng địa lý khác nhau, có thể đưa ra giả

thuyết về sự tồn tại của 03 nhóm di tích trong giai đoạn này: Nhóm di tích khu vực

phía Bắc tỉnh Đắk Lắk; nhóm cư dân cao nguyên Đắk Nông và Nam Đắk Lắk, hay

còn gọi cư dân văn hóa Buôn Triết; và nhóm cư dân vùng cao nguyên Buôn Ma

Thuột. Mỗi nhóm cư dân có những nét đặc trưng riêng, nhưng vẫn có mối quan hệ

chặt chẽ và tương đồng với nhau tạo nên đặc trưng văn hóa chung của tỉnh Đắk Lắk

và tỉnh Đắk Nông trong giai đoạn Hậu kỳ Đá mới.

Diễn trình thời đại Đá mới ở khu vực nghiên cứu là quá trình diễn ra liên tục,

mang tính bản địa, phản ảnh sự thích nghi, cải tạo phục thiên nhiên của cư dân nơi

đây và bảo lưu lâu dài mối quan hệ bền vững giữa con người – tự nhiên. Các di tích

giai đoạn Trung kỳ Đá mới là nguồn hợp quan trọng tạo nên sự phát triển giai đoạn

95

Hậu kỳ Đá mới.

Chƣơng 3

CƢ DÂN, ĐỜI SỐNG VẬTCHẤT, TINH THẦN

VÀ MỐI QUAN HỆ VĂN HÓA

3.1. Phân bố dân cƣ

3.1.1. Các nhóm dân cư giai đoạn Trung kỳ Đá mới

* Đặc điểm nhân chủng

Năm 2018 – 2019, tại di tích hang động núi lửa C6-1, các nhà khảo cổ đã

phát hiện trong địa tầng 07 ngôi mộ với di cốt được bảo quản tương đối nguyên vẹn

cùng xương răng rời rạc của 10 cá thể khác trong tầng văn hóa. Tổng số cá thể phát

hiện trong mộ và tầng văn hóa là 19 cá thể (mộ 19.C6-1.D1.L1.3.M5 và mộ 19.C6-

1.D1.L1-3.M7 phát hiện di cốt của 02 cá thể khác nhau) (hình 19 - 22). Trong đó, di

cốt mộ 19.C6-1.C2.L4-6.M1 và 18.C6-1.D2.L4.8.M2 có thể phục chế được hộp sọ

và nhận biết được các thông tin về nhân chủng học. Các ngôi mộ và di cốt phát hiện

tại hang C6-1, năm 2018 - 2019 đều do PGS.TS. Nguyễn Lân Cường trực tiếp xử lý

tại hiện trường, chỉnh lý trong phòng thí nghiệm và công bố.

Di cốt trong mộ 18.C6-1.D2.L4.8.M2: Hộp sọ bị vỡ thành hơn 100 mảnh,

xương rất mỏng. Nền sọ bị tiêu mất, kể cả phần xương thái dương phải, nhưng còn

giữ lại được hầu hết tất cả các xương, kể cả xương hàm dưới. Trán nở rộng (chỉ số

trán – đỉnh 72.73). Hốc mắt có hình gần tròn và thuộc loại cao trung bình nghiêng

về thấp (chỉ số hốc mắt 76.72). Mặt trên thuộc loại thấp (chỉ số mặt trên theo

Virchow 64.04). Mũi thuộc loại quá rộng (chỉ số mũi 70.46). Sọ cao. Các đường

khớp sọ còn thấy rõ. Hàm trên còn một số răng sữa. Hầu như tất cả các xương dưới

sọ chỉ còn loại đoạn thân xương, không xương nào còn giữ được đầu xương. Xương

rất mảnh, các gờ trên xương không nổi rõ, riêng 2 xương sên còn khá nguyên vẹn

[14] (hình 20, hình 23).

Dựa vào độ mọc răng có thể kết luận 18.C6-1.D2.L4.8.M2 là di cốt của một

em nhỏ khoảng 4 tuổi. Loại hình chủng tộc chưa kết luận được vì là sọ trẻ em, các

đặc điểm về chủng tộc chưa thể hiện rõ. Nhưng cần chú ý rằng, di cốt này có mũi

96

quá rộng (chỉ số 70.46), hốc mắt mặc dù thuộc loại trung bình nhưng nghiêng về

thấp (chỉ số 76.72), răng có kích thước lớn. Những đặc điểm trên thường thấy ở

chủng tộc đen [14] [15, tr. 33-52].

Di cốt mộ 19.C6-1. C2.L4-6. M1: Theo chuẩn đỉnh sọ có hình trứng và thuộc

loại dài trung bình, nghiêng về dài (chỉ số sọ: 75.52). Trán hẹp (chỉ số trán – đỉnh

ngang: 64.48). Theo chuẩn bên sọ thuộc loại cao (chỉ số cao – dọc: 64.58), chỉ hơi

vẩu hàm. Theo chuẩn trước mặt thuộc loại rộng (chỉ số mặt chung: 82.28). Ổ mắt

thấp (chỉ số ổ mắt: 72.09). Hốc mũi rất rộng (chỉ số: 61.71). Theo chuẩn nền thấy

cung huyệt răng ngắn (chỉ số cung huyệt răng hàm trên: 117.51). Dựa vào mức độ

liền của đường khớp sọ, chủ nhân bộ di cốt có độ tuổi trong khoảng 25 đến 35 tuổi.

Mỏm chũm rất lớn, bờ trên hốc mắt tày, thân hàm dưới cao, góc hàm dưới vểnh ra

ngoài nên khẳng định đây là 1 sọ nam (hình 19, hình 21).

Dựa vào công thức tính chiều cao của M. Trotter (1958), chiều cao của người

19.C6-1. C2.L4-6. M1 khoảng 1,84m - 1,85m; của người mộ 19.C6-1.D1.L1.3.M5b

cao từ 1,81m - 1,83. Cho đến nay chưa tìm được cá thể nào của người cổ Việt Nam

có chiều cao như vậy [14]. Khả năng di cốt này phản ánh sự hỗn huyết giữa các

chủng trong quá trình di cư của các cộng đồng người.

Sử dụng dùng phương pháp phân tích cụm đối với hệ số tương quan chính

xác Q-mode, dựa trên 9 đặc điểm metric của sọ 19.C6-1. C2.L4-6.M1 so sánh với

16 nhóm sọ khác: Cồn Cổ Ngựa (đá mới Việt Nam); Gua Harimau (Kim khí

Indonesia); Mán Bạc 1 (kim khí Việt Nam); Non Nok Tha (kim khí Thái Lan);

Australia (thổ dân); Cambodia (hiện đại); Lào (hiện đại); Melanesien (hiện đại);

Mongol (hiện đại); Myanmer (hiện đại); Bắc Trung Quốc (hiện đại); Philippin (hiện

đại); Quần đảo Sumatra (Indonesia) (hiện đại); Thái (hiện đại); Việt Nam (hiện đại);

Mái đá Nước M1 (văn hóa Hòa Bình)

Kết quả cho thấy sọ cổ Krông nô rất gần với sọ của những Úc (thổ dân) và

cũng gần với sọ cổ Mái đá Nước (văn hóa Hòa Bình), Cồn Cổ Ngựa (Đá mới vùng

duyên hải miền Trung Việt Nam).... nhưng cách xa người Mongol, Thái Lan... Về

thành phần nhân chủng, người Krông Nô cổ có nét gần với người Melanesien và sọ

Indonesien vốn phổ biến trong văn hóa Hòa Bình. Người Melanessien và Indonesien

97

hiện biết không có chiều cao cơ thể như hai cá thể thể trên. Đó là câu hỏi hóc búa

cho các nhà nghiên cứu và đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu sâu trên răng và xương

dưới sọ, để củng cố thêm những nhận định về loại hình chủng tộc của người cổ

Krông Nô (Biểu đồ 9) [14] [15, tr. 33-52].

Xét theo độ tuổi, trong tổng số 19 di cốt được phát hiện, có 10 cá thể di cốt

người trưởng thành; 7 di cốt trẻ em, 01 di cốt thiếu niên và 01 di cốt chưa xác định.

Người lớn tuổi nhất trong khoảng 40 – 50 tuổi (03 người). Trong số 7 di cốt trẻ em,

có 05 trẻ sơ sinh, còn lại 1 em bé 4 tuổi và 01 em bé chưa xác định rõ tuổi. Bệnh lý

thể hiện trên di cốt 01 em bé là bệnh gai cột sống [14]. Điều này phản ánh tuổi đời

và chất lượng cuộc sống của chính các cư dân hang động núi lửa Krông nô nói

riêng, cư dân giai đoạn Trung kỳ Đá mới khu vực nghiên cứu nói chung: tỷ lệ tỷ

vong của trẻ em, đặc biệt trẻ sơ sinh lớn và tuổi thọ con người không cao.

* Các nhóm cư dân

Dấu vết các cộng đồng Trung kỳ Đá mới tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông

phân bố trong hang và ngoài trời, thuộc nhiều tiểu vùng địa lý khác nhau, cùng

thuộc lưu vực sông Srêpốk, cụ thể gồm các nhóm cư dân sau:

Cộng đồng cư dân cư trú ngoài trời tại các gò đồi thấp ven hệ thống sông

Srêpốk với các cư dân Buôn Kiều, Buôn Hằng Năm, Ea Chổ, Hố Tre (Đắk Lắk), cư

dân Thôn Tám, cư dân Tân Lập (Đắk Nông). Các cư dân này sinh sống trên các gò

đồi đất thấp ven sông hoặc ven đầm trũng. Họ chế tác và sử dụng chủ yếu công cụ

ghè đẽo kiểu sau Hòa Bình và rìu mài lưỡi, được làm từ đá Basalt, đá Silic, đá Opal,

tiến hành săn bắt hái lượm, có khả năng biết đến nông nghiệp.

Cộng đồng cư dân cư trú trong hang động núi lửa Krông Nô: sinh sống

trong các hang động núi lửa thứ sinh, tùy theo điều kiện từng hang mà cư trú lâu

ngày hoặc ngắn hoặc theo mùa, săn bắt hái lượm, chưa thấy dấu tích trồng trọt, chăn

nuôi. Dấu vết mộ táng được tìm thấy trong hang. Công cụ chế tác từ những mảnh đá

trần hang hoặc cuội sông với chất liệu cứng và độ dẻo cao. Chất liệu đá Basalt là

chính, cùng các loại đá Chert, đá phiến Silic, Quartzite, Quartz, Opal, chủ yếu sử

dụng kỹ thuật ghè trực tiếp đá ghè đá, ghè trên một hoặc hai mặt để tạo ra những

chiếc rìu hình bầu dục, công cụ hình đĩa, rìu ngắn, mài nhọn một đầu xương làm

công cụ mũi nhọn. Các cư dân hang động núi lửa Krông Nô có mối quan hệ với các

98

cư dân cư trú ngoài trời ven hệ thống sông Srêpốk.

3.1.2. Các nhóm dân cư giai đoạn Hậu kỳ Đá mới

Tại di tích Dhă Prông, di tích Suối Ba đã phát hiện mộ chum. Dấu vết mộ

táng cũng được phát hiện trong tầng văn hóa di tích Cư K’tur. Tuy nhiên, tại tất cả

các di tích tiền sử ngoài trời vùng Tây Nguyên đều không bảo tồn được các tàn tích

hữu cơ thực vật, di cốt động vật và di cốt con người. Điều này đã gây khó khăn lớn

trong nhận diện hình thái nhân chủng của chủ nhân giai đoạn Hậu kỳ Đá mới trên

địa bàn nghiên cứu.

Trên cơ sở nghiên cứu đặc trưng phân bố các di tích, bước đầu có thể nhận

ra các nhóm cư dân hậu kỳ Đá mới hai tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông như sau:

+ Nhóm cư dân khu vực cao nguyên Buôn Ma Thuột và các vùng lân cận đã

phát hiện hàng loạt địa điểm như Dhă Prông, Cao Thắng, Hòa Nam, Ea Khiết,…

Đây cũng là nhóm di tích được một số nhà khoa học đề xuất xác lập “văn hóa Buôn

Ma Thuột” [74, tr. 122] [75, tr.636] [79, tr. 121]. Nhóm công cụ hình mai mực, rìu

chuôi nhọn, rìu tứ giác kích thước nhỏ và trung bình, chế tác bằng đá Basalt tìm

thấy phổ biến và chiếm đa số về số lượng trong các di tích. Rìu bôn ở đây được mài

toàn thân nhưng hình dáng không cân đối, góc cạnh không vuông vắn. Rìu hình mai

mực và cuốc hình mai mực – nhóm công cụ có hình dáng tương đồng rìu bầu dục

dài, rìu ngắn giai đoạn Trung kỳ Đá mới nhưng kỹ thuật chế tạo ở trình độ cao hơn -

là loại hình di vật đặc trưng của khu vực này và rải rác tại vùng lân cận [35, tr. 111].

Theo chúng tôi, nhóm cư dân cao nguyên Buôn Ma Thuột và vùng lân cận thuộc

giai đoạn phát triển sớm của Hậu kỳ Đá mới tại khu vực phía Nam Tây Nguyên.

+ Nhóm cư dân khu vực phía Bắc tỉnh Đắk Lắk gồm cao nguyên M’drắk, núi

thấp Cư Dju với các di tích đã phát hiện như lớp trên di tích Cư K’tur, T’Sham A,

Ea Păh, Ea Gar, Cư M’tar,… Nhóm rìu có vai chế tác từ nguồn nguyên liệu đa

dạng như Basalt, Opal, Phtanite, Sét kết,… vượt trội rõ rệt về mặt số lượng so

với rìu bôn không vai. Cuốc đá tìm thấy tại nơi đây chủ yếu là cuốc vai ngang và

cuốc hình thang, trong số đó cuốc vai ngang có số lượng nhiều hơn cuốc hình

thang. Đặc trưng di tích, di vật nhóm di tích khu vực phía Bắc tỉnh Đắk Lắk có

nét tương đồng với các di tích phía Nam tỉnh Gia Lai như Taipêr, Làng Ngol,

99

Làng Cùi, Làng Ngol, Đồng Hải, Plei Kroong.... Vì vậy, một số nhà nghiên cứu đề

xuất xác lập văn hóa khảo cổ Taipêr, trong đó các cư dân cổ ở phía Bắc tỉnh Đắk

Lắk là một bộ phận cấu thành văn hóa này. So với nhóm cư dân văn hóa Buôn Ma

Thuột, nhóm cư dân này thuộc giai đoạn phát triển muộn hơn.

+ Nhóm cư dân khu vực cao nguyên Đắk Nông và phụ cận ở phía Nam Đắk

Lắk và tỉnh Đắk Nông gồm các di tích thuộc vùng trũng Krông Pắk – Lắk, núi cao

Cư Yang Sin, cao nguyên Đắk Nông, bán bình nguyên Ea Suóp với hàng chục địa

điểm khảo cổ học đã phát hiện như Buôn Trấp, Buôn Triết, Đồi Chợ, Nghĩa

Trang,… Loại hình di vật phổ biến trong các bộ sưu tập công cụ đá nơi đây là bôn

hình thang, rìu tứ giác, cuốc hình thang, cuốc chuôi nhọn thân thắt eo. So với những

nơi khác, các di vật rìu, bôn và cuốc nơi đây có hình dáng cân đối, khúc triết và mài

nhẵn hơn. Bàn đập vỏ cây, cuốc chuôi nhọn thân thắt eo là những loại hình di vật

chỉ tìm thấy tại khu vực này, chưa phát hiện tại các vùng khác trên địa bàn tỉnh Đắk

Lắk và Đắk Nông. Đây là không gian phân bố văn hóa Buôn Triết, mà khu vực

phân bố trung tâm, tập trung dày đặc các di tích chính là vùng cao nguyên Đắk

Nông. Tương tự nhóm cư dân khu vực phía Bắc tỉnh Đắk Lắk, văn hóa Buôn Triết

thuộc mức phát triển muộn của giai đoạn Hậu kỳ Đá mới.

Bên cạnh các loại hình di vật đặc trưng của mỗi nhóm cư dân, chúng ta vẫn

nhận thấy những loại hình công cụ đá hiện diện đồng thời trong không gian của hai

hoặc ba nhóm cư dân giai đoạn Hậu kỳ Đá mới. Không gian phổ bố rộng của các

loại hình di vật có thể lý giải bởi sự tương đồng trong cách ứng xử môi trường giữa

các cộng đồng cư dân ở các vùng địa lý khác biệt cùng mối quan hệ giữa các nhóm

cư dân và sự tương đồng trình độ phát triển. Tuy nhiên, một số loại hình công cụ

mang tính đặc trưng của một vùng lại có mặt tại các khu vực khác chứng tỏ mối

quan hệ khăng khít giữa các khu vực khác nhau.

Một số loại hình công cụ phổ biến trong nhóm di tích vùng cao nguyên Buôn

Ma Thuột như: rìu tứ giác, bôn hình thang, rìu vai xuôi, cuốc hình thang, bôn vai

xuôi-bôn có eo..., thậm chí công cụ hình mai mực - loại hình công cụ đặc trưng của

nhóm cư dân này, được tìm thấy rải rác trong không gian của hai nhóm cư dân còn

lại. Điều này cho thấy mối quan hệ gần gũi giữa cư dân cao nguyên Buôn Ma Thuột

100

với các nhóm cư dân khác thuộc giai đoạn Hậu kỳ Đá mới trong khu vực nghiên

cứu. Lớp văn hóa sớm di chỉ Cư K’tur với sự phổ biến của nhóm bôn có eo hình

dáng, chất liệu, kỹ thuật chế tác tương tự nhóm bôn vai xuôi phát hiện tại hai khu

vực còn lại, do đó, không loại trừ khả năng tồn tại mối quan hệ khăng khít cùng cơ

tầng giữa lớp văn hóa sớm Cư K’tur với các di tích tại hai khu vực còn lại trước khi

phát triển thành một công xưởng với đặc trưng là rìu bôn có vai ở giai đoạn sau đó.

Lớp văn hóa muộn Cư K’tur phổ biến rìu bôn có vai chế tác từ đá Opal, một số

bằng Phtanite tương tự di tích T’Sham A và các di tích phía Nam tỉnh Gia Lai như:

Taipêr, Làng Ngol,.... (Bảng 12).

3.2. Mô thức cƣ trú và ho t động kinh tế

3.2.1. Mô thức cư trú và hoạt động kinh tế của cư dân Trung kỳ Đá mới

* Mô thức cư trú

Kết quả phân tích bào tử phấn hoa các di tích Buôn Kiều, Thôn Tám cho

thấy khí hậu khu vực gò đồi ven hệ thống sông Srêpốk khô và nóng. Tuy nhiên, tại

khu vực Đầm Sương Mù, hay ven sông Krông Bông hầu như rất ít chịu tác động

tiêu cực của khí hậu khô hạn như các địa điểm khác trong khu vực. Môi trường tự

nhiên gò đất thấp nổi giữa đầm gần sông suối đã đáp ứng các yêu cầu tối cần thiết

cho sự tồn tại của một cộng đồng người như thức ăn, nước uống,… Bên cạnh đó,

nguồn nguyên liệu đá phong phú về chất liệu (Basalt, Silic,...), đa dạng về loại hình

(cuội, đá tảng) không chỉ dọc theo suối, mà còn rải rác trên bề mặt các gò đất. Vì

vậy, các đồi gò nổi lên như một không gian sống lý tưởng nên đã được người giai

đoạn Trung kỳ Đá mới đã lựa chọn làm nơi cư trú. Tất cả các khu vực khác ở Đắk

Wil hầu như không tìm thấy dấu vết định cư của con người trong giai đoạn này có

lẽ do khí hậu khô hạn đã ảnh hưởng trực tiếp lên mọi mặt của đời sống cư dân Tiền

sử tại khu vực này [36, tr. tr. 69-78].

Các hang động núi lửa khu vực Krông Nô có cửa hang thuộc một trong hai

loại: cửa hang nguyên sinh và cửa hang thứ sinh. Hầu hết các cửa hang được phát

hiện đều là cửa hang thứ sinh, tạo bởi sự sập lở trần hoặc những nơi xung yếu của

tường/vách hang. Một số cửa hang nguyên sinh có dạng thẳng đứng, được hình

thành ngay từ đầu do sự thoát khí của các dòng dung nham lớn. Các hang có miệng

101

nguyên sinh thường có độ cao lớn như hang C7 (sâu>10m), hang P8 và hang Trăn

sâu khoảng trên 20m. Tất cả các di tích đều được phát hiện ở những khu vực các

cửa hang thứ sinh. Đó là các hang có vòm cửa khá cao và đủ rộng để ánh sáng có

thể chiếu sâu vào lòng hang, thuận lợi cho mọi hoạt động của con người. Các hang

được người tiền sử lựa chọn làm nơi cư trú thường có nhiều cửa, nhiều ngách nên

lòng hang thường thông thóang, cao ráo, không bị đọng nước khi mưa xuống. Các

hang động này đều phân bố gần các nhánh suối đổ ra sông Srêpốk, nơi có nguồn

nguyên liệu đá để chế tác công cụ và nguồn thủy sản dồi dào cung cấp thực phẩm

cho con người, đặc biệt là nguồn nước sinh hoạt cho con người.

Các địa điểm cư trú không phải là sự lựa chọn ngẫu nhiên mà là sản phẩm

của tư duy trí tuệ, trên cơ sở nắm bắt rõ điều kiện tự nhiên và đặc điểm cảnh quan

khu vực để khai thác chúng. Việc lựa chọn không gian sống được coi là kỹ năng

cần thiết và quan trọng đầu tiên của người Tiền sử. Họ đã biết cách sử dụng đa

dạng các địa bàn cư trú: từ các gò đồi gần nguồn nước tới các hang động núi lửa

khu vực Krông Nô... Với mỗi loại hình cư trú khác nhau sẽ ảnh hưởng đến các

phương thức khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên khác nhau.

Các cư dân tổ chức khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên thông việc khai

thác tài nguyên đá phục vụ chế tác công cụ đá, hái lượm – săn bắt và một số cộng

đồng có thể đã biết đến nông nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu thường nhật

của cuộc sống.

* Mô thức kiếm sống và các hoạt động khai thác tự nhiên khác

Tổ chức khai thác nguyên liệu đá phục vụ hoạt động chế tác công cụ đá: Chế

tác công cụ đá là một trong những hoạt động vật chất cơ bản của cư dân Trung kỳ

Đá mới tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông. Hoạt động khai thác và chế tác công cụ đá

của cư dân giai đoạn này tổ chức thành khâu khép kín với đầy đủ các công đoạn:

khai thác, sơ chế, chế tác phác vật định hình và hoàn thiện sản phẩm. Sự tương

đồng về chất liệu giữa đá nguyên liệu, hạch đá, mảnh tước với công cụ đá trong

cùng cụm di tích, chứng tỏ nguồn gốc tại chỗ của những phác vật và công cụ lao

động tìm thấy tại di tích. Cư dân tiền sử Thôn Tám khai thác sử dụng toàn bộ

chất liệu đá có mặt tại khu vực (Basalt, Silic, Chert, Quartz) dưới dạng cuội sông

102

hoặc đá viên trên mặt đất. Cư dân Tân Lập chủ yếu sử dụng đá Basalt và một

phần đá Opal. Trong khi các cư dân Trung kỳ Đá mới ở Đắk Lắk chủ yếu sử

dụng nguồn đá cuội Silic và Basalt. Cư dân hang động núi lửa sử dụng nguồn

nguyên liệu đa dạng với các loại chất liệu đá Cát kết, Schist-Silic, Quartzite,

Quartz, Basalt nguồn gốc chủ yếu là cuội sông và một phần đá trần hang. Các loại

đá khác nhau với tính chất khác nhau được cư dân Trung kỳ Đá mới trên địa bàn

nghiên cứu chế tác thành nhiều loại hình công cụ phù hợp với các nhu cầu khác

nhau của cuộc sống. Nguồn nguyên liệu được khai thác ngay gần kề khu vực cư trú,

chủ yếu là các bãi cuội sông (hình 4) hoặc đá trần hang trong hang động cư trú. Sử

dụng kỹ thuật thích hợp với nguồn nguyên liệu tương ứng nhằm tạo ra sản phẩm

phù hợp đòi hỏi các cư dân Trung kỳ Đá mới phải nắm vững tính chất từng loại đá

cùng các kỹ thuật khai thác và chế tác công cụ đá. Kỹ thuật mài đã xuất hiện và sử

dụng trong chế tác công cụ đá, công cụ xương mặc dù chỉ mài hạn chế phần lưỡi.

Đây là cơ sở tiền đề cho sự hình thành và phát triển các công xưởng chế tác đồ đá

giai đoạn Hậu kỳ Đá mới.

Khai thác nguồn thức ăn tự nhiên phục vụ nhu cầu thiết yếu của cuộc sống:

đây là hoạt động săn bắt – hái lượm mang tính chất thường nhật nhằm đảm bảo sự

tồn tại của cộng đồng. Không gian sống bao bọc xung quanh bởi thung lũng, đầm

lầy, hệ thống sông suối tạo cho cư dân tiền sử giai đoạn Trung kỳ Đá mới tỉnh Đắk

Lắk và tỉnh Đắk Nông phương thức khai thác thiên nhiên hoàn toàn khác với các cư

dân cùng thời đại trên lãnh thổ Việt Nam như nhóm cư dân biển Cái Bèo (Hải

Phòng), nhóm cư dân cồn sò ven biển văn hóa Quỳnh Văn (Nghệ An-Hà Tĩnh),

nhóm cư dân đồng bằng ven biển Đa Bút (Ninh Bình-Thanh Hóa) và nhóm cư dân

Bàu Dũ (Quảng Nam).

Kết quả phân tích bào tử phấn hoa và tàn tích động vật trong tầng văn hóa

hang C6-1 cho thấy môi trường sinh thái của các cư dân Trung kỳ Đá mới khu vực

nghiên cứu là hệ sinh thái phổ tạp với quần thể động thực vật đa dạng, gồm nhiều

nhóm loài khác nhau. Tùy thuộc vào chu kỳ sinh trưởng, số lượng cá thể mỗi loài,

từng nguồn có những vai trò nhất định trong cơ cấu nguồn thực phẩm của các cư

103

dân, thể hiện qua di tồn động vật trong tầng văn hóa, cụ thể:

Vỏ nhuyễn thể chủ yếu là các loài nhuyễn thể nước ngọt ốc vặn (Sinotaia

aeruginosa) chiếm tuyệt đối, đến 85,4%; các loài trai, trùng trục ngắn (Oxynaia

micheloti) chiếm 9,77%; ốc núi (Cyclophorus sp) chỉ chiếm 2,09%. Vỏ nhuyễn thể

có mặt ở tất cả các lớp đào, số lượng rất ít ở các lớp đáy, đạt số lượng cực đại ở các

lớp giữa và tương đối đồng đều trong các lớp gần bề mặt. Hiện tượng này có thể

biểu hiện sự thay đổi về môi trường mưa ẩm thích hợp cho các loại nhuyễn thể phát

triển. Các loài nhuyễn thể nước ngọt chiếm chủ đạo tại mọi lớp đào gợi ý sự ổn định

của thủy vực nước đứng gần khu vực hang. Hến sông (Corbicula fluminae) chỉ tìm

thấy trong các lớp gần với bề mặt, không có từ lớp L4.6 trở xuống, gợi ý ở giai đoạn

muộn có sự xuất hiện của dòng chảy thường xuyên gần hang C6-1 (Biểu đồ 7) [91,

tr.35 – 37]

Xương răng động vật có mặt trong toàn bộ các lớp đào, nhưng không đều

nhau giữa các lớp mà biến đổi theo hình Sin, tùy thuộc vào sự biến đổi môi trường

(Biểu đồ 8). Trong tổng số các mảnh di cốt định loại được; loài có số lượng nhiều

nhất là Rùa 27,1%, Cá 24,6% và Dơi 17,1%. Loài có số lượng đáng kể tiếp theo là

Hươu nai 7,71%, và Khỉ 5,14%. Những loài chiếm đa số này hầu như có ở khắp các

lớp đào từ bề mặt tới gần đáy nền hang với tỉ lệ giữa các nhóm khá ổn định. Di cốt

các loài động vật ăn cỏ nhanh nhẹn và động vật ăn thịt kích thước lớn, thú gặm

nhấm có số lượng ít hơn. Di cốt các loài là Hổ - Panthera tigris, Gấu - Ursidae, Tê

giác - Rhinocerotidae rất hạn chế.

