BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG

----------

VŨ HẢI YẾN

THIẾT LẬP BỘ CHỈ SỐ XÁC ĐỊNH MỨC ĐỘ ỔN ĐỊNH

CỦA HỆ THỐNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM

Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng

Mã số: 9.34.02.01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

HÀ NỘI – 2020

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG

----------

VŨ HẢI YẾN

THIẾT LẬP BỘ CHỈ SỐ XÁC ĐỊNH MỨC ĐỘ ỔN ĐỊNH

CỦA HỆ THỐNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM

Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng

Mã số: 9.34.02.01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:1. GS.TS. NGUYỄN VĂN TIẾN

2. TS. NGUYỄN TUẤN PHƯƠNG

HÀ NỘI – 2020

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng

tôi. Các số liệu sử dụng phân tích trong luận án có nguồn gốc rõ ràng, đã công bố

theo đúng quy định. Các kết quả nghiên cứu trong luận án do tôi tự tìm hiểu, phân

tích một cách trung thực, khách quan và phù hợp với thực tiễn của Việt Nam. Các

kết quả này chưa từng được công bố trong bất kỳ nghiên cứu của tác giả nào khác.

Nghiên cứu sinh

Vũ Hải Yến

ii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................... i

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ............................................................................. v

DANH MỤC BẢNG ............................................................................................... vii

DANH MỤC HÌNH .................................................................................................. ix

LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THIẾT LẬP BỘ CHỈ SỐ ĐO LƯỜNG

ỔN ĐỊNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH ................................................................ 14

1.1. Khái quát chung về hệ thống tài chính ....................................................... 14

1.1.1. Khái niệm hệ thống tài chính ...................................................................... 14

1.1.2. Phương thức luân chuyển vốn trong hệ thống tài chính .............................. 15

1.1.3. Cấu trúc hệ thống tài chính ......................................................................... 16

1.2. Những vấn đề cơ bản về ổn định tài chính ................................................. 17

1.2.1. Khái niệm ổn định tài chính ........................................................................ 17

1.2.2. Đặc điểm ổn định tài chính ......................................................................... 22

1.2.3. Nguyên nhân gây mất ổn định hệ thống tài chính ....................................... 27

1.3. Thiết lập bộ chỉ số đo lường mức độ ổn định hệ thống tài chính .............. 34

1.3.1. Sự cần thiết xây dựng bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính ......... 34

1.3.2. Quy trình thiết lập bộ chỉ số đo lường mức độ ổn định hệ thống tài chính.. 35

TÓM TẮT CHƯƠNG 1 ........................................................................................ 51

CHƯƠNG 2: THIẾT LẬP BỘ CHỈ SỐ ĐO LƯỜNG ỔN ĐỊNH HỆ THỐNG TÀI

CHÍNH – KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM .............. 52

2.1. Cơ sở lựa chọn quốc gia nghiên cứu ........................................................... 52

2.2. Kinh nghiệm quốc tế về đo lường ổn định hệ thống tài chính .................. 53

2.2.1. Kinh nghiệm của Anh ................................................................................. 53

2.2.2. Kinh nghiệm của Trung Quốc ..................................................................... 69

2.2.3. Kinh nghiệm của Hàn Quốc ........................................................................ 75

2.2.4. Kinh nghiệm của Indonesia ......................................................................... 89

2.3. Bài học cho Việt Nam ................................................................................. 102

iii

TÓM TẮT CHƯƠNG 2 ...................................................................................... 104

CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG THIẾT LẬP BỘ CHỈ SỐ ĐO LƯỜNG ỔN

ĐỊNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM ................................................ 106

3.1. Đặc điểm hệ thống tài chính Việt Nam ..................................................... 106

3.1.1. Hệ thống tài chính dựa vào ngân hàng ...................................................... 106

3.1.2. Hệ thống ngân hàng có mức độ tập trung cao ........................................... 110

3.1.3. Thị trường tài chính chưa hoàn thiện ........................................................ 111

3.1.4. Hệ thống giám sát phân tán ....................................................................... 116

3.2. Thực trạng thiết lập bộ chỉ số đo lường ổn định tài chính tại Việt Nam 118

3.2.1. Thực trạng tổ chức quản lý ....................................................................... 118

3.2.2. Thực trạng thiết lập bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính .......... 121

3.2.3. Thực trạng rủi ro cho hệ thống tài chính Việt Nam ................................... 128

3.3. Đánh giá hoạt động thiết lập bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài

chính tại Việt Nam ............................................................................................ 135

3.3.1. Thành công ............................................................................................... 135

3.3.2. Hạn chế và nguyên nhân ........................................................................... 136

TÓM TẮT CHƯƠNG 3 ...................................................................................... 138

CHƯƠNG 4: MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ VỀ THIẾT LẬP BỘ CHỈ SỐ ĐO

LƯỜNG ỔN ĐỊNH TÀI CHÍNH CHO VIỆT NAM ...................................... 139

4.1. Thiết lập bộ chỉ số đo lường ổn định tài chính cho Việt Nam ................. 139

4.1.1. Nhận diện rủi ro cho hệ thống tài chính Việt Nam .................................... 139

4.1.2. Lựa chọn các chỉ đo lường số ổn định hệ thống tài chính Việt Nam ......... 140

4.1.3. Áp dụng bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính Việt Nam ........... 147

4.2. Phát triển chỉ số ổn định tài chính tổng hợp ............................................ 165

4.2.1. Phương pháp trọng số cân bằng ................................................................ 168

4.2.2. Phương pháp phân tích thành tố chính PCA ............................................. 172

4.2.3. Lựa chọn phương pháp phù hợp ................................................................ 178

4.3. Một số khuyến nghị thực hiện hiệu quả bộ chỉ số đo lường mức độ ổn

định hệ thống tài chính Việt Nam được đề xuất ............................................. 179

iv

4.3.1. Thiết lập khuôn khổ chính sách ổn định tài chính ..................................... 179

4.3.2. Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu thông tin ............................................... 185

4.3.3. Tăng cường cơ chế phối hợp giữa các Bộ, các đơn vị trong NHNN ......... 187

4.3.4. Nâng cao nhận thức về kinh tế - tài chính cho công chúng ....................... 189

TÓM TẮT CHƯƠNG 4 ...................................................................................... 191

KẾT LUẬN ........................................................................................................ 192

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

v

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt Nguyên nghĩa Tiếng Việt Nguyên nghĩa Tiếng Anh

Ngân hàng phát triển châu Á Asian Development Bank ADB

Bất động sản BĐS

Bank for International BIS Ngân hàng thanh toán quốc tế Settlement

Ngân hàng trung ương Anh Bank of England BOE

Ngân hàng trung ương Hàn Quốc Bank of Korea BOK

Captial Adequacy Tỷ lệ an toàn vốn CAR Requirement

CCyB Tỷ lệ đệm vốn phản chu kỳ Countercyclical Capital Buffer

Tỷ lệ nợ/ thu nhập Debt to Income DTI

Ngân hàng trung ương châu Âu European Central Bank ECB

FISI Chỉ số ổn định tổ chức tài chính Indonesia Financial Institutions Stability Index

FMSI Chỉ số ổn định thị trường tài chính Indonesia. Financial Market Stability Index

Ủy ban Chính sách tài chính Financial Policy Committee FPC

Financial Soundness Bộ chỉ số lành mạnh tài chính FSIs Indicators

Chỉ số ổn định tài chính Hàn Quốc Financial Stability Index FSI

Báo cáo ổn định tài chính Financial Stability Report FSR

Financial Supervisory FSS Tổ chức dịch vụ giám sát tài chính Services

FSSI Chỉ số ổn định hệ thống tài chính Financial System Stability

vi

Indonesia Index

GDP Tổng sản phẩm quốc nội Gross Domestic Products

HHs Hộ gia đình Households

Ics Công ty bảo hiểm Insurance Corporations

International Monetary IMF Quỹ tiền tệ quốc tế Fund

LTI Tỷ lệ cho vay/ thu nhập Loan to Income

LTV Tỷ lệ cho vay trên giá trị tài sản Loan to Value

MPIs Chỉ số an toàn vĩ mô Macroprudential Indicators

NFCs Doanh nghiệp Nonfinancial Corporations

NPL Nợ xấu Nonperforming loan

NHNN Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

NHTM Ngân hàng thương mại

NHTW Ngân hàng Trung Ương

OFCs Tổ chức tài chính khác Other Financial Corporations

PCA Phân tích thành phần chính Principal Component Analysis

ROE Tỷ lệ lợi nhuận/ vốn chủ sở hữu Return on Equity

Sectoral Capital SCRs Tỷ lệ đệm vốn theo lĩnh vực Requirement

TSCRR Tài sản có rủi ro

TSĐB Tài sản đảm bảo

vii

DANH MỤC BẢNG

Tên bảng Trang

Bảng 1.1. Khu vực chính sách và sự đóng góp vào mục tiêu ổn định tài chính .... 23

Bảng 1.2. So sánh cách tiếp cận của chính sách an toàn vĩ mô và chính sách an

toàn vi mô. ............................................................................................................ 24

Bảng 1.3. Rủi ro theo thời gian và rủi ro chéo giữa các khu vực .......................... 33

Bảng 1.4. Phân nhóm các rủi ro cho ổn định hệ thống tài chính ........................... 38

Bảng 1.5. Các chỉ số lành mạnh tài chính cơ bản của IMF ................................... 41

Bảng 1.6. So sánh sự khác biệt giữa các bộ chỉ số đo lường ổn định tài chính của

các tổ chức IMF, ECB và ADB............................................................................. 49

Bảng 2.1. Tỷ lệ đệm vốn ngược chu kỳ mà các tổ chức tài chính Anh ................. 64

Bảng 2.2. Quy mô các công cụ ngân hàng ngầm tại Trung Quốc năm 2016 ......... 72

Bảng 2.3. Các chỉ tiêu đo lường lành mạnh hệ thống ngân hàng Trung Quốc ...... 75

Bảng 2.4. Cấu trúc tổ chức tài chính Hàn Quốc .................................................... 75

Bảng 2.5. Chỉ số FSIs về đầy đủ vốn (%) ............................................................. 79

Bảng 2.6. Chỉ số FSIs về chất lượng tài sản (%) ................................................... 79

Bảng 2.7. Tỷ lệ cho vay bất động sản (%) ............................................................ 80

Bảng 2.8. Chỉ số FSIs về thu nhập và khả năng sinh lời (%) ................................ 80

Bảng 2.9. Chỉ số FSIs về thanh khoản (%) ........................................................... 81

Bảng 2.10. Lỗi loại I và loại II theo phương pháp bình quân (%) ......................... 84

Bảng 2.11. Cấu trúc hệ thống tài chính Indonesia năm 2015 ................................ 90

Bảng 2.12. Các tổ chức tham gia Diễn đàn ổn định hệ thống tài chính Indonesia 92

Bảng 2.13. Chỉ số cho giám sát an toàn vĩ mô tại Indonesia. ................................ 95

Bảng 2.14. Các chỉ tiêu sử dụng để tính toán chỉ số ổn định tài chính FSSI ......... 97

Bảng 3.1. Quy mô tài sản và vốn của các tổ chức tín dụng năm 2018 ................ 106

Bảng 3.2. Chỉ số ổn định tài chính cơ bản của Việt Nam .................................... 123

Bảng 3.3. Chỉ số ổn định tài chính bổ sung của Việt Nam .................................. 124

Bảng 4.1. Bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính Việt Nam ................... 144

viii

Bảng 4.2. Hệ số an toàn vốn tối thiểu của các NHTM Việt Nam (%) ................. 154

Bảng 4.3. Các chỉ số thành phần cho chỉ số FSI Việt Nam ................................. 168

Bảng 4.4. Chuẩn hóa dữ liệu các chỉ số theo phương pháp min-max .................. 170

Bảng 4.5. Chuẩn hóa dữ liệu các chỉ số theo phương pháp Normed PCA .......... 174

Bảng 4.6. Kết quả 9 thành tố chính từ phương pháp PCA .................................. 175

Bảng 4.7. Giá trị và tỷ trọng các thành tố mới theo phương pháp PCA .............. 177

Bảng 4.8. Lỗi loại I và lỗi loại II theo phương pháp bình quân và PCA (%) ...... 178

ix

DANH MỤC HÌNH

Tên hình Trang

Hình 1.1. Phương thức luân chuyển vốn trong hệ thống tài chính. ....................... 15

Hình 1.2. Khung chính sách ổn định tài chính ...................................................... 22

Hình 1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hệ thống tài chính ...................................... 28

Hình 1.4. Rủi ro theo thời gian (chu kỳ) ............................................................... 31

Hình 1.5. Rủi ro chéo giữa các khu vực ................................................................ 32

Hình 1.6. Quy trình thiết lập bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính ........ 35

Hình 1.7. Đánh giá năng lực khu vực ngân hàng trước những nguy cơ ................ 44

Hình 2.1. Tỷ trọng cung ứng vốn cho các doanh nghiệp của thị trường tài chính

Anh giai đoạn 2007-2018 ...................................................................................... 53

Hình 2.2. Quy mô tổng tài sản hệ thống ngân hàng Anh/GDP (%) giai đoạn 2012-

2017 ...................................................................................................................... 54

Hình 2.3. Tỷ lệ vốn hóa thị trường cổ phiếu/ GDP (%) tại Anh giai đoạn 2008-

2018 ...................................................................................................................... 55

Hình 2.4. Cơ cấu tổ chức giám sát ổn định tài chính tại Anh ................................ 56

Hình 2.5. Lịch sử vay mượn của hộ gia đình tại Anh ............................................ 58

Hình 2.6. Tốc độ tăng trưởng tín dụng tiêu dùng tại Anh ..................................... 59

Hình 2.7. Các công cụ và chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính Anh ........... 60

Hình 2.8. Tỷ lệ đệm vốn phản chu kỳ và chênh lệch tỷ lệ tín dụng/GDP tại Anh

giai đoạn 1966-2016 ............................................................................................. 63

Hình 2.9. Tốc độ tăng trưởng tài sản của hệ thống ngân hàng .............................. 69

Hình 2.10. Giá trị vốn hóa thị trường chứng khoán Trung Quốc (% GDP) ........... 70

Hình 2.11. Quy mô ngân hàng ngầm của Trung Quốc .......................................... 74

Hình 2.12. Xu hướng phát triển thị trường tài chính Hàn Quốc ............................ 76

Hình 2.13. Chỉ số ổn định tài chính theo lĩnh vực và giai đoạn rủi ro. .................. 82

Hình 2.14. Chỉ số ổn định tài chính tổng hợp từ 6 lĩnh vực .................................. 83

Hình 2.15. Chỉ số ổn định tài chính FSI giai đoạn 2008 – 11/2018 ...................... 85

x

Hình 2.16. Bản đồ ổn định tài chính của Hàn Quốc .............................................. 86

Hình 2.17. Bản đồ ghi nhận thay đổi trong thị trường tín dụng và thị trường tài sản

năm 2018 .............................................................................................................. 87

Hình 2.18. Bản đồ ghi nhận thay đổi trong các chỉ số lành mạnh hệ thống ngân

hàng và các tổ chức tài chính phi ngân hàng năm 2018 ........................................ 87

Hình 2.19. Bản đồ liên kết qua lại giữa các tổ chức tài chính năm 2018............... 88

Hình 2.20. Sơ đồ khung ổn định tài chính của Indonesia. ..................................... 93

Hình 2.21. Ba trụ cột của ổn định tài chính ........................................................... 96

Hình 2.22. Chỉ số ổn định hệ thống tài chính (FSSI/ISSK) ................................. 100

Hình 2.23. Chỉ số FSSI với giai đoạn gốc 2001-2010. ........................................ 101

Hình 3.1. Tỷ trọng cung ứng vốn cho nền kinh tế giai đoạn 2012-2018 ............. 107

Hình 3.2. Mức độ vốn hóa thị trường của các doanh nghiệp nội địa trên GDP (%) ......... 108

Hình 3.3. Tổng dư nợ tín dụng và tổng dư nợ trái phiếu tại Việt Nam ................ 109

Hình 3.4. Thị phần cho vay của các tổ chức tài chính ......................................... 110

Hình 3.5. Thị phần huy động của các tổ chức tài chính ...................................... 110

Hình 3.6. Mức độ tập trung tài sản của 5 NHTM lớn nhất Việt Nam (%) .......... 111

Hình 3.7. Quy mô thị trường trái phiếu Việt Nam .............................................. 112

Hình 3.8. Số lượng doanh nghiệp niêm yết thị trường chứng khoán Việt Nam .. 113

Hình 3.9. Tổng giá trị cổ phiếu được giao dịch trên thị trường/GDP (%) ........... 114

Hình 3.10. Quy mô thị trường trái phiếu sơ cấp giai đoạn 2006-2018 ................ 114

Hình 3.11. Tỷ trọng trái phiếu đấu thầu thành công theo kỳ hạn ........................ 115

Hình 3.12. Hệ thống giám sát tài chính tại Việt Nam ......................................... 117

Hình 4.1. Tỷ lệ tăng trưởng tín dụng nóng tại Việt Nam .................................... 148

Hình 4.2. Hệ số CAR trung bình và tỷ lệ đòn bẩy (Nợ phải trả/ Vốn chủ sở hữu)

của các NHTM giai đoạn 2008-2018 (%) ........................................................... 150

Hình 4.3. Tỷ lệ nợ xấu và tỷ lệ bao phủ nợ xấu của hệ thống ngân hàng Việt Nam ...... 150

Hình 4.4. Chênh lệch lãi suất ròng và tỷ lệ lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của hệ

thống NHTM Việt Nam ...................................................................................... 151

Hình 4.5. Tỷ lệ tài sản thanh khoản của hệ thống ngân hàng Việt Nam giai đoạn

2008-2018 ........................................................................................................... 152

xi

Hình 4.6. Diễn biến lãi suất qua đêm trên thị trường liên ngân hàng Việt Nam giai

đoạn 2007-2018 .................................................................................................. 157

Hình 4.7. Diễn biến tỷ giá bình quân USD/VND trên thị trường ngoại hối liên ngân

hàng Việt Nam giai đoạn 2007-2018 .................................................................. 158

Hình 4.8. Diễn biến chỉ số giá chứng khoán VN Index và giá trị giao dịch thị

trường giai đoạn 2005-2018 ................................................................................ 160

Hình 4.9. Lãi suất trái phiếu chính phủ Việt Nam và chỉ số CDS kỳ hạn 5 năm giai

đoạn 2007-2018 .................................................................................................. 161

Hình 4.10. Diễn biến các chỉ tiêu vĩ mô giai đoạn 2008-2018 ............................ 162

Hình 4.11. Tỷ lệ nợ công và nợ nước ngoài của Việt Nam giai đoạn 2008-2018 163

Hình 4.12. Chỉ số giá bất động sản và tốc độ tăng trưởng tín dụng ..................... 164

Hình 4.13. Chỉ số ổn định tài chính FSI theo phương pháp trọng số cân bằng ... 171

Hình 4.14. Chỉ số ổn định tài chính FSI theo phương pháp PCA ........................ 177

Hình 4.15. Khuôn khổ chính sách ổn định tài chính ........................................... 179

Hình 4.16. Các cấu phần trong khung chính sách ............................................... 180

1

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của luận án

Hệ thống tài chính ổn định là hệ thống trong đó các trung gian tài chính, thị

trường và cơ sở hạ tầng của thị trường điều chuyển vốn một cách trơn tru giữa

người tiết kiệm và nhà đầu tư, và qua đó, giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Ngược lại, nếu hệ thống tài chính không ổn định hay có những bất ổn tài chính

xảy ra sẽ không chỉ gây cản trở hoạt động trung gian tài chính mà còn làm giảm

hiệu quả thực thi chính sách tiền tệ, làm trầm trọng thêm tình trạng suy thoái kinh

tế, thoái vốn đầu tư và gây áp lực lên tỷ giá, gia tăng chi phí cho ngân sách trong

việc giải cứu các tổ chức tài chính. Bên cạnh đó, cùng với sự kết nối và hội nhập

ngày càng sâu sắc giữa các thị trường tài chính và nền kinh tế, những cú sốc hay

khủng hoảng tài chính tại một thị trường có thể ảnh hưởng và lan truyền đến các

bộ phận và quốc gia khác. Chính vì thế, việc ổn định và lành mạnh hóa hệ thống

tài chính là mục tiêu quan trọng, không chỉ đem lại lợi ích cho từng quốc gia mà

cho toàn bộ thị trường tài chính thế giới.

Thực tế các cuộc khủng hoảng vào cuối những năm 90 và gần đây nhất là

cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 đã minh chứng cho tầm quan trọng

của việc kiểm soát rủi ro hệ thống và đảm bảo ổn định tài chính, bởi: (i) Hệ thống

tài chính ngày càng phát triển khiến các giao dịch tài chính ngày càng trở nên hiện

đại và phức tạp hơn. Sự mở rộng chi nhánh của ngân hàng, các hình thức hợp

nhất, sáp nhập xuyên lục địa, sự đa dạng hóa các dịch vụ tài chính đã hình thành

nên những định chế đặc biệt quan trọng hệ thống (Systemically important banks-

SIFS), tiềm ẩn nhiều rủi ro hơn. Trong khi đó, những quy định quản lý chưa có sự

cập nhật theo kịp những thay đổi nhanh chóng đang diễn ra trong hệ thống đã tạo

những lỗ hổng cũng như gây ra khủng hoảng; (ii) Các quốc gia đều có các chính

sách tập trung vào từng mục tiêu riêng lẻ trước khủng hoảng như chính sách tiền

tệ tập trung vào mục tiêu ổn định giá cả, kiểm soát lạm phát, chính sách tài khóa

tập trung kiểm soát nợ công, tăng trưởng kinh tế và tạo việc làm…, Việc các chính

sách tập trung vào một mục tiêu cũng không đảm bảo rằng hệ thống tài chính ổn

2

định; (iii) Những công cụ giám sát cũng như phòng ngừa bất ổn tài chính được

thực hiện rời rạc trước khủng hoảng. Với sự hình thành các tổ chức tài chính quan

trọng SIFS hay sự phát triển nhanh chóng của khu vực ngân hàng ngầm, các công

cụ giám sát riêng lẻ không thể không đảm bảo duy trì ổn định mà thay vào đó, cần

những chính sách tổng thể để đảm bảo phòng ngừa, và hạn chế những rủi ro mang

tính hệ thống, là nguồn gốc gây ra bất ổn tài chính. Các cuộc khủng hoảng này đã

giúp các nhà hoạch định chính sách nhìn nhận lại mục tiêu điều hành của mình,

trong đó, mục tiêu ổn định tài chính, an toàn kinh tế vĩ mô là vô cùng quan trọng

và cần được đặt cạnh mục tiêu lạm phát.

Mặc dù đã được đề cập từ khá lâu trong các nghiên cứu độc lập, ổn định tài

chính chính thức được quan tâm một cách nghiêm túc sau khi Ủy ban ổn định tài

chính (Financial Stability Board-FSB) được thành lập năm 2009 với sự tham gia

của nhiều quốc gia phát triển và đang phát triển. Để có thể thực thi mục tiêu ổn

định tài chính cần có khuôn khổ chính sách với sự kết hợp của nhiều quy định thể

chế và công cụ. Trong đó, một trong những bước đầu tiên và quan trọng nhất là đo

lường ổn định tài chính. Là một mục tiêu đa chiều do mối quan hệ phức tạp giữa

các thành phần trong hệ thống tài chính và với các khu vực bên ngoài, ổn định tài

chính khó có thể được đo lường qua một chỉ tiêu riêng lẻ mà cần một bộ chỉ số với

nhiều chỉ tiêu để xác định mức độ ổn định, lành mạnh của các cấu phần trọng yếu.

Để giúp đỡ các quốc gia trong công tác đo lường ổn định hệ thống tài chính, Quỹ

tiền tệ quốc tế (IMF) đã xây dựng và công bố bộ chỉ số lành mạnh tài chính

(Financial Soundness Indicators – FSIs), Ngân hàng trung ương châu Âu (ECB)

và Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) với bộ chỉ số an toàn vĩ mô

(Macroprudential Indicators – MPIs) giúp đánh giá những điểm mạnh và điểm yếu

của từng hệ thống tài chính. Các bộ chỉ số được thiết kế như một công cụ tham

khảo hữu hiệu cho các quốc gia trong việc phát hiện rủi ro hệ thống tiềm tàng, tự

đánh giá mức độ ổn định tài chính, từ đó có những biện pháp để hạn chế tối đa tác

động tiêu cực từ những rủi ro này. Tuy nhiên, mỗi quốc gia có những đặc điểm

riêng biệt về tình hình kinh tế, chính trị, cấu trúc hệ thống tài chính, kỳ vọng thị

3

trường…, vì thế, tiêu chuẩn đánh giá hay mức độ rủi ro có thể chấp nhận được tại

mỗi nước là không giống nhau. Chính vì thế, việc áp dụng bộ chỉ số này với tiêu

chuẩn quốc tế tại các quốc gia mới nổi nói chung và hệ thống tài chính thiếu hoàn

thiện như Việt Nam nói riêng là điều không dễ dàng. Xuất phát từ thực tiễn trên,

nghiên cứu sinh lựa chọn chủ đề: “Thiết lập bộ chỉ số xác định mức độ ổn định

của hệ thống tài chính Việt Nam” làm đề tài luận án của mình với mong muốn

nghiên cứu cơ sở lý luận cũng như kinh nghiệm quốc tế về ổn định tài chính nói

chung và các phương thức xác định mức độ ổn định tài chính nói riêng nhằm tăng

cường khả năng áp dụng các bộ chỉ số này trên thực tế. Trên cơ sở kết hợp với bối

cảnh của Việt Nam hiện nay, nghiên cứu sẽ đưa ra những gợi ý cho việc thiết lập

bộ chỉ số này cũng như các kiến nghị đối với đơn vị liên quan tới vấn đề ổn định

tài chính.

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu

2.1. Nghiên cứu quốc tế

Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 xảy ra đã ảnh hưởng mạnh

mẽ đến hệ thống tài chính của các quốc gia, đặc biệt là những nước có mức độ hội

nhập sâu vào thị trường thế giới. Vấn đề ổn định tài chính trở nên quan trọng và

nhận được nhiều sự quan tâm hơn từ các tổ chức cũng như các nhà nghiên cứu

trên thế giới. Đã có khá nhiều các nghiên cứu được đưa ra về vấn đề này, trong đó,

tập trung vào việc làm rõ khái niệm ổn định tài chính, nguyên nhân gây bất ổn tài

chính và đo lường ổn định tài chính.

Về khái niệm ổn định tài chính, có khá nhiều các quan điểm đưa ra về ổn

định tài chính, từ các tổ chức quốc tế, ngân hàng trung ương các quốc gia cho đến

các nhà nghiên cứu. Dưới góc độ các tổ chức quốc tế, Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF)

và Ngân hàng thế giới (WB) có đưa ra định nghĩa như sau: “Ổn định tài chính là

điều kiện đạt được khi hệ thống tài chính thực hiện đầy đủ các chức năng của nó”.

Hệ thống tài chính ổn định còn có thể đạt được khi nó có thể loại bỏ những mất

cân bằng tài chính phát sinh trong nội tại hoặc do chịu ảnh hưởng của các cú sốc

bất ngờ bên ngoài. Nếu đạt được sự ổn định, hệ thống sẽ hấp thu được các cú sốc

4

chủ yếu qua cơ chế tự điều chỉnh, ngăn ngừa tác động bất lợi của các sự kiện bên

ngoài. Ngân hàng trung ương Hàn Quốc (BOK) cũng định nghĩa ổn định tài chính

là khi hệ thống tài chính ổn định. Điều này hàm ý 3 cấu phần hệ thống tài chính –

tổ chức tài chính, thị trường tài chính và cơ sở hạ tầng tài chính được ổn định. Ở

một khía cạnh khác, Ngân hàng trung ương châu Âu (ECB) lại cho rằng, ổn định

tài chính sẽ đạt được khi những rủi ro hệ thống được ngăn chặn. Trong đó, rủi ro

hệ thống được mô tả là rủi ro làm tổn hại đến việc cung ứng các sản phẩm dịch vụ

tài chính của hệ thống tài chính, từ đó gây ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng

kinh tế và phúc lợi xã hội. Một số các nghiên cứu khác như De Bandt and

Hartmann (2000), Group of Ten (2001), Hoelscher and Quintyn (2003) và

Summer (2003) lại có cách tiếp cận ổn định tài chính tương tự như ECB khi tập

trung vào rủi ro hệ thống. Trên góc độ các nhà nghiên cứu độc lập, Houben và

cộng sự (2004) định nghĩa ổn định tài chính là khả năng giúp hệ thống kinh tế

phân bổ nguồn lực một cách hiệu quả, đánh giá và quản trị rủi ro tài chính và hấp

thụ các cú sốc. Issing (2003) và Foot (2003) gợi ý rằng, ổn định tài chính liên

quan đến bong bóng thị trường tài chính hoặc sự biến động của các chỉ số thị

trường tài chính. Các bong bóng làm ảnh hưởng đến hiệu quả thị trường tài chính,

tuy nhiên, nó không là đặc điểm của đổ vỡ tài chính.

Về nguyên nhân gây bất ổn tài chính, những nghiên cứu của Houben và

cộng sự (2004), Nier (2009) IMF (2013) đều cố gắng chỉ ra những rủi ro, nguồn

gốc bất ổn cho hệ thống tài chính. Houben (2004) nhìn nhận rủi ro cho hệ thống

tài chính theo góc độ từ bên trong và bên ngoài. Trong đó, hệ thống tài chính được

chia thành 3 bộ phận chính: các tổ chức tài chính, thị trường tài chính và cơ sở hạ

tầng của hệ thống. Những rủi ro cho hệ thống tài chính có thể đến từ nội tại của hệ

thống, trong quá trình vận hành và liên kết giữa các bộ phận của hệ thống; và có

thể đến từ những cú sốc, những thay đổi bên ngoài hệ thống tài chính. Nier (2009)

lại phân biệt rủi ro trên góc độ vĩ mô và vi mô. Trong đó, rủi ro vĩ mô là rủi ro

mang tính tổng hợp, rủi ro kinh tế vĩ mô. Rủi ro vi mô phát sinh từ sự thất bại

hoặc đổ vỡ của một tổ chức và lan ra hệ thống theo hướng tiêu cực. IMF (2013)

5

tiếp cận rủi ro trên cơ sở mối liên hệ giữa các rủi ro và phân chia thành rủi ro

thuận chu kỳ (theo thời gian) và rủi ro chéo giữa các khu vực.

Về phương pháp đo lường ổn định tài chính, các nghiên cứu cho thấy việc

đo lường mức độ ổn định của hệ thống tài chính tại các quốc gia có sự thay đổi

theo thời gian. Trong giai đoạn đầu đo lường ổn định tài chính, các quốc gia sử

dụng các chỉ tiêu riêng lẻ giúp đánh giá mức độ ổn định trong từng khu vực của hệ

thống. Ở giai đoạn sau, các quốc gia và các nhà nghiên cứu đã kết hợp nhiều chỉ

tiêu riêng lẻ và phát triển thành các bộ chỉ số. Các bộ chỉ số này giúp đo lường,

đánh giá sự lành mạnh, ổn định của hệ thống tài chính theo từng khu vực. Ở mức

độ phát triển cao hơn, các cơ quan điều hành và các nhà nghiên cứu đã kết hợp các

chỉ số này thành một chỉ số tổng hợp duy nhất để đo lường, và phản ánh tức thời

sự ổn định hoặc bất ổn trong hệ thống tài chính.

Chỉ tiêu riêng lẻ, Gadanecz và Jayaram (2009) đã khái quát các chỉ tiêu mà

các ngân hàng trung ương (NHTW) trên thế giới sử dụng để đánh giá mức độ ổn

định tài chính của quốc gia họ trên cơ sở các Báo cáo ổn định tài chính được phát

hành bởi các NHTW này. Về cơ bản, việc lựa chọn các chỉ tiêu đánh giá phụ thuộc

vào các điều kiện cụ thể trong nền kinh tế và các khu vực có nguy cơ rủi ro cao.

Đối với các nền kinh tế mới nổi có độ mở cao, các quốc gia này chủ yếu sử dụng

các chỉ tiêu đề đo lường sự biến động của các dòng vốn, cán cân thanh toán, và

diễn biến tỷ giá hối đoái; trong khi các nước phát triển lại tập trung vào đánh giá

và đo lường rủi ro của hệ thống ngân hàng. Hầu hết các báo cáo của các quốc gia

đều phân tích các chỉ số của ngành ngân hàng, mặc dù các chỉ số cụ thể sử dụng

có thể khác nhau. Một số báo cáo có xu hướng tập trung vào hiệu suất và rủi ro

của ngành ngân hàng, trong khi các báo cáo khác còn bao gồm cả các công ty bao

hiểm, quỹ phòng hộ và các trung gian tài chính khác.

Bộ chỉ số ổn định tài chính, đây là bộ chỉ số giúp đo lường và đánh giá sự

ổn định, lành mạnh của hệ thống tài chính của một hoặc một nhóm các quốc gia

theo từng khu vực kinh tế (như khu vực ngân hàng, thị trường tài chính, khu vực

bên ngoài nền kinh tế, khu vực kinh tế thực…), hoặc theo đặc tính của hệ thống tài

6

chính (như mức độ lành mạnh, mức độ căng thẳng, điều kiện tài chính…). Các bộ

chỉ số này được xây dựng bởi các tổ chức quốc tế và ngân hàng trung ương một số

quốc gia với mục tiêu gợi ý cho các nước trong việc tự đánh giá, đo lường mức độ

lành mạnh và ổn định của hệ thống tài chính. Một số bộ chỉ số ổn định tài chính

tổng hợp cơ bản như bộ chỉ số lành mạnh tài chính của IMF, bộ chỉ số an toàn vĩ

mô của ECB và bộ chỉ số an toàn vĩ mô của ADB.

Với mục tiêu đề xuất xây dựng bộ chỉ số cho các quốc gia, Bhattacharyay

(2002) đã nghiên cứu đề xuất một khung các chỉ số an toàn vĩ mô (MPIs) nhằm

giám sát những đổ vỡ của thị trường tài chính. Nghiên cứu đã trình bày một cách

tóm tắt bộ chỉ số cốt lõi với 22 chỉ tiêu cơ bản (được trích từ trong 67 chỉ tiêu phổ

biến được thông qua của ADB) để áp dụng cho 6 quốc gia Châu Á – Thái Bình

Dương bao gồm Fiji, Indonesia, Philippines, Thái Lan, Việt Nam và Đài Loan.

Các chỉ tiêu này bao gồm các nhóm liên quan đến tiền tệ và tín dụng, ngân hàng,

lãi suất, thị trường chứng khoán, thương mại quốc tế và dự trữ ngoại hối và kết

quả khảo sát kinh doanh. Navajas and Thegeya (2013) đã kiểm định tính hiệu quả

của bộ chỉ số FSIs như là báo hiệu của khủng hoảng dựa trên bộ số liệu của 80

quốc gia có báo cáo FSIs cho IMF trong giai đoạn từ 2005 đến 2012. Kiểm định

này được thực hiện với 6 chỉ số cơ bản trong FSIs bao gồm: hệ số an toàn vốn

CAR, ROE, tỷ lệ nợ xấu NPL, tỷ lệ (Nợ xấu – Dự phòng rủi ro)/ Vốn, tỷ lệ chi phí

phi lãi suất/ thu nhập thuần và tỷ lệ chênh lệch lãi/ thu nhập thuần. Kết quả cho

thấy mối tương quan có ý nghĩa giữa 3 chỉ số CAR, ROE và tỷ lệ chi phí phi lãi/

thu nhập thuần với khả năng xảy ra khủng hoảng hệ thống ngân hàng và đưa ra gợi

ý là 3 chỉ số này nên được sử dụng như là dấu hiệu cảnh báo của khủng hoảng

ngân hàng. Indraratna (2013) cũng thực hiện phân tích các chỉ tiêu FSIs và MPIs,

tuy nhiên, tác giả thực hiện giới thiệu khía cạnh mới về chính sách an toàn vĩ mô,

đồng thời phân tích cấu trúc hệ thống tài chính của các nước Asean và việc sử

dụng các chỉ số FSIs tại các nước này.

Chỉ số ổn định tổng hợp duy nhất, trên cơ sở tìm hiểu các chỉ số ổn định tài

chính tổng hợp duy nhất đang được NHTW các quốc gia cũng như các nhà nghiên

7

cứu kinh tế giới thiệu, nhóm nghiên cứu nhận thấy chỉ số ổn định duy nhất đang

được xây dựng theo một trong hai cách: (i) thông qua việc xây dựng chỉ số phụ và

kết hợp các chỉ số này thành chỉ số tổng hợp duy nhất (gián tiếp) và (ii) xây dựng

chỉ số ổn định tổng hợp duy nhất trực tiếp từ sự kết hợp các chỉ số trong bộ chỉ số

(trực tiếp).

Theo phương pháp gián tiếp, chỉ số ổn định tài chính tổng hợp duy nhất

được xây dựng bằng cách kết hợp nhiều các chỉ số phụ, phản ánh sự ổn định của

các khu vực riêng lẻ như: khu vực ngân hàng, thị trường tài chính, khu vực bên

ngoài nền kinh tế, khu vực kinh tế thực… Các chỉ số phụ với nhiều tên gọi khác

nhau: chỉ số ngân hàng, chỉ số điều kiện tài chính, chỉ số điều kiện thị tiền tệ, chỉ

số phát triển tài chính, chỉ số căng thẳng tài chính, chỉ số rủi ro, chỉ số thanh

khoản thị trường… sẽ được dùng làm cơ sở để tính toán ra một chỉ số ổn định tài

chính tổng hợp. Đây là cách tiếp cận đang được nhiều cơ quan điều hành, Ngân

hàng trung ương (NHTW) cũng như các nhà nghiên cứu độc lập lựa chọn khi

muốn đo lường, đánh giá sự ổn định của hệ thống tài chính. Các nghiên cứu tiêu

biểu về xu hướng này như Morris (2010) cho Ngân hàng trung ương Jamaica,

Braga, Pereira và Reis (2014) cho hệ thống tài chính Bồ Đào Nha, Cerqueira và

Murcia (2015) cho trường hợp của Tây Ban Nha, Akosha, Loloh, Lawson và

Kumah (2018) áp dụng cho hệ thống tài chính Ghana…

Theo phương pháp trực tiếp, phương pháp khác được sử dụng xây dựng một

chỉ số ổn định tài chính duy nhất là tổng hợp trực tiếp từ bộ chỉ số. Với phương

pháp này, quy trình xây dựng chỉ số tổng hợp cũng tương tự như ở trên, tuy nhiên sẽ

bỏ qua bước thiết lập chỉ số phụ. Việc nhóm các biến số thành chỉ số phụ không chỉ

có ý nghĩa kinh tế khi phản ánh tính chất của một lĩnh vực, khu vực trong hệ thống

mà còn là bước trung gian giúp các nhà nghiên cứu dễ dàng hơn khi tổng hợp một

số lượng lớn các biến số. Chính vì vậy, khi tiếp cận theo cách này, số lượng các

biến số được sử dụng để tổng hợp thường ít hơn, tạo điều kiện cho việc tổng hợp

trực tiếp các biến số vào vào chỉ số chính. Các chỉ số được xây dựng theo phương

pháp này được trình bày trong các nghiên cứu của Illing và Liu (2003) cho Canada,

8

Nelson và Perli (2005) cho Mỹ, Geršl và Heřmánek (2006) cho Séc, Van den End

(2006) cho Hà Lan…

2.2. Nghiên cứu trong nước

Vấn đề ổn định tài chính tại Việt Nam cũng đã được đề cập đến qua một số

các nghiên cứu của các tác giả đến từ các Viện nghiên cứu và Ngân hàng Nhà

nước. Cụ thể, nghiên cứu Phạm Anh Thái (2014) đã chỉ ra mối liên hệ mật thiết

giữa ổn định tài chính, giám sát an toàn vĩ mô và rủi ro hệ thống cũng như những

thay đổi trong vấn đề ổn định tài chính và giám sát an toàn vĩ mô từ sau cuộc

khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 tại các quốc gia trên thế giới như thay

đổi về tư duy chính sách (ổn định tài chính là mục tiêu quan trọng của ổn định

kinh tế vĩ mô) và thay đổi về thể chế giám sát an toàn vĩ mô (cần có một cơ quan

được giao nhiệm vụ giám sát an toàn vĩ mô, chuyên theo dõi, phát hiện, xử lý rủi

ro hệ thống của hệ thống tài chính). Ngoài ra, Phạm Anh Thái cũng đề cập đến các

vấn đề có thể gây nên bất ổn tài chính tại Việt Nam như: thâm hụt cán cân thương

mại và thâm hụt Ngân sách kéo dài, chính sách tài khóa và tiền tệ chưa đồng bộ,

giá tài sản tăng cao và sự lên xuống thất thường của tỷ lệ lạm phát. Phạm Tiên

Phong (2014) đã tìm hiểu mô hình thể chế của khuôn khổ chính sách an toàn vĩ

mô ở các nước, cùng với những phân tích về thực trạng hoạt động giám sát tài

chính ở Việt Nam, từ đó đề xuất gợi ý cho khuôn khổ chính sách an toàn vĩ mô

của Việt Nam. Trong đó, tác giả đề cập đến yếu tố then chốt cần phải thực hiện,

đó là: khuôn khổ pháp lý, các công cụ, xây dựng cơ sở dữ liệu và chia sẻ thông tin,

và cơ chế phối hợp giữa các cơ quan. Trần Lưu Trung và Nguyễn Trung Hậu

(2014) đã chứng minh sự cần thiết phải xây dựng các công cụ và các chỉ số an

toàn vĩ mô, giúp đánh giá được mức độ ổn định tài chính và từ đó sử dụng các

công cụ điều chỉnh phù hợp. Hai tác giả đồng thời cũng giới thiệu và so sánh các

bộ chỉ số an toàn vĩ mô do Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng trung ương châu

Âu (ECB) và Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) đưa ra, từ đó đề xuất một số chỉ

số cơ bản với bốn lĩnh vực: ngân hàng, tiền tệ và tín dụng, chứng khoán và các

biến số vĩ mô khác cho Việt Nam khi xây dựng bộ chỉ số an toàn vĩ mô. Nguyễn

9

Đức Thành và Vũ Minh Long (2014) đã thực hiện đánh giá hệ thống NHTM Việt

Nam thông qua bộ chỉ số lành mạnh tài chính FSI cốt lõi được gợi ý bởi IMF.

Ngoài một số chỉ số cốt lõi chưa thể tính toán được như: (i) vốn tự có cấp 1/ Tổng

TSCRR quy đổi, (ii) trạng thái ngoại tệ ròng/ Tổng vốn và (iii) Tỷ trọng dư nợ

theo lĩnh vực kinh tế/ Tổng dư nợ thì đánh giá chung là hệ thống ngân hàng tại VN

hoạt động chưa được ổn định. Mặc dù hệ số an toàn vốn CAR của các NHTM luôn

cao hơn mức 9% theo quy định của NHNN, nhưng chất lượng tài sản không được

đảm bảo do vấn đề nợ xấu tồn động trong toàn bộ hệ thống. Trong báo cáo của

ADB (2015) về ổn định tài chính tại Việt Nam cũng đề cập đến vấn đề nợ xấu như

là một trong những nhân tố bất ổn, có thể gây khủng hoảng cho hệ thống. Ngoài

ra, các chỉ số đo lường thu nhập và lợi nhuận tại 12 NHTM Việt Nam cũng thể

hiện sự thay đổi bất thường, suy giảm mạnh bất chấp kết quả tăng trưởng ấn tượng

trước đó. Chỉ số đánh giá khả năng thanh khoản cũng cho thấy sự suy giảm, thể

hiện những bất ổn trong hoạt động hệ thống ngân hàng.

2.3. Khoảng trống nghiên cứu

Nhìn chung, các nghiên cứu về ổn định tài chính đã cung cấp hệ thống cơ

sở lý luận tương đối toàn diện về vấn đề ổn định tài chính, đặc biệt tại các quốc

gia phát triển. Các nghiên cứu này đã trình bày rất nhiều khía cạnh khác nhau của

vấn đề ổn định tài chính: khái niệm ổn định tài chính và bất ổn tài chính, đặc điểm

của ổn định tài chính, các nguyên nhân gây rủi ro cho ổn định tài chính, đo lường

ổn định tài chính…Đối với các nghiên cứu tại Việt Nam, mặc dù đã có một số các

công trình nghiên cứu khoa học về ổn định tài chính, tuy nhiên số lượng các

nghiên cứu về chủ đề này chưa nhiều và vẫn còn tồn tại một số khoảng trống

nghiên cứu nhất định. Cụ thể:

Thứ nhất, về mặt lý luận, các nghiên cứu trước chưa làm rõ cơ sở thiết lập

bộ chỉ số cũng như các tiêu chí khi lựa chọn các chỉ số đo lường ổn định hệ thống

tài chính.

Thứ hai, các nghiên cứu tổng hợp kinh nghiệm và bài học cho Việt Nam

trong việc đo lường ổn định tài chính chưa nhiều, đặc biệt là kinh nghiệm từ các

10

nền kinh tế mới nổi trong khu vực. Đo lường ổn định tài chính thông qua bộ chỉ số

tồng hợp và xây dựng chỉ số tổng hợp duy nhất đang là xu hướng được nhiều quốc

gia trên thế giới thực hiện, trong đó có cả các quốc gia đang phát triển có điều

kiện tài chính tương đồng với Việt Nam. Tuy nhiên, các nghiên cứu về điều kiện,

cách thức xây dựng, triển khai các bộ chỉ số và chỉ số tổng hợp duy nhất tại các

quốc gia này là còn hạn chế.

Thứ ba, các nghiên cứu về đo lường ổn định tài chính tại Việt Nam thông

qua bộ chỉ số hay chỉ số tổng hợp còn rất hạn chế. Nghiên cứu của Phạm Tiên

Phong và cộng sự (2015) đã gợi ý một khuôn khổ điều hành chính sách an toàn vĩ

mô và đưa ra một bộ chỉ số an toàn vĩ mô cho Việt Nam với 72 chỉ tiêu. Tuy

nhiên, nhóm tác giả chưa lý giải cơ sở lựa chọn các chỉ số này cũng như chứng

minh sự phù hợp của các chỉ số này với điều kiện của hệ thống tài chính Việt

Nam. Hơn nữa, với mục tiêu đo lường, đánh giá nhanh tình trạng ổn định và lành

mạnh của hệ thống tài chính, bộ chỉ số với 72 chỉ tiêu này là tương đối cồng kềnh

và khó có thể đưa ra kết quả trong thời gian ngắn.

Đây là khoảng trống nghiên cứu mà luận án có thể thực hiện nghiên cứu,

qua đó, đưa ra các kiến nghị chính sách phù hợp cho các cơ quan quản lý.

3. Mục tiêu nghiên cứu

Luận án được thực hiện với mục tiêu chung là xây dựng một bộ chỉ số có

khả năng đo lường mức độ ổn định tài chính phù hợp với đặc điểm tài chính Việt

Nam, từ đó phát triển thành chỉ số ổn định tài chính tổng hợp duy nhất. Các mục

tiêu cụ thể của luận án bao gồm:

Thứ nhất, hệ thống hóa cơ sở lý thuyết về ổn định tài chính, đặc biệt là chỉ

ra quy trình thiết bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính.

Thứ hai, tổng kết kinh nghiệm lựa chọn, sử dụng các chỉ số đo lường mức

độ ổn định hệ thống tài chính tại các quốc gia: Anh, Trung Quốc, Hàn Quốc và

Indonesia. Từ đó, rút ra một số bài học cho Việt Nam trong việc đo lường và lựa

chọn các chỉ số ổn định tài chính.

11

Thứ ba, đánh giá các điều kiện của hệ thống tài chính Việt Nam, xây dựng

và đề xuất bộ chỉ số ổn định tài chính cho Việt Nam.

Thứ tư, đề xuất các khuyến nghị cho cơ quan điều hành để nâng cao hiệu

quả công tác đo lường ổn định tài chính và đề xuất chỉ số tổng hợp duy nhất.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu chính của luận án là bộ chỉ số đo lường ổn định tài

chính, cơ sở xây dựng và ý nghĩa các nhóm chỉ số trong bộ chỉ số của các tổ chức

quốc tế (IMF, ADB và ECB) và các chỉ số được sử dụng bởi các quốc gia (Anh,

Trung Quốc, Hàn Quốc, Indonesia) cũng như thực trạng thiết lập bộ chỉ số đo

lường mức độ ổn định của hệ thống tài chính tại Việt Nam.

Phạm vi nghiên cứu về không gian: ba cấu phần chính là hệ thống ngân

hàng, thị trường tài chính, khu vực kinh tế vĩ mô trong giai đoạn 2008-2018.

5. Phương pháp nghiên cứu

Với mục tiêu là thiết lập bộ chỉ số để đánh giá mức độ ổn định của hệ thống

tài chính Việt Nam, từ đó phát triển chỉ số ổn định tài chính tổng hợp, tác giả sử

dụng nguồn số liệu cho luận án là các số liệu thứ cấp trong giai đoạn 2008-2018.

Các dữ liệu được thu thập từ các nguồn đáng tin cậy như website của Ngân hàng

Nhà nước, Bộ Tài chính, Tổng cục thống kê, Ủy ban chứng khoán Nhà nước, Ủy

ban giám sát tài chính quốc gia, Quỹ tiền tệ quốc tế, Ngân hàng thế giới, Ngân

hàng dự trữ St. Louis. Từ các dữ liệu thu thập được, nghiên cứu sinh sử dụng kết

hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học sau:

- Phương pháp định tính: thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp, diễn dịch,

quy nạp, kết hợp với bảng biểu minh họa để đánh giá thực trạng các rủi ro cho hệ

thống tài chính cũng như mức độ ổn định của các khu vực hệ thống tài chính.

- Phương pháp định lượng:

+ Phương pháp trọng số cân bằng để thiết lập chỉ số ổn định hệ thống tài

chính cho Việt Nam. Trên cơ sở xác định ba khu vực rủi ro tiềm ẩn cho hệ thống

tài chính là khu vực ngân hàng, thị trường tài chính và khu vực kinh tế vĩ mô, tác

giả lựa chọn các chỉ số phù hợp có khả năng phản ánh mức độ ổn định của các khu

12

vực này. Các biến số sẽ được chuẩn hóa theo phương pháp Min-Max, sau đó được

tổng hợp lại thành một chỉ số duy nhất với trọng số bằng nhau.

+ Phương pháp phân tích thành tố chính (Principal Component Analysis-

PCA) là một thuật toán thống kê để xây dựng chỉ số ổn định tổng hợp. Phương

pháp này được sử dụng giúp giảm chiều dữ liệu, chuyển đổi biến cũ trong mối

tương quan tuyến tính với nhiều biến khác thành biến mới ít tương quan, mà vẫn

giữ được hàm ý thông tin, nhằm khái quát khả năng đo lường ổn định tài chính

thông qua một chỉ số tổng hợp duy nhất. Trên cơ sở các chỉ số được lựa chọn

trong bộ chỉ số, tác giả sử dụng phương pháp Normed PCA để chuẩn hóa các biến

số này, sau đó thực hiện tổng hợp PCA để xây dựng một chỉ số. Đây là một

phương pháp rất phổ biến trong tổng hợp dữ liệu đa chiều cũng và được sử dụng

trong các nghiên cứu của Morris (2010) cho NHTW Jamaica, Karanovic và

Karanovic (2015) cho các quốc gia khu vực Balkans…

+ Để xác định phương pháp tổng hợp nào phù hợp, tác giả thực hiện kiểm

định lỗi loại I và loại II theo phương pháp của Illing và Liu (2003) áp dụng cho

NHTW Canada.

6. Tính mới của luận án

Về mặt lý luận:

Thứ nhất, luận án trình bày và làm rõ khái niệm ổn định tài chính trên quan

điểm của các tổ chức quốc tế, Ngân hàng trung ương và các nhà nghiên cứu độc

lập, sự khác biệt trong những khái niệm này. Luận án cũng chỉ ra những đặc điểm

của ổn định tài chính, mối liên hệ giữa chính sách an toàn vĩ mô và các chính sách

khác nhằm thực thi mục tiêu ổn định tài chính. Bên cạnh đó, luận án cũng thống

kê những nguyên nhân, nguồn gốc gây rủi ro cho hệ thống tài chính, làm cơ sở để

phân tích các chỉ tiêu sử dụng đo lường ổn định tài chính.

Thứ hai, luận án đưa ra quy trình thiết lập bộ chỉ số đo lường ổn định hệ

thống tài chính với bốn bước: nhận diện rủi ro, phân nhóm rủi ro, xác định các chỉ

tiêu phản ánh rủi ro và thu thập dữ liệu, kiểm định tính phù hợp của chỉ tiêu. Luận

án kết hợp phân tích cơ sở hình thành các bộ chỉ số của các tổ chức quốc tế như

13

IMF, ECB, ADB, phân loại các bộ chỉ số đo lường ổn định tài chính theo các

hướng tiếp cận vi mô và vĩ mô, chỉ ra ưu điểm của từng hướng tiếp cận và điều

kiện sử dụng các bộ chỉ số này.

Về mặt thực tiễn:

Thứ nhất, luận án đã thực hiện tổng hợp các kinh nghiệm thiết lập bộ chỉ số đo lường ổn định tài chính tại một số quốc gia với các cấp độ phát triển khác nhau,

để có cái nhìn tổng thể về phương pháp đo lường ổn định tài chính các quốc gia

đang thực hiện. Từ kinh nghiệm đó, có thể rút ra bài học cho Việt Nam trong việc thiết

lập và lựa chọn các chỉ số phù hợp với điều kiện để đo lường ổn định tài chính.

Thứ hai, luận án thiết lập bộ chỉ số đo lường mức độ ổn định của hệ thống

tài chính Việt Nam gắn với điều kiện kinh tế - tài chính hiện nay.

Thứ ba, luận án đưa khuyến nghị tính toán chỉ số ổn định tài chính tổng hợp

dựa trên bộ chỉ số gợi ý cho cơ quan điều hành.

Thứ tư, luận án cũng xây dựng hệ thống khuyến nghị cho các cơ quan điều hành trong việc thành lập hội đồng ổn định tài chính, định hình vai trò của NHTW trong thực thi chính sách ổn định tài chính, xây dựng trung tâm thông tin dữ liệu, tăng cường sự phối hợp giữa các bộ, các đơn vị, nâng cao nhận thức về kinh tế-tài chính cho công chúng…

7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận

án bao gồm 4 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận về thiết lập bộ chỉ số đo lường ổn định hệ

thống tài chính

Chương 2: Thiết lập bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính –

Kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam

Chương 3: Thực trạng thiết lập bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài

chính Việt Nam

Chương 4: Một số khuyến nghị về thiết lập bộ chỉ số đo lường ổn định

hệ thống tài chính Việt Nam

14

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THIẾT LẬP BỘ CHỈ SỐ ĐO LƯỜNG

ỔN ĐỊNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH

1.1. Khái quát chung về hệ thống tài chính

1.1.1. Khái niệm hệ thống tài chính

Có khá nhiều cách tiếp cận khác nhau khi đề cập đến hệ thống tài chính.

Một số nghiên cứu có thể nhìn nhận hệ thống dưới góc phân phối tài chính và chia

hệ thống tài chính thành các bộ phận: tín dụng, bảo hiểm, tài chính Nhà nước, tài

chính doanh nghiệp và tài chính hộ gia đình, tổ chức xã hội. Một số nghiên cứu

khác đề cập đến hệ thống tài chính dưới góc độ trung gian vốn hoặc chức năng

(Schmidt và Hryckiewicz, 2006).

Đối với cách tiếp cận dựa trên trung gian vốn, Gurley và Shaw (1960) định

nghĩa “hệ thống tài chính là nơi luân chuyển vốn trong nền kinh tế từ người thừa

vốn (người tiết kiệm) đến người thiếu vốn (người đầu tư) trong đó có sự tham gia

của ngân hàng và các tổ chức trung gian tài chính”.

Đối với cách tiếp cận dựa trên chức năng, Merton và Bodie (1995) cho rằng

“một hệ thống tài chính sẽ thực hiện đầy đủ các chức năng nhất định bao gồm:

luân chuyển vốn theo thời gian và không gian, chuyển đổi các quyền truy đòi và

nghĩa vụ, phân bổ rủi ro, cung cấp thông tin, xóa bỏ vấn đề về động cơ, và cung

cấp cơ chế thanh toán”.

Một cách tiếp cận nữa là kết hợp cả hai góc độ trên. Đây cũng là cách tiếp

cận được nhiều tổ chức quốc tế và nhà kinh tế độc lập quan tâm.

Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) định nghĩa “hệ thống tài

chính bao gồm các tổ chức và thị trường tương tác với nhau nhằm mục tiêu luân

chuyển vốn cho đầu tư, và cung cấp các phương tiện, ba gồm các hệ thống thanh

toán, để tài trợ vốn cho hoạt động thương mại”.

Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF, 2004) cho rằng “hệ thống tài chính bao gồm các

ngân hàng, thị trường tài chính, các quỹ hưu trí và quỹ đầu tư, hạ tầng tài chính và

Ngân hàng trung ương cũng như các cơ quan quản lý khác Các tổ chức và thị

trường trong hệ thống tài chính giúp thực hiện các giao dịch kinh tế và truyền tải

15

chính sách tiền tệ và giúp luân chuyển từ tiết kiệm đến đầu tư, từ đó hỗ trợ tăng

trường kinh tế”.

Tô Kim Ngọc và Nguyễn Thanh Nhàn (2019) nhận định: “hệ thống tài

chính là một tổng thể bao gồm các chủ thể dư thừa và thiếu hụt vốn (người tiết

kiệm và nhà đầu tư), tổ chức tài chính, thị trường tài chính, các tổ chức quản lý

giám sát và điều hành hệ thống tài chính để tổ chức phân bổ nguồn lực tài chính

theo thời gian.”

Như vậy, có thể hiểu hệ thống tài chính là một tổng thể bao gồm các chủ

thể dư thừa và thiếu hụt vốn, các tổ chức và thị trường tài chính, các cơ quan

quản lý giám sát hoạt động với mục tiêu luân chuyển và phân bổ vốn hiệu quả,

góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

1.1.2. Phương thức luân chuyển vốn trong hệ thống tài chính

Dựa vào sự vận động của các dòng vốn trong hệ thống tài chính, các chủ

thể dư thừa và thiếu hụt vốn có thể chuyển giao số vốn theo một trong trong hai

cách: chuyển giao vốn trực tiếp và chuyển giao vốn gián tiếp (qua trung gian).

Vốn

Vốn

Thị trường tài chính

Người tiết kiệm (Người cung ứng vốn)

Người đầu tư (Người có nhu cầu vốn)

Vốn

Vốn

Trung gian tài chính

Hình 1.1. Phương thức luân chuyển vốn trong hệ thống tài chính.

Nguồn: Tô Kim Ngọc và Nguyễn Thanh Nhàn (2019)

Phương thức luân chuyển vốn trực tiếp: là phương thức trong đó vốn được

chuyển giao trực tiếp từ người dư thừa đến người thiếu hụt vốn, có thể thông qua

16

môi giới. Trong đó, người môi giới chỉ là người ở giữa, thực hiện kết nối, giúp cho

hai bên đối tác gặp nhau mà không thực hiện giao dịch cho bản thân. Hoạt động

chuyển giao vốn này thường được thực hiện trên thị trường tài chính, thông qua

việc mua bán các công cụ tài chính giữa người tiết kiệm và người đi vay, trong đó

người đi vay sẽ phát hành công cụ tài chính cho người tiết kiệm.

Phương thức luân chuyển vốn gián tiếp: là phương thức trong đó vốn được

chuyển giao từ người dư thừa đến người thiếu hụt thông qua vai trò của các trung

gian tài chính. Sự xuất hiện của các trung gian tài chính (ngân hàng, công ty bảo

hiểm, công ty tài chính, cho thuê tài chính…) giúp giảm thiểu những hạn chế từ

việc đầu tư trực tiếp như: chi phí giao dịch lớn, tính lỏng các tài sản tài chính kém,

rủi ro cao…

1.1.3. Cấu trúc hệ thống tài chính

Cách phân loại hệ thống tài chính phổ biến nhất hiện nay là dựa vào tầm

quan trọng của kênh dẫn vốn (trực tiếp hay gián tiếp) và chia hệ thống tài chính

thành hai loại: hệ thống tài chính dựa vào ngân hàng và hệ thống tài chính dựa vào

thị trường.

Hệ thống tài chính dựa vào ngân hàng là hệ thống tài chính trong đó, ngân

hàng đóng vai trò quan trọng trong việc cung ứng vốn cho các doanh nghiệp, và

ngược lại, các doanh nghiệp phụ thuộc phần lớn vào lượng vốn vay từ ngân hàng

như là nguồn tài trợ bên ngoài. Đối với hệ thống tài chính này, ngân hàng là tổ

chức nhận tiền gửi quan trọng nhất, mối quan hệ giữa ngân hàng và doanh nghiệp

cũng rất chặt chẽ bởi ngân hàng vừa là chủ nợ vừa là người giám sát doanh nghiệp

khỏi những khó khăn tài chính. Các quốc gia có cấu trúc hệ thống dựa vào ngân

hàng điển hình như Đức, Nhật, Canada và phần lớn các quốc gia đang phát triển.

Ưu điểm của hệ thống tài chính dựa vào ngân hàng gắn liền với vai trò của các

trung gian tài chính, mà chủ yếu là hệ thống ngân hàng. Các ngân hàng với khả

năng thu thập, phân tích thông tin cũng như giám sát khoản vay tốt hơn cùng với

chức năng biến đổi tài sản, tạo ra những công cụ an toàn và tính lỏng cao hơn đã

đem lại lợi thế cho kênh luân chuyển vốn gián tiếp. (Tô Kim Ngọc và Nguyễn

17

Thanh Nhàn, 2019). Tuy nhiên, hệ thống ngân hàng lại gặp hạn chế trong việc cho

vay liên quan đến khối lượng và thời hạn vay (Schmidt và Hryckiewicz, 2006). Do

các ngân hàng có xu hướng tập trung vào các dự án có tính an toàn cao, rủi ro thấp

nên các doanh nghiệp nhỏ hay mới thành lập sẽ khó có cơ hội tìm được nguồn tài

trợ từ các ngân hàng. Bên cạnh đó, lãi suất cho vay từ ngân hàng cũng cao hơn so

với nguồn vốn huy động qua thị trường tài chính bởi những chi phí trung gian.

Hệ thống tài chính dựa vào thị trường là hệ thống tài chính, trong đó, thị

trường tài chính (thị trường vốn) là nguồn tài trợ chính cho các doanh nghiệp và

cũng là nơi công chúng, hộ gia đình đầu tư phần lớn số tiền tiết kiệm. Trong hệ

thống tài chính này, các tổ chức trung gian tài chính phi ngân hàng sẽ đóng vai trò

quan trọng hơn trong việc nhận tiền gửi tiết kiệm của hộ gia đình và sử dụng phần

lớn số tiền để đầu tư trên thị trường chứng khoán. Anh và Mỹ là hai đại diện điển

hình cho nhóm các quốc gia có cấu trúc dựa vào thị trường, với sự phát triển vượt

bậc của thị trường tài chính. Ngược lại với hệ thống tài chính dựa vào ngân hàng,

ưu điểm của cấu trúc tài chính dựa vào thị trường là cung cấp những công cụ quản

lý rủi ro đa dạng, phù hợp với các giao dịch tiêu chuẩn và giao dịch riêng biệt.

Bên cạnh đó, sự phát triển của thị trường tài chính khuyến khích sự hình thành các

doanh nghiệp mới, tạo điều kiện cho tăng trưởng kinh tế.

1.2. Những vấn đề cơ bản về ổn định tài chính

1.2.1. Khái niệm ổn định tài chính

Có nhiều các quan điểm được đưa ra về ổn định tài chính từ các tổ chức

quốc tế, ngân hàng trung ương các quốc gia cho đến các nhà nghiên cứu, chuyên

gia kinh tế độc lập. Về cơ bản, các định nghĩa về ổn định tài chính được đưa ra

dựa trên hai cách tiếp cận chính.

Thứ nhất, định nghĩa ổn định tài chính nhìn từ góc độ hệ thống tài chính

(cách tiếp cận trực tiếp). Dù cùng khẳng định ổn định tài chính là ổn định hệ

thống tài chính, tuy nhiên, các tổ chức và các nhà nghiên cứu cũng có những quan

điểm khác nhau khi nhìn nhận về ổn định tài chính.

- Nhìn từ góc độ chức năng hệ thống tài chính. Điển hình cho cách tiếp cận

này là Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng thế giới (WB) khi đưa ra định

18

nghĩa: “Ổn định tài chính là điều kiện đạt được khi hệ thống tài chính thực hiện

đầy đủ các chức năng của nó”. Cách tiếp cận này của IMF và WB là dựa trên

chức năng của hệ thống tài chính với nghĩa khá rộng, trong đó một hệ thống tài

chính được coi là ổn định, có nghĩa là đủ khả năng phân bổ hiệu quả các nguồn

lực, đánh giá và quản trị rủi ro tài chính, duy trì tỷ lệ việc làm gần với tỷ lệ thất

nghiệp tự nhiên của nền kinh tế, và loại trừ một cách tương đối những biến động

giá của các tài sản thực và tài sản tài chính có thể ảnh hưởng đến ổn định tiền tệ

hoặc tỷ lệ việc làm. Bên cạnh đó, hệ thống tài chính ổn định còn có thể đạt được

khi nó có thể loại bỏ những mất cân bằng tài chính phát sinh trong nội tại hoặc do

chịu ảnh hưởng của các cú sốc bất ngờ bên ngoài. Nếu đạt được sự ổn định, hệ

thống sẽ hấp thu được các cú sốc chủ yếu qua cơ chế tự điều chỉnh, ngăn ngừa tác

động bất lợi của các sự kiện bên ngoài. Sự ổn định tài chính là yếu tố vô cùng

quan trọng giúp cho sự phát triển của nền kinh tế bởi tất cả các giao dịch trong nền

kinh tế thực đều được thực hiện thông qua hệ thống tài chính.

- Nhìn từ góc độ các cấu phần của hệ thống tài chính. Ngân hàng trung

ương Hàn Quốc (BOK) đứng trên quan điểm này và đưa ra định nghĩa như sau:

“Ổn định tài chính là hệ thống tài chính với ba cấu phần: tổ chức tài chính, thị

trường tài chính và cơ sở hạ tầng tài chính được ổn định. Trong đó:

(i) Ổn định tổ chức tài chính là khi từng tổ chức tài chính đủ lành mạnh để

thực hiện tất cả các chức năng trung gian tài chính một cách đầy đủ và trơn tru,

không cần đến sự hỗ trợ từ các tổ chức bên ngoài, bao gồm cả Chính phủ;

(ii) Ổn định thị trường tài chính đạt được khi không có những gián đoạn lớn

trong các giao dịch thị trường, không có sự biến động quá lớn trong giá tài sản, và

vì thế, cho phép các chủ thể kinh tế có thể huy động và sử dụng số vốn của mình

một cách tự tin và hiệu quả;

(iii) Ổn định cơ sở hạ tầng tài chính có nghĩa là điều kiện trong đó, hệ

thống tài chính được cấu trúc tốt để đảm bảo thực thi trơn tru kỷ luật thị

trường, mạng lưới an toàn tài chính và hệ thống thanh toán, giao dịch được vận

hành hiệu quả”.

19

Cũng dựa trên cách tiếp cận này, Crockett (1997) đưa ra khái niệm “Ổn

định tài chính là sự ổn định của các tổ chức tài chính và thị trường tài chính chủ

chốt của hệ thống tài chính. Điều này có nghĩa là: (i) các tổ chức chủ chốt trong hệ

thống tài chính phải ổn định, nghĩa là các tổ chức này có thể tiếp tục thực hiện các

giao dịch tài chính, nghĩa vụ tài chính mà không bị gián đoạn hoặc cần đến sự hỗ

trợ từ bên ngoài; (ii) thị trường tài chính phải ổn định, trong đó những chủ thể

tham gia có thể thực hiện các giao dịch tài chính tại các mức giá phản ánh nguồn

lực cơ bản và không có những thay đổi bền vững trong giai đoạn ngắn”. Định

nghĩa này khá tương đồng với cách định nghĩa của BOK khi đề cập đến tầm quan

trọng của việc giữ ổn định tổ chức tài chính và thị trường tài chính, tuy nhiên, lại

không đề cập đến vai trò của cơ sở hạ tầng tài chính.

- Nhìn từ góc độ rủi ro cho hệ thống tài chính. Ngân hàng trung ương châu

Âu (ECB) cho rằng, ổn định tài chính sẽ đạt được khi những rủi ro hệ thống được

ngăn chặn. Trong đó, rủi ro hệ thống được mô tả là rủi ro làm tổn hại đến việc

cung ứng các sản phẩm dịch vụ tài chính của hệ thống tài chính, từ đó gây ảnh

hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế và phúc lợi xã hội. Mặc dù tiếp cận thông

qua việc đề cập đến rủi ro hệ thống, nhưng về cơ bản, quan điểm của ECB cũng

tương đồng với WB và IMF khi cho rằng, ổn định tài chính là điều kiện tại đó hệ

thống tài chính – bao gồm trung gian tài chính, thị trường tài chính và cơ sở hạ

tầng thị trường – có khả năng đứng vững trước những cú sốc, những mất cân bằng

tài chính, từ đó giảm thiểu khả năng gián đoạn quá trình trung chuyển và phân bổ

vốn từ tiết kiệm đến đầu tư. (ECB, 2012).

Một số các nghiên cứu khác như De Bandt and Hartmann (2000), Group of

Ten (2001), Hoelscher and Quintyn (2003) và Summer (2003) lại có cách tiếp cận

ổn định tài chính tương tự như ECB khi tập trung vào rủi ro hệ thống. Các nghiên

cứu này chỉ ra rằng, rủi ro hệ thống xuất hiện trong các mối liên kết giữa các tổ

chức hoặc giữa các thị trường, và những rủi ro này có khả năng cao sẽ tác động

tiêu cực lên nền kinh tế thực.

20

- Nhìn từ góc độ tổng hợp về hệ thống tài chính. Các định nghĩa này được

đưa với hàm ý, ổn định tài chính là sự tổng hòa của nhiều điều kiện, bao gồm

những điều kiện về thực hiện chức năng, về sự ổn định của từng cấu phần cũng

như khả năng hấp thụ các cú sốc, các rủi ro.

