BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
----------
VŨ HẢI YẾN
THIẾT LẬP BỘ CHỈ SỐ XÁC ĐỊNH MỨC ĐỘ ỔN ĐỊNH
CỦA HỆ THỐNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM
Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng
Mã số: 9.34.02.01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
HÀ NỘI – 2020
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
----------
VŨ HẢI YẾN
THIẾT LẬP BỘ CHỈ SỐ XÁC ĐỊNH MỨC ĐỘ ỔN ĐỊNH
CỦA HỆ THỐNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM
Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng
Mã số: 9.34.02.01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:1. GS.TS. NGUYỄN VĂN TIẾN
2. TS. NGUYỄN TUẤN PHƯƠNG
HÀ NỘI – 2020
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng
tôi. Các số liệu sử dụng phân tích trong luận án có nguồn gốc rõ ràng, đã công bố
theo đúng quy định. Các kết quả nghiên cứu trong luận án do tôi tự tìm hiểu, phân
tích một cách trung thực, khách quan và phù hợp với thực tiễn của Việt Nam. Các
kết quả này chưa từng được công bố trong bất kỳ nghiên cứu của tác giả nào khác.
Nghiên cứu sinh
Vũ Hải Yến
ii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................... i
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ............................................................................. v
DANH MỤC BẢNG ............................................................................................... vii
DANH MỤC HÌNH .................................................................................................. ix
LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THIẾT LẬP BỘ CHỈ SỐ ĐO LƯỜNG
ỔN ĐỊNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH ................................................................ 14
1.1. Khái quát chung về hệ thống tài chính ....................................................... 14
1.1.1. Khái niệm hệ thống tài chính ...................................................................... 14
1.1.2. Phương thức luân chuyển vốn trong hệ thống tài chính .............................. 15
1.1.3. Cấu trúc hệ thống tài chính ......................................................................... 16
1.2. Những vấn đề cơ bản về ổn định tài chính ................................................. 17
1.2.1. Khái niệm ổn định tài chính ........................................................................ 17
1.2.2. Đặc điểm ổn định tài chính ......................................................................... 22
1.2.3. Nguyên nhân gây mất ổn định hệ thống tài chính ....................................... 27
1.3. Thiết lập bộ chỉ số đo lường mức độ ổn định hệ thống tài chính .............. 34
1.3.1. Sự cần thiết xây dựng bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính ......... 34
1.3.2. Quy trình thiết lập bộ chỉ số đo lường mức độ ổn định hệ thống tài chính.. 35
TÓM TẮT CHƯƠNG 1 ........................................................................................ 51
CHƯƠNG 2: THIẾT LẬP BỘ CHỈ SỐ ĐO LƯỜNG ỔN ĐỊNH HỆ THỐNG TÀI
CHÍNH – KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM .............. 52
2.1. Cơ sở lựa chọn quốc gia nghiên cứu ........................................................... 52
2.2. Kinh nghiệm quốc tế về đo lường ổn định hệ thống tài chính .................. 53
2.2.1. Kinh nghiệm của Anh ................................................................................. 53
2.2.2. Kinh nghiệm của Trung Quốc ..................................................................... 69
2.2.3. Kinh nghiệm của Hàn Quốc ........................................................................ 75
2.2.4. Kinh nghiệm của Indonesia ......................................................................... 89
2.3. Bài học cho Việt Nam ................................................................................. 102
iii
TÓM TẮT CHƯƠNG 2 ...................................................................................... 104
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG THIẾT LẬP BỘ CHỈ SỐ ĐO LƯỜNG ỔN
ĐỊNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM ................................................ 106
3.1. Đặc điểm hệ thống tài chính Việt Nam ..................................................... 106
3.1.1. Hệ thống tài chính dựa vào ngân hàng ...................................................... 106
3.1.2. Hệ thống ngân hàng có mức độ tập trung cao ........................................... 110
3.1.3. Thị trường tài chính chưa hoàn thiện ........................................................ 111
3.1.4. Hệ thống giám sát phân tán ....................................................................... 116
3.2. Thực trạng thiết lập bộ chỉ số đo lường ổn định tài chính tại Việt Nam 118
3.2.1. Thực trạng tổ chức quản lý ....................................................................... 118
3.2.2. Thực trạng thiết lập bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính .......... 121
3.2.3. Thực trạng rủi ro cho hệ thống tài chính Việt Nam ................................... 128
3.3. Đánh giá hoạt động thiết lập bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài
chính tại Việt Nam ............................................................................................ 135
3.3.1. Thành công ............................................................................................... 135
3.3.2. Hạn chế và nguyên nhân ........................................................................... 136
TÓM TẮT CHƯƠNG 3 ...................................................................................... 138
CHƯƠNG 4: MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ VỀ THIẾT LẬP BỘ CHỈ SỐ ĐO
LƯỜNG ỔN ĐỊNH TÀI CHÍNH CHO VIỆT NAM ...................................... 139
4.1. Thiết lập bộ chỉ số đo lường ổn định tài chính cho Việt Nam ................. 139
4.1.1. Nhận diện rủi ro cho hệ thống tài chính Việt Nam .................................... 139
4.1.2. Lựa chọn các chỉ đo lường số ổn định hệ thống tài chính Việt Nam ......... 140
4.1.3. Áp dụng bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính Việt Nam ........... 147
4.2. Phát triển chỉ số ổn định tài chính tổng hợp ............................................ 165
4.2.1. Phương pháp trọng số cân bằng ................................................................ 168
4.2.2. Phương pháp phân tích thành tố chính PCA ............................................. 172
4.2.3. Lựa chọn phương pháp phù hợp ................................................................ 178
4.3. Một số khuyến nghị thực hiện hiệu quả bộ chỉ số đo lường mức độ ổn
định hệ thống tài chính Việt Nam được đề xuất ............................................. 179
iv
4.3.1. Thiết lập khuôn khổ chính sách ổn định tài chính ..................................... 179
4.3.2. Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu thông tin ............................................... 185
4.3.3. Tăng cường cơ chế phối hợp giữa các Bộ, các đơn vị trong NHNN ......... 187
4.3.4. Nâng cao nhận thức về kinh tế - tài chính cho công chúng ....................... 189
TÓM TẮT CHƯƠNG 4 ...................................................................................... 191
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 192
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
v
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Nguyên nghĩa Tiếng Việt Nguyên nghĩa Tiếng Anh
Ngân hàng phát triển châu Á Asian Development Bank ADB
Bất động sản BĐS
Bank for International BIS Ngân hàng thanh toán quốc tế Settlement
Ngân hàng trung ương Anh Bank of England BOE
Ngân hàng trung ương Hàn Quốc Bank of Korea BOK
Captial Adequacy Tỷ lệ an toàn vốn CAR Requirement
CCyB Tỷ lệ đệm vốn phản chu kỳ Countercyclical Capital Buffer
Tỷ lệ nợ/ thu nhập Debt to Income DTI
Ngân hàng trung ương châu Âu European Central Bank ECB
FISI Chỉ số ổn định tổ chức tài chính Indonesia Financial Institutions Stability Index
FMSI Chỉ số ổn định thị trường tài chính Indonesia. Financial Market Stability Index
Ủy ban Chính sách tài chính Financial Policy Committee FPC
Financial Soundness Bộ chỉ số lành mạnh tài chính FSIs Indicators
Chỉ số ổn định tài chính Hàn Quốc Financial Stability Index FSI
Báo cáo ổn định tài chính Financial Stability Report FSR
Financial Supervisory FSS Tổ chức dịch vụ giám sát tài chính Services
FSSI Chỉ số ổn định hệ thống tài chính Financial System Stability
vi
Indonesia Index
GDP Tổng sản phẩm quốc nội Gross Domestic Products
HHs Hộ gia đình Households
Ics Công ty bảo hiểm Insurance Corporations
International Monetary IMF Quỹ tiền tệ quốc tế Fund
LTI Tỷ lệ cho vay/ thu nhập Loan to Income
LTV Tỷ lệ cho vay trên giá trị tài sản Loan to Value
MPIs Chỉ số an toàn vĩ mô Macroprudential Indicators
NFCs Doanh nghiệp Nonfinancial Corporations
NPL Nợ xấu Nonperforming loan
NHNN Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
NHTM Ngân hàng thương mại
NHTW Ngân hàng Trung Ương
OFCs Tổ chức tài chính khác Other Financial Corporations
PCA Phân tích thành phần chính Principal Component Analysis
ROE Tỷ lệ lợi nhuận/ vốn chủ sở hữu Return on Equity
Sectoral Capital SCRs Tỷ lệ đệm vốn theo lĩnh vực Requirement
TSCRR Tài sản có rủi ro
TSĐB Tài sản đảm bảo
vii
DANH MỤC BẢNG
Tên bảng Trang
Bảng 1.1. Khu vực chính sách và sự đóng góp vào mục tiêu ổn định tài chính .... 23
Bảng 1.2. So sánh cách tiếp cận của chính sách an toàn vĩ mô và chính sách an
toàn vi mô. ............................................................................................................ 24
Bảng 1.3. Rủi ro theo thời gian và rủi ro chéo giữa các khu vực .......................... 33
Bảng 1.4. Phân nhóm các rủi ro cho ổn định hệ thống tài chính ........................... 38
Bảng 1.5. Các chỉ số lành mạnh tài chính cơ bản của IMF ................................... 41
Bảng 1.6. So sánh sự khác biệt giữa các bộ chỉ số đo lường ổn định tài chính của
các tổ chức IMF, ECB và ADB............................................................................. 49
Bảng 2.1. Tỷ lệ đệm vốn ngược chu kỳ mà các tổ chức tài chính Anh ................. 64
Bảng 2.2. Quy mô các công cụ ngân hàng ngầm tại Trung Quốc năm 2016 ......... 72
Bảng 2.3. Các chỉ tiêu đo lường lành mạnh hệ thống ngân hàng Trung Quốc ...... 75
Bảng 2.4. Cấu trúc tổ chức tài chính Hàn Quốc .................................................... 75
Bảng 2.5. Chỉ số FSIs về đầy đủ vốn (%) ............................................................. 79
Bảng 2.6. Chỉ số FSIs về chất lượng tài sản (%) ................................................... 79
Bảng 2.7. Tỷ lệ cho vay bất động sản (%) ............................................................ 80
Bảng 2.8. Chỉ số FSIs về thu nhập và khả năng sinh lời (%) ................................ 80
Bảng 2.9. Chỉ số FSIs về thanh khoản (%) ........................................................... 81
Bảng 2.10. Lỗi loại I và loại II theo phương pháp bình quân (%) ......................... 84
Bảng 2.11. Cấu trúc hệ thống tài chính Indonesia năm 2015 ................................ 90
Bảng 2.12. Các tổ chức tham gia Diễn đàn ổn định hệ thống tài chính Indonesia 92
Bảng 2.13. Chỉ số cho giám sát an toàn vĩ mô tại Indonesia. ................................ 95
Bảng 2.14. Các chỉ tiêu sử dụng để tính toán chỉ số ổn định tài chính FSSI ......... 97
Bảng 3.1. Quy mô tài sản và vốn của các tổ chức tín dụng năm 2018 ................ 106
Bảng 3.2. Chỉ số ổn định tài chính cơ bản của Việt Nam .................................... 123
Bảng 3.3. Chỉ số ổn định tài chính bổ sung của Việt Nam .................................. 124
Bảng 4.1. Bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính Việt Nam ................... 144
viii
Bảng 4.2. Hệ số an toàn vốn tối thiểu của các NHTM Việt Nam (%) ................. 154
Bảng 4.3. Các chỉ số thành phần cho chỉ số FSI Việt Nam ................................. 168
Bảng 4.4. Chuẩn hóa dữ liệu các chỉ số theo phương pháp min-max .................. 170
Bảng 4.5. Chuẩn hóa dữ liệu các chỉ số theo phương pháp Normed PCA .......... 174
Bảng 4.6. Kết quả 9 thành tố chính từ phương pháp PCA .................................. 175
Bảng 4.7. Giá trị và tỷ trọng các thành tố mới theo phương pháp PCA .............. 177
Bảng 4.8. Lỗi loại I và lỗi loại II theo phương pháp bình quân và PCA (%) ...... 178
ix
DANH MỤC HÌNH
Tên hình Trang
Hình 1.1. Phương thức luân chuyển vốn trong hệ thống tài chính. ....................... 15
Hình 1.2. Khung chính sách ổn định tài chính ...................................................... 22
Hình 1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hệ thống tài chính ...................................... 28
Hình 1.4. Rủi ro theo thời gian (chu kỳ) ............................................................... 31
Hình 1.5. Rủi ro chéo giữa các khu vực ................................................................ 32
Hình 1.6. Quy trình thiết lập bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính ........ 35
Hình 1.7. Đánh giá năng lực khu vực ngân hàng trước những nguy cơ ................ 44
Hình 2.1. Tỷ trọng cung ứng vốn cho các doanh nghiệp của thị trường tài chính
Anh giai đoạn 2007-2018 ...................................................................................... 53
Hình 2.2. Quy mô tổng tài sản hệ thống ngân hàng Anh/GDP (%) giai đoạn 2012-
2017 ...................................................................................................................... 54
Hình 2.3. Tỷ lệ vốn hóa thị trường cổ phiếu/ GDP (%) tại Anh giai đoạn 2008-
2018 ...................................................................................................................... 55
Hình 2.4. Cơ cấu tổ chức giám sát ổn định tài chính tại Anh ................................ 56
Hình 2.5. Lịch sử vay mượn của hộ gia đình tại Anh ............................................ 58
Hình 2.6. Tốc độ tăng trưởng tín dụng tiêu dùng tại Anh ..................................... 59
Hình 2.7. Các công cụ và chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính Anh ........... 60
Hình 2.8. Tỷ lệ đệm vốn phản chu kỳ và chênh lệch tỷ lệ tín dụng/GDP tại Anh
giai đoạn 1966-2016 ............................................................................................. 63
Hình 2.9. Tốc độ tăng trưởng tài sản của hệ thống ngân hàng .............................. 69
Hình 2.10. Giá trị vốn hóa thị trường chứng khoán Trung Quốc (% GDP) ........... 70
Hình 2.11. Quy mô ngân hàng ngầm của Trung Quốc .......................................... 74
Hình 2.12. Xu hướng phát triển thị trường tài chính Hàn Quốc ............................ 76
Hình 2.13. Chỉ số ổn định tài chính theo lĩnh vực và giai đoạn rủi ro. .................. 82
Hình 2.14. Chỉ số ổn định tài chính tổng hợp từ 6 lĩnh vực .................................. 83
Hình 2.15. Chỉ số ổn định tài chính FSI giai đoạn 2008 – 11/2018 ...................... 85
x
Hình 2.16. Bản đồ ổn định tài chính của Hàn Quốc .............................................. 86
Hình 2.17. Bản đồ ghi nhận thay đổi trong thị trường tín dụng và thị trường tài sản
năm 2018 .............................................................................................................. 87
Hình 2.18. Bản đồ ghi nhận thay đổi trong các chỉ số lành mạnh hệ thống ngân
hàng và các tổ chức tài chính phi ngân hàng năm 2018 ........................................ 87
Hình 2.19. Bản đồ liên kết qua lại giữa các tổ chức tài chính năm 2018............... 88
Hình 2.20. Sơ đồ khung ổn định tài chính của Indonesia. ..................................... 93
Hình 2.21. Ba trụ cột của ổn định tài chính ........................................................... 96
Hình 2.22. Chỉ số ổn định hệ thống tài chính (FSSI/ISSK) ................................. 100
Hình 2.23. Chỉ số FSSI với giai đoạn gốc 2001-2010. ........................................ 101
Hình 3.1. Tỷ trọng cung ứng vốn cho nền kinh tế giai đoạn 2012-2018 ............. 107
Hình 3.2. Mức độ vốn hóa thị trường của các doanh nghiệp nội địa trên GDP (%) ......... 108
Hình 3.3. Tổng dư nợ tín dụng và tổng dư nợ trái phiếu tại Việt Nam ................ 109
Hình 3.4. Thị phần cho vay của các tổ chức tài chính ......................................... 110
Hình 3.5. Thị phần huy động của các tổ chức tài chính ...................................... 110
Hình 3.6. Mức độ tập trung tài sản của 5 NHTM lớn nhất Việt Nam (%) .......... 111
Hình 3.7. Quy mô thị trường trái phiếu Việt Nam .............................................. 112
Hình 3.8. Số lượng doanh nghiệp niêm yết thị trường chứng khoán Việt Nam .. 113
Hình 3.9. Tổng giá trị cổ phiếu được giao dịch trên thị trường/GDP (%) ........... 114
Hình 3.10. Quy mô thị trường trái phiếu sơ cấp giai đoạn 2006-2018 ................ 114
Hình 3.11. Tỷ trọng trái phiếu đấu thầu thành công theo kỳ hạn ........................ 115
Hình 3.12. Hệ thống giám sát tài chính tại Việt Nam ......................................... 117
Hình 4.1. Tỷ lệ tăng trưởng tín dụng nóng tại Việt Nam .................................... 148
Hình 4.2. Hệ số CAR trung bình và tỷ lệ đòn bẩy (Nợ phải trả/ Vốn chủ sở hữu)
của các NHTM giai đoạn 2008-2018 (%) ........................................................... 150
Hình 4.3. Tỷ lệ nợ xấu và tỷ lệ bao phủ nợ xấu của hệ thống ngân hàng Việt Nam ...... 150
Hình 4.4. Chênh lệch lãi suất ròng và tỷ lệ lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của hệ
thống NHTM Việt Nam ...................................................................................... 151
Hình 4.5. Tỷ lệ tài sản thanh khoản của hệ thống ngân hàng Việt Nam giai đoạn
2008-2018 ........................................................................................................... 152
xi
Hình 4.6. Diễn biến lãi suất qua đêm trên thị trường liên ngân hàng Việt Nam giai
đoạn 2007-2018 .................................................................................................. 157
Hình 4.7. Diễn biến tỷ giá bình quân USD/VND trên thị trường ngoại hối liên ngân
hàng Việt Nam giai đoạn 2007-2018 .................................................................. 158
Hình 4.8. Diễn biến chỉ số giá chứng khoán VN Index và giá trị giao dịch thị
trường giai đoạn 2005-2018 ................................................................................ 160
Hình 4.9. Lãi suất trái phiếu chính phủ Việt Nam và chỉ số CDS kỳ hạn 5 năm giai
đoạn 2007-2018 .................................................................................................. 161
Hình 4.10. Diễn biến các chỉ tiêu vĩ mô giai đoạn 2008-2018 ............................ 162
Hình 4.11. Tỷ lệ nợ công và nợ nước ngoài của Việt Nam giai đoạn 2008-2018 163
Hình 4.12. Chỉ số giá bất động sản và tốc độ tăng trưởng tín dụng ..................... 164
Hình 4.13. Chỉ số ổn định tài chính FSI theo phương pháp trọng số cân bằng ... 171
Hình 4.14. Chỉ số ổn định tài chính FSI theo phương pháp PCA ........................ 177
Hình 4.15. Khuôn khổ chính sách ổn định tài chính ........................................... 179
Hình 4.16. Các cấu phần trong khung chính sách ............................................... 180
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận án
Hệ thống tài chính ổn định là hệ thống trong đó các trung gian tài chính, thị
trường và cơ sở hạ tầng của thị trường điều chuyển vốn một cách trơn tru giữa
người tiết kiệm và nhà đầu tư, và qua đó, giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Ngược lại, nếu hệ thống tài chính không ổn định hay có những bất ổn tài chính
xảy ra sẽ không chỉ gây cản trở hoạt động trung gian tài chính mà còn làm giảm
hiệu quả thực thi chính sách tiền tệ, làm trầm trọng thêm tình trạng suy thoái kinh
tế, thoái vốn đầu tư và gây áp lực lên tỷ giá, gia tăng chi phí cho ngân sách trong
việc giải cứu các tổ chức tài chính. Bên cạnh đó, cùng với sự kết nối và hội nhập
ngày càng sâu sắc giữa các thị trường tài chính và nền kinh tế, những cú sốc hay
khủng hoảng tài chính tại một thị trường có thể ảnh hưởng và lan truyền đến các
bộ phận và quốc gia khác. Chính vì thế, việc ổn định và lành mạnh hóa hệ thống
tài chính là mục tiêu quan trọng, không chỉ đem lại lợi ích cho từng quốc gia mà
cho toàn bộ thị trường tài chính thế giới.
Thực tế các cuộc khủng hoảng vào cuối những năm 90 và gần đây nhất là
cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 đã minh chứng cho tầm quan trọng
của việc kiểm soát rủi ro hệ thống và đảm bảo ổn định tài chính, bởi: (i) Hệ thống
tài chính ngày càng phát triển khiến các giao dịch tài chính ngày càng trở nên hiện
đại và phức tạp hơn. Sự mở rộng chi nhánh của ngân hàng, các hình thức hợp
nhất, sáp nhập xuyên lục địa, sự đa dạng hóa các dịch vụ tài chính đã hình thành
nên những định chế đặc biệt quan trọng hệ thống (Systemically important banks-
SIFS), tiềm ẩn nhiều rủi ro hơn. Trong khi đó, những quy định quản lý chưa có sự
cập nhật theo kịp những thay đổi nhanh chóng đang diễn ra trong hệ thống đã tạo
những lỗ hổng cũng như gây ra khủng hoảng; (ii) Các quốc gia đều có các chính
sách tập trung vào từng mục tiêu riêng lẻ trước khủng hoảng như chính sách tiền
tệ tập trung vào mục tiêu ổn định giá cả, kiểm soát lạm phát, chính sách tài khóa
tập trung kiểm soát nợ công, tăng trưởng kinh tế và tạo việc làm…, Việc các chính
sách tập trung vào một mục tiêu cũng không đảm bảo rằng hệ thống tài chính ổn
2
định; (iii) Những công cụ giám sát cũng như phòng ngừa bất ổn tài chính được
thực hiện rời rạc trước khủng hoảng. Với sự hình thành các tổ chức tài chính quan
trọng SIFS hay sự phát triển nhanh chóng của khu vực ngân hàng ngầm, các công
cụ giám sát riêng lẻ không thể không đảm bảo duy trì ổn định mà thay vào đó, cần
những chính sách tổng thể để đảm bảo phòng ngừa, và hạn chế những rủi ro mang
tính hệ thống, là nguồn gốc gây ra bất ổn tài chính. Các cuộc khủng hoảng này đã
giúp các nhà hoạch định chính sách nhìn nhận lại mục tiêu điều hành của mình,
trong đó, mục tiêu ổn định tài chính, an toàn kinh tế vĩ mô là vô cùng quan trọng
và cần được đặt cạnh mục tiêu lạm phát.
Mặc dù đã được đề cập từ khá lâu trong các nghiên cứu độc lập, ổn định tài
chính chính thức được quan tâm một cách nghiêm túc sau khi Ủy ban ổn định tài
chính (Financial Stability Board-FSB) được thành lập năm 2009 với sự tham gia
của nhiều quốc gia phát triển và đang phát triển. Để có thể thực thi mục tiêu ổn
định tài chính cần có khuôn khổ chính sách với sự kết hợp của nhiều quy định thể
chế và công cụ. Trong đó, một trong những bước đầu tiên và quan trọng nhất là đo
lường ổn định tài chính. Là một mục tiêu đa chiều do mối quan hệ phức tạp giữa
các thành phần trong hệ thống tài chính và với các khu vực bên ngoài, ổn định tài
chính khó có thể được đo lường qua một chỉ tiêu riêng lẻ mà cần một bộ chỉ số với
nhiều chỉ tiêu để xác định mức độ ổn định, lành mạnh của các cấu phần trọng yếu.
Để giúp đỡ các quốc gia trong công tác đo lường ổn định hệ thống tài chính, Quỹ
tiền tệ quốc tế (IMF) đã xây dựng và công bố bộ chỉ số lành mạnh tài chính
(Financial Soundness Indicators – FSIs), Ngân hàng trung ương châu Âu (ECB)
và Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) với bộ chỉ số an toàn vĩ mô
(Macroprudential Indicators – MPIs) giúp đánh giá những điểm mạnh và điểm yếu
của từng hệ thống tài chính. Các bộ chỉ số được thiết kế như một công cụ tham
khảo hữu hiệu cho các quốc gia trong việc phát hiện rủi ro hệ thống tiềm tàng, tự
đánh giá mức độ ổn định tài chính, từ đó có những biện pháp để hạn chế tối đa tác
động tiêu cực từ những rủi ro này. Tuy nhiên, mỗi quốc gia có những đặc điểm
riêng biệt về tình hình kinh tế, chính trị, cấu trúc hệ thống tài chính, kỳ vọng thị
3
trường…, vì thế, tiêu chuẩn đánh giá hay mức độ rủi ro có thể chấp nhận được tại
mỗi nước là không giống nhau. Chính vì thế, việc áp dụng bộ chỉ số này với tiêu
chuẩn quốc tế tại các quốc gia mới nổi nói chung và hệ thống tài chính thiếu hoàn
thiện như Việt Nam nói riêng là điều không dễ dàng. Xuất phát từ thực tiễn trên,
nghiên cứu sinh lựa chọn chủ đề: “Thiết lập bộ chỉ số xác định mức độ ổn định
của hệ thống tài chính Việt Nam” làm đề tài luận án của mình với mong muốn
nghiên cứu cơ sở lý luận cũng như kinh nghiệm quốc tế về ổn định tài chính nói
chung và các phương thức xác định mức độ ổn định tài chính nói riêng nhằm tăng
cường khả năng áp dụng các bộ chỉ số này trên thực tế. Trên cơ sở kết hợp với bối
cảnh của Việt Nam hiện nay, nghiên cứu sẽ đưa ra những gợi ý cho việc thiết lập
bộ chỉ số này cũng như các kiến nghị đối với đơn vị liên quan tới vấn đề ổn định
tài chính.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
2.1. Nghiên cứu quốc tế
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 xảy ra đã ảnh hưởng mạnh
mẽ đến hệ thống tài chính của các quốc gia, đặc biệt là những nước có mức độ hội
nhập sâu vào thị trường thế giới. Vấn đề ổn định tài chính trở nên quan trọng và
nhận được nhiều sự quan tâm hơn từ các tổ chức cũng như các nhà nghiên cứu
trên thế giới. Đã có khá nhiều các nghiên cứu được đưa ra về vấn đề này, trong đó,
tập trung vào việc làm rõ khái niệm ổn định tài chính, nguyên nhân gây bất ổn tài
chính và đo lường ổn định tài chính.
