i

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH HÀ KIÊN TÂN MỐI QUAN HỆ GIỮA NHẬN THỨC, TƯ DUY, GẮN KẾT VÀ Ý ĐỊNH HÀNH ĐỘNG KHỞI NGHIỆP CỦA SINH VIÊN

Chuyên ngành: Quản trị kinh doanh Mã số: 9340101

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. NGUYỄN QUANG THU

2. TS. TRẦN THẾ HOÀNG

TP.HCM – THÁNG 04 NĂM 2019

ii

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc --------------

LỜI CAM ĐOAN

Tôi là Hà Kiên Tân, xin cam đoan nội dung luận án tiến sĩ chuyên ngành Quản

trị kinh doanh: “Mối quan hệ giữa nhận thức, tư duy, gắn kết và ý định hành động

khởi nghiệp của sinh viên” là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các nội dung

trình bày trong luận án là đúng sự thật và chưa bao giờ công bố trên bất kỳ công trình

nghiên cứu nào khác.

Tất cả những nội dung trích dẫn, tham khảo và kế thừa đều được dẫn nguồn

một cách rõ ràng, trung thực, đầy đủ trong danh sách các tài liệu tham khảo.

Nghiên cứu sinh

HÀ KIÊN TÂN

iii

LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã nhận được rất nhiều sự động viên, hỗ

trợ giúp đỡ, góp ý rất chân thành và khoa học từ quý Thầy/Cô tại trường ĐH Kinh tế

TP.HCM. Tác giả cũng đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ từ các bạn nghiên cứu sinh,

sinh viên các trường ĐH các tỉnh Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu,

TP.HCM và các chuyên gia đã đồng ý tham gia thảo luận nhóm trong nghiên cứu

định tính và hồi đáp phiếu khảo sát trong quá trình nghiên cứu định lượng sơ bộ cũng

như chính thức. Tác giả vô cùng biết ơn khi nhận được các định hướng nghiên cứu,

sự theo dõi, động viên và hướng dẫn tận tình từ Cô PGS. TS. Nguyễn Quang Thu

và Thầy TS. Trần Thế Hoàng trong mọi trao đổi, góp ý về vấn đề nghiên cứu,

phương pháp nghiên cứu, bài báo khoa học và các vấn đề học thuật khác.

Với tất cả sự kính trọng, tác giả kính gửi quý Thầy/Cô, bạn bè, đồng nghiệp

và gia đình lòng biết ơn sâu sắc.

Trân trọng cảm ơn!

TP.HCM, ngày... .tháng… .năm

iv

MỤC LỤC

ii iii iv vii viii xi xii 1 1 5 11 12 13 14 15 17 17 17 20 24 26 27 29 30

30

33 34

36

39

40 41

LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................... LỜI CẢM ƠN ......................................................................................................... MỤC LỤC .............................................................................................................. DANH MỤC KÝ HIỆU, CÁC TỪ VIẾT TẮT ..................................................... DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU........................................................................... DANH MỤC HÌNH VẼ, SƠ ĐỒ ........................................................................... TÓM TẮT............................................................................................................... CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ..................................................... 1.1. Bối cảnh nghiên cứu ........................................................................................ 1.2. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 1.3. Mục tiêu nghiên cứu ........................................................................................ 1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 1.5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 1.6. Ý nghĩa và đóng góp mới của luận án ............................................................. 1.7. Kết cấu luận án ................................................................................................ CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU .............. 2.1. Các khái niệm nghiên cứu ............................................................................... 2.1.1. Khởi nghiệp (Entrepreneurship) ................................................................... 2.1.2. Ý định khởi nghiệp và ý định hành động khởi nghiệp ................................. 2.1.3. Tư duy khởi nghiệp ...................................................................................... 2.1.4. Gắn kết với khởi nghiệp ............................................................................... 2.1.5. Nhận thức khởi nghiệp ................................................................................. 2.1.6. Khoảng cách tâm lý ...................................................................................... 2.2. Các lý thuyết nền tảng 2.2.1. Lý thuyết tư duy các giai đoạn hành động - Mindset theory of action phases (Gollwitzer & Keller, 2012, 2016) ......................................................................... 2.2.2. Mô hình tư duy khởi nghiệp - Entrepreneurial mindset model (Mathisen & Arnulf, 2013) .......................................................................................................... 2.2.3. Lý thuyết gắn kết – Commitment theory (Meyer & Allen, 1991) ............... 2.2.4. Lý thuyết cấp độ cấu trúc nhận thức – Contructual level theory (Trope & Liberman, 2003, 2010) ........................................................................................... 2.2.5. Lý thuyết thiết lập mục tiêu – Goal setting theory of motivation (Locke & Latham, 1990) ......................................................................................................... 2.2.6. Mô hình về sự kiện khởi nghiệp cải tiến– Entrepreneurial Event model (Krueger & cộng sự, 2000) ..................................................................................... 2.2.7. Một số lý thuyết về ý định khởi nghiệp ........................................................ 2.3.Một số hướng nghiên cứu có liên quan đến ý định khởi nghiệp và ý định hành động khởi nghiệp .................................................................................................... 2.3.1. Ý định khởi nghiệp ....................................................................................... 46 46

v

54 56 56 66 67 68 68 69 69 74 82 82 83 88 93 94 94 96 96 99 101 106 107 122

2.3.2. Ý định hành động khởi nghiệp ..................................................................... 2.4. Giả thuyết nghiên cứu và mô hình nghiên cứu đề xuất ................................... 2.4.1. Các giả thuyết nghiên cứu ............................................................................ 2.4.2. Mô hình nghiên cứu đề xuất ......................................................................... TÓM TẮT CHƯƠNG 2 ......................................................................................... CHƯƠNG 3: THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU .......................................................... 3.1. Quy trình nghiên cứu ....................................................................................... 3.2. Thiết kế nghiên cứu định tính .......................................................................... 3.2.1. Đo lường các khái niệm trong mô hình nghiên cứu từ thang đo gốc ........... 3.2.2. Kết quả nghiên cứu sơ bộ định tính và điều chỉnh thang đo ........................ 3.3. Thiết kế nghiên cứu định lượng sơ bộ ............................................................. 3.3.1. Mô tả mẫu khảo sát ....................................................................................... 3.3.2. Đánh giá độ tin cậy của thang đo ................................................................. 3.4. Thiết kế nghiên cứu định lượng ....................................................................... TÓM TẮT CHƯƠNG 3 ......................................................................................... CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ........................................................... 4.1. Mô tả đặc điểm mẫu khảo sát .......................................................................... 4.2. Kết quả kiểm định thang đo chính thức........................................................... 4.2.1. Kiểm định độ tin cậy của các thang đo ........................................................ 4.2.2. Kết quả phân tích nhân tố khám phá EFA .................................................... 4.2.3. Đánh giá mô hình đo lường .......................................................................... 4.2.4. Đánh giá mô hình cấu trúc............................................................................ 4.2.5. Kiểm định giả thuyết .................................................................................... 4.2.6. So sánh kết quả nghiên cứu với các nghiên cứu khác ................................. 4.2.7. Phân tích biểu đồ quan hệ giữa mức độ quan trọng và hiệu suất của các yếu tố 125 tác động đến ý định hành động khởi nghiệp ........................................................... 127 TÓM TẮT CHƯƠNG 4 ......................................................................................... 129 CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý CỦA NGHIÊN CỨU ........................ 129 5.1. Thảo luận kết quả nghiên cứu và các đóng góp của nghiên cứu ..................... 129 5.1.1. Thảo luận kết quả nghiên cứu ...................................................................... 5.1.2. Đóng góp của nghiên cứu ............................................................................. 131 5.2. Hàm ý chính sách nhằm nâng cao ý định hành động khởi nghiệp của sinh viên 134 134 5.2.1. Hàm ý chính sách về nhận thức mong muốn khởi nghiệp ........................... 136 5.2.2. Hàm ý chính sách về gắn kết với khởi nghiệp ............................................. 138 5.2.3. Hàm ý chính sách về nhận thức khả năng khởi nghiệp ................................ 140 5.2.4. Hàm ý chính sách đối với tư duy khởi nghiệp ............................................. 142 5.2.5. Hàm ý đối với yếu tố thời gian ..................................................................... 143 5.3. Hạn chế và hướng nghiên cứu tiếp theo .......................................................... 143 5.3.1. Một số hạn chế .............................................................................................. 144 5.3.2. Hướng nghiên cứu tiếp theo ......................................................................... 146 TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................... 1 PHỤ LỤC 1: THANG ĐO GỐC KHÁI NIỆM NGHIÊN CỨU ........................... 3 PHỤ LỤC 2: MỘT SỐ NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN TỔNG HỢP TỪ NGHIÊN

vi

16

17 22 23 24 26

28

30 31 33 37 40

45

46

8 9

CỨU TỔNG QUAN VỀ Ý ĐỊNH KHỞI NGHIỆP CỦA (ADAM & FAYOLLE, 2015) ....................................................................................................................... PHỤ LỤC 3: HƯỚNG DẪN NỘI DUNG THẢO LUẬN NHÓM CHUYÊN GIA PHỤ LỤC 4: KẾT QUẢ PHỎNG VẤN NHÓM CHUYÊN GIA ......................... PHỤ LỤC 5: DANH SÁCH NHÓM CHUYÊN GIA THAM GIA THẢO LUẬN NHÓM TẬP TRUNG ............................................................................................. PHỤ LỤC 6: NỘI DUNG THẢO LUẬN NHÓM TẬP TRUNG VỚI SINH VIÊN ĐÃ KHỞI NGHIỆP ................................................................................................ PHỤ LỤC 7: TÓM TẮT KẾT QUẢ THẢO LUẬN NHÓM ĐỐI VỚI SINH VIÊN ĐÃ KHỞI NGHIỆP VỀ Ý ĐỊNH KHỞI NGHIỆP ................................................ PHỤ LỤC 8: DANH SÁCH SINH VIÊN THAM GIA THẢO LUẬN NHÓM ... PHỤ LỤC 9: BẢNG PHỎNG VẤN ĐỊNH LƯỢNG SƠ BỘ ............................... PHỤ LỤC 10: BẢNG PHỎNG VẤN ĐỊNH LƯỢNG CHÍNH THỨC ................ PHỤ LỤC 11: KẾT QUẢ PHÂN TÍCH CRONBACH’S ALPHA SƠ BỘ VỚI KÍCH THƯỚC MẪU 117 QUAN SÁT ............................................................................ PHỤ LỤC 12: KẾT QUẢ PHÂN TÍCH EFA SƠ BỘ VỚI KÍCH THƯỚC MẪU 117 QUAN SÁT ............................................................................................................ PHỤ LỤC 13: KẾT QUẢ PHÂN TÍCH CRONBACH’S ALPHA CHÍNH THỨC PHỤ LỤC 14: KẾT QUẢ PHÂN TÍCH EFA CHÍNH THỨC .............................. PHỤ LỤC 15: KẾT QUẢ PHÂN TÍCH MÔ HÌNH ĐO LƯỜNG LẦN 1 ........... PHỤ LỤC 16: KẾT QUẢ PHÂN TÍCH MÔ HÌNH CẤU TRÚC ......................... PHỤ LỤC 17: KẾT QUẢ PHÂN TÍCH ĐÃ NHÓM BẰNG PHƯƠNG PHÁP MICOM .................................................................................................................. PHỤ LỤC 18: KẾT QUẢ PHÂN TÍCH ĐA NHÓM BẰNG PHƯƠNG PHÁP MGA- PLS .........................................................................................................................

vii

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC TỪ VIẾT TẮT

DIỄN GIẢI Phương sai trích trung bình (Average Variance Extracted) Phương pháp lấy mẫu lại có thay thế trong đó mẫu ban đầu Contructual level theory (lý thuyết cấp độ cấu trúc nhận thức)

TỪ VIẾT TẮT AVE Bootstrapping CLT Cronbach’s alpha Độ tin cậy DN DNNVV ĐH EEM EFA GEM

HTMT

MAP

Doanh nghiệp Doanh nghiệp nhỏ và vừa Đại học Mô hình sự kiện khởi nghiệp (Entrepreneurial Event model) Phân tích nhân tố khám phá (Exploratory Factor Analysis) Chỉ số khởi nghiệp toàn cầu (Global Entrepreneurship Monitor) Hệ số tương quan Heterotrait-monotrait (Heterotrait-monotrait ratio of correlations) Lý thuyết tư duy các pha hành động (Mindset theory of action phases) Bình phương tối thiểu (Partial least squares) Mô hình cấu trúc tuyến tính (Structural Equation Modeling) Lý thuyết dự đinh hành vi (Theory of planned behavior) Hệ số phóng đại phương sai (Variance inflation factor) PLS SEM TPB VIF

viii

DANH MỤC BẢNG BIỂU

STT TÊN BẢNG

1 2 3

TRANG 2 25 44 47 4

Bảng 1.1: Chỉ số khởi nghiệp tại VN năm 2015 Bảng 2.1: Tổng hợp định nghĩa về khái niệm ý định khởi nghiệp Bảng 2.2: Định nghĩa về tư duy khởi nghiệp Bảng 2.3: Lược khảo tóm tắt một số công trình nghiên cứu liên quan. Bảng 2.4: Tổng hợp các giả thuyết nghiên cứu Bảng 3.1: Thang đo ý định hành động khởi nghiệp Bảng 3.2: Thang đo tư duy khởi nghiệp Bảng 3.3: Thang đo gắn kết với khởi nghiệp Bảng 3.4: Thang đo nhận thức mong muốn khởi nghiệp

5 6 7 8 9 10 Bảng 3.5: Thang đo nhận thức khả năng khởi nghiệp 11 Bảng 3.6: Thang đo khoảng cách thời gian

66 71 71 72 73 73 74 77 12 Bảng 3.7: Thang đo ý định hành động khởi nghiệp sau nghiên cứu định tính

78 79 14

80 15

81 16 13 Bảng 3.8: Thang đo tư duy khởi nghiệp sau nghiên cứu định tính Bảng 3.9: Thang đo gắn kết với khởi nghiệp sau nghiên cứu định tính Bảng 3.10: Thang đo nhận thức mong muốn khởi nghiệp sau nghiên cứu định tính Bảng 3.11: Thang đo nhận thức khả năng khởi nghiệp sau nghiên cứu định tính

17 Bảng 3.12: Thang đo khoảng cách thời gian

82 84 18 Bảng 3.13: Đánh giá độ tin cậy thang đo ý định hành động khởi nghiệp

84 85 85 21

86 22 19 Bảng 3.14: Đánh giá độ tin cậy thang đo tư duy khởi nghiệp 20 Bảng 3.15: Đánh giá độ tin cậy thang đo gắn kết với khởi nghiệp Bảng 3.16: Đánh giá độ tin cậy thang đo nhận thức mong muốn khởi nghiệp Bảng 3.17: Đánh giá độ tin cậy thang đo nhận thức khả năng khởi nghiệp

23 Bảng 3.18: Kết quả phân tích nhân tố EFA sơ bộ 24 Bảng 4.1: Cơ cấu mẫu theo giới tính 25 Bảng 4.2: Cơ cấu mẫu theo trường ĐH 26 Bảng 4.3: Cơ cấu mẫu theo địa phương

87 94 95 95 96 27 Bảng 4.4: Kết quả phân tích Cronbach’s alpha ý định hành động khởi nghiệp

28 Bảng 4.5: Kết quả phân tích Cronbach’s alpha tư duy khởi nghiệp 97

ix

97 29

98 30

99 31 Bảng 4.6: Kết quả phân tích Cronbach’s alpha gắn kết với khởi nghiệp Bảng 4.7: Kết quả phân tích Cronbach’s alpha nhận thức mong muốn khởi nghiệp (lần cuối) Bảng 4.8: Kết quả Cronbach’s alpha nhận thức khả năng khởi nghiệp (lần cuối)

100 100 102 102 103 36

104 37

104 38

105 39 32 Bảng 4.9: Kết quả hệ số KMO (lần cuối) 33 Bảng 4.10: Kết quả phân tích nhân tố EFA (lần cuối) 34 Bảng 4.11: Kết quả độ tin cậy và giá trị hội tụ của thang đo 35 Bảng 4.12: Kết quả phân tích hệ số nhân tố tải chéo (Outer loading) Bảng 4.13: Kết quả phân tích hệ số nhân tố tải ngoài chéo lần 2 (lần cuối) Bảng 4.14: Kết quả phân tích độ tin cậy và giá trị hội tụ của thang đo (lần cuối) Bảng 4.15: Kết quả phân tích Fornell – Larcker - giá trị phân biệt (lần cuối) Bảng 4.16: Kết quả mức độ phù hợp mô hình với dữ liệu thị trường (Goodness of model fit)

40 Bảng 4.17: Kết quả phân tích hệ số VIP các biến quan sát (lần cuối) 41 Bảng 4.18: Kết quả Bootstrapping mô hình cấu trúc 42 Bảng 4.19: Kết quả kiểm định các giả thuyết từ Bootstrapping

105 107 109 111 43

112 44

112 45 Bảng 4.20: Kết quả phân tích độ tin cậy và giá trị hội tụ của thang đo phân theo nhóm Bảng 4.21: Kết quả phân tích Fornell – Larcker (nhóm thời gian ngắn) Bảng 4.22: Kết quả phân tích Fornell – Larcker (nhóm thời gian dài)

46 Bảng 4.23: Kiểm định đo lường bất biến trong cấu hình 47 Bảng 4.24: Kiểm định đo lường bất biến trong thành phần

113 113 114 48

114 49

117 50 Bảng 4.25: Kết quả kiểm định các giả thuyết điều tiết từ phép hoán vị Bảng 4.26: Kết quả kiểm định các giả thuyết từ Bootstrapping phân theo từng nhóm theo phương pháp PLS – MGA Bảng 4.27: Kết quả kiểm định các giả thuyết từ Bootstrapping phân theo từng nhóm

51 Bảng 4.28: Kết quả kiểm định giả thuyết mô hình nghiên cứu

118 120 52 Bảng 4.29: Kết quả tác động trực tiếp, gián tiếp và tổng tác động giữa các khái niệm

53 Bảng 4.30: Kết quả mức độ dự đoán liên quan (Q²) thông qua kiểm 120

x

127 54

134 55

137 56

139 57

141 58 định Blindfolding Bảng 4.31: Kết quả chỉ số biểu thị mức độ quan trọng và hiệu suất của các yếu tố tác động đến ý định hành động khởi nghiệp (đã chuẩn hóa) Bảng 5.1: Thống kê giá trị trung bình thang đo yếu tố nhận thức mong muốn khởi nghiệp Bảng 5.2: Thống kê giá trị trung bình thang đo yếu tố gắn kết với khởi nghiệp Bảng 5.3: Thống kê giá trị trung bình thang đo yếu tố nhận thức khả năng khởi nghiệp Bảng 5.4: Thống kê giá trị trung bình thang đo yếu tố tư duy khởi nghiệp

xi

DANH MỤC HÌNH VẼ, SƠ ĐỒ

STT TÊN HÌNH

1 Hình 2.1: Chu kỳ khởi nghiệp theo định nghĩa của GEM 2 Hình 2.2: Mô hình các giai đoạn hình thành và thực thi ý định 3 Hình 2.3: Mô hình tư duy các giai đoạn hành động 4 Hình 2.4: Mô hình tư duy khởi nghiệp và hành vi khởi nghiệp 5 Hình 2.5: Mô hình lý thuyết cấp độ cấu trúc nhận thức 6 Hình 2.6: Mô hình thiết lập và thực thi mục tiêu 7 Hình 2.7: Mô hình sự kiện khởi nghiệp cải tiến 8 Hình 2.8: Mô hình dự định hành vi 9 Hình 2.9: Mô hình sự kiện khởi nghiệp 10 Hình 2.10: Mô hình tiềm năng khởi nghiệp 11 Hình 2.11: Mô hình ý định khởi nghiệp tích hợp 12 Hình 2.12: Mô hình nghiên cứu đề xuất 13 Hình 3.1: Quy trình nghiên cứu 14 Hình 4.1: Mô hình đo lường các khái niệm (đã chuẩn hóa) 15 Hình 4.2: Mô hình cấu trúc (đã chuẩn hóa) 16 Hình 4.3: Mô hình đo lường các khái niệm (nhóm thời gian ngắn, đã TRANG 20 32 32 33 37 39 40 41 42 44 44 67 69 106 108 115

chuẩn hóa)

17 Hình 4.4: Mô hình đo lường các khái niệm (nhóm thời gian dài, đã 116 chuẩn hóa)

119 126

18 Hình 4.5: Mô hình nghiên cứu sau kiểm định 19 Hình 4.6: Biểu đồ quan hệ giữa mức độ quan trọng và hiệu suất của các yếu tố tác động đến ý định hành động khởi nghiệp (đã chuẩn hóa)

xii

TÓM TẮT

Luận án xây dựng và kiểm định mối quan hệ giữa nhận thức, tư duy, gắn kết và ý

định hành động khởi nghiệp của sinh viên thông qua lý thuyết tư duy các giai đoạn

hành động. Đồng thời, kiểm định tác động điều tiết của yếu tố thời gian đến mối quan

hệ giữa nhận thức khởi nghiệp và ý định hành động khởi nghiệp. Phương pháp nghiên

cứu hỗn hợp đã được sử dụng: Nghiên cứu định tính thông qua kỹ thuật thảo luận

nhóm, nghiên cứu định lượng sơ bộ và nghiên cứu định lượng chính thức. Nghiên

cứu định lượng chính thức được thu thập bằng phỏng vấn trực tiếp thông qua bảng

câu hỏi với 1367 sinh viên có ý định khởi nghiệp. Kết quả nghiên cứu đã có những

đóng góp về mặt học thuật, lý luận và thực tiễn như sau:

Thứ nhất, giúp cho những nhà nghiên cứu có những gợi ý về hệ thống thang đo về ý

định khởi nghiệp của sinh viên để thực hiện các nghiên cứu tiếp theo tại thị trường

Việt Nam.

Thứ hai, luận án đã bổ sung 2 yếu tố trung gian giữa nhận thức và ý định hành động

khởi nghiệp, đó là, tư duy khởi nghiệp và gắn kết với khởi nghiệp.

Thứ ba: ý định trong các nghiên cứu về khởi nghiệp trước đây tương đối mơ hồ và

trừu tượng, sức mạnh dự đoán của nó đối với hành động khởi nghiệp là đáng nghi

ngờ. Do đó, cần chuyển sang ý định mang tính chi tiết hơn, hành động hơn thì có khả

năng khởi nghiệp sẽ cao hơn.

Thứ tư, yếu tố thời gian được cho là có vai trò điều tiết mối quan hệ giữa mong muốn

và khả năng khởi nghiệp đến ý định hành động khởi nghiệp.

Cuối cùng, luận án này cũng đã rút ra được các hàm ý chính sách dành cho các

trường đại học, các nhà hoạch định chính sách về khởi nghiệp.

1

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU

Chương này giới thiệu tổng quan nghiên cứu của luận án. Mục tiêu chính là

đưa ra bối cảnh nghiên cứu, vấn đề nghiên cứu có liên quan đến chủ đề của luận án.

Nội dung của chương này bao gồm các phần: (1) Bối cảnh nghiên cứu; (2) Lý do

chọn đề tài; (3) Mục tiêu nghiên cứu; (4) Đối tượng và phạm vi nghiên cứu; (5)

Phương pháp nghiên cứu; (6) Ý nghĩa và đóng góp mới của nghiên cứu và cuối cùng

(7) Kết cấu nghiên cứu.

1.1. Bối cảnh nghiên cứu

Tại Việt Nam, khởi nghiệp đang là chủ đề rất được quan tâm với mục tiêu của

Chính phủ đặt ra là có ít nhất 1 triệu doanh nghiệp (DN) hoạt động giai đoạn 2016-

2020. Theo Báo Chính phủ (2016), tỷ lệ DN/dân số Việt Nam (trên 96 triệu dân) là

quá thấp (0,57%) so với các nước như: Mỹ, Đài Loan (Trung Quốc), Thái Lan, Israel,

Nhật Bản (đều trên 2%). Nếu đạt mức trung bình của thế giới, thì Việt Nam cần phải

có hơn 2 triệu DN hoạt động. Như vậy, số DN Việt Nam mới đạt 1/4 so với yêu cầu

của mức trung bình. Vì vậy, việc gia tăng số lượng các DN khởi nghiệp luôn là mối

bận tâm chính của các chính phủ, nhà hoạch định chính sách và các học giả, vì 2 lý

do. Một là, tăng trưởng kinh tế (Audretsch, 2007; Baumol, 2004); hai là, giảm thất

nghiệp (Santarelli & cộng sự, 2009) đặc biệt với sinh viên mới ra trường (Alain &

cộng sự, 2006) tại các nước đang phát triển. Sinh viên là đối tượng được đào tạo

tương đối bài bản tại các trường ĐH, có các kiến thức nền về quản trị. GEM (2016)1

cho rằng, độ tuổi thích hợp để khởi nghiệp là 18 – 36, lứa tuổi có khát khao làm giàu,

không sợ rủi ro, nhạy bén với các cơ hội kinh doanh, mạo hiểm hơn và có ý định khởi

nghiệp cao hơn. Thống kê tại bảng 1.1 cho thấy, tỷ lệ người nhận thức được cơ hội

và khả năng khởi nghiệp tại VN năm 2015 là 56,8%. Tuy nhiên, tỷ lệ này có giảm

một chút so với 2014 (58,2%) vì những lo ngại cạnh tranh ngày càng khốc liệt trong

bối cảnh hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Trong khi đó, chỉ số lo sợ thất

1 GEM: Global Entrepreneurship Monitor – chỉ số khởi nghiệp toàn cầu

bại khởi nghiệp năm 2015 tại VN là 45,6% khá cao so với các nước có cùng trình độ

2

phát triển và có xu hướng sẽ tăng trong nhiều năm tới. Chỉ số này phản ảnh sự cẩn

trọng khi tham gia vào khởi nghiệp, tạo ra những rào cản cho nhiều người chưa bắt

tay vào khởi nghiệp, dù họ nhận thấy cơ hội và khả năng khởi nghiệp của mình (GEM,

2016).

Bảng 1.1: Chỉ số khởi nghiệp tại Việt Nam năm 2015

Yếu tố Điểm (%) Xếp Hạng

Nhận thức về cơ hội khởi nghiệp 56,8 9

Nhận thức về năng lực khởi nghiệp 56,8 19

Lo sợ thất bại tại Việt Nam 45,6 53

Nguồn: GEM (2016)

Ý định khởi nghiệp 22,3 23

Báo diễn đàn doanh nghiệp (2017), trong báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo

về hoạt động khởi nghiệp và hỗ trợ sinh viên khởi nghiệp tại 120 trường ĐH, 115

trường Cao đẳng hầu như chưa được triển khai. “Có đến 62% sinh viên được hỏi cho

rằng các hoạt động khởi nghiệp hiện nay đang mang tính phong trào, chưa thực sự

hiệu quả. Tuy nhiên, khi hỏi về khả năng kinh doanh có đến 89% sinh viên cho rằng

bản thân có khả năng kinh doanh và 80% sinh viên có ý định sẽ tham gia các hoạt

động kinh doanh sau khi tốt nghiệp. Cơ hội khởi nghiệp từ kinh doanh của sinh viên

hiện nay có 61% đến từ phía gia đình, 21% từ bạn bè và 18% đến từ các nơi khác”.

Tại các nước đang phát triển, tỷ lệ người nhận thức khả năng khởi nghiệp cao, dẫn

đến tỷ lệ người có ý định khởi nghiệp cao (trung bình là 36,5% có ý định). Riêng tại

VN, tỷ lệ khởi nghiệp thật sự là rất thấp nếu so với tỷ lệ người nhận thức được cơ hội,

khả năng khởi nghiệp và có ý định khởi nghiệp (GEM, 2016). Điều gì làm cho tỷ lệ

khởi nghiệp trong sinh viên thấp như vậy? Nói một cách khác, câu hỏi đặt ra ở đậy là

tại sao giữa ý định khởi nghiệp và hành vi khởi nghiệp vẫn còn một khoảng cách nhất

định?

Theo GEM (2014, tr.17), đánh giá sự phát triển kinh doanh ở mỗi quốc gia

cũng như toàn cầu theo các giai đoạn sau: (1) Nhà khởi nghiệp tiềm năng  (2) Ý

định khởi nghiệp  (3) Thành lập doanh nghiệp  (4) Quản lý hoạt động kinh doanh

3

 (5) Phát triển hoạt động kinh doanh  (6) Chấm dứt hoạt động kinh doanh. Theo

GEM (2014, tr. 17) cũng cho rằng, chu kỳ kinh doanh này đúng với tất các các nền

kinh tế trên thế giới. Tuy nhiên, việc chuyển từ giai đoạn trước sang giai đoạn sau

trong chu kỳ kinh doanh lại khác nhau ở mỗi nước, tùy thuộc vào đặc điểm của nhà

khởi nghiệp tiềm năng và môi trường kinh doanh của nước đó. Quá trình hình thành

ý định khởi nghiệp tại VN có thể sẽ có nhiều khác biệt so với các nghiên cứu thực

nghiệm tại các nước phát triển trên thế giới.

Trong nghiên cứu của Nguyễn Thu Thủy (2015), bối cảnh khởi nghiệp tại các

nước có nền kinh tế chuyển đổi như Việt Nam có nhiều điểm khác biệt nếu so sánh

với các nước đang phát triển. Đó là: (1) Các DN khởi nghiệp thường được hưởng lợi

từ các quy định của chính phủ hỗ trợ DN mới; (2) Động cơ khởi nghiệp có thể dưới

2 dạng: khởi nghiệp vì việc làm, tăng thu nhập và khởi nghiệp vì đổi mới sáng tạo,

trong khi các nước đang phát triển chủ yếu khởi nghiệp vì đổi mới sáng tạo; (3) Môi

trường vĩ mô thường xuyên không ổn định; (4) Mối quan hệ xã hội phi chính thức,

chi phí không chính thức thường đóng vai trò quan trọng trong môi trường kinh

doanh; (5) Vai trò của người chủ DN chưa được xã hội coi trọng và bản thân người

chủ DN vẫn chưa có sự tự chủ đột phá trong tư duy khởi nghiệp

Cũng theo GEM (2014, tr. 17), chu kỳ khởi nghiệp bắt đầu bằng việc trở thành

nhà khởi nghiệp tiềm năng, đó là những người thấy được các cơ hội khởi nghiệp

(nhận thức mong muốn khởi nghiệp) ở nơi họ sinh sống và họ tin rằng họ có khả

năng (nhận thức khả năng khởi nghiệp) để bắt đầu một hoạt động khởi nghiệp.

Một đặc điểm khác của doanh nhân tiềm năng so với người khác là họ phải là người

có tư duy khởi nghiệp. Ngoài ra, những quan niệm xã hội cũng có thể ảnh hưởng đến

sự phát triển kinh doanh thông qua những nhận thức về nghề kinh doanh, về vị trí của

doanh nhân trong xã hội và những tấm gương điển hình của doanh nhân trên các

phương tiện thông tin đại chúng. Chính những yếu tố này sẽ giúp những nhà khởi

nghiệp tiềm năng có ý định khởi nghiệp. Giai đoạn tiếp theo trong chu kỳ khởi nghiệp

là biến ý định khởi nghiệp thành những hành động cụ thể để thành lập một hoạt động

kinh doanh mới. Giai đoạn này được tính kể từ khi nhà khởi nghiệp tiềm năng có

4

những đầu tư về thời gian, tiền bạc hay công sức cho việc khởi nghiệp đến khi hoạt

động kinh doanh được thành lập trong vòng 3 tháng. Giai đoạn kế tiếp, đánh dấu sự

ra đời chính thức của một hoạt động kinh doanh mới, được tính đến dưới 3,5 năm

(GEM, 2014, tr. 17). Điều này cho thấy, chu kỳ khởi nghiệp có thể chịu ảnh hưởng

bởi yếu tố thời gian.

Để minh chứng điều này, Trope & Liberman (2003, 2010) cho rằng, quá trình

hình thành ý định và hành vi ở nhiều lĩnh vực (ví dụ hành vi mua hàng, hành vi sử

dụng sản phẩm/dịch vụ, hành vi khởi nghiệp… ) phụ thuộc vào ý định và hành vi đó

xảy ra ở tương lai gần hay xa. Nghĩa là, yếu tố thời gian có khả năng làm sai lệch về

việc hình thành ý định và hành vi của người đó. Trong những năm qua, một số nghiên

cứu đã kiểm định quá trình đánh giá cơ hội khởi nghiệp và thành lập công ty thông

qua sự tương tác giữa đặc điểm cơ hội và quá trình nhận thức của nhà khởi nghiệp,

bao gồm nhận thức về rủi ro, học tập, hoặc ảnh hưởng của kiến thức trước đó

(Grégoire & cộng sự, 2011). Cho đến nay, có ít nghiên cứu về nhận thức khởi nghiệp

liên quan đến yếu tố thời gian (Brännback & Carsrud, 2017).

Khi dự đoán hành vi, nếu hành vi xảy ra ở tương lai xa thì cá nhân có xu hướng

đánh giá trừu tượng về hành vi này và cảm thấy tự tin, chấp nhận rủi ro, dễ dàng trong

việc hình thành ý định, trong khi hành vi xảy ra trong tương lai gần thì cá nhân sẽ

đánh giá chi tiết hơn, chịu rủi ro kém hơn, việc hình thành ý định và hành động cụ

thể sẽ khó hơn, nhưng một khi đã hình thành ý định thì sẽ dễ dàng dẫn đến hành động

hơn (Trope & Liberman, 2003). Khoảng cách thời gian khiến cho cá nhân phóng đại

ý định tích cực của họ (Alexander & cộng sự, 2008) và dự đoán không chính xác mối

quan hệ tương quan giữa ý định và hành vi (Sun & Morwitz, 2010).

Esfandiar & cộng sự (2019) cho biết số lượng sinh viên đã khởi nghiệp khi họ

có ý định trong 3 năm tới (in the next three years) sẽ ít hơn 2 lần so với số lượng sinh

viên có ý định khởi nghiệp trong thời gian ngắn (later), điều này được lý giải bởi độ

trễ thời gian. Ngoài ra, nghiên cứu của Schlaegel & Koenig (2014) tác động nhận

thức mong muốn khởi nghiệp đến ý định mạnh hơn đối với các mẫu không phải là

sinh viên trong khi nhận thức khả năng khởi nghiệp lại tác động mạnh hơn đến ý định

5

đối với các mẫu là sinh viên. Nhóm tác giả này cho rằng, rất có thể có sự khác biệt

giữa đối tượng là sinh viên và đối tượng khác ở chỗ ý định khởi nghiệp ở tương lai

gần hay xa, nghĩa là có liên quan đến yếu tố thời gian.

Như vậy, nghiên cứu quá trình hình thành nhà khởi nghiệp tiềm năng là rất

quan trọng, vì đây là bước đầu tiên của quá trình khởi nghiệp. Hơn nữa, ý định khởi

nghiệp được xem là chỉ báo rất quan trọng tác động đến việc thành lập DN mới. Luận

án này chỉ tập trung vào giai đoạn từ nhà khởi nghiệp tiềm năng đến ý định khởi

nghiệp, vì vậy có 02 câu hỏi nghiên cứu được đặt ra:

(1) Quá trình hình thành ý định khởi nghiệp của sinh viên Việt Nam như thế

nào?

(2) Yếu tố thời gian có tác động như thế nào đến mối quan hệ giữa nhận thức

khởi nghiệp và ý định khởi nghiệp?

1.2. Lý do chọn đề tài

Khởi nghiệp được hiểu là quá trình nhận dạng, đánh giá, khai thác cơ hội kinh

doanh (Shane & Venkataraman, 2000) và đây là loại hành vi có kế hoạch (Ajzen,

1991; Krueger & cộng sự, 2000). Thuật ngữ này được dịch theo nhiều cách khác nhau

như: tinh thần khởi nghiệp, nghiệp chủ, khởi nghiệp, khởi sự kinh doanh… chưa có

sự thống nhất. Sự phức tạp này là việc tiếp cận từ nhiều hướng. Trên thế giới có rất

nhiều nghiên cứu về ý định khởi nghiệp theo những quan điểm khác nhau, chẳng hạn

như:

Lý thuyết về tâm lý học phân biệt 2 dạng đặc điểm của con người, đó là dạng

cá tính (trait - like) và trạng thái tâm lý (state – like) (Chen & cộng sự, 2000). Lý

thuyết hành vi tổ chức cũng phân biệt 2 dạng, đó là (1) năng lực thuộc về cá tính

(trait-like personality capabilities) và (2) năng lực thuộc về trạng thái tâm lý (state –

like; psychological capabilities). Năng lực cá tính không thuộc về bối cảnh cụ thể nào

cả và thường khó thay đổi (ổn định theo thời gian). Trong khi đó, năng lực dạng trạng

thái phụ thuộc vào bối cảnh và có xu hướng thay đổi theo thời gian (Chen & cộng sự,

2000). Vì vậy, có 5 cách tiếp cận về khởi nghiệp theo dạng này:

6

Cách tiếp cận thứ nhất theo trạng thái tâm lý, dựa vào các mô hình cốt lõi

(core model) bằng việc sử dụng các lý thuyết nền: (1) Lý thuyết thực thi ý tưởng khởi

nghiệp của Bird (1988); (2) Lý thuyết về sự kiện khởi nghiệp (EEM) của Shapero &

Sokol (1982); và (3) Lý thuyết dự định hành vi (TPB) của Ajzen (1991) mà phổ biến

vẫn là 2 lý thuyết EEM và TPB.

Cách tiếp cận thứ hai theo cá tính (trait - personality): chỉ những người có các

tố chất như không sợ rủi ro, sáng tạo, mạo hiểm, tự kiểm soát hành vi… thì mới có

thể hình thành ý định và khởi nghiệp. Tuy vậy, cách tiếp cận này lại bộc lộ một số

nhược điểm khi có quá nhiều tố chất được đưa vào trong mỗi nghiên cứu khác nhau

dẫn đến không thống nhất cũng như cá tính không thay đổi theo bối cảnh và khó thay

đổi theo thời gian. Các nghiên cứu theo dạng này chỉ có thể giải thích 10% sự biến

thiên của hành vi khởi nghiệp (Van Gelderen, 2015) và hơn nữa, nó trừu tượng và

khó đo lường.

Cách tiếp cận thứ ba theo tác động giáo dục đến khởi nghiệp: điểm mạnh của

cách tiếp cận này đề cập đến khả năng nhà khởi nghiệp được học tập nhằm nâng cao

thái độ cũng như ý định khởi nghiệp, từ đó có thể hình thành nên năng lực của nhà

khởi nghiệp. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu thực nghiệm cho rằng, có nhiều khác biệt

về thái độ và ý định khởi nghiệp khi tham gia vào các chương trình giáo dục khởi

nghiệp (Zhao & cộng sự, 2005). Ngoài ra, một số nghiên cứu cho thấy, mức độ tác

động của các yếu tố giáo dục đến ý định khởi nghiệp không mạnh bằng không bằng

cách tiếp cận thứ nhất (Martin & cộng sự 2013) và cách tiếp cận thứ hai (Hao & cộng

sự, 2009).

Cách tiếp cận thứ tư thông qua tác động các yếu tố môi trường và các tổ chức

hỗ trợ khởi nghiệp có liên quan: cách tiếp cận này có điểm mạnh trong việc gắn kết

giữa hành vi khởi nghiệp với tác động từ các tổ chức hỗ trợ nhà khởi nghiệp như quỹ

đầu tư, vườn ươm,… đề cập đến khả năng học tập và điều chỉnh thích nghi của các

nhà khởi nghiệp đối với môi trường (Cope, 2005). Tuy nhiên, cách tiếp cận này nằm

ngoài phạm vi giai đoạn đầu của quá trình khởi nghiệp. Nó phù hợp với giai đoạn sau

7

của quá trình hoạt động và phát triển của DN hơn.

Cách tiếp cận cuối cùng theo quá trình khởi nghiệp và mối liên kết giữa ý

định và hành vi: Nghiên cứu những tác động đến sự nhất quán hay mâu thuẫn giữa ý

định và hành vi. Các cách tiếp cận trên đã đặt ra nhiều thách thức trong nghiên cứu ý

định khởi nghiệp (Krueger & cộng sự, 2000). Việc hình thành ý định đến khi chuyển

thành hành động có thể phụ thuộc vào một quy trình phức tạp (Schlaegel & Koenig,

2014). Các nghiên cứu ban đầu đã xác định tồn tại khoảng cách lớn giữa ý định và

hành vi kinh doanh (Henley, 2007). Hiểu được các yếu tố quyết định thúc đẩy hành

vi dự định của cá nhân là rất quan trọng, từ đó khuyến khích nhiều người trở thành

doanh nhân. Các lý thuyết hiện tại đã xác định được các yếu tố tiền ảnh hưởng đến

việc hình thành ý định cá nhân, nhưng ít hiệu quả hơn trong việc giải thích sự khác

biệt giữa ý định và hành vi (Armitage & Conner, 2001). Đây cũng là hướng được

quan tâm rất nhiều trong thời gian gần đây, nhưng có rất ít nghiên cứu (Fayolle &

Gailly, 2015).

Thật vậy, đã có rất nhiều nghiên cứu quá trình hình thành ý định khởi nghiệp

thông các lý thuyết như TPB của Ajzen (1991) hay mô hình EEM của Shapero &

Sokol (1982) và rất nhiều các yếu tố tiền đề tác động đến ý định khởi nghiệp như đã

tổng hợp ở phần trên. Điểm chung của các nghiên cứu này là xác định xem một người

có khởi nghiệp hay không bằng cách thông qua ý định (Schlaegel & Koenig, 2014),

nhưng ý định trong các nghiên cứu này chỉ giải thích một tỷ lệ nhất định biến thiên

ảnh hưởng đến hành động và chưa hẳn là yếu tố dự đoán tốt khả năng hành động

trong bối cảnh khởi nghiệp (Van Gelderen, 2015).

Theo Schlaegel & Koenig (2014), ý định là một dự báo quan trọng của hành

động tiếp theo. Nó giải thích trung bình 28% (tương đương r = 0,53) sự biến thiên

của hành vi (r>0,5 là ảnh hưởng mạnh, Sheeran, 2002). Randall & Wolff (1994)

khẳng định khoảng cách giữa ý định và hành vi không thay đổi theo thời gian. Tuy

nhiên, Sheeran & Orbell (1998) lập luận dựa vào dữ liệu của Randall & Wolff (1994)

đủ để rút ra kết luận này và cho rằng, khoảng cách thời gian càng lớn thì sức mạnh

8

tiên đoán các yếu tố ý định càng giảm đi. Ngoài ra, ý định dự đoán hành vi là tương

quan cao nếu đó là hành động đơn lẻ ngắn hạn (một kết quả có thể đạt được bằng

cách thực hiện một loạt các hành động đơn lẻ). Vì vậy nghiên cứu lại quá trình hình

thành ý định trong bối cảnh khởi nghiệp đã nổi lên trong vài năm gần đây (Van

Gelderen & cộng sự, 2015). Nghiên cứu tổng kết lý thuyết của Fayolle & Gailly

(2015) khẳng định vẫn có tương quan cao giữa ý định và hành vi trong bối cảnh khởi

nghiệp, nếu ý định đó là đủ mạnh, chi tiết và hành động hơn (nghĩa là ý định quá trừu

tường). Trong khi đó Dholakia & Pbagozzi (2003) cũng cho rằng, việc thiết lập mục

tiêu cụ thể sẽ giúp mức độ gắn kết với khởi nghiệp của người đó sẽ cao hơn. Nghĩa

là, không có các lựa chọn thay thế khác và buộc mọi người phải thực hiện ý định. Vì

vậy, cần có những lý thuyết khác để giải thích tốt hơn khái niệm ý định khởi nghiệp

với cường độ mục tiêu mạnh hơn (Fayolle & Gailly, 2015). Rất nhiều đề xuất nghiên

cứu nhằm cải thiện các khái niệm khoảng cách ý định để mô tả tốt hơn sự phức tạp

của quá trình khởi nghiệp (Fayolle & Liñán, 2014).

Để giải thích cho vấn đề này, lý thuyết tư duy các giai đoạn hành động

(Gollwitzer & Keller, 2012, 2016) đã chứng minh quá trình hình thành ý định phức

tạp trong bối cảnh khởi nghiệp phải thông qua 2 giai đoạn chính: giai đoạn ảnh hưởng

của động lực (motivational, giai đoạn tiền quyết định) và giai đoạn của ý chí, tự

nguyện (Volition, giai đoạn tiền hành động). Giai đoạn của động lực sẽ ảnh hưởng

đến việc thiết lập mục tiêu (goal setting) hay trả lời cho câu hỏi tại sao khởi nghiệp

(why) và giai đoạn của ý chí, tự nguyện là giai đoạn của phấn đấu mục tiêu (goal

striving) trả lời cho câu hỏi bằng cách nào, khi nào, ở đâu (how, when, where) cá

nhân đó sẽ khởi nghiệp.

Nếu như giai đoạn của thiết lập mục tiêu mang tính trừu tượng cao (“ví dụ tôi

sẽ khởi nghiệp”) phản ảnh mong muốn và khả năng của nhà khởi nghiệp trong các

lựa chọn nghề nghiệp thì có xu hướng thiên về khởi nghiệp. Trong khi đó giai đoạn

của phấn đấu mục tiêu (goal striving) mang tính chi tiết thông qua các kế hoạch hành

động, các điều kiện cần thiết và ý chí vượt qua những khó khăn để chuẩn bị khởi

nghiệp, từ đó giúp mức độ gắn kết với khởi nghiệp của người đó cao hơn (“tôi sẽ khởi

9

nghiệp khi tôi tốt nghiệp”) (Van Gelderen & cộng sự, 2015). Nghĩa là, không có các

lựa chọn thay thế tốt hơn và buộc mọi người phải thực hiện ý định đó (Dholakia &

Pbagozzi, 2003).

Gollwitzer & Keller (2012) trong lý thuyết tư duy các giai đoạn hành động đã

đưa ra khái niệm tư duy có chủ đích (deliberative mindset) tạo ra sự điều chỉnh nhận

thức đối với các thông tin có liên quan đến thiết lập mục tiêu (thông tin về tính khả

thi và mong muốn, xuất hiện trong giai đoạn động lực) và tư duy hành động

(implemental mindset) xuất hiện trong giai đoạn của ý chí, tự nguyện, điều chỉnh

nhận thức của một người với thông tin liên quan đến ý định thực hiện (ở đâu, khi nào,

cách thức hành động và ý chí thái độ gắn kết với mục tiêu, vượt qua khó khăn trở

ngại như thế nào?).

Mathisen & Arnulf (2013) dựa trên lý thuyết tư duy các giai đoạn hành động

của Gollwitzer & Keller (2012), cho rằng trong giai đoạn của ý chí, tự nguyện thì

xuất hiện 2 loại tư duy, đó là: tư duy cẩn trọng (elaborating mindset) và tư duy hành

động (implemental mindset). Kết quả cho thấy, tư duy cẩn trọng không có mối quan

hệ với hành vi khởi nghiệp mà chỉ có tư duy hành động có tác động đến hành vi khởi

nghiệp. Mathisen & Arnulf (2014) tiếp tục kiểm định lại 2 khái niệm này và đưa thêm

khái niệm mới là sự rối loạn mong muốn về ý tưởng kinh doanh (compulsiveness

about business ideas). Kết quả phân tích EFA cho thấy, các biến quan sát đo lường

trong các khái niệm: tư duy cẩn trọng, tư duy hành động và sự rối loạn mong muốn

về ý tưởng kinh doanh đã có sự thay đổi so với nghiên cứu năm 2013. Do đó, 3 khái

niệm này cần phải được kiểm định lại trong các nghiên cứu tiếp theo.

Như vậy, 2 yếu tố nhận thức mong muốn và nhận thức khả thi được nhắc trong

mô hình EEM của Krueger & cộng sự (2000) hay mô hình TPB của Ajzen (1991) có

liên quan đến tư duy có chủ đích trong lý thuyết của Gollwitzer & Keller (2012,

2016). Nếu hành động đơn lẻ thì nhận thức mong muốn và nhận thức khả thi có tác

động mạnh đến ý định và ý định sẽ là chỉ báo tốt, còn nếu là mục tiêu dài hạn như

khởi nghiệp thì phải kiểm soát tốt các hành động đơn lẻ (Sheeran, 2002) và phải có

10

tư duy hành động, gắn kết với mục tiêu (Van Gelderen, 2015). Nghĩa là, ý định trong

các nghiên cứu trước đây chỉ dừng lại ở giai đoạn tư duy có chủ đích, quá trình này

không giải thích cách thức nhà khởi nghiệp tiềm năng vượt qua những khó khăn,

không bỏ cuộc, kiên trì với khởi nghiệp. Hơn nữa, ý định dự đoán hành vi tốt hơn đối

với thời gian ngắn, chứ không phải là dài, trong khi khởi nghiệp phải là mục tiêu

trung hạn hoặc dài hạn (Steel, 2007) và ý định quá trừu tượng sẽ không phản ảnh

được sức mạnh tiên đoán của nó lên hành vi (Brännback & Carsrud, 2017, tr. 39).

Hơn nữa, các ý tưởng ban đầu về kế hoạch khởi nghiệp được thực hiện, chuyển

thành hành vi có thể phụ thuộc vào một quá trình phức tạp hơn vì khởi nghiệp là mục

tiêu dài hạn, nếu không có sự gắn kết mạnh mẽ với với mục tiêu thì sức mạnh của ý

định trong việc dự đoán hành vi là đáng nghi ngờ (Van Gelderen, 2015). Joule & cộng

sự (1998) cho rằng, gắn kết với mục tiêu có tác động lên nhận thức và hành vi của

chủ thể khi các cá nhân đó theo đuổi mục tiêu. Về mặt nhận thức, nó làm xuất hiện ở

chủ thể những niềm tin mới và nhà khởi nghiệp sẽ không đánh đổi với các mục tiêu

khác ngoài mục tiêu khởi nghiệp (Fayolle & Liñán, 2014). Vì vậy, Fayolle & Liñán

(2014) đã đề xuất sử dụng lý thuyết gắn kết để kiểm tra sức mạnh của ý định khởi

nghiệp.

Như vậy, các nghiên cứu trước đây về quá trình hình thành ý định chỉ dừng lại

ở giai đoạn tạo động lực (giai đoạn tiền quyết định), còn giai đoạn tiền hành động

(giai đoạn của tư duy hành động, ý chí và gắn kết mục tiêu) thì các nghiên cứu trước

đây chưa đề cập đến. Hơn nữa Van Gelderen (2015) cho rằng ý định trong các nghiên

cứu thực nghiệm trước đây nếu chỉ dừng lại ở giai đoạn tạo động lực thì khả năng

chuyển từ ý định sang hành động vẫn tồn tại khoảng cách khá lớn trong khởi nghiệp,

vì vậy cần phải nghiên cứu sang giai đoạn của ý chí và gắn kết với mục tiêu khởi

nghiệp thì khoảng cách giữa ý định và hành động khởi nghiệp mới có khả năng thu

hẹp lại. Từ các phân tích nêu trên, câu hỏi nghiên cứu thứ 3 được đặt ra:

(3) Quá trình hình thành ý định khởi nghiệp của sinh viên Việt Nam có trải qua

giai đoạn tiền hành động hay không? Nói một cách khác, có những yếu tố trung gian

11

nào giữa giai đoạn nhận thức khởi nghiệp và giai đoạn hình thành ý định khởi nghiệp

của sinh viên Việt Nam hay không?

Tại Việt Nam, tác giả cũng chưa tìm thấy các nghiên cứu đề cập đến quá trình

tiền hành động trong quá trình hình thành ý định khởi nghiệp.

Tóm lại, bối cảnh thực tiễn và các nghiên cứu thực nghiệm trước đây cho thấy,

việc hình thành ý định khởi nghiệp vẫn là một quá trình phức tạp về mặt lý thuyết.

Việc cải thiện khả năng dự đoán của ý định đến hành động khởi nghiệp rất cần thiết.

Các nghiên cứu trước đây chủ yếu dừng lại ở ý định mang tính trừu tượng (giai đoạn

động lực thiết lập mục tiêu hay giai đoạn của tư duy chủ đích), rất ít nghiên cứu về

giai đoạn của ý chí, tự nguyện (giai đoạn phấn đấu mục tiêu hay giai đoạn của tư duy

hành động).

Vì vậy, từ những phân tích nêu trên, tác giả chọn đề tài “Mối quan hệ giữa

nhận thức, tư duy, gắn kết và ý định hành động khởi nghiệp của sinh viên” để

nghiên cứu.

1.3. Mục tiêu nghiên cứu

Như nội dung phân tích nêu trên, hầu như chưa tìm thấy nghiên cứu nào ứng

dụng lý thuyết tư duy các giai đoạn hành động để khám phá quá trình hình thành ý

định hành động trong bối cảnh khởi nghiệp. Vì vậy, nghiên cứu này xây dựng và kiểm

định mối quan hệ giữa nhận thức khả năng khởi nghiệp, nhận thức mong muốn khởi

nghiệp, tư duy khởi nghiệp, gắn kết với khởi nghiệp và ý định hành động khởi nghiệp

của sinh viên thông qua lý thuyết tư duy các giai đoạn hành động. Cụ thể là:

- Lược thảo hệ thống các lý thuyết, các nghiên cứu thực nghiệm nhằm đề xuất,

bổ sung, hình thành khung lý thuyết hoàn chỉnh làm nền tảng cho luận án.

- Kiểm định mối quan hệ giữa các yếu tố nhận thức mong muốn khởi nghiệp,

nhận thức khả năng khởi nghiệp (giai đoạn của tư duy chủ đích), tư duy khởi nghiệp,

gắn kết với khởi nghiệp (thuộc giai đoạn tư duy hành động) và ý định hành động khởi

nghiệp của sinh viên.

- . Kiểm định vai trò điều tiết của yếu tố thời gian đối với mối quan hệ giữa nhận

12

thức mong muốn khởi nghiệp, nhận thức khả năng khởi nghiệp và ý định hành động

khởi nghiệp.

- Từ kết quả nghiên cứu, luận án đưa ra một số hàm ý chính sách cho các trường

ĐH và các cơ quan quản lý trong việc thúc đẩy ý định hành động khởi nghiệp của

sinh viên ĐH ở Việt Nam.

1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: mối quan hệ giữa nhận thức mong muốn khởi nghiệp,

nhận thức khả năng khởi nghiệp, tư duy khởi nghiệp, gắn kết với khởi nghiệp và ý

định hành động khởi nghiệp.

Đối tượng khảo sát: sinh viên chính quy năm cuối các trường ĐH

Không gian nghiên cứu: tại các tỉnh, thành phố gồm: TP.HCM, Bình Dương,

Đồng Nai và Bà Rịa-Vũng Tàu.

- Thời gian nghiên cứu: từ 2016 đến 2018 với 3 giai đoạn chính: giai đoạn 1

(06/2016 – 07/2017): Tổng quan lý thuyết, nghiên cứu định tính; giai đoạn 2 (08/2017

– 10/2017): Nghiên cứu nhóm tập trung – focus group; giai đoạn 3 (Từ 10/2017 -

02/2018): Nghiên cứu định lượng.

Lý do chọn đối tượng sinh viên khảo sát: khởi nghiệp được xem như chìa

khóa quan trọng cho sự phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia vì làm giảm tỷ lệ

thất nghiệp, bất bình đẳng và đói nghèo, nhất là giảm tỷ lệ thất nghiệp cho sinh viên

mới ra trường (Alain & cộng sự, 2006) ở các nước đang phát triển. Sinh viên là đối

tượng được đào tạo tương đối bài bản và có kiến thức nền cơ bản. Ngoài ra, theo

GEM (2016) độ tuổi thích hợp để khởi nghiệp là 18 – 36 tuổi, vì độ tuổi này có khát

khao làm giàu, ít sợ rủi ro, nhạy bén với các cơ hội kinh doanh, mạo hiểm hơn và có

ý định khởi nghiệp và hành vi khởi nghiệp cao hơn. Việc lựa chọn sinh viên các

trường ĐH của TP.HCM, Bình Dương, Đồng Nai và Bà Rịa-Vũng Tàu chỉ là đối

tượng khảo sát mẫu thuận tiện và 4 tỉnh, thành này nằm trong vùng kinh tế trọng điểm

phía Nam có vai trò hết sức quan trọng và là đầu tàu của nền kinh tế Việt Nam; các

yếu tố về môi trường kinh tế, chính trị, xã hội và các chính sách khởi nghiệp đều

thuận lợi cho sinh viên khởi nghiệp.

13

1.5. Phương pháp nghiên cứu

Nhận thức luận: sử dụng chủ yếu phương pháp thực dụng gắn liền với trường

phái nghiên cứu hỗn hợp.

Phương pháp luận: sử dụng phương pháp nghiên cứu hỗn hợp để xây dưng

và kiểm định mô hình nghiên cứu, trong đó sử dụng chủ yếu phương pháp suy diễn

(suy diễn từ lý thuyết và các nghiên cứu thực nghiệm để xây dưng mô hình nghiên

cứu) kết hợp với phương pháp quy nạp (xây dựng bổ sung các thang đo các khái niệm

nghiên cứu).

Phương pháp thu thập thông tin: sử dụng phương pháp nghiên cứu tại địa

bàn để thu thập thông tin và các phương pháp phỏng vấn chuyên gia, thảo luận nhóm.

Cụ thể:

- Thảo luận với 2 nhóm: nhóm 1 gồm 8 chuyên gia trong lĩnh vực khởi nghiệp;

nhóm 2 gồm 16 sinh viên đã khởi nghiệp. Mục đích của thảo luận nhóm với 2 nhóm

này là nhằm chuẩn hóa thuật ngữ, điều chỉnh và bổ sung thang đo cho phù hợp bối

cảnh và điều kiện Việt Nam. Đồng thời làm rõ nghĩa và tính dễ hiểu của các câu hỏi.

- Thực hiện qua điều tra khảo sát sơ bộ thông qua phỏng vấn trực tiếp với mẫu

nghiên cứu vừa đủ theo phương pháp thuận tiện (117 sinh viên). Dữ liệu này nhằm

đánh giá sơ bộ và bổ sung thang đo, cũng như chuẩn hóa thuật ngữ cho phù hợp bối

cảnh và điều kiện Việt Nam. Khảo sát chính thức được thực hiện bằng bảng câu hỏi

soạn sẵn đối với các sinh viên năm cuối (1367) của các trường ĐH tại TP.HCM, Bình

Dương, Đồng Nai và Bà Rịa-Vũng Tàu. Mẫu được chọn theo phương pháp thuận

tiện.

Phương pháp xử lý thông tin: Dữ liệu chính thức sau khi thu thập sẽ được nạp

liệu, làm sạch và kiểm định sơ bộ bằng Cronbach’s alpha và EFA, kiểm định mô hình

đo lường và kiểm định mô hình cấu trúc bằng phương pháp PLS-SEM

Công cụ xử lý thông tin: sử dụng phần mềm SmartPLS 3.2.7.

14

1.6. Ý nghĩa đóng góp mới của nghiên cứu

- Về mặt lý thuyết: luận án kiểm định mối quan hệ giữa nhận thức mong muốn

khởi nghiệp, khả năng khởi nghiệp, tư duy khởi nghiệp, gắn kết với khởi nghiệp, ý

định khởi nghiệp thông qua lý thuyết tư duy các giai đoạn hành động của Gollwitzer

& Keller (2012, 2016) để giải thích quá trình hình thành ý định hành động khởi nghiệp

của nhà khởi nghiệp tiềm năng. Theo lý thuyết này, quá trình hình thành ý định khởi

nghiệp đòi hỏi một quá trình phức tạp và thời gian dài. Các nghiên cứu trước đây

dừng lại ở ý định mang tính trừu tượng (là giai đoạn ảnh hưởng của động lực lên việc

thiết lập mục tiêu hay giai đoạn của tư duy chủ đích), rất ít nghiên cứu về giai đoạn

của ý chí, tự nguyện (giai đoạn phấn đấu mục tiêu hay giai đoạn của tư duy hành

động).

- Luận án cũng cung cấp bằng chứng thực nghiệm về mối quan hệ giữa nhận

thức khởi nghiệp và ý định hành động khởi nghiệp chịu sự tác động điều tiết của yếu

tố thời gian. Ngoài ra, việc bổ sung 2 yếu tố tư duy khởi nghiệp, gắn kết với khởi

nghiệp giải thích rõ hơn mối quan hệ giữa nhận thức khởi nghiệp và ý định hành động

khởi nghiệp. Nếu các nghiên cứu trước đây về khởi nghiệp cho thấy, ý định là khá

trừu tượng và việc chuyển từ ý định sang hành vi là đáng nghi ngờ, thì việc bổ sung

2 yếu tố trung gian này đã chuyển từ ý định trừu tượng sang ý định chi tiết, rõ ràng

và mang tính hành động hơn. Từ đó, khẳng định việc khởi nghiệp là một suy nghĩ,

lựa chọn cẩn thận, nghiêm túc có đầu tư của sinh viên chứ không vì phong trào khởi

nghiệp tác động đến.

- Vì các nghiên cứu về nhận thức khởi nghiệp trước đây chủ yếu thực hiện ở các

nước phương Tây với nền kinh tế thị trường phát triển, một nền văn hóa trọng doanh

nhân và đề cao tính tự chủ của họ, vì vậy cần được kiểm định lại ở những quốc gia

mà tinh thần doanh nhân còn chưa được xem trọng như ở Việt Nam.