Ngân hàng trung ương Anh (BOE) lại đưa ra quan điểm, ổn định tài chính

chỉ có được khi có sự tin tưởng của công chúng và sự tự tin của các tổ chức tài

chính, thị trường, cơ sở hạ tầng và cả hệ thống. Điều này là vô cùng quan trọng để

có được một nền kinh tế lành mạnh và hoạt động hiệu quả. Trong điều kiện thông

thường, các nhà điều hành cũng như các nhà đầu tư khó có thể nhận thấy giá trị

của ổn định tài chính. Tuy nhiên, trong điều kiện bất ổn tài chính, thì giá trị thực

sự của mục tiêu ổn định tài chính mới được thể hiện rõ ràng. Trong giai đoạn này,

ngân hàng không muốn tài trợ vốn cho các dự án, kể cả các dự án đem lại lợi

nhuận tốt, giá tài sản biến động, không phản ánh đúng giá trị nội tại của tài sản, và

các khoản thanh toán không được thực hiện đúng hạn. Phần lớn các bất ổn tài

chính có thể dẫn đến những tác động tiêu cực như việc các ngân hàng phá sản, lạm

phát phi mã hoặc thị trường chứng khoán sụp đổ. Bên cạnh những hậu quả hiện

hữu, nghiêm trọng hơn, bất ổn tài chính còn làm xói mòn niềm tin của công chúng

đối với hệ thống tài chính và cả nền kinh tế, gây ra những tác động dài hạn hơn.

Trên góc độ các nhà nghiên cứu độc lập, Houben và cộng sự (2004) định

nghĩa ổn định tài chính là khả năng giúp hệ thống kinh tế phân bổ nguồn lực một

cách hiệu quả, đánh giá và quản trị rủi ro tài chính và hấp thụ các cú sốc. Ngoài ra,

ổn định tài chính là quá trình liên tục, thay đổi theo thời gian và phù hợp với sự

kết hợp đa dạng của các yếu tố cấu thành nên hệ thống.

Sluijs (2006) lại định nghĩa ổn định tài chính chỉ có được khi thỏa mãn các

điều kiện sau: (i) các cấu phần chính của hệ thống tài chính bao gồm thị trường,

các tổ chức tài chính và cơ sở hạ tầng có khả năng hấp thụ những cú sốc tiêu cực;

(ii) hệ thống tài chính luân chuyển một cách trơn tru và hiệu quả các nguồn lực tài

chính từ người tiết kiệm sang nhà đầu tư; (iii) các rủi ro tài chính được định giá và đánh

giá một cách đầy đủ và hợp lý và (iv) rủi ro được kiểm soát một cách hiệu quả.

21

Thứ hai, định nghĩa ổn định tài chính thông qua bất ổn tài chính (cách

tiếp cận gián tiếp). Một số nhà nghiên cứu độc lập lại tiếp cận ổn định tài chính

bằng cách nghiên cứu về những điều kiện bất lợi cho hệ thống tài chính, khiến

mục tiêu ổn định khó được duy trì.

Mishkin (1994) đưa ra khái niệm dựa trên vấn đề thông tin. Ông cho rằng

“Bất ổn tài chính xảy ra khi có các cú sốc đối với hệ thống tài chính tác động vào

thông tin và vì thế hệ thống tài chính không thể thực hiện chức năng dẫn truyền

vốn đến những cơ hội đầu tư hiệu quả.” Những sai lệch và không đầy đủ về thông

tin (bất cân xứng thông tin) giữa các chủ thể tham gia trên thị trường sẽ làm gia

tăng rủi ro (rủi ro lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức), gây khó khăn cho việc

luân chuyển vốn, ở cấp độ cao hơn sẽ gây khủng hoảng tài chính và kinh tế. Định

nghĩa này được đánh giá là có tính bao quát cao nhưng khó quan sát, không chỉ ra được

những tiêu chí hay chỉ tiêu để xác định được sự ổn định của hệ thống tài chính.

Haldane và cộng sự (2004) cũng tiếp cận theo hướng này nhưng nhấn mạnh

đến sự chênh lệch giữa các phương án đầu tư/ tiết kiệm tối ưu trong khái niệm của

mình “…bất ổn định tài chính là khi có những sai lệch trong kế hoạch đầu tư/ tiết

kiệm tối ưu của nền kinh tế do những mất cân bằng, không hoàn thiện trong khu

vực tài chính.”

Issing (2003) lại cho rằng “… mặc dù phân bổ vốn hiệu quả, điều mà nền

kinh tế nào cũng mong muốn đạt được, nhưng đặc điểm này không nên được đưa

vào như một điều kiện của ổn định tài chính, bởi có những quốc gia, trong một số

giai đoạn khủng hoảng, luồng vốn không được phân bổ hiệu quả, nhưng cũng

không phải gánh chịu bất ổn tài chính.” Issing (2003) và Foot (2003) gợi ý rằng,

ổn định tài chính liên quan đến bong bóng thị trường tài chính hoặc sự biến động

của các chỉ số thị trường tài chính. Các bong bóng làm ảnh hưởng đến hiệu quả thị

trường tài chính, tuy nhiên, nó không là đặc điểm của đổ vỡ tài chính.

Như vậy, có khá nhiều các quan điểm đưa ra xoay quanh vấn đề ổn định tài

chính dưới các góc nhìn khác nhau. Tựu chung lại, ổn định tài chính là ổn định

hệ thống tài chính, là đảm bảo hệ thống tài chính có thể thực hiện đầy đủ, liên

tục và trơn tru các chức năng của nó.

22

1.2.2. Đặc điểm ổn định tài chính

Một là, ổn định tài chính là mục tiêu của chính sách an toàn vĩ mô.

Theo quan điểm của Hội đồng Ổn định tài chính (FSB), Ngân hàng thanh

toán quốc tế (BIS) và Quỹ tiền tệ quốc tế IMF, chính sách an toàn tài chính vĩ mô

tài chính là chính sách sử dụng các công cụ an toàn để hạn chế rủi ro mang tính hệ

thống đối với tổng thể hệ thống tài chính nhằm đạt được mục tiêu giảm thiểu khả

năng đổ vỡ của hệ thống tài chính thông qua việc ngăn ngừa các dịch vụ tài chính

có thể gây hậu quả nghiêm trọng đến nền kinh tế thực. (FSB, BIS và IMF, 2011).

Như vậy, mục tiêu của chính sách an toàn vĩ mô là “ổn định tài chính” thông qua

việc ngăn ngừa những nguy cơ, rủi ro hệ thống trong hệ thống tài chính nhằm đạt

được mục tiêu cuối cùng là tăng trưởng kinh tế bền vững.

Chính sách ổn định tài chính

Chính sách an toàn vi mô

Chính sách an toàn vĩ mô

Chính sách phục hồi

Rủi ro riêng biệt

Rủi ro hệ thống

Ngăn chặn khủng hoảng (Giai đoạn thông thường)

Xử lý khủng hoảng (Giai đoạn khủng hoảng)

Ổn định tài chính

Hình 1.2. Khung chính sách ổn định tài chính

Nguồn: Svensson (2018)

Trong đó, chính sách an toàn vĩ mô là một bộ phận của chính sách ổn định

tài chính, bên cạnh chính sách an toàn vi mô, chính sách an toàn vĩ mô và các

chính sách phục hồi khủng hoảng. Theo Svensson (2018), việc phân định rõ giai

đoạn bình thường và giai đoạn khủng hoảng là tương đối quan trọng, bởi điều này

23

sẽ quyết định hướng mục tiêu điều hành của cơ quan quản lý. Trong điều kiện

bình thường, ổn định, nhà điều hành sẽ thực hiện những chính sách với mục tiêu

ngăn chặn những nguy cơ, rủi ro tiềm tàng có thể ảnh hưởng đến ổn định tài chính

thông qua chính sách an toàn vi mô và vĩ mô. Ngược lại, trong giai đoạn khủng

hoảng, chính sách được ưu tiên sử dụng sẽ là các biện pháp nhằm phục hồi hệ

thống tài chính. Như vậy, chính sách an toàn vĩ mô liên quan đến hoạt động ngăn

chặn khủng hoảng và hướng đến mục tiêu ổn định tài chính.

Hai là, ổn định tài chính là kết quả tương tác của chính sách an toàn vĩ

mô và các chính sách khác.

Các nghiên cứu của IMF (2013), Đỗ Xuân Thành và Đỗ Thiên Anh Tuấn

(2013) cho thấy, chính sách an toàn vĩ mô có sự tương tác và giao thoa với các

chính sách khác, việc đạt được mục tiêu của chính sách này sẽ hỗ trợ cho việc đạt

được mục tiêu của chính sách kia. Sự tương tác và phối hợp giữa các chính sách

giúp làm cân bằng kinh tế vĩ mô, ổn định hệ thống tài chính.

Bảng 1.1. Khu vực chính sách và sự đóng góp vào mục tiêu ổn định tài chính

Mục tiêu cơ bản Mục tiêu ổn định tài chính Khu vực chính sách

Chính sách an toàn Xử lý rủi ro hệ thống (theo thời gian, chéo giữa các khu vực)

Giới hạn những căng thẳng của các tổ chức tài chính và những căng thẳng mang tính hệ thống

Ổn định giá cả

Chính sách tiền tệ Giảm chu kỳ bùng nổ-vỡ của tín dụng và giá tài sản

Chính sách Ổn định giá cả Giảm biến động các dòng vốn

tỷ giá

Chính sách Kiểm soát tổng cầu phản chu Duy trì đệm vốn tài khóa cho

tài khóa kỳ phép phản ứng với những căng

thẳng hệ thống tài chính

Nguồn: Hannoun (2010)

- Tương tác giữa chính sách an toàn vĩ mô và chính sách an toàn vi mô.

24

Giám sát an toàn vi mô hướng tới việc bảo vệ người tiêu dùng, sử dụng

dịch vụ tài chính và vì thế, chính sách này hạn chế tối đa những suy giảm hoặc

thất thoát từ các tổ chức tài chính. Để thực hiện được mục tiêu, chính sách an toàn

vi mô đánh giá về mặt tuân thủ quy định an toàn của tổ chức tài chính. Tuy nhiên,

sự lành mạnh của từng tổ chức vẫn chưa đủ để đảm bảo rằng hệ thống tài chính ổn

định bởi những nguy cơ rủi ro hệ thống từ bên ngoài. Vì thế, chính sách an toàn vĩ

mô giúp theo dõi, phát hiện các nguy cơ gây bất ổn cho sự an toàn của hệ thống,

giảm thiểu các chi phí liên quan đến tình trạng suy giảm tài chính. Chính sách an

toàn vĩ mô quản lý tăng trưởng tín dụng, và các chu kỳ tăng giá tài sản, đồng thời

tăng cường sức chịu đựng của hệ thống tài chính trước các cú sốc. Sự kết hợp giữa

hai chính sách này giúp cách ly các rủi ro hệ thống ra khỏi các rủi ro đặc thù của

tổ chức và cùng bổ trợ cho nhau trong khuôn khổ chính sách ổn định tài chính,

đảm bảo sự lành mạnh của hệ thống tài chính (Đỗ Xuân Thành và Đỗ Thiên Anh

Tuấn, 2013)

Bảng 1.2. So sánh cách tiếp cận của chính sách an toàn vĩ mô và chính sách an

toàn vi mô.

Chính sách an toàn vĩ mô Chính sách an toàn vi mô

Mục tiêu Đảm bảo sự ổn định của hệ thống tài chính Đảm bảo sự lành mạnh của các tổ chức tài chính

Mục tiêu cuối cùng Hỗ trợ tăng trưởng kinh tế bền vững Bảo vệ người gửi tiền và nhà đầu tư

Từ trên xuống (Top-down): thiết lập các giới hạn kiểm soát Từ dưới lên (Bottom-up): thiết lập và tổng hợp các biện pháp Nguyên tắc đảm bảo an toàn căn cứ vào kiểm soát đảm bảo an toàn kiểm soát xác suất và chi phí bất ổn tài từng định chế tài chính

chính

Nội sinh: bắt nguồn từ các Ngoại sinh: bắt nguồn từ hành

Đặc tính rủi ro hành vi tập thể của nhiều định vi của từng định chế tài chính

chế hoặc từ mối liên kết giữa riêng lẻ.

25

các định chế.

Tương quan và Quan trọng Không liên quan

rủi ro giữa các

định chế

Tập trung vào hệ thống ngân Tập trung vào từng định chế

hàng, các định chế tài chính tài chính riêng lẻ Đối tượng khác, giám sát thị trường và giám sát hướng vào các hoạt động phản

chu kỳ.

Các công cụ đảm bảo an toàn Các tiêu chuẩn đảm bảo khả

Công cụ giám tiêu chuẩn cùng với các biện năng thanh khoản thống nhất

sát và quy tắc đạo đức kinh doanh.

pháp dự phòng và định giá rủi ro

Nguồn: Phạm Tiên Phong (2015), Nguyễn Xuân Thành và Đỗ Thiên Tuấn Anh (2013)

- Tương tác giữa chính sách an toàn vĩ mô và chính sách tiền tệ

Kênh truyền tải tác động chủ yếu của chính sách tiền tệ đến nền kinh tế là

thông qua hệ thống tài chính, trong đó, đóng vai trò chủ yếu là hệ thống ngân

hàng. Một hệ thống ngân hàng lành mạnh và hiệu quả sẽ giúp nâng cao năng lực

của chính sách tiền tệ, đồng thời giảm các rủi ro không mong muốn. Chính vì vậy,

chính sách an toàn vĩ mô với vai trò nhận diện các rủi ro hệ thống, thực thi các

biện pháp đảm bảo an toàn cho ngân hàng và hệ thống tài chính nói chung, tạo

không gian cho chính sách theo đuổi mục tiêu ổn định giá cả của mình. Ngược lại,

chính sách tiền tệ kiểm soát lạm phát, góp phần ổn định tài chính thông qua: (i)

kiềm chế sự lan truyền các cú sốc qua kênh kỳ vọng, (ii) giảm nhẹ tính thuận chu

kỳ của nền kinh tế (tăng trưởng tín dụng, tăng giá bất động sản) (Svensson, 2018).

Như vậy, ổn định tiền tệ và ổn định tài chính có thể củng cố, hỗ trợ lẫn nhau.

- Tương tác giữa chính sách an toàn vĩ mô và chính sách tài khóa

Chính sách tài khóa hiệu quả và phù hợp là yếu tố quan trọng giúp giảm

thiểu các cú sốc kinh tế vĩ mô, ổn định tài chính. Ví dụ như, khi tiêu dùng tăng

26

mạnh do sự gia tăng các dòng vốn cùng với tình trạng thâm hụt cán cân vãng lai

kéo dài, chính sách an toàn vĩ mô sẽ không thể tự kiểm soát hiệu quả các áp lực

trên và do đó, chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ sẽ trở nên cần thiết để giải

quyết tình trạng mất cân đối này. Chính sách an toàn vĩ mô mặc dù không có thẩm

quyền đối với chính sách tài khóa, song vẫn có thể giúp phân tích các rủi ro kinh

tế cơ bản và tình trạng mất cân đối vĩ mô để đưa ra các cảnh báo rủi ro hệ thống

nhằm gây sự chú ý hoặc tạo sự quan tâm đối với các nhà hoạch định chính sách tài

khóa. Trên cơ sở đó, các khuyến nghị chính sách cũng được đưa ra, bổ sung vào

tập hợp các lựa chọn chính sách của các cơ quan chính phủ. Đồng thời, các cơ chế

phản biện tích cực cũng được tạo ra nhằm làm cho cơ quan giám sát trở nên có

tiếng nói hơn với các cơ quan thực thi chính sách tài khóa.

Ba là, ổn định tài chính chỉ được kiểm soát một phần bởi các công cụ

chính sách, và đôi khi các chính sách này không thực sự thống nhất với nhau.

Thực tế là, các công cụ chính sách được sử dụng đảm bảo mục tiêu ổn định

tài chính thông thường cũng được sử dụng để thực thi các mục tiêu khác nữa, bao

gồm: bảo vệ lợi ích người gửi tiền (các công cụ an toàn); đảm bảo ổn định giá cả

(các công cụ chính sách tiền tệ) hoặc hỗ trợ thanh toán các giao dịch tài chính (các

công cụ trong chính sách chi trả và thanh toán). Ngoài vấn đề về độ trễ, tác động

của các công cụ chính sách đến ổn định tài chính thường là gián tiếp, và trong một

số trường hợp, các công cụ này còn mâu thuẫn với mục tiêu ban đầu khi sử dụng

công cụ. Hơn nữa, ổn định tài chính chịu ảnh hưởng lớn bởi các cú sốc bên ngoài,

từ đó càng khó khăn hơn trong việc kiểm soát để đạt mục tiêu.

Các công cụ chính sách thực thi ổn định tài chính đôi khi có thể không

thống nhất với nhau. Điều này hàm ý là một số công cụ chính sách công với mục

tiêu ổn định tài chính có thể làm mất đi tính kỷ luật thị trường, chỉ đem lại sự ổn

định trong ngắn hạn mà làm mất đi sự ổn định trong dài hạn. Cụ thể như, việc thực

hiện vai trò là người cho vay cuối cùng của ngân hàng trung ương hay bảo lãnh

tiền gửi làm suy yếu kỷ luật thị trường, các ngân hàng có thể dựa vào đó để thực

hiện các giao dịch rủi ro hơn (rủi ro đạo đức), gây bất ổn cho thị trường.

27

Bốn là, các chính sách nhằm đạt được ổn định tài chính thường phải đối

mặt với sự đánh đổi giữa khả năng phục hồi và tính hiệu quả.

Các biện pháp tăng cường ổn định thường phải cân nhắc giữa việc đảm bảo

phân bổ nguồn lực hiệu quả với khả năng loại trừ hoặc hấp thụ các cú sốc. Điều

này hàm ý rằng mỗi công cụ sử dụng đều có lợi ích và chi phí nhất định. Ví dụ,

khi sử dụng cơ quan điều hành áp dụng các chính sách an toàn vĩ mô, cụ thể như

yêu cầu các ngân hàng phải duy trì tỷ lệ thanh khoản cao hơn, điều này sẽ giúp

ngân hàng có khả năng hấp thụ các cú sốc thanh khoản tốt hơn, nhưng cũng đồng

nghĩa với việc ngân hàng sẽ phải trả chi phí vốn cao hơn, và bỏ qua các cơ hội cho

vay kiếm lời. Tương tự, những quy định kiểm soát ngoại hối có thể làm giảm

những rủi ro liên quan đến các dòng vốn quốc tế nhưng cũng làm giảm hiệu quả

thị trường tài chính trong nước.

1.1.3. Nguyên nhân gây mất ổn định hệ thống tài chính

Nguồn gốc của bất ổn tài chính là từ rủi ro hệ thống – được định nghĩa là rủi

ro gây ra những cú sốc có thể dẫn đến những mất cân bằng rõ rệt (tài chính vĩ mô) và

sự mất cân bằng này có thể lan rộng theo quy mô, làm suy yếu chức năng của hệ

thống tài chính và ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế thực (tăng trưởng kinh tế)

(Smaga, 2014). Theo các nhà nghiên cứu, nguồn gốc của rủi ro gây bất ổn tài chính

có thể được nhìn nhận dựa trên ba góc độ: (i) rủi ro bên trong và rủi ro bên ngoài; (ii)

rủi ro vi mô và rủi ro vĩ mô; (iii) rủi ro theo thời gian và rủi ro chéo giữa các khu vực.

a) Rủi ro hệ thống từ góc độ bên trong và bên ngoài hệ thống

Theo quan điểm của Houben (2004), hệ thống tài chính được chia thành 3

bộ phận chính: các tổ chức tài chính, thị trường tài chính và cơ sở hạ tầng của hệ

thống. Những rủi ro cho hệ thống tài chính có thể đến từ nội tại của hệ thống,

trong quá trình vận hành và liên kết giữa các bộ phận của hệ thống; và có thể đến

từ những cú sốc, những thay đổi bên ngoài hệ thống tài chính.

28

HỆ THỐNG TÀI CHÍNH

- Tổ chức tài chính - Thị trường tài chính - Cơ sở hạ tầng

Các nhân tố

Nền kinh tế thực

Các nhân tố bên trong

bên ngoài

Các chính sách: - Phòng ngừa

- Khắc phục - Khôi phục

Hình 1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hệ thống tài chính

Nguồn: Houben (2004)

Đối với các rủi ro xuất phát bên trong hệ thống tài chính, còn được gọi là

rủi ro bên trong được chia thành 3 nhóm, bao gồm: rủi ro tổ chức tài chính; rủi ro

thị trường và rủi ro cơ sở hạ tầng.

- Rủi ro tổ chức tài chính: đây là những rủi ro có thể xuất phát từ một tổ

chức riêng lẻ và có thể lan truyền sang các bộ phận khác của hệ thống tài chính,

hoặc có những rủi ro xảy ra đồng thời với một số tổ chức. Các rủi ro tài chính cơ

bản mà các tổ chức phải đối mặt bao gồm: rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro

lãi suất, rủi ro thanh khoản và rủi ro ngoại hối. Ngoài ra, các tổ chức tài chính còn

phải đối phó với rủi ro hoạt động, rủi ro pháp lý, rủi ro danh tiếng, rủi ro chiến

lược, rủi ro tập trung và rủi ro an toàn vốn.

- Rủi ro thị trường tài chính: đây là nguồn rủi ro thứ hai đối với hệ thống

tài chính. Các rủi ro phổ biến xuất phát từ thị trường là rủi ro đối tác và rủi ro

bong bóng giá tài sản. Sự phát triển các dịch vụ tài chính, sự tham gia nhiều hơn

của các tổ chức tài chính phi ngân hàng cùng các doanh nghiệp, hộ gia đình trên thị

trường làm hệ thống tài chính trở nên năng động hơn nhưng cũng dễ đổ vỡ hơn.

29

- Rủi ro cơ sở hạ tầng: có thể là rủi ro liên quan đến hoạt động thanh toán

bù trừ và thanh toán của hệ thống thanh toán. Hoặc rủi ro có thể đến từ những lỗ

hổng trong hệ thống pháp luật, và hệ thống kế toán. Những rủi ro này khi xảy ra

có thể ảnh hưởng đến hầu hết các bộ phận của khu vực tài chính.

Đối với các rủi ro đến từ bên ngoài hệ thống tài chính, được gọi là rủi ro

bên ngoài, khi xảy ra có thể ảnh hưởng một phần hoặc toàn bộ các cấu phần của

hệ thống. Các rủi ro này có thể chia thành các nhóm rủi ro xuất phát từ kinh tế

(các cú sốc giá dầu, bong bóng bất động sản, những phát minh công nghệ mới, sự

mất cân bằng chính sách - sự mất cân bằng giữa chính sách tiền tệ và chính sách

tài khóa,…), rủi ro về chính trị (khủng bố, chiến tranh, nội chiến, trừng phạt kinh tế do

nguyên nhân chính trị…), rủi ro do thiên tai (bão lụt, hạn hán, thay đổi khí hậu…).

Tuy nhiên, việc xác định liệu quy mô của những sự kiện này có thể trở

thành rủi ro cho hệ thống tài chính hay không là tương đối khó. Đặc biệt là trong

giai đoạn hỗn loạn, việc đánh giá mức độ ảnh hưởng đến các phần khác của hệ

thống có thể bị thay đổi liên tục và những đánh giá đôi khi có thể quá chủ quan.

b) Rủi ro hệ thống từ góc độ vĩ mô và vi mô

Nier (2009) cho rằng, sự thất bại của các tổ chức tài chính có thể gây ảnh

hưởng đến các tổ chức tài chính khác và rộng hơn là cả thị trường tài chính.

Nhưng kể cả khi không có sự đổ vỡ cụ thể nào đi nữa, thì một hệ thống tài chính

yếu kém cũng có khả năng gây tác động lớn đến toàn bộ nền kinh tế. Đó là lý do

cần có sự phân biệt giữa rủi ro hệ thống vĩ mô và vi mô để có những quy định phù

hợp cho các tổ chức và thị trường.

Rủi ro hệ thống vĩ mô phát sinh khi hệ thống tài chính tiếp xúc với rủi ro

tổng hợp. Hệ thống tài chính đứng trước nguy cơ chịu ảnh hưởng khi rủi ro của tổ

chức này lại có mối tương quan với các tổ chức khác. Trong trường hợp này, sự

kết tinh rủi ro của các tổ chức có thể làm suy yếu hệ thống tài chính và dẫn đến

việc cắt giảm tín dụng cho nền kinh tế trên diện rộng, gây ảnh hưởng tiêu cực đến

tăng trưởng kinh tế.

30

Trọng tâm của rủi ro hệ thống vĩ mô là những nguy cơ từ rủi ro kinh tế vĩ

mô hoặc rủi ro tổng hợp. Thông thường, rủi ro này sẽ được thể hiện thông qua sự

thay đổi trong giá tài sản gắn liền với sự phát triển chung. Khi giá cả có chiều

hướng tăng, nhà đầu tư có xu hướng gia tăng đòn bẩy để có cơ hội đầu tư nhiều

hơn. Trong trường hợp này, nếu các tổ chức tài chính cung cấp thêm đòn bẩy cho

khách hàng, có thể gây ra một vòng xoáy tăng giá tài sản (bong bóng). Khi giá tài

sản đảo chiều, có xu hướng giảm, bong bóng vỡ, các tổ chức cung ứng đòn bẩy

(ngân hàng) sẽ chịu áp lực về khả năng thanh khoản, đứng trước nguy cơ đổ vỡ.

Bài học về cuộc khủng hoảng liên quan đến giá tài sản tại Nhật những năm 90, tại

Mỹ năm 2007 đã gợi ý rằng, cần phải có những công cụ kiểm soát các tổ chức

cung ứng đòn bẩy (tổ chức tài chính), cũng như những nhà đầu tư tài sản.

- Đối với các tổ chức cho vay: chính sách an toàn vĩ mô cần đưa ra các quy

định tiếp cận theo ba hướng: quy mô bảng cân đối, đòn bẩy, và tỷ lệ bảng cân đối

tiếp xúc với rủi ro vĩ mô. Các quy định đối với các tổ chức này là vô cùng quan

trọng bởi giúp bảo vệ bộ phận cốt lõi của hệ thống tài chính.

- Đối với nhà đầu tư: giới hạn về tỷ lệ đòn bảy được nắm giữ bởi hộ gia

đình và các công ty. Các quy định cho đối tượng này tuy không phải là chính yếu,

nhưng giúp bổ sung, hoàn thiện cho chính sách tổng thể, bởi nhóm đối tượng này

cũng có thể gây tổn thương cho hệ thống tài chính.

Rủi ro hệ thống vi mô phát sinh khi sự thất bại của một tổ chức riêng lẻ có

tác động tiêu cực lên toàn bộ hệ thống tài chính. Điều này có thể xảy ra qua nhiều

kênh. Ví dụ như, sự đổ vỡ của một tổ chức tài chính quan trọng-SIFI, có thể gây

nên tổn thất cho các tổ chức tài chính khác có mối quan hệ, tiếp xúc với tổ chức

vừa đổ vỡ. Tổ chức cho vay lớn đổ vỡ cũng làm ảnh hưởng đến tất cả các đối tác

có quan hệ vay mượn với tổ chức này, đặc biệt là những đối tác dựa vào tổ chức

này để cung ứng tín dụng cho thị trường. Trong thị trường tồn tại tình trạng bất

cân xứng thông tin, sự thất bại của một tổ chức có thể làm mất đi niềm tin của thị

trường, của công chúng vào những tổ chức khác, ngay cả khi các tổ chức này rất

lành mạnh.

31

c) Rủi ro hệ thống từ góc độ mối liên hệ giữa các rủi ro

Khác với Houben, IMF lại nhìn nhận rủi ro đối với ổn định tài chính không

chỉ là những rủi ro đơn lẻ của từng tổ chức, từng thị trường mà là những rủi ro ở

đây mang tính hệ thống, được chia thành hai loại chính: rủi ro theo thời gian (time

dimension) và rủi ro chéo giữa các khu vực (structural dimension).

Rủi ro theo theo thời gian hay thuận chu kỳ (time dimension hoặc

procyclical dimension) phản ánh sự tích tụ rủi ro hệ thống theo thời gian thông

qua cơ chế khuếch đại hoạt động bên trong hệ thống tài chính và giữa hệ thống tài

chính với nền kinh tế thực. Trong giai đoạn tăng trưởng kinh tế, hệ thống tài chính

có xu hướng phát triển mạnh mẽ, và có nguy cơ đối mặt với rủi ro ở mức độ cao

hơn, thể hiện qua tốc độ tăng trưởng tín dụng nhanh, sự gia tăng giá tài sản, đòn

bảy tài chính và bất cân xứng kỳ hạn trong bảng cân đối của các tổ chức tài chính.

Nếu hệ thống không có những tấm đệm đủ lớn vào đúng thời điểm thì khi chu kỳ

tài chính đảo chiều, giá trị các tài sản có thể bị sụt giảm mạnh, việc cung ứng tín

dụng và các dịch vụ tài chính bị ngưng trệ, kết quả là suy thoái kinh tế tài chính

nghiêm trọng. Trong giai đoạn này, tính thuận chu kỳ làm cho hệ thống tài chính và

nền kinh tế dễ bị tổn thương hơn trước các cú sốc bên trong cũng như bên ngoài.

Hộ gia đình

Khu vực tài chính

Doanh nghiệp

Khu vực còn lại

Chính phủ

Hình 1.4. Rủi ro theo thời gian (chu kỳ)

Nguồn: IMF (2013)

32

Rủi ro chéo giữa các khu vực (cross-section dimension hoặc structural

dimension) là sự phân bố rủi ro giữa các lĩnh vực trong hệ thống tài chính tại một

thời điểm nhất định. Khủng hoảng hay bất ổn tài chính phát sinh từ những vấn đề

thuộc về cấu trúc chứ không phải do sự gia tăng những lỗ hổng hay điểm yếu của

hệ thống theo thời gian. Nó có thể là những vấn đề, nguy cơ mà các tổ chức tài

chính đều gặp phải (thể hiện trên bảng cân đối tài sản và nguồn vốn), hoặc có thể

do những mối liên kết giữa tổ chức này với tổ chức khác (rủi ro đối tác). Tác động

của rủi ro chéo giữa các khu vực phụ thuộc vào quy mô của các tổ chức, mức độ

tập trung, khả năng thay thế cũng như sự liên kết giữa các tổ chức với nhau.

NHTM nhỏ

NHTM nhỏ

Quỹ đầu tư

TC phi ngân hàng

NHTM nhỏ

NHTM lớn

NHTM nhỏ

NHTM nhỏ

TC phi ngân hàng

Công ty bảo hiểm

NHTM lớn

NHTM nhỏ

NHTM nhỏ

NHTM toàn cầu

Hình 1.5. Rủi ro chéo giữa các khu vực

Nguồn: IMF (2013)

Hai loại rủi ro này có mối quan hệ vô cùng mật thiết với nhau. Sự gia tăng

mức độ tập trung trong hệ thống tài chính (rủi ro chéo giữa các khu vực), dẫn đến

việc các tổ chức tài chính quan trọng SIFI có xu hướng chấp nhận mức rủi ro cao

hơn theo thời gian (rủi ro theo thời gian), và đây là kết quả của việc rủi ro đạo đức

gia tăng và sự kỳ vọng vào các cuộc giải cứu của cơ quan điều hành. Ngoài ra,

33

việc cho vay quá nhiều của các tổ chức tài chính trong giai đoạn bùng nổ làm gia

tăng việc chấp nhận rủi ro (rủi ro theo giời gian), dẫn đến sự tích tụ rủi ro cho

ngân hàng khi tập trung vào một số phân khúc nhất định của thị trường (rủi ro

chéo giữa các khu vực) ở cấp độ vi mô (ví dụ, thị trường bất đống sản). Ở cấp độ

vĩ mô, tính chu kỳ có thể dẫn sự phát triển những mối liên kết mới, phức tạp hơn

trong hệ thống tài chính và giữa hệ thống tài chính với nền kinh tế thực.

Bảng 1.3. Rủi ro theo thời gian và rủi ro chéo giữa các khu vực

Rủi ro chéo giữa các Rủi ro theo thời gian khu vực

Mục tiêu phân Gia tăng những mất cân bằng Cơ chế truyền tải các cú

tích trong tài chính vĩ mô sốc

Tính thuận chu kỳ

Quy mô của hệ thống tài chính, cấu trúc và mức

Phạm vi phân tích chính yếu

độ liên kết giữa các cấu phần, các tổ chức tài chính quan trọng SIFI

Hướng tiếp cận Theo giai đoạn cho trước Tại một thời điểm

Nội sinh Ngoại sinh

Vai trò của các nhân tố kinh tế vĩ mô

Mục tiêu đo lường của an toàn vĩ mô Giảm thiểu tỷ lệ tích lũy những mất cân xứng và giảm tác động của chúng Tăng cường khả năng phục hồi của hệ thống tài chính trước những cú sốc

Mối liên kết giữa hệ thống tài Mối liên kết và tương

chính và nền kinh tế thực, các đồng trong nguy cơ rủi

Ví dụ về nguồn quy định hệ thống tài chính ro của các tổ chức tài

gốc rủi ro

chính dẫn đến nguy cơ sốc cân xứng, sự tập

trung quá mức.

Nguồn: Smaga (2014)

34

Việc phân biệt rủi ro theo thời gian và rủi ro chéo giữa các khu vực giúp

nhà điều hành lựa chọn những công cụ an toàn vĩ mô phù hợp để ngăn ngừa rủi ro

hệ thống theo từng loại. Nói chung, rủi ro theo thời gian sẽ được ngăn ngừa bởi

các công cụ tác động đến bảng cân đối của các tổ chức tài chính hoặc các công cụ

mang tính quy định các điều khoản hoặc điều kiện giao dịch tài chính. Trong khi

đó, các công cụ tác động đến cấu trúc thị trường sẽ phù hợp để ngăn ngừa rủi ro

chéo giữa các khu vực (Bank of England, 2011).

1.3. Thiết lập bộ chỉ số đo lường mức độ ổn định hệ thống tài chính

1.3.1. Sự cần thiết xây dựng bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính

Đối với hầu hết các mục tiêu chính sách kinh tế như ổn định giá cả, tạo

công ăn việc làm, cân bằng trong và cân bằng ngoài..., thông thường, các mục tiêu

này sẽ được đo lường thông qua một chỉ tiêu cụ thể. Tuy nhiên, việc đo lường ổn

định tài chính là tương đối khó khăn, bởi đây là mục tiêu đa chiều, khó có thể

được phản ánh đầy đủ thông qua một chỉ số định lượng riêng lẻ. (Houben và cộng

sự, 2004). Nguyên nhân là bởi:

- Sự phụ thuộc lẫn nhau và qua lại tương đối phức tạp giữa các thành phần

trong hệ thống tài chính, và giữa hệ thống tài chính với nền kinh tế thực.

- Hoạt động của thị trường tài chính và các khu vực tài chính khác có tính

chu kỳ, khó có thể đo lường chu kỳ này thông qua một chỉ tiêu.

- Mối quan hệ phi tuyến giữa các khu vực cùng với việc dẫn truyền các cú

sốc từ khu vực này sang khu vực khác sẽ khiến việc đánh giá mức độ ổn định của

hệ thống tài chính trở nên khó khăn hơn.

- Khu vực tài chính và nền kinh tế có mối liên hệ chéo với nhau, và mức độ

ảnh hưởng của các thành phần tài chính này đến nền kinh tế thực là khác nhau và

việc tính toán tỷ trọng tác động của các yếu tố này trong một chỉ tiêu khá phức

tạp. Chính vì vậy, việc đo lường ổn định tài chính hiện nay được thực hiện chủ

yếu thông qua một bộ các chỉ số trải dài với các lĩnh vực trọng yếu, có khả năng

gây rủi ro cho hệ thống như: ngân hàng, phi ngân hàng, thị trường tài chính, doanh

nghiệp… Ưu điểm lớn nhất của bộ chỉ số là có khả năng theo dõi tương đối đầy đủ

mức độ ổn định của các lĩnh vực trong hệ thống tài chính, từ đó phát hiện những

nguy cơ, rủi ro tiềm ẩn và chỉ rõ là rủi ro, nguy cơ đó nằm ở khu vực nào của hệ

35

thống tài chính. Trên cơ sở đó, cơ quan điều hành có thể điều chỉnh các công cụ

can thiệp kịp thời vào khu vực đó, đảm bảo sự ổn định cho toàn hệ thống.

1.3.2. Quy trình thiết lập bộ chỉ số đo lường mức độ ổn định hệ thống tài chính

Để đảm bảo thực hiện đo lường ổn định cho hệ thống tài chính, cơ quan

điều hành cần thiết lập một khung phân tích hoạt động trong hệ thống với 4

bước chính.

Hình 1.6. Quy trình thiết lập bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính

Bước 1: Nhận diện rủi ro Bước 2: Phân nhóm các rủi ro

Bước 3: Xác định các chỉ số đại diện cho rủi ro Bước 4: Thu thập số liệu và kiểm định tính phù hợp của chỉ số

Bước 1: Nhận diện rủi ro

Để xác định các chỉ số nào phù hợp đo lường đánh giá sự lành mạnh ổn

định của hệ thống tài chính, trước tiên cần nhận diện và đánh giá xem những rủi ro

nào có thể xảy đến gây bất ổn cho hệ thống tài chính. Hệ thống tài chính là một

thực thể, hoạt động trong môi trường kinh tế vĩ mô, và có tương tác qua lại với các

khu vực khác. Chính vì vậy, những thay đổi tiêu cực từ môi trường vĩ mô bên

ngoài như tăng trưởng kinh tế, lạm phát, tỷ giá, lãi suất, cán cân vãng lai… hay

chính những thay đổi bên trong hệ thống tài chính đều có thể là nguồn gốc gây rủi

ro cho hệ thống tài chính. Bên cạnh đó, bản thân hệ thống tài chính là một tổng thể

bao gồm các cấu phần thị trường tài chính, tổ chức tài chính và hạ tầng tài chính.

Những rủi ro xảy đến với từng cấu phần, từng tổ chức riêng lẻ trong hệ thống tài

chính cũng có thể dẫn đến rủi ro hệ thống bởi tính liên kết và lan truyền mạnh

giữa các cấu phần này. Như vậy, về mặt lý thuyết, rủi ro cho hệ thống tài chính có

thể đến từ môi trường bên ngoài và bên trong (rủi ro vĩ mô) và trong từng cấu

phần/ tổ chức trong hệ thống tài chính (rủi ro vi mô).

Về thực tiễn, các nghiên cứu của IMF (2013, 2019) và các nhà kinh tế độc

lập đã tổng kết một số nguyên nhân chủ yếu gây gia tăng rủi ro cho hệ thống tài

36

chính có thể nhận diện được, bao gồm:

(i) Những rủi ro từ môi trường bên ngoài

- Điều kiện tài chính toàn cầu khó khăn, do tác động tiêu cực từ chính sách

của các quốc gia lớn (Mỹ, Châu Âu, Trung Quốc) có thể làm giảm sự tự tin và

hưng phấn của thị trường tài chính, các dòng vốn tháo chạy khỏi gây ảnh hưởng

đến tỷ giá và dự trữ ngoại hối quốc gia, dẫn đến sự điều chỉnh tiêu cực trên thị

trường chứng khoán, các điều kiện thanh khoản bị thắt chặt, gia tăng lợi tức trái

phiếu Chính phủ, gây áp lực lên các ngân hàng có bảng cân đối thiếu bền vững.

- Tăng trưởng kinh tế toàn cầu suy giảm, đặc biệt là sự suy yếu từ các nền

kinh tế dẫn đầu như Mỹ, Trung Quốc, Châu Âu: làm giảm tốc độ xuất khẩu hàng

hóa, giảm dòng vốn đầu tư nước ngoài và kiều hối, từ đó, gây áp lực lên tỷ giá và

dự trữ ngoại hối. Bên cạnh đó, nguy cơ này có thể làm suy yếu khu vực công và

làm xấu đi bảng cân đối ngân hàng.

- Bất ổn an ninh mạng trên hạ tầng thanh toán quốc tế, có thể làm xấu đi

điều kiện thị trường tài chính toàn cầu cũng như tăng trưởng kinh tế quốc gia, đặc

biệt với những nền kinh tế có độ mở lớn và mức độ phổ cập mạng cao.

- Bất ổn chính trị, chiến tranh thương mại, thiên tai, dịch bệnh: có thể ảnh

hưởng đến nguồn cung các hàng hóa thiết yếu như: xăng dầu, lương thực, thực

phẩm…, từ đó ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế, thị trường tài chính toàn cầu,

đặc biệt là những quốc gia nhập khẩu nhiều các hàng hóa đó.

- Tăng trưởng kinh tế suy giảm, lạm phát gia tăng, nợ công tăng cao, thâm

hụt cán cân vãng lai, biến động tỷ giá, lãi suất… cũng là những yếu tố vĩ mô tác

động tiêu cực đến hoạt động của các tổ chức tài chính, tăng sự bất ổn và rủi ro trên

thị trường tài chính và có thể gây nên khủng hoảng. Nghiên cứu của Kaminsky và

Reinhart (1999) chỉ ra rằng tình trạng xuất khẩu yếu kém dẫn đến thâm hụt tài

khoản vãng lai là dấu hiệu thường thấy trước các cuộc khủng hoảng tài chính.

Jordan và cộng sự (2010) lại chỉ ra rằng gia tăng tín dụng là chỉ số tốt nhất phản

ánh bất ổn tài chính nhưng mối liên hệ giữa bùng nổ tín dụng và mất cân đối tài

khoản vãng lai lại có mối quan hệ chặt chẽ hơn trong những thập kỷ gần đây.

Nghiên cứu của Lund-Jensen (2012) lại chứng minh được ngoại tệ lên giá thực là

một dấu hiệu cảnh báo cho khủng hoảng ngân hàng.

37

(ii) Những rủi ro từ môi trường bên trong

- Tăng trưởng tín dụng nóng, mức độ tập trung tín dụng cao, tín dụng gia

tăng cho lĩnh vực chứng khoán và bất động sản, tăng trưởng tín dụng tiêu dùng

với lãi suất cao… là nguyên nhân gây rủi ro tín dụng cho các ngân hàng. Các

nghiên cứu thực nghiệm cho thấy sự gia tăng trong tỷ lệ cho vay khu vực tư nhân/

GDP, được đo lường bằng tốc độ tăng trưởng tín dụng/ GDP hoặc bởi độ lệch của

tỷ lệ này so với xu hướng dài hạn, là chỉ số đơn lẻ tốt nhất cảnh báo sự gia tăng

xác suất xảy ra khủng hoảng trong giai đoạn 1 đến 3 năm tới (Drehmann và cộng

sự, 2011; Drehmann và Juselius, 2012; IMF, 2011b; Lund-Jensen, 2012). Tuy

nhiên, các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, không phải tất cả các bong bóng tín dụng

đều kết thúc bằng việc vỡ bong bóng và khủng hoảng, bởi một số trong đó lại

được điều chỉnh bởi những công cụ tốt hơn và tăng trưởng cho vay cũng có thể

góp phần làm lành mạnh hệ thống tài chính (Dell’ Ariccia và cộng sự, 2012).

- Mất cân bằng trong kỳ hạn bảng cân đối, chênh lệch lớn giữa giá trị tài

sản và nợ bằng nội tệ, ngoại tệ… gây mất cân đối dòng tiền, dẫn đến nguy cơ rủi

ro thanh khoản, rủi ro lãi suất và rủi ro ngoại hối cho ngân hàng khi có những biến

động lớn trong lãi suất, tỷ giá, chính sách tiền tệ của NHTW hay hành vi rút tiền

của người gửi.

- Mối liên hệ chặt chẽ giữa các tổ chức tài chính, thể hiện thông qua hoạt

động vay mượn, gửi tiền, đầu tư giữa các tổ chức tài chính… làm gia tăng nguy cơ

rủi ro lan truyền trong hệ thống tài chính. Sự sụp đổ hoặc thất bại của một tổ chức

tài chính, thậm chí là hoạt động yếu kém có thể ảnh hưởng đến các tổ chức khác

và toàn hệ thống.

- Sự phát triển của hệ thống ngân hàng ngầm, các hoạt động tín dụng phi

ngân hàng không được kiểm soát bởi cơ quan quản lý có thể gia tăng đòn bảy tài

chính, tiềm ẩn rủi ro vỡ nợ cao và lan truyền rủi ro này đến các tổ chức khác.

Bước 2: Phân nhóm các rủi ro

Trên cơ sở nhận diện những nguy cơ gây rủi ro cho hệ thống tài chính, các

rủi ro này có thể được phân chia thành các nhóm theo các tiêu chí: loại rủi ro (rủi

ro thanh khoản hệ thống, rủi ro tín dụng, rủi ro kinh tế vĩ mô…), hoặc khu vực

38

tiềm ẩn rủi ro (khu vực ngân hàng, khu vực chứng khoán, khu vực bảo hiểm, khu

vực doanh nghiệp…) hoặc phạm vi và tính chất rủi ro (rủi ro vi mô, rủi ro vĩ mô).

Bảng 1.4. Phân nhóm các rủi ro cho ổn định hệ thống tài chính

Phân loại Nguy cơ được nhận diện Tính chất Khu vực Loại rủi ro

Vĩ mô Bên ngoài - RR thanh khoản - RR ngoại hối - RR tín dụng

- Điều kiện tài chính toàn cầu suy giảm - Điều kiện kinh tế suy giảm (tăng trưởng giảm) - Gia tăng toàn cầu hóa/ Hoạt động giao thương/ Hội nhập tài chính/ Luân chuyển dòng tiền - Phát triển công nghệ, phát minh tài chính - Tấn công mạng, hạ tầng thanh toán giao dịch quốc tế

Vĩ mô Kinh tế thực - RR tín dụng - RR thanh khoản - RR lãi suất - Mất cân bằng vĩ mô - Tính thuận chu kỳ tăng - Biến động lớn trong tỷ giá, lãi suất, cung tiền

Vĩ mô Doanh nghiệp và hộ gia đình gia tăng nợ nần - RR tín dụng Doanh nghiệp và hộ gia đình

Vĩ mô Thị trường tài chính - RR bong bóng vỡ - RR thanh khoản

- Gia tăng nhu cầu tài trợ vốn trên thị trường liên ngân hàng - Quy mô thị trường tài chính phát triển quá nhanh (thị trường chứng khoán) - Thay đổi lớn trong giá tài sản

Vi mô Ngân hàng

- RR tín dụng - RR thanh khoản - RR ngoại hối - RR lãi suất - RR danh tiếng - RR hoạt động

- Mức độ tập trung cao - Tăng trưởng tín dụng, tập trung tín dụng - Mất cân bằng trên bảng cân đối - Mối liên kết giữa các tổ chức tài chính - Gia tăng hoạt động ngân hàng ngầm - An ninh mạng hệ thống thanh toán, công nghệ

Nguồn: Tổng hợp của tác giả

39

Việc phân nhóm các nguy cơ giúp cơ quan điều hành nắm bắt được phạm vi

tác động của các rủi ro này đến hệ thống tài chính, khu vực tiềm ẩn rủi ro cần

được giám sát, các loại rủi ro có thể xảy ra, trên cơ sở đó lựa chọn các chỉ số đo

lường cũng như các biện pháp giám sát phù hợp với từng rủi ro. Thực tế hiện nay,

các tổ chức như IMF, ECB hay ADB đều đã lần lượt thiết kế các bộ chỉ số với

mục tiêu gợi ý cho các quốc gia trong việc đo lường mức độ ổn định của hệ thống

tài chính. Mặc dù các bộ chỉ số đều nhằm mục tiêu xác định các rủi ro hệ thống,

đánh giá mức độ ổn định tài chính, tuy nhiên, mỗi bộ chỉ số có những đặc thù,

phạm vi đo lường rủi ro khác nhau. Nếu như bộ chỉ số của IMF và ECB chủ yếu

đo lường các rủi ro mang tính vi mô (rủi ro cho hệ thống xuất phát từ ngân hàng –

trung tâm của hệ thống tài chính) thì bộ chỉ số của ADB được thiết kế theo hướng

đo lường rủi ro vĩ mô, đánh giá mức độ lành mạnh của nhiều lĩnh vực tổng thể.

Trong đó, ngân hàng chỉ là một lĩnh vực, bên cạnh các lĩnh vực kinh tế vĩ mô bên

trong và bên ngoài khác (tiền tệ - tín dụng, nợ - dòng vốn, lãi suất, thị trường tài

chính, thương mại quốc tế, doanh nghiệp)

Bước 3: Xác định các chỉ số đại diện cho rủi ro

Một trong những bước quan trọng nhất của quy trình thiết lập bộ chỉ số là

lựa chọn các chỉ số phù hợp, có khả năng đo lường, phản ánh các rủi ro đã được

nhận diện và phân loại ở trên. Về lý thuyết, đối với mỗi rủi ro, có nhiều chỉ tiêu có

thể được sử dụng để đo lường và cũng có những chỉ tiêu có thể giúp phản ánh

được nhiều khía cạnh rủi ro khác nhau. Việc lựa chọn những chỉ tiêu phù hợp và

có tính đại diện để đưa vào bộ chỉ số là rất quan trọng. Các bộ chỉ số lành mạnh tài

chính của IMF và bộ chỉ số an toàn vĩ mô của ECB và ADB gợi ý cho các quốc

gia mặc dù có phạm vi đo lường rủi ro khác nhau, nhưng cũng có những lựa chọn

chỉ tiêu tương đồng nhau trên một số khía cạnh.

Đối với hướng tiếp cận vi mô

a) Bộ chỉ số lành mạnh tài chính của IMF (Financial Soundness

Indicators-FSIs)

Năm 1999, IMF đã lần đầu tiền giới thiệu bộ chỉ số an toàn vĩ mô (MPIs)

40

đánh giá tương đối toàn diện mức độ ổn định hệ thống tài chính, tuy nhiên bộ chỉ

số này khá cồng kềnh với rất nhiều các bộ chỉ tiêu nhỏ bên trong. Tháng 6/2001,

IMF đã giới thiệu bộ chỉ số lành mạnh tài chính (Financial Soundness Indicators-

FSIs) trên cơ sở rút gọn và phát triển bộ chỉ số MPIs. “FSIs là các chỉ số được

thiết kế nhằm theo dõi sức khỏe và độ lành mạnh của các tổ chức tài chính và thị

trường tài chính, và các đối tác bao gồm các doanh nghiệp và hộ gia đình. FSIs

bao gồm thông tin tổng hợp về tổ chức tài chính và các chỉ số đại diện cho thị

trường nơi các tổ chức tài chính hoạt động.” (Sudarajajan và cộng sự, 2002). Sau

những lần biên soạn và điều chỉnh vào năm 2003 và gần đây nhất là năm 2013,

IMF đã công bố Hướng dẫn bộ chỉ số FSIs chuẩn với 52 chỉ tiêu, được chia thành

2 nhóm chính:

- Bộ chỉ số cơ bản: bao gồm 17 chỉ tiêu, trong đó tập trung vào đo lường

mức độ ổn định của hệ thống ngân hàng (16/17 chỉ tiêu) bởi đây là thành phần

quan trọng nhất trong hệ thống tài chính. IMF gợi ý rằng các chỉ số cơ bản này nên

được sử dụng bởi tất cả các quốc gia nhằm kiểm soát rủi ro hệ thống trong khu vực

tài chính.

- Bộ chỉ số bổ sung (Bộ chỉ số khuyến khích): bao gồm 35 chỉ tiêu, trong đó

đo lường thêm một số khía cạnh khác của hệ thống ngân hàng và khu vực doanh

nghiệp, thị trường bất động sản, các tổ chức tài chính phi ngân hàng và thị trường

bất động sản. (Phụ lục 1).

41

Bảng 1.5. Các chỉ số lành mạnh tài chính cơ bản của IMF

BỘ CHỈ SỐ CƠ BẢN

Mã FSI Áp dụng với các Tổ chức nhận tiền gửi

Vốn tự có/ TSCRR quy đổi I01

Vốn tự có cấp 1/ TSCRR quy đổi I02

Vốn cổ phần cấp 1/ TSCRR quy đổi (Tỷ lệ thanh khoản) I03

Vốn/ Tổng tài sản I04

(Nợ xấu – Dự phòng)/ Vốn I05

Nợ xấu/ Tổng dư nợ I06

I07 (Mới) Dự phòng/ Nợ xấu

Phân bổ dư nợ theo ngành/ Tổng dư nợ I08

Lợi nhuận/ Tổng tài sản I09

Lợi nhuận/ Vốn chủ sở hữu I10

Thu nhập ròng từ lãi/ Lợi nhuận gộp I11

Chi phí phi lãi/ Lợi nhuận gộp I12

Tài sản thanh khoản/ Tổng tài sản I13

Tài sản thanh khoản/ Nợ ngắn hạn I14

I15 (Mới) Vốn ổn định sẵn có/ Vốn ổn định cần có (Tỷ lệ vốn ổn định

ròng)

Trạng thái ngoại hối/ Vốn I16

Áp dụng cho Thị trường bất động sản

Giá nhà ở (% thay đổi trong 12 tháng) I17

Nguồn: IMF (2013)

Trên cơ sở đo lường các rủi ro vi mô tổng hợp mà cá nhân từng tổ chức tài

chính (chủ yếu là ngân hàng) phải đối mặt bao gồm: rủi ro tín dụng, thanh khoản,

lãi suất, ngoại hối…, bộ chỉ số FSIs lựa chọn các chỉ số cơ bản dựa trên các

phương diện của mô hình CAMELS:

42

(1) Các chỉ số an toàn vốn: Sự đầy đủ và sẵn sàng về vốn là tiêu chí đầu

tiên sẽ quyết định sự ổn định của tổ chức tài chính và cũng như khả năng chịu

đựng những cú sốc bên ngoài liên quan đến rủi ro ngoại hối, tín dụng và rủi ro lãi

suất – bao gồm cả những rủi ro ngoài bảng cân đối như công cụ phái sinh. Với 4

chỉ tiêu liên quan đến tỷ lệ an toàn vốn, cơ quan điều hành sẽ có được những

thông tin tổng quát đầu tiên về sự lành mạnh của tổ chức tài chính.

(2) Các chỉ số chất lượng tài sản: Các chỉ tiêu này chủ yếu là phản ánh chất

lượng tín dụng của tổ chức cho vay chứ không đề cập đến tình hình tài chính hay

khả năng sinh lời của chủ thể đi vay. Tỷ lệ nợ xấu tỷ lệ quan trọng cho biết chất

lượng danh mục cho vay của ngân hàng, bên cạnh đó góp phần phản ánh chất

lượng các dòng tiền, thu nhập ròng, và tính thanh khoản của ngân hàng. Chỉ tiêu

Dự phòng/ Nợ xấu là chỉ tiêu mới được bổ sung, tỷ lệ này gia tăng thể hiện năng

lực xử lý các khoản nợ của ngân hàng gia tăng. Ngoài ra, tỷ lệ phân bổ theo ngành

cho biết mức độ tập trung tín dụng của ngân hàng. Nếu tỷ trọng cho vay bất động

sản cho mục đích thương mại và nhà ở gia tăng, sẽ dẫn đến nguy cơ rủi ro cho hệ

thống tài chính bởi đây là lĩnh vực rất nhạy cảm, dễ rơi vào tình trạng phát triển

bùng nổ và vỡ bong bóng.

(3) Các chỉ số khả năng sinh lời: Việc tăng nhanh hoặc giảm nhanh các chỉ

số thu nhập và sinh lời này đều là dấu hiệu không tốt với tổ chức tài chính nói

riêng và hệ thống tài chính nói chung. Sự suy giảm các chỉ số này đồng nghĩa với

việc các tổ chức hoạt động không hiệu quả, có thể trong khâu quản lý chi phí hoặc

chiến lược đầu tư. Ngược lại, sự gia tăng bất thường của chỉ số thu nhập lại có thể

là dấu hiệu của việc chấp nhận rủi ro quá mức. Tỷ lệ ROA là chỉ số được sử dụng

phổ biến nhất trong việc đo lường khả năng sinh lời và tỷ lệ ROE phản ánh mức

thu nhập trung bình nhà đầu tư nhận được khi bỏ vốn vào ngân hàng. Tuy nhiên,

chỉ số này cần được lý giải một cách thận trọng, vì tỷ lệ này ở mức cao có nghĩa là

43

mức sinh lời cao và cũng có nghĩa là vốn hóa thấp. Ngược lại, tỷ lệ này ở mức

thấp có nghĩa là mức sinh lời thấp và vốn hóa cao.

(4) Các chỉ số thanh khoản: Các chỉ số thanh khoản có thể được sử dụng để

đánh giá bất cân xứng kỳ hạn của các tổ chức tài chính lớn hoặc của khu vực tài

chính. Bên cạnh các tỷ lệ tài sản thanh khoản/ Tổng tài sản hoặc Nợ ngắn hạn, tỷ

lệ vốn ổn định ròng có là tỷ lệ mới, cho biết khả năng đáp ứng thanh khoản của

ngân hàng ở mức cao hay thấp và lượng vốn cần chuẩn bị là bao nhiêu.

(5) Các chỉ số nhạy cảm với rủi ro thị trường: chủ yếu quan tâm đến rủi ro

ngoại hối mà ngân hàng phải đối mặt khi có những thay đổi trong tỷ giá hay cán

cân vãng lai.

Bộ chỉ số cơ bản cũng chỉ dành một chỉ tiêu cho thị trường bất động sản

bởi mối quan hệ mật thiết giữa những thay đổi trong giá nhà ở với tăng trưởng tín

dụng của hệ thống ngân hàng. Sự gia tăng của hai chỉ số này là một trong những

dấu hiệu của rủi ro hệ thống.

Các chỉ số phản ánh những rủi ro liên quan đến hoạt động ngân hàng ngầm

hay khu vực doanh nghiệp, hộ gia đình và thị trường bất động sản được đưa vào

bộ chỉ số bổ sung. Việc có tính toán chỉ số này hay không tùy thuộc vào từng quốc

gia bởi đối với hầu hết các quốc gia, nguy cơ cho rủi ro hệ thống vẫn đến chủ yếu

từ hệ thống ngân hàng, các số liệu về khu vực ngân hàng ngầm hay doanh nghiệp,

hộ gia đình cũng không dễ dàng để cập nhật chính xác và đầy đủ.

b) Bộ chỉ số an toàn vĩ mô của ECB (Macro Prudential Indicators-MPIs)

Năm 1999, Ngân hàng trung ương Châu Âu ECB cùng với các ngân hàng

trung ương thành viên thực hiện dự án thiết lập các chỉ số an toàn vĩ mô (MPIs) để

đo lường ổn định tài chính, trong đó tập trung đánh giá những thay đổi trong điều

kiện tài chính của khu vực ngân hàng. Tương tự như bộ chỉ số của IMF, bộ chỉ số

của ECB cũng thực hiện đo lường rủi ro vi mô của khu vực ngân hàng trên các

khía cạnh tương tự như mô hình CAMELS, nhưng chi tiết hơn, và quan tâm đến

những nguy cơ rủi ro bên trong và bên ngoài bảng cân đối (Mörttinen và cộng sự,

2005). Theo quan điểm của ECB, hệ thống ngân hàng phải thường xuyên đối mặt

44

nguy cơ từ những cú sốc bên ngoài hoặc do sự đổ vỡ của một tổ chức lan truyền ra

hệ thống dẫn đến những rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro thanh khoản và rủi

ro hoạt động… Việc đánh giá sự lành mạnh của hệ thống ngân hàng sẽ thông qua

các chỉ tiêu về đệm vốn và các chỉ tiêu thị thường.

Nguy cơ rủi ro và đổ vỡ

Đánh giá tấm đệm phòng ngừa rủi ro của ngân hàng trước môi trường bên ngoài

Đánh giá rủi ro và nguy cơ bên trong

trường tài chính

Đánh giá các đệm vốn hiện tại:  Khả năng sinh lời  Mức độ đầy đủ vốn  Khả năng thanh khoản

Điều kiện của khu vực ngân hàng

 Rủi ro hoạt động và pháp lý  Rủi ro thanh khoản  Rủi ro cơ sở hạ tầng  Rủi ro lây lan

 Rủi ro tín dụng  Rủi ro liên quan đến thị Đánh giá nguy cơ bên ngoài:  Kinh tế chung  Thị trường tài chính

Đánh giá sức khỏe hệ thống ngân hàng thông qua các chỉ tiêu thị trường

Hình 1.7. Đánh giá năng lực khu vực ngân hàng trước những nguy cơ

Nguồn: Mörttinen và cộng sự (2005)

Bộ chỉ số bao gồm hơn 150 chỉ tiêu sẽ cung cấp thông tin định lượng giúp

cơ quan điều hành đánh giá được mức độ rủi ro của ngân hàng (Phụ lục 2).

- Nhóm nhân tố bên trong: đo lường nguy cơ rủi ro của hệ thống ngân hàng.

(1) Các chỉ số khả năng sinh lời, chất lượng bảng cân đối và an toàn vốn

Chỉ số sinh lời: Những chỉ số chủ chốt phản ánh khả năng sinh lời của ngân

hàng là tỷ lệ lợi nhuận/ vốn chủ sở hữu (ROE) và tỷ lệ lợi nhuận/ tổng tài sản

(ROA). Những chỉ số này giúp phản ánh năng lực và hiệu quả hoạt động của ngân

45

hàng, tuy nhiên, hai chỉ số này không chứa đựng thông tin về mức độ rủi ro trong

các hoạt động tạo thu nhập của ngân hàng. Các chỉ số về cấu trúc thu nhập và chi

phí, tốc độ tăng trưởng thu nhập và chi phí cho biết khả năng sinh lời của ngân

hàng có lành mạnh hay không.

Chỉ số an toàn vốn: bao gồm các tỷ lệ vốn/ tài sản đo lường tấm đệm chịu

đựng rủi ro của ngân hàng. Tỷ lệ an toàn vốn cấp 1 là chỉ số an toàn vốn theo quy

định của cơ quan điều hành và cũng là chỉ tiêu quan trọng bởi cho biết thông tin

về vốn chất lượng cao, có khả năng hấp thụ các thua lỗ tốt nhất.

Chỉ số bảng cân đối: bao gồm các chỉ tiêu đo lường quy mô, cơ cấu của tài

sản và nợ và cả các khoản mục ngoại bảng. Các chỉ tiêu trong bảng cân đối cũng

cho biết những vấn đề thanh khoản về mặt cấu trúc mà ngân hàng phải đối mặt. Ví

dụ, các tỷ lệ tài sản thanh khoản cho biết lượng vốn sẵn sàng đáp ứng nhu cầu rút

tiền, trong khi các chỉ số bên nguồn vốn cho biết sự phụ thuộc vào các nguồn vốn

nhất định.

Chỉ số chất lượng tài sản: chỉ tiêu nợ xấu và tài sản nghi ngờ/ tổng cho vay

hoặc vốn chủ sở hữu phản ánh khá tốt về chất lượng các khoản tín dụng. Tỷ lệ bao

phủ nợ xấu (Dự phòng/ Nợ xấu) cho biết năng lực hệ thống ngân hàng trong việc

chuẩn bị cho những thua lỗ có thể xảy ra.

(2) Các chỉ số cung và cầu: bao gồm các chỉ số phán ánh chênh lệch lãi

giữa hoạt động huy động và tín dụng đầu tư, chênh lệch lãi cho các khoản cho vay

mới… thể hiện điều kiện cạnh tranh của khu vực ngân hàng.

(3) Các chỉ số tập trung rủi ro: chủ yếu phản ánh rủi ro tập trung tín dụng

và rủi ro thanh khoản. Một số chỉ tiêu phản ánh nguy cơ rủi ro tập trung khi đầu tư

vào trái phiếu, cổ phiếu, tín dụng ngoại tệ đối với một số khu vực/ quốc gia.

(4) Các chỉ số đánh giá rủi ro thị trường: đo lường sự thay đổi của lãi suất

trái phiếu, giá cổ phiếu, CDS. Những thay đổi lớn của các biến số này theo hướng

tăng hoặc giảm đều phán ánh nguy cơ rủi ro cho ngân hàng.

- Nhóm nhân tố bên ngoài:

46

(5) Các chỉ số đổ vỡ tài chính: chủ yếu đánh giá cơ cấu vay mượn của

doanh nghiệp và hộ gia đình, và các thông tin thị trường về khả năng vỡ nợ của

các ngành/ lĩnh vực kinh tế.

(6) Các chỉ số phát triển giá tài sản: phán ánh giá chứng khoán tại một số

thị trường quan trọng và giá bất động sản.

(7) Các chỉ số điều kiện tiền tệ và chu kỳ kinh tế: cung cấp thông tin chung

về điều kiện kinh tế vĩ mô: tăng trưởng, lạm phát, tỷ giá, lãi suất, thất nghiệp.

- Nhóm nhân tố lan truyền

(8) Các chỉ số thị trường liên ngân hàng: mối quan hệ chặt chẽ giữa các

ngân hàng được thể hiện thông qua giá trị và tần suất giao dịch trên thị trường liên

ngân hàng. Các ngân hàng có mối quan hệ càng chặt chẽ, kết hợp với mức độ tập

trung trong hệ thống ngân hàng càng cao thì nguy cơ rủi ro lan truyền, bất ổn cho

hệ thống ngân hàng và hệ thống tài chính càng lớn.

Điểm chung của hai bộ chỉ số của IMF và ECB là tập trung vào các chỉ số

an toàn vi mô, đo lường mức độ lành mạnh hoặc nguy cơ rủi ro của lĩnh vực ngân

hàng trên các khía cạnh giống như mô hình CAMELS và điểm khác biệt chính là:

- Bộ chỉ số của IMF là gợi ý chung cho các quốc gia với các điều kiện, nền

tảng kinh tế-tài chính khác nhau, nên bộ chỉ số này ngắn gọn hơn và có những chỉ

số tương tự như yêu cầu trong hiệp định vốn Basel.

- Bộ chỉ số của ECB được áp dụng cho các quốc gia có hệ thống tài chính

phát triển, chủ yếu là cho các quốc gia ở khu vực châu Âu, nên bộ chỉ số này cồng

kềnh hơn, các chỉ số đánh giá rủi ro hệ thống ngân hàng chi tiết hơn khi xem xét

đến những nguy cơ bên trong (cả trong và ngoài bảng cân đối) và bên ngoài có thể

ảnh hưởng đến ngân hàng

Đối với hướng tiếp cận vĩ mô

c) Bộ chỉ số an toàn vĩ mô của ADB (Macroprudential Indicators-MPIs)

Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) thông qua dự án hỗ trợ về kỹ thuật

(RETA 5869), cùng với sự hỗ trợ của IMF, BIS, NHTW Đức, Nhật, Hàn Quốc,

47

Tổng cục thống kê Úc và Ủy ban Kinh tế xã hội khu vực châu Á Thái bình Dương

(UNESCAP) thực hiện việc phát triển một hệ thống các chỉ số MPI chung cho một

số các quốc gia thành viên đang phát triển, với mcụ tiêu: (i) xác định và biên soạn

một bộ chỉ số lành mạnh tài chính có thể được sử dụng để giám sát thị trường tài

sản và tài chính; (ii) tăng cường sức mạnh thể chế cho NHTW các quốc gia được

lựa chọn trong việc thiết lập và phân tích các chỉ số có liên quan đến giám sát

khủng hoảng và (iii) tạo điều kiện so sánh sự đổ vỡ tài chính và kinh tế giữa các

quốc gia (Bhattacharyay, 2003). Bộ chỉ số của ADB bao gồm 67 chỉ số an toàn vĩ

mô chung và 43 chỉ số an toàn vĩ mô bổ sung (Phụ lục 3) được chia thành các

nhóm sau:

(1) Nợ nước ngoài và các dòng vốn đầu tư (8 chỉ số): đánh giá cơ cấu nợ và

các dòng vốn vào quốc gia.

(2) Tiền tệ và tín dụng (17 chỉ số): đánh giá các điều kiện về tiền tệ (tăng

trưởng, cơ cấu mức cung tiền) và tín dụng (tăng trưởng, cơ cấu tín dụng)… Sự gia

tăng của mức cung tiền là dấu hiệu cảnh bảo nguy cơ rủi ro cho ổn định tài chính

bởi dư thừa tiền trong nền kinh tế gây nên lạm phát hoặc đầu tư quá mức, nội tệ

tăng giá thực, giảm lợi thế trong xuất khẩu, đẩy nền kinh tế rơi vào tình trạng suy

yếu, dễ tổn thương trước những cú sốc. Bùng nổ tín dụng đi kèm với tăng trưởng

cung tiền không chỉ ảnh hưởng đến tỷ giá mà còn làm suy giảm chất lượng tín

dụng và đây cũng là chỉ tiêu tiêu chỉ báo cho khủng hoảng ngân hàng. (Davis

(1999), Evans và cộng sự (2000)).

(3) Ngân hàng (14 chỉ số): chủ yếu phản ánh cơ cấu và chất lượng tài sản

(tín dụng) của ngân hàng. Bên cạnh chỉ tiêu về nợ xấu, tỷ trọng cho vay bất động

sản của ngân hàng cũng là một chỉ số đáng quan tâm bởi sự tập trung cho vay vào

lĩnh vực này dễ dẫn đến chu kỳ bùng nổ và vỡ bong bóng. (Bhattacharyay và

Nerb, 2002).

(4) Lãi suất (12 chỉ số): bao gồm các mức lãi suất chính sách, lãi suất thị

trường, lãi suất trái phiếu. Lãi suất trên thị trường tiền tệ/ thị trường liên ngân

48

hàng là chỉ số quan trọng bởi sự gia tăng của mức lãi suất này là dấu hiệu của căng

thẳng thanh khoản trong khu vực ngân hàng. Ngoài ra, gia tăng lãi suất còn làm

trầm trọng thêm tình trạng lựa chọn đối nghịch trong thị trường tài chính.

(Mishkin, 1997).

(5) Thị trường cổ phiếu (9 chỉ số): chủ yếu phản ánh mức độ ổn định của

thị trường cổ phiếu thông qua các chỉ tiêu biến động giá chứng khoán, khối lượng

giao dịch và giá trị giao dịch. Sự phát triển của thị trường chứng khoán là dấu hiệu

cho những thay đổi trong nhận thức của nhà đầu tư. Sự giảm giá chứng khoán kết

hợp với giảm giá trị vốn hóa thị trường (% GDP) là dấu hiệu mạnh mẽ của căng

thẳng trong thị trường vốn, và sớm hay muộn thì bất ổn sẽ lan truyền đến khu vực

kinh tế thực.

(6) Thương mại, tỷ giá và dự trữ ngoại hối (10 chỉ số): đánh giá những bất

ổn của khu vực bên ngoài thông qua các chỉ tiêu về xuất nhập khẩu, cán cân thanh

toán, biến động tỷ giá và dự trữ ngoại hối. Nếu đồng tiền lên giá thực mà không đi

kèm với lợi ích năng suất lao động tương ứng thì chứng tỏ là lợi thế cạnh tranh

thương mại bị suy yếu, gia tăng tổn thương cho nền kinh tế.