Về khái niệm ổn định tài chính, có khá nhiều các quan điểm đưa ra về ổn
định tài chính, từ các tổ chức quốc tế, ngân hàng trung ương các quốc gia cho đến
các nhà nghiên cứu. Dưới góc độ các tổ chức quốc tế, Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF)
và Ngân hàng thế giới (WB) có đưa ra định nghĩa như sau: “Ổn định tài chính là
điều kiện đạt được khi hệ thống tài chính thực hiện đầy đủ các chức năng của nó”.
Hệ thống tài chính ổn định còn có thể đạt được khi nó có thể loại bỏ những mất
cân bằng tài chính phát sinh trong nội tại hoặc do chịu ảnh hưởng của các cú sốc
bất ngờ bên ngoài. Nếu đạt được sự ổn định, hệ thống sẽ hấp thu được các cú sốc
4
chủ yếu qua cơ chế tự điều chỉnh, ngăn ngừa tác động bất lợi của các sự kiện bên
ngoài. Ngân hàng trung ương Hàn Quốc (BOK) cũng định nghĩa ổn định tài chính
là khi hệ thống tài chính ổn định. Điều này hàm ý 3 cấu phần hệ thống tài chính –
tổ chức tài chính, thị trường tài chính và cơ sở hạ tầng tài chính được ổn định. Ở
một khía cạnh khác, Ngân hàng trung ương châu Âu (ECB) lại cho rằng, ổn định
tài chính sẽ đạt được khi những rủi ro hệ thống được ngăn chặn. Trong đó, rủi ro
hệ thống được mô tả là rủi ro làm tổn hại đến việc cung ứng các sản phẩm dịch vụ
tài chính của hệ thống tài chính, từ đó gây ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng
kinh tế và phúc lợi xã hội. Một số các nghiên cứu khác như De Bandt and
Hartmann (2000), Group of Ten (2001), Hoelscher and Quintyn (2003) và
Summer (2003) lại có cách tiếp cận ổn định tài chính tương tự như ECB khi tập
trung vào rủi ro hệ thống. Trên góc độ các nhà nghiên cứu độc lập, Houben và
cộng sự (2004) định nghĩa ổn định tài chính là khả năng giúp hệ thống kinh tế
phân bổ nguồn lực một cách hiệu quả, đánh giá và quản trị rủi ro tài chính và hấp
thụ các cú sốc. Issing (2003) và Foot (2003) gợi ý rằng, ổn định tài chính liên
quan đến bong bóng thị trường tài chính hoặc sự biến động của các chỉ số thị
trường tài chính. Các bong bóng làm ảnh hưởng đến hiệu quả thị trường tài chính,
tuy nhiên, nó không là đặc điểm của đổ vỡ tài chính.
Về nguyên nhân gây bất ổn tài chính, những nghiên cứu của Houben và
cộng sự (2004), Nier (2009) IMF (2013) đều cố gắng chỉ ra những rủi ro, nguồn
gốc bất ổn cho hệ thống tài chính. Houben (2004) nhìn nhận rủi ro cho hệ thống
tài chính theo góc độ từ bên trong và bên ngoài. Trong đó, hệ thống tài chính được
chia thành 3 bộ phận chính: các tổ chức tài chính, thị trường tài chính và cơ sở hạ
tầng của hệ thống. Những rủi ro cho hệ thống tài chính có thể đến từ nội tại của hệ
thống, trong quá trình vận hành và liên kết giữa các bộ phận của hệ thống; và có
thể đến từ những cú sốc, những thay đổi bên ngoài hệ thống tài chính. Nier (2009)
lại phân biệt rủi ro trên góc độ vĩ mô và vi mô. Trong đó, rủi ro vĩ mô là rủi ro
mang tính tổng hợp, rủi ro kinh tế vĩ mô. Rủi ro vi mô phát sinh từ sự thất bại
hoặc đổ vỡ của một tổ chức và lan ra hệ thống theo hướng tiêu cực. IMF (2013)
5
tiếp cận rủi ro trên cơ sở mối liên hệ giữa các rủi ro và phân chia thành rủi ro
thuận chu kỳ (theo thời gian) và rủi ro chéo giữa các khu vực.
Về phương pháp đo lường ổn định tài chính, các nghiên cứu cho thấy việc
đo lường mức độ ổn định của hệ thống tài chính tại các quốc gia có sự thay đổi
theo thời gian. Trong giai đoạn đầu đo lường ổn định tài chính, các quốc gia sử
dụng các chỉ tiêu riêng lẻ giúp đánh giá mức độ ổn định trong từng khu vực của hệ
thống. Ở giai đoạn sau, các quốc gia và các nhà nghiên cứu đã kết hợp nhiều chỉ
tiêu riêng lẻ và phát triển thành các bộ chỉ số. Các bộ chỉ số này giúp đo lường,
đánh giá sự lành mạnh, ổn định của hệ thống tài chính theo từng khu vực. Ở mức
độ phát triển cao hơn, các cơ quan điều hành và các nhà nghiên cứu đã kết hợp các
chỉ số này thành một chỉ số tổng hợp duy nhất để đo lường, và phản ánh tức thời
sự ổn định hoặc bất ổn trong hệ thống tài chính.
Chỉ tiêu riêng lẻ, Gadanecz và Jayaram (2009) đã khái quát các chỉ tiêu mà
các ngân hàng trung ương (NHTW) trên thế giới sử dụng để đánh giá mức độ ổn
định tài chính của quốc gia họ trên cơ sở các Báo cáo ổn định tài chính được phát
hành bởi các NHTW này. Về cơ bản, việc lựa chọn các chỉ tiêu đánh giá phụ thuộc
vào các điều kiện cụ thể trong nền kinh tế và các khu vực có nguy cơ rủi ro cao.
Đối với các nền kinh tế mới nổi có độ mở cao, các quốc gia này chủ yếu sử dụng
các chỉ tiêu đề đo lường sự biến động của các dòng vốn, cán cân thanh toán, và
diễn biến tỷ giá hối đoái; trong khi các nước phát triển lại tập trung vào đánh giá
và đo lường rủi ro của hệ thống ngân hàng. Hầu hết các báo cáo của các quốc gia
đều phân tích các chỉ số của ngành ngân hàng, mặc dù các chỉ số cụ thể sử dụng
có thể khác nhau. Một số báo cáo có xu hướng tập trung vào hiệu suất và rủi ro
của ngành ngân hàng, trong khi các báo cáo khác còn bao gồm cả các công ty bao
hiểm, quỹ phòng hộ và các trung gian tài chính khác.
Bộ chỉ số ổn định tài chính, đây là bộ chỉ số giúp đo lường và đánh giá sự
ổn định, lành mạnh của hệ thống tài chính của một hoặc một nhóm các quốc gia
theo từng khu vực kinh tế (như khu vực ngân hàng, thị trường tài chính, khu vực
bên ngoài nền kinh tế, khu vực kinh tế thực…), hoặc theo đặc tính của hệ thống tài
6
chính (như mức độ lành mạnh, mức độ căng thẳng, điều kiện tài chính…). Các bộ
chỉ số này được xây dựng bởi các tổ chức quốc tế và ngân hàng trung ương một số
quốc gia với mục tiêu gợi ý cho các nước trong việc tự đánh giá, đo lường mức độ
lành mạnh và ổn định của hệ thống tài chính. Một số bộ chỉ số ổn định tài chính
tổng hợp cơ bản như bộ chỉ số lành mạnh tài chính của IMF, bộ chỉ số an toàn vĩ
mô của ECB và bộ chỉ số an toàn vĩ mô của ADB.
Với mục tiêu đề xuất xây dựng bộ chỉ số cho các quốc gia, Bhattacharyay
(2002) đã nghiên cứu đề xuất một khung các chỉ số an toàn vĩ mô (MPIs) nhằm
giám sát những đổ vỡ của thị trường tài chính. Nghiên cứu đã trình bày một cách
tóm tắt bộ chỉ số cốt lõi với 22 chỉ tiêu cơ bản (được trích từ trong 67 chỉ tiêu phổ
biến được thông qua của ADB) để áp dụng cho 6 quốc gia Châu Á – Thái Bình
Dương bao gồm Fiji, Indonesia, Philippines, Thái Lan, Việt Nam và Đài Loan.
Các chỉ tiêu này bao gồm các nhóm liên quan đến tiền tệ và tín dụng, ngân hàng,
lãi suất, thị trường chứng khoán, thương mại quốc tế và dự trữ ngoại hối và kết
quả khảo sát kinh doanh. Navajas and Thegeya (2013) đã kiểm định tính hiệu quả
của bộ chỉ số FSIs như là báo hiệu của khủng hoảng dựa trên bộ số liệu của 80
quốc gia có báo cáo FSIs cho IMF trong giai đoạn từ 2005 đến 2012. Kiểm định
này được thực hiện với 6 chỉ số cơ bản trong FSIs bao gồm: hệ số an toàn vốn
CAR, ROE, tỷ lệ nợ xấu NPL, tỷ lệ (Nợ xấu – Dự phòng rủi ro)/ Vốn, tỷ lệ chi phí
phi lãi suất/ thu nhập thuần và tỷ lệ chênh lệch lãi/ thu nhập thuần. Kết quả cho
thấy mối tương quan có ý nghĩa giữa 3 chỉ số CAR, ROE và tỷ lệ chi phí phi lãi/
thu nhập thuần với khả năng xảy ra khủng hoảng hệ thống ngân hàng và đưa ra gợi
ý là 3 chỉ số này nên được sử dụng như là dấu hiệu cảnh báo của khủng hoảng
ngân hàng. Indraratna (2013) cũng thực hiện phân tích các chỉ tiêu FSIs và MPIs,
tuy nhiên, tác giả thực hiện giới thiệu khía cạnh mới về chính sách an toàn vĩ mô,
đồng thời phân tích cấu trúc hệ thống tài chính của các nước Asean và việc sử
dụng các chỉ số FSIs tại các nước này.
Chỉ số ổn định tổng hợp duy nhất, trên cơ sở tìm hiểu các chỉ số ổn định tài
chính tổng hợp duy nhất đang được NHTW các quốc gia cũng như các nhà nghiên
7
cứu kinh tế giới thiệu, nhóm nghiên cứu nhận thấy chỉ số ổn định duy nhất đang
được xây dựng theo một trong hai cách: (i) thông qua việc xây dựng chỉ số phụ và
kết hợp các chỉ số này thành chỉ số tổng hợp duy nhất (gián tiếp) và (ii) xây dựng
chỉ số ổn định tổng hợp duy nhất trực tiếp từ sự kết hợp các chỉ số trong bộ chỉ số
(trực tiếp).
Theo phương pháp gián tiếp, chỉ số ổn định tài chính tổng hợp duy nhất
được xây dựng bằng cách kết hợp nhiều các chỉ số phụ, phản ánh sự ổn định của
các khu vực riêng lẻ như: khu vực ngân hàng, thị trường tài chính, khu vực bên
ngoài nền kinh tế, khu vực kinh tế thực… Các chỉ số phụ với nhiều tên gọi khác
nhau: chỉ số ngân hàng, chỉ số điều kiện tài chính, chỉ số điều kiện thị tiền tệ, chỉ
số phát triển tài chính, chỉ số căng thẳng tài chính, chỉ số rủi ro, chỉ số thanh
khoản thị trường… sẽ được dùng làm cơ sở để tính toán ra một chỉ số ổn định tài
chính tổng hợp. Đây là cách tiếp cận đang được nhiều cơ quan điều hành, Ngân
hàng trung ương (NHTW) cũng như các nhà nghiên cứu độc lập lựa chọn khi
muốn đo lường, đánh giá sự ổn định của hệ thống tài chính. Các nghiên cứu tiêu
biểu về xu hướng này như Morris (2010) cho Ngân hàng trung ương Jamaica,
Braga, Pereira và Reis (2014) cho hệ thống tài chính Bồ Đào Nha, Cerqueira và
Murcia (2015) cho trường hợp của Tây Ban Nha, Akosha, Loloh, Lawson và
Kumah (2018) áp dụng cho hệ thống tài chính Ghana…
Theo phương pháp trực tiếp, phương pháp khác được sử dụng xây dựng một
chỉ số ổn định tài chính duy nhất là tổng hợp trực tiếp từ bộ chỉ số. Với phương
pháp này, quy trình xây dựng chỉ số tổng hợp cũng tương tự như ở trên, tuy nhiên sẽ
bỏ qua bước thiết lập chỉ số phụ. Việc nhóm các biến số thành chỉ số phụ không chỉ
có ý nghĩa kinh tế khi phản ánh tính chất của một lĩnh vực, khu vực trong hệ thống
mà còn là bước trung gian giúp các nhà nghiên cứu dễ dàng hơn khi tổng hợp một
số lượng lớn các biến số. Chính vì vậy, khi tiếp cận theo cách này, số lượng các
biến số được sử dụng để tổng hợp thường ít hơn, tạo điều kiện cho việc tổng hợp
trực tiếp các biến số vào vào chỉ số chính. Các chỉ số được xây dựng theo phương
pháp này được trình bày trong các nghiên cứu của Illing và Liu (2003) cho Canada,
8
Nelson và Perli (2005) cho Mỹ, Geršl và Heřmánek (2006) cho Séc, Van den End
(2006) cho Hà Lan…
2.2. Nghiên cứu trong nước
Vấn đề ổn định tài chính tại Việt Nam cũng đã được đề cập đến qua một số
các nghiên cứu của các tác giả đến từ các Viện nghiên cứu và Ngân hàng Nhà
nước. Cụ thể, nghiên cứu Phạm Anh Thái (2014) đã chỉ ra mối liên hệ mật thiết
giữa ổn định tài chính, giám sát an toàn vĩ mô và rủi ro hệ thống cũng như những
thay đổi trong vấn đề ổn định tài chính và giám sát an toàn vĩ mô từ sau cuộc
khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 tại các quốc gia trên thế giới như thay
đổi về tư duy chính sách (ổn định tài chính là mục tiêu quan trọng của ổn định
kinh tế vĩ mô) và thay đổi về thể chế giám sát an toàn vĩ mô (cần có một cơ quan
được giao nhiệm vụ giám sát an toàn vĩ mô, chuyên theo dõi, phát hiện, xử lý rủi
ro hệ thống của hệ thống tài chính). Ngoài ra, Phạm Anh Thái cũng đề cập đến các
vấn đề có thể gây nên bất ổn tài chính tại Việt Nam như: thâm hụt cán cân thương
mại và thâm hụt Ngân sách kéo dài, chính sách tài khóa và tiền tệ chưa đồng bộ,
giá tài sản tăng cao và sự lên xuống thất thường của tỷ lệ lạm phát. Phạm Tiên
Phong (2014) đã tìm hiểu mô hình thể chế của khuôn khổ chính sách an toàn vĩ
mô ở các nước, cùng với những phân tích về thực trạng hoạt động giám sát tài
chính ở Việt Nam, từ đó đề xuất gợi ý cho khuôn khổ chính sách an toàn vĩ mô
của Việt Nam. Trong đó, tác giả đề cập đến yếu tố then chốt cần phải thực hiện,
đó là: khuôn khổ pháp lý, các công cụ, xây dựng cơ sở dữ liệu và chia sẻ thông tin,
và cơ chế phối hợp giữa các cơ quan. Trần Lưu Trung và Nguyễn Trung Hậu
(2014) đã chứng minh sự cần thiết phải xây dựng các công cụ và các chỉ số an
toàn vĩ mô, giúp đánh giá được mức độ ổn định tài chính và từ đó sử dụng các
công cụ điều chỉnh phù hợp. Hai tác giả đồng thời cũng giới thiệu và so sánh các
bộ chỉ số an toàn vĩ mô do Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng trung ương châu
Âu (ECB) và Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) đưa ra, từ đó đề xuất một số chỉ
số cơ bản với bốn lĩnh vực: ngân hàng, tiền tệ và tín dụng, chứng khoán và các
biến số vĩ mô khác cho Việt Nam khi xây dựng bộ chỉ số an toàn vĩ mô. Nguyễn
9
Đức Thành và Vũ Minh Long (2014) đã thực hiện đánh giá hệ thống NHTM Việt
Nam thông qua bộ chỉ số lành mạnh tài chính FSI cốt lõi được gợi ý bởi IMF.
Ngoài một số chỉ số cốt lõi chưa thể tính toán được như: (i) vốn tự có cấp 1/ Tổng
TSCRR quy đổi, (ii) trạng thái ngoại tệ ròng/ Tổng vốn và (iii) Tỷ trọng dư nợ
theo lĩnh vực kinh tế/ Tổng dư nợ thì đánh giá chung là hệ thống ngân hàng tại VN
hoạt động chưa được ổn định. Mặc dù hệ số an toàn vốn CAR của các NHTM luôn
cao hơn mức 9% theo quy định của NHNN, nhưng chất lượng tài sản không được
đảm bảo do vấn đề nợ xấu tồn động trong toàn bộ hệ thống. Trong báo cáo của
ADB (2015) về ổn định tài chính tại Việt Nam cũng đề cập đến vấn đề nợ xấu như
là một trong những nhân tố bất ổn, có thể gây khủng hoảng cho hệ thống. Ngoài
ra, các chỉ số đo lường thu nhập và lợi nhuận tại 12 NHTM Việt Nam cũng thể
hiện sự thay đổi bất thường, suy giảm mạnh bất chấp kết quả tăng trưởng ấn tượng
trước đó. Chỉ số đánh giá khả năng thanh khoản cũng cho thấy sự suy giảm, thể
hiện những bất ổn trong hoạt động hệ thống ngân hàng.
2.3. Khoảng trống nghiên cứu
Nhìn chung, các nghiên cứu về ổn định tài chính đã cung cấp hệ thống cơ
sở lý luận tương đối toàn diện về vấn đề ổn định tài chính, đặc biệt tại các quốc
gia phát triển. Các nghiên cứu này đã trình bày rất nhiều khía cạnh khác nhau của
vấn đề ổn định tài chính: khái niệm ổn định tài chính và bất ổn tài chính, đặc điểm
của ổn định tài chính, các nguyên nhân gây rủi ro cho ổn định tài chính, đo lường
ổn định tài chính…Đối với các nghiên cứu tại Việt Nam, mặc dù đã có một số các
công trình nghiên cứu khoa học về ổn định tài chính, tuy nhiên số lượng các
nghiên cứu về chủ đề này chưa nhiều và vẫn còn tồn tại một số khoảng trống
nghiên cứu nhất định. Cụ thể:
Thứ nhất, về mặt lý luận, các nghiên cứu trước chưa làm rõ cơ sở thiết lập
bộ chỉ số cũng như các tiêu chí khi lựa chọn các chỉ số đo lường ổn định hệ thống
tài chính.
Thứ hai, các nghiên cứu tổng hợp kinh nghiệm và bài học cho Việt Nam
trong việc đo lường ổn định tài chính chưa nhiều, đặc biệt là kinh nghiệm từ các
10
nền kinh tế mới nổi trong khu vực. Đo lường ổn định tài chính thông qua bộ chỉ số
tồng hợp và xây dựng chỉ số tổng hợp duy nhất đang là xu hướng được nhiều quốc
gia trên thế giới thực hiện, trong đó có cả các quốc gia đang phát triển có điều
kiện tài chính tương đồng với Việt Nam. Tuy nhiên, các nghiên cứu về điều kiện,
cách thức xây dựng, triển khai các bộ chỉ số và chỉ số tổng hợp duy nhất tại các
quốc gia này là còn hạn chế.
Thứ ba, các nghiên cứu về đo lường ổn định tài chính tại Việt Nam thông
qua bộ chỉ số hay chỉ số tổng hợp còn rất hạn chế. Nghiên cứu của Phạm Tiên
Phong và cộng sự (2015) đã gợi ý một khuôn khổ điều hành chính sách an toàn vĩ
mô và đưa ra một bộ chỉ số an toàn vĩ mô cho Việt Nam với 72 chỉ tiêu. Tuy
nhiên, nhóm tác giả chưa lý giải cơ sở lựa chọn các chỉ số này cũng như chứng
minh sự phù hợp của các chỉ số này với điều kiện của hệ thống tài chính Việt
Nam. Hơn nữa, với mục tiêu đo lường, đánh giá nhanh tình trạng ổn định và lành
mạnh của hệ thống tài chính, bộ chỉ số với 72 chỉ tiêu này là tương đối cồng kềnh
và khó có thể đưa ra kết quả trong thời gian ngắn.
Đây là khoảng trống nghiên cứu mà luận án có thể thực hiện nghiên cứu,
qua đó, đưa ra các kiến nghị chính sách phù hợp cho các cơ quan quản lý.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Luận án được thực hiện với mục tiêu chung là xây dựng một bộ chỉ số có
khả năng đo lường mức độ ổn định tài chính phù hợp với đặc điểm tài chính Việt
Nam, từ đó phát triển thành chỉ số ổn định tài chính tổng hợp duy nhất. Các mục
tiêu cụ thể của luận án bao gồm:
Thứ nhất, hệ thống hóa cơ sở lý thuyết về ổn định tài chính, đặc biệt là chỉ
ra quy trình thiết bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính.
Thứ hai, tổng kết kinh nghiệm lựa chọn, sử dụng các chỉ số đo lường mức
độ ổn định hệ thống tài chính tại các quốc gia: Anh, Trung Quốc, Hàn Quốc và
Indonesia. Từ đó, rút ra một số bài học cho Việt Nam trong việc đo lường và lựa
chọn các chỉ số ổn định tài chính.
11
Thứ ba, đánh giá các điều kiện của hệ thống tài chính Việt Nam, xây dựng
và đề xuất bộ chỉ số ổn định tài chính cho Việt Nam.
Thứ tư, đề xuất các khuyến nghị cho cơ quan điều hành để nâng cao hiệu
quả công tác đo lường ổn định tài chính và đề xuất chỉ số tổng hợp duy nhất.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của luận án là bộ chỉ số đo lường ổn định tài
chính, cơ sở xây dựng và ý nghĩa các nhóm chỉ số trong bộ chỉ số của các tổ chức
quốc tế (IMF, ADB và ECB) và các chỉ số được sử dụng bởi các quốc gia (Anh,
Trung Quốc, Hàn Quốc, Indonesia) cũng như thực trạng thiết lập bộ chỉ số đo
lường mức độ ổn định của hệ thống tài chính tại Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu về không gian: ba cấu phần chính là hệ thống ngân
hàng, thị trường tài chính, khu vực kinh tế vĩ mô trong giai đoạn 2008-2018.
5. Phương pháp nghiên cứu
Với mục tiêu là thiết lập bộ chỉ số để đánh giá mức độ ổn định của hệ thống
tài chính Việt Nam, từ đó phát triển chỉ số ổn định tài chính tổng hợp, tác giả sử
dụng nguồn số liệu cho luận án là các số liệu thứ cấp trong giai đoạn 2008-2018.
Các dữ liệu được thu thập từ các nguồn đáng tin cậy như website của Ngân hàng
Nhà nước, Bộ Tài chính, Tổng cục thống kê, Ủy ban chứng khoán Nhà nước, Ủy
ban giám sát tài chính quốc gia, Quỹ tiền tệ quốc tế, Ngân hàng thế giới, Ngân
hàng dự trữ St. Louis. Từ các dữ liệu thu thập được, nghiên cứu sinh sử dụng kết
hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học sau:
- Phương pháp định tính: thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp, diễn dịch,
quy nạp, kết hợp với bảng biểu minh họa để đánh giá thực trạng các rủi ro cho hệ
thống tài chính cũng như mức độ ổn định của các khu vực hệ thống tài chính.
- Phương pháp định lượng:
+ Phương pháp trọng số cân bằng để thiết lập chỉ số ổn định hệ thống tài
chính cho Việt Nam. Trên cơ sở xác định ba khu vực rủi ro tiềm ẩn cho hệ thống
tài chính là khu vực ngân hàng, thị trường tài chính và khu vực kinh tế vĩ mô, tác
giả lựa chọn các chỉ số phù hợp có khả năng phản ánh mức độ ổn định của các khu
12
vực này. Các biến số sẽ được chuẩn hóa theo phương pháp Min-Max, sau đó được
tổng hợp lại thành một chỉ số duy nhất với trọng số bằng nhau.