- Về mặt thực tiễn: kết quả nghiên cứu của luận án cũng gợi ý cho các cơ quan

quản lý nhà nước, các tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp, các cơ sở đào tạo một số đề xuất

để tạo điều kiện cho sinh viên khởi nghiệp một cách nghiêm túc, nhằm gia tăng tiềm

năng khởi nghiệp của sinh viên ĐH ở Việt Nam.

- Kết quả nghiên cứu cũng giúp cộng đồng khởi nghiệp trong sinh viên hiểu

15

được các yếu tố ảnh hưởng đến ý định hành động khởi nghiệp, đồng thời nhận thức

về khả năng và cơ hội của mình để tiến hành khởi nghiệp. Ngày càng có nhiều sinh

viên tham gia vào khởi nghiệp vì trở thành doanh nhân đang là ước muốn của gần ¼

người trưởng thành ở Việt Nam (GEM, 2016). Môi trường khởi nghiệp tại Việt Nam

đang cải thiện nhờ nỗ lực của Chính phủ, các tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp, tuy nhiên,

nếu sinh viên với tư cách là đối tượng khởi nghiệp tiềm năng chỉ dừng lại mục tiêu

chung chung mà không tiến hành các hành động cần thiết để khởi nghiệp thì các nỗ

lực của bên liên quan cũng sẽ không có nhiều ý nghĩa.

1.7. Kết cấu luận án

Luận án bao gồm 05 chương, được trình bày theo trình tự và nội dung chính

sau đây:

Chương 1: TỔNG QUAN VỀ NGHIÊN CỨU

Chương này trình bày vấn đề nghiên cứu, mục tiêu, phương pháp và phạm vi

nghiên cứu.

Chương 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU

Nội dung chương này mô tả tổng quan cơ sở các lý thuyết nền thông qua việc

hệ thống hóa cơ sở lý thuyết về khái niệm ý định khởi nghiệp từ những nghiên cứu

trước đây, phác thảo mô hình lý thuyết về ý định hành động khởi nghiệp sinh viên.

Chương 3: THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU

Chương này trình bày cách xây dựng, điều chỉnh và phát triển thang đo từ

thang đo gốc (thang đo lặp lại). Trong phần thiết kế nghiên cứu các nội dung như cỡ

mẫu, quá trình thu thập dữ liệu, công cụ và kỹ thuật phân tích dữ liệu sẽ được trình

bày một cách chi tiết và rõ ràng. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu sơ bộ cũng được trình

bày trong chương này.

Chương 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Chương này mô tả quá trình thu thập dữ liệu, những đặc trưng cơ bản của

những đối tượng được phỏng vấn và kết quả của nghiên cứu chính thức. Nội dung

16

nghiên cứu chính thức được trình bày thông qua các bước: phân tích mô hình đo

lường; phân tích mô hình cấu trúc tuyến tính (PLS-SEM) và cuối cùng là kiểm định

các giả thuyết nghiên cứu đã được đề xuất ở chương 2.

Chương 5: KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý CỦA NGHIÊN CỨU

Chương này tổng hợp so sánh các phát hiện có ý nghĩa và đưa ra kết luận về

nghiên cứu. Những đề nghị hàm ý chính sách về khởi nghiệp cũng được thể thiện

trong chương này. Sau cùng, luận án xác định những hạn chế còn tồn tại làm cơ sở

cho một số đề xuất hướng nghiên cứu tiếp theo.

17

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU

Chương 2 sẽ trình bày: (1) Một số khái niệm về khởi nghiệp; (2) Lý thuyết tư

duy các giai đoạn hành động; (3) Lý thuyết gắn kết; (4) Mô hình tư duy khởi nghiệp;

(5) lý thuyết cấp độ cấu trúc nhận thức CLT; (6) Một số lý thuyết về khởi nghiệp khác

có liên quan. Thông qua đó xây dựng các các khái niệm nghiên cứu và đề xuất mô

hình lý thuyết về ý định hành động khởi nghiệp của sinh viên.

2.1. Các khái niệm nghiên cứu

2.1.1. Khởi nghiệp (Entrepreneurship)

Khởi nghiệp là một khái niệm đa chiều, tương đối phức tạp, chưa thống nhất

và được dịch và hiểu theo nhiều cách khác nhau như: tinh thần khởi nghiệp, khởi

nghiệp, khởi sự kinh doanh… Trong luận án này sẽ sử dụng thuật ngữ “khởi nghiệp”.

Về mặt học thuật, theo Schumpeter (1934), khởi nghiệp là tạo ra các kết hợp mới.

Với Cole (1968), khởi nghiệp là một hoạt động có mục đích để khởi đầu, duy trì và

phát triển hoạt động kinh doanh nhằm thu được lợi ích về tài chính hay các lợi ích

khác trong kinh doanh mà thế giới đó sẽ tạo ra một sự tự do cho chính người thực

hiện hoạt động này. Còn Kirzner Israel (1973), khởi nghiệp là khả năng để phát hiện

và khai thác các mối lợi từ sự khác biệt về giá giữa các thị trường. Trong khi Shapero

& Sokol (1982) cho rằng, khởi nghiệp là quá trình mà cá nhân sẵn sàng tiên phong

trong việc nắm bắt các cơ hội kinh doanh hấp dẫn và khả thi mà họ nhận biết được.

Krueger & Brazeal (1994) cho rằng, khởi nghiệp là việc mở một doanh nghiệp mới

(start a new business; new venture creation), hay khởi nghiệp là tinh thần doanh nhân

(entrepreneurship), còn Chen (2009) thì cho rằng, khởi nghiệp là tự làm chủ, tự kinh

doanh (self employment).

Một số nghiên cứu của Bird (1988) và Baron (1998) cho rằng, khởi nghiệp là

một quá trình, đó là kết quả của một loạt các sự kiện, hành động có trình tự nhất định

và chịu tác động bởi nhiều yếu tố. Còn theo Shane & Venkataraman (2000), khởi

nghiệp là quá trình nhận dạng, đánh giá và khai thác cơ hội kinh doanh. Đây là một

18

định nghĩa theo quá trình, xác nhận việc sáng tạo cải tiến là thể hiện của khởi nghiệp,

nhấn mạnh đến người thực hiện (bởi ai?), phương thức thực hiện (bằng cách nào?)

các sáng tạo cải tiến và các ảnh hưởng của các sáng tạo cải tiến này.

Một quan điểm khác xuất phát từ lý thuyết nhận thức xã hội của Bandura

(1986), lý thuyết hành vi có kế hoạch TPB của Ajzen (1991): trước khi thực hiện

hành vi, con người phải có kế hoạch và ý định về hành vi đó. Trong cách tiếp cận về

tâm lý học hành vi, ý định là chỉ báo quan trọng ảnh hưởng các hành vi khi những

hành vi đó hiếm gặp, khó quan sát, diễn ra trong khoảng thời gian không dự kiến

trước. Trong khi đó ý định khởi nghiệp là bước đầu tiên trong quá trình khám phá,

sáng tạo, khai thác cơ hội để khởi nghiệp và thành lập DN mới (Gartner & cộng sự,

2010).

Như vậy, nếu hiểu theo nghĩa rộng thì khởi nghiệp là việc một cá nhân bắt đầu

công việc kinh doanh của riêng họ (Begley & Tan, 2001), hay là việc một cá nhân

chấp nhận rủi ro để thành lập một doanh nghiệp mới bằng đầu tư vốn kinh doanh, hay

mở cửa hàng kinh doanh (MacMillan & Katz, 1992). Nếu hiểu theo nghĩa hẹp thì

khởi nghiệp là một thái độ làm việc đề cao tính tự chủ, sáng tạo, đổi mới và chấp

nhận rủi ro tạo ra các giá trị mới cho khách hàng (Bird, 1988).

Kế thừa từ nghiên cứu của Shane & Venkataraman (2000), nghiên cứu của

Reynolds & cộng sự (2005) cho rằng, khởi nghiệp là một quá trình hoạt động của cá

nhân gồm 4 giai đoạn: (1) Giai đoạn tiềm năng khởi nghiệp, cá nhân nhận thức khả

năng thành công của mình nếu khởi nghiệp và có ý định sẽ khởi nghiệp; (2) Giai đoạn

cá nhân huy động nguồn lực; (3) Giai đoạn thành lập DN; (4) Giai đoạn phát triển và

chấm dứt DN.

Kelly & cộng sự (2012) trong nghiên cứu về chỉ số khởi nghiệp toàn cầu đã

đưa ra quá trình khởi nghiệp diễn ra theo các giai đoạn: (1) Nhà khởi nghiệp tiềm

năng; (2) Ý định khởi nghiệp; (3) Thành lập doanh nghiệp; (4) Quản lý hoạt động

kinh doanh; (5) Phát triển hoạt động kinh doanh; (6) Chấm dứt hoạt động kinh doanh.

GEM (2014, tr.17) đã diễn giải chu kỳ này (xem hình 2.1) như sau:

19

“Chu kỳ khởi nghiệp bắt đầu bằng việc hình thành một doanh nhân tiềm năng,

đó là những người thấy được các cơ hội kinh doanh ở nơi họ sinh sống và họ tin rằng

họ có khả năng để bắt đầu một hoạt động kinh doanh. Một yếu tố khác cũng tạo nên

niềm tin cho những doanh nhân tiềm năng này là việc họ không lo sợ việc thất bại

khi theo đuổi các cơ hội kinh doanh. Ngoài ra, những quan niệm xã hội cũng có thể

ảnh hưởng đến sự phát triển kinh doanh thông qua những nhận thức về nghề kinh

doanh, về vị trí của doanh nhân trong xã hội và về những tấm gương điển hình của

doanh nhân trên các phương tiện thông tin đại chúng. Chính những yếu tố này sẽ giúp

những doanh nhân tiềm năng có ý định khởi nghiệp” (GEM, 2014, tr.17).

“Giai đoạn tiếp theo trong chu kỳ kinh doanh là biến ý định khởi nghiệp thành

những hành động cụ thể để thành lập một hoạt động kinh doanh mới. Giai đoạn này

được tính kể từ khi doanh nhân có những đầu tư về thời gian, tiền bạc hay công sức

cho việc khởi nghiệp đến khi hoạt động kinh doanh được thành lập dưới 3 tháng. Giai

đoạn tiếp theo, đánh dấu sự ra đời chính thức của một hoạt động kinh doanh mới,

được tính đến dưới 3,5 năm.” (GEM, 2014, tr.17).

“Nếu sau 3,5 năm mà doanh nhân vẫn tiếp tục là chủ và quản lý hoạt động kinh

doanh đó thì chứng tỏ hoạt động kinh doanh này đã ổn định. Trong trường hợp hoạt

động kinh doanh bị chấm dứt, cá nhân người chủ/quản lý hoạt động này cũng đã có

được nhiều kinh nghiệm để có thể bắt đầu lại một hoạt động kinh doanh mới hoặc

mang kinh nghiệm này để đóng góp cho các hoạt động kinh doanh khác.” (GEM,

2014, tr.17).

Nghiên cứu của Mathisen & Arnulf (2013) cho rằng, mong muốn khởi nghiệp

và có năng lực để bắt đầu một hoạt động kinh doanh là chưa đủ mà phải biến cơ hội

đó trở thành hành động cụ thể thông qua tư duy khởi nghiệp. Do đó, tư duy khởi

nghiệp là rất quan trọng vì cơ hội không phải tự nhiên mà xuất hiện. Những người có

tư duy khởi nghiệp sẽ phân biệt những nhà khởi nghiệp tiềm năng với những người

khác.

Nghiên cứu của Fayolle & Liñán (2014) cho thấy, để phân biệt được nhà khởi

nghiệp tiềm năng so với người khác, một trong những yếu tố quan trọng là họ phải

20

tận tâm, kiên định và gắn kết với mục tiêu khởi nghiệp của mình vì khởi nghiệp sẽ

trải qua rất nhiều giai đoạn khó khăn nếu không kiên trì thì sẽ khó đạt được mục tiêu.

Khởi sự kinh doanh: thực hiện các bước khởi sự

Doanh nhân tiềm năng: Niềm tin, khả năng

Hình 2.1: Chu kỳ khởi nghiệp theo định nghĩa của GEM

Nguồn: GEM (2014, tr.17), dẫn từ Kelly & cộng sự (2012)

Tóm lại: Có nhiều định nghĩa khác nhau về khởi nghiệp như đã trình bày, tác

giả có cùng quan điểm với Kelly & cộng sự (2012) và Fayolle & Liñán (2014). Theo

đó, để trở thành một nhà khởi nghiệp thì trước hết họ phải có tiềm năng. Đây là những

người thấy được cơ hội kinh doanh và tận dụng nó bằng tư duy khởi nghiệp của

mình, đồng thời phải kiên định và gắn kết với mục tiêu. Như vậy, quá trình khởi

nghiệp của nhà khởi nghiệp tiềm năng được cấu thành bởi 4 giai đoạn: (1) Nhận thức

cơ hội và khả năng khởi nghiệp của nhà khởi nghiệp; (2) Đánh giá cơ hội thông qua

tư duy khởi nghiệp (so sánh, đối chiếu giữa nhận thức cơ hội và khả năng khởi

nghiệp); (3) Gắn kết mục tiêu khởi nghiệp; (4) Hình thành ý định khởi nghiệp.

2.1.2. Ý định khởi nghiệp và ý định hành động khởi nghiệp

Ý định khởi nghiệp

Từ bảng 2.1 có thể nhận thấy có rất nhiều khái niệm về ý định khởi nghiệp

được đưa ra. Vì vậy, ngày nay nhiều đề xuất nghiên cứu nhằm cải thiện quá trình hình

21

thành ý định khởi nghiệp để thể hiện tốt hơn sự phức tạp của quá trình này (Fayolle

& Liñán, 2014). Trong mô hình ý định, liên kết giữa ý định và hành vi luôn luôn trực

tiếp. Tuy nhiên, không phải tất cả những người ý định sẽ thực hiện ý định của mình

mà luôn có nhiều người bỏ cuộc trong quá trình, nghĩa là ý định của khởi nghiệp

không nhất thiết dẫn đến hành vi. Tạo ra một DN mới là một hiện tượng phức tạp. Có

thể có các yếu tố trung gian trong mối quan hệ giữa ý định và hành vi (Liñán & cộng

sự, 2011).

Nhiều nghiên cứu đã không giải quyết theo cách tiếp cận quá trình mà theo đó

các ý định được chuyển thành hành động như thế nào (Sheeran & Silverman, 2003).

Một số nghiên cứu cố gắng đưa rất nhiều yếu tố trung gian giữa ý định và hành vi

khởi nghiệp. Ví dụ như điều kiện thuận lợi, sự kiện bất ngờ, tài nguyên, sự ổn định

về thời gian, kiểm soát; các yếu tố về động lực (Carsrud & Brännback, 2011); tự kiểm

soát, nghi ngờ, sợ hãi và ác cảm (Van Gelderen & cộng sự, 2015) có thể tác động đến

liên kết ý định và hành vi. Tuy nhiên, khoảng cách giữa ý định và hành vi khởi nghiệp

có thể là một trong những thách thức nghiên cứu quan trọng nhất và nó đáng được

xem xét đặc biệt (Liñán & Fayolle, 2015).

Ý định là một trạng thái của tâm trí nhấn mạnh đến sự quan tâm cá nhân và

kinh nghiệm để thực hiện việc tạo ra DN mới (Bird, 1988). Ý định khởi nghiệp cũng

có thể là việc tìm kiếm thông tin và những nguồn lực khác để khởi nghiệp (Katz &

Gartner, 1988) hay ý định khởi nghiệp là sự gắn kết để thực hiện hành vi khởi nghiệp

(Krueger & cộng sự, 2000). Ý định khởi nghiệp là bước đầu tiên trong quá trình khám

phá, sáng tạo, khai thác cơ hội để khởi nghiệp và thành lập DN mới (Gartner & cộng

sự, 1994). Ý định là điểm khởi đầu cho việc kiểm soát hành động có chủ định

(Gollwitzer, 1993).

22

Bảng 2.1: Tổng hợp định nghĩa về khái niệm ý định khởi nghiệp

Nguồn Gartner (1988)

Bird (1988)

Tubbs & Ekeberg (1991)

Định nghĩa Ý định khởi nghiệp là việc tìm kiếm thông tin và những nguồn lực khác để khởi nghiệp. Ý định khởi nghiệp là một trạng thái của tư duy nhấn mạnh đến sự quan tâm cá nhân và kinh nghiệm để tạo ra DN mới. Ý định khởi nghiệp là một đại diện các hành động có kế hoạch để thực hiện một hành vi kinh doanh.

Shane & Venkataraman (2000) Ý định khởi nghiệp là quá trình nhận dạng,

Krueger & cộng sự (2000)

Sheeran (2002)

Reynolds & cộng sự (2005)

Souitaris & cộng sự (2007)

Gupta & Bhawe (2007)

đánh giá và khai thác cơ hội kinh doanh. Ý định khởi nghiệp là sự gắn kết để thực hiện hành vi khởi nghiệp. Ý định khởi nghiệp là động lực của một người để thực hiện một hành vi, bao gồm cả 2 hướng (để làm X so với không làm X) và cường độ (bao nhiêu thời gian và công sức người đó sẵn sàng đầu tư thực hiện X). Ý định khởi nghiệp là các gắn kết cá nhân của các doanh nhân tiềm năng để bắt đầu khởi nghiệp. Ý định khởi nghiệp là sự liên quan về ý định của một cá nhân để bắt đầu một DN. Ý định là một quá trình định hướng việc lập kế hoạch và triển khai thực hiện một kế hoạch lập DN.

Nguồn: Tổng hợp của tác giả

Tóm lại, Nhận thức, đánh giá cơ hội và khai thác là trung tâm của quá trình

khởi nghiệp (Ardichvili & cộng sự, 2003). Tuy nhiên, hầu như rất ít nghiên cứu về

mối quan hệ giữa nhận thức, tư duy khởi nghiệp và ý định hành động khởi nghiệp có

sự điều tiết của yếu tố thời gian.

Ý định hành động khởi nghiệp

Gollwitzer (1993) đã chia ý định thành 2 loại: ý định mục tiêu và ý định hành

động. Ý định mục tiêu đề cập đến mệnh đề "Tôi dự định thực hiện X", tương ứng với

cấu trúc trừu tượng trong lý thuyết CLT để giải thích vì sao tôi thực hiện. Trong khi

ý định hành động tương ứng với "Tôi có ý định hành động hành vi nhắm mục tiêu X

23

khi tôi gặp tình huống Y". Vì vậy, những người thiết lập ý định hành động xác định

khi nào, ở đâu và làm thế nào họ có kế hoạch thực hiện ý định của họ (Gilovich &

cộng sự, 1993) tương đương với cấu trúc chi tiết trong lý thuyết CLT của Trope &

Liberman (2003, 2010). Theo Gollwitzer (1993), ý định mục tiêu chính là ý định

trong các mô hình TPB hay EEM. Còn theo Fayolle & Liñán (2014), ý định mục tiêu

là một dạng ý định thuộc giai đoạn tư duy có chủ đích, nó là kết quả của quá trình

ảnh hưởng của động lực khởi nghiệp và là một bước đi cần thiết trước khi hình thành

ý định hành động (Gollwitzer & Keller, 2012, 2016). Tuy nhiên, ý định mục tiêu này

khá mơ hồ và trừu tượng, sức mạnh dự đoán của nó đối với hành động khởi nghiệp

là đáng nghi ngờ (Van Gelderen & cộng sự, 2015). Vì vậy, cần chuyển sang một dạng

ý định mang tính chi tiết hơn, hành động hơn thì mới có khả năng khởi nghiệp cao

hơn. Ý định này theo Gollwitzer & Keller (2012, 2016) gọi là ý định hành động. Hơn

nữa, để mục tiêu thực hiện được thì cần chuyển mục tiêu từ trừu tượng sang chi tiết

hơn (Trope & Liberman, 2003, 2010).

Sheeran & Silverman (2003) phân biệt giữa giai đoạn tạo động lực theo đó họ

quyết định hành động và một giai đoạn hoạch định (volitional) trong đó họ hoạch

định làm thế nào để quyết định trở thành hiện thực. Giai đoạn động lực có liên quan

đến sự gắn kết với khởi nghiệp và được giải quyết trong các mô hình ý định. Giai

đoạn hoạch định đề cập đến ý định hành động và không được giải quyết trong các mô

hình ý định. Tuy nhiên, nó vẫn là một phần của quá trình thực hiện hành vi.

Ý định hành động xác định khi nào, ở đâu và làm thế nào họ có kế hoạch thực

hiện ý định của họ (Gollwitzer & Brandstätter, 1997). Ý định hành động tương ứng

với một quá trình nếu - sau đó (if - then) tạo điều kiện cho việc chuyển dịch từ suy

nghĩ, so sánh các cơ hội khởi nghiệp có phù hợp với nguồn lực khởi nghiệp với gắn

kết và ý định hành động không. Ý định hành động xem như một tín hiệu tình huống

được dự đoán và nó sẽ kích hoạt hành động theo kế hoạch bằng tư duy của nhà khởi

nghiệp (Parks–Stamm & cộng sự, 2007). Tóm lại, ý định hành động là một hành động

có ý thức, có tư duy, có sự phân tích với một sự gắn kết cao, mang "tính tự động chiến

lược" (Gollwitzer & Brandstätter, 1997).

24

Tuy nhiên, ý định hành động chủ yếu đã được nghiên cứu khi hướng đến một

mục đích duy nhất, như trong tình huống: "Tôi định làm X trong tình huống Y".

Nhưng còn những mục tiêu phức tạp hơn đòi hỏi phải thực hiện một số hành động để

trở thành doanh nhân. Theo Sheeran (2002), Rutter (2006), các mục tiêu phức tạp này

sẽ mang hình thức: "Để đạt được X, tôi dự định làm W trong tình huống Y". Sheeran

& Orbell (2000) xem xét trường hợp này và kiểm tra thành công ý định hành động

một hành vi phức tạp đòi hỏi khả năng tư duy khởi nghiệp của nhà khởi nghiệp.

Như vậy, có rất nhiều định nghĩa về ý định khởi nghiệp, dựa trên quan điểm

của lý thuyết tư duy các giai đoạn hành động của Gollwitzer & Keller (2012, 2016),

ý định hành động khởi nghiệp trong luận án này được phát biểu như sau:

Ý định hành động khởi nghiệp là việc cá nhân suy nghĩ, so sánh về tính hấp

dẫn giữa cơ hội khởi nghiệp với khả năng thực hiện, từ đó định hướng lập kế hoạch,

triển khai thực hiện kế hoạch và gắn kết khởi nghiệp.

Định nghĩa này giải thích việc cá nhân phải suy nghĩ, đối chiếu để trả lời cho

câu hỏi vì sao khởi nghiệp, khởi nghiệp sản phẩm/dịch vụ nào, khi nào và bằng cách

nào để khởi nghiệp.

2.1.3. Tư duy khởi nghiệp

Theo lý thuyết tư duy các giai đoạn hành động của Gollwitzer & Keller (2012,

2016), giai đoạn tiền hành động (tư duy hành động) là giai đoạn mà mọi người bắt

đầu lập kế hoạch thực hiện mục tiêu đặt ra của họ, cụ thể là khi nào, ở đâu và cách

hành động để đạt được kết quả như mong muốn của họ thông qua thái độ kiên trì và

gắn kết khi đối mặt với khó khăn (Brandstatter & Frank, 2002). Hơn nữa, các cá nhân

có tư duy hành động dường như háo hức hơn để thực hiện mục tiêu.

Phát triển từ lý thuyết tư duy các giai đoạn hành động của Gollwitzer & Keller

(2012, 2016), Mathisen & Arnulf (2013, tr. 133) cho rằng, tư duy khởi nghiệp có thể

được mô tả như những chiến lược thích ứng mà những chiến lược này tiến hoá thay

đổi trong sự hòa hợp với những tương tác của các cá nhân và những kinh nghiệm từ

môi trường của họ. Nhóm tác giả đã chia tư duy khởi nghiệp ra thành 2 khái niệm:

25

(1) Tư duy cẩn trọng (elaborating mindsets) và (2) Tư duy hành động (implemental

mindset).

Bảng 2.2: Định nghĩa về tư duy khởi nghiệp

Nội dung Tư duy hành động dùng các suy luận lạc quan để đánh giá về tính mong muốn và khả thi thực tế của mục tiêu.

Nguồn Gollwitzer & Keller (2012, 2016) Mathisen & Arnulf (2013)

McMullen & Kier (2016)

Cá nhân sẽ suy nghĩ tính toán giữa ước muốn và khả năng thực hiện ước muốn đó thông qua các kế hoạch hành động gần với định hướng mục tiêu hơn nhằm trả lời cho câu hỏi bằng cách nào cá nhân đó khởi nghiệp. Là sự cân nhắc giữa mục tiêu và yếu tố năng lực, kinh nghiệm trong giai đoạn tạo động lực khởi nghiệp với mục đích là tối thiểu hóa rủi ro nhằm đi đến quyết định là có tiếp tục theo đuổi mục tiêu (promotion focus) hay ngăn chặn việc thực hiện mục tiêu (prevention focus).

Nguồn: Tổng hợp của tác giả

McMullen & Kier (2016, tr.663) thì cho rằng, tư duy khởi nghiệp là khả năng

xác định và khai thác cơ hội bất kể sự hạn chế về nguồn lực (resources currently) và

đặc biệt họ nhạy cảm với cơ hội và sẵn sàng từ bỏ các lựa chọn khác để gắn kết với

khởi nghiệp. Cũng dựa vào lý thuyết tư duy các giai đoạn hành động của Gollwitzer

& Keller (2012, 2016), nhóm tác giả cũng đưa ra 2 khái niệm: (1) Tư duy có chủ đích

(deliberative mindset) và (2) Tư duy hành động (implemental mindset).

Trong luận án này sẽ xem xét cá nhân có những tư duy lạc quan và có xu hướng

hành động hơn là quá cẩn trọng, suy xét. Cơ hội khởi nghiệp có khi chỉ xuất hiện một

lần trong đời, vì thế khái niệm tư duy khởi nghiệp sẽ được sẽ được thể hiện qua tư

duy hành động. Các cá nhân có tư duy hành động sẽ có những suy nghĩ, tư duy hướng

gần đến mục tiêu được định hướng trước đó. Định nghĩa về tư duy khởi nghiệp của

nhiều tác giả được trình bày trong bảng 2.2. Tư duy khởi nghiệp là theo quan điểm

của tác giả là:

Tư duy khởi nghiệp là quá trình đánh giá cơ hội khởi nghiệp thông qua việc

suy nghĩ lạc quan, định hướng các kế hoạch khởi nghiệp chi tiết và cụ thể nhằm

hướng đến việc khởi nghiệp. Như vậy, những người có tư duy khởi nghiệp sẽ có suy

26

nghĩ, nhận thức gần hơn với mục tiêu đã định hướng khởi nghiệp.

2.1.4. Gắn kết với khởi nghiệp

Vai trò của gắn kết trong quá trình khởi nghiệp đã được nhắc đến nhiều lần

trong nhiều nghiên cứu (Fayolle & Liñán, 2014; Sharma & Irving, 2005). Tuy nhiên

gần đây, Fayolle & Liñán (2014) kêu gọi nghiên cứu sử dụng lý thuyết gắn kết để mô

tả và giải thích gắn kết trong lĩnh vực khởi nghiệp. Tương tự như vậy, Nguyễn Văn

Thắng (2003) đề xuất có thể áp dụng lý thuyết gắn kết với các phạm trù khác với “tổ

chức”, ví dụ như gắn kết với nghề nghiệp tại Việt Nam. Theo đó, một người có thể

không gắn kết với tổ chức cụ thể, nhưng họ vẫn có thể gắn kết với nghề nghiệp của

mình theo đuổi.

Lý thuyết gắn kết được phát triển bởi Meyer & Allen (1991) mang lại một lợi

thế lớn vì nó bao gồm cả cách tiếp cận cả mục tiêu cá nhân lẫn mục tiêu tổ chức (hay

giữa nhận thức và hành vi) và hoàn toàn phù hợp cách tiếp cận ý định cá nhân (Fayolle

& Liñán, 2014) cũng như sự kêu gọi của Frese (2009).

Theo lý thuyết gắn kết của Meyer & Allen (1991), việc đo lường gắn kết có

thể thông qua 1 trong 3 thành phần: (1) Gắn kết tình cảm (yêu thích khởi nghiệp và

tự nguyện khởi nghiệp); Gắn kết với giá trị (khởi nghiệp là phương án tốt nhất đối

với cá nhân đó khi so sánh với các phương án cạnh tranh khác); (3) Gắn kết chuẩn

mực (có nghĩa vụ với bản thân, gia đình và xã hội).

Gắn kết với giá trị nói tới nhận thức về kế hoạch thực hiện, chi phí và lợi ích

gắn liền với việc rời bỏ ý định khởi nghiệp. Sự kiên trì liên quan đến thái độ có "tiếp

tục hành động cố gắng, mặc dù gặp những thất bại, những trở ngại, hoặc những mối

đe dọa, thực tế hay tưởng tượng" (Gimeno & cộng sự, 1997) nhằm hướng đến những

mục tiêu khởi nghiệp đã được định hướng trước đó. Tính bền bỉ là rất quan trọng đối

với thành công trong hành động khởi nghiệp vì nó giúp các nhà khởi nghiệp thành

công trong việc kiểm soát những thách thức phức tạp của quá trình khởi nghiệp. Ngoài

ra, nó cũng giúp duy trì những nỗ lực của họ trong suốt thời gian cần thiết để bắt đầu

khởi nghiệp. Do sự đầu tư rất lớn về thời gian, công sức và tiền bạc vào kế hoạch

27

kinh doanh, nên gần như nhà khởi nghiệp tiềm năng phải kiên trì với mục tiêu khởi

nghiệp và không còn đường lùi (Cardon & Kirk, 2015).

Từ những phân tích trên, luận án này chỉ xem xét khái niệm gắn kết với giá trị

trong mô hình vì nó phù hợp với những định nghĩa về tư duy khởi nghiệp trong lý

thuyết tư duy các giai đoạn hành động của Gollwitzer & Keller (2012, 2016). Gắn kết

với khởi nghiệp được định nghĩa là thái độ (ước muốn nhu cầu, trách nhiệm) liên

quan đến nhận thức về công sức, thời gian, chi phí, lợi ích có tác động tới quyết định

lựa chọn nghề nghiệp của họ. Cá nhân có gắn kết cao sẽ tiếp tục với công việc mà họ

đang làm.

2.1.5. Nhận thức khởi nghiệp

Một cơ hội kinh doanh thường được định nghĩa như là một "tình huống tương

lai được coi là cả mong muốn và khả thi" (Stevenson & Jarillo, 1990). Tính mong

muốn đề cập đến giá trị nhận thức hoặc sự hấp dẫn của cơ hội (ví dụ: cơ hội có tiềm

năng lợi nhuận cao được đánh giá là rất mong muốn). Tính khả thi đề cập đến khả

năng thực hiện hay khó khăn của cơ hội.

Theo mô hình EEM của Sokol (1982), khởi nghiệp sẽ xuất hiện khi một cá

nhân phát hiện ra một cơ hội khởi nghiệp mà họ đánh giá là khả thi và họ phải ham

muốn. Tuy nhiên, để ý định có trở thành hành động khởi nghiệp và tạo DN mới hay

không thì cần có sự tác động của các yếu tố đẩy như: mất việc, bất mãn với công việc

hiện tại... hay yếu tố kéo như tìm được đối tác tốt hoặc có hỗ trợ tài chính… Như vậy,

để khởi nghiệp thì cần 2 yếu tố: (1) Nhận thức mong muốn; (2) Nhận thức khả thi.

- Nhận thức mong muốn khởi nghiệp thể hiện cảm nhận của cá nhân về tính hấp

dẫn của cơ hội khởi nghiệp (Krueger & cộng sự, 2000). Các nhà nghiên cứu sau này

như Begley & Tan (2001) còn bổ sung thêm ngoài thể hiện tính hấp dẫn, mong muốn

khởi nghiệp còn thể hiện mơ ước, mục đích cá nhân và là nguồn gốc của sự hài lòng.

Mong muốn khởi nghiệp sẽ lôi kéo cá nhân thành lập DN và “đẩy” cá nhân đó ra xa

các sự lựa chọn nghề nghiệp khác.

- Shapero & Sokol (1982) cho rằng, nhận thức khả năng khởi nghiệp thể hiện

28

cảm nhận của cá nhân về nguồn lực và năng lực của họ (gồm kiến thức, hỗ trợ tài

chính và các đối tác). Theo Begley & Tan (2001) và Krueger & cộng sự (2000) thì

nhận thức khả năng khởi nghiệp phản ánh niềm tin của cá nhân về khả năng thực hiện

các hành vi khởi nghiệp cụ thể hoặc niềm tin về khả năng đạt tới mục tiêu đã định.

Tuy có khác nhau về tên gọi, nhưng các nhà nghiên cứu trên đều thống nhất rằng

nhận thức khả năng khởi nghiệp thể hiện sự tự tin về khả năng thành công khi khởi

nghiệp và cũng trùng với khái niệm nhận thức về năng lực khởi nghiệp bản thân (self

efficacy) của Bandura (1977).

Thiếu 1 trong 2 thành tố trên, các cá nhân sẽ khó có ý định và khởi nghiệp

trong tương lai. Một cá nhân có mong ước, ý định khởi nghiệp có thể sẽ không bao

giờ khởi nghiệp vì họ nghĩ rằng họ không đủ khả năng khởi nghiệp. Theo Bandura

(1986), nhận thức của một cá nhân về khả năng của mình trong việc thực hiện một

hành vi hoặc công việc nào đó có ảnh hưởng việc lựa chọn nghề nghiệp và hứng thú

với nghề nghiệp.

Con người thường có xu hướng tránh các nghề nghiệp hoặc môi trường mà họ

thấy vượt quá khả năng và chọn nghề phù hợp với năng lực cảm nhận của họ. Ngược

lại, cá nhân có đủ tự tin về khả năng thực hiện các hoạt động thành lập DN sẽ có thể

không bao giờ thành lập DN vì không thích hoặc không có ý định. Do vậy, một người

có tiềm năng khởi nghiệp phải cảm nhận thấy họ có đủ tự tin và mong muốn khởi

nghiệp (Nguyễn Thu Thủy, 2015).

Từ các định nghĩa nêu trên, kết hợp với lý thuyết tư duy các giai đoạn hành

động của Gollwitzer & Keller (2012, 2016), có thể đưa ra khái niệm theo quan điểm

của tác giả, nhận thức mong muốn khởi nghiệp là sự cảm nhận lạc quan của cá nhân

về sự hấp dẫn của cơ hội mang lại, trong khi nhận thức khả năng khởi nghiệp là sự

cảm nhận, niềm tin lạc quan của cá nhân về sự phù hợp của khả năng và năng lực

thực hiện được cơ hội đó.

29

2.1.6. Khoảng cách tâm lý

Một trong những mục tiêu nghiên cứu của luận án này là kiểm định vai trò

điều tiết của yếu tố thời gian đối với mối quan hệ giữa nhận thức và ý định khởi

nghiệp thông qua lý thuyết CLT (Trope & Liberman, 2003, 2010). Như đã đã trình

bày ở trên, khoảng cách tâm lý bao gồm 4 khoảng cách: (1) Khoảng cách thời gian;

(2) Khoảng cách không gian; (3) Khoảng cách xã hội; (4) Khoảng cách giả thuyết

hay còn gọi là khoảng cách kinh nghiệm.

- Khoảng cách thời gian được xem xét khi một đối tượng hoặc sự kiện được dự

đoán xảy ra trong tương lai gần hoặc xa. Các nghiên cứu cho thấy rằng, các cá nhân

có xu hướng nhận thức các hoạt động xa xôi với các cấu trúc cao cấp trong khi các

sự kiện gần gũi được thể hiện bằng các cấu trúc ở mức thấp (Trope & Liberman,

2003, 2010).

- Khoảng cách không gian xem xét nơi xảy ra sự kiện hoặc vật thể: ở đây hoặc

ở nơi khác. Các cá nhân hình thành các biểu diễn trừu tượng hơn về các đối tượng

hoặc sự kiện nếu vị trí đó ở xa, trong khi biểu diễn cụ thể hơn nếu vị trí của đối tượng

hoặc sự kiện gần (Trope & Liberman, 2003, 2010).

- Khoảng cách xã hội là khoảng cách giữa cá nhân đó và người khác. Các cấu

trúc cấp cao được sử dụng để mô tả các mục tiêu xã hội xa hơn, trong khi mức độ

thấp của các cấu trúc được sử dụng để mô tả các mục tiêu xã hội gần gũi (Trope &

Liberman, 2003, 2010).

- Cuối cùng, khoảng cách kinh nghiệm xem xét sự khác biệt giữa các đối tượng

hoặc sự kiện nhất định và không chắc chắn (Trope & Liberman, 2003, 2010), nó phụ

thuộc vào kinh nghiệm của cá nhân đó. Nếu các đối tượng hoặc sự kiện được diễn

giải ở mức độ cấu trúc thấp hơn, chúng có nhiều khả năng xảy ra hơn ở mức độ cấu

trúc cao hơn.

- Nhiều nghiên cứu thực nghiệm cho thấy, tất cả 4 khoảng cách đều có cùng ảnh

hưởng đến các cấp độ cấu trúc nhận thức (Fujita & cộng sự, 2006). Tuy nhiên, trong

luận án này, chỉ xem xét tác động của khoảng cách thời gian đến các mối quan hệ

30

trong mô hình đề xuất nghiên cứu. Khái niệm khoảng cách thời gian được đo lường

bởi độ sâu của thời gian, căng thẳng về thời gian và biên tế của cơ hội (Tumasjan &

cộng sự, 2013).

- Độ sâu thời gian được định nghĩa là "khoảng cách thời gian mà các cá nhân

hoặc tập thể thường cân nhắc khi xem xét các sự kiện đã xảy ra, hoặc có thể xảy ra"

(Bluedorn & Martin, 2008, tr.3). Do đó, độ sâu thời gian chính là khoảng thời gian

mà cá thể suy nghĩ về các dự định của mình trong tương lai xa hoặc gần (ví dụ có

định khởi nghiêp trong 1 tháng, 2 tháng, 1 năm,...).

- Căng thẳng thời gian mô tả mối liên hệ giữa các sự kiện hiện tại và tương lai

chưa được thể hiện rõ (Bird, 1988). Các sự kiện nằm trong tương lai xa dẫn đến sự

không chắc chắn khi cá nhân cố gắng tưởng tượng tương lai này trong thời gian hiện

tại (Bird, 1988). Gia tăng thời gian tạm thời giữa hiện tại và tương lai có thể làm tăng

sự căng thẳng thời gian nhận thức.

- Biên tế cơ hội (margin of opportunity hay window opportunity) được định

nghĩa là khoảng thời gian mà được xem là hấp dẫn và cần có các hành động thực

hiện để đạt được kết quả mong muốn ngay (Busenitz & Barney, 1997). Biên tế cơ hội

có thể giảm theo thời gian (Hambrick & Crozier, 1985). Khoảng cách thời gian này

được đo lường bởi hiện tại và thời điểm kết thúc cơ hội (window has closed). Qua

giai đoạn này thì sẽ không còn cơ hội khai thác như mong muốn ban đầu.

2.2. Các lý thuyết nền tảng

2.2.1. Lý thuyết tư duy các giai đoạn hành động - Mindset theory of action

phases (Gollwitzer & Keller, 2012, 2016)

Trong những năm 90, Gollwitzer (1993) đã nghiên cứu về ý định và đưa ra 2

loại ý định đó là: ý định mục tiêu và ý định hành động. Ý định mục tiêu đề cập đến

"Tôi định thực hiện X", trong khi ý định hành động tương ứng với "Tôi có ý định

hành động nhắm mục tiêu X khi tôi gặp tình huống Y". Vì vậy, những người thiết lập

ý định hành động xác định khi nào, ở đâu và làm thế nào họ có kế hoạch thực hiện ý

định của họ. Mô hình các giai đoạn hành động được trình bày trong hình 2.2 của

31

Heckhausen & Gollwitzer (1987) giúp hiểu được sự khác biệt giữa 2 loại ý định này.

Theo mô hình này, việc thực hiện mục tiêu bao gồm 4 giai đoạn theo trình tự

thời gian: tiền quyết định, tiền hành động, hành động và hậu hành động. Ý định mục

tiêu và ý định hành động tương ứng với sự chuyển tiếp giữa các giai đoạn: Ý định

mục tiêu được hình thành giữa các tiền quyết định và tiền hành động. Khi ý định mục

tiêu được hình thành, mọi người không còn xem xét các lựa chọn cạnh tranh thay thế

nữa. Họ cảm thấy gắn kết với mục đích của họ. “Việc thành lập mục tiêu tốt hơn, cao

hơn mức độ gắn kết của người đó để đạt được nó” (Bagozzi & cộng sự, 2003). Do

đó, các khái niệm về ý định mục tiêu, ý định hành động và gắn kết mục tiêu có liên

quan chặt chẽ với nhau. Nói chung, ý định mục tiêu thường được coi là một bước đi

cần thiết trước khi thực hiện ý định và sau đó là đến hành vi (Wiedemann & cộng sự,

2009). Tuy nhiên, không có gì đảm bảo hoàn thành mục tiêu và ý định hành động có

thể giúp giải quyết tình huống này.

Đến năm 2012, Gollwitzer & Keller (2012, 2016) đã đưa ra lý thuyết về tư duy

các giai đoạn hành động (hình 2.3) và cho rằng, việc theo đuổi mục tiêu có thể được

chia thành 4 giai đoạn hành động nối tiếp nhưng khác biệt, mỗi giai đoạn đặt ra những

yêu cầu và thách thức riêng. Vượt qua những thách thức này được tạo điều kiện thuận

lợi bằng cách kích hoạt tư duy nhất định. Lý thuyết tư duy các giai đoạn hành động

được dựa trên sự phân biệt rõ ràng giữa động lực (tức là các giai đoạn tiền quyết định

và tiền hành động, giai đoạn giải thích lý do tại sao theo đuổi mục tiêu) và các giai

đoạn định hướng (tức là, giai đoạn tiền hành động và hành động, giai đoạn giải thích

làm thế nào để theo đuổi mục tiêu).

Trong giai đoạn tiền quyết định các cá nhân phải lựa chọn giữa nhiều mục tiêu

tiềm năng (mong muốn) và do đó phải cân nhắc về thông tin liên quan đến tính khả

thi và mong muốn, điều này có lợi rất nhiều từ việc kích hoạt tư duy có chủ đích bằng

cách đưa ra quyết định theo đuổi một mục tiêu nhất định. Trong giai đoạn tiền hành

động, cá nhân sẽ xác định cơ hội để hành động trong tương lai, họ sẽ cân nhắc về

những hậu quả tích cực và tiêu cực của việc thay đổi (hoặc từ bỏ) mục tiêu hoặc tiếp

tục. Nếu họ tập trung nhiều ưu điểm cho quyết định mà họ đã thực hiện và bỏ qua

32

hoặc đánh giá thấp những khuyết điểm tiềm năng thì họ càng gắn kết nhiều hơn với

mục tiêu so với trước đây, cường độ quyết tâm theo đuổi mục tiêu cũng mạnh hơn,

đồng thời nỗ lực gia tăng để tìm kiếm thông tin giúp đạt được mục tiêu. Từ đó sẽ đưa

ra các phương án và lựa chọn chiến lược thông qua việc lập kế hoạch khi nào, ở đâu

Hành động

Tiền hành động

Hậu hành động

Tiền quyết định

Ý định hành động

Ý định mục tiêu

và cách thức hành động.

Hành động

Hậu hành động

Tiền quyết định: Tư duy có chủ đích (nhận thức mong muốn, nhận thức khả năng)

Tiền hành động: Tư duy hành động, ý chí và gắn kết mục tiêu

Ý định hành động (goal Striving)

Ý định mục tiêu (goal setting)

Hình 2.2: Mô hình các giai đoạn hình thành và thực thi ý định Nguồn: Heckhausen & Gollwitzer (1987)

Hình 2.3: Mô hình tư duy các giai đoạn hành động Nguồn: Gollwitzer & Keller (2012, 2016)

Trong giai đoạn hành động, các cá nhân hành động hướng tới việc đạt được

mục tiêu đã chọn của họ và hướng sự quan tâm đến các tín hiệu báo hiệu cơ hội hành

động. Cuối cùng, trong giai đoạn hậu hành động, các cá nhân sẽ kiểm tra và đo lường

nhằm so sánh những kết quả đã thực hiện so với mục tiêu đã đề ra và đảm bảo rằng

những nguồn lực đã và đang thực hiện có hiệu quả nhất.

33

Có thể nói đây là lý thuyết cơ sở để giải thích tất cả các mối quan hệ giữa nhận

thức khả năng khởi nghiệp, nhận thức mong muốn khởi nghiệp, tư duy khởi nghiệp,

gắn kết với khởi nghiệp và ý định hành động khởi nghiệp của sinh viên. Các lý thuyết

còn lại chủ yếu dùng để củng cố thêm các mối quan hệ này.

2.2.2. Mô hình tư duy khởi nghiệp - Entrepreneurial mindset model (Mathisen

& Arnulf, 2013)

Dựa trên nền tảng lý thuyết năng lực (Capacity theory) của Teece (2010),

Mathisen & Arnulf (2013) cho rằng, điểm chính của thuyết năng lực là sự nỗ lực, sự

H1 được chấp nhận

chuyên tâm, gắn kết mang tính quyết định chứ không hẳn đến từ động lực.

Tư duy hành động

Hành vi khởi nghiệp

H2 không được chấp nhận

Tư duy cẩn trọng

.

Hình 2.4: Mô hình tư duy khởi nghiệp và hành vi khởi nghiệp Nguồn: Mathisen & Arnulf (2013)

Trên cơ sở này cùng với lý thuyết của Gollwitzer & Keller (2012, 2016) trong

giai đoạn tiền hành động, Mathisen & Arnulf (2013, tr.133) đã tổng kết 2 hướng để

đánh giá cơ hội khởi nghiệp: hướng thứ 1, cơ hội khởi nghiệp là khách quan (độc lập

với với nhà khởi nghiệp); hướng thứ 2, cơ hội chỉ được được tạo ra khi nhà khởi

nghiệp khám phá, đánh giá và thực hiện (phù thuộc với khả năng khám phá và tư duy

của nhà khởi nghiệp). Mathisen & Arnulf (2013) đã tiếp cận theo hướng thứ 2 và cho

rằng, chính tư duy nhìn ra cơ hội khởi nghiệp sẽ phân biệt những nhà khởi nghiệp

tiềm năng và những người khác. Do đó, tư duy cơ hội khởi nghiệp là rất quan trọng

vì cơ hội không phải tự nhiên mà xuất hiện. Quyết định bắt đầu khởi nghiệp thường

bắt nguồn từ niềm tin mà họ đã nhận ra một cơ hội kinh doanh có tiềm năng lợi nhuận.

34

Sự khác biệt trong quyết định khởi nghiệp hay không có thể bắt nguồn bởi sự khác

biệt về khả năng tư duy các cơ hội kinh doanh (Shane & cộng sự, 2010).

Hơn nữa, trong bối cảnh hiện nay, các hoạt động khởi nghiệp được định nghĩa

là thành lập các công ty mới. Đây cũng là một trong những cách phổ biến nhất để xác

định tinh thần khởi nghiệp trong thập kỷ qua và ý định trong các cách tiếp cận này là

khá trừu tượng, không phản ảnh được sức mạnh của nó đối với hành động khởi nghiệp

(Krueger & Welpe, 2014). Để gia tăng sức mạnh của ý định thì nhà khởi nghiệp cần

có tư duy khởi nghiêp, vì tư duy này sẽ giúp nhà khởi nghiệp đánh giá có phải là cơ

hội khởi nghiệp hay không. Đây chính là sự khác biệt giữa những nhà khởi nghiệp

tiềm năng so với người khác (Brännback & Carsrud, 2017, tr.39).

Tư duy là một hoạt động của nhận thức (Freitas & cộng sự, 2004) và khái niệm

này được đưa ra từ thế kỷ thứ 19. Theo Mathisen & Arnulf (2013, tr.134), tư duy là

phản xạ tự động, sản phẩm của niềm tin, động lực và kinh nghiệm từ những vấn đề

hiện hữu. Ngoài ra, tư duy không chỉ mô tả một phản ứng kích thích mà còn là phản

ứng nhạy bén với môi trường. Điều này dẫn đến tư duy ảnh hưởng và chịu ảnh hưởng

bởi những suy nghĩ, sự tính toán, sự quyết đoán và nghi ngờ từ tương tác giữa sự hấp

dẫn của cơ hội khởi nghiệp và khả năng của nhà khởi nghiệp. Vì thế, Mathisen &

Arnulf (2013, tr.134) đã đưa ra 2 khái niệm tư duy hành động và tư duy cẩn trọng,

đồng thời xây dựng thang đo và kiểm định mối quan hệ giữa tư duy hành động, tư

duy cẩn trọng với hành vi khởi nghiệp. Kết quả kiểm định cho thấy, chỉ có tư duy

hành động có tác động đến hành vi khởi nghiệp, còn tư duy cẩn trọng thì không có

tác động (xem hình 2.4).

2.2.3. Lý thuyết gắn kết – Commitment theory (Meyer & Allen, 1991)

Theo Kiesler (1971), gắn kết được định nghĩa là “Mối liên hệ giữa cá nhân với

các mục tiêu và hành động của mình mà mối liên hệ đó không bị phụ thuộc vào luật

lệ mà hoàn toàn là tự nguyện”. Định nghĩa này hoàn toàn phù hợp với giai đoạn của

ý chí, tự nguyện (volition) trong lý thuyết tư duy các giai đoạn hành động của

Gollwitzer & Keller (2012, 2016). Cá nhân có thể gắn kết vào hành động với những

mức độ khác nhau. Do vậy, việc gắn kết sẽ làm cho cá nhân đó thích nghi với hoàn

35

cảnh (Bùi Thị Hồng Thái, 2008).

Gắn kết có những tác động lên nhận thức và hành vi của chủ thể khi cá nhân

đó theo đuổi mục tiêu, nhất là khi họ gặp khó khăn trong việc đánh giá có nên tiếp

tục mục tiêu hay không. Về mặt nhận thức, nó làm xuất hiện ở chủ thể những niềm

tin mới. Cần phân biệt rằng gắn kết cá nhân dưới hình thức bắt buộc sẽ làm thay đổi

niềm tin, suy nghĩ của cá nhân. Trong trường hợp này, cá nhân sẽ phải điều chỉnh suy

nghĩ và niềm tin của mình cho phù hợp với thể chế quyền lực đưa ra yêu cầu hành

động buộc cá nhân phải thực hiện. Còn gắn kết tự nguyện hướng đến việc thúc đẩy

thái độ và niềm tin của cá nhân vào những gì mình làm. Về mặt hành vi, thì gắn kết

trong cả 2 trường hợp trên đều kéo theo một sự củng cố hành vi, thậm chí còn có khả

năng khiến cá nhân thực hiện những hành vi khó khăn hơn (Bùi Thị Hồng Thái, 2008).

Gắn kết với tổ chức được định nghĩa là trạng thái tâm lý (ước muốn nhu cầu,

trách nhiệm) thể hiện mối quan hệ của nhân viên với tổ chức và có tác động tới nguyện

vọng ở lại tổ chức (Nguyễn Văn Thắng, 2015). Meyer & Allen (1991) đã tổng quan

các nghiên cứu về sự gắn kết, xem xét những khác biệt trong khái niệm và từ đó đề

xuất một khái niệm về sự gắn kết gồm 3 thành phần: tình cảm, giá trị và chuẩn mực.

- Gắn kết dựa trên tình cảm: nói tới tình cảm và sự gắn bó của nhân viên với tổ

chức họ, cảm giác mình là một phần của tổ chức. Nhân viên gắn kết dựa trên tình cảm

cao ở lại với tổ chức vì họ thích như vậy.

- Gắn kết với giá trị: liên quan tới nhận thức về chi phí và lợi ích gắn liền với

việc rời bỏ tổ chức. Nhân viên có gắn kết với giá trị cao sẽ kiên trì ở lại với tổ chức.

- Gắn kết dựa trên chuẩn mực: là cảm giác trách nhiệm phải ở lại với tổ chức.

Nhân viên có gắn kết dựa trên chuẩn mực cao thì nhận thức việc ở lại phục vụ tổ chức

là đúng nghĩa vụ và chuẩn mực đạo đức, mặc dù có thể họ không thích hoặc không

thực sự có lợi so với phương án khác.

Meyer & Allen (1991) cũng nhấn mạnh rằng nên coi gắn kết dựa trên tình cảm,

giá trị và chuẩn mực như là 3 khái niệm riêng biệt - không phải 3 loại - của gắn kết.

Mỗi nhân viên có thể trải nghiệm cả 1 trong 3 loại gắn kết này. Hơn nữa, các khái

36

niệm này cũng có thể coi là biến số với các mức độ khác nhau. Mỗi người có thể có

các mức độ gắn kết khác nhau thông qua các thành phần gắn kết khác nhau. Ví dụ,

có người gắn kết dựa trên tình cảm cao, nhưng sự gắn kết dựa trên giá trị lại không

cao và ngược lại.

Trong mô hình nghiêu cứu của luận án này chỉ đưa vào khái niệm gắn kết với

giá trị bởi vì nó phù hợp với giai đoạn của ý chí, tự nguyện (volition) trong lý thuyết

tư duy các giai đoạn hành động của Gollwitzer & Keller (2012, 2016) thông qua việc

cá nhân cân nhắc về những kết quả tích cực và tiêu cực của việc thay đổi, từ bỏ, hoặc

tiếp tục theo đuổi mục tiêu.

2.2.4. Lý thuyết cấp độ cấu trúc nhận thức – Contructual level theory (Trope

& Liberman, 2003, 2010)

Lý thuyết cấp độ cấu trúc nhận thức CLT của Trope & Liberman (2003, 2010)

là một lý thuyết về tâm lý học xã hội mô tả mối quan hệ giữa khoảng cách tâm lý,

mức độ mà con người cảm nhận, thấu hiểu, giải thích thế giới xung quanh và từ đó ra

quyết định (ví dụ, về các đối tượng và các sự kiện) là trừu tượng hoặc chi tiết.

Lý thuyết cấp độ cấu trúc nhận thức giải thích cách thức mà cá nhân đó lập kế

hoạch để thực hiện mục tiêu trong tương lai. Lý thuyết cho rằng, cá nhân đưa ra các

mục tiêu khác nhau của cùng một thông tin tùy thuộc vào thông tin liên quan đến

tương lai gần hay xa. Từ đó, cá nhân hình thành các cấu trúc trừu tượng cao hay thấp

về các sự kiện, mục tiêu, đối tượng trong tương lai.

Một dự báo tương lai là một cấu trúc tinh thần đại diện cho một đối tượng hoặc

một sự kiện về tâm lý xa xôi. Khoảng cách tâm lý này là kinh nghiệm chủ quan rằng

cái gì hoặc sự kiện nào đó gần gũi hoặc xa với thực tại (Trope & Liberman, 2010, tr.

440). Con người có thể vượt qua khoảng cách tâm lý khác nhau bằng các phương

pháp xây dựng cấu trúc (Trope & Liberman, 2010). Nếu các sự kiện hoặc dự định

diễn ra trong tương lai xa, chúng sẽ được hiểu ở mức cấp cao nghĩa là cá nhân rất mơ

hồ về ý định và vì vậy ý định sẽ mang tính trừu tượng, đơn giản, cá nhân rất dễ hình

thành ý định (Trope & Liberman, 2010). Ngược lại, các sự kiện xảy ra trong tương

37

lai gần được thể hiện mức độ cấu trúc cấp thấp, nghĩa là bối cảnh và thông tin sẽ chi

tiết hơn, rõ ràng hơn, cá nhân sẽ phải cân nhắc nhiều hơn trong việc hình thành ý

định.

Khoảng cách tâm lý (khoảng cách thời gian, không gian, xã hội, giả thuyết)

Xa

Gần

Cấp độ cấu trúc (Mục tiêu, con người, Sự kiện/tình huống)

Thấp

Cao

Cụ thể hóa Phức tạp Phi cấu trúc, rời rạc Bối cảnh hóa Thứ yếu, bề ngoài Phụ thuộc

Tổng quát hóa Đơn giản Cấu trúc, liền mạch Phi bối cảnh Chính yếu, cốt lõi Nổi trội

- - - - - - - Mục tiêu ít liên quan

- - - - - - - Mục tiêu liên quan mạnh

Nhận thức tính khả thi

Nhận thức mong muốn

Tác động

- Nhận thức - Đánh giá - Hành động

Hình 2.5: Mô hình lý thuyết cấp độ cấu trúc nhận thức Nguồn: Trope & Liberman (2010)

Yếu tố phản ảnh cấu trúc trừu tượng thấp hay cao của một cá nhân thể hiện

qua nhận thức tính khả thi (nhận thức thấp - feasibility) hay mong muốn (nhận thức

cao - desirability) và Trope & Liberman (2010) cho rằng, chúng chịu ảnh hưởng của

khoảng cách tâm lý. Có 4 loại khoảng cách: khoảng cách giữa bạn và người khác

(khoảng cách xã hội); hiện tại và tương lai (khoảng cách thời gian), vị trí thực tế của

bạn và những nơi xa xôi (khoảng cách không gian), hoặc tưởng tượng và trải nghiệm

(khoảng cách kinh nghiệm).

Cũng theo lý thuyết CLT, mục tiêu có thể được phân loại thành các mục tiêu

38

chi tiết (mục tiêu cấp thấp) và mục tiêu tổng quát (mục tiêu cấp cao) (Trope &

Liberman, 2010). Mục tiêu cấp thấp xem xét các chi tiết của một hành động, làm thế

nào, khi nào, ở đâu hành động này sẽ được thực hiện. Trong khi, mục tiêu cấp cao

liên quan đến tại sao hành động sẽ được thực hiện (Trope & Liberman, 2003). Các

cấu trúc trừu tượng đại diện cho tình trạng kết thúc mục tiêu tổng quát và các cấu trúc

chi tiết bao gồm các phương tiện cần thiết để đạt được mục tiêu tổng quát này (Trope

& Liberman, 2003). Ví dụ "vượt qua một kỳ thi" là một mục tiêu cấp cao có liên quan

đến khía cạnh "tại sao" trong khi "đọc" một quyển sách là một phương tiện để đạt

được mục tiêu này.

Tuy nhiên, mục tiêu tổng quát và mục tiêu chi tiết thường có mâu thuẫn với

nhau (Ülkümen & Cheema, 2011), vì mục tiêu chi tiết liên quan đến bối cảnh và trong

ngắn hạn và vì thế con người sẽ có xu hướng dễ thay đổi mục tiêu chi tiết bởi những

cám dỗ, khó khăn hoặc không kiên định khi có những tình huống phát sinh. Vì vậy,

lý thuyết CLT đề xuất 2 giải pháp giải quyết mâu thuẫn này. Đầu tiên là nâng cao

mức độ trừu tượng đối với mục tiêu chi tiết (Freund & cộng sự, 2010), làm nó trở nên

tổng quát hơn, có tầm nhìn hơn, tăng khả năng tự kiểm soát của một cá nhân chống

lại những cám dỗ không phù hợp với mục đích cuối cùng (Jenkins & Tapper, 2014).

Giải pháp thứ hai là hạ thấp mức độ trừu tượng các mục tiêu tổng quát để tạo ra một

cách tiếp cận thực tiễn hơn (Malkoc & cộng sự, 2010). Luận án sẽ tiếp cận theo giải

pháp thứ 2.

Giải pháp thứ 2 dựa trên việc cá nhân chuyển đổi mục tiêu trừu tượng (trả lời

câu hỏi vì sao) sang các kế hoạch hành động, đồng thời tăng cường sự gắn kết với

mục tiêu cụ thể nghĩa là họ làm một cái gì đó bởi vì họ thích nó và tự nguyện hoặc

do bản chất của công việc hấp dẫn, cuốn hút họ làm việc (Malkoc & cộng sự, 2010).

Mô hình nghiên cứu trong luận án này chỉ sử dụng khái niệm khoảng cách thời

gian, mà không sử dụng 3 khoảng cách còn lại, vì sự phức tạp trong đo lường đối với

khoảng cách không gian, khoảng cách xã hội, khoảng cách kinh nghiệm trong lĩnh

vực khởi nghiệp (Tumasjan & cộng sự, 2013). Hơn nữa, Trope & Liberman (2010)

cho rằng, các nghiên cứu dựa trên khoảng cách tâm lý hoàn toàn có thể sử dụng 1

39

trong 4 loại khoảng cách tùy theo bối cảnh nghiên cứu. Đồng thời, Kautonen & cộng

sự (2015) cho thấy 63% những người được khảo sát đã không có hoặc rất ít hành

động để khởi nghiệp dù rằng trước đó có ý định khởi nghiệp và nhóm tác giả này cho

rằng điều này có thể liên quan đến yếu tố thời gian.