(7) Dữ liệu khảo sát doanh nghiệp (9 chỉ số): chủ yếu là doanh nghiệp sản

xuất, ngoài ra còn các lĩnh vực xây dựng, thương mại bán buôn và bán lẻ. Những

dữ liệu của khu vực doanh nghiệp là một chỉ báo tốt cho nền kinh tế thực cũng

như cho khu vực tài chính bởi các chỉ số này phản ánh những đánh giá về tiềm

năng lợi nhuận và tầm nhìn của nhà quản trị doanh nghiệp.

Khác với các bộ chỉ số được gợi ý bởi IMF hay ECB, bộ chỉ số MPIs của

ADB không tập trung chủ yếu vào lĩnh vực ngân hàng, mà theo hướng tiếp cận vĩ

mô, xem xét đánh giá mức độ lành mạnh của nhiều lĩnh vực trong tổng thể nền

kinh tế, và ngân hàng chỉ là một trong các lĩnh vực được xem xét đến. Ngoài ra,

bộ chỉ số này cũng là sự gợi ý cho các quốc gia trong khu vực châu Á trong việc

đo lường ổn định tài chính. Sự phát triển hệ thống các chỉ số MPIs của ADB và

các chỉ số MPIs bổ sung cho các quốc gia đặc thù trong khu vực Châu Á – Thái

49

Bình Dương sẽ tạo điều kiện để giám sát đổ vỡ tài chính và kinh tế của từng quốc

gia cũng như so sánh các quốc gia với nhau.

Bảng 1.6. So sánh sự khác biệt giữa các bộ chỉ số đo lường ổn định tài chính

của các tổ chức IMF, ECB và ADB.

ECB

Phân loại Số lượng chỉ số 179 chỉ số MPIs ADB 110 chỉ số MPIs

Phân bổ các lĩnh vực

IMF - 53 chỉ số MPIs phiên bản 1999. - 39 chỉ số FSIs phiên bản 2006 - 52 chỉ số FSIs phiên bản 2013 - Đánh giá chung nhất về an toàn hệ thống tài chính, trong đó tập trung chủ yếu vào hệ thống ngân hàng. Tập trung chủ yếu vào hệ thống ngân hàng (145 chỉ số) và những nội dung liên quan chủ yếu đến ngành ngân hàng (31 chỉ số).

Mục đích chính

Mục tiêu đánh giá chính xác nhất rủi ro đối với lĩnh vực ngân hàng.

- Đánh giá tương đối đồng đều các lĩnh vực của nền kinh tế vĩ mô. - Không đánh giá đến tài chính khu vực hộ gia đình và thị bất trường động sản. Thu thập đầy đủ số liệu để có bức tranh tổng thể và chi tiết về nền kinh tế vĩ mô.

Phương pháp đánh giá

Thu tương thập đối đầy đủ số liệu để có bức tranh tổng thể về ổn định tài chính kinh tế vĩ mô. Đưa ra cách đánh giá chung nhất về an toàn tài chính vĩ mô với một số chỉ tiêu cần thiết nhất.

Đối tượng sử dụng Từng quốc gia Cung cấp phương pháp giá đánh tương đối chi tiết cho các quốc gia ở châu Á dựa trên đặc điểm riêng của hệ thống tài chính khu vực. Từng quốc gia riêng lẻ riêng lẻ Cung cấp phương pháp đánh giá chi tiết, cụ thể đối với các quốc gia có hệ thống tài chính phát triển ở mức cao và tương đối đồng đều. Tổng thể các quốc gia ở khu vực Euro.

Nguồn: Trần Trung Lưu và Nguyễn Trung Hậu (2014) và bổ sung của tác giả

Về cơ bản, sự khác biệt giữa các chỉ số trong bộ chỉ số đo lường ổn định tài

chính (FSIs hay MPIs) do các tổ chức quốc tế đưa ra xuất phát từ đặc thù và kỳ

50

vọng của mỗi tổ chức. Nếu như IMF kỳ vọng đưa ra bộ chỉ số chung, áp dụng cho

tất cả các quốc gia thì ECB và ADB lại đưa ra bộ chỉ số dựa trên đặc điểm riêng

của khu vực. Vì thế, có thể nhận thấy bộ chỉ số FSIs (MPIs) của IMF chủ yếu tập

trung phản ánh tổng quan hệ thống tài chính (và kinh tế vĩ mô), trong khi bộ chỉ số

MPIs của ECB chủ yếu tập trung vào hệ thống ngân hàng, và bộ chỉ số MPIs của

ADB thì bao quát nền kinh tế vĩ mô. Có sự khác biệt này là bởi mức độ phát triển

khác nhau giữa hệ thống tài chính và nền kinh tế giữa các khu vực Châu Âu và

Châu Á.

Bước 4: Thu thập số liệu và kiểm định tính phù hợp của chỉ số đại diện

rủi ro

Sau khi lựa chọn các chỉ số đại diện có khả năng phản ánh sự ổn định của

hệ thống tài chính theo khu vực và loại rủi ro, cơ quan điều hành cần thu thập số

liệu, tính toán các chỉ tiêu và kiểm định sự phù hợp của chỉ số trên một số khía

cạnh như sau:

- Các chỉ số nên có khả năng cảnh báo sớm, cung cấp những thông tin về

nguy cơ khủng hoảng, đổ vỡ tài chính. Vì vậy, trên phương diện thống kê, chỉ số

nên mang tính dẫn trước (leading) hoặc ít nhất có khả năng chỉ báo đồng thời

(coincident). Để thực hiện giám sát trong ngắn hạn cũng như đảm bảo tính cập

nhật, các chỉ số cần được tính toán theo tháng hoặc theo quý. (Bhattacharyay và

Nerb, 2002). Những phân tích xu hướng của chỉ số có thể giúp xác định tính dẫn

trước hay đồng thời, từ đó xác định những chỉ số phù hợp. (Bhattacharyay, 2003).

- Các chỉ số được chứng minh là có ý nghĩa và phù hợp trong các nghiên

cứu trước đó, phù hợp với thực tế lịch sử. Bên cạnh đó, có thể thực hiện khảo sát

lấy ý kiến chuyên gia hoặc thực hiện các phương pháp phân tích thống kê để kiểm

định sự phù hợp của chỉ số.

- Dữ liệu tính toán chỉ số cần được thu thập từ những nguồn đáng tin cậy và

với tần suất thời gian thống nhất. Những chỉ số không có đủ dữ liệu, hoặc không

có nguồn dữ liệu đáng tin cậy cần được thay thế bởi các chỉ số khác.

51

TÓM TẮT CHƯƠNG 1

Trong chương 1, luận án đã hệ thống hóa những lý luận chung về ổn định

tài chính trên một số khía cạnh: khái niệm, đặc điểm, cũng như nguyên nhân gây

mất ổn định cho hệ thống tài chính.

Trong phần 2 của chương 1, thông qua việc tìm hiểu các bộ chỉ số đo lường

ổn định hệ thống tài chính được gợi ý bởi các tổ chức quốc tế, nghiên cứu sinh

tổng kết được quy trình thiết lập bộ chỉ số với 4 bước cơ bản: (i) nhận diện các rủi

ro cho hệ thống tài chính; (ii) phân nhóm các rủi ro; (iii) xác định các chỉ số đại

diện cho các nhóm rủi ro; và (iv) thu thập số liệu và kiểm định tính phù hợp của

chỉ số đại diện rủi ro. Trong đó, tác giả tập trung phân tích cơ sở và ý nghĩa kinh

tế của các nhóm chỉ số trong ba bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính của

Quỹ tiền tệ (IMF), Ngân hàng trung ương châu Âu (ECB) và Ngân hàng phát triển

châu Á (ADB) và nhận thấy các bộ chỉ số này được xây dựng theo hai hướng

chính, căn cứ vào phạm vi và tính chất của rủi ro: (i) hướng tiếp cận vi mô của

IMF và ECB khi tập trung vào các chỉ tiêu đo lường khu vực quan trọng nhất của

hệ thống tài chính là hệ thống ngân hàng; (ii) hướng tiếp cận vĩ mô được thực hiện

thông qua bộ chỉ số của ABD khi xây dựng các chỉ số đo lường sự ổn định của cả

hệ thống tài chính cũng như các điều kiện kinh tế vĩ mô.

Đây là khung lý thuyết cơ bản và nền tảng giúp nghiên cứu sinh thực hiện

phần kinh nghiệm xây dựng bộ chỉ số tại một số quốc gia cũng như phân tích thực

trạng thiết lập và đo lường ổn định hệ thống tài chính tại Việt Nam trong các

chương tiếp theo.

52

CHƯƠNG 2: THIẾT LẬP BỘ CHỈ SỐ ĐO LƯỜNG ỔN ĐỊNH HỆ THỐNG

TÀI CHÍNH – KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM

2.1. Cơ sở lựa chọn quốc gia nghiên cứu Mặc dù các tổ chức quốc tế như IMF, ECB hay ADB đã lần lượt giới thiệu

các bộ chỉ số nhằm đo lường ổn định hệ thống tài chính, tuy nhiên, việc ứng dụng

các bộ chỉ số này tại các quốc gia là không giống nhau do sự khác biệt về điều

kiện về kinh tế, chính trị, cấu trúc tài chính… Trong chương này, tác giả tập trung

nghiên cứu kinh nghiệm đo lường cũng như thiết lập bộ chỉ số ổn định tài chính

tại 04 quốc gia là Anh, Trung Quốc, Hàn Quốc và Indonesia nhằm rút ra bài học

kinh nghiệm cho Việt Nam. Cơ sở lựa chọn các quốc gia nghiên cứu này xuất phát

từ một số lý do sau:

Một là, các quốc gia đại diện cho các cấp độ phát triển kinh tế khác nhau:

quốc gia công nghiệp phát triển (Anh), quốc gia công nghiệp mới (Trung Quốc,

Hàn Quốc), và quốc gia mới nổi (Indonesia). Bên cạnh đó, Anh là điển hình cho

hệ thống tài chính dựa vào thị trường còn Trung Quốc, Hàn Quốc và Indonesia là

các quốc gia có cấu trúc tài chính dựa vào ngân hàng. Thông qua việc nghiên cứu

về các quốc gia này, tác giả có thể khái quát được những khác biệt về kinh tế và

tài chính đặc thù ảnh hưởng như thế nào đến cách thức lựa chọn, xây dựng bộ chỉ

số đo lường ổn định hệ thống tài chính.

Hai là, Trung Quốc, Hàn Quốc và Indonesia đều là những nước trong khu

vực châu Á, có những đặc điểm về kinh tế và tài chính tương đồng với Việt Nam

như đều là các quốc gia đang phát triển, có tốc độ mở cửa và hội nhập nhanh

chóng với thế giới. Chính vì vậy, những cú sốc hay rủi ro từ môi trường vĩ mô bên

ngoài ảnh hưởng đến các quốc gia này cũng có tác động tương tự với Việt Nam.

Bên cạnh đó, 03 quốc gia này đều có hệ thống tài chính dựa vào ngân hàng, trong

đó, ngân hàng đóng vai trò trung tâm và cung ứng vốn chủ yếu cho doanh nghiệp

và nền kinh tế. Những nguy cơ rủi ro từ bên trong hệ thống, rủi ro từ khu vực ngân

hàng tại quốc gia này cũng có thể sẽ xảy ra đối với trường hợp Việt Nam. Việc

nghiên cứu kinh nghiệm từ các quốc gia này trong việc nhận diện rủi ro, xác định

các khu vực tiềm ẩn rủi ro, cũng như lựa chọn các chỉ tiêu đưa vào bộ chỉ số đo

53

lường ổn định hệ thống tài chính sẽ là những bài học ý nghĩa và thiết thực cho cơ

quan điều hành của Việt Nam.

2.2. Kinh nghiệm quốc tế về đo lường ổn định hệ thống tài chính

2.2.1. Kinh nghiệm của Anh

2.2.1.1. Đặc điểm hệ thống tài chính

Hệ thống tài chính Anh là hệ thống tài chính dựa vào thị trường, phát triển

ở cấp độ cao và có sự kết nối toàn cầu. Tại Anh, thị trường tài chính là kênh cung

ứng vốn chính cho các doanh nghiệp và nền kinh tế, và kênh truyền dẫn này lại

càng trở nên quan trọng hơn từ sau khủng hoảng 2008. Với một hệ thống tài chính

phát triển, các tổ chức tài chính phi ngân hàng ở Anh chiếm gần 50% tổng tài sản

hệ thống tài chính, và tăng hơn 13% so với thời điểm năm 2008. Sự tăng trưởng

mạnh mẽ của các tổ chức tài chính phi ngân hàng đã làm đa dạng hóa các kênh

dẫn truyền vốn cho nền kinh tế thực cũng như làm suy giảm lượng tín dụng ngân

hàng sau khủng hoảng. Tính đến cuối năm 2018, lượng vốn các doanh nghiệp huy

động qua thị trường tài chính (phát hành trái phiếu, cổ phiếu và hối phiếu) chiếm

¾ tổng nhu cầu vốn của doanh nghiệp.

Hình 2.1. Tỷ trọng cung ứng vốn cho các doanh nghiệp của thị trường tài chính Anh giai đoạn 2007-2018

Nguồn: Bank of England (2018), Financial Stability Report

Ghi chú: Tài chính dựa vào thị trường (Market-based finance) bao gồm giá trị của trái phiếu, cổ phiếu và hối phiếu.

54

Mặc dù thị trường tài chính chiếm ưu thế trong việc cung ứng vốn cho nền

kinh tế, hệ thống ngân hàng Anh cũng rất phát triển. Tổng tài sản của các ngân

hàng Anh tính đến năm 2017 gấp 3,9 lần GDP của quốc gia. Anh có bốn ngân

hàng và hai công ty bảo hiểm được xếp vào nhóm tổ chức quan trọng toàn cầu.

Theo báo cáo từ Ngân hàng trung ương Anh (BOE), Anh là một trung tâm tài

chính toàn cầu với khoảng 1/5 các giao dịch ngân hàng thế giới được thực hiện tại

Anh hoặc do các tổ chức tài chính Anh cung ứng. Bên cạnh đó, một nửa các tổ

chức tài chính lớn nhất thế giới đều đến từ Anh, bao gồm các ngân hàng, công ty

bảo hiểm, tổ chức quản lý tài sản, các quỹ phòng hộ, và hội sở các cơ quan Châu

Âu đều có trụ sở tại Anh.

Hình 2.2. Quy mô tổng tài sản hệ thống ngân hàng Anh/GDP (%) giai đoạn

500

459,9

431

450

394

393,3

400

371,5

359,5

350

300

250

200

150

100

50

0

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2012-2017

Nguồn: Statista

Hệ thống ngân hàng Anh có mức độ tập trung nhưng áp lực cạnh tranh

ngày càng có xu hướng gia tăng trong thời gian gần đây. Bảy ngân hàng lớn nhất

của Anh hiện nay chiếm hơn 75% tổng tài sản của hệ thống ngân hàng. Tỷ lệ này

thể hiện mức độ tập trung cao của hệ thống ngân hàng, so với các quốc gia khác

như Nhật (71%), Thụy Sĩ (71%) hay Mỹ (48%). Mặc dù có mức độ tập trung cao,

55

nhưng trong hệ thống vẫn tồn tại sự cạnh tranh giữa những ngân hàng với quy mô

nhỏ hơn, với mục tiêu giữ vững và tiến tới tăng thị phần trên thị trường bán lẻ.

Thị trường tài chính phát triển ở cấp độ cao, đa dạng và hoàn thiện. Anh

được coi là một trong những trung tâm tài chính lớn nhất thế giới, nơi tập trung rất

nhiều các giao dịch tài chính quốc tế. Sự phát triển của thị trường không chỉ thể

hiện ở số lượng các nhà đầu tư tham gia, số lượng các giao dịch, sự đa dạng các

loại hình giao dịch và giá trị thị trường. Mặc dù có sự giảm nhẹ vào năm 2018,

nhưng về cơ bản, thị trường cổ phiếu của Anh vẫn có giá trị vốn hóa ở mức cao,

trung bình trên 100% GDP.

Hình 2.3. Tỷ lệ vốn hóa thị trường cổ phiếu/ GDP (%) tại Anh giai đoạn

140

122,979

120,403

118,138

120

112,621

111,046

110,905

107,486 109,376

106,475

98,249

100

81,535

80

60

40

20

0

2008

2009

2010

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2008-2018

Nguồn: CEIC

Ghi chú: Giá trị vốn hóa thị trường chỉ tính đến giá trị cổ phiếu niêm yết của

doanh nghiệp nội địa.

Ngân hàng trung ương Anh (BOE) có tính độc lập cao, thực hiện giám sát

toàn bộ hệ thống tài chính. BOE là cơ quan hoạt động dưới khung điều hành được

thiết lập bởi Chính phủ nhưng có tính độc lập trong việc thiết lập mục tiêu cuối

cùng, mục tiêu hoạt động (mục tiêu lãi suất), và linh hoạt điều chỉnh các công cụ

56

chính sách tiền tệ nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra mà không chịu tác động từ các

yếu tố chính trị. Bên cạnh đó, BOE còn có quyền giám sát an toàn hệ thống tài

chính, ban hành các quy định cho hệ thống ngân hàng và các công ty bảo hiểm.

Anh có hệ thống giám sát hợp nhất, trong đó Ngân hàng trung ương Anh

chịu trách nhiệm giám sát toàn bộ hệ thống tài chính. Trước năm 2012, tại Anh

chưa có một tổ chức chuyên trách thực hiện nhiệm vụ ổn định tài chính, mà BOE

sẽ là cơ quan thực hiện mục tiêu đó bên cạnh các mục tiêu của chính sách tiền tệ.

Ngân hàng trung ương Anh (BOE)

Cơ quan quản lý an toàn (PRA)

Cơ quan thực thi tài chính (FCA)

Ủy ban chính sách tài chính (FPC)

Rủi ro hệ thống

- Công ty dịch vụ tài chính - Thị trường tài chính

- Ngân hàng - Tổ chức tiết kiệm - Quỹ tín dụng - Công ty bảo hiểm - Công ty đầu tư lớn

An toàn vĩ mô

An toàn vi mô

Hình 2.4. Cơ cấu tổ chức giám sát ổn định tài chính tại Anh

Nguồn: Tổng hợp của tác giả

Năm 2012, Luật Dịch vụ tài chính được chính thức ban hành đã tạo ra

những thay đổi căn bản trong việc thiết lập khung quản lý cho hệ thống tài chính

Anh, nhằm hướng tới mục tiêu ổn định tài chính. Hai cơ quan quản lý và thực thi

chính sách an toàn vi mô ra đời là Cơ quan quản lý an toàn (Prudential Regulation

Authority – PRA) và Cơ quan thực thi tài chính (Financial Conduct Authority -

FCA) như là hai tổ chức con nằm trong BOE. Trong đó, PRA chịu trách nhiệm

ban hành các quy định an toàn và giám sát các ngân hàng, tổ chức tiết kiệm, quỹ

57

tín dụng, công ty bảo hiểm và các công ty đầu tư lớn. FCA thực hiện quản lý hoạt

động của các cả công ty dịch vụ tài chính và thị trường tài chính Anh. Tháng 4

năm 2013, Luật mới đã thành lập Ủy ban chính sách tài chính (Financial Policy

Committee - FPC) tại Ngân hàng trung ương, trong đó nhiệm vụ chính của Ủy ban

là xác định, giám sát và thực hiện loại bỏ hoặc giảm thiểu rủi ro hệ thống trên

quan điểm bảo vệ và tăng cường sự ổn định của hệ thống tài chính Anh. Ngoài ra,

Ủy ban chính sách tài chính có mục tiêu thứ yếu là hỗ trợ chính sách kinh tế của

Chính phủ. Ủy ban bao gồm 13 thành viên, trong đó có 6 thành viên đến từ

NHTW với Thống đốc, 4 Phó Thống đốc và Giám đốc điều hành về ổn định tài

chính; 5 thành viên còn lại là các chuyên gia độc lập được lựa chọn từ bên ngoài

NHTW, dựa trên kinh nghiệm và chuyên môn của họ trong lĩnh vực dịch vụ tài chính. Hai thành viên còn lại của Ủy ban là Giám đốc điều hành của FCA và một

thành viên không bỏ phiếu đến từ Kho bạc. Ủy ban thường xuyên thực hiện công bố báo cáo sau mỗi cuộc họp chính sách chính thức, đồng thời chịu trách nhiệm xuất bản Báo cáo ổn định tài chính cho NHTW mỗi năm 2 lần.

Ủy ban chính sách tài chính có mục tiêu đảm bảo sự ổn định cho hệ thống tài chính Anh trước hàng loạt những rủi ro mà hệ thống này phải đối mặt. Để làm

được điều này, PFC phải thường xuyên đánh giá tổng thể các rủi ro cho môi trường kinh tế trong nước có ở mức tiêu chuẩn hay không, thể hiện thông qua việc các chỉ số ổn định tài chính biến động ở mức vừa phải, không có sự thay đổi đột biến. Tuy nhiên, ngay cả trong điều kiện được cho là bình thường, thì trong hệ thống tài chính vẫn tiềm ẩn những nguy cơ rủi ro như: sự tăng trưởng nhanh chóng của tín dụng tiêu dùng, điều kiện cho vay thế chấp được nới lỏng hơn hay khi ngân hàng thể hiện sự tin tưởng và lạc quan vào kết quả cho vay trong điều kiện thuận lợi thời gian gần đây.

2.2.1.2. Đo lường ổn định hệ thống tài chính

a) Nhận diện rủi ro hệ thống tài chính Anh

Tùy thuộc đặc điểm kinh tế, mỗi hệ thống tài chính phải đối mặt với những

nguy cơ rủi ro khác nhau. Ở Anh, rủi ro hệ thống chủ yếu đến từ 4 lĩnh vực: rủi ro

từ thị trường cho vay thế chấp BĐS, tín dụng tiêu dùng, rủi ro từ môi trường kinh

doanh toàn cầu, sự thay đổi giá tài sản (lãi suất dài hạn), trong đó đánh giá và hạn

chế rủi ro từ thị trường cho vay thế chấp và thị trường cho vay tiêu dùng là mối

quan tâm hàng đầu của các cơ quan quản lý tại Anh.

58

Rủi ro từ thị trường cho vay thế chấp: Tại Anh, khoản tín dụng thế chấp là

khoản nợ lớn nhất của các hộ gia đình, đồng thời cũng là loại hình cho vay rủi ro

lớn nhất của các tổ chức tài chính. Mối quan tâm của PFC là những rủi ro ảnh

hưởng đến sự an toàn của cả người đi vay và người cho vay xuất phát từ mức nợ

cao của các hộ gia đình.

Hình 2.5. Lịch sử vay mượn của hộ gia đình tại Anh

Nguồn: Bank of England (2018), Financial Stability Report

Để tránh những rủi ro xuất phát từ thị trường cho vay thế chấp, từ tháng

6/2014, FPC đã ban hành một gói chính sách được thiết kế nhằm ngăn ngừa sự gia

tăng các cá nhân, hộ gia đình có mức nợ cần cao, và tránh việc các tổ chức nới

lỏng tiêu chuẩn bảo lãnh, bao gồm: (i) hạn chế tỷ lệ cho vay thế chấp với các đối

tượng cho tỷ lệ nợ/ thu nhập (Loan to income –LTI) ở mức cao; (ii) ban hành tiêu

chuẩn tối thiếu yêu cầu các tổ chức tài chính phải kiểm tra khả năng trả nợ của người đi

vay trước khi cấp tín dụng.

Rủi ro từ tín dụng tiêu dùng: Cho vay tiêu dùng tại Anh đã gia tăng nhanh

chóng trong những năm trở lại đây. Từ tháng 4/2016-4/2017, tín dụng tiêu dùng đã

gia tăng 10,3%; trong khi thu nhập hộ gia đình lại có xu hướng giảm.

59

Hình 2.6. Tốc độ tăng trưởng tín dụng tiêu dùng tại Anh

Nguồn: Bank of England (2018), Financial Stability Report

Nguyên nhân dẫn đến sự gia tăng nhanh chóng trong nhu cầu vay tiêu dùng

tại Anh là do những thay đổi về công nghệ (mua sắm trực tuyến, các loại thẻ…),

đã khuyến khích cá nhân sử dụng thẻ tín dụng nhiều hơn để mua sắm. Thêm vào

đó, lãi suất cho các khoản vay cá nhân có xu hướng giảm từ năm 2013, khiến cho

chênh lệch lãi suất của ngân hàng bị thu hẹp hơn. Các tổ chức tài chính kéo dài

thời gian miễn lãi cho khách hàng, tạo động lực cho khách hàng sử dụng thẻ tín

dụng nhiều hơn. Tính đến thời điểm 2016, tỷ lệ thua lỗ trong hoạt động cho vay

tiêu dùng đang ở mức thấp (10%) so với con số 70% của cho vay thế chấp nhưng

những thua lỗ trong tín dụng tiêu dùng sẽ cao hơn nhiều so với cho vay thế chấp.

Thực tế trong vòng 10 năm trở lại đây, tỷ lệ các khoản vay tín dụng tiêu dùng các

ngân hàng phải loại bỏ khỏi bảng cân đối cao gấp 10 lần so với các khoản vay thế

chấp. (Bank of England, 2016).

b) Bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính Anh

Như vậy, Ủy ban chính sách tài chính FPC nhận diện thị trường cho vay thế

chấp và cho vay tiêu dùng là hai nguy cơ rủi ro lớn nhất đối với hệ thống tài chính,

và đây là những rủi ro vi mô, xuất phát từ khu vực ngân hàng và thị trường bất

động sản. Chính vì vậy, PFC quyết định sử dụng các công cụ để điều chỉnh, can

thiệp vào hai khu vực chính yếu này.

60

Ủy ban chính sách tài chính PFC

Tỷ lệ đệm vốn phản chu kỳ CCyB

Tỷ lệ đệm vốn theo lĩnh vực SCRs

Công cụ điều chỉnh BĐS

BỘ CHỈ SỐ: - Độ căng BCĐ tổ chức cho vay và người đi vay - Điều kiện và kì hạn thị trường

BỘ CHỈ SỐ: - Độ căng BCĐ phi ngân hàng - Độ căng BCĐ ngân hàng - Điều kiện và kỳ hạn thị trường

BỘ CHỈ SỐ: - Độ căng BCĐ phi ngân hàng - Điều kiện và kỳ hạn tị trường - Độ căng BCĐ ngân hàng

Các tổ chức tài chính (Ngân hàng)

Người đi vay (Cá nhân, doanh nghiệp)

Hình 2.7. Các công cụ và chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính Anh

Nguồn: Tổng hợp của tác giả

Ba công cụ chủ yếu được FPC sử dụng để đảm bảo ổn định hệ thống tài

chính, bao gồm:

- Tỷ lệ đệm vốn phản chu kỳ (Countercyclical capital buffer-CCyB): là mức

tỷ lệ vốn yêu cầu tăng thêm (tính bằng tỷ lệ % RWA – tài sản có rủi ro điều chỉnh)

được áp dụng cho các tổ chức tài chính, chủ yếu là hệ thống ngân hàng. Tại Anh,

CCyB được áp dụng cho những tổ chức tài chính có nguy cơ rủi ro bao gồm các

ngân hàng, tổ chức tiết kiệm và các công ty đầu tư lớn có liên kết với Anh. Trong

giai đoạn gia tăng rủi ro, FPC sẽ tăng tỷ lệ đệm vốn phản chu kỳ, các ngân hàng bị

yêu cầu bổ sung thêm đệm vốn để tăng khả năng hấp thụ những thua lỗ tiềm tàng,

đảm bảo sự ổn định cho các ngân hàng cũng như duy trì các dịch vụ trung gian tài

chính cung cấp cho khách hàng. Ngược lại, trong điều kiện những nguy cơ rủi ro

61

đã suy giảm, hoặc trong điều kiện tín dụng yếu kém, lượng vốn của ngân hàng

được đánh giá là đủ khả năng hấp thụ những thua lỗ trong tương lai, thì CcyB sẽ

được điều chỉnh giảm xuống. Việc thay đổi này sẽ giúp tăng cường nguồn cung tín

dụng cho hộ gia đình và doanh nghiệp. Thông thường, FPC sẽ điều chỉnh tỷ lệ

CcyB hàng quý và giới hạn tối đa cho tỷ lệ này là 2,5% RWA.

- Tỷ lệ đệm vốn theo lĩnh vực (Sectoral capital requirement-SCRs): là mức

tỷ lệ vốn yêu cầu tăng thêm so với mức tiêu chuẩn được áp dụng đối với những

khu vực cụ thể được đánh giá có khả năng đối mặt với rủi ro có ảnh hưởng đến

toàn bộ hệ thống. Thông thường, FPC có thể điều chỉnh tỷ lệ này đối với các ngân

hàng có nguy cơ rủi ro với ba lĩnh vực lớn: bất động sản nhà ở, bao gồm các

khoản cho vay thế chấp; bất động sản thương mại; và các lĩnh vực tài chính khác;

cũng như với các lĩnh vực hẹp hơn như các khoản cho vay thế chấp có tỷ lệ cho

vay/ TSĐB hoặc cho vay/ thu nhập ở mức cao. Ví dụ như, nếu FPC thấy rằng cho

vay bất động sản thương mại gây ra nguy cơ cho ổn định tài chính thì FPC có thể

tăng tỷ lệ đệm vốn theo lĩnh vực SCRs đối với các khoản cho vay này. Điều đó có

nghĩa là các ngân hàng phải thực hiện dự trữ vốn nhiều hơn để phòng ngừa rủi ro.

Cũng giống như CCyB, công cụ này cũng được áp dụng với tất cả các ngân hàng

thương mại, tổ chức tiết kiệm và các công ty đầu tư lớn. Tuy nhiên, khác với

CCyB, công cụ này tập trung vào phòng ngừa rủi ro cụ thể, tạo động lực cho ngân

hàng giảm thiểu rủi ro liên quan đến lĩnh vực cụ thể. Công cụ này thường được sử

dụng theo hai cách:

 Thay đổi tỷ lệ SCRs áp dụng cho loại tổ chức tài chính cụ thể.

 Thay đổi tỷ lệ SCRs đối với hoạt động tài chính cụ thể.

- Các công cụ điều chỉnh thị trường bất động sản.

Các chỉ số đo lường mức độ ổn định tài chính cũng được FPC tính toán và

chia thành các nhóm dựa trên các công cụ này, và gọi là bộ chỉ số Đệm vốn phản

chu kỳ, bộ chỉ số Đệm vốn theo lĩnh vực và bộ chỉ số công cụ nhà ở. Các chỉ số

này rất hiệu quả trong việc định hình quan điểm của FPC và giúp Ủy ban giải

thích các quyết định của mình một cách công khai với thị trường. Việc sử dụng

riêng lẻ một bộ chỉ số sẽ là không đủ để đánh giá rủi ro hệ thống, chính vì vậy,

62

trước khi đưa ra quyết định, FPC sẽ căn cứ vào cả ba bộ chỉ số này. Thông

thường, FPC sẽ thay đổi đồng thời cả tỷ lệ đệm vốn phản chu kỳ và tỷ lệ đệm vốn

theo lĩnh vực nên các bộ chỉ số cho hai công cụ này phải được cập nhật thường

xuyên, làm cơ sở cho FPC ra quyết định cũng như tăng cường cơ chế dự báo.

Bộ chỉ số cơ bản Đệm vốn phản chu kỳ (CCyB)

Trước khi ra quyết định điều chỉnh tỷ lệ đệm vốn phản chu kỳ, Ủy ban

chính sách tài chính FPC sẽ căn cứ vào một bộ các chỉ số cơ bản, bao gồm 18 chỉ

số, được chia thành 3 nhóm: đo lường độ căng bảng cân đối phi ngân hàng, đo

lường điều kiện và kỳ hạn thị trường, và đo lường độ căng bảng cân đối ngân

hàng. (Phụ lục 5a).

(i) Nhóm thứ nhất thực hiện đo lường độ căng bảng cân đối phi ngân hàng,

trong đó ghi nhận mức đòn bẩy trong nền kinh tế ở quy mô lớn và đặc biệt là trong

khu vực tư nhân phi tài chính (hộ gia đình và doanh nghiệp). Nhóm này bao gồm

rất nhiều các chỉ số đo lường tình trạng vay mượn của hộ gia đình và doanh

nghiệp, và vì thế, đo lường mức độ tổn thương của khu vực này trước những cú

sốc tiêu cực. Trong quá khứ, việc mở rộng tín dụng nhanh chóng, kéo theo đó là

tình trạng nợ nần ở mức cao của khu vực tư nhân thường sẽ dẫn đến khủng hoảng

tài chính. Trong nhóm này, FPC thực hiện đo lường tốc độ tăng trưởng tín dụng,

tỷ lệ tín dụng/GDP và chênh lệch giữa tỷ lệ này với xu hướng tín dụng/GDP

trong dài hạn.

Chênh lệch tín dụng/GDP là một chỉ số khá quan trọng, và cũng là một

trong những cơ sở để FPC ra quyết định. Chênh lệch tín dụng/GDP được tính toán

từ 3 nguồn số liệu: tín dụng hộ gia đình, tín dụng doanh nghiệp (phi tài chính) và

giá trị GDP danh nghĩa theo công thức:

Tỷ lệ tín dụng/ GDP = (Tín dụng hộ gia đình + Tín dụng doanh nghiệp phi tài

chính)/ GDP danh nghĩa.

63

Hình 2.8. Tỷ lệ đệm vốn phản chu kỳ và chênh lệch tỷ lệ tín dụng/GDP tại Anh

Credit to GDP gap

Buffer guide

Percentage points

25

20

15

10

5

+ -

0

5

10

15

20

25

30

1966

1976

1986

1996

2006

2016

giai đoạn 1966-2016

Nguồn: Bank of England

Nếu chênh lệch tỷ lệ tín dụng/GDP1 ở dưới mức 2% thì tỷ lệ đệm vốn

ngược chu kỳ sẽ giữ ở mức 0%, nhưng nếu chênh lệch tín dụng/GDP tăng trên 2%

thì tỷ lệ CCB sẽ tăng dần lên và chạm giá trị 2,5% nếu chênh lệch tỷ lệ tín dụng/

GDP từ 10% trở lên. Ưu điểm của chỉ số này là hồi tưởng chính xác các cuộc

khủng hoảng trong quá khứ, nhưng lại hạn chế trong việc dự báo những khủng

hoảng trong tương lai bởi độ chính xác của chỉ số này phụ thuộc vào cách tính khá

đơn giản của xu hướng dài hạn. Vì thế, đây sẽ là một chỉ báo thiếu chính xác cho

FPC khi cân nhắc giảm tỷ lệ CCyB bởi trong điều kiện suy giảm tím dụng thì chỉ

số này vẫn có xu hướng gia tăng ngay khi khởi đầu của cuộc khủng hoảng. Chính

1 Chênh lệch tỷ lệ tín dụng/ GDP (credit to GDP gap) là phần chênh lệch giữa tỷ lệ tín dụng/ GDP trên thực tế với xu hướng dài hạn của tỷ lệ này, trong đó, tỷ lệ dài hạn được tính dựa trên bộ lọc HP một bên với lambda bằng 400.000. Chuỗi số liệu chênh lệch này bắt đầu được tính tại Anh từ quý 4/1966.

vì vậy, bên cạnh chỉ số này, FPC vẫn phải tính toán thêm các chỉ số khác nữa liên

64

quan đến trạng thái ngoại bảng cân đối, bao gồm tài sản ngoại tệ ròng/GDP, nợ

nước ngoài/GDP và trạng thái cán cân vãng lai.

Liên quan đến rủi ro ngoại hối, FPC yêu cầu các ngân hàng nước ngoài

cũng như các ngân hàng nội địa Anh đều phải tuân thủ quy định về tỷ lệ đệm vốn

phản chu kỳ như nhau bởi các ngân hàng này đều gặp các rủi ro ngoại hối như

nhau khi cho vay nước ngoài. Ngược lại, các tổ chức tài chính Anh khi hoạt động

tại nước ngoài cũng phải tuân thủ tỷ lệ đệm vốn phản chu kỳ cho cơ quan điều

hành của quốc gia đó ban hành. Ngoài ra, BOE còn quy định tỷ lệ đệm vốn phản

chu kỳ yêu cầu các tổ chức tài chính (bao gồm các ngân hàng thương mại, quỹ tín

dụng, công ty đầu tư lớn) trong và ngoài nước hoạt động tại Anh phải duy trì để

phòng ngừa rủi ro ngoại hối khi cho vay nước ngoài.

Bảng 2.1. Tỷ lệ đệm vốn ngược chu kỳ cho các tổ chức tài chính Anh

Quốc gia Ngày áp dụng Ngày áp dụng Tỷ lệ CCB hiện tại Tỷ lệ CCB đang chờ thực hiện

Hong Kong 1,25% 1,875% 1/1/2018 1/1/2017

Thụy Điển 1,5% 30/6/2016 2% 31/12/2017

Thụy Sĩ 2% 19/3/2017

Cộng hòa Séc 0,5% 1/1/2017 1% 1/7/2018

Iceland 1% 1/3/2017 1,25% 1/11/2017

Slovakia 0,5% 1/8/2017 1,25% 1/8/2018

Nguồn: Bank of England

(ii) Nhóm thứ hai thực hiện đo lường điều kiện và kỳ hạn của thị trường,

bằng cách xác định thời hạn vay đối với các khoản cho vay mới và khẩu vị rủi ro

của nhà đầu tư trên thị trường. Các chỉ số trong nhóm này liên quan đến lãi suất

thực dài hạn và chênh lệch lãi suất ngân hàng áp dụng đối với các khoản cho

vay mới đối với hộ gia đình và doanh nghiệp. Khi lãi suất dài hạn trong quá khứ ở

mức thấp hoặc khi chênh lệch lãi suất là quá nhỏ, người đi vay có thể dễ bị tổn

thương trước những cú sốc tiêu cực, điều kiện thị trường bất lợi khiến họ khó có

thể tiếp tục thanh toán nợ. Nhóm này cũng bao gồm chỉ số chênh lệch lãi suất trên

65

thị trường trái phiếu doanh nghiệp toàn cầu và chỉ số biến động kỳ vọng nhà đầu

tư vào thị trường cổ phiếu. Về cơ bản, các chỉ số này cho biết khẩu vị rủi ro (mức

độ chấp nhận rủi ro) nói chung và mức độ không chắc chắn trong hệ thống tài

chính. Ví dụ, nếu chênh lệch lãi suất trên thị trường nợ toàn cầu trở nên nhỏ hơn

hoặc mức độ biến động kỳ vọng nhà đầu tư ít, điều này chứng tỏ rằng rủi ro đang

được định giá thấp, và nhà đầu tư đang tìm kiếm lợi nhuận.

(iii) Nhóm thứ ba thực hiện đo lường độ căng bảng cân đối ngân hàng,

trong đó ghi nhận mức đòn bẩy và chênh lệch kỳ hạn/ thanh khoản trong hệ

thống ngân hàng. Về cơ bản, các chỉ số này đo lường một cách đơn giản khả năng

hấp thụ thua lỗ của hệ thống ngân hàng trước những rủi ro. Nhóm này bao gồm

các chỉ số phản ánh khả năng hấp thụ tổn thất hiện tại của hệ thống ngân hàng như

tỷ lệ an toàn vốn, các tỷ lệ đòn bẩy; các chỉ số dựa trên thị trường như phí hoán

đổi rủi ro tín dụng đối với các khoản nợ dài hạn; các chỉ số phản ánh khả năng hấp

thụ tổn thất trong tương lai của hệ thống ngân hàng như tỷ lệ giá trên sổ sách, tỷ lệ

đòn bẩy dựa trên thị trường và lợi tức bình quân trên tài sản; các chỉ số đo lường

bất cân xứng kỳ hạn/ thanh khoản…

Bộ chỉ số cơ bản Đệm vốn theo lĩnh vực (SCRs)

Cũng giống như bộ chỉ số ở trên, bộ chỉ số này cũng được chia thành 3

nhóm tương tự, nhưng chỉ bao gồm 12 chỉ số. Thứ tự và cách tính các chỉ số được

mô tả trong Phụ lục 4b.

Đối với nhóm chỉ số đo lường độ căng bảng cân đối ngân hàng: hai chỉ số

tỷ lệ an toàn vốn và tỷ lệ đòn bẩy là rất quan trọng, bởi chúng là cơ sở giúp FPC

cân nhắc xem liệu có nên điều chỉnh tỷ lệ SCRs hay không. Về cơ bản, hai chỉ số

này có mối liên hệ chặt chẽ thông qua tỷ trọng rủi ro bình quân. Khi tỷ trọng rủi ro

bình quân của một lĩnh vực nào đó giảm xuống, có nghĩa là việc mở rộng bảng cân

đối theo lĩnh vực này là tương đối an toàn, nhưng nó cũng đồng nghĩa với việc có

thể có xu hướng đầu tư quá mức vào lĩnh vực này và kéo theo đó là những rủi ro,

cần sự điều chỉnh tỷ lệ SCRs cho lĩnh vực đó. Trong đó, tỷ trọng rủi ro bình quân

của các khoản cho vay thế chấp là chỉ số mà PFC rất quan tâm.

66

Đối với nhóm chỉ số đo lường độ căng bảng cân đối phi ngân hàng: chỉ số

tăng trưởng tín dụng theo lĩnh vực/ ngành là chỉ số đầu tiên phải xem xét đến.

Lý do là bởi sự gia tăng tín dụng tập trung vào các lĩnh vực cụ thể thường kéo theo

những nguy cơ khủng hoảng. Lịch sử đã cho thấy, tại Anh, trước khủng hoảng,

hoạt động cho vay bất động sản thương mại vô cùng phát triển và sau đó là sự suy

yếu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngay trước giai đoạn căng thẳng tài chính.

Hay ví dụ như cuộc khủng hoảng tại Nhật những năm 90 cũng bắt đầu từ tăng

trưởng tín dụng quá nóng cho các lĩnh vực: tiêu dùng, bất động sản và doanh

nghiệp vừa và nhỏ; cuộc khủng hoảng tại Bắc Âu cuối những năm 80 cũng đi kèm

với bùng nổ tín dụng hộ gia đình và bất động sản thương mại. Chính vì thế, chỉ số

tăng trưởng tín dụng ngành được sử dụng như chỉ báo giúp FPC cân nhắc điều

chỉnh tăng SCRs trong những giai đoạn tăng trưởng nóng và giảm SCRs trong giai

đoạn thu hẹp tín dụng. Bên cạnh đó, các chỉ số khác như tỷ lệ nợ hộ gia đình/ thu

nhập, tỷ lệ nợ doanh nghiệp/ lợi nhuận… cũng là những dữ kiện bổ sung quan

trọng cho FPC.

Đối với nhóm chỉ số đo lường điều kiện và kỳ hạn thị trường: chỉ số đầu

tiên cần quan tâm trong nhóm này là giá bất động sản thương mại và nhà ở. Bởi

một trong những dấu hiệu trước khủng hoảng là tăng trưởng cho vay ngân hàng, đi

kèm với đó là sự phát triển mạnh mẽ của thị trường bất động sản. Kinh nghiệm từ

cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu cho thấy, giá bất động sản thường tăng chạm

đỉnh 1-2 năm trước khi xảy ra khủng hoảng.

Bộ chỉ số cơ bản công cụ nhà ở

Để giảm thiểu những rủi ro trên thị trường bất động sản, FPC chủ yếu sử

dụng hai công cụ là tỷ lệ cho vay trên giá trị tài sản đảm bảo (Loan to value-LTV)

và tỷ lệ vay trên thu nhập (Debt to income-DTI), trong đó bao gồm các tỷ lệ thanh

toán lãi (Interest coverage ratio-ICRs) áp dụng đối với cho vay mua nhà để cho

thuê. Trong đó:

67

 LTV là tỷ lệ giá trị cho vay thế chấp trên giá trị tài sản đảm bảo. Công cụ

này được áp dụng cho các khoản vay mua nhà để ở, thường được sử dụng trong

những giai đoạn tăng trưởng cho vay thế chấp nóng (năm 1986 và 2006)

 DTI là tỷ lệ dư nợ của người đi vay trên thu nhập hàng năm của người đó.

Công cụ này được áp dụng đối với các khoản vay mua nhà để cho thuê, được đi vào

thực thi năm 2004.

 ICRs là tỷ lệ thu nhập dự kiến từ việc cho thuê nhà trên lãi suất dự kiến

phải trả cho khoản vay thế chấp mua nhà để cho thuê tính cho một khoảng thời gian

nhất định (thường là một tháng). Đây là công cụ mới nhất, được áp dụng năm 2011

và nhằm vào các khoản vay mua nhà để cho thuê.

Về cơ bản, không có một bộ chỉ số riêng lẻ nào có thể cung cấp một hướng

dẫn hoàn chỉnh cho cơ quan điều hành kiểm soát rủi ro hệ thống bắt nguồn từ thị

trường bất động sản. Việc tính toán bộ chỉ số chỉ là một phần trong quá trình đánh

giá, phán đoán về tình hình rủi ro hệ thống của FPC, chứ không phải là căn cứ duy

nhất để FPC ra quyết định. Tuy nhiên, FPC vẫn thiết lập một bộ chỉ số cơ bản giúp

xác định giới hạn LTV và DTI bao gồm 9 chỉ số, chia thành 2 nhóm (Phụ lục 5c)

(i) Nhóm đo lường độ căng bảng cân đối của tổ chức cho vay và hộ gia

đình: Chỉ số đầu tiên-tỷ lệ LTV và LTIs đối với khoản cho vay thế chấp mới, về

bản chất là chỉ số đánh giá rủi ro cho vay thế chấp và từ đó, làm cơ sở xác định

giới hạn LTV và DTI. Ủy ban FPC sẽ dựa trên biểu đồ phân phối giá trị của hai tỷ

lệ này, so sánh với giá trị trung bình và trung vị để xác định xem liệu có những rủi

ro bất ổn tài chính nào không. Ngoài ra, chỉ số tốc độ tăng trưởng tín dụng hộ gia

đình cũng rất quan trọng trong việc chỉ báo khủng hoảng, điều này xuất phát từ

mối quan hệ giữa giá nhà và tăng trưởng tín dụng. Thông thường, nhà sẽ được sử

dụng như nguồn tài sản thế chấp chính, vì thế, khi giá nhà tăng sẽ thúc đẩy tăng

trưởng tín dụng. Nguồn tín dụng đổ vào thị trường nhà ở, khiến giá nhà lại tiếp tục

tăng lên, tạo nên áp lực bất ổn tài chính. Chính vì vậy, khi tốc độ tăng trưởng cao

hơn so với tốc độ tăng giá trị nhà, đó là lúc cần sử dụng đến các công cụ điều tiết

thị trường nhà ở.

68

(ii) Nhóm đo lường điều kiện và kỳ hạn trên thị trường: Thông qua các chỉ

số này, FPC sẽ theo sát những hoạt động, những thay đổi trên thị trường bất động

sản nhà ở, và có những điều chỉnh kịp thời. Về cơ bản, việc xem xét các chỉ số này

không chỉ giúp FPC nắm bắt được thực trạng hoạt động thị trường bất động sản,

mà các chỉ số này còn được sử dụng như chỉ báo về sự cần thiết phải điều chỉnh

các công cụ nhà ở trước khi khủng hoảng tài chỉnh toàn cầu xảy ra. Dựa trên dữ

liệu quá khứ, FPC thấy rằng trước khủng hoảng, một vài các chỉ số có sự thay đổi

rất đáng báo động:

- Tốc độ gia tăng tín dụng nhanh chóng và vay mượn hộ gia đình ở mức cao

- Tỷ lệ giá nhà/ thu nhập khả dụng cao kỷ lục

- Chênh lệch lãi suất cho vay thế chấp với mức cơ bản thấp kỷ lục.

Để đánh giá liệu có khả năng xảy ra khủng hoảng nhà đất hay không thì cần

nhiều hơn những phân tích định lượng và các thông tin khác, tuy nhiên, các chỉ số

ở trên cũng được coi như những chỉ số cơ bản đầu tiên cần được xem xét đến.

Như vậy, một số bài học kinh nghiệm về đo lường ổn định tài chính tại Anh

được rút ra là:

- Mô hình giám sát hợp nhất, chính phủ Anh thành lập Ủy ban chính sách

tài chính (FPC) nằm trong NHTW với sự tham gia của nhiều cơ quan khác, cùng

phụ trách việc xác định, đo lường rủi ro hệ thống.

- Rủi ro hệ thống chính yếu đến từ là hệ thống ngân hàng và thị trường bất

động sản. Đây là hai khu vực có nguy cơ rủi ro lớn nhất và có ảnh hưởng lớn nhất

đến hệ thống tài chính. Các công cụ thực thi được FPC thiết kế và sử dụng cũng

nhằm tác động vào hai khu vực này.

- Anh thực hiện đo lường ổn định tài chính theo hướng tiếp cận dựa vào

các công cụ điều hành. FPC tại Anh không đo lường điều kiện tài chính dựa theo

các chỉ số FSIs của IMF mà có bộ chỉ số riêng. Lý do là bộ chỉ số của IMF là gợi ý

chung cho các quốc gia, bao gồm các nước áp dụng Basel I, II và cả những quốc

gia không áp dụng theo chuẩn mực Basel. Chính vì vậy, trong bộ chỉ số của IMF

có rất nhiều các chỉ số tương tự như yêu cầu của chuẩn mực Basel. Trong khi đó,

các tổ chức tín dụng tại Anh hiện đang áp dụng theo chuẩn mục Basel III, và vì

thế, họ không sử dụng bộ chỉ số lành mạnh tài chính FSIs của IMF mà tự thiết kế

69

các chỉ số đo lường riêng dựa trên loại rủi ro và loại công cụ điều chỉnh. Điều này

có nghĩa là nhà điều hành đã xác định rõ được những rủi ro hệ thống đến từ đâu,

và công cụ chủ yếu mình sẽ sử dụng. Bộ chỉ số sẽ được xây dựng dựa trên các rủi

ro và công cụ, được tính toán theo định kỳ để làm cơ sở cho FPC điều chỉnh công

cụ cũng như giải trình các quyết định của mình trước công chúng.

2.2.2. Kinh nghiệm của Trung Quốc

2.2.2.1. Đặc điểm hệ thống tài chính

Trung Quốc có hệ thống tài chính dựa vào ngân hàng với sự tăng trưởng

mạnh mẽ cả về quy mô và độ phức tạp. Theo IMF (2017), tổng tài sản của hệ

thống tài chính đã tăng từ 263% GDP năm 2011 lên đến 467% GDP năm 2016.

Trong đó, hệ thống ngân hàng chiếm tỷ trọng chủ yếu với hơn 310% GDP trong

năm 2016. Các tổ chức tài chính phi ngân hàng như công ty bảo hiểm hay các

công ty quản lý đầu tư cũng có sự phát triển nhanh chóng trong giai đoạn gần đây.

Hình 2.9. Tốc độ tăng trưởng tài sản của hệ thống ngân hàng

Đơn vị: nghìn tỷ nhân dân tệ

Nguồn: IMF (2017)

Hệ thống ngân hàng có mức độ tập trung cao. Trong giai đoạn vừa qua, hệ

thống ngân hàng có mức độ phát triển nhanh chóng, đặc biệt là các ngân hàng

thương mại cổ phần, ngân hàng thương mại thành thị và nông thôn. Mặc dù vậy,

các NHTM Nhà nước, cụ thể là bốn ngân hàng lớn (Ngân hàng thương mại và

70

công nghiệp Trung Hoa, Ngân hàng xây dựng Trung Hoa, Ngân hàng Trung Hoa

và Ngân hàng nông nghiệp Trung Hoa) vẫn giữ vai trò chính yếu trong hệ thống

với giá trị tài sản chiếm 1/3 tổng tài sản hệ thống ngân hàng. Các ngân hàng này

có lợi thế về quy mô, nguồn vốn tiền gửi ổn định và lãi suất thấp, chủ yếu thực

hiện cho vay với các doanh nghiệp nhà nước lớn. Các ngân hàng thương mại cổ

phần chủ yếu cho vay với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cho vay tín chấp, bảo

lãnh và chấp nhận hối phiếu. Các ngân hàng thương mại thành thị chủ yếu cho vay

với các doanh nghiệp nhà nước trong khu vực và tài trợ các dự án.

Thị trường tài chính có quy mô lớn nhưng thiếu ổn định, chưa thể hiện

được vai trò quan trọng trong dẫn truyền vốn cho các doanh nghiệp và nền kinh

tế. Thị trường trái phiếu của Trung Quốc là thị trường lớn thứ ba thế giới nhưng

mới chỉ cung ứng một lượng vốn tương đối nhỏ cho các khu vực doanh nghiệp tư

nhân. Thị trường chứng khoán dù ngày càng gia tăng về quy mô và thị trường lớn

thứ hai sau Mỹ, nhưng thường xuyên biến động. Các nhà đầu tư trên thị trường

chủ yếu là nhà đầu tư bán lẻ, các quỹ đầu tư dù có tốc độ tăng trưởng nhanh chóng

nhưng vẫn được đánh giá là chưa phát triển, các quỹ hưu trí cũng kém phát triển

so với tiềm năng mặc dù tỷ lệ tiết kiệm ở Trung Quốc là rất cao. (IMF, 2017).

140

126,153

120

100

80

74,33

71,74

70,04

66,17

65,73

60

57,53

46,48

41,62

45,18 43,33 41,26

40

38,72

20

17,58

0

2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018

Hình 2.10. Giá trị vốn hóa thị trường chứng khoán Trung Quốc (% GDP)

Nguồn: Cơ sở dữ liệu của World Bank

71

Ngân hàng nhân dân Trung Hoa (PBC – People’s Bank of China) và Ủy

ban giám sát chứng khoán (CSRC – China Securities Regulatory Commission) là

hai cơ quan chính thực hiện giám sát hoạt động của hệ thống tài chính. Trong đó,

NHTW thực hiện giám sát hoạt động của các ngân hàng Ủy ban giám sát chứng

khoán thực hiện giám sát các hoạt động và các tổ chức trên thị trường tài chính

bao gồm: thị trường trái phiếu, cổ phiếu và phái sinh tương lai (tài chính và hàng

hóa). (IMF, 2018).

2.2.2.2. Đo lường ổn định hệ thống tài chính

a) Nhận diện rủi ro hệ thống

Tăng trưởng tín dụng nóng là nguy cơ rủi ro hệ thống chính của Trung

Quốc trong giai đoạn hiện nay. Tỷ lệ tín dụng/ GDP của Trung Quốc khoảng

25%, cao hơn so với xu hướng dài hạn, và cao hơn rất nhiều so với chuẩn quốc tế,

tăng khả năng đối mặt với khủng hoảng tài chính. Tín dụng cho các doanh nghiệp

khoảng 165% GDP và tín dụng hộ gia đình dù ở mức thấp nhưng đã tăng thêm

15% GDP trong khoảng 5 năm trở lại đây, kéo theo nguy cơ đầu cơ giá tài sản. Sự

tích tụ tín dụng trong các lĩnh vực truyền thống đi đôi với việc suy giảm tốc độ

tăng năng suất lao động và gây áp lực lên chất lượng tài sản. Tỷ lệ nợ xấu ở mức

thấp cũng khiến các NHTM đánh giá thấp nguy cơ rủi ro tín dụng và thực hiện các

hoạt động cho vay phi tiêu chuẩn, duy trì rủi ro ở ngoại bảng. Một vấn đề khác

nữa là trong khi các NHTM rất tích cực trong việc xóa sổ và xử lý các khoản vay

có vấn đề bằng cách bán cho công ty quản lý tài sản của Nhà nước thì hoạt động

tái cấu trúc các doanh nghiệp yếu kém lại chưa được quan tâm thực hiện.

Sự phát triển nhanh chóng của khu vực ngân hàng ngầm, nằm ngoài tầm

kiểm soát của NHTW, gây nguy cơ rủi ro cho hệ thống tài chính. Không giống

như các quốc gia, hoạt động ngân hàng ngầm tại Trung Quốc có quy mô lớn và

mang tính đặc thù riêng. Theo Ehlers và cộng sự (2018), các ngân hàng thương

mại – tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian tài chính chính thức nhưng đồng thời

cũng là trung tâm của hoạt động ngân hàng ngầm khi thực hiện: phát hành các

công cụ ngân hàng ngầm như các sản phẩm quản lý tài sản (wealth management

72

products – WMPs), cung cấp thanh khoản cho các tổ chức ngân hàng ngầm (công

ty tín thác), nắm giữ các công cụ ngân hàng ngầm như chứng quyền tín thác (trust

beneficiary rights – TBR) hoặc công cụ quản lý tài sản liên ngân hàng (interbank

WMPs). Hoạt động này ngày càng trở nên lớn mạnh hơn bởi nó đã cung cấp các

sản phẩm tiết kiệm và sản phẩm tín dụng cho các đối tượng đủ điều kiện tiếp cận

trực tiếp với các dịch vụ tín dụng của ngân hàng. Sự tham gia của các ngân hàng

trong hoạt động ngân hàng ngầm làm tăng mối liên kết giữa các tổ chức tài chính

ngân hàng và phi ngân hàng, đồng thời gia tăng mối liên kết với thị trường trái

phiếu Trung Quốc khi phần lớn lợi tức thu được từ các sản phẩm quản lý tài sản

WMPs lại được tái đầu tư trên thị trường trái phiếu. Quy mô của thị trường các

công cụ ngân hàng ngầm ngày càng mở rộng, tính đến cuối năm 2016, tổng giá trị

các công cụ này đạt 57,3 nghìn tỷ nhân dân tệ, chiếm 77,1% GDP. Tất cả các hoạt

động ngân hàng ngầm này đều không chịu sự quản lý, giám sát chặt chẽ từ cơ

quan quản lý, vì vậy các hoạt động này tiềm ẩn rủi ro rất lớn khi những người đi

vay không trả nợ.

Bảng 2.2. Quy mô các công cụ ngân hàng ngầm tại Trung Quốc năm 2016

Giá trị Quy mô Công cụ (nghìn tỷ NDT) (% GDP)

5,9

0,8

1. Công cụ quản lý tài sản có đảm bảo (WMPs

guaranteed)

23,1

31,1

2. Công cụ quản lý tài sản không có đảm bảo

(WMPs non-guaranteed)

20,2

27,2

3. Công cụ tín thác (trust products)

13,2

17,7

4. Cho vay ủy thác (entrusted loans)

0.8

1,1

5. Cho vay ngang hàng (P2P loans)

Tổng

57,3

77,1

Nguồn: Ehlers và cộng sự (2018)

b) Bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính Trung Quốc

Đối với hệ thống ngân hàng, NHTW đo lường sự lành mạnh của hệ thống

73

bằng các chỉ tiêu về sinh lời, tài sản, nợ, vốn và thanh khoản. Các chỉ tiêu này chủ

yếu đánh giá các rủi ro vi mô của từng ngân hàng, từng nhóm ngân hàng, trong đó

có những chỉ tiêu tương đồng như bộ chỉ số lành mạnh tài chính của IMF.

Bảng 2.3. Các chỉ tiêu đo lường lành mạnh hệ thống ngân hàng Trung Quốc

Chỉ tiêu

Cách tính

1. Chỉ số sinh lời

Tỷ

lệ

lợi

Lợi nhuận biên

Lợi nhuận sau thuế/ Thu nhập hoạt động

nhuận/ vốn

Lợi nhuận điều chỉnh rủi ro

Thu nhập hoạt động/ TSCRR quy đổi

chủ sở hữu

TSCRR quy đổi/ Tổng tài sản

Rủi ro hoạt động

(ROE)2

Tổng tài sản / Vốn chủ sở hữu

Tỷ lệ đòn bẩy

Dòng

thu

Thu nhập lãi ròng

nhập

Thu nhập phí ròng

Thu nhập từ đầu tư

Thu nhập từ kinh doanh khác

Thu nhập hoạt động ròng

Chi phí

Tỷ lệ chi phí hoạt động/ thu nhập

hoạt động

2. Chỉ số tài sản

Quy mô và cấu trúc của tổng tài

sản

Quy mô và chất lượng tín dụng

Tăng trưởng dư nợ tín dụng và tỷ lệ nợ xấu

Tỷ lệ bao phủ dự phòng

Dự phòng rủi ro tín dụng/ Dư nợ xấu

3. Nợ, vốn và thanh khoản

Quy mô và cấu trúc nợ

Vốn và hệ số an toàn vốn CAR

Tỷ lệ thanh khoản

Tài sản thanh khoản/ Nợ thanh khoản

Nguồn: PBC (2014)

Đối với thị trường tài chính, NHTW đánh giá mức độ lành mạnh thông qua

ợ ậ ế

ậ ạ độ

đổ

ổ à ả

2 ROE =

x

x

x

ậ ạ độ

đổ

ổ à ả

ố ủ ở ữ

các chỉ số căng thẳng của từng thị trường: thị trường tiền tệ, thị trường trái phiếu,

74

thị trường chỉ số tổng hợp Thượng Hải và thị trường ngoại hối.

Đối với hoạt động ngân hàng ngầm, một trong những nguy cơ rủi ro hệ

thống lớn cho Trung Quốc, việc đo lường quy mô hoạt động này để từ đó có

những biện pháp giám sát và điều chỉnh phù hợp cũng gặp một số vấn đề liên quan

đến: khái niệm hoặc cách phân loại hoạt động ngân hàng ngầm khác nhau dẫn đến

kết quả đo lường không giống nhau; và việc áp dụng phương pháp tổng hợp dễ

dẫn đến bị tính trùng lặp hoặc bị bỏ sót dữ liệu. Chính vì vậy, Sun (2019) đến từ

PBC đã đề xuất sử dụng phương pháp khấu trừ được giới thiệu bởi Sun và Jia

(2015) để đo lường hoạt động ngân hàng ngầm tại Trung Quốc. Theo phương

pháp này, hoạt động ngân hàng ngầm sẽ được tính bằng tổng nợ của hệ thống ngân

hàng trừ đi toàn bộ các tài sản chính thức (non shadow assets) bao gồm các tài sản

truyền thống như các khoản cho vay, ngoại tệ và trái phiếu doanh nghiệp.

Hình 2.11. Quy mô ngân hàng ngầm của Trung Quốc

Đơn vị: nghìn tỷ nhân dân tệ

Nguồn: Sun (2019)

c) Các bài kiểm tra sức chịu đựng rủi ro của hệ thống ngân hàng

Bên cạnh việc sử dụng các chỉ số để đo lường sức khỏe của hệ thống ngân

hàng và mức độ căng thẳng của các thị trường tài chính, PBC còn sử dụng các bài

kiểm tra sức chịu đựng rủi ro của hệ thống ngân hàng bởi đây là vẫn là khu vực

tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất của hệ thống tài chính.

75

- Các bài kiểm tra sức chịu đựng rủi ro tín dụng dựa trên kịch bản và mức

độ nhạy cảm.

- Kiểm tra sức chịu đựng rủi ro thị trường với hai loại rủi ro chính là rủi ro

lãi suất và rủi ro ngoại hối trên sổ ngân hàng và sổ kinh doanh.

- Kiểm tra sức chịu đựng rủi ro thanh khoản dựa trên các kịch bản với cả sổ

ngân hàng và sổ kinh doanh.

Như vậy, tại Trung Quốc, Ngân hàng trung ương cũng là cơ quan thực hiện

nhiệm vụ đo lường và thực thi ổn định tài chính. Với đặc điểm là hệ thống tài

chính dựa vào ngân hàng, PBC sử dụng bộ chỉ số theo hướng vi mô nhằm đánh

giá mức độ ổn định của khu vực ngân hàng kết hợp với các chỉ số căng thẳng để

đo lường mức độ rủi ro các thị trường tài chính. Việc sử dụng bộ chỉ số sẽ giúp

PBC nắm bắt được các rủi ro xảy đến với từng ngân hàng cũng như các nhóm

ngân hàng, vốn tiềm ẩn nguy cơ rủi ro lớn cho hệ thống tài chính.

2.2.3. Kinh nghiệm của Hàn Quốc

2.2.3.1. Đặc điểm hệ thống tài chính

Hệ thống tài chính Hàn Quốc là hệ thống tài chính dựa vào ngân hàng,

mặc dù tỷ trọng tài sản của nhóm tổ chức này có xu hướng giảm qua các năm.

Bảng 2.4. Cấu trúc tổ chức tài chính Hàn Quốc

Tổng tài sản

Tổ chức

Số lượng

57

2434

Tỷ won 1.954.283 1.425.768 528.515 581.234 457.174 14.468 49.392 60.200 1.521.331 164.907 588.459 767.965 4.056.848

Ngân hàng - Ngân hàng thương mại - Ngân hàng đặc biệt Tổ chức nhận tiền gửi phi ngân hàng - Tổ chức tín dụng hợp tác - Doanh nghiệp ngân hàng bán buôn - Ngân hàng tiết kiệm - Tiết kiệm bưu điện Các tổ chức tài chính khác - Công ty tín dụng đặc biệt - Tổ chức đầu tư tài chính - Công ty bảo hiểm Tổng tài sản Tỷ trọng tổ chức tài chính/ GDP

% 48,2 35,1 13,0 14,3 11,3 0,4 1,2 1,5 37,5 4,1 14,5 18,9 100 312% Nguồn: IMF (2015)

76

Quy mô thị trường tài chính Hàn quốc tăng đều qua các năm nhờ sự phát

triển của nền kinh tế do những chính sách mở cửa và tự do hóa dòng vốn một cách

hiệu quả của chính phủ. Tính đến cuối năm 2018, giá trị vốn hóa thị trường chứng

khoán đạt mốc 14,902 nghìn tỷ won, gấp khoảng 7 lần so với mức 2,6 nghìn tỷ

won năm 2010. Giá trị vốn hóa thị trường/ GDP đều ở mức 90% trong suốt giai

đoạn từ 2008 đến 2018.

120

109,14

97,989

100

91,721 91,313 89,857 92,35 91,971

88,214

86,142

84,573

80

56,416

60

40

20

0

2008

2009

2010

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

Giá trị vốn hóa TTCK/GDP (%)

Hình 2.12. Xu hướng phát triển thị trường tài chính Hàn Quốc

Nguồn: CEIC

Hàn Quốc có hệ thống giám sát hợp nhất, trong đó Ủy ban dịch vụ tài

chính (Financial Services Commission-FSC) là cơ quan giám sát duy nhất tích hợp

chức năng giám sát tài chính của Bộ tài chính và Ngân hàng trung ương Hàn

Quốc. Về cơ bản, FSC là cơ quan điều hành chung, ra chính sách, còn việc thực

thi giám sát sẽ được thực hiện bởi Cơ quan dịch vụ giám sát tài chính (Financial

Supervisory Service-FSS). Nhiệm vụ chính của FSS là kiểm tra, giám sát thận

trọng các tổ chức cung ứng dịch vụ tài chính thông qua việc tổ chức thường xuyên

các cuộc thanh tra toàn diện, giám sát từ xa để đánh giá tình hình tài chính, năng

lực quản trị rủi ro, kiểm soát nội bộ, năng lực quản lý và tuân thủ, chấp hành các

quy định, nguyên tắc được đưa ra. FSS đồng thời cũng giám sát thị trường vốn

theo hướng dẫn từ FSC, trên các phương diện: công bố thông tin, thị trường chứng

khoán, điều tra các vi phạm trên thị trường, hoạt động kế toán.

77

Ngân hàng trung ương Hàn Quốc chịu trách nhiệm thực thi mục tiêu ổn

định tài chính. Ngân hàng trung ương Hàn Quốc (Bank of Korea-BOK) thực hiện

theo đuổi mục tiêu ổn định tài chính theo Luật NHTW Hàn Quốc sửa đổi năm

2011. Nhiệm vụ cụ thể của BOK trong việc đảm bảo ổn định tài chính bao gồm:

- Giám sát hệ thống tài chính và đánh giá mức độ ổn định của hệ thống

- Phân tích tình hình quản lý và thực hiện các bài kiểm tra tổng hợp đối với

các tổ chức tài chính dựa trên sự phối hợp với cơ quan Dịch vụ thanh tra tài chính

(Financial Supervisory Service).

- Duy trì hoạt động và thanh tra hệ thống thanh toán.

- Hỗ trợ thanh khoản khẩn cấp.

- Phát hành Báo cáo ổn định tài chính: Trong đó bao gồm các thông tin liên

quan đến phân tích tình hình hiện tại và những rủi ro tiềm tàng cho hệ thống tài

chính cũng như kết quả đánh giá chung về mức độ ổn định của hệ thống. Mục đích

chính của việc xuất bản báo cáo này là để tăng cường sự ổn định cho hệ thống tài

chính, bằng cách thúc đẩy các chủ thể trong thị trường chủ động tham gia thảo

luận về những rủi ro có thể xảy đến cho khu vực tài chính trước những thay đổi

nhanh chóng và khó lường trong môi trường tài chính toàn cầu. BOK là NHTW

đầu tiên tại Châu Á phát hành báo cáo ổn định tài chính, bắt đầu từ năm 2003 và

vẫn đều đặn xuất bản báo cáo này 2 lần trong năm.

Để thực hiện mục tiêu mới này, BOK đã thành lập Vụ Phân tích an toàn vĩ

mô với nhiệm vụ xây dựng một khuôn khổ giám sát điều kiện an toàn vĩ mô. Các

cơ quan điều hành hy vọng có thể nhìn nhận một cách toàn diện về các điều kiện

kinh tế vĩ mô bằng cách xem xét các lỗ hổng, nguy cơ đổ vỡ cũng như khả năng

phục hồi của hệ thống sau những cú sốc. Cách tiếp cận này giúp cơ quan quản lý

định hướng điều hành chính sách an toàn vĩ mô, đặc biệt khi sử dụng các công cụ

cụ thể. Việc lựa chọn các công cụ điều hành của BOK hoàn toàn phụ thuộc vào

kết quả đánh giá điều kiện an toàn vĩ mô.

2.2.3.2. Đo lường ổn định hệ thống tài chính

a) Nhận diện rủi ro hệ thống tài chính Hàn Quốc

Với đặc điểm cấu trúc tài chính dựa vào ngân hàng, các nguy cơ rủi ro chủ

yếu cho hệ thống tài chính Hàn Quốc đến từ khu vực ngân hàng. Để đo lường các

78

nguy cơ rủi ro từ hoạt động ngân hàng, BOK đã áp dụng bộ chỉ số lành mạnh tài

chính FSIs của IMF cho hệ thống ngân hàng.