+ Phương pháp phân tích thành tố chính (Principal Component Analysis-
PCA) là một thuật toán thống kê để xây dựng chỉ số ổn định tổng hợp. Phương
pháp này được sử dụng giúp giảm chiều dữ liệu, chuyển đổi biến cũ trong mối
tương quan tuyến tính với nhiều biến khác thành biến mới ít tương quan, mà vẫn
giữ được hàm ý thông tin, nhằm khái quát khả năng đo lường ổn định tài chính
thông qua một chỉ số tổng hợp duy nhất. Trên cơ sở các chỉ số được lựa chọn
trong bộ chỉ số, tác giả sử dụng phương pháp Normed PCA để chuẩn hóa các biến
số này, sau đó thực hiện tổng hợp PCA để xây dựng một chỉ số. Đây là một
phương pháp rất phổ biến trong tổng hợp dữ liệu đa chiều cũng và được sử dụng
trong các nghiên cứu của Morris (2010) cho NHTW Jamaica, Karanovic và
Karanovic (2015) cho các quốc gia khu vực Balkans…
+ Để xác định phương pháp tổng hợp nào phù hợp, tác giả thực hiện kiểm
định lỗi loại I và loại II theo phương pháp của Illing và Liu (2003) áp dụng cho
NHTW Canada.
6. Tính mới của luận án
Về mặt lý luận:
Thứ nhất, luận án trình bày và làm rõ khái niệm ổn định tài chính trên quan
điểm của các tổ chức quốc tế, Ngân hàng trung ương và các nhà nghiên cứu độc
lập, sự khác biệt trong những khái niệm này. Luận án cũng chỉ ra những đặc điểm
của ổn định tài chính, mối liên hệ giữa chính sách an toàn vĩ mô và các chính sách
khác nhằm thực thi mục tiêu ổn định tài chính. Bên cạnh đó, luận án cũng thống
kê những nguyên nhân, nguồn gốc gây rủi ro cho hệ thống tài chính, làm cơ sở để
phân tích các chỉ tiêu sử dụng đo lường ổn định tài chính.
Thứ hai, luận án đưa ra quy trình thiết lập bộ chỉ số đo lường ổn định hệ
thống tài chính với bốn bước: nhận diện rủi ro, phân nhóm rủi ro, xác định các chỉ
tiêu phản ánh rủi ro và thu thập dữ liệu, kiểm định tính phù hợp của chỉ tiêu. Luận
án kết hợp phân tích cơ sở hình thành các bộ chỉ số của các tổ chức quốc tế như
13
IMF, ECB, ADB, phân loại các bộ chỉ số đo lường ổn định tài chính theo các
hướng tiếp cận vi mô và vĩ mô, chỉ ra ưu điểm của từng hướng tiếp cận và điều
kiện sử dụng các bộ chỉ số này.
Về mặt thực tiễn:
Thứ nhất, luận án đã thực hiện tổng hợp các kinh nghiệm thiết lập bộ chỉ số đo lường ổn định tài chính tại một số quốc gia với các cấp độ phát triển khác nhau,
để có cái nhìn tổng thể về phương pháp đo lường ổn định tài chính các quốc gia
đang thực hiện. Từ kinh nghiệm đó, có thể rút ra bài học cho Việt Nam trong việc thiết
lập và lựa chọn các chỉ số phù hợp với điều kiện để đo lường ổn định tài chính.
Thứ hai, luận án thiết lập bộ chỉ số đo lường mức độ ổn định của hệ thống
tài chính Việt Nam gắn với điều kiện kinh tế - tài chính hiện nay.
Thứ ba, luận án đưa khuyến nghị tính toán chỉ số ổn định tài chính tổng hợp
dựa trên bộ chỉ số gợi ý cho cơ quan điều hành.
Thứ tư, luận án cũng xây dựng hệ thống khuyến nghị cho các cơ quan điều hành trong việc thành lập hội đồng ổn định tài chính, định hình vai trò của NHTW trong thực thi chính sách ổn định tài chính, xây dựng trung tâm thông tin dữ liệu, tăng cường sự phối hợp giữa các bộ, các đơn vị, nâng cao nhận thức về kinh tế-tài chính cho công chúng…
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
án bao gồm 4 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về thiết lập bộ chỉ số đo lường ổn định hệ
thống tài chính
Chương 2: Thiết lập bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính –
Kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam
Chương 3: Thực trạng thiết lập bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài
chính Việt Nam
Chương 4: Một số khuyến nghị về thiết lập bộ chỉ số đo lường ổn định
hệ thống tài chính Việt Nam
14
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THIẾT LẬP BỘ CHỈ SỐ ĐO LƯỜNG
ỔN ĐỊNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH
1.1. Khái quát chung về hệ thống tài chính
1.1.1. Khái niệm hệ thống tài chính
Có khá nhiều cách tiếp cận khác nhau khi đề cập đến hệ thống tài chính.
Một số nghiên cứu có thể nhìn nhận hệ thống dưới góc phân phối tài chính và chia
hệ thống tài chính thành các bộ phận: tín dụng, bảo hiểm, tài chính Nhà nước, tài
chính doanh nghiệp và tài chính hộ gia đình, tổ chức xã hội. Một số nghiên cứu
khác đề cập đến hệ thống tài chính dưới góc độ trung gian vốn hoặc chức năng
(Schmidt và Hryckiewicz, 2006).
Đối với cách tiếp cận dựa trên trung gian vốn, Gurley và Shaw (1960) định
nghĩa “hệ thống tài chính là nơi luân chuyển vốn trong nền kinh tế từ người thừa
vốn (người tiết kiệm) đến người thiếu vốn (người đầu tư) trong đó có sự tham gia
của ngân hàng và các tổ chức trung gian tài chính”.
Đối với cách tiếp cận dựa trên chức năng, Merton và Bodie (1995) cho rằng
“một hệ thống tài chính sẽ thực hiện đầy đủ các chức năng nhất định bao gồm:
luân chuyển vốn theo thời gian và không gian, chuyển đổi các quyền truy đòi và
nghĩa vụ, phân bổ rủi ro, cung cấp thông tin, xóa bỏ vấn đề về động cơ, và cung
cấp cơ chế thanh toán”.
Một cách tiếp cận nữa là kết hợp cả hai góc độ trên. Đây cũng là cách tiếp
cận được nhiều tổ chức quốc tế và nhà kinh tế độc lập quan tâm.
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) định nghĩa “hệ thống tài
chính bao gồm các tổ chức và thị trường tương tác với nhau nhằm mục tiêu luân
chuyển vốn cho đầu tư, và cung cấp các phương tiện, ba gồm các hệ thống thanh
toán, để tài trợ vốn cho hoạt động thương mại”.
Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF, 2004) cho rằng “hệ thống tài chính bao gồm các
ngân hàng, thị trường tài chính, các quỹ hưu trí và quỹ đầu tư, hạ tầng tài chính và
Ngân hàng trung ương cũng như các cơ quan quản lý khác Các tổ chức và thị
trường trong hệ thống tài chính giúp thực hiện các giao dịch kinh tế và truyền tải
15
chính sách tiền tệ và giúp luân chuyển từ tiết kiệm đến đầu tư, từ đó hỗ trợ tăng
trường kinh tế”.
Tô Kim Ngọc và Nguyễn Thanh Nhàn (2019) nhận định: “hệ thống tài
chính là một tổng thể bao gồm các chủ thể dư thừa và thiếu hụt vốn (người tiết
kiệm và nhà đầu tư), tổ chức tài chính, thị trường tài chính, các tổ chức quản lý
giám sát và điều hành hệ thống tài chính để tổ chức phân bổ nguồn lực tài chính
theo thời gian.”
Như vậy, có thể hiểu hệ thống tài chính là một tổng thể bao gồm các chủ
thể dư thừa và thiếu hụt vốn, các tổ chức và thị trường tài chính, các cơ quan
quản lý giám sát hoạt động với mục tiêu luân chuyển và phân bổ vốn hiệu quả,
góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
1.1.2. Phương thức luân chuyển vốn trong hệ thống tài chính
Dựa vào sự vận động của các dòng vốn trong hệ thống tài chính, các chủ
thể dư thừa và thiếu hụt vốn có thể chuyển giao số vốn theo một trong trong hai
cách: chuyển giao vốn trực tiếp và chuyển giao vốn gián tiếp (qua trung gian).
Vốn
Vốn
Thị trường tài chính
Người tiết kiệm (Người cung ứng vốn)
Người đầu tư (Người có nhu cầu vốn)
Vốn
Vốn
Trung gian tài chính
Hình 1.1. Phương thức luân chuyển vốn trong hệ thống tài chính.
Nguồn: Tô Kim Ngọc và Nguyễn Thanh Nhàn (2019)
Phương thức luân chuyển vốn trực tiếp: là phương thức trong đó vốn được
chuyển giao trực tiếp từ người dư thừa đến người thiếu hụt vốn, có thể thông qua
16
môi giới. Trong đó, người môi giới chỉ là người ở giữa, thực hiện kết nối, giúp cho
hai bên đối tác gặp nhau mà không thực hiện giao dịch cho bản thân. Hoạt động
chuyển giao vốn này thường được thực hiện trên thị trường tài chính, thông qua
việc mua bán các công cụ tài chính giữa người tiết kiệm và người đi vay, trong đó
người đi vay sẽ phát hành công cụ tài chính cho người tiết kiệm.
Phương thức luân chuyển vốn gián tiếp: là phương thức trong đó vốn được
chuyển giao từ người dư thừa đến người thiếu hụt thông qua vai trò của các trung
gian tài chính. Sự xuất hiện của các trung gian tài chính (ngân hàng, công ty bảo
hiểm, công ty tài chính, cho thuê tài chính…) giúp giảm thiểu những hạn chế từ
việc đầu tư trực tiếp như: chi phí giao dịch lớn, tính lỏng các tài sản tài chính kém,
rủi ro cao…
1.1.3. Cấu trúc hệ thống tài chính
Cách phân loại hệ thống tài chính phổ biến nhất hiện nay là dựa vào tầm
quan trọng của kênh dẫn vốn (trực tiếp hay gián tiếp) và chia hệ thống tài chính
thành hai loại: hệ thống tài chính dựa vào ngân hàng và hệ thống tài chính dựa vào
thị trường.
Hệ thống tài chính dựa vào ngân hàng là hệ thống tài chính trong đó, ngân
hàng đóng vai trò quan trọng trong việc cung ứng vốn cho các doanh nghiệp, và
ngược lại, các doanh nghiệp phụ thuộc phần lớn vào lượng vốn vay từ ngân hàng
như là nguồn tài trợ bên ngoài. Đối với hệ thống tài chính này, ngân hàng là tổ
chức nhận tiền gửi quan trọng nhất, mối quan hệ giữa ngân hàng và doanh nghiệp
cũng rất chặt chẽ bởi ngân hàng vừa là chủ nợ vừa là người giám sát doanh nghiệp
khỏi những khó khăn tài chính. Các quốc gia có cấu trúc hệ thống dựa vào ngân
hàng điển hình như Đức, Nhật, Canada và phần lớn các quốc gia đang phát triển.
Ưu điểm của hệ thống tài chính dựa vào ngân hàng gắn liền với vai trò của các
trung gian tài chính, mà chủ yếu là hệ thống ngân hàng. Các ngân hàng với khả
năng thu thập, phân tích thông tin cũng như giám sát khoản vay tốt hơn cùng với
chức năng biến đổi tài sản, tạo ra những công cụ an toàn và tính lỏng cao hơn đã
đem lại lợi thế cho kênh luân chuyển vốn gián tiếp. (Tô Kim Ngọc và Nguyễn
17
Thanh Nhàn, 2019). Tuy nhiên, hệ thống ngân hàng lại gặp hạn chế trong việc cho
vay liên quan đến khối lượng và thời hạn vay (Schmidt và Hryckiewicz, 2006). Do
các ngân hàng có xu hướng tập trung vào các dự án có tính an toàn cao, rủi ro thấp
nên các doanh nghiệp nhỏ hay mới thành lập sẽ khó có cơ hội tìm được nguồn tài
trợ từ các ngân hàng. Bên cạnh đó, lãi suất cho vay từ ngân hàng cũng cao hơn so
với nguồn vốn huy động qua thị trường tài chính bởi những chi phí trung gian.
Hệ thống tài chính dựa vào thị trường là hệ thống tài chính, trong đó, thị
trường tài chính (thị trường vốn) là nguồn tài trợ chính cho các doanh nghiệp và
cũng là nơi công chúng, hộ gia đình đầu tư phần lớn số tiền tiết kiệm. Trong hệ
thống tài chính này, các tổ chức trung gian tài chính phi ngân hàng sẽ đóng vai trò
quan trọng hơn trong việc nhận tiền gửi tiết kiệm của hộ gia đình và sử dụng phần
lớn số tiền để đầu tư trên thị trường chứng khoán. Anh và Mỹ là hai đại diện điển
hình cho nhóm các quốc gia có cấu trúc dựa vào thị trường, với sự phát triển vượt
bậc của thị trường tài chính. Ngược lại với hệ thống tài chính dựa vào ngân hàng,
ưu điểm của cấu trúc tài chính dựa vào thị trường là cung cấp những công cụ quản
lý rủi ro đa dạng, phù hợp với các giao dịch tiêu chuẩn và giao dịch riêng biệt.
Bên cạnh đó, sự phát triển của thị trường tài chính khuyến khích sự hình thành các
doanh nghiệp mới, tạo điều kiện cho tăng trưởng kinh tế.
1.2. Những vấn đề cơ bản về ổn định tài chính
1.2.1. Khái niệm ổn định tài chính
Có nhiều các quan điểm được đưa ra về ổn định tài chính từ các tổ chức
quốc tế, ngân hàng trung ương các quốc gia cho đến các nhà nghiên cứu, chuyên
gia kinh tế độc lập. Về cơ bản, các định nghĩa về ổn định tài chính được đưa ra
dựa trên hai cách tiếp cận chính.
Thứ nhất, định nghĩa ổn định tài chính nhìn từ góc độ hệ thống tài chính
(cách tiếp cận trực tiếp). Dù cùng khẳng định ổn định tài chính là ổn định hệ
thống tài chính, tuy nhiên, các tổ chức và các nhà nghiên cứu cũng có những quan
điểm khác nhau khi nhìn nhận về ổn định tài chính.
- Nhìn từ góc độ chức năng hệ thống tài chính. Điển hình cho cách tiếp cận
này là Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng thế giới (WB) khi đưa ra định
18
nghĩa: “Ổn định tài chính là điều kiện đạt được khi hệ thống tài chính thực hiện
đầy đủ các chức năng của nó”. Cách tiếp cận này của IMF và WB là dựa trên
chức năng của hệ thống tài chính với nghĩa khá rộng, trong đó một hệ thống tài
chính được coi là ổn định, có nghĩa là đủ khả năng phân bổ hiệu quả các nguồn
lực, đánh giá và quản trị rủi ro tài chính, duy trì tỷ lệ việc làm gần với tỷ lệ thất
nghiệp tự nhiên của nền kinh tế, và loại trừ một cách tương đối những biến động
giá của các tài sản thực và tài sản tài chính có thể ảnh hưởng đến ổn định tiền tệ
hoặc tỷ lệ việc làm. Bên cạnh đó, hệ thống tài chính ổn định còn có thể đạt được
khi nó có thể loại bỏ những mất cân bằng tài chính phát sinh trong nội tại hoặc do
chịu ảnh hưởng của các cú sốc bất ngờ bên ngoài. Nếu đạt được sự ổn định, hệ
thống sẽ hấp thu được các cú sốc chủ yếu qua cơ chế tự điều chỉnh, ngăn ngừa tác
động bất lợi của các sự kiện bên ngoài. Sự ổn định tài chính là yếu tố vô cùng
quan trọng giúp cho sự phát triển của nền kinh tế bởi tất cả các giao dịch trong nền
kinh tế thực đều được thực hiện thông qua hệ thống tài chính.
- Nhìn từ góc độ các cấu phần của hệ thống tài chính. Ngân hàng trung
ương Hàn Quốc (BOK) đứng trên quan điểm này và đưa ra định nghĩa như sau:
“Ổn định tài chính là hệ thống tài chính với ba cấu phần: tổ chức tài chính, thị
trường tài chính và cơ sở hạ tầng tài chính được ổn định. Trong đó:
(i) Ổn định tổ chức tài chính là khi từng tổ chức tài chính đủ lành mạnh để
thực hiện tất cả các chức năng trung gian tài chính một cách đầy đủ và trơn tru,
không cần đến sự hỗ trợ từ các tổ chức bên ngoài, bao gồm cả Chính phủ;
(ii) Ổn định thị trường tài chính đạt được khi không có những gián đoạn lớn
trong các giao dịch thị trường, không có sự biến động quá lớn trong giá tài sản, và
vì thế, cho phép các chủ thể kinh tế có thể huy động và sử dụng số vốn của mình
một cách tự tin và hiệu quả;
(iii) Ổn định cơ sở hạ tầng tài chính có nghĩa là điều kiện trong đó, hệ
thống tài chính được cấu trúc tốt để đảm bảo thực thi trơn tru kỷ luật thị
trường, mạng lưới an toàn tài chính và hệ thống thanh toán, giao dịch được vận
hành hiệu quả”.
19
Cũng dựa trên cách tiếp cận này, Crockett (1997) đưa ra khái niệm “Ổn
định tài chính là sự ổn định của các tổ chức tài chính và thị trường tài chính chủ
chốt của hệ thống tài chính. Điều này có nghĩa là: (i) các tổ chức chủ chốt trong hệ
thống tài chính phải ổn định, nghĩa là các tổ chức này có thể tiếp tục thực hiện các
giao dịch tài chính, nghĩa vụ tài chính mà không bị gián đoạn hoặc cần đến sự hỗ
trợ từ bên ngoài; (ii) thị trường tài chính phải ổn định, trong đó những chủ thể
tham gia có thể thực hiện các giao dịch tài chính tại các mức giá phản ánh nguồn
lực cơ bản và không có những thay đổi bền vững trong giai đoạn ngắn”. Định
nghĩa này khá tương đồng với cách định nghĩa của BOK khi đề cập đến tầm quan
trọng của việc giữ ổn định tổ chức tài chính và thị trường tài chính, tuy nhiên, lại
không đề cập đến vai trò của cơ sở hạ tầng tài chính.
- Nhìn từ góc độ rủi ro cho hệ thống tài chính. Ngân hàng trung ương châu
Âu (ECB) cho rằng, ổn định tài chính sẽ đạt được khi những rủi ro hệ thống được
ngăn chặn. Trong đó, rủi ro hệ thống được mô tả là rủi ro làm tổn hại đến việc
cung ứng các sản phẩm dịch vụ tài chính của hệ thống tài chính, từ đó gây ảnh
hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế và phúc lợi xã hội. Mặc dù tiếp cận thông
qua việc đề cập đến rủi ro hệ thống, nhưng về cơ bản, quan điểm của ECB cũng
tương đồng với WB và IMF khi cho rằng, ổn định tài chính là điều kiện tại đó hệ
thống tài chính – bao gồm trung gian tài chính, thị trường tài chính và cơ sở hạ
tầng thị trường – có khả năng đứng vững trước những cú sốc, những mất cân bằng
tài chính, từ đó giảm thiểu khả năng gián đoạn quá trình trung chuyển và phân bổ
vốn từ tiết kiệm đến đầu tư. (ECB, 2012).
Một số các nghiên cứu khác như De Bandt and Hartmann (2000), Group of
Ten (2001), Hoelscher and Quintyn (2003) và Summer (2003) lại có cách tiếp cận
ổn định tài chính tương tự như ECB khi tập trung vào rủi ro hệ thống. Các nghiên
cứu này chỉ ra rằng, rủi ro hệ thống xuất hiện trong các mối liên kết giữa các tổ
chức hoặc giữa các thị trường, và những rủi ro này có khả năng cao sẽ tác động
tiêu cực lên nền kinh tế thực.
20
- Nhìn từ góc độ tổng hợp về hệ thống tài chính. Các định nghĩa này được
đưa với hàm ý, ổn định tài chính là sự tổng hòa của nhiều điều kiện, bao gồm
những điều kiện về thực hiện chức năng, về sự ổn định của từng cấu phần cũng
như khả năng hấp thụ các cú sốc, các rủi ro.
Ngân hàng trung ương Anh (BOE) lại đưa ra quan điểm, ổn định tài chính
chỉ có được khi có sự tin tưởng của công chúng và sự tự tin của các tổ chức tài
chính, thị trường, cơ sở hạ tầng và cả hệ thống. Điều này là vô cùng quan trọng để
có được một nền kinh tế lành mạnh và hoạt động hiệu quả. Trong điều kiện thông
thường, các nhà điều hành cũng như các nhà đầu tư khó có thể nhận thấy giá trị
của ổn định tài chính. Tuy nhiên, trong điều kiện bất ổn tài chính, thì giá trị thực
sự của mục tiêu ổn định tài chính mới được thể hiện rõ ràng. Trong giai đoạn này,
ngân hàng không muốn tài trợ vốn cho các dự án, kể cả các dự án đem lại lợi
nhuận tốt, giá tài sản biến động, không phản ánh đúng giá trị nội tại của tài sản, và
các khoản thanh toán không được thực hiện đúng hạn. Phần lớn các bất ổn tài
chính có thể dẫn đến những tác động tiêu cực như việc các ngân hàng phá sản, lạm
phát phi mã hoặc thị trường chứng khoán sụp đổ. Bên cạnh những hậu quả hiện
hữu, nghiêm trọng hơn, bất ổn tài chính còn làm xói mòn niềm tin của công chúng
đối với hệ thống tài chính và cả nền kinh tế, gây ra những tác động dài hạn hơn.
Trên góc độ các nhà nghiên cứu độc lập, Houben và cộng sự (2004) định
nghĩa ổn định tài chính là khả năng giúp hệ thống kinh tế phân bổ nguồn lực một
cách hiệu quả, đánh giá và quản trị rủi ro tài chính và hấp thụ các cú sốc. Ngoài ra,
ổn định tài chính là quá trình liên tục, thay đổi theo thời gian và phù hợp với sự
kết hợp đa dạng của các yếu tố cấu thành nên hệ thống.
Sluijs (2006) lại định nghĩa ổn định tài chính chỉ có được khi thỏa mãn các
điều kiện sau: (i) các cấu phần chính của hệ thống tài chính bao gồm thị trường,
các tổ chức tài chính và cơ sở hạ tầng có khả năng hấp thụ những cú sốc tiêu cực;
(ii) hệ thống tài chính luân chuyển một cách trơn tru và hiệu quả các nguồn lực tài
chính từ người tiết kiệm sang nhà đầu tư; (iii) các rủi ro tài chính được định giá và đánh
giá một cách đầy đủ và hợp lý và (iv) rủi ro được kiểm soát một cách hiệu quả.
21
Thứ hai, định nghĩa ổn định tài chính thông qua bất ổn tài chính (cách
tiếp cận gián tiếp). Một số nhà nghiên cứu độc lập lại tiếp cận ổn định tài chính
bằng cách nghiên cứu về những điều kiện bất lợi cho hệ thống tài chính, khiến
mục tiêu ổn định khó được duy trì.
Mishkin (1994) đưa ra khái niệm dựa trên vấn đề thông tin. Ông cho rằng
“Bất ổn tài chính xảy ra khi có các cú sốc đối với hệ thống tài chính tác động vào
thông tin và vì thế hệ thống tài chính không thể thực hiện chức năng dẫn truyền
vốn đến những cơ hội đầu tư hiệu quả.” Những sai lệch và không đầy đủ về thông
tin (bất cân xứng thông tin) giữa các chủ thể tham gia trên thị trường sẽ làm gia
tăng rủi ro (rủi ro lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức), gây khó khăn cho việc
luân chuyển vốn, ở cấp độ cao hơn sẽ gây khủng hoảng tài chính và kinh tế. Định
nghĩa này được đánh giá là có tính bao quát cao nhưng khó quan sát, không chỉ ra được
những tiêu chí hay chỉ tiêu để xác định được sự ổn định của hệ thống tài chính.
Haldane và cộng sự (2004) cũng tiếp cận theo hướng này nhưng nhấn mạnh
đến sự chênh lệch giữa các phương án đầu tư/ tiết kiệm tối ưu trong khái niệm của
mình “…bất ổn định tài chính là khi có những sai lệch trong kế hoạch đầu tư/ tiết
kiệm tối ưu của nền kinh tế do những mất cân bằng, không hoàn thiện trong khu
vực tài chính.”
Issing (2003) lại cho rằng “… mặc dù phân bổ vốn hiệu quả, điều mà nền
kinh tế nào cũng mong muốn đạt được, nhưng đặc điểm này không nên được đưa
vào như một điều kiện của ổn định tài chính, bởi có những quốc gia, trong một số
giai đoạn khủng hoảng, luồng vốn không được phân bổ hiệu quả, nhưng cũng
không phải gánh chịu bất ổn tài chính.” Issing (2003) và Foot (2003) gợi ý rằng,
ổn định tài chính liên quan đến bong bóng thị trường tài chính hoặc sự biến động
của các chỉ số thị trường tài chính. Các bong bóng làm ảnh hưởng đến hiệu quả thị
trường tài chính, tuy nhiên, nó không là đặc điểm của đổ vỡ tài chính.
Như vậy, có khá nhiều các quan điểm đưa ra xoay quanh vấn đề ổn định tài
chính dưới các góc nhìn khác nhau. Tựu chung lại, ổn định tài chính là ổn định
hệ thống tài chính, là đảm bảo hệ thống tài chính có thể thực hiện đầy đủ, liên
tục và trơn tru các chức năng của nó.