2.2.5. Lý thuyết thiết lập mục tiêu – Goal setting theory of motivation (Locke &

Latham, 1990)

Lý thuyết thiết lập mục tiêu cho rằng, có 2 yếu tố quyết định nhận thức về hành

vi (hình 2.6): giá trị và ý định (mục tiêu). Trong khi mục tiêu được định nghĩa như

những gì cá nhân ý thức và cố gắng thực hiện và giá trị là những kết quả mà cá nhân

đó mong muốn đạt được. Các mục tiêu phải rõ ràng cụ thể (không chấp nhận mơ hồ),

nhưng cũng phải đầy thách thức, giúp nâng cao động cơ của cá nhân thực hiện để đạt

được. Mục tiêu càng chi tiết thì càng làm động cơ thực hiện hành vi càng cao, các

mục tiêu mơ hồ (ví dụ như: “cố gắng hết mức có thể”, “thành công lớn”… ) sẽ làm

giảm dần mức độ thúc đẩy của động cơ. Mục tiêu mang tính thách thức, không dễ

Kết quả

Thiết lập mục tiêu

Cảm xúc và mong muốn

Hành vi hoặc hiệu suất

dàng mới khiến cá nhân thấy hứng thú và có động cơ cao để thực hiện.

Tập trung, nỗ lực, kiên trì thực hiện mục tiêu

Các giá trị

Hình 2.6: Mô hình thiết lập và thực thi mục tiêu Nguồn: Locke & Latham (1990)

Có 2 yếu tố quan trọng điều tiết giữa mục tiêu cụ thể, đầy thách thức và mức

độ cao của động cơ. Thứ nhất, sự gắn kết với mục tiêu, càng nhiều khao khát gắn bó

với mục tiêu thì cá nhân càng nỗ lực hướng đến hoàn thành mục tiêu (ví dụ, một vận

động viên đang cố đạt được giải thưởng còn thiếu duy nhất để hoàn thành bộ sưu tập

giải thưởng cho sự nghiệp của mình). Thứ hai, tính hiệu quả tự thân (self efficacy),

đạt được các thành công và niềm tin đang đi đúng hướng giúp cá nhân càng gia tăng

động cơ thực hiện hành động.

40

Trong luận án này, lý thuyết thiết lập mục tiêu được sử dụng để giải thích và

củng cố mối quan hệ giữa cảm xúc, mong muốn của nhà khởi nghiệp với mức độ tập

trung, nỗ lực, kiên trì theo đuổi mục tiêu.

2.2.6. Mô hình về sự kiện khởi nghiệp cải tiến– Entrepreneurial Event model

(Krueger & cộng sự, 2000)

Krueger & cộng sự (2000) đã điều chỉnh mô hình của Shapero & Sokol (1982),

bằng việc đưa ra 3 yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp, đó là: nhận thức mong

muốn khởi nghiệp, nhận thức về tính khả thi và khuynh hướng hành động (propensity

to act) đề cập đến xu hướng hành động của một cá nhân đối với quyết định của họ

bằng cách thực hiện các hành động thích hợp (hình 2.10). Về cơ bản, mô hình không

có sự thay đổi nhiều so với mô hình cũ, xu hướng hành động được thay thế cho yếu

Nhận thức mong muốn

Ý định khởi nghiệp

Xu hướng hành động

Nhận thức khả thi

tố thay đổi trong cuộc sống trong mô hình của Shapero.

Hình 2.7: Mô hình sự kiện khởi nghiệp cải tiến Nguồn: Krueger & cộng sự (2000)

Cũng tương tự như mô hình của Krueger & Brazeal (1994), giai đoạn nhận

thức là giai đoạn mà cá nhân nhận dạng cơ hội xem khả năng có phù hợp với sự hấp

dẫn của cơ hội mang lại hay không. Tuy nhiên, cá nhân luôn phải tư duy, suy nghĩ,

đối chiếu, soi xét có phải là cơ hội thực sự phù hợp với cá nhân đó hay không và lý

thuyết này đã không đề cập đến quá trình này (Mathisen & Arnulf, 2013).

41

2.2.7. Một số lý thuyết về ý định khởi nghiệp

2.2.7.1. Lý thuyết dự định hành vi - Theory of planned behavior (TPB) (Ajzen,

1991)

Theo TPB, ý định của cá nhân được xác định bởi thái độ đối với hành vi (sau

đây gọi là ATB - Attitude toward behavior), tiêu chuẩn chủ quan (sau đây gọi là SB

– Subjective norm) và khả năng kiểm soát hành vi (sau đây gọi là PBC – Perceived

behavioral control) (xem hình 2.7).

Thái độ

Tiêu chuẩn chủ quan Hành vi khởi nghiệp Ý định khởi nghiệp

Khả năng kiểm soát hành vi

Hình 2.8: Mô hình dự định hành vi Nguồn: Ajzen (1991)

- ATB phản ánh nhận thức của một cá nhân về kết quả của một hành vi và mức

độ mà một cá nhân có một đánh giá thuận lợi hoặc không thuận lợi để thực hiện các

hành vi (Ajzen, 1991).

- Các tiêu chuẩn chủ quan là những niềm tin, giá trị, chuẩn mực và áp lực xã hội

có tính định hướng của những người quan trọng như gia đình, người thân, bạn bè,

cũng như các cá nhân và nhóm cá nhân quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến ý định

hành động hành vi của một cá nhân (Ajzen, 1991).

- PBC đề cập đến niềm tin của một cá nhân về việc có thể thực hiện hành vi dự

kiến và nhận thức rằng hành vi đó nằm trong sự kiểm soát của cá nhân.

2.2.7.2. Mô hình về sự kiện khởi nghiệp – Entrepreneurial Event model

(Shapero & Sokol, 1982)

Theo EEM, ý định khởi nghiệp phụ thuộc vào nhận thức mong muốn có ý thức,

42

khuynh hướng hành động và nhận thấy tính khả thi của nhà khởi nghiệp tiềm năng

(hình 2.8). Tuy nhiên, để ý định trở thành hiện thực thì cần có những biến cố trong

cuộc sống cá nhân đó như bất mãn công việc hiện tại, ly dị, mất việc… ., đây là các

nhân tố thụ động dưới dạng thúc đẩy hoặc dưới dạng chủ động tích cực như tìm được

đối tác tốt hoặc có hỗ trợ tài chính… là nhân tố kéo. Một người có thể thay đổi cuộc

sống nếu có sự tác động từ các nhân tố đẩy hoặc kéo, nhưng có dẫn tới hành vi khởi

nghiệp hay không hoặc họ có lựa chọn khác thì lại phụ thuộc vào nhận thức mong

muốn khởi nghiệp và nhận thức về khả năng của cá nhân đó (Nguyễn Thu Thủy,

Sự kiện khởi nghiệp

Nhận thức tính khả thi

Dư thừa thời gian

Có nguồn hỗ trợ tài chính

Sự kiện

khởi

nghiệp

2015).

Hình 2.9: Mô hình sự kiện khởi nghiệp Nguồn: Shapero & Sokol (1982).

Sự kiện khởi

nghiệp

Nhận thức mong muốn khởi nghiệp đề cập đến mức độ mà một cá nhân cảm

thấy bị thu hút để trở thành một doanh nhân và phản ánh sở thích cá nhân đối với

hành vi kinh doanh (Shapero & Sokol, 1982).

Nhận thức về tính khả thi là mức độ mà các cá nhân tin tưởng rằng họ có thể bắt

43

đầu kinh doanh riêng của họ và xem xét khả năng trở thành một doanh nhân nếu có

thể (Shapero & Sokol, 1982).

Giữa 2 khái niệm nhận thức mong muốn và nhận thức về tính khả thi lại tương

tác với nhau: nếu nhận thức việc khởi nghiệp là chưa khả thi hoặc tính khả thi thấp

thì có thể không đủ hấp dẫn cá nhân khởi nghiệp hoặc mong muốn khởi nghiệp. 2 yếu

tố nhận thức mong muốn và nhận thức về tính khả thi này chính là tiền đề cho khái

niệm tiềm năng khởi nghiệp sau này được Krueger và Brazeal (1994) đưa ra. Tuy

nhiên, khái niệm khả năng kiểm soát hành vi trong mô hình TPB khác với khái niệm

nhận thức về tính khả thi khởi nghiệp trong mô hình của Krueger và Brazeal (1994)

ở chỗ cảm nhận về khả năng kiểm soát hành vi không đơn thuần là dự cảm về việc

có thể thực hiện được hành vi mà còn cảm nhận về việc có khả năng kiểm soát hành

vi. Đây chính là giai đoạn nhận thức cơ hội xem khả năng có phù hợp với sự hấp dẫn

của cơ hội mang lại hay không và là giai đoạn của thái độ đối với cơ hội.

Tuy nhiên, cá nhân luôn phải tư duy, suy nghĩ, đối chiếu, soi xét một cách cẩn

trọng xem đó có phải là cơ hội thực sự phù hợp với cá nhân hay không và đây chính

là quá trình khác biệt giữa người khởi nghiệp và những người khác (hay còn gọi là

nhà khởi nghiệp tiềm năng). Lý thuyết về sự kiện khởi nghiệp đã không đề cập đến

giai đoạn nhà khởi nghiệp tiềm năng (Mathisen & Arnulf, 2013).

2.2.7.3. Mô hình tiềm năng khởi nghiệp - Entrepreneurial potential model

(Krueger & Brazeal, 1994)

Kế thừa từ mô hình Shapero & Sokol (1982), Krueger & Brazeal (1994) cho

rằng, khi cá nhân mong muốn khởi nghiệp và nhận thức về tính khả thi nếu có sự tác

động từ các yếu tố môi trường (nhân tố kéo hoặc đẩy) như trong mô hình của Shapero

thì tiềm năng khởi nghiệp sẽ thúc đẩy cá nhân có ý định khởi nghiệp.

44

Nhận thức mong muốn

Nhận thức khả thi

Hình 2.10: Mô hình tiềm năng khởi nghiệp Nguồn: Krueger & Brazeal (1994)

2.2.7.4. Mô hình ý định khởi nghiệp tích hợp – Mix entrepreneurial intentions

model (Schlaegel & Koenig, 2014)

Nghiên cứu trước đây đã lập luận rằng TPB và EEM có sự trùng lặp trong việc

giải thích ý định khởi nghiệp bởi sự sẵn sàng và năng lực của một cá nhân (Marco

van & cộng sự, 2008).

Schlaegel & Koenig (2014) đã tích hợp cả mô hình TPB và EEM vào trong

mô hình nghiên cứu của mình. Theo đó, các yếu tố trong mô hình TBP chính là tiền

đề của các yếu tố trong mô hình EEM (xem hình 2.11).

Nhận thức mong muốn (Perceived desirability)

Chuẩn chủ quan (SB)

Ý định khởi nghiệp

Thái độ hướng đến hành vi (ATB)

Nhận thức tính khả thi (Perceived feasibility)

Kiểm soát hành vi PBC

Năng lực cá nhân (self-efficacy)

Hình 2.11: Mô hình ý định khởi nghiệp tích hợp Nguồn: Schlaegel & Koenig (2014)

45

Nhận xét: Các lý thuyết nghiên cứu về ý định khởi nghiệp được trình bày ở

trên đã được nhiều nghiên cứu thực hiện, kiểm định thực tế và là nền tảng lý thuyết

được chấp nhận rộng rãi, phổ biến, đáng tin cậy, nhất là mô hình TPB và EEM

(Schlaegel & Koenig, 2014). Đặc biệt, mô hình TPB và EEM được vận dụng rất nhiều

trong các nghiên cứu về hành vi khởi nghiệp của sinh viên ĐH, là nhóm người chưa

có khả năng khởi nghiệp ngay sau khi ra trường (Nguyễn Thu Thủy, 2015). Tuy có

các quan điểm khác nhau trong định nghĩa các yếu tố dẫn tới ý định khởi nghiệp,

nhưng các mô hình ý định đều cho phép kết hợp 3 yếu tố quan trọng trong việc hình

thành ý định và hành vi khởi nghiệp: cá nhân, môi trường và nguồn lực, để lý giải

nguyên nhân dẫn tới khởi nghiệp có ưu điểm hơn so với lý thuyết nghiên cứu về tố

chất cá nhân - đã loại bỏ yếu tố môi trường trong giải thích hành vi khởi nghiệp (Hao

Zhao & cộng sự, 2010) hoặc ảnh hưởng trực tiếp bởi giáo dục về tinh thần kinh doanh

(Martin & cộng sự, 2013). Khi so sánh các hiệu ứng tác động cho thấy, các yếu tố

quyết định trong mô hình EEM hiệu quả lớn hơn và có sức mạnh dự đoán cao hơn so

với các yếu tố quyết định TPB (Schlaegel & Koenig, 2014). Tuy nhiên, việc đo lường

khái niệm ý định khởi nghiệp là tương đối phức tạp bởi quá trình hình thành ra nó và

cần phải có những nghiên cứu sâu hơn để có thể đo lường ý định khởi nghiệp tốt hơn.

Nhất là khi cá nhân luôn phải tư duy, suy nghĩ, đối chiếu, soi xét có nên hành động

khởi nghiệp hay không.

Thêm vào đó, lý thuyết TPB vẫn tồn tại một số khoảng trống trong việc dự

đoán các hành vi phức tạp của con người (Werner, 2004). Ngoài thái độ, chuẩn chủ

quan, kiểm soát hành vi cảm nhận (Ajzen, 1991), có thể có các yếu tố khác tác động

đến ý định và hành vi nếu nó là quá trình phức tạp như quá trình khởi nghiệp. Các

nghiên cứu trước đó cho thấy, xấp xỉ 40% sự biến thiên của ý định và hành vi của con

người được giải thích bằng lý thuyết TPB (Werner, 2004).

Ngoài ra, có thể tồn tại một khoảng cách thời gian giữa ý định và hành vi mà

mô hình TPB chưa thể giải thích (Werner, 2004). Trong khoảng thời gian này các ý

định của một cá nhân hoàn toàn có thể thay đổi mà không tiến hành ý định như dự

kiến. Cuối cùng lý thuyết TPB cho rằng, hành động của một cá nhân luôn dựa trên

46

các điều kiện có kế hoạch ban đầu. Tuy vậy, con người thường luôn luôn hành động

không như dự kiến, mà cá nhân đó phải luôn tư duy để thích ứng với sự thay đổi của

môi trường (Werner, 2004).

2.3. Một số hướng nghiên cứu có liên quan đến ý định khởi nghiệp và ý định

hành động khởi nghiệp

2.3.1. Ý định khởi nghiệp

Để có thể hiểu rõ hơn về khởi nghiệp, luận án sẽ tiếp cận bắt đầu từ các mô

hình ý định. Các nghiên cứu về ý định cho rằng, ý định là một yếu tố dự báo trước và

có ý nghĩa về hành vi của một người (Kautonen & cộng sự, 2013). Do đó, nắm bắt

nguồn gốc của ý định sẽ giúp dự đoán hành vi. Để giải quyết vấn đề này, các nhà

nghiên cứu đã xác định tiền đề của ý định, các mô hình phát sinh ý định. Khả năng

áp dụng các mô hình ý định đối với lĩnh vực khởi nghiệp đã được Kautonen & cộng

sự (2013) chứng minh, trong đó có nhiều nghiên cứu về ý định khởi nghiệp, tiền thân

và các yếu tố tác động của nó (De Clercq & cộng sự, 2013).

Cụ thể, trong hơn 40 năm qua, các tác giả đã làm việc trên các mô hình để hiểu

rõ hơn các hành vi. Nổi tiếng nhất là lý thuyết hành động hợp lý (TRA) của Ajzen &

Fishbein (1975), sau đó được phát triển bởi Ajzen (1991) và được biết đến như là lý

thuyết về dự định hành vi có kế hoạch (TPB). Trong TRA, các ý định được xác định

bởi thái độ đối với hành vi và các định mức chủ quan và Ajzen (1991) đã hoàn thành

mô hình này bằng cách thêm tiền đề thứ 3 của ý định: nhận thức kiểm soát hành vi.

47

Bảng 2.3: Lược khảo tóm tắt một số công trình nghiên cứu liên quan.

van &

Lý thuyết nền Lý thuyết dự định hành vi (TPB) Ajzen (1991); Lý thuyết sự kiện khởi nghiệp (Krueger & cộng sự, 2000)

Nghiên cứu Marco cộng sự (2008); Do Paço & cộng sự (2011); Bùi Thị Thanh & Nguyễn Xuân Hiệp (2016)

Fitzsimmons & Douglas (2011);

Nhận xét Sử dụng các yếu tố có sẵn trong lý thuyết để kiểm định cho sinh viên ĐH hoặc trung học đến từ các nước phát triển (Đức, Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha) hoặc các nước có nền kinh tế đang phát triển (Việt Nam, Romania, Ukraine , Malaysia, Trung Quốc, Tunisia, Ethiopia, Afghanistan, Peru,). Sự hình thành ý định khởi nghiệp là quá trình phức tạp, cần kết hợp các mô hình ý định truyền thống và một số lý thuyết mới với mô hình truyền thống để giải thích tốt hơn. Ví dụ như (Krueger, 2009) đề xuất kết hợp với lý thuyết nhận thức xã hội nghề nghiệp hoặc lý thuyết mong đợi (Kahneman & Tversky, 1979), lý thuyết hiệu quả (Sarasvathy, 2001). Nhận xét: Các nghiên cứu này nghiên cứu các yếu tố thuộc về thái độ, chuẩn chủ quan và kiểm soát hành vi tác động đến ý định khởi nghiệp. Đối tượng nghiên cứu là sinh viên, tuy nhiên cũng chỉ dừng lại ở ý định khởi nghiệp (ý định mục tiêu) thì sự biến thiên tác động của ý định khởi nghiệp lên hành vi là không nhiều Nghiên cứu sự tương tác giữa nhận thức mong muốn khởi nghiệp và tính khả thi ảnh hưởng ngược chiều Lý thuyết dự định hành vi (TPB) Ajzen (1991); Lý thuyết sự kiện khởi

48

nghiệp (Krueger & cộng sự, 2000)

Nabi & Liñán (2013) Lý thuyết dự định hành vi (TPB) Ajzen (1991)

Lý thuyết dự định hành vi (TPB) Ajzen (1991)

Bhandari (2012) ; Hadjimanolis & Poutziouris đến ý định khởi nghiệp. Nhận xét: Nghiên cứu này chủ yếu sử dụng lý thuyết sự kiện khởi nghiệp của Krueger & cộng sự, (2000) và chỉ dừng lại ở mức độ tương tác giữa nhận thức mong muốn khởi nghiệp và tính khả thi đến biến phụ thuộc là ý định khởi nghiệp. Vì vậy, nghiên cứu cũng chỉ dừng lại ở giai đoạn động lực mà chưa chuyển sang giai đoạn lập kế hoạch, hành động, và vì vậy vai trò sức mạnh tiên đoán của ý định vẫn sẽ giảm xuống Nghiên cứu được đặt trong bối cánh kinh tế suy thoái dẫn đến nhà khởi nghiệp tiềm năng sẽ biến rủi ro thành 2 dạng: cơ hội và nguy cơ, từ đó sẽ ảnh hưởng đến thái độ, kiểm soát hành vì và ý định khởi nghiệp đổi mới sáng tạo (start-up) Nhận xét: nghiên cứu này trong bối cảnh suy thoái, đây là 1 gợi ý rất thú vị, vì suy thoái có thể vừa là cơ hội vừa là nguy cơ tùy thuộc vào tư duy của nhà khởi nghiệp. Tuy nhiên, chưa giải thích được vì sao cùng là bối cảnh suy thoái thì có người xem đó là cơ hội, người khác xem đó là nguy cơ, mà vai trò tư duy khởi nghiệp có thể giải thích được trường hợp này. Nghiên cứu mối quan hệ giữa nền tảng gia đình và ý định khởi nghiệp.

49

(2011)

Lý thuyết dự định hành vi (TPB) Ajzen (1991)

Guerrero & cộng sự (2008); Bùi Thị Thanh & Nguyễn Xuân Hiệp (2016); Ozgen & Minsky (2013); Ali Dehghanpour (2013); Rideout & Gray (2013); Sánchez (2013) De Clercq & cộng sự (2013)

Lý thuyết dự định hành vi (TPB) Ajzen (1991); Lý thuyết sự kiện khởi nghiệp (Krueger & cộng sự, 2000).

Gird & Bagraim (2008) Lý thuyết dự định hành vi (TPB) Ajzen (1991)

Nhận xét: Nghiên cứu này tập trung nhiều vào tính cách và tình trạng nhân khẩu học của sinh viên tác động đến ý định khởi nghiệp. Đây tiếp tục là nghiên cứu chỉ dừng lại giai đoạn của động lực và các điều kiện gia đình của các nhà khởi nghiệp tiềm năng.Tuy vậy, không nhiều người có được bối cảnh gia đình thuận lợi để khởi nghiệp Nghiên cứu mối quan hệ giữa nền tảng giáo dục và ý định khởi nghiệp. Nhiều nghiên cứu thực nghiệm cho rằng, có khác biệt về thái độ và ý định khởi nghiệp khi tham gia vào các chương trình giáo dục khởi nghiệp (Zhao & cộng sự, 2005). Nhận xét: cách tiếp cận này mức độ tác động từ các yếu tố giáo dục không bằng cách tiếp cận thái độ, động cơ (Martin & cộng sự, 2013), và một lần nữa ý định chỉ ở dạng ý định khởi nghiệp nếu đặt trong bối cảnh khởi nghiệp thì tác động của ý định mục tiêu đến hành động là đáng nghi ngờ. Nghiên cứu mối quan hệ giữa yếu tố kinh nghiệm và ý định khởi nghiệp. Nhận xét: Cách tiếp cận này mức độ tác động không bằng cách tiếp cận thái độ, động cơ (Martin & cộng sự, 2013). Tuy vậy yếu tố kinh nghiêm là một gợi ý cần thiết để

50

hình thành nên thái độ gắn kết với khởi nghiệp cho luận án này.

ngoại

Hao Zhao & cộng sự (2010) ; Saeed & cộng sự (2013).

trải nghiệm

lý ổn

Đưa ra 05 cá tính lớn: - hướng extraversion, tận tâm – conscientiousness; dễ chịu - agreeableness, sẵn sàng - openness to experience; – bất tâm neuroticism, ảnh hưởng đến khởi nghiệp Các yếu tố khác như: khả năng chịu rủi ro; kiểm soát bản thân; thích đổi mới sáng tạo; sự thích ứng for (proclivity improvisation)

Ghulam & Francisco (2013); Zellweger & cộng sự (2011); Ahmed & cộng sự (2010); Hayton & Cholakova (2012)

Choo & Wong (2006) Lý thuyết dự định hành vi (TPB) Ajzen (1991)

Nghiên cứu mối quan hệ giữa đặc tính cá nhân như: hướng ngoại, tận tâm, sẵn sàng trãi nghiệm, chủ nghĩa cá nhân, không sợ rủi ro, kiên trì,.. ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp Nhận xét: Có quá nhiều yếu tố đặc điểm cá nhân được đưa ra trong mỗi nghiên cứu khác nhau dẫn đến không thống nhất. Ngoài ra, đặc điểm cá nhân khó thay đổi theo bối cảnh và thời gian, trong khi khởi nghiệp phải luôn thay đổi để thích nghi. Tuy vậy, có 1 số yếu tố như không sợ rũi ro, kiên trì là cơ sở suy diễn yếu tố sự gắn kết đối với khởi nghiệp khi gặp khó khăn trong quá trình lập kế hoạch hành động kiên trì vượt qua. Nghiên cứu về ảnh hưởng của các rào cản nhận thức về ý định khởi nghiệp là không nhiều. Đó là nhận thức về thiếu vốn, thiếu kỹ năng và các vấn đề về hoạt động khác góp phần làm giảm ý định. Nhận xét: Rủi ro là 1 trong những yếu tố thường xuyên xuất hiện trong quá trình khởi nghiệp, tuy vây, rủi ro có thể biến thành cơ hội hoặc nguy cơ tùy thuộc vào tư duy của nhà khởi nghiệp (Nabi & Liñán, 2013). Một số người sẽ xem

51

Lý thuyết dự định hành vi (TPB) Ajzen (1991)

Moriano & cộng sự (2011); Todd & cộng sự (2011); Robert & cộng sự (2010) ; Tatiana & cộng sự (2011)

đó là cơ hội, một số khác xem là nguy cơ. Nếu là cơ hội sẽ tác động dương đến ý định khởi nghiệp, nếu nguy cơ thì sẽ tác động ngược chiều đến ý định, vì vậy, nghiên cứu này chỉ thấy được nguy cơ mà không thấy được cơ hội, và khi đó vai trò của yếu tố tư duy sẽ quyết định trong trường hợp này. Các yếu tố môi trường, văn hóa, thể chế và các tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp. Nhận xét: cần có nhiều nghiên cứu kiểm tra sự không đồng nhất giữa các bối cảnh ở các quốc gia (Zahra & Wright, 2011) do sự tương tác giữa nhiều cấp độ của các thể chế trong việc xác định ý định khởi nghiệp. Môi trường, văn hóa, thể chế có hỗ trợ tốt cho nhà khởi nghiệp thế nào nhưng nhà khởi nghiệp không có tư duy khởi nghiệp để nhận ra các cơ hội khởi nghiệp thì rất khó biến cơ hội thành hành động, vì có nhiều người có tư duy thận trọng dẫn đến không bao giờ khởi nghiệp.

Nguồn: Tổng hợp của tác giả

Kể từ đầu những năm 1990, các tác giả khác nhau đã lấy cảm hứng từ các mô

hình ý định trên để nghiên cứu ý định khởi nghiệp và tiền thân của nó như là điểm

xuất phát của quá trình khởi nghiệp. Ngay cả khi các nhà nghiên cứu khởi nghiệp áp

dụng TPB của Ajzen trong nghiên cứu của mình, một số người đã phát triển mô hình

ý định của riêng họ. Ví dụ, Shapero & Sokol (1982) đã phát triển mô hình sự kiện

52

khởi nghiệp (EEM), Bird (1988) mô hình thực hiện các ý tưởng khởi nghiệp và mô

hình kế thừa từ mô hình EEM của Krueger & cộng sự (2000). Mô hình có ảnh hưởng

nhất trong khởi nghiệp là mô hình sự kiện khởi nghiệp (EEM) của Krueger & cộng

sự (2000) và lý thuyết hành vi theo kế hoạch của Ajzen (1991), trong đó mô tả các

mô hình ý định được xây dựng trong tâm lý học xã hội và trong lĩnh vực khởi nghiệp.

Cuối cùng, cả 2 mô hình đều cung cấp một sự diễn giải tương tự các ý định khởi

nghiệp (Lee & cộng sự, 2011), nghĩa là các tiền đề của khởi nghiệp được đưa ra gần

tương tự nhau. Mặc dù một số nhà nghiên cứu đã cố gắng tìm ra các yếu tố quyết định

khác, nhưng họ chỉ tìm thấy những tác động gián tiếp đến ý định khởi nghiệp (Liñán

& cộng sự, 2011). Sau đây là một số hướng nghiên cứu chính về ý định khởi nghiệp

được tổng hợp như sau:

- Thứ nhất tiếp cận từ khía cạnh tâm lý xã hội, nhằm phân tích các hành vi nói

chung và làm sáng tỏ quá trình nội tâm – mental process (chủ yếu dựa vào sự phân

tích cảm giác và cảm xúc thông qua quá trình tự xem xét nội tâm - một quá trình

mang tính chủ quan) từ thái độ, niềm tin đến hành động của cá nhân. 2 nghiên cứu

liên quan đến hình thành ý định khởi nghiệp ví dụ của Ajzen (1991) và của Bandura

(1997). Trong đó, lý thuyết về dự định hành vi (TPB) của Ajzen (1991) đã trở thành

một trong những lý thuyết được sử dụng rộng rãi nhất trong tâm lý học xã hội nói

chung (Ajzen, 2012).

- Thứ hai, là các lý thuyết cụ thể cho lĩnh vực khởi nghiệp (Bird, 1988; Shapero

& Sokol, 1982). Cách tiếp cận này nhấn mạnh sự tương tác giữa yếu tố quá trình tư

duy (mental process) và các chất xúc tác là các nhân tố kéo hoặc đẩy. Trên nền tảng

đó, Krueger & Brazeal (1994) đã kết hợp lý thuyết TPB và lý thuyết về sự kiện kinh

doanh (EEM) của Shapero & Sokol (1982) để đưa ra mô hình mới là mô hình tiềm

năng khởi nghiệp. Còn Boyd & Vozikis (1994) lần lượt phát triển từ mô hình Bird

(1988) và làm cho nó hội tụ với mô hình TPB.

- Thứ ba, bổ sung các yếu tố tiền đề vào mô hình ý định khởi nghiệp dựa trên

nền tảng 2 hướng trên. Đó là vai trò của giáo dục; hoặc tác động của các yếu tố môi

trường, văn hóa, thể chế và các tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp; hay như ảnh hưởng của

53

đặc điểm tính cách.

- Cuối cùng, sử dụng các khung lý thuyết mới: xem xét các lý thuyết thay thế

hoặc sửa đổi đáng kể so với các mô hình ý định truyền thống. Một số đề xuất gần với

mô hình ý định truyền thống, chẳng hạn như lý thuyết về kỳ vọng (Maija & cộng sự,

2012) hoặc lý thuyết nhận thức xã hội (Hechavarria & cộng sự, 2012). Quan (2012)

đề xuất sự khác biệt giữa ý định khởi nghiệp theo tư duy bốc đồng và tư duy cẩn

trọng, tùy theo cách tiếp cận mà các biến giải thích ý định sẽ khác nhau. Gartner

(2010) lần lượt đề xuất mô hình ý định/hành động kết hợp với điều kiện tình huống

như một hướng nghiên cứu mới trong khởi nghiệp. Ngoài ra, dùng các lý thuyết thay

thế để kiểm tra, chẳng hạn như lý thuyết quyết định nghề nghiệp (Hirschi, 2013), lý

thuyết trao đổi (Manolova & cộng sự, 2012) hoặc tương tác giữa con người, quy trình,

nguồn lực và môi trường (Kessler & Frank, 2009). Nhưng nhìn chung, các kết quả

của họ cho thấy, không có sự vượt trội so với mô hình ý định truyền thống.

Ở Việt Nam đã có một số nghiên cứu về ý định khởi nghiệp như nghiên cứu

của Hoàng Thị Phương Thảo & Bùi Thị Thanh Chi (2013); Trần Văn Thắng (2011);

Bùi Thị Thanh & Nguyễn Xuân Hiệp (2016). Một số nghiên cứu về môi trường kinh

doanh Việt Nam và tìm hiểu các yếu tố cản trở khởi nghiệp như nghiên cứu của VCCI

(2009); Lê Quân (2007). Gần đây nghiên cứu của Lê Ngọc Thông (2013) về tinh thần

khởi nghiệp của sinh viên chương trình tiên tiến chất lượng cao của trường ĐH Kinh

tế Quốc dân, nhưng không tiếp cận theo lý thuyết dự định hành vi, hay nghiên cứu

của Huỳnh Đinh Thái Linh & cộng sự (2016) sử dụng lý thuyết sự kiện khởi nghiệp,

nhưng cũng chỉ dừng ở mức ý định. Một số nghiên cứu khác tiếp cận ở dạng động cơ

khởi nghiệp như nghiên cứu của Nguyễn Hoàng Kiệt (2016), năng lực khởi nghiệp

của Nguyễn Quang Thu & cộng sự (2016). Tuy vậy, theo hiểu biết của tác giả, tại

Việt Nam cũng chưa tìm thấy nghiên cứu về mối quan hệ giữa nhận thức, tư duy, gắn

kết và ý định hành động khởi nghiệp.

Nhận xét: Có thể thấy rằng, các nghiên cứu thực nghiệm về ý định khởi nghiệp

trước đây phần lớn đều chỉ dừng ở giai đoạn tạo động lực, hay theo cách gọi của

54

Gollwitzer & Keller (2012, 2016) là ý định mục tiêu. Nếu chỉ dừng lại ở giai đoạn ý

định mục tiêu thì khả năng chuyển từ ý định sang khởi nghiệp là đáng nghi ngờ (Van

Gelderen, 2015). Vì vậy để tăng khả năng hành động khởi nghiệp cần phải chuyển

sang giai đoạn của ý chí và gắn kết với mục tiêu khởi nghiệp để hình thành nên ý định

hành động khởi nghiệp thì khoảng cách giữa ý định và hành động khởi nghiệp mới

có khả năng thu hẹp lại (Fayolle & Liñán, 2014).

2.3.2. Ý định hành động khởi nghiệp

Các nghiên cứu thực nghiệm về khoảng cách giữa ý định hành động khởi

nghiệp được chú ý trong thời gian gần đây. Mặc dù, giữa ý định và hành vi có mối

tương quan 0,90 – 0,96 (Ajzen & cộng sự, 2009), tuy nhiên, ý định khởi nghiệp (ý

định mục tiêu) trong các nghiên cứu về khởi nghiệp trước đây chỉ giải thích được

27% biến thiên của hành vi (Armitage & Conner, 2001). Từ nhận định này đã gợi ý

cho tác giả tiến hành tổng quan về vai trò của yếu tố ý định hành động khởi nghiệp

thông qua các lý thuyết và các nghiên cứu thực nghiệm có liên quan.

Năm 1987, Mô hình các giai đoạn hành động được Heckhausen & Gollwitzer

(1987) được đưa ra giúp phân biệt giữa 2 loại ( xem thêm hình 2.1), đó là ý định mục

tiêu và ý định hành động. Đến 1993, Gollwitzer (1993) đã tiến hành một số nghiên

cứu sơ bộ về ý định mục tiêu và ý đinh hành động đối với một số hành vi và cho rằng

ý định hành động có thể thu hẹp khoảng cách giữa ý định và hành động.

Năm 2006, Gollwitzer & Sheeran (2006) từ 94 nghiên cứu thực nghiệm khác

nhau về ý định hành động cho thấy ý định hành động có thể giải thích đến 65% biến

thiên của hành vi. Trong phần lược khảo hệ thống lý thuyết của nghiên cứu này cho

rằng, ý định hành động giúp vượt qua 3 trở ngại để biến ý định thành hành động, và

yếu tố này cũng phù hợp trong bối cảnh khởi nghiệp. Các trở ngại lần lượt là: yếu tố

thứ 1, không kiên trì với mục tiêu; yếu tố thứ 2, không nhận thức và nắm bắt cơ hội;

yếu tố thứ 3, thất bại trong quá trình hành động khi có sẵn các lựa chọn khác tốt hơn.

Tuy vậy, nghiên cứu này cũng chỉ dừng lại ở mức nghiên cứu tổng hợp các loại hành

vi khác nhau, tuy có nhận định ý định hành động có thể sẽ có hiệu quả đối với hành

55

vi khởi nghiêp nhưng chưa thể khẳng định được vì chưa được kiếm định thông qua

nghiên cứu định lượng.

Năm 2012, Gollwitzer & Keller (2012) đã đưa ra lý thuyết về tư duy các giai

đoạn hành động (xem thêm hình 2.3) và cho rằng, việc theo đuổi mục tiêu có thể được

chia thành 4 giai đoạn hành động nối tiếp nhưng khác biệt, mỗi giai đoạn đặt ra những

yêu cầu và thách thức riêng

Năm 2013, Carraro & Gaudreau (2013) trong nghiên cứu tổng kết tiếp tục

khẳng định ý định hành động có hiệu quả trong việc chuyển thành hành động. Tuy

vậy, nghiên cứu này chỉ nghiên cứu đối với với những hành vi hoạt động thể chất mà

chưa đề cập đến lĩnh vực khởi nghiệp.

Năm 2015, nghiên cứu dạng tình huống đa thời điểm của Adam & Fayolle

(2015), cho rằng ý định hành động khởi nghiệp có vai trò điều tiết đối với quan hệ

giữa gắn kết với khởi nghiệp và hành vi khởi nghiệp. Tuy nhiên cứu này chỉ dừng lại

ở dạng nghiên cứu tình huống (case study).

Nghiên cứu của Kautonen & cộng sự (2015) cho thấy ý định trong các nghiên

cứu trước đây không đủ mạnh để tiến hành khởi nghiệp. 63% những người được khảo

sát đã không có hoặc rất ít hành động để khởi nghiệp.

Năm 2018, trong nghiên cứu của Van Gelderen & cộng sự (2018) cho thấy ý

định hành động đóng vai trò là yếu tố trung gian giữa ý định mục tiêu và hành vi khởi

nghiệp. Tuy nghiên nghiên cứu này chỉ nghiên cứu mối quan hệ giữa ý định mục tiêu,

ý định hành động và hành vi khởi nghiệp, mà không đề cập đến các yếu tố tiền đề về

gắn kết và tư duy khởi nghiệp.

Năm 2019, Esfandiar & cộng sự (2019) đã kết hợp lý thuyết TPB Ajzen (1991)

và Krueger & cộng sự (2000) để hình thành nên mô hình các yếu tố tiền đề tác động

đến ý định mục tiêu và ý định hành động khởi nghiệp. Tuy nhiên, nghiên cứu này

cũng không đề cập đến các yếu tố trung gian giữa ý định mục tiêu và ý định hành

động là tư duy khởi nghiệp, gắn kết với khởi nghiệp.

Nhận xét: vai trò của ý định hành động đối với hành vi đã được các nghiên

56

cứu trước đó khẳng định. Tuy nhiên, các nghiên cứu này không đề cập đến yếu tố gắn

kết khởi nghiệp, tư duy khởi nghiệp được xem là có vai trò kết nối trung gian rất quan

trọng giữa mối quan hệ giữa ý định mục tiêu và ý định hành động.

2.4. Giả thuyết nghiên cứu và mô hình nghiên cứu đề xuất

2.4.1. Các giả thuyết nghiên cứu

Mối quan hệ giữa tư duy khởi nghiệp và ý định hành động khởi nghiệp

Sức mạnh của ý định hành động trong việc nối kết giữa tư duy và hành vi lần

đầu tiên được Gollwitzer kiểm tra và sau đó có nhiều nghiên cứu thực nghiệm khác.

Mục tiêu khởi nghiệp được theo đuổi sẽ thành công hơn khi kết hợp với các ý định

hành động (Gollwitzer & Brandstätter, 1997). Nó tạo ra một liên kết chặt chẽ giữa

các tín hiệu và các hành vi trong trí nhớ và mục đích thực hiện sẽ làm tăng khả năng

thực hiện ý định (Gollwitzer & Brandstätter, 1997).

Nghiên cứu của Nabi & Liñán (2013) cho thấy suy thoái vừa là cơ hội vừa là

nguy cơ tùy thuộc vào tư duy của nhà khởi nghiệp, từ đó có ảnh hưởng cùng chiều

đến ý định khởi nghiệp nếu là cơ hội, ngược chiều nếu nó là nguy cơ, điều này giúp

phân biệt giữa nhà khởi nghiệp tiềm năng và những người khác mà vai trò tư duy

khởi nghiệp có thể giải thích được trường hợp này. Một nghiên cứu khác của Choo

& Wong (2006) cho thấy rủi ro là một trong những yếu tố thường xuyên xuất hiện

trong quá trình khởi nghiệp. Một số người xem rủi ro như là cơ hội, một số khác xem

là nguy cơ. Nếu là cơ hội sẽ tác động dương đến ý định, nếu nguy cơ thì sẽ tác động

ngược chiều đến ý định, vì vậy, nghiên cứu này chỉ thấy được nguy cơ mà không thấy

được cơ hội, khi đó vai trò của yếu tố tư duy sẽ quyết định trong trường hợp này.

Trong một nghiên cứu khác của Esfandiar & cộng sự (2019), nhận thức mong muốn

khởi nghiệp và nhận thức khả năng khởi nghiệp là yếu tố tiền đề tác động đến khả

năng nhận dạng các cơ hội khởi nghiệp, một khi có khả năng nhận dạng được cơ hội

khởi nghiệp họ càng có xu hướng khởi nghiệp cao hơn.

Tuy nhiên, khi nào, bằng cách nào ý định hành động hiệu quả trong việc dẫn dắt

hành động. Đặc biệt, dạng hành vi tương đối phức tạp như khởi nghiệp thì cần có khả

57

năng nhận dạng và khai thác các cơ hội khởi nghiệp (Verplanken & Faes, 1999).

Mathisen & Arnulf (2013) xác nhận rằng, tư duy khởi nghiệp làm tăng khả năng hành

động và hiệu quả của nó cũng không giảm theo thời gian, tư duy khởi nghiệp cũng có

thể giúp giải quyết một cách hiệu quả sự lo lắng, những cảm xúc tiêu cực (Mathisen

& Arnulf, 2013). Hơn nữa, lý thuyết tư duy các giai đoạn hành động của Gollwitzer

& Keller (2012, 2016) cho rằng, cá nhân nào càng có tư duy khởi nghiệp thì cá nhân

đó càng hình thành ý định hành động. Như vậy, căn cứ vào những phân tích trên, giả

thuyết H1 được phát biểu như sau:

Giả thuyết H1: Tư duy khởi nghiệp sẽ có tác động cùng chiều đến ý định

hành động khởi nghiệp.

Mối quan hệ giữa gắn kết với khởi nghiệp và ý định hành động khởi

nghiệp

Ý định hành động chỉ có hiệu quả nếu cá nhân gắn kết và kiên định với lựa

chọn khởi nghiệp của mình (Wiedemann & cộng sự, 2009). Do đó, việc hình thành ý

định hành động mà không có động lực mạnh hay gắn kết sẽ không làm tăng khả năng

hành động (Sheeran & Webb, 2016). Ý định không làm tăng khả năng đạt được mục

tiêu khi mục tiêu là yếu. Theo đề xuất của Prestwich & cộng sự (2003) trong nghiên

cứu của họ về ý định hành động thúc đẩy hành vi, “cải thiện động lực để thực hiện

ngay trước khi ý định hành động được hình thành, cũng tăng gắn kết với ý định hành

động".

Các nghiên cứu của Ghulam & Francisco (2013); Zellweger & cộng sự (2011);

Ahmed & cộng sự (2010); Hayton & Cholakova (2012) cho thấy những người có các

đặc tính như không sợ rũi ro, kiên trì sẽ luôn gắn kết với quá trình khởi nghiệp của

họ, bất chấp những bất lợi phát sinh trong quá trình khởi nghiệp. Đây được xem là

yếu tố rất quan trọng giúp nhà khởi nghiệp vượt qua các giai đoạn khó khăn, ngay cả

họ có những lựa chọn nghề nghiệp tốt hơn để kiên trì với ý định khởi nghiệp của

mình.

Ngoài ra, theo lý thuyết thiết lập mục tiêu, sự gắn kết, khao khát với mục tiêu

58

càng nhiều thì cá nhân càng nỗ lực hướng đến hoàn thành mục tiêu (ví dụ, một vận

động viên đang cố đạt được giải thưởng còn thiếu để hoàn thành bộ sưu tập giải

thưởng cho sự nghiệp của mình). Lý thuyết tư duy các giai đoạn hành động của

Gollwitzer & Keller (2012, 2016) cho rằng, cá nhân càng quyết tâm, kiên định gắn

kết với mục tiêu hành động thì càng kiên định gắn kết với mục tiêu hành động. Như

vậy, căn cứ vào những phân tích trên, giả thuyết H2 được phát biểu như sau:

Giả thuyết H2: Gắn kết với khởi nghiệp có tác động cùng chiều đến ý định

hành động

Mối quan hệ giữa tư duy khởi nghiệp và gắn kết với khởi nghiệp

Gắn kết với khởi nghiệp là nhận thức về kế hoạch thực hiện, thời gian, công

sức, chi phí và lợi ích gắn liền với việc tiếp tục hay rời bỏ ý định khởi nghiệp. Những

người có tư duy khởi nghiệp sẽ có suy nghĩ, nhận thức gần hơn với mục tiêu đã định

hướng khởi nghiệp trước đó bằng những kế hoạch khởi nghiệp chi tiết, cụ thể và họ

sẽ càng gắn kết, kiên định với mục tiêu hơn. Nghiên cứu của Gird & Bagraim (2008),

yếu tố kinh nghiệm nếu tích lũy càng nhiều sẽ càng trở thành nhà khởi nghiệp tiềm

năng và có được tư duy của nhà khởi nghiệp, từ đó sẽ giúp họ luôn kiên trì gắn kết

với các dự án khởi nghiệp của mình vượt qua các khó khăn gặp phải. Ngoài ra, trong

nghiên cứu của Nabi & Liñán (2013), có sự phân biệt giữa nhà khởi nghiệp tiềm năng

và những người khác thông qua việc biến những điều bất lợi (ví dụ như suy thoái)

thành cơ hội hoặc là nguy cơ, điều này phụ thuộc vào tư duy của họ. Nhà khởi nghiệp

tiềm năng luôn có khả năng nhìn ra những cơ hội trong khó khăn, cơ hội được phát

hiện trong những hoàn cảnh như thế này sẽ mang lại nhiều giá trị cho nhà khởi nghiệp,

và họ sẽ có xu hướng kiên trì, gắn kết biến cơ hội thành hành động.

Như vậy, theo lý thuyết thiết lập mục tiêu và lý thuyết gắn kết, cá nhân càng

có tư duy khởi nghiệp thì càng kiên định với mục tiêu của mình mà không còn con

đường nào khác là hướng đến hành vi khởi nghiệp. Lý thuyết tư duy các giai đoạn

hành động của Gollwitzer & Keller (2012, 2016) cho rằng, cá nhân càng có tư duy

khởi nghiệp thì cá nhân đó càng quyết tâm, kiên định gắn kết với mục tiêu hành động.

Với những phân tích trên, giả thuyết được đặt ra H3 như sau:

59

Giả thuyết H3: Tư duy khởi nghiệp có tác động cùng chiều đến gắn kết với

khởi nghiệp.

Mối quan hệ giữa nhận thức khởi nghiệp và ý định hành động khởi nghiệp

Lý thuyết về dự định hành vi của Ajzen (1991) cho rằng, hành vi của con người

là kết quả của ý định và khả năng kiểm soát của họ. Trong khi ý định chịu tác động

bởi 3 yếu tố: (1) Thái độ nhận thức (thể hiện đánh giá tích cực hay tiêu cực của cá

nhân về khởi nghiệp về giá trị mà khởi nghiệp mang lại); (2) Chuẩn chủ quan (áp lực

xã hội, những người xung quanh); (3) Nhận thức kiểm soát hành vi (khả năng thực

hiện khởi nghiệp là dễ dàng hay khó khăn).

Lý thuyết tiềm năng khởi nghiệp của Krueger & Brazeal (1994), kế thừa từ

nghiên cứu của Shapero & Sokol (1982), cho rằng một cá nhân ham muốn khởi

nghiệp, nhận thức về tính khả thi khi khởi nghiệp thì sẽ có tiềm năng khởi nghiệp và

nếu có tác động của các nhân tố kéo hoặc đẩy thì tiềm năng khởi nghiệp sẽ thúc đẩy

cá nhân hình thành ý định khởi nghiệp.

Lý thuyết sự kiện khởi nghiệp Krueger & cộng sự (2000), kế thừa từ nghiên

cứu của Shapero & Sokol (1982), đưa ra 3 yếu tố tác động tới ý định của cá nhân. Đó

là, mong muốn khởi nghiệp, nhận thức về tính khả thi và xu hướng hành động. Cơ

bản, mô hình này không có sự thay đổi nhiều so với mô hình của Shapero & Sokol

(1982), xu hướng hành động được thay thế các biến đổi theo đó.

Trong nghiên cứu của Schlaegel & Koenig (2014), kết hợp giữa 2 mô hình

Ajzen (1991) và Krueger & cộng sự (2000) ảnh hưởng đến hành vi thì yếu tố thái độ,

chuẩn chủ quan, kiểm soát hành vi tác động đến nhận thức mong muốn khởi nghiệp.

Nhận thức mong muốn khởi nghiệp lại có tác động đến nhận thức khả năng khởi

nghiệp. Nói một cách khác, các yếu tố trong mô hình TPB (Ajzen, 1991) là tiền tố

của các yếu tố trong mô hình Krueger & cộng sự (2000), lúc này nhận thức khả năng

khởi nghiệp, nhận thức mong muốn khởi nghiệp trở thành yếu tố ảnh hưởng mạnh

đến ý định khởi nghiệp.

Một số mô hình nghiên cứu thực nghiệm đã giải thích mối quan hệ giữa các

60

đặc điểm của cá nhân và ý định khởi nghiệp chủ yếu dựa vào 2 mô hình chính là mô

hình EEM của Krueger & cộng sự (2000) và TPB Ajzen (1991). Trong khi mô hình

EEM thì 3 yếu tố nhận thức mong muốn khởi nghiệp, xu hướng hành động và nhận

thức tính khả thi tác động đến ý định khởi nghiệp thì ngược lại, mô hình TPB ý định

khởi nghiệp chịu ảnh hưởng bởi 3 yếu tố thái độ, chuẩn chủ quan và kiểm soát hành

vi. Cả 2 mô hình này được kiểm chứng là ảnh hưởng mạnh mẽ trong dự đoán ý định

(Krueger & cộng sự, 2000). Nghiên cứu của Li (2007) cho thấy, ý định khởi nghiệp

chủ yếu phụ thuộc vào nhận thức mong muốn khởi nghiệp và nhận thức khả năng

khởi nghiệp. Trong khi yếu tố chuẩn chủ quan trong mô hình TPB có ảnh hưởng

không nhiều đến ý định khởi nghiệp trong một số nghiên cứu thực nghiệm (Krueger

& cộng sự, 2000; Li, 2007). Ngoài ra, lý thuyết tư duy các giai đoạn hành động của

Gollwitzer & Keller (2012, 2016) cho rằng, cá nhân nào càng có tư duy khởi nghiệp

thì cá nhân đó sẽ luôn lạc quan với cơ hội và khả năng của mình để nắm bắt cơ hội

khởi nghiệp và họ dễ dàng hình thành ý định khởi nghiệp. Từ những phân tích nêu

trên giả thuyết H4a và H5a được phát biểu như sau:

Giả thuyết H4a: Nhận thức mong muốn khởi nghiệp sẽ tác động cùng chiều

đến ý định hành động khởi nghiệp.

Giả thuyết H5a: Nhận thức khả năng khởi nghiệp sẽ tác động cùng chiều

đến ý định hành động khởi nghiệp.

Mối quan hệ giữa nhận thức khởi nghiệp và tư duy khởi nghiệp

Stevenson & Jarillo (1990) xem tinh thần khởi nghiệp là việc nhận dạng và

theo đuổi các cơ hội khởi nghiệp, đây cũng là yếu tố giúp phân biệt giữa nhà khởi

nghiệp tiềm năng với người khác thông qua nhận thức mong muốn và khả năng khởi

nghiệp. Theo Shapero và Sokol (1982), hiểu được quá trình khởi nghiệp đòi hỏi phải

hiểu về các cơ hội để khởi nghiệp hay không. Một cơ hội khởi nghiệp đáng tin cậy

dựa trên hai tiền đề quan trọng là nhận thức mong muốn và nhận thức khả năng khởi

nghiệp. Esfandiar & cộng sự (2019) cũng cho thấy nhận thức mong muốn khởi nghiệp

và nhận thức khả năng khởi nghiệp là 2 yếu tố tiền đề tác động đến khả năng nhận

dạng các cơ hội khởi nghiệp đáng tin cậy.

61

Theo lý thuyết tư duy các giai đoạn hành động của Gollwitzer & Keller (2012,

2016), để đạt được mục tiêu thành công, nhà khởi nghiệp tiềm năng phải giải quyết

một loạt thử thách. Trước tiên, người đó có thể có một số mong muốn cùng một lúc

để theo đuổi và chúng đều đáng giá. Tuy nhiên, do thời gian hạn chế, nỗ lực áp dụng

hoặc các nguồn lực khác, họ phải quyết định xem mong muốn nào mới thật sự là điều

mà họ muốn thực hiện. Vì vậy, họ sẽ suy nghĩ về cả khía cạnh mong muốn và tính

khả thi sau đó biến nó thành một mục tiêu mà họ muốn đạt được. Họ phải lên kế

hoạch hành động cho bản thân bằng cách dành thời gian để xác định cả 2 phương tiện

phù hợp cũng như cơ hội để hành động. Đây là lý do tại sao lập kế hoạch rõ ràng khi

nào, ở đâu và cách thức hành động sau khi đặt ra mục tiêu sẽ làm tăng cơ hội khởi

nghiệp (Gollwitzer & Keller, 2012, 2016).

Các nghiên cứu gần đây cho rằng, nhận thức khởi nghiệp là một bước đầu tiên

của quá trình tư duy khởi nghiệp – đánh giá cơ hội (Haynie & cộng sự, 2009) và chính

điều này phân biệt giữa nhà khởi nghiệp với người khác (vì cơ hội khởi nghiệp là phụ

thuộc vào tư duy của mỗi cá nhân). Kết quả 2 trong số những nghiên cứu này cho

thấy, ảnh hưởng trực tiếp của tính mong muốn và tính khả thi của việc đánh giá cơ

hội (Mitchell & cộng sự, 2011). Đặc biệt, Haynie & cộng sự (2009) đã sử dụng một

thí nghiệm liên hợp để kiểm tra ảnh hưởng của các thuộc tính cơ hội khác nhau bao

gồm tính đáng giá (trong nghiên cứu của họ: giá trị cơ hội) và tính khả thi (trong

nghiên cứu của họ: liên quan đến kiến thức, kỹ năng và khả năng của doanh nhân) về

đánh giá cơ hội. Kết quả cho thấy, cả tính mong muốn và tính khả thi cao đều có ảnh

hưởng tích cực đến việc đánh giá cơ hội (với mong muốn có ảnh hưởng mạnh hơn

khả thi). Trong nghiên cứu thực nghiệm, Mitchell & cộng sự (2011) đã kiểm định ảnh

hưởng của sự mong muốn của cơ hội (trong nghiên cứu của họ: giá trị tiềm năng) và

tính khả thi (trong nghiên cứu của họ: kiến thức liên quan) về các ý định khai thác cơ

hội. Kết quả cho thấy, tính mong muốn và tính khả thi là rất quan trọng trong đánh

giá cơ hội khởi nghiệp (Mitchell & cộng sự, 2011).

Tư duy khởi nghiệp là việc cá nhân sẽ suy nghĩ tính toán giữa ước muốn và

khả năng thực hiện ước muốn đó thông qua các kế hoạch hành động gần với định

62

hướng mục tiêu hơn, nhằm trả lời cho câu hỏi bằng cách nào, khi nào họ khởi nghiệp.

Cá nhân có tư duy khởi nghiệp là những người có sự quyết đoán khởi nghiệp bất chấp

những hạn chế về những nguồn lực hiện có. Vì vậy, họ càng nhận thức nhiều về cơ

hội khởi nghiệp và khả năng của mình thì họ càng cân nhắc về khả năng khởi nghiệp

hơn và ngược lại. Hơn nữa, lý thuyết tư duy các giai đoạn hành động của Gollwitzer

& Keller (2012, 2016) cho rằng, cá nhân càng có tư duy khởi nghiệp là cá nhân luôn

luôn lạc quan với cơ hội và khả năng của mình để nắm bắt cơ hội khởi nghiệp. Như

vậy, giả thuyết H4b, H5b được phát biểu như sau:

Giả thuyết H4b: Nhận thức mong muốn khởi nghiệp sẽ tác động cùng chiều

đến tư duy khởi nghiệp.

Giả thuyết H5b: Nhận thức khả năng khởi nghiệp sẽ tác động cùng chiều

đến tư duy khởi nghiệp.

Mối quan hệ giữa nhận thức khởi nghiệp và gắn kết với khởi nghiệp

Trong khởi nghiệp, khái niệm gắn kết đã được Bruyat & Julien (2001) đề xuất

xem xét bằng việc kết hợp giữa lý thuyết gắn kết của Meyer & Allen (1991) và lý

thuyết thực thi ý định của Gollwitzer (1993) thông qua việc mô tả gắn kết là một quá

trình liên quan đến hành động: càng có nhiều người hành động thì họ càng gắn kết

nhiều hơn. Vì vậy, gắn kết có thể là một phần hoặc toàn bộ, tùy thuộc vào mức độ

các hành động được khởi xướng. Nhưng làm thế nào để Bruyat xem xét gắn kết với

khởi nghiệp? Theo ông, các dự án khởi nghiệp được thực hiện bởi sự kết hợp của 4

yếu tố: cá nhân, dự án, môi trường và quy trình, thông qua 3 giai đoạn: giai đoạn khởi

động, giai đoạn gắn kết và giai đoạn sống còn. Nghiên cứu của Esfandiar & cộng sự

(2019) cho rằng nhận thức mong muốn khởi nghiệp và nhận thức khả năng khởi

nghiệp giúp cá nhân có xu hướng hành động và kiên trì với mục tiêu khởi nghiệp của

mình.

Trong giai đoạn khởi động, cá nhân thể hiện ý định của mình để trở thành

doanh nhân và khởi xướng hành động. Ở giai đoạn này, gắn kết chỉ là một phần:

nghiên cứu về cơ hội không nhất thiết dẫn đến gắn kết đầy đủ. Sự phát triển của "mức

63

độ gắn kết" phụ thuộc vào sự nhận thức mà cá nhân về dự án của mình: dự án phải

được nhận thức bởi cá nhân như là mong muốn (lựa chọn tốt nhất so với các phương

án khác) và có thể khắc phục được sự thay đổi. Trong giai đoạn gắn kết, người ta

cống hiến hết thời gian và năng lượng cũng như các nguồn tài chính, trí tuệ, tình cảm

và quan hệ xã hội cho các dự án của mình. Dường như rất khó để trở lại hoặc bỏ cuộc.

Trong giai đoạn cuối, thành công hay thất bại đánh dấu việc kết thúc quá trình. Trong

cách tiếp cận này, Bruyat coi gắn kết là một thành phần tiến hoá dựa trên nhận thức

của cá nhân và sau đó tiến hành các hành động. Vì vậy, nhà khởi nghiệp càng nhận

thức nhiều về cơ hội khởi nghiệp và năng lực của mình thì họ sẽ càng gắn kết khởi

nghiệp và ngược lại. Lý thuyết tư duy các giai đoạn hành động của Gollwitzer &

Keller (2012, 2016) cho rằng, cá nhân càng có tư duy khởi nghiệp là cá nhân luôn

luôn lạc quan với cơ hội và khả năng của mình để nắm bắt cơ hội khởi nghiệp và họ

sẽ dễ dàng gắn kết với mục tiêu khởi nghiệp. Điều này dẫn đến giả thuyết H4c, H5c

được phát biểu như sau:

Giả thuyết H4c: Nhận thức mong muốn khởi nghiệp sẽ tác động cùng chiều

đến gắn kết với khởi nghiệp.

Giả thuyết H5c: Nhận thức khả năng khởi nghiệp sẽ tác động cùng chiều

đến gắn kết với khởi nghiệp.

Mối quan hệ giữa khoảng cách thời gian, nhận thức mong muốn khởi

nghiệp, nhận thức khả năng khởi nghiệp và ý định hành động khởi nghiệp

Các nghiên cứu về khởi nghiệp trước đây kiểm tra ảnh hưởng của tính mong

muốn và tính khả thi của việc đánh giá cơ hội làm cho việc giải quyết vấn đề này trở

nên khó khăn vì nó ngầm gợi ý rằng cơ hội này có thể được khai thác ngay lập tức

(Haynie & cộng sự, 2009). Tuy nhiên, trên thực tế, điều này hiếm khi xảy ra. Thay

vào đó, có 3 giai đoạn: nhận thức, đánh giá và khai thác, thường không xảy ra cùng

một lúc, nhưng được phân chia bằng khoảng cách thời gian dài hơn hoặc ngắn hơn.

Mặt khác, các nghiên cứu thực nghiệm trước đây về mối quan hệ giữa nhận thức cơ

hội khởi nghiệp và ý định khởi nghiệp đã không được xem xét đến tác động của yếu

tố thời gian, dẫn đến sức mạnh tiên đoán của ý định đối với hành động khởi nghiệp

64

sẽ giảm đi.

Lý thuyết CTL đề xuất rằng các tình huống xa trong tương lai được hiểu là

mức cấu trúc trừu tượng, trong khi các tình huống tương lai gần được hiểu là ở cấu

trúc chi tiết có liên quan đến các đặc tính cụ thể và tính ngoại vi của tình huống. Ý

nghĩa chính của CTL là kế hoạch cho tương lai xa dựa trên sự mong muốn của hoạt

động dự kiến, chú trọng nhiều hơn đến các mục tiêu chính và các kỹ năng chung.

Trope & Liberman (2003, 2010) giải thích cấu trúc cấp cao có thể là "tiến hành một

nghiên cứu" hoặc "thúc đẩy khoa học" hơn là "thử nghiệm một giả thuyết" hoặc "nhập

các dữ liệu thu thập trong sáng nay". Ngược lại, đối với các tình huống tương lai gần,

các quyết định về hành vi dựa trên tính khả thi, chú trọng hơn đến các mục tiêu thứ

yếu và các kỹ năng cụ thể cần thiết để đạt mục tiêu (Trope & Liberman, 2003, 2010).

Như vậy, có thể thấy, khoảng cách thời gian tác động đến khoảng cách giữa ý

định và hành vi (Trope & Liberman, 2003, 2010). Khi khoảng cách thời gian càng

gia tăng thì càng khó dự đoán hành vi cuối cùng (Salisbury & Feinberg, 2008). Mức

độ quan trọng của các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi cuối cùng cũng sẽ bị thay đổi

theo theo thời gian (Trope & Liberman, 2003, 2010). Nói một cách khác tồn tại một

khoảng cách giữa điểm khởi đầu và điểm kết thúc mà Trope & Liberman (2003, 2010)

định nghĩa là khoảng cách tâm lý. Mặc dù nhiều đề nghị đưa yếu tố thời gian để hiểu

rõ hơn về khoảng cách ý định hành vi khởi nghiệp (Van Ittersum, 2012), nhưng sự

quan tâm thì lại chưa nhiều (Sun & Morwitz, 2010).