Tuy nhiên, với mức độ phát triển và mở cửa nền kinh tế, tự do hóa dòng

vốn nhanh chóng, hệ thống tài chính Hàn Quốc cũng phải đối mặt với những rủi ro

từ những cú sốc khu vực bên ngoài, khu vực doanh nghiệp, thị trường tài

chính… Chính vì vậy, bên cạnh việc áp dụng bộ chỉ số FSIs, BOK thực hiện xây

dựng một chỉ số ổn định tài chính riêng lẻ nhằm xác định nhanh mức độ ổn định

của hệ thống tài chính từ tháng 3/2007. Chỉ số riêng lẻ này có ưu điểm là phát hiện

nhanh những bất thường trong các lĩnh vực có nguy cơ rủi ro cao như thị trường

tài chính, thị trường bất động sản nhưng lại khá hạn chế trong việc đánh giá các

điều kiện ổn định tài chính tổng thể. Chính vì vậy, BOK luôn sử dụng song song

cả 2 phương thức: bộ chỉ số FSIs và chỉ số ổn định tài chính FSI.

b) Bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính Hàn Quốc

Theo hướng dẫn của IMF, Hàn Quốc thực hiện tính toán và công bố đều

đặn 35 chỉ số lành mạnh tài chính FSIs cho các nhóm tổ chức nhận tiền gửi, các tổ

chức tài chính khác, doanh nghiệp, hộ gia đình, thị trường chứng khoán và thị

trường bất động sản. Tuy nhiên, do thiếu số liệu cho việc tính toán nên Hàn Quốc

cũng loại trừ 5 chỉ tiêu ra khỏi danh mục báo cáo của mình: chênh lệch lãi suất

liên ngân hàng; tỷ lệ rủi ro ngoại tệ/ vốn của doanh nghiệp; tỷ lệ lợi nhuận/ lãi và

chi phí vốn; lãi và gốc/ thu nhập hộ gia đình; giá bất động sản thương mại.

Tại Hàn Quốc, có 5 tổ chức bao gồm FSS, BOK, Ủy ban đầu tư tài chính,

Suprreme Court và Ngân hàng Kookmin thực hiện chịu trách nhiệm tính toán 35

chỉ số FSIs. Sau đó, FSS sẽ tổng hợp các chỉ số này, xem xét điều chỉnh trước khi

gửi đến cho IMF. Hàn Quốc thực hiện tính toán 12 chỉ số cơ bản và 15 chỉ số bổ

sung theo các tiêu chí: an toàn vốn, chất lượng tài sản, khả năng sinh lời và tính

thanh khoản. Về cơ bản, các chỉ tiêu này tương tự như của chỉ số FSIs của IMF,

tuy nhiên, Hàn Quốc còn tính toán thêm một số chỉ tiêu khác nữa.

- An toàn vốn

Về cơ bản, kết quả các chỉ số tính theo tiêu chuẩn IMF và theo chuẩn nội

địa là tương đối trùng khớp. Một số chỉ tiêu như tỷ lệ vốn, kết quả theo chuẩn IMF

79

cao hơn một chút so với chuẩn nội địa bởi IMF có tính thêm phần tài sản vô hình

và theo báo cáo hợp nhất trong khi chuẩn nội địa lại không tính đến yếu tố đó.

Bảng 2.5. Chỉ số FSIs về đầy đủ vốn (%)

Theo tiêu chuẩn của IMF

Theo tiêu chuẩn nội địa

Nội địa

Tên chỉ số

Nội địa

Thuần nội địa

Chi nhánh ngân hàng nước ngoài

12,31

12,30

17,91

12,31

Tỉ lệ vốn BIS

8,84

8,76

11,75

8,84

Tỉ lệ vốn BIS cấp 1

6,30

6,33

3,20

6,26

Tỉ lệ vốn

Vốn tự có/ TSCRR quy đổi (chỉ số cơ bản) Vốn tự có cấp 1/ TSCRR quy đổi (chỉ số cơ bản) Vốn/ Tài sản (chỉ số bổ sung)

Nguồn: Financial Supervisory Service

- Chất lượng tài sản

Các tiêu chuẩn của IMF được gợi ý áp dụng cho các nước với các điều kiện khác nhau nên thường ít nghiêm ngặt hơn so với tiêu chuẩn của từng quốc gia, đặc biệt là các quốc gia phát triển vì thế tỷ lệ nợ xấu theo chuẩn IMF thấp hơn so với tỷ lệ nợ xấu theo chuẩn trong nước. Cụ thể, IMF sử dụng báo cáo hợp nhất bao gồm các khoản cho vay với công ty con, nên tỷ lệ nợ xấu sẽ thấp hơn so với chuẩn nội địa khi không tính đến các khoản cho vay này trong tổng dư nợ.

Bảng 2.6. Chỉ số FSIs về chất lượng tài sản (%)

Theo tiêu chuẩn của IMF

Theo tiêu chuẩn nội địa

Nội địa

Tên chỉ số

Nội địa

Thuần nội địa

Chi nhánh ngân hàng nước ngoài

3,17

3,31

0,79

-

-

0,57

0,58

0,26

0,86

Tỷ lệ NPL

76,62

79,49

41,60

70,91

Dự phòng rủi ro nợ xấu/ vốn (chỉ số cơ bản) Tỷ lệ nợ xấu (chỉ số cơ bản) Nguy cơ rủi ro lớn/ Vốn (chỉ số bổ sung)

Tỷ lệ nguy cơ RR lớn

Nguồn: Financial Supervisory Service

Các ngân hàng trong nước tại Hàn Quốc chủ yếu cho vay đối với doanh nghiệp và hộ gia đình. Đối với các khoản tín dụng doanh nghiệp, cho vay sản xuất, xây dựng và bất động sản chiếm tỷ trọng lớn nhất. Trong khi đó, đối với các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tỷ trọng cho vay đối với các tổ chức tài chính và cho

80

vay với người không cư trú lại chiếm chủ yếu, tỷ trọng cho vay xây dựng và bất động sản lại tương đối thấp.

Bảng 2.7. Tỷ lệ cho vay bất động sản (%)

Theo tiêu chuẩn của IMF

Nội địa

Thuần nội địa

Theo tiêu chuẩn nội địa

Chi nhánh ngân hàng nước ngoài

19,64

19,01

6,33

-

18,58

19,21

0,19

-

Tỷ lệ cho vay BĐS nhà ở/ tổng cho vay (chỉ số bổ sung) Tỷ lệ cho vay BĐS thương mại/ tổng cho vay (chỉ số bổ sung)

Nguồn: Financial Supervisory Service

- Khả năng sinh lời

Các chỉ số khả năng sinh lời theo tiêu chuẩn IMF sử dụng lợi nhuận trước

thuế nên thường cao hơn so với tiêu chuẩn nội địa. So với các ngân hàng nước

ngoài, thu nhập của các ngân hàng nội địa thuần phụ thuộc vào thu nhập thuần từ

lãi, chứng tỏ tín dụng là hoạt động sinh lời chủ yếu của các ngân hàng này. Các

hoạt động sinh lời từ đầu tư tài chính, cũng như các chỉ tiêu ROA, ROE cũng thấp

hơn so với chi nhánh ngân hàng nước ngoài.

Bảng 2.8. Chỉ số FSIs về thu nhập và khả năng sinh lời (%)

Theo tiêu chuẩn của IMF

Theo tiêu chuẩn nội địa

Nội địa Tên chỉ số

Nội địa

Thuần nội địa

0,67 9,91

0,63 9,10

Chi nhánh ngân hàng nước ngoài 1,25 33,56

0,47 7,08

ROA ROE

66,62

66,42

41,26

-

-

60,22

61,42

22,59

62,34

Tỷ lệ bù đắp chi phí

-

-

6,02

3,86

50,37

-

-

28,00

27,33

32,40

ROA (chỉ số cơ bản) ROE (chỉ số cơ bản) Chênh lệch lãi/ Thu nhập thuần (chỉ số cơ bản) Chi phí phi lãi/ Thu nhập thuần (chỉ số cơ bản) Thu nhập kinh doanh/ Tổng thu nhập (chỉ số bổ sung) Chi phí tiền lương/ Tổng chi phí phi lãi

Nguồn: Financial Supervisory Service

81

- Khả năng thanh khoản

Tỷ lệ thanh khoản theo tiêu chuẩn IMF là chỉ số riêng lẻ, được tính toán

cho 3 tháng, và không có sự phân biệt theo loại tiền, nội tệ hay ngoại tệ.

Bảng 2.9. Chỉ số FSIs về thanh khoản (%)

Theo tiêu chuẩn của IMF

Theo tiêu chuẩn nội địa

Chi nhánh

Nội

Thuần

Nội

ngân hàng

Tên chỉ số

địa

nội địa

địa

nước ngoài

Tài sản thanh khoản/ Tổng

32,27

32,26

45,11

-

-

tài sản (chỉ số cơ bản)

Tỷ lệ thanh khoản

102,98

nội tệ (3 tháng)

Tài sản thanh khoản/ Tài

101.37

96,79

100,65

sản ngắn hạn (chỉ số cơ bản)

Tỷ lệ thanh khoản

94,73

ngoại tệ (3 tháng)

Nguồn: Financial Supervisory Service

c) Chỉ số ổn định tài chính tổng hợp (financial stability index – FSI)

Chỉ số ổn định tài chính FSI là kết quả những nỗ lực của BOK trong việc

đánh giá sự ổn định của hệ thống tài chính cũng như đo lường rủi ro hệ thống. Chỉ

số này được xây dựng bằng cách kết hợp một loạt các chỉ số ổn định tài chính

khác nhau vào một chỉ số riêng lẻ, và có thể được sử dụng như một trong các biến

số đánh giá điều kiện vĩ mô tổng thể. Trước năm 2012, BOK lựa chọn 64 biến số,

bao phủ 6 lĩnh vực và tính toán chỉ số phụ cho từng khu vực này: chỉ số ổn định

ngân hàng, thị trường tài chính, khu vực kinh tế thực, khu vực bên ngoài, khu vực

doanh nghiệp và khu vực hộ gia đình. Các biến số này được lựa chọn dựa trên kết

quả khảo sát rộng rãi và phản hồi từ khảo sát chuyên sâu của các chuyên gia tài

chính và kinh tế. 64 biến số này bao gồm 35 chỉ số cơ bản và 29 chỉ số bổ sung,

phụ thuộc vào tầm quan trọng của các biến số này trong giám sát.

82

Hình 2.13. Chỉ số ổn định tài chính theo lĩnh vực và giai đoạn rủi ro.

Chú ý: Phần màu đỏ thể hiện “giai đoạn rủi ro” (chỉ số biến động nhiều hơn

độ lệch chuẩn)

Nguồn: Bank of Korea

Chỉ số FSI được tính toán dựa trên giá trị tiêu chuẩn của các quan sát đã

được thực hiện. Quá trình này cho phép so sánh/ đánh giá các điều kiện tài chính

trong các lĩnh vực khác nhau. Kết quả phân tích từ các nghiên cứu thí điểm cho

thấy FSI có thể nhận biết được bất ổn tài chính. Các chỉ số này đều ở mức cao

trong giai đoạn khủng hoảng trầm trọng và gia tăng nhanh chóng trong những thời

điểm xảy ra các sự kiện như cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1998, khủng

hoảng thẻ tín dụng nội địa năm 2003 và khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008.

Đây là ba sự kiện có ảnh hưởng đến tất cả các lĩnh vực của hệ thống tài chính, tuy

nhiên thời gian và mức độ tác động đến các lĩnh vực có khác nhau.

83

Hình 2.14. Chỉ số ổn định tài chính tổng hợp từ 6 lĩnh vực

Nguồn: Bank of Korea

Bắt đầu từ năm 2012, BOK đã phát triển chỉ số tổng hợp FSI bằng cách

tổng hợp rất nhiều các chỉ số ổn định tài chính thành một chỉ số duy nhất, và chỉ

số này được sử dụng để đánh giá nhanh điều kiện tài chính chung của Hàn Quốc.

Bên cạnh đó, chỉ số này cũng được coi là chỉ tiêu để kiểm tra tình trạng an toàn vĩ

mô để phát hiện những nguy cơ rủi ro hệ thống sớm do sự tích tụ mất cân bằng tài

chính. Quy trình thiết lập chỉ số ổn định tài chính duy nhất bao gồm 5 bước:

- Bước 1: Kiểm tra các chỉ tiêu ổn định tài chính phù hợp. BOK thực hiện

nghiên cứu kinh nghiệm của các quốc gia lớn trên thế giới trong việc đo lường ổn

định tài chính, trên cơ sở đó, lựa chọn một số chỉ tiêu ổn định tài chính phù hợp.

- Bước 2: Thực hiện khảo sát. Để đảm bảo tính chính xác và phù hợp của

các chỉ tiêu được lựa chọn, BOK thực hiện khảo sát, lấy ý kiến của các chuyên gia

về những bất ổn tài chính của Hàn Quốc trong lịch sử để xem liệu các chỉ số lựa

chọn có phù hợp với thực tế hay không.

- Bước 3: Lựa chọn các chỉ số. Trên cơ sở ý kiến khảo sát từ các chuyên

gia, BOK thực hiện chọn ra 20 chỉ tiêu, trong đó có cân nhắc đến thời gian của các

chỉ tiêu này. Các chỉ tiêu này cũng bao phủ 6 lĩnh vực: khu vực ngân hàng (tỷ lệ

nợ quá hạn…), thị trường tài chính bao gồm thị trường chứng khoán, thị trường

84

ngoại hối và thị trường trái phiếu (giá cổ phiếu, biến động tỷ giá, chênh lệch lãi

suất,…), khu vực bên ngoài bao gồm thanh toán và giao dịch ngoại hối (tài khoản

vãng lai, chỉ số hoán đổi rủi ro vỡ nợ CDS,..), khu vực nền kinh tế thực (tăng

trưởng kinh tế, tỷ lệ lạm phát,…), khu vực hộ gia đình và khu vực doanh nghiệp

(chỉ số khảo sát người tiêu dùng, chỉ số khảo sát doanh nghiệp, …).

- Bước 4: Tính toán tỷ trọng của các chỉ tiêu. BOK thực hiện xác định tỷ

trọng các biến số theo hai phương pháp: phương pháp bình quân phương sai cân

bằng (equal-variance weighted averaging) và phương pháp phân tích thành phần

chính (principal component analysis-PCA), và lựa chọn phương pháp phù hợp.

+ Phương pháp bình quân phương sai cân bằng

Bình quân gia quyền = (Giá trị đo được × w)

Trong đó: w = / ∑

SDi: độ lệch chuẩn của giá trị đo đượci

+ Phương pháp phân tích thành phần chính.

Bình quân gia quyền = (Giá trị đo được × w)

Trong đó: w = a/ ∑ a

ai: vector riêng của giá trị đo đượci

Từ kết quả hai phương pháp trên, BOK quyết định lựa chọn phương pháp trung bình phương sai cân bằng. Nguyên nhân được BOK lý giải là do phương pháp trung bình phương sai cân bằng cho ra lỗi loại I (type I Errors) thấp hơn phương pháp PCA. Lỗi loại I là sai số liên quan đến việc thất bại trong việc nhận

diện giai đoạn khủng hoảng. Lỗi loại II (type II Errors) là sai số liên quan đến việc

dự báo nhầm giai đoạn khủng hoảng.

Bảng 2.10. Lỗi loại I và loại II theo phương pháp bình quân (%)

Lỗi loại I Lỗi loại II

Phương pháp bình quân sai số cân bằng 10 23,5

Phương pháp phân tích thành phần chính 20 20,6

Nguồn: Bank of Korea

85

- Bước 5: Thiết lập chỉ số FSI. Các chỉ tiêu ổn định tài chính được lựa chọn

ở trên sẽ được chuyển đổi sang thước đo giá trị từ 0 đến 100 để tính FSI.

Hình 2.15. Chỉ số ổn định tài chính FSI giai đoạn 2008 – 11/2018

Nguồn: Bank of Korea

- Bước 6: Xác định giá trị ngưỡng cảnh báo khủng hoảng của chỉ số FSI

Với mục tiêu sử dụng chỉ số FSI để cảnh báo khủng hoảng, BOK sử dụng

khái ngưỡng tối ưu để chia tình trạng an toàn vĩ mô thành 3 giai đoạn: “ổn định”,

“cảnh báo” và “khủng hoảng”. Ngưỡng tối ưu cho mỗi giai đoạn được tính toán

dựa trên cách tiếp cận “tỷ lệ nhiễu/ tín hiệu” (noise-to-signal ratio) theo Borio và

Drehmann (2009). Phương pháp này tập trung vào việc giảm tối đa tỷ lệ dự báo

sai khủng hoảng (giá trị nhiễu, T2)/ dự báo đúng khủng hoảng (giá trị tín hiệu, 1-

T1) theo công thức như sau:

Min | (1 − T) ≥ X T 1 − T

Trong đó: T1: Lỗi loại I

T2: Lỗi loại II

X: tỷ lệ tối thiểu của khủng hoảng

T2/(1 – T1): tỷ lệ nhiễu/tín hiệu

 Nếu FSI nằm dưới mức 8 thì giai đoạn này được coi là ổn định.

86

 Nếu FSI nằm từ mức 8 – 22 thì đây là giai đoạn cảnh báo.

 Nếu FSI nằm trên mức 22 thì đây là giai đoạn khủng hoảng.

d) Bản đồ ổn định tài chính (Financial Stability Map)

Bản đồ ổn định tài chính như một bức tranh toàn cảnh về mức độ ổn định

kinh tế vĩ mô với 6 chiều, trong đó 2 chiều liên quan đến sự lành mạnh trong môi

trường kinh tế vĩ mô (khả năng trả nợ của hộ gia đình và khu vực doanh nghiệp)

và 4 chiều liên quan đến hệ thống tài chính (ngân hàng, tổ chức tài chính phi ngân

hàng, thị trường tài chính và sự lành mạnh của thị trường ngoại hối). Trong đó,

nếu các điểm đỉnh càng gần với trung tâm, có nghĩa là mức độ ổn định của lĩnh

vực đó càng cao hơn.

Hình 2.16. Bản đồ ổn định tài chính của Hàn Quốc

Nguồn: Bank of Korea (2015), Financial Stability Report

Bắt đầu từ năm 2016, thay vì xây dựng bản đồ ổn định tài chính tổng thể,

BOK thực hiện thiết kế các bản đồ lành mạnh tài chính cho từng khu vực, như

ngân hàng, phi ngân hàng, thị trường tín dụng hay thị trường tài sản,… để nhanh

chóng nắm bắt được tình hình ổn định, cũng như những thay đổi, bất ổn của từng

khu vực.

87

Hình 2.17. Bản đồ ghi nhận thay đổi trong thị trường tín dụng và thị trường

tài sản năm 2018

Nguồn: Bank of Korea (2018), Financial Stability Report

Bản đồ thị trường tín dụng và thị trường tài sản so sánh sự thay đổi của hai thị trường này thời điểm quý 2 năm 2018 so với quý 1. Trên thị trường tín dụng, nợ hộ gia đình có xu hướng giảm, trong khi đó, nợ của khu vực doanh nghiệp lại

tiếp tục tăng nhẹ. Lượng tín dụng cho các doanh nghiệp lớn giảm và thay vào đó là tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ tăng lên. Mặc dù gánh nặng trả nợ của hộ gia đình có tăng nhẹ nhưng nhìn chung, các điều kiện thị trường trong năm 2018 tương đối lành mạnh. Trên thị trường cổ phiếu, giá cổ phiếu giao động trong một khoảng nhất định và giảm mạnh trong tháng 10/2018 theo xu hướng giảm chung của thị trường cổ phiếu toàn cầu. Trên thị trường trái phiếu, lãi suất giảm tương đối do tác động bởi chiến tranh thương mại Mỹ Trung và những lo ngại về xu hướng giảm sút của kinh tế toàn cầu.

Hình 2.18. Bản đồ ghi nhận thay đổi trong các chỉ số lành mạnh hệ thống ngân hàng và các tổ chức tài chính phi ngân hàng năm 2018

Nguồn: Bank of Korea (2018), Financial Stability Report

88

Biểu đồ chỉ số lành mạnh ngân hàng cho thấy các điều kiện ngân hàng đều

đang được cải thiện. Về phía các tổ chức phi ngân hàng, các tổ chức này vẫn giữ

được xu hướng tăng trưởng tài sản bền vững, chất lượng các tài sản cũng như lợi

nhuận được cải thiện đáng kể, tuy nhiên các điều kiện quản trị các tổ chức này có thể bị suy giảm do những biến động bất thường trong và ngoài nước.

Hình 2.19. Bản đồ liên kết qua lại giữa các tổ chức tài chính năm 2018

Nguồn: Bank of Korea

Bản đồ liên kết qua lại giữa các tổ chức tài chính cho biết mức độ phụ

thuộc lẫn nhau giữa các tổ chức tài chính. Mức độ liên kết phụ thuộc càng cao thì

khả năng xảy ra rủi ro, đổ vỡ dây chuyền càng lớn và ngược lại. Bản đồ trên

không chỉ cho biết mức độ liên kết giữa các tổ chức trong cùng một nhóm, mà còn

cho biết mối liên hệ vay mượn, xu hướng dịch chuyển dòng tiền giữa các nhóm

ngân hàng, bảo hiểm, công ty chứng khoán, công ty quản lý tài sản, công ty tài

chính tín dụng đặc biệt, quỹ tín dụng hợp tác…

Khác với hệ thống tài chính dựa vào thị trường phát triển ở cấp độ cao như

Anh, Hàn Quốc là nền kinh tế mới nổi nhiều triển vọng và có hệ thống tài chính

dựa ngân hàng, vì vậy, Chính phủ Hàn Quốc cũng có cách thức thực hiện mục tiêu

ổn định tài chính theo cách riêng:

- NHTW Hàn quốc chịu trách nhiệm thực thi mục tiêu ổn định tài chính.

Chính phủ Hàn Quốc không thành lập riêng một cơ quan phụ trách mục tiêu ổn

89

định tài chính mà nhiệm vụ này được giao phó cho NHTW Hàn Quốc thực hiện,

bởi những ưu thế của NHTW trong việc thực hiện mục tiêu này.

- Hàn Quốc áp dụng hướng tiếp cận vi mô, tập trung vào đo lường ổn định

hệ thống ngân hàng kết hợp với chỉ số ổn định tổng hợp. Về cơ bản, BOK thực

hiện đo lường ổn định hệ thống tài chính dựa trên bộ chỉ số lành mạnh tài chính

FSIs của IMF, đồng thời, BOK cũng tự thiết kế một chỉ số ổn định tài chính tổng

hợp với mục tiêu phát hiện nhanh những rủi ro, bất thường trong hệ thống tài

chính. Việc kết hợp bộ chỉ số FSIs của IMF và xây dựng chỉ số ổn định tổng hợp

như Hàn Quốc được đánh giá là phương pháp khá phù hợp và khả thi cho Việt

Nam có thể nghiên cứu và ứng dụng.

2.2.4. Kinh nghiệm của Indonesia

2.2.4.1. Đặc điểm hệ thống tài chính

Hệ thống tài chính của Indonesia là tương đối nhỏ và dựa vào ngân hàng.

Tính đến thời điểm cuối năm 2015, tổng tài sản của khu vực tài chính chiếm

khoảng 72% GDP, nhỏ hơn so với các quốc gia mới nổi khác. Trong đó, tài sản

của hệ thống ngân hàng chiếm khoảng 55% GDP, trong khi tài sản của các công ty

bảo hiểm – nhóm tổ chức tài chính lớn thứ hai, chỉ chiếm khoảng 7% GDP. Tuy

nhiên, các tổ chức tài chính phi ngân hàng lại được đánh giá là phát triển tương

đối nhanh, đặc biệt là lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ.

Các tập đoàn tài chính đóng vai trò vô cùng quan trọng trong hệ thống tài

chính Indonesia. Tại quốc gia này, có 49 tập đoàn tài chính chiếm lĩnh khoảng

70% tổng tài sản của các tổ chức tài chính. Các ngân hàng trong tập đoàn chiếm

90% tổng tài sản của tập đoàn tài chính, và các tập đoàn này hoạt động đa dạng

trong các lĩnh vực và bao gồm các công ty bảo hiểm, công ty chứng khoán và công

ty tài chính. Hơn nửa trong số các tập đoàn tài chính có cấu trúc quản lý theo

dạng: một công ty nắm giữ (không chịu sự kiểm soát) sẽ kiểm soát các nhóm công

ty còn lại. Chính theo cách thức quản lý này, cùng với việc các tập đoàn tài chính

có vai trò quan trọng trong hệ thống tài chính nên nhiều thách thức được đặt cho

cơ quan quản lý trong việc giám sát hiệu quả hoạt động của hệ thống tài chính.

90

Bảng 2.11. Cấu trúc hệ thống tài chính Indonesia năm 2015

Quy mô Số lượng

tổ chức % % tổng tài sản

GDP tổ chức tài

chính

Tổ chức tài chính 71,7 100 3.671

Tổ chức nhận tiền gửi 55,5 77,3 1.755

Ngân hàng thương mại 54,5 76,1 118

Ngân hàng thuộc sở hữu Nhà nước 20,0 28,0 4

Các tổ chức tài chính phi ngân hàng 17,9 22,7 1.916

khác

Công ty bảo hiểm 6,9 10,0 137

Quỹ hưu trí 3,5 2,5 260

Quỹ đầu tư 1,5 3,3 1.091

Trung gian tài trợ vốn 5,0 5,7 266

Các tổ chức tài chính khác 1,1 1,2 162

Thị trường tài chính

Giá trị thị trường nợ 15,7

Giá trị vốn hóa thị trường cổ phiếu 40,8

Nguồn: OJK; Bloomberg; BIS Debt Securities Statistics; and IMF staff estimates.

Hệ thống ngân hàng tại Indonesia không có mức độ tập trung cao như các

quốc gia mới nổi khác nhưng các ngân hàng thương mại của nhà nước vẫn chiếm

tỷ trọng đáng kể. Ba trong số bốn ngân hàng lớn nhất tại Indonesia là thuộc sở hữu

của Nhà nước, các ngân hàng này chiếm hơn nửa tổng tài sản của hệ thống ngân

hàng, và phần lớn các ngân hàng còn lại chỉ có quy mô vừa và nhỏ.

Rủi ro hệ thống ở mức thấp và hệ thống ngân hàng được đánh giá là lành

mạnh và ổn định, có khả năng chống đỡ trước các cú sốc nghiêm trọng (IMF,

2017). Các chỉ số dựa trên thị trường cũng chỉ ra mức độ rủi ro hệ thống của

91

Indonesia là tương đối thấp. Kết quả kiểm tra sức chịu đựng trước các kịch bản

suy thoái nghiêm trọng cho thấy các ngân hàng tại Indonesia có lượng vốn lớn và

khả năng sinh lời tốt, nên có khả năng hấp thụ được hầu hết các khoản thua lỗ từ

rủi ro tín dụng. Một số ngân hàng thì rơi vào tình trạng thiếu thanh khoản trong

các bài kiểm tra sức chịu đựng, nhưng về cơ bản, Ngân hàng trung ương Indonesia

hoàn toàn có thể kiểm soát được tình trạng rủi ro này.

Thị trường vốn được đánh giá là tương đối nhỏ, chịu ảnh hưởng lớn bởi

các nguồn vốn bên ngoài khiến thị trường lại càng nhạy cảm hơn với những biến

động toàn cầu. Vào cuối năm 2015, giá trị thị trường trái phiếu và thị trường cổ

phiếu đạt tương ứng 16% và 41% GDP. Trong đó, trái phiếu Chính phủ chiếm chủ

yếu và nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ khoảng 38% lượng trái phiếu này. Quy mô

thị trường nhỏ cùng với việc nhà đầu tư hoạt động mạnh trên thị trường vốn là các

nhân tố tiềm ẩn bất ổn cho thị trường tài chính.

Indonesia có hệ thống giám sát phân tán với sự tham gia chính của Ngân

hàng trung ương và Cơ quan dịch vụ tài chính (Financial Service Authority-FSA).

Cũng giống như tại các quốc gia khác, FSA hoạt động như một cơ quan độc lập,

có trách nhiệm giám sát toàn bộ khu vực tài chính. Hội đồng FSA của Indonesia

bao gồm 7 thành viên: chủ tịch, phó chủ tịch và 5 thành viên đại diện cho các ngân

hàng, tổ chức phi ngân hàng, kiểm toán, hội bảo vệ khách hàng, và thị trường vốn.

Hội đồng này sẽ được hỗ trợ bởi hai chuyên gia có kinh nghiệm từ Ngân hàng

trung ương và Bộ Tài chính. Như vậy, theo Luật thì FSA sẽ phụ trách ban hành

các quy định và giám sát vi mô các hoạt động dịch vụ tài chính trong lĩnh vực

ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, quỹ hưu trí, công ty tài chính. Còn NHTW

vẫn phụ trách nhiệm vụ giám sát an toàn vĩ mô toàn bộ hệ thống tài chính, và thực

hiện các hoạt động thanh tra giám sát trực tiếp cũng như gián tiếp các tổ chức tài

chính nhằm đảm bảo ổn định tài chính.

92

Bảng 2.12. Các tổ chức tham gia Diễn đàn ổn định hệ thống tài chính Indonesia

Ổn định hệ thống tài chính

Bộ Tài chính

Ngân hàng Trung ương

Cơ quan dịch vụ tài chính (FSA)

Bảo hiểm tiền gửi Indonesia

Tài khóa

An toàn vi mô

Bảo hiểm tiền gửi

Tiền tệ, an toàn vĩ mô và hệ thống thanh toán

 Chính sách:

tài

 Cấp phép

 Kế

bảo

khóa

hoạch hiểm tiền gửi

 Quản lý

 Nghị định

thư

 Giám sát

 Chính sách: - An toàn vĩ mô - Tiền tệ - Hệ thống thanh toán

lý khủng

 Giải quyết khiếu nại bảo hiểm

 Kiểm tra

quản hoảng

 Giải quyết

các

 Điều tra

ngân hàng thua lỗ

 Cưỡng chế

 Giám sát - Từ xa - Tại chỗ

 Chi phí phục hồi sau khủng hoảng

lý khủng

 Quản hoảng

 Phát triển khu vực

tài chính

 Bảo vệ người tiêu

 Ngăn ngừa và quản hoảng khủng lý (nghị thư, định người cho vay cuối cùng, phối hợp)

dùng

 Phát triển khu vực

tài chính

Nguồn: Harun (2017)

NHTW Indonesia chịu trách nhiệm thực thi mục tiêu ổn định tài chính trên cơ sở phối hợp với các cơ quan khác. Thực tế là, mặc dù NHTW Indonesia chịu trách nhiệm đảm bảo mục tiêu ổn định tài chính, nhưng NHTW không có thẩm quyền quản lý toàn bộ hệ thống tài chính. Tuy nhiên, ổn định tài chính nhằm vào hệ thống tài chính và vì thế phải được quản lý như một thể thống nhất và vì thế đòi hỏi NHTW phải có sự phối hợp với các cơ quan khác có liên quan. Diễn đàn ổn định hệ thống tài chính có sự tham gia của bốn cơ quan quản lý hệ thống tài chính

Indonesia, trong đó, Bộ trưởng Bộ Tài chính giữ vai trò chủ tịch diễn đàn, Thống

đốc NHTW, Chủ tịch FSA và Chủ tịch Bảo hiểm tiền gửi là các thành viên tham

gia. Diễn đàn này sẽ họp thường xuyên và sẽ có những cuộc họp đột xuất trong

tình huống cần thiết. Việc hợp tác và phối hợp giữa các tổ chức tham gia trong

diễn đàn cũng được quy định cụ thể trong các văn bản luật, đặc biệt là giữa hai cơ

quan phụ trách giám sát an toàn vĩ mô và vi mô là Ngân hàng trung ương và Cơ quan dịch vụ tài chính. (Điều 39 và 43 trong Luật cơ quan dịch vụ tài chính số

21/2011).

93

Nhiệm vụ

Duy trì ổn định giá cả thông qua đảm bảo ổn định tiền tệ và ổn định tài chính để thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững

Mục tiêu

Tạo lập hệ thống tài chính quốc gia lành mạnh, ổn định, được hỗ trợ bởi ổn định kinh tế vĩ mô, hiệu quả thị trường tài chính, quản lý an toàn hệ thống tài chính, giám sát hiệu quả và CSHT thị trường tài chính đáng tin cậy

Chiến lược

Giám sát

Phối hợp và hợp tác

Ngăn ngừa khủng hoảng

Quản lý khủng hoảng

thống

Công cụ

1. Mạng lưới an toàn 2. Chính sách tiền tệ

1. Hệ cảnh báo sớm 2. Các chỉ số kinh tế vĩ mô 3. Các chỉ số an toàn vi mô

1. Khung quy định 2. Hành động giám sát 3. Kết cấu tài chính

1. Cơ quan giám sát hệ thống tài chính 2. Bộ tài chính 3. Ủy ban và Diễn đàn ổn định hệ thống tài chính

Hình 2.20. Sơ đồ khung ổn định tài chính của Indonesia.

Nguồn: Bank Indonesia

2.2.4.2. Đo lường ổn định hệ thống tài chính

a) Nhận diện rủi ro hệ thống tài chính Indonesia

Mặc dù IMF (2017) đánh giá rủi ro hệ thống cho Indonesia là khá thấp, tuy

nhiên, với đặc điểm là hệ thống dựa vào ngân hàng, NHTW Indonesia xác định

đây vẫn là khu vực có nguy cơ rủi ro cao. Bên cạnh đó, thị trường tài chính có sự

tham gia hoạt động của nhiều nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài, nên

nguy cơ bất ổn trên thị trường cũng tương đối lớn. Như vậy, đối với Indonesia,

NHTW nhận diện rủi ro cho hệ thống tài chính có thể đến từ 4 khu vực trọng yếu:

tổ chức tài chính, thị trường tài chính, khu vực kinh tế vĩ mô và khu vực kinh tế

thực. Chính vì vậy, khi thiết lập bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính,

NHTW lựa chọn các nhóm chỉ số tương ứng với các khu vực.

94

b) Bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính Indonesia

Giám sát ổn định tài chính bao gồm đo lường rủi ro tiềm ẩn và rủi ro hệ

thống có thể dẫn đến khủng hoảng. Việc phát hiện sớm những rủi ro như vậy sẽ

giúp các NHTW và các Chính phủ phải có hành động cần thiết để tránh khủng

hoảng. NHTW Indonesia sử dụng bộ chỉ số giám sát an toàn vĩ mô như là một

phần của Hệ thống cảnh báo sớm (Early Warning System-EWS) với bốn nhóm chỉ

số để đo lường và giám sát ổn định tài chính.

- Nhóm chỉ số giám sát an toàn vi mô tổng hợp (áp dụng với từng tổ chức):

đo lường, giám sát rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro thanh khoản, rủi ro hệ

thống với quan điểm ngăn ngừa sự lan truyền có thể ảnh hưởng đến hệ thống tài

chính, các doanh nghiệp và hộ gia đình. Mặc dù hệ thống ngân hàng của Indonesia

được đánh giá tương đối lành mạnh, nhưng đây vẫn là khu vực tiềm ẩn rủi ro

nhiều nhất, rủi ro của khu vực ngày cũng có ảnh hưởng đặc biệt quan trọng đến

tổng thể hệ thống tài chính nên nhóm chỉ số an toàn vi mô tập trung chủ yếu vào

khu vực này. Tuy nhiên, càng ngày khu vực phi ngân hàng lại càng gia tăng về tài

sản cũng như phạm vi hoạt động, vì thế sự liên kết giữa các tổ chức tài chính trở

thành vấn đề lớn trong việc kiểm soát rủi ro hệ thống. Các chỉ số an toàn vi mô

được đưa vào khá tương đồng với các chỉ số trong bộ chỉ số lành mạnh tài chính

FSIs của IMF.

- Nhóm chỉ số kinh tế vĩ mô: đo lường sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ

mô, tìm kiếm và phát hiện những rủi ro dựa trên những thay đổi của các biến số vĩ

mô trong và ngoài nước. Các chỉ số kinh tế vĩ mô và vi mô ngân hàng bổ sung cho

nhau, và được sử dụng để phân tích và dự báo ổn định tài chính.

- Nhóm chỉ số thị trường tài chính: đây là khu vực có nguy cơ rủi ro cao

cho Indonesia bởi thị trường tài chính của quốc gia tương đối nhỏ, với sự tham gia

hoạt động mạnh của các nhà đầu tư nước ngoài. Ngoài các chỉ số chung của thị

trường cổ phiếu và trái phiếu, nhóm có dành ra 1 chỉ số để xem xét biến động mức

độ sinh lời của cổ phiếu ngân hàng bởi quy mô và tầm ảnh hưởng của khối ngân

hàng đến toàn thị trường.

- Nhóm chỉ số khu vực kinh tế thực bao gồm doanh nghiệp và hộ gia đình:

tập trung đánh giá đòn bẩy tài chính, tình hình vay mượn và thanh khoản của khu

vực này.

95

Bảng 2.13. Chỉ số cho giám sát an toàn vĩ mô tại Indonesia.

Chỉ số giám sát an toàn vi mô tổng hợp

Chỉ số vĩ mô

Chỉ số thị trường tài chính

Chỉ số khu vực kinh tế thực

tổng

1. Chỉ số tín ro rủi dụng ngân hàng

Tỷ lệ nợ xấu NPL; Dự phòng rủi ro; Nợ xấu/ Tín dụng BĐS, Kết quả cho vay vi mô, vừa và nhỏ; Tỷ lệ cho vay/ GDP.

Trạng thái ngoại tệ ròng; Danh mục kỳ hạn các tài sản; Lãi suất và Tỷ giá

2. Chỉ số rủi thị ro trường ngân hàng

thái nước

Tăng trưởng kinh Lạm tế; phát; Lãi suất; Giá dầu; Chỉ số hàng hóa; Chỉ số giá BĐS; Trạng nợ ngoài.

Tỷ lệ nợ/ vốn chủ Lợi hữu; sở nhuận/ tài sản; Lợi nhuận/ vốn chủ sở hữu; Kết quả cho vay hộ gia đình; Tỷ lệ thanh khoản hộ gia đình; Kết quả tài trợ hộ gia đình; Kết quả chi phí hộ gia đình.

Chỉ số giá chứng khoán; Biến động chỉ số thị trường; Lợi nhuận chứng khoán ngân hàng; Khối lượng giao dịch trường thị vốn; Lãi suất, giá, trái và tức lợi phiếu; Giá trái phiếu trung bình; Giá trái phiếu Chính phủ;

3. Chỉ số rủi ro thanh khoản của ngân hàng

Lãi suất thị trường tiền tệ; Tỷ lệ tài sản thanh khoản/ tiền gửi phi cơ bản; Tỷ lệ tài sản thanh khoản/ tiền gửi; tỷ lệ bù đắp thanh khoản (LCR-Liquidity coverage ratio); Tỷ lệ tài trợ bình ổn ròng (NSFR- Net stable funding ratio); Dự báo dòng tiền

4. Chỉ số trung gian ngân hàng

Tỷ lệ cho vay/ tiền gửi (LDR); Phát triển cho vay; Kết quả cho vay BĐS; Tăng trưởng cho vay thế chấp, thẻ tín dụng và các hình thức cho vay khác; Kết quả huy động vốn

Vốn

Tỷ lệ an toàn vốn CAR

5. ngân hàng

6. Khả năng sinh lời ngân hàng

Tỷ lệ lợi nhuận/ tổng tài sản; Lãi và lỗ; Thu nhập lãi ròng; Tỷ lệ hiệu quả

Nguồn: Bank Indonesia

c) Chỉ số ổn định hệ thống tài chính (Financial System Stability Index-FSSI)

Trên khía cạnh tổng hợp, công cụ chính được NHTW Indonesia sử dụng để

đánh giá mức độ ổn định của hệ thống tài chính là Chỉ số ổn định hệ thống tài

96

chính (FSSI). Chỉ số ổn định hệ thống tài chính FSSI được thiết lập với mục đích

phản ánh một cách khái quát tình trạng hệ thống tài chính và chỉ ra nguồn gốc của

những bất ổn. Chỉ số này được xây dựng dựa trên sự kết hợp giữa hai nhóm nhân

tố chính, hệ thống ngân hàng (chiếm hơn 77% tổng tài sản các tổ chức tài chính)

và thị trường tài chính, hai khu vực tiềm ẩn rủi ro và biến động nhiều nhất. Quy

trình xây dựng chỉ số FSSI như sau:

- Bước 1: Lựa chọn các chỉ số đưa vào mô hình

Thứ nhất, các chỉ số đo lường ổn định tổ chức tài chính (ngân hàng). Chỉ số

ổn định tổng hợp của ngân hàng được thiết lập dựa trên ba trụ cột của ổn định hệ

thống tài chính, đó là: tăng cường ổn định tài chính, thúc đẩy hiệu quả tài chính và

trung gian tài chính.

Tăng cường ổn định hệ thống tài chính

Chỉ số áp lực ngân hàng

Giám sát

Hợp tác & phối hợp

Chỉ số hiệu quả ngân hàng

Chỉ số trung gian ngân hàng

Chính sách an toàn vĩ mô

Tiếp cận thị trường và phát triển

Trung gian tài chính cân bằng

Thúc đẩy hiệu quả tài chính

Hình 2.21. Ba trụ cột của ổn định tài chính

Nguồn: Bank Indonesia

Thứ hai, các chỉ số đo lường ổn định thị trường tài chính. Để xây dựng chỉ

số tổng hợp cho thị trường tài chính, Ngân hàng trung ương Indonesia sử dụng các

chỉ số trong 5 lĩnh vực: thị trường tiền tệ liên ngân hàng, thị trường cổ phiếu, thị

trường trái phiếu, thị trường ngoại hối, và đánh giá bên ngoài về hệ thống tài chính

nội địa.

97

Bảng 2.14. Các chỉ tiêu sử dụng để tính toán chỉ số ổn định tài chính FSSI

Chỉ số phụ

Chỉ tiêu

Giải thích

Chỉ số ổn định tổ chức tài chính (FISI)

Tỷ lệ nợ xấu (NPL)

Đo lường rủi ro tín dụng

Chỉ số áp lực

Hệ số an toàn vốn (CAR)

Đo lường mức độ đầy đủ vốn

Tỷ lệ sinh lời (ROA)

Đo lường khả năng sinh lời

ngân hàng (Banking

Chênh lệch tài sản thanh

Đo lường khả năng thanh khoản

Pressure Index)

khoản (Δ Asset Liquid)

Đo lường thu nhập lãi thuần

Chênh lệch lãi suất ròng (NIM)

Tỷ lệ hiệu quả hoạt động (BOPO)

Đo lường chi phí hoạt động/ thu nhập hoạt động

Chỉ số hiệu quả hoạt động ngân

Đo lường chi phí/ thu nhập

hàng (Banking Efficiency Index)

Tỷ lệ hiệu quả hoạt động (CIR)

Tỷ lệ hiệu quả hoạt động (OHC/OI)

Đo lường chi phí chung/ thu nhập hoạt động

Chênh lệch lãi suất cho vay

và lãi suất tiền gửi

Chỉ số trung gian ngân hàng

Tỷ lệ cho vay/ tiền gửi (LDR

Chênh lệch giữa tỷ lệ cho vay/ tiền

gap)

gửi so với mức yêu cầu tối thiểu

(Banking Intermediation

Chênh lệch tỷ lệ tín dụng/

Đo lường mức độ tăng trưởng tín

Index)

GDP với xu hướng dài hạn

dụng so với tăng trưởng kinh tế của quốc gia

Chỉ số ổn định thị trường tài chính (FMSI)

Chênh lệch lãi suất liên ngân hàng và lãi suất tiền gửi tại

Đo lường rủi ro thị trường tiền tệ liên ngân hàng

NHTW

Chỉ số chứng khoán Jakarta

Đo lường mức độ biến động giá cổ

(JCI)

phiếu

Tình trạng ổn định và khủng

Lãi suất trái phiếu chính phủ

Đo lường biến động thị trường trái

hoảng

5 năm

phiếu

Tỷ giá USD/ Rupia

Đo lường biến động thị trường ngoại hối

Đo lường mức độ rủi ro tín dụng

Chỉ số hoán đổi rủi ro vỡ nợ (CDS)

Nguồn: Gunadi và cộng sự (2014)

98

- Bước 2: Chuẩn hóa dữ liệu

Theo Gunadi và cộng sự (2014), NHTW Indonesia sử dụng phương pháp

chuẩn hóa thống kê (normalisation method) cho số liệu dịch chuyển hai năm để

xây dựng chỉ số Q-Index (FSSI là kết quả cuối cùng có điều chỉnh của chỉ số Q).

Chỉ số Q-Index so sánh điều kiện hiện tại của ổn định tài chính với điều kiện trung

bình của dữ liệu thực tế trong hai năm vừa qua. Giai đoạn gốc được lựa chọn là

giai đoạn từ 2001-2010 bởi trong giai đoạn này, nền kinh tế Indonesia trải qua

nhiều biến động, khủng hoảng, phục hồi và bình thường.

Cách thức để tính chỉ số FSSI sử dụng phương pháp chuẩn hóa thống kê

− ̅() ()

=

với giai đoạn gốc là từ 2001-2010 được thể hiện qua công thức dưới đây:

Trong đó:

: chỉ số tổng hợp : giá trị biến xj tại thời điểm t : tỷ trọng của mỗi biến số

̅(): giá trị trung bình của biến x giai đoạn 2001-2010

(): độ lệch chuẩn giai đoạn 2001-2010

Kết quả chuẩn hóa mỗi chỉ số của các tổ chức tài chính và thị trường tài

chính lần lượt được kết hợp vào trong chỉ số tổng hợp với tỷ trọng nhất định được

xác định thông qua thống kê, hiệu chuẩn và phân tích sự kiện, thể hiện tầm quan

trọng và khả năng giải thích của chỉ số.

Để đơn giản hóa việc phân tích chỉ số FSSI, sau khi tạo ra chỉ số Q-Index

bằng phương pháp chuẩn hóa thống kê, chỉ số này tiếp tục được chuyển đổi bằng

cách sử dụng phương pháp cực đại-cực tiểu (Min-Max approach) để điều chỉnh

quy mô. Phương pháp Min-Max so sánh điều kiện hiện tại của hệ thống tài chính

với giá trị cực đại và cực tiểu trong khoảng giai đoạn gốc, cụ thể là từ 2001-2010

theo công thức như sau:

99

− (()) () − (())

=

∗ 2

Trong đó:

: chỉ số tổng hợp chuyển đổi

: chỉ số tổng hợp

(()): giá trị nhỏ nhất của mỗi biến trong giai đoạn từ 2001-2010

(): giá trị lớn nhất của mỗi biến trong giai đoạn từ 2001-2010

- Bước 3: Xác định tỷ trọng của từng biến số trong chỉ số tổng hợp

Việc xác định tỷ trọng của từng biến số được thực hiện thông qua phương

pháp phân tích bước ngoặt (Turning Point Analysis-TPA). Phương pháp này xem

xét tác động phi tuyến tính lên các chỉ số. Ưu điểm của phương pháp TPA so với

các phương pháp khác là có thể thay đổi tỷ trọng phụ thuộc vào điều kiện và sự

sẵn có của dữ liệu.

- Bước 4: Tổng hợp chỉ số ổn định hệ thống tài chính FSSI

Cách tính FSSI của Ngân hàng trung ương Indonesia được thể hiện thông

qua công thức dưới đây:

 Chỉ số ổn định hệ thống tài chính:

FSSI = 0,45FISI + 0,55FMSI

 Chỉ số ổn định các tổ chức tài chính:

FISI = 0,6Banking Pressure Index − 0,2Banking Efficiency Index

+ 0,2Bank Intermediation Index

Banking Pressure Index = 0,35NPL − 0,2CAR − 0,1ROA − 0,3∆Liquid asset

Banking Efficiency Index = −0,3NIM − 0,23BOPO − 0,23CIR − 0,23 OHC OI

Banking Intermediation Index

= −0,2Spread lending rate and deposit rate + 0,4Gap LDR

+ 0,4Gap credit/GDP

 Chỉ số ổn định thị trường tài chính:

FMSI = 0,75Normal condition + 0,25Crisis condition

100

Normal condition

= 0,35 Liquidity + 0,2Stock price + 0,15Bond yield

+ 0,25Exchange rate + 0,1CDS

Crisis condition

= 0,25 Liquidity + 0,25Stock price + 0,15Bond yield

+ 0,25Exchange rate + 0,1CDS

Trong đó, dấu (+) hay (-) thể hiện tác động của biến số đó lên chỉ số chung,

cụ thể, dấu (+) thể hiện tác động tăng áp lực lên chỉ số chung và ngược lại. Trong

trường hợp chỉ số trung gian ngân hàng (Banking Intermediation Index), dấu (+)

phản ánh sự gia tăng của chức năng trung gian tài chính và dấu (-) thể hiện sự suy

giảm trong chức năng trung gian tài chính.

Hình 2.22. Chỉ số ổn định hệ thống tài chính (FSSI/ISSK)

Nguồn: Bank Indonesia (2017)

- Bước 5: Xác định ngưỡng

Các giá trị ngưỡng cho chỉ số ổn định hệ thống tài chính FSSI được chia

thành 4 giai đoạn: bình thường, cẩn trọng, cảnh báo và khủng hoảng. Việc xác

định ngưỡng cho các chỉ số cấu thành nên FSSI được thực hiện thông qua phương

pháp Min-Max. Còn ngưỡng cho FSSI được chuyển đổi sử dụng phương pháp

chuẩn hóa Min-Max thực nghiệm.

101

Hình 2.23. Chỉ số FSSI với giai đoạn gốc 2001-2010.

Nguồn: Bank Indonesia (2014)

d) Các bài kiểm tra sức chịu đựng (Stress tests)

Ngoài chỉ số ổn định tài chính, NHTW Indonesia còn thực hiện 8 bài kiểm

tra sức chịu đựng stress test theo định kỳ và các khảo sát. Các bài kiểm tra sức

chịu đựng trước rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro ngoại hối, rủi ro thanh khoản,

lãi suất Trái phiếu chính phủ, rủi ro tổng hợp, rủi ro liên ngân hàng.

Như vậy, một số điểm nổi bật được rút ra từ thực tế đo lường ổn định tài

chính tại Indonesia bao gồm:

- NHTW là cơ quan chịu trách nhiệm thực thi nhiệm vụ ổn định tài chính và

phát hành báo cáo ổn định tài chính cho công chúng.

- Indonesia áp dụng hướng tiếp cận vĩ mô kết hợp với chỉ số ổn định tài

chính tổng hợp. Tương tự như Hàn Quốc, Indonesia cũng sử dụng kết hợp cả bộ

chỉ số và chỉ số ổn định tổng hợp. Tuy nhiên, đối với bộ chỉ số an toàn vĩ mô,

Indonesia có sự kế thừa theo hướng rút gọn từ bộ chỉ số an toàn vĩ mô của ADB

trong việc xem xét đến sự ổn định vi mô (hệ thống ngân hàng), ổn định thị trường

tài chính, ổn định vĩ mô và cả nền kinh tế thực (doanh nghiệp và hộ gia đình). Đối

102

với chỉ số ổn định riêng lẻ, NHTW Indonesia tổng hợp từ chỉ số ổn định của các

khu vực quan trọng (khu vực ngân hàng và thị trường tài chính).

2.3. Bài học cho Việt Nam

Một là, đặc điểm hệ thống tài chính và bối cảnh kinh tế vĩ mô là cơ sở

xác định các nguy cơ rủi ro cho hệ thống tài chính. Kinh nghiệm từ các quốc

gia ở trên cho thấy, hệ thống tài chính càng hoàn thiện, kinh tế phát triển bền

vững thì phạm vi rủi ro hệ thống càng được giảm thiểu bởi những chuẩn mực

giám sát của cơ quan quản lý và khả năng quản trị của tổ chức đạt được ở mức

độ cao. Những rủi ro vi mô đối với từng tổ chức được kiểm soát và các quốc

gia chủ yếu tập trung vào những rủi ro vĩ mô từ môi trường bên ngoài hoặc rủi

ro mang tính lây lan. Đối với các nền kinh tế đang phát triển và có hệ thống tài

chính thiếu hoàn thiện, các quốc gia này phải đối mặt với cả rủi ro vi mô và vĩ

mô nhưng cơ quan điều hành chủ yếu tập trung vào những rủi ro xuất phát từ sự

mất cân bằng trong từng tổ chức.

Hai là, bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính có thể được thiết lập

căn cứ vào khu vực tiềm ẩn rủi ro chính yếu của hệ thống hoặc công cụ điều chỉnh

rủi ro. Như kinh nghiệm của Trung Quốc, Indonesia và Hàn Quốc là những quốc

gia đang phát triển với phạm vi rủi ro hệ thống rộng và đa dạng, cơ quan điều

hành xây dựng bộ chỉ số đo lường sự ổn định của những khu vực chủ chốt: ngân

hàng, thị trường tài chính, kinh tế vĩ mô (bên trong và bên ngoài), doanh nghiệp và

hộ gia đình. Đối với quốc gia có mức độ phát triển cao như Anh, cơ quan điều

hành xác định nguồn gốc rủi ro chủ yếu đến từ khu vực ngân hàng và thị trường

bất động sản, thiết lập công cụ điều hành can thiệp và xây dựng bộ chỉ số căn cứ

dựa trên các công cụ điều hành.

Ba là, nên thiết kế bộ chỉ số với những chỉ số cơ bản để đo lường, giám sát

khu vực quan trọng và chỉ số bổ sung cho những khu vực ít rủi ro hơn. Do nguồn

lực là có hạn nên không nên phân bổ toàn bộ nguồn lực để giám sát toàn bộ hệ

thống tài chính mà nên tập trung nhiều hơn, đo lường và giám sát thận trọng hơn

những tổ chức, khu vực quan trọng. Cụ thể trong trường hợp của Anh, Ủy ban

103

dịch vụ tài chính Anh đo lường ổn định tài chính bằng các chỉ số riêng, họ tập

trung theo dõi sự biến động của hệ thống ngân hàng và thị trường bất động sản bởi

đây là khu vực rủi ro chính. Hay như trường hợp của Indonesia, Ngân hàng trung

ương cũng chỉ tập trung vào hai khu vực có nhiều nguy cơ rủi ro là hệ thống ngân

hàng và thị trường tài chính. NHTW Hàn Quốc lại sử dụng bộ chỉ số lành mạnh tài

chính của IMF để đo lường sự ổn định của hệ thống ngân hàng là chủ yếu.

Bốn là, tùy thuộc vào đặc điểm hệ thống tài chính và mục tiêu giám sát, các

quốc gia có thể đánh giá mức độ ổn định hệ thống tài chính thông qua các bộ chỉ

số lành mạnh tài chính hoặc xây dựng chỉ số ổn định tài chính riêng, hoặc kết hợp

cả hai phương thức này. Bộ chỉ số có ưu điểm phản ánh tương đối đầy đủ mức độ

ổn định của các khu vực, lĩnh vực trong hệ thống tài chính, nhưng nhược điểm là

cồng kềnh, khó cung cấp thông tin mang tính cập nhật vì các chỉ số thường được

tính toán theo quý. Còn chỉ số riêng lẻ hay tổng hợp lại giúp theo dõi sự phát triển

hệ thống tài chính, xác định bất ổn tài chính một cách nhanh chóng, nhưng lại khá

hạn chế trong việc phát hiện khu vực/ lĩnh vực nào đang tiềm ẩn rủi ro. Sử dụng

kết hợp hay phương thức này sẽ giúp phát huy được thế mạnh của cả bộ chỉ số và

chỉ số riêng lẻ. Như kinh nghiệm của Trung Quốc, Hàn Quốc và Indonesia, những

quốc gia có đặc điểm hệ thống tài chính khá tương đồng với Việt Nam thì đều áp

dụng cả hai phương thức bộ chỉ số và chỉ số ổn định tổng hợp (chỉ số căng thẳng)

Năm là, hiệu ứng lan truyền của trong hệ thống ngân hàng là vô cùng mạnh

mẽ nên các chỉ tiêu đo lường mức độ vay mượn, phụ thuộc lẫn nhau giữa các ngân

hàng là rất quan trọng bên cạnh các chỉ số rủi ro cơ bản. Sự kết nối chặt chẽ giữa

các tổ chức trong hệ thống khiến sự sụp đổ của một ngân hàng có thể dẫn đến sự

sụp đổ của nhiều ngân hàng khác trong hệ thống. Chính vì vậy, để tránh những rủi

ro hệ thống trong lĩnh vực ngân hàng, cơ quan quản lý cần giám sát cẩn trọng các

hoạt động vay mượn giữa các ngân hàng trên thị trường liên ngân hàng, bởi tất cả

các giao dịch hoạt động trên thị trường này đều phản ánh mức độ phụ thuộc – sự

kết nối giữa các ngân hàng. Theo dõi mối quan hệ qua lại giữa các ngân hàng với

104

nhau và giữa các nhóm tổ chức tài chính với nhau thông qua Bản đồ liên kết như

kinh nghiệm của Hàn Quốc giúp các cơ quan quản lý nắm bắt được mức độ phụ

thuộc, ảnh hưởng qua lại giữa các tổ chức, từ đó có những biện pháp phòng ngừa

rủi ro hiệu quả hơn.

Sáu là, việc lựa chọn các chỉ số ổn định tài chính cần dựa trên các tiêu chí:

(i) Mức độ quan trọng và khả năng phản ánh bất ổn tài chính của chỉ số; (ii) Sự

đầy đủ và sẵn có của các dữ liệu giúp tính toán chỉ số; (iii) Tính toàn diện của bộ

chỉ tiêu đánh giá; và (iv) Căn cứ vào công cụ thực thi chính sách định áp dụng.

Đối với các chỉ tiêu đo lường ổn định hệ thống ngân hàng, kinh nghiệm cho thấy

các khía cạnh liên quan đến vốn, tăng trưởng tín dụng, chất lượng tín dụng, thanh

khoản của ngân hàng… thường được xem xét đến. Còn đối với các chỉ tiêu về thị

trường tài chính, những chỉ số phản ánh về thay đổi giá cổ phiếu, chênh lệch lãi

suất trái phiếu, biến động giá bất động sản cũng nên đưa vào bộ chỉ số.

TÓM TẮT CHƯƠNG 2

Trong chương 2, luận án đã phân tích kinh nghiệm đo lường ổn định tài

chính tại một số quốc gia với các mức độ phát triển khác nhau (Anh, Trung Quốc,

Hàn Quốc và Indonesia), để thấy được sự khác biệt về điều kiện kinh tế, mức độ

phát triển tài chính, mô hình tổ chức giám sát hệ thống tài chính ảnh hưởng đến

việc lựa chọn các chỉ số và xây dựng bộ chỉ số đo lường ổn định. Các phần phân

tích kinh nghiệm tập trung vào các nội dung: đặc điểm hệ thống tài chính (về cấu

trúc, mức độ phát triển, cơ quan quản lý) và cách thức xây dựng, lựa chọn các chỉ

tiêu vào bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính. Đối với những nước cho

mức độ phát triển cao như Anh, khi hoạt động giám sát hệ thống ngân hàng đã đạt

được tiêu chuẩn quốc tế Basel III, NHTW của Anh đã xác định được rõ khu vực

tiềm ẩn bất ổn cho hệ thống và lựa chọn trước những công cụ cho mục tiêu ổn

định tài chính. Việc xây dựng bộ chỉ số sẽ được thực hiện trên cơ sở các công cụ

105

có trước và kết quả từ bộ chỉ số sẽ giúp ra quyết định điều chỉnh công cụ. Đối với

những nước đang phát triển như Trung Quốc, Hàn Quốc hay Indonesia, những

quốc gia với hệ thống tài chính có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam, cơ quan

điều hành tại các quốc gia này lại lựa chọn việc thiết lập bộ chỉ số kết hợp với chỉ

số tổng hợp riêng lẻ để phục vụ cho việc đánh giá mức độ ổn định. Trên cơ sở

những kinh nghiệm này, nghiên cứu sinh rút ra 06 bài học cho Việt Nam trong

việc xây dựng bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính.

106

CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG THIẾT LẬP BỘ CHỈ SỐ ĐO LƯỜNG ỔN

ĐỊNH HỆ THỐNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM

3.1. Đặc điểm hệ thống tài chính Việt Nam

3.1.1. Hệ thống tài chính dựa vào ngân hàng

Hệ thống tài chính Việt Nam mặc dù có sự phát triển mạnh mẽ trong những

năm gần đây nhưng vẫn là hệ thống tài chính dựa vào ngân hàng. Tổng tài sản của

các tổ chức tài chính ước khoảng 200% GDP, trong đó, khu vực ngân hàng, các tổ

chức tín dụng chiếm vai trò chi phối hệ thống tài chính với tổng tài sản chiếm

190% GDP, tương đương 95,9% tài sản của các định chế tài chính. (Ủy ban giám

sát tài chính quốc gia, 2017). Tỷ lệ này tăng hơn so với năm 2016, tuy nhiên, so

với các quốc gia trong khu vực, tỷ lệ này vẫn ở mức khá khiêm tốn.

Bảng 3.1. Quy mô tài sản và vốn của các tổ chức tín dụng năm 2018

Đơn vị: tỷ đồng

Số lượng Tổng tài sản có Tỷ trọng (%) Vốn tự có Tỷ trọng (%)

NHTM Nhà nước 4.863.353 43,95 268.599 33,32 7

NH chính sách xã hội 195.873 1,77 1

NHTM cổ phần 28 4.554.977 41,17 338.183 41,95

liên doanh, 9 1.136.614 10,27 162.864 20,2 NHTM nước ngoài

Công ty tài chính, cho 26 167.822 1,51 32.565 4,04 thuê tài chính

Ngân hàng Hợp tác xã 1 32.429 3.946 0,49 0,29

Quỹ tín dụng nhân dân 1.200 113.171 1,04

Toàn hệ thống 11.064.239 100 806.156 100

Nguồn: Ngân hàng Nhà nước

107

Hệ thống ngân hàng chịu áp lực lớn trong việc cung ứng vốn cho nền kinh

tế. Tính đến cuối năm 2018, tổng lượng vốn được cung ứng bởi các TCTD chiếm

đến 63,6% tổng nhu cầu của nền kinh tế. Trong đó, chủ yếu lượng vốn này đến từ

hệ thống ngân hàng do những mất cân đối giữa các hình thức huy động vốn cùng

với quy mô hạn chế của các định chế tài chính khác và thị trường chứng khoán.

100%

21,6

23,3

23,8

24,5

28

35,4

36,4

80%

60%

40%

78,4

76,7

76,2

75,5

72

64,6

63,6

20%

0%

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

Cung ứng vốn từ các TCTD

Cung ứng vốn từ thị trường vốn

Hình 3.1. Tỷ trọng cung ứng vốn cho nền kinh tế giai đoạn 2012-2018

Nguồn: Ủy ban giám sát tài chính quốc gia (2017, 2018)

Về thị trường cổ phiếu, đặc trưng của thị trường này là số lượng các công ty

niêm yết lớn nhưng giá trị vốn hóa bình quân thấp. Hai sở giao dịch là Sở giao

dịch chứng khoán TP. Hồ Chí Minh (HSX) và Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội

(HNX) bắt đầu hoạt động lần lượt từ năm 2000 và 2005, tính đến thời điểm cuối

năm 2018 đã có khoảng 747 công ty niêm yết. Đây là một con số lớn bất thường

đối với thị trường vốn non trẻ và mức thu nhập còn hạn chế như Việt Nam, số

lượng công ty niêm yết tăng nhanh chóng chủ yếu do cổ phần hóa các DNNN

trước đây. Khoảng một phần ba số công ty niêm yết là công ty do nhà nước nắm

cổ phần chi phối. HSX là thị trường cổ phiếu chính cho các công ty lớn, HNX là

thị trường trái phiếu sơ cấp, vận hành thị trường cổ phiếu niêm yết của các công ty

thường có qui mô nhỏ hơn so với các công ty niêm yết trên HSX, đồng thời bao

gồm sàn giao dịch UpCom, nơi diễn ra giao dịch của các công ty đại chúng chưa

niêm yết. Dù UpCom đã đi vào hoạt động, cổ phiếu của rất nhiều công ty đại

chúng chưa niêm yết khác vẫn tiếp tục được giao dịch ngoài thị trường chính thức.

108

80 70 60 50 40 30 20 10 0

2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018

Việt Nam

Nước đang phát triển Đông Á TBD

Nước thu nhập thấp và trung bình

Hình 3.2. Mức độ vốn hóa thị trường của các doanh nghiệp nội địa trên GDP (%)

Nguồn: Cơ sở dữ liệu của World Bank

Mặc dù thị trường cổ phiếu đã có sự tăng trưởng vượt bậc trong thời gian

ngắn nhưng vẫn còn phát triển ở giai đoạn sơ khai. Năm 2016, tổng giá trị vốn hóa

của thị trường cổ phiếu còn rất thấp, chỉ chiếm khoảng 30% GDP, thấp hơn các

quốc gia đang phát triển trong khu vực Đông Á Thái Bình Dương và các quốc gia

có thu nhập trung bình. Điều này phản ánh thực tế là các doanh nghiệp niêm yết ở

Việt Nam nhìn chung đều có quy mô nhỏ. Tuy nhiên, đến năm 2018, giá trị vốn

hóa thị trường của các doanh nghiệp nội địa đã tăng lên đáng kể, chiếm hơn 50%

GDP, đạt mức tương đương với các quốc gia đang phát triển khu vực Đông Á

Thái Bình Dương, thể hiện sự phát triển của thị trường trong những năm gần đây.

Về thị trường trái phiếu, quy mô thị trường trái phiếu trong nước còn khiêm

tốn và chủ yếu là trái phiếu chính phủ. Tổng giá trị trái phiếu hiện hành bằng

khoảng 15% GDP trong đó với gần 90% là trái phiếu chính phủ (bao gồm trái

phiếu kho bạc, trái phiếu chính phủ bảo lãnh và một lượng nhỏ trái phiếu phát

hành bởi chính quyền địa phương). Trái phiếu Chính phủ thường xuyên được phát

hành có kỳ hạn ba và năm năm với thời gian đáo hạn trung bình khoảng 3,2 năm.

Thị trường trái phiếu doanh nghiệp tăng trưởng trong vài năm qua, nhưng

vẫn trong giai đoạn sơ khai trong khi đây là kênh dẫn vốn cho doanh nghiệp theo

cách thức mang lại sự ổn định hơn cho hệ thống tài chính cũng như người đầu tư

và giúp doanh nghiệp hạn chế sự phụ thuộc quá nhiều vào nguồn vốn tín dụng

109

ngân hàng, đồng thời tăng kỳ hạn tài trợ. Nguyên nhân chính dẫn đến việc thị

trường trái phiếu doanh nghiệp chậm phát triển có thể kể đến là:

Thứ nhất, do hàng hóa trên thị trường còn nghèo nàn, sản phẩm trái phiếu

doanh nghiệp chưa nhiều, chủ yếu do các DNNN hay tổ chức tín dụng phát hành,

tập trung vào hai loại trái phiếu truyền thống và trái phiếu chuyển đổi.

Thứ hai, do nhiều doanh nghiệp trong nước chưa đáp ứng được yêu cầu

phát hành, đặc biệt ở các khía cạnh như trình độ quản trị còn yếu, hệ thống công

bố thông tin chưa minh bạch, … Bên cạnh đó, điều kiện phát hành khá khắt khe

như Nghị định 90/2011/NĐ-CP của Chính phủ yêu cầu các doanh nghiệp phát

hành trái phiếu phải có 5 năm liền có lãi cũng ảnh hưởng đến số lượng doanh

nghiệp có thể phát hành trái phiếu.

Thứ ba, do thiếu cơ sở nhà đầu tư tổ chức vững chắc, nhà đầu tư tham gia

chủ yếu trên thị trường trái phiếu hiện nay là các ngân hàng thương mại. Các đợt

phát hành trái phiếu cũng thường là phát hành riêng lẻ cho một số nhà đầu tư.

Thứ tư, Việt Nam vẫn chưa có một tổ chức định mức tín nhiệm chuyên

nghiệp nhằm tạo niềm tin cho nhà đầu tư khi đánh giá về doanh nghiệp phát hành,

Nghị định về việc thành lập và hoạt động của công ty định mức tín nhiệm đang

trong quá trình xây dựng và lấy ý kiến.

Hình 3.3. Tổng dư nợ tín dụng và tổng dư nợ trái phiếu tại Việt Nam

50

350

300

40

250

30

200

150

20

100

10

50

0

0

2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018

Trái phiếu doanh nghiệp (Trái)

Trái phiếu chính phủ (Trái)

Tín dụng (Phải)

Đơn vị: tỷ USD

Nguồn: Asian Bonds Online (ADB) và CEIC

110

Như vậy, có thể thấy thị trường vốn kém phát triển khiến các NHTM phải

đảm nhận việc cung cấp vốn dài hạn cho nền kinh tế, điều này đã khiến ngân hàng

trở thành nguồn rủi ro chính cho hệ thống tài chính nói chung.

3.1.2. Hệ thống ngân hàng có mức độ tập trung cao

Hệ thống ngân hàng Việt Nam có mức độ tập trung cao thể hiện qua sự

chênh lệch lớn về quy mô giữa một số ít các NHTM lớn (chủ yếu là các

NHTMNN) và các NHTM nhỏ (các NHTM cổ phần). Điều này cũng ảnh hưởng

lớn đến hoạt động của các tổ chức này bởi các NHTM lớn có thể dễ dàng tiếp cận

nguồn vốn giá rẻ (giữ lượng lớn trái phiếu Chính phủ để tái chiết khấu, nhận

lượng tiền gửi lớn từ các khách hàng lớn như Kho bạc Nhà nước, các Tổng công

ty nhà nước, làm dịch vụ giải ngân vốn ODA cho Chính phủ …), trong khi đó, các

NHTM nhỏ luôn phải tìm kiếm các nguồn vốn với chi phí cao hơn, huy động tiền

gửi tiết kiệm từ người dân với mức lãi suất cao hơn hoặc vay vốn trên thị trường

liên ngân hàng từ các NHTM lớn.

Hình 3.4. Thị phần cho vay của các

4,7 2,2

7,7 0,9

49

51,8

41,3

42,4

Hình 3.5. Thị phần huy động của các tổ chức tài chính tổ chức tài chính

Nguồn: Ủy ban giám sát tài chính quốc gia (2017)

111

Cụ thể, trong tổng số 125 tổ chức tín dụng (bao gồm 99 ngân hàng và 26

công ty tài chính và cho thuê tài chính) thì riêng các NHTM Nhà nước có cổ phần

chi phối (7 ngân hàng) đã chiếm khoảng 49% thị phần huy động vốn và 52% thị

phần cho vay, và vì thế có khả năng tác động đến mặt bằng lãi suất cho vay và lãi

suất huy động của toàn bộ thị trường, thể hiện khả năng chi phối thị trường của

khối ngân hàng này.