22
1.2.2. Đặc điểm ổn định tài chính
Một là, ổn định tài chính là mục tiêu của chính sách an toàn vĩ mô.
Theo quan điểm của Hội đồng Ổn định tài chính (FSB), Ngân hàng thanh
toán quốc tế (BIS) và Quỹ tiền tệ quốc tế IMF, chính sách an toàn tài chính vĩ mô
tài chính là chính sách sử dụng các công cụ an toàn để hạn chế rủi ro mang tính hệ
thống đối với tổng thể hệ thống tài chính nhằm đạt được mục tiêu giảm thiểu khả
năng đổ vỡ của hệ thống tài chính thông qua việc ngăn ngừa các dịch vụ tài chính
có thể gây hậu quả nghiêm trọng đến nền kinh tế thực. (FSB, BIS và IMF, 2011).
Như vậy, mục tiêu của chính sách an toàn vĩ mô là “ổn định tài chính” thông qua
việc ngăn ngừa những nguy cơ, rủi ro hệ thống trong hệ thống tài chính nhằm đạt
được mục tiêu cuối cùng là tăng trưởng kinh tế bền vững.
Chính sách ổn định tài chính
Chính sách an toàn vi mô
Chính sách an toàn vĩ mô
Chính sách phục hồi
Rủi ro riêng biệt
Rủi ro hệ thống
Ngăn chặn khủng hoảng (Giai đoạn thông thường)
Xử lý khủng hoảng (Giai đoạn khủng hoảng)
Ổn định tài chính
Hình 1.2. Khung chính sách ổn định tài chính
Nguồn: Svensson (2018)
Trong đó, chính sách an toàn vĩ mô là một bộ phận của chính sách ổn định
tài chính, bên cạnh chính sách an toàn vi mô, chính sách an toàn vĩ mô và các
chính sách phục hồi khủng hoảng. Theo Svensson (2018), việc phân định rõ giai
đoạn bình thường và giai đoạn khủng hoảng là tương đối quan trọng, bởi điều này
23
sẽ quyết định hướng mục tiêu điều hành của cơ quan quản lý. Trong điều kiện
bình thường, ổn định, nhà điều hành sẽ thực hiện những chính sách với mục tiêu
ngăn chặn những nguy cơ, rủi ro tiềm tàng có thể ảnh hưởng đến ổn định tài chính
thông qua chính sách an toàn vi mô và vĩ mô. Ngược lại, trong giai đoạn khủng
hoảng, chính sách được ưu tiên sử dụng sẽ là các biện pháp nhằm phục hồi hệ
thống tài chính. Như vậy, chính sách an toàn vĩ mô liên quan đến hoạt động ngăn
chặn khủng hoảng và hướng đến mục tiêu ổn định tài chính.
Hai là, ổn định tài chính là kết quả tương tác của chính sách an toàn vĩ
mô và các chính sách khác.
Các nghiên cứu của IMF (2013), Đỗ Xuân Thành và Đỗ Thiên Anh Tuấn
(2013) cho thấy, chính sách an toàn vĩ mô có sự tương tác và giao thoa với các
chính sách khác, việc đạt được mục tiêu của chính sách này sẽ hỗ trợ cho việc đạt
được mục tiêu của chính sách kia. Sự tương tác và phối hợp giữa các chính sách
giúp làm cân bằng kinh tế vĩ mô, ổn định hệ thống tài chính.
Bảng 1.1. Khu vực chính sách và sự đóng góp vào mục tiêu ổn định tài chính
Mục tiêu cơ bản Mục tiêu ổn định tài chính Khu vực chính sách
Chính sách an toàn Xử lý rủi ro hệ thống (theo thời gian, chéo giữa các khu vực)
Giới hạn những căng thẳng của các tổ chức tài chính và những căng thẳng mang tính hệ thống
Ổn định giá cả
Chính sách tiền tệ Giảm chu kỳ bùng nổ-vỡ của tín dụng và giá tài sản
Chính sách Ổn định giá cả Giảm biến động các dòng vốn
tỷ giá
Chính sách Kiểm soát tổng cầu phản chu Duy trì đệm vốn tài khóa cho
tài khóa kỳ phép phản ứng với những căng
thẳng hệ thống tài chính
Nguồn: Hannoun (2010)
- Tương tác giữa chính sách an toàn vĩ mô và chính sách an toàn vi mô.
24
Giám sát an toàn vi mô hướng tới việc bảo vệ người tiêu dùng, sử dụng
dịch vụ tài chính và vì thế, chính sách này hạn chế tối đa những suy giảm hoặc
thất thoát từ các tổ chức tài chính. Để thực hiện được mục tiêu, chính sách an toàn
vi mô đánh giá về mặt tuân thủ quy định an toàn của tổ chức tài chính. Tuy nhiên,
sự lành mạnh của từng tổ chức vẫn chưa đủ để đảm bảo rằng hệ thống tài chính ổn
định bởi những nguy cơ rủi ro hệ thống từ bên ngoài. Vì thế, chính sách an toàn vĩ
mô giúp theo dõi, phát hiện các nguy cơ gây bất ổn cho sự an toàn của hệ thống,
giảm thiểu các chi phí liên quan đến tình trạng suy giảm tài chính. Chính sách an
toàn vĩ mô quản lý tăng trưởng tín dụng, và các chu kỳ tăng giá tài sản, đồng thời
tăng cường sức chịu đựng của hệ thống tài chính trước các cú sốc. Sự kết hợp giữa
hai chính sách này giúp cách ly các rủi ro hệ thống ra khỏi các rủi ro đặc thù của
tổ chức và cùng bổ trợ cho nhau trong khuôn khổ chính sách ổn định tài chính,
đảm bảo sự lành mạnh của hệ thống tài chính (Đỗ Xuân Thành và Đỗ Thiên Anh
Tuấn, 2013)
Bảng 1.2. So sánh cách tiếp cận của chính sách an toàn vĩ mô và chính sách an
toàn vi mô.
Chính sách an toàn vĩ mô Chính sách an toàn vi mô
Mục tiêu Đảm bảo sự ổn định của hệ thống tài chính Đảm bảo sự lành mạnh của các tổ chức tài chính
Mục tiêu cuối cùng Hỗ trợ tăng trưởng kinh tế bền vững Bảo vệ người gửi tiền và nhà đầu tư
Từ trên xuống (Top-down): thiết lập các giới hạn kiểm soát Từ dưới lên (Bottom-up): thiết lập và tổng hợp các biện pháp Nguyên tắc đảm bảo an toàn căn cứ vào kiểm soát đảm bảo an toàn kiểm soát xác suất và chi phí bất ổn tài từng định chế tài chính
chính
Nội sinh: bắt nguồn từ các Ngoại sinh: bắt nguồn từ hành
Đặc tính rủi ro hành vi tập thể của nhiều định vi của từng định chế tài chính
chế hoặc từ mối liên kết giữa riêng lẻ.
25
các định chế.
Tương quan và Quan trọng Không liên quan
rủi ro giữa các
định chế
Tập trung vào hệ thống ngân Tập trung vào từng định chế
hàng, các định chế tài chính tài chính riêng lẻ Đối tượng khác, giám sát thị trường và giám sát hướng vào các hoạt động phản
chu kỳ.
Các công cụ đảm bảo an toàn Các tiêu chuẩn đảm bảo khả
Công cụ giám tiêu chuẩn cùng với các biện năng thanh khoản thống nhất
sát và quy tắc đạo đức kinh doanh.
pháp dự phòng và định giá rủi ro
Nguồn: Phạm Tiên Phong (2015), Nguyễn Xuân Thành và Đỗ Thiên Tuấn Anh (2013)
- Tương tác giữa chính sách an toàn vĩ mô và chính sách tiền tệ
Kênh truyền tải tác động chủ yếu của chính sách tiền tệ đến nền kinh tế là
thông qua hệ thống tài chính, trong đó, đóng vai trò chủ yếu là hệ thống ngân
hàng. Một hệ thống ngân hàng lành mạnh và hiệu quả sẽ giúp nâng cao năng lực
của chính sách tiền tệ, đồng thời giảm các rủi ro không mong muốn. Chính vì vậy,
chính sách an toàn vĩ mô với vai trò nhận diện các rủi ro hệ thống, thực thi các
biện pháp đảm bảo an toàn cho ngân hàng và hệ thống tài chính nói chung, tạo
không gian cho chính sách theo đuổi mục tiêu ổn định giá cả của mình. Ngược lại,
chính sách tiền tệ kiểm soát lạm phát, góp phần ổn định tài chính thông qua: (i)
kiềm chế sự lan truyền các cú sốc qua kênh kỳ vọng, (ii) giảm nhẹ tính thuận chu
kỳ của nền kinh tế (tăng trưởng tín dụng, tăng giá bất động sản) (Svensson, 2018).
Như vậy, ổn định tiền tệ và ổn định tài chính có thể củng cố, hỗ trợ lẫn nhau.
- Tương tác giữa chính sách an toàn vĩ mô và chính sách tài khóa
Chính sách tài khóa hiệu quả và phù hợp là yếu tố quan trọng giúp giảm
thiểu các cú sốc kinh tế vĩ mô, ổn định tài chính. Ví dụ như, khi tiêu dùng tăng
26
mạnh do sự gia tăng các dòng vốn cùng với tình trạng thâm hụt cán cân vãng lai
kéo dài, chính sách an toàn vĩ mô sẽ không thể tự kiểm soát hiệu quả các áp lực
trên và do đó, chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ sẽ trở nên cần thiết để giải
quyết tình trạng mất cân đối này. Chính sách an toàn vĩ mô mặc dù không có thẩm
quyền đối với chính sách tài khóa, song vẫn có thể giúp phân tích các rủi ro kinh
tế cơ bản và tình trạng mất cân đối vĩ mô để đưa ra các cảnh báo rủi ro hệ thống
nhằm gây sự chú ý hoặc tạo sự quan tâm đối với các nhà hoạch định chính sách tài
khóa. Trên cơ sở đó, các khuyến nghị chính sách cũng được đưa ra, bổ sung vào
tập hợp các lựa chọn chính sách của các cơ quan chính phủ. Đồng thời, các cơ chế
phản biện tích cực cũng được tạo ra nhằm làm cho cơ quan giám sát trở nên có
tiếng nói hơn với các cơ quan thực thi chính sách tài khóa.
Ba là, ổn định tài chính chỉ được kiểm soát một phần bởi các công cụ
chính sách, và đôi khi các chính sách này không thực sự thống nhất với nhau.
Thực tế là, các công cụ chính sách được sử dụng đảm bảo mục tiêu ổn định
tài chính thông thường cũng được sử dụng để thực thi các mục tiêu khác nữa, bao
gồm: bảo vệ lợi ích người gửi tiền (các công cụ an toàn); đảm bảo ổn định giá cả
(các công cụ chính sách tiền tệ) hoặc hỗ trợ thanh toán các giao dịch tài chính (các
công cụ trong chính sách chi trả và thanh toán). Ngoài vấn đề về độ trễ, tác động
của các công cụ chính sách đến ổn định tài chính thường là gián tiếp, và trong một
số trường hợp, các công cụ này còn mâu thuẫn với mục tiêu ban đầu khi sử dụng
công cụ. Hơn nữa, ổn định tài chính chịu ảnh hưởng lớn bởi các cú sốc bên ngoài,
từ đó càng khó khăn hơn trong việc kiểm soát để đạt mục tiêu.
Các công cụ chính sách thực thi ổn định tài chính đôi khi có thể không
thống nhất với nhau. Điều này hàm ý là một số công cụ chính sách công với mục
tiêu ổn định tài chính có thể làm mất đi tính kỷ luật thị trường, chỉ đem lại sự ổn
định trong ngắn hạn mà làm mất đi sự ổn định trong dài hạn. Cụ thể như, việc thực
hiện vai trò là người cho vay cuối cùng của ngân hàng trung ương hay bảo lãnh
tiền gửi làm suy yếu kỷ luật thị trường, các ngân hàng có thể dựa vào đó để thực
hiện các giao dịch rủi ro hơn (rủi ro đạo đức), gây bất ổn cho thị trường.
27
Bốn là, các chính sách nhằm đạt được ổn định tài chính thường phải đối
mặt với sự đánh đổi giữa khả năng phục hồi và tính hiệu quả.
Các biện pháp tăng cường ổn định thường phải cân nhắc giữa việc đảm bảo
phân bổ nguồn lực hiệu quả với khả năng loại trừ hoặc hấp thụ các cú sốc. Điều
này hàm ý rằng mỗi công cụ sử dụng đều có lợi ích và chi phí nhất định. Ví dụ,
khi sử dụng cơ quan điều hành áp dụng các chính sách an toàn vĩ mô, cụ thể như
yêu cầu các ngân hàng phải duy trì tỷ lệ thanh khoản cao hơn, điều này sẽ giúp
ngân hàng có khả năng hấp thụ các cú sốc thanh khoản tốt hơn, nhưng cũng đồng
nghĩa với việc ngân hàng sẽ phải trả chi phí vốn cao hơn, và bỏ qua các cơ hội cho
vay kiếm lời. Tương tự, những quy định kiểm soát ngoại hối có thể làm giảm
những rủi ro liên quan đến các dòng vốn quốc tế nhưng cũng làm giảm hiệu quả
thị trường tài chính trong nước.
1.1.3. Nguyên nhân gây mất ổn định hệ thống tài chính
Nguồn gốc của bất ổn tài chính là từ rủi ro hệ thống – được định nghĩa là rủi
ro gây ra những cú sốc có thể dẫn đến những mất cân bằng rõ rệt (tài chính vĩ mô) và
sự mất cân bằng này có thể lan rộng theo quy mô, làm suy yếu chức năng của hệ
thống tài chính và ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế thực (tăng trưởng kinh tế)
(Smaga, 2014). Theo các nhà nghiên cứu, nguồn gốc của rủi ro gây bất ổn tài chính
có thể được nhìn nhận dựa trên ba góc độ: (i) rủi ro bên trong và rủi ro bên ngoài; (ii)
rủi ro vi mô và rủi ro vĩ mô; (iii) rủi ro theo thời gian và rủi ro chéo giữa các khu vực.
a) Rủi ro hệ thống từ góc độ bên trong và bên ngoài hệ thống
Theo quan điểm của Houben (2004), hệ thống tài chính được chia thành 3
bộ phận chính: các tổ chức tài chính, thị trường tài chính và cơ sở hạ tầng của hệ
thống. Những rủi ro cho hệ thống tài chính có thể đến từ nội tại của hệ thống,
trong quá trình vận hành và liên kết giữa các bộ phận của hệ thống; và có thể đến
từ những cú sốc, những thay đổi bên ngoài hệ thống tài chính.
28
HỆ THỐNG TÀI CHÍNH
- Tổ chức tài chính - Thị trường tài chính - Cơ sở hạ tầng
Các nhân tố
Nền kinh tế thực
Các nhân tố bên trong
bên ngoài
Các chính sách: - Phòng ngừa
- Khắc phục - Khôi phục
Hình 1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hệ thống tài chính
Nguồn: Houben (2004)
Đối với các rủi ro xuất phát bên trong hệ thống tài chính, còn được gọi là
rủi ro bên trong được chia thành 3 nhóm, bao gồm: rủi ro tổ chức tài chính; rủi ro
thị trường và rủi ro cơ sở hạ tầng.
- Rủi ro tổ chức tài chính: đây là những rủi ro có thể xuất phát từ một tổ
chức riêng lẻ và có thể lan truyền sang các bộ phận khác của hệ thống tài chính,
hoặc có những rủi ro xảy ra đồng thời với một số tổ chức. Các rủi ro tài chính cơ
bản mà các tổ chức phải đối mặt bao gồm: rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro
lãi suất, rủi ro thanh khoản và rủi ro ngoại hối. Ngoài ra, các tổ chức tài chính còn
phải đối phó với rủi ro hoạt động, rủi ro pháp lý, rủi ro danh tiếng, rủi ro chiến
lược, rủi ro tập trung và rủi ro an toàn vốn.
- Rủi ro thị trường tài chính: đây là nguồn rủi ro thứ hai đối với hệ thống
tài chính. Các rủi ro phổ biến xuất phát từ thị trường là rủi ro đối tác và rủi ro
bong bóng giá tài sản. Sự phát triển các dịch vụ tài chính, sự tham gia nhiều hơn
của các tổ chức tài chính phi ngân hàng cùng các doanh nghiệp, hộ gia đình trên thị
trường làm hệ thống tài chính trở nên năng động hơn nhưng cũng dễ đổ vỡ hơn.
29
- Rủi ro cơ sở hạ tầng: có thể là rủi ro liên quan đến hoạt động thanh toán
bù trừ và thanh toán của hệ thống thanh toán. Hoặc rủi ro có thể đến từ những lỗ
hổng trong hệ thống pháp luật, và hệ thống kế toán. Những rủi ro này khi xảy ra
có thể ảnh hưởng đến hầu hết các bộ phận của khu vực tài chính.
Đối với các rủi ro đến từ bên ngoài hệ thống tài chính, được gọi là rủi ro
bên ngoài, khi xảy ra có thể ảnh hưởng một phần hoặc toàn bộ các cấu phần của
hệ thống. Các rủi ro này có thể chia thành các nhóm rủi ro xuất phát từ kinh tế
(các cú sốc giá dầu, bong bóng bất động sản, những phát minh công nghệ mới, sự
mất cân bằng chính sách - sự mất cân bằng giữa chính sách tiền tệ và chính sách
tài khóa,…), rủi ro về chính trị (khủng bố, chiến tranh, nội chiến, trừng phạt kinh tế do
nguyên nhân chính trị…), rủi ro do thiên tai (bão lụt, hạn hán, thay đổi khí hậu…).
Tuy nhiên, việc xác định liệu quy mô của những sự kiện này có thể trở
thành rủi ro cho hệ thống tài chính hay không là tương đối khó. Đặc biệt là trong
giai đoạn hỗn loạn, việc đánh giá mức độ ảnh hưởng đến các phần khác của hệ
thống có thể bị thay đổi liên tục và những đánh giá đôi khi có thể quá chủ quan.
b) Rủi ro hệ thống từ góc độ vĩ mô và vi mô
Nier (2009) cho rằng, sự thất bại của các tổ chức tài chính có thể gây ảnh
hưởng đến các tổ chức tài chính khác và rộng hơn là cả thị trường tài chính.
Nhưng kể cả khi không có sự đổ vỡ cụ thể nào đi nữa, thì một hệ thống tài chính
yếu kém cũng có khả năng gây tác động lớn đến toàn bộ nền kinh tế. Đó là lý do
cần có sự phân biệt giữa rủi ro hệ thống vĩ mô và vi mô để có những quy định phù
hợp cho các tổ chức và thị trường.
Rủi ro hệ thống vĩ mô phát sinh khi hệ thống tài chính tiếp xúc với rủi ro
tổng hợp. Hệ thống tài chính đứng trước nguy cơ chịu ảnh hưởng khi rủi ro của tổ
chức này lại có mối tương quan với các tổ chức khác. Trong trường hợp này, sự
kết tinh rủi ro của các tổ chức có thể làm suy yếu hệ thống tài chính và dẫn đến
việc cắt giảm tín dụng cho nền kinh tế trên diện rộng, gây ảnh hưởng tiêu cực đến
tăng trưởng kinh tế.
30
Trọng tâm của rủi ro hệ thống vĩ mô là những nguy cơ từ rủi ro kinh tế vĩ
mô hoặc rủi ro tổng hợp. Thông thường, rủi ro này sẽ được thể hiện thông qua sự
thay đổi trong giá tài sản gắn liền với sự phát triển chung. Khi giá cả có chiều
hướng tăng, nhà đầu tư có xu hướng gia tăng đòn bẩy để có cơ hội đầu tư nhiều
hơn. Trong trường hợp này, nếu các tổ chức tài chính cung cấp thêm đòn bẩy cho
khách hàng, có thể gây ra một vòng xoáy tăng giá tài sản (bong bóng). Khi giá tài
sản đảo chiều, có xu hướng giảm, bong bóng vỡ, các tổ chức cung ứng đòn bẩy
(ngân hàng) sẽ chịu áp lực về khả năng thanh khoản, đứng trước nguy cơ đổ vỡ.
Bài học về cuộc khủng hoảng liên quan đến giá tài sản tại Nhật những năm 90, tại
Mỹ năm 2007 đã gợi ý rằng, cần phải có những công cụ kiểm soát các tổ chức
cung ứng đòn bẩy (tổ chức tài chính), cũng như những nhà đầu tư tài sản.
- Đối với các tổ chức cho vay: chính sách an toàn vĩ mô cần đưa ra các quy
định tiếp cận theo ba hướng: quy mô bảng cân đối, đòn bẩy, và tỷ lệ bảng cân đối
tiếp xúc với rủi ro vĩ mô. Các quy định đối với các tổ chức này là vô cùng quan
trọng bởi giúp bảo vệ bộ phận cốt lõi của hệ thống tài chính.
- Đối với nhà đầu tư: giới hạn về tỷ lệ đòn bảy được nắm giữ bởi hộ gia
đình và các công ty. Các quy định cho đối tượng này tuy không phải là chính yếu,
nhưng giúp bổ sung, hoàn thiện cho chính sách tổng thể, bởi nhóm đối tượng này
cũng có thể gây tổn thương cho hệ thống tài chính.
Rủi ro hệ thống vi mô phát sinh khi sự thất bại của một tổ chức riêng lẻ có
tác động tiêu cực lên toàn bộ hệ thống tài chính. Điều này có thể xảy ra qua nhiều
kênh. Ví dụ như, sự đổ vỡ của một tổ chức tài chính quan trọng-SIFI, có thể gây
nên tổn thất cho các tổ chức tài chính khác có mối quan hệ, tiếp xúc với tổ chức
vừa đổ vỡ. Tổ chức cho vay lớn đổ vỡ cũng làm ảnh hưởng đến tất cả các đối tác
có quan hệ vay mượn với tổ chức này, đặc biệt là những đối tác dựa vào tổ chức
này để cung ứng tín dụng cho thị trường. Trong thị trường tồn tại tình trạng bất
cân xứng thông tin, sự thất bại của một tổ chức có thể làm mất đi niềm tin của thị
trường, của công chúng vào những tổ chức khác, ngay cả khi các tổ chức này rất
lành mạnh.
31
c) Rủi ro hệ thống từ góc độ mối liên hệ giữa các rủi ro
Khác với Houben, IMF lại nhìn nhận rủi ro đối với ổn định tài chính không
chỉ là những rủi ro đơn lẻ của từng tổ chức, từng thị trường mà là những rủi ro ở
đây mang tính hệ thống, được chia thành hai loại chính: rủi ro theo thời gian (time
dimension) và rủi ro chéo giữa các khu vực (structural dimension).
Rủi ro theo theo thời gian hay thuận chu kỳ (time dimension hoặc
procyclical dimension) phản ánh sự tích tụ rủi ro hệ thống theo thời gian thông
qua cơ chế khuếch đại hoạt động bên trong hệ thống tài chính và giữa hệ thống tài
chính với nền kinh tế thực. Trong giai đoạn tăng trưởng kinh tế, hệ thống tài chính
có xu hướng phát triển mạnh mẽ, và có nguy cơ đối mặt với rủi ro ở mức độ cao
hơn, thể hiện qua tốc độ tăng trưởng tín dụng nhanh, sự gia tăng giá tài sản, đòn
bảy tài chính và bất cân xứng kỳ hạn trong bảng cân đối của các tổ chức tài chính.
Nếu hệ thống không có những tấm đệm đủ lớn vào đúng thời điểm thì khi chu kỳ
tài chính đảo chiều, giá trị các tài sản có thể bị sụt giảm mạnh, việc cung ứng tín
dụng và các dịch vụ tài chính bị ngưng trệ, kết quả là suy thoái kinh tế tài chính
nghiêm trọng. Trong giai đoạn này, tính thuận chu kỳ làm cho hệ thống tài chính và
nền kinh tế dễ bị tổn thương hơn trước các cú sốc bên trong cũng như bên ngoài.
Hộ gia đình
Khu vực tài chính
Doanh nghiệp
Khu vực còn lại
Chính phủ
Hình 1.4. Rủi ro theo thời gian (chu kỳ)
Nguồn: IMF (2013)
32
Rủi ro chéo giữa các khu vực (cross-section dimension hoặc structural
dimension) là sự phân bố rủi ro giữa các lĩnh vực trong hệ thống tài chính tại một
thời điểm nhất định. Khủng hoảng hay bất ổn tài chính phát sinh từ những vấn đề
thuộc về cấu trúc chứ không phải do sự gia tăng những lỗ hổng hay điểm yếu của
hệ thống theo thời gian. Nó có thể là những vấn đề, nguy cơ mà các tổ chức tài
chính đều gặp phải (thể hiện trên bảng cân đối tài sản và nguồn vốn), hoặc có thể
do những mối liên kết giữa tổ chức này với tổ chức khác (rủi ro đối tác). Tác động
của rủi ro chéo giữa các khu vực phụ thuộc vào quy mô của các tổ chức, mức độ
tập trung, khả năng thay thế cũng như sự liên kết giữa các tổ chức với nhau.