Nhận thức, đánh giá (tư duy khởi nghiệp) và khai thác cơ hội đều có vai trò rất

quan trọng (Mitchell & cộng sự, 2011). Tuy nhiên, theo lý thuyết CLT điều này không

phải lúc nào cũng đúng. Thay vào đó, quá trình này có thể phụ thuộc vào khoảng cách

thời gian giữa thời điểm đánh giá cơ hội và thời điểm khai thác thực tế trong tương

lai. Đặc biệt, nghiên cứu tâm lý xã hội cơ bản trước đây cho thấy, ảnh hưởng của sự

mong muốn của một cá nhân đối với việc đánh giá cơ hội thực thi ý định khởi nghiệp

tăng dần khi khoảng cách thời gian tăng, trong khi ảnh hưởng của tính khả thi của nó

giảm dần khi khoảng cách thời gian tăng (Trope & Liberman, 2003, 2010).

Khi cá nhân đánh giá một cơ hội, họ sẽ đưa ra đánh giá cho tương lai (Haynie

65

& cộng sự, 2009). Do đó, đánh giá cơ hội phải được thực hiện trong thời gian dài hơn

hoặc ngắn hơn trước khi khai thác thực tế. Như đã trình bày ở trên, CLT cho rằng,

khoảng cách thời gian (tương lai gần với tương lai xa) làm giảm ảnh hưởng của tính

mong đợi và tính khả thi đối với các ý định (Trope & Liberman, 2003, 2010). Dựa

trên lý thuyết CLT, trong quá trình đánh giá khởi nghiệp, các mối quan tâm về mong

muốn và tính khả thi sẽ thay đổi trong việc đánh giá cơ hội (hình thành ý định) bởi

khoảng cách thời gian. Cụ thể, đề xuất rằng hiệu quả mong muốn, so với hiệu quả

của tính khả thi, sẽ tăng lên khi khoảng cách thời gian tăng lên. Tương tự, hiệu quả

của tính khả thi, so với hiệu quả của mong muốn, sẽ giảm với khoảng cách thời gian

giảm. Tuy nhiên, vai trò của khoảng cách thời gian trong luận án này chỉ đóng vai trò

là biến điều tiết nhóm. Từ phân tích trên, các giả thuyết H6a và H6b được phát biểu

như sau:

Giả thuyết H6a: Chỉ có khoảng cách thời gian dài mới tác động đến mối

quan hệ giữa nhận thức mong muốn khởi nghiệp và ý định hành động khởi nghiệp,

còn thời gian ngắn thì không

Giả thuyết H6b: Chỉ có khoảng cách thời gian ngắn mới tác động đến mối

quan hệ giữa nhận thức khả năng khởi nghiệp và ý định hành động khởi nghiệp,

còn thời gian dài thì không.

Trên cơ sở mô hình nghiên cứu đề xuất và các phân tích trước đó thì các giả

thuyết được tổng hợp trong bảng 2.4.

66

Bảng 2.4: Tổng hợp các giả thuyết nghiên cứu

STT 1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

Giả thuyết Giả thuyết H1: Tư duy khởi nghiệp sẽ có tác động cùng chiều đến ý định hành động khởi nghiệp. Giả thuyết H2: Gắn kết với khởi nghiệp có tác động cùng chiều đến ý định hành động. Giả thuyết H3: Tư duy khởi nghiệp có tác động cùng chiều đến gắn kết với khởi nghiệp. Giả thuyết H4a: Nhận thức mong muốn khởi nghiệp sẽ tác động cùng chiều đến ý định hành động khởi nghiệp. Giả thuyết H4b: Nhận thức mong muốn khởi nghiệp sẽ tác động cùng chiều đến tư duy khởi nghiệp. Giả thuyết H4c: Nhận thức mong muốn khởi nghiệp sẽ tác động cùng chiều đến gắn kết với khởi nghiệp. Giả thuyết H5a: Nhận thức khả năng khởi nghiệp sẽ tác động cùng chiều đến ý định hành động khởi nghiệp. Giả thuyết H5b: Nhận thức khả năng khởi nghiệp sẽ tác động cùng chiều đến tư duy khởi nghiệp. Giả thuyết H5c: Nhận thức khả năng khởi nghiệp sẽ tác động cùng chiều đến gắn kết với khởi nghiệp. Giả thuyết H6a: Chỉ có khoảng cách thời gian dài mới tác động đến mối quan hệ giữa nhận thức mong muốn khởi nghiệp và ý định hành động khởi nghiệp, còn thời gian ngắn thì không. Giả thuyết H6b: Chỉ có khoảng cách thời gian ngắn mới tác động đến mối quan hệ giữa nhận thức khả năng khởi nghiệp và ý định hành động khởi nghiệp, còn thời gian dài thì không.

2.4.2. Mô hình nghiên cứu đề xuất

Các mô hình lý thuyết có sự tương đồng và ý định khởi nghiệp đều được giải

thích bằng khả năng cá nhân và thái độ. Cảm nhận về tự tin khởi nghiệp (tính khả thi)

ở mô hình của Krueger & cộng sự (2000) cũng khá sát với cảm nhận về kiểm soát

hành vi ở mô hình TPB của Ajzen (1991).

Từ những phân tích trên, khởi nghiệp phải là quá trình từ nhận dạng cơ hội,

đánh giá (tư duy khởi nghiệp) và khai thác. Cá nhân phải có thái độ tích cực (mong

muốn khởi nghiệp) và có nhận thức về khả năng thực hiện (tự tin về năng lực bản

thân khởi nghiệp), phải tư duy và phải kiên trì với mục tiêu của mình. Như vậy, căn

cứ vào các lý thuyết nền: (1) Lý thuyết tư duy các giai đoạn hành động Gollwitzer &

67

Keller (2012, 2016); (2) Lý thuyết về sự kiện khởi nghiệp (EEM) của Krueger & cộng

sự (2000); (3) Lý thuyết thiết lập mục tiêu Locke & Latham (1990); (4) Mô hình tư

duy khởi nghiệp của Mathisen & Arnulf (2013); (5) Lý thuyết cấp độ cấu trúc nhận

thức CLT của Trope & Liberman (2003, 2010) và các phân tích nêu trên, mô hình

H4a+

H6a+

H4c+

Gắn kết với khởi nghiệp

nghiên cứu được đề xuất như hình 2.12.

H2+

H4b+

Ý định hành động khởi nghiệp

H3+

Khoảng cách thời gian

H5c+

H1+

H5b+

Nhận thức khả năng khởi nghiệp

Tư duy khởi nghiệp

H6b+

H5a+

Nhận thức mong muốn khởi nghiệp

Hình 2.12: Mô hình nghiên cứu đề xuất

TÓM TẮT CHƯƠNG 2

Chương 2 trình bày các lý thuyết và các nghiên cứu có liên quan đến ý định

khởi nghiệp và ý định hành động khởi nghiệp. Trên cơ sở đó, khám phá ra khe hổng

nghiên cứu về ý định hành động khởi nghiệp để hình thành nên mô hình nghiên cứu

dựa trên mối quan hệ giữa: (1) Ý định hành động khởi nghiệp; (2) Gắn kết trong khởi

nghiệp; (3) Tư duy khởi nghiệp; (4) Nhận thức mong muốn khởi nghiệp; và (5) Nhận

thức khả năng khởi nghiệp, với vai trò điều tiết là yếu tố khoảng cách thời gian.

Chương 3 tiếp theo sẽ trình bày phương pháp nghiên cứu được sử dụng để kiểm định

mô hình nghiên cứu và các giả thuyết đã đặt ra.

68

CHƯƠNG 3: THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU

Trong chương này sẽ trình bày quá trình xây dựng thang đo để đo lường các

khái niệm trong mô hình đã được đề xuất ở Chương 2, đồng thời nêu ra các quy trình,

phương pháp nghiên cứu được áp dụng để kiểm định các giả thuyết. Vì vậy, chương

này sẽ đi sâu vào các nội dung như: (1) Quy trình nghiên cứu; (2) Thiết kế nghiên

cứu đinhh tính; (3) Thiết kế nghiên cứu định lượng sơ bộ; (4) Thiết kế nghiên cứu

định lượng chính thức.

3.1. Quy trình nghiên cứu

Quá trình nghiên cứu được tóm tắt qua 3 giai đoạn sau đây:

Giai đoạn 1: Nghiên cứu định tính

Mục tiêu nghiên cứu, nghiên cứu tài liệu, thiết lập mô hình nghiên cứu và thiết

kế bảng câu hỏi điều tra sơ bộ. Giai đoạn này bao gồm các hoạt động: (1) Vấn đề

nghiên cứu; (2) Nghiên cứu lý thuyết; (3) Thảo luận nhóm tập trung; (4) Thiết lập

bảng câu hỏi; (5) Sắp xếp lại các mục nghiên cứu và (6) Thiết lập bảng thảo các câu

hỏi nghiên cứu. Mục đích của giai đoạn này là xây dựng mô hình, các giả thuyết

nghiên cứu và thang đo đo lượng các khái niệm nghiên cứu.

Giai đoạn 2: Nghiên cứu định lượng sơ bộ

Các nội dung cần thực hiện trong trong bước này bao gồm: (1) Phát phiếu điều

tra sơ bộ; (2) Đánh giá độ tin cậy của thang đo; (3) Phân tích nhân tố khám phá (EFA);

và (4) Xây dựng bảng câu hỏi chính thức. Mục đích của giai đoạn này là đánh giá sơ

bộ độ tin cậy, giá trị hội tụ và giá trị phân biệt của các thang đo, để có nhìn sơ bộ hơn

các thang đo được xây dựng ở giai đoạn 1.

Giai đoạn 3: Nghiên cứu định lượng chính thức

Sau giai đoạn nghiên cứu định lượng sơ bộ, nghiên cứu định lượng chính thức

với mục đích kiểm định các giả thuyết của mô hình nghiên cứu chính thức. Giai đoạn

này được thực hiện qua các bước: (1) Đánh giá mô hình đo lường và (2) Đánh giá mô

hình cấu trúc.

69

Nghiên cứu định tính

Bảng dự thảo câu hỏi điều tra

Điều chỉnh bảng câu hỏi

Nghiên cứu lý thuyết

Điều chỉnh bảng câu hỏi

Nhóm trọng điểm n = 24

Mục tiêu nghiên cứu

Nghiên cứu định lượng sơ bộ

Điều tra sơ bộ

Đánh giá độ tin cậy thang đo

Loại các biến tương biến tổng thấp (<0,4) và Cronbach Alpha (<0,6)

Phân tích nhân tố khám phá EFA

Loại các biến liên có hệ số nhân tố tải thấp (<0,5)

Bảng câu hỏi điều tra chính thức

Nghiên cứu định lượng chính thức

Bảng câu hỏi điều tra chính thức

Phân tích mô hình đo lường PLS-SEM

Kiểm định sự thích hợp của thang đo; độ tin cậy tổng hợp; tổng phương sai trích; tính đơn hướng; hội tụ và phân biệt

Mô hình hóa cấu trúc tuyến tính PLS-SEM

Kiểm định mô hình lý thuyết và giả thuyết

Kết luận và hàm ý chính sách

Hình 3.1: Quy trình nghiên cứu

3.2. Thiết kế nghiên cứu định tính

3.2.1. Thang đo gốc đo lường các khái niệm trong mô hình nghiên cứu

Từ mục tiêu nghiên cứu sẽ tiến hành nghiên cứu tổng quan lý thuyết (là bước

quan trọng của quá trình nghiên cứu), cần tìm hiểu những nghiên cứu trước đó của

70

các tác giả trên thế giới và trong nước liên quan đến chủ đề nghiên cứu của luận án,

cụ thể là hướng nghiên cứu về ý định khởi nghiệp và ý định hành động khởi nghiệp

(nội dung được trình bày trong Chương 2). Từ đó tổng hợp những kết quả nghiên cứu

của hướng nghiên cứu này làm nền tảng định hướng cụ thể cho luận án. Qua đó, đề

xuất mô hình lý thuyết cho nghiên cứu. Cần ghi nhận rằng, những khái niệm đưa vào

nghiên cứu trong mô hình nghiên cứu trong luận án này đều đã có trước đó. Luận án

chỉ kết hợp một số lý thuyết đề điều chỉnh lại nội dung thang đo một số khái niệm.

Từ các lý thuyết nền, một số quan hệ trong mô hình đề xuất nghiên cứu chưa được

kiểm định tại các quốc gia đang phát triển như Việt Nam thì việc thảo luận với nhóm

tập trung nhằm điều chỉnh, bổ sung các thang đo là cần thiết, từ đó thiết lập bảng câu

hỏi sơ bộ làm cơ sở cho việc nghiên cứu tiếp theo.

Theo mô hình nghiên cứu đề xuất trong chương 2, có 6 khái niệm chính được

xây dựng là: (1) Ý định hành động khởi nghiệp; (2) Tư duy khởi nghiệp; (3) Gắn kết

với khởi nghiệp; (4) Nhận thức mong muốn khởi nghiệp; (5) Nhận thức khả năng

khởi nghiệp và (6) Khoảng cách thời gian. Tiếp theo, luận án sẽ trình bày các thang

đo gốc đã được kiểm định trước đó. Các thang đo gốc bằng tiếng anh được dich và

hiệu chỉnh theo văn phong Việt. Nội dung này được 3 sinh viên ngành tiếng Anh

thương mại khoa Đại cương của trường ĐH Kinh tế - Kỹ thuật Bình Dương dịch

thuật, sau đó nhờ 01 giảng viên tiếng Anh thương mại khoa Đại cương của nhà trường

điều chỉnh lại.

Ý định hành động khởi nghiệp

Như đã trình bày trong phần cơ sở lý thuyết, ý định hành động khởi nghiệp là

việc cá nhân suy nghĩ, so sánh về tính hấp dẫn giữa cơ hội khởi nghiệp với khả năng

thực hiện, từ đó định hướng lập kế hoạch, triển khai thực hiện kế hoạch đó. Thang đo

gốc về ý định hành động khởi nghiệp có 3 biến quan sát, được trình bày trong bảng

3.1.

71

Bảng 3.1: Thang đo ý định hành động khởi nghiệp

Nội dung thang đo

Nguồn Tatarko & Schmidt (2016) 1. Tôi có suy nghĩ về ý tưởng để có thể bắt đầu thành lập công ty

2. Tôi đang phát triển một sản phẩm dịch vụ

3. Tôi đang tích lũy tiền cho ý định thành lập công ty Tatarko & Schmidt (2016) Tatarko & Schmidt (2016)

Tư duy khởi nghiệp

Người có tư duy khởi nghiệp sẽ suy nghĩ lạc quan, nhận thức gần hơn với mục

tiêu đã định hướng khởi nghiệp trước đó bằng những kế hoạch khởi nghiệp chi tiết

và cụ thể. Thang đo gốc về tư duy khởi nghiệp có 5 biến quan sát, được trình bày

trong bảng 3.2.

Bảng 3.2: Thang đo tư duy khởi nghiệp

Nội dung thang đo Nguồn

Mathisen & Arnulf (2013) 1. Tôi nghĩ về ý tưởng khởi nghiệp của mình, tôi xác định phải bắt đầu khởi nghiệp

2. Tôi có kế hoạch làm thế nào để khởi nghiệp

3. Tôi có kế hoạch khi nào phải bắt đầu khởi nghiệp Mathisen & Arnulf (2013) Mathisen & Arnulf (2013)

Mathisen & Arnulf (2013) 4. Tôi đang tìm kiếm thông tin tích cực và tiêu cực có liên quan về dự án khởi nghiệp

Mathisen & Arnulf (2013) 5. Khi nhận ra một cơ hội, tôi sẽ đánh giá cơ hội và bắt đầu khởi nghiệp

Gắn kết với khởi nghiệp

Gắn kết với khởi nghiệp đề cập đến nhận thức về kế hoạch thực hiện, chi phí

và lợi ích gắn liền với việc tiếp tục hoặc rời bỏ ý định khởi nghiệp. Sự kiên trì liên

quan đến việc "tiếp tục hành động cố gắng, mặc dù gặp những thất bại, những trở

ngại, hoặc những mối đe dọa, thực tế hay tưởng tượng" (Gimeno & cộng sự, 1997)

nhằm hướng đến những mục tiêu khởi nghiệp đã được định hướng trước đó. Thang

72

đo gốc về gắn kết với khởi nghiệp gồm 5 biến quan sát, được trình bày trong bảng

3.3.

Bảng 3.3: Thang đo gắn kết với khởi nghiệp

Nội dung thang đo Nguồn

1. Tôi không sợ những gì có thể xảy ra nếu tôi từ bỏ dự án kinh doanh của mình mà không có một kế hoạch khác.

2. Sẽ rất khó để tôi từ bỏ dự án kinh doanh ngay bây giờ, ngay cả khi tôi muốn.

3. Bây giờ sẽ quá tốn kém nếu tôi từ bỏ dự án kinh doanh của mình

4. Ngay bây giờ, gắn bó với dự án kinh doanh của tôi là một vấn đề cần thiết hơn là mong muốn

5. Tôi cảm thấy tôi có rất ít lựa chọn để xem xét nếu tôi từ bỏ dự án kinh doanh Meyer & Allen (1991); Adam & Fayolle (2015) Meyer & Allen (1991); Adam & Fayolle (2015) Meyer & Allen (1991; Adam & Fayolle (2015) Meyer & Allen (1991); Adam & Fayolle (2015) Meyer & Allen (1991); Adam & Fayolle (2015)

Nhận thức mong muốn khởi nghiệp

Nhận thức mong muốn khởi nghiệp thể hiện cảm nhận lạc quan của một cá

nhân về tính hấp dẫn của việc khởi nghiệp (Krueger & cộng sự, 2000), mong muốn

khởi nghiệp còn thể hiện mơ ước, mục đích cá nhân và là nguồn gốc của sự hài lòng.

Thang đo gốc về nhận thức mong muốn khởi nghiệp gồm 6 biến được trình bày trong

bảng 3.4.

73

Bảng 3.4: Thang đo nhận thức mong muốn khởi nghiệp

Nội dung thang đo

Nguồn Krueger & cộng sự (2000) 1. Tôi mong muốn trở thành nhà khởi nghiệp

Krueger & cộng sự (2000)

Krueger & cộng sự (2000) Krueger & cộng sự (2000)

Krueger & cộng sự (2000)

Krueger & cộng sự (2000) 2. Thành lập công ty đối với tôi thuận lợi nhiều hơn bất lợi 3. Trở thành doanh nhân là điều hấp dẫn 4. Nếu tôi có nhiều cơ hội và nguồn lực, tôi sẽ bắt đầu một công ty mới 5. Là một doanh nhân sẽ mang lại cho tôi nhiều sự hài lòng 6. Trong số nhiều sự lựa chọn nghề nghiệp, tôi muốn trở thành một doanh nhân

Nhận thức khả năng khởi nghiệp

Nhận thức khả năng khởi nghiệp thể hiện cảm nhận lạc quan của cá nhân về

nguồn lực và năng lực khởi nghiệp của mình (gồm kiến thức, hỗ trợ tài chính và các

đối tác). Nhận thức khả năng khởi nghiệp phản ánh niềm tin của cá nhân về khả năng

thực hiện các hành vi khởi nghiệp cụ thể hoặc niềm tin về khả năng đạt tới mục tiêu

đã định. Thang đo gốc về nhận thức khả năng khởi nghiệp gồm 5 biến được trình bày

trong bảng 3.5.

Bảng 3.5: Thang đo nhận thức khả năng khởi nghiệp

Nguồn

Krueger & cộng sự (2000) Nội dung thang đo 1. Tin tưởng vào khả năng tồn tại và tăng trưởng của dự án khởi nghiệp nếu tôi có ý định thành lập công ty

2. Tôi đủ phẩm chất để thành lập công ty

Krueger & cộng sự (2000) Krueger & cộng sự (2000) 3. Kiến thức và kinh nghiệm là động lực cho tôi thành lập công ty mới

Krueger & cộng sự (2000); 4. Mạng lưới các mối quan hệ thuận lợi cho việc thành lập công ty của tôi

5. Dự án khởi nghiệp có tính khả thi cao Krueger & cộng sự (2000);

Khoảng cách thời gian

Khoảng cách thời gian được đo lường bằng tương lại gần hoặc tương lai xa

74

(Trope & Liberman, 2003, 2010). Trong điều kiện tương lai gần, tương ứng với hình

thành công ty trong vòng 1 tháng. Trong điều kiện tương lai xa, tương ứng với hình

thành công ty trong vòng 1 năm (Tumasjan & cộng sự 2013). Thang đo gốc khoảng

cách thời gian gồm 2 biến được trình bày trong bảng 3.6.

Bảng 3.6: Thang đo khoảng cách thời gian

Nội dung thang đo

Nguồn Tumasjan & cộng sự (2013)

1. Tôi sẽ thành lập công ty trong vòng 1 tháng 2. Tôi sẽ thành lập công ty trong vòng 1 năm Tumasjan & cộng sự (2013)

3.2.2. Kết quả nghiên cứu sơ bộ định tính và điều chỉnh thang đo

Thang đo trong luận án này được xây dựng dựa vào các lý thuyết về ý định

hành động khởi nghiệp. Chúng được điều chỉnh và bổ sung cho phù hợp với bối cảnh

khởi nghiệp tại Việt Nam dựa vào nghiên cứu định tính thông qua thảo luận nhóm

tập trung gồm 2 nhóm.

Nhóm 1: Thảo luận với 8 chuyên gia có nhiều hiểu biết trong lĩnh vực khởi

nghiệp. Mục đích của giai đoạn này là xem xét quá trình hình thành ý định hành động

khởi nghiệp của nhà khởi nghiệp tiềm năng thì cần những yếu tố nào bằng các câu

hỏi mở. Đồng thời khám phá, đối chiếu, bổ sung thang đo đo lường các khái niệm

trong mô hình nghiên cứu (kết quả xem thêm phụ lục 3, 4, 5).

Nhóm 2: Thảo luận với 3 nhóm sinh viên đã khởi nghiệp. Mục đích của giai

đoạn này là sinh viên với tư cách là đối tượng khảo sát họ phải hiểu rõ nghĩa các

thang đo đo lường từng khái niệm, trường hợp nghĩa của thang đo nào chưa rõ sẽ

được điều chỉnh tương ứng.

 Nhóm 1 gồm 7 sinh viên đến từ các trường ĐH tỉnh Bình Dương

(trường ĐH Kinh tế- Kỹ thuật Bình Dương, trường ĐH Thủ Dầu Một

và trường ĐH Bình Dương).

 Nhóm 2 gồm 5 sinh viên đến từ trường ĐH Bà Rịa-Vũng Tàu.

 Nhóm 3 gồm 4 sinh viên đến từ ĐH Kinh tế TP.HCM. Việc lặp lại

nhóm 2 và nhóm 3 nhằm kiểm tra tính đồng nhất, tính dễ hiểu các biến

75

quan sát đo lường các khái niệm nghiên cứu. Thời gian phỏng vấn tháng

4/2017.

Thông qua các thang đo của các nghiên cứu lặp lại, người phỏng vấn sẽ được

hỏi về tính rõ nghĩa của câu hỏi và tự chọn các biến phù hợp với quan điểm của mình.

Các biến của 1 khái niệm sẽ được chọn theo nguyên tắc các biến quan sát có nhiều

người chọn nhất. Các biến quan sát không có người chọn hoặc có ít người chọn sẽ

không được đưa vào thang đo.

Như đã trình bày ở chương cơ sở lý thuyết, mô hình đề xuất nghiên cứu có 6

khái niệm là: (1) Ý định hành động khởi nghiệp; (2) Tư duy khởi nghiệp; (3) Gắn kết

với khởi nghiệp; (4) Nhận thức mong muốn khởi nghiệp; (5) Nhận thức khả năng

khởi nghiệp; (6) Khoảng cách thời gian.

Tiếp theo sẽ trình bày một số nội dung thảo luận và kết quả thang đo được điều

chỉnh sau nghiên cứu sơ bộ định tính.

Ý định hành động khởi nghiệp

Ý định hành động khởi nghiệp được ký hiệu INT. Căn cứ vào thang đo gốc, 4

biến quan sát này lần lược được ký hiệu là INT1, INT2, INT3, INT4.

Kết quả nghiên cứu định tính từ nhóm chuyên gia đã bổ sung khái niệm ý định

hành động khởi nghiệp với 2 biến quan sát mới đó là: (1) “Sau khi tốt nghiệp nên khởi

nghiệp ngay nếu có ý tưởng và cơ hội khởi nghiệp”; và (2) “Có đủ quan hệ xã hội thì

nên khởi nghiệp nếu có ý tưởng và cơ hội khởi nghiệp”. Vì vậy, để hiểu rõ hơn việc

bổ sung 2 biến quan sát mới này, 3 nhóm sinh viên được yêu cầu cho ý kiến về chúng.

Kết quả thảo luận có một điểm chung giữa các nhóm là thay cụm từ “thành

lập công ty” thành “khởi nghiệp” vì họ chỉ muốn khởi nghiệp mang tính chất vừa làm

vừa rút kinh nghiệm, khởi nghiệp sẽ có rất nhiều rủi ro, có khi phải khởi nghiệp nhiều

lần thì mới thành công. Tuy nhiên, có một vài khác biệt:

Nhóm thứ 1 cũng đồng ý bổ sung biến quan sát “Tôi sẽ khởi nghiệp sau khi tôi

nhận bằng tốt nghiệp.”, mà không quan tâm đến việc thành lập DN mới hay không

(chỉ đơn thuần là khởi nghiệp). Lý do họ đưa ra như sau:

76

- “Nếu thành lập công ty mới họ phải tiến hành các thủ tục cần thiết để đăng ký

với Sở Kế hoạch và Đầu từ, các thủ tục liên quan đến thuế, việc này là chưa

cần thiết trong quá trình khởi nghiệp… ”

- “Họ cần có đủ kiến thức để an tâm hơn khi khởi nghiệp sau khi nhận bằng

ĐH… phòng ngừa trường hợp thất bại có những phương án dự phòng khác ví

dụ như xin việc làm”.

- Những biến quan sát còn lại, nhóm sinh viên không có ý kiến.

Nhóm thứ 2 cũng có ý trùng với nhóm thứ nhất, nghĩa là họ muốn khởi nghiệp

sau khi nhận được bằng. Thêm vào đó, họ cho biết nếu có ý tưởng và hình thành được

kế hoạch sau đó thăm dò người thân, bạn bè, thầy cô và được sự ủng hộ của những

người này, họ mới tự tin khởi nghiệp. Sau khi, có ý kiến bổ sung thêm, tác giả lại

quay lại hỏi nhóm thứ nhất và họ đồng tình. Riêng nhóm thứ 3 thì không đồng ý.

Nhóm thứ 3 nêu ý kiến: “Họ sẽ khởi nghiệp ngay khi có thể mà không cần

bằng cấp, vì khởi nghiệp phải làm sớm, làm để có lấy thêm kinh nghiệm và một số

trong họ cũng là những đối tượng cũng đang kinh doanh online mà không cần chờ

đợi ra trường”. Ngoài ra, họ đề xuất bổ sung thêm biến quan sát “Nếu tôi có đủ quan

hệ xã hội tôi sẽ khởi nghiệp”

Tổng hợp từ những ý kiến này, ta có nhận xét như sau:

Nhóm thứ 1 và nhóm thứ 2 (Bình Dương, Đồng Nai) cần phải có những điều

kiện cần thiết hơn so với nhóm thứ 3 (TP.HCM). Có thể là do sinh viên TP.HCM

năng động hơn, cơ hội khởi nghiệp nhiều hơn và dám chịu rủi ro hơn so với sinh viên

của Bình Dương và Đồng Nai. Tuy nhiên, vì lấy số đông nên tác giả sẽ bổ sung thang

đo như đề nghị của nhóm thứ 1 và 2, “Tôi sẽ khởi nghiệp sau khi tôi nhận bằng tốt

nghiệp” và bổ sung thêm thang đo theo đề nghị của nhóm thứ 2 “Nếu tôi có đủ quan

hệ xã hội tôi sẽ khởi nghiệp” (đồng thời đó cũng là ý kiến từ thảo luận nhóm chuyên

gia ở giai đoạn 1). Các cụm từ “thành lập công ty” được sửa thành “khởi nghiệp”.

Thang đo đo lường ý định hành động khởi nghiệp gồm 5 biến quan sát được điều

chỉnh như trong bảng 3.7.

77

Bảng 3.7: Thang đo ý định hành động khởi nghiệp sau nghiên cứu định tính

Ký hiệu Nội dung thang đo Nguồn

INT1 1. Tôi có suy nghĩ về ý tưởng để có thể bắt đầu khởi nghiệp

INT2 2. Tôi đang phát triển một sản phẩm dịch vụ

INT3

INT4 3. Tôi đang tích lũy tiền cho ý định khởi nghiệp của tôi 4. Tôi sẽ khởi nghiệp sau khi tôi nhận bằng tốt nghiệp

INT5 5. Nếu tôi có đủ quan hệ xã hội tôi sẽ khởi nghiệp Tatarko & Schmidt (2016) Tatarko & Schmidt (2016) Tatarko & Schmidt (2016) Kết quả nghiên cứu định tính Kết quả nghiên cứu định tính

Tư duy khởi nghiệp

Tư duy khởi nghiệp được ký hiệu IMP, Căn cứ vào thang đo gốc, 5 biến quan

sát này lần lược được ký hiệu là IMP1, IMP2, IMP3, IMP4, IMP5. Ý kiến của các

nhóm được phỏng vấn đối với khái niệm tư duy khởi nghiệp như sau.

Nhóm thứ 1 có ý kiến:

“Họ sẽ khởi nghiệp nếu được bạn bè và người thân ủng hộ, ngoài ra, họ phải

có kế hoạch và ý tưởng phải rõ ràng, chi tiết… khi nào họ làm, làm thế nào, có những

người thân giúp đỡ, có tiền và thời gian chuẩn bị… vì khởi nghiệp mà mạo hiểm quá

thì họ cũng ngại,… Hơn nữa, đa phần sinh viên trong nhóm này từ các tỉnh, chưa có

nhiều tiền và quan hệ xã hội, nhưng nếu họ khắc phục được những điều này, họ sẽ

bắt đầu khởi nghiệp bằng những dự án nho nhỏ… ”. Nhóm này hoàn toàn hiểu nội

dung thang đo này và không có đề nghị chỉnh sửa thêm.

Ý kiến của nhóm thứ 2 như sau:

“Họ sẽ khởi nghiệp, nhưng phải có tiền, có quan hệ xã hội, có người thân, có

kế hoạch và bạn bè ủng hộ… họ cho rằng, có nhiều sinh viên có nhiều ý tưởng khá

bay bổng và phần lớn là theo phong trào, chưa nghiêm túc đầu tư vào ý tưởng của

mình”. Nhóm này cũng không có ý kiến gì thêm về nội dung thang đo này, họ đã hiểu

rõ và không có gì thắc mắc.

Riêng nhóm thứ 3 đề nghị họ sẽ sẵn sàng khởi nghiệp vì khởi nghiệp là phải

78

mạo hiểm, nên không nhất thiết phải cân nhắc quá nhiều. Ý kiến của họ như sau:

“Khởi nghiệp phải chuẩn bị tinh thần là thất bại, nhưng cứ đi sẽ có con đường,

mà không cần phải cân nhắc nhiều quá, họ còn trẻ sẽ còn nhiều cơ hội làm lại và

không ngại thất bại… Họ cho rằng, có rất nhiều tấm gương điển hình khởi nghiệp

thành công sau nhiều lần thất bại trên các phương tiện truyền thông”.

“Nếu có kế hoạch rõ ràng, chi tiết, người nhà ủng hộ, có tiền, bạn bè ủng hộ

nữa thì họ sẽ khởi nghiệp ngay, nhưng họ cũng sẽ vẫn khởi nghiệp nếu có ít ủng hộ

hoặc không có ủng hộ,… ”. Nhóm này cũng không có ý kiến gì thêm về nội dung

thang đo, họ cũng đã hiểu rõ và không có thắc mắc gì. Thang đo tư duy khởi nghiệp

sau thảo luận nhóm gồm 5 biến quan sát được trình bày trong bảng 3.8.

Bảng 3.8: Thang đo tư duy khởi nghiệp sau nghiên cứu định tính

Mathisen & Arnulf (2013)

Nội dung thang đo Nguồn Ký hiệu IMP1

IMP2

IMP3

IMP4

Mathisen & Arnulf (2013) Mathisen & Arnulf (2013) Mathisen & Arnulf (2013) Mathisen & Arnulf (2013)

IMP5 1. Tôi sẽ nghĩ về ý tưởng khởi nghiệp của mình, tôi xác định phải bắt đầu công việc khởi nghiệp 2. Tôi có kế hoạch làm thế nào để khởi nghiệp 3. Tôi có kế hoạch khi nào phải bắt đầu khởi nghiệp 4. Tôi đang tìm kiếm thông tin tích cực và tiêu cực có liên quan về dự án khởi nghiệp 5. Khi nhận ra một cơ hội, tôi sẽ đánh giá cơ hội và bắt đầu khởi nghiệp

Gắn kết với khởi nghiệp

Gắn kết với khởi nghiệp được ký hiệu COM. Căn cứ vào thang đo gốc, 5 biến

quan sát này lần lược được ký hiệu là COM1, COM2, COM3, COM4, COM5. Ý kiến

của các nhóm được phỏng vấn đối với khái niệm gắn kết với khởi nghiệp được thể

hiện như sau:

Cả 3 nhóm đều có ý kiến: “Họ không hiểu tại sao gắn bó với dự án kinh doanh

cần thiết hơn là mong muốn… .”. Tác giả giải thích như sau: “Cần thiết ở đây chính

là việc thấy được khả năng và niềm tin về dự án của mình, còn mong muốn là cơ hội

79

có hấp dẫn không, có nhiều lợi nhuận không... tự mình có thể làm chủ, nếu là doanh

nhân thì xã hội sẽ tôn trọng… ”. Các nhóm đề xuất chỉnh sửa “Ngay bây giờ, gắn bó

với dự án kinh doanh của tôi là một vấn đề cần thiết hơn là mong muốn.” thành “Tôi

gắn bó với dự án của mình vì tôi thấy cơ hội hấp dẫn hơn là vì khả năng của tôi”.

Tác giả đồng ý với những ý kiến này vì các bạn chưa hiểu rõ về nội dung của thang

đo.

Riêng, nhóm thứ 2 và nhóm thứ 3 đề nghị chỉnh sửa “Bây giờ sẽ không quá

tốn kém khi tôi từ bỏ dự án kinh doanh của mình.” thành “Tôi đã tốn kém rất nhiều

vì vậy tôi không thể nào từ bỏ được dự án của mình”.

Ngoài ra, cả 3 nhóm đề nghị đổi cụm từ “dự án kinh doanh” thành “dự án khởi

nghiệp”. Tác giả đồng ý với các sự điều chỉnh này. Kết quả thang đo gắn kết với khởi

nghiệp sau khi được điều chỉnh như trong bảng 3.9.

Bảng 3.9: Thang đo gắn kết với khởi nghiệp sau nghiên cứu định tính

Ký hiệu Nội dung thang đo Nguồn

Meyer & Allen (1991); Adam & Fayolle (2015)

COM1

Meyer & Allen (1991); Adam & Fayolle (2015)

COM2

Meyer & Allen (1991); Adam & Fayolle (2015)

COM3

Meyer & Allen (1991); Adam & Fayolle (2015)

COM4

Meyer & Allen (1991); Adam & Fayolle (2015)

COM5

1. Tôi không sợ những gì có thể xảy ra nếu tôi từ bỏ dự án khởi nghiệp của mình mà không có một kế hoạch khác 2. Sẽ rất khó để tôi từ bỏ dự án ngay bây giờ, ngay cả khi tôi muốn 3. Tôi đã tốn kém rất nhiều vì vậy tôi không thể nào từ bỏ được dự án của mình 4. Tôi gắn bó với dự án của mình vì tôi thấy cơ hội hấp dẫn hơn là vì khả năng của tôi. 5. Tôi cảm thấy tôi có rất ít lựa chọn để xem xét nếu tôi từ bỏ dự án khởi nghiệp

Nhận thức mong muốn khởi nghiệp

Nhận thức mong muốn khởi nghiệp được ký hiệu là DES. Căn cứ vào thang

đo gốc, 6 biến quan sát lần lược được ký hiệu như sau: DES1, DES2, DES3, DES4,

DES5, DES6. Sau thảo luận nhóm, cả 3 nhóm đều hiểu nội dung. Riêng nhóm thứ 1

và nhóm thứ 2 thì đề nghị thay các cụm từ “thành lập công ty mới” thành “khởi

80

nghiệp”. Tác giả đồng ý với đề xuất này, vì các bạn ngại dùng cụm từ “thành lập DN”

thì có thể dẫn đến sự nhầm lẫn là khởi nghiệp là bắt buộc phải đăng ký thành lập công

ty. “Khi thành lập công ty sẽ dẫn đến nhiều thủ tục rườm rà, mất thời gian, chi bằng

khởi nghiệp xong rồi tiến hành thành lập vẫn chưa muộn”. Thang đo nhận thức mong

muốn khởi nghiệp được điều chỉnh như trong bảng 3.10.

Bảng 3.10: Thang đo nhận thức mong muốn khởi nghiệp sau nghiên cứu định tính

Ký hiệu Nội dung thang đo Nguồn

1. Tôi mong muốn trở thành nhà khởi DES1 nghiệp

DES2 2. Khởi nghiệp đối với tôi thuận lợi nhiều hơn là bất lợi

DES3 3. Trở thành doanh nhân là điều hấp dẫn

DES4

DES5

Krueger & cộng sự (2000) Krueger & cộng sự (2000) Krueger & cộng sự (2000) Krueger & cộng sự (2000) Krueger & cộng sự (2000) Krueger & cộng sự (2000)

DES6 4. Nếu tôi có nhiều cơ hội và nguồn lực, tôi sẽ bắt đầu khởi nghiệp 5. Là một doanh nhân sẽ mang lại cho tôi nhiều sự hài lòng 6. Trong số nhiều sự lựa chọn nghề nghiệp, tôi muốn trở thành một doanh nhân

Nhận thức khả năng khởi nghiệp

Nhận thức khả năng khởi nghiệp được ký hiệu là FEA. Căn cứ vào thang đo

gốc, 5 biến quan sát lần lược được ký hiệu như sau: FEA1, FEA2, FEA3, FEA4,

FEA5. Sau khi thảo luận nhóm, cả 3 nhóm đều hiểu nội dung. Riêng nhóm thứ 1 và

nhóm thứ 2 thì đề nghị thay các cụm từ “thành lập công ty mới” thành “khởi nghiệp”.

Ngoài ra, cả 3 nhóm đề nghị thay cụm từ “phẩm chất” bằng “khả năng”, vì “họ hiểu

phẩm chất nói đến đặc tính cá nhân hơn là khả năng về vốn, quan hệ, kiến thức… ”.

Tác giả cũng đồng ý với những đề xuất này, vì như đã lý giải ở phần trên. Thang đo

nhận thức khả năng khởi nghiệp được được điều chỉnh như bảng 3.11.

81

Bảng 3.11: Thang đo nhận thức khả năng khởi nghiệp sau nghiên cứu định tính

Ký hiệu

Nguồn Krueger & cộng sự (2000) FEA1

Nội dung thang đo 1. Tin tưởng vào khả năng tồn tại và tăng trưởng của dự án khởi nghiệp nếu tôi có ý định khởi nghiệp

FEA2 2. Tôi đủ khả năng để khởi nghiệp

Krueger & cộng sự (2000) Krueger & cộng sự (2000)

FEA3

Krueger & cộng sự (2000)

FEA4 3. Kiến thức và kinh nghiệm là động lực cho tôi khởi nghiệp 4. Mạng lưới các mối quan hệ thuận lợi cho việc khởi nghiệp của tôi

Krueger & cộng sự (2000)

FEA5 5. Dự án khởi nghiệp có tính khả thi cao

Khoảng cách thời gian

Khoảng cách thời gian được ký hiệu bằng TG và đo lường bằng 1 biến duy

nhất là TG với 2 giá trị được mã hóa: (1) Tôi sẽ khởi nghiệp trong vòng 1 tháng; (2)

Tôi sẽ khởi nghiệp trong vòng 1 năm hoặc xa hơn. Cả 3 nhóm đều đề nghị thay cụm

từ “thành lập công ty” thành “khởi nghiệp”. Cả 3 nhóm cũng đề nghị nên thay “1

tháng thành trong vòng 3 tháng (đối với khoảng thời gian ngắn), vì 1 tháng thì quá

ngắn khi suy nghĩ đến vấn đề khởi nghiệp”. Thang đo khoảng cách thời gian được

điều chỉnh như trong bảng 3.12 sau.

Bảng 3.12: Thang đo khoảng cách thời gian

Nội dung thang đo

1. Tôi sẽ khởi nghiệp trong vòng 3 tháng

2. Tôi sẽ khởi nghiệp trong vòng 1 năm hoặc xa hơn Nguồn Tumasjan & cộng sự (2013); điều chỉnh từ nghiên cứu định tính Tumasjan & cộng sự (2013); điều chỉnh từ nghiên cứu định tính

Cũng cần chú ý, thang đo khoảng cách thời gian được kế thừa từ nghiên cứu

của Tumasjan & cộng sự (2013) chỉ có 2 biến quan sát và được điều chỉnh từ nghiên

cứu định tính (thảo luận nhóm chuyên gia và thảo luận nhóm sinh viên đã khởi

nghiệp), đồng thời mục tiêu của luận án là kiểm định điều tiết của khoảng cách thời

gian đến mối quan hệ giữa nhận thức khởi nghiệp và ý định hành động khởi nghiệp.

82

3.3. Thiết kế nghiên cứu định lượng sơ bộ

Nghiên cứu định lượng sơ bộ sẽ tiến hành khảo sát với mẫu nhỏ (tối thiểu là

100) nhằm đánh giá sơ bộ độ tin cậy, giá trị hội tụ, giá trị phân biệt và tính đơn hướng

của thang đo trước khi kiểm định mô hình nghiên cứu chính thức (Nguyễn Đình Thọ,

2014). Bằng kỹ thuật này, các biến quan sát có tương quan biến tổng >0,4, hệ số

Cronbach’s alpha của các khái niệm > 0,6 thì độ tin cậy thang đo có thể chấp nhận

được (Nunnally & Bernstein, 1994). Tiếp đến, kiểm định EFA giúp đánh giá các giá

trị quan trọng của thang đo là giá trị hội tụ, tính đơn hướng và giá trị phân biệt. Các

biến quan sát chỉ được xem xét khi hệ số nhân tố tải > 0.5 (Nguyễn Đình Thọ, 2014)

hoặc khoảng cách giữa 2 hệ số nhân tố tải cùng 1 biến ở 2 nhân tố khác nhau >0.3.

Cuối cùng các biến quan sát còn lại có thể xem xét đưa vào bảng câu hỏi cho giai

đoạn nghiên cứu chính thức (tuy nhiên, việc loại biến cần phải xem lại giá trị nội dung

của chúng). Để tiến hành bước này, nghiên cứu tiến hành phỏng vấn trực tiếp các sinh

viên thông qua bảng câu hỏi chi tiết. Mẫu nghiên cứu sơ bộ định lượng có kích thước

n = 117 và được chọn theo phương pháp lấy mẫu thuận tiện. Nghiên cứu này được

tiến hành vào tháng 8/2017 tại TP.HCM.

Nghiên cứu định lượng sơ bộ được tiến hành thông qua điều tra trực tiếp với

510 phiếu phát ra, thu về 487 phiếu (vì kích cỡ mẫu 100 là mẫu tối thiểu để phân tích

nhân tố khám phá), trong đó có 129 phiếu trả lời đã đang hoặc có ý định khởi nghiệp.

Có 12 phiếu không hợp lệ bị bỏ đi, còn lại 117 phiếu.

3.3.1. Mô tả cơ cấu mẫu khảo sát

Theo địa phương: có 28% sinh viên đến từ tỉnh Bình Dương; 17% sinh viên

đến từ tỉnh Đồng Nai; 39% sinh viên đến từ TP.HCM và 16% sinh viên đến từ tỉnh

Bà Rịa-Vũng Tàu. Theo giới tính: có 68% sinh viên là nam và 32% sinh viên là nữ.

Về năm học: có 39% sinh viên đang học năm thứ 3 và 61% sinh viên đang học

năm thứ 4. Về ý định khởi nghiệp: có 76% có ý định khởi nghiệp; 8% đã khởi nghiệp

và 16% đang khởi nghiệp.

83

3.3.2. Đánh giá độ tin cậy của thang đo

Phương pháp đánh giá độ tin cậy của thang đo

Trong mô hình lý thuyết được đề xuất, để nghiên cứu những yếu tố tiền đề tác

động lên ý định hành động khởi nghiệp và kết quả của nó, tác giả đã đề xuất 6 khái

niệm cần được đo lường, đó là: (1) Ý định hành động khởi nghiệp; (2) Tư duy khởi

nghiệp; (3) gắn kết với khởi nghiệp; (4) Nhận thức mong muốn khởi nghiệp; (5) Nhận

thức khả năng khởi nghiệp; (6) Khoảng cách thời gian.

Trong phân tích độ tin cậy thang đo, hệ Cronbach’s alpha được sử dụng khá

phổ biến (theo khuyến nghị nên có ít nhất 3 biến quan sát). Hệ số này được đánh giá

bằng phương pháp nhất quán nội (Nguyễn Đình Thọ, 2014). Nhiều nhà nghiên cứu

đề nghị, các mức giá trị của Alpha: lớn hơn 0,8 là thang đo lường tốt; từ 0,7 đến 0,8

là sử dụng được; từ 0,6 trở lên là có thể sử dụng trong trường hợp khái niệm nghiên

cứu là mới hoặc là mới trong bối cảnh nghiên cứu (Nguyễn Đình Thọ, 2014) trước

khi đưa vào phân tích nhân tố khám phá EFA.

Nguyên tắc kiểm định các biến

Sau khi áp dụng phần mềm SPSS 22.0 để kiểm định hệ số tin cậy Crobach’s

alpha, việc cải thiện hệ số này có thể thông qua cách: xem cột “Cronbach’s alpha nếu

loại biến”. Trong kết quả phân tích, nếu giá trị của biến quan sát trong cột này khi

được so sánh với giá trị Crobach’s alpha trước khi loại biến mà lớn hơn thì có thể

xem xét loại biến này đi nhằm cải thiện giá trị Crobach’s alpha được tốt hơn.

Tuy nhiên, việc loại này không chỉ đơn thuần là loại theo thống kê mà còn phải

xem giá trị nội dung của biến quan sát này trong nghiên cứu, nếu nó quan trọng mà

ta đang muốn nghiên cứu thì có thể giữ lại, ngược lại có thể xem xét loại bỏ. Ngoài

ra, nếu giá trị tương quan biến tổng (hiệu chỉnh) của từng biến quan sát >= 0,4 thì

biến này được xem là đạt yêu cầu (Nunnally & Bernstein, 1994).

Kết quả đánh giá độ tin cậy của thang đo

Kết quả đánh giá độ tin cậy của thang đo bằng hệ số Cronbach’s alpha và hệ

84

số tương quan biến tổng được diễn giải chi tiết dưới đây.

Bảng 3.13: Đánh giá độ tin cậy thang đo ý định hành động khởi nghiệp

Ký hiệu Trung bình thang đo nếu loại biến Phương sai thang đo nếu loại biến Tương quan biến tổng Cronbach’s alpha nếu loại biến

18,57 18,69 18,33 18,30 18,27 21,419 23,042 25,017 22,884 25,269 ,731 ,669 ,528 ,591 ,505 ,737 ,759 ,799 ,782 ,806

Cronbach’s alpha (lần 1) = 0,814 INT1 INT2 INT3 INT4 INT5 Nguồn: Kết quả từ xử lý số liệu khảo sát

Bảng 3.13 cho thấy, ý định hành động khởi nghiệp được cấu thành bởi 5 biến

quan sát. Kết quả phân tích Cronbach’s alpha (lần 1) = 0,760 > 0,6 và giá trị tương

quan biến tổng của các biến đo lường khái niệm ý định hành động đều biến thiên từ

0,505 đến 0,731, đều > 0,5 đảm bảo độ tin cậy. Như vậy, các thang đo đáp ứng độ tin

cậy thang đo.

Bảng 3.14: Đánh giá độ tin cậy thang đo tư duy khởi nghiệp (lần cuối)

Ký hiệu Trung bình thang đo nếu loại biến Phương sai thang đo nếu loại biến Tương quan biến tổng Cronbach’s alpha nếu loại biến

14,36 13,79 13,64 13,49 11,818 10,923 11,715 11,890 ,541 ,658 ,694 ,504 ,761 ,700 ,691 ,782

Cronbach’s alpha (lần 2) = 0,786 IMP1 IMP2 IMP3 IMP4 Nguồn: Kết quả từ xử lý số liệu khảo sát

Bảng 3.14 cho thấy, tư duy khởi nghiệp được đo lường bằng 4 biến quan sát.

Kết quả lần 2 cho thấy, Cronbach’s alpha = 0,786 > 0,6. Giá trị tương quan biến tổng

của các biến trong thang đo tư duy khởi nghiệp biến thiên từ 0,504 đến 0,694 đều >

0,3 đảm bảo độ tin cậy, trừ biến “IMP5 - Khi nhận ra một cơ hội, tôi sẽ đánh giá cơ

hội và bắt đầu khởi nghiệp” có hệ số tương quan biến tổng khá nhỏ (0,269), về mặt

nội dung biến này hàm chứa ý nghĩa trong các biến quan sát “IMP4 – Tôi đang tìm

85

kiếm thông tin tích cực và tiêu cực có liên quan về dự án khởi nghiệp”, nên bị loại

(xem thêm kết quả tại phụ lục 8). Như vậy, thang đo đo lường khái niệm tư duy khởi

nghiệp còn 4 biến quan sát.

Bảng 3.15: Đánh giá độ tin cậy thang đo gắn kết với khởi nghiệp (lần cuối)

Ký hiệu Trung bình thang đo nếu loại biến Phương sai thang đo nếu loại biến Tương quan biến tổng Cronbach’s alpha nếu loại biến

15,39 15,15 15,16 14,97 12,706 13,780 12,568 13,982 ,631 ,621 ,659 ,564 ,748 ,754 ,733 ,779

Cronbach’s alpha (lần 2) = 0,803 COM1 COM2 COM3 COM4 Nguồn: Kết quả từ xử lý số liệu khảo sát

Bảng 3.15 cho thấy, gắn kết với khởi nghiệp được cấu thành bởi 5 biến quan

sát. Kết quả phân tích Cronbach’s alpha (lần 2) = 0,803>0,6. Tuy nhiên, biến quan

sát “COM5 - Tôi cảm thấy tôi có rất ít lựa chọn để xem xét nếu tôi từ bỏ dự án khởi

nghiệp.” có tương quan biến tổng khá thấp = 0,256 <0,3, nội dung của biến quan sát

này chứa trong các biến quan sát “COM2 - Sẽ rất khó để tôi từ bỏ dự án ngay bây

giờ, ngay cả khi tôi muốn”, nên bị loại. Như vậy, còn lại 4 biến quan sát đo lường

khái niệm gắn kết với khởi nghiệp.

Bảng 3.16: Đánh giá độ tin cậy thang đo nhận thức mong muốn khởi nghiệp

Ký hiệu Trung bình thang đo nếu loại biến Phương sai thang đo nếu loại biến Tương quan biến tổng Cronbach’s alpha nếu loại biến

26,32 26,50 26,68 26,76 26,75 26,97 30,928 28,511 29,925 28,615 28,964 30,422 ,634 ,738 ,679 ,776 ,719 ,681 ,880 ,863 ,873 ,857 ,867 ,873

Cronbach’s alpha (lần 1) = 0,888 DES1 DES2 DES3 DES4 DES5 DES6 Nguồn: Kết quả từ xử lý số liệu khảo sát

Bảng 3.16 cho thấy, nhận thức mong muốn khởi nghiệp được cấu thành bởi 6

86

biến quan sát. Kết quả phân tích Cronbach’s alpha (lần 1) = 0,888>0,6 và giá trị tương

quan biến tổng của các biến đo lường khái niệm nhận thức mong muốn khởi nghiệp

nằm trong khoảng từ 0,634 đến 0,776, đều > 0,5 đảm bảo độ tin cậy. Như vậy, thang

đo này đáp ứng độ tin cậy.

Bảng 3.17: Đánh giá độ tin cậy thang đo nhận thức khả năng khởi nghiệp

Ký hiệu Trung bình thang đo nếu loại biến Phương sai thang đo nếu loại biến Tương quan biến tổng Cronbach’s alpha nếu loại biến

17,18 17,07 17,02 17,03 17,42 23,131 25,064 24,155 22,767 28,746 ,830 ,621 ,771 ,792 ,565 ,824 ,877 ,839 ,833 ,885

Cronbach’s alpha (lần 1) = 0,879 FEA1 FEA2 FEA3 FEA4 FEA5 Nguồn: Kết quả từ xử lý số liệu khảo sát

Bảng 3.17 cho thấy, nhận thức khả năng khởi nghiệp được đo lường bởi 5 biến

quan sát. Kết quả phân tích Cronbach’s alpha cho thấy, giá trị này đạt 0,879>0,6 và

giá trị tương quan biến tổng các biến đo lường khái niệm nhận thức khả năng khởi

nghiệp nằm trong khoảng từ 0,565 đến 0,830, đều > 0,3 đảm bảo độ tin cậy. Như vậy,

thang đo đáp ứng độ tin cậy cần thiết.

3.3.3. Đánh giá giá trị thang đo – phân tích nhân tố khám phá (EFA)

Trong bước nghiên cứu định lượng sơ bộ này, có 510 phiếu điều tra được gửi

đi và kỳ vọng sẽ thu về > 100 phiếu – cỡ mẫu tối thiểu. Nhưng thực tế chỉ có 117

phiếu là đủ điều kiện. Vì vậy, tất cả 5 khái niệm: (1) Ý định hành động khởi nghiệp;

(2) Tư duy khởi nghiệp; (3) Gắn kết với khởi nghiệp; (4) Nhận thức mong muốn khởi

nghiệp; (5) Nhận thức khả năng khởi nghiệp được đưa vào phân tích cùng một lúc để

xem giá trị hội tụ và phân biệt của các biến quan sát với kích thước mẫu là 117.

Kết quả đánh giá giá trị thang đo

Kết quả phân tích nhân tố EFA sơ bộ với phép quay Varimax và phép trích

Principal Component Analysis cho thấy, hệ số KMO = 0,817 > 0,50 và Sig. = ,000,

87

thể hiện mức ý nghĩa cao. Kết quả phân tích EFA sơ bộ được trình bày trong bảng

3.18.

Bảng 3.18 cho thấy, có 5 yếu tố được trích với tổng phương sai trích là

66,118% > 50% (phần chung của các thang đo đóng góp vào các khái niệm lớn hơn

phần riêng và sai số). Các biến quan sát trong phân tích này đều có hệ số nhân tố tải

trong khoảng từ 0,564 đến 0,861 (đều > 0,5). Như vậy, sau kết quả phân tích EFA sơ

bộ vẫn đủ 5 khái niệm như đề xuất ban đầu với 24 biến quan sát.

Bảng 3.18: Kết quả phân tích nhân tố EFA sơ bộ

Thành phần 3 2 4 5 1

,283

,240

,417 ,861 ,806 ,784 ,779 ,771 ,628

,206

,258 ,342 ,297

,853 ,789 ,777 ,727 ,671 ,221

,344

,239 -,217

,310 ,824 ,773 ,693 ,659 ,595

,216

,225

,228 ,828 ,770 ,666 ,644

,373

,217

,285 ,303 ,271 ,334 ,385

,795 ,676 ,656 ,564 66,118% 1,201 3,167 31,119% 7,469 44,314% 52,876% 2,055 ,247 61,112% 1,977

DES4 DES3 DES2 DES6 DES5 DES1 FEA1 FEA3 FEA4 FEA5 FEA2 INT1 INT2 INT4 INT3 INT5 IMP2 IMP3 IMP4 IMP1 COM3 COM4 COM2 COM1 Phương sai trích Eigen- value Nguồn: Kết quả từ xử lý số liệu khảo sát

88

Sau kết quả phân tích EFA, vẫn rút trích được 5 yếu tố như mô hình lý thuyết

ban đầu, mặc dù có 2 biến quan sát bị loại (1 biến yếu tố tư duy khởi nghiệp và 1 biến

gắn kết với khởi nghiệp) nhưng các biến quan sát vẫn hội tụ và không có sự xáo trộn

trong các khái niệm. Hơn nữa, đây cũng chỉ là nghiên cứu định lượng sơ bộ với kích

thước mẫu nhỏ để có cái nhìn sơ bộ nhằm đối chiếu so sánh với mô hình lý thuyết

ban đầu. Vì vậy, khi tiến hành nghiên cứu định lượng chính thức, tên các khái niệm

và các thang đo lường các khái niệm vẫn được giữ nguyên sau kết quả nghiên cứu

định tính (5 khái niệm nghiên cứu với 26 biến quan sát).

3.4. Thiết kế nghiên cứu định lượng

Nghiên cứu định lượng chính thức được thực hiện trên cơ sở khảo sát trực tiếp

sinh viên năm cuối đã đang hoặc có ý định hành động khởi nghiệp các trường ĐH tại

các tỉnh, thành phố gồm TP.HCM, Bình Dương, Đồng Nai và Bà Rịa-Vũng Tàu. Cụ

- Đơn vị phân tích: Các trường ĐH tại các tỉnh/thành phố (Tp.HCM, tỉnh Bình

thể:

Dương, tỉnh Đồng Nai, tỉnh BRVT).

- Đơn vị khảo sát: các sinh viên chính quy năm cuối

- Phương pháp điều tra: Phỏng vấn trực tiếp thông qua bảng câu hỏi điều tra.

- Thời gian thực hiện khảo sát: 10/2017 - 01/2018 (04 tháng)

- Về kích thước mẫu: Theo Hair & cộng sự (2010) khuyến nghị, kích thước mẫu

tối thiểu phải từ 100 đến 150. Một số nghiên cứu khác cho rằng, tối thiểu phải là 200

(Nguyễn Đình Thọ, 2014). Hay theo Bollen (1999), số mẫu quan sát trong phân tích

nhân tố khám phá (EFA) phải lớn hơn 100 và có tỷ lệ so với biến ít nhất là 5/1. Mẫu

được chọn theo phương pháp thuận tiện với số lượng theo khuyến nghị 5:1 (Nguyễn

Đình Thọ, 2014). Mô hình (24 biến quan sát + 2 biến kiểm soát )*5 = 120, Tổng số

phát ra là 3.500 bảng câu hỏi (lý do tỷ lệ có ý định khởi nghiệp tại VN theo GEM

(2016) chỉ là 22,3%), thu về 2.637 phiếu, trong đó có 1613 phiếu sinh viên có ý định

khởi nghiệp (hoặc đã khởi nghiệp). Sau khi loại 246 bảng câu hỏi không hợp lệ và

không chất lượng (202 bảng trả lời để trống rất nhiều câu hỏi; 44 bảng trả lời qua loa

89

bằng việc đánh giá giống nhau cho hầu hết các câu hỏi), còn 1.367 bảng câu hỏi được

sử dụng để phân tích và kiểm định.

- Kỹ thuật phân tích định lượng sử dụng mô hình SEM là một trong những

phương pháp được ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực bởi tính linh hoạt trong

việc mô hình hóa các quan hệ giữa các khái niệm. Trong mô hình SEM thường có 2

loại: (1) Dựa vào hiệp phương sai (CBSEM - Covariance-based SEM) thông qua các

phần mềm AMOS, LISREL; (2) Dựa vào phương sai thông qua phương pháp bình

phương tối thiểu (VBSEM – Variance based SEM hay còn gọi là PLS-SEM) được sử

dụng bằng phần mềm SmartPLS. Phương pháp SEM được sử dụng rất phổ biến trong

nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực kinh tế (Hulland & Lam, 1996).

Luận án sử dụng phần mềm SmartPLS 3.2.7 với kỹ thuật PLS-SEM để kiểm

định mô hình lý thuyết. Theo Hair & cộng sự (2014), số lượng nghiên cứu sử dụng

PLS-SEM được công bố trong vài năm gần đây tăng lên rất nhanh. Ở các lĩnh vực

hành vi tổ chức, quản trị hệ thống thông tin, quản trị chiến lược và trong nghiên cứu

marketing vì PLS-SEM có nhiều ưu điểm hơn so với CB-SEM trong các tình huống

sau: (1) Chấp nhận qui mô cỡ mẫu nhỏ, dữ liệu không phân phối chuẩn; (2) Có thể

sử dụng cho các mô hình nghiên cứu phức tạp với nhiều biến trung gian, điều tiết,

tiềm ẩn và biến quan sát. Đặc biệt là mô hình cấu trúc; (3) Có khả năng phân tích

đồng thời cấu trúc mô hình kết quả (Reflective) và mô hình nguyên nhân (Formative);

(4) Thích hợp cho các nghiên cứu thiên về định hướng dự đoán (Henseler & cộng sự,

2016).