70

60

50

40

30

20

10

0

2008

2009

2010

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

Hình 3.6. Mức độ tập trung tài sản của 5 NHTM lớn nhất Việt Nam (%)

Nguồn: Federal Reserve Bank of St. Louis

Nếu xét trên góc độ quy mô tổng tài sản thì 5 NHTM lớn nhất của Việt

Nam đã chiếm khoảng 40-50% tổng tài sản của toàn bộ hệ thống ngân hàng (99

ngân hàng). Điều này càng chứng tỏ hệ thống ngân hàng có mức độ tập trung cao, một

số ít các ngân hàng có quy mô và tầm ảnh hưởng lớn, có khả năng chi phối thị trường.

3.1.3. Thị trường tài chính chưa hoàn thiện

Về thị trường tiền tệ

Số lượng các công cụ giao dịch trên thị trường còn hạn chế, chủ yếu là Tín

phiếu Kho bạc và Tín phiếu NHNN. Đây là những công cụ có tính thanh khoản

cao, an toàn và vì thế được các TCTD nắm giữ như là nguồn dự trữ thứ cấp, đồng

thời cũng là công cụ quan trọng giúp NHNN điều hành CSTT. Tín phiếu Kho bạc

thường có thời hạn 13, 26 và 52 tuần, do Ngân hàng Nhà nước làm đại lý phát

hành, và giao dịch thứ cấp được thực hiện trên sàn giao dịch điện tử tại Sở giao

dịch chứng khoán Hà Nội. Tín phiếu Kho bạc và trái phiếu Chính phủ với thời

gian còn lại dưới 1 năm cũng thường được sử dụng làm chứng khoán đảm bảo

trong các hợp đồng mua lại (repo). Các giao dịch mua lại này tăng đều qua các

112

năm và chiếm khoảng 38% tổng giá trị giao dịch. (ADB, 2018). Các công cụ ngắn

hạn khác như chứng chỉ tiền gửi, hối phiếu… có số lượng phát hành hạn chế, đồng

thời ít được giao dịch trên thị trường thứ cấp.

Hình 3.7. Quy mô thị trường trái phiếu Việt Nam

60

50

40

30

20

10

0

Trái phiếu Chính phủ

Trái phiếu doanh nghiệp

Tín phiếu NHNN

Đơn vị: tỷ USD

Nguồn: Asian Bond online (ADB)

Thị trường liên ngân hàng có sự phân đoạn thị trường bởi các thành viên được chia thành hai nhóm chuyên đi vay và nhóm chuyên cho vay. Nhóm chuyên đi vay, nhận tiền gửi trên thị trường chủ yếu là các TCTD nhỏ (các TCTD cổ phần), nhóm chuyên cho vay là một số TCTD lớn (Ngoại thương, Công thương, Á Châu) đã trở thành những “trung tâm” cung ứng nguồn vốn khả dụng. Thêm vào đó, sự tồn tại tình trạng phân nhóm theo loại hình TCTD (TCTDNN, TCTDCP,

chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh) càng làm cho thị trường

trở nên manh mún, phân tán và kém hiệu quả. Các TCTD trong nhóm thường sẵn

sàng hỗ trợ nhau khi gặp khó khăn về vốn khả dụng với các điều kiện cho vay đơn

giản hơn. Nhóm các chi nhánh ngân hàng nước ngoài cho vay, gửi tiền trong

nhóm với mức lãi suất thấp hơn so với các nhóm khác.

Về thị trường vốn

Thị trường cổ phiếu có sự tăng trưởng về số lượng công ty niêm yết, giá cổ

phiếu cũng như thanh khoản thị trường, tuy nhiên quy mô thị trường còn hạn chế.

113

Về số lượng niêm yết, theo số liệu báo cáo từ các sở giao dịch, số lượng các

công ty niêm yết tại cả 3 sàn là: Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội, Sở giao dịch

chứng khoán TP HCM và cả Sàn giao dịch UpCom đều có sự gia tăng qua các

năm. Tính đến cuối năm 2018, tổng số lượng công ty niêm yết trên ba sàn là 1550,

tăng 83,65% so với cuối năm 2014. Trong đó, số lượng công ty niêm yết giao dịch

trên sàn UpCom tăng trưởng đột biến, số lượng công ty niêm yết đạt mức 803 vào

năm 2018, tăng 3,75 lần so với 2014. Trong số các công ty niêm yết trên hai sàn

chính thức, khoảng 1/3 số đó là các công ty có Nhà nước chiếm cổ phần chi phối.

1800 1600 1400 1200 1000 800 600 400 200 0

HOSE

HNX

Upcom

Hình 3.8. Số lượng doanh nghiệp niêm yết thị trường chứng khoán Việt Nam

Nguồn: Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội

Về thanh khoản thị trường, quy mô các giao dịch cổ phiếu tăng đều qua các

năm thể hiện tính thanh khoản của thị trường ngày càng được cải thiện. Tuy nhiên,

so với các quốc gia khác trong khu vực Đông Nam Á hay các quốc gia có thu nhập

thấp và trung bình thì quy mô giao dịch này là tương đối thấp. Tổng giá trị cổ

phiếu giao dịch trên thị trường/GDP đến cuối năm 2018 là 21%, trong khi tỷ lệ

này tại các quốc gia khu vực Đông Nam Á và các quốc gia thu nhập thấp trung

bình lần lượt là 85% và 27%. Điều này thể hiện là quy mô các giao dịch cũng như

quy mô thị trường còn khá khiêm tốn.

114

400

300

200

100

0

2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018

Việt Nam

Nước đang phát triển Đông Á TBD

Nước thu nhập thấp và trung bình

Hình 3.9. Tổng giá trị cổ phiếu được giao dịch trên thị trường/GDP (%)

Nguồn: Cơ sở dữ liệu World Bank Thị trường trái phiếu chủ yếu giao dịch trái phiếu chính phủ, tập trung ở kỳ

hạn ngắn và đối tượng tham gia chủ yếu là là NHTM.

Về công cụ, thị trường trái phiếu chủ yếu thực hiện giao dịch hai loại là

Trái phiếu chính phủ (TPCP) (bao gồm cả trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh và TPCQĐP) và Trái phiếu doanh nghiệp (TPDN). Với vai trò là kênh huy động vốn trung - dài hạn cho nền kinh tế, thông thường, tỷ lệ giao dịch giữa TPCP và TPDN không chênh lệch quá nhiều tại các quốc gia có thị trường tài chính phát triển. Tuy nhiên, tại Việt Nam thì tỷ lệ này có mức chênh lệch khá rõ ràng, phản ánh sự chi phối thị trường đến từ phân khúc TPCP.

Hình 3.10. Quy mô thị trường trái phiếu sơ cấp giai đoạn 2006-2018

15

10

5

0

20062007 200820092010 20112012 201320142015 20162017 2018

Trái phiếu chính phủ

Trái phiếu doanh nghiệp

Đơn vị: tỷ USD

Nguồn: Asian Bond Online (ADB)

115

Về kỳ hạn, theo số liệu thống kê trên thị trường quốc tế, kỳ hạn thông thường

của trái phiếu là khoảng 3-10 năm, đôi khi có những đợt phát hành với kỳ hạn lên tới

10-30 năm. Tuy nhiên, thực tế hiện nay ở Việt Nam cho thấy thị trường trái phiếu chưa

thực sự là kênh huy động vốn dài hạn cho nền kinh tế mà chủ yếu vẫn là các kỳ hạn

ngắn (trái phiếu có kỳ hạn dưới 5 năm chiếm hơn 80% lượng phát hành. Điều này cho

thấy các nhà đầu tư trên thị trường hiện nay đa số tập trung vào phân khúc trái phiếu kỳ

hạn ngắn. Tuy nhiên, từ 2014 trở lại đây, với những động thái tích cực và chủ động từ

phía Kho bạc Nhà nước khi tập trung phát hành trái phiếu với thời hạn từ 5 năm đến 30

năm, kỳ hạn phát hành bình quân Trái phiếu chính phủ đã có sự cải thiện rõ rệt. Kỳ hạn

phát hành bình quân đã tăng từ 8,7 năm trong 2016 lên đến 13,5 năm trong 2017. Trái

phiếu với kỳ hạn từ 10 năm trở lên cũng thu hút sự tham gia của các nhà đầu tư, với tỷ

lệ trúng thầu lên đến 80%. (Ủy ban giám sát tài chính quốc gia, 2017).

120,00%

100,00%

80,00%

60,00%

40,00%

20,00%

0,00%

2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018

1-3 năm

3-5 năm

5-10 năm

> 10 năm

Hình 3.11. Tỷ trọng trái phiếu đấu thầu thành công theo kỳ hạn

Nguồn: Asia Bond Online (ADB)

Về thành viên tham gia, thị trường trái phiếu Việt Nam đã xuất hiện các

nhóm nhà đầu tư cơ bản, nhưng mức độ tham gia của các nhà đầu tư này chưa

thực sự chuyên nghiệp. NHTM hiện đang là nhóm nhà đầu tư lớn nhất trên thị

trường khi nắm giữ khoảng trên 80% lượng TPCP. Tuy nhiên, nhu cầu đầu tư của

các ngân hàng lại phụ thuộc vào hoạt động kinh doanh chính là cho vay, khiến

nguồn vốn này không có tính ổn định, có thể giảm xuống đột ngột bất cứ lúc nào

và không đem lại sự phát triển bền vững như mong muốn cho thị trường. Trong

116

khi đó, các công ty bảo hiểm, đặc biệt là bảo hiểm nhân thọ được coi là một nhà

đầu tư tiềm năng trên thị trường trái phiếu. Mặc dù vậy, quy mô thị trường bảo

hiểm còn thấp, doanh thu phí bảo hiểm chỉ đạt khoảng 1,4% GDP khiến công ty

bảo hiểm chỉ nắm khoảng 5% thị phần. Nhóm nhà đầu tư khác trên thị trường là

các quỹ đầu tư cũng chỉ nắm giữ khoảng 6-7% dư nợ trái phiếu, phân bổ tới những

loại hình quỹ khác nhau trong và ngoài nước. Thêm vào đó, thị trường chưa thu

hút được khối đầu tư ngoại, các nhà đầu tư nước ngoài mới quay lại thị trường

trong nước từ cuối năm 2012, và tính đến thời điểm cuối năm 2017 thì tỷ trọng

nắm giữ trái phiếu của nhà đầu tư ngoại chỉ khoảng 5%.

3.1.4. Hệ thống giám sát phân tán

Hiện nay, hệ thống giám sát Việt Nam được tổ chức theo mô hình phân tán,

các cơ quan quản lý và giám sát được thành lập và vận hành nhằm giám sát một

loại định chế tài chính và khu vực thị trường nhất định trong tổng thể hệ thống tài

chính. Hệ thống giám sát hiện nay có sự tham gia trực tiếp của bốn cơ quan là

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNNVN), Bộ Tài chính, Bảo hiểm tiền gửi và

Ủy ban giám sát tài chính quốc gia. Các cơ quan này lần lượt thực hiện giám sát ba lĩnh

vực hoạt động của hệ thống tài chính là ngân hàng, chứng khoán và bảo hiểm.

Đối với lĩnh vực hoạt động ngân hàng, NHNN Việt Nam với tư cách là

Ngân hàng trung ương sẽ thực hiện giám sát chính thông qua: “Kiểm tra, thanh

tra, giám sát ngân hàng, xử lý vi phạm pháp luật về tiền tệ và ngân hàng theo quy

định của pháp luật” (Khoản 11, Điều 4, Luật NHNNVN số 46/2010/QH12). Hoạt

động giám sát này sẽ được thực hiện bởi Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng,

thuộc NHNNVN. Bên cạnh NHNNVN, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam cũng tham

gia giám sát lĩnh vực ngân hàng. Nội dung giám sát chủ yếu của Bảo hiểm tiền gửi

là: (i) kiểm tra sự tuân thủ các quy định về bảo hiểm tiền gửi và (ii) kiểm tra sự

tuân thủ quy định về đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng, trên cơ sở đánh giá

các rủi ro trong hoạt động ngân hàng.

Đối với lĩnh vực chứng khoán, Bộ Tài chính sẽ là cơ quan chịu trách nhiệm

chính giám sát mảng hoạt động này. Trong đó, Ủy ban chứng khoán Nhà nước,

đơn vị thuộc Bộ Tài chính sẽ thực hiện giám sát tuân thủ các quy định về chứng

khoán của các tổ chức và cá nhân tham gia gao dịch trên thị trường chứng khoán,

117

đồng thời, giám sát hoạt động của các định chế thị trường như Sở giao dịch chứng

khoán, trung tâm lưu ký.

Đối với lĩnh vực bảo hiểm, Bộ Tài chính cũng là cơ quan thực thi quản lý

giám sát thông qua Cục Quản lý và Giám sát Bảo hiểm trực thuộc Bộ. Cục này

“có chức năng giúp Bộ trưởng Bộ tài chính thực hiện quản lý nhà nước đối với

lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm trong phạm vi cả nước, trực tiếp quản lý, giám sát

hoạt động kinh doanh bảo hiểm và các hoạt động dịch vụ thuộc lĩnh vực kinh

doanh bảo hiểm theo quy định của pháp luật”.

Ủy ban giám sát tài chính quốc gia là tổ chức giám sát đặc biệt, không phải

là một cơ quan ngang bộ mà là một cơ quan có tư cách pháp nhân. Tổ chức này có

chức năng “tham mưu, tư vấn cho Thủ tướng chính phủ trong điều phối giám sát

thị trường tài chính quốc gia (ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm), giúp Thủ tướng

Chính phủ giám sát chung thị trường tài chính quốc gia.”

Hình 3.12. Hệ thống giám sát tài chính tại Việt Nam

Nguồn: Tô Ngọc Hưng (2010)

Như vậy, hệ thống tài chính Việt Nam với những đặc điểm cơ bản: (i) dựa

vào ngân hàng; (ii) hệ thống ngân hàng có mức độ tập trung cao; (iii) thị trường tài

chính chưa hoàn thiện và (iv) hệ thống giám sát phân tán trong đó, NHNN và Bộ

118

Tài chính cùng thực hiện giám sát hệ thống tài chính khá tương đồng với đặc điểm

của Indonesia. Khu vực ngân hàng có vai trò rất quan trọng trong phát triển cũng

như đảm bảo sự lành mạnh nói chung của hệ thống tài chính, tuy nhiên hoạt động

hệ thống ngân hàng Việt Nam còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, chưa có được sự lành

mạnh và khả năng chống đỡ rủi ro cao như Indonesia. Từ những đặc điểm này,

Việt Nam có thể học hỏi kinh nghiệm của Indonesia trong việc thiết lập khung ổn

định tài chính cũng như cách thức xác định mức độ ổn định hệ thống theo hướng

tiếp cận vi mô kết hợp với sử dụng chỉ số ổn định tài chính tổng hợp.

3.2. Thực trạng thiết lập bộ chỉ số đo lường ổn định tài chính tại Việt Nam

3.2.1. Thực trạng tổ chức quản lý

Ngân hàng Nhà nước là cơ quan thực hiện chức năng ổn định tiền tệ - tài

chính. Mặc dù là một nền kinh tế nhỏ, đang phát triển nhưng Việt Nam cũng là quốc

gia có độ mở tài chính lớn, thị trường vốn thu hút khá nhiều các dòng vốn đầu tư

trực tiếp cũng như gián tiếp từ nước ngoài. Những biến động của kinh tế thế giới vì

thế cũng ảnh hưởng không nhỏ đến thị trường và hoạt động của các tổ chức tài

chính trong nước. Nhận thức được tầm quan trọng của mục tiêu ổn định tài chính,

Chính phủ Việt Nam đã ban hành Nghị định số 156/2013/NĐ-CP ngày 11/11/2013

và Nghị định số 16/2017/NĐ-CP ngày 17/02/2017 quy định chức năng, nhiệm vụ,

quyền hạn và cơ cấu tổ chức của NHNN, theo đó, NHNN có chức năng tổng hợp,

phân tích, dự báo tình hình tiền tệ, tài chính, từ đó đề xuất các biện pháp ngăn ngừa

rủi ro có tính hệ thống trong lĩnh vực tiền tệ tài chính, xây dựng chính sách, biện

pháp ứng phó với khủng hoảng, đảm bảo ổn định hệ thống tài chính và Vụ Ổn định

tiền tệ - tài chính thuộc NHNN được thành lập theo Nghị định số 156/2013/NĐ-CP

và Quyết định 991/QĐ-NHNN ngày 18/05/2017 để tham mưu, giúp Thống đốc thực

hiện chức năng này. Đây không chỉ là xu hướng của nhiều quốc gia đi trước khi

phát triển bộ phận chuyên trách về ổn định tài chính thuộc NHTW mà còn khá phù

hợp với điều kiện thực tế của quốc gia. Cho đến nay, hệ thống ngân hàng vẫn đóng

vai trò cốt lõi trong hệ thống tài chính khi tổng quy mô tín dụng của hệ thống chiếm

đến hơn 80% tổng vốn cung ứng ra nền kinh tế hàng năm. Hệ thống ngân hàng có

ổn định thì mới đảm bảo khu vực tài chính ổn định, và điều này phụ thuộc nhiều

vào sự khả năng quản lý, giám sát của NHNN.

119

Hệ thống tài chính được giám sát bởi NHNN và Bộ Tài chính. Cũng giống

như các quốc gia trên thế giới, hoạt động của hệ thống tài chính Việt Nam được

chia thành 3 mảng, lĩnh vực chính, bao gồm: ngân hàng, chứng khoán và bảo

hiểm. Hiện nay, Việt Nam đang thực hiện giám sát hệ thống tài chính theo mô

hình phân tán chuyên ngành, theo đó hệ thống tài chính được giám sát bởi hai cơ

quan chính là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Bộ Tài chính. Trong đó, NHNN

thực hiện quản lý lĩnh vực ngân hàng thông qua Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân

hàng thuộc Ngân hàng Nhà nước. Hai lĩnh vực còn lại là chứng khoán và bảo hiểm

do Bộ Tài chính thực hiện quản lý thông qua hai đơn vị chuyên trách thuộc Bộ là

Cục quản lý, giám sát bảo hiểm và Ủy ban chứng khoán Nhà nước (UBCKNN).

Như vậy, mặc dù NHNN là cơ quan chịu trách nhiệm thực thi mục tiêu ổn định tài

chính, nhưng việc giám sát các hoạt động của các tổ chức, các giao dịch tài chính

lại được thực hiện bởi cả NHNN và Bộ Tài chính.

Hiệu quả phối hợp quản lý giữa các cơ quan là chưa cao. Với mô hình

giám sát phân tán chuyên ngành như hiện nay, thì sự phối hợp giữa NHNN, Bộ

Tài chính và các cơ quan khác liên quan (Ủy ban giám sát tài chính quốc gia-

UBGSTCQG, Bảo hiểm tiền gửi…) là yếu tố vô cùng quan trọng để giúp đạt được

mục tiêu ổn định tài chính. Trên thực tế, sự phối hợp giữa các cơ quan này được

thực hiện theo 4 kênh chính thức: (i) các thông tư liên tịch về phối hợp quản lý,

giám sát, xử lý vi phạm hoặc thực hiện một chính sách, hoạt động nghiệp vụ nhất

định; (ii) cơ chế lấy ý kiến đóng góp của các bên liên quan đối với một chế độ,

chính sách, dự thảo văn bản pháp quy; (iii) hoạt động của UBGSTCQG với vai trò

là đầu mối phối hợp toàn công tác giám sát trên thị trường tài chính ;và (iv) cơ chế

chia sẻ thông tin. Theo Phạm Tiên Phong và cộng sự (2015), hiệu quả các kênh

phối hợp giữa các cơ quan quản lý này là chưa hiệu quả. Cụ thể:

- Về các thông tư liên tịch phối hợp: Đây được coi là công cụ hữu hiệu để

hỗ trợ các cơ quan quản lý trong việc giám sát hệ thống tài chính, tuy nhiên, kênh

này chưa đạt được hiệu quả như mong muốn.

- Về cơ chế lấy ý kiến đóng góp của các bên liên quan về dự thảo văn bản:

Đây là kênh phối hợp chính được sử dụng chủ yếu trong hoạch định chính sách

giám sát tài chính, tuy nhiên kênh này gặp phải một số khó khăn như: (i) chất

120

lượng ý kiến đóng góp phụ thuộc vào mức độ quan tâm cũng như hiểu biết, trình

độ của cán bộ trực tiếp xử lý công văn lấy ý kiến; (ii) các ý kiến đưa ra thường

xuất phát từ quan điểm của Bộ, ngành riêng lẻ chứ chưa đứng trên quan điểm toàn

diện, vì lợi ích chung của hệ thống tài chính; (iii) việc lấy ý kiến thường hướng tới

sự đồng thuận thông qua văn bản hơn là hướng sự hoàn thiện và hiệu quả tối ưu

của văn bản đó.

- Về hoạt động của UBGSTCQG với vai trò đầu mối phối hợp: Sự ra đời

của UBGSTCQG nhằm mục đích khắc phục nhược điểm của cơ chế giám sát phân

tán chuyên ngành thông qua việc thực thi giám sát hợp nhất thị trường tài chính và

các tập đoàn tài chính. Tuy nhiên, UBGSTCQG hoạt động chủ yếu dưới hình thức

tư vấn giám sát giúp cho Chính phủ chứ không phải là cơ quan ngang Bộ nên

không có vị thế pháp lý để thực hiện giám sát chuyên sâu. Sự thiếu hụt về thẩm

quyền, nhân lực và các thông tin khiến việc giám sát của UBGSTCQG gặp nhiều

khó khăn và hiệu quả chưa cao.

- Về cơ chế chia sẻ thông tin: Về mặt pháp lý, đã có một số các văn bản

pháp quy được ban hành từ Chính phủ cũng như những thỏa thuận của giữa các

Bộ, NHNN và các tổ chức khác liên quan đến công tác phối hợp, chia sẻ thông tin

phục vụ cho điều hành nói chung như:

+ Nghị định số 82/2007/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 23/5/2007

quy định về việc cung cấp thông tin phục vụ xây dựng và điều hành chính sách

tiền tệ quốc gia, trong đó yêu cầu các Bộ và các tổ chức như Bảo hiểm tiền gửi…

phải định kỳ cung cấp các thông tin, dữ liệu cho NHNN để phục vụ công tác điều

hành chính sách tiền tệ.

+ Quy chế Phối hợp công tác và trao đổi thông tin được ký kết ngày

29/2/2012 giữa Bộ Tài chính và NHNN cùng với “Bản ghi nhớ về trao đổi thông

tin quản lý” ký ngày 26/12/2012 giữa UBCKNN và Cơ quan thanh tra giám sát

ngân hàng thuộc NHNN.

+ Quy chế số 9078/BKHĐT-NHNN-BTC-BCT ngày 2/12/2014 được ký

kết bởi 4 đơn vị là Bộ Kế hoạch Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính và Bộ

121

Công thương nhằm tăng cường phối hợp trong quản lý điều hành kinh tế vĩ mô.

Trong đó, các đơn vị thực hiện cung cấp thông tin cho các Bộ khác theo danh mục

được phân công đúng thời gian quy định.

Trên thực tiễn, quá trình chia sẻ thông tin còn nhiều khó khăn do một số

nguyên nhân: sự không thống nhất về mẫu biểu báo cáo, một số các chỉ tiêu không

có dữ liệu, thông tin, các dữ liệu mang tính vĩ mô, thiếu chuyên sâu, thiếu chế tài

xử lý đối với các đơn vị không thực hiện đúng cam kết… Đây cũng là một trở ngại

lớn cho NHNN trong việc thu thập dữ liệu, tính toán các chỉ tiêu đo lường mức độ

ổn định của hệ thống tài chính như một phần của chính sách an toàn vĩ mô.

3.2.2. Thực trạng thiết lập bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính

Mặc dù nhiệm vụ giám sát an toàn hệ thống tài chính nhằm mục tiêu ổn

định tài chính đã được giao cho NHNN (Nghị định 156/2013/NĐ-CP ngày

11/11/2013) và việc thực thi các công cụ nhằm đảm bảo mục tiêu này được giao

cho Vụ Ổn định tiền tệ - tài chính (Quyết định 333/QĐ-NHNN ngày 27/02/2014),

nhưng hiện nay khuôn khổ thực hiện chính sách an toàn vĩ mô chưa được chính

thức triển khai. Vì vậy, việc thiết lập bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống Việt

Nam vẫn đang trong giai đoạn nghiên cứu, thử nghiệm, chưa có các công bố chính

thức từ cơ quan điều hành. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian này, các tổ chức như

Vụ Ổn định tiền tệ - tài chính và Cơ quan thanh tra giám sát cũng đã đề xuất

những bộ chỉ số với mục tiêu đánh giá sự lành mạnh của hệ thống ngân hàng và sự

ổn định vĩ mô của Việt Nam. Bên cạnh đó, bộ chỉ số lành mạnh tài chính FSIs

cũng là được sử dụng trong một số báo cáo và nghiên cứu của các nhà kinh tế độc

lập để đánh giá sức khỏe của hệ thống ngân hàng.

3.2.2.1. Bộ chỉ số lành mạnh tài chính FSIs của IMF

Trên cơ sở gợi ý của IMF, Việt Nam đã tính toán một số các chỉ tiêu trong

bộ chỉ số lành mạnh tài chính FSIs từ năm 2008 và được công bố trên website của

IMF. Tuy nhiên, các chỉ số FSIs của Việt Nam không đầy đủ mà chủ yếu tập trung

vào đo lường sự ổn định khu vực ngân hàng. Mặc dù bộ chỉ số này chưa được các

122

cơ quan điều hành sử dụng như một công cụ đo lường ổn định chính thức tại Việt

Nam, FSIs vẫn được sử dụng khá phổ biến trong các nghiên cứu nói chung.

- Bộ chỉ số này được ứng dụng một phần trong các Báo cáo giám sát thị

trường tài chính (ngân hàng, chứng khoán và bảo hiểm) và Báo cáo tổng quan thị

trường tài chính của Ủy ban giám sát tài chính quốc gia. (Nguyễn Thị Ngọc Hà và

cộng sự, 2014). Báo cáo tình hình ổn định khu vực tài chính của ADB cho Việt

Nam cũng sử dụng bộ chỉ số FSIs để xác định những thách thức cho sự ổn định

của khu vực tài chính. (ADB, 2015).

- Các nghiên cứu độc lập về đánh giá sức khỏe và mức độ lành mạnh của

các tổ chức tài chính Việt Nam cũng sử dụng bộ chỉ số FSIs như thước đo cho sự

ổn định của hệ thống ngân hàng. Nguyễn Đức Thành và Vũ Minh Long (2014), áp

dụng bộ chỉ số này trong đánh giá sức khỏe của hệ thống ngân hàng Việt Nam cho

giai đoạn 2008-2012. Nguyễn Thị Minh Huệ (2012) áp dụng 10 chỉ tiêu lõi trong

bộ chỉ số FSIs để khảo sát mức độ lành mạnh của 34 NHTM Việt Nam. Nghiên

cứu của Phan Thị Linh và Trần Thị Vân Trà (2019), sử dụng 7 chỉ tiêu trong bộ

chỉ số này để phân tích sự lành mạnh của khu vực ngân hàng cho năm 2018 bao

gồm: ROA, tỷ trọng vốn/ tổng tài sản, tỷ trọng cho vay bất động sản, tỷ lệ cho

vay/ tổng tiền gửi và lãi suất liên ngân hàng.

- Một số khó khăn và thách thức trong việc tính toán chỉ số FSIs được các

nghiên cứu chỉ ra bao gồm: (i) các báo cáo ngân hàng không đầy đủ, một số ngân

hàng thiếu thuyết minh báo cáo tài chính, nên thiếu dữ liệu để tính toán các chỉ số

tỷ lệ vốn tự có/ tổng tài sản có rủi ro quy đổi, tỷ lệ vốn tự có cấp 1/ tổng tài sản có

rủi ro quy đổi, trạng thái ngoại tệ ròng/ tổng vốn và tỷ trọng dư nợ tín dụng theo

lĩnh vực kinh tế và các chỉ số thanh khoản (Nguyễn Đức Thành và Vũ Minh Long,

(2014), Nguyễn Thị Minh Huệ (2012)); (ii) khác biệt về chuẩn mực kế toán VAS

với IAS/IFRS nên các dữ liệu về vốn chủ sở hữu, dự phòng rủi ro tín dụng và nợ

xấu khác nhau và một số ngân hàng chưa hoạch toán tài sản tài chính theo chuẩn

mực IAS 39 nên việc ghi nhận một số khoản mục như giá trị trái phiếu đặc biệt,

123

giá trị công cụ tài chính phái sinh hay tổng tài sản chưa chính xác (Nguyễn Thị

Ngọc Hà và cộng sự, 2014).

- Bộ chỉ số FSIs có ưu điểm trong việc đo lường sự lành mạnh của hệ thống

ngân hàng, các chỉ số cũng bao phủ các rủi ro vi mô cơ bản mà các ngân hàng Việt

Nam phải đối mặt. Tuy nhiên, bộ chỉ số này chưa có những chỉ tiêu đo lường mức

độ liên kết giữa các ngân hàng bởi sự lan truyền rủi ro trong hệ thống là rất lớn,

đặc biệt với hệ thống ngân hàng có mức độ tập trung cao như Việt Nam. Các chỉ

số về gia tăng tín dụng, mức độ tập trung tín dụng, cơ cấu tín dụng cũng chưa

được tính toán trong khi đây cũng là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến

rủi ro cho hệ thống ngân hàng và tác nhân gây khủng hoảng.

Bảng 3.2. Chỉ số ổn định tài chính cơ bản của Việt Nam

2008

2009

2010

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018 12.1

13.9

12.0

11.3

12.9

11.8

13.4

11.8

12.8

12.6

12.1

9.6

13.7

11.9

10.4

11.9

12.9

12.1

10.6

10.1

9.4

8.8

9.8

7.9

6.9

7.3

10.2

14.8

12.8

14.2

11.0

11.4

10.7

2.2

1.8

2.1

2.8

3.4

3.1

2.9

2.3

2.3

1.8

1.9

3.6

4.1

3.9

6.1

10.6

8.6

8.2

5.4

5.0

5.1

3.3

96.4

95.9

96.1

93.9

89.4

91.4

91.8

94.6

95

94.9

96.7

1.4 15.3

1.6 18.4

1.6 17.7

1.5 16.4

0.8 8.2

0.5 5.8

0.3 3.2

0.4 5.4

0.5 6.6

0.6 8.3

1.0 13.1 69

69.1

67.3

72.0

79.3

79.6

73.4

69.4

74.4

72.3

70.2

46.7

45.6

48.2

47.0

48.1

55.6

55.1

56.7

55.8

55.3

51

31.6

28.4

29.0

13.3

13.4

13.0

15.5

13.2

13.2

12.7

12.2

Chỉ tiêu VTC/TSCRR quy đổi VTC cấp 1/TSCRR quy đổi Nợ xấu/Dự phòng rủi ro Tỷ lệ nợ xấu Tỷ lệ cho vay lĩnh vực: Tổ chức nhận tiền gửi Tỷ lệ cho vay lĩnh vực: Doanh nghiệp phi tài chính ROA ROE Chênh lệch lãi/Thu nhập Chi phí phi lãi/Thu nhập Tài sản thanh khoản/Tổng tài sản (Tỷ lệ tài sản sản thanh khoản)

Nguồn: Financial Soundness Indicators, IMF Data

124

Bảng 3.3. Chỉ số ổn định tài chính bổ sung của Việt Nam

Chỉ tiêu

2008 9.0 0.5

2009 8.6 0.3

2010 8.9 0.2

2011 9.3 0.5

2012 9.9 0.2

2013 9.5 0.1

2014 8.8 0.1

2015 8.3 0.2

2016 7.8 0.2

2017 7.4 0.3

2018 8.0 0.1

0.0

0.4

3.2

0.1

0.1

0.1

0.3

6.3

0.1

0.1

0.1

9.2

9.8

5.0

2.7

0.7

5.5

6.7

3.0

4.8

5.6

6.5

94.3

92.8

91.6

88.5

89.6

89.9

84.5

87.2

87.7

87.4

84.5

khách

gửi

111.3 102.7 101.8 100.5 111.7 122.4 128.0 125.5 122.9 117.7

114.5

21.9

16.5

11.4

9.5

8.0

13.4

13.4

10.5

8.7

8.1

8.2

10.7

7.8

7.5

7.9

8.5

9.2

7.7

5.4

7.1

Vốn/ Tài sản Vị thế thuần của các tài sản tài chính phái sinh/Vốn Vị thế thuần của nợ tài chính phái sinh/Vốn Thu kinh doanh/Tổng thu nhập Chi phí nhân sự/Chi phí phi lãi Tiền hàng/Tổng cho vay Cho vay ngoại tệ/Tổng cho vay Cho vay BĐS thương mại/Tổng cho vay

Nguồn: Financial Soundness Indicators, IMF Data

3.2.2.2. Bộ chỉ số an toàn vĩ mô MPIs của Vụ Ổn định tài chính tiền tệ

Trên cơ sở gợi ý của các tổ chức quốc tế như IMF, ADB và ECB, Vụ Ổn

định tài chính tiền tệ thuộc NHNN đã nghiên cứu và ban hành Quy chế nội bộ về

việc xây dựng và báo cáo Bộ chỉ số an toàn vĩ mô theo Quyết định số 13/QĐ-

ODTTTC3 ngày 15/12/2017. Trong đó, bộ chỉ số an toàn vĩ mô bao gồm những

chỉ số thống kê đánh giá sức khỏe và sự ổn định của hệ thống tài chính trước các

cú sốc bắt nguồn từ diễn biến kinh tế trong và ngoài nước và khu vực phi tài

chính, kiểm soát tính dễ bị tổn thương của khu vực tài chính phát sinh từ rủi ro thị

trường, thanh khoản, tín dụng; và đánh giá khả năng hấp thụ tổn thất của khu vực

tài chính, từ đó xây dựng khuôn khổ chính sách an toàn vĩ mô, hệ thống cảnh báo

sớm. Vụ Ổn định tiền tệ - tài chính đã xây dựng một bộ gồm 81 chỉ số phân tích

an toàn vĩ mô (MPIs) cho Việt Nam bao gồm được chia thành 13 lĩnh vực chính:

khu vực kinh tế vĩ mô (kinh tế thực, cán cân thanh toán, cán cân tài khóa), ngân

hàng, thị trường chứng khoán, các tổ chức tài chính khác, doanh nghiệp, hộ gia

đình và khu vực bất động sản.

- Khu vực kinh tế thực (10 chỉ tiêu): thực hiện đo lường quy mô nền kinh

tế, biến động về mức giá, lãi suất và tỷ giá…Trong đó, một chỉ số mới được đề

cập đến là chỉ số nhà quản trị mua hàng – với mục tiêu đo lường sức khỏe của khu

125

vực sản xuất, từ đó, các cơ quan điều hành sẽ nắm được thông tin về điều kiện

kinh doanh hiện tại của doanh nghiệp.

- Cán cân thanh toán (6 chỉ tiêu): đánh giá mối tương quan hoạt động kinh

tế của quốc gia với khu vực bên ngoài thông qua việc tính toán các cán cân thương

mại, vãng lai, tài khoản vốn, tài khoản tài chính, dự trữ ngoại hối và tỷ lệ nợ công.

- Cán cân tài khóa (5 chỉ tiêu): đánh giá cơ cấu và tình hình tài khóa cũng

như mức độ an toàn tài khóa quốc gia.

- Ngân hàng (25 chỉ tiêu): đánh giá 5 khía cạnh trong hoạt động ngân hàng

về chất lượng tài sản, mức sinh lời, rủi ro thanh khoản, rủi ro tập trung tín dụng và

rủi ro thị trường.

- Thị trường chứng khoán (3 chỉ tiêu): phản ánh biến động giá, quy mô và

mức sinh lời của thị trường.

- Các tổ chức tài chính khác (8 chỉ tiêu): chủ yếu đo lường quy mô, hiệu

quả hoạt động và mức độ an toàn vốn của các tổ chức phi ngân hàng như công ty

bảo hiểm, công ty chứng khoán.

- Khu vực doanh nghiệp (11 chỉ tiêu): đo lường quy mô tăng trưởng, hiệu

quả hoạt động, tình hình vay mượn cũng như khả năng thanh khoản của các doanh

nghiệp.

- Khu vực hộ gia đình (7 chỉ tiêu): đánh giá quy mô vay mượn, chất lượng

vay mượn của các hộ gia đình.

- Khu vực bất động sản (6 chỉ tiêu): đo lường quy mô, mức độ biến động

trên thị trường, cũng như rủi ro tập trung vốn vào thị trường này.

Các chỉ số trong bộ chỉ số MPIs được tính theo phương pháp z-score, nhận

các giá trị trong khoảng từ [-2; 2], trong đó nhận giá trị càng gần 2 phản ánh mức

độ rủi ro cao và càng gần -2 thì rủi ro càng thấp. Các giá trị này được đưa vào bản

đồ nhiệt rủi ro (heatmap) để đánh giá mức độ rủi ro của các chỉ số, các khu vực

(Hà Tú Anh, 2018).

Các chỉ số này được xây dựng và hoàn thiện để đưa vào trong Báo cáo ổn

định tài chính do Vụ Ổn định tài chính tiền tệ xuất bản từ năm 2014 nhưng chưa

được công bố rộng rãi cho công chúng và nhà đầu tư trên thị trường. Bộ chỉ số này

126

đi theo hướng tiếp cận vĩ mô khi đo lường một cách bao quát mức độ lành mạnh

của các khu vực bên trong (ngân hàng, các tổ chức tài chính khác, thị trường

chứng khoán) và bên ngoài hệ thống tài chính (khu vực kinh tế thực, cán cân thanh

toán, tài khoán, doanh nghiệp, hộ gia đình và khu vực bất động sản) và có khả

năng dự báo được rủi ro của các khu vực và hệ thống tài chính. Tuy nhiên, bộ chỉ

số này cũng có một số hạn chế nhất định:

- Bộ chỉ số này được đánh giá là khá cồng kềnh với 81 chỉ tiêu, khó có thể

cập nhật số liệu thường xuyên cũng như phản ánh một cách nhanh chóng mức độ

ổn định hay bất ổn của hệ thống tài chính.

- Một số chỉ tiêu quan trọng chưa được đưa vào trong bộ chỉ số MPIs, cụ

thể trong khu vực kinh tế thực, chưa đề cập sự biến động giá cả trên thị trường (tỷ

lệ lạm phát) vốn là một chỉ tiêu rất quan trọng trong việc phản ánh sự ổn định của

khu vực kinh tế vĩ mô, cũng như có ảnh hưởng lớn đến hoạt động của các tổ chức

và thị trường tài chính; trong cán cân tài khóa không đề cập đến tỷ lệ vay mượn

của quốc gia (tỷ lệ nợ công, tỷ lệ nợ nước ngoài), tỷ lệ bao phủ nợ xấu (dự

phòng/nợ xấu), chỉ tiêu mức độ thanh khoản thị trường chứng khoán (giá trị giao

dịch chứng khoán), các chỉ tiêu về thị trường trái phiếu, biến động lãi suất liên

ngân hàng, chỉ số phản ánh rủi ro lãi suất của ngân hàng….

- Một số chỉ tiêu bị trùng lặp về ý nghĩa như chỉ tiêu cán cân thương mại và

cán cân vãng lai; GDP thực tế và tốc độ tăng trưởng GDP thực; tỷ lệ dư nợ đối với

doanh nghiệp/ hộ gia đình với các tỷ lệ dư nợ; hàng tồn kho bất động sản và tỷ lệ

hấp thụ bất động sản; nợ của hộ gia đình và tỷ lệ nợ của hộ gia đình/ thu nhập; hệ

số khả năng thanh toán lãi vay và khả năng thanh toán nhanh và khả năng thanh

toán ngắn hạn của doanh nghiệp. Trong bộ chỉ số cũng tồn tại một số chỉ tiêu

không thực sự quan trọng hoặc chưa phù hợp với Việt Nam như giá vàng, cán cân

tài khoản tài chính, dự toán ngân sách, các khoản tiết kiệm của hộ gia đình…

3.2.2.3. Bộ chỉ số giám sát ngân hàng BSIs của Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng

Trên cơ sở Bộ chỉ số lành mạnh tài chính FSIs của IMF, Sổ tay giám sát

ngân hàng và Báo cáo đầu ra số 02 (Hệ thống cảnh báo sớm EWS và Hệ thống

xếp hạng tổ chức tín dụng theo CAMELS) của Dự án FSMIMS – Cấu phần

127

“Củng cố chức năng thanh tra, giám sát ngân hàng”, Cơ quan thanh tra giám sát

ngân hàng xây dựng một Bộ chỉ số giám sát (Banking Supervision Indicators)

với mục tiêu theo dõi, phát hiện những nguy cơ rủi ro trong hoạt động của các

ngân hàng. Cụ thể:

- Đánh giá mức độ đầy đủ vốn: xác định mức vốn tối thiểu yêu cầu và

khuyến khích các TCTD duy trì lượng vốn nhiều hơn mức tối thiểu

- Đánh giá khả năng quản lý rủi ro tín dụng: đánh giá chất lượng tài sản và mức độ

đầy đủ các khoản dự trữ và dự phòng rủi ro, mức độ tập trung rủi ro của TCTD

- Đánh giá khả năng quản lý rủi ro thị trường: xác định và đánh giá mức độ

chính xác trong đo lường và kiểm soát rủi ro thị trường của các TCTD

- Đánh giá khả năng quản lý rủi ro lãi suất: đánh giá mức độ rủi ro lãi suất

như thông tin về kỳ hạn, và các loại tiền trong danh mục đầu tư của mỗi ngân hàng

- Đánh giá khả năng quản lý rủi ro thanh khoản: đánh giá khả năng kiểm

soát thanh khoản, phân tích các yêu cầu chi trả trong những tình huống khác nhau,

đa dạng hóa các nguồn vốn huy động, và lập kế hoạch dự phòng của TCTD.

Để đạt được những mục tiêu trên, Bộ chỉ số BSIs được thiết kế với các chỉ

tiêu được dùng trong phân tích, đánh giá các rủi ro trọng yếu của TCTD gồm: rủi

ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro tỷ giá và rủi ro lãi suất. Bên cạnh đó, Cơ

quan thanh tra giám sát ngân hàng còn đưa vào một số chỉ tiêu giúp phản ánh năng

lực quản trị, điều hành cũng như hiệu quả sử dụng vốn của TCTD.

Trong đó, bộ chỉ số BSIs gồm 112 chỉ tiêu, được chia thành 3 nhóm:

- Các chỉ số giám sát tuân thủ (32 chỉ tiêu). Đối với các chỉ số này, cơ quan thanh tra giám sát căn cứ theo các quy định hiện hành của pháp luật, chỉ thị, thông

tư… để đưa ra các ngưỡng giám sát, và kiểm tra xem các TCTD có vi phạm các

giá trị ngưỡng hay không.

- Các chỉ số giám sát rủi ro (47 chỉ tiêu bao gồm chỉ tiêu cốt lõi và chỉ tiêu

khuyến khích), nhằm đánh giá rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro thanh khoản

và hiệu quả hoạt động của TCTD. Để xác định xem các TCTD có đang đối mặt

với nguy cơ rủi ro hay không, cơ quan thanh tra giám sát cũng đưa ra các ngưỡng

tham chiếu. Trong đó, các giá trị ngưỡng này được xác định dựa trên chuỗi dữ liệu

quá khứ, phân nhóm theo khối TCTD, nhóm đồng hạng, tứ phân vị. (Phạm Tiên

128

Phong, 2015). Trong các chỉ tiêu về giám sát rủi ro, vấn đề tín dụng cũng đặc biệt

được Cơ quan Thanh tra giám sát ngân hàng quan tâm khi có hơn một nửa các chỉ

tiêu này liên quan đến hoạt động tín dụng ngân hàng.

- Các chỉ số xếp hạng (40 chỉ tiêu).

Dựa vào đặc thù của hệ thống TCTD, NHNN đã phân chia các TCTD thành

5 nhóm cơ bản: (i) nhóm Ngân hàng liên doanh, ngân hàng 100% vốn nước ngoài,

chi nhánh ngân hàng nước ngoài; (ii) nhóm công ty tài chính, công ty cho thuê tài

chính; (iii) nhóm ngân hàng thương mại, ngân hàng hợp tác xã, ngân hàng thương

mại cổ phần; (iv) nhóm quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô; và (v)

nhóm các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có tầm quan trọng

trong hệ thống. Cơ quan thanh tra giám sát căn cứ vào đó thực hiện xác định ngưỡng tham chiếu đối với một số chỉ tiêu cốt lõi cho từng nhóm TCTD, trên cơ sở đó hoàn thiện mẫu báo cáo giám sát rủi ro tín dụng. Ngưỡng tham chiếu được

xác định dựa trên các quy định hiện hành về giới hạn, tỷ lệ đảm bảo an toàn hoặc giá trị trung bình của nhóm TCTD hoặc toàn bộ hệ thống TCTD hoặc ngưỡng khác theo thông lệ quốc tế.

Như vậy, bộ chỉ số BSIs là một bộ công cụ đắc lực, phục vụ cho công tác thanh tra, giám sát ngân hàng. Cũng giống như bộ chỉ số MPIs ở trên, bộ chỉ số này cũng rất cồng kềnh khi thực hiện tính toán hơn 100 chỉ tiêu nên việc theo dõi và cập nhật bộ chỉ số này cũng mất khá nhiều thời gian. Tuy nhiên, khác với bộ chỉ số MPIs, bộ chỉ số này được thiết lập theo hướng vi mô, chỉ tập trung vào đánh giá sự ổn định và lành mạnh của từng tổ chức, nhóm tổ chức trong hệ thống ngân hàng phục vụ cho mục đích thanh tra, giám sát ngân hàng. Các phương diện đánh giá bao gồm: rủi ro và hiệu quả hoạt động ngân hàng; mức độ tuân thủ và xếp hạng chứ bộ chỉ số không nhằm mục tiêu đánh giá được những rủi ro theo thời

gian, do mối liên kết giữa các ngân hàng, các lĩnh vực trong hệ thống tài chính.

3.2.3. Thực trạng rủi ro cho hệ thống tài chính Việt Nam

Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 đã tác động mạnh mẽ lên môi

trường kinh tế vĩ mô trong và ngoài nước cũng như hệ thống tài chính thế giới. Hệ thống tài chính cũng phải đối mặt với những rủi ro do sự mất cân bằng nội tại của

nền kinh tế cũng như tác động từ bên ngoài. Nguồn rủi ro cho hệ thống tài chính

Việt Nam chủ yếu đến từ khu vực ngân hàng, thị trường tài chính và khu vực kinh tế vĩ mô.

129

Đối với khu vực ngân hàng: Hoạt động của ngân hàng vốn tiềm ẩn nhiều

rủi ro, nhưng đối với các NHTM ở Việt Nam, rủi ro chính yếu vẫn là rủi ro tín

dụng. Ngoài ra, những nguy cơ rủi ro thị trường, rủi ro thanh khoản, sự suy giảm

về lợi nhuận hoặc vốn cũng là những dấu hiệu cho biết sự thiếu an toàn và lành

mạnh trong hoạt động của ngân hàng.

- Rủi ro tín dụng: Tăng trưởng tín dụng cao trong một thời gian dài từ

2008-2010 với tốc độ bình quân 35%/ năm một mặt cung ứng lượng vốn cho nền

kinh tế, nhưng mặt khác cũng tiềm ẩn rủi ro tín dụng cho các ngân hàng. Kết quả

là sau giai đoạn tăng trưởng tín dụng với tốc độ cao này, một loạt các NHTM ở

Việt Nam phải đối mặt với tình trạng nợ xấu. Trong đó, năm 2012 là năm tỷ lệ nợ

xấu ngân hàng đạt mức cao nhất, 4,08% theo báo cáo của NHNN. Điều này chứng

tỏ rủi ro ro tín dụng hệ thống ngân hàng không chỉ ở mức cảnh báo mà thật sự

nguy hiểm đối với sự an toàn của cả hệ thống bởi tình trạng nợ xấu cao đã khiến

các ngân hàng rơi vào tình trạng thanh khoản kém và suy giảm lợi nhuận. Không

chỉ tăng trưởng tín dụng cao trong một thời gian ngắn, các NHTM Việt Nam còn

đối mặt với rủi ro tín dụng do tập trung cho vay với một nhóm các doanh nghiệp

nhà nước, các tập đoàn lớn, có hoạt động phức tạp và rủi ro cao. Trong giai đoạn

này, hai sự kiện quan trọng thể hiện nguy cơ rủi ro tín dụng của ngân hàng, đó là:

50 45 40 35 30 25 20 15 10 5 0

2008

2009

2010

2011

2012

2103

2014

2015

2016

2107

2018

Tăng trưởng tín dụng

Tỷ lệ nợ xấu

Hình 3.13. Tăng trưởng tín dụng và tỷ lệ nợ xấu giai đoạn 2008-2018 Đơn vị: %

Nguồn: Báo cáo thường niên Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

130

Thứ nhất, sự ra đời và hoạt động của Công ty Quản lý tài sản của các tổ

chức tín dụng Việt Nam (VAMC) theo Thông tư 19/2013/TT-NHNN với nhiệm

vụ mua các khoản nợ xấu từ hệ thống ngân hàng thương mại. VAMC bắt đầu mua

các nợ từ các ngân hàng bằng cách phát hành trái phiếu đặc biệt từ cuối năm 2013

và tính đến cuối năm 2018, tổng khối lượng nợ xấu VAMC đã mua là 338.849 tỷ

đồng. Trong đó, tổng số tiền thu hồi được cho đến nay là 119.000 tỷ đồng. Sự xuất

hiện của VAMC được đánh giá là biện pháp giải cứu hệ thống ngân hàng Việt

Nam kịp thời và hiệu quả, tránh cho hệ thống khỏi sự sụp đổ trên diện rộng. Bởi

thực chất, phía sau các khoản nợ xấu này là các doanh nghiệp nhà nước, các tập

đoàn lớn vay mượn tại các tổ chức tín dụng và không thực hiện trả nợ đúng hạn,

gây rủi ro tín dụng lớn cho hệ thống ngân hàng.

Thứ hai, ba ngân hàng thương mại cổ phần bị âm vốn và bị NHNN mua lại

với giá 0 đồng trong năm 2015. Các ngân hàng Xây dựng (VNCB), ngân hàng Đại

Dương (OceanBank) và ngân hàng Dầu khí Toàn cầu (GPBank) đều là các ngân

hàng gặp rủi ro tín dụng ở mức cao, cùng với những sai phạm trong quản lý của

những người điều hành ngân hàng đã khiến các ngân hàng bị rơi vào tình trạng

kiểm soát đặc biệt và bị mua lại. Theo kết quả của Kiểm toán Nhà nước, tỷ lệ nợ

xấu tại các ngân hàng 0 đồng đều ở mức rất cao, trong đó, nợ xấu của VNCB,

OceanBank và GPBank lần lượt là 95%, 72,25% và 59,32%. Các ngân hàng này

đều làm ăn thua lỗ, âm vốn và bị mua lại nhằm ngăn chặn nguy cơ tác động lan

truyền đến các tổ chức khác trong hệ thống.

- Rủi ro thanh khoản: Không chỉ có rủi ro tín dụng, các NHTM Việt Nam

cũng phải đối mặt với nguy cơ rủi ro thanh khoản trong giai đoạn 2010-2011. Lạm

phát cao và không ổn định trong năm các năm trước đó cùng với chính sách tiền tệ

thắt chặt từ NHNN đã khiến các ngân hàng rơi vào tình trạng thiếu thanh khoản

trầm trọng, tỷ lệ tài sản thanh khoản/ tổng tài sản giảm từ 29% năm 2010 xuống

13,3% trong năm 2011. Đồng thời, LSLNH cũng tăng mạnh từ 9,1% lên 13,4%

thể hiện nhu cầu thanh khoản cao của ngân hàng thời điểm này. Có những thời

điểm, LSLNH qua đêm lên mức 37%/ năm trong tháng 11/2011.

131

Hình 3.14. Tỷ lệ tài sản thanh khoản và Lãi suất bình quân liên ngân hàng

35

30

25

20

15

10

5

0

2008

2009

2010

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

Tỷ lệ thanh khoản

Lãi suất liên ngân hàng

Tỷ lệ lạm phát

giai đoạn 2008-2018

Nguồn: IMF Data, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Tổng cục thống kê

Đối với khu vực ngân hàng ngầm: Các hoạt động ngân hàng ngầm tại

Việt Nam mặc dù không đa dạng và phức tạp như Trung Quốc, nhưng cũng có xu

hướng phát triển nhanh trong những năm gần đây. Theo Nguyễn Vân Hà (2016),

dư nợ tín dụng của các hoạt động ngân hàng ngầm này chiếm khoảng 30% tổng dư

nợ tín dụng của hoạt động ngân hàng truyền thống. Ngoài các hoạt động cho vay

ký quỹ, cho vay trên hợp đồng repo chứng khoán của công ty chứng khoán, còn có

các hoạt động ngân hàng ngầm khác như cho vay của các cửa hàng cầm đồ, tín

dụng đen, chơi phường hụi, và đặc biệt là hoạt động cho vay ngang hàng (P2P),

gọi vốn cộng đồng (Crowd funding) trên nền tảng công nghệ tiềm ẩn nhiều rủi ro

cho hệ thống nhưng chưa có những quy định quản lý cụ thể. (Hồ Ngọc Tú, 2017)

Với sự bùng nổ của công nghệ tài chính, hoạt động cho vay ngang hàng chỉ mới

xuất hiện trong vài năm trở lại đây nhưng số lượng các tổ chức tham gia đã lên

đến 40 công ty, với dư nợ cho vay hàng chục nghìn tỷ. Các dịch vụ này giúp các

cá nhân, tổ chức quy mô nhỏ có thể tiếp cận với dịch vụ ngân hàng nhanh chóng,

nhưng chứa đựng rủi ro cao do thiếu hụt khuôn khổ pháp lý, nguy cơ rủi ro đạo

đức của người đi vay, sự thiếu minh bạch thông tin về lợi nhuận, mức lãi suất phi

thực tế, lợi dụng thông tin cá nhân… (Hoàng Thị Duyên và Đỗ Thị Tuyết Mai,

132

2019). Những rủi ro từ hoạt động ngân hàng ngầm này không chỉ ảnh hưởng đến

các tổ chức cung ứng, mà còn có khả năng ảnh hưởng lan truyền đến các tổ chức

cung ứng dịch vụ ngân hàng truyền thống, gây mất ổn định hệ thống tài chính.

Đối với khu vực thị trường tài chính: Trong khoảng 5 năm, từ 2006 đến

2011, thị trường chứng khoán Việt Nam đã trải qua 2 lần giảm điểm nghiêm trọng,

gây suy yếu và gia tăng rủi ro cho hệ thống tài chính. Năm 2006, thị trường chứng

khoán bùng nổ, dòng tiền vào thị trường tăng mạnh giúp cho chỉ số VNIndex tăng

và đạt đỉnh ở mức 1.179 điểm đầu năm 2007. Tuy nhiên, ngay sau giai đoạn bùng

nổ này, thị trường vỡ bong bóng và trải qua hai đợt suy giảm sâu: đợt thứ nhất là

cuối năm 2008, đầu năm 2009 xuống đáy 235,5 điểm (tương ứng với mức giảm

65,9%) và đợt thứ hai là cuối năm 2011, xuống mức 351,55 điểm (tương ứng với

mức giảm 26,57%). Nguyên nhân của những biến động lớn trên thị trường đến từ:

(i) ảnh hưởng tiêu cực từ khủng hoảng tài chính toàn cầu, khủng hoảng nợ công ở

Châu âu và sự sụt giảm của nhiều thị trường chứng khoán lớn trên thế giới (ii) áp

lực lạm phát, lãi suất, tỷ giá tăng cao và chính sách tiền tệ thắt chặt của NHNN;

(iii) sự tăng trưởng nhanh chóng công cụ đòn bảy tài chính cung cấp bởi các công

ty chứng khoán.

200,000

1200

150,000

1000

100,000

800

50,000

600

0,000

400

-50,000

200

-100,000

0

2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018

Chỉ số VNIndex

Tỷ lệ thay đổi VNIndex (%)

Hình 3.15. Chỉ số VNIndex của Việt Nam giai đoạn 2006-2018

Nguồn: Sở giao dịch chứng khoán TP HCM

133

Đối với các khu vực kinh tế vĩ mô:

- Lạm phát tăng cao trong năm 2008 và 2011 do những tác động bên ngoài

(giá cả thế giới, luồng vốn đầu tư nước ngoài,…) và do cả những mất cân bằng

trong nội tại nền kinh tế (tăng trưởng tín dụng cao, đầu tư công kém hiệu quả…)

gây bất ổn định cho môi trường kinh tế vĩ mô, rủi ro cho các chủ thể tham gia thị

trường bởi các thông tin bị bóp méo cũng như rủi ro từ thay đổi chính sách của cơ

quan điều hành nhằm mục tiêu kiểm soát lạm phát.

- Nợ công có xu hướng gia tăng đều đặn qua các năm và đã gần chạm đến

ngưỡng 65% GDP theo quy định của Quốc hội. Sự gia tăng của nợ công sẽ tác

động tiêu cực đến tăng trưởng GDP trên các khía cạnh: (i) gia tăng lãi suất trong

nước do hiệu ứng chèn lấn; (ii) tăng lãi suất vay nợ nước ngoài của Việt Nam nếu

như xếp hạng tín nhiệm bị suy giảm và (iii) giảm ngân sách cho đầu tư công, đầu

tư phát triển. (Phạm Thị Hoàng Anh, 2017).

70

60

50

40

30

20

10

0

2008

2009

2010

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

Nợ công/GDP

Nợ nước ngoài/GDP

Hình 3.16. Nợ công và nợ nước ngoài của Việt Nam giai đoạn 2008-2018 Đơn vị: %

Nguồn: ADB, Bản tin nợ công của Bộ Tài chính

- Thị trường bất động sản trong thời kỳ này cũng trải qua giai đoạn tăng

trưởng nóng, suy giảm, đóng băng và phục hồi. Cơn sốt bất động sản xảy ra vào

thời điểm cuối năm 2007, đầu năm 2008 khi các dòng tiền vào thị trường tăng lên

134

đột biến, giá bất động sản nhà ở và thương mại tăng lên tại các phân khúc, chỉ

trong 3 tháng (từ 12/2007 đến 2/2008) giá đất tăng bình quân 300%. Các công ty

bất động sản tăng lượng cung hàng liên tục nhưng vẫn không đủ đáp ứng nhu cầu

thị trường, đây là dấu hiệu của bong bóng thị trường và rủi ro vỡ bong bong bóng

đã được các chuyên gia và các nhà kinh tế cảnh báo. Đến cuối 2008, khi NHNN

thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, các ngân hàng bị yêu cầu thắt chặt tín dụng

vào thị trường bất động sản và thị trường chứng khoán, dòng vốn suy giảm khiến

thị trường bị vỡ bong bóng, giá nhà đất liên tục sụt giảm và đóng băng trong một

khoảng thời gian sau đó. Sang năm 2010-2011, chu kỳ tăng trưởng và đóng băng

của thị trường lặp lại khi Chính phủ ban hành Nghị quyết số 11 yêu cầu NHNN

giảm tốc độ và tỷ trọng cho vay lĩnh vực phi sản xuất và đặc biệt là lĩnh vực bất

động sản.

Hình 3.17. Chỉ số giá bất động sản trên thị trường Việt Nam

Ghi chú: Chỉ số giá được tính toán trên cơ sở lấy mức giá năm 2014 làm mốc 1.0

Nguồn: IMF (2018)

135

3.3. Đánh giá thực trạng thiết lập bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài

chính tại Việt Nam

3.3.1. Thành công

Mặc dù chưa được công bố chính thức nhưng công tác đo lường mức độ ổn

định của hệ thống tài chính như một phần của việc thực hiện mục tiêu ổn định tài

chính đang được hoàn thiện dần và đạt được những kết quả nhất định:

Thứ nhất, Chính phủ nhận thức được tầm quan trọng của mục tiêu ổn định

tài chính và đã ban hành Nghị định xác định và giao phó nhiệm vụ đảm bảo ổn

định tài chính đối phó với khủng hoảng cho NHNN bằng cách thành lập một đơn

vị mới (Vụ Ổn định tiền tệ - tài chính) nằm trong NHNN.

Thứ hai, cơ chế phối hợp, chia sẻ thông tin giữa các đơn vị, cơ quan quản lý

tham gia vào công tác giám sát đảm bảo ổn định hệ thống tài chính đã cụ thể hóa

thông qua các văn bản pháp lý chính thức từ Chính phủ, Bộ Tài chính, NHNN, Bộ

Kế hoạch đầu tư và Bộ Công Thương. Đây là cơ sở nền tảng giúp cho công tác thu

thập số liệu, xây dựng cơ sở dữ liệu phục vụ cho việc tính toán các chỉ tiêu đo

lường mức độ ổn định của hệ thống tài chính.

Thứ ba, bộ chỉ số an toàn vĩ mô của Vụ Ổn định tiền tệ - tài chính đã được

hình thành với mục tiêu đánh giá sức khỏe và sự ổn định của hệ thống tài chính,

làm cơ sở phát hành Báo cáo ổn định tài chính. Các chỉ tiêu được xây dựng theo

hướng vĩ mô, bao gồm nhiều chỉ số, đo lường bao quát sự lành mạnh và ổn định

của các cấu phần hệ thống tài chính (ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm và thị

trường tài chính) và cả các khu vực khác (kinh tế vĩ mô, doanh nghiệp, hộ gia đình

và khu vực bất đống sản, nhằm phác thảo bức tranh toàn cảnh về tình hình tài

chính của Việt Nam.

Thứ tư, hệ thống ngân hàng – cấu phần quan trọng nhất của hệ thống tài

chính Việt Nam cũng đặc biệt được theo dõi, giám sát thông qua bộ chỉ số an toàn

vĩ mô MPIs của Vụ Ổn định tiền tệ - tài chính và bộ chỉ số BSIs riêng của Cơ

quan thanh tra giám sát. Với mục tiêu phát hiện những nguy cơ, rủi ro trong hoạt

động của từng ngân hàng, nhóm ngân hàng, những thông tin từ Cơ quan thanh tra

136

giám sát sẽ bổ sung thêm cho công tác đo lường lành mạnh hệ thống ngân hàng

nói riêng và ổn định hệ thống tài chính nói chung.

3.3.2. Hạn chế và nguyên nhân

3.3.2.1. Những hạn chế

Một là, bộ chỉ số giám sát ngân hàng BSIs của Cơ quan thanh tra, giám sát

ngân hàng với số lượng chỉ số lớn, nhưng chỉ tập trung đánh giá sự ổn định riêng

lẻ của từng tổ chức, nhóm tổ chức chứ chưa đánh giá được những rủi ro theo thời

gian, rủi ro do sự liên kết giữa các ngân hàng.

Hai là, bộ chỉ số giám sát an toàn vĩ mô MPIs theo đề xuất của Vụ Ổn định

tiền tệ - tài chính khá cồng kềnh với 81 chỉ số nên khó có thể cập nhật số liệu

thường xuyên. Theo Hà Tú Anh (2018), phần lớn các chỉ tiêu này được thu thập

theo và theo quý (72/81), và chỉ có một số các chỉ tiêu được thu thập theo tháng

(29/81). Trong bộ chỉ số này, một số các chỉ tiêu vĩ mô quan trọng chưa được đề

cập đến như tỷ lệ lạm phát, tỷ lệ nợ công, tỷ lệ nợ nước ngoài, tỷ lệ bao phủ nợ

xấu, lãi suất liên ngân hàng, các chỉ số thể hiện mức độ rủi ro lan truyền…; một số

chỉ tiêu bị trùng lặp nhiều về ý nghĩa, và một số chỉ tiêu khác lại không thực sự

cần thiết.

Hai là, chưa có phương án xây dựng chỉ số ổn định tài chính tổng hợp cho

khu vực hoặc cả hệ thống để phán ánh một cách nhanh chóng mức độ ổn định của

hệ thống tài chính. Kinh nghiệm từ các nền kinh tế mới nổi như Trung Quốc, Hàn

Quốc và Indonesia cho thấy việc thiết kế chỉ số tổng hợp này là rất có ý nghĩa,

giúp cơ quan điều hành nhanh chóng nắm bắt thông tin toàn cảnh về sự ổn định

hay bất ổn trong hệ thống. Tuy nhiên, với bộ chỉ số khá cồng kềnh như của Vụ Ổn

định tiền tệ - tài chính, thông tin khó có thể thu thập dữ liệu theo tháng, việc tính

toán chỉ số ổn định tài chính tổng hợp cũng tương đối khó khăn.

Ba là, báo cáo ổn định tài chính sau nhiều năm nghiên cứu vẫn chưa được

công bố chính thức cho thị trường và các nhà đầu tư. Một trong những động lực

cho việc thiết lập bộ chỉ số ổn định hệ thống tài chính là để đánh giá sức khỏe và

mức độ lành mạnh của hệ thống, trên cơ sở đó, cung cấp các thông tin này đến cho

137

thị trường thông qua Báo cáo ổn định tài chính. Việc phát hành báo cáo giúp cung

cấp kiến thức cho nhà đầu tư, thể hiện sự minh bạch trong thông tin, trong điều

hành chính sách của cơ quan quản lý, tạo dựng niềm tin cho công chúng.

3.3.2.2. Nguyên nhân

Những tồn tại trong hoạt động đo lường ổn định tài chính tại Việt Nam xuất

phát từ một số nguyên nhân khách quan cũng như chủ quan:

Thứ nhất, mặc dù chức năng đảm bảo ổn định tài chính đã được giao cho

NHNN nhưng thực tế NHNN chỉ thực hiện giám sát mảng hoạt động ngân hàng

thông qua Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng, chứ không có cơ chế giám sát

trực tiếp đến các mảng hoạt động khác của hệ thống như thị trường chứng khoán

hay hoạt động bảo hiểm, thị trường bất động sản... Việc thu thập các thông tin, dữ

liệu từ những khu vực ngoài ngân hàng phụ thuộc vào cơ chế phối hợp, mức độ

hợp tác, giữa các cơ quan điều hành.

Thứ hai, nhiệm vụ ổn định tài chính của NHNN được giao cho Vụ ổn định

tiền tệ - tài chính, là một đơn vị mới trong NHNN nên bị hạn chế quyền lực trong

việc huy động các nguồn lực, dữ liệu, thông tin từ các đơn vị khác trong và ngoài

NHNN. Kinh nghiệm từ các quốc gia khác cho thấy, NHTW thường triển khai

thực hiện chức năng ổn định tài chính thông qua việc thiết lập một Ủy ban riêng

(Anh), diễn đàn (Indonesia) với sự tham gia của nhiều các cơ quan điều hành có

liên quan, giúp tập trung và nâng cao quyền lực của cơ quan thực thi ổn định tài

chính, gia tăng sự phối hợp và chia sẻ thông tin giữa các đơn vị, cơ quan này.

Thứ ba, cơ quan điều hành (NHNN) vẫn chưa xây dựng một khung điều

hành nhằm thực hiện mục tiêu ổn định tài chính về mặt pháp lý. Vụ Ổn định tiền

tệ - tài chính và NHNN vẫn triển khai một số những công cụ giúp đo lường và

thực thi giúp đảm bảo ổn định hệ thống tài chính trong những giai đoạn nhất định

tuy nhiên, một bộ khung chuẩn với quy định thể chế, công cụ đo lường và công cụ

thực thi thì chưa được chính thức công bố và áp dụng trên thực tế.

Thứ tư, những khu vực tiềm ẩn rủi ro gây bất ổn định như các tổ chức tài

chính quan trọng trong hệ thống hay khu vực ngân hàng ngầm cũng chưa được

138

quy định cụ thể về khái niệm, tiêu chí xác định, trách nhiệm giám sát, công cụ đo

lường và giám sát…, vì vậy việc tìm kiếm các chỉ tiêu để đo lường ổn định của

những cấu phần này cũng gặp nhiều khó khăn.

Thứ năm, cơ sở dữ liệu thông tin còn hạn chế, chưa có trung tâm thông tin

dữ liệu mang tính tổng hợp, chính xác và cập nhật cao.

Thứ tư, hệ thống tài chính chưa phát triển, sự hạn chế về trình độ dân trí và

kiến thức tài chính của nhà đầu tư khiến hệ thống dễ bị tổn thương và chịu tác

động tiêu cực khi tiếp cận khi có những thông tin bất lợi về mức độ ổn định của hệ

thống tài chính.

TÓM TẮT CHƯƠNG 3

Trong chương 3, luận án đã thực hiện phân tích đặc điểm hệ thống tài chính

Việt Nam trên các khía cạnh: xác định cấu trúc hệ thống tài chính, đặc điểm của

hệ thống ngân hàng và thị trường tài chính, đặc điểm về hệ thống giám sát và vị

trí, vai trò của NHNN trong điều hành. Những đặc điểm này khá tương đồng với

hai quốc gia được nghiên cứu ở chương 2 là Indonesia và Hàn Quốc và vì thế, việc

xây dựng bộ chỉ số đo lường ổn định tài chính của Việt Nam có thể học hỏi kinh

nghiệm từ hai quốc gia này.

Phần 2 của chương 3, nghiên cứu sinh cũng tìm hiểu, phân tích thực trạng

triển khai công tác thiết lập bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính của Việt

Nam hiện nay trong đó tập trung vào tổ chức quản lý công tác này và thực tế đo

lường. Trên cơ sở đó, luận án đưa ra những đánh giá về những thành công và hạn

chế của hoạt động đo lường ổn định tài chính nói chung và việc thiết lập bộ chỉ số

nói riêng trong giai đoạn vừa rồi.

139

CHƯƠNG 4: MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ VỀ THIẾT LẬP BỘ CHỈ SỐ ĐO

LƯỜNG ỔN ĐỊNH TÀI CHÍNH CHO VIỆT NAM

4.1. Thiết lập bộ chỉ số đo lường ổn định tài chính cho Việt Nam

4.1.1. Nhận diện rủi ro cho hệ thống tài chính Việt Nam

Nguy cơ rủi ro hệ thống Việt Nam được các tổ chức quốc tế cũng như các

tổ chức trong nước phân tích và nhận diện. Theo báo cáo của IMF (2017, 2018),

rủi ro cho hệ thống tài chính Việt Nam có thể đến từ môi trường bên ngoài và bên

trong nền kinh tế:

- Rủi ro từ bên ngoài: có thể đến sự suy giảm điều kiện tài chính toàn cầu

do sự thay đổi chính sách của các nền kinh tế lớn như Mỹ hay Trung Quốc; kinh tế

toàn cầu suy giảm, ảnh hưởng của hội nhập quốc tế.