Nguồn thực phẩm đa dạng phản ánh cách thức khai thác trên phổ rộng: hái

lượm các loài củ quả, thu lượm các loài nhuyễn thể, rùa, đánh bắt các loài cá, săn

bắn hoặc săn bẫy các loài động vật ăn cỏ và động vật ăn thịt kích thước nhỏ, các

loài chim. Số lượng xương động vật luôn chiếm ưu thế so với vỏ nhuyễn thể trong

mỗi lớp đào, chứng tỏ hoạt động săn bắn đóng vai trò chủ đạo so với thu lượm. Đây

là điểm khác biệt so với các di tích văn hóa Hòa Bình, khi mà vỏ các loài nhuyễn

thể chiếm ưu thế tuyệt đối so với di cốt động vật trong tầng văn hóa.

Tuy nhiên, đối tượng của hoạt động săn bắn của các cư dân cổ chịu sự tác

động của môi trường nên số lượng di cốt động vật trong các lớp đào luôn biến động

104

theo chu kỳ lên xuống hình Sin, trái ngược với sự ổn định tương đối, ít biến động số

lượng vỏ nhuyễn thể. Di cốt rùa, cá – những động vật khai thác không phải bằng

phương thức săn bắt mà có thể thu lượm, đánh cá, câu cá - chiếm tỷ lệ 51,7% tổng

số di cốt động vật định loại được, có mặt ổn định trong các lớp đào. Điều này cho

thấy hoạt động thu lượm luôn luôn ổn định so với hoạt động săn bắn.

Với nguồn khai thác phổ rộng, phương thức khai thác đa dạng nhưng khối

lượng không nhiều. Sự đa dạng hệ sinh thái không đòi hỏi sự tích trữ thức ăn dài

ngày. Vì vậy, cư dân hang động núi lửa Krông Nô nói riêng, cư dân giai đoạn Trung

kỳ Đá mới tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông là những cư dân săn bắn hái lượn theo

hình thức khái thực.

Tuy nhiên, các đối tượng khai thác của cư dân Krông Nô cổ không đòi hỏi sự

di động thường xuyên của con người. Trong cơ cấu thức ăn nguồn gốc động vật, các

loài nhuyễn thể, cá, rùa, động vật đặc thù hang động như dơi, các loài ăn cỏ không

sống thành bầy như hươu, nai luôn là nguồn thức ăn ổn định, chiếm số lượng di cốt

nhiều trong các lớp đào. Một số ít loài động vật như hổ, gấu, tê giác.... được khai

thác nhưng không đáng kể, di cốt hiện hữu trong một số lớp đào nhất định, chiếm tỷ

lệ nhất định. Tầng văn hóa hang C6-1 dày tới 1,85m, tầng văn hóa hố khai quật

Buôn Hằng Năm dày 0,95m, không có dấu vết lớp phân cách vô sinh giữa các lớp

đào, chứng minh sự tụ cư lâu dài hàng ngàn năm tại di tích. Dĩ nhiên, không loại trừ

khả năng các cư dân di chuyển tạm thời địa điểm cư trú trong thời gian rất ngắn

theo mùa sinh trưởng của các nguồn thức ăn trước khi quay trở lại nơi cư trú chính.

Vì vậy, tính khái tập cũng phần nào hiện hữu trong hình thái kinh tế khai thác tự

nhiên và cư trú của cư dân hang động núi lửa Krông Nô nói riêng, cư dân giai đoạn

Trung kỳ Đá mới tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông.

* Hoạt động nông nghiệp, thủ công nghiệp và giao lưu trao đổi sản phẩm

Một số cộng đồng cư dân Trung kỳ Đá mới cư trú ngoài trời có thể đã biết

đến nông nghiệp trồng trọt, thể hiện gián tiếp qua sự hiện diện của các công cụ làm

đất. Chức năng loại hình đá có lỗ được phát hiện tại Buôn Kiều hiện đang còn là

vấn đề còn tranh luận, nhưng một số nhà nghiên cứu cho rằng đây là công cụ có tác

dụng gia trọng cho các gậy chọc lỗ tra hạt. Phương thức chọc lỗ, tra hạt trong mùa

105

mưa hiện vẫn được người M’nông sinh sống lâu đời trên di tích Buôn Kiều cũng

như nhiều địa phương khác ở Tây Nguyên sử dụng. Cuốc đá đã được thông báo tìm

thấy trong tầng văn hóa di tích Buôn Kiều và Buôn Hằng Năm [93]. Tuy nhiên,

cũng như các di tồn hữu cơ khác trong các di tích ngoài trời giai đoạn tiền sử ở Tây

Nguyên, sản phẩm cụ thể của hoạt động sản xuất nông nghiệp chưa được tìm thấy vì

vậy sản xuất nông nghiệp giai đoạn Trung kỳ Đá mới tại khu vực nghiên cứu cần

tiếp tục nghiên cứu và làm sáng rõ qua những tài liệu mới trong tương lai.

Tính chất xưởng thể hiện rõ nét trong các di tích ngoài trời, đặc biệt tại di

tích Thôn Tám. Điều này gợi mở khả năng cư dân Thôn Tám trên cơ sở sự phát

triển kỹ thuật chế tác đá, đã khai thác nguồn nguyên liệu tại chỗ, chế tác thành phác

vật công cụ rìu, rìu mài và trao đổi với các cư dân khác trong khu vực [20, tr. 45 –

46]. Đây có thể là một chiến lược sinh kế của cư dân Thôn Tám và có thể là cả

nhóm cư dân Buôn Kiều với đặc điểm di vật và di tích tương đồng. Đây là một

trong những tiền đề về mặt kinh tế - xã hội để hình thành các công xưởng chế tác đồ

đá giai đoạn Hậu kỳ Đá mới. Tuy nhiên, hoạt động chế tác đồ đá phục vụ giao lưu,

trao đổi chưa tách rời các phương thức khai thác thiên nhiên và sản xuất khác.

Cư dân Trung kỳ Đá mới tại khu vực nghiên cứu đã biết cách chế tạo và sử

dụng sản phẩm gốm đất nung. Các sản phẩm gốm đất nung gồm một số loại hình

như nồi, vò, bát,… chủ yếu phục vụ hoạt động sinh hoạt thường nhật.

Hoạt động giao lưu, trao đổi, buôn bán giữa cư dân giai đoạn Trung kỳ Đá

mới tại khu vực nghiên cứu với các nhóm cư dân khác trong và ngoài khu vực. Đặc

biệt, sự hiện diện của 05 mảnh vỏ ốc sứ trong hố khai quật C6-1 chứng tỏ cư dân

hang động núi lửa cổ đã có sự giao lưu, trao đổi trực tiếp với các cư dân đồng đại

vùng ven biển miền Trung hoặc gián tiếp qua các nhóm cư dân khác ở vùng đệm

nối giữa cao nguyên và đồng bằng duyên hải. Sản phẩm trao đổi không chỉ là những

sản vật khai thác từ môi trường tự nhiên hay các phác vật công cụ mà còn là nét văn

hóa ẩn sau cách thức sử dụng của các sản phẩm trao đổi được.

Tư liệu khảo cổ cho thấy một đời sống kinh tế và vật chất phong phú, đa

dạng của các cộng đồng cư dân Trung kỳ Đá mới khu vực nghiên cứu. Bên cạnh các

hoạt động khai thác thiên nhiên, các yếu tố cơ bản của cuộc “Cách mạng Đá mới”

106

gồm chế tạo và sử dụng đồ gốm, kỹ thuật mài và có thể cả nông nghiệp đều đã nảy

sinh trong đời sống các cộng đồng cư dân Trung kỳ Đá mới ở khu vực nghiên cứu.

Phương thức kinh tế của các cư dân Trung kỳ Đá mới hai tỉnh Đắk Lắk và Đắk

Nông phản ánh môi trường cư trú vùng cao nguyên – rừng nhiệt đới mưa, có sự

khác biệt so với các nhóm cư dân văn hóa Hòa Bình nơi khác chủ yếu sống trong

các sinh cảnh thung lũng núi đá vôi; cũng khác biệt so với các cư dân văn hóa Cái

Bèo, văn hóa Quỳnh Văn, văn hóa Bàu Dũ đồng đại vốn sống ở ven biển, có

khuynh hướng khai thác nguồn lợi biển. Đây là một đặc thù về phương thức sống

của cư dân Trung kỳ Đá mới, đồng thời là nền tảng phát triển, quy định những đặc

trưng của giai đoạn Hậu kỳ Đá mới ở khu vực sau này.

3.2.2. Mô thức cư trú và hoạt động kinh tế của cư dân Hậu kỳ Đá mới

* Mô thức cư trú

Bước vào giai đoạn Hậu kỳ Đá mới, từ 4.000 - 3.000 năm BP, cư dân cổ ở

tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông đã mở rộng không gian phân bố, chiếm lĩnh mọi

địa hình: Cao nguyên, vùng núi thấp, vùng trũng hoặc vùng bán bình nguyên. Các

khu vực cư trú diễn ra thường xuyên mang tính định cư/bán định cư. Nhiều điểm cư

trú với chức năng hỗn hợp (lán trại cư trú, sinh hoạt, chế tác công cụ đá, làm gốm,

mai táng…). Nhiều điểm chuyên về chế tác công cụ đá mang tính chất công xưởng,

giữa các điểm có sự liên kết với nhau như có sự phân công các công đoạn của cả

quá trình từ khai thác nguyên liệu qua sơ chế đến hoàn thiện sản phẩm.

* Hoạt động kinh tế

Hoạt động sản xuất của cư dân giai đoạn Hậu kỳ Đá mới khu vực nghiên

cứu có thể là nền kinh tế hỗn hợp, dựa trên nền tảng khai thác tự nhiên với các hoạt

động săn bắt, hái lượm; kết hợp nền kinh tế sản xuất làm nông nghiệp, thủ công chế

tác đồ đá, làm gốm và trao đổi sản phẩm giữa các cộng đồng

Khai thác tự nhiên: Với điều kiện tự nhiên thuận lợi đối với sự sống, hệ sinh

thái phồn tạp với thảm thực vật, quần động vật đa dạng và phong phú, các cư dân

tiền sử khu vực nghiên cứu vẫn tổ chức và duy trì lâu dài các hoạt động săn bắt và

hái lượm. Hoạt động săn bắt - hái lượm ở giai đoạn này còn đóng vai trò trọng yếu,

song không còn độc tôn như các giai đoạn trước. Có lẽ cư dân Hậu kỳ Đá mới đã tổ

107

chức săn bắn, săn bẫy hoặc săn vây những loài động vật phổ biến như: khỉ, sóc, lợn

rừng, nai, hươu, dúi, cầy, cheo, các loài chim..., thậm chí cả các loại động vật lớn

như: voi, trâu rừng, gấu, hổ, báo.... để bổ sung nguồn dinh dưỡng hàng ngày. Tại

các di tích, chưa tìm thấy những công cụ, vũ khí chuyên dụng cho săn bắt động vật.

Có thể các vũ khí săn bắt động vật như nỏ, cung, bẫy được chế tác bằng tre, gỗ đơn

giản nên đã bị phân hủy qua thời gian, không thể tìm thấy dấu vết trong các di tích.

Hiện nay, các tộc người thiểu số tại chỗ Tây Nguyên vẫn chế tạo và sử dụng các

loại vũ khí săn bắt bằng tre gỗ khá đơn giản, song vô cùng lợi hại.

Ngoài săn bắt các loài động vật trên cạn, cư dân Hậu kỳ Đá khu vực nghiên

cứu còn khai thác các loài thuỷ sản nước ngọt. Mặc dù, cho đến nay mới chỉ phát

hiện 01 chiếc chì lưới bằng đá tại di tích Buôn Trấp nhưng đã phản ánh hoạt động

đánh cá lớn tại vùng hồ lớn của cư dân Hậu kỳ Đá mới.

Hoạt động hái lượm, thu lượm cho đến nay vẫn được bảo lưu trong tập quán

các dân tộc thiểu số tại chỗ vùng Tây Nguyên. Ngày nay, dù trên con đường lên

nương rẫy, hay đi đánh bắt cá, đi săn thú trên rừng, người dân tộc thiểu số tại chỗ

vùng Tây Nguyên vẫn tranh thủ hái lượm các loại rau, củ, quả ven đường về bổ

sung thực phẩm gia đình. Đây vẫn là một nguồn thức ăn quan trọng trong bữa ăn

thường nhật của họ. Thói quen này phản ánh truyền thống hái lượm các nguồn lợi

thiên nhiên của các cư dân Tây Nguyên, có thể là tấm gương phản ánh hoạt động

hái lượm của cư dân Hậu kỳ Đá mới ở khu vực nghiên cứu. Chày, bàn nghiền phát

hiện tại nhiều di tích có thể được sử dụng để nghiền các loại củ, quả, hạt cứng do

người dân hái lượm đem về. Các di vật rìu, bôn đa dạng về loại hình, xuất hiện phổ

biến trong các di tích là những công cụ hữu hiệu giúp con người xới đất, đào củ,

chặt cây, xẻ thịt, chặt xương và chế tạo các công cụ săn bắn, hái lượm của cư dân

Hậu kỳ Đá mới.

Nông nghiệp chăn nuôi và trồng trọt là hai ngành cơ bản của kinh tế sản

xuất. Trồng trọt ở Tây Nguyên nói chung, các tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông nói riêng

giai đoạn Hậu kỳ Đá mới gắn liền nền nông nghiệp dùng cuốc.

Giai đoạn Hậu kỳ Đá mới ở các tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông chứng kiến sự

phát triển bùng nổ của loại hình di vật cuốc đá. (83 chiếc, tìm thấy tại 19 địa điểm

108

trên tất cả các tiểu vùng địa lý). Cuốc đá ở Tây Nguyên không chỉ nhiều về số lượng

mà còn hết sức phong phú về loại hình (tổng cộng 6 loại hình). Các loại hình cuốc

đá tìm thấy ở nhiều kiểu địa hình khác nhau, với nhiều loại hình đa dạng, cho thấy

hoạt động nông nghiệp dùng cuốc Tây Nguyên hết sức phổ biến và gắn liền với các

tiểu địa hình [78, tr. 9 - 21]. Các loại cuốc thân dài và dày (cuốc chim, một số chiếc

cuốc hình thang) thích hợp canh tác trên các gò đồi đất cứng; cuốc thân dài, bản

rộng, cuốc có chuôi tra cán, cuốc lưỡi mỏng (cuốc hình thang, cuốc có vai, cuốc

hình mai mực) thích hợp đào xới vùng đất mềm, bãi bồi ven sông. Bên cạnh tác

dụng đào xới đất, một số chiếc cuốc có phần lưỡi mài vát phù hợp làm cỏ, dọn vệ

sinh trên bề mặt đất canh tác. Kết quả thực nghiệm đã chứng minh hiệu quả và năng

suất của cuốc đá trong canh tác nông nghiệp [39, tr. 42 – 43]. Cuốc đá là loại hình

di vật đầu tiên và duy nhất hiện biết đến giờ được cư dân tiền sử tỉnh Đắk Lắk và

Đắk Nông chôn giấu của cải tập trung trong các hố đào tại các địa địa Ea Păh, Buôn

Kiều... Điều này phản ánh tầm quan trọng của cuốc đá trong hoạt động sản xuất vật

chất cũng như vai trò của nền nông nghiệp dùng cuốc giai đoạn Hậu kỳ Đá mới khu

vực nghiên cứu. Bên cạnh cuốc, các loại hình công cụ khác cũng được tìm thấy phổ

biến trong các di tích Hậu kỳ Đá mới như rìu, bôn, đá gia trọng… cũng là những

nông cụ hỗ trợ quan trọng trong các khâu canh tác nông nghiệp của cư dân giai

đoạn này.

Cùng với cuốc và nông cụ, các nhà khảo cổ đã tìm thấy phấn hoa của họ lúa,

những hạt thóc trong nồi gốm ở di chỉ Lung Leng, xác nhận nông nghiệp trồng lúa

đầu tiên ở Tây Nguyên có cách nay trên 3.500 năm [78, tr. 9 – 21]. Tại di tích Dhă

Prông, đã phát hiện các di vật hình lưỡi liềm, có thể có chức năng thu gặt các loại

nông sản như lúa... Cư dân giai đoạn Hậu kỳ Đá mới tại khu vực nghiên cứu tồn tại

trong cùng bình tuyến và không gian gần gũi nên không loại trừ khả năng cũng biết

đến nông nghiệp trồng lúa như cư dân Lung Leng.

Trong điều kiện thiếu vắng tư liệu, chỉ có thể giả định rằng, khi nghề trồng

trọt đã khá phát triển thì chăn nuôi cũng có thể đã có những tiến triển nhất định,

tuy nhiên khả năng với quy mô nhỏ, chưa phải là chăn nuôi bày đàn lớn.

Hoạt động thủ công của cư dân Hậu kỳ Đá mới khu vực nghiên cứu thể

109

hiện chủ yếu qua hoạt động chế tác đồ đá và đồ gốm.

Hoạt động thủ công chế tác đồ đá của cư dân Hậu kỳ Đá mới đã đạt tới trình

độ cao, trên tất cả các kỹ thuật chế tác đá như: kỹ thuật ghè đẽo, kỹ thuật mài, kỹ

thuật cưa, kỹ thuật khoan và kỹ thuật đánh bóng. Những công cụ sản xuất chủ đạo

như: Rìu, bôn, cuốc, bàn đập vỏ cây của các địa điểm cách xa nhau nhưng vẫn có sự

chuẩn xác về kỹ thuật cưa, mài, đánh bóng và tính hoàn thiện về mỹ thuật tạo hình.

Điển hình là trường hợp loại hình cuốc vai nhọn thắt eo đặc trưng của các di tích

phân bố trong không gian văn hóa Buôn Triết. Tổng cộng 09 chiếc cuốc vai nhọn

thắt eo, có hình dáng khúc triết, cân đối, có tính thẩm mỹ cao tìm thấy tại các địa

điểm khác nhau, gồm: Buôn Kiều, Buôn Triết và Buôn Trấp đều cùng có chung góc vai 550 - 600 [39, tr. 40 – 41].

Hình dáng và kỹ thuật chế tác công cụ còn phản ánh tư duy, phong cách và

thói quen sản xuất, chế tạo của từng nhóm cư dân. Nhóm cư dân văn hóa Buôn Triết

chế tạo và sử dụng các công cụ có hình dáng hình học cân đối, khúc triết, có tính

thẩm mỹ cao, mài nhẵn toàn thân. Trong khi nhóm cư dân vùng cao nguyên Buôn

Ma Thuột coi trọng tính thực dụng hơn khi chế tạo và sử dụng các công cụ rìu chuôi

nhọn, rìu hình thang, rìu hình mai mực, cuốc hình mai mực có hình dáng không cân

đối, bề mặt còn nhiều vết ghè tạo hình chưa mài phẳng hoàn toàn nhưng có rìa lưỡi

mỏng và sắc. Các chiếc rìu thắt eo, rìu chuôi nhọn hình dáng không đối xứng, bề

mặt không mài nhẵn còn xuất hiện trong địa tầng di tích Cư K’tur một mặt phản ánh

mối quan hệ giữa nhóm cư dân vùng cao nguyên Buôn Ma Thuột với cư dân khu

vực phía Bắc tỉnh Đắk Lắk, mặt khác phản ánh sự tương đồng trong phong cách chế

tạo công cụ giữa hai nhóm cư dân đồng đại này. Ngoài ra, các di tích phía Bắc tỉnh

Đắk Lắk: Cư K’tur, T’Sham A, Bản Thái, Thanh Sơn... cùng thuộc hệ thống công

xưởng chế tác rìu có vai bằng đá Opal và một phần từ đá Silic.

Hệ thống công xưởng Cư K’tur hình thành trên nền tảng sự phát triển cao

trình độ chế tác công cụ đá của các cư dân Hậu kỳ Đá mới. Hệ thống gồm các công

xưởng bậc 1 như: Bản Thái, Thanh Sơn... chuyên khai thác nguyên liệu, pha chế

thành phác vật thô. Các công xưởng bậc 2 như Cư K’tur là nơi nhận những phác vật

ấy, ghè đẽo tạo hình thành phôi rìu hình khối chữ nhật và trao đổi với các công

110

xưởng bậc 3 như T’Sham A (Đắk Lắk), Taipêr, Làng Ngol (Gia Lai)... hoàn thiện

thành rìu có vai hoàn chỉnh để sử dụng hoặc xuất xưởng. Trung tâm này có phạm vi

ảnh hưởng rộng, chủ yếu là vùng giáp ranh giữa cao nguyên Pleiku và cao nguyên

Buôn Ma Thuột, cùng sườn đông của Tây Nguyên, nơi phân bố sông Krông Hnang

và sông Ba. Ngoài phạm vi kể trên, ở Tây Nguyên chưa tìm thấy rìu có vai làm

bằng đá Opal, hoặc Silic như di tích Cư K’tur [84, tr.10] .

Sự hình thành các công xưởng chế tác công cụ đá về bản chất chính là sự

phân công lao động xã hội, được hình thành trên cơ sở sự phát triển đến trình độ cao

kỹ năng chế tác đồ đá và nhu cầu giao lưu giữa các cộng đồng cư dân. Các di tích di

tích Thanh Sơn, Bản Thái, Cư K’tur và T’Sham A đều là những di tích đa tính chất

cư trú - xưởng hoặc cư trú – xưởng – mộ táng, bên cạnh các di vật của hoạt động

chế tác đồ đá, còn phổ biến các công cụ lao động khác không tham gia vào quá trình

chế tác đồ đá như rìu, bôn... Điều đó cho thấy hoạt động chế tác đồ đá mặc dù là

hoạt động sản xuất nổi bật nhưng bên cạnh đó các nền kinh tế khai thác tự nhiên săn

bắt – hái lượm và có thể cả nông nghiệp vẫn tồn tại và cung cấp nguồn dinh dưỡng

thường nhật cho chính các cư dân trong hệ thống công xưởng. Sự phân công lao

động xã hội chỉ mang tính nhất thời, diễn ra do sự khéo léo đặc biệt trong việc chế

tạo vũ khí và công cụ lao động của người thợ, tạo thành những trao đổi ngẫu nhiên.

Đây là hiện tượng xảy ra trong giai đoạn cuộc phân công lao động xã hội lần thứ

nhất chứ không phải là một trong 3 cuộc phân công lao động xã hội lớn của nhân

loại theo lý thuyết của ng ghen [1, tr. 264]. Sự phân công mang tính nhất thời này

đã vươn xa tầm một nhóm cư dân nhất định và tạo nên sự kết nối giữa các nhóm cư

dân trên một không gian rộng lớn. Chế tác phác vật hoặc công cụ đá rồi đem trao

đổi những sản phẩm cần thiết có thể coi như một trong những chiến lược sinh kế

của các cư dân giai đoạn Hậu kỳ Đá mới khu vực nghiên cứu. Chiến lược sinh kế

này còn có ý nghĩa tích cực, tác động đến sự phát triển hoạt động sản xuất vật chất

và tạo sự thống nhất trong đa dạng văn hóa của các cộng đồng thời tiền sử tỉnh Đắk

Lắk và Đắk Nông nói riêng, vùng Tây Nguyên nói chung.

Hoạt động thủ công chế tác đồ gốm của cư dân Hậu kỳ Đá mới khu vực

nghiên cứu thể hiện qua việc chế tác đồ gốm tại chỗ với các khâu lọc đất, pha chế

111

nguyên liệu, tạo khí hình, trang trí hoa văn và nung ở trình độ cao. Sản phẩm chế từ

hoạt động chế tạo đồ gốm đa dạng, gồm các sản phẩm sinh hoạt như nồi, bình, vò,

bát... quan tài bằng gốm với kích thước lớn như nồi vò,... thậm chí các dụng cụ phục

vụ cho chính quá trình chế tác đồ gốm như bàn xoa gốm... Đồ gốm trong các di tích

Hậu kỳ Đá mới khu vực nghiên cứu dù cách xa nhau nhưng vẫn đạt sự thống nhất

cao về kỹ thuật, môtip hoa văn trang trí và loại hình.

Hoạt động thủ công khác như nghề mộc, đan lát, làm sợi, dệt vải, được phản

ánh qua các công cụ lao động như đục, các loại hình bàn đập vỏ cây... tìm thấy

trong các di tích giai đoạn Hậu kỳ Đá mới khu vực nghiên cứu. Đây là những hoạt

động thủ công cộng đồng phục vụ đầu tiên cho chính nhu cầu của cư dân sản xuất.

Tư liệu khảo cổ cho thấy một đời sống kinh tế và vật chất phong phú, đa

dạng của các cộng đồng Hậu kỳ Đá mới ở khu vực nghiên cứu. Đây cũng là tiền đề

vật chất cho tổ chức xã hội và đời sống tinh thần của các cư dân Hậu kỳ Đá mới ở

khu vực nghiên cứu.

3.3. Tổ chức xã hội và đời sống tinh thần

3.3.1. Giai đoạn Trung kỳ Đá mới

Theo cách phân kỳ lịch sử phát triển hình thái xã hội của ng ghen, cư dân

giai đoạn Trung kỳ Đá mới bắt đầu với nghề làm đồ gốm, con người biết thuần

dưỡng, chăn nuôi động vật và trồng các thứ cây. Đây cũng là thời kỳ gia đình theo

hình thức gia đình huyết tộc tồn tại trong các thị tộc.

Theo chuỗi phát triển các mô hình tiến triển chính trị – xã hội trong lịch sử

nhân loại của E.R.Service, giai đoạn nông nghiệp sớm trước giai đoạn Đá mới

muộn tương ứng thời kỳ Tiền Bộ lạc - Bộ lạc. Đây là giai đoạn kết cấu kinh tế nông

nghiệp định cư, trao đổi sản phẩm; mô thức cư trú có tính định cư lâu dài; quan hệ

huyết thống chi phối tính cố kết xã hội nhưng chưa có tính kế tục cha truyền con

nối; đất đai, tài nguyên thiên nhiên thuộc quyền sở hữu chung của cộng đồng.

Những đặc điểm này được thể hiện gián tiếp qua tài liệu khảo cổ học về cư dân giai

đoạn Trung kỳ Đá mới ở khu vực nghiên cứu nhưng cũng có những đặc điểm và

mức độ khác biệt.

Các cư dân giai đoạn Trung kỳ Đá mới tại khu vực nghiên cứu là những

112

nhóm cư dân khái thực nhưng vẫn thể hiện tính khái tập trong hình thái kinh tế khai

thác tự nhiên và cư trú. Các cộng đồng cư trú tại một khu vực có diện tích trải rộng,

trong quãng thời gian hàng trăm đến hàng ngàn năm. Bên cạnh nền kinh tế tự nhiên,

nông nghiệp trồng trọt có thể đã ra đời, cùng với hoạt động chế tác sản phẩm đá và

đồ gốm, giao lưu trao đổi hàng hóa với các cư dân trong và ngoài là những hoạt

động sản xuất vật chất của cư dân giai đoạn này. Các ngôi mộ tại hang C6-1 không

chôn theo đồ tùy táng, qua đó không cho thấy sự tư hữu tài sản hoặc phân hóa xã

hội. Vai trò của người phụ nữ rất quan trọng khi các sản phẩm hoạt động hái lượm,

thu lượm (tàn tích còn lại là vỏ nhuyển thể, xương động vật bò sát như rùa...) chiếm

ưu thế trong cơ cấu nguồn thực phẩm hàng ngày của cộng đồng.

Tư duy nghệ thuật của cư dân Trung kỳ Đá mới tại khu vực nghiên cứu được

thể hiện qua các hoa văn trang trí trên sản phẩm đồ gốm. Hoa văn trên đồ gốm

không chỉ có ý nghĩa kỹ thuật mà còn được sử dụng để trang trí, làm đẹp sản phẩm.