Cũng lưu ý rằng, nếu như dữ liệu phân phối không chuẩn là vấn đề lớn đối với

phương pháp CB-SEM (nghĩa là: CB-SEM yêu cầu dữ liệu phân phối chuẩn, điều

này được cho là rất khó vì các nghiên cứu thường khảo sát theo phương pháp thuận

tiện phi xác suất). Tuy nhiên, PLS-SEM "rất mạnh" khi sử dụng dữ liệu không phải

phân phối chuẩn (Hair & cộng sự, 2012a, tr.335).

Theo Hair & cộng sự (2013), khi sử dụng kỹ thuật PLS-SEM cần kiểm định

thông qua 2 bước: (1) Kiểm mô hình đo lường; và (2) Kiểm định mô hình cấu trúc.

Cụ thể như sau:

90

(1) Đánh giá mô hình đo lường:

- Độ tin cậy các biến chỉ báo (hoặc gọi là biến quan sát)

Trong mô hình kết quả (Reflective model), các biến chỉ báo được giải thích

bởi biến tiềm ẩn, hệ số nhân tố tải của các biến chỉ báo >=0,7 (hoặc 0,40 có thể chấp

nhận được trong các nghiên cứu thăm dò (Hair & cộng sự, 2012b).

- Độ tin cậy nhất quán nội tại

Độ tin cậy nhất quán nội tại được đo lường thông qua giá trị Cronbach’s alpha

(Henseler & cộng sự, 2015) với giá trị chấp nhận được là 0,7 trong các giai đoạn

nghiên cứu ban đầu và mỗi biến tiềm ẩn phải có ít nhất 2 biến chỉ báo.

- Giá trị hội tụ.

Giá trị hội tụ đánh giá mức độ liên quan giữa các chỉ báo đo lường cùng 1 biến

tiềm ẩn. Giá trị hội tụ của thang đo được đánh giá thông qua:

 Đối với các nghiên cứu khám phá, hệ số tin cậy tổng hợp (CR) nằm

trong khoảng 0,6 – 0,7, nhưng lý tưởng thì nên ≥0,7;

 Hệ số tải ngoài của các biến quan sát phải ≥ 0,708;

 Phương sai trích trung bình AVE (Average variance extracted, phản

ánh lượng biến thiên chung của các biến quan sát được tính toán bởi

biến tiềm ẩn) phải ≥ 0,5 (0,7082=0,5) (Henseler & cộng sự, 2015); và

Hệ số rho_A > 0,7.

- Giá trị phân biệt (discriminant validity)

Giá trị phân biệt đo lường độ giá trị phân biệt giúp đảm bảo sự khác biệt, không

có mối tương quan giữa các yếu tố sử dụng để đo lường các yếu tố. Giá trị phân biệt

là một tiêu chí quan trọng trong phân tích mô hình đo lường. Nó đo lường sự phân

biệt giữa các khái niệm trong mô hình nghiên cứu (Henseler & cộng sự, 2015). Có 2

mức độ khi xem xét giá trị phân biệt, đó là:

 Mức độ phân biệt giữa các thành phần trong cùng 1 khái niệm (within

construct, nếu là khái niệm bậc 2 trở lên);

91

 Mức độ phân biệt xuyên suốt (across construct) giữa các khái niệm khác

nhau, hay nó đề cập đến mô hình đo lường tới hạn (saturated model,

các khái niệm trong mô hình nghiên cứu được tự do quan hệ với nhau).

Giá trị phân biệt được gọi là đủ điều kiện trong khi giá trị của tiêu chí HTMT

(heterotrait – monotrait) <0,85 (Henseler & cộng sự, 2015) hoặc sử dụng căn bậc 2

AVE của mỗi yếu tố đo lường đều lớn hơn hệ số liên hệ (latent variable correlations)

giữa yếu tố đó với các yếu tố.

Ngoài ra, trong đánh giá mô hình đo lường, cần đánh giá đa cộng tuyến của các

biến chỉ báo (giá trị VIF< 5, không có hiện tượng đa cộng tuyến). Henseler & cộng

sự (2016) cho rằng, để có thể kết luận mô hình phù hợp với dữ liệu thị trường

(goodness of model fit) thì các hệ số sau đây cần thỏa mãn:

 Hệ số SRMR (standardized root mean square residual) < 0,082 (nếu

dạng nghiên cứu khám phá có thể chấp nhận mức <0,12);

 Hệ số d_ULS<95%;

 Hệ số d_G1<95%;

 Hệ số d_G2<95%

(2) Đánh giá mô hình cấu trúc

Bước thứ hai trong phân tích PLS-SEM là đánh giá mô hình cấu trúc thông

qua phương pháp Boostrapping với kích thước mẫu là 5000 (lấy mẫu có hoàn lại).

Theo Hair & cộng sự (2012b) đề xuất các chỉ số trong việc đánh giá mô hình cấu trúc

gồm:

1) Hệ số xác định sự biến thiên của mô hình (R²),

2) Mức độ (cường độ) ảnh hưởng (f²)

3) Hệ số ảnh hưởng (ß) bao gồm các giá trị t và khoảng tin cậy,

4) Mức độ phù hợp của dữ liệu đối với mô hình lý thuyết (Q²)

- Hệ số xác định sự biến thiên của mô hình (Coefficient of determination,

R²)

Giá trị R² được định nghĩa là phần trăm sự biến thiên của biến nội sinh được

92

giải thích bởi các biến ngoại sinh (Chin, 2010, tr.674). Giá trị R² dao động từ 0 đến

1. R² càng gần 1 thì mô hình càng phù hợp với bộ dữ liệu. R² càng gần 0 thì mô hình

càng kém phù hợp. Do đó, kết quả R² là các chỉ số quan trọng về mối quan hệ giữa

các biến tiềm ẩn trong mô hình và là tiêu chuẩn chính cho đánh giá mô hình cấu trúc

(Hair & cộng sự, 2012b).

Henseler & cộng sự (2015) cho thấy, mức độ R² chấp nhận được phụ thuộc

vào bối cảnh nghiên cứu. Mặc dù vậy, vẫn đưa mức đánh giá để tham khảo tương

ứng: mạnh (0,67), trung bình (0,33) và yếu (0,19).

- Mức độ ảnh hưởng (Effect size, f²)

Cũng theo Henseler & cộng sự (2015) để xem xét mức tác động của biến ngoại

sinh lên các biến nội sinh thì cần đánh giá hệ số ảnh hưởng f2. Khi f2 ở các mức 0,02;

0,15 và 0,35 thì có thể kết luận mức độ tác động tương ứng với yếu, khá và mạnh.

- Hệ số ảnh hưởng (Path coefficient estimates)

Hệ số ảnh hưởng (ß) cung cấp thông tin về cường độ của mối quan hệ giữa

biến ngoại sinh và biến nội sinh. Giá trị ß cũng chỉ ra mối quan hệ định hướng (chiều

dương hay chiều âm) của khái niệm trong mô hình nghiên cứu (Henseler & cộng sự,

2015), tương ứng với giả thuyết được kiểm tra. Để xác định ý nghĩa của mối quan hệ,

phương pháp tiếp cận Bootstrapping được đề xuất (Chin, 2010).

Phương pháp Bootstrapping sử dụng lấy mẫu có hoàn lại (n=5000) để ước tính

độ chính xác của các ước lượng PLS bằng cách lấy mẫu có thay thế từ tập dữ liệu gốc

(Chin, 2010). Kết quả thống kê t có thể được sử dụng để xác định mức ý nghĩa (giá

trị p). Theo đó mức giá trị thống kê t= 1,6497 tương ứng với độ tin cậy 90%; t =

1,9676 tương ứng với độ tin cậy 95% và t = 2,5916 tương ứng độ tin cậy 99%.

- Mức độ dự đoán liên quan (Predictive relevance, Stone-Geisser’s Q²)

Mức độ dự đoán được ký hiệu Q² thông qua kỹ thuật blindfolding , Q2 cho biết

khả năng giải thích và khả năng dự đoán của biến tiềm ẩn nội sinh. Nếu Q² >0, mô hình

có khả năng dự đoán có liên quan (a model has predictive relevance); Q² <0, mô hình

không có khả năng dự đoán có liên quan (the model has no predictive relevance)

93

(Latan & Noonan, 2017, tr.163). Ngoài ra, để cụ thể hơn có thể sử dụng tiêu chí Q2

(sử dụng kết quả từ bảng Construct cross-validated redundancy, “It is applicable only

to observations of the MVs of the endogenous blocks” (Latan & Noonan, 2017,

tr.163) để đánh giá khả năng dự đoán ở 03 mức: 0,02; 0,15; 0,35 tương ứng nhỏ

(small), trung bình (medium) hay mạnh (strong) (Garson, 2016, tr.118).

TÓM TẮT CHƯƠNG 3

Chương này đã trình bày toàn bộ thiết kế nghiên cứu bao gồm: nghiên cứu

định tính, nghiên cứu sơ bộ định lượng và nghiên cứu chính thức. Nghiên cứu sơ bộ

định tính được thực hiện thông qua thảo luận nhóm hình thành nên bảng câu hỏi khảo

sát sơ bộ. Nghiên cứu định lượng sơ bộ thực hiện thông qua phỏng vấn trực tiếp từ

bảng câu hỏi phỏng vấn sơ bộ. Cuối cùng, tiến hành nghiên cứu định lượng chính

thức mô tả thiết kế mẫu, phương pháp điều tra lấy mẫu, kỹ thuật phân tích định lượng.

Chương tiếp theo sẽ trình bày cụ thể kết quả đánh giá thang đo bằng kiểm định mô

hình đo lường và kiểm định mô hình cấu trúc thông qua phân tích Bootstrapping bằng

công cụ SmartPLS 3.2.7.

94

CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Trên cơ sở thang đo được xây dựng trong nghiên cứu sơ bộ ở Chương 3, nội

dung Chương 4 sẽ trình bày chi tiết kết quả nghiên cứu định lượng chính thức bao

gồm: (1) Thiết kế nghiên cứu chính thức (thiết kế mẫu, cỡ mẫu, phương pháp điều

tra); (2) Kiểm định giá trị thang đo đo lường các khái niệm nghiên cứu bằng mô hình

đo lường; và (3) Kiểm định các giả thuyết bằng mô hình hóa cấu trúc tuyến tính –

PLS-SEM.

4.1. Mô tả đặc điểm mẫu khảo sát

Về giới tính của đối tượng khảo sát: nam có số lượng 1.077 phiếu (chiếm

78,8%); nữ có 290 phiếu (chiếm 21,2%). Sự chênh lệch này cho thấy, có sự mất cân

đối tỷ lệ khởi nghiệp theo giới tính, điều này có thể lý giải một phần tác động bởi yếu

tố văn hóa. Cơ cấu mẫu theo giới tính được trình bày trong bảng 4.1.

Bảng 4.1: Cơ cấu mẫu theo giới tính

Tần suất Tỷ lệ % Tích lũy

Giới tính

21,2 100,0

Nữ Nam Tổng 290 1.077 1.367 21,2 78,8 100,0

Nguồn: Kết quả xử lý từ khảo sát của tác giả

Về cơ cấu theo trường, tác giả thực hiện điều tra 19 trường ĐH bao gồm: tỉnh

Bình Dương: trường ĐH Kinh tế - Kỹ thuật Bình Dương ; trường ĐH Bình Dương;

trường ĐH Thủ Dầu Một; tỉnh Đồng Nai: trường ĐH Lạc Hồng, trường ĐH Đồng

Nai. TP.HCM: trường ĐH Quốc tế Hồng Bàng; trường ĐH Ngoại thương, Cơ sở

TP.HCM; trường ĐH Bách khoa TP.HCM; trường ĐH Sư phạm Kỹ thuật; trường ĐH

Hoa Sen; trường ĐH Ngoại ngữ - Tin Học TP.HCM; trường ĐH Công nghiệp

TP.HCM; trường ĐH Công nghệ TP.HCM; Viện Đào tạo Quốc tế (ĐH Kinh tế

TP.HCM); trường ĐH Nguyễn Tất Thành; trường ĐH Tôn Đức Thắng; trường ĐH

Kinh tế TP.HCM; trường ĐH Tài chính - Marketing. Tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu: trường

ĐH Bà Rịa-Vũng Tàu. Nhìn chung, sinh viên trường ĐH Kinh tế TP.HCM có ý định

khởi nghiệp khá đông chiếm 16,2%, tiếp đến là trường ĐH Hoa Sen chiếm 10,5%,

95

tiếp theo là trường ĐH Sư phạm Kỹ thuật; trường ĐH Nguyễn Tất Thành với tỷ lệ

9,1%; cuối cùng là trường ĐH Bình Dương và Trường ĐH Công nghệ TP.HCM xấp

xỉ 1,4% (xem bảng 4.2).

Bảng 4.2: Cơ cấu mẫu theo trường ĐH Trường ĐH Mã số Tích lũy (%)

BDU BETU

Tỷ lệ (%) 1,6 1,6 Tần suất 22

5,9 4,3

Trường ĐH Bình Dương Trường ĐH Kinh tế - Kỹ thuật Bình Dương Trường ĐH Quốc tế Hồng Bàng Trường ĐH Bà Rịa-Vũng Tàu Trường ĐH Đồng Nai Trường ĐH Ngoại thương, CS2 TP.HCM

Trường ĐH Hoa Sen Trường ĐH Ngoại ngữ - Tin học TP.HCM Trường ĐH Công nghiệp TP.HCM

HBU BVU DNPU FTU HCMUT Trường ĐH Bách khoa TP.HCM HCMUTE Trường ĐH Sư Phạm Kỹ thuật TP.HCM HSU HUFLIT HUI HUTECH Trường ĐH Công nghệ TP.HCM ISB

7,8 11,4 14,4 21,9 25,3 34,5 45,0 47,0 52,5 53,9 1,8 3,7 3,0 7,5 3,4 9,1 10,5 2,1 5,5 1,4 59 25 51 41 103 46 124 144 29 75 19

LHU NTTU TDMU TDT UEH UFM

57,3 46 3,4

Viện Đào tạo Quốc tế (ĐH Kinh tế TP.HCM) Trường ĐH Lạc Hồng Trường ĐH Nguyễn Tất Thành Trường ĐH Thủ Dầu Một Trường ĐH Tôn Đức Thắng Trường ĐH Kinh tế TP.HCM Trường ĐH Tài chính - Marketing 61,4 70,5 72,1 77,9 94,1 100,0 56 124 22 78 221 81

Tổng 4,1 9,1 1,6 5,7 16,2 5,9 1.367 100,0

Nguồn: Kết quả xử lý từ khảo sát của tác giả

Bảng 4.3: Cơ cấu mẫu theo địa phương

Tần suất Tỷ lệ (%)

Địa phương Bình Dương Đồng Nai Bà Rịa-Vũng Tàu TP.HCM

Tổng 103 97 51 1.115 1.367 7,5 7,1 3,7 81,6 100,0 Nguồn: Kết quả xử lý từ khảo sát của tác giả

96

Về cơ cấu theo địa phương, thì sinh viên đang theo học tại các trường ĐH có

ý định khởi nghiệp tại TP.HCM chiếm đa số với tỷ lệ 81,6%, tiếp đến là tỉnh Bình

Dương với tỷ lệ là 7,5%, tỉnh Đồng Nai xếp thứ 3 với tỷ lệ 7,1% và cuối cùng là Bà

Rịa-Vũng Tàu với tỷ lệ 3,7%. Sự chênh lệch này là do TP.HCM tập trung hầu hết các

trường ĐH lớn của cả nước (xem bảng 4.3). Hơn nữa, việc chọn mẫu thuận tiện cũng

không ảnh hưởng nhiều đến việc phân bố mẫu theo địa phương. Ngoài ra, việc sử

dụng phương pháp PLS - SEM (sử dụng phần mềm SmartPLS) sẽ khắc phục được

yêu cầu mẫu có phân phối chuẩn đối với phương pháp VB-SEM (sử dụng phần mềm

AMOS )

4.2. Kết quả kiểm định thang đo chính thức

4.2.1. Kiểm định độ tin cậy của các thang đo

Tác giả tiến hành đánh giá độ tin cậy thang đo qua Cronbach’s alpha cho từng

khái niệm: ý định hành động khởi nghiệp, tư duy khởi nghiệp, gắn kết với khởi

nghiệp, nhận thức mong muốn khởi nghiệp và nhận thức khả năng khởi nghiệp.

Ý định hành động khởi nghiệp

Kết quả phân tích trong bảng 4.4 cho thấy, “Ý định hành động khởi nghiệp -

INT” có Cronbach’s alpha = 0,851 ở mức cao và giá trị tương quan biến tổng của các

biến quan sát > 0,6. Vì vậy, toàn bộ 5 biến quan sát đo lường khái niệm ý định hành

động khởi nghiệp đảm bảo độ tin cậy và đủ điều kiện đưa vào phân tích nhân tố khám

phá EFA.

Bảng 4.4: Kết quả phân tích Cronbach’s alpha ý định hành động khởi nghiệp

Ký hiệu Phương sai thang đo nếu loại biến Tương quan biến tổng Cronbach’s alpha nếu loại biến

Trung bình thước đo nếu loại biến Cronbach’s alpha = 0,851 22,03 INT1 21,93 INT2 21,89 INT3 21,84 INT4 21,93 INT5 18,770 18,432 18,468 18,876 18,306 ,606 ,683 ,703 ,695 ,631 ,836 ,814 ,810 ,813 ,829

Nguồn: Kết quả xử lý từ khảo sát của tác giả

97

Tư duy khởi nghiệp

Kết quả bảng 4.5 cho thấy, “Tư duy khởi nghiệp - IMP” có Cronbach’s alpha

= 0,825 ở mức tương đối và giá trị tương quan biến tổng của các biến quan sát > 0,5.

Vì vậy, toàn bộ 5 biến quan sát đo lường khái niệm tư duy khởi nghiệp đảm bảo độ

tin cậy và đủ điều kiện đưa vào phân tích nhân tố khám phá EFA.

Bảng 4.5: Kết quả phân tích Cronbach’s alpha tư duy khởi nghiệp

Ký hiệu

Trung bình thước đo nếu loại biến Phương sai thang đo nếu loại biến Tương quan biến tổng Cronbach’s alpha nếu loại biến

Cronbach’s alpha = 0,825 IMP1 IMP2 IMP3 IMP4 IMP5

21,35 21,29 21,23 21,26 21,26 19,757 19,534 18,985 19,046 20,459 ,599 ,619 ,661 ,649 ,569 ,796 ,790 ,778 ,781 ,804

Nguồn: Kết quả xử lý từ khảo sát của tác giả

Gắn kết với khởi nghiệp

Kết quả phân tích từ bảng 4.6 cho thấy, “Gắn kết với khởi nghiệp -COM” có

Cronbach’s alpha = 0,788 ở mức tương đối và giá trị tương quan biến tổng của các

biến quan sát > 0,5 (riêng biến COM5 có giá trị xấp xỉ 0,5). Vì vậy, toàn bộ 5 biến

quan sát đo lường khái niệm gắn kết với khởi nghiệp đảm bảo độ tin cậy và đủ điều

kiện đưa vào phân tích nhân tố khám phá EFA.

Bảng 4.6: Kết quả phân tích Cronbach’s alpha gắn kết với khởi nghiệp

Ký hiệu Trung bình thước đo nếu loại biến Phương sai thang đo nếu loại biến Tương quan biến tổng Cronbach’s alpha nếu loại biến

Cronbach’s alpha = 0,788 COM1 COM2 COM3 COM4 COM5

21,15 21,14 21,28 21,10 21,12 19,642 19,129 19,507 19,826 20,860 ,634 ,638 ,493 ,585 ,494 ,727 ,724 ,776 ,742 ,770

Nguồn: Kết quả xử lý từ khảo sát của tác giả

98

Nhận thức mong muốn khởi nghiệp

Kết quả phân tích từ bảng 4.7 cho thấy, “Nhận thức mong muốn khởi nghiệp

- DES” có Cronbach’s alpha = 0,823 ở mức khá cao. Tuy nhiên, biến “DES5 - Là một

doanh nhân sẽ mang lại cho tôi nhiều sự hài lòng” có hệ số tương quan biến tổng

<0,4, đồng thời nội dung của biến này phản ảnh phần nào trong “DES3 - Trở thành

doanh nhân là điều hấp dẫn”, vì vậy biến DES5 sẽ bị loại. Như vậy, còn lại 5 biến

quan sát đo lường khái niệm nhận thức mong muốn khởi nghiệp đảm bảo độ tin cậy

và đủ điều kiện đưa vào phân tích nhân tố khám phá EFA.

Bảng 4.7: Kết quả phân tích Cronbach’s alpha nhận thức mong muốn (lần cuối)

Phương sai thang đo nếu loại biến Tương quan biến tổng Cronbach’s alpha nếu loại biến

Ký hiệu Trung bình thước đo nếu loại biến Cronbach’s alpha = 0,812 DES1 DES2 DES3 DES4 DES6 20,79 20,89 20,93 20,95 20,87 19,852 19,539 19,958 19,235 20,869 ,591 ,619 ,627 ,645 ,522 ,779 ,770 ,768 ,762 ,799

Nguồn: Kết quả xử lý từ khảo sát của tác giả

Nhận thức khả năng khởi nghiệp

Kết quả phân tích từ bảng 4.8 cho thấy, “Nhận thức khả năng khởi nghiệp -

FEA” có Cronbach’s alpha = 0,718 ở mức khá. Tuy nhiên, biến “FEA2 - Tôi đủ khả

năng để khởi nghiệp” có hệ số tương quan biến tổng<0,4, đồng thời nội dung của nó

đã chứa trong biến “FEA3 - Kiến thức và kinh nghiệm là động lực cho tôi khởi nghiệp”

nên biến này bị loại. Tương tự cho biến “FEA5 - Dự án khởi nghiệp có tính khả thi

cao” cũng bị loại. Như vậy, các biến còn lại đủ điều kiện đưa vào phân tích EFA.

99

Bảng 4.8: Kết quả Cronbach’s alpha nhận thức khả năng khởi nghiệp (lần cuối)

Ký hiệu Trung bình thước đo nếu loại biến Phương sai thang đo nếu loại biến Tương quan biến tổng Cronbach’s alpha nếu loại biến

Cronbach’s alpha = 0,760 FEA1 FEA3 FEA4

10,62 10,66 10,70 6,109 5,766 5,987 ,560 ,625 ,587 ,713 ,639 ,682

Nguồn: Kết quả xử lý từ khảo sát của tác giả

Tóm lại, 5 khái niệm ban đầu với 26 biến quan sát, sau phân tích Cronbach’s

alpha vẫn còn lại 23 biến quan sát (biến “DES5 - Là một doanh nhân sẽ mang lại cho

tôi nhiều sự hài lòng”; biến “FEA2 - Tôi đủ khả năng để khởi nghiệp” “FEA5 - Dự

án khởi nghiệp có tính khả thi cao” bị loại) đủ điều kiện đưa vào phân tích EFA.

4.2.2. Kết quả phân tích nhân tố khám phá EFA

Sau khi phân tích Cronbach’s alpha thì còn lại 23 biến quan sát, kết quả phân

tích nhân tố khám phá EFA (lần 1) có 5 nhân tố được trích ra với KMO = 0,943,

Eigenvalue>1, tổng phương sai trích = 60,710>50% (với phép xoay Promax và phép

trích Principal Axis Factoring), trong đó có 1 biến quan sát có hệ số nhân tố tải <0,4

và được tải trên 2 nhân tố đó là biến “COM5 – Tôi cảm thấy tôi có rất ít lựa chọn để

xem xét nếu tôi từ bỏ dự án”. Về mặt nội dung biến này bị loại vì nó đã chứa phần

nào trong biến “COM2 - Sẽ rất khó để tôi từ bỏ dự án ngay bây giờ, ngay cả khi tôi

muốn” và nó lại không đạt giá trị hội tụ (do được phân vào nhóm nhận thức khả năng

khởi nghiệp) vì vậy sẽ bị loại. Tương tự, biến “DES6 - Trong số nhiều sự lựa chọn

nghề nghiệp, tôi muốn trở thành một doanh nhân” có hệ số nhân tố tải<0,5, đồng thời

tải lên 2 nhân tố với hiệu số <0,3, biến này cũng chứa trong nội dung của biến “DES2

- Khởi nghiệp đối với tôi thuận lợi nhiều hơn là bất lợi”, nghĩa là việc lựa chọn khởi

nghiệp là phương án thuận lợi hơn các phương án khác. Vì vậy, biến DES6 sẽ bị loại

(xem thêm phụ lục 14).

Kết quả phân tích nhân tố khám phá EFA lần thứ hai cho thấy, có 5 nhân tố

được trích ra với KMO = 0,936, Eigenvalue>1, tổng phương sai trích = 62,435>50%,

các biến quan sát đều có hệ số nhân tố tải>0,5. Tuy nhiên, “IMP5 – Khi nhận ra một

100

cơ hội, tôi sẽ đánh giá cơ hội và bắt đầu khởi nghiệp” sẽ bị loại (lưu ý, biến này ở

phần định lượng sơ bộ cũng đã bị loại) (xem thêm phụ lục 14).

Bảng 4.9: Kết quả hệ số KMO (lần cuối)

Hệ số KMO Kiểm định Bartlett's

,934 10913,249 190 ,000 Xấp xỉ hệ số Chi-Square Df Sig.

Nguồn: Kết quả xử lý từ khảo sát của tác giả

Bảng 4.10: Kết quả phân tích nhân tố EFA (lần cuối)

Ký hiệu

Ý định hành động khởi nghiệp Tư duy khởi nghiệp Gắn kết với khởi nghiệp Nhận thức khả năng khởi nghiệp

Nhân tố Nhận thức mong muốn khởi nghiệp ,054 ,079 ,010 ,805 ,781 ,780 ,733 ,083 ,071 ,113 ,018 ,848 ,798 ,757 ,755 ,107 ,003 ,856 ,842 ,821 ,734 ,686 ,036 ,189 ,092 ,051 ,036 ,830 ,819 ,698 ,674 ,036 ,035 ,029 ,062 ,025 ,008 ,865 ,805 ,767

37,444 45,628 51,958 57,895 63,311

7,489 1,637 1,266 1,187 1,083 INT3 INT4 INT2 INT5 INT1 IMP3 IMP2 IMP4 IMP1 DES3 DES4 DES1 DES2 COM2 COM3 COM1 COM4 FEA3 FEA4 FEA1 Phương sai trích Eigen- value

Nguồn: Kết quả xử lý từ khảo sát của tác giả

101

Kết quả phân tích nhân tố khám phá EFA lần 3 (lần cuối) từ bảng 4.9, bảng 4.10

cho thấy, có 5 nhân tố được trích ra với KMO = 0,934, tổng phương sai trích =

63,311>50%, Eigenvalue>1, các biến quan sát đều có hệ số nhân tố tải>0,5, hiệu số

tải của 2 nhân tố đều >0,3. Như vậy, các chỉ tiêu này đều đạt yêu cầu trong phân tích

nhân tố khám phá EFA.

Tóm lại, sau khi phân tích nhân tố khám phá EFA có thêm 3 biến bị loại đó là:

“COM5 – – Tôi cảm thấy tôi có rất ít lựa chọn để xem xét nếu tôi từ bỏ dự án”; “DES6

- Trong số nhiều sự lựa chọn nghề nghiệp, tôi muốn trở thành một doanh nhân” và

“IMP5 - Khi nhận ra một cơ hội, tôi sẽ đánh giá cơ hội và bắt đầu khởi nghiệp”. Như

vậy, mô hình còn lại 20 biến quan sát đủ điều kiện đưa vào phân tích trong phần tiếp

theo bằng phần mềm SmartPLS 3.2.7.

Sau kết quả kiểm định sơ bộ thang đo, luận án sẽ đánh giá thang đo bằng phân

tích mô hình đo lường và phân tích mô hình cấu trúc tuyến tính PLS-SEM. Phương

pháp này nhằm đánh giá: độ tin cậy các biến chỉ báo (indicator reliability), độ tin cậy

nhất quán nội tại (internal consistency reliability), giá trị hội tụ (convergent validity)

và giá trị phân biệt (discriminant validity), giá trị liên hệ lý thuyết (giá trị nội dung).

4.2.3. Đánh giá mô hình đo lường

Các khái niệm trong mô hình đo lường gồm 5 khái niệm với 20 biến quan sát.

Vì đây là các thang đo lặp lại và đều có lý thuyết nền, nên luận án sẽ chọn phương

pháp PLSc - Consistent PLS Algorithm (trường hợp các thang đo mới thì sử dụng

thuật toán thông thường PLS - PLS Algorithm) (Henseler & cộng sự (2015) để đánh

giá mô hình đo lường.

102

Bảng 4.11: Kết quả độ tin cậy và giá trị hội tụ của thang đo

Khái niệm rho_A Cronbach’s alpha Độ tin cậy tổng hợp Phương sai trích trung bình

0,774 0,760 0,784 0,760 0,774 0,760 0,465 0,514

Gắn kết với khởi nghiệp Nhận thức khả năng khởi nghiệp Nhận thức mong muốn khởi nghiệp Tư duy khởi nghiệp Ý định hành động khởi nghiệp 0,799 0,804 0,853 0,801 0,804 0,852 0,800 0,804 0,852 0,500 0,507 0,536

Nguồn: Kết quả xử lý từ khảo sát của tác giả

Ký hiệu Bảng 4.12: Kết quả phân tích hệ số nhân tố tải chéo (Outer loading) Tư duy khởi nghiệp Nhận thức khả năng khởi nghiệp Nhận thức mong muốn khởi nghiệp Gắn kết với khởi nghiệp Ý định hành động khởi nghiệp

0,733 0,681 0,546 0,750

0,651 0,740 0,716 0,719

0,711 0,713 0,725

0,719 0,717 0,716 0,695

COM1 COM2 COM3 COM4 DES1 DES2 DES3 DES4 FEA1 FEA3 FEA4 IMP1 IMP2 IMP3 IMP4 INT1 INT2 INT3 INT4 INT5 0,734 0,726 0,730 0,723 0,746

Nguồn: Kết quả xử lý từ khảo sát của tác giả

Từ kết quả phân tích hệ số nhân tố tải chéo ở bảng 4.12 cho thấy, biến “COM3

- Tôi đã tốn kém rất nhiều vì vậy tôi không thể nào từ bỏ được dự án của mình” có hệ

số tải = 0,545 (<7,0 rất nhiều), đồng thời nội dung của nó chứa một phần trong biến

103

“COM2 - Sẽ rất khó để tôi từ bỏ dự án khởi nghiệp ngay bây giờ, ngay cả khi tôi

muốn.”. Ngoài ra từ bảng 4.11 cho thấy, hệ số AVE của khái niệm gắn kết với khởi

nghiệp <0,5, nên biến COM3 sẽ bị loại. Như vậy, sau kết quả phân tích mô hình đo

lường lần 1, mô hình nghiên cứu vẫn còn 5 khái niệm với 19 biến quan sát. Các biến

này tiếp tục được đưa vào phân tích mô hình đo lường lần 2.

Bảng 4.13: Kết quả phân tích hệ số nhân tố tải ngoài chéo lần hai (lần cuối)

Ký hiệu Tư duy khởi nghiệp Ý định hành động khởi nghiệp Gắn kết với khởi nghiệp

0,719 0,669 0,738 Nhận thức mong muốn khởi nghiệp

0,649 0,740 0,717 0,720 Nhận thức khả năng khởi nghiệp

0,712 0,711 0,726

0,719 0,715 0,716 0,696

COM1 COM2 COM4 DES1 DES2 DES3 DES4 FEA1 FEA3 FEA4 IMP1 IMP2 IMP3 IMP4 INT1 INT2 INT3 INT4 INT5 0,734 0,727 0,727 0,724 0,749

Nguồn: Kết quả xử lý từ khảo sát của tác giả

Từ bảng 4.13 cho thấy, các hệ số tải ngoài các biến quan sát đều >0,7. Trừ

biến quan sát “COM2 - Sẽ rất khó để tôi từ bỏ dự án khởi nghiệp ngay bây giờ, ngay

cả khi tôi muốn”; “DES1 - Tôi mong muốn trở thành nhà khởi nghiệp” và “IMP4- Tôi

đang tìm kiếm thông tin tích cực và tiêu cực có liên quan về dự án khởi nghiệp” và

có hệ số tải ngoài lớn hơn 0,6, nhưng nhỏ hơn 0,7. Tuy nhiên, cả 3 biến quan sát này

đều chứa nội dung quan trọng và nếu loại các biến này có thể sẽ vi phạm về tính nội

104

dung (Nguyễn Đình Thọ, 2014). Như vậy, 3 biến này đều được giữ lại.

Bảng 4.14: Kết quả phân tích độ tin cậy và giá trị hội tụ của thang đo

Khái niệm rho_A Cronbach’s alpha Độ tin cậy tổng hợp Phương sai trích trung bình

0,753 0,753 0,752 0,503

0,760 0,760 0,760 0,514

0,799 0,804 0,802 0,804 0,800 0,804 0,500 0,507

Gắn kết với khởi nghiệp Nhận thức khả năng khởi nghiệp Nhận thức mong muốn khởi nghiệp Tư duy khởi nghiệp Ý định hành động khởi nghiệp 0,853 0,852 0,852 0,536

Nguồn: Kết quả xử lý từ khảo sát của tác giả

Bảng 4.15: Kết quả phân tích Fornell – Larcker - giá trị phân biệt (lần cuối)

Khái niệm Gắn kết với khởi nghiệp Nhận thức mong muốn khởi nghiệp Nhận thức khả năng khởi nghiệp Tư duy khởi nghiệp Ý định hành động khởi nghiệp

0,709

0,624 0,717

0,634 0,609 0,662 0,627 0,707 0,658 0,712

Gắn kết với khởi nghiệp Nhận thức khả năng khởi nghiệp Nhận thức mong muốn khởi nghiệp Tư duy khởi nghiệp Ý định hành động khởi nghiệp 0,667 0,562 0,576 0,575 0,732

Nguồn: Kết quả xử lý từ khảo sát của tác giả.

Từ kết quả các bảng 4.14, bảng 4.15, bảng 4.16 và bảng 4.17 có thể kết luận,

thang đo đo lường các khái niệm đều đạt độ tin cậy, giá trị hội tụ, giá trị phân biệt,

tính đơn hướng và giá trị nội dung. Vì vậy, mô hình phù hợp với dữ liệu thị trường.

Cụ thể, từ bảng 4.14 cho thấy, thang đo đo lường các khái niệm trong mô hình

nghiên cứu đều đạt độ tin cậy theo yêu cầu trong đó: Cronbach’s alpha >0,7;

rho_A>0,7; CR>0,7 và AVE >0,5. Các hệ số ma trận Fornell – Larcker (bảng 4.15)

105

cũng cho thấy, hệ số trên cùng đều lớn hơn các hệ số trong cùng 1 cột. Đồng thời giá

trị VIP của các biến quan sát đều < 5,0 (bảng 4.17). Ngoài ra, các hệ số như: SRMR

= 0,026<0,082, d_ULS=12,4%<95%, d_G1 = 7,3%<95%, d_G2=6,8%<95% đều đạt

yêu cầu (goodness of model fit).

Bảng 4.16: Kết quả mức độ phù hợp mô hình với dữ liệu thị trường

Mô hình tới hạn Mô hình ước lượng

Hệ số SRMR d_ULS d_G1 d_G2 Chi-Square NFI 0,026 0,124 0,073 0,068 486,84 0,954 0,026 0,124 0,073 0,068 486,84 0,954

Nguồn: Kết quả xử lý từ khảo sát của tác giả

Bảng 4.17: Kết quả phân tích hệ số VIP các biến quan sát (lần cuối)

Ký hiệu Hệ số VIF Ký hiệu Hệ số VIF

1,579 IMP1 1,617 IMP2 1,403 IMP3 1,484 IMP4 1,625 INT1 1,692 INT2 1,636 INT3 1,462 INT4 1,643 INT5 1,544 1,590 1,691 1,805 1,594 1,627 1,980 2,063 2,018 1,751 COM1 COM2 COM4 DES1 DES2 DES3 DES4 FEA1 FEA3 FEA4 Nguồn: Kết quả xử lý từ khảo sát của tác giả

Kết quả mô hình đo lường các khái niệm (đã chuẩn hóa) được trình bày trong

hình 4.1 cho thấy, các chỉ tiêu đo lường trong mô hình này đều thỏa mãn yêu cầu và

đủ điều kiện đưa vào phân tích mô hình cấu trúc tuyến tính SEM với mục đích kiểm

định các giả thuyết trong mô hình đề xuất nghiên cứu.

106

Hình 4.1: Mô hình đo lường các khái niệm (đã chuẩn hóa) Nguồn: Kết quả xử lý từ khảo sát của tác giả

4.2.4. Đánh giá mô hình cấu trúc

Để ước lượng mô hình cấu trúc tuyến tính, quy trình Bootstrapping bắt buộc

phải được tiến hành với kích thước mẫu Bootstrapping được khuyến nghị là n=5000

(Henseler & cộng sự, 2015). Trong mô hình cấu trúc, trọng số outer weights thường

thấp hơn hệ số tải nhân tố (Hair & cộng sự, 2014). Với giá trị t-value > 1,96 (p-

value<5%) tương ứng cho mỗi giả thuyết thì giả thuyết đó được xem là có ý nghĩa

thống kê ở mức 5% (Hair & cộng sự, 2014).

Henseler & cộng sự (2016) cho rằng, phương pháp kiểm định Bootstrapping

là phương pháp lấy mẫu có hoàn lại, trong đó mẫu ban đầu đóng vai trò là đám đông.

Với kỹ thuật Bootstrapping, có thể xem mẫu ban đầu được như một tổng thể, N mẫu

con trong tổng thể được tạo thành bằng phương pháp lấy mẫu với sự thay đổi của các

giá trị quan sát trong cỡ mẫu ban đầu (trong nghiên cứu N = 1367).

Từ bảng 4.18 cho thấy, trọng số gốc và trọng số trung bình của kết quả

Bootstrapping từ 5000 đều nằm trong khoảng tin cậy 95%. Như vậy, các ước lượng

107

trong mô hình có thể kết luận là đáng tin cậy.

Bảng 4.18: Kết quả Bootstrapping mô hình cấu trúc

Mối quan hệ Trọng số gốc 2,50 % 97,50 % Trọng số trung bình Bootstrapping Độ lệch chuẩn

0,411 0,413 0,060 0,297 0,532

0,280 0,282 0,060 0,167 0,402

0,341 0,339 0,060 0,219 0,454

- 0,117 0,116 0,059 0,002 0,230

0,288 0,287 0,066 0,156 0,412

0,432 0,434 0,056 0,325 0,543

0,129 0,127 0,061 0,003 0,243

0,244 0,244 0,058 0,129 0,355

Gắn kết với khởi nghiệp -> Ý định hành động khởi nghiệp Nhận thức khả năng khởi nghiệp -> Gắn kết với khởi nghiệp Nhận thức khả năng khởi nghiệp -> Tư duy khởi nghiệp Nhận thức khả năng khởi nghiệp -> Ý định hành động khởi nghiệp Nhận thức mong muốn khởi nghiệp -> Gắn kết với khởi nghiệp Nhận thức mong muốn khởi nghiệp -> Tư duy khởi nghiệp Nhận thức mong muốn khởi nghiệp -> Ý định hành động khởi nghiệp Tư duy khởi nghiệp -> Gắn kết với khởi nghiệp Tư duy khởi nghiệp -> Ý định hành động khởi nghiệp 0,167 0,167 0,057 0,053 0,280

Nguồn: Kết quả xử lý từ khảo sát của tác giả

4.2.5. Kiểm định giả thuyết

Kết quả ước lượng mô hình cấu trúc và kiểm định các giả thuyết trong mô hình

được trình bày trong hình 4.2 như sau:

108

Hình 4.2: Mô hình cấu trúc (đã chuẩn hóa) Nguồn: Kết quả xử lý từ khảo sát của tác giả

Từ hình 4.2 cho thấy, 9 giả thuyết H1, H2, H3, H4a, H4b, H4c, H5a, H5b, H5c

đều được chấp nhận vì có giá trị thống kê t>1,96 (hay P-value<5%). Trên cơ sở này

bảng 4.19 sẽ trình bày kết quả chi tiết các giá trị thống kê kiểm định các giả thuyết từ

phương pháp Bootstrapping.

109

Bảng 4.19: Kết quả kiểm định các giả thuyết từ Bootstrapping

Mối quan hệ Giá trị t P Values Mức độ tác động

0,411 6,814 0,000

0,280 4,645 0,000

0,341 5,669 0,000

0,117 1,963 0,046

0,288 4,347 0,000

0,432 7,747 0,000

0,129 2,099 0,036

0,244 4,222 0,000

Gắn kết với khởi nghiệp -> Ý định hành động khởi nghiệp Nhận thức khả năng khởi nghiệp - > Gắn kết với khởi nghiệp Nhận thức khả năng khởi nghiệp - > Tư duy khởi nghiệp Nhận thức khả năng khởi nghiệp - > Ý định hành động khởi nghiệp Nhận thức mong muốn khởi nghiệp -> Gắn kết với khởi nghiệp Nhận thức mong muốn khởi nghiệp -> Tư duy khởi nghiệp Nhận thức mong muốn khởi nghiệp -> Ý định hành động khởi nghiệp Tư duy khởi nghiệp -> Gắn kết với khởi nghiệp Tư duy khởi nghiệp -> Ý định hành động khởi nghiệp 0,167 2,912 0,004

Nguồn: Kết quả xử lý từ khảo sát của tác giả

Như vậy, còn giả thuyết H6a và H6b là 2 giả thuyết điều tiết nhóm. Để kiểm

định giả thuyết điều tiết này, tác giả sẻ sử dụng đồng thời 2 phương pháp kiểm định:

(1) Kỹ thuật MICOM (Measurement invariance of composite models) và (2) Kỹ thuật

PLS-MGA (Partial least squares Multi group analysis) với phép kiểm định phi tham

số (Non-parametric significance test).

Với phép kiểm định MICOM nhằm xác định sự bất biến trong đo lường

(Measurement invariance). Trong trường hợp không thể xác định sự bất biến trong

đo lường (bất biến toàn phần – Full measurement invariance; bất biến bán phần -

Partial measurement invariance) thì phép kiểm định điều tiết nhóm cũng sẽ dừng lại

(Henseler & cộng sự, 2016). Để kiểm định điều kiện này ta tiến hành phép kiểm định

thông qua kỹ thuật hoán vị (permutation) với mẫu Bootstrapping là 5000 theo các

bước sau (Henseler & cộng sự, 2016):

110

Bước 1: Tiến hành phân tích PLS cho từng nhóm nhằm xác định các chỉ số

như AVE, CR, Cronbach’s alpha cho từng nhóm. Các chỉ số này phải thỏa mãn các

yêu cầu đặt ra (đã trình bày ở trên).

Bước 2: Kiểm định sự bất biến trong cấu hình (Configural Invariance). Hệ số

tương quan gốc (Original Correlation) >=5% điểm phân vị (quantile), chuyển qua

bước 3. Ngược lại, phép kiểm định dừng lại (xem bảng step 2 trong bảng thông số

MICOM).

Bước 3: Kiểm định sự bất biến thành phần (Compositional Invariance) thông

qua kiểm tra bất biến toàn phần hoặc bán phần (xem bảng step 3 trong bảng thông số

MICOM).

+ Bất biến toàn phần (Full Invariance): chênh lệch giữa trung bình mẫu gốc

với mẫu giả lập được hoán vị (Mean Original Difference) nằm trong khoảng

2,5% đến 97,5% và chênh lệch giữa phương sai mẫu gốc với mẫu giả lập được

hoán vị cũng nằm trong khoảng 2,5% đến 97,5%.

+ Bất biên bán phần (Partial Invariance): chênh lệch giữa trung bình mẫu gốc

với mẫu giả lập được hoán vị (Mean Original Difference) nằm trong khoảng

2,5% đến 97,5% hoặc chênh lệch giữa phương sai mẫu gốc với mẫu giả lập

được hoán vị nằm trong khoảng 2,5% đến 97,5%.

Nếu thỏa mãn sự bất biến toàn phần hoặc bán phần thì có thể kết luận đủ điều

kiện chuyển qua bước 4. Ngược lại, phép kiểm định phải dừng lại.

Bước 4: Xem kết quả phép kiểm định hoán vị (permutation) trong các quan hệ

giữa 2 khái niệm, nếu permutation p-value <5% thì có thể kết luận biến điều tiết có ý

nghĩa thống kê đối với quan hệ giữa 2 khái niệm, ngược lại không có ý nghĩa thống

kê.

Bước 5: Thực hiện kỹ thuật Bootstrapping cho từng nhóm để xem kết quả của

quá trình điều tiết.

Sau bước kiểm định MICOM, kỹ thuật PLS-MGA (Partial Least Squares

Multi-Group Analysis) với phép kiểm định phi tham số (non-parametric significance

111

test) sẽ được sử dụng. Nếu P-value <5%; 10% hoặc P-Value>95%; 90% thì sự khác

biệt giữa các nhóm có ý nghĩa thống kê ở mức 5%;10% (Henseler & cộng sự, 2016).

Lưu ý kỹ thuật PLS-MGA và MICOM là 2 phương pháp có thể sử dụng độc lập. Mục

đích sử dụng đồng thời cả kỹ thuật MICOM và PLS-MGA trong luận án chỉ để so

sánh kết quả từ 2 kỹ thuật này. Kết quả phân tích điều tiết nhóm theo phương pháp

MICOM nhằm kiểm định giả thuyết H6a và H6b sẽ được trình bày cụ thể sau đây.

Từ bảng 4.20 cho thấy, hầu hết các khái niệm đều đạt độ tin cậy và giá trị hội

tụ. Tuy vậy, vẫn có yếu tố gắn kết (nhóm thời gian ngắn) và yếu tố nhận thức mong

muốn, tư duy khởi nghiệp (nhóm thời gian dài) thấp hơn tiêu chuẩn một chút, nhưng

vẫn có thể chấp nhận được (Henseler & cộng sự, 2016).

Bảng 4.20: Kết quả phân tích độ tin cậy và giá trị hội tụ của thang đo phân theo nhóm

Khái niệm rho_A Cronbach’s Alpha (Độ tin cậy) Composite Reliability - CR (Độ tin cậy tổng hợp) Average Variance Extracted – AVE (Phương sai trích trung bình)

0,740 0,765 0,738 0,765 0,485 0,520

0,76 0,757 0,759 0,755 0,512 0,508

0,82 0,785 0,813 0,784 0,814 0,784 0,523 0,476

0,81 0,796 0,811 0,795 0,811 0,795 0,518 0,493

0,86 0,841 0,859 0,84 0,551 0,514

Gắn kết với khởi nghiệp 0,740 +Thời gian ngắn +Thời gian dài 0,764 Nhận thức khả năng khởi nghiệp 0,761 +Thời gian ngắn +Thời gian dài 0,756 Nhận thức mong muốn khởi nghiệp +Thời gian ngắn +Thời gian dài Tư duy khởi nghiệp +Thời gian ngắn +Thời gian dài Ý định hành động khởi nghiệp 0,86 +Thời gian ngắn 0,843 +Thời gian dài Nguồn: Kết quả xử lý từ khảo sát của tác giả

112

Bảng 4.21: Kết quả phân tích Fornell – Larcker (nhóm thời gian ngắn)

Khái niệm

Gắn kết với khởi nghiệp Nhận thức khả năng khởi nghiệp Nhận thức mong muốn khởi nghiệp Tư duy khởi nghiệp Ý định hành động khởi nghiệp

0,697

0,641 0,716

thức mong

0,627 0,625 0,696 0,628 0,723 0,699 0,720

0,673 0,634 0,575 0,618 0,742

Gắn kết với khởi nghiệp Nhận thức khả năng khởi nghiệp Nhận muốn khởi nghiệp Tư duy khởi nghiệp Ý định hành động khởi nghiệp Nguồn: Kết quả xử lý từ khảo sát của tác giả

Bảng 4.22: Kết quả phân tích Fornell – Larcker (nhóm thời gian dài)

Khái niệm Gắn kết với khởi nghiệp Nhận thức mong muốn khởi nghiệp Tư duy khởi nghiệp Nhận thức khả năng khởi nghiệp Ý định hành động khởi nghiệp

0,721

0,600 0,712

thức mong

0,621 0,621 0,639 0,587 0,690 0,607 0,702

0,658 0,575 0,52 0,717

Gắn kết với khởi nghiệp Nhận thức khả năng khởi nghiệp Nhận muốn khởi nghiệp Tư duy khởi nghiệp Ý định hành động 0,469 khởi nghiệp Nguồn: Kết quả xử lý từ khảo sát của tác giả

Nhìn vào bảng 4.21 và bảng 4.22, các chỉ số Fornell – Larcker đều đạt yêu

cầu. Vì vậy, có thể kết luận, các khái niệm trong 2 nhóm (nhóm thời gian có ý định

khởi nghiệp ngắn và dài) đều đạt giá trị phân biệt.

Từ bảng 4.23 cho thấy, hệ số tương quan mẫu gốc các khái niệm đều lớn hoặc

bằng 5% điểm phân vị (quantile), nên đủ điều kiện chuyển sang bước 3.

113

Bảng 4.23: Kiểm định đo lường bất biến trong cấu hình

Tương quan mẫu gốc

5,00% 0,999 0,999 0,999 0,999 0,999 0,999 0,999 1,000 1,000 0,999

Khái niệm Gắn kết với khởi nghiệp Nhận thức khả năng khởi nghiệp Nhận thức mong muốn khởi nghiệp Tư duy khởi nghiệp Ý định hành động khởi nghiệp Nguồn: Kết quả xử lý từ khảo sát của tác giả

Bảng 4.24: Kiểm định đo lường bất biến trong thành phần

Khái niệm 2,50 % 97,50 % 2,50 % 97,50 %

Chênh lệch giá trị trung bình giữa 2 nhóm -0,155 Chênh lệch phương sai giữa 2 nhóm 0,041 0,104 -0,178 0,178

-0,231 0,106 0,151 -0,181 0,184

-0,116 0,106 0,074 -0,181 0,190

-0,136 0,107 0,163 -0,172 0,175

-0,221 0,106 0,096 -0,187 0,193 Gắn kết với khởi nghiệp Nhận thức khả năng khởi nghiệp Nhận thức mong muốn khởi nghiệp Tư duy khởi nghiệp Ý định hành động khởi nghiệp - 0,107 - 0,107 - 0,105 - 0,106 - 0,109

Nguồn: Kết quả xử lý từ khảo sát của tác giả

Từ bảng 4.24, chỉ có yếu tố nhận thức mong muốn với chênh lệch giá trị trung

bình giữa 2 nhóm nằm trong khoảng 2,5% và 97,5%, còn 04 yếu tố còn lại không

nằm trong khoảng quy định.

Tuy vậy, tất cả các chênh lệch phương sai giữa 2 nhóm của các yếu tố đều nằm

trong khoảng 2,5% và 97,5%. Như vậy, có thể kết luận mô hình đạt bất biến bán phần.

Đủ điều kiện chuyển sang bước 4.

114

Bảng 4.25: Kết quả kiểm định các giả thuyết điều tiết từ phép hoán vị

Hệ số tác động

Khái niệm P-values

Thời gian ngắn Thời gian dài

0,211 0,053 0,019

0,088 0,227 0,046

Nhận thức khả năng khởi nghiệp -> Ý định hành động khởi nghiệp Nhận thức mong muốn khởi nghiệp -> Ý định hành động khởi nghiệp Nguồn: Kết quả xử lý từ khảo sát của tác giả

Từ bảng 4.25 cho thấy, biến điều tiết khoảng cách thời gian có ý nghĩa thống

kê ở mức 95% đối với: (1) mối quan hệ giữa nhận thức khả năng khởi nghiệp đến ý

định hành động khởi nghiệp; (2) mối quan hệ giữa nhận thức mong muốn khởi nghiệp

và ý định hành động khởi nghiệp. Tiếp theo, tác giả sẽ sử dụng phép kiểm định PLS-

MGA phi tham số để so sánh kết quả với phương pháp MICOM.

Bảng 4.26: Kết quả kiểm định các giả thuyết từ Bootstrapping phân theo từng nhóm theo phương pháp PLS – MGA.

p-Value Mối quan hệ Chênh lệch hệ số tác động của 2 nhóm

0,004 0,519

0,034 0,298

0,07 0,841

0,158 0,009

0,103 0,918

0,118 0,034

0,139 0,031 0,976 0,315

0,039 0,287

Gắn kết với khởi nghiệp -> Ý định hành động khởi nghiệp Nhận thức khả năng khởi nghiệp -> Gắn kết với khởi nghiệp Nhận thức khả năng khởi nghiệp -> Tư duy khởi nghiệp Nhận thức khả năng khởi nghiệp -> Ý định hành động khởi nghiệp Nhận thức mong muốn khởi nghiệp -> Gắn kết với khởi nghiệp Nhận thức mong muốn khởi nghiệp -> Tư duy khởi nghiệp Nhận thức mong muốn khởi nghiệp -> Ý định hành động khởi nghiệp Tư duy khởi nghiệp -> Gắn kết với khởi nghiệp Tư duy khởi nghiệp -> Ý định hành động khởi nghiệp Nguồn: Kết quả xử lý từ khảo sát của tác giả

Từ bảng 4.26 cho thấy, với phương pháp PLS – MGA thì biến điều tiết khoảng

115

cách thời gian có ý nghĩa thống kê ở mức 95% đối với: (1) mối quan hệ giữa nhận

thức khả năng khởi nghiệp đến ý định hành động khởi nghiệp; (2) mối quan hệ giữa

nhận thức mong muốn khởi nghiệp và ý định hành động khởi nghiệp. Kết quả này

tương đồng với phương pháp MICOM.

Sau các bước trên, luận án sẽ tiến hành Bootstrapping để kiểm định giả thuyết

H6a và H6b. Các kết quả được trình bày trong hình 4.3, hình 4.4 và bảng 4.27

Hình 4.3: Mô hình đo lường các khái niệm (nhóm thời gian ngắn, đã chuẩn hóa) Nguồn: Kết quả xử lý từ khảo sát của tác giả

Từ hình 4.3 cho thấy, khi khoảng cách thời gian ngắn, nhận thức mong muốn

gần như không có tác động đến ý định hành động khởi nghiệp (-0,008), trong khi đó

đối với yếu tố nhận thức khả năng khởi nghiệp thì mức độ tác động đến ý định hành

động khởi nghiệp tăng lên từ 0,117 (mẫu chung, không phân nhóm, xem lại hình 4.1)

lên 0,243. Điều này cho thấy, có sự tác động từ yếu tố khoảng cách thời gian.

116

Hình 4.4: Mô hình đo lường các khái niệm (nhóm thời gian dài, đã chuẩn hóa) Nguồn: Kết quả xử lý từ khảo sát của tác giả

Tương tự từ hình 4.4 cho thấy, khi khoảng cách thời gian dài, nhận thức khả

năng gần như không có tác động đến ý định hành động khởi nghiệp (-0,017), trong

khi đó đối với yếu tố nhận thức mong muốn khởi nghiệp thì mức độ tác động đến ý

định hành động khởi nghiệp tăng lên từ 0,129 (mẫu chung, không phân nhóm, xem

lại hình 4.1) lên 0,248. Và điều này cho thấy, có sự tác động từ yếu tố khoảng cách

thời gian.

117

Bảng 4.27: Kết quả kiểm định các giả thuyết từ Bootstrapping phân theo từng nhóm

Mối quan hệ Hệ số tác động Thống kê t P Values

4.604 4.906 0,404 0,402 0,000 0,000

3.4 2.977 0,001 0,003

0,006 0,000

0,243 -0,017 0,004 0,838

0,187 0,377 1.625 4.426 0,104 0,000

5.644 5.008 0,522 0,347 0,000 0,000

-0,008 0,248 0,09 2.788 0,928 0,005

3.125 2.912 0,002 0,004

2.32 2.105 0,020 0,035

Gắn kết với khởi nghiệp -> Ý định hành động khởi nghiệp +Thời gian ngắn +Thời gian dài Nhận thức khả năng khởi nghiệp -> Gắn kết với khởi nghiệp +Thời gian ngắn 0,326 0,238 +Thời gian dài Nhận thức khả năng khởi nghiệp -> Tư duy khởi nghiệp 0,265 +Thời gian ngắn 2.754 5.094 0,402 +Thời gian dài Nhận thức khả năng khởi nghiệp -> Ý định hành động khởi nghiệp 2.905 +Thời gian ngắn 0,205 +Thời gian dài Nhận thức mong muốn khởi nghiệp -> Gắn kết với khởi nghiệp +Thời gian ngắn +Thời gian dài Nhận thức mong muốn khởi nghiệp -> Tư duy khởi nghiệp +Thời gian ngắn +Thời gian dài Nhận thức mong muốn khởi nghiệp -> Ý định hành động khởi nghiệp +Thời gian ngắn +Thời gian dài Tư duy khởi nghiệp -> Gắn kết với khởi nghiệp 0,287 +Thời gian ngắn +Thời gian dài 0,217 Tư duy khởi nghiệp -> Ý định hành động khởi nghiệp 0,202 +Thời gian ngắn 0,161 +Thời gian dài Nguồn: Kết quả xử lý từ khảo sát của tác giả

Từ kết quả bảng 4.27 cho thấy, với khoảng cách thời gian dài thì yếu tố này

mới có tác động đến mối quan hệ giữa nhận thức mong muốn khởi nghiệp đến ý định

hành động khởi nghiệp. Trong khi đó, cũng với thời gian dài thì mối quan hệ giữa

nhận thức khả năng khởi nghiệp và ý định hành động khởi nghiệp không có ý nghĩa

thống kê. Như vậy, giả thuyết H6a được chấp nhận. Tương tự với khoảng cách thời

gian ngắn thì yếu tố này mới có tác động đến mối quan hệ giữa nhận thức khả năng

118

khởi nghiệp đến ý định hành động khởi nghiệp. Trong khi đó, cũng với thời gian ngắn

thì mối quan hệ giữa nhận thức mong muốn khởi nghiệp và ý định hành động khởi

nghiệp không có ý nghĩa thống kê. Như vậy, giả thuyết H6b cũng được chấp nhận.

Bảng 4.28: Kết quả kiểm định giả thuyết mô hình nghiên cứu

STT 1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

Kết luận Chấp nhận mức 95% Chấp nhận mức 95% Chấp nhận mức 95% Chấp nhận mức 95% Chấp nhận mức 95% Chấp nhận mức 95% Chấp nhận mức 95% Chấp nhận mức 95% Chấp nhận mức 95% Chấp nhận mức 95%

Chấp nhận mức 95%

Giả thuyết Giả thuyết H1: Tư duy khởi nghiệp sẽ có tác động cùng chiều đến ý định hành động khởi nghiệp. Giả thuyết H2: Gắn kết với khởi nghiệp có tác động cùng chiều đến ý định hành động. Giả thuyết H3:Tư duy khởi nghiệp có tác động cùng chiều đến gắn kết với khởi nghiệp. Giả thuyết H4a: Nhận thức mong muốn khởi nghiệp sẽ tác động cùng chiều đến ý định hành động khởi nghiệp. Giả thuyết H4b: Nhận thức mong muốn khởi nghiệp sẽ tác động cùng chiều đến tư duy khởi nghiệp. Giả thuyết H4c: Nhận thức mong muốn khởi nghiệp sẽ tác động cùng chiều đến gắn kết với khởi nghiệp. Giả thuyết H5a: Nhận thức khả năng khởi nghiệp sẽ tác động cùng chiều đến ý định hành động khởi nghiệp. Giả thuyết H5b: Nhận thức khả năng khởi nghiệp sẽ tác động cùng chiều đến tư duy khởi nghiệp. Giả thuyết H5c: Nhận thức khả năng khởi nghiệp sẽ tác động cùng chiều đến gắn kết với khởi nghiệp. Giả thuyết H6a: Chỉ có khoảng cách thời gian dài mới tác động đến mối quan hệ giữa nhận thức mong muốn khởi nghiệp và ý định hành động khởi nghiệp, còn thời gian ngắn thì không. Giả thuyết H6b: Chỉ có khoảng cách thời gian ngắn mới tác động đến mối quan hệ giữa nhận thức khả năng khởi nghiệp và ý định hành động khởi nghiệp, còn thời gian dài thì không.

Nguồn: Kết quả xử lý từ khảo sát của tác giả

Như vậy, kết quả kiểm định giả thuyết mô hình nghiên cứu được thể hiện bảng

4.28 cho thấy, tất cả 11 giả thuyết đặt ra đều được chấp nhận. Vi vậy mô hình nghiên

cứu sau kiểm định được trình bày như hình 4.5 bên dưới.

119

H4a+

H6a+

H4c+

Nhận thức mong muốn khởi nghiệp

Gắn kết với khởi nghiệp

H2+

H4b+

Ý định hành động khởi nghiệp

H3+

Khoảng cách thời gian

H5c+

H1+

H5b+

Nhận thức khả năng khởi nghiệp

Tư duy khởi nghiệp

H6b+

H5a+ Hình 4.5: Mô hình nghiên cứu sau kiểm định

Kết quả tác động trực tiếp, gián tiếp và tổng tác động giữa các khái niệm: ý

định hành động khởi nghiệp, gắn kết với khởi nghiệp, tư duy khởi nghiệp, nhận thức

mong muốn khởi nghiệp và nhận thức khả năng khởi nghiệp trong mô hình được trình

bày chi biết trong bảng 4.29.