- Rủi ro từ bên trong: chất lượng tài khóa thấp, tăng trưởng tín dụng cao,

phân bổ tín dụng chưa hợp lý, nợ xấu khu vực ngân hàng, lạm phát tăng.

Từ đánh giá của IMF kết hợp với những phân tích về những đặc điểm và

thực trạng hoạt động của hệ thống tài chính Việt Nam có thể nhận diện nguy cơ

rủi ro cho hệ thống đến từ ba khu vực chính:

- Khu vực kinh tế vĩ mô:

 Nguy cơ bất ổn vĩ mô do tình trạng thâm hụt ngân sách cùng với tình trạng

vay mượn của Chính phủ ở mức cao.

 Lạm phát gia tăng và khó kiểm soát

 Nguy cơ bùng nổ và vỡ bong bóng thị trường bất động sản

- Khu vực ngân hàng: đây là khu vực đặc biệt tiềm ẩn rủi ro lớn cho hệ

thống, bởi với đặc điểm là hệ thống tài chính dựa vào ngân hàng, sự lành mạnh

của ngân hàng sẽ quyết định sự ổn định và bền vững của cả hệ thống.

 Rủi ro tín dụng của hệ thống ngân hàng khi chênh lệch tín dụng/GDP ở

mức cao, rủi ro tập trung khi cho vay thị trường bất động sản, cho vay tiêu dùng.

 Chất lượng vốn thấp, hệ số an toàn vốn suy giảm.

140

 Sự phát triển của hệ thống ngân hàng ngầm, chưa được kiểm soát.

 Rủi ro thanh khoản do cơ cấu tài sản chưa hợp lý

- Khu vực thị trường tài chính: Nguy cơ bùng nổ và vỡ bong bóng thị

trường chứng khoán, thị trường bị thao túng, báo cáo tài chính chưa minh bạch.

4.1.2. Lựa chọn các chỉ đo lường số ổn định hệ thống tài chính Việt Nam

4.1.2.1. Căn cứ lựa chọn các chỉ số

Các tổ chức quốc tế như IMF, ECB và ADB đều đã đưa ra các bộ chỉ số gợi

ý giúp các quốc gia tự đánh giá mức độ ổn định của hệ thống tài chính. Tuy nhiên,

mỗi quốc gia có đặc điểm cấu trúc hệ thống tài chính, mức độ rủi ro hệ thống…

khác nhau nên việc sử dụng một bộ chỉ số chuẩn quốc tế cho những quốc gia đang

phát triển và thiếu hoàn thiện như Việt Nam là tương đối khó khăn. Dựa vào kinh

nghiệm từ các nước nghiên cứu ở chương 2, có thể thấy rằng mỗi quốc gia với

điều kiện kinh tế và tài chính khác nhau, sẽ có cách thức xác định và đo lường rủi

ro hệ thống riêng biệt, phù hợp với đặc điểm của quốc gia mình. Đối với Việt

Nam, một bộ chỉ số tốt sẽ là:

Thứ nhất, bộ chỉ số phù hợp với đặc thù của hệ thống tài chính quốc gia. Ví

dụ như, đặc điểm của Việt Nam là có hệ thống tài chính dựa vào ngân hàng, và vì

thế, phải nhóm chỉ số đánh giá mức độ lành mạnh của hệ thống ngân hàng cần

phải có tỷ trọng cao, và phải được theo dõi thường xuyên.

Thứ hai, bộ chỉ số cần có khả năng theo dõi và phản ánh nhanh chóng

những rủi ro tài chính mang tính hệ thống có thể xảy ra. Căn cứ vào những rủi ro

hệ thống phân tích ở trên, có thể thấy rằng nguồn rủi ro chủ yếu đối với hệ thống

tài chính Việt Nam là từ hệ thống ngân hàng, thị trường tài chính và khu vực kinh

tế vĩ mô (cân đối tài khóa và thị trường bất động sản). Vì vậy, các chỉ số được lựa

chọn nên có khả năng phản ánh những rủi ro này.

Thứ ba, bộ chỉ số có khả năng đưa ra một số chỉ báo sớm cho cơ quan điều

hành. Các chỉ số cảnh báo sớm thường gắn liền với việc phát hiện những yếu tố

141

hoặc nguy cơ gây bùng nổ và vỡ bong bóng, dẫn đến suy thoái và khủng hoảng tài

chính. Vì vậy, các chỉ số này thường gắn với việc nhận diện chu kỳ tài chính

thông qua sự thay đổi của tín dụng và giá tài sản (bao gồm giá cổ phiếu và giá bất

động sản). Mặc dù mục tiêu thiết lập bộ chỉ số ổn định tài chính là tập trung xác

định sức khỏe và sự lành mạnh của hệ thống nhưng bộ chỉ số sẽ có ý nghĩa và giá

trị hơn nếu góp phần cung cấp thông tin mang tính cảnh báo về nguy cơ bùng nổ

và suy thoái tài chính cho cơ quan điều hành.

Như vậy, để thiết lập một bộ chỉ số phù hợp có khả năng đo lường ổn định

hệ thống tài chính Việt Nam, cần lựa chọn các chỉ số căn cứ vào tiêu chí sau:

Một là, mức độ quan trọng và khả năng phản ánh bất ổn tài chính của chỉ

số. Do nguồn lực là có hạn, nên việc phân bổ toàn bộ nguồn lực để giám sát tất cả

các lĩnh vực của hệ thống tài chính là không hiệu quả. Chính vì vậy, cơ quan giám

sát cần xác định các lĩnh vực/ tổ chức quan trọng để tập trung đánh giá, giám sát

nhiều hơn và cẩn thận hơn với các đối tượng tiềm ẩn rủi ro này. Cụ thể như, hệ

thống ngân hàng luôn được đánh giá là trung tâm của hệ thống tài chính, là tổ

chức phải đối mặt với nhiều loại rủi ro nhất đồng thời cũng có mối quan hệ kết nối

chặt chẽ với các thành phần còn lại trong hệ thống. Vì vậy, sự ổn định của hệ

thống ngân hàng là vô cùng quan trọng với hệ thống tài chính, và để đảm bảo có

được điều đó, việc tập trung giám sát hệ thống ngân hàng là khuyến nghị của các

tổ chức quốc tế cũng như kinh nghiệm của các quốc gia ở trên. Các chỉ số ổn định

tài chính của nhóm ngân hàng cũng cần có tỷ trọng cao tương ứng với tầm quan

trọng của nhóm. Về cơ bản, có rất nhiều chỉ số có thể sử dụng để đánh giá sự lành

mạnh của khu vực ngân hàng, như ECB gợi ý với hơn 60 chỉ số, IMF với 29 chỉ số

và ADB là 12 chỉ số và việc tính toán đầy đủ các chỉ số này sẽ là rất hữu ích trong

điều kiện thống kê dữ liệu hoàn hảo và dồi dào nguồn lực. Tuy nhiên, trong điều

kiện hạn chế về nguồn lực cũng như số liệu thì cần lựa chọn một số những chỉ số

chính có khả năng phản ánh tốt nhất những bất ổn tài chính. Một ví dụ khác là thị

142

trường chứng khoán và thị trường bất động sản, mặc dù quy mô vẫn còn khiêm

tốn, nhưng các nghiên cứu trước đã chỉ ra là sự biến động giá tài sản là dấu hiệu

của bong bóng và đổ vỡ tài chính, vì vậy các chỉ số đánh giá hai thị trường này

cũng cần được đưa vào bộ chỉ số.

Hai là, sự đầy đủ và sẵn có của các dữ liệu. Việc tính toán càng nhiều chỉ

số càng giúp phản ánh đầy đủ và toàn diện hơn các khía cạnh của ổn định tài

chính, tuy nhiên điều này lại phụ thuộc vào khả năng đáp ứng của bộ dữ liệu sẵn

có. Đối với các nền kinh tế phát triển, công tác thống kê và chuẩn hóa các dữ liệu

đã được đầu tư thực hiện từ khá lâu và vì thế, việc tính toán các chỉ số ổn định tài

chính không gặp khó khăn. Trong khi đó, với các quốc gia mới nổi và đang phát

triển, vấn đề quản lý nguồn dữ liệu, hợp tác chia sẻ thông tin, đảm bảo tính thống

nhất, chính xác, chuẩn hóa của số liệu còn nhiều hạn chế. Ví dụ trường hợp Việt

Nam, Ngân hàng Nhà nước thực hiện nhiệm vụ thanh tra giám sát hệ thống ngân

hàng nên có thể khai thác các dữ liệu đo lường sự lành mạnh của ngân hàng, tuy

nhiên, các số liệu liên quan đến kinh tế vĩ mô lại do Tổng cục thống kê thuộc Bộ

Kế hoạch và đầu tư công bố, hay các số liệu liên quan đến Ngân sách, thị trường

tài chính, bất động sản, bảo hiểm lại thuộc sự quản lý của Bộ Tài chính. Các dữ

liệu này chưa được tổng hợp thống nhất tại cơ quan nào, đồng thời, có nhiều dữ

liệu chưa được từng được thu thập. Chính vì vậy, khi cân nhắc đưa các chỉ tiêu

vào bộ chỉ số, cần cân nhắc đến vấn đề tính khả thi khi tính toán các chỉ tiêu này.

Ba là, tính toàn diện của bộ chỉ tiêu đánh giá. Đối với các quốc gia có hệ

thống tài chính hoàn thiện và phát triển, cơ quan quản lý đã khoanh vùng một cách

tương đối rõ ràng và chính xác những khu vực có nguy cơ gây rủi ro hệ thống,

đồng thời xác định các công cụ thực thi sẽ sử dụng. Chính vì vậy, các chỉ số được

xây dựng và tính toán làm cơ sở để ra quyết định điều chỉnh công cụ, và vì vậy,

các chỉ số có tính tập trung cao. Ví dụ trường hợp của Anh, cơ quan chính sách tài

chính tính toán nhiều chỉ số, nhưng chủ yếu tập trung vào đo lường hai khu vực là

143

hệ thống ngân hàng thị trường bất động sản. Trong khi đó, đối với các nền kinh tế

đang phát triển và chưa hoàn thiện, rủi ro có thể đến từ rất nhiều nguồn, nên bộ chỉ

số đo lường ổn định tài chính cần có nhiều chỉ số có tính bao quát hơn, đề cập đến

nhiều khu vực hơn. Trần Trung Lưu và Nguyễn Trung Hậu (2014) cho rằng việc

xây dựng chỉ số ổn định tài chính cho Việt Nam cần được đánh giá một cách đầy

đủ và toàn diện. Bên cạnh đó, các yếu tố khác như tiền tệ, tín dụng và các biến số

kinh tế vĩ mô khác cũng cần được cân nhắc đưa vào bộ chỉ số.

Bốn là, mối liên hệ với công cụ thực thi chính sách. Thực tế, việc xây dựng

khung chính sách an toàn vĩ mô với các công cụ điều chỉnh hiệu quả đã được các

quốc gia thiết lập và triển khai từ khá lâu. Các nghiên cứu về tính hiệu quả của các

công cụ, kinh nghiệm sử dụng các công cụ của các quốc gia cũng được giới thiệu

bởi các nhà kinh tế. Cụ thể, Crowe và công sự (2011) đã chứng minh được mối

quan hệ giữa chính sách an toàn tài chính vĩ mô và chu kỳ bất động sản, và gia

tăng LTV là công cụ tốt nhất để hấp thụ sự bùng nổ bất động sản. Các công cụ với

mục tiêu làm gia tăng sức chống đỡ cho hệ thống ngân hàng (như dự phòng linh

hoạt) mặc dù không hiệu quả trong việc chấm dứt tình trạng bùng nổ nhưng lại rất

hữu dụng trong việc xử lý tình trạng vỡ bong bóng. Igan và Kang (2011), Gabriele

Galati (2015) đều chỉ ra hai công cụ LTV và DTI thực sự giúp hạn chế được sự

gia tăng tín dụng thế chấp. Claessens và cộng sự (2012) dựa trên dữ liệu thu thập

về chính sách an toàn tài chính vĩ mô tại 48 quốc gia trên thế giới, bao gồm cả các

nước phát triển và các nước mới nổi đã chứng minh được tỷ lệ cho vay trên tổng

giá trị LTV là công cụ được sử dụng nhiều nhất cũng như với thời gian lâu nhất tại

các quốc gia nghiên cứu. Sau đó là các công cụ như tỷ lệ nợ trên thu nhập DTI,

giới hạn tăng trưởng tín dụng CG (credit growth limits), giới hạn về ngoại hối FC

(limits on foreign currency lending) và dự phòng linh hoạt (DP). Ngoài ra,

Claessens cũng chỉ ra các quốc gia phát triển ưa thích sử dụng LTV, DTI và DP

trong khi các quốc gia mới nổi lại thường sử dụng các công cụ này với các biện

144

pháp kiểm soát dòng vốn. Trên cơ sở hoạch định, các công cụ có thể sử dụng để

điều chỉnh, nhà điều hành chính sách sẽ lựa chọn các chỉ số phù hợp và kết quả

các chỉ số sẽ là cơ sở để ra quyết định điều chỉnh công cụ.

4.1.2.2. Thiết lập bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính Việt Nam

Dựa vào đặc điểm của hệ thống tài chính Việt Nam là dựa vào ngân hàng,

với mức độ tập trung cao trong hệ thống ngân hàng và hệ thống giám sát phân tán

với sự tham gia của nhiều cơ quan quản lý, những rủi ro hệ thống tiềm tàng của

Việt Nam có thể đến từ ba khu vực chính là hệ thống ngân hàng (tín dụng), thị

trường tài chính (chứng khoán) và khu vực kinh tế vĩ mô (khu vực công và thị

trường bất động sản). Vì vậy, các chỉ số đo lường ổn định tài chính nên tập trung

vào đo lường sự lành mạnh, ổn định của ba khu vực này. Căn cứ vào các tiêu chí

lựa chọn chỉ số ở trên, luận án xin đề xuất một số các chỉ số cơ bản nên đưa vào

Bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính Việt Nam như sau:

Bảng 4.1. Bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính Việt Nam

TT Chỉ tiêu Cách tính

Hệ thống ngân hàng

1

Chênh lệch tăng trưởng tín dụng/ GDP với xu hướng dài hạn

Tăng trưởng tín dụng nóng (Tín dụng/ GDP) *3 Tăng trưởng tín dụng Tốc độ tăng trưởng tín dụng so với năm trước 2

Cơ cấu tín dụng Phân bổ dư nợ theo ngành/ Tổng dư nợ 3

Tỷ lệ nợ xấu Dư nợ xấu/ Tổng dư nợ 4

Tỷ lệ bao phủ nợ xấu * Dự phòng/ Dư nợ xấu 5

6 Hệ số an toàn vốn CAR Vốn tự có cấp 1/ TSCRR quy đổi

Tỷ lệ đòn bẩy ngân hàng Tổng nợ/ vốn chủ sở hữu 7

Tỷ lệ tài sản thanh khoản Tài sản thanh khoản/ Tổng tài sản 8

Chênh lệch lãi ròng NIM * Lãi ròng/ TS sinh lời 9

3 *: Các chỉ số đề xuất mới so với bộ chỉ số an toàn vĩ mô của Vụ Ổn định tiền tệ - tài chính

10 Tỷ lệ ROE Lợi nhuận/ Vốn chủ sở hữu

145

Thị trường tài chính

11 Lãi suất liên ngân hàng *

12 Tỷ giá bình quân liên ngân

hàng

13 Giá chứng khoán Biến động chỉ số VNIndex

14 Chỉ số thanh khoản thị trường * Giá trị giao dịch thị trường

15 Lãi suất trái phiếu Chính phủ 5

năm *

CDS 16 Chỉ số CDS

Kinh tế vĩ mô

17 Tăng trưởng kinh tế Tốc độ tăng trưởng GDP

18 Tỷ lệ lạm phát * Thay đổi CPI trung bình so với năm trước

19 Lãi suất Lãi suất cho vay của ngân hàng

20 Tỷ lệ nợ công Nợ công/ GDP

21 Tỷ lệ nợ nước ngoài * Nợ nước ngoài/ GDP

22 Chỉ số giá bất động sản

Nguồn: Tác giả tự tổng hợp

Nhóm chỉ số hệ thống ngân hàng: Do hệ thống ngân hàng phải đối mặt với

những rủi ro cơ bản như rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, suy giảm lợi nhuận và

vốn làm giảm tấm đệm chống đỡ rủi ro, vì vậy, tác giả đo đánh giá mức độ ổn

định của hệ thống ngân hàng trên các khía cạnh: tăng trưởng tín dụng, chất lượng

tài sản (tín dụng), an toàn vốn, rủi ro thanh khoản và khả năng sinh lời.

- Chỉ số chênh lệch tín dụng/ GDP so với xu hướng dài hạn kết hợp với chỉ

số tăng trưởng tín dụng sẽ giúp nhận diện nguy cơ tăng trưởng tín dụng nóng của

hệ thống ngân hàng, bởi tốc độ gia tăng tín dụng nhanh thường đi kèm với rủi ro

tín dụng do các điều kiện cho vay có phần bị suy giảm. Chỉ số chênh lệch tín

dụng/ GDP so với xu hướng dài hạn là biến số quan trọng, có khả năng chỉ báo

nguy cơ khủng hoảng. (IMF (2018), Drehmann và Juselius (2013)).

- Cơ cấu tín dụng với các ngành: tiêu dùng, thương mại, bất động sản thể

hiện hể hiện sự tập trung hoặc đa dạng hóa chiến lược cho vay của ngân hàng. Đây

146

có thể là biến đại diện cho tốc độ lan truyền của các cú sốc trong nền kinh tế và

cũng góp phần nhận diện nguy cơ rủi ro tín dụng từ việc tập trung tín dụng.

- Tỷ lệ nợ xấu và tỷ lệ bao phủ nợ xấu cho biết chất lượng tín dụng của hệ

thống ngân hàng. Tỷ lệ bao phủ nợ xấu là một chỉ tiêu quan trọng, được IMF cập

nhật vào bộ chỉ số lành mạnh tài chính FSIs năm 2013, phản ánh khả năng phòng

ngừa và xử lý với nợ xấu của ngân hàng.

- Hệ số an toàn vốn cho biết quy mô đệm vốn để bù đắp những thua lỗ

trong và ngoài dự tính. Nếu tỷ lệ này suy giảm hoặc ở mức rất thấp thể hiện nguy

cơ vỡ nợ và khủng hoảng cho hệ thống ngân hàng. Tỷ lệ đòn bẩy cũng là một chỉ

phản ánh nguy cơ khủng hoảng ngân hàng và rủi ro hệ thống.

- Tỷ lệ tài sản thanh khoản cho biết lượng khả năng chống đỡ với nguy cơ

thiếu hụt thanh khoản của ngân hàng. Kết hợp tỷ lệ này với biến động lãi suất liên

ngân hàng sẽ nhận diện rõ hơn mức độ rủi ro thanh khoản của ngân hàng.

- Tỷ lệ ROE và NIM đo lường khả năng sinh lời của ngân hàng. Sự gia tăng

các tỷ lệ này phản ánh sự tăng lên của lợi nhuận, bên cạnh đó, nếu các tỷ lệ này

tăng quá cao cũng có thể là dấu hiệu của việc ngân hàng đang thực hiện các hoạt

động đầu tư rủi ro cao.

Nhóm chỉ số thị trường tài chính: Đối với thị trường tài chính, bộ chỉ số sẽ

tập trung đánh giá các mảng thị trường: tiền tệ, ngoại hối, cổ phiếu và trái phiếu.

- Lãi suất liên ngân hàng và tỷ giá bình quân liên ngân hàng sẽ đại diện cho

những thay đổi trên thị trường tiền tệ và thị trường ngoại hối.

- Chỉ số giá chứng khoán và tổng giá trị giao dịch thị trường (chỉ số thanh

khoản thị trường) sẽ phản ánh mức độ ổn định của các dòng tiền, nguy cơ rủi ro

bong bóng trên thị trường cổ phiếu.

- Lãi suất trái phiếu và chỉ số CDS cho biết mức độ ổn định của thị trường

trái phiếu. Nếu lãi suất và chỉ số CDS có xu hướng gia tăng thì đây là dấu hiệu của

rủi ro và khủng hoảng.

Nhóm chỉ số khu vực kinh tế vĩ mô:

147

- Các chỉ số về tăng trưởng kinh tế, lạm phát, lãi suất cho biết mức độ ổn

định của khu vực kinh tế vĩ mô cơ bản. Lạm phát tăng cao dẫn đến lãi suất tăng và

gây rủi ro cho các hoạt động, là dấu hiệu của rủi ro hệ thống.

- Tỷ lệ nợ công và tỷ lệ nợ nước ngoài phản ánh năng lực tài khóa quốc gia.

Tỷ lệ nợ công gia tăng gây áp lực lên hệ thống ngân hàng và cả nền kinh tế trong

khi đó tỷ lệ nợ nước ngoài gia tăng phản ánh sự phụ thuộc vào lượng vốn vay

nước ngoài, áp lực trả nợ lớn nếu lãi suất hay tỷ giá biến động. Đây là các tỷ lệ

phản ánh mức độ ổn định của khu vực công.

- Chỉ số giá bất động sản phản ánh sự ổn định của thị trường bất động sản.

Kết hợp phân tích chỉ số này với tốc độ tăng trưởng tín dụng, tỷ trọng cho vay bất

động sản sẽ giúp nhận biết nguy cơ bong bóng trên thị trường này.

So với bộ chỉ số an toàn vĩ mô của Vụ Ổn định tiền tệ - tài chính, bộ chỉ số

đề xuất bao gồm những chỉ số cốt lõi cơ bản, không chỉ đo lường sức khỏe, sự ổn

định của hệ thống tài chính, mà còn đưa ra những chỉ báo phát hiện những nguy

cơ tích tụ có thể gây suy thoái qua các chỉ tiêu: tỷ lệ tín dụng/ GDP, tỷ lệ nợ nước

ngoài… Theo Drehmann và cộng sự (2012), chu kỳ tài chính được thể hiện chủ

yếu thông qua sự thay đổi của tín dụng và giá tài sản. Trong đó, tỷ lệ tín dụng/

GDP so với xu hướng dài hạn là chỉ tiêu cảnh báo sớm tốt nhất sự bùng nổ và đổ

vỡ tín dụng, sự biến động giá bất động sản và giá cổ phiếu giúp cảnh báo sự bùng

nổ và vỡ bong bóng trên thị trường này. Tỷ lệ nợ nước ngoài/ GDP cũng là một

chỉ báo tốt cho nguy cơ khủng hoảng nợ.

4.1.3. Áp dụng bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính Việt Nam

4.1.3.1. Hệ thống ngân hàng

- Nền kinh tế bắt đầu đối mặt với tăng trưởng tín dụng nóng từ năm 2007

và gia tăng mạnh hơn trong giai đoạn 2008-2010, gây nguy cơ rủi ro tín dụng.

Tỷ lệ tăng trưởng nóng được tính bằng chênh lệch giữa tỷ lệ tín dụng/GDP

danh nghĩa với xu hướng dài hạn của tỷ lệ này. Lượng tín dụng được xem xét đến

ở đây bao gồm tín dụng từ hệ thống ngân hàng cung ứng cho cá nhân, hộ gia đình

và tín dụng ngân hàng cho các doanh nghiệp (không tính đến thị trường liên ngân

148

hàng hoặc các tổ chức tài chính). Xu hướng dài hạn của tỷ lệ này được tính toán từ

bộ lọc HP (Hodrick-Prescott), cho biết xu hướng dài hạn của độ sâu tài chính. Tỷ

lệ này gia tăng là dấu hiệu cho thấy tốc độ tăng trưởng tín dụng ở mức cao, lượng

tín dụng bơm vào nền kinh tế nhiều hơn so với nhu cầu của nền kinh tế. Duy trì tỷ

lệ này ở mức cao sẽ dẫn đến bong bóng tài sản, vỡ bong bóng và gia tăng nợ xấu.

Ngược lại, nếu tỷ lệ ở mức thấp chứng tỏ nền kinh tế đang thiếu vốn. Đây là một

trong những chỉ số cảnh báo sớm (Early warning indicators) rất quan trọng được

sử dụng phổ biến để đánh giá liệu tăng trưởng tín dụng đã ở mức dư thừa (nóng)

hay chưa (Drehmann và Tsatsaronis, 2014), trên cơ sở đó gợi ý cho các nhà điều

hành trong việc khởi động chính sách an toàn vĩ mô theo hướng thắt chặt. Theo

Ngân hàng trung ương Anh, tỷ lệ này ở mức 2,5% là dấu hiệu của tăng trưởng tín

dụng nóng và Ủy ban chính sách tài chính FPC sẽ bắt đầu áp dụng công cụ tỷ lệ

đệm vốn phản chu kỳ. Nếu tỷ lệ này chạm đến mức 10% thì FPC sẽ áp dụng công

cụ đệm vốn với mức cao nhất nhằm ngăn chặn nguy cơ khủng hoảng từ tín dụng.

Hình 4.1. Tỷ lệ tăng trưởng tín dụng nóng tại Việt Nam

Ghi chú: Chênh lệch tín dụng/GDP = Tín dụng/GDP – Xu hướng dài hạn của tín

dụng/GDP (ước lượng bằng bộ lọc HP).

Nguồn: IMF (2018)

Biểu đồ về tỷ lệ tăng trưởng tín dụng nóng cho thấy lượng tín dụng đưa vào

nền kinh tế tăng lên rất nhanh bắt đầu từ năm 2007-2008, và gia tăng mạnh hơn

149

trong giai đoạn 2009-2010. Tốc độ tăng trưởng tín dụng trong giai đoạn này lần

lượt là 46,6% và 32,43% trong năm 2009 và năm 2010. Tỷ lệ chênh lệch tín dụng/

GDP so với xu hướng dài hạn gần 20%, thể hiện đây là giai đoạn tăng trưởng tín

dụng nóng và tiềm ẩn nhiều rủi ro của Việt Nam. Nguyên nhân gia tăng tín dụng

là do giai đoạn 2009-2010 là thời kỳ sau khủng hoảng tài chính toàn cầu, Việt

Nam mặc dù không chịu ảnh hưởng trực tiếp từ cuộc khủng hoảng này nhưng lại

chịu nhiều tác động tiêu cực gián tiếp trên phương diện kinh tế. Các quốc gia, thị

trường xuất khẩu lớn của Việt Nam (bao gồm Mỹ và các quốc gia khu vực châu

Âu) chịu ảnh hưởng nặng nề từ cuộc khủng hoảng tài chính này, khiến các doanh

nghiệp và nền kinh tế chịu tổn thất, giảm nhu cầu nhập khẩu hàng hóa từ Việt

Nam. Các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu

gặp nhiều khó khăn, trong khi đó lạm phát trong nước tăng cao đẩy mặt bằng lãi

suất cho vay tăng cao, gia tăng gánh nặng cho các doanh nghiệp này. Trước bối

cảnh đó, Chính phủ đã thực hiện hai gói kích cầu nhằm ngăn chặn suy giảm kinh

tế từ khủng hoảng: (i) Gói kích cầu trị giá 1 tỷ USD nhằm hỗ trợ cho các doanh

nghiệp đang gặp khó khăn, với hình thức chủ yếu là hỗ trợ lãi suất 4% cho các

doanh nghiệp và thành phần kinh tế với thời hạn ngắn 8 tháng (cuối năm 2008); và

(ii) Gói kích cầu giá trị tương đương 6 tỷ USD vẫn dưới hình thức hỗ trợ lãi suất

4% cho các doanh nghiệp và ngành sản xuất, nhưng với thời hạn tối đa 24 tháng

(năm 2009).

- Tín dụng mở rộng nhanh chóng làm giảm mức độ an toàn vốn của các

ngân hàng trong giai đoạn 2009-2010. Về cơ bản, hệ thống các tổ chức tín dụng

đều đạt yêu cầu về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu là 9% theo quy định của NHNN, tuy

nhiên, có thể thấy rõ sự suy giảm tỷ lệ này trong giai đoạn tăng trưởng tín dụng

nóng 2009-2010. Điều này được lý giải là do tốc độ gia tăng tài sản có rủi ro (chủ

yếu là tín dụng) lớn hơn nhiều so với tốc độ tăng vốn của các ngân hàng, khiến hệ

số CAR giảm sút, khả năng chống đỡ rủi ro của ngân hàng vì thế mà yếu đi.

150

Hình 4.2. Hệ số CAR trung bình và tỷ lệ đòn bẩy (Nợ phải trả/ Vốn chủ sở hữu)

16

14

13,9

13,4

12,9

12,8

12,6

12,23 12,1

12

12

11,8

11,8

11,3

10

8

6

4

2

0

2008

2009

2010

2011

2012

2014

2015

2016

2017

2018

2013 Hệ số CAR

của các NHTM giai đoạn 2008-2018 (%)

Nguồn: Ngân hàng Nhà nước, Ủy ban giám sát tài chính quốc gia.

- Sau giai đoạn tăng trưởng tín dụng nóng 2009-2010, tỷ lệ nợ xấu và tỷ lệ bao phủ nợ xấu các năm sau cũng có xu hướng tăng lên và tăng cao nhất vào năm 2012. Nợ xấu tăng lên liên tục và chạm mức cao nhất là 4,08% trong năm 2012, thể hiện rõ nguy cơ rủi ro tín dụng trong hệ thống ngân hàng. Nếu tính cả phần nợ

xấu mà các ngân hàng đã bán cho VAMC thì tỷ lệ nợ xấu của hệ thống có thể lên mức 6%. Bên cạnh đó, tỷ lệ bao phủ nợ xấu (dự phòng rủi ro cụ thể/ dư nợ xấu) cũng tăng lên nhanh chóng, từ mức 7,3% trong năm 2010 lên mức 14,8% trong năm 2012. Tỷ lệ này tăng cao chứng tỏ rằng tỷ lệ nợ nhóm 5 có xu hướng gia tăng

trong tổng nợ xấu, rủi ro tín dụng mà các ngân hàng phải đối mặt ngày càng cao.

14,8

14,2

12,8

11,4

11

10,7

10,2

9,8

7,9

7,3

6,9

4,08

3,61

3,46

3,25

3,06

2,55

2,2

2,16

1,99

1,91

1,8

16 14 12 10 8 6 4 2 0

2008

2009

2010

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

Tỷ lệ nợ xấu

Tỷ lệ nợ xấu bao gồm VAMC

Tỷ lệ bao phủ nợ xấu

Hình 4.3. Tỷ lệ nợ xấu và tỷ lệ bao phủ nợ xấu của hệ thống ngân hàng Việt Nam

Nguồn: IMF, NHNN và tính toán của tác giả

151

- Nợ xấu gia tăng làm suy giảm nghiêm trọng lợi nhuận của các ngân hàng.

25

20

18,4

17,7

16,4

15,3

15

10

8,3

8,2

6,6

5,8

5,4

5

3,2

0

NIM

ROE

Lãi suất cho vay

Lãi suất huy động

Hình 4.4. Chênh lệch lãi suất ròng và tỷ lệ lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của hệ thống NHTM Việt Nam

Nguồn: IMF và Ủy ban giám sát tài chính quốc gia

Năm 2012 là năm ghi nhận mức suy giảm lợi nhuận nghiêm trọng của hệ

thống ngân hàng, tỷ lệ lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) của hệ thống giảm

mạnh từ 16,4% trong năm 2011 xuống còn 8,2% trong năm 2012. Nguyên nhân

chính của sụt giảm này là do ảnh hưởng từ tình trạng nợ xấu của hệ thống trong

năm này. Tăng trưởng tín dụng mạnh mẽ trong giai đoạn 2007-2010 đã khiến nợ

xấu của hệ thống tăng cao trong năm 2012, ảnh hưởng đến việc trích lập dự phòng

và làm suy giảm lợi nhuận. Các ngân hàng không những tăng cường trích lập dự

phòng mà còn bán nợ xấu cho VAMC thông qua hình thức mua trái phiếu đặc biệt

để giải quyết vấn đề nợ xấu và tất cả các hoạt động này đều làm tổn hại đến lợi

nhuận của các ngân hàng. Bên cạnh đó, từ năm 2011 đến nay, mặt bằng lãi suất

huy động và cho vay của ngân hàng có xu hướng giảm đều, chênh lệch lãi suất

ròng của ngân hàng có xu hướng giảm nhẹ và ổn định xung quanh mức 2% cũng

góp phần làm giảm lợi nhuận ngân hàng. Từ năm 2015, sau khi nợ xấu đã cơ bản

được xử lý, tỷ lệ ROE của ngân hàng đã có xu hướng tăng trở lại và khá đều đặn,

đạt mức 13,1% trong năm 2018 (IMF, 2018). Ngoài việc các ngân hàng và VAMC

tích cực trong công tác xử lý nợ xấu, một phần kết quả này có được là do các ngân

hàng đã đẩy mạnh phát triển các hoạt động phi tín dụng như phát triển các dịch vụ

152

thanh toán, các sản phẩm bán chéo bảo hiểm…, giảm mức độ phụ thuộc vào hoạt

động tín dụng vốn có nhiều rủi ro.

- Trong giai đoạn 2008-2011, bên cạnh rủi ro tín dụng, các ngân hàng

cũng đồng thời phải đối mặt với nguy cơ rủi ro thanh khoản. Tỷ lệ thanh khoản

(tài sản thanh khoản/ tổng tài sản) của ngân hàng sụt giảm nhẹ trong năm 2008-

2009 và sau đó lại sụt nghiêm trọng từ 29% trong năm 2010 xuống 13,3% trong

năm 2011, thể hiện nguy cơ rủi ro thanh khoản của hệ thống giai đoạn này.

Nguyên nhân là do giai đoạn này lạm phát của Việt Nam ở mức cao, NHNN thực

hiện các biện pháp thắt chặt tiền tệ, hút tiền từ hệ thống ngân hàng khiến nhiều

ngân hàng rơi vào tình trạng thiếu thanh khoản trầm trọng và rơi vào cuộc chạy

đua lãi suất tiền gửi. Từ năm 2011 trở lại đây thì tỷ lệ thanh khoản xoay quanh

mức 13-15%, tương đối ổn định. Tuy nhiên, mức thanh khoản này của ngân hàng

tương đối thấp, nếu có những cú sốc hoặc những điều chỉnh lớn từ chính sách tiền

tệ của NHNN thì các ngân hàng sẽ khó có khả năng chống đỡ và nhiều khả năng

rơi vào tình trạng mất thanh khoản.

35

31,6

30

29

28,4

25

20

15,5

15

13,4

13,3

13,2

13,2

13

12,7

12,2

10

5

0

2008

2009

2010

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

Hình 4.5. Tỷ lệ tài sản thanh khoản của hệ thống ngân hàng Việt Nam giai đoạn 2008-2018

Nguồn: Financial Soundness Indicator (IMF Data)

- Mặc dù các chỉ số lành mạnh cho thấy sự cải thiện của hệ thống ngân

hàng trong giai đoạn từ 2015 trở lại đây, nhưng vấn đề về tăng trưởng tín dụng

153

nóng và sự thiếu an toàn vốn vẫn là những nguy cơ tiềm ẩn rủi ro cho sự ổn định

của hệ thống ngân hàng.

Năm 2017, tốc độ tăng trưởng tín dụng của toàn nền kinh tế trong năm này

so với năm trước là 18,24%, đạt mục tiêu 18% mà NHNN đã đề ra. Sang đến năm

2018, tốc độ tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng đã giảm xuống mức còn

14,04% (mục tiêu ban đầu là 17%). Đây là mức tăng trưởng tín dụng thấp nhất

trong ba năm trở lại đây, thể hiện sự thành công của NHNN trong việc kiểm soát

tín dụng, đảm bảo mục tiêu duy trì lạm phát ổn định và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế

đất nước. Tuy nhiên, chênh lệch tăng trưởng tín dụng/GDP với xu hướng dài hạn

có xu hướng tăng lên và đạt mức 10%. Đây là mức chênh khá lớn, và cần được

theo dõi kiểm soát để tránh sự gia tăng đột biến, gây bất ổn cho hệ thống tài chính, đặc biệt trong bối cảnh tín dụng tiêu dùng tăng mạnh trong những năm vừa qua. (IMF, 2018). Theo báo cáo của Ủy ban giám sát tài chính quốc gia (2017, 2018),

cơ cấu tín dụng trong những năm qua cũng có sự thay đổi khi hoạt động cho vay đối với cá nhân, cho vay tiêu dùng có xu hướng tăng trưởng mạnh mẽ những năm gần đây và ngày càng chiếm tỷ trọng lớn hơn, từ mức 12,3% năm 2016 lên mức 18,8% trong năm 2018. Tỷ trọng hoạt động tín dụng cho lĩnh vực kinh doanh bất động sản và xây dựng có xu hướng giảm nhẹ, từ 17,1% năm 2016 xuống mức 16,6% năm 2018. Theo kinh nghiệm từ các quốc gia như Anh và Hàn Quốc, sự tăng trưởng mạnh mẽ từ hoạt động tín dụng tiêu dùng và tín dụng bất động sản cũng là những nguy cơ rủi ro tiềm ẩn cho hệ thống ngân hàng cũng như hệ thống tài chính, vì vậy, cơ cấu tín dụng, đặc biệt cho những lĩnh vực này cũng cần được theo dõi chặt chẽ.

Trong những năm gần đây, tỷ lệ an toàn vốn CAR của hệ thống có xu

hướng giảm nhẹ. Điều này cho thấy tốc độ tăng vốn tự có của hệ thống ngân hàng

chậm hơn so với tốc độ mở rộng tài sản rủi ro, đồng nghĩa với rủi ro nói chung có

xu hướng tăng lên. Bên cạnh đó, tỷ lệ đòn bảy cho biết mức độ vay mượn của

ngân hàng cũng như đánh giá khả năng thực hiện các nghĩa vụ tài chính của ngân

hàng lại có xu hướng gia tăng đều qua các năm (Hình 4.2). Đối với hoạt động

ngân hàng, tỷ lệ này luôn có xu hướng cao bởi đặc thù của ngân hàng là huy động,

vay mượn vốn để thực hiện hoạt động cho vay kiếm lời, tuy nhiên, sự gia tăng

trong tỷ lệ đòn bảy cũng đồng nghĩa với việc rủi ro của ngân hàng ở mức cao hơn,

154

ngân hàng dễ rơi vào trạng thái rủi ro khi có những cú sốc xảy ra. Trong giai đoạn

gần đây, tỷ lệ đòn bảy ở các NHTM Việt Nam luôn ở mức cao, tỷ lệ này tăng từ

10 lần năm 2012 lên gần 15 lần trong năm 2017, thể hiện nguy cơ rủi ro của hệ

thống ngân hàng.

Bảng 4.2. Hệ số an toàn vốn tối thiểu của các NHTM Việt Nam (%)

Ngân hàng 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018

Vietcombank 18 10,73 10,01 10,21 11,6 12,14 19,4

Vietinbank 10 10 12,5 12,5 9,42 9,64 9,49

BIDV 10,9 10,3 9,65 10,23 9,07 9,01 9,02

VPBank 13,2 11,9 12,5 12,5 9,65 11,6 13,04

VIB 13,1 13 10,33 13,17 18,54 17,76 13,16

15,9 14,3 Techcombank 19 19,81 13,1 12,35 11,18

Maritime Bank 10,56 11,24 15 23,24 22,59 19,48 12,17

11,9 Sacombank 10,35 9,95 9,87 9,51 9,61 11,3

10,9 MB 11,15 11 10,07 12,85 10,82 12

12,8 ACB 13,5 14,7 12,25 10,97 11,13 11,5

Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và báo cáo tài chính các NHTM

Đối với tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, hệ số này cũng có sự khác biệt trong nhóm các NHTMNN và nhóm NHTMCP. Từ bảng ở trên, có thể thấy các NHTM do Nhà nước nắm cổ phần chi phối có hệ số an toàn thấp hơn so với khối các NHTMCP. Có một số nguyên nhân có thể lý giải cho vấn đề này, đó là:

Thứ nhất, các NHTMNN gặp nhiều khó khăn trong việc tăng vốn trong khi

khối NHTMCP lại có nhiều cơ hội tăng vốn thành công như phát hành cổ phiếu

riêng lẻ, thưởng cổ phiếu từ nguồn thặng dư hay chi trả cổ tức bằng cổ phiếu…

Trong khi đó, các NHTMNN khó khăn trong việc tìm đối tác chiến lược nước

ngoài và không được chia cổ tức bằng cổ phiếu, bởi những quyết định này phải

được sự thông qua từ phía NHNN. Ngoài ra, việc phát hành trái phiếu với thời hạn

dài (20-30 năm) để tăng vốn cấp 2 cho các ngân hàng cũng không dễ dàng gì do

sự kém phát triển của thị trường trái phiếu. Trên thị trường Việt Nam, số lượng

các nhà đầu tư có tổ chức, các quỹ hưu trí… còn rất hạn chế, đồng thời, các trái

155

phiếu không được xếp hạng cũng là một nguyên nhân khiến thị trường trái phiếu

dài hạn cũng không phải là kênh đầu tư hấp dẫn. Trong các NHTMNN này,

Vietinbank là ngân hàng gặp nhiều khó khăn nhất khi hệ số an toàn vốn đã chạm

gần đến ngưỡng, trong khi các phương án tăng vốn cấp 1 và cấp 2 đã khai thác

hết. Chính vì vậy, ngân hàng phải sử dụng phương án tăng vốn bằng cách xin chia

cổ tức bằng cổ phiếu hoặc giữ lợi nhuận để tăng vốn, không chia cổ tức thì mới có

thể cải thiện được hệ số CAR.

Thứ hai, các NHTMNN vẫn có xu hướng duy trì mức tăng trưởng tín dụng

ở mức cao và quy mô tài sản lớn. Mặc dù trong những năm gần đây, hầu hết các

ngân hàng đều có xu hướng chuyển dịch phát triển các hoạt động phi tín dụng và

chuyển dịch cơ cấu tín dụng theo hướng ngắn hạn, nhưng ngoại trừ VCB, các

ngân hàng khác vẫn giữ quy mô tín dụng cao trong tổng tài sản. Với trường hợp

của Vietinbank, từ năm 2017 đến nay, ngân hàng chủ động duy trì tốc độ tăng

trưởng tín dụng ở mức thấp (8-9%), nhưng tỷ trọng hoạt động tín dụng vẫn chiếm

73% trong tổng tài sản, trong đó, nợ trung dài hạn vẫn chiếm 45%. BIDV thì vẫn

duy trì tăng trưởng tín dụng ở mức cao với tốc độ tăng 15-20%, và tỷ trọng tín

dụng chiếm 74,3%.

Hệ số CAR của các NHTM Việt Nam vẫn đang được tính toán theo thông

tư 36/2014/TT-NHNN với nền tảng chính từ Hiệp định vốn Basel I, trong đó mới

chỉ tính toán đến rủi ro tín dụng. Cách tính toán mức độ đầy đủ vốn của ngân hàng

theo thông tư 36 chưa bắt kịp với xu hướng thay đổi trong chuẩn mực quốc tế và

vì vậy, chưa thực sự phản ánh được chính xác mức độ rủi ro của các ngân hàng.

Năm 2016, NHNN đã ban hành thông tư số 41/2016/TT-NHNN trong đó, đưa ra

quy định mới về cách tính toán hệ số an toàn vốn cho các NHTM tiếp cận với

chuẩn mực theo Basel II. Thông tư này sẽ được áp dụng từ 1/1/2020 thí điểm với

một số các NHTM với mục tiêu đánh giá một cách đúng đắn và đầy đủ về vốn của

các ngân hàng trước một số rủi ro cơ bản theo thông lệ quốc tế.

Như vậy, có thể thấy rằng, có ba vấn đề lớn trong hoạt động của hệ thống

ngân hàng: (i) rủi ro tín dụng vẫn là nguy cơ rủi ro hệ thống lớn nhất của Việt

156

Nam. Tốc độ tăng trưởng tín dụng/GDP nóng sẽ kéo theo tỷ lệ nợ xấu cao trong

giai đoạn sau đó; (ii) cơ cấu tín dụng chưa hợp lý thể hiện ở tỷ trọng cho vay với

các lĩnh vực có tính chất đầu cơ cao như cho vay bất động sản vẫn ở mức cao; cho

vay tiêu dùng cũng có xu hướng tăng mạnh trong khi đó, một phần lớn nhu cầu tín

dụng tiêu dùng là được sử dụng cho vay sửa chữa nhà; (iii) chất lượng vốn, mức

độ an toàn vốn có xu hướng giảm, và có thể giảm mạnh hơn khi hệ thống NHTM

chính thức áp dụng theo chuẩn Basel II (Thông tư 41/2016/TT-NHNN)

4.1.3.2. Thị trường tài chính

- Thị trường tiền tệ liên ngân hàng

Sự biến động lãi suất liên ngân hàng phản ánh mức độ hoạt động của các

ngân hàng trên thị trường tiền tệ cũng như nhu cầu thanh khoản của các tổ chức

này. Giai đoạn 2008-2012 cũng là giai đoạn lãi suất qua đêm liên ngân hàng biến

động mạnh và ở mức cao, thể hiện nguy cơ rủi ro thanh khoản hệ thống. Chính

sách tiền tệ thắt chặt của NHNN từ đầu năm 2008 với nhiều công cụ đồng thời đã

đẩy các ngân hàng rơi vào tình trạng căng thẳng thanh khoản. Cuộc chạy đua lãi

suất của các ngân hàng nhằm tìm kiếm nguồn vốn ngắn hạn đã bùng nổ trong thời

điểm giữa năm và quý 3 năm 2008 là thời điểm ghi nhận mức tăng cao nhất của lãi

suất cho vay qua đêm trên thị trường liên ngân hàng là 16,58%/năm. Đây là con số

chính thức được thông báo bởi NHNN, tuy nhiên, trên thực tế, có những thời điểm

lãi suất liên ngân hàng bị đẩy lên mức 43%/năm, phản ánh tình hình thiếu hụt

thanh khoản nghiêm trọng của các ngân hàng. Kịch bản căng thẳng thanh khoản

lại một lần nữa xảy ra đối với các ngân hàng trong năm 2011 khi NHNN thực hiện

chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm kiểm soát lạm phát. Trên thị trường liên ngân

hàng ghi nhận những giao dịch với lãi suất 37,5%/năm, và bình quân cả năm lãi

suất liên ngân hàng luôn ở mức gần 14%/năm, cao hơn rất nhiều so với thông

thường. Giai đoạn 2016-2018, lãi suất liên ngân hàng dù đã giảm xuống quanh 4%

nhưng mức độ giao động tương đối mạnh. Nhu cầu ngân hàng tăng mạnh vào quý

1 ở mức 4,7%, và giảm xuống 0,55% vào các quý giữa năm, thể hiện sự bất ổn về

thanh khoản và dự trữ của các ngân hàng.

157

Hình 4.6. Diễn biến lãi suất qua đêm trên thị trường liên ngân hàng Việt Nam giai

18,00%

16,00%

14,00%

12,00%

10,00%

8,00%

6,00%

4,00%

2,00%

0,00%

1 Q 7 0 0 2

3 Q 7 0 0 2

1 Q 8 0 0 2

3 Q 8 0 0 2

1 Q 9 0 0 2

3 Q 9 0 0 2

1 Q 0 1 0 2

3 Q 0 1 0 2

1 Q 1 1 0 2

3 Q 1 1 0 2

1 Q 2 1 0 2

3 Q 2 1 0 2

1 Q 3 1 0 2

3 Q 3 1 0 2

1 Q 4 1 0 2

3 Q 4 1 0 2

1 Q 5 1 0 2

3 Q 5 1 0 2

1 Q 6 1 0 2

3 Q 6 1 0 2

1 Q 7 1 0 2

3 Q 7 1 0 2

1 Q 8 1 0 2

3 Q 8 1 0 2

đoạn 2007-2018

Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

- Thị trường ngoại tệ

Diễn biến tỷ giá USD/VND trên thị trường ngoại hối cho thấy tỷ giá biến

động theo chiều hướng tăng lên trong các năm qua, và đặc biệt tăng mạnh trong

giai đoạn 2007-2011 (tốc độ tăng gần 30%). Nguyên nhân tăng tỷ giá trong giai

đoạn này là do áp lực của dòng vốn đầu tư nước ngoài từ đầu năm 2007, đã khiến

NHNN phải liên tục điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng đồng thời linh

hoạt nới biên độ giao động tỷ giá. Riêng trong năm 2008, tỷ giá đã tăng khoảng

9%, đây là mức cao đột biến so với mức thay đổi 1% những năm trước. Mặc dù

vậy, tỷ giá vẫn có dấu hiệu tăng liên tục cho đến khi NHNN thực hiện phá giá,

nâng tỷ giá bình quân liên ngân hàng từ mức 18.932 VND lên 20.692 VND (tăng

9,3%) trong tháng 02/2011, và giảm biên độ giao động từ ± 3% xuống ± 1% thì tỷ

giá mới dần ổn định trở lại. (Hạ Thị Thiều Dao và Phạm Thị Tuyết Trinh, 2013)

158

Hình 4.7. Diễn biến tỷ giá bình quân USD/VND trên thị trường ngoại hối liên

80000

25.000,00

70000

20.000,00

60000

50000

15.000,00

40000

10.000,00

30000

20000

5.000,00

10000

0

0,00

1 Q 7 0 0 2

3 Q 7 0 0 2

1 Q 8 0 0 2

3 Q 8 0 0 2

1 Q 9 0 0 2

3 Q 9 0 0 2

1 Q 0 1 0 2

3 Q 0 1 0 2

1 Q 1 1 0 2

3 Q 1 1 0 2

1 Q 2 1 0 2

3 Q 2 1 0 2

1 Q 3 1 0 2

3 Q 3 1 0 2

1 Q 4 1 0 2

3 Q 4 1 0 2

1 Q 5 1 0 2

3 Q 5 1 0 2

1 Q 6 1 0 2

3 Q 6 1 0 2

1 Q 7 1 0 2

3 Q 7 1 0 2

1 Q 8 1 0 2

3 Q 8 1 0 2

FDI (triệu USD)

Tỷ giá BQLNH

ngân hàng Việt Nam giai đoạn 2007-2018

Nguồn: International Financial Statistics (IMF) và Tổng cục thống kê

- Thị trường cổ phiếu:

Những biến động bất thường của chỉ số giá chứng khoán VN Index trong

giai đoạn 2006-2009 chính là dấu hiệu ban đầu của khủng hoảng thị trường

chứng khoán và tiếp sau đó là khủng hoảng nợ xấu trong hệ thống ngân hàng.

Giai đoạn 2006-2007 là thời kỳ bùng nổ của thị trường chứng khoán, chỉ số VN

Index tăng mạnh từ cuối năm 2006 và đạt đỉnh 1.179 điểm vào tháng 3/2007. Chỉ

số thanh khoản thị trường (được đo lường bằng giá trị giao dịch của các nhà đầu

tư) mặc dù chưa cao, nhưng đã có tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ so với năm trước

đó. Tuy nhiên, số lượng các giao dịch trong giai đoạn này chưa nhiều, sự gia tăng

giá trị giao dịch chủ yếu do mức giá chứng khoán bị thổi phồng quá mức. Nguyên

nhân của bùng nổ đến từ nhiều nguyên nhân, nhưng một phần lớn trong đó là do

chính sách tiền tệ mở rộng của NHNN và lượng vốn tín dụng mạnh mẽ từ hệ

thống ngân hàng đổ vào thị trường này trong các năm trước đó. Sự tăng trưởng

159

quá nhanh đã khiến giá chứng khoán không giữ được lâu, bong bóng chứng khoán

vỡ ngay trong hai năm sau đó. Chính sách tiền tệ thắt chặt trong năm 2008 cùng

với động thái rút vốn của nhà đầu tư ngoại do khủng hoảng tài chính đã làm thị

trường suy giảm mạnh mẽ, chạm đáy 235,5 điểm vào tháng 2/2009. Cùng với sự

sụt giảm của chỉ số giá, thanh khoản thị trường cũng suy giảm mạnh. Tuy nhiên,

bắt đầu từ thời điểm này, giá trị thanh khoản có xu hướng biến động với tốc độ

tương ứng với sự thay đổi của chỉ số giá, thể hiện sự ổn định trong số lượng các

giao dịch.

Năm 2017, chỉ số chứng khoán có xu hướng tăng mạnh trở lại, chỉ trong

vòng 3 tháng, thị trường tăng gần 200 điểm (22,35%). Đây cũng là một dấu hiệu

đáng chú ý, nguy cơ rủi ro cho thị trường. Bên cạnh những giai đoạn tăng giá với

tốc độ cao, thị trường chứng khoán còn tiềm ẩn những rủi ro khác: (i) Báo cáo tài

chính không chính xác, gian lận, sự thiếu tin cậy cho cả những báo cáo đã được

kiểm toán. Theo Phạm Thị Hoàng Anh (2017), trên thị trường có hiện tượng tăng

vốn ảo, tác động vào báo cáo tài chính, theo đó, các cổ đông góp vốn vào doanh

nghiệp nhưng doanh nghiệp lại chuyển lại cho cổ đông thông qua ủy thác đầu tư,

tạm ứng, hay đầu tư vào công ty của cổ đông, khiến một số cổ phiếu có P/E cao

bất thường (ví dụ như mã ROS của tập đoàn FLC); (ii) Một số doanh nghiệp có

giá trị vốn hóa lớn có khả năng chi phối thị trường. Hiện nay, trên SGD TPHCM

có khoảng 20 doanh nghiệp lớn chiếm đến 80% giá trị vốn hóa thị trường. Điều

này dẫn đến hiện tượng, biến động giá cổ phiếu của các doanh nghiệp này có ảnh

hưởng lớn đến chỉ số VN Index, làm sai lệch xu hướng chung của thị trường.

160

Hình 4.8. Diễn biến chỉ số giá chứng khoán VN Index và giá trị giao dịch thị

trường giai đoạn 2005-2018

450000

1400

400000

1200

350000

1000

300000

800

250000

200000

600

150000

400

100000

200

50000

0

0

1 Q 5 0 0 2

3 Q 5 0 0 2

1 Q 6 0 0 2

3 Q 6 0 0 2

1 Q 7 0 0 2

3 Q 7 0 0 2

1 Q 8 0 0 2

3 Q 8 0 0 2

1 Q 9 0 0 2

3 Q 9 0 0 2

1 Q 0 1 0 2

3 Q 0 1 0 2

1 Q 1 1 0 2

3 Q 1 1 0 2

1 Q 2 1 0 2

3 Q 2 1 0 2

1 Q 3 1 0 2

3 Q 3 1 0 2

1 Q 4 1 0 2

3 Q 4 1 0 2

1 Q 5 1 0 2

3 Q 5 1 0 2

1 Q 6 1 0 2

3 Q 6 1 0 2

1 Q 7 1 0 2

3 Q 7 1 0 2

1 Q 8 1 0 2

3 Q 8 1 0 2

Giá trị giao dịch thị trường (trục trái)

VN Index (trục phải)

Đơn vị: tỷ đồng

Nguồn: Sở giao dịch chứng khoán TP HCM

- Thị trường trái phiếu chính phủ

Lãi suất trái phiếu chính phủ và chỉ số CDS 5 năm tăng mạnh trong năm

2008 và 2011 thể hiện những bất ổn và sự mất niềm tin của nhà đầu tư trên thị

trường trái phiếu Việt Nam. Lãi suất trái phiếu chính phủ không chỉ là mức chi phí

huy động vốn của Chính phủ mà còn phản ánh mức lợi tức phi rủi ro trên thị

trường. Nếu lãi suất trái phiếu chính phủ tăng cao, điều đó chứng tỏ các nhà đầu tư

đánh giá việc đầu tư hiện nay tiềm ẩn rủi ro, và vì vậy đòi hỏi mức lãi suất cao cho

cả những trái phiếu được đánh giá phi rủi ro như trái phiếu chính phủ. Lãi suất trái

phiếu chính phủ tăng sẽ khiến lãi suất của các loại trái phiếu có rủi ro khác (trái

phiếu doanh nghiệp) trên thị trường sẽ phải tăng cao hơn nữa để có thể huy động

vốn từ nhà đầu tư. Hình 4.8 cho thấy, lãi suất TPCP tăng đột biến trong năm 2008,

từ 8,85% trong quý 1 mà tăng lên 17% (gấp 2 lần) trong quý 2. Đồng thời, chỉ số

161

CDS 5 năm cũng tăng mạnh lên mức 500 điểm, thể hiện những lo ngại về rủi ro vỡ

nợ của nhà đầu tư với TPCP Việt Nam. Sau năm này, lãi suất và chỉ số CDS đã có

xu hướng giảm đem lại những tín hiệu tích cực, tuy nhiên, những lo ngại về rủi ro

vỡ nợ của nhà đầu tư lại tiếp tục tăng lên trong năm 2011 khi lãi suất lên mức 12%

và chỉ số CDS chạm mức 461 điểm. Bên cạnh những lo ngại của nhà đầu tư về

tình trạng nợ công ở mức cao, thì nguyên nhân chính dẫn đến những căng thẳng

này do lạm phát tăng cao trong năm 2008 và 2011. Chính sách tiền tệ thắt chặt

nhằm kiềm chế lạm phát của NHNN đã đẩy mặt bằng lãi suất thị trường lên mức

cao, kết hợp với tình trạng chi tiêu và đầu tư công thiếu hiệu quả khiến cho Chính

phủ phải tăng mức lãi suất trái phiếu nhằm huy động vốn, những lo ngại về rủi ro

vỡ nợ của nhà đầu tư đối với TPCP Việt Nam vì thế cũng gia tăng.

Hình 4.9. Lãi suất trái phiếu chính phủ Việt Nam và chỉ số CDS kỳ hạn 5 năm giai

600

18

16

500

14

400

12

10

300

8

200

6

4

100

2

0

0

3 Q 7 0 0 2

1 Q 8 0 0 2

3 Q 8 0 0 2

1 Q 9 0 0 2

3 Q 9 0 0 2

1 Q 0 1 0 2

3 Q 0 1 0 2

1 Q 1 1 0 2

3 Q 1 1 0 2

1 Q 2 1 0 2

3 Q 2 1 0 2

1 Q 3 1 0 2

3 Q 3 1 0 2

1 Q 4 1 0 2

3 Q 4 1 0 2

1 Q 5 1 0 2

3 Q 5 1 0 2

1 Q 6 1 0 2

3 Q 6 1 0 2

1 Q 7 1 0 2

3 Q 7 1 0 2

1 Q 8 1 0 2

3 Q 8 1 0 2

CDS 5 năm (trục trái)

Lãi suất TPCP 5 năm (trục phải)

đoạn 2007-2018

Nguồn: Asianbondsonline.adb.org (ADB)

Như vậy, cũng giống như khu vực ngân hàng, thị trường tài chính cũng trải

qua một thời kỳ biến động mạnh với nhiều rủi ro. Thị trường cổ phiếu bùng nổ và

vỡ bong bóng trong giai đoạn 2006-2009 và các thị trường còn lại thì biến động

mạnh trong giai đoạn sau đó, 2007-2011. Những rủi ro trên thị trường tài chính thể

hiện trên cả thị trường vốn ngắn hạn và trung dài hạn như: (i) khả năng thanh

162

khoản của hệ thống không ổn định thể hiện qua sự biến động lớn của lãi suất liên

ngân hàng; (ii) đầu tư trên thị trường chứng khoán rủi ro do bất cân xứng thông tin

lớn, báo cáo tài chính thiếu chính xác và minh bạch; (iii) thị trường chứng khoán

bị chi phối bởi một số ít doanh nghiệp lớn.

4.1.3.3. Khu vực kinh tế vĩ mô

- Bối cảnh kinh tế vĩ mô có những biến động mạnh và rủi ro lớn trong giai

đoạn 2008-2012, và ổn định dần từ năm 2013 trở lại đây. Những bất ổn về vĩ mô

được thể hiện rõ nét qua sự gia tăng mạnh của tỷ lệ lạm phát và lãi suất trong năm

2008 và 2011. Do tác động bởi xu hướng tăng cao của giá cả thể giới cùng với các

dòng vốn đầu tư nước ngoài ồ ạt chảy vào sau khi Việt Nam gia nhập WTO đã

khiến nền kinh tế rơi vào thế bị động, không thể hấp thụ ngay lập tức lượng vốn

lớn. Lạm phát tăng cao đẩy mặt bằng lãi suất tăng lên, gây ảnh hưởng đến hoạt

động của ngân hàng cũng như các doanh nghiệp. Nền kinh tế chịu tác động từ bất

ổn trong nước cùng với những tác động gián tiếp từ khủng hoảng tài chính toàn

cầu, nên tốc độ tăng trưởng có sự suy giảm nhẹ sau đó. Năm 2009 và năm 2012 là

hai năm tốc độ tăng trưởng ở mức thấp nhất với khoảng 5,3%, nhưng đây vẫn là

con số rất khả quan trong bối cảnh rất nhiều nền kinh tế trên thế giới đối mặt với

suy thoái. Từ 2012 cho đến nay, kinh tế tăng trưởng đều, lạm phát và lãi suất được

duy trì ở mức thấp, tạo động lực cho ổn định hệ thống tài chính.

25

20

15

10

5

0

2008

2009

2010

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

Tăng trưởng GDP

Tỷ lệ lạm phát

Lãi suất cho vay

Hình 4.10. Diễn biến các chỉ tiêu vĩ mô giai đoạn 2008-2018

Nguồn: Cơ sở dữ liệu Worldbank, IMF và Tổng cục thống kê

163

- Nợ công và nợ nước ngoài của Việt Nam ở mức cao, có xu hướng gia

tăng từ năm 2012 trở lại đây, là thách thức đối với ổn định tài khóa. Khu vực

công trong những năm gần đây đánh giá là khá bất ổn và tiềm ẩn nhiều rủi ro. Quy

mô nợ công trong những năm gần đây có xu hướng tăng nhanh, gần chạm đến

ngưỡng 65% GDP do Quốc hội đề ra, làm tăng áp lực trả nợ trong khi nguồn lực

trả nợ gặp khó khăn do Ngân sách luôn rơi vào tình trạng bội chi, từ mức 3%-5%

GDP. Cơ cấu thu chi được đánh giá chưa hợp lý, chi thường xuyên tăng nhanh và

chưa có biện pháp hữu hiệu để kiểm soát, chi thường xuyên và chi trả nợ chiếm

trên 70% tổng chi ngân sách. Các khoản nợ nước ngoài cũng có xu hướng tăng

đều, năm 2017 cao nhất ở mức 48,9% GDP. Hiện nay, đa số các khoản nợ nước

ngoài của Việt Nam đều có lãi suất thấp do vay ODA và vay từ các tổ chức như

Ngân hàng thế giới và Ngân hàng phát triển châu Á. Tuy nhiên, các mức lãi suất

vay nước ngoài đang có xu hướng gia tăng cùng với sự tăng lên của các khoản vay

có lãi suất thả nổi làm cho áp lực trả nợ càng cao. (Vũ Hải Yến, 2017)

70

60

50

40

30

20

10

0

2008

2009

2010

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

Tỷ lệ nợ công/ GDP

Tỷ lệ nợ nước ngoài/ GDP

Hình 4.11. Tỷ lệ nợ công và nợ nước ngoài của Việt Nam giai đoạn 2008-2018

Nguồn: ADB và Bộ tài chính (Bản tin nợ công)

164

- Thị trường bất động sản trải qua giai đoạn bong bóng và vỡ năm 2007-

2009, và ổn định hơn trong năm gần đây nhưng vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro. Giai

đoạn 2007-2009, thị trường bất động sản vào chu kỳ bùng nổ do lượng tín dụng

tăng mạnh. Tốc độ tăng trưởng tín dụng giai đoạn này khoảng 40%/năm, và một

phần lớn lượng vốn đổ vào thị trường này. Từ 2012 đến này, tốc độ tăng trưởng

tín dụng được kiểm soát và chỉ số bất động sản có xu hướng tăng ổn định, chưa

hình thành bong bóng. Tuy nhiên, theo Phan Minh Anh (2016), cấu trúc cung cầu

thị trường còn nhiều bất cập, tiềm ẩn rủi ro như: (i) nguồn cung lớn trong tỷ lệ hấp

thụ nhà ở mức thấp; (ii) giá nhà quá cao so với thu nhập; (iii) các doanh nghiệp bất

động sản có đòn bẩy tài chính lớn, khả năng chống đỡ rủi ro kém. Nguy cơ rủi ro

của hệ thống ngân hàng với khu vực bất động sản cũng luôn tiềm ẩn do tỷ lệ cho

vay bất động sản chiếm khoảng 20% chưa kể lượng vốn cho vay sửa chữa nhà

được tính trong cho vay tiêu dùng.

60

1,6

1,4

50

1,2

40

1

30

0,8

0,6

20

0,4

10

0,2

0

0

2007

2008

2009

2010

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

Tốc độ tăng trưởng tín dụng (Trục trái)

Chỉ số giá BĐS (Trục phải)

Hình 4.12. Chỉ số giá bất động sản và tốc độ tăng trưởng tín dụng

Nguồn: Ngân hàng Nhà nước và IMF

Như vậy, khu vực kinh tế vĩ mô cũng trải những bất ổn trong giai đoạn

2008-2012 như lạm phát và lãi suất tăng cao trong năm 2008-2011, thị trường bất

động sản bùng nổ và vỡ bong bóng trong 2007-2009. Hiện nay, nguy cơ rủi ro lớn

nhất đối với khu vực này là sự thiếu tự chủ của khu vực tài chính công và sự thiếu

ổn định ở khu vực bất động sản.

165

4.2. Phát triển chỉ số ổn định tài chính tổng hợp

Từ gợi ý của các tổ chức quốc tế cũng như kinh nghiệm của các quốc gia

trong chương 2, việc xây dựng bộ chỉ số đo lường ổn định tài chính tương thích

với đặc điểm về kinh tế, tài chính của mỗi quốc gia là rất quan trọng. Với những

chỉ số cơ bản, chứa đựng những thông tin về sự lành mạnh hoặc rủi ro của nhiều

khu vực thành phần, bộ chỉ số ổn định tài chính là công cụ tham khảo hữu hiệu

cho nhà điều hành trong việc phát hiện những rủi ro hệ thống tiềm tàng, tự đánh

giá mức độ ổn định của hệ thống tài chính, từ đó có những biện pháp hạn chế tối

đa tác động tiêu cực từ những rủi ro này. Ưu điểm lớn nhất của bộ chỉ số là dữ liệu

thông tin đa dạng, có khả năng theo dõi tương đối đầy đủ các lĩnh vực trong hệ

thống tài chính, từ đó phát hiện những nguy cơ, rủi ro tiềm ẩn cũng như xác định

cụ thể nguy cơ, rủi ro đó đến từ thành phần, khu vực nào của hệ thống tài chính.

Tuy nhiên, bộ chỉ số có hạn chế là số lượng chỉ số nhiều, dữ liệu cồng kềnh, khó

cập nhật thường xuyên, cũng như khó đưa ra những thông tin tổng hợp hay mang

tính dự báo. Chính vì vậy, xu hướng hiện nay của các quốc gia cũng như các nhà

kinh tế là phát triển chỉ số ổn định tài chính tổng hợp, mang tính cảnh báo sớm, có

thể nhanh chóng báo hiệu sự căng thẳng hoặc mất ổn định trong hệ thống. Chỉ số

ổn định tài chính tổng hợp sẽ bổ sung những hạn chế của bộ chỉ số và cùng với bộ

chỉ số đem lại hiệu quả cao hơn trong việc đo lường ổn định tài chính. Đây cũng là

xu hướng mà các quốc gia như Hàn Quốc và Indonesia đang áp dụng và cũng là

định hướng phù hợp với điều kiện của Việt Nam. Tùy thuộc vào mục đích và ý

nghĩa của chỉ số tổng hợp, các cơ quan điều hành hoặc NHTW quốc gia có thể lựa

chọn các biến số khác nhau để cấu thành nên các chỉ số căng thẳng tài chính, chỉ

số ổn định tài chính hoặc chỉ số cảnh báo sớm.

- Chỉ số căng thẳng tài chính: có xu hướng phản ánh sự tác động qua lại giữa

đổ vỡ tài chính và quy mô của những cú sốc. Trong đó, căng thẳng tài chính được

hiểu là kết quả của thị trường tài chính đổ vỡ và các cú sốc tiêu cực. (Grimaldi,

2010, 2011). Các chỉ số căng thẳng tài chính giám sát sự bất ổn tài chính bằng cách

tạo ra một dãy giá trị, trong đó, sự thay đổi đột biến của dữ liệu phản ánh khả năng

cao xảy ra khủng hoảng. Các biến số được đưa vào chủ yếu bao gồm các loại lãi

suất, tương quan chênh lệch lãi suất phản ánh mức độ rủi ro, các mức giá...

(Kliensen và cộng sự, 2012).

166

- Chỉ số ổn định tài chính: phản ánh sự lành mạnh, ổn định, xu hướng phát

triển hoặc bất ổn tài chính. Chỉ số ổn định tài chính và căng thẳng tài chính cũng có

một số phần dữ liệu trùng nhau, nhưng khác biệt chính là chỉ số này sẽ bao gồm các

dữ liệu về mức giá, lãi suất, tăng trưởng khối lượng, trong khi chỉ số căng thẳng tài

chính chủ yếu chỉ tính đến các mức giá và lãi suất (Kliensen và cộng sự, 2012).

- Chỉ số cảnh báo sớm: được xây dựng với mục tiêu phát hiện những yếu tố

tích tụ gây nên bùng nổ tài chính, vốn là nguyên nhân gây ra suy thoái và khủng

hoảng tài chính trong tương lai. Những bùng nổ hay sự phát triển quá mức của hệ

thống tài chính, đặc biệt là khu vực ngân hàng sẽ kéo theo đó là vỡ bong bóng và

suy thoái. Một số dấu hiệu của bùng nổ tài chính như: khẩu vị rủi ro tăng cao, giá

tài sản tăng vọt hay sự mở rộng quy mô tín dụng nhanh chóng (Aldasoro và cộng

sự, 2018), thanh khoản giảm sút (Suryaningsih và cộng sự 2014). Một số chỉ tiêu

được sử dụng với mục tiêu cảnh báo sớm cho khủng hoảng ngân hàng như: tỷ lệ

tín dụng hộ gia đình/GDP, nợ nước ngoài/GDP, giá bất động sản, chênh lệch giữa

tín dụng/GDP với xu hướng dài hạn; chênh lệch giá tài sản với xu hướng dài hạn;

tỷ lệ nợ (gốc và lãi)/ thu nhập trả nợ (Debt service ratio-DSR); tỷ lệ cho vay/ tổng

tiền gửi (Loan deposit ratio-LDR), khe hở vốn… Trong đó, chênh lệch giữa tín

dụng/GDP với xu hướng dài hạn được coi là chỉ tiêu cảnh báo sớm tốt nhất trong

thời gian dài và tỷ lệ DSR là chỉ tiêu tốt hơn trong thời gian ngắn. (Drehmann và

Juselius, 2013).