NHTM nhỏ
NHTM nhỏ
Quỹ đầu tư
TC phi ngân hàng
NHTM nhỏ
NHTM lớn
NHTM nhỏ
NHTM nhỏ
TC phi ngân hàng
Công ty bảo hiểm
NHTM lớn
NHTM nhỏ
NHTM nhỏ
NHTM toàn cầu
Hình 1.5. Rủi ro chéo giữa các khu vực
Nguồn: IMF (2013)
Hai loại rủi ro này có mối quan hệ vô cùng mật thiết với nhau. Sự gia tăng
mức độ tập trung trong hệ thống tài chính (rủi ro chéo giữa các khu vực), dẫn đến
việc các tổ chức tài chính quan trọng SIFI có xu hướng chấp nhận mức rủi ro cao
hơn theo thời gian (rủi ro theo thời gian), và đây là kết quả của việc rủi ro đạo đức
gia tăng và sự kỳ vọng vào các cuộc giải cứu của cơ quan điều hành. Ngoài ra,
33
việc cho vay quá nhiều của các tổ chức tài chính trong giai đoạn bùng nổ làm gia
tăng việc chấp nhận rủi ro (rủi ro theo giời gian), dẫn đến sự tích tụ rủi ro cho
ngân hàng khi tập trung vào một số phân khúc nhất định của thị trường (rủi ro
chéo giữa các khu vực) ở cấp độ vi mô (ví dụ, thị trường bất đống sản). Ở cấp độ
vĩ mô, tính chu kỳ có thể dẫn sự phát triển những mối liên kết mới, phức tạp hơn
trong hệ thống tài chính và giữa hệ thống tài chính với nền kinh tế thực.
Bảng 1.3. Rủi ro theo thời gian và rủi ro chéo giữa các khu vực
Rủi ro chéo giữa các Rủi ro theo thời gian khu vực
Mục tiêu phân Gia tăng những mất cân bằng Cơ chế truyền tải các cú
tích trong tài chính vĩ mô sốc
Tính thuận chu kỳ
Quy mô của hệ thống tài chính, cấu trúc và mức
Phạm vi phân tích chính yếu
độ liên kết giữa các cấu phần, các tổ chức tài chính quan trọng SIFI
Hướng tiếp cận Theo giai đoạn cho trước Tại một thời điểm
Nội sinh Ngoại sinh
Vai trò của các nhân tố kinh tế vĩ mô
Mục tiêu đo lường của an toàn vĩ mô Giảm thiểu tỷ lệ tích lũy những mất cân xứng và giảm tác động của chúng Tăng cường khả năng phục hồi của hệ thống tài chính trước những cú sốc
Mối liên kết giữa hệ thống tài Mối liên kết và tương
chính và nền kinh tế thực, các đồng trong nguy cơ rủi
Ví dụ về nguồn quy định hệ thống tài chính ro của các tổ chức tài
gốc rủi ro
chính dẫn đến nguy cơ sốc cân xứng, sự tập
trung quá mức.
Nguồn: Smaga (2014)
34
Việc phân biệt rủi ro theo thời gian và rủi ro chéo giữa các khu vực giúp
nhà điều hành lựa chọn những công cụ an toàn vĩ mô phù hợp để ngăn ngừa rủi ro
hệ thống theo từng loại. Nói chung, rủi ro theo thời gian sẽ được ngăn ngừa bởi
các công cụ tác động đến bảng cân đối của các tổ chức tài chính hoặc các công cụ
mang tính quy định các điều khoản hoặc điều kiện giao dịch tài chính. Trong khi
đó, các công cụ tác động đến cấu trúc thị trường sẽ phù hợp để ngăn ngừa rủi ro
chéo giữa các khu vực (Bank of England, 2011).
1.3. Thiết lập bộ chỉ số đo lường mức độ ổn định hệ thống tài chính
1.3.1. Sự cần thiết xây dựng bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính
Đối với hầu hết các mục tiêu chính sách kinh tế như ổn định giá cả, tạo
công ăn việc làm, cân bằng trong và cân bằng ngoài..., thông thường, các mục tiêu
này sẽ được đo lường thông qua một chỉ tiêu cụ thể. Tuy nhiên, việc đo lường ổn
định tài chính là tương đối khó khăn, bởi đây là mục tiêu đa chiều, khó có thể
được phản ánh đầy đủ thông qua một chỉ số định lượng riêng lẻ. (Houben và cộng
sự, 2004). Nguyên nhân là bởi:
- Sự phụ thuộc lẫn nhau và qua lại tương đối phức tạp giữa các thành phần
trong hệ thống tài chính, và giữa hệ thống tài chính với nền kinh tế thực.
- Hoạt động của thị trường tài chính và các khu vực tài chính khác có tính
chu kỳ, khó có thể đo lường chu kỳ này thông qua một chỉ tiêu.
- Mối quan hệ phi tuyến giữa các khu vực cùng với việc dẫn truyền các cú
sốc từ khu vực này sang khu vực khác sẽ khiến việc đánh giá mức độ ổn định của
hệ thống tài chính trở nên khó khăn hơn.
- Khu vực tài chính và nền kinh tế có mối liên hệ chéo với nhau, và mức độ
ảnh hưởng của các thành phần tài chính này đến nền kinh tế thực là khác nhau và
việc tính toán tỷ trọng tác động của các yếu tố này trong một chỉ tiêu khá phức
tạp. Chính vì vậy, việc đo lường ổn định tài chính hiện nay được thực hiện chủ
yếu thông qua một bộ các chỉ số trải dài với các lĩnh vực trọng yếu, có khả năng
gây rủi ro cho hệ thống như: ngân hàng, phi ngân hàng, thị trường tài chính, doanh
nghiệp… Ưu điểm lớn nhất của bộ chỉ số là có khả năng theo dõi tương đối đầy đủ
mức độ ổn định của các lĩnh vực trong hệ thống tài chính, từ đó phát hiện những
nguy cơ, rủi ro tiềm ẩn và chỉ rõ là rủi ro, nguy cơ đó nằm ở khu vực nào của hệ
35
thống tài chính. Trên cơ sở đó, cơ quan điều hành có thể điều chỉnh các công cụ
can thiệp kịp thời vào khu vực đó, đảm bảo sự ổn định cho toàn hệ thống.
1.3.2. Quy trình thiết lập bộ chỉ số đo lường mức độ ổn định hệ thống tài chính
Để đảm bảo thực hiện đo lường ổn định cho hệ thống tài chính, cơ quan
điều hành cần thiết lập một khung phân tích hoạt động trong hệ thống với 4
bước chính.
Hình 1.6. Quy trình thiết lập bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính
Bước 1: Nhận diện rủi ro Bước 2: Phân nhóm các rủi ro
Bước 3: Xác định các chỉ số đại diện cho rủi ro Bước 4: Thu thập số liệu và kiểm định tính phù hợp của chỉ số
Bước 1: Nhận diện rủi ro
Để xác định các chỉ số nào phù hợp đo lường đánh giá sự lành mạnh ổn
định của hệ thống tài chính, trước tiên cần nhận diện và đánh giá xem những rủi ro
nào có thể xảy đến gây bất ổn cho hệ thống tài chính. Hệ thống tài chính là một
thực thể, hoạt động trong môi trường kinh tế vĩ mô, và có tương tác qua lại với các
khu vực khác. Chính vì vậy, những thay đổi tiêu cực từ môi trường vĩ mô bên
ngoài như tăng trưởng kinh tế, lạm phát, tỷ giá, lãi suất, cán cân vãng lai… hay
chính những thay đổi bên trong hệ thống tài chính đều có thể là nguồn gốc gây rủi
ro cho hệ thống tài chính. Bên cạnh đó, bản thân hệ thống tài chính là một tổng thể
bao gồm các cấu phần thị trường tài chính, tổ chức tài chính và hạ tầng tài chính.
Những rủi ro xảy đến với từng cấu phần, từng tổ chức riêng lẻ trong hệ thống tài
chính cũng có thể dẫn đến rủi ro hệ thống bởi tính liên kết và lan truyền mạnh
giữa các cấu phần này. Như vậy, về mặt lý thuyết, rủi ro cho hệ thống tài chính có
thể đến từ môi trường bên ngoài và bên trong (rủi ro vĩ mô) và trong từng cấu
phần/ tổ chức trong hệ thống tài chính (rủi ro vi mô).
Về thực tiễn, các nghiên cứu của IMF (2013, 2019) và các nhà kinh tế độc
lập đã tổng kết một số nguyên nhân chủ yếu gây gia tăng rủi ro cho hệ thống tài
36
chính có thể nhận diện được, bao gồm:
(i) Những rủi ro từ môi trường bên ngoài
- Điều kiện tài chính toàn cầu khó khăn, do tác động tiêu cực từ chính sách
của các quốc gia lớn (Mỹ, Châu Âu, Trung Quốc) có thể làm giảm sự tự tin và
hưng phấn của thị trường tài chính, các dòng vốn tháo chạy khỏi gây ảnh hưởng
đến tỷ giá và dự trữ ngoại hối quốc gia, dẫn đến sự điều chỉnh tiêu cực trên thị
trường chứng khoán, các điều kiện thanh khoản bị thắt chặt, gia tăng lợi tức trái
phiếu Chính phủ, gây áp lực lên các ngân hàng có bảng cân đối thiếu bền vững.
- Tăng trưởng kinh tế toàn cầu suy giảm, đặc biệt là sự suy yếu từ các nền
kinh tế dẫn đầu như Mỹ, Trung Quốc, Châu Âu: làm giảm tốc độ xuất khẩu hàng
hóa, giảm dòng vốn đầu tư nước ngoài và kiều hối, từ đó, gây áp lực lên tỷ giá và
dự trữ ngoại hối. Bên cạnh đó, nguy cơ này có thể làm suy yếu khu vực công và
làm xấu đi bảng cân đối ngân hàng.
- Bất ổn an ninh mạng trên hạ tầng thanh toán quốc tế, có thể làm xấu đi
điều kiện thị trường tài chính toàn cầu cũng như tăng trưởng kinh tế quốc gia, đặc
biệt với những nền kinh tế có độ mở lớn và mức độ phổ cập mạng cao.
- Bất ổn chính trị, chiến tranh thương mại, thiên tai, dịch bệnh: có thể ảnh
hưởng đến nguồn cung các hàng hóa thiết yếu như: xăng dầu, lương thực, thực
phẩm…, từ đó ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế, thị trường tài chính toàn cầu,
đặc biệt là những quốc gia nhập khẩu nhiều các hàng hóa đó.
- Tăng trưởng kinh tế suy giảm, lạm phát gia tăng, nợ công tăng cao, thâm
hụt cán cân vãng lai, biến động tỷ giá, lãi suất… cũng là những yếu tố vĩ mô tác
động tiêu cực đến hoạt động của các tổ chức tài chính, tăng sự bất ổn và rủi ro trên
thị trường tài chính và có thể gây nên khủng hoảng. Nghiên cứu của Kaminsky và
Reinhart (1999) chỉ ra rằng tình trạng xuất khẩu yếu kém dẫn đến thâm hụt tài
khoản vãng lai là dấu hiệu thường thấy trước các cuộc khủng hoảng tài chính.
Jordan và cộng sự (2010) lại chỉ ra rằng gia tăng tín dụng là chỉ số tốt nhất phản
ánh bất ổn tài chính nhưng mối liên hệ giữa bùng nổ tín dụng và mất cân đối tài
khoản vãng lai lại có mối quan hệ chặt chẽ hơn trong những thập kỷ gần đây.
Nghiên cứu của Lund-Jensen (2012) lại chứng minh được ngoại tệ lên giá thực là
một dấu hiệu cảnh báo cho khủng hoảng ngân hàng.
37
(ii) Những rủi ro từ môi trường bên trong
- Tăng trưởng tín dụng nóng, mức độ tập trung tín dụng cao, tín dụng gia
tăng cho lĩnh vực chứng khoán và bất động sản, tăng trưởng tín dụng tiêu dùng
với lãi suất cao… là nguyên nhân gây rủi ro tín dụng cho các ngân hàng. Các
nghiên cứu thực nghiệm cho thấy sự gia tăng trong tỷ lệ cho vay khu vực tư nhân/
GDP, được đo lường bằng tốc độ tăng trưởng tín dụng/ GDP hoặc bởi độ lệch của
tỷ lệ này so với xu hướng dài hạn, là chỉ số đơn lẻ tốt nhất cảnh báo sự gia tăng
xác suất xảy ra khủng hoảng trong giai đoạn 1 đến 3 năm tới (Drehmann và cộng
sự, 2011; Drehmann và Juselius, 2012; IMF, 2011b; Lund-Jensen, 2012). Tuy
nhiên, các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, không phải tất cả các bong bóng tín dụng
đều kết thúc bằng việc vỡ bong bóng và khủng hoảng, bởi một số trong đó lại
được điều chỉnh bởi những công cụ tốt hơn và tăng trưởng cho vay cũng có thể
góp phần làm lành mạnh hệ thống tài chính (Dell’ Ariccia và cộng sự, 2012).
- Mất cân bằng trong kỳ hạn bảng cân đối, chênh lệch lớn giữa giá trị tài
sản và nợ bằng nội tệ, ngoại tệ… gây mất cân đối dòng tiền, dẫn đến nguy cơ rủi
ro thanh khoản, rủi ro lãi suất và rủi ro ngoại hối cho ngân hàng khi có những biến
động lớn trong lãi suất, tỷ giá, chính sách tiền tệ của NHTW hay hành vi rút tiền
của người gửi.
- Mối liên hệ chặt chẽ giữa các tổ chức tài chính, thể hiện thông qua hoạt
động vay mượn, gửi tiền, đầu tư giữa các tổ chức tài chính… làm gia tăng nguy cơ
rủi ro lan truyền trong hệ thống tài chính. Sự sụp đổ hoặc thất bại của một tổ chức
tài chính, thậm chí là hoạt động yếu kém có thể ảnh hưởng đến các tổ chức khác
và toàn hệ thống.
- Sự phát triển của hệ thống ngân hàng ngầm, các hoạt động tín dụng phi
ngân hàng không được kiểm soát bởi cơ quan quản lý có thể gia tăng đòn bảy tài
chính, tiềm ẩn rủi ro vỡ nợ cao và lan truyền rủi ro này đến các tổ chức khác.
Bước 2: Phân nhóm các rủi ro
Trên cơ sở nhận diện những nguy cơ gây rủi ro cho hệ thống tài chính, các
rủi ro này có thể được phân chia thành các nhóm theo các tiêu chí: loại rủi ro (rủi
ro thanh khoản hệ thống, rủi ro tín dụng, rủi ro kinh tế vĩ mô…), hoặc khu vực
38
tiềm ẩn rủi ro (khu vực ngân hàng, khu vực chứng khoán, khu vực bảo hiểm, khu
vực doanh nghiệp…) hoặc phạm vi và tính chất rủi ro (rủi ro vi mô, rủi ro vĩ mô).
Bảng 1.4. Phân nhóm các rủi ro cho ổn định hệ thống tài chính
Phân loại Nguy cơ được nhận diện Tính chất Khu vực Loại rủi ro
Vĩ mô Bên ngoài - RR thanh khoản - RR ngoại hối - RR tín dụng
- Điều kiện tài chính toàn cầu suy giảm - Điều kiện kinh tế suy giảm (tăng trưởng giảm) - Gia tăng toàn cầu hóa/ Hoạt động giao thương/ Hội nhập tài chính/ Luân chuyển dòng tiền - Phát triển công nghệ, phát minh tài chính - Tấn công mạng, hạ tầng thanh toán giao dịch quốc tế
Vĩ mô Kinh tế thực - RR tín dụng - RR thanh khoản - RR lãi suất - Mất cân bằng vĩ mô - Tính thuận chu kỳ tăng - Biến động lớn trong tỷ giá, lãi suất, cung tiền
Vĩ mô Doanh nghiệp và hộ gia đình gia tăng nợ nần - RR tín dụng Doanh nghiệp và hộ gia đình
Vĩ mô Thị trường tài chính - RR bong bóng vỡ - RR thanh khoản
- Gia tăng nhu cầu tài trợ vốn trên thị trường liên ngân hàng - Quy mô thị trường tài chính phát triển quá nhanh (thị trường chứng khoán) - Thay đổi lớn trong giá tài sản
Vi mô Ngân hàng
- RR tín dụng - RR thanh khoản - RR ngoại hối - RR lãi suất - RR danh tiếng - RR hoạt động
- Mức độ tập trung cao - Tăng trưởng tín dụng, tập trung tín dụng - Mất cân bằng trên bảng cân đối - Mối liên kết giữa các tổ chức tài chính - Gia tăng hoạt động ngân hàng ngầm - An ninh mạng hệ thống thanh toán, công nghệ
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
39
Việc phân nhóm các nguy cơ giúp cơ quan điều hành nắm bắt được phạm vi
tác động của các rủi ro này đến hệ thống tài chính, khu vực tiềm ẩn rủi ro cần
được giám sát, các loại rủi ro có thể xảy ra, trên cơ sở đó lựa chọn các chỉ số đo
lường cũng như các biện pháp giám sát phù hợp với từng rủi ro. Thực tế hiện nay,
các tổ chức như IMF, ECB hay ADB đều đã lần lượt thiết kế các bộ chỉ số với
mục tiêu gợi ý cho các quốc gia trong việc đo lường mức độ ổn định của hệ thống
tài chính. Mặc dù các bộ chỉ số đều nhằm mục tiêu xác định các rủi ro hệ thống,
đánh giá mức độ ổn định tài chính, tuy nhiên, mỗi bộ chỉ số có những đặc thù,
phạm vi đo lường rủi ro khác nhau. Nếu như bộ chỉ số của IMF và ECB chủ yếu
đo lường các rủi ro mang tính vi mô (rủi ro cho hệ thống xuất phát từ ngân hàng –
trung tâm của hệ thống tài chính) thì bộ chỉ số của ADB được thiết kế theo hướng
đo lường rủi ro vĩ mô, đánh giá mức độ lành mạnh của nhiều lĩnh vực tổng thể.
Trong đó, ngân hàng chỉ là một lĩnh vực, bên cạnh các lĩnh vực kinh tế vĩ mô bên
trong và bên ngoài khác (tiền tệ - tín dụng, nợ - dòng vốn, lãi suất, thị trường tài
chính, thương mại quốc tế, doanh nghiệp)
Bước 3: Xác định các chỉ số đại diện cho rủi ro
Một trong những bước quan trọng nhất của quy trình thiết lập bộ chỉ số là
lựa chọn các chỉ số phù hợp, có khả năng đo lường, phản ánh các rủi ro đã được
nhận diện và phân loại ở trên. Về lý thuyết, đối với mỗi rủi ro, có nhiều chỉ tiêu có
thể được sử dụng để đo lường và cũng có những chỉ tiêu có thể giúp phản ánh
được nhiều khía cạnh rủi ro khác nhau. Việc lựa chọn những chỉ tiêu phù hợp và
có tính đại diện để đưa vào bộ chỉ số là rất quan trọng. Các bộ chỉ số lành mạnh tài
chính của IMF và bộ chỉ số an toàn vĩ mô của ECB và ADB gợi ý cho các quốc
gia mặc dù có phạm vi đo lường rủi ro khác nhau, nhưng cũng có những lựa chọn
chỉ tiêu tương đồng nhau trên một số khía cạnh.
Đối với hướng tiếp cận vi mô
a) Bộ chỉ số lành mạnh tài chính của IMF (Financial Soundness
Indicators-FSIs)
Năm 1999, IMF đã lần đầu tiền giới thiệu bộ chỉ số an toàn vĩ mô (MPIs)
40
đánh giá tương đối toàn diện mức độ ổn định hệ thống tài chính, tuy nhiên bộ chỉ
số này khá cồng kềnh với rất nhiều các bộ chỉ tiêu nhỏ bên trong. Tháng 6/2001,
IMF đã giới thiệu bộ chỉ số lành mạnh tài chính (Financial Soundness Indicators-
FSIs) trên cơ sở rút gọn và phát triển bộ chỉ số MPIs. “FSIs là các chỉ số được
thiết kế nhằm theo dõi sức khỏe và độ lành mạnh của các tổ chức tài chính và thị
trường tài chính, và các đối tác bao gồm các doanh nghiệp và hộ gia đình. FSIs
bao gồm thông tin tổng hợp về tổ chức tài chính và các chỉ số đại diện cho thị
trường nơi các tổ chức tài chính hoạt động.” (Sudarajajan và cộng sự, 2002). Sau
những lần biên soạn và điều chỉnh vào năm 2003 và gần đây nhất là năm 2013,
IMF đã công bố Hướng dẫn bộ chỉ số FSIs chuẩn với 52 chỉ tiêu, được chia thành
2 nhóm chính:
- Bộ chỉ số cơ bản: bao gồm 17 chỉ tiêu, trong đó tập trung vào đo lường
mức độ ổn định của hệ thống ngân hàng (16/17 chỉ tiêu) bởi đây là thành phần
quan trọng nhất trong hệ thống tài chính. IMF gợi ý rằng các chỉ số cơ bản này nên
được sử dụng bởi tất cả các quốc gia nhằm kiểm soát rủi ro hệ thống trong khu vực
tài chính.
- Bộ chỉ số bổ sung (Bộ chỉ số khuyến khích): bao gồm 35 chỉ tiêu, trong đó
đo lường thêm một số khía cạnh khác của hệ thống ngân hàng và khu vực doanh
nghiệp, thị trường bất động sản, các tổ chức tài chính phi ngân hàng và thị trường
bất động sản. (Phụ lục 1).
41
Bảng 1.5. Các chỉ số lành mạnh tài chính cơ bản của IMF
BỘ CHỈ SỐ CƠ BẢN
Mã FSI Áp dụng với các Tổ chức nhận tiền gửi
Vốn tự có/ TSCRR quy đổi I01
Vốn tự có cấp 1/ TSCRR quy đổi I02
Vốn cổ phần cấp 1/ TSCRR quy đổi (Tỷ lệ thanh khoản) I03
Vốn/ Tổng tài sản I04
(Nợ xấu – Dự phòng)/ Vốn I05
Nợ xấu/ Tổng dư nợ I06
I07 (Mới) Dự phòng/ Nợ xấu
Phân bổ dư nợ theo ngành/ Tổng dư nợ I08
Lợi nhuận/ Tổng tài sản I09
Lợi nhuận/ Vốn chủ sở hữu I10
Thu nhập ròng từ lãi/ Lợi nhuận gộp I11
Chi phí phi lãi/ Lợi nhuận gộp I12
Tài sản thanh khoản/ Tổng tài sản I13
Tài sản thanh khoản/ Nợ ngắn hạn I14
I15 (Mới) Vốn ổn định sẵn có/ Vốn ổn định cần có (Tỷ lệ vốn ổn định
ròng)
Trạng thái ngoại hối/ Vốn I16
Áp dụng cho Thị trường bất động sản
Giá nhà ở (% thay đổi trong 12 tháng) I17
Nguồn: IMF (2013)
Trên cơ sở đo lường các rủi ro vi mô tổng hợp mà cá nhân từng tổ chức tài
chính (chủ yếu là ngân hàng) phải đối mặt bao gồm: rủi ro tín dụng, thanh khoản,
lãi suất, ngoại hối…, bộ chỉ số FSIs lựa chọn các chỉ số cơ bản dựa trên các
phương diện của mô hình CAMELS:
42
(1) Các chỉ số an toàn vốn: Sự đầy đủ và sẵn sàng về vốn là tiêu chí đầu
tiên sẽ quyết định sự ổn định của tổ chức tài chính và cũng như khả năng chịu
đựng những cú sốc bên ngoài liên quan đến rủi ro ngoại hối, tín dụng và rủi ro lãi
suất – bao gồm cả những rủi ro ngoài bảng cân đối như công cụ phái sinh. Với 4
chỉ tiêu liên quan đến tỷ lệ an toàn vốn, cơ quan điều hành sẽ có được những
thông tin tổng quát đầu tiên về sự lành mạnh của tổ chức tài chính.
(2) Các chỉ số chất lượng tài sản: Các chỉ tiêu này chủ yếu là phản ánh chất
lượng tín dụng của tổ chức cho vay chứ không đề cập đến tình hình tài chính hay
khả năng sinh lời của chủ thể đi vay. Tỷ lệ nợ xấu tỷ lệ quan trọng cho biết chất
lượng danh mục cho vay của ngân hàng, bên cạnh đó góp phần phản ánh chất
lượng các dòng tiền, thu nhập ròng, và tính thanh khoản của ngân hàng. Chỉ tiêu
Dự phòng/ Nợ xấu là chỉ tiêu mới được bổ sung, tỷ lệ này gia tăng thể hiện năng
lực xử lý các khoản nợ của ngân hàng gia tăng. Ngoài ra, tỷ lệ phân bổ theo ngành
cho biết mức độ tập trung tín dụng của ngân hàng. Nếu tỷ trọng cho vay bất động
sản cho mục đích thương mại và nhà ở gia tăng, sẽ dẫn đến nguy cơ rủi ro cho hệ
thống tài chính bởi đây là lĩnh vực rất nhạy cảm, dễ rơi vào tình trạng phát triển
bùng nổ và vỡ bong bóng.