Một điều thú vị là tại di tích Thôn Tám đã phát hiện được hóa thạch Ammonite

(Cúc biển) có biểu hiện được con người gia công bằng kỹ thuật mài. Điều này

chứng tỏ người Trung kỳ Đá mới Thôn Tám đã có nhận thức về thẩm mỹ khi bắt

gặp các hoa văn trên hóa thạch Ammonite nên đã sưu tầm và mài.

Sự cảm thụ thế giới xung quanh của người Trung kỳ Đá mới khá nhạy bén.

Những cảm thụ đó có thể nhận biết qua văn hóa ứng xử của người thời này đối với

thân nhân của họ khi qua đời. Tư liệu mộ táng cho thấy, cư dân hang động Krông

Nô chôn cất người chết ngay tại nơi cư trú. Thổ hoàng được tìm thấy trong các

hang núi lửa Krông Nô, sử dụng với các mục đích làm đẹp, xua đuổi côn trùng, xoa

lên da và chôn cùng người chết với niềm tin tiếp máu cho người chết để người chết

vẫn có thể tiếp tục cuộc sống ở bên kia thế giới. Đây là hiện tượng phổ biến tại một

số cư dân thời đại Đá mới khác trong nước và trên thế giới như cư dân văn hóa Hòa

Bình, cư dân văn hóa Bắc Sơn… Tại một số mộ táng thuộc văn hóa Hòa Bình và

các giai đoạn tiếp theo kéo dài đến trước thời Kim khí đã tìm thấy tục chôn theo ốc

sứ. Sự có mặt ốc sứ – một sản vật biển cách xa các hang động Krông Nô hàng trăm

kilomet chứng tỏ sự coi trọng của cư dân Trung kỳ Đá mới đối với người mất và

113

thế giới tâm linh sau khi chết.

Xử lý như vậy đối với người chết phần nào thể hiện sự giao cảm giữa hai thế

giới của con người. Họ muốn rằng, người chết luôn luôn gần gũi, ở cạnh họ trong

cùng một mái nhà, cùng chung bếp lửa. Người chết cũng có một thế giới riêng, thế

giới mà ở đó cũng cần đến máu mà màu đỏ là tượng trưng cho sự sống. Thế giới

quan của người Trung kỳ Đá mới đã vượt lên trên nhận thức trực quan và hướng tư

duy trừu tượng của một thế giới siêu nhiên, về sự tồn tại vĩnh hằng của con người.

Về cơ bản, xã hội giai đoạn Trung kỳ Đá mới tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông là

xã hội chưa có sự phân hóa giai cấp, tồn tại trên cơ sở công hữu tư liệu sản xuất

quan trọng như đất đai và các nguồn tự nhiên khác. Quan hệ huyết thống trong các

cộng đồng cùng thế giới quan về một thế giới siêu nhiên, vĩnh hằng không chỉ gắn

kết người còn sống với người đã mất mà có thể là sợi dây tín ngưỡng gắn kết chính

những người sống trong cùng cộng đồng với nhau.

3.3.2. Giai đoạn Hậu kỳ Đá mới

Tầng văn hóa của các di chỉ giai đoạn Hậu kỳ Đá mới ở khu vực nghiên cứu

cho thấy khoảng thời gian cư trú và hoạt động của con người giai đoạn này không bị

gián đoạn, không có lớp ngăn cách. Quy mô các di tích thường rộng hàng ngàn mét

vuông đến hàng hecta nhưng mật độ di vật trong tầng văn hóa không dày đặc như

các di tích trong hang động núi lửa Krông Nô giai đoạn Trung kỳ Đá mới hay các di

tích đồng đại khu vực miền Bắc. Điều này cho thấy mức độ phân tán và di chuyển

nhất định trong khoảng thời gian ngắn trên một không gian giới hạn của các cư dân.

Sự di chuyển này có thể lặp đi lặp lại và diễn ra trong khoảng thời gian ngắn nên rất

khó thể hiện qua tài liệu địa tầng. Hình thái cư trú này có nét tương đồng với truyền thống “luân cư” của các dân tộc thiểu số tại chỗ vùng Tây Nguyên4

Tại di tích Cư K’tur phát hiện dấu vết lỗ chân cột có thể là vết tích hố chân

cột của kiến trúc nhà hoặc lán trại nguyên thủy dựng bằng tre gỗ. Căn cứ đường

kính lỗ chân cột (khoảng 20cm) và độ sâu khá lớn (35cm), đồng thời các bước chân

cột cách nhau khá xa chứng tỏ một kiểu lán trại có qui mô khá rộng đủ để một nhóm

114

người, có thể theo quy mô một hoặc nhiều gia đình sử dụng. Dấu vết sinh hoạt cộng 4 “Luân cư” là hình thức cư trú và thay đổi vị trí cư trú có tính lặp lại. Họ cư trú tại một địa điểm trong khoảng thời gian ngắn, thường 1 năm, tương ứng 1 mùa rẫy, sau đó chuyển đến nơi ở mới trong thời gian tương tự. Qua vài lần thay đổi vị trí cư trú sẽ quay trở lại địa điểm ban đầu. Qúa trình này lặp đi lặp lại.

đồng của nhóm người còn thể hiện qua vết dấu vết bếp lửa với diện tích 0,5m2.

Trong bếp lửa, ngoài tàn tích than tro cháy còn có di vật đá, chứng tỏ bếp lửa là nơi

đun nấu tập thể và nơi tập trung chế tác công cụ đá của cư dân đương thời.

Trong điều kiện kinh tế sản xuất chưa lấn át được kinh tế khai thác tự nhiên,

thì kinh tế gia đình chưa thể chi phối các hoạt động tập thể. Nghĩa là, sở hữu đối với

tư liệu sản xuất chính, gồm: đất đai, đối tượng săn bắt, hái lượm, vẫn thuộc về cộng

đồng. Tư liệu sản xuất vật chất chủ yếu thuộc về quyền sở hữu chung của cộng

đồng nên cộng đồng cũng có chức năng điều tiết sản xuất và phân chia thành quả

lao động. Phân công lao động theo giới. Người phụ nữ đảm nhiệm hoạt động hái

lượm, thu lượm cung cấp nguồn thực phẩm hàng ngày là những người có vị trí xã

hội cao.

Cộng đồng sở hữu tư liệu sản xuất chủ yếu nhưng yếu tố sở hữu cá nhân đối

với công cụ sản xuất đã bắt đầu xuất hiện, biểu thị bởi những chiếc rìu, bôn bằng đá

phát hiện trong mộ chum ở Suối Ba, hoặc xung quanh vết tích mộ táng như trường

hợp tại di tích Cư K’tur, di tích Dhă Prông. Đây là giai đoạn xuất hiện hiện tượng

chôn giấu công cụ sản xuất sớm nhất trong thời tiền sử tại khu vực nghiên cứu. Các

công cụ sản xuất quan trọng như cuốc đá... được chôn giấu có thể là những công cụ

lao động thuộc sở hữu của cá nhân.

Bên cạnh những di vật phục vụ hoạt động sinh hoạt thường nhật, tức những

di vật tính thực dụng cùng các sản phẩm văn hóa vật chất mang tính thẩm mỹ, các

sản phẩm mang tính biểu tượng đã xuất hiện trong mức muộn giai đoạn Hậu kỳ Đá

mới ở Tây Nguyên. Chiếc vòng tay kích thước lớn hơn rất nhiều so với bình thường

được tìm thấy tại Lung Leng; hay kiếm đá trong di tích Cư K’tur và loại hình cuốc

vai nhọn thân thắt eo trong văn hóa Buôn Triết còn tìm thấy trong mộ táng di tích

Cù Lao Rùa (Bình Dương) thể hiện tính biểu tượng hơn là giá trị sử dụng thực tiễn

[37, tr. 68]. Tính biểu tượng gắn liền với vị trí của một cá nhân hoặc nhóm người

trong cộng đồng, phản ánh sự phân hóa trong cộng đồng. Tuy nhiên, vì sở hữu tư

liệu sản xuất chủ yếu thuộc về cộng đồng, chỉ có một số công cụ lao động là thuộc

sở hữu cá nhân nên sự phân hóa cơ tầng xã hội trong cộng đồng mới chỉ diễn ra ở

115

mức độ phân tầng xã hội ở mức thấp chứ chưa đến mức phân hóa giai cấp.

Theo quan điểm của đại diện của trường phái Tân Tiến hóa luận là

E.R.Service, các xã hội phân tầng tồn tại dưới hình thức Bộ lạc (Tribe). Theo cách

phân kỳ lịch sử của Ph. ngghen, giai đoạn này là thời kỳ con người biết đến chăn

nuôi, trồng trọt, đôi nơi biết đến kim loại nhưng chủ yếu vẫn sử dụng và chế tác

công cụ bằng đá [1, tr. 264].

Giai đoạn Hậu kỳ Đá mới tại khu vực nghiên cứu tồn tại nhiều nhóm cư dân

lớn tương ứng với các nhóm di tích hoặc văn hóa khảo cổ: nhóm cư dân vùng phía

Nam tỉnh Đắk Lắk và cao nguyên Đắk Nông với tên gọi là cư dân văn hóa Buôn

Triết; nhóm cư dân vùng cao nguyên Buôn Ma Thuột và khu vực xung quanh;

nhóm cư dân phía Bắc tỉnh Đắk Lắk với đại diện là Cư K’tur. Nếu như trong xã hội

thời đại Dã man, bộ lạc là hình thức tổ chức xã hội cao nhất thì mỗi văn hóa khảo cổ

và nhóm di tích khảo cổ Hậu kỳ Đá mới tương ứng với bộ lạc sống trên các vùng

địa lý khác nhau trong thời đại Dã man. Bộ lạc là những thị tộc có quan hệ cùng

huyết thống hoặc quan hệ hôn nhân liên kết nhau tạo thành. Mỗi thị tộc ở đây được

xem là một đơn vị xã hội. Sự liên kết các thị tộc nói trên để tạo thành bộ lạc, cũng

tương ứng với sự liên kết các nhóm di tích để tạo thành một văn hóa khảo cổ.

Cư dân giai đoạn Hậu kỳ Đá mới tại khu vực nghiên cứu là những người có

tính cảm quan cao về mỹ thuật. Tính thẩm mỹ thể hiện qua các đồ án hoa văn trang

trí đa dạng và phong phú trên đồ gốm. Hoa văn trang trí đồ gốm giai đoạn Hậu kỳ

Đá mới phát triển từ những hoa văn mang kỹ thuật (văn thừng, văn chải), được

trang trí thêm các motip hoa văn mỹ thuật như băng hoa văn kết hợp giữa văn khắc

vạch với văn chải, hoa văn kết hợp giữa văn chải với văn chấm lỗ.... Đồ trang sức

như vòng tay… được tìm thấy trong di tích, chứng tỏ con người thời này biết cách

làm đẹp bản thân. Công cụ đá được mài nhẵn, đánh bóng, có hình dáng cân đối, bắt

mắt. Tuy nhiên, với mỗi cộng đồng, tính thẩm mỹ và tính thực dụng được thể hiện

khác nhau. Nếu như cư dân văn hóa Buôn Triết coi trọng tính cân đối, thẩm mỹ và

chỉnh chu trong chế tạo, sử dụng công cụ lao động; thì cư dân vùng Buôn Ma Thuột

và các cư dân phía Bắc tỉnh Đắk Lắk đặt nặng tính thực dụng hơn khi sử dụng các

116

công cụ có hình dáng không đối xứng, còn nhiều dấu vết của quá trình chế tác.

Sự cảm thụ thế giới xung quanh của người Hậu kỳ Đá mới có thể nhận biết

được qua văn hóa ứng xử của người thời này đối với thân nhân của họ khi qua đời.

Tư liệu mộ táng cho thấy rằng, giai đoạn Hậu kỳ Đá mới ở khu vực nghiên cứu,

người chết được chôn tại nơi cư trú, đôi khi được đặt gần bếp lửa, chôn trong các

mộ nồi vò úp nhau. Người chết được chôn theo công cụ lao động bắt nguồn từ “ý

niệm sống sao thác vậy”. Việc chôn cất người chết trong khu vực cư trú phản ánh

tình cảm gắn kết giữa cộng đồng người chết với người đã mất. Dù đã mất nhưng

người chết vẫn có sự gần gũi nhất định với người sống.

Là cư dân săn bắt – hái lượm kết hợp sản xuất nông nghiệp, có khả năng

cảm thụ thế giới xung quanh và tư duy trừu tượng, có thể các cư dân Hậu kỳ Đá

mới khu vực nghiên cứu có thể đã xuất hiện các tín ngưỡng, cầu mong các siêu

linh phù hộ, che chở cho cuộc sống của cộng đồng. Tuy nhiên, vì lý do hạn chế tư

liệu khảo cổ nên chúng ta chưa thể phục dựng một cách chi tiết bức tranh đời sống

tín ngưỡng – tôn giáo của các cộng đồng giai đoạn này.

3.4. Thời đ i Đá mới tỉnh Đắk Lắ và Đắk Nông trong bối cảnh rộng hơn

Trên cơ sở so sánh đặc điểm đặc điểm di tích, đặc điểm di vật, niên đại và mối

liên hệ về mặt không gian địa lý giữa các di tích thời đại Đá mới khu vực nghiên cứu

với các di tích thời đại Đá mới các tỉnh Tây Nguyên và lân cận; luận án đưa ra một số

nhận định về vị trí thời đại Đá mới khu vực nghiên cứu trong dòng chảy lịch sử

3.4.1. Trong không gian Tây Nguyên

3.4.1.1. Với các di tích thời đại Đá mới ở các tỉnh Tây Nguyên

* Tỉnh Kon Tum

Dấu vết cư dân giai đoạn Trung kỳ Đá mới ở Kon Tum được phát hiện trong

lớp dưới hố khai quật di tích Lung Leng và một số di tích vùng lòng hồ Plei Krông

Dấu vết tại di tích Lung Leng: Cuộc khai quật di chỉ Lung Leng ở vùng lòng hồ thủy điện Ialy vào năm 1999 và năm 2001 với diện tích 1.500m2, thu được hàng

vạn công cụ lao động bằng đá, nhiều mộ chum, và nhiều mảnh gốm [76]. Đáng chú

ý, lớp dưới di tích Lung Leng đã tìm thấy tổ hợp công cụ đá giai đoạn trước Hậu kỳ

Đá mới, gồm rìu ngắn, rìu hình hạnh nhân, công cụ hình đĩa và rìu mài lưỡi. Những

công cụ này nằm trên lớp laterite và nằm dưới lớp công cụ rìu, bôn mài toàn thân,

117

vốn được xếp vào giai đoạn Hậu kỳ Đá mới – Sơ kỳ Kim khí.

Di vật giai đoạn Trung kỳ Đá mới ở di chỉ Lung Leng gồm 9 rìu mài lưỡi,

được làm từ đá cuội Quartzite, Rhyolite, có hình gần bầu dục, trên thân có vết ghè

đẽo tạo đốc cầm cong đều, rìa lưỡi cân và được mài tập trung ở phần rìa lưỡi gợi lại

rìu mài lưỡi Bắc Sơn, đôi khi cũng gặp trong văn hóa Hoà Bình. Ngoài rìu mài lưỡi

ở Lung Leng còn tìm thấy 4 công cụ kiểu rìu ngắn và 8 công cụ hình rìu, rìa lưỡi

cong đều, có vết tu chỉnh nhỏ. Công cụ hình rìu có 8 chiếc, được làm từ đá cuội

hoặc đá khối cứng, thân gần bầu dục, ghè đẽo tạo rìa lưỡi; mặt bổ dọc hình nêm; gợi

lại rìu dài trong văn hóa Hoà Bình. Rìu dài nằm cùng với rìu mài lưỡi, rìu ngắn

trong địa tầng di chỉ Lung Leng ở lớp sau Pleistocene. Do niên đại C14 cổ nhất lớp

văn hóa Đá mới muộn của Lung Leng là 4.500 năm BP, nên lớp Trung kỳ Đá mới ở

đây có tuổi khoảng 4.500 - 7.000 năm BP [77, tr. 3 -14].

Dấu vết tại các di tích lòng hồ Plei Krông: Từ năm 2001 – 2004, hàng loạt

di tích khảo cổ học tiền sử vùng lòng hồ thủy điện Plei Krông được phát hiện.

Trong các năm 2005 – 2006, 9 địa điểm vùng lòng hồ thuỷ điện Plei Krông đã được

khai quật là Thôn Năm, Xui Rôi, Đăk Rei, Sa Nhơn, Đăk Phá, Đăk Pak, Đăk Wớt,

Thôn Ba và Đăk Mút [86].

Năm 2005, khai quật di chỉ Thôn Năm, đã tìm thấy một số công cụ cuội ghè

đẽo làm từ những hòn cuội vừa tay cầm, chất liệu là Quartzite hoặc Quartz, loại

hình gồm chopper và nạo thô lưỡi rộng. Chiếc thứ nhất nằm ở độ sâu khoảng gần

2m so với bề mặt, sau mức sâu cuối cùng của tầng văn hóa. Chiếc thứ hai ở độ sâu

1,6m so với mặt đất. Lớp đất chứa hai hiện vật hình đĩa này có nguồn gốc phù sa cổ

của sông Krông Pôkô, mịn và chưa bị laterite hóa, tuổi vào khoảng cuối Holocene

sớm - đầu Holocene trung, khoảng 7.000 năm BP. Những công cụ hình đĩa này

mang phong cách kỹ thuật kiểu văn hóa Hoà Bình.

Trong địa tầng lớp dưới di chỉ Thôn Ba, thuộc xã Diên Bình, huyện Đắk Tô

còn gặp công cụ gần hình bầu dục, hình tam giác ghè bóc hết hai mặt vỏ cuội và

công cụ ghè hết một mặt cuội gợi lại kỹ thuật Hòa Bình. Những phát hiện này đã ít

nhiều gợi mở khả năng mang tính hiện thực về sự tồn tại của cơ tầng Hoabinhian ở

118

khu vực lòng hồ thủy điện Plei Krông nói riêng và Kon Tum nói chung [86].

Nhìn chung, các cư dân Trung kỳ Đá mới ở Lung Leng và khu vực lòng hồ

thủy điện Plei Krông đều là các cộng đồng cư dân sinh sống trên các đồi gò đất thấp

ven sông. Không gian cư trú rộng hàng ngàn mét vuông nhưng tầng văn hóa mỏng.

Dấu vết các cư dân Trung kỳ Đá mới Kon Tum đều nằm dưới lớp văn hóa Hậu kỳ

Đá mới. Do niên đại C14 cổ nhất lớp văn hóa Hậu kỳ Đá mới của Lung Leng và các

di tích lòng hồ thủy điện Plei Krông là 4.500 năm BP, nên lớp Đá mới giữa ở đây có

tuổi khoảng 4.500 - 7.000 năm BP. Các công cụ lao động của những cư dân Trung

kỳ Đá mới Kon Tum đều mang phong cách Hoabinhian. Đặc biệt các chiếc rìu mài

lưỡi, rìu ngắn, rìu bầu dục lớp dưới di tích Lung Leng có đặc điểm tương đồng di

vật Thôn Tám và có tuổi dự đoán nằm trong khung niên đại giai đoạn Trung kỳ Đá

mới tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông

Các di tích Hậu kỳ Đá mới tỉnh Kon Tum tập trung chủ yếu tại vùng núi

thấp Sa Thầy và vùng trũng Kon Tum, hiện biết gần 60 địa điểm; trong đó, 10 địa

điểm đã khai quật. Trong các di tích đã khai quật phổ biến cuốc có vai, rìu có vai

kích thước nhỏ bằng đá lửa hoặc đá Opal; bôn hình răng trâu bằng đá phtanite; hầu

như rất ít sử dụng rìu hình tứ giác. Người cổ Lung Leng sử dụng phổ biến loại bàn

mài bằng đá Granite, Quartz hạt mịn, sử dụng phổ biến các hòn nghiền nhỏ bằng đá

cuội, bàn nghiền lớn bằng granite hạt thô hoặc sa thạch, những viên cuội tròn dẹt có

lỗ thủng ở giữa, những đồ trang sức như khuyên tai, vòng tay, hạt chuỗi bằng đá

Nephrite; đồ gốm có kích thước lớn dùng làm quan tài cho loại hình mộ chum hoặc

mộ nồi vò úp nhau; những đồ gốm nhỏ dùng làm đồ gia dụng, trang trí hoa văn đẹp.

Cư dân Lung Leng định cư ven sông, có quan hệ nhất định với cư dân văn hóa Biển

Hồ (Gia Lai), cư dân tiền sử ở ven biển Trung Bộ và Lào [73, tr. 103 – 112]. Niên

đại của giai đoạn giai đoạn Hậu kỳ Đá mới ở Lung Leng có thể 4.000 - 3.000 năm

BP. Các di tích này đều có chung đặc trưng văn hóa nên được một số nghiên cứu đề

nghị xác lập thành một nền văn hóa khảo cổ có tính đặc trưng giai đoạn Hậu kỳ Đá

mới tại Kon Tum là Văn hóa Lung Leng [86].

Sự xa cách không gian địa lý giữa tỉnh Kon Tum với khu vực nghiên cứu là

rào cản vô hình đối với sự giao lưu giữa cư dân Hậu kỳ Đá mới các địa phương này.

119

Tuy nhiên, giữa các di tích giai đoạn Hậu kỳ Đá mới các tỉnh này vẫn có sự tương

đồng nhất định về không gian phân bố, đặc điểm và trình độ phát triển, cùng tạo nên

tính đa dạng trong thống nhất văn hóa vùng Tây Nguyên giai đoạn Hậu kỳ Đá mới.

* Tỉnh Gia Lai

Năm 2015, dấu vết cư dân Trung kỳ Đá mới tỉnh Gia Lai được phát hiện tại

địa phận Làng Gà (xã Ia Boòng, huyện Chư Prông), trên các gò đất thấp được định

danh Làng Gà 4, Làng Gà 5, Làng Gà 6 và Làng Gà 7. Các đồi đất chạy dọc bờ dòng Ia Mơr, rộng 1.000m2 – 2.000m2, cao trên 300 m so với mực nước biển.

Trên bề mặt các địa điểm Làng Gà 4, Làng Gà 5, Làng Gà 6 thu thập hàng

trăm di vật khảo cổ bằng đá. Các sưu tập công cụ đá trong các di tích Làng Gà

giống nhau, đều là từ đá Basalt, chủ yếu là công cụ hình bàn là, hình đĩa, hình rìu

bầu dục, rìu ngắn, rìu mài lưỡi, đá đục lỗ giữa, hòn kê,….[102, tr. 103 – 104].

Năm 2015, di tích Làng Gà 7 được khai quật lần đầu tiên với diện tích 70m2.

Tầng văn hóa di tích dày 0,25– 0,35m, đất màu nâu rắn chắc lẫn nhiều sạn sỏi

laterite, tương đối nguyên vẹn, nhưng đôi chỗ vẫn bị xáo trộn do những hoạt động

canh tác nông nghiệp hiện đại. Trong hố khai quật đã tìm thấy 14 di tích, trong đó

có 13 di tích là các cụm đá tập trung (cụm chế tác công cụ) và 1 cụm gốm tiền sử

(đây có thể là cụm mộ táng của cư dân giai đoạn Hậu kỳ Đá mới). Tổng số đồ đá

thu được trong tầng văn hóa hố khai quật là 234 hiện vật, gồm nhiều loại hình,

chiếm tỷ lệ cao và là di vật chủ đạo trong bộ sưu tập gồm: rìu mài lưỡi, công cụ

hình bầu dục, đá có vết ghè, chày, bàn mài, hòn ghè, hòn kê, đá kê làm chỗ ngồi...

Tổ hợp công cụ rìu bầu dục, hình bàn là, hình đĩa, hình rìu ngắn, rìu mài lưỡi

ở các địa điểm Làng Gà 4, Làng Gà 5, Làng Gà 6 và Làng Gà 7 giống nhau, đều

làm từ đá Basalt, Rhyolite, kích thước nhỏ, ghè đẽo tạo lưỡi bằng kỹ thuật ghè 2

mặt, một vài chiếc rìu hình bầu dục có dấu mài lưỡi. Những công cụ này chỉ gợi lại

phần nào truyền thống loại hình - kỹ thuật Hòa Bình, nhưng thực chất đã có những

chuyển biến đáng kể. Niên đại di tích từ 6.500 – 5.000 năm BP [103]

Khu vực di tích Làng Gà thuộc lưu vực sông Srêpốk, nơi các dòng chảy đều

đổ vào chi lưu của sông Srêpốk. Các địa điểm Làng Gà tập trung trong một không

gian hẹp, trên cùng hệ thống đồi gò ven sông. Các công cụ ghè đẽo rìa lưỡi hai mặt

120

được tìm thấy trong tầng văn hóa. Hiện vật đa dạng, phong phú, tạo thành một tổ

hợp di vật thống nhất. Tổ hợp công cụ đá Làng Gà tương đồng tổ hợp công cụ đá

các di tích giai đoạn Trung kỳ Đá mới ở tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông cả về chất

liệu, đặc trưng kỹ thuật và loại hình kiểu công cụ Hòa Bình muộn. Vì vậy, di tích

Làng Gà và các di tích giai đoạn Trung kỳ Đá mới tỉnh Đắk Lắk, tỉnh Đắk Nông có

thể cùng một cơ tầng văn hóa.

Các di tích giai đoạn Hậu kỳ Đá mới tỉnh Gia Lai hiện biết đến nay gồm 39

di tích; trong đó, 7 di tích đã được khai quật [63, tr. 118 – 121] [88, tr. 116 – 119].

Mở đầu là cuộc khai quật di tích Biển Hồ vào năm 1993 với diện tích khai quật là 50m2, thu được 187 công cụ đá, 1.650 mảnh tước, 17 đồ đất nung và 32.289

mảnh gốm [14]. Tiếp sau vào năm 1993, di chỉ Trà Dôm (thị xã Pleiku) được khai quật với diện tích 90m2, đã thu được 241 công cụ lao động, 1 vòng tay, 786 mảnh

tước, 15 mảnh gốm ghè tròn, 32.302 mảnh gốm cùng 3 ngôi mộ vò [72]. Trong thời

gian khai quật Trà Dôm, các nhà khảo cổ học đã tiến hành điều tra và phát hiện mới

13 địa điểm khảo cổ học ở tỉnh Gia Lai. Cùng với tư liệu khai quật Biển Hồ và Trà

Dôm, các nhà nghiên cứu xác lập sự tồn tại văn hóa Biển Hồ ở Tây Nguyên [71, tr.

7 -16] [122, tr. 49 – 64].

Năm 2002, di tích Thôn Bảy (huyện Chư Prông) được khai quật với diện tích 120m2. Tầng văn hóa dày trung bình 0,85m, chứa vết tích bếp và 4 ngôi mộ, cùng

2.134 di vật đá (260 công cụ, 2 vòng trang sức, 1.872 mảnh tước) và 11.931 mảnh

gốm. Những người khai quật cho rằng, di chỉ Thôn Bảy là nơi cư trú, mộ táng và

chế tạo công cụ của cư dân Hậu kỳ Đá mới, thuộc văn hóa Biển Hồ [61, tr. 35 – 57].

Năm 2002, di tích Taipêr (huyện Chư Sê), được khai quật với diện tích 125m2, tầng văn hóa dày 0,65m, thu được 46.195 đồ đá và 12.058 mảnh gốm, cùng

dấu tích 2 bếp và 2 mộ táng trong tầng văn hóa. Đây là di chỉ - xưởng chế tác rìu có

vai bằng đá Opal, cũng là nơi để mộ táng của cư dân Hậu kỳ Đá mới niên đại 3.500

- 4.000 năm BP [81, tr. 18 – 30]. Trong di tích tìm thấy công cụ mảnh tước và phiến

tước dạng hình học làm từ đá Opal có dấu tu chỉnh lần thứ hai, phản ánh rõ nét quy

trình chế tạo rìu, bôn có vai bằng đá Opal và mối giao lưu văn hóa giữa bắc và nam

121

Tây Nguyên.