Về cơ bản, không có một quy tắc chuẩn hay thỏa thuận nào giữa các tổ

chức quốc tế hay nhà nghiên cứu về việc những chỉ tiêu, biến số nào sẽ được đưa

vào để đo lường ổn định tài chính. Vấn đề đặt ra là lựa chọn các biến số phù hợp

và kết hợp theo cách hợp lý để có thể tạo ra chỉ số tổng hợp hiệu quả, thể hiện rõ

sự tương tác giữa các biến số thành phần. Về việc thiết lập chỉ số ổn định tài chính

tổng hợp, hiện nay đang có hai xu hướng xây dựng chỉ số này được các quốc gia

cũng như các nhà nghiên cứu thực hiện. (i) phương pháp gián tiếp: xây dựng chỉ

số tổng hợp dựa trên các chỉ số phụ của từng lĩnh vực/ cấu phần của hệ thống tài

chính như: chỉ số ổn định khu vực ngân hàng, khu vực tài chính, khu vực kinh tế

thực, chỉ số điều kiện tài chính, điều kiện tiền tệ, chỉ số phát triển tài chính, chỉ số

đổ vỡ tài chính… và (ii) phương pháp trực tiếp: xây dựng chỉ số ổn định tài chính

tổng hợp duy nhất với mục tiêu đánh giá bao quát mức độ ổn định hoặc căng thẳng

167

của hệ thống tài chính chỉ qua một chỉ số.

Xây dựng chỉ số tổng hợp theo xu hướng thứ nhất đang là cách tiếp cận

được nhiều NHTW cũng như các nhà nghiên cứu lựa chọn. Đối với cách tiếp cạnh

này, các tác giả sẽ phải lựa chọn các biến số đưa vào các nhóm để tính toán chỉ số

phụ cho từng nhóm (khu vực ngân hàng, khu vực thị trường tài chính, khu vực

kinh tế thực…) hoặc từng chủ đề (lành mạnh tài chính, đổ vỡ tài chính, phát triển

tài chính, điều kiện kinh tế toàn cầu…), sau đó mới tổng hợp các chỉ số phụ thành

chỉ số tổng hợp. Ưu điểm của chỉ số ổn định tài chính tổng hợp là ngoài việc

truyền tải thông tin về sự ổn định hoặc bất ổn của hệ thống tài chính thì các chỉ số

phụ bên trong còn cung cấp thông tin về sự lành mạnh, phát triển của từng khu

vực khác nhau trong hệ thống. Khi nhìn vào chỉ số tổng hợp và các chỉ số phụ, nhà

điều hành có thể biết được bất ổn hoặc nguy cơ rủi ro đến từ khu vực nào, lĩnh vực

nào để có những biện pháp can thiệp và điều chỉnh phù hợp. Việc nhóm các biến

số thành chỉ số phụ còn là bước trung gian giúp các nhà nghiên cứu dễ dàng hơn

khi tổng hợp một số lượng lớn các biến sốĐây là sự lựa chọn của NHTW Hàn

Quốc, Indonesia, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha…

Một xu hướng khác trong việc đo lường ổn định tài chính đó là xây dựng một

chỉ số ổn định tài chính duy nhất, với mục tiêu đánh giá bao quát mức độ ổn định

hoặc căng thẳng hệ thống tài chính chỉ thông qua một chỉ số. Quy trình xây dựng

chỉ số này cũng tương tự như với chỉ số tổng hợp ở trên, tuy nhiên sẽ bỏ qua bước

thiết lập chỉ số phụ. Đối với chỉ số tổng hợp riêng lẻ, số lượng các biến số được sử

dụng để tổng hợp thường ít hơn, phục vụ cho việc tổng hợp trực tiếp các biến số vào

vào chỉ số chính.

Trên cơ sở bộ chỉ số ổn định tài chính đề xuất ở trên, tác giả phát triển chỉ số

ổn định tổng hợp (Financial Stability Index-FSI) cho Việt Nam theo xu hướng thứ

hai. Trong giới hạn phạm vi nghiên cứu, hệ thống tài chính bao gồm ba cấu phần

chính là khu vực ngân hàng và thị trường tài chính, vì vậy, tác giả xây dụng chỉ số

ổn định hệ thống tài chính với các biến số phản ánh sự ổn định của ba khu vực này.

Tác giả áp dụng hai phương pháp được sử dụng phổ biến trong nhiều nghiên cứu về

ổn định tài chính là: (i) Phương pháp trọng số cân bằng và (ii) Phương pháp phân

tích thành tố chính PCA.

168

4.2.1. Phương pháp trọng số cân bằng

Việc thiết lập chỉ số ổn định tài chính được thực hiện theo các bước như sau:

- Bước 1: Lựa chọn các chỉ số thành phần.

Căn cứ vào bộ chỉ số đề xuất ở trên, tác giả thực hiện tính toán chỉ số ổn định

tài chính cho 3 khu vực chính là hệ thống ngân hàng, thị trường tài chính và khu

vực kinh tế vĩ mô:

Bảng 4.3. Các chỉ số thành phần cho chỉ số FSI Việt Nam

Tên chỉ số Ký hiệu Tác động Nguồn

CRE/GDP CRE GRW RE ESTATE - - - SBV SBV IMF

NPL NPL COV CAR LIQUID NIM ROE - - + + + + SBV SBV SBV IMF IMF IMF

INTER RATE INTER ER STOCK STOCK LIQUID GBOND RATE CDS - + + + - - IMF IMF HOSE HOSE ADB ADB

GDP CPI LENDING RATE PUBLIC DEBT FOREIGN DEBT HOUSE PRICE + - - - - - WB GSO IMF MOF MOF IMF

Hệ thống ngân hàng Chênh lệch tín dụng/GDP Tăng trưởng tín dụng Tỷ lệ dư nợ bất động sản/tổng dư nợ Tỷ lệ nợ xấu Tỷ lệ bao phủ nợ xấu Hệ số an toàn vốn Tỷ lệ thanh khoản ngắn hạn Tỷ lệ thu nhập lãi ròng Tỷ lệ sinh lời trên vốn Thị trường tài chính Lãi suất liên ngân hàng Tỷ giá bình quân liên ngân hàng Biến động giá chứng khoán Chỉ số thanh khoản thị trường Lãi suất TPCP 5 năm Chỉ số CDS Kinh tế vĩ mô Tăng trưởng kinh tế Tỷ lệ lạm phát Lãi suất cho vay Tỷ lệ nợ công Tỷ lệ nợ nước ngoài Biến động giá BĐS

169

- Bước 2: Chuẩn hóa các chỉ số

Để thuận tiện cho việc tổng hợp vào chỉ số FSI, các biến số cần được

chuyển đổi cho tương thích với nhau. Tác giả áp dụng phương pháp chuẩn hóa

min-max, mỗi chỉ số sẽ được chuyển đổi để nhận giá trị trong khoảng [0;1]

=

bằng công thức sau:

− min () max() − min ()

là biến số chuẩn hóa tại thời điểm t; là giá trị của biến số tại thời điểm t; max() và min() lần lượt là giá trị cực đại và cực tiểu của mỗi

Trong đó:

biến số.

- Bước 3: Xác định trọng số của từng chỉ số thành phần

Có nhiều phương pháp có thể được thực hiện để xác định trọng số của các

chỉ số thành phần như: phương pháp trọng số cân bằng, phương pháp trung bình

phương sai cân bằng, phương pháp phân tích thành tố chính (PCA), phương pháp

phân tích điểm ngoặt, phương pháp phân phối tích lũy mẫu (CDF), mô hình kinh tế

lượng…Trong phần này, tác giả áp dụng phương pháp trọng số cân bằng phù hợp

với bộ dữ liệu hạn chế về quy mô và thời gian. Đây là phương pháp dễ thực hiện, và

được áp dụng trong các nghiên cứu của Morris (2010) cho NHTW Jamaica,

Karanovic và Karanovic (2015) cho các quốc gia khu vực Balkans…

170

HOUSE

INTER

INTER

STOCK

GBOND

LENDING

PUBLIC

FOREIGN

CRE

RE

NPL

CRE/GDP

NPL

CAR

LIQUID NIM

ROE

STOCK

CDS

GDP

CPI

PRICE

RATE

ER

LIQUID

RATE

RATE

DEBT

DEBT

GRW

ESTATE

COV

2008

0.2823

0.6211

0.0000

0.8246

0.8734

1.0000

1.0000

0.7613

0.7961

0.3113

0.4652

0.0000

0.0516

0.2698

0.0000

0.2269

0.0000

0.1171

1.0000

1.0000

0.0000

2009

0.2718

0.0000

0.2083

1.0000

1.0000

0.2692

0.8351

0.4275

1.0000

0.4117

0.4330

1.0000

1.0000

0.1541

0.6885

0.0826

0.7202

0.6887

0.5625

0.7630

1.0000

2010

0.0000

0.3789

0.4479

0.8421

0.9494

0.0000

0.8660

0.5698

0.9539

0.3015

0.4484

0.5111

0.1665

0.1376

0.5248

0.6430

0.6168

0.3814

0.3594

0.4502

0.3727

2011

0.5848

0.8632

0.7500

0.4474

0.5823

0.6154

0.0567

1.0000

0.8684

0.0000

0.0000

0.3209

0.0000

0.0000

0.2958

0.5429

0.1965

0.0000

0.4583

0.3507

0.4604

2012

0.9458

1.0000

0.7813

0.0000

0.0000

0.1923

0.0619

0.7579

0.3289

0.8069

1.0000

0.6816

0.3049

0.3346

0.7929

0.0000

0.6159

0.3483

0.6719

0.5450

0.5672

2013

1.0000

0.9114

0.7396

0.2061

0.2532

0.8077

0.0412

0.3906

0.1711

0.7901

0.9003

0.7081

0.2559

0.5343

0.6368

0.0957

0.7328

0.6587

0.4792

0.5498

0.5382

0.9639

0.8676

0.6771

0.3640

0.0759

0.1923

0.1701

0.0000

0.0000

0.8394

0.9003

0.5901

0.5225

0.7843

0.8069

0.4030

0.8451

0.8288

0.2969

0.5024

0.4750

2014

0.7004

0.7847

0.6042

0.6711

0.4810

0.5769

0.0515

0.2736

0.1447

0.7993

0.6973

0.6090

0.1583

0.7146

0.5898

0.7829

1.0000

0.9840

0.1406

0.3270

0.4678

2015

0.3924

0.7584

0.7604

0.7105

0.4304

0.5000

0.0515

0.3105

0.2237

0.6871

0.8773

0.6576

0.2696

0.8540

0.7924

0.5271

0.9091

1.0000

0.0000

0.1943

0.4075

2016

0.2661

0.7584

1.0000

0.9167

0.5190

0.3577

0.0258

0.7435

0.3355

1.0000

0.8801

0.9289

0.4265

1.0000

1.0000

0.8557

0.8702

0.9890

0.1198

0.0000

0.5011

2017

0.2816

0.8719

0.8229

0.9518

0.6329

0.3077

0.0000

0.5260

0.6513

0.7128

0.8219

0.5367

0.2825

0.9726

0.8831

1.0000

0.8697

0.9560

0.2760

0.1374

0.4770

2018

Bảng 4.4. Chuẩn hóa dữ liệu các chỉ số theo phương pháp min-max

171

- Bước 4: Tổng hợp chỉ số FSI theo phương pháp trọng số cân bằng

= ∑( × )

Chỉ số này càng cao thể hiện tình hình hoạt động của thị trường càng ổn định.

0,70

0,64

0,62

0,60

0,60

0,55

0,54

0,54

0,53

0,51

0,50

0,47

0,46

0,40

0,40

0,30

0,20

0,10

0,00

2008

2009

2010

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

Hình 4.13. Chỉ số ổn định tài chính FSI theo phương pháp trọng số cân bằng

Nguồn: Tính toán của tác giả

Kết quả tính toán cho thấy, chỉ số FSI giai đoạn 2008-2011 có giá trị tương

đối thấp, thể hiện tình hình hệ thống tài chính giai đoạn này có nhiều bất ổn. Điều

này cũng được thể hiện rõ trong phần phân tích các chỉ số hoạt động của ngân hàng

và thị trường tài chính: năm 2008 hệ thống ngân hàng gia tăng tín dụng với tốc độ

cao, các ngân hàng đối mặt với cuộc chạy đua lãi suất. Cuối năm này, thị trường

chứng khoán cũng có dấu hiệu suy giảm mạnh. Sang năm 2010-2011, hệ thống

ngân hàng gặp rủi ro thanh khoản do độ tín dụng gia tăng nhanh trong các giai đoạn

trước đó khiến ngân hàng phải đối mặt với việc xử lý nợ xấu, thị trường chứng

khoán sụt giảm mạnh và lãi suất trái phiếu tăng cao thể hiện mức độ rủi ro tăng. Từ

năm 2015 trở lại đây, chỉ số ổn định có sự tăng lên đáng kể, thể hiện sự cải thiện về

hoạt động của hệ thống ngân hàng và thị trường tài chính nói chung, phù hợp với

172

bối cảnh kinh tế vĩ mô ổn định trong giai đoạn gần đây.

4.2.2. Phương pháp phân tích thành tố chính PCA

Phương pháp phân tích thành tố chính PCA là một trong những phương pháp

được sử dụng phổ biến nhất việc tổng hợp các thành phần, đặc biệt là trong các

nghiên cứu tổng hợp chỉ số riêng lẻ như: nghiên cứu của Petrovska & Mucheva

Mihajlovska (2013) xây dựng chỉ số ổn định của hệ thống ngân hàng và chỉ số điều

kiện thị trường cho trường hợp của Macedonia; Arzamasov và Penikas (2014) thiết

lập chỉ số ổn định tài chính cho Israsel, Louzis và Vouldis (2011) sử dụng trong xây

dựng chỉ số căng thẳng tài chính tại Hy Lạp, Akosha và cộng sự (2018) áp dụng cho

chỉ số ổn định tài chính Ghana. Phương pháp này được sử dụng trong trường hợp dữ

liệu có quá nhiều chiều và mang tính khai phá tìm ra các biến quan trọng. Phương

pháp này thực hiện trích xuất các tổ hợp tuyến tính có trọng số của một số biến, tối

đa hoá phương sai của mỗi tổ hợp tuyến tính, trong khi giảm thiểu phương sai xung

quanh nó; từ đó làm giảm số lượng biến và phát hiện cấu trúc trong các mối quan hệ

giữa các biến. Phương pháp này cho phép tính toán trọng số dựa vào mức độ quan

trọng của từng khu vực, thị trường trong nền kinh tế. (Nguyễn Quỳnh Thơ, 2019).

Một số đặc điểm cơ bản của phương pháp này là:

- Giúp giảm số chiều của dữ liệu

- PCA xây dựng một trục tọa độ không gian mới với ít chiều hơn, và có khả

năng biểu diễn dữ liệu tốt tương đương với không gian cũ. Các trục tọa độ trong

không gian mới được xây dựng sao cho trên mỗi trục, độ biến thiên của dữ liệu trên

đó là lớn nhất.

- Các trục tọa độ trong không gian mới là tổ hợp tuyến tính của không gian cũ

- Trong không gian mới, một số liên kết tiềm ẩn của dữ liệu có thể được

khám phá mà nếu ở trong không gian cũ thì khó nhận biết được mối liên kết này.

Ưu điểm lớn nhất của PCA là có khả năng xác định được mức độ quan trọng

một số lượng lớn các chỉ tiêu và vì thế tỷ trọng tính toán ra sẽ thống nhất với ý

173

nghĩa của chỉ số trong lịch sử. Ngoài ra, phương pháp này có khả năng nắm bắt mối

liên hệ qua lại trong thị trường tài chính, cho phép giải thích sự quan trọng có tính

hệ thống của mỗi chỉ số. Mức độ tương quan, liên kết càng lớn, tỷ trọng càng cao.

Điều này có nghĩa là có khả năng chỉ cần có sự suy giảm nhỏ trong một chỉ số có

trọng số lớn sẽ có tác động nhiều hơn đến ổn định tài chính so với sự suy giảm lớn

của một chỉ số có tỷ trọng nhỏ. Bên cạnh đó, phương pháp PCA cũng có hạn chế

như, việc lựa chọn chỉ số tài chính nào cũng bị giới hạn bởi tần suất của dữ liệu sẵn

có, cũng như độ dài của dữ liệu. Brave và Butters (2011)

- Bước 1: Lựa chọn các chỉ số thành phần

Tương tự như phương pháp 1, tác giả cũng thực hiện tính toán chỉ số ổn định

tài chính FSI dựa trên 21 chỉ số như trong bảng 4.3.

- Bước 2: Chuẩn hóa các chỉ số (theo phương pháp Normed Principal

component analysis-Normed PCA)

Trước khi áp dụng phương pháp phân tích thành phần chính PCA, các dữ

liệu nhiều đa chiều sẽ được chuyển đổi đưa về cùng một gốc tọa độ và chuẩn hóa

với độ lệch chuẩn bằng 1 (Normed PCA) theo công thức sau:

= ( − ) √

Trong đó: Z là giá trị chuẩn hóa của biến số; X là giá trị của biến số tại thời

điểm t; σ và μ lần lượt là độ lệch chuẩn và trung bình số học của biến X.

174

HOÚE

INTER

INTER

STOCK

GBOND

LENDING

PUBLIC

FOREIGN

CRE

RE

NPL

CRE/GDP

NPL

CAR LIQUID NIM

ROE

STOCK

CDS

GDP

CPI

PRICE

RATE

ER

LIQUID

RATE

RATE

DEBT

DEBT

GRW

ESTATE

COV

2008

-0.1248

-0.3852

0.1067 0.1895 0.3460

0.3257

0.1529 0.1494

-0.3978

-0.1737

-0.1277

-0.2555

0.3870

0.3586

- 0.3931

- 0.4074

- 0.3783

2009

-

- 0.1304 -

-0.1303

-0.2552

0.2032 0.2588

0.2503

0.0619 0.2515

0.2708

0.4574

-0.1860

0.2081 0.0291

0.0281

0.1063

0.2074

2010

0.0327 -

-0.2747

- 0.0564 - 0.4481 - 0.2091

-0.1057

0.1164 0.2311

0.2644

0.0297 0.2284

-0.0561

-0.0972

-0.1943

0.0719 0.0936

-0.1244

-0.0240

0.0077

- 0.1040 - 0.2698

2011

-

-

0.0359

0.0963

0.0827

-0.1054

0.3066 0.1856

-0.1832

-0.2080

-0.2637

0.2183 0.0398

-0.3137

0.0395

-0.0558

- 0.1760 - 0.1159 - 0.1818 - 0.3622

- 0.1256 - 0.1449 - 0.1356 - 0.4042

0.4118 - 0.0838 - 0.0146

2012

- 0.1514

0.2277

0.1826

0.1022

-0.1030

0.1205

0.1947

0.0580

-0.0051

-0.0950

-0.1408

0.1765

0.0682

0.0698

- 0.0315 - 0.2779 - 0.0320

2013

0.1006 0.0302 0.1092 - 0.2884 -

- 0.2525 -

0.2565

0.1267

0.0762

0.1499 0.2276

-0.1124

0.1105

0.1350

0.0757

-0.0377

0.0056

0.2010 0.0364

0.0132

0.0529

0.0712

0.0994 - 0.0004

2014

-

- 0.3465 - 0.2332 - 0.1464

- 0.1514

-0.0535

0.2373

0.0991

0.0372

0.1400

0.1350

-0.0032

0.1397

0.1315

0.0356 0.1023

0.0977

-0.0641

0.0410

2015

- 0.2468 -

0.1083 -

0.0973

0.0468

-0.0083

0.0224

0.0252 0.0855

-0.1077

0.1159

0.0134

0.0094

-0.1026

0.0964

0.0304 0.1690 0.1931

0.1747

-0.1643

-0.0710

2016

-

0.1507 - 0.0857 - 0.3371 - 0.1610 - 0.1372

-0.0663

0.0302

0.0892

0.0440

0.0529 0.0381

-0.1077

0.0488

0.1212

0.0419

-0.0286

0.1667

0.0991 0.0312 0.1398

0.1826

-0.2545

-0.1557

0.0469 - 0.0030 - 0.0087 - 0.0563

2017

- 0.0044

- 0.0844 - 0.1635 - 0.2491 - 0.1766 - 0.1371 - 0.0811

-0.1334

0.0302

0.2387

0.1574

-0.1195

0.1415

0.2360

0.1229

0.2233

0.0758

0.2402

0.2318 0.2081 0.1170

0.1772

-0.1777

-0.2797

2018

- 0.0495 - 0.0803

0.1018

0.1282

0.1766 0.0579

-0.1313

0.0015 0.0769

0.0642

0.0880

-0.0389

-0.0200

0.2264

0.1570 0.2858 0.1167

0.1608

-0.0775

-0.1920

0.0176 - 0.0014

-0.1252

Bảng 4.5. Chuẩn hóa dữ liệu các chỉ số theo phương pháp Normed PCA

175

- Bước 3: Tính toán các thành tố chính theo phương pháp PCA (Principal

component analysis – PCA)

PCIi = ∑wi(qit - ̈ it)

là xu hướng dài hạn của biến i tại thời điểm t

Trong đó, qit là giá trị của biến i tại thời điểm t

it

wi là trọng số của chỉ số i.

PC9

PC1

PC2

PC3

PC4

PC5

PC6

PC7

PC8

CRE/GDP

0.1309

-0.3633

0.2371

-0.0415

-0.1693

0.0492

0.2462

0.2077

0.3116

CRE GRW

0.1443

-0.3817

-0.1982

-0.0411

0.0906

-0.0087

0.2171

0.0585

-0.1599

RE ESTATE

0.2599

-0.1008

-0.1976

-0.3239

0.0281

0.0571

-0.0272

-0.2014

0.0557

NPL

-0.0637

0.4004

-0.1919

0.2128

0.0271

0.1833

0.192

-0.0043

-0.0364

NPL COV

-0.2132

0.3357

-0.0993

0.0822

-0.0752

0.1321

-0.1221

0.2201

-0.1962

CAR

-0.1194

-0.2239

-0.0764

0.3126

-0.1363

0.7505

-0.141

-0.1152

0.0114

LIQUID

-0.2576

0.1969

0.1476

0.1982

0.1537

-0.2338

-0.1783

-0.032

0.275

-0.183

-0.0603

-0.212

-0.4165

0.331

0.3216

-0.1583

0.1926

0.0074

NIM

-0.2138

0.1978

-0.2203

-0.2053

0.3978

0.0118

0.1268

-0.0823

0.1227

ROE

INTER RATE

0.2875

-0.0397

0.0614

0.1895

0.3569

0.0875

-0.1062

0.3052

0.4703

INTER ER

0.2591

-0.086

0.0979

0.2191

0.4602

-0.0793

-0.2413

0.0167

-0.3599

STOCK

0.2195

0.2211

0.2238

-0.2237

0.0473

0.2391

-0.3387

0.0304

0.3264

0.0891

0.2802

0.3749

-0.0471

0.0986

0.158

0.4591

-0.3176

0.1547

STOCK

LIQUID

GBOND

0.2709

0.0278

-0.1729

0.2908

0.1915

0.1389

0.2791

-0.1892

-0.0254

RATE

0.2996

0.1351

0.0435

-0.1556

0.2136

-0.0464

0.0762

-0.1264

-0.2076

CDS

0.1076

0.1645

-0.4518

0.0485

-0.1332

-0.1019

0.3168

0.4376

0.2442

GDP

0.3017

0.1526

0.044

0.0783

-0.1287

-0.0854

-0.2118

0.3578

-0.1577

CPI

LENDING

0.2817

0.1769

-0.0205

0.2569

-0.0459

0.1348

0.0038

0.0543

-0.1146

Bảng 4.6. Kết quả 9 thành tố chính từ phương pháp PCA

176

RATE

-0.255

-0.1422

0.2015

0.0209

0.3661

0.0866

0.2929

0.3735

-0.1917

PUBLIC

DEBT

FOREIGN

-0.2348

-0.0799

0.3348

0.2121

0.0795

-0.0323

0.0982

0.1313

-0.0172

DEBT

0.1181

0.2096

0.3206

-0.3494

-0.189

0.2445

0.1662

0.2829

-0.2897

HOUSE

PRICE

Component

Eigenvalue

Difference

Proportion

Cumulative

PC1

9.0532

4.56835

0.4311

0.4311

PC2

4.48485

1.12247

0.2136

0.6447

PC3

3.36238

1.51193

0.1601

0.8048

PC4

1.85045

0.869959

0.0881

0.8929

PC5

0.980489

0.237839

0.0467

0.9396

PC6

0.74265

0.487464

0.0354

0.975

PC7

0.255187

0.112488

0.0122

0.9871

PC8

0.142698

0.060094

0.0068

0.9939

PC9

0.082604

0.037119

0.0039

0.9978

Nguồn: Tính toán của tác giả Với 9 thành tố rút ra được thông qua phương pháp phân tích thành tố chính PCA, tác giả lựa chọn 4 thành tố chính đầu tiên có giá trị vector riêng Eigenvalue > 1 và có tính đại diện đến 89,29% toàn bộ mẫu.

- Bước 4: Tổng hợp chỉ số FSI theo phương pháp bình quân gia quyền = ∑( × )

Trong đó: PCIi: giá trị nhân tố từng phần i tại thời điểm t

wi: trọng số nhân tố từng phần i.

Theo phương pháp PCA, tỷ trọng mỗi biến số được tính toán dựa vào tỷ

trọng giá trị vector riêng (Eigenvalue) theo công thức sau:

= /

Trong đó: a là vector riêng của giá trị đo được

177

Bảng 4.7. Giá trị và tỷ trọng các thành tố mới theo phương pháp PCA

COMP1 COMP2 COMP3 COMP4

2008 -1.1316 -0.2480 -0.0746 0.4250

2009 -0.3548 0.7726 0.6082 -0.1310

2010 -0.4631 0.4083 -0.1583 -0.0850

2011 -0.6126 -0.2973 -0.3242 -0.4592

2012 0.1735 -0.4970 0.3304 -0.3082

2013 0.2207 -0.4314 0.2640 0.0490

2014 0.4797 -0.2030 0.2857 0.1676

2015 0.3360 -0.0360 -0.1128 0.2212

2016 0.4237 0.0574 -0.1462 0.1551

2017 0.5786 0.2608 -0.2833 -0.0738

2018 0.3499 0.2136 -0.3889 0.0393

4.4849 3.3624 1.8505 Giá trị vector riêng 9.0532

0.4828 0.2392 0.1793 0.0987 w

Nguồn: Tính toán của tác giả

0,40

0,30

0,28

0,25

0,21

0,20

0,16

0,15

0,11

0,10

0,06

0,00

-0,01

2008

2009

2010

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

-0,10

-0,16

-0,20

-0,30

-0,40

-0,47

-0,50

-0,58

-0,60

-0,70

Hình 4.14. Chỉ số ổn định tài chính FSI theo phương pháp PCA

Nguồn: Tính toán của tác giả

Theo phương pháp này, chỉ số FSI sẽ biến động trong khoảng [-1; 1] theo

chiều hướng càng tăng càng thể hiện sự ổn định. Kết quả cho thấy, chỉ số FSI mang

giá trị âm trong giai đoạn 2008-2012 hàm ý đây là giai đoạn hệ thống tài chính Việt

Nam có nhiều bất ổn. Trong đó, năm 2008 và năm 2011 là năm chỉ số ổn định tài

178

chính FSI ở mức thấp nhất, đạt giá trị -0,58 và -0,47. Điều này được lý giải bởi đây

là năm nền kinh tế Việt Nam có nhiều biến động, lạm phát tăng cao, sự tăng trưởng

thiếu bền vững của hệ thống ngân hàng thể hiện qua tín dụng tăng trưởng mạnh,

mặt bằng lãi suất thị trường tăng cao đột biến, các ngân hàng thiếu thanh khoản

trầm trọng, thị trường cổ phiếu vỡ bong bóng, thị giá và thanh khoản thị trường sụt

giảm nghiêm trọng, thị trường trái phiếu Chính phủ có nhiều rủi ro, mức lãi suất

TPCP cũng như chỉ số CDS tăng cao. Từ năm 2015 trở lại đây, với điều kiện vĩ mô

tương đối ổn định, chỉ số ổn định hệ thống tài chính FSI cũng tăng đều thể hiện sự

lành mạnh của hệ thống tài chính được cải thiện.

4.2.3. Lựa chọn phương pháp phù hợp

Về cơ bản, cả 2 phương pháp đều thể hiện được sự thay đổi từ bất ổn sang ổn

định dần của chỉ số FSI cho Việt Nam. Nếu căn cứ theo tình hình vĩ mô của Việt Nam

thì năm 2008 và 2011 là những năm nền kinh tế có biến động mạnh bởi lạm phát tăng

cao, hệ thống ngân hàng và thị trường tài chính đều có những bất ổn và đối mặt với rủi

ro, vì thế có thể coi đó là những dấu mốc khủng hoảng đối hệ thống tài chính.

Để kiểm định xem phương pháp tổng hợp theo trọng số cân bằng hay

phương pháp PCA phù hợp hơn, tác giả thực hiện kiểm tra lỗi loại I (type I Errors)

và lỗi loại II (type II Errors), trong đó lỗi loại I là sai số trong đó phương pháp thất

bại trong việc nhận diện giai đoạn hay mốc khủng hoảng, lỗi loại II là sai số trong

đó phương pháp dự báo nhầm giai đoạn khủng hoảng. Phương pháp tính lỗi này

được áp dụng trong điều kiện không có giá trị ngưỡng rõ ràng, khi đó ngưỡng sử

dụng là giá trị trung vị trừ một độ lệch chuẩn (S.D) và đây là phương pháp được sử

dụng theo gợi ý của Eichengreen, Rose và Wyplosz (1996), Illing và Liu (2003) áp

dụng cho NHTW Canada.

Bảng 4.8. Lỗi loại I và lỗi loại II theo phương pháp bình quân và PCA (%)

Lỗi loại I Lỗi loại II

Phương pháp bình quân gia quyền 50 0

Phương pháp phân tích thành phần chính PCA 0 11

Nguồn: Tính toán của tác giả

179

Như vậy, cả hai phương pháp này đều có khả năng nhận diện được những

dấu mốc căng thẳng, khủng hoảng của hệ thống tài chính, nhưng phương pháp PCA

có lỗi loại I thấp hơn và vì thế, đây là phương pháp tác giả khuyến nghị cơ quan

quản lý nên nghiên cứu để áp dụng.

4.3. Một số khuyến nghị thực hiện hiệu quả bộ chỉ số đo lường mức độ ổn

định hệ thống tài chính Việt Nam được đề xuất

4.3.1. Thiết lập khuôn khổ chính sách ổn định tài chính

4.3.1.1. Thiết lập khung chính sách ổn định tài chính

Trong xu thế phát triển chung của hệ thống tài chính thế giới và bối cảnh

của Việt Nam hiện nay, việc thiết lập và hoàn thiện một khung chính sách ổn định

tài chính quốc gia là thực sự cấp thiết. Khuôn khổ chính sách ổn định tài chính với

mục tiêu ổn định hệ thống tài chính quốc gia sẽ được cấu thành từ 03 chính sách:

an toàn vi mô, an toàn vĩ mô và chính sách phục hồi. Trong đó, chính sách an toàn

vi mô và an toàn vĩ mô hướng tới mục tiêu phát hiện, ngăn ngừa những rủi ro

riêng biệt và rủi ro hệ thống có thể xảy ra trong điều kiện bình thường của hệ

thống tài chính. Chính sách phục hồi hướng tới việc giải quyết, xử lý những bất ổn

xảy ra đối với hệ thống, trong điều kiện khủng hoảng.

Hình 4.15. Khuôn khổ chính sách ổn định tài chính

Chính sách ổn định tài chính

Chính sách an toàn vĩ mô Chính sách phục hồi Chính sách an toàn vi mô

Rủi ro riêng biệt Rủi ro hệ thống Xử lý khủng hoảng

Để mỗi chính sách phát huy hiệu quả, cần xây dựng một khuôn khổ hoạt

động cho chính sách, với các cấu phần chủ yếu như: (i) Mục tiêu (phát hiện, theo dõi, giám sát rủi ro); (ii) Công cụ (công cụ đo lường và công cụ thực thi) và (iii)

180

Khuôn khổ thể chế (quy định pháp lý, quyền và trách nhiệm của cơ quan thực thi,

cơ chế phối hợp, chia sẻ thông tin….). Sự kết hợp, tương tác của các yếu tố trên sẽ

giúp cho công tác điều hành và thực thi các chính sách được hiệu quả.

Hình 4.16. Các cấu phần trong khung chính sách

Khuôn khổ thể chế

Mục tiêu Công cụ đo lường và thực thi

Tại Việt Nam hiện nay, việc thực thi công tác giám sát đang chủ yếu được

thực hiện dưới góc độ vi mô, hướng tới việc phát hiện, ngăn ngừa các rủi ro riêng

lẻ, cá biệt của các tổ chức tín dụng. Đây là cốt lõi của chính sách an toàn vi mô.

Các quy định về giới hạn an toàn, các công cụ điều chỉnh với các tổ chức này đã

được cơ quan quản lý ban hành và thực thi. Tuy nhiên, đối với chính sách an toàn

vĩ mô và chính sách phục hồi thì hiện nay chưa được chính thức thiết lập về mặt

pháp lý cũng như khuôn khổ điều hành.

4.3.1.2. Hoàn thiện cơ sở pháp lý cho chính sách ổn định tài chính

Thứ nhất, bổ sung chức năng ổn định tài chính cho NHNN

Ổn định tài chính là mục tiêu vô cùng quan trọng với các quốc gia nói

chung và Việt Nam nói riêng. Các nghiên cứu cũng như thực tế tại quốc gia đã cho

thấy, NHTW có nhiều lợi thế trong việc thực hiện mục tiêu này so với các cơ quan

khác. Tuy nhiên, tại Việt Nam hiện nay, mục tiêu này vẫn chưa chính thức đề cập

trong Luật NHNN Việt Nam mà mới được nhắc đến trong Nghị định số

16/2017/NĐ-CP ngày 17/02/2017 của Chính phủ. Điều 2, mục 20 trong nghị định

16 có quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân

hàng Nhà nước Việt Nam: “Ổn định hệ thống tiền tệ, tài chính:

181

a. Tổng hợp, phân tích, dự báo tình hình tiền tệ, tài chính; đề xuất các biện

pháp ngăn ngừa rủi ro có tính hệ thống trong lĩnh vực tiền tệ, tài chính.

b. Xây dựng chính sách, biện pháp ứng phó với khủng hoảng, đảm bảo ổn

định hệ thống tiền tệ, ngân hàng, tài chính.”

Mặc dù theo nghị định, mục tiêu ổn định tài chính đã được giao cho

NHNN, nhưng trong nghị định vẫn còn một số vấn đề về ổn định tài chính chưa

được làm rõ, bao gồm: (i) chưa đưa ra một định nghĩa đầy đủ và chính xác về ổn

định tài chính cũng như phạm vi thực hiện mục tiêu; (ii) chưa đề cập một cách cụ

thể trách nhiệm của NHNN, các đơn vị bên trong và các cơ quan bên ngoài đối với

mục tiêu này. Chính vì vậy, Chính phủ cần có những điều chỉnh, bổ sung về cơ sở

pháp lý để mục tiêu ổn định tài chính được thực thi hiệu quả, cụ thể:

 Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật Ngân hàng Nhà nước các điều khoản liên

quan đến đảm bảo ổn định tài chính với tư cách là một trong những chức năng mà

NHNN cần thực hiện.

 Ban hành các văn bản pháp luật dưới dạng Nghị định, văn bản dưới Luật

quy định rõ khái niệm, phạm vi của ổn định tài chính, trách nhiệm của NHNN và

các cơ quan có liên quan trong cũng như cách thức triển khai nhiệm vụ ổn định hệ

thống tài chính này.

Thứ hai, thành lập hội đồng ổn định tài chính.

Mặc dù NHTW có lợi thế trong việc thực thi mục tiêu ổn định tài chính, tuy

nhiên, việc thực hiện giám sát ổn định toàn bộ hệ thống tài chính và chính sách ổn

định tài chính vẫn cần có sự tham gia của nhiều các cơ quan quản lý bên cạnh

NHTW. Từ kinh nghiệm của các quốc gia và căn cứ vào thực trạng hệ thống giám

sát tài chính hiện nay, mô hình thành lập hội đồng ổn định tài chính như Indonesia

hay Hàn Quốc là tương đối phù hợp với Việt Nam. Hội đồng ổn định tài chính này

sẽ có sự tham gia của đại diện các cơ quan giám sát tài chính là các chuyên gia

đến từ NHNN, Bộ Tài chính, UBGSTCQG và các chuyên gia độc lập. Trong đó,

NHNN sẽ đóng vai trò Thư ký thường trực, đơn vị điều phối với nhiệm vụ phân

tích, đánh giá tình hình ổn định của hệ thống tài chính (xuất bản Báo cáo ổn định

tài chính), đề xuất các công cụ, chính sách đối phó cho Hội đồng phê duyệt để

182

nhằm thực thi chính sách ổn định tài chính, hướng tới mục tiêu đảm bảo sự ổn

định của hệ thống tài chính quốc gia. Việc thành lập hội đồng, cơ chế tổ chức làm

việc của hội đồng cũng như nhiệm vụ, trách nhiệm hội đồng cần được quy định rõ

ràng trong các văn bản pháp quy, cụ thể như:

- Cơ chế tổ chức của hội đồng: các thành viên tham gia hội đồng, định kỳ

họp làm việc, các quyết định và cách thức ra quyết định.

- Trách nhiệm của từng thành viên, cơ chế phối hợp giữa các thành viên,

các Bộ, ngành có liên quan: cung cấp các báo cáo cho từng khu vực phụ trách,

phối hợp cung cấp thông tin, phối hợp ban hành văn bản quy phạm pháp luật, phối

hợp sử dụng các công cụ, chính sách điều chỉnh…

- Trách nhiệm của hội đồng: (i) theo dõi, nhận diện các rủi ro có nguy cơ

tác động đến hệ thống tài chính; (ii) đưa báo cáo nhận định về mức độ rủi ro của

từng khu vực, toàn bộ hệ thống; (iii) đưa cảnh báo về nguy cơ rủi ro hệ thống; (iv)

đề xuất các chính sách hành động (sử dụng công cụ, đưa khuyến nghị, lên kế

hoạch xử lý khủng hoảng….)

Hội đồng ổn định tài chính là đơn vị chịu trách nhiệm đo lường cũng như

công bố các chỉ số ổn định tài chính. Với tư cách là tổ chức trung gian, hội đồng

sẽ đảm bảo sự công tâm, chính xác khi tính toán các dữ liệu cũng như chịu trách

nhiệm trước công chúng và thị trường.

Thứ ba, ban hành quy định về giám sát các tổ chức tài chính quan trọng

trong hệ thống (SIFIs)

Các tổ chức tài chính quan trọng trong hệ thống (Systemically Important

Financial Institutions – SIFIs) là những tổ chức có quy mô lớn, có mối liên hệ

phức tạp với các thành phần và tổ chức khác và đóng vai trò quan trọng trong hệ

thống tài chính. Nếu có những thiệt hại hay vấn đề xảy ra với những tổ chức này

thì có thể ảnh hưởng lớn đến cả hệ thống tài chính và nền kinh tế. Các tổ chức tài

chính quan trọng được xác định là có phạm vi hoạt động liên quan đến hai hoặc ba

lĩnh vực trong hệ thống tài chính là ngân hàng, chứng khoán và bảo hiểm. Do các

tổ chức này có hoạt động phức tạp, có tầm ảnh hưởng lớn do sự kết nối rộng rãi

với các chủ thể khác, nên khả năng gây ra rủi ro chéo giữa các khu vực từ nhóm tổ

183

chức này là rất cao. Việc giám sát các tổ chức này cũng tương đối khó khăn và cần

sự phối hợp từ nhiều cơ quan giám sát khác nhau để đảm bảo giám sát chặt chẽ,

giảm thiểu rủi ro hệ thống từ các tổ chức này. Tại Việt Nam, trong Thông tư số

08/2017/TT-NHNN ngày 1/8/2017, điều 10 đã lần đầu tiên đề cập khái niệm

SIFIs, nhóm các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có tầm quan

trọng trong hệ thống và các tiêu chí xác định mức độ quan trọng trong hệ thống.

Chính vì vậy, công việc tiếp theo của cơ quan quản lý cần nghiên cứu và ban hành

quy định về cách thức quản lý giám sát và công cụ giám sát các tổ chức này.

Một trong những công cụ giúp giải quyết rủi ro chéo giữa các khu vực xuất

phát từ nhóm SIFIs là áp dụng phí phụ thu vốn, với mục tiêu làm tăng chi phí vốn

cho tổ chức, giảm khả năng và mong muốn chấp nhận rủi ro, từ đó giải quyết vấn

đề “too-big-to-fall”. BCBS và FSB4 đã thiết lập một khuôn khổ để đối phó với rủi

ro5, theo đó phí phụ thu sẽ lớn hơn tiêu chuẩn tối thiểu của Basel III và tính toán

dựa trên mức độ quan trọng của ngân hàng đó trên thế giới. Những khoản phí phụ

thu này ở mức 1%-2,5% tùy thuộc vào tỷ trọng rủi ro của tài sản.

Thứ tư, ban hành quy định giám sát hệ thống ngân hàng ngầm

Ngân hàng ngầm (shadow banking) là các trung gian tín dụng thực hiện

những hoạt động giao dịch mang tính chất ngân hàng nhưng nằm ngoài hệ thống

ngân hàng chính thống. Với quy mô chiếm khoảng một nửa hệ thống ngân hàng

toàn cầu, ngân hàng ngầm là nguồn vốn quan trọng đối với nhiều doanh nghiệp và

cả nền kinh tế. Ủy ban châu Âu (2012) trong Sách xanh về hoạt động ngân hàng

ngầm đã đề cập một số ảnh hưởng tích cực của hệ thống ngân hàng ngầm như sau:

(i) cung cấp các phương thức đầu tư cho nhà đầu tư thay thế việc gửi tiền tiết kiệm

ngân hàng; (ii) phân bổ nguồn lực theo nhu cầu hiệu quả hơn do tính chuyên

nghiệp hóa cao hơn, (iii) là nguồn tài trợ vốn hữu hiệu thay thế cho các kênh tài

trợ truyền thống cho nền kinh tế, trong trường hợp các kênh này bị hư hại tạm thời

4 Basel Committee on Banking Supervision and Financial Stability Board 5 BCBS, 2011

và (iv) là nguồn giúp đa dạng hóa phòng ngừa rủi ro cho hệ thống ngân hàng.

184

Những lợi ích của bộ phận này cho hệ thống tài chính và nền kinh tế là không thể

phủ nhận, nhưng nó cũng chỉ được thể hiện trong điều kiện kinh tế lành mạnh bình

thường. (Pluksna (2013), Moreira và Savov (2013)). Nhưng khi có rủi ro hoặc

khủng hoảng xảy ra thì bộ phận này lại đem đến những tác động vô cùng tiêu cực

cho nền kinh tế. Với đặc tính không bị điều chỉnh bởi các quy định an toàn, những

hoạt động gây tích lũy rủi ro tín dụng hay thanh khoản, sử dụng đòn bẩy quá mức,

thúc đẩy sự lây lan rủi ro giữa các khu vực tài chính, suy giảm chức năng truyền

dẫn của CSTT…, hệ thống ngân hàng ngầm được coi như một trong những

nguyên nhân chính yếu dẫn đến khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008. (Quốc

hội Mỹ, 2009). Ủy ban châu Âu (2012) cũng chỉ ra 4 nhóm rủi ro trọng yếu xuất

phát từ hoạt động của hệ thống ngân hàng ngầm, bao gồm:

(1) rủi ro hoảng loạn ngân hàng: hệ thống ngân hàng ngầm thường phải

chịu các rủi ro tài chính giống như hệ thống NHTM nhưng lại không được kiểm

soát chặt chẽ, và có thể lây lan rủi ro này đến các tổ chức khác.

(2) rủi ro vỡ nợ: do không chịu kiểm soát và đặt giới hạn từ cơ quan quản

lý, ngân hàng ngầm có xu hướng sử dụng đòn bẩy tài chính lớn, tiềm ẩn nguy cơ

vỡ nợ cao.

(3) rủi ro vi phạm, lạm dụng, giảm hiệu quả quy định pháp luật: do không

được coi là ngân hàng, hệ thống ngân hàng ngầm không phải tuân thủ các quy

định về vốn pháp định, tỷ lệ an toàn vốn, các chỉ tiêu an toàn tài chính, quy định

tham gia bảo hiểm tiền gửi, giới hạn đầu tư và kinh doanh..

(4) rủi ro chéo đến hoạt động của hệ thống NHTM: do có mối liên kết với

hoạt động của NHTM, khủng hoảng trong hoạt động ngân hàng ngầm có khả năng

lan truyền tác động tới hoạt động của NHTM.

Mặc dù tiềm ẩn rủi ro hệ thống ở mức cao, nhưng thực tế là việc quản lý

giám sát hoạt động ngân hàng ngầm còn rất lỏng lẻo và nhiều thách thức. Chính vì

vậy, cơ quan quản lý cần nghiên cứu, ban hành các văn bản đưa ra những quy định

về giám sát hệ thống ngân hàng ngầm, bao gồm: quy định về khái niệm, tiêu chí

xác định, hình thức biểu hiện, trách nhiệm giám sát, các biện pháp, công cụ thực

thi giám sát. Một vài biện pháp có thể áp dụng như:

185

- Đưa ra khung giám sát đối với các trung gian tài chính phi ngân hàng

thông qua các giới hạn an toàn, tỷ lệ cho vay, nợ xấu, rủi ro thanh khoản nhằm

giảm tác động tiêu cực của khu vực này đến hệ thống tài chính và nền kinh tế.

- Kiểm soát các hoạt động, dịch vụ, đối tượng và chủ thể thực hiện hoạt

động cầm đồ, cho vay nặng lãi.

4.3.2. Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu thông tin

Để mục tiêu ổn định tài chính được thực thi một cách hiệu quả, cơ quan

điều hành cần thực hiện tính toán chính xác và công bố kết quả các chỉ số trong

Báo cáo ổn định tài chính. Báo cáo này sẽ được phát hành định kỳ hàng năm cho

thị trường, để giúp các chủ thể này nắm bắt được những thông tin về tình trạng

của hệ thống tài chính, sự lành mạnh, mức độ rủi ro… Vì vậy, việc tính toán đảm

bảo độ chính xác của các chỉ số đo lường ổn định tài chính cung cấp cho công

chúng là vô cùng quan trọng. Một trong những yếu tố cơ bản giúp có được các chỉ

số chính xác là nguồn dữ liệu. Cơ sở dữ liệu được coi là nền tảng cho hoạt động

phân tích, đánh giá rủi ro hệ thống tài chính và cũng là yếu tố quyết định cho hiệu

quả chính sách ổn định tài chính. Hiện nay tại Việt Nam chưa có trung tâm dữ liệu

quốc gia, các nguồn số liệu được cung cấp rời rạc bởi các cơ quan như Tổng cục

thống kê, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính, Ủy ban chứng khoán…Các dữ liệu

cũng chủ yếu được công bố theo năm chứ chưa theo định kỳ tháng hay quý. Chính

vì vậy, việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống hoặc trung tâm dữ liệu quốc gia với

độ tin cậy cao, sẵn sàng phục vụ cho việc tính toán và nghiên cứu định lượng là vô

cùng cấp thiết.

Cơ sở dữ liệu được tập trung tại cơ quan chịu trách nhiệm phân tích, tính

toán các chỉ tiêu ổn định tài chính là NHNN. Trong điều kiện hiện nay, khi hệ

thống dữ liệu, thông tin phục vụ giám sát ổn định tài chính phân tán tại nhiều cơ

quan, và cơ chế chia sẻ thông tin giữa các đơn vị còn nhiều hạn chế thì cần tăng

cường khuôn khổ pháp lý cho việc thu thập số liệu, dữ liệu để tăng cường kỷ luật

cung cấp số liệu cho NHNN là cơ quan chịu trách nhiệm chính. Ngược lại, nhiệm

vụ của NHNN là xây dựng các điều kiện kỹ thuật, hạ tầng công nghệ theo hướng

lưu trữ được các thông tin liên quan, đảm bảo đầy đủ và bảo mật thông tin, tính

186

toán các chỉ tiêu ổn định tài chính, làm cơ sở thực thi các công cụ giám sát đảm

bảo ổn định tài chính.

Cơ sở dữ liệu phải đủ khả năng đáp ứng việc tính toán bộ chỉ số ổn định tài

chính và chỉ số ổn định tài chính tổng hợp. Điều này đòi hỏi phải cải thiện chất

lượng, độ tin cậy, tần số và sự kịp thời của số liệu. Điều quan trọng nhất là đảm

bảo tính đồng nhất, được tính toán theo đúng thông lệ quốc tế, nhằm đáp ứng khả

năng so sánh với dữ liệu ở cấp quốc tế. Một vấn đề lớn đối với Việt Nam cũng

như nhiều quốc gia trên thế giới là sự khan hiếm dữ liệu về hệ thống ngân hàng

ngầm và dữ liệu về khu vực hộ gia đình. Ngân hàng ngầm bao gồm những hoạt

động, dịch vụ ngân hàng được cung cấp bởi các tổ chức, cá nhân phi ngân hàng và

vì thế việc thu thập số liệu của khu vực này rất khó khăn và hạn chế. Chính vì vậy,

nếu NHNN là cơ quan chịu trách nhiệm trong việc tính toán, tổng hợp, phân tích

ổn định tài chính thì NHNN phải có quyền trong việc thu thập các thông tin,

không chỉ từ ngân hàng mà từ các tổ chức phi ngân hàng, cung cấp dịch vụ ngân

hàng. Bên cạnh đó, các cơ sở dữ liệu về dư nợ, thu nhập của các cá nhân, hộ gia

đình cũng phải được tập hợp, thống kê đầy đủ và đảm bảo quyền truy cập các dữ

liệu này cho NHNN để thực hiện công tác tính toán.

Cơ sở dữ liệu phải đảm bảo các tiêu chí: chính xác, khách quan, toàn

diện, thống nhất, kịp thời. Để đảm bảo độ tin cậy của số liệu phân tích, cơ sở dữ

liệu cần được ghi nhận một cách trung thực, khách quan và tránh trường hợp sai

lệch số liệu. Ngoài ra, một cơ sở dữ liệu đầy đủ, vừa đảm bảo tính đặc thù, vừa thể

hiện tính toàn diện cho từng lĩnh vực cụ thể cũng như toàn bộ hệ thống; do mối

liên kết giữa các lĩnh vực ngày càng trở nên chặt chẽ hơn. Cuối cùng, tính kịp thời

của dữ liệu giúp phản ánh những diễn biến thị trường, phân tích đánh giá, dự báo

và lập tức đưa ra những phản ứng chính sách phù hợp.

Thông tin giám sát, thông tin thị trường và dữ liệu chỉ số tổng hợp cần

được tích hợp toàn diện để đánh giá, dự báo rủi ro hệ thống. Đây là yếu tố cẩn

thiết để đánh giá rủi ro mới nổi, tính chất và mức độ yếu kém của hệ thống tài

chính, trên cơ sở đó lựa chọn các công cụ, thời điểm và liều lượng can thiệp.

Nguồn thông tin giám sát, thông tin thị trường và các nguồn thông tin tổng hợp sẽ

187

giúp cung cấp một cái nhìn rộng hơn về hệ thống tài chính. Chỉ số tổng hợp giúp

tóm tắt sự phát triển toàn hệ thống, trong khi các bộ chỉ số giúp cung cấp thông tin

chi tiết về tình trạng hoạt động của các bộ phận trong hệ thống, cho phép giám sát

an toàn và rủi ro hệ thống. Dữ liệu liên quan đến sự phát triển và chuyển dịch các

hoạt động đên khu vực ngoài quy định giám sát cần được lưu tâm và chuẩn bị

sớm. Phát triển dữ liệu hệ thống kịp thời và chính xác về các khu vực “ngân hàng

ngầm” là một ưu tiên và đòi hỏi sự chia sẻ thông tin giữa các cơ quan giám sát

quốc gia. Để hỗ trợ NHNN trong việc nhận diện, đánh giá tổn thương của hệ

thống tài chính, các cú sốc của kinh tế vĩ mô, dữ liệu giám sát ổn định tài chính

không chỉ bao gồm các các kết quả thống kê định lượng mà còn bao gồm cả các

thông tin định tính làm cơ sở nhận định đầy đủ các yếu tố gây bất ổn tài chính. Do

vậy, giám sát ổn định tài chính đòi hỏi dữ liệu để phân tích giám sát phải bao quát

được điều kiện kinh tế vĩ mô, tình hình hoạt động của khu vực phi tài chính. Ngoài

ra, giám sát ổn định tài chính cần quan sát được từng thành viên thị trường và mối

quan hệ giữa họ.

Trên cơ sở các dữ liệu thông tin được thu thập, cơ quan điều hành sẽ tính

toán và công bố các chỉ số ổn định tài chính theo định kỳ, giải thích cách tính toán

cũng như ý nghĩa của các chỉ số trong đo lường ổn định hệ thống tài chính. Tuy

nhiên, trong những bước đầu thực hiện xuất bản Báo cáo ổn định tài chính, cơ

quan quản lý cần có sự cân nhắc, thận trọng trong việc công bố các chỉ số này cho

những đối tượng, thành viên nào của thị trường. Bởi trong trường hợp kết quả các

chỉ số này phản ánh những thông tin tiêu cực, cơ quan điều hành sẽ phải đối mặt

với những phản ứng từ thị trường, có thể xuất hiện tâm lý hoang mang, lo sợ và

làm trầm trọng hơn tình trạng của hệ thống tài chính.

4.3.3. Tăng cường cơ chế phối hợp giữa các Bộ, các đơn vị trong NHNN

Để đảm bảo mục tiêu ổn định tài chính, ngoài việc xây dựng khuôn khổ

chính sách ổn định tài chính, NHNN còn cần thiết lập cơ chế phối hợp và điều

hành chính sách ổn định tài chính với các cơ quan khác.

Nội dung phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền:

188

(i) Phối hợp trong việc ban hành, triển khai thực hiện, đánh giá và điều

chỉnh các chính sách ổn định tài chính, đặc biệt giữa NHNN và Bộ Tài chính trong

việc thực hiện các công cụ (chính sách tiền tệ, tỷ giá, chính sách tài khóa…)

(ii) Phối hợp trong xây dựng và điều hành chính sách ổn định tài chính bao

gồm việc xác định các mục tiêu của chính sách, đánh giá sự lành mạnh của hệ

thống tài chính, đánh giá tác động và đưa ra các giải pháp, công cụ thực hiện; thực

hiện kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách, đánh giá, điều chỉnh chính sách.

(iii) Phối hợp trong việc thiết lập các phương án, giải pháp đối với các biến

động kinh tế - xã hội trong và ngoài nước có ảnh hưởng đến hệ thống tài chính,

đặc biệt là những biến động bất thường về kinh tế, chính trị, xã hội trên thế giới và

trong khu vực. Phối hợp trong việc xây dựng hệ thống thông tin đảm bảo cơ sở

thông tin thống nhất, đầy đủ, chính xác, đáp ứng yêu cầu công tác dự báo, xây

dựng các kịch bản ứng phó với các rủi ro đối với hệ thống tài chính.

Để đảm bảo sự phối hợp diễn ra trơn tru và hiệu quả giữa các cơ quan điều

hành, cần thực hiện một số giải pháp sau:

- Thứ nhất, đổi mới tư duy và nâng cao nhận thức về phối hợp trong quản

lý và điều hành chính sách ổn định tài chính theo hướng chú trọng tạo lập hệ thống

tài chính ổn định, có tầm nhìn chiến lược trong dài hạn, đặt lợi ích chung lên hàng

đầu. Đồng thời, đảm bảo tính tổng thể, đồng bộ trong quá trình thực thi, kiểm tra,

đánh giá cơ chế, chính sách, khắc phục tình trạng phối hợp theo hình thức. Bên

cạnh đó, cần quy rõ trách nhiệm, quyền hạn của từng đơn vị và trách nhiệm người

đứng đầu trong công tác phối hợp.

- Thứ hai, xây dựng văn bản pháp lý và quy chế làm việc của hội đồng ổn

định tài chính trong công tác phối hợp quản lý và điều hành chính sách ổn định tài

chính theo hướng: tăng cường trách nhiệm của người đứng đầu đơn vị thực hiện

mục tiêu ổn định tài chính, đảm bảo việc thực thi chính sách một cách thống nhất

trong nội bộ đơn vị cũng như giữa các đơn vị với nhau.

- Thứ ba, xác định rõ quan điểm, mục tiêu của chính sách ổn định tài chính,

xây dựng bộ công cụ, giải pháp, lộ trình triển khai cụ thể cho từng giai đoạn, đồng

thời thực hiện công tác đánh giá quá trình phối hợp quản lý điều hành chính sách

189

vĩ mô, đánh giá được tác động, ảnh hưởng của các chính sách đối với hệ thống tài

chính, từng ngành lĩnh vực và thực hiện công tác cảnh báo sớm để các cơ quan

liên quan chủ động điều chỉnh, phối hợp thực hiện kịp thời.

- Thứ tư, xây dựng dữ liệu thông tin một cách đầy đủ, chính xác, kịp

thời, đáp ứng được yêu cầu quản lý và điều hành của hội đồng ổn định tài chính

nói chung và của từng đơn vị nói riêng, tăng cường chia sẻ, trao đổi thông tin giữa

các đơn vị liên quan, nâng cao năng lực công tác thống kê, phân tích, dự báo vĩ

mô thông qua liên kết đào tạo bồi dưỡng đội ngũ thực hiện. Cụ thể:

 Ngân hàng Nhà nước chịu trách nhiệm cung cấp các số liệu liên quan đến

lĩnh vực ngân hàng, các tổ chức tín dụng.

 Bộ Tài chính có trách nhiệm cung cấp các số liệu liên quan đến thị trường

tài chính (cổ phiếu, trái phiếu), bảo hiểm, và khu vực doanh nghiệp.

 Bộ Kế hoạch và đầu tư thực hiện cung cấp các số liệu liên quan đến đầu

tư, nợ công, các số liệu kinh tế vĩ mô, số liệu từ khu vực hộ gia đình, để từ đó làm

cơ sở tính toán các chỉ số như nợ hộ gia đình/ GDP, nợ hộ gia đình/ thu nhập hộ gia

đình, tín dụng ngân hàng ngầm…

 Bộ Xây dựng cung cấp các số liệu liên quan đến thị trường bất động sản

như cung – cầu bất động sản nhà ở và bất động sản thương mại, chỉ số giá nhà ở và

giá bất động sản thương mại…

Để đảm bảo việc chia sẻ, phối hợp thông tin được thực hiện hiệu quả trên

thực tế, cần có Luật hoặc các văn bản dưới luật quy định, hướng dẫn cụ thể liên

quan đến vấn đề chia sẻ thông tin. Trong văn bản này cần đưa ra quy định về việc:

(i) mục đích của việc chia sẻ thông tin, (ii) những cơ quan nào tham gia vào việc

phối hợp, chia sẻ thông tin, (iii) những thông tin, dữ liệu gì cần được chia sẻ, (iv)

chia sẻ những thông tin này cho ai, (v) kênh truyền dẫn thông tin là kênh nào, (vi)

định kỳ chia sẻ thông tin theo tháng, quý hay năm, (vii) mức độ đảm bảo các dữ

liệu và thông tin, …

4.3.4. Nâng cao nhận thức về kinh tế - tài chính cho công chúng

Vấn đề nâng cao nhận thức kinh tế, tài chính cho nhà đầu tư và công chúng

là một vấn đề quan trọng, nhận được sự quan tâm và thảo luận của nhiều nhà

190

nghiên cứu trên thế giới. Công chúng càng có nhiều kiến thức về kinh tế, tài chính

thì đời sống của họ càng được cải thiện, kinh tế sẽ có cơ hội phát triển hơn và

phúc lợi xã hội dồi dào hơn. Trên phương diện ổn định tài chính, nếu công chúng

có nhận thức tốt về các vấn đề kinh tế, tài chính thì sẽ giúp hệ thống tài chính thu

hút nhiều luồng vốn đầu tư cho nền kinh tế hơn, tăng cường ổn định tài chính. Bản

thân người tiêu dùng, nhà đầu tư trong lĩnh vực này có thể nhận thức được những

lợi ích, rủi ro tiềm tàng khi tham gia trên thị trường tài chính, có những biện pháp

tự bảo vệ mình. Theo Nguyễn Đình Trung (2017), nâng cao kiến thức tài chính

cho công chúng sẽ góp phần nâng cao chất lượng các dịch vụ tài chính, giúp công

dân mở rộng khả năng sử dụng các dịch vụ tài chính một cách hiệu quả. Quá trình

này làm giảm tính dễ bị tổn thương của hệ thống tài chính khi đối mặt với các

cuộc khủng hoảng tài chính, giảm dần rủi ro vay mượn cá nhân quá mức đối với

các khoản tín dụng tiêu dùng, giảm thiểu rủi ro bất cân xứng thông tin, giúp bảo

vệ người sử dụng các dịch vụ tài chính.

Trên thực tế, vấn đề này đã được triển khai thành nhiều chương trình, chiến

lược quốc gia về nâng cao kiến thức tài chính và giáo dục tài chính, đặc biệt là tại

các quốc gia phát triển. Tại Mỹ, Chính phủ đã thành lập Ủy ban giáo dục và kiến

thức tài chính (Financial Literacy and Education Commission) từ năm 2003 với

nhiệm vụ phát triển một trang web giáo dục tài chính quốc gia (MyMoney.gov) và

đưa ra chiến lược quốc gia về giáo dục tài chính. Ủy ban này được chủ trì bởi Bộ

trưởng Bộ tài chính và phó chủ tịch là Cục trưởng Cục bảo vệ tài chính người tiêu

dùng. Định hướng hoạt động chính của Ủy ban là ra các chiến lược, chính sách,

giáo dục, thực hành, nghiên cứu và phối hợp để đảm bảo người dân Mỹ có được

các kiến thức tài chính cơ bản giúp đưa ra quyết định tài chính sáng suốt. Tại Úc,

Ủy ban đầu tư và chứng khoán Úc (Australian Securities and Investments

Commission) đã xây dựng và thực thi Chiến lược năng lực tài chính quốc gia và

thành lập quỹ Ecstra như một phần của chiến lược này. Quỹ Ecstra được thành lập

với mục tiêu xây dựng và tăng cường năng lực, kiến thức tài chính cho người dân

Úc khi tham gia vào hệ thống tài chính. Với các chương trình đào tạo trực tuyến,

chương trình phối hợp với các trường tiểu học và trung học, các chương trình tư

191

vấn đào tạo trực tiếp…, quỹ này cung cấp các kiến thức và kỹ năng quản lý tài

chính cho mọi người dân.

Như vậy, để nâng cao nhận thức về kinh tế, tài chính cho công chúng,

Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước cần có những chiến lược giáo dục tài chính

cho người dân, giúp họ có được những kiến thức tài chính cơ bản để ra quyết định

đầu tư chính xác. Các nội dung giáo dục tài chính có thể bao gồm một số vấn đề

chính như sau:

- Kiến thức tài chính cá nhân (cách thức quản lý các dòng thu, chi tiền, am

hiểu về cách thức tính thuế và kê khai thuế thu nhập cá nhân, hiểu biết về các kế

hoạch hưu trí, tiết kiệm, bảo hiểm…)

- Kiến thức kinh tế vĩ mô (chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa, chính

sách ổn định tài chính…)

- Kiến thức thị trường tài chính (nguyên tắc hoạt động và các công cụ thị

trường tài chính…)

- Kiến thức tài chính nâng cao (hiểu biết về các sản phẩm, dịch vụ công

nghệ tài chính…)

TÓM TẮT CHƯƠNG 4

Trong chương 4, trên cơ sở những hạn chế của công tác đo lường ổn định

hệ thống tài chính Việt Nam là chưa có bộ chỉ số chính thức, nghiên cứu sinh đã

đề xuất bộ chỉ số giúp xác định mức độ ổn định của hệ thống tài chính Việt Nam

với 22 chỉ tiêu, tập trung vào ba lĩnh vực: hệ thống ngân hàng, thị trường tài chính

và khu vực kinh tế vĩ mô. Luận án thực hiện thu thập số liệu và áp dụng bộ chỉ số

để đo lường ổn định hệ thống tài chính trong giai đoạn từ 2008-2018 và nhận thấy

rằng giai đoạn có nhiều bất ổn của hệ thống là từ 2008-2011.

Dựa trên bộ chỉ số, luận án thực hiện xây dựng chỉ số ổn định tài chính tổng

hợp theo hai phương pháp: trọng số cân bằng và phân tích thành phần chính PCA

và cũng giúp nhận diện được giai đoạn bất ổn của hệ thống tài chính Việt Nam là

2008-2011. Ngoài đề xuất bộ chỉ số và chỉ số ổn định tổng hợp, luận án cũng đề

xuất một số khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác đo lường ổn định tài

chính nói chung và bộ chỉ số nói riêng.

192

KẾT LUẬN

Trong những năm vừa qua, hệ thống tài chính Việt Nam đã có những bước

phát triển mới nhưng đồng thời cũng phải đối mặt với những rủi ro tiềm ẩn đến từ

các khu vực khác nhau trong hệ thống: khu vực ngân hàng, chứng khoán, thị

trường tài chính… và các rủi ro lại mang tính hệ thống, có khả năng ảnh hưởng

lan truyền đến toàn bộ hoạt động của hệ thống cũng như nền kinh tế. Việc xác

định các rủi ro, đo lường sự ổn định, lành mạnh của hệ thống tài chính là một khâu

quan trọng trong việc thực thi chính sách ổn định tài chính. Sử dụng các bộ chỉ số

kết hợp chỉ số ổn định tài chính tổng hợp riêng lẻ nhằm tự đánh giá mức độ ổn

định tài chính, phát hiện những rủi ro hệ thống tiềm tàng đang là cách tiếp cận của

nhiều quốc gia đang phát triển hiện nay. Với những đặc điểm riêng biệt về tình

hình kinh tế, chính trị, cấu trúc hệ thống tài chính, kỳ vọng thị trường…, tiêu

chuẩn đánh giá hay mức độ rủi ro có thể chấp nhận được tại mỗi nước là không

giống nhau. Chính vì thế, việc áp dụng bộ chỉ số này với tiêu chuẩn quốc tế tại

quốc gia có hệ thống tài chính thiếu hoàn thiện như Việt Nam nói riêng là điều

không dễ dàng. Trong bối cảnh thực tiễn trên, việc nghiên cứu đề tài: “Thiết lập

bộ chỉ số xác định mức độ ổn định của hệ thống tài chính Việt Nam” là thực sự

cần thiết. Luận án đã đạt được một số kết quả chính như sau:

Thứ nhất, luận án đã hệ thống hóa cơ sở lý luận về ổn định tài chính và

quy trình thiết lập bộ chỉ số đo lường ổn định hệ thống tài chính, so sánh các bộ

chỉ số được gợi ý bởi các tổ chức quốc tế trên các phương diện khác nhau để tìm

ra thế mạnh của từng bộ chỉ số.

Thứ hai, nghiên cứu sinh cũng tìm hiểu kinh nghiệm đo lường cũng như sử

dụng các bộ chỉ số tại bốn quốc gia là Anh, Trung Quốc, Hàn Quốc và Indonesia.

Mỗi quốc gia có cách thức đo lường ổn định tài chính riêng, có thể là kinh nghiệm

quý báu cho Việt Nam trước khi chính thức thiết lập khuôn khổ chính sách ổn

định tài chính và theo đuổi mục tiêu ổn định hệ thống tài chính.

Thứ ba, luận án đã thực hiện phân tích đặc điểm hệ thống tài chính Việt

Nam trên các khía cạnh: xác định cấu trúc hệ thống tài chính, đặc điểm của hệ

thống ngân hàng và thị trường tài chính, đặc điểm về hệ thống giám sát và rút ra

những điểm tương đồng giữa Việt Nam và ba hai quốc gia được nghiên cứu ở trên

là Trung Quốc, Indonesia và Hàn Quốc, làm cơ sở học hỏi kinh nghiệm từ ba quốc

gia này. Bên cạnh đó, luận án cũng phân tích thực trạng triển khai công tác đo

193

lường ổn định tài chính của Việt Nam hiện nay, những rủi ro mà hệ thống phải đối

mặt trong thời gian vừa qua, trên cơ sở đó đưa ra những đánh giá về những thành

công và hạn chế của hoạt động đo lường ổn định tài chính.

Thứ tư, căn cứ dựa trên những hạn chế của công tác đo lường ổn định tài

chính, nghiên cứu sinh đề xuất bộ chỉ số xác định mức độ ổn định của hệ thống tài

chính Việt Nam với 22 chỉ số cơ bản, tập trung vào ba khu vực: hệ thống ngân

hàng, thị trường tài chính và khu vực kinh tế vĩ mô. Các bộ chỉ số được sử dụng

để đo lường mức độ ổn định của hệ thống tài chính Việt Nam trong giai đoạn

2008-2018, và xác định được giai đoạn có nhiều bất ổn của hệ thống là giai đoạn

2008-2011.

Trên cơ sở bộ chỉ số, nghiên cứu sinh thực hiện xây dựng chỉ số tổng hợp

theo hai phương pháp: trọng số cân bằng và phân tích thành phần chính PCA. Cả

hai phương pháp đều giúp nhận diện được giai đoạn bất ổn tài chính của Việt Nam

là giai đoạn 2008-2011 thông qua sự suy giảm của chỉ số tổng hợp. Tuy nhiên,

phương pháp PCA có sai số lỗi loại I thấp hơn, và vì thế nghiên cứu sinh khuyến

nghị NHNN có thể áp dụng phương pháp này để xây dựng chỉ số tổng hợp. Mặc

dù vậy, do hạn chế về cơ sở dữ liệu, nghiên cứu sinh chưa có điều kiện thực hiện

phương pháp phân phối tích lũy hay mô hình kinh tế lượng phức tạp. Với dữ liệu

đa dạng và đầy đủ hơn, chỉ số tổng hợp duy nhất có thể được thiết lập thông qua

các phương pháp phức tạp hơn để tìm ra phương thức phù hợp nhất. Bên cạnh đó,

nghiên cứu sinh cũng chưa chỉ ra giá trị chuẩn mực (giới hạn chuẩn hay ngưỡng)

cho chỉ số ổn định tài chính duy nhất.