(3) Các chỉ số khả năng sinh lời: Việc tăng nhanh hoặc giảm nhanh các chỉ
số thu nhập và sinh lời này đều là dấu hiệu không tốt với tổ chức tài chính nói
riêng và hệ thống tài chính nói chung. Sự suy giảm các chỉ số này đồng nghĩa với
việc các tổ chức hoạt động không hiệu quả, có thể trong khâu quản lý chi phí hoặc
chiến lược đầu tư. Ngược lại, sự gia tăng bất thường của chỉ số thu nhập lại có thể
là dấu hiệu của việc chấp nhận rủi ro quá mức. Tỷ lệ ROA là chỉ số được sử dụng
phổ biến nhất trong việc đo lường khả năng sinh lời và tỷ lệ ROE phản ánh mức
thu nhập trung bình nhà đầu tư nhận được khi bỏ vốn vào ngân hàng. Tuy nhiên,
chỉ số này cần được lý giải một cách thận trọng, vì tỷ lệ này ở mức cao có nghĩa là
43
mức sinh lời cao và cũng có nghĩa là vốn hóa thấp. Ngược lại, tỷ lệ này ở mức
thấp có nghĩa là mức sinh lời thấp và vốn hóa cao.
(4) Các chỉ số thanh khoản: Các chỉ số thanh khoản có thể được sử dụng để
đánh giá bất cân xứng kỳ hạn của các tổ chức tài chính lớn hoặc của khu vực tài
chính. Bên cạnh các tỷ lệ tài sản thanh khoản/ Tổng tài sản hoặc Nợ ngắn hạn, tỷ
lệ vốn ổn định ròng có là tỷ lệ mới, cho biết khả năng đáp ứng thanh khoản của
ngân hàng ở mức cao hay thấp và lượng vốn cần chuẩn bị là bao nhiêu.
(5) Các chỉ số nhạy cảm với rủi ro thị trường: chủ yếu quan tâm đến rủi ro
ngoại hối mà ngân hàng phải đối mặt khi có những thay đổi trong tỷ giá hay cán
cân vãng lai.
Bộ chỉ số cơ bản cũng chỉ dành một chỉ tiêu cho thị trường bất động sản
bởi mối quan hệ mật thiết giữa những thay đổi trong giá nhà ở với tăng trưởng tín
dụng của hệ thống ngân hàng. Sự gia tăng của hai chỉ số này là một trong những
dấu hiệu của rủi ro hệ thống.
Các chỉ số phản ánh những rủi ro liên quan đến hoạt động ngân hàng ngầm
hay khu vực doanh nghiệp, hộ gia đình và thị trường bất động sản được đưa vào
bộ chỉ số bổ sung. Việc có tính toán chỉ số này hay không tùy thuộc vào từng quốc
gia bởi đối với hầu hết các quốc gia, nguy cơ cho rủi ro hệ thống vẫn đến chủ yếu
từ hệ thống ngân hàng, các số liệu về khu vực ngân hàng ngầm hay doanh nghiệp,
hộ gia đình cũng không dễ dàng để cập nhật chính xác và đầy đủ.
b) Bộ chỉ số an toàn vĩ mô của ECB (Macro Prudential Indicators-MPIs)
Năm 1999, Ngân hàng trung ương Châu Âu ECB cùng với các ngân hàng
trung ương thành viên thực hiện dự án thiết lập các chỉ số an toàn vĩ mô (MPIs) để
đo lường ổn định tài chính, trong đó tập trung đánh giá những thay đổi trong điều
kiện tài chính của khu vực ngân hàng. Tương tự như bộ chỉ số của IMF, bộ chỉ số
của ECB cũng thực hiện đo lường rủi ro vi mô của khu vực ngân hàng trên các
khía cạnh tương tự như mô hình CAMELS, nhưng chi tiết hơn, và quan tâm đến
những nguy cơ rủi ro bên trong và bên ngoài bảng cân đối (Mörttinen và cộng sự,
2005). Theo quan điểm của ECB, hệ thống ngân hàng phải thường xuyên đối mặt
44
nguy cơ từ những cú sốc bên ngoài hoặc do sự đổ vỡ của một tổ chức lan truyền ra
hệ thống dẫn đến những rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro thanh khoản và rủi
ro hoạt động… Việc đánh giá sự lành mạnh của hệ thống ngân hàng sẽ thông qua
các chỉ tiêu về đệm vốn và các chỉ tiêu thị thường.
Nguy cơ rủi ro và đổ vỡ
Đánh giá tấm đệm phòng ngừa rủi ro của ngân hàng trước môi trường bên ngoài
Đánh giá rủi ro và nguy cơ bên trong
trường tài chính
Đánh giá các đệm vốn hiện tại: Khả năng sinh lời Mức độ đầy đủ vốn Khả năng thanh khoản
Điều kiện của khu vực ngân hàng
Rủi ro hoạt động và pháp lý Rủi ro thanh khoản Rủi ro cơ sở hạ tầng Rủi ro lây lan
Rủi ro tín dụng Rủi ro liên quan đến thị Đánh giá nguy cơ bên ngoài: Kinh tế chung Thị trường tài chính
Đánh giá sức khỏe hệ thống ngân hàng thông qua các chỉ tiêu thị trường
Hình 1.7. Đánh giá năng lực khu vực ngân hàng trước những nguy cơ
Nguồn: Mörttinen và cộng sự (2005)
Bộ chỉ số bao gồm hơn 150 chỉ tiêu sẽ cung cấp thông tin định lượng giúp
cơ quan điều hành đánh giá được mức độ rủi ro của ngân hàng (Phụ lục 2).
- Nhóm nhân tố bên trong: đo lường nguy cơ rủi ro của hệ thống ngân hàng.
(1) Các chỉ số khả năng sinh lời, chất lượng bảng cân đối và an toàn vốn
Chỉ số sinh lời: Những chỉ số chủ chốt phản ánh khả năng sinh lời của ngân
hàng là tỷ lệ lợi nhuận/ vốn chủ sở hữu (ROE) và tỷ lệ lợi nhuận/ tổng tài sản
(ROA). Những chỉ số này giúp phản ánh năng lực và hiệu quả hoạt động của ngân
45
hàng, tuy nhiên, hai chỉ số này không chứa đựng thông tin về mức độ rủi ro trong
các hoạt động tạo thu nhập của ngân hàng. Các chỉ số về cấu trúc thu nhập và chi
phí, tốc độ tăng trưởng thu nhập và chi phí cho biết khả năng sinh lời của ngân
hàng có lành mạnh hay không.
Chỉ số an toàn vốn: bao gồm các tỷ lệ vốn/ tài sản đo lường tấm đệm chịu
đựng rủi ro của ngân hàng. Tỷ lệ an toàn vốn cấp 1 là chỉ số an toàn vốn theo quy
định của cơ quan điều hành và cũng là chỉ tiêu quan trọng bởi cho biết thông tin
về vốn chất lượng cao, có khả năng hấp thụ các thua lỗ tốt nhất.
Chỉ số bảng cân đối: bao gồm các chỉ tiêu đo lường quy mô, cơ cấu của tài
sản và nợ và cả các khoản mục ngoại bảng. Các chỉ tiêu trong bảng cân đối cũng
cho biết những vấn đề thanh khoản về mặt cấu trúc mà ngân hàng phải đối mặt. Ví
dụ, các tỷ lệ tài sản thanh khoản cho biết lượng vốn sẵn sàng đáp ứng nhu cầu rút
tiền, trong khi các chỉ số bên nguồn vốn cho biết sự phụ thuộc vào các nguồn vốn
nhất định.
Chỉ số chất lượng tài sản: chỉ tiêu nợ xấu và tài sản nghi ngờ/ tổng cho vay
hoặc vốn chủ sở hữu phản ánh khá tốt về chất lượng các khoản tín dụng. Tỷ lệ bao
phủ nợ xấu (Dự phòng/ Nợ xấu) cho biết năng lực hệ thống ngân hàng trong việc
chuẩn bị cho những thua lỗ có thể xảy ra.
(2) Các chỉ số cung và cầu: bao gồm các chỉ số phán ánh chênh lệch lãi
giữa hoạt động huy động và tín dụng đầu tư, chênh lệch lãi cho các khoản cho vay
mới… thể hiện điều kiện cạnh tranh của khu vực ngân hàng.
(3) Các chỉ số tập trung rủi ro: chủ yếu phản ánh rủi ro tập trung tín dụng
và rủi ro thanh khoản. Một số chỉ tiêu phản ánh nguy cơ rủi ro tập trung khi đầu tư
vào trái phiếu, cổ phiếu, tín dụng ngoại tệ đối với một số khu vực/ quốc gia.
(4) Các chỉ số đánh giá rủi ro thị trường: đo lường sự thay đổi của lãi suất
trái phiếu, giá cổ phiếu, CDS. Những thay đổi lớn của các biến số này theo hướng
tăng hoặc giảm đều phán ánh nguy cơ rủi ro cho ngân hàng.
- Nhóm nhân tố bên ngoài:
46
(5) Các chỉ số đổ vỡ tài chính: chủ yếu đánh giá cơ cấu vay mượn của
doanh nghiệp và hộ gia đình, và các thông tin thị trường về khả năng vỡ nợ của
các ngành/ lĩnh vực kinh tế.
(6) Các chỉ số phát triển giá tài sản: phán ánh giá chứng khoán tại một số
thị trường quan trọng và giá bất động sản.
(7) Các chỉ số điều kiện tiền tệ và chu kỳ kinh tế: cung cấp thông tin chung
về điều kiện kinh tế vĩ mô: tăng trưởng, lạm phát, tỷ giá, lãi suất, thất nghiệp.
- Nhóm nhân tố lan truyền
(8) Các chỉ số thị trường liên ngân hàng: mối quan hệ chặt chẽ giữa các
ngân hàng được thể hiện thông qua giá trị và tần suất giao dịch trên thị trường liên
ngân hàng. Các ngân hàng có mối quan hệ càng chặt chẽ, kết hợp với mức độ tập
trung trong hệ thống ngân hàng càng cao thì nguy cơ rủi ro lan truyền, bất ổn cho
hệ thống ngân hàng và hệ thống tài chính càng lớn.
Điểm chung của hai bộ chỉ số của IMF và ECB là tập trung vào các chỉ số
an toàn vi mô, đo lường mức độ lành mạnh hoặc nguy cơ rủi ro của lĩnh vực ngân
hàng trên các khía cạnh giống như mô hình CAMELS và điểm khác biệt chính là:
- Bộ chỉ số của IMF là gợi ý chung cho các quốc gia với các điều kiện, nền
tảng kinh tế-tài chính khác nhau, nên bộ chỉ số này ngắn gọn hơn và có những chỉ
số tương tự như yêu cầu trong hiệp định vốn Basel.
- Bộ chỉ số của ECB được áp dụng cho các quốc gia có hệ thống tài chính
phát triển, chủ yếu là cho các quốc gia ở khu vực châu Âu, nên bộ chỉ số này cồng
kềnh hơn, các chỉ số đánh giá rủi ro hệ thống ngân hàng chi tiết hơn khi xem xét
đến những nguy cơ bên trong (cả trong và ngoài bảng cân đối) và bên ngoài có thể
ảnh hưởng đến ngân hàng
Đối với hướng tiếp cận vĩ mô
c) Bộ chỉ số an toàn vĩ mô của ADB (Macroprudential Indicators-MPIs)
Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) thông qua dự án hỗ trợ về kỹ thuật
(RETA 5869), cùng với sự hỗ trợ của IMF, BIS, NHTW Đức, Nhật, Hàn Quốc,
47
Tổng cục thống kê Úc và Ủy ban Kinh tế xã hội khu vực châu Á Thái bình Dương
(UNESCAP) thực hiện việc phát triển một hệ thống các chỉ số MPI chung cho một
số các quốc gia thành viên đang phát triển, với mcụ tiêu: (i) xác định và biên soạn
một bộ chỉ số lành mạnh tài chính có thể được sử dụng để giám sát thị trường tài
sản và tài chính; (ii) tăng cường sức mạnh thể chế cho NHTW các quốc gia được
lựa chọn trong việc thiết lập và phân tích các chỉ số có liên quan đến giám sát
khủng hoảng và (iii) tạo điều kiện so sánh sự đổ vỡ tài chính và kinh tế giữa các
quốc gia (Bhattacharyay, 2003). Bộ chỉ số của ADB bao gồm 67 chỉ số an toàn vĩ
mô chung và 43 chỉ số an toàn vĩ mô bổ sung (Phụ lục 3) được chia thành các
nhóm sau:
(1) Nợ nước ngoài và các dòng vốn đầu tư (8 chỉ số): đánh giá cơ cấu nợ và
các dòng vốn vào quốc gia.
(2) Tiền tệ và tín dụng (17 chỉ số): đánh giá các điều kiện về tiền tệ (tăng
trưởng, cơ cấu mức cung tiền) và tín dụng (tăng trưởng, cơ cấu tín dụng)… Sự gia
tăng của mức cung tiền là dấu hiệu cảnh bảo nguy cơ rủi ro cho ổn định tài chính
bởi dư thừa tiền trong nền kinh tế gây nên lạm phát hoặc đầu tư quá mức, nội tệ
tăng giá thực, giảm lợi thế trong xuất khẩu, đẩy nền kinh tế rơi vào tình trạng suy
yếu, dễ tổn thương trước những cú sốc. Bùng nổ tín dụng đi kèm với tăng trưởng
cung tiền không chỉ ảnh hưởng đến tỷ giá mà còn làm suy giảm chất lượng tín
dụng và đây cũng là chỉ tiêu tiêu chỉ báo cho khủng hoảng ngân hàng. (Davis
(1999), Evans và cộng sự (2000)).
(3) Ngân hàng (14 chỉ số): chủ yếu phản ánh cơ cấu và chất lượng tài sản
(tín dụng) của ngân hàng. Bên cạnh chỉ tiêu về nợ xấu, tỷ trọng cho vay bất động
sản của ngân hàng cũng là một chỉ số đáng quan tâm bởi sự tập trung cho vay vào
lĩnh vực này dễ dẫn đến chu kỳ bùng nổ và vỡ bong bóng. (Bhattacharyay và
Nerb, 2002).
(4) Lãi suất (12 chỉ số): bao gồm các mức lãi suất chính sách, lãi suất thị
trường, lãi suất trái phiếu. Lãi suất trên thị trường tiền tệ/ thị trường liên ngân
48
hàng là chỉ số quan trọng bởi sự gia tăng của mức lãi suất này là dấu hiệu của căng
thẳng thanh khoản trong khu vực ngân hàng. Ngoài ra, gia tăng lãi suất còn làm
trầm trọng thêm tình trạng lựa chọn đối nghịch trong thị trường tài chính.
(Mishkin, 1997).
(5) Thị trường cổ phiếu (9 chỉ số): chủ yếu phản ánh mức độ ổn định của
thị trường cổ phiếu thông qua các chỉ tiêu biến động giá chứng khoán, khối lượng
giao dịch và giá trị giao dịch. Sự phát triển của thị trường chứng khoán là dấu hiệu
cho những thay đổi trong nhận thức của nhà đầu tư. Sự giảm giá chứng khoán kết
hợp với giảm giá trị vốn hóa thị trường (% GDP) là dấu hiệu mạnh mẽ của căng
thẳng trong thị trường vốn, và sớm hay muộn thì bất ổn sẽ lan truyền đến khu vực
kinh tế thực.
(6) Thương mại, tỷ giá và dự trữ ngoại hối (10 chỉ số): đánh giá những bất
ổn của khu vực bên ngoài thông qua các chỉ tiêu về xuất nhập khẩu, cán cân thanh
toán, biến động tỷ giá và dự trữ ngoại hối. Nếu đồng tiền lên giá thực mà không đi
kèm với lợi ích năng suất lao động tương ứng thì chứng tỏ là lợi thế cạnh tranh
thương mại bị suy yếu, gia tăng tổn thương cho nền kinh tế.
(7) Dữ liệu khảo sát doanh nghiệp (9 chỉ số): chủ yếu là doanh nghiệp sản
xuất, ngoài ra còn các lĩnh vực xây dựng, thương mại bán buôn và bán lẻ. Những
dữ liệu của khu vực doanh nghiệp là một chỉ báo tốt cho nền kinh tế thực cũng
như cho khu vực tài chính bởi các chỉ số này phản ánh những đánh giá về tiềm
năng lợi nhuận và tầm nhìn của nhà quản trị doanh nghiệp.
Khác với các bộ chỉ số được gợi ý bởi IMF hay ECB, bộ chỉ số MPIs của
ADB không tập trung chủ yếu vào lĩnh vực ngân hàng, mà theo hướng tiếp cận vĩ
mô, xem xét đánh giá mức độ lành mạnh của nhiều lĩnh vực trong tổng thể nền
kinh tế, và ngân hàng chỉ là một trong các lĩnh vực được xem xét đến. Ngoài ra,
bộ chỉ số này cũng là sự gợi ý cho các quốc gia trong khu vực châu Á trong việc
đo lường ổn định tài chính. Sự phát triển hệ thống các chỉ số MPIs của ADB và
các chỉ số MPIs bổ sung cho các quốc gia đặc thù trong khu vực Châu Á – Thái
49
Bình Dương sẽ tạo điều kiện để giám sát đổ vỡ tài chính và kinh tế của từng quốc
gia cũng như so sánh các quốc gia với nhau.
Bảng 1.6. So sánh sự khác biệt giữa các bộ chỉ số đo lường ổn định tài chính
của các tổ chức IMF, ECB và ADB.
ECB
Phân loại Số lượng chỉ số 179 chỉ số MPIs ADB 110 chỉ số MPIs
Phân bổ các lĩnh vực
IMF - 53 chỉ số MPIs phiên bản 1999. - 39 chỉ số FSIs phiên bản 2006 - 52 chỉ số FSIs phiên bản 2013 - Đánh giá chung nhất về an toàn hệ thống tài chính, trong đó tập trung chủ yếu vào hệ thống ngân hàng. Tập trung chủ yếu vào hệ thống ngân hàng (145 chỉ số) và những nội dung liên quan chủ yếu đến ngành ngân hàng (31 chỉ số).
Mục đích chính
Mục tiêu đánh giá chính xác nhất rủi ro đối với lĩnh vực ngân hàng.
- Đánh giá tương đối đồng đều các lĩnh vực của nền kinh tế vĩ mô. - Không đánh giá đến tài chính khu vực hộ gia đình và thị bất trường động sản. Thu thập đầy đủ số liệu để có bức tranh tổng thể và chi tiết về nền kinh tế vĩ mô.
Phương pháp đánh giá
Thu tương thập đối đầy đủ số liệu để có bức tranh tổng thể về ổn định tài chính kinh tế vĩ mô. Đưa ra cách đánh giá chung nhất về an toàn tài chính vĩ mô với một số chỉ tiêu cần thiết nhất.
Đối tượng sử dụng Từng quốc gia Cung cấp phương pháp giá đánh tương đối chi tiết cho các quốc gia ở châu Á dựa trên đặc điểm riêng của hệ thống tài chính khu vực. Từng quốc gia riêng lẻ riêng lẻ Cung cấp phương pháp đánh giá chi tiết, cụ thể đối với các quốc gia có hệ thống tài chính phát triển ở mức cao và tương đối đồng đều. Tổng thể các quốc gia ở khu vực Euro.
Nguồn: Trần Trung Lưu và Nguyễn Trung Hậu (2014) và bổ sung của tác giả
Về cơ bản, sự khác biệt giữa các chỉ số trong bộ chỉ số đo lường ổn định tài
chính (FSIs hay MPIs) do các tổ chức quốc tế đưa ra xuất phát từ đặc thù và kỳ
50
vọng của mỗi tổ chức. Nếu như IMF kỳ vọng đưa ra bộ chỉ số chung, áp dụng cho
tất cả các quốc gia thì ECB và ADB lại đưa ra bộ chỉ số dựa trên đặc điểm riêng
của khu vực. Vì thế, có thể nhận thấy bộ chỉ số FSIs (MPIs) của IMF chủ yếu tập
trung phản ánh tổng quan hệ thống tài chính (và kinh tế vĩ mô), trong khi bộ chỉ số
MPIs của ECB chủ yếu tập trung vào hệ thống ngân hàng, và bộ chỉ số MPIs của
ADB thì bao quát nền kinh tế vĩ mô. Có sự khác biệt này là bởi mức độ phát triển
khác nhau giữa hệ thống tài chính và nền kinh tế giữa các khu vực Châu Âu và
Châu Á.
Bước 4: Thu thập số liệu và kiểm định tính phù hợp của chỉ số đại diện
rủi ro
Sau khi lựa chọn các chỉ số đại diện có khả năng phản ánh sự ổn định của
hệ thống tài chính theo khu vực và loại rủi ro, cơ quan điều hành cần thu thập số
liệu, tính toán các chỉ tiêu và kiểm định sự phù hợp của chỉ số trên một số khía
cạnh như sau:
- Các chỉ số nên có khả năng cảnh báo sớm, cung cấp những thông tin về
nguy cơ khủng hoảng, đổ vỡ tài chính. Vì vậy, trên phương diện thống kê, chỉ số
nên mang tính dẫn trước (leading) hoặc ít nhất có khả năng chỉ báo đồng thời
(coincident). Để thực hiện giám sát trong ngắn hạn cũng như đảm bảo tính cập
nhật, các chỉ số cần được tính toán theo tháng hoặc theo quý. (Bhattacharyay và
Nerb, 2002). Những phân tích xu hướng của chỉ số có thể giúp xác định tính dẫn
trước hay đồng thời, từ đó xác định những chỉ số phù hợp. (Bhattacharyay, 2003).
- Các chỉ số được chứng minh là có ý nghĩa và phù hợp trong các nghiên
cứu trước đó, phù hợp với thực tế lịch sử. Bên cạnh đó, có thể thực hiện khảo sát
lấy ý kiến chuyên gia hoặc thực hiện các phương pháp phân tích thống kê để kiểm
định sự phù hợp của chỉ số.
- Dữ liệu tính toán chỉ số cần được thu thập từ những nguồn đáng tin cậy và
với tần suất thời gian thống nhất. Những chỉ số không có đủ dữ liệu, hoặc không
có nguồn dữ liệu đáng tin cậy cần được thay thế bởi các chỉ số khác.
51
TÓM TẮT CHƯƠNG 1
Trong chương 1, luận án đã hệ thống hóa những lý luận chung về ổn định
tài chính trên một số khía cạnh: khái niệm, đặc điểm, cũng như nguyên nhân gây
mất ổn định cho hệ thống tài chính.
Trong phần 2 của chương 1, thông qua việc tìm hiểu các bộ chỉ số đo lường
ổn định hệ thống tài chính được gợi ý bởi các tổ chức quốc tế, nghiên cứu sinh
tổng kết được quy trình thiết lập bộ chỉ số với 4 bước cơ bản: (i) nhận diện các rủi
ro cho hệ thống tài chính; (ii) phân nhóm các rủi ro; (iii) xác định các chỉ số đại
diện cho các nhóm rủi ro; và (iv) thu thập số liệu và kiểm định tính phù hợp của
chỉ số đại diện rủi ro. Trong đó, tác giả tập trung phân tích cơ sở và ý nghĩa kinh
tế của các nhóm chỉ số trong ba bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính của
Quỹ tiền tệ (IMF), Ngân hàng trung ương châu Âu (ECB) và Ngân hàng phát triển
châu Á (ADB) và nhận thấy các bộ chỉ số này được xây dựng theo hai hướng
chính, căn cứ vào phạm vi và tính chất của rủi ro: (i) hướng tiếp cận vi mô của
IMF và ECB khi tập trung vào các chỉ tiêu đo lường khu vực quan trọng nhất của
hệ thống tài chính là hệ thống ngân hàng; (ii) hướng tiếp cận vĩ mô được thực hiện
thông qua bộ chỉ số của ABD khi xây dựng các chỉ số đo lường sự ổn định của cả
hệ thống tài chính cũng như các điều kiện kinh tế vĩ mô.
Đây là khung lý thuyết cơ bản và nền tảng giúp nghiên cứu sinh thực hiện
phần kinh nghiệm xây dựng bộ chỉ số tại một số quốc gia cũng như phân tích thực
trạng thiết lập và đo lường ổn định hệ thống tài chính tại Việt Nam trong các
chương tiếp theo.
52
CHƯƠNG 2: THIẾT LẬP BỘ CHỈ SỐ ĐO LƯỜNG ỔN ĐỊNH HỆ THỐNG
TÀI CHÍNH – KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM
2.1. Cơ sở lựa chọn quốc gia nghiên cứu Mặc dù các tổ chức quốc tế như IMF, ECB hay ADB đã lần lượt giới thiệu
các bộ chỉ số nhằm đo lường ổn định hệ thống tài chính, tuy nhiên, việc ứng dụng
các bộ chỉ số này tại các quốc gia là không giống nhau do sự khác biệt về điều
kiện về kinh tế, chính trị, cấu trúc tài chính… Trong chương này, tác giả tập trung
nghiên cứu kinh nghiệm đo lường cũng như thiết lập bộ chỉ số ổn định tài chính
tại 04 quốc gia là Anh, Trung Quốc, Hàn Quốc và Indonesia nhằm rút ra bài học
kinh nghiệm cho Việt Nam. Cơ sở lựa chọn các quốc gia nghiên cứu này xuất phát
từ một số lý do sau:
Một là, các quốc gia đại diện cho các cấp độ phát triển kinh tế khác nhau:
quốc gia công nghiệp phát triển (Anh), quốc gia công nghiệp mới (Trung Quốc,
Hàn Quốc), và quốc gia mới nổi (Indonesia). Bên cạnh đó, Anh là điển hình cho
hệ thống tài chính dựa vào thị trường còn Trung Quốc, Hàn Quốc và Indonesia là
các quốc gia có cấu trúc tài chính dựa vào ngân hàng. Thông qua việc nghiên cứu
về các quốc gia này, tác giả có thể khái quát được những khác biệt về kinh tế và
tài chính đặc thù ảnh hưởng như thế nào đến cách thức lựa chọn, xây dựng bộ chỉ
số đo lường ổn định hệ thống tài chính.