120

Bảng 4.29: Kết quả tác động trực tiếp, gián tiếp và tổng tác động giữa các khái niệm

Mức tác động Nhận thức khả năng khởi nghiệp Gắn kết với khởi nghiệp Tư duy khởi nghiệp Ý định hành động khởi nghiệp

Nhận thức mong muốn khởi nghiệp Gắn kết với khởi nghiệp: R2 hiệu chỉnh = 0,505, Q2 = 0,217

0,411 0,411 0,170

ß Trực tiếp ß Gián tiếp ß Tổng f2 Nhận thức khả năng khởi nghiệp

0,341

0,280 0,083 0,363 0,079 ß Trực tiếp ß Gián tiếp ß Tổng f2 0,341 0,130 0,117 0,206 0,323 0,013

Nhận thức mong muốn khởi nghiệp

0,432

0,288 0,105 0,394 0,078 0,432 0,209 ß Trực tiếp ß Gián tiếp ß Tổng f2 0,129 0,234 0,363 0,015

Tư duy khởi nghiệp: R2 hiệu chỉnh = 0,497, Q2 =0,204

0,244 0,244 0.06 ß Trực tiếp ß Gián tiếp ß Tổng f2 0,167 0,100 0,267 0,027

Ý định hành động khởi nghiệp: R2 hiệu chỉnh = 0,508, Q2 = 0,228 Nguồn: Kết quả xử lý từ khảo sát của tác giả

Bảng 4.30: Kết quả mức độ dự đoán liên quan (Q²) thông qua kiểm định Blindfolding

SSO Q² (=1-SSE/SSO)

4.101 4.101 5.468 5.468 6.835 SSE 3.212,428 4.101,000 5.468,000 4.351,617 5.273,452 0,217 0,204 0,228

Gắn kết với khởi nghiệp Nhận thức khả năng khởi nghiệp Nhận thức mong muốn khởi nghiệp Tư duy khởi nghiệp Ý định hành động khởi nghiệp Nguồn: Kết quả xử lý từ khảo sát của tác giả

Từ mức độ dự báo tác động liên quan từ mẫu khảo sát ảnh hưởng của biến

121

ngoại sinh lên các biến nội sinh là yếu, trung bình hay mạnh tương ứng với các giá

trị Q² = 0,02; 0,15 và 0,35 trong bảng 4.30, kết hợp với bảng 4.29, ta có một số nhận

xét như sau:

(1) Tất cả các mối quan hệ đều có ý nghĩa thống kê (p<5%). Theo đó gắn

kết với khởi nghiệp có tổng tác động dương đến ý định hành động khởi nghiệp (β =

0,411). Tiếp đến là nhận thức mong muốn khởi nghiệp (β = 0,362). Tiếp theo là nhận

thức khả năng khởi nghiệp (β = 0,323, p = ***). Cuối cùng là tư duy khởi nghiệp (β

= 0,267).

(2) Hệ số R2 = 0,508 (dòng cuối cùng trong bảng 4.29) đối với ý định hành

động khởi nghiệp ở mức khá. Có nghĩa là, có đến 50,8% sự biến thiên của yếu tố ý

định hành động khởi nghiệp được giải thích bởi 50,8% các yếu tố trong mô hình (đó

là các yếu tố: gắn kết với khởi nghiệp, tư duy khởi nghiệp, nhận thức mong muốn

khởi nghiệp và nhận thức khả năng khởi nghiệp), còn lại các yếu tố khác ngoài mô

hình giải thích sẽ giải thích (49,2%).

(3) Hệ số R2 lớn thứ 2 trong mô hình chính là của yếu tố gắn kết với khởi

nghiệp. Nghĩa là, sự biến thiên của yếu tố gắn kết với khởi nghiệp được giải thích bởi

50,5% các yếu tố tiền đề của gắn kết của khởi nghiệp trong mô hình, còn lại 49,5%

các yếu tố khác ngoài mô hình giải thích.

(4) Hệ số R2 lớn cuối cùng là yếu tố tư duy khởi nghiệp (R2=0,497) cho

thấy, 2 yếu tố nhận thức mong muốn khởi nghiệp và nhận thức khả năng khởi nghiệp

giải thích đến 49,7% sự biến thiên của tư duy khởi nghiệp, còn lại 51,3% yếu tố khác

ngoài mô hình giải thích.

(5) Mức độ tác động của yếu tố nhận thức mong muốn đến ý định hành

động khởi nghiệp ở mức khá yếu (f2 = 0,013<0,02), tương tự đối với mức tác động

của nhận thức khả năng đến ý định hành động cũng rất yếu (f2 = 0,015<0,02). Điều

này hoàn toàn phù hợp với khảo sát của GEM (2016) về chỉ số khởi nghiệp tại Việt

Nam cho rằng, những người trẻ, mặc dù nhìn thấy khả năng và cơ hội khởi nghiệp,

nhưng tỷ lệ khởi nghiệp tại Việt Nam là khá thấp. Tuy nhiên, nếu trong thời gian ngắn

122

thì f2 của yếu tố nhận thức mong muốn tác động đến ý định hành động khởi nghiệp

bằng 0, nghĩa là không có tác động, nhưng với thời gian dài lập tức f2 tăng từ 0,013

lên 0,058. Điều này cũng giống với yếu tố nhận thức khả năng khởi nghiệp khi thời

gian ngắn thì f2 tăng từ 0,015 lên 0,055, nhưng với thời gian dài thì mối quan hệ này

không có ý nghĩa. Đây được xem là một đóng góp rất quan trọng trong luận án này.

(6) Đồng thời, mức độ tác động của tư duy khởi nghiệp đến ý định hành

động khởi nghiệp ở mức yếu (f2 = 0,027>0,02). Vì vậy, việc bổ sung yếu tố này vào

trong mô hình chưa được như kỳ vọng;

(7) Trong khi đó, mức độ tác động của yếu tố gắn kết với khởi nghiệp đến

ý định hành động khởi nghiệp ở mức khá (f2 = 0,170>0,15). Điều này cho thấy, yếu

tố gắn kết với khởi nghiệp là rất quan trọng trong việc hình thành ý định hành động

khởi nghiệp. Đây có thể xem là yếu tố trả lời cho câu hỏi làm thế nào để khắc phục

tình trạng nhìn thấy khả năng và cơ hội khởi nghiệp, nhưng tỷ lệ khởi nghiệp tại Việt

Nam là khá thấp.

(8) Tất cả mức độ dự đoán liên quan từ mẫu khảo sát ảnh hưởng của biến

ngoại sinh lên các biến nội sinh là ở mức khá (hơn mức trung bình và tiệm cận mức

mạnh) trong đó cao nhất Q² ý định hành động khởi nghiệp = 0,228, tiếp đến Q² gắn

kết với khởi nghiệp = 0,217; cuối cùng là Q² tư duy khởi nghiệp = 0,204.

(9) Yếu tố nhận thức mong muốn khởi nghiệp và nhận thức khả năng khởi

nghiệp được cho là có ảnh hưởng rất lớn đến ý định khởi nghiệp (Krueger & cộng sự,

2000). Tuy nhiên, trong luận án này cho thấy, nếu tác động trực tiếp chỉ ở mức yếu,

nhưng nếu qua trung gian thì mức độ tác động tăng lên đáng kể tiệm cận ở mức khá.

Điều này chứng tỏ quá trình hình thành ý định khởi nghiệp có thể là quá trình phức

tạp hơn (Carsrud & Brännback, 2011).

4.2.6. So sánh kết quả nghiên cứu với các nghiên cứu khác

Mô hình nghiên cứu được xây dựng dựa trên lý thuyết tư duy các giai đoạn

hành động của Gollwitzer & Keller (2012, 2016). Theo đó khởi nghiệp là một quá

trình nhận thức, trước khi tiến hành xúc tiến các hoạt động khởi nghiệp thì các cá

123

nhân phải là những người nhận thức về mong muốn và có khả năng khởi nghiệp.

Đồng thời các cá nhân phải có tư duy và gắn kết với khởi nghiệp. Chính những điều

này sẽ dẫn tới ý định khởi nghiệp và tiến hành xúc tiến các hoạt động khởi nghiệp

trong tương lai. Hay nói cách khác trước khi đi tới quyết định khởi nghiệp, một nhà

khởi nghiệp tiềm năng đã phải nghĩ tới, ham thích và có ý định khởi nghiệp, từ đó họ

mới xúc tiến các hoạt động. Tiềm năng khởi nghiệp của cá nhân được thể hiện ở 2

yếu tố nhận thức của cá nhân đó về “Mong muốn khởi nghiệp” và “Khả năng khởi

nghiệp”. Hai khái niệm này tuy có sự tương đồng, nhưng cũng có những khác biệt

nhất định với biến “Thái độ với khởi nghiệp” và “Nhận thức về tính khả thi khởi

nghiệp” trong mô hình hành vi dự định TPB của Ajzen mà một số nghiên cứu trước

đây sử dụng. Ngoài ra, luận án này cũng đã kế thừa các nghiên cứu trước để đề xuất

mô hình lý thuyết về các yếu tố tác động ý định hành động khởi nghiệp của sinh viên

ĐH.

Kết quả phân tích dữ liệu của nghiên cứu cũng cho thấy, có những điểm tương

đồng và một số điểm khác biệt với các nghiên cứu khác trên thế giới về các yếu tố

ảnh hưởng đến ý định hành động khởi nghiệp của sinh viên ĐH. Cụ thể:

Kết quả nghiên cứu đã khẳng định sự tác động của các yếu tố nhận thức về

mong muốn, nhận thức về khả năng khởi nghiệp, tư duy khởi nghiệp và gắn kết với

khởi nghiệp lên ý định hành động khởi nghiệp ở bối cảnh Việt Nam là một quốc gia

đang phát triển.

Khác với các nghiên cứu trước đây được thực hiện ở các nước phương Tây,

khi mà “Ý kiến người xung quanh” không tìm được bằng chứng chứng minh tác động

tới ý định khởi nghiệp như nghiên cứu trên sinh viên Tây Ban Nha của Linan & Chen

(2006). Ở nghiên cứu này với bối cảnh Việt Nam, “Ý kiến người xung quanh” (là một

thành phần của yếu tố nhận thức mong muốn khởi nghiệp) tác động thuận chiều tới ý

định khởi nghiệp, thậm chí còn là yếu tố tác động mạnh nhất tới ý định khởi nghiệp.

Điều này trùng hợp với quan điểm của Begley & Tan (2001) trong một nền văn hóa

tập thể, văn hóa Á Đông, suy nghĩ của các cá nhân thường bị tác động bởi ý kiến quan

124

điểm của những người xung quanh. Kết quả này cũng giống như kết quả trong nghiên

cứu đã được thực hiện ở một số nước Châu Á có nền văn hóa tập thể như Philippines,

Việt Nam và Trung Quốc (nghiên cứu của Baughn & cộng sự (2006)), Malaysia

(nghiên cứu của Nasurdin (2009)), hay của Đài Loan (nghiên cứu của Linan & Chen

(2006)). Sinh viên nào cảm thấy mình được bạn bè, gia đình người thân ủng hộ, cảm

thấy sự lựa chọn nghề là một doanh nhân được xã hội coi trọng thì càng mong muốn

khởi nghiệp và tự tin về khởi nghiệp.

Điều này thể hiện nhận thức của cá nhân về tính hấp dẫn của cơ hội khởi nghiệp

chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi quan niệm và sự ủng hộ của những người có liên quan

như người thân, bạn bè. Theo nghiên cứu của Swan (1997) ở các quốc gia có nền kinh

tế đang phát triển như Việt Nam, trong khi các thể chế chính thống hỗ trợ cho thành

lập và vận hành DN còn chưa hoàn thiện, các cá nhân thường sử dụng mạng lưới gia

đình, quan hệ xã hội để đảm bảo cho khởi nghiệp thành công nên sự ủng hộ của người

thân đặc biệt bố mẹ, gia đình và bạn bè rất quan trọng trong nhận thức của cá nhân

đó về sự hấp dẫn của việc trở thành doanh nhân.

Kết quả nghiên cứu còn cho thấy, sinh viên đánh giá cao về vai trò của khởi

nghiệp, thể hiện thực tế ở Việt Nam là xã hội đang có cái nhìn rất tích cực về khởi

nghiệp (các yếu tố đều có chỉ số hiệu suất >70, xem thêm bảng 4.31). Kết quả này

được lý giải trong một quốc gia có phong trào khởi nghiệp còn khá mới như Việt

Nam, nhiều bạn trẻ đã nhanh chóng thoát nghèo và vươn lên trở thành một bộ phận

giàu có đẳng cấp cao của xã hội và được xã hội coi trọng (Baughn & cộng sự, 2004).

Sheeran & Orbell (1998) cho rằng, khoảng cách thời gian càng lớn thì sức

mạnh tiên đoán các yếu tố ý định càng giảm đi. Tuy nhiên, trong nghiên cứu tổng kết

về định lượng 98 nghiên cứu trước đó của Schlaegel & Koenig (2014) khẳng định

vẫn có tương quan cao giữa ý định và hành vi trong bối cảnh khởi nghiệp. Edelman

& cộng sự (2010) cho rằng, cường độ của các mục tiêu mong muốn (ý định) có thể

quyết định hành động. Rất nhiều đề xuất nghiên cứu nhằm cải thiện các khái niệm

khoảng cách ý định để mô tả tốt hơn sự phức tạp của quá trình khởi nghiệp (Fayolle

125

& Liñán, 2014). Như vậy, nghiên cứu này đã chứng minh được khoảng cách thời gian

là yếu tố điều tiết quan hệ giữa nhận thức mong muốn, nhận thức khả năng đến ý định

khởi nghiệp mà các nghiên cứu trước không đề cập. Theo đó, trong thời gian dài yếu

tố nhận thức mong muốn tác động đến ý định hành động khởi nghiệp có ý nghĩa thống

kê, còn trong thời gian ngắn thì không. Tương tự đối với với yếu tố nhận thức khả

năng khởi nghiệp khi thời gian ngắn thì mối quan hệ giữa yếu tố này với ý định hành

động khởi nghiệp có ý nghĩa, còn ngược lại thời gian dài thì không có ý nghĩa. Đây

được xem là một đóng góp có giá trị trong luận án này khi mà các mô hình TPB,

EEM dùng để kiểm định ý định khởi nghiệp đều không nhắc đến yếu tố thời gian.

Kết quả nghiên cứu cho thấy, yếu tố gắn kết trong khởi nghiệp có vai trò rất

quan trọng đối với hình thành ý định khởi nghiệp và có ý nghĩa thống kê. Đây là mối

quan hệ mới chưa được kiểm định tại Việt Nam. Hơn nữa, ý định khởi nghiệp là chỉ

báo tốt trong nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, trong lĩnh vực khởi nghiệp thì chưa hẳn như

vậy. Gắn kết trong khởi nghiệp được xem là yếu tố có hiệu quả đối với việc thúc đẩy

hành vi khởi nghiệp (Fayolle & Liñán, 2014).

Cuối cùng, trong các nghiên cứu trước đây về ý định khởi nghiệp chủ yếu sử

dụng mô hình EEM của Krueger & cộng sự (2000) hay mô hình TPB của Ajzen

(1991) có liên quan đến tư duy có chủ đích (nhận thức mong muốn và nhận thức khả

thi) trong lý thuyết tư duy các giai đoạn hành động. Giai đoạn này chỉ thích hợp với

các hành động đơn lẻ, khi đó nhận thức mong muốn và nhận thức khả thi có tác động

mạnh đến ý định và ý định sẽ là chỉ báo tốt, còn nếu là mục tiêu dài hạn như khởi

nghiệp thì phải kiểm soát tốt các hành động đơn lẻ thông qua tư duy hành động (các

nghiên cứu trước không đề cập đến quá trình này) thì sức mạnh tiên đoán của ý định

đối với hành động khởi nghiệp sẽ tăng lên. Đây là đóng góp quan trọng của luận án

này.

4.2.7. Phân tích biểu đồ quan hệ giữa mức độ quan trọng và hiệu suất của các

yếu tố tác động đến ý định hành động khởi nghiệp

Theo Henseler & cộng sự (2016), công cụ IPMA (Importance Performance

126

Map Analyses) sẽ cho biết vai trò của các biến ngoại sinh đối với biến nội sinh trong

mô hình cấu trúc. Biểu đồ này gồm trục hoành biểu thị mức độ quan trọng

(Importance index, mức tối đa là 1) theo các mức lần lượt là 0,02; 0,15 và 0,35 tương

ứng với yếu, trung bình và mạnh. Trục tung biểu thị hiệu suất (Performance index,

mức tối đa là 100) theo các mức nhỏ hơn 50 và lớn hơn hoặc bằng 50 tương ứng với

hiệu suất dưới trung bình và hiệu suất trên trung bình. Thông thường, các hàm ý sẽ

ưu tiên những biến tác động có tầm quan trọng cao, nhưng hiệu suất thấp (Henseler

& cộng sự, 2016) (xem hình 4.6).

Hình 4.6: Biểu đồ quan hệ giữa mức độ quan trọng và hiệu suất của các yếu tố tác động đến ý định hành động khởi nghiệp (đã chuẩn hóa) Nguồn: Kết quả xử lý từ khảo sát của tác giả

Từ hình 4.6, trục hoành (biểu thị tầm quan trọng) cho thấy, yếu tố nhận thức

mong muốn khởi nghiệp sẽ là yếu tố rất quan trọng tác động đến ý định hành động

khởi nghiệp, tiếp đến là gắn kết với khởi nghiệp, nhận thức khả năng khởi nghiệp và

cuối cùng là tư duy khởi nghiệp.

Đối với trục tung (biểu thị hiệu suất) thì nghiên cứu này cho thấy, các sinh

viên Việt Nam đều có nhận thức mong muốn khởi nghiệp, nhận thức khả năng khởi

nghiệp, tư duy và gắn kết với khởi nghiệp ở mức rất cao (đều cao hơn 70). Chứng tỏ

sinh viên luôn mơ ước và sẵn sàng khởi nghiệp trong thời điểm hiện nay. Nó cũng

127

trùng hợp với nhận định của Alain & cộng sự (2006) cho rằng, sinh viên mới ra trường

tại các nước đang phát triển luôn có khát khao khởi nghiệp, có khát khao làm giàu,

nhạy bén với các cơ hội kinh doanh (GEM, 2016).

Bảng 4.31: Kết quả chỉ số biểu thị mức độ quan trọng và hiệu suất của các yếu tố tác

động đến ý định hành động khởi nghiệp (đã chuẩn hóa)

Ý định hành động

Tầm quan trọng Hiệu suất 0,330 0,306 0,282 0,248 70,235 71,948 72,166 71,895

Nhận thức mong muốn khởi nghiệp Gắn kết với khởi nghiệp Nhận thức khả năng khởi nghiệp Tư duy khởi nghiệp Nguồn: Kết quả xử lý từ khảo sát của tác giả

Tóm lại, căn cứ vào kết quả phân tích hiệu suất và mức độ quan trọng của các

yếu tố (gắn kết với khởi nghiệp, tư duy khởi nghiệp, nhận thức mong muốn khởi

nghiệp và nhận thức khả năng khởi nghiệp, xem bảng 4.31) tác động đến ý định hành

động khởi nghiệp thì việc đề xuất các hàm ý chính sách sẽ dựa vào biến tác động có

tầm quan trọng cao, nhưng hiệu suất thấp theo thứ tự:

(1) Nhận thức mong muốn khởi nghiệp;

(2) Gắn kết với khởi nghiệp;

(3) Nhận thức khả năng khởi nghiệp;

(4) Tư duy khởi nghiệp;

TÓM TẮT CHƯƠNG 4

Trong chương này, tác giả đã trình bày chi tiết kết quả: (1) kiểm định mô hình

đo lường và (2) mô hình cấu trúc. Kết quả kiểm định mô hình đo lường cho thấy, tất

cả các khái niệm đo lường đều đạt được độ tin cậy, giá trị phân biệt và giá trị hội tụ.

Kết quả kiểm định mô hình cấu trúc tuyến tính cho thấy, tất cả giả thuyết đều có ý

nghĩa thống kê. Bên cạnh đó, kết quả kiểm định cũng cho thấy, vai trò yếu tố thời

gian trong việc hình thành ý định. Nếu các nghiên cứu trước đây dựa vào mô hình

128

TPB hoặc mô hình EEM chưa đề cập đến yếu tố thời gian thì trong luận án này đã bổ

sung chúng (đóng vai trò điều tiết) trong việc hình thành ý định. Theo đó, nếu ý định

hình thành trong thời gian ngắn thì vai trò của yếu tố nhận thức khả năng khởi nghiệp

sẽ có tác động đến ý định. Ngược lại, nếu ý định hình thành trong thời gian dài thì vai

trò của yếu tố nhận thức mong muốn khởi nghiệp sẽ tác động đến ý định. Ngoài ra,

yếu tố nhận thức mong muốn khởi nghiệp và yếu tố gắn kết với khởi nghiệp có vai

trò khá quan trọng trong việc hình thành ý định hành động khởi nghiệp. Đây có thể

xem là yếu tố trả lời cho câu hỏi làm thế nào để khắc phục tình trạng nhìn thấy khả

năng và cơ hội khởi nghiệp, nhưng tỷ lệ khởi nghiệp tại Việt Nam là khá thấp như đã

nêu ra ở trên. Cuối cùng, công cụ kiểm định trong luận án này sử dụng phần mềm

SmartPLS (có thể xem đây là phần mềm thế hệ mới) với khả năng đáp ứng được mẫu

khảo sát nhỏ, không cần đòi hỏi dữ liệu phân phối chuẩn và có thể đáp ứng được các

dạng mô hình đa dạng.

129

CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý CỦA NGHIÊN CỨU

Chương này sẽ trình bày tóm tắt các kết quả nghiên cứu chính và đưa ra kết

luận. Nội dung gồm 3 phần: (1) Tóm tắt kết quả nghiên cứu chính và các đóng góp

về lý thuyết, về phương pháp cùng với ý nghĩa của chúng đối với nhà quản trị và nhà

nghiên cứu, (2) Đề xuất các hàm ý chính sách nhằm nâng cao ý định hành động khởi

nghiệp trong sinh viên; và (3) Các hạn chế và hướng nghiên cứu tiếp theo.

5.1. Thảo luận kết quả nghiên cứu và các đóng góp của nghiên cứu

5.1.1. Thảo luận kết quả nghiên cứu

Khởi nghiệp luôn được chú ý và đầu tư vì sự phát triển nền kinh tế quốc gia.

Nghiên cứu quá trình khởi nghiệp được quan tâm nhiều trong thời gian gần đây, trọng

tâm xoay quanh quá trình hình thành ý định khởi nghiệp. Rất nhiều nghiên cứu tiếp

cận theo hướng quá trình cho thấy, trước khi hình thành ý định khởi nghiệp thì cá

nhân đó cần có động lực (giai đoạn của tư duy có chủ đích hay còn gọi là giai đoạn

tiền quyết định, theo lý thuyết tư duy các giai đoạn hành động). Động lực này được

hình thành từ mong muốn và khả năng khởi nghiệp của chính họ. Tuy nhiên, tạo động

lưc thôi là chưa đủ mà nó phụ thuộc vào khả năng nhận dạng các cơ hội khởi nghiệp

thông qua tư duy khởi nghiệp, đồng thời cá nhân đó phải không sợ rủi ro, kiên trì gắn

kết với mục tiêu khởi nghiệp của mình (giai đoạn của tư duy hành động hay còn gọi

là giai đoạn tiền hành động). Đây chính là giai đoạn phân biệt giữa nhà khởi nghiệp

tiềm năng và những người khác. Giai đoạn này trong các nghiên cứu trước đó đã

không được đề cập đến. Đồng thời yếu tố thời gian được cho có vai trò điều tiết mối

quan hệ giữa mong muốn và khả năng khởi nghiệp đến ý định hành động khởi nghiệp

cũng không được nhắc đến.

Có nhiều nghiên cứu về khởi nghiệp sử dụng mô hình TPB và EEM. Tuy

nhiên, ý định trong các nghiên cứu này còn khá mơ hồ và trừu tượng, sức mạnh dự

đoán của nó đối với hành động khởi nghiệp là đáng nghi ngờ (Van Gelderen & cộng

sự, 2015). Vì vậy, cần chuyển sang một dạng ý định mang tính chi tiết hơn, hành

130

động hơn thì mới có khả năng khởi nghiệp cao hơn. Ý định này theo Gollwitzer &

Keller (2012, 2016) gọi là ý định hành động. Hơn nữa, để mục tiêu thực hiện được

thì cần chuyển mục tiêu từ trừu tượng sang chi tiết hơn (Trope & Liberman, 2003,

2010). Ngoài ra, ý định trong các mô hình trước đây dự đoán hành vi là một hành

động đơn lẻ ngắn hạn thì ý định hành động khởi nghiệp phải là mục tiêu dài hạn.

Yếu tố tư duy hành động và gắn kết với khởi nghiệp được đưa vào mô hình

nhằm kiểm tra có hiệu quả đối với việc thúc đẩy hành vi khởi nghiệp. Nó nhấn mạnh

từ nhận thức đến tư duy, suy xét, so sánh giữa sự hấp dẫn của cơ hội, khả năng khởi

nghiệp. Từ đó, giúp nhà khởi nghiệp gắn kết với ý định hành động khởi nghiệp của

mình.

Để tăng số lượng các DN khởi nghiệp, điều quan trọng là phải hiểu được các

yếu tố tác động đến ý định hành động khởi nghiệp. Trong đó, đối tượng cần quan tâm

nhất là sinh viên các trường ĐH tại các tỉnh, thành phố gồm: TP.HCM, Bình Dương,

Đồng Nai và Bà Rịa-Vũng Tàu. Vì vậy, mục tiêu của nghiên cứu này là xây dựng và

kiểm định mối quan hệ giữa nhận thức khả năng khởi nghiệp, nhận thức mong muốn

khởi nghiệp, tư duy khởi nghiệp, gắn kết với khởi nghiệp và ý định hành động khởi

nghiệp của sinh viên.

Để giải quyết các mục tiêu này, các lý thuyết nền tảng được vận dụng bao gồm:

(1) Lý thuyết tư duy các giai đoạn hành động của Gollwitzer & Keller (2012, 2016);

(2) Lý thuyết về sự kiện khởi nghiệp (EEM) của Krueger & cộng sự (2000); (3) Lý

thuyết gắn kết của Meyer & Allen (1991); (4) Mô hình tư duy khởi nghiệp của

Mathisen & Arnulf (2013); (5) Lý thuyết cấp độ cấu trúc nhận thức CLT của Trope

& Liberman (2003, 2010).

Trên cơ sở này, tác giả đưa ra các khái niệm nghiên cứu gồm: (1) Ý định hành

động khởi nghiệp; (2) Gắn kết với khởi nghiệp; (3) Tư duy khởi nghiệp; (4) Nhận

thức mong muốn khởi nghiệp; và (5) Nhận thức khả năng khởi nghiệp. Ngoài ra, luận

án cũng xem xét vai trò điều tiết của khoảng cách thời gian đối với mối quan hệ giữa

nhận thức khởi nghiệp và ý định hành động khởi nghiệp với 11 giả thuyết được xây

dựng. Mô hình đề xuất nghiên cứu dựa trên quá trình hình thành ý định là một quá

131

trình phức tạp (các nghiên cứu trước đây chưa đưa tư duy khởi nghiệp vào nhằm kiểm

định mối quan hệ giữa nhận thức, đánh giá – tư duy khởi nghiệp và ý định hành động).

Việc bổ sung khái niệm tư duy khởi nghiệp để giải thích rõ hơn mối quan hệ

giữa nhận thức khởi nghiệp và ý định hành động khởi nghiệp trong việc chuyển từ

trạng thái của hiểu biết nhận dạng sang hình thức tư duy và phân tích (so sánh và đối

chiếu giữa nhận thức cơ hội và khả năng thực hiện cơ hội đó) để có thể cải thiện mô

hình tốt hơn. Từ đó khẳng định việc khởi nghiệp là một suy nghĩ, lựa chọn cẩn thận,

nghiêm túc có đầu tư của sinh viên chứ không vì phong trào khởi nghiệp.

Nghiên cứu chính thức được thực hiện bằng phương pháp định lượng, thông

qua kỹ thuật phỏng vấn trực tiếp với mẫu có kích thước n = 1367. Nghiên cứu chính

thức được thực hiện qua 2 giai đoạn: (1) Đánh giá mô hình đo lường và (2) Đánh giá

mô hình cấu trúc. Đánh giá mô hình đo lường được dùng để kiểm định khẳng định

độ tin cậy, giá trị phân biệt, giá trị hội tụ và giá trị nội dung (giá trị về mặt lý thuyết)

của các thang đo. Đánh giá mô hình cấu trúc nhằm kiểm định giả thuyết mô hình

nghiên cứu với phương pháp Bootstrapping sử dụng lấy mẫu lại để ước tính độ chính

xác của các ước lượng PLS bằng cách lấy mẫu có thay thế từ tập dữ liệu gốc (n=5000).

Kết quả kiểm định mô hình cấu trúc tuyến tính cho thấy, tất cả giả thuyết được đặt

đều có ý nghĩa thống kê.

Phần mềm được sử dụng ở giai đoạn nghiên cứu chính thức là SmartPLS 3.2.7

dựa vào phương sai với các ưu điểm như: (1) Chấp nhận qui mô cỡ mẫu nhỏ (2) Dữ

liệu không đòi hỏi phân phối chuẩn; (3) Thích hợp cho các nghiên cứu thiên về định

hướng dự đoán… Đặc biệt, đối với nghiên cứu này, đã khắc phục được hạn chế về

dữ liệu không phân phối chuẩn đồng thời một số giả thuyết được xây dựng dựa vào

một số lý thuyết mới sẽ thiên về dự đoán nhiều hơn là khẳng định. Chính điều này

dẫn đến tác giả lựa chọn phần mềm SmartPLS làm công cụ phân tích trong nghiên

cứu của mình.

5.1.2. Đóng góp của nghiên cứu

Kết quả nghiên cứu được trình bày theo 2 phần chính: (1) Đóng góp về mặt lý

132

thuyết và (2) Đóng góp về mặt thực tiễn.

Về mặt lý thuyết

Thứ nhất: Kết quả kiểm định các mô hình đo lường cho thấy, sau khi điều

chỉnh, các thang đo đều đạt được độ tin cậy và giá trị cho phép. Về phương diện

phương pháp nghiên cứu, nghiên cứu này góp phần vào kiểm định thang đo đo lường

ý định hành động khởi nghiệp cho những quốc gia đang phát triển như Việt Nam.

Trong khi tại các nước đang phát triển, tỷ lệ người nhận thức về khả năng khởi nghiệp

cao dẫn đến tỷ lệ người có ý định khởi nghiệp cao (trung bình là 36,5% có ý định).

Riêng tại VN, tỷ lệ có ý định khởi nghiệp là 22,3% khá thấp nếu so với tỷ lệ người

nhận thức cơ hội và khả năng khởi nghiệp. Kết quả này giúp cho những nhà nghiên

cứu có những gợi ý về hệ thống thang đo đo lường về ý định khởi nghiệp của sinh

viên để thực hiện các nghiên cứu tiếp tại thị trường Việt Nam. Ngoài ra, hệ thống

thang đo này có thể được sử dụng làm cơ sở để hình thành hệ thống thang đo thống

nhất trong các nghiên cứu đa quốc gia về ý định khởi nghiệp dựa trên sinh viên cho

những quốc gia tương tự như Việt Nam.

Thứ hai, luận án sử dụng lý thuyết tư duy các giai đoạn hành động làm lý

thuyết nền để kiểm định mô hình nghiên cứu vì nhiều nghiên cứu khởi nghiệp trước

đây sử dụng mô hình TPB và EEM cho thấy, trước khi hình thành ý định khởi nghiệp

thì cá nhân đó cần có động lực (giai đoạn của tư duy có chủ đích). Động lực này được

hình thành từ mong muốn và khả năng khởi nghiệp của chính họ. Tuy nhiên, để phân

biệt giữa nhà khởi nghiệp tiềm năng với những người khác cần khả năng nhận dạng

các cơ hội khởi nghiệp thông qua tư duy khởi nghiệp và gắn kết với khởi nghiệp (giai

đoạn của tư duy hành động). Vì vậy, luận án đã bổ sung 2 yếu tố trung gian giữa nhận

thức và ý định hành động khởi nghiệp, đó là, tư duy khởi nghiệp và gắn kết với khởi

nghiệp.

Thứ ba: ý định trong các nghiên cứu về khởi nghiệp trước đây tương đối mơ

hồ và trừu tượng, sức mạnh dự đoán của nó đối với hành động khởi nghiệp là đáng

nghi ngờ. Do đó, cần chuyển sang ý định mang tính chi tiết hơn, hành động hơn thì

có khả năng khởi nghiệp sẽ cao hơn. Ý định này theo lý thuyết tư duy các giai đoạn

133

hành động gọi là ý định hành động. Hơn nữa, để mục tiêu khởi nghiệp thực hiện được

thì cần chuyển mục tiêu từ trừu tượng sang chi tiết. Ngoài ra, ý định trong các mô

hình trước đây dự đoán hành vi là một hành động đơn lẻ ngắn hạn thì ý định khởi

nghiệp phải là mục tiêu dài hạn.

Thứ tư, yếu tố thời gian được cho là có vai trò điều tiết mối quan hệ giữa

mong muốn và khả năng khởi nghiệp đến ý định hành động khởi nghiệp, cũng chưa

được nhắc đến nhiều trong các nghiên cứu trước đây. Khoảng cách thời gian khiến

cho cá nhân phóng đại ý định tích cực của họ và dự đoán không chính xác mối quan

hệ tương quan giữa ý định và hành vi.

Cuối cùng, luận án sử dụng công cụ SmartPLS phù hợp với nhiều ưu điểm

như: kích thước mẫu nhỏ, không đòi hỏi phân phối chuẩn, giao diện dễ sử dụng, có

thể kiểm định mô hình phức tạp nhiều biến trung gian, điều tiết. Đặc biệt, luận án này

kiểm định dựa vào phương sai thông qua phương pháp bình phương tối thiểu

(VBSEM – Variance based SEM hay còn gọi là PLS-SEM). Phương pháp này được

sử dụng rất phổ biến trong nhiều lĩnh vực vào những năm gần đây và thường được

gọi là phương pháp phân tích thông tin thế hệ thứ 2.

Đóng góp về mặt thực tiễn

Nghiên cứu cho thấy việc khơi gợi mong muốn và khả năng khởi nghiệp trong

sinh viên là chưa đủ (giai đoạn của tư duy có chủ đích), nếu chỉ dừng lại ý định khởi

nghiệp một cách mơ hồ và trừu tượng, thì khả năng đi đến khởi nghiệp của sinh viên

là hạn chế. Vì vậy, các cơ sở đào tạo cần tập trung cho sinh viên tư duy khởi nghiệp

và thái độ gắn kết với khởi nghiệp một cách quyết liệt, không bỏ cuộc. Vì đây chính

là giai đoạn sinh viên sẽ vượt qua những trở ngại ban đầu trong quá trình khởi nghiệp

(giai đoạn tư duy hành động phân biệt giữa những nhà khởi nghiệp tiềm năng với

người nhưng người khác). Yếu tố thời gian là một trong những đóng góp quan trọng,

có ý nghĩa trong luận án này. Đối với sinh viên có ý định hành động khởi nghiệp

trong thời gian ngắn, thì các cơ sở đào tạo phải tập trung hoàn thiện năng lực khởi

nghiệp bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng cho sinh viên, đồng thời đưa sinh viên vào các

vườn ươm tạo, tận dụng các hệ sinh thái khởi nghiệp để hỗ trợ cho họ. Với sinh viên

134

có ý định hành động khởi nghiệp trong thời gian dài, cần tập trung khởi dậy lòng ham

muốn, say mê khởi nghiệp trong sinh viên. Đam mê chính là một trong những yếu tố

tiên quyết giúp cho những nhà khởi nghiệp theo đuổi khát vọng và mục tiêu khởi

nghiệp của mình.

5.2. Hàm ý chính sách nhằm nâng cao ý định hành động khởi nghiệp của sinh

viên

Như đã phân tích trong Chương 4, đề xuất các hàm ý chính sách sẽ dựa vào

biến tác động có tầm quan trọng cao, nhưng hiệu suất thấp theo thứ tự: (1) Nhận thức

mong muốn khởi nghiệp; (2) Gắn kết với khởi nghiệp; (3) Nhận thức khả năng khởi

nghiệp; (4) Tư duy khởi nghiệp. Cuối cùng sẽ gợi ý một số hàm ý chính sách đối với

yếu tố thời gian.

5.2.1. Hàm ý chính sách về nhận thức mong muốn khởi nghiệp

Yếu tố nhận thức mong muốn khởi nghiệp là một trong những yếu tố quan

trọng nhất ảnh hưởng đến ý định hành động khởi nghiệp, sau đây là giá trị trung bình

của thang đo đo lường yếu tố nhận thức mong muốn khởi nghiệp được thể hiện trong

bảng 5.1.

Bảng 5.1: Thống kê giá trị trung bình thang đo yếu tố nhận thức mong muốn khởi

nghiệp

Nội dung thang đo Ký hiệu

DES1 Tôi mong muốn trở thành nhà khởi nghiệp Giá trị trung bình 5,31 Độ lệch chuẩn 1,46

Khởi nghiệp đối với tôi thuận lợi nhiều hơn là bất lợi

DES2 DES3 Trở thành doanh nhân là điều hấp dẫn 5,21 5,17 1,46 1,39

Nếu tôi có nhiều cơ hội và nguồn lực, tôi sẽ bắt đầu khởi nghiệp 5,15 1,46

DES4 Nguồn: Kết quả xử lý từ khảo sát của tác giả

Để khơi dậy tiềm năng khởi nghiệp của sinh viên thể hiện qua biến quan sát

“Tôi mong muốn trở thành nhà khởi nghiệp” thì phong trào khởi nghiệp cần được

nuôi dưỡng trong môi trường khuyến khích tinh thần sáng tạo và chấp nhận rủi ro.

Do đó, việc nâng cao nhận thức mong muốn khởi nghiệp phải bắt đầu từ giáo dục phổ

135

thông đến ĐH theo hướng gắn giáo dục - đào tạo với hoạt động thực tiễn khởi nghiệp,

đề cao tinh thần và văn hóa khởi nghiệp là điều kiện tiên quyết để cá nhân hình thành

được ý chí lập nghiệp tự thân. Đồng thời, cần xây dựng chương trình và kế hoạch cụ

thể nhằm nâng cao nhận thức, khơi dậy tinh thần khởi nghiệp đổi mới sáng tạo trong

sinh viên. Cần sớm đưa một số nội dung khởi nghiệp cơ bản vào chương trình giáo

dục phổ thông để sớm hình thành thái độ hướng đến khởi nghiệp của giới trẻ.

Đối với nội dung “Khởi nghiệp đối với tôi thuận lợi nhiều hơn là bất lợi” cần:

Nâng cao nhận thức về khởi nghiệp trong sinh viên, cấp lãnh đạo nhà trường

cần kết hợp với cơ quan/tổ chức nghiên cứu về khởi nghiệp, các chủ DN, các trường

doanh nhân, các báo cáo viên, nhà nghiên cứu, giảng viên một số nước phát triển

mạnh về khởi nghiệp tổ chức những buổi giao lưu với sinh viên để trao đổi kinh

nghiệm về khởi nghiệp, tạo điều kiện cho sinh viên được thực tập trong các DN đã

khởi nghiệp thành công tại Việt Nam. Nhà trường cần tăng cường tuyên truyền về

các tấm gương doanh nhân tiêu biểu, thành đạt. Đặc biệt là, những người trẻ tuổi để

sinh viên có khát khao, động lực học tập. Bên cạnh đó, cần xây dựng chương trình,

lộ trình cụ thể để nâng cao nhận thức, khơi dậy tinh thần khởi nghiệp trong sinh viên.

Đối với nội dung “Trở thành doanh nhân là điều hấp dẫn”, cần tổ chức các hoạt

động ngoại khóa định hướng khởi nghiệp ngoài chương trình đào tạo chính thức. Áp

dụng các phương pháp như: thảo luận, bài tập tình huống, thiết lập kế hoạch kinh

doanh, tăng cường giờ thực hành, làm đồ án, dự án… , tổ chức các cuộc thi khởi

nghiệp có sự tham gia của các DN đã khởi nghiệp thành công. Khuyến khích các ý

tưởng khởi nghiệp sáng tạo, kêu gọi các nhà đầu tư tham gia ngay từ đầu với sinh

viên để khi ra trường thì khởi nghiệp vẫn là phương án ưu tiên được lựa chọn.

Ngoài ra, nhà trường nên tổ chức một vài buổi tọa đàm liên quan giữa gia

đình, bạn bè của sinh viên về chủ đề khởi nghiệp, cơ hội tự làm chủ nghề nghiệp của

bản thân. Thông qua buổi tọa đàm giúp gia đình, bạn bè của họ hiểu được tình trạng

thất nghiệp hiện nay, việc làm chủ kinh doanh đem lại nhiều lợi ích cho sinh viên như

thế nào. Thông qua đó, họ sẽ có cái nhìn tích cực hơn và sẽ ủng hộ con em hay bạn

bè họ trong việc khởi nghiệp sau khi tốt nghiệp.

136

Đối với nội dung “Nếu tôi có nhiều cơ hội và nguồn lực, tôi sẽ bắt đầu khởi

nghiệp”, cần nâng cao các chính sách hỗ trợ từ nhà trường: trường ĐH cần đổi mới

nhận thức và mục tiêu đào tạo, mở ra cho sinh viên tư duy làm chủ, có tinh thần khởi

nghiệp. Đưa chủ đề khởi nghiệp vào nội dung giảng dạy với các bài tập tình huống

và yêu cầu lập kế hoạch kinh doanh khởi nghiệp. Nhà trường cần có các định hướng

rõ ràng với các giảng viên để hoạt động giảng dạy không chỉ còn là truyền đạt kiến

thức, kinh nghiệm kinh doanh mà còn truyền cả nhiệt huyết, đam mê và tình yêu đối

với kinh doanh. Thường xuyên mời các doanh nhân thành đạt lẫn chưa thành đạt (hay

thất bại khi khởi nghiệp) để trao đổi nguyên nhân thành công hay thất bại của họ. Đó

cũng là những kinh nghiệm quý báu mà một người muốn khởi nghiệp cần biết. Những

buổi hội thảo này luôn được giới trẻ quan tâm.

Cung cấp thông tin, xây dựng khu tập trung dịch vụ khởi nghiệp. Cổng thông

tin quốc gia về khởi nghiệp cần sớm được vận hành để cung cấp, hỗ trợ cho các nhà

khởi nghiệp tiềm năng các thông tin liên quan đến hoạt động khởi nghiệp, những kiến

thức cơ bản về khởi nghiệp, cổng thông tin này sẽ được tích hợp với website của các

cơ quan liên quan đến khởi nghiệp, các hội, hiệp hội, website địa phương, các viện

nghiên cứu, trường ĐH... tạo thành hệ sinh thái khởi nghiệp hoàn chỉnh.

Nâng cao chính sách hỗ trợ từ Chính phủ: Trường cần kết hợp với các cơ quan

hữu quan tổ chức các buổi giao lưu trao đổi về hệ thống pháp luật, hỗ trợ pháp lý để

sinh viên có kiến thức về luật, có định hướng kinh doanh đúng đắn.

Vận động sinh viên mời thêm phụ huynh, bạn bè, người thân tham gia các buổi

học ngoại khóa, để họ lắng nghe những chia sẻ kiến thức kinh doanh thực tế, những

thành công đi lên từ thất bại, những sự làm giàu của doanh nhân từ hoạt động kinh

doanh, để họ có cái nhìn tích cực hơn đối với việc ủng hộ con em, bạn bè khởi nghiệp

sau khi tốt nghiệp.

5.2.2. Hàm ý chính sách về gắn kết với khởi nghiệp

Trước khi khởi nghiệp, sinh viên cần phải hình thành động lực thông qua nhận

thức sự hấp dẫn của cơ hội khởi nghiệp, tự đánh giá năng lực khởi nghiệp, từ đó hình

137

thành các ý tưởng, khởi nghiệp cộng với đam mê để thực hiện những ý định hành

động khởi nghiệp đó. Những nhà khởi nghiệp thành công ngoài động lực, khát vọng,

ý chí, kiên trì phát triển các ý tưởng kinh doanh thì họ luôn phải đối mặt với nhiều

trở ngại khó khăn và có thể sẵn sàng đón nhận sự thất bại. Giá trị trung bình của thang

đo đo lường yếu tố gắn kết với khởi nghiệp được thể hiện trong bảng 5.2.

“Để sinh viên có thể gắn bó với dự án của mình”, thì sinh viên cần được trang

bị rất nhiều nền tảng kiến thức khởi nghiệp có liên quan như: kiến thức về thị trường

sản phẩm, dịch vụ, bán hàng và marketing, đối thủ cạnh tranh, công nghệ, nguồn nhân

lực, luật pháp… . Kỹ năng quản lý con người là không thể thiếu đối với các nhà khởi

nghiệp. Ngoài ra, sinh viên phải trực tiếp tham gia đầu tư tài chính, mang tâm huyết

vào ý tưởng khởi nghiệp của mình thì mới có thể gắn kết với mục tiêu khởi nghiệp.

Nội dung một số chương trình đào tạo đều được xây dựng trên nền tảng giả định rằng

DN đang ổn định với hệ thống tổ chức đã được xác lập, phân chia rõ ràng thành các

chức năng chuyên môn. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu về khởi nghiệp chỉ ra rằng có ít

hơn 40% DN mới có thể sống sót qua cột mốc 3 năm. Vì vậy, việc điều chỉnh nội

dung đào tạo là hết sức cần thiết. Đồng thời, tiếp tục đẩy mạnh triển khai nhiều hoạt

động đào tạo kỹ năng khởi nghiệp, đào tạo giảng viên nguồn, các chương trình giao

lưu và các hoạt động liên kết với các DN.

Bảng 5.2: Thống kê giá trị trung bình thang đo yếu tố gắn kết với khởi nghiệp

Nội dung thang đo Ký hiệu Giá trị trung bình Độ lệch chuẩn

COM4 5,34 1,43

COM2 5,30 1,45

COM1 5,29 1,38

COM3 Tôi gắn bó với dự án của mình vì tôi thấy cơ hội hấp dẫn hơn là vì khả năng của tôi. Sẽ rất khó để tôi từ bỏ dự án ngay bây giờ, ngay cả khi tôi muốn. Tôi không sợ những gì có thể xảy ra nếu tôi từ bỏ dự án khởi nghiệp của mình mà không có một kế hoạch khác. Tôi đã tốn kém rất nhiều vì vậy tôi không thể nào từ bỏ được dự án của mình 5,17 1,64

Nguồn: Kết quả xử lý từ khảo sát của tác giả

Ngoài ra, để sinh viên không từ bỏ dự án của mình, kinh nghiệm các nước

138

đang phát triển cho thấy, các trường ĐH luôn là tác nhân thúc đẩy sự kiên trì khởi

nghiệp của sinh viên. Đặc biệt là, khối các trường thuộc ngành kinh tế và quản trị

kinh doanh (Solomon, 2007). Đã có một số trường ĐH đưa vào chương trình giảng

dạy về khởi nghiệp dưới dạng các chuyên đề, một số khác như trường ĐH Kinh tế

TP.HCM đã đưa ra hẳn một chuyên ngành mới là Quản trị khởi nghiệp. Tuy nhiên,

như thế vẫn còn ít, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ không dành cơ hội cho những

người chậm chân. Các trường ĐH cần đổi mới nhận thức quan điểm và mục tiêu đào

tạo không chỉ nhằm mục đích cho sinh viên có kiến thức để đi làm tại DN mà phải có

một tinh thần khởi nghiệp, chú ý đến đổi mới sáng tạo.

Để sinh viên không lo sợ thất bại trong quá trình khởi nghiệp, các cơ sở đào

tạo ĐH cần nhận thức được vai trò quan trọng của mình trong việc tạo dựng tiềm

năng khởi nghiệp cho sinh viên. Để có số lượng doanh nhân trẻ năng động đón đầu

xu hướng cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, các cơ sở đào tạo ĐH phải đóng

góp cho các hoạt động thúc đẩy gắn kết, kiên trì khởi nghiệp cũng như nhận thức

được vai trò quan trọng của mình trong thúc đẩy tiềm năng khởi nghiệp. Cần có lực

lượng giảng viên nòng cốt hoặc thỉnh giảng xuất thân từ các nhà quản lý DN nhằm

tạo được môi trường hỗ trợ cho việc phát triển khả năng cá nhân, hỗ trợ cho việc học

tập của sinh viên có hiệu quả và phải là nơi khơi gợi tinh thần khởi nghiệp của giới

trẻ.

Cuối cùng, cần tăng cường tính ứng dụng, thực tiễn trong đào tạo. Liên kết

chặt chẽ với các DN nhằm kết nối để đưa sinh viên đến thực tập, tiếp thu kinh nghiệm

và làm việc tại các DN này. Xây dựng các trung tâm ươm tạo DN trong các trường

ĐH. Đây sẽ là nơi cung cấp các hoạt động ngoại khóa hữu ích nhằm gia tăng cơ hội

trải nghiệm khởi nghiệp thực tế. Riêng đối với các cơ quan quản lý cấp vĩ mô và cơ

quan truyền thông trong thời gian tới cần tăng cường các hoạt động thúc đẩy tinh thần

khởi nghiệp trên phạm vi cả nước (như chương trình VTV – quốc gia khởi nghiệp

đang thực hiện) và cung cấp các chương trình hỗ trợ cho các trường ĐH trong các

hoạt động gia tăng tiềm năng khởi nghiệp của sinh viên.

139

5.2.3. Hàm ý chính sách về nhận thức khả năng khởi nghiệp

Nhận thức khả năng khởi nghiệp đề cập đến tính khả thi, năng lực và khả năng

mà nhà khởi nghiệp có thể điều hành các dự án khởi nghiệp. Giá trị trung bình của

thang đo đo lường yếu tố nhận thức khả năng khởi nghiệp thể hiện trong bảng 5.3.

Như vậy, để tăng cường năng lực của các nhà khởi nghiệp tiềm năng đối tượng

là sinh viên, cần chú ý đến một số vấn đề sau:

Để sinh viên có thể tin tưởng vào sự thành công dự án của mình, cần tăng

cường tổ chức các lớp ngoại khóa cho sinh viên tham quan thực tế DN khởi nghiệp,

giúp sinh viên học hỏi mô hình tổ chức kinh doanh thực tế. Thông qua đó, sinh viên

có thể lựa chọn mô hình kinh doanh phù hợp cho bản thân trong tương lai, từ đó họ

vạch ra kế hoạch kinh doanh thật chi tiết, rõ ràng để thực hiện ý định hành động khởi

nghiệp của mình. Đồng thời thành lập câu lạc bộ khởi nghiệp, sưu tầm những đoạn

phim về tấm gương doanh nhân thành đạt và cả những bạn trẻ dám mạo hiểm kinh

doanh, nhưng chưa thành công. Thông qua đó, sinh viên sẽ lắng nghe những thất bại

và cả sự thành công trong kinh doanh để họ dám đối diện với thất bại, xem thất bại

như bài học về “văn hóa thất bại” trong kinh doanh. Vượt qua trở ngại này, sinh viên

sẽ sẵn sàng chấp nhận rủi ro khi khởi nghiệp.

Bảng 5.3: Thống kê giá trị trung bình thang đo yếu tố nhận thức khả năng khởi

nghiệp

Nội dung thang đo Ký hiệu Giá trị trung bình Độ lệch chuẩn

FEA1 5,37 1,40

FEA3 5,32 1,40

FEA4 Tin tưởng vào khả năng tồn tại và tăng trưởng của dự án khởi nghiệp nếu tôi có ý định khởi nghiệp Kiến thức và kinh nghiệm là động lực cho tôi khởi nghiệp Mạng lưới các mối quan hệ thuận lợi cho việc khởi nghiệp của tôi 5,28 1,39

Nguồn: Kết quả xử lý từ khảo sát của tác giả

Để tăng cường kiến thức và kinh nghiệm cho sinh viên thì cần liên kết với các

140

DN khởi nghiệp thành công mở các lớp đào tạo khởi nghiệp cho sinh viên nhằm cung

cấp cho họ khả năng nhận thức và kỹ năng tốt để biến vấn đề thành cơ hội và sẽ tự

bản thân xử lý dự án của mình để phát triển kỹ năng khi trở thành doanh nhân. Nhà

trường cần tăng cường các hoạt động truyền cảm hứng, hoạt động ngoại khóa về khởi

nghiệp cho sinh viên, liên kết với các tổ chức trong và ngoài nước và các DN khởi

nghiệp thành công tổ chức cuộc thi khởi nghiệp để tìm kiếm tài năng doanh nhân trẻ.

Hình thành các trung tâm ươm tạo khởi nghiệp nhằm định hướng rõ ràng, cụ thể cho

ý tưởng kinh doanh xã hội của sinh viên được hiện thực hóa. Sinh viên được học cách

quản lý, điều hành, dẫn dắt và định hướng doanh nghiệp của mình như doanh nhân

thực thụ. Hơn nữa, cũng cần có những chính sách ưu tiên để khuyến khích đối với

những sinh viên nghiên cứu về khởi nghiệp.

Để sinh viên có nhiều mối quan hệ xã hội cần nâng cao vai trò của các cấp

chính quyền địa phương và hiệp hội đối với thúc đẩy hệ sinh thái khởi nghiệp. Chính

quyền địa phương triển khai thực hiện chính sách phù hợp, chủ động tháo gỡ khó

khăn cho các DN, tăng cường phối hợp chặt chẽ có hiệu quả giữa các ngành, địa

phương và với trung ương. Tiếp tục đẩy mạnh đơn giản hóa thủ tục hành chính, cải

thiện môi trường kinh doanh tại địa phương để tạo điều kiện thuận lợi và tiết kiệm

thời gian, chi phí cho DN khởi nghiệp. Các hiệp hội DN, hiệp hội ngành nghề cần

nâng cao uy tín năng lực và tầm ảnh hưởng các tổ chức. Phát huy vai trò là cầu nối

giữa các cơ quan quản lý nhà nước và DN, tham vấn DN khởi nghiệp. Thực hiện tốt

vai trò là kênh quan trọng phản biện chính sách về DN, cho phép cộng đồng DN được

giám sát và chấm điểm các cơ quan chính quyền và Chính phủ để làm cơ sở đánh giá,

cải thiện các chất lượng dịch vụ.

5.2.4. Hàm ý chính sách đối với tư duy khởi nghiệp

Tư duy khởi nghiệp là yếu tố giúp phân biệt được nhà khởi nghiệp tiềm năng

với người khác và cũng là yếu tố rất quan trọng để hình thành ý định khởi nghiệp.

Giá trị trung bình của thang đo đo lường yếu tố tư duy khởi nghiệp thể hiện trong

bảng 5.4.

Trước khi khởi nghiệp sinh viên cần phải hình thành động lực thông qua nhận

141

thức và đánh giá cơ hội khởi nghiệp, đặc biệt là khởi nghiệp sáng tạo. Sinh viên cần

hiểu biết đúng đắn về khởi nghiệp, những kiến thức cơ bản trong khởi nghiệp, kinh

nghiệm về những thành công cũng như những thất bại của những người đi trước. Sinh

viên cần có một tâm lý kiên định, kiên trì, bản lĩnh để vượt qua những thử thách của

quá trình khởi nghiệp, tích cực nghiên cứu, tích lũy kiến thức về kinh tế, xã hội để có

thể nhận biết các cơ hội khởi nghiệp.

Bảng 5.4: Thống kê giá trị trung bình thang đo yếu tố tư duy khởi nghiệp

Nội dung thang đo Ký hiệu Giá trị trung bình Độ lệch chuẩn

IMP3 5,36 1,43

IMP4 IMP2 5,33 5,30 1,44 1,41

IMP1 Tôi có kế hoạch khi nào phải bắt đầu khởi nghiệp Tôi đang tìm kiếm thông tin tích cực và tiêu cực có liên quan về dự án khởi nghiệp Tôi có kế hoạch làm thế nào để khởi nghiệp. Tôi sẽ nghĩ về ý tưởng khởi nghiệp của mình, tôi xác định phải bắt đầu công việc khởi nghiệp 5,24 1,41

Nguồn: Kết quả xử lý từ khảo sát của tác giả

Để khởi nghiệp, ngoài ý tưởng ra, sinh viên cần có một kế hoạch khởi nghiệp

thật chi tiết. Để làm được như vậy, sinh viên cần có các kỹ năng cơ bản về tư duy

khởi nghiệp nhằm xây dựng dự án kinh doanh, xây dựng kế hoạch triển khai để biến

ý tưởng thành sản phẩm, các kiến thức cơ bản về quản trị, vận hành DN, tạo lập môi

trường thuận lợi để thúc đẩy, hỗ trợ trong quá trình khởi nghiệp. Trong khi rất nhiều

người cố gắng khởi nghiệp, nhưng còn thiếu những kiến thức, kỹ năng và những năng

lực cơ bản. Có một thực tế là nhiều sinh viên khá thận trọng, mặc dù phát hiện ra cơ

hội, nhưng cuối cùng lại không tiến hành khởi nghiệp. Điều này chưa hẳn là tốt, vì

cơ hội khởi nghiệp đôi khi chỉ đến một lần.

Sinh viên cần tích cực tìm kiếm thông tin, những kinh nghiệm có liên quan

đến khởi nghiệp trên các mạng xã hội hoặc trên môi trường internet. Rất nhiều sinh

viên nghĩ rằng, cơ hội khởi nghiệp luôn tồn tại sẵn trong môi trường kinh doanh, chỉ

cần nắm bắt là có thể khởi nghiệp. Nhận thức như vậy là chưa đúng, vì cơ hội nằm

142

trong tư duy của người khởi nghiệp. Đây chính là điểm khác biệt giữa những người

có tư duy khởi nghiệp và những người khác (Kirzner, 1973). Ngoài ra, sinh viên nên

tập trung tối đa cho ngành học mà mình yêu thích, có định hướng xác định rõ ràng

mục tiêu nghề nghiệp của bản thân ngay từ những năm đầu của ĐH. Nếu không đủ

khả năng theo học ĐH, sinh viên nên định hướng học nghề để tiết kiệm được thời

gian, công sức và tiền bạc, giúp bản thân có thể khởi nghiệp sớm hơn.

Báo cáo của GEM (2016) cho thấy, tỷ lệ người trưởng thành trong độ tuổi từ

18 - 36 nhận thức về cơ hội khởi nghiệp là 56,8% trong năm 2015, tăng khá mạnh so

với với mức 39,4% của năm 2014 và mức 36,8% của năm 2013. Tỷ lệ này ở các nước

phát triển trung bình là 53,8%. Cũng theo GEM (2016), tỷ lệ người trưởng thành ở

Việt Nam có ý định khởi nghiệp trong vòng 3 năm tới là 22,3%, tăng so với năm 2014

là 18,2% tuy vẫn thấp hơn tỷ lệ trung bình 36,5% của các nước cùng nhóm. Có thể

chia động cơ khởi nghiệp thành 2 loại: vì nhu cầu thiết yếu (37,4%) và tận dụng cơ

hội (62,6%). Khởi nghiệp vì nhu cầu thiết yếu là chưa có việc làm, bắt đầu kinh doanh

để mưu sinh hàng ngày, như mở hàng bán bánh mì; còn tận dụng cơ hội là đã có công

việc, nhưng muốn đứng ra riêng kinh doanh khi nhìn thấy những cơ hội. Vì vậy ý

tưởng khởi nghiệp là rất quan trọng và là điểm khởi đầu cuả quá trình khởi nghiệp.

Hiện nay, Chính phủ Việt Nam luôn luôn xem đối tượng sinh viên là tài sản

của quốc gia, góp phần tăng trưởng kinh tế thông qua các hoạt động khởi nghiệp, nên

đã xây dựng các chính sách hỗ trợ khởi nghiệp nhằm tạo động lực, hướng nghiệp,

giúp họ có tư duy khởi nghiệp ngay từ khi còn ngồi trong các trường ĐH. Đặc biệt là

chuyên ngành khởi nghiệp của trường ĐH Kinh tế TP.HCM đang triển khai được kỳ

vọng sẽ thúc đẩy và xây dựng phát triển đội ngũ doanh nhân trẻ, nuôi dưỡng các ý

tưởng kinh doanh và đào tạo đội ngũ nhân lực chất lượng cao cho Việt Nam trong

tương lai.

5.2.5. Hàm ý chính sách đối với yếu tố thời gian

Yếu tố thời gian là một trong những đóng góp khá quan trọng và có ý nghĩa

trong luận án này. Với những ý định hành động khởi nghiệp trong tương lại gần (trong

vòng 3 tháng) thì yếu tố nhận thức khả năng sẽ tác động mạnh đến ý định khởi nghiệp,

143

ngược lại với những ý định khởi nghiệp trong tương lai xa (trong vòng 1 năm hoặc

xa hơn) thì yếu tố nhận thức mong muốn lại tác động mạnh đến ý định khởi nghiệp.