Năm 2003, di chỉ - xưởng Làng Ngol (huyện Chư Sê) được khai quật với diện tích 74m2. Trong hố khai quật thu được gần 450 hiện vật đá, chủ yếu mảnh

tước, phiến tước bằng đá Opal, cùng rìu, bôn mài toàn thân, mũi nhọn, chày nghiền,

phác vật rìu bôn, lưỡi cưa, bàn mài, hòn ghè... Đồ gốm di tích Làng Ngol được tìm

thấy trên 2.000 mảnh, đều là gốm thô; làm từ đất sét pha cát, tinh thể thạch anh hạt

mịn và bã thực vật. Các mảnh gốm là là mảnh vỡ của bát bồng, bình nhỏ, nồi, vò,

chậu, bát... Tính chất và niên đại di chỉ này có nét gần với Taipêr [27, tr.170–174].

Di tích Ia Mơr (huyện Chư Prông) được phát hiện năm 2005, được khai quật

năm 2007 [75, tr. 122 – 124]. Tại đây, Bảo tàng tỉnh Gia Lai đã đào 4 hố thám sát,

thu được 779 hiện vật đá, chủ yếu là mảnh tước, phiến tước đá Phtanite và một ít từ

chất liệu đá Silic, Sa thạch [45, tr. 123 – 124]. Năm 2008, di tích Ia Mơr tiếp tục

được khai quật. Kết quả khai quật thu được hàng ngàn hiện vật đá, trong đó chủ yếu

là mảnh tước, đá nguyên liệu, hạch đá, phác vật và một số ít rìu, bôn mài toàn thân

cùng nhiều mảnh gốm [82, tr. 122 - 124] [83].

Cụm di tích H’lang (huyện Krong Chro) được phát hiện năm 2014 và khai

quật năm 2017. Kết quả khảo sát và khai quật cho thấy cụm di tích H’lang là một hệ

thống công xưởng với 9 địa điểm chế tác công cụ bằng đá Opal, phân bố trong một không gian diện tích khoảng 1km2. Tầng văn hóa di tích dày 0,2 – 0,4cm, chứa đựng dày

đặc các tích tụ của hoạt động gia công, chế tác công cụ đá. Niên đại dự đoán của di tích

H’lang là 4.000 – 3.500 năm BP, thuộc giai đoạn Hậu kỳ Đá mới [88, tr. 116 – 119] [62].

Các loại hình công cụ và phác vật công cụ đá tại hệ thống công xưởng H’lang có mối

tương đồng về loại hình, chất liệu với sản phẩm của công xưởng Cư K’tur.

Các di tích Taipêr, Làng Ngol, Ia Mơr, H’lang có một số đặc trưng chung với

các di tích Cư K’tur, T’Sham A thuộc tỉnh Đắk Lắk, gợi mở khả năng xác lập một

văn hóa mới - văn hóa Taipêr, mà phạm vi phân bố của nó kéo dài từ Nam Gia Lai

tới Đông Bắc Đắk Lắk, với đặc trưng văn hóa riêng, ổn định, những nhịp cầu văn

hóa tạo dựng sự thống nhất trong đa dạng của tiền sử Tây Nguyên [81, tr.18 – 30]

* Tỉnh Lâm Đồng

Dấu tích giai đoạn Trung kỳ Đá mới Lâm Đồng phát hiện lẻ tẻ qua một số

122

rìu cuội mài lưỡi kiểu ở thung lũng Tình Yêu (thành phố Đà Lạt), tại Liên Đầm

(huyện Di Linh) và Gia Lâm (huyện Lâm Hà) [6]. Những chiếc rìu trên đây mang

đặc trưng kỹ thuật và loại hình tương đồng rìu mài lưỡi di tích Thôn Tám. Tuy

nhiên, trong khu vực tìm thấy rìu mài lưỡi ở Lâm Đồng đều không tìm thấy các di

tồn văn hóa khác. Do vậy, những tư liệu này chỉ ghi nhận, tham khảo và có giá trị

báo dẫn về khả năng tồn tại các cộng đồng cư dân Trung kỳ Đá mới Lâm Đồng.

Các di tích giai đoạn Hậu kỳ Đá mới tỉnh Lâm Đồng đã phát hiện 12 di tích,

trong đó, có 7 di tích đã thám sát và 03 di tích khai quật, cụ thể: là di tích Thôn Bốn,

di tích Hoàn Kiếm, Phúc Hưng (huyện Lâm Hà) [52, tr. 12 – 22], [50, 35 – 49] [66,

tr. 13 – 20].

Bên cạnh, các di tích đã được khảo sát và khai quật, hiện tại Bảo tàng tỉnh

Lâm Đồng lưu giữ nhiều hiện vật khảo cổ học giai đoạn Hậu kỳ Đá mới sưu tập rải

rác trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng.

Tỉnh Lâm Đồng liền kề tỉnh Đắk Nông và tỉnh Đắk Lắk. Yếu tố vị trí địa lý

là điều kiện thuận lợi tạo nên sự gần gũi giữa thời đại Đá mới tỉnh Đắk Lắk, tỉnh

Đắk Nông với thời đại Đá mới tỉnh Lâm Đồng. Thậm chí, một số di tích thuộc tỉnh

Đắk Lắk, tỉnh Đắk Nông và tỉnh Lâm Đồng về bản chất cùng thuộc chung một cộng

đồng. Điển hình là trường hợp di tích Sar Luk (huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk) với di tích

Buôn Giá (huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng), trường hợp di tích Thôn Chín (huyện

Đắk G’long, tỉnh Đắk Nông) và di tích Đạ Rsal (huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng).

Địa điểm Sar Luk (nay thuộc huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk) là nơi Codominas

công bố phát hiện chiếc rìu mài lưỡi năm 1952. Tuy nhiên, rìu mài lưỡi Sar Luk

không lưu trữ tại Việt Nam, công bố không có hình ảnh cùng với khảo tả kèm theo.

Địa điểm Sar Luk nằm bên bờ lở dòng sông Krông Nô – một chi lưu của sông

Srêpốk, chảy qua khu vực hang động núi lửa Krông Nô – đối diện bên kia bờ là di

tích Buôn Giá (huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng). Di tích Buôn Giá được tác giả

luận án phát hiện năm 2015, nằm trên một đồi đất cao, phân cách dòng sông bởi bãi

bồi rộng khoảng 20m. Trên bề mặt di tích xuất lộ công cụ ghè đẽo, phác vật rìu, rìu

mài lưỡi, công cụ mảnh, mảnh tước,… bằng chất liệu đá Basalt, và các mảnh gốm

thô. Rìu mài lưỡi Buôn Giá hình tứ giác, bị vỡ/chặt ngang thân, bề mặt còn nguyên

123

vỏ cuội; một mặt cong lồi, mặt đối phẳng; rìa cạnh mỏng, có một số vết ghè tạo rìa

mỏng, lưỡi có dấu vết mài hạn chế. Phác vật rìu tại Buôn Giá là phác vật rìu hình

thang và phác vật rìu bầu dục, mới chỉ ghè tạo hình, không có dấu vết kỹ thuật mài,

bị lỗi trong quá trình chế tạo. Gốm mảnh tại Buôn Giá mịn, cứng, miết láng, xương

gốm mịn, pha bã thực vật. Công cụ ghè đẽo rìu lưỡi, rìu mài lưỡi, phác vật rìu bầu

dục Buôn Giá có sự tương đồng với các công cụ đặc trưng của giai đoạn Trung kỳ

Đá mới tại tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông. Không loại trừ khả năng hiện vật rìu

mài lưỡi Sar Luk do G.Codominas sưu tầm có nguồn gốc từ di tích Sar Luk. Phác

vật rìu hình thang, và đồ gốm di tích Buôn Giá có nét tương đồng với di vật giai

đoạn Hậu kỳ Đá mới phát hiện tại vùng đông nam tỉnh Đắk Lắk [37, tr. 117 – 118].

Tương tự, trên bề mặt di tích Thôn Chín (huyện Đắk G’long, tỉnh Đắk Nông)

và di tích Đạ Rsal (huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng) tìm thấy trên bề mặt hai di

tích tương đồng nhau, gồm bàn mài, mảnh tước, công cụ ghè đẽo... chất liệu đá

Basalt, Cát kết... và các mảnh gốm thô, cứng [45, tr. 12]. Hai di tích này phân bố

trên đồi đất đối diện nhau qua nhánh sông đổ vào sông Krông Nô, về cơ bản cùng

thuộc một cộng đồng cư dân sống hai bên bờ của một dòng sông.

Mối quan hệ văn hóa giữa thời đại Đá mới tỉnh Đắk Lắk, tỉnh Đắk Nông với

Lâm Đồng còn thể hiện qua các di tích khảo cổ phân bố dọc lưu vực hệ thống sông

Đồng Nai. Di tích Suối Ba (huyện Đắk R’lấp) nằm khu vực phía Nam tỉnh Đắk

Nông, ven suối Ba – một dòng suối thượng nguồn hệ thống sông Đồng Nai, được

phát hiện năm 2006, khai quật các năm 2010, năm 2013 và năm 2017. Kết quả nghiên

cứu chứng minh Suối Ba là di chỉ cư trú – mộ táng thuộc giai đoạn Hậu kỳ Đá mới.

Đặc điểm di tích, táng thức, đặc điểm di vật, đặc biệt di vật đá Suối Ba mang đậm

phong cách văn hóa Buôn Triết. Đáng chú ý, đồ gốm và các mảnh bàn xoa gốm rải

rác trên bề mặt Suối Ba có nét tương đồng với di vật cùng loại hình tại di tích Phù Mỹ

(Lâm Đồng) [3] [19] [21, tr. 60-71] [8, tr. 134-137] [40] [46, tr.152-153]. Di tích Phù

Mỹ thuộc thời đại Kim Khí, tồn tại trong khoảng niên đại 3.000 – 2.500 năm BP [6]

[7, tr. 100-109]. Điều này cho thấy hệ thống sông Đồng Nai là cầu nối liên kết giữa

các di tích thời đại Đá mới tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông với các di tích tiền – sơ sử tỉnh

Lâm Đồng. Mặc dù, trình độ phát triển thuộc giai đoạn Hậu kỳ Đá mới nhưng không

loại trừ khả năng các cư dân tiền sử tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông có mối quan hệ

124

với các cư dân thời đại Kim khí tại lưu vực sông Đồng Nai.

Trong số các hiện vật bảo quản tại Bảo tàng tỉnh Lâm Đồng, hiện đang lưu

giữ 01 chiếc cuốc đá vai nhọn thân thắt eo tương tự tiêu bản cuốc đá vai nhọn thân

thắt eo phát hiện trong hố chôn dấu tại di tích Buôn Kiều và Buôn Triết [36, tr. 45].

Sự tương đồng về điều kiện tự nhiên, sự gần gũi về không gian địa lý, đặc

biệt sự kết nối qua các dòng chảy thuộc hệ thống sông Srêpốk và hệ thống sông

Đồng Nai là điều kiện quan trọng thúc đẩy mối quan hệ văn hóa cư dân thời đại Đá

mới phía Nam tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông với các cư dân tiền - sơ sử Lâm

Đồng. Mối quan hệ văn hóa này có thể là mối quan hệ cùng nguồn gốc chung một

cộng đồng cư dân, cũng có thể là mối quan hệ giao lưu giữa các cộng đồng tồn tại

trong cùng một thời điểm.

3.4.1.2. Vị trí thời đại Đá mới tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông trong bức tranh

thời đại Đá mới vùng Tây Nguyên

Thời đại Đá mới tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông có mối liên hệ chặt chẽ với thời

đại Đá mới toàn vùng Tây Nguyên, thể hiện qua mối quan hệ, giao lưu giữa các

nhóm cư dân này. Các cộng đồng cư dân thời đại Đá mới Đắk Lắk và Đắk Nông

không hoàn toàn là những cộng đồng khép kín. Không gian phân bố hạn chế của

loại hình cuốc vai nhọn thân thắt eo tìm thấy ở Buôn Kiều, Buôn Triết (Đắk Lắk),

Lâm Đồng chứng minh sự tồn tại của nhịp cầu trao đổi sản phẩm hoàn thiện giữa

các cư dân Hậu kỳ Đá mới - Sơ kỳ Kim khí phía Nam Đắk Lắk với Lâm Đồng. Các

tiêu bản cuốc vai nhọn thân thắt eo đều tìm thấy trong hố chôn hoặc mộ táng, không

rõ vết sử dụng, chứng tỏ tương đồng trong quan niệm, ứng xử của hai cộng đồng cư

dân thuộc hai vùng địa lý cách xa nhau. Cuốc vai nhọn thân thắt eo tại hai địa điểm

trên đều thể hiện tính biểu tượng hơn là giá trị sử dụng thực tiễn.

Tại khu vực bắc tỉnh Đắk Lắk, hệ thống công xưởng Cư K’tur, T’Sham A

còn có sự tương đồng chặt chẽ với các di tích phía Nam tỉnh Gia Lai như Tai Pêr,

Làng Ngol,... cùng hợp thành một hệ thống công xưởng chế tác rìu đá có vai chất

liệu đá Opal. Tổ hợp di vật và tài liệu địa tầng di tích Cư K’tur chứng tỏ quá trình

phát triển liên tục từ mức sớm đến muộn của nội thân di tích. Mức muộn của di tích

Cư K’tur xuất hiện phác vật rìu có vai bằng đá Opal, thể hiện sự liên kết chặt chẽ

125

với các di tích Thanh Sơn, Bản Thái, T’Sham A.... và đặc biệt là các di tích phía

Nam tỉnh Gia Lai như: Tai Pêr, Làng Ngol.... hợp thành một hệ thống công xưởng

chế tác rìu có vai chất liệu đá Opal của cùng một nhóm cư dân khu vực phía Nam

tỉnh Gia Lai và phía Bắc tỉnh Đắk Lắk. Nói một cách khác, bên cạnh yếu tố nội

sinh, sự giao lưu, quan hệ mật thiết với các cư dân phía Nam tỉnh Gia Lai đã góp

phần thúc đẩy quá trình Đá mới hóa khu vực phía Nam Tây Nguyên. Những nghiên

cứu chuyên sâu về nhóm di tích Cư K’tur, T’Sham A, Taipêr, Làng Ngol, ... trong

tương lai có thể sẽ cung cấp luận cứ, luận điểm khoa học nhằm làm rõ hơn mối

quan hệ giữa cư dân kỳ Hậu kỳ Đá mới khu vực phía Bắc tỉnh Đắk Lắk với cư dân

văn hóa Biển Hồ (Gia Lai) và văn hóa Lung Leng (Kon Tum).

Với những tài liệu khảo cổ học mới nhất cho phép chúng ta nhận thức về 02

giai đoạn phát triển của quá trình Đá mới hóa tại khu vực nghiên cứu. Đó là giai

đoạn Trung kỳ Đá mới và giai đoạn Hậu kỳ Đá mới. Các giai đoạn này phát triển

liên tục, có sự kề thừa từ giai đoạn Trung kỳ Đá mới với giai đoạn Hậu kỳ Đá mới.

Trong quá trình Đá mới hóa, các di tích thời đại Đá mới tại khu vực nghiên cứu có

mối liên hệ với các di tích đồng đại trong khu vực Tây Nguyên. Mối liên hệ đó có

thể là mối liên hệ chặt chẽ giữa các nhóm cư dân cùng một khu vực cư trú, hoặc

cùng một văn hóa khảo cổ; cũng có thể là mối quan hệ cùng bình tuyến văn hóa tạo

nên tính đa dạng trong trên nền tảng văn hóa Tây Nguyên thống nhất. Mặt khác, với

vị trí địa lý tiếp giáp miền Đông Nam Bộ và duyên hải Nam Trung bộ, các cư dân

thời đại Đá mới đóng vai trò cầu nối giao lưu và tiếp nhận các giá trị văn hóa từ các

khu vực ngoài vùng Tây Nguyên, làm giàu thêm giá trị văn hóa vùng Tây Nguyên

thời đại Đá mới.

Thời đại Đá mới tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông là một bộ phận không tách rời

thời đại Đá mới vùng Tây Nguyên nhưng vẫn có những điểm khác biệt so với các

tỉnh khác của vùng Tây Nguyên.

Thời đại Đá mới tại khu vực nghiên cứu thể hiện qua sự phát triển có tiếp nối

từ giai đoạn Trung kỳ Đá mới đến giai đoạn Hậu kỳ Đá mới. Yếu tố Trung kỳ Đá

mới được bảo lưu và phát triển hơn trong giai đoạn Hậu kỳ Đá mới. Các di tích

vùng cao nguyên Buôn Ma Thuột, điển hình di tích Dhă Prông thuộc mức sớm giai

126

đoạn Hậu kỳ Đá mới, chế tác và sử dụng công cụ lao động như công cụ hình mai

mực... gợi lại hình dáng và phong cách kỹ thuật chế tác công cụ đặc trưng của các

cư dân Trung kỳ Đá mới vùng lưu vực sông Srêpốk nhưng ở mức phát triển hơn.

Trong khi đó, sự kế thừa và tiếp nối giữa di tích Làng Gà, thuộc giai đoạn Trung kỳ

Đá mới ở tỉnh Gia Lai, với nhóm các di tích Taipêr, Làng Ngo.... và văn hóa Biển

Hồ không rõ ràng, có sự đột biến. Tại Kon Tum, địa phương vùng cực bắc Tây

Nguyên, các di vật tình thấy trong tầng văn hóa di tích Lung Leng, Thôn Năm...

không thể hiện rõ ràng yếu tố loại hình văn hóa Hòa Bình. Tại tỉnh Lâm Đồng, dấu

vết giai đoạn Trung kỳ Đá mới rất mờ nhạt, không thể hiện rõ phong cách kỹ thuật

Hòa Bình. Điều đó có nghĩa sự lan tỏa của yếu tố văn hóa hậu Hòa Bình đến các

địa phương vùng Tây Nguyên có sự đậm nhạt khác nhau, và thể hiện rõ nét tại Đắk

Lắk và Đắk Nông.

3.4.2. Với vùng duyên hải Nam Trung bộ

Duyên hải Nam Trung Bộ là một dải lãnh thổ hẹp, mà phía Tây là sườn Đông

của Trường Sơn Nam, ôm lấy Tây Nguyên rộng lớn, phía Đông là Biển Đông. Về

mặt địa giới hành chính, duyên hải Nam Trung bộ tiếp giáp phía Đông vùng Tây

Nguyên, bao gồm 8 tỉnh, thành phố. Trong đó, tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa có địa

giới hành chính tiếp giáp trực tiếp với địa bàn nghiên cứu. Sự gần gũi về mặt vị trí

địa lý và điều kiện tự nhiên là tiền đề của mối quan hệ giao lưu văn hóa mật thiết

giữa cư dân vùng Tây Nguyên với cư dân duyên hải Nam Trung bộ trong lịch sử phát

triển dân tộc. Mối quan hệ này được nảy nảy sinh và định hình từ thời đại đồ Đá.

3.4.2.1. Với các di tích giai đoạn Trung kỳ Đá mới tại các tỉnh Nam Trung bộ

* Các di tích giai đoạn Trung kỳ Đá mới tại các tỉnh Nam Trung bộ hiện

biết bao gồm: địa điểm Eo Bồng (Phú Yên), di tích Văn Tứ Đông (Khánh Hòa) và

di tích Bàu Dũ (Quảng Nam)

Địa điểm Eo Bồng được phát hiện trong đợt khảo sát tháng 7/2001, phân bố

đồi núi thấp thuộc dạng địa hình chuyển tiếp từ cao nguyên xuống đồng bằng châu

thổ ở xã Sơn Thành, huyện Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên. Về địa hình cảnh quan, Eo

Bồng khác với Bàu Dũ, Văn Tứ Đông, nhưng về dấu tích văn hóa lại khá gần gũi.

Với gần 700 hiện vật thu được trong hố khai quật Eo Bồng cho thấy, phần

127

lớn là mảnh tước và hạch đá, tiếp sau là những công cụ mang truyền thống kiểu văn

hóa Hòa Bình như rìu bầu dục, rìu ngắn, chiếm ưu thế. Ngoài ra còn có một số công

cụ mang những đặc điểm kỹ thuật kiểu văn hóa Sơn Vi như công cụ rìa lưỡi dọc

(side chopper), công cụ rìa lưỡi ngang (end chopper), công cụ hình núm cuội, công

cụ phần tư viên cuội. Phần lớn các hiện vật này tìm thấy trên mặt đất, càng đào

xuống sâu càng ít hơn. Tính chất di chỉ xưởng đậm nét.

Trước đây, các nhà nghiên cứu cho rằng, Eo Bồng thuộc nhiều thời đại. Con

người đầu tiên đến ở Eo Bồng có thể vào cuối Sơn Vi - đầu Hòa Bình (khoảng

20.000 - 16.000 năm BP); tiếp sau là hậu kì Đá mới, con người lại trở về đây sinh

sống [11], hoặc Hòa Bình sớm [108]. Tuy nhiên, tổ hợp công cụ đá ở di tích Eo

Bồng chỉ gợi lại công cụ kiểu Hòa Bình như rìu hình hạnh nhân, hình đĩa, rìu ngắn,

phản ánh tính truyền thống không phải mang đặc trưng Hòa Bình theo đúng nghĩa.

Đây là văn hóa của các cư dân Đá mới miền núi vùng Nam Trung Bộ, thuộc dạng

Hậu Hòa Bình, có tuổi khoảng 4.000 - 6.000 năm BP. Về hình thái học công cụ, Eo

Bồng có nhiều nét gần với tổ hợp công cụ Thôn Tám (Đắk Nông) [31, tr. 38 – 40]

và Định Quán (Đồng Nai) [70, tr. 79 – 82]. Những di tích này cũng được những

người phát hiện, nghiên cứu xếp vào Trung kỳ Đá mới, sau văn hóa Hòa Bình.

Di tích Bàu Dũ ở thôn Bút Đông, xã Tam Xuân, huyện Núi Thành, tỉnh

Quảng Nam. Cư dân Bàu Dũ sinh sống một gò đất rộng, bằng phẳng, cao hơn mặt

ruộng canh tác khoảng 2m. Di tích Bàu Dũ được đào thám sát và khai quật nhiều

lần vào các năm 1981, năm 1983. Tầng văn hóa là lớp đất cát pha màu nâu đen, dày

từ 1,7m - 1,8m. Lớp mặt có vết tích gốm Bàu Trám, thuộc thời đại Đồng thau,

nhưng không tạo thành lớp văn hóa độc lập [107].

Công cụ đá Bàu Dũ mang đậm đặc trưng kiểu Hòa Bình muộn, gồm công cụ

nạo hình đĩa, rìu hình hạnh nhân, rìu ngắn, công cụ chặt thô, chopper, cuội có lỗ

vũm, rìu tay bằng đá cuội đẽo hai mặt. Ở Bàu Dũ đã tìm thấy 5 ngôi mộ, đều được

chôn trong các hố vỏ sò điệp hoặc đặt trong những đống điệp lớn, khá dày. Tư thế

ngồi bó gối, tương tự như Đá Bút (Thanh Hóa) và Quỳnh Văn (Nghệ An). Theo

những kết quả nghiên cứu, di cốt người Bàu Dũ thuộc chủng tộc đen với đặc trưng

128

Melanesien rõ nét.

Tại Bàu Dũ còn thu được một khối lượng lớn di cốt động vật và vỏ nhuyễn

thể. Về động vật ở đây có tê giác, trâu bò, hươu, nai, sơn dương, khỉ, xương cá, về

nhuyễn thể có các loài ngao, hàu, sò điệp và cua biển. Trong số xương răng động

vật đã nghiên cứu chưa thấy di cốt của loài đã thuần dưỡng. Niên đại C14 Bàu Dũ

3.310±60 năm BP (mức trên); 5.030±60 năm BP (mức dưới), mức chứa công cụ đá

và chưa xuất hiện đồ gốm. Những người khai quật cho rằng di chỉ Bàu Dũ thuộc

bình tuyến Đá mới sau Hòa Bình ven biển.

Định hướng kinh tế biển đã hình thành trong cư dân Bàu Dũ, nhưng có

những điểm khác cư dân Cái Bèo - thiên về đánh bắt cá biển; khác với người Quỳnh

Văn - thiên về khai thác sò điệp thuộc đới ven bờ; và khác với cư dân Đa Bút từ

khai thác thủy sản (hến) sang khai thác biển (đánh cá Gò Trũng). Cư dân Bàu Dũ có

thể là cư dân khai thác phổ tạp trong môi trường biển, khai thác các loài sò điệp ven

bờ, đánh cá biển và săn bắt, hái lượm động thực vật trên cạn [85, tr. 3 -14].

Cư dân Bàu Dũ là đại diện cho giai đoạn Đá mới sau Hòa Bình ở vùng biển

Nam Trung Bộ. Dưới góc độ văn hóa, các cộng đồng này tiếp cận biển ở các địa

bàn sinh thái khác nhau, định hướng khai thác biển không giống nhau.

* Mối quan hệ giữa các cư dân giai đoạn Trung kỳ Đá mới tỉnh Đắk Lắk và

tỉnh Đắk Nông với các cư dân giai đoạn Trung kỳ Đá mới các tỉnh Nam Trung bộ

một mặt là mối quan hệ đồng quy văn hóa, mặt khác là mối quan hệ giao lưu – trao

đổi văn hóa trực tiếp giữa các nhóm cư dân đồng đại.

So sánh đặc điểm di tích và di vật, dễ dàng nhận thấy sự tương đồng giữa cư

dân giai đoạn Trung kỳ Đá mới tại khu vực nghiên cứu với cư dân Eo Bồng và cư

dân Bàu Dũ. Tổ hợp công cụ Eo Bồng và Bàu Dũ có nhiều nét gần gũi về loại hình

học và kỹ thuật chế tác tổ hợp công cụ các di tích giai đoạn Trung kỳ Đá mới tại

khu vực nghiên cứu. Bên cạnh yếu tố biển nổi bật, cư dân Bàu Dũ còn tiến hành

khai thác các nguồn từ rừng tương đồng các cư dân đồng đại trên Tây Nguyên.

Một hiện tượng rất đáng ghi nhận là sự xuất hiện của 5 mảnh vỏ ốc sứ -

Cypraea - loài nhuyễn thể nước mặn trong tầng văn hóa di tích hang C6-1. Những

mảnh ốc biển này có mặt trên vùng cao nguyên thông qua hoạt động trao đổi với cư

129

dân ven biển đồng đại. Theo lát cắt không gian từ tây sang đông, trong giai đoạn

Trung kỳ Đá mới tồn tại các cộng đồng cư dân: Tại vùng cao nguyên phía Tây có

mặt các cư dân Trung kỳ Đá mới tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông; chuyển tiếp đến

vùng giao thoa giữa núi – đồng bằng có các cư dân Eo Bồng và vùng ven biển Nam

Trung bộ là cư dân Bàu Dũ. Giữa cư dân hai tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông cổ với

cư dân ven biển Nam Trung bộ tồn tại mối quan hệ giao lưu, trao đổi, minh chứng

là sự hiện diện của 5 mảnh vỏ ốc biển Cypraeidae trong di tích hang động núi lửa

C6-1. Cả 5 vỏ ốc đều bị mẻ/vỡ; phần miệng vỏ còn nguyên, hai vỏ ở lớp L4.13 bị

cháy. Sự xuất hiện của ốc sứ cho thấy từ giai đoạn trên dưới 6.000 BP cư dân tiền

sử C6-1 đã có mối quan hệ với cư dân biển. Rất có thể cư dân tiền sử hang C6-1

dùng ốc sứ như một đồ trang sức hoặc đồ tùy táng chôn theo người chết như mộ

táng trong một số di tích thuộc văn hóa Hòa Bình.

Sản phẩm quá trình giao lưu, trao đổi giữa các cư dân Tây Nguyên với

cư dân duyên hải Nam Trung bộ không đơn thuần là các sản vật địa phương cụ

thể như vỏ ốc biển; mà ẩn chứa trong đó là sự giao thoa các giá trị văn hóa – sử

dụng vỏ ốc biển trong sinh hoạt tinh thần, có thể dùng chôn cất cùng người

chết. Các nhóm cư dân này cùng tồn tại trong một khung thời gian, sử dụng các

loại hình công cụ bảo lưu yếu tố kỹ thuật và hình dáng văn hóa Hòa Bình

nhưng phát triển ở mức cao hơn. Có thể nói, mối liên hệ giữa cao nguyên –

vùng biển tại miền Trung – Tây Nguyên đã hiện hữu ngay trong thời kỳ này.