Bên cạnh đó, luận án cũng đề xuất một số khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu

quả đo lường ổn định hệ thống tài chính như: (i) thiết lập khung chính sách ổn

định tài chính; (ii) xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu thông tin; (iii) tăng cường cơ

chế phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị và (iv) nâng cao nhận thức về kinh tế - tài

chính cho công chúng.

Mặc dù nghiên cứu sinh đã rất cố gắng nhưng luận án vẫn không tránh khỏi

những sơ suất, hạn chế. Nghiên cứu sinh rất mong nhận được sự góp ý của các

thầy cô trong Hội đồng, các chuyên gia và nhà nghiên cứu để hoàn thiện luận án

hơn nữa.

Nghiên cứu sinh xin chân thành cảm ơn!

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tham khảo Tiếng Việt

1. Đỗ Việt Hùng, Tô Thị Hồng Anh, Nguyễn Hương Giang và Nguyễn Vũ Phương,

2014, Tổng quan về khuôn khổ chính sách an toàn vĩ mô hiệu quả, Tạp chí Ngân

hàng, số 6, tháng 3/2014.

2. Đỗ Xuân Thành và Đỗ Thiên Anh Tuấn, 2013, Tăng cường phối hợp chinhs

sách kinh tế vĩ mô với chính sách giám sát an toàn tài chính ở Việt Nam,

Fullbright.

3. Hạ Thị Thiều Dao và Phạm Thị Tuyết Trinh, 2013, Bất ổn kinh tế vĩ mô Việt

Nam nhìn từ chính sách tiền tệ, Tạp chí Công nghệ Ngân hàng, số 16, quý 1, 2013

4. Hà Tú Anh, 2018, Vai trò của Ngân hàng Nhà nước đối với ổn định tài chính,

Tài liệu Chương trình đào tạo, bồi dưỡng lãnh đạo cấp phòng, Trường bồi dưỡng

cán bộ Ngân hàng.

5. Hồ Ngọc Tú, 2017, Hoạt động ngân hàng ngầm: Kinh nghiệm các nước và kiến

nghị cho Việt Nam, Tạp chí kinh tế tài chính Việt Nam, số 5 tháng 10/2017.

6. Hoàng Thị Duyên và Đỗ Thị Tuyết Mai, 2019, Cho vay ngang hàng trên thế

giới và thực tiễn tại Việt Nam, Tạp chí Tài chính, Kỳ 1 tháng 4/2019.

7. Nguyễn Đức Thành và Vũ Minh Long (2014), Đánh giá hệ thống ngân hàng

thương mại Việt Nam thông qua các chỉ số lành mạnh tài chính, Tạp chí Khoa học

và Công nghệ Việt Nam số 18, 2014.

8. Nguyễn Đức Thành và Vũ Minh Long, 2014, Đánh giá hệ thống ngân hàng

thương mại Việt Nam qua bộ chỉ số lành mạnh tài chính (FSIs), Hội thảo “Tìm

hiểu và phân tích các chỉ số lành mạnh tài chính”, Ngân hàng phát triển châu Á và

Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách, 2014

9. Nguyễn Quỳnh Thơ, 2019, Xây dựng chỉ số ổn định tài chính tổng hợp cho Việt

Nam: Kinh nghiệm từ các quốc gia đang phát triển, Đề tài nghiên cứu khoa học

cấp cơ sở, Học viện Ngân hàng, 2019.

10. Nguyễn Thanh Nhàn, 2017, Nhân tố ảnh hưởng tới hiệu lực tác động của kênh

lãi suất trong điều hành chính sách tiền tệ tại Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế,

Học viện Ngân hàng.

11. Nguyễn Thị Minh Huệ, 2012, Đánh giá hệ thống ngân hàng Việt Nam qua một

số chỉ số lành mạnh tài chính, Tạp chí Khoa học Đại học quốc gia Hà Nội, số 28,

năm 2012

12. Nguyễn Thị Ngọc Hà, Vũ Thị Minh Thư và Bùi Vũ Hồng Trang, 2014, Ứng

dụng FSIs trong công tác giám sát thị trường tài chính, Hội thảo “Tìm hiểu và

phân tích các chỉ số lành mạnh tài chính”, Ngân hàng phát triển châu Á và Viện

Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách, 2014

13. Nguyễn Vân Hà, 2016, Hoạt động tài chính ngầm (Shadow Banking), tác động

của nó đến an toàn hệ thống ngân hàng và biện pháp phòng ngừa, Đề tài cấp

Ngành, Mã số DTNH. 11/2015

14. Phạm Anh Thái, 2014, Một số vấn đề về ổn định tài chính tại Việt Nam, Hội

thảo “Vai trò của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với sự ổn định của hệ thống

tài chính”, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, tháng 5/2014.

15. Phạm Thị Hoàng Anh, 2017, Điều hành chính sách giám sát an toàn vĩ mô:

Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam, Đề tài cấp Ngành, Mã số

ĐTNH.025/2016

16. Phạm Tiên Phong, 2015, Xây dựng khuôn khổ chính sách an toàn vĩ mô cho hệ

thống tài chính Việt Nam, Đề tài cấp Ngành, Mã số DTNH. 07/2014.

17. Phan Thị Linh và Trần Thị Vân Trà, 2019, Chính sách an toàn vĩ mô góp phần

ổn định tài chính cho khu vực ngân hàng Việt Nam, Tạp chí Tài chính, số tháng

2/2019

18. Tô Kim Ngọc và Nguyễn Thanh Nhàn, 2018, Giáo trình Tiền tệ - Ngân hàng,

Học viện Ngân hàng, NXB Thanh Niên.

19. Tô Ngọc Hưng, 2010, Hệ thống giám sát tài chính quốc gia, Đề tài cấp Nhà

nước, Mã số KX.01.19/06-10

20. Trần Trung Lưu và Nguyễn Trung Hậu, 2014, Vai trò của các chỉ số an toàn

vĩ mô (MPIs) đối với việc giám sát an toàn vĩ mô hệ thống tài chính, Tạp chí Ngân

hàng, số 9, tháng 5/2014

21. Trương Anh Hùng, 2017, Xây dựng bộ chỉ tiêu giám sát an toàn hoạt động

ngân hàng và ứng dụng trong đánh giá rủi ro và hiệu quả hoạt động của các ngân

hàng thương mại Việt Nam, Dự án nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, Mã số DANH-

CS.08/16.

22. Vũ Hải Yến, 2017, Xác định ngưỡng nợ bền vững cho các quốc gia mới nổi –

Kinh nghiệm thế giới và gợi ý cho Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ

sở, Học viện Ngân hàng, 2017.

23. Ủy ban giám sát tài chính quốc gia, 2017, Báo cáo tổng quan thị trường tài

chính.

Tài liệu tham khảo Tiếng Anh

1. ADB, 2015, Financial Soundness Indicators for Financial Sectors Stability in

Viet Nam.

2. Agresti A. M. et al., 2008, The ECB and IMF Indicators for the Macro-

prudential Analysis of the Banking Sector – A comparision of the Two Approaches,

ECB Occasional Paper Series, No.99, November 2008.

3. Akosha N. K., Loloh F. W., Lawson N. and Kumah C., 2018, Measuring

Financial Stability in Ghana: A New Index-Based Approach, MPRA Paper No.

86634, 12 May 2018

4. Angelini et al., 2012, Monetary and Macroprudential Policies, ECB Working

Paper Series No.1449/ July 2012.

5. Arzamasov V. and Penikas H., 2014, A Financial Stability Index for Israel,

Procedia Computer Science, Vol. 31, 2014, pp.985-994.

6. Bank Indonesia, 2017, Financial Stability Report September 2017.

7. Bank of England, 2011, Instruments of Macroprudential Policy, A Discussion

Paper.

8. Bank of England, 2016, Financial Stability Report 2016

9. Bank of England, 2017, Financial Stability Report 2017

10. Bank of England, 2018, Financial Stability Report 2018

11. Bhattacharay B. and Nerb G., 2002, Leading Indicators for Monitoring the

Stability of Asset and Financial Markets in Asia and the Pacific, Asia-Pacific

Development Journal, Vol.9, No.2, December 2002.

12. Bhattacharyay B. N., 2003, Towards a macro-prudential leading indicators

framework for monitoring financial vulnerability, CESifo Working Paper No. 1015.

13. Braga J. P., Pereira I., và Reis T. B., 2014, Composite Indicator of Financial

Stress for Portugal, Financial Stability Papers.

14. Braga, Morris, V. C., 2010, Measuring and forecasting financial stability: the

composition of an aggregate financial stability for Jamaica, Economics in

Emerging Economies 6(2), The Caribbean Centre for Monetary Studies.

15. Cerqueira L. E. and Murcia M. I. C., 2015, A Spanish Financial Market Stress

Index (FMSI), Working paper No. 60

16. Crockett A., 1997, Maintaining Financial Stability in a Global Economy,

Federal Reserve of Kansas City.

17. De Bandt and Hartmann, 2000, Systemic risk: A survey, Working Paper No. 35,

European Central Bank

18. Dell’ Ariccia, Giovanni, Deniz Igan, Luc Laeven, and Hui Tong, with Bas

Bakker and Jerome Vandenbussche, 2012, Policies for macrofinancial stability:

How to deal with credit booms, IMF Staff Discussion Note 12/06.

19. Drehmann, Mathias and Mikael Juselius, 2012, Do debt service costs affect

macroeconomic and financial stability? BIS Quarterly Review, September.

20. Drehmann, Mathias, Claudio Borio and K. Tsatsaronis, 2011, Anchoring

countercyclical capital buffers: The role of credit aggregates, International Journal

of Central Banking, Vol. 7, No. 4, December 2011.

21. ECB, 2012, Financial Stability Review, June 2012.

22. European Systemic Risk Board (ESRB), 2014, Flagship Report on

Macroprudential Policy in the Banking Sector.

23. Ehlers T., Kong S. and Zhu F., 2018, Mapping shadow banking in China:

structure and dynamics, BIS Working Papers No.701.

24. Evans O. et al., 2000, Macroprudential Indicators of Financial System

Soundness, IMF Occasional Paper 192.

25. Financial Suprevisory Services, 2015, Annual Report.

26. Foot M., 2003, What Is Financial Stability and How Do We Get It?, The Roy

Bridge Memorial Lecture (United Kingdom: Financial Services Authority), April

2003.

27. FSB, BIS and IMF, 2011, Macroprudential Policy Tools and Frameworks.

28. Gadanecz B. and Jayaram K., 2009, Measures of financial stability – A review,

IFC Bulletins, BIS.

29. Geršl A. and Heřmánek J., 2006, Financial Stability Indicators: Advantatges

and Disadvantages of Their Use in the Assessment Financial System Stability,

Czech National Bank.

30. Gianni Toniolo and Eugene N. White, 2015, The Evolution of the Financial

Stability Mandate: From Its Origins to the Present Day, NBER Working Paper

Series 20844.

31. Group of Ten, 2001, Report on Consolidation in the Financial Sector, IMF.

32. Gunadi et al., 2014, Using the Financial System Stability Index (FSI) in the

Implementation of Macroprudential Surveillance, Financial Stability Report March

2015, Bank Indonesia.

33. Gurley J. and Shaw E., 1960, Money in a Theory of Finance, Washington, D.C.:

Brooking Institution

34. Haldane A. G., Hoggarth G., Saporta V., and Sinclair P., 2004, Financial

Stability and Bank Solvency.

35. Harun Cicilia A., 2017, Design, Implementation, and Operation of

Macroprudential Instruments in Bank Indonesia, SEACEN-ADB Course on

Macroprudential Policy.

36. Hervé Hannoun, 2010, Towards a Global Financial Stability Framework,

SEACEN Governors’s Conference.

37. Hoelschern D. and Quintyn M., 2003, Managing Systemic Banking Crises, IMF

Occasional Paper, No.224.

38. Houben A., Kakes J. and Schinasi G., 2004, Towards a Framework for

Financial Stability, DE Nederlandsche Bank, Occasional Studies, Vol.2, Nr.I 2004.

39. Illing M. and Liu Y., 2003, An Index of Financial Stress for Canada, Bank of

Canada, Working Paper 2003-14.

40. IMF, 2017, Vietnam 2017 Article IV Consultation – Press Release, IMF

Country Report No. 17/191, July 2017

41. IMF, 2004, Complilation Guide on Financial Soundness Indicators, IMF,

Washington D.C.

42. IMF, 2011, Macroprudential Policy: An Organizing Framework, Monetary and

Capital Markets Department, IMF.

43. IMF, 2011, Towards operationalizing macroprudential policies: when to act?,

Chapter 3 in Global Financial Stability Report, IMF.

44. IMF, 2013, Key aspect of Macroprudential Policies, IMF Policy Paper, June

2013.

45. IMF, 2013, Modifications to the Current List of Financial Soundness Indicators

46. IMF, 2015, Republic of Korea – Financial sector assessment program: Stress

testing and financial stability analysis technical note, IMF Country Report No.15/6,

January 2015.

47. IMF, 2017, Financial System Stability Assessment – Press Release and

Statement by the Excutive Director for Indonesia, IMF Country Report No.17/152,

June 2017.

48. IMF, 2017, People’s Republic of China – Financial system stability

assessment, IMF Country Report No. 17/358, December 2017.

49. IMF, 2018, People’s Republic of China – Financial sector assessment

program – Systemic oversight of financial market infrastructures – Technical

note, IMF Country Report No. 18/192, June 2018.

50. IMF, 2018, Vietnam Selected Issues, IMF Country Report No. 18/216, July 2018

51. IMF, 2019, Vietnam 2019 Article IV Consultation – Press Release, IMF

Country Report No. 19/235, July 2019

52. Inaki Aldasoro, Claudio E. V. Borio and Mathias Drehmann, 2018, Early

Warning Indicators of Banking Crises: Expanding the Family, BIS Quarterly

Review, March 2018.

53. Indraratna, 2013, Strengthening Financial Stability Indicators in the Midst of

Rapid Financial Innovation, SEACEN Research and Training Centre.

54. Ingves, 2001, Financial System Abuse, Financial Crime and Money

Laundering-Background Paper, IMF Working Paper.

55. Jordan, Dan J., Douglas Rice, Jacques Sanchez, Chistopher Walker, and Donald

H. Wort, 2010, Predicting bank failures: Evidence from 2007 to 2010, Mimeo.

56. Joses A. S., and Georgiou A., 2006, Financial Soundness Indicators (FSIs):

Framework and Implementation.

57. Kaminsky và Reinhart, 1999, The Twin Crises: The Causes of Banking and

Balance-of-Payments Problem, American Economic Review, Vol.89, No.3, June

1999.

58. Lars E.O. Svensson, 2018, Monetary Policy and Macroprudential Policy:

Different and Separate? Canadian Journal of Economics.

59. Louzis D. P. and Vouldis A. T., 2011, A Financial Systemic Stress Index for

Greece, Journal of Banking and Finance, Vol. 36, Issue 4, pp.1012-1027, 2012.

60. Lund-Jensen K., 2012, Monitoring systemic risk based on dynamic thresholds:

A survey of the available macroprudential tookit, IMF Working Paper WP/12/159.

61. Mathias Drehmann and Mikael Juselius, 2013, Evaluating early warning

indicators of banking crises: Satisfying policy requirements, BIS Working Papers

No421, August 2013.

62. Merton R.C., and và Bodie Z., 1995, A Conceptual Framework for Analyzing

the Financial Environment, in D. B. Crane et. al. (eds), The Global Financial

System: A Functional Perspective. Boston, MA: Havard Business School Press, pp.

3-32.

63. Micheal D. Bordo, 2017, An historical perspective on the quest for financial

stability and the monetary policy regime, NBER Working Paper No 24154.

64. Micheal D. Bordo and David C. Wheelock, 1998, Price Stability and Financial

Stability: The Historical Record, Federal Reserve Bank of St. Louis.

65. Mishkin F. S., 1994, Preventing Financial Crises: An International Perspective,

NBER Working Paper, No. 4636, February 1994.

66. Mörttinen L, Poloni P., Sandars P. and Vesala J., 2005, Analysing banking

sector conditions: How to use Macroprudential Indicators, Occasional Paper

Series, No. 26, April 2005, ECB.

67. Navajas M. C. and Thegeya A., 2013, Financial Soundness Indicators and

Banking Crises, IMF Working Paper, WP/13/263.

68. Ndari Suyaningsih, Diana Yumanita and Elis Deriantino, 2014, Early Warning

Indicators: Banking Liquidity Risk, Working Papers, WP/1/2014, Bank Indonesia.

69. Nelson W. R. and Perli R., 2005, Selected Indicators of Financial Stability,

Federal Reserve Board.

70. Nier, E. W., 2009, Financial Stability Framework and the Role of Central

Banks: Lessons from the Crisis, IMF Working Paper WP/09/7, IMF, 24-25

71. Pawel Smaga, 2014, The Concept of Systemic Risk, SRC Special Paper No 5,

August 2014.

PBC, 2014, China Financial Stability Report, China Financial Publishing House.

72. Petrovska M. and Mihajlovska E. L,, 2013, Measures of Financial Stability in

Macedonia, Journal of Central Banking Theory and Practice, Central Bank of

Montenegro. Vol.2, pp. 85-110.

73. Schmidt, Reinhard H. and Hryckiewicz, Aneta, 2006, Financial systems-

importance, differences and convergence, IMFS Working Paper Series, No. 4,

Goeth Univesity Frankfurt, Institute for Monetary and Financial Stability (IMFS).

74. Sluijs P. J., 2006, Financial Soundness Indicators, World Bank, Nairobi, May

2006.

75. Summer M., 2003, Banking regulation and systemic risk, Open Economies

Review, Volume 14, Issue 1, pp.43-70, January 2003.

76. Sun G., 2019, China’s shadow banking: bank’s shadow and traditional

shadow banking, BIS Working paper No. 822, November 2019.

77. Sun G. and Jia J., 2015, Definition and measurement of China’s shadow

banking: From the perspective of credit money creation, Social Sciences in China,

2015 (11), 92-110.

78. Sundararajan V. et al., 2002, Financial Soundness Indicators: Analytical

Aspects and Country Practices, IMF Occasional Paper 212.

79. Van den End J. W., 2006, Indicator and boundaries of financial stability, DNB

Working Paper no 97, March.

80. Wilkinson J., Spong K. and Christensson J., 2010, Financial Stability Reports:

How Useful During a Financial Crisis? Federal Reserve Bank of Kansas City.

Phụ lục 1. Các chỉ số lành mạnh tài chính bổ sung của IMF bản cập nhật

BỘ CHỈ SỐ BỔ SUNG

Áp dụng đối với các Tổ chức nhận tiền gửi

I18

Tổn thất lớn/ Vốn

I19

Phân bổ dư nợ theo khu vực địa lý/ Tổng dư nợ

I20

Tài sản liên quan đến chứng khoán phái sinh/ Vốn

I21

Nợ liên quan đến chứng khoán phái sinh/ Vốn

I22

Trading income/ Tổng thu nhập

I23

Chi phi nhân sự/ Tổng chi phí phi lãi

I24

Chênh lệch lãi suất cho vay cơ bản và lãi suất huy động

I25

Chênh lệch giữa lãi suất liên ngân hàng cao nhất và thấp nhất

I26

Tiền gửi khách hàng/ Tổng dư nợ (không tính cho vay liên ngân hàng)

I27

Dư nợ ngoại tệ/ Tổng dư nợ

I28

Nợ bằng ngoại tệ/ Tổng nợ

I29 (Mới)

Tăng trưởng tín dụng khu vực tư nhân

Áp dụng cho các Tổ chức tài chính khác (OFCs)

I30 (Mới)

Tài sản của các tổ chức khác tài chính khác (% tổng tài sản hệ thống tài chính)

 Quỹ thị trường tiền tệ  Công ty bảo hiểm  Quỹ hưu trí  Các tổ chức tài chính khác

I31 (Mới)

Tài sản của các tổ chức khác tài chính khác (% GDP)

 Quỹ thị trường tiền tệ  Công ty bảo hiểm  Quỹ hưu trí  Các tổ chức tài chính khác

Áp dụng đối với Quỹ thị trường tiền tệ (MMFs)

I32 (Mới)

Phân bổ đầu tư theo lĩnh vực (% tổng đầu tư):

 Ngân hàng trung ương  Tổ chức nhận tiền gửi  Các tổ chức tài chính khác  Chính phủ  Các doanh nghiệp  Nước ngoài

I33 (Mới)

Phân bổ đầu tư theo kỳ hạn (% tổng đầu tư) (Thanh khoản)

 1-30 ngày  31-90 ngày  >90 ngày

Áp dụng đối với Công ty bảo hiểm (ICs)

I34 (Mới)

Vốn cổ phần/ Tài sản đầu tư

I35 (Mới)

(Tổng thu phí bảo hiểm – Phí tái bảo hiểm)/ Tổng thu nhập

I36 (Mới)

Lợi nhuận/ Tổng tài sản

I37 (Mới)

Lợi nhuận/ Vốn chủ sở hữu

Áp dụng đối với Quỹ hưu trí (PFs)

I38 (Mới)

Tài sản thanh khoản/ Lương hưu dự tính thanh toán trong năm tới

I39 (Mới)

Lợi nhuận/ Tổng tài sản

Áp dụng đối với các doanh nghiệp (NFCs)

I40

Tổng nợ/ Vốn chủ sở hữu

 Nợ nước ngoài/ Vốn chủ sở hữu  Nợ bằng ngoại tệ/ Vốn chủ sở hữu

I41 (Mới)

Lợi nhuận/ Tổng tài sản

I42

Lợi nhuận/ Vốn chủ sở hữu

I43

Thu nhập/ Chi phí gốc và lãi

I44 (Mới)

Thu nhập/ Chi phí lãi

I45 (Mới)

Tài sản thanh khoản/ Tổng tài sản

I46 (Mới)

Nợ của doanh nghiệp/ GDP

Áp dụng đối với Hộ gia đình (HHs)

Nợ của hộ gia đình/ GDP

I47

Lãi và gốc/ Thu nhập hộ gia đình

I48

I49 (Mới)

Nợ của hộ gia đình/ Thu nhập sau thuế

Áp dụng đối với Thị trường bất động sản

I50

Giá bất động sản thương mại (% thay đổi trong 12 tháng qua)

I51

Dư nợ cho vay mua nhà/ Tổng dư nợ

I52

Dư nợ cho vay bất động sản thương mại/ Tổng dư nợ

Nguồn: IMF (2013)

Phụ lục 2. Bộ chỉ số an toàn vĩ mô của ECB

(1) Các chỉ số khả năng sinh lời, chất lượng bảng cân đối và an toàn vốn 6

thu

Thu nhập – Chi phí và khả năng sinh lời Thành phần nhập

 Thu nhập lãi ròng/ tổng thu nhập hoạt động  Thu nhập phi lãi ròng/ tổng thu nhập hoạt động  Phí và phí hoa hồng ròng/ tổng thu nhập hoạt động  Kết quả kinh doanh và ngoại hối (lãi/lỗ các giao dịch tài chính)/ tổng

thu nhập hoạt động

Thành phần chi phí

Mức độ hiệu quả

 Thu nhập hoạt động khác ròng/ tổng thu nhập hoạt động  Chi phí nhân viên/ tổng chi phí  Chi phí hành chính/ tổng chi phí  Các chi phí khác/ tổng chi phí  Chi phí/ thu nhập hoạt động  Tỷ lệ ngân hàng có hệ số chi phí/ thu nhập trên 80% tính trên tổng

tài sản

Khả năng sinh lời

 Lợi nhuận (sau dự phòng, trước thuế và các khoản bất thường)/ Vốn

tự có cấp 1

 Tỷ lệ ROE (lợi nhuận sau dự phòng, thuế và các khoản bất thường)/

Vốn tự có cấp 1

 Tỷ lệ ROA (lợi nhuận sau dự phòng, thuế và các khoản bất thường)/

Tổng tài sản

% thu nhập, chi phí và lợi nhuận so với tổng tài sản

 Thu nhập lãi ròng/ tổng tài sản  Lãi phải thu/ tổng tài sản  Thu nhập phi lãi ròng/ tổng tài sản  Phí và hoa hồng phí ròng/ tổng tài sản  Kết quả kinh doanh và ngoại hối (lãi/lỗ các giao dịch tài chính)/ tổng

tài sản

 Thu nhập hoạt động ròng khác/ tổng tài sản  Tổng thu nhập hoạt động/ tổng tài sản  Chi phí nhân viên/ tổng tài sản  Chi phí hành chính/ tổng tài sản  Các chi phí khác/ tổng tài sản  Tổng chi phí hoạt động/ tổng tài sản  Lợi nhuận hoạt động  Dự phòng cụ thể/ tổng tài sản  Quỹ cho rủi ro ngân hàng chung/ tổng tài sản  Các khoản bất thường (ròng)/ tổng tài sản

An toàn vốn

 Tỷ lệ thanh khoản chung

6 Tóm tắt các chỉ số được sử dụng nhiều nhất

 Tỷ lệ vốn cấp 1  Sổ ngân hàng/ tổng TSCRR điều chỉnh  Các khoản mục ngoài bảng cân đối/ tổng TSCRR điều chỉnh  Sổ kinh doanh/ tổng TSCRR điều chỉnh  Phân bố tỷ lệ thanh khoản chung trong mẫu  Số ngân hàng có tỷ lệ vốn dựa trên rủi ro dưới 9%  Tỷ lệ ngân hàng có tỷ lệ vốn dựa trên rủi ro dưới 9% tính trên tổng

tài sản

 Thành phần vốn tự có yêu cầu cho sổ kinh doanh/ tổng vốn tự có

yêu cầu cho sổ kinh doanh theo Hướng dẫn an toàn vốn

Bảng cân đối Mức độ bao phủ Thành phần tài sản có

 Tổng tài sản của khu vực ngân hàng  Tiền mặt và tiền gửi tại NHTW/ tổng tài sản  Cho vay các tổ chức tín dụng/ tổng tài sản  Chứng khoán nợ/ tổng tài sản  Chứng khoán nợ phát hành bởi các cơ quan Nhà nước (chứng khoán

nợ bao gồm chứng khoán lãi cố định)/ tổng tài sản

 Chứng khoán nợ phát hành bởi chủ thể đi vay khác (cổ phần và các

chứng khoán lãi suất thả nổi)/ tổng tài sản

Thành phần tài sản nợ

khoản mục

Các ngoại bảng

 Cho vay khách hàng/ tổng tài sản  Tài sản hữu hình và vô hình/ tổng tài sản  Các tài sản khác/ tổng tài sản  Tiền gửi khách hàng/ tổng tài sản  Đi vay tổ chức tín dụng/ tổng tài sản  Chứng chỉ tiền gửi/ tổng tài sản  Các khoản phải trả khác/ tổng tài sản  Dự phòng tài sản nợ/ tổng tài sản  Quỹ cho rủi ro ngân hàng chung/ tổng tài sản  Nợ thứ cấp/ tổng tài sản  Vốn chủ sở hữu (bao gồm các khoản điều chỉnh)/ tổng tài sản  Các khoản nợ khác/ tổng tài sản  Lãi hoặc lỗ năm tài chính/ tổng tài sản  Giới hạn tín dụng/ tổng tài sản  Bảo lãnh và các cam kết khác/ tổng tài sản  Chứng khoán phái sinh/ tổng tài sản  Tỷ lệ tài sản thanh khoản 1 (tiền mặt và chứng khoán chính phủ

Các chỉ số thanh khoản

ngắn hạn)

 Tỷ lệ tài sản thanh khoản 2 (tỷ lệ 1+ cho vay các tổ chức tín dụng)  Tỷ lệ tài sản thanh khoản 3 (tỷ lệ 2 + chứng khoán nợ phát hành bởi

cơ quan Nhà nước)

 Tỷ lệ tài sản thanh khoản (tiền mặt và cho vay tổ chức tín dụng)  Chênh lệch thanh khoản

Chất lượng tài sản

 Nợ xấu/ tổng dư nợ  Nợ xấu/ vốn tự có

(2) Các chỉ số cung và cầu (điều kiện cạnh tranh)

 Lãi phải thu/ tổng cho vay, tín phiếu kho bạc và chứng khoán nợ  Lãi phải trả/ tổng đi vay tổ chức tín dụng, nhận tiền gửi khách hàng,

chứng chỉ tiền gửi và nợ thứ cấp

 Chênh lệch lãi trung bình cho khoản cho vay mới  Chênh lệch lãi trung bình cho khoản cho vay mới với hộ gia đình  Chênh lệch lãi trung bình cho khoản cho vay mới với doanh nghiệp  Chênh lệch lãi trung bình cho khoản nhận tiền gửi bán lẻ  Tổng chênh lệch lãi

(3) Các chỉ số tập trung rủi ro

Tăng trưởng tín dụng và tập trung theo lĩnh vực Tổng cho vay

Tổng cho vay mới

Cho vay với các chủ thể không nhận tiền gửi

 Tổng cho vay  Cho vay người cư trú  Cho vay các thành viên trong liên minh tiền tệ  Cho vay bên ngoài liên minh  Tổng cho vay mới  Cho vay mới với người cư trú  Cho vay mới với các thành viên trong liên minh tiền tệ  Cho vay mới với bên ngoài liên minh  Tổng cho vay  Cho vay người cư trú  Cho vay các thành viên trong liên minh tiền tệ  Cho vay bên ngoài liên minh  Cho vay hộ gia đình  Cho vay doanh nghiệp  Cho vay tổ chức tài chính phi ngân hàng  Cho vay thế chấp cho hộ gia đình  Cho vay thế chấp thương mại

Nguy cơ ngành

Nguy cơ với ngành xây dựng, bất động sản, công nghệ truyền thông và viễn thông (TMT), du lịch, năng lượng, hàng không, bảo hiểm

lãi

Thành phần các tài sản khác Chứng khoán suất cố định

Cổ phiếu nắm giữ

Bảng cân đối

 Tổng  Phát hành bởi người cư trú  Phát hành bởi các thành viên liên minh tiền tệ khác  Phát hành bởi các chủ thể ngoài liên minh  Tổng  Phát hành bởi người cư trú  Phát hành bởi các thành viên liên minh tiền tệ khác  Phát hành bởi các chủ thể ngoài liên minh  Tổng  Truy đòi người cư trú

 Truy đòi các thành viên liên minh tiền tệ khác  Truy đòi các chủ thể ngoài liên minh  % khoản cho vay dưới 1 năm cho các chủ thể không nhận tiền gửi  % cho vay bằng ngoại tệ

Loại tiền tệ và cấu trúc kỳ hạn của cho vay nội địa Nguy cơ rủi ro tín dụng toàn cầu

 Tổng cho vay với chủ thể phi ngân hàng  Tổng chứng khoán nắm giữ  Tổng bảng cân đối  Tổng tín dụng quy đổi của các khoản mục ngoại bảng

Rủi ro thanh khoản

 Tỷ lệ tiền gửi phi ngân hàng/ M2  Tỷ lệ tổng cho vay/ tiền gửi phi ngân hàng  % nợ ngắn hạn ngoại tệ  Chênh lệch giữa lãi suất tiền gửi không đảm bảo và lãi suất hoán đổi

qua đêm đồng Euro (Euro Overnight Index Average-EONIA)

 Chênh lệch giữa lãi suất tiền gửi không đảm bảo và lãi suất repo có

đảm bảo

 Tỷ lệ tài sản thanh khoản/ tổng tài sản

Nguy cơ của liên minh châu âu EU15 trước quốc gia thành viên mới EU

 Tổng nguy cơ rủi ro tín dụng cho các quốc gia trung tâm và phía

đông Châu Âu

Nguy cơ trước các quốc gia mới nổi và đang phát triển

 Tổng nguy cơ rủi ro tín dụng  Tổng nguy cơ tín dụng trước các quốc gia châu Á  Tổng nguy cơ tín dụng trước các quốc gia châu Mỹ Latin

Nguy cơ rủi ro thị trường

Giá trị chịu rủi ro (Value-at-risk – VaR) Lãi suất VaR Vốn chủ sở hữu VaR Tỷ lệ giá trị chịu rủi ro/ vốn tự có cấp 1

(4) Các chỉ số đánh giá rủi ro thị trường

 So sánh chỉ số giá cổ phiếu ngân hàng với chỉ số giá cổ phiếu chung  Trung bình chênh lệch lãi suất giữa trái phiếu ngân hàng và trái

phiếu Chính phủ

 Trung bình chênh lệch lãi suất giữa chứng chỉ tiền gửi liên ngân

hàng và tín phiếu Kho bạc

 Khoảng chênh lệch lãi suất giữa trái phiếu ngân hàng và trái phiếu

Chính phủ

 Số lượng các ngân hàng bị hạ xếp hạng trong kỳ quan sát  Khoảng cách đến đổ vỡ của các ngân hàng châu Âu lớn  Chênh lệch lãi suất hoán đối rủi ro tín dụng (Credit default swap)  Khoảng chênh lệch lãi suất giữa lãi suất liên ngân hàng và lãi suất

chứng chỉ tiền gửi

(5) Các chỉ số đổ vỡ tài chính

Tần suất vỡ nợ dự các cho kiến ngành then chốt

 Tổng nợ/ vốn chủ sở hữu của khu vực doanh nghiệp  Tỷ lệ nợ hộ gia đình/ tài sản tài chính và tài sản thực hộ gia đình  Tỷ lệ tiết kiệm hộ gia đình  Tỷ lệ thanh toán lãi/ thu nhập ròng của doanh nghiệp  Tỷ lệ chi phí trả nợ/ thu nhập khả dụng hộ gia đình  Số món nợ  Số trường hợp phá sản  Hàng hóa cơ bản và xây dựng  Hàng hóa tiêu dùng theo chu kỳ  Hàng hóa tiêu dùng không theo chu kỳ  Hàng hóa vốn  Tài chính  Công nghệ và viễn thông  Năng lượng và tiện ích  Các ngành còn lại

(6) Các chỉ số tăng trưởng giá tài sản

 Chỉ số chứng khoán chung  Chỉ số Euro STOXX  Chỉ số chứng khoán Mỹ  Giá bất động sản thương mại  Giá bất động sản nhà ở

(7) Các chỉ số điều kiện tiền tệ và chu kỳ kinh tế

 Tỷ lệ tăng trưởng GDP thực  Tỷ lệ tăng trường GDP danh nghĩa  Tỷ lệ tăng tưởng tổng đầu tư thực  Tỷ lệ tăng trưởng tiêu dùng cá nhân thực  Tỷ lệ gia tăng thất nghiệp  Tỷ lệ thay đổi M2  Tỷ lệ thay đổi lãi suất thị trường tiền tệ (3 tháng)  Tỷ lệ thay đổi lãi suất thực dài hạn (trái phiếu chính phủ 10 năm)  Tỷ lệ thay đổi tỷ giá  Tỷ lệ thay đổi chỉ số giá tiêu dùng

(8) Các chỉ số thị trường liên ngân hàng

 Đi vay liên ngân hàng/ Tổng nợ  Tài sản của 3 ngân hàng có nguy cơ rủi ro lớn nhất/ tổng tài sản hệ

thống ngân hàng

 Tài sản của 5 ngân hàng có nguy cơ rủi ro lớn nhất/ tổng tài sản hệ

thống ngân hàng

Nguồn: Mörttinen và cộng sự (2005)

Phụ lục 3. Bộ chỉ số an toàn vĩ mô cơ bản của ADB

TT

Chỉ số

Cách tính

Nợ nước ngoài và dòng vốn

1

Tổng nợ/ GDP danh nghĩa

2 3 4 5

Tổng nợ (% GDP) a) Nợ công b) Nợ tư nhân Nợ dài hạn (% tổng nợ) Nợ ngắn hạn (% GDP) Nợ ngắn hạn (% tổng nợ) Đầu tư trực tiếp nước ngoài (% GDP)

6

Đầu tư danh mục (% GDP)

Nợ dài hạn/ Tổng nợ Nợ ngắn hạn/ GDP danh nghĩa Nợ ngắn hạn/ Tổng nợ Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (Dòng vốn)/ GDP danh nghĩa Đầu tư danh mục (Dòng vốn)/ GDP danh nghĩa

Tiền tệ và tín dụng

7

Tăng trưởng M1 (%)

8

Tăng trưởng M2 (%)

9

Hệ số nhân tiền (tỷ lệ)

10 11 12 13

% chênh lệch M1 so với kỳ trước. M1 bao gồm tiền mặt ngoài lưu thông và tiền gửi không kỳ hạn. % chênh lệch M2 so với kỳ trước. M2 bao gồm M1 và tài sản kém lỏng hơn M1. M2/ Tiền cơ sở. Tiền cơ sở bao gồm tiền mặt ngoài lưu thông, dự trữ bắt buộc và dự trữ dư thừa. M2/ Dự trữ ngoại hối M2/ GDP danh nghĩa Tài sản kém lỏng hơn M1/ GDP danh nghĩa

14 15 16

M2 (% dự trữ ngoại hối) M2 (% GDP) Tăng trưởng tỷ lệ M2/ Dự trữ ngoại hối Tài sản kém lỏng hơn M1 [tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, chứng chỉ tiền gửi] (% GDP) Tăng trưởng tiền cơ sở (%) Cho vay NHTW với hệ thống ngân hàng Tăng trưởng tín dụng nội địa (%)

17 18

Tín dụng nội địa (% GDP) Tín dụng cho khu vực công (% GDP)

19

Tín dụng cho khu vực tư nhân (% GDP)

20

Tỷ lệ an toàn vốn (%)

21

Tỷ lệ thanh khoản (%)

% chênh lệch tiền cơ sở so với kỳ trước. % chênh lệch tín dụng nội địa so với kỳ trước. Tín dụng nội địa bao gồm các khoản cho vay Chính phủ, cho vay các cơ quan và doanh nghiệp Nhà nước, tư nhân và cá nhân. Tín dụng nội địa/ GDP danh nghĩa Tín dụng khu vực công/ GDP danh nghĩa Tín dụng khu vực tư nhân/ GDP danh nghĩa Tổng vốn (Vốn cấp 1 + Vốn cấp 2)/ TSCRR quy đổi (ngưỡng 8%). Tài sản thanh khoản của NHTM/ Tổng tài sản

Ngân hàng

22

Vốn ngân hàng (% tổng tài sản)

23 24

Tổng tài sản (% GDP) Tăng trưởng tổng tài sản (%)

Vốn cổ phần/ Tổng tài sản. Vốn cổ phần bao gồm các quỹ, lợi nhuận. Tổng tài sản/ GDP danh nghĩa % tăng trưởng so với kỳ trước.

25

26

27 28 29

30 31 32

33

Tài sản của 3 ngân hàng lớn nhất (% tổng tài sản) Lợi nhuận ròng (% Giá trị tài sản trung bình trong kỳ) Dự phòng rủi ro tín dụng (% Nợ xấu) Nợ xấu (% tổng nợ) Cho vay các khu vực kinh tế chủ chốt (% tổng cho vay) Cho vay BĐS (% tổng cho vay) Tổng cho vay/ Tổng tiền gửi Vay các ngân hàng nước ngoài với các kỳ hạn: a) Vay ngắn hạn b) Vay dài hạn – hơn 1 năm. Vay nước ngoài với kỳ hạn dưới 1 năm (triệu USD)

Lãi suất (lãi suất trung bình trong kỳ)

34

Lãi suất cho vay của NHTW

35

36

37

Tỷ lệ lãi suất cho vay của NHTM/ Lãi suất cơ bản Lãi suất thị trường tiền tệ hoặc Lãi suất liên ngân hàng Lãi suất tiền gửi có kỳ hạn ngắn (3 tháng)

38

Lãi suất tiền gửi có kỳ hạn dài (12 tháng)

39

Lãi suất tiền gửi USD quốc tế/ nội địa

40 41 42

Mức lãi suất NHTW cho vay hoặc chiết khấu giấy tờ có giá. Lãi suất cơ bản là lãi suất cho vay ngắn và trung hạn đối với khu vực tư nhân. Lãi suất cho vay ngắn hạn lẫn nhau giữa các tổ chức tài chính. Lãi suất tiền gửi tiết kiệm tại tổ chức tài chính với kỳ hạn 3 tháng, trong đó, người gửi tiền có thể rút tiền chỉ bằng việc đưa thông báo. Lãi suất tiền gửi tiết kiệm tại tổ chức tài chính với kỳ hạn 12 tháng, trong đó, người gửi tiền có thể rút tiền chỉ bằng việc đưa thông báo. Trung bình không trọng số lãi suất được chào bởi ít nhất 5 nhà giao dịch trong ngày cho chứng chỉ tiền gửi 3 tháng trên thị trường thứ cấp.

43

44

Lãi suất tín phiếu Kho bạc Lãi suất Trái phiếu Chính phủ Thị trường cổ phiếu và trái phiếu Giao dịch của nhà đầu tư ngoại (% tổng khối lượng giao dịch) Giao dịch 10 chứng khoán hàng đầu (% tổng khối lượng giao dịch) Chỉ số giá chứng khoán tổng hợp (thủ đô, bằng đồng nội tệ)

45

Tăng trưởng chỉ số giá chứng khoán tổng hợp (thủ đô)

46

Chỉ số giá chứng khoán (thủ đô, bằng USD)

Chỉ số giá cổ phiếu thành phố thủ đô của quốc gia và được thể hiện bằng đồng nội tệ. % chênh lệch chỉ số giá chứng khoán so với kỳ trước; chỉ số giá tính cuối kỳ và dựa trên đồng nội tệ. Chỉ số giá cổ phiếu thành phố thủ đô của quốc gia và được thể hiện bằng đồng ngoại tệ

47

Giá trị vốn hóa thị trường (% GDP)

48

Tỷ lệ sinh lời giá cổ phiếu

Giá trị vốn hóa thị trường/ GDP danh nghĩa

Thương mại quốc tế và Dự trữ ngoại hối

49

Tăng trưởng xuất khẩu (%)

50

Tăng trưởng nhập khẩu (%)

51

Cán cân thương mại (triệu USD)

52

% chênh lệch xuất khẩu so với kỳ trước (tính theo giá FOB) % chênh lệch nhập khẩu so với kỳ trước (tính theo giá CIF) Chênh lệch giữa xuất khẩu (FOB) và nhập khẩu (CIF)

53 54 55

Thâm hụt (Thặng dư) cán cân vãng lai (triệu USD) Tỷ giá (trung bình trong kỳ) Tỷ giá (cuối kỳ) Tỷ giá thực trung bình

56

Dự trữ ngoại hối (triệu USD)

57

Tăng trưởng dự trữ ngoại hối (%)

58

Nội tệ/ USD Nội tệ/ USD Chỉ số tỷ giá bình quân giữa nội tệ và một rổ các ngoại tệ được lựa chọn, phản ánh sự dịch chuyển giá tương đối trong nước với các quốc gia được lựa chọn. Bao gồm tổng dự trữ - (Vàng + Giá trị vàng quốc gia) % chênh lệch dự trữ ngoại hối so với kỳ trước. Dự trữ ngoại hối/ Tổng nhập khẩu

59 60

61 62

63 64 65 66 67

Dự trữ ngoại hối (% nhập khẩu) Dữ liệu khảo sát doanh nghiệp (Sản xuất, xây dựng, thương mại, dịch vụ) Đánh giá tình hình kinh doanh hiện tại Triển vọng tình hình kinh doanh trong tháng tới/ quý tới Hạn chế kinh doanh (tình trạng hiện tại) Khối lượng hàng hóa cuối cùng (tình trạng hiện tại) Đánh giá sổ đơn hàng Giá bán (xu hướng tương lai) Việc làm (xu hướng tương lai) Tình hình tài chính (tình trạng hiện tại) Tiếp cận tín dụng (tình trạng hiện tại

Nguồn: Bhattacharyay (2003)

Bộ chỉ số an toàn vĩ mô bổ sung của ADB

(được áp dụng tùy vào điều kiện mỗi quốc gia)

TT

Chỉ số

Cách tính

Nợ nước ngoài và dòng vốn

1 2

Nợ ngắn hạn (% dự trữ ngoại hối) Vay mượn IMF (% GDP)

Tín dụng từ IMF/ GDP danh nghĩa

Tiền tệ và tín dụng (dữ liệu có thể lấy từ IFS)

3 4

Tăng trưởng tiền mặt trong lưu thông (%) Tăng trưởng M3

% chênh lệch M3 so với kỳ trước đó. M3 bao gồm M2 và tài sản nợ của các tổ chức tài chính khác.

Ngân hàng

5 6 7 8

9

10

11

Nợ xấu (% tài sản bình quân) Cho vay BĐS thương mại (% tổng cho vay) Cho vay BĐS nhà ở (% tổng cho vay) Vay mượn từ các ngân hàng nước ngoài với kỳ hạn từ 1 – 2 năm (triệu USD) Vay mượn từ các ngân hàng nước ngoài với kỳ hạn > 2 năm (triệu USD) Vay mượn từ các ngân hàng nước ngoài với các kỳ hạn (triệu USD) Hệ số Gini thị phần các ngân hàng dựa trên tài sản

Lãi suất

12

Lãi suất tiền gửi thực (3 tháng – trung bình)

13

Lãi suất cho vay thực (3 tháng – trung bình)

14

Tính trung bình trong kỳ, là chênh lệch giữa lãi suất tiền gửi và lạm phát Tính trung bình trong kỳ, là chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lạm phát

15

Lãi suất cho vay thực – Lãi suất tiền gửi thực (3 tháng) Lãi suất cho vay thực/ Lãi suất tiền gửi thực (3 tháng)

Thị trường cổ phiếu và trái phiếu

16

Hệ số Gini 7thị phần cổ phiếu trong giao dịch

17

Đo lường mức độ tập trung vốn hóa thị trường (mất cân bằng về thị phần giao dịch các cổ phiếu trong ngày)

18

19

20

Giá trị giao dịch cổ phiếu (% Giá trị vốn hóa toàn thị trường) Giá trị giao dịch trái phiếu (% Giá trị vốn hóa toàn thị trường) a) Giá trị giao dịch Trái phiếu Chính phủ b) Giá trị giao dịch Trái phiếu doanh nghiệp Giá trị giao dịch quỹ đầu tư (% Giá trị vốn hóa toàn thị trường) Đầu tư nước ngoài vào cổ phiếu theo lĩnh vực Dữ liệu khảo sát doanh nghiệp (Sản xuất, xây dựng,

7

Hệ số Gini =

a)

N + 1 N − 1

2 N(N − 1)A

( P

Trong đó:

Pi = xếp hạng của công ty trên thị trường chứng khoán từ trên xuống dựa trên tài sản của công ty

hoặc giá trị vốn hóa thị trường

ai = tài sản của công ty thứ i

A = tổng tài sản hoặc giá trị vốn hóa thị trường của tất cả các cổ phiếu

N = tổng số lượng các công ty niêm yết

21 22 23 24

thương mại, dịch vụ) Sản xuất/ Doanh số bán hàng (Xu hướng hiện tại) Sản xuất/ Doanh số bán háng (Xu hướng dự tính) Capacity Utilization (Tình trạng hiện tại) Cầu tín dụng theo khu vực (chỉ áp dụng cho lĩnh vực tài chính)

25

Khảo sát giám sát Tiêu chuẩn cho vay và tín dụng của các tổ chức tài chính

Chủ đề bổ sung từ danh sách các chỉ số IMF

26 27 28

29

30 31 32 33 34

35 36 37

38

39

40

41

42

Số đơn xin được bảo vệ từ chủ nợ Tỷ lệ nợ doanh nghiệp/ Vốn chủ sở hữu Tỷ lệ Lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp/ Vốn chủ sở hữu Tỷ lệ Chi phí trả nợ của doanh nghiệp/ Thu nhập thuần của doanh nghiệp (Gross income) Nguy cơ rủi ro ngoại hối ròng của doanh nghiệp Tỷ lệ nợ của hộ gia đình/ GD Tỷ lệ nợ thế chấp của hộ gia đình/ GDP Nợ hộ gia đình tại các tổ chức nhận tiền gửi Tỷ lệ chi phí trả lãi của hộ gia đình/ thu nhập thuần của hộ gia đình Tốc độ tăng trưởng các tổ chức nhận tiền gửi mới Tỷ lệ các tổ chức bị rút giấy phép hoạt động Chênh lệch giữa lãi suất cho vay tham khảo và lãi suất đi vay tham khảo Chênh lệch giữa lãi suất trái phiếu của tổ chức nhận tiền gửi và lãi suất trái phiếu chính phủ cùng kỳ hạn Chênh lệch giữa lãi suất trái phiếu thứ cấp của tổ chức nhận tiền gửi và lãi suất trái phiếu Chính phủ cùng kỳ hạn. Phân bổ lãi suất liên ngân hàng kỳ hạn 3 tháng (nội tệ) cho các tổ chức nhận tiền gửi khác nhau Lãi suất chào mua-chào bán liên ngân hàng bình quân cho kỳ hạn 3 tháng (nội tệ) Kỳ hạn bình quân các tài sản

Các chỉ số khác

43

Chỉ số giá bất động sản và tốc độ tăng trưởng của chỉ số này

Nguồn: Bahttacharyay (2003)

Phụ lục 4a. Bộ chỉ số cơ sở xác định tỷ lệ đệm vốn phản chu kỳ CCyB

TT

Chỉ số cho CCyB

Cách tính

Độ căng bảng cân đối phi ngân hàng

1

Được tính theo tỷ lệ và chênh lệch. Trong đó, tín dụng được định nghĩa là các khoản cho vay đối với khu vực tư nhân phi tài chính, bao gồm các khoản cho vay đối với hộ gia đình và khu vực phi lợi nhuận ngoại trừ các khoản nợ không hoàn lại.

Tín dụng/ GDP  Tỷ lệ  Chênh lệch (giữa tỷ lệ Tín dụng/GDP hiện tại so với xu hướng dài hạn)

2

Tốc độ tăng trưởng doanh số tín dụng tư nhân phi tài chính năm nay so với năm trước.

3

4

5

Tăng trưởng tín dụng khu vực tư nhân phi tài chính Trạng thái tài sản ngoại tệ ròng/ GDP Nợ nước ngoài/ GDP và nợ ngân hàng/ GDP Cán cân tài khoản vãng lai/ GDP

Điều kiện và kỳ hạn thị trường

6 7

Lãi suất thực dài hạn Chỉ số VIX (Chỉ số sợ hãi hoặc Chỉ số lo ngại của thị trường)

8

Lãi suất thực 5 năm Đo lường kỳ vọng thị trường trong biến động 30 ngày. (dựa trên tỷ lệ % biến động giá quyền chọn chỉ số S&P 500 trong một độ lệch chuẩn).

9

Chênh lệch lãi suất trái phiếu doanh nghiệp toàn cầu Chênh lệch lãi suất trong cho vay khoản mới đối với: - Hộ gia đình - Doanh nghiệp

- Chênh lệch lãi suất cho vay hộ gia đình được tính bằng bình quân chênh lệch lãi suất cho vay có đảm bảo và không đảm bảo, với tỷ trọng được tính dựa trên khối lượng cho vay mới. Đối với các khoản vay có đảm bảo, chênh lệch lãi suất được tính theo phương pháp bình quân gia quyền, bằng chênh lệch lãi suất cho vay có đảm bảo với lãi suất phi rủi ro (khoản cho vay với LTV bằng 90%, lãi suất cố định 2 năm đầu và khoản cho vay với LTV bằng 75%, lãi suất thả nổi), với các khoản tín dụng lãi suất cố định 2 và 5 năm. Chênh lệch ở đây là so với lãi suất trái phiếu kho bạc cùng kỳ hạn với sản phẩm lãi suất cố định. Với sản phẩm lãi suất thả nổi, chênh lệch là so với lãi suất cơ bản của NHTW. Đối với các khoản vay không đảm bảo, chênh lệch lãi suất được tính bằng bình quân gia quyền chênh lệch lãi suất của thẻ tín dụng, thấu chi và cho vay cá nhân. Chênh lệch này cũng được so với lãi suất cơ bản của NHTW. - Chênh lệch lãi suất cho vay đối với doanh nghiệp được tính bằng bình quần gia quyền giữa chênh lệch giữa lãi suất cho vay SME với lãi suất cơ bản; chênh lệch lãi suất cho vay trung bình cao cấp bất động sản thương mại với lãi suất cơ bản; chênh lệch lãi suất trái phiếu doanh nghiệp hạng đầu tư với lãi suất trái phiếu chính phủ cùng

kỳ hạn. Tỷ trọng được tính dựa trên dư nợ cho vay.

Độ căng bảng cân đối ngân hàng8

10

- Tổng vốn tự có cấp 1 của các ngân hàng lớn/ TSCRR quy đổi tổng hợp. - Tổng vốn cổ phần của các ngân hàng lớn/ TSCRR quy đổi tổng hợp.

11

Tỷ lệ an toàn vốn - Tỷ lệ an toàn vốn cấp 1 theo Basel II - Tỷ lệ an toàn vốn cổ phần theo Basel III Tỷ lệ đòn bẩy - Đơn giản - Theo Basel III9

12

Rủi ro bình quân

13

- Tỷ lệ đòn bảy đơn giản được tính bằng tổng vốn cổ phần của nhóm ngân hàng lớn/ tổng tài sản của nhóm ngân hàng. - Tỷ lệ đòn bảy theo Basel III có cách tính tương tự, nhưng chỉ áp dụng với nhóm các ngân hàng lớn theo Basel III. Tổng TSCRR quy đổi của nhóm ngân hàng lớn/ Tổng tài sản trên bảng cân đối.

14

Lợi nhuận trước thuế/ Tổng tài sản Tỷ lệ cho vay/ tiền gửi

15

16

Tỷ lệ vốn ngắn hạn để tài trợ dài hạn. Chỉ số nguy cơ nước ngoài

17

Chênh lệch CDS

18

Đo lường vốn chủ sở hữu ngân hàng - Tỷ lệ giá/ giá ghi sổ - Tỷ lệ đòn bảy dựa trên thị trường

Tổng cho vay và ứng trước cho khách hàng/ Tổng tiền gửi của khách hàng của nhóm ngân hàng lớn. Trong đó khách hàng là tất cả các chủ thể phi ngân hàng và người gửi tiền. Tổng vốn ngắn hạn dưới 3 tháng (bao gồm cả vốn tự có)/ Tài trợ bán buôn (dài hạn) Các quốc gia mà các ngân hàng ở Anh có mức độ tiếp cận khu vực phi ngân hàng lớn và tăng trưởng nhanh chóng. Trung bình chênh lệch CDS của các ngân hàng lớn, tỷ trọng theo tổng tài sản. - Được tính bằng bình quân gia quyền, thị giá/ giá ghi sổ của nhóm các ngân hàng lớn, tỷ trọng dựa trên tổng tài sản cuối năm. - Được tính bằng giá trị vốn hóa thị trường của nhóm/ tổng tài sản của nhóm.

8 Chỉ tính đối với các ngân hàng lớn đến thời điểm hiện tại, bao gồm: Bank of Ireland, Barclays, Co- operative Banking Group, HSBC, Lloyds TSB/Lloyds Banking Group, National Australia Bank, Nationwide, Royal Bank of Scotland, Santander, Virgin Money. 9 Các ngân hàng theo Basel III bao gồm: Barclays, Co-operative Banking Group, HSBC, Lloyds Banking Group, Nationwide, RBS và Santander UK.

Nguồn: Bank of England

Phụ lục 4b. Các chỉ số Đệm vốn theo lĩnh vực

TT

Các chỉ số

Cách tính

Độ căng bảng cân đối ngân hàng

1

2

3

Tỷ lệ an toàn vốn - Tỷ lệ an toàn vốn cấp 1 theo Basel II - Tỷ lệ an toàn vốn cổ phần theo Basel III Tỷ lệ đòn bảy: - Đơn giản - Theo Basel III Rủi ro thế chấp bình quân của Anh10

4

5

Sự kết nối bên trong bảng cân đối - Tăng trưởng cho vay tài chính nội bộ - Tăng trưởng vay mượn tài chính nội bộ - Tăng trưởng chứng khoán phái sinh Chỉ số nguy cơ nước ngoài

Là mức rủi ro bình quân cho casr vay thế chấp nhà ở, được tính bằng tổng TSCRR quy đổi/ Tổng giá trị nguy cơ rủi ro cho tất cả ngân hàng trong nhóm. - Thể hiện tốc độ tăng trưởng cho vay với các ngân hàng và tổ chức tài chính khác theo năm. - Thể hiện tốc độ tăng trưởng vay mượn bán buôn, bao gồm nhận tiền gửi từ các ngân hàng và phát hành trái phiếu theo năm. - Thể hiện tốc độ tăng trưởng giá trị ước tính của các chứng khoán phái sinh theo năm. Các ngân hàng được tính đến ở đây bao gồm: Barclays, HSBC và RBS. Các quốc gia mà các ngân hàng ở Anh có mức độ tiếp cận khu vực phi ngân hàng lớn và tăng trưởng nhanh chóng. Cụ thể, chỉ số này liệt kê danh sách các quốc gia mà các ngân hàng của Anh có nguy cơ gặp rủi ro khi thực hiện giao dịch tài chính với khu vực tư nhân với giá trị lớn hơn 10% vốn cổ phần của ngân hàng.

Độ căng bảng cân đối phi ngân hàng

6

Tăng trưởng tín dụng - Hộ gia đình - Bất động sản thương mại

7

Tỷ lệ nợ hộ gia đình/ thu nhập

8

- Tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay đối với hộ gia đình theo năm. - Tốc độ tăng trưởng cho vay bất động sản thương mại theo năm - Được tính bằng tỷ lệ phần trăm tổng nợ/ tổng thu nhập khả dụng của các hộ gia đình và tổ chức phi lợi nhuận.

9

Tỷ lệ nợ của doanh nghiệp/ lợi nhuận Tỷ lệ nợ của tổ chức tài chính phi ngân hàng/ GDP (loại trừ công ty bảo hiểm và quỹ hưu trí)

Điều kiện và kỳ hạn thị trường

10

Định giá bất động sản

- Tỷ lệ này được tính trung bình theo mùa có điều

10 Chỉ tính đến các ngân hàng bao gồm: Bank of Scotland, Barclays Bank, HSBC Bank, Lloyds Bank, National Westminster Bank, Nationwide, Santander UK, Co-operative Bank, Royal Bank of Scotland, Ulster Bank và loại trừ Nationwide từ năm 2008.

11

- Tỷ lệ giá BĐS nhà ở/ Giá thuê - Lợi tức thị trường BĐS thương mại chuẩn - Lợi tức thị trường BĐS thương mại thứ cấp Kỳ hạn cho vay BĐS - Tỷ lệ cho vay trên TSĐB là nhà ở (LTV) - Tỷ lệ cho vay trên thu nhập đối với khoản vay thế chấp nhà ở (LTI) - Tỷ lệ cho vay trên TSĐB là BĐS thương mại

12

Chênh lệch lãi suất khoản cho vay mới - Thế chấp nhà ở - BĐS thương mại

chỉnh của Halifax và chỉ số giá nhà Nationwide và chỉ số giá thuê nhà RPI. - Lợi tức chuẩn (thứ cấp) là tỷ lệ giữa các giá trị trung bình, trên phân vị lợi tức thấp nhất (cao nhất) của bất động sản thương mại, dựa trên công cụ đo lường thu nhập từ cho thuê và giá trị vốn của công ty MSCI. - Tỷ lệ cho vay/ TSĐB trung bình đối với các khoản cho vay với người mua hoặc đi thuê nhà lần đầu, loại trừ những khoản cho vay thế chấp trọn đời và các khoản cho vay ứng trước có LTV trên 130%. - Tỷ lệ cho vay/ Thu nhập trung bình đối với các khoản cho vay với người mua hoặc đi thuê lần đầu, loại trừ những khoản cho vay thế chấp trọn đời và các khoản cho vay ứng trước có LTI lớn hơn 10 lần. - Trung bình tỷ lệ cho vay tối đa/ giá trị TSĐB là BĐS thương mại của các tổ chức cho vay BĐS thương mại lớn. - Chênh lệch lãi suất cho vay thế chấp nhà ở được tính bằng bình quân gia quyền chênh lệch các mức lãi suất cho vay thế chấp với lãi suất phi rủi ro (khoản cho vay với LTV bằng 90%, lãi suất cố định 2 năm đầu và khoản cho vay với LTV bằng 75%, lãi suất thả nổi), với các khoản tín dụng lãi suất cố định 2 và 5 năm. Đối với các khoản cho vay lãi suất cố định, chênh lệch lãi suất được tính trên lãi suất trái phiếu Chính phủ cùng kỳ hạn. Đối với các khoản cho vay lãi suất thả nổi, chênh lệch lãi suất được tính trên lãi suất cơ bản của NHTW. Tỷ trọng được tính dựa trên khối lượng cho vay mới. - Chênh lệch lãi suất cho vay BĐS thương mại là trung bình chênh lệch lãi suất cho vay cao cấp (senior loan) của các tổ chức cho vay BĐS lớn so với lãi suất cơ bản của NHTW (Bank Rate).

Nguồn: Bank of England

Phụ lục 4c. Các chỉ số công cụ nhà ở

TT

Các chỉ số

Cách tính

Độ căng bảng cân đối của tổ chức cho vay và hộ gia đình

1

Tỷ lệ cho vay trên thu nhập (LTI) và cho vay trên TSĐB (LTV) cho khoản vay thế chấp nhà ở mới - Tỷ lệ LTV cho khoản vay mua nhà (owner-occupier để mortgage) - Tỷ lệ LTI cho khoản vay mua nhà để ở - Tỷ lệ LTV cho khoản vay mua BĐS để cho thuê (buy-to-let mortgage)

- Được tính bằng giá trị trung bình LTV/ giá trị trung vị LTV cho các khoản vay ứng trước đối với người lần đầu mua nhà hoặc chuyển nhà, không tính những khoản cho vay thế chấp trọn đời và các khoản cho vay ứng trước có tỷ lệ LTV lớn hơn 130%. - Được tính bằng giá trị trung bình LTI/ giá trị trung vị LTI cho các khoản vay ứng trước đối với người lần đầu mua nhà hoặc chuyển nhà, không tính những khoản cho vay thế chấp trọn đời và các khoản cho vay ứng trước có tỷ lệ LTI lớn hơn 10 lần. - Được tính bằng tỷ lệ trung bình dự kiến của LTV đối với các khoản cho vay ứng trước không theo quy định, trong đó phần vay mua BĐS để cho thuê chiếm 88% giá trị.

2

Tốc độ tăng trưởng tín dụng hộ gia đình

Doanh số cho vay hộ gia đình/ Tổng doanh số cho vay.

3

Tỷ lệ nợ hộ gia đình/ Thu nhập - Đối với vay thế chấp - Đối với vay mua nhà để ở

- Dư nợ hộ gia đình/ Tổng thu nhập khả dụng của hộ gia đình. - Dư nợ cho vay mua nhà thế chấp để ở/ Tổng thu nhập khả dụng của hộ gia đình.

Điều kiện và kỳ hạn thị trường

4

Phê duyệt các khoản vay có đảm bảo bằng nhà ở

Số lượng các khoản cho vay mua nhà của cá nhân được duyệt bởi các tổ chức cho vay (tổ chức nhận tiền gửi và các tổ chức cho vay khác).

5

Số lượng nhà mua/ bán trong tháng hiện tại. Số lượng các khoản cho vay ứng trước mới cho người mua để chuyển nhà trong tháng hiện tại. Số lượng các khoản cho vay ứng trước mới cho người mua nhà lần đầu trong tháng hiện tại. Số lượng các khoản cho vay ứng trước mới cho người mua nhà để cho thuê trong tháng hiện tại.

Giao dịch nhà ở Cho vay ứng trước cho người mua để chuyển nhà % lãi Cho vay ứng trước cho người mua lần đầu % lãi Ứng trước cho người mua nhà để cho thuê

6

Tốc độ tăng giá nhà

Giá nhà được tính bằng giá trị trung bình giá nhà ở Anh được báo cáo trong chỉ số giá nhà ở của Halifax và Nationwide. Tốc độ tăng giá nhà là tỷ lệ % thay

đổi của 3 tháng này so với 3 tháng trước đó.

7

Tỷ lệ giá nhà/ thu nhập khả dụng hộ gia đình

Giá nhà/ Thu nhập khả dụng bình quân hộ của hộ gia đình và khu vực phi lợi nhuận.

8

Lãi suất cho thuê nhà

Sử dụng dữ liệu của Hiệp hội Đại lý nhà ở (Association of Residential Letting Agents-ARLA).

9

Chênh lệch lãi cho khoản vay thế chấp nhà ở mới - Tất cả các khoản thế chấp nhà ở (residential mortgage) - Khoảng cách giữa chênh lệch lãi cao nhất và thấp nhất của LTV đối với khoản cho vay thế chấp nhà ở - Khoản vay thế chấp BĐS mua để cho thuê

- Chênh lệch lãi suất cho các khoản cho vay thế chấp nhà ở là bình quân gia quyền chênh lệch các mức lãi suất cho vay thế chấp với lãi suất phi rủi ro, (khoản cho vay với LTV bằng 90%, lãi suất cố định 2 năm đầu và khoản cho vay với LTV bằng 75%, lãi suất thả nổi), với các khoản tín dụng lãi suất cố định 2 và 5 năm. Đối với các khoản cho vay lãi suất cố định, chênh lệch lãi suất được tính trên lãi suất trái phiếu Chính phủ cùng kỳ hạn. Đối với các khoản cho vay lãi suất thả nổi, chênh lệch lãi suất được tính trên lãi suất cơ bản của NHTW. Tỷ trọng được tính dựa trên khối lượng cho vay mới. Khoảng cách giữa chênh lệch lãi suất của khoản cho vay thế chấp có LTV cao và thấp bằng lãi suất cho khoản cho vay với LTV là 90%, lãi suất cố định 2 năm đầu – lãi suất cho khoản cho vay với LTV bằng 75%, lãi suất cố định 2 năm đầu.

Nguồn: Bank of England

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ

CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

A. Bài báo khoa học

1. Vũ Hải Yến, Nguyễn Thanh Nhàn, Nguyễn Thị Thu Trang, Phạm Thị Lâm

Anh, 2019, The threshold effects of Government’s external debt on economics in

emerging countries, Beyond Traditional Probabilistic Method in Economics,

Studies in Computational Intelligence, Vol 809, pp. 440-451, Springer 2019

(SCOPUS Q4)

2. Vũ Hải Yến, 2018, Kinh nghiệm đo lường ổn định tài chính tại các quốc gia

mới nổi và bài học cho Việt Nam, Tạp chí Khoa học và đào tạo ngân hàng, số 197,

trang 59-73.

3. Nguyễn Thị Thu Trang, Vũ Hải Yến, 2018, Đo lường rủi ro lãi suất trên sổ

ngân hàng – Yêu cầu của Basel và khuyến nghị cho Việt Nam, Tạp chí Ngân hàng

số 14, trang 15-22.

4. Vũ Hải Yến, 2018, Đo lường ổn định tài chính các quốc gia - Kinh nghiệm

quốc tế và bài học cho Việt Nam, Tạp chí Ngân hàng số 13, trang 49-56.

5. Vũ Hải Yến, Nguyễn Thanh Nhàn, Nguyễn Thị Thu Trang, Phạm Thị Lâm

Anh, 2018, Xác định ngưỡng nợ nước ngoài của chính phủ Việt Nam và một số

khuyến nghị chính sách, Tạp chí Kinh tế đối ngoại, số 109, trang 97-112.

6. Vũ Thị Kim Oanh, Vũ Hải Yến, Nguyễn Thị Thu Trang, Bùi Huy Trung, 2018,

A Framework for Macro Stress-Testing the Credit Risk of Commercial Banks: The

Case of Vietnam, Asian Social Science, Vol.14, No.2, pp.1-11.

7. Vũ Hải Yến, Trần Thanh Ngân, 2016, Đánh giá hiệu quả chính sách an toàn vĩ

mô tại Việt Nam, Tạp chí Ngân hàng, số 20, trang 2-10.

8. Vũ Thị Kim Oanh, Vũ Hải Yến, Nguyễn Thị Thu Trang, Bùi Huy Trung, 2016,

Xây dựng mô hình thử sức chịu đựng rủi ro tín dụng từ lý thuyết đến thực tiễn tại

Việt Nam, Tạp chí Ngân hàng, số 19, trang 23-30.

9. Nguyễn Thanh Nhàn, Vũ Hải Yến, Vũ Ngọc Hương, 2016, Impact of Monetary

policy on Asset markets: The case of Vietnam, Review of Business and Economics

Studies, Vol 4, No 3, pp. 39-52, Financial University, Moscow.

10. Vũ Hải Yến, 2015, Áp dụng nguyên tắc Taylor tại Nhật Bản và bài học kinh

nghiệm cho Việt Nam, Tạp chí Ngân hàng, số 19, trang 48-56.

11. Nguyễn Thanh Nhàn, Vũ Hải Yến, Vũ Ngọc Hương, 2014, Lựa chọn lãi suất

mục tiêu trong điều hành chính sách tiền tệ - Cơ sở lý thuyết và kinh nghiệm các

nước, Tạp chí Khoa học và đào tạo Ngân hàng, số 150, trang 69-76.

B. Đề tài nghiên cứu khoa học

1. Nguyễn Quỳnh Thơ, 2019, Xây dựng chỉ số ổn định tài chính tổng hợp cho Việt

Nam: Kinh nghiệm từ các quốc gia đang phát triển, đề tài nghiên cứu khoa học

cấp cơ sở, thư ký.

2. Nguyễn Thị Thu Trang, 2019, Quản trị rủi ro lãi suất trên sổ ngân hàng theo

chuẩn mực quốc tế tại các NHTM Việt Nam, đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở,

thành viên.

3. Vũ Hải Yến, 2017, Xác định ngưỡng nợ bền vững cho các quốc gia mới nổi –

Kinh nghiệm thế giới và gợi ý cho Việt Nam, đề tài nghiên cứu khoa học đạt giải

Nhất cấp Bộ năm 2018, chủ nhiệm.

4. Vũ Thị Kim Oanh, Vũ Hải Yến, 2016, Xây dựng mô hình thử sức chịu đựng rủi

ro tín dụng của hệ thống ngân hàng dưới sự biến động của các yếu tố vĩ mô, đề tài

nghiên cứu khoa học đạt giải Nhì cấp Bộ năm 2018, đồng chủ nhiệm.

5. Nguyễn Thanh Nhàn, 2015, Áp dụng nguyên tắc Taylor trong việc xác định lãi

suất mục tiêu trong điều hành chính sách tiền tệ của Việt Nam, đề tài nghiên cứu

khoa học cấp Ngành, thành viên.

6. Đỗ Thị Kim Hảo, 2010, Thực tế xây dựng và vận hành hệ thống giám sát tài

chính – Kinh nghiệm các nước và bài học cho Việt Nam, đề tài nghiên cứu khoa

học cấp Ngành (nhánh cấp Nhà nước), thành viên.

7. Hà Thị Sáu, 2009, Giải pháp phát triển thị trường tiền tệ Việt Nam, đề tài

nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, thành viên.