Sở dĩ điều này quan trọng vì với sinh viên có ý định khởi nghiệp trong thời

gian ngắn thì các cơ sở đào tạo phải tập trung hoàn thiện năng lực khởi nghiệp, bồi

dưỡng kiến thức, kỹ năng cho sinh viên, đồng thời đưa sinh viên vào các vườn ươm

tạo, tận dụng các hệ sinh thái khởi nghiệp để hỗ trợ cho họ.

Đối với những sinh viên có ý định khởi nghiệp trong thời gian dài, cần tập

trung khởi dậy lòng ham muốn, say mê khởi nghiệp trong sinh viên. Đam mê chính

là một trong những yếu tố tiên quyết giúp cho những nhà khởi nghiệp theo đuổi khát

vọng và mục tiêu khởi nghiệp của mình. Nhưng có một thực tế là không phải sinh

viên nào cũng biết được mình đam mê cái gì và kiên nhẫn cho điều gì, nhiều người

mong muốn, nhưng chẳng biết bắt đầu từ đâu. Vì vậy, các cơ sở đào tạo cần định

hướng những mục tiêu rất rõ ràng cho sinh viên của mình thông qua các cuộc thi khởi

nghiệp, các buổi nói chuyện của các doanh nhân thành đạt…

5.3. Hạn chế và hướng nghiên cứu tiếp theo

5.3.1. Một số hạn chế

Nghiên cứu này chỉ dừng lại ý định hành động khởi nghiệp của sinh viên chứ

không phải hành vi khởi nghiệp thực tế. Mặc dù mối quan hệ giữa ý định và hành vi

khởi nghiệp thực tế đã được thiết lập bởi nền tảng lý thuyết vững chắc về hành vi dự

định. Ý định là một dự báo quan trọng của hành động tiếp theo (Schlaegel & Koenig,

2014). Tuy nhiên, Sheeran & Orbell (1998) lập luận dựa vào dữ liệu của Randall &

Wolff (1994) đủ để rút ra kết luận này và cho rằng, khoảng cách thời gian càng lớn

thì sức mạnh tiên đoán các yếu tố ý định càng giảm đi. Vì vậy việc nghiên cứu một

thời điểm (cross- sectional) sẽ không so sánh được sự thay đổi của ý định theo thời

gian và sự biến đổi của nó khi dẫn tới hành vi khởi nghiệp thực tế.

Hạn chế về thu thập dữ liệu, vì sử dụng phương pháp lấy mẫu thuận tiện phi

xác suất nên khả năng tổng quát hóa sẽ không cao.

Nghiên cứu này chỉ thực hiện tại 19 trường ĐH ở 4 tỉnh, thành gồm: TP.HCM,

144

Bình Dương, Đồng Nai và Bà Rịa-Vũng Tàu, do đó khả năng tổng quát hóa chưa cao.

Kết quả sẽ tốt hơn nếu được thực hiện tại các trường ĐH lớn như Cần Thơ, Đà Nẵng

và Hà Nội nơi được xem là môi trường khởi nghiệp được cho là khá lý tưởng.

5.3.2. Hướng nghiên cứu tiếp theo

Khởi nghiệp là một lĩnh vực thú vị chắn chắn sẽ thu hút sự quan tâm của giới

học thuật trong lĩnh vực quản trị kinh doanh, giáo dục và kinh tế phát triển. Từ các

hạn chế của luận án và những gì các nhà nghiên cứu trước còn chưa làm được, luận

án gợi ý một số hướng nghiên cứu tiếp theo trong lĩnh vực này như sau:

Thứ nhất, có thể tăng cường các nghiên cứu thực nghiệm làm rõ mối quan hệ

giữa ý định và hành vi thực tế khởi nghiệp, vì khoảng cách thời gian càng lớn thì sức

mạnh tiên đoán các yếu tố ý định khởi nghiệp càng giảm đi (Sheeran & Orbell, 1998).

Hiện nay phần lớn các nghiên cứu mới trong lĩnh vực này là nghiên cứu một thời

điểm. Các nghiên cứu theo trường phái ý định khởi nghiệp hiện nay mới là nghiên

cứu tĩnh, một chiều trong khi đó mối quan hệ giữa thái độ, khả năng - ý định - hành

vi có thể là một mối quan hệ động và có thể là mối quan hệ 2 chiều (Kim & Hunter,

1993); rất thiếu các nghiên cứu về mối quan hệ giữa ý định và hành vi; thiếu mô hình

tổng thể có thể so sánh giữa ý định khởi nghiệp và các lựa chọn nghề nghiệp khác.

Trong quá trình một cá nhân chuyển sang hành vi khởi nghiệp, ngoài yếu tố khoảng

cách thời gian thì suy nghĩ của cá nhân về mong muốn và khả năng khởi nghiệp tác

động đến ý định khởi nghiệp có thể bị thay đổi bởi các khoảng cách khác như khoảng

cách không gian, khoảng cách xã hội, khoảng cách kinh nghiệm.

Thứ hai, luận án cũng chỉ xem xét duy nhất yếu tố gắn kết trong khởi nghiệp

như là yếu tố trung gian ảnh hưởng đến mối quan hệ nhận thức và ý định hành động

khởi nghiệp trong khi lý thuyết tư duy các giai đoạn hành động (Gollwitzer & Keller,

2012, 2016) có thể có nhiều yếu tố khác ảnh hưởng với vai trò là điều tiết hoặc trung

gian trong giai đoạn tiền hành động (ví dụ như lo sợ khởi nghiệp, các yếu tố về văn

hóa).

Thứ ba, theo mô hình tư duy khởi nghiệp của Mathisen & Arnulf (2013), tư

145

duy khởi nghiệp bao gồm 2 loại: (1) tư duy hành động; (2) tư duy cẩn trọng. Vì vậy,

nghiên cứu tiếp theo có thể bổ sung thêm tư duy cẩn trọng.

Cuối cùng, như đã nói ở trên vai trò của yếu tố nhận thức mong muốn có tác

động mạnh đến ý định hành động khởi nghiệp. Tuy nhiên, dù có nhận thấy được cơ

hội khởi nghiệp, nhưng ý định khởi nghiệp của sinh viên là chưa tương xứng. Điều

này có thể là từ cơ hội khởi nghiệp tại Việt Nam chưa rõ ràng, chưa hấp dẫn hoặc là

có thể do yếu tố văn hóa (có thể doanh nhân tại Việt Nam chưa thực sự được xem

trọng). Hơn nữa, nhiều quốc gia phát triển khởi nghiệp dựa trên nền tảng sự sáng tạo,

trong khi đó, nhận thức tại Việt Nam lại có phần nghiêng về tạo việc làm, tăng thu

nhập và xem như là một lựa chọn nghề nghiệp (GEM, 2016). Do đó, nghiên cứu tiếp

theo sẽ mở rộng, dựa vào các yếu tố văn hóa hoặc động cơ khởi nghiệp để làm rõ hơn

phát hiện này.

146

TÀI LIỆU KHAM KHẢO

TIẾNG VIỆT

Báo Chính phủ (2016). Hành động để đạt mục tiêu 1 triệu doanh nghiệp hiệu quả vào 2020. [Đường dẫn: http://baochinhphu.vn/Kinh-te/Hanh-dong-de-dat-muc-tieu-1-trieu- doanh-nghiep-hieu-qua-vao-2020/288743.vgp], [Ngày truy cập: 25-11-2017].

Báo diễn đàn doanh nghiệp (2017). Tinh thần khởi nghiệp của sinh viên Việt Nam đang ở đâu?. [Đường dẫn: http://enternews.vn/tinh-than-khoi-nghiep-cua-sinh-vien-viet- nam-dang-o-dau-109663.html], [Ngày truy cập: 25-11-2017].

Bùi Thị Hồng Thái (2008). Vận dụng lý thuyết gắn kết vào việc thúc đẩy hành vi tiết kiệm năng lượng ở Trường học. Tạp chí Tâm lý học. Tháng 10/2008, trang 56- 63

Bùi Thị Thanh, Nguyễn Xuân Hiệp (2016). Ý định khởi nghiệp của sinh viên: Nghiên cứu điều tra tại TP.HCM. Hội thảo khoa học: Khởi nghiệp tại Việt Nam: Cơ hội và thách thức trong thời kỳ hội nhập. ĐH Kinh tế TP.HCM.

GEM (2016). Báo cáo chỉ số kinh doanh Việt Nam 2015: Hoạt động kinh doanh xã hội. Hà Nội:NXB GTVT.

GEM (2014). Báo cáo chỉ số kinh doanh Việt Nam 2013: Hoạt động kinh doanh xã hội. Hà Nội:NXB GTVT.

Hoàng Thị Phương Thảo, Bùi Thị Thanh Chi (2013). Ý định khởi nghiệp của nữ học viên MBA tại Thành phố Hồ Chí Minh. Tạp chí Phát triển kinh tế, số 271, 5/2013, trang 10-22

Huỳnh Đinh Thái Linh, Lê Nhật Hạnh, Nguyễn Thị Duy Quyên (2016). Nghiên cứu mối quan hệ giữa các nhân tố thúc đẩy khởi nghiệp, nhận thức rủi ro và hành vi có chủ định để trở thành nghiệp chủ. Hội thảo khoa học: Khởi nghiệp tại Việt Nam: Cơ hội và thách thức trong thời kỳ hội nhập. ĐH Kinh tế TP.HCM.

Lê Ngọc Thông (2013). Thực trạng và giải pháp phát triển tinh thần doanh nhân của sinh viên học chương trình tiên tiến chất lượng cao tại Đại học Kinh tế Quốc dân. Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 181, tháng 8/ 2013, trang 22-29.

Lê Quân (2003). Nghiên cứu động cơ khởi nghiệp của các chủ DN Trẻ Việt Nam. Tạp chí Khoa học Thương mại, số 2/2003

Nguyễn Thu Thủy (2015). Các nhân tố tác động tới tiềm năng khởi nghiệp của sinh viên đại học. Luận Án Tiến Sĩ, ĐH Kinh tế Quốc Dân Hà Nội.

Nguyễn Đình Thọ (2014). Phương pháp nghiên cứu khoa học trong kinh doanh - thiết kế và thực hiện. Nhà xuất bản Lao động Xã hội.

Nguyễn Hoàng Kiệt (2016). So sánh động cơ của Nhà khởi nghiệp tại Việt Nam với một số nước Châu Âu. Hội thảo khoa học: Khởi nghiệp tại Việt Nam: Cơ hội và thách thức trong thời kỳ hội nhập. ĐH Kinh tế TP.HCM.

147

Nguyễn Hùng Phong, Nguyễn Hữu Nhuận (2016). Mối quan hệ giữa năng lực nội sinh và khởi nghiệp kinh doanh. Hội thảo khoa học: Khởi nghiệp tại Việt Nam: Cơ hội và thách thức trong thời kỳ hội nhập. ĐH Kinh tế TP.HCM.

Nguyễn Quang Thu, Ngô Quang Huân, Trần Nha Ghi (2016). Năng lực khởi nghiệp của doanh nghiệp tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Hội thảo khoa học: Khởi nghiệp tại Việt Nam: Cơ hội và thách thức trong thời kỳ hội nhập. ĐH Kinh tế TP.HCM.

Nguyễn Văn Thắng (2015). Một số lý thuyết đương đại về Quản trị kinh doanh: Ứng dụng trong nghiên cứu. Hà Nội: NXB ĐH KTQD.

VCCI (2009). Những trở ngại về Giới đối với doanh nhân nữ Việt Nam- Kết quả nghiên cứu và Đề xuất chính sách. Chương trình chung giữa Liên Hợp quốc và Chính phủ Việt Nam về Bình đẳng Giới.

TIẾNG ANH

Adam, A. F., & Fayolle, A. (2015). Bridging the entrepreneurial intention–behaviour gap: the role of commitment and implementation intention. International Journal of Entrepreneurship and Small Business, 25(1), 36-54. [Retrieved from: https://www.researchgate.net/profile/Fayolle_Alain/publication/276103351_ Bridging_the_entrepreneurial_intention- behaviour_gap_The_role_of_commitment_and_implementation_intention/li nks/559b737d08ae5d8f393814ee/Bridging-the-entrepreneurial-intention- behaviour-gap-The-role-of-commitment-and-implementation-intention.pdf], [Access date: 15/1/2016]

[Retrieved 15(2), from:

Ahmed, I., Nawaz, M. M., Ahmad, Z., Shaukat, M. Z., Usman, A., Rehman, W.-u. & Ahmed, N. (2010). Determinants of students’ entrepreneurial career intentions: Evidence from business graduates. European Journal of Social Sciences, pp.14-22. http://joc.hcc.edu.pk/faculty_publications/ejss_15_2_02.pdf], [Access date: 15/1/2016]

Ajzen, I. (1991). The theory of planned behavior. Organizational Behavior and pp.179-211. Processes, Decision 50(2), Human doi:http://dx.doi.org/10.1016/0749-5978(91)90020-T

Ajzen, I., Czasch, C. & Flood, M. G. (2009). From Intentions to Behavior: Implementation Intention, Commitment, and Conscientiousness1. Journal of Applied Social Psychology, 39(6), pp.1356-1372. doi:10.1111/j.1559- 1816.2009.00485.x

Ajzen, I. & Fishbein, M. (1975). Belief, attitude, intention and behavior: An introduction to theory and research.

148

pp.701-720. Industrial Training, 30(9), Alain, F., Benoît, G. & Narjisse, L. C. (2006). Assessing the impact of entrepreneurship education programmes: a new methodology. Journal of European doi: 10.1108/03090590610715022

Journal 45(3), Alexander. D.L , John G. Lynch Jr. & Wang, Q. (2008). As Time Goes By: Do Cold Feet Follow Warm Intentions for Really New Versus Incrementally New Products? pp.307-319. of Marketing Research, doi:10.1509/jmkr.45.3.307

Ali Dehghanpour, F. (2013). The process of impact of entrepreneurship education and training on entrepreneurship perception and intention: Study of educational system of Iran. Education + Training, 55(8/9), pp.868-885. doi:10.1108/ET-04-2013-0053

Ardichvili, A., Cardozo, R. & Ray, S. (2003). A theory of entrepreneurial opportunity identification and development. Journal of Business Venturing, 18(1), pp.105- 123. doi:http://dx.doi.org/10.1016/S0883-9026(01)00068-4

Armitage, C. J. & Conner, M. (2001). Efficacy of the Theory of Planned Behaviour: A meta-analytic review. British Journal of Social Psychology, 40(4), pp.471- 499. doi:10.1348/014466601164939

Audretsch, D. B. (2007). Entrepreneurship capital and economic growth. Oxford Review of Economic Policy, 23(1), 63-78. doi:10.1093/oxrep/grm001

Austin, J., Stevenson, H. & Wei‐ Skillern, J. (2006). Social and commercial entrepreneurship: same, different, or both? Entrepreneurship Theory and Practice, 30(1), pp.1-22. doi: 10.1111/j.1540-6520.2006.00107.x

Bagozzi, R. P., Dholakia, U. M. & Basuroy, S. (2003). How effortful decisions get enacted: the motivating role of decision processes, desires, and anticipated emotions. Journal of Behavioral Decision Making, 16(4), pp.273-295. doi:10.1002/bdm.446

Baron, R. A. (1998). Cognitive mechanisms in entrepreneurship: Why and when enterpreneurs think differently than other people. Journal of Business venturing, 13(4), pp.275-294. doi: 10.1016/S0883-9026(97)00031-1

Bhandari, N. C. (2012). Relationship between students'gender,

their own employment, their parents'employment, and the students'intention for entrepreneurship. Journal of Entrepreneurship Education, 15, 133. [Retrieved from: https://www.abacademies.org/articles/jeevol152012.pdf#page=139], [Access date: 16/1/2016]

Bandura, A. (1977). Self-efficacy: toward a unifying theory of behavioral change. Psychological Review, 84(2), 191. doi:10.1016/0146-6402(78)90002-4

Bandura, A. (1986). Social foundations of thought and action: A social cognitive

149

theory. Englewood Cliffs, NJ, US: Prentice-Hall, Inc. [Retrieved from: [Access Date: http://people.wku.edu/richard.miller/banduratheory.pdf], 16/1/2016]

Baumol, W. J. (2004). Entrepreneurial Enterprises, Large Established Firms and Other Components of the Free-Market Growth Machine. Small Business Economics, 23(1), pp.9-21. doi:10.1023/B:SBEJ.0000026057.47641.a6

Begley, T. M. & Tan, W.-L. (2001). The Socio-Cultural Environment for Entrepreneurship: A Comparison between East Asian and Anglo-Saxon Countries. Journal of International Business Studies, 32(3), pp.537-553. doi: 10.1057/palgrave.jibs.8490983

Bird, B. (1988). Implementing Entrepreneurial Ideas: The Case for Intention. pp.442-453. Management Review, 13(3), Academy of doi:10.5465/amr.1988.4306970

Bluedorn, A. C. & Martin, G. (2008). The time frames of entrepreneurs. Journal of doi: pp.1-20. 23(1), Business Venturing, http://dx.doi.org/10.1016/j.jbusvent.2006.05.005

Boyd, N. G. & Vozikis, G. S. (1994). The influence of self-efficacy on the development of entrepreneurial intentions and actions. Entrepreneurship Theory and Practice, 18, pp.63-63. doi: 10.1177/104225879401800404

Brännback M., Carsrud A. (2017) Revisiting the Entrepreneurial Mind: Inside the Black Box. In: Brännback M., Carsrud A. (eds) Revisiting the Entrepreneurial Mind. International Studies in Entrepreneurship, vol 35. Springer, Cham. doi: 10.1007/978-3-319-45544-0_1

Brandstätter, V., & Frank, E. (2002). Effects of deliberative and implemental mindsets on persistence in goal-directed behavior. Personality and Social Psychology Bulletin, 28(10), pp.1366-1378. doi: 10.1177/014616702236868

Bruyat, C. & Julien, P.-A. (2001). Defining the field of research

in entrepreneurshiJournal of Business Venturing, 16(2), pp.165-180. doi: http://dx.doi.org/10.1016/S0883-9026(99)00043-9

pp.9-30. Journal 12(1), Busenitz, L. W. & Barney, J. B. (1997). Differences between entrepreneurs and managers in large organizations: Biases and heuristics in strategic decision- making. doi: of Business Venturing, http://dx.doi.org/10.1016/S0883-9026(96)00003-1

Cardon, M. S. & Kirk, C. (2015). Entrepreneurial Passion as Mediator of the Self- Efficacy to Persistence RelationshiEntrepreneurship Theory and Practice, 39(5), pp.1027-1050. doi: 10.1111/etap.12089

Carraro, N., & Gaudreau, P. (2013). Spontaneous and experimentally induced action planning and coping planning for physical activity: a meta-analysis.

150

Sport Exercise, 14(2), 228–248. doi: Psychology and of 10.1016/j.psychsport.2012.10.004

Carsrud, A. & Brännback, M. (2011). Entrepreneurial Motivations: What Do We Still Need to Know? Journal of Small Business Management, 49(1), pp.9-26. doi:10.1111/j.1540-627X.2010.00312.x

Chen, G., Gully, S. M., Whiteman, J.-A. & Kilcullen, R. N. (2000). Examination of relationships among trait-like individual differences, state-like individual differences, and learning performance. Journal of applied psychology, 85(6), pp.835-847. doi:10.1037/0021-9010.85.6.835

Chin, W. W. (2010). How to write up and report PLS analyses. In Handbook of partial least squares (pp. 655-690). Springer, Berlin, Heidelberg. doi: 10.1007/978- 3-540-32827-8_29

[Retrieved

Choo, S. & Wong, M. (2006). Entrepreneurial Intention: Triggers and Barriers to New Venture Creations in Singapore. Singapore Management Review, 28(2), pp.47-64. from: https://s3.amazonaws.com/academia.edu.documents/34535312/SMR_trigger s.pdf?AWSAccessKeyId=AKIAIWOWYYGZ2Y53UL3A&Expires=152743 8340&Signature=Z4qZbEZIhfBCP47Y5oZfWbtvKf8%3D&response- content- disposition=inline%3B%20filename%3DUsing_Training_and_Development _to_Affect.pdf], [Access date: 16/1/2016]

Cole, A. H. (1968). The Entreprenuer Introductory Remarks. The American from: [Retrieved pp.60-63. Review, 58(2), Economic http://www.jstor.org/stable/1831797], [Access date: 15/1/2016]

Cope, J. (2005). Toward a Dynamic Learning Perspective

of EntrepreneurshiEntrepreneurship Theory and Practice, 29(4), pp.373-397. doi:10.1111/j.1540-6520,2005.00090,x

De Clercq, D., Dimov, D. & Thongpapanl, N. (2013). Organizational Social Capital, Formalization, and Internal Knowledge Sharing in Entrepreneurial Orientation Formation. Entrepreneurship Theory and Practice, 37(3), pp.505-537. doi:10.1111/etap.12021

Dholakia, U. M. & Pbagozzi, R. (2003). As Time Goes By: How Goal and Implementation Intentions Influence Enactment of Short-Fuse Behaviors1. Journal of Applied Social Psychology, 33(5), pp.889-922. doi:10.1111/j.1559- 1816.2003.tb01930,x

Do Paço, A. M. F., Ferreira, J. M., Raposo, M., Rodrigues, R. G., & Dinis, A. (2011). Behaviours and entrepreneurial intention: Empirical findings about secondary students. Journal of International Entrepreneurship, 9(1), pp.20-38. doi: 10.1007/s10843-010-0071-9

151

Small Business Management, 48(2), of Edelman, L. F., Brush, C. G., Manolova, T. S. & Greene, G. (2010). Start-up Motivations and Growth Intentions of Minority Nascent Entrepreneurs. Journal pp.174-196. doi:10.1111/j.1540-627X.2010.00291.x

172-182. 94, Esfandiar, K., Sharifi-Tehrani, M., Pratt, S., & Altinay, L. (2019). Understanding entrepreneurial intentions: A developed integrated structural model approach. Journal doi: Research, Business of 10.1016/j.jbusres.2017.10.045

Fayolle, A. & Gailly, B. (2015). The Impact of Entrepreneurship Education on Entrepreneurial Attitudes and Intention: Hysteresis and Persistence. Journal of Small Business Management, 53(1), pp.75-93. doi:10.1111/jsbm.12065

Fayolle, A. & Liñán, F. (2014). The future of research on entrepreneurial intentions. pp.663-666. Research, 67(5), of Journal Business doi:http://dx.doi.org/10.1016/j.jbusres.2013.11.024

Fitzsimmons, J. R., & Douglas, E. J. (2011). Interaction between feasibility and desirability in the formation of entrepreneurial intentions. Journal of Business Venturing, 26(4), pp.431-440. doi: 10.1016/j.jbusvent.2010.01.001

40(6), Freitas, A. L., Gollwitzer, & Trope, Y. (2004). The influence of abstract and concrete mindsets on anticipating and guiding others' self-regulatory efforts. Journal of pp.739-752. Psychology, Social Experimental doi:http://dx.doi.org/10.1016/j.jesp.2004.04.003

Frese, M. (2009). Towards a Psychology of Entrepreneurship — An Action Theory Perspective. Foundations and Trends® in Entrepreneurship, 5(6), pp.437- 496. doi:10.1561/0300000028

Freund, A. M., Hennecke, M. & Riediger, M. (2010). Age-related differences in outcome and process goal focus. European Journal of Developmental Psychology, 7(2), pp.198-222. doi:10.1080/17405620801969585

Fujita, K., Henderson, M. D., Eng, J., Trope, Y. & Liberman, N. (2006). Spatial Distance and Mental Construal of Social Events. Psychological Science, 17(4), pp.278-282. doi:10.1111/j.1467-9280,2006.01698.x

Garson G.David (2016). Partial Least Squares:Regression and Structural Equation Models. Statistical Associates

Gartner, W. B. (1988). “Who is an entrepreneur?” is the wrong question. American doi: business, pp.11-32. 12(4), small of journal 10.1177/104225878801200401

Gartner, W. B. (2010). A new path to the waterfall: A narrative on a use of entrepreneurial narrative. International Small Business Journal, 28(1), pp.6- 19. doi:10.1177/0266242609351448

152

Gartner, W. B., Shaver, K. G., Gatewood, E. & Katz, J. A. (1994). Finding the entrepreneur in entrepreneurship. Entrepreneurship Theory and Practice, 18, pp.5-5. doi: 10.1177/104225879401800301

Ghulam, N. & Francisco, L. (2013). Considering business start-up in recession time: The role of risk perception and economic context in shaping the entrepreneurial intent. International Journal of Entrepreneurial Behavior & Research, 19(6), pp.633-655. doi:10.1108/IJEBR-10-2012-0107

Gilovich, T., Kerr, M. & Medvec, V. H. (1993). Effect of temporal perspective on subjective confidence. Journal of Personality and Social Psychology, 64(4), pp.552-560. doi: 10.1037/0022-3514.64.4.552

Science Quarterly, Administrative 42(4), Gimeno, J., Folta, T. B., Cooper, A. C. & Woo, C. Y. (1997). Survival of the Fittest? Entrepreneurial Human Capital and the Persistence of Underperforming Firms. pp.750-783. doi:10.2307/2393656

Gollwitzer, P. (2012). Mindset theory of action phases. In P. Van Lange, A. W. Kruglanski, & E. T. Higgins (Eds.), Handbook of theories of social psychology (Vol. 1, pp.526-545). London: Sage Publications. [Retrieved from: http://kops.uni- konstanz.de/bitstream/handle/123456789/17990/gollwitzer_mindset_theory. pdf?sequence=1], [Access date: 15/1/2016]

individual Gollwitzer, P. M., & Keller, L. (2016). Mindset Theory. Encyclopedia of personality from: differences, [Retrieved 1-8.

and https://www.researchgate.net/profile/Peter_Gollwitzer2/publication/3123402 64_Mindset_Theory/links/59e77e3baca272e940e0b309/Mindset- Theory.pdf], [Access date: 15/1/2016]

Gollwitzer (1993). Goal Achievement: The Role of Intentions. European Review of Social Psychology, 4(1), pp.141-185. doi:10.1080/14792779343000059

Gollwitzer, & Brandstätter, V. (1997). Implementation intentions and effective goal pursuit. Journal of Personality and Social Psychology, 73(1), pp.186-199. doi:10.1037/0022-3514.73.1.186

Grégoire, D. A., Corbett, A. C. & McMullen, J. S. (2011). The Cognitive Perspective in Entrepreneurship: An Agenda for Future Research. Journal of management studies, 48(6), pp.1443-1477. doi:10.1111/j.1467-6486.2010.00922.x

of Psychology, pp.711-724. [Retrieved 38(4),

Gird, A., & Bagraim, J. J. (2008). The theory of planned behaviour as predictor of entrepreneurial intent amongst final-year university students. South African Journal from: https://www.researchgate.net/profile/Jeffrey_Bagraim/publication/25818525 4_The_Theory_of_Planned_Behaviour_as_Predictor_of_Entrepreneurial_Int ent_Amongst_Final-

153

Year_University_Students/links/55756c7408aeb6d8c019593c/The-Theory- of-Planned-Behaviour-as-Predictor-of-Entrepreneurial-Intent-Amongst- Final-Year-University-Students.pdf], [Access date: 15/1/2016]

Guerrero, M., Rialp, J., & Urbano, D. (2008). The impact of desirability and feasibility on entrepreneurial intentions: A structural equation model. International Entrepreneurship and Management Journal, 4(1), pp.35-50. doi: 10.1007/s11365-006-0032-x

Studies, 13(4), & Gupta, V. K. & Bhawe, N. M. (2007). The Influence of Proactive Personality and Stereotype Threat on Women's Entrepreneurial Intentions. Journal of Leadership pp.73-85. Organizational doi:10.1177/10717919070130040901

Hadjimanolis, A., & Poutziouris, P. (2011). Family business background, perceptions of barriers, and entrepreneurial intentions in Cyprus. International Journal of Entrepreneurial Venturing, 3(2), pp.168-182. doi: 10.1504/IJEV.2011.039339

Hair Jr, J., Sarstedt, M., Hopkins, L., & G. Kuppelwieser, V. (2014). Partial least squares structural equation modeling (PLS-SEM) An emerging tool in business research. European Business Review, 26(2), pp.106-121. doi: 10.1108/EBR-10-2013-0128

Hair, J. F., Hult, G. T. M., Ringle, C. M., & Sarstedt, M. (2013). A Primer on Partial Least Squares Structural Equation Modeling (PLS-SEM). Thousand Oaks: Sage.

Hambrick, D. C. & Crozier, L. M. (1985). Stumblers and stars in the management of Journal of Business Venturing, 1(1), pp.31-45. rapid growth. doi:http://dx.doi.org/10.1016/0883-9026(85)90005-9

Hao, Z., Seibert, S. E. & Lumpkin, G. T. (2009). The Relationship of Personality to Entrepreneurial Intentions and Performance: A Meta-Analytic Review. Journal of Management, 36(2), pp.381-404. doi:10.1177/0149206309335187

Hao Zhao, Seibert, S. E. & Lumpkin, G. T. (2010). The Relationship of Personality to Entrepreneurial Intentions and Performance: A Meta-Analytic Review. Journal of Management, 36(2), pp.381-404. doi:10.1177/0149206309335187

pp.337-361. studies, 46(3), Haynie, J. M., Shepherd, D. A. & McMullen, J. S. (2009). An Opportunity for Me? The Role of Resources in Opportunity Evaluation Decisions. Journal of management doi:10.1111/j.1467- 6486.2009.00824.x

Hayton, J. C., & Cholakova, M. (2012). The role of affect in the creation and intentional pursuit of entrepreneurial ideas. Entrepreneurship Theory and Practice, 36(1), pp.41-68. doi: 10.1111/j.1540-6520.2011.00458.x

Hechavarria, D. M., Renko, M. & Matthews, C. H. (2012). The nascent

154

Economics, Business 39(3), Small entrepreneurship hub: goals, entrepreneurial self-efficacy and start-up pp.685-701. outcomes. doi:10.1007/s11187-011-9355-2

Heckhausen, H. & Gollwitzer (1987). Thought contents and cognitive functioning in motivational versus volitional states of mind. Motivation and Emotion, 11(2), pp.101-120. doi: 10.1007/BF00992338

Henley, A. (2007). Entrepreneurial aspiration and transition into self-employment: evidence from British longitudinal data. Entrepreneurship & Regional Development, 19(3), pp.253-280. doi: 10.1080/08985620701223080

Henseler, J., & Chin, W. W. (2010). A comparison of approaches for the analysis of interaction effects between latent variables using partial least squares path modeling. Structural Equation Modeling, 17(1), pp.82-109. doi: 10.1080/10705510903439003

Henseler, J., Hubona, G., & Ray, P. A. (2016). Using PLS path modeling in new technology research: updated guidelines. Industrial management & data systems, 116(1), pp.2-20. doi: 10.1108/IMDS-09-2015-0382

Henseler, J., Ringle, C. M., & Sarstedt, M. (2015). A new criterion for assessing discriminant validity in variance-based structural equation modeling. Journal of the academy of marketing science, 43(1), pp.115-135. doi: 10.1007/s11747- 014-0403-8

Henseler, J., Ringle, C. M., & Sarstedt, M. (2012). Using partial least squares path modeling in advertising research: basic concepts and recent issues. Handbook of research on international advertising, 252.

Hirschi, A. (2013). Career Decision Making, Stability, and Actualization of Career Intentions: The Case of Entrepreneurial Intentions. Journal of Career Assessment. doi:10.1177/1069072712475287

Hulland, J., Chow, Y. H., & Lam, S. (1996). Use of causal models in marketing research: A review. International journal of research in marketing, 13(2), pp.181-197. doi: 10.1016/0167-8116(96)00002-X

Jenkins, K. T. & Tapper, K. (2014). Resisting chocolate temptation using a brief mindfulness strategy. British Journal of Health Psychology, 19(3), pp.509- 522. doi:10.1111/bjhp.12050

Joule, R. V., Girandola, F., & Bernard, F. (2007). How can people be induced to willingly change their behavior? The path from persuasive communication to binding communication. Social and Personality Psychology Compass, 1(1), pp.493-505. doi: 10.1111/j.1751-9004.2007.00018.x

Katz, J. & Gartner, W. B. (1988). Properties of Emerging Organizations. Academy of Management Review, 13(3), pp.429-441. doi:10.5465/amr.1988.4306967

155

Kautonen, T., van Gelderen, M. & Tornikoski, E. T. (2013). Predicting entrepreneurial behaviour: a test of the theory of planned behaviour. Applied Economics, 45(6), pp.697-707. doi:10.1080/00036846.2011.610750

Kelley, D., Singer, S. & Herrington, M., & Vorderwülbecke, A. (2012). Global Entrepreneurship Monitor (GEM) 2011. Global Report: (GERA / GEM)

Kessler, A. & Frank, H. (2009). Nascent Entrepreneurship in a Longitudinal Perspective: The Impact of Person, Environment, Resources and the Founding Process on the Decision to Start Business Activities. International Small Business Journal, 27(6), pp.720-742. doi:10.1177/0266242609344363

Kiesler, C. A. (1971). The Psychology of Commitment: Academic Press.

Kirzner Israel, M. (1973). Competition and entrepreneurship. University of Chicago Press Chicago, IL. [Retrieved from: http://www.jstor.org/stable/2721708], [Access date: 15/1/2016]

Krueger, N. F., Reilly, M. D. & Carsrud, A. L. (2000). Competing models of entrepreneurial intentions. Journal of Business Venturing, 15(5–6), pp.411- 432. doi:http://dx.doi.org/10.1016/S0883-9026(98)00033-0

Krueger, N. (2009). Entrepreneurial Intentions are Dead: Long Live Entrepreneurial Intentions. In A. L. Carsrud & M. Brännback (Eds.), Understanding the Entrepreneurial Mind: Opening the Black Box (p51-72). New York, NY: Springer New York.

Krueger, N. & Brazeal, D. V. (1994). Entrepreneurial potential and potential entrepreneurs. Entrepreneurship Theory and Practice, 18, pp.91-91. doi: 10.1177/104225879401800307

Krueger, N. & Welpe, I. (2014). Neuroentrepreneurship: what can entrepreneurship learn from neuroscience (chapter 4). Annals of entrepreneurship education and pedagogy, Elgar, Cheltenham, pp.60-90. doi: 10.4337/9781783471454

Latan, H., & Noonan, R. (Eds.). (2017). Partial Least Squares Path Modeling: Basic Concepts, Methodological Issues and Applications. Springer.

Lee, L., Wong, K., Foo, M. D. & Leung, A. (2011). Entrepreneurial intentions: The influence of organizational and individual factors. Journal of Business pp.124-136. 26(1), Venturing, doi:http://dx.doi.org/10.1016/j.jbusvent.2009.04.003

Li, W. (2007). Ethnic entrepreneurship: studying Chinese and Indian students in the United states. Journal of Developmental Entrepreneurship, 12(04), pp.449- 466. doi:10.1142/s1084946707000769

Liberman, N. & Trope, Y. (1998). The role of feasibility and desirability considerations in near and distant future decisions: A test of temporal construal theory. Journal of Personality and Social Psychology, 75(1), pp.5-18.

156

doi:10.1037/0022-3514.75.1.5

and Management Journal, 11(4), Liñán, F. & Fayolle, A. (2015). A systematic literature review on entrepreneurial intentions: citation, thematic analyses, and research agenda. International Entrepreneurship pp.907-933. doi:10.1007/s11365-015-0356-5

students

Liñán, F., Urbano, D. & Guerrero, M. (2011). Regional variations in entrepreneurial cognitions: Start-up in Spain. intentions of university Entrepreneurship & Regional Development, 23(3-4), pp.187-215. doi:10.1080/08985620903233929

Locke, E. A. & Latham, G. (1990). A theory of goal setting & task performance: from: [Retrieved Inc. Prentice-Hall, https://en.wikipedia.org/wiki/Goal_setting], [Access date: 16/1/2016]

MacMillan, I. C. & Katz, J. A. (1992). Idiosyncratic milieus of entrepreneurial research: The need for comprehensive theories. Journal of Business Venturing, 7(1), pp.1-8.

Maija, R., Rodney, C. S. & Mark, S. (2012). Perception of entrepreneurial opportunity: a general framework. Management Decision, 50(7), pp.1233- 1251. doi:10.1108/00251741211246987

in

Malkoc, S. A., Zauberman, G. & Bettman, J. R. (2010). Unstuck from the concrete: intertemporal preferences. Carryover effects of abstract mindsets Organizational Behavior and Human Decision Processes, 113(2), pp.112- 126. doi:http://dx.doi.org/10.1016/j.obhdp.2010.07.003

Manolova, T. S., Edelman, L. F., Brush, C. G. & Rotefoss, B. (2012). Properties of emerging organizations: empirical evidence from Norway. Small Business Economics, 39(3), pp.763-781. doi:10.1007/s11187-011-9360-5

Marco van, G., Maryse, B., Mirjam van, P., Wynand, B., Erik, & Anita van, G. (2008). Explaining entrepreneurial intentions by means of the theory of planned behaviour. Career Development International, 13(6), pp.538-559. doi:10.1108/13620430810901688

Journal 28(2), Martin, B. C., McNally, J. J. & Kay, M. J. (2013). Examining the formation of human capital in entrepreneurship: A meta-analysis of entrepreneurship education outcomes. pp.211-224. of Business Venturing, doi:http://dx.doi.org/10.1016/j.jbusvent.2012.03.002

Mathisen, J.-E. & Arnulf, J. K. (2013). Competing mindsets in entrepreneurship: The cost of doubt. The International Journal of Management Education, 11(3), pp.132-141. doi:http://dx.doi.org/10.1016/j.ijme.2013.03.003

Mathisen, J. E. & Arnulf, J. K. (2014). Entrepreneurial Mindsets: Theoretical Foundations and Empirical Properties of a Mindset Scale. International

157

Journal of Management and Business, 5 (2014), pp.81-97

Business Journal 31(6), of McMullen, J. S. & Kier, A. S. (2016). Trapped by the entrepreneurial mindset: Opportunity seeking and escalation of commitment in the Mount Everest disaster. pp.663-686. Venturing, doi:http://dx.doi.org/10.1016/j.jbusvent.2016.09.003

Meyer, J. & Allen, N. J. (1991). A three-component conceptualization of organizational commitment. Human Resource Management Review, 1(1), pp.61-89. doi:http://dx.doi.org/10.1016/1053-4822(91)90011-Z

Moriano, J. A., Gorgievski, M., Laguna, M., Stephan, U. & Zarafshani, K. (2011). A Cross-Cultural Approach to Understanding Entrepreneurial Intention. Journal of Career Development, 39(2), pp.162-185. doi:10.1177/0894845310384481

Nabi, G., & Liñán, F. (2013). Considering business start-up in recession time: The role of risk perception and economic context in shaping the entrepreneurial intent. International Journal of Entrepreneurial Behavior & Research, 19(6), pp.633-655. doi: 10.1108/IJEBR-10-2012-0107

Nunnally, J. C., & Bernstein, I. H. (1994). Validity. Psychometric theory, pp.99-132.

[Retrieved 16,

Ozgen, E., & Minsky, B. D. (2013). Why some college students engage in entrepreneurial activities while others do not. Journal of Entrepreneurship Education, from: 45. [Access https://www.abacademies.org/articles/jeevol162013.pdf#page=51], date: 15/1/2016]

Social 25(2), Parks–Stamm, E. J., Gollwitzer, & Oettingen, G. (2007). Action Control by Implementation Intentions: Effective Cue Detection and Efficient Response Initiation. pp.248-266. Cognition, doi:10.1521/soco.2007.25.2.248

Health, 18(6), & Prestwich, A., Lawton, R. & Conner, M. (2003). The use of implementation intentions and the decision balance sheet in promoting exercise behaviour. pp.707-721. Psychology doi:10.1080/08870440310001594493

Quan, X. (2012). Prior experience, social network, and levels of entrepreneurial pp.945-957. 35(10), intentions. Management Research Review, doi:doi:10.1108/01409171211272679

Randall, D. M. & Wolff, J. A. (1994). The time interval in the intention-behaviour relationship: Meta-analysis. British Journal of Social Psychology, 33(4), pp.405-418. doi:10.1111/j.2044-8309.1994.tb01037.x

Reynolds, P., Bosma, N., Autio, E., Hunt, S., De Bono, N., Servais, I.,... Chin, N. (2005). Global Entrepreneurship Monitor: Data Collection Design and Implementation 1998–2003. Small Business Economics, 24(3), pp.205-231.

158

doi:10.1007/s11187-005-1980-1

Rideout, E. C. & Gray, D. O. (2013). Does Entrepreneurship Education Really Work? A Review and Methodological Critique of the Empirical Literature on the Effects of University-Based Entrepreneurship Education. Journal of Small Business Management, 51(3), pp.329-351. doi:10.1111/jsbm.12021

Robert, L. E., Nikolay, D., Jose, V. G., Christopher, S., Servane, D., Irene, A.,... Birgitta, W. (2010). Entrepreneurial intent: A twelve‐ country evaluation of Ajzen's model of planned behavior. International Journal of Entrepreneurial Behavior & Research, 16(1), pp.35-57. doi:10.1108/13552551011020063

Mitchell, R., J., Shepherd, D. A. & Sharfman, M. (2011). Erratic strategic decisions: when and why managers are inconsistent in strategic decision making. Strategic Management Journal, 32(7), pp.683-704. doi:10.1002/smj.905

Rutter, M. (2006). Implications of Resilience Concepts for Scientific Understanding. the New York Academy of Sciences, 1094(1), pp.1-12. Annals of doi:10.1196/annals.1376.002

Saeed, R., Nayyab, H. H., Rashied, H., Lodhi, R. N., Musawar, S. & Iqbal, A. (2013). Who is the most potential entrepreneur? A case of Pakistan. Middle-East Journal of Scientific Research, 17(9), pp.1307-1315.

Salisbury, L. C. & Feinberg, F. M. (2008). Future Preference Uncertainty and Diversification: The Role of Temporal Stochastic Inflation. Journal of Consumer Research, 35(2), 349. doi: 10.1086/586915

Sánchez, J. C. (2013). The Impact of an Entrepreneurship Education Program on Entrepreneurial Competencies and Intention. Journal of Small Business Management, 51(3), pp.447-465. doi:10.1111/jsbm.12025

Santarelli, E., Carree, M. & Verheul, I. (2009). Unemployment and Firm Entry and Exit: An Update on a Controversial RelationshiRegional Studies, 43(8), pp.1061-1073. doi:10.1080/00343400801968361

Schlaegel, C. & Koenig, M. (2014). Determinants of Entrepreneurial Intent: A Meta- Analytic Test and Integration of Competing Models. Entrepreneurship Theory and Practice, 38(2), pp.291-332. doi:10.1111/etap.12087

Schoon, I. & Duckworth, K. (2012). Who becomes an entrepreneur? Early life experiences as predictors of entrepreneurshiDevelopmental psychology, 48(6), 1719. doi:http://dx.doi.org/10.1037/a0029168

Schumpeter, J. A. (1934). The theory of economic development: An inquiry into profits, capital, credit, interest, and the business cycle (Vol. 55): Transaction publishers.

Shane, S., Nicolaou, N., Cherkas, L. & Spector, T. D. (2010). Do openness to experience and recognizing opportunities have the same genetic source?

159

Human Resource Management, 49(2), pp.291-303. doi:10.1002/hrm.20343

Shane, S. & Venkataraman, S. (2000). The Promise of Entrepreneurship as a Field of Research. Academy of Management Review, 25(1), pp.217-226. doi:10.5465/amr.2000,2791611

Shapero, Albert & Sokol, Lisa, The Social Dimensions of Entrepreneurship (1982). Encyclopedia of Entrepreneurship, Vol. , pp.72-90 1982. [Retrieved from: https://ssrn.com/abstract=1497759], [Access date: 15/1/2016]

Sharma, & Irving, G. (2005). Four Bases of Family Business Successor Commitment: Antecedents and Consequences. Entrepreneurship Theory and Practice, 29(1), 13-33. doi:10.1111/j.1540-6520,2005.00067.x

Sheeran (2002). Intention—Behavior Relations: A Conceptual and Empirical Review. European Review of Social Psychology, 12(1), pp.1-36. doi:10.1080/14792772143000003

Sheeran, & Orbell, S. (1998). Do intentions predict condom use? Metaanalysis and examination of six moderator variables. British Journal of Social Psychology, 37(2), pp.231-250. doi: 10.1111/j.2044-8309.1998.tb01167.x

Sheeran, & Orbell, S. (2000). Self-schemas and the theory of planned behaviour. European Journal of Social Psychology, 30(4), pp.533-550. doi: 10.1002/1099-0992(200007/08)30:4<533::AID-EJSP6>3.0,CO;2-F

Science & Medicine, 56(10), Social Sheeran, & Silverman, M. (2003). Evaluation of three interventions to promote workplace health and safety: evidence for the utility of implementation pp.2153-2163. intentions. doi:http://dx.doi.org/10.1016/S0277-9536(02)00220-4

Sheeran, & Webb, T. L. (2016). The Intention–Behavior GaSocial and Personality Psychology Compass, 10(9), 503-518. doi:10.1111/spc3.12265

Souitaris, V., Zerbinati, S. & Al-Laham, A. (2007). Do entrepreneurship programmes raise entrepreneurial intention of science and engineering students? The effect of learning, inspiration and resources. Journal of Business Venturing, 22(4), pp.566-591. doi:http://dx.doi.org/10.1016/j.jbusvent.2006.05.002

Steel (2007). The nature of procrastination: A meta-analytic and theoretical review of quintessential self-regulatory failure. Psychological Bulletin, 133(1), pp.65- 94. doi:10.1037/0033-2909.133.1.65

Stevenson, H. & Jarillo, C. (1990). A paradigm of entrepreneurship as a field of research. Academy of Management Review, 3, pp.45-57.

Sun, B. & Morwitz, V. G. (2010). Stated intentions and purchase behavior: A unified model. International Journal of Research in Marketing, 27(4), pp.356-366. doi:http://dx.doi.org/10.1016/j.ijresmar.2010.06.001

160

Tatarko, A., & Schmidt, P. (2016). Individual social capital and the implementation of entrepreneurial intentions: The case of Russia. Asian Journal of Social Psychology, 19(1), pp.76-85. doi: 10.1111/ajsp.12113

atiana, I., Lars, K. & Ute, S. (2011). Entrepreneurial intentions in developing and developed countries. Education + Training, 53(5), pp.353-370. doi: 10.1108/00400911111147686

Teece, D. J. (2010). Business Models, Business Strategy and Innovation. Long Range Planning, 43(2), pp.172-194. doi:http://dx.doi.org/10.1016/j.lrp.2009.07.003

Todd, D., Carolin, & Miemie, S. (2011). Entrepreneurship perceptions and career intentions of international students. Education + Training, 53(5), pp.335-352. doi:10.1108/00400911111147677

Trope, Y. & Liberman, N. (2003). Temporal construal. Psychological Review, 110(3), pp.403-421. doi:10.1037/0033-295X.110.3.403

Trope, Y. & Liberman, N. (2010). Construal-level theory of psychological distance. Psychological Review, 117(2), pp.440-463. doi:10.1037/a0018963

Tubbs, M. E. & Ekeberg, S. E. (1991). The role of intentions in work motivation: implications for goal-setting theory and research. Academy of Management Review, 16(1), pp.180-199. doi:10.5465/amr.1991.4279004

Tumasjan, A., Welpe, I. & Spörrle, M. (2013). Easy Now, Desirable Later: The Moderating Role of Temporal Distance in Opportunity Evaluation and Exploitation. Entrepreneurship Theory and Practice, 37(4), pp.859-888. doi:10.1111/j.1540-6520,2012.00514.x

Ülkümen, G. & Cheema, A. (2011). Framing Goals to Influence Personal Savings: The Role of Specificity and Construal Level. Journal of Marketing Research, 48(6), pp.958-969. doi:10.1509/jmr.09.0516

pp.655-673. Venturing, Business Van Gelderen, M., Kautonen, T. & Fink, M. (2015). From entrepreneurial intentions to actions: Self-control and action-related doubt, fear, and aversion. Journal doi: 30(5), of http://dx.doi.org/10.1016/j.jbusvent.2015.01.003

van Gelderen, M., Kautonen, T., Wincent, J., & Biniari, M. (2018). Implementation intentions in the entrepreneurial process: concept, empirical findings, and research agenda. Small Business Economics, 51(4), 923-941. doi: 10.1007/s11187-017-9971-6

Van Ittersum, K. (2012). The effect of decision makers’ time perspective on intention–behavior consistency. Marketing Letters, 23(1), pp.263-277. doi:10.1007/s11002-011-9152-3

Verplanken, B. & Faes, S. (1999). Good intentions, bad habits, and effects of forming implementation intentions on healthy eating. European Journal of Social

161

pp.591-604. [Retrieved 29(56),

Psychology, from: https://pdfs.semanticscholar.org/3b30/0e0a963590d3a9a421b57eb7869ee4d0 f52b.pdf], [Access date: 16/1/2016]

Education, [Retrieved 191. 11,

Verzat, C. & Bachelet, R. (2006). Developing an Entrepreneurial Spirit among engineering college students: what are the educational factors?. International Entrepreneurship from: https://halshs.archives-ouvertes.fr/halshs-00112663/document], [Access date: 16/1/2016]

Coase, R. H., &

, N. (2011). The industrial structure of production: A research agenda for innovation in an entrepreneurial economy. Entrepreneurship Research Journal, 1(2). doi: 10.2202/2157-5665.1026

research, pp.125-147. to nursing [Retrieved

Werner (2004). Reasoned action and planned behavior. Middle range theories: Application from: http://www.scirp.org/(S(i43dyn45teexjx455qlt3d2q))/reference/ReferencesPa pers.aspx?ReferenceID=1632425], [Access date: 17/1/2016]

Wiedemann, A. U., Schüz, B., Sniehotta, F., Scholz, U. & Schwarzer, R. (2009). Disentangling the relation between intentions, planning, and behaviour: A moderated mediation analysis. Psychology & Health, 24(1), pp.67-79. doi:10.1080/08870440801958214

Zahra, S. A. & Wright, M. (2011). Entrepreneurship's Next Act. The Academy of Management Perspectives, 25(4), pp.67-83. doi:10.5465/amp.2010.0149

Zellweger, T., Sieger, & Halter, F. (2011). Should I stay or should I go? Career choice intentions of students with family business background. Journal of Business Venturing, pp.521-536. 26(5), doi:http://dx.doi.org/10.1016/j.jbusvent.2010.04.001

Zhao, H., Seibert, S. E. & Hills, G. E. (2005). The Mediating Role of Self-Efficacy in the Development of Entrepreneurial Intentions. Journal of applied psychology, 90(6), pp.1265-1272. doi:10.1037/0021-9010.90,6.1265

1

PHỤ LỤC

PHỤ LỤC 1: THANG ĐO GỐC KHÁI NIỆM NGHIÊN CỨU

Gắn kết với khởi nghiệp (Adam & Fayolle, 2015, adapted from Allen & Meyer, 1990)

1 I am not afraid of what might happen if I give up my entrepreneurial project without having another one lined up.

2 It would be very hard for me to give up my project right now, even if I wanted

to.

3 It would not be too costly for me to give up my entrepreneurial project now.

4 Right now, sticking to my entrepreneurial project is a matter of necessity as much as a desire.

5 I feel that I have very few options to consider if I give up my entrepreneurial project.

Ý định hành động khởi nghiệp (Tatarko & Schmidt, 2016)

1. Developing a product/service

2. Working on a business plan for your business idea

3. Saving money for your intention to start a business

Nhận thức mong muốn khởi nghiệp (Krueger & cộng sự, 2000)

1.Being an entrepreneur implies more advantages than disadvantages to me

2.A career as entrepreneur is attractive for me

3.If I had the opportunity and resources, I’d like to start a fir

4.Being an entrepreneur would entail great satisfactions for me

5.Among various options, I would rather be an entrepreneur

6. Desiring to become an entrepreneur.

Nhận thức khả năng khởi nghiệp (Krueger & cộng sự, 2000)

1.Believing in the viability and growth of the new venture

2.Enough qualities to become entrepreneurs

3.Knowledge and experience gained motivate the creation of a new venture

4.Having relationship network for the creation of a new venture

5. The high feasibility of the new venture

Tư duy khởi nghiệp (Mathisen & Arnulf, 2013)

2

1.I’m considering both positive and negative aspect related to run my own business

2.I’m considering whether I have the time to run my own business

3.I’m considering whether I have the opportunity financially to start my own business

4.I consider whether the timing to start my own business is right

5.I’m looking for both positive and negative information about starting my own business

3

PHỤ LỤC 2: MỘT SỐ NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN TỔNG HỢP TỪ NGHIÊN CỨU TỔNG QUAN VỀ Ý ĐỊNH KHỞI NGHIỆP CỦA (ADAM & FAYOLLE, 2015)

PHÂN LOẠI THEO TẠP CHÍ

Tạp

Nhóm

chí

Nguồn Zhao, Hills & Seibert (2005) Linan & Chen (2009)

JAP ETP

Trích dẫn 94 57

G1.

Hmieleski & Corbett (2006)

JSBM

27

Core Entrepreneurial Intention Model

G.2

Personal-level variables

ETP CDI ETP IJEBR IEMJ JBV JBR ETP IAER JAP SAJP

24 23 49 26 23 21 19 19 17 15 13

JBV

79

JEIT

42

G.3

Entrepreneurship education

Thompson (2009) van Gelderen et al. (2008) Wilson, Kichul & Marlino (2007) Segal, Borgia & Schoenfeld (2005) Guerrero, Rialp & Urbano (2008) Lee & Wong (2004) Carr & Sequeira (2007) Gupta et al. (2009) Linán & Santos (2007) Gupta, Turban & Bhawe (2008) Gird & Bagraim (2008) Souitaris, Zerbinat & Al-Laham (2007) Fayolle, Gailly & Lassas-Clerc (2006) Pittaway & Cope (2007) Frank & Luthje (2004) Veciana, Aponte & Urbano (2005)

ISBJ IJITM IEMJ

25 17 31

Kristiansen & Indarti (2004)

JEC

21

G.4

Context and institutions

Depillis & Reardon (2007) Engle et al. (2010)

CDI IJEBR

17 14

Kolvereid & Isaksen (2006)

JBV

49

G.5

Entrepreneurial process

Nabi, Holden & Walmsley (2006)

E+T

13

Nguồn: Adam & Fayolle (2015)

CDI (2 papers): Career Development International; ETP (4): Entrepreneurship Theory & Practice; E+T: Education + Training; IAER: International Advances in Economic Research; IEMJ (2): International Entrepreneurship & Management Journal; IJEBR (2): International Journal of Entrepreneurial Behavior and Research; IJITM: International Journal of Innovation and Technology Management; ISBJ: International Small Business Journal; JAP (2): Journal of Applied Psychology; JBR:

4

Journal of Business Research; JBV (3): Journal of Business Venturing; JEC: Journal of Enterprising Culture; JEIT: Journal of European Industrial Training; JSBM: Journal of Small Business Management; SAJP: South African Journal of Psychology

PHÂN LOẠI THEO TỪNG NĂM

2004 2005 2006

2007

2008 2009 2010 2011 2012 2013

Tổng số

2014 - 2017 (*)

- - - - - -

3 4 4 - 2 - 13

2 6 4 4 5 - 21

1 15 4 4 4 - 28

8 14 5 8 4 - 39

9 14 9 7 3 3 45

10 25 12 18 5 2 72

16 30 16 15 9 5 91

14 34 12 14 7 7 88

65 148 68 72 39 17 409

- G1 4 G2 1 G3 1 G4 - G5 - G6 Tổng số 6

2 2 1 1 - - 6 (*): Đang cập nhập

Nguồn: Adam & Fayolle (2015)

Các mô hình cốt lõi về ý định khởi nghiệp (core Entrepr. intention model) (65)

Bối cảnh và sự hỗ trợ các tổ chức/chính sách khởi nghiệp (Context and institutions) (72)

Quá trình khởi nghiệp (Entreprene urial process) (39) Các yếu tố cá nhân (Personal- level variables) (148)

Nền tảng giáo dục (Entrepreneurship education) (68)

Sơ đồ các hướng tiếp cận nghiên cứu về ý định khởi nghiệp

PHÂN LOẠI THEO HƯỚNG NGHIÊN CỨU

Các mô hình cốt lõi về ý định khởi nghiệp (core Entrepr. intention model)

Kiểm tra chung lý thuyết (23) Ý định cụ thể (18) Khung lý thuyết mới (9)

5

(65)

Các yếu tố cá nhân (Personal-level variables) (148)

Nền tảng giáo dục (Entrepreneurship education) (68)

khởi nghiệp (Context Bối cảnh và sự hỗ trợ các tổ chức/chính and sách institutions) (72)

Quá trình khởi nghiệp (Entrepreneurial process) (39) Các biến bổ sung (5) Cấu hình tiền đề động lực (7) Phương pháp luận (3) Các yếu tố nền (35) Yếu tố cá tính / tâm lý (72) Vấn đề giới tính (30) Các mẫu phụ cụ thể (3) Rào cản nhận thức (3) Đặc điểm của người tham gia (8) Kết quả chương trình giáo dục khởi nghiệp (13) Đánh giá chương trình giáo dục khởi nghiệp (30) So sánh chương trình giáo dục khởi nghiệp (6) Đề xuất chương trình giáo dục khởi nghiệp (11) Nghiên cứu đa văn hóa (25) Nguồn gốc văn hóa (6) Thể chế (40) Hệ sinh thái khởi nghiệp (1) Nghiên cứu theo đa giai đoạn (24) Các biến ảnh hưởng đến quá trình (15)

Hướng nghiên cứu mới (New research areas) (17)

Khởi nghiệp bền vững (4) Doanh nghiệp khởi nghiệp xã hội (7) Khác (6)

PHÂN LOẠI THEO QUỐC GIA

STT Tác giả, năm Quốc gia

1 Kích thước mẫu 276 % Giới tính (Nam) 66% Pakistan

2 949 62.84% Saudi

3 197 63.45% Pakistan

4 249 49% UK

5 320 61.25% Pakistan Ahmed et al. (2010) Almobaireek and Manolova (2012) Aslam, Awan, and Khan (2012) Athayde (2009) Azhar, Javaid, Rehman, and Hyder (2011)

6 Basu (2010) 231 64.40%

7 Brown, Bowlus, and Seibert 454 — Various countries US

6

8 167 — Uganda

9 327 46.48% China

10 946 38.40% Canada

11 12 13 14 15 1,949 120 111 144 20 100% 0% 23% — — Spain Nigeria US France France

16 220 68.64% US

17 18 156 196 58% 44.90% Ethiopia German

19 78 54% Sweden

20 70 — Us

21 22 2,360 123 49.70% 22% Dutch Malaysia

23 205 42% Iran

24 417 32.90%

25 26 27 278 800 160 62% 33.80% —

29 392 — Various countries Norway Spain US Various countries

30 200 37.50% Malaysia,

(2011) Byabashaija and Katono (2011) Chen (2010) De Clercq, Honig, and Martin (2013) Dohse and Walter (2010) Ekpe and Mat (2012) Evans(2009) Fayolle et al. (2006a) Fayolle et al. (2006b) Florin, Kami, and Rossiter (2007) Gerba (2012) von Graevenitz et al. (2010) Hamidi, Wennberg, and Berglund (2008) Hahke, Kisenwether, and Warren (2005) Huber, Sloof, and Van Praag (2012) Ismail et al. (2009) Karimi, Biemans, Lans, Mulder, and Chizari (2012) Keat, Selvarajah, and Meyer (2011) Kolvereid and Moen (1997) Lanero et al. (2011) Lee et al. (2005) Lee, Lìm, Pathak, Chang, and Li (2006) Lee, Lìm, Lìm, Ng, and Wong (2012) 31 Lilian (2004) Lorz et al. (2011) 32 33 Malebana (2012) 166 272 355 56.60% 35.80% 32.20%

34 202 Marques, Ferreha, Gomes, and Rodrigues (2012)

35 McStay (2008) 429 , Spain German South Africa Portugal Australia

36 232 US Miller, Bell, Palmer, and Gonzalez (2009)

37 Mo (2011) 110 61.15% China

7

38 Moberg (2012) 46.96% Denmark 724

39 410 — Malaysia Mohamed, Rezai, Shamsudin, and Mahmud (2012)

40 Muofhe and du Toit (2011) 269 —

41 42 43 39 508 250 55% 59.45% 55.20% South Africa US Tanzania Dutch

44 74 52.70% Portugal

45 46 105 44 — — US France

47 316 47.50% Portugal

48 48 —

49 191 32.98%

50 864 35.80% Portugal Various countries US

51 234 32.50% Malaysia

52 22 —

53 250 —

54 55 300 520 51% — Malaysia Various countries Turkey Bangladesh

56 1,204 — Finland Noel (2002) Olomi and Sinyamule (2009) Oosterbeek et al. (2010) do Paẹo, Ferreha, Raposo, Rodrigues, and Dinis (2011) Pruett (2012) Radu and Loué (2008) Raposo, Ferreira, do Paẹo, and Rodrigues (2008) Rodrigues et al. (2012) Romero, Petrescu, and Balalia (2011) Sanchez (2011) Sandhu, Jain, and Yusof (2010) Shariff et al. (2010) Souitaris, Zerbinati, and Al- Laham (2007) Turker and Selcuk (2009) Uddin and Bose (2012) Varamaki, Tomikoski, Viljamaa, and Rìstìmãkì (n.d.)