Hai là, Trung Quốc, Hàn Quốc và Indonesia đều là những nước trong khu
vực châu Á, có những đặc điểm về kinh tế và tài chính tương đồng với Việt Nam
như đều là các quốc gia đang phát triển, có tốc độ mở cửa và hội nhập nhanh
chóng với thế giới. Chính vì vậy, những cú sốc hay rủi ro từ môi trường vĩ mô bên
ngoài ảnh hưởng đến các quốc gia này cũng có tác động tương tự với Việt Nam.
Bên cạnh đó, 03 quốc gia này đều có hệ thống tài chính dựa vào ngân hàng, trong
đó, ngân hàng đóng vai trò trung tâm và cung ứng vốn chủ yếu cho doanh nghiệp
và nền kinh tế. Những nguy cơ rủi ro từ bên trong hệ thống, rủi ro từ khu vực ngân
hàng tại quốc gia này cũng có thể sẽ xảy ra đối với trường hợp Việt Nam. Việc
nghiên cứu kinh nghiệm từ các quốc gia này trong việc nhận diện rủi ro, xác định
các khu vực tiềm ẩn rủi ro, cũng như lựa chọn các chỉ tiêu đưa vào bộ chỉ số đo
53
lường ổn định hệ thống tài chính sẽ là những bài học ý nghĩa và thiết thực cho cơ
quan điều hành của Việt Nam.
2.2. Kinh nghiệm quốc tế về đo lường ổn định hệ thống tài chính
2.2.1. Kinh nghiệm của Anh
2.2.1.1. Đặc điểm hệ thống tài chính
Hệ thống tài chính Anh là hệ thống tài chính dựa vào thị trường, phát triển
ở cấp độ cao và có sự kết nối toàn cầu. Tại Anh, thị trường tài chính là kênh cung
ứng vốn chính cho các doanh nghiệp và nền kinh tế, và kênh truyền dẫn này lại
càng trở nên quan trọng hơn từ sau khủng hoảng 2008. Với một hệ thống tài chính
phát triển, các tổ chức tài chính phi ngân hàng ở Anh chiếm gần 50% tổng tài sản
hệ thống tài chính, và tăng hơn 13% so với thời điểm năm 2008. Sự tăng trưởng
mạnh mẽ của các tổ chức tài chính phi ngân hàng đã làm đa dạng hóa các kênh
dẫn truyền vốn cho nền kinh tế thực cũng như làm suy giảm lượng tín dụng ngân
hàng sau khủng hoảng. Tính đến cuối năm 2018, lượng vốn các doanh nghiệp huy
động qua thị trường tài chính (phát hành trái phiếu, cổ phiếu và hối phiếu) chiếm
¾ tổng nhu cầu vốn của doanh nghiệp.
Hình 2.1. Tỷ trọng cung ứng vốn cho các doanh nghiệp của thị trường tài chính Anh giai đoạn 2007-2018
Nguồn: Bank of England (2018), Financial Stability Report
Ghi chú: Tài chính dựa vào thị trường (Market-based finance) bao gồm giá trị của trái phiếu, cổ phiếu và hối phiếu.
54
Mặc dù thị trường tài chính chiếm ưu thế trong việc cung ứng vốn cho nền
kinh tế, hệ thống ngân hàng Anh cũng rất phát triển. Tổng tài sản của các ngân
hàng Anh tính đến năm 2017 gấp 3,9 lần GDP của quốc gia. Anh có bốn ngân
hàng và hai công ty bảo hiểm được xếp vào nhóm tổ chức quan trọng toàn cầu.
Theo báo cáo từ Ngân hàng trung ương Anh (BOE), Anh là một trung tâm tài
chính toàn cầu với khoảng 1/5 các giao dịch ngân hàng thế giới được thực hiện tại
Anh hoặc do các tổ chức tài chính Anh cung ứng. Bên cạnh đó, một nửa các tổ
chức tài chính lớn nhất thế giới đều đến từ Anh, bao gồm các ngân hàng, công ty
bảo hiểm, tổ chức quản lý tài sản, các quỹ phòng hộ, và hội sở các cơ quan Châu
Âu đều có trụ sở tại Anh.
Hình 2.2. Quy mô tổng tài sản hệ thống ngân hàng Anh/GDP (%) giai đoạn
500
459,9
431
450
394
393,3
400
371,5
359,5
350
300
250
200
150
100
50
0
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2012-2017
Nguồn: Statista
Hệ thống ngân hàng Anh có mức độ tập trung nhưng áp lực cạnh tranh
ngày càng có xu hướng gia tăng trong thời gian gần đây. Bảy ngân hàng lớn nhất
của Anh hiện nay chiếm hơn 75% tổng tài sản của hệ thống ngân hàng. Tỷ lệ này
thể hiện mức độ tập trung cao của hệ thống ngân hàng, so với các quốc gia khác
như Nhật (71%), Thụy Sĩ (71%) hay Mỹ (48%). Mặc dù có mức độ tập trung cao,
55
nhưng trong hệ thống vẫn tồn tại sự cạnh tranh giữa những ngân hàng với quy mô
nhỏ hơn, với mục tiêu giữ vững và tiến tới tăng thị phần trên thị trường bán lẻ.
Thị trường tài chính phát triển ở cấp độ cao, đa dạng và hoàn thiện. Anh
được coi là một trong những trung tâm tài chính lớn nhất thế giới, nơi tập trung rất
nhiều các giao dịch tài chính quốc tế. Sự phát triển của thị trường không chỉ thể
hiện ở số lượng các nhà đầu tư tham gia, số lượng các giao dịch, sự đa dạng các
loại hình giao dịch và giá trị thị trường. Mặc dù có sự giảm nhẹ vào năm 2018,
nhưng về cơ bản, thị trường cổ phiếu của Anh vẫn có giá trị vốn hóa ở mức cao,
trung bình trên 100% GDP.
Hình 2.3. Tỷ lệ vốn hóa thị trường cổ phiếu/ GDP (%) tại Anh giai đoạn
140
122,979
120,403
118,138
120
112,621
111,046
110,905
107,486 109,376
106,475
98,249
100
81,535
80
60
40
20
0
2008
2009
2010
2011
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018
2008-2018
Nguồn: CEIC
Ghi chú: Giá trị vốn hóa thị trường chỉ tính đến giá trị cổ phiếu niêm yết của
doanh nghiệp nội địa.
Ngân hàng trung ương Anh (BOE) có tính độc lập cao, thực hiện giám sát
toàn bộ hệ thống tài chính. BOE là cơ quan hoạt động dưới khung điều hành được
thiết lập bởi Chính phủ nhưng có tính độc lập trong việc thiết lập mục tiêu cuối
cùng, mục tiêu hoạt động (mục tiêu lãi suất), và linh hoạt điều chỉnh các công cụ
56
chính sách tiền tệ nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra mà không chịu tác động từ các
yếu tố chính trị. Bên cạnh đó, BOE còn có quyền giám sát an toàn hệ thống tài
chính, ban hành các quy định cho hệ thống ngân hàng và các công ty bảo hiểm.
Anh có hệ thống giám sát hợp nhất, trong đó Ngân hàng trung ương Anh
chịu trách nhiệm giám sát toàn bộ hệ thống tài chính. Trước năm 2012, tại Anh
chưa có một tổ chức chuyên trách thực hiện nhiệm vụ ổn định tài chính, mà BOE
sẽ là cơ quan thực hiện mục tiêu đó bên cạnh các mục tiêu của chính sách tiền tệ.
Ngân hàng trung ương Anh (BOE)
Cơ quan quản lý an toàn (PRA)
Cơ quan thực thi tài chính (FCA)
Ủy ban chính sách tài chính (FPC)
Rủi ro hệ thống
- Công ty dịch vụ tài chính - Thị trường tài chính
- Ngân hàng - Tổ chức tiết kiệm - Quỹ tín dụng - Công ty bảo hiểm - Công ty đầu tư lớn
An toàn vĩ mô
An toàn vi mô
Hình 2.4. Cơ cấu tổ chức giám sát ổn định tài chính tại Anh
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
Năm 2012, Luật Dịch vụ tài chính được chính thức ban hành đã tạo ra
những thay đổi căn bản trong việc thiết lập khung quản lý cho hệ thống tài chính
Anh, nhằm hướng tới mục tiêu ổn định tài chính. Hai cơ quan quản lý và thực thi
chính sách an toàn vi mô ra đời là Cơ quan quản lý an toàn (Prudential Regulation
Authority – PRA) và Cơ quan thực thi tài chính (Financial Conduct Authority -
FCA) như là hai tổ chức con nằm trong BOE. Trong đó, PRA chịu trách nhiệm
ban hành các quy định an toàn và giám sát các ngân hàng, tổ chức tiết kiệm, quỹ
57
tín dụng, công ty bảo hiểm và các công ty đầu tư lớn. FCA thực hiện quản lý hoạt
động của các cả công ty dịch vụ tài chính và thị trường tài chính Anh. Tháng 4
năm 2013, Luật mới đã thành lập Ủy ban chính sách tài chính (Financial Policy
Committee - FPC) tại Ngân hàng trung ương, trong đó nhiệm vụ chính của Ủy ban
là xác định, giám sát và thực hiện loại bỏ hoặc giảm thiểu rủi ro hệ thống trên
quan điểm bảo vệ và tăng cường sự ổn định của hệ thống tài chính Anh. Ngoài ra,
Ủy ban chính sách tài chính có mục tiêu thứ yếu là hỗ trợ chính sách kinh tế của
Chính phủ. Ủy ban bao gồm 13 thành viên, trong đó có 6 thành viên đến từ
NHTW với Thống đốc, 4 Phó Thống đốc và Giám đốc điều hành về ổn định tài
chính; 5 thành viên còn lại là các chuyên gia độc lập được lựa chọn từ bên ngoài
NHTW, dựa trên kinh nghiệm và chuyên môn của họ trong lĩnh vực dịch vụ tài chính. Hai thành viên còn lại của Ủy ban là Giám đốc điều hành của FCA và một
thành viên không bỏ phiếu đến từ Kho bạc. Ủy ban thường xuyên thực hiện công bố báo cáo sau mỗi cuộc họp chính sách chính thức, đồng thời chịu trách nhiệm xuất bản Báo cáo ổn định tài chính cho NHTW mỗi năm 2 lần.
Ủy ban chính sách tài chính có mục tiêu đảm bảo sự ổn định cho hệ thống tài chính Anh trước hàng loạt những rủi ro mà hệ thống này phải đối mặt. Để làm
được điều này, PFC phải thường xuyên đánh giá tổng thể các rủi ro cho môi trường kinh tế trong nước có ở mức tiêu chuẩn hay không, thể hiện thông qua việc các chỉ số ổn định tài chính biến động ở mức vừa phải, không có sự thay đổi đột biến. Tuy nhiên, ngay cả trong điều kiện được cho là bình thường, thì trong hệ thống tài chính vẫn tiềm ẩn những nguy cơ rủi ro như: sự tăng trưởng nhanh chóng của tín dụng tiêu dùng, điều kiện cho vay thế chấp được nới lỏng hơn hay khi ngân hàng thể hiện sự tin tưởng và lạc quan vào kết quả cho vay trong điều kiện thuận lợi thời gian gần đây.
2.2.1.2. Đo lường ổn định hệ thống tài chính
a) Nhận diện rủi ro hệ thống tài chính Anh
Tùy thuộc đặc điểm kinh tế, mỗi hệ thống tài chính phải đối mặt với những
nguy cơ rủi ro khác nhau. Ở Anh, rủi ro hệ thống chủ yếu đến từ 4 lĩnh vực: rủi ro
từ thị trường cho vay thế chấp BĐS, tín dụng tiêu dùng, rủi ro từ môi trường kinh
doanh toàn cầu, sự thay đổi giá tài sản (lãi suất dài hạn), trong đó đánh giá và hạn
chế rủi ro từ thị trường cho vay thế chấp và thị trường cho vay tiêu dùng là mối
quan tâm hàng đầu của các cơ quan quản lý tại Anh.
58
Rủi ro từ thị trường cho vay thế chấp: Tại Anh, khoản tín dụng thế chấp là
khoản nợ lớn nhất của các hộ gia đình, đồng thời cũng là loại hình cho vay rủi ro
lớn nhất của các tổ chức tài chính. Mối quan tâm của PFC là những rủi ro ảnh
hưởng đến sự an toàn của cả người đi vay và người cho vay xuất phát từ mức nợ
cao của các hộ gia đình.
Hình 2.5. Lịch sử vay mượn của hộ gia đình tại Anh
Nguồn: Bank of England (2018), Financial Stability Report
Để tránh những rủi ro xuất phát từ thị trường cho vay thế chấp, từ tháng
6/2014, FPC đã ban hành một gói chính sách được thiết kế nhằm ngăn ngừa sự gia
tăng các cá nhân, hộ gia đình có mức nợ cần cao, và tránh việc các tổ chức nới
lỏng tiêu chuẩn bảo lãnh, bao gồm: (i) hạn chế tỷ lệ cho vay thế chấp với các đối
tượng cho tỷ lệ nợ/ thu nhập (Loan to income –LTI) ở mức cao; (ii) ban hành tiêu
chuẩn tối thiếu yêu cầu các tổ chức tài chính phải kiểm tra khả năng trả nợ của người đi
vay trước khi cấp tín dụng.
Rủi ro từ tín dụng tiêu dùng: Cho vay tiêu dùng tại Anh đã gia tăng nhanh
chóng trong những năm trở lại đây. Từ tháng 4/2016-4/2017, tín dụng tiêu dùng đã
gia tăng 10,3%; trong khi thu nhập hộ gia đình lại có xu hướng giảm.
59
Hình 2.6. Tốc độ tăng trưởng tín dụng tiêu dùng tại Anh
Nguồn: Bank of England (2018), Financial Stability Report
Nguyên nhân dẫn đến sự gia tăng nhanh chóng trong nhu cầu vay tiêu dùng
tại Anh là do những thay đổi về công nghệ (mua sắm trực tuyến, các loại thẻ…),
đã khuyến khích cá nhân sử dụng thẻ tín dụng nhiều hơn để mua sắm. Thêm vào
đó, lãi suất cho các khoản vay cá nhân có xu hướng giảm từ năm 2013, khiến cho
chênh lệch lãi suất của ngân hàng bị thu hẹp hơn. Các tổ chức tài chính kéo dài
thời gian miễn lãi cho khách hàng, tạo động lực cho khách hàng sử dụng thẻ tín
dụng nhiều hơn. Tính đến thời điểm 2016, tỷ lệ thua lỗ trong hoạt động cho vay
tiêu dùng đang ở mức thấp (10%) so với con số 70% của cho vay thế chấp nhưng
những thua lỗ trong tín dụng tiêu dùng sẽ cao hơn nhiều so với cho vay thế chấp.
Thực tế trong vòng 10 năm trở lại đây, tỷ lệ các khoản vay tín dụng tiêu dùng các
ngân hàng phải loại bỏ khỏi bảng cân đối cao gấp 10 lần so với các khoản vay thế
chấp. (Bank of England, 2016).
b) Bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính Anh
Như vậy, Ủy ban chính sách tài chính FPC nhận diện thị trường cho vay thế
chấp và cho vay tiêu dùng là hai nguy cơ rủi ro lớn nhất đối với hệ thống tài chính,
và đây là những rủi ro vi mô, xuất phát từ khu vực ngân hàng và thị trường bất
động sản. Chính vì vậy, PFC quyết định sử dụng các công cụ để điều chỉnh, can
thiệp vào hai khu vực chính yếu này.
60
Ủy ban chính sách tài chính PFC
Tỷ lệ đệm vốn phản chu kỳ CCyB
Tỷ lệ đệm vốn theo lĩnh vực SCRs
Công cụ điều chỉnh BĐS
BỘ CHỈ SỐ: - Độ căng BCĐ tổ chức cho vay và người đi vay - Điều kiện và kì hạn thị trường
BỘ CHỈ SỐ: - Độ căng BCĐ phi ngân hàng - Độ căng BCĐ ngân hàng - Điều kiện và kỳ hạn thị trường
BỘ CHỈ SỐ: - Độ căng BCĐ phi ngân hàng - Điều kiện và kỳ hạn tị trường - Độ căng BCĐ ngân hàng
Các tổ chức tài chính (Ngân hàng)
Người đi vay (Cá nhân, doanh nghiệp)
Hình 2.7. Các công cụ và chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính Anh
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
Ba công cụ chủ yếu được FPC sử dụng để đảm bảo ổn định hệ thống tài
chính, bao gồm:
- Tỷ lệ đệm vốn phản chu kỳ (Countercyclical capital buffer-CCyB): là mức
tỷ lệ vốn yêu cầu tăng thêm (tính bằng tỷ lệ % RWA – tài sản có rủi ro điều chỉnh)
được áp dụng cho các tổ chức tài chính, chủ yếu là hệ thống ngân hàng. Tại Anh,
CCyB được áp dụng cho những tổ chức tài chính có nguy cơ rủi ro bao gồm các
ngân hàng, tổ chức tiết kiệm và các công ty đầu tư lớn có liên kết với Anh. Trong
giai đoạn gia tăng rủi ro, FPC sẽ tăng tỷ lệ đệm vốn phản chu kỳ, các ngân hàng bị
yêu cầu bổ sung thêm đệm vốn để tăng khả năng hấp thụ những thua lỗ tiềm tàng,
đảm bảo sự ổn định cho các ngân hàng cũng như duy trì các dịch vụ trung gian tài
chính cung cấp cho khách hàng. Ngược lại, trong điều kiện những nguy cơ rủi ro
61
đã suy giảm, hoặc trong điều kiện tín dụng yếu kém, lượng vốn của ngân hàng
được đánh giá là đủ khả năng hấp thụ những thua lỗ trong tương lai, thì CcyB sẽ
được điều chỉnh giảm xuống. Việc thay đổi này sẽ giúp tăng cường nguồn cung tín
dụng cho hộ gia đình và doanh nghiệp. Thông thường, FPC sẽ điều chỉnh tỷ lệ
CcyB hàng quý và giới hạn tối đa cho tỷ lệ này là 2,5% RWA.
- Tỷ lệ đệm vốn theo lĩnh vực (Sectoral capital requirement-SCRs): là mức
tỷ lệ vốn yêu cầu tăng thêm so với mức tiêu chuẩn được áp dụng đối với những
khu vực cụ thể được đánh giá có khả năng đối mặt với rủi ro có ảnh hưởng đến
toàn bộ hệ thống. Thông thường, FPC có thể điều chỉnh tỷ lệ này đối với các ngân
hàng có nguy cơ rủi ro với ba lĩnh vực lớn: bất động sản nhà ở, bao gồm các
khoản cho vay thế chấp; bất động sản thương mại; và các lĩnh vực tài chính khác;
cũng như với các lĩnh vực hẹp hơn như các khoản cho vay thế chấp có tỷ lệ cho
vay/ TSĐB hoặc cho vay/ thu nhập ở mức cao. Ví dụ như, nếu FPC thấy rằng cho
vay bất động sản thương mại gây ra nguy cơ cho ổn định tài chính thì FPC có thể
tăng tỷ lệ đệm vốn theo lĩnh vực SCRs đối với các khoản cho vay này. Điều đó có
nghĩa là các ngân hàng phải thực hiện dự trữ vốn nhiều hơn để phòng ngừa rủi ro.
Cũng giống như CCyB, công cụ này cũng được áp dụng với tất cả các ngân hàng
thương mại, tổ chức tiết kiệm và các công ty đầu tư lớn. Tuy nhiên, khác với
CCyB, công cụ này tập trung vào phòng ngừa rủi ro cụ thể, tạo động lực cho ngân
hàng giảm thiểu rủi ro liên quan đến lĩnh vực cụ thể. Công cụ này thường được sử
dụng theo hai cách:
Thay đổi tỷ lệ SCRs áp dụng cho loại tổ chức tài chính cụ thể.
Thay đổi tỷ lệ SCRs đối với hoạt động tài chính cụ thể.
- Các công cụ điều chỉnh thị trường bất động sản.
Các chỉ số đo lường mức độ ổn định tài chính cũng được FPC tính toán và
chia thành các nhóm dựa trên các công cụ này, và gọi là bộ chỉ số Đệm vốn phản
chu kỳ, bộ chỉ số Đệm vốn theo lĩnh vực và bộ chỉ số công cụ nhà ở. Các chỉ số
này rất hiệu quả trong việc định hình quan điểm của FPC và giúp Ủy ban giải
thích các quyết định của mình một cách công khai với thị trường. Việc sử dụng
riêng lẻ một bộ chỉ số sẽ là không đủ để đánh giá rủi ro hệ thống, chính vì vậy,
62
trước khi đưa ra quyết định, FPC sẽ căn cứ vào cả ba bộ chỉ số này. Thông
thường, FPC sẽ thay đổi đồng thời cả tỷ lệ đệm vốn phản chu kỳ và tỷ lệ đệm vốn
theo lĩnh vực nên các bộ chỉ số cho hai công cụ này phải được cập nhật thường
xuyên, làm cơ sở cho FPC ra quyết định cũng như tăng cường cơ chế dự báo.
Bộ chỉ số cơ bản Đệm vốn phản chu kỳ (CCyB)
Trước khi ra quyết định điều chỉnh tỷ lệ đệm vốn phản chu kỳ, Ủy ban
chính sách tài chính FPC sẽ căn cứ vào một bộ các chỉ số cơ bản, bao gồm 18 chỉ
số, được chia thành 3 nhóm: đo lường độ căng bảng cân đối phi ngân hàng, đo
lường điều kiện và kỳ hạn thị trường, và đo lường độ căng bảng cân đối ngân
hàng. (Phụ lục 5a).
(i) Nhóm thứ nhất thực hiện đo lường độ căng bảng cân đối phi ngân hàng,
trong đó ghi nhận mức đòn bẩy trong nền kinh tế ở quy mô lớn và đặc biệt là trong
khu vực tư nhân phi tài chính (hộ gia đình và doanh nghiệp). Nhóm này bao gồm
rất nhiều các chỉ số đo lường tình trạng vay mượn của hộ gia đình và doanh
nghiệp, và vì thế, đo lường mức độ tổn thương của khu vực này trước những cú
sốc tiêu cực. Trong quá khứ, việc mở rộng tín dụng nhanh chóng, kéo theo đó là
tình trạng nợ nần ở mức cao của khu vực tư nhân thường sẽ dẫn đến khủng hoảng
tài chính. Trong nhóm này, FPC thực hiện đo lường tốc độ tăng trưởng tín dụng,
tỷ lệ tín dụng/GDP và chênh lệch giữa tỷ lệ này với xu hướng tín dụng/GDP
trong dài hạn.
Chênh lệch tín dụng/GDP là một chỉ số khá quan trọng, và cũng là một
trong những cơ sở để FPC ra quyết định. Chênh lệch tín dụng/GDP được tính toán
từ 3 nguồn số liệu: tín dụng hộ gia đình, tín dụng doanh nghiệp (phi tài chính) và
giá trị GDP danh nghĩa theo công thức:
Tỷ lệ tín dụng/ GDP = (Tín dụng hộ gia đình + Tín dụng doanh nghiệp phi tài
chính)/ GDP danh nghĩa.
63
Hình 2.8. Tỷ lệ đệm vốn phản chu kỳ và chênh lệch tỷ lệ tín dụng/GDP tại Anh
Credit to GDP gap
Buffer guide
Percentage points
25
20
15
10
5
+ -
0
5
10
15
20
25
30
1966
1976
1986
1996
2006
2016
giai đoạn 1966-2016
Nguồn: Bank of England
Nếu chênh lệch tỷ lệ tín dụng/GDP1 ở dưới mức 2% thì tỷ lệ đệm vốn
ngược chu kỳ sẽ giữ ở mức 0%, nhưng nếu chênh lệch tín dụng/GDP tăng trên 2%
thì tỷ lệ CCB sẽ tăng dần lên và chạm giá trị 2,5% nếu chênh lệch tỷ lệ tín dụng/
GDP từ 10% trở lên. Ưu điểm của chỉ số này là hồi tưởng chính xác các cuộc
khủng hoảng trong quá khứ, nhưng lại hạn chế trong việc dự báo những khủng
hoảng trong tương lai bởi độ chính xác của chỉ số này phụ thuộc vào cách tính khá
đơn giản của xu hướng dài hạn. Vì thế, đây sẽ là một chỉ báo thiếu chính xác cho
FPC khi cân nhắc giảm tỷ lệ CCyB bởi trong điều kiện suy giảm tím dụng thì chỉ
số này vẫn có xu hướng gia tăng ngay khi khởi đầu của cuộc khủng hoảng. Chính
1 Chênh lệch tỷ lệ tín dụng/ GDP (credit to GDP gap) là phần chênh lệch giữa tỷ lệ tín dụng/ GDP trên thực tế với xu hướng dài hạn của tỷ lệ này, trong đó, tỷ lệ dài hạn được tính dựa trên bộ lọc HP một bên với lambda bằng 400.000. Chuỗi số liệu chênh lệch này bắt đầu được tính tại Anh từ quý 4/1966.
vì vậy, bên cạnh chỉ số này, FPC vẫn phải tính toán thêm các chỉ số khác nữa liên
64
quan đến trạng thái ngoại bảng cân đối, bao gồm tài sản ngoại tệ ròng/GDP, nợ
nước ngoài/GDP và trạng thái cán cân vãng lai.