3.4.2.2. Với các di tích giai đoạn Hậu kỳ Đá mới tại các tỉnh Nam Trung bộ

Tại hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa – các tỉnh kề sát địa bàn nghiên cứu của

luận án, hiện phát hiện hàng chục di tích khảo cổ học giai đoạn Hậu kỳ Đá mới – Sơ

kỳ Kim khí như: các di tích Gò Dương, Sơn Định, đập Bà Đỏ, Suối Mây, Gò Ốc,

Cồn Dinh, khe Ông Dậu, gò Cây Thị, gò Bộng Dậu ... thuộc tỉnh Phú Yên; các di

tích Xóm Cồn, Vĩnh Yên... của tỉnh Khánh Hòa. Tại vùng đồi núi chuyển tiếp từ

cao nguyên M’đrắk, cao nguyên Đắk Nông xuống vùng đồng bằng ven biển miền

trung như vùng thung lũng sông Đá Bàn (Khánh Hòa), từng xuất lộ cuốc đá hình

thang và cuốc chim tương tự loại hình cuốc đá tìm thấy tại Đắk Lắk. Những cuốc đá

này đều có kích thước lớn, chất liệu đá Basalt. Những địa điểm này được xếp vào

130

giai đoạn Hậu kỳ Đá mới, niên đại cổ hơn các di tích văn hóa Xóm Cồn. Điều đó có

nghĩa, giữa các cư dân Hậu kỳ Đá mới tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Khánh Hoà có những

mối giao lưu văn hóa trước cả văn hóa Xóm Cồn được thiết lập [87, tr.336].

Đại diện tiêu biểu giai đoạn Hậu kỳ Đá mới – Sơ kỳ Kim khí Nam Trung

bộ là nhóm các di tích thuộc văn hóa Xóm Cồn (tỉnh Khánh Hòa). Các di tích

văn hóa Xóm Cồn phân bố tập trung ở vùng đồng bằng ven biển và đảo liền bờ

thuộc vịnh Cam Ranh. Đây là các di tích cồn cát, tầng văn hóa mỏng, là nơi cư trú,

đôi khi để mộ và chế tác công cụ và đồ trang sức. Về tổ hợp công cụ, trong văn hóa

Xóm Cồn đặc trưng nhất là những chiếc rìu và bôn đá thân hình thang, mài nhẵn

toàn thân, kích thước nhỏ. Trong văn hóa hoàn toàn vắng mặt rìu có vai và bôn hình

răng trâu. Nét đặc trưng về đồ gốm văn hóa Xóm Cồn là sự có mặt của bát bồng,

phần thân bát lớn so với phần chân đế, miệng hơi cong bóp vào, trang trí hoa văn

bằng que nhiều răng tạo ra những đồ án; xuất hiện gốm vẽ màu, mà ở nhiều di tích

cùng bình tuyến chưa tìm thấy. Điểm nổi bật nhất về di tồn văn hóa Xóm Cồn chính

là những công cụ và đồ trang sức được làm tại nơi cư trú, với nguyên liệu là vỏ ốc

tai tượng, một loài nhuyễn thể biển có mặt ở vùng này. Mặc dù chưa tìm thấy đồ

đồng cũng như dấu vết luyện kim, nhưng một số nhà nghiên cứu vẫn xếp các di tích văn hóa Xóm Cồn vào thời đại Kim khí. Kết quả phân tích C14 tại di tích Xóm Cồn

là 4.140 ± 80 năm BP, tuổi dự đoán văn hóa Xóm Cồn là là 3.500 năm BP [49] [9].

Khung niên đại của văn hóa Xóm Cồn tương đương thời gian tồn tại của các

cư dân Hậu kỳ Đá mới tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông. Sưu tập rìu và bôn đá trong văn

hóa Xóm Cồn có đặc điểm tương đồng với sưu tập rìu và bôn đá giai đoạn Hậu kỳ

Đá mới tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông. Vì vậy, giữa các cư dân văn hóa Xóm Cồn với

các cư dân Hậu kỳ Đá mới tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông dù khác biệt nhau về trình độ

phát triển nhưng vẫn có khả năng tồn tại những mối quan hệ giao lưu kế thừa từ

những giai đoạn phát triển trước đó.

3.4.3. Với miền Đông Nam Bộ

Miền Đông Nam Bộ nằm ở phía Nam Tây Nguyên, tiếp giáp trực tiếp với

tỉnh Đắk Nông. Về địa hình, Đông Nam bộ là sự kéo dài của cao nguyên phía Bắc

xuống vùng núi thấp, vùng bình sơn nguyên đất đỏ Basalt ở Bình Phước, một phần

131

Xuân Lộc (Đồng Nai), rồi chuyển dần sang các phù sa cổ, đất xám ở phía Đông

sông Sài Gòn và phía Đông sông Đồng Nai, để rồi hạ thấp dần xuống đồng bằng

thung lũng vùng Tây Ninh và đồng bằng châu thổ Cần Giờ và Vũng Tàu.

Hệ thống sông Đồng Nai là một trong những hệ thống sông lớn của miền Đông Nam Bộ và của cả nước ta, với diện tích lưu vực khoảng 40.000km2. Tuy

dòng chảy chính không qua tỉnh Đắk Nông nhưng các nhánh thượng nguồn của hệ

thống sông Đồng Nai nằm trên địa bàn tỉnh Đắk Nông, đáng kể nhất là: suối Đăk

N’rung, suối Đăk Nông, suối Đăk Bút So, suối Đăk R'lấp, suối Đăk R'tih... Do vị trí

địa lý liền kề, diện tiếp xúc rộng, có sự kết nối tự nhiên qua hệ thống sông Đồng

Nai; cư dân tiền sử giữa các tỉnh Nam Tây Nguyên với miền Đông Nam Bộ có quan

hệ văn hóa tương đối rõ nét.

Dấu vết giai đoạn Trung kỳ Đá mới tại miền Đông Nam Bộ được phát hiện

trong những năm 2009 và 2010. Trong thời gian này, một số công cụ đá ghè đẽo

chất liệu đá Basalt được người dân phát hiện rải rác tại địa bàn xã Phú Lợi và xã

Phú Tân (huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai). Các công cụ này đều được ghè đẽo hai

mặt tạo rìa vòng quanh chu vi công cụ, hình bầu dục hoặc hình đĩa, mỏng, dẹt

tương tự loại hình công cụ rìu bầu dục tại các di tích giai đoạn Trung kỳ Đá mới

tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông. Tuy nhiên, các hiện vật đều do người dân sưu tập

trên bề mặt, không gắn với di tích. Các cuộc khảo sát năm 2009 và năm 2010 do

các nhà khảo cổ học thực hiện tại khu vực người dân cung cấp thông tin đều không

có phát hiện mới về di vật và di tích.

Bộ sưu tập công cụ đá ghè đẽo tại huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai tuy

không gắn với di tích nhưng đặt ra giả thuyết các di vật này có thể đại diện cho một

nền văn hóa tiền thân văn hóa Đồng Nai, thuộc Sơ kỳ hoặc Trung kỳ Đá mới, niên

đại 7.000 – 5.000BP. Tính xác thực của giả thuyết cùng mối quan hệ giữa các công

cụ đá ghè đẽo Định Quán với giai đoạn Trung kỳ Đá mới tỉnh Đắk Lắk và Đắk

Nông cần kiểm chứng, làm rõ bằng những hoạt động nghiên cứu khảo cổ học tiếp

theo trong tương lai [70, tr. 79 – 82].

Giai đoạn Đá mới muộn ở miền Đông Nam Bộ tồn tại khá nhiều di tích khảo

cổ, song tính thống nhất hội tụ văn hóa hầu như không rõ ràng, không chặt chẽ và

132

chưa đủ cơ sở để xác lập các văn hóa khảo cổ với sắc thái riêng như đã thấy ở các

tỉnh Tây Nguyên như Đắk Lắk và Đắk Nông. Mặc dù đã có nhiều ý kiến xác lập văn

hóa khảo cổ cho nhóm các di tích sớm ở lưu vực sông Đồng Nai, và xác lập phả hệ

phát triển văn hóa cho toàn khu vực miền Đông Nam Bộ, song giữa các nhà nghiên

cứu vẫn chưa có tiếng nói chung.

Trong tình hình tư liệu hiện nay, việc tiếp cận các di tích khảo cổ miền Đông

Nam Bộ nên dựa vào đặc điểm địa hình và hệ thống các dòng sông chính, từ đó

phân lập các nhóm di tích, đối sánh và tìm ra các bình tuyến tương ứng. Bằng

phương pháp tiếp cận ấy, ở miền Đông Nam Bộ có thể tồn tại 4 nhóm di tích theo

phức hệ địa - văn hóa như sau: 1) Nhóm các di tích ở vùng núi thấp và bình sơn

nguyên đất đỏ, độ cao trung bình 200m, tập trung ở vùng Xuân Lộc (Đồng Nai)

gồm các địa điểm: Cầu Sắt, Đồi Mít, Đồi Xoài, Đồi Phòng Không, Suối Chồn, Dầu

Giây, Phú Hoà, Hàng Gòn và Long Giao.... 2) Nhóm các di tích ở vùng phù sa cổ,

đất xám tập trung ở lưu vực sông Đồng Nai, cao 200m đến vài chục mét, gồm các di

tích: Suối Linh, Dốc Chùa, Gò Đá, Bình Đạt, Cù Lao Rùa, ND 11... 3) Nhóm các di

tích ở đồng bằng châu thổ bán ngập mặn, cao từ 10m đến vài mét ở phía Đông sông

Đồng Nai, gồm các di tích: Phước Mỹ, Cái Vạn, Cái Lăng, Rạch Lá, Gò Sỏi và Bàu

Cạn, Lý Nhơn...; 4) Nhóm các di tích thường xuyên ngập mặn, cao vài mét đến

dưới mặt nước biển ở đồng bằng châu thổ Cần Giờ, gồm các di tích: Giồng Cá Vồ,

Giồng Phệt, Giồng Am.… [87, tr. 564 - 565].

Xét trên khía cạnh sinh thái, nhóm các di tích tại vùng phù sa cổ lưu vực

sông Đồng Nai có mối quan hệ với các di tích khu vực phía Đông Nam tỉnh Đắk

Nông thông qua cầu nối thiên nhiên là hệ thống sông Đồng Nai. Tại các di tích Suối

Linh (Vĩnh Cửu, Đồng Nai), Bình Đa (Biên Hòa, Đồng Nai), Cù Lao Rùa (Tân

Uyên, Bình Dương), Bến Đò, Hội Sơn (Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh),… tìm

thấy trong tầng văn hóa hàng trăm công cụ đá chất liệu chủ yếu đá Basalt tương tự

công cụ đá tại khu vực nghiên cứu. Về loại hình, tại các di tích trên đều tìm thấy các

loại cuốc đá, rìu và bôn có vai, rìu và bôn không vai, có nét khác biệt và tương đồng

nhất định với các loại hình hiện vật tương tự tại phía Nam tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk

133

Nông [48, tr.37-61] [51, tr.58-120] [60, tr.124].

Không gian phân bố hạn chế của loại hình cuốc vai nhọn thân thắt eo tìm

thấy ở Buôn Kiều, Buôn Triết (Đắk Lắk) và Cù Lao Rùa [60, tr.124], chứng minh

sự tồn tại của nhịp cầu trao đổi sản phẩm hoàn thiện giữa các cư dân Hậu kỳ Đá mới

phía Nam Đắk Lắk với miền Đông Nam Bộ. Bằng phương pháp so sánh loại hình,

chúng ta nhận thấy sự tương đồng giữa cuốc vai nhọn thân thắt eo và một số tiêu

bản bôn vai nhọn cũng tìm thấy tại các di tích trong khu vực phía Nam tỉnh Đắk

Lắk. Các tiêu bản cuốc vai nhọn thân thắt eo Buôn Kiều và Cù Lao Rùa đều tìm

thấy trong hố chôn hoặc mộ táng, không rõ vết sử dụng, chứng tỏ tương đồng trong

quan niệm, ứng xử của hai cộng đồng cư dân thuộc hai vùng địa lý cách xa nhau.

Cuốc vai nhọn thân thắt eo tại hai địa điểm trên đều thể hiện tính biểu tượng hơn là

giá trị sử dụng thực tiễn.

Loại hình rìu không vai gần hình tam giác, lưỡi xòe rộng, chuôi thu nhỏ, mặt

cắt ngang hình chữ nhất tìm thấy tại di tích Suối Linh có hình dáng, chất liệu và kỹ

thuật chế tác gần tương đồng nhóm rìu hình thang tại di tích Buôn Triết, Thôn

Mười, Đắk Rla, Dhă Prông. Đục đá là loại hình công cụ phổ biến tại các di tích

thuộc lưu vực sông Đồng Nai tại vùng Đông Nam Bộ. Nhóm công cụ đục đá có lưỡi

hẹp, gần nhọn tại di tích Dhă Prông, Đắk Tơn và Suối Ba được tìm thấy phổ biến tại

các địa điểm Bến Đò, Hội Sơn [48, tr. 37-61] [ 75, tr.236] [96, tr. 7-35]

Trong sưu tập gốm ở một số địa điểm xung quanh thành phố Buôn Ma Thuột

có gốm chân cao, rất dày và loe xiên giống hệt loại gốm như vậy ở địa điểm Kênh

D11 (thành phố Hồ Chí Minh) [87]. Tại địa điểm Suối Ba (Đắk Nông) tìm thấy bàn

xoa đồ gốm, về hình dáng và kích thước rất giống với di vật cùng loại trong di tích

Phù Mỹ (Lâm Đồng), và các di chỉ Suối Linh, Cái Lăng.... (Đồng Nai) [40].

Niên đại các nhóm di tích tiền – sơ sử Đông Nam bộ chưa được phân lập rõ

ràng và thống nhất giữa các nhà nghiên cứu. Một số di tích được xếp vào thời đại

Đá mới muộn, nhưng trong những công trình nghiên cứu khác được phân loại vào

thời đại Kim khí. Nhìn chung, các ý kiến đều thống nhất khung thời gian tồn tại của

các di tích Đông Nam bộ kể trên trong khoảng 3.500 – 2.500 năm BP [59, tr.209].

Đây cũng chính là khung niên đại tồn tại của các di tích giai đoạn Hậu kỳ Đá mới

134

tại khu vực nghiên cứu. Giữa các nhóm cư dân đồng đại Hậu kỳ Đá mới tỉnh Đắk

Lắk và Đắk Nông với các cư dân tồn tại trong khung niên đại 3.500 – 2.500 năm BP

miền Đông Nam Bộ đã thiết lập mối quan hệ với nhau. Sông Đồng Nai đóng vai trò

cầu nối thiên nhiên, truyền tải và kết nối giá trị văn hóa giữa các cư dân vùng thượng

nguồn (khu vực nghiên cứu) với các cư dân đồng đại vùng hạ lưu (vùng Đông Nam

Bộ). Trong con đường giao lưu đó, các sản phẩm bằng đá và đồ gốm đóng vai trò vừa

là sản phẩm vật chất trao đổi vừa là các sản phẩm văn hóa giao lưu.

3.5. Tiểu kết Chƣơng 3

Thời đại Đá mới là thời đại cư dân cổ mở rộng địa bàn sinh sống, chiếm lĩnh

toàn bộ không gian, thích nghi điều kiện tự nhiên toàn tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông. Sự

thích nghi với môi trường tự nhiên các tiểu vùng địa lý và phần nào mối quan hệ giao

lưu văn hóa tạo nên nhiều nhóm nhỏ cư dân sinh sống trên địa bàn nghiên cứu trong

khoảng thời gian này: Giai đoạn Trung kỳ Đá mới tồn tại nhóm cư dân ngoài trời và

nhóm cư dân trong hang động núi lửa. Giai đoạn Hậu kỳ Đá mới với nhóm cư dân

cao nguyên Buôn Ma Thuột, nhóm cư dân phía Bắc tỉnh Đắk Lắk và nhóm cư dân

phía Nam tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông; trong đó nhóm cư dân cao nguyên Buôn

Ma Thuột có thể là cầu nối giữa các cư dân giai đoạn Trung kỳ Đá mới với cư dân

giai đoạn Hậu kỳ Đá mới. Về cơ bản, các nhóm cư dân này đều cùng chung một cơ

tầng văn hóa, phản ánh đặc trưng văn hóa của thời đại Đá mới khu vực nghiên cứu.

Tư liệu khảo cổ cho thấy đời sống kinh tế phong phú, đa dạng của các cư dân

thời đại Đá mới tại khu vực nghiên cứu. Sinh tồn trong môi trường nhiệt đới gió

mùa ẩm, hệ sinh thái phổ tạp, các cư dân giai đoạn Trung kỳ Đá mới tại khu vực

nghiên cứu là những cư dân săn bắn hái lượm theo phương thức khái thực nhưng

phần nào vẫn có tính khái tập trong hình thái khai thác tự nhiên – cư trú. Bên cạnh

kinh tế tự nhiên; cư dân giai đoạn này biết đến kinh tế sản xuất với các hoạt động

sản xuất thủ công, trao đổi sản phẩm và có thể đã biết đến nông nghiệp. Sang đến

giai đoạn Hậu kỳ Đá mới, kinh tế khai thác thiên nhiên mặc dù vẫn đóng vai trò

quan trọng trong cơ cấu kinh tế nhưng không còn đóng vai trò thống trị như các giai

đoạn phát triển trước đó. Cư dân Hậu kỳ Đá mới ở khu vực nghiên cứu đã biết sản

xuất nông nghiệp với nền nông nghiệp dùng cuốc phát triển. Sự hình thành các hệ

thống công xưởng là nét đặc trưng mới trong hoạt động kinh tế của giai đoạn Hậu

135

kỳ Đá mới tại khu vực nghiên cứu.

Thời đại Đá mới tại khu vực nghiên cứu là thời đại xã hội chưa có phân hóa

giai cấp, tồn tại trên cơ sở công hữu tư liệu sản xuất quan trọng như đất đai và các

nguồn tự nhiên khác. Giai đoạn Hậu kỳ Đá mới, tính phân tầng xã hội thể hiện rõ

nét hơn so với giai đoạn Trung kỳ Đá mới. Đây là đặc trưng của các xã hội tồn tại

trước giai đoạn tiền nhà nước.

Diễn trình phát triển thời đại Đá mới tại khu vực nghiên cứu là quá trình phát

triển liên tục từ giai đoạn Trung kỳ Đá mới đến giai đoạn Hậu kỳ Đá mới, là một bộ

phận không tách rời thời đại Đá mới vùng Tây Nguyên nhưng vẫn có những điểm

khác biệt so với các tỉnh khác của vùng Tây Nguyên. Các cư dân thời đại Đá mới

tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông còn đóng vai trò cầu nối, trực tiếp tham gia các quan hệ

giao lưu – trao đổi văn hóa với các nhóm cư dân đồng đại tại các khu vực liền kề,

136

qua đó góp phần tạo nên tính đa dạng văn hóa thời đại Đá mới vùng Tây Nguyên.

KẾT LUẬN

Tài liệu khảo cổ học được phát hiện, nghiên cứu và công bố trong những

năm qua đã chứng minh thời đại Đá mới tại tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông trải qua

hai giai đoạn phát triển liên tục là giai đoạn Trung kỳ Đá mới và Hậu kỳ Đá mới.

1. Đặc trưng khảo cổ học giai đoạn Trung kỳ Đá mới khu vực nghiên cứu

phản ánh rõ nét thông qua các đại diện tiêu biểu là di tích Buôn Kiều, di tích Buôn

Hằng Năm, di tích Buôn Ea Chổ, di tích Hố Tre (tỉnh Đắk Lắk), di tích Thôn Tám,

di tích Tân Lập, hệ thống các di tích hang động núi lửa ở Krông Nô như di tích hang

C6-1, hang C6’... (Đắk Nông). Các di tích này phân bố tập trung trên các gò đồi đất

thấp gần nguồn nước, cảnh quan bồn địa trũng thuộc lưu vực sông Srêpốk. Trong

đó, một số gò đất là nơi tập trung sinh sống chủ yếu của cộng đồng bên cạnh các gò

đất khác rải rác xung quanh có dấu vết sự tụ cư mờ nhạt hơn. Riêng tại hang động

núi lửa huyện Krông Nô – một di sản địa chất hiếm có ở Việt Nam và trong khu vực

Đông Nam Á. Cư dân cổ lựa chọn các hang động có cửa hang nguồn gốc thứ sinh

làm nơi sinh sống, tạo nên một loại hình cư trú đặc trưng, độc đáo. Con người cư

trú, kiếm sống, chế tác công cụ và chôn cất người chết ngay tại nơi sinh sống tạo

nên các di tích đa tính chất, kết hợp giữa hai hoặc ba yếu tố: cư trú – xưởng – mộ

táng. Người chết được chôn cất theo táng thức chôn bó gối, có thể là chôn ngồi bó

gối hoặc chôn nằm bó gối. Kỹ thuật chế tác và hình dáng công cụ đá gợi lại phong

cách đồ đá văn hóa Hòa Bình nhưng ở một trình độ cao hơn. Kỹ thuật chế tạo đồ đá

chủ yếu là kỹ thuật ghè hai mặt, trong đó tập trung chủ yếu một mặt với số lượng

vết ghè trội hơn so với mặt đối; tạo nên tổ hợp công cụ đá đặc trưng dạng rìu bầu

dục, rìu ngắn.... Kỹ thuật mài, cụ thể kỹ thuật mài lưỡi thể hiện qua loại hình rìu mài

lưỡi, công cụ mũi nhọn xương mài đầu nhọn. Gốm thô, bở, chế tạo từ đất sét chưa

lọc kỹ pha lẫn hạt cát kích thước nhỏ, chức năng đun, nấu, chứa đựng vật dụng.

Những cư dân này tồn tại và phát triển trong khoảng niên đại từ 7.000BP – 4.000BP

với các mức sớm muộn khác nhau giữa các di tích. Từ trong chính quá trình tồn tại

và phát triển, các cư dân giai đoạn Trung kỳ Đá mới tại địa bàn nghiên cứu bên

cạnh việc bảo lưu yếu tố truyền thống, còn từng bước hình thành các yếu tố giai

137

đoạn Hậu kỳ Đá mới sau này. Các di tích này có khả năng cùng thuộc một nhóm di

tích/văn hóa khảo cổ: nhóm di tích/văn hóa khảo cổ lưu vực sông Srêpốk. Nhóm các

di tích/văn hóa khảo cổ giai đoạn Trung kỳ Đá mới lưu vực sông Srêpốk là một

trong những nguồn hợp tạo nên giai đoạn Hậu kỳ Đá mới phát triển tại Nam Tây

Nguyên.

2. Giai đoạn Hậu kỳ Đá mới là giai đoạn chiếm cư trên hầu hết các tiểu vùng

địa lý trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông. Căn cứ đặc trưng di vật giữa các

nhóm di tích phân bố tại các tiểu vùng địa lý khác nhau, có thể đưa ra giả thuyết về

sự tồn tại của 03 nhóm di tích tương ứng với 03 nhóm cư dân trong giai đoạn này:

Nhóm cư dân vùng cao nguyên Buôn Ma Thuột thuộc giai đoạn sớm; nhóm di tích

khu vực phía Bắc tỉnh Đắk Lắk quan hệ chặt chẽ với cư dân phía Nam tỉnh Gia Lai

và nhóm cư dân cao nguyên Đắk Nông và nam Đắk Lắk hay còn gọi cư dân văn hóa

Buôn Triết thuộc giai đoạn phát triển muộn. Mỗi nhóm cư dân có những nét đặc

trưng riêng, nhưng vẫn có mối quan hệ chặt chẽ và tương đồng với nhau tạo nên đặc

trưng văn hóa chung của tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông trong giai đoạn Hậu kỳ Đá

mới. Tồn tại và phát triển trong khoảng thời gian từ 4.000 – 3.000BP, cư dân giai

đoạn Hậu kỳ Đá mới có nền kinh tế đa dạng, kết hợp chặt chẽ giữa hoạt động khai

thác các nguồn thiên nhiên với sản xuất nông nghiệp dùng cuốc, kết hợp hoạt động

thủ công và trao đổi sản phẩm. Phân công lao động bước đầu xuất hiện với sự hình

thành và phát triển của các hệ thống công xưởng. Các cư dân giai đoạn Hậu kỳ Đá

mới tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông đã bước vào giai đoạn xã hội có phân hóa

nhưng chưa phân tầng giai cấp.

3. Diễn trình phát triển thời đại Đá mới tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông mang

đậm dấu ấn nguồn gốc truyền thống Hòa Bình, có sự tiếp diễn liên tục từ cơ tầng Đá

mới sớm đến cơ tầng Đá mới muộn. Các đặc trưng thể hiện rõ nét tính địa phương

và tính bảo lưu, là một bộ phận không thể tách rời của thời đại Đá mới vùng Tây

Nguyên nhưng khác biệt với các địa phương khác trong vùng.

Không chỉ là một bộ phận trong không gian văn hóa vùng Tây Nguyên, các

di tích thời đại Đá mới tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông còn là cầu nối giao lưu văn hóa

khi tham gia trực tiếp mối giao lưu, trao đổi văn hóa với các cư dân đồng đại vùng

138

Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ; tiếp nhận các làm giàu thêm giá trị văn hóa vùng

Tây Nguyên thời đại Đá mới, đồng thời tạo nên sự hòa nhập của thời đại Đá mới

Tây Nguyên vào dòng chảy lịch sử dân tộc. Cơ tầng Đá mới ở khu vực có đóng góp

quan trọng vào quá trình hình thành cư dân, các cộng đồng xã hội và nền tảng kinh

tế, bản sắc văn hóa của các giai đoạn sau này ở Tây Nguyên.

4. Những đặc điểm văn hóa của cư dân thời đại Đá mới tỉnh Đắk Lắk và Đắk

Nông có nét tương đồng với văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số tại chỗ vùng

Tây Nguyên trên các lĩnh vực: phương thức thích ứng môi trường, mô thức tổ chức

đời sống sản xuất và xã hội.... Sự tương đồng này có thể do sự tương đồng trong

hành vi ứng xử của các cộng đồng cư dân khác nhau trong cùng một môi trường

sống; nhiều khả năng có nguồn gốc thế thứ, kế thừa nền tảng giá trị văn hóa hình

thành giá trị văn hóa thời đại Đá mới của các dân tộc thiểu số tại chỗ vùng Tây

Nguyên. Đây là những giả thuyết cần nghiên cứu và kiểm chứng thêm bằng nhiều

nguồn tài liệu khác nhau trong tương lai. Nhưng dù thế nào cũng không thể phủ

nhận vai trò có ý nghĩa nền tảng của thời đại Đá mới tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk

Nông trong diễn trình phát triển lịch sử - văn hóa, hình thành bản sắc văn hóa của

139

khu vực phía Nam Tây Nguyên nói riêng, vùng Tây Nguyên nói chung./.

140

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

1. Vũ Tiến Đức (2016), “Các di tích trung kỳ đá mới ở Đắk Lắk và Đắk Nông: tư

liệu và nhận thức”, tạp chí Khảo cổ học, số 6/2016 (204), tr. 14-24, ISSN 0866

- 742

2. Vũ Tiến Đức (2017), “Tiền – Sơ sử huyện Ea Súp và huyện Buôn Đôn (tỉnh

Đắk Lắk): Tư liệu và nhận thức”, tạp chí Khoa học xã hội vùng Tây Nguyên,

số 4(28)2017, tr. 35 – 44., ISSN 1859-4042.

3. La Thế Phúc, Nguyễn Khắc Sử, Nguyễn Lân Cường, Lương Thị Tuất, Vũ Tiến

Đức, Lê Xuân Hưng, Trần Minh Đức, Phạm Minh Gia Vũ, Hoàng Thị Nga,

Vũ Thị Soi Ngần, Nguyễn Trung Minh (2018) “Khai quật và bảo tồn di chỉ

khảo cổ tiền sử trong hang động núi lửa C6-1 ở Krông Nô, tỉnh Đắk Lắk”, kỷ

yếu hội thảo quốc tế International integration of conservation, opportunities

and challenges for cultural heritage values, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 297 –

309, ISBN: 978-604-73-6535-7.