57 Wilson et al. (2007) 58 Wu and Wu (2008) 933 146 56.06% 63.70% US China

59 200 50% China

60 Zhang, Cheng, Fan, and Chu (2012) Zhao et al. (2005) 265 66% US

8

PHỤ LỤC 3: HƯỚNG DẪN NỘI DUNG THẢO LUẬN NHÓM CHUYÊN GIA

PHẦN MỞ ĐẦU

Giới thiệu

Xin chào! Tôi là Nghiên cứu sinh Trường ĐH Kinh tế TP.HCM. Tôi đang thực hiện đề tài nghiên cứu về quá trình hình thành ý định khởi nghiệp của sinh viên đại học. Đề tài này giúp cho các trường đại học, chính phủ có hiểu biết về quá trình hình thành nhà khởi nghiệp tiềm năng, từ đó sử dụng các biện pháp thúc đẩy phong trào khởi nghiệp. Cuộc trao đổi chỉ đóng góp vào mục đích nghiên cứu, các thông tin về cuộc trao đổi sẽ được bảo mất và sử dụng dưới dạng khuyết danh. Tất cả các câu trả lời đều cung cấp các thông tin hữu ích cho nghiên cứu và rất quan trọng đối với nghiên cứu của tôi. Không có câu trả lời đúng hay sai mà hãy trả lời theo đúng suy nghĩ và cảm nhận của các Anh/Chị. Cho phép tôi ghi chép lại cuộc trao đổi. Trân trọng cám ơn ! Xin cho biết thông tin cá nhân người được phỏng vấn

- Họ và Tên: Tuổi: Giới tính: - Đơn vị công tác: Chức vụ:

PHẦN NỘI DUNG 1. Giới thiệu quá trình hình thành 1 nhà khởi nghiệp tiềm năng theo nghiên cứu của GEM (2014), đồng thời giới thiệu sơ lược về các khái niệm: khả năng khởi nghiệp, mong muốn khởi nghiệp, tư duy khởi nghiệp cho các đối tượng được phỏng vấn.

2. Thảo luận những yếu tố nào giúp phân biệt giữa nhà khởi nghiệp tiềm năng và những người còn lại?

3. Những chỉ báo nào phản ảnh mong muốn khởi nghiệp của nhà khởi nghiệp?

4. Những chỉ báo nào phản ảnh khả năng khởi nghiệp của nhà khởi nghiệp tiềm năng?

5. Những chỉ báo nào thể hiện về người có tư duy khởi nghiệp?

6. Điều gì giúp nhà khởi nghiệp tiềm năng kiên trì với khởi nghiệp? Và liệu đó có phải là yếu tố giúp họ vượt qua những khó khăn trở ngại khi bắt đầu khởi nghiệp?

7. Những chỉ báo nào thể hiện ý định hành động sẽ khởi nghiệp?

8. Cần thời gian bao lâu để khởi nghiệp khi nhận ra mình có ý tưởng và cơ hội khởi nghiệp?

9. Anh/Chị có đồng tình những yếu tố: khả năng khởi nghiệp, mong muốn khởi nghiệp, tư duy khởi nghiệp, gắn kết với khởi nghiệp và ý định khởi nghiệp thể hiện quá trình của nhà khởi nghiệp tiềm năng?

Cảm ơn các Anh/Chị đã tham gia trả lời phỏng vấn.

9

PHỤ LỤC 4: KẾT QUẢ PHỎNG VẤN NHÓM CHUYÊN GIA

1. Những yếu tố phân biệt giữa nhà khởi nghiệp tiềm năng và những người

khác

STT Tên yếu tố Chuyên gia đưa ý kiến

Đo lường khái niệm có liên quan trong mô hình nghiên cứu

1

Khả năng phát hiện cơ hội kinh doanh ID1, ID2, ID3, ID4, ID5, ID6, ID7, ID8 Tư duy khởi nghiệp

2 Ý tưởng kinh doanh ID1, ID2, ID3, ID4, ID5, ID6, ID7, ID8 Tư duy khởi nghiệp

3 Không sợ rủi ro ID5, ID6, ID7, ID8 Gắn kết với khởi nghiệp

4 Ham muốn khởi nghiệp ID3, ID4, ID5, ID6, ID7, ID8 Nhận thức mong muốn khởi nghiệp

5 Sự kiên trì ID3, ID4, ID5, ID6, ID7, ID8 Gắn kết với khởi nghiệp

6 Kiến thức nền tảng cơ bản về kiến thức chuyên môn ID1, ID2, ID3, ID4, ID5, ID6, ID7, ID8 Nhận thức khả năng khởi nghiệp

7 Kỹ năng nghiên cứu thị trường ID5, ID6, ID7, ID8 Nhận thức khả năng khởi nghiệp

8 Kỹ năng quản lý tài chính ID1, ID3, ID4, ID5, ID6, ID7, ID8 Nhận thức khả năng khởi nghiệp

9 Tư duy về chiến lược ID1, ID2, ID3, ID4, ID5, ID6 Tư duy khởi nghiệp

2. Những chỉ báo nào phản ảnh mong muốn khởi nghiệp?

Ý kiến của chuyên gia Nội dung thang đo gốc của khái niệm mong muốn khởi nghiệp

Tôi mong muốn trở thành nhà khởi nghiệp

Thành lập công ty đối với tôi thuận lợi nhiều hơn bất lợi

Trở thành doanh nhân là điều hấp dẫn Luôn chia sẻ mong muốn ý định kinh doanh mọi lúc mọi nơi với nhiều người (ID3, ID4, ID5, ID6, ID7, ID8) Được sự ủng hộ từ gia đình người thân/bạn bè (ID5, ID6, ID7, ID8) Được xã hội tôn trọng (ID5, ID6, ID7, ID8)

10

Nếu tôi có nhiều cơ hội và nguồn lực, tôi sẽ bắt đầu một công ty mới

Phụng sự xã hội (ID1,ID2,ID3) Thoát nghèo (ID7, ID8) Phi thương bất phú (ID4, ID5, ID6, ID7, ID8) Chỉ cần nhìn thấy cơ hội kiếm tiến là kinh doanh (ID1, ID6, ID7, ID8) Có vốn là kinh doanh, nếu không có thì vay vốn (ID6, ID7, ID8) Giàu có và thành đạt (ID5, ID6, ID7, ID8) Mong muốn làm chủ hơn là làm công (ID4, ID5, ID6, ID7, ID8) Là một doanh nhân sẽ mang lại cho tôi nhiều sự hài lòng Trong số nhiều sự lựa chọn nghề nghiệp, tôi muốn trở thành một doanh nhân

3. Những chỉ báo nào phản ảnh khả năng khởi nghiệp?

Ý kiến của chuyên gia

Nội dung thang đo gốc của khái niệm nhận thức khả năng khởi nghiệp

Tin tưởng vào khả năng tồn tại và tăng trưởng của dự án khởi nghiệp nếu tôi có ý định khởi nghiệp

Tôi đủ khả năng để khởi nghiệp

Kiến thức và kinh nghiệm là động lực cho tôi khởi nghiệp

Mạng lưới các mối quan hệ thuận lợi cho việc khởi nghiệp của tôi

Luôn tin tưởng khởi nghiệp sẽ mang lại kết quả (ID4,ID5,ID6,ID7,ID8) Luôn có niềm tin về giá trị ý tưởng của mình (ID1, ID6, ID7, ID8) Có đủ vốn (ID1, ID2, ID3, ID4, ID5, ID6, ID7, ID8) Có kiến thức (ID1, ID2, ID3, ID4, ID5) Có quan hệ xã hội (ID1, ID2, ID3, ID4, ID5) Có ý tưởng sáng tạo (ID1, ID2, ID3, ID4, ID5, ID6, ID7, ID8) Làm thêm khi còn là sinh viên (ID4, ID5, ID6, ID7, ID8) Được đào tạo về khởi nghiệp (ID1, ID2, ID3, ID4) Có chuyên gia định hướng khởi nghiệp (ID4, ID5, ID6, ID7, ID8) Có các cuộc thi về khởi nghiệp (ID1, ID2, ID3, ID4, ID5, ID6, ID7, ID8) Vườn ươm tại địa phương (ID1, ID2, ID3, ID4) Có nhiều doanh nhân đỡ đầu (ID4, ID5, ID6, ID7, ID8) Người thân có quan hệ xã hội rộng (ID4,

11

Dự án khởi nghiệp có tính khả thi cao

ID5, ID6, ID7, ID8) Dự án phải mang lại lợi ích thật sự (ID1, ID2, ID3) Dự án phải khác biệt (ID5, ID6, ID7, ID8) Dự án phải có sáng tạo (ID1, ID2, ID3, ID4, ID5, ID6, ID7, ID8)

Những chỉ báo nào thể hiện về người có tư duy khởi nghiệp? 4.

Ý kiến của chuyên gia

Nội dung thang đo gốc của khái niệm tư duy khởi nghiệp Tôi nghĩ về ý tưởng khởi nghiệp của mình, tôi xác định phải bắt đầu khởi nghiệp.

Tôi có kế hoạch làm thế nào để khởi nghiệp.

Tôi có kế hoạch khi nào phải bắt đầu khởi nghiệp

Có ý tưởng kinh doanh (ID1, ID2, ID3, ID4, ID5, ID6, ID7, ID8) Có khả năng phát hiện ra nhu cầu thị trường (ID1, ID2, ID3, ID4, ID5) Có năng lực suy nghĩ và đánh giá liệu đây có phải là cơ hội kinh doanh (ID4, ID5, ID6, ID7, ID8) Có khả năng đánh giá được ý tưởng kinh doanh (ID4, ID5, ID6, ID7, ID8) Mục tiêu kinh doanh phải đạt tiêu chí SMART (ID1, ID2, ID3, ID4, ID5) Phải có kế hoạch kinh doanh bài bản lúc nào sẽ bắt đầu (ID4, ID5, ID6, ID7, ID8) Phải chi tiết các bước triển khai kế hoạch kinh doanh (ID4, ID5, ID6, ID7, ID8) Phải luôn chủ động thời gian triển khai kế hoạch kinh doanh (ID1, ID2, ID3, ID4, ID5, ID6, ID7, ID8) Luôn hoạch định thời gian chi tiết khi nào làm gì (ID1, ID2, ID3, ID4, ID5, ID6, ID7, ID8) Ý tưởng kinh doanh không phải nằm trong suy nghĩ mà thể hiện trên kế hoạch (ID1, ID2, ID3, ID4, ID5, ID6, ID7, ID8)

12

Tôi đang tìm kiếm thông tin tích cực và tiêu cực có liên quan về dự án khởi nghiệp

Khi nhận ra một cơ hội, tôi sẽ đánh giá cơ hội và bắt đầu khởi nghiệp

Không nên quá mơ hồ về ý tưởng kinh doanh (ID1, ID4, ID5, ID6, ID7, ID8) Luôn quan sát thị trường (ID1, ID2, ID3, ID4, ID5, ID6, ID7, ID8) Luôn nghiên cứu thị trường (ID1, ID2, ID3, ID4, ID5, ID6, ID7, ID8) Cơ hội kinh doanh chỉ đến với những người biết suy nghĩ và đánh giá đúng nó (ID4, ID5, ID6, ID7, ID8) Không phải ai cũng nhìn thấy Cơ hội kinh doanh (ID1, ID2, ID3, ID4, ID5, ID6, ID7, ID8) Có có cơ hội kinh doanh thì nên không nên bỏ qua

Ý kiến của chuyên gia Mức độ đồng ý

8/8 Chuyên gia đồng tình Phân biệt được giữa nhà khởi nghiệp tiềm năng với người khác là dựa vào năng lực phát hiện cơ hội kinh doanh của họ.

5. Điều gì giúp nhà khởi nghiệp tiềm năng kiên trì với khởi nghiệp? Và liệu đó

có phải là yếu tố giúp họ vượt qua những khó khăn trở ngại khi bắt đầu khởi

nghiệp?

Ý kiến của chuyên gia

Nội dung thang đo gốc của khái niệm gắn kết với khởi nghiệp

Tôi không sợ những gì có thể xảy ra nếu tôi từ bỏ dự án khởi nghiệp của mình mà không có một kế hoạch khác.

Không sợ rủi ro (ID1, ID2, ID3, ID4, ID5, ID6, ID7, ID8) Xác định khởi nghiệp khả năng thất bại là rất cao (ID1, ID2, ID3, ID4, ID5, ID6, ID7, ID8) Không ngại những khó khăn ban đầu trong quá trình khởi nghiệp (ID4, ID5, ID6, ID7, ID8) Sẽ tiếp tục khởi nghiệp cho đến khi thành Sẽ rất khó để tôi từ bỏ dự án ngay

13

bây giờ, ngay cả khi tôi muốn.

Tôi đã tốn kém rất nhiều vì vậy tôi không thể nào từ bỏ được dự án của mình

Tôi gắn bó với dự án của mình vì tôi thấy cơ hội hấp dẫn hơn là vì khả năng của tôi.

Tôi cảm thấy tôi có rất ít lựa chọn để xem xét nếu tôi từ bỏ dự án khởi nghiệp

công (ID4, ID5, ID6, ID7, ID8) Kiên trì theo đuổi dự án kinh doanh (ID1, ID2, ID3, ID4, ID5, ID6, ID7, ID8) Theo dự án thời gian dài, giờ khó mà bỏ (ID6, ID7, ID8) Dù gì kinh doanh cũng tốt hơn những đi làm thuê (ID4, ID5, ID6, ID7, ID8) Đầu tư quá nhiều thời gian (ID4, ID5, ID6, ID7, ID8) Đầu tư quá nhiều công sức (ID4, ID5, ID6, ID7, ID8) Đầu tư quá nhiều tiền bạc (ID4, ID5, ID6, ID7, ID8) Phi thương bất phú (ID1, ID2, ID3, ID4, ID5, ID6, ID7, ID8) Phải thay đổi lối suy nghĩ của người Việt Nam là tìm được công việc làm thuê lương cao khi sinh viên ra tốt nghiệp bằng việc là kinh doanh khi ra trường thì xã hội mới giàu được (ID4, ID5, ID6, ID7, ID8) Không còn đường lùi, phải tiếp tục theo đuổi dự án kinh doanh (ID4, ID5, ID6, ID7, ID8) Không kinh doanh thì không lẻ trở lại làm thuê biết khi nào giàu (ID4, ID5, ID6, ID7, ID8) Kinh doanh là ưu tiên hàng đầu (ID1, ID2, ID3, ID4, ID5, ID6, ID7, ID8)

Ý kiến của chuyên gia Mức độ đồng ý

8/8 Chuyên gia đồng tình

Sự kiên trì, không sợ rủi ro là yếu tố rất quan trọng trong quá trình triển khai ý tưởng kinh doanh

14

6. Những chỉ báo nào thể hiện ý định hành động sẽ khởi nghiệp?

Ý kiến của chuyên gia

Nội dung thang đo gốc của khái niệm ý định hành động khởi nghiệp

Tôi có suy nghĩ về ý tưởng để có thể bắt đầu khởi nghiệp

Tôi đang phát triển một sản phẩm dịch vụ

Tôi đang tích lũy tiền cho ý định khởi nghiệp của tôi

Bổ sung của chuyên gia (ID4, ID5, ID6, ID7, ID8) Bổ sung của chuyên gia (ID4, ID5, ID6, ID7, ID8) Có ý tưởng và có mong muốn kinh doanh (ID1, ID2, ID3, ID4, ID5, ID6, ID7, ID8) Phát hiện ra cơ hội kinh doanh và lên kế hoạch thực hiện (ID1, ID2, ID3, ID4, ID5, ID6, ID7, ID8) Phân tích thị trường (ID1, ID2, ID3, ID4, ID5, ID6, ID7, ID8) Phân tích đối thủ cạnh tranh (ID1, ID3, ID4, ID5, ID6, ID7, ID8) Thử nghiệm sản phẩm/dịch vụ (ID1, ID2, ID3, ID4, ID5, ID6, ID7, ID8) Tích lũy vốn (ID1, ID2, ID3, ID4, ID5, ID6, ID7, ID8) Chuẩn bị phương án kêu gọi góp vốn (ID4, ID5, ID6, ID7, ID8) Có phương án kêu gọi đầu tư (ID1, ID2, ID3) Mượn tiền bạn bè, người thân gia đình (ID6, ID7, ID8) Sau khi tốt nghiệp nên khởi nghiệp ngay nếu có ý tưởng và cơ hội khởi nghiệp Có đủ quan hệ xã hội thì nên khởi nghiệp nếu có ý tưởng và cơ hội khởi nghiệp

7. Cần thời gian bao lâu để khởi nghiệp khi nhận ra mình có ý tưởng và cơ hội

khởi nghiệp?

Ý kiến của chuyên gia Mức độ đồng ý

3/8 (ID6, ID7, ID8) Càng sớm càng tốt miễn là có ý tưởng và cơ hội khởi nghiệp

1 tháng với thời gian ngắn 1/8 (ID7)

Trong vòng 3 tháng với thời gian ngắn 5/8 (ID4, ID5, ID6, ID7, ID8)

Trong vòng 1 năm với thời gian dài

8/8 (ID1, ID2, ID3, ID4, ID5, ID6, ID7, ID8)

15

5/8 (ID4, ID5, ID6, ID7, ID8) Trong vòng từ 1 đến dưới 3,5 năm với thời gian dài

8. Anh/Chị có đồng tình những yếu tố: khả năng khởi nghiệp, mong muốn khởi

nghiệp, tư duy khởi nghiệp, gắn kết với khởi nghiệp và ý định khởi nghiệp thể hiện

quá trình của nhà khởi nghiệp tiềm năng?

Ý kiến của chuyên gia Mức độ đồng ý

Khả năng khởi nghiệp

Mong muốn khởi nghiệp

Tư duy khởi nghiệp 8/8 (ID1, ID2, ID3, ID4, ID5, ID6, ID7, ID8) 8/8 (ID1, ID2, ID3, ID4, ID5, ID6, ID7, ID8) 8/8 (ID1, ID2, ID3, ID4, ID5, ID6, ID7, ID8)

Gắn kết với khởi nghiệp

ý định khởi nghiệp 8/8 (ID1, ID2, ID3, ID4, ID5, ID6, ID7, ID8) 8/8 (ID1, ID2, ID3, ID4, ID5, ID6, ID7, ID8)

16

PHỤ LỤC 5: DANH SÁCH NHÓM CHUYÊN GIA THAM GIA THẢO LUẬN NHÓM TẬP TRUNG

STT Họ tên Đơn vị công tác Chức vụ Ghi chú

ID1 Nguyễn Quốc Giám Đốc Cường Sở KH & CN Tỉnh Bình Dương Thành viên đề án khởi nghiệp tỉnh Bình Dương

Tầm ID2 Nguyễn Dương HĐND Tỉnh Bình Dương

Trưởng ban Kinh tế Ngân sách Thành viên đề án khởi nghiệp tỉnh Bình Dương

Bí Thư ID3 Bùi Thanh Nhân Thị Xã Dĩ An, tỉnh Binh Dương Thành viên đề án khởi nghiệp tỉnh Bình Dương

ID4 Võ Sơn Điền Chủ tịch

Thành viên đề án khởi nghiệp tỉnh Bình Dương Hội Doanh nhân trẻ tỉnh Bình Dương

ID5 Nguyễn Trọng Giám đốc Nghĩa Chi nhánh BIDV Dĩ An – Bình Dương Thành viên đề án khởi nghiệp tỉnh Bình Dương

ID6 Lê Hữu Tường Giám đốc

Công ty TNHH Tiến Hưng (Đồng Nai)

khởi ty Công nghiệp thành công với các sản phẩm gỗ nội ngoại thất, XK sang thị trường Mỹ và EU

ID7 Nguyễn Phương Giám đốc Nam Công Ty Aothun.vn (TP.HCM) khởi ty Công nghiệp thành công với các dự án thời trang

ID8 Lê Nguyễn Giám đốc Hồng Phương Công ty BIT (Bà Rịa-Vũng Tàu) Công khởi ty nghiệp thành công với các dự án công nghệ thông tin

17

PHỤ LỤC 6: NỘI DUNG THẢO LUẬN NHÓM TẬP TRUNG VỚI SINH VIÊN

ĐÃ KHỞI NGHIỆP

PHẦN MỞ ĐẦU

Giới thiệu

Xin chào! Tôi là Nghiên cứu sinh Trường ĐH Kinh tế TP.HCM. Tôi đang thực hiện 1 đề tài nghiên cứu về quá trình tư duy để hình thành ý định khởi nghiệp của sinh viên đại học. Đề tài này giúp cho các trường đại học, chính phủ có hiểu biết về các yếu tố của quá trình tư duy có tác động tới ý định hành động khởi nghiệp của sinh viên Đại học hệ chính quy, từ đó sử dụng các biện pháp thúc đẩy phù hợp. Cuộc trao đổi chỉ đóng góp vào mục đích nghiên cứu, các thông tin về cuộc trao đổi sẽ được bảo mất và sử dụng dưới dạng khuyết danh. Tất cả các câu trả lời đều cung cấp các thông tin hữu ích cho nghiên cứu và rất quan trọng đối với nghiên cứu của tôi. Không có câu trả lời đúng hay sai mà hãy trả lời theo đúng suy nghĩ và cảm nhận của các bạn. Cho phép tôi ghi chép lại cuộc trao đổi. Trân trọng cám ơn ! Xin cho biết thông tin cá nhân người được phỏng vấn

- Họ và Tên: Tuổi: Giới tính: - Ngành học: Trường Đại học: Đang học năm thứ:

PHẦN NỘI DUNG 1. Giới thiệu sơ lược về các khái niệm khả năng khởi nghiệp, mong muốn khởi nghiệp, tư duy khởi nghiệp, gắn kết với khởi nghiệp và ý định khởi nghiệp cho các đối tượng được phỏng vấn. 2. Điều gì thúc đẩy bạn có ý định khởi nghiệp 3. Để gia tăng khả năng, mong muốn khởi nghiệp và ý định khởi nghiệp của sinh viên cần làm gì? 4. Có khi nào bỏ cuộc khi gặp khó khăn trong khởi nghiệp? điều gì giúp sinh viên kiên trì với khởi nghiệp? 4. Đề nghị tự đánh giá về mức độ tự tin, mong muốn khởi nghiệp, tư duy và gắn kết khởi nghiệp của sinh viên.? 5. Góp ý về bảng điều tra - Cho các góp ý về thiết kế bảng, từ ngữ của từng câu hỏi trong bảng - Đọc các từ ngữ trong bảng hỏi và tìm ra liệu có hiểu nhầm, câu hỏi khó hiểu. Cảm ơn các bạn sinh viên đã tham gia trả lời phỏng vấn.

MỘT SỐ NỘI DUNG TỔNG HỢP TỪ THẢO LUẬN NHÓM VỚI SINH VIÊN

ĐÃ KHỞI NGHIỆP

Nghiên cứu này được phân thành 3 nhóm như sau:

Nhóm 1 gồm 7 sinh viên đến từ các trường đại học tỉnh Bình Dương (trường ĐH

18

Kinh tế- Kỹ thuật Bình Dương, trường ĐH Thủ Dầu Một và trường ĐH Bình Dương).

Nhóm 2 gồm năm sinh viên đến từ các trường ĐH Bà Rịa-Vũng Tàu. Nhóm 3 gồm

4 sinh viên đến từ ĐH Kinh tế TP.HCM.

SAU ĐÂY LÀ TỔNG HỢP MỘT SỐ Ý KIẾN:

“… Khởi nghiệp là một điều tốt vì được nhiều người tôn trọng, nhưng cần có sự hỗ

trợ vật chất từ gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, nhà nước và các tổ chức khác… em

nghĩ rằng sự hỗ trợ này sẽ giúp tụi em vượt qua những khó khăn khi khởi

nghiệp...Được trở thành doanh nhân cũng là niềm vui của em… ”

“… Ở Việt nam, là doanh nhân chưa được xã hội tôn trọng, nhưng tụi em vẫn muốn

khởi nghiệp vì ba mẹ muốn theo nghiệp của gia đình… ”

“… Nếu làm doanh nhân được ngưỡng mộ thì nhiều người sẽ cân nhắc khởi nghiệp.

Nhưng ở Việt Nam thái độ đối với doanh nhân còn nhiều thành kiến. Vì vậy khởi

nghiệp có thể là vì không có việc để làm nên mới khởi nghiệp hơn là địa vị xã hội…

“… em nghĩ rằng nếu Việt nam có nhiều người khởi nghiệp thành công, nữ có, nam

có, ví dụ như ông Đoàn Nguyên Đức… vì vậy làm doanh nhân được mọi người biết

đến và ngưỡng mộ… ”

“… em nghĩ rằng sự hỗ trợ từ nhà nước và các tổ chức liên quan khác tạo ra một môi

trường thuận lợi cho khởi nghiệp, do đó, kích thích phong trào khởi nghiệp của sinh

viên. Sự hỗ trợ nãy là tốt cho sinh viên và cũng quan trọng đối với xã hội. Vì sinh

viên khởi nghiệp sẽ không bị thất nghiệp, không trở thành gánh nặng cho gia đình và

xã hội, làm doanh nhân cũng được bà con, bạn bè, hàng xóm nể trọng, cũng được ra

oai… Hỗ trợ bằng các cách: chương trình đào tạo, tư vấn khởi nghiệp, tiếp cận tài

chính, có người hướng dẫn kèm cặp, đơn giản hóa luật doanh nghiệp....nếu có được

điều này tụi em sẽ luôn đi đến cùng ý tưởng khởi nghiệp của mình”

“... quan điểm của em là, nếu mọi người biết cách bắt đầu vận hành, quản lý doanh

nghiệp và thông tin này được chia sẻ rộng rãi trên mạng, sẽ có nhiều người cân nhắc

19

khởi nghiệp vì họ biết rằng nếu họ gặp khó khăn trong quá trình thực hiện, họ có thể

dễ dàng tìm kiếm trợ giúp từ cộng đồng mạng… từ đó, em sẽ cố gắng, nỗ lực tối đa

để khởi nghiệp”

“… Vì sao nước mình không dạy cho học sinh về tư duy khởi nghiệp khi còn học cấp

3 mà lại tập trung quá nhiều môn không cần thiết… ngay cả lên Đại học lại tiếp tục

học lại các môn này,… chúng em muốn khởi nghiệp lắm, nhưng đành không tiếp tục

vì không được dạy các kỹ năng liên quan đến khởi nghiệp, toàn học các môn không

trọng tâm… ”

“… em nghĩ rằng đăng ký thành lập doanh nghiệp cũng tương đối khó khăn, trong

quá trình hoạt động thì bị hành đủ thứ nhất là ông thuế, điều này giảm khả năng tư tin

khi khởi nghiệp… ”

“… Ở Việt nam, hầu hết sinh viên hầu hết đều không biết bắt đầu điều hành doanh

nghiệp. Không biết cách thức tìm kiếm thị trường, không biết lập kế hoạch. Dù lúc

đầu có ý định, nhưng quá trình thực hiện thì gặp nhiều khó khăn như không định

hướng rõ ràng, không biết lập kế hoạch, một số bạn có ý tưởng khởi nghiệp chung

chung quá...Nếu khắc phục được điều này, em cam kết sẽ khởi nghiệp ngay… ”

“..Cha mẹ bắt học kinh doanh, bắt làm kinh doanh, nhưng khi bắt tay vào thì không

biết đâu là cơ hội khởi nghiệp… ”

“… Nhiều bạn hỏi ra là có ý định khởi nghiệp, nhưng chưa có suy nghĩ nghiêm túc

về khởi nghiệp, không có hành động gì để chứng minh là sẽ khởi nghiệp… ”

“… Ý định khởi nghiệp thì có, nhưng tụi em không có khả năng đánh giá đó có phải

là cơ hội khởi nghiệp không, ý định khởi nghiệp thường nói dễ lắm, thấy bạn bè khởi

nghiệp, truyền hình phát về các phong trào khởi nghiệp, rồi có 1 ít tiền, quen một số

anh giám đốc là muốn khởi nghiệp, nhưng khi bắt tay vào làm mới biết khó khăn quá,

mù tịt, không nhận ra được đó có phải là cơ hội khởi nghiệp không… khủng hoảng

niềm tin… rồi quyết định bỏ không theo nữa…

“… Chia sẻ thông tin về khởi nghiệp trên mạng facebook dẫn đến thái độ tốt cho việc

20

khởi nghiệp. Thông tin kinh nghiệp về khởi nghiệp trên FB cũng làm cho tụi em tin

tưởng vào khả năng khởi nghiệp hơn… ”

“… ở nước ta, nhiều sinh viên khởi nghiệp vì cha mẹ họ đang làm kinh doanh… ”

“… Đào tạo khởi nghiệp rất quan trọng. Em được biết rằng ở các trường chỉ dạy thuần

về lý thuyết và thầy cô thường khuyên sinh viên chăm chỉ học hành để ra trường tìm

được việc làm tốt, chứ không bao giờ đào tạo và khuyên chúng em khởi nghiệp, vì

vậy nhà trường cần phải thay đổi tư duy nghề nghiệp của sinh viên… .”

“... từ kinh nghiệm khởi nghiệp của một vài lần trước đây. Em cho rằng, nhà nước và

các tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp sẽ ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp của sinh

viên...quan trọng của những hỗ trợ này là nhà nước phải giảm rào cản cho những

người khởi nghiệp,... thủ tục hành chính tại nước mình còn phức tạp quá, nhiều loại

phí, quan liêu, thủ tục rườm rà, cán bộ nhà nước hách dịch nhất là cán bộ thuế.....sinh

viên sẽ khó nghĩ đến khởi nghiệp nếu không hỗ trợ của người thân, gia đình và các tổ

chức hỗ trợ khởi nghiệp khác… ”

“… Ngay cả khi sinh viên xác định cơ hội khởi nghiệp và tin tưởng có thể thành

công, nhưng nếu không phát triển một kế hoạch kinh doanh, sẵn sàng đối mặt với khó

khăn thì sinh viên sẽ khó theo đuổi đến cùng… .Thấy bạn bè làm kinh doanh cũng

muốn kinh doanh cho bằng em bằng chị, đỡ quê với mọi người… ”

“... theo kinh nghiệm của em, hỗ trợ tài chính nên đi cùng với dịch vụ đào tạo và tư

vấn khởi nghiệp điều này rất quan trọng… ”

“… Đã quyết chí khởi nghiệp thì quyết không bỏ, thất bại thì khởi nghiệp lần 2, lần

3 đến khi nào khởi nghiệp thành công thì thôi… ”

“… Em bỏ nhiều công sức ra dự án khởi nghiệp của em, em không bỏ cuộc… ”

“… Em không sợ hậu quả nếu từ bỏ dự án, có gì để mất mà sợ… ”

“… Theo quan điểm của em, hỗ trợ không chỉ là tiền mà còn bao gồm hỗ trợ về cơ

sở vật chất và hỗ trợ đào tạo về các kỹ năng khác nhau như tiếp thị, tài chính… ”

21

“… ý kiến cha mẹ, bạn bè, phong trào khởi nghiệp, tham gia vào các phong trào của

nhà trường, học về khởi nghiệp… sẽ cung cấp sự tự tin cho sinh viên khởi nghiệp.”

“… Sẽ tốt hơn nếu các vườn ươm được thành lập ngay tại trường để hỗ trợ cho sinh

viên khởi nghiệp ngay từ đâu..”

“… Việc được học các kỹ năng khởi nghiệp là rất quan trọng. Vì sinh viên thiếu kiến

thức khởi nghiệp rất nhiều: tài chính, tiếp thị, đánh giá ý tưởng khởi nghiệp, xác định

cơ hội nghiệp, kế hoạch khởi nghiệp... Đào tạo kỹ năng nên là các khóa học ngắn hạn

không cần nhiều lý thuyết mà cần nhiều thực tiễn… ”

22

PHỤ LỤC 7: TÓM TẮT KẾT QUẢ THẢO LUẬN NHÓM ĐỐI VỚI SINH

VIÊN ĐÃ KHỞI NGHIỆP VỀ Ý ĐỊNH KHỞI NGHIỆP

NHÓM 1 NHÓM 2 NHÓM 3 TỔNG SỐ

Mong muốn khởi nghiệp 5/7 sinh viên đồng ý 4/5 sinh viên đồng ý 2/4 sinh viên đồng ý 11/16 (68,75% đồng ý)

Khả năng khởi nghiệp 6/7 sinh viên đồng ý 5/5 sinh viên đồng ý 3/4 sinh viên đồng ý 14/16 (87, 5% đồng ý)

Tư duy khởi nghiệp 6/7 sinh viên đồng ý 5/5 sinh viên đồng ý 4/4 sinh viên đồng ý 15/16 (93,75% đồng ý)

Gắn kết với khởi nghiệp 7/7 sinh viên đồng ý 5/5 sinh viên đồng ý 3/4 sinh viên đồng ý 15/16 (93,75% đồng ý)

23

PHỤ LỤC 8: DANH SÁCH SINH VIÊN THAM GIA THẢO LUẬN NHÓM

TẬP TRUNG

Email/Số ĐT Ghi chú STT Họ tên

NHÓM 1

NI_1 Nguyễn Ngọc Diễm 01884064814 Sinh viên BETU

0933470179 Sinh viên BETU NI_2 Nguyễn Trọng Minh

0981727292 Sinh viên BETU NI_3 Võ Thúy Ái

0922680553 Sinh viên TDMU NI_4 Trần Thị Ngọc Liên

0945162272 Sinh viên TDMU NI_5 Lê Thị Vân Anh

0963639049 Sinh viên BDU NI_6 Nguyễn Châu Tín

NI_7 Trần Văn Long 01652770758 Sinh viên BDU

NHÓM 2

NII_1 Nguyễn Thị Linh Sinh viên BVU

NII_2 Trần Nhật Phùng Sinh viên BVU

NII_3 Võ Thị Diễm Hương Sinh viên BVU

NII_4 Võ Ngọc Thu Sinh viên BVU

NII_5 Phan Thanh Vũ Sinh viên BVU

NHÓM 3

NIII_1 Hà Cẩm Cơ 01688786741 Sinh viên ISB

NIII_2 Trần Văn Hoàng Sinh viên UEH

NIII_3 Trần Thị Tuyết Thu Sinh viên UEH

NIII_4 Phạm Thị Hương Giang Sinh viên UEH

24

PHỤ LỤC 9: BẢNG PHỎNG VẤN ĐỊNH LƯỢNG SƠ BỘ

Xin chào! Tôi là Nghiên cứu sinh Trường ĐH Kinh tế TP.HCM

Tôi đang nghiên cứu về quá trình khởi nghiệp của sinh viên. Là sinh viên của

trường đại học, rất mong anh/chị dành chút ít thời gian để trả lời bảng câu hỏi và

vui lòng chú ý là không có ý kiến đúng hay sai; mọi ý kiến của anh/chị đều có giá

trị cho chúng tôi. Rất mong nhận được ý kiến trung thực của anh/chị.

Xin cho biết thông tin cá nhân người được phỏng vấn

- Họ và Tên:

- Tuổi:

- Giới tính: Nam Nữ

- Ngành học:

- Trường Đại học:

- Đang học năm thứ:

- Nếu có bạn ý định khởi nghiệp trong thời gian:

Trong vòng 03 tháng Trong vòng 1 năm hoặc xa hơn

Vui lòng cho biết mức độ đồng ý của anh/chị cho các phát biểu dưới đây theo thang

điểm từ 1 đến 7, với qui ước sau:

1: HOÀN TOÀN PHẢN ĐỐI đến 7: HOÀN TOÀN ĐỒNG Ý

(Xin vui lòng chỉ khoanh tròn một số cho từng phát biểu)

Nội dung Lựa chọn

1 2 3 4 5 6 7 1 2 3 4 5 6 7 1 2 3 4 5 6 7 1. Tôi có suy nghĩ về ý tưởng để có thể bắt đầu khởi nghiệp 1 2 3 4 5 6 7 2. Tôi đang phát triển một sản phẩm dịch vụ 1 2 3 4 5 6 7 1 2 3 4 5 6 7 3. Tôi đang tích lũy tiền cho ý định khởi nghiệp của tôi 4. Tôi sẽ khởi nghiệp sau khi tôi nhận bằng tốt nghiệp 1 2 3 4 5 6 7 5. Nếu tôi có đủ quan hệ xã hội tôi sẽ khởi nghiệp 1 2 3 4 5 6 7 6. Tôi suy nghĩ về ý tưởng khởi nghiệp của mình, tôi xác 1 2 3 4 5 6 7 định phải bắt đầu khởi nghiệp 7. Tôi có kế hoạch làm thế nào để khởi nghiệp 8. Tôi có kế hoạch khi nào phải bắt đầu khởi nghiệp 9. Tôi đang tìm kiếm thông tin tích cực và tiêu cực có liên quan về dự án khởi nghiệp

25

1 2 3 4 5 6 7

1 2 3 4 5 6 7

1 2 3 4 5 6 7

1 2 3 4 5 6 7

1 2 3 4 5 6 7

1 2 3 4 5 6 7

1 2 3 4 5 6 7 1 2 3 4 5 6 7 1 2 3 4 5 6 7 1 2 3 4 5 6 7

1 2 3 4 5 6 7

1 2 3 4 5 6 7

1 2 3 4 5 6 7

1 2 3 4 5 6 7 1 2 3 4 5 6 7

1 2 3 4 5 6 7

10. Tôi cảm thấy tôi có rất ít lựa chọn để xem xét nếu tôi từ bỏ dự án kinh doanh 11. Tôi không sợ những gì có thể xảy ra nếu tôi từ bỏ dự án khởi nghiệp của mình mà không có một kế hoạch khác. 12. Sẽ rất khó để tôi từ bỏ dự án khởi nghiệp ngay bây giờ, ngay cả khi tôi muốn. 13. Tôi đã tốn kém rất nhiều vì vậy tôi không thể nào từ bỏ được dự án khởi nghiệp của mình 14. Tôi gắn bó với dự án khởi nghiệp của mình vì tôi thấy cơ hội hấp dẫn hơn là vì khả năng của tôi. 15. Tôi cảm thấy tôi có rất ít lựa chọn để xem xét nếu tôi từ bỏ dự án khởi nghiệp 16. Tôi mong muốn trở thành nhà khởi nghiệp 17. Khởi nghiệp đối với tôi thuận lợi nhiều hơn là bất lợi 18. Trở thành doanh nhân là điều hấp dẫn 19. Nếu tôi có nhiều cơ hội và nguồn lực, tôi sẽ bắt đầu khởi nghiệp 20. Là một doanh nhân sẽ mang lại cho tôi nhiều sự hài lòng 21. Trong số nhiều sự lựa chọn nghề nghiệp, tôi muốn trở thành một doanh nhân 22. Tin tưởng vào khả năng tồn tại và tăng trưởng của dự án khởi nghiệp nếu tôi có ý định khởi nghiệp 23. Tôi đủ khả năng để khởi nghiệp 24. Kiến thức và kinh nghiệm là động lực cho tôi khởi nghiệp 25. Mạng lưới các mối quan hệ thuận lợi cho việc khởi nghiệp của tôi 26. Dự án khởi nghiệp có tính khả thi cao 1 2 3 4 5 6 7

Xin trân trọng cảm ơn!

26

PHỤ LỤC 10: BẢNG PHỎNG VẤN ĐỊNH LƯỢNG CHÍNH THỨC

Xin chào! Tôi là Nghiên cứu sinh Trường ĐH Kinh tế TpHCM

Tôi đang nghiên cứu về quá trình khởi nghiệp của sinh viên. Là sinh viên của trường

đại học, rất mong anh/chị dành chút ít thời gian để trả lời bảng câu hỏi và vui lòng

chú ý là không có ý kiến đúng hay sai; mọi ý kiến của anh/chị đều có giá trị cho chúng

tôi. Rất mong nhận được ý kiến trung thực của anh/chị.

Xin cho biết thông tin cá nhân người được phỏng vấn

- Họ và Tên:

- Tuổi:

- Giới tính: Nam Nữ

- Ngành học:

- Trường Đại học:

- Đang học năm thứ:

- Bạn có ý định khởi nghiệp hay không: Có Không

- Nếu có bạn ý định khởi nghiệp trong thời gian:

Trong vòng 03 tháng Trong vòng 1 năm hoặc xa hơn

Vui lòng cho biết mức độ đồng ý của anh/chị cho các phát biểu dưới đây theo thang

điểm từ 1 đến 7, với qui ước sau:

1: HOÀN TOÀN PHẢN ĐỐI đến 7: HOÀN TOÀN ĐỒNG Ý

(Xin vui lòng chỉ khoanh tròn một số cho từng phát biểu)

Nội dung Lựa chọn

1 2 3 4 5 6 7 1 2 3 4 5 6 7 1 2 3 4 5 6 7 1. Tôi có suy nghĩ về ý tưởng để có thể bắt đầu khởi nghiệp 1 2 3 4 5 6 7 2. Tôi đang phát triển một sản phẩm dịch vụ 1 2 3 4 5 6 7 1 2 3 4 5 6 7 3. Tôi đang tích lũy tiền cho ý định khởi nghiệp của tôi 1 2 3 4 5 6 7 4. Tôi sẽ khởi nghiệp sau khi tôi nhận bằng tốt nghiệp 5. Nếu tôi có đủ quan hệ xã hội tôi sẽ khởi nghiệp 1 2 3 4 5 6 7 6. Tôi suy nghĩ về ý tưởng khởi nghiệp của mình, tôi xác 1 2 3 4 5 6 7 định phải bắt đầu khởi nghiệp 7. Tôi có kế hoạch làm thế nào để khởi nghiệp 8. Tôi có kế hoạch khi nào phải bắt đầu khởi nghiệp 9. Tôi đang tìm kiếm thông tin tích cực và tiêu cực có liên

27

1 2 3 4 5 6 7

1 2 3 4 5 6 7

1 2 3 4 5 6 7

1 2 3 4 5 6 7

1 2 3 4 5 6 7

1 2 3 4 5 6 7

1 2 3 4 5 6 7 1 2 3 4 5 6 7 1 2 3 4 5 6 7 1 2 3 4 5 6 7

1 2 3 4 5 6 7

1 2 3 4 5 6 7

1 2 3 4 5 6 7

1 2 3 4 5 6 7 1 2 3 4 5 6 7

1 2 3 4 5 6 7

quan về dự án khởi nghiệp 10. Tôi cảm thấy tôi có rất ít lựa chọn để xem xét nếu tôi từ bỏ dự án kinh doanh 11. Tôi không sợ những gì có thể xảy ra nếu tôi từ bỏ dự án khởi nghiệp của mình mà không có một kế hoạch khác. 12. Sẽ rất khó để tôi từ bỏ dự án khởi nghiệp ngay bây giờ, ngay cả khi tôi muốn. 13. Tôi đã tốn kém rất nhiều vì vậy tôi không thể nào từ bỏ được dự án khởi nghiệp của mình 14. Tôi gắn bó với dự án khởi nghiệp của mình vì tôi thấy cơ hội hấp dẫn hơn là vì khả năng của tôi. 15. Tôi cảm thấy tôi có rất ít lựa chọn để xem xét nếu tôi từ bỏ dự án khởi nghiệp 16. Tôi mong muốn trở thành nhà khởi nghiệp 17. Khởi nghiệp đối với tôi thuận lợi nhiều hơn là bất lợi 18. Trở thành doanh nhân là điều hấp dẫn 19. Nếu tôi có nhiều cơ hội và nguồn lực, tôi sẽ bắt đầu khởi nghiệp 20. Là một doanh nhân sẽ mang lại cho tôi nhiều sự hài lòng 21. Trong số nhiều sự lựa chọn nghề nghiệp, tôi muốn trở thành một doanh nhân 22. Tin tưởng vào khả năng tồn tại và tăng trưởng của dự án khởi nghiệp nếu tôi có ý định khởi nghiệp 23. Tôi đủ khả năng để khởi nghiệp 24. Kiến thức và kinh nghiệm là động lực cho tôi khởi nghiệp 25. Mạng lưới các mối quan hệ thuận lợi cho việc khởi nghiệp của tôi 26. Dự án khởi nghiệp có tính khả thi cao 1 2 3 4 5 6 7

Xin trân trọng cảm ơn!

28

PHỤ LỤC 11: KẾT QUẢ PHÂN TÍCH CRONBACH’S ALPHA SƠ BỘ VỚI KÍCH THƯỚC MẪU 117 QUAN SÁT

Ý định hành động

Reliability Statistics

Cronbach’s alpha

N of Items 5 .814

Item-Total Statistics

Scale Mean if Item Deleted Scale Variance if Item Deleted Cronbach’s alpha if Item Deleted

Corrected Item- Total Correlation .731 .669 .528 .591 .505 21.419 23.042 25.017 22.884 25.269 INT1 INT2 INT3 INT4 INT5 18.57 18.69 18.33 18.30 18.27 .737 .759 .799 .782 .806

Tư duy khởi nghiệp

Reliability Statistics

Cronbach’s alpha N of Items

.692 5

Item-Total Statistics

Scale Mean if Item Deleted Scale Variance if Item Deleted Cronbach’s alpha if Item Deleted

IMP1 IMP2 IMP3 IMP4 IMP5 18.59 18.03 17.87 17.36 18.79 Corrected Item- Total Correlation .578 .493 .595 .377 .269 14.865 15.663 15.837 17.560 16.480 .584 .622 .588 .670 .737

Gắn kết với khởi nghiệp

Reliability Statistics Cronbach’s alpha N of Items 5 .747 Item-Total Statistics

Scale Mean if Item Deleted Scale Variance if Item Deleted Corrected Item- Total Correlation Cronbach’s alpha if Item Deleted

29

18.384 20.507 18.165 20.273 22.123 COM1 COM2 COM3 COM4 COM5 19.15 18.90 18.91 18.72 20.22 .632 .539 .663 .531 .256 .656 .695 .644 .696 .803

Nhận thức mong muốn khởi nghiệp:

Reliability Statistics

Cronbach’s alpha N of Items

.888 6

Item-Total Statistics

Scale Variance if Item Deleted Cronbach’s alpha if Item Deleted

DES1 DES2 DES3 DES4 DES5 DES6 Scale Mean if Item Deleted 26.32 26.50 26.68 26.76 26.75 26.97 Corrected Item- Total Correlation .634 .738 .679 .776 .719 .681 30.928 28.511 29.925 28.615 28.964 30.422 .880 .863 .873 .857 .867 .873

Nhận thức khả năng khởi nghiệp

Reliability Statistics

Cronbach’s alpha N of Items

.879 5

Item-Total Statistics

Scale Variance if Item Deleted Cronbach’s alpha if Item Deleted

FEA1 FEA2 FEA3 FEA4 FEA5 Scale Mean if Item Deleted 17.18 17.07 17.02 17.03 17.42 Corrected Item- Total Correlation .830 .621 .771 .792 .565 23.131 25.064 24.155 22.767 28.746 .824 .877 .839 .833 .885

30

PHỤ LỤC 12: KẾT QUẢ PHÂN TÍCH EFA SƠ BỘ VỚI KÍCH THƯỚC MẪU 117 QUAN SÁT

KMO and Bartlett's Test Kaiser-Meyer-Olkin Measure of Sampling Adequacy. Bartlett's Test of Sphericity

Approx. Chi-Square

.817 1573.507

df

276

Sig.

.000

Total Variance Explained

Extraction Sums of Squared Loadings

Rotation Sums of Squared Loadings

Initial Eigenvalues

Cumulat

% of Variance

Cumul ative %

% of Variance 31.119 13.195 8.561 8.237 5.006

ive % Total 31.119 3.918 44.314 3.681 52.876 3.025 61.112 2.697 66.118 2.547

16.326 16.326 15.338 31.663 12.605 44.268 11.237 55.505 10.613 66.118

% of Varianc e 31.119 13.195 8.561 8.237 5.006 3.941 3.356 3.140 .531

Total 7.469 3.167 2.055 1.977 1.201 .946 .806 .754 .127

Cumulative Total % 31.119 7.469 44.314 3.167 52.876 2.055 61.112 1.977 66.118 1.201 70.059 73.416 76.555 100.000

Com pone nt 1 2 3 4 5 6 7 8 … 24

Extraction Method: Principal Component Analysis.

31

PHỤ LỤC 13: KẾT QUẢ PHÂN TÍCH CRONBACH’S ALPHA CHÍNH THỨC

Ý định hành động

Reliability Statistics

Cronbach’s alpha

N of Items

.851

5

Item-Total Statistics

Scale Mean if Item Deleted

Scale Variance if Item Deleted

Corrected Item- Total Correlation

Cronbach’s alpha if Item Deleted

INT1 INT2 INT3 INT4 INT5

22.03 21.93 21.89 21.84 21.93

18.770 18.432 18.468 18.876 18.306

.606 .683 .703 .695 .631

.836 .814 .810 .813 .829

Tư duy khởi nghiệp

Reliability Statistics

Cronbach’s alpha

N of Items

.825

5

Item-Total Statistics

Scale Mean if Item Deleted

Scale Variance if Item Deleted

Corrected Item- Total Correlation

Cronbach’s alpha if Item Deleted

IMP1 IMP2 IMP3 IMP4 IMP5

21.35 21.29 21.23 21.26 21.26

19.757 19.534 18.985 19.046 20.459

.599 .619 .661 .649 .569

.796 .790 .778 .781 .804

Gắn kết với khởi nghiệp

Reliability Statistics

Cronbach’s alpha

N of Items

.788

5

Item-Total Statistics

32

Scale Mean if Item Deleted

Scale Variance if Item Deleted

Corrected Item- Total Correlation

Cronbach’s alpha if Item Deleted

19.642 19.129 19.507 19.826 20.860

21.15 21.14 21.28 21.10 21.12

.634 .638 .493 .585 .494

.727 .724 .776 .742 .770

COM1 COM2 COM3 COM4 COM5

Nhận thức mong muốn khởi nghiệp:

Reliability Statistics

Cronbach’s alpha

N of Items

.807

6

Item-Total Statistics

Scale Mean if Item Deleted

Scale Variance if Item Deleted

Corrected Item- Total Correlation

Cronbach’s alpha if Item Deleted

26.411 25.988 26.673 25.756 29.687 27.476

26.21 26.31 26.35 26.37 26.11 26.29

.591 .624 .615 .640 .395 .532

.771 .763 .766 .760 .812 .785

DES1 DES2 DES3 DES4 DES5 DES6

Nhận thức khả năng khởi nghiệp

Reliability Statistics

Cronbach’s alpha

N of Items

.715

5

Item-Total Statistics

Scale Mean if Item Deleted

Scale Variance if Item Deleted

Corrected Item- Total Correlation

Cronbach’s alpha if Item Deleted

21.24 21.07 21.29 21.33 21.54

16.689 19.153 16.232 16.177 17.029

.543 .308 .589 .600 .368

.640 .729 .622 .617 .718

FEA1 FEA2 FEA3 FEA4 FEA5

33

PHỤ LỤC 14: KẾT QUẢ PHÂN TÍCH EFA CHÍNH THỨC

LẦN 1:

.943

Approx. Chi-Square

KMO and Bartlett's Test Kaiser-Meyer-Olkin Measure of Sampling Adequacy. Bartlett's Test of Sphericity

13110.3 89

df

253

Sig.

.000

Total Variance Explained

Initial Eigenvalues

Extraction Sums of Squared Loadings

Rotation Sums of Squared Loadingsa

Factor

Total

% of Variance

Cumulative %

Total

% of Variance

Cumulative %

Total

8.101 1.286 .828 .698 .620

35.223 5.593 3.600 3.034 2.696

35.223 40.816 44.416 47.450 50.146

6.067 5.956 5.836 5.709 5.462

8.596 1.760 1.322 1.194 1.092 .761 .716 .672 .611 .567 .546 .541 .509 .491 .466 .451 .438 .422 .413 .394 .365 .339 .334

37.374 45.024 50.772 55.964 60.710 64.018 67.129 70.053 72.708 75.173 77.546 79.898 82.112 84.246 86.271 88.231 90.138 91.974 93.771 95.485 97.071 98.547 100.000

37.374 7.650 5.748 5.192 4.746 3.308 3.111 2.924 2.656 2.465 2.373 2.351 2.214 2.134 2.025 1.960 1.907 1.836 1.797 1.714 1.586 1.476 1.453

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 Extraction Method: Principal Axis Factoring.

34

a. When factors are correlated, sums of squared loadings cannot be added to obtain a total variance.

Pattern Matrixa Factor

2

3

4

5

1 .826 .791 .781 .664 .625 .434

.259

.822 .755 .677 .627 .501

.229

.834 .671 .612 .589 .295

.221

.759 .682 .667 .625

.849 .674 .622

INT3 INT4 INT2 INT5 INT1 DES5 IMP3 IMP4 IMP2 IMP1 IMP5 COM2 COM1 COM4 COM3 COM5 DES3 DES4 DES2 DES1 FEA3 FEA4 FEA1

Extraction Method: Principal Axis Factoring. Rotation Method: Promax with Kaiser Normalization. a. Rotation converged in 6 iterations.

LẦN 2:

KMO and Bartlett's Test

Approx. Chi-Square

.936 11673.699

Kaiser-Meyer-Olkin Measure of Sampling Adequacy. Bartlett's Test of Sphericity

df Sig.

210 .000

35

Total Variance Explained

Initial Eigenvalues

Extraction Sums of Squared Loadings

Rotation Sums of Squared Loadingsa

Factor

Total

% of Variance

Cumulative %

% of Variance

Cumulative %

Total

Total

35.056 5.842 3.857 3.284 2.951

35.056 40.898 44.755 48.039 50.990

5.377 5.461 5.321 4.991 4.763

7.362 1.227 .810 .690 .620

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21

7.847 1.689 1.301 1.188 1.086 .711 .657 .630 .574 .551 .542 .515 .485 .458 .455 .438 .422 .398 .373 .345 .334

37.368 8.042 6.195 5.656 5.173 3.385 3.130 2.999 2.733 2.626 2.581 2.452 2.307 2.183 2.167 2.087 2.009 1.893 1.778 1.642 1.592

37.368 45.410 51.606 57.262 62.435 65.820 68.950 71.949 74.683 77.309 79.889 82.341 84.649 86.832 88.999 91.087 93.095 94.988 96.766 98.408 100.000

Extraction Method: Principal Axis Factoring. a. When factors are correlated, sums of squared loadings cannot be added to obtain a total variance.

Pattern Matrixa Factor

2

3

4

5

1 .831 .794 .759 .645 .586

INT3 INT4 INT2 INT5 INT1 IMP3

.814

36

.748 .669 .621 .495

.231 .755 .684 .674 .631

.811 .628 .590 .586

.829 .661 .586

IMP4 IMP2 IMP1 IMP5 DES3 DES4 DES2 DES1 COM2 COM1 COM4 COM3 FEA3 FEA4 FEA1

Extraction Method: Principal Axis Factoring. Rotation Method: Promax with Kaiser Normalization. a. Rotation converged in 6 iterations.

37

PHỤ LỤC 15: KẾT QUẢ PHÂN TÍCH MÔ HÌNH ĐO LƯỜNG LẦN 1

GANKET KHANANG MONGMUON TUDUY YDINH

0.349 0.324 0.26 0.357

0.292 0.331 0.32 0.322

0.403 0.403 0.41

0.318 0.317 0.317 0.307

COM1 COM2 COM3 COM4 DES1 DES2 DES3 DES4 FEA1 FEA3 FEA4 IMP1 IMP2 IMP3 IMP4 INT1 INT2 INT3

0.253 0.25 0.252

OUTER WEIGHTS

38

INT4 INT5

0.249 0.257

R Square

R Square

R Square Adjusted

GANKET TUDUY YDINH

0.495 0.498 0.497

0.494 0.497 0.496

0.13 0.209

0.079 0.073 0.057

GANKET KHANANG MONGMUON TUDUY YDINH

GANKET KHANANG

MONGMUON TUDUY YDINH 0.143 0.014 0.017 0.03

f Square

GANKET

KHANANG

YDINH

MONGMUON TUDUY 0.626 0.662 1 0.658 0.576

0.601 0.627 0.658 1 0.575

0.619 1 0.662 0.627 0.562

0.649 0.562 0.576 0.575 1

GANKET KHANANG MONGMUON TUDUY YDINH

1 0.619 0.626 0.601 0.649

Latent Variable Correlations

VIF

COM1 COM2 COM3 COM4 DES1 DES2 DES3 DES4

1.595 1.692 1.369 1.512 1.484 1.625 1.692 1.636

Hệ số VIF

39

FEA1 FEA3 FEA4 IMP1 IMP2 IMP3 IMP4 INT1 INT2 INT3 INT4 INT5

1.462 1.643 1.544 1.59 1.691 1.805 1.594 1.627 1.98 2.063 2.018 1.751

Saturated Model

Estimated Model

SRMR d_ULS d_G1 d_G2 Chi-Square NFI

0.025 0.132 0.078 0.072 518.254 0.953

0.025 0.132 0.078 0.072 518.254 0.953

Model Fit

40

PHỤ LỤC 16: KẾT QUẢ PHÂN TÍCH MÔ HÌNH CẤU TRÚC

Path coefficients histogram

41

42

43

44

45

PHỤ LỤC 17: KẾT QUẢ PHÂN TÍCH ĐÃ NHÓM BẰNG PHƯƠNG PHÁP MICOM

Original Correlation

Correlation Permutation Mean

Permutation p- Values

GANKET KHANANG MONGMUON TUDUY YDINH

0.999 0.999 1 1 0.999

5.00% 0.999 0.999 0.999 0.999 0.999

1 1 1 1 1

0.09 0.119 0.687 0.904 0.021

Step 2

GANKET KHANANG MONGMUON TUDUY YDINH

Mean - Original Difference (GROUP_VAR2(1.0) - GROUP_VAR2(2.0) )

-0.155

-0.231

-0.116

-0.136

-0.221

Mean - Permutation Mean Difference (GROUP_VAR2(1.0) - GROUP_VAR2(2.0) ) 2.50% 97.50%

0.001 -0.102 0.108

0 -0.104 0.107

Permutation p-Values

0 -0.105 0.105 0.004

0 -0.105 0.108 0.035

0.001 -0.104 0.107 0.012

Variance - Original Difference (GROUP_VAR2(1.0) - GROUP_VAR2(2.0) )

0.041

0.151

0.074

0.163

0.096

Variance - Permutation Mean Difference (GROUP_VAR2(1.0) - GROUP_VAR2(2.0) ) 2.50% 97.50%

Permutation p-Values

0 -0.174 0.175 0.649

-0.001 -0.19 0.187 0.113

0.001 -0.176 0.182 0.427

0 -0.178 0.173 0.07

0.001 -0.189 0.191 0.323

Step 3

46

PHỤ LỤC 18: KẾT QUẢ PHÂN TÍCH ĐA NHÓM BẰNG PHƯƠNG PHÁP MGA-PLS

2.5% (GROUP_VAR2(1.0))

97.5% (GROUP_VAR2(1.0))

2.5% (GROUP_VAR2(2.0))

97.5% (GROUP_VAR2(2.0))

0.205

0.398

0.214

0.401

0.15

0.337

0.123

0.301

0.163

0.365

0.233

0.416

0.125

0.295

-0.041

0.147

0.103

0.307

0.209

0.411

0.327

0.52

0.231

0.392

0.001

0.176

0.123

0.333

0.142

0.339

0.127

0.302

GANKET -> YDINH KHANANG -> GANKET KHANANG -> TUDUY KHANANG -> YDINH MONGMUON - > GANKET MONGMUON - > TUDUY MONGMUON - > YDINH TUDUY -> GANKET TUDUY -> YDINH

0.103

0.296

0.067

0.258

CONFIDENCE INTERVALS BIAS CORRECTED

Path Coefficients- diff (| GROUP_VAR2(1.0) - GROUP_VAR2(2.0) |)

t - Value(GROUP_VAR2(1.0) vs GROUP_VAR2(2.0))

0.004

0.054

p- Value(GROUP_VAR2 (1.0) vs GROUP_VAR2 (2.0)) 0.957

0.034

0.529

0.597

0.07 0.158

1 2.424

0.318 0.015

0.103

1.398

0.162

0.118

1.832

0.067

GANKET -> YDINH KHANANG -> GANKET KHANANG -> TUDUY KHANANG -> YDINH MONGMUON -> GANKET MONGMUON -> TUDUY MONGMUON -> YDINH

0.139

2.006

0.045

PARAMETRIC TEST

47

TUDUY -> GANKET TUDUY -> YDINH

0.031 0.039

0.471 0.557

0.638 0.577

Path Coefficients- diff (| GROUP_VAR2(1.0) - GROUP_VAR2(2.0) |)

t-Value (GROUP_VAR2(1.0) vs GROUP_VAR2(2.0))

p-Value (GROUP_VAR2(1.0) vs GROUP_VAR2(2.0))

0.004

0.054

0.957

0.034

0.531

0.596

0.07

1.005

0.315

0.158

2.414

0.016

0.103

1.401

0.162

0.118

1.851

0.065

0.139

1.995

0.046

0.031

0.474

0.636

0.039

GANKET -> YDINH KHANANG - > GANKET KHANANG - > TUDUY KHANANG - > YDINH MONGMUON -> GANKET MONGMUON -> TUDUY MONGMUON -> YDINH TUDUY -> GANKET TUDUY -> YDINH

0.559

0.577

WELCH-SATTERTHWAIT TEST