Liên quan đến rủi ro ngoại hối, FPC yêu cầu các ngân hàng nước ngoài
cũng như các ngân hàng nội địa Anh đều phải tuân thủ quy định về tỷ lệ đệm vốn
phản chu kỳ như nhau bởi các ngân hàng này đều gặp các rủi ro ngoại hối như
nhau khi cho vay nước ngoài. Ngược lại, các tổ chức tài chính Anh khi hoạt động
tại nước ngoài cũng phải tuân thủ tỷ lệ đệm vốn phản chu kỳ cho cơ quan điều
hành của quốc gia đó ban hành. Ngoài ra, BOE còn quy định tỷ lệ đệm vốn phản
chu kỳ yêu cầu các tổ chức tài chính (bao gồm các ngân hàng thương mại, quỹ tín
dụng, công ty đầu tư lớn) trong và ngoài nước hoạt động tại Anh phải duy trì để
phòng ngừa rủi ro ngoại hối khi cho vay nước ngoài.
Bảng 2.1. Tỷ lệ đệm vốn ngược chu kỳ cho các tổ chức tài chính Anh
Quốc gia Ngày áp dụng Ngày áp dụng Tỷ lệ CCB hiện tại Tỷ lệ CCB đang chờ thực hiện
Hong Kong 1,25% 1,875% 1/1/2018 1/1/2017
Thụy Điển 1,5% 30/6/2016 2% 31/12/2017
Thụy Sĩ 2% 19/3/2017
Cộng hòa Séc 0,5% 1/1/2017 1% 1/7/2018
Iceland 1% 1/3/2017 1,25% 1/11/2017
Slovakia 0,5% 1/8/2017 1,25% 1/8/2018
Nguồn: Bank of England
(ii) Nhóm thứ hai thực hiện đo lường điều kiện và kỳ hạn của thị trường,
bằng cách xác định thời hạn vay đối với các khoản cho vay mới và khẩu vị rủi ro
của nhà đầu tư trên thị trường. Các chỉ số trong nhóm này liên quan đến lãi suất
thực dài hạn và chênh lệch lãi suất ngân hàng áp dụng đối với các khoản cho
vay mới đối với hộ gia đình và doanh nghiệp. Khi lãi suất dài hạn trong quá khứ ở
mức thấp hoặc khi chênh lệch lãi suất là quá nhỏ, người đi vay có thể dễ bị tổn
thương trước những cú sốc tiêu cực, điều kiện thị trường bất lợi khiến họ khó có
thể tiếp tục thanh toán nợ. Nhóm này cũng bao gồm chỉ số chênh lệch lãi suất trên
65
thị trường trái phiếu doanh nghiệp toàn cầu và chỉ số biến động kỳ vọng nhà đầu
tư vào thị trường cổ phiếu. Về cơ bản, các chỉ số này cho biết khẩu vị rủi ro (mức
độ chấp nhận rủi ro) nói chung và mức độ không chắc chắn trong hệ thống tài
chính. Ví dụ, nếu chênh lệch lãi suất trên thị trường nợ toàn cầu trở nên nhỏ hơn
hoặc mức độ biến động kỳ vọng nhà đầu tư ít, điều này chứng tỏ rằng rủi ro đang
được định giá thấp, và nhà đầu tư đang tìm kiếm lợi nhuận.
(iii) Nhóm thứ ba thực hiện đo lường độ căng bảng cân đối ngân hàng,
trong đó ghi nhận mức đòn bẩy và chênh lệch kỳ hạn/ thanh khoản trong hệ
thống ngân hàng. Về cơ bản, các chỉ số này đo lường một cách đơn giản khả năng
hấp thụ thua lỗ của hệ thống ngân hàng trước những rủi ro. Nhóm này bao gồm
các chỉ số phản ánh khả năng hấp thụ tổn thất hiện tại của hệ thống ngân hàng như
tỷ lệ an toàn vốn, các tỷ lệ đòn bẩy; các chỉ số dựa trên thị trường như phí hoán
đổi rủi ro tín dụng đối với các khoản nợ dài hạn; các chỉ số phản ánh khả năng hấp
thụ tổn thất trong tương lai của hệ thống ngân hàng như tỷ lệ giá trên sổ sách, tỷ lệ
đòn bẩy dựa trên thị trường và lợi tức bình quân trên tài sản; các chỉ số đo lường
bất cân xứng kỳ hạn/ thanh khoản…
Bộ chỉ số cơ bản Đệm vốn theo lĩnh vực (SCRs)
Cũng giống như bộ chỉ số ở trên, bộ chỉ số này cũng được chia thành 3
nhóm tương tự, nhưng chỉ bao gồm 12 chỉ số. Thứ tự và cách tính các chỉ số được
mô tả trong Phụ lục 4b.
Đối với nhóm chỉ số đo lường độ căng bảng cân đối ngân hàng: hai chỉ số
tỷ lệ an toàn vốn và tỷ lệ đòn bẩy là rất quan trọng, bởi chúng là cơ sở giúp FPC
cân nhắc xem liệu có nên điều chỉnh tỷ lệ SCRs hay không. Về cơ bản, hai chỉ số
này có mối liên hệ chặt chẽ thông qua tỷ trọng rủi ro bình quân. Khi tỷ trọng rủi ro
bình quân của một lĩnh vực nào đó giảm xuống, có nghĩa là việc mở rộng bảng cân
đối theo lĩnh vực này là tương đối an toàn, nhưng nó cũng đồng nghĩa với việc có
thể có xu hướng đầu tư quá mức vào lĩnh vực này và kéo theo đó là những rủi ro,
cần sự điều chỉnh tỷ lệ SCRs cho lĩnh vực đó. Trong đó, tỷ trọng rủi ro bình quân
của các khoản cho vay thế chấp là chỉ số mà PFC rất quan tâm.
66
Đối với nhóm chỉ số đo lường độ căng bảng cân đối phi ngân hàng: chỉ số
tăng trưởng tín dụng theo lĩnh vực/ ngành là chỉ số đầu tiên phải xem xét đến.
Lý do là bởi sự gia tăng tín dụng tập trung vào các lĩnh vực cụ thể thường kéo theo
những nguy cơ khủng hoảng. Lịch sử đã cho thấy, tại Anh, trước khủng hoảng,
hoạt động cho vay bất động sản thương mại vô cùng phát triển và sau đó là sự suy
yếu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngay trước giai đoạn căng thẳng tài chính.
Hay ví dụ như cuộc khủng hoảng tại Nhật những năm 90 cũng bắt đầu từ tăng
trưởng tín dụng quá nóng cho các lĩnh vực: tiêu dùng, bất động sản và doanh
nghiệp vừa và nhỏ; cuộc khủng hoảng tại Bắc Âu cuối những năm 80 cũng đi kèm
với bùng nổ tín dụng hộ gia đình và bất động sản thương mại. Chính vì thế, chỉ số
tăng trưởng tín dụng ngành được sử dụng như chỉ báo giúp FPC cân nhắc điều
chỉnh tăng SCRs trong những giai đoạn tăng trưởng nóng và giảm SCRs trong giai
đoạn thu hẹp tín dụng. Bên cạnh đó, các chỉ số khác như tỷ lệ nợ hộ gia đình/ thu
nhập, tỷ lệ nợ doanh nghiệp/ lợi nhuận… cũng là những dữ kiện bổ sung quan
trọng cho FPC.
Đối với nhóm chỉ số đo lường điều kiện và kỳ hạn thị trường: chỉ số đầu
tiên cần quan tâm trong nhóm này là giá bất động sản thương mại và nhà ở. Bởi
một trong những dấu hiệu trước khủng hoảng là tăng trưởng cho vay ngân hàng, đi
kèm với đó là sự phát triển mạnh mẽ của thị trường bất động sản. Kinh nghiệm từ
cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu cho thấy, giá bất động sản thường tăng chạm
đỉnh 1-2 năm trước khi xảy ra khủng hoảng.
Bộ chỉ số cơ bản công cụ nhà ở
Để giảm thiểu những rủi ro trên thị trường bất động sản, FPC chủ yếu sử
dụng hai công cụ là tỷ lệ cho vay trên giá trị tài sản đảm bảo (Loan to value-LTV)
và tỷ lệ vay trên thu nhập (Debt to income-DTI), trong đó bao gồm các tỷ lệ thanh
toán lãi (Interest coverage ratio-ICRs) áp dụng đối với cho vay mua nhà để cho
thuê. Trong đó:
67
LTV là tỷ lệ giá trị cho vay thế chấp trên giá trị tài sản đảm bảo. Công cụ
này được áp dụng cho các khoản vay mua nhà để ở, thường được sử dụng trong
những giai đoạn tăng trưởng cho vay thế chấp nóng (năm 1986 và 2006)
DTI là tỷ lệ dư nợ của người đi vay trên thu nhập hàng năm của người đó.
Công cụ này được áp dụng đối với các khoản vay mua nhà để cho thuê, được đi vào
thực thi năm 2004.
ICRs là tỷ lệ thu nhập dự kiến từ việc cho thuê nhà trên lãi suất dự kiến
phải trả cho khoản vay thế chấp mua nhà để cho thuê tính cho một khoảng thời gian
nhất định (thường là một tháng). Đây là công cụ mới nhất, được áp dụng năm 2011
và nhằm vào các khoản vay mua nhà để cho thuê.
Về cơ bản, không có một bộ chỉ số riêng lẻ nào có thể cung cấp một hướng
dẫn hoàn chỉnh cho cơ quan điều hành kiểm soát rủi ro hệ thống bắt nguồn từ thị
trường bất động sản. Việc tính toán bộ chỉ số chỉ là một phần trong quá trình đánh
giá, phán đoán về tình hình rủi ro hệ thống của FPC, chứ không phải là căn cứ duy
nhất để FPC ra quyết định. Tuy nhiên, FPC vẫn thiết lập một bộ chỉ số cơ bản giúp
xác định giới hạn LTV và DTI bao gồm 9 chỉ số, chia thành 2 nhóm (Phụ lục 5c)
(i) Nhóm đo lường độ căng bảng cân đối của tổ chức cho vay và hộ gia
đình: Chỉ số đầu tiên-tỷ lệ LTV và LTIs đối với khoản cho vay thế chấp mới, về
bản chất là chỉ số đánh giá rủi ro cho vay thế chấp và từ đó, làm cơ sở xác định
giới hạn LTV và DTI. Ủy ban FPC sẽ dựa trên biểu đồ phân phối giá trị của hai tỷ
lệ này, so sánh với giá trị trung bình và trung vị để xác định xem liệu có những rủi
ro bất ổn tài chính nào không. Ngoài ra, chỉ số tốc độ tăng trưởng tín dụng hộ gia
đình cũng rất quan trọng trong việc chỉ báo khủng hoảng, điều này xuất phát từ
mối quan hệ giữa giá nhà và tăng trưởng tín dụng. Thông thường, nhà sẽ được sử
dụng như nguồn tài sản thế chấp chính, vì thế, khi giá nhà tăng sẽ thúc đẩy tăng
trưởng tín dụng. Nguồn tín dụng đổ vào thị trường nhà ở, khiến giá nhà lại tiếp tục
tăng lên, tạo nên áp lực bất ổn tài chính. Chính vì vậy, khi tốc độ tăng trưởng cao
hơn so với tốc độ tăng giá trị nhà, đó là lúc cần sử dụng đến các công cụ điều tiết
thị trường nhà ở.
68
(ii) Nhóm đo lường điều kiện và kỳ hạn trên thị trường: Thông qua các chỉ
số này, FPC sẽ theo sát những hoạt động, những thay đổi trên thị trường bất động
sản nhà ở, và có những điều chỉnh kịp thời. Về cơ bản, việc xem xét các chỉ số này
không chỉ giúp FPC nắm bắt được thực trạng hoạt động thị trường bất động sản,
mà các chỉ số này còn được sử dụng như chỉ báo về sự cần thiết phải điều chỉnh
các công cụ nhà ở trước khi khủng hoảng tài chỉnh toàn cầu xảy ra. Dựa trên dữ
liệu quá khứ, FPC thấy rằng trước khủng hoảng, một vài các chỉ số có sự thay đổi
rất đáng báo động:
- Tốc độ gia tăng tín dụng nhanh chóng và vay mượn hộ gia đình ở mức cao
- Tỷ lệ giá nhà/ thu nhập khả dụng cao kỷ lục
- Chênh lệch lãi suất cho vay thế chấp với mức cơ bản thấp kỷ lục.
Để đánh giá liệu có khả năng xảy ra khủng hoảng nhà đất hay không thì cần
nhiều hơn những phân tích định lượng và các thông tin khác, tuy nhiên, các chỉ số
ở trên cũng được coi như những chỉ số cơ bản đầu tiên cần được xem xét đến.
Như vậy, một số bài học kinh nghiệm về đo lường ổn định tài chính tại Anh
được rút ra là:
- Mô hình giám sát hợp nhất, chính phủ Anh thành lập Ủy ban chính sách
tài chính (FPC) nằm trong NHTW với sự tham gia của nhiều cơ quan khác, cùng
phụ trách việc xác định, đo lường rủi ro hệ thống.
- Rủi ro hệ thống chính yếu đến từ là hệ thống ngân hàng và thị trường bất
động sản. Đây là hai khu vực có nguy cơ rủi ro lớn nhất và có ảnh hưởng lớn nhất
đến hệ thống tài chính. Các công cụ thực thi được FPC thiết kế và sử dụng cũng
nhằm tác động vào hai khu vực này.
- Anh thực hiện đo lường ổn định tài chính theo hướng tiếp cận dựa vào
các công cụ điều hành. FPC tại Anh không đo lường điều kiện tài chính dựa theo
các chỉ số FSIs của IMF mà có bộ chỉ số riêng. Lý do là bộ chỉ số của IMF là gợi ý
chung cho các quốc gia, bao gồm các nước áp dụng Basel I, II và cả những quốc
gia không áp dụng theo chuẩn mực Basel. Chính vì vậy, trong bộ chỉ số của IMF
có rất nhiều các chỉ số tương tự như yêu cầu của chuẩn mực Basel. Trong khi đó,
các tổ chức tín dụng tại Anh hiện đang áp dụng theo chuẩn mục Basel III, và vì
thế, họ không sử dụng bộ chỉ số lành mạnh tài chính FSIs của IMF mà tự thiết kế
69
các chỉ số đo lường riêng dựa trên loại rủi ro và loại công cụ điều chỉnh. Điều này
có nghĩa là nhà điều hành đã xác định rõ được những rủi ro hệ thống đến từ đâu,
và công cụ chủ yếu mình sẽ sử dụng. Bộ chỉ số sẽ được xây dựng dựa trên các rủi
ro và công cụ, được tính toán theo định kỳ để làm cơ sở cho FPC điều chỉnh công
cụ cũng như giải trình các quyết định của mình trước công chúng.
2.2.2. Kinh nghiệm của Trung Quốc
2.2.2.1. Đặc điểm hệ thống tài chính
Trung Quốc có hệ thống tài chính dựa vào ngân hàng với sự tăng trưởng
mạnh mẽ cả về quy mô và độ phức tạp. Theo IMF (2017), tổng tài sản của hệ
thống tài chính đã tăng từ 263% GDP năm 2011 lên đến 467% GDP năm 2016.
Trong đó, hệ thống ngân hàng chiếm tỷ trọng chủ yếu với hơn 310% GDP trong
năm 2016. Các tổ chức tài chính phi ngân hàng như công ty bảo hiểm hay các
công ty quản lý đầu tư cũng có sự phát triển nhanh chóng trong giai đoạn gần đây.
Hình 2.9. Tốc độ tăng trưởng tài sản của hệ thống ngân hàng
Đơn vị: nghìn tỷ nhân dân tệ
Nguồn: IMF (2017)
Hệ thống ngân hàng có mức độ tập trung cao. Trong giai đoạn vừa qua, hệ
thống ngân hàng có mức độ phát triển nhanh chóng, đặc biệt là các ngân hàng
thương mại cổ phần, ngân hàng thương mại thành thị và nông thôn. Mặc dù vậy,
các NHTM Nhà nước, cụ thể là bốn ngân hàng lớn (Ngân hàng thương mại và
70
công nghiệp Trung Hoa, Ngân hàng xây dựng Trung Hoa, Ngân hàng Trung Hoa
và Ngân hàng nông nghiệp Trung Hoa) vẫn giữ vai trò chính yếu trong hệ thống
với giá trị tài sản chiếm 1/3 tổng tài sản hệ thống ngân hàng. Các ngân hàng này
có lợi thế về quy mô, nguồn vốn tiền gửi ổn định và lãi suất thấp, chủ yếu thực
hiện cho vay với các doanh nghiệp nhà nước lớn. Các ngân hàng thương mại cổ
phần chủ yếu cho vay với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cho vay tín chấp, bảo
lãnh và chấp nhận hối phiếu. Các ngân hàng thương mại thành thị chủ yếu cho vay
với các doanh nghiệp nhà nước trong khu vực và tài trợ các dự án.
Thị trường tài chính có quy mô lớn nhưng thiếu ổn định, chưa thể hiện
được vai trò quan trọng trong dẫn truyền vốn cho các doanh nghiệp và nền kinh
tế. Thị trường trái phiếu của Trung Quốc là thị trường lớn thứ ba thế giới nhưng
mới chỉ cung ứng một lượng vốn tương đối nhỏ cho các khu vực doanh nghiệp tư
nhân. Thị trường chứng khoán dù ngày càng gia tăng về quy mô và thị trường lớn
thứ hai sau Mỹ, nhưng thường xuyên biến động. Các nhà đầu tư trên thị trường
chủ yếu là nhà đầu tư bán lẻ, các quỹ đầu tư dù có tốc độ tăng trưởng nhanh chóng
nhưng vẫn được đánh giá là chưa phát triển, các quỹ hưu trí cũng kém phát triển
so với tiềm năng mặc dù tỷ lệ tiết kiệm ở Trung Quốc là rất cao. (IMF, 2017).
140
126,153
120
100
80
74,33
71,74
70,04
66,17
65,73
60
57,53
46,48
41,62
45,18 43,33 41,26
40
38,72
20
17,58
0
2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018
Hình 2.10. Giá trị vốn hóa thị trường chứng khoán Trung Quốc (% GDP)
Nguồn: Cơ sở dữ liệu của World Bank
71
Ngân hàng nhân dân Trung Hoa (PBC – People’s Bank of China) và Ủy
ban giám sát chứng khoán (CSRC – China Securities Regulatory Commission) là
hai cơ quan chính thực hiện giám sát hoạt động của hệ thống tài chính. Trong đó,
NHTW thực hiện giám sát hoạt động của các ngân hàng Ủy ban giám sát chứng
khoán thực hiện giám sát các hoạt động và các tổ chức trên thị trường tài chính
bao gồm: thị trường trái phiếu, cổ phiếu và phái sinh tương lai (tài chính và hàng
hóa). (IMF, 2018).
2.2.2.2. Đo lường ổn định hệ thống tài chính
a) Nhận diện rủi ro hệ thống
Tăng trưởng tín dụng nóng là nguy cơ rủi ro hệ thống chính của Trung
Quốc trong giai đoạn hiện nay. Tỷ lệ tín dụng/ GDP của Trung Quốc khoảng
25%, cao hơn so với xu hướng dài hạn, và cao hơn rất nhiều so với chuẩn quốc tế,
tăng khả năng đối mặt với khủng hoảng tài chính. Tín dụng cho các doanh nghiệp
khoảng 165% GDP và tín dụng hộ gia đình dù ở mức thấp nhưng đã tăng thêm
15% GDP trong khoảng 5 năm trở lại đây, kéo theo nguy cơ đầu cơ giá tài sản. Sự
tích tụ tín dụng trong các lĩnh vực truyền thống đi đôi với việc suy giảm tốc độ
tăng năng suất lao động và gây áp lực lên chất lượng tài sản. Tỷ lệ nợ xấu ở mức
thấp cũng khiến các NHTM đánh giá thấp nguy cơ rủi ro tín dụng và thực hiện các
hoạt động cho vay phi tiêu chuẩn, duy trì rủi ro ở ngoại bảng. Một vấn đề khác
nữa là trong khi các NHTM rất tích cực trong việc xóa sổ và xử lý các khoản vay
có vấn đề bằng cách bán cho công ty quản lý tài sản của Nhà nước thì hoạt động
tái cấu trúc các doanh nghiệp yếu kém lại chưa được quan tâm thực hiện.
Sự phát triển nhanh chóng của khu vực ngân hàng ngầm, nằm ngoài tầm
kiểm soát của NHTW, gây nguy cơ rủi ro cho hệ thống tài chính. Không giống
như các quốc gia, hoạt động ngân hàng ngầm tại Trung Quốc có quy mô lớn và
mang tính đặc thù riêng. Theo Ehlers và cộng sự (2018), các ngân hàng thương
mại – tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian tài chính chính thức nhưng đồng thời
cũng là trung tâm của hoạt động ngân hàng ngầm khi thực hiện: phát hành các
công cụ ngân hàng ngầm như các sản phẩm quản lý tài sản (wealth management
72
products – WMPs), cung cấp thanh khoản cho các tổ chức ngân hàng ngầm (công
ty tín thác), nắm giữ các công cụ ngân hàng ngầm như chứng quyền tín thác (trust
beneficiary rights – TBR) hoặc công cụ quản lý tài sản liên ngân hàng (interbank
WMPs). Hoạt động này ngày càng trở nên lớn mạnh hơn bởi nó đã cung cấp các
sản phẩm tiết kiệm và sản phẩm tín dụng cho các đối tượng đủ điều kiện tiếp cận
trực tiếp với các dịch vụ tín dụng của ngân hàng. Sự tham gia của các ngân hàng
trong hoạt động ngân hàng ngầm làm tăng mối liên kết giữa các tổ chức tài chính
ngân hàng và phi ngân hàng, đồng thời gia tăng mối liên kết với thị trường trái
phiếu Trung Quốc khi phần lớn lợi tức thu được từ các sản phẩm quản lý tài sản
WMPs lại được tái đầu tư trên thị trường trái phiếu. Quy mô của thị trường các
công cụ ngân hàng ngầm ngày càng mở rộng, tính đến cuối năm 2016, tổng giá trị
các công cụ này đạt 57,3 nghìn tỷ nhân dân tệ, chiếm 77,1% GDP. Tất cả các hoạt
động ngân hàng ngầm này đều không chịu sự quản lý, giám sát chặt chẽ từ cơ
quan quản lý, vì vậy các hoạt động này tiềm ẩn rủi ro rất lớn khi những người đi
vay không trả nợ.
Bảng 2.2. Quy mô các công cụ ngân hàng ngầm tại Trung Quốc năm 2016
Giá trị Quy mô Công cụ (nghìn tỷ NDT) (% GDP)
5,9
0,8
1. Công cụ quản lý tài sản có đảm bảo (WMPs
guaranteed)
23,1
31,1
2. Công cụ quản lý tài sản không có đảm bảo
(WMPs non-guaranteed)
20,2
27,2
3. Công cụ tín thác (trust products)
13,2
17,7
4. Cho vay ủy thác (entrusted loans)
0.8
1,1
5. Cho vay ngang hàng (P2P loans)
Tổng
57,3
77,1
Nguồn: Ehlers và cộng sự (2018)
b) Bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính Trung Quốc
Đối với hệ thống ngân hàng, NHTW đo lường sự lành mạnh của hệ thống
73
bằng các chỉ tiêu về sinh lời, tài sản, nợ, vốn và thanh khoản. Các chỉ tiêu này chủ
yếu đánh giá các rủi ro vi mô của từng ngân hàng, từng nhóm ngân hàng, trong đó
có những chỉ tiêu tương đồng như bộ chỉ số lành mạnh tài chính của IMF.
Bảng 2.3. Các chỉ tiêu đo lường lành mạnh hệ thống ngân hàng Trung Quốc
Chỉ tiêu
Cách tính
1. Chỉ số sinh lời
Tỷ
lệ
lợi
Lợi nhuận biên
Lợi nhuận sau thuế/ Thu nhập hoạt động
nhuận/ vốn
Lợi nhuận điều chỉnh rủi ro
Thu nhập hoạt động/ TSCRR quy đổi
chủ sở hữu
TSCRR quy đổi/ Tổng tài sản
Rủi ro hoạt động
(ROE)2
Tổng tài sản / Vốn chủ sở hữu
Tỷ lệ đòn bẩy
Dòng
thu
Thu nhập lãi ròng
nhập
Thu nhập phí ròng
Thu nhập từ đầu tư
Thu nhập từ kinh doanh khác
Thu nhập hoạt động ròng
Chi phí
Tỷ lệ chi phí hoạt động/ thu nhập
hoạt động
2. Chỉ số tài sản
Quy mô và cấu trúc của tổng tài
sản
Quy mô và chất lượng tín dụng
Tăng trưởng dư nợ tín dụng và tỷ lệ nợ xấu
Tỷ lệ bao phủ dự phòng
Dự phòng rủi ro tín dụng/ Dư nợ xấu
3. Nợ, vốn và thanh khoản
Quy mô và cấu trúc nợ
Vốn và hệ số an toàn vốn CAR
Tỷ lệ thanh khoản
Tài sản thanh khoản/ Nợ thanh khoản
Nguồn: PBC (2014)
Đối với thị trường tài chính, NHTW đánh giá mức độ lành mạnh thông qua