4. Lê Xuân Hưng, La Thế Phúc, Phạm Thị Phương Thảo, Vũ Tiến Đức, Nguyễn

Trung Minh, (2018) “Tư liệu và nhận thức bước đầu về cuộc thám sát di tích

hang động núi lửa C6-1 ở Krông Nô, tỉnh Đắk Nông”, tạp chí Khoa học Đại

học Đà Lạt, tập 8, số 4, 2018, tr. 57 – 76, ISSN 0866-787X

5. Vũ Tiến Đức, Nguyễn Anh Bằng (2019), “Kết quả thăm dò di tích Suối Ba

tỉnh Đắk Nông năm 2017”, tạp chí Khảo cổ học, số 6/2019 (222), tr. 37 – 46,

ISSN 0866 – 742.

6. La Thế Phúc, Nguyễn Khắc Sử, Nguyễn Lân Cường, Lê Xuân Hưng, Vũ Tiến

Đức, Lương Thị Tuất, Phạm Gia Minh Vũ, Nguyễn Trung Minh (2019), “Kết

quả bước đầu khai quật di chỉ khảo cổ hang động núi lửa Krông Nô, Đắk

Nông”, Tuyển tập Báo cáo Hội thảo và Hội nghị Sơ kết giữa kỳ Chương trình

Tây Nguyên 2016 – 2020, Nxb Khoa học tự nhiên và Công nghệ, ISBN: 978-

141

604-913-801-0

7. La Thế Phúc, Vũ Tiến Đức, Lương Thị Tuất, Bùi Văn Thơm, Nguyễn Trung

Minh (2020), “Phát hiện di tích thời Đá mới ở Hố Tre, Đắk Lắk”, tạp chí Khoa

học và Công nghệ Việt Nam, tập 62, số 4, tháng 4 năm 2020, tr. 37-42.

8. Nguyễn Khắc Sử, Nguyễn Lân Cường, La Thế Phúc, Nguyễn Trung Minh,

Lương Thị Tuất, Lê Xuân Hưng, Vũ Tiến Đức (2020), “Khai quật hang động

núi lửa C6-1 Krông Nô (Đắk Nông) – tư liệu và nhận thức mới về Tiền sử Tây

Nguyên”, tạp chí Khảo cổ học, số 4/2020 (226), tr. 16-30.

9. La Thế Phúc, Nguyễn Khắc Sử, Lương Thị Tuất, Vũ Tiến Đức, Bùi Văn

Thơm, Nguyễn Trung Minh (2020), “Một số phát hiện mới về di sản ở Tây

Nguyên, Việt Nam”, VNU Journal of Sciences: Earth an Environmental

Sciences, Vol 36, No: 1 (2020) 79-92.

Tiếng Anh

10. La The Phuc, Nguyen Khac Su,Vu Tien Duc, Luong Thi Tuat, Phan Thanh

Toan, Nguyen Thanh Tung, Nguyen Trung Minh (2017), “New discovery of

prehistoric archaeological remnants in volcanic caves in KrongNo, Dak Nong

142

Province”, Vietnam Journal of Earth Sciences, no: 39 (2) 2017, 97 – 108

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu Tiếng Việt

1. ng ghen, Ph. (1984), Nguồn gốc của gia đình của chế độ tư hữu và của nhà

nước. Nxb. Sự Thật, xuất bản năm 1972, Hà Nội.

2. Bảo tàng tỉnh Đắk Nông (2004), Lý lịch hiện vật, tư liệu Bảo tàng tỉnh Đắk Nông,

Đắk Nông.

3. Bảo tàng tỉnh Đắk Nông (2010), Báo cáo kết quả khai quật khảo cổ tại di chỉ

thôn 17, xã Nhân Cơ, huyện Đăk R'lấp, tỉnh Đăk Nông, tư liệu Bảo tàng tỉnh

Đắk Nông, Đắk Nông

4. Trần Văn Bảo (2004), “Khảo cổ học Lâm Đồng – một số vấn đề mấu chốt”, tạp

chí Khảo cổ học, số 6 (132), tr. 49 – 64.

5. Trần Văn Bảo (2008), Khảo cổ học Tiền - sơ sử và Lịch sử Lâm Đồng, Luận án

Tiến sĩ Khảo cổ hoc, tư liệu Viện Khảo cổ học.

6. Trần Văn Bảo (2009), Di tích khảo cổ học Phù Mỹ (Cát Tiên, Lâm Đồng) –

Những mối liên hệ văn hóa, Báo cáo tổng hợp Đề tài khoa học cấp Bộ, Trường

Đại học Đà Lạt, Lâm Đồng

7. Trần Văn Bảo (2014), Khảo cổ học tiền – sơ sử và lịch sử Lâm Đồng, Nxb.

Khoa học xã hội, tr. 100 - 109

8. Trần Văn Bảo, Lê Xuân Hưng và nhóm sinh viên, Hoàng Anh Biên (2014),

“Kết quả điều tra, thám sát di chỉ khảo cổ học Suối Ba (Đắc Nông)”, trong

Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 2013, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội,

tr. 134 – 137

9. Nguyễn Công Bằng và những người khác (1993), Văn hóa Xóm Cồn, Nxb. Nha

Trang.

10. Nguyễn Văn Chiển (Chủ biên) (1986), Các vùng tự nhiên Tây Nguyên, Nxb.

Khoa học Kỹ thuật, Hà Nội.

11. Nguyễn Chiều (2002) Báo cáo sơ bộ kết quả khai quật di chỉ Eo Bồng (Phú

Yên), tư liệu Khoa Sử, Đại học Quốc gia Hà Nội

12. Hoàng Xuân Chinh, Nguyễn Khắc Sử (1976), "Điều tra khảo cổ học ở một số

143

vùng giải phóng Tây Nguyên", Tạp chí Khảo cổ học, số 17, tr.115 -116.

13. Hoàng Xuân Chinh, Nguyễn Khắc Sử, nnk (1994), Báo cáo khai quật di chỉ

Biển Hồ, thị xã Pleiku, tỉnh Gia Lai, tư liệu Viện Khảo cổ học.

14. Nguyễn Lân Cường (2019), Báo cáo di cốt người cổ được phát hiện ở Tây

Nguyên qua hai lần khai quật (2018 – 2019) hang C6-1 tại Krông Nô (Đắk

Nông), sản phẩm thuộc đề tài TN17/T06 do Bảo tàng Thiên nhiên Việt Nam

chủ trì, TS. La Thế Phúc chủ nhiệm đề tài.

15. Nguyễn Lân Cường (2019), "Di cốt người cổ đầu tiên được phát hiện ở hang

động núi lửa Krông Nô (Đắk Nông)", tạp chí Khảo cổ học, số 2, tr.33-52

16. Lê Xuân Diệm (1985), “Kỹ thuật và nghệ thuật làm đàn đá”, trong tạp chí Khảo

cổ học, số 3 – 1985, tr.11- 23

17. Hoàng Thị Dung (2014), Di chỉ khảo cổ học Suối Ba (Đắk Nông), tư liệu

Trường Đại học Đà Lạt.

18. Lê Hải Đăng, Nguyễn Gia Đối (2008), “Nhận thức về thời đại đá mới sớm ở

Tây Nguyên qua cuộc khai quật Thôn Tám”, trong tạp chí Khảo cổ học số 1,

tr.18-29

19. Lê Hải Đăng (2013), Báo cáo kết quả điều tra khảo cổ học Đắc Nông năm

2013, tài liệu Viện Khảo cổ học, Hà Nội.

20. Lê Hải Đăng (2013), Báo cáo kết quả khai quật di chỉ Thôn Tám, xã Đắk Wil,

huyện Chư Jút, tỉnh Đắk Nông năm 2013, tư liệu Viện Khảo cổ học.

21. Lê Hải Đăng, Vũ Tiến Đức (2013), “Một số kết quả nghiên cứu khảo cổ học tiền

sử Đắk Nông năm 2013”, trong tạp chí Khoa học xã hội Tây Nguyên, số

3(11)2013, tr. 60-71.

22. Lê Hải Đăng, Lê Cảnh Lam (2010), “Tìm hiểu diễn biến của nhóm phác vật và

công cụ mài ở di chỉ Lung Leng”, tạp chí Khảo cổ học, số 2/2010 (164), tr.35-

51.

23. Bế Văn Đẳng (chủ biên) (1982), Đại cương về các dân tộc Êđê, Mnông ở Dak

Lak. Nxb. Khoa học Xã hội

24. Nguyễn Gia Đối (2003), Báo cáo khai quật di chỉ Chư K'tu (Đắk Lắk) năm

2002, tư liệu Viện Khảo cổ học, Hà Nội.

144

25. Nguyễn Gia Đối (2004), “Nhận diện sơ bộ các đới văn hóa Tiền sử Đắc Lắc”,

trong tạp chí Khảo cổ học số 3 (129) (V-VI), tr.17-23.

26. Nguyễn Gia Đối, Lê Hải Đăng và nnk (2004), “Phát hiện mới 2 di tích khảo cổ

học ở xã Phú Xuân, huyện Eakar Đắc Lắc”, trong Những phát hiện mới về khảo

cổ học năm 2003, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.112-113

27. Nguyễn Gia Đối (2005), “Kết quả khai quật di chỉ Làng Ngol (Gia Lai)”, trong

Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 2005, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội,

tr. 170-174.

28. Nguyễn Gia Đối, Lê Hải Đăng (2006), Báo cáo khai quật di chỉ Thôn Tám, xã

Đăk Wil, huyện Chư Jút (Đăk Nông), tài liệu Viện Khảo cổ học, Hà Nội.

29. Nguyễn Gia Đối, Lê Hải Đăng (2007), “Di chỉ xưởng Chư K’tu và hệ thống

công xưởng chế tác đá Opal ở Tây Nguyên”, trong tạp chí Khảo cổ học, Số

(1) 200.

30. Nguyễn Gia Đối, Lê Hải Đăng (2007), “Đá mới sớm ở Tây Nguyên” trong

Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 2007, Nxb. Từ điển Bách Khoa,

Hà Nội, tr.99-100.

31. Nguyễn Gia Đối, Lê Hải Đăng, nnk (2007), “Kết quả khai quật di chỉ Thôn Tám

(Đắk Nông) năm 2006”, trong Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 2007,

Nxb. Từ điển Bách Khoa, Hà Nội, tr.38-40.

32. Nguyễn Gia Đối (2018), “Các hình thái kinh tế khai thác và cư trú của cư dân

thời đại Đá mới ở bắc Việt Nam”, trong Tuyển tập 50 năm khảo cổ học Việt

Nam 1968 – 2018, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.64 – 80.

33. Vũ Tiến Đức (2014), Một số nghiên cứu mới về khảo cổ học tiền sử tỉnh Dak

Lak từ năm 2003 đến nay, tư liệu Viện Khoa học xã hội vùng Tây Nguyên, Đắk

Lắk.

34. Vũ Tiến Đức (2014), “Một số phát hiện về di tích khảo cổ học tiền sử mới ở

Đắk Lắk từ năm 2003 đến nay”, trong tạp chí Khoa học xã hội Tây Nguyên, số

3(15), tr.72–78.

35. Vũ Tiến Đức (2015),“Công cụ đá hình mai mực ở Dak Lak: tư liệu và nhận

thức”, trong tạp chí Nhân lực khoa học xã hội, số 11(30)2015, Hà Nội, tr.102–

145

11

36. Vũ Tiến Đức (2015), Điều tra nhóm di tích Khảo cổ học tiền sử xã Đắk Wil,

huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông, tư liệu Viện Khoa học xã hội vùng Tây Nguyên,

Đắk Lắk.

37. Vũ Tiến Đức, Nguyễn Kỳ Nam (2015), “Phát hiện di tích khảo cổ học Buôn

Giá (Lâm Đồng)”, trong Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 2015, Nxb.

Khoa học xã hội, tr.117 - 118

38. Vũ Tiến Đức (2015), “Ứng xử với môi trường tự nhiên của cư dân tiền sử Đăk

Wil (Đăk Nông) qua tài liệu khảo cổ”, trong tạp chí Khoa học xã hội Tây

Nguyên, số 3 (19) 2015, tr. 69-78.

39. Vũ Tiến Đức (2016), Nghiên cứu công cụ đá thời đại Đá mới tại tỉnh Đắk Lắk và

tỉnh Đắk Nông, luận văn Thạc sĩ Khảo cổ học, Học viện Khoa học xã hội. Hà

Nội.

40. Vũ Tiến Đức (2017), Báo cáo kết quả khai quật khảo cổ di tích Thôn 17 (xã

Nhân Cơ, huyện Đắk R’lấp, tỉnh Đắk Nông), tư liệu Viện Khoa học xã hội vùng

Tây Nguyên và Bảo tàng tỉnh Đắk Nông.

41. Vũ Tiến Đức (2017), “Tiền – sơ sử huyện Ea Suóp và huyện Buôn Đôn (tỉnh Đắk

Lắk): tư liệu và nhận thức”, trong tạp chí Khoa học xã hội Tây Nguyên, số 4

(28) 2017, tr. 35 – 44

42. Vũ Tiến Đức (2018), Báo cáo sơ bộ kết quả điều tra khảo cổ học huyện Đắk Mil,

huyện Đắk Song (tỉnh Đắk Nông) năm 2018, tư liệu Viện Khoa học xã hội vùng

Tây Nguyên và Bảo tàng tỉnh Đắk Nông.

43. Vũ Tiến Đức (2018), Báo cáo sơ bộ kết quả thám sát di tích Tân Lập (xã Đắk

Gằn, huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông) năm 2018, tư liệu Viện Khoa học xã hội

vùng Tây Nguyên, Đắk Lắk.

44. Vũ Tiến Đức (2018), Báo cáo sơ bộ kết quả thám sát di tích Rừng Lạnh (xã

Đắk Hòa, huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông) năm 2018, tư liệu Viện Khoa học

xã hội vùng Tây Nguyên và Bảo tàng tỉnh Đắk Lắk.

45. Vũ Tiến Đức (2019), Báo cáo sơ bộ kết quả điều tra khảo cổ học huyện Đắk

G’long, huyện Cư Jút (tỉnh Đắk Nông) năm 2019, tư liệu Viện Khoa học xã hội

146

vùng Tây Nguyên và Bảo tàng tỉnh Đắk Nông.

46. Vũ Tiến Đức, Lê Xuân Hưng, Nguyễn Anh Bằng (2019), “Đào thám sát di tích

Suối Ba xã Nhân Cơ, huyện Đắk R’lâp, tỉnh Đắk Nông”, trong Những phát hiện

mới về khảo cổ học năm 2018, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.152-153

47. Nguyễn Giác (2007), “Những phát hiện mới về khảo cổ học ở Ia Mơr (Gia Lai)

năm 2005”, trong Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 2005, Nxb. Khoa

học xã hội, Hà Nội, tr.123-124.

48. Vũ Quốc Hiền (1991), “Di chỉ Bến Đò (Thành phố Hồ Chí Minh)”, Thông báo

khoa học Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, Hà Nội, tr. 37-61

49. Vũ Quốc Hiền (1996), Văn hóa Xóm Cồn và vị trí của nó trong thời đại Kim khí

ven biển miền Trung, Luận án Phó Tiến sĩ Lịch sử, chuyên ngành Khảo cổ học,

Hà Nội.

50. Bùi Chí Hoàng (2010), “Di chỉ khảo cổ học Hoàn Kiếm (Lâm Đồng)”, trong tạp

chí Khảo cổ học, số 5, tr.35-49.

51. Bùi Chí Hoàng, Phạm Quang Sơn, Phạm Đức Mạnh (1997), “Di tích khảo cổ

học Suối Linh (Vĩnh Cửu, Đồng Nai)”, trong Một số vấn đề khảo cổ học ở miền

nam Việt Nam, tập 1, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 58-120

52. Lê Xuân Hưng (2011), “Các di tích công xưởng ở Lâm Đồng: Tư liệu và nhận

thức”, trong tạp chí Khảo cổ học, số 6, tr. 12-22.

53. Lê Xuân Hưng, Trần Ngọc Diệu Quỳnh, Trần Quang Thiện (2015), “Ứng dụng

phương pháp kích hoạt Neutron và thống kê đa biến trong nghiên cứu di vật đá

thời tiền sử ở Tây Nguyên”, tạp chí Khảo cổ học, số 3, tr.19 – 30.

54. Lê Xuân Hưng (2015), Các di tích công xưởng chế tác công cụ đá giai đoạn

hậu kỳ Đá mới - sơ kỳ Đồng thau ở Tây Nguyên, luận án Tiến sĩ Khảo cổ học,

Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.

55. Lê Xuân Hưng, La Thế Phúc, Phạm Thị Phương Thảo, Vũ Tiến Đức, Nguyễn

Trung Minh (2018) , “Tư liệu và nhận thức bước đầu về cuộc thám sát di tích

hang núi lửa C6-1 ở Krông Nô, tỉnh Đắk Nông”, trong tạp chí Đại học Đà Lạt,

tập 8, số 4, 2018, tr. 57-76

56. Nguyễn Thị Mai Hương, Vũ Tiến Đức (2015), “Kết quả phân tích phấn hoa di

147

chỉ Buôn Kiều, xã Yang Mao, huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk”, trong Những

phát hiện mới về khảo cổ học năm 2015, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.108 -

110

57. Nguyễn Thị Mai Hương, Vũ Tiến Đức (2015), “Kết quả phân tích phấn hoa di

chỉ Thôn Tám, xã Dak Wik, huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông”, trong Những phát

hiện mới về khảo cổ học năm 2015, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.112 – 114

58. Nguyễn Thị Mai Hương, (2018), Báo cáo kết quả phân tích bào tử phấn hoa

hang C6-1, tư liệu Viện Bảo tàng Thiên nhiên Việt Nam, Hà Nội.

59. Hán Văn Khẩn (Chủ biên) (2008), Cơ sở Khảo cổ học, Nxb. Đại học Quốc gia

Hà Nội, Hà Nội.

60. Nguyễn Khánh Trung Kiên (2008), “Mộ táng trong di tích Cù Lao Rùa (xã

Thạnh Phước, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương)”,trong Một số vấn đề khảo

cổ học ở Miền Nam Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

61. Bùi Văn Liêm (2004), “Kết quả khai quật di chỉ Thôn Bảy (Gia Lai)”, trong tạp

chí Khảo cổ học, số 3, tr. 35-57.

62. Nguyễn Quốc Mạnh, Lê Hoàng Phong, Hồ Xuân Toản (2019), “Khai quật di chỉ

công xưởng thời đại Đá mới ở Gia Lai”, trong Những phát hiện mới về khảo cổ

hoc năm 2018, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.145-148

63. Nguyễn Quang Miên (2013), Báo cáo xây dựng hệ thống bản đồ Khảo cổ học

Miền Trung và Tây Nguyên Việt Nam tỷ lệ 1: 1500000, tài liệu Viện Khảo cổ

học, Hà Nội

64. Nguyễn Hữu Minh (2014), Một số lý thuyết và phương pháp nghiên cứu cơ bản

của dân tộc học/nhân học, tài liệu giảng dạy khoa Nhân học/Dân tộc học, Học

viện Khoa học xã hội, Hà Nội.

65. Đỗ Văn Ninh (1977), "Bàn về những chiếc dầm đá ở Draixi (Đắk Lắk)", trong

tạp chí Khảo cổ học, số 4, tr.8-11.

66. Lê Hoàng Phong (2011), ”Khai quật công xưởng chế tác đá thời tiền sử Phúc

Hưng (Lâm Đồng)”, trong tạp chí Khảo cổ học, số 4, tr.13-20.

67. La Thế Phúc, Hiroshi Tachihara, Tsutomu Honda, Trương Quang Quý, Lương Thị

Tuất (2015): Di sản địa chất hang động núi lửa độc đáo ở Đắk Nông đã được phát

148

hiện và xác lập kỷ lục, trong Tạp chí Địa chất, loạt A, số 349, 1 - 2, tr. 28 - 38.

68. Tạ Hòa Phương, Nguyễn Thùy Dương, Nguyễn Thị Ánh Nguyệt, Phan Thanh

Toàn (2018), “Phân tích trầm tích di chỉ tiền sử hang động núi lửa C6-1 Kroong Nô (Đắk Nông)”, trong Những phát hiện mới về khảo cổ hoc năm 2018, Nxb.

Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.54-55.

69. Colin Renfrew - Paul Bahn (2000), Archaeology - Theories, Methods and

Pratice, Đặng Văn Thắng, Lê Long Hồ, Trần Hạnh Minh Phương (dịch) (2007),

Khảo cổ học - Lý thuyết, phương pháp và thực hành, Nxb Trẻ, thành phố Hồ

Chí Minh.

70. Phạm Quang Sơn (2011) “Một sưu tập công cụ đá mới phát hiện ở Định Quán

(Đồng Nai)”, trong Những phát hiện mới về khảo cổ học 2011, Nxb. Khoa học

xã hội, Hà Nội, tr.79 - 82

71. Nguyễn Khắc Sử (1995), “Văn hóa Biển Hồ ở Tây Nguyên”, trong tạp chí Khảo

cổ học, số 3, tr. 7 - 16;

72. Nguyễn Khắc Sử, Bùi Văn Liêm (1995), Báo cáo khai quật di chỉ Trà Dôm, thị

xã Pleiku, tỉnh Gia Lai, tư liệu Viện Khảo cổ học, Hà Nội.

73. Nguyễn Khắc Sử (2003), “Khảo cổ học Tiền sử Tây Nguyên dưới ánh sáng của

tài liệu mới”, trong tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 1, tr.103 -112.

74. Nguyễn Khắc Sử (2004), “Buôn Ma Thuật 100 - 4000 năm”, trong Buôn Ma

Thuật lịch sử hình thành và phát triển, Sở Văn hóa, Thông tin tỉnh Đắk Lắk

xuất bản, Đắk Lắk.

75. Nguyễn Khắc Sử (Chủ biên) (2004), Khảo cổ học tiền sử Dak Lak, Nxb. Khoa

học xã hội, Hà Nội,

76. Nguyễn Khắc Sử (chủ biên) (2005), Báo cáo khai quật di chỉ Lung Leng, xã Sa

Bình, huyện Sa Thầy (Kon Tum), tư liệu Viện Khảo cổ học, Hà Nội.

77. Nguyễn Khắc Sử (2005), "Di chỉ Lung Leng, nhận thức bước đầu", trong tạp

chí Khảo cổ học, số 5, tr. 3 - 14.

78. Nguyễn Khắc Sử (2006), “Các loại hình cuốc đá với vấn đề nông nghiệp Tiền

sử Tây Nguyên”, trong tạp chí Khảo cổ học, số (3) 2016 , tr.9-21

79. Nguyễn Khắc Sử (2007), Khảo cổ học Tiền sử Tây Nguyên, Nxb. Giáo dục,

149

Hà Nội.

80. Nguyễn Khắc Sử (2007), “Khảo cổ học Tiền sử Tây Nguyên - Những nhận thức

mới”, trong tạp chí Khảo cổ học, số 1-2007, tr. 5-14.

81. Nguyễn Khắc Sử, Phan Thanh Toàn (2007)," Khai quật di chỉ - xưởng Taipêr

(Gia Lai), tư liệu, nhận thức và thảo luận", trong tạp chí Khảo cổ học, số 5, tr.18-

30.

82. Nguyễn Khắc Sử, Nguyễn Trường Đông (2008), “Khai quật Ia Mơr và phát

hiện mới 2 di tích khảo cổ ở Chư Prông (Gia Lai)”, trong Những phát hiện mới

về khảo cổ học năm 2008, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 122-124.

83. Nguyễn Khắc Sử, Nguyễn Trường Đông, Lê Hải Đăng (2008), Báo cáo khai

quật di chỉ Ia Mơr, xã Ia Mơ, huyện Chư Prông (Gia Lai), tư liệu Viện Khảo cổ

học, Hà Nội.

84. Nguyễn Khắc Sử (2009), “Các di tích công xưởng Tây Nguyên với khảo cổ học

lý thuyết”, trong tạp chí Khảo cổ học, số (2) (158).

85. Nguyễn Khắc Sử (2013), "Việt Nam - Biển Đông với các nền văn hóa tiền - sơ

sử", trong tạp chí Khảo cổ học, số 3, trang 3-14.

86. Nguyễn Khắc Sử (Chủ biên) (2014), Dấu ấn văn hóa Tiền-sơ sử vùng lòng hồ

Plei Krông, Kon Tum, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

87. Nguyễn Khắc Sử (Chủ biên) (2016), Khảo cổ học tiền sử Miền trung Việt Nam,

Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

88. Nguyễn Khắc Sử, Phan Thanh Toàn, Phan Thị Bích Thuận (2015), “Phát hiện 6

di tích công xưởng chế tác rìu đá opal ở H’Lang, Kong Chro, Gia Lai năm

2014”, Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 2014, , Nxb. Khoa học xã hội,

Hà Nội, tr.116 – 119.

89. Nguyễn Khắc Sử, Nguyễn Ngọc (2017), “Phân chia địa tầng kỷ Đệ tứ và phân kỳ

khảo cổ học tiền sử Việt Nam”, trong tạp chí Khảo cổ học, số 5 (209), tr.3-14.

90. Nguyễn Khắc Sử, Phan Thanh Toàn, Lê Xuân Hưng, Vũ Tiến Đức (2017), Báo

cáo kết quả đào thám sát hang C6-1 ở Krông Nô, tỉnh Đắk Nông, tư liệu Viện

Khảo cổ học, Hà Nội.

91. Nguyễn Khắc Sử và những người khác (2018), “Báo cáo kết quả khai quật hang

150

C6’ và hang C6-1, huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông”, thuộc Đề tài “Nghiên cứu

giá trị di sản hang động, đề xuất xây dựng bảo tàng bảo tồn tại chỗ ở Tây

Nguyên, lấy thí dụ hang động núi lửa Krông Nô, tỉnh Đắk Nông”, tư liệu Bảo

tàng Thiên nhiên Việt Nam, Hà Nội.

92. Nguyễn Đức Thắng (1999), Địa chất và khóang sản nhóm tờ Bến Khế - Đồng

Nai, tỷ lệ 1:200.000. Trung tâm Thông tin Lưu trữ Địa chất, Tổng cục Địa chất

và Khóang sản Việt Nam, Hà Nội.

93. Nguyễn Mạnh Thắng và cộng sự (2016), Báo cáo kết quả khai quật di tích Buôn

Kiều (xã Yang Mao, huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk), tư liệu Bảo tàng Lịch sử

Quốc gia, Hà Nội.

94. Trần Quý Thịnh (2003), Báo cáo khai quật di chỉ Đhaprông (Đắk Lắk). Tư liệu

Viện Khảo cổ học, Hà Nội.

95. Trần Quý Thịnh, Hoàng Xuân Chinh, Võ Quý (1994), Báo cáo khai quật di chỉ

Buôn Triết, huyện Lắc (Đắk Lắk), tư liệu Viện Khảo cổ học, Hà Nội.

96. Trần Quý Thịnh, Hoàng Xuân Chinh, Võ Quý (1995). Báo cáo khai quật di chỉ

Đắc R' lấp (Đắk Lắk), tư liệu Viện Khảo cổ học, Hà Nội.

97. Trần Quý Thịnh (2001), Hậu kỳ Đá mới - Sơ kỳ Kim khí Tây Nguyên, Luận án

Tiến sĩ Lịch sử, chuyên ngành Khảo cổ học, Hà Nội.

98. Trần Qúy Thịnh (2002), Báo cáo kết quả khai quật di chỉ Dhă Prông, thành phố

Ban Mê Thuật, tỉnh Đắk Lắk, tư liệu Viện Khảo cổ học, Hà Nội.

99. Trần Quý Thịnh, Nguyễn Khắc Sử, Nguyễn Gia Đối (2003), “Trở lại địa điểm

Buôn Triết, huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk”, Trong Những phát hiện mới về khảo cổ

học năm 2002, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.217-218.

100. Nguyễn Thị Song Thương (2014), “Vài nét về đồ gốm trong văn hóa Óc Eo”,

trên tạp chí Di sản văn hóa vật thể, số 1 (46) – 2014, tr. 55 – 60

http://baotanglichsu.vn/vi/Articles/3101/69536/ve-nhung-ban-dap-gom-phat-hien-

trong-cac-di-chi-o-viet-nam.html

101. Tỉnh ủy – Hội đồng Nhân dân - Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Lắk (2015), Địa

chí Đắk Lắk, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

102. Phan Thanh Toàn, Nguyễn Anh Thảo, Huỳnh Bá Tính (2015), “Phát hiện các

151

di tích Hòa Bình muộn ở xã Ia Boòng, huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai”, trong

Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 2015, Nxb. Khoa học xã hội, tr. 103 –

104.

103. Phan Thanh Toàn (2016), Báo cáo kết quả khai quật di tích Làng Gà 7, xã Ia

Boòng, huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai - năm 2016, tài liệu Viện Khảo cổ học,

Hà Nội.

104. Phan Thanh Toàn, Nguyễn Anh Tuấn (2018), “Di cốt động vật hang núi lửa

C6-1 Krông Nô (Đắk Nông)”, trong Những phát hiện mới về khảo cổ học năm

2017, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.51.

105. Nguyễn Anh Tuấn, Vũ Tiến Đức, Võ Thành Vương (2019), “Xương răng

động vật và vỏ nhuyễn thể trong hố khai quật hang C6-1 năm 2018”, trong

Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 2018, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội,

tr.85 - 89.

106. Phạm Bảo Trâm (2017), Thời đại Kim khí Đắk Lắk trong bối cảnh Tiền - Sơ sử

Tây Nguyên, Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Khảo cổ học, Học viện Khoa học xã

hội, Hà Nội.

107. Trần Quốc Vượng (chủ biên) (1985), Những di tích thời tiền sử và sơ sử ở

Quảng Nam - Đà Nẵng, Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng

xuất bản.

108. Trần Quốc Vượng (2002) Về mùa công tác điền dã tại Phú Yên 5 – 2002, tư

liệu Nguyễn Chiều cung cấp.

Tài liệu tiếng nƣớc ngoài

109. Bellwood, P. (1987), Mans conquest of the Pacific. Auckland - Collins.

110. Bellwood, P. (2009), “The Origins and migrations of the ancestral

Austronesian-speaking peoples”, International Symposium for 100 years

Discovery and Research of the Sa Huynh Culture (Abstracts). Quang Ngai

Provice.

111. Comdominas G. (1952), "Le lithophone préhistorique de Ndute Lieng Krak",

BEFEO, XLV, 2, Paris – Hanoi

112. Comdominas G. (1954), Nous avons mangé la forêt de la Pièrre – Génie Goo.

152

Paris.

113. Condominas, G. (1959), "Découverte d’un troisiéme lithophone préhisto-

rique en pay Mnong – Naá", L’ Amthropologie, 62, Paris.

114. Glover, I.C. (1973) Late Stone Age Traditions in Southeast Asia. South Asian

Archaeology. N. Hammond (ed.), London: 51-66.

115. Gorman C.F (1971), “The Hoabinhian and after: Subsistence patterns in

Southeast Asia during the Late Pleistocene and Early Recent periods”, World

Archaeology, vol. 2, p. 306.

116. Higham, C. R. Bannanurag, G. Mason and Tayles (1992), “Human biology,

environment and ritual at Khok Phanon Di”, WA, vol.24. No1: 35-54.

117. Jacques Dourmes (1950), Populations montainardes du Sud-Indochinois

Face-Asie, N0 49-50

118. Jacques Dournes (1972), La culture Jarai. Muséum National D’histoire

Naturelle

119. La The Phuc, Nguyen Khac Su, Vu Tien Duc, Luong Thi Tuat, Phan Thanh

Toan, Nguyen Thanh Tung, Nguyen Trung Minh (2017), “New discovery of

prehistoric archaeological remnants in volcanic caves in KrongNo, Dak Nong Province”, Vietnam Journal of Earth Sciences, N0 39(2), pp. 97-108

120. Lafont, B.P. (1956), "Note sur un site néolithique la province Pleiku", BEFEO,

38 (1), pp. 233-248.

121. Maitre, H. (1909) Les gegions Moi du Sud - Indochinois. Le plat Cau du

Daklac. Paris.

122. Nguyen Khac Su (1996), “La culture de Bien Ho au Tay Nguyen", Etudes

Vietnamiennes, N0 2-1996: 49-64.

123. Nguyen Khac Su (2004), The Neolithic Cultures of Vietnam, in Southeast Asia

from prehistory to history. Edited by Iam Glover and Peter Bellwood, London

153

and New York, pp. 177-188.

PHỤ LỤC MINH HỌA

154

PHỤ LỤC BẢNG BIỂU

Bảng 1: Cấu trúc các tổ chức xã hội thời tiền sử và văn minh sớm

Nhóm ngƣời

Xã hội phân

Tù trƣởng

Nhà nƣớc sớm

săn bắt -hái

tầng (Bộ l c)

(Chiefdom)

(Early State)

lƣợm di động

(Bộ tộc)

Nhân số Dưới 100 người Dưới 1.000 người 5.000 - 20.000 người

Trên 20.000 người

Tổ chức

Bình

quân;

Xã hội phân tầng,

Phân hóa xã hội dựa

Phân hóa giai cấp đặt

xã hội

quyền lãnh đạo

sự kết hợp của

trên mối quan hệ

dưới

quyền

của

không rõ ràng

nhiều bộ lạc, dẫn

dòng họ, phân hóa

vua/hoàng

đế,

dắt bởi một nhóm

cấp bậc của cá nhân

quân đội, pháp luật

người, xuất hiện

trong xã hội nhưng

đại biểu có quyền

chưa xuất hiện giai

lực nhưng thiếu

cấp. Các chiến binh

nền tảng kinh tế

có địa vị cao trong

thực

thi quyền

xã hội, vai trò tù

lực

trưởng được đề cao.

Tổ chức

Di động sắn bắt

Nông nghiệp định

Nông nghiệp chuyên

Nông nghiệp chuyên

kinh tế

- hái lượm; Trao

canh/Chăn nuôi

sâu; Sản phẩm được

sâu; Việc tái phân

đổi đơn giản,

bầy đàn gia súc;

tập trung lại và được

phối sản phẩm dựa

cùng chia sẻ sản

Trao

đổi

sản

thủ lĩnh phân phối

trên sự cống nạp hay

phẩm

phẩm và một số

lại; Một số nghề thủ

nộp thuế; Hình thành

hoạt động buôn

công chuyên môn

hệ

thống chợ và

bán

hóa

thương mại

Loại

Người đứng đầu

Người đứng đầu

Tù trưởng thể hiện

Người đứng đầu tối

hình cai

mang tính tình

có uy tín, không

quyền lực qua việc

cao (vua) được ủng

trị

huống,

không

thực sự có uy

phân phát sản phẩm,

hộ bởi bộ máy quan

chính thức; như

quyền, nhưng có

của cải dư thừa cho

lại quý tộc, Bộ máy

một dạng trọng

một

số quyền

các thành viên theo

hành chính chặt chẽ;

tài phân xử các

trong các quyết

định kỳ; Không thừa

Ngôi vua được cha

quyết định của

định của nhóm;

kế quyền lực trực

truyền con nối trực

155

nhóm

Không có việc kế

tiếp nhưng được

tiếp

tục cha

truyền

chọn trong dòng dõi

con nối

có đẳng cấp cao. Uy

tín và cấp bậc cá

nhân xác định theo

mối quan hệ với tù

trưởng.

Loại

Trại cư trú tạm

Làng định cư

Các trung tâm tế lễ,

Thành thị, thành phố,

hình cư

thời

các pháo đài phòng

thị

trấn, pháo đài,

trú

thủ.

đường xá

Tổ chức

Không có tu sỹ

Tín

ngưỡng

Tù trưởng có trách

Xuất hiện tầng lớp

tín

hay

những

Shaman giáo; chú

nhiệm

trọng

đại

tăng lữ. Tín ngưỡng

ngưỡng

người

chuyên

trọng vào các tập

trong tín ngưỡng

đa

thần hoặc độc

hoạt động về tín

tục khác để gắn

thân.

ngưỡng; Tồn tại

kết dòng tộc

tín

ngưỡng

Shaman giáo

Hang trú ẩn tạm

Lều định cư, gò

Các di tích tượng đài

Dinh thự, đền thờ và

Kiến

thời, lều da thú

mộ, đền thờ

quy mô lớn

các công trình công

trúc

khảo cổ

đồ đá cũ

cộng khác

Thời đại Đá cũ Nông nghiệp sớm

Luyện kim sớm và

Các nền văn minh

Đối

thuộc thời đại Đá

các xã hội có tổ chức

sớm

chiếu

mới sớm

với

khung

niên đại

Khảo cổ

156

Nguồn: [69, tr. 216 - 222]

Bảng 2: Thống kê các di tích thời đ i Đá mới tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông

Tên địa

Địa danh hành chính

Tọa độ

Di vật

TT

điểm

Tỉnh Đắ Nông

I. Các di tích giai đo n Trung Đá mới

N: 12042'31.3''

Công cụ lao dộng đá, mảnh

1

Thôn Tám Xã Đắk Wil, huyện Cư Jút

E: 107048'25.9''

tước, hòn ghè, bàn mài...,

gốm tiền sử

Xã Nam Đà, huyện Krông

2

Hang C1

N: 120 31’08,3”; E: 1070 53’38,8”

05 mảnh gốm tiền sử

Xã Nam Đà, huyện Krông

3 Hang C1-1

Mảnh gốm tiền sử

Xã Nam Đà, huyện Krông

4

Hang C3

N:120 30’58,6” E: 1070 53’53,7”

01 công cụ hình đĩa

Công cụ đá, phác vật công

Xã Nam Đà, huyện Krông

cụ đá, mảnh tước, đá

5

Hang C4

nguyên liệu, thổ hoàng,

N: 120 30’54,2” E: 1070 53’58,7”

mảnh gốm

Xã Nam Đà, huyện Krông

Công cụ hình rìu, hạch đá,

6 Hang C4-1

mảnh gốm

Xã Nam Đà, huyện Krông

Mảnh gốm,

thổ hoàng,

7

Hang C6

N: 12030’55,6” E:107054’04,1”

xương răng động vật

Công cụ đá, mảnh tước,

Xã Nam Đà, huyện Krông

8

Hang C6’

mảnh gốm, mảnh xương,

N:12030’55,4” E: 107054’04,4”

răng động vật

Xã Nam Đà, huyện Krông

Công cụ đá, mảnh tước,

9 Hang C6-1

N: 12030’47,6” E: 107054’06,2”

viên cuội sông...

Công cụ hình bầu dục, phác

Thôn Tân Lập, xã Đắk

10

Tân Lập

N: 120 32’ 35.5” E: 1070 46’ 12,2”

vật, mảnh tước...

Gằn,huyện Đắk Mil

II. Các di tích giai đo n Hậu Đá mới

Thôn 1, xã Đắk Som,

Mảnh tước, mảnh gốm

11

Thôn Một

N: 110 52’ 33.9” E: 1070 54’ 46.9”

huyện Đắk G'long

Thôn 2, xã Đắk Som,

Mảnh gốm tiền sử

12

Thôn Hai

N: 110 52’ 58.7” E: 1070 55’ 04.6”

huyện Đắk G'long

157

Bon Păng So, xã Đắk Som,

13 Bon Păng So

Mảnh gốm tiền sử

huyện Đắk G'long

N: 110 52’ 30.7" E: 1070 55’ 56.9”

Xã Đắk Som, huyện Đắk

Mảnh gốm tiền sử, phác

14

Tà Đùng

G'long

vật.

N: 110 52’ 18.3” E: 1070 58’ 45.8”

Xã Đắk Som, huyện Đắk

15

Đắk Nang

Mảnh gốm tiền sử

G'long

N: 110 55’ 55,3” E:1070 56’ 59.6”

Thôn Sáu, xã Đắk P’lao,

16

Thôn Sáu

Mảnh gốm tiền sử

huyện Đắk G'long

N: 110 59’ 18” E: 1070 51’ 15.8”

Thôn Năm, xã Đắk

17

Thôn Năm

Mảnh gốm tiền sử

R’măng, huyện Đắk G'long

N: 120 00’ 57.8” E: 1070 53’ 57.6”

Thôn 10, xã Quảng Khê,

18

Thôn Mười

Mảnh gốm tiền sử

huyện Đắk G'long

N: 110 54’ 13.3” E: 1070 48’ 28.1”

Mảnh tước, bàn mài, công

Thôn 9, xã Quảng Hòa,

19

Thôn Chín

cụ đá, mảnh gốm tiền sử

huyện Đắk G'long

N: 120 10’ 15.4” E: 1080 06’ 45.8”

Thôn Ba, xã Quảng Sơn,

Mảnh gốm tiền sử

20

Thôn Ba

huyện Đắk G’long

N: 120 11’ 11.8” E: 1070 54’ 02.2”

Thôn 3, xã Đắk Hà, huyện

Công cụ đá Mảnh gốm tiền

21

Đắk Ha 1

Đắk G’long

N: 120 04’ 29.5” E: 1070 46’ 02.1”

sử

Thôn 3, xã Đắk Hà, huyện

22

Đắk Ha 2

Mảnh gốm tiền sử

Đắk G’long

N: 120 04’ 01.1” E: 1070 46’ 47.4”

Thôn 3, xã Đắk Hà, huyện

23

Đắk Ha 3

Mảnh gốm tiền sử

Đắk G’long

N: 120 03’ 30.6” E: 1070 46’ 51.3”

Thôn 5, thị trấn Ea Tling,

N: 12°34'25.11"

Công cụ đá, phác vật, mảnh

24

Thôn Năm

huyện Cư Jút

E: 107°54'17.56"

tước, mảnh vòng, gốm

Khối Bảy, thị trấn Ea

25

Khối Bảy

Mảnh gốm tiền sử

T’ling, huyện Cư Jút

N: 120 36’ 58.5” E: 1070 55’ 33.8”

Thôn Mười

Thôn 11, xã Tâm Thắng,

26

Mảnh gốm tiền sử

Một

huyện Cư Jút.

N: 120 36’ 55.7” E: 1070 55’ 37.3”

Thôn Mười

Thôn 11, xã Tâm Thắng,

27

Mảnh gốm tiền sử

Một 2

huyện Cư Jút.

N: 120 36’ 58.5” E: 1070 55’ 33.8”

Trạm thủy

Thôn Một, xã Tâm Thắng,

28

Mảnh gốm tiền sử

văn cầu 14

huyện Cư Jút

N: 120 37’ 01.5” E: 1070 55’ 28.0”

Thôn Một, xã Tâm Thắng,

Rìu bôn đá, mảnh tước,

29

Thôn Một

huyện Cư Jút

N: 120 36’ 56.3” E: 1070 55’ 25.0”

mảnh gốm tiền sử

158

Thôn Phú Sơn, xã Ea Pô,

30

Phú Sơn 1

Mảnh gốm tiền sử

huyện Cư Jút

N: 120 41’ 55.1” E: 1070 53’ 15.3”

Thôn Phú Sơn, xã Ea Pô,

31

Phú Sơn 2

Mảnh gốm tiền sử

huyện Cư Jút

N: 120 43’ 10.6” E: 1070 53’ 24.5”

Rìu, bôn, phác vật, mảnh

tước, chày nghền, mảnh

32

Phú Sơn 3

Thôn Phú Sơn, xã Ea Pô,

N: 120 42’ 32.4” E: 1070 53’ 41.4”

huyện Cư Jút

gốm tiền sử

Thôn Mười

Thôn 11, xã Đắk D’rông,

33

Mảnh gốm tiền sử

N: 120 36’ 49.6” E: 1070 47’ 54.4”

Một

huyện Cư Jút

Thôn Bốn, xã Trúc Sơn,

34

Thôn Bốn

Mảnh gốm tiền sử

huyện Cư Jút

Suối Đắk

Thôn 9, xã Trường Xuân,

15 mảnh gốm và 01 mảnh

35

N: 120 07’53.7” E: 1070 40’ 44.8”

Tơn

huyện Đắk Song

bàn mài, 2 mảnh tước

Thôn 4, xã Trường Xuân,

10 mảnh gốm tiền sử, 1 hòn

36

Thôn 4

N: 12005’46.3 E: 1070 37’55.9”

huyện Đắk Song

ghè và 01 chày nghiền

Bon Bu

Bon Bu Pơng, xã Trường

37

2 mảnh gốm tiền sử

N: 12006’08.7” E: 1070 37’57.6"

Pơng

Xuân, huyện Đắk Song

Hồ Bong

Bon Bu Boong, xã Đắk

38

8 mảnh gốm, 1 bàn mài

N: 120 12’52.9” E: 1070 34’26.6”

Nơr

N’rung

Thôn 4, xã Nâm Jang,

39

Thôn 4

01 mảnh gốm tiền sử

N: 120 14’52.7” E: 1070 35’ 09.1”

huyện Đắk Song

17 mảnh gốm tiền sử, 01

Xóm 5b, thôn 6, xã Nam

40

Thôn Sáu

mảnh vỡ phác vật rìu/bôn

Bình, huyện Đắk Song

N: 120 15’23.2” E: 1070 34’ 21.2”

và 01 lưỡi bôn gãy

Thôn 6, xã Nam Bình,

41

Lê Văn Ninh

01 rìu mài lưỡi, 01 rìu có vai

huyện Đắk Song

N: 120 10’45.8” E: 1070 36’ 50.9”

Bàn đập vỏ cây loại có tay

cầm, cuốc đá hình thang,

mảnh gốm tiền sử và di vật

Thôn Rừng Lạnh, xã Đắk

42

Rừng Lạnh

đá thuộc các nhóm loại

Hòa, huyện Đắk Song

N: 120 21’15.5” E: 1070 38’ 48.8”

hình: bôn, bàn mài, công

cụ ghèo đẽo, chày nghiền,

mảnh tước….

Thôn Đắk Sơn II, xã Đắk

43

Đắk Sơn II

02 công cụ đá

Mol, huyện Đắk Song

N: 120 23’02.0” E: 1070 38’ 12.5”

159

Thôn Sáu, xã Thuận Hà,

44

Thôn Sáu

11 mảnh gốm tiền sử

huyện Đắk Song

N: 120 15’19.3” E: 1070 32’ 52.1

01 bôn hình tam giác. 01

Thôn Thuận Bình, xã

45

Lại Văn Huề

bôn hình thang, 01 bôn có

Thuận Hạnh

N: 120 16’58.3” E: 1070 30’ 04.3”

vai, gốm thô

Cửa khẩu

Xã Thuận An, huyện Đắk

46

46 mảnh gốm tiền sử

Đắk Peur

Mil

N: 120 25’ 46.6” E: 1070 33’ 49.0”

Hồ Núi lửa

Xã Thuận An, huyện Đắk

47

Mảnh gốm tiền sử

Đắk Mil

Mil

N: 120 23’ 40.4” E: 1070 34’ 33.9”

Thôn 9A, xã Đắk R’lao,

8 mảnh gốm tiền sử và 1

48

Thôn 9A

huyện Đắk Mil

hiện vật đá

N: 120 27’ 34.8” E: 1070 36’ 57.8”

Thôn Xuân

Thôn Xuân Phong, xã Đức

49

1 mảnh vỡ rìu/bôn

Phong

Minh, huyện Đắk Mil

N: 120 25’ 56.1” E: 1070 39’ 07.9”

Thôn Đắk Sôr, xã Đắk Sắk,

50

Đắk Sôr

04 mảnh gốm thô

huyện Đắk Mil

N: 120 24’ 28.3” E: 1070 41’ 03.8”

Thôn Tây

Thôn Tây Sơn, xã Long

51

03 mảnh gốm tiền sử

Sơn

Sơn, huyện Đắk Mil

N: 120 32’ 05.7” E: 1070 43’ 12,4”

Xã Nhân Đạo, huyện Đắk

52

Suối 4

Mảnh tước, mảnh gốm

R'lấp

N: 11055’21” E: 1070 38’36”

Thôn Một, xã Hưng Bình,

53

Thôn Một

Bàn mài và gốm mảnh

huyện Dak R’lấp

N: 11051’49.2 E: 107025’51.0”

Thôn Sáu, xã Hưng Bình,

54

Thôn Sáu

Mảnh gốm tiền sử

huyện Đăk R’lâp

N: 11050’20.8” E: 107028’48.6”

Thôn 7, xã Hưng Bình,

55

Thôn 7

2 mảnh gốm

huyện Đăk R’lâp

N: 11049’20.5” E: 107027’37.8”

Thôn 14, xã Dak Sin,

56

Thôn 14

Mảnh gốm tiền sử

huyện Dak R’lấp

11049’13.7” N: E:, 107027’47.9”,

Thôn 4, xã Dak Sin, huyện

57

Thôn 4

Bàn mài rãnh, mảnh gốm

Dak R’lấp

N: 11053’04.9” E: 107029’04.4”

Bàn mài lõm, mảnh tước

Thôn 8, xã Dak Rul, huyện

58

Thôn 8

thứ đá Basalt và đá cát kết,

Dak R’lấp

N: 11051’37.2” E: 107025’33.9”

mảnh gốm

Xã Đắk Nang, huyện

18 bôn đá hình tứ giác

59

Cánh Nam

Krông Nô

được chôn chung trong hố

160

Thị trấn Kiến Đức, huyện

Rìu tứ giác, mảnh tước, bàn

60 Nghĩa Trang

mài và đồ gốm tiền sử

Đắk R'lấp

Thị trấn Kiến Đức, huyện

Hiện vật đá và 01 hiện vật

61

Đồi Chợ

gốm

Đắk R'lấp

Hiện vật đá: bàn mài, phác

Thị trấn Kiến Đức, huyện

vật rìu tứ giác, rìu tứ giác...,

62

Thôn Ba

Đắk R'lấp

và mảnh gốm

Xã Quảng Trực, huyện

15 hiện vật rìu bôn đá

63 Quảng Trực

Đắk R'lấp

Xã Trường Xuân, huyện

Rìu, đục đá, bàn đập vỏ

64

Đắk Tơn

cây, bàn mài...

Đắk Song

Quảng

Xã Quảng Thành, thành

Cuốc, rìu, bôn đá

65

Thành

phố Gia Nghĩa

Tỉnh Đắ Lắ

I. Các di tích giai đo n Trung Đá mới

N: 12025’161”

Rìu bôn, bàn mài, cuốc, hòn

Xã Yang Mao, huyện

E: 108033’578”

ghè, hòn nghiền, bàn nghiền,

66 Buôn Kiều

đá nguyên liệu, phác vật

Krông Bông

mảnh tước, mảnh gốm ,...

Rìu bôn, bàn mài,hòn ghè,

Buôn Hằng

Xã Yang Mao, huyện

hòn nghiền, bàn nghiền,

67

Năm

Krông Bông

N:12025’188” E: 108034’003”

phác vật, đá nguyên liệu,

mảnh tước, mảnh gốm ,...

Rìu bôn, hòn ghè, hòn

nghiền, bàn nghiền, phác

Xã Yang Mao, huyện

68 Ea Chổ

vật, đá nguyên liệu, mảnh

Krông Bông

tước, mảnh gốm ,...

Xã Ea Bông, huyện Krông

N: 120 32’ 21,7’’

Công cụ đá, mảnh tước,

69 Hố Tre

Ana

E: 1080 00’50,2’’

hòn kê, mảnh gốm tiền sử...

II. Các di tích giai đo n Hậu Đá mới

Xã Cư Amung, huyên Ea

Rìu bôn đá, phác vật rìu

70 Chạc Hai

H’leo

bôn, bàn mài...

Xã Cư Amung, huyên Ea

Rìu bôn đá, phác vật rìu

71

Sình Mây

H’leo

bôn, bàn mài...

161

Phường Ea Tam, thành phố

72 Thôn Bảy

Rìu vai ngang

Buôn Ma Thuột

Buôn Dray H’linh, xã Hòa

73 Dray H’linh

Bôn vai xuôi, mảnh gốm

Xuân, buôn Ma Thuột

Xã Hòa Xuân, thành phố

1 bôn vai ngang và 01 hòn

74 Đại Đồng

Buôn Ma Thuột

xoa gốm, mảnh gốm

Thôn Bảy, xã Ea Ngai,

75 Thôn Bảy

Mảnh gốm tiền sử

huyện Krông Búk

Xã Cư Pơng, huyện Krông

Buôn vai nhọn, công cụ

76 Cư Pơng

Búk

hình mai mực

Phường Thống Nhất, thị xã

77 Tân Hà

Rìu vai ngang

Buôn Hồ

Buôn Ea Khít, xã Ea Bhôk,

78 Ea Khít

Công cụ hình mai mực

huyện Cư Kuin

02 bôn có vai, 01 rìu vai

vai xuôi, 02 rìu hình thang,

Thôn Kim Châu, xã Ea

79 Kim Châu

01 bôn hình thang, 02 phác

Bhăng, huyện Cư Kuin

vật rìu bôn hình thang, 01

hòn ghè

Buôn Ba, xã Cư M’tar,

80 Cư M'tar

Rìu vai ngang

huyện M’drắk

Hồ Ea Súp

xã Cư M’lan, huyện Ea

81

07 cuốc đá chôn dấu

Hạ

Súp

Hàng nghìn mảnh gốm,

Xã Cư Êbur, thành phố

82 Dhă Prông

hàng trăm hiện vật đá: rìu,

Buôn Ma Thuột

bôn, đục, bàn mài....

Xã Ea Kao, thành phố

Đồ gốm, rìu tứ giác, rìu có

83 Thôn Ba

Buôn Ma Thuột

vai, ....

Rìu, bôn tứ giác, bôn có

Xã Ea Kao, thành phố

84 Cao Thắng

vai, phác vật, mảnh gốm

Buôn Ma Thuột

tiền sử

Xã Ea Tiêu, huyện Cư

85 Ea Tiêu

03 công cụ đá

Kiun

86 Trại Cá

Xã Ea Rốk, huyện Ea Súp

02 cuốc đá có vai

162

Nhiều hiện vật đá: rìu, bôn,

phác vật cuốc đá, chày

Xã Ea H'leo, huyện Ea

87 Tsham A

nghiền, mảnh tước…, hơn

H'leo

1.000 mảnh gốm.

Xã Cư Suê, huyện Cư

5 Cuốc đá hình thang

88 Thôn Một

M'gar

Cuốc đá, rìu bôn đá, đá có

Xã Hòa Phú, thành phố

lỗ, bàn mài, cuội có vết gia

89 Thôn Mười

Buôn Ma Thuột

công... và 38 mảnh gốm

Cuốc đá, bàn mài được

90 Ea Gar

Xã Cư Ni, huyện Ea Kar

chôn chung trong hố đào

Rìu, bôn đá, phác vật rìu

Xã Xuân Phú, huyện Ea

91 Cư K'tur

bôn, bàn mài... gốm tiền sử

Kar

Phác vật rìu bôn, mảnh

92 Thanh Sơn

Huyện Ea Kar

tước

Hạch đá, mảnh tước, bàn

93 Bản Thái

Huyện Ea Kar

mài, đá hình bánh xe

4 cuốc đá và 1 rìu hình

thang được chôn chung

94 Ea Păn

Xã Ea Păn, huyện Ea Kar

trong hố đào

Xã Quảng Điền, huyện

Rìu bôn đá

95 Quảng Điền

Krông Ana

Thị trấn Buôn Trấp, huyện

Cuốc đá, chì lưới

96 Buôn Trấp

Krông Ana

Cuốc đá, rìu đá, mảnh gốm

97 Draixi

Huyện Cư M'gar

Rìu, bôn đá, cuốc đá,... và

98 Buôn Triết

Xã Buôn Triết, huyện Lắk

gốm tièn sử

Rìu, bôn đá... và mảnh gốm

99 Đồi Cô Tiên Xã Buôn Triết, huyện Lắk

Cuốc đá, rìu tứ giác, bàn

100 Dúc Dôn

Xã Yang Tao, huyện Lắk

mài

Nguồn: [2] [3] [19] [21, tr. 60 -71] [31] [34, tr. 72 – 78] [39, tr. 14] [41, tr. 35 – 44]

163

[42] [45] [63, tr. 125 – 126] [75] [119, tr. 97 – 108]

Bảng 3: Địa tầng các di tích thời đ i Đá mới tỉnh Đắk Lắ và Đắk Nông

Tên di

Thời

Tính

TT

Di vật

Địa tầng

tích

gian

chất

Tỉnh Đắ Nông

I. Các di tích giai đo n Trung Đá mới

Lớp đất mặt: đất sét màu xám nhạt, tơi xốp

chứa nhiều hạt sạn sỏi cát kết và basalt phong

hoá.

Tầng văn hoá: đất Basalt dày 0,5m, bao gồm sét

Công cụ

lao

Khai

kết, cát kết và đá basalt phong hoá dạng cục

Di chỉ

dộng đá, mảnh

quật

Thôn

nhỏ, độ kết dính yếu nằm lẫn lộn, trong đó chứa

cư trú

tước, hòn ghè,

năm

1

Tám

di tích và di vật đá, mảnh gốm.

-

bàn mài..., gốm

2006,

Sinh thổ: Nằm ngay dưới tầng văn hoá, không

xưởng

tiền sử

2013

có lớp ngăn cách và có cấu tạo từ đất sét màu

nâu xẫm gần giống với đất tầng văn hóa, chỉ

khác là có độ kết dính cao hơn lớp trên, lẫn

nhiều sạn sỏi và những cục đá cát kết.

Công cụ đá,

Khai

mảnh

tước,

Hang

Là cụm đá xếp, gồm 2 lớp đá xếp, xen lẫn 02

quật

Chưa

mảnh

gốm,

2

năm

C6’

lớp đất do con người đổ lên.

xương,

răng

2018

động vật

Tầng văn hóa gồm 2 lớp:

- Lớp văn hóa trên dày 0,35 - 0,4m, ngoài công

Thám

cụ đá cuội ghè đẽo không định hình, chày, bàn

sát

nghiền, bàn mài, mảnh tước, công cụ xương

năm

Di chỉ

mặt 01 công cụ

mài mũi nhọn, còn có 1 mũi tên đồng, các mảnh

2017,

cư trú

Hang

đá, 04 mảnh

gốm đất nung và di cốt động vật;

khai

- mộ

3

C6-1

tước, 03 viên

- Lớp văn hóa dưới dày khoảng 1,5m, chứa

quật

táng -

cuội sông

công cụ cuội ghè hai mặt, tạo ra các loại hình

năm

xưởng

như rìu bầu dục, công cụ nạo hình đĩa, rìu ngắn,

2018,

công cụ mảnh tước, hòn ghè, chày, hòn kê

2019

Sinh thổ là nền đá hang

164

Lớp mặt: dày từ 4 – 12 cm, màu nâu nhạt, bở,

cứng, vón cục, lẫn nhiều đá Basalt phong hóa

Tầng văn hóa, dày từ 20 – 30cm, đất Basalt pha

Công cụ hình

Thám

lẫn sạn sỏi laterit và đá tảng Basalt; gồm hai

bầu dục, phác

sát

Di chỉ

Tân Lập

lớp, phân biệt nhau bởi độ sẫm của màu đất và

4

vật,

mảnh

năm

cư trú

mật độ hạt laterit nâu đỏ càng xuống sâu càng

tước...

2018

ken dày.

Sinh thổ màu nâu vàng, lẫn sạn laterit màu nâu

đỏ xen lẫn giữa các tảng đá Basalt.

II. Các di tích giai đo n Hậu Đá mới

Lớp mặt: dày khoảng 0,3m, là lớp đất Basalt lẫn

Bàn đập vỏ

nhiều chất hữu cơ, cứng, bở, màu xám đen

cây, cuốc đá,

Lớp xáo trộn: dày 0,1 - 0,2m, là lớp đất Basalt

Khai

mảnh gốm tiền

Rừng

sẫm màu, không có hiện vật khảo cổ

quật

Di chỉ

5

sử và bôn, bàn

Lạnh

Tầng văn hóa: dày 0,6 - 0,7m, đất Basalt màu

năm

cư trú

mài,

chày

xám vàng, chứa hiện vật khảo cổ

2018

nghiền, mảnh

Sinh thổ: là lớp Basalt bị laterit, màu nâu đỏ,

tước

chứa sạn đầu ruồi

Rìu

tứ giác,

Lớp mặt: đất Basalt màu vàng ngả nâu

Khai

Nghĩa

mảnh tước, bàn

Tầng văn hóa: đất Basalt màu nâu vàng, chứa

quật

Di chỉ

6

Trang

mài và đồ gốm

đá Basalt phong hóa và di vật khảo cổ

năm

cư trú

tiền sử

Sinh thổ: đất Basalt màu đậm, bị laterit hóa

2002

Tỉnh Đắ Lắ

I. Các di tích giai đo n Trung Đá mới

Rìu bôn, bàn

Lớp đất mặt: dày 0,05 - 0,2m, đất sét pha cát,

mài, cuốc, hòn

rắn chắc có màu xám nhạt. Trong lớp này ngoài

ghè,

hòn

các công cụ, mảnh tước đá còn thấy mảnh thủy

Khai

Di chỉ

nghiền,

bàn

tinh, sắt, gạch hiện đại.

Buôn

quật

cư trú

7

nghiền,

đá

- Lớp văn hóa: khá thuần nhất, dày 0,2 - 0,4m,

Kiều

năm

-

nguyên

liệu,

có kết cấu đất sét pha cát màu nâu xám - nâu

2015

xưởng

phác vật mảnh

vàng, cứng, chắc, chứa hiện vật khảo cổ

tước,

mảnh

- Sinh thổ là đất sét vàng lẫn sạn sỏi laterit, rắn

gốm...

chắc.

165

Lớp đất mặt: dày 0,1 - 0,25m, đất xám đen, tơi

xốp. Trong lớp này ngoài hiện vật đá, đá nguyên

Rìu bôn, bàn

liệu và một số mảnh tước, còn thấy túi nilon, dây

mài,hòn

ghè,

nhựa hiện đại…

Khai

Di chỉ

Buôn

hòn nghiền, bàn

Tầng văn hóa: dày từ 0,5 - 0,75m, gồm 2 lớp đất :

quật

cư trú

8

Hằng

nghiền,

phác

+ Lớp trên là lớp đất có màu nâu đỏ, dày từ 0,1 -

năm

-

Năm

vật, đá nguyên

0,25m, kết cấu khá tơi xốp

2015

xưởng

liệu, mảnh tước,

+ Lớp dưới là đất đỏ bazan, dày 0,3 - 0,5m, kết

mảnh gốm ,...

cấu rắn chắc

Sinh thổ là đất laterite màu nâu đỏ, rắn chắc lẫn

nhiều sạn sỏi đầu ruồi

Lớp mặt: dày 0.3 – 0.35m , màu xám đen do lẫn

nhiều vật chất hưu cơ, bở rời, mềm, không chứa

hiện vật khảo cổ.

Công cụ đá,

Tầng văn hóa: dày 0.4 – 0.45m, là lớp laterit hiện

Khảo

Di chỉ

mảnh

tước,

đại màu vàng nhạt lẫn sét đen, nén chặt, cứng.

sát

cư trú

9

Hố Tre

hòn kê, mảnh

Càng xuống dưới, càng xuất hiện hiện tượng kết

năm

-

gốm tiền sử...

vón nhưng chưa hình thành sạn sỏi laterqqit, có

2019

xưởng

hiện vật khảo cổ

Sinh thổ là lớp sét đen ngậm nước, cứng, không

còn di vật khảo cổ

II. Các di tích giai đo n Hậu Đá mới

Lớp mặt: dày 0,2 - 0,3cm, đất Basalt tương đối

Hàng

nghìn

cứng.

khai

Di chỉ

Dhă

mảnh

gốm,

Tâng văn hóa: dày 0,5 - 0,6cm, đất Basalt sậm

quật

10

- mộ

Prông

hàng trăm hiện

màu hơn lớp mặt, chứa di vật khảo cổ

năm

táng

vật đá.

Sinh thổ: là lớp đất Basalt bị phong hóa nhẹ,

2002

không có hiện vật khảo cổ

Nhiều hiện vật

Lớp mặt đất phù sa, sét lẫn nhiều cát, ít mùn

đá:

rìu, bôn,

thực vật, màu xám đen, khá kết dính, dày 15 -

Thám

phác vật cuốc

20cm, không chứa di vật khảo cổ

Tsham

sát

Di chỉ

11

đá,

chày

Tầng văn hóa: dày 0,3 – 0,5m, pha cát, màu nâu

A

năm

xưởng

nghiền, mảnh

nhạt chuyển dần xám vàng, chứa di vật đá, đôi

2002

tước...

hơn

chỗ đất bị nung đốt ngả màu đỏ

1.000 mảnh

Sinh thổ: cấu tạo từ sét bị laterit hóa, chứa

166

gốm.

nhiều sạn kết vón, màu rỉ xét

Lớp mặt: dày 0,1 - 0,15m, màu nâu đen

Di chỉ

Tầng văn hóa: Lớp 2 dày 0,2 - 0,4m, đất lẫn

Rìu, bôn đá,

Thám

cư trú

nhiều sạn sỏi màu nâu nhạt chuyển dần sang

phác vật

rìu

sát

-

12 Cư K'tur

vàng xám. Lớp 3 dày 0,15 - 0,3m, đất lẫn sạn

bôn, bàn mài...

năm

xưởng

sỏi màu nâu đỏ.

gốm tiền sử

2002

- mộ

Sinh thổ: đất lẫn đá phiến sét, độ phong hóa

táng

cao, đất laterite màu vàng loang lổ

Thám

Phác vật

rìu

Thanh

Tầng văn hóa dày 0,5m, trong tầng văn hóa có

sát

Di chỉ

13

mảnh

bôn,

Sơn

một số phác vật, mảnh tước Opal

năm

xưởng

tước

2002

Thám

Hạch đá, mảnh

Tầng văn hóa; đất Basalt phong hóa, có hai

Bản

sát

Di chỉ

14

tước, bàn mài,

mức: Mức trên đất màu nâu xám, dày 0,35cm;

Thái

năm

xưởng

đá có lỗ

mức dưới dày 12cm, đất màu nâu vàng.

2002

Thám

Cuốc đá, rìu

Tầng văn hóa là lớp đất đỏ Basalt nằm ở độ sâu

sát

Di chỉ

15 Draixi

đá... và mảnh

0,8 - 1,3m, chứa di vật khảo cổ

năm

cư trú

gốm

1974

Thám

Lớp mặt: dày 0,3m, đất Basalt màu vàng nhạt

sát

Di chỉ

Rìu, bôn đá,

Tầng văn hóa: dày 0,4m, đất Basalt phong hóa

Buôn

199,

cư trú

16

cuốc đá,... và

màu nâu nhạt, bị laterit nhẹ, chứa hiện vật Sinh

Triết

khai

- mộ

gốm tièn sử

thổ: đất Basalt màu nâu, bị laterit, không hiện

quật

táng

vật

1993

167

Nguồn: [24] [26, tr.112-113] [28] [31, tr. 38 – 40] [40] [43] [44] [91] [93] [95] [98]

Bảng 4: Thống ê chất liệu công cụ và phác vật Thôn Tám 2006 và năm 2013

Chất liệu

Lo i hình

Tổng

Basalt

Silic

Chertz

Gree

Quartz

Sét ết

Công cụ ghè đẽo

7

15

9

1

3

3

38

Rìu mài lưỡi

6

7

1

1

2

0

15

Công cụ mảnh

28

12

0

0

0

0

40

0

0

0

31

1

0

Bàn mài

32

6

13

15

3

3

0

Hòn ghè

37

4

0

0

22

2

0

Hòn kê

26

2

0

0

1

0

0

Chày

3

0

0

0

2

0

0

Đá có lỗ

2

78

66

4

3

2

0

Phác vật

151

131

113

29

64

13

3

Tổng

301

9.63

100.00

4.32

43.52

37.54

21.26

1.00

Tỷ lệ %

Nguồn: [20] [28]

Bảng 5: Thống ê chất liệu công cụ và phác vật đá C6-1

Chất liệu

Tổng

Lo i hình

Basalt

Silic

Chertz Gree Quartzite Quartz Sét ết

0

0

0

3

1

2

Công cụ ghè đẽo

38

44

3

0

1

0

1

1

Công cụ mảnh

6

6

0

0

0

0

0

0

Cuội có vết ghè

2

0

0

0

0

0

0

Cuội có vết mài

2

1

0

0

4

0

0

0

Bàn mài

5

6

0

0

1

0

0

0

Hòn ghè

7

1

0

0

1

0

0

0

Hòn kê

2

8

0

0

0

0

0

0

Hạch đá

8

2

0

0

0

0

0

0

Phác vật

2

67

0

1

6

4

1

76

3

Tổng

88.16

0.00

1.32

7.89

5.26

3.95

1.32

100.00

Tỷ lệ %

168

Nguồn: [91]

Bảng 6: Thống ê chất liệu công cụ và phác vật Tân Lập

Chất liệu

Tổng

Lo i hình

Cát ết

Basalt

Silic Opan

Quartzite

Chert

biến chất

1

1

1

Công cụ ghè đẽo

6

2

0

11

0

0

0

Công cụ mảnh

1

1

2

0

0

0

Hạch đá

0

0

1

1

1

0

0

Hòn kê

0

0

0

1

0

0

0

Chì lưới

1

0

0

1

0

0

0

Phác vật

2

1

0

3

2

1

19

1

Tổng

10

3

2

Tỷ lệ %

52.63

15.79

10.53

10.53

5.26

5.26

100.00

Nguồn: [43]

Bảng 7: Kết quả phân tích niên đ i C14 di tích Buôn Kiều và Buôn Hằng Năm

TT Ký hiệu mẫu Chất liệu mẫu Niên đ i BP

Buôn Kiều

1 15.BK.H2.L1 Than 4.200 – 3.500 (độ tin cậy 68,2%)

4.500 – 3.300 (độ tin cậy 95,4%)

2 15.BK.H1.L2 Than 3.900 – 3.250 (độ tin cậy 68,2%)

4.200 – 2.900 (độ tin cậy 95,4%)

Buôn Hằng Năm

1 15.BHN.TS1.L2 Than 3.950 – 3.400 (độ tin cậy 68,2%)

4.300 – 3.000 (độ tin cậy 95,4%)

Nguồn: [93].

Bảng 8: Kết quả phân tích niên đ i C14 hang C6’ và hang C6-1 Krông Nô

TT Ký hiệu mẫu Độ sâu Chất Niên đ i Niên đ i sau

mẫu (cm) liệu, mẫu BP hiệu chỉnh

Hang C6’

1 18.C6’.F2 Than 4160±20 4.707BP

169

Hang C6-1

1 18.C6-1.C4.L1.2 16 Than 4.680±20 5.391BP

2 17.С6-1.D3.L3 32 Than 5.070±20 5.815BP

3 17.C6-1.D3.L.6 43 Than 5.110±20 5.815BP

4 17.C6-1.D3.L.7 56 Than 5.225±20 5.965BP

5 17.C6-1.D3.L.8 63 Than 5.230±20 5.966BP

6 18.C6-1.C2.L4.3 58 Than 5.760±25 6.560BP

7 18.C6-1.D4.L4.5 99 Than 5.780±25 6.686BP

8 18.C6-1.D2.L4.7 125 Than 6.030±25 6.876BP

9 18.C6-1.C2.L4.9 126 Than 5.850±25 6.672BP

10 18.C6-1.D4.L4.10 138 Than 5.945±25 6.768BP

11 18.C6-1.C4.L4.12 154 Than 5.945±25 6.768BP

12 18.C6-1.D4.L4.13 175 Than 5.970±25 6.800BP

13 18.C6-1.C3.L4.16 183 Than 6.090±25 6.954BP

Nguồn: [91, tr. 85 – 86].

Bảng 9. Không gian phân bố các di tích Hậu k Đá mới khu vực nghiên cứu

TT Tiểu vùng Địa danh hành Tên di tích

địa lý chính

1 Vùng núi Một phần huyện Trên bề mặt di tích Buôn Kiều

cao Cư Krông Bông

Yang Sin

2 Vùng núi huyện Ea H’leo, T’Sham A, Ea Knếch, Sình Mây, Chạc Hai

thấp Cư huyện Krông Năng (Ea H’leo); Lộc Xuân, Quảng An (Krông

Dju và một phần phía Năng); Cư K’tur, Ea Dar, Thanh Sơn, Bản

Bắc huyện Ea Kar Thái (Ea Kar)

3 Vùng cao Huyện M’drắk, Cư M’tar (M’đrắk), Ea Gar, Ea Păh (Ea

nguyên phần phía Tây nam Kar)

170

M’drắk huyện Ea Kar

4 Vùng cao Thành phố Buôn Dhă Prông, Thôn Ba, Cao Thắng, Buôn

nguyên Ma Thuột, thị xã Cao, Hòa Xuân, Đại Đồng, Thôn Mười

Buôn Ma Buôn Hồ; huyện Cư (Buôn Ma Thuột) Thôn Một, Drai Si (Cư

Thuột M’gar, hyện Krông M’gar), Thôn Bảy, Cư Pơng (Krông Búk),

Búk, huyện Krông Tân Hà (Buôn Hồ), Ea Tiêu (Cư Kuin)

Năng; một phần

huyện Cư Kuin và

Krông Pắk

5 Vùng cao Một phần huyện Cánh Nam, Nam Xuân (Krông Nô); Quảng

nguyên Đắk Mil, toàn bộ Trực, Quảng Thành (Tuy Đức); Doãn Văn,

Đắk Nông huyện Đắk Song, Đắk Kar, Kiến Đức, Nghĩa Trang, Đồi

thị xã Gia Nghĩa, Chợ, Suối Ba, Suối Bốn, Thôn Một, Thôn

huyện Đắk G’long, Bảy, Thôn Bốn Thôn Sáu, Thôn Mười

huyện Tuy Đức, Bốn, Đắk Rul (Đắk R’lấp); Đắk Tơn, Thôn

huyện Đắk R’lấp, Bốn, Bon Pu Pơng, Hồ Bong Nơr, Thôn

huyện Krông Nô Bốn, Thôn Sáu (xã Nam Bình), Nam Bình,

Rừng Lạnh, Đắk Sơn II, Thôn Sáu (xã

Thuận Hà), Thuận Hạnh (Đắk Song); Cửa

khẩu Đắk Peur, Hồ Núi lửa Đắk Mil, Thôn

9A, Thôn Xuân Phong, Đắk Sôr 1, Đắk Sôr

2, Tây Sơn (Đắk Mil); Thôn Một, Thôn

Hai, Bon Păng So, Tà Đùng, Đắk Nang,

Thôn Sáu (xã Đắk Plao), Thôn Năm (xã

Đắk R’măng), Thôn Mười, Thôn Chín,

Thôn Ba, Đắk Ha 1, Đắk Ha 2, Đắk Ha 3

(Đắk G’long)

6 Vùng Huyện Lắk, Krông Buôn Triết, Sar Luk, Đồi Cô Tiên (Lắk),

trũng Ana; một phần các Dúc Dôn, Quảng Điền, Buôn Trấp (Krông

171

Krông Pắk huyện Krông Pắk, Ana), Hòa Hiệp, Ea Hwin (Cư Kuin)

- Lắk Krông Bông, Cư

Kuin

7 Vùng bán Huyện Ea Suóp, Núi Thôn (Buôn Đôn), Trung Sơn, Thác

bình huyện Buôn Đôn Lào, Suối Tre, Thôn Năm, Khối Bảy, Thôn

nguyên Ea (tỉnh Đắk Lắk), Mười Một (xã Tâm Thắng), Thôn Một, Phú

Suóp huyện Cư Jút (tỉnh Sơn 1, Phú Sơn 2, Phú Sơn 3, Thôn Mười

Đắk Nông) Một (xã Đắk D’rông), Thôn Bốn (Cư Jút);

Trại Cá, Hồ Ea Suóp Hạ (Ea Suóp)

(Nguồn: [3] [19] [21] [33] [41] [42] [45] [63][75][34])

Bảng 10: Rìu, bôn trong một số di tích giai đo n Hậu k Đá mới t i khu vực

nghiên cứu đã hai quật, đào thám sát

Di tích

Số lƣợng rìu, bôn (chiếc) Tổng số công cụ đá (chiếc)

Tỷ lệ (%)

Dhă Prông

153

324

47,22

Buôn Triết

38

46

82,61

T’Sham A

34

41

82,93

Cư K’tur

87

195

44,62

Suối Ba

9

43

20,93%

Nguồn: [17, tr. 27 – 30] [40, tr, 23] [24] [96] [75, tr. 204 - 212, 238 - 245]

Bảng 11: Thống kê rìu, bôn không vai và rìu, bôn có vai t i một số di tích

Hậu k Đá mới

Địa điểm Rìu, bôn không vai Rìu, bôn có vai Tổng số (chiếc)

(chiếc) (chiếc)

Dhă Prông 103 27 130

Thôn Ba 2 1 3

Cao Thắng 3 1 4

Thôn Mười 10 1 11

Buôn Triết 29 9 38

172

Kim Châu 3 3 6

T’Sham A 2 29 31

Cư K’tur 19 48 67

Đắk Song 1 1 2

Đắk Tơn 10 3 13

Quảng Trực 2 5 7

Đồi Chợ 27 15 32

Nguồn: [26, tr. 112 – 113] [33] [75, tr. 199 - 244] [96, tr. 10 – 14]

Bảng 12. Phân bố của một số lo i hình công cụ đá giai đo n Hậu k Đá mới ở

khu vực nghiên cứu

Không gian phân bố Lo i hình

Cả ba khu vực Rìu tứ giác, bôn hình thang, rìu vai

xuôi, cuốc hình thang, bàn mài, hòn

ghè, cưa, chày nghiền, bôn vai xuôi-

bôn có eo

Cao nguyên Buôn Ma Thuột - khu vực phía Rìu vai ngang, cuốc vai ngang

Bắc Đắk Lắk

Cao nguyên Buôn Ma Thuột - khu vực phía Rìu vai xuôi, cuốc hình mai mực,

Nam Đắk Lắk và cao nguyên Đắk Nông cuốc chim, đục đá, rìu hình mai mực.

Khu vực phía Bắc Đắk Lắk - khu vực phía Bôn chuôi nhọn, cuốc vai xuôi, bàn

Nam Đắk Lắk và cao nguyên Đắk Nông đập vỏ cây không có tay cầm

Bảng 13. Niên đ i C14 một số di tích vùng lòng hồ thủy điện Plei Krông

TT Di tích Ký hiệu mẫu Mẫu Niên đ i trƣớc Niên đ i sau

hiệu chỉnh hiệu chỉnh

1 Thôn Năm Kr.M1.hố B5.190 Than 3.130±165 BP 3.800-2.900BP

2 Thôn Năm Kr.M2.(20/6/2006) Than 2.290±165 BP 2.800-1.950BP

3 Thôn Năm Kr.M3.(B5.190) Than 2.580±160 BP 1.200-350BC

4 Thôn Năm Kr.M4.(A3,L3,40) Than 2.470±165 BP 1.000-150BC

173

5 Thôn Năm Kr.M5(05TNA3L3,6) Than 2.261±165 BP 1.250-350BC

Kr.M6(06SNB5L3, 6 Sa Nhơn Than 2.430±160 BP 900 – 100BC 117)

7 Sa Nhơn Kr.M7(06SNB1L3) Than 2.360±165 BP 850-0AD

8 Sa Nhơn Kr.M8(06SNB1L3) Than 2.270±165 BP 800-50AD

9 Sa Nhơn Kr.M9(06SNL4C3G3) Than 2.180±165 BP 400-150AD

Kr.M10(06SNB2L1G 10 Sa Nhơn Than 1.690±160 BP 0-700AD 5-0)

11 Đắk Rêi Kr.M11(A5H4L9) Than 2.530±160 BP 1.050-200

12 Đắk Rêi Kr.M12(A5H3L5,6) Than 2.340±165BP 850-0AD

13 Đắk Rêi Kr.M13(A5H4) Than 2.070±160 BP 500BC-350AD

14 Đắk Rêi Kr.M14(A5H5) Than 2.160±165BP 800-250AD

15 Đắk Rêi Kr.M15(A5d7L5) Than 2.310±160BP 850-0AD

Nguồn: [86, tr. 380 - 381]

Bảng 14. Niên đ i C14 di tích Lung Leng

TT Ký hiệu mẫu Mẫu Niên đ i truyền Niên đ i sau hiệu

thống chỉnh

99LL.H2-3 1 Than 2990±70 BP 1.400BC-1.200BC

99LL.H1-4 2 Than 350±90BP 1.450 AD-1600 AD

99LL.H1-3 3 Than 120±70BP 1640 AD-1795AD

99LL.H1-2 4 Than 175±50BP 1.620 AD-1.735 AD

5 01LL.HC7L3 Than 2.370±80 BP 760 BC-400 BC

6 01LLHC7L3e1 Than 2.480±55 BP 800 BC-540 BC

7 01LLHC7L4e2 Than 2.530±70 BP 900 BC-540 BC

8 01.LLHC7.L5c8 Than 2.860±70 BP 1.290 BC-1.040 BC

9 01LLHC7L6c10 Than 3.140±65 BP 1.610 BC-1.410 BC

10 01LLHC7L7 Than 3410±85 BP 1.950 BC-1.690 BC

11 01LLHC2L2(i-k)6 Than 2730±60 BP 1.050 BC-840 BC

12 01LLHC2L3(i-k6) Than 2.360±85 BP 760 BC 400 BC

174

13 01LLHC2L6M4 Than 3.220±105 BP 1.740-1.450 BC

14 01LLHC2L6M5 Than 3.110±80 BP 1.600 BC-1.320BC

15 01LLHC2L6M5(c-d)10 Than 3.510±110 BP 2.140 BC -1.770 BC

16 01LLHC2L7M4L3 Than 3.120±85 BP 1.610 BC - 1.390 BC

17 01LLHD1L5:218 Than 3.130±95 BP 1.620 BC – 1.390 BC

18 01LLGH10L5A3 Than 880±55 BP 1.060 AD -1 .270 AD

19 01LLGH5-6L3:1 Than 2.860±105 BP 1320 BC - 1.000 BC

20 01LLHI5L4M1 Than 2.020±65 BP 200 BC – 10 AD

21 01LLH17L4M2 Than 2.310±65 BP 770 BC – 430 BC

22 01LLIK2-3(a-b)8 Than 1.890±55 BP 20BC – 130 AD

23 01LLHK7l3(e-g)7 Than 3.410±120 BP 2.030 BC - 1.680 BC

24 01LLHC11L2 Than 2.150±60 BP 380 BC – 200 BC

25 01LLHC9L8c8 Than 2.080±60 BP 350 BC – 80 BC

Nguồn: [86, tr. 381-385]

Biểu đồ 1. Thành phần bào tử phấn hoa di chỉ Buôn Kiều

175

Nguồn: [56, tr. 108-110]

Biểu đồ 2. Thành phần bào tử phấn hoa di chỉ Thôn Tám

Nguồn: [57, tr. 112-114]

Biểu đồ 3. Thành phần bào tử phấn hoa di chỉ C6-1

Nguồn: [91, tr.90 -92]

Biểu đồ 4. Phân bố phấn hoa và bào tử theo độ sâu địa tầng C6-1

176

Nguồn: [91, tr. 90 - 92]

Biểu đồ 5. Các tập hợp phấn hoa hang C6-1

Nguồn: [91, tr. 90 - 92]

Biểu đồ 6: Rìu, bôn giai đo n Hậu k Đá tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông

(Nguồn: [3] [19] [21] [33] [41] [42] [45] [63][75][34])

Biểu đồ 7. Số lƣợng vỏ nhuyễn thể trong các lớp khai quật hang C6-1

177

Nguồn: [91, tr.36]

Biểu đồ 8. Số lƣợng di cốt trong các lớp khai quật hang C6-1

Nguồn: [91, tr.37]

Biểu đồ 9. Hình cây thể hiện hệ số tƣơng quan giữa các nhóm di cốt ngƣời

178

Nguồn: